Ngôn Tình Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh

Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 40: Ngoại Truyện: Tuyết Phủ Bình Sơn (8)


Đêm ấy, tổ phụ kể lại chuyện cũ – từ những ngày các tộc người vì loạn lạc mà lưu vong, dựng nhà ngoài thành, khai khẩn vùng đất bị bỏ hoang… đến khi có một tướng quân đầy viễn kiến — hậu duệ người Nữ Chân, coi đây là quê cha đất tổ nên ra sức phát triển văn giáo, hỗ trợ nông nghiệp, truyền nghề, mở thương hành…

Thiên tai vô tình, mưa lớn đổ dài, sông Hải Lãng vỡ đê, thành cũ ngập, làng mạc thấp trũng bị nhấn chìm.

Kẻ c.h.ế.t đã chết, người sống phải tiếp tục sống.

Thành mới được dựng lên, làng mới cũng vậy, nhưng càng thêm khốn khó.

Mua rau dại chỉ là cái cớ, thật ra là kế Đông Vũ bày ra để giúp dân làng – nhờ Triệu Nhị Thiết truyền tin, để Triệu thẩm – đội trưởng đám thẩm lắm lời – loan tin khắp làng.

Ngay cả nhà của lão Diêm, vốn chẳng còn gì ngoài hạt giống mùa xuân, cũng dâng ra một đùi nai khô — thịt tết ông còn chẳng nỡ ăn.

Hóa ra thê tử ông mắc trọng bệnh, ông vốn định bán thịt nai mua thuốc độc, để nàng c.h.ế.t cho nhẹ nhõm, không làm liên lụy gia đình.

Ngày hôm sau, ta đích thân đến nhà Diêm đại thúc, giả vờ mình biết chữa bệnh, ghi nhớ kỹ bệnh tình của thẩm ấy, rồi chạy về thành nhờ Lưu lão đầu kê đơn. Lặp đi lặp lại vài lần, ta mang thuốc trở lại, chữa khỏi bệnh cho mấy người ốm lâu năm trong làng.

Từ đó, mọi người đồn: con rể nhà Đông Vũ là thần y.

Ngay cả Đông Vũ cũng không nhịn được, chủ động hỏi ta mấy lần, có thật biết trị bệnh không?

Ta giấu giếm tư tâm, không nhận cũng chẳng phủ nhận. Ta sợ Lưu lão đầu biết ta nhận công lao, bắt ta mua nửa con hẻm Đinh Hương.

Chỉ hừ nhẹ một tiếng nói:

“Ta nào phải thứ bình hoa chỉ để bày ngắm.”

Mẫu thân đáp ứng yêu cầu của hương thân, nhưng cũng dạy Đông Vũ:

“Cứu khẩn không cứu nghèo, nhiều lắm chỉ tạm ứng tiền thuốc. Món hàng quán cũng có hạn, đâu thể thứ gì cũng thu.”

Tôt! Gian thương bắt đầu truyền nghề rồi.

Rau dại chỉ có vào xuân, để giải quyết lâu dài, ta đến thương hành bàn với Anh thúc, hỏi xem khi hắn về phương Nam bán hàng có thể mang theo đặc sản khô của thôn.

Ta đã có kế hoạch đầy bụng. Không chỉ rau, còn có sản vật rừng, thậm chí — một món lợi lớn mà ta tình cờ phát hiện ra.

Hôm ấy dạo chơi với Triệu Nhị Thiết, ta được Thu đại nương rót nước bằng một chiếc cốc lạ — không phải gỗ, càng không phải gốm sứ. Nhìn quanh, ngay cả chén bát, rổ rá, cả gối đầu cũng làm từ chất đó. Thu đại thúc thấy ta tò mò, bèn tặng ta một chiếc túi nhỏ làm từ vỏ bạch dương.

Ta vội vàng từ chối, ông nói:

“Không đáng tiền đâu, là vỏ bạch dương cả đấy.”

Ta nghĩ bụng: Ở Giang Nam mà bán, ta bỏ hai lượng bạc mua ngay!

Ta thao thao bất tuyệt trình bày kế hoạch, nói khô miệng, hắn uống hết một bình trà, thần sắc nhàn nhã gật đầu đồng ý.

Chỉ có điều, hắn nói: tuổi đã cao, thương hành từ nay giao cho ta quản, không lương.

Ta đang hào hứng chạy về báo tin cho Đông Vũ rằng ta cũng khá ra trò đó chứ, thì gặp nàng ngay trước tửu lâu lớn nhất thành.

Hóa ra nàng còn lợi hại hơn ta tưởng — đã đàm phán thành công với Xuân Phong tửu lâu, ký kết cung ứng rau dại định kỳ.

Lời khen đến miệng, ta lại nuốt ngược vào.

07

Ai nói tháng Năm là “ác nguyệt”? Thật là nhảm nhí!

Thương hành bắt đầu xuất chuyến hàng đầu tiên, Xuân Hàn Trai cũng vừa tung ra món thuốc thiện và được hoan nghênh nồng nhiệt. Hương thân sắm thêm dầu, muối, áo quần; người già yếu bệnh tật mua được thuốc men. Không chỉ người lớn, ngay cả bọn trẻ con cũng có việc để làm.

Gió ấm, nước dịu, lòng ta cũng rộn ràng.

Bởi vì ngay đêm trước Tết Đoan Ngọ, cha mẹ ta và nhà họ Đinh, dưới sự làm chứng của Anh thúc, đã bàn bạc và chính thức định ra việc hôn sự giữa ta và Đông Vũ. Điều đáng nói — là chính nàng gật đầu ưng thuận!

Nàng ắt hẳn đã thấy được sự thay đổi của ta, cho rằng ta ắt có ngày nên nghiệp lớn, lòng cũng dần đổi thay mà sinh cảm mến.

Quả nhiên, công không phụ người có tâm. Ta còn phải càng thêm cố gắng!

Tết Đoan Ngọ cũng là sinh thần của ta, nhưng ta vốn chẳng tổ chức sinh thần bao giờ, chỉ xem như một ngày thường trôi qua. Nếu đến tối không có gì bất trắc, sẽ quỳ lạy mẫu thân một cái, ăn một bát trường thọ miến, mừng một năm yên lành lại qua.

Nhưng năm nay, do gián điệp của tộc Cáp Tát Khắc tác loạn, nổ tung thuyền rồng, cả thành náo loạn, dân chúng hoảng hốt trốn về nhà.

Trong hỗn loạn, ta thấy Đông Vũ chạy về phía đầu rồng nơi phát nổ, biết ngay nàng lo cho Lâm Sơ Tịch.

Nàng đâu biết, Lâm Sơ Tịch tuy trông gầy gò, nhưng bắp tay cứng như đá tảng, vung đao một nhát c.h.é.m c.h.ế.t hai tên như ta là chuyện thường.

Ta vội vàng chạy theo nàng ngốc ấy, may mà gặp được xe ngựa của tướng quân phủ hộ tống Lâm Sơ Tịch, cùng nhau trở về thành, dọc đường chẳng ai nói lời nào.

Cũng may vụ loạn nhỏ của Cáp Tát Khắc nhanh chóng bị dập tắt. Kẻ nội ứng là một phạm quan mới bị đày đến năm nay, nghe thật nực cười — hắn từng tham ô quân lương ở Đông Bắc lẫn Tây Nam, liên lụy cả nhà bị lưu đày, c.h.ế.t dọc đường, vậy mà hắn cho rằng người nhà hắn vô tội, muốn báo thù. Nhưng những binh lính vì hắn mà c.h.ế.t trận, dân chúng bị chiến loạn tàn phá, ai sẽ thay họ kêu oan?

Hôn kỳ của ta và Đông Vũ định vào ngày Lập Đông, ta còn sai thương đội mang từ phương Nam về hai chiếc bình mai men trắng chạm khắc hoa mẫu đơn — bụng lớn miệng nhỏ, chỉ đủ cắm mấy cành mai, cùng bày với chậu hàn lan nàng quý như bảo vật, quả thật là vật bày cho đẹp, chẳng dùng được gì.

Có lẽ vì hôm đó không ăn được trường thọ miến, nên năm mới vừa mở đầu đã chẳng yên lành.

Trước ngày thành thân, ta trở về thôn, giữa rộn ràng người đông tay làm chân chạy, ta tìm được Đông Vũ, lòng ta vẫn bất an — chuyện trọng đại như thế, ta muốn tự mình xác nhận tâm ý nàng.

Nàng khen ta anh dũng sáng suốt, là người lợi hại nhất.

Nàng nói rất vui mừng.
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 41: Ngoại Truyện: Tuyết Phủ Bình Sơn (9)


Mang theo nỗi hân hoan ấy trở về thành, ta vừa vào đến khách đ**m thì thấy một chiếc xe ngựa có huy chương của nhà ngoại tổ, bước vào liền thấy Cao tổng quản – người hơn một năm không gặp.

Hóa ra sau đại xá, Cao tổng quản ở kinh thành mưu toan vất vả, nhờ mối giao hảo giữa ngoại tổ và bằng hữu cũ của song thân, mới đòi lại được toàn bộ hồi môn của mẫu thân. Sau đó lại hồi hương báo bình an với nhà ngoại, lần này đem theo một năm lợi tức và ngân lượng ngoại tổ ban cho, đến tìm mẫu thân.

Ta bảo ông: “Ta sắp thành thân rồi, ông cứ nghỉ ngơi, mai cùng ta về Đinh gia thôn, tất thêm phần vui vẻ.”

Ta về đến Xuân Hàn Trai, chờ ngày lành tháng tốt hôm sau, Đinh gia đến rước ta — chàng rể ở rể.

Nhưng, ta đã thất hứa.

Vừa nằm lên giường, tướng quân phủ gấp gáp truyền ta vào.

Trong phủ đèn đuốc sáng trưng, vừa nhận được tin, một thương đội của Bắc La vượt Ô Lạp Giang, bị đội tuần tra ta tiêu diệt bí mật. Thương đội ấy chắc chắn là do bảy bộ tộc Bắc La phái đến.

Triều đình tranh cãi suốt một năm, cuối cùng đồng ý với kế hoạch của tướng quân: đánh chiếm bảy bộ tộc vùng Ô Lạp Giang, thu hồi bình nguyên Y Nhĩ Hà, dẹp yên biên cương phương Bắc, từ đó mới có thể lập tỉnh, đóng quân, trừ đi họa hoạn phương Bắc.

Thương đội này đang trên đường hồi hương, mang theo lệnh bài thông hành đặc biệt của bảy bộ.

Tướng quân muốn ta và Lâm Sơ Tịch đóng giả phu thê hồi hương, tránh tai mắt trong thành. Dù gì chi thứ của họ Lâm ở Tế Nam đã nhiều lần gửi thư giục nàng về thành thân, không phải chuyện bí mật gì.

Ra khỏi thành, theo đường Hải Lãng Hà đến Ô Lạp Giang, rồi giả làm thương nhân trà trộn vào Mặc Nhĩ Triết — bộ tộc có binh lực yếu nhất trong bảy bộ.

Trong đó, tộc Cáp Tát Khắc mạnh nhất, cũng là thủ lĩnh danh nghĩa, nhưng chúng hà khắc bạo ngược, vơ vét không phân biệt người trong hay ngoài tộc. Mặc Nhĩ Triết có vị trí đắc địa, nên càng bị chúng ghét. Nếu không phải bảy bộ tộc phân bố theo chiều dọc, e rằng sớm đã bị nuốt gọn.

Nếu có thể liên minh thì tốt, không thì nội ứng ngoại hợp đánh vào Mặc Nhĩ Triết, giành được nơi ấy là giành được mảnh đất màu mỡ nhất Bắc La, giải quyết áp lực lương thảo cho đại quân.

Mọi thứ đều sẵn sàng, chỉ thiếu… quân lương.

Mưu sĩ quản sổ sách trong phủ tính toán đến rối tung, quân phí hiện tại không đủ đánh Mặc Nhĩ Triết. Quốc khố cạn kiệt, triều đình đã bỏ chế độ “trích bổ” — vốn giao cho trọng thần phụ trách thống nhất phân phối quân phí và lương thảo. Nay, mọi thứ đều phải do tướng quân tiền tuyến tự xoay xở.

Dù triều đình cho phép thu thêm thuế, nhưng vùng Đông Bắc nghèo khổ hoang vắng, đã vắt không ra m.á.u nữa rồi.

Tướng quân đã dốc hết mối quan hệ, cũng mới chỉ đòi được số lương cũ bị thiếu. Giờ sắp khai chiến, không có quân lương phát ra, tất sẽ d.a.o động quân tâm.

Trong tĩnh mịch như chết, ta và Lâm Sơ Tịch cùng đứng ra.

Nàng nói sẽ gửi thư về Tế Nam, bảo phụ thân bán hết gia sản, đưa ngân lượng đến. Tướng quân lập tức ngăn lại — của hồi môn phu nhân ông đã tiêu hết, sao có thể lại mở miệng với nhạc gia?

Ta không nhớ mình rời khỏi phủ thế nào, cũng không biết làm cách nào lừa được Cao tổng quản.

Ta cướp từ ông ấy lợi tức một năm của hồi môn mẫu thân, cộng thêm ngân lượng ngoại tổ, mang bốn trăm vạn lượng bạc giao tận tay tướng quân.

Lần này, đám người từng cười ta nhu nhược yếu mềm, lần lượt rơi lệ.

Điều kiện duy nhất của ta: giấu Cao tổng quản và xe ngựa mang huy hiệu nhà ngoại tổ trong phủ. Chỉ cần có chút xíu phong thanh, để mẫu thân và A Miên biết, thì dù không c.h.ế.t trên chiến trường, cũng c.h.ế.t dưới tay mẫu thân ta.

Sau đó, ta mang sáu trăm lượng bạc đến gõ cửa thư viện, bảo phụ thân:

“Biểu Tiểu thư của tướng quân phủ vừa ý con rồi. Xin người đến Đinh gia từ hôn. Sáu trăm lượng này đủ cho họ dọn đến thành sống cả đời, coi như báo đáp một trường ân tình. Dù gì cũng là ở rể, con thà làm rể nhà họ Lâm ở Tế Nam. Sau này có tướng quân thay cha nói giúp, cả nhà ta mới mong sớm ngày hồi kinh.”

Không chờ ông phản ứng, ta liền chạy về phía phòng Lưu lão đầu hét một tiếng rồi vọt mất. Ta sợ nếu nói thêm lời nào nữa, ông sẽ sinh bệnh vì giận.

Ngày Lập Đông, phụ thân, Lưu lão đầu và Anh thúc đều đến tướng quân phủ tìm ta, nhưng bị chặn ngoài cửa.

Chúng ta giả vờ về Tế Nam thăm thân, sáng thu dọn, chiều lên đường, ra vẻ gấp gáp về tranh gia sản.

Trên xe ngựa xuất thành, Lâm Sơ Tịch lau đại đao, lạnh lùng hỏi:

“Ngươi không sợ làm Đông Vũ tổn thương, nàng về sau không cần ngươi nữa sao?”

Ta ngẩng đầu, quả quyết đáp:

“Đừng nói linh tinh, Đông Vũ là người biết lý lẽ nhất, lại tâm linh tương thông với ta.”

“Xì!”

Ta khẽ than:

“Ta chỉ sợ… mẫu thân ta đánh c.h.ế.t ta thôi. Mong rằng phụ thân ta sẽ không nhớ thù cũ mà cứu lấy mạng con mình một phen…”

08

Đại tướng quân định ra chiến lược "tiên Bắc hậu Nam, hoãn tiến cấp chiến", ta cùng một đội tinh binh giả làm thương nhân tiến vào bộ tộc Mặc Nhĩ Triết.

Không tốn bao nhiêu lời đã thuyết phục được thủ lĩnh bộ tộc quy thuận.

Sau đó, Lâm Sơ Tịch cùng phó Đô úy dẫn theo hai mươi doanh quân tiến vào lãnh địa Mặc Nhĩ Triết. Lúc này, Cáp Tát Khắc cùng các bộ tộc khác đã nghe phong thanh chuyện Mặc Nhĩ Triết quy hàng, lập tức phái binh đến Kỳ Kỳ Nhĩ Đặc, một bộ tộc ngăn giữa, để đóng giữ, lại điều tinh binh vào Thiên An Sơn chặn cửa ngõ tiến vào địa giới của chúng.

Lâm Sơ Tịch mang theo năm doanh, phối hợp với các tướng lĩnh khác giả vờ rút lui, rút toàn quân hai mươi doanh, tuân theo chiến lược cấp chiến, chia làm ba lộ xuất kích, trong chớp mắt như sấm sét giáng xuống, nhanh chóng hạ Kỳ Kỳ Nhĩ Đặc và Châu Nhĩ Đa.

Đông tuyết trút xuống, gió lạnh thấu xương, chẳng còn thích hợp để tiếp tục hành quân. Hai mươi doanh quân phân chia nghỉ ngơi chỉnh đốn.
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 42: Ngoại Truyện: Tuyết Phủ Bình Sơn (10)


Ta từ Mặc Nhĩ Triết mang quân nhu tiếp tế đến Hoàng Dương quan, nơi Lâm Sơ Tịch đang trấn giữ. Nàng khoác áo giáp rách nát, thân quấn chăn thô cứng, đang đứng trước sa bàn cùng các tướng thảo luận binh tình đầu xuân. Hoàn toàn chẳng giống nữ tướng phong tư anh liệt trong thoại bản.

Binh sĩ đều gọi nàng là Ngô tướng quân. Đúng vậy — Ngô Tiêu Minh tướng quân.

Trong chiến báo, ghi chép quân công, tất cả đều là tên ta. Nhưng người thật sự đánh trận, lại là nàng.

Tướng lĩnh thân cận đều biết trong quân Trang tướng có một bí mật chẳng còn là bí mật.

Lần này là Ngô tướng quân, lần sau có thể là Ba tướng quân, hoặc cái tên nào khác — nhưng tuyệt không thể là Lâm Sơ Tịch tướng quân.

Khi truy sát thủ lĩnh Châu Nhĩ Đa, nàng bị thương ở chân, thấy ta khập khiễng bước vào, liền cười hỏi:

“Ngươi mang thứ gì ngon tới vậy?”

Ta mang theo canh bánh xé, món duy nhất ta học được từ Đông Vũ. Mỡ heo phi thơm tỏi và ớt, đổ vào thịt dê thái mỏng nấu sôi, thêm tiêu trắng, muối, rồi xé bánh cho vào — hương nồng vị đậm, xua tan giá rét.

Nàng uống canh từng ngụm lớn, vừa ăn vừa kể chi tiết chiến sự, để ta mang về Mặc Nhĩ Triết trình Đại tướng quân tiện phân tích toàn cục.

Sau đó lấy ra một phong thư, bảo ta tìm người gửi về nhà họ Lâm — là một bức thư đe dọa, viết bằng m.á.u của chính nàng.

Thư ấy, gửi đến phụ thân nàng. Nàng dùng tính mạng uy h**p, buộc ông bán đi toàn bộ sản nghiệp chi thứ, lập tức gửi ngân lượng ra tiền tuyến Bắc Cương. Nếu không, thì cứ ôm lấy kim sơn ngân sơn mà sống một đời đi, còn nàng — sẽ không để lại cả hài cốt.

Ta nhìn đôi tay nứt nẻ, mái tóc rối bết, vết thương ở chân được băng bó thô sơ, mới chợt hiểu vì sao ngày trước ở Ninh An thành, nàng bôi bao lớp phấn son, mang bao trâm ngọc vòng vàng, cưỡi ngựa vẫn mặc váy gấm diễm lệ.

Ta suýt rơi lệ.

Ta hỏi nàng:

“Cô vào sinh ra tử, không có cả cái tên, chẳng thấy ủy khuất sao?”

Nàng vừa gặm thịt vừa lắc đầu.

Ta lại hỏi:

“Chỉ vì là nữ tử, công lao đều phải ghi lên tên ta. Cô… thật sự không muốn tranh một lần sao?”

Ta có phần phẫn nộ, nhìn nàng thản nhiên như chẳng hề để tâm.

Nàng ăn xong khúc xương, ý vẫn chưa thỏa, chậm rãi nói:

“Nhạc Hương, để ghi tên ngươi, ta cam tâm tình nguyện.”

“Ít nhất ngươi đã mạo hiểm làm nội ứng, đầu trận tuyến thuyết phục Mặc Nhĩ Triết.”

“Ít nhất ngươi đã chạy khắp doanh trại thu thập tình báo.”

“Ít nhất ngươi đã không tiếc bị trục xuất khỏi gia môn, mất hôn thê, mà dâng bốn trăm vạn lượng.”

“Lần trước ta ra trận, mang tên Từ Tuấn Sinh, là con trai phó Đô úy phủ tướng quân Cát Lâm.”

“Trước đó là Phú Tề, cháu trai một quan viên bộ Binh ở kinh thành.”

“Bọn họ chưa từng đến Ninh Cổ Tháp, còn chẳng biết nước sông Hải Lãng chảy về đâu.”

“Nhưng nếu ta muốn lên chiến trường, không liên lụy tỷ tỷ, tỷ phu, nhà họ Lâm — thì mượn danh, không tiết lộ, chính là cái giá phải trả.”

Nàng vén màn lều, chỉ ra ngoài:

“A nương ta mất sớm, tỷ tỷ và tỷ phu nuôi ta khôn lớn. Nước sông Hải Lãng nuôi ta, ta sao có thể không bảo vệ mảnh đất này?”

“Ta là biểu tiểu thư của phủ tướng quân, hưởng lộc phủ tướng quân, mà phủ tướng quân lại nhận nuôi từ bách tính. Ta sao có thể không báo đáp?”

“Ta lớn lên trong quân doanh, bảy tám tuổi đã theo tỷ phu vào trung quân trướng xem ông điều binh. Những thúc bá nhìn ta trưởng thành, những huynh đệ cùng ta vào sinh ra tử, từng người, từng người, c.h.ế.t trước mắt ta…”

“Ta sao có thể không báo thù?”

“Quốc gia, thân tình — lúc này có phải lúc tranh danh đoạt lợi?”

“Chỉ cần có thể lên chiến trường, mạng ta cũng có thể để lại đây, huống chi chỉ là một cái tên của nữ nhân?”

“Chúng ta nhất định phải đoạt lại bình nguyên Y Nhĩ Hà, nhất định phải đem Bắc Cương nắm trong tay!”

“Đến khi ấy… có lẽ… mới có người nối gót quang minh chính đại bước lên.”

09

Chiến sự mùa xuân thuận lợi vượt ngoài dự liệu, Vương phủ Thuần Vương ở Hoàng Long phủ cùng nhà họ Lâm ở Tế Nam đều gửi tới một lượng lớn ngân lượng và lương thực.

Người Thuần Vương gia phái tới là vị mưu sĩ trông rất quen mắt với ta — chính là vị tú tài duy nhất bên sông Hải Lãng, môn sinh đắc ý của Lão đầu tử họ Lưu, người mà trong ngày Đoan Ngọ từng vì đột ngột trách móc Đông Vũ mà lời qua tiếng lại vài câu.

Cũng chính hôm đó, ta nghe được một chuyện xưa.

Vị tú tài ấy, từng là người thân cận của mẫu thân Đông Vũ. Mẫu thân nàng vốn định mang theo nàng cùng rời đi, nhưng tổ phụ của Đông Vũ thương nàng như tròng mắt, nhất quyết không buông. Sau khi rời đi, bà mang lòng hối hận, chẳng dám mặc gấm vóc, dùng cao lương mỹ vị.

Đặc biệt là sau cơn đại hồng thủy ở Hải Lãng Hà, khi nghe tin dữ trở về Bình Sơn thôn, Đông Vũ đã bị bán đi mất. Vì quá đau khổ, mẫu thân nàng lâm trọng bệnh, suýt nữa mất mạng.

Về sau tình cờ biết nàng đã trở lại, mẫu thân nàng lặng lẽ quay về Ninh An thành, từ xa lén nhìn mấy ngày, thấy mẹ ta dạy nàng ghi sổ, dạy chữ sau quầy, thấy nàng bày trò nũng nịu đấu khẩu với cô cô và tổ mẫu…

Rồi lặng lẽ quay lại Hoàng Long phủ.

Trước khi đi, bà mua lại cửa tiệm, nhờ ta giao khế ước cho Đông Vũ.

Chu tú tài chỉ nói một câu:

“Hãy nói với Đông Vũ, đừng oán mẹ nó.”

Ta hỏi ông:

“Bà ấy… sống có tốt không?”

Ông chỉ nhẹ gật đầu:

“Tốt.”

Chỉ cần sống tốt là được. Người như Đông Vũ — lương thiện, chân thành — sao có thể dễ dàng hận ai, huống hồ lại là mẫu thân ruột thịt.

Phía nhà họ Lâm ở Tế Nam phái tới Lâm nhị lão gia, trời đã sang xuân, ông vẫn quấn chặt áo hồ cừu run lập cập, khăng khăng đòi tới gặp Lâm Sơ Tịch.

Khi ấy nàng đã vượt qua Thiên An Sơn, ta chỉ đành thuê xe ngựa chở ông tới đại doanh.

Trong doanh trại, vừa gặp con gái, Lâm lão gia đã túm lấy tai nàng mà mắng:

“Nghiệt chướng! Sao ngươi khắc nghiệt với chính mình thế!”
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 43: Ngoại Truyện: Tuyết Phủ Bình Sơn (11)


Cho đến khi phát hiện lòng bàn tay dính m.á.u — hóa ra đã làm vỡ vết lở loét do lạnh trên tai con gái — ông mới hoảng hốt buông tay, lùi lại hai bước, nhìn dáng vẻ tiều tụy của nàng rồi ngã ngồi xuống đất khóc lớn:

“Là ta không đúng… là ta quá tham tiền, để con ta chịu khổ đến thế này…”

Khóc rồi, lại là một màn ôn nhu hỏi han, cha con tâm sự.

Lâm Sơ Tịch để ta hộ tống ông trở về Ninh An thành, nhưng lão nhân lại cố chấp vô cùng, sống c.h.ế.t không chịu đi.

Ông nói, nàng đã buộc ông bán sạch gia sản, đến cả phủ đệ cũng bán nốt, giờ trên người ngoài bộ áo này chẳng còn gì, phải bám theo con gái mà sống c.h.ế.t cùng nhau.

Không thể lay chuyển, đành để ông lưu lại.

May thay, có lương thực đầy đủ, tiền bạc sung túc, tinh thần ba quân hăng hái, tướng sĩ đồng tâm hiệp lực. Lại thêm sự tàn bạo của tộc Cáp Tát Khắc khiến lòng dân phẫn uất, nội ưu ngoại hoạn chồng chất.

Trước khi thu sang, quân ta đã hoàn toàn thu phục được bình nguyên Y Nhĩ Hà, chiêu hàng những bộ tộc nguyện quy thuận, đánh đuổi tộc Cáp Tát Khắc ra khỏi bờ cõi.

Ta — trên danh nghĩa là tiểu tướng tiên phong, chiến công hiển hách, được cùng Đại tướng quân tiến kinh bái kiến hoàng thượng lĩnh thưởng.

Trong triều, ta thấy vài người mang ánh mắt cười cợt nhìn ta, hẳn là cũng giống ta, chiếm công của Lâm Sơ Tịch mà đứng đây nhận thưởng.

Ta mấy lần muốn tấu rõ chân tướng, nhưng vừa thấy ánh mắt ra hiệu của Tướng quân, lại nhớ lời Lâm Sơ Tịch từng phân tích về triều chính đại cục — chính trị không phải là chuyện trong thoại bản, một phút bốc đồng có thể khiến biết bao người chịu vạ lây, thế cục nghiêng ngả.

Ta gắng nén xúc động, khấu tạ hoàng ân, chỉ là khi hoàng thượng đề nghị ta lưu lại bộ Binh, ta kiên quyết khước từ.

Ta cúi đầu, rồi lại cúi đầu sâu hơn, nhớ tới tuyết trắng nơi đó, những con người nơi đó, ta lại quỳ xuống, khẩn cầu hoàng thượng cho ta hồi cố Ninh Cổ Tháp, nguyện suốt đời trấn thủ biên cương, tận trung báo quốc.

Hoàng thượng khen ta tấm lòng son sắt, phong cho quan chức, xá miễn tội cho phụ thân.

Ta không dám nán lại kinh thành thêm một khắc, lập tức lên đường hồi hương.

10

Ta trở về Ninh An thành, quỳ gối giữa sân viện Xuân Hàn Trai.

Mẫu thân tay cầm một cành roi mây dài hơn cả A Miên, đi quanh ta mấy vòng, miệng lẩm bẩm:

“Xem nên đánh vào chỗ nào để đánh c.h.ế.t cái đứa bất hiếu như ta đây.”

Đông Vũ cũng quỳ bên cạnh ta, dịu giọng thưa:

“Thiếu gia chẳng phải cố ý giấu giếm. Lần này trở về, mang theo chiến công hiển hách, lão gia lại được miễn tội, sao có thể gọi là bất hiếu? Huống hồ Hoàng thượng còn ngợi khen hắn trung quân ái quốc. Nếu người đánh thiếu gia, chẳng phải là bất mãn với thánh chỉ, lỡ bị truyền ra ngoài, chẳng phải rước họa vào thân?”

Mẫu thân bị chẹn họng, liền xắn tay áo lên, làm ra vẻ ác bà bà mà rằng:

“Tốt quá rồi, sách đọc không uổng công, giờ đã dám uy h.i.ế.p mẹ chồng rồi? Không nói ra thì ai biết được chứ?”

A Miên theo Anh thúc vừa gặm hồ lô đường vừa dõng dạc hét:

"Con nói được! Con nói được đó!"

Trở về Bình Sơn thôn tổ chức hôn lễ, Lưu lão đầu uống nửa vò rượu, đi khắp nơi rêu rao rằng ta là kẻ vong ân phụ nghĩa, không chịu mua cho ông nửa dãy nhà phố như đã hứa — tâm địa đen tối. May mà ta được người đời thương yêu, người khác chỉ tưởng ông là tửu quỷ đến phá đám.

Sau thành thân, ta cùng Đông Vũ dọn đến nha môn Thủy sư doanh, mẫu thân bận rộn cùng cô cô chuyển giao cửa hàng, lại dạy Thanh Thanh quản sổ sách. Mải mê như thế, bất tri bất giác, thêm một năm trôi qua.

Mùa đông thứ tư ập tới, phụ mẫu và muội muội trở về Kinh, Cao Tổng quản suýt chút nữa bị bỏ lại ở tướng phủ cũng được ta đón ra. Khi ta tới đón, suýt nữa lại bị mẫu thân đánh một trận, may mắn khi ấy ta đang mặc quan phục.

Ly biệt chẳng cần nói lời tiễn biệt hoa mỹ, vì dù ở nơi đâu, chúng ta đều sẽ gắng sống thật tốt, quý trọng chính mình.

Sau khi người nhà rời đi, ta có phần cô quạnh mấy ngày, nhưng cũng không sao — vì ta còn có Đông Vũ.

Sự tốt đẹp của Đông Vũ vượt xa tưởng tượng của ta.

Nàng đã đọc rất nhiều sách, và vẫn đang tiếp tục học hỏi không ngừng. Lưu lão đầu và Anh thúc thường ghé nhà ta uống trà, nói rằng từ sau khi A Miên đi, người chăm học nhất thành chính là Đông Vũ.

Nàng cũng bắt đầu làm ăn, tuy không có thiên phú bẩm sinh như mẫu thân, nhưng trầm ổn, tỉ mỉ, biết lo xa, luôn tùy cơ ứng biến, lên kế hoạch đâu ra đấy. Quả thật, nàng đã giúp thôn sửa trường học mới, dẫn dắt bà con làm ăn ngày càng khấm khá.

Hơn thế, nàng gan lớn mà tâm lại tinh tế.

Nàng đi dọc biên giới phía Bắc vừa bình định, vượt sang Sa Nga, năm thứ năm sau thành thân, nàng theo đoàn thương nhân vào Kinh thành, sau lại cùng thương đội do mẫu thân giới thiệu, xuôi Nam đến Lưu Cầu, Giao Chỉ.

Những năm tháng sau đó, nàng đi đến đâu, làm ăn đến đó, nhiều lần qua lại Pháp Lan Tây và Đại Bất Liêm.

Việc kinh doanh ngày càng phát đạt, ngoài thương đội lại có thêm thương thuyền, thậm chí còn nhiều lần được yết kiến hoàng thượng, thay triều đình đưa sứ giả đến Tây phương các nước, giao thư tay giữa tân hoàng và hoàng đế Pháp Lan Tây.

Thế nhưng, nàng không còn vui vẻ. Dường như, ngày càng không vui.

Cuối cùng, đến năm Lưu Cầu lấy cớ ngư dân bị hại, xâm chiếm đảo Di Châu, triều đình chẳng những không trách phạt, lại còn bồi thường hàng chục vạn lượng bạc trắng, ta cảm nhận được — nàng đã hoàn toàn đánh mất khí cốt trong lòng.

Nàng hỏi ta:

“Triều đình luôn tranh cãi là nên phòng biên ải hay hải cương, nếu đã không thể đánh, thì phòng ngự chẳng phải chỉ là lời hèn nhát sáo rỗng sao?”

Ta không trả lời được.

Dù ta đã làm quan nhiều năm, chúng ta đã dọn đến phủ trị của Bắc La, nhưng…

Ta muốn hỏi Lâm Sơ Tịch, nhưng nàng đã c.h.ế.t nơi Tây Vực, theo Trang Đại tướng quân bình loạn mười năm trước — một lần nữa c.h.ế.t không có tên tuổi.
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 44: Ngoại Truyện: Tuyết Phủ Bình Sơn (12)


Nàng lại hỏi ta:

“Khi ta du hành Tây phương, đem những kiến thức kỳ diệu kể cho hoàng đế và nội các nghe — tàu hỏa bốc khói, thuyền lớn vượt sóng, đại pháo tinh xảo… đúng rồi, cái từ ấy gọi là tiến bộ.

Thế mà hoàng đế chỉ căn dặn ta đừng loan truyền dân gian, tiện thể yêu cầu ta dâng thêm bạc, lại ban thưởng vài câu, rồi cho lui.

Vì sao không thể nói? Vì sao không nhanh chóng để mọi người hiểu, đuổi kịp cái gọi là “tiến bộ”?

Vì sao không đề phòng tiến bộ, lại đề phòng chính bách tính?”

Lần đó, người tiễn nàng về là một nội giám, mang về luôn một đạo thánh chỉ:

Triều đình tịch thu thương thuyền của Xuân Hàn Trai, từ nay cấm thương nhân ra biển.

Triều đình cũng cấm nàng xuất môn, lại còn khiển trách ta quản gia vô phương, để thê tử lộ diện buôn bán, còn cả gan chất vấn thiên tử.

Toàn bộ sự vụ của Xuân Hàn thương hành, từ đó chuyển giao cho con trai duy nhất của chúng ta.

Nàng cầm thánh chỉ, sau khi nội giám rời đi, khẽ nhấc tay, thản nhiên buông xuống mặt đất:

“Cấm ta ra cửa…

…vậy thì cửa này, ta cũng chẳng muốn bước ra nữa.”

11

Đông Vũ, ái thê của ta, đã mất rồi.

Năm ấy, mùa đông tuyết trắng đầy trời, hệt như bao nuối tiếc chất đầy trong lòng ta.

Từ sau khi bị cấm túc, nàng vùi mình trong sách vở, dường như muốn tìm ra điều gì, rồi từ từ nguội lạnh, buông xuôi, chẳng đọc nữa.

Chết… có lẽ là tốt.

Mang theo một nghi vấn, vẫn hơn là mang theo vô vàn thất vọng và phẫn nộ.

Ta không dám nói với nàng, chiến sự nổi lên khắp nơi, bế quan tỏa cảng chẳng thể cản được bước chân “tiến bộ”.

Cắt đất, bồi thường, từng tầng từng lớp đổ xuống — vắt cạn m.á.u của bách tính.

Quê hương nàng — Bình Sơn thôn, nhờ có nàng và bà con đồng lòng mà phất lên thành trấn Bình Sơn.

Vậy mà mấy năm ngắn ngủi, nay đã không còn.

Lần này, diệt vong còn tàn khốc hơn hồng thủy, sưu cao thuế nặng, lại thêm một trận ôn dịch bất ngờ mà vô triều vô phủ cứu chữa, nơi ấy hóa thành tử địa.

Mà tử địa như thế, giờ trên mảnh đất này mọc lên khắp nơi như hoa m.á.u của lê dân.

Con gái của Triết Nhị nhà họ Triệu, vẫn là c.h.ế.t rồi.

Chết cùng con gái của nàng.

Ta tên Ngô Tiêu Minh, từng là công tử ăn chơi khét tiếng Kim Ngư Hạng Kinh Thành, cũng từng là chàng rể sáng giá nhất Bình Sơn thôn.

Từ khi Đông Vũ qua đời, nhìn giang sơn rách nát từng mảnh, nhìn Thiên An Sơn mà Lâm Sơ Tịch đánh đổi sinh mạng để giữ gìn bị ngoại bang chiếm lại, nhìn từng người thân yêu lần lượt rời đi…

Ta tuyệt vọng.

Nhưng cũng tốt, hôm nay cuối cùng cũng tới ngày ta phải chết.

Thân thể ta về sau khỏe mạnh, chắc chắn có thể đuổi kịp nàng.

Nàng… nhất định sẽ đợi ta, phải không?

Bên tai ta vang lên lời mẫu thân từng giảng cho muội muội, kể về nguồn gốc cái tên của ta:

“Nhất dạ sơ đông vũ, tiêu tiêu chẩm thượng minh.”

(*Một đêm đầu đông mưa, lặng lẽ rơi bên gối)

Ồ… phải rồi, muội muội…

Cục ngọc điêu tinh xảo, tiểu oa nhi tinh quái như yêu quái ấy,

văn võ song toàn, tinh thông toán học thiên tượng, ta đã rất lâu không nhớ đến nàng.

Nàng… đã mang theo tiếc nuối, c.h.ế.t trong một trận bạo bệnh khi vừa tròn hai mươi bảy.

-HẾT-

Xoăn: Nếu bác muốn đọc truyện HE trọn vẹnthì dừng lại ở chính truyện nhé ^^ Ngoại truyện chứa đựng thực tế của thời đại nên sẽ không trọn vẹnHE ^^
 
Back
Top Bottom