Đam Mỹ Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm

Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 100


<b>《</b><b> 24.2 </b><b>》</b>

Trước khi vào cung, Lục Lệnh Tùng đã làm ba việc.

Việc thứ nhất, hắn sai người đến Trích Tinh lâu đưa tin, nhờ Tiêu Dao điều động nhân thủ Tuyên Thất âm thầm mai phục xung quanh phủ Chiêu Vương, bảo vệ Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh.

Việc thứ hai, hắn giao cho bác Chu và Ngân Trù mang toàn bộ sổ sách, điền sản, khế đất của phủ Chiêu Vương đến nhà họ Ngô. Nhờ cậu ruột hắn là Ngô Khâm giúp đỡ, lập tức tách riêng tất cả phần tài sản thuộc về Tạ Cánh ngay trong đêm. Toàn bộ "chân kim bạch ngân" mà hắn từng tặng y - từ ruộng đất, tiền trang, cửa hiệu, biệt viện ngoại thành đến các lâm viên ở Giang Nam - tất cả đều sang tên cho hai đứa trẻ.

Việc cuối cùng, hắn tự tay viết thư gửi cho Lý Kỳ, nhờ cậy chỉnh đốn ba nghìn quân Hổ Sư mà hắn đã bí mật nuôi dưỡng ở Hoài Bắc suốt hơn một năm qua, đưa bọn họ đến đóng quân cách thành Kim Lăng trăm dặm, sẵn sàng chờ tin.

Sau cùng hắn bước lên xe ngựa của Vương phủ, tiến thẳng về phía điện Thần Long.

Chung Triệu canh giữ ngay trước cửa tẩm điện, trông thấy Lục Lệnh Tùng cũng chẳng hề tỏ vẻ ngạc nhiên, cứ như thể người nhân loạn lấy trộm hộp kiếm đựng ngọc tỷ truyền quốc không phải lão, người đến Vương phủ báo tin cũng không phải do lão sai đến.

Lục Lệnh Tùng cũng không nói lời dư thừa, trước khi bước vào tẩm điện, hắn ngoái đầu lại, liếc nhìn Chung Triệu một cái thật sâu.

Giờ ngủ của Hoàng đế đã qua từ lâu, nhưng trong nội điện đèn đuốc vẫn lập lòe, rõ ràng là đang chờ người đến. Lục Lệnh Tùng vén áo, quỳ xuống bên giường, mở miệng thẳng thắn: "Phụ hoàng, ngày ấy người giao ngọc tỷ Lam Điền truyền quốc cho phủ Chiêu Vương bảo quản, thế mà Vương phi dựa vào thân phận mẹ ruột của Thanh Nhi, muốn giúp nhà họ Tạ mưu quyền đoạt lợi, lén mang ngọc tỷ về ngõ Ô Y để giấu, lòng dạ bất thần lộ rõ rành rành, đúng là đại nghịch bất đạo!"

Mành vải được vén lên chậm rãi, một nửa khuôn mặt của Hoàng đến bị che khuất trong bóng tối, không nhìn rõ thần sắc, chỉ hỏi: "Là do Vương phi của con làm sao?"

Lục Lệnh Tùng hiểu rõ ẩn ý phía sau - từ bỏ Vương phi và nhà họ Tạ, bảo vệ phủ Chiêu Vương, đây chính là sự lựa chọn của hắn vì ngai vị sao?

Hắn ngẩng đầu, ép mình phải bắt lấy ánh mắt Hoàng đế, giữ vững ánh nhìn: "Nếu phụ hoàng cho phép, nhi thần sẽ lập tức hạ chỉ phế bỏ Vương phi, mọi tội danh đều tùy phụ hoàng luận xử."

Hoàng đế cất giọng: "Chung Triệu, chuẩn bị bút mực."

Cửa điện lập tức mở ra, Chung Triệu bưng giấy bút lặng lẽ bước đến sau lưng Lục Lệnh Tùng, cung kính bày biện ra cho hắn, Hoàng đế ôn hòa nói: "Tùy trẫm luận xử à? Có đan thư thiết khoán ở đó, trẫm không trị tội nó."

Ngòi bút trong tay Lục Lệnh Tùng khẽ khựng lại: "... Phụ hoàng không trị tội y sao?"

Ánh mắt Hoàng đế nhìn hắn gần như mang theo sự "thẩm xét," tựa như có thể mổ xẻ con người hắn từ trong ra ngoài, không chỗ nào che giấu được. Mãi lâu sau, ông mới thản nhiên cất lời: "Dù nó có phạm trăm ngàn điều sai trái, suy cho cùng vẫn có công sinh hạ thế tử. Dẫu gì cũng làm vợ chồng mười năm, con lại từng quá mức sủng ái nó, muốn giữ cho nó một con đường sống cũng là chuyện thường tình, trẫm không có lý do gì để không đồng ý."

Lục Lệnh Tùng nghe rõ sức nặng trong từng câu chữ, Hoàng đế thậm chí chẳng buồn che đậy bản chất "giá họa" phía sau, dường như cũng chẳng để tâm liệu hắn có thật lòng muốn phế bỏ Tạ Cánh hay không.

"Nhưng nhà họ Tạ... Con không thể nhúng tay vào nữa. Trẫm đã giao cho Vương Thục xử lý. Phủ Tướng là người ngoài cuộc, xét xử sẽ có chừng mực. Muốn tránh hiềm nghi, muốn để cho thiên hạ thấy trẫm không thiên vị, con cũng nên chuẩn bị sẵn sàng đi."

Lục Lệnh Tùng lặng lẽ hạ bút, trong đầu nhanh chóng tính toán - tại sao phủ Tướng lại trở thành người ngoài cuộc? Chuyện này dính dáng đến tranh đoạt ngôi vị thái tử, mà phủ Tướng xưa nay luôn ở trong vòng xoáy quyền lực, luôn đứng trên đầu sóng ngọn gió, trừ phi... Trừ phi cuộc tranh đấu này sắp hồi kết, Hoàng đế đã có quyết định trong lòng: Phủ Tướng bị loại khỏi ván cờ rồi.

Bị loại rồi, đương nhiên sẽ không còn lợi ích liên quan. Quan trọng hơn hết là cũng chẳng còn khả năng xoay chuyển tình hình nhờ vị thế ứng cử nữa. Vì vậy, Hoàng đế mới cho phép phủ Tướng trở thành phe phán xử "công bằng".

Lục Lệnh Tùng lại nghĩ đến câu nói "chuẩn bị" kia. Muốn hắn chuẩn bị cái gì? Tại sao hắn phải chuẩn bị?

Ngay từ đầu, mục tiêu gán tội của Hoàng đế căn bản không phải là Tạ Cánh, mà là Trần quận Tạ thị. Xét đến cùng, chỉ xử lý một mình Tạ Cánh cũng chẳng có ý nghĩa gì. Thật ra Hoàng đế cũng chẳng thèm trừng phạt y, bởi vì ông quá rõ rằng trong tay Tạ Cánh không có thực quyền, rằng y chỉ là một tên công tử bột vô dụng. Cắt đứt hoàn toàn mối quan hệ giữa Lục Thư Thanh và Trần quận Tạ thị, triệt hạ tận gốc mối lo ngoại thích bành trướng mới là lý do Hoàng đế ra tay với Tạ gia.

Lục Lệnh Tùng mơ hồ nhận ra, đáp án cuối cùng của vấn đề đã tra tấn hắn từ khi sinh ra, hành hạ hắn như gông cùm xiềng xích giờ phút này đã dần hiện rõ trước mắt, vô cùng sinh động.

Hai con dế trong lồng đã phân thắng bại, Hoàng đế đang vì phủ Chiêu Vương - hoặc nói chính xác hơn, là vì con đường lên ngôi của Lục Thư Thanh mà quét sạch mọi chướng ngại, nhưng đây chỉ mới là bắt đầu, Lục Lệnh Tùng nghĩ. Từ trước đến nay, chủ nhân luôn đối xử với hai con dế trong tay tàn nhẫn như nhau. Hoàng đế tuyệt đối không phải nhất thời hứng lên mới giao quyền xử lý nhà họ Tạ cho phủ Tướng, ông còn một nước cờ sau, đó là mượn danh tranh đấu giữa hai gia tộc để tiện tay thanh trừ cả Lang Gia Vương thị.

Đừng ai hòng chạy thoát.

Lục Lệnh Tùng ngẩng phắt đầu lên, sống lưng lạnh buốt, hắn nhìn Hoàng đế dưới ánh đèn mờ nhạt - đây thật sự là một người bệnh già yếu ớt, gần đất xa trời đây sao?

Tạ Cánh khoác vội áo choàng, phi ngựa lao thẳng đến Tạ phủ. Càng đến gần, tiếng huyên náo trong đêm càng vang rõ. Giờ này, ngay cả tiếng đàn hát bên bờ sông Tần Hoài cũng đã im bặt, bầu không khí khác thường theo mặt nước lan tràn đến khắp đầu đường xó chợ, người người nhà nhà khép chặt kín cửa, lặng lẽ dỏng tai trong bóng đêm, chứng kiến cơn biến động sắp diễn ra giữa ngõ Ô Y trâm anh thế phiệt kia.

Thành Kim Lăng sắp đổi trời thay đất rồi, ai cũng nghĩ vậy.

Vũ Lâm Vệ cầm kiếm đứng đầy trước ngõ Ô Y, những người không phận sự đã bị đuổi đi từ sớm, khi Tạ Cánh ghìm cương ngựa dừng lại, trước mặt y chỉ toàn là ánh sáng của binh khí, cùng với vô số ánh mắt không có nhiệt độ toát ra từ bên dưới khôi giáp.

Thủ lĩnh nhìn y một lát rồi lên tiếng trước: "Vương phi đến rồi à."

Tạ Cánh thấp giọng nói: "Cho ta vào nhà."

Thủ lĩnh chắp tay làm lễ: "Nhà họ Tạ bị nghi tàng trữ quốc tỷ, liên lụy đến căn cơ quốc bổn, chuyện lớn như vậy, chúng thần chỉ tuân theo thánh chỉ của bệ hạ, phải tra hết từ trong ra ngoài, không được phép cho bất kì ai ra vào."

"Vậy thì hãy để ta gặp cha và anh ta, gặp ở đây cũng được."

Thủ lĩnh cười lạnh: "Hai vị Tạ đại nhân giờ này đã bị đưa vào chiếu ngục rồi, chỉ còn chờ thẩm vấn thôi."

Tạ Cánh chấn động: "Các ngươi làm sao dám tự tiện bắt giam mệnh quan triều đình!"

"Bệ hạ có lệnh, để Vương tướng toàn quyền quyết định vụ án này." Thủ lĩnh đưa tay chỉ vào trong ngõ, "Tìm ra được ngọc tỷ Lam Điền truyền quốc mà bệ hạ để Chiêu Vương điện hạ giúp bảo quản ở quý phủ, trong lối vào kho Tạ phủ cũng cất trữ một lượng lớn phôi ngọc trông giống ngọc Lam Điền, đây đều là chứng cứ xác thực."

Tạ Cánh im lặng một chút rồi trở mình xuống ngựa: "Chuyện này là do một mình ta làm, từ trên xuống dưới nhà họ Tạ không ai biết, bệ hạ có trách tội, cũng nên để một mình ta gánh chịu."

"Hả?" Tên thủ lĩnh kia cười nghiền ngẫm, "Các người cho lời khai sao không bàn với nhau trước thế? Cha anh ngươi đã nhận tội không kiêng dè, nói rằng bọn họ mưu toan vị trí Thái tử, lừa lấy ngọc tỷ từ ngươi, ngươi mới là kẻ không biết chuyện đấy."

"Muốn gán tội cho ai, nào có thiếu gì lý lẽ!" Tạ Cánh quát, "Ta thân là Chiêu Vương phi, dù phạm tội nặng đến mức bị chém đầu cũng không liên lụy đến cửu tộc. Vương tướng nhất định muốn làm liên lụy người vô tội, chẳng lẽ định vứt bỏ danh tiếng trong sạch và sự sáng suốt của thế gia văn thần trăm năm như Lang Gia Vương thị sao? Chẳng lẽ còn muốn xông vào hoàng cung, nhốt cả bệ hạ vào chiếu ngục hay sao?"

Dứt lời, y nhấc chân định xông thẳng vào trong. Kiếm của Vũ Lâm Vệ hai bên đã lập tức rút khỏi vỏ, tên thủ lĩnh vừa định ra lệnh cho thuộc hạ cưỡng chế bắt y lại, chợt nghe từ xa có người quát to: "Đợi đã!"

Người vừa tới ghìm cương ngựa ngay phía sau Tạ Cánh, y ngoảnh đầu nhìn lại, người kia chính là con trai trưởng của Vương Thục - Vương Khế. Trong tay hắn cầm một trục cuốn: "Hạ quan vừa từ trong cung tới, phụng chỉ Chiêu vương mang một dụ lệnh đến, Vương phi có muốn nghe cùng không?"

Mọi người tản ra, nhường đường cho hắn. Vương Khế vòng lên trước mặt Tạ Cánh, từ tốn mở trục cuốn trong tay ra, cất giọng đọc: "Truyền thủ dụ của Chiêu Vương: Vương phi Tạ thị kiêu ngạo lộng hành, xa hoa hoang phí, dựa vào con cái để mưu quyền, dòm ngó trữ vị, không xứng làm khuôn phép trong nhà, không đủ tư cách dạy dỗ con cái. Tước bỏ tỷ thụ, đuổi ra khỏi phủ, đoạn tuyệt ân nghĩa."

Vương Khế ngồi trên lưng ngựa, cúi mắt nhìn xuống Tạ Cánh: "Tạ đại nhân giờ không còn là hoàng thân quốc thích nữa rồi. Tội danh này có liên lụy đến cửu tộc hay không, e là còn phải cân nhắc lại cho cẩn thận."

Dù đã dặn dò Lục Lệnh Tùng, đến lúc cần thiết phải dứt khoát cắt đứt, tuyệt đối không được mềm lòng, nhưng khi tận tai nghe thấy bốn chữ "đuổi ra khỏi phủ," Tạ Cánh vẫn không kìm được mà thoáng sững sờ.

Mấy nghìn ngày đêm đầu ấp tay gối, chỉ cần vài câu chữ đã xóa sạch chẳng còn dấu vết, nhân duyên thiên gia quả thật giống như sợi tơ vàng dệt nên long bào, mỏng manh yếu ớt, vừa chạm đã đứt, làm sao sánh được với sợi tóc xanh kết phát bền chặt, thủy chung một đời?

Tạ Cánh ngẩng đầu nhìn lại, lạnh lùng nói: "Nhà họ Tạ có đan thư thiết khoán do Thái Tông Hoàng đế ban cho. Dù Vương Thục có thật sự muốn truy cứu tội liên đới, cũng phải căn cứ vào tổ pháp. Tội danh bất kính với tổ tiên, lạm dụng chức quyền, phủ Tướng có gánh vác nổi không? Thỏ khôn chết, chó săn bị làm thịt, hôm nay phủ Tướng ép nhà họ Tạ đến đường cùng, không sợ ngày mai bệ hạ sẽ mượn cớ này mà dẹp luôn nhà họ Vương hay sao? Bọ ngựa bắt ve, chim sẻ chực sẵn, kẻ hưởng lợi thật sự vẫn còn chờ phía sau kia kìa!"

Vương Khế chỉ lắc đầu, nói đầy ẩn ý: "Ai nói phủ Tướng không sợ? Ai nói phủ Tướng bất kính với đan thư thiết khoán? Lệnh miễn tử nhà họ Tạ đời đời cất giữ, cả kinh thành này ai mà không biết, đương nhiên phải cho quý phủ tận dụng hết mức rồi. Còn dùng thế nào - các hạ cứ việc mở to mắt đấy mà chờ xem là được."

Nói xong, hắn xoay mặt dặn dò tên thủ lĩnh: "Nếu Tạ đại nhân đã muốn gặp người thân, vậy thì cứ để cho y gặp."

Cửa chính Tạ phủ mở rộng, Vũ Lâm Vệ chia thành hai hàng đứng sừng sững. Dẫn theo gia đinh đứng trước sảnh chính, giằng co với bọn họ ở phía đối diện chính là Tạ phu nhân ăn mặc chỉnh tề.

Tạ Cánh gần như bị áp giải vào ngõ Ô Y. Chẳng biết là ai đã thô bạo nện chuôi kiếm vào khoeo chân y, đẩy Tạ Cánh quỳ sụp xuống ngay bên ngoài bậc cửa.

Tạ phu nhân trông thấy y, vẻ mặt vốn dĩ bình tĩnh cuối cùng cũng thoáng hiện chút tức giận: "Y là Chiêu Vương phi, các người dám động vào y sao!?"

Tạ Cánh căng mắt tìm kiếm nhưng không thấy bóng dáng Diêu thị và Tạ Tuấn đâu. Mãi đến khi nghe thấy tiếng quát mắng vang lên từ góc nhà, y mới phát hiện Tạ Tuấn đang bị trói chặt vào cột dưới hành lang. Có lẽ lúc xảy ra chuyện, cậu là người đầu tiên lao ra che chắn cho bà nội và mẹ, nhưng rốt cuộc vẫn không địch lại số đông, bị khống chế ngược lại. Còn chị dâu y thì bị mấy tên Vũ Lâm Vệ cầm kiếm vây chặt, không cho chị đến gần Tạ Tuấn.

"Cha và anh ta đều đã vào ngục, ta cũng có thể lập tức đi theo các người, nhưng phủ Tướng còn muốn làm khó cả phụ nữ trẻ con và gia nhân vô tội trong phủ này, chẳng lẽ thật sự muốn đuổi tận giết tuyệt hay sao?"

Tạ Cánh vùng vẫy định đứng dậy, nhưng lập tức bị hai tên lính giữ chặt. Vương Khế nhàn nhạt cất giọng: "Vậy là Tạ đại nhân vẫn chưa hiểu rõ rồi, người muốn đối phó với nhà họ Tạ nào phải là phủ Tướng chứ? Bệ hạ muốn mượn dao giết người, nhà họ Vương chẳng qua chỉ thừa cơ rèn đao sắc, để cho người dùng thuận tay hơn mà thôi."

Tên thủ lĩnh đứng bên cạnh hắn nhân cơ hội lên tiếng: "Hạ quan nhận thánh chỉ của bệ hạ, làm việc công không hề có ý làm khó. Kính mong phu nhân lấy đại cục làm trọng, cùng thiếu phu nhân và tiểu công tử đi theo Vũ Lâm Vệ một chuyến, để sớm ngày định đoạt vụ án, trả lại sự trong sạch cho quý phủ mới phải."

Hắn cố ý nhấn mạnh nửa câu sau, nhưng Tạ phu nhân lập tức khinh miệt phì một tiếng, quát lên: "Đúng là lòng dạ thối nát! Thanh danh của nhà họ Tạ ở quận Trần, lũ chuột nhắt hèn hạ như các ngươi mà cũng dám tùy tiện bôi nhọ sao?"

Bà quét mắt nhìn đám binh sĩ, ánh mắt sắc bén như hóa thành thực thể, khiến người ta hoảng hốt, chột dạ, không rét mà run: "Nếu ta bước qua cánh cửa này thì giả cũng thành thật, không cũng thành có, chẳng phải sẽ khiến nhà họ Tạ mang tội mưu phản đúng như mong muốn của các ngươi sao? Chuyện chưa từng làm, tội danh bị gán ép vô cớ, dù các ngươi có đảo lộn thị phi, dù có nghiêm hình bức cung, dù phu quân và con trai ta có nhận tội, ta cũng tuyệt đối không nhận!"

Vương Khế chẳng hề nao núng, thản nhiên nói: "Phu nhân cốt cách rắn rỏi, không hổ là nhất phẩm cáo mệnh phu nhân chấp chưởng mọi việc trong nhà suốt mấy mươi năm qua. Chỉ là phu nhân muốn giữ gìn thanh danh của mình, cũng nên nghĩ đến những gia nhân nô bộc sau lưng bà kia - Tạ đại nhân vừa rồi nói rất hay, bọn họ có tội tình gì mà phải cố thủ ở ngõ Ô Y này, chết chôn cùng phu nhân chứ?"

Ánh mắt Tạ phu nhân trở nên nghiêm nghị: "Ân oán này không liên quan đến những người ngoài như họ, nếu như ngươi vẫn còn để ý danh tiết của Lang Gia Vương thị, vậy thì thả cho bọn họ đi đi!"

Vương Khế chỉ thong thả nói: "Thiên hạ làm gì có chuyện vừa vẹn tròn hiếu nghĩa, lại đủ cả lòng trung? Bệ hạ đã ban khẩu dụ, không có chiếu thì dù là ai đi nữa cũng không được tự tiện ra vào Tạ phủ, chiếu ngục còn chẳng chứa nổi cả nhà các người đâu. Bọn họ đều phải ngoan ngoãn ở lại trong phủ chờ xử trí. Vương tướng đã chỉ đích danh cả ba mẹ con bà cháu các người, ngay cả vị phế Chiêu vương phi này," hắn liếc qua Tạ Cánh, "Đều được đặc cách ân chuẩn, miễn khỏi bắt giam đấy."

Diêu thị ở bên kia giận quá bật cười: "Ân chuẩn à? Vương tướng tự cho mình là ai chứ? Dù sau này Nhị điện hạ đăng cơ, họ Vương cũng chỉ là ngoại thích, mãi mãi chỉ là ngoại thích mà thôi! Các ngươi tưởng bọn ta không biết sao? Ngọc tỷ Lam Điền kia vốn là đồ giả thôi, đừng nói là thiên tử gửi ở phủ Chiêu Vương, dù có thật sự rơi vào tay nhà họ Tạ đi nữa, thì quốc bổn trăm năm của Đại Tề sao có thể dễ dàng bị một miếng ngọc cỏn con làm lung lay được? Là phủ Tướng đang coi thường thiên uy, hay là người mang ngọc có tội? Phôi ngọc Lam Điền trong kho Tạ phủ là do Thái thú Ung Châu Hà Cáo dâng tặng vào đêm giao thừa năm ngoái, khi cho nhập phủ đã ghi chép rõ ràng, giấy trắng mực đen còn đó, các ngươi không đi điều tra nguồn gốc, rốt cuộc là đang lấp l**m cái gì?"

Sắc mặt Vương Khế khẽ biến, có lẽ hắn không ngờ Diêu thị lại dám vạch trần mọi chuyện trước mặt bao nhiêu người như vậy. Hắn lạnh giọng nói: "Diêu phu nhân ăn nói cẩn thận. Dù cô không cần mạng sống nữa, cũng phải nghĩ xem lệnh lang sẽ ra sao đi chứ."

Tạ Tuấn nghe vậy, mặc kệ lưỡi kiếm của Vũ Lâm Vệ vẫn kề sau gáy, lớn tiếng mắng: "Ngươi đừng hòng lấy ta ra để uy h**p mẹ ta! Nhà họ Tạ chẳng có ai sợ chết, chỉ sợ chết không trong sạch, chết không có ý nghĩa mà thôi!"

"Mạnh miệng quá nhỉ." Vương Khế đưa mắt lướt qua từng người một, chậm rãi nói tiếp: "Liên lụy phủ Tướng thì cũng đanh thôi, nhưng nếu tiểu công tử và hai vị phu nhân tiếp tục nhắc đến thánh thượng, oán hận long đình, mấy trăm người ở đây đều nghe rõ rành rành, vậy thì cái gọi là 'dị tâm' và 'tội danh' e rằng không thể coi là vu oan giá họa nữa, đến lúc ấy các người chẳng thể bịa đặt thêm được đâu!"

Tạ phu nhân không nhúc nhích, chỉ cười lạnh: "Sao bọn ta lại không dám nhắc đến thánh thượng chứ? Phôi ngọc cũng bị tịch thu rồi, ngọc tỷ truyền quốc từ đâu rơi xuống cũng bị lục soát ra rồi, ngõ Ô Y ngoài đám phàm nhân da thịt bọn ta ra thì chẳng còn thứ gì để báo đáp 'ân tri ngộ cất nhắc' của thiên tử mấy năm qua nữa! Nếu người còn muốn, cứ việc lấy đi!"

Tạ Cánh bị ghìm lại không nhúc nhích được, chỉ có thể kêu lên: "Mẹ hãy tạm giữ lại chút đường lui, dù có vào ngục trước, con cũng còn cách cứu vãn! Nhà họ Vương há lại không màng thanh danh lưu vào sử sách?" Y ngẩng đầu trừng Vương Khế một cái, "Chắc chắn phủ Tướng cũng chẳng muốn chịu cảnh bị vạn dân phi nhổ, buông lời chê trách truyền đời đâu!"

Tạ phu nhân vẫn bình tĩnh, dường như bà đã nhìn thấu đến tận cùng số phận: "Con tưởng rằng bây giờ chúng ta trở mặt với chúng ở ngõ Ô Y này, hay là bị giam vào chiếu ngục làm con ba ba trong hũ thêm mấy ngày nữa thì kết cục sẽ khác nhau sao?"

Y đành chuyển sang Diêu thị: "Chị à! Chị và Tạ Tuấn đưa mẹ đi trước đi, đừng quan tâm đến danh tiết của nhà họ Tạ nữa, có thứ gì quan trọng hơn sinh mạng của mọi người chứ!"

Trong mắt Diêu thị lộ ra một vẻ buồn bã tiếc nuối, chị cũng không hề nhúc nhích: "Nếu bọn họ thật sự kính trọng tấm đan thư thiết khoán kia, thì mối họa hôm nay vốn dĩ sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Giờ đã đến nước này rồi, chỉ còn lại hai kết cục, đó là 'sợ bóng sợ gió một trận' và 'thập tử vô sinh' mà thôi. Chi Vô, em cảm thấy sẽ là kết cục nào đây?"

Tạ Cánh sững người, miệng há ra nhưng chẳng thể thốt thành lời. Y ngơ ngẩn nhìn đám gia nhân lấp đầy sân phủ, những gương mặt ấy phần lớn đều rất quen thuộc, thậm chí có không ít người đã sống trong phủ này còn lâu hơn cả tuổi của y. Tạ Cánh lẩm bẩm khẩn cầu: "Mọi người... Hãy đi đi..."

Không một ai nhúc nhích.

"Mọi người đi đi mà!"

Rất lâu sau, không biết là ai đã lên tiếng: "Nhị công tử, chúng tôi không đi được."

Tạ Cánh giật mình phát hiện, ngoại trừ y ra, dường như tất cả mọi người có mặt ở đây đều rất rõ ràng, rằng họ không có đường lui, không có cơ hội xoay chuyển cơn biến loạn này. Tất cả những biện pháp tạm thời lui một bước để giữ mạng, đứng trước ván cờ chính trị tàn khốc này hoàn toàn không tồn tại.

Hoặc là không có chuyện gì xảy ra, hoặc là chết.

Điều gì sẽ chờ đợi bọn họ? Tất cả mọi người đều biết, hơn nữa đã biết từ lâu. Ba thế hệ nhà họ Tạ lần lượt bị giam vào ngục, những người còn lại cũng sẽ bị tiêu diệt tận gốc. Dù trốn ra được khỏi cánh cửa này, bọn họ cũng sẽ mang tội kháng chỉ, trở thành tội nhân mưu nghịch, căn bản không còn đường sống để mong cầu. Nếu buộc phải đón nhận cái chết, thì chết ngay sau cánh cửa này, ít nhất họ cũng không phải gánh tiếng xấu vì bị cuốn vào cuộc tranh quyền đoạt vị kia, ít nhất là không phụ ơn nghĩa Trần quận Tạ thị đã che chở cho gia quyến, hương thân của họ bao năm qua, ít nhất là không cô phụ ân huệ và lòng trung giữa chủ tớ bọn họ.

Giống như Tạ Tuấn đã nói, họ phải chết một cách trong sạch, chết phải có ý nghĩa.

Vương Khế đã mất kiên nhẫn nghe lời dông dài, hắn đi lại trước cổng, thỉnh thoảng quay đầu nhìn vào bên trong Tạ phủ, tựa như đang cân nhắc sức nặng tình thế. Một lúc lâu sau, hắn mở miệng hỏi, giọng điệu khó dò: "Các ngươi đều cam lòng chết theo chủ nhân sao?"

Không ai trả lời.

Vương Khế lại chuyển ánh mắt về phía Diêu thị và Tạ Tuấn: "Hai mẹ con các người thì sao?"

Cả hai đều nhìn hắn bằng ánh mắt khinh thường.

Cuối cùng, hắn dừng ánh mắt trên người Tạ phu nhân: "Phu nhân cũng không đi à?"

Tạ phu nhân thản nhiên đáp: "Dù có đứng trước mặt thiên tử, ta cũng chỉ nói những lời như vậy thôi, các ngươi đừng hòng ép ta bước nửa bước ra khỏi cánh cửa này. Hôm nay ai muốn bước vào nhà họ Tạ, thì trước tiên phải bước qua xác ta!"

Vương Khế không do dự nữa, gần như ngay khi Tạ phu nhân vừa dứt lời, hắn đã lập tức giơ tay lên, tên thủ lĩnh lập tức nhận lệnh, Vũ Lâm Vệ chờ đợi ngoài cửa đã lâu đồng loạt giương cung. Lòng Tạ Cánh chấn động, bật tiếng gào xé họng: "Mẹ..."

Nhưng bàn tay Vương Khế đã phất xuống, mưa tên rời dây, toàn bộ đầu mũi tên đều hướng thẳng vào dáng người vốn chưa từng lung lay nghiêng ngã bên dưới cổng lớn.

Tạ Cánh chỉ cảm thấy thế giới bên tai sau khoảnh khắc này bỗng trở nên tĩnh lặng, hai mắt y trừng to đến nỗi muốn nứt ra, thậm chí quên cả chớp mắt, chỉ có thể trơ mắt nhìn từng mũi tên xuyên thẳng vào lồng ngực mỏng manh, chẳng có chút phòng bị nào của mẹ mình. Y không thể đếm được rốt cuộc đã có bao nhiêu mũi tên, bởi vì máu nhanh chóng trào ra thấm ướt áo gấm của Tạ phu nhân, ngay trước khoảnh khắc tận mắt chứng kiến bà ngửa mặt ngã xuống chẳng thể tránh né, hình ảnh ấy đã vĩnh viễn khắc sâu vào đáy mắt Tạ Cánh.

Tạ Cánh cảm thấy mình hẳn là đã gào thét đến khản giọng, nhưng y chẳng nghe thấy gì cả, cũng không rõ là do tai mình đã điếc đặc hay bản thân không còn thốt lên được tiếng nào nữa.

Vương Khế lặng lẽ nhìn thi thể Tạ phu nhân ngã xuống bậc thềm, không còn động đậy nữa: "Như phu nhân mong muốn."

Cuộc xung đột lập tức bùng nổ, Tạ Cánh trơ mắt nhìn người hầu trong phủ xông lên giữa mưa tên và giáo mác, dù không thể chống lại cấm quân, bọn họ vẫn không hẹn mà đồng loạt vây chặt lấy thi thể của Tạ phu nhân, bảo vệ bà ở giữa.

Y nhìn thấy Diêu thị tay không tấc sắt mạnh mẽ đoạt lấy thanh kiếm dài của Vũ Lâm Vệ, chém đứt dây trói trên người Tạ Tuấn, dùng khí thế thần cản giết thần, Phật ngăn giết Phật dọn dẹp mọi chướng ngại đưa cậu chạy ra tiền thính, sau đó xoay lưng lại, lấy thân mình làm khóa chắn trước cửa hông, bị truy binh một đao chém ngang cổ.

Y nhìn thấy ánh lửa đỏ rực bùng lên từ nội viện, như thể đó mới thật sự là nơi phải thiêu rụi trong đêm đông năm Trinh Hữu thứ mười bảy này. Y nhìn thấy bầu trời tảng sáng phủ kín mây dày xuống tận hiên nhà, rồi chỉ trong chớp mắt, cơn mưa lớn trút xuống như thác đổ, nhưng cớ sao cơn mưa ấy lại chẳng thể dập tắt ngọn lửa ngút trời kia?

Lửa không có tiếng động, mưa cũng không có tiếng động, cả tiếng người trút hơi thở cuối cùng cũng chẳng còn nữa.

Tạ Cánh bị ghì chặt xuống đất, dùng sức giãy giụa cũng không thoát nổi, hai mắt y không sao nhắm lại được, thảm kịch ở ngõ Ô Y ngày hôm nay đã in sâu vào từng ngày từng đêm còn lại trong cuộc đời y.

Cuối cùng, y ngẩng đầu lên, để mặc cơn mưa xối thẳng vào mặt, tầm mắt lập tức trở nên mơ hồ. Giữa sân nhà là một mảnh hỗn độn, bàn thờ sụp xệ, bình và gương ở hai phía Đông, Tây đã vỡ nát, vậy mà tấm biển "Bách Nhẫn Gia Thanh" vẫn kiên cố treo cao trước sảnh, chắc chắn đến tàn nhẫn.

Mà thanh đao treo trên đầu chữ "Nhẫn"* kia, sau trăm năm gồng gánh nhẫn nhịn gầy dựng vinh hoa, cuối cùng, ngay giờ phút này cũng đã đường hoàng hạ xuống.

<i>(*) Bên trên chữ Nhẫn - </i>忍<i> có chữ Dao - </i>刀<i> (dao, đao)</i>
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 101


<b>《</b><b> 24.3 </b><b>》</b>

Tạ Cánh bị áp giải đến dưới cầu Chu Tước. Y ngoái đầu nhìn lại, bầu trời phía trên ngõ Ô Y đã bị ánh lửa nhuốm màu ráng đỏ, gợi lên ký ức về buổi sáng chín năm trước, vào ngày Lục Thư Thanh chào đời. Đó là lần đầu tiên y cảm nhận được sự bất lực của việc "kết hôn cùng thiên gia", mà bánh xe vận mệnh đã lặng lẽ xoay chuyển từ rất lâu trước đó, định sẵn kết cục cho từng người.

Chỉ khi ngõ Ô Y đã hoàn toàn bị phong tỏa, Vũ Lâm Vệ mới nới lỏng tay, để mặc y chật vật quỳ rạp xuống đất, thế nhưng trên gương mặt ấy chẳng hề có vẻ bi thương hay rơi giọt nước mắt nào, chỉ có ánh mắt đờ đẫn ngước lên nhìn bọn họ, như thể linh hồn đã lìa khỏi thể xác.

Tên thủ lĩnh quay sang xin chỉ thị từ Vương Khế: "Đại nhân, cứ thế thả y đi sao?"

Vương Khế không quay đầu lại, vô cảm mở ô ra: "Mặc kệ cậu ta đi đâu thì đi, thành Kim Lăng rộng lớn như vậy, để xem nhà nào dám cho cậu ta vào."

Tạ Cánh không biết mình đã gắng gượng đứng dậy từ lúc nào, y loạng choạng chống đỡ thân mình, lê từng bước nặng nề đi về phía trước một cách vô định. Đến khi tinh thần dần tỉnh táo trở lại, y mới nhận ra cảnh vật trước mắt đã chẳng còn bóng dáng của ngõ Ô Y nữa. Quần áo ngủ và áo choàng bên ngoài đều đã ướt đẫm, quay đầu nhìn lại, phía sau chỉ có duy nhất một thân ảnh vẫn luôn lặng lẽ đi theo từ đầu đến cuối, đó chính là Y Vân đã cùng y đi đến Tạ phủ đêm qua.

"... Chúng ta đi đâu bây giờ?" Tạ Cánh giơ tay, vuốt bờm Y Vân, "Ta còn nơi nào để đi nữa?"

Y Vân dùng đôi mắt trong veo đơn thuần nhìn y, sau đó hơi cúi đầu xuống, giống như muốn bảo Tạ Cánh hãy trèo lên lưng mình.

Mười năm ở Kim Lăng, y đã cắm rễ quá sâu vào phủ Chiêu Vương, giống như lại được lớn lên trong chiếc bình mật ngọt ấy, tất cả mọi người xung quanh đều hết mực thương y - cha mẹ, anh trai, cháu trai đều thương y, những đứa con bé bỏng cũng thương y, Lục Lệnh Tùng thương y, thậm chí đến cả Diêu thị và Lục Lệnh Chân cũng thương y. Những việc y không muốn làm thì có thể không làm, những nỗi phiền muộn không muốn bận lòng cũng chẳng cần bận lòng.

Đến giờ, khi thật sự phải cắt đứt tất cả, Tạ Cánh mới bàng hoàng nhận ra sự ngây thơ của bản thân từ lâu đã tạo nên một vực thẳm ngăn cách y với thế giới bên ngoài. Y có thể sống tùy ý, bởi vì luôn có người đứng ra chống đỡ tất cả cho y. nhưng tách khỏi thân phận Chiêu Vương phi và tiểu Tạ công tử, y mới nhận ra bản thân chẳng thể đi nổi dù chỉ nửa bước.

Tạ Cánh vô thức muốn về bên cạnh các con, nhưng y không thể trở về phủ Chiêu Vương được nữa, phế truất còn nghiêm trọng hơn cả bị ruồng bỏ. Nhà họ Tạ đã chìm trong biển lửa, y còn có thể đi đâu đây? Đến nhà họ Ngô? Nhà họ Diêu? Trích Tinh lâu? Cung Thái Sơ? Hay là chiếu ngục...

Chiếu ngục!

Tạ Cánh nhanh chóng lục tìm từng cái tên, chức vị của những người từng là đồng liêu, đồng khoa, môn sinh, và thế giao của Tạ Dực, ai có thể giúp y vào chiếu ngục gặp được cha và anh trai bây giờ?

Nhạy bén cảm nhận được sự hoang mang lo sợ của Tạ Cánh, Y Vân bèn sải vó chạy nhanh như gió, đưa y về khu Thanh Khê, nơi tập trung phủ đệ của các quan lại ở phía Đông thành. Dù Hoàng đế đã bệnh nặng nhiều ngày không tảo triều, giờ này lẽ ra các gia tộc quyền quý cũng nên mở cửa đón khách rồi. Thế nhưng chạy dọc suốt con phố dài, đến cả một bóng người đi đường cũng chẳng thấy đâu.

Y tự trấn an bản thân, chắc là do mưa quá lớn khiến mọi người ngại ra ngoài mà thôi. Nhưng từng cánh cổng phủ cao vút, lạnh lùng khép chặt trước mắt lại tàn nhẫn nhắc nhở y rằng không phải như vậy. Thậm chí có vài người hầu len lén ló đầu từ cửa ngách nhìn ra, thấy bóng y thì lập tức cuống quít rụt người vào trong, nhanh tay đóng chặt cửa lại.

Tạ Cánh sững người trong chớp mắt, sau đó nhảy xuống ngựa, loạng choạng chạy đến bậc thềm trước một nhà, quỳ sụp xuống: "Vãn sinh Tạ Cánh khấu đầu bái kiến, xin thế bá mở cửa nghe chuyện!"

Bên trong cửa rõ ràng có tiếng bước chân dồn dập vang lên, nhưng khe cửa chẳng hé ra chút nào, y chỉ có thể cầm lấy tay cầm đập mạnh vào cửa, cố làm cho giọng nói của mình lấn át cả tiếng mưa: "Cầu xin thế bá niệm tình nhiều năm làm bạn, chỉ cần nói một câu vì nhà họ Tạ thôi cũng được!"

Lại nghe thấy trong viện có người nói: "Bản thân bỉ phủ còn khó đảm bảo, mong Tạ đại nhân hãy đi nơi khác!"

Tạ Cánh quỳ lui hai bước, đứng dưới mái hiên run rẩy một lát rồi xoay người lảo đảo đi về phía nhà khác ở đối diện: "Vãn sinh Tạ Cánh khấu đầu bái kiến, nhà họ Tạ hàm oan khó chữa, kính mong mở cửa nghe chuyện!"

Lúc này, khóa đồng ở bên trong bỗng kêu hai tiếng "răng rắc".

Y chưa từ bỏ ý định, lại đến nhà sát vách: "Vãn sinh Tạ Cánh khấu đầu bái kiến, cha và anh tôi đã bị giam vào ngục, xin ngài giúp tôi được vào ngục gặp họ!"

Chỉ nghe thấy lời đáp lạnh lùng: "Tạ Dực và Tạ Duyễn phải phục pháp thôi, tội thần mưu nghịch, gặp thế nào mà gặp?"

Tạ Cánh tiếp tục chạy dọc con phố, dừng lại trước từng phủ đệ của những quan viên mà y biết, thậm chí chẳng quen mặt, hai gối liên tục nện xuống đất, kiên trì đập cửa từng nhà, gọi đến khàn cả giọng.

"Vãn sinh Tạ Cánh khấu đầu bái kiến, xin thế thúc rủ lòng thương, giúp cho tôi được gặp họ!"

"Vãn sinh Tạ Cánh khấu đầu bái kiến, Vũ Lâm Vệ tự tiện xông vào ngõ ô y, sát hại người thân vô tội của tôi, cầu xin tiên sinh nghĩ cách nói giúp nhà họ Tạ!"

"Vãn sinh Tạ Cánh khấu đầu bái kiến, cầu xin đại nhân vào cung giúp chuyển lời, cho phép tôi được yết kiến thánh thượng để trần tình oan khuất!"

"Vãn sinh Tạ Cánh khấu đầu bái kiến!"

...

Cuối cùng, đến cả một tiếng hồi đáp cũng chẳng còn. Tạ Cánh cố gắng lắng tai nghe, nhưng y chẳng nghe thấy gì nữa.

Có lẽ không ít người trong số bọn họ đã từng bị y đóng cửa từ chối, từng chịu đựng thái độ lạnh nhạt của y năm đó. Khi còn đắm chìm trong những ngày tháng huy hoàng, phóng túng và ngông cuồng của tuổi trẻ, vì ngu ngốc mà y đã gieo xuống biết bao nhiêu nhân quả, giờ đây phải nhận lấy kết cục kết cục này cũng là đáng đời y. Nhưng nếu trời cao muốn trừng phạt thì cứ trừng phạt một mình y là được rồi, cha mẹ, anh trai và chị dâu y đều là người đức hạnh, chẳng hề làm gì sai trái, vì sao họ lại phải gánh chịu sự tàn nhẫn của số mệnh thay cho y chứ?

Thầy bại thì tớ cụp đuôi, lẽ ra y nên sớm hiểu ra điều này. Một khi rơi từ mây xanh xuống bùn lầy, những kẻ gió chiều nào theo chiều ấy, giỏi nhất trong việc bo bo giữ mình đó dù từng mang ơn cha và anh y há sẽ dám liều lĩnh dấn thân vào hiểm nguy, lên tiếng vì Trần quận Tạ thị?

"Vãn sinh Tạ Cánh... khấu đầu bái kiến..."

Lời còn chưa dứt, khuỷu tay Tạ Cánh đã bị ai đó đỡ lấy, động tác quỳ lạy chỉ thực hiện được một nửa, y mờ mịt ngẩng đầu, qua màn mưa mông lung, phát hiện chẳng biết từ khi nào bản thân đã đến trước phủ Thái phó, Trương Diên đẩy cửa ra.

Y lau nước mưa đầm đìa trên mặt, gọi, "... Thầy."

Trương Diên rủ mắt nhìn y: "Vào phủ thay quần áo trước đi đã."

Nhưng Tạ Cánh chỉ liên tục dập đầu lên bậc thềm đá, dồn dập khẩn cầu: "Không, không cần đâu, xin thầy giúp con, giúp nhà họ Tạ, xin thầy giúp con được gặp cha và anh con một lần!"

Trương Diên dừng động tác của y lại, bất lực thở dài rồi quay lại dặn dò: "Gọi xe ngựa, đến chiếu ngục."

Hạ nhân phủ thái phó vô cùng chu đáo, đốt chậu than trong buồng xe, chuẩn bị cả quần áo mới, áo khoác chống lạnh và trà nóng, quần áo Tạ Cánh ướt sũng dính sát vào cơ thể, nhưng y chẳng mảy may bận tâm.

Trương Diên ngưng mày suy nghĩ hồi lâu mới hỏi: "Con đã đến ngõ Ô Y rồi sao?"

Tạ Cánh gật đầu, Trương Diên hiểu ngay rằng y đã biết kết cục của mẹ, chị dâu và cháu trai của mình. Tuy rằng sự việc chỉ mới diễn ra cách đây chưa đến một canh giờ, nhưng những biến động trong thành Kim Lăng luôn được truyền đi rất nhanh, e là thần tử đầu đường cuối phố đều đã nghe được họa nhà họ Tạ rồi.

Trương Diên lại hỏi: "Phế bỏ vị trí Vương phi của con, thật sự là ý của điện hạ sao?"

"... Không phải ạ." Tạ Cánh khẽ đáp, "Nhưng đây đã là chuyện mà hiện tại hắn có thể làm vì con rồi, đối với con đây là chuyện hữu dụng nhất, chỉ có triệt để phủi bỏ quan hệ, mới không làm liên lụy đến Thanh Nhi và Ninh Ninh."

Trương Diên muốn nói lại thôi, ông trầm ngâm một lúc rồi đè lên đầu vai Tạ Cánh: "Chi Vô, thầy biết con đau lòng, nhưng bây giờ không phải lúc. Con không được lung lay. Phủ Tướng và Vũ Lâm Vệ lấy việc công làm việc tư, giết hại phụ nữ và trẻ em, về tình về lý đều không thể chiếm thế thượng phong. Giờ con phải tìm mọi cách bảo vệ những người còn sống, nghĩ xem làm thế nào tận dụng triệt để giá trị của đan thư thiết khoán."

Tạ Cánh lặng người, tập trung nhìn vào đống than cháy đỏ một lúc lâu: "Trước khi con và điện hạ thành thân, thầy đã từng khuyên con suy nghĩ kĩ. Có lẽ ngay khi ấy, thầy đã lường trước sẽ có ngày hôm nay."

Trương Diên thở dài một hơi thật khẽ: "Hẳn là cha con cũng từng dặn dò, phải đề phòng tai họa diệt môn."

"Là con sai rồi sao?" Tạ Cánh khàn giọng hỏi, lại như tự lẩm bẩm, "Thầy ơi, là con hại bọn họ sao?"

Trương Diên nhìn y đầy cảm thông, im lặng một lúc lâu rồi bỗng nói một câu không đầu không đuôi: "Con vốn đã có cơ hội tránh được một kiếp rồi đấy thôi."

Chiếu ngục và cấm quân vốn không thuộc cùng một hệ thống, vậy mà Tạ Cánh vẫn trông thấy bóng dáng của Vũ Lâm Vệ canh giữ bên ngoài cổng lớn. Y theo Trương Diên bước xuống xe. Đám binh lính còn chưa kịp lên tiếng ngăn cản thì Trương Diên đã vung tay áo, giơ tay để lộ một vật - chính là chiếc nhẫn ban chỉ bằng sừng tê giác mà Hoàng đế vẫn mang bên mình suốt bao năm qua

Thứ này có hiệu lực chẳng khác nào thiên tử đích thân đến tận nơi. Đừng nói là ra vào chiếu ngục, đi thẳng vào cấm cung cũng không ai dám cản đường. Vũ Lâm Vệ chỉ nhận được lệnh để mắt nghiêm ngặt đến cha con Ngự sử đại phu, Vương tướng cũng không dặn dò gì thêm về việc cấm người khác vào thăm tù. Huống chi, hai tay thư sinh trói gà không chặt như Trương Thái phó và Chiêu Vương phi đây cũng không đủ khả năng cướp ngục, thế nên chúng đành để họ vào trong.

Tạ Cánh chỉ biết Trương Diên được Hoàng đế tín nhiệm, nhưng không ngờ đến cả nhẫn ban chỉ mà ông cũng có thể giữ, chẳng lẽ Hoàng đế cần làm việc gì không tiện đích thân ra mặt, muốn nhờ Trương Diên làm thay hay sao? Nhưng trong lòng y như có lửa đốt, chỉ muốn được gặp cha và anh trai ngay lập tức nên không kịp nghĩ nhiều, bèn vội vã chạy vào bên trong.

Tạ Dực và Tạ Duyễn dù chưa bị dùng hình, nhưng bởi vì cả hai người đều kiên quyết không thừa nhận ngọc tỷ Lam Điền có liên quan đến Tạ Cánh, nhận toàn bộ tội về mình, vậy nên đều bị giam ở buồng giam trọng phạm nằm sâu nhất trong chiếu ngục.

Trương Diên không theo cùng, chỉ dặn dò: "Nghe lời cha và anh con nói, nhớ không được hành động theo cảm tính."

Đêm qua, bên ngoài nhà lao long trời lở đất, hai người trong lao cũng tiều tụy cả đêm, như thể đã già đi mười tuổi, khi Tạ Cánh tìm đến, cha y vẫn ngồi xếp bằng đối diện với vách tường gạch, mặt không đổi sắc, nhưng ánh mắt dưới ngọn đèn yếu ớt đã trở nên vẩn đục.

Y chỉ có thể im lặng, nhẹ nhàng quỳ gối bên ngoài song sắt.

Tạ Duyễn phát hiện ra sự có mặt của Tạ Cánh ở đây trước, anh lao tới bắt lấy cổ tay y, dường như vẫn chưa nhận ra điều gì, cẩn thận dò xét một lượt, thấy y vẫn bình an, anh vội hỏi: "Trong nhà thế nào rồi? Mẹ và bọn họ đã bị đưa đi rồi à? Chị dâu em và Tuấn Nhi thì sao?"

Tạ Cánh hé miệng rồi khép lại, y hoàn toàn không thể nói ra nỗi thảm khốc mà ngõ Ô Y đã phải gánh chịu. Thực tế, mãi đến khi nghe Tạ Duyễn đặt câu hỏi, y mới chậm chạp nhận ra bản thân vừa rơi vào nỗi đau đớn tột cùng vì đã mất đi ba người thân yêu nhất. Y bàng hoàng nhận ra mẹ y, chị dâu và cháu trai của y không phải đang trở về quê hay đi xa nữa, họ đã chết rồi.

Nhanh như vậy, đơn giản như vậy, bọn họ đã âm dương cách biệt với y, từ nay về sau không còn cơ hội gặp lại nữa.

Tạ Duyễn không nhận được câu trả lời. vô thức lắc tay y: "... Chi Vô, em nói gì đi chứ!"

Tạ Cánh dần phát run mất kiểm soát theo từng cú lay của anh trai, sắc mặt y trắng bệch, trán đẫm mồ hôi lạnh, hai cánh môi tím tái, răng va vào nhau lập cập, cả người cứ thế run lên bần bật.

Tạ Duyễn sững người giây lát, rồi đột nhiên buông tay, lùi lại nửa bước, đứng yên bất động, không thốt nổi thêm lời nào.

Giữa sự im lặng kéo dài tưởng như vô tận, Tạ Cánh chậm rãi thốt ra từng chữ, giọng run rẩy: "Đã qua biết bao triều đại, kết hôn cùng thiên gia, chẳng có dòng tộc nào không bị diệt môn, đó chỉ là chuyện sớm muộn."

Tạ Dực vẫn luôn ngồi lặng lẽ trong góc phòng, từ đầu đến cuối chẳng hề lên tiếng, nghe được lời ấy, cuối cùng cũng chậm rãi mở miệng: "Trước khi con gả vào phủ Chiêu Vương, cha đã từng bàn bạc với mẹ con, rằng nếu một ngày nào đó gặp họa diệt môn, chúng ta nên đối phó thế nào."

Ông nâng bàn tay già nua đầy nếp nhăn lên, không biết muốn vẽ ra hình bóng ai đó trong không trung: "Cha nói, nếu muốn giữ gìn thanh danh cho Trần quận Tạ thị thì không tránh khỏi việc phải có người hy sinh. Nhưng bà ấy lại nói, danh tiết chỉ là chuyện nhỏ, nếu có thể giữ được tính mạng cả nhà thì dù mang tiếng xấu cả đời cũng có làm sao?"

"Không ngờ đến tận hôm nay," Tạ Dực quay đầu nhìn lại, nước mắt đã tuôn đầy mặt, "Cha muốn giữ mạng cho bà ấy, bà ấy lại muốn giữ lấy thanh danh cho cha."

"Ta luôn kính trọng Tạ đại nhân giữ mình thanh liêm, lòng dạ chân thành." Giọng nói của Vương Thục vang lên từ trong bóng tối. Đến lúc này, Tạ Cánh mới nhận ra không biết từ bao giờ đối phương đã lặng lẽ đứng sau lưng y.

"Rời khỏi quan trường, ta và Tạ đại nhân vốn chẳng có hiềm khích gì. Lang Gia Vương thị và Trần quận Tạ thị từ thời Tấn đã là láng giềng ở ngõ Ô Y, giao tình thông gia kéo dài đến nay. Đời này, nếu không vì chuyện tranh đoạt trữ vị, ta và ông vốn dĩ không nên đối đầu như nước với lửa thế này."

"Uy lực của đan thư thiết khoán, tại hạ vô cùng tâm phục; vinh quang mà công trạng của tam công mang lại, ta cũng rất ngưỡng mộ. Tạ đại nhân và hai vị công tử cốt nhục tình thâm, ta cũng là người làm cha, trong lòng không khỏi đồng cảm. Tự nhiên không đành lòng đuổi tận giết tuyệt, gây khó dễ cho quý phủ."

"Chỉ là hoàng mệnh có phạm, bệ hạ nảy lòng nghi ngờ sẽ ra tay với nhà họ Tạ, phủ Tướng bị kẹp giữa cũng khó xử." Vương Thục giữ nguyên thái độ khách sáo, treo nụ cười trên môi, "Không bằng chúng ta chọn một cách chiết trung, đan thư thiết khoán có thể miễn tội chết cho một người mang huyết mạch nhà họ Tạ - còn người đó là ai, ba vị tự mình quyết định đi, thế nào?"

Tạ Cánh sững sờ. Chợt nhớ lại lời của Vương Khế, rằng "Hãy chờ xem đan thư thiết khoán sẽ được sử dụng như thế nào", giờ y mới tỉnh ngộ, thì ra ngay từ đầu, tính toán của phủ Tướng chính là muốn trong ba người còn sống sót của nhà họ Tạ bọn họ, chỉ có một người tránh được kiếp nạn này.

Thấy cha con Tạ Dực đều im lặng, Vương Thục chỉ lắc đầu: "Muốn ai sống thì người đó được sống, thế chẳng phải đã nhân từ hết mức rồi hay sao?"

Lão tiếc nuối nói: "À, không phải ba vị muốn nhường đan thư thiết khoán này cho các vị phu nhân, hay là tiểu công tử đấy chú? Tiếc quá, là do bọn họ không muốn đến nơi này mà, tại hạ cũng hết cách rồi."

Tạ Cánh lập tức bùng nổ, lao lên túm chặt cổ áo Vương Thục: "Hơn trăm mạng người nhà họ Tạ đè trên vai phủ Tướng các người, Vương tướng cẩn thận kẻo nửa đêm nằm ngủ chẳng yên, bị oan hồn tìm đến đòi mạng đấy!"

Vương Thục giống như nghe được chuyện gì nực cười lắm: "Kẻ ban cho kim bài miễn tử kia là người chết, còn người quyết định 'cái chết' có thể miễn hay không lại là người sống. Lại nói, người chết dù có lập bao nhiêu công trạng hiển hách đi nữa, cũng chẳng thể ngăn được chuyện người sống muốn làm." Nói đến đây, nụ cười trên môi lão đã tắt hẳn, chỉ còn lại vẻ lạnh lùng châm chọc lộ ra không chút che giấu: "Trăm mạng người đó không phải đè trên vai phủ Tướng đâu, mà sẽ đè lên vai ngươi đấy, Vương phi à."

Tạ Cánh cứng đờ, lồng ngực đau nhói như bị kim châm, Vương Thục đẩy y ra, phủi phẳng vết nhăn trên cổ áo, hờ hững nói: "Thánh thượng còn thiếu kiên nhẫn hơn ta nhiều, ba vị nên nhanh chóng quyết định đi."

Ngoài hành lang có gió thổi tới, ngọn đèn dầu trên vách tường chập chờn lay động, cuối cùng lắc lư một hồi rồi tắt ngấm, bóng tối lập tức nuốt trọn cả nhà lao. Xa xa có giọt nước lạnh lẽo tí tách rơi trên nền đá, không biết đã lạnh lùng rơi như thế bao nhiêu năm tháng rồi.

Tạ Cánh nghe thấy sau lưng lại có tiếng bước chân, người đến dường như mang theo ánh lửa, bởi vì y nhìn thấy gương mặt cha và anh trai lần nữa được ánh sáng chiếu rọi, mà cả hai chỉ im lặng nhìn y.

Đó chính là đáp án của họ.

Đối với Tạ Dực và Tạ Duyễn mà nói, hai chữ "lựa chọn" vốn chẳng hề tồn tại - dù là viên sủi cảo bọc đồng xu nho nhỏ trên bàn cơm tất niên, hay là cơ hội trốn thoát, với bọn họ, Tạ Cánh chưa bao giờ là một sự lựa chọn, mà là đáp án duy nhất.

Tạ Cánh lui lại hai bước, quả quyết nói: "Không..."

Tạ Duyễn chỉ nở nụ cười khổ sở: "Em phải sống."

"Không!" Tạ Cánh không chấp nhận nổi, liều mạng lắc đầu, "Không muốn! Em không muốn! Xin đừng nhường lại cho em... Đừng để em lại một mình, chẳng bằng để em chết đi!"

Vương Thục đứng một bên, mỉm cười nói: "Chư vị chắc là hồ đồ rồi, sao lại nói lung tung thế này? Ai bảo chờ đợi nhà họ Tạ nhất định là tội chết? Cớ gì Vương phi lại lo lắng đến chuyện 'sống sót một mình' như vậy? Thánh chỉ còn chưa ban xuống, đừng vội vàng chụp cho phủ Tướng tội tày trời này chứ!"

Tạ Duyễn không nhìn lão ta lấy một cái, mà vẫn chuyên chú nhìn em trai: "Ông ta nói đúng, nhớ cho kĩ, em chẳng có hận thù gì cả, cũng không có kẻ thù nào chờ em báo thù, em chỉ cần sống cho tốt, sống lâu trăm tuổi là được."

Tạ Cánh gần như vừa bò vừa lăn đến bên cửa nhà lao, vươn tay muốn chạm vào người cha y: "Cha, cha cho con được chết đi, cho con đi phụng dưỡng mẹ con đi!"

Nhưng Tạ Dực chỉ bình tĩnh nói: "... Đứa nhỏ này, con nào phải sống một mình đâu chứ?"

"Cha và anh con ngoại trừ con ra, đời này đã chẳng còn ai để nhớ mong rồi. Nhưng con vẫn còn có Thanh Nhi và Ninh Ninh mà. Nếu như không có con, chúng phải sống làm sao bây giờ?"

Trong khoảnh khắc trước mắt Tạ Cánh trở nên mơ hồ.

Y đã mất đi mẹ của mình rồi. Chẳng lẽ các con của y cũng phải đi vào bước đường này, mất đi mẹ của chúng hay sao?

Tạ Dực nhìn y cười từ ái: "Bọn cha đi trước, xuống dưới đoàn viên, chờ đến trăm năm con nhắm mắt xuôi tay, cũng có người đến đón... Lúc còn nhỏ, trên đường đến Kim Lăng ăn Tết, con cũng bị lạc đường rồi ngồi khóc to trước cửa nhà đấy, có nhớ không?"

Tạ Cánh điên cuồng lắc song sắt, xiềng xích phát ra âm thanh chói tai, nhưng Tạ Dực vẫn ngồi thẳng lưng ở chỗ cũ, chẳng hề nhúc nhích.

"Xem ra là chọn xong rồi nhỉ?" Vương Thục vỗ tay, nhìn sang người đến sau, "Vậy điện hạ..."

Người thứ năm có mặt lên tiếng: "Bệ hạ nghe nói Tạ Chi Vô tự tiện xông vào chiếu ngục, ra lệnh ta đến cho lui người không có phận sự, để Vương tướng thuận tiện tra án."

Tạ Cánh hoảng sợ quay đầu, nhìn thấy người đang được ánh đèn bao phủ, chính là Lục Lệnh Tùng.

Đèn dầu chiếu sáng mặt hắn đến rõ ràng, Tạ Duyễn ở trong lao nhìn thấy, lúc này mới biến sắc, chửi ầm lên: "Điện hạ còn có mặt mũi đến đây sao? Những năm qua ngài nhẫn nhục chịu đựng, diễn cũng vất vả quá rồi!"

Lục Lệnh Tùng thờ ơ phì cười: "Sao ta lại không có mặt mũi được chứ? Mười năm qua phủ Chiêu Vương chưa từng bạc đãi y dù chỉ một ngày. Con y sinh ra là thế tử, quận chúa tôn quý đứng trên vạn người, ăn mặc dùng toàn kỳ trân dị bảo, ta có từng nợ y thứ gì chăng?"

Tạ Duyện xùy một tiếng: "Nếu chỉ vì hưởng vinh hoa phú quý, thằng bé cần gì phải khổ sở gả cho ngài? Nó chịu bao nhiêu uất ức, nếm trải bao nhiêu khổ cực, tiền đồ đứt đoạn, đến giờ lại mất đi gia đình! Nó chưa từng phạm phải tội thất xuất, một lòng si mê yêu thương ngài. Điện hạ à, giờ ngài phụ lòng nó, phản bội nó, bỏ rơi nó! Trần quận Tạ thị đã nợ ngài điều gì sao? Mẹ già ngoài sáu mươi của ta lại có tội tình gì? Vợ con chết oan của ta có thù hận gì với ngài kia chứ?!"

Lục Lệnh Tùng nghe đến cuối cùng, sắc mặt thoáng cứng lại, nhưng hắn đã nhanh chóng che giấu đi nét thất thần đó, lạnh lùng nói: "Tạ đại nhân muốn đổ hết tội lỗi lên đầu ta, vậy thì tùy ngài thôi, ngài cứ việc trút giận, nhưng ta nói rõ cho ngài biết, nhà họ Tạ sa sút đến nước này, đều là do Tạ Chi Vô y gieo gió gặt bão, chẳng thể trách ai được!"

Vương Thục thích thú đứng nhìn hồi lâu, lúc này mới nói: "Điện hạ, không còn sớm nữa, cần gì phải dây dưa?"

Lục Lệnh Tùng không nhiều lời nữa, chỉ đưa tay luồn qua xương sườn Tạ Cánh, xốc y từ dưới đất lên lôi thẳng ra ngoài. Tạ Cánh vùng vẫy dữ dội, cố sức quay đầu lại nhìn cha và anh lần cuối nhưng cổ đã bị giữ chặt, trong tầm mắt chỉ còn thấy Vương Thục đứng cuối hành lang, gương mặt ẩn nấp trong bóng tối.

Vì Vương Thục dẫn Vũ Lâm Vệ vào đóng giữ nên đám sai dịch của chiếu ngục đã tạm thời bị đuổi đi. Quãng đường ngắn tới công đường chưa đến hai mươi bước tĩnh mịch không người canh giữ, chẳng ai nhìn rõ bọn họ, cũng không ai biết họ đang nói gì.

Phần gáy của Tạ Cánh bị Lục Lệnh Tùng dùng tay giữ lấy, cảm giác như bị chia thành hai thế giới - lòng bàn tay nóng ấm rịn đầy mồ hôi, và miếng ngọc trắng lạnh buốt đến thấu tim.

Là miếng ngọc mà y đã kín đáo trao cho Lục Lệnh Lùng vào đêm trước khi rời khỏi Vương phủ.

Lục Lệnh Tùng không chút lưu tình kéo Tạ Cánh đi về phía trước, đưa y đi càng lúc càng xa cha và anh mình. Một tay hắn siết chặt miếng ngọc lạnh buốt, tay còn lại khóa chặt lấy gáy y, kề sát bên tai, giọng điệu dồn dập nhưng vô cùng khẽ khàng: "Em nói gì, bảo bối, em muốn nói gì?"

Tạ Cánh đã không còn sức cất giọng, Lục Lệnh Tùng đành phải nhìn khẩu hình của y, chỉ thấy Tạ Cánh bấu chặt lấy đầu vai hắn, tuyệt vọng lẩm bẩm: "... Đừng bỏ em lại một mình."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 102


<b>《</b><b> 24.4 </b><b>》</b>

Bên ngoài chiếu ngục đã chẳng còn thấy bóng dáng Trương Thái phó đâu, chỉ có chiếc xe ngựa đưa Lục Lệnh Tùng vào cung là đang dừng ở đó, cùng với Y Vân theo tới từ thành Đông.

Nhìn thấy hai chủ nhân thân quen nhất xuất hiện trước cửa, nó hưng phấn giậm nhẹ bốn vó, nhưng bất thình lình thấy Lục Lệnh Tùng thả lỏng tay, Tạ Cánh mất đi điểm tựa ngã xuống bậc thang, Y Vân bèn thở phì phò mấy tiếng, vừa sợ vừa nghi nhìn hết người này đến người kia.

Vũ Lâm Vệ đứng hai bên đều nắm chặt binh khí, nhìn không chớp mắt, như thể Tạ Cánh vốn không tồn tại, Lục Lệnh Tùng cũng không liếc nhìn y thêm lần nào nữa, chi bước thẳng lên xe ngựa rời đi.

Tạ Cánh nằm thẳng xuống mặt đất ẩm ướt không nhúc nhích, đêm qua y chỉ ngủ hơn một canh giờ, sau đó cảm xúc dao động quá độ, trải qua sinh ly tử biệt, dù là thể xác hay tinh thần cũng đều đã đến giới hạn.

Y Vân cúi sát xuống người y, giấu phần đầu của Tạ Cánh bên dưới cổ mình như đang che mưa cho y.

"Phiền ngươi một chuyến cuối cùng thôi, đưa ta vào cung đi," Không biết đã qua bao lâu, Tạ Cánh mới khàn giọng nói, "Rồi ngươi quay về Vương phủ, ăn một bữa no nê, sau đó ngủ một giấc cho thỏa nhé."

Y Vân nửa hiểu nửa không, chờ Tạ Cánh lên ngựa ngồi ngay ngắn, nó bèn tung vó chạy thẳng một đường đưa y đến cung Thái Sơ. Thị vệ bên ngoài cung ngăn y lại, Tạ Cánh chỉ bình tĩnh nói: "Bệ hạ thứ cho ta vô tội, các ngươi không biết sao? Dù ta không còn là Chiêu Vương phi, nhưng vẫn còn chức vụ ở Lễ bộ, vẫn là mệnh quan triều đình, các ngươi thật sự muốn cản ta sao?"

Thị vệ đành lục soát người y theo lệ của triều thần, sau đó thả cho y vào. Tạ Cánh bước đi yếu ớt, giống như một du hồn không chốn nương tựa men theo quan đạo đi đến Công Xa môn, ngước mắt lên nhìn bảng chữ triện sơn vàng bên trên, sau đó quỳ thẳng người, dập đầu xuống đất.

Khi Lục Lệnh Tùng trở về Vương phủ, biến cố của ngõ Ô Y đã truyền khắp hai bờ sông Tần Hoài, trạch viện ngày nào cũng vang lên tiếng cười nói đùa vui không ngớt, giờ chỉ còn lại bầu không khí yên tĩnh và nghiêm trọng khác thường.

Lục Thư Thanh đứng chờ ở cửa chính, thấy hắn về bèn vội vàng chạy đến nhào vào lòng cha. Lục Lệnh Tùng ôm lấy cậu bước nhanh vào trong: "Ngoan nào, vào nhà rồi nói."

Vào nhà, hắn quay lại dặn dò tiểu tư: "Khóa cửa lớn, từ hôm nay Vương phủ từ chối tiếp khách, ai đến cũng không gặp."

Lục Thư Thanh ôm một bụng lo lắng, cậu chưa bao giờ thấy dáng vẻ nghiêm túc như vậy của cha mình, nhanh chóng bị dọa sợ đỏ mắt. Lục Lệnh Tùng cúi đầu trông thấy vậy, cảm xúc trong lòng bỗng dưng hỗn loạn, vươn một tay ra ôm cậu vào lòng: "Thanh Nhi..."

"Mẹ đi đâu rồi ạ? Nhà ngoại đã xảy ra chuyện gì? Vì sao đêm qua phòng ngủ của Ninh Ninh lại bị cháy ạ?"

Lục Lệnh Tùng đờ đẫn đối mặt với hàng loạt ngờ vực của con trai, căn bản chẳng biết bắt đầu từ đâu. Trên đường về nhà hắn phải cho người thám thính, mới biết được những câu chất vấn của Tạ Duyễn chẳng phải khi không mà có, Tạ phu nhân và mẹ con Diêu thị thật sự đã chết ở ngõ Ô Y vào đêm qua, chết dưới đao kiếm của nhà họ Vương và Vũ Lâm Vệ.

Hiển nhiên là vì Tạ Cánh chưa nói chuyện bọn họ chỉ giả vờ đoạn tuyệt cho cha và anh biết. Tạ Duyễn là người thẳng tính, tinh thần và tâm trạng rối ren đến cùng cực nên mới oán hận hắn, âu cũng là chuyện bình thường; nhưng không biết người tâm tư kín đáo lão lạt như Tạ Dực có nhìn thấu kế này hay không.

Dù sao đi nữa, Lục Lệnh Tùng cũng không so đo việc cha anh của Tạ Cánh gán tiếng xấu cho mình. Điều khiến hắn bó tay chịu trói, đó là hắn không biết cách giải thích chuyện này cho bọn trẻ. Hẳn phải nói cho Lục Thư Thanh như thế nào, để cậu biết rằng cha đã phế truất vợ của mình, vứt bỏ mẹ của con, nếu phải nói một cách chính xác, thì giờ đây y đã không còn được coi là mẹ của con nữa.

Hắn phải nói với Lục Thư Thanh như thế nào, rằng mẹ con và nhà ngoại đã bị mưu hại, gặp phải tai họa ngập đầu, rằng bà ngoại, mợ và anh họ của con, những người thân yêu nhất của con đã trở thành oan hồn nơi suối vàng, mà kẻ thao túng tất thảy, rất có thể chính là tổ phụ của con - người đã ban cho con những đặc ân khác biệt.

Đoạn tuyệt và phụ lòng, giết chóc và cái chết, hắn phải giải thích tất cả những chuyện này thế nào cho đứa con trai hãy còn trẻ dại, luôn được nâng niu cưng chiều và chẳng rành thế sự của hắn đây?

Hồi lâu không nhận được câu trả lời, Lục Thư Thanh lo lắng gọi: "Cha ơi!"

"Thanh Nhi à," Lục Lệnh Tùng hoàn hồn, nói: "Nếu như mẹ con không về được thì phải làm sao bây giờ?"

Lục Thư Thanh rõ ràng thoáng sững người, sau đó vòng tay qua gáy của cha cậu ôm chặt gáy hắn, không nói gì nữa.

Hai người đi vào sảnh chính, gặp được cậu của Lục Lệnh Tùng là Ngô Khâm, Lý Kỳ và Tiêu Dao cũng đang ở đây, bác Chu và Ngân Trù thì đứng một bên. Nhưng người lớn dù không rõ chi tiết vụ thảm án lắm, nhưng đều ăn ý để tâm đến Lục Thư Thanh còn ngây thơ, không ai hỏi thẳng ra.

"Ninh Ninh đâu?" Lục Lệnh Tùng hỏi.

"Đêm qua quận chúa sợ hãi, giày vò suốt nửa đêm," Bác Chu đáp, "Giờ này vẫn còn đang ngủ."

Tiêu Dao tiếp lời: "Yên tâm đi, có người của Tuyên Thất trông coi nhà sau, ở Vương phủ sẽ an toàn tuyệt đối."

Lục Lệnh Tùng thở phào một hơi, vuốt giữa đầu mày: "Ta mới từ chiếu ngục về, chỉ không phải lo lắng về tính mạng, nhưng sợ là sau khi kết án sẽ khó mà ở lại kinh thành."

Ngô Khâm trấn an: "Nhà mình trong và ngoài kinh, ở tất cả các huyện đều có thôn trang, thu xếp cho Vương phi một nơi ở gần đây đều không phải vấn đề, cố tránh tai mắt chừng nửa năm, chờ cho tình hình dịu lại, thường xuyên gặp mặt chẳng phải cũng dễ dàng sao?"

Lý Kỳ cũng nói: "Huống chi bệ hạ cũng sắp... Đan thư thiết khoán đã giúp Vương phi thoát tội, phủ Tướng cũng không thể truy cứu thêm nữa, chờ cho vị ở điện Thần Long kia nguôi giận thì lại đưa Vương phi trở về, ai còn có thể ngăn được nữa?"

Thế nhưng Tiêu Dao lại lắc đầu: "Không đơn giản như vậy đâu. Bệ hạ mượn tay phủ Tướng để quét sạch nhà họ Tạ không chỉ vì kẻ sắp chết chẳng đáng bận tâm, mà còn bởi vì không muốn tự làm bẩn tay áo. Lòng kiêng dè phủ Tướng của ngài ấy so với nhà họ Tạ chỉ hơn chứ không ít, sao có thể dễ dàng chắp tay hào phóng giao cơ hội tốt để phủ Tướng bênh che bè cánh, một nhà độc đại được? Chắc hẳn là còn giấu hậu chiêu."

Nàng mím môi, quan sát thần sắc của Lục Lệnh Tùng một phen, rồi lại để mắt đến Lục Thư Thanh, thử dò hỏi: "Trước mắt, ý định của điện hạ thế nào?"

Lý Kỳ nhân lúc này nhắc nhở: "Ba nghìn quân Hổ Sư đã đang chờ ở ngoài thành rồi."

Ngô Khâm nghe vậy, cau mày nhìn Lục Lệnh Tùng, nói một câu đầy hàm ý: "Điện hạ chớ quên, Quý phi và Trưởng công chúa vẫn đang ở trong cung, một khi phủ Tướng và Hoàng hậu chất vấn, chỉ sợ họ sẽ trở thành mục tiêu chịu thiệt trước nhất."

Lục Lệnh Tùng im lặng hồi lâu mới lên tiếng: "Vũ Lâm Vệ nay đã bị phủ Tướng khống chế trong tay, quân kinh kỳ tuy quân số áp đảo, nhưng thủ lĩnh chỉ thích làm theo ý mình, vài châu phủ lân cận kinh đô lại nghe theo mệnh lệnh của thiên tử, nếu như phụ hoàng đốt lửa hiệu, rất có khả năng bọn họ sẽ xuất binh tiếp viện. Trước sau có địch, thập diện mai phục, chỉ bằng quy mô của Hổ Sư hiện tại cùng với binh lực trong ngoài kinh có thể lập tức điều động để chống đỡ thì vẫn chẳng khác nào lấy trứng chọi đá."

"Hoài Bắc đã có lưu dân làm loạn mấy ngày liền, bởi vì phụ hoàng bệnh nặng, Thượng Thư đài vẫn cứ dây dưa không triển khai, tạm gác đối sách, cũng không phái binh dẹp loạn. Nếu có thể tìm lối tắt, trước tiên ta sẽ mượn cớ bình định, danh chính ngôn thuận mở rộng Hổ Sư, lập cờ hiệu, tùy thời mà giải quyết nguồn cung binh lính, quân phí, lương thảo, đợi thêm một thời gian, ta chắc chắn có thể khiến cho trong kinh kiêng dè, không dám làm bậy."

Lời nói xoay chuyển, hắn do dự nói: "Nhưng mà..."

Ngô Khâm đã sớm nghĩ đến chuyện kia, vừa rồi cũng đã lên tiếng chỉ điểm. Tiêu Dao và Lý Kỳ không góp ý thêm, trong lòng đều rõ ràng, bước cờ "lý trí" này có thể mang đến hậu quả gì.

Lục Lệnh Tùng thở dài, nhìn Lục Thư Thanh: "Nếu là mẹ con, em ấy sẽ lựa chọn thế nào đây?"

Hắn xuyên qua đôi mắt kia để nhìn một người khác, hỏi từ tận đáy lòng, Chi Vô, em sẽ lựa chọn thế nào?

Em có chọn dẫn đội quân riêng chẳng có thành tựu gì đánh thẳng vào kinh thành, thẳng thừng cắt đứt quan hệ với con cái, mẹ và em gái cùng tất thảy quan hệ thông gia, phe cánh, lấy cái giá gần như không có khả năng thành công, đổi lấy hai người thân duy nhất còn sống của nhà vợ hay không? Con đường sống của vợ em là do cha và anh của y đánh đổi mạng mình để có được, liệu em có đem tia hy vọng mong manh ấy để đặt cược cho một ván cờ không hồi kết, mạo hiểm đến mức có thể đánh mất y mãi mãi hay không?

Lúc trước, mong muốn ban đầu của phủ Chiêu Vương khi nuôi dưỡng Hổ Sư chính là để phòng ngừa tai họa trời giáng mà không có sức đánh trả, nhưng đến giờ phút này, sự thật tàn khốc vẫn giáng xuống như một đòn cảnh cáo, mang đến bài học đầm đìa máu thịt khiến họ phải hối hận suốt đời - thời gian không đủ, tầm nhìn không xa, bọn họ ngu trung, ngu thiện, lại ngây thơ xem hoàng quyền như trò đùa!

Giá như họ sớm bắt tay xây dựng Hổ Sư, giá như những năm tháng ấy họ bớt ảo tưởng và tô vẽ thái bình, bớt say sưa đắm chìm trong giấc mộng phong hoa tuyết nguyệt một chút, thì người rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan hôm nay có lẽ đã không phải là họ.

Lục Thư Thanh cảm thấy khó hiểu trước câu hỏi bất chợt của Lục Lệnh Tùng, cũng chưa đủ sức phỏng đoán mối nguy mà Trần quận Tạ thị gặp phải qua cuộc đối thoại của các vị trưởng bối. Nhưng cậu có thể hiểu được thần sắc của Lục Lệnh Tùng, người cha vẫn luôn trầm ổn, anh dũng và thuần thục của cậu, lúc này thật sự không thể nhìn thấy con đường phía trước.

Cậu chỉ có thể đáp vẻn vẹn một câu: "Cha, con không biết nữa."

"Cha cũng không biết. Nhưng chỉ là cha không chịu nổi việc cứ phải ngồi chờ đợi như thế này nữa." Lục Lệnh Tùng nhẹ nhàng vỗ lên lưng Lục Thư Thanh, cậu lập tức ngoan ngoãn trượt xuống khỏi đầu gối hắn.

"Muộn nhất là đêm nay, ta phải nghĩ cách vào ngõ Ô Y..." Hắn đứng dậy, quay mặt về phía mọi người, khó khăn nói ra hai chữ cuối cùng: "Tẩm liệm."

Mưa đông lạnh thấu tận xương, là cơn mưa xối xả hiếm có nhiều năm nay ở Kim Lăng, người người đều coi đây là điềm gở. Tạ Cánh sợ mưa lạnh mùa đông còn hơn cả cái nóng gay gắt mùa hè, nhưng cái lạnh đến cứng đờ trên thân thể y lại chẳng thể nào chống đỡ nổi sự rét buốt từ tận đáy lòng.

Y chỉ biết trời tối rồi lại sáng, sáng rồi lại tối, trong cấm đình ngoài Công Xa môn, các nội giám cung nữ, lính Vũ Lâm Vệ tuần tra xếp hàng đi qua liên tục đều chỉ để lại cho y một ánh nhìn đầy sợ hãi; thỉnh thoảng có triều thần được triệu vào cung cũng chỉ đứng nhìn từ xa, không dám dừng lại nói với y dù chỉ một câu.

Trong lúc đó, y thậm chí còn nhìn thấy Lục Thư Ninh một lần.

Ngô thị ôm em rời khỏi điện Thần Long, vì mưa quá lớn, họ đành phải tạm trú dưới mái hiên. Đương nhiên Lục Thư Ninh đã lập tức nhận ra người đang quỳ gối ở cách đó không xa chính là mẹ của em. Đã hơn một ngày đêm em không được gặp mẹ, không được mẹ hôn và ôm vào lòng.

Nhưng vì sao mẹ trông chẳng giống như ngày thường chút nào? Vì sao vầng trán trắng trẻo như tuyết của mẹ lại dính đầy máu và vết bẩn?

Lục Thư Ninh không hiểu mà vẫn muốn nhìn cho kĩ, em bất an giãy giụa trong ngực tổ mẫu, nhưng Ngô thị đã chợt giơ tay lên, nhẹ nhàng che đi mắt em.

Vậy nên Tạ Cánh vốn chưa kịp chạm mắt với Lục Thư Ninh, chỉ trông thấy chiếc áo choàng màu xanh lá mạ của em, sửng sốt trong một cái chớp mắt rồi lại vô cảm cúi đầu xuống. Y đã hoàn toàn đánh mất khái niệm thời gian, máu chảy dọc theo lông mày và lông mi của y, nhỏ xuống, đọng lại thành một vũng nhỏ dưới nền đá trước mặt.

Cho đến chạng vạng ngày thứ ba, khi kẻng báo tang sầu não vang lên tứ phía, tất cả mọi chuyện mới được tuyên bố chấm dứt.

Tháng Chạp năm Trinh Hữu thứ mười bảy, Hoàng đế không thể gắng gượng với bệnh tật được nữa, trước khi lâm chung, bên cạnh ông chỉ có nội giám Chung Triệu và Thái phó Trương Diên.

Khi rời khỏi điện Thần Long, Trương Thái phó còn mang theo di chiếu của thiên tử, chiếu truyền ngôi vua cho đích tử Lục Lệnh Chương. Đối với Trần quận Tạ thị vì tội danh tư tàng quốc tỷ - phế Chiêu vương phi Tạ Cánh có công sinh hạ thế tử, lại nhờ ơn che chở của đan thư thiết khoán nên được miễn tội chết, những người còn lại trong tộc tùy theo mức độ thân sơ mà luận tội.

Còn kẻ chủ mưu Tạ Dực cùng gia quyến sẽ lập tức áp giải đến dưới cầu Chu Tước, do Chiêu Vương thân làm giám quan, "trảm lập quyết".

Bách quan đều mặc quần áo trắng, tề tựu dưới Công Xa môn, chỉ chừa lại một khoảng trống ở giữa, dành cho "phế Chiêu Vương phi" - kẻ may mắn thoát chết mang dáng vẻ nhếch nhác chật vật.

Chung Triệu kéo dài giọng đọc di chiếu. Lục Lệnh Tùng đứng đầu hàng ngũ, tiếp chỉ rồi quay người sải bước ra khỏi cửa cung, vừa vặn đi ngang qua Tạ Cánh.

Tay trái hắn cầm thánh chỉ, tay phải đặt trên chuôi kiếm. Lướt qua bên người Tạ Cánh chẳng qua chỉ là thoáng chốc, nhưng bỗng nhiên y lại bật thẳng người dậy, bất ngờ nắm chặt lấy mũi kiếm liều mạng kéo ngược về phía mình.

Trong nháy mắt Lục Lệnh Tùng gần như tưởng y muốn cướp kiếm tự vẫn, theo bản năng ghìm chặt vỏ kiếm, không để cho y toại nguyện.

Mắt mày Tạ Cánh bị lớp máu hòa cùng bùn đất và mưa lạnh che phủ, khoảng cách giữa y và Lục Lệnh Tùng chỉ gần trong gang tấc. Thế nhưng màn mưa dày đặc kia tựa như bức bình phong kiên cố nhất, khiến người trước mặt như cách xa đến tận chân trời góc bể.

"Buông tay," Lục Lệnh Tùng nhìn thẳng không chớp mắt, "Hay là ngươi muốn mượn thanh kiếm này để chết?"

Chỉ một khắc sau, hắn nghe thấy Tạ Cánh nhỏ giọng gọi: "Điện hạ."

Giọng nói của y hòa lẫn với tiếng mưa rơi, suýt nữa đã không lọt vào tai Lục Lệnh Tùng. Tim hắn bỗng chốc thắt lại, giống như có một bàn tay thò vào lồng ngực hắn hung hăng khuấy đảo, khó lòng kìm được mà quay đầu nhìn đối phương.

Đó là gương mặt mà dù ở trong mơ hắn cũng có thể vẽ ra được từng đường nét, hắn đã từng nâng niu gương mặt ấy đến nỗi không nỡ để nó dính một hạt bụi, một vết bẩn, nhưng thứ tình cảm thân thuộc, sâu nặng ấy giờ đây chỉ còn đủ để giúp hắn phân biệt được đâu là nước mưa, đâu là nước mắt mà thôi.

Lục Lệnh Tùng bỗng nhận ra... Hắn chưa bao giờ thấy Tạ Cánh "khóc".

Cử chỉ ngạo mạn nhã nhặn ngày xưa đều đã chẳng còn, Tạ Cánh giờ đây chỉ còn biết liều mạng nắm chặt lấy thanh kiếm bên hông Lục Lệnh Tùng, giống như bấu víu vào cọng rơm cứu mạng cuối cùng, mê man khẩn cầu: "Cầu xin điện hạ niệm tình mười năm vợ chồng, niệm tình em vì anh sinh con dưỡng cái, hầu hạ tận tâm, xin hãy cứu lấy nhà họ Tạ, cứu lấy cha và anh của em. Em nguyện lấy mạng mình để báo đáp, chỉ xin điện hạ giữ lại mạng sống cho họ!"

Lục Lệnh Tùng hơi nghiêng người, chậm rãi đưa tay phải nâng khuôn mặt của Tạ Cánh lên.

Hai mắt y đẫm lệ, mông lung nhìn hắn, thì thầm: "... Tử Phụng, em xin anh, anh Tử Phụng..."

Lục Lệnh Tùng cực kỳ cẩn thận, yêu thương dùng ngón cái lau đi vệt nước mắt trên má y, sau đó mở miệng, nhưng giọng điệu chẳng mang lấy một tia ấm áp:

"Bây giờ ta sẽ đến cầu Chu Tước, cần ta đưa ngươi đi một đoạn đường chứ?"

Tông giọng không cao không thấp, vừa vặn để quần thần hai bên đều nghe rõ. Lục Lệnh Tùng tận mắt nhìn thấy cả người Tạ Cánh bắt đầu run rẩy dữ dội sau khi nghe xong những lời ấy, nước mắt y tuôn ra mãnh liệu như vỡ đê, lúc này trông y giống như một người mất hết lý trí đột nhiên hiểu được thế nào là đau thương, và rồi cả một đời đau thương ấy cứ thế hóa thành dòng lệ, ồ ạt dâng trào.

Lục Lệnh Tùng hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi dáng vẻ "khóc không thành tiếng" lại có thể xuất hiện trên gương mặt của Tạ Cánh. Nhưng giờ phút này, y lại khóc đến mức chẳng thể nói nổi một câu trọn vẹn, đến nỗi dần không kìm được mà bật lên tiếng kêu gào thảm thiết, đây chính là thê tử kết tóc của hắn.

Lục Lệnh Tùng thậm chí còn nhìn thấy được bên dưới vạt áo của Tạ Cánh lấp ló chiếc hộp hương chức đựng tóc kết của hai người.

Thế nhưng, chủ nhân của hộp hương ấy giờ đây lại vì một câu nói của hắn mà khóc như đứt từng khúc ruột, khàn giọng tàn nhẫn oán hận hắn: "Trước khi thành thân, cha tôi đã hết sức ngăn cản. Ngày đó tôi khư khư cố chấp, quả nhiên giờ đây đã tự rước lấy báo ứng rồi!"

Tạ Cánh chưa bao giờ gào thét thảm thiết đến xé gan xé ruột như thế: "Lục Tử Phụng, anh giỏi lắm! Anh giỏi lắm! Hôm nay anh cứ việc giết sạch cả nhà họ Tạ tôi trước đi, rồi về nhà giết luôn cả Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh, sau đó chúng ta cùng chết, xuống hoàng tuyền rồi vẫn sẽ làm vợ chồng thôi!"

"Vợ chồng?" Lục Lệnh Tùng cười lạnh, dùng vỏ kiếm nâng cằm Tạ Cánh lên "Ai lại muốn làm vợ chồng với ngươi chứ?"

Hắn không nhiều lời nữa, dứt khoát rút kiếm về, nghênh ngang rời đi. Cả triều văn võ trợn mắt há miệng xem hết một màn này, hơn trăm chiếc ô giấy dầu trắng nối tiếp nhau che kín bầu trời, chỉ còn lại hai người ở chính giữa, một đứng một quỳ, rồi bóng dáng họ dần kéo dài, xa mãi, cùng đội chung một mảnh trời mênh mang xám xịt.

Pháp trường được dựng trên cầu Chu Tước, dân chúng lần đầu tiên chứng kiến cảnh quốc tang chưa kịp buồn bã đã vội giết người. Huống hồ kẻ bị trói trên đó đã từng là gia tộc quyền quý nhất nhì thành Kim Lăng, không tránh khỏi lòng đầy thương xót, nhất thời chẳng hẹn mà cùng tụ tập bên cầu, dù mưa như trút cũng chẳng ngăn nổi bước chân.

Gọi là "mãn môn sao trảm", nhưng thật ra đâu còn mãn môn nữa - Tạ phu nhân, Diêu thị cùng Tạ Tuấn và hơn trăm gia nhân tôi tớ trong phủ đã sớm hóa thành tro bụi trong trận hỏa hoạn ở ngõ Ô Y rồi. Người thật sự bị áp giải lên pháp trường, đến cuối cùng chỉ còn lại hai cha con Tạ Dực và Tạ Duyễn.

Chiêu Vương ngồi trên đài giám trảm, ánh mắt hờ hững buông xuống, chẳng rõ rơi vào đâu giữa khoảng không mờ mịt.

Xa xa truyền đến những tiếng xì xào bàn tán, bao vây lấy "nhân vật chính" của trận huyết án đêm nay - Tạ Cánh, người đang từng bước chậm rãi đi từ Công Xa môn đến dưới cầu Chu Tước.

Đám đông tự động tách sang hai bên, chừa ra cho y một con đường. Tạ Cánh cứ thế thẫn thờ tiến về phía trước, nhìn thấy cha và anh trai đầu tóc rối bù, nhìn thấy Lục Lệnh Tùng mặt chẳng lộ vui buồn, nhìn thấy đao phủ cầm đao đứng nghiêm, nhưng tất cả đều chẳng thể lay động biểu cảm trên mặt y dù chỉ một chút.

Y đứng dưới đài hệt như một con rối gỗ, đón lấy ánh nhìn thân thuộc và bình thản từ Tạ Dực và Tạ Duyễn.

Nhưng vẫn chẳng hề dao động.

Dân chúng xung quanh không khỏi liếc mắt nhìn nhau, thứ bọn họ mong chờ được thấy là cảnh vợ chồng rạn nứt, cha con ly biệt, chứ không phải một kẻ sống sót lạnh lùng đến mức quái đản như vậy.

Bọn họ dần dần kéo giãn khoảng cách với Tạ Cánh như tránh né quái vật. Hạng người gì mà đối diện với biến cố kinh thiên động địa của gia tộc, chứng kiến cha anh sắp chết thảm lại có thể bình tĩnh đến vậy, thờ ơ đến vậy, giống như việc này chẳng liên quan đến mình như vậy?

Kẻ cầu sống hèn mọn, kẻ hèn nhát sợ chết, Tạ Chi Vô còn sống mà vô tâm vô cảm.

Việc hành hình chậm nhất không thể muộn hơn giờ Dậu - dù đã mấy ngày rồi chẳng thấy mặt trời đâu. Thuộc quan tính giờ bằng đồng hồ nước, tiến lên xin chỉ thị: "Điện hạ, đã qua giờ Thân, không thể trì hoãn thêm nữa."

Lệnh bài định đoạt sinh tử đang nằm trong tay Lục Lệnh Tùng, hắn rõ ràng hơn ai hết, chỉ cần một tiếng hạ lệnh, toàn bộ mười năm quá khứ của hắn sẽ hoàn toàn sụp đổ.

Tiếng cười vang, tiếng đàn ca, giàn hoa tử đằng, rượu ngon, khung cửa sổ phòng sách khép hờ vào buổi chiều, tất cả như thủy triều cuộn trào, nhanh chóng trôi tuột khỏi ký ức hắn, cuối cùng dừng lại ở mùa đông năm Kiến Ninh thứ mười một, giữa trời đất một màu trắng xóa, hắn cúi người vốc một nắm tuyết, ném về phía đứa bé nhỏ nhắn, đáng yêu như búp bê đang đứng trước mặt.

Đó là một cú ném rất nhẹ, nhưng lại vô cùng nặng nề, kết cục chỉ còn lại tình yêu và cái chết, giống như lúc này, hắn buông lỏng ngón tay, que lửa rơi xuống.

Vạn người nín thở, lặng ngắt như tờ.

Vậy mà đúng vào khoảnh khắc ấy, một gã hầu từ Vương phủ lảo đảo chạy lên đài, dâng cho hắn một mảnh giấy với nét chữ nguệch ngoạc, chính là chữ viết của cậu hắn:

<i>Tạ Tuấn còn sống.</i>

Lục Lệnh Tùng chấn động dữ dội, hắn bật dậy khỏi ghế, hoàn toàn quên mất mình đang ở đâu, trước mặt là ánh mắt của bao nhiêu người. Hắn thậm chí không kịp xác nhận thực hư, chỉ vội vàng lao xuống khỏi đài cao, cố hết sức chạy về phía Tạ Dực và Tạ Duyễn đã sắp đóng lại số phận, để nói cho họ biết rằng "Tạ Tuấn còn sống", dù chỉ là bốn chữ này thôi.

Nhưng rốt cuộc, hắn vẫn chậm một bước.

Chỉ đúng một bước mà thôi.

Trong khoảnh khắc ấy, sấm sét chợt nổi lên, lưỡi đao giáng xuống giữa tiếng sét xé toang bầu trời như vạn dòng ngân hà nứt vỡ, ánh đao lạnh lẽo xuyên qua màn mưa dày đặc, phản chiếu cái kết hùng vĩ của triều đại Trinh Hữu.

Tạ Cánh đứng giữa đám đông, chẳng hề chớp mắt lấy một lần.

==

<i>Min: gom 4c lại đau một lần khóc cho đã</i>

<i>(sẽ còn lần 2 lần 3...)</i>
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 103


<b>《</b><b> </b><b><i>25.1 - Hiện tại </i></b><b>》</b>

Đầu hạ năm Cảnh Dụ thứ năm, quan tài của cố Trưởng công chúa Lục Lệnh Chân được đưa về Kim Lăng, vì đến cuối vẫn không thể tìm thấy di thể, cho nên trong quan tài chỉ có quần áo và mũ.

Thiên tử hạ lệnh cử hành quốc tang, cấm bày tiệc tùng, cưới hỏi suốt hai mươi bảy ngày. Chiếu theo di nguyện của công chúa, không truy phong thụy hiệu, không nhập tông miếu, tạm quàn linh cữu ở điện Hàm Chương, chọn ngày an táng theo nghi lễ quân đội.

Thuở thiếu thời, Trưởng công chúa thường khoác áo lông nhẹ, cưỡi ngựa nhanh ra vào phố chợ, dân chúng hai bờ sông Hoài nhìn đã quen, chẳng lấy làm lạ. Nay công chúa vì nước hy sinh, người dân trong thành đều đau lòng khôn xiết, nhà nhà tự nguyện treo cờ tang trước cửa, từ xa nhìn lại, cả kinh thành trắng xóa một màu như có tuyết rơi giữa tiết trời tháng sáu.

Mẹ đẻ của công chúa là Ngô Thái phi tuổi đã cao, ngày ngày ở điện Minh Loan không hỏi thế sự, tạm thời vẫn chưa được thông báo tình hình thực tế; mà Chiêu Vương vì quá nhớ thương em gái, đã cáo bệnh ở trong phủ nửa tháng không ra ngoài.

Mùng mười tháng Sáu, thiên tử đích thân cùng các quan lại lên đường rời thành, đến nơi cách thành Bắc bốn mươi dặm, băng qua đảo Bát Quái, đến sát bờ sông Trường Giang chờ đón linh cữu của Trưởng công chúa về kinh.

Đêm mùng mười tháng Sáu, phủ Chiêu Vương.

Lục Lệnh Tùng đứng trước gương trong phòng ngủ, kể từ mùa xuân năm ngoái sau khi từ Ung Châu về kinh, trao trả binh quyền Hổ Sư, đã lâu rồi hắn mới mặc giáp trở lại.

Ngân Trù và anh em họ Từ chờ ở gian ngoài nhà chính, thấy hắn đi ra, Từ Giáp dâng trường kiếm lên trước mặt, do dự nói: "Điện hạ thật sự muốn đi một mình sao ạ?"

Lục Lệnh Tùng nhận lấy kiếm: "Ngày đó ta thu nhận anh em các cậu, không phải là để các cậu dùng mạng của mình để đánh cược cùng ta."

Rồi hắn quay sang Ngân Trù: "Bọn trẻ còn ngủ sao?"

Ngân Trù đáp: "Hành lý tùy thân tôi đã chuẩn bị xong xuôi, đợi đến canh ba thủy triều vừa rút, tôi sẽ lập tức đánh thức thế tử và quận chúa rồi đi."

Lục Lệnh Tùng gật đầu: "Đường hầm có thể thông đến nhà họ Ngô, cậu của ta sẽ giúp chị rời khỏi Kim Lăng trước khi Thiên Minh môn khóa cửa. Thanh Nhi cũng biết đường, ta biết nó từng lén đưa Ninh Ninh đi qua đó."

Ngân Trù muốn nói lại thôi, Lục Lệnh Tùng chỉ nghiêm mặt nói: "Từ ngày chúng ta quen biết tại Trích Tinh lâu, cùng sống chung dưới mái hiên Vương phủ, thoáng cái đã mười bốn năm rồi. Chi Vô tin tưởng chị như chị gái ruột, mấy năm nay vợ chồng ta xa cách biền biệt, Thanh Nhi đều nhờ có chị tận tâm chăm sóc, bầu bạn."

"Nếu như lần này thành công, cả nhà chúng ta sẽ cùng hưởng vinh hoa; nhưng nếu ta và Chi Vô có gặp bất trắc, xin chị đừng quan tâm thù mới hận cũ, hãy đưa bọn trẻ rời khỏi vùng đất thị phi này, cả đời cũng đừng quay lại nữa. Từ nay về sau, chị chính là mẹ ruột của chúng, chúng cũng nhất định sẽ phụng dưỡng chị cả đời như mẹ mình."

"Trong quá khứ Vương phủ đã kéo chị vào hiểm cảnh, ngày giờ này lại nhờ cậy tương lai, hôm nay ta cúi đầu bái tạ cả, đại ân khó nói hết lời cảm tạ, chỉ mong còn có ngày gặp lại."

Dứt lời, hắn vung áo bào quỳ xuống, khấu đầu, hành lễ thật sâu với Ngân Trù.

Nhiều năm qua, Ngân Trù, hắn và Tạ Cánh sớm chiều ở chung, lại vô cùng yêu thương hai đứa trẻ không nỡ xa rời, từ lâu đã coi nhau như người nhà. Cô tự hiểu chuyện lúc này quan trọng hơn hết thảy, cũng không ngăn Lục Lệnh Tùng lại, chỉ trịnh trọng đáp lễ tương tự, đáp: "Tôi nhất định sẽ không phụ sự phó thác của điện hạ và Vương phi, bảo vệ thế tử quận chúa, mong ngày đoàn viên."

Lục Lệnh Tùng đứng dậy, nói với anh em họ Từ: "Hành động cẩn thận, nghe lời Ngân Trù phân phó, ta giao con của mình cho các ngươi."

Hai người chỉ có thể vâng dạ không ngớt, Ngân Trù nghiêm mặt hỏi: "... Điện hạ không đến chào từ biệt thế tử và quận chúa sao?"

Lục Lệnh Tùng sững lại một chút, ngoái nhìn ngọn đèn dầu mông lung treo hiên nhà, chỉ lắc đầu.

"Ta nói thế này cũng chẳng phải là phó thác hậu sự, dù sao thì giờ đây..." Hắn cười nhạt, "Cũng chẳng phải là năm Trinh Hữu thứ mười bảy nữa."

Vì lệnh cấm du dã thanh sắc, các kỹ viện nổi tiếng khắp khu vực sông Tần Hoài đều ngoan ngoãn đóng cửa im lìm không kinh doanh. Trích Tinh lâu lại càng được Tiêu Dao "chăm sóc" đặc biệt, đến một ngọn đèn cũng không có.

Lục Lệnh Tùng đã quá quen thuộc với đường đến Trích Tinh lâu. Hắn thúc ngựa lao băng băng, suốt dọc đường không thấy một bóng người, đi thẳng đến bên ngoài cửa sau của Trích Tinh lâu, nơi có rặng liễu ven bờ yên tĩnh và ẩm thấp.

Không gian tĩnh mịch.

Hắn gõ vài tiếng theo nhịp Hổ Sư Lệnh, cánh cửa sau mở hé ra một chút, gã phụ tá của Tuyên Thất ló mặt ra, trong căn phòng phía sau gã cũng tối đến nỗi đưa tay chẳng thấy năm ngón, nhưng Lục Lệnh Tùng biết rõ trong bóng tối có người, trong tay người có kiếm.

"Tiêu Dao đến núi Mạc Phủ rồi à?"

Phụ tá gật đầu, nhỏ giọng đáp: "Thủ lĩnh truyền tin, đội quân tám ngàn người đã tập trung đủ tại núi Mạc Phủ, phủ Tướng cũng không điều binh lực từ dư bộ Hổ Sư ra khỏi thành."

"Đến cuối cùng vẫn không tin tưởng, không dám dùng." Lục Lệnh Tùng lạnh lùng nói, "Nhưng nếu lão ta mưu tính không sâu, thật sự điều quân thì lúc đấy mới thật sự khó đối phó."

Thiên tử qua đêm ở ngoài thành, tất nhiên sẽ điều động một đội quân từ tứ đại doanh theo hộ tống. Vương Thục và đám tùy tùng của lão ta đi theo bên cạnh loan giá, khi rút quân từ quân kinh kỳ, để phòng ngừa bất trắc, dĩ nhiên lão sẽ ra lệnh cho các quân cờ bí mật mà phủ Tướng cài cắm trong bốn doanh, chọn ra những người đáng tin cậy đi cùng.

Còn những "tân binh" đến từ tàn quân Hổ Sư bị chia cắt, cùng đội quân ở núi Mạc Phủ gần như cũng là tàn quân Hổ Sư đương nhiên đều bị loại khỏi danh sách "đáng tin", toàn bộ đều ở lại trong kinh thành.

Chính sự thiếu tín nhiệm này lại vô tình tạo điều kiện cho Lục Lệnh Tùng hành động thuận lợi.

Phụ tá hỏi: "Người của Tuyên Thất đều đã sẵn sàng chờ lệnh bên trong, bao giờ xuất phát, xin ngài chỉ thị?"

Lục Lệnh Tùng thoáng nhìn ánh trăng: "Không vội, đợi đến canh ba đổi ca rồi lên đường."

Mỗi đêm, nhân lực tuần tra phòng thủ ở Kim Lăng đều đến từ quân kinh kỳ, hôm nay binh lực trong thành không đủ, những người còn lại buộc phải kiêm nhiệm nhiều vị trí, khi đổi ca, tinh lực ắt sẽ lơi lỏng, khó tránh khỏi sơ suất.

Phụ tá nhận lệnh, rồi hỏi tiếp: "Từ Trích Tinh lâu đến kho vũ khí đi qua đường Chu Tước là con đường ngắn nhất, nhưng vì đường trống nên sẽ dễ bị chú ý. Ngài có muốn đi đường vòng không?"

Lục Lệnh Tùng không trả lời mà hỏi ngược lại: "Các ngươi đã từng tiếp xúc với Hạc Vệ chưa?"

"Đầu năm Cảnh Dụ, khi Hạc Vệ còn dưới quyền Trưởng công chúa, chúng tôi từng phối hợp làm vài việc."

Phụ tá rất cẩn trọng khi nhắc đến Trưởng công chúa, nhưng Lục Lệnh Tùng lại làm như không nghe thấy mấy chữ đó, chỉ hỏi: "Ngươi thấy bọn họ thế nào?"

"Tại hạ không dám tùy tiện đánh giá. Những năm gần đây, người của Tuyên Thất đều chịu sự sai khiến của thủ lĩnh và điện hạ, phần lớn chỉ lo việc do thám tin tức, truyền tin, tra án, đã không còn là Tuyên Thất làm ám vệ dưới trướng Tiêu Thái hậu nữa."

Lục Lệnh Tùng phất tay ý bảo không sao: "Dù sao thì đó cũng là tổ tông của nghề này, ngươi cứ nói thẳng đi."

Phụ tá bèn đáp: "Trưởng công chúa rất biết cách huấn luyện, Hạc Vệ nhẫn nại, hành động gọn gàng dứt khoát, là một đội ám vệ đủ tiêu chuẩn, có thể đảm đương trọng trách nặng nề."

Lục Lệnh Tùng nhìn gã thật sâu: "Ta luôn tin rằng Tuyên Thất dày dạn kinh nghiệm hơn Hạc Vệ, càng quen thuộc với việc lấy thành trấn, phố phường làm chiến trường hơn. Đương nhiên, cũng nhanh nhạy hơn. Vì vậy, ta không ngại đi thẳng qua đường Chu Tước để đến kho vũ khí."

Trán phụ tá lấm tấm mồ hôi, gã hiểu rõ đây vừa là sự tin tưởng của Chiêu Vương, cũng vừa là áp lực từ hắn. Những năm qua, tuy rằng Tuyên Thất đã giúp đỡ Vương phủ không ít việc, nhưng Lục Lệnh Tùng vẫn luôn bận tâm đến minh ước với Tiêu Dao, cố ý tránh hiềm nghi, chưa từng trực tiếp nhúng tay vào quyền chỉ huy Tuyên Thất, dùng sự công bằng để thể hiện rằng hắn không có lòng kiếm soát, tranh giành Tuyên Thất làm của riêng.

Chiến dịch đêm nay, xét đến sự phân công, giá trị chiến lược và khoảng cách địa lý, Lục Lệnh Tùng và Tiêu Dao đã trao đổi binh lực dưới trướng. Tiêu Dao dẫn người đi trước đến núi Mạc Phủ ở phía Bắc thành để chỉnh đốn binh mã, còn Lục Lệnh Tùng xuất phát từ Vương phủ đến Trích Tinh lâu, tiếp quản Tuyên Thất.

Đây là bước đầu tiên.

Mà việc Lục Lệnh Tùng tiếp quản Tuyên Thất cũng mới chỉ là bước đầu tiên trong bước đầu tiên ấy.

Mặc dù Tiêu Dao - thủ lĩnh duy nhất mà Tuyên Thất phục tùng không có mặt ở đây, nhưng Chiêu Vương tuyệt đối sẽ không cho phép Tuyên Thất có bất kì suy nghĩ gian dối nào, càng không chấp nhận việc bọn họ đứng ngoài trận chiến này mà không dốc hết toàn lực.

Gã không biết liệu Chiêu Vương có chừa lại đường lui cho mình hay không, nhưng gã biết rõ, chọn đi đường Chu Tước, nghĩa là Chiêu Vương tuyệt đối không để lại đường lui nào cho Tuyên Thất. Chính sự khác biệt giữa "không biết" và "biết" đã khắc sâu nỗi sợ hãi trong gã trước quyền lực và uy thế của Chiêu Vương.

Thấy phụ tá im lặng, Lục Lệnh Tùng bình tĩnh nói thêm: "Năm xưa ta từng giao ước với thủ lĩnh của các ngươi, đợi mọi chuyện kết thúc, ta sẽ tấu lên bệ hạ, để Tuyên Thất được phục chức, danh chính ngôn thuận xuất hiện ngoài sáng."

Làm sao phụ tá không nghe ra được hàm ý nửa ban ơn nửa đe dọa trong câu nói ấy, lúc này không dám nhiều lời nữa, lập tức quay người vào trong, đích thân nhắc nhở và cảnh tỉnh các đồng liêu.

Đợi đến khi trống canh ba vang lên, tiếng mõ tuần đêm lững thững trôi dọc theo sông Tần Hoài đi xa dần, Lục Lệnh Tùng trở mình lên ngựa. Tuyên Thất từ trong bóng tối nối đuôi xuất hiện, lặng lẽ xếp thành đội hình chỉnh tề, theo sát sau lưng hắn, hướng về mục tiêu thứ hai trong đêm nay - kho vũ khí Kim Lăng

Đường Chu Tước tuy là ngự nhai rộng rãi và trang nghiêm bậc nhất, nhưng cũng chính vì cái "trang nghiêm" đó mà không chỉ dân thường, ngay cả quan lại cũng không dám tùy tiện qua lại vào giờ giới nghiêm.

Đúng như Lục Lệnh Tùng dự liệu, quả nhiên bọn họ lợi dụng được kẽ hở trong lúc đổi ca canh gác, đường Chu Tước thênh thang không có trở ngại, nếu không phải đã mai phục sẵn từ trước, dàn trận chờ bắt người, thì căn bản không thể ngăn được họ.

Kho vũ khi Kim Lăng nằm ở phía Đông Nam cung Thái Sơ, đi thẳng hết đường Chu Tước, sau đó rẽ sang ngã rẽ phía Đông là tới, vị trí nằm cách Trích Tinh lâu chỉ bốn, năm dặm.

Lục Lệnh Tùng đã thông tin cho nhà họ Thôi, Thôi Tế Thế lấy cớ "Vũ Lâm Ngoại Vệ đổi ca cập rập, không tiện đến trả vũ khí", âm thầm nhờ bảo vệ kho vũ khí châm chước cho, đóng cửa khóa kho muộn hơn một chút.

Lúc này cửa lớn đã rộng mở, tên lính canh trước cửa buồn ngủ, mãi đến khi Lục Lệnh Tùng ghìm ngựa dừng dưới bậc thềm, gã mới giật mình một cái, trố mắt nhìn: "Điện, điện hạ, sao muộn thế này rồi mà ngài còn..."

Tuyên Thất không cần Lục Lệnh Tùng phân phó, đều ăn ý nhanh chân rảo bước tấn công. Bảo vệ kho là người của tứ đại doanh, mỗi tháng luân phiên một nhóm, tuy rằng cũng là quân kinh kỳ, nhưng suy cho cùng không phải là đối thủ của Tuyên Thất, chỉ qua mấy hiệp, hơn mười binh sĩ trong ngoài cửa lớn đã bị khống chế.

Đã có thuộc quan chạy như bay đến hấp tấp gọi "Hồ đại nhân", bảo tin cho bảo vệ luân phiên trực ban. Hồ thủ bị kia vội vàng tìm đến trước cửa, Lục Lệnh Tùng ngước nhìn, thì ra là một gương mặt quen.

Hồ thủ bị thấy Lục Lệnh Tùng cũng hơi giật mình, nhanh nhảu chào: "Mấy tên thuộc hạ của tôi ngu dốt, không biết đã khiến điện hạ khó chịu việc chi?"

Lục Lệnh Tùng chỉ híp mắt nhìn quân sĩ xúm lại phía sau lưng đối phương, trong bụng nhẩm tính, tính được binh lực trong cả kho vũ khí này tổng cộng không đến trăm người, hắn bèn giơ tay ra hiệu, Tuyên Thất tiếp tục tấn công mạnh mẽ, chỉ trong khoảnh khắc, một nhóm đã lao vào giao đấu cùng quân bảo vệ, một nhóm khác lập tức xông vào tiền thính, xâm nhập vào sâu bên trong kho vũ khí.

Hồ thủ bị thấy tình hình không ổn, nhưng vẫn kiêng dè trước thân phận của Chiêu Vương, chỉ giương vũ khí lên nói: "Xin điện hạ hành động thận trọng!"

Lúc này Lục Lệnh Tùng mới quay lại nhìn gã, giọng xa xăm: "Hồ Canh, nguyên quán Thục Trung, năm Cảnh Dụ thứ hai ta đánh hạ Kiếm Môn hầu, trong lúc loạn lạc ngươi tìm đến Hổ Sư, vì có công trong trận Tây Xuyên nên được cất nhắc trở thành bách phu trưởng*."

<i>(*) Trong bối cảnh quân sự cổ đại Trung Quốc,</i><i> bách</i><i> phu trưởng là chức quan võ chỉ huy một đội gồm khoảng 100 binh lính. Tương đương với đội trưởng hoặc trung đội trưởng trong quân đội hiện đại.</i>

"Cha mẹ ngươi được an dưỡng tại thành Cẩm Quan, thời gian qua vẫn còn khỏe mạnh chứ?"

Hồ thủ bị kia sững người, vừa rồi gã chào đón trọng hậu chính vì đối phương là chủ cũ, nhưng gã hoàn toàn không ngờ Chiêu Vương vẫn nhớ một tên tiểu tốt chẳng quan trọng gì trong số ba ngàn binh sĩ như gã, càng không ngờ chủ cũ sẽ nhận ra gã.

Lục Lệnh Tùng vẫn rất ung dung, khiến cho gã khó mà nắm chắc được liệu đây là một câu hàn huyên hay là một lời... Đe dọa.

Nhưng cha mẹ gã nhận được ân huệ của phủ Chiêu Vương, được thu xếp cho an dưỡng tuổi già ở Ích Châu, đúng là không sai. Không riêng gì gã, những thuộc hạ Hổ Sư cũ đã bị tách ra của gã chẳng biết đã có bao nhiêu người thân được Chiêu Vương chăm lo cho.

Thanh đao trên tay Hồ thủ bị bất giác buông xuống, gã chỉ thấp giọng gọi một tiếng: "Điện hạ!"

Lục Lệnh Tùng chỉ lẳng lặng nhìn gã: "Giờ này lẽ ra Vũ Lâm Vệ nên hoàn thành việc hoàn trả vũ khí, kho vũ khí nên được khóa lại từ lâu rồi."

Sau khi được nhắc nhở, Hồ Canh mới chợt nhận ra suốt cả đêm nay gã chỉ thấy Vũ Lâm Trung Vệ đến, nhưng mãi chẳng thấy Vũ Lâm Ngoại Vệ nào mang vũ khí trả về. Lại nghĩ đến lời "nhắc nhớ" bất ngờ của Thôi Tế Thế trước đó, trong lòng không khỏi thở than, đúng là vận rủi ập đến, khéo sao lại đánh ngay đêm nay.

Lục Lệnh Tùng quan sát sắc mặt gã, tiếp tục nói: "Chuyện đêm nay, trời biết, đất biết, ta và ngươi biết, còn triều dã sẽ biết gì? Bọn họ chỉ biết ngươi dẫn dắt thủ hạ đúng giờ đóng cửa kho vũ khí, làm đúng phận sự canh giữ bên trong -- còn ta, Chiêu Vương mới là kẻ dẫn binh cưỡng ép xông vào."

"Dù sau này có truy cứu tội danh, cùng lắm cũng chỉ trách ngươi bị lực lượng áp đảo, chứ chẳng ai trách ngươi chưa đánh đã hàng. Sức nặng của chuyện này, ngươi phải tự hiểu chứ?"

Đương nhiên Hồ Canh hiểu rõ trong hai "tội danh" này, tội nào nặng tội nào nhẹ. Gã không biết Chiêu Vương đang mưu đồ chuyện gì, nhưng rất rõ ràng, hành vi này đã chạm đến ngưỡng đại nghịch bất đạo. Nếu Chiêu Vương thành công, gã sẽ một bước lên mây, thăng quan tiến chức; nhưng nếu Chiêu Vương thất bại, bọn họ sẽ phải gánh gồng xuất thân "cựu binh Hổ Sư", chỉ sợ sẽ khó có ngày nổi danh, bất cứ lúc nào cũng có khả năng bị thanh trừ.

Gã trố mắt một lúc rồi quyết định, lệnh cho thuộc hạ hai bên: "Đón tiếp điện hạ, đóng chặt cửa trước, kho vũ khí đã khóa cửa đúng giờ, nhớ rõ hết chưa hả!"

Thuộc hạ lĩnh mệnh tránh sang hai bên, chuẩn bị đóng cửa cài khóa. Lục Lệnh Tùng gật đầu với Hồ Canh, sau đó dẫn ngựa đi vào, đoạn nói với phụ tá sau lưng: "Thả diều, truyền tin cho Hạc Vệ."

Diều giấy là cách đưa tin mà bọn họ đã giao hẹn từ trước, không đến một khắc đồng hồ sau, Tạ Tuấn đã dẫn theo Hạc Vệ xuất hiện trên một con ngõ khác.

Từ khi mất đi chủ tướng, trở về kinh thành, Hạc Vệ đã trở thành đội quân không chủ. Phủ Tướng đề phòng Hạc Vệ về tay Lục Lệnh Tùng, mới sáng sớm đã dâng thư ép Hoàng đế đồng ý để Hạc Vệ tạm thời sát nhập vào Vũ Lâm Vệ, thế nhưng không sử dụng bọn họ ngay, vậy nên đã mấy ngày liên tiếp Hạc Vệ không có việc gì làm, bị người ta kiểm soát. Quan trọng hơn hết chính là trong tay họ không có binh đao, không có quyền giữ vũ khí.

Nhưng chính vì bọn họ đang mặc quan phục và áo giáp của Vũ Lâm Vệ, từ doanh trại trong cung thành đi thẳng một đường đến đây, dù ven đường có gặp được lính tuần, chúng cũng chỉ xem họ nhưng đội binh Vũ Lâm Vệ bình thường, không quá đa nghi.

Tuyên Thất đưa đủ vũ khí để trang bị cho ngàn người từ trong kho ra, lặng lẽ vận chuyển qua cửa hông phía Đông của kho vũ khí, giao cho Hạc Vệ.

Tạ Tuấn bước đến bên cạnh Lục Lệnh Tùng, hạ giọng hỏi: "Có tin gì từ chú chưa ạ?"

Ba ngày trước, giữa đêm khuya, bọn họ đã bí mật gặp nhau tại Trích Tinh lâu để bàn bạc kế hoạch khởi sự. Người tham dự ngoại trừ Tiêu Dao, Lý Kỳ, còn có Trịnh Kiêu và Thôi Tế Thế cùng một số tướng lĩnh khác - họ hoặc từng là thuộc hạ cũ của Hổ Sư, hoặc là người có mối quan hệ mật thiết với phủ Chiêu Vương. Nhưng Tạ Tuấn không thấy Tạ Cánh xuất hiện, cũng không kịp hỏi Lục Lệnh Tùng xem rốt cuộc là y không thể thoát thân để đến, hay là chẳng hề hay biết gì cả?

Lục Lệnh Tùng chỉ cười: "Bọn ta đã sắp một tháng không gặp nhau rồi, hôm qua em ấy đã theo phủ Tướng rời khỏi thành, làm sao ta biết được?"

Tạ Tuấn cau mày: "Tiêu sư phụ tiếp nhận dư bộ ở núi Mạc Phủ, nếu như truyền vào tai phủ Tướng, Vương Thục mà nghi là do chú sắp xếp, muốn gây bất lợi cho chú thì phải làm sao bây giờ."

"Vậy nên mới gọi là tạm thời tiếp nhận," Lục Lệnh Tùng giải thích, "Chuyện chúng ta cần làm bây giờ đó là triệu tập thuộc hạ Hổ Sư cũ, cần tranh thủ nhất chính là các tướng sĩ ở bốn doanh bằng lòng quy phục Hổ Sư. Tám ngàn binh mã ở núi Mạc Phủ đều là người phe ta, là hậu thủ mà chúng ta đã chuẩn bị, trước khi chú con thoát khỏi hiểm cảnh, em ấy sẽ không hành động thiếu suy nghĩ. Nhờ Tiêu sư phụ đến đó là để chiếm lấy tiên cơ, tránh cho Vương thị mượn vây cánh khống chế núi Mạc Phủ."

Tạ Tuấn miễn cưỡng gật đầu, nhưng vẫn không giấu được vẻ lo lắng, không nhịn được nói: "Điện hạ cũng biết đây là hiểm cảnh..."

Lục Lệnh Tùng vỗ vai cậu: "Con yên tâm, lần này ta sẽ bảo vệ em ấy, ta đã đủ khả năng bảo vệ em ấy."

Hạc Vệ nhận binh khí, chỉnh trang xong xuôi, Lục Lệnh Tùng phân một nhóm người từ Tuyên Thất ra đóng giữ tại kho vũ khí, những người còn lại theo hắn đi về phía Tây Bắc cung Thái sơ. Hồ Canh xung phong đi cùng, chỉ dặn dò thuộc hạ nghe theo lệnh Tuyên Thất, Lục Lệnh Tùng cũng không nhiều lời, phất tay đồng ý cho gã theo.

Đến cung thành, Thôi Tế Thế đã dẫn binh chờ sẵn ở bên ngoài cổng chính: "Đêm nay, Vũ Lâm Ngoại Vệ đang trực có ba ngàn người, họ đều ở đây, chỉ đợi điện hạ ra lệnh là sẽ mở cửa cung ngay."

Lục Lệnh Tùng gật đầu chào gã: "Làm phiền Thôi đại nhân, tấm lòng trung thành dám đặt cược cả tiền đồ và sinh mạng của ngài, tại hạ vô cùng cảm kích."

Thôi Tế Thế chắp tay đáp lễ: "Điện hạ đã nói là làm, mong ngài không quên công lao của trưởng tỷ tôi và Thanh Hà Thôi thị."

Ba ngàn binh sĩ thuộc Vũ Lâm Ngoại Vệ, một ngàn Hạc Vệ, cộng thêm vài trăm người Tuyên Thất - tổng số quân này gần như đã tương đương với đội quân Hổ Sư sơ khởi mà năm ấy Lục Lệnh Tùng dẫn dắt từ ngoại ô Kim Lăng đến Hoài Bắc.

Vũ Lâm Vệ, tứ đại doanh, quan binh từ các châu quận xung quanh kinh thành - năm xưa, họ chính là kẻ địch ở ngoài sáng của hắn, tổng cộng lên đến cả trăm ngàn người; mà giờ phút này đây, chính những kẻ đó lại âm thầm trở thành đồng minh của hắn, cũng là một lực lượng khổng lồ đến hàng trăm ngàn người.

Nhẫn nại tổ chức, vào sinh ra tử suốt bốn năm, chỉ đơn giản là để đổi lấy cục diện này mà thôi.

Lục Lệnh Tùng xoay người, đối diện với hàng ngũ dày đặc đã bày trận dưới cổng cung. Những người này có xuất thân, lập trường khác nhau, đã từng phục tùng dưới trướng chủ soái của riêng mình, thế nhưng giờ đây, bọn họ đều tiến lui như một, hóa thành thanh trường kiếm sắc bén trong tay hắn.

"Chư vị vì triều đình mà bôn ba khắp trong ngoài thành, thế nhưng bên trong cung cấm, phủ Tướng chuyên quyền, Vương thị lộng hành, chèn ép bệ hạ đủ đường, khiến cho thiên gia chẳng thể toàn tâm báo đáp công lao của các vị."

"Tối nay, ta phụng mệnh thiên tử dẹp loạn khôi phục chính đạo. Nếu được sống, ta sẽ cùng chư vị bàn định tiếp; nhưng nếu phải chết, một mình ta sẽ đi trước. Công hay tội, đúng hay sai, tất thảy đều sẽ được bẩm báo rõ ràng với bệ hạ."

Dứt lời, hắn rút kiếm khỏi vỏ, cao giọng hô lên: "Mở cổng cung!"

Hơn bốn ngàn người từ Tuyên Dương môn bên ngoài hoàng thành xông thẳng vào trong, một đường tiến về phía Nam cung thành, chạm trán với Vũ Lâm Trung Vệ trước Công Xa môn.

Hai đội cấm vệ trong và ngoài tuy thuộc hai phe cánh khác nhau, nhưng ngày thường vẫn hay chạm mặt, thế lực phía sau cũng dây dưa phức tạp, khó nhường nhịn nhau, lúc này đột nhiên chẳng biết nên tiến hay lùi, suýt nữa làm loạn trận tuyến.

Xưa nay tuy chưa từng có cuộc chính biến nào mà không đổ máu, nhưng trong lần bàn bạc trước đó, thái độ của Lục Lệnh Tùng đối với Vũ Lâm Vệ và quân kinh kỳ luôn là "Có thể chiêu an thì tránh đồ sát", đồ sát chỉ khiến một lực lượng tinh nhuệ bị tổn hại nặng nề, dù là bên nào thắng đi nữa.

Vì vậy, trận giao chiến trước Công Xa môn không kéo dài quá lâu, các cổng ở thành ngoài đều đã bị Vũ Lâm Ngoại Vệ phong tỏa, Trung Vệ không thể thoát ra ngoài cầu viện, mà rút lui sâu hơn vào trong cung thành thì chẳng khác nào tìm đường chết.

Trong tình thế đôi bên ngang sức ngang tài, số lượng Trung Vệ lại không chiếm ưu thế, tuy chưa đến mức lập tức quay giáo đầu hàng, nhưng bọn họ đã ngừng giao chiến, đứng yên tại chỗ rơi vào thế giằng co.

Xét cho cùng, bọn họ đều là cấm quân của thiên gia, chỉ bị các thế gia tranh quyền chi phối chứ không trung thành tuyệt đối với bất kỳ nhà nào hay phe phái nào. Dù cho đứng sau thủ lĩnh của mình là Lang Gia Vương thị, hay là Thanh Hà Thôi thị đứng sau thủ lĩnh của đồng liêu, cả hai lý do đều không đủ khiến họ dứt khoát lựa chọn "đầu hàng" hay "liều chết kháng cự" đến cùng.

Thứ cần nhất hiện tại chính là một mệnh lệnh có uy quyền hơn hết thảy.

Lục Lệnh Tùng biết rõ điều này, hắn không chút do dự dừng lại, tiến thẳng về phía trước, vừa mới công phá Công Xa môn đã lập tức hạ lệnh chia ra bốn nhánh, Tạ Tuấn mang một ít binh mã đến điện Minh Loan, bảo vệ Ngô Thái phi; Tuyên Thất trấn giữ ba cổng Đông, Tây, Bắc trong thành. Thôi Tế Thế dẫn dắt Vũ Lâm Ngoại Vệ tiếp tục cầm chân Trung Vệ, kéo dài thời gian; còn hắn dẫn Hạc Vệ tiến về phía điện Lâm Hải.

Vương thị vừa nghe động tĩnh đã bật dậy, khoác thêm áo bước ra chính điện, chỉ thấy ngoài sân đèn đuốc sáng rực, bóng người dày đặc. Lục Lệnh Tùng đứng đơn độc ngoài hành lang, sắc mặt không đổi, lặng lẽ chờ bà.

Bà ta quát lớn: "Chiêu Vương, ngươi dẫn binh bao vây hoàng cung, uy h**p Thái hậu, chẳng lẽ là muốn tạo phản hay sao?"

Lục Lệnh Tùng chẳng biến sắc: "Mẫu hậu hồ đồ rồi, nhi thần hãy còn chưa làm người bị thương mảy may, chẳng đụng đến bất kỳ ai trong cung, cũng không phong tỏa cổng cung, người trái một câu bao vây, phải một câu tạo phản, mẫu hậu muốn nhi thần mang tiếng oan này thế nào cho phải đây!"

"Ngươi cứ như vậy mà giết ai gia ở điện Lâm Hải này, để cả đời mang danh mưu triều soán vị đi! Ngươi tưởng rằng kéo em trai ngươi và phủ Tướng xuống là có thể ngồi yên ổn trên ngai vàng kia hay sao?"

"Thứ ta muốn không phải là mạng của mẫu hậu," Lục Lệnh Tùng xùy cười, "Ta càng không cần đến ngai vàng kia!"

Hắn bước nhanh vào, lấy một quyển trục từ trong ngực áo ra đặt trước mặt Vương thị, sắc mặt lập tức trở nên lạnh lùng hung hiểm: "Ta muốn lấy lại công đạo cho em gái mình, đây gọi là thanh quân trắc, giúp đỡ việc nước cho thiên gia, hôm nay ta đường đường chính chính đứng trước mặt mẫu hậu nói lời ngay thẳng, dù cho có nửa lời sai trái - ai dám xen vào?"

Vương thị thoáng sững người, cúi đầu nhìn nội dung trong quyển trục. Đó là một dụ lệnh đã được soạn sẵn, mượn lời của Hoàng Thái hậu là bà ta, ra lệnh cho Lục Lệnh Tùng khởi binh thảo phạt Lang Gia Vương thị vì tội thông đồng với địch phản quốc, hại chết Trưởng công chúa.

Sắc mặt Vương thị thay đổi mấy lần, giọng nói phát run: "Ai gia biết ngươi vẫn luôn phẫn hận. Nhưng cái chết của Trưởng công chúa không có liên quan đến Lang Gia Vương thị. Tin dữ truyền về Kim Lăng, ai gia cũng không nỡ nói rõ sự thật cho mẹ ngươi hay. Những lời trên giấy này thật giả thế nào, trong lòng ngươi nên tự cân nhắc cho rõ chứ!"

Cung nhân nơm nớp lo sợ nâng ngọc tỷ Thái hậu lên, con dấu đã được nhúng màu đỏ bùn, hai tay giơ cao khỏi đầu, dâng đến trước mặt Vương thị, cầu xin: "Thái hậu!"

Vương thị lạnh lùng nói: "Chiêu Vương, ngươi dám cả gan cưỡng ép ta!"

Lục Lệnh Tùng chỉ lạnh lùng giơ tay lên như thể đã mất hết kiên nhẫn, hai gã Hạc Vệ không nói một lời ép sát Vương thị đang ngồi ở vị trí chủ vị, lưỡi đao lạnh buốt kề sát bên cổ bà ta. Cung nhân kia quỳ gối tiến đến, cả người không ngừng run rẩy nhưng vẫn mạnh mẽ túm lấy cổ tay Vương thị, ấn mạnh con dấu vào phần đề tên trên dụ lệnh.

Lục Lệnh Tùng giật lấy quyển trục, giơ cao lên rồi dõng dạc đọc lớn: "Hữu tướng Vương Thục cùng hai con trai và bè đảng thông đồng với Mạc Bắc, trộm dùng công ấn của Thượng Thư đài và tư ấn của Thượng thư hữu bộc xạ, giả truyền quân cơ, ngụy tạo thư tín, hại cố Kiến Uy tướng quân rơi vào vòng vây địch, chẳng còn thi cốt!"

"Ăn nói bừa bãi!" Vương thị trừng mắt nhìn hắn chằm chằm, nghiến răng nghiến lợi nói, "Bức thư đó rõ ràng là chữ do phế phi của ngươi viết, chẳng liên quan gì đến người nhà họ Vương cả!"

Lục Lệnh Tùng cũng không để ý đến bà ta, chỉ hướng ra sân quát: "Bổn vương thể theo thủ dụ của Thái hậu, chấn chỉnh hai quân Vũ Lâm Vệ, sát nhập vào bốn doanh kinh kỳ, ra ngoài kinh tiêu diệt phản tặc, làm rõ đúng sai, thanh quân trắc, trả thù nước, trả thù cho anh linh của Kiến Uy tướng quân, nghênh đón thiên tử về vị trí cũ!"

Nói xong hắn bỗng nhiên xoay người, nhìn về phía Vương thị đang cúi mình, cất cao giọng nói: "Mẫu hậu hiểu rõ đại nghĩa, lấy công diệt tư, xứng đáng làm gương muôn đời, đứa con bất tài Lục Lệnh Tùng kính lạy!"

Hai gã Hạc Vệ nghe theo, cung kính lui xuống, binh sĩ dưới thềm nghe thấy vậy cũng đồng loạt quỳ xuống theo hắn, sau đó đồng thanh hô vang "Thiên tuế".

Vương thị giận tái mặt nhưng chẳng nói nổi câu nào, chỉ lạnh lùng nhìn hắn chằm chặp. Lục Lệnh Tùng hơi ngẩng đầu lên, dùng âm lượng chỉ hai người có thể nghe được, như cười mà chẳng phải cười, nói: "Đương nhiên nhi thần biết phủ Tướng không thông đồng với địch, nhưng mà... Như vậy thì sao chứ?"
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 104


<b>《</b><b> </b><b><i>25.</i></b><b><i>2</i></b><b><i> </i></b><b>》</b>

Lồng đèn từng ngọn, từng ngọn sáng lên, nhưng bầu không khí trong hoàng thành lại yên ắng đến kỳ lạ. Đám nội giám lui tới giữa các điện các, bước chân gấp gáp nhưng đều cúi đầu im lặng, truyền đạt ý chỉ mà Thái hậu vừa ban xuống đến từng người.

Cửa chính điện Lâm Hải quả thực chưa từng bị phong tỏa, nhưng có mấy ai dám liều cái mạng mình để mò vào xem trò vui? Các cung nhân không biết bên trong điện rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chỉ thấy một chỉ dụ giấy trắng mực đen được đưa đến, cùng với con dấu màu đỏ tươi của Thái hậu hãy còn nhòe nhoẹt chưa khô.

Đã mấy ngày liền Ngô Thái phi ngủ chẳng yên giấc, trước đó không lâu, Lục Lệnh Tùng có gửi thư vào, nói là dạo này giao mùa thời tiết thất thường, Lục Thư Thanh bỗng nhiên nhiễm phong hàn, hắn bận chăm sóc suốt, sợ lây bệnh nên chưa vào cung thỉnh an mẫu thân. Tuy chẳng phải chuyện gì to tát, nhưng lòng bà vẫn cứ thấp thỏm không yên, từng hỏi bao giờ Lục Lệnh Chân sẽ về, nhưng lần nào cũng chỉ nhận được câu trả lời mơ hồ.

Giữa lúc nửa mơ nửa tỉnh, nghe được tiếng xì xào bàn tán, bà bèn cất giọng gọi: "Có chuyện gì vậy?"

Cung nhân điện Minh Loan đều biết chuyện Lục Lệnh Chân mất, ngầm hiểu lẫn nhau, đều không đành lòng nói cho Ngô thị biết. Mới vừa rồi họ lại nhận được thư của Chiêu Vương, trong thư ngài lệnh cho các nàng những ngày này dù có ra sao cũng không được rời khỏi điện Minh Loan nửa bước, đồ ăn thức uống sẽ có người đưa tới, chờ đến khi mọi chuyện kết thúc, hắn sẽ đích thân đến đón Ngô thị.

"Không có gì ạ," Cung nhân vội trả lời, "Ở ngoài này gió mạnh, thổi lệch giàn trồng hoa thôi, nương nương cứ ngủ đi."

"Thôi, ta ngủ không được," Ngô thị lắc đầu, khoác hờ áo trên vai rồi ngồi dậy, sai người thắp đèn, "Mang đai lưng ngọc mà ta chưa làm xong đến đây, còn mấy hôm nữa là Chân Chân về rồi, vừa kịp để phối cùng với quần áo mùa hè mới may cho nó."

Sau khi có được ý chỉ của Vương thị, chuyện thứ nhất Lục Lệnh Tùng làm không phải là đến điện Minh Loan tìm mẹ hắn, cũng không giải quyết hai nhóm quân Vũ Lâm đang giằng co.

Thậm chí hắn chẳng sốt ruột rời khỏi điện Lâm Hải, mà chỉ án binh bất động, lệnh cho một đội Hạc Vệ "giám sát" lão nội giám chưởng sự của điện, dẫn lão ta xuất cung truyền chỉ - đóng tất cả các cổng hoàng thành Kim Lăng.

Trong thành, tin tức điện Lâm Hải lan dần ra ngoài, mà sau khi Lục Lệnh Tùng hạ lệnh cho người phong tỏa cổng thành, tin tức lại truyền ngược từ bốn phía vào trong, dần dần bao vây lấy cả kinh thành.

Vì vậy không lâu sau đó, các tướng lĩnh Vũ Lâm Vệ từ nhỏ đến lớn đều đã nghe được phong thanh, vội vã mang quân tiến cung ngay trong đêm.

Thôi Tế Thế dù nắm trong tay mấy ngàn quân Vũ Lâm Ngoại Vệ, nhưng ngang cấp với anh ta vẫn còn có Trung tham quân, cấp trên là Ngoại giám quân và Trung giám quân, còn có tổng thống lĩnh là Vũ Lâm Trung lang tướng, những kẻ này đều không dễ đối phó, trong đó vừa có người của nhà họ Vương, vừa có con cháu các thế tộc khác, dù có qua lại cùng Thôi thị hay phủ Chiêu Vương thì cũng không thể hoàn toàn coi như đứng cùng chiến tuyến.

Vũ Lâm Trung lang tướng là thân thích của Vương Thục, trong hội săn xuân ở núi Thang năm ngoái, Trung Lang tướng tiền nhiệm vì nghe theo lệnh Lục Lệnh Chương, "sơ ý" thả cho Lục Thư Thanh trốn thoát nên đã bị Vương Thục kéo xuống, tự nâng người trong tộc lên thay thế vị trí đó.

Gã nói với Thôi Tế Thế từ xa: "Cấu kết cùng Chiêu Vương, thêu dệt tội danh cho phủ Tướng, chẳng lẽ ngươi muốn kéo theo cả tộc Thanh Hà Thôi thị cùng làm nghịch tặc hay sao?"

"Vương tướng quân nói sai rồi," Thôi Tế Thế chỉ cười lạnh, "Chiêu Vương điện hạ vừa mới xin được ý chỉ của Thái hậu, chẳng lẽ ngài cũng muốn chụp mũ "thêu dệt" cho Thái hậu hay sao? Thái hậu một lòng vì nước, dám buông bỏ tình thân với Lang Gia Vương thị, đâu như Vương tướng quân, trong đầu chỉ toàn tính toán cho lợi ích của nhà mình!"

Khi đến dưới Công Xa môn, Lục Lệnh Tùng vừa vặn nghe lọt câu nói này. Doanh trại Vũ Lâm Vệ cũng nằm trong hoàng thành, các binh sĩ đã tập trung ngay ngắn ở đây từ sớm, chờ đợi chỉ thị, vậy nên tên Trung lang tướng kia nhìn thấy hắn bèn đưa tay lên theo bản năng, chuẩn bị lệnh cho binh sĩ dưới trướng mình nghênh chiến.

Nhưng tác dụng của việc đánh hạ kho vũ khí trước tiên mà Lục Lệnh Tùng thực hiện giờ đây đã thể hiện rõ ràng - những Vũ Lâm Vệ không có phiên trực đều tay không tấc sắt, dù có không phục hay muốn chống đối hắn cũng chẳng làm nên chuyện gì.

Huống hồ, hắn còn mang theo thủ dụ của Thái hậu.

Lục Lệnh Tùng chỉ ngồi yên trên lưng ngựa, đến kiếm cũng chẳng rời khỏi vỏ, hắn cất giọng nói: "Thánh quân lâm triều, trước hết phải lấy nhân hiếu làm đầu. Bệ hạ báo thù rửa hận cho Trưởng công chúa, là cái 'nhân' của người làm em; tuân theo thủ dụ của Thái hậu, thanh trừ phủ Tướng, chính là cái 'hiếu' của bậc làm con. Vương tướng quân thân là thống lĩnh cấm quân của thiên tử, nếu ngươi vẫn muốn nghe lệnh Vương Thục, vậy thì thứ nhất là làm ngơ trước oan khuất của Trưởng công chúa đã hi sinh vì nước, thứ hai là coi thường khí tiết lấy nghĩa diệt thân của Thái hậu, thứ ba là đẩy thiên tử vào cảnh bất nhân bất hiếu!"

Hắn dời mắt nhìn quanh một lượt, quét qua từng khuôn mặt của các tướng lĩnh: "Các vị tướng quân, thiên tử và Thái hậu là chủ, các vị và ta đều là thần! Từ xưa đến nay, các vị có từng nghe thấy thần tử nào mà lại đẩy chủ nhân của mình vào cảnh bất nhân bất hiếu hay chưa?"

Nói xong, hắn đưa quyển trục trên tay cho một gã Hạc Vệ bên cạnh, lạnh giọng nói: "Đưa thủ dụ của Thái hậu cho các tướng quân đi, để cho bọn họ đọc thật kĩ. Dù trời đêm tối đen cũng đừng đọc sót một chữ nào."

Mọi người ngươi truyền cho ta, ta truyền cho hắn, lần lượt đọc thủ dụ, sau đó nhìn nhau. Cuối cùng truyền đến tay Vương tướng quân, gã đang định mở miệng cãi lại, đám thuộc hạ phía sau đã đồng loạt quỳ xuống, nơm nớp lo sợ nói: "Chúng thần cẩn tuân ý chỉ, sẵn lòng cúc cung vì Thái hậu và bệ hạ!"

"Nếu như chư vị đều đã quyết tâm hết lòng, vậy xem như sự việc xảy ra dưới Công Xa môn đêm nay không đáng trách, Chẳng qua là ý chỉ truyền đến không kịp, khiến các nghĩa sĩ Vũ Lâm Vệ đồng tâm cùng thiên tử hiểu lầm một chút mà thôi."

"Nhưng mà..." - Lục Lệnh Tùng nhíu mày, nhìn vị Trung lang tướng đang tiến thoái lưỡng nan, hờ hững nói, "Ngày sau nếu bệ hạ và Thái hậu hỏi đến, Vương tướng quân muốn ta trả lời thế nào, ta còn cần phải... Suy nghĩ lại."

Vương tướng quân lạnh lùng trừng mắt đáp lại hắn, nhưng nhìn quanh không có ai là không tuân theo thủ dụ của Thái hậu. Bản thân gã dù được Vương Thục đề bạt, nhưng quân - tướng có hiềm khích là một bí mật công khai. Nhỡ đâu Chiêu Vương thật sự phụng mệnh thiên tử đến chỉnh đốn phủ Tướng, gã không thể không sợ sau này Hoàng đế sẽ tính sổ.

Mãi lâu sau, gã không nói lời nào mà chỉ xuống ngựa, quỳ dập đầu trước thủ dụ, tỏ ra kính phục.

Lục Lệnh Tùng xùy nhẹ một tiếng, không nhìn gã nữa mà quay sang nói với Thôi Tế Thế: "Việc trong cung giao lại cho Thôi đại nhân toàn quyền xử lý, phiền ngài cố thủ hoàng thành, cung thành cùng tất cả cửa ngõ các điện, không có lệnh của bổn vương, bất cứ ai cũng không được ra vào."

Hắn ngoái đầu nhìn về phía điện Lâm Hải và điện Thần Long ẩn mình trong bóng tối: "Nơi nào vốn có người, cứ để họ an phận ở yên bên trong; nơi nào vốn trống, thì không được phép cho ai bước vào."

Cửa thành vừa khóa lại chưa bao lâu, tin tức đã truyền đến quân kinh kỳ. Vài vị chủ tướng đã theo thiên tử rời khỏi kinh thành, dư bộ Hổ Sư còn ở lại trong doanh vừa nhận tin liền hiểu ngay rằng đã đến lúc bọn họ ra tay, bấy lâu nay vẫn âm thầm liên lạc, giờ đây đã chỉnh trang xong, chỉ cần một tiếng ra lệnh của chủ cũ.

Kế hoạch của Lục Lệnh Tùng là chia quân làm năm đường, hắn tự mình dẫn Hạc Vệ xuất phát từ cung Thái Sơ, mà dư bộ Hổ Sư và quân kinh kỳ đã bị "chiêu hàng" trong bốn doanh cũng cần có người chỉ huy riêng, cùng tiến đến cổng thành phía Bắc bên bờ Trường Giang rồi hội hợp, sau đó "đoạt" lại thiên tử từ tay nhà họ Vương.

Tuy nhiên, quân quyền và những mối liên kết then chốt khác có sự khác biệt, phải là người tuyệt đối đáng tin, Lục Lệnh Tùng mới yên tâm giao quân Hổ Sư vào tay họ. Huống chi, việc Lục Lệnh Chân vắng mặt ngoài dự tính... Đã khiến số người có thể tin cậy lại càng ít đi.

Núi Mạc Phủ nằm gần Bắc đại doanh, tạm giao cho Tiêu Dao chỉ huy; Đông đại doanh nằm cùng hướng với phủ nhà họ Lý thì giao cho Lý Kỳ; còn Trịnh Kiêu vốn xuất thân từ Tây đại doanh, từ lâu đã có uy danh và quan hệ vững chắc trong quân, đương nhiên sẽ giao cho hắn lãnh binh. Nhưng còn Nam đại doanh - vừa là nơi nằm cách mục tiêu xa nhất, lại vừa là đội quân ít quan hệ với phủ Chiêu Vương nhất, giờ đây bỗng rơi vào cảnh rắn mất đầu.

Vậy mà đúng lúc này, con trai và con gái của Trịnh Kiêu - hai cháu ruột của Lý Kỳ là Lý Dã và Lý Huống lại chủ động xin chiến, mong được tạm thay chỉ huy Nam đại doanh.

Cặp chị em song sinh này tuy trẻ tuổi, Lý Dã là người trầm tĩnh, Lý Huống lại sống kín đáo, thoạt trông chẳng giống người luyện võ, nhưng thật ra từ nhỏ họ đã theo cha và cậu ra vào quân kinh kỳ, thông thạo cả võ nghệ lẫn binh pháp.

Chưa kể đến hôn sự giữa Lý Dã và Tạ Tuấn vẫn còn đang bị gác lại, trước đây, ba người họ vốn là tri kỷ cùng chung chí hướng. Ấy vậy mà mấy ngày trước, khi bất ngờ tái ngộ người bạn, người thương "đã sớm qua đời" sau bốn năm xa cách, Lý Dã và Lý Huống lại chẳng lộ ra chút mừng rỡ hay bi thương nào. Hai người chỉ thoáng kinh ngạc, sau đó sắc mặt đồng loạt trầm xuống, chẳng thèm nói thêm câu nào.

Khi đó Lý Kỳ đã nói với Lục Lệnh Tùng thế này: "Không hổ là chị em sinh đôi, đây là đang trách Tuấn Nhi suốt bốn năm nay im ỉm không chút tăm hơi đấy, giận thật rồi."

Trịnh Kiêu vốn là người hiền lành không giỏi ăn nói, nghe vậy cũng chỉ buông tay cười khổ: "Chuyện của bọn trẻ, ta nào quyết được, đành để chúng tự hòa giải thôi."

Thế nên Lục Lệnh Tùng cũng chỉ lo giải quyết việc công, tỉ mỉ dặn dò chị em nhà họ Lý kế hoạch đêm khởi sự, những chuyện khác hoàn toàn không hỏi tới.

Nhờ Vũ Lâm Vệ thay thế, Tạ Tuấn mới có thể dẫn Tuyên Thất rút lui khỏi điện Minh Loan, ra ngoài cung thành tìm Lục Lệnh Tùng, chuẩn bị tiến về mục tiêu tiếp theo là cổng thành phía Bắc.

Lục Lệnh Tùng vừa sai phó tướng Hạc Vệ điểm binh, vừa hỏi Tạ Tuấn: "Con muốn đi theo ta, hay ở lại trấn giữ trong cung?"

"Đương nhiên là đi theo điện hạ rồi ạ."

Lục Lệnh Tùng cân nhắc một chút: "Ta biết con nóng lòng báo thù, nhưng nhà mẹ của Chi Vô chỉ còn một mình con thôi, hẳn là chú con cũng từng dặn dò con nhất định phải bảo vệ bản thân."

Hắn nhìn Tạ Tuấn, nghiêm túc nói: "Tuấn Nhi, con là cháu ruột của Chi Vô, chúng ta là người một nhà, ta phải bảo vệ con, nhưng ta cũng muốn để con đi làm chuyện con muốn làm. Vậy nên chỉ cần trong lòng con hiểu rõ, ta sẽ không ngăn cản con."

Tạ Tuấn suy nghĩ hồi lâu, chậm rãi mà kiên định đáp: "Điện hạ đau lòng vì công chúa ra đi, nỗi hận cha anh bị hại chết của chú, chẳng có ai sống dễ chịu hơn con. Hai người đã làm được đến mức này, kiên nhẫn trù tính, quyết đoán khởi sự, dám một mình xông vào hiểm nguy, vậy thì có gì mà con phải sợ chứ?"

Lục Lệnh Tùng nghe vậy, biết rằng lòng cậu đã tỏ, thế là không hỏi nhiều nữa mà chỉ vươn tay chỉnh lại giáp vai cho Tạ Tuấn, bỗng nhiên chú ý thấy vũ khí bên hông cậu đã thay đổi: "Phi Quang đâu? Ta nhớ mấy năm nay con vẫn luôn mang theo bên mình."

Tạ Tuấn cười: "Ngày gặp lại chú con đã trả lại rồi. Chú nói với con, Phi Quang là món quà đầu tiên mà điện hạ tặng cho chú, tuy rằng đó là dao hiểm nhuốm máu, nhưng đối với chú, tác dụng phòng thân của nó còn kém xa tác dụng trấn an rất nhiều."

Khi Lục Lệnh Tùng đến cổng Bắc, dư bộ Hổ Sư đã tập hợp xong, đóng quân dưới thành. Trịnh Kiêu thúc ngựa đến, bẩm báo: "Trừ đội quân ở núi Mạc Phủ vẫn án binh bất động, còn lại hơn hai vạn quân Hổ Sư, cộng thêm một vạn quân kinh kỳ tự nguyện quy phục, tổng cộng khoảng ba vạn quân ở đây đều đã sẵn sàng."

"Đủ rồi." Lục Lệnh Tùng gật đầu nói, "Phủ Tướng chỉ mang theo chừng hai vạn quân ra ngoài thôi."

Thế nhưng Tiêu Dao lại bước tới với sắc mặt nặng nề, nàng đưa cho Lục Lệnh Tùng một bản quân báo, nói: "Thám tử tôi phái đi đã kịp trở về trước khi cổng thành khóa. Báo rằng trước khi cùng thiên tử rời thành, Vương Thục vì lo kinh thành trống trải đã âm thầm sai người gửi thư cho Quận thủ* Hoài Dương Trình Văn, lệnh ông ta xuất binh cần vương, phòng ngừa biến cố, hiện quân phòng thủ Hoài Dương chỉ còn cách Kim Lăng chưa đến năm ngày đường."

<i>(*) Chỗ này trong raw là Thái thú (</i>太守<i>), nhưng</i><i> đoạn</i><i> bên dưới tác giả vẫn dùng Quận thủ như các chương trước từng nhắc tới, mình nghĩ đây là bug nên đã chỉnh lại cho hợp lý.</i>

Trịnh Kiêu cau mày: "Đêm đó điện hạ có nói, trong số các quận huyện xung quanh, chỉ có Quận thủ Hoài Dương Trình Văn là kẻ không biết điều, không chịu liên minh với phủ Chiêu Vương, vẫn luôn e sợ phủ Tướng, ông ta xuất binh cũng không có gì lạ. Nhưng nếu Vương Thục mượn danh thiên tử, lại còn gây áp lực với Tế Âm, Hạ Phi nữa..."

Lục Lệnh Tùng vẫn rất bình tĩnh, chỉ phất tay nói: "Đợi đến rạng sáng mai, khi ý chỉ của Thái hậu truyền khắp kinh thành, những danh gia vọng tộc ở Giang Nam từng giao hảo với nhà mẹ của Tuấn Nhi mà nó đã liên lạc trước đó sẽ lập tức dâng sổ con lên Thượng thư đài, vạch trần từng tội trạng của Vương Thục và phủ Tướng. Đến lúc đó, về tình hay lý thì Vương Thục cũng đều không chiếm được lẽ phải, không dùng được danh nghĩa của thiên tử nữa, dù lão có cưỡng ép hay mua chuộc, các quận khác cũng chỉ có thể làm ngơ, giả câm giả điếc mà thôi, không cần trả lời thư đâu."

Tiêu Dao nói tiếp: "Vương Thục còn đồng thời phái Vương Khế đích thân đến quận Hội Kê, trưng thu lương thảo từ ruộng đất của Lang Gia Vương thị, sau đó đưa thẳng về kinh thành từ phía Bắc, chỉ sợ là muốn dùng số lương thảo này để giải quyết cấp bách cho hai vạn binh mã và triều thần trong mấy ngày tới."

Trịnh Kiêu sững người, lập tức hiểu ý: "Vốn dĩ hôm nay bệ hạ và quần thần đã phải trở về sau khi đón linh cữu của Trưởng công chúa. Đảo Bát Quái là một đảo nhỏ giữa lòng sông, một khi giằng co lâu ngày, đường rút lui bị cắt đứt, thì lương thực cho hơn hai vạn người sẽ trở thành vấn đề lớn. Dù sản lượng ở ruộng riêng của phủ Tướng có nhiều đến đâu cũng không cầm cự nổi ngần ấy ngày!"

Lục Lệnh Tùng gật đầu, giọng trầm hẳn xuống: "Muốn đánh hay muốn cầm cự đều đâu phải do lão định đoạt. Đã muốn giở trò bẩn thỉu, ta đây cũng sẵn sàng hầu đến cùng."

Ngày mười một tháng Sáu năm Cảnh Dụ thứ năm, cổng thành Bắc mở, Chiêu Vương dẫn hơn ba vạn binh đóng quân bên bờ Trường Giang, đối đầu từ xa với đội ngũ mà phủ Tướng mang ra khỏi kinh thành, những người đồng đội của quân kinh kỳ ngày nào giờ đây lại giương đao giáo chĩa thẳng vào nhau, tạo nên thế trận đối chọi.

Việc "Phủ tướng mới là chủ mưu thật sự khiến Trưởng công chúa hi sinh vì nước" dần lan rộng trong dân chúng khắp kinh thành, nhưng vì Hoàng đế và quần thần vẫn đang bị phủ Tướng khống chế, vậy nên quyết định phân xử từ "thiên tử" - người có quyền uy tối cao đến nay vẫn chưa được ban xuống.

Giữa lúc giằng co không phải là không có giao tranh. Tiêu Dao, Lý Dã và Lý Huống mỗi người đều từng dẫn quân giao chiến một lần. Dù cả ba trận đều thắng lợi trở về, nhưng quy mô không lớn, chưa đủ để xoay chuyển cục diện.

Giờ đây mọi người đều đã biết đến dụ lệnh của Thái hậu, phủ Tướng muốn phủi sạch quan hệ, biện hộ rằng đây là chiếu giả, gần như không còn hiệu lực. Dù các sĩ tộc đã dâng tấu vạch trần từng tội trạng của phủ Tướng - từ tội tham quyền trục lợi đến tội chiếm đoạn tài sản, nhưng những điều này dân chúng đã thừa biết từ lâu, chỉ là tức nước nhưng chưa vỡ bờ. Mà điều thật sự khiến lòng người sôi sục, làm dấy lên làn sóng căm hận khắp kinh thành vẫn là tội danh hại chết Trưởng công chúa, người vốn luôn được dân chúng kính yêu và nể trọng.

Ngày mười bốn tháng Sáu, Hữu tướng Vương Thục đã biệt tăm mấy ngày bỗng nhiên lộ diện. Lão cởi bỏ mũ quan, mặc áo tang trắng bước ra trước trận. Cùng lúc đó, trên tầng cao nhất của Dao đài - tòa lầu các nguy nga tráng lệ nằm cách bờ Trường Giang không xa, có một người bị trói chặt hai tay, đẩy đến mép lan can tầng thượng, đối diện với hai đạo quân.

Chúng tướng sĩ Hổ Sư nhìn kỹ, ai nấy đều kinh hãi - người kia chính là vợ của chủ soái bọn họ, chính phi của Chiêu Vương, nay đã là Thượng thư hữu bộc xạ, tay sai của phủ Tướng - Tạ Cánh, Tạ Chi Vô.

Bên bờ sông phía đối diện, sau lưng Vương Thục là Lục Lệnh Chương đã bị đoàn nghi trượng của thiên tử che khuất khuôn mặt, cùng với đám đông triều thần sợ hãi đến nỗi chẳng dám thở mạnh.

Vương Thục lấy một tờ giấy từ trong tay áo ra, giơ cao lên: "Chữ viết trên lá thư mà Trưởng công chúa nhận được trước khi hi sinh chính là Khứ Hà thể do tội nhân phản quốc Tạ Cánh tự tay viết. Bút tích vẫn còn nguyên vẹn, kèm theo con dấu riêng, giấy trắng mực đen rõ ràng, có thể kiểm chứng tại chỗ!"

Bên bờ sông lập tức rộ lên tiếng bàn tán xôn xao, chợt nghe Vương Thục lạnh lùng quát tiếp: "Chiêu Vương đảo lộn thị phi, giá họa cho phủ Tướng, lừa gạt Thái hậu, lòng dạ đáng tru diệt! Lang Gia Vương thị giữ gìn chính nghĩa vì trăm quan vạn dân, đã bắt giữ tội nhân Tạ Cánh tại đây, khẩn cầu bệ hạ giáng tội, dùng kẻ này tế vong linh Trưởng công chúa trên trời!"
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 105


<b>《</b><b> </b><b><i>25.</i></b><b><i>3 </i></b><b>》</b>

Đợi Vương Thục nói xong, lời bàn tán của chúng tướng sĩ cũng nhỏ dần rồi dừng bặt, lúc này Lục Lệnh Chương mới chậm rãi đứng dậy, bước ra khỏi bóng che của tán lọng.

Gã tiến đến trước mặt Vương Thục, lão lập tức cung kính quỳ xuống, hai tay dâng lên lá thư viết bằng Khứ Hà thể cùng với lời bịa đặt quân tình: "Chứng cứ ở đây, mong bệ hạ minh xét!"

Lục Lệnh Chương không nhận lấy, chỉ hơi rũ mắt, nhìn lướt qua lá thư trong tay Vương Thục.

"Con dấu công này, hễ là người có quyền ra vào Thượng thư đài đều có thể lấy được, chẳng có gì lạ cả." Gã nhàn nhạt cất giọng: "Con dấu còn lại là con dấu riêng của Tạ khanh, nó đang ở đâu? Mang đến cho trẫm xem."

Vương Thục lập tức đáp: "Thần đã so sánh với văn thư lưu lại ở Hàn Lâm viện, bốn năm trước ở Lễ bộ Tạ phạm thường xuyên sử dụng con dấu này, từ năm ngoài về kinh nhậm chức chưa từng dùng lại nữa. Thần đã cho người đến ngõ Ô Y điều tra, vẫn chưa có kết quả, nếu như bệ hạ không đợi được, thần sẽ sai người dùng hình ép hỏi Tạ phạm ngay lập tức."

Lục Lệnh Chương không trả lời lão, im lặng hồi lâu mới hỏi lại: "Cậu mới vừa nói... Muốn tế vong linh của hoàng tỷ trên trời sao?"

Vương Thục gật đầu, nhưng Lục Lệnh Chương chỉ thở dài: "Nhắc đến 'vong linh trên trời', bỗng nhiên trẫm chợt nhớ ra, vào ngày mười chín tháng Năm, trước sau minh thọ, phụ hoàng đã vào trong mộng của trẫm."

Lời vừa thốt ra, không chỉ bá quan văn võ mà ngay cả Vương Thục cũng lập tức cúi rạp đầu sát đất, tỏ lòng kính trọng đối tiên đế hiển linh báo mộng.

"Sau khi phụ hoàng băng hà, đây là lần đầu tiên trẫm được gặp người trong mộng, trẫm muốn trò chuyện cùng người, nhưng phụ hoàng chẳng nói một lời, người chỉ mặc quần áo mỏng, đứng lẻ loi trong tẩm điện. Trẫm đến gần nhìn thử mới biết ông ấy gầy trơ xương, kéo tay áo lên thì thấy cả người bầm tím!"

"Sau khi tỉnh lại, trẫm cảm thấy vô cùng sợ hãi, nghĩ đây chẳng phải điềm lành. Quả nhiên chưa được mấy ngày, tin dữ của hoàng tỷ đã truyền về."

Những hiện tượng lạ này chính là thứ thiên gia để ý nhất, cũng kiêng kỵ nhất, quần thần dáo dác nhìn nhau, Vương Thục bèn nói: "Sau đó, bệ hạ có từng gọi đại sư ở đàn tế Bắc Giao đến bói lành dữ hay không?"

Lục Lệnh Chương thoáng nhìn lão: "Đây là chuyện hệ trọng nhất liên quan đến xã tắc quốc tộ, nếu chỉ dựa vào việc bói quẻ, trẫm không thể yên lòng, cũng sợ rằng hồn thiêng của phụ hoàng chẳng dược an nghỉ."

"Vì vậy," gã thu chất giọng đau buồn lại, "Trẫm nghĩ, trẫm vẫn nên tự mình kiểm chứng, tìm đến ngọn nguồn mới là chính đạo."

Cơ thể Vương Thục cứng đờ, khựng lại rõ ràng, các thần tử cũng mơ hồ khó hiểu. Tiên đế về trời đã hơn bốn năm, chẳng ai đoán ra được cái gọi là "tự mình kiểm chứng" mà Lục Lệnh Chương nói đến rốt cuộc là kiểm thế nào.

Khi Vương Thục vẫn còn giữ tư thế quỳ, suy nghĩ xem nên đối đáp thế nào, Lục Lệnh Chương đã cất bước lướt qua lão, hướng về phía bờ bên kia nơi Lục Lệnh Tùng đang dẫn đầu các tướng sĩ, cất giọng sang sảng: "Tạ công tử, mời phụ hoàng ra gặp đi!"

Lục Lệnh Tùng ở bên kia bờ nghe vậy bỗng giật mình, đột nhiên quay phắt lại, nhìn Tạ Tuấn ở phía sau mình. Một vài triều thần cũng nhìn theo hướng của Chiêu Vương, nhận ra Tạ Tuấn - người đáng lẽ "đã chết" từ lâu, ai nấy đều trợn tròn mắt như vừa gặp ma.

Tạ Tuấn lại hoàn toàn điềm nhiên, quay sang ra hiệu cho Tuyên Thất. thuộc hạ lập tức lĩnh mệnh, dẫn theo một nhóm người nhanh chóng rút về hướng cổng thành, không biết đi đâu làm gì.

Sau đó cậu mới hành lễ với Lục Lệnh Tùng, thành khẩn thì thầm: "Điện hạ thứ lỗi, bởi vì bệ hạ sợ nhiễu loạn mưu kế của người, cho nên đã lệnh con không được báo cho người biết trước."

Lục Lệnh Tùng lắc đầu, cũng không nói thêm gì nữa, chỉ ngưng mắt nhìn cửa thành Bắc đang mở rộng, lẳng lặng chờ đợi.

Không lâu sau đã thấy nhóm người Tuyên Thất quay trở lại cổng thành, chính giữa bọn họ là một cỗ quan tài bằng vàng, sắc vàng óng ánh nay đã phai màu, ánh lên một vẻ tối tăm ảm đạm!

Triều thần và tướng sĩ có mặt lập tức nháo nhào, nghẹn lời nhìn trân trân. Vương Thục không còn tâm trí nghĩ xem rốt cuộc Tạ Tuấn đã "chết đi sống lại" bằng cách nào, lão khó tin ngẩng đầu, nhìn chằm chằm Lục Lệnh Chương: "Bệ hạ đã... Tự ý khai quật lăng tẩm của tiên đế, kinh động quan quách!?"

Lục Lệnh Chương chỉ dùng ánh mắt ngây thơ nửa thật nửa giả nhìn lão, "Nếu không làm như vậy, làm sao trẫm có thể lĩnh hội được thâm ý của phụ hoàng ở trong mộng đây?"

Vương Thục lạnh giọng quát: "Bệ hạ, người chết sẽ không nói chuyện, cũng không thể nói chuyện!"

"Vậy nên người chết cũng sẽ không nói dối, và không thể nói dối," Lục Lệnh Chương cười khẩu, mỉa mai: "Cậu à, cậu nên gọi là tiên đế chứ, chú ý ngôn từ của cậu đi."

Quan tài vàng rất nặng, quá trình vận chuyển dài dằng dặc mà vô cùng quái dị, dù đang là giữa ban ngày, nhưng lòng dạ của mấy vạn người xem đều lạnh toát.

Tầm mắt Lục Lệnh Tùng vẫn không đổi, trong đầu nhanh chóng nghĩ. Lục Lệnh Chương hẳn là đã biết được kế hoạch khởi sự thông qua Thôi Thục Thế, nhưng theo tính toán của phủ Chiêu Vương, đáng lẽ gã phải vờ như chẳng hay biết gì, đóng tròn vai kẻ ngoài cuộc, hoàn toàn không ngờ gã lại âm thầm chuẩn bị đến mức này.

Lục Lệnh Tùng bất ngờ hỏi Tạ Tuấn: "Tiêu Dao cuối tháng trước có mấy ngày không liên lạc được với con, lúc đó con đã đi làm chuyện này giúp bệ hạ sao?"

Tạ Tuấn gật đầu: "Ngay khi nghe tin Trưởng công chúa qua đời, bệ hạ đã đoán được điện hạ sẽ xem chuyện này như cơ hội khởi binh. Vì thế lập tức sai con dẫn Tuyên Thất đến hoàng lăng Tử Kim Sơn, đưa linh cữu tiên đế ra ngoài, để hôm nay... Cũng chính vì Trưởng công chúa mới mất, chuẩn bị hậu sự cần xây dựng tu chỉnh xung quanh hoàng lăng, nên dù có hành động ở gần cũng chẳng ai nghi ngờ gì."

Theo phép, quan tài không được đặt xuống đất, Lục Lệnh Chương bèn dùng loan giá của thiên tử làm nơi đặt tạm. Sau đó gã gọi vài thái y theo quân ra ngoài thành đến - đứng đầu là Tần Viện phán mà nhà họ Ngô tiến cử, hỏi: "Nến làm như thế nào, chắc là Tần đại nhân chẳng cần trẫm phân phó đâu nhỉ?"

Chúng thần nghe vậy, tự hiểu là phải mở quan tài kiểm tra di cốt công khai, lúc này đều không kìm được nữa, quỳ gối dập đầu, đồng thanh hô lên: "Không được đâu bệ hạ!"

Đào phần mộ của tiên đế, mở nắp quan tài khám nghiệm tử thi, chuyện này đủ để gọi là chấn động tày trời, khiến người đời khiếp sợ. Vương Thục lạnh lùng cảnh cáo: "Nếu hôm nay bệ hạ thật sự làm như vậy, sẽ khó thoát khỏi tiếng xấu là kẻ hành động điên loạn, báng nghịch luân thường, danh hiếu đễ cũng không gánh nỗi, chỉ sợ khó mà trở thành minh quân được người đời ca tụng!"

Nhưng hiển nhiên, Lục Lệnh Chương vẫn phớt lờ lão, gã không quan tâm đến những tiếng phản đối của triều thần xung quanh, càng không quan tâm tương lai sử quan sẽ dùng bút pháp Xuân Thu để viết về sự "hoang đường" của mình như thế nào.

Gã chỉ nhìn thẳng vào mắt Vương Thục một cách quái dị, mãi lâu sau mới cong môi cười, lạnh giọng quát: "Mở nắp quan tài!"

Mặc dù Tuyên Thất đã xử lý qua cỗ quan tài vàng trước khi vận chuyển ra ngoài, nhưng vẫn không thể ngăn được mùi hôi thối bốc lên ngay khi nắp quan tài bật mở. Đám binh sĩ đều vội vàng bịt mũi, các triều thần cũng giơ tay áo che mặt, chẳng ai dám cả gan nhìn thẳng "long nhan". Chỉ có Lục Lệnh Chương và Vương Thục là không nhúc nhích, ánh mắt ghim chặt vào quan tài không rời.

Tiên đế băng hà vào mùa đông, lại vì chính biến mà phải vội vã nhập liệm, an táng qua loa, vì vậy khi ấy thi thể chưa kịp phân hủy bao nhiêu. Từ đó đến nay vẫn chôn sâu dưới lòng đất, dù đã bốn năm trôi qua, dấu vết vẫn chưa hoàn toàn biến mất.

Tần thái y cùng các thái y kiểm tra hồi lâu, rồi thì thầm trao đổi với nhau vài câu trước khi ngự tiền bẩm báo: "Bẩm bệ hạ, bên trên di cốt của tiên đế đúng là có vết tím bầm lan rộng khắp người, nếu vi thần nhớ không lầm, thì đây giống như một loại kỳ độc ở Điền Trung, tên gọi là 'Tích Cốt Huyền', có thể hạ độc bằng cách dẫn độc vào cơ thể người thông qua một sợi chỉ, độc phát tác rất chậm, thời gian ít nhất là một tháng, nhưng một khi trở nặng sẽ rất khó chữa, thập tử vô sinh."

Sau khi nghe xong, quần thần bắt đầu nhao nhao như sẩm nổ, nếu như nhóm Tần thái y nói không sai, thì thứ khiến cho tiên đế triền miên trên giường bệnh lúc tuổi già vốn chẳng phải là "bệnh", mà là "độc", rõ ràng tiên đến không hề bệnh mất như triều dã đã đồn đoán!

Trong đám đông lập tức có người lên tiếng: "Trong những năm cuối đời của tiên đế, hầu hạ bên cạnh ngài chỉ có các nội giám và cung nhân, còn lại chẳng phải chỉ có Thái hậu và Ngô Thái phi nương nương thôi hay sao?"

Có người phản bác lại ngay: "Chư vị cũng đừng quên, đây chính là độc Điền Trung, chúng ta mới được nghe lần đầu, cũng chưa từng được thấy tận mắt, hai vị nương nương, nô bộc và tỳ nữ ở sâu trong cung thì lấy được thứ này từ đâu chứ?"

Vương Thục chẳng để ý quần thần mồm năm miệng mười tranh luận, chỉ giương mắt, u ám nói với Lục Lệnh Chương: "Trước khi lâm chung, hầu hạ tiên đế trong điện chỉ có nội giám Chung Triệu và Trương Thái phó, Chung Triệu từ ngày đó cũng đã bặt vô âm tín, không chừng chính lão ôm lòng đại nghịch bất đạo, hạ độc giết vua rồi sợ tội bỏ trốn!"

Lục Lệnh Chương không tỏ thái độ gì, chỉ đột nhiên giơ tay lên, không nhanh không chậm bắt đầu cởi bỏ long bào, đến áo ngoài, trung y, ngay cả lớp che chắn cuối cùng là lý y cũng bị c** s*ch.

Cuối cùng, đập vào tầm mắt của tất cả mọi người là nửa thân trên tr*n tr** của vị thiên tử trẻ tuổi. Mà trên làn da trắng nhợt như mang bệnh ấy chi chít những mảng máu bầm loang lổ, xanh tím đan xen, thậm chí có chỗ đã lở loét. Trên cẳng tay phải của gã có một vệt máu tụ màu tím sẫm kéo dài như sợi dây mảnh, giống hệt tình trạng Tích Cốt Huyền không thể rút bỏ mà Tần thái y đã miêu tả.

"Cậu à," Lục Lệnh Chương phảng phất như đang cười, "Chung Triệu đã chẳng rõ tung tích. Vậy chẳng lẽ những dấu vết trên người trẫm cũng là do ông ta hạ độc hãm hại hay sao?"

Từ trên Dao đài nhìn xuống, Tạ Cánh có thể thấy rõ tất cả những việc diễn ra ở bên dưới. Đã qua bảy ngày kể từ đêm mùng bảy tháng này, Vương Thục vẫn không cho Thôi Thục Thế đổi chỉ Tích Cốt Huyền mới cho y.

Chuyện này, từ việc Vương Thục âm thầm mượn binh của Quận thủ Hoài Dương, phái Vương Khế đi lấy lương thảo, đến tin tức "thiên tử sẽ rời thành nghênh đón linh cữu Trưởng công chúa", từng mảnh ghép chồng lên nhau đủ để Tạ Cánh đoán ra được, Vương Thục hẳn đã đoán trước phủ Chiêu Vương sẽ nhân cơ hội này ra tay với lão, cho nên mới phòng bị từ sớm.

Cánh tay phải bị dây thừng trói chặt của y đã bắt đầu tím tái dần, thỉnh thoảng lại nhói lên từng cơn đau như bị kim châm. Khoảnh khắc trông thấy thân trên của Lục Lệnh Chương, y đã hoàn toàn hiểu rõ, nếu không tìm được cách đổi chỉ Tích Cốt Huyền, kết cục đang chờ đợi y sẽ là gì.

Như mọi người chứng kiến, Lục Lệnh Chương giống với tiên đế năm xưa, cũng như Thôi Thục Thế và Tạ Cánh, gã bị cậu ruột của mình hạ độc bằng Tích Cốt Huyền.

Thôi Thục Thế cũng chính là người mỗi tháng thay Tích Cốt Huyền cho gã. Và thỏa thuận giữa nàng ta với Lục Lệnh Chương rất có thể đã bắt đầu từ chính cơ hội này.

Tình trạng trên người Lục Lệnh Chương bây giờ, xem ra ít nhất cũng gần trăm ngày không được thay chỉ mới, độc đã ăn sâu vào tận xương, không còn cách nào cứu vãn được nữa. Nhìn vẻ mặt khiếp sợ của Vương Thục, có thể thấy rằng lệnh "ngừng thay chỉ" này không phải do lão truyền đạt.

Vậy thì chỉ có thể là ý của Lục Lệnh Chương.

Là gã lệnh cho Thôi Thục Thế ngừng thay chỉ Tích Cốt Huyền cho mình, để mặc cho độc kia phát tác đến tình trạng nhìn thấy mà giật mình, khó lòng cứu chữa này, khiến nó trở thành vật chứng hữu dụng nhất, để ngày giờ này thẳng thừng lật đổ phủ Tướng!

Mà với sự hiểu biết của Tạ Cánh về Thôi Thục Thế, nàng ta sẽ không ngăn cản Lục Lệnh Chương làm như vậy.

Hai người họ đã thỏa thuận thành công sau khi Lục Lệnh Chương đăng cơ không lâu, vậy nên Thôi Thục Thế cũng đã sớm biết, một ngày nào đó Lục Lệnh Chương sẽ dùng tính mạng của mình để lật đổ Lang Gia Vương thị. Kể từ đó, đế vị sẽ tự nhiên rơi vào tay phủ Chiêu Vương - điều Thôi Thục Thế muốn chính là nâng đỡ quân chủ của Thanh Hà Thôi thị, đây mới là nguyên nhân chính khiến nàng ta chọn giúp đỡ Tạ Cánh, cũng như liên minh với phủ Chiêu Vương!

Quần thần còn chưa kịp hoàn hồn sau cú sốc thiên tử ra lệnh khai quan, lại lập tức bàng hoàng khi biết cả tiên đế lẫn hoàng đế đương triều đều bị hạ độc bằng "Tích Cốt Huyền", một người đã mất mạng vì độc, người còn lại e cũng chẳng sống được bao lâu nữa, lúc này không ai còn đủ sức bày tỏ sự ngạc nhiên hay ngờ vực, cả bãi sông chìm trong sự im lặng đầy bất lực.

Lục Lệnh Chương lại chẳng buồn bận tâm liệu bọn họ có chấp nhận nổi sự thật hay không, càng không định cho họ thời gian để suy tính xem nên đứng về phía nào. Gã chỉ khoác hờ lại y phục, rồi cất giọng với hàng vạn quân thần và tướng sĩ trước mặt:

"Phu nhân Thôi thị - vợ con trai thứ của Vương Thục có thể làm chứng. Năm Trinh Hữu thứ mười lăm, Vương Thục tình cờ có được công thức điều chế Tích Cốt Huyền, không lâu sau đó, ông ta thông đồng với Thái hậu dùng loại độc này để hãm hại tiên đế. Trẫm đăng cơ chưa lâu, ông ta lại giở trò cũ, một lần nữa hạ độc trẫm bằng loại kỳ độc này. Ông ta dùng nó để uy h**p trẫm phải giao hết đại quyền triều chính vào tay mình, để rồi khuấy động triều đình, giúp nhà họ Vương độc đại!"

"Trẫm nghe nói, sĩ tộc Giang Nam trong kinh thành đã dâng sớ, liệt kê mười mấy trọng tội của phủ Tướng. Giờ lại thêm tội danh mưu hại hai đời quân chủ, ôm mộng cướp nước đoạt chính quyền, thì dù giả truyền quân lệnh có phải do Tạ khanh làm hay không cũng chẳng thay đổi được sự thật: Nghiệp chướng của phủ Tướng nặng như núi, chỉ có thể giết sạch không tha!"

Rồi gã bỗng xoay người lại, gọi Lục Lệnh Tùng một tiếng như đinh chặt sắt: "Chiêu Vương!"

Lục Lệnh Tùng tức thì hiểu ý, nửa quỳ hành lễ đáp: "Có thần!"

"Hôm nay trẫm giao cho hoàng huynh trọng trách thanh quân trắc, dẫn quân Hổ Sư bắt giữ nghịch tặc Vương Thục cùng hai con trai của ông ta! Quân kinh kỳ nhận mệnh của phủ Tướng, theo trẫm xuất thành những ngày qua từ giờ lập tức quy về dưới trướng hoàng huynh!"

Phía sau, quân kinh kỳ vừa nghe thánh chỉ lập tức xôn xao nghi hoặc, không biết nên phục tùng thiên tử hay tiếp tục trung thành với vị chủ cũ đã bị vạch tội. Nhưng Lục Lệnh Tùng chẳng nghĩ ngợi thêm, lúc này chỉ huy quân xông thẳng qua bên kia sông, bao vây Vương Thục, Vương Hề và vây cánh, sau đó nói với quân kinh kỳ: "Các ngươi suy nghĩ cho kỹ, Vương Khế chỉ cần về đến đây là sẽ trở thành tội phạm bị bắt giam chờ chết. Lương thảo hắn vận chuyển sẽ lập tức sung vào quốc khố, nếu các ngươi không muốn nghe lệnh thiên tử, cũng chẳng muốn chịu sự quản lý của bổn vương thì cứ việc vờ câm vờ điếc, án binh bất động, chỉ là đừng sợ đến lúc đó phải chết đói ngoài thành thôi!"

Chúng tướng sĩ nghe lời ấy, lại thấy phủ Tướng đúng là đã không thể cứu vãn, Chiêu Vương và các thuộc hạ lại dũng mãnh, giằng co đến tận giờ bất quá cũng chỉ vì không nỡ xuống tay tàn sát đồng bào, bận tâm giữ gìn thanh danh và chính thống mà thôi, nếu như nghiêm túc đánh nhau sợ là không có kết cục tốt đẹp. Thế là ai nấy nhao nhao tiến lên, cởi kiếm quỳ xuống, bày tỏ lòng quy thuận.

Lục Lệnh Tùng lệnh trói đám người Vương Thục lại, sau đó đến trước mặt Lục Lệnh Chương, nói: "Bẩm bệ hạ, ngày đó dù thần có hoài nghi về nguyên nhân cái chết của phụ hoàng, nhưng bởi vì phủ Tướng lạm quyền, không dám hỏi rõ, chỉ đành phải đưa Chung Triệu rời khỏi kinh thành, tiến hành thẩm vấn. Nhưng sau đó Chung Triệu cũng bị diệt khẩu, giờ đã không còn trên nhân thế."

"Xin bệ hạ chỉ thị, có cần lập tức lên đường về kinh, hỏi tội bỏ ngục phủ Tướng hay không?"

Lục Lệnh Chương vẫn đứng thẳng tại chỗ, bình tĩnh từ đầu đến cuối: "Đừng vội, nếu hôm nay đã kinh động đến giấc ngủ của phụ hoàng, vậy thì phải tra xét đến ngọn nguồn sự việc, tránh cho ngày sau lại rối loạn."

Rồi gã bỗng chuyển tầm mắt về phía các thái y đang vây quanh quan tài vàng, hỏi sâu xa: "Tần Viện phán, ông còn tra được gì nữa?"

Tần thái y cẩn trọng đáp: "Bệ hạ, theo vi thần suy tính, chỉ độc Tích Cốt Huyền dù được hạ khi tiên đễ vẫn còn sống, nhưng độc phát tác không thể ngăn chặn, xem mức độ ăn mòn vào trong xương thì giống như là người chết rồi độc mới ngầm dần."

"Hửm?" Lục Lệnh Chương nghiền ngẫm hỏi, "Ý ông nói, đúng là phủ Tướng đã hạ Tích Cốt Huyền cho phụ hoàng, nhưng khi phụ hoàng còn sống độc tính vẫn còn được kiểm soát, chưa đến nỗi giống như trẫm bây giờ sao?"

"Đúng vậy," Tần thái y nơm nớp lo sợ đáp, "Vi thần tìm thấy được một vết thương trí mạng do bị va đập ở dưới hàm của tiên đế, nếu không vì điều gì khác, thì đây mới là nguyên nhân cái chết của ngài."

"Như vậy," Lục Lệnh Chương lẩm bẩm, "Là đột tử, chết oan à."

Gã trầm ngâm một lát, đột nhiên chậm rãi quay mặt đi, dùng ánh mắt sắc như móc câu nhìn về hướng nào đó ở phía các quần thần: "Chung Triệu đã chết rồi, vậy người từng giây từng phút canh giữ bên phụ hoàng lúc lâm chung, sau đó một tay chủ trì việc khâm liệm, cũng chỉ còn mỗi mình ngài thôi đấy..."

Lục Lệnh Chương mặt không đổi sắc đối diện với Trương Diên: "... Thái phó?"
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 106


<b>《</b><b> </b><b><i>25.4</i></b><b><i> </i></b><b>》</b>

Trương Diên bước ra khỏi đám người, biểu cảm chẳng hề hoảng loạn, chậm rãi quỳ xuống trước mặt Lục Lệnh Chương, nói: "Thần thẹn vì được tiên đế giao phó trọng trách, trong lòng vô cùng run sợ. Có một lời, thần vốn định mang theo xuống suối vàng, nhưng nay tội trạng của phủ Tướng đã bị vạch rõ, bệ hạ lại một lòng hiếu thảo, đến hôm nay, thần chỉ sợ không thể không nói ra."

Lục Lệnh Chương nhìn Trương Diên một lát rồi vươn tay đỡ lấy khuỷu tay ông: "Thái phó lớn tuổi rồi, bình thân đi."

"Tạ ơn bệ hạ niệm tình." Trương Diên đứng lên, không nhanh không chậm nói, "Một đêm tháng Giêng năm Trinh Hữu thứ mười sáu, tiên đế bỗng nhiên cho gọi thần vào cung gấp... Nội giám Chung Triệu chặn được mật hàm của phủ Tướng, Lang Gia Vương thị nóng vội muốn ôm lấy trữ vị, tiên đế không cho phép, vì vậy Vương Thục đã bàn bạc với Thái hậu, muốn tìm cơ hội hạ Tích Cốt Huyền cho ngài."

"Tiên đế tin cậy thần nên mới thẳng thắn bày tỏ mọi chuyện. Thần đương nhiên cũng muốn máu chảy đầu rơi, lo lắng hết lòng. Vì vậy, thần đã hiến kế, xin ngài cứ thế nghe theo, mặc kệ nhà họ Vương tự cho rằng đã hạ độc thành công, lơ là cảnh giác. Sau đó cáo bệnh để tránh đánh rắn động cỏ, giả vờ nặng dần, đợi đến khi nắm được chứng cứ xác thực tội phản nghịch của phủ Tướng, lúc đó nhổ cỏ tận gốc cũng chưa muộn."

"Sở dĩ thần dám lấy long thể ra đánh cược, là vì vợ thần lúc sinh thời yếu ớt lắm bệnh, bệnh lâu thành thầy. Thần tìm kiếm đủ loại thuốc hay, từng thấy ghi chép về loại độc này trong y thư, cũng biết rằng nếu định kỳ thay dây tẩm độc, thì độc sẽ không lan sâu đến mức nguy hại đến tính mạng."

"Tiên đế chấp thuận ngu kiến của thần, vậy nên như chư vị đã biết, ngày mười bảy tháng Giêng năm Trinh Hữu thứ mười sáu, tiên đế đột nhiên trở bệnh, 'bệnh' một trận suốt hai năm trời."

Tạ Cánh nhìn Trương Diên, sắc mặt đông cứng lại. Ngày "mười bảy tháng Giêng" này y nhớ rất rõ ràng - vào đêm giao thừa cách đó không lâu, y đã lén dẫn hai đứa trẻ chuồn ra ngoài chơi, lòng nơm nớp lo sợ trong cung trách phạt mà cuối cùng lại chẳng sao, sau đó nhận được tin tiên đế ngã bệnh, khi đó y còn thầm thở phào nhẹ nhõm.

Nhưng rồi Tạ Cánh bỗng cảm thấy Trương Diên giờ phút này trở nên vô cùng lạ lẫm, điều này rất khó nói, nhưng ông của bây giờ trông lạ hơn nhiều so với người thầy mà y quen thân, qua lại nhiều năm.

Vài ngày trước, hay nói đúng hơn là ngày mùng chín tháng Sáu, một ngày trước khi thiên tử dẫn đầu trăm quan ra khỏi thành nghênh đón linh cữu Trưởng công chúa, Trương Diên đã gửi cho y một bức thư, trên thư chỉ viết một đoạn trích từ sách sử cũ:

<i>"Xưa kia Tuyên đế phế Tào Sảng, mời Thái úy Tưởng Tế về chung chiến tuyến, tăng thêm uy thế và trọng vọng."</i>

Tạ Cánh đọc xong bỗng dưng rùng mình. Vào thời điểm chuyển giao hai nhà Ngụy - Tấn, khi Tư Mã Ý phế Tào Sảng, ông đã dẫn theo Thái úy Tưởng Tế - người nắm giữ quyền chỉ huy cấm quân suốt mười bốn năm đi cùng, nhằm gia tăng thanh thế và phần thắng, khiến cho ba quân khiếp sợ.

Trương Diên dùng những lời này nhắc nhở y, cũng là để bóng gió hỏi thăm kế hoạch khởi sự và sắp xếp của phủ Chiêu Vương, hơn nữa còn ám chỉ, nếu cần thiết có thể cùng ông ấy hợp mưu, để "tăng thêm uy thế và vọng trọng".

Bây giờ nghĩ lại, không chỉ có Vương Thục nghi ngờ phủ Chiêu Vương sẽ nhân cơ hội này chất vấn mà sớm liên hệ Trình Văn xuất binh, Trương Diên cũng đã tính được phủ Chiêu Vương sẽ lợi dụng thời cơ để khởi sự từ trước.

Nhưng lúc đó Tạ Cánh đang chìm trong tin dữ Lục Lệnh Chân qua đời, tinh thần sa sút, thứ nhất là y thật sự không biết kế hoạch của Lục Lệnh Tùng, thứ hai là không có sức đáp lại.

Mà y còn chưa kịp gửi thư tạ lỗi, biến cố đã xảy ra.

"Đến tháng Chạp năm Trinh Hữu thứ mười bảy, triều cục rối ren, Vương thị ngày càng hống hách. Đúng lúc ấy, vụ án nhà họ Tạ bí mật tàng trữ ngọc tỷ Lam Điền bại lộ, Vương Thục là người đứng ra thẩm tra vụ án này nhưng lại lấy công mưu tư, giết hại người vô tội, tùy tiện bắt bớ tội liên đới. Tiên đế cùng thần thương nghị, cho rằng đã đến lúc thu lưới, quyết định chờ sau khi nhà họ Tạ bị kết tội sẽ lập tức ra tay xử lý nhà họ Vương."

Tuy đã sớm đoán được tiên đế sẽ có ý định này, nhưng khi nghe Trương Diên dửng dưng kể ra câu chuyện "thỏ khôn chết, chó săn bị nấu" như vậy, Lục Lệnh Tùng vẫn không khỏi cảm thấy ghê tởm.

Đêm lục soát ngõ Ô Y, hắn vào điện Thần Long điện yết kiến, tự tay phế bỏ Tạ Cánh. Khi ấy thần sắc, lời nói và áp lực mà tiên đế thể hiện hoàn toàn chẳng giống dáng vẻ của một người sắp chết chút nào, hắn thật sự đã từng hoài nghi, nhưng vì quá đỗi hoang đường nên chỉ đành giữ kín trong lòng, không dám nhắc đến.

"Tiên đế đã ban cho thần chiếc nhẫn ban chỉ sừng tê mà ngài mang bên mình nhiều năm, lệnh thần lấy nó làm tín vật, tùy cơ hành động, có thể điều động hai đội quân Vũ Lâm vốn nằm dưới sự kiểm soát của phủ Tướng. Để đánh lừa nhà họ Vương, tiên đế thậm chí còn tự tay viết sẵn di chiếu, giao cho Chung Triệu giữ gìn cẩn thận, đợi đến khi ngài 'băng hà' sẽ công bố ra thiên hạ. Một khi phủ Tướng lợi dụng di chiếu lộng quyền gây chuyện, ta lập tức có lý do hốt gọn cả ổ."

"Nhưng mà, đến chiều ngày thứ ba sau khi Tạ gia bị giam vào ngục, thần theo lệ vào cung thỉnh an, đúng như Tần thái y chẩn đoán, tiên đế đã bị kẻ khác dùng hung khí sát hại, đột ngột qua đời."

"Phủ Tướng bận thừa cơ hãm hại Trần quận Tạ thị, nâng đỡ bệ hạ thượng vị để củng cố quyền thế nhà mình, chỉ mong tiên đế sớm ngày ngưng thở, vậy nên cũng không kiểm tra lại di thể của ngài ấy, chỉ trao toàn quyền xử lý tang lễ cho thần và Hồng Lư tự."

"Đêm đó, sau khi phát hiện tiên đế bị ngộ sát, trong điện Thần Long chỉ có mỗi Chung Triệu ở bên cạnh ngài. Nhưng thần còn chưa kịp hỏi kĩ ngọn nguồn, Chung Triệu đã biến mất chẳng rõ tung tích."

Ông giương mắt nhìn Lục Lệnh Tùng: "Bây giờ mới biết, hóa ra là bị Chiêu Vương điện hạ tự mang đi thẩm vấn."

Những lời Trương Diên nói ra không hề có sơ hở, thời gian trước sau, các sự kiện lớn nhỏ, từng chi tiết đều khớp với ấn tượng của mọi người. Thế nhưng, dù nguyên nhân có rõ ràng đến đâu, "kết quả" cuối cùng vẫn mơ hồ - ông không biết ai mới là hung thủ thật sự đã sát hại tiên đế, cũng không hề điều tra hay chiêu cáo thiên hạ. Trong lời nói ẩn ý ám chỉ Chung Triệu có liên quan, nhưng điều đó lại mâu thuẫn với lòng trung thành và tận tân mà Chung Triệu luôn thể hiện với tiên đế, khiến người ta cảm thấy hoang mang.

Lục Lệnh Chương nghe xong, suy nghĩ một lúc rồi hỏi lại: "Vậy theo lời Thái phó, người ở Hồng Lư tự hẳn cũng đã từng thấy dấu vết bất thường trên thi thể phụ hoàng sao?"

Trương Diên điềm tĩnh đáp: "Phải mất ít nhất năm, sáu ngày, Tích Cốt Huyền mới lan ra ngoài da. Vì vậy khi tiên đế qua đời, trên người không hề có dấu vết rõ ràng. Hung thủ lại dùng vật cùn để ra tay, nên vết thương dưới cằm của ngài chẳng mấy nổi bật, chỉ tụ máu bên trong, nhìn bên ngoài thi thể sẽ không thấy được, nhưng trên hài cốt thì lại thấy rất rõ. Hồng Lư tự khi ấy chỉ cho rằng tiên đế không vượt qua được bạo bệnh mà rời khỏi nhân gian, tất nhiên không dám tự tiện kiểm tra thi thể, đó là hành vi đại bất kính."

Ánh mắt hai người giao nhau, không ai nhường ai dù chỉ một chút. Một lát sau, Lục Lệnh Chương bỗng bật cười khẽ: "Xem ra, hung thủ giết hại phụ hoàng tạm thời khó mà tra ra được rồi. Nhưng còn hung thủ giết hại hoàng tỷ, trẫm cũng có vài chuyện muốn hỏi Thái phó."

Trương Diên cúi mình đáp: "Thần nhất định biết gì nói nấy."

"Vừa rồi cậu nói muốn dùng hình tra hỏi tung tích con dấu riêng của Tạ khanh, theo trẫm thấy, chuyện này e là không cần thiết nữa."

"Vì con dấu đó," Lục Lệnh Chương rút một vật ra khỏi tay áo, giơ lên cho mọi người xung quanh nhìn, cao giọng nói: "Đang ở chỗ trẫm đây!"

Chúng thần xôn xao, Lục Lệnh Chương lệnh cho nội giám mang con dấu cùng bức thư kia đến, đặt cạnh nhau để đối chiếu rồi truyền cho các đại thần xem xét, kiểm tra thực hư.

"Vài ngày trước, thế tử của Chiêu Vương vào cung gặp trẫm, nói rằng nó từng thấy bức thư giả mạo quân tình, hại chết hoàng tỷ do Thái thú Ung Châu Hà Cáo gửi về, thậm chí còn biết rõ tung tích của con dấu riêng đóng trên thư... Bốn năm trước, Tạ khanh chịu tội bị phế, khi rời khỏi vương phủ y đã để lại con dấu này. Thế tử nhìn vật nhớ người, từ đó vẫn luôn mang theo bên mình."

"Theo lời thế tử, nó đã giấu con dấu này trong túi hương của mình, ngay cả Thái phi và hoàng huynh cũng không hề hay biết, bốn mùa không rời người, mỗi ngày đều kiểm tra, con dấu chưa từng bị mất lần nào."

"Như vậy, cần phải là người có thể thường xuyên tiếp cận thế tử, lại không khiến nó đề phòng, mới có khả năng nhân lúc cần thiết nhanh chóng lấy trộm con dấu riêng, sau đó lặng lẽ trả về chỗ cũ mà không để nó phát hiện có điều gì bất thường."

Lục Lệnh Chương quay sang nhìn Trương Diên: "Những năm qua Thái phó đích thân dạy dỗ thế tử học hành, sớm chiều bên cạnh, có thể nói là tận tâm tận lực."

"Vậy thì," ánh mắt hắn trầm xuống, "Người có thể tự do ra vào Thượng thư đài, tiếp cận thế tử để lấy cắp con dấu, đồng thời giả mạo Khứ Hà thể đến mức khó phân thật giả... Thái phó có manh mối gì không?"

Trương Diên chậm rãi nhấn từng chữ: "Đáp án mà bệ hạ muốn, chẳng phải đã nằm ngay trong câu hỏi này rồi sao?"

Lục Lệnh Chương khẽ sững người, nhíu mày chất vấn: "Chẳng lẽ Thái phó muốn nói với trẫm rằng, quân cơ giả mạo kia là do thế tử giả truyền, tự giữ tự trộm con dấu hay sao? Thế tử năm nay mới chỉ có mười bốn tuổi thôi!"

Trương Diên cười lạnh một tiếng: "Tuổi tác thì có gì quan trọng? Thời Tần, Cam La mười hai tuổi đã bái thượng khanh. Thế tử vừa sinh ra đã mang danh Gia Thụy, thông minh thanh tú, tài đức vẹn toàn, trong kinh thành có ai chẳng biết? Ba điều kiện bệ hạ vừa nhắc tới, thế tử có điểm nào không thỏa mãn chứ?"

"Con dấu là do thế tử giữ, điều này vốn không cần phải bàn đến; thế tử theo thần học chính sự, luyện tập sách lược vấn đối, thường xuyên ra vào Thượng thư đài, các quan lại sớm đã quen mắt. Mà Khứ Hà thể vốn là chữ viết của mẹ ruột thế tử, muốn tìm chữ gốc để luyện tập phỏng theo thì dễ như trở bàn tay! Thần từng tận mắt thấy bản chép tay Khứ Hà thể của thế tử trong thư phòng ở Lan đài trong cung, chứng cứ rành rành, nếu bệ hạ không tin có thể lập tức đến kiểm tra!"

Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng đồng loạt biến sắc. Lục Lệnh Tùng lập tức rút kiếm khỏi vỏ, mũi kiếm chỉ thẳng vào Trương Diên: "Thái phó ăn nói cẩn thận! Con trai bổn vương luôn kính trọng ông, coi ông như bậc trưởng bối trong nhà, vậy mà Thái phó lại dùng lời bịa đặt này để vu hãm một đứa trẻ hay sao?"

Có triều thần cũng lên tiếng: "Lời Thái phó nói đúng thật là vô lý! Thế tử thân thiết với Trưởng công chúa từ nhỏ, nay ngài lại nói thế tử là người đẩy cô ruột của mình vào chỗ chết, làm sao văn võ bá quan cả triều có thể tin phục đây?"

Lục Lệnh Chương vẫn giữ nguyên vẻ bình thản, chỉ nâng tay ngăn cản những tiếng xôn xao, hỏi:

"Nếu con dấu riêng này vốn dĩ không nằm trong tay Tạ khanh, Thái phó lại khẳng định chắc nịch rằng kẻ giả truyền quân tình là thế tử, vậy trẫm có thể hiểu rằng, tội danh của Tạ khanh đã được rửa sạch rồi phải không?"

Trương Diên khựng lại trong giây lát, rồi gật đầu, giọng chắc nịch: "Phải."

Lục Lệnh Chương lập tức phân phó thị vệ: "Vậy thì cởi trói cho Tạ khanh, mời y đến ngự tiền đối chất."

Hạc Vệ đã nhận lệnh Lục Lệnh Tùng, canh giữ sát bên Dao đài từ lâu, lúc này vội vàng tiến lên tháo dây trói cho y. Tạ Cánh chẳng màng đến vẻ ngoài lộn xộn hay cơn đau âm ỉ trên cánh tay mình, vội chạy xuống lầu, thậm chí chẳng kịp nhìn Lục Lệnh Tùng lấy một cái, run giọng hỏi Trương Diên: "... Thầy, bức thư giả truyền quân cơ là do thầy viết, đúng không?"

Trương Diên không đáp, y lại càng thêm gấp gáp: "Mảnh giấy tiết lộ cho nhà họ Vương biết nơi cất giấu di chiếu thật của tiên đế cũng là thầy viết, có đúng không?"

Vừa rồi, trong lời tự thuật, Trương Diên đã cố ý né tránh trọng điểm, lướt qua chuyện di chiếu thật giả và người thừa kế mà tiên đế thực sự chọn là ai. Bởi vậy vừa nghe hết lời Tạ Cánh nói, mọi người đều ngạc nhiên, đưa mắt nhìn nhau.

Lục Lệnh Tùng thấy trạng thái của Tạ Cánh không ổn, có dấu hiệu mất kiểm soát, bèn tiến lên vài bước, kín đáo đứng ở vị trí có thể thuận tiện đưa tay kéo y lại khi cần.

Mà Tạ Cánh vẫn điên cuồng hét lên từng tiếng: "Chung Triệu, Đinh Ngọc và Đinh Giám là thân quyến còn sót lại của các cựu thần Đông cung sau Quân Giới án. Thầy là người cứu bọn họ, thầy sai chị em Đinh Ngọc lần lượt ám sát Chiêu Vương, bắt cóc Thanh Nhi, lại thông đồng cùng Chung Triệu đánh cắp ngọc tỷ Lam Điền để vu oan cho nhà họ Tạ - thầy, có phải như vậy không?!"

Y gào thét đến nỗi tưởng như trái tim như bị xé toạc, cuối cùng chợt nhận ra bản thân vẫn không thể sửa được cách gọi "thầy" đầy kính trọng mà mình đã luôn treo trên môi từ năm mười sáu tuổi.

Trương Diên để mặc cho Tạ Cánh ép hỏi, mãi lâu sau cũng chỉ lạnh lùng nói: "Giết hắn, cũng chỉ vì cứu con mà thôi."

Tạ Cánh thoáng sững sờ, hoảng hốt lùi lại hai bước. Năm đó, ở nhà cũ của Đinh gia, Đinh Ngọc từng nhắc đến kẻ vô danh muốn giết Lục Lệnh Tùng và Lục Thư Thanh. Nàng ta đã thuật lại nguyên văn lời của "hắn" rằng: "Người đó nói, làm tất cả những chuyện này là để cứu người. Giết bọn họ, cũng chỉ vì cứu người."

Mà giờ đây, người đó đã chính miệng nói câu ấy với y.

Đang lúc giằng co, bỗng nhiên một thám tử của quân kinh kỳ phóng ngựa lao đến, gấp gáp bẩm báo: "Bẩm bệ hạ, Quận thủ Hoài Dương Trình Văn đã dẫn binh đến, hiện đang đóng quân ở bên kia bờ sông!"

Các tướng lĩnh lập tức quay đầu nhìn lại, quả nhiên, phía xa bãi bồi ven sông lờ mờ hiện ra từng lớp binh mã dày đặc, cờ hiệu phấp phới in rõ chữ "Trình" to tướng.

Mà đi đầu đội ngũ, trước ngựa của Trình Văn dường như còn có một người đang đứng lẻ loi.

Quần thần còn đang mơ hồ chưa hiểu chuyện gì, nhưng Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh gần như đã lập tức nhận ra bóng người kia -- đó chính là con trai họ, Lục Thư Thanh, người đáng lẽ đã được đưa đi khỏi Kim Lăng từ lâu!

Giọng nói của Trương Diên vang lên: "Bệ hạ, Thế tử giả tạo quân tình, thông đồng với địch phản quốc. Thần đã ra lệnh cho Quận thủ Hoài Dương Trình Văn bắt giữ, chờ đợi xử trí."

Lời chưa dứt, Lục Lệnh Tùng đã lạnh lùng cất giọng: "Trình Văn là người của ông!"

Trương Diên bật cười nhạt: "Đâu chỉ Trình Văn." Trương Diên mỉm cười, "Tất cả cựu thần Đông cung còn sót lại sau Quân Giới án năm Kiến Ninh thứ mười hai đều là người của ta!"

"Ông không muốn mưu đoạt ngôi vị," Lục Lệnh Chương dùng ánh mắt sắc bén nhìn Trương Diên, "Nhưng hết lần này đến lần khác nhằm vào thiên gia, ám sát hoàng huynh, bắt cóc thế tử, giết phụ hoàng, hại hoàng tỷ -- Thái phó, rốt cuộc ông muốn gì? Các ông muốn gì?"

"Ta muốn cái gì, bọn ta muốn gì ư?" Trương Diên quát lên, "Bất cứ lão thần nào ở đây từng tận mắt chứng kiến thảm án năm đó, chẳng lẽ trong lòng các ông không rõ sao?"

Ông ta nhìn Lục Lệnh Chương giễu cợt: "Bệ hạ còn quá trẻ, nếu như hôm nay vẫn giữ được mạng hồi cung, chẳng bằng ngài cứ thẩm vấn Vương tướng, hỏi cả Thái hậu mà xem, thử hỏi bọn họ mà xem năm đó hơn trăm mạng người, thân thích của các cựu thần Đông cung bị Lan Lăng Tiêu thị khống chế cuối cùng có kết cục gì! Cha ngươi, mẹ ngươi, mẫu tộc của ngươi, tổ mẫu ngươi và cả những thế gia đại tộc mà giang sơn họ Lục ngươi cậy nhờ rốt cuộc đã gây ra những tội nghiệt tàn khốc gì!"

Trình Văn rõ ràng không quyết đoán như Trương Diên, việc bắt giữ Thế tử có vẻ cũng chẳng phải do lão tự nguyện. Dù vậy, giọng nói của lão vẫn có hơi yếu ớt: "Trương Thái phó truyền tin cho thần, nói rằng thế tử bị nghi dính líu đến trọng tội mưu hại Trưởng công chúa, lại đang trên đường trốn khỏi kinh thành, lệnh thần bắt giữ thế tử áp giải đến đây. Còn quận chúa cùng các tùy tùng đồng hành cùng thế tử, thần không hề làm tổn thương một ai, đã thả bọn họ đi rồi..."

Lục Lệnh Tùng lập tức nói: "Trình Văn, ông thả thế tử ra, bổn vương đảm bảo giữ nguyên chức vị của ông, cũng không thu lại binh mã dưới trướng ông!"

Nhưng Trình Văn chỉ khẽ lắc đầu: "Điện hạ thứ tội, thần không muốn gia quan tấn tước, cũng chẳng cần giữ quân quyền. Thần chỉ muốn báo thù cho người vợ đã bị cuốn vào quyền đấu của hoàng thất rồi chết oan mà thôi."

Hàn quang trên lưỡi đao của Trình Văn lạnh đến rùng mình, treo lơ lửng trên đỉnh đầu Lục Thư Thanh: "Thiên gia đồ sát người thân của bọn ta, bọn ta chỉ đành lấy máu trả máu, giết sạch huyết mạch thiên gia."

"Nếu điện hạ ngài," Lão bình tĩnh nhìn anh em Lục Lệnh Tùng, "Hoặc là bệ hạ, ai bằng lòng đến đây thế mạng cho thế tử, thần sẽ tạm thả người."

Lục Lệnh Tùng muốn đi về phía bờ sông, nhưng bị Lục Lệnh Chương ngăn cản, siết chặt lấy cổ tay hắn buộc hắn phải dừng lại, sau đó đưa mắt ra hiệu về phía đội quân đằng sau.

Lục Lệnh Tùng lập tức hiểu ý, Lục Lệnh Chương muốn hắn lựa thời cơ dẫn binh tấn công, giải trừ sự uy h**p từ lực lượng thủ binh Hoài Dương, mà chuyện này hiển nhiên chỉ có Lục Lệnh Tùng là luôn nắm chắc được phần thắng.

Lục Lệnh Tùng cắn răng, đành phải đứng lại.

Lục Lệnh Chương dắt ngựa của mình đến, một mình một ngựa đi về phía đội kỵ binh ở phía đối diện. Bãi sông nước cạn, chỗ sâu nhất cũng không cao quá đầu gối ngựa, chờ đến khi gã lên đến bờ bên kia, Trình Văn cũng không do dự mà buông tay thả Lục Thư Thanh đi về phía trước.

Không biết từ khi nào, Trương Diên đã giật lấy cán cung trên loan giá xuống, thứ chỉ tượng trưng cho quyền uy của thiên tử vốn không dùng cho thực chiến, nhắm thẳng vào Lục Thư Thanh đang chẳng hề phòng bị, mũi tên rời cung trong chớp mắt.

Ngay khoảnh khắc ấy, Lục Lệnh Chương chợt cảm nhận luồng gió rít gào từ phía sau, một nỗi bất an mãnh liệt dâng trào. Gần như là phản xạ từ bản năng, gã lập tức giật cương quay ngoặt ngựa lại, lao đến chắn trước Lục Thư Thanh.

Mũi tên cắm thẳng vào giữa ngực gã.

Lục Thư Thanh sợ điếng người, trơ mắt nhìn Lục Lệnh Chương ngã xuống ngay trước mặt mình, thiên tử không mặc quân trang, trung y mỏng manh nhanh chóng bị máu tươi nhuộm đỏ rực.

Cậu hoảng sợ thét lên: "Thúc phụ!"

Trương Diên còn muốn bắn thêm mũi tên thứ hai, nhưng chẳng ai cho ông ta cơ hội ấy nữa. Lục Lệnh Tòng đã vội kéo Tạ Cánh về phía mình, gần như dùng một tay ôm y lên ngựa, Tạ Cánh cũng không cần hắn nhiều lời, lập tức chộp lấy dây cương, phóng như gió lốc về phía Trương Diên.

Mười lăm năm trước, trên quan đạo ngoài thành Kim Lăng, họ cũng từng cùng cưỡi trên một con ngựa như thế, trốn thoát khỏi cuộc truy sát của thích khách.

Lục Lệnh Tùng vung kiếm chém đứt nửa cán cung, ngay sau đó, hàng loạt trường thương của quân kinh kỳ ập xuống đè lên vai Trương Diên, ghìm chặt không cho ông ta nhúc nhích. Chỉ trong chớp mắt, binh sĩ Hổ Sư đã tràn qua bờ bên kia giao chiến cùng thủ binh Hoài Dương. Lý Kỳ và Trịnh Kiêu cầm chân Trình Văn, khiến cho lão không có cơ hội đe dọa Lục Thư Thanh ở bên bờ sông nữa.

Không phải Lục Thư Thanh chưa từng thấy máu, nhưng cậu thật sự chưa bao giờ chứng kiến đao quang kiếm ảnh dữ dội nơi chiến trường - ngay cả cái chết, cậu cũng chỉ từng được đồng cảm qua lời kể.

Cậu quỳ sụp xuống đất, muốn rút tên ra nhưng lại không biết phải ra tay từ đâu, chỉ biết luống cuống lẩm bẩm gọi: "Thúc phụ..."

Lục Lệnh Chương hé mắt: "Đừng phí công vô ích, ta vốn đã là người sắp chết. Có trị được vết thương cũng không giải được độc."

Lục Thư Thanh điên cuồng lắc đầu: "Dì con, còn có Tần thái y nữa, bọn họ đều rất giỏi y thuật, nhất định sẽ có cách! Họ nhất định tìm ra thuốc giải độc để cứu thúc phụ!"

Lục Lệnh Chương cố gắng kéo ra một nụ cười nhạt nhòa: "Nếu như thật sự có thuốc giải, làm sao chúng ta có thể định tội giết vua cho Lang Gia Vương thị được đây?"

"Thanh Nhi," gã khẽ gọi nhũ danh của Lục Thư Thanh, "Hôm nay xem như thúc phụ đã trả xong ân tình hoàng tẩu đã từng bảo vệ năm xưa rồi."

Nước mắt Lục Thư Thanh lập tức trào ra.

Giữa tầm nhìn mông lung, thấy Lục Lệnh Chương khẽ nâng tay lên, cậu vội vàng cúi người xuống, ghé sát tai vào bên môi đối phương, lắng nghe gã đứt quãng nói vài câu cùng hơi thở mong manh.

Cậu giữ nguyên tư thế quỳ thật lâu, lâu đến nỗi cơ thể trong tay đã mất dần độ ấm, và bên tai cũng chẳng còn âm thanh nào nữa.

Cuối cùng, Lục Thư Thanh mới đờ đẫn đứng dậy, lảo đảo đi về phía bờ sông nơi cha mẹ cậu và quần thần đang đứng, thẫn thờ nói:

"Bệ hạ, băng hà..."

Đám đông thoáng chốc im lặng như chết, rồi bất ngờ bùng nổ thành những tiếng than thở và bàn tán xôn xao. Giữa tiếng ồn ào hỗn loạn ấy, chẳng rõ là vị tướng quân hay thượng thư nào bất chấp lễ nghi xông lên nắm lấy tay cậu dò hỏi: "Thế tử, trước lúc ra đi, bệ hạ đã dặn dò ngài điều gì?"

Thật ra ở đây chẳng có ai không quan tâm đến vấn đề này.

Họ đều cho rằng Lục Lệnh Chương nhất định đã để lại lời dặn về việc truyền ngôi, về âm mưu của phủ Tướng, toan tính của Thái hậu hoặc là bí mật nào đó đủ sức xoay chuyển cả triều đình và hậu cung - giống như những chuyện động trời đã được phơi bày ra ánh sáng ngày hôm nay. Người người chen chúc nhào đến trước mặt Lục Thư Thanh, tranh nhau hỏi dồn, thế tử, bệ hạ có để lại di chiếu gì không?

Bất chợt, Lục Thư Thanh cảm giác bản thân bị một đôi tay mạnh mẽ kéo lại. Chỉ trong khoảnh khắc, tất cả mọi tiếng ồn ào cùng với chân tướng đều bị ngăn cách, đến khi hoàn hồn, cậu mới nhận ra mình đã đang ở trong lòng cha mẹ rồi.

Mặt cậu kề sát vào hõm vai của mẹ, còn vòng tay ôm trọn lấy lưng cậu chính là vòng tay của cha.

Hai mắt Lục Thư Thanh lại bắt đầu nhòe đi, chậm rãi nghĩ: Trên đời này chỉ có mỗi mình cậu biết rõ, thật ra thúc phụ chẳng hề nói những lời đó.

Lục Lệnh Chương chỉ nhẹ nhàng, chầm chậm kể cho cậu nghe rằng: "Khi con còn nhỏ... Thúc phụ cũng chưa lớn lắm. Có một ngày, ta nhìn thấy Ngô nương nương ôm con ngồi dưới bóng râm của cây mai ở Tây cung, hoàng huynh và hoàng tẩu ngồi cạnh bên, trò chuyện giải sầu với bà ấy."

"Cô con thì ôm Ninh Ninh ngồi trên bệ đá hồ Thái Dịch, cầm nhánh liễu đan giỏ..."

"Khi ấy ta rất muốn qua đó, nhưng ta biết rõ mình không thể... Các con là người một nhà."

"Thanh Nhi, các con mới là người một nhà."

Đây là những lời cuối cùng của Lục Lệnh Chương.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 107


<b>《</b><b> </b><b><i>26.1 - Hồi tưởng </i></b><b>》</b>

Đêm khuya, cơn mưa lớn vừa dứt chưa đầy một canh giờ, đã cuốn trôi sạch sẽ mùi máu tanh ngập tràn thành Kim Lăng suốt ba ngày đầy rẫy giết chóc.

Dưới chân cầu Chu Tước, từng ngôi nhà đều đóng chặt cửa nẻo, không ai dám phát ra dù chỉ một tiếng động nhỏ. Mọi người đều sợ rằng chỉ cần sơ sẩy một chút thôi là sẽ lập tức bị ghép tội mưu phản. Không chỉ vì thiên tử vừa mới băng hà, mà còn bởi vì cảnh hành quyết ghê rợn bên cầu lúc chạng vạng khiến ai nấy đều khiếp sợ.

Mà "kẻ sống sót" Tạ Cánh - người chẳng hề bộc lộ chút đau buồn nào, chỉ thờ ơ, lạnh lùng nhìn cha và anh mình bị xử trảm, giờ phút này đang nằm trơ trọi dưới chân cầu Chu Tước, nhưng lại chẳng nhúc nhích lấy một cái khiến người ta hoài nghi không biết liệu y còn sống hay đã chết rồi.

Song, giữa màn đêm tĩnh mịch, một cỗ xe ngựa giản dị đến nỗi khó lòng khiến người ta chú ý bỗng lăn bánh đến, dừng lại dưới chân cầu, một bóng người vén rèm bước xuống, bế Tạ Cánh lên xe rồi ngay lập tức chạy vụt đi.

Xe ngựa chạy vòng quanh khúc sông Tần Hoài hồi lâu, cuối cùng mới tiến về cổng bên kín đáo, hẻo lánh nằm ở phía Tây phủ Chiêu Vương. Bên trong buồng xe có đặt mấy chậu than, trán Lục Lệnh Tùng và Ngân Trù đều lấm tấm mồ hôi, nhưng cơ thể Tạ Cánh thì vẫn lạnh ngắt, bởi vì kiệt sức, lại vì đói rét và phải chịu nỗi đau tinh thần quá lớn nên đã lâm vào cơn mê man.

Lục Lệnh Tùng cởi bỏ quần áo ướt sũng và dính đầy bùn đất của Tạ Cánh, dùng nước nóng và khăn mềm cẩn thận lau sạch cơ thể đối phương rồi thay cho y quần áo ngủ. Cuối cùng, hắn vòng tay ôm chặt Tạ Cánh vào lòng, dùng chính thân nhiệt của mình để sưởi ấm cho y, còn kéo thêm một chiếc áo choàng dày phủ kín cả hai người.

Ngân Trù đã cho y uống thuốc trước, nhìn cánh môi tái nhợt của Tạ Cánh, cô lo lắng nói: "Không nguy hiểm đến tính mạng, chỉ là hàn khí đã ngấm vào cơ thể, còn nghiêm trọng hơn cả sương lạnh mùa thu. Nhất định phải chăm sóc cẩn thận, nếu để lại gốc bệnh thì hậu quả sẽ rất khó lường."

Lục Lệnh Tùng gật đầu, nói khẽ: "Những ngày sau này, nhờ chị chăm sóc em ấy cùng bọn trẻ."

"Đương nhiên rồi," Ngân Trù chẳng chút do dự đáp lại, nhưng lời vừa thốt ra, cô bỗng cảm nhận được điều khác thường: "Ý của điện hạ là... Ngài định đi đâu?"

Lục Lệnh Tùng nhìn cô, ngập ngừng nói: "Ta sẽ rời khỏi Kim Lăng."

Ngân Trù hoảng hốt: "Hôm nay nhà họ Tạ mới vừa gặp nạn, Vương thị nâng đỡ Nhị điện hạ lên ngôi, sau đó chắc chắn sẽ còn có thêm động thái khác, nếu ngài không ở đây, ai sẽ chống đỡ phủ Chiêu Vương bây giờ?"

Lục Lệnh Tùng nhìn về phía ánh lửa mông lung đang chập chờn cháy, hít một hơi: "Chính vì phụ hoàng đã băng hà, Lệnh Chương đăng cơ, ta mới không thể tiếp tục ở lại Kim Lăng. Trong kinh có vô số cặp mắt nhìn chằm chằm vào ta, nhìn chằm chằm vào Thanh Nhi. Nếu không nhổ tận gốc phủ Chiêu Vương, phủ Tướng chắc chắn sẽ không chịu dừng tay."

"Tân đế vừa lên ngôi, khi còn sống phụ hoàng đã đề phòng phủ Tướng rất sát sao, phần lớn binh quyền đều đã phân tán vào tay các sĩ tộc khác nhau. Nhà họ Vương dù muốn thâu tóm toàn bộ quyền lực, cũng chẳng phải trong một sớm một chiều là làm được. Huống hồ, các Quận thủ trấn giữ khắp nơi đều có lòng riêng, với sức nặng lời nói của phủ Tướng trong giai đoạn này, họ căn bản sẽ không được nhiều người ủng hộ, cũng sẽ không thể tập hợp đủ lực lượng để tiêu diệt tất cả những kẻ mang dị tâm."

"Cho nên ta nhất định phải bắt lấy thời cơ này, lợi dụng kẽ hở ấy, chỉ cần ta có thể phát triển binh lực trong tay trước khi phủ Tướng đứng vững, họ tuyệt đối sẽ không dám tùy tiện ra tay với người thân của ta ở kinh thành."

"Huống hồ nắm binh quyền là chuyện sớm muộn gì cũng phải làm. Nếu bên hông không có đao kiếm, ngày sau muốn rửa mối hận hôm nay, làm sao ta có thể thành công khi tay không tấc sắt?"

Ánh mắt hắn dừng lại trên gương mặt của Tạ Cánh: "Ta đã nếm trải một bài học kinh nghiệm rồi, cái giá phải trả quá đắt, cả đời này ta sẽ không tái phạm lần hai."

Ngân Trù nghe vậy, im lặng hồi lâu mới nói: "... Nhưng chuyện đó phải mất bao lâu đây? Đao kiếm không có mắt, lỡ như -"

Lục Lệnh Tùng hiểu rõ những lời chưa nói hết của cô, chỉ cười khổ một cái: "Nếu thật sự có ngày đó, thì cũng là mệnh số ta đã định. Lỡ như ta không còn, có lẽ những kẻ kia sẽ thôi không nhòm ngó, nóng lòng muốn đẩy bọn họ vào chỗ chết nữa."

Bầu không khí phủ Chiêu Vương vô cùng nặng nề, phần lớn hạ nhân vẫn còn chưa đi ngủ, lo lắng cho chủ nhân và cả vận mệnh của bản thân sau này. Lục Lệnh Tùng bế Tạ Cánh đi thẳng về phòng ngủ, Ngân Trù mang hòm thuốc của cô tới, chuẩn bị châm cứu để loại bỏ hàn khí ngấm vào cơ thể y.

Nhân lúc có chút thời gian, Lục Lệnh Tùng dặn thị nữ chuẩn bị cho mình mấy bộ quần áo, còn hắn thì bước vào thư phòng ở nhà trước, lục ra từng lá thư qua lại với các sĩ tộc, quan lại, thương hộ trong ngoài kinh thành suốt những năm qua, lần lượt cẩn thận kiểm tra, hễ là thư nào có nội dung nhạy cảm, có khả năng bị kẻ khác lợi dụng để bới móc, hắn sẽ lập tức thiêu hủy.

Chợt thấy trong số đó có vài bức thư Tạ Cánh gửi cho hắn - số lượng rất ít, có thể đếm trên đầu ngón tay, bởi trong mười năm qua họ thật sự chẳng mấy khi phải chia xa. Cách xưng hô trong thư có phần đặc biệt, ở đầu thư, y viết: <i>"Tử Phụng, em anh như gặp gỡ"</i>, đến cuối thư lại chỉ ký vỏn vẹn hai chữ <i>"Em Cánh".</i>

Trong thư tuyệt nhiên không có một lời sướt mướt yêu đương nào. Dù người ngoài có đọc phải, e rằng cũng chẳng ai đoán được đây là thư nhà của một đôi vợ chồng. Nhưng hắn lại dễ dàng đọc ra tình cảm của y từ những câu chữ tưởng như chỉ là lời bâng quơ.

Y muốn cùng Lục Lệnh Tùng ra ngoài thành du xuân, bèn viết: <i>"Ngựa tốt trong chuồng béo lắm rồi đấy."</i>

Khi thèm món cá vược hấp tỏi vàng Lục Lệnh Tùng nấu, y viết: <i>"Ngày mai phải đi câu cá cùng một đồng liêu."</i>

Soạn được khúc đàn mới, y muốn gảy cho hắn nghe, lại viết: <i>"Dạo này em dỗ Ninh Ninh ngủ bằng một bài đồng dao khác rồi."</i>

Nếu chỉ đơn giản là nhớ hắn, thì ở cuối thư y sẽ thêm một câu khách sáo, vụng về che giấu:<i> "Kết thư quyến luyến, khó tỏ hết lời."</i>

Lục Lệnh Tùng nhìn chằm chằm mấy tờ giấy mỏng ngẩn người hồi lâu. Trên giấy thư có in hoa văn như ý mạ vàng mảnh dẻ, loang lổ vài vệt mây xanh xám mờ ảo tựa như bầu trời sau cơn mưa lúc này.

Sau đó hắn hạ tay xuống, thả thư đốt đi.

Tuấn mã như gió, mùi thơm của cá vược hấp tỏi, tiếng đàn lâm lang trong nháy mắt bị ngọn lửa cuốn thành tro tàn.

Mãi lâu sau, Lục Lệnh Tùng hoàn hồn ngẩng đầu lên, mới phát hiện ra Lục Thư Thanh khoác áo lông cáo đang đứng trước cửa, chẳng biết đã nhìn hắn bao lâu.

"Thanh Nhi?" Lục Lệnh Tùng vội vàng gọi cậu vào, sau đó đóng cửa sổ lại rồi khoác áo khoác của mình cho cậu: "Sao giờ này con còn chưa ngủ?"

Lục Thư Thanh gật đầu, cúi đầu xuống, mãi mà vẫn không chịu ngẩng lên.

Lục Lệnh Tùng kéo ghế đến ngồi xuống trước mặt Lục Thư Thanh, nâng mặt con trai lên: "Có phải con muốn nói với cha điều gì không?"

Lục Thư Thanh do dự rất lâu, rốt cuộc mới quyết định, nói liền một mạch: "Đêm qua tổ phụ băng hà, truyền ngôi cho thúc phụ, trên di chiếu nói muốn sao trảm cả nhà ngoại, lệnh cho cha làm quan giám trảm, phải không ạ?"

Lục Lệnh Tùng nhìn cậu: "Đúng vậy."

"Vì sao?" Cậu run rẩy hỏi: "Ông ngoại và cậu đã phạm lỗi gì khiến tổ phụ không vừa lòng? Mẹ con đã làm sai điều gì khiến cha không vừa lòng?"

Lục Lệnh Tùng sững sờ, lắc đầu nhỏ giọng đáp: "Không, Thanh Nhi, bọn họ đều không sai... Nếu như nói mẹ con đã làm gì sai, vậy cũng chỉ có thể là vì năm ấy tâm chí của em ấy chưa đủ kiên định, không dứt khoát kháng hôn, không từ chối gả cho cha."

Lục Thư Thanh gần như nức nở: "Vậy vì sao cha lại phế bỏ chức Vương phi của mẹ? Vì sao phải rời khỏi nhà?"

Lục Lệnh Tùng im lặng hồi lâu, chỉ nói: "Không phải chỉ có theo sát bên cạnh từng tấc không rời mới là cách bảo vệ một người. Có đôi khi, con ở quá gần người thân của mình mới là hại người đó."

Lục Thư Thanh chỗ hiểu chỗ không, nhưng cậu chợt nhớ đến việc mình đưa thiệp mời cho người bạn thân A Hoàng, cuối cùng chỉ khiến phủ Tướng nghi ngờ cả cô bé và mẹ em, bấy giờ mới mơ hồ cảm nhận được nỗi buồn mà cha cậu muốn truyền đạt.

"Thanh Nhi, sinh ra trong dòng dõi của chúng ta, đối với con vừa là đại hạnh, cũng vừa là bất hạnh. Chuyện hôm nay, cha không có thời gian để nói rõ với con, những chuyện này bây giờ con nghe cũng không thể hiểu hết được. Nhưng chỉ có một điều, con phải nhớ kỹ -"

Lục Lệnh Tùng nhìn thẳng vào mắt con trai lớn, giọng nghiêm túc: "Cha và mẹ con còn sống ngày nào, thì ngày đó con chẳng cần phải lo lắng, sợ hãi bất cứ chuyện gì cả."

Dỗ dành Lục Thư Thanh đi ngủ xong, Lục Lệnh Tùng trở về nội viện, nhìn thấy Lục Ngải ở trên giá nuôi chim đang vùi đầu vào dưới cánh ngủ. Tai của nó rất thính, có thể nhận biết tiếng bước chân của người nhà. Lục Lệnh Tùng vừa bước lên hành lang, nó đã rút đầu ra, nhẹ nhàng bay đến đậu lên tay hắn.

"Sao mi cũng tỉnh rồi?" Lục Lệnh Tùng cong ngón tay cọ lên bộ lông mềm của nó, nhỏ nhẹ hỏi: "Có lạnh không? Vào phòng ngủ đi."

Lục Ngải hiểu tính người, hai ngày nay nó đã nhìn thấy thảm cảnh trong nhà, đến cả Lục Thư Thanh bình thường thích chơi với nó nhất còn chẳng nở lấy một nụ cười, vậy nên cũng không mở miệng nói chuyện.

Nó mổ vào lòng bàn tay Lục Lệnh Tùng, theo hắn đến sương phòng phía Đông. Đêm nay Ngân Trù bận chăm sóc Tạ Cánh, để cho một thị nữ khác ở bên cạnh Lục Thư Ninh, lúc này cô nàng đang lim dim ngủ bên cạnh lồng xông hương ở gian ngoài.

Lục Lệnh Tùng không đánh thức nàng, nhẹ chân nhẹ tay đi vào trong, đến bên cạnh giường Lục Thư Ninh. Tóc của con gái nhỏ vô cùng mềm mại, xõa tung trên gối nằm, em hít thở đều đặn, hiển nhiên đã ngủ say.

Từ lâu Lục Lệnh Tùng đã nhận ra rằng, so với hắn, Tạ Cánh và Lục Thư Thanh - ba người thân thiết nhất với em, thì Lục Thư Ninh không thường bộc lộ cảm xúc mãnh liệt như bọn họ, hay nói cách khác, em không phải là kiểu người can trường.

Điều này không có nghĩa là em lạnh lùng hay vô tâm, mà ngược lại, Lục Thư Ninh quan sát mọi chuyện rất tinh tế, dù tốt hay xấu, chỉ là phản ứng của em luôn rất hòa nhã, biết cách khắc chế, nếu thuận theo ý em thì tốt, không như ý cũng chẳng sao.

Điều này thực sự rất khác biệt, em chỉ mới ba tuổi, không biết sau này tính tình có còn như vậy nữa hay không.

Lục Ngải bay lên khung giường đậu, co chân lên giống hệt một người bảo vệ trung thành, dường như nó lại buồn ngủ.

Lục Lệnh Tùng nói với nó: "Mi không muốn đi à, vậy thì ở lại cùng con bé đi."

Nói xong, hắn cúi người cầm tay Lục Thư Ninh lên, nhẹ nhàng hôn lên mu bàn tay em.

Vợ và con trai sớm chiều ở bên cạnh hắn suốt mười năm qua, thân mật khắng khít, mẹ và em gái càng ở bên cạnh hắn lâu hơn, gần như cả nửa đời người, thế nhưng Lục Thư Ninh đã đến bên hắn được bao lâu đâu chứ? Trời xanh ban cho hắn một viên ngọc quý, hắn còn chưa đưa em ra ngoài nhìn non xanh nước biếc mà hắn đã từng đưa mẹ và anh trai của em đi, vẫn chưa dạy cho em chơi kiếm, uống rượu, chưa cùng em chơi cờ, uống trà, vẫn chưa kịp cùng em lớn lên mỗi ngày.

Rồi cũng sẽ có cơ hội thôi, Lục Lệnh Tùng tự an ủi trong lòng, dù không có hắn, Tạ Cánh, Lục Thư Thanh, hoặc là Lục Lệnh Chân, bọn họ đều có thể thay hắn làm những việc này.

Ngân Trù đã châm cứu cho Tạ Cánh xong, tuy rằng cơ thể của y đã ổn định lại, nhưng mặt lại đỏ lên một cách bất thường, có lẽ là sốt rồi.

Thấy Lục Lệnh Tùng trở lại phòng ngủ, cô bèn nói: "Tôi đã nói nhà bếp sắc một ít thuốc bổ dễ tiêu, điện hạ cứ đút cho Vương phi uống, rồi đắp chăn giữ ấm cho ra mồ hôi là được."

"Chị vất vả rồi, mau đi nghỉ đi." Lục Lệnh Tùng bảo Ngân Trù lui xuống, sau đó ngồi xuống mép giường, nhẹ nhàng ôm nửa người Tạ Cánh dậy, đút từng muỗng thuốc cho y.

Ba ngày nay Tạ Cánh chưa ăn uống gì, môi khô nứt nẻ, cổ họng nuốt cũng khó khăn. Dù đang mê man, y vẫn cau chặt mày, bởi vì cơ thể nóng nực khó chịu, y không ngừng giãy giụa trong vòng tay Lục Lệnh Tùng.

"Đừng sợ, chúng ta về nhà rồi, đều qua rồi..." Lục Lệnh Tùng kề sát mặt Tạ Cánh, ghé vào tai y thấp giọng nói: "Mọi chuyện đều kết thúc cả rồi."

Hắn hơi cúi đàu xuống, hôn lên mi tâm đã nhăn lại thành chữ xuyên của Tạ Cánh, rồi đến hai mí mắt, chóp mũi của y. Hắn có được một Vương phi dung sắc tuyệt vời, ngày đó ở Tần Hoài Xuân hắn đã nhìn Tạ Cánh thêm vài lần có lẽ là vì vẻ đẹp rất khác biệt của y, thời gian qua lâu, Lục Lệnh Tùng chẳng còn nhớ rõ suy nghĩ của mình lúc đó nữa.

Tiên đế tứ hôn cho bọn họ chết rồi, sẽ không còn ai ép buộc họ phải miễn cưỡng ở bên nhau nữa, thế nhưng, cả hai thật sự không thể tách rời được nữa rồi.

Nếu cuộc hôn nhân này là một sai lầm, nếu khởi đầu của nó chỉ toàn những phù phiếm, d*c v*ng, bắt nguồn từ bản tính ham mê sắc đẹp, vậy thì tại sao lại không cho nó một kết thúc nhẹ nhàng như thế? Tại sao nhất định phải dùng chữ "tình" rối ren, nặng nề và nghiêm trang đến nghẹt thở để lấp đầy nó, để khi nên dứt lại chẳng thể dứt?

Nụ hôn của Lục Lệnh Tùng chỉ dừng lại ở chóp mũi, không di chuyển xuống thêm. Hắn chợt nhớ đến lời phàn nàn của Tạ Cánh, y nói khi hai người vừa kết hôn, dù bọn họ có thân mật đến đâu, dù ngủ chung phòng, Lục Lệnh Tùng đều chưa từng chủ động hôn môi y. Vì lời phàn nàn này mà Lục Lệnh Tùng mới âm thầm quyết định, mỗi ngày về nhà hắn sẽ hôn Tạ Cánh, nhất định phải để cho y nhớ thật kỹ, nhớ kỹ nụ hôn này không phải là Lục Lệnh Tùng bố thí cho y, mà là đặc quyền của y. Chỉ cần Tạ Cánh nhớ, y sẽ biết rằng bản thân muốn bao nhiêu nụ hôn thì có thể đòi bấy nhiêu.

Hắn lại ghé sát bên tai Tạ Cánh, liên tục thì thầm gọi tự của y, "Chi Vô".

Rõ ràng Tạ Cánh có phản ứng với tiếng gọi ấy, cơ thể run lên đầy bất an, cổ áo hơi xộc xệch để lộ ra chiếc hộp hương bằng bạc nhỏ đeo trước ngực.

Dường như Lục Lệnh Tùng nghĩ đến chuyện gì đó, hắn nhẹ nhàng đặt Tạ Cánh xuống gối, rồi đi đến trước bàn gương, tìm được một cây kéo vàng nhỏ. Hắn biết mình nợ Tạ Cánh một lễ kết tóc đôi bên tình nguyện, quang minh chính đại.

Nhưng hắn chỉ kịp bù đắp cho y bằng cách này.

Lục Lệnh Tùng vừa cẩn thận cắt một lọn tóc nhỏ từ mái tóc của cả hai, vừa tiếp tục nói: "Anh Tử Phụng phải đi đây. Ta không biết khi nào chúng ta mới có thể gặp lại - hay liệu có còn gặp lại được nữa hay không. Nhưng những chuyện đó không quan trọng nữa, ta chỉ cần em sống tiếp. Em có còn nhớ Tạ đại nhân đã nói gì không? Bất kể khi nào, điều đầu tiên là em phải sống. Họ ở trên trời sẽ dõi theo em, ta ở nhân gian dõi theo em."

Sau đó, hắn vụng về sửa sang lại lọn tóc, suy nghĩ một chút rồi cất vào túi áo trong cùng của trang phục.

Lọn tóc mà Tạ Cánh đã kết vào đêm tân hôn là ước hẹn bọn họ sẽ sống mãi bên nhau không rời, lọn tóc mà Lục Lệnh Tùng kết đêm nay, là bằng chứng bọn họ dù chết cũng chẳng bao giờ xa nhau.

Lấy tóc làm chứng, trời đất chứng giám.

Thị nữ đã chuẩn bị hành lý cho hắn xong xuôi, Lục Lệnh Tùng thay sang áo tay bó cổ tròn để dề bề hành động, chiếc móc khóa bạc "trường vô tương vong" được móc vào đai lưng, mang theo cả miếng ngọc trắng mà mấy hôm trước Tạ Cánh đã kín đáo trao cho.

Đoạn, hắn đi đến bên bàn, nhấc bút viết mấy dòng chữ, thổi cho khô mực rồi gấp tờ giấy lại, nhét xuống gối đầu của Tạ Cánh.

Làm xong hết thảy, cuối cùng, Lục Lệnh Tùng thoáng nhìn Tạ Cánh thật sâu, sau đó quay phắt người lại, sải bước ra khỏi phòng.

Bác Chu đã đợi ở gian ngoài: "Điện hạ, Lý tướng quân có gửi thư đến."

Lục Lệnh Tùng nhận thư, trong thư Lý Kỳ nói, Tạ Tuấn may mắn còn sống đã được nhà họ Ngô sắp xếp đưa ra ngoài thành, Chung Triệu cũng đã bị khống chế, âm thầm đưa ra khỏi cung. Đội quân ba ngàn binh sĩ Hổ Sư nay đã đang đóng trại bên bờ sông, chỉ đợi Chiêu Vương đến hội hợp, cùng xuất phát đến Hoài Bắc.

Hắn cất thư vào trong tay áo, nói với bác Chu: "Ta đi đây."

Bác Chu cũng không nhiều lời, ông đã ở phủ Chiêu Vương hơn mười năm, tận mắt chứng kiến vị chủ tử này trưởng thành, từ làm anh, làm chồng đến làm cha. Chỉ cần là chuyện Lục Lệnh Tùng đã quyết định, ông chỉ cần theo đó mà làm là được.

Ông chỉ hỏi: "Tôi đi dắt Y Vân đến cho điện hạ nhé?"

Lục Lệnh Tùng lắc đầu, đi thẳng về phía nhà trước, bước vào chuồng ngựa ở bên cửa. Y Vân có chuồng ngựa riêng của mình, gần như trong nháy mắt khi Lục Lệnh Tùng xuất hiện, nó đã bước đến gần, cào móng guốc chờ đợi chủ nhân dắt mình ra khỏi chuồng giống như bao năm qua, v**t v* một hồi, sau đó leo lên mình cưỡi gió lao đi, tự do chẳng có gì ràng buộc.

Nhưng lần này Lục Lệnh Tùng lại bước qua nó, chọn một chú ngựa trắng non trẻ hơn.

Y Vân mở to đôi mắt sáng ngời, dùng ánh mắt phục tùng nhưng vô cùng tủi thân nhìn hắn, Lục Lệnh Tùng giải thích: "Cô bé ngoan, chuyến này đi xa ngàn dặm, chưa biết sống chết ra sao, ta không nỡ để ngươi đi cùng. Ngươi ở lại Kim Lăng cùng bọn họ, cả nhà bình an ở bên nhau, được chứ?"

Y Vân hí lên một tiếng không cao không thấp, chẳng biết là trách hắn tự tiện chủ trương, hay là chúc hắn "Thuận buồm xuôi gió".

Lục Lệnh Tùng chỉ vuốt lông bờm của nó, nở nụ cười, sau đó không nấn ná thêm nữa, hắn leo lên một con ngựa trắng, kẹp theo gió lạnh phi ra khỏi cửa lớn phủ Chiêu Vương, chạy thẳng về phía thành Kim Lăng không quay đầu lại.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 108


<b>《</b><b> </b><b><i>26.2 </i></b><b>》</b>

Khi Tạ Cánh tỉnh lại đã là cuối tháng Chạp, năm Trinh Hữu thứ mười bảy sắp kết thúc.

Đợt sốt phong hàn kéo dài lần này có lẽ là trận ốm nặng nhất trong đời y, phải gần hai mươi ngày Tạ Cánh mới gắng gượng ngồi dậy được, tựa người vào đầu giường nghỉ ngơi. Nhưng người tỉnh rồi mà tâm vẫn chưa tỉnh, từ sáng đến tối y cứ đờ đẫn nhìn vào khoảng không, ít nói ít cười. Ngân Trù nhìn thấy mà hoảng, cứ như quay lại quãng thời gian vô tri vô giác lúc y vừa sinh Lục Thư Thanh.

Lục Thư Thanh lo lắng cho mẹ, buổi tối muốn ở bên cạnh y, Tạ Cánh bèn ôm cậu ngủ, cũng không hỏi Lục Lệnh Tùng đã đi đâu; Lục Thư Ninh chạy đến đòi bế, Tạ Cánh cũng ôm em vào lòng, hai người lẳng lặng dựa sát nhau cả nửa ngày trời.

Tin tức Lục Lệnh Tùng xuất kinh trong đêm, dẫn ba ngàn binh mã tiến về Hoài Bắc bình loạn vừa lan truyền đã lập tức dấy lên sóng gió. Các triều thần tùy theo mức độ thân sơ với Vương phủ mà chia thành hai phe ý kiến trái ngược nhau. Một phe phản đối, cho rằng Chiêu Vương bất trung bất hiếu, chưa đợi đến khi tang lễ tiên đế kết thúc đã bỏ mặc trọng trách hiếu tử để đi xa, chưa kể còn tự ý nuôi binh mà không thông qua Binh bộ, đúng là lòng dạ khó lường. Trái lại, phe ủng hộ nói rằng bạo loạn ở Hoài Bắc đã kéo dài nhiều tháng không dứt, Chiêu Vương ra tay bình loạn là gánh vác nỗi lo cho nước nhà, phân ưu với Hoàng đế bận trăm công nghìn việc, dù không thể không trách cứ, nhưng cũng không cần quá khắt khe.

Ban đầu, thế lực hai phe coi như ngang nhau, nhưng thời gian qua đi, đội quân "Hổ Sư" ngang tàng ra đời này thế như chẻ tre, không chỉ nhanh chóng dẹp yên quân phản loạn, mà còn hợp nhất đám phản quân tốt xấu lẫn lộn ở các nơi ấy vào quân ngũ, nhân số tăng lên rõ ràng trông thấy, hơn nữa lại còn nhận được lòng biết ơn của quan dân nhiều châu quận ở bờ Bắc sông Hoài.

Đến nước này rồi, nếu như trị tội "loạn đảng", chỉ sợ triều đình cũng sẽ lâm vào thế bí.

Tân đế đăng cơ, điều nên làm nhất vào thời điểm này chính là trấn an trong ngoài, mua chuộc lòng dân, nỗ lực duy trì ổn định. Cuối cùng, Lục Lệnh Chương ra mặt ban chiếu trao hổ phù cho Chiêu Vương, cấp phát một chút quân phí tượng trưng, thậm chí còn phong tặng danh hiệu cho sinh mẫu của Chiêu Vương là Ngô Thái phi coi như khen thưởng – tóm lại, đó được xem như sự thừa nhận công khai về tính hợp pháp của việc thành lập Hổ Sư.

Nhưng điều này không có nghĩa là phủ Chiêu Vương ở kinh thành có thể sống yên ổn.

Nhờ đan thư thiết khoán, Tạ Cánh đã được phán vô tội, theo lý y có thể tự do hành động. Nhưng Vũ Lâm Vệ bị nhà họ Vương bày mưu đặt kế, lấy cớ Tạ Cánh đã bị phế truất, không còn tư cách dùng thân phận Chiêu Vương phi để ở lại Vương phủ nữa, ba phen bốn bận tìm đến tận cửa, lấy danh nghĩa "thay mặt Chiêu Vương điện hạ thanh lý môn hộ" để ép đuổi y ra khỏi phủ.

Mấy ngày liên tục, bác Chu và Ngân Trù đều dẫn theo gia đinh ra chặn lại, đôi bên tranh chấp bên ngoài sảnh trước, che giấu kín kẽ mọi chuyện với nội viện. Họ không muốn để Lục Thư Thanh thân là thế tử phải đối diện trực tiếp với cuộc tranh đấu quyền lực, rước họa vào thân này, càng không muốn Tạ Cánh phiền muộn thêm nữa.

Mãi đến khi Lục Lệnh Chân nhân lúc mọi người đang khóc tang lẻn đến phủ Chiêu Vương, nàng mới trông thấy cảnh tượng trước mắt.

Mặc cho tên Giáo úy cầm đầu đe dọa, uy h**p thế nào, bác Chu vẫn chỉ đứng khoanh tay trên bậc thềm với vẻ mặt điềm tĩnh, phía sau ông là đám gia đinh cầm đao nghiêm nghị đứng thẳng, không lùi dù chỉ nửa bước.

Lục Lệnh Chân lạnh lùng quan sát một lúc, rồi bỗng nhiên nhấc chân đá văng tên lính chắn trước mặt mình, sau đó thẳng tay gạt đám người xung quanh sang một bên, rút chiếc roi giấu trong tay áo quất mạnh hai cái, đánh thẳng vào lưng tên Giáo úy.

Giáo úy đau đớn ngã nhào sang một bên, vừa hoảng vừa giận chửi một tiếng, nhưng quay đầu lại đã thấy Lục Lệnh Chân đứng trên cao nhìn xuống mình bằng ánh mắt lạnh lẽo, gã sững sốt, lắp bắp hỏi: "Trưởng công chúa?! Người, sao người lại đến đây..."

"Ngươi hỏi ta?" Lục Lệnh Chân lạnh lùng bật cười. "Ngươi ăn gan hùm mật gấu ở đâu mà dám hỏi ta? Ngay trong thành Kim Lăng này, dưới chân thiên tử, bà cô này muốn đến thì đến, muốn đi thì đi, đến lượt con chó cậy thế chủ nhà ngươi ở đây lắm mồm hay sao?"

Hai mắt nàng sáng rực như đuốc, quét nhìn lần lượt từng quan tướng Vũ Lâm Vệ, lạnh giọng hỏi: "Các ngươi là cái thá gì mà dám kêu gào làm loạn trước cửa phủ Chiêu Vương? Nếu chán làm việc rồi thì đừng nghĩ đến cái đầu trên cổ nữa, cứ việc đến tìm ta, chúng ta từ từ tính!"

Ngôi sao hung tính tình nóng nảy kiêu ngạo như lửa đây, ở trong kinh thành ngay cả tân đế cũng phải nể nàng ba phần. Huống hồ nàng lại là em gái ruột của "công thần" Chiêu Vương. Vũ Lâm Vệ đã nghe danh từ lâu, cũng biết rõ nếu dám đối đầu với Trưởng công chúa giữa đường giữa xá thế này thì chỉ có nước bị người đời chỉ trích, về phủ Tướng cũng khó mà ăn nói.

Thế là bọn họ không dám chọc giận Lục Lệnh Chân thêm nữa, vội vàng dập đầu tạ tội rồi xám mặt rút lui.

Bác Chu thở dài một hơi, hành lễ chào Lục Lệnh Chân: "Hôm nay may nhờ có công chúa giải vây, nếu không chẳng biết chúng còn muốn lắm miệng bao lâu nữa. Vương phi đang ở trong viện nghỉ ngơi rồi, mong công chúa bớt giận, ít nhiều cũng đừng tỏ ra bực tức nữa, đừng để Vương phi nhìn ra manh mối gì."

Lục Lệnh Chân uống một chén trà xanh nhỏ để hạ lửa, sau đó đi đến nội viện, thị nữ ở trong noãn các thấy nàng, nhỏ giọng nói: "Công chúa ngồi chơi một lát, Vương phi vừa ngủ trưa dậy, tôi đi báo với người một tiếng. Nhưng dạo này Vương phi cứ buồn bã ủ dột, sợ là..."

Lục Lệnh Chân lắc đầu, bước hai bước đến đứng trước cửa, cất giọng nói: "Anh ơi, là em, Chân Chân đây. Nếu anh sợ gặp mặt lại đau lòng, vậy thì không gặp cũng không sao, anh nghe em nói là được. Hổ Sư thiện chiến, hiện giờ rất được lòng dân chúng ở Hoài Bắc; Thanh Nhi và Ninh Ninh mỗi ngày đều vào cung giữ đạo hiếu, có em và mẹ trông chừng rồi; trước khi đi anh trai có giao cho em một đội quân, khoảng chừng ngàn người, đặt tên là Hạc Vệ, phủ Tướng có gây khó dễ, em cũng sẽ không khoanh tay đứng nhìn, để mặc cho chúng chém giết đâu. Huống chi còn có chị Tiêu và Tuyên Thất hỗ trợ, anh hãy cứ yên tâm dưỡng bệnh, đừng lo lắng."

Nàng dứt lời, chỉ chốc lát sau, cửa được đẩy ra từ bên trong, Ngân Trù bước ra chào: "Không phải Vương phi không muốn gặp công chúa, chỉ là nay người đã trở thành hậu nhân của tội thần, lại đã chẳng còn thân phận, chỉ sợ lén lút gặp mặt sẽ mang đến phiền toái cho công chúa."

"Mấy bộ váy áo lụa này là đồ mới may xong, vốn định cuối năm mang đến cho công chúa. Vương phi nói người mặc màu đỏ là đẹp nhất, chỉ là áo tang còn đây, mặc lên cũng không phù hợp, mong công chúa cứ tạm thời giữ lấy, chờ ngày sóng yên biển lặng, chắc chắn sẽ có cơ hội mặc thôi."

Cô đặt những bộ trang phục hoa lệ vào tay Lục Lệnh Chân, nói tiếp: "Vương phi nhờ tôi chuyển lời, công chúa ở trong cung cũng nên hành động cẩn thận, bảo vệ bản thân và thái phi cho tốt, nhất định phải chu toàn mọi thứ, sống bình an cả đời."

Lục Lệnh Chân nhìn chằm chằm vào cánh cửa khép hờ, chóp mũi cay xè – Tạ Cánh đang ở phía sau cánh cửa kia, thậm chí nàng có thể nhìn thấy được hình bóng mờ nhạt của y, nhưng cánh cửa này mỏng như gang tấc mà cũng dày tựa trời xa, ngăn cách giữa họ là nghìn trùng núi hận mới cất, là thù cũ kết thành vạn sông.

Cuối cùng, nàng chỉ nói: "Anh à... Em đi đây."

Từ phủ Chiêu Vương về cung, Lục Lệnh Chân cưỡi ngựa phi nhanh một mạch, đến trước Công Xa môn thì xoay người xuống ngựa, ném dây cương cho tên nội giám bên cạnh, đang định đi vào tìm mẹ thì chợt thấy một tờ giấy từ trong bọc hành lý đựng quần áo rơi ra, xoay vòng rồi đáp xuống chân nàng.

Lục Lệnh Chân cúi người nhặt lên, nét mực Khứ Hà thể hãy còn mới, hóa ra là mấy câu thơ khuyết mà Tạ Cánh vừa mới vội vàng viết rồi giấu vào y phục gửi đến nàng. Lục Lệnh Chân khẽ ngâm: "... Tân nương mới về phủ, em chồng dìu đến giường. Nay buộc phải rời phủ, cô bé đã lớn khôn. Tận tâm chăm sóc mẹ, nương tựa nhau mà sống. Mồng bảy cùng ngày chín, vui đùa chớ lãng quên..."

... Vui đùa chớ lãng quên.

Lục Lệnh Chân vẫn còn nhớ rõ ngày anh trai và anh dâu thành hôn, trên áo cưới của Tạ Cánh có thêu hình chim công uốn lượn bằng chỉ vàng. Nay đã phải tiễn đưa chim công bay xa, chẳng biết nó sẽ dừng chân nơi nào, càng không biết ngày sau liệu có còn cơ hội gặp lại hay không.

Nàng nắm chặt tờ giấy trong tay, lảo đảo từng bước đi dọc theo vĩnh hạng tiến vào cung, vừa hay gặp kiệu liễn của Lục Lệnh Chương đang đi ngược lại.

Lục Lệnh Chương ngạc nhiên nhìn nàng, sai người dừng kiệu, khẽ hỏi: "Hoàng tỷ làm sao thế này?"

Lục Lệnh Chân bất chợt hoàn hồn, đưa tay lên sờ mới phát hiện ra, chẳng biết từ lúc nào, trên mặt nàng đã vương đầy nước mắt.

"Không sao," nàng chậm rãi lắc đầu, giương mắt lên nhìn Lục Lệnh Chương trên kiệu, "...Chị không sao."

Quốc tang trước mắt, tất cả mọi thứ đều được giản lược, theo sát sau đó là năm mới, cũng chẳng ai dám gióng trống khua chiên ăn mừng.

Dù vậy, Tạ Cánh vẫn lệnh cho nhà bếp nấu chè trôi nước, chia cho tất cả nô bộc và thị nữ trong phủ ăn cùng, sau đó kết toán lương bổng, tiền thưởng trong nửa năm như thường lệ, rồi cho rời kinh về nhà đoàn viên, không cần ở lại kinh thành, cuối cùng bảo những người còn lại tự lui xuống nghỉ ngơi. Vương phủ ít đi hơn phân nửa nhân khẩu, để lại bầu không khí thê lương mà đau đớn không sao tả nổi.

Cơ thể của Tạ Cánh vẫn còn đang yếu, y khoác áo trên vai ngồi trong noãn các, vây quanh lồng xông hương dùng bữa cùng với Ngân Trù và hai đứa trẻ.

Thấy Lục Thư Thanh không gắp thêm thức ăn mà chỉ yên lặng ăn mì trong tô trước mặt, Tạ Cánh vô thức nhắc cậu: "Con chừa bụng đi, một lát nữa còn có..."

Y nói đến đây thì sững sốt, những người còn lại cũng dừng đũa, nhìn y muốn nói lại thôi. Một lát nữa còn có cái gì? Mọi năm, món sủi cảo hoa mai hấp của Lục Lệnh Tùng đều sẽ được mang lên cuối cùng, nhưng trong "tiệc" lúc này lại không có Lục Lệnh Tùng, hiển nhiên cũng không có sủi cảo hoa mai hấp,

Tạ Cánh bỗng nhiên cảm giác cổ họng mình nghẹn ứ lại, y giật run người, ăn không nổi nữa.

Y vẫn luôn mặc kệ cơn mê man do bệnh tật làm tê liệt đầu óc mình, cố hết sức không nghĩ đến người thân đã bị tàn sát, không nghĩ đến Lục Lệnh Tùng đang tha hương nơi đất khách. Ngõ Ô Y không còn trước mắt, chốn thương tâm như phủ Chiêu Vương lại bầu bạn với y sớm tối.

Nơi đây từ bàn ghế đến cỏ cây, từ ao đài quán tạ đến màn thêu bình phong... Không có nơi nào thiếu vắng bóng dáng của Lục Lệnh Tùng, không nơi nào là không có dấu vết chung sống của y và Lục Lệnh Tùng. Đêm tân hôn năm ấy, y nói với Lục Lệnh Tùng: "Nhưng đây là nhà của anh." Vậy mà hớp mắt đã mười năm trôi qua, nơi này giờ đã thực sự trở thành nhà của y, nhưng người cho y ngôi nhà ấy giờ đang ở nơi nào?

Bữa cơm tất niên trôi qua trong vắng lặng, mỗi người đều ôm tâm sự riêng. Sau khi dọn dẹp bát đũa, bác Chu bước vào, nói: "Vương phi, quản sự phủ Thái phó tới, nói rằng Thái phó biết Vương phi khó nguôi ngoai, sợ người bất tiện không có chỗ để tế bái, cho nên mang mấy thứ này đến, mong rằng Vương phi có thể vơi bớt nỗi đau nhớ người nhà, nén lại đau buồn, thương lấy bản thân."

Tạ Cánh nhận lấy xem, kia đều là tiền giấy vàng mã, đồ dùng đốt khi cúng tế. Ngày lễ tết vốn luôn là dịp cúng bái tổ tiên và người thân đã khuất, nhưng mà giờ đây chẳng ai cho phép y thờ cúng một dòng họ phản nghịch mang tội dòm ngó ngôi vua nữa.

Y nhất thời nghẹn lời, rất lâu sau mới nói với bác Chu: "Phiền bác giúp ta truyền lời, chúc thầy sức khỏe an khang, sau khỏi bệnh, nếu có thời gian ta nhất định sẽ đích thân đến nhà, bái tạ thầy ngày đó đã giúp ta gặp được cha anh."

Chờ đêm muộn, Tạ Cánh mới dắt theo Lục Thư Thanh lặng lẽ đi ra nhà sau, tìm một nơi hẻo lánh ít gió, đốt sạch tất cả những món giấy tiền vàng mã kia.

Giao thừa năm Trinh Hữu thứ mười bảy không có tuyết, cũng chẳng phải năm được mùa. Tạ Cánh lại nhớ đến nguyện vọng mà y đã từng cầu trong năm cũ kia – lời khẩn cầu chỉ giản đơn như vậy thôi, đó mà cũng gọi là lời cầu nguyện xa xỉ hay sao? Thứ mà cha và anh đã nhường cho y, món quà may mắn mà y muốn nhận được chỉ là một đồng tiền nho nhỏ, nào phải là cơ hội một mình sống sót, còn cả nhà thì chết thảm đâu chứ!

Đống lửa sáng bừng nóng hừng hực chẳng giống như pháo hoa đẹp mắt, rực rỡ rồi lại lạnh buốt. Trận hỏa hoạn năm Trinh Hữu thứ mười sáu đã sớm tàn, đốt sạch nhà y chẳng chừa lại gì.

"Mẹ ơi," Lục Thư Thanh bỗng gọi y, "Mẹ cũng sẽ bỏ bọn con mà đi sao?"

"Trên đời chẳng có bữa tiệc nào không tàn cả," Tạ Cánh đáp, "Con của mẹ, thân thể mẹ cũng là phàm thai, cuối cùng rồi sẽ có ngày rời xa con thôi."

Lục Thư Thanh bỗng nhiên quay lưng lại ôm lấy eo mẹ, lẳng lặng vùi mặt vào lồng ngực của y.

"Sao thế?" Tạ Cánh khẽ v**t v* gáy cậu.

Lục Thư Thanh chỉ nhỏ giọng nói: "Lạnh ạ."

Ngân Trù đang chờ ở nhà chính, thấy Tạ Cánh trở về từ nhà sau, cô bước lên đón đầu: "Mấy ngày trước lúc Vương phi còn hôn mê, lúc dọn dẹp giường người hầu đã tìm thấy cái này ở dưới gối, chắc là mấy lời mà điện hạ để lại cho người trước khi đi."

Cô đưa lá thư của Lục Lệnh Tùng cho Tạ Cánh, "Lúc ấy tôi sợ Vương phi đau lòng hại sức cho nên cất lại trước. Mấy nay thấy người đã bình tâm đôi chút, nếu Vương phi cảm thấy buồn, chẳng bằng dành ít thời gian đọc thư xem."

Tạ Cánh không ngờ Lục Lệnh Tùng sẽ để lại lời gì cho y, trước giờ khi từ biệt nhau họ chưa bao giờ làm chuyện này. Bởi vì luôn tin chắc vào khả năng gặp lại, cho nên không có điều gì cần nói ngay, cũng không có ngày nào là không thể đợi được, chẳng cần rườm rà, cứ việc đợi đến ngày gặp lại rồi nói cũng chưa muộn. Trừ phi ——

Sẽ không còn ngày gặp lại nữa.

Trong lòng Tạ Cánh đột nhiên dâng lên một dự cảm chẳng lành, y cúi đầu xuống, chăm chú đọc xem Lục Lệnh Tùng đã viết những gì:

<i>"Ta đã khởi hành đến tả Hoài nơi xa, e rằng ngày gặp lại khanh hãy còn xa ngút ngàn. Bệnh tình lần này hung hiểm hơn bao giờ hết, khanh nhất định phải nghe kỹ lời dặn của Ngân Trù, mặc thêm áo, bớt lo nghĩ, đừng kén ăn. Thay ta yêu thương các con ngàn vạn lần, thiết tha mong nhớ!"</i>

<i>"Khởi hành vội vã, chưa kịp chờ khanh tỉnh lại, trong lòng đầy áy náy, những lời từ tận đáy lòng đều gửi vào lời thầm thì bên tai. Nếu khanh nằm ngủ, nghe thấy tiếng ai thì thầm căn dặn bên gối thì chẳng phải ai khác đâu, mà chính là nỗi vấn vương sâu đậm của ta đã theo khanh vào trong mộng đấy!"</i>

<i>"Được voi đòi tiên là bản tính con người. đã có mười năm, liền mong trăm năm; đã kết tóc xanh, liền mong bạc đầu; đã được đời này kiếp này, liền mong đời đời kiếp kiếp. Đêm nay ly biệt chẳng biết lành dữ, nếu ngày sau gặp lúc nguy khốn, may mắn thì da ngựa bọc thây, ta sẽ ở suối vàng đợi khanh bảy mươi năm; nếu chẳng may chôn thân nơi sa trường, thì trời đất mênh mang, nơi đâu cũng là chỗ chôn xương."</i>

Ngân Trù đã lặng lẽ lui ra từ lâu, để lại một mình Tạ Cánh đứng dưới hành lang, cả người y run lên bần bật, tay chẳng cầm vững được giấy. Ánh trăng giữa trời cao rọi xuống sân nhà, hắt sáng lên những lá cờ tang treo cao bốn phía, mai trắng nở rộ, tỏa hương thanh khiết ngàn dặm, đây chính là "đêm tuyết" chỉ thuộc về phủ Chiêu Vương.

Ánh mắt y dừng lại trên những dòng thư cuối cùng:

<i>"Ta khanh bên nhau trọn vẹn mười xuân, buồn vui nhân thế trăm vị, ta đều đã cùng khanh nếm trải từng thứ, dù chết cũng không hối tiếc."</i>

<i>"Từ đây gió sương mưa tuyết đất Kim Lăng, nơi nào khanh đi đến, hồn ta mãi theo sau."</i>
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 109


<b>《</b><b> </b><b><i>26.3 </i></b><b>》</b>

Tạ Cánh xốc màn, nhẹ nhàng leo lên giường, kéo chăn đắp kín cho Lục Thư Thanh, cậu xoay mặt vào bên trong, chân hơi co lại, đã ngủ say rồi.

Sau đó y trở mình nằm xuống, hai mắt mở to nhìn trân trân lên chóp màn. Chiếc màn này từ lâu đã không còn là màn đỏ thêu hoa lựu ngày đại hôn của y và Lục Lệnh Tùng nữa. Năm mười sáu tuổi, y cũng nằm như thế này, trên chiếc giường này, nhưng không nghĩ sẽ có ngày hôm nay.

Trong lúc sốt cao, đúng là Tạ Cánh có nghe thấy ai đó ghé vào tai mình nói chuyện, nhưng y cứ ngỡ đó là mơ hay chỉ là tưởng tượng. Đối phương từng gọi tên y, muốn y phải "sống", cứ thế lặp đi lặp lại mãi, ngay cả trong cơn mê man, Tạ Cánh cũng vô thức cảm nhận được sự lo lắng của hắn.

Hóa ra đó là Lục Lệnh Tùng. Thật ra cũng chỉ có thể là Lục Lệnh Tùng.

Bọn họ đều muốn y sống tiếp, nhưng sống còn khó hơn chết nhiều. Khi cuộc hành hình dưới cầu Chu Tước kết thúc, cuối cùng y cũng gục ngã sau ba ngày không ngủ không nghỉ, một giây trước khi mất đi ý thức, hình ảnh đầu của cha và anh vẫn in sâu trong đáy mắt. Khoảnh khắc ấy y chỉ một mực nghĩ đến cái chết.

Dù đã được cứu về Vương phủ dưỡng bệnh, suy nghĩ này vẫn thường xuyên lóe lên trong đầu y - cho đến khi đọc xong bức thư đó.

Với sự hiểu biết của Tạ Cánh về Lục Lệnh Tùng, y có thể không chút do dự nói rằng, Lục Lệnh Tùng đã viết nó như một bức di thư.

Lục Lệnh Tùng là một người đặc biệt như vậy, trước khi đưa ra quyết định, đôi khi hắn sẽ tỏ ra do dự, tự ti, thậm chí nhu nhược; nhưng một khi đã quyết định xong, ý chí và năng lực thực thi mạnh mẽ của hắn lại khiến người ta phải kinh sợ. Tạ Cánh hoàn toàn có thể tưởng tượng ra cảnh tượng ấy - dù tình cảm trong bức di thư nặng tựa ngàn cân, nhưng khi viết nó, Lục Lệnh Tùng chắc chắn vẫn điềm nhiên như không, chẳng điều gì có thể ngăn cản hắn bước tiếp trên "con đường" đã chọn, kể cả cái chết.

Rất không may, dù có được quay trở lại trăm ngàn lần, Tạ Cánh vẫn sẽ tâm phục khẩu phục trước khí phách ấy. Từ nhỏ y đã mắt cao hơn đầu, ngạo mạn chẳng coi ai ra gì, vậy mà lại nguyện ý làm vợ, làm em, làm bề tôi, tận tụy theo sát Lục Lệnh Tùng bao nhiêu năm trời, chỉ vì hai điều, đó là sự "dứt khoát" lạnh lùng với mọi việc và sự "tàn nhẫn" thành thạo với con người của Lục Lệnh Tùng.

Vì vậy, Tạ Cánh không thể suốt ngày lấy nước mắt rửa mặt, an nhiên sống trong đau khổ và hối hận, để mặc Lục Lệnh Tùng một mình l**m máu trên lưỡi đao, mạo hiểm vì cả nhà được.

Báo thù có lẽ là chuyện viển vông, không biết tự lượng sức mình, nhưng ít nhất Tạ Cánh biết phải bắt đầu từ đâu - ngòi nổ dẫn đến tai họa của nhà họ Tạ chính là lô ngọc Lam Điền bất ngờ xuất hiện, cùng món lễ vật đột ngột được đưa tới vào thời điểm đáng ngờ của Hà Cáo.

Ngọc Lam Điền được khai thác trong vùng đất thuộc phạm vi Ung Châu, cũng chính là nơi Hà Cáo đang nhậm chức. Khoảng cách từ kinh thành đến nơi đó xa hơn nghìn dặm, nếu không có khoái mã hay xe thuận gió, chỉ dựa vào khả năng của bản thân y, có lẽ phải mất hơn nửa năm mới có thể đến nơi.

Tạ Cánh không sợ hành trình dài bôn ba, chỉ sợ nếu y rời đi, để lại các con bơ vơ ở Vương phủ, thì đêm đêm làm sao có thể yên giấc?

Nhưng làm cách nào để đưa bọn trẻ rời kinh? Chưa chắc y đã được phép đưa chúng ra khỏi kinh thành - Lục Thư Thanh gần như chắc chắn không thể; nhưng dù có đưa đi được, y cũng tay không tấc sắt, Phi Quang chẳng rõ đã ở đâu, y tự bảo vệ mình còn không nổi, huống chi là che chở con của mình? Bao năm nay ở trong kinh, ngoại trừ ăn không ngồi rồi, củi gạo dầu muối chẳng đụng tay, đạo lý đối nhân xử thế lại như tờ giấy trắng, y có thể làm được việc gì để nuôi con, che chở chúng khỏi mưa giông bão táp đây?

Sau gần một tháng kể từ khi tận mắt chứng kiến người thân bị tàn sát mà bản thân lại bất lực không thể cứu giúp, cảm giác tuyệt vọng sâu sắc và bất lực rốt cuộc cũng chậm rãi nhấn chìm Tạ Cánh.

Bên tai vang lên tiếng sột soạt khe khẽ, Lục Thư Thanh trở mình trong cơn mơ, cậu chẳng hề hay biết gì, chỉ vô thức kéo lấy một cánh tay của Tạ Cánh lại, đặt ngang ra rồi mơ màng gối đầu lên đó, còn dụi đầu vào lòng mẹ vài cái.

Trong bóng tối, Tạ Cánh sững sờ, cảm giác chua xót chợt dâng lên như thể ngâm mình trong nước mơ chua, như thế này, bảo y làm sao nhẫn tâm rời đi được đây?

Mùng một tháng Giêng, tân đế Lục Lệnh Chương đăng cơ tế trời, đổi niên hiệu thành Cảnh Dụ. Bởi vì gã chỉ mới mười sáu tuổi, chưa làm lễ gia quan, vậy nên Thái hậu Vương thị và Hữu tướng Vương thục đã cùng nhau phụ chính.

Xét đến bài học khi bị Lục Lệnh Chân quất roi trước đó, lần này khi quay trở lại đứng trước cửa phủ Chiêu Vương, Vũ Lâm Vệ đã mang theo vũ khí, rõ ràng đến với ý đồ bất thiện.

Có lẽ vì Lang Gia Vương thị cầm quyền đã trở thành thế cục không thể lay chuyển, lại có ngoại thích của thiên tử chống lưng nên tên Giáo úy gan to hơn hẳn. Dù sao bọn chúng cũng không đến giết người phóng hỏa, chỉ là đuổi một phế phi bị Chiêu Vương đích thân phế bỏ mà thôi. Lục Lệnh Tùng trở về có truy cứu trách nhiệm thì liệu có thể gây lên sóng gió gì chăng?

Vì vậy lần này gã hoàn toàn bỏ qua kiểu cách "trước lễ sau binh", trực tiếp dẫn người phá cửa xông vào, một đường thẳng tiến không chút kiêng dè.

Gia đinh có người về quê chưa trở lại, nhất thời không thể tập hợp đầy đủ. Bác Chu dẫn theo một đám gia nhân và nha hoàn ùa ra, cố gắng ngăn bọn chúng lại dưới sảnh chính. Ngân Trù và Lục Thư Thanh đang ở trong phòng thuốc, nghe thấy động tĩnh, cuối cùng vẫn không tránh khỏi phải đối mặt với cuộc xung đột này.

Ngân Trù lập tức chắn trước người cậu, quát lớn: "Dám mang binh khí xông vào Vương phủ, các ngươi điên rồi sao?"

Tên Giáo úy cợt nhã: "Cô nương nói chuyện thật nực cười, nếu bọn ta vào đây bị coi là xông vào trái phép, thì tội thần họ Tạ ở lại đây suốt nửa tháng nay, chẳng phải đã trở thành con tu hú cướp tổ rồi sao?"

"Phế lập Vương phi là chuyện riêng của phủ Chiêu Vương," Bác Chu lên tiếng, "Dù muốn đuổi người đi, thì cũng phải do điện hạ đích thân ra lệnh mới đúng. Tùy tiện can thiệp vào việc nhà của thần tử, chẳng lẽ đây chính là sách lược phụ chính mà Vương tướng của chúng ta muốn dùng hay sao?"

Giáo úy khựng lại, bản thân gã làm oai thì không sao, nhưng lại không dám để phủ Tướng bị vướng vào lời đàm tiếu như vậy. Gã đảo mắt nhìn đám gia nhân: "Các ngươi ai nấy đều ra sức che chở cho y như thế, thật khiến ta cảm thấy kỳ lạ. Chẳng lẽ... Cái gọi là phế truất Vương phi, thực chất chỉ là chiêu trò lá mặt lá trái của điện hạ, mượn cớ che mắt người đời để lén lút nuôi dưỡng tội nhân trong Vương phủ hay sao?"

Lời này nói trúng nỗi lòng của mọi người, nhất thời không ai dám manh động, Giáo úy thấy vậy, đắc ý nói: "Nếu chuyện này là thật, vậy thì ta phải bấm báo lên bệ hạ và Vương tướng, xin các ngài tra rõ một phen. Ai biết chừng, Trưởng công chúa cũng có phần tham gia vào đấy."

Lục Thư Thanh đẩy nhẹ Ngân Trù một cái, cô quay sang, chỉ nghe cậu nói: "Dì à, để con lên."

"Thanh Nhi, con..."

Lục Thư Thanh chỉ lắc đầu, cậu băng qua đám hạ nhân Vương phủ đang che chắn trước mặt mình, chậm rãi bước ra bậc thềm, chẳng chút sợ hãi ngẩng đầu nhìn thẳng vào Giáo úy: "Nghe khẩu khí của đại nhân, dường như đây không phải lần đầu tiên ngươi đến phủ nhỉ? Chẳng lẽ Trường sử, Tham quân, Giám thừa Vũ Lâm Vệ đều chết cả rồi nên mới phái một tên Giáo úy nhỏ bé đến hỏi chuyện ta sao? Ta là thế tử Chiêu Vương được tiên đế thân phong, Vũ Lâm Vệ bất kính với ta như vậy, chẳng phải đã đặt thể diện của tiên đế và thiên gia dưới chân rồi sao?"

Tên Giáo úy kia mới được đề bạt không lâu, trước đó chưa từng có cơ hội nhận diện Lục Thư Thanh, ban đầu gã hoàn toàn không để đứa trẻ này vào mắt, mãi đến khi nghe cậu nói xong, gã mới ngập ngừng lùi lại vài bước, miễn cưỡng hành lễ, nhưng giọng điệu vẫn rất coi thường: "Thế tử thứ tội, không phải Vũ Lâm Vệ khinh thường quân uy, lần này tôi thật sự được Vương tướng đích thân chỉ định đến đây, nếu có sơ sót về lễ nghi thì cũng chỉ là bất đắc dĩ."

"Đích thân chỉ định?" Lục Thư Thanh lạnh giọng nói, "Bây giờ địa vị của Vương tướng lên cao rồi, nhưng ông ta là quân thượng, hay là nhiếp chính vương? Bất quá cũng chỉ là một thần tử phụ chính mà thôi, ông ta dám cả gan làm càn, quyết định trên đầu hoàng thúc luôn hay sao?"

Giáo úy thấy cậu không bị danh tiếng của Vương Thục làm lung lay, đành phải đổi cách đe dọa: "Vương tướng còn không quên dặn dò tôi phải quan tâm thế tử nhiều hơn, dù gì cũng là 'Gia Thụy' trăm năm khó gặp, sinh ra trong điện Cửu Hoa, lại được tiên đế có lòng bồi dưỡng. chỉ có điều thế tử tuổi còn nhỏ, ít trải sự đời, chẳng lẽ không biết một lòng gắn bó với thiên gia, ngược lại sẽ khiến người khác nghi ngờ rằng thế tử và Chiêu Vương có mưu đồ bất chính hay sao?"

Lục Thư Thanh cười lạnh một tiếng: "Cha ta là công thần được chính miệng bệ hạ khâm định, chỉ dựa vào mấy lời xằng bậy vừa rồi của đại nhân, gieo rắc hiềm khích giữa quân thần, huynh đệ, dù có chết vạn lần cũng không đủ chuộc tội!"

Cậu bước lên vài bước, đứng ở vị trí chỉ cách Giáo ủy vẻn vẹn nửa cánh tay, nói: "Tuy mẹ ta không còn là thê tử của Chiêu Vương, nhưng người vĩnh viễn là mẹ ruột của thế tử, ngươi muốn đuổi người đi, vậy để ta chỉ cho ngươi một cách."

Lục Thư Thanh đột nhiên vươn tay rút hơn nửa thanh đao của Giáo uy ra khỏi vỏ, mặt không đổi sắc nói: "Ngươi cầm nó chém ta một nhát, sau đó mang xác ta đến bẩm báo với hoàng thúc, nói mẹ ta tâm trí rối loạn, điên cuồng giết con, không thích hợp ở lại Vương phủ nữa. Nếu như ngươi có thể làm được chuyện này, ta tôn trọng sự dũng cảm của ngươi; nhưng nếu làm không được... Vậy thì mau dẹp cái ý nghĩ này lại đi!"

Cậu nhìn Giáo úy bằng ánh mắt khinh miệt. bác Chu thấy mà lo lắng không thôi, lại mơ hồ như được gặp bộ dáng cao ngạo của tân khoa trạng nguyên lang năm xưa.

Giáo úy đang bực tức trong lòng, lại bị Lục Thư Thanh khích tướng, rốt cuộc cũng rút đao ra thật. Mọi người thấy vậy liền hô lớn "Thế tử!" rồi định xông lên ngăn cản, nhưng đám binh sĩ Vũ Lâm Vệ bên cạnh đã hung hăng tiến tới, thô bạo chặn họ lại, không để ai đến gần.

"Một thằng oắt con miệng còn hôi sữa, thật sự nghĩ chuyện múa đao vung kiếm là trò chơi trẻ con sao! Hôm nay dù ta thực sự đả thương ngươi rồi đổ tội lên đầu tội nhân họ Tạ, kẻ thiệt thòi cũng chỉ có mẹ con các ngươi thôi, liên quan gì đến ta chứ!"

Dứt lời, gã bèn giơ đao, định bổ thẳng xuống người Lục Thư Thanh, nhưng đúng lúc này, một cái bóng xanh biếc lao nhanh từ trên cao xuống, nện thẳng vào mặt gã. Giáo úy chỉ cảm nhận được cơn đau nhói, đến khi định thần lại thì trên mặt đã xuất hiện vài vết xước đang rướm máu.

"Cái thứ quái quỷ gì đây!" Gã chửi rủa, vừa ngẩng lên thì thấy Lục Ngải chao liệng trên đỉnh đầu như chim kền kền, dáng vẻ hung hãn tựa như đang chờ thời cơ bổ nhào xuống thêm một cú nữa.

Lục Thư Thanh cau mày gọi: "Lục Ngải, về đây! Ta không cần ngươi giúp!"

Giáo úy vươn tay muốn bắt lấy Lục Ngải, nhưng Lục Thư Thanh đã dùng bả vai húc vào xương sườn gã, khiến cho gã mất trọng tâm lảo đảo nửa bước. Giáo úy túm lấy cổ áo Lục Thư Thanh định ném cậu ra xa, hai bên giằng co hỗn loạn, bỗng phía sau vang lên một giọng nói:

"Dừng tay!"

Mọi người ngoảnh lại, không biết từ lúc nào Tạ Cánh đã tỉnh dậy, lần theo tiếng ồn đi đến giữa chính đường, vẻ ngoài của y ốm yếu xanh xao, sắc mặt tiều tụy, phải tựa vào cửa mới gượng đứng thẳng được.

Lục Thư Thanh nhân lúc Giáo úy phân tâm lập tức vùng khỏi sự kìm kẹp, chạy nhanh về bên cạnh mẹ.

Tạ Cánh cất giọng đanh thép: "Chẳng nhọc Vương gia hao tâm tổn trí, nếu Chiêu Vương đã không dung thứ, ta cũng chẳng mặt dày ở lại. Đến giờ chưa đi, là vì bệnh trong người trầm trọng, thật sự không dậy nổi."

Giáo úy ma mãnh híp mắt dò xét: "Nhìn bộ dạng các hạ hôm nay, ta thấy chẳng giống như không dậy nổi chút nào?"

Tạ Cánh thản nhiên nói: "Dĩ nhiên là vì đã khôi phục hơn nửa, cho nên ta mới đích thân đến báo cho đại nhân biết, sáng sớm mai ta sẽ rời khỏi Vương phủ, rời khỏi kinh thành, ta sẽ không nấn ná ở lại Kim Lăng thêm một phút giây nào nữa."

Giáo úy vừa định mở miệng chất vấn đã nghe y nói tiếp: "Sáng mai đại nhân cứ việc dẫn binh quay lại, tận mắt canh chừng hay tự tay áp giải ta ra khỏi thành cũng được, như vậy hẳn đã đủ báo cáo với Vương tướng rồi chứ?"

Giáo úy trầm ngâm hồi lâu rồi hung hăng đe dọa: "Hạn chót là sáng mai, nếu còn chưa chịu đi thì đừng trách ta không khách sáo!"

Dứt lời, gã phất tay ra hiệu thuộc hạ rút lui, nhưng mới đi được hai bước, gã đã chợt khựng lại, xoay người nhìn về phía mái hiên bằng ánh mắt u ám, bàn tay chầm chậm lần về chiếc nỏ cơ đeo ở thắt lưng.

Tạ Cánh biến sắc, dùng một tay kéo Lục Thư Thanh ra phía sau mình che chở, thế nhưng chỉ thấy tên Giáo uy giơ nỏ cơ lên, nhắm về phía Lục Ngải đã bay về trên giá đậu.

Mọi người chỉ nghe "phựt" một tiếng, con vẹt vỗ cánh muốn tránh đi nhưng đã chậm một bước, thân thể mềm mại xinh đẹp trong nháy mắt đã bị tên nỏ đâm xuyên qua. Lục Ngải rít lên một tiếng thảm thiết rồi rơi thẳng từ không trung xuống, nằm trên bậc thềm ngọc lạnh lẽo tựa như đóa đỗ quyên đỏ úa tàn, ôm hương mà chết.

Không còn động đậy nữa.

Lục Thư Thanh trợn mắt, cả kinh hô lên: "Lục Ngải!"

Tên Giáo úy chỉ cười, bỏ lại một câu "Súc sinh", sau đó nghênh ngang dẫn người rời đi.

Lục Thư Thanh lảo đảo bước tới, luống cuống tay chân nâng xác của con vẹt lên: "Lục Ngải, Lục Ngải? Ngươi nói chuyện đi, nói với ta một câu đi!"

Nhưng máu của Lục Ngải đã thấm đẫm từng ngón tay của cậu rồi.

Dù có gọi thế nào cũng không nhận được câu trả lời, Lục Thư Thanh ngơ ngác hồi lâu mới ngẩng đầu lên, khó tin mà cầu xin mẹ giúp đỡ: "Mẹ, mẹ mau đến xem Lục Ngải đi, sao Lục Ngải không còn động đậy nữa vậy..."

Cả người Tạ Cánh lạnh buốt, y phải dùng hết hơi sức mới có thể gắng gượng gọi một câu, giọng khàn đặc: "Thanh Nhi..."

Lục Thư Thanh bỗng bật khóc, cậu ngồi nguyên tại chỗ, nói năng lộn xộn, khóc không thành tiếng: "Mẹ! Lục Ngải chết rồi! Lục Ngải bị hắn hại chết rồi!"

Tiếng khóc thê lương khiến người nghe không khỏi đau lòng như đứt ruột. Nỗi đau đớn khi mất đi nhà ngoại, Vương phủ xảy ra biến cố, cha mẹ đoạn tuyệt, Lục Lệnh Tùng đi xa giống như thủy triều cuồn cuộn tràn tới, cái chết của Lục Ngải trở thành cọng rơm cuối cùng quật ngã Lục Thư Thanh, mọi sự nhẫn nhịn, giả vờ mạnh mẽ suốt nửa tháng qua đều sụp đổ tan tành trong khoảnh khắc này.

Hoàng hôn buông xuống, trong sân nội viện.

Tạ Cánh đào một cái hố đất dưới gốc cây mai trắng nơi vẫn thường treo giá vẹt. Lục Thư Thanh tự tay rửa sạch cái xác bé nhỏ của Lục Ngải, bộ lông xanh biếc mà nàng vẹt luôn kiêu hãnh khoe khoang cũng được chải chuốt lại cho mượt mà, óng ánh đẹp đẽ.

Ngân Trù mang một chiếc khăn lụa đến quấn nó lại, sau lại tìm một chiếc hộp gấm đẹp, trải vào trong đó lớp nệm thật êm, để thêm cả cái chén và muỗng vàng nhỏ mà nó yêu thích nữa.

Lục Thư Ninh vẫn chưa hiểu được những chuyện đang xảy ra, em ngồi xổm bên cạnh "quan tài" của Lục Ngải, vừa nhẹ nhàng vỗ về nó, vừa hát cho nó nghe khúc hát ru mà em học được từ mẹ. Em cứ nghĩ là Lục Ngải chỉ đang ngủ.

Hai mắt Lục Thư Thanh sưng đỏ, ngây ngốc nhìn cảnh tượng trước mặt. Rồi cậu bỗng tháo chiếc khóa trường mệnh trên cổ mình xuống, lấy một hạt châu trong chuỗi hạt dưới vòng ra, đặt lên bên mắt bị mũi tên bắn thủng của Lục Ngải: "Ngày nào ngươi cũng mổ thứ này, mổ không được thì lại làm phiền ta. Bây giờ tặng cho ngươi đấy, ta không thèm nữa."

Hạt châu trong suốt lấp lánh làm nổi bật vẻ rực rỡ của nàng anh vũ, sinh động tựa như lúc còn sống.

Hộp gấm khép lại, khi được hạ táng, Lục Thư Ninh xung phong cầm lấy cái xẻng nhỏ, thay mẹ và anh trai hoàn thành việc lấp đất.

Sự hồn nhiên chưa hiểu sự đời của Lục Thư Nịnh dường như khiến cái chết trở nên giống như một màn hỷ tang, mà thật ra đây cũng chẳng phải điều xấu, Tạ Cánh thầm nghĩ. Linh hồn của Lục Ngải hẳn cũng sẽ nhẹ nhàng tự tại, cưỡi làn gió thơm bay thẳng đến nơi bồng lai tiên cảnh, hóa thành loài Thanh Điểu xinh đẹp, tôn quý nhất trước xa giá của Tây Vương Mẫu.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 110


<b>《</b><b> </b><b><i>26.</i></b><b><i>4</i></b><b><i> </i></b><b>》</b>

Bóng tối của năm đầu Cảnh Dụ bao trùm phủ Chiêu Vương, nội viện không một bóng người qua lại, cả phủ trên dưới đều ngầm hiểu mà để ba mẹ con họ ở bên nhau trong khoảnh khắc nặng nề này.

Lục Thư Thanh ngồi trên bậc thềm, úp mặt vào đầu gối mẹ, chỉ lộ ra đôi mắt nhìn Lục Thư Ninh đang vui vẻ chơi đùa dưới gốc mai trắng. Tạ Cánh ngồi trên đôn thêu không có lưng tựa, y chỉ có thể khẽ dựa vào cửa phòng khách, sống lưng còng xuống một cách mệt mỏi.

"Sáng mai rời khỏi nhà, rời khỏi kinh thành," Lục Thư Thanh đột nhiên lên tiếng, "Là kế sách ứng phó nhất thời mẹ nói để xoa dịu hắn ta, hay là mẹ định đi thật?"

Tạ Cánh gật đầu, sau đó lại gật đầu.

Lục Thư Thanh nghẹn lời, lại hỏi tiếp: "Mẹ sẽ đi rất xa sao ạ? Có thể nhờ ông cậu thu xếp sản nghiệp ở ngoại ô kinh thành được không? Chẳng phải nhà chúng ta cũng có chỗ ở ở Tô Hàng sao? Ở những nơi đó nhàn hạ phú quý, không có ai quan tâm đến biến động trong kinh. Hay là... Mẹ định trở về quận Trần?"

Nói đến đây, cậu lại ỉu xìu: "Không biết các chú bác anh chị ở quận Trần có bị liên lụy hay không nữa."

Tạ Cánh trầm mặc hồi lâu mới nói: "Đều không phải. Mẹ muốn đến Ung Châu."

Lục Thư Thanh phản ứng rất nhanh: "Là nơi vị sư phụ họ Hà của cha làm Thái thú ạ?"

Thấy Tạ Cánh ngầm thừa nhận, Lục Thư Thanh ngẩn ra hồi lâu mới lẩm bẩm: "Vậy... Thật sự là xa lắm."

Tạ Cánh thở dài một hơi, xoa đầu Lục Thư Thanh: "Đúng vậy, mẹ sống vô dụng hai mươi sáu năm, chưa từng tự mình đi xa đến thế, cũng chưa từng phải xa con và em gái con lâu như vậy."

Lục Thư Thanh im lặng rất lâu, bỗng nhiên thì thầm, giọng điệu chắc nịch: "Chỉ con thôi, không có em."

Tạ Cánh khẽ giật mình, chỉ thấy cậu ngước mặt lên, gần như dùng giọng cầu xin, hỏi y: "Mẹ đưa Ninh Ninh theo cùng đi, được không ạ?"

Đây là lời thỉnh cầu mà Tạ Cánh chưa bao giờ nghĩ tới. Y ngạc nhiên hỏi: "Thanh Nhi, con cũng biết mẹ luôn đối xử công bằng với con và em con, không hề thiên vị, các con chính là hai bàn tay của mẹ, thiếu đi một miếng thịt cũng đủ lấy mạng mẹ rồi. Con không muốn đi cùng mẹ sao?"

Lục Thư Thanh vội vàng lắc đầu: "Không phải con không muốn, chỉ là... Cha vẫn còn ở bên ngoài, con không đi được."

Cậu và Tạ Cánh cùng lúc thất vọng, điều này vốn dĩ có thể lường trước được, không cần phải hi vọng xa vời. Hôm nay, chỉ một tên Giáo úy cậy thế h**p người cũng dám ngang nhiên chụp lên đầu cha con họ cái tội "ngấp nghé ngôi vua", có thể tưởng tượng được, nếu Lục Thư Thanh tự ý rời khỏi thành Kim Lăng, nguy hiểm cho chính bản thân cậu, Lục Lệnh Tùng, Lục Lệnh Chân và cả Ngô Thái phi sẽ khó lường bực nào.

Không phải đến khi cha dẫn Hổ Sư rời kinh, cậu mới trở thành con tin. Từ khoảnh khắc được sinh ra với thân phận thế tử của Chiêu Vương, cậu đã là con tin rồi.

Lục Thư Thanh dõi mắt nhìn theo bước chân của Lục Thư Ninh: "Nhưng Ninh Ninh thì có thể đi được. Hơn nữa, em còn quá nhỏ, dù dì đối xử với em như con ruột, tổ mẫu và cô cũng cưng chiều em hết mực, nhưng ai có thể sánh được với mẹ ruột đây? Những ngày mẹ ở trong cung cầu xin cho nhà ngoại, Ninh Ninh không tìm thấy mẹ buồn bã đến mức nào, con nhìn cũng thấy buồn."

"Từ nhỏ, con đã nhìn thấy cha cố gắng làm một người anh trai tốt như thế nào, với cô, với thúc phụ, cả với mẹ. Chuyện này thật sự chẳng dễ dàng gì. Con biết mình phải còn lâu lắm mới có thể rời khỏi vòng tay che chở của cha mẹ, một mình bay cao, nhưng Ninh Ninh càng cần có mẹ bầu bạn hơn con. Con có thể tự chăm sóc bản thân, con hiểu được lòng dạ hiểm ác của người ngoài, tình cảnh trong nhà khó khăn, nhưng Ninh Ninh lại chưa hiểu được tất cả những chuyện này."

"Nếu như em có thể đi theo mẹ, lớn lên ở nơi núi cao sông dài cách xa kinh thành, để cả đời đừng bị kéo vào vòng phân tranh nhà đế vương, đó mới là điều may mắn nhất."

Tạ Cánh nghe cậu chầm chậm chia sẻ từng câu từng chữ, nước mắt cứ thế không kiềm được lăn xuống, lặng yên không tiếng động, nhưng y đã chẳng thể ngăn lại được nữa.

Y không muốn để Lục Thư Thanh nhìn thấy nước mắt của mình, nếu ngay cả bản thân y cũng lung lay chực ngã, vậy phải làm sao chống đỡ cho đứa trẻ vừa mới quyết tâm trở thành một người anh trai vĩ đại đây?

Tạ Cánh nghiêng mặt về phía ngoài phòng khách, nắng chiều phủ lên cả khu vườn làm mờ nhòa mọi góc sân, đến cả gấu váy trắng muốt bay lượn của Lục Thư Ninh cũng trở nên mềm mại như giấc mộng trong tiết trời ngày đông.

Có lẽ đây sẽ là ánh nắng chiều cuối cùng y được ngắm ở phủ Chiêu Vương. Lúc này, Tạ Cánh chợt bàng hoàng nhận ra, từ đầu đến cuối Lục Thư Thanh chưa từng hỏi y khi nào sẽ quay về.

Đêm hôm đó, sau khi thu xếp cho hai con lên giường nghỉ ngơi, Tạ Cánh triệu tập tất cả nha hoàn, tiểu tư, bộc phụ, gia đinh trong phủ đến nhà chính rộng rãi, đoạn lệnh mở vài hũ Mai Sơn Tuyết, châm cho mỗi người một chung đầy.

Y bước ra giữa sân, nói: "Mười sáu tuổi ta đã vào Vương phủ, đến mùng bảy tháng Giêng năm nay là tròn mười năm. Những năm qua, ta tiễn đưa vài người rời đi, cũng đón chào vài người mới đến, đương nhiên còn có những người vẫn luôn ở lại, hợp tan tựa như bèo nước, thoáng đến thoáng đi không thể đoán trước được. Nhưng dẫu đến hay đi cũng đều nhẹ nhàng, ân nghĩa chủ tớ mới là thứ nặng sâu, các vị đối với ta, có khác chi người một nhà?"

"Ngày hôm nay các vị dũng cảm quên mình, bảo vệ ta và thế tử, ta vô cùng biết ơn; các vị đã luôn vất vả vì Vương phủ, lo toan mọi chuyện, từng việc nhỏ nhặt ta khó lòng bù đắp. Nói lời cảm ơn thôi lại chẳng đủ, chỉ xin các vị nhận của ta một lạy."

Nói rồi, Tạ Cánh quỳ xuống đất, dập đầu một cái thật sâu với mọi người, vài thị nữ đến gần đỡ y dậy, nói: "Chúng nô tỳ được che chở dưới mái hiên phủ Chiêu Vương, già trẻ trong nhà đều khắc sâu ân huệ của điện hạ và Vương phi, đấy là lòng trung, sao có thể cầu bù đắp?"

Tạ Cánh quay về chỗ ngồi, nâng chung rượu lên trước: "Trước khi rời phủ, điện hạ đã để lại thư căn dặn ta phải nghe theo y chúc, chú ý ăn uống, vậy nên hôm nay không tiện uống nhiều, chỉ có thể nhấp một chút, coi như tỏ lòng."

Tôi tớ trong phủ nối gót cùng nâng chung uống cạn, hương rượu thoang thoảng lan tỏa khắp gian phòng, nhưng chợt nghe Tạ Cánh nói tiếp: "Ngoài ra, chung rượu này cũng là chung rượu từ biệt của ta."

Mọi người nghe vậy bèn đưa mắt nhìn nhau, Ngân Trù sốt ruột nói: "Vương phi vẫn chưa khỏi hẳn, làm sao có thể rời kinh thành, bôn ba đường xa được?"

Tạ Cánh cười thê lương: "Sự việc sáng nay các vị đều đã chứng kiến cả rồi. Có lẽ Vũ Lâm Vệ sẽ không dám ra tay với thế tử thật, nhưng bọn chúng chẳng cả nể gì người ngoài. Hôm nay gặp nạn là Lục Ngải, chưa biết chừng ngày mai sẽ đến lượt các vị. Nếu muốn bảo vệ phủ Chiêu Vương, ta chủ động rời đi chính là lựa chọn nhẹ nhàng nhất sau khi cân nhắc mọi điều hại."

"Như vậy, dù điện hạ và ta đều phải rời xa nơi này, nhưng thế tử vẫn ở lại, phủ Chiêu Vương vẫn còn đây, chỉ cần Vương phủ chưa sụp đổ, nó vẫn sẽ là nơi che mưa chắn gió cho mọi người."

Khắp sân lặng ngắt như tờ, sắc mặt ai nấy đều nặng nề, Tạ Cánh nói tiếp: "Tất nhiên, nếu các vị muốn nương nhờ minh chủ khác, ta tuyệt đối không ngăn cản, cũng có thể nhận một khoản bạc rồi rời đi, đã gặp nhau thì sẽ có lúc chia tay, không vướng thù hận."

"Ta chỉ có từng ấy chuyện cần nói rõ, mọi người cứ trở về nghỉ ngơi, bác Chu và Ngân Trù ở lại đây một lát, ta còn có vài lời muốn nói.

Mọi người đành tự ôm tâm sự rồi tản đi, Tạ Cánh mời hai người ngồi xuống, nói với bác Chu trước: "Bác là người được Thái phi đích thân đưa từ nhà họ Ngô tới đây, hầu hạ điện hạ trưởng thành, quán xuyến cả phủ Chiêu Vươnv to lớn, công lao vất vả không sao kể xiết. Sau này, dù bác muốn về quê an dưỡng, hay là sống hết quãng đời còn lại ở Vương phủ, điện hạ và ta nhất định sẽ phụng dưỡng như cha mẹ ruột, chăm sóc chu toàn."

Nói xong, y quay sang nhìn Ngân Trù. nhiều năm qua, cô đã sớm không còn đơn thuần là một y quan nữa, mà trở thành người xử lý mọi chuyện lớn nhỏ trong Vương phủ, dạy dỗ thế tử và quận chúa; bên ngoài giao thiệp với các thế gia đại tộc, điều hành công việc kinh doanh, dù là chuyện không thể không qua tay Tạ Cánh, Ngân Trù vẫn ở bên cạnh đỡ đần. Số tiền mà cô tích góp được thậm chí đã đủ để mở mười y quán rồi, nhưng Ngân Trù vẫn không rời đi.

Tạ Cánh thổn thức nói: "Từ ngày đầu tiên quen biết, chị đã nói muốn mở lại y quán của gia đình. Chẳng ngờ lại vô duyên vô cớ trì hoãn chị lâu như thế này, nay ta phải đi rồi, cũng sẽ không quyết giữ chị ở lại nữa."

Ngân Trù và bác Chu nhìn nhau, Ngân Trù nói: "Vương phi sao lại nói những lời xa lạ như vậy, cả đời này tôi đã không định sinh con dưỡng cái, Thanh Nhi và Ninh Ninh là do tôi một tay chăm bẵm từ lúc mới ra đời, bọn trẻ gọi tôi một tiếng dì, tôi cũng yêu thương chúng như con ruột. Năm đó Vương phủ toàn thịnh, Vương phi cứu tôi về phủ, cho tôi trở thành bồi giá, địa vị và thể diện, ngày giờ này Vương phủ gian nan, tôi há lại buông bỏ mà đi cầu vinh hoa phú quý cho bản thân?"

Bác Chu cũng nói: "Tôi cũng có ý giống Ngân Trù, phụ lão ở quê đã ly tán từ lâu, được điện hạ và Vương phi che chở, chấp nhận thu lưu lão già này ở Vương phủ ngót mười năm, đối xử tôn kính, sao tôi có thể mong cầu thứ gì xa vời được chứ?"

Nói đến đây, bọn họ đã không cần phải bộc bạch nhiều lời thêm nữa, Tạ Cánh khẽ nói: "Có lẽ ta sẽ đưa Ninh Ninh theo cùng... Chỉ đưa một mình con bé đi thôi."

Bác Chu hỏi dò: "Thế tử có biết chuyện này không?"

"Là thằng bé cầu xin ta.. Đưa em gái đi, để nó ở lại đây."

Cả hai người đều giật mình, Ngân Trù im lặng hồi lâu mới thở dài: "Từ sau khi nhà họ Tạ gặp họa, Thanh Nhi giống như trưởng thành sau một đêm vậy, tâm tư quá nặng nề, cũng quá hiểu chuyện rồi."

Bác Chu xót xa nói: "Dù thế nào đi nữa, Vương phi cũng cứ yên tâm lên đường, chăm sóc tốt cho bản thân và quận chúa. Chúng tôi ở lại Vương phủ đông người như vậy, ngoài việc tận sức bảo vệ thế tử ra thì cũng chẳng còn mong muốn gì khác."

Tạ Cánh gật đầu: "Đương nhiên là ta tin tưởng các vị, chỉ là còn một thỉnh cầu cuối cùng. Đó là sau khi ta rời đi, làm phiền mọi người thiêu hủy hết tất cả đồ đạc cũ của ta trong phủ, đừng để lại chút dấu vết nào, cứ coi như phủ Chiêu Vương... Chưa từng có vị Vương phi này đi."

Tiếng ồn dần lắng xuống, hương rượu Mai Sơn Tuyết đậm đà tỏa khắp căn phòng, Tạ Cánh đã ngồi trong trung đình vắng vẻ suốt cả đêm dài.

Mãi đến khi chân trời lờ mờ ánh lên sắc trắng, y mới đứng dậy, cầm theo chiếc đèn lồng với ánh lửa leo lét bước về phía cổng nhỏ dẫn đến vườn hoa.

Đúng vào thời điểm vạn vật héo tàn, cửa vừa mở ra, cơn gió lạnh buốt đã lập tức thổi tung áo choàng ngoài của Tạ Cánh lên. Y bước thẳng lên bậc thềm, men theo hành lang có mái che mưa nắng - nơi khách bộ hành đến thưởng ngoạn thường đi để tiến về phía trước.

Sau hòn non bộ có mấy cây quế, năm ngoái họ lại trải thảm lụa dưới gốc cây để hứng cánh hoa làm đồ ngọt, cất trữ trong kho vẫn còn chưa dùng hết; bên cạnh khung xích đu ẩn mình không xa cây quế là những phiến đá Thái Hồ tinh xảo dựng đứng, năm ấy các cô nương từng tốp từng tốp ra phơi áo váy rực rỡ sắc hè, nay hơn nửa đã trở thành vợ nhà người; còn bên phải chính là cửa sổ gian trong thư phòng của Tạ Cánh, đang không phải mùa hoa, giàn tử đằng Lục Lệnh Tùng trồng cho y chỉ còn cành lá lặng lẽ quấn quanh dưới mái hiên.

Lên đến bậc thềm cao nhất có lối đi thông thẳng đến tầng hai của tiểu lâu ở góc Tây Bắc. mấy tháng đầu khi mang thai Lục Thư Ninh, Tạ Cánh thường ngủ sớm dậy sớm, cũng vì vậy mà hay leo lên gác nhỏ vào lúc trời chưa sáng hẳn. Trước sau Trung thu, gió lùa đến mang theo chút se lạnh, cả phủ vẫn chưa thức giấc, y một mình chống tay tựa lên lan can, nhìn bầu trời xa mờ sương xanh ngắt, ngắm sao mai lặn cùng bóng trăng tàn in hắt trên màn trời. Tiếng chim chóc hót líu lo khắp nơi nhưng không hề ồn ào mà chỉ khiến lòng người thêm tĩnh lặng, thư thái. Có đôi khi cứ nhìn mãi rồi mỏi mệt, y lại xoay người chui vào lớp chăn lông mềm mại trên giường êm, đánh thêm một giấc nữa.

Băng qua tiểu lâu, đi ra từ phía bên kia, có thể thấy trên được trên thuyền đá bên bờ hồ sau vẫn còn mấy chiếc ghế đẩu nhỏ bằng tre. Không nhớ rõ trong buổi yến hội nào đó, họ từng mời nhạc công đến đây ngồi diễn tấu, xong tiệc lại quên không dọn đi. Thế là mỗi khi không thuộc nổi bài học, Lục Thư Thanh thường sẽ chạy đến đây một mình để tìm chút thanh tĩnh.

Từ hành lang dài đi thẳng xuống, qua cầu cong chính là hồ sau và Y Bích đài. Tạ Cánh chẳng biết mình đã tiêu tốn bao nhiêu thời gian ở nơi này, xuân đến gảy đàn đánh cờ, hạ về cùng các con thả thuyền nghịch nước, thu sang nghe tiếng mưa rơi trên đài sen tàn, đông tới nấu tuyết pha trà, mặc kệ cơn gió gào thét bên ngoài cửa sổ, trong làn hương ấm áp, y cùng Lục Lệnh Tùng ân ái đến tận canh ba --

Giờ đây tất cả đều đã thành dĩ vãng.

Lục Lệnh Tùng từng phàn nàn với y rằng hai bờ Tần Hoài tấc đất tấc vàng, khu vườn này thực sự chẳng rộng rãi gì, nhưng lúc này chỉ còn lại một mình y cô độc dạo bước, nơi nào cũng trống trải, nơi nào cũng tĩnh mịch. Y đã sắp phải chia xa ngôi nhà nhỏ này, cả những người bạn cũ từng ngày ngày ra vào Vương phủ năm xưa, sư hữu, đồng liêu, tân khách và thân thích,... Chỉ sợ khó có thể lại tề tựu đông đủ, nâng chén vui cười... Người cùng ta ngắm hoa ngày ấy, đếm lại giờ chẳng còn nổi một nửa.

Trời sắp sáng, Tạ Cánh chậm rãi về phòng, phát hiện hành lý của y và Lục Thư Ninh đã được sắp xếp ngay ngắn đặt trên bàn, có lẽ là do Ngân Trù sai người chuẩn bị sẵn. Hẳn là gia nhân cũng biết rõ đường đi sắp tới trắc trở gian nan, cho nên đã nhét đầy ngân phiếu và thảo dược vào bên trong cho y.

Tạ Cánh thay sang áo tơ trắng giản dị, những túi thơm, quạt gấp, dây cung, ngọc bội đeo đều chẳng còn bóng dáng. Y chỉ giữ lại đúng chiếc hộp hương bạc đựng tóc kết của hai vợ chồng, giấu vào lớp áo trong, còn miếng ngọc trắng chưa khắc xong thì nhét vào trong ống tay áo.

Y đứng lặng tại chỗ, đưa mắt nhìn quanh phòng ngủ đã gắn bó suốt mười năm, cuối cùng ánh mắt dừng lại trên chiếc gương lớn trong phòng. Mặt gương phản chiếu bóng dáng đơn bạc cô độc đang nhìn y chằm chằm. Từng có biết bao buổi sớm mai, y đứng trước gương chỉnh trang búi tóc, Lục Lệnh Tùng lặng lẽ bước đến từ phía sau, bất ngờ ôm ghì lấy y vào lòng, đặt môi hôn lên đầu vai trần lộ ra, cười tươi đến nỗi mắt cong thành hai mảnh trăng khuyết.

Bây giờ, bọn họ đều phải rời khỏi nơi này rồi.

Lục Thư Thanh vẫn còn ngủ trên giường, Tạ Cánh gần như đã gom hết ý chí, ép bản thân không được vén màn ra, y không muốn tạm biệt, sợ chỉ nhìn thêm một lần thôi là sẽ không đi được nữa.

Y khoác áo choàng, xách hành lý rồi đi thẳng sang Đông phòng phía đối diện, bồng Lục Thư Ninh ra ngoài. Cứ thế đi một mạch đến phòng khách, sau lưng bỗng truyền đến tiếng hô gọi quen thuộc:

"Mẹ ơi!"

Lục Thư Thanh còn chưa kịp mang tất, sải dài bước chạy đuổi theo, nhét một chiếc lò sưởi nhỏ vào trong lòng Lục Thư Ninh: "Ninh Ninh hiếm khi đi xa nhà, đừng để giá rét làm lạnh tay em."

Dưới mắt cậu có vết thâm quầng, có thể thấy cả đêm qua cậu cũng không ngủ ngon, thế mà vẫn cười cho được. Tạ Cánh nhìn con trai gẳng gượng tỏ ra ung dung bình thản, nụ cười dùng để an ủi mẹ cứng đờ trên mặt, làm sao biết được người mẹ thấu hiểu cậu nhất chỉ cần liếc mắt đã nhận ra sự hoảng loạn của cậu rồi đâu.

"Vậy, mẹ... Con tiễn đến đây thôi."

Tạ Cánh không nói được lời nào, chỉ bước đến gần hơn, đặt lên trán Lục Thư Thanh một nụ hôn vội vàng rồi bước nhanh rời khỏi phòng khách. Cánh cửa phía sau y tàn nhẫn khép lại, đúng khoảnh khắc đó, Tạ Cánh rõ ràng nghe được tiếng nức nở không kìm nén nổi của Lục Thư Thanh vọng tới.

Trong phủ không có lấy một bóng người qua lại, không khí tĩnh lặng đến mức có thể nghe được tiếng kim bạc rơi xuống đất. Mà Tạ Cánh chỉ chăm chăm bước tới, không còn tâm trí nghĩ ngợi gì khác, cho đến khi y đẩy cửa nhà trước, ngẩng đầu lên, lập tức sững người tại chỗ --

Toàn bộ người hầu đã uống rượu Mai Sơn Tuyết đêm qua lúc này không thiếu một ai, đều đang im lặng đứng bên ngoài tiền thính, chờ tiễn y lên đường.

Tạ Cánh nghẹn ứ ở cổ họng, cơ thể khẽ run lên, từng bước từng bước đi xuyên qua đám người, càng lúc càng đến gần cổng chính phủ Chiêu Vương.

Khi chạm tay vào vòng cửa, y thật sự không nhịn được nữa mà ngoảnh đầu lại nhìn, chỉ thấy mười mấy người đồng loạt cúi chào nhưng lại im lặng không cất tiếng, đến cả một câu "thuận buồm xuôi gió" cũng không được phép thốt ra.

Cánh cửa lớn mở ra, Vũ Lâm Vệ đã chờ sẵn bên ngoài Vương phủ. Lúc này Lục Thư Ninh mới mơ màng tỉnh lại, ngái ngủ cựa quậy tay chân, từ nhỏ đến giờ em chưa từng gắt ngủ, chỉ dụi đầu vào hõm cổ Tạ Cánh, giọng lí nhí hỏi: "Mẹ ơi, có chuyện gì thế?"

"Con cứ yên tâm ngủ đi," Tạ Cánh đáp, giọng điệu nhẹ nhàng như đang hát khúc đưa tang, "Mẹ đưa con đến một nơi có thể nhìn thấy tuyết."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 111


<b>《</b><b> </b><b><i>27.1 — Hiện tại </i></b><b>》</b>

Tháng Sáu năm Cảnh Dụ thứ tư, thiên tử đột ngột băng hà.

Không có hậu tự, cũng không lập di chiếu, quần thần bỗng chốc trở thành rắn mất đầu, nhưng đất nước một ngày không thể không có vua, tuy rằng tất thảy đều chưa rõ trắng đen, nhưng triều đình và dân chúng đã ngầm hiểu, coi dụ lệnh của Chiêu Vương – người phát động chính biến này là chỉ thị cao nhất.

Cuộc xung đột ở bên bờ Trường Giang ngoài thành Kim Lăng cũng không kéo dài lâu hơn nữa, Trịnh Kiêu cùng con trai và con gái tiếp quản việc trông coi quân Hoài Dương, Lý Kỳ dẫn đầu Hổ Sư và quân kinh kỳ áp giải Trương Diên và Trình Văn về thành; Tạ Tuấn lập tức dẫn Tuyên Thất ra ngoại ô đón đoàn người Lục Thư Ninh và Ngân Trù, tránh cho lại xảy ra bất trắc.

Lục Lệnh Tùng lệnh người giải Trương Diên đến điện Thần Long.

Mấy ngày nay, Thôi Tế Thế lãnh đạo Vũ Lâm Vệ kiếm soát cung Thái Sơ, cung nhân và nội giám cũng thường xuyên túc trực trong điện. Cửa đồng bị đẩy ra, vài tia sáng xuyên qua màn mây đen giăng đầy, keo kiệt rọi xuống mặt đất, chiếu ngay bên chân Trương Diên.

Ông không quỳ xuống, Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh cũng không bắt ông phải quỳ.

Trong đại điện trống trải chỉ có ba người, để lộ ra vẻ xa cách lạnh lẽo. Trương Diên đứng ngay trên thềm ngọc dưới long ỷ, xoay lưng về phía Tạ Cánh, Lục Lệnh Tùng đứng giữa hai người, bên hông đeo đao, bàn tay không rời vỏ kiếm mảy may.

Tạ Cánh ngước lên nhìn xà ngang khắc chim phượng, nói khẽ: "Năm ta mười sáu tuổi lên điện thi Đình đã gặp thầy lần đầu tiên ở đây, thầy nói ta có 'cốt cách thư sinh, bụng dạ tướng soái'. Khi ấy ta không biết trời cao đất dày, không cảm thấy sợ hãi vì được khen ngợi quá lời, chỉ thấy ta là ngọc sáng, còn thầy có đôi mắt sắc sảo."

Trương Diên thờ ơ nghe, Tạ Cánh hỏi: "Thầy, thầy không nhớ sao?"

Im lặng thật lâu, Trương Diên chỉ nói: "Ngươi mới là người không nhớ."

"Lần đầu tiên ngươi gặp ta là tháng Giêng năm Kiến Ninh thứ mười hai, ngươi mới là người không nhớ."

Nghe thấy đoạn thời gian này, Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng đều sững sờ.

Trương Diên quay người lại, đứng ngược sáng nhìn Tạ Cánh: "Mười lăm tháng Giêng năm Kiến Ninh thứ mười hai, ngươi vô tình gặp được một người phụ nữ ở gần dinh thự Lan Lăng Tiêu thị, bà ấy bị ngăn không cho ra ngoài, ngươi đã giúp bà ấy gửi một bức thư nhà."

Tạ Cánh không thấy rõ biểu cảm của ông, chuyện cũ nặng nề quẩn quanh trong tâm trí, vượt qua năm dài tháng rộng hiện ra trước mắt y. Trương Diên nói không sai. Năm đó y đến Kim Lăng ăn Tết, ngoại trừ vào Tây cung vấn an Ngô thị và gặp gỡ Lục Lệnh Tùng, vào tiết Thượng Nguyên, đúng là y có từng làm chuyện này.

Chuyện đã qua từ hai mươi năm trước, Tạ Cánh chỉ có thể nhớ được vài chi tiết nhỏ. Người phụ nữ kia nài nỉ gia đinh Tiêu phủ giúp bà gửi một bức thư, nhưng thái độ của gia đinh rất kiên quyết, gần như không cho phép đưa bất kì thư từ gì ra khỏi phủ. Giữa hàng tá âm thanh mừng vui của ngày lễ tết, lời cầu xin của người phụ nữ đáng thương trở nên vô cùng bắt tai.

Y đi ngang qua đó trông thấy, không ngần ngại bước đến nói, phu nhân đừng lo lắng, ta đọc qua một lần là thuộc, phu nhân cứ đưa thư cho ta xem thử, rồi nói cho ta biết muốn gửi cho người nào, nhà ở đâu, ta sẽ đến nói cho hắn nghe, đảm bảo không sót một chữ.

Gia đinh Tiêu phủ thấy y ăn mặc không giống người dân bình thường, tự biết mình không đắc tội nổi, cuối cùng đành miễn cưỡng đồng ý. Người phụ nữ cho y đọc bức thư kia rồi báo địa chỉ, dặn dò y những gì muốn truyền đạt, cảm ơn y không ngớt lời.

Sự tình sau đó y đã không nhớ rõ nữa, nhưng chỉ đơn giản là đi đến địa điểm người phụ nữ đã nói, bận rộn một hồi cũng giúp xong. Đối với Tạ Cánh, làm việc này thật sự chỉ là tiện tay mà thôi, sự việc lại quá nhỏ, thế nên đến bây giờ y chưa từng đa nghi.

Trương Diên thấy y trầm xuống, khổ sở suy tư, bèn đổi giọng nói: "Lục Lệnh Chương còn nhỏ không biết đầu đuôi Quân Giới án, nhưng hai vị, chắc là đã biết hết rồi chứ?"

Tạ Cánh vừa định gật đầu trong vô thức, Lục Lệnh Tùng đã lên tiếng: "Không đầy đủ lắm."

Hắn bình tĩnh nhìn Trương Diên, "Bọn ta không biết kết cục cuối cùng của gia quyến những cựu thần Đông cung kia – cũng chính là người thân của ông và nhóm đồng liêu ra sao."

Ánh mắt Trương Diên và hắn chạm nhau, trong khoảnh khắc toát ra vẻ thù hận rất rõ ràng: "Ngươi cũng họ Lục, lớn lên trong sự nuôi dưỡng của thiên gia, chẳng lẽ ngươi không đoán được sao?"

Ông ta lạnh lùng nói: "Ngày đó Quân Giới án thất bại, Tiêu Thái hậu bị cầm tù, Lan Lăng Tiêu thị tự biết đã thất thế, vì để trả thù các cựu thần Đông cung phản bội theo tiên đế, chúng đã định đưa những người thân của bọn ta, những người đã bị chúng giữ làm con tin suốt hơn mười năm trong Tiêu phủ ra khỏi thành, sau đó giết sạch."

"Trên đường rời kinh, chị em Đinh Ngọc, Đinh Giám có cơ hội chạy thoát, tiện đường cứu được Chung Triệu, ba người tìm cách về thành, báo cho bọn ta biết ý định của Lan Lăng Tiêu thị. Bấy giờ bọn ta đã đi tìm tiên đế, hy vọng ông ta có thể tuân theo leoif hứa hẹn lúc trước, xuất binh giải cứu những người già yếu, phụ nữ và trẻ em."

Ông nhìn Lục Lệnh Tùng chằm chằm: "Tính tình của lệnh tôn ra sao, hẳn Chiêu vương hiểu rõ hơn ai hết. Vốn dĩ ông ta đã có ý định tiếp tục dùng người thân làm con tin để khống chế bọn ta nhằm đối đầu với các sĩ tộc. Lại thêm họ Vương, họ Thôi vì lợi riêng mà ra sức giật dây — vậy nên ông ta đã làm ngơ, khóa chặt cửa điện Thần Long, chẳng ra gặp mặt bọn ta lấy một lần."

"Cuối cùng," Ông dừng lại một chút, "Lan Lăng tiêu thị đã đưa người thân của bọn ta đến một nhà kho ở phía Tây thành, nhốt kín bảy ngày bảy đêm."

"Đến khi bọn ta tìm được, nơi đó chỉ còn lại hơn một trăm cái xác ốm đói bị chôn sống!"

Tuy rằng đã đoán trước được, nhưng lòng dạ Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh vẫn không nhịn được chùng xuống, cổ họng nghẹn ứ.

"Giai đoạn cuối khi Tiêu Thái hậu vẫn còn nắm quyền, thật ra bà ấy đã phát hiện tiên đế có dị tâm nên bắt đầu mưu tính. Trước đây cứ độ cuối năm, Tiêu phủ sẽ thả cho người thân ra gặp bọn ta một lần, nhưng đề phòng sự việc bị lộ ra ngoài, tết năm Kiến Ninh thứ mười hai, Tiêu phủ đã cấm không cho bất kì ai ra vào phủ nữa, gửi thư lại càng khó khăn hơn."

Trương Diên nói bằng giọng dửng dưng, như thể đang kể lại một chuyện chẳng liên quan gì đến mình: "Đêm Thượng Nguyên năm ấy, bức thư mà ngươi gõ cửa Trương phủ đọc cho ta nghe cũng chính là bức thư cuối cùng mà vợ ta để lại."

Tạ Cánh đứng lặng tại chỗ, y nhớ đến dòng chữ 'Chiêm sự Trương Diên, vợ Đặng thị' ngắn ngủi trong danh sách mà Tiêu Thái hậu để lại. Y nhớ, trước đây mỗi lần tụ họp cùng đồng niên tại phủ Thái phó, đến khi tiệc tàn chỉ có mình Trương Diên tiễn họ ra ngoài, lặng lẽ đưa từng người rời đi; lại nhớ đến lời truyền miệng từ bao tiền bối chốn quan trường — rằng Thái phó góa vợ đã nhiều năm, lòng thương nhớ người đã khuất sâu nặng đến mức ai nghe cũng xót, ai thấy cũng đau.

Ngay khoảnh khắc ấy, Tạ Cánh bỗng chốc hiểu ra vì sao hôm đó Trương Diên lại hỏi y, rốt cuộc Lục Lệnh Tùng "không thể cứu" hay là "không muốn cứu" nhà họ Tạ.

Trương Diên từng trải qua mất mát đau đớn đến tận xương tủy, thấu hiểu sự lạnh lùng và toan tính ăn sâu trong máu người hoàng tộc. Vì vậy, ông chưa bao giờ tin vào tình cảm "sâu đậm" giữa y và Lục Lệnh Tùng.

"Người thân mất rồi, năm ấy phần lớn cựu thần Đông cung đều suy sụp, có người dứt khoát từ quan về quê. Bọn ta đều xuất thân hương dã, những năm tuổi trẻ dùi mài đèn sách còn chẳng đủ ăn, lấy gì để đòi hỏi công lý từ tiên đế đây?"

"Cũng có rất nhiều người đã vùng lên phản kháng, Hà Cáo mất con gái, Hứa Dịch và Đinh Viện đều mất vợ, Chung Thụy thì mất mẹ già... Nhưng phản kháng cũng vô ích thôi, trong mắt tiên đế và các sĩ tộc, bọn họ chẳng khác gì con sâu cái kiến. Thế là chỉ sau một chiếu chỉ giáng chức, mỗi người bị đày đi một phương. Ta và Trình Văn nuốt không trôi nỗi uất nghẹn này, bèn bàn bạc cùng những đồng liêu bị giáng chức khác âm thầm gây dựng lại lực lượng, chỉ mong có ngày rửa sạch mối hận năm xưa."

"Ta giả vờ thần phục tiên đế, mọi việc đều nghe theo sự sai khiến của ông ta, thay ông ta xoay xở giữa hai nhà họ Vương – Thôi; Trình Văn cố tình gây chuyện để bị bãi chức, mấy năm sau, Quận thủ Hoài Dương cáo lão hồi hương, ta bèn dâng tấu xin tiên đế để ông ấy thay vào chỗ trống đó."

"Đinh Viện và Chung Thụy đều chết trên đường lưu đày, ta chỉ có thể cưu mang ba đứa trẻ kia, đưa Đinh Ngọc vào biệt viện của nhà họ Ngô ở núi Thang, nhằm theo dõi tin tức từ điện Minh Loan và Chiêu Vương; sau đó đưa Đinh Giám đến chỗ thuộc hạ cũ của cha nó ở Bắc đại doanh, để nó rèn luyện trong quân ngũ; còn Chung Triệu thì chủ động tịnh thân, vào cung Thái Sơ, nhờ đầu óc lanh lợi mà chẳng bao lâu đã được tiên đế cực kỳ tín nhiệm."

Trương Diên nói đến đây thì liếc Lục Lệnh Tùng một cái, giễu cợt: "Thậm chí còn lấy được lòng tin của Chiêu Vương nữa đấy."

Lục Lệnh Tùng nghe vậy, lập tức nhớ tới cái lần hắn và Tạ Cánh gặp phải thích khách ở núi Thang vào năm Trinh Hữu thứ bảy.

Nguyên nhân bắt đầu từ một lần hắn vô tình nhắc đến chuyện muốn đi săn trước mặt tiên đế, mà khi ấy bên cạnh chỉ có hai nội giám, một trong số đó chính là Chung Triệu.

Năm đó Lục Lệnh Tùng từng nhờ Chung Triệu điều tra kỹ lai lịch của tên nội giám còn lại. Kết quả được gã báo lại chính là: người đó đã tiết lộ tin tức cho một "chủ tử" trong cung, rồi chính "chủ tử" ấy đã liên hệ với Hứa Dịch cùng những người khác, bày ra cạm bẫy, mưu sát Chiêu Vương.

Giờ nghĩ lại, kẻ vẫn luôn tự giấu mình trong cung, xuất quỷ nhập thần gọi là "chủ tử" ấy, từ đầu đến cuối căn bản đều là Chung Triệu. Trong vở kịch này, Chung Triệu chỉ đang giở trò vừa ăn cướp vừa la làng nhằm che mắt hắn, khiến hắn lơ là cảnh giác!

Lục Lệnh Tùng thầm nghĩ, hắn thật sự quá ngu ngốc. Khi ấy hắn luôn cho rằng "chủ tử" thần thông quảng đại kia nhất định phải là kẻ có địa vị cao như tiên đế hay thái hậu, mà lại hoàn toàn bỏ sót một điều, rằng ở trong cung Thái Sơ, rốt cuộc là hạng người nào nhiều nhất, mờ nhạt nhất, có thể tự do lui tới khắp nơi mà không khiến ai nghi ngờ, lại có tai nghe bốn phương, mắt thấy tám hướng?

Chính đám nội giám cung nữ thấp kém kia, những kẻ không được xem là "con người" đó mới thực sự là những kẻ biết hết mọi chuyện, liệu sự như thần.

"Vậy nên," Mỏi mệt khiến giọng Lục Lệnh Tùng khàn đi, "Ông và đám người Chung Triệu, chị em họ Đinh mới bắt tay nhau lên kế hoạch cho hai lần ám sát ta và Thanh Nhi sao."

Trương Diên hừ lạnh một tiếng: "Chỉ vài ngày sau khi Tạ Chi Vô đỗ tam nguyên, Tiên đế đã triệu ta vào cung, kín đáo hỏi ta rằng nếu gả tân khoa trạng nguyên cho Chiêu Vương, thì liệu có thể một mũi tên trúng hai đích, đồng thời lôi kéo phủ Chiêu vương và Trần quận Tạ thị vào cuộc hay không."

Ông ta lạnh giọng nói với Lục Lệnh Tùng: "Giết ngươi, tiên đế tự nhiên chẳng còn lý do gì để ban hôn nữa; giết Lục Thư Thanh, vừa khéo trừ khử được 'Gia Thụy', tiên đế sẽ không vì thế mà có khuynh hướng truyền ngôi cho phủ Chiêu vương. Hơn nữa, vợ chồng các ngươi vừa rơi vào cảnh lục đục, lại vừa mất con, e rằng cũng khó mà sống bên nhau được nữa."

"Chiêu Vương, chẳng phải ngươi luôn tự xưng mình tình sâu nghĩa nặng hay sao?" Trương Diên giễu cợt, "Ta nói thẳng cho ngươi biết, nếu như không có ngươi, không có Lục Thư Thanh, thì 'ái thê' của ngươi sẽ không phải lưu lạc đến nước này, càng chắc chắn rằng y sẽ không phí công nếm mùi đau khổ suốt mười lăm năm như vậy!"

Trong điện lặng đi một lúc, Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh đều không biết phải đối diện thế nào với đề tài nhạy cảm nhất chắn giữa hai người họ như một bức tường vô hình này.

Một lúc sau, Lục Lệnh Tùng mới hỏi: "Sau khi chị em nhà họ Đinh bắt cóc Thanh Nhi không thành, Đinh Ngọc tự sát, còn Đinh Giám thì rời khỏi kinh thành sao?"

"Ta đã đưa nó tới Mạc Bắc, từ đó về sau chỉ liên lạc qua thư từ, cũng chính là cái mà các ngươi gọi là..." Trương Diên ngừng lại một chút, "Thông đồng với địch phản quốc."

"Tiên đế sủng ái Lục Thư Thanh, có ý chọn Chiêu Vương kế vị, thậm chí còn sai Chung Triệu lén đưa ngọc tỷ Lam Điền truyền quốc – biểu tượng của vương quyền đến Vương phủ. Sau đó, ta viết một bức thư cho Hà Cáo, mượn của ông ta ba trăm cân ngọc liệu Lam Điền. Đợi đến Tết, ta lấy danh nghĩa Thái thú Ung Châu thăm hỏi tặng quà, đưa toàn bộ số ngọc đó vào ngõ Ô Y."

"Chuyện sau đó thì các ngươi đều biết cả rồi. Những năm cuối đời, tiên đế lại muốn giở trò cũ để dọn sạch nhà họ Vương, vậy nên ta bèn dâng cho ông ta một cái cớ. Năm Trinh Hữu thứ mười lăm, ta ẩn danh tiết lộ phương pháp hạ 'Tích Cốt Huyền' cho Vương Thục, quả nhiên không lâu sau, Chung Triệu đã chặn được âm mưu dùng chính cách đó để mưu sát tiên đế của Vương Thục và Thái hậu."

"Ban đầu, tính toán của tiên đế là mượn tay nhà họ Vương để diệt nhà họ Tạ trước, sau đó mới đích thân ra tay diệt trừ nhà họ Vương. Nhưng ông ta không ngờ rằng, còn chưa kịp động thủ thì đã bị ta và Chung Triệu g**t ch*t trước," Trương Diên mỉm cười, "Tần thái y nói là do bị vật cùn đánh trúng, không sai, đó chính là cái chân đèn trong tẩm điện."

Ngày hôm đó có thể nói là ngày sung sướng nhất trong mười năm để tang vợ của ông. Trương Diên lạnh lùng nhìn tiên đế vọng tưởng giả heo ăn thịt hổ, tự cho mình là con chim sẻ thông minh đang rình ve, nào ngờ bản thân từ lâu đã là con ve dính chặt trên cành cây, mặc người khác đưa tay bắt lấy.

Đêm hôm đó, tiên đế triệu ông và Chung Triệu vào cung, lệnh cho họ điều Vũ Lâm Vệ ra tay với nhà họ Vương. Thế nhưng người đến không phải là nghịch thần và đầy tớ từng nhẫn nhục chịu đựng bao năm, mà là những gương mặt hoàn toàn xa lạ. Bọn họ không đáp lại bất kỳ lời mắng nhiếc nào của ông ta, cũng không để ông ta có cơ hội phát ra tiếng kêu cứu nào. Ngay tại nơi này – điện Thần Long, họ đã lấy chân đèn đập gãy cổ họng của tiên đế.

"Sau đó, ta dùng Khứ Hà thể viết một mảnh giấy, tiết lộ nơi tiên đế cất giấu di chiếu cho phủ Tướng. Vương Thục vốn chẳng buồn truy xem rốt cuộc là ai đưa tin, khi đó lão ta và Thái hậu còn đang bận thay xà đổi cột, làm giả di chiếu để sớm nắm trọn quyền lực trong tay."

"Chung Triệu biến mất trong đêm. Ngay từ đầu ta đã biết nó tuyệt đối sẽ không tự ý rời đi — năm xưa bọn ta từng thề sẽ diệt sạch tông tộc thiên gia, bấy giờ mới chỉ có một mình tiên đế chết đi, làm sao nó cam lòng buông tay cho được?"

"Sau đó Trình Văn gửi thư cho ta, nói rằng thám tử ông ấy phái đến Hoài Bắc đã trông thấy Chung Triệu ở trong quân Hổ Sư, lúc ấy ta mới hiểu, thì ra là ngươi đã đưa nó đi."

Lục Lệnh Tùng nhìn Trương Diên với vẻ mặt phức tạp: "Vậy ra, người đã diệt khẩu Chung Triệu là ông và Trình Văn sao?"

Trương Diên khẽ thở dài như tiếc nuối, buồn bã nói: "Nó là một nhân tài có thể trọng dụng, tâm chí kiên định. Tiếc là lại rơi vào tay ngươi, bọn ta không thể mạo hiểm để lộ bất kỳ sơ hở nào liên quan đến đại sự."

Lục Lệnh Tùng cũng không nén được xúc động, thở dài: "Chung Triệu chưa tiết lộ điều gì. Về mưu đồ và đồng lõa của các ông, hay các ông là ai – trước khi chết, hắn chưa hề tiết lộ một chữ nào."

Mặt trời dần ngả về Tây, bóng người bị kéo dài ra và hẹp lại. Điện Thần Long càng lúc càng u ám, những đường chạm trổ trên trần nhà dần mờ đi, chìm khuất trong bóng tối, như thể có vô số thần linh đang mở mắt dõi theo màn bù trả duyên nợ ở nơi đây.

"Ta biết, thầy giết tiên đế, giết Lục Tử Phụng, giết Lệnh Chương và Chân Chân, giết cả con cái ta... Là vì mang mối thâm thù không đội trời chung với nhà họ Lục, cũng muốn ta dứt khoát đoạn tuyệt với hoàng thất, từ đây không còn vướng bận gì nữa."

Tạ Cánh thẫn thờ mở miệng, như đang tự hỏi: "Nhưng nhà mẹ của ta, Trần quận Tạ Thị cho đến giờ đều luôn dè dặt cẩn trọng, không lộ tài năng, thầy mượn ngọc liệu Lam Điền giá họa cho nhà họ Tạ, chẳng lẽ trên tay không dính máu tươi tàn sát người vô tội hay sao?"

Trương Diên chỉ bật cười cay đắng: "Tạ Chi Vô à, ta cứ tưởng ngươi ở lại Ung châu ba năm sẽ nhận ra được vài điều khác biệt. Nhưng giờ ngươi lại hỏi ra câu ấy, thật sự là chẳng tiến bộ chút nào!"

Ông từng bước đi về phía Tạ Cánh: "Đến cuối những năm Kiến Ninh, năm đầu Trinh Hữu, Trần quận Tạ thị là đại tộc duy nhất trong triều đình có thể đứng ngang hàng với Lang Nha Vương thị và Thanh Hà Thôi thị, tạo thế chân vạc mà tranh giành, đối kháng lẫn nhau. Thêm vào đó là Ngô Hưng Diêu thị - nhà mẹ của chị dâu ngươi, quý tộc bản địa đứng đầu Giang Nam, nếu lúc ấy ai trong số họ chịu mở miệng nói thêm một câu, thì cũng không đến mức tạo thành cục diện một nhà thao túng, ngang ngược hoành hành như thế."

"Nhưng ông nội, cha, chú bác, anh trai ngươi, tất cả những người họ Tạ đang tại chức trong quan trường, vào đúng thời khắc cần phải đứng ra gánh vác, họ đều lựa chọn rút lui, không ai là ngoại lệ. Năm xưa ông nội ngươi làm Tả phó xạ, rõ ràng thấy được mâu thuẫn giữa thái hậu và tiên đế ngày một sâu sắc, ông ta vẫn khoanh tay treo ấn từ quan, đưa ngươi về quê an hưởng tuổi già; cha ngươi là Ngự sử đại phu, anh trai ngươi là Hữu bổ khuyết, đều là ngôn quan nhưng lại 'cẩn ngôn thận hành', không làm tròn trách nhiệm can gián!"

Tạ Cảnh ngẩn người một lúc lâu, trong đầu vang lên những lời mà y thường nghe về gia đình ba đời làm quan của mình, đó là hai từ "thanh liêm" và "thận trọng". Nhà họ Tạ giữ mình trong sạch, vì vậy không muốn lún sâu vào những cuộc tranh đấu bè lũ xu nịnh, cũng chẳng muốn cùng tôm tép nhãi nhép nhảy múa bàn chuyện vặt vãnh; Tạ Dực và Tạ Duyễn làm quan thận trọng, luôn đề phòng không để người khác nắm được điểm yếu của mình, vì vậy họ không nói nhiều, không làm nhiều, chỉ sợ đi sai đường.

Nhưng những gì Trương Diên nói không sai. Bọn họ lẽ ra phải làm đúng công việc của một quan can gián.

"Ngươi nghĩ những bi kịch xảy ra với người thân trong gia đình bọn ta không gây nên sóng gió gì hay sao? Không hề! Họ biết hết, tất cả đều biết, nhưng chẳng ai dám nói lời nào! Tại sao hơn một trăm mạng người lại biến mất? Vì sự lơ là của họ, vì sự né tránh tai họa của họ, vì sự thận trọng quá mức của họ, vì không dám bộc lộ tài năng! Nếu nói hoàng đế là đầu sỏ, thì những dòng họ, thế gia trong khắp thiên hạ này chính là đồng phạm!"

Trương Diên nhìn quanh đại điện rộng lớn, suốt bốn mươi năm xuân qua thu lại, ông ngày ngày thức khuya dậy sớm, tay cầm thẻ chầu đứng ở nơi này, căm ghét thiên tử của mỗi triều, nhưng cũng trở thành triều thần của họ.

"Còn ngươi, Chi Vô, ta từng nghĩ ngươi không giống bọn họ."

Ông đã gần như đứng đối diện với Tạ Cánh, Lục Lệnh Tùng toan ngăn lại, nhưng bị Tạ Cánh nhẹ nhàng gạt ra.

"Mãi đến khi nghe chính miệng ngươi kể cho ta nghe rằng các người đã mưu tính 'thanh quân trắc' ra sao, ta mới hiểu ra được đợt rét đậm trời giáng vào năm ngoái, cảnh xác đói đầy đồng, nỗi khổ của dân, oán hận của dân, và cả sự bất lực khi không thể chống lại của họ, hóa ra cũng chỉ là công cụ để ngươi rửa oan cho Trần quận Tạ thị!"

Tạ Cánh nhìn thẳng vào ông, không hề phủ nhận.

"Thưa thầy... Thánh nhân luận tích không luận tâm. Nếu như Lệnh Chương không chết, hoặc là Lục Tử Phụng, hoặc là Thanh Nhi, chỉ cần một trong ba người lên nắm quyền, họ đều sẽ đi cứu bách tính của mình, đều sẽ phải thu phục lòng dân — chẳng qua chỉ là khác đường cùng đích mà thôi. Oan có đầu, nợ có chủ, dân chúng rồi sẽ tự biết mình nên hận ai, mà người đó sẽ không phải là ta."

Trương Diên chỉ bật cười lớn: "Oan có đầu, nợ có chủ! Chỉ có kẻ ngồi trên cao hưởng lợi mới có quyền được nói câu này! Còn dân đen ti tiện như cỏ rác thì không có cái quyền đó đâu! Tai họa trời giáng xuống đầu bọn họ làm gì có phân biệt oan hay không oan, thù hay không thù cơ chứ!"

"Đại Tề lập quốc lấy khoa cử làm đầu, cứ ba năm tuyển sĩ một lần, nhiều thì được vài chục người, ít thì chỉ hơn mười người! Nhưng khắp cõi nước Tề này tổng cộng có bao nhiêu người? Nhìn khắp quan trường ngày nay, những kẻ xuất thân quý tộc như ngươi, dẫu thi cử không thành thì cũng được che chở, được tiến cử nghìn đường vạn lối để bước vào chốn quan trường, ngươi xem, có bao nhiêu người như vậy? Còn những người giống đồng liêu năm xưa của ta ở Đông cung, treo cổ khổ học, vắt óc hao tâm, nhẫn nại đến khi đầu bạc tóc mới có thể đặt chân vào ngưỡng cửu phẩm, lại được bao nhiêu người?"

"Ba đời Thánh hiền nói đến 'hữu vi' là dạy dân bằng đức, chỉnh dân bằng lễ*; 'vô vi' là thuận theo thiên thời, cùng dân nghỉ ngơi. Vậy thử hỏi trong thế hệ của các ngươi, 'hữu vi' và 'vô vi' là gì? 'Hữu vi' là Lang Nha Vương thị thôn tính ruộng đất, mượn công mưu tư; 'vô vi' là Trần quận Tạ thị các ngươi khiếp nhược thất trách, ngồi không hưởng lộc! Để đến hôm nay kẻ mạnh hoành hành, kẻ yếu bị h**p đáp, người giàu càng giàu, kẻ nghèo càng nghèo, thế tộc thì ngồi chễm chệ trên cao, anh tài thì bị vùi dập nơi đáy xã hội!"

<i>(*) Câu đầy đủ nằm trong Luận Ngữ – Học nhi: "</i>道之以政,齐之以刑,民免而无耻;道之以德,齐之以礼,有耻且格。<i>" </i><i>→</i><i> Dạy dân bằng chính trị, chỉnh dân bằng hình phạt, dân chỉ tránh tội mà không biết xấu hổ; dạy dân bằng đức, chỉnh dân bằng lễ, dân biết hổ thẹn và tự sửa mình.</i>

"Chi Vô à, Chi Vô," Trương Diên than thở gọi tên y, "Ông nội ngươi lấy tự cho ngươi là 'Chi Vô', chẳng lẽ lại muốn ngươi đi trên một con dường mà không có chí tiến thủ hay sao?"

Câu nói cuối cùng của ông khiến đầu óc Tạ Cánh ong ong, á khẩu không biết đáp thế nào. Rồi Trương Diên bỗng chộp lấy hai khuỷu tay y, khẩn thiết hỏi: "Ta có một chuyện muốn hỏi ngươi — ngươi phải thành thật trả lời ta!"

Ông bất ngờ kéo mạnh Tạ Cánh đến trước điện, giơ tay chỉ về phía ngai vàng: "Hiện giờ ngươi đứng cách vị trí kia chỉ một bước chân mà thôi! Chỉ cần ngươi muốn, thiên hạ này sẽ nằm trọn trong tay ngươi! Ta nói rõ ràng ở đây — không có ngươi, Lục Tử Phụng và Lục Thư Thanh chẳng dễ gì ngồi vững trên ngai vàng đó đâu! Ngươi có đủ can đảm để thay thế Lục Tử Phụng không? Ngươi có đủ khí phách để đổi họ cho con mình, đổi họ cho cả giang sơn này hay không?"

Tạ Cánh ngẩng đầu, trợn tròn mắt nhìn về ngai vàng trên đài cao, cùng với bức bình phong vàng rực uy nghi phía sau, im lặng hồi lâu.

Trương Diên khẽ hừ lạnh một tiếng: "Ngày đó quả thật là ta đã không nhìn lầm ngươi, ngươi có cốt cách thư sinh, bụng dạ tướng soái, duy chỉ thiếu tâm thuật của đế vương. Suốt cả đời này, ngươi cùng lắm cũng chỉ có thể ở phía dưới người khác, làm thần làm hậu, thế là hết!"

Tạ Cánh đứng yên bất động, sững người thật lâu rồi mới gạt tay Trương Diên ra, lùi lại hai bước, cúi người hành lễ thật sâu:

"Thật hổ thẹn vì đã phụ lòng kỳ vọng sâu nặng của thầy. Ta không có cái gan ấy, cũng không có khí phách ấy. Nhưng có một câu thầy nói chưa đúng lắm."

Giọng y không lớn, nhưng lại vô cùng kiên định: "Không có ta, Lục Tử Phụng ngồi không vững ngai vàng; nhưng cho dù ta có thật sự đổi họ của giang sơn này thành họ Tạ, thì nếu không có Lục Tử Phụng, ta cũng không thể ngồi vững."

Trương Diên bật cười thành tiếng, chẳng rõ là tức đến bật cười, hay là hận vì rèn sắt mãi chẳng thành thép. Ông chỉ khẽ lắc đầu: "Vậy Chi Vô à, chúng ta cứ chờ mà xem. Họ Lục bọn họ đều là những kẻ máu lạnh. Mười mấy năm rồi, nếu còn cứ ngây thơ như thế mãi, ngươi sẽ bị hắn hại đến mức chẳng còn sót lại mảnh xương!"

Ông từ từ đưa tay nâng Tạ Cánh dậy, để y trở lại tư thế ngang hàng đối mặt. Mà chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, thần sắc, khẩu khí, cử chỉ của ông cũng đã trở về với dáng vẻ trầm ổn như chuông, vững vàng không lay chuyển của một Thái phó đương triều.

"Ta đời này ở vào vị trí gì thì làm việc vị trí đó, có ơn báo ơn, có thù trả thù. Mọi việc đã làm, bất kể thành bại, ta chưa bao giờ thẹn với lòng mình."

Tạ Cánh nhìn thẳng vào ông, ánh mắt sâu thẳm: "Thưa thầy, chuyện đã đến nước này, ta không còn gì để nói, chỉ muốn thay Thanh Nhi hỏi người một câu. Tổ phụ và ông ngoại của thằng bé mất cùng một ngày, suốt ba năm trời sau đó, thầy là người đích thân dạy dỗ, sớm tối kề cận, hễ biết đều dạy, trong lòng nó kính yêu thầy, chưa từng thua kém người thân ruột thịt."

"Sự hiền hòa, những lời khen ngợi, cùng với sự kỳ vọng mà thầy dành cho thằng bé..." Giọng Tạ Cánh khẽ run lên, "Có chút nào là thật không, thưa thầy?"

Trương Diên chỉ lặng lẽ nhìn về phía trước, ánh mắt dừng lại ở nơi nào thật lâu, nhưng đến cuối cùng, ông cũng không đáp lại chữ nào.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 112


<b>《</b><b> </b><b><i>27.2 </i></b><b>》</b>

Cửa lớn phủ Tướng ở Thanh Khê phía Đông thành Kim Lăng đã bị khóa trái từ bên ngoài, có lẽ trên cửa còn dán phong ấn, chỉ là người bên trong không nhìn thấy được.

Biến cố kinh hoàng xảy ra ở đảo Bát Quái đã nhanh chóng truyền khắp kinh thành. Lang Gia Vương thị nắm giữ đại quyền thì mưu phản, Trương Thái phó đức cao vọng trọng lại giết vua, vị thiên tử luôn ôn hòa kiệm lời băng hà vì cứu mạng thế tử Chiêu Vương. Chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi, quốc tang chưa qua lại chồng thêm một tầng đau thương nữa.

Thân là gia chủ, Vương Thục và hai người con trai đã bị tống vào ngục. Những nữ quyến còn lại, tộc nhân, gia nô đều bị giam lỏng trong phủ, ai nấy đều hoảng hốt bất an chờ đợi phán xét cho số phận của mình.

Thôi Thục Thế lặng lẽ đứng ở ngoài rìa nhóm người, nàng cao dong dỏng, thân hình mảnh mai tựa như chiếc lá liễu mỏng, cái bóng in trên tường gạch đen đặc như mực.

Đột nhiên, vợ một người anh con chú của Vương Hề cất giọng gọi nàng: "Nhị phu nhân, vừa nãy Thôi phủ phái xe ngựa đến đón, sao cô lại không đi?"

Thôi Thục Thế không nhìn cô ta, chỉ thản nhiên nói: "Tôi làm dâu nhà họ Vương đã hơn mười năm, lại thường theo sát Vương tướng, lo toan tính toán đủ điều. Nếu trong cung muốn truy xét trị tội, chẳng lẽ quay về nhà mẹ đẻ là có thể tránh được hay sao?"

Người phụ nữ kia lại nói đầy ẩn ý: "Chuyện đó ai mà nói chắc được? Em trai của cô bây giờ bỗng dưng nổi danh, đi theo Chiêu Vương lập được không ít công lao cơ mà! Huống hồ, đừng tưởng chúng tôi không biết — trước khi người nhà họ Thôi tới, xe ngựa của phủ Chiêu Vương đã tới rồi, chẳng qua cô không chịu lên thôi!"

Lời ấy như một hòn đá bị ném xuống lòng hồ, lập tức gợn lên từng đợt sóng, lan rộng. Có người kinh ngạc thốt lên: "Đến lúc nào vậy? Thật sự là xe ngựa của phủ Chiêu Vương sao? Sao tôi không thấy nhỉ?"

"Sao Chiêu Vương lại cho người tới đón cô ta? Chẳng phải năm xưa cô ta đã bị người ta —"

"Năm xưa là năm xưa, khi đó làm sao tiên đế có thể cho phép Chiêu Vương kết thông gia với phủ Thái úy nắm binh quyền chứ?"

"Suỵt! Ăn nói cho cẩn thận, về sau... 'Tiên đế' không còn là..."

Giữa những tiếng "xì xào bàn tán" cố tình để cho nàng nghe thấy, lại có người nói: "Chuyện lớn như vậy, không biết Hoàng đế có để lại di chiếu hay không, nhưng cho dù không có, thì ngôi vua... E rằng cũng sẽ lọt vào tay phủ Chiêu Vương thôi."

Người phụ nữ kia trầm ngâm một lúc: "Nói như vậy, bây giờ Chiêu Vương cũng coi như được tự do rồi, chẳng phải hắn với người vợ bị phế truất kia từng suýt gât án mạng sao? Nếu giờ được nắm quyền trong tay, ắt sẽ tuyển chọn vợ kế. Mà Thôi phủ cũng có công phò rồng khởi nghĩa..."

Thoáng chốc, tất cả đều im lặng, đồng loạt đưa mắt nhìn Thôi Thục Thế như đang suy tính điều gì.

Người phụ nữ kia bước đến trước mặt nàng, lời đầy hàm ý: "Nếu Chiêu Vương lên ngôi, chắc chắc sẽ trọng dụng Thanh Hà Thôi thị. Theo tôi thấy thì đây chính là cơ hội của Nhị phu nhân đấy. Cô xem, đến cả chuyện phát binh đoạt quyền Chiêu Vương còn dám làm, vốn cũng chẳng phải hạng chính nhân quân tử, làm gì có chuyện dâng người đến cửa mà hắn không cần?"

Không biết ai nhỏ giọng thì thầm: "Cách này... Chẳng phải Chân thị, hoàng hậu Văn Chiêu của Ngụy Văn đế cũng đi bước nữa đó sao?"

Một người họ hàng khác vội nói: "Âm mưu của bá phụ và Thái hậu chúng tôi hoàn toàn không biết gì cả, cô thường xuyên theo bên cạnh ông ấy, chắc hẳn cũng biết là chúng tôi vô tội mà!"

Người phụ nữ giả vờ lau nước mắt, khuyên nhủ: "Nhị phu nhân, suốt bao năm qua, cả nhà chúng ta vẫn luôn ở bên nhau, đã là những người thân cận nhất, làm sao chúng tôi lại không mong cô được sống tốt, được bay lên cao hóa thành phượng hoàng? Chỉ cần cô có được vinh quang, góp lời vài câu giúp những phụ nữ và trẻ em vô tội chúng tôi, để phủ Chiêu Vương xem xét giảm nhẹ hình phạt, chúng tôi sẽ vô cùng biết ơn!"

Những người còn lại đồng loạt phụ họa, có một bà cô lớn tuổi khác nói: "Trần quận Tạ thị đã sụp đổ rồi, thế tử giờ không còn nhà mẹ chống lưng, dù sao thì bây giờ Nhị phu nhân cũng không có con cái, nếu có thể sinh được một cậu con trai, còn chưa biết ngai vàng sẽ thuộc về ai..."

Chồng bà ta ở bên cạnh liếc mắt ra hiệu, bà cô lập tức nhận ra mình lỡ lời, vội vàng ngậm miệng. Nhưng những người có mặt ở đây đều không nhịn được nghĩ đến cô con gái nhỏ mấy năm trước đột nhiên qua đời của Thôi Thục Thế.

Từ đầu tới cuối, Thôi Thục Thế không nói một lời, đến lúc này mới lên tiếng: "Anh chị đây thật sự đã định ra giúp tôi con đường tương lai tốt đẹp, sáng sủa rồi đấy."

Mọi người ngượng ngùng.

Nhưng Thôi Thục Thế chỉ cười. Nếu ai để ý kỹ sẽ nhận ra sự bình tĩnh của nàng lúc này quả thật có chút bất thường so với vẻ cay nghiệt thường ngày. Thế nhưng tâm trí của đám người nhà họ Vương đều đặt cả vào việc làm sao để thoát tội, chẳng ai chú ý đến biểu cảm khác lạ kia.

"Tôi đã quyết ở lại nhà họ Vương chịu tội, nếu bậc trưởng bối muốn tôi tái giá, tôi cũng không phản đối." Thôi Thục Thế điềm đạm nói, "Có điều cưới gả là chuyện lớn, nếu như không đứng trước tổ tông mà định đoạt thì có hơi bất kính. Chi bằng mời mọi người dời bước đến từ đường ở nhà sau, chúng ta cùng nhau bàn kỹ hơn?"

Mọi người nghe nàng nói vậy thì mừng rỡ không thôi, ai nấy đều gật gù đồng ý, lập tức rục rịch kéo nhau đi về phía từ đường của nhà họ Vương ở nhà sau.

Thôi Thục Thế dõi mắt nhìn theo bóng lưng bọn họ, lạnh lùng nói thêm: "Tôi sẽ quay về phòng lấy hôn thư của tôi và Nhị công tử, mong các vị —— đợi thêm một chút nữa."

Đợi đến khi người cuối cùng cũng khuất hẳn khỏi tầm mắt, Thôi Thục Thế mới cất bước. Nàng quay về phòng mình, đi đến bên chiếc rương chứa của hồi môn nặng nề phủ đầy bụi bặm trong góc tường, móc chiếc chìa khóa giấu trong ngực ra, mở ổ khóa vàng.

Nắp rương bật mở, nhưng bên trong chẳng có gì ngoài một thanh kiếm dài ánh lên hàn quang.

Cha mẹ thì đang thẩm vấn Trương Thái phó ở điện Thần Long, còn Lục Thư Thanh đang đứng thất thần một mình trên hành lang ngoài điện. Sau khi đưa Lục Thư Ninh và Ngân Trù đến chỗ Tạ Tuấn, Từ Ất và Từ Giáp đã lên đường vào cung ngay lập tức, nhưng nhìn thấy dáng vẻ ngây ngẩn của thế tử, họ cũng không dám lên tiếng hỏi han.

Lục Thư Thanh vẫn còn cảm nhận được nhiệt độ dần lạnh đi của cơ thể Lục Lệnh Chương lúc lâm chung. Cậu vô thức sờ đầu ngón tay mình, nơi ấy vừa mới chạm đến ranh giới của cái chết.

Cái chết... Sao lại có thể nhẹ nhàng đến vậy?

Vũ Lâm Vệ xếp hàng chỉnh tề, Thôi Tế Thế dẫn đầu đội ngũ từ xa tiến dần đến bên ngoài điện Thần Long. Lục Thư Thanh trông thấy chợt hoàn hồn, đứng thẳng dậy chào hỏi: "Thôi đại nhân vất vả rồi."

Thôi Tế Thế vội nói: "Thế tử không cần đa lễ. Thần tới đây là có chuyện muốn bẩm báo để điện hạ quyết định. Nhưng nếu điện hạ không tiện, thần báo với thế tử cũng như nhau. Nội – ngoại Vũ Lâm Vệ đã điểm quân xong, có nên chiếu theo lệ cũ, phân họ theo ban mà đổi ca, tiếp tục giữ chức vụ hay không?"

Lục Thư Thanh đứng ở vị trí hơi cao hơn, cậu cúi xuống nhìn Thôi Tế Thế, thầm nghĩ: Người này thực sự rất thông minh, giống hệt mẹ của A Hoàng — cũng chính là chị gái của gã, Thôi Tế Thế thông minh giống hệt như Thôi phu nhân.

Gã rất biết thời thế, không vì bản thân đứng đúng phe mà kiêu ngạo kể công, trái lại, gã nghiêm túc làm đúng bổn phận, duy trì trật tự bên trong hoàng thành, để Chiêu Vương xử lý tội thần mà không phải bận tâm đến chuyện hậu phương.

Nhưng đồng thời, gã cũng có tầm nhìn xa trông rộng, Chiêu Vương không thể phân thân, đúng lúc gặp được thế tử, gã khéo léo chọn cách hiến ân cần – nay Chiêu Vương là chủ nhân của gã, còn thế tử chính là thiếu chủ, ngày nào đó có thể cậu sẽ trở thành Thái tử Đông cung. Nếu như Chiêu Vương coi trọng, sủng ái thế tử, sẽ chẳng hiếm khi có lòng mạnh dạn trao quyền cho cậu rèn luyện, đã như vậy, sao gã phải do dự? Chẳng bằng cứ mượn chuyện ổn thỏa như thế này để thử nước. Thứ nhất là để Chiêu Vương nhìn ra được sự cung kính và lòng trung thành của gã đối với nhà họ, hai là sớm gieo vào lòng minh chủ tương lai một ấn tượng tốt đẹp.

Nghĩ vậy, Lục Thư Thanh cũng không vòng vo mà gật đầu nói: "Phiền Thôi đại nhân lo liệu, tất thảy đều cứ vận hành theo chế độ cũ là được, đợi phụ vương rảnh rỗi, ta nhất định sẽ giúp ngài bẩm báo với người."

Thôi Tế Thế nhận lệnh rời đi, Lục Thư Thanh buồn chán nhìn đoàn người quay đầu, tầm mắt lơ lửng một hồi, đột nhiên dừng lại trên một gương mặt.

Cậu quát lên: "Đợi đã!"

Thôi Tế Thế sửng sốt, nhưng vẫn lập tức đưa tay cho các tướng sĩ dừng lại: "Thế tử có việc gì cần dặn dò?"

Lục Thư Thanh bước xuống bậc thềm ngọc, đi thẳng đến trước mặt người nọ: "Ta biết ngươi."

Đối phương sợ hãi cúi thấp đầu, không dám nhìn thẳng mặt Lục Thư Thanh, Thôi Tế Thế đứng bên cạnh giải thích: "Bẩm thế tử, Dương Giáo úy đang làm việc ở Vũ Lâm Trung Vệ. Ngày hôm trước, Trung tham quân ngoan cố chống cự, chính anh ta cùng những người khác đã hợp lực khống chế, khuyên họ quy thuận Chiêu vương, lập được công lao đấy."

Nhưng Lục Thư Thanh vẫn chỉ nhìn chằm chằm vào gã kia: "Ngươi là người đã giết Lục Ngải."

Binh sĩ trái phải ngạc nhiên nhìn nhau, mặc dù không hiểu rõ tình hình, thế nhưng chẳng ai dám thở mạnh.

Cả người Dương Giáo úy kia đổ đầy mồ hôi lạnh, run như cầy sấy. Gã vốn chẳng biết Lục Ngải là ai, cũng không cần biết Lục Ngải là ai, chỉ hai chữ "đã giết" phía trước thôi cũng đủ khiến cho gã hồn phi phách tán rồi.

Trước điện lặng như tờ, hồi lâu sau, Lục Thư Thanh chỉ khẽ mấp máy, rồi lạnh lùng thốt lên một chữ:

"Thưởng."

Nói xong, cậu không liếc mắt nhìn thêm nữa mà quay người đi về phía sau điện. Anh em họ Từ nhìn nhau rồi đuổi theo sau. Bọn họ tá túc ở Vương phủ, từng nghe Lục Thư Thanh nhắc đến chuyện có người đã ra tay giết hại con vẹt yêu dấu của cậu. Từ Ất quay đầu lại trừng mắt với Dương Giáo úy, không cam lòng nói: "Bắt nạt kẻ yếu, sợ hãi kẻ mạnh! Vì sao thế tử không nhân cơ hội này báo thù cho Lục Ngải?"

Lục Thư Thanh đi phía trước, thản nhiên nói: "Mới vừa dẹp loạn, cần phải nắm bắt cơ hội trấn an lấy lòng, lãnh đạo trực tiếp của họ đã bị xử trảm, vậy thì ta càng phải đối xử tử tế với những cấp dưới này, bỏ qua chuyện cũ. Người ta chỉ biết đó là một con vẹt tầm thường, sẽ không để tâm đến ý nghĩa của Lục Ngải đối với ta. Nếu như chỉ vì một con vẹt mà ta giết hắn, ngày sau phụ vương lên ngôi hoàng đế, làm sao người có thể ngồi vững được?"

Từ Giáp không khỏi thắc mắc: "Vậy thì thế tử để cho hắn được tiếp tục làm việc trong quân Vũ Lâm là được rồi, sao lại còn ban thưởng, làm vậy chẳng phải quá hời cho hắn rồi hay sao?"

Lục Thư Thanh cũng không quay đầu lại, giọng điệu không hề dao động, như thể chỉ đang bàn chuyện thường ngày:

"Đương nhiên là ta muốn giết hắn, nhưng pháp luật Đại Tề không cho phép ta giết hắn – pháp luật sẽ không dùng tính mạng của một người để đổi với sinh mạng của một con vẹt."

"Vì vậy, ta không chỉ muốn ban thưởng cho hắn, mà còn muốn điều hắn đến dưới tầm mắt của ta, để cho hắn sớm tối như đi trên băng mỏng, sống từng ngày với cái đầu treo lủng lẳng bên thắt lưng. Mỗi ngày trôi qua đều là một ngày lo âu thấp thỏm. Hắn chỉ biết ta từng thấy hắn giết người, nhưng lại không nhớ là ai. Ta muốn để hắn sống mãi trong nơm nớp lo sợ như thế."

"Không thể phán cho hắn tội chết, ta sẽ khiến hắn sống không bằng chết."

Anh em họ Từ đi phía sau sững người một lúc, đoạn ngẩng đầu nhìn bóng lưng có phần gầy gò của Lục Thư Thanh, trong lòng không khỏi dâng lên một cảm giác lạnh lẽo: Cậu có đủ tư cách để trở thành một Thái tử...

Và đã bắt đầu mang phong thái uy nghiêm của bậc đế vương.

Đến tận khi sắc trời bên ngoài đã tối xuống, cửa điện Thần Long mới mở ra, Trương Diên bị giải vào chiếu ngục chờ xét xử, một phó tướng Hổ Sư đang đứng chờ ngoài điện lập tức tiến lên thông báo: "Điện hạ, nhà họ Vương có chuyện rồi!"

Lục Lệnh Tùng quay đầu lại hỏi: "Chuyện gì?"

"Vừa rồi chúng tôi theo Lý tướng quân đến phủ Tướng tra soát, ngoài cửa luôn có quân kinh kỳ túc trực canh giữ, không ai ra vào được, nhưng đến khi vào trong thì chẳng thấy một bóng người. Chúng tôi lần tới từ đường ở nhà sau mới phát hiện ra — trừ Vương Thục và các con trai đã bị giam vào ngục, thì những người còn lại trong phủ, nam nữ già trẻ tổng cộng năm mươi ba mạng... Đều đã chết hết, trên người có vết chém, máu vẫn còn nóng."

"Là người trong phủ làm sao?"

Phó tướng gật đầu: "Người hành hung là Thôi thị, vợ của Vương Hề, cô ta đã cầm theo hung khí giết người đến quỳ gối bên ngoài Đại lý tự tự thú rồi."

Sắc mặt Tạ Cánh trầm xuống, vội kéo tay áo Lục Lệnh Tùng ra ngoài: "Đi thôi!"

Trên con phố dài dẫn đến Đại lý tự, người qua kẻ lại vội vã bước đi, thỉnh thoảng ngoảnh lại liếc nhìn người phụ nữ đang quỳ giữa đường, ai nấy đều tránh vội như thấy rắn rết.

Thôi Thục Thế thẳng lưng quỳ ngay trước cửa nha môn, nàng vẫn còn mặc đồ tang, áo trắng dính đầy máu, loang lổ khắp nơi.

Thế nhưng trong chính đường của Đại lý tự lại không có lấy một quan lại nào, trống huơ trống hoác.

Xe ngựa dừng lại ở phía đối diện, Tạ Cánh vén rèm, chừng như nhảy xuống xe chạy tới chỗ Thôi Thục Thế, rồi bỗng thấy thanh kiếm hãy còn vương vết máu được đặt ngay trước đầu gối nàng.

"Phu nhân..." Y khàn giọng gọi, "Tôi đã phái người của phủ Chiêu Vương đến đón từ sớm, sao cô lại không đi?"

Thôi Thục Thế không trả lời, chỉ lạnh lùng nhìn Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng đang theo sát phía sau y: "Hai vị đều đến thì tốt quá, rất đúng ý tôi!"

Nàng vừa dứt lời, đám tự khanh vẫn luôn núp ở sau đường thấy hai người đến thì bò lăn bò càng ra tiếp đón, cung kính hỏi: "Phu, phu nhân muốn kêu oan chuyện gì, chúng tôi nhất định sẽ phân định rõ ràng!"

Thôi Thục Thế cao giọng nói: "Thiếp thân thôi thị, xin Đại lý tự phúc thẩm vụ việc phủ Tướng báo mất trộm đồ vào năm Trinh Hữu thứ mười sáu, người báo án là Đại công tử phủ Tướng – Vương Khế cùng vợ của hắn, nghi phạm là Vương Hoàng con gái của thiếp thân, năm đó bảy tuổi, đã mất vào năm đầu Cảnh Dụ."

Đại lý tự khanh thăm dò sắc mặt Lục Lệnh Tùng, khó xử nhỏ giọng nói: "Phu nhân, vụ án này đã kết thúc từ lâu không nói, huống chi lệnh ái cũng đã qua đời, đây là chết không đối chứng, hơn nữa trộm cắp cũng chỉ là việc nhỏ..."

"Trộm cắp là việc nhỏ," Thôi Thục Thế lạnh giọng hỏi, "Vậy giết người có phải việc lớn hay không?"

Đại lý tự khanh nghẹn lời, chỉ đành lúng túng gật đầu.

Giọng Thôi Thục Thế bình tĩnh, không do dự nói: "Vương Hoàng chết không phải vì bệnh, mà giống hệt năm mươi ba thi thể còn đang nằm trong phủ Tướng lúc này —— đều là do chính tay tôi g**t ch*t!"

Nàng ngước mắt nhìn tự khanh: "Việc này có được tính là việc lớn không? Chừng đấy cũng không đủ để Đại lý tự tra lại án cũ hay sao?"

Mọi người có mặt đều trợn mắt kinh ngạc, Tạ Cánh hoảng hốt kêu lên: "Xin phu nhân ăn nói cẩn trọng! Chuyện của Vương thị vẫn còn có thể bàn bạc, mong phu nhân hãy bảo vệ mình, đừng vì một lúc nghĩ quẩn mà tự chặn đường lui!"

Thôi Thục Thế chỉ cười lạnh, ngoảnh đầu liếc y: "Vương phi cho rằng tôi chỉ đang nghĩ quẩn thôi sao? Những lời tôi nói hôm nay, từng câu từng chữ nếu có chỗ nào không thật, thì hãy để tôi xuống địa ngục cắt lưỡi, vĩnh viễn không được siêu sinh!"

Lục Lệnh Tùng bóp nhẹ cổ tay Tạ Cánh, thấp giọng nói: "Phu nhân nói vụ án mất trộm mà năm xưa họ Vương trình báo có uẩn khúc, hôm nay tại công đường, vừa hay có ta và Vương phi là hai người ngoài cuộc ở đây, không biết phu nhân có tiện kể rõ ngọn ngành từ đầu đến cuối hay không?"

Thôi Thục Thế hơi thất thần, dường như dốc cạn sức lực cả đời, phơi bày đoạn ký ức kia ra từ sâu trong tâm trí: "Cũng chẳng có gì không thể kể. Đây không phải án treo, cũng không phải kỳ án."

"Vương Khế và vợ anh ta vu hãm Vương Hoàng vào phòng bọn họ lấy trộm đồ, báo lên quan phủ, quan phủ được Vương Thục cho tiền ngậm miệng, giấu nhẹm chuyện đi. Năm đó tôi ba lần bốn lượt tìm đến Đại lý tự nhưng không ai đoái hoài, trong phủ lại có Vương Hề cản trở nhiều lần, cuối cùng vẫn không có kết quả gì."

Tạ Cánh nhớ đến lời đồn năm đó, hóa ra Thôi Thục Thế và Vương Hề đánh nhau tàn nhẫn một trận, suýt nữa lên tận quan phủ không phải vì mối hận cũ giữa hai người, mà là vì chuyện của A Hoàng.

"Về phần vì sao họ lại muốn vu hãm Vương Hoàng, đó là vì Vương Khế gọi con bé vào trong phòng, sau đó anh ta đã..." Thôi Thục Thế không biết phải nói ra câu này như thế nào, đầu mày nàng nhíu chặt, cố gắng kìm nén sự khó chịu, "... Không thành, đúng lúc bị vợ mình bắt gặp, sự việc đã đành, hai người sợ con bé tiết lộ ra ngoài bèn đổi trắng thay đen, lôi nó đến sảnh chính, đứng trước trăm khẩu trên dưới phủ Tướng, nói nó vào phòng bác trai bác gái ăn trộm đồ..."

Nàng còn chưa nói xong, dạ dày của Tạ Cánh đã co thắt, cảm giác buồn nôn dâng lên, Lục Lệnh Tùng bên cạnh cũng hiếm khi để lộ biểu cảm nặng nề.

Bọn họ cũng có con gái.

Và con gái họ cũng chỉ tầm tuổi A Hoàng lúc bấy giờ.

"Tôi không còn gì để nói nữa. các người còn muốn tôi nói gì đây? Ba cha con bọn họ đang bị giam trong chiếu ngục kia, tên súc sinh phạm tội Vương Khế, Vương Hề cha ruột của Vương Hoàng, cả Vương Thục – kẻ che đậy, bưng bít mọi chuyện – tất cả đều ở trong đó! Các người cứ đi mà hỏi! Hỏi đi! Hỏi rồi sẽ biết hết thôi!"

Thôi Thục Thế bỗng nhiên chống thanh kiếm xuống đất, dọa cho đám quan lại hai bên hoảng hốt né tránh. nàng vịn lấy chuôi kiếm, lảo đảo đứng dậy, hai mắt đỏ ngầu như tu la vừa bước ra từ biển máu, trông như đã tẩu hỏa nhập ma, nhìn lướt qua đám người đang vây quanh:

"Chuyện đó không chỉ xảy ra một lần! Người ngoài, cả nhà đều nói con bé là kẻ trộm, là đồ ăn cắp, trộm đồ ngay trong chính nhà mình, làm tổn hại nề nếp gia đình! Nhưng nói trắng ra," Nàng cười thê lương, "Bọn họ đều biết Vương Khế đã làm gì nó! Họ nói mẹ nào con nấy, nói có người mẹ giả nhân giả nghĩa như tôi thì mới đẻ ra được đứa con gái không biết giữ mình như nó, họ nói con bé là đứa vô liêm sỉ, quyến rũ cả bác ruột của mình!"

Xung quanh im ắng, từng lời Thôi Thục Thế thốt lên vang vọng như sấm rền.

"Bọn họ nói như thế suốt ba năm. Nói đến nỗi khiến A Hoàng phát điên!"

"Con bé tìm tôi, quỳ xuống, quỳ ngay trước mặt tôi!" Thôi Thục Thế cuồng loạn gào thét, "Nó không ngừng dập đầu với tôi, luôn miệng khẩn cầu, nó nói, mẹ ơi, con van xin mẹ, mẹ cho con chết đi, cho con được chết đi mẹ!"

Nàng vẫn đứng yên tại chỗ giống như đã mất hồn, chẳng biết đã ngây người bao lâu, rồi bỗng nhiên cười khẩy một tiếng, dường như thều thào thốt ra những con chữ đã cất giấu thật lâu trên đầu lưỡi: "Sau đó tôi thành toàn cho nó..."

"Tôi đã giết nó."

Ánh mắt Lục Lệnh Tùng trở nên phức tạp, thầm thở dài một hơi rồi khẽ lắc đầu. Tạ Cánh hiểu được suy nghĩ trong lòng hắn, y biết tuy Lục Lệnh Tùng có thể đồng cảm với nỗi đau khổ của Thôi Thục Thế, nhưng lại khó mà giải thích được hành vi của nàng – đây chính là nỗi bất lực của người cha, dù có thể nói hắn chính là một người cha tốt.

Thôi Thục Thế lạnh lùng gào lên: "Đương nhiên tôi có thể phơi bày hết mọi chuyện thối nát trong nhà này ra, có thể khiến cho tên súc sinh Vương Khế ấy bị thiên hạ mắng chửi đến không còn chốn dung thân! Nhưng A Hoàng thì sao? Con bé phải làm sao để ngẩng đầu lên mà sống cho đường hoàng?"

"Đương nhiên tôi cũng có thể nói với con bé rằng con không cần phải chết, mất đi trinh tiết thì có gì to tát, chết đói mới là chuyện lớn! Thủ tiết — phì! Thủ tiết cái quái gì? Cả phủ này ngoài mặt thì đạo đức nhân nghĩa, sau lưng nam trộm nữ kỹ, làm chuyện dơ bẩn chẳng khác gì cầm thú, không một ngàn chuyện thì cũng có tám trăm!"

"Đã như vậy, lời tôi nói có tính không? Thế đạo này sẽ chấp nhận sao?"

Giọng Thôi Thục Thế nhỏ dần, cuối cùng nàng chỉ tự lẩm bẩm: "Chính mình còn lấm trong bùn lầy, tôi không thể giúp con bé sống tốt, chỉ mang đến cho nó biết bao nhiêu sự sỉ nhục và đau khổ..."

"Con bé khiến tôi không thể không nhớ tới những gì cha nó, những gì Lang Gia Vương thị đã mang đến cho tôi, nhớ tới mười lăm năm tôi sống không bằng chết. Tôi thật sự rất hận nó."

Nàng có hận con không? Nàng không hận được sao?

Giờ phút này đã chẳng còn quan trọng nữa.

"Tôi không ngăn cản nó đi tìm cái chết, cũng sẽ không làm điều đó. Sự trong sạch, pháp lý, công bằng – người sống không thể lấy được!"

"Tôi giết con bé, giết những kẻ dùng miệng lưỡi đẩy nó vào đường chết, báo thù cho nó, hôm nay tôi phải lấy lại trong sạch cho nó bằng được, không phải vì con bé là con tôi, chỉ vì tôi không thể ngồi yên nhìn một người chưa từng làm chuyện xấu, vậy mà lại một lòng muốn chết vì bị hãm hại, phải gánh trên lưng tiếng xấu trơ trẽn! Nay có Chiêu Vương và Thượng thư Hữu phó xạ ở đây, đế hậu tương lai cũng ở đây, nếu Đại Lý Tự không thể xử án công bằng, nghiêm trị tội nhân Vương thị, rửa sạch oan khuất cho A Hoàng, thì nay mai cái đầu trên cổ có giữ nổi hay không, các người cũng phải nghĩ cho thật kỹ đấy!"

Đại lý tự khanh sớm đã nơm nớp lo sợ, quỳ rạp xuống đất lắp bắp: "Tiểu nhân nhất, nhất định sẽ thẩm tra, tuyệt đối sẽ không có chuyện nhân nhượng..."

Thôi Thục Thế ngẩng đầu nhìn trời, thở dài nói: "Năm đó cha lấy cho tôi cái tên này, chỉ mong tôi sống tốt với đời, làm nên nghiệp lớn, vậy mà hơn ba mươi năm thoáng chốc như khe sáng, vạn sự đều thành hư không!"

Nàng v**t v* bảo kiếm trong tay, Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh đồng thời cảm nhận được ý đồ của nàng, người trước lập tức định tiến lên ngăn cản, nhưng đã bị người sau giơ tay chặn lại, khẽ khàng lắc đầu.

Thôi Thục Thế nhìn xuống váy áo lộn xộn của mình, giương mắt nhìn Tạ Cánh: "Tạ Chi Vô, quần áo của tôi bẩn rồi, cho tôi mượn tay áo một chút đi!"

Tạ Cánh chậm rãi bước lên hai bước, nhận lấy trường kiếm, dùng ống tay áo trắng như tuyết của mình cẩn thận lau sạch máu đen trên lưỡi kiếm, sau đó dùng hai tay trả kiếm cho nàng, hành lễ thật sâu.

Lúc này đây, giữa họ không còn tồn tại giới tính, dòng họ, mục đích, lợi ích cùng với vận mệnh cách biệt như ngày đêm nữa, mà đã cộng hưởng cùng một thân phận, bọn họ chỉ là hai người mẹ, một người mẹ sửng sốt và một người mẹ tuyệt vọng, một người mẹ còn sống và một người mẹ chuẩn bị tìm đến cái chết.

Thôi Thục Thế nhận lấy kiếm, nở nụ cười lạnh lẽo nhưng xinh đẹp: "Hôm nay tôi không chết vì tội tàn sát, không chết vì Thanh Hà Thôi thị, cũng không chết vì con gái A Hoàng, mà chỉ chết vì tôi, vì Thôi Thục Thế!"

Dứt lời, nàng lập tức đưa tay lên, kề kiếm ngang cổ, chỉ trong khoảnh khắc máu bắn tung tóe, mặt đất đỏ thẫm!

Tạ Cánh không hề chớp mắt lấy một lần, chỉ trơ ra nhìn Thôi Thục Thế ngửa mặt ngã xuống tựa đóa hoa quỳnh trắng trong tinh khiết không tì vết, chợt nở rồi chợt tàn, nhưng ngay cả trong giây phút bung nở ấy, trời đất cũng chỉ biết khóc thương đưa tiễn. Dòng chất lỏng nóng hổi vương đầy trên mặt y chẳng rõ là máu hay là thứ gì khác.

Tháp Lôi Phong ầm ầm sụp đổ trong thời khắc ấy, Bạch Tố Trinh lao mình bay ra, gương mặt mơ hồ không rõ nét, giống như mỗi một người trong số họ.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 113


<b>《</b><b> </b><b><i>27.3 </i></b><b>》</b>

Buổi tối, trên đường về cung, Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh ngồi đối diện nhau trên xe ngựa, bầu không khí ngưng đọng rất lâu, không ai nói gì.

Mới nãy, khi nghe được tin dữ, Thôi Tế Thế và các anh em của gã vội vàng chạy đến cổng Đại lý tự nhận thi thể người chị đã mất. Vì sự việc xảy ra quá đột ngột, mấy người họ đều đến thẳng từ nơi làm việc, hoàn toàn không ngờ sẽ phải đối mặt với tin tức thảm khốc như vậy nên không kịp chuẩn bị quan tài hay áo liệm. cuối cùng Tạ Cánh đã mang chiếc áo choàng của mình ra, dùng nó để bọc lấy di thể Thôi Thục Thế, không để nàng dính phải bụi trần.

Lục Lệnh Tùng buồn bã nói: "Theo lời Thôi Thục Thế, để che mắt người ngoài, nhà họ Vương thậm chí không cho dựng cả bia mộ trước phần mộ của A Hoàng, càng khỏi nói đến bài vị thần chủ để thờ cúng."

Tạ Cánh khẽ thì thầm: "Người đã mất nên được tôn trọng, ngày mai báo cho Thôi Tế Thế một tiếng, bảo họ đưa linh cữu của A Hoàng về lại Thôi phủ —— dù có phải chôn cách xa Thôi Thục Thế một chút, thì cũng còn hơn là để con bé nằm dưới đất một mình, chịu đựng lời ong tiếng ve."

Xe ngựa phủ Chiêu vương vừa dừng lại bên ngoài hoàng thành, đã có một tên nội giám nhanh chân chạy ra bẩm báo: "Điện hạ, vợ chồng Thái thú Ung Châu Hà Cáo đã vào kinh, tiểu nhân mời họ về phủ nghỉ ngơi trước theo lời dặn của điện hạ, nhưng Hà đại nhân lại nói có chuyện muốn bẩm báo trực tiếp với điện hạ ngay."

Khi tin tức Lục Lệnh Chân thật sự qua đời được xác nhận, cùng với quyết tâm khởi binh thanh quân trắc, Lục Lệnh Tùng đã gửi mật thư cho Hà Cáo, mời ông lập tức hồi kinh.

Hai người vén rèm lên, từ xa đã trông thấy Hà Cáo cùng phu nhân quỳ gối trước Công Xa môn, dáng vẻ như đang nhận tội.

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh liếc nhau một cái rồi xuống xe, nhanh chóng bước tới hỏi: "Đại nhân và phu nhân làm gì vậy?"

Hà Cáo quay mặt nhìn thấy họ, lập tức dập đầu sát đất: "Điện hạ và Vương phi vẫn còn nhớ đến lão già vô dụng này, lại còn bằng lòng thành toàn tâm nguyện trở về kinh dưỡng già của ta và nội tử, lão hủ dù có chết vạn lần cũng không đủ để báo đáp!"

Tạ Cánh vội vàng quỳ xuống theo, nói: "Đại nhân cần gì phải như thế? Năm trước chia tay ở Ung Châu, bọn ta đã từng hứa sẽ đích thân đón đại nhân về kinh, hôm nay trăm việc bề bộn, không thể đón tiếp từ xa, ta và điện hạ mới sợ đã thất lễ với hai vị."

Hà Cáo nghẹn ngào: "Trong lòng lão hủ vẫn còn ôm hai điều hổ thẹn, nếu không được giãi bày, thật sự không còn mặt mũi nào gặp lại điện hạ và Vương phi nữa!"

Ông ngẩng đầu, nhìn lên lá cờ trắng treo trên Công Xa môn: "Chuyện thứ nhất, đó là thần không thể kịp thời nhận ra bút tích giả của Trương Diên, khiến cho Trưởng công chúa rơi vào hiểm cảnh, thậm chí không tìm được di hài, thật sự đã phụ lòng tín nhiệm và phó thác của điện hạ!"

"Chuyện thứ hai," Ông chuyển tầm mắt về phía Tạ Cánh, xót xa nói, "Ngày đó Trương Diên bỗng nhiên viết thư xin thần một lô phôi ngọc Lam Điền, thần không biết ông ta dùng để làm gì, nhưng vì xưa nay quan hệ đôi bên luôn rất tốt, thần không suy nghĩ kĩ ngọn nguồn đã đưa ngọc vào trong kinh, không ngờ đó lại trở thành chứng cứ hãm hại, giá họa cho Trần quận Tạ thị!"

"Sau đó thần trăm chiều hối hận, không biết làm sao để bù đắp sai lầm, ai ngờ gặp được Vương phi lưu lạc đến Ung Châu, vào phủ Thái thú làm việc ở phòng thu chi, thần không thể làm gì khác hơn là vội vàng giữ Vương phi ở lại phủ, để người có chốn dừng chân, nhưng trong lòng dằn vặt biết bao ngày đêm, ăn ngủ không yên."

Lời thuật lại của Hà Cáo không khác nhiều so với suy đoán trước đó của Tạ Cánh, trong lòng y ngổn ngang trăm mối, cười khổ nói: "Thật ra năm đó đại nhân cứ nói thẳng với ta cũng được."

Hà Cáo thở dài rầu rĩ: "Sao thần lại không muốn nói hết mọi chuyện ra để trút bỏ gánh nặng trong lòng cơ chứ? Chỉ là những năm qua nhìn thấy quá nhiều sinh ly tử biệt, nhân thế vô thường, thần sợ hãi, nhu nhược, cuối cùng vẫn không dám mở lời!"

Bầu không khí lặng đi hồi lâu, cuối cùng Lục Lệnh Tùng đành cưỡng ép đỡ Hà Cáo và Hà phu nhân dậy: "Lúc ta còn nhỏ, đại nhân từng dạy rằng, khi chọn hiền tài, có thể trách họ bất dũng, nhưng không thể nghi ngờ họ bất trung. Đến hôm nay, ta mới thật sự thấu hiểu ý nghĩa sâu xa trong câu nói ấy. Thân thể người phàm đều là máu thịt, mà đại nhân lại lưu lạc phương xa hơn hai mươi năm, rời xa thân thích và quê hương, trong lòng có ưu sầu mà chẳng dám lên tiếng cũng là lẽ thường tình, không thể trách cứ."

"Ngay khi thời cơ vừa chín muồi, ta đã lập tức mời đại nhân hồi kinh giúp xử lý đại sự, chính là bởi vì ta biết rõ, tuy đại nhân từng ngã lòng trên quan trường, nhưng lòng trung với phủ Chiêu Vương xưa nay chưa từng thay đổi, trời đất chứng giám. Mà bi kịch của trưởng công chúa là do Trương Diên và Đinh Giám thông đồng gây nên, sao có thể vạ lây đến người vô can?"

Nghe hắn nói xong, Tạ Cánh lặng lẽ thở phào một hơi: Lục Lệnh Tùng buộc lòng phải nhanh chóng sử dụng đạo thuật để thu phục lòng người như vậy. Bởi họ không cách nào biết được suy nghĩ của Hà Cáo năm xưa, nhưng vẫn là câu nói ấy: <i>chỉ nhìn hành vi, không xét lòng người. </i>Nay<i> </i>phủ Chiêu Vương đã khó tránh khỏi phải lên nắm quyền, Lục Lệnh Tùng cũng không thể giả vờ tín nhiệm và trọng dụng Hà Cáo.

Chủ và thần đều là người khéo léo, vậy nên Hà Cáo chọn đánh đòn phủ đầu, chủ động thổ lộ hai "tội danh" có khả năng sẽ bị truy cứu về sau, lại không quên nhắc đến ân tình từng thu nhận Tạ Cánh năm đó; còn Lục Lệnh Tùng trước hết trao cho một liều thuốc an thần, tỏ rõ đã xóa bỏ hiềm khích, rồi lại thẳng thắn khẳng định sẽ không trách phạt ông vì có liên quan đến tội sát nghiệt của vị cựu thần Đông cung kia.

Đôi bên ngầm hiểu lẫn nhau, quá khứ được gác lại từ đây, xóa bỏ ân oán, chính là đạo làm vua tôi bình thường nhất.

Tạ Cánh bước lên trước, nói: "Ta biết tiểu nữ của hai vị mất vì tai họa do Lan Lăng Tiêu thị gây nên năm đó. Nay đã về kinh, chỉ mong phu nhân có thể tiếp tục truyền dạy hội họa cho Ninh Ninh con gái ta, để con bé được sớm chiều hầu hạ bên gối, trò chuyện cùng người, cũng coi như vơi đi phần nào nỗi thương nhớ cố nhân."

Hà phu nhân liên tục gật đầu đồng ý, Lục Lệnh Tùng lại đỡ hai người lên xe ngựa: "Ta đã sai người dọn dẹp sạch sẽ Hà phủ năm xưa, mong hai vị trở về nghỉ ngơi thật tốt, khi nào ta và Vương phi giải quyết ổn thỏa mọi chuyện sẽ đến thăm, chúng ta ôn lại chuyện cũ."

Nhìn xe ngựa đưa vợ chồng Hà Cáo rời đi, Lục Lệnh Tùng đứng lặng trong bóng đêm, quay sang nói với Tạ Cánh: "Hiện giờ nhân chứng là Trương Diên, Vương Thục và Hà Cáo đều đã có mặt. Nếu có thể tìm được thánh chỉ thật năm xưa làm bằng chứng, thì có thể xác thực tội danh truyền chiếu chỉ giả của Lang Nha Vương thị. Như vậy, ta cũng có thể lật lại vụ án của nhà họ Tạ."

Tạ Cánh ngẩng đầu, đưa mắt nhìn về phía điện Lâm Hải xa xa, khẽ nói:

"Chiếu chỉ thật phần lớn hẳn là nằm ở trong cung. Xem ra, có vài chuyện... Đêm nay sẽ rõ ràng thôi."

Từ mùng mười tháng Sáu, cửa lớn điện Lâm Hải đã bắt đầu bị khóa lại, canh chừng nghiêm ngặt, thức ăn và nước uống đều được Vũ Lâm Vệ đưa vào. Khi Tạ Cánh bước vào trong điện, đã thấy Vương thị ngồi tại ghế phượng trên đài cao, trông dáng vẻ cứ như đã ngồi bất động ở nơi đó suốt mấy ngày liền.

"Ngươi có thể vào đây," bà ta cất giọng, "Hẳn là vì nhà họ Vương đã thất thế."

"Người nhà của Thái hậu đều chết cả rồi," Giọng Tạ Cánh không hề mang theo chút hả hê khi đã báo được thù, y nói: "Là Thôi thị đã giết họ."

Thái hậu không có bất kỳ phản ứng nào, mãi sau mới cất lời: "Thôi thị ở nhà họ Vương hơn mười năm, có oan báo oan, có thù trả thù, hận đến mức giết sạch cả nhà, cũng không uổng công ta nhìn trúng lòng gan dạ sáng suốt của nàng ta."

Tạ Cánh thoáng sững người: "Nàng là do bà đề bạt sao?"

"Hẳn là ngươi cũng đã biết, vào năm Trinh Hữu thứ mười lăm, Vương Thục tình cờ có được phương thuốc của Tích Cốt Huyền." Thái hậu chậm rãi nói, "Ta là người đã hạ độc tiên đế. Về sau, không biết Thôi Thục Thế phát hiện ra chuyện này bằng cách nào, nàng ta xông thẳng vào cung tự xin được cấy độc, còn cầu xin ta truyền dạy kỹ thuật hạ độc này. Ta thấy tâm chí nàng ta kiên định, có thể trọng dụng, nên mới tiến cử nàng ta với Vương Thục."

Thái hậu thở nhẹ một tiếng: "Nàng ta có thâm thù đại hận với người nhà họ Vương, ta ở trong cung không biết gì. Nhưng gia môn giờ đã sụp đổ, sống cũng chỉ chôn thân nơi lao tù, chẳng bằng chết đi cho sung sướng, còn hơn là suốt nửa đời sau cứ mãi tiếc nuối vinh quang đã mất mà héo mòn tàn tạ."

"Trước trận chiến hôm nay, Vương tướng đẩy ta lên Dao đài, để ta gánh tội bịa đặt quân tình, hại chết trưởng công chúa, e rằng không phải là ý định nhất thời, đúng chứ?" Tạ Cánh nhàn nhạt nói, "Dù sao ta cũng chưa từng thật sự được phủ Tướng tin tưởng, chỉ là một công cụ để Lang Nha Vương thị khoe mẽ rằng mình có lòng bao dung, tiện thể dùng vào những chuyện bất nghĩa mà thôi."

"Ngươi nghĩ mà xem, bá quan văn võ trong triều ai lại khờ khạo đến mức tin rằng ngươi thật lòng quy phục Lang Gia Vương thị chứ? Đương nhiên là ta hiểu rõ toan tính của ngươi." Thái hậu cười giễu, "Có điều ta vốn tưởng ngươi chỉ muốn lật lại án cho Trần quận Tạ thị, đâu ngờ sau khi cả nhà bị sao trảm, ngươi vẫn một lòng một dạ hướng về phủ Chiêu Vương, cam tâm cày ruộng cho người ăn lúa!"

"Vương Thục liệu sự như thần, mọi chuyện đều nằm trong tính toán, chưa từng có sơ suất... Từ đầu đến cuối, ông ấy chỉ tính sai một chuyện, đó là ông ấy không ngờ, giữa cả hội đường đầy sĩ mạo áo mũ kia, ngươi và Lục Tử Phụng lại là một cặp đôi ngu ngốc!"

Tạ Cánh hiểu ý Thái hậu. Những gì y và Lục Lệnh Tùng đã nói, đã làm trong ván cờ đầy rẫy chông gai và cạm bẫy này quả thực vô cùng ngu ngốc, gần như có thể nói là ngây thơ. Họ ngu ngốc đến nỗi đánh đổi cả mạng sống của mình chỉ vì hai lọn tóc kết năm xưa, ngu ngốc đến nỗi chẳng chút nghi ngờ, một lòng tin vào câu nói "<i>nguyện có được lòng người, bạc đầu chẳng rời xa</i>" mà thiên hạ này coi như câu đùa hề hước nhất.

Nhưng cũng chính vì sự ngu ngốc ấy, họ đã khiến Vương Thục đại bại, thua đến chẳng còn manh giáp!

"Năm đó ta đã cảm thấy lạ", Thái hậu ngồi trên cao nhìn xuống, dùng đôi mắt phượng hẹp dài đầy tính toán quét qua người Tạ Cánh, "Ngươi không tính đường cho nhà họ Tạ, không mưu cầu gì cho gia tộc mình, một mực bày tỏ lòng trung thành sắt đá, ngươi cho rằng thiên tử sẽ thấu hiểu tấm lòng của ngươi sao?"

"Từ khi áo mũ di Nam*, qua biết biết bao nhiêu triều đại, cớ sao ngôi Hoàng đế hết họ này đến họ khác đã thay nhau ngồi, mà Lang Gia Vương thị và Trần quận Tạ thị nhà ngươi vẫn đời đời kiếp kiếp làm thần tử? Muốn thay đổi cục diện, thì phải lay tận gốc rễ cái cây đại thụ này, phải nhổ sạch đám thế tộc môn phiệt, đánh cho chúng không còn ngóc đầu dậy được nữa chứ!"

<i>(*) Cụm này bắt nguồn từ thời Đông Tấn, khi vương triều nhà Tấn (sau khi Tây Tấn bị diệt) di dời về phía nam để tránh loạn Ngũ Hồ loạn Hoa. Lúc đó, rất nhiều tầng lớp quý tộc, quan lại, trí thức, nho sĩ... đã bỏ vùng Trung Nguyên (phía bắc Trung Quốc) để di cư xuống phía nam cùng triều đình. Vì họ đều là những người ăn mặc chỉnh tề, áo mũ nghiêm chỉnh (gọi là "</i>衣冠<i>" – y quan), nên quá trình này được gọi là "</i>衣冠南渡<i>" – "áo mũ di Nam".</i>

"Nhưng chỉ mình ngươi cam tâm tình nguyện, còn tộc nhân nhà ngươi có cam tâm tình nguyện hay không? Chỉ Trần quận Tạ thị chịu chấp nhận, vậy trăm ngàn thế tộc trên đất Trung Nguyên này liệu có chịu chấp nhận hay không? Thứ tới tay dễ dàng nhưng lại khó lòng buông bỏ, đến lúc ấy ngươi thử lên đồng viết chữ gọi hồn, hỏi thử cha anh ngươi dưới suối vàng xem họ có sẵn sàng từ bỏ thanh thế hiển hách và khối tài sản kếch xù, từ bỏ tất cả những gì mà họ sinh ra đã có hay không?"

"Phải tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành, khói lửa liên miên, loạn lạc kéo dài suốt ngày đêm, phải dùng đến cách đơn giản mà tàn bạo để giết người cướp của, thì mới mong chấm dứt cục diện hiện tại. Thế nhưng ngươi thử nghĩ đi, nếu thật sự xảy ra bạo loạn như thế, rốt cuộc những đại tộc quyền quý sẽ bị tổn thương nặng nề hơn, hay là lê dân bách tính phải gánh chịu loạn ly nhiều hơn?"

Thái hậu nhìn thẳng vào mắt Tạ Cánh: "Xưa nay phủ Tướng chưa từng tự nhận rằng việc mình làm đều là vì dân, bọn ta làm chỉ vì nhà họ Vương mà thôi. Bọn ta luôn hiểu rõ một điều: vét sạch thiên hạ để làm giàu cho một họ thì chẳng thể bền lâu, nhưng làm giàu cho cả thiên hạ, thì họ Vương bọn ta sẽ càng thêm giàu có."

"Ta và Vương Thục phụ chính hơn bốn năm, đã từng ủy nhiệm ác quan hay chưa? Có từng vơ vét của dân, đánh sưu cao thuế nặng hay chưa? Không sai, việc cứu tế, giảm thuế, cải cách thể chế đúng là đều bắt đầu từ các quận vùng Chiết Đông như Hội Kê, Thiệu Hưng. Nhưng như thế thì đã sao? Họ là tá điền của Lang Gia Vương thị thì sao? Há chẳng phải cũng là con dân của Đại Tề hay sao? Năm lành tháng tốt, ta sẽ cho dân chúng cùng hưởng phú quý; nhưng đến khi mùa màng khó khăn, ta chỉ có thể lo cho tộc nhân của mình trước. Chỉ có như vậy, trước cảnh giá rét khắc nghiệt của mùa đông năm ngoái, ta mới có thể đảm bảo cả dòng họ ta được sống bình yên."

Tạ Cánh lạnh lùng đáp: "Các người ai nấy đều dùng chung một lý do thoái thác cả, miệng thì thanh minh bản thân tận trung với chức trách, không thẹn với dân sinh, nói ra nghe thật đường hoàng, công chính lắm! Các người là tiểu nhân thật sự, chỉ có mình ta là ngụy quân tử, đến giờ vẫn một lòng nghĩ đến mối hận diệt môn của Tạ thị, chỉ biết thù riêng!"

Thái hậu nghe vậy cười phá lên: "Cho dù là người của dòng tộc nắm giữ tướng vị đi chăng nữa, chỉ cần có chút đầu óc, ai mà chẳng bất đắc dĩ phải làm như Vương thị? Trừ phi ngươi dám thật sự đưa một kẻ xuất thân hàn môn ngồi vào vị trí kia – nhưng thử hỏi, đám công tử thế gia trong triều có chịu để yên hay không? Cứ nghĩ mà xem, nếu Trương Diên có thực quyền như Vương thị, thì ông ta cần gì phải hao tâm tổn trí, mưu tính nhiều năm như vậy?"

"Ngươi thật sự cho rằng Trần quận Tạ thị diệt môn chỉ vì bị Lang Gia Vương thị thừa nước đục thả câu thôi sao? Thật sự cho rằng nhà mẹ ngươi bị thanh trừng chỉ vì không cùng chỉ hướng, vì phân tranh giữa các gia tộc thôi hay sao? Tạ Chi Vô, ngươi làm dâu hoàng gia mười mấy năm, nhưng từ đầu chí cuối, đến cả điều cốt lõi nhất mà ngươi cũng không thể nhìn thấu được!"

Thái hậu liếc y: "Các ngươi cứ việc lật đổ hoàng vị đi, đợi đến khi Lục Tử Phụng lên ngôi, thì xuất thân, lập trường, hoàn cảnh của ngươi và ta có gì khác biệt đâu? Ta ở điện Lâm Hải ngày hôm nay, cũng chính là Tạ Chi Vô ngươi mai này!"

Tạ Cánh lặng lẽ nhìn góc nghiêng khuôn mặt của Vương thị dưới ánh lửa leo lét: "Giống như bà, con cái ta cũng mang huyết thống hoàng tộc. Nhưng ta không còn nhà mẹ hậu thuẫn, thúc đẩy cũng như nâng đỡ. Đây chính là điểm khác biệt lớn nhất giữa ta và bà. Đứng về phía phủ Chiêu vương là vì ta chẳng còn lựa chọn nào khác. Ngoài họ ra, ta còn có thể hướng về ai đây?"

Thái hậu mỉa mai: "Vậy thì chẳng trách ngươi tự làm tự chịu, chuốc lấy quả báo. Con trai ngươi mang họ Lục! Ngươi một lòng một dạ vì nó, nhưng rồi ngươi có biết không, nó sẽ đứng về phía cha nó, về phía tổ phụ nó, về giang sơn của nhà họ Lục!"

Lại nữa rồi, Tạ Cánh thầm nghĩ, từ người xuất thân danh môn vọng tộc như Thái hậu, đến kẻ xuất thân nơi thôn dã như Trương Diên – cả hai đều nhất trí hoài nghi hoàng thất như vậy.

Đột nhiên trong lòng dấy lên một ý nghĩ, y cẩn thận nhìn Vương thị: "... Lời Thái hậu vừa nói, rốt cuộc là đang chỉ ta, hay đang nói về chính bà?"

Thái hậu hơi sững người, nhưng Tạ Cánh đã không chần chừ, cũng chẳng nể tình mà nói tiếp: "Nghe giọng điệu vừa rồi của Thái hậu, xem ra là vẫn chưa biết kim thượng đã băng hà, càng không biết trên người Lệnh Chương cũng bị hạ Tích Cốt Huyền, đã hơn trăm ngày chưa được thay chỉ độc, chất độc đã ngấm vào tận xương, toàn thân loang lổ vết xanh tím. Dù hôm nay không chết dưới mũi tên của Trương Thái phó, người cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa!"

Tạ Cánh đã dứt lời, nhưng âm thanh vẫn vang vọng thành dư âm trong đại điện tĩnh mịch. Thái hậu đứng bất động trên bậc thềm, sau khoảng lặng dài đến nghẹt thở, bà ta mới khẽ chớp mắt một cái. Giọng bà rất đỗi bình thản, có lẽ thật sự không còn quan tâm, hoặc có lẽ đã chẳng còn chuyện gì có thể dấy lên những gợn sóng cuối cùng trong lòng bà nữa.

"Ta không biết."

"... Ta chỉ biết nó chưa từng đồng lòng cùng ta và Lang Gia Vương thị," Bà lẩm bẩm, "Ngươi xem, thứ mà nó luôn hướng về chẳng phải là giang sơn họ Lục đấy sao?"

Tạ Cánh bật cười khẽ, "Thái hậu và Vương tướng là người một giuộc, trong lòng bà không có gì quan trọng hơn việc dòng tộc mình có thể đời đời nắm giữ quyền lực to lớn, bổng lộc hậu hĩnh. Lang Gia Vương thị tuy là thần tử, nhưng thực chất lại là những kẻ khôn ngoan nhất trong đám bề tôi bất trung kia."

"Gặp gỡ một vị quân chủ khéo chơi quyền thuật, thích thao túng lòng người như tiên đế, đương nhiên quý phủ chỉ đành bó tay, nhưng Lệnh Chương, con trai bà chỉ là một quân vương vô năng! Đáng sợ nhất là khi bà không coi người khác là con người, thì người ấy cũng sẽ quên mất bản thân là con người — Thái hậu xem con trai như bàn đạp đưa nhà mẹ lên cao, thì hắn cũng sẽ xem bản thân như cọng rơm cuối cùng đè chết Lang Gia Vương thị. Tự cổ chí kim, người có thể làm nên chuyện chẳng qua là dám liều mạng mà thôi!"

"Thái hậu nói Lệnh Chương không hướng về mẹ, không hướng về nhà cậu, không hướng về Lang Gia Vương thị. Nhưng nếu cái gọi là 'hướng về' ấy, là khi hắn mới sáu tuổi, rõ ràng đã học thuộc bài nhưng sống chết không dám nói cho Thái hậu biết, chỉ vì sợ bản thân không đạt được kỳ vọng của mẹ, sợ làm mẹ thêm phiền lòng — vậy thì Thái hậu hẳn phải biết rõ hơn ta, rốt cuộc vì sao bà chưa từng nhận được một chút lòng kính yêu nào từ Lệnh Chương."

"Lục Tử Phụng nói với ta, ngày tin Trưởng công chúa qua đời truyền về cung, Thái hậu vốn đã định hạ chỉ báo cho Ngô Thái phi, nhưng đến phút cuối lại đột nhiên đổi ý, thu hồi mệnh lệnh, ngầm thuận theo khẩu dụ 'giấu điện Minh Loan' của Lệnh Chương."

Tạ Cánh thấp giọng hỏi: "Thái hậu, vào khoảnh khắc ấy, rốt cuộc trong lòng bà đã nghĩ gì? Thân làm dâu hoàng gia, thời gian bà trải qua chỉ nhiều chứ chẳng ít hơn ta — liệu bà đã thật sự nhìn thấu hay chưa?"

Thái hậu ngẩn người một lúc lâu, cuối cùng nói: "Vở kịch của gia tộc Lang Gia Vương thị đã sắp đến hồi kết rồi, ta nhìn thấu hay không thấu thì cũng chẳng thể thay đổi được gì nữa. Dù nay mai Lục Tử Phụng hay Lục Thư Thanh lên ngôi, thì quyền lực của ngươi trong triều đại trước cũng đã hơn xa ta rồi. Những gì ta nói hôm nay chỉ đơn giản là lời dạy bảo, khuyên nhủ người đến sau với tư cách Trung cung, một khi đã ngồi vào vị trí này rồi, làm sao để tự giải quyết vấn đề, đó chính là điều ngươi nên suy nghĩ."

"Hoặc là bắt đầu suy nghĩ từ chuyện trước mắt đi — di chiếu thật của tiên đế hiện giờ đang được cất giữ trên nóc điện Thần Long, ngay phía trên gương Huyền Viên. Sau khi đọc qua, có thể ngươi sẽ biết được liệu mình đã nhìn thấu hay chưa — nếu không thể, vậy thì khoan hãy quyết định mọi chuyện, biết khó mà lui vẫn chưa muộn."

"Đợi đến khi ngươi từng bước dấn sâu vào, ngụp lặn ở nơi thâm cung này hai mươi năm, đến lúc đó muốn thoát ra cũng không kịp nữa rồi."

Cung nhân đã nhận được lệnh từ trước, không cần Tạ Cánh phân phó thêm, vừa nghe Thái hậu nhắc đến nơi cất giữ di chiếu thật, họ bèn lập tức sai người đi tìm. Tạ Cánh quanh đi quẩn lại một hồi, cuối cùng quay trở lại điện Thần Long, chiếc hộp gấm đựng di chiếu của tiên đế, cùng với ngọc truyền quốc Hòa Thị Bích thật đều đã được đặt ngay ngắn trên bàn trước ngự tọa.

Cùng lúc đó, chờ đợi y còn có Lục Lệnh Tùng.

Tạ Cánh hơi ngạc nhiên: "Sao anh không mở ra xem?"

"Cung nhân đến bẩm báo, nói nghe giọng điệu của Thái hậu, e rằng nội dung của di chiếu thật có phần nhạy cảm. Ta sợ nếu tự xem trước, ta sẽ không biết nên đối mặt với em thế nào, nên quyết định để nguyên đó không đụng đến, đợi em tới rồi cùng xem."

Cho đến lúc này, Tạ Cánh vẫn bình tâm, không có bất kì khúc mắc nào. Y chỉ khẽ cười: "Có thể là gì chứ, cùng lắm thì cũng là tiên đế chọn anh kế vị thôi. Năm xưa chẳng phải chúng ta đã mơ hồ đoán được chuyện đó rồi sao?"

Lục Lệnh Tùng nhìn lại y, không tỏ rõ ý kiến, chỉ nói: "Thế à?"

Chỉ trong một ngày một đêm, từ lúc Tạ Cánh bị Vương Thục đẩy ra gánh tội làm giả quân cơ, đến khi nhà họ Vương sụp đổ, Trương Diên vào ngục, Lục Lệnh Chương và Thôi Thục Thế lần lượt thiệt mạng, thời gian họ ở bên cạnh nhau không ngắn, nhưng thực sự không thể nói được với đối phương quá hai câu. Thậm chí Lục Thư Ninh và Ngân Trù đã được đưa về phủ bình an, họ cũng chưa kịp về gặp lấy một lần.

Tạ Cánh bước lên nửa bước, mở hộp gấm, rút cuộn di thư – khởi nguồn của mọi chuyện do chính tay tiên đế viết ra, chậm rãi trải rộng lên mặt bàn.

Có lẽ khi viết bức thư này, tiên đế đã biết rõ rằng đây chẳng qua chỉ là một miếng mồi nhử để hạ bệ Lang Gia Vương thị, cho nên trong từng câu từng chữ không hề có lấy một lời than tiếc của người đã sắp rời xa nhân thế, tính đâu ra đấy, nội dung di chiếu cũng chỉ làm rõ ba việc:

<i>Thứ nhất</i>, để cho hoàng trưởng tử, Chiêu vương Lục Lệnh Tùng kế thừa đại thống;

<i>Thứ hai</i>, lập thế tử của Chiêu vương, Lục Thư Thanh làm Thái tử. Bất kể sau này hậu vị thuộc về ai, bất kể sau này có bao nhiêu hoàng tử được sinh ra, vị trí này tuyệt đối không được thay đổi;

<i>Thứ ba</i>, ngày xưa thiên tử hạ chỉ Chiêu vương lấy Tạ thị làm vợ, nhà họ Tạ có tài vương tá, Tạ thị tác phong hiền hậu. Nay họ Tạ đã bị giam giữ, tân đế nên lấy hai tộc Tiêu, Vương làm gương răn mình — nếu lập Tạ thị làm hậu, ắt không thể giữ lại nhà họ Tạ; nếu muốn nhà họ Tạ được sống, Tạ thị ắt phải chết.

Tiên đế viết trên di chiếu cho Lục Lệnh Tùng rằng:<i> "Giết ai giữ ai, con có thể tự mình quyết định."</i>
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 114


<b>《</b><b> </b><b><i>27.4 </i></b><b>》</b>Tạ Cánh siết chặt quyển trục lụa màu vàng sáng trong tay, nét chữ rõ ràng không móc nối mập mờ đập thẳng vào mắt y và Lục Lệnh Tùng

Trong nháy mắt Tạ Cánh đã rõ vì sao Lục Lệnh Tùng lại do dự: hắn hiểu thái độ sau cùng của tiên đế hơn ai hết, e rằng đã mơ hồ đoán được, cái gọi là "nhạy cảm" trong chiếu thư càng nhạy cảm hơn nhiều so với người kế vị hay vị trí Thái tử.

Y vô cùng bình tĩnh, hỏi: "Anh đã từng nghĩ qua chưa, nếu thật sự có một ngày chiếu thư này xuất hiện, tình hình lúc đó sẽ như thế nào?"

Lục Lệnh Tùng gằn từng chữ: "Dựa theo kế hoạch của phụ hoàng, khi ấy nhà họ Tạ đã bị định tội giam vào ngục, nhà họ Vương sẽ không đời nào bỏ qua cơ hội dễ như trở bàn tay ấy. Một khi phụ hoàng giả chết, Vương thị mất đi mối lo cuối cùng, nhất định sẽ lập tức ra tay diệt môn. Sau khi chiếu thư được công bố trước thiên hạ, Trương Diên sẽ vạch trần hành vi ám sát vua bằng Tích Cốt Huyền của phủ Tướng. Đến lúc ấy, ông ta có thể mượn cớ này, dùng nhẫn ban chỉ truyền lệnh cho Vũ Lâm vệ, đường đường chính chính lật đổ cả nhà họ Vương."

"Vậy nên phụ hoàng mới mượn tay họ Vương để trừ khử nhà họ Tạ trước, đợi đến khi Vương thị không còn kiêng dè gì nữa mà để lộ dã tâm, lại mượn tay Trương Diên cùng Vũ Lâm Vệ để tính sổ. Cuối cùng, ông ấy 'chết đi sống lại', dù có lập ta hay Lệnh Chương làm Thái tử, thì ông ấy cũng không cần phải lo ngoại thích đứng sau nữa. Mà ông ấy lập ta, thật ra cũng chẳng phải vì có kỳ vọng gì nơi ta, chẳng qua chỉ là để đảm bảo sau này Thanh Nhi có thể thuận lợi kế vị mà không cần phải tranh đấu thôi."

"Trương Diên và Chung Triệu phản bội đã làm loạn kế hoạch của phụ hoàng. Hai người này nặc danh tiết lộ vị trí di chiếu thật cho Vương Thục, vậy nên di chiếu giả đã được tạo ra, thay đổi Thái tử, sự lựa chọn biến thành đáp án – đây đều là cái cớ để Vương thị che đậy nhằm giúp bản thân có thể đường hoàng thượng vị. Mà phụ hoàng đã chết thật rồi, không còn cơ hội thu lưới, đối phó với nhà họ Vương nữa."

Hắn nhìn về tẩm điện phía sau điện Thần Long, nơi đó là nơi tiên đế sinh hoạt hằng ngày: "Vào đêm sao kiểm ngõ Ô Y, phụ hoàng đã triệu ta đến ngự tiền, nói với ta rằng người sẽ không trị tội em. Người nói mặc dù không thích người con dâu này cho lắm, nhưng em vẫn có công sinh ra Thanh Nhi. Người nói rằng người biết rõ ta quá sủng ái em, thế nên cho phép ta chừa lại cho em một con đường sống..."

"... Những gì phụ hoàng ghi trong di chiếu chính là một sự lựa chọn, nhưng thật ra người đã giúp ta quyết định đáp án từ trước."

Trong điện yên tĩnh rất lâu, Tạ Cánh nhìn chằm chằm vào câu "Họ Tạ có tài vương tá, Tạ thị tác phong hiền hậu" kia, ngẩn ngơ nghĩ, tiên đế chọn y trở thành Vương phi của Lục Lệnh Tùng, thậm chí mai sau trở thành hoàng hậu của hắn, là vì y đã khiến ông hài lòng ở điểm nào?

Hài lòng tướng mạo xinh đẹp thời còn nhỏ dại, lớn lên có thể được quân vương thịnh sủng của y; hài lòng vì y sinh được trưởng tử, có khả năng tận tâm nuôi dưỡng dạy dỗ; hay là hài lòng với tài năng của y, rằng y có đủ năng lực trù tính mọi chuyện giúp Hoàng đế, trở thành tể tướng nội đình mà không nhận bổng lộc?

Một mình y gánh vác vai trò của biết bao nhiêu người? Là sủng phi nịnh nọt lấy lòng thiên tử, là Trung cung nối dõi cho đế vương, là hiền thần lương tướng có thể san sẻ cùng chủ tử... Ở trong tay phủ Tướng, y là một công cụ; đến tay tiên đế, y vẫn chỉ là công cụ. Tiên đế nắm đúng điểm yếu của y, hiểu rõ rằng y nhất định sẽ tận tâm tận lực phò tá Lục Thư Thanh, ông ấy cần gì phải giết một con rối biết nghe lời như thế chứ?

Mà điều khiến Tạ Cánh thấy khiếp sợ không phải là tiên đế ra tay đẽo gọt y thành hình dạng này, mà là ông ấy đã nhìn thấu được y.

Đây chính là dáng vẻ vốn có của y.

"Em từng cho rằng tai họa của gia đình là kết cục của việc Vương thị trừ khử phe đối lập, mãi đến ngày hôm qua mới biết, hóa ra họ chỉ là vật hy sinh cho thầy cũ báo thù riêng. Em vốn vẫn còn ôm cảm giác may mắn, nghĩ nếu như không có những việc đó, nếu theo quyết định ban đầu của tiên đế, để anh kế vị làm vua, thì nhà họ Tạ chắc cũng chẳng đến nỗi phải chịu tai ương diệt tộc, có lẽ họ vẫn có thể sống an ổn đến hết đời chăng?"

"Nhưng giờ đây, khi di chiếu bày ra trước mắt, em mới hiểu vì sao Thái hậu lại nói em mãi chẳng nhìn thấu. Cho dù không có Vương thị, không có Trương Diên, tiên đế thật sự băng hà, mọi cuộc bè phái tranh đấu, thù hận mới cũ đều tan thành mây khói, thì số mệnh của gia đình vẫn sẽ bị đặt dưới lưỡi dao. Nhà họ Tạ không chết vì bè phái, không chết vì bị trút giận, cũng không phải vì thù hằn, mà là chết bởi hoàng quyền chí cao vô thượng treo lơ lửng trên đầu người suốt hàng nghìn năm qua!"

"Lùi một vạn bước mà nói, cho dù không bị ai cản trở, thì anh và em cũng hoàn toàn không biết gì về sự tồn tại của di chiếu, càng sẽ không cố ý dò xét hay tìm hiểu — nếu tiên đế băng hà, chúng ta cũng sẽ giống như toàn thể bá quan văn võ và người trong thiên hạ, cùng lúc được biết nội dung trong di chiếu! Đến lúc đó, dưới hàng vạn ánh mắt dõi theo, anh có muốn không tuân, không nghe, không chọn cũng không được!"

"Em mệt mỏi quá, Tử Phụng," Tạ Cánh thì thầm, "Thật sự chẳng dễ chịu chút nào cả."

"Em đã tưởng tượng khoảnh khắc này hàng trăm nghìn lần, cứ nghĩ bản thân sẽ thấy nhẹ nhõm như trút được gánh nặng, sẽ được hả hê mà ngẩng cao đầu, sẽ cảm nhận được niềm vui sướng vì báo được thù lớn — nhưng thực ra chẳng có gì cả," y đè tay lên ngực mình, "Chỉ có một trái tim trống rỗng, vỡ vụn ở đây thôi."

"Cuối cùng em cũng hiểu được lời anh cả nói trong ngục, rằng 'em chẳng có hận thù gì cả, cũng không có kẻ thù nào chờ em báo thù'. Con người không thể sống nhờ vào thù hận được. Hận đến hận đi cho tới bây giờ, em mới nhận ra rằng mình đã chẳng còn biết phải hận ai nữa. Trương Thái phó, Chung Triệu, Thôi Thục Thế, Hà Cáo, tiên đế, thái hậu... chúng ta với họ, rốt cuộc có gì khác biệt? Không một ai trong chúng ta không đáng thương, nhưng cũng chẳng có người nào không đáng hận."

"Anh và em đã làm gì? Chỉ vì muốn bản thân được ra tay chính đáng mà lấy cái cớ mưu hại trưởng công chúa để đánh trả phủ Tướng. Chân Chân chết trận không về được, chúng ta rốt cuộc cũng không thể gặp em ấy. Em ấy đã chôn vùi đường sống của mình để báo thù cho nhà họ Tạ, giúp phủ Chiêu Vương đoạt quyền, vậy mà chúng ta còn không buông tha cho em ấy, còn lấy cái chết của em ấy để kích động cơn phẫn nộ của dân chúng, mượn danh lấy lòng người!"

Lục Lệnh Tùng trầm mặc hồi lâu mới nói: "Bọn họ không tìm thấy em ấy... Ung Châu xa xôi đến vậy, bờ sông Vô Định lạnh lẽo như thế, vong hồn nhiều không sao đếm xuể. là ta đã để lạc mất em ấy. Chân Chân chỉ có một mình, làm sao trở về được, làm sao mà em ấy trở về nổi?"

Hắn cố nén sự run rẩy trong giọng nói: "Mượn danh của Chân Chân để giành lấy thắng lợi này khiến ta cảm thấy... Buồn nôn. Nhưng càng như vậy, ta lại càng không thể không tranh giành, không thể không kháng cự. Nếu ta cứ mãi do dự, khoanh tay chờ chết, thì cha mẹ anh chị của em, hơn trăm nô bộc tỳ nữ ở nhà họ Tạ, những tướng sĩ Hổ Sư đã ngã xuống trong suốt ba năm qua —— và cả Chân Chân, đều sẽ chết một cách uổng phí!"

Lục Lệnh Tùng gần như tàn nhẫn vạch trần lớp màn che đậy, dùng những từ ngữ gay gắt nhất, cũng đâm trúng chỗ đau nhất, thẳng thắn mở lời chạm đến đề tài này, khiến cho cả hai buộc phải đối diện trực tiếp với vết thương sâu hoắm mà cái chết của Lục Lệnh Chân để lại.

"Ta nhất định phải nắm lấy cơ hội này, tự tay đưa từng kẻ đã hại chết em ấy xuống hoàng tuyền, để đời đời kiếp kiếp ghi nhớ sự bất lực và hổ thẹn của ta của ngày hôm nay."

Lục Lệnh Tùng ném di chiếu trở lại vào hộp gấm, bước lên hai bước, mạnh mẽ siết lấy vai Tạ Cánh, ép y phải nhìn thẳng vào mắt mình.

"Tạ Cánh," Hắn gọi tên y, "Em phải trưởng thành thôi."

Nghe đến đây, Tạ Cánh thoáng ngây người, bỗng chốc nhận ra "cái chết" có thể khiến cho những người còn sống thay đổi nhiều đến nhường nào. Nếu là trước kia, có lẽ Lục Lệnh Tùng sẽ nói với y rằng: "Em không cần phải trưởng thành, mọi chuyện đã có ta lo", sẽ bao dung, che chở y như cách hắn đối xử với Lục Lệnh Chân và Lục Lệnh Chương. Nhưng sau khi liên tiếp mất đi em gái và em trai, sau khi nhận ra cái chết của họ đã trở thành nền móng cho con đường phản kháng của phủ Chiêu Vương, Lục Lệnh Tùng dường như đã mất đi phần nào khả năng làm "anh trai" của mình.

Hắn nói với y rằng: "Em phải trưởng thành thôi."

Hoặc có lẽ, Lục Lệnh Tùng đã chuẩn bị sẵn sàng để nghênh đón vận mệnh từ lâu, còn người vẫn trì trệ, mãi không chịu nhìn rõ thực tại... Chỉ có mỗi mình Tạ Cánh mà thôi.

"Tử Phụng, anh có còn nhớ không?" Tạ Cánh thoáng lộ ra vẻ buồn bã, tiếc nuối nói, "Trên chiếc thuyền trở về quận Trần, anh từng nói với em, nếu cái giá phải trả là để mất em, thì anh thà không ngồi lên ngai vàng này, giao lại cho Lệnh Chương cũng được. Lúc này, có phải em nên xem đó là lời nói đùa rồi không?"

Lục Lệnh Tùng sững người một chút, rồi trầm giọng bình tĩnh đáp: "Năm đó ta vẫn còn ngây thơ, suy nghĩ mọi chuyện quá đơn giản. Khi ấy nhường ngôi Hoàng đế chẳng những không thể cứu được cả nhà họ Tạ, mà còn sẽ khiến cho bọn trẻ, mẫu phi, Chân Chân và biết bao nhiêu người vô tội khác phải bỏ mạng theo! Nhà đế vương chưa bao giờ có cái gọi là đường lui — đối thủ chỉ sợ em liều mạng sống chết tranh đấu, vậy mà em lại tự mình lùi bước, nhường nhịn ư? Em không lùi, không nhường còn có thể giành được một con đường sống, em lùi rồi, nhường rồi, thì chỉ còn đường chết mà thôi!"

"Mà nay Lệnh Chương đã không còn nữa, người duy nhất có thể gánh vác khi ta thoái thác trách nhiệm, trút bỏ mặc kệ mọi thứ chỉ còn lại một mình Thanh Nhi. Nhưng ta tuyệt đối sẽ không để con trai ta, một đứa trẻ vất vả lắm mới có được chút bình yên, lại phải sớm kết thúc tuổi thơ, từ bỏ sự tự do, từ bỏ quyền lựa chọn bạn bè và người mình yêu, chỉ mới mười bốn tuổi đã phải bước lên ngôi cao lạnh lẽo, trở thành kẻ cô độc, trong khi sau lưng là người cha vừa ích kỷ vừa hèn nhát trốn tránh!"

"Đối với sự lựa chọn mà phụ hoàng để lại, việc ta nên làm không phải là bất lực đùn đẩy hết sang cho em, bắt buộc em phải chọn giữa bản thân nhà mẹ của mình, hoặc là chịu đựng nỗi đau mất đi người thân, hoặc là tự mình đi tìm cái chết! Việc ta phải làm là đứng ở nơi cao nhất, để cho tất cả những kẻ nào muốn uy h**p ta, ngăn trở ta, xen vào chuyện ta đồng thời bảo vệ em và nhà họ Tạ đều không dám hó hé, để đây không còn là sự lựa chọn nữa!"

"Ta xin lỗi, từ nay về sau, đúng là ta và em nên coi đó là một lời nói đùa," Lục Lệnh Tùng nhìn sâu vào mắt Tạ Cánh, trong đáy mắt là nỗi thê lương vô tận, "Nhưng năm đó không phải. Nếu như em không tin, ta cũng không còn lời nào để nói."

Tạ Cánh sững người hồi lâu, lắc đầu, buồn bã nói: "Tử Phụng, dù có thế nào đi nữa, em vẫn sẽ tin tưởng anh, làm sao em lại không tin anh được chứ?"

"Anh muốn em trưởng thành, em cũng sẽ không vì lòng riêng, không vì sợ hãi chúng ta sẽ đi vào vết xe đổ của tiên đế và thái hậu mà khẩn cầu anh đừng ngồi lên chiếc ghế đó."

"Anh muốn em dạy dỗ Thanh Nhi trở thành một Thái tử xuất sắc, muốn em vào triều làm tướng giúp anh san sẻ chính sự, muốn em chạy vạy cân bằng thế lực quý tộc, hàn sĩ cùng tân quý các phương, thậm chí anh muốn triệu hạnh em, gọi em vào thần điện thị tẩm cũng được – em có thể làm tất cả những điều này, em đều sẵn lòng làm vì anh."

Tạ Cánh giơ tay lên, dùng đầu ngón tay vẽ dọc sống mũi Lục Lệnh Tùng: "Chỉ có vị trí Hoàng hậu... Vài chục năm rồi, em vẫn luôn nghĩ, dường như mình khó có thể gánh vác được."

Lục Lệnh Tùng dùng một tay nắm trọn cổ tay y: "Em hãy nói cho ta biết, nếu lúc này ta buông bàn tay này ra, em còn có thể trở lại bên cạnh ta hay không?"

Trước mắt Tạ Cánh mờ mịt, trời đã gần sáng, đêm dài tắm máu cùng nước mắt sắp qua đi, nhưng con đường phía trước của y không vì thế mà trở nên rõ ràng.

"Em không biết." Y chỉ có thể nói như vậy.

Lục Lệnh Tùng cao giọng, nghiêm túc nói: "Em đã từng nói với ta, thê tử kết tóc của ta chưa từng hối hận vì đã gả cho ta. Em nói em biết rằng mình sẽ hối hận, vậy nên nếu có một ngày em phạm phải hồ đồ, vẫn mắc kẹt trong những suy nghĩ kia, thì bắt kể ta có giam giữ em, trói chặt em bên mình, thì ta nhất định cũng phải kéo em lại cơ mà!"

Hắn cúi đầu xuống, ánh mắt dán chặt vào đôi mắt của Tạ Cánh: "Tạ Chi Vô, đời này ta sẽ vĩnh viễn không giam cầm hay trói buộc em, nhưng hôm nay, ta đưa tay ra níu kéo em, giữ chặt em, chỉ muốn hỏi em một câu — nếu như sự nhẫn nhịn và khuất nhục suốt bốn năm qua của em, những điều tiếng, giày vò cùng sinh ly tử biệt em đã chịu, cuối cùng cũng chỉ hóa thành một dấu chấm cho cuộc chia ly, vậy thì những năm tháng đau đớn và khốn khổ đó rốt cuộc có ý nghĩa gì? Điều mà em thực sự khao khát trong lòng, đến cùng là điều gì?!"

Đau đớn và khốn khổ có ý nghĩa gì? Vui vẻ và hạnh phúc lại có ý nghĩa gì? Nếu như cái chết là điều không thể tránh khỏi, vậy thì sống trên đời còn có ý nghĩa gì nữa?

Tạ cánh bỗng bật cười lạnh lẽo, nụ cười đầy vẻ châm chọc tự giễu, mang theo nỗi hoảng loạn khó nói thành lời. y hỏi ngược lại: "Em khao khát điều gì ư?"

"Anh nghĩ em bức tử thanh danh nhà họ Tạ, cam tâm làm ngựa làm chó phục tùng người là để cầu vinh hoa phú quý cho mình sao? Anh nghĩ em cẩn thận từng bước đi đến ngày hôm nay, là để cầu có được quyền cao chức trọng sao? Thánh nhân quân tử một lòng vì thiên hạ, cầu cho bốn bể thái bình, nhưng em thì không, em chẳng thèm thứ thái bình được tô son trát phấn ấy!"

"Em chỉ mong người thân nơi suối vàng có thể tha thứ cho những năm tháng bồng bột non dại của mình, chỉ mong các con đời này được làm điều chúng muốn, giữ được người mình yêu, em chỉ mong anh — em mong Lục Tử Phụng được tung hoành nơi sa trường, trấn giữ giang sơn, từ nay về sau không phải vướng bận điều gì nữa!"

Tiếng nói nhỏ dần, bầu không khí ngưng đọng rất lâu.

Mãi sau, Lục Lệnh Tùng mới dời tay từ vai Tạ Cánh xuống vòng qua lưng y, dùng chút sức kéo y vào lòng mình. Tạ Cánh không chống cự, để mặc cho hắn ôm, rồi bàng hoàng nhận ra đến cả vòng tay này cũng đã trở nên xa lạ. Ba năm ở Ung Châu dài đằng đẵng, muôn trùng xa cách cũng chẳng bằng vách ngăn hiện hữu sau khi sự thật được phơi bày, lòng dạ thấu triệt.

Chừng như bị vách ngăn lạnh lẽo này bao bọc lấy, Tạ Cánh khẽ rùng mình một cái. Y tựa vào ngực Lục Lệnh Tùng, ngẩn ngơ tự nói:

"Nguyện quân rạng rỡ như mặt trời, thả thiếp cưỡi cá, lướt sóng mà đi..."

Một lúc lâu sau, Lục Lệnh Tùng mới buông y ra, buông tay y, như y mong muốn: "Nếu như điều em muốn chính là sự tự do, vậy em đi đi, hãy đi thật xa, đi đến nơi mà bầu trời là vô tận."

Cửa lớn điện Thần Long bị đẩy ra, Tạ Cánh lảo đảo bước đến bậc cửa, y ngẩng mặt lên, ánh bình minh chói chang đã rải đầy thềm son, y mở to hai mắt, cứ thế nhìn thẳng vào chúng.

Năm mười sáu tuổi, y bước vào cánh cửa này, là người đứng đầu cả ba kỳ thi, vẻ vang rạng rỡ, không có việc gì khiến y phải rối trí phiền lòng; năm ba mươi mốt tuổi, y bước ra khỏi cánh cửa này, ngẩng đầu nhìn trời, chỉ thấy vạn trượng mây đỏ rực rỡ, mà nhân thế lại mịt mù mênh mang.

Trong điện Thần Long, Lục Lệnh Tùng đứng đơn độc ở phía sau, lưng đối lưng với Tạ Cánh. Di chiếu thật mà tiên đế để lại giờ chỉ còn là một tờ giấy vụn, ân oán đã dứt, nó cũng mất đi hiệu lực. Thế nhưng quyền lực và tâm thuật ẩn giấu giữa những hàng chữ ấy vẫn sẽ giống như u hồn, mãi mãi lượn lờ trên nóc đại điện này, ngàn năm vạn năm, vĩnh viễn không dứt.

Tạ Cánh thầm nghĩ, so với Lục Lệnh Tùng, có lẽ y đúng là người nhát gan hơn, ích kỷ hơn. Giữa bọn họ không có đúng sai, cũng không phải ai đã thay đổi hay ai còn nguyên vẹn, chỉ là một người bị ép phải trưởng thành và một người không muốn trưởng thành mà thôi — dù Lục Lệnh Tùng nói rằng hắn mong y trưởng thành, nhưng cuối cùng vẫn dung túng, che chở, thuận theo ý muốn của y. Cho đến cuối cùng, hắn vẫn không nỡ dùng cả đời u uất của Tạ Cánh làm cái giá để đổi lấy việc y có thể mãi mãi ở lại bên cạnh mình.

Vết bầm tím trên cánh tay phải bỗng dưng đau nhói, hai mắt Tạ Cánh lóa lên, nước mắt trào ra, mọi thứ trước mắt dần nhòe đi, cuối cùng chỉ còn lại cảm giác choáng váng, y loạng choạng hai bước, rồi cứ thế ngã nhào xuống bậc thềm.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 115


<b>《</b><b> </b><b><i>27.5 </i></b><b>》</b>Lục Thư Thanh đứng trong thư phòng của mẹ, sững người nhìn chằm chặp vào tấm biển "Tùng Phong Tuyết Nhất Âu" được viết bằng Khứ Hà thể.

Cuốn sách úp trên bàn vẫn dừng lại ở trang mà mấy hôm trước cậu đang đọc dở, bên dưới có một xấp giấy dày, đó là đề bài lần trước Trương Thái phó giao cho cậu ở Lan đài, Lục Thư Thanh chỉ mới viết được quá nửa, vừa vô thức cầm bút định viết tiếp, cậu đột nhiên khựng lại, cảm thấy hơi mơ hồ, cậu viết xong rồi phải đưa cho ai xem đây?

Hàn Lâm viện, Quốc Tử Giám có rất nhiều bậc học giả thông thái uyên thâm, tùy tiện chọn lấy một người, cũng chẳng có ai dám không run rẩy dè dặt mà phê xét bài văn của thế tử.

Nhưng Trương Thái phó sẽ không bao giờ xem nữa.

Lục Thư Thanh quay mặt nhìn ra ngoài cửa sổ, cặp câu đối treo trên cột trước cửa Đông sương phòng ở đối diện chính là chữ viết của Trương Diên, nét chữ trầm ổn, ngay ngắn chẳng hề giống với Khứ Hà thể chút nào. Bởi vì phủ Chiêu Vương xây trước, còn mẹ cậu vào phủ sau, thế nên trong nhà ngoại trừ Y Bích đài và thư phòng này, chữ của những tấm biển treo trên các cổng sân đều là do Trương Thái phó đề bút, để bày tỏ lòng kính trọng, bao năm nay chỉ sửa chữa và sơn lại, chưa từng thay đổi hay gỡ xuống.

Cũng không biết sau này có thay hay không nữa... Cậu đã sắp phải dọn ra khỏi nhà rồi, hạ nhân đang thu dọn những vật dụng thường dùng, chuẩn bị cùng cậu chuyển vào Đông cung.

Khi dọn dẹp tủ, thị nữ tìm thấy tập tranh mà năm ngoái Ninh Ninh tặng cho cậu nhân ngày sinh nhật, được mẹ cậu đặt tên là "Thỉnh thoảng thấy anh" — bèn hỏi: "Thế tử, tập tranh này có cần xếp vào rương sách cho người không?"

Lục Thư Thanh bước tới, cầm lấy tập tranh với những trang giấy đã hơi nhàu vì bị lật giở quá nhiều lần, ánh mắt rơi trên lời bạt do Trương Thái phó đề mà cậu đã thuộc nằm lòng ở trang cuối. Lời bạt ngắn gọn mà súc tích, bất kể là tranh, tác giả hay nhân vật trong tranh, Trương Diên đều đối xử như một độc bản chính thức, thậm chí còn nghiêm túc hơn cả lời tựa mà Lục Thư Ninh tự viết. Ông khen ngợi Lục Thư Ninh nắm bắt thần thái nhân vật một cách chính xác, khen bố cục và sự tinh luyện ý tưởng trong tranh của em, cũng nhắc tới tình thân đầm ấm lan tỏa trên từng trang giấy.

Khi anh em cậu chạy đến Lan đài, nài nỉ Trương Diên viết lời bạt cho tập tranh này, vị Thái phó đầu tóc bạc trắng đã híp đôi mắt mờ, ngồi trước bàn nghiêm túc lật giở, ngắm nghía từng bức tranh một.

Khi đó, cậu không ngờ Trương Diên có thể b*n r* một mũi tên nhanh và chuẩn xác như vậy.

Lục Thư Thanh buông lỏng tay, quyển sách theo quán tính tự động lật về phía trước vài trang, dừng lại ở một bức tranh vẽ cậu và cô của cậu: Lục Lệnh Chân và cậu sóng vai cưỡi ngựa, bỏ lại phía sau cả một rừng đào nở bạt ngàn trên mỏm Yến Tử.

Cậu thẫn thờ nhìn khung cảnh ấy rất lâu, rồi lại lật về trang cuối cùng nơi có lời bạt của Trương Diên, sau đó không do dự xé ra, đưa đến chỗ tim nến, đốt đi sạch sẽ.

Khi Tạ Cánh tỉnh lại, hiện ra trước mắt chính là chóp màn lạ lẫm, còn chưa lấy lại ý thức, y đã nghe thấy tiếng Lục Thư Ninh hốt hoảng kêu lên: "Mẹ!"

Em đang ghé vào sát bên giường, khoanh tay lật xem một tập tranh về hoa cỏ rất dày. Tạ Cánh nhìn thấy con gái, lập tức quên cả hỏi chuyện bản thân đang ở đâu, chỉ cau mày v**t v* gương mặt em: "Sao con gầy đi rồi?"

"Gần đây đều ở trong cung, không thể tùy ý ăn thêm thức ăn hay bánh ngọt mọi lúc như ở nhà, huống chi còn phải đến điện Minh Loan vấn an, đến viện tranh đọc sách, đến Lan đài tìm anh đều phải đi cả một quãng đường dài, ăn thì ít vận động thì nhiều, gầy đi cũng là chuyện thường thôi mà mẹ."

Tạ Cánh chậm rãi hỏi: "... Mẹ đang ở trong cung sao?"

Lục Thư Ninh gật đầu: "Dạ, mấy ngày nay mẹ vẫn luôn nghỉ ngơi ở thiên điện điện Thần Long, con nghe cung nhân nói là cha đã bế mẹ đến đây đó."

Màu lông mày của em đậm hơn Lục Thư Thanh một chút, lại thừa hưởng đôi mắt trái vải của mẹ, khi cau mày, thần thái càng thêm sinh động rực rỡ: "Sao mẹ lại ngã ở ngoài điện vậy, có phải là do mệt mỏi quá không?"

Tạ Cánh nghe vậy là biết mọi người đã không nói chuyện Tích Cốt Huyền trong người y cho con gái hay, y bèn thuận theo em, nói: "Mấy ngày nay đã ngủ rồi, giờ mẹ không thấy mệt nữa, con đừng lo. Anh con đâu?"

"Hôm nay anh về nhà dọn dẹp đồ đạc rồi, con gọi dì đến kiểm tra cho mẹ, sau đó sai người đi gọi anh."

Lục Thư Ninh nói xong thì ôm sách chạy ra ngoài. Không lâu sau màn cửa khẽ động, Ngân Trù mang canh sâm vào, nhỏ giọng nói: "Người tỉnh hẳn chưa, tôi bảo Ninh Ninh đi rồi. Vương phi có chuyện gì muốn hỏi cứ hỏi, chút nữa Thanh Nhi đến đây, chúng lại quấn quít lấy người, có một số việc sẽ không nói rõ được."

Tạ Cánh yếu ớt ngồi dậy, nhận lấy chén sứ, múc từng muỗng uống: "Chuyện Tích Cốt Huyền... Hắn biết rồi sao?"

Ngân Trù nhăn nhó làm ra vẻ mặt khổ sở, chừng như nhớ đến một ký ức dở khóc dở cười: "Đương nhiên là biết rồi. Sống cùng nhau mười mấy năm, tôi chưa từng thấy điện hạ nổi trận lôi đình như vậy, ngài ấy xách kiếm xông thẳng đến chiếu ngục, may mà có Thanh Nhi liều mình ngăn lại, nói dù thế nào cũng không thể vượt qua quốc pháp để hành tư hình được, lúc đó ngài ấy mới chịu thôi. Sau đó lập tức hạ tử lệnh cho Thượng Thư đài và Hình bộ, yêu cầu nhanh chóng xét xử vụ án Lang Nha Vương thị mưu nghịch giết vua, một khi thu được đầy đủ chứng cứ là xử trảm ngay, không cần chờ đến sau thu."

Tạ Cánh không tỏ rõ ý kiến, hồi lâu mới nói: "Lần cuối ta thay chỉ độc là mùng bảy tháng Năm, đến giờ cũng gần hai tháng rồi, cánh tay phải thành ra thế này. Chị và Tần viện phán đều đã xem qua rồi, có còn cứu được hay không?"

Ngân Trù đáp ngay: "Tôi đã điều tra cẩn thận qua sách cổ từ trước, cũng đã thương lượng với Thái y viện, nếu muốn hoàn toàn lấy hết phần chỉ độc ra khỏi cánh tay của Vương phi thì không thể tiếp tục dùng cách chữa ngọn chứ không trị gốc như thay chỉ. Nhưng như vậy, độc tố đã thấm sâu vào da thịt cũng sẽ không còn được tơ hút ra, ở lại trong cơ thể, dù có lấy được hết tơ, độc không còn lan rộng nữa, thì phần da thịt này cũng sẽ dần rữa ra, dẫn đến hoại tử."

"Cho nên cách hiệu quả nhất, cũng là cách đơn giản trực tiếp nhất —— đó là lấy hết tơ ra trước, sau đó khoét bỏ phần da thịt đã ngấm độc ra là được. May mắn là Vương phi chỉ bị trúng độc ở cẳng tay phải, nếu để giống như Đại Hành hoàng đế..." Ngân Trù tặc lưỡi, rõ ràng đã nghe nói đến trường hợp của Lục Lệnh Chương, "Chỉ sợ sẽ khó cứu."

"Nhưng cứu thì đương nhiên là cứu được thôi, chỉ là cái tên của nó đâu phải để gọi cho vui, có chỗ phải khoét sâu đến tận xương, tám chín phần mười là vô cùng đau đớn, cũng khó tránh khỏi để lại vết sẹo lớn, trông sẽ hơi đáng sợ."

Tạ Cánh nghe xong thì thở phào một hơi như trút được gánh nặng: "Ta cũng sinh hai đứa con rồi, đau thì đau thôi, chẳng có gì phải sợ cả, chỉ cần lúc dùng dao đừng để bọn trẻ nhìn thấy là được."

Ngày mùng một tháng Bảy, năm Cảnh Dụ thứ năm, tân đế đăng cơ ở điện Thần Long, cùng ngày chiêu cáo thiên hạ, tôn sinh mẫu Ngô thị làm Thái hậu, lập trưởng tử Lục Thư Thanh làm Thái tử, nguyên Thái thú Ung Châu Hà Cáo nhậm chức Tả tướng, tổng quản công việc của Thượng Thư đài và lục bộ.

Và khi lời cung của Vương Thục, Trương Diên và Trình Văn lần lượt được dâng lên, lại có thêm Hà Cáo làm chứng, chân tướng vụ án ngọc tỷ Lam Điền năm xưa cũng sáng tỏ, nỗi oan mưu nghịch đè nặng lên Trần quận Tạ thị cuối cùng cũng được rửa sạch. Lục Lệnh Tùng đích thân phá hủy thứ "đồ giả" kia, tuyên bố trước mặt trăm quan rằng kể từ nay chỉ có Hòa Thị Bích mới sở hữu hiệu lực ngang với ngọc tỷ truyền quốc tối cao.

Tổ trạch cùng ruộng đất và các tài sản khác của nhà họ Tạ cũng được hoàn trả đầy đủ, Tạ Tuấn trở về ngõ Ô Y, bắt tay kiểm kê gia sản, đồng thời liên lạc lại với thân thích ở quận Trần và Diêu thị, bù đắp cho nhau.

Lục Lệnh Tùng lại lệnh cho Lễ bộ truy phong cho Tạ Dực hai chữ "Văn Giới", vợ chồng Tạ Dực và Tạ Duyễn được quy táng tại núi Mang ở thành Lạc Dương. Người ta thường nói "Sinh ở Tô Hàng, chết chôn Bắc Mang", núi Mang là vùng đất địa linh nhân kiệt, từ xưa trung thần lương tướng đều lấy việc gửi lại xương cốt tại đây, nằm bên các bậc thánh hiền thiên cổ làm vinh dự lớn lao nhất.

Thế nhưng sau khi bàn bạc cùng Tạ Tuấn, Tạ Cánh đã dâng sớ khấu tạ thiên ân, khước từ vinh quang này, chỉ mong được đưa song thân và anh chị về mộ tổ tại quận Trần để an táng, ở bên cạnh cố nhân ở nhà cũ, bầu bạn cùng tùng bách và núi non, nguyện không bao giờ bước chân lên thiên tử đường nữa.

Lục Lệnh Tùng cũng không cưỡng cầu, chỉ dùng bút mực đỏ phê lên tấu chương của y năm chữ: "Như Tạ khanh mong muốn."

Cùng tấu chương trở về thiên điện còn có một vị nội giám lạ mặt, gã tự giới thiệu, nói rằng mình vừa được Ngô thị tuyển chọn, sai tới điện Thần Long hầu hạ: "Bên dưới chọn lọc ra mấy phong hiệu cho công chúa, nhưng bệ hạ xem qua đều không thấy vừa ý, vậy nên đã sai tiểu nhân tới đây, mong Vương phi chọn cho hai chữ."

Vừa nói xong, nội giám đã nhận ra mình lỡ lời, lúng túng cười trừ, gã thầm mắng bản thân ngu xuẩn, lẽ ra phải gọi Tạ Cánh là "Tạ đại nhân" mới đúng, dù sao người ta cũng còn giữ chức quan chính thức.

Thật ra không chỉ mỗi gã bối rối với cách xưng hô. Trong ngoài kinh thành, đám thân sĩ đại tộc lão luyện nhất trong việc đoán ý đế vương và bắt mạch gió cung đình cũng đã âm thầm bàn luận chuyện này chín chín tám mươi mốt lần rồi.

Dựa theo tình hình ngày xảy ra biến cố ở đảo Bát Quái, giữa bệ hạ và Tạ Cánh thật ra không giống như mối quan hệ lửa nước khó dung mà hai người đã thể hiện suốt hơn một năm nay. Nhưng so với những chuyện lớn như phủ Tướng hành thích vua, Trương Thái phó mưu nghịch, thì vấn đề này chẳng tính là chuyện lạ lùng gì.

Mà điều kì lạ là sau khi chính biến được dẹp yên, thái độ của bệ hạ đối với y lại rất khác thường. Hắn tuyên bố giải oan cho nhà họ Tạ, ban vinh dự được quy táng ở Bắc Mang, nghiêm trị họ Vương, nhưng lại không kết tội Tạ Cánh, rõ ràng đã thừa nhận việc y cam chịu khuất nhục, lui tới dưới mái hiên phủ Tướng suốt bấy lâu, vì chuyện kia mà tất tả ngược xuôi cũng chỉ là kế tạm thời, nhẫn nhục gánh vác nỗi khổ mà thôi.

Song, bệ hạ không chỉ chậm chạp chưa có bất kỳ động thái lập hậu nào, mà còn ban chỉ cho phép Tạ Cánh "trở về ở tại phủ Chiêu Vương", điều này quả thực rất đáng suy ngẫm.

Nếu Tạ Cánh tiếp tục ở lại thiên điện điện Thần Long, vậy thì chính là Nam viên di ái, tình nghĩa sâu đậm, thiếu mỗi một thánh chỉ sắc phong nữa thôi, y sẽ trở thành Trung cung dưới một người trên vạn người, đây chỉ là chuyện sớm muộn.

Còn nếu bệ hạ để Tạ Cánh dọn về ngõ Ô Y, thế thì cũng dễ hiểu thôi, chẳng qua là tiền duyên đã dứt, cuộc hôn nhân này kết thúc tại đây, từ nay y sẽ hoàn toàn tách khỏi hoàng gia, chỉ còn là một viên quan bình thường trong hàng vạn triều thần.

Thế nhưng hắn lại lệnh cho Tạ Cánh trở về phủ Chiêu Vương. Đó là nơi nào? Đó là "Vương phủ", là "tiềm để", là danh xưng thay thế cho những thứ bị vứt bỏ và quên lãng bởi thời đại cũ. Chính thê của thiên tử, mẫu thân của Đông cung mà lại bị gọi là "Vương phi", chuyện này vốn dĩ đã là một điều kỳ lạ khó hiểu. Vương đã không còn, vậy "Vương phi" từ đâu mà ra? Rốt cuộc bệ hạ muốn lập hậu mới, hay chỉ là nhất thời chưa nghĩ ra nên xử trí Tạ Cánh thế nào, chẳng ai có thể nhìn thấu được.

Tạ Cánh lại hoàn toàn không để ý đến cách xưng hô nhạy cảm này, y trầm ngâm hồi lâu, rồi viết lên giấy hai chữ, đưa cho nội giám nói: "Giữ tâm tĩnh để thấu hiểu bản chất là 'Minh'; sống thanh thản, hòa hợp với trời đất là 'Di', ngươi đưa cho bệ hạ xem thử có được hay không."

Ngày hôm sau, tiền điện truyền tin tới, chọn ngày cử hành lễ sắc phong Đông cung và công chúa Minh Di.

Nghi thức đăng cơ của tân đế thì giản lược đến mức gần như không có gì, chỉ cần tế trời, bái tông miếu là coi như xong. Nhưng bệ hạ lại cực kỳ xem trọng danh vị của Thái tử và công chúa, nghi lễ trang nghiêm long trọng, quyết tâm để cho cả thiên hạ thấy rõ sự quý trọng sâu sắc mà họ nhận được, cũng như địa vị cao quý và vững chắc của họ.

Mấy ngày Tạ Cánh mê man, Ngân Trù đã cho y uống rất nhiều thuốc bổ, nay tinh thần của y đã khá lên, lại chuẩn bị rời cung trở về Vương phủ, cô bèn đề nghị nên tranh thủ giải độc, không nên kéo dài thêm.

Tạ Cánh cũng không có ý kiến gì: "Chị nói lúc nào thì làm lúc ấy, chết sớm siêu sinh sớm."

Ngân Trù nghiêm túc phản bác: "Phỉ phui ngay, không cho phép nói gở."

Cô liếc trộm sắc mặt Tạ Cánh, do dự một lúc, cuối cùng vẫn nhỏ giọng hỏi: "Có cần báo cho bệ hạ biết, để ngài ấy đến bên cạnh người không?"

Ban đầu Tạ Cánh chẳng có phản ứng gì, thậm chí còn hơi khó hiểu, mãi đến khi nhận ra "bệ hạ" mà cô nói là ai, y mới chậm chạp "À" một tiếng: "Có cần thiết không?"

Vẻ mặt Ngân Trù phức tạp: "Việc này chẳng nhẹ nhàng hơn so với nạo xương trị độc là bao, dù có ma phi tán, cũng không thể hoàn toàn mất hết cảm giác đau. Nếu như có bệ hạ ở bên, Vương phi sẽ dễ chịu hơn ít nhiều."

Tạ Cánh ngẩn người suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu, nói: "Nếu đã đau đến thế, lại để cho người khác nhìn thấy thì cũng khiến thêm một người đau mà thôi."

Ngân Trù đành chịu, cô ngồi xuống bên cạnh y, hỏi: "Khó khăn lắm mới kết thúc được mọi chuyện, có thể đoàn tụ với các con, sao Vương phi lại không muốn ở lại trong cung?"

Tạ Cánh im lặng rất lâu mới nở nụ cười nhàn nhạt: "Không phải ta không muốn. Đương nhiên ta hy vọng được ở bên hắn, ta vĩnh viễn sẽ không rời xa hắn."

Y gục đầu xuống, nói nhỏ: "Chỉ là ta và hắn đều cần một chút thời gian để tỉnh táo lại, suy nghĩ thấu đáo vài chuyện. Nếu không làm vậy, chẳng lẽ ta cứ thế xem như chẳng có chuyện gì xảy ra, phớt lờ hết thảy sự sống và cái chết đang ngăn cách giữa chúng ta, không có lấy một gánh nặng nào mà vào cung bầu bạn cùng hắn, thân mật cùng hắn hay sao? Cả ta và Tử Phụng, chẳng ai muốn như thế cả."

Ngân Trù thở dài: "Tôi không hiểu chữ tình, cũng chẳng nên xen vào nói lý. Chỉ có điều, sống chết là ải khó mà bệ hạ và Vương phi nên cùng nhau vượt qua, tuyệt đối không nên để nó biến thành bức tường ngăn cách giữa hai người."

Tạ Cánh ở lại thiên điện cùng con trai và con gái vài ngày, bắt đầu nhịp sống đều đặn, ăn uống thanh đạm. Khoảng thời gian đầu khi Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh chính thức chuyển vào cung ở, mọi chuyện đều bắt đầu vào nề nếp, vô cùng ổn định. Cả hai giờ đây đã trưởng thành, có lẽ vì phải nếm trải cảnh loạn ly quá sớm nên đều thấu hiểu thế sự, không ai hỏi mẹ mình rằng tại sao người không thể mãi ở lại cung Thái Sơ?

Hậu quả của khoảng thời gian bình lặng và nhàn nhã quá mức ấy chính là vào đêm Ngân Trù chuẩn bị giải độc Tích Cốt Huyền, Tạ Cánh đã phải tốn không ít công sức mới dụ được hai đứa trẻ rời đi mà không để chúng sinh nghi.

Sau lưng được kê mấy chiếc gối mềm, y nằm ngửa ra, cả người lún sâu xuống nệm, nửa người trên không mặc áo, cả cánh tay phải để lộ ra ngoài màn giường.

Lúc nhỏ khi nghe người ta kể chuyện, Tạ Cánh chỉ cảm thấy trong lúc cười nói, chuyện cạo xương trị thương cũng chỉ là một giai thoại mà thôi, hôm nay mới biết Quan Vũ* quả thật thần dũng đến nhường nào. Ngân Trù dùng một con dao nhỏ và sắc bén để khoét thịt, dù xuống tay nhanh gọn dứt khoát, nhưng "liệu pháp" này về cơ bản chẳng khác nào lăng trì. Khi cảm nhận rõ ràng miếng thịt bị khoét ra, cùng với từng lớp da thịt rời khỏi xương cốt, Tạ Cánh không kìm chế được nữa mà kêu gào thảm thiết.

<i>(*) Quan Vũ, hay Quan Công, tự Vân Trường, là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán</i>

Trong lúc mê man, y chợt nhớ đến vết sẹo kéo dài từ vai xuống lưng của Lục Lệnh Tùng, dù khoảnh khắc ấy chỉ thoáng qua trong chốc lát, nhưng cuối cùng cũng chẳng thể thuyên giảm phần nào nỗi đau.

Cánh tay không giống phần thân trên có thể dễ dàng được áo quần che phủ, Tạ Cánh thật sự không sợ đau, không sợ nước da trắng như tuyết không tì vết của mình bị hủy hoại, cũng không sợ những vết sẹo xấu xí dữ tợn. Nhưng về sau, mỗi lần duỗi tay chạm vào Lục Lệnh Tùng hay ôm lấy các con, vết sẹo ấy sẽ nhắc nhở họ thêm một lần về nỗi khổ sở mà bản thân đã từng trải qua, điều đó ắt hẳn sẽ khiến đôi bên đều mệt mỏi rã rời, quả thật rất khó xử.

Mặc kệ những lời mê sảng mà Tạ Cánh thốt lên khi đầu óc hỗn loạn, hay những tiếng van xin yếu ớt khi y suýt ngất đi rồi lại bị cơn đau giục tỉnh, Ngân Trù đều phớt lờ như không nghe, sắc mặt cô không hề thay đổi, tiếp tục xuống tay, bởi vì cô biết rõ, chỉ có kết thúc nhanh gọn có thể mới giúp y bớt phải chịu cơn đau giày vò.

Trong không gian mờ ảo, những hình ảnh trước mắt tối tăm hơn nhiều so với bên trong phòng. Tầm mắt của Tạ Cánh rơi lên tấm màn lụa mỏng nhẹ, y trông thấy góc nghiêng gương mặt bình tĩnh không gợn sóng của Ngân Trù, thấy cả Tần viện phán cùng mấy vị thái y, những người hầu bưng thuốc —— và bóng dáng cao lớn đứng ngay bên cạnh cửa.

Điện Thần Long dù vô cùng rộng lớn, nhưng tẩm điện của hoàng đế và thiên điện cách nhau chỉ hơn mười bước chân. Thế nhưng những ngày qua, Lục Lệnh Tùng chưa từng sai người đến hỏi thăm lấy một câu, cũng chưa từng xuất hiện trước mặt Tạ Cánh, như thể căn phòng bên cạnh hoàn toàn trống rỗng, không hề có sự hiện diện của y.

Thái độ "hờ hững" và "làm lơ" có chủ đích này đã phần nào xoa dịu nỗi bất an của Tạ Cánh khi sống trong điện Thần Long. Tuy rằng có những lúc thả hồn bay xa, y vẫn không thể kìm lòng mà nghĩ đến Lục Lệnh Tùng, từ những cuộc trò chuyện của các con và cung nhân, y thường cố đoán xem liệu rằng chuyện triều chính có đang quá nặng nhọc hay không, có cần thận trọng trước việc cân bằng giữa các thế lực mới và cũ hay không, liệu có khó để hắn thích nghi với ngai vàng hay không...

Chỉ một bước gần mà như ngàn dặm xa, tưởng chừng xem nhau như người lạ, vì sao bây giờ lại muốn đến đây?

Khi Tạ Cánh còn gắng gượng giữ được chút tỉnh táo, Lục Lệnh Tùng vẫn đứng ở chỗ cũ, không hề động đậy. Mà trong khoảnh trước khi hoàn toàn mất ý thức, mí mắt nặng trĩu sắp sửa khép lại, y chỉ kịp nhìn thấy hắn xoay người bước đi, bóng dáng cao ngất biến mất bên ngoài điện.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 116


<b>《</b><b> </b><b><i>27.6 </i></b><b>》</b>

Để không phải gặp Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh, Tạ Cánh lấy cớ nói rằng sức khỏe của mình vẫn còn yếu, không tiện hoạt động nhiều, nhưng trong lòng lại lo lắng chuyện đưa linh vị của Thôi Thục Thế và A Hoàng trở về nhà họ Thôi, thế là y bèn nhờ chúng ra ngoài cung thay mình cúng bái.

Thôi Tế Thế dẫn hai anh em họ đi đến từ đường, cung kính nói: "Bệ hạ đã ra lệnh phúc thẩm vụ mất cắp ở phủ Tướng vào năm Trinh Hữu thứ mười sáu, Thanh Hà Thôi thị vô cùng cảm kích. Chỉ là gần đây gia đình bận rộn nhiều việc, chưa kịp tạ ơn đã lại phiền chủ tử trong cung nhớ đến, nếu chị tôi và A Hoàng nơi suối vàng có linh, hẳn sẽ biết được rằng nỗi oan khuất đã được rửa sạch."

So với các nội giám trong điện Thần Long, Thôi Tế Thế ăn nói càng thận trọng hơn, gã lựa chọn từ ngữ rất cẩn thận, chỉ mơ hồ gọi Tạ Cánh là "chủ tử trong cung", vừa không mạo phạm thiên nhan, lại vừa không khiến cho Đông cung và công chúa khó xử.

Lục Thư Thanh hàn huyên vài câu rồi thay mặt cha mẹ gửi lời thương xót, sau đó Thôi Tế Thế lui ra ngoài, để họ ở lại tiếp tục làm lễ truy điệu.

Linh vị của Thôi Thục Thế và A Hoàng được lau chùi sạch sẽ, đặt ở tầng dưới linh vị của vợ chồng Thôi Thái úy đã qua đời. Về sau, khi Thôi Tế Thế và các anh em của gã qua đời, thì cũng chỉ có thể được đặt ở vị trí như vậy mà thôi, đây đã được xem là sự đối đãi cao nhất và trang trọng nhất mà người cùng thế hệ trong gia tộc có thể dành cho họ rồi.

Lục Thư Thanh dâng hương, đốt điếu văn do mẹ cậu tự viết, sau đó khẽ nói: "Thanh Hà Thôi thị thật sự biết lý lẽ, họ hiểu rằng nếu không có Thôi phu nhân, họ sẽ không có được công lao ngày hôm nay. Họ cũng biết, chỉ cần thờ cúng linh vị của Thôi phu nhân và A Hoàng chu đáo, dù chỉ vì lòng cảm kích và thương xót, cha mẹ cũng sẽ dành cho con cháu nhà họ Thôi một chút ân huệ."

Lục Thư Ninh nhẹ giọng hỏi: "Em nhớ anh và A Hoàng là bạn của nhau. Chị ấy là người như thế nào vậy?"

"Anh cũng không biết nói sao nữa... Anh không còn nhớ rõ nữa rồi." Lục Thư Thanh thì thào đáp. Người bạn cũ này của cậu thật ra chẳng mấy nổi bật, nếu không được mẹ cậu đặc biệt quan tâm, có lẽ cô bé ấy sẽ mãi mờ nhạt giữa đám đông, giống như một nhánh trúc trong rừng sâu âm u nơi người ta không biết đến, chỉ có ánh trăng sáng chiếu rọi.

"Em ấy đã cùng em vẽ lồng đèn giấy... Chắc là vào dịp Tết Nguyên tiêu. Lúc đó em còn nhỏ lắm, có nhớ gì không?"

Lục Thư Ninh tiếc nuối lắc đầu: "Những chuyện xảy ra trước khi đến Ung Châu, phần lớn em đều quên hết rồi."

Hành động cuối cùng của Thôi Thục Thế khi còn sống khiến người ta quá đỗi kinh hãi, lại diễn ra ngay trước cổng Đại lý tự vào ban ngày, đã sớm lan truyền khắp thành Kim Lăng. Lục Thư Thanh không mất nhiều công sức để biết được toàn bộ sự việc, chẳng cần phải cố gắng tìm mọi cách để dò hỏi tin tức như cậu đã làm trước khi A Hoàng qua đời.

Thực ra họ cũng không thực sự thân thiết, A Hoàng chưa từng hồi âm một bức thư nào, cậu và cô bé cũng chưa bao giờ nói chuyện riêng với nhau. A Hoàng cũng không phải là "người đã mất" đầu tiên mà cậu biết, trước đó, cậu đã mất cả gia đình nhà ngoại và Lục Ngải rồi.

Lục Thư Thanh nhìn lướt qua tên họ của A Hoàng trên linh vị, cậu không cảm nhận được nỗi buồn rõ rệt, chỉ có sự mơ hồ, một sự mơ hồ kéo dài vô tận.

"Chúng ta đi thôi," cuối cùng Lục Thư Ninh nói, "Mẹ sắp về Vương phủ rồi, em muốn ở bên cạnh người thêm chút nữa."

Hai người trở lại cung điện, nhưng vừa đến nơi đã nghe thấy tiếng người ồn ào bên trong Công Xa môn, đêm nay Vũ Lâm Vệ có mặt đông hơn ngày thường, đứng từ xa vẫn có thể nhìn thấy bóng dáng nhiều cung nhân tất bật tới lui. Lục Thư Thanh vén rèm xe lên, bỗng nhiên chau mày lại, bầu trời phía Tây Bắc sáng như ban ngày, trong tầm mắt, cậu chỉ thấy được ánh lửa đang hừng hực cháy.

Một nội giám tiến lại gần nghênh đón, chưa kịp mở miệng thông báo đã nghe Lục Thư Thanh hỏi: "Ở đâu đang bị cháy sao?"

Ở phía Tây Bắc, nằm chếch sau điện Thần Long nhưng lại cách cửa cung không quá xa – đó là điện Lâm Hải.

Nội giám gật đầu: "Là tiên Thái hậu Vương thị, sợ tội nên đốt cung tự vẫn."

Gã nội giám ăn nói rất khéo, hiển nhiên sẽ thuật lại chuyện của Vương thị thành "sợ tội tự vẫn", nhưng Lục Thư Thanh đang sững người, nên đã vô thức hỏi: "Xác định là tự vẫn sao?"

Nội giám khựng lại một chút, chừng như ngạc nhiên vì cậu hỏi như thế: "Bẩm ngài, chuyện này đều là thật, không dám lừa gạt điện hạ nửa phần. Cung nhân bị dọa sợ chạy ra ngoài, nhưng cửa điện đã khóa kín từ bên trong, dĩ nhiên là muốn triệt hết đường sống của mọi người."

Lục Thư Thanh thở dài một hơi, không hiểu vì sao khoảnh khắc này trong lòng cậu lại hiện lên một suy nghĩ, rõ ràng là cậu đang vô thức suy đoán, chẳng biết liệu đây có phải là do cha mẹ cậu lấy danh "tự vẫn", ban chết cho Vương thị hay không...

"Có phải bà ấy đã nghe phong thanh được chuyện gì hay không, sao bỗng nhiên lại chọn tự vẫn vào lúc này?"

Nội giám tiến lên hai bước, nhỏ giọng nói: "Hình bộ và Đại Lý Tự hoàn tất quá trình thẩm tra xử lý vụ án ở phủ Tướng rồi, bản án cũng đã đưa ra, cáo trạng tối nay được dâng lên điện Thần Long, bệ hạ đã có phán quyết, chỉ chờ đến sáng mai thông báo cho các quan lại thôi."

Dạo gần đây, dù Vương thị bị giam lỏng trong điện Lâm Hải, nhưng Lục Lệnh Tùng chưa từng hạ chỉ ra lệnh phong tỏa tin tức, cung nhân chỉ được phép vào không được phép ra, ngay cả khi Vương thị muốn gửi tin ra ngoài cũng hoàn toàn bất lực.

Bà ta chọn kết liễu cuộc đời bằng cách này, có lẽ vì đã nghe được tin kết cục mà cha con Vương Thục sắp phải chịu, cũng biết rằng mẫu tộc đã sụp đổ, không cần phải tiếp tục bận lòng. Hào quang lẫy lừng của Lang Gia Vương thị rồi cũng sẽ hoàn toàn hóa thành tro bụi cùng với bà ta và điện Lâm Hải.

Lục Thư Thanh trầm tư hồi lâu, Lục Thư Ninh ngồi đối diện cậu thò đầu ra hỏi: "Lửa cháy to như vậy, liệu có liên lụy đến người vô tội không?"

Nội giám lắc đầu: "Bẩm công chúa, hình như Vương thị dùng nến đốt cửa sổ, cung nhân trong điện cũng không nhiều, họ đều canh giữ ở ngoài điện cho nên đã kịp chạy ra ngoài. Dù may mắn không cháy lan sang những điện các bên cạnh, nhưng e là toàn bộ điện Lâm Hải đã bị thiêu rụi mất rồi."

"Thiêu rụi toàn bộ..." Lục Thư Ninh lặp lại câu kia. Bốn chữ này cũng có nghĩa là nếu muốn xây dựng lại điện Lâm Hải, họ sẽ phải tốn rất nhiều thời gian cùng sức người sức của, mà cha em chỉ vừa mới lên ngôi, chắc chắn sẽ không hao người tốn của để mà xây dựng rầm rộ.

Có thể tưởng tượng được, tòa cung điện biểu tượng cho quyền lực của Hoàng hậu này sẽ bị bỏ không trong một thời gian dài, như vậy, niềm hy vọng mẹ em có thể vào đó ở sẽ càng thêm mơ hồ và vô vọng.

Sau khi xuống xe ngựa, Lục Thư Ninh hỏi: "Anh sẽ về thẳng Đông cung luôn sao?"

Lục Thư Thanh suy nghĩ một chút rồi đáp: "Anh đi cùng em đến điện Thần Long, ở bên mẹ một chút, anh còn muốn nói vài lời với cha nữa."

Hai người sóng vai băng qua Công Xa môn, đi vào khoảnh sân trống trải, đưa mắt là có thể nhìn thấy được điện Thần Long đèn đuốc sáng trưng, một binh lính Vũ Lâm Vệ lặng lẽ bước đến, cung kính nói: "Việc điện hạ dặn dò, thần đã làm xong."

"Ngươi tìm thấy rồi sao?" Lục Thư Thanh nhìn không chớp mắt, chỉ hỏi.

"Trong hai đội Vũ Lâm Vệ có rất nhiều người được gọi là Trương Tam, nhưng xét về tuổi tác, quê quán, xuất thân và lý lịch thì chỉ có một người trùng khớp. Hắn còn mang theo bút tích của bệ hạ năm xưa làm bằng chứng, cũng đã chỉ ra đồng liêu từng cùng mình cứu Tạ công tử, thần đã đưa hai người tới Ngô phủ để quốc cữu nhận mặt, xác nhận không sai. Vốn định tối nay dẫn họ đến bẩm báo, không ngờ điện hạ lại ra ngoài, cho nên mới chậm trễ tới giờ này."

"Ông cậu đã nhận rồi thì không thể sai được, ngươi chỉ cần báo cho Thôi tướng quân là được rồi," Lục Thư Thanh nhàn nhạt nói, "Hãy sắp xếp cho cả hai vào đội thân vệ của Thái tử. Ngày mai, ta muốn gặp trực tiếp họ ở Đông Cung."

Dân gian vẫn truyền rằng tháng Bảy là "tháng cô hồn", quả nhiên đã mấy ngày liền, tiếng chuông tang ngân vang không dứt.

Kể từ khi Thôi Thục Thế tàn sát cả nhà họ Vương, rồi tự vẫn trước cửa Đại Lý Tự giữa ban ngày, mùi máu tanh trong không khí vẫn chưa tan hết thì vụ án mất trộm ở phủ Tướng năm Trinh Hữu thứ mười sáu đã được thẩm tra xong. Sự việc Vương Khế coi thường nhân luân, làm nhục rồi vu oan cho cháu gái ruột gây chấn động kinh thành, người người khinh miệt. Nghe nói Thái tử đã đích thân đến chiếu ngục "quan tâm đặc biệt", ra lệnh cho hình quan thi hành cung hình, người đã tắt thở ngay trong đêm, nguyên nhân tử vong không rõ.

Không lâu sau đó, tiên Thái hậu Vương thị tự thiêu, đến ngày hôm sau, hai người thân cuối cùng còn sót lại của bà ta là Vương Thục và Vương Hề cũng bị xử trảm ngoài hoàng thành, thủ cấp bị treo lên Tuyên Dương môn thị chúng trong ba ngày.

Cuối cùng là Trương Diên phạm vào tội mưu nghịch, hành thích hoàng đế cùng nhiều tội trạng khác, sau nhiều ngày tuyệt thực đã chết ở trong ngục, rơi vào số phận giống với người vợ đã khuất.

Quốc tang kết thúc, linh cữu của hai vị tiên đế lần lượt được hạ táng. Hoàng lăng Tử Kim Sơn đã phong tỏa, thế nhưng linh cữu của cố Trưởng công chúa Lục Lệnh Chân vẫn còn quàn tại điện Hàm Chương, mãi chưa được nhập thổ.

Tân đế lên ngôi tuy không tổ chức nghi lễ rườm rà, nhưng sau thu vẫn tiến hành truy cứu trách nhiệm và luận công ban thưởng, không sót việc nào.

Lục Lệnh Tùng chấn chỉnh lại Vũ Lâm Vệ, còn tàn dư của Lang Gia Vương thị trong quân kinh kỳ: kẻ giữ chức cao thì xử tử, chức trung thì điều đi nơi khác, chức thấp thì vỗ về an trí. Những tướng lĩnh như Lý Kỳ, Trịnh Kiêu, Thôi Tế Thế... từng có công phò rồng trong biến cố đảo Bát Quái lần lượt được thăng chức lĩnh hàm. Hai chị em họ Lý cũng chủ động ra trận: Lý Huống nhậm chức Giáo úy tại Nam đại doanh, Lý Dã cùng Tạ Tuấn quản lý Hạc Vệ, trấn giữ cung thành, hoàn toàn độc lập và ngang hàng với Vũ Lâm Vệ, nhưng chỉ nghe theo lệnh của Đông cung và công chúa.

Tuyên Thất lại được hoạt động công khai như tiền triều, vẫn do thiên tử khống chế. Tiêu Dao trở thành thủ lĩnh đầu tiên của Tuyên Thất được chính thức ban chức, nhận lộc, không cần phải che giấu thân phận. Lục Lệnh Tùng thực hiện lời hứa giữa hai người năm xưa, xá tội cho những tộc nhân vô tội của Lan Lăng Tiêu thị, cho phép họ trở về quê nhà từ những nơi lưu vong.

Hổ Sư bị chia năm xẻ bảy nay cũng đã được khôi phục lại thành đội ngũ ba vạn quân như cũ, sẽ cùng ngự giá thân chinh Mạc Bắc, báo huyết thù cho Trưởng công chúa. Đại quân quyết định xuất phát vào ngày mười tám tháng Tám, Thái tử ở lại triều đình giám quốc, Tả tướng tân nhiệm Hà Cáo phụ chính.

Đêm trước ngày lên đường, cuối cùng Lục Lệnh Tùng cũng bước vào điện Minh Loan, quỳ xuống sau lưng mẹ mình: "Triều cục tạm ổn, mọi việc đã vào quỹ đạo, ngày mai nhi thần dẫn Hổ Sư đến phía Bắc, nhất định sẽ đưa Chân Chân về nhà."

Ngô thị đứng một mình trước cửa sổ, vừa qua Trung thu chưa bao lâu, trăng vẫn còn chưa khuyết nhiều, cả gian phòng tràn ngập ánh sáng ảm đạm như nước.

Tóc mai của bà đã bạc trắng.

"Lễ bộ đến hỏi quần áo cũ của con bé, nói bây giờ trong quan tài chỉ có quân trang dính máu, là đồ mà nó thay trước khi vội vàng rời Ung Châu, còn chưa kịp giặt, chỉ sợ sát khí nặng nề, xuống suối vàng cũng không được yên giấc."

"Con cũng đừng trách bọn họ. Đám cung nhân nói, khi còn sống Lệnh Chương đã đặc biệt ra lệnh không cho bất kì ai nhắc đến chuyện của con bé với mẹ, đến cả Vương thị cũng có lòng tốt lừa gạt mẹ. Nhưng đây là chuyện có thể giấu giếm được hay sao? Mấy lần con nói với mẹ 'Sắp kết thúc rồi', 'Sắp trở về rồi', trong lòng mẹ đã mơ hồ đoán ra được."

"Toàn bộ quần áo trong rương kia đều là quần áo của nó, hơn mười bộ đều là đồ mẹ may trong nửa năm nay đấy, con bé chưa từng mặc, cũng chưa từng nhìn thấy, mẹ nhìn hoa hết cả mắt rồi, không biết nên đưa cho họ bộ nào mới được."

"Vậy nên mẹ đã gọi Lễ bộ Thượng thư đến, mẹ nói, đẹp xấu gì thì cũng cho mẹ nhìn con bé một lần đi, chỉ một lần là được, mẹ sẽ biết ngay là nên cho nó mặc cái gì."

Ngô thị hơi xoay người lại, ngạc nhiên khi thấy con trai lớn của bà đang khom lưng quỳ gối: "Dù không thể nhận dạng, dù... Không trọn vẹn cũng không sao, mẹ vẫn không sợ, mẹ có thể chấp nhận, chỉ cần cho mẹ nhìn một lần thôi là được."

Rồi bà lặng lẽ nở nụ cười: "Nhưng ông ta nói cho mẹ biết, không có gì hết. Bọn họ trở về mà không tìm được con bé."

Lục Lệnh Tùng siết chặt nắm đấm, kiềm chế để bản thân không run lên dữ dội, lắng nghe giọng nói nghèn nghẹn của Ngô thị: "Na Tra trong truyền thuyết còn có thể lóc xương trả cha, lóc thịt trả mẹ, nhưng con bé là một người còn sống sờ sờ trên đời cơ mà! Nó là con gái của mẹ, tóc da của nó là do mẹ cho, nó là máu thịt chui ra từ trong bụng mẹ, cớ sao chẳng để lại cho mẹ thứ gì hết vậy?"

Trong điện lặng đi rất lâu, Lục Lệnh Tùng ngước mắt nhìn mẹ mình, Mỹ nhân tuổi xế chiều vốn chẳng phải điều gì đáng sợ, nhưng khiến người ta hoảng hốt chính là đôi mắt kia cũng đã già đi, trong đôi mắt ấy, hắn chỉ thấy được một điều mà suốt ba mươi hai năm qua chưa từng thấy, đó là sự tuyệt vọng vô cùng tận.

Giây phút này, bất cứ lời nói nào cũng trở thành dư thừa. Sau tất cả những gì đã qua, hắn chợt hiểu ra được cảm giác hoàn toàn mất đi niềm vui trên đời của Tạ Cánh bắt đầu từ đâu. Kể từ khi Lục Lệnh Chân chết trận, tất cả mọi sự việc, mọi biến cố, trọng trách và hiểm nguy dường như cùng lúc ập đến cuộc sống của hắn. Lục Lệnh Tùng chỉ biết vắt kiệt sức lực và tâm trí để đối phó, hắn không dám cho bản thân có cơ hội dừng lại, hiển nhiên cũng chẳng còn hơi sức mà nghĩ tới, liệu có phải trong vô thức, hắn cũng từng để lộ cảm xúc tuyệt vọng giống hệt như mẹ mình lúc này?

Trong mắt Lục Lệnh Tùng, dáng vẻ của mẹ lúc này chỉ khiến hắn cảm thấy ruột gan quặn đau; vậy thì tình cảnh của hắn hôm đó, nếu để lọt vào mắt Tạ Cánh, há lại không khiến lòng y đau như dao cắt, bi thương khôn xiết?

"Dù sống trong điện Hàm Chương lâu như vậy, nhưng con bé vẫn còn để lại rất nhiều đồ đạc ở chỗ mẹ, đến tận bây giờ, nó gần như cũng chưa chuyển đi hết tất cả, lúc nào cũng bỏ quên đồ ở điện Minh Loan. Mấy ngày nay mẹ đã sai người thu xếp lại di vật của con bé, con biết mẹ đã tìm thấy gì không?"

Ngô thị vịn lấy cánh tay Lục Lệnh Tùng, đỡ hắn đứng dậy, trong tay áo trượt ra một vật nhỏ chiếu sáng lấp lánh, bà giao lại cho hắn: "Tử Phụng, con còn nhớ thứ này không?"

Lục Lệnh Tùng cúi đầu nhìn xuống, thoáng chốc thất thần, chừng như giật mình nghĩ ngợi, khóa trường mệnh mà Lục Thư Thanh luôn đeo bên cổ không rời nửa bước sao lại rơi vào tay tổ mẫu của cậu được?

Nhưng chất ngọc làm nên thân khóa này lại không phải là ngọc Hòa Điền, chữ khắc cũng khác, trên mặt khóa còn có vài vết sứt mẻ.

"Đây là khóa trường mệnh của Chân Chân," Lục Lệnh Tùng dùng đầu ngón tay chạm nhẹ vào những vết xước, "Cái mà em ấy đã làm mất hơn mười năm trước."

Ngô thị thở dài: "Con bé cứ kêu là mất rồi, còn đổ thừa là nó chạy mất, không thấy đâu nữa, khóa ngọc mọc cánh bay đi rồi... Hóa ra từ đầu đến cuối, thứ này vẫn luôn nằm trong một góc nào đó ở điện Minh Loan."

Lục Lệnh Tùng nắm chặt khóa ngọc tròn trịa nhẵn bóng lớn cỡ hòn sỏi trong tay, từng bước chầm chậm quay trở về điện Thần Long. Hoa quế ở Kim Lăng đang độ nở rộ, hương thơm ngọt dịu trong trẻo lan tỏa khắp trong ngoài tường cao. Chỉ là tiết trời mỗi lúc một lạnh hơn, hắn đi về dưới trăng, ánh sang bạc trải đầy mặt đất, tựa như đang thật sự bước đi trên cung trăng, nơi trời mây hòa vào làm một.

Lục Thư Thanh ở Đông cung, Lục Thư Ninh ngủ lại điện Minh Loan, trong điện Thần Long ngoài các nội giám và cung nữ thì không còn <i>vật sống</i> nào khác. Lục Lệnh Tùng cứ thế vô thức đi đến bên ngoài bậc cửa thiên điện, lúc này hắn mới chợt nhớ ra Tạ Cánh đã dọn về Vương phủ được gần một tháng, cho dù hắn có đứng đây cả đêm cũng không thể chờ nghe được đôi ba câu lơ đễnh của y như trước nữa.

Trong điện không thắp đèn. Hắn cứ thế đứng giữa điện chừng một nén nhang, sống lưng cứng đờ cuối cùng cũng thả lỏng, rồi hắn ngồi bệt xuống sàn. xoay lưng lại với cánh cửa đồng rộng mở.

Đêm càng khuya, sương càng dày, Lục Lệnh Tùng cảm thấy làn gió lướt qua chân tóc mang theo hơi ẩm như thể trời vừa mưa xong. Hắn chỉ mặc một lớp áo mỏng, không kìm được mà khẽ rùng mình, bên má chợt có giọt nước rơi xuống, cảm giác như chạm vào ngọc, khi mới vừa chạm thì lạnh lẽo, nhưng để lâu lại trở nên bỏng rát.

Chẳng biết đã qua bao lâu, đến khi nghe thấy tiếng bước chân quen thuộc vang lên sau lưng, Lục Lệnh Tùng mới chắc chắn rằng hai mắt hắn đến giờ vẫn còn hoen đỏ.

Một chiếc áo choàng mỏng vừa phải phủ lên vai Lục Lệnh Tùng, người đến vòng tay ra trước cổ hắn, cẩn thận buộc dải áo lại. Trong lúc cử động, cánh tay phải quấn đầy những lớp băng gạc của y lộ ra khỏi tay áo, chúng vẫn chưa được tháo xuống.

Tạ Cánh cầm đèn lồng bước vào trong, đặt đèn xuống cách chân mấy bước, ánh sáng kéo cái bóng một đứng một ngồi của hai người nghiêng dài ra, trải tới tận sâu trong điện.

"Tìm ở chính điện không thấy bệ hạ đâu, cung nhân nói người đã về được một lúc rồi, nhưng ở tẩm điện cũng không có ai."

Y vòng qua phía trước Lục Lệnh Tùng, quỳ ngồi xuống, dường như cố tình lảng tránh ánh mắt của hắn, chỉ lặng lẽ đưa hai tay ra, nhẹ nhàng phủ lên nắm đấm mà hắn vẫn siết chặt từ nãy, khẽ xoa vài lượt, truyền hơi ấm cho đôi bàn tay lạnh buốt ấy.

Lục Lệnh Tùng không hề phản ứng, hắn không đưa tay ra nắm lại tay y, càng không lên tiếng hỏi y đến đây làm gì.

Tạ Cánh chỉ thấp giọng nói, nhẹ nhàng như đang kể chuyện thường ngày: "Nghe nói bệ hạ lại sắp viễn chinh. Nhưng thần đã hẹn với Tuấn Nhi sẽ hộ tống linh cữu cha mẹ cùng anh chị về quận Trần, sáng sớm ngày mai lên đường, chỉ sợ không kịp rời thành để tiễn bệ hạ."

"Đêm thu ẩm lạnh, thần sẽ không nán lại lâu, chỉ lắm lời nói thêm một câu, bệ hạ nghe xong thì hãy mau chóng về nghỉ ngơi."

"Chuyến này đến tận biên ải mênh mang, cách xa quê nhà vạn dặm," Tạ Cánh buông tay Lục Lệnh Tùng, quỳ gối lùi về sau hai bước, cúi người, dùng tư thế không thể cung kính hơn, không thể thần phục hơn, dập đầu hành lễ thật sâu trước hắn, "Thần mong bệ hạ võ vận hưng long, giương cờ tất thắng."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 117


<b>《</b><b> </b><b><i>28.1 </i></b><b>》</b>

Tạ Cánh khởi hành từ lúc trời còn chưa sáng rõ, y không mang theo nhiều gia đinh, trang bị gọn nhẹ cùng Tạ Tuấn đưa linh cữu cha mẹ, anh trai và chị dâu về quận Trần. Quan đạo phía Bắc lẽ ra đã bắt đầu bị phong tỏa từ đêm qua nhằm nhường đường cho Hổ Sư sắp viễn chinh, nhưng Tạ Cánh có thân phận đặc biệt, trong cung đã hạ chỉ, thông báo đến thủ vệ cho chú cháu y đi qua.

Khi đoàn người qua cổng thành, đã thấy có một chiếc xe ngựa đang dừng đợi ở bên đường, trong buồng xe chỉ có Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh, tuy rằng trời vẫn còn sớm, nhưng hai anh em vẫn quyết định tiễn đến tận đây.

Tạ Cánh bảo Tạ Tuấn và các tùy tùng đợi một lúc, sau đó y bước vào buồng xe: "Sao hai đứa lại đến đây? Ăn sáng rồi mới đi à?"

Lục Thư Ninh gật đầu, đưa hộp đựng thức ăn đến: "Bọn con mang ít điểm tâm đến, trên đường đi mẹ và anh có đói bụng thì ăn."

Tạ Cánh mở nắp hộp ra nhìn thoáng qua, bên trong là bánh ngọt bốn vị, đều là món ăn quen thuộc do Lục Lệnh Tùng làm.

Y sửng sốt một chút, đóng nắp hộp lại rồi nhỏ giọng nói: "Cần gì đến tiễn mẹ, cũng không phải là đi luôn không về, chẳng phải đêm qua ở trong cung đã nói chuyện rồi sao? Cùng lắm là ba tháng, chậm nhất là đến gần cuối năm mẹ chắc chắn sẽ về đến kinh thành. Các con nên đi tiễn cha thì hơn, đao thương không có mắt, chiến trường hung hiểm, ở cùng cha lâu hơn một chút mới là quan trọng."

Lục Thư Thanh đáp: "Thiên tử thân chinh phải làm lễ tế tông miếu cầu mong tổ tiên che chở, sau khi từ biệt mẹ, bọn con sẽ về ngay."

Tạ Cánh lại dặn dò: "Thời gian này Thanh Nhi phải giám quốc, mọi việc quân chính đều có thể nhờ vả Hà đại nhân và Tiêu sư phụ của con, Lý tướng quân tuy đi cùng Hổ Sư, nhưng Trịnh tướng quân và chị em họ Lý đều đáng tin cậy. Đài cao đã dựng lên cho con, giờ là lúc nên để con mạnh dạn thử cánh, lôi kéo lòng dạ những người sẽ thuộc về con. Nếu có chuyện gấp, con chỉ cần gửi thư cho cha mẹ là được."

Lục Thư Thanh đáp ứng từng việc một, Tạ Cánh căn dặn thêm vài câu nữa, lúc chuẩn bị đứng dậy rời đi, y không ngờ tay áo lại bị Lục Thư Thanh túm lấy. Vẻ mặt của cậu không được tự nhiên, dường như có lời gì không dám nói ra khỏi miệng, từ lúc bước lên xe ngựa Tạ Cánh đã nhận ra sự khác thường của cậu, y ngồi xuống trở lại, hỏi: "Thanh Nhi, con còn muốn nói gì với mẹ không?"

Cậu vẫn lúng túng, Lục Thư Ninh ngồi bên cạnh không chịu nổi, đáp thay: "Anh đang sợ đó mẹ!"

"Ninh Ninh!" Lục Thư Thanh nhỏ giọng ngăn lại.

Tạ Cánh ngạc nhiên: "Con sợ cái gì?"

Lục Thư Thanh quay đầu đi, chần chừ hồi lâu, Lục Thư Ninh lại giúp cậu bày tỏ nỗi lo lắng: "Mẹ nói chắn chắn sẽ về kinh, nhưng anh không dám tin, sợ mẹ đau buồn, oán hận Kim Lăng, về quận Trần rồi không muốn trở lại nữa."

Tạ Cánh nghe vậy giật thót, y ôm vai kéo Lục Thư Thanh lại, thân mật mà dịu dàng hỏi cậu: "Trong lòng con sợ hãi, vậy sao đêm qua lúc tạm biệt con không nói với mẹ?"

Hai hàng mi Lục Thư Thanh run rẩy: "... Con vốn đã định hỏi rồi, chỉ là trong lòng cứ thấp thỏm, không dám quyết định, nên đã hỏi Ninh Ninh trước để bàn bạc. Nhưng Ninh Ninh nói, dù mẹ có chọn ở lại quận Trần, hay là đi đến nơi nào khác, thậm chí... Thậm chí nếu mẹ chỉ muốn tìm đến cái chết — chỉ cần đó là điều mẹ thật sự muốn, thì thế nào cũng được, em đều có thể chấp nhận hết. Mẹ không cần phải ép bản thân về kinh, hoặc ở lại bên cha vì bọn con."

"Con cảm thấy Ninh Ninh nói rất có lý, hóa ra là vì con ích kỷ, cho nên không dám hỏi, sợ mẹ nghe được lại mềm lòng."

Giọng nói của c** nh* dần rồi tan mất, không chỉ Tạ Cánh im lặng, mà Lục Thư Ninh cũng hơi hoảng. đương nhiên em không nghĩ rằng phía sau câu hỏi tình cờ của anh trai lại có nhiều suy nghĩ như vậy, em bỗng chốc cảm thấy hối hận vì bản thân nhanh mồm nhanh miệng nói nỗi lo của Lục Thư Thanh cho mẹ biết, quan tâm quá ắt loạn.

Trong buồng xe yên tĩnh hồi lâu, sắc trời bên ngoài đã dần sáng, Tạ Cánh khó nhọc cất lời: "... Bên trong tim đèn không hề có cái gọi là vương quốc thu nhỏ nào hết, con người sau khi chết đi chính là âm dương cách biệt, nếu như mẹ thật sự chết đi, chúng ta sẽ vĩnh viễn không thể gặp lại nhau nữa, Ninh Ninh, con vẫn luôn hiểu mà, phải không?"

Lục Thư Ninh không đáp. Ngây thơ là một thứ xa xỉ, mà sự thật là sau khi rời khỏi phủ Chiêu Vương vào năm bốn tuổi, em đã không còn có quyền được tin vào những câu chuyện đẹp đẽ nữa. Là mẹ, là cha và anh, là người cô mất sớm và tổ mẫu già yếu, từng người họ đã thay nhau dệt nên lớp vỏ bọc ngọt ngào như mật ấy cho em. Thế nhưng em có một đôi mắt trong trẻo và sáng rõ, em đã tự mình nhìn thấy, cũng hiểu được tất cả.

Giờ khởi hành đã cận kề, không còn thời gian để nói nhiều, Tạ Cánh chỉ có thể dang tay ôm chặt cả hai đứa trẻ vào lòng. Chóp mũi lành lạnh của Lục Thư Ninh kề vào dưới cổ y, còn Lục Thư Thanh thì cúi đầu xuống, nhẹ nhàng áp má vào má y.

Cuối cùng, y nghiêm túc nhẹ giọng hứa hẹn: "Nghe đây, mẹ không lấy thân phận của một người mẹ, mà chỉ lấy danh nghĩa của Tạ Cánh để thề với các con rằng mẹ nhất định sẽ trở về. Trước khi mẹ trở lại, hai con không cần phải sợ hãi bất cứ điều gì cả."

Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh cúi người hành lễ trước bốn cỗ quan tài, rót rượu tiễn biệt, sau đó đứng bên trong cổng thành dõi theo đoàn người dần khuất. Sương đêm khiến cảnh thu thêm phần tiêu điều, người lên đường sớm khoác trên mình bụi gió kinh hoa rời đi. Trên quan đạo thênh thang chỉ có vài cỗ xe ngựa, cùng với bốn cỗ quan tài cô quạnh, dưới màn trời hửng sáng, đoàn xe chậm rãi lăn bánh đi xa.

<i>Oán lại oán nơi khúc núi xa, Đi lại đi về bến sông dài.</i>

Chẳng biết đã qua bao lâu, sau lưng bỗng vang lên tiếng vó ngựa, Lục Thư Thanh ngoảnh lại, ngạc nhiên thốt lên: "Y Vân? Sao ngươi lại tới đây?"

Y Vân được cậu đưa theo đến Đông cung, lúc này trên lưng nó không đeo yên, có lẽ là nhân lúc cung nhân vào chuồng ngựa cho ăn, nó đã tự ý chạy ra đây. Hiếm khi Y Vân để lộ vẻ lo lắng, nó chạy đến bên cạnh hai anh em, trông ngóng theo hướng Tạ Cánh rời đi.

"Đó là mẹ và anh họ, bọn ta đến tiễn mẹ về quê," Lục Thư Thanh phỏng đoán suy nghĩ của nó, "Cha vẫn chưa rời kinh đâu. Ngươi đến tìm cha sao? Có phải ngươi muốn đi cùng với Hổ Sư không?"

Đương nhiên Y Vân không thể trả lời cậu, nhưng hơi thở đầy bất an đã dừng bặt, nó dần bình tĩnh lại.

Tạ Tuấn sống ở kinh thành từ nhỏ, mười mấy tuổi gia đình lại gặp biến cố, cho nên tới tận bây giờ khi đã đến tuổi cập quan, cậu vẫn chưa từng về quận Trần lần nào.

Suốt một tháng nay kể từ khi quay về ngõ Ô Y, cậu đã tu sửa lại nhà cũ, chọn ra một tốp nô bộc và thị nữ mới, cố gắng khôi phục mọi thứ lại như xưa, sau đó sai người lấy danh sách các hạ nhân đã mất trong vụ án năm Trinh Hữu thứ mười bảy rồi tìm đến từng nhà một, xem người thân của họ có còn sống trên đời hay không, nếu có thì hỗ trợ tiền của, hoặc là cung cấp cho họ một công việc để nuôi sống gia đình.

Đoàn người đã đi được hơn mười dặm, rời khỏi quan đạo ở ngã ba đường, rẽ vào đường núi dẫn đến bến đò sông Hoài. Tạ Cánh vén rèm xe, y ngồi song song với Tạ Tuấn ở phía trước, đột nhiên nghe cậu mở lời: "Nếu chú thấy sống ở phủ Chiêu Vương — à không, ý con là ở tiềm để — có nhiều điều bất tiện, chi bằng cứ trở về ngõ Ô Y đi. Nhà mới vừa sửa sang xong, để trống cũng phí, bệ hạ sẽ không nói gì đâu."

Nhưng Tạ Cánh lại khẽ lắc đầu: "Thứ nhất thân phận chú vốn đã lúng túng, bây giờ lấy danh nghĩa gì để mà quay về nhà mẹ đẻ ở đây? Bên ngoài người ta thích nhất là bàn tán những chuyện kiểu này, đến lúc đó liên lụy đến mặt mũi của con và các em con thì thật chẳng hay chút nào. Thứ hai, nếu con để một 'trưởng bối' như chú ở trong nhà, sau này Lý Dã biết xử sự làm sao?"

Tạ Tuấn không tỏ rõ ý kiến, chỉ cười khổ một tiếng. Tạ Cánh thấy sắc mặt cậu như vậy, bèn bóng gió hỏi: "Mấy tháng con không ở kinh thành, công việc của Hạc Vệ đều giao hết cho một mình Lý Dã sao?"

Tạ Tuấn gật đầu: "Nghe Lý Huống nói, từ sau khi Phương Trần đảm nhiệm vị trí dẫn đầu Hạc Vệ, Lý phu nhân cũng đã buông tay, không can thiệp gì vào việc của nàng nữa. Có nàng toàn quyền phụ trách, con cũng chẳng cần phải lo đến công vụ."

Nghe vậy, Tạ Cánh biết Tạ Tuấn và Lý Dã đã tháo gỡ được khúc mắc thuở thiếu niên, thế nên cũng không nhiều chuyện xen vào thêm nữa.

Tạ Tuấn nhìn vô định về phía con đường trước mặt một lúc, rồi lại chợt hỏi: "Thời gian còn ở tiềm để, chú với bệ hạ... Đã từng cãi nhau chưa?"

Tạ Cánh đáp không chút do dự: "Dĩ nhiên là rồi."

Trong suốt những năm tháng dài đằng đẵng sớm chiều bên nhau ấy, y và Lục Lệnh Tùng không chỉ từng cãi vã, mà những va chạm lớn nhỏ cũng nhiều không đếm xuể, không động tay động chân chẳng qua là vì sức lực đôi bên quá chênh lệch, đương nhiên Lục Lệnh Tùng không thể đơn phương đánh y, nhưng nếu hai người thực sự ngang tài ngang sức, thì chuyện đánh nhau cũng chưa chắc sẽ không xảy ra.

Tuy là người quen thuộc với đối phương nhất, nhưng không phải lúc nào cả hai cũng công nhận ý kiến của nhau, phần lớn thời gian là bất đồng quan điểm. Có lúc thậm chí họ còn chẳng hiểu nổi đối phương đang nghĩ gì trong đầu, hay tại sao lại có thể đưa ra quyết định như thế. Nói ngắn gọn thì chính là: Hiểu nhưng không thấu.

Tạ Cánh vốn nổi tiếng với tính tình kiêu căng ngang ngược; còn Lục Lệnh Tùng dù là một người hiền hòa, nhưng tuổi trẻ khí thịnh, một khi nổi nóng thì cũng không chịu nhường nhịn ai. Thế nên giữa hai người không thiếu những lần cãi nhau kịch liệt, cãi đến mức nhìn kiểu gì cũng thấy đối phương chướng mắt lại càng diễn ra thường xuyên hơn. Có đôi lúc tức đến choáng váng cả đầu, y đã từng không nhịn được mà nghĩ: Rốt cuộc năm xưa mình vừa ý cái người này ở điểm nào vậy?

"Đột nhiên con lại hỏi chuyện đó làm gì?"

Tạ Tuấn cười, lắc đầu: "Con vốn gặp phải vài chuyện khó khăn, không biết nên giải quyết thế nào, định hỏi chú chỉ điểm một chút. Nhưng xem ra, đến cả thần tiên quyến lữ như chú và bệ hạ còn có lúc giận dỗi, vậy thì vấn đề của con cũng chỉ là chuyện thường tình ở đời, không thể giải quyết bừa bãi, chỉ có thể đối mặt mà thôi."

Tạ Cánh trầm ngâm một lát, rồi quyết định hỏi thẳng: "Chuyện giữa con và Lý tiểu thư, chú không thể quyết định thay con, vậy nên cũng sẽ không hỏi đến chuyện thành thân. Chú chỉ hỏi chuyện lập nghiệp thôi, con tính thế nào?"

Tạ Tuấn suy nghĩ một hồi rồi chậm rãi đáp: "Trong đầu con vốn đã tính thế này: nay chú đã không còn ở trong cung, nhà họ Tạ tuy là nhà ngoại của Đông cung, nhưng Thanh Nhi vẫn chưa kế thừa đại thống, thế lực cũng có hạn, khó gây sự chú ý. Con cứ tiếp tục đảm đương chức vụ ở Hạc Vệ, cũng xem như giúp đỡ được Thanh Nhi — lời nào khó nói, con sẽ giúp người đi nói; có chuyện rắc rối, con sẽ đứng ra giải quyết thay."

"Nhưng nếu sau này chú trở thành chủ Trung cung, có thể ở gần bên cạnh, che chở cho Thanh Nhi, vậy con nghĩ mình cũng có thể gác lại trọng trách này. Không phải vì nghi ngờ tấm chân tình của bệ hạ dành cho chú, chỉ là con đã từng một lần bước qua quỷ môn quan, nghĩ kỹ lại, công danh phú quý ấy thật sự chẳng có gì đáng để luyến tiếc cả."

Ánh mắt của cậu có chút lơ đãng: "Nhưng mà... Ông và cha vẫn luôn kỳ vọng ở con, đến cuối cùng, họ vẫn chỉ mong con bước đi trên con đường chính thống: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ."

Tạ Cánh vỗ nhẹ lên lưng cậu: "Bọn họ từng bước đi lên từ con đường ấy, trông mong con gây dựng sự nghiệp là điều khó tránh khỏi; nhưng dù kỳ vọng có lớn lao đến đâu, đứng trước máu mủ tình thân, chung quy vẫn có thể thỏa hiệp được. Nếu con thật sự có thể không lo lắng, không sợ hãi mà thuận theo lòng mình, thì ông bà, cha mẹ con ở suối vàng cũng có thể yên lòng mà thở phào một hơi rồi."

Từ lần trước Tạ Cánh trở về quận Trần đến nay cũng đã gần tròn mười năm. đầu năm nay Lục Lệnh Tùng từng đích thân đến một chuyến để cứu trợ thiên tai, tuy lúc về không kể tỉ mỉ tình hình quê cũ, nhưng Tạ Cánh cũng đoán được tám chín phần.

Nguyên quán của họ ở gần Dương Hạ, so với cảnh tượng đêm Nguyên tiêu phồn hoa mà họ đã từng dạo chơi năm xưa, giờ đây thành quách đã vắng đi quá nửa, chỉ lác đác vài hàng quán còn mở cửa, trên đường cũng chẳng có mấy bóng người.

Nguyên nhân gần như là do thiên tai, còn về tai họa xa hơn — nhà họ Tạ vốn là hào tộc lớn ở địa phương, cả dòng họ cùng thông gia cộng lại đã chiếm gần nửa dân số trong thành. Khi bị liên lụy phạm tội, đàn ông trong nhà buộc phải đi biệt xứ, những người già yếu, phụ nữ và trẻ em còn ở lại không gánh nổi gia nghiệp cũng lần lượt rời đi, đến nơi khác để mưu sinh.

Tạ Tuấn chưa từng thấy dáng vẻ của thành Dương Hạ năm xưa, ban đầu còn chưa thở dài xót xa như Tạ Cánh; nhưng đến khi quay về tổ trạch, chứng kiến khắp nơi chỉ toàn là tường đổ vách sập, cậu lại sững người tại chỗ, hồi lâu không nói nên lời.

Bên trong nhà vẫn còn vài người cùng dòng họ ở lại, nhưng đôi bên lại chẳng quen biết lẫn nhau. Ra mở cửa là một người trẻ tuổi, nghe Tạ Cánh và Tạ Tuấn giới thiệu xong, cậu ta sợ hãi quỳ xuống dập đầu, còn tưởng là trong kinh lại giáng thêm tội xuống.

Tạ Tuấn vội dìu cậu ta đứng dậy, nói rõ ý định, chàng trai mới nơm nớp lo sợ dẫn họ vào trong, vừa đi vừa giải bày: "Vào năm Trinh Hữu thứ mười bảy khi biến cố xảy ra, tổ trạch cũng bị sao kiểm, căn phòng mà Vương phi từng ở cũng đã bị đập hủy từ lúc đó. Đầu năm nay bệ hạ có trở về đây một lần, thu dọn và mang đi vài món đồ cũ, đến giờ trong nhà thật sự là trống trơn hết rồi, không còn lại gì nữa."

Tạ Tuấn nhìn quanh trong ngoài phòng khách, thì thảo hỏi: "Bệ hạ đã hạ chỉ xóa sạch tội danh cho Trần quận Tạ thị, vậy mà không có người trong họ nào trở về sao?"

Chàng trai bất lực nói: "Có ai mà lại không muốn quay về đâu, nhưng thật sự trở về được bao nhiêu người chứ? Gia đình sa sút, họ dựa vào cái gì để mà sống ổn định đây?"

Tạ Cánh bước chậm về viện cũ của mình, cửa sổ giấy rách nát bị gió thổi vang lên những tiếng phần phật hỗn loạn; bậc cửa nơi Lục Thư Thanh từng ngồi ăn cơm chiên trứng giờ chỉ còn lại một nửa. Hai cánh cửa trượt bị gió đẩy xoay ra rồi lại xoay vào, chậm rãi đong đưa, năm tháng cũng theo đó xoay vần, rồi chẳng biết đã đi đến đâu.

Trong phòng ngủ vẫn còn để lại chiếc giường khung gỗ của Tạ Cánh, đó đã từng là nơi y ngủ một mình, cũng từng là nơi y ngủ cùng Lục Lệnh Tùng. Dưới gầm giường không còn đồ vật gì cả, chú hổ vải mẹ tự tay khâu mà Lục Lệnh Tùng mang về cho y có lẽ chính là vết tích cuối cùng chứng minh rằng y đã lớn lên ở quận Trần.

Tạ Cánh cảm thấy từ sâu trong xương tuỷ dâng lên một luồng khí lạnh thấm dần ra da thịt. Lần trước, khi trở về nơi này, quyển sách lật úp trên bàn thậm chí vẫn dừng lại đúng trang mà y tiện tay lật tới trước lúc rời đi.

Trong sân, Tạ Tuấn vẫn còn đang hỏi chuyện: "Tài sản ruộng đất bị tra xét và tịch thu chẳng phải nên trả về nguyên chủ ư? Sao vẫn thành ra thế này?"

Tạ Cánh nghe không rõ câu trả lời của chàng trai nọ. Nhưng "trả về nguyên chủ"... Có thể trả lại được bao nhiêu đây? Phần lớn e là đã hóa thành tiền cứu trợ cho mùa đông năm ngoái, hoặc suốt năm năm qua, chúng đã bị tiêu sạch vào công phí của phủ nha rồi.

Y bỗng bật cười thê lương, nhưng nghĩ theo hướng tích cực thì ít ra trong hai triều của Lục Lệnh Tùng và Lục Thư Thanh sắp tới, đám quan lại kia sẽ chẳng còn cơ hội dâng tấu buộc tội "ngoại thích can chính" nữa. Một gia tộc suy tàn đến mức này, thân thích chẳng còn lòng cầu danh lợi, bản thân lại là "vợ cả của thiên tử", "sinh mẫu của Đông cung" mà chẳng được phong tước miện, y còn có thể can thiệp được vào chính sự gì đây?

May mắn hơn hết chính là phần mộ tổ tiên vẫn còn, tuy giờ đây trông tiêu điều hoang vắng, nhưng chí ít vẫn có người trông coi, thỉnh thoảng sửa sang hương khói. Tạ Tuấn đã đến chùa trong thành nhờ trụ trì chọn giờ lành ngày tốt, cuối cùng bốn vị trưởng bối cũng đã được an táng yên ổn.

Khoảnh khắc hạ huyệt không có tiếng khóc nức nở, cũng chẳng có âm thanh bi thương nào, thậm chí khó mà tìm ra được biểu hiện đau buồn trên khuôn mặt của Tạ Cánh và Tạ Tuấn. Nỗi đau trong quá khứ thật sự đã kéo dài quá lâu, quá sâu và quá nhiều. Thứ cảm xúc ấy cũng sẽ khiến con người ta mỏi mệt, có lẽ ngay tại khoảnh khắc vừa mất đi, vết thương lòng kia đã bị đục xuyên qua, để rồi suốt phần đời còn lại, mỗi lần vô tình cọ xát, những gì mà họ nếm được chỉ còn là cảm giác tê dại và đau đớn mơ hồ mà thôi.

Khi khâm liệm, Lục Lệnh Tùng đã dùng loại quan tài bằng gỗ lim quý giá nhất. Ngoài việc sắm sửa thêm đồ vàng mã, Tạ Tuấn còn đem theo tất cả di vật lúc sinh thời của ông bà cha mẹ ở ngõ Ô Y để cùng chôn theo. Nếu thật sự để tâm đến cái gọi là "lễ tang long trọng" thì Tạ Cánh đã không từ chối việc đưa cha mẹ cùng anh và chị dâu an táng ở núi Bắc Mang rồi, nhưng thật nực cười thay, dù nằm xuống kề bên có là vương hầu khanh tướng hay thân quyến áo vải, dù có được tổ chức đại tang long trọng khiến muôn người rơi lệ đi nữa, thì người đã chết rồi cũng đâu thế sống lại?

Đêm hôm đó, Tạ Cánh ở lại từ đường một mình, lau chùi sạch sẽ bốn tấm bài vị mới lập xong, y quỳ xuống, chắp tay hành lễ, sau đó hơi ngẩng mặt lên lặng lẽ nhìn vào khoảng không trước mặt.

"Mấy ngày nay con thường nghĩ, liệu cứ khăng khăng đưa mọi người về quận Trần có phải là việc làm đúng đắn hay không?"

"Kể từ lúc mọi người ra đi, khi đứng trước tất cả những lựa chọn, con đều do dự, không biết đúng sai, chẳng rõ nặng nhẹ, để hơn ba mươi năm trôi qua phí hoài. Cha từng nói có những chuyện phải đến năm ba mươi tuổi con mới hiểu được là đã đề cao con quá rồi."

"Trước khi rời kinh, Ninh Ninh đã nói với Thanh Nhi rằng, nếu như đó thật sự là điều con mong muốn, nếu sống trên đời đối với con là một chuyện đau khổ, thì dù con có chọn cái chết, con bé cũng sẽ không ngăn cản. Ấy vậy mà con lại chưa từng biết, hóa ra con gái con đã nhìn nhận chuyện sống chết và huyết nhục tình thâm như thế này."

"Tuấn Nhi cũng nói thằng bé gặp phải một vấn đề nan giải, nhưng con là một kẻ vô dụng, chẳng thể giúp nó giải hoặc. Ngay cả bản thân con cũng có một khúc mắc, chẳng biết liệu cha mẹ và anh chị có thể hiển linh, chỉ đường dẫn lối cho con hay chăng?"

Bên ngoài từ đường, cả cánh đồng rộng lớn đã chìm vào giấc ngủ say. Men theo đường bờ ruộng đi xuống chính là con suối năm xưa nơi y, Lục Lệnh Tùng và Lục Thư Thanh từng nghịch nước. Ngẩng đầu nhìn lên bầu trời đêm phương Bắc, kia vẫn là dải ngân hà thời Tấn lấp lánh điểm tô cho trăng non thuở Tần.

Tạ Cánh cứ thế đứng trước cửa từ đường, dõi mắt nhìn tất cả những gì y có thể nhìn thấy.

Có lẽ cung Thái Sơ đúng là một nơi lạnh lẽo khó sống, nhưng rời khỏi nơi đó, chẳng lẽ y thật sự có thể sống cả đời tùy tâm tự tại ở một nơi nào đó khác hay sao? Từ khi mở mắt y đã lớn lên giữa khói lửa chốn thị thành, liệu có chịu đựng được nỗi cô quạnh kéo dài hàng chục năm như một ẩn sĩ nơi núi rừng hay không? Y và tộc nhân chẳng nói với nhau được mấy câu, cảnh cũ giờ cũng đã khác xưa. Đến hôm nay, quận Trần đối với y mà nói còn mấy phần xứng đáng gọi là "cố hương"?

Lục Lệnh Tùng tôn trọng y, để y được tự do; các con thấu hiểu y, cũng muốn y được tự do. Nhưng liệu rằng y có thể thản nhiên đón nhận sự thành toàn ấy?

Rốt cuộc y rời đi vì điều gì?

Đi để trốn tránh, để tìm tự do, hay chỉ vì "muốn đi" mà thôi?

Suy cho cùng, đã sinh ra trong chốn trần thế vẩn đục này thì vĩnh viễn sẽ không thể sở hữu sự "tự do" đúng nghĩa. Mà dẫu có thể chặt đứt mọi phiền muộn trên thế gian, bỏ lại thân xác này đi nữa, thì y – Tạ Chi Vô thật sự có được tự do để "tìm đến cái chết" hay không?

Nếu phải lựa chọn ngay khi vừa hay tin dữ về cái chết của Lục Lệnh Chân, thì không cần nghi ngờ gì cả, Tạ Cánh thật sự có thể đã chọn cái chết. Lúc ấy đại sự còn chưa bắt đầu, huyết thù vẫn chưa báo, sợ rằng sẽ lại có người mất mạng vì thù hận của bản thân, lại không gánh nổi cái giá quá nặng nề mang tên "sống chết", cho nên rất có khả năng y sẽ tự mình kết thúc tất cả.

Có lẽ vì Lục Lệnh Tùng đã nghĩ đến chuyện này, cho nên tất cả chi tiết tình hình chuyện xảy ra ở đảo Bát Quái, hắn đều không bàn bạc với Tạ Cánh. Hắn sợ y sẽ buông bỏ, càng sợ y khó lòng chọn lựa giữa "kiên trì" và "buông bỏ", sau đó dùng cái chết để trốn tránh.

Nhưng hôm nay tất thảy đều đã chấm dứt, những sự việc đã xảy ra không thể vãn hồi, người đã mất cũng chẳng thể sống lại. Ngăn giữa "sự sống" và "cái chết" của bản thân y chính là biết bao nhiêu sinh mạng và máu tươi đã đổ xuống, là nửa đời cay đắng gian truân của những người trần mắt thịt. Nếu như Tạ Cánh vẫn lựa chọn cái chết, vậy thì chẳng khác nào giống như lời Lục Lệnh Tùng từng nói, bọn họ đều đã "chết vô ích" cả rồi. Vứt bỏ mạng sống của chính mình là sỉ nhục tất cả những người đã liều mạng bảo vệ y, những người cố gắng giành lấy một tia hy vọng mong manh chỉ để y được sống.

Tự do mà Thôi Thục Thế từng nói trước lúc lâm chung, rằng nàng "sẽ chết vì bản thân mình", y không có tư cách để sở hữu.

Tạ Cánh bỗng chợt hiểu ra vì sao Tiêu Thái hậu lại giành cả cuối cuộc đời mình để ẩn náu nơi cửa Phật chùa Kê Minh, và vì sao suốt mấy năm nay Ngô thị ngày càng một lòng hướng thiện. Khi con người ta không tìm thấy lối thoát khỏi vận mệnh mà cũng chẳng thể chết đi, thì hướng mắt về phía Thần Phật có lẽ là con đường ít phải trả giá nhất, ít rủi ro nhất, cũng ít phải hy sinh nhất.

Từ xa vang lên tiếng lá khô bị giẫm nát, Tạ Cánh thu tầm mắt lại, chỉ thấy Tạ Tuấn khoác áo choàng dày, xách đèn lồng vội vã bước đến. Trong tay cậu còn nắm một vật gì đó, khi cách y chừng mười mấy bước, cậu đã lớn tiếng báo tin:

"Chiến báo từ Ung Châu, là thư tay của Lý tướng quân ạ!"
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 118


<b>《</b><b> </b><b><i>28.2 </i></b><b>》</b>

Dưới chân tường thành, bên ngoài cửa ải chia cắt biên giới, vùng thảo nguyên rộng lớn kia chính là rìa ranh của khu vực du mục Mạc Bắc, còn bên trong ải, cách đó không xa là mấy ngôi làng không tên thuộc hạ hạt Ung Châu.

Phóng tầm mắt nhìn về phía tường thành, có thể thấy số binh lính trú đóng gần như tăng lên gấp đôi so với hơn mười năm qua.

Trận tuyết đầu tiên ở biên ải phía Bắc đã bắt đầu rơi từ cuối thu, sông ngòi nhanh chóng bị đóng băng, nhưng để đóng thành lớp băng đủ cứng, đủ chắc để người ngựa qua lại, ít nhất cũng phải đợi đến khi tiết trời vào đông.

Phía Bắc dòng sông Vô Định, một nhánh quân Mạc Bắc có quân số xấp xỉ một sư đoàn đã chờ đợi thời cơ này từ lâu, chuẩn bị vượt sông sang bờ bên kia, áp sát quan ải.

Việc quân phòng thủ Ung Châu tăng lên khiến nhiệm vụ xuôi Nam bắt người cướp của mà chúng cần làm có mức rủi ro cao hơn những năm trước, đương nhiên lợi ích thu được cũng theo đó mà lớn hơn. Nhưng vì đầu xuân năm nay, cấp trên của chúng là Đinh Giám đã lập được quân lệnh trạng, giải quyết thành công kẻ địch là "Kiến Uy tướng quân" khiến vương đình đau đầu, cả đội ngũ được thơm lây tiếng tốt, đến mùa đông tất nhiên cũng được giao phó trọng trách tiền trạm.

Đêm mười lăm tháng Mười một, mọi chuyện vẫn như thường. Quân đội Mạc Bắc đã bắt đầu bước vào giai đoạn chuẩn bị cuối cùng. Mệnh lệnh của Đinh Giám vừa mới được truyền đi khắp toàn quân, chậm nhất là sau tối mai, chúng sẽ xuất phát qua sông.

Canh hai, tuyết lại bắt đầu rơi, ào ạt dữ gội, gió rít lên từng cơn. Đến canh ba, tuyết đã đọng lại thành một lớp dày phủ trắng đất. Lính gác gắng gượng mở mắt, đoạn đánh một cú ngáp dài. Cách đó hơn mười dặm, nơi cửa ải, ngoài ánh đèn treo cao trên tường thành thì không có gì bất thường.

Thế nhưng trong bóng tối nơi gã chẳng thể nhìn thấy, cánh cổng nhỏ bên hông thành đã âm thầm mở ra, một đội kỵ binh lặng lẽ phóng ngựa rời khỏi thành, móng ngựa được quấn chặt vải bông, tất cả binh sĩ đều không cầm đuốc, bọn họ giẫm lên lớp tuyết dày, lặng lẽ men theo hướng sông Vô Định mà đi.

Theo Lục Lệnh Tùng rời khỏi quan ải chỉ có một nửa quân số Hổ Sư, không hề tỏ thái độ nghênh chiến. Những người khác ở lại trong thành, mấy ngày này đã phối hợp cùng quân thủ thành Ung Châu gia cố phòng tuyến.

Điều này gần như có thể xem là một dấu hiệu cho thấy vị thế chiến lược của Ung Châu đang ngày càng được nâng cao. Trước đây, triều đình bận rộn đối phó với cuộc đấu đá giữa các sĩ tộc, thay ngôi đổi triều, các đáng phái và hào môn tranh giành quyền lực, vậy nên chưa từng thực sự chú ý đến nơi này. Mãi cho đến một hai năm trở lại đây, có lẽ đúng là do vận mệnh xoay vần, thành trì nơi biên ải này đã từng lần lượt che giấu oan phượng, nghênh đón tiềm long, tiễn đưa cô nhạn. Vị thái thú già một bước lên làm tể tướng, cuối cùng cũng chờ được đến ngày mây tan trăng tỏ. Quan mới nhậm chức ra tay quyết liệt, lập tức đềa ra những sách lược cứng rắn cho Ung Châu.

Suốt hơn ba mươi năm, từ niên hiệu Kiến Ninh, Trinh Hữu đến Cảnh Dụ, hai đời thiên tử đều bị ngoại thích kiềm chế mạnh mẽ, binh lực chủ yếu đóng quân trong vùng và lân cận kinh thành, bọn họ không dám, cũng không được tự tiện điều binh ra biên ải phía Bắc. Mãi cho đến nay, khi mối đe dọa hoàng quyền đã tạm thời suy giảm, triều đình mới dư sức điều thêm binh lực dẹp trừ giặc ngoại xâm.

Cách bờ sông còn mấy dặm, Lục Lệnh Tùng ghìm cương ngựa quay đầu lại. Các thuộc quan phía sau hiểu ý, không ai thổi giác mà chỉ ra hiệu bằng tay, đội quân lập tức chia ra làm hai cánh, men theo hai hướng Đông Tây vượt sông.

Lục Lệnh Tùng dặn dò: "Sau khi qua sông cứ làm theo kế hoạch. Lấy cửa hẻm núi phía Tây làm điểm, lấy bờ sông làm tuyến, đóng quân tại hai vị trí đó. Không cần chủ động khiêu khích, chỉ cần đảm bảo chúng không thể phá vòng vây là được."

Quân Mạc Bắc đóng trại để lưng tựa núi, mặt hướng về phía sông Vô Định. Một khi Hổ sư phong tỏa con đường dọc theo bờ sông và dãy núi phía Tây, bọn chúng sẽ chỉ còn lại đường núi phía sau để thoát thân. Nhưng lúc này, trận tuyết lớn đã chặn kín đường núi, lên núi tức là đi vào đường chết. Cứ như vậy sẽ lập tức hình thành nên được thế bao vây.

Các thuộc quan sôi nổi đáp lại, sau đó tự tách ra theo nhóm mình. Lục Lệnh Tùng cho ngựa dừng một lát rồi nhập vào đội quân hướng Tây, bóng dáng khuất dần vào trong màn đêm.

Trạm gác của Mạc Bắc phát hiện điều bất thường vào lúc trời tảng sáng. Đinh Giám không đích thân xuất hiện, nhưng phản ứng lại vô cùng nhanh chóng, lửa hiệu kỵ binh lập tức bùng lên, tiếng hò hét chém giết đánh dấu vị trí giao đánh cận chiến, hẳn là ở bờ sông ngoài cửa doanh trại phía Đông.

Quân Hổ sư xung trận làm đúng như lời Lục Lệnh Tùng căn dặn, đồng loạt hô lớn: "Thiên tử Đại Tề ta đến không vì việc nước, chỉ vì việc nhà! Giao nộp chủ soái Đinh Giám của các ngươi ra đây, chúng ta không cần đánh trận này!"

Chưa kịp hô đến lần thứ hai, đã có một viên tướng thông thạo tiếng Hán truyền lời về lều chủ soái. Đinh Giám nghe xong, hồi lâu mới nói: "Đừng quan tâm đến chúng. Nếu nhất thời chưa đẩy lui được thì cứ rút về doanh trại, án binh bất động. Chỉ cần liên lạc được với vương đình, bọn chúng sẽ không dám ngang ngược như thế trên bờ Bắc sông mãi đâu."

Sau đó, sắc mặt gã trầm xuống, nói thêm: "Lời ban nãy, ai dám truyền nhảm trong quân, khiến cho những kẻ không hiểu hiểu được —— g**t ch*t không tha."

Có điều, chỉ trong giây lát, trinh sát mà Đinh Giám phái về vương đình Mạc Bắc cầu viện đã từ trong trại lao vút ra như gió, phóng ngựa thẳng về phía cửa hẻm núi phía Tây.

Quân mai phục của Hổ Sư đã bố trí xong từ sớm, lớp lớp quân mã náu mình giữa núi rừng. Một viên thuộc quan trông thấy kỵ binh lao đến bèn quay lại xin chỉ thị: "Bệ hạ, có cần chặn lại không?

Lục Lệnh Tùng lắc đầu, đáp nhỏ: "Thả đi, để thăm dò thực hư xem sao."

Đợi đến khi tên trinh sát vừa khuất bóng trên con đường núi, nhóm quân Hổ Sư mai phục lập tức lộ diện chặn kín lối ra.

Không lâu sau, chiến báo từ phía Đông truyền về, thấy quân số không chiếm được ưu thế, Đinh Giám cũng không ham chiến, lập tức ra lệnh rút quân về doanh. Phía Hổ Sư cũng làm theo đúng chỉ thị của Lục Lệnh Tùng, chủ động lui binh, quay lại phòng thủ dọc tuyến bờ sông.

"Chắc là hắn sắp chuyển hướng sang phía Tây rồi." Một thuộc quan nói.

Lục Lệnh Tùng trầm ngâm: "Đinh Giám thừa biết chúng ta sẽ phong tỏa cửa hẻm núi, hắn sẽ không dại gì mà đối đầu trực diện, cùng lắm sẽ chỉ phái một đội nhỏ đến thăm dò mức độ mà thôi."

Quả nhiên chưa được bao lâu, từ xa đã thấy vài kỵ binh Mạc Bắc phi ngựa về phía hẻm núi. Vừa trông thấy vương kỳ Đại Tề, chúng lập tức quay đầu rút lui. Để bảo toàn lực lượng, Đinh Giám quả thật chỉ cử vài người đến thăm dò.

"Trước khi viện binh của vương đình đến nơi, Đinh Giám chắc chắn sẽ không mạo hiểm chủ động phá vòng vây. Bọn chúng không ngờ đường trước, đường sau, lối bên đều bị chặn cả. Lương thảo và quân nhu thiếu thốn, kéo dài chỉ càng thêm nguy."

Thuộc quan đáp: "Bây giờ chúng ta chỉ cần làm tốt vai trò chướng ngại vật này, chờ tin báo từ tường thành đưa đến nữa là được."

Hai ngày đầu bị phong tỏa, quân Mạc Bắc vẫn giữ được bình tĩnh, mặc kệ quân Hổ Sư đứng bên ngoài doanh trại hét lớn rằng "Bệ hạ chỉ cần mạng của Đinh tướng quân", chúng vẫn không để ý.

Đến ngày thứ ba, tức ngày Đinh Giám dự định vượt sông, trong quân bắt đầu bàn tán xôn xao. Quân Mạc Bắc có nhiều kinh nghiệm sa trường, dù chúng cũng khá tin phục một dũng tướng như Đinh Giám, nhưng suy cho cùng vẫn cảm thấy đây "không phải người cùng tổ tiên, lòng dạ ắt khác biệt", huống chi Đinh Giám lại là người Hán, xuất thân không rõ ràng, thế nên từ đầu chúng đã giữ lại chút hoài nghi trong lòng.

Chúng từng giao chiến với Hổ Sư nhiều lần, không có ấn tượng gì về việc phe đối thủ có thói quen dùng những lời đao to búa lớn để khiêu khích. Hơn nữa, mặc dù chỉ nghe được phiên phiến, nhưng nhận ra trong những tiếng hô gọi đó có nhắc đến tên của chủ soái cũng khiến chúng không khỏi tò mò, không biết đối phương đang nói gì.

Lời bàn tán lan đi khắp nơi đã không còn là thứ mà quân lệnh của Đinh Giám có thể trấn áp được nữa.

Chạng vạng ngày thứ ba, Lục Lệnh Tùng mở chiến báo vừa mới được chuyển từ tường thành đến. Người gửi thư là một phó quan Hổ Sư trú quân tại quan ải, trong thư viết rằng: "Vương đình Mạc Bắc không có động tĩnh, cũng không điểm binh."

Tính theo thời gian, với tốc độ phi ngựa của trinh sát được phái đi cầu viện, thì dù ba ngày qua hắn không kịp về tới vương đình, ít nhất cũng phải đi qua được một trong những điểm đóng quân gần nhất rồi, vậy mà viện binh vẫn chưa đến.

Chuyện này bắt đầu trở nên kỳ lạ.

Ngày thứ tư, rồi ngày thứ năm, quân Hổ Sư đóng tại tường thành vẫn không hề phát hiện dấu hiệu điều động binh lực từ bất kỳ cứ điểm nào của Mạc Bắc ở bên ngoài quan ải. Đồng thời, lương thảo mà Đinh Giám mang đến bờ sông Vô Định cũng gần như cạn sạch. Quân tiếp tế không thể đi vào từ đường núi phía Tây, mà nếu có quay lại để xin viện binh, thì bây giờ đội quân kia cũng phải đến nơi rồi. Trừ phi ——

Ngay từ đầu đã không hề có viện binh. Không ai đến cứu chúng cả.

Trong tình cảnh bị bao vây kín kẽ, ý nghĩ ấy vừa nhen nhóm đã lập tức lan rộng, như thể có ngọn lửa khổng lồ điên cuồng cắn nuốt.

Đám binh lính đã tập họp, đòi gặp chủ soái vài lần, trong lòng Đinh Giám cũng thấp thoáng đoán được gì đó, nhưng gã không dám nói rõ linh cảm của mình cho bất kỳ ai bên cạnh.

Ngày thứ sáu, sau khi xem xong chiến báo, Lục Lệnh Tùng nói: "Không có quân tiếp viện đâu. Với chủ nhân của Đinh Giám, hắn chỉ là một quân cờ bỏ đi mà thôi."

Vương đình Mạc Bắc thừa hiểu rằng, khi đế vị nơi Hoàng đô phương Nam xa xôi đổi chủ, thì thái độ và thủ đoạn với biên sự rất có khả năng cũng sẽ thay đổi hoàn toàn. Sự thất bại của chúng trong những trận cướp bóc suốt hai mùa đông liền đã khiến trong tộc oán thán khắp nơi. Mà nay, Chiêu Vương và Hà Cáo – những kẻ mà chúng từng đối đầu ngày trước đã trở mình nắm quyền, vì lợi ích lâu dài, chỉ sợ bọn họ cũng đang tính toán đến việc thay đổi sách lược.

Tuy nhiên, quan hệ thân tộc của người Hán ở Trung Nguyên lại không giống như họ. Có cái chết của Lục Lệnh Chân chắn ngang ở giữa, nếu Lục Lệnh Tòng nhất thời nóng lòng, bất chấp sự yên ổn của giang sơn mà khăng khăng báo thù đến cùng, thì đối với Mạc Bắc mà nói cũng là một vấn đề vô cùng nan giải — đó chính là cục diện chúng không mong thấy nhất.

Mà nay, nếu Lục Lệnh Tùng chấp nhận chủ động giữ cái chết của Lục Lệnh Chân ở mức độ thù riêng, không để nó trở thành việc nước, thì hiển nhiên vương đình Mạc Bắc cũng sẵn lòng vứt bỏ Đinh Giám – một tên người Hán với cánh tay bị tàn phế để chấm dứt đoạn ân oán này. Về sau muốn bàn chuyện tiền bạc hay đất đai cũng dễ mở lời hơn nhiều.

Sáng sớm ngày thứ bảy, cửa doanh trại bỗng nhiên mở toang không báo trước, mấy chục kỵ binh Mạc Bắc phóng ngựa lao thẳng ra ngoài. Không chờ được viện binh, cũng chẳng moi ra được lời giải thích nào từ chỗ Đinh Giám, chúng chỉ còn cách liều mạng xông vào vòng vây.

Hổ Sư không chủ động tấn công, vậy nên dù bị bao vây nhiều ngày, chúng gần như không hao tổn gì mấy. Khúc sông Vô Định trước mặt đã đóng băng cứng cáp, lại không thiếu thốn lương thảo, vì thế khi ứng chiến vẫn vô cùng ung dung.

Nhóm binh lính còn ở lại doanh trại trèo lên trạm gác, dõi mắt nhìn về phía Tây quan sát tình hình, chỉ thấy Hổ Sư vừa đánh vừa lui, dẫn dụ đám phản quân kia đến tận cửa hẻm núi thì dừng lại, nhưng họ không lập tức ra tay giết chóc, mà chỉ đứng yên, tạm thời tạo thành thế giằng co.

Một viên tướng Hổ Sư thông thạo ngôn ngữ bước ra khỏi hàng, lớn giọng nói: "Chỉ dựa vào mười mấy người các ngươi, muốn liều mình xông qua cửa ải này chắc chắn sẽ bị chết sạch. Giờ các ngươi đã phản bội, nếu lại quay về doanh, Đinh Giám tuyệt đối sẽ không tha cho các ngươi."

"Suốt một tuần nay trinh sát một đi không trở lại, chư vị hẳn đều hiểu rõ, vương đình Mạc Bắc không bằng lòng liều lĩnh đối đầu với bệ hạ mà cứu Đinh Giám. Bệ hạ nhân từ, không muốn để mối thù riêng với Đinh Giám liên lụy đến các ngươi. Nếu các ngươi bằng lòng góp sức, nghĩ cách khuyên các đồng liêu trong doanh tự nguyện giao nộp Đinh Giám, thì đồ ăn thức uống và cả đường sống, bệ hạ ắt sẽ không bạc đãi các ngươi đâu."

Phản quân nhìn nhau, không ai đưa ra quyết định. Quân lính trong doanh trại hoàn toàn không biết nội dung cuộc đối thoại của họ, chỉ nhận thấy phe đối địch dường như không có ý định tàn sát, trong lòng mỗi người đều có những suy đoán riêng.

Ngày thứ bảy, khi màn đêm buông xuống, có ánh lửa bùng lên từ phía Tây Bắc của doanh trại Mạc Bắc. Phản quân tấn công vào điểm phòng thủ yếu ớt, sau đó chia nhau vào trong doanh tìm kiếm đồng đội chúng quen biết, khiến mọi thứ trở nên hỗn loạn không sao chịu nổi.

Đinh Giám dẫn theo một đội thân vệ giao chiến với phản quân ngay bên ngoài lều soái. Có kẻ không hiểu rõ tình hình, không biết nên trung thành với chủ hay theo phe phản loạn vốn chiếm đại đa số, nhất thời tiếng hò hét vang dội, la hét, tiếng chém giết, tiếng mắng chửi vang lên hỗn loạn, xen lẫn tiếng hô từ nhóm binh sĩ Hổ Sư mai phục bên ngoài doanh trại: "Giao nộp Đinh Giám! Không liên quan đến việc nước, chỉ là việc nhà!"

Thế lửa dần lan ra, cháy đến tận cửa doanh. Chẳng bao lâu sau, Đinh Giám là người đầu tiên thoát ra khỏi nhóm phản loạn, sau lưng chỉ còn lác đác vài tên thân tín đi theo.

Hổ Sư nắm đúng thời cơ xông lên từ cánh Tây, chỉ trong chốc lát đã phá ra một lỗ hổng trong doanh trại, vô số binh sĩ Mạc Bắc lập tức tràn ra như thủy triều. Thế nhưng bọn chúng không hề quay đầu đi tìm chủ soái, chỉ ùa chạy về hướng hẻm núi phía Tây – "đường sống" mà Lục Lệnh Tùng đã hứa cho chúng.

Ngoài cổng doanh trại lửa cháy rực trời, Đinh Giám đang định nhân lúc hỗn loạn mà phá vòng vây, song vì tầm nhìn bị cản trở, gã đành liều mạng mò mẫm trong mờ mịt mà xông ra. Vừa thoát được làn khói dày đặc, gã đã thấy trước mắt có một kỵ binh tách khỏi đội ngũ phi thẳng tới, đối phương cất cao giọng quát: "Còn trốn nữa, ta chỉ coi ngươi là hạng chuột nhắt nhát gan, dám làm mà không dám nhận!"

Đinh Giám thấy rõ người trên ngựa, giật mạnh dây cương, ho khan nói: "Còn ta thật không ngờ bệ hạ lại dám thân chinh đến đây, gióng trống mang binh để trị tội ta thế này đấy. Chẳng lẽ không sợ long ỷ của ngài sẽ sớm đổi chủ hay sao?"

Lục Lệnh Tùng lật ngược trường thương trong tay: "Hôm nay ở đây sẽ chẳng có quân chủ hay vương hầu nào cả. Ta đến đây, trước nhất là vì tình đồng chí, báo thù cho Kiến Uy tướng quân; thứ hai là vì cốt nhục tình thâm, ta báo thù cho Lục Lệnh Chân, em gái đã khuất của mình. Mọi thù oán giữa ta và ngươi đều không liên quan đến việc nước!"

Đinh Giám cười lạnh: "Trưởng công chúa thân là viên tướng dưới trướng bệ hạ, bại dưới tay ta cũng đủ để ta được ghi công vào sổ sách của vương đình Mạc Bắc rồi."

Lục Lệnh Tùng không nổi giận bởi câu châm chọc kia, chỉ giục ngựa chậm rãi xoay hai vòng ngay trước trận, ngạo mạn đánh giá Đinh Giám: "Ngươi chỉ mất đi cánh tay phải, nếu thật sự không có trở ngại gì thì cũng không cần phải trốn tránh ta trong doanh mấy ngày nay chứ? Ta mà lại phải nghiêm túc đối đầu với một kẻ tàn phế cầm binh, hóa ra có thắng cũng chẳng vẻ vang gì, đã vậy trận này không đánh cũng được."

Hắn dừng lại, sắc mặt không đổi, lại nói: "Chỉ một điều này thôi, Đinh tướng quân hãy cân nhắc cho kỹ — liệu thứ mà tên tuổi của ngươi được ghi vào lần này, rốt cuộc là số ghi công, hay là sổ sinh tử đây?"

Nghe vậy, sắc mặt Đinh Giám sa sầm, có thể thấy rằng gã cũng đã tự nhận thức được rằng bản thân đã bị vương đình Mạc Bắc vứt bỏ rồi.

Lục Lệnh Tùng bình tĩnh nói: "Oan có đầu nợ có chủ, nếu như ngươi cũng giống như Trương Diên lấy lòng can đảm ngày hôm nay để giết phụ hoàng ta, giết Tiêu Thái hậu, ta vẫn còn coi trọng ngươi phần nào."

"Đinh tướng quân, đường sáng vốn đã bày sẵn ra trước mắt ngươi rồi đấy, tiếc thay ngươi không nhìn rõ, không chịu đi."

"Thủ lĩnh Tuyên Thất đến từ Lan Lăng Tiêu thị đã mai danh ẩn tích từ dạo đó, dưới tay phụ hoàng, chị ta không tìm được đường sống, ngược lại, sau khi hợp tác cùng ta, ta chưa từng nghi ngờ chị ta chỉ vì xuất thân, giờ đây đã đạt được địa vị cao. Nếu như ngươi cũng liên thủ với ta như chị ta, phụ hoàng và Tiêu Thái hậu đã có thể chết sớm hơn mười năm, phủ Tướng cũng có thể sụp đổ sớm hơn mười năm, chị gái của ngươi cũng chẳng cần phải uổng mạng, còn ngươi có thể cắm rễ đặt chân tại Bắc đại doanh, đến ngày giờ này đã sớm lập ra được vô số thành tựu, không biết có bao nhiêu thuộc hạ dưới trướng vì ngươi mà vào sinh ra tử rồi!"

"Trương Diên hành sự hồ đồ quá khích, ban đầu chị em các ngươi được ông ta cứu giúp, báo ân vốn không thể chỉ trích, nhưng ông ta chẳng màng phân biệt thị phi mà tổn thương đến người vô tội, các ngươi lại mù quáng nghe theo, đã vậy, kết cục ngày hôm nay cũng chỉ là gieo gió gặt bão mà thôi. Ngươi có khác gì những kẻ đã hãm hại cha mẹ ngươi đâu?"

Đinh Giám nhổ ra một ngụm máu, gằn từng chữ: "Bệ hạ phủi sạch mọi chuyện như vậy, lẽ nào ngươi khác bọn họ sao? Dựa vào quyền thế cùng những thứ của cải vốn chẳng thuộc về ngươi, mưu mô gian xảo giả nhân giả nghĩa. Ngươi và phụ hoàng ngươi, tổ mẫu ngươi, cả tổ tiên đời đời cao ngất trên ngai vàng của ngươi nữa — thực chất chẳng có gì khác nhau cả!"

"Ngươi dựa vào cái gì mà nắm giữ Hổ Sư? Dựa vào cái gì mà khiến tứ đại doanh và Vũ Lâm Vệ trong kinh quay giáo theo ngươi? Những gì ngươi đang nắm trong tay, cũng chính là thứ mà ngươi dùng để uy h**p bọn họ — chẳng phải đều là mạng người sống sờ sờ cả đấy sao!"

Lục Lệnh Tùng không khẳng định cũng không phủ nhận, chỉ nói: "Trong tay ta không có đao mổ, trên người ta cũng chẳng mang tội giết hại kẻ vô tội hay phản bội lừa gạt. Những người đó nay đều yên ổn ở nơi mình nên ở, có nhà có việc, không phải lo đến mạng sống của bản thân."

"Việc Tiêu Thái hậu và phụ hoàng ta từng làm, việc Trương Diên và chị em các ngươi từng làm chẳng qua chỉ là một kiểu 'kiểm soát' thấp kém và man rợ mà thôi. Những kẻ hèn nhát bất tài chỉ biết dựa vào việc uy h**p người thân yếu đuối của kẻ khác để giành quyền lực sẽ không bao giờ có đủ tư cách trở thành một bậc bề trên chân chính, phải để cho họ được sống, được làm việc, được tự lực cánh sinh, thu vào trong vòng kiểm soát mà họ hoàn toàn chẳng hay biết, thậm chí còn vui vẻ tận hưởng, đấy mới gọi là 'thống trị'!"

Nói xong, hắn nhàn nhạt nở nụ cười: "Đinh Giám, những lời vừa rồi của ngươi không thể mạo phạm trẫm."

Lời vừa dứt, cả hai gần như đồng thời hành động — Đinh Giám quấn chặt dây cương vào cánh tay phải đã cụt, tay trái nắm lấy cây kích, thúc ngựa nhảy vọt lên cao, húc văng đám binh sĩ chắn trước mặt rồi bất ngờ phóng thẳng về phía mặt sông đã đóng băng. Lục Lệnh Tùng lập tức đuổi theo sát nút, khoảng cách giữa hai người gần như chỉ chênh lệch một thân ngựa.

Hai con ngựa tốt trong ngàn vạn ngựa mới chọn được một, cùng với hai kỵ thủ trong trăm vạn người hiếm có khó tìm lập tức bỏ xa đám tướng sĩ Hán Hồ đang tạm thời rơi vào hỗn loạn. Hổ Sư đã nhận lệnh phải cẩn thận đề phòng quân phản loạn Mạc Bắc giả vờ rút lui rồi bất ngờ quay lại đánh úp, vì thế cũng không dám bám sát theo quá gần.

Đến bờ sông, vó ngựa phi trên mặt băng trơn trượt, Đinh Giám buộc phải giảm tốc đôi chút, nhờ vậy mà Lục Lệnh Tùng có thể giao chiến với gã tại chỗ. Thời kỳ đỉnh cao, gã và Lục Lệnh Tùng thắng thua luân phiên, khó phân trên dưới, nay tuy chỉ còn lại một tay, nhưng thế tấn công của Đinh Giám cũng không hề chậm chạp, chỉ là cơ hội nhắm vào sơ hở của Lục Lệnh Tùng ít đi một chút.

Thế nhưng trong cuộc giao đấu giữa những cao thủ hàng đầu, để giành thắng lợi thường chỉ cần đối phương lộ ra một chút sơ hở không đáng kể, giống như ngày hôm đó, Lục Lệnh Chân chỉ kém Đinh Giám một chút về thể lực mà thôi.

Chính nhờ chút "cản trở" nhỏ nhoi ấy, đối với Lục Lệnh Tùng mà nói đã là quá đủ rồi.

Không biết từ lúc nào gió tuyết lại nổi lên dữ dội, thương bạc vung lên từ phía dưới tránh khỏi thế gạt của kích, chém xiên sang ngang, quật trúng eo Đinh Giám khiến gã lảo đảo suýt ngã ngựa, chỉ quấn chặt lấy cán kích mượn lực mới miễn cưỡng giữ được thăng bằng. Lục Lệnh Tùng rút mũi thương về, sau đó tấn công lại từ phía bên kia, lần nào cũng nhắm thẳng chỗ hiểm, nhưng lần nào cũng dừng lại trước chiêu kết liễu.

Hắn trầm giọng quát hỏi: "Di cốt của Lục Lệnh Chân ở đâu! Ngươi đã mang con bé về để lĩnh công, hay là đã vứt bỏ nó ở nơi hoang dã rồi?"

Đinh Giám không trả lời, chỉ nhếch miệng cười lạnh, sau đó gã thúc ngựa tiếp tục men theo bờ sông lao đi như điên. Lục Lệnh Tùng nhận ra dường như gã đang cố ý dẫn mình vào sâu trong vùng tuyết trắng. Trong lòng dao động, hắn nheo mắt quan sát địa thế rồi giơ tay ném trường thương về phía trước, mũi thương lướt sát qua hông Đinh Giám, mang theo nửa mảnh giáp ngực rơi xuống nền tuyết. Chỉ chốc lát sau, ngựa của Lục Lệnh Tùng đã đuổi kịp, hắn nghiêng người vươn tay chụp lấy, trường thương đã quay lại trong tay.

Ngẩng đầu nhìn lên, con đường phía trước đã lấm tấm vết đỏ chói mắt, nhát thương vừa rồi đã khiến đối phương đổ máu.

Phó tướng phía sau lớn tiếng gọi: "Bệ hạ cẩn thận! Đừng đuổi theo nữa! Hắn đã bị thương thế kia, trời tuyết lạnh giá thế này chẳng sống thêm được bao lâu nữa đâu!"

Đinh Giám hoàn toàn bị cô lập, đã thương tích đầy mình lại không còn nơi nào để đi. Nếu như chuyến này Lục Lệnh Tùng chỉ nhằm vào việc giết gã, thì thật ra hắn đã không cần truy đuổi thêm nữa.

Nhưng vẫn còn một chuyện quan trọng nhất, hắn vẫn chưa có được đáp án.

Một màu trắng xóa trải dài đến tận chân trời, chỉ còn lờ mờ thấy được bóng dáng của tường thành và ngọn núi xa xa. Máu tươi đỏ thẫm kéo thành một vệt dài và mảnh, rồi dần bị lớp tuyết mới rơi phủ kín, xóa sạch mọi dấu vết từ nơi đã đi qua.

Chiến mã đi theo mùi máu nhờ bản năng, nó lần theo vệt đỏ tiếp tục tiến về phía trước. Lục Lệnh Tùng không đuổi sát mà giống như chim ưng lượn vòng trên cao, rình rập con mồi đang hấp hối, chỉ chực chờ đến giây phút nó trút hơi thở cuối cùng. Hắn không nóng vội, bởi vì hắn biết chắc chắn rằng sẽ có lúc đối phương không còn gắng gượng nổi nữa.

Trong gió lớn, đến cả tiếng vật nặng ngã xuống đất cũng nghe không rõ, chẳng biết đã qua bao lâu, phía sau không còn tiếng gọi của Hổ Sư nữa. Bất chợt, Lục Lệnh Tùng nhìn kỹ lại thì phát hiện lưng ngựa phía trước đã trống trơn.

Hắn lập tức thúc ngựa đuổi tới, con ngựa của Đinh Giám đã ngừng vó, ngơ ngác đứng yên như đang chờ chủ nhân ngã xuống bên cạnh móng nó đưa ra mệnh lệnh.

Lục Lệnh Tùng dừng lại tại chỗ. Đinh Giám đang nằm nghiêng trong tuyết, gã lấy tay che miệng vết thương khiến máu trào ra theo cách khác, lan tràn khắp nơi dưới thân.

Hắn lặng lẽ quan sát trận giãy giụa ấy, thấy Đinh Giám gắng gượng ngẩng đầu lên, dùng ánh mắt chất đầy oán hận, không cam lòng nhìn mình, rồi hắn chậm rãi cất lời:

"Đạo làm vua, thuật thống trị ta đều có thể làm được, chỉ là ta không muốn làm thôi."

"Từ trước đến nay, điều ta muốn và không muốn làm, cùng với điều ta có thể và không thể làm trong đời này vốn đã không giống nhau. Nhưng chỉ một điểm ấy thôi, giữa muôn vạn phàm nhân nơi thế tục, ngươi và ta chẳng khác gì nhau."

"Khác biệt ở chỗ, ngươi vươn tay ra chỉ với được điều mà ngươi 'có thể' làm, còn khi ta vươn tay ra," Lục Lệnh Tùng ngừng một chút, "Ta có thể với được điều ta 'muốn' làm."

Hắn lấy từ trong ngực áo ra miếng ngọc trắng mà Tạ Cánh đã tặng, xoay nó trên đầu ngón tay, nhẹ nhàng lắc hai cái: "Dù ta có chết, cũng vẫn có người giúp ta hoàn thành tâm nguyện, còn có người sẵn lòng cùng ta đồng sinh cộng tử."

Hắn lạnh lùng nhìn Đinh Giám từ trên cao, giọng đầy khinh miệt, nhưng ánh mắt lại phảng phất vẻ thương xót: "Còn ngươi chết rồi, sẽ không có ai giúp ngươi hoàn thành tâm nguyện cả."

Bốn bề núi phủ tuyết trắng, ngàn dặm đóng băng, người trong giấc mộng xuân khuê giờ đã hóa xương khô bên bờ sông Vô Định, trong gió chỉ còn tiếng vong linh gào khóc.

"Đinh Giám, ta thấy xót xa cho ngươi, vậy nên đã giúp ngươi hoàn thành tâm nguyện."

"Ta đã chôn cất cha mẹ và chị gái ngươi dưới chân núi Mai, lập bài vị ở cố trạch nhà họ Đinh, tìm người cúng bái đầy đủ. Phụ hoàng và Tiêu Thái hậu đã chết, Trương Diên tự vẫn, những kẻ từng lợi dụng ngươi, mắc nợ ngươi nay đã không còn sống trên đời nữa. Ngươi có oán có hận thì cũng chỉ còn cách đến âm phủ tìm họ mà đòi lại thôi. Nhưng từ đầu đến cuối, người thân của ta chưa từng mắc nợ ngươi điều gì, ta chỉ muốn biết..."

Lục Lệnh Tùng trở tay, mũi thương đảo nhanh đến mức chỉ còn lại dư ảnh, trong chớp mắt đã chĩa thẳng vào cổ họng Đinh Giám: "Di cốt của em gái ta —— ở đâu!?"

Chẳng biết Đinh Giám có nghe rõ mấy câu trước của hắn hay không, gã im lặng rất lâu, cuối cùng chỉ nói: "Ta không biết."

"Ngày cô ta chết, thuộc hạ của ta từng tìm kiếm dọc theo bờ sông, nhưng chỉ thấy vết máu kéo lê do chiến mã để lại, mãi vẫn không tìm thấy thi thể. Ai mà biết được chứ, có lẽ là bị nước cuốn đi rồi, cũng có thể là bị dã thú tha mất..."

Sắc mặt Lục Lệnh Tùng lạnh như sương tuyết, cánh tay run rẩy dữ dội, mũi thương gần như đã dán sát vào da thịt Đinh Giám.

"Đây không phải là trận tuyết đầu tiên của mùa đông," Đinh Giám nở nụ cười thê lương, hơi thở yếu ớt, "Ngươi cho rằng sẽ còn sót lại cái gì?"

Bên ngoài từ đường nhà họ Tạ, quận Trần.

Tạ Cánh xem xong chiến báo mà Lý Kỳ tự tay viết gửi tới, trầm mặc một lát rồi hỏi: "Con đã đọc chưa?"

Tạ Tuấn lắc đầu, "Sự việc nghiêm trọng, con không dám tự tiện xem."

Tạ Cánh bèn đưa bức thư cho cậu, Tạ Tuấn cúi đầu đọc, đại ý trên thư nói rằng Lục Lệnh Tùng đã đuổi theo Đinh Giám ra đến bờ sông Vô Định ở bên ngoài tường thành, Hổ Sư theo sau, nhưng không ngờ tuyết ngày càng dày, cuối cùng họ đã mất dấu. Tướng sĩ lập tức báo về Ung Châu, Lý Kỳ một mặt tạm thời giữ kín tin tức, không để lộ chút phong thanh, mặt khác lập tức phái trạm dịch đưa thư đến chỗ Tạ Cánh.

Tạ Tuấn đọc thư xong, cau mày nói: "Sao bệ hạ lại đuổi theo Đinh Giám một mình?"

"Con cũng cảm thấy lạ đúng không?" Tạ Cánh trầm ngâm, đoạn nói: "Từ trước đến nay hắn chưa bao giờ dính dáng đến hai chữ 'liều lĩnh'. Ở đây Lý Kỳ còn viết, đến cuối cùng chỉ còn lại một mình hắn, mà Đinh Giám cũng chỉ có một mình."

Tạ Tuấn suy nghĩ rồi đáp: "Nhưng nhỡ đâu ngoài tường thành còn có quân mai phục, Đinh Giám chỉ giả vờ đơn độc, nắm chắc tâm lý muốn báo thù của bệ hạ, rồi dùng nó để dẫn ngài ấy vào trận địa địch..."

Tạ Cánh phủ nhận: "Chuyện chúng ta có thể nghĩ đến, lẽ nào hắn lại không lường trước được? Đã quyết tâm đuổi theo, lại là một ngựa đấu một ngựa, vậy thì e rằng chỉ còn một khả năng — Trương Diên đã chết, Đinh Giám không còn người để 'thông đồng', gã đã hết giá trị lợi dụng, lại bị chặt mất một tay, Mạc Bắc sẽ không phái viện binh cho gã nữa. Bệ hạ đuổi theo một mình không phải là vì quá tự tin, mà là bởi một khi điều động Hổ Sư, việc này sẽ không còn là ân oán cá nhân nữa mà sẽ liên lụy đến hai nước. Giờ đây chính biến mới dứt, triều cục chưa yên, chúng ta càng không thể dấy lên sóng gió ở biên ải."

"Thân phận của hắn bây giờ đã khác rồi, trước đây là thần tử, nay đã là đế quân, hắn là người đại diện cho thái độ của cả triều đình và cả giang sơn này."

Tạ Tuấn gật đầu, trấn an: "Trước tiên chú cũng đừng hoảng, bệ hạ có kinh nghiệm sa trường, lại là người đa mưu túc trí, nói không chừng ngài ấy sẽ có cách thôi, chỉ là tạm thời không thể liên lạc với các thuộc hạ và Lý tướng quân bọn họ. Thứ hai, có lẽ vì muốn chu toàn cho Thanh Nhi và cục diện trong kinh nên mới gửi thư cho chú trước, phòng khi bất trắc, cũng không thể biết trước được."

Tạ Cánh ngẩn người nhìn ngọn đèn, câu nói mà Lục Lệnh Tùng đã nói với y ở điện Thần Long ngày hôm đó bỗng nhiên xuất hiện trong tâm trí, hắn nói <i>"Ta nhất định phải nắm lấy cơ hội này, tự tay đưa từng kẻ đã hại chết em ấy xuống hoàng tuyền, để đời đời kiếp kiếp ghi nhớ sự bất lực và hổ thẹn của bản thân của ngày hôm nay".</i>

Dù cho cuối cùng có thực sự báo được huyết thù, cảm giác tội lỗi vẫn sẽ đeo bám lấy Lục Lệnh Tùng suốt cả đời. Làm sao hắn có thể không tự mình đuổi đến chân trời góc bể, tự tay g**t ch*t kẻ thù được chứ?

Mãi lâu sau, Tạ Cánh mới chợt nói: "Lần này không giống trước nữa — Chân Chân là tâm ma của hắn, hắn sẽ không chịu dừng lại đâu. Nếu không nhìn thấy được kết quả, hắn tuyệt đối sẽ không chịu dừng lại."

Y rủ mắt nhìn xuống, Phi Quang vắt ngang thắt lưng y, lộ ra một góc dưới lớp áo ngoài: "... Dù cho có thật sự ngọc nát đá tan, hắn cũng sẽ làm cho bằng được."

Tạ Tuấn ngạc nhiên: "Chú muốn..."

Tạ Cánh đột nhiên giương mắt lên, nhìn Tạ Tuấn rồi chợt vỗ vai cậu, nói: "Chú phải đến Ung Châu một chuyến. Con lập tức sắp xếp hành lý, đêm nay lên đường về kinh đi, về kinh canh giữ bên cạnh em trai và em gái con, làm việc tùy theo hoàn cảnh, nhưng bảo vệ bản thân là quan trọng nhất. Nếu như có chuyện gì... bất trắc, con chỉ cần giúp chú nói với bọn trẻ hai câu là được."

Từ sâu trong lòng, Tạ Tuấn biết đây không phải chuyện đùa, nhưng Kim Lăng vẫn quan trọng hơn Ung Châu, cậu bèn nuốt lời muốn đi cùng Tạ Cánh vào lòng, chỉ đáp: "Chú cứ việc dặn dò."

Tạ Cánh đưa mắt nhìn về phía xa, trong màn đêm mịt mù tối đen không thấy năm ngón tay ấy là không biết bao nhiêu linh hồn tổ tiên của nhà họ Tạ suốt mấy đời mấy kiếp đang yên nghỉ. Mối hận của cha mẹ và anh chị nay đã kết thúc, mà trong thâm tâm y cũng thừa biết — sau này bản thân sẽ không được chôn cất cùng họ.

Người ta thường nói lá rụng về cội, nhưng nếu lá chẳng tìm được rễ, làm sao nó có thể biết được mình rơi xuống từ thân cây nào? Có lẽ ngay từ khi tất cả bắt đầu, từ khoảnh khắc y sinh ra ở Kim Lăng, mọi thứ đã là số mệnh được định sẵn trong cõi vô hình rồi. "Quê hương" trong cuộc đời vốn chỉ là một vị khách lướt ngang qua, và sẽ có một ngày y phải đứng dưới từ đường, đứng trước phần mộ tổ tiên để đưa ra quyết định rời đi.

Trong đầu Tạ Cánh, có một giọng nói bình tĩnh thì thầm: Một khi đã bước chân lên con đường hướng về phía Bắc, mảnh đất này sẽ không bao giờ có thể vô tư chào đón ngươi được nữa; ngày hôm nay, khi đã bước vào màn đêm, lần sau quay lại, ngươi sẽ chỉ là một kẻ khách nơi đất lạ mà thôi.

Y nhỏ giọng nói: "Con hãy bảo với chúng rằng chú đã nói..."

"Kim Lăng núi ấm nước êm, gió trăng vô tận, lấy cố thổ làm chăn, cùng cha con yên giấc ngàn thu, dẫu qua ngàn năm trăm kiếp cũng chẳng hề biết đến rét lạnh."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 119


<b>《</b><b> </b><b><i>28.3 </i></b><b>》</b>

Bên ngoài doanh trại Hổ Sư, thành Ung Châu, một bóng dáng nhỏ bé phi như bay, tiến dần lại gần dưới không gian một màu trắng xóa rồi dần trở nên rõ ràng. Thị lực của lính gác trên cổng thành vô cùng tốt, gã gần như nhận ra ngay người đến là ai, bèn hô to lên: "Vương phi! Vương phi đến rồi!"

Lý Kỳ đang trực đêm nghe vậy, lập tức hạ lệnh: "Mở cổng thành!", dứt lời, gã dẫn theo một nhóm phó tướng vội vàng xuống thành đón tiếp.

Tạ Cánh gió bụi đầy mặt, tóc mai rối bời, vậy mà chẳng kịp chào hỏi lấy nửa lời. Vừa mới xuống ngựa, chân còn chưa đứng vững, y đã mở lời hỏi: "Lục Lệnh Tùng đâu? Đã tìm thấy chưa?"

Lý Kỳ lắc đầu, vẻ mặt nghiêm trọng: "Tường thành và trong thành Ung Châu không thể không có người canh giữ, vì vậy mỗi ngày đều chỉ có thể điều một nhóm nhỏ thay phiên nhau đi tìm, nhưng đường bờ sông quá dài, ngày hôm kia tuyết rơi rất dữ, đến cả quân phòng thủ Ung Châu còn khó mà phân biệt phương hướng."

Tạ Cánh trầm mặc một lúc, bình tĩnh nói: "Anh chỉ cần cùng các vị tướng quân bảo vệ an toàn cho phòng tuyến Ung Châu là được, nếu như không có dư binh, ta sẽ tự đi tìm một mình."

Các tướng sĩ nhìn nhau một lúc, rồi Lý Kỳ quỳ gối hành lễ, nói: "Trước khi đi, bệ hạ có để lại cho Vương phi một món đồ, có thứ này, tất cả chúng tôi đều sẽ nghe theo lời điều động của người."

Từ Giáp lặng lẽ bước lên, dâng một vật đến trước mặt Tạ Cánh — đó là chiếc áo choàng màu đỏ thẫm dày và nặng. Tạ Cánh chậm rãi nhìn qua, chợt nhận ra áo choàng này vốn là của chính mình. Vào đúng thời điểm này năm ngoái, hai người vì công vụ mà phải chia xa, chỉ kịp gặp gỡ một đêm ngắn ngủi bên ngoài thành Hạ Phi. Giờ phút chia tay, Tạ Cánh quyến luyến không nỡ rời, cuối cùng cởi chiếc áo choàng này ra để Lục Lệnh Tùng mang theo đến phương Bắc giữ ấm.

Lý Kỳ nói: "Bệ hạ dặn chúng tôi rằng, 'thấy vật này như có trẫm ở đây'."

Tạ Cánh vươn tay ra, đầu ngón tay vùi sâu vào lớp lông mềm mịn trơn trượt, cảm nhận được làn hơi lạnh trượt lên làn da khiến y rùng mình. Nhiệt độ cơ thể của Lục Lệnh Tùng đã không còn sót lại nơi đó nữa. Y lặng lẽ hỏi thầm: Anh để thứ này lại cho em là có ý gì? Anh đã biết trước rằng em sẽ đến sao?

Thấy y thất thần, Lý Kỳ bèn ra hiệu cho những người xung quanh lùi lại vài bước, sau đó hạ giọng nói: "Thế cục trong kinh thành vẫn chưa hoàn toàn ổn định, Đông cung và công chúa còn nhỏ dại, bước tiếp theo nên đi thế nào... Vương phi tuyệt đối đừng hành động theo cảm tính."

Tạ Cánh miễn cưỡng nở một nụ cười với gã, khẽ gật đầu. Bỗng phía sau vang lên tiếng ồn ào náo động, y quay đầu lại, chỉ thấy một con tuấn mã toàn thân trắng muốt lao ra khỏi cổng thành như sao sa, hoàn toàn phớt lờ tiếng gọi lớn dồn dập của Từ Ất ở phía sau, lao thẳng về phía y.

"Y Vân!" Tạ Cánh sững người, bước lên hai bước, vòng tay siết chặt lấy cổ Y Vân, "Sao ngươi lại ở đây?"

Từ Ất th* d*c, vội vàng giải thích: "Hôm bệ hạ xuất chinh, từ tờ mờ sáng Y Vân đã chạy từ Đông cung tới, đứng chờ ở cổng thành nhất quyết đòi đi theo. Bệ hạ và Thái tử điện hạ khuyên thế nào cũng không được, đành phải chấp nhận cho nó đi cùng, ngài ấy dặn chúng thần phải chăm sóc cẩn thận. Không ngờ suốt dọc đường theo quân bôn ba, nó chẳng hề thua kém những chiến mã cường tráng khác. Từ lúc bệ hạ thất lạc đến giờ, Y Vân vẫn không chịu quay về chuồng, vừa nghe thấy tiếng của Vương phi là nó lại lao ra ngoài."

Y Vân bồn chồn dùng mũi cọ cọ vào vai Tạ Cánh, rồi lại cúi xuống ngửi lớp áo choàng dày trên người y, sau đó lại cọ vào lòng bàn tay y. Nó cứ lặp đi lặp lại hành động ấy vài lần, tựa như đang thúc giục điều gì.

Lòng Tạ Cánh khẽ dao động, y giương mắt nhìn về phía xa, chợt nhận ra mình đến dưới cổng thành chưa được bao lâu, vậy mà dấu chân để lại trên tuyết đã bị lớp tuyết mới phủ kín không thấy tăm hơi nữa.

"... Tuyết lớn không ngừng, dấu vết tới lui đều bị xóa sạch, nhưng mùi máu lưu lại lâu ngày sẽ chẳng thể dễ dàng phai đi." Y đột ngột quay ngoắt sang Y Vân, bật thốt lên đầy kinh hãi: "Ngươi vẫn nhớ rõ mùi của hắn, ngươi có thể lần theo dấu vết của hắn phải không!?"

Y Vân khẽ hí lên hai tiếng đáp lại, trong lòng Tạ Cánh như có lửa đốt, không thể chần chừ thêm nữa dù chỉ một khắc, y lập tức đeo hành trang lên lưng, tung người lên ngựa. Sau bao năm, y lại lần nữa nắm chặt dây cương của Y Vân, tay nhẹ nhàng vỗ về lên bờm nó, thì thầm: "Chúng ta cùng đi tìm hắn."

Nói đoạn, y quay người lại, hướng về đội Hổ Sư đang chờ lệnh dưới thành, cao giọng truyền lệnh: "Các huynh đệ từng cộng sự cùng ta ở Mạc Phủ, lần này phiền các vị theo ta đi một chuyến nữa. Còn lại hãy giữ nguyên vị trí, tuyệt đối không được tự ý rời khỏi cương vị. Đợi đến khi bệ hạ trở về, nếu như có bất kì lời hỏi tội, chất vấn hay khiển trách nào, một mình ta sẽ gánh chịu tất thảy!"

Giữa gió tuyết mịt mù, Tạ Cánh khoác lên mình tấm áo choàng đỏ hãy còn vương lại hơi thở của Lục Lệnh Tùng, tựa như cố nhân chưa từng rời xa, vẫn còn ôm siết lấy y trong vòng tay, khẽ thốt lên lời thề hẹn bên nhau đến bạc đầu.

Ba vạn kỵ binh tinh nhuệ của Hổ Sư đồng loạt quỳ xuống, tiếng hô vang dội tựa sấm nổ chấn động đất trời: "Cẩn tuân mệnh lệnh!"

Tuyết rơi trắng trời khiến người ta dễ quên mất khái niệm thời gian, Tạ Cánh cũng có đôi chút thảng thốt, nhưng bước chân của Y Vân thì vẫn kiên định tiến về phía trước. Có lẽ vì dấu vết mà Lục Lệnh Tùng để lại bên trong tường thành quá mờ nhạt, nên mỗi lần chọn hướng đi Y Vân đều khựng lại giây lát. Nhưng nhờ có binh lính Hổ Sư theo sát xác nhận, khả năng hắn còn ở trong phạm vi này gần như bằng không, vậy nên đoàn người cũng chẳng cần nán lại lâu, nhanh chóng rời khỏi quan ải.

Ngay khi vừa ra khỏi tường thành, càng tiến gần về phía bờ sông Vô Định, Y Vân lại càng lộ rõ vẻ bồn chồn thấp thỏm, nó vừa đi vừa liên tục lần theo mùi, tìm kiếm dọc đường bờ sông.

Để ý thấy Y Vân đặc biệt chú ý tới dòng nước, Tạ Cánh chợt nhớ lại lần trước, khi báo tin dữ của Lục Lệnh Chân, Hà Cáo có từng nhắc rằng trận chiến hôm ấy xảy ra ngay bên bờ sông Vô Định. Sau đó, lúc tìm kiếm di thể của Trưởng công chúa bọn họ cũng đã đi dọc theo con sông này.

Y bỗng nhiên nhận ra, Lục Lệnh Tùng liều mạng đuổi giết Đinh Giám, e rằng không chỉ vì báo thù, mà còn vì hắn muốn lần ra tung tích thi thể của Lục Lệnh Chân.

Sông Vô Định chảy từ hướng Tây Nam về Đông Bắc, nếu cơ thể bị cuốn vào dòng nước trôi xuống hạ lưu, rất có khả năng sẽ lạc đến vùng phía Bắc. Tạ Cánh lập tức ra lệnh cho Hổ Sư: "Tiếp tục đi về phía Bắc, hạ trại ở vùng hạ lưu sông."

Suốt dọc đường chẳng rõ ngày hay đêm, đoàn người vẫn phải cẩn thận phân biệt hướng dòng sông đã bị đóng băng rồi lại bị tuyết phủ kín. Cuối cùng, họ lấy một bãi đất bồi bằng phẳng ở hạ lưu sông Vô Định làm trung tâm, chia thành nhiều tốp tỏa ra tìm kiếm.

Y Vân rất nhạy cảm, nó thường xuyên lần ra mùi máu tươi, nhưng phần lớn chỉ là xác động vật bị thiên địch cắn xé, phơi thây giữa đồng hoang. Mãi đến tận giữa trưa ngày thứ ba, Tạ Cánh và Y Vân mới tìm đến được một ngọn đồi thoải về phía Tây Bắc. Bạch mã cúi đầu, dùng mũi húc nhẹ vào lớp tuyết mới rơi lúc sáng sớm, đoạn nó dừng lại trước một khe đá, khẽ khàng hít ngửi, rồi bỗng nhiên đứng khựng lại, bất động.

"Ngươi đánh hơi thấy gì rồi sao?" Tạ Cánh hỏi, "Là mùi máu người à? Là hắn sao?"

Im lặng chốc lát, Y Vân đột nhiên giống như phát cuồng cất vó lao đi, nó chở Tạ Cánh lao dọc theo bờ sông xông thẳng xuống phía dưới. Chớp mắt một cái, núi non và đồng hoang đã bị bỏ lại sau lưng, trước mắt họ lúc này chỉ còn lại một màu trắng kéo dài vô cùng tận.

Đà phi của bạch mã quá dữ dội, gió lớn cuốn theo những bông tuyết thô quất thẳng vào người, Tạ Cánh đành phải tạm nhấc vạt áo lên che chắn ở trước mặt. Chờ đến khi cơn gió tạm lắng, y mới ngẩng đầu phóng mắt về phía trước, cố gắng nhìn xa hết sức có thể. Chính ngay lúc đó, giữa đất trời hỗn độn chẳng khác gì mộng cảnh, trong tầm mắt Tạ Cánh thực sự xuất hiện một chấm đen!

Khoảnh khắc này chừng như ngay cả gió cũng như khựng lại, vạt áo bay phấp phới, tóc mai rối tung cùng những bông tuyết đang rơi đều đông cứng giữa không trung. Tạ Cánh và Y Vân đồng thời bắt gặp điểm màu duy nhất giữa mênh mông tuyết trắng ấy, chẳng còn để ý tới băng tuyết trơn trượt hay đá tảng lởm chởm dưới chân, Y Vân bắt đầu phi như bay về phía Lục Lệnh Tùng.

Tạ Cánh thất thanh: "Lục Tử Phụng —— "

Y Vân thực sự quá nhanh, ngay cả Tạ Cánh cũng suýt chút nữa không giữ nổi dây cương, chỉ có thể cúi rạp người xuống, ép sát mình sau cổ nó, chớp mắt đã lao tới gần.

Con ngựa mà Lục Lệnh Tùng cưỡi chẳng biết đã đi đâu về đâu, chiến bào của hắn tả tơi, giáp bạc nhuốm đầy những vết máu khô sẫm lại thành màu nâu đen, bước nông bước sâu di chuyển trong tuyết.

Có lẽ Lục Lệnh Tùng vốn không nghe rõ Tạ Cánh vừa hô gọi tên của mình, chỉ biết đáp lại giọng nói thân thuộc nhất trong đời theo bản năng. Hắn dừng chân, ngạc nhiên ngẩng đầu nhìn về phía trước qua mái tóc rối bết ướt đẫm trước trán. Khi Tạ Cánh ở trên lưng ngựa vươn tay về phía hắn, Lục Lệnh Tùng cũng nắm lấy bàn tay y trong vô thức.

Đối với Lục Lệnh Tùng, chỉ dùng một tay kéo Tạ Cánh lên ngựa vốn dĩ là chuyện dễ như trở bàn tay. Nhưng lúc này hai người đã đổi vị trí, hắn khoác trên mình giáp sắt nặng hơn mười cân, còn cánh tay mà Tạ Cánh vươn ra lại chính là tay phải — cánh tay vừa mới tháo băng chưa lâu, vẫn còn hằn nguyên vết sẹo Tích Cốt Huyền để lại.

Song, trong khoảnh khắc đối mặt với người mình yêu nhất, tiềm năng của con người ta sẽ bộc phát đến mức chẳng thể nào đo lường. Tạ Cánh nghĩ, dưới Công Xa môn năm xưa, khi nắm lấy thanh kiếm Lục Lệnh Tùng đeo bên hông, có lẽ sức y còn chưa đủ mạnh, và tâm cũng chưa đủ kiên định, cho nên ông trời mới không chịu phá lệ thành toàn cho y nghịch thiên cải mệnh.

Vì vậy lúc này, Tạ Cánh buộc phải kềm chặt cẳng tay dưới của Lục Lệnh Tùng, để đối phương có thể dựa vào bản năng khắc sâu tận xương cốt từ bao năm khổ luyện, siết lấy tay y, mượn lực xoay người nhảy lên lưng ngựa, đáp xuống ngay phía sau lưng y.

Y Vân phi không ngừng vó, rồi nó xoay mình giữa không trung, tung cước băng qua sông, đạp lên băng giá, trở về theo đường cũ. Tạ Cánh rút kèn hiệu mà Lý Kỳ giao cho trước lúc xuất phát, thổi vang Hổ Sư Lệnh, thông báo cho binh sĩ tập kết, chuẩn bị xuất phát về Ung Châu.

Hai tay Lục Lệnh Tùng vòng qua eo Tạ Cánh, cả người thoát lực dựa vào lưng đối phương, lúc này, mùi máu tanh mới chậm rãi len lỏi vào khoang mũi y.

Tạ Cánh cúi đầu liếc qua một cái, lập tức nghẹn thở, chỉ thấy hai bàn tay của Lục Lệnh Tùng đã tím tái đi vì lạnh, mười ngón tay bầy nhầy máu thịt, chi chít vết thương, thậm chí hai móng tay cái còn bị mài mất quá nửa.

"Lục Tử Phụng, rốt cuộc anh đã làm gì vậy!"

Tạ Cánh nghẹn ngào gọi khẽ một tiếng, tay phải vẫn nắm chặt dây cương, tay trái thò vào bên trong áo choàng, luống cuống cởi hết dây buộc áo ngoài, trung y, áo lót, kéo tung vạt áo nửa người trên ra rồi nắm lấy hai tay của Lục Lệnh Tùng nhét vào trong áo, áp sát vào da thịt trên eo mình.

Bôn ba thời gian dài trong tiết trời băng giá, thân nhiệt của Tạ Cánh sớm đã chẳng thể gọi là ấm áp nữa, nhưng nơi yếu mềm nhất, vùng bụng được bao bọc bởi từng lớp y phục, đối với đôi tay đã lật tung từng mảng tuyết, đào xới từng tảng đá vụn của Lục Lệnh Tùng mà nói vẫn rất ấm áp.

Tạ Cánh gần như nghiến răng nghiến lợi mắng: "Nếu biết trước anh định làm ra chuyện hoang đường thế này, đêm trước ngày xuất chinh ở điện Thần Long, đáng lẽ ra em nên chặt phắt đôi tay này của anh đi cho rồi!"

Lục Lệnh Tùng tựa cằm trên vai y, ý thức của hắn đã trở nên hỗn loạn, dường như lẩm bẩm nói mấy chữ, nhưng Tạ Cánh hoàn toàn không nghe rõ.

"Anh nói cái gì? Lục Lệnh Tùng! Không được ngủ!"

Y liên tục thét lên: "Anh nói gì đi! Lúc quát em rõ ràng anh to giọng lắm mà, sao lúc này lại không nói gì thế hả!"

Đầu người phía sau chợt nặng trĩu, trán của Lục Lệnh Tùng trượt xuống, Tạ Cánh hoảng loạn trong thoáng chốc. Toan ngoảnh đầu lại xem tình hình hắn thế nào, nhưng đối phương gần như đã dồn toàn bộ trọng lượng lên lưng y, sợ nhỡ bị xóc ngựa mà rơi xuống, y chỉ đành từ bỏ ý định.

Hai hàm răng Tạ Cánh đánh vào nhau cầm cập, chờ mãi không thấy hồi đáp, y bất chợt gồng mình, cắn mạnh một phát rách lòng bàn tay mình, đưa dòng máu tươi chảy ròng ròng kề sát vào môi Lục Lệnh Tùng: "Lục Tử Phụng... Tử Phụng! Anh Tử Phụng!"

Không rõ là do máu hay do tiếng gọi ấy lay động, có vẻ như Lục Lệnh Tùng có phản ứng trở lại. các ngón tay hắn khẽ co lại, lướt qua da Tạ Cánh, thì thầm như tự nói với chính mình: "Ta tìm thấy rồi..."

Tạ Cánh lập tức hỏi: "Anh tìm thấy cái gì? Đừng ngủ! Nói cho em biết, anh tìm thấy gì rồi!"

Dường như hắn đang gắng gượng giữ cho đầu óc tỉnh táo. Giọng nói vẫn còn mơ hồ, nhưng cuối cùng Tạ Cánh cũng nghe được: "Đinh Giám nói... Chân Chân... Bị cuốn trôi theo dòng sông Vô Định... cuối cùng..."

Tạ Cánh tiếp lời: "Sông Vô Định, trôi theo dòng sông Vô Định, sau đó thì sao?"

"Ta tìm suốt năm ngày liền... Lần theo dưới chân tường thành đến tận đây, những nơi có thể tìm ta đã tìm hết một lượt, lật từng tảng đá một..."

Giọng Lục Lệnh Tùng càng lúc càng yếu ớt: "Ta chỉ tìm thấy thứ này."

Dầu ngón tay hắn lại khẽ nhúc nhích, Tạ Cánh bắt lấy bàn tay buông thõng xuống kia, luồn tay vào trong lớp áo lục lọi. Mãi hồi lâu sau, y mới lần tới được món đồ mà đối phương giấu trong tay áo, là thứ mà hắn đã nói với y.

Cảm giác khi chạm vào vật đó khiến Tạ Cánh chợt khựng lại.

Y rút tay ra ngoài, nhìn thật kỹ. nằm gọn trong lòng bàn tay y lúc này chính là chuỗi vòng tay năm xưa y đã bện cho Lục Lệnh Chân.

Phần lớn sợi chỉ màu đã đứt, hoặc cũ mòn đến mức chẳng còn nhìn ra hình dạng gì nữa, nhưng vẫn có thể mơ hồ thấy được chút màu sắc, ngoài ra còn có cả vết máu sẫm màu như gỉ sắt — không giống máu mới dính vào, hẳn là máu của chủ nhân ban đầu của nó.

Chuỗi dây buộc tóc dùng để bện vòng tay năm đó có lẽ thật sự đã từng rực rỡ tươi đẹp đến thế, cho nên cuối cùng y vẫn chẳng thể làm theo yêu cầu của Lục Lệnh Tùng, bện thêm một chiếc có nhiều màu sắc hơn cả nó nữa...

Đầu tạ cánh ong lên một tiếng, nước mắt nhanh chóng ướt nhòe cả tầm nhìn.

Thanh âm của Lục Lệnh Tùng dần trở nên nhẹ bẫng, cuối cùng như khẽ thều thào: "Chi Vô à, ta đã không còn em gái nữa rồi."

Tạ Cánh dùng khuỷu tay quệt lau nước mắt, gió cắt qua mặt rát buốt, y nghẹn ngào nói: "Lục Tử Phụng, anh không còn em trai và em gái, em cũng chẳng còn anh trai nữa rồi. Từ nay về sau anh hãy xem em như em trai ruột của mình, em sẽ thay Chân Chân cùng anh đi tiếp con đường này, được không, đừng rời xa em nữa được không? Em sẽ thay Chân Chân gọi anh là anh trai, được không, anh?"

Lục Lệnh Tùng vòng tay ôm lấy y từ phía sau, dường như khẽ đáp một tiếng: "Được."

Tạ Cánh nói năng lộn xôn, chẳng biết là nói cho Lục Lệnh Tùng nghe, hay là đang tự cảnh tỉnh, bộc lộ nỗi lòng:

"Tự do hay ràng buộc, trưởng thành hay giậm chân tại chỗ, có lẽ em sẽ canh cánh trong lòng, sẽ do dự, sẽ lưỡng lự, sẽ chẳng quyết nổi tâm ý. Nhưng sống chết thì khác, sống chết là chuyện hệ trọng, cũng là chuyện đơn giản nhất, thật ra chẳng cần suy phải nghĩ nhiều như vậy."

"Lục Tử Phụng, em chết vì anh thì có sao đâu chứ?"

Lần này, Lục Lệnh Tùng đã không còn đáp lại y nữa.

Y Vân tựa như chẳng biết mệt mỏi, nó phi qua cánh đồng tuyết, vượt núi băng đèo như đi trên đất bằng, lao vút trong màn đêm hướng về ranh giới thành trì. Doanh trại Hổ Sư dần hiện rõ trong tầm mắt, ánh đèn màu cam nhạt ấm nồng như men rượu lặng lẽ lay động, toát lên vẻ bình lặng của nhân gian khói lửa, nghiêm cẩn làm tròn chức phận của mình, nửa phủ lên lều trại sáng màu, nửa rọi xuống con đường tuyết trắng.

Ít ra, đó vẫn là một biểu tượng của "sự sống".

Lý Kỳ cùng các tướng sĩ, quan viên tân nhiệm của châu quận Ung Châu, quân y, một đoàn người đông nghịt đã nhận được tin từ trước, tất cả đều đứng đợi sẵn ngoài cổng doanh. Không cần Tạ Cánh dặn dò thêm lời nào, bọn họ ăn ý lao lên, đỡ lấy Lục Lệnh Tùng từ phía sau y rồi vội vàng đưa vào lều lớn.

Tạ Cánh vội vã định theo vào, nhưng không ngờ hai chân run rẩy dữ dội, đến đứng cũng không đứng nổi, y ngã lăn từ trên ngựa xuống quỳ rạp lên mặt đất, toàn thân run lẩy bẩy, tim đập loạn lên không dứt, chỉ có thể gắng gượng chống tay để cố đứng dậy hết lần này tới lần khác.

Giữa lúc chật vật, sau lưng bỗng vang lên tiếng vật nặng ngã "phịch" xuống đất, ngay sau đó là tiếng hô hoán ngỡ ngàng của binh sĩ xung quanh.

Tạ Cánh khựng lại, một linh cảm chẳng lành như thủy triều dâng tràn khắp xương cốt tứ chi khiến y rùng mình. Y chậm rãi, cứng nhắc xoay đầu lại — lọt vào tầm mắt chỉ có một vệt mây trắng nhuốm bụi trần.

Y Vân ngã gục trên mặt đất, ánh hào quang từng phủ lên thần câu ngàn dặm kia chỉ trong thoáng chốc đã hoàn toàn lụi tắt. Ngay khoảnh khắc Lục Lệnh Tùng được đưa đến tay những người có thể cứu sống hắn, rốt cuộc Y Vân cũng buông thả một hơi tàn mà nó đã gắng gượng treo lơ lửng suốt mấy ngày qua, trả giá cho phần sinh mệnh đã bị bòn rút cạn kiệt bằng tốc độ kinh hoàng khiến người ta giật mình.

Tạ Cánh quỳ bò tới, gần như nhào người xuống ôm lấy cổ Y Vân, gào lên gọi nó đến khàn cả giọng, nhưng tiếng ù tai dữ dội khiến y chẳng nghe được gì cả. Trong chớp mắt ấy, Tạ Cánh chợt nhận ra rằng từ trong thể xác của mình, có một linh hồn nhẹ bẫng, hồn nhiên, đang chết đi một cách vô cùng chân thực mà sống động.

Y Vân cất lên một tiếng hí dài, cao vút, rồi nó co giật vài cái, cuối cùng kiệt sức mà chết.

Tạ Cánh cũng không chống đỡ nổi nữa, vì đau buồn quá độ, y nôn ra một ngụm máu.
 
Back
Top Bottom