Ngôn Tình Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh

Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 20


Nói đến đây, bà nghẹn ngào bật khóc. Ta sợ đến phát hoảng — trong gió tuyết còn dám đùa người khác là bà, sao giờ lại khóc thế này?

Ta định đến ôm baf an ủi, lại không dám.

Tổ mẫu bưng thau gỗ đẩy cửa bước vào, nhìn phu nhân nói:

“Đừng khóc nữa, hài tử, đến đây rồi thì chính là người một nhà.”

Phu nhân lau nước mắt, cảm kích gật đầu với tổ mẫu.

Tổ mẫu chắc trong đời chưa từng thấy người đẹp đến thế rơi lệ, nên nói xong liền quay sang quát ta:

“Còn lề mề cái gì, mau vào bếp nhặt rau. Anh lão gia tới rồi, còn mua cả kẹo hồ lô!”

Ta vội quay sang nói với phu nhân:

“Con hiểu rồi, đa tạ phu nhân.”

Rồi chạy ra ngoài, vừa hay đụng mặt thiếu gia cầm kẹo hồ lô đứng ở cửa, chắc là muốn đưa ta. Ta không chờ hắn mở miệng, đã giật lấy rồi chạy mất.

Tên này sao lúc nào cũng rảnh rỗi đứng ở cửa vậy chứ — đúng là ‘đại nhàn nhân’!

25

Trong thành chẳng thiếu một người như ta, nhưng nơi thôn dã này, đậu non nhà ta cần được dời trồng, ngô phải gieo, còn phải dựng giàn bí, lại có tổ phụ cùng Tiểu Hoàng đang đợi ta trở về.

Sáng sớm hôm sau, ta đưa tiểu thư đi ăn hoành thánh, rồi đưa nàng tới thư viện. Khi chia tay, nàng lưu luyến không nỡ rời, ta bèn hứa lần nghỉ tiết Đoan Dương sẽ tới đón nàng về thăm quê.

Tiện đường ta vào chợ mua chút đồ, rồi tới chỗ phu nhân nhận số bạc bà đã thanh toán giúp theo sổ hôm qua.

Lần này, ta không để tổ mẫu nhét bánh vào bọc như trước nữa, mà dậy sớm xuống bếp nói rõ:

“Hôm nay con muốn ăn bánh ngô trộn ít bột mì, ở giữa kẹp xúc xích hun khói và đậu khô. Tối nay con với tổ phụ ăn thêm cái móng giò, gọi là có chút món mặn.”

Cô cô, cô trượng cười trộm, tổ mẫu bĩu môi:

“Có muốn lão thân phi sang tận Hắc Long Giang bắt con rồng về quay cho tiểu thư không?”

Ta đáp tỉnh bơ:

“Cũng không phải không được. Nhưng nhớ nướng kiểu khô cay cho con.”

Mọi thứ chuẩn bị ổn thoả, ta dắt lừa già ra khỏi cổng sớm, tính cho nó đi thong thả chút. Bánh tổ mẫu làm thơm quá, khiến ta mơ màng suốt cả đoạn đường, tới khi đi được một quãng mới phát hiện thiếu gia cũng đang ngồi trên xe lừa.

Ta hỏi:

“Thiếu gia huynh làm gì ở đây?”

Hắn đáp:

“Ta cũng muốn về thôn.”

Ta lại hỏi:

“Huynh về làm gì?”

Hắn thản nhiên nói:

“Dĩ nhiên không phải để làm bình hoa.”

...

Chậm rãi về tới thôn thì vừa hay bắt gặp dân làng từ ruộng về. Nhìn thấy chúng ta, thần sắc mỏi mệt bỗng đổi thành nét tươi cười niềm nở. Ta mời mọi người vào sân nhà ta nói chuyện.

Nhà Trương thẩm: 70 văn, Tam nãi: 60 văn, nhà thôn trưởng: 65 văn… người được nhiều nhất là Diêm đại thúc – cái đùi nai kia nặng tới hơn bốn cân, cộng thêm ít rau rừng, được cả thảy 210 văn.

Phu nhân từng nói, nếu ở kinh thành, cái đùi nai này ít nhất cũng đáng nửa lượng bạc. Nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ khiến dân làng mừng rỡ khôn xiết, hết lần này tới lần khác sờ tiền, ngắm nghía thật giả.

Năm tháng như vậy, sau khi nộp thuế, lo lễ, có thể không c.h.ế.t đói đã là may, còn đồ dư thừa đều đem đổi lấy tay nghề, công phu hoặc vật dụng, bao nhiêu người cả đời chưa từng nhìn thấy tiền mặt ra sao.

Diêm đại thúc cầm bạc, gương mặt đen sạm như nhuốm chút đỏ ửng:

“Đông Vũ à, bữa trước ta ăn nói không phải, ngươi đừng để bụng.”

Ông nghẹn giọng:

“Giờ thì thẩm thẩm nhà ta cuối cùng cũng có thuốc uống rồi, dù c.h.ế.t hay sống cũng đỡ khổ một chút.”

Lời vừa dứt, không ít người quanh đó cũng bắt đầu sụt sùi.

Những ngày gần đây, ta đã thấy không ít nước mắt, nhưng vẫn chẳng biết nên xử lý thế nào. Ta liếc nhìn thiếu gia, cầu cứu. Hắn vung tay áo, đứng dậy bước ra giữa sân, cất giọng:

“Từ nay về sau, ba ngày thu mua dược thảo một lần. Hết xuân sang hạ, rau trái mùa hè cũng thu theo chu kỳ ba ngày. Nếu có săn được thịt rừng hay hải sản, quả rừng mùa thu, mùng một hay rằm mỗi tháng đều có thể đưa đến.”

“Không cần phải nhịn ăn mà mang hết ra, cái gì tốt mới lấy, phần kém giữ lại cho nhà ăn hoặc tự xử lý. Triều đình có cấm lâm cấm ngư, không thể vì mấy đồng bạc mà phạm luật quan phủ. Dù đây là nơi rồng cưỡi không tới, lỡ xảy ra chuyện, cả thôn sẽ chịu vạ.”

Lời hắn nói tuy nhẹ nhàng, nhưng mỗi người đều nghiêm túc lắng nghe. Sau đó, hắn còn tường tận giảng cho mọi người về ranh giới của lệnh cấm lâm cấm ngư, những gì có thể làm, thời điểm nào được phép.

Hắn lại nói, nếu không kịp chở về, có thể phơi khô làm rau dự trữ, ai biết làm dưa muối, mỗi ngày mang một ít tới, hắn sẽ mang vào quán cho thực khách nếm thử. Ai làm ngon sẽ đặt hàng lâu dài, mà dưa muối giá chẳng thấp, ngang với thịt tươi.

Mọi người hài lòng tản đi, ta tưởng thiếu gia sẽ đắc ý, nhưng hắn lại quay sang hỏi tổ phụ:

“Trong thôn, xưa nay ngày tháng đều khổ cực như vậy sao?”

Tổ phụ rít một hơi thuốc dài, rồi thở ra một tiếng thật nặng:

“Thôn ta lập làng sớm, ruộng chia về từng nhà. Tuy chẳng trồng được gì cho ra hồn, nhưng còn có đất mà bới móc, quanh năm lao động, lại ở nơi cao trời xa, rừng núi sông suối còn có cái mà vớt vát, c.h.ế.t đói không nhiều.”

Ông ngẩng nhìn bầu trời xa thẳm, gió đồng nổi lên. Tổ phụ vỗ vỗ ghế gỗ bên cạnh, ý bảo thiếu gia ngồi, rồi tiếp:

“Từ khi Tướng quân Trang gia đến Ninh Cổ Tháp, cuộc sống khá hơn chút. Thuế vẫn vậy, nhưng không còn quan lại tầng tầng lớp lớp đè đầu, chỉ có binh lính phủ Tướng quân tới thu một lần là xong. Triều đình lại cử Phạm đại nhân tới đây, cho người xuống phủ dạy dân trồng khoai lang và khoai tây. Thứ đó dễ trồng, no bụng. Năm đó, làng ta có hai mảnh ruộng lúa, vừa trổ bông, mọi người vui lắm, nói năm nay cống xong gạo, nhất định bảo thôn trưởng nấu cơm trắng cho cả làng ăn thử.”

“Nhưng ông trời đâu nể tình ai, bất kể ngươi là người Mãn, người Hồ hay kẻ Nam Man, mưa cứ trút không ngớt. Trẻ con khóc, người lớn buồn. Rồi bọn buôn người cũng tới. Đông Vũ chính là bị bán lúc đó.”
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 21


Sau đó, thành cũ bị phá, Tướng quân xây thành mới. Trong thôn có nhà c.h.ế.t cả nhà, lại có nhà chạy tới. Thôn trưởng chia đất lại, mọi người tiếp tục sống. Một hôm, có người tới giao cho ta bốn lượng bạc, nói là tôn nữ của ta ở kinh thành gửi về. Ta khi ấy đã hơn sáu mươi, cả đời chưa thấy mấy lần bạc trắng.

Dựa vào số bạc thỉnh thoảng nó gửi, tổ mẫu được trị bệnh, cô cô nó được gả chồng tốt. Ở nhà có khi còn được ăn thịt — dẫu là trộm ăn. Dân làng nói nhà ta sống nhờ nữ nhân, nhưng lão già này chẳng thèm chấp, vì họ nói đúng. Nhà ta toàn nữ nhân giỏi giang, từ lão bà cho tới con gái.

Sau đó, trong làng có người bệnh nặng, lây ra mấy nhà. Ta lén đưa hai xâu tiền cho thôn trưởng vào thành mua thuốc, sắc cả nồi to, chia cho từng nhà vài ngày, mới vượt qua được. Từ đó, cũng không ai còn lời ra tiếng vào về nhà ta nữa.

...

Lúc ấy ta ngửi thấy mùi cơm, bụng liền réo ùng ục, chẳng màng hai người kia nói gì nữa, liền chạy đi tìm cái móng giò tổ mẫu làm cho ta. Trên đường đi, đã muốn ăn luôn rồi.

Ta dường như hiểu ra lần này thiếu gia về là có mục đích gì. Hắn thật là một người… tốt vô cùng.

Chuẩn bị bữa xong, gọi mọi người vào ăn, hương thơm của móng giò vừa béo vừa mặn đậm đà, nhưng xen lẫn bên trong lại có một mùi ngọt nhẹ thanh thanh.

Ta lần theo hương, thì thấy giò lan đặt trong phòng đã nở hoa.

Giò hàn lan ấy là do muội muội của phu nhân — gả về An Huy, tốn bao công mới đưa được về kinh, cực kỳ yếu ớt. Ta khi ấy mang về còn phải đặt vào hũ gốm, che đậy cẩn thận, mùa đông tới quấn như quấn thiếu gia.

Nhưng nó lại còn yếu hơn cả thiếu gia, rụng gần hết lá, phần còn lại cũng khô quắt lại. Về nhà, ta cẩn thận đặt nơi góc cửa sổ trong phòng ngủ, có ánh nắng nhưng không bị hơi lò sưởi hun.

Nhưng dạo này bận quá, ta gần như quên mất sự tồn tại của nó.

Lá vẫn gầy guộc, cành xanh sẫm cũng không có mấy phần sức sống, vậy mà giờ đây lại rút ra hai nhánh hoa xanh nhạt. Khác với những đóa hàn lan thường màu vàng lục nhạt, đoá này lại trắng muốt như tuyết, tỏa ra hương thơm lạnh lùng mà kiên cường, khiến người không thể nào làm ngơ.

26

Hôm sau, trời vừa sáng, ta liền dậy sớm cho gà vịt ăn, rồi vội ra đồng. Đang lúc cày bừa tưới tắm hăng say, thì thiếu gia đột nhiên hiện thân nơi cuối ruộng, ngang nhiên kéo ta đang trồng khoai tây về nhà, nói muốn ta đưa hắn đến phủ Diêm đại thúc.

Ta phủi bụi đất trên người, nhận lấy cái bánh hắn đưa, vừa nhai vừa bất đắc dĩ theo sau. Hắn một tay xách hai gói thuốc, mà ta trong bụng thầm lẩm bẩm: Hắn thật sự biết trị bệnh hay sao?

Nhà Diêm đại thúc, so với những nhà khác trong thôn, càng thêm tàn tạ. Gọi là “viện”, thực ra chỉ là hai gian phòng nhỏ, vách được quây bởi lau sậy và cọc gỗ. Sân không được san phẳng, hễ mưa xuống thì lầy lội đến rút chân không nổi.

Nhà có một đôi song sinh, bé trai tên Hải Hải, bé gái là Thanh Thanh, tuổi chừng bằng tiểu thư nhà ta. Vừa bước vào sân, thấy Thanh Thanh đang giặt áo, Hải Hải thì buộc một tấm da không rõ thuộc loài gì ngang hông, tay vác rìu bổ củi. Diêm đại thúc hẳn đã ra đồng từ sớm.

Hai đứa nhỏ thấy chúng ta tới, chẳng gọi ta trước, trái lại hô to:

“Ngô thiếu gia tới rồi! Ngô thiếu gia tới rồi!”

Rồi lại chạy vào gọi:

“Nương ơi, Ngô thiếu gia tới rồi!”

Sau đó mới như sực nhớ đến ta, ngơ ngác nhe răng cười:

“A, Tiểu Vũ tỷ!”

Ta hừ hai tiếng, thấy Hải Hải đang hau háu nhìn cái bánh trong tay ta, liền quăng cái bánh còn mới cắn hai miếng cho nó. Nó cảm kích nhận lấy, bẻ nửa cho muội muội, nửa còn lại đem vào trong.

Thấy hai đứa nhỏ ríu rít theo sau thiếu gia ra ra vào vào, ta chẳng buồn để tâm. Chán quá, liền nhặt cái rìu trên đất, bắt đầu bổ đống củi nhỏ trong sân.

Một hồi sau, mùi thuốc bay ra từ bếp. Ta bước vào, thấy cả bọn vây quanh bên giường bệnh, trong phòng mù mịt hơi thuốc, vốn đã chật hẹp lại thêm phần u ám. Ta bước đến bên giường, gọi một tiếng:

“Thẩm thẩm.”

Chưa kịp nghe bà đáp, thì đã ho rũ rượi. Ta vội đỡ bà dậy, vỗ lưng cho bà dịu cơn. Trong lòng lại thầm nhủ: Đừng nói là thật sự mắc lao phổi như lời đồn, nhỡ đâu lây sang thiếu gia thì ta biết ăn nói ra sao?

Nghĩ vậy, ta liền giật lấy bát thuốc trong tay thiếu gia, bảo Hải Hải đỡ nương mình dậy đút thuốc.

Thiếu gia chẳng những mang theo thuốc, còn tận tay dạy hai đứa nhỏ cách sắc, cách đút thuốc, lại móc từ n.g.ự.c ra một cái túi nhỏ, ôn tồn dặn:

“Trong đây là kẹo ngọt, nhưng chỉ dùng khi nương các ngươi ho không ngừng, mỗi lần chỉ được ngậm một viên để cầm cơn, chớ có tham.”

Thanh Thanh hai tay nâng túi, gật đầu như trống bỏi.

Diêm thẩm uống thuốc xong quả nhiên đỡ hơn, khóc mà cảm tạ rối rít. Ta chẳng ưa nổi cảnh đó, liền viện cớ dọn bát chạy ra ngoài.

Ta dọn dẹp sân nhà họ, múc đầy nước vào chum, lại giúp họ cuốc nốt mảnh ruộng còn dang dở. Làm xong hết việc, thiếu gia mới từ trong nhà bước ra.

Không cần đợi dân làng đến bàn bạc, thôn trưởng liền báo tin, buổi tối mọi người tới thần bạch hạc trong thôn tập hợp, có việc lớn phải công bố.

Do ghé nhà Diêm thúc nên ta lỡ cả việc đồng áng. Cơm trưa cũng chẳng kịp về nhà ăn, là do tổ phụ mang tới tận ruộng cho ta, may mà trước khi mặt trời lặn cũng kịp làm xong, liền về nhà, rồi đến trước cây thần Bạch Hạc.

Thực ra “Thần Bạch Hạc” cũng chẳng phải hạc gì, mà là một cây bạch dương già. Ta cũng không rõ vì sao lại gọi một cái cây là “Bạch Hạc”.

Người trong thôn hầu như đều đến đông đủ. Ta đi sau cùng, thấy thiếu gia đang ghi chép gì đó lên giấy. Tam nãi bên cạnh khều ta:

“Tiểu Vũ, tiểu nữ tế nhà ngươi thật lợi hại nha, còn biết trị bệnh nữa. Nghe nói cái ‘quỷ ho lao’ nhà Diêm thúc, uống xong một bát thuốc thì ngừng ho luôn.”

Ta nhíu mày, chẳng buồn đáp lời, liền quay về nấu cơm.
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 22


Ngày hôm sau, thiếu gia lại dắt lừa già trở lại thành Ninh An.

Ngày thứ ba, từng nhà từng nhà đều được phát thuốc. Thanh Thanh và Hải Hải cũng bị bắt đến làm lao công, ngay cả ta cũng không thoát, bị gọi đi dạy dân làng cách sắc thuốc, cách đắp thuốc.

Ta thật chẳng hiểu nổi. Ta đã chạy tận vào đầm lau rồi mà vẫn bị tóm về. Chi bằng làm con ch.ó nhỏ Tiểu Hoàng cho xong, ít ra cũng chỉ cần chạy lòng vòng cho vui.

Đến tối, ta càng thêm nghi hoặc, liền hỏi thiếu gia:

“Thiếu gia, huynh thật sự biết trị bệnh sao?”

Hắn vẫn không ngẩng đầu, vừa sửa lại giấy tờ vừa đắc ý nói:

“Đương nhiên rồi, bản thiếu gia há có thể chỉ để bày biện mà thôi?”

Ta ôm chậu lan, đặt ra ngoài sân, định để nó hứng chút tinh hoa nhật nguyệt. Trong bụng lại không nhịn được mà trắng mắt một vòng:

“Hừ, sao hắn cứ như dây leo quấn mãi không dứt thế chứ...”

27

Đậu đũa và dây bí trong vườn nhà ta đều đã lớn, ta đang dựng giàn trong sân, thì nghe cổng viện bị đẩy ra, mấy vị thẩm, bá liền mang đến ít hồng sớm và dưa chuột nhà mình. Ta ló đầu ra hỏi:

"Chưa tới mùa thu hoạch rau đâu, các thẩm?"

Các bà cười tươi như hoa, đặt đồ trước cửa phòng rồi bước tới giúp ta dựng giàn.

Phúc đại tẩu nói:

"Không phải đem bán đâu, tẩu tạ ơn muội, cho muội ăn đó."

Thu đại nương lại rằng:

"Đại nương là tạ ơn thiếu gia nhà con, cho hắn ăn."

Duy chỉ có Triệu thẩm bĩu môi nói:

"Ta chẳng cảm ơn ai cả, chỉ là muốn biếu không thôi", tiện thể ban cho ta một cái liếc trắng mắt.

Hồng chín, sắc đỏ rực rỡ. Đoan Ngọ cũng tới.

Quán ăn làm ăn quá tốt, đến cả quý nhân ở Hoàng Long phủ cũng phái người tới đặt vài món. Ngay cả phủ Tướng quân cũng có mấy món định kỳ gọi từ tiệm ta.

Ta chẳng còn cách nào khác, không thể như lời hứa đến đón tiểu thư về quê chơi Đoan Ngọ.

Ra đồng xem xét hai lượt, giao gà vịt cho Hải Hải với Thanh Thanh chăm, tiền công là hai sợi dây ngũ sắc. Ruộng vườn ta thì giao cho Triệu Nhị Thiết. Hắn còn kêu ca không có thù lao, ta liền đáp lại một cái liếc mắt — hắn vẫn còn thiếu ta một phen lao động cơ mà.

Lo liệu xong xuôi, ta cùng thiếu gia đưa tổ phụ về thành Ninh An ăn Tết Đoan Ngọ.

Quán vẫn đông nườm nượp. Tổ phụ đi tìm tổ mẫu trò chuyện, ta chuyển rau vào bếp. Thiếu gia ôm một bao lớn lúng túng vượt qua ngưỡng cửa bếp — hửm? Hắn giờ mang được cả bao hồng to thế này rồi sao?

Ta vội chạy tới đỡ, trong lòng lo lắng: Nghe thẩm nói món canh đậu phụ nấu với hồng chua ngọt dễ ăn mùa hè, thực khách càng lúc càng nhiều. Mà loại hồng sớm này hiếm lắm, chưa đúng mùa chỉ vài nhà có được, chớ có làm bể mất.

Tiểu thư nghỉ lễ từ chiều mùng 4. Ta còn chưa kịp đến đón thì thấy nàng đã dẫn theo một đám thiếu niên, từ đầu hẻm đuổi theo một công tử cao lớn hơn mình nửa cái đầu, vừa chạy vừa hét:

"Lưu A Bố! Chặn họ Tiền lại cho ta!"

A Bố đang đứng trước cửa quán liền lao ra, húc ngã vị công tử thư sinh kia. Thành này quan võ nhiều hơn quan văn, thiếu gia từng nói phụ thân của tên công tử ấy là Tiền Phong Hiệu úy, phẩm cấp chính lục phẩm, ở kinh thành cũng không phải hạng tầm thường — huống chi là ở Ninh An.

Ta vội vàng đỡ Tiền công tử dậy, khẽ khàng bảo hắn chạy mau. Hắn nhìn ta cảm kích, cắm đầu chạy mất.

Tiểu thư chạy đến, mặt đỏ bừng bừng, thở hồng hộc mà vẫn không quên gào lớn:

"Tiền Kế Văn! Ta phải đánh cho đầu ngươi bẹp dí mới thôi!"

Khuôn mặt sứ trắng như ngọc vì tức giận mà đỏ bừng, dáng vẻ vừa buồn cười vừa đáng yêu khiến khách trong quán cười ầm:

"A Miên tiểu thư, thôi đừng đuổi nữa, phu nhân nhà họ Tiền đang thêu gối, định kén con dâu đó!"

Chương ma ma vội đưa tiểu thư và mấy bạn học vào hậu viện rửa mặt rửa tay, A Bố mang đậu nành ngọt và điểm tâm ra, căng thẳng quan sát xem tiểu thư có bị giận quá hay không.

Nữ tử cài trâm bích ngọc là tiểu thư nhà Yêu chưởng quỹ tiệm da lông, nay là bạn thân trong thư viện của tiểu thư.

Người đeo kim ngọc kỳ lân trước n.g.ự.c là công tử út nhà phó tổng đốc hải phòng Trường Xuân, tên Đô Đồ. Ở Khoan Thành vốn tác oai tác quái, cha hắn suýt bị tướng quân Cát Lâm đày đi trồng liễu, nên gấp gáp đưa hắn tới nhà họ Mã ở Ninh An, nay thành huynh đệ kết nghĩa của tiểu thư.

Tên công tử họ Tiền kia giấu một miếng ngọc hòa điền hình bầu dục trong túi gấm, giả làm trứng, chơi trò “đập trứng” với đám bạn, thắng hết một vòng, đến khi va vào trứng thiên nga mà Yêu tiểu thư đặc biệt tặng tiểu thư ta thì bị vạch trần.

Là trứng sống chưa luộc!

Đô Đồ phát hiện ra mánh, giật túi gấm của họ Tiền, vạch trần âm mưu, khiến tiểu thư nhà ta nổi giận như hổ, túm lấy b.í.m tóc hắn đòi đánh — đúng lúc bị Ngô lão gia đi qua nhìn thấy.

Thế là hôm nay mới có màn đuổi bắt náo nhiệt trước hẻm nhỏ.

Tối đến, vụ ồn ào chẳng ảnh hưởng gì đến việc nàng ăn liền hai bát cơm, cũng không cản được cảnh cả nhà cùng nhau gói bánh ú.

Lão gia cũng đến. Trước giờ ta chưa từng trò chuyện nghiêm chỉnh với ông, vậy mà lần này ông lại để thiếu gia gọi ta vào chính phòng. Ta bỏ chiếc bánh đang gói dở, hồi hộp bước tới.

Phu nhân, tổ phụ, tổ mẫu, cô cô, cô trượng đều có mặt. Anh thúc Anh gia cũng ở đó.

Ta hỏi Anh thúc:

"Sao thúc lại tới? Ta chẳng hay biết gì cả."

Anh thúc vẫn nâng ấm trà, hừ nhẹ:

"Ta đào đường chui lên đó."

Tiểu thư chớp mắt long lanh:

"Oa, Anh thúc chính là con chuột đất mà ca ca kể!"

Cả phòng bật cười.

Sau khi các trưởng bối hàn huyên, lão gia trịnh trọng nhìn về phía tổ phụ ta, nói:

"A thúc, sinh thần Minh ca nhi của nhà ta đúng vào Đoan Ngọ."
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 23


Chưa kịp để tổ phụ tổ mẫu kinh ngạc, ông nói tiếp:

"Sau Đoan Ngọ là mười bảy tuổi tròn. Đứa trẻ này chịu liên lụy vì ta, may nhờ Đông Vũ nghĩa khí thông minh. Ta cùng nương nó đều rất thích Đông Vũ. Nếu nhà ông bà không có dị nghị, xin mời Anh lão gia làm chứng, hãy định thân cho hai đứa đi."

Tổ phụ ta lắp bắp vài tiếng, lại nhìn sang tổ mẫu cầu cứu:

"Cái này... cái này..."

Anh thúc lắc trà chén, nhìn ta nhưng lại nói với tổ phụ:

"Lão Đinh à, phúc phận to như thế mà còn do dự, chẳng lẽ muốn con bé Đông Vũ nhà ông làm trạng nguyên phu nhân hay vợ tướng quân thật sao?"

Tổ phụ định cãi, tổ mẫu liền nghiêm giọng:

"Con bé Đông Vũ nhà ta không xứng với trạng nguyên hay tướng quân, nhưng nó cũng không thể làm thiếp."

Bà nhìn phu nhân:

"Các vị là quý nhân, sau này nhất định về lại kinh thành. Biểu tiểu thư ở phủ tướng quân hình như cũng có ý với Minh ca nhi, nếu làm muội thê tướng quân, cho dù không về kinh, e cũng chẳng phải thứ hạng người chúng ta dám vọng tưởng."

Phu nhân định giải thích, thiếu gia đã lên tiếng trước:

"Con không phải, cũng sẽ không nạp thiếp, không cưới tiểu thư phủ tướng quân. Con đã nói với phụ mẫu rồi, con muốn nhập tịch nhà Đông Vũ."

Hắn lo lắng đến nỗi kéo tay áo ta, quỳ xuống trước tổ phụ và tổ mẫu:

"Là Đông Vũ mua con về làm rể, con không quay về kinh nữa, không có mệnh trạng nguyên tướng quân, chỉ mong Đông Vũ đừng chê con là bình hoa vô dụng."

Tổ mẫu vội vàng đỡ hắn, hắn lại không chịu đứng dậy. Tổ phụ lại bắt đầu:

"Cái này cái kia..."

Anh thúc bĩu môi:

"Đừng cái gì nữa, hỏi con bé Đông Vũ ấy! Nhà các người cộng lại cũng không giỏi bằng nó, nó đã quyết thì đảm bảo không thiệt đâu."

Ta nhẹ nhàng gỡ tay thiếu gia ra. Hắn nhìn ta ngỡ ngàng, thần sắc dần ảm đạm:

"Muội đã nhận ngọc bội của ta, chẳng phải nói sẽ không bỏ rơi bọn ta sao..."

Ta phản bác theo bản năng:

"Ta khi nào nói thế? Với lại, ngọc bội đó là huynh ép ta nhận."

Còn chưa dứt lời, đã thấy mắt hắn đỏ hoe, ánh nhìn tràn ngập mất mát. Ta bỗng thấy điềm chẳng lành. Tiểu thư thốt lên:

"Ca ca sắp khóc rồi!"

Thôi xong!

Ta nhìn quanh đám trưởng bối đang hóng chuyện, trong lòng thở dài, lập tức cúi đầu khấu ba cái:

"Được rồi được rồi! Ta đồng ý!"

Nói xong liền đứng dậy chạy vụt ra ngoài, Tiểu Hoàng chạy theo sau.

Gió ngoài sân thổi tan làn nóng hừng hực trên má ta.

Năm nay, ta nhất định sẽ bới hết táo tàu trong bánh ú mà ném đi!

28

Hôm Đoan Ngọ, quán nghỉ bán, từ tờ mờ sáng, cô cô và tổ mẫu đã vào bếp làm bánh đoàn ngải nhân đậu đỏ cùng đậu hũ. Lại nấu một nồi đậu hoa lớn, mời khách quen cùng hàng xóm qua lại nếm thử. Xong xuôi, cô cô cô trượng dẫn A Bố về thôn, cùng gia đình Lưu gia đón Đoan Ngọ.

Lâm tiểu thư là người tới sớm nhất, lần này nàng ngồi xe ngựa tới, vận váy lụa màu hồng phấn, trước n.g.ự.c đeo một con khỉ nhỏ làm bằng vải vàng, cùng một chiếc chổi nhỏ bện bằng cỏ, cổ tay buộc dây ngũ sắc. Nàng nói sẽ cùng người phủ Tướng quân đến xem đua thuyền rồng, ngoài năm ti thuộc nha dưới quyền tổng binh Ninh Cổ Tháp, năm nay còn có một đội lưu dân Nam man — phần nhiều là hậu nhân của phạm nhân bị lưu đày mấy chục năm trước, xen lẫn vài người Hán.

Nàng đem hai túi ngũ sắc bằng lụa, bên trong có anh đào, dâu tằm và xương bồ, nhét vào tay ta, rồi huýt sáo một tiếng với thiếu gia đang dán giấy cắt ngũ độc trong nhà, sau đó vội vã lên xe ngựa rời đi.

Sau khi Tiểu thư thức dậy, ta cài dây ngũ sắc Lâm tiểu thư tặng lên áo nàng, lại dùng nước ngải lau mắt cho nàng.

Ra tới cửa quán, thấy Liễu Viện trưởng cùng mấy vị tiên sinh đang tới. Liễu viện trưởng tinh thần quắc thước, ánh mắt hiền hòa, trao cho ta một vò sành nhỏ:

"Nghe nói hai họ Đinh – Ngô đã kết thân, lão phu ta ăn không ít đậu hoa ở Xuân Hàn Trai, hôm nay cũng nên rộng rãi một phen, mang rượu ngon do học trò ta tặng biếu Đông Vũ. Ngày thành hôn, nhất định phải mời lão phu, ta còn chuẩn bị lễ mừng."

Ta kính cẩn tạ ơn, mời các vị tiên sinh ngồi ăn chén đậu hoa. Trong đó có một nam tử vận thanh y, khuôn mặt quen mà ta không nhớ rõ, chính là người đã mua lại thư viện thay cho viện trưởng.

Phu nhân dắt tiểu thư ra chào hỏi. Nam tử kia hướng về phía phu nhân hỏi han, nhưng ánh mắt lại quét qua ta từ đầu đến chân:

"Phu nhân chính là mẫu thân của Đông Vũ cô nương? Khí độ bất phàm, quả nhiên có thể dạy ra đứa trẻ xuất sắc như vậy."

Trong lòng ta bỗng dâng lên một cảm giác khó chịu, chẳng rõ vì sao. Ta liền lạnh mặt đáp lại:

"Mẫu thân ta đã mất từ lâu, phu nhân không phải thân mẫu, nhưng người đã cứu ta khi gặp nạn, dạy ta biết chữ, hiểu lễ, trong lòng ta, phu nhân là Bồ Tát, là thần nữ."

Thiếu gia hình như nhận ra ta đang giận, chẳng hỏi han nhiều lời, chỉ nhẹ kéo tay áo ta, ngồi đối diện nam tử kia, làm bộ vô tình nói:

"Ấy? Không đúng rồi, Đông Vũ, ta sắp nhập tịch nhà nàng rồi, vậy mẫu thân ta cũng chính là mẫu thân nàng đấy."

Phu nhân cười dịu dàng, xoa đầu ta:

"Đông Vũ là đứa trẻ ta quý lắm. Có được nữ nhi như thế, chắc là ông trời thấy ta bạc phận, nên lại ban cho một vì tinh tú như vậy."

Lời nói của bà dịu dàng lại ấm áp, khó mà cho là giả, khiến mắt ta nóng lên như bị hơi đậu hoa xông tới.

Khi thiếu gia trở lại hậu viện, ta đang ngồi thẫn thờ bên giếng, trong lòng bực bội khó tả. Hắn ngẩng đầu nhìn mặt trời, nắng chiếu thẳng vào mắt ta, nước mắt bất giác tuôn rơi.

Hắn vội chạy tới ôm ta, ta càng khóc to hơn.

Mãi đến khi nhận ra mình đã làm bẩn bộ y phục mới hắn mặc nhân sinh thần, ta mới vừa thút thít vừa đẩy hắn ra:

"Xin lỗi thiếu gia, ta cũng không biết vì sao lại khóc… Làm hỏng sinh thần của huynh rồi."

Hắn lấy một quả trứng gà, lăn quanh vành giếng, dịu dàng nói:

"Nàng muốn khóc thì cứ khóc, muốn làm gì thì cứ làm, không cần lý do. Lại càng không cần xin lỗi ta. Nếu không có nàng, năm nay ta sao còn có ngày sinh thần."

Cơn buồn bã bất chợt kia, trong không khí náo nhiệt Đoan Ngọ, tan đi rất nhanh.
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 24


Chúng ta mang theo hộp cơm, cả nhà ríu rít kéo nhau ra bờ sông Hải Lãng xem đua thuyền.

Ta chưa từng biết Ninh An thành lại đông đến vậy. Bờ sông người chen người, lão gia đi uống rượu ngâm thơ cùng bạn hữu, còn chúng ta tìm một chỗ ngồi nghỉ, đợi xem thuyền rồng.

Bên bờ có nhiều gánh hàng rong bán đồ chơi Đoan Ngọ và các món ăn vặt. Thậm chí có cả người bán đậu hoa. Tổ mẫu không phục, định lên mua ăn thử, bị ta kéo lại. Lâm tiểu thư từng nói, mấy năm nay dân cư Ninh An càng lúc càng đông, ngoài thành mọc thêm hai làng mới, nghề làm đậu phụ cũng chẳng còn hiếm nữa, người khác làm được, ta làm được, thì người khác tất cũng làm được.

Chỗ tốt ven sông đã không còn, may gặp Tiền công tử. Tiểu thư thấy hắn liền nổi trận lôi đình, nhớ mối thù “mưu hại trứng thiên nga”, định xông tới đánh. Ta vội ôm nàng lên, thiếu gia chen giữa, miệng nói:

"Tiểu tử họ Tiền, chạy nhanh đi, bằng không để nàng đánh bẹp đầu thì nhà ta chẳng đủ bạc đền đâu."

Tiền tiểu thiếu gia chẳng hề hoảng hốt, còn thi lễ ra dáng với phu nhân, tổ phụ và tổ mẫu:

"Chuyện hôm qua là lỗi của ta. Biết quý phủ lần đầu đón Đoan Ngọ ở đây chưa quen phong tục, nên sáng sớm ta đã đến chiếm chỗ giúp rồi, đích thân dẫn người giữ chỗ, là chỗ xem rồng hạng nhất."

Đô Đồ và Dao tiểu thư cũng tới khuyên giải, tiểu thư mới ngừng giãy giụa, hếch cằm hừ một tiếng:

"Còn không mau dẫn bổn tiểu thư đi?"

Tiền tiểu thiếu gia nhanh chóng đáp lời, làm ra vẻ như dẫn khách vào tửu lâu:

"Chư vị quý quan, xin theo lối này!"

Trẻ con cãi nhau là thế, nhưng cũng nhanh lành. Cả đám lại như huynh đệ tỉ muội, được phu nhân đồng ý liền kéo nhau chạy vèo đi.

Không thể không thừa nhận, chỗ Tiền công tử chiếm được quả là tuyệt hảo — vừa xem được cảnh náo nhiệt, lại thấy rõ mặt nước sông mênh mông. Dưới ánh nắng, những chiếc thuyền rồng sặc sỡ như xé sóng từ xa. Nhành liễu ven sông đã chồi non, đung đưa cứng nhắc, khó mà gợi được cảnh "khói liễu cầu họa, rèm gió màn biếc" như sông nước Giang Nam.

May mà bãi lau bên sông xanh mướt, hoa nghênh xuân vàng óng điểm xuyết, cùng hoa vân anh tím nhạt, vài chú vịt hoang gan dạ bơi ra xin ăn, trên mặt nước vẽ thành từng vòng sóng. Thêm đám thức ăn phong phú tổ mẫu chuẩn bị, hệt như một buổi du xuân.

Lều hành doanh của quan binh và Tướng quân dựng bên khởi điểm đua thuyền. Trời dần lên cao, gió hôm nay dịu hơn mọi khi, quả là "gió ấm khiến khách say", chúng ta vừa ăn vừa đợi.

Bỗng nghe "Bùm! Bùm!" mấy tiếng, thuyền rồng dường như vỡ làm mấy khúc, lửa cháy khói bốc, tiếng la hét vang dậy.

Người người chen lấn chạy trốn như ong vỡ tổ, có người bị đẩy xuống sông. Ta vội bảo tổ phụ, Chương ma ma mau tìm tiểu thư, dặn tổ mẫu đừng thu dọn gì, kéo thiếu gia ra khỏi tay áo, bảo hắn hộ tống phu nhân rời đi trước.

Còn ta, ta chạy về hướng nổ — ta muốn biết Lâm tiểu thư có sao không.

Thiếu gia cũng chạy theo, ta không ngờ hắn lại nhanh đến vậy.

Chưa kịp tới nơi, đã thấy xe ngựa phủ Tướng quân, Lâm tiểu thư vội kéo ta lên, đôi tay run rẩy nắm tay ta, môi mấp máy, chẳng nói nên lời.

Tới khi chen về được trong thành, phu nhân và mọi người đều bình an trở về, trừ lão gia — người cùng đám quan phạm ở học viện bị giữ lại.

Chúng ta vội đóng cửa cài then, lấy bàn ghế chặn trước cửa sổ.

Lâm tiểu thư cuối cùng cũng mở miệng:

"Là bọn Cáp Tát Khắc tới rồi!"

Năm nay có một vị quan phạm vì tham ô bị lưu đày. Ngoài y ra, cả nhà đều chết. Y oán hận tích tụ, thấy quan phủ Ninh Cổ Tháp đối đãi khoan dung với quan phạm có tài học, bèn ngầm thông đồng với Cáp Tát Khắc, đặt thuốc nổ trong thuyền rồng, mưu g.i.ế.c toàn bộ quan viên và gia quyến, lợi dụng hỗn loạn để đánh úp Ninh An.

Đến sáng hôm sau, tiếng mõ nha sai vang khắp đường:

"Bọn Cáp Tát Khắc tạo phản, đã bị tru diệt toàn bộ."

Ta mở cửa, thấy người dân hân hoan đổ ra phố, người phủ Tướng quân đến đón tiểu thư, đồng thời truyền lời: Tướng quân mời thiếu gia tới phủ một chuyến.

Chiều muộn thiếu gia mới về, thần sắc nặng nề, nhưng mang theo tin chính xác: bọn Cáp Tát Khắc không ngốc như tên phản nghịch kia, chỉ phái một đội nhỏ thăm dò. Thấy canh phòng nghiêm ngặt, tướng quân thận trọng, mọi người đều đứng trên đài Long Đầu quan sát, không tụ lại mép sông.

Thuốc nổ nổ trên mặt nước, thương vong không nhiều. Gỗ làm thuyền mới chưa khô, khói bốc lớn hơn lửa, bọn thăm dò tưởng có ám sát, liền bị binh lính g.i.ế.c sạch.

Tổ phụ chần chừ hỏi:

"Thế còn tên quan phạm kia?"

"Sợ thuốc nổ không nổ, hắn đã tự nguyện ghi danh vào đội thuyền. Chính mình làm mồi mà chết. Chỉ tiếc mấy người bị hắn lừa đi cùng. Có người chỉ còn ít ngày là mãn hạn, sắp được đoàn tụ gia đình tại Hà Bắc rồi…"

Cả gian phòng lại rơi vào trầm mặc…

29

Vụ nổ và hỗn loạn hôm Đoan Ngọ, chẳng mấy chốc đã bị dòng đời bận rộn cuốn trôi.

Chỉ là, số lần thiếu gia vào phủ Tướng quân ngày một nhiều hơn, ta mỗi lần về thôn, hắn cũng chẳng còn theo cùng. Nhật nguyệt vùn vụt trôi trong những ngày ta cách ba bốn hôm lại thu mua rau, chuyển hàng, mang đồ dân làng gửi gắm về thành, tưới nước làm cỏ bón phân. Ngô đồng đã trổ râu tua tủa, mà người kề vai bên ta, nay chỉ còn mỗi con Tiểu Hoàng.

Ta dắt con lừa mới về thôn, trước tiên tới nhà Diêm thúc để đưa thuốc cho thẩm thẩm, bệnh ho đã đỡ nhiều, đã có thể xuống đất làm chút việc nhẹ. Phu nhân nói, tiểu nữ nhi nhà họ Diêm, tên là Thanh Thanh, tuổi ngang với tiểu thư, tính nết trầm ổn, hiểu chuyện, muốn hỏi xem có nguyện ý vào quán phụ giúp bầu bạn cùng tiểu thư, mỗi tháng trả công ba trăm văn.

Bà còn ác ý đùa:

"Tất nhiên số tiền này phải do con bỏ ra. Ta nghe Anh thúc nói, lúc trước con mua nhi tử nhà ta, còn hùng hồn thề thốt là sẽ nuôi muội tử nữa kìa."

Hừm, quả không hổ là danh môn thế gia, nói chuyện quả là giấu kim trong gấm.

Ta đến nhà Diêm thúc, thấy ngoài viện là Hải Hải đang giặt đồ, Diêm thúc cũng ở nhà, thấy ta liền vội vàng mời vào, còn bảo thu thập ít mâm xôi rừng hái buổi sáng cho ta ăn. Ta vừa nhai vừa trình bày ý định.

Phu thê nhà họ nhìn nhau, mặt lộ vẻ khó xử, có vẻ chẳng mấy vui lòng, nhưng cũng không dám từ chối.
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 25


Ta tự biết bản thân giờ đây chẳng khác nào một địa chủ bụng đen, vội vàng buông chân gác, đặt mâm xôi xuống, cẩn thận giải thích:

Không phải bán thân. Người nhà họ Ngô hiện là tội dân, không thể công khai mua người làm hầu sai. Quán ăn kia là của ta, các vị chẳng qua là phụ giúp ta. Phu nhân nói, nếu Thanh Thanh chịu đến, cũng chẳng cần làm việc hạ nhân, chỉ là tiểu thư quá nghịch ngợm, muốn tìm người hiểu chuyện bầu bạn, cùng nhau đến thư viện đọc sách học chữ. Nếu học tốt, còn có thể như ta, theo phu nhân học toán sổ, quản lý. Lại không phải làm không, có công xá đàng hoàng. Như A Bố, mỗi tháng được trăm văn, Thanh Thanh thì ba trăm."

Hai vợ chồng nghe xong, thoáng có chút xúc động, như không dám tin, liền hỏi:

"Thật có thể học chữ sao?"

Ta vội đáp:

"Tất nhiên là có!"

Nói rồi lại đưa mắt tìm bóng dáng Thanh Thanh, tự nhủ từ lúc đến vẫn chưa thấy nàng đâu.

Chưa kịp hỏi, chỉ thấy Hải Hải đột nhiên bật khóc, ngồi bệt dưới đất, giãy giụa đ.ấ.m đá, vừa khóc vừa gào:

"Sao cái gì tốt cũng là của Thanh Thanh? Ta cũng muốn học chữ, ta cũng muốn vào thành!"

Ta bị dọa đến suýt làm rơi mâm xôi, vội vã đỡ hắn dậy:

"Ngươi sao vậy? Sao lại khóc?"

Nhan bá kéo hắn dậy, đá cho một cái:

"Ngươi học chữ cái gì!"

Thì ra, Thanh Thanh đã được đến nhà Thu đại nương học làm túi vỏ cây bạch dương. Hải Hải vì tay vụng lại hậu đậu, bị Thu đại thúc từ chối.

Thanh Thanh vừa khéo tay lại thông minh, đã được nhận làm học trò. Từ đó, việc giặt giũ, nấu nướng trong nhà đều rơi lên đầu Hải Hải. Hắn uất ức, tủi thân, sinh lòng ghen tị.

Gần đây, những nhà có trẻ con trong thôn đều đưa đến học làm đồ thủ công từ vỏ cây bạch dương. Chuyện này là do thiếu gia, khi còn chưa trở thành đại nhân vật bận rộn, nhàn nhã dạo quanh thôn, ai ai cũng quý mến. Thu đại nương thấy hắn dễ thương, gọi hắn đến ăn bánh ngô, rồi hắn phát hiện trong nhà bà ấy toàn dùng đồ đặc biệt — ấm nước, bát đũa, ghế nhỏ, giỏ đựng rau — đều là từ vỏ cây làm nên.

Thu đại nương bảo đó là tay nghề tổ truyền của dân tộc Ngạc Luân Xuân mà họ vốn xuất thân. Năm xưa vì biến cố, gia đình dọn đến nơi này, vỏ cây làm vật dụng chính là nghề tổ tiên truyền lại.

Thu đại thúc mỗi độ hè về lại vào rừng bạch dương, lột vỏ, chọn loại mới mềm, theo vân gỗ cắt thành hình dạng cần, dùng d.a.o gọt sạch, vẽ hình, cắt gọt, lược mỏng viền ngoài.

Ghép từng mảnh lại, dùng dây gai tự se khâu lại — việc này chẳng khác may áo bao nhiêu, chỉ là không được may dày quá, phải đều đặn mà đẹp. Thu đại nương nói, tổ họ còn khắc hoa, dán hoa lên đồ vật, nhưng sau này khốn khó, không còn sức lực làm nữa.

Thiếu gia lúc đó được tặng một túi đeo chéo làm từ vỏ cây, đựng d.a.o nhỏ và thịt khô, so với túi vải thì đứng dáng hơn, mà lại nhẹ hơn da. Mặt túi còn dán một con nai nhỏ cũng bằng vỏ cây.

Ta từng nói đó không phải nai, mà là con hoẵng ngốc.

Thế mà hắn lại nhân đó nảy ra kế làm ăn mới, thuyết phục Thu đại thúc dạy đám trẻ trong thôn học làm đồ vỏ cây, nói có thể tăng thu nhập. Hắn tìm phu nhân vay tiền, còn viết giấy nợ đàng hoàng.

Thiếu gia họ Ngô, hiện tại trong thành Ninh An cũng có chút danh tiếng. Không biết vì bút tích được quan tướng và nho sĩ mến chuộng, hay là nhờ Anh thúc khai trí, hắn đem hàng khô đặc sản trong thôn bán xuống phía nam, rồi ngược lại mang hàng từ phương nam về Ninh Cổ Tháp, lời lãi đầy tay, bị người gọi là "đệ tử truyền nhân cuối cùng" của Anh thúc.

May nhờ hắn vừa bán chữ vừa bán hàng, mỗi nhà trong thôn đều có ít tiền tiêu. Chuyện nhanh chóng truyền đến hai thôn bên cạnh, khiến họ liên tiếp cử người tìm thôn trưởng xin học.

Hàng khô từ thôn bán xuống phía nam, giá cả gấp mấy lần. Đồ vỏ cây — như bình nước, túi nhỏ — lại được hắn đẩy giá cao ngất. Không biết hắn lại bịa ra trò chiêu hàng nào nữa.

Dù vậy, ta vẫn bảo hắn chỉ được tăng giá ba phần cho dân làng, phần dư dùng để mua thuốc cho người bệnh lâu năm, mua hai con bò và một con lừa mới cho thôn. Nếu còn dư, sẽ may ít áo vải cho lũ nhỏ trong thôn, tiện cho việc đồng áng, vào thành hay lao động. Đợi đến khi các nhà thực sự khá lên, mới tính tiếp phần tiền sau.

Việc này chỉ nói cho mỗi thôn trưởng, thiếu gia hỏi ta vì sao không nói thẳng với dân làng, ta đáp đầy thâm ý:

"Huynh bảo đảm nói rồi ai nấy đều chịu phối hợp sao? Huống hồ nhà ta đâu phải từ thiện, không lấy tiền nhưng cũng chẳng thể dốc vốn giúp không."

Thiếu gia ngẩn ra nhìn ta, lại ngẫm ngợi điều gì, lát sau mới thấp giọng cảm khái:

"Quả nhiên, nàng không hổ là đệ tử của mẫu thân ta…"

30

Chớp mắt đã đến cuối thu, thiếu gia phái người về báo tin, nói phải tranh thủ trước khi tuyết rơi, vận thêm một chuyến hàng khô về phương nam, sang năm xuân tới sẽ có thể chạy thêm một chuyến nữa. Thi thoảng nhà ai may mắn bắt được con hoẵng ngốc hoặc tóm được con thỏ, hắn cũng sẽ giúp mang da lông đến tiệm da nhà họ Diêu bán hộ, song vẫn dặn kỹ: tuyệt đối không được vào núi săn bắn, đó là việc quan phủ quản, không thể động vào.

Phải rồi, là “phái người” về – người ấy không ai khác chính là Triệu Nhị Thiết. Giờ hắn đã tiếp quản cửa tiệm của Anh thúc ngày trước, đổi thành tiệm chuyên hàng núi, thuê hắn cùng Tiểu Hải trông coi.

Triệu Nhị Thiết vui lắm, bởi bây giờ con la trong thôn cũng do hắn quản, mỗi lần về thu rau lại được dân làng khen: “Nhị tử giờ ra dáng lắm rồi!” Nhìn bộ dạng ngạo nghễ của hắn, ta thật muốn lấy cán bút ghi sổ chọc cho lỗ mũi hắn nở hoa.

Trái lại, Tiểu Hải thì chẳng vui vẻ gì. Dù có thể vào thành, nhưng mỗi lần về thăm cha mẹ cùng muội muội, cơm nước giặt giũ, bổ củi gánh nước đều rơi xuống đầu hắn, bởi tay muội muội giờ là tay viết chữ, còn có thể khắc hạc trắng và nai rừng trên tấm vỏ cây nhỏ bằng bàn tay, quý giá vô cùng.

Trong thôn náo nhiệt rộn ràng, hai thôn lân cận cũng bận không kém — người thì thu hoạch mùa vụ, người lại lên núi hái hạt dẻ rừng. Suốt nửa năm qua, dân làng có tiền mua muối sạch, thi thoảng còn được ăn bữa thịt, lỡ bệnh thì có thuốc uống. Ai nấy đều tràn đầy sức sống, giữa tiết thu tiêu điều lại là cảnh tượng sinh cơ bừng bừng.
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 26


Đợt tuyết đầu tiên rơi xuống, cảnh tượng náo nhiệt lắng lại phần nào, nhưng không khí vui vẻ chẳng giảm là bao.

Hôm nay, ta và tổ phụ muối dưa, Diêm thúc cùng mấy vị thúc bá khác đến giúp ta chuyển cải thảo, bổ củi.

Ta đun một nồi lớn ngoài sân, Diêm thẩm nhóm lửa, tỷ tỷ họ Phúc và Tam nương thì phụ ta rửa rau.

Các nàng nhân tiện còn trêu chọc ta:

“Suốt ngày bận bịu chạy đông chạy tây, đến tương tháng tư còn chưa kịp làm, dưa muối cũng chưa ủ, ngươi và Minh ca sắp thành thân đến nơi rồi, chẳng phải đều trông vào nhà tỷ sao?”

Ta định cười ngốc để lấp l.i.ế.m thì Tam nương đã buông lời nhắm sang tổ mẫu:

“Lão bà nhà ngươi là người đầu tiên trong thôn ra ngoài lập nghiệp, mấy tháng không về, giờ ngược lại sai khiến bọn ta, ngươi không sợ bà ấy bỏ đi thật à?”

Lời còn chưa dứt, ngoài sân vang lên tiếng nói rắn rỏi:

“Ngươi lải nhải cái gì vậy, lão yêu bà? Nay ăn nổi muối sạch là rảnh rỗi rồi hả? Xem ra tấm vải hoa ta mang về hôm nay không xứng cho ngươi đâu.”

Tổ mẫu vừa nói vừa nhét tấm vải hoa vào tay Tam nương, còn chen vào rửa rau:

“Phúc tử, Diêm thẩm, hai người cũng có phần.”

Tam nãi vội vã phủi nước trên tay, nhẹ nhàng vuốt tấm vải nền đỏ hoa xanh, mắt sáng rỡ nhưng cũng có chút thẹn thùng, liền ngồi xuống bên tổ mẫu, cười hì hì:

“Tẩu tử đừng giận, ta đâu dám để tẩu bỏ đi, chẳng phải nhờ có tẩu mà ta cũng được thơm lây đấy sao.”

Phu nhân và ma ma mang đồ tới, tiểu thư thì cầm nắm tuyết chơi trò trượt chân, cười khanh khách rồi bổ nhào vào lòng ta — xem ra Thanh Thanh tuy ảnh hưởng chưa đủ lớn, nhưng tài dạy dỗ quả thật không tệ.

Ta vẫn luôn đưa mắt nhìn về phía sau, chẳng thấy ai. Phu nhân vạch trần tâm tư ta:

“Đừng nhìn nữa, sang nhà thôn trưởng một lát rồi về ngay.”

Ta thay giày khô cho tiểu thư, dâng trà cho phu nhân và ma ma, rồi nhân lúc trong sân rộn rã, lén lút trốn ra ngoài.

Gió đã ngừng, tuyết lại rơi dày hơn, từng đám tụ lại, tan ra nơi lồng n.g.ự.c ta. Trong lòng ta, chẳng có gì nhiều — chỉ có ngôi làng nhỏ Bình Sơn này, và mấy người ấy.

Ta trông thấy một bóng người xa xa giữa tuyết trắng, cánh đồng vàng úa đã bị phủ trắng, khung cảnh giống hệt ngày ta mới đến Đông Bắc năm ngoái. Chỉ là, thiếu niên gầy gò khi ấy đã lột bỏ vẻ yếu đuối, nay cao ráo rắn rỏi như cây bạch dương.

Đến khi người mặc áo choàng nâu đứng trước mặt ta, khẽ nói:

“Tiểu Vũ, nàng ra đón ta sao?”

Ta khẽ gật đầu:

“Ừ, mau đi thôi, trong nồi đang hầm canh, hôm nay nhiều người, về muộn thì chẳng còn phần đâu.”

Ta quay đầu bước đi, mới đi được mấy bước đã không thấy hắn theo sau, ngoảnh lại nhìn, hắn vẫn đứng yên chỗ cũ.

“Sao không đi nữa?”

“Đi không nổi.”

“Gì cơ?”

“Ta mệt rồi, tay lạnh, chân cũng lạnh, đi không nổi nữa.”

Ta bất lực, thật sự bất lực. Ta quay lại, nắm tay hắn, dắt hắn từng bước trở về. Hắn kể cho ta nghe những chuyện vụn vặt ở Ninh An thành, còn ta thì chỉ muốn thu hồi suy nghĩ vừa rồi:

— Khỉ thật! Cái gì mà lột bỏ yếu đuối, vẫn là người yếu ớt nhất Bình Sơn thôn!

Lập Đông.

Lão gia nói đây là ngày tốt, trời đất cất giấu vạn vật, đất đai dần đóng băng để chờ một mùa sống mới.

Quả là ngày tốt thật. Bình Sơn thôn thời điểm này chẳng còn mấy việc đồng áng, nhưng cũng chưa lạnh đến mức phải co ro trú đông. Dân làng không nói ra lời cảm tạ, nhưng ai nấy đều bận rộn chuẩn bị cho hôn lễ của ta và thiếu gia — lễ cưới tưng bừng nhất làng.

Từ mấy hôm trước, nhà nhà trong thôn dần gửi đến những tấm lòng đầy đặn nhất. Thôn bắt đầu mổ heo g.i.ế.c dê — heo là của nhà thôn trưởng, dê là phủ Tướng quân gửi tới, gà vịt cá tôm đều là các nhà mang sang.

Những nhà thúc bá lân cận cũng đã sớm dọn dẹp phòng ốc, chờ đón khách từ thành tới. Mành đỏ treo ngoài cửa, phòng thiếu gia đổi sang chăn đỏ, tường dán chữ Hỷ cùng hoa văn cắt giấy tinh xảo — đó là tác phẩm của Thanh Thanh và tiểu thư.

Người trong làng bận rộn giữa gió lạnh và bông tuyết, náo nhiệt chẳng kém gì Tết.

Tất cả những náo nhiệt ấy là vì ta — mà cũng không hẳn. Vì từ hôm trước đã không ai cho ta làm gì nữa. Mỗi lần ta vừa định động tay là liền bị ngăn lại, thậm chí bị mắng “vướng tay vướng chân”, đuổi vào nhà.

Chiều hôm trước ngày thành thân, thiếu gia phải về thành Ninh An, bởi hắn là "nhập tế", đến ngày chính lễ phải do tổ phụ và cữu phụ tới rước về.

Trước khi đi, hắn tìm thấy ta đang ôm Tiểu Hoàng nằm phơi nắng chỗ khuất gió, nhàm chán đến độ suýt ngủ gật, hắn kéo tay ta:

“Nàng còn thấy ta là bình hoa chỉ để ngắm nữa không?”

“Không, thiếu gia anh tuấn tài trí, thiên hạ vô song.” — Ta không suy nghĩ liền buột miệng, lời nói dối đã thành phản xạ.

Hắn nhướn mày, đắc ý:

“Ngày mai thành thân, ta sẽ tặng nàng một cái bình hoa thật, để nàng ngày nào cũng ngắm.”

Ta nói:

“Bình hoa gì cũng không đẹp bằng thiếu gia, ngày nào ta cũng nhìn thiếu gia là đủ rồi, khỏi cần tốn kém.”

Thiếu gia:

“Hừ!”

Tiếng Triệu Nhị Thiết gọi hắn vọng đến, hắn bước ra ngoài, rồi lại quay lại, đứng trước mặt ta hỏi:

“Tiểu Vũ, nàng… vui không?”

Nắng đông luôn dễ lừa người, chỉ cần không để ý liền khiến người ta ngái ngủ. Ta cố mở đôi mắt híp lại vì nắng, nhìn hắn, mỉm cười đáp:

“Ừ. Vui.”

31

Sáng sớm, bị tiếng pháo rền vang đánh thức, hôm nay dường như mọi người đều dậy sớm hơn ta. Người đứng bên giường giục ta dậy lại là tiểu thư — thật là hiếm thấy. Nhìn cảnh trong ngoài nhốn nháo bận rộn, ta hợp tình hợp lý hoài nghi: bọn họ hẳn là đêm qua chưa từng ngủ.

Ta vội vàng thu dọn chăn đệm, ma ma bày bàn trên giường, định rửa mặt chải đầu cho ta. Tổ mẫu bảo đợi một lát, rồi đích thân bưng đến một bát mì, trong lòng mì chần hai quả trứng gà, mắt ngấn lệ, dặn ta ăn no, hôm nay phải ra dáng một chút, đừng làm bà mất mặt.
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 27


Dưới ánh nhìn của mọi người, ta ăn xong bát mì, rửa mặt, bị ma ma ấn ngồi xuống giường, nước nóng đã chuẩn bị sẵn, bà dùng một chiếc khăn mới đắp lên mặt ta, rồi rút ra sợi chỉ trắng bắt đầu tỉa lông mặt — đau đến mức nước mắt ta cũng muốn trào ra. Thanh Thanh bóc trứng gà nóng, lăn qua lăn lại lên má ta để dịu đau.

Trong phòng chật ních người hiếu kỳ, có lẽ là chưa từng chứng kiến cảnh này bao giờ, ngay cả những thẩm thẩm, thúc thúc đang nấu cơm, nhặt rau, làm việc vặt cũng chen đến cửa xem. Để tránh đến trưa không ai được ăn cơm, thôn trưởng hạ lệnh đuổi người ra ngoài, còn phái “Minh gia quân” gồm tiểu thư, Thanh Thanh, A Bố và Tiểu Hải đứng gác ngoài cửa.

Sau đó là phu nhân cùng ma ma thay nhau trang điểm cho ta, động tác vừa nhẹ nhàng vừa mau lẹ. Cuối cùng, phu nhân gọi tổ mẫu vào. Tổ mẫu chải tóc cho ta, mỗi nhát chải lại niệm một câu:

“Một chải, Bạch Hạc thần phù hộ con.

Hai chải, thân thể an khang trường thọ.

Ba chải, phu thê đầu bạc răng long.

Bốn chải đến cuối, từ nay muôn sự thuận hòa.”

Cô cô bên cạnh nghe liền khóc, tổ mẫu cũng nghẹn ngào, ta cũng thấy sống mũi cay cay, nhưng không dám rơi lệ, sợ làm lem son phấn mà phu nhân nhọc công chuẩn bị.

Ma ma vội trêu ghẹo xoa dịu bầu không khí:

“Mấy người chớ có khóc nữa, hôm nay là ngày họ Đinh rước rể, người nên khóc là phu nhân nhà chúng ta.”

Phu nhân "phụt" một tiếng bật cười:

“Há chẳng phải thế sao? Ôi con ta, từ nay thành người nhà họ Đinh rồi…”

Nói đoạn còn làm bộ lấy tay áo lau nước mắt. Cô cô và tổ mẫu bị dọa đến mức vội vàng dỗ dành bà, chẳng dám khóc nữa.

Ta nhìn thấy cảnh ấy, nghĩ bụng: sau này chỉ nửa ma ma thôi cũng đủ trị được cả nhà họ Đinh thật thà này rồi.

Tổ phụ sai Thanh Thanh vào giục ta thay y phục, bảo thời khắc cát tường rước rể sắp đến. Y phục tân nương là do phu nhân cùng ma ma cắt may từng đường kim mũi chỉ, phu nhân có chút áy náy nói: không mua được vải tốt, hai người tất bật nửa năm, cũng chỉ làm được đến thế.

Trên vạt áo là hoa văn cổ vật thêu kết tỉ mỉ: mẫu đơn, sen, mai, cúc, đào, lựu, trăm hoa đua nở. Áo trên là gấm đỏ, thêu cánh bướm và hoa mẫu đơn xanh lam chuyển sắc, vạt dưới là họa tiết sóng nước, trên sóng lại thêu thêm mẫu đơn. Váy dưới gần như thêu kín, hoa lam bướm vàng sống động như thật.

Hôm qua mở ra, cả thôn không phân biệt già trẻ nam nữ đều nín thở, mắt sáng rực — bị hoa lệ làm cho lóa mắt.

Ta từ chính phòng đi sang tân phòng bên phải, vốn là gian phòng tổ phụ và tổ mẫu chuẩn bị cho ta, sau nhường lại cho thiếu gia ở, nay lại trở thành tân phòng của chính ta.

Giữa sân, người người đang bận rộn cũng đồng loạt ngừng tay, ánh mắt kinh ngạc nhìn về phía ta. Ta vội vàng bước vào tân phòng.

Tiểu thư nâng đến một chiếc mũ phượng làm thủ công tinh xảo, như dâng báu vật:

“Tỷ tỷ, đây là lễ vật thành thân của muội và Thanh Thanh tặng tỷ!”

Phu nhân nhận lấy đội lên đầu ta, ma ma mỉm cười mãn nguyện:

“Áo cưới có thể may, nhưng đầu mũ thì khó sắm, đây là tiểu thư và Thanh Thanh — hai tiểu tinh linh dùng đồng mảnh quấn hoa khô mùa hè, thêm vỏ bắp để làm thành mũ đội đầu theo kiểu điểm thúy.”

Tiểu thư đắc ý ôm vai Thanh Thanh:

“Ý tưởng là của muội đấy! Nhưng phần lớn là công của Thanh Thanh!”

Phu nhân giúp ta chỉnh lại mũ, quay sang gõ nhẹ mũi tiểu thư, cười nói:

“Hai nha đầu thật khéo tay, nhưng từ nay A Miên không được gọi tỷ là tỷ nữa, phải gọi là tẩu tẩu rồi.”

A Bố ló đầu vào từ ngoài cửa:

“Phu nhân, Đinh gia gia nói giờ lành sắp tới rồi, ngoại trừ Đông Vũ tỷ, mọi người ra ngoài cả đi.”

Chớp mắt, trong phòng chỉ còn lại một mình ta. Ta ngồi lặng yên, muốn nhìn xem hiện giờ bản thân ra sao, nhưng trong nhà không có gương.

Ta cẩn thận bước đến giường mang giày, nhấc váy lên, tuyệt đối không thể làm bẩn tâm huyết của phu nhân và ma ma. Đến bên chậu nước, thấy bóng mình phản chiếu trên mặt nước, ngoài đôi mắt to và đôi môi đỏ, những thứ khác đều mờ ảo, cứ như một giấc mộng không thực.

Trước nay chưa từng nghĩ sẽ mặc trang phục hoa lệ thế này — chẳng thích hợp để xuống ruộng nhổ cỏ, càng chẳng hợp lên núi hái nấm. Cũng như khi cứu thiếu gia và tiểu thư, ta chỉ là một phút bốc đồng, nào từng thực lòng muốn hắn trở thành rể vào cửa.

Bên ngoài ồn ào náo nhiệt, trong phòng chỉ còn tiếng hít thở của chính mình. Không khí này khiến ta thấy bất an.

Quả nhiên, người một khi nhàn rỗi, liền bắt đầu hồi tưởng, rồi suy nghĩ. Mà suy nghĩ, sẽ dẫn đến hoài nghi — điều này khiến lòng ta nôn nao, thấp thỏm.

Không biết bao lâu sau, cô cô vào đưa cho ta một quả trứng gà:

“Tiểu Vũ, đừng lo, chờ thêm chút nữa.”

Thì ra đã gần đến giờ lành, nhưng cữu phụ đón rể đứng ở đầu thôn, đi thêm cả một dặm mà chẳng thấy người tới.

Tổ phụ và thôn trưởng trấn an mọi người, có lẽ đêm qua nổi gió, tuyết rơi lớn, đường khó đi.

Lại qua nửa canh giờ, một cỗ xe ngựa vội vàng tới nơi, người trong thôn lại xôn xao, pháo nổ vang dội. Nhưng từ trong xe bước xuống lại là lão gia — người vốn không được rời khỏi thành.

Sắc mặt ông tiều tụy, nói năng lắp bắp, không đáp nổi câu hỏi thiếu gia đâu. Mãi đến khi nhìn thấy phu nhân, nước mắt ông tuôn rơi:

“Phu nhân! Minh ca… Minh ca cái đứa nghiệt tử ấy, nó… nó đi vào phủ tướng quân làm rể ở rể của biểu tiểu thư rồi! Nó sai ta đến… hủy hôn với nhà họ Đinh!”

Minh ca, tiểu thư họ Lâm, nhà họ Đinh, từ hôn.

Người người ngỡ ngàng, kinh hãi, giận dữ. Còn ta, đứng bên cửa tân phòng nghe câu đó, chỉ cảm thấy lão gia đang nói đùa.

Cho đến khi phu nhân nhìn chằm chằm ông hỏi:

“Là thật sao?”
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 28


Lão gia gắng gượng, run rẩy gật đầu. Phu nhân trầm mặc quay người, rồi bỗng ngã lăn xuống đất, đầu đập vào khúc gỗ bên cạnh, ngất lịm đi.

Tiểu thư bật khóc thất thanh.

Tổ phụ và tổ mẫu chưa kịp nghĩ gì, vội vàng sai ma ma, cô cô và các thẩm thẩm khiêng phu nhân lên giường.

Phu nhân tỉnh lại khi trời đã xế chiều, ngày đông trời tối sớm. Sân viện từng náo nhiệt giờ trống rỗng. Ngay cả lão gia cũng vì quy định của triều đình mà vội vã quay về Ninh An thành, chỉ để lại sáu trăm lượng ngân phiếu.

Sáu trăm lượng — chính là số bạc ta từng dùng để mua thiếu gia và tiểu thư từ Anh thúc.

Giờ thì tốt rồi.

Hắn thật sự đã học được làm một người buôn giỏi. Không thiếu một xu.

32

Gió bên ngoài cửa sổ gào thét mỗi lúc một lớn, chỉ trong một buổi chiều, tuyết đã phủ trắng sân và mái nhà, song cũng không thể lấp đi tin tức khiến người ta đau lòng mà lão gia mang tới.

Ta cởi bộ hỷ phục, gấp lại ngay ngắn, đặt mũ phượng sang một bên.

Cuối cùng Phu nhân cũng hồi thần, ma ma đỡ bà ngồi dậy. Ta đem những lời lão gia nói thuật lại:

Nhà mẹ đẻ của phu nhân tướng quân là họ Lâm – vọng tộc đất Sơn Đông, tổ tiên từng có danh tướng trấn thủ biên cương, cũng có người từng làm tể tướng vào triều. Nhưng đến đời này, chi thứ hai của nhà họ Lâm con cháu thưa thớt. Tổ phụ của Lâm tiểu thư đột ngột bạo bệnh qua đời, cả chi thứ hai chỉ còn phu nhân tướng quân và Lâm tiểu thư. Trong tộc ép phụ thân nàng phải nhận con nuôi từ chi khác, nhưng ông thề sống c.h.ế.t không chịu. Tức tốc gửi thư tới phủ tướng quân, yêu cầu Lâm tiểu thư lập tức trở về Tế Nam, gả cho người đã định sẵn — một người nổi danh là du côn vô lại tại đất Tế Nam, chưa thành thân mà đã có hai đứa con riêng.

Tướng quân lần đầu gặp thiếu gia đã cảm thấy tâm đầu ý hợp, sau này thiếu gia thường lui tới phủ lại càng được toàn phủ quý mến. Những chuyện làm ăn ở thành như quán ăn, cửa hàng nếu không có tướng quân âm thầm nâng đỡ, e rằng cũng chẳng thuận lợi đến vậy. Lão gia nhà họ Ngô cũng nhờ thế mà được miễn không phải đi khai thác gỗ, đào mỏ hay làm phu sửa đường.

Tướng quân thương phu nhân của mình, không đành nhìn nàng vì chuyện của muội muội mà lo lắng đau buồn, bèn có ý nhờ thiếu gia giúp một tay.

Gọi là "nhập trướng", nhưng thực ra chỉ là trở về Tế Nam che mắt thiên hạ, sau này muốn vào kinh hay quay lại Ninh An đều có thể, thậm chí sẽ được lập phủ riêng mang tên Ngô phủ, trên danh nghĩa cũng chẳng tính là con rể nhà họ Lâm.

Tất cả đều có lý, thuận nước đẩy thuyền. Thiếu gia dường như không có lý do để từ chối.

Trong chuyện này, người tức giận nhất lại là phu nhân. Khi cả phủ bị tịch biên, bà vẫn trấn định phái người giải tán gia nhân; khi quyết định đến Ninh Cổ Tháp, bà ung dung thong dong; khi đứng mũi chịu sào trụ quán ăn, bà lạc quan bình thản.

Một người từng có thể đùa giỡn khi con trai bị một tiểu nha đầu mua về làm rể, vậy mà nay, nghe nói con mình sắp "nhập trướng" vào nhà quyền quý, liền tức giận đến mức ngất xỉu.

Tổ phụ và tổ mẫu nhìn gương mặt tái nhợt của phu nhân, đôi mắt đỏ hoe, lại thấy tiểu thư như bông hoa héo rũ, chẳng thể nói nên lời trách mắng nào. Phu nhân gắng sức ngồi dậy, ra lệnh cho ma ma chuẩn bị hành lý, muốn đưa tiểu thư rời đi. Bà đau xót mà chân thành nói:

“Nhi tử ta trèo cao quyền quý, chẳng màng mặt mũi cha mẹ, càng là vong ân bội nghĩa. Chúng ta không còn mặt mũi ở lại hút m.á.u nhà họ Đinh nữa. Nay phải rời đi.”

Ma ma dù không nỡ, nhưng vẫn đỡ bà đứng dậy. Tiểu thư như mất hồn mà theo đỡ lấy bà.

Tổ mẫu liền ôm lấy tiểu thư kéo về bên tổ phụ, rồi ngăn ma ma lại, ép phu nhân nằm xuống:

“Con định làm gì đây?”

Phu nhân nước mắt rơi lộp bộp như chuỗi ngọc, từng giọt rơi lên tay tổ mẫu, định mở miệng thì bị tổ mẫu ngăn lại:

“Con đừng nói nữa, chuyện này đối với các người là đại sự, nhưng ở chỗ chúng ta, không đáng gì cả. Con đừng khóc nữa.”

Tổ phụ cũng kéo tiểu thư tới mép giường, khuyên nhủ:

“Cô cô cô trượng, ta và bà già nhà ta đã bàn rồi, mỗi người có số mệnh riêng. Minh ca nhi vốn là thiếu gia lớn lên ở kinh thành, có tiền đồ rộng mở, chúng ta cũng không thể trói buộc người ta ở lại đây. Biết đâu nhờ có tướng quân phủ giúp đỡ, lão gia nhà con sớm được về kinh, con và A Miên cũng sớm hưởng phúc.”

Phu nhân lau nước mắt, lắp bắp:

“Nhưng mà…”

Tổ mẫu cắt lời:

“Nhưng cái gì chứ? Người đến người đi, ngày tháng vẫn phải sống tiếp. Mẹ Đông Vũ cũng bỏ đi rồi, chẳng phải con bé vẫn lớn lên nguyên lành đó sao? Giờ rể của Đông Vũ bỏ đi, lẽ nào nó không sống được nữa?”

Cuối cùng Phu nhân cũng lau khô lệ, nắm tay ta, giọng dứt khoát trở lại:

“Từ nay, Cao Nguyên Ỷ ta, không có con trai, chỉ có hai nữ nhi — Đông Vũ và A Miên.”

Ta thở dài một hơi, như muốn trút hết mọi lời ra ngoài, nhưng rốt cuộc chẳng nói gì, chỉ nhẹ nhàng buông một chữ:

“Được.”

Tổ phụ và tổ mẫu có lẽ còn muốn nói, ta xua tay:

“Đồ chuẩn bị cho hôn lễ, nhờ mấy người chia cho từng nhà, đều là của ngon, đừng để lãng phí.”

Ta xách thùng canh dê trống không đi ra trước Thần Bạch Hạc, đất trời tuyết trắng, thuần khiết như chưa từng nhuốm bụi trần.

Đầu ta như tỉnh táo hơn, nhưng trong lòng lại sinh ra nhiều hoài nghi. Trước kia, ta không phải người dễ nghi ngờ.

Luôn cảm thấy phủ tướng quân đường đường chính chính, không đến mức lấy thế ép người. Luôn cảm thấy thiếu gia mắt cười cong cong, dù có xấu xa cũng chỉ là lười biếng, ăn gian để được ta đút khoai lang nóng.

Luôn cảm thấy lời của lão gia hôm nay như một trận gió thổi sai hướng.

Ta quyết định tự mình đến thành hỏi cho rõ. Đặt thùng dưới chân tượng Thần Bạch Hạc, ta nói:

“Ta muốn vào thành hỏi cho minh bạch, nếu người phản đối thì lên tiếng đi.”

Cây thần khẽ lay mấy nhánh, nhưng không nói gì. Vậy là người ủng hộ ta rồi.

Trên nguyên dã chẳng còn một mảng xanh, trời tối đen như mực đè nặng xuống. Tuyết lẫn cát đá sắc nhọn rát vào mặt mày, ta từng bước từng bước tiến về phía trước.

Bất ngờ sau lưng có tiếng “gâu gâu” vang lên, một bóng nhỏ chạy tới — là Tiểu Hoàng. Trên người nó còn mặc chiếc áo hoa nhỏ, là tổ mẫu làm cho nó mặc mừng cưới.

Ta bế lấy Tiểu Hoàng, bước về phía thành Ninh An. Không dám khóc, sợ nước mắt rơi ra sẽ đóng băng.
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 29


Không biết đã đi bao lâu, ta dường như thấy thành Ninh An. Tại sao muộn thế mà cổng thành chưa đóng? Nhiều người từ trong thành đi ra, như một đoàn rước dâu, sau còn có quan binh hộ tống.

Khi ta mở mắt, đã thấy mình nằm trong phòng ở Xuân Hàn Trai. Mở mắt ra là ánh mắt như nhìn kẻ ngốc của Anh thúc, còn Tiểu Hoàn thì nhảy cẫng lên r*n r*.

Triệu Nhị Thiết bưng một bát thuốc bước vào, thấy ta tỉnh thì thở phào:

“Ngươi đúng là đồ ngốc! Tỉnh rồi thì tốt, tự uống thuốc đi. Trời thế này, nửa đêm nửa hôm ngươi còn lặn lội mà đến.”

Hắn nói sau khi thiếu gia vào phủ tướng quân thì không về lại nữa. Hắn bị giữ ở quán. Đêm qua nghe tiếng chó quen thuộc, lại thấy cửa bị cào, mở ra thì thấy Tiểu Hoàng và ta ngất ngay ngoài cửa. Hắn liền đi tìm người quen nhất trong thành — Anh thúc.

Anh thúc gọi đại phu, ép ta uống hai bát thuốc, còn nấu cho Tiểu Hoàng bát canh trứng gà. Rồi thức canh ta cả đêm, còn Triệu Nhị Thiết thì canh thuốc.

Sau khi xác nhận lại tin lão gia mang đến là thật, Anh thúc lại trở về vẻ lười biếng, ngồi tựa vào ghế, nâng bình trà, phát hiện hết nước thì đặt xuống, không rõ là cảm khái hay mỉa mai, nói:

“Ta đã bảo mà, nồi nào úp vung nấy. Giờ thì người tiền mất cả hai rồi.”

Triệu Nhị Thiết thì ấp úng:

“Đông Vũ, ngươi đừng buồn, Minh ca chắc có nỗi khổ tâm.”

Anh thúc cười nhạt:

“Nỗi khổ gì? Ngươi có thể lấy ân tình ra ép người, người khác cũng thế thôi. Kẻ làm lớn, lòng dạ thường bạc. Cúi mình một cái mà vực dậy được Ngô gia, nghe nói Lâm gia ở Tế Nam giàu đếm không xuể, tướng quân phủ còn cử nửa quân đi theo tân nương, thế nào cũng giữ được tài sản cho chi thứ hai.”

Ta không buồn nghe hai người lắm lời, sau khi xác nhận thật giả, trong lòng ngược lại cảm thấy nhẹ nhõm. Uống hết bát thuốc, ta gọi:

“Anh thúc.”

Ông “ừ” một tiếng, còn chưa hiểu chuyện gì, ta mỉm cười:

“Sơn hàng là do Ngô Tiêu Minh lập ra trước khi nhập trướng phủ tướng quân. Khi ấy hắn còn là con cháu phạm quan, không được kinh thương, tức là làm việc lặt vặt cho nhà ta. Nay hắn đi rồi, cửa hàng này nên thuộc về ta. Ấn tín, sổ sách, giao cho ta đi.”

Anh thúc không bất ngờ, chỉ đứng dậy, vỗ mặt Triệu Nhị Thiết:

“Thấy chưa? Con nha đầu lạnh lùng này, ngươi còn thương xót nó, lo xem có bị đuổi việc không.”

Ông phủi áo, nói:

“Con đường là ta khai, tiệm là của ta, người làm cũng là ta chọn.”

“Ba thành lợi nhuận.” — ta nói.

“Tối qua ta đi mặt dày mời đại phu, còn canh chừng ngươi suốt đêm.”

“Bốn thành!”

“Ngươi chưa làm hàng khô bao giờ, lại không rành giao thương…”

“Năm thành!”

“…Thành giao!”

Lão già gian xảo lập tức nhấc chân rời đi. Ta gọi lại:

“Khoan đã, Anh thúc, ta cho ông sáu thành!”

Ta lồm cồm bò dậy, quỳ thẳng xuống, khiến ông giật mình lui lại, suýt vấp cửa.

Ta nghiêm túc:

“Ông phải dạy ta quy củ buôn bán, truyền ta bí quyết. Không dạy không được. Một ngày làm thầy, cả đời làm cha. Ông dạy ta, ta nuôi ông đến trọn đời.”

Mặt ông biến sắc, thu tay lại, xoay xoay bình trà rỗng, đi đến ngồi xuống mép giường, nhìn ta chằm chằm:

“Con nha đầu c.h.ế.t tiệt kia, còn quỳ đó làm gì? Mau đi nấu nước, rót cho ta ly trà nhận con gái đi!”

Chờ đến khi ta gọi ông là “nghĩa phụ”, dập đầu kính trà, ông uống xong một hơi, Triệu Nhị Thiết đứng ngẩn ra bên cạnh:

“Anh thúc, ông nhận Đông Vũ, còn dạy buôn bán, thì sáu thành lời này chẳng phải trắng tay sao? Mai kia nàng ta dưỡng lão cho ông, tiền của ông cũng thành tiền nàng ta hết còn gì!”

“Này! Triệu Nhị Thiết! Vừa rồi sao không nhắc ta hả!”

33

Mùa đông năm nay không còn bi thương hoảng hốt như năm trước, cũng chẳng còn náo nhiệt như năm trước. Gió tuyết hoành hành vẫn giống hệt những năm đã qua. Việc buôn bán của tiệm cũng chỉ cầm cự đến cuối tháng mười, khách ra vào thưa dần, tiệm xem như đóng cửa nghỉ, chỉ ba ngày mở cửa một lần bán đậu phụ.

Ta ở trong hàng sơn vật của Anh thúc — hiện nay cũng là hàng sơn vật của ta — theo chân ông học nhìn bản đồ, nghe ông giảng giải phong tục nhân tình của mười tám tỉnh nội địa, học phân loại hàng hóa, tùy theo nơi chốn mà điều phối vào ra, học cách đặt nhãn bắt mắt cho món hàng, học cách quan sát nhu cầu của người khác.

Thiên tự văn ta đã học xong từ lâu. Anh thúc đưa cho ta vài quyển du ký và thương kinh, bảo rằng:

“Làm buôn bán, đọc sách nhiều là chuyện tốt, trong sách cái gì cũng có.”

Ta chưa thấy mình có thiên phú làm ăn gì rõ rệt, nhưng khi đọc đến du ký lại như đắm chìm vào từng câu từng chữ miêu tả non sông gấm vóc. Hóa ra ngoài đại giang đại hà còn có biển cả; hóa ra không phải núi nào cũng một đêm tiêu điều, mà có nơi xanh biếc bốn mùa; hóa ra ngư miền chi hương thật sự sung túc, trung nguyên quả thật hùng vĩ. Hóa ra thế giới bên ngoài rộng lớn đến vậy, mà nơi ta sống lại quá đỗi hẻo lánh.

Trước khi về làng ăn Tết, ta mang y phục, hài mới, bạc lẻ và thịt khô đến gửi cho lão gia. Nhân tiện mời Anh thúc về quê đón xuân, cũng tiện xin thêm mấy quyển sách; về quê rồi ta lại tìm A Miên mượn sách, thứ ta thích nhất vẫn là du ký và sử thư.

Dường như ta đã mở ra một cánh cửa kỳ diệu — du ký dẫn ta du ngoạn sơn hà, sử thư thay ta giải đáp nghi hoặc.

Cả mùa đông ta vùi đầu trong sách, như lạc vào một thế giới mới. Có vẻ như ta đã tìm được một thứ còn khiến ta vui hơn trồng trọt nấu cơm. Ta suốt ngày ru rú trong phòng, chẳng muốn bước ra ngoài.

Người nhà lo lắng, tổ mẫu và cô cô cứ viện đủ cớ ghé vào phòng ta dăm ba vòng; tổ phụ cũng thỉnh thoảng đến nhờ ta giúp tay; “Minh gia quân” mượn cớ đại phòng chật chội mà chạy sang phòng ta chơi, thực ra là để ở bên cạnh ta. Anh thúc cũng thường ghé tới, châm chọc vài câu rồi sai ta đi làm việc; còn phu nhân và ma ma thì lặng lẽ dán lại tờ giấy cửa sổ bên giường, thấy ta đêm chưa ngủ còn thay tim đèn thật dài...

Tất cả những điều ấy ta đều biết. Nhưng ta không muốn rời mắt khỏi sách. Bởi ta biết, xuân vừa tới, lại phải cuốn vào bộn bề cuộc sống.

Lần đầu tiên trong đời, ta chỉ muốn quan tâm đến bản thân mình, để cái "ta" trong lòng được phóng đại ra không chút gò bó.
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 30


Thôn làng vẫn yên lặng trong đông giá, chỉ đôi lúc vang lên tiếng cười nói của khách sang chơi. Phu nhân và ma ma đã quan sát thật lâu, nhận ra những người đàn bà lắm lời trong làng, chưa ai dám lấy chuyện thiếu gia nhà họ Ngô thoái hôn ra làm trò giễu cợt, lúc ấy mới an tâm phần nào.

Chẳng có mùa xuân nào là không đến. Mà mùa xuân năm nay đến một cách sớm sủa lạ lùng. Chậu hàn lan đã trổ thêm hai cành, ta nâng niu nhành hoa thơm ngát, cùng cả nhà chỉnh tề trở lại thành, mở cửa buôn bán.

Cây cối bên đường vẫn khẳng khiu chưa nảy lộc, nhưng gió đã ngưng, sẻ đầy cành.

Ngày tháng êm đềm trôi theo nếp cũ.

Ta theo Anh thúc lo việc hàng hóa, theo phu nhân học tính sổ quản lý; nghe tiểu thư đọc to những đoạn kinh sử thi thư nàng không hiểu; đôi khi gặp tiên sinh đến tiệm ăn cơm, họ cũng không chấp lễ mà giảng giải cho ta đôi câu.

Chờ trời tan băng, ta lại về quê lo xuân canh, thu rau xuân, thu xếp đoàn thương buôn từ phương Nam trở lại; ghé nhà Thu cô cô trong làng, báo cho nhà cô cô năm nay nên làm loại đồ từ vỏ cây bạch dương nào dễ bán hơn. Bảo cô cô đừng chỉ thu nhận trẻ trong làng mình, nếu làng bên có đứa trẻ ngoan, chịu học, cũng nên thu về dạy nghề — biết đâu lại có thêm một đứa như Thanh Thanh thì sao?

Mùa hạ ngắn ngủi sắp qua, trời trong khí sạch, ta cưỡi ngựa về làng.

Đúng rồi, ta cũng biết cưỡi ngựa rồi — là Anh thúc tìm phu nhân một viên võ tướng trong thành đến dạy ta, còn tặng ta một con ngựa nhỏ lông đỏ tía nhân dịp năm mới.

Sớm biết ông ấy thương yêu như vậy, khi ở kinh thành ta đã quỳ xuống gọi ông là “cha”.

Gió xuân thổi mơn man, tâm tình cũng thư sướng. Nghe nói mùa đông phương Nam năm rồi không có tuyết, tuy chưa biết hạt dẻ có được mùa hay không, nhưng dưa muối, rau khô chắc chắn sẽ bán được giá.

Vừa tính toán số bạc kiếm được đầu năm, ta vừa suy nghĩ phải xây một gian nhà làm học đường cho bọn trẻ trong làng. Trẻ con trong làng không nhiều, độ hơn hai mươi đứa, thay vì để chúng cả mùa đông chơi tới mức răng va vào nhau, chi bằng gom lại dạy đọc, học vài chữ cũng nên.

Vì ta biết rõ — chữ và sách, thực là những điều quý giá.

Mọi người đều bảo ta thay đổi rồi. Trong thành cũng có người truyền rằng chủ nhân Xuân Hàn Sơn Hành là một nữ lang lợi hại.

Trước kia ta còn có thời gian để nghe họ nói đông nói tây, nhưng nay, thời gian của ta đã chẳng còn dư dả. Mỗi ngày bận rộn xong, chỉ mong dành chút giờ đọc sách, vì nghi hoặc trong lòng ta ngày một nhiều, mà trong sách, thực sự có thứ có thể hóa giải cho ta.

Phu nhân và lão gia như muốn bù đắp, đã nhờ người khắp thành tìm giúp ta những quyển sách vừa tầm để ta có thể hiểu; tiểu thư cũng dường như trưởng thành trầm tĩnh hơn, có lúc chủ động đến trò chuyện với ta, là thật lòng đối thoại chứ không còn mè nheo nũng nịu nữa. Nhìn nàng lớn thêm một tuổi, nghe lão gia bảo nàng năm nay học nghiệp nặng hơn, mà nàng cũng rất nỗ lực.

Một hôm có phụ nhân lắm lời ngồi trong tiệm cười khẩy hỏi phu nhân:

“Tiểu cô nương nhà này học hành chi lắm? Không thể thi khoa cử, không thể vào triều, lẽ nào muốn bắt chước vở hát, thành nữ trạng nguyên?”

Phu nhân vừa gảy bàn toán vừa đáp:

“Nữ nhi của ta sao lại không thể làm trạng nguyên? Nếu không làm được, ấy là do cha nó liên lụy. Nếu có lỗi, thì cũng là thế đạo bất công không xứng với nó.”

Phụ nhân kia bật cười khinh bỉ:

“Thế còn đứa lớn kia? Nghe nói con dâu của ngươi? Một nữ tử ra ngoài làm ăn đã là chuyện lạ, đằng này cả mùa đông không thấy mặt, giờ thành mọt sách, suốt ngày ôm sách vờ vịt. Một nhà toàn quái nhân…”

Lời còn chưa dứt, cô cô vừa có thai bụng mới lộ đã xông tới túm tóc mắng:

“Ngươi là đầu lọ tương chuyển kiếp chắc? Mở miệng ra là thối! Con gái nhà ta thông minh, biết chữ biết sách, ngươi ghen ghét à? Ghen tới sắp mọc lẹo mắt rồi đúng không? Rảnh thế thì về dạy thằng con đầu lọ tương của ngươi đi, ba xu hai bát đậu hoa cũng tính không ra, ngu đến mức óc còn nước sền sệt!”

Phụ nhân kia gào lên cầu xin tha, trong lúc giằng co còn đánh trúng cô cô.

Ma ma vội vào bếp gọi tổ mẫu. Tổ mẫu tay cầm chảo lớn nhập trận, cuối cùng, cuộc đại chiến này kết thúc bằng việc cô cô trúng vài cú đ.ấ.m như rùa đập mai, nhưng cũng nhổ được một mớ tóc của mụ kia. Tổ mẫu không hề hấn gì, chảo đánh hơn chục cái, trừ hai cú đánh nhầm cô cô, còn lại đều trúng phụ nhân lắm mồm nọ. Phu nhân còn đưa ra hai lượng bạc vụn để an ủi quan binh tới can ngăn.

Nghe A Bố kể lại như vẽ tranh sinh động, ta và tiểu thư cười nghiêng ngả, chỉ tiếc số bạc phải bỏ ra.

Hừ, không phải ta thay đổi, là ba người họ hộ con như mạng mà thôi!

34

Xuân khứ thu lai, vẫn là những ngày tháng bận rộn như xưa, chỉ là lần này, lòng dạ và túi bạc đều đầy đặn hơn trước.

Ta cùng Anh thúc kiểm kê đám hàng sơn vật mà Lý Nhị Thiết thu gom từ các thôn làng ngoài thành, vừa làm vừa trò chuyện về sự việc đang làm chấn động khắp thành:

Triều đình trong mùa hạ đã đại quét Bắc La bộ, c.h.é.m đầu thủ lĩnh cốt cán người Cáp Tát Khắc, thu phục Mạc Nhĩ Triệt — vốn là bộ lạc bất hòa lâu năm, đuổi tàn quân ra tận vùng hoang nguyên Tây Bá Lợi Á.". Nhân đó, thu hồi toàn bộ bình nguyên Y Nhĩ Hà và vùng sông Ô Lạp.

Cuộc chiến này do Trang đại tướng quân trực tiếp chỉ huy, nghe đâu hồi triều lãnh thưởng, sắp được phong làm Ngạc Bằng Chương Kinh, thống lĩnh toàn bộ quân, chính và biên phòng Đông Bắc.

Nhị Thiết nói hăng như lửa, m.á.u nóng sục sôi, còn ta thì nghĩ: phen này biên cương yên ổn, không những an cư lạc nghiệp, mà còn có thể vận hàng từ phương Nam lên phía Bắc. Còn đang toan tính, liệu có thể nhân lúc triều đình chưa hạ cấm, đến Mạc Nhĩ Triệt thu mua một lô da thú… chắc chắn có thể kiếm đậm!
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 31


Nửa tháng sau, đại tướng quân hồi kinh, giữa tiếng hoan hô đón rước, ta dường như thấy Lâm tiểu thư. Gần một năm rồi, Ngô thiếu gia chưa từng gửi một bức thư về cho phu nhân và lão gia, chẳng lẽ như phu nhân từng nói — đã đoạn tuyệt hết thảy?

Tin tức mới theo chân tướng quân lan khắp phố phường, khách trong Xuân Hàn trai bàn tán sôi nổi.

Trận chiến kéo dài gần nửa năm, đại thắng thuộc về triều đình, mà quốc khố lại tổn thất chẳng đáng kể. Lâm gia nhị phòng ở Tế Nam, vì vận động hành lang, đã dâng lên gần như toàn bộ gia sản, nhờ vậy được phong làm hoàng thương.

Người phá trận đầu, dùng mưu chí đục thủng phòng tuyến Bắc La, chính là một mưu sĩ trong phủ tướng quân. Về sau, hắn được phong hiệp lĩnh, dẫn quân c.h.é.m đầu thủ lĩnh Cáp Tát Khắc, liên tiếp lập công. Chỉ đến khi hồi kinh tấu công, triều đình mới biết:

Kẻ đó vốn là con trai của tội quan bị lưu đày tới Ninh Cổ Tháp, vì hiếu đạo mới theo gia quyến đến Ninh An thành.

Hoàng thượng cảm kích hắn trung quân ái quốc, anh dũng hiếu đễ.

Lại có người tâu: vụ án năm xưa khiến Ngô Đức Văn chịu tội, kỳ thực là vụ án oan, ông ta thậm chí không phải đồng phạm chính. Từ khi bị lưu đày đến Ninh An thành, trải qua nhiều cục vụ, đều được đánh giá xuất sắc; vào thư viện giảng dạy càng tận tâm tận lực, thường giúp dân đọc sách, viết thư, giải khó, có công khai hóa nơi biên cương.

Hoàng thượng long nhan hân hoan, ban chỉ xá tội, cho phép hồi kinh, phục hồi danh tiết, đồng thời phong làm Quốc tử giám Bác sĩ, hoàn lại gia trạch.

Nghe nói, trong buổi tấu triều, Ngô tiểu tướng trình bày tường tận về phong tục địa lý vùng Đông Bắc, binh pháp khí giới cũng tinh thông, lại am hiểu Mãn, Mông, Nga ngữ, khiến bá quan văn võ đều kính phục. Hoàng thượng có ý lưu lại Bộ Công tôi luyện, định bụng trọng dụng sau này.

Ai nấy tưởng hắn sẽ mừng rỡ, nào ngờ tiểu tướng ấy lại dập đầu tạ ơn, xin được quay về biên địa, lý do là:

“Kinh thành người tài như mây, thần học hành chẳng đến nơi, ngu độn l* m*ng, không dám nhận trọng trách. Ân đức đã phủ đủ lên thân nhân, nay nguyện xin về đất lạnh, sống c.h.ế.t trấn thủ biên cương.”

Hoàng thượng không trách kháng chỉ, ngược lại khen hắn trung thành son sắt, ban phong làm Tổng quản doanh thủy sư phủ tướng quân Ninh Cổ Tháp.

Đám thực khách đang bàn tán náo nhiệt thì có người chợt tỉnh ra, quay sang gọi lớn:

“Chưởng quầy, nhà phu nhân họ Ngô đúng không? Phu tử giảng dạy ở Đinh Hương thư viện kia chẳng phải…”

Phu nhân chẳng ngẩng đầu: “Phải.”

Tức thì ánh mắt mọi người đổ dồn về phía quầy, có người kích động:

“Vậy công tử nhà bà đâu rồi?”

“Đúng đấy! Lâu quá không thấy công tử tuấn tú kia!”

“Có phải vị tổng quản doanh thủy sư mới phong chính là công tử quý phủ chăng?”

“Còn chưởng quầy gì nữa, phải gọi là phu nhân rồi!”

Cô cô liền dập tắt cơn ồn ào, nặng tay đặt khay thức ăn xuống:

“Đừng làm ầm. Minh ca nhi nhà ta ấy à… thân thể yếu ớt, một trăm bước xa không vác nổi đầu kẻ địch, cầm d.a.o thái rau còn run, làm sao làm tướng quân được?”

Ta, Anh thúc, A Miên và Thanh Thanh ngồi bên bàn kế bên uống đậu hoa. A Miên chống cằm, nhìn Anh thúc:

“Anh thúc, huynh ta thật sự biết tiếng Mông và tiếng Nga, nhà ta cũng nói được tiếng Mãn.”

Anh thúc không biến sắc, tiếp tục ăn đậu hoa:

“Thế thì tốt, có khi con được hồi kinh rồi đó.”

A Miên đặt thìa xuống, thở dài, lại quay sang ta:

“Tỷ tỷ, muội hơi lo, lỡ thật sự là huynh muội…”

Anh thúc hiếm khi không cười cợt, chỉ trầm ngâm:

“Ta còn lo cho con con gái ta vừa nuôi chín miệng đây…”

Phu nhân bước tới, đặt tay lên vai ta, nói với A Miên:

“Con không có ca ca nào cả, chỉ có tỷ tỷ này thôi.”

Ta vỗ tay phu nhân, vừa buồn cười vừa cảm động, nói:

“Đừng lo, thuyền đến đầu cầu tự nhiên thẳng!”

Tiếng xì xào chưa kịp lắng xuống, một đội quan sai đi qua Xuân Hàn trai, hướng về Đinh Hương thư viện. Có người nói là quan đại nhân triều đình phái đến truyền chiếu.

Khách trong tiệm như sôi lên, nhất tề bỏ đũa kéo nhau ra cửa, chạy tới thư viện xem náo nhiệt.

Chúng ta còn chưa kịp phản ứng thì một bóng người quen thuộc đã xuất hiện nơi cửa. Ma ma lập tức che miệng, tiểu thư hét lớn:

“Ca ca! Thật sự là ca ca!”

Trong lòng ta lại không quá xúc động, chỉ lặng lẽ nhìn Ngô thiếu gia đen nhẻm gầy gò, đứng nơi cửa vừa ngượng ngùng vừa áy náy mà cười ngây ngô.

Ta cố ý không để tâm, quay đầu hô:

“Tổ mẫu, Ngô thiếu gia tới rồi.”

Chưa kịp thấy tổ mẫu ra, cô trượng đã lườm lườm đi tới, lẩm bẩm:

“Tới thật khéo! Phải thay cháu ta trút cơn giận này.”

Ngô thiếu gia nhìn một dãy người sắc mặt mỗi người một vẻ, ánh mắt rơi lên phu nhân, rụt rè gọi:

“Nương…”

Phu nhân cuối cùng cũng mở miệng, vẫy tay:

“Từ đâu lòi ra cái tên nhóc đen nhẻm xưng nhận là con? Mau xéo!”

Hắn ỉu xìu đáng thương, lại hướng về ta:

“Tiểu Vũ… xin lỗi nàng.”

Lời còn chưa dứt, nước mắt đã nhỏ “tách” lên mặt đất.

Ta thấy tổ mẫu, cô cô đều đã mềm lòng, phu nhân vẫn nghiêm nghị quay đầu, chỉ đành nhíu mày thầm nghĩ: “Thiếu gia, người mau thu hồi trò này lại đi.”

Ta bước tới, nắm tay hắn, cùng nhau quỳ xuống trước mặt phu nhân:

“Nương, đây là con rể của người.”

---
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 32


Nhiều năm sau, khi ta đã tóc bạc da mồi, ngồi trên ghế thái sư, nghe cháu gái vừa từ chuyến du học trở về kể:

“Bên bờ Nam Hải, phong cảnh thật sự khiến người động lòng.”

Ta đặt quyển sổ sổ xuống, nhìn gương mặt rạng rỡ của nó, mỉm cười đáp:

“Ta biết, ta từng tới rồi.”

Nó ngạc nhiên:

“A, bà từng đến xa như thế sao?”

Lão đầu ngồi cạnh hừ một tiếng:

“Hừ, bà cháu nhà ngươi lợi hại lắm. Từng tới Lưu Cầu mua da thú, lên tận Nga quốc buôn lụa, bỏ mặc ta thân già trơ trọi nơi đất lạnh Ninh Cổ Tháp…”

Thanh âm bên tai dần mơ hồ, bóng người trước mắt cũng nhòe đi. Ta thiếp đi, dường như trở về ngày hôm ấy.
---

Trời quang mây tạnh, Ninh An thành tràn ngập tiếng hò reo. Trong dòng người, ta không nhìn nhầm — chính là Lâm tiểu thư.

Tối ấy, ngồi trong hàng khô nghe tiểu nhị kể chuyện, trong lòng ta sinh nghi, rồi Hải Hải đến báo: có tiểu thư muốn gặp ta — người giải nghi hoặc đã đến.

Bắc La gồm bảy bộ, tuy không lập quốc, nhưng nhiều năm qua dựa vào bộ Cáp Tát Khắc, chiếm cứ thượng du Ô Lạp, rải rác dọc biên giới Bắc, tựa xích khóa gông xiềng, rắp tâm xâm lấn. Các bộ tổ chức nghiêm ngặt, tác chiến dũng mãnh, phối hợp chặt chẽ, không có bài lệnh bằng khoáng vật đặc biệt, khó lòng xâm nhập.

Ngày lập đông, tướng phủ bất ngờ nhận tin có đám thích khách giả dạng thương nhân lẻn vào biên giới, nếu đánh úp thành công ở Ô Lạp, có thể dùng thân phận bọn họ trà trộn vào Mạc Nhĩ Triệt — nơi binh lực mỏng nhất, từ đó đánh thẳng vào tim Bắc La, giành lại Y Nhĩ Hà bình nguyên.

Việc khẩn cấp, phải lập tức lên đường, lại phải tránh tai mắt trong thành. Tướng phủ tranh luận suốt đêm, đúng lúc đó Ngô thiếu gia trở về, mưu sĩ mới đến nói rõ tình hình, chuyện sau đó cứ vậy mà bắt đầu.

Hôm họ hồi thành, thiếu gia đến doanh báo danh, để Lâm tiểu thư đến thay hắn giải thích với ta, xem ta còn giận hay không.

Ta nghe xong, chỉ nhẹ lắc đầu, đáp:

“Không, ta chưa từng giận. Ban đầu có đấy, nhưng ngày hắn không ở đây, ta cũng học được cách lo liệu cửa tiệm, khiến con đường từ ruộng cằn nhà ta kéo dài đến tận Ninh An thành. Sắp tới còn muốn theo thương đoàn xuống phương Nam, chẳng có thời gian mà giận.”

“Nghe cô kể, ta nghĩ đây chính là câu ‘việc vì kín mà thành, lời vì lộ mà bại’. Không có quốc, sao có nhà? Ta sinh trưởng tại đây, xung quanh đều từng chịu chiến loạn, ta càng chẳng có lý do để giận. Ta thậm chí còn vui, vì ta không nhìn lầm người. Hắn thực sự rất tốt, hơn ta tưởng tượng nhiều.”

Hôm ấy thiếu gia trở lại không lâu, lão gia cũng theo chiếu chỉ trở về.

Cả nhà đóng tiệm, hồi hương.

Một nhà người — kẻ khóc người cười, kẻ chửi kẻ khen, ầm ĩ không thôi. Trưởng thôn khoát tay ra lệnh: mổ con heo Tết nhà mình, cả làng mở tiệc!

Thế là, cảnh hỗn loạn của ngày lập đông năm ngoái, một lần nữa tái diễn.

Ta tránh khỏi ồn ào, dẫn Tiểu Hoàng đến trước Bạch Hạc thần, dựa thân vào gốc cây mà lắng nghe tiếng gió xào xạc.

Ngô thiếu gia ôm hai cái bình hoa chật vật bước tới:

“Tiểu Vũ, đây là lễ vật của ta — bình hoa chỉ để ngắm mà không chạm tới.”

Hắn vừa gắng gượng nâng đáy bình, vừa gọi ta:

“Ôi chao, Tiểu Vũ, ta sắp không vác nổi nữa rồi!”

Ta học được nhiều đạo lý trong sách, mà thực tế đôi lúc vẫn chẳng biết làm sao. Chỉ đành đứng dậy đỡ bình, trừng hắn một cái, quang minh chính đại lườm một vòng:

“Ngài mau thu lại thần thông đi thôi, Ngô Nhạc Hương.”

Ngắm nhìn núi non rực rỡ phương xa, xuân qua thu đến — lại một mùa thu nữa rồi.

-HOÀN CHÍNH VĂN-
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 33: Ngoại Truyện: Tuyết Phủ Bình Sơn (1)


(Phiên ngoại của Đông Vũ – Xuân Hàn và Minh ca)

“Ta thật khổ, ta là công tử ăn chơi số một ngõ Kim Ngư, vậy mà bị tịch biên gia sản.

*Khổ hơn nữa, lại sắp bị chính nha hoàn nhà mình mua về làm con rể ở rể.”

Ta, họ Ngô, tên Tiêu Minh, tự Nhạc Hương – công tử ăn chơi trứ danh ngõ Kim Ngư, đệ nhất công tử phong lưu thiên hạ!

Tổ tiên ta từng phò long đăng vị, tổ phụ làm tới chức tri phủ. Đến đời phụ thân, các thúc bá đều thôi chí khoa cử, chỉ còn phụ thân ta giữ được thân phận cử nhân. Ngoại tổ lại là đại phú hào vùng Giang Nam.

Mẫu thân ta khéo léo giỏi giang, gia nghiệp trong hoàng thành cũng coi như giàu có bậc nhất. Dẫu trong nhà không người đương chức, nhưng cũng có vài thân thích xa xưa của tổ phụ làm quan trong triều, thỉnh thoảng chiếu cố một hai phần.

Ta trưởng thành giữa cảnh đủ đầy, chẳng phải lo chi về miếng cơm manh áo, lại thêm nhà cửa có gốc gác, nên từ bé đã chẳng mấy khi bị ràng buộc, sống phóng khoáng tự do, tâm khí cũng cao hơn người thường.

Về sau, ta làm quan đến chức Tuần phủ Bắc La, tất cả đều nhờ mấy người:

Một mẫu thân thấu tình đạt lý, một muội muội thông minh tuyệt đỉnh, một huynh đệ khoáng đạt phong lưu,

và… người ta thương nhất, là nàng ấy — người lợi hại nhất trong thiên hạ, mà lòng vẫn chịu theo một tên ăn chơi như ta mà thành đôi.

01

Ta sinh vào ngày mồng năm tháng năm, dân gian vốn có lời đồn rằng: “Trẻ sinh ngày Đoan Ngọ, vận số bất tường.”

Quả nhiên, vừa sinh ra, ta liền nhiễm hàn độc, suýt liên lụy đến mẫu thân một mạng. Phụ thân vì vội vàng lên bậc ngắm trưởng tử, trượt chân trên bậc rêu, ngã gãy chân.

Nửa ngày sau khi sinh, ta đã bị thiên hạ đóng dấu: “Ác nguyệt tháng năm”.

Ngoại tổ gia nghe tin dữ, vội phái danh y chuyên khoa nhi tới, lại đưa theo một y nữ theo hầu. Thuốc nửa, cháo nửa, từng miếng từng thìa mới nuôi được ta lớn lên, quả thực không dễ.

Nhưng nhà ta, không những không bỏ mặc, mà lại nuôi nấng ta như châu như báu, trân trọng đến từng hơi thở.

Từ ăn mặc, ở, đi lại, trong khuôn phép triều đình, đều cho ta những gì tốt nhất, tinh tế nhất.

Thậm chí, để ta mùa đông cũng có rau quả tươi mà dùng, còn lập riêng một khu nhà kính phía nam hoa viên, trồng trọt trái mùa.

Tổ phụ còn tại thế, sợ cả nhà quá cưng chiều ta, định tự tay dạy ta học hành.

Ta vừa mở miệng than rằng đọc sách làm đầu đau, lão nhân gia liền quát ta ham chơi biếng học. Kết quả tối đó ta lên cơn sốt cao.

Lão lại cho rằng thân thể ta quá yếu, bèn mời sư phụ võ quán về dạy quyền cước, mới học tới trụ tấn, chưa kịp ngồi vững đã ngất giữa sân.

Không nản chí, ông lại bảo: thôi thì dạy vẽ, xem có khiếu thì uốn nắn.

Không ngờ, học vài ngày, ta vẫn chưa gục. Tranh vẽ ra cũng có hồn có thần.

Tổ phụ mừng rỡ vuốt râu cười, gọi phụ thân và các thúc bá đến xem, nói không chừng tương lai ta thành đại họa gia lừng danh thiên hạ, cũng đáng tự hào.

Ai ngờ, vừa cầm bức họa đứng dậy, ta loạng choạng vài bước, ngã sóng soài ngay giữa chính sảnh.

Thì ra là... bị trúng độc do phẩm màu, suýt thì mất mạng thật.

Trước giường bệnh, trong ánh mắt trách móc của cả nhà, tổ phụ nắm tay ta, thở dài một hơi:

“Minh ca nhi, mau tỉnh lại... là tổ phụ sai rồi. Không cần con phải rạng rỡ môn đình, không mong con bảo gia vệ quốc…

Chỉ cần con sống yên ổn, làm một vị công tử nhà giàu là được rồi.”

Sau đó, tiểu đồng từ ngoại tổ phủ đến thăm, mang theo bức tranh ta vẽ khi trước, giao cho cữu cữu dạy tại Thư viện Đồng Giang.

Cữu cữu lập tức sai người tới đón ta về Giang Nam.

Một là mẫu thân khi ấy đã mang thai muội muội, khó lòng phân thân chăm sóc ta.

Hai là cữu cữu nghe nói ta có khiếu hội họa, bèn mang theo bên mình, dạy dỗ cặn kẽ mấy năm.

Ta cứ tưởng về Giang Nam là phải chịu khổ, ai dè…

Phụ mẫu sợ ta ăn không quen, phái nửa thuyền người theo hầu, ngoại tổ mẫu thấy ta thân thể yếu, lại cho thêm mười người đến chăm sóc.

Giang Nam đất lành, trời quang gió dịu, phong cảnh hữu tình.

Mưa rơi thì như tranh thủy mặc, nắng lên thì gió thoảng trăng thanh.

Từ lúc mở mắt đến lúc ngủ say, bên cạnh lúc nào cũng có người hầu hạ.

Việc cực nhọc nhất đời ta khi ấy, chính là luyện chữ với cữu cữu – nhưng điều đó với ta lại chẳng hề khổ, trái lại, là niềm vui mỗi ngày.

Ngoài ra thì:

Du thuyền, cưỡi ngựa, dạo phố, uống trà, nghe hí, thưởng khúc... Vui quên cả Kinh thành!

Ngoại tổ gia ta, giàu đến nghiêng thành, nhưng ba đời trên đều là thương hộ, tính cả bảy đời thân thích, chẳng có lấy một tú tài.

Dẫu cữu cữu tư chất hơn người, cũng chẳng thể dự khoa cử.

Nhưng bách tính trong vùng đều khen ngợi: cữu cữu không cần công danh, nhưng cũng xứng là đại nho.

Có lẽ cái tự tôn của kẻ đọc sách đều giống nhau.

Người không cam tâm, bèn dạy ta bình phẩm danh họa, danh bút.

Thấy ta có vẻ có khiếu, ông bèn không từ bỏ.

Hỏi rõ năm xưa tổ phụ dùng phẩm gì gây độc, liền âm thầm điều chế một loại phẩm mới, tự xưng là “vô độc”. Kết quả…

Ta lại trúng độc lần nữa.

Bị phạt quỳ từ sáng tới tối trong từ đường, từ đó cữu cữu chỉ dạy ta viết chữ.

Ta lại rất mến chữ nghĩa. Giấy trắng mực đen, dường như chứa đựng cả một thế giới bao la.

Muội muội tròn sáu tuổi, tổ phụ tổ mẫu nối nhau qua đời.

Người đến báo tang cũng đưa lời lại:

Trước khi mất, tổ phụ đặt tự cho ta — "Nhạc Hương".

02

Hồi kinh thủ hiếu, người lo lắng nhiều nhất chính là ngoại tổ gia. Lần này là ngoại tổ mẫu đích thân sai nửa thuyền người đưa tiễn trở về Kinh thành.

Tự nhiên, ta cũng vô cùng thương tâm bi thống. Khi nhìn thấy thân ảnh nho nhỏ, ngay ngắn quỳ gối trước linh đường, ta liền nhận ra — là tiểu muội A Miên.

Lần trước về gặp, con bé mới chỉ lẫm chẫm biết đi, vậy mà lần này đã vươn dài hơn, dáng dấp cũng cao hơn chút ít.

Ta đến, quỳ xuống bên cạnh muội ấy.

Khi sắc trời dần về chiều, tiểu nhân nhi ấy mới mở miệng, dịu dàng nói:

"Ca ca nghỉ ngơi đi thôi. Tổ phụ nói ca ca thân thể yếu, cần phải chăm sóc thật tốt."

Ta lảo đảo đứng lên, định phản bác đôi lời, kết quả lại một lần nữa ngất xỉu.

Nửa năm sau, tang khí trong phủ dần tiêu tán, ta cũng bắt đầu thường xuyên ra ngoài dạo chơi. Nhưng người Kinh thành tính khí nóng nảy, hôm nay ta cãi nhau với thiếu niên họ Vương, ngày mai lại dẫn gia đinh đi đánh nhau với công tử phủ họ Tống.

Không thì nằm liệt trong nhà mười hôm nửa tháng, hoặc là mẫu thân ôm đống ngân phiếu đi xin lỗi khắp nơi.

Đi tới đi lui như thế, lại kết giao thêm vài bạn bè bất hảo, ngày tháng trôi qua vẫn tiêu diêu tự tại như cũ.

Ta thầm nghĩ: Giang Nam vẫn là tốt nhất.

Nghe nói cữu cữu đi chu du sơn xuyên, ta quyết định sau khi mãn tang liền sẽ tới nương nhờ người.

Cứ tưởng đời ta sẽ cứ thế hưởng vinh hoa phú quý, trường lạc vô cương, nào ngờ... biến cố ập đến.

Triều đình tuyên bố: trong năm nay xảy ra án gian lận khoa cử, phụ thân ta cũng bị cuốn vào, chứng cứ rành rành.

Ngô đại nhân – Nô Đức Văn bị xử trảm thu, gia sản bị tịch thu, toàn bộ gia quyến bị quan phủ phát mại.

Đến tin báo cũng chưa kịp gửi về Giang Nam, nhà ta, cùng những ngày tháng vinh hoa, toàn bộ tiêu tan trong khoảnh khắc.

Hôm ấy, dường như mới mưa xong. Ta ôm muội muội, co ro ngồi xổm giữa sân nha môn.

Xung quanh đều là gia nhân nhà ta — những người đã ký tử khế, sinh ra trong phủ. Ai nấy mặt mày ủ dột, bị liên lụy mà chẳng biết còn sống được bao lâu.

Ấy vậy mà họ vẫn im lặng bao bọc lấy ta và A Miên ở giữa, chẳng một lời oán thán.

Lúc ấy, một nam nhân xuất hiện — có lẽ lớn hơn phụ thân ta vài tuổi, mặc áo dài vải xám. Dù không phải gấm vóc, nhưng nhìn vào liền biết là hàng tốt.

Không giống người quan phủ, nhưng nước da đen nhẻm, mặt mũi lì lợm cũng chẳng giống thương nhân.

Hắn đi vòng quanh chúng ta vài lượt, ánh mắt cuối cùng dừng lại nơi A Miên trong lòng ta. Ngay sau đó, sư gia nha môn ra hiệu, lập tức có nha sai tiến đến kéo muội ấy ra ngoài.

Nhưng A Miên như có linh cảm, lập tức bám chặt lấy áo trước n.g.ự.c và cánh tay ta, hai chúng ta ngã sóng soài ra đất.

Sư gia giận dữ, muốn tát A Miên một cái, nam nhân kia liền bật cười ha hả, cản lại.

Hắn cúi xuống, nhìn A Miên đang nắm c.h.ặ.t t.a.y áo ta, ánh mắt yên tĩnh như mặt hồ chưa gợn sóng. Rồi hắn cười cười hỏi:

“Đây là gì của ngươi?”

A Miên đáp:

“Là ca ca của ta.”

Hắn lại hỏi:

“Vậy ngươi làm gì thế này?”

Tiểu cô nương ngẩng khuôn mặt bé xíu, hít sâu một hơi:

“Ta biết lão gia định mua ta, vậy thì... mua luôn cả ca ca của ta đi.

Ca ca ta thân thể tráng kiện, văn võ song toàn, còn tinh thông toán học và thiên tượng.”

Nam nhân kia có vẻ hứng thú, nhướng mày hỏi:

“Nhà họ Ngô các ngươi cũng dạy hậu nhân toán học và thiên văn sao?”

A Miên nghiêm túc gật đầu, lại chỉ lên trời, nơi có mây đen đan xen mây đỏ:

“Quan gia nên dời chúng ta vào hiên tránh mưa. Ngài xem kìa,

mây đen dày đặc, vầng đỏ lẩn hiện — một lát nữa sẽ có sấm sét và mưa đá.”
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 34: Ngoại Truyện: Tuyết Phủ Bình Sơn (2)


Chốc lát sau, cuồng phong nổi lên, mây đen cuồn cuộn kéo đến, sấm nổ đì đùng.

Ban đầu là mưa lớn, rồi lập tức hóa thành trận mưa đá đập vào người đau điếng.

Bọn nha sai vội vã lùa hết nô tài vào ngục, còn bọn ta được dời sang nơi kín gió tránh mưa.

Sư gia lau nước mưa trên mặt, quay đầu bảo nam nhân nọ:

“Lão Anh, mang cả đi đi. Triều đình có ghi ‘Thanh Vũ Lục’,

nhưng hai đứa này, đúng là ‘Tiên Vũ Lục’ (báo trước mưa).”

Từ đó về sau, Anh thúc thường hay cười mắng:

“A Miên là một tiểu nha đầu giảo hoạt,

những lời nó khen ngươi… nửa chữ cũng không thật!”

03

Ta và A Miên theo chân Anh thúc về thương hành của hắn, hai huynh muội vẫn ngồi nép nơi góc tường. Ta đã sớm trở nên tê dại, chẳng dám nghĩ đến cảnh ngộ của phụ mẫu lúc này ra sao, chỉ ôm chặt lấy muội muội, âm thầm hạ quyết tâm: bất luận thế nào, cũng phải liều mạng bảo vệ nàng cho đến cùng.

Trời cuối cùng cũng hửng sáng đôi chút. Một thiếu nữ bước vào. Nàng vận y phục của gia nhân Ngô phủ, vừa nhìn ta đã nhận ra — nàng là nha đầu chăm sóc vườn hoa trong phủ. Tầm mười ba mười bốn tuổi, thân hình cao lớn hơn hẳn các tiểu nha đầu cùng lứa.

Khác hẳn với những kẻ mặt mũi đen sạm vì sương gió, nàng lại có làn da trắng trẻo, đôi mắt to, sống mũi cao, nhìn vào đã biết là nha hoàn được mua từ nơi khác về.

Nhưng khiến ta nhớ nàng không phải do dung mạo hay vóc dáng, mà là vì chuyện đấu dế với Tống lão tam.

Nghe nói dế chiến nếu ăn linh thảo thì lực chiến tăng gấp bội, ta bèn đặt con Kim Sí Vương của mình trên giá lan trong phòng ấm. Nào ngờ chỉ mới uống một tuần trà, đám nha đầu đã làm mất nó. Mọi người xới tung cả vườn hoa cũng không tìm được.

Cuối cùng, bên dưới một phiến đá lớn đè bên rìa mái ấm, văng vẳng tiếng dế kêu. Ta sai người tiếp tục lục soát, còn mình thì gọi nha đầu cao lớn quét dọn góc tường kia đến bảo: “Đi tìm gia đinh, nhờ họ đến dời đá.”

Nàng nhìn phiến đá một cái, buông chổi, bước tới đứng thẳng hai chân, gối hơi chùng, tay đặt dưới tảng đá. Đôi mắt tròn mở to, môi mím chặt — một hơi nâng bổng phiến đá thanh cương nặng trăm cân.

Ta còn chưa hết ngạc nhiên, thì mấy nha đầu lanh tay đã nhanh chóng bắt được dế chiến ẩn dưới đá, vội vàng đến dâng công.

Nàng lặng lẽ đặt đá xuống, cúi đầu thưa:

“Đá này dùng để đè khung, không thể dời đi.”

Rồi nhặt lấy cái chổi lớn, quay về tiếp tục quét tường.

Người trong phủ nói nha đầu ấy tên là Đông Vũ, sức mạnh hơn người, ít nói, ưa trồng hoa.

Nghe nói có lần nhặt được hạt giống, nàng lén trồng một cây ớt trong phòng hạ nhân. Trên trang trại còn chưa từng trồng được, thế mà cây ớt trong chậu của nàng kết thành một khóm đèn lồng đỏ rực. Khi rảnh rỗi, nàng còn mượn bếp làm món cho người hầu — khoai lang chiên đường còn ngon hơn cả tửu lâu Long Phụng.

Không chỉ nha hoàn yêu thích, quản sự phòng bếp và mấy người ở trang trại đều từng đến xin nàng từ tay Chương ma ma của phòng hoa cỏ, nhưng đều bị từ chối.

Ta đang cần một người như thế, bèn nhân lúc mẫu thân vui vẻ, đến xin nàng về hầu ta.

Ta nghĩ, lần sau gặp lại tên tiểu tử họ Vương kia, chắc chắn có thể sai nha hoàn của ta đánh đám tay chân của hắn thành mặt heo. Người bên cạnh ta lợi hại thế, hắn còn dám vênh váo trước mặt ta nữa sao?

Thế nhưng, mẫu thân luôn chiều ta, lần này lại khẽ cười:

“Việc liên quan đến người khác, phải hỏi ý Chương ma ma và bản thân nha đầu ấy.”

Rốt cuộc, ta bị từ chối.

Chương ma ma bảo nha đầu ấy vụng về, tay đầy chai sạn, chỉ sợ làm rách lụa là của ta.

Còn nàng lại nói, nàng thích phòng hoa cỏ, muốn chuyên tâm học trồng hoa.

Sau đó, mỗi khi ta đi dạo vườn, luôn thấy nàng theo chân Chương ma ma học cách tỉa cây, có khi thì ngồi xổm ngoài sân trồng hoa, có khi lại bị sai ra tiền viện giúp bốc hàng.

Một nha đầu làm việc bằng mười người, quả thật đáng giá. Mẫu thân ta, đúng là người tinh tường!

Ta vung tay bảo nha đầu bên cạnh mang một túi bạc thưởng nàng.

Từ dòng ký ức trở về thực tại, chợt nghe nàng cởi trói nơi cổ chân của ta và muội muội, rồi nói:

“Thiếu gia, lời khi ấy chỉ là khách sáo, đâu phải thật lòng muốn mua ngài về làm tế tử.

Chi bằng ngài viết thư về ngoại tổ gia, hỏi xem có thể đến đón ngài và tiểu thư không.

Bị bán đi thật thì... chưa chắc còn có ngày quay lại.”

Anh thúc đứng phía sau trợn trắng cả mắt vì tức.

Chưa kịp gửi thư đi, nhà họ Ngô được đại xá.

Tội c.h.ế.t miễn, tội sống khó tránh — gia sản bị tịch thu, phụ thân bị lưu đày đến Ninh Cổ Tháp.

Theo luật lệ, phàm tội nhân bị lưu đến Ninh Cổ Tháp, dù có biểu hiện tốt đến mấy, cũng phải mười năm mới được hồi kinh.

Ta quyết tâm đi theo phụ thân.

Ta biết thân thể này yếu ớt, chưa đến nơi e là đã vùi thân trong gió tuyết. Nhưng phụ thân luôn săn sóc ta, nhiều lần “cứu” ta khỏi mẫu thân và tổ phụ, ta chẳng thể bỏ mặc người.

Huống hồ, bao lần ta thoát khỏi lưỡi hái tử thần, hẳn là trời cao vẫn còn thương xót.

Ta buông hàm răng đã nghiến đến rướm máu, đi tìm Đông Vũ để từ biệt.

Nàng đang bện tóc cho A Miên, miệng nói chuyện trêu đùa muội ấy vui vẻ. Thật kỳ lạ, A Miên trước mặt nàng như một đứa trẻ, tuy kỳ thực muội ấy vẫn là hài nhi.

Ta đứng ngoài cửa, trên người là bộ y phục nàng may — vải thô cứng, nhưng khoác lên lại ấm áp thoải mái đến lạ thường.

“Đông Vũ, ta phải theo phụ thân đến Ninh Cổ Tháp.

Cô đưa A Miên đến nhà cô đi.

Ta sẽ viết thư cho ngoại tổ gia, nhờ họ đến đón muội ấy.”

Nàng ôm lấy A Miên, nói muốn đi đón phu nhân.

Ta giật mình, chạy theo sau:

“Cô biết mẫu thân ta ở đâu sao? Ta vừa mới nhờ Tống lão tam dò la được tin tức đấy!

Ê, ê, Đông Vũ!”

Thiếu nữ cao hơn ta nửa cái đầu ngoảnh lại cười khẽ, gương mặt trong nắng có vẻ trêu đùa:

“Đi thôi, đến đón phu nhân.

Tất cả cùng đến nhà ta.

Nhà ta… chính là Ninh Cổ Tháp!”
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 35: Ngoại Truyện: Tuyết Phủ Bình Sơn (3)


03

Đông Vũ đang ngồi trong sân của nha hành, cặm cụi giặt tấm vải bông mới mua về. Mẫu thân và Chương ma ma thì ở trong phòng ngủ mà Anh thúc nhường lại, vội vàng may áo lạnh cho phụ thân. Anh thúc còn chu đáo sắm cho chúng ta một cỗ xe ngựa, phía trên chất đầy hành lý lớn nhỏ.

Mẫu thân đã cho giải tán toàn bộ những người hầu ký khế tử trong phủ, chỉ giữ lại Cao quản sự, chưởng quỹ, cùng ma ma bên người lo liệu hồi hương. Họ sẽ thay bà xử lý số hồi môn mà quan phủ trả lại từ kinh thành, rồi về Giang Nam một chuyến, sau đó sẽ hội hợp ở Ninh Cổ Tháp.

Việc mẫu thân quyết tâm cùng đến Ninh Cổ Tháp, ta và phụ thân đều không lấy làm lạ.

Mười sáu, mười bảy năm về trước, nhà họ Cao tại vùng Giang Nam là thương hộ giàu có, truyền đời kinh doanh trà và gốm sứ, tích lũy qua mấy đời đã thành danh môn vọng tộc.

Đương gia Cao gia khi ấy chỉ sinh được một cặp song sinh. Đứa con trai ra đời trước thuận lợi, tất nhiên là trưởng tử, nhưng đứa còn lại — con gái — thì không chịu chào đời, mãi đến khi trời tối rồi lại rạng, phu nhân khó sinh suốt một đêm, mới hạ sinh được nàng vào rạng sáng mồng Một tháng Năm.

Hôm sau, khi thân tộc đến mừng, các vị trưởng bối bèn ngồi bên mâm cơm bàn nhau bí mật dìm c.h.ế.t tiểu nữ nhi ấy.

Nào ngờ chuyện ấy lại lọt vào tai tiểu công tử nhà Tri phủ Tuyên Hóa đi theo thúc phụ đến Cao phủ làm khách. Khi ấy, thiếu niên họ Ngô mới năm sáu tuổi, ngồi bên góc bàn lặng lẽ bóc lựu.

Giữa những lời "ngày xấu", "mệnh xúi", "hài nhi bất tường" vang lên khắp phòng, cậu bé đột nhiên lên tiếng phản đối, rồi dõng dạc dùng giọng non nớt nhưng đầy lý lẽ, viện dẫn cả từ Lý Trấn Ác đến Tống Huy Tông, luận lý rõ ràng, khiến cả phòng người lớn đều phải im lặng, tâm phục khẩu phục.

Từ đó, cả nhà họ Cao đều tin rằng Ngô tiểu công tử ấy tất có ngày thành đại khí.

Nhưng ai mà ngờ, thiếu gia họ Ngô sau khi đỗ cử nhân thì mãi không tiến thêm được bước nào. Tới năm hai mươi hai tuổi, hôn ước cũng bị hủy. Sau một lần thi hỏng nữa, Ngô tri phủ đành cho con ra ngoài du sơn ngoạn thủy để khuây khỏa.

Ở Tô Châu, hắn gặp lại Cao thiếu gia đã trưởng thành — người này quả thực thông tuệ linh hoạt, phong thái bất phàm. Hai người tâm đầu ý hợp, cùng rơi vào cảnh không toại nguyện, một người tài học nhưng vì xuất thân thương gia không thể dự khoa cử, một người thân mang cử nhân nhưng chẳng thể tiến thân, càng dễ thấu hiểu lẫn nhau, kết nghĩa thành tri kỷ.

Một hôm, hai người hẹn đến chùa Tây Uyển bàn đạo lý cùng phương trượng, nhưng trước khi xuất môn, mẫu thân Cao thiếu gia giữ lại bảo phải đi xem mắt. Cao công tử bèn nhờ muội muội mình, vốn đang định đến Tây Uyển lấy bánh chay, thay mình nói rõ, rồi mời Ngô thiếu gia đến nhà làm khách.

Ngô thiếu gia đến sớm, đứng bên hồ nhìn con thần quy được đồn đại, bị con mèo vồ cá bất ngờ húc trúng, trượt chân ngã thẳng xuống hồ.

Đúng lúc Cao tiểu thư vừa đến, trông thấy cảnh tượng ấy, vội sai người kéo lên. Nhìn nam tử cả người ướt sũng, chẳng những không tỏ vẻ bối rối, mà còn cười nghiêng ngả, chẳng còn chút nào vẻ nho nhã khi mới gặp.

Trở về Cao phủ tắm rửa, hai người lại uống rượu, ngâm thơ, ngẩng đầu than vận mệnh không thông.

Không ngờ Cao tiểu thư lạnh lùng điểm tỉnh:

“Ta đã nghe hai người than thở mãi mấy ngày rồi, đến con vẹt trong nhà cũng học được! Chẳng phải chỉ vì không thể bước lên quan lộ sao? Nếu thật lòng muốn báo quốc, thì nào chỉ có mỗi con đường ấy. Ca ca vì xuất thân thương gia mà không được thi cử, thì có thể chuyên tâm học nông học, nghề dâu nghề tằm đều là quốc kế dân sinh. Còn Ngô công tử có thân phận cử nhân, càng có thể dạy học, viết sách, làm học vấn.”

Hai người như được khai sáng, bắt đầu bình thản tiếp nhận việc khoa cử không phải đường đi duy nhất.

Từng có duyên từ thuở bé, lại bị khí chất điềm đạm, ung dung của Cao tiểu thư lay động, Ngô thiếu gia rốt cuộc can đảm thỉnh cầu phụ mẫu sang Cao phủ cầu thân. Cao gia sẵn lòng, lại dự định gửi gắm lứa sau học hành nơi Ngô gia, để dần dần bước ra khỏi thân phận thương nhân, từ phú tiến quý.

Chỉ tiếc, Cao thiếu gia chẳng đi học nông tang như đã bàn, mà lại quyên bạc vào Thư viện Đồng Giang, trở thành tiên sinh dạy học. Tài năng văn chương của hắn quả thực khiến học giới nể phục, được viện trưởng yêu mến giữ lại.

Còn tiểu thư gả vào Ngô gia thì bộc lộ thiên tư buôn bán trời phú, xử thế đoan trang tao nhã, hòa nhã thông tuệ, chẳng mấy chốc đã trở thành Ngô tam phu nhân danh vọng khắp kinh thành.

Trong nhà, việc lớn nhỏ đều hỏi ý phu quân; ngoài xã hội, lại là nhân vật nổi bật trong giới phu nhân quý tộc. Mỗi buổi yến tiệc thưởng hoa, ngắm tuyết nàng tổ chức đều trở thành mực thước thanh nhã cho chốn kinh sư. Thái hậu từng vì cứu tế lũ lụt Hoàng Hà, nhận được bạc nàng quyên góp, mà kim khẩu xưng khen "trung trinh hiền thục".

Huynh đệ trong nhà không ai ra gì, chỉ có vị ca ca say mê học vấn ấy, theo lệnh phụ thân, thuận tiện giúp nàng xử lý việc buôn bán quanh kinh thành.

Ngô tam gia tuy là phu quân nhưng lại xử lý mọi chuyện trong ngoài chu toàn: dạy con gái, chăm sóc phu nhân, kính hiếu với cha mẹ, rảnh rỗi lại về Giang Nam thăm con trai, còn xử lý chuyện vụn vặt trong tộc — quả thực cũng là một người bận rộn.

Hai phu thê hợp tác ăn ý, hiểu nhau như tâm giao, vài năm đã kéo Ngô gia từ lụn bại quay về với tầng lớp danh gia vọng tộc.

Vấn đề duy nhất là — bị người ta chọc ghẹo, bảo hắn không giống cưới vợ, mà như đi ở rể.

Nhưng Ngô tam gia vẫn ung dung cho rằng: đó chẳng qua là đố kỵ lộ liễu mà thôi.

Vì thế, một đôi chim lâm nạn như họ — thà chết, cũng muốn c.h.ế.t bên nhau.
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 36: Ngoại Truyện: Tuyết Phủ Bình Sơn (4)


Chuyến đi Ninh Cổ Tháp khởi hành, ban đầu mọi người còn hăm hở, lại đúng dịp hè — là thời điểm mẫu thân luôn lo lắng ta dễ gặp chuyện. Nào ngờ vì đi về phương Bắc, trời lại mát mẻ khô ráo, cảnh vật giao mùa cuối hạ đầu thu đẹp đẽ hào sảng.

Thế nhưng, càng đi càng lạnh, có một buổi sáng tỉnh dậy ở trạm dịch, nhìn ra ngoài thấy cây cối đã trơ trụi, cành khô như vuốt quỷ, như muốn quật người. Mẫu thân vốn luôn tươi cười cùng muội muội hoạt bát cũng dần trầm mặc. Trong sự tĩnh lặng đó, gió tuyết phương Bắc kéo đến.

Vào đến thành Ninh An, một trận đại tuyết ập đến, khiến người ta thật sự thấu hiểu cái gọi là “đất khổ trời lạnh” đáng sợ đến mức nào.

Lúc chia tay Anh thúc, hắn cẩn thận bọc bánh xe bằng cỏ khô, nhét đầy lương thực khô vào xe ngựa, tặng mỗi người một đôi giày lông thật dày. Còn tặng cho Đông Vũ một tấm chăn lông to tướng, quấn nàng thành một cái bánh chưng to đùng, chỉ lộ ra đôi mắt sáng rực.

Cho đến khi ta cuộn người nằm trên giường sưởi nhà họ Đinh thật lâu, mới ý thức được — rốt cuộc đã đến nơi.

Ngay sau đó, món ăn nóng hổi được bưng lên, mùi thơm lan tỏa, ta húp từng ngụm mì nước dưa cải chua của Đinh bà bà, gắp thêm một miếng thịt chua ngấm đẫm nước dùng — hết bát này lại đến bát khác, đến nỗi chẳng nghe rõ mẫu thân và Đinh lão gia đang nói gì.

Chỉ nhớ khi ta vừa gọi: “Thêm một bát nữa!”, mẫu thân chợt nói:

“Để Đông Vũ cưới con làm tế tử đi.”

Ta chẳng buồn ngẩng đầu, vẫn tiếp tục ăn, nhưng trong lòng thì sáng suốt chưa từng có:

Đông Vũ thông minh, siêng năng, dũng cảm và lanh lợi.

Ta chỉ là con trai của một tội quan, chân tay vụng về, nếu có được người như nàng làm vợ —

Ta nguyện lòng làm rể ở rể này suốt đời.

Sau Tết Lạp Bát, đoàn lưu đày của phụ thân cuối cùng cũng đến được Ninh An.

Lần đầu ta rời nhà kể từ khi đến đây. Xe ngựa lót cỏ khô dày, phủ chăn bông, đến thành thăm phụ thân.

May nhờ Đông Vũ chuẩn bị từ trước quần áo bông, giày lông, thịt khô cất trữ lâu dài, còn có mẫu thân đưa bạc lo lót, mấy vị phu nhân thân quen ở kinh thành cũng ngấm ngầm dặn dò phu quân mình giúp đỡ — đường đi mới tránh được bị làm khó, ngược lại còn được chiếu cố.

Thấy phụ thân gò má hóp lại, tóc tai tán loạn, nghe ông kể lại bao đoạn đường gian khổ, sinh tử — ta chẳng dám nghe tiếp.

Mượn cớ giúp Đông Vũ xách đồ đi chợ, kỳ thực ta chẳng xách được gì, mà là khi thấy nàng — trái tim như bị siết chặt mới được buông lỏng, như một viên kẹo ô mai tan trong miệng, chua đến độ mắt cay cay.

Nàng đi tới chỉnh lại mũ trùm đầu cho ta —

Lần đầu tiên, ta chủ động nắm tay nàng.

Giữa gió tuyết mịt mù, chúng ta sóng vai bước đi —

Ta nắm c.h.ặ.t t.a.y nàng, mong được truyền thêm đôi chút sức mạnh vô tận từ người con gái ấy…

04

Người nhà họ Đinh đều là người hiền hậu. Đinh bà bà lanh lẹ tháo vát, Đinh lão gia trầm mặc kiên định, cô cô và cô trượng thì nhiệt tình, đến cả chú chó giữ cửa tên Tiểu Hoàng trong nhà cũng như hiểu lòng người. Chúng ta đã quen với sinh hoạt nơi đây rồi.

Đến tết, mẫu thân còn thúc giục chúng ta viết câu đối xuân. Đã hơn nửa năm rồi ta không cầm bút. Bút thì chẳng phải loại gì tốt, chỉ là một cây bút kiêm hào tầm thường, so với loại mà quản sự phủ ta xưa kia dùng, thật cách biệt một trời một vực.

Nhưng ta vẫn trân trọng mà nâng lấy. Chợt nhớ tới khi xưa, cữu cữu từng phê một bài thư pháp của ta:

"Dùng bút là đạo ngàn xưa bất biến, học chữ không chỉ để rèn tâm, mà còn là cách đối thoại với tiên hiền. Chỉ khi từng nét từng chữ được hạ xuống bằng tâm, những câu từ thoảng qua mới có thể khắc ghi trong lòng. Rồi một ngày, người sẽ từ trong bút mực mà tìm ra lời giải cho nghi nan nhân sinh."

Thuở ấy ta viết hoàn toàn theo bản năng và thiên tư, tâm chẳng vững, lòng còn ngông cuồng. Tự phụ nét chữ mình lưu loát khéo léo, mang đến tiệm Đa Bảo Trai làm cũ đi thì cũng đánh lừa được thiên hạ.

Nghĩ đến ngày xưa, ta cầm lấy mảnh giấy thừa cắt lại, viết một bài chữ nhỏ, chính là bài đã từng bị cữu cữu phê khi ấy, muốn nhân dịp này viết lại bằng cái tâm ngày nay, để cữu cữu xem ta nay đã khác xưa chưa.

Ai ngờ đúng lúc ấy có khách vào, gió lùa theo cửa mở, thổi bay tờ giấy, muội muội nhặt lên đọc:

"Hướng chi sở dục, phủ ngưỡng chi gian, dĩ vi thành tích."

(*Điều mình mong mỏi, chỉ trong cái cúi đầu ngẩng mặt, đã thành dấu vết.)

Không khí rộn ràng ngày tết dần xua đi đám mây đen vẫn lảng vảng trên đỉnh đầu ta. Đêm ba mươi, mọi người quây quần, nói lời cát tường, tặng nhau những món lễ nhỏ. Ta thấy Đinh bà bà đội chiếc mũ mẫu thân tự tay may, vui mừng đến nỗi mặt mày rạng rỡ.

Lúc ấy, ta theo sau Đông Vũ, trong lòng muốn tặng nàng vật duy nhất còn quý giá trên người — miếng ngọc Long Mặc tổ truyền của tổ phụ, là vật khi ta suýt mất mạng thời ấu thơ, tổ phụ đã lấy ra mong trấn định tâm thần, hộ thân bình an.

Nhưng vô tình ta lại nghe được cuộc trò chuyện giữa Đông Vũ với lão bà lão ông Đinh gia — mới hay, vì tiếp đãi chúng ta, nhà họ Đinh đã đem toàn bộ lương thực trong nhà ra dùng, dịp tết cô cô cô trượng lại gửi thêm một chút, nhưng nay cũng sắp cạn.

Ông tính ngày mai lấy cớ đi chúc tết để xin thêm từ nhà cô cô.

Kỳ thực, ta vẫn luôn nghĩ rằng nhà Đông Vũ dù không có gạo trắng, bột mịn, nhưng vẫn có thịt, lại thêm tay nghề nấu nướng khéo léo của Đinh bà bà, thì đó cũng là cuộc sống thú vị rồi. Ta cho rằng bản thân ăn uống chẳng kén chọn, mẫu thân thức khuya may mũ cho người già, như thế là đã thành tâm đối đãi, coi như báo đáp ơn nghĩa của nhà họ Đinh.

Nào ngờ, sự tận tâm tận lực của họ, chúng ta không sao báo đáp nổi, ta bỗng cảm thấy chua xót nghẹn ngào, nước mắt không kìm được mà rơi.
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 37: Ngoại Truyện: Tuyết Phủ Bình Sơn (5)


Quay đầu muốn rời đi, lại bắt gặp ánh mắt của mẫu thân, bà chỉ mỉm cười khổ sở, lắc đầu ra hiệu đừng lên tiếng. Nét mặt ấy như đóa mẫu đơn đang dần tàn úa.

Đông Vũ thấy ta đứng ở cửa bếp, tưởng rằng ta cần gì, liền vội vàng chạy tới hỏi han. Ta vốn định kể nàng nghe lai lịch của miếng ngọc, dặn nàng nhất định chớ bán, nhưng giờ lòng dạ chẳng còn tâm trí. Nếu nàng có thể bán được, đổi lấy chút tiền tiêu tết — cũng là chuyện tốt.

Tết qua, Đông Vũ theo Lưu gia và cô cô học làm đậu hũ, người đến thăm hỏi cũng dần nhiều hơn.

Sau này càng ngày càng đông, không tránh khỏi có người tò mò về những kẻ tha hương như chúng ta. Có lần gặp Triệu Nhị Thiết nhà họ Triệu bị một đám thẩm nương bao vây, vẻ mặt khó chịu, liền chạy đến rủ ta ra ngoài chơi.

Trước khi ra cửa, Đinh bà bà quấn cho ta hết lớp này đến lớp khác, đến nỗi Nhị Thiết nhìn mà ngẩn ngơ.

Tuyết đã ngừng rơi. Lần đầu tiên ta mắt thấy tai nghe được dáng vẻ tiêu điều của thôn Bình Sơn — xa xa là dãy núi tối đen lạnh lẽo, gần hơn là đồng hoang trắng xóa.

Dù ta và Triệu Nhị Thiết gắng sức leo lên chỗ cao hơn, phóng mắt nhìn quanh, cũng chỉ thấy mỗi thôn làng đổ nát này, những căn nhà xiêu vẹo, thậm chí chẳng biết gọi là “nhà” có đúng chăng.

Ta hỏi hắn:

“Nhà ngươi còn có Đại Thiết à?”

Hắn đang định lén chạm vào áo choàng của ta, nghe vậy liền rụt tay, cười hì hì:

“Ngươi thông minh thật! Đại Thiết là ca ca ta, còn có muội muội gọi là Tiểu Bùn.”

Ta hỏi:

“Sao không thấy bọn họ ra ngoài chơi?”

Hắn đáp:

“Nhà ta chỉ có một chiếc áo bông da, hôm qua đại ca đã mặc ra ngoài rồi, hôm nay đến lượt ta.”

Nói rồi lại hì hì cười, giọng không chút ngại ngần.

Ta lại hỏi:

“Vậy ngày mai đến lượt Tiểu Bùn sao?”

Lần này hắn không trả lời ngay, hít mạnh một hơi, mới nói:

“Tiểu Bùn không ra ngoài được… Chân bị cóng, chỉ có thể nằm trên giường.”

Ta nói:

“Ngươi nãy giờ là muốn lấy áo của ta à?”

Hắn vội vàng lắc đầu:

“Không, không, ta chỉ chưa từng thấy… chỉ muốn sờ một chút.”

Ta cởi đai áo, cởi chiếc áo choàng duy nhất mình có, bên trong tuy còn áo bông và áo khoác, nhưng ta nói:

“Ta cũng chỉ có mỗi cái này thôi. Nhưng ngươi mặc thử đi! Sau này có dịp, ta sẽ tặng ngươi một cái… Không đúng, tặng cho ca ca và muội muội ngươi, tặng ba cái!”

Nói rồi ta vung áo choàng lên khoác lên người hắn.

Hắn bị bọc kín trong áo choàng màu xám, giọng nói bị nhốt bên trong vọng ra:

“Đừng… đừng… ta không cần đâu, đừng làm bẩn áo ngươi.”

Ta hỏi:

“Ấm không?”

“Ừm!”

“Đi thôi, chúng ta về nhà. Ngươi giúp ta mang áo đến cửa thôi, ta mặc nhiều quá, đi tuyết không tiện.”

Nhị Thiết ngượng nghịu gật đầu, đi giống hệt như con gấu xám ngốc nghếch vừa tỉnh khỏi đông miên. Trước khi chia tay, hắn rụt rè hỏi ta:

“Minh ca… ngày mai huynh có thể đến nhà đệ chơi không… để muội muội đệ cũng được thử mặc thử một chút?”

Nhưng ta thất hứa rồi.

Đêm ấy, ta phát sốt cao, toàn thân run rẩy như gặp phong hàn chí tử.

Đến khi ta tỉnh lại, đã uống được đậu hoa Đông Vũ nấu.

Khi đã có thể xuống giường, ta định đến nhà Nhị Thiết, nhưng Đông Vũ ngăn lại.

Nàng nói:

“Tiểu Bùn… mấy ngày trước đã mất rồi.”

05

Tuyết đóng dày trên mặt đất đã bắt đầu có dấu hiệu tan chảy, chúng ta nhân lúc băng tuyết chưa hoàn toàn tan mà thu xếp hành lý, vội vã lên đường đến Ninh An thành. Bằng không, khi tuyết tan hết, cả vùng hoang nguyên sẽ trở nên lầy lội, khó mà đi lại được.

Trước khi đi, ta vẫn ghé qua nhà Triệu Nhị Thiết. Triệu thẩm vẫn lắm lời như xưa, người nhà khác ai nấy bận rộn, chẳng giống một gia đình vừa mất con nhỏ. Ta đem áo choàng đã gói ghém kỹ lưỡng đưa cho hắn, nói rằng ta sắp vào thành, áo này ta không dùng nữa, xin hắn chớ chê, và nhắc hắn bảo trọng, đừng quá đau lòng.

Khuôn mặt đờ đẫn của hắn khi nghe ba chữ “đừng đau lòng”, tựa như tuyết bị nước sôi tưới lên, môi hắn run run, như muốn bật khóc.

Đông Vũ và mẫu thân, cùng với cô cô, đang bàn bạc mở một quán ăn, nàng đi đến nha hành tìm người môi giới thuê cửa hàng, ai ngờ người dẫn mối lại chính là Anh thúc. Hắn nhìn thấy ta liền không khách khí cười nhạo:

“Còn chưa thành hôn đã ăn đến nhà họ Đinh phải vét sạch gạo rồi hả?”

Ta bèn học theo bộ dạng Triệu Nhị Thiết mà cười khờ khạo, cũng “hê hê” đáp lại. Hắn nhìn ta như thấy quỷ, lập tức dắt A Miên đi mua hồ lô đường cho rồi.

Anh thúc làm việc quả thật hiệu quả, trong ngày đã thuê xong cửa tiệm, còn đưa tới một ít nhu yếu phẩm. Chúng ta bắt tay thu dọn trong ngoài, rồi chính thức dọn vào.

Đợi đến lúc tiết trời ấm lên, người trên phố đông hơn, Xuân Hàn Trai khai trương.

Mẫu thân lại lần nữa thể hiện tài năng thiên phú của mình, điều hành một quán ăn chuyên bán đậu hũ mà làm ăn phát đạt vô cùng. Cuộc sống dường như đã dần ổn định, ta cũng bắt đầu buông lỏng tâm lý, nhưng ngay lúc ấy, thân thể yếu đuối của ta bắt đầu phát tác. Ngày nào cũng hoặc đau đầu, hoặc nhức xương, thậm chí có lúc toàn thân đau như lửa đốt, nằm liệt trên ghế mây ngoài viện, chẳng thể nhúc nhích.

Nhưng ta không nói cho ai biết, chỉ âm thầm chịu đựng, đọc sách, phơi nắng, sống như một phế nhân nhưng lại muốn làm một phế nhân không khiến ai thêm phiền toái.

Là Anh thúc, trong một lần ghé tiệm, thấy ta nằm dài nơi sân, bèn nhận ra có điều chẳng ổn. Hắn vừa chế giễu ta một phen, rồi đưa “Lưu viện trưởng” ở tận cuối hẻm đến hiệu. Kỳ thực là để ông ta đến khám bệnh cho ta. Cả thành này chỉ có hai lang y dở tệ, chỉ biết trị cảm mạo phong hàn, thái y phủ tướng quân đương nhiên sẽ chẳng vì ta mà nhọc công.

Nhưng Lưu viện trưởng thì khác. Ông nheo mắt đánh giá ta một hồi lâu, rồi bắt mạch, kê thuốc, còn bảo ta sớm khỏi bệnh mà đến thư viện chép sách trừ nợ thuốc.

Tên thương nhân bụng đen như Anh thúc cũng chẳng để ta yên, bảo ta nếu không muốn bệnh tình bị hắn loan báo khắp nơi thì phải đến giúp hắn kiểm hàng, sổ sách.
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 38: Ngoại Truyện: Tuyết Phủ Bình Sơn (6)


Lúc ấy ta mới hiểu, một thương nhân gian xảo và một nho sĩ nát rượu, vì sao lại có thể trở thành bạn tốt — họ bóc lột ta thật là đồng tâm hiệp lực, không hề kém nhau chút nào!

Ta mỗi ngày nửa buổi chép sách, phải nhớ lại những quyển sách từng chẳng muốn nhìn. Nửa buổi còn lại đi theo Anh thúc, đi hết thành Ninh An, học hỏi đủ điều.

Đến một ngày Anh thúc rời thành, Lưu lão đầu cũng được đệ tử yêu quý mời đi dự tiệc mừng sinh con, ta mới có mấy ngày thanh nhàn. Bèn kéo A Miên trang điểm một phen, chọn đúng lúc khách đông, cùng nàng dạo quanh một vòng, tìm lại cái phong thái của một công tử ăn chơi thuở trước.

Dạo hết một vòng, được không ít lời khen tán, nhưng lại không thấy Đông Vũ đâu, đành phải tự mình đi tìm.

Thấy nàng đang ngồi với tổ phụ nàng, cùng ngồi dưới hiên ngắm trời, ta cố ý đi tới đi lui trước mặt nàng mấy lượt, nhưng nàng chẳng thèm liếc mắt nhìn cái phong thần tuyệt thế của ta.

Ta đành đứng trước mặt nàng, trịnh trọng nói:

“Ta nay vừa học việc tại thư viện, vừa giúp Anh thúc xử lý sổ sách, chẳng bao lâu nữa sẽ có thể gánh vác gia sự!”

Nàng chỉ “ừm” hai tiếng lấy lệ, vẫn cùng ông ngắm trời.

Ta đành hỏi:

“Hai người đang nhìn gì thế?”

Nàng nói:

“A Miên vừa xem tinh tượng, nói năm nay là năm đại phong niên.”

Tốt! Các người tình nguyện tin tiểu nha đầu kia có thể xem thiên văn đoán tinh tượng, chứ không tin ta có thể lo nổi cho cái nhà này!

Hôm sau, ta ngồi buồn ở quán, thì có một người bước vào — văn nhã nhưng ẩn tàng sát khí, trông chẳng giống nho sinh, mà cũng chẳng hẳn là võ tướng. Người đó tự xưng là tướng quân trấn thủ Ninh Cổ Tháp – Trang Hải.

Thấy ta ủ ê, lúc đợi món ăn, hắn chủ động bắt chuyện:

“Vì sao Tiểu công tử phiền muộn vậy?”

Thấy hắn ôn hòa thân thiết, ta bất giác tuôn ra một tràng khổ nước mắt tủi, kể rằng ta khổ nhất là nhà chẳng ai tin ta cả!

Hắn xem bảng hiệu, liếc câu đối, hỏi có phải ta viết, ta gật đầu thừa nhận.

Hắn thở dài:

“Ta hiểu cảm giác của ngươi. Ta cũng thế.”

Nghe hắn kể mới biết, hắn đã nhiều lần dâng sớ xin triều đình tăng ngân sách cho Bắc Cương, mong được lập tỉnh, phái binh đóng giữ những nơi chưa hoàn toàn thu phục ở Bắc La. Nhưng triều đình lại coi đó là “vùng ngoài man di”, cho rằng nên bỏ, không những không phê duyệt, còn cắt tiếp ngân sách năm tới, năm nay còn thiếu đến hai trăm vạn lượng.

Nghe đến đây, ta như khai mở nhãn giới — thì ra ngay cả tướng quân thống lĩnh tiền lương dân sự toàn Đông Bắc cũng có nỗi bất đắc dĩ như thế. Dù ta chẳng giúp gì được, nhưng chỉ trong vài câu trò chuyện, tướng quân đã mở cho ta một con đường mới.

Hắn nói:

“Ngày nay, khoa cử thiên trọng lý luận, ít người hiểu lòng dân và tình thế quốc gia. Do đó, các quan phủ, tướng quân phủ thường dùng mưu sĩ – mạc liêu để hỗ trợ. Một mưu sĩ giỏi, đáng giá ngàn vàng.”

Hắn nói nếu ta có lòng, có thể bắt đầu bằng việc chép văn thư, ngày sau nếu có sở trường, cũng có thể được tiến cử. Nếu không, chỉ cần giúp con hắn học hành, làm tiên sinh cũng tốt rồi.

Ta hơi xấu hổ, nhưng vui lòng đáp ứng.

Sau khi báo cho Lưu lão đầu và Anh thúc, không ngờ hai người lại đồng loạt phát thiện tâm, cho phép ta nếu được mời vào phủ tướng quân thì khỏi phải đi khổ sai tại thư viện hay thương hành nữa.

Ngày đầu đến tướng quân phủ, ta còn chưa thấy mặt tướng quân, đã bị một chưởng từ sau lưng đánh cho lăn ra đất, miệng phun máu.

Người đánh ta — là muội muội của tướng quân phu nhân, Lâm Sơ Tịch.

Không biết nữ tử phương Bắc ai ai cũng khỏe như hổ thế nào, nàng còn mỉa mai ta:

“Ngươi từ đâu chui ra vậy, đèn lồng giấy dán sao?”

Ta nhịn, không dám cãi, bởi người ta là muội muội phu nhân, ta đắc tội chẳng có lợi. Ai ngờ nàng chính là người được phân phó dẫn ta làm quen công vụ.

Ta nghe vậy liền cung kính, ngoan ngoãn theo sau.

Nàng tỏ vẻ ngạc nhiên:

“Ngươi không nghi ngờ năng lực của một nữ tử sao?”

Ta đáp:

“Năng lực là năng lực, đâu phân nam nữ. Trong nhà ta, nữ nhân ai nấy đều xuất chúng cả.”

Ánh mắt nàng lập tức phức tạp, khó tin nhìn ta. Ta đành nói thêm:

“Huống hồ, Lâm cô nương suýt nữa một quyền đánh c.h.ế.t ta, thân thể ta đã cảm thụ được thực lực của cô.”

Nói xong, ta lại… phun thêm một ngụm máu.

06

Lâm Sơ Tịch quả thực là một người dẫn đường xuất sắc. Không chỉ võ nghệ cao cường, mà hiểu biết của nàng về binh pháp, chiến lược cũng khiến ta chỉ biết ngưỡng vọng theo sau. Quả đúng như lời Trang tướng quân từng nói — nàng chính là một kim bài mưu sĩ.

Nàng dạy ta những kiến thức cơ bản về hành quân tác chiến, phân tích cục diện triều đình cùng các phe phái hiện tại, chỉ ra những vết nứt chằng chịt ẩn dưới sự phồn hoa của quốc gia, kể lại việc các đại thần vì tranh đấu đảng phái mà không đoái hoài đến sinh tử của binh lính nơi tiền tuyến. Mỗi khi nói đến chỗ phẫn nộ, nàng liền vung tay đập bàn “rầm” một tiếng, làm ta giật mình đánh rơi cả chén trà.

Thấy thân thể ta yếu nhược, nàng lo rằng ta chưa ra chiến trường đã nằm lại nơi cát bụi, nên muốn dạy ta luyện võ. Ta vội vàng kể ra hồi nhỏ bị luyện đến suýt mất mạng. Nhưng nàng lại nắn nắn tay chân ta, vỗ n.g.ự.c bảo đảm:

“Yên tâm, tỷ sẽ không luyện c.h.ế.t ngươi đâu.”

Có thể là nhờ ăn hết cả thịt nhà họ Đinh, cũng có thể do bị Lưu lão đầu và Anh thúc sai vặt quá nhiều, ta luyện ngựa bộ nửa canh giờ vẫn chưa ngã quỵ, còn có thể tự cưỡi ngựa đi mấy vòng.

Ta vội chạy đến thư viện khoe với Lưu lão đầu, ông bắt mạch cho ta xong thì dừng thuốc, còn truyền cho ta một bộ Kim Cương công, dặn sáng tối mỗi ngày đều phải luyện. Ông nói mai này nếu ta ra trận lập công, phải nhớ về mua tặng ông hai căn nhà liền nhau nơi thư viện.
 
Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Lưu Thiên Thanh
Chương 39: Ngoại Truyện: Tuyết Phủ Bình Sơn (7)


Tối hôm ấy, ta nằm trên giường, ngẫm lại không biết từ khi nào thân thể vốn luôn lạnh run của ta lại trở nên ấm áp. Đau đầu, phát sốt, đủ thứ bệnh cũ cũng không tái phát.

Nhưng… không đúng. Ta vốn chỉ định chờ tiểu công tử nhà tướng quân trưởng thành rồi làm thầy dạy, từ khi nào lại có ý nghĩ ra trận g.i.ế.c địch?

Lật người suy ngẫm, rồi lại tự phủ định bản thân. Nếu thật sự có thể lập công nơi chiến địa, không chỉ giúp đỡ gia đình, có khi còn có thể xin được ân xá cho phụ thân. Vài hôm trước, chỉ nhờ một câu nói của tướng quân, phụ thân ta đã được điều đến thư viện Đinh Hương làm tiên sinh. Mẫu thân mỗi ngày đưa A Miên đến thư viện, mỗi lần đối diện với phụ thân nơi cổng, dẫu không nói gì, ánh mắt cũng đầy rạng rỡ.

Hơn nữa, nếu thật sự có thể như tướng quân nói — bình định Bắc cương, thì chẳng phải là vang danh thiên hạ hay sao?

Nếu Triệu Nhị Thiết sau này có con gái, cũng sẽ không phải vì lạnh mà mất mạng.

Sáng hôm sau, ta vừa luyện xong Kim Cương công, A Bố đã chạy đến báo:

“Có cô nương đến tìm công tử.”

Ra đến tiền sảnh, thấy tổ mẫu và cô trượng đều dừng tay, nhíu mày nhìn ta, thần sắc đầy lo lắng.

Lâm Sơ Tịch đã uống xong hai bát đậu hoa mặn ngọt, giờ đang vui vẻ húp thêm một bát ngô miến, thấy ta tới chỉ phẩy tay gọi lại, vẻ thân mật khiến cô cô mang bát đậu hoa đặt phịch xuống trước mặt ta, còn “hừ” một tiếng. Mẫu thân thì chăm chú quan sát ta, tựa hồ đang cân nhắc điều gì.

Tướng quân ban cho ta một con chiến mã, là loại ngựa được huấn luyện chuyên biệt. Lâm Sơ Tịch đến là để đưa ta đến xem ngựa và dạy cách làm quen với bạn chiến nơi sa trường. Nửa ngày trôi qua, ta và con ngựa kia đã thân thiết. Nguyên tên của nó là Ngọc Bá Vương, nhưng ta thấy không xứng với vẻ anh tuấn thuần hậu của nó, bèn đổi tên lại là Bạch Tuyết.

Dắt ngựa về nhà, còn chưa kịp khoe, A Bố đã lén kéo ta sang một bên, hạ giọng nói:

“Đông Vũ Tỷ tỷ về thôn rồi! Nghe nói là bị công tử và biểu tiểu thư nhà tướng quân chọc giận, giận thật rồi, gói ghém hành lý theo Đinh gia gia quay về, trông không giống sẽ quay lại nữa.”

Ta giật mình, lập tức gói hai bộ y phục và bút lông, phi ngựa Bạch Tuyết chạy một mạch về thôn.

Lần đầu tiên ta cưỡi ngựa nhanh đến thế, chỉ mong kịp giải thích — chuyện không giống như họ nghĩ.

Ta đứng ngoài cửa thở hổn hển, liền nghe thấy Đông Vũ nói với ông:

“Con mới không cần một cái bình hoa vô dụng làm con rể ở rể.”

Ồ? Hóa ra ta chưa từng hỏi qua tâm ý của nàng, mà cứ đinh ninh cho rằng nàng phải thích ta?

Mắt ta cay xè, nước nóng tràn mi. Ta chán chường quay đi, Tiểu Hoàng – con ch.ó giữ cửa – thấy ta, còn “ư ử” hai tiếng chào hỏi. Nhưng ta không muốn nói chuyện. Gió đêm phương Bắc, dù là giữa mùa hạ, vẫn lạnh đến thấu xương. Gió luồn vào cổ áo, thổi tan hơi ấm nơi khóe mắt, khiến ta bỗng nhiên tỉnh táo.

Anh thúc từng kể, Đông Vũ mồ côi, được tổ phụ, tổ mẫu và cô cô nuôi nấng trưởng thành, là cháu gái độc nhất trong nhà. Họ cần một con rể ở rể giỏi giang mạnh mẽ.

Cho nên, ta phải nỗ lực hơn nữa, để nàng có thể thấy rõ ta là người như thế nào.

Hôm sau, ta dậy từ tờ mờ sáng, đến viện dọa cô cô suýt làm hỏng một nồi đậu hũ.

Từ đó mỗi ngày, luyện chữ xong ta lại đi xách nước cho nhà bếp, từng thùng từng thùng. Tổ mẫu bảo ta nghỉ, mẫu thân thấy vậy liền ngăn lại, nghiêm mặt nói:

“Một ngày không đủ. Từ nay việc xách nước sáng tối đều là của con.”

A Miên đứng bên cười ranh mãnh, một tay kéo mẫu thân, tay kia làm động tác kéo cung:

“Dạo này có nữ tướng quân vào thư viện dạy b.ắ.n cung. Muội đã kéo được nửa thạch rồi! Học không thể sớm ba hôm, cũng không thể nghỉ một buổi. Ca ca phải cố lên đó!”

Nàng làm sao biết ta cũng vừa mới kéo được nửa thạch? Đôi khi ta nghi ngờ, nha đầu quỷ quái ấy thực sự là muội ruột của ta sao? Cả nhà cộng lại còn không giỏi bằng cái đầu nhỏ kia.

Lâm Sơ Tịch cũng nhận ra ta dạo này có điều khác lạ. Nhờ luyện tập lâu ngày, lần này nàng vung tay đánh, ta đã nhanh chóng tránh được.

Ta kể cho nàng nghe mọi chuyện từ đầu đến cuối — từ những ngày sống cùng nhà họ Đinh, đến Đông Vũ, và những phiền não bị nàng ghét bỏ. Nhưng nàng chỉ chú ý đến mỗi… món ăn Đông Vũ nấu.

“Đậu hũ mềm đến vậy? Ngô miến không dính răng? Bánh ngô thơm mềm?”

Ta chẳng buồn đôi co với nữ hán tử trong doanh trại, đi kể chuyện tình cảm thà tìm tướng quân còn hơn. Nhưng gần đây tướng quân bận vô cùng, đang dùng hết mọi cơ hội tâu lên hạch tội mấy tên tuần phủ khấu trừ quân phí, chỉ hận không thể liên tấu cả họ.

Cuối cùng đành phải nhờ đến muội muội thông minh của ta. A Miên nói nhớ Đông Vũ và tổ phụ, xin mẫu thân cho ta dẫn nàng về thôn thăm.

Không ngờ, vừa ra khỏi thành liền gặp Lâm Sơ Tịch từ thủy doanh trở về, nghe tin vội mặt dày đòi theo.

Tổ phụ bảo Đông Vũ đang ngoài ruộng bón phân, Triệu Nhị Thiết đang giúp. Hai người trò chuyện cười đùa, có vẻ đã nguôi ngoai sau cái c.h.ế.t của Tiểu Bùn. Vừa thấy ta, hắn toan chào hỏi, liền bị ngựa và người của Lâm Sơ Tịch dọa cho chạy mất.

Ta liền nói: nàng ta mặc y phục sáng màu, mặt mày lại hung dữ như La Sát, còn con ngựa cũng đeo đầu lư không ra gì, nhìn khó coi, dọa người là phải.

Ta định xuống giúp Đông Vũ một tay, trổ tài mới học, ai ngờ muội muội ta lại đi nghịch phân, đành dắt nàng đi rửa tay. Lúc trở về, Đông Vũ đã làm xong việc.

Tối đến dùng cơm, chủ yếu là Lâm Sơ Tịch ăn, vừa ăn vừa nịnh nọt khiến Đông Vũ và tổ phụ vui vẻ, ta chẳng chen được câu nào.

Tối đó có hương thân đến gõ cửa, muốn bán rau dại cho Xuân Hàn Trai.
 
Back
Top Bottom