Đam Mỹ Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm

Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 80


<b>《</b><b> 19.2 </b><b>》</b>

Tạ Cánh đứng trong thư phòng của Tạ Tuấn, đưa mắt nhìn quanh bốn bức tường. Mặc dù đã được người hầu nhà họ Vương dọn dẹp sạch sẽ không còn hạt bụi, nhưng cả căn phòng vẫn trống trải, không còn lại đồ vật gì.

Vào cái ngày ngõ Ô Y bị sao kiểm, từ nửa đêm về sáng, Tạ phủ đã xảy ra hỏa hoạn, trong tiếng than khóc và kêu gào thê thảm, không biết là ai đã vô tình đánh đổ giá nến, ngọn lửa nhanh chóng bùng lên, thiêu rụi toàn bộ dãy tường và phòng ốc phía Đông Bắc, trong đó có cả phòng ngủ và thư phòng của Tạ Tuấn.

Sau khi cha và anh trai của y bị xử trảm, Tạ phủ cũng bắt đầu bị phong tỏa và tạm thời sung vào của công. Tạ Cánh nghe Lục Lệnh Tùng kể rằng triều đình đã cử người đến dọn dẹp tàn tích rồi tu sửa lại một loạt, còn có tin đồn nói rằng nơi này sẽ được sử dụng vào mục đích khác, nhưng mãi chẳng thấy động tĩnh gì. Mãi đến đầu năm nay, khi Tạ Cánh trở về kinh thành, phủ đệ mới được trả về cho chủ cũ.

Bây giờ nghĩ lại, mệnh lệnh sửa chữa Tạ phủ năm xưa, có lẽ chính là do Lục Lệnh Chương ban bố.

Năm đó, ở trong nhà góc nào cũng thấy được kỳ trân dị bảo, có lẽ chúng đã bị tịch thu, hoặc là đám binh sĩ lợi dụng lúc hỗn loạn đục nước béo cò khoắng sạch ra ngoài rồi. Tạ Cánh chưa từng, cũng không dám bước vào phòng của cha mẹ và anh chị, nhìn vật nhớ người là điều khiến người ta đau thấu tâm can nhất, mà y cũng chẳng biết có bao nhiêu đồ vật họ từng dùng khi còn sống vẫn còn được giữ lại.

Quản gia cúi đầu bẩm báo: "Bình thường ngoài Nam viện, các viện khác đều được khóa lại. Mỗi sáng chúng tôi mở cửa quét dọn xong lại khóa ngay, sau đó cũng chẳng ai đụng đến chìa khóa. Vừa rồi đã gọi tất cả mọi người trong phủ lại, từng người đều thử so tay với dấu tay kia, nhưng không một ai khớp cả."

Tạ Cánh từ từ đặt tay mình lên dấu tay trên bàn so thử, nhận thấy dấu tay này lớn hơn tay mình một chút, khớp xương lộ rõ, chắc là của một người đàn ông. Vết máu vẫn còn mới, có lẽ nó được để lại không lâu trước khi thị nữ đến mở cửa vào buổi sáng.

Y quay lại hỏi: "Trong nhà có bị mất thứ gì không? Kể cả trong phòng này hay là chỗ ở của các ngươi?"

Quản gia là một người lão luyện, nếu không thì Vương Thục đã chẳng cử ông ta đến Tạ phủ làm việc. Ông ta đã dặn dò mọi người trở về kiểm tra đồ cá nhân từ trước, bấy giờ mới nói: "Ngày chuyển vào đây, tuy đại nhân thương tâm không muốn quản việc, nhưng chúng tôi thì vẫn phải tuân thủ quy trình, liệt kê đầy đủ mọi đồ đạc ở các viện. Vừa rồi đã cho kiểm tra lại, không thấy thiếu thứ gì cả."

Thật ra Tạ Cánh hỏi câu này cũng chỉ để cho có mà thôi, rõ ràng kẻ kia đột nhập vào đây không phải để trộm cắp, mà chỉ để dọa nạt, hơn nữa đối tượng dọa nạt dường như không phải là y, mà là đám người hầu này – nếu không sao hắn lại không để lại dấu tay ở Nam viện nơi y ở?

Lòng y khẽ động, Tạ Cánh hơi ngẩng lên, ánh mắt quét qua đám người hầu đang tụ tập trong sân, rất biết xuôi theo làm ra vẻ nghiêm trọng, nói "Nếu đã vậy, ban đêm các ngươi nhớ cần cẩn thận một chút. Bất kể là người hay ma, nếu đã có lần một, chắc chắn sẽ lại có lần hai, chưa biết chừng sẽ có lần ba, lần bốn đấy, chờ xem thế nào đã."

Trước đây, đám thị nữ và tiểu tư trong phủ đều rất tinh tường, ngày ngày tận tụy canh giữ trước cửa phòng Tạ Cánh. Mỗi khi y bước ra ngoài là sẽ luôn có người theo sát không rời nửa bước. Tạ Cánh vẫn thường nghĩ rằng, Lục Lệnh Tùng chọn đặt lối vào đường hầm bí mật ngay trong phòng y quả là rất sáng suốt, chí ít đám người kia cũng không thể đứng cạnh giường để mà nhìn chằm chằm khi y ngủ.

Tuy nhiên, sau sự việc dấu tay máu, lại thêm lời "dặn dò" chẳng khác gì thêm dầu vào lửa của Tạ Cánh, người trong phủ bắt đầu cảm thấy bất an. Ban đêm, nếu không có việc gì làm thì phần lớn đều đóng chặt cửa phòng, những kẻ trực đêm cũng tụ lại với nhau hòng tăng thêm can đảm, thành ra chúng cũng lơ là luôn cả việc kiểm soát Tạ Cánh.

Thế nhưng còn chưa đợi chủ nhân của dấu tay máu kia tiếp tục hành động, Tạ Cánh đã nhận được một thánh chỉ ngoài ý muốn: Lục Lệnh Chương hạ lệnh cho y nhanh chóng khởi hành, băng sông Hoài đến Từ Châu, thay mặt thiên tử đôn đốc tình hình cứu trợ tại các quận Hoài Dương, Tế Âm và Hạ Phi.

Cầm thánh chỉ trên tay, lòng Tạ Cánh lập tức sáng tỏ như gương — Lục Lệnh Chương đã biết rõ kế hoạch khởi sự của bọn họ vào mùa xuân năm sau. Mặc kệ trước đây Lục Lệnh Chương có từng nghi ngờ phủ Chiêu Vương hay không, việc phái Tạ Cánh thực hiện nhiệm vụ này ít nhất có thể chứng minh được hiện tại gã đã đặt lòng tin vào bọn họ.

Lục Lệnh Tùng đã rời kinh từ nửa tháng trước, trên danh nghĩa là tuần tra đất phong, điểm đến thật sự chính là Lạc Ấp. Nhưng chuyến đi này còn có một nhiệm vụ quan trọng hơn — đó là khi đi qua các quận ở Hoài Bắc, Lục Lệnh Tùng sẽ xác nhận xem mạng lưới quan hệ phức tạp mà hắn bí mật xây dựng từ ba năm trước khi dẫn binh đóng quân ở đây có còn vận hành trơn tru hay không. Điều này nhằm đảm bảo rằng đến mùa xuân năm sau, khi kinh thành có biến, quân phòng thủ tại các khu vực này sẽ không "nhiệt tình" hay "chủ động" xuất binh cần vương.

Đoàn tùy tùng của hắn đã tách ra từ khi vừa rời khỏi Kim Lăng, tiếp tục hành trình lên phía Bắc như bình thường, còn Lục Lệnh Tùng thì một mình tiến vào Hoài Bắc. Hắn sẽ hoàn thành công việc, sau đó nhập vào đoàn chính trên quan đạo để tránh gây sự chú ý, cũng như có thể dễ dàng khai báo với triều đình.

Thánh chỉ lần này được Lục Lệnh Chương giao trực tiếp cho Tạ Cánh vào khoảng nửa tháng sau khi Lục Lệnh Tùng rời kinh, khớp với thời điểm các Khâm sai lần lượt nhậm chức, cũng đến các địa phương để kiểm tra tình hình cứu trợ. Vì vậy, việc Tạ Cánh lên đường không khiến ai nghi ngờ, cũng không có lý do gì để liên hệ chuyến đi này với lộ trình của Chiêu Vương.

Khi Tạ Cánh mang tin tức này đến phủ Tướng báo lại với Vương Thục, Thôi Thục Thế cũng có mặt bên cạnh, nàng vẫn giữ thái độ bình thản không gợn sóng như mọi khi. Tạ Cánh không nhìn ra được liệu nàng có biết trước chuyện này hay không, nhưng theo hiểu biết của y, bởi Thôi Thục Thế có âm thầm qua lại với điện Thần Long, giữa hai người cũng có thoả thuận, vậy nên Lục Lệnh Chương nắm rõ kế hoạch của bọn họ rất có thể là vì trong lúc giúp họ "bày tỏ lòng trung," Thôi Thục Thế đã ngầm gợi ý đôi lời.

Phái y đến Hoài Bắc, mang danh là để thử lòng trung thành của phủ Tướng, thực tế là để kiểm tra xem các châu huyện này có thực sự nằm trong tầm kiểm soát của Lục Lệnh Tùng hay không. Điều này có thể cũng là một kế sách mà Thôi Thục Thế đề xuất cho Lục Lệnh Chương.

Vương Thục đọc xong thánh chỉ bèn liếc mắt nhìn vợ thằng con thứ của mình, có vẻ như ông ta đang suy nghĩ về động cơ của Lục Lệnh Chương.

Thôi Thục Thế lập tức hiểu ý, rù rì giải thích: "Điều Tạ đại nhân ra khỏi kinh thành, chúng ta mất đi người phát ngôn trên triều đình, nhưng dù sao thì có vài lời cũng nên để cha và anh Cả đứng ra nói, có thể thấy Hoàng thượng không muốn nhìn thấy nhà chúng ta đứng ngoài cuộc."

Nàng quay lại chỉ vào tấm bản đồ treo trên tường: "Vào giữa triều Vĩnh Gia, khi Lang Gia Vương thị theo nhà Tấn di chuyển vào trong Nam, Quách Phác đã từng giúp Vương Đạo dự đoán lành dữ, quẻ nói: 'Cát, không có bất lợi. Hoài Thủy chia cắt, Vương thị diệt vong.' Theo ngu kiến của thiếp, đây chính là cơ hội hiếm có cho chúng ta. Quận Lang Gia vốn thuộc Từ Châu, mặc dù chuyến này Tạ đại nhân không đi xa đến vậy, nhưng dù sao cũng có mối quan hệ sâu sắc. Nếu như chúng ta có thể ra tay cứu giúp trong lúc khó khăn, người dân ở các quận Hoài Bắc chắc chắn sẽ rất cảm kích."

Vương Thục không lên tiếng, nhưng Tạ Cánh nhìn thần sắc của ông ta thì biết Thôi Thục Thế đã nói trúng suy nghĩ của ông. Triều đình đã cho phép phân bổ tiền cứu trợ cho nơi thiệt hại nhẹ nhất là Chiết Đông nhưng lại là khoản lớn nhất. Lúc này dân chúng hãy còn khốn đốn vì sinh kế, không rỗi rãi để tranh cãi về sự bất công này. Tuy nhiên, nếu sang năm tình hình cải thiện, có người lôi chuyện cũ ra để tính toán thì danh tiếng và lòng dân mà ông ta cẩn thận duy trì bao năm qua cho Lang Gia Vương thị sẽ gặp phải nguy cơ.

Chảy một ít máu, chừa lại con đường sống cho những người không liên quan, chẳng phải giờ đây ở kinh thành, hai nhà Ngô – Lý cũng đang làm như vậy hay sao? Đến lúc tính toán rồi mới nói tiếp, Vương thị của ông ta đâu chỉ dùng Tạ Cánh làm bia đỡ đạn, làm kẻ chịu tội thay, chẳng phải cũng cho y làm việc thiện tích đức đấy sao?

Vương Thục trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng nói với Tạ Cánh: "Hoài Thủy là cửa ngõ của Kim Lăng, vô cùng quan trọng, cậu không ngại thì hãy thử thăm dò tình hình một chút đi."

Tạ Cánh vội vã lên đường, còn chưa đến cuối năm đã rời khỏi Kim Lăng. Để phòng trường hợp bất trắc, y đã tuyển chọn một nhóm người từ dư bộ Hổ Sư dưới chân núi Mạc Phủ, trong số đó còn có Từ Ất và Từ Giáp. Nhóm người này và người hầu đi theo của nhà họ Vương chia thành hai phe rõ rệt, đề phòng lẫn nhau, trái lại Tạ Cánh có thể nhân dịp này thở phào một hơi.

Chiến lược đầu tiên của y là ra roi thúc ngựa đến quận Hạ Phi – nơi nằm ở xa nhất, sau đó quay đầu rồi tiến thẳng về kinh. Một là vì quận Hạ Phi ở phía Bắc, tình hình thiệt hại nghiêm trọng và cấp bách hơn, hai là vì Lục Lệnh Tùng có lẽ vừa mới rời khỏi đó không lâu, nếu như Quận thủ có ý đồ bất chính, thì họ cũng không đủ thời gian để thực hiện, rất dễ dàng để lộ sơ hở.

Đêm giao thừa, họ bị gió tuyết buộc phải dừng lại ở ngoại thành, bất đắc dĩ, đoàn người chỉ có thể ghé tạm vào một nhà trọ ven đường. Tạ Cánh nói rằng mình đã mặc đủ ấm rồi, không cần thêm lửa sưởi, bảo hai anh em họ Từ mang lò than duy nhất vào phòng bên trong cho mọi người, những binh sĩ trực đêm cũng bị y khuyên về nghỉ ngơi. Cũng may căn phòng mà y ở không có cửa sổ nào bị hỏng, quần áo và chăn đệm đều được cuộn chặt trên người, đủ để đối phó với cái lạnh; còn phòng của các hạ nhân dưới lầu không biết vì sao lại bị gió lùa vào, không có than để sưởi ấm, chỉ sợ là không chịu nổi.

Tạ Cánh đã đi nằm từ sớm, suy nghĩ xem ngày mai vào thành thì kiểm tra từ chỗ nào trước, y gối đầu lên tiếng gió, cuộn tròn mình trong góc giường, đang mơ màng chuẩn bị vào giấc thì chợt nghe thấy tiếng "ken két" vang lên rất rõ.

Tạ Cánh cứ tưởng là cửa sổ bị gió thổi bật mở ra, nhưng còn chưa kịp bước xuống giường đã chợt cảm giác tấm màn sau lưng sột soạt động đậy, một giây sau, một bàn tay ấm áp đã dán lên khuôn mặt lạnh ngắt của y.

Tạ Cánh suýt nữa là thất thanh kêu lên, nhưng có vẻ người đến đoán được phản ứng của y nên thuận thế bịt miệng y lại. Trong nháy mắt khi da thịt tiếp xúc, Tạ Cánh đã chịu ngồi yên, bởi y nhận ra ngay được đó là hơi thở thuộc về riêng Lục Lệnh Tùng.

Y ngạc nhiên xoay người, vén chăn lên để cho Lục Lệnh Tùng chui vào, còn mình thì ôm chầm lấy eo đối phương. Quần áo của hắn hãy còn nhuốm hơi lạnh, nhưng cơ thể thì ấm áp hơn rất nhiều, Tạ Cánh co chân lại, cọ xát với bắp chân của hắn theo bản năng hòng tăng nhiệt độ lòng bàn chân.

"Em còn tưởng là anh đi tồi."

Lục Lệnh Tùng vòng tay nhẹ nhàng xoa gáy Tạ Cánh, giúp y lưu thông máu: "Vốn định đi vào hôm qua, nhưng bị tuyết rơi làm trì hoãn. Nếu đi rồi thì làm sao gặp được em nữa."

"Chứ dấu tay kia... Không phải là của anh sao?" Tạ Cánh bỗng nhiên nhớ ra, vô thức hỏi.

Lục Lệnh Tùng khó hiểu: "Dấu tay gì?"

Tạ Cánh đoán dấu tay máu kia chính là tác phẩm của Lục Lệnh Tùng, nhưng chợt nghĩ đối phương không có chìa khóa, muốn vào thư phòng của Tạ Tuấn chỉ có thể phá khóa, nhưng theo quản gia nói, khóa cửa không có dấu vết hỏng hóc. Hơn nữa, nếu thật sự là do Lục Lệnh Tùng làm, hắn cũng chẳng cần phải lừa y, không báo tin cho y biết.

Hay là kẻ đột nhập có chìa khóa? Nhưng năm đó rối loạn, lắm người nhiều tai mắt, Tạ Cánh căn bản không thể điều tra được xem ai đã lấy chìa khóa của Tạ phủ.

Cuối cùng y chỉ lắc đầu, nói "Không có gì, chắc là em nằm mơ vớ vẩn thôi.", đại sự vẫn còn đó, y không muốn Lục Lệnh Tùng nhọc lòng quan tâm những chuyện này.

"Sao em lại đến đây?" Lục Lệnh Tùng quen đường quen nẻo chôn mặt vào cổ y hôn lấy hôn để, vừa hôn vừa dùng lòng bàn tay ấm áp ấp lên bụng dưới mềm mại của Tạ Cánh.

Tạ Cánh khai báo giản lược cho hắn một lượt từ đầu đến cuối, y nói: "Em che giấu thân phận đến đây, buổi chiều nhìn thấy xe ngựa của quan phủ dừng ở bên ngoài, còn tưởng là quận thủ Hạ Phi chơi trò trêu ong ghẹo bướm gì đó, không muốn kéo rèm lên, hóa ra là anh."

"Em còn đang định hỏi anh đây, vòng quanh một hồi như vậy, những nút thắt quan trọng đều đã xử lý ổn thỏa chưa? Có việc nào cần em khai thông, hoặc phải dùng danh nghĩa của Tạ gia không? Hay chỉ cần dùng em để thăm dò lòng trung thành của bọn họ thôi?"

Lục Lệnh Tùng nghe vậy thoáng ngập ngừng, khoảnh khắc ấy lập tức bị Tạ Cánh nhạy bén bắt được, y nhắc nhở: "Đã đến nước này rồi, sống chết cùng nhau, thẳng làm vua thua làm giặc đã không còn là chuyện của anh hay em nữa rồi, cũng chẳng có ai thiếu nợ ai, anh cần em làm gì thì cứ nói thẳng ra đi."

"Trước hết em cứ làm tốt việc Vương Thục giao phó là được," Lục Lệnh Tùng chăm chú nhìn y trong bóng tối hồi lâu, sau đó hôn mạnh lên hai má y mỗi bên một cái. "Những chuyện cần khơi thông, cần mượn danh nghĩa Tạ gia, ta đều đã sắp xếp ổn thỏa rồi."

Tạ Cánh hơi bất mãn, Lục Lệnh Tùng hôn y kiểu này cứ như hôn trẻ con không bằng, y bèn ghé sát lại, vừa dùng chóp mũi cọ vừa hé răng khẽ cắn, hôn một đường từ yết hầu Lục Lệnh Tùng lên đến môi hắn.

"Nếu còn dư sức, em có thể thử thăm dò toàn bộ Quận thủ các quận một lần, nhưng trực giác của ta luôn chính xác," Lục Lệnh Tùng ngừng lại, giọng nhẹ bẫng, "Vấn đề nằm ở Hoài Dương."

Tạ Cánh lặng lẽ ghi nhớ, trong lòng đã rõ ý hắn, chỉ là không muốn tiếp tục phí sức bàn chuyện công nữa.

"Sáng mai anh đi sớm à?" Y chưa từ bỏ ý định hỏi thêm một câu, bàn tay đã len vào lớp áo, quấn lấy lưng Lục Lệnh Tùng, cảm nhận những vết sẹo trên da hắn. "Em muốn làm."

Nói thế nhưng Tạ Cánh cũng hiểu rõ, cả thời gian lẫn địa điểm đều không thích hợp. Đã lâu không sinh hoạt vợ chồng, một khi khơi mào, e rằng cả hai đều sẽ khó mà kiềm chế được.

"Sắp rồi," Lục Lệnh Tùng vân vê vành tai của y, "Sắp xong rồi, đến lúc đó đêm đêm ta đều sẽ ở bên cạnh em, không lên triều cũng sẽ ở cạnh em."

Thật ra Tạ Cánh không hề buồn ngủ, nhưng y chỉ có thể cố gắng điều chỉnh hơi thở sao cho đều đặn, tránh không lật người gây tiếng động. Nếu y cứ thao thức mãi không ngủ, Lục Lệnh Tùng cũng sẽ thức trắng đêm cùng với y. Ngày mai Tạ Cánh có thể nhàn nhã ngồi xe ngựa để vào thành, nhưng Lục Lệnh Tùng thì phải cưỡi ngựa đón gió tuyết, không thể không nghỉ ngơi đàng hoàng. Tạ Cánh giả vờ như mình đã ngủ say, chỉ có như vậy Lục Lệnh Tùng mới yên tâm mà ngủ.

Suốt cả đêm chỉ có tiếng gió Bắc gào thét, đến hừng đông thì tuyết ngừng rơi. Ánh mặt trời chưa kịp ló dạng, nhưng tuyết phủ khắp nơi cũng đã khiến cảnh vật trở nên sáng sủa hơn. Lục Lệnh Tùng tỉnh dậy, cẩn thận gỡ cánh tay đang ôm mình của Tạ Cánh ra rồi xuống giường.

Tạ Cánh giấu nửa mặt vào trong chăn, lặng lẽ dõi theo bóng lưng của hắn. Suốt mười bốn năm qua, y đã trải qua vô số buổi sáng như vậy, im lặng, thờ ơ nhìn Lục Lệnh Tùng rửa mặt chải đầu, thay quần áo. Khi mọi thứ đã đâu vào đấy, chuẩn bị mở cửa bước ra, Lục Lệnh Tùng luôn quay đầu lại nhìn về phía giường theo thói quen. Nếu bắt gặp Tạ Cánh đang mở to đôi mắt đen láy nhìn mình, hắn sẽ bật cười, quay lại ngồi xuống mép giường, nửa ôm lấy y rồi lại quấn quýt thêm một hồi.

Nhưng hôm nay Lục Lệnh Tùng không làm như vậy. Hắn chỉ qua loa chỉnh trang, cầm kiếm lên bước vội tới cửa, do dự trong giây lát rồi sải bước xuống lầu, tựa như nếu còn nấn ná thêm chút nữa, hắn sẽ không thể nhịn được mà ngoảnh lại.

Tạ Cánh ngẩn người nhìn cánh cửa vừa mở ra lại khép lại, bỗng dưng cảm thấy buồn cười. Y cảm giác Lục Lệnh Tùng lúc này chẳng khác nào chàng thư sinh ma quỷ trong thoại bản, lén lút hẹn hò với tiểu thư nhà lành, đến khi trời sáng lại biến mất không một dấu vết. Nếu không phải bên người vẫn còn sót lại hơi ấm, y sẽ chẳng thể phân biệt được liệu ngày hôm qua là thật hay chỉ là mộng.

Tạ Cánh ngồi bần thần hết nửa tuần trà, rồi bỗng nhiên bật dậy như thấy ma, y xỏ giày, khoác vội áo choàng, cuống cuồng lảo đảo chạy xuống cầu thang nơi Lục Lệnh Tùng vừa rời đi.

Trong sảnh nhà trọ vắng vẻ chỉ có một tên tiểu nhị đang ngái ngủ. Tạ Cánh không hề dừng bước mà đi thẳng ra ngoài, lao vào cái lạnh thấu xương của thế giới ngập tuyết, gió mạnh như dao sắc cứa vào mặt y.

Trong lòng có tiếng nói bi thương vang lên, rằng: "Ngươi nên quay lại thôi", y không nên đuổi theo, vì y chắc chắn mình không thể đuổi kịp. Chỉ là y đột nhiên không thể nào kiểm soát được nỗi sợ hãi ùn ùn kéo đến, bao phủ lấy y như cơn tuyết lớn, đến nỗi thần hồn nát thần tính, coi mỗi bóng lưng rời bỏ y đều là lần gặp mặt cuối cùng, và mỗi cuộc chia tay đều là lời vĩnh biệt.

Y không cất tiếng gọi với theo, chỉ lặng lẽ siết chặt áo choàng bọc kín cơ thể, nghênh đón gió tuyết, từng bước chân tiến tới chìm sâu trong lớp tuyết dày, trông vô cùng chật vật nhưng không chịu khuất phục, cố chấp đuổi theo tiếng vó ngựa đang ngày một xa dần.

Không rõ đã đuổi theo bao lâu, Tạ Cánh cảm giác thời gian như kéo dài cả trăm năm, nhưng thực tế có lẽ chỉ là trăm bước chân ngắn ngủi. Y buông tay áo đang che trước trán để chắn gió lạnh xuống, bỗng nhiên nhận ra giữa không gian trắng xóa vô tận, có một bóng đen đang từ từ di chuyển về phía y, bóng đen đến gần Tạ Cánh, càng lúc càng rõ ràng, càng lúc càng chân thật — đó là Lục Lệnh Tùng.

Vừa nhìn thấy Tạ Cánh, Lục Lệnh Tùng đã lập tức quay đầu ngựa, chạy băng băng về phía y.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 81


<b>《</b><b> </b><b><i>19.3</i></b><b> </b><b>》</b>

Đến khi gần như chỉ còn cách Tạ Cánh vài bước. Lục Lệnh Tùng mới ghìm cương ngựa. Hắn nghiêng người xuống, cánh tay mạnh mẽ luồn qua dưới nách y, nhấc bổng người lên, đặt y ngồi ngang trên lưng ngựa rồi ôm siết người vào lòng.

Trong khoảnh khắc ấy, Lục Lệnh Tùng thật sự đã nghĩ đến việc quay đầu, mang theo Tạ Cánh đến một phương trời xa xôi vô định, hoàn toàn biến mất khỏi trận tuyết trắng mịt mù này.

Cứ để trong kinh tin rằng bọn họ đã bất hạnh chết đi, đến hài cốt cũng chẳng còn — để bọn họ có thể lẩn khuất suốt đời trong một vùng núi sâu rừng thẳm nào đó, không bao giờ xuất hiện nữa.

Nhưng bản thân Lục Lệnh Tùng cũng biết rằng đây chính là đầm rồng hang hổ. Đừng nói những điều khác, chỉ cần nghĩ đến các con, nghĩ đến người mẹ hãy còn đang ở Kim Lăng dầu sôi lửa bỏng, bất cứ lúc nào cũng có thể rơi vào hiểm nguy, thì họ không thể nào thanh thản sống tạm dù chỉ một ngày.

Lục Lệnh Tùng giữ ngựa đứng yên, nhẹ nhàng v**t v* tóc mai của Tạ Cánh, hỏi: "Sao em lại đuổi theo ra đây?"

Tạ Cánh không trả lời, chỉ lặng lẽ nâng tay mình lên, đan mười ngón tay vào tay đối phương, kéo tay hắn kề bên môi hôn vài cái.

Lục Lệnh Tùng cúi đầu, ghé tai y an ủi: "Đâu phải ta ra chiến trường, chỉ là đi tuần tra tình hình thiên tai thôi mà, sẽ không có gì nguy hiểm đâu."

"Em biết... Chỉ là em không yên tâm."

Từ ngày bọn họ gặp lại đến nay, đây không phải là lần đầu Tạ Cánh thẳng thắn bộc lộ sự mệt mỏi, lo lắng và bất an trước mặt Lục Lệnh Tùng. Y vốn là người đa sầu đa cảm, trước đây chỉ toàn tốt khoe xấu che, nhưng những ký ức quá mức đau thương đã dạy cho y cách tỏ ra yếu đuối, có thể thẳng thắn biểu đạt rằng "Em rất lo cho anh", Tạ Cánh hiểu rằng điều này có thể khiến Lục Lệnh Tùng kiêng dè hơn khi đối mặt với hiểm nguy — dù là vì nghĩ đến y, hay vì không muốn y lo lắng, hành động của hắn ít nhiều cũng sẽ cẩn thận hơn một chút.

"Chỉ cần hai, ba tháng thôi, nói không chừng chẳng lâu đến vậy đâu, đầu xuân ta sẽ về."

Tạ Cánh ngẩng lên, ánh mắt nhìn hắn có chút mơ hồ, chậm rãi hỏi: "Những gì anh nói tối qua... là thật chứ? Anh hứa với em sẽ không dẫn binh rong ruổi khắp trời Nam biển Bắc nữa? Chờ mọi chuyện xong xuôi, anh sẽ xin Hoàng thượng cho từ quan, chỉ giữ danh nghĩa Vương gia nhàn tản, đóng chặt cổng lớn phủ Chiêu Vương, chỉ ở bên em thôi đúng chứ?"

Lục Lệnh Tùng nghe y hỏi, mỗi một câu hắn đều quả quyết trả lời "Ừ" mà không hề do dự. Nhưng dường như Tạ Cánh vẫn không dám tin: "Trước kia anh cũng từng nói cả đời này anh sẽ không rời xa em dù chỉ một ngày một đêm mà."

Lục Lệnh Tùng nhìn vào mắt y, im lặng hồi lâu rồi khẽ thở dài: "Ta không thể đưa em theo được."

Lời nói này như đưa họ trở lại những năm tháng của tuổi hai mươi, khi cả hai gắn bó như keo sơn, thỉnh thoảng phải xa nhau, người này chỉ có thể tiếc nuối, nâng niu trấn an người kia rằng: "Ta không thể đưa em theo được."

Nhưng bây giờ họ đã không còn là những chàng trai độ hai mươi nữa. Ngay cả suy nghĩ rằng "Ta sẽ đưa em theo" vốn đã là một giấc mơ hoang đường, vậy mà hắn còn nói điều ấy ra một cách rõ ràng, đúng là khiến người ta tức cười.

Dẫu vậy, Lục Lệnh Tùng vẫn tự nhiên thốt lên những lời này theo bản năng. Giống như chợt tỉnh khỏi mộng đẹp ngày chiết liễu tiễn biệt ở Bá Lăng, bịn rịn chia tay trong cơn mưa bụi mù mịt, trở về với trời đất trắng tuyết lạnh thấu xương. Tạ Cánh cũng bừng tỉnh, chợt nhận ra bản thân đã thiếu suy nghĩ đến mức nào mới hành xử ngây ngô và vô nghĩa đến thế này. Một cơn rùng mình ập đến, y vội đưa tay đẩy hai người cách xa nhau thêm một chút.

"Anh nói đúng," y vỗ nhẹ lên cánh tay đang ôm eo mình của Lục Lệnh Tùng, "Anh nên lên đường thôi."

Lục Lệnh Tùng cũng đã lấy lại tinh thuần, thuận theo y mà buông tay, để mặc Tạ Cánh tự trượt xuống khỏi lưng ngựa. Đoạn, y cởi chiếc áo choàng màu đỏ tươi ra, vỗ nhẹ vài cái cho thẳng nếp rồi khoác trở lại lên lưng ngựa, phủ kín phần đùi và đầu gối của Lục Lệnh Tùng.

"Em làm gì thế?" Lục Lệnh Tùng ngạc nhiên, đưa tay muốn ngăn cản, nhưng Tạ Cánh chỉ khẽ lắc đầu, cố nở một nụ cười.

Y chỉ cần chạy nhanh một chút là có thể trở về nhà trọ, nhưng con đường phía trước của Lục Lệnh Tùng phải dài đến ngàn dặm, hắn cần chiếc áo choàng này hơn y nhiều.

"Chuyến này đi đêm ngày gấp rút, tuyết dày trời lạnh," Tạ Cánh khoanh tay trước ngực, kéo chặt lớp áo trong, bước lùi dần ra phía sau, để lại trên nền tuyết trắng một chuỗi dấu chân lẻ loi, từng bước cách xa Lục Lệnh Tùng. "Hãy để nó thay em ở bên cạnh anh."

Dẫu gì Kim Lăng vẫn là nơi ngay dưới chân thiên tử, tuy thỉnh thoảng có nạn dân ồ ạt đổ vào, triều đình vẫn tạm thời xoay xở được. Nhưng quận Hạ Phi đường thông thủy bộ, dân chúng vào Nam ra Bắc không thể không đặt chân đến nơi này, ngược lại không thể sắp xếp chu toàn như ở trong kinh thành. Đây cũng không phải là quê hương của các thế gia vọng tộc, không có hào môn chống lưng, khi gặp tại họa chỉ có thể tự sinh tự diệt. Suốt ba tháng qua họ cũng chỉ mới chờ được một mình Tạ Cánh đến.

Lúc này Tạ Cánh mới hiểu vì sao Lục Lệnh Tùng lại dặn y phải hoàn thành công việc mà Vương Thục giao trước, nếu còn sức mới thử thăm dò lòng dạ các Quận thủ. So với tình hình ở quận Hạ Phi, những âm mưu mờ ám kia thật chẳng đáng nhắc tới.

Đêm trước khi rời khỏi nhà trọ, Lục Lệnh Tùng đã để lại trên bàn mấy trang giấy mà hắn tự viết, trong đó ghi chép chi tiết về lý lịch của Quận thủ các quận mà y sẽ đi qua. Quận thủ Hạ Phi xuất thân từ tầng lớp bình dân, vô cùng tận tụy, đây cũng là người do chính tay Lục Lệnh Tùng đề bạt lên chức vụ này trong thời gian hắn đóng quân diệt thổ phỉ tại đây. Nhưng dù có lòng, ông ta cũng khó mà xoay sở khi trong thành đã thiếu hụt suốt cả mùa đông. Cũng may mà những năm qua cần cù làm lụng, người dân vẫn còn chút lương thực dự trữ trong nhà để cầm cự, chỉ là hoàn toàn không đủ khả năng cứu giúp người khác.

Con người ta thường rất mau quên những ký ức đau khổ, rõ ràng Tạ Cánh cũng từng chịu khổ, nhưng trở lại kinh thành chưa đầy một năm, lần nữa tập quen với cuộc sống ăn ngon mặc đẹp như trước kia, y đã không còn nhớ được cảm giác chịu đói chịu rét là như thế nào.

Trên đường đến đây, y gần như đã phân phát hết số quần áo mang theo, chỉ giữ lại đồ đủ để chống lạnh. Từ Giáp lớn lên trong cảnh cơ hàn, hiểu rõ sự bất lực trước tình thế hiện tại, cậu bèn khuyên nhủ: "Vương phi hãy nghĩ thoáng một chút đi. Dù người có giúp được một hai người, cũng không thể cứu cả thành này. Chưa kể, vài ngày nữa đến Tế Âm, Hoài Dương, tình cảnh ở đấy cũng đâu tốt đẹp gì hơn nơi này đâu?"

Tạ Cánh cau mày, trầm ngâm hồi lâu rồi quay đầu nhìn thành trì tiêu điều, chỉ nói: "Các cậu dẫn binh lính vào thành, đi một vòng xem nhà nào bị tuyết đè hư hại thì giúp họ sửa sang lại. Còn nữa, bảo đám người nhà họ Vương tháo dỡ xe ngựa ra, dùng rèm và vải bạt may thành quần áo, chặt khung xe làm củi, đem đến kho phủ, xem có thể bù đắp được gì hay không."

Từ Ất sau lưng nghe vậy thoáng sững sờ, hỏi y: "Vậy chặng đường sau này..."

"Cưỡi ngựa là được, điện hạ của các cậu làm được, lý nào ta lại có ngoại lệ."

Tạ Cánh đã dốc hết sức tranh thủ được nhiều khoản cứu trợ nhất có thể, nhưng quốc khố vốn đã eo hẹp, đào đầu này lấp đầu kia chắc chắn sẽ khiến Vương Thục sinh nghi.

Sau khi về kinh, mọi chi tiêu của y đều dựa vào bổng lộc, tiền công của người hầu trong phủ đều do nhà họ Vương chi trả, y không phải bỏ ra đồng nào. Toàn bộ tài sản trước đây đều đã ký gửi dưới danh nghĩa của Lục Lệnh Tùng. Dẫu y có lòng muốn tự bỏ tiền túi thì nhất thời cũng không biết lấy ở đâu ra cho đủ. Dù vậy, vị Quận thủ nọ vẫn vô cùng biết ơn, liên tục nói cảm ơn làm Tạ Cánh không khỏi xấu hổ.

Trước đó, Tạ Cánh đã phái Từ Giáp giả làm người của phủ Tướng, âm thầm tìm gặp Quận thủ bóng gió dò hỏi hành tung của Lục Lệnh Tùng. Quả nhiên đối phương miệng kín như bưng, một mực khẳng định rằng ba năm trước sau khi dẹp loạn, Chiêu Vương đã rời khỏi Hạ Phi và từ đó không hề quay lại, cũng chẳng liên lạc lấy một lần, càng không tiết lộ chút gì về kế hoạch của Lục Lệnh Tùng cho "phủ Tướng".

Sau đó, đoàn người tiếp tục đi xuống phía Nam đến Tế Âm. Nơi đây tình hình thiên tai tuy nhẹ hơn một chút nhưng cũng không khả quan mấy, họ lại phải xoay sở đủ đường. Quận thủ Tế Âm cũng có phản ứng tương tự, tuyệt đối không hé răng tiết lộ Lục Lệnh Tùng từng xuất hiện ở đây hay đã nhờ cậy việc gì. Điều này nằm trong dự đoán của Tạ Cánh. Y nhớ lại lời nhắc nhở trước khi rời đi của Lục Lệnh Tùng, rằng có lẽ Hoài Dương – nơi nằm gần kinh thành hơn, có cấu trúc dân cư phức tạp và cục diện quan trường nhỏ bé hơn mới là nơi dễ phát sinh biến cố nhất.

Trong lúc đang lo liệu công việc, Tạ Cánh nhận được thư của Lục Thư Ninh. Hiện giờ em và Lục Thư Thanh đã được chia ra gửi nuôi ở nhà họ Lý và nhà họ Ngô. Bởi vì phủ Tướng cũng cài cắm tai mắt trong nhà họ Ngô nên Lục Thư Thanh không dám manh động, đành phải an phận nương nhờ sự che chở của ông cậu để giữ an toàn trước mắt.

Ngược lại, phủ Tướng chẳng hề để mắt đến đứa con gái là Lục Thư Ninh ở nhà họ Lý, nhờ vậy mà em có cơ hội viết thư rồi nhờ đội buôn gửi đi. Trong thư em chỉ đề cập vài câu tóm gọn một chuyện, nhưng lại khiến Tạ Cánh vô cùng để tâm.

Đó là vào mấy ngày trước, đúng vào đêm Giao thừa. Ngô Thái phi không có con cái bên cạnh, cả Kim Lăng rộng lớn như vậy chỉ còn lại ba bà cháu là ruột thịt. Trong lòng hai anh em cũng cảm thấy buồn bã, cuối cùng quyết định cùng nhau ở bên cạnh tổ mẫu để đón năm mới, vì thế đều vào cung.

Đại họa giáng xuống, thiên tử không thể phô trương tổ chức tiệc tùng. Lục Lệnh Chương không có phi tần, vì vậy bữa tiệc cung đình cũng chỉ có vài người nhà trong cung, có già có trẻ, bữa tiệc tất niên qua loa kết thúc.

Không ngờ sau khi tiệc tan, Lục Thư Ninh còn chưa kịp rời khỏi điện Thần Long thì đã bị Lục Lệnh Chương gọi lại.

Tuổi tác của Lục Lệnh Chương và Lục Thư Thanh cách nhau không quá nhiều, có thể miễn cưỡng coi là thân quen, trước đây gã cũng chưa từng làm khó dễ đối phương. Nhưng với Lục Thư Ninh, Lục Lệnh Chương chưa từng gặp mặt em nhiều, sự xa lạ hiện rõ trong ánh mắt của cả hai.

Rất dễ nhận thấy Lục Lệnh Chương chưa từng tiếp xúc với bé gái nào ở độ tuổi của em, đứng cách Lục Thư Ninh vài bước, gã do dự rất lâu rồi mới đưa tay ra, ý bảo Lục Thư Ninh có thể nắm lấy: "Để thúc phụ dẫn con đi xem một nơi."

Lục Thư Ninh vô thức quay đầu nhìn anh trai của em, nhưng Lục Thư Thanh đã bị các triều thần bao vây, lấy cớ trò truyện để thăm dò hướng đi của phủ Chiêu Vương, cậu sợ mình sơ sẩy một chút là sẽ bị mấy lão cáo già này bắt chẹt, vậy nên chỉ có thể cẩn thận đối đáp, nhất thời không thể rời đi được.

"Không lâu đâu," Lục Lệnh Chương biết em đang cảnh giác, "Chỉ đi xem một lúc thôi, sau đó ta đưa con ra cửa cung. Mẫu hậu sẽ không giữ con lại được."

Lục Thư Ninh chỉ biết khẽ cắn môi đi theo gã. Hai người không lên kiệu mà đi bộ chầm chậm đến cung điện phía Đông Bắc, Lục Lệnh Chương im lặng dẫn em vào điện các vắng lặng, lệnh cho nội giám cầm đèn, Lục Thư Ninh nhìn chăm chú một hồi mới nhận ra nơi này chính là Viện tranh cung đình đã nhiều năm không mở khoa thi tuyển nhân tài.

Bản tranh mẫu mà lúc trước Lục Thư Thanh mang về cho em vốn được lấy từ chỗ này, khi đó hai anh em còn rất tiếc nuối, Viện tranh bị khóa quanh năm khiến cho rất nhiều kiệt tác khó thấy ánh mặt trời.

"Mấy ngày trước đã nghe hoàng huynh nhắc đến, nói là con rất thích, trẫm bèn gọi người tu sửa lại. Về sau cho con tự do ra vào, nếu như cần tìm tranh cũ thì cứ vào trong cung mà tìm."

Lục Thư Ninh do dự đáp: "Đa tạ thúc phụ..."

"Không cần," Lục Lệnh Chương chắp tay sau lưng quan sát nội điện yên tĩnh, "Nếu như sang năm qua được thiên tai, lúc đó ta sẽ mở một khoa thi vẽ, chọn ra cho con mấy người làm sư phụ."

Lúc này, trong đầu Lục Thư Ninh nhớ rõ ràng những gì cha từng dạy về lễ nghi vấn đáp trong cung, em chỉ hơi khom người, thưa: "Ý tốt của thúc phụ, con xin nhận. Chỉ là con xuất thân từ phủ Chiêu Vương, thuộc ngoại thần, không dám tùy ý vào cung, càng không dám tự tiện bước chân vào Viện tranh."

Lục Lệnh Chương quay đầu lại, rũ mắt lẳng lặng quan sát em một lúc. Trên gương mặt lanh lợi và xinh xắn của em, gã có thể nhận ra bóng dáng của vài người thân trong gia đình. Càng lớn trông em càng giống với người chị gái đang viễn chinh ở nơi xa của gã, nhưng lại không mang khí khái anh hùng gần giống như một vị tướng của Lục Lệnh Chân, đây có lẽ là do đường nét của em đã được trung hòa với nét duyên dáng thanh tao từ mẹ ruột.

Nhưng dù có ra sao đi nữa, cô bé cũng không nên chỉ là một vị khách lạc lõng ở nơi cung điện này.

Cuối cùng, Lục Lệnh Chương chỉ lắc đầu, thản nhiên nói: "Ở đây con không phải là ngoại thần."

Lục Thư Ninh không thể ghi lại từng chi tiết biểu cảm của Lục Lệnh Chương vào trong thư, những gì em có thể làm chỉ là thuật lại câu nói cuối cùng đó cho mẹ em biết.

Sửa sang lại Viện tranh không phải là một công trình lớn lao gì, nhưng nếu muốn thực hiện nó, Lục Lệnh Chương vẫn phải vượt qua nhà họ Vương, âm thầm đưa ra chỉ thị.

Cách một trang giấy, Tạ Cánh không tài nào đoán được ý nghĩa thực sự mà Lục Lệnh Chương muốn biểu đạt qua câu nói kia. Từ đầu đến cuối, Lục Lệnh Chương chưa từng thổ lộ tâm tư với họ, mọi việc đều liên hệ gián tiếp qua lời của Thôi Thục Thế. Nhất là khi thái độ của gã đối với ngôi vị Hoàng đế bỗng trở nên càng mơ hồ và khó đoán. Lục Lệnh Chương muốn thoát khỏi sự kìm kẹp của nhà mẹ, rốt cuộc là để giành lấy tự do thực thi hoàng quyền, hay là để đạt được sự giải thoát hoàn toàn và chính thức cho số mệnh của mình?

Lấy lòng Lục Thư Ninh có lẽ là một kiểu gây áp lực nhẹ nhàng, nhằm hạ xuống một bậc thang trước những mưu tính từ phía anh trai và anh dâu; nhưng cũng có thể Lục Lệnh Chương thuận tay làm như vậy chỉ đơn thuần là vì gã nhớ đến đứa cháu gái duy nhất này mà thôi.

Lục Thư Ninh viết rằng, đêm đó sau khi rời khỏi hoàng cung, em đã kể lại toàn bộ câu chuyện cho anh trai mình. Lục Thư Thanh cân nhắc kỹ lưỡng, cuối cùng vẫn khuyên em không nên đến Viện tranh: "Không phải là chúng ta nghi ngờ lòng tốt của thúc phụ, nhưng thời cuộc đang rối ren, ai ai cũng dòm ngó phủ Chiêu Vương, nếu thường xuyên lui tới nội cung, chỉ sợ người ta sẽ có cớ gièm pha gia đình mình."

Câu nói này rất uyển chuyển, nhưng Tạ Cánh đọc một lần đã nhận ra ngay mối băn khoăn trong lòng con trai mình: Thứ nhất, đúng là cậu nghi ngờ ý đồ của Lục Lệnh Chương, nhưng nếu trực tiếp phỏng đoán động cơ của hoàng đế cũng như thúc phụ, thì sẽ trở thành kẻ bất trung bất kính. Thứ hai, suy cho cùng thì sở thích của Lục Thư Ninh vẫn chưa phải là thứ được thế tục công nhận. Trong lúc triều đình đang đối mặt với đại họa, nếu chuyện này lộ ra ngoài sẽ khó tránh khỏi bị trách là vô cảm trước nỗi khổ của bách tính.

Tạ Cánh thở dài một tiếng. Tuy trong lòng không mong muốn các con mình bị cuốn vào những tranh chấp của thế hệ trước, nhưng y vẫn phải gửi thư hồi đáp, dặn Lục Thư Ninh nghe theo lời anh trai em: "Ngoại trừ đến điện Minh Loan vấn an tổ mẫu, con hãy cố gắng đừng đến gần Viện tranh."

Trước khi tiến vào địa phận thành Hoài Dương, Tạ Cánh lấy cớ kinh thành thiếu nhân lực nghiêm trọng, công khai lệnh cho toàn bộ tàn quân Hổ Sư đang tháp tùng trở về Kim Lăng trước mặt người hầu nhà họ Vương. Nhưng ngay sau đó, y bí mật chỉ thị họ cải trang thành dân chạy nạn từ phương Bắc đến trà trộn vào bách tính trong thành.

Y chỉ căn dặn một câu với Từ Giáp, bảo cậu đi tung tin khắp các ngõ ngách trong thành, để cho mọi người biết rằng: tin này giờ đã lan truyền khắp Giang Bắc, bất cứ ai đến Kim Lăng cầu xin phủ Chiêu Vương, thì điện hạ và thế tử chắc chắn sẽ rộng lòng giúp đỡ, không phân biệt địa vị cao thấp, sẽ không có ai bị từ chối. Bọn họ chỉ tạm nghỉ chân tại Hoài Dương, sắp sửa lên kinh cầu xin phủ Chiêu Vương rủ lòng thương xót.

Bối cảnh Quận thủ quận Hoài Dương – Trình Văn phức tạp hơn hẳn hai người trước đó. Bởi vì trùng hợp làm sao, ông ta cũng từng là thần tử của Đông cung dưới triều tiên đế. Sau vụ án lớn cuối năm Kiến Ninh, ông ta là một trong số ít người tự nguyện treo ấn từ quan. Mấy năm sau, ông được phục chức, trở thành Quận thủ Hoài Dương, so với việc bị đẩy đến vùng biên cương như Ung Châu, Lương Châu như nhóm Hà Cáo và Hứa Dịch, thì đây quả là một chức vụ nhẹ nhàng và thuận lợi.

Kể từ sau khi vào thành cho đến năm ngày sau đó, cửa phủ Quận thủ luôn đóng chặt, Trình Văn viện đủ mọi lý do để từ chối, nói mình không tiện gặp Tạ Cánh.

Tạ Cánh vẫn bình chân như vại, nhẫn nại chờ đợi. Trong lúc đó, tin đồn về phủ Chiêu Vương cùng phe cánh bao gồm nhà Ngô và họ Lý đã lan khắp thành Hoài Dương như vũ bão, đến mức tưởng chừng không thể ngăn lại nổi, có nguy cơ lan dọc theo dòng nước sông Hoài đến tận Kim Lăng.

Cuối cùng, Trình Văn cũng chịu đề nghị gặp Tạ Cánh tại nhà riêng, thậm chí phải vội vàng cho người đến gõ cửa phòng y vào lúc nửa đêm.

Tạ Cánh không muốn gia nhân nhà họ Vương đi cùng mình vào phủ Quận thủ, chỉ thuận miệng nói: "Đợi ở ngoài hay không tùy các ngươi, nhưng nếu chẳng may vô tình khiến ta mất mạng, làm lỡ việc lớn của Vương tướng, e rằng các ngươi trở về cũng khó lòng ăn nói."

Những người đó suy cho cùng vẫn sợ hãi uy quyền của chủ nhân thật sự, nghe y nói cũng có lý, họ bèn đứng chờ từ xa ngoài cổng phủ. Tạ Cánh một mình vào trong, chỉ thấy nơi đây canh phòng nghiêm ngặt, cũng không thấy tiểu tư hay thị nữ qua lại mà chỉ toàn thân binh trang bị vũ khí, trông chẳng giống nhà riêng mà giống như cơ quan công quyền hơn.

Bước vào sảnh chính, bốn phía đều có binh sĩ canh giữ, Trình Văn cũng không giả bộ khách sáo mà nói thẳng vào vấn đề:

"Gần đây trong thành lan truyền lời đồn tạo thanh thế cho Chiêu Vương điện hạ, chẳng hay có phải do Tạ đại nhân vô tình mang đến không? Nếu đúng là vậy thì phiền ngài tự mình dẹp yên, nếu không phải, xin nhờ đại nhân chuyển lời đến Vương tướng, rằng những lời thiếu hiểu biết như thế tuyệt đối không phải là do tại hạ xúi giục."

Tạ Cánh cũng không vòng vo, y hỏi thẳng: "Trình đại nhân chớ vội. Nghe nói gần đây Chiêu Vương điện hạ từng ghé qua thành Hoài Dương và ở lại đây vài ngày. Ta chỉ muốn hỏi một câu, rốt cuộc Chiêu Vương đã làm gì?"

Trình Văn sửng sốt: "Tai mắt của đại nhân quả là nhanh nhạy. Chỉ không biết câu hỏi này là ý của đại nhân, hay là Vương tướng muốn hỏi đây?"

Tạ Cánh cười cười: "Lời này sai rồi, trong thiên hạ này chẳng phải ở đâu cũng đều là đất của vua sao? Ở đâu có cái gọi là ta muốn hỏi? Lại ở đâu có cái gọi là Vương tướng muốn hỏi? Từ trước đến nay ta đều bôn ba vì phủ Tướng, chuyến này cũng là thay mặt thiên tử thị sát. Vương tướng và bệ hạ một lòng, những lời nói và việc làm đều xuất phát từ điện Thần Long cả thôi."

Trình Văn không ngờ chuyện này lại có liên quan đến Lục Lệnh Chương, ông ta trầm ngâm một lát rồi đáp: "Hóa ra bệ hạ có nỗi lo huynh đệ tương tàn. Chỉ là không may, lòng của Chiêu Vương điện hạ lại không cùng hướng với bệ hạ."

Tạ Cánh xoay mặt lại, nhíu mày hỏi: "Nói như vậy, Chiêu Vương thực sự đã đến đây sao?"

"Không dám giấu diếm," Trình Vân nhìn y chằm chằm, nói sâu xa, "Chiêu Vương đến đây, là để nhờ tại hạ làm một việc."

Tạ Cánh khéo léo buộc câu chuyện vào Lục Lệnh Chương: "Việc ấy có gây nguy hiểm cho thiên tử, làm lung lay xã tắc hay không?"

Tạ Cánh biết nếu hỏi thẳng sẽ không nhận được câu trả lời, y bèn đổi cách nói, hướng trọng tâm câu chuyện về phía Hoàng đế. Nếu Lục Lệnh Tùng yêu cầu Trình Văn sau này án binh bất động, từ chối cần vương, thì việc đó có thể được giải thích thành có ý đồ chống đối Lục Lệnh Chương, chứ không nhất thiết nhắm vào phủ Tướng.

Tạ Cánh đã liệu được rằng khả năng cao Trình Văn sẽ thừa nhận. Nhưng bất ngờ thay, đối phương lại lắc đầu, bình thản nói: "Đại nhân quả thật rất thông minh, nhưng lần này ngươi đã tính sai ý đồ của cựu chủ nhân rồi."

Cách Trình Văn gọi Lục Lệnh Tùng là "cựu chủ nhân" thay vì nhắc đến quan hệ hôn nhân đã kết thúc giữa họ rõ ràng là một cách ám chỉ cho y biết rằng: Lục Lệnh Tùng không có thời gian rảnh nhằm vào Tạ Cánh vì thù hận riêng, tất cả những rắc rối giữa hắn và y hiện tại đều xuất phát từ cuộc đấu tranh quyền lực và tranh giành lợi ích.

Quả nhiên, Trình Văn đã nói tiếp: "Ý đồ của Chiêu vương chẳng hề liên quan gì đến bệ hạ cả."

Tạ Cánh lập tức cảm nhận có điều bất thường, y đột ngột quay đầu nhìn chằm chằm Trình Văn. Chỉ thấy đối phương chợt nở một nụ cười lạnh lẽo kỳ quái, sau đó vẫy tay một cái, trong nháy mắt, tiếng giáp trụ va chạm vào nhau vang lên, thân vệ trong sảnh đồng loạt rút kiếm, lưỡi gươm sáng loáng vây chặt lấy Tạ Cánh.

"Chiêu Vương điện hạ nhờ ta," Trình Văn bước lên nửa bước, nói nhỏ, "Giúp ngài ấy loại trừ mối họa lớn là Tạ đại nhân đây."

"Vậy thì khó xử quá," Tạ Cánh lùi lại một bước, vẻ mặt không hề hoảng loạn: "Ta chính là mối họa lớn của Chiêu Vương, nhưng cũng là người của phủ Tướng. Nếu đại nhân giết ta, sẽ chẳng ai có thể ngăn cản những lời đồn đại lan truyền vào kinh thành, đến lúc ấy phủ Tướng sẽ không thể không cho rằng đại nhân đã sớm quy hàng Chiêu Vương, vì thế mới g**t ch*t tâm phúc của họ, giúp Chiêu Vương trừ đi họa lớn."

Trình Văn do dự một chút rồi thấp giọng phủ nhận, quả quyết nói: "Vương Thục tuyệt đối không thể coi ngươi, một kẻ họ Tạ là tâm phúc được. Ngươi chỉ đang làm cáo mượn oai hùm, cố gắng moi móc thông tin từ ta thôi, đúng không?"

Tạ Cánh híp mắt, đang chuẩn bị đáp trả thì đột nhiên nghe thấy một âm thanh vang lên từ cửa phòng phía sau: "Tạ đại nhân dù không phải là tâm phúc của Vương tướng, thì cũng là tâm phúc của thiên tử đấy thôi."

Trình Văn nghe vậy, vô thức ngước mắt nhìn về phía cửa phòng. Khi nhìn thấy người xuất hiện, ông ta bỗng sững người, vẻ mặt vô cùng ngạc nhiên, cảm giác không phải chỉ vì có kẻ lạ xâm nhập vào khu vực đã được bảo vệ nghiêm ngặt mà như thể nhìn thấy ma quỷ giữa ban ngày, suốt cả buổi chỉ biết trố mắt nhìn người kia, lắp bắp hỏi: "Ngươi... Ngươi...?"

Người đến khoái chí đáp lời: "Ta làm sao?"

Trình Văn đứng sững tại chỗ, nói năng lộn xộn: "Ngươi làm như vậy là tội khi quân, đáng chết..."

"Tuyên Thất mai danh ẩn tích nhiều năm là thật, nhưng thiên tử chưa bao giờ hạ chỉ bỏ mặt, nay ta phụng mệnh bảo vệ Khâm sai của thiên tử chu toàn thì có tội gì?"

Vừa nghe thấy giọng nói đó, cả người Tạ Cánh đã lập tức cứng đờ, đầu óc hoàn toàn mất năng lực suy nghĩ. Tất cả phương án thoát thân mà y đã chuẩn bị, cùng vô số lời nói dối được lên kế hoạch sẵn đều vỡ tan thành từng mảnh hỗn loạn.

Y hoảng hốt, máy móc xoay người ra sau, người kia từng bước tiến gần vào vòng vây, vẻ mặt vô cùng bình thản, bước chân nhẹ tênh như đang dạo chơi. Đối phương cầm trên tay một con dao ngắn, đó chính là dao găm Phi Quang mà y để lại khi rời kinh bốn năm trước, từ đó cũng không còn biết tung tích.

Đã vô số lần Tạ Cánh nằm mơ thấy cảnh tượng này, nhưng y chưa bao giờ ngu ngốc mà hy vọng viển vông, chưa bao giờ dám mơ tưởng điều đó có thể trở thành hiện thực. Y đã luôn tin rằng trong quãng đời còn lại này, bản thân sẽ không bao giờ được gặp lại người trước mắt nữa...

Đó là Tạ Tuấn hai mươi tuổi vẫn còn khỏe mạnh, cùng với khuôn mặt vô cùng giống với cha mẹ đã qua đời của cậu, một khuôn mặt đầy sức sống.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 82


<b>《</b><b> </b><b><i>19.4</i></b><b> </b><b>》</b>

Tạ Tuấn bước đến giữa đại sảnh, ánh mắt không dừng lại ở Tạ Cánh, người vừa xoay người lại, mà chỉ lướt thẳng qua vai y, nhìn về phía Trình Văn đang hoảng sợ.

Rõ ràng Trình Văn biết được tướng mạo của Tạ Tuấn lúc cậu "còn sống", ông ta run giọng hỏi: "Ngươi không sợ ta sẽ nói với phủ Tướng rằng ngươi vẫn còn sống sao?"

Tạ Tuấn dùng bụng ngón tay v**t v* sống dao Phi Quang, nói: "Đến cả thiên tử cũng biết ta còn sống, ông nghĩ phủ Tướng không biết hay sao? Huống hồ, Trình đại nhân cũng nên nghĩ kĩ xem, bản thân ông có giữ nổi cái mạng này để đưa tin đến chỗ Vương tướng hay không đi?"

Nghe vậy, Trình Văn thoáng chần chừ. Có vẻ như Tạ Tuấn thật sự không hề lo sợ việc bị phơi bày trong trạng thái bị phủ Tướng quản chế. Nếu đây không phải là sự ngạo mạn quá đà, vậy chỉ có thể là cậu và Tạ Cánh đều đã đầu hàng, và cả hai chú cháu họ hiện đang phục vụ cho cùng một chủ nhân.

Tạ Cánh bình tĩnh đứng yên tại chỗ, khi ánh mắt Trình Văn xoáy sâu vào y, y đã giấu kín được sự kinh ngạc trên khuôn mặt ban đầu. Y vốn không rõ lời nói của Tạ Tuấn là thật hay giả, dù Tạ Tuấn trông chỉ như đang phô trương thanh thế thôi, nhưng y đã khẳng định được một điều, đó là Trình Văn thật sự sợ hãi trước thế lực của phủ Tướng.

Khi Tạ Tuấn giao đấu với thuộc hạ của Trình Văn, Tạ Cánh lập tức nhận ra đó là biến thể của Phi Quang Lục Thức – bộ chiêu thức mà y đã từng thấy Lục Lệnh Tùng và Tiêu Dao thực hiện. Nhưng lúc này chứng kiến Tạ Tuấn thi triển nó, y lại có cảm giác như đã qua mấy đời. Tạ Tuấn vốn không chuyên tâm học võ, gia đình cũng chẳng mong cậu gia nhập quân ngũ để tránh nguy cơ thương tích, chỉ hy vọng cậu sẽ đi theo con đường khoa cử truyền thống của gia đình. Nhưng vì thiếu niên thường có khuynh hướng tôn sùng việc dùng sức mạnh vượt qua các luật lệ để thể hiện trước đám bạn bè đồng trang lứa, nên trước đây tuy cậu có chút căn cơ, nhưng vẫn chưa đạt đến trình độ thuần thục như hiện tại.

Tạ Cánh không sao nhìn rõ được chiêu thức của cậu. Tạ Tuấn di chuyển rất linh hoạt, khéo léo né tránh giữa vòng vây binh đao, từng động tác đều thoáng hiện bóng dáng của Tiêu Dao. Nếu không nhờ bao năm qua liên tục khổ luyện và trải nghiệm bằng vô số lần giao đấu, Tạ Cánh khó mà tưởng tượng được một thiếu niên ôn hòa hiền lành ngày trước lại có thể thay đổi như thể lột xác đến vậy.

Tiếng vũ khí vang lên trong phủ khiến nhóm gia nhân của nhà họ Vương ở bên ngoài chú ý. Mặc dù trước đó Tạ Cánh đã căn dặn, nhưng họ cũng không dám để y xảy ra chuyện gì bất trắc, sợ làm lỡ việc mà Vương Thục đã giao phó. Đợi đến họ lần theo tiếng động mà tìm vào trong, Tạ Tuấn đã nhân lúc hỗn loạn mà rời đi. Thuộc hạ của Trình Văn không thể đuổi kịp cậu, Tạ Cánh cũng hoàn toàn không nhìn thấy được hướng đi của cậu.

Sau khi hồi kinh, Tạ Cánh đến gặp Vương Thục trước để phục mệnh. Y giấu nhẹm hành tung của Lục Lệnh Tùng, chỉ trình bày chi tiết hành vi bất trung của Trình Văn. Những sự kiện xảy ra giữa chừng, bao gồm cả biến cố bất ngờ liên quan đến Tạ Tuấn cũng được y thuật lại không sót một chữ. So với lời bẩm báo của nhóm hạ nhân kia, những gì y báo cáo với Vương Thục cũng được xem như đã hoàn thành nhiệm vụ một cách trọn vẹn rồi.

Thành Kim Lăng nếu nói nhỏ thì chỉ như một bàn cờ trong lòng bàn tay, nhưng nếu nói lớn lại vô cùng rộng lớn và phức tạp. Muốn tìm một người ở đây chẳng khác nào mò kim đáy bể, huống hồ là đi tìm một người chết.

Từ đầu đến cuối, những dấu hiệu mà Tạ Tuấn để lại cho Tạ Cánh cũng chỉ có "Tuyên Thất" và "thiên tử".

Năm đó, con đường mà Tạ Tuấn bước đi là một con đường thênh thang xán lạn. Xuất thân cao quý đã định đoạt vận mệnh của cậu từ sớm. Cũng như ông nội, cha cậu và cả Tạ Cánh trước khi bị chỉ hôn, cuộc đời của Tạ Tuấn đã được vạch ra một cách chi tiết, bước dần lên cao, từng bước đều được thế tục cho phép, người người kỳ vọng.

Nếu không vì biến cố bất ngờ xảy ra, thì Tuyên Thất vốn từng là "chim săn" mang tiếng xấu của tiền triều sẽ chẳng có bất kỳ sự liên quan nào đến một người như cậu.

Phi Quang nằm ở trong tay Tạ Tuấn, vậy liệu Lục Lệnh Tùng có biết rõ chuyện này hay không? Tạ Tuấn nương nhờ Tuyên Thất, liệu rằng có sự trợ giúp của Tiêu Dao hay không?

Tạ Cánh mím môi, cau chặt mày suy nghĩ trong im lặng, nhớ lại những cuộc trò chuyện với hai người này từ khi y về kinh, cố gắng suy đoán xem liệu có manh mối nào trong hành vi hay ngôn từ của họ ngầm ám chỉ đến điều này hay không.

Nhưng y và Lục Lệnh Tùng đã nói rất nhiều chuyện, quá lộn xộn, nếu lúc đó không nhận ra có điều gì khác thường, thì bây giờ muốn nhớ lại từng chi tiết e rằng rất khó; ngược lại là Tiêu Dao, bọn họ chỉ gặp nhau vỏn vẹn vài lần...

Tạ Cánh bỗng nhiên sực nhớ ra, ngày hôm đó Tuyên Thất tìm được tờ giấy phỏng theo chữ viết của y trong thư phòng của Vương Thục. Sau khi giao tờ giấy đó cho y, Tiêu Dao đã có một khoảnh khắc ngập ngừng muốn nói lại thôi, nàng nói rằng còn một chuyện chưa từng nói cho y biết, nhưng vẫn còn nhiều thời gian, cuối cùng chỉ bảo rằng "<i>Đợi đến lúc nên nói, tôi sẽ nói cho Vương phi nghe</i>."

Tạ Cánh đứng phắt dậy lao nhanh ra cửa, vừa đi vừa dặn người chuẩn bị ngựa, phóng ngựa thẳng tới bờ sông Tần Hoài. Bấy giờ trời đã tối đen, Trích Tinh lâu náo nhiệt kẻ ra người vào, làm sao có thể tìm được bóng dáng Tiêu Dao. Tạ Cánh lòng như lửa đốt, suýt nữa đã không kiềm chế được mà lớn tiếng gọi người giữa đám đông. Y loay hoay tìm kiếm một vòng, một tiểu tư mới len lén đến gần y, nói nhỏ: "Chủ nhân của chúng tôi mời Vương phi lên thuyền gặp người."

Tiêu Dao ngồi trên mũi thuyền, quay đầu lại nhìn thấy Tạ Cánh, có vẻ như nàng chờ đợi đã lâu: "Tôi biết là Vương phi sẽ đến mà."

Tạ Cánh bước lên mạn thuyền, nhìn vào khoang thuyền phía sau nàng, hỏi: "Chuyện mà lần trước Tiêu cô nương vẫn chưa nói với ta, bây giờ có thể nói hay chưa?"

Tiêu Dao khẽ cười: "Chẳng phải Vương phi đã nhìn thấy rồi sao? Có lời gì muốn hỏi, không bằng trực tiếp đến hỏi người mà Vương phi muốn tìm đi."

Tạ Cánh hiểu ý, cúi thấp người hành lễ với nàng: "Ân tình mà Tiêu cô nương dành cho nhà họ Tạ lớn lao, Chi Vô nhất định sẽ báo đáp bằng cả xương máu."

Tiêu Dao lắc tay, nâng khuỷu tay để y đứng thẳng dậy, không nói thêm lời nào.

Theo chuyện kể năm đó, lấy Phi Quang làm tín vật, Tiêu Dao và Lục Lệnh Tùng đã kết thành đồng minh, Tuyên Thất hỗ trợ phủ Chiêu Vương có thể coi như nằm trong thỏa thuận, nhưng việc Tiêu Dao thu nhận Tạ Tuấn là hành động theo lòng tốt, hoàn toàn nằm ngoài bổn phận.

Tạ Cánh ngước mắt nhìn nàng, bao năm nay, những gì phủ Chiêu Vương hứa hẹn với Tiêu Dao chỉ giống như một tấm ngân phiếu vô giá trị, khó lòng thực hiện trong thời gian ngắn. Lục Lệnh Tùng có thể tạm thời giúp đỡ tài chính để duy trì cuộc sống cho những người trong tộc họ Tiêu, nhưng muốn giúp họ xóa bỏ tội tịch, trở về quê cũ, đoàn tụ với gia đình không phải là chuyện mà một kẻ không nắm quyền hành trong tay có thể dễ dàng làm được.

Mà y cũng không dám khẳng định phủ Chiêu Vương chắc chắn sẽ thành công. Tiêu Dao và Tuyên Thất vẫn luôn giống như một thanh kiếm sắc bén, tai mắt thông thiên, nghe lệnh làm việc, mười mấy năm qua trước sau như một, nhưng nếu chọn sai người để đặt cược, rồi cuối cùng Chiêu Vương thất bại, bị đẩy vào cảnh tù tội, thì Tiêu Dao còn có thể tìm ai để thực hiện lời hứa che chở cho Lan Lăng Tiêu thị đây?

Thế nhưng ở trên đời này, lựa chọn cũng là một loại năng lực. Một khi đã đưa ra sự lựa chọn, thì nhất định phải đủ quyết đoán để gánh chịu hậu quả. Tạ Cánh nghĩ, Tiêu Dao hẳn cũng rất thấu hiểu đạo lý này, thế nên bao năm qua, nàng chưa từng một lần mở miệng thúc giục Lục Lệnh Tùng, hỏi hắn rằng<i> "Chuyện khi nào mới thành?"</i>.

Có lẽ Tiêu Dao đã chọn giúp đỡ Tạ Tuấn, cho cậu chốn dung thân là vì cảnh ngộ cửa nát nhà tan, tứ cố vô thân của cậu tương tự với bản thân nàng. Nhưng dù thế nào đi nữa, nhìn từ một góc độ khác, nếu không vào hang cọp, làm sao có thể bắt được cọp con? Nếu mai sau phủ Chiêu Vương thực sự có thể lên nắm quyền, ơn cứu giúp này sẽ là một cơ hội hoàn hảo để Tiêu thị có thể lật ngược tình thế. Trong phạm vi năng lực cho phép, việc Tiêu Dao cứu lấy Tạ Tuấn đối với nàng chẳng phải là chuyện thiệt thòi.

Tạ Cánh thất thần đứng bên mạn thuyền, mãi sau mới nghe thấy Tiêu Dao khuyên mình: "Vương phi vào trong đi."

Tạ Tuấn đang co chân, nghiêng người ngủ gà ngủ gật bên chiếc đèn. Thật ra cậu đã cảm nhận được sự thay đổi khi thuyền di chuyển, nhưng vì đây là thuyền mà Tiêu Dao thường xuyên sử dụng khi tiếp khách, trong tối lại có Tuyên Thất nên cậu vốn chẳng mấy để tâm.

Không ngờ, khi tấm màn được vén lên, người rảo bước tiến vào trong khoang thuyền thoáng xuất hiện trước mắt cậu, lại khiến cậu suýt nữa tưởng bản thân hoa mắt, vô thức gọi: "Chú ạ?"

Tạ Cánh bước đến trước mặt cậu như người mất hồn, sau đó quỳ nửa chân, ghé sát vào ngắm kĩ mặt mày của chàng thanh niên, cuối cùng siết chặt lấy tay cậu: "Chú biết mà..."

Cảm giác đau đớn mà Tạ Cánh cảm nhận được thậm chí còn mãnh liệt hơn cả lần đầu y gặp lại Lục Thư Thanh, giống như xé toạc một vết sẹo đã kết mày, để lộ ra mảng thịt non nớt xấu xí. Rồi khi cơ thể đang được hồi sinh, y lại phải ôm ấp lấy vết thương cũ, vết thương in dấu khoảnh khắc vĩnh viễn chẳng thể quên đi được.

Tạ Tuấn bất đắc dĩ cười khổ: "Ban đầu con còn định tránh chú, vậy nên hôm đó giải vây xong là tranh thủ lúc còn loạn mà bỏ trốn, ai ngờ chú vẫn tìm được con."

Tạ Cánh lắp bắp: "Sao... sao con lại làm vậy?"

Tạ Tuấn chậm rãi nói: "Điều cuối cùng mà con nhớ được chính là mẹ đã đẩy con vào cổng phía Đông Bắc... Nhưng lúc đó, bên trong đã cháy sạch hết rồi."

Cậu quay mặt về phía Tạ Cánh, lẳng lặng nhìn y: "Khi tỉnh lại, con thấy mình đang ở doanh trại Hổ Sư ở Hoài Bắc, trong lều của điện hạ."

Lúc đầu Tạ Cánh còn chưa rõ "điện hạ" trong lời cậu là chỉ ai, y chỉ ngồi yên tại chỗ, ngây người suy nghĩ một lúc lâu xem trong thành Kim Lăng này ngoài Lục Lệnh Tùng còn ai có thể xưng là "điện hạ". Y thậm chí đã liên tưởng đến Lục Lệnh Chân, nhưng vẻ mặt của Tạ Tuấn đã nói cho y biết, đó chính là đáp án mà y không dám tin vào.

Y nghe Tạ Tuấn tiếp tục kể: "Chi tiết hôm đó, điện hạ không chủ động kể cho con nghe, con cũng chưa bao giờ dám hỏi. Đến tận bây giờ, con vẫn không biết điện hạ đã cứu con ra ngoài như thế nào."

Ánh mắt đờ đẫn của Tạ Cánh hướng về phía ngọn nến, ánh sáng dao động khiến y như rơi vào màn sương. Y thì thào mở miệng, giọng nói thấp đến mức như một lời thì thầm: "Vậy vì sao anh ấy... Chưa bao giờ nói với chú chuyện này?"

Tạ Tuấn lập tức tiếp lời: "Chú đừng trách điện hạ! Thật ra... Là do con đã xin điện hạ và Tiêu sư phụ, tạm thời đừng nói cho chú biết con vẫn còn sống."

Tạ Cánh ngạc nhiên nhìn cậu, y há miệng, nhưng lại không dám hỏi ra những lời đã trót lưỡi, y không muốn nghe thấy đáp án đáng sợ nhất kia. Y chỉ muốn hỏi có phải là vì chú nương tựa Vương thị, kết bè kết cánh, theo chúng làm tùy tùng, chà đạp lên thanh danh của nhà họ Tạ, vậy nên con mới không muốn nhận lại chú hay không?

Nhưng Tạ Tuấn chỉ thản nhiên nói: "Gia môn bất hạnh phải chịu thảm họa này, nếu người thân quan trọng nhất, gần gũi nhất của con biết con còn sống thì sẽ rất lo lắng, sẽ bị ràng buộc. Lỡ như con gặp bất trắc trong lúc rửa oan báo thù, thì chỉ lần nữa khiến cho những người thân yêu thêm đau khổ mà thôi. Thà rằng không nhận nhau, cứ coi như con đã chết hẳn, mọi người đều sẽ sống yên bình, mạnh ai nấy sống cuộc đời của mình."

Cậu rũ mắt, mỉm cười: "Thật ra bốn năm nay con rất ít ở trong kinh, nhưng thỉnh thoảng vẫn đi xem Thanh Nhi. Có một hai lần gì đấy, con nghĩ chắc là nhóc con đó cảm nhận được con đang nhìn em ấy."

Lòng Tạ Cánh khẽ run lên, vô thức hỏi: "Vậy dấu tay máu trong thư phòng của con mấy hôm trước..."

Tạ Tuấn nghe vậy, bỗng bày ra vẻ mặt tinh nghịch của thiếu niên: "Mấy hôm đó con vừa trở lại Kim Lăng, nhìn chú làm gì cũng có lũ người nhà họ Vương canh chừng, không có được chút tự do nào, con bèn nghĩ đến việc lén lút làm trò quỷ, dọa cho chúng sợ, tốt nhất là để chúng bị dọa cho cút hết khỏi ngõ Ô Y đi, chú cũng có thể sống thư thả một chút."

Khi nói chuyện, cậu để lộ nửa chiếc răng nanh sắc nhọn, xua đi phần nào vẻ buồn bã xa lạ khiến Tạ Cánh bỗng dưng ngẩn ra, trước mắt mơ hồ trông thấy Tạ Tuấn bé xíu luôn quấn quýt bên mình, nghịch ngợm đùa vui chẳng bao giờ yên tĩnh, hoàn toàn trái ngược với dáng vẻ điềm đạm của Lục Thư Thanh, trên bàn tiệc, cậu luôn giữ vai trò tiếp đãi anh em bạn bè, nói những câu đùa vui để làm vui lòng ông bà, tiếng nói cười như vẫn còn văng vẳng bên tai.

Tạ Cánh nhẹ nhàng v**t v* hai má cậu, rồi chợt nhận ra Tạ Tuấn đã gia quan, không còn là đứa con nít để người ta có thể tùy tiện bóp má như trước kia nữa. Y còn định hỏi Tạ Tuấn có từng đến thăm cô bé nhà họ Lý hay không, nhưng nghĩ lại, nếu cậu đã không muốn khiến những người yêu thương mình lo lắng trước khi báo được thù lớn, chỉ sợ cũng sẽ không để lại chút tình cảm nào cho Lý Dã, tránh phụ lòng con gái người ta cả đời.

"Lần này ở Hoài Dương con vẫn luôn âm thầm đi theo sao? Làm sao lão Quận thủ họ Trình kia lại biết con?"

"Con sợ chú ra ngoài kia gặp bất trắc, cho nên đã xin sư phụ cho âm thầm theo đoàn một chuyến, không ngờ lại gây rắc rối," Tạ Tuấn thở dài, "Năm đó Trình Văn từ quan nhưng chưa về quê ngay mà vẫn ở lại kinh thành, qua lại mật thiết với các cựu thần Đông cung của tiên đế. Lúc đó con thường dẫn Thanh Nhi đến phủ Trương Thái phó, cũng có giao thiệp với vài người, tình cờ quen biết Trình Văn."

Tạ Cánh chợt phát hiện ra xưng hô giữa cậu và Tiêu Dao: "Sư phụ sao?"

Tạ Tuấn đáp: "Lúc con vừa tỉnh lại, tinh thần rất sa sút, điện hạ lo con không thể về kinh một mình, cho nên dẫn con theo quân Hổ Sư thả lỏng tâm trạng mấy tháng. Sau đó bọn họ xuất phát về Ngân Châu, điện hạ đã nhờ Tiêu sư phụ thu lưu con, con cũng gia nhập Tuyên Thất ngay lúc đó, kể từ đó về sau chỉ cần về kinh thành, con đều ở lại Trích Tinh lâu."

Tạ Cánh cau mày: "Vậy quan hệ giữa con và bệ hạ là sao?"

Tạ Tuấn gượng cười: "Đầu năm nay, trong lúc làm nhiệm vụ con sơ ý bị nhị phu nhân Thôi thị của phủ Tướng phát hiện tung tích. Cô ta coi đây là nhược điểm, đã cùng con làm một giao dịch."

Tạ Cánh không ngờ đến chuyện này mà Thôi Thục Thế cũng nhúng tay vào: "Cô ta muốn Tuyên Thất làm gì cho nhà họ Thôi ư?"

Tạ Tuấn lắc đầu: "Con không biểu lộ bất kì điều gì, cũng không đề cập đến Tuyên Thất và sư phụ. Thôi phu nhân rất tinh thông việc "làm ăn" bằng quyền mưu, cô ta chỉ cần biết rằng con còn sống, có năng lực hành động tương đối như vậy là đủ, về phần sau lưng con có ai che chở, cô ta rất biết chừng mực, không hỏi nhiều."

Tạ Cánh nhớ lại ngày ở Tần Hoài Xuân, Thôi Thục Thế tỏ ra rất ngạc nhiên khi biết rằng Tuyên Thất vẫn luôn âm thầm tồn tại, có lẽ từ lúc đó, nàng ta đã liên hệ việc Tạ Tuấn còn sống với Tuyên Thất rồi.

"Thôi phu nhân không yêu cầu con phải làm việc cho cô ta, hay cả Thanh Hà Thôi thì," Tạ Tuấn nói, "Phu nhân đã dẫn con đến chỗ thiên tử, chỉ bảo con chờ lệnh bệ hạ, hoàn thành những công việc mà ngài ấy không thể làm được, đổi lại phu nhân sẽ che chở cho con, bảo vệ con tự do ra vào kinh thành và các nha, ty có liên quan đến nhà họ Vương."

Tạ Cánh lập tức hiểu được dụng ý của Thôi Thục Thế. Nhà mẹ của nàng – sau khi Thôi Thái úy qua đời không còn ai chống đỡ, dần dần bị Vương thị bòn rút, thật ra ngay từ đầu nàng đã không đủ khả năng thực hiện các âm mưu thủ đoạn gì, kể cả khi lợi dụng Tạ Tuấn. Hiện tại, Thôi Thục Thế cũng là phe yếu thế nhất trong ván cờ ở Kim Lăng, nàng không có võ trang, không có người để điều động, cũng không có quan hệ rộng rãi trong quan trường.

Nhưng Thôi Thục Thế đã lợi dụng chính nhược điểm này, chỉ chuyên tâm mưu đồ tâm kế và đấu tranh quyền lực, không đụng đến đao kiếm, không nhìn thấy máu. Nàng không thu nhận người tài như Tạ Tuấn, mà giao cậu cho Lục Lệnh Chương, rồi coi việc này làm con bài để đổi lấy những bồi thường có lợi cho bản thân. Tương tự, khi hợp mưu với phủ Chiêu Vương, nàng cũng không trực tiếp can thiệp mà giao con dấu riêng cho Tạ Cánh, sau này họ sẽ làm gì với nó, nàng cũng hoàn toàn không quan tâm.

Trong tương lai, dù phủ Chiêu Vương thất bại, nhà họ Vương sụp đổ hay thiên tử bị phế truất, nàng vẫn có thể tìm được chủ mới để phục vụ, cũng có thể dẫn dắt Thanh Hà Thôi thị rút lui an toàn.

"Con đã đồng ý sao?" Tạ Cánh trầm ngâm một lúc mới hỏi.

Tạ Tuấn thoáng ngập ngừng, gật đầu: "... Vì con cũng muốn biết, thảm họa của nhà họ Tạ rốt cuộc có bao nhiêu phần liên quan đến đương kim hoàng thượng."

Tạ Cánh không đáp lại, chuyện này đến cả y cũng không thể trả lời được. Y đã làm rõ chuyện chữ viết của Vương thị, phát hiện ra có một thế lực thứ ba đứng phía sau trao đi tờ giấy kia, nhưng mãi vẫn không hiểu được, liệu một người cũng có liên quan như Lục Lệnh Chương đang sắm vai gì trong vở hài kịch này.

Nhưng có một điều có thể chắc chắn, rằng chỉ bằng từng này thử thách và sự đề phòng mà Vương Thục đã dành cho Tạ Cánh, thì Lục Lệnh Chương tuyệt đối không chỉ là một con rối để mặc người khác sắp đặt.

"Bệ hạ đã giao cho con việc gì?"

Tạ Tuấn chớp chớp mắt: "Chú còn nhớ không, hồi hội săn ở núi Thang năm ngoái, lúc Thanh Nhi trốn ra khỏi hang động kia, Vũ Lâm Vệ đáng lẽ phải đóng quân ở đó lại canh gác sai vị trí, vô tình để Thanh Nhi chạy thoát ấy?"

Tạ Cánh cả kinh: "Là con sao?!"

Tạ Tuấn gật đầu: "Bệ hạ ở trong cung xa xôi, không tiện ra vào, dù đã biết kế hoạch của Vương Thục từ trước, nhưng ngài không thể đích thân điều động Vũ Lâm Vệ. May mà lúc đó Vương Thục cũng đã rời khỏi núi Thang, con bèn cầm thủ dụ của bệ hạ điều quân gác ở cửa hang đi. Nhưng từ đầu đến giờ, bệ hạ chỉ giao cho mỗi việc ấy thôi."

Trong khoang thuyền yên tĩnh hồi lâu, Tạ Cánh chỉ nhìn chằm chặp đuôi thuyền, không nói gì.

Nhớ đến lần gặp lại Lục Lệnh Tùng ở Ung Châu, y đã trách cứ hắn suốt ba năm Nam chinh Bắc chiến, không ở trong kinh bầu bạn với Lục Thư Thanh, để con trai lẻ loi một mình, bây giờ mới biết hóa ra không phải như vậy.

Lục Lệnh Tùng để con của họ ở lại Kim Lăng, đưa Tạ Tuấn vừa chịu tang cha ông theo bên mình, chính là để thay người chú thất trách là y thực hiện nghĩa vụ dạy dỗ, bảo vệ, là để bù đắp thay cho kẻ thân ở ngàn dặm xa xôi, khi ấy chỉ biết trơ mắt nhìn những người thân thuộc chết ngay trước mặt nhưng chỉ biết bó tay chịu trói, vừa hổ thẹn vừa hối hận.

Tạ Cánh không biết nên diễn tả tâm trạng của mình lúc này như thế nào. Họ của y — chữ "Tạ" thuộc về y đã nhuốm bẩn. Không phải từ khi y chịu khuất nhục nương th*n d*** mái hiên phủ Tướng, bắt đầu bè lũ xu nịnh, mà là từ năm Trinh Hữu thứ tám, khoảnh khắc y bước chân vào phủ Chiêu Vương, nó đã bám bụi, nhuốm bẩn, nhơ nhớp bùn. Y bước một chân vào cánh cổng hoàng gia nguy nga dựng từ xương trắng, sơn bằng máu tươi, kể từ khi ấy, cỏ thơm hoa quý mọc đầy trên bậc thềm kia đều đã chẳng còn liên quan gì đến y nữa.

Vì sao đan thư thiết khoán lại có thể miễn tội chết cho y, bởi vì y không còn liên quan đến bọn họ nữa. Y không thể cùng họ chia sẻ vinh quang, cũng không thể cùng họ chia sẻ cái chết. Tạ Tuấn mới chính là con cháu danh chính ngôn thuận của Trần quận Tạ thị, chỉ cậu mới có tư cách nói mình mang huyết thống sạch sẽ của nhà họ Tạ.

Tạ Cánh chợt nhớ lại đêm giao thừa ở nhà trọ, khi y hỏi Lục Lệnh Tùng rằng có việc gì cần y "lấy danh nghĩa nhà họ Tạ" để hay không, Lục Lệnh Tùng lại trả lời rằng "mọi chuyện đã thu xếp xong cả rồi." Nếu người nhân danh nhà họ Tạ không phải là hậu duệ tự thẹn mình dơ bẩn là y, vậy có nghĩa là...

"Tuấn Nhi," Tạ Cánh gọi, "Lần này trước khi trở về kinh con đã ở đâu?"

"Từ sau hội săn xuân núi Thang năm ngoái, cho đến cuối năm con đều ở Ngân Châu," Tạ Tuấn đáp nhanh, "Điện hạ bảo con lấy danh Tạ thị ở quận Trần, âm thầm thuyết phục lôi kéo các sĩ tộc ở Giang Nam trừ quận Hội Kê, nói không được cũng không sao, chỉ cần có thể châm ngòi quan hệ giữa bọn họ và Vương thị là đủ rồi."

Tạ Cánh suy nghĩ một chút liền hiểu được ý đồ của Lục Lệnh Tùng. Quận thủ Hoài Dương – Trình Văn là một ví dụ điển hình: lão già này sợ phủ Tướng không sợ Thiên tử, lại chẳng hay biết phủ Tướng và Hoàng đế đã cách lòng từ lâu. Ngày sau, nếu kinh thành thực sự có biến, phủ Tướng điều binh mã các châu huyện lân cận đến tự cứu, nhất định sẽ lấy danh nghĩa "cần vương". Đến lúc lúc đó, những địa phương này hiểu rõ người thắp lên đài lửa cầu viện thực ra là phủ Tướng chứ không phải Hoàng đế, mà thiếu đi "quân uy" trấn áp từ bên trên, tự nhiên họ sẽ cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định xuất binh.

Bên ngoài, Tiêu Dao khẽ gảy một khúc nhạc trên đàn tỳ bà, nhắc nhở bọn họ rằng đã không còn sớm nữa. Tạ Cánh chỉ đành chuẩn bị rời đi, nhưng vẫn cẩn thận dặn dò Tạ Tuấn thêm lần nữa: "Con cứ việc bình thường như trước đi, tuyệt đối không được mạo hiểm đến thăm hay bảo vệ chú. Chú có Vương thị làm chỗ dựa, hiện tại sẽ không thất bại được. Khi ra ngoài phải cẩn trọng, nếu gặp được Thôi phu nhân thì coi như may mắn, nhưng rủi đụng phải người khác, hậu quả khó mà đoán định."

Tạ Tuấn gật đầu đồng ý từng lời: "Chú cũng phải bảo trọng."

Tạ Cánh đứng lên, vừa định vén rèm bước ra, đột nhiên thoáng nhìn sang dao găm treo bên hông Tạ Tuấn, trong lòng y lóe lên một suy nghĩ, liền hỏi: "Mấy năm qua, Phi Quang ở trong tay con..."

"Điện hạ nói rằng đây là vật tùy thân của chú, giao cho con giữ tạm. Ngày sau có duyên, ắt sẽ gặp lại."

Tạ Tuấn vừa nói vừa định tháo xuống trả lại, nhưng Tạ Cánh chỉ lắc đầu, ngăn cản động tác của cậu lại, chỉ hỏi: "Vậy con có biết Phi Quang Lục Thức không? Là Tiêu cô nương dạy con, hay là..."

"Là điện hạ dạy con. Khi con về kinh, đi theo sư phụ thì đã học xong rồi."

Tạ Cánh khẽ "ừ" một tiếng, dường như không để tâm lắn, một lúc lâu sau, y mới nhẹ nhàng hỏi: "Vậy thức cuối cùng trong sáu thức là gì?"

Tạ Tuấn nghe vậy thì hơi bất ngờ, bởi trong nhận thức của cậu, dù không biết sử dụng Phi Quang Lục Thức, nhưng là chủ nhân của Phi Quang, Tạ Cánh đã mang nó theo bên mình suốt mười năm trời, không thể không biết tên của chiêu thức cuối cùng.

Thật ra ngay cả Tạ Cánh cũng có chút bàng hoàng. Những năm qua, số lần y sử dụng Phi Quang ít ỏi đến đáng thương, lại chẳng có thức nào ra thức nào, dần dà không còn nhớ để mà tò mò hay tìm hiểu chiêu thức cuối cùng mà Lục Lệnh Tùng từng từ chối dạy y, chỉ nói rằng<i> "Cả đời này em cũng không dùng đến đâu", </i>rốt cuộc đó là gì.

Thế nhưng, Tạ Tuấn vẫn nghe lời làm theo, cậu ấn vào Phi Quang, rút dao ra khỏi vỏ, thậm chí chu đáo diễn giải chi tiết bằng hành động, mũi dao xoay ngược lại, ánh sáng lạnh léo lóe lên, dừng lại sát yết hầu của Tạ Cánh với khoảng cách suýt soát với da thịt.

Tạ Cánh nghe thấy cậu thay Lục Lệnh Tùng nói ra câu nói đến chậm mười bốn năm...

"Thức cuối cùng, tên là <i>Ngọc Nát Đá Tan</i>."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 83


<b>《</b><b> 20.1 — Hồi tưởng </b><b>》</b>

Kim Lăng, cuối xuân năm Trinh Hữu thứ mười hai.

Tạ Cánh ngủ trưa dậy, vén nửa màn ra, trong phòng không có một bóng người, sự yên ắng tĩnh mịch dường như có chút uể oải. Chỉ có làn gió xuyên qua hành lang thổi nhẹ bức rèm lụa xanh buông rủ, nhè nhẹ lay động ve vuốt, chơi đùa với nền đá, tạo nên một bóng xanh lười nhác đổ xuống.

Tạ Cánh chán chường xỏ giày, thong thả bước đến cửa sổ, nghiêng người nhìn ra sân, bên ngoài chỉ có hai thị nữa tựa vào ghế mỹ nhân, vừa gà gật vừa cặm cụi may vá. Thấy vậy, y đưa tay xoa nhẹ sau gáy rồi chậm rãi rời phòng, thư thả băng qua hành lang.

Tạ Cánh đi đứng luôn khẽ khàng, không làm các cô gái còn đang ngái ngủ giật mình trong tiết xuân muộn. Nội viện trước giờ vẫn luôn yên tĩnh, mấy ngày nay thời tiết dần trở nên oi bức, cửa thư phòng hầu như mở suốt ban ngày. Tạ Cánh đứng tựa vào khung cửa, vừa đủ để trông thấy ghế sập kê gần cửa sổ bên trong.

Lục Lệnh Tùng co một chân ngồi trên sập, tay chống cằm, mắt dán vào bàn cờ bên cạnh bàn, nét mặt trầm ngâm, hiếm khi thấy hắn mang dáng vẻ trầm tĩnh, điềm đạm như vậy; còn Lục Thư Thanh thì đang nằm ngủ bên cạnh hắn, đầu nhóc con tựa vào chiếc gối mềm mà Tạ Cánh hay dùng, trên người đắp tạm áo ngoài của cha.

Tạ Cánh không lên tiếng làm phiền họ, vừa định xoay người ra ngoài, đột nhiên thấy Lục Thư Thanh nghiêng người, nhập nhèm mở mắt rồi loạng choạng ngồi dậy, nhỏ giọng nói gì đó với cha cậu. Tạ Cánh nghe không rõ, nhưng y đoán là cậu nhóc nói khát nước, vì sau đó Lục Lệnh Tùng đã rót nửa chén trà nhỏ, thổi thổi rồi đưa đến bên miệng Lục Thư Thanh, cầm chén trên tay cho cậu uống hết.

Lục Thư Thanh uống nước xong lại mềm nhũn người rúc mình vào gối ngủ tiếp. Lục Lệnh Tùng không quay trở lại bàn cờ ngay, vẫn giữ nguyên tư thế quay nửa đầu, lặng lẽ ngắm khuôn mặt đang ngủ của con trai nhỏ, sau đó hắn cúi xuống, hôn khẽ lên trán cậu bé một cái.

Tạ Cánh cảm nhận được ánh nắng ấm áp chiếu lên sau gáy, khiến da thịt nơi đó trở nên nóng hổi, hơi lấm tấm mồ hôi. Y bước qua bậc cửa, khi đi ngang gian ngoài thì tiện tay lấy chiếc quạt lụa đặt trên giá bày cổ vật, nhẹ chân bước đến bên giường nhỏ, ngồi bên mép chéo sau lưng Lục Lệnh Tùng, dự định dọa hắn một phen.

Dù không quay đầu lại nhưng Lục Lệnh Tùng đã sớm nhận ra động tác của y. Hắn bất ngờ nắm lấy cổ tay Tạ Cánh, thuận thế kéo mạnh một cái khiến y mất thăng bằng, nửa người đổ lên lưng hắn, mặt đập thẳng vào xương bả vai cứng rắn.

Nghe thấy cười của Lục Lệnh Tùng, Tạ Cánh bèn xoa xoa mũi, ngẩng đầu lên, đánh lên lưng hắn một phát không mạnh không nhẹ, sau đó lại nhích mặt tới gần, nghiêng qua vài phân đặt cằm lên vai hắn.

"Anh này," Tạ Cánh khẽ đẩy hai cái vào vai Lục Lệnh Tùng, tay phe phẩy quạt tạo gió, "Thương lượng chút chuyện đi."

"Hửm?" Lục Lệnh Tùng hơi ngồi thẳng dậy, bàn tay hãy còn đang chống cằm giờ đã buông ra, nhẹ nhàng v**t v* gò má y.

Tạ Cánh nhỏ giọng nói: "Sáng nay em vừa nhận được thư, tháng trước nhà họ Tạ có ông chú vừa qua đời, tính đến nay thế hệ của ông nội em đã không còn ai nữa. Mấy chi trong họ đang bàn bạc, bảo rằng cần chia lại nhà cũ và tổ nghiệp. Nhà bọn em chuyển vào trong kinh cũng đã lâu, vốn ít qua lại với người trong họ còn sống ở quận Trần, nhưng chuyện thế này thì không thể vắng mặt. Cha và anh cả còn bận công việc không đi được, trong nhà muốn để kẻ phú quý nhàn hạ là em về đó một chuyến."

"Đi đường kiểu gì cũng mất hơn một tháng," Lục Lệnh Tùng khẽ hất cằm về phía Lục Thư Thanh, "Sợ là nhóc con này không chịu xa em lâu như vậy đâu."

"Chính vì thế nên em mới nói chuyện này với anh đấy. Thay vì để em đưa con đi một mình, chẳng bằng cả nhà chúng ta cùng về, tiện thể để anh xem nơi em từng sống và học tập lúc nhỏ."

Lục Lệnh Tùng khẽ hừ một tiếng, xoay người lại vòng tay ôm Tạ Cánh theo tư thế khoác vai: "Sao ta cứ cảm giác ai đó đang tính toán gì trong đầu thế nhỉ? Em thật lòng muốn dẫn ta đi xem nơi em sống và học tập ngày nhỏ, hay là định du sơn ngoạn thủy cả đoạn đường muốn tìm người trả tiền? Hả tiểu Tạ công tử?"

Tạ Cánh bị nói trúng tim đen, cười khúc khích ngã vào lòng hắn: "Anh chỉ cần nói anh có chịu trả hay không thôi!"

Lục Lệnh Tùng nắm cằm y kéo sang: "Trả thì trả, nhưng có một điều kiện."

Tạ Cánh ghé tai qua, vừa nghe Lục Lệnh Tùng nói được một nửa đã đỏ mặt, giơ tay vỗ lên đùi hắn: "Giữa ban ngày ban mặt, anh không biết xấu hổ sao!"

Lục Lệnh Tùng cau mày: "Không đồng ý à? Thế ta không trả nhé? Em và con tự đi về đi."

Tạ Cánh mắng hắn: "Cái đồ thừa nước đục thả câu! Chẳng qua là anh dựa vào —"

Lục Lệnh Tùng rủ mắt nhìn thẳng vào y: "Dựa vào cái gì?"

"Dựa vào em không nỡ để anh ở lại Vương phủ một mình!"

Điều khiến Tạ Cánh cảm thấy bối rối không phải vì mặt y đã đỏ lên, mà là vì bị Lục Lệnh Tùng phát hiện ra điều đó. Y thoát khỏi vòng tay của đối phương, quay lưng đi, vỗ nhẹ vào người Lục Thư Thanh: "Thanh Nhi, dậy thôi con."

Thật ra Lục Thư Thanh đã tỉnh từ sau khi uống nước, nhưng dù là buổi sáng hay chiều, cậu vẫn cứ thích lề mề ngủ nướng thêm một chút. Nghe mẹ gọi, cậu mới chậm rãi hé một bên mắt như thể chỉ vừa mới tỉnh dậy.

Tạ Cánh xoa nhẹ lên cái bụng mềm mại núng nính của cậu, cười nói: "Dậy rửa mặt đi thôi, chẳng phải chúng ta đã hẹn buổi chiều sẽ cùng làm mực in sao?"

Lục Thư Thanh chợt nhớ ra việc quan trọng, nghiêm túc lặp lại: "Làm mực in!" Sau đó, cậu rề rà xỏ giày vớ, tự đi vào phòng rửa mặt cho tỉnh táo hơn.

Tạ Cánh vòng ra gian ngoài thu dọn những cánh hoa lựu đã phơi khô, vừa làm vừa cao giọng nói với Lục Lệnh Tùng: "Thu dọn bàn đi, con trai anh làm mấy việc này vụng về lắm, cẩn thận lại làm xước bàn cờ hoàng hoa lê của anh đấy."

Lục Lệnh Tùng đáp lại một tiếng, dọn dẹp bàn rồi rời khỏi thư phòng. Khi đi ngang qua Tạ Cánh, hắn nghịch ngợm vỗ nhẹ lên lưng y, thế là bị Tạ Cánh lườm cho một cái sắc lẹm, lúc này mới nghiêm túc nói: "Tối nay phải vào cung dùng bữa, đến lúc đó ta sẽ tìm cơ hội nhắc chuyện với phụ hoàng."

Thu cánh hoa rụng vào mùa xuân để tự làm mực in, cùng với những sở thích tao nhã khác liên quan đến văn phòng tứ bảo mà Tạ Cánh mang theo vào phủ Chiêu Vương đều là thói quen y đã giữ từ nhỏ. Một ngày nọ, tình cờ thấy Tạ Cánh nhặt những cánh hoa lựu đỏ rực dọc đường trước cổng phủ, Lục Thư Thanh bèn háo hức vén tà áo làm túi, ríu rít chạy theo sau y, giúp mẹ gom cánh hoa. Sau đó, cậu nhóc không ngừng nhắc đi nhắc lại, rằng đến khi nào làm mực in thì phải gọi cậu tham gia cùng.

Lục Thư Thanh chạy về, ôm trong lòng một chiếc cối nhỏ, đây là món đồ Tạ Cánh nhờ thợ trong phủ gia công riêng, đã tính toán kỹ lưỡng theo sức lực của cậu. Nhóc con dùng cả tay chân bò lên sập, vui vẻ reo lên: "Xong rồi ạ!"

Tạ Cánh nhìn gò má ướt nhẹp của con trai thì không khỏi cau mày, kéo nhóc lại gần, dùng tay áo lau mặt cho cậu: "Mặt toàn là nước thế này, không khéo lại dính cánh hoa bây giờ đấy."

Làm mực in là một việc "nhàn nhã" nhưng rất phức tạp và tốn thời gian, đòi hỏi người làm phải có đủ thời gian và lòng kiên nhẫn. So với ủ rượu Mai Sơn Tuyết, nó chẳng dễ dàng hơn là bao. Theo phương pháp cổ truyền, người ta thường dùng chu sa để nhuộm màu, nhưng Tạ Cánh cảm thấy sắc đỏ của chu sa quá đậm, cho nên y đã thay bằng cánh hoa lựu có màu sắc tươi tắn hơn. Cánh hoa được rửa qua rượu trắng, phơi khô, nghiền mịn thành bột rồi trộn cùng dầu của cây thầu dầu, đất sét trắng, nhung ngải cứu và băng phiến, giã nhuyễn đến khi thành dạng bột nhão, sau đó cho vào bình sứ men kính có miệng rộng, đậy nắp thủy tinh, đem phơi nắng đủ bảy ngày, thỉnh thoảng khuấy đều hỗn hợp bằng que tre. Qua ba tháng, màu sắc rực rỡ sẽ dần hiện lên.

Tạ Cánh vốn chỉ định lấy cớ chiều ý Lục Thư Thanh, để cậu bé làm chơi cho vui. Nhưng thấy cậu cầm chày cặm cụi giã rất nghiêm túc, y không khỏi bật cười, trêu: "Thanh Nhi, con có biết mình giống gì không?"

Lục Thư Thanh ngẩng đầu nhìn y, Tạ Cánh bèn dùng ngón út cọ nhẹ vào mũi cậu: "Giống hệt thỏ ngọc giã thuốc trên cung trăng vậy."

"Vậy mẹ là Hằng Nga bay lên cung trăng đó."

"Nhưng Hằng Nga lên cung trăng mỗi đêm đều nhớ nhà, một mình cô đơn lạnh lẽo. Nếu mẹ đi xa nhà như vậy, con sẽ làm sao đây?"

Lục Thư Thanh vẫn chăm chú "giã thuốc," không ngẩng đầu lên: "Chẳng phải thỏ ngọc và Hằng Nga lúc nào cũng ở bên nhau sao?"

"Hay là nhờ Hậu Nghệ bắn cả mặt trăng xuống đi mẹ," Lục Thư Thanh nghiêm túc đáp, "Con thấy cung bạc trong thư phòng của cha rất đẹp, có thể mượn cha để cho ông ấy dùng."

Kể từ khi bắt được con dấu chơi của Hoàng đế trong lễ thôi nôi, Lục Thư Thanh đã trở thành khách quen của điện Thần Long. Tạm chưa bàn đến cái danh "Gia Thụy", nhưng sự sủng ái mà hoàng đế dành cho cậu bé là điều mà cả hoàng cung đều nhìn thấy rõ. Mỗi tháng ít nhất hai, ba lần, Hoàng đế lại bảo Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh đưa nhóc con vào cung cùng dùng bữa tối.

Bấy giờ Lục Lệnh Chân chỉ vừa tròn mười bốn, bắt đầu ra dáng thiếu nữ. Nàng vừa từ võ đài ngoài cung trở về, trên người mặc một bộ đồ cưỡi ngựa mới may, đầu đội chiếc mũ roi mà phụ nữ Hồ thường đội, bước vào điện Thần Long với dáng vẻ tùy tiện, Hoàng đế thấy vậy chỉ cau mày, còn Hoàng hậu trách nhẹ một câu "Chẳng ra thể thống gì cả", nàng le lưỡi, cũng chẳng để tâm.

Sau bữa ăn, nhân lúc Hoàng đế còn đang ngồi trêu đùa với Lục Thư Thanh, Lục Lệnh Tùng bèn trình bày đơn giản dự định rời kinh về quận Trần, hắn nói thêm: "Thư Thanh không thể ở xa mẹ, để thằng bé ở lại trong cung chỉ sợ sẽ làm phiền phụ hoàng, mà nhi thần cũng không yên tâm để mẹ con họ lên đường một mình."

Hoàng đế không nói gì, Tạ Cánh bắt đầu cảm thấy bồn chồn, chưa chắc ông đã chịu để Lục Lệnh Tùng rời kinh thời gian dài như vậy, cũng có khả năng sẽ đột ngột đề nghị đưa Lục Thư Thanh vào trong cung.

Không ngờ Hoàng hậu đột nhiên lên tiếng: "Gần đây Tử Phụng đã theo bộ Công làm việc, đầu tháng nay lại vừa từ công trình trị thủy ở Kinh Khẩu trở về, theo lý cũng nên thở phào nhẹ nhõm, nghỉ ngơi một thời gian rồi."

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh nhìn nhau, mấy năm nay Hoàng đế cũng lần lượt giao cho Lục Lệnh Tùng đảm đương một vài trọng trách, nhưng đều chỉ là những việc lặt vặt không mấy quan trọng, hơn nữa đều là luân phiên qua lại sáu bộ, chưa từng để hắn làm việc ở một nha môn quá lâu. Hoàng hậu vẫn luôn kiêng dè, nhưng vì Lục Lệnh Tùng quả thực là cư xử rất đúng mực, cũng chẳng có "chiến tích" gì chói mắt, thế là bà ta cũng không nhiều lời nữa.

Lần này, việc giám sát xây dựng kênh đào ở Kinh Khẩu có thể tạm tính là việc lớn, nhưng Lục Lệnh Tùng không có công cũng chẳng có lỗi, Hoàng hậu không kiềm chế được nữa, muốn đuổi hắn khỏi ngự tiền trong vài tháng tới.

Hoàng đế suy nghĩ hồi lâu rồi chậm rãi lên tiếng: "Nếu đã vậy, trên đường đi phải chăm sóc Thanh Nhi thật chu đáo, trễ nhất là trước Trung thu phải về kinh."

Lục Lệnh Tùng vội vàng đáp vâng, Hoàng hậu cũng rời khỏi chỗ theo Hoàng đế vào thiên điện để hầu hạ. Trong chính điện lúc này chỉ còn lại mấy người trẻ, Lục Lệnh Chân lập tức phấn chấn ngồi thẳng lưng lên, bắt đầu bóc trái cây ăn.

Lục Thư Thanh vừa trượt xuống khỏi lòng Hoàng đế đã bị Lục Lệnh Chương đón lấy, cẩn thận bế lên. dè dặt đút cho cậu bé món thạch kem bát bảo, muỗng vừa đưa đến miệng nhóc con, cậu mới nhớ quay sang hỏi Tạ Cánh: "Thanh Nhi có ăn ngọt được không..."

Tạ Cánh dùng đũa khều hạt trong mứt táo ra, đáp: "Ăn được, nhưng ít thôi."

Lục Lệnh Tùng khẽ nghiêng người về phía y, ghé sát tai y thì thầm: "Chắc là phụ hoàng đã được mẫu hậu nhắc nhở, cũng nhận ra rằng nửa năm nay đã dùng ta hơi nhiều, sợ người trong triều dị nghị nên mới đồng ý nhanh gọn như thế."

Tạ Cánh đưa tay ngắt một chùm quả anh đào, đút một quả vào miệng Lục Lệnh Tùng, bản thân cũng ngậm lấy một quả: "Nói chung có thể đi là được rồi."

Lục Lệnh Chương ngẩng đầu lên, e dè hỏi: "Hoàng huynh, các anh định đi như thế nào?"

Lục Lệnh Tùng suy nghĩ một chút: "Chắc là sẽ đi đường thủy đến Từ Châu trước, sau đó đổi sang xe ngựa đi thẳng một đường quan đạo thôi."

Lục Lệnh Chương ngưỡng mộ thở dài, nhỏ giọng nói: "Từ đó đến giờ em chưa được đi thuyền lần nào."

Tạ Cánh chỉ dặn dò: "Thời gian này Nhị điện hạ đến Quốc Tử Giám đọc sách, các tiên sinh đã lớn tuổi, lúc dạy học khó tránh có hơi bảo thủ, nhớ đừng để xảy ra xung đột, không thì Hoàng hậu lại tức giận."

"Thôi được rồi," Lục Lệnh Tùng đứng dậy duỗi người, vươn một tay bế Lục Thư Thanh lên ôm trong khuỷu tay, "Lệnh Chương làm gì có gan cãi vã với thầy, nó cũng đâu phải là trưởng công chúa của chúng ta."

Lục Lệnh Chân nghe vậy, nhặt vỏ trái cây trên bàn ra ném về phía hắn, sau đó đuổi theo hắn ra ngoài điện: "Trước khi đi anh nhớ dắt Y Vân vào trong cung cho em đó nha!"

Bởi vì đúng là có ý định dạo chơi ngắm cảnh xuân dọc đường, bọn họ không dẫn theo tiểu tư và thị nữ, hành lý cũng chỉ toàn quần áo gọn nhẹ đơn giản, đến bến thuyền Tuyên Hóa thì gọi một chiếc thuyền khách không lớn cũng không nhỏ. Người lái thuyền là một người Ngô đến từ huyện Trường Châu, nói tiếng Quan Thoại không mấy lưu loát, chỉ có thể nhờ Lục Lệnh Tùng mặc cả với gã.

Tạ Cánh ngồi nghiêng ở đuôi thuyền, để cho Lục Thư Thanh giẫm lên đầu gối y đứng dậy, ngắm nhìn đủ loại người lui tới bến thuyền bằng ánh mắt mới lạ; quanh bến thuyền có thuyền buôn bán thức ăn, hoa quả; còn có thuyền xướng khúc, làm xiếc và các trò mua vui; trên mui thuyền của một nhà nào đó có một chút vẹt lớn toàn thân xanh mướt, Lục Thư Thanh thấy nó thì phấn khích reo lên: "Lục Ngải!"

Có lẽ vì tên húy của cả hai không bàn mà hợp ý nhau, lại còn sớm chiều ở bên cạnh nhau, cùng nhau lớn lên, tóm lại Lục Ngải có lòng bao dung vô hạn với Lục Thư Thanh, từ khi cậu được sở hữu phòng ngủ riêng, đêm nào nó cũng im lìm canh chừng bên gối. Ban đầu Lục Lệnh Tùng còn sợ con trai vô tình làm "trắc phi" buồn chết, còn định ngủ cùng cậu vài đêm, sau này phát hiện ra con vẹt và nhóc con kia tình cảm sâu đậm số một thiên hạ, căn bản chẳng đến lượt hắn chen chân vào, hắn đành ôm chút bực dọc chạy về phòng tìm Vương phi danh chính ngôn thuận của mình.

Tạ Cánh nghiêng tai nghe một chút, lấy làm tiếc nói: "Bây giờ số từ mà thằng bé biết nói đã nhiều hơn Lục Ngải rồi đấy."

Có người vỗ lên vai y, Tạ Cánh ngoái đầu lại, thấy Lục Lệnh Tùng đưa người lái thuyền đến đây, người lái thuyền nhìn Lục Thư Thanh, hỏi: "Đây là em trai cậu à?"

Câu từ ngắn gọn Tạ Cánh vẫn có thể nghe hiểu được, y bèn tranh trả lời trước Lục Lệnh Tùng: "Bọn tôi đều là em trai của hắn." Sau đó ôm lấy khuôn mặt nhỏ nhắn của Lục Thư Thanh kề sát vào mặt mình, cười hỏi, "Anh thấy bọn tôi có giống nhau không?"

Người lái thuyền nheo mắt, chỉ vào Tạ Cánh và Lục Thư Thanh, "Hai người các cậu thì giống nhau," rồi gã chỉ Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng, "Còn hai cậu thì không giống."

Ở bến tàu thì nhộn nhịp tiếng người, nhưng vừa ra khơi đã lập tức yên ắng lại, bên tai chỉ nghe được tiếng gió và tiếng sóng nước sông Hoài cuồn cuộn, nhẹ nhàng tiễn đưa thuyền nhỏ đi xa bờ. Tạ Cánh nhìn Kim Lăng nhỏ dần trong tầm mắt, lặng lẽ thở phào một hơi nhẹ nhõm. Y cứ ngỡ đời này mình sẽ rất khó có cơ hội rời khỏi kinh thành, tuy rằng cuộc sống ở phủ Chiêu Vương rất thoải mái tự tại, nhưng ở bên trong bức tường thành kia, y không thể không gắn kết bản thân mình cùng với hoàng gia.

Lục Thư Thanh là một người bạn đồng hành cực kì lý tưởng, cậu nhóc không kén ăn kén mặc, chỉ cần được ở bên cạnh cha mẹ là đã thỏa mãn lắm rồi, bởi vì c** nh* người, Tạ Cánh bồng bế cũng không tốn sức, lúc mệt mỏi nhóc con này cũng không khóc quấy, chỉ cần tựa đại vào đâu đó là có thể ngủ ngon.

Lục Lệnh Tùng xoay người vào khoang thuyền, mang theo mùi hương mằn mặn thoang thoảng. Tạ Cánh chun mũi một cái, xoay mặt lại nhìn thấy gói lá sen trong tay hắn, bên trong là cơm nếp bọc lấy lòng đỏ trứng và thịt vịt vẫn còn bốc hơi nóng.

"Mua từ khi nào thế?" Tạ Cánh mừng rõ hỏi, lúc nãy y có thấy thuyền buôn hét bán, vốn định mua ăn thử, nhưng sợ không sạch sẽ, không hợp khẩu vị của Lục Thư Thanh nên đành thôi.

Trên bàn có sẵn chén đũa của thuyền khách, Lục Lệnh Tùng ngắt một miếng cơm nếp cho Lục Thư Thanh rồi đưa gói lá sen cho Tạ Cánh, y cau mày lắc đầu: "Em không cầm đâu, dính tay lắm, anh ăn trước đi, còn dư lại thì bỏ vào chén của em."

Lục Lệnh Tùng nếm thử: "Mùi thịt vịt hơi nồng một chút, không ngon bằng trong cung làm, nhưng bán chẳng rẻ chút nào."

"Anh cũng nên thấy hài lòng đi, mấy ngày nữa về Trần Lưu, nhà bọn em chỉ có rau dưa ăn với cơm, còn không biết phải thiết đãi điện hạ như thế nào mới đủ đây."

"Ta không quan tâm," Lục Lệnh Tùng vén tóc mai bị gió thổi loạn của Tạ Cánh ra sau tai, "Ta vốn định ra ngoài khoe khắp phố rằng mình cưới được một người vợ xinh đẹp, tiếc là có người nhất quyết phải làm em trai ta, ta đành phải tính toán rõ ràng với anh em mình, từng đồng vàng cắc bạc đều phải đòi lại từ em mới được."

Tạ Cánh cảnh giác nhìn hắn: "Đòi thế nào?"

Lục Lệnh Tùng nhún vai: "Ta đã đưa ra điều kiện rồi mà."

Tạ Cánh nhéo hắn một cái: "Vô sỉ! Nói trước cho anh biết, giường ngủ của em vừa cũ vừa nhỏ, nhỡ mà... Anh cũng đừng có trách em đấy!"
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 84


<b>《</b><b> 20.2 </b><b>》</b>

Thật ra kinh nghiệm đi xa của Tạ Cánh cũng chẳng hơn Lục Lệnh Chương quanh năm ở trong cung là bao, từ nhỏ đến lớn, y được đi chơi xa vài chuyến bất quá cũng chỉ là qua lại giữa Kim Lăng và quận Trần. Mà vật giá, quy tắc, phong cảnh và con người trong kinh cũng hoàn toàn khác với bên ngoài, kiến thức của Lục Lệnh Tùng chỉ là kiểu nửa vời, Tạ Cánh khi ấy lại ngây ngô giống hệt như Lục Thư Thanh, chỉ biết đi theo sau người thân ngắm cảnh náo nhiệt, thứ gì chưa từng được ăn thì đòi ăn, chưa từng được chơi thì đòi chơi, dù sao nhà họ cũng không thiếu tiền.

Nhưng chuyến này đi còn là vì chuyện chính, cũng không thể để cho người trong họ chờ lâu, vây nên cũng không thể nán lại trên đường trong thời gian dài.

Khi thuyền đến Dương Châu thì trời cũng đã khuya, không tiện lên bờ tìm nhà trọ, hai người bàn bạc rồi quyết định dừng chân ở bến thuyền, nhưng sẽ nghỉ ngơi trên thuyền một đêm, sáng sớm ngày hôm sau mới vào thành.

Ngủ đến nửa đêm, Tạ Cánh đang mê man thì bỗng cảm giác Lục Lệnh Tùng đang vỗ nhẹ mình, định lên tiếng hỏi một câu "Sao thế", đối phương đã bịt miệng y lại, ý bảo đừng lên tiếng, sau đó dùng ngón tay viết lên lưng Tạ Cánh hai chữ —— "Có trộm".

Tạ Cánh ngừng thở, bình tĩnh ôm chặt Lục Thư Thanh vào lòng để bảo vệ, rồi y phát hiện người bên cạnh đang lặng lẽ vén chăn, động tĩnh nhỏ đến mức gần như bị che lấp bởi tiếng lục lọi đồ đạc khe khẽ, giống như một loài thú chuyên đi đêm, nhanh nhẹn rời khỏi giường.

Ngay sau đó, từ trong khoang thuyền vang lên một tiếng kêu đầy sợ hãi, tiếp theo là âm thanh va chạm và tiếng người bị đẩy ngã xuống sàn. Chỉ trong vòng ba chiêu ngắn ngủi, không gian xung quanh đã im ắng trở lại. Chẳng bao lâu sau, ánh nến bừng lên. Tạ Cánh ngồi dậy nhìn kỹ, phát hiện có một người đang bị trói quỳ trước giường. "Sợi dây" dùng để trói kẻ trộm kia chính là đai lưng vắt trên thành giường của y.

Lục Lệnh Tùng rủ mắt nhìn vị khách không mời mà đến: "Thân thủ không tệ."

Tên trộm kia trông vẫn còn trẻ, cơ thể gầy như que củi, trên gương mặt lộ rõ vẻ bối rối sợ hãi. Tạ Cánh lắng tai nghe tiếng ngáy như sấm của người chèo thuyền bên ngoài, nghĩ hẳn là kẻ này đã nhân lúc trời tối gió lớn, chọn bừa một chiếc thuyền đang neo ở bến để ra tay.

Lục Lệnh Tùng lại hỏi: "Chân ướt chân ráo vào nghề à? Lần đầu sao?"

Thấy tên trộm gật đầu như giã tỏi, hắn bật cười: "Ta bảo mà, ở trong phòng thì thôi đi, nhưng đây là khoang thuyền, dưới sàn rỗng, bước chân của ngươi nặng thế có khi đánh thức được cả người chết đấy."

Lời này tất nhiên có phần phóng đại, nhưng tên trộm kia quả thực xui xẻo, đụng phải người luyện võ quanh năm và cực kỳ nhạy cảm với âm thanh như Lục Lệnh Tùng. Đổi lại là người khác, chẳng hạn như Tạ Cánh, suốt cả quả trình y chẳng hề nhận ra điều gì bất thường.

"Đừng nói chuyện nữa, đánh thức Thanh Nhi rồi đây này." Rõ ràng Tạ Cánh vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi nỗi sợ của vụ bắt cóc mấy năm trước, cảnh giác hỏi gã: "Ngươi là người ở đâu? Tại sao lại đi làm những chuyện này?"

Ánh nến không đủ sáng, tên trộm nhìn từ xa, thấy Tạ Cánh ngồi dậy từ phía bên trong giường, mái tóc dài mềm mại buông một bên vai, trong lòng còn ôm một đứa trẻ. Tên trộm cứ đinh ninh đó là một người phụ nữ, vậy nên khi nghe giọng y, gã ngẩn người một lúc lâu rồi mới lắp bắp nói:

"Tiểu nhân đến từ Hà Đông, đi theo đồng hương lên một chiếc thuyền buôn làm việc, ai ngờ bị lừa gạt, đến Dương Châu thì bị đuổi khỏi thuyền, hành lý tiền bạc đều bị chủ thuyền chiếm mất. Đã ba ngày nay không có gì ăn, tiểu nhân mới làm chuyện hồ đồ. Cầu xin hai vị niệm tình tiểu nhân lần đầu phạm lỗi, tha cho tôi một con đường sống."

Dương Châu xưa nay giàu có, vị trí lại tiếp giáp kênh đào nên dân cư đông đúc, kẻ đến người đi cũng nhiều, chuyện kẻ gian lợi dụng khu vực này để trộm cắp, lừa đảo đã chẳng còn xa lạ.

"Coi như ta tích đức thay con trai mình, tiêu tai diệt họa, số bạc này đủ để ngươi đi thuyền đến Kim Lăng. Đến đó cứ tìm một hiệu buôn của nhà họ Ngô, đưa tờ giấy này cho quản lý ở đó xem, nhờ họ tìm cho ngươi một công việc để kiếm sống." Lục Lệnh Tùng vừa nói vừa ngồi xuống bàn, nhấc bút viết vài dòng, "Đương nhiên, nếu ngươi không muốn đi, ở lại thành Dương Châu cũng có thể kiếm sống, nhưng nếu còn táy máy trộm cắp để bị bắt được, ta sẽ không dễ dàng bỏ qua như bây giờ đâu... Ngươi tên là gì?"

Tên trộm vội đáp: "Tiểu nhân tên Trương Tam."

Lục Lệnh Tùng nhanh chóng thêm hai nét để hoàn thiện cái tên trên giấy, rồi hắn lấy ấn triện của Chiêu Vương từ trong túi hành lý ra, quay sang nhìn Lục Thư Thanh, hỏi: "Thanh Nhi, con xem cha đang dùng cái gì đây?"

Lục Thư Thanh vốn đang lim dim trong lòng mẹ, nghe đến đây hai lỗ tai vô hình đột nhiên dựng lên, lập tức ngẩng đầu dậy. Thấy trong tay cha là một chiếc bình sứ men kính nhỏ, đựng đầy mực in bằng hoa lựu khô mà chính tay mình đã làm, cậu lập tức đòi hỏi: "Cho con đóng dấu!"

"Được, được," Lục Lệnh Tùng chiều chuộng bế cậu lên, đáp: "Để tiểu Lục đại nhân của chúng ta đóng dấu nhé."

Trương Tam được cởi trói, nhận lấy bạc và tờ giấy. Khi thấy trên giấy đóng dấu ba chữ "Chiêu Vương tỉ", gã hơi giật mình, khó tin lắp bắp nói: "Đa, đa tạ... Ngài là..."

Lục Lệnh Tùng vừa ngáp vừa khoát tay nói: "Đi đi, hay ngươi còn muốn ngủ thêm một giấc nữa rồi mới đi?"

Ngày hôm sau, trời vừa hửng sáng, bọn họ lên bờ thuê hai con ngựa tốt từ trạm dịch. Vì đường xá đông đúc không tiện đi lại, cả hai bèn chọn đường tắt qua ngoại ô để vào thành. Thời gian này Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng đều có công việc riêng, đã lâu không có dịp cùng nhau ra ngoài du ngoạn, giờ đây không khỏi sinh tính trẻ con, muốn phân tranh cao thấp một phen.

"Thanh Nhi, con muốn ngồi ngựa của ai?" Tạ Cánh hỏi một câu bằng giọng điệu mười phần chắc chín, đoán chắc Lục Thư Thanh sẽ luôn chọn bám lấy y.

Nhưng dường như Lục Thư Thanh đã có tính toán từ trước: "Anh họ nói với con làm anh đương nhiên lợi hại hơn, con muốn ngồi ngựa của cha!"

Tạ Cánh cau mày: "Cha con chứ có phải anh con đâu, con nói những lời này cũng vô dụng thôi."

Lục Thư Thanh đảo mắt: "Nhưng con thấy mẹ cũng gọi cha là anh* mà!"

<i>(*) Anh ở đây là anh trai nha =)))))</i>

Những năm qua, việc Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng "tranh sủng" trước mặt con trai đã trở thành chuyện thường thấy. Lục Lệnh Tùng đắc ý nhướng mày nhìn Tạ Cánh như thể khoe khoang, rồi bế Lục Thư Thanh lên ngựa của mình. Tạ Cánh làm bộ chẳng thèm, ghen tị nói: "Thì thôi vậy! Thắng nhờ tay người khác thì đâu phải là anh hùng. Thanh Nhi, con nhớ cho kỹ, sau này nếu con có thể tự mình vượt qua được cha mẹ, đó mới là bản lĩnh thật sự!"

Nói xong y hô lên một tiếng, lập tức thúc ngựa phi trước.

Y đã không còn nhớ lần cuối cùng bản thân được tự do cưỡi ngựa thế này là khi nào — có lẽ là từ trước khi Lục Thư Thanh ra đời. Gió xuân ấm áp thổi tung mái tóc dài của y ra phía sau. Phật gia gọi tóc xanh là "sợi phiền não", nhưng Tạ Cánh chỉ ngửa đẩu ra phía sau, tận hưởng cảm giác thư thái khi mọi phiền muộn trong lòng đều bị vứt bỏ lên tận mây xanh.

Vì phải trông chừng đứa con nhỏ ngồi trước mình, lo cậu bé sẽ bị xóc hoặc ngã, Lục Lệnh Tùng không dám chạy quá nhanh. Ngược lại, Tạ Cánh thảnh thơi không chút vướng bận, chỉ tập trung thúc ngựa cho bốn vó sải dài, nhanh chóng bỏ xa bọn họ. Lục Thư Thanh vô cùng thất vọng, khuôn mặt nhỏ nhắn xụ xuống, lên án: "Anh họ lừa con."

Tạ Cánh đến đích đợi hai cha con, nỗi ghen tị lúc này đã bay sạch sành sanh, kiêu ngạo gọi to: "Lục Tử Phụng! Anh à! Anh có phục không?"

Lục Lệnh Tùng bất đắc dĩ trề môi, hắn nhảy xuống ngựa, nhân cơ hội dụ dỗ Lục Thư Thanh: "Vậy nên con đừng có suốt ngày rúc trong phòng không chịu vận động. Phải siêng năng luyện tập cưỡi ngựa thì mới có thể làm được mọi việc."

Xoay người lại, hắn bắt gặp Tạ Cánh vẫn ung dung ngồi trên lưng ngựa. Có lẽ vì thấy nóng, Tạ Cánh đã gom toàn bộ mái tóc dài vốn thả sau lưng buộc cao lên gọn gàng. Hơn nữa để tiện đi lại, trước khi lên bờ y đã thay sang áo bào cổ tròn, tay áo hẹp được xắn lên đến khuỷu tay, để lộ làn da trắng trẻo. Y dùng mu bàn tay lau mồ hôi lấm tấm trên trán, trông vừa thoải mái vừa tùy ý, nhìn thẳng về phía hắn nở nụ cười.

Trong khoảnh khắc đó, Lục Lệnh Tùng hơi sững người, vô thức cảm thấy chói mắt, không biết là vì ánh sáng xuyên qua những tán cây rừng hay vì nụ cười quá đỗi tươi tắn mà đã lâu lắm rồi hắn không được nhìn thấy ở đối phương.

Nhìn vào khuôn mặt ấy, không ai nghĩ rằng y đã là mẹ của một đứa trẻ, sẽ không ai tưởng tượng được rằng những cảm xúc như suy sụp, mất kiểm soát hay cuồng loạn đã từng xuất hiện trên con người này. Càng không thể tin rằng y đã từng đứng bên bờ vực tuyệt vọng, thậm chí... từng có suy nghĩ muốn kết thúc tất cả.

Lục Lệnh Tùng thoáng thất thần, vô thức bước về phía trước vài bước, đi đến trước mặt Tạ Cánh, vươn hai tay về phía y.

Tạ Cánh mở to mắt khó hiểu, sau đó lập tức nhận ra Lục Lệnh Tùng muốn ôm mình xuống ngựa. Mặc dù có hơi ngượng ngùng, nhưng y vẫn rất tự nhiên nghiêng người, ngã vào lồng ngực hắn.

Lục Lệnh Tùng ấn đầu Tạ Cánh vào hõm cổ mình, ghé tai y thì thầm: "Hôm nay ta thật sự, thật sự rất vui."

Tạ Cánh chẳng mảy may hay biết, chỉ hùa theo: "Đương nhiên rồi! Hôm nay em cũng rất vui. Được ra ngoài chơi ai mà lại không thấy vui chứ!"

Lục Lệnh Tùng không giải thích thêm, chỉ lặng lẽ tự nhủ trong lòng: Ta vừa vui, vừa cảm thấy may mắn vì vẫn được thấy em cười rạng rỡ như vậy.

Đến chiều tối, họ quay lại bến thuyền, vừa lúc những ngọn đèn lồng rực rỡ được thắp lên, báo hiệu đến giờ hoạt động của chợ đêm. Lục Lệnh Tùng dẫn Lục Thư Thanh dạo qua vài vòng, mua một vài món đồ chơi mới lạ, nhưng khi trở về thuyền thì không thấy Tạ Cánh đâu. Hỏi thăm người lái thuyền, họ mới biết y đang trốn ở đuôi thuyền, nhâm nhi vò rượu mới vừa mua.

Lục Thư Thanh tai thính, khẽ "Ồ" lên một tiếng: "Hình như mẹ đang hát."

Lục Lệnh Tùng chẳng lạ gì giọng hát của Tạ Cánh. Lúc trước hắn thường nghe y hát ru Lục Thư Thanh. Không có kỹ thuật gì đặc biệt, giọng hát ấy được y cố tình giữ chậm rãi, nhẹ nhàng, hoàn toàn khác với chất giọng trong trẻo vốn có của bản thân. Còn lúc này, cái gọi là "hát" cũng chỉ là vài giai điệu ngắt quãng, mơ hồ, từ âm mũi ngân nga thành điệu nhạc, không hẳn là một bài hát, nhưng lại phảng phất một cảm giác trọn vẹn.

Lục Lệnh Tùng vén rèm, nhìn thấy Tạ Cánh đang gối lên hai tay nằm ở đuôi thuyền, mặt y hơi ửng đỏ, hai mắt lim dim. Quần áo mùa xuân mỏng nhẹ ôm lấy người y, áo khoác mỏng như cánh ve mềm mại đắp lên nửa người dưới, khiến những đường nét cơ thể y trở nên dịu dàng như một mảnh trăng non màu ngà mới rơi xuống trần thế.

Chỉ cần nhìn thoáng qua, Lục Lệnh Tùng liền biết Tạ Cánh đã hơi say.

Tửu lượng của cả hai đều không tệ, ở Vương phủ cùng nhau đối ẩm đến say mèm là chuyện thường tình. Nhưng Tạ Cánh luôn để tâm đến vô số chuyện "lỡ như", lỡ như Hoàng đế bất ngờ triệu kiến, hay lỡ Lục Thư Thanh đột nhiên đau bệnh nóng sốt, bởi vậy chẳng bao giờ y để mình thật sự chìm trong men say.

Nhưng giờ phút này, rõ ràng y đã thả lỏng sợi dây căng thẳng ấy, không biết vì đã rời xa tầm tay của thiên tử uy nghiêm, hay bởi vì trận đua ngựa sung sướng ban sáng. Nếu nói khi ấy Tạ Cánh chỉ đang nhặt nhạnh lại dáng vẻ vui buồn thẳng thắn còn sót lại của tính cách vốn có, thì lúc này đây, y đã thực sự rơi vào giấc mộng cũ ngày còn trẻ dại ngông cuồng, không buồn không lo.

Lục Lệnh Tùng nghiêng người ngồi xuống bên cạnh y, uống cạn chút rượu lạnh còn sót lại trong hũ. Trong lòng hắn bỗng trào lên một suy nghĩ khó tả: chuyến hành trình tiến lên phía Bắc về quận Trần này, đối với Tạ Cánh – một Vương phi vốn không sinh ra để bị vây hãm trong cung cấm, có lẽ là một cuộc trở về với tự do.

Tạ Cánh cảm nhận được sự hiện diện của hắn, khẽ mở mắt nhìn một chút, rồi đột nhiên nhỏ giọng hỏi: "Anh sẽ trở thành Hoàng đế sao?"

Nghe y hỏi xong, Lục Lệnh Tùng thoáng giật nảy mình. Đây là một vấn đề nhạy cảm và tế nhị. Trước đây, khi cả hai còn chưa hoàn toàn tin tưởng lẫn nhau, họ từng đem chuyện này ra để đùa cợt, nhưng sau khi kết hôn, họ đã ngầm hiểu với nhau rằng sẽ không nhắc đến nữa. Dẫu vậy, với thân phận của Lục Thư Thanh, thái độ của Hoàng đế cùng với việc Hoàng hậu gây khó dễ, suy cho cùng đều không thể tách khỏi hai chữ "Thái tử", thế nhưng họ vẫn ôm lấy một chút ảo tưởng trốn tránh.

Hoàng đế hiện vẫn đang ở độ tuổi sung mãn nhất, thân thể khỏe mạnh, nếu không có gì bất trắc, đợi đến khi họ thật sự phải đối mặt với vấn đề này, có lẽ Lục Lệnh Chương cũng đã trưởng thành. Đến lúc ấy, thời cuộc sẽ ra sao vẫn còn là điều chưa thể đoán trước.

Lục Lệnh Tùng chỉ lắc đầu, khẽ đáp: "Ta không biết."

Dù nói vậy, nhưng hai người đều hiểu rõ, câu trả lời ít nhất sẽ đúng một nửa. Nếu Hoàng đế hoàn toàn không có ý định để Lục Lệnh Tùng kế thừa ngai vàng, thì ông sẽ không buông thả để hắn tự do hành động, cũng sẽ không thu lại quyền lực của hắn để hạn chế ảnh hưởng.

Hai mắt Lục Lệnh Tùng lấp lánh như những vì sao, phản chiếu ánh đèn sông mờ ảo. Tạ Cánh nhìn gương mặt trẻ trung của đối phương, bỗng nhận ra rằng y khó lòng tưởng tượng ra hình ảnh của người mà mình đã quá quen thuộc, người đầu ấp tay gối với mình sẽ ra sao nếu thật sự trở thành Hoàng đế cửu ngũ chí tôn.

"Nếu thật sự có ngày đó, em chỉ có một yêu cầu: hãy lập Lục Thư Thanh làm Thái tử, để thằng bé an ổn ngồi vững vị trí Đông Cung."

Tạ Cánh không biết liệu y và Lục Lệnh Tùng có còn có thêm con cái hay không, dù là con trai hay con gái, điều duy nhất y mong muốn chỉ là ngăn cản thế hệ sau của mình mắc phải số phận phải nghi kị, tranh đấu với anh em. Huống chi suốt bao triều đại đổi thay, anh em cùng mẹ đấu đá nhau cũng chẳng phải là chuyện hiếm gặp.

Lục Lệnh Tùng trầm mặc một lát rồi kiên định đáp: "Ta vẫn giữ lời nói trước đây, Thanh Nhi sẽ là con nối dõi duy nhất của ta – dù thằng bé nhận lại từ ta phủ Chiêu Vương, hay là điện Thần Long đi chăng nữa."

Tạ Cánh khẽ gật đầu, y biết Lục Lệnh Tùng sẽ nói như vậy, cũng không nghi ngờ hắn sẽ làm như vậy.

Hồi lâu sau, Lục Lệnh Tùng ngẩng đầu nhìn sang y: "Còn em sẽ là ——"

Tạ Cánh hiểu ý liếc mắt nhìn hắn, Lục Lệnh Tùng khựng lại, không nói hết câu. Tuy nhiên, hai chữ "Hoàng hậu" đã tự động xuất hiện trên môi hắn.

Không sai.

Y sẽ là Hoàng hậu của Lục Lệnh Tùng.

Kể từ năm đó, ngày Tạ Cánh còn chưa trở thành Chiêu Vương phi, sau khi dùng bữa tại điện Lâm Hải và rời đi, quay lại nhìn những ánh đèn lờ mờ ở nơi cung điện kia, y đã từng nghĩ đến một ngày như vậy. Y không biết Vương thị đã từng như thế nào khi còn là một thiếu nữ, nhưng không thể nghi ngờ, rằng người con gái họ Vương ấy đã trở thành một xác chết tuyệt mỹ ở nơi lăng tẩm lộng lẫy bao quanh bởi những bức tường thành màu son và mái ngói xanh này.

Vương phi và Hoàng hậu không giống nhau, mà Vương phi cũng chẳng hề giống với bất kỳ ai khác. Ở phủ Chiêu Vương, khoảng cách giữa y và "lễ giáo" thậm chí còn khác xa lúc còn ở Ô Y. Bởi ngay cả với một gia đình vương hầu hay quan lại bình thường, dù có là chính thất cũng sẽ không bao giờ được phép ngủ chung phòng với phu quân mỗi ngày, càng khỏi phải nói đến nơi thâm cung kia.

Nếu như y thật sự trở thành Hoàng hậu, thì thứ mà y gặp phải trên con đường phía trước sẽ là gì? Y không biết liệu mình có phải một mình trải qua đêm dài buồn chán ở điện Lâm Hải hay không, không biết Lục Lệnh Tùng sẽ giải quyết mối quan hệ với nhà mẹ của Đông Cung là Tạ thị ở quận Trần thế nào... Không biết, liệu y có phải chia sẻ Lục Lệnh Tùng với nhiều người khác hay không?

Ngay từ lần đầu tiên Tạ Cánh nảy sinh những suy nghĩ này, Lục Lệnh Tùng vẫn chưa thích y, thậm chí dường như y cũng chưa thích đối phương. Y chỉ là hơi buồn bã, xót xa, hơi thương cảm, lấy tư cách là người ngoài để suy đoán ý nghĩ của Vương thị. Dù không thể tránh khỏi để cảm xúc lây sang mình, nhưng nó cũng chỉ dừng lại ở việc thở dài tiếc nuối về quá khứ với cuộc sống ngang tàng tự do của bản thân.

Nhưng bây giờ mọi chuyện đã khác. Mối quan hệ giữa y và Lục Lệnh Tùng đã thay đổi — họ đã hứa sẽ ở bên nhau suốt đời, không phải sao?

Những câu hỏi này đã không còn có thể được giải quyết đơn giản chỉ bằng một câu "Y và Lục Lệnh Tùng tin tưởng lẫn nhau" nữa. Vô vàn cảm xúc phức tạp, đủ loại lo âu, sự ngờ vực vô căn cứ, tính toán lẫn nhau, nhượng bộ, lựa chọn, kiểm soát và cân bằng mới là vợ chồng thiên gia.

Cuối cùng, điều duy nhất mà y có thể nắm trong tay rõ ràng chỉ có mỗi mình Lục Thư Thanh.

Men say khiến Tạ Cánh phản ứng có hơi chậm, nhưng trong đầu y vẫn rất rõ ràng. Y nắm lấy tay của Lục Lệnh Tùng, nhìn vào mắt hắn, thành khẩn mà hoang mang nói: "Em thật sự muốn luôn ở bên cạnh anh, em cũng muốn một ngày nào đó, sau trăm năm, em có thể đường đường chính chính được hợp táng cùng anh trong cùng một mộ, em muốn trở thành Hoàng hậu của anh. Nhưng có lẽ... Em không đủ khả năng gánh vác."

Thật ra y không cần phải nói ra những lời này, vì khoảng thời gian từ lúc Lục Lệnh Tùng ngừng nói đến giờ đã đủ để y biết rằng tất cả những do dự, mơ hồ trong lòng mình đều đã được đối phương thấu hiểu.

"Vậy thì em cũng không cần phải ép mình gánh vác vai trò đó."

Tạ Cánh khẽ giật mình trước lời này, Lục Lệnh Tùng trở tay nắm lấy tay y: "Long ỷ đối với ta chỉ là một chiếc ghế mà thôi, ta có thể nhường lại nó cho Lục Lệnh Chương, nếu như cái giá phải trả là mất đi em, thì ta thà không làm Hoàng đế còn hơn."

"Vì sao?"

Lục Lệnh Tùng giơ cánh tay lên, dùng ngón tay nhẹ nhàng chạm vào má Tạ Cánh, rồi chậm rãi đẩy khóe môi của y lên, cố tình nặn ra một nụ cười trông có hơi ngốc nghếch.

"Ta không muốn thấy nụ cười của hôm nay sẽ biến mất khỏi gương mặt em."

*

<i>Tác giả: Nhớ kĩ người tên Trương Tam này nha ~</i>
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 85: (H)


<b>《</b><b> 20.3 </b><b>》</b>

Đi đường suốt một tháng, tiết trời bắt đầu vào hạ, cuối cùng họ cũng vào đến địa phận quận Trần Lưu. So với ngõ Ô Y tấc đất tấc vàng nhưng lại phải chia sẻ với các sĩ tộc khác, thì quê nhà của Tạ gia hoàn toàn không phải chen chúc như vậy. Dinh thự rộng lớn và uy nghi của nhà họ Tạ chiếm diện tích hàng trăm mẫu, còn chưa kể đến những sản nghiệp trải rộng bên ngoài.

Từ nhỏ Tạ Cánh đã sống khép kín trong nội viện, lại xa quê năm năm, chính y cũng không nhớ rõ đường về, cuối cùng phải nhờ hỏi thăm tá điền mới tìm được đường đi.

Chạng vạng tối, nông dân mang cuốc xẻng trở về nhà, nhao nhao bàn tán về những người khách lạ từ phương xa đến. Tạ Cánh vén rèm xe lên, nhìn về phía trước hồi lâu, Lục Thư Thanh đột nhiên chui vào từ dưới khuỷu tay y, ngẩng đầu tò mò quan sát vẻ mặt của mẹ nhóc, sau đó quay đầu lại, dõi theo ánh nhìn của y về phía xa.

Cuối chân trời là những hàng cây dương cao chót vót, ánh nắng chiều đỏ rực bị treo lơ lửng trên những cành cây sắc nhọn, tựa như xuyên thủng ranh giới của hoàng hôn. Từng vệt sáng nhuộm màu máu ồ ạt tràn xuống, dọa cho lũ quạ đen hoảng sợ bay tứ tung.

Từ nhỏ đến giờ Lục Thư Thanh chưa từng nhìn thấy cảnh tượng nào như vậy, có tiếng chuông chiều buồn bã từ ngôi chùa xa vọng lại, âm thanh mộc mạc mà cổ kính, tựa như sông núi Trung Nguyên.

Tạ Cánh ôm Lục Thư Thanh ngồi lên càng xe, vươn tay chỉ cho cậu nhìn: "Đây là nơi mẹ lớn lên."

Lục Lệnh Tùng quan sát tường ngoài của sân nhỏ, đột nhiên hỏi: "Hình như đã nhiều năm không được tu sửa rồi nhỉ?"

Tạ Cánh gật đầu: "Từ khi em còn nhỏ đã như vậy, gạch ngói đều cũ kỹ cả rồi."

Hiển nhiên Lục Lệnh Tùng cũng nhận ra điều này. Dù nhà mẹ họ Ngô của hắn không phải là dòng dõi danh môn hiển hách, và khi chọn đất có lẽ cũng không đến lượt họ được tự do chọn vị trí đắc địa nhất, nhưng về việc xây dựng thì thật sự đúng là một công trình quy mô lớn, hiển nhiên sẽ không xuất hiện tình trạng 'bên ngoài dát vàng, bên trong mục nát' thế này.

"Chẳng lẽ là vì chưa thỏa thuận chi phí sửa chữa xong?"

Ý tứ trong lời nói của hắn khá rõ ràng, có vẻ như đang định bỏ tiền túi của mình. Tạ Cánh biết rất rõ tình hình tiền nong của phủ Chiêu Vương, tuy khoản tiền cần để tu sửa nơi này không phải là vấn đề lớn, nhưng cũng không thể để Lục Lệnh Tùng chi trả toàn bộ.

"Không phải chuyện tiền bạc, mà là do nhiều người trong tộc đã dọn ra ngoài lập nghiệp, vậy nên trong nhà cũng ít người ở. Nhưng anh nhắc em mới nhớ, dù không còn ai ở cũng không thể bán đi cơ nghiệp này. Sau khi về kinh, em sẽ báo lại với cha một tiếng, cha nhất định sẽ bỏ tiền lo liệu."

Tạ Cánh nói đến đây thì liếc nhìn Lục Lệnh Tùng một cái, cười bảo: "Sao anh giống mấy vị công tử nhà giàu trong kịch nam thế, gặp bất kể chuyện gì, dù có xảy ra hay không cũng muốn bỏ tiền trước?"

Lục Lệnh Tùng cũng cười: "Đây gọi là lo xa, em không thấy à, có một nhà cậu tốt giúp ta được bao nhiêu chuyện, giờ lại thêm một nhà vợ hiền do phụ hoàng ban cho, đương nhiên ta phải thường xuyên lôi kéo, đề phòng bất trắc chứ."

Mặc dù lời hắn nói nghe có vẻ giống như đùa cợt, nhưng sự thật đúng là như vậy. Nếu Hoàng đế ban hôn nhằm mục đích "buộc Tạ gia vào cuộc, góp sức cho phủ Chiêu Vương", thì việc chọn một dòng họ danh giá như Tạ thị ở Trần Lưu với vị trí địa lý gần với đất phong Lạc Ấp của Lục Lệnh Tùng, để đôi bên cùng chung hoạn nạn sẽ càng dễ thúc đẩy mối quan hệ lợi ích không thể tách rời.

Người nhà họ Tạ đã sớm nhận được tin tức, đều đang đứng chờ trước cổng chính chủ trạch. Mấy năm trước, khi Tạ Cánh rời quê nhà xuống phía Nam, y chỉ là một vãn bối thuộc lớp con cháu trong một đại gia tộc, nhiều nhất cũng chỉ được khen là làm rạng danh gia môn. Nhưng ngày giờ này trở lại, y đã là hoàng thân quốc thích, nhận được cái quỳ lạy ngang hàng của trưởng bối. Cho dù chuyến đi này không có Lục Lệnh Tùng đồng hành, thân phận Chiêu Vương phi của Tạ Cánh cũng đã khiến khoảng cách giữa y và người trong họ như trời và vực. Kiểu "vinh quy bái tổ" như thế này đúng là khiến người ta thổn thức.

Sau khi ông bà qua đời, ở quận Trần này Tạ Cánh đã không còn ai đặc biệt thân thiết nữa, vậy nên cũng không có chuyện gì để ôn lại, hàn huyên nửa ngày, họ đã quyết định được ngày để cả tộc tề tụ ở từ đường bàn chuyện chính.

"Đi bên nào vậy?" Dùng bữa tối xong, Lục Lệnh Tùng đứng ngoài phòng, xoay mặt hỏi Tạ Cánh đang thất thần. Việc dẫn đường này lẽ ra đám tôi tớ có thể làm một cách tự nhiên, nhưng thấy Vương phi cứ đứng sững tại chỗ, không lên tiếng cũng không động đậy, chẳng có ai dám lắm lời.

Những nô bộc già năm xưa phần lớn đã không còn ở đây nữa, lúc nãy khi ăn cơm Tạ Cánh không tìm được gương mặt quen thuộc nào, nhất thời hơi hoảng hốt, cho đến khi nhìn thấy hành lang dẫn đến tiểu viện nơi mình lớn lên, y mới lờ mờ cảm nhận được cảm xúc chân thật khi trở về quê cũ.

Tạ Cánh ngoái đầu nhìn lại: "Ngày xưa căn phòng này là nơi thầy đồ tổ chức kì thi, em cùng một nhóm anh em trong tộc xếp hàng lần lượt đọc thuộc lòng, qua được rồi còn phải vào thư phòng của ông đọc lại lần nữa... Phòng ngủ của em ở phía Tây, không biết có còn giữ lại không."

Người hầu rũ mắt đáp lời: "Thưa vẫn còn, Vương phi, cả phòng trong lẫn noãn các đều đã được dọn dẹp, cũng đã thay chăn đệm mới từ sớm."

Tạ Cánh có hơi lúng túng, còn đang tìm từ ngữ thích hợp để nói, lại nghe Lục Lệnh Tùng tranh thủ ghé sát tai trêu Lục Thư Thanh bằng giọng nhỏ nhẹ: "Con nghe chưa, có thấy đáng sợ không, một bài văn phải đọc thuộc lòng mấy lượt đấy. Cái này cha không quyết định được đâu, nếu sau này mẹ con cũng bắt con làm thế thì cha chịu thôi, nhưng con yên tâm, cha sẽ luôn đứng về phía con..."

"Thôi ngay chưa hả!" Tạ Cánh dở khóc dở cười, khẽ vỗ một cái lên người Lục Lệnh Tùng, lúc này nét mặt căng thẳng suốt buổi tối của y mới giãn ra.

Điều Tạ Cánh không ngờ tới, chính là cái gọi là "giữ lại" trong miệng người hầu hóa ra lại mang ý nghĩa sâu xa hơn thế – cách bài trí, sắp xếp trong gian phòng mà y từng ở hoàn toàn không có chút thay đổi nào. Cuốn sách mà y vô tình lấy ra đọc vào đêm trước khi rời nhà vẫn được úp xuống mặt bàn hệt như cũ, vậy mà từng trang giấy lại chẳng vướng một hạt bụi, rất dễ nhận thấy rằng đã có người ngày ngày đến lau chùi. Tất thảy cứ như y chỉ vừa mới rời phòng đi dạo trong sân một chút, chén trà bên cạnh vẫn còn hơi ấm, thế nhưng năm năm đã qua, những người thân yêu từng hiện hữu bên y giờ đây chỉ tựa một giấc mộng dài.

Tạ Cánh bỗng cảm thấy nhẹ nhõm đi phần nào, khẽ thở ra một hơi. Trước đó y vẫn thấp thỏm cho rằng chuyến trở về này sẽ chỉ "gây thêm phiền phức" cho phụ lão trong họ, nhưng dường như không phải như vậy. Tuy đúng là có phần xa lạ, nhưng dù có ra sao đi nữa thì dinh thự này vẫn nhớ đến y, vẫn chấp nhận y như một thành viên nhà họ Tạ.

Trong khi đó, toàn bộ sự chú ý của Lục Lệnh Tùng lại bị cuốn vào quyển trục treo trên tường. Đó là một tác phẩm do chính tay Tạ Cánh viết bằng Khứ Hà thể khi còn chưa thành thạo. Thấy hắn định giơ tay gỡ xuống, Tạ Cánh vội ngăn lại: "Anh làm gì thế?"

"Đem về chứ làm gì." Hắn nói cứ như chuyện hiển nhiên. "Bút tích của Vương phi dù quý giá đến đâu, đảo một vòng trong đám quyền hoạn bên ngoài phủ cũng có thể tìm được một hai bức. Nhưng đây là tác phẩm thật của tiểu Tạ công tử, chẳng lẽ ta không nên mang về treo lên mà cung phụng sao? Hay là... Em muốn lấy tiền của ta?"

Tạ Cánh nghẹn lời, chỉ có thể lắc đầu.

"Thế thì xong rồi nhé." Lục Lệnh Tùng đảo khách thành chủ, lập tức quay lại dặn dò: "Cất hết những thứ này lại, đóng gói cẩn thận rồi xếp vào rương mang về."

Bởi vì đường đi mệt mỏi, Lục Thư Thanh đã đi ngủ ở noãn các, cũng không sợ lạ giường, Tạ Cánh dỗ dành chưa tới hai câu thì nhóc con đã ngủ say mất rồi. Mùa hè ở phía Bắc không oi bức như Kim Lăng, mặt trời vừa lặn thì nhiệt độ cũng giảm xuống. Tạ Cánh trở lại gian trong, Lục Lệnh Tùng vừa tắm xong, đang ngồi chờ y về, thấy y bước đến thì cứ nhìn chằm chằm, ngạc nhiên hỏi: "Quần áo ở đâu ra thế?"

"Là quần áo em mặt hồi còn nhỏ, vốn định tìm để sau này cho Thanh Nhi mặc, không ngờ em phát hiện hình như cũng không chật lắm, vậy nên mặc cho anh xem." Vạt áo ngủ của y hơi phanh ra, để lộ "mạt phục" ôm sát người, cũng chính là loại áo lót mà người ta hay gọi là "áo yếm". Mặc dù loại áo này không chỉ dành riêng cho trẻ con hay phụ nữ, nhưng từ sau khi kết hôn, Tạ Cánh chưa từng mặc lại nó lần nào mà luôn dùng trung y để thay thế.

Lục Lệnh Tùng bình tĩnh nhìn Tạ Cánh hồi lâu, rồi bỗng nhiên vươn tay thăm dò vào trong áo ngủ của y, phát hiện ra phần áo phía sau lưng quả nhiên chỉ có hai sợi dây nhỏ cố định.

"Ta chịu thua em luôn đấy." Lục Lệnh Tùng rõ ràng đã bị y làm cho hoảng hốt đến câm nín, tay đã đưa vào rồi nhưng lại quên mất cách di chuyển.

Tạ Cánh buồn cười: "Em vẫn còn mặc nguyên quần áo đàng hoàng, vậy mà anh đã đầu hàng rồi sao?"

Y rời khỏi vòng tay Lục Lệnh Tùng khoảng một thước, cởi chiếc áo mỏng ra nhưng vẫn khoác hờ trên lưng, sau đó cúi người để lộ xương quai xanh và cánh tay thon dài, mái tóc dài xõa xuống thoáng che đi, tạo nên sự tương phản rõ rệt giữa màu đen và trắng, càng làm nổi bật chiếc yếm đỏ trông có phần gợi cảm quá mức.

Đương nhiên Lục Lệnh Tùng đã nhận ra Tạ Cánh định làm gì. Hắn cam chịu số phận mà nghĩ, ai có thể liên hệ được người viết nên những con chữ ngoài kia với kẻ săn mồi ph*ng đ*ng trước mắt này chứ? Nhưng nói gì đi nữa, dù những kẻ kia có bỏ ra nghìn vàng để sở hữu một bản chữ viết tay của Tạ Cánh, thì đó cũng chỉ là những vật ngoài thân mà hắn có thể nhìn thấy khắp nơi trong phủ Chiêu Vương. Điều quan trọng nhất vẫn là người này đã thuộc về hắn, dáng vẻ này chỉ có mình hắn được nhìn thấy mà thôi.

Tạ Cánh c** th*t l*ng của Lục Lệnh Tùng, x** n*n v**t v* g** th*t đã bắt đầu có phản ứng vài cái. Những ngày này trên đường đi nhiều bất tiện, lại có Lục Thư Thanh ngủ chung, hai người cũng chẳng có đủ sức để làm những chuyện mờ ám này, nhịn suốt cả tháng không chạm vào nhau, lúc này vừa khiêu khích một chút là vật kia đã c**ng c*ng lên.

Tạ Cánh hơi nghiêng mặt qua, há miệng l**m láp lấy thân trụ từ gốc lên trên, đầu lưỡi thỉnh thoảng đẩy lên một cái, lướt qua gân xanh và lỗ nhỏ trên đỉnh đầu, nước bọt ướt át rưới đẫm d**ng v*t đã tím đỏ, mà đôi môi y cũng ánh lên vẻ ướt át quá đỗi diễm lệ. Tạ Cánh không giỏi việc này lắm, bởi vì ngày trước làm mấy lần đều khiến môi dưới sưng đỏ bất thường, hôm sau gặp người khác cũng không biết giải thích thế nào, vậy nên Lục Lệnh Tùng không để y dùng miệng làm nữa.

Nhưng y đã từng được trải nghiệm cảm giác tuyệt diệu đó, biết Lục Lệnh Tùng sẽ cảm thấy sướng nên cũng thích chăm sóc hắn như vậy. Chỉ mới ngậm lấy phần đầu hoàn toàn c**ng c*ng đã buộc Tạ Cánh phải há to miệng, nuốt sâu hơn lại càng vất vả hơn. Y thường nuốt vào rất chậm, cũng vì thế mà phải tốn kha khá thời gian cho quá trình này, từng chút một, từ nông đến sâu, y ngậm lấy toàn bộ d**ng v*t vào khoang miệng ấm nóng rồi bắt chước tần suất và độ chặt của việc g*** h*p mà phun ra nuốt vào, được vài lần đã thấy hai má mỏi nhừ, đành phải phu ra tiếp tục l**m láp như lúc đầu, chất lỏng sền sệt và nước bọt vô tình dính lên cằm, y bèn lấy vạt áo Lục Lệnh Tùng lau đi.

Lục Lệnh Tùng thường sẽ không cho y ngậm sâu đến yết hầu, vì làm như vậy sẽ khó tránh khỏi bị thương cổ họng, dù rồi cũng sẽ khàn giọng mất mấy ngày. Nhưng không cần dùng đến cổ họng, Tạ Cánh vẫn có cách làm đối phương cảm thấy sướng. Y thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn phản ứng của Lục Lệnh Tùng, thấy hắn nhíu mày cắn môi có vẻ không chịu nổi, d**ng v*t cũng sắp "bùng nổ", y bắt đầu thả chậm động tác để hắn lấy lại bình tĩnh. Đợi khi đối phương buông lỏng cảnh giác, y mới bất ngờ m*t mạnh một cái, vòm họng giống như huyệt đạo xoắn chặt lấy hung khí, phát ra tiếng nước d*m d*c.

Bình thường thì lúc này Lục Lệnh Tùng đã khó nhịn cong người, không lâu sau sẽ phóng thích trong miệng y, nhưng hôm nay Tạ Cánh cũng hơi mệt, không muốn kéo dài. Cảm thấy nhiệt độ và độ cứng của d**ng v*t đã đủ hầu hạ người ta l*n đ*nh, lỗ sau của bản thân cũng đủ ướt, y bèn nhả g** th*t ra rồi ngẩng người lên đòi hôn đối phương.

Lục Lệnh Tùng hiểu ý, vừa cúi đầu hôn y vừa đỡ lấy hai cánh mông bế y lên, cả hai quấn quýt ngã xuống chiếc giường mà Tạ Cánh đã nằm ngủ từ nhỏ. Chiếc giường này đương nhiên không rộng rãi bằng giường ở Vương phủ, nhưng cũng không quá cũ kĩ đến mức cần tu sửa. Tạ Cánh nằm ngửa, nhìn Lục Lệnh Tùng gập hai chân của y lên, nghĩ đến yêu cầu mà đối phương đã đề cập, y không khỏi bật cười: "Tại sao phải làm trên giường này mới được?"

Hai người đều đã sớm đ*ng t*nh, cần những k*ch th*ch mạnh mẽ hơn cả nụ hôn để góp vui, thế nhưng Lục Lệnh Tùng vẫn hôn y rất nghiêm túc, từ môi đến vai rồi đến bụng dưới. Sau khi sinh con, cơ thể Tạ Cánh tuy không thay đổi nhiều nhưng đầy đặn, nở nang hơn trước, không còn quá gầy như hồi mười sáu, mười bảy, hơn nữa bụng dưới vô cùng mềm mại. Lục Lệnh Tùng vén vạt áo yếm lên, dùng lòng bàn tay nhẹ nhàng ấn lên bụng y, nửa người dưới nhân lúc đó lấy đà đẩy vào, khiến cho Tạ Cánh bật ra một tiếng thở dài thỏa mãn.

Lục Lệnh Tùng vốn tưởng rằng không còn thứ gì có thể khiến họ đỏ mặt lúc h**n ** nữa, nhưng hắn thật sự không ngờ Tạ Cánh lại dám mặc loại trang phục này trước mặt mình. Hắn muốn xuyên xỏ cơ thể của Tạ Cánh trên chiếc giường mà y ngủ từ nhỏ đến lớn, chỉ đơn giản bởi vì điều này khó tránh khỏi khiến cho người ta liên tưởng, rằng nếu như họ có cơ hội quen biết nhau từ độ tuổi đó, nói không chừng cũng sẽ lén lút trên chiếc giường riêng tư của một trong hai người, ở phía sau tấm màn kia mà ve vuốt lẫn nhau, vừa hồi hộp, vừa vụng về nếm trải trái cấm đầu đời trong sự ngây ngô vụng dại.

Chỉ cần nghĩ đến một Tạ Cánh không biết đề phòng, ngây thơ hơn cả thời điểm họ vừa kết hôn đã khiến Lục Lệnh Tùng c**ng c*ng không chịu nổi.

Huyệt đạo hơi chặt, có lẽ vì thời gian chuẩn bị ngắn, chưa đủ trơn tru nhưng cũng không đến mức khiến Tạ Cánh đau đớn. Y thúc giục "Nhanh lên", Lục Lệnh Tùng cũng chẳng còn e ngại, mỗi cú thúc đều nhắm chuẩn vào miếng thịt mềm nhạy cảm mà đâm sâu vào, không cho Tạ Cánh cơ hội thích ứng, hơi thở dồn dập khẽ khàng lập tức biến thành những tiếng r*n r* đầy sung sướng.

Tạ Cánh sợ đánh thức Lục Thư Thanh, cũng sợ người hầu bàn tán nên không dám phóng túng k** r*n như ở Vương phủ, chỉ có thể cắn lấy gối đầu. Quần áo ngủ của y rơi vãi bên giường, q**n l*t cũng đã bị Lục Lệnh Tùng cởi bỏ, trên người chỉ còn đúng một chiếc yếm đỏ che thân, đầu d**ng v*t cứ theo nhịp đẩy mà cọ vào vải làm y ngứa ngáy, cả người run lên bần bật, hai chân kẹp chặt lấy eo của người đang di chuyển nhanh chóng.

Những năm qua, sự thay đổi của Lục Lệnh Tùng thật ra rõ ràng hơn y nhiều. Từ những ngày tháng cuối cùng của thuở thiếu thời ngây ngô bước vào giai đoạn trở thành một người đàn ông trưởng thành, hoàn thiện. Có lẽ vẫn sẽ có người chê trách hắn là một người cha chưa đủ chín chắn, nhưng chẳng ai nghi ngờ hắn chính là một người cha tốt. Tất nhiên là với tình cảnh hiện tại, trong mắt Tạ Cánh, sự "trưởng thành" của Lục Lệnh Tùng thể hiện qua lồng ngực nóng bỏng, rắn chắc hơn khi ôm lấy y, và kỹ thuật cũng trở nên điêu luyện hơn.

Lợi ích của việc dùng miệng an ủi trước đó là sự k*ch th*ch liên tục không "hành hạ" Tạ Cánh quá lâu, cả Lục Lệnh Tùng và y đều không cố kìm nén d*c v*ng, khi gần đến giới hạn đối phương đều đâm lút cán, mỗi cú thúc đẩy đều khiến Tạ Cánh co giật, cuối cùng y xuất tinh trong tay Lục Lệnh Tùng trước. Để tránh việc vệ sinh quá phiền phức, Lục Lệnh Tùng không bắn vào bên trong y mà chỉ phóng thích chất lỏng màu trắng đặc sánh ra giữa khe mông.

Tạ Cánh nghiêng người tựa vào đầu giường để ổn định hơi thở, khuỷu tay chạm vào mái tóc hơi ẩm của Lục Lệnh Tùng, y bèn sẵn tay cầm khăn lụa lên lau sơ cho hắn, khẽ nói: "Em nhớ trước đây đã nói với anh, thật ra nếu chúng ta chuyển đến Lạc Ấp sống lâu dài cũng không tệ, trời cao Hoàng đế xa, không có ai quản thúc, còn có thể thỉnh thoảng về thăm quê."

Lục Lệnh Tùng dùng bàn tay rảnh rỗi v**t v* bên đùi y, đáp: "Nhưng như vậy sẽ phải tạm xa những người thân ở Kim Lăng, về lâu dài cuối cùng cũng khó mà trọn vẹn đôi bên."

Tạ Cánh thở dài: "Em biết mà. Thật ra trong nhà chỉ có mỗi mình em là nhớ nhung quận Trần không thôi, mẹ và chị dâu vốn là người Giang Nam, cha và anh trai thì hoàn toàn chưa từng sống ở quận Trần, bọn họ đều coi Kim Lăng là quê hương."

Lục Lệnh Tùng nhớ lại rất lâu trước đây, khi họ gặp riêng nhau ở Dao Đài trước khi cưới, Tạ Cánh đã không chút do dự nói "Dù thế nào thì Kim Lăng cũng đã tính là quê người rồi". Hắn im lặng một lúc rồi hỏi: "Em có từng nghĩ, nếu như em cũng được nuôi dạy ở Kim Lăng từ nhỏ thì tình cảnh sẽ như thế nào không?"

Tạ Cánh khựng lại một chút: "Anh muốn nghe lời thật lòng không?"

Lục Lệnh Tùng nghi hoặc: "Chuyện này có gì mà phải giả dối chứ? Em cứ nói thật đi."

"Nói thật thì em vẫn luôn cảm thấy, nếu như em quen biết anh từ sớm, chưa chắc hai ta đã có được duyên phận như ngày hôm nay."

Lục Lệnh Tùng bối rối nhìn y, Tạ Cánh bèn giải thích: "Tuy rằng thân phận của anh đặc biệt, nhưng giao du rộng khắp các tầng lớp, còn em thì, anh cũng biết mà, ngay cả việc ứng đối với đồng liêu đồng môn em cũng không giỏi. Dù cho có được lớn lên ở kinh thành từ nhỏ, dù cho nhà họ Tạ sớm muộn gì cũng sẽ không tránh được việc giao thiệp với anh, nhưng con người của em cùng lắm cũng chỉ có thể làm một người quen sơ với Chiêu Vương điện hạ mà thôi."

Lục Lệnh Tùng nhướng mày, chỉ vào vệt t*nh d*ch chảy g*** h** ch*n y: "... Quen sơ?"

Tạ Cánh quật chiếc khăn lụa vào hắn: "Em đang nói chuyện nghiêm túc với anh đấy! Tự bản thân em không giỏi giao tiếp, không biết lấy lòng người khác, chỉ sợ dù có quen biết em, anh cũng sẽ chẳng thấy em có gì thú vị."

Dường như y đã từng suy nghĩ về chuyện này từ lâu. Giờ phút này mây mưa vừa tan, thần trí còn hơi mệt mỏi, vậy nên mới chẳng để ý mà lỡ miệng nói ra.

"Nếu em không phải là Chiêu Vương phi, cũng sẽ không đi dạy Nhị điện hạ. Có lẽ em sẽ phải nhẫn nhịn ở Hàn Lâm Viện rất nhiều năm — cha và anh cả nhất định cũng sẽ tránh hiềm nghi, tuyệt đối không mở đường nâng đỡ em. Có chăng là em sẽ bị điều ra ngoài kinh, bắt đầu từ chức huyện lệnh hay quan lại các châu, đi lên từng bước. Dù em thật sự có chí tiến thủ đi nữa, đến lúc leo đến được vị trí có thể lọt vào mắt anh, e rằng em cũng đã có tuổi rồi."

Lục Lệnh Tùng nghe y nói xong thì im lặng một lúc lâu, rồi bất chợt giật lấy chiếc khăn trên tay y ném sang một bên, sau đó dang tay ôm chặt lấy eo Tạ Cánh, kéo y sát vào lòng. Hai người da thịt tr*n tr** dán chặt vào nhau, thân mật khắng khít: "Cái gì mà "đến được vị trí có thể lọt vào mắt ta" chứ? Ngay khi tên em được đề lên đầu bảng Tam Nguyên, ta đã để mắt đến em rồi."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 86


<b>《</b><b> 20.4 </b><b>》</b>

Từ cửa hông phía Tây Nam của dinh thự nhà họ Tạ đi ra, men theo đường bờ ruộng đi một đoạn sẽ gặp một con suối nhỏ ở đầu ruộng, nước suối chỉ ngập đến ngang hông. Đây là nơi nông dân gần xa thường xuyên lui tới để lấy nước. Những ngày này, Tạ Cánh đều bận rộn ở sảnh chính cùng người trong tộc kiểm kê từng hạng mục trong sản nghiệp, còn Lục Lệnh Tùng thì đi dạo xung quanh. Kỳ trân văn vật ở dinh thự chẳng kém gì những nhà quyền quý ở ngõ Ô Y, hắn thảnh thơi dạo một vòng mà không gặp trở ngại gì. Nhưng rồi cũng chẳng còn việc gì để làm, hắn cũng đã nhắm tới dòng suối kia từ sớm, chỉ là trong phủ còn có Lục Thư Thanh, nếu chưa được Tạ Cánh cho phép, hắn không dám tự ý dẫn nhóc con đi nghịch nước.

Trở về viện, hạ nhân đang hối hả đi tìm hắn, đưa đến một mảnh giấy, nói là Tạ Cánh dặn dò: "Người bảo nhất định phải giao tận tay điện hạ."

Tim Lục Lệnh Tùng khẽ chùng xuống, nghĩ không biết có phải vì phân chia tài sản không đều hay y bị ai bắt nạt nên mới tìm hắn viện trợ hay không. Nhưng ngẫm lại, tộc nhân họ Tạ dù làm quan hay làm ruộng, dù giàu có hay bình thường thì ai cũng đều an phận với mệnh số của mình, hẳn không thể xảy ra chuyện tranh giành gia sản ầm ĩ tới mức phải động tay động chân.

Hắn vội vàng mở tờ giấy ra xem, phát hiện trên đó chỉ có một câu: "Tối nay em muốn ăn cơm vụn vàng."

Người hầu còn sốt ruột thay cả hắn, vội hỏi: "Có chuyện gì quan trọng sao ạ?"

Lục Lệnh Tùng im lặng hồi lâu rồi đáp: "... Không sao. Phòng bếp ở đâu?"

Đến giờ ăn, Lục Thư Thanh tuy không đến mức phải có người đuổi theo sau đút từng muỗng cơm, nhưng cậu nhóc có thói quen nhai kỹ, ăn chậm rì rì, mà lúc đang ăn lại hay lơ đễnh. Chạng vạng tối khi Tạ Cánh trở về phòng, cậu vẫn còn ngồi trên bậc cửa, trên tay bưng một cái chén nhỏ, chậm rãi xúc từng muỗng cơm bỏ vào miệng.

Tạ Cánh hỏi con: "Sao con lại ngồi đây ăn vậy?"

"Ông bà ở ngoài kia cũng ăn như vậy."

"Ngoài nào?"

Lục Thư Thanh giơ tay lên thật cao, vẽ một vòng tròn rộng trong không trung rồi chỉ về hướng Tây Nam: "Ở —— ngoài đó ạ."

Tạ Cánh không hiểu lắm, rảo bước vào phòng, Lục Lệnh Tùng ở bên trong đáp thay: "Nhóc con này thấy người dân quê ngồi ngay trên bờ ruộng ăn cơm nên học theo đấy."

Trên bàn đã dọn sẵn bữa tối cho Tạ Cánh, hương thơm của gạo nóng và hơi ấm của thức ăn vẫn còn tỏa ra nghi ngút hòa quyện vào nhau. Cơm vụn vàng thực ra chính là cơm chiên trứng, đây là món thuộc loại ít tốn công sức nhất trong danh sách các món ăn của Lục Lệnh Tùng, cũng không cần kỹ thuật gì đặc biệt. Hắn vốn không thích nấu món này, nhưng trong phủ từ trên xuống dưới ai ai cũng thích, mỗi lần nấu xong, tiểu tư nha hoàn đều đứng chầu chực bên ngoài phòng khách, đợi ba vị chủ tử dùng cơm xong là lập tức ùa vào tranh nhau vét sạch.

Không giống như loại cơm chiên trứng mà trứng được xào thành từng mảng nhỏ giống như "vụn vàng" thường thấy trong hàng quán ở ngoài, Lục Lệnh Tùng có thói quen đánh trứng thật đều, để lớp trứng vàng óng phủ lên từng hạt cơm, trông như những bông hoa cúc vàng nhỏ xíu nở rộ giữa mùa xuân. Vì là cơm nhà làm, hắn không tiếc nguyên liệu, hào phóng rắc đầy đậu Hà Lan và tôm xắt hạt lựu. Cũng do hắn nêm nếm khá nhạt nên Tạ Cánh thường múc một muỗng ớt bằm nhỏ để vào góc chén, thỉnh thoảng trộn vào ăn cùng.

Y đã bận rộn cả ngày, lúc này bụng đói cồn cào, ăn non nửa bát mới có thời gian mở miệng nói chuyện với Lục Lệnh Tùng: "Trị đại quốc cũng giống như nấu một món ăn nhỏ, mà món ăn nhỏ thì lại là món khó nấu nhất. Anh chiên cơm ngon thế này là đã thành minh quân thiên cổ trong lòng em rồi."

Lục Lệnh Tùng nghẹn lời, nhưng không có đầu bếp nào lại ghét bị khách khen cả. Thấy Tạ Cánh ăn ngon miệng, hắn cũng vui vẻ, nghiêng đầu nhìn y một lúc, bỗng hỏi: "Tối nay em còn việc gì không?"

Thấy y lắc đầu, Lục Lệnh Tùng bèn nói: "Vậy chúng ta ra con suối ngoài kia bơi đi."

Tạ Cánh nghĩ mãi mới nhớ ra đến con suối mà đối phương đề cập tới. Lúc còn nhỏ y rất nghịch ngợm, thường cùng các anh em họ ra đó bắt cá, bị thầy giáo bắt được rồi trách phạt, từ đó về sau không được ra đó chơi nữa.

Nói đến chuyện bơi lội, Tạ Cánh vốn không lớn lên ở vùng sông nước chằng chịt như Giang Hoài, kỹ năng bơi cũng chỉ ở mức bình thường. Ở Kim Lăng, y lại càng ít có cơ hội. Ao cạn và hồ sau trong vương phủ thì không thích hợp để làm chuyện này, bãi cát ven bờ sông Trường Giang lại nguy hiểm, nước xiết không an toàn, còn sông Tần Hoài tuy khá phù hợp, nhưng vấn đề là nơi đó quá ồn ào, người qua kẻ lại tấp nập, nếu để cả thành nhìn thấy cảnh tượng Chiêu vương điện hạ c** tr*n dạy thế tử bơi, thì chắc chắn ngày hôm sau bọn họ sẽ phải vào cung lĩnh phạt.

Nhìn thấy đôi mắt sáng bừng lên của Lục Lệnh Tùng, rõ ràng là vì hiếm khi hắn được thoát khỏi những ràng buộc, nhất thời nổi hứng muốn chơi đùa, mà thời tiết lại thật sự oi bức, Tạ Cánh cũng không có lý do gì để làm mất hứng của hắn.

"Nhưng mà Thanh Nhi không thể ngâm nước quá lâu, em sợ con bị cảm lạnh."

Lục Lệnh Tùng hứa chắc nịch: "Ta biết chừng mực mà. Chân chân là do một tay ta chăm bẵm lớn lên, chuyện này mà em còn không tin ta sao?"

Hai người bàn bạc xong xuôi, Tạ Cánh gọi tôi tớ vào dọn dẹp bát đũa, xoay mặt nhìn ra cửa, thấy Lục Thư Thanh vẫn chưa ăn hết chén cơm.

Mùa hè ở phương Bắc trời tối muộn hơn, ba người lại trò chuyện thêm vài câu, đợi tiêu hóa bớt thức ăn mới chậm rãi bước ra hậu viện. Lúc này, phía chân trời vẫn còn sót lại một mảng xanh đậm mơ hồ.

Tạ Cánh đứng trên bờ ruộng, cầm hai chiếc đèn lồng họ mang theo đến để chiếu sáng cho Lục Lệnh Tùng. Lục Thư Thanh hoàn toàn không biết bơi, nhưng may mắn là cậu không hề sợ nước. Cơ thể bé nhỏ của nhóc con được Lục Lệnh Tùng dễ dàng đỡ lên bằng một tay, tay còn lại ở bên cạnh bảo vệ, bắt đầu dạy cậu từ cách nín thở.

Thế nhưng Lục Thư Thanh lại không mấy hứng thú với việc học bơi, có thể thấy cậu thích vỗ nước tung tóe theo kiểu bơi chó hơn. Lục Lệnh Tùng xách con trai lên chơi trò hất nước, chẳng mấy chốc nước đã bắn đến tận gấu quần của Tạ Cánh khiến y phải vứt đèn xuống đất, nhảy vội ra xa cách đó ba trượng, cảnh cáo: "Hôm nay em không xuống nước thôi đấy. Có giỏi thì lần sau về hồ nước nóng trong nhà đánh tiếp, không tạt đến mức hai cha con anh phải xin tha thì em theo họ anh!"

Hai người dưới nước không hề xem trọng lời thách đấu chẳng có phân lượng gì của y. Lục Thư Thanh trèo lên sau cổ cha giống như con khỉ nhỏ, được hắn vác hẳn lên vai thì phấn khích hét ầm lên. Lục Lệnh Tùng chạy vài bước lên bờ suối, đuổi theo Tạ Cánh đang hốt hoảng bỏ chạy. Nhưng vì chân trần chạy không tiện, bị vấp một cái, trong khoảnh khắc đó, hắn chỉ kịp che chắn cho Lục Thư Thanh, còn bản thân thì đành kéo theo cả Tạ Cánh ngã xuống mép bờ, cả người ướt sũng, bọt nước văng tung tóe khắp nơi.

Tạ Cánh vừa th* d*c vừa gằn giọng: "Tốt nhất là anh hãy rời khỏi người em trong vòng ba tiếng đếm. Nếu không, sáng mai cả quận Trần sẽ lan truyền tin động trời là Chiêu Vương phi tàn nhẫn ra tay giết chồng đó. Ba, hai, một, một, một..."

Chữ "một" lặp lại cả chục lần, nhưng Lục Lệnh Tùng vẫn bất động. Đếm đến mức chính Tạ Cánh cũng không nhịn được nữa mà cười phá lên, vừa mắng vừa đẩy hắn: "Buông Thanh Nhi ra, đừng có đè con!"

Ba người tách ra, Lục Thư Thanh da thịt non mềm, sợ con bị đá vụn và cát sỏi làm trầy da, Lục Lệnh Tùng bèn nhấc bổng cậu đặt thẳng lên người Tạ Cánh. Mất đi vật chắn, lúc ngửa mặt nằm xuống đất, Tạ Cánh mới chú ý đến cảnh sắc trên cao, y vội vàng đẩy Lục Thư Thanh: "Mau ngẩng đầu lên, nhìn kìa!"

Ban ngày trời trong xanh không một gợn mây, đến khi màn đêm buông xuống, bầu trời đầy sao rực rỡ hiện ra rõ mồn một. Dải ngân hà tráng lệ rực rỡ kéo dài từ phía Đông Bắc đến tựa như nước sông Hoàng Hà đổ xuống từ chín tầng trời cao, cuồn cuộn chẳng dứt, rực sáng muôn đời.

Ban đầu, Tạ Cánh không kịp nhận ra điều gì khác biệt. Ở Kim Lăng, số lượng sao trên trời không ít hơn nơi đây là bao, nhưng khi sao rơi vào đáy mắt thì lại chẳng giống chút nào. Mãi đến khi nghe thấy Lục Lệnh Tùng khẽ thốt lên một tiếng thán phục như thể đây là lần đầu tiên hắn được nhìn thấy bầu trời sao, y mới chợt tỉnh ngộ — sự khác biệt không nằm ở những vì tinh tú, mà ở chính vòm trời kia. Bầu trời ở kinh thành bị chia cắt thành từng ô vuông như bàn cờ, nhưng đêm ở quận Trần thì lại rộng lớn và khoáng đạt đến nỗi có thể dung nạp vạn vật — đây chính là bầu trời cố hương mà y vẫn luôn đau đáu nhớ về, ngay cả trong mơ cũng mãi vấn vương.

Trên đường về nhà, Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng sóng vai đi phía trước, họ băng qua bờ ruộng, thỉnh thoảng có vài con đom đóm sáng rực chầm chậm bay lên từ giữa đám cỏ, dệt thành một con đường về nhà lấp lánh ánh sáng trắng dịu nhẹ. Lục Thư Thanh không nhanh không chậm bước theo sau, Tạ Cánh vô thức đưa tay ra phía sau muốn nắm lấy tay con, cậu nhóc bèn tung người nhảy lên bắt lấy, giẫm lên bóng của mẹ và cha.

Hoàng đế vốn đã định sẵn thời hạn hồi kinh cho bọn họ là trước Trung thu, nhưng mới vừa sang đầu tháng bảy đã truyền thánh chỉ đến thúc giục. Phụ tử thiên gia đúng thật là khó làm, đặt ngay trước mắt thì sợ nuông chiều quá đà, đặt ngoài tầm mắt thì sợ khó lòng kiểm soát.

Lục Thư Thanh vừa mới thân quen với đám trẻ con trong họ, Tạ Cánh cũng muốn được sống thêm những tháng ngày không cần hở chút là lại phải vào cung thỉnh an. Thật ra không có ai muốn trở về nhanh như vậy, nhưng quân mệnh treo lơ lửng trên đỉnh đầu, chung quy trong lòng vẫn không thoải mái, cuối cùng đành quyết định lên đường về kinh vào ngày mười sáu tháng Bảy, bởi vì họ không muốn bỏ lỡ sự náo nhiệt của tết Trung Nguyên.

Giữa tháng Bảy không chỉ là dịp cúng tế người thân đã khuất, mà còn là thời điểm thu hoạch mùa màng, từ xưa vẫn có tục lấy "tang sự làm vui". Ở Kim Lăng, do hệ thống sông ngòi phong phú, người ta thường thả đèn hoa đăng trên sông để bày tỏ lòng tưởng nhớ, còn ở phương Bắc, tập tục cũ lại là treo đèn trên mộ phần và dâng hương cúng tế. Dinh thự của nhà họ Tạ được xây dựng ở vùng ngoại ô huyện Dương Hạ của quận Trần, phần mộ tổ tiên và từ đường nằm trên ruộng đất của gia tộc nên chiếm diện tích khá lớn, tọa lạc ngay con đường tất phải đi qua khi vào thành.

Bọn họ đợi đến khi trời tối hẳn mới lên đường. Sau khi Tạ Cánh cúng bái trước phần mộ của ông bà nội, y nói với Lục Thư Thanh: "Con có thấy những ngọn đèn này không? Trong tim đèn có một vương quốc nhỏ, những người thân đã khuất của con đều sống ở trong đó. Chỉ cần con thắp sáng đèn, họ sẽ nhìn thấy con."

Lục Thư Thanh vẫn chưa hoàn toàn hiểu được ý nghĩa của cái chết, mà Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh cũng không cố gắng dạy cho cậu hiểu về điều ấy. Dù sao thì bốn vị trưởng bối trong nhà vẫn còn khỏe mạnh, một thời gian nữa chắc cũng chưa phải đối mặt với chuyện này. Đợi khi cậu lớn hơn, học đến câu "dài ngắn theo mệnh trời, mong cầu rồi cũng tận", tự nhiên sẽ hiểu.

Trên phố chợ đêm, đâu đâu cũng là những giọng nói với khẩu âm xa lạ. Lục Lệnh Tùng tự nhận cách phát âm của mình rõ ràng, vậy mà liên tục gặp mấy người bán hàng tỏ vẻ mơ hồ, nói không hiểu gì khiến hắn vô cùng buồn bực. Hắn thử bắt chước kiểu phát âm kỳ lạ của chữ "trung", rồi hỏi Tạ Cánh: "Em có nói được tiếng quê nhà không?"

Tạ Cánh lắc đầu, rồi lại gật đầu: "Em nghe hiểu, nói cũng được đôi chút nhưng không chuẩn. Hồi nhỏ, thầy dạy rằng sau này bọn em đều phải lên kinh ứng thí, chỉ được phép nói tiếng Quan Thoại. Ông bà nội cũng chỉ nói chuyện với em bằng tiếng Quan Thoại."

Đi ngang qua một quầy hàng nhỏ bán món gọi là "bánh canh", một loại mì cắt được nấu trong nước dùng đậm đà hầm từ xương dê, đặc sệt và có màu trắng ngà như sữa bò. Người bán còn cho thêm đậu phụ, rong biển thái sợi, trứng cút vào nấu cùng mì, mùi thơm nức mũi khiến người ta không khỏi nuốt nước bọt.

Lục Thư Thanh vốn đang vùi mặt vào vai mẹ, chỉ để lộ đôi mắt tròn xoe đen láy nhìn xung quanh, vừa ngửi thấy mùi thơm liền hít hít mũi, không cưỡng lại được mà ngoảnh đầu nhìn qua. Lục Lệnh Tùng tự giác rút tiền ra mua, hắn gắp một sợi mì, thổi nguội rồi đưa lên tận miệng con trai.

Tạ Cánh nghiêng mặt nhìn, nhắc nhở: "Con tự cầm lấy mà ăn, hút hẳn sợi mì cho hết, đừng để rơi vãi xuống cổ áo."

Lục Thư Thanh hút sợi mì trông y hệt chú chuột nhỏ, nuốt hết rồi mới nói: "Dì bảo là không được 'húp sùm sụp...' như thế này."

"Con còn muốn ăn nữa không?" Lục Lệnh Tùng hỏi, rồi tiếp lời, "Dì con nói đúng, ở nhà và trên bàn tiệc trong cung thì đúng là không được. Nhưng ra ngoài chơi thì không quen biết ai cả, con muốn ăn thế nào thì cứ ăn thế ấy."

Ba người nhanh chóng ăn hết sạch tô bánh canh. Tạ Cánh vốn không thích mùi thịt dê, nhưng cách chế biến của dân gian nồng đượm hương vị đời thường, dùng nhiều dầu mỡ và gia vị mặn nên đã át đi hết mùi gây của dê, chỉ còn lại hương thơm đậm đà đặc trưng. Bao năm sớm chiều ở bên cạnh Lục Lệnh Tùng, thật ra y cũng đã dần bị ảnh hưởng, quen với khẩu vị của hắn mà chẳng hay biết. Lại thêm Lục Thư Thanh còn nhỏ, thức ăn cho trẻ con cần nấu thanh đạm, vậy nên đã lâu y không có cơ hội được thưởng thức hương vị nguyên bản của món ăn quê nhà.

Trung Nguyên cũng là dịp lễ Vu Lan của đạo Phật, ngoài chợ được dựng sân khấu cao diễn vở "Mục Liên cứu mẹ". Trong cung năm nào cũng diễn "Khuyên thiện ký*", Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh đã nghe đến phát chán, nhưng kịch dân gian Trung Nguyên ở đây kết hợp cả võ thuật và xiếc tạp kỹ, xem cũng khá mới lạ.

<i>(*) "Khuyên thiện ký"</i>《劝善记》<i> là một vở kịch truyền kỳ nổi tiếng do Dư Tượng Đẩu – một nhà văn thời Minh, sáng tác. Đây là một tác phẩm thuộc thể loại khuyên răn con người hướng thiện, mang nội dung giáo huấn về nhân quả báo ứng, khuyến khích người ta làm việc tốt và tránh điều ác.</i>

Chỉ là vở Mục Liên vốn trang trọng, thâm trầm và có phần u tối. Ban nãy đi ngang qua phần mộ tổ tiên Lục Thư Thanh còn không sợ, vậy mà đến lúc thấy trên sân khấu diễn cảnh mẹ của Mục Liên bị đày xuống quỷ đạo sau khi qua đời, phải chịu đủ cực hình thì lại bị dọa đến tái mặt, ôm chặt lấy mẹ mình không chịu buông.

Tạ Cánh chỉ còn cách nhẹ nhàng đung đưa dỗ dành, thì thầm trấn an nhóc con: "Đây là vở diễn dạy người đời rằng thiện ác cuối cùng đều gặp báo ứng. Mẹ của con một đời giàu sang bình yên, có thể không có công đức gì to lớn nhưng chưa từng tạo nghiệp chướng, sẽ không phải chịu cực hình như thế đâu, con yên tâm nhé."

Dỗ dành cả buổi trời, Lục Thư Thanh mới chịu tin rằng không phải người mẹ nào cũng phải xuống địa ngục chịu khổ, miễn cưỡng đồng ý để Lục Lệnh Tùng bế mình lên, ngồi cao trên vai cha, cùng đi mua bánh đậu phộng ngọt giòn thơm vừa ra lò.

Tạ Cánh tìm một quán trà bên đường, gọi một ấm tín dương mao tiêm ngồi đợi họ. Trong quán có ca múa nhạc giúp khách quan giải trí, y nhàm chán ngồi xem một lúc, chợt nảy ra ý muốn đùa giỡn, bèn thuận miệng mượn một chiếc vòng ngọc màu xanh lá mạ của cô gái đánh đàn nguyệt bên cạnh đeo vào cổ tay, sau đó vén tay áo lên, đảm bảo hai cánh tay trần có thể đủ che giấu thân phận của mình.

Đến khi Lục Lệnh Tùng quay lại, vừa đi ngang qua nhã tọa bên này, Tạ Cánh đột nhiên vươn tay ra từ sau rèm lụa chặn bước hắn, rồi ngón tay khẽ lật, chiếc quạt xếp cài hờ bên thắt lưng Lục Lệnh Tùng rơi vào tay y.

Vải rèm lụa mỏng, ánh sáng bên trong rực rỡ, tuy không nhìn rõ khuôn mặt Tạ Cánh nhưng dáng người và động tác của y thì lại rất rõ ràng. Y bắt chước động tác múa quạt trong khúc Côn Sơn, một tay cầm cánh quạt, một tay đỡ mép quạt, chỉ dùng hai điểm tựa mà xoay ngược lên xuống. Rồi y đổi sang cầm hai bên sườn quạt, vừa để quạt tự động lật mặt vừa xoay cánh quạt, vẽ nên một đường cong mềm mại tròn trịa. Từng động tác biến hóa mượt mà như nước chảy mây trôi, cuối cùng gập quạt lại kêu "cách" một tiếng, đưa ra khỏi rèm, chỉ thẳng vào trước mặt Lục Lệnh Tùng.

Lục Lệnh Tùng chẳng lộ rõ biểu cảm: "Thanh Nhi, con thấy bàn tay này có đẹp không?"

Lục Thư Thanh gật dầu, hắn lại nói: "Vậy chúng ta gọi chủ nhân của nó ra ngắm một chút, chịu không?"

Tạ Cánh nghe vậy thoáng sững sờ, nhưng chỉ một khắc sau cổ tay đã bị nắm lấy, cả người bị kéo ra khỏi rèm lụa, mất thăng bằng ngã về phía trước.

Lục Lệnh Tùng cười nói: "Bàn tay của em dù có hóa thành tro ta cũng nhận ra được."

Tạ Cánh đã đứng vững, xoay nửa vòng thoát khỏi vòng tay của đối phương, sau đó ném quạt giấy về lại cho hắn, nói như khiêu khích: "Những gì em biết còn nhiều hơn thế nữa đấy."

Cánh tay của y thon dài trắng trẻo, đặc biệt khi vén tay áo cao lên, để lộ ra khuỷu tay có đường nét thanh tú, vì gầy mà tạo thành một góc cong sắc sảo. Tạ Cánh nhìn thẳng không chớp mắt, chỉ chăm chăm khóa chặt ánh mắt vào Lục Lệnh Tùng. Cổ tay y nâng lên, hạ xuống, uốn cong, thả lỏng, lượn vòng trước ngực thành thế "vân thủ", rồi một tay hướng xuống, một tay hướng lên, đầu ngón tay đan chéo vào nhau, uốn lượn linh hoạt giống thân rắn, tựa như mọi phong tình đều chảy xuôi theo đôi bài tay tạo thành nhịp cầu nối dài trước mặt.

Lần này thì Lục Lệnh Tùng đã nhận ra được: "Phiên vân phúc vũ thủ?"

Tạ Cánh đắc ý gật đầu, cúi xuống hôn mạnh một cái lên má Lục Thư Thanh đang vỗ tay cổ vũ, cười bảo: "Năm ngoái em học của chị Tiêu đấy."

Lục Lệnh Tùng không truy hỏi y học để làm gì — vì chỉ cần đoán thôi cũng biết, đây hẳn là một trong những chiêu mà Tạ Cánh dùng để "thu phục" hắn. Hắn chỉ nắm lấy khuỷu tay xinh đẹp ấy, khẽ v**t v* mấy lần, nói: "Tay rất đẹp, múa cũng rất hay, chỉ là chưa khoác đúng y phục, chưa đứng đúng nơi mà thôi."

Tạ Cánh linh cảm Lục Lệnh Tùng sắp nói gì đó không đứng đắn, quả nhiên, hắn hạ giọng thì thầm bên tai y: "Ta thấy giường ngủ ở Vương phủ cũng đủ rộng. Đợi về nhà ta tặng em y phục mới, em múa ở trong màn, lúc ấy ngắm mỹ nhân dưới đèn chẳng phải còn thú vị hơn là xem ở đây sao?"

Mới chỉ tưởng tượng đến cảnh ấy Tạ Cánh đã thấy ê răng, y bèn xua tay nói: "Khen anh sớm quá rồi. Dựa vào tài làm hôn quân bẩm sinh này của anh, tốt nhất là đừng kế thừa đại thống, em không muốn vào trong sử sách mà lại mang tiếng là yêu phi họa quốc đâu."

Ngày rời khỏi quận Trần là một buổi sáng sớm, người nhà họ Tạ vẫn kính cẩn đến đưa tiễn giống như ngày y trở về. Nhưng bây giờ Tạ Cánh đã hiểu được rằng, sự thầm lặng ấy không phải là xa cách lạnh lùng, mà là quy tắc đối nhân xử thế của nhà họ Tạ ở quận Trần – những con người gắn bó với cố thổ, an phận với thiên mệnh. Họ không biết cách nịnh bợ, cũng chẳng giỏi bày tỏ nỗi lưu luyến, chỉ lặng lẽ đứng đó, lặng lẽ đưa tiễn, để mặc cho tình cảm máu mủ sâu đậm ấy hòa tan vào không khí.

Tạ Cánh vịn khung cửa sổ xe, ngoái đầu lại nhìn thật lâu. Mãi đến khi tổ trạch phía sau hóa thành một chấm đen không còn nhìn rõ được nữa, y mới lặng lẽ ngồi lại vào trong.

Lục Lệnh Tùng thấp giọng an ủi y: "Chắc chắn chúng ta sẽ còn quay lại mà."

Tạ Cánh khẽ gật đầu, nhưng trong lòng lại nghĩ, có lẽ là rất nhiều, rất nhiều năm về sau, hoặc có lẽ, y sẽ chẳng còn cơ hội nào để quay về nữa.

==

<i>Min: Tình hình thì tui đã bơi được hơn nửa truyện, và tình tiết truyện</i><i> </i><i>cũng sắp sửa vô đà để đến cao trào rồi, </i><i>cũng không biết từ đầu đến giờ mọi người đọc có cảm thấy bản edit ổn không, có thắc mắc tình tiết nào hay là có gì muốn hỏi tui không ha, spoil (?) cũng được? Nếu có thì cmt ở đây cho tui biết nhen, được thì tui sẽ giải đáp hết nè </i>🙆🏻‍♀️

<i>Với </i><i>tui</i><i> cũng</i><i> chỉ muốn nói là cuộc vui nào rồi cũng </i><i>sẽ tàn</i><i>, mấy bồ cứ từ từ chuẩn bị tinh thần</i><i> đi (nếu chưa đọc QT), vì truyện dù không có tag ngược nhưng tui đọc hết cũng khóc mấy bận rồi đó kkk</i>
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 87


<b>《</b><b> 21.1 — Hiện tại </b><b>》</b>

Lục Lệnh Tùng trở về Kim Lăng vào kinh trập năm Cảnh Dụ thứ năm. Lúc này, nạn rét hại ở phương Bắc đã tạm lắng xuống, tuy nhiên vì lũ lụt mùa xuân kéo dài, đất đai bị đóng băng khiến việc gieo trồng gặp khó khăn, đi cùng với nhu cầu nghỉ ngơi lại sức vẫn là những vấn đề không thể xem nhẹ. Dù vậy, ít nhất thì mùa đông khắc nghiệt cũng đã tạm qua đi. Nhờ có Lục Lệnh Tùng trấn giữ đất phong, áp dụng chính sách "trên nghiêm dưới thoáng" để điều hành quan lại và bách tính, các quận thuộc khu vực Hà Lạc không dám ngang nhiên tham ô hủ bại, những hành vi tư lợi về cơ bản đã bị triệt trừ, trật tự dần được khôi phục. Nhưng vì nhớ nhà, Lục Lệnh Tùng không nán lại lâu, nhanh chóng lên đường hồi kinh.

Khi đi đến vùng ngoại ô phía Tây thành, sắp đến Dao Đài, từ xa hắn đã nhìn thấy có một người một ngựa đứng bên vệ đường, hiển nhiên là đã chờ từ lâu.

Dáng người kia quen thuộc, đứng yên bất động — chính là Tạ Cánh.

Ngày hắn về kinh có trình tấu xin chỉ thị của Lục Lệnh Chương, triều đình hẳn cũng đã biết, nhưng Tạ Cánh đặc biệt đến tận đây chờ hắn chắc hẳn là có chuyện quan trọng cần nói.

Các tùy tùng phía sau chỉ là quan lại bình thường trong triều, không tính là thân tín của Lục Lệnh Tùng, vậy nên dù có nghi kị, hắn cũng không thể biểu hiện ra trước mặt bọn họ. Phải thừa nhận rằng, tin đồn đôi khi lại là thứ hữu dụng, hôm đó Chiêu Vương mang kiếm vào điện, suýt nữa thì b*p ch*t Tạ đại nhân, cả triều văn võ đều tận mắt chứng kiến. Câu chuyện ngày càng bị thêu dệt thái quá, đến mức giờ đây khi hai người chạm mặt riêng, chẳng ai nghĩ rằng giữa họ có điều gì mờ ám nữa, chỉ sợ một lát nữa nếu đôi bên sỉ nhục nhau đến mức lao vào ẩu đả, thì liệu họ có nên can ngăn hay không.

Cho đến khi đoàn người đến gần, Tạ Cánh vẫn giữ nguyên gương mặt lạnh băng, dáng người ngay ngắn, nhưng tay lại vung nhẹ roi ngựa, đi đến chắn ngay giữa đường, chặn đoàn xe của Lục Lệnh Tùng, sau đó y nâng tay hành lễ.

Lục Lệnh Tùng chỉ nói: "Chó ngoan không cản đường, nếu không phải ngươi chịu bỏ công mở tiệc đón gió tẩy trần cho ta thì mau cút sang một bên đi."

Tạ Cánh bật cười lạnh lùng, hỏi thẳng: "Tôi nghe nói lần này điện hạ đến Lạc ấp còn đặc biệt ghé qua quận Trần, chuyện này có thật không?"

Lạc Ấp nằm giáp với Duyễn Châu, mà quận Trần Lưu lại trực thuộc dưới quyền quản lý của Thứ sử Duyễn Châu. Tên của Tạ Duyễn cũng là từ đó mà có, thể hiện rằng dòng họ dù di cư khỏi Giang Nam nhưng chưa bao giờ quên cội nguồn. Trước đó Lục Lệnh Tùng đúng là đã tiện đường ghé qua quận Trần, thứ nhất là để trấn an dân chúng, thứ hai là để tận mắt nhìn xem cảnh ngộ của tổ trạch và tộc nhân còn lại của nhà họ Tạ sau khi trải qua bao biến cố như bị khám xét tịch thu, kết án, lao dịch, lưu đày giờ ra sao.

Lục Lệnh Tùng nói: "Ta thay thiên tử cứu trợ bách tính, giương cao cờ hiệu của thiên tử, thương xót dân chúng của thiên tử, có gì không đúng? Ta muốn đi đâu chẳng lẽ đến lượt con cháu tội thần đến đây chỉ trỏ hay sao?"

Tạ Cánh chỉ thản nhiên đáp: "Lý do thoái thác của điện hạ tuy quang minh chính đại, nhưng Trần Lưu không thuộc phạm vi đất phong của điện hạ. Nếu như trong cung biết được ngài tự tiện đến đó, ngài nghĩ bệ hạ và Thái hậu sẽ cho rằng ngài đang lo nghĩ vì dân, hay là cảm thấy ngài đang tự ý vượt quyền?"

Lục Lệnh Tùng khẽ "xì" một tiếng, nhướn mày: "Vậy ngươi muốn thế nào?"

"Năm đó nhà họ Tạ sụp đổ, Giang Nam lẫn Giang Bắc đều chịu tội liên đới, người trong họ ở quận Trần tuy thoát khỏi án tử nhưng chịu khổ sai thì chẳng thiếu phần nào, toàn bộ gia sản bị sung công. Vì bệ hạ chưa có chỉ định xử lý số tài vật đó nên cũng chẳng ai dám động đến, tất cả đều chất đống trong kho phủ Duyễn Châu, hiện tôi muốn cùng điện hạ chia chác tài sản."

"Nói ở đâu?"

Tạ Cánh bật cười một tiếng, vươn tay chỉ lên Dao đài cách đó không xa: "Tôi đã chuẩn bị trà Bích Loa Xuân thượng hạng, mời điện hạ."

Bên trong Dao đài, anh em họ Từ đã dẫn theo một nhóm cựu binh Hổ Sư canh giữ từ trước, bảo đảm không có kẻ nào không phận sự ra vào. Lục Lệnh Tùng ra lệnh cho tùy tùng vào thành trước, mỗi người trở về nha môn phục mệnh, còn hắn thì theo Tạ Cánh lên tầng cao nhất.

Tạ Cánh bước đến bên cửa sổ, nhìn đám thuộc quan cùng y trở về từ miền Bắc đang lục tục rời đi. Lục Lệnh Tùng uống liền hai chén trà giải khát, ánh mắt dừng lại trên bóng lưng gầy của y. Hắn biết rõ đối phương không thực sự muốn nói về chuyện "chia chác tài sản", vậy nên cũng chỉ im lặng chờ y mở lời.

Một lúc lâu sau, Tạ Cánh mới xoay người lại, nói: "Em muốn cầu xin anh một chuyện."

Lục Lệnh Tùng khẽ gật đầu: "Em nói đi."

Giọng điệu của Tạ Cánh rất bình tĩnh, giống như đang tuyên bố một quyết định đã được cân nhắc kỹ lưỡng từ lâu: "Đợi đến khi huyết thù được báo, em muốn Lục Thư Thanh đổi sang họ mẹ. Một là tránh xa những tranh đấu của hoàng gia, hai là để nhà họ Tạ không tuyệt hậu. Trăm năm sau, sản nghiệp của Vương phủ sẽ để lại cho Ninh Ninh, mẹ con em không cần tước vị gì nữa."

Y lặng lẽ quan sát nét mặt của Lục Lệnh Tùng khi nghe đến câu "để nhà họ Tạ không tuyệt hậu", chỉ thấy hàng mi đối phương khẽ run nhẹ, nhưng rồi lại tự nhiên cất lời như thể chẳng có gì đáng để cân nhắc: "Cứ theo ý em đi, dù mang họ gì, thằng bé vẫn mãi là con trai của chúng ta."

Tạ Cánh nghe xong không đáp lại ngay mà chỉ lặng lẽ nhìn hắn, biểu cảm chẳng chút gợn sóng.

Lục Lệnh Tùng mờ mịt đối diện với ánh mắt ấy, rõ ràng không hiểu vì sao ba tháng không gặp, Tạ Cánh vẫn chưa nhào vào lòng hắn như cái ngày hai người sắp chia xa kia.

Hồi lâu sau, Tạ Cánh mới bất lực thở dài: "Hôm đó, ở bên ngoài thành Hạ Phi, anh nói với em rằng những chuyện cần mượn danh nghĩa nhà họ Tạ, anh đều đã xử lý xong. Vậy em muốn hỏi, nếu người anh mượn danh không phải là em, thì rốt cuộc đó là ai?"

Câu hỏi này đã đủ thẳng thắn, hàm ý đủ sâu xa, sắc mặt Lục Lệnh Tùng thay đổi trong nháy mắt: "Em biết rồi sao?"

"Em biết rồi." Tạ Cánh nhìn hắn không rời, "Em không chỉ biết Tạ Tuấn còn sống, mà còn biết được chiêu cuối cùng của Phi Quang Lục Thức có tên là 'Ngọc nát đá tan."

Có lẽ Lục Lệnh Tùng chỉ đoán được nửa câu đầu, hắn thoáng sững sờ, im lặng hồi lâu, cuối cùng cũng khẽ thở dài:

"Phải rồi... Chẳng phải trước đây ta đã nói rồi sao? Cả đời này em sẽ không bao giờ cần dùng đến nó. Ta đưa Phi Quang cho em là để em tự bảo vệ mình, nào phải để em liều mạng đồng quy vu tận với kẻ thù? Nếu em thật sự làm vậy... Thì ta còn sống để làm gì nữa?"

Nghe vậy, bả vai Tạ Cánh khẽ run lên. Y đứng sững tại chỗ, đôi mắt sâu thẳm dán chặt vào Lục Lệnh Tùng thật lâu, sau cùng, dường như y đã cam chịu tất thảy, thấp giọng hừ một tiếng rồi sải bước về phía đối phương, ngẩng đầu lên, ôm lấy mặt hắn mạnh mẽ hôn lên.

Động tác của y quá đỗi đột ngột, đến mức mất vài giây Lục Lệnh Tùng mới kịp phản ứng. Nhưng Tạ Cánh chẳng hề bận tâm, chỉ vội vàng c*n m*t lấy môi hắn một cách vồn vã, lại bị đối phương đáp trả gấp bội. Đầu lưỡi len sâu vào khoang miệng, càn quét từng ngóc ngách, không cho y chút cơ hội đế hít thở nào. Càng về sau, Lục Lệnh Tùng đã hoàn toàn nắm thế chủ động. Hắn bế Tạ Cánh đến tựa vào chiếc giường thấp, hôn ngấu nghiến đến nỗi y chỉ biết ngửa đầu lên đón lấy, cả người mềm nhũn trong lồng ngực của hắn. Đầu gối của Tạ Cánh dần mất kiểm soát, chầm chậm cong xuống, cuối cùng quỳ sấp lên đùi bạn đời trong tư thế quấn chặt lấy nhau.

Chẳng biết môi lưỡi đã quấn quít bao lâu, đến khi đôi môi rời khỏi nhau, cả hai đều thở hổn hển, ánh mắt ướt át giao nhau, trên cánh môi đỏ ửng còn có dấu răng.

Đến lúc này, Lục Lệnh Tùng mới thật sự yên lòng. Hắn ôm chặt lấy Tạ Cánh, hỏi y: "Làm sao em biết được? Có phải đã gặp Tuấn Nhi rồi không?"

Tạ Cánh đáp: "Trình Văn, Quận thủ Hoài Dương kiêng dè phủ Tướng, đã làm không ít chuyện khuất tất. Lão sợ em là người Vương Thục phái đến để nắm thóp nên muốn ra tay g**t ch*t. Tuấn Nhi đã xuất hiện, cứu em thoát khỏi nguy hiểm."

Lục Lệnh Tùng khẽ cong ngón tay cọ qua gò má y: "Thật ra có mấy lần, ta thấy em đau lòng như vậy, suýt nữa không nhịn được mà nói ra rồi. Nhưng thằng bé cứ dặn đi dặn lại, bảo ta và Tiêu Dao đừng nói cho em biết. Nghĩ tới nghĩ lui, ta thấy vẫn nên tôn trọng ý muốn của nó. Em có trách ta không?"

Tạ Cánh cau mày: "Anh đúng là... Nếu em trách anh, liệu có để cho anh hôn đến nỗi suýt ngất đi không?"

Lục Lệnh Tùng bật cười: "Coi như không uổng công ta suốt ba tháng qua, ngày nào cũng khoác áo choàng của em."

Tạ Cánh liếc hắn, ánh mắt nửa tin nửa ngờ: "Anh mặc thật sao? Em còn tưởng anh sẽ giấu vào một góc nào đó chứ."

Lục Lệnh Tùng ghé sát bên tai y, nói: "Ba năm ở Ung Châu, ta luôn mang theo đai lưng cũ của em. Ban đêm đặt cạnh bên gối, nắm trong tay mà ngủ. Những khi thực sự nhịn không nổi, ta sẽ ngửi lấy mùi hương còn vương lại trên nó rồi tự giải tỏa. Như vậy đã đủ chưa?"

Tạ Cánh ngẩn người, ngước mắt trừng hắn một cái rồi cúi xuống, cắn mạnh lên yết hầu hắn chẳng chút lưu tình.

Lục Lệnh Tùng không bỏ qua cho y: "Còn em thì sao? Em nhớ ta chứ?"

"Hôm nay anh nhất định ép em nói ra những lời này mới được sao?" Tạ Cánh cứ thế buông xuôi, "Từ khi biết Tuấn Nhi vẫn còn sống, ngày nào em cũng mong anh mau chóng quay về, để tận tai nghe anh nói rằng chính anh đã cứu cháu trai của em. Chỉ cần nghĩ đến bốn chữ 'Ngọc nát đá tan', em lại càng muốn chính miệng hỏi anh một câu —tại Dao đài này, ngay trong căn phòng này, cũng đã sắp mười lăm năm rồi! Ngay từ khi đó, anh đã sợ em chết rồi sao? Ở phủ Tướng, khi Vương Thục, Vương Khế và Thôi Thục Thế tranh luận không ngớt về chính sự, em chỉ ngồi đó, âm thầm nhẩm đếm ngày tháng. Em nhớ anh đến phát điên, chỉ hận không thể lập tức vượt trời độn thổ mà chạy đến Lạc ấp để ở bên anh. Như vậy đã đủ chưa?"

Lục Lệnh Tùng kề trán mình vào trán y, thấp giọng nói: "Đủ rồi, dù có hơi sướt mướt một chút, nhưng những điều ta làm cũng chẳng đứng đắn gì cho cam, chúng ta coi như hòa nhé."

Tạ Cánh chợt nhớ đến nghi hoặc của Tạ Tuấn hôm ấy, bèn hỏi: "Rốt cuộc anh đã cứu Tạ Tuấn ra ngoài bằng cách nào? Em có hỏi nó, nhưng nó cũng nói là không rõ."

Lục Lệnh Tùng hơi bùi ngùi: "Chuyện này cũng là do cơ may mà thôi, đôi khi ta nghĩ lại cũng thấy khó tin. Em còn nhớ ngày xưa, trên đường chúng ta về quận Trần từng chạm trán một tên trộm không?"

Tạ Cánh vô thức gật đầu nhưng biểu cảm rất mơ màng, hiển nhiên là không nhớ rõ lắm.

"Ban đầu ta cũng chẳng có ấn tượng gì nhiều, cho đến khi hắn ta nói năm đó hắn đột nhập lên thuyền chở khách ở Dương Châu, chúng ta không đưa hắn đến chỗ quan, lại còn cho hắn một tờ giấy làm kế sinh nhai cứu mạng, ta mới mơ hồ nhớ ra chuyện này."

Lục Lệnh Tùng giải thích, ngày đó kẻ trộm tên Trương Tam kia cầm lấy bức thư có đóng dấu của Chiêu Vương đến Kim Lăng, nhờ thân thủ nhanh nhẹn, quả nhiên gã đã có được công việc ở thương hội của nhà họ Ngô, mấy năm sau cũng kiếm được ít tiền.

Về sau, tin tức tiên đế bệnh nặng lan truyền khiến người ta xôn xao, người trong kinh bắt đầu thấp thỏm, với tư cách là nhà cậu của Chiêu Vương – người được đề cử lên trữ vị, chuyện làm ăn của nhà họ Ngô cũng bị ảnh hưởng. Vì để kiếm sống mà Trương Tam bỏ ra chút tiền, có được một chức nhỏ, ổn định làm việc trong Vũ Lâm Quân.

Không lâu sau đó tiên đế băng hà, nhà họ Tạ gặp hoạ, Trương Tam nhận được quân lệnh đến ngõ Ô Y nhặt xác, khắc phục hậu quả, thu dọn hiện trường.

"Cái xác" của Tạ Tuấn được một đồng liêu của Trương Tam phát hiện ra. Khi đó Tạ Tuấn đã hôn mê do sặc khói, cậu nằm giữa đám cháy, hơi thở yếu ớt. Hai người này phát hiện Tạ Tuấn vẫn còn sống, lại thấy dung mạo và áo quần của cậu khác thường, cảm thấy lo sợ, không biết liệu bản thân có bị cuốn vào một góc âm mưu quyền lực của thiên gia hay không.

Năm ấy khi nhận được lá thư, Trương Tam đã biết được thân phận thật của Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh, về sau lại luôn sống ở trong kinh, chẳng xa lạ gì phủ Chiêu Vương. Gã thừa biết nơi mà mình đến chính là nhà mẹ của Chiêu Vương phi, thiếu niên đang hấp hối trước mặt gã rất có khả năng chính là người thân của vị Vương phi này.

Còn về tên lính kia, có lẽ là vì nhút nhát và mềm lòng, hắn ta cũng không nhẫn tâm đứng nhìn một người sống sờ sờ tắt thở ngay trước mắt.

"Hai người họ bàn bạc với nhau, đổi quần áo của một tiểu đồng đã bị thiêu cháy đến mức khó phân biệt vẻ ngoài cho Tạ Tuấn, sau đó để thằng bé vào đống xác chết đưa ra ngoài, tìm cách che giấu. Khi đó em đang quỳ ở điện Thần Long, khăng khăng sống chết không rời, Trương Tam chỉ có thể nhờ vào mối quen cũ của nhà họ Ngô để tìm cậu của ta giúp đỡ. Đêm hôm ấy, nhân lúc hỗn loạn, ta rời Kim Lăng đến hội quân với Hổ Sư đã đưa nó đi theo."

Tạ Cánh nghe xong, lặng lẽ suy ngẫm hồi lâu. so với những người mang danh 'hậu duệ thiên hoàng quý tộc' như bọn họ, Trương Tam có lẽ chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt, nhỏ bé như hạt bụi, sử sách sẽ không bỏ mặc vương hầu tướng lĩnh để ghi chép về một người vô danh. Nhưng chính nhân vật mờ nhạt ấy lại là người đã cứu lấy hậu nhân duy nhất của nhà họ Tạ.

Năm đó, bọn họ không phải đang bố thí ân huệ cho Trương Tam, mà là để lại phúc báo cho chính số mệnh khó dò của bản thân mình trong tương lai đầy hiểm nguy, gieo xuống một hạt giống thiện lành, để rồi nhiều năm sau kết thành quả ngọt, giúp họ thoát khỏi cái chết trong gang tấc.

"Ba ngày đêm đó trăm mối ngổn ngang, khi thì lên tận mây xanh, khi lại rơi xuống vực thẳm, có hai chuyện ta vẫn luôn lấy làm tiếc," Lục Lệnh Tùng nhớ lại, nói: "Chuyện thứ nhất là lúc ấy ta vội vã rời kinh trong đêm, không dám chậm trễ dù chỉ một khắc, vì thế chưa kịp nói lời cảm ơn Trương Tam và vị đồng liêu kia, cũng không biết giờ họ đang an thân ở nơi nào rồi. Những khó khăn trong quá trình cứu Tuấn Nhi ta cũng chỉ được nghe cậu kể lại sau này thôi."

Tạ Cánh khẽ vuốt ngực hắn, an ủi: "Dẫu trên đời có biết bao nhiêu người trùng tên trùng họ, nhưng chờ khi mọi sự lắng xuống, chúng ta cùng nhau đi tìm từng người một, nhất định sẽ tìm ra mà."

Lục Lệnh Tùng phủ tay lên mu bàn tay y, nắm lấy rồi áp vào bên má mình, nói tiếp: "Chuyện thứ hai, đó là ta biết được tin Tuấn Nhi còn sống quá muộn. Lúc ấy giờ hành quyết đã cận kề, đến cuối cùng ta vẫn không kịp báo tin này cho nhạc phụ và Tạ đại nhân biết."

Hắn cảm nhận được Tạ Cánh đột nhiên giật lên, không kìm được mà ôm siết y vào lòng, nghe giọng nói thoáng run rẩy của y cất lên: "Chỉ suýt chút nữa thôi — chỉ một chút nữa thôi cha và anh đã biết Tuấn Nhi còn sống rồi."

Tạ Cánh gục vào trước ngực hắn, hồi lâu sau vẫn không nói một lời. Lục Lệnh Tùng đã nếm trải cảm giác thất bại trong gang tấc ấy từ bốn năm trước. Giây phút thất vọng nhận ra bản thân dù dốc hết sức vẫn không thể vãn hồi điều gì, hắn mới cảm thấy con người trong cuộc đời này thật nhỏ bé, còn tạo hóa thì lại tàn nhẫn chơi đùa với số phận người ta chẳng khác nào mèo vờn chuột. Vận mệnh khi giáng xuống thì nhẹ nhàng như tơ liễu, nhưng sinh ly tử biệt đối với phàm nhân như bọn họ lại nặng tựa Thái Sơn.

Lục Lệnh Tùng cảm thấy vải áo trên vai mình ẩm ướt, nhưng khi Tạ Cánh ngẩng đầu lên thì hắn lại chẳng thấy vệt nước mắt nào. Y đã không còn là tiểu Tạ công tử chỉ biết quỳ gối dưới cổng công xa khóc lóc thảm thiết nữa rồi.

"Lần này ta về quận Trần, thấy ruộng đất có lẽ đã bỏ hoang một nửa, tổ trạch thì vẫn còn, nhưng chắc bên trong đã bị cướp vào khoắng sạch, lộn xộn không chịu nổi, cỏ dại mọc um tùm. Cũng may năm xưa ta đã mang theo những bức tranh chữ lúc nhỏ của em đi, đó là bảo vật vô giá, mất rồi là hối hận cả đời. Ngoài ra, ta không thấy có ai ở đó — chắc là mọi người đều đã rời đi từ lâu rồi, vậy cũng là chuyện tốt."

Tạ Cánh lặp lại như đang lẩm bẩm với chính mình: "Không còn ai nữa... Đều đã đi cả rồi à."

Lục Lệnh Tùng thò tay vào trong vạt áo, lấy ra một con hổ bông nhỏ đã hơi sờn cũ nhưng vẫn sạch sẽ vô cùng, đưa đến trước mặt Tạ Cánh: "Ta thấy cái này rơi dưới gầm giường, nghĩ có lẽ là đồ chơi lúc nhỏ của em nên đã giặt sạch rồi mang về cho em này."

Tạ Cánh ngơ ngác nhận lấy, vải may gấu bông đã bị năm tháng bào mòn đến mức vừa mỏng vừa thô, lớp bông bên trong cũng rơi rụng hơn nửa, nhưng đường kim mũi chỉ vẫn tinh tế và ngay ngắn như mới, từng sợi chỉ màu rực rỡ năm nào dường như vẫn còn thấp thoáng đâu đó bóng dáng đôi bàn tay của mẹ.

Đây là món quà năm đó Tạ phu nhân đã tự tay may tặng y, khi ấy Tạ Cánh còn rất nhỏ, thậm chí nhỏ hơn cả Lục Thư Ninh bây giờ.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 88


<b>《</b><b> 21.2 </b><b>》</b>

Tạ Cánh nhét chú hổ bông nhỏ vào sát ngực mình, chợt có chút hoang mang, nói: "Anh không giống người khác."

Lục Lệnh Tùng hỏi: "Sao lại nói vậy?"

"Người ta thường bảo phu thê như chim cùng rừng, khi hoạn nạn tới thì mỗi con bay một hướng. Em thật sự không hiểu vì sao anh lại làm đến mức này vì em, cũng không biết bản thân em có đáng để anh làm như vậy hay không. Tử Phụng, anh tốt đến mức khiến em cảm thấy có hơi sợ hãi."

Nói đến đây, Tạ Cánh bỗng tròn mắt, để lộ ra biểu cảm ngây thơ đã lâu lắm rồi chưa từng xuất hiện trên khuôn mặt y, cùng với giọng điệu trong trẻo chẳng vướng chút bụi trần, hoài nghi hỏi: "Anh thật sự thích em đến vậy sao? Em có gì để anh thích đến thế ư? Nếu thật là như vậy, thì đó cũng coi như là một thành tựu trong đời em rồi."

Lời này vừa thốt ra, cả hai đều bật cười. Lục Lệnh Tùng cười khoái chí, bày ra cái vẻ trông không khác gì thiếu niên phong lưu thuở tân hôn. Hắn đẩy nhẹ Tạ Cánh đang ngồi trên đùi mình: "Ta muốn ôm em."

"Chẳng phải đang ôm rồi sao?"

"Không phải ôm như vậy."

Tạ Cánh đành phải đứng dậy, Lục Lệnh Tùng đổi sang kiểu ôm như bế con gái nhỏ, một tay đỡ dưới người y, tay còn lại vòng qua vai, giữ chặt y trong lòng mình. Tạ Cánh không còn cách nào khác, đành vòng hai tay qua gáy hắn để làm điểm tựa. Dáng người y vốn mảnh mai, đối với Lục Lệnh Tùng mà nói chính là nhẹ như lông hồng, hắn cứ thế ôm chặt Tạ Cánh xoay vài vòng như đang chơi đùa với trẻ con. Tiếng cười của y vang lên giống như vạt áo phất phơ giữa gió, bỗng chốc nhớ đến câu hỏi "thích hay không thích" đáng lẽ chẳng nên xuất hiện trong cuộc trò chuyện của đôi vợ chồng đã kết hôn hơn mười năm.

Một lúc lâu sau, Lục Lệnh Tùng mới dừng lại, ngẩng đầu hỏi y: "Năm đó, ta từng vô tình nghe được từ điện Thần Long, mẫu hậu oán trách hỏi phụ hoàng, nói không biết em đã cho ta uống bùa mê thuốc lú gì mà ta đi đâu cũng phải mang em theo. Em nói xem, có phải là thật không?"

"Em còn cần phải dùng đến những thủ đoạn đó sao?" Tạ Cánh nhướng mày, nhìn hắn từ trên cao xuống, làm bộ muốn hôn lên trán đối phương nhưng đến gần bỗng dừng lại, "Hả? Phu quân?"

Lúc lên giường Lục Lệnh Tùng không ít lần gọi y là "ái phi" hay "phu nhân", nhưng Tạ Cánh lại rất hiếm khi trực tiếp gọi hắn là "phu quân". Nếu có cũng chỉ là gọi trong những lúc cần ẩn danh để xưng hô với người ngoài. Lý do là vì y không thích hàm ý trong câu "phu vi thê cương", cũng giống như câu nói "tương kính như tân" đều khiến y cảm thấy có khoảng cách và xa lạ.

"Vậy mà còn chưa tính là bùa mê thuốc lú sao?" Lục Lệnh Tùng siết chặt cánh tay vòng sau eo Tạ Cánh, tư thế ôm để đối phương cao hơn mình một chút, rồi vùi mặt vào ngực y, tựa đầu lên lớp vải mềm mại. So với việc tiếp xúc trực tiếp làn da mịn màng, lớp vải ngăn cách này lại càng tăng thêm cảm giác mập mờ như thể ôm chiếc đàn tỳ bà trong tay.

Dù Tạ Cánh chỉ đang dỗ hắn vui, giống như sự quyến luyến và ỷ lại mà y thường bộc lộ kể từ sau khi họ tái ngộ, thật ra những điều này cũng không cần thiết lắm, nhưng y làm như vậy là để bù đắp cho "sai lầm" của tuổi mười bảy, khi y luôn hạn chế sự tự do của đối phương, và để tự nhắc nhở bản thân, đồng thời cũng nhắc nhở Lục Lệnh Tùng, hình thức hóa bảo đảm, khuyên bảo lẫn nhau, rằng: Cả hai người bọn họ đều vô cùng, vô cùng cần nhau, phải thật trân trọng, không được dễ dàng buông tay.

"Ta không tốt như em nghĩ đâu." Cuối cùng Lục Lệnh Tùng cũng đặt Tạ Cánh xuống, "Ta chẳng qua chỉ là một kẻ có lòng tham mà không có gan làm thôi. Ví dụ như ngày đó, nếu triều đình không phát hiện ra hành tung của em, chỉ mặt gọi tên em hồi kinh, thì ta hoàn toàn không muốn để em một mình bước vào phủ Tướng chịu nhục nhã, cũng không muốn để em nhúng tay vào vũng huyết thù này. Kế hoạch ban đầu của ta là giấu em vào đội quân Hổ Sư, đưa em về Kim Lăng, nhốt trong hậu viện Vương phủ. Mỗi ngày em chẳng cần làm gì cả, chỉ cần chờ ta về. Ta sẽ tự tay chém đầu từng kẻ thù của em, mang thủ cấp của chúng đặt ở trước giường em."

Nhìn thấy vẻ mặt ngây ra vì sửng sốt của Tạ Cánh, Lục Lệnh Tùng lắc đầu: "Ta còn có suy nghĩ quá đáng hơn nữa đấy — ta thậm chí đã từng nghĩ đến chuyện khuyên em đừng báo thù, cứ làm theo lời dặn của cha và anh trai em trong ngục, sống thật tốt cuộc đời của em. Ta muốn nhốt em bên cạnh mình không rời nửa bước, bởi vì ta đã quá mệt mỏi với những cơn ác mộng, đêm đêm đều thấy em chết thảm, tỉnh dậy lại chẳng thấy em đâu. Có ai sống mà không vì mình, có ai mà không ích kỷ đâu chứ? Nhưng lễ nghĩa và liêm sỉ không cho phép ta làm như vậy, thế nên ta đơn giản coi như chưa từng nghĩ đến nó."

Tạ Cánh im lặng rất lâu, cuối cùng chỉ gật đầu: "Không sao mà, em hiểu. Nếu đổi lại em là anh, so với những người đã khuất mà còn chẳng phải máu mủ ruột rà — thì trong thâm tâm, em vẫn thấy ở bên người còn sống quan trọng hơn."

"Điều ta thấy may mắn nhất chính là năm đó em không bị các nhà quyền quý trong kinh 'bắt rể dưới bảng vàng', mà lại bị phụ hoàng 'bắt dâu dưới bảng vàng'." Lục Lệnh Tùng thấp giọng cười, "Dù chỉ vì một chuyện này thôi, ta cũng đã biết ơn người cả đời rồi, cũng có thể nguôi ngoai mối oán hận tích tụ với người suốt ba mươi năm nay. Nhưng mà, Chi Vô à, ta không muốn nói thẳng ra, cái gọi là 'may mắn' của ta được xây dựng dựa trên điều gì, hay đã gây ra hậu quả gì cho em, chính em là người hiểu rõ nhất."

Lục Lệnh Tùng chỉ nói đến đây, Tạ Cánh đương nhiên hiểu được. Đây có lẽ là điều mà hắn vẫn luôn không muốn y biết — hắn cảm thấy may mắn vì y trở thành Chiêu Vương phi, mà Chiêu Vương phi lại mang đến tai họa diệt môn cho nhà họ Tạ ở quận Trần. Giữa người thân và người yêu mãi mãi sẽ không bao giờ tìm được hai chữ vẹn toàn.

Tạ Cánh suy tư hồi lâu mới nói: "Tử Phụng, trong lòng em luôn có một khúc mắc, em cảm thấy không thoải mái, vậy nên vẫn chưa từng kể với anh. Đêm trước ngày chúng ta kết hôn năm Trinh Hữu thứ tám, cha đã gọi em vào thư phòng, dùng điển cố Dương Tuấn thời Tấn để nói cho em biết rằng: 'Kết hôn cùng thiên gia, chưa từng có dòng tộc nào không bị diệt môn, chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi'."

Đúng là Lục Lệnh Tùng chưa từng nghe chuyện này, hắn thoáng sững sờ, nhìn Tạ Cánh chờ y nói tiếp.

"Ngày đó em còn ngây thơ, không phục, không hề tin những lời ấy. Mà em vốn cũng không hiểu rằng 'muốn làm gì' tuyệt đối không có nghĩa là 'có thể làm được'. Nhưng sự thật không phải như vậy. Cha nói đến năm ba mươi tuổi em mới có thể hiểu được điều này, và đúng là phải đến ba mươi tuổi, em mới thực sự thấu suốt. Em, anh, bọn trẻ... Cuộc đời mà mỗi người chúng ta có thể tự mình kiểm soát, thật ra..." Y đưa tay làm động tác mô phỏng, "Chỉ bé bằng này mà thôi."

"Hôm nay em sẽ thành thật với anh, vào một số thời điểm — đặc biệt là khi ở trước cửa công xa, dù em có quỳ, có khóc, có cầu xin thế nào đi nữa cũng không có ai đoái hoài, không một ai quan tâm đến sự sống chết của người thân em — chính vào lúc đó, em thật sự đã hối hận, em thật sự từng ước rằng mình chưa bao giờ trở thành Chiêu Vương phi."

"Cho dù nhà họ Tạ không thể không bị cuốn vào tranh đoạt ngôi vị, nhưng nếu với tư cách mưu sĩ, có lẽ nhà em vẫn có thể đổi lấy được sự khoan dung của tân quân, không truy cứu chuyện cũ. Nhưng với thân phận thông gia thì chắc chắn chỉ có đường chết."

Lục Lệnh Tùng nghe đến đây chỉ cười khổ: "Vậy nên, sau khi nhà họ Tạ gặp chuyện, ta không còn dám nói với em rằng ta đã từng vui mừng thế nào khi em trở thành Vương phi của ta nữa."

Tạ Cánh lại lắc đầu: "Không, em không giải thích điều này để nói rằng em vẫn còn hối hận về chuyện đó. Điều em muốn anh hiểu chính là với em, 'Chiêu Vương phi' và thê tử kết tóc của anh không phải cùng một người. Thê tử kết tóc của anh chưa bao giờ hối hận vì đã gả cho anh."

"Bản tính khó dời, có lẽ sau này em vẫn sẽ phạm phải những hồ đồ, vẫn sẽ mắc kẹt trong mớ suy nghĩ quẩn quanh như vậy. Em chỉ muốn anh kéo em lại, bất kể là giam giữ em, trói chặt em lại, hay làm thế nào cũng được, anh nhất định phải kéo em lại, nếu không em sợ mình sẽ hối hận. Em biết mình chắc chắn sẽ hối hận."

Chiêu Vương hồi kinh chưa lâu, sự kiện lớn đầu tiên của năm Cảnh Dụ thứ năm đã xảy ra – Thái hoàng thái hậu Tiêu thị, người ẩn cư tại chùa Kê Minh chuyên tâm lễ Phật nhiều năm đã không thể qua khỏi mùa xuân năm nay. Sau mấy ngày bệnh nặng triền miên, bà hoăng thệ, hưởng thọ tám mươi hai tuổi.

Từ sau khi mẫu tộc bị di dời về phương Bắc, Tiêu thị đã sống hơn hai mươi năm gần như bị giam cầm ở sâu trong ngôi chùa này không màng thế sự. Tuy lúc sinh thời thân phận của bà có phần khó xử, nhưng sau khi mất, triều đình vốn luôn lấy hiếu thuận làm đầu không thể không làm tròn nghi lễ trang trọng. Có điều, xét đến việc Tiêu thị "một lòng hướng Phật", mà Kim Lăng lại vừa mới thoát khỏi đợt giá rét khắc nghiệt, không tiện tổ chức lễ tang quá mức rình rang, triều đình chỉ ban lệnh quốc tang hai mươi bảy ngày, rồi an táng bà tại hoàng lăng núi Tử Kim.

Theo di nguyện của Tiêu thị, linh cữu của bà sẽ được quàn tại chùa Kê Minh. Thiên tử phải trấn giữ cung cấm, không thể ngày ngày đến viếng. Còn Vương Thục đang "ốm đau triền miên", vừa sang xuân đã bất ngờ khỏi bệnh như một kì tích, cùng với con trai Vương Khế tinh thần phấn chấn trở lại quan trường, ban đầu lão còn định dốc sức nhận lấy trọng trách chủ trì tang lễ, nhưng Lục Lệnh Chương chỉ hời hợt buông một câu: "Cậu cũng lớn tuổi rồi, nghỉ ngơi thêm vài ngày vẫn hơn", sau đó giao nhiệm vụ này cho cha con Chiêu Vương, những người thuộc hàng tôn thất danh chính ngôn thuận.

Các quan viên phải thay phiên túc trực bên linh cữu, trong lòng hiểu rõ thế gia Lan Lăng Tiêu thị đã sớm suy tàn, hoàng tộc cũng không còn để tâm đến vị Thái hoàng thái hậu này, vì thế mà họ cũng lần lữa trễ nải, khi thì đến muộn, lúc lại về sớm, lười biếng tránh việc. Dù sao thì Chiêu Vương cũng chẳng quan tâm. Chỉ có một mình Tạ Cánh ngày nào cũng đến chùa Kê Minh đúng giờ, lúc không có lượt trực còn chủ động thay phiên giúp những đồng liêu không tình nguyện. Chúng thần đều nghẹn lời, không biết còn tưởng Thái hậu Tiêu thị từng ban cho y ân tình sâu nặng tựa núi non gì đó.

Tạ Cánh vốn chẳng có chút ấn tượng nào với Tiêu thị, không thích cũng không ghét, muốn giả khóc thì y diễn được, nhưng muốn thật sự đau buồn thì y không làm nổi. Ngược lại, nhờ bá quan đến chùa tế bái, y mới có thể thường xuyên gặp bọn trẻ, vì thế mà thầm vui mừng.

Trong Đại Hùng Bảo Điện, sư thầy tụng kinh suốt đêm, xung quanh lờ mờ vọng đến tiếng ngáy của các thần tử. Khoảng canh hai, Tạ Cánh nhẹ nhàng đứng dậy, nâng vạt áo nhẹ nhàng lui ra điện sau mà không để phát ra bất kì tiếng động nào. Trong điện lặng như tờ, ánh nến leo lét sáng, cửa mở hé ra một khe nhỏ, Lục Thư Ninh đang co ro ngủ trên giường.

Tạ Cánh vừa đến gần, em đã nhập nhèm mở mắt, thấy rõ người đến bèn lí nhí than thở: "Mẹ ơi, con buồn ngủ quá."

Thấy khuôn mặt nhỏ nhắn lộ rõ vẻ mệt mỏi, Tạ Cánh đau lòng đến mức không biết phải nói từ đâu: "Nhìn xem con đáng thương chưa kìa, lại đây mẹ hôn nào."

Y ôm Lục Thư Ninh vào lòng nhẹ nhàng lắc lư, một tay khẽ xoa lưng em dỗ dành. Một lát sau, Lục Lệnh Tùng từ hành lang bước vào, trên tay bưng một cái chén đang bốc khói nghi ngút: "Đồ chay chỉ có bấy nhiêu thôi, sủi cảo nhân rau, cũng sạch sẽ ngon miệng lắm."

Tạ Cánh không rảnh tay, Lục Lệnh Tùng bèn gắp từng cái một đút cho y, nghe y vừa nhai vừa nói: "Đói chết mất... Thanh Nhi đâu? Cả buổi tối em chẳng thấy bóng dáng thằng bé đâu hết."

"Quỳ suốt cả ngày, đầu gối bầm tím hết. Lúc tối vừa khóc tang xong thì ta đã âm thầm cho nó về trước rồi."

Chiêu Vương và thế tử chỉ cần có mặt vào hai buổi sớm tối khóc tang làm lễ là được, Lục Thư Thanh vắng mặt cũng không hề hấn gì. Tạ Cánh cau mày, vừa chỉnh lại tóc mai của Lục Thư Ninh vừa bất mãn liếc ra ngoài điện: "Ngày nào cũng bắt một đứa trẻ nhỏ như vậy thay kẻ khác làm tròn đạo hiếu, rặt một lũ tim đen ruột thối."

Y cũng chẳng rõ mình đang mắng chửi ai, có lẽ y cũng tự mắng chửi chính mình – người đã sinh ra hai đứa trẻ này, khiến chúng bất hạnh phải mang thân phận con cháu hoàng gia.

Dùng xong bữa khuya, Lục Lệnh Tùng cầm đèn lên, nói: "Ta dẫn em đi xem một nơi."

Tạ Cánh định đặt Lục Thư Ninh trở lại giường nhưng em không chịu rời khỏi vòng tay y. Tạ Cánh đành lấy một chiếc áo khoác trùm lên đầu con, che chắn cơn gió lạnh ban đêm.

Năm ngoái, nhân dịp minh thọ của tiên đế, Lục Lệnh Chương từng dẫn triều thần đến chùa Kê Minh tế bái. Khi đó, một sư thầy đã đưa Tạ Cánh đến gian phòng nhỏ nơi y gặp Lục Thư Ninh – đứa trẻ khi ấy vẫn chưa thể thích ứng với việc xa rời y. Sau này nghĩ lại, Tạ Cánh nghĩ chắc là Lục Lệnh Tùng có người của mình trong chùa, vậy nên mới có thể sắp xếp việc này mà chẳng ai hay biết.

Lục Lệnh Tùng tiếp tục dẫn đường, đi đến tận hậu viện tối om vắng lặng. Hắn khẽ huýt một tiếng sáo, một nhà sư trực đêm lập tức từ trong bóng tối bước ra, không nói lời nào mà chỉ đưa một chiếc chìa khóa vào tay hắn.

Cuối cùng, họ dừng lại trước góc khuất nhất của ngôi chùa, nơi có vách núi đá làm bức tường ngăn. Lục Lệnh Tùng quay đầu lại, ánh mắt xuyên qua màn đêm tối tăm nhìn thẳng vào Tạ Cánh: "Những thứ bên trong... em chuẩn bị sẵn tinh thần đi."

Dọc đường đi Tạ Cánh đã không ngừng suy đoán. Trong nhà từ trên xuống dưới, thứ có thể liên quan đến chùa Kê Minh trừ Thái hoàng thái hậu Tiêu thị ra, y thật sự không nghĩ ra được Lục Lệnh Tùng còn có thể cất giấu thứ gì ở đây để cho y xem nữa.

Ổ khóa đồng tuy đã cũ nhưng không bám bụi, dễ nhận thấy có người thường xuyên lau chùi. Lục Lệnh Tùng mở khóa, đẩy cửa bước vào, sau đó tránh sang một bên. Ánh đèn lướt qua gian phòng tối đen không thấy nổi năm ngón, trong khoảnh khắc ấy, Tạ Cánh đã nhìn rõ cảnh tượng trước mắt.

Quan tài.

Bốn cỗ quan tài.

Toàn thân Tạ Cánh thoáng chốc lạnh buốt, sắc mặt tái nhợt. Y không cần nhìn tên trên bài vị cũng đã biết, bởi vì con số "bốn" ấy đã nói lên mọi chuyện.

Đây là quan tài của cha mẹ, anh trai và chị dâu của y – không phải mộ chôn quần áo di vật, mà là hài cốt thật đã được tẩm liệm.

Lục Lệnh Tùng đứng sau y nhỏ nhẹ cất giọng như thể sợ kinh động đến người đã khuất: "Thanh Nhi biết nơi này, năm nào ta cũng dẫn thằng bé đến bái tế, dù không hẳn là đúng ngay ngày giỗ."

Chỉ cần nghĩ đến những chuyện này cũng đủ khiến Tạ Cánh cảm thấy khó thở, lồng ngực đau nhói. Ba năm qua, y hết lần này đến lần khác trốn tránh ký ức về ba ngày ấy, nhưng những chuyện đã qua tựa một cực hình, giống như có người giữ chặt cổ y, ép y mở to mắt ra nhìn, để cho từng nhát dao đầm đìa máu thịt kia khắc sâu vào đáy mắt. Đến chết cũng không thể quên được.

Bất kể là Tạ Dực, Tạ Duyễn bị hỏi chém ở cầu Chu Tước, hay Tạ phu nhân và Diêu thị đã mất mạng tại ngõ Ô Y, Tạ Cánh đều đứng gần họ ngay trong gang tấc, trơ mắt nhìn họ chết thê thảm.

Cha và anh cả bị chém rơi đầu, mẹ thì bị loạn tiễn xuyên tim, tất cả những khoảnh khắc này Tạ Cánh đều có mặt.

Nhà họ Tạ bị kết tội khi quân mưu nghịch phải tru di tam tộc. Dù không nhục nhã đến mức bị treo xác phơi thây giữa phố thị chúng, nhưng người thân của y vốn dĩ cũng nên chịu cảnh giống như đám hạ nhân nhà họ Tạ, bị Vũ Lâm Vệ kiểm tra xong sẽ đưa tới bãi tha ma, một mồi lửa thiêu xác thành tro bụi, không còn lại gì dù chỉ một mảnh xương cốt.

Mà Tạ Cánh căn bản không cần suy đoán cũng biết rõ, rốt cuộc ai đã giúp y tẩm liệm thi thể của cha mẹ, anh trai và chị dâu, lại còn niêm phong quan tài, lập linh vị, dát vàng bọc bạc, sắp xếp ổn thỏa, giữ gìn suốt mấy năm ở chùa Kê Minh.

Y càng không dám nghĩ việc này khó khăn đến nhường nào, bởi lẽ thực hiện việc này còn khó hơn, phức tạp hơn cả việc cứu Tạ Tuấn, gần như là không có khả năng.

Tạ Cánh nhìn về phía Lục Lệnh Tùng như người mất hồn. Ngay lúc này, ngay trước linh vị của anh trai y, đối phương đã thật sự đã gánh vác trách nhiệm của tiếng "anh" mà y luôn miệng gọi suốt mười mấy năm trời. Lục Lệnh Tùng cũng ra dáng anh lớn, nhẹ nhàng xoa l*n đ*nh đầu y: "Chi tiết việc tẩm liệm, em nghe xong sẽ chịu không nổi đâu, nên ta không nói nữa."

"Lục Tử Phụng." Tạ Cánh nói không nên lời, chỉ biết ngây ngốc gọi tên Lục Lệnh Tùng, "Lục Tử Phụng!"

Lục Lệnh Tùng duỗi tay ôm lấy bờ vai y, đỡ lấy cơ thể đang lảo đảo sắp gục ngã, hỏi: "Có cần ta dìu em hành lễ không?"

Mấy lần Tạ Cánh cố gắng quỳ xuống nhưng đều không thành, cuối cùng chẳng biết làm sao mà thoát khỏi cánh tay của Lục Lệnh Tùng, xoay người loạng choạng tông cửa lao ra ngoài, chạy đến bậc thềm, khuỵu xuống cắn chặt môi gào thét trong im lặng.

Hoa anh đào ở chùa Kê Minh đã nở rộ đầy cành, những cánh hoa trắng như tuyết giống hệt lá cờ tang treo cao, thê lương chiếu rọi bầu trời đêm sâu thăm thẳm. Trên trán Tạ Cánh vẫn còn buộc dải khăn tang trắng, trên người là đồ tang vải gai, tựa như y đang đến chịu tang cho người nhà dù là khoảnh khắc ngắn ngủi và muộn màng. Nhưng trớ trêu thay, y có thể khóc lóc thảm thiết trước linh cữu của một người hoàn toàn xa lạ như Tiêu Thái hậu, vậy mà lại chẳng thể bật ra dù chỉ một tiếng nức nở cho người thân nằm tại nơi hang hốc hẻo lánh này.

Lục Thư Ninh dùng chóp mũi nhẹ nhàng cọ vào má y, giọng nói trong trẻo như đang ngân nga của em cất lên: "Anh con kể, đã từng có một người nói với anh rằng những người thân đã mất của chúng ta đều sống tại một vương quốc nhỏ ở bên trong tim đèn, chỉ cần mẹ thắp đèn lên, họ sẽ nhìn thấy mẹ; nhưng dù mẹ không thắp đèn đi nữa, họ vẫn sẽ mãi mãi nhớ đến mẹ..."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 89


<b>《</b><b> 21.3 </b><b>》</b>

Sau khi tang lễ của Tiêu Thái hậu kết thúc, Tạ Cánh nhận được một bức thư ngoài dự liệu. Người đưa thư là Tạ Tuấn, phương thức không khác gì dấu tay máu lần trước. Đêm khuya, một mảnh giấy mỏng thình lình từ trên xà nhà rơi xuống bàn đọc sách của y. Tạ Cánh ngước nhìn lên, nhưng ngay cả bóng dáng của Tạ Tuấn cũng chẳng thấy, không khỏi cảm thán nhóc con này bây giờ đúng là xuất thần nhập quỷ, đi không để dấu, đến không thấy hình.

Nội dung thư rất ngắn gọn, nói rằng Tuyên Thất đã phát hiện một số thứ trong di vật của Tiêu Thái hậu, có liên quan đến chuyện trọng đại. Tiêu Dao hẹn Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh giờ Hợi ba ngày sau gặp nhau ở Trích Tinh lâu để bàn bạc.

Vẫn là con thuyền lần trước. Tạ Cánh không thấy Tạ Tuấn đâu, Tiêu Dao bèn giải thích: "Nó ở trên bờ trông chừng động tĩnh rồi."

Lục Lệnh Tùng đến trước y, có chút tò mò hỏi: "Rốt cuộc là phát hiện ra cái gì? Đây là lần đầu tiên ta thấy chị dùng mấy chữ như 'liên quan đến chuyện trọng đại' đấy."

Tiêu Dao đi thẳng vào vấn đề: "Tuyên Thất đã có tai mắt trong chùa Kê Minh từ lâu. Đêm Tiêu Thái hậu qua đời, họ phát hiện có kẻ hành tung khả nghi lẻn vào thiền phòng nơi bà ấy từng ở, dường như đang tìm kiếm thứ gì đó. Vậy nên Tuyên Thất đã ra tay trước, kiểm tra thật kĩ trước khi trong cung cử người đến thu dọn di vật. Cuối cùng, họ tìm thấy một ngăn bí mật nằm sau bức tranh Phật trên tường và phát hiện ra chiếc hộp gỗ bị khóa kín này."

Tạ Cánh thầm nghĩ, có lẽ trước đây y đã sai khi cho rằng trong chùa là người của Lục Lệnh Tùng, hóa ra vẫn là nhờ Tuyên Thất ra tay. Tiêu Dao đã giúp đỡ bọn họ rất nhiều, nếu đại sự không thành, e rằng bọn họ khó mà báo đáp nổi.

Lục Lệnh Tùng cầm hộp gỗ lên lắc thử: "Đây là khóa cơ quan."

Tiêu Dao gật đầu: "Nếu cố ép phá khóa, thủy ngân bên trong văng ra chắc chắn sẽ khiến kẻ trộm mất mạng. Chỉ có người của Tuyên Thất, hoặc nói chính xác hơn là người mang họ Tiêu trong Tuyên Thất mới biết cách mở. Năm đó trước khi Tiêu thị sụp đổ, Tuyên Thất còn hoạt động công khai, quyền chỉ huy nằm trong tay Tiêu Thái hậu, mọi hành động của sư phụ tôi – cũng chính là thủ lĩnh tiền nhiệm của Tuyên Thất, đều phải theo lệnh bà ta. Vậy nên bà ta làm ra được thứ này cũng chẳng có gì lạ."

Rồi nàng nhướng mày: "Có điều đúng là trùng hợp thật, tôi cũng là người họ Tiêu trong Tuyên Thất."

Tiêu Dao tháo một bên khuyên tai, vặn nhẹ một vòng để lộ ra cây châm nhỏ, sau đó luồn vào ổ khóa cơ quan, khéo léo mở chốt.

"Trong hộp có tổng cộng ba món đồ: đầu tiên là mười bốn trang giấy này, tất cả đều là bút tích của Tiêu Thái hậu khi còn sống." Nàng dừng một chút rồi nói tiếp, "Mỗi một trang trong này thôi cũng đủ để làm lung lay gốc rễ của vương triều rồi."

Lục Lệnh Tùng đứng ở góc thuận, là người đầu tiên nhìn thấy trang giấy trên cùng. Ánh mắt của hắn chợt tối sầm xuống: "Sao thứ này lại ở trong tay bà ta?"

Tiêu Dao lấy tờ giấy ra, đẩy đến trước mặt hắn, Tạ Cánh cũng ghé lại nhìn thoáng qua: "... Thiếp canh sinh thần của Tiên đế?"

Đương nhiên Lục Lệnh Tùng rất quen thuộc với tên húy, bát tự và ba đời tổ tông của phụ hoàng mình. Hắn chỉ liếc qua vài dòng chữ trên giấy thôi mà hai đầu mày đã cau chặt lại, dùng ánh mắt phức tạp nhìn Tiêu Dao: "Chuyện này là thật sao?"

Tiêu Dao nhún vai: "Một bản ở Thái Miếu, một bản trong hộp này, trong hai bản ắt sẽ có một giả một thật."

Tạ Cánh cũng nhanh chóng nhận ra điểm bất thường: Trên tờ thiếp canh này, người được ghi là mẹ ruột của Tiên đế không phải là Tiêu Thái hậu mà chỉ có vỏn vẹn bốn chữ "Cung nhân Dương thị". Hơn nữa, ngày sinh tháng đẻ cũng khác với ngày "mười chín tháng Năm" vốn được ghi trong minh thọ của Tiên đế mà y biết.

Hàm ý trong chuyện này không cần nói cũng hiểu: Nếu thiếp canh do chính tay Tiêu Thái hậu ghi chép lại là thật, thì bản thiếp canh ghi Tiên đế là đích tử do Trung cung sinh ra vào ngày mười chín tháng Năm được dùng để thờ cúng trong Thái Miếu chính là giả.

Dù sao cũng không có duyên được gần gũi thân thiết, Lục Lệnh Tùng không có cảm xúc gì đặc biệt đối với việc "bà nội không phải là bà nội ruột". Hắn hỏi thẳng vào mấu chốt vấn đề: "Cho dù năm xưa Tiêu Thái hậu có thật sự nhận con của cung nhân về nuôi đi nữa thì cũng bình thường thôi mà, chẳng phải chuyện gì hiếm lạ. Vấn đề là phụ hoàng có biết chuyện này không? Và... vị cung nhân họ Dương kia có kết cục thế nào?"

"Tiên đế biết chứ." Tạ Cánh đột nhiên lạnh giọng tiếp lời: "Chính vì người biết mình không phải con ruột của Tiêu Thái hậu, không có thân phận đích tử chẳng thể chê vào đâu được, cũng không có tính chính thống tuyệt đối khi kế vị; thậm chí còn biết mình vốn chẳng được sinh ra ở điện Cửu Hoa... Cho nên người mới coi trọng và nâng đỡ Lục Thư Thanh đến thế. Tiên đế làm như vậy là để củng cố suy nghĩ trong lòng thiên hạ, rằng bản thân người cũng giống như Cao Tông hoàng đế, sinh ra ở điện Cửu Hoa, là chân mệnh thiên tử danh chính ngôn thuận. Để cho dân chúng thấy rằng, dù chỉ đơn giản là vì cùng được sinh ra trong một cung điện với người, Thanh Nhi cũng có thể được hưởng vinh sủng và tôn vinh không gì sánh bằng."

Khoang thuyền rơi vào yên tĩnh trong chốc lát. Lục Lệnh Tùng nhẹ nhàng phủ tay lên tay y như để an ủi, nhưng Tạ Cánh chỉ khẽ lắc đầu. Quả thật là y không ngờ, trong mắt Tiên đế, "công cụ" Lục Thư Thanh này lại đảm đương nhiều trọng trách đến thế, từ một lời phúc sấm "Gia Thụy", thử lòng quần thần, củng cố quyền lực đến tái khẳng định tính chính thống. Tạ Cánh nghĩ đến đây gần như bật cười thành tiếng, món đồ hữu ích đến vậy, chẳng trách Tiên đế lại đặc biệt ưu ái.

Một hồi lâu sau, Tiêu Dao mới thấp giọng nói: "E là kết cục của Dương thị cũng không tốt đẹp gì. Năm đó thủ đoạn của Thái hậu như sấm chớp, chuyện thế này bà ta còn dám làm thì chắc chắn sẽ nhổ cỏ tận gốc. Còn về phần để lại tờ thiếp canh thật này... Có lẽ là vì nửa đời sau trong lòng bà ta vẫn có hơi cắn rứt, lại thêm lòng tin vào Phật pháp cho nên mới phải ôm giữ nỗi sợ báo ứng nơi nhân thế mà thôi."

Lục Lệnh Tùng tiếp lời: "Ta chỉ biết rằng, năm đó phụ hoàng có thể vào Đông cung hoàn toàn là nhờ có 'nhà mẹ' là Lan Lăng Tiêu thị hậu thuẫn. Còn việc Tiêu Thái hậu đã dùng cách gì để khống chế và thao túng người, phụ H**ng X* cách bà ta bao nhiêu phần vì chuyện mẹ ruột của người, chuyện này thì không ai biết được."

Đúng lúc này, Tiêu Dao lấy từ trong hộp gỗ ra thêm một xấp giấy: "Món đồ thứ hai đây, hẳn là có thể giải thích một phần nguyên nhân khiến tiên đế xa cách Tiêu Thái hậu."

Ngay đầu cuộn giấy là một dòng chữ nhỏ, chính là nét chữ của Tiêu Thái hậu: "Toàn bộ diễn biến Quân Giới án năm Kiến Ninh thứ mười hai."

Đây chính là vụ án cuối thời Kiến Ninh mà triều thần đều biến sắc khi nhắc tới, cũng là chuyện đại kỵ không thể bàn luận ở kinh thành. Toàn bộ văn thư và ghi chép liên quan trong cung đều đã bị tiêu hủy sạch sẽ. Có lẽ Tiêu Thái hậu đã lường trước điều này nên mới tự tay viết lại tỉ mỉ mọi tình tiết như thể đang soạn một bản lời khai, ghi chép lại trọn vẹn cuộc "chính biến" không khói lửa ấy.

Sau khi Tiên đế đăng cơ, người đã thu phục các thế gia sĩ tộc như Lang Gia Vương thị, Thanh Hà Thôi thị,... nhiều lần chèn ép phe phái của Tiêu Thái hậu. Tạ Cánh nhớ lại, năm Kiến Ninh thứ sáu, ông nội y đã chọn cáo lão hồi hương, rời khỏi dòng nước xiết chốn triều đình, đưa y khi đó chỉ mới ba tuổi về quận Trần, e rằng nguyên nhân là vì đây.

Cuộc tranh đấu giữa hai phe tiếp diễn suốt nhiều năm, cho đến đêm mùng ba tháng Chín năm Kiến Ninh thứ mười hai. Đêm ấy, Tiêu Thái hậu lệnh cho Tuyên Thất phong tỏa hai cổng Minh Dương môn và Hữu Dịch môn ở phía Tây hoàng thành – cũng chính là tuyến đường mỗi ngày Vũ Lâm Vệ đổi ca và giao nộp vũ khí quân giới. Vì thế, đội Vũ Lâm Vệ ở bên ngoài không thể vào cung đúng thời gian quy định, còn Tiêu Thái hậu thì cưỡng chế hợp nhất Vũ Lâm Vệ ở trong thành, điều binh tiến vào điện Thần Long để khống chế Tiên đế.

Nhóm cựu thần Đông cung dưới trướng Tiên đế đa phần xuất thân bình dân, nhờ đỗ đạt khoa cử mà bước vào quan lộ, nhiều năm qua vẫn luôn phụ thuộc phe Tiêu Thái hậu đến giây phút ấy lại bất ngờ trở mặt. Tư lệ Hiệu uý Hứa Dịch và Trung lĩnh quân Bắc đại doanh Đinh Viện dẫn quân kinh kỳ làm phản, nội ứng ngoại hợp cùng những người nghe tin từ bên ngoài như Thị trung Vương Thục và Kinh triệu doãn Thôi Hiến, cuối cùng thu phục được đội quân Vũ Lâm vốn thiếu thốn vũ khí, giam lỏng Tiêu Thái hậu, bãi chức thủ lĩnh Tuyên Thất, buộc phe phái này phải lui vào bóng tối.

Niên hiệu "Kiến Ninh" của Tiên đế chỉ kéo dài đến năm thứ mười hai. Sau khi lật đổ nhà họ Tiêu, sang năm ông đổi niên hiệu thành "Trinh Hữu", hẳn là cũng mang ý nghĩa gột bỏ cái cũ, mở ra cái mới.

Lục Lệnh Tùng phì cười một tiếng, mắt lướt qua từng hàng chữ: "Binh lính tay không tấc sắt, lại không chiếm kho vũ khí để trang bị quân sĩ. Đừng nói đến việc bắt trói Hoàng đế, dù có thực sự bắt được một con rồng đi nữa thì cũng có ích gì?"

Với tư cách người từng trải, Tiêu Dao nhớ lại: "Cha mẹ tôi mất sớm, tôi chỉ biết mình là người nhà họ Tiêu, được sư phụ nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Khi Quân Giới án nổ ra, tôi chỉ mới mười ba tuổi. Không lâu sau khi đưa tôi về quê thì sư phụ qua đời, tâm nguyện duy nhất là để tôi rửa sạch tội danh cho hàng vạn tộc nhân vô tội của Lan Lăng Tiêu thị. Đến năm Trinh Hữu thứ năm, tôi đưa Tuyên Thất quay về Kim Lăng, lấy Phi Quang làm điều kiện trao đổi, kết thành đồng minh cùng điện hạ khi ngài ấy vừa mới mở phủ."

Tạ Cánh chợt tưởng tượng đến cảnh tượng năm đó, Lục Lệnh Tùng chỉ mới mười lăm tuổi, chưa có quyền lực hay thế lực trong tay đã phải đối mặt với Tiêu Dao – một cô gái trí dũng song toàn đã được tôi luyện từ bé, nắm giữ cả một lực lượng hùng hậu để bàn bạc điều kiện. Chắc chắn hắn đã phải cố gắng làm ra vẻ bình tĩnh, ung dung như một người lớn. Nghĩ vậy, y không khỏi cảm thấy buồn cười.

Lục Lệnh Tùng trầm ngâm chốc lát, nhạy bén nhận ra: "Trong hai nhóm người mà phụ hoàng mượn sức, thế gia hai họ Vương, Thôi quả thật cũng từ đó ngày càng hiển hách. Nhưng các thuộc hạ cũ của Đông cung thì sao? Ngoại trừ Trương Thái phó có thể coi là đường làm quan thuận lợi, tại sao phần lớn đều mai danh ẩn tích?"

Hắn nhớ rất rõ, không lâu sau sự kiện này, Hà Cáo đã bị giáng chức điều đến Ung Châu. Chẳng lẽ là do Tiên đế chèn ép vì ghi hận bọn họ từng dựa vào Tiêu Thái hậu? Hay chỉ đơn giản là có mới nới cũ? Nhưng điều này không hợp lý, bởi vì để ngăn chặn việc các thế gia trở thành Lan Lăng Tiêu thị thứ hai, đáng lẽ ra Tiên đế phải trọng dụng những cựu thần Đông cung xuất thân bình dân này để kiềm chế ngoại thích mới phải.

Tiêu Dao hất cằm về phía mấy tờ giấy cuối cùng trong hộp: "Ừ, ngài cứ xem trước đi đã."

Món đồ thứ ba là một danh sách – chính là danh sách các thần tử dưới trướng Đông cung khi tiên đế còn là Thái tử. Nhưng đặc biệt ở chỗ nó không chỉ ghi lại họ tên của riêng những quan viên này:

<i>Chiêm sự Trương Diên, vợ Đặng thị;</i>

<i>Thiếu chiêm sự Hà Cáo, con gái Hà Duy;</i>

<i>Thiếu chiêm sự Chung Duệ, mẹ Lâm thị, em trai Chung Triệu;</i>

<i>Phủ thừa Hứa Dịch, cha Hứa Thưởng, vợ Lưu thị;</i>

<i>Phủ thừa Trình Văn, vợ Triệu thị;</i>

<i>Tả thứ tử Đinh Viện, vợ Cao thị, con trai Đinh Giám, con gái Đinh Ngọc;</i>

...

Những cái tên cứ như vậy nằm dày đặc hết ba trang giấy.

Tạm không bàn đến danh tính của những quan viên đầu tiên trong danh sách, điều đáng chú ý chính là danh sách này còn bao gồm cả tên cha mẹ, anh em, vợ con của bọn họ, tổng cộng hơn một trăm người. Mặc dù trên giấy ngoài tên, chức vị và các mối quan hệ ra thì không ghi thêm điều gì khác, nhưng có ai ngồi trong khoang thuyền này mà không hiểu được ẩn ý —

Đây là hơn một trăm con người sống sờ sờ ngay trước mắt, đồng thời cũng là hơn một trăm "nhược điểm" chí mạng.

Một bản danh sách được viết đầy những "nhược điểm".

Điều đáng nói hơn nữa, Tiêu Thái hậu đã sử dụng chức vị mà Trương Diên cùng những người khác có được khi vừa nhậm chức trong Đông cung, nghĩa là danh sách này đã được lập ra từ ít nhất ba mươi năm trước. Sau khi thành công nâng đỡ con nuôi lên ngôi Thái tử, bà ta đã dày công chọn lọc một nhóm thuộc quan mà mình hài lòng nhất, rồi cẩn thận nắm chặt thân quyến của bọn họ trong tay, để họ toàn tâm toàn ý phục vụ cho mình, cho Đông cung, cho Lan Lăng Tiêu thị.

Đọc hết toàn bộ danh sách, có thể thấy trong đây hầu như không có bất kỳ thế gia vọng tộc nào ở hai vùng Giang Nam và Giang Bắc. Nói cách khác, cha mẹ, vợ con của những quan viên thuộc Đông cung này, cũng như chính họ đều xuất thân bình dân, không có được bất kỳ đặc quyền nào.

Bầu không khí chìm trong im lặng hồi lâu, Tạ Cánh mới ngập ngừng nói: "Vợ của Trương thái phó mất sớm, ông ấy sống cô độc nửa đời, không hề tái giá, chuyện này cả Kim Lăng ai cũng biết."

Lục Lệnh Tùng hoàn toàn hiểu được ý của y, hắn tiếp lời: "Ta thì lại không có ấn tượng gì về việc vợ chồng Hà đại nhân từng có con gái."

Tạ Cánh bỗng sững người, quay sang nhìn hắn: "Vậy lúc trước Hà phu nhân đối xử với Ninh Ninh..."

Lục Lệnh Tùng cẩn thận gật đầu: "Ninh Ninh từng nói với ta rằng khi còn ở Ung Châu, Hà phu nhân đối xử với con bé rất tốt, coi con như con ruột, con bé còn nói bà ấy 'vẽ người rất đẹp, cũng từng vẽ rất nhiều tranh về trẻ con, trông sống động hệt như thật'."

Không gian lại lần nữa rơi vào tĩnh lặng.

Một lúc lâu sau, vẫn là Lục Lệnh Tùng cất tiếng, bắt đầu xâu chuỗi những manh mối rối ren trong đầu:

"Về phần Chung Triệu... Tuy rằng cuối cùng lão phản bội ta, nhưng trước khi lôi kéo hắn về phe mình, ta đã điều tra qua thân thế của lão. Lão là cô nhi, chưa từng nghe nói có anh trai. Trước lúc chết, lão cũng chưa từng nhắc đến điều gì có liên quan đến chuyện này."

"Đinh Ngọc chính là 'A Ngọc' mất tích ở biệt thự núi Thang, cũng chính là cô gái đã bắt cóc Thanh Nhi rồi chết dưới kiếm của ta; Còn Đinh Giám là người quen cũ của chúng ta, hẳn là anh trai của ả, đêm đó gã hành động cùng Đinh Ngọc nhưng sau đó trốn thoát được, không ngờ lại chạy sang Mạc Bắc đầu quân cho địch."

Tiêu Dao nhẹ nhàng gõ ngón tay lên mép giấy: "Vậy nếu theo như lời mà Đinh Ngọc từng nói, người đã giao nhiệm vụ cho ả giết điện hạ và thế tử để 'cứu' Vương phi rốt cuộc là ai? Liệu có phải là ai đó nằm trong danh sách này không?"

Ba người đưa mắt nhìn nhau, cuối cùng bó tay lắc đầu.

Kết cục của các cựu thần Đông cung trong danh sách này chủ yếu chia làm hai loại: Một là giống như Trương Diên, tiếp tục ở lại ngự tiền, nhưng cũng chỉ có mình ông ta lên được chức Thái phó; thứ hai là giống như Hà Cáo, Hứa Dịch, bị điều đến các châu quận xa xôi, dù đến nay đã mất thì cũng đều từng tại chức vài năm rồi mới qua đời.

Những người chết ngay trên đường nhậm chức như Chung Thụy, Đinh Viện chỉ là số ít. Còn Trình Văn là trường hợp hiếm hoi duy nhất bị bãi quan nhưng vẫn ở lại kinh thành, vài năm sau lại được phục chức, giữ một vị trí béo bở ở Hoài Dương.

Vậy còn người nhà của họ thì sao?

Một cảm giác nghẹt thở dâng lên trong lòng Lục Lệnh Tùng. Hắn biết Tạ Cánh và Tiêu Dao im lặng là vì bọn họ cũng đang nghĩ đến cùng một chuyện như hắn – hơn một trăm phụ nữ, người già và trẻ nhỏ bị nhà họ Tiêu "giam cầm" năm đó đã đi đâu sau khi Quân Giới án diễn ra?

Hắn chỉ từng gặp Đinh Ngọc, Đinh Giám và Chung Triệu. Vậy những người còn lại thì sao? Họ đang ở đâu?

Liệu họ có còn sống hay không?

Đến lúc ra khỏi khoang thuyền thì trời đã khuya. Mây đen che khuất ánh trăng, cơn mưa xuân rơi lất phất, thời tiết vô cùng oi bức và ngột ngạt. Hàng quán hai bên bờ sông đìu hiu vì thời thế, khách du ngoạn cũng chẳng thấy mấy ai. Tạ Cánh nhận ra bóng dáng của Tạ Tuấn, cậu đang ngồi bên khung cửa một tòa nhà nhỏ sát mép bờ sông, tấm lưng hơi khom xuống toát lên vẻ buồn tẻ và cô quạnh.

"Anh xem, trông thằng nhóc này cứ như một đứa trẻ lớn xác vậy." Tạ Cánh nói xong tự bật cười, Tạ Tuấn đã đến tuổi cập quan, dù sao cũng không thể coi là "trẻ con" được nữa.

Nghe thấy tiếng nói, Tạ Tuấn ngoảnh lại nhưng không nghe rõ bọn họ nói gì, cậu chỉ mỉm cười về phía ấy rồi xoay người lại lấy gì đó trong phòng, sau đó nhấc tay ném một chiếc ô giấy dầu xuống từ tầng hai.

Lục Lệnh Tùng giơ tay đón lấy, bung ô ra che cho cả hai. Ô giấy dầu đã cũ đầy vết ố vàng, những đóa liên kiều vẽ trên đó đã phai màu, nét vẽ đan xen vào nhau như một trang sách cổ bị xé vụn, miễn cưỡng chắp vá lại thành hình. Thế nhưng khi được bật mở ra, nó vẫn giống như một vầng trăng tròn trịa giữa lòng trời.

Hai người đồng loạt cất lên tiếng thở dài khe khẽ, đưa mắt nhìn nhau. Lục Lệnh Tùng nói: "Ta có hơi xúc động một chút. Về những câu chuyện cũ, những con người từ hơn ba mươi năm trước, khi ấy huy hoàng, kinh thiên động địa biết bao, vậy mà đến giờ, có kẻ vô danh sống lặng lẽ, có kẻ bỏ mạng nơi suối vàng, cũng có kẻ cứ thế biến mất khỏi thế gian này."

Tạ Cánh gật đầu: "Chúng ta là những con dế trong tay tiên đế, mà tiên đế lại là con rối trong tay Tiêu Thái hậu. Từng đời chồng chất, từng lớp bủa vây, chỉ cần chiếc long ỷ dát vàng kia vẫn còn đó, thì vòng lặp này vĩnh viễn không có ngày kết thúc."

Dưới thuyền, làn nước gột rửa dung mạo của lục triều* vẫn nhẹ nhàng chảy xuôi về phía trước, thoang thoảng hương thơm dịu ngọt. Lục Lệnh Tùng nhìn sóng nước dập dờn trên mặt sông Tần Hoài, ánh mắt hãy còn mang chút ấm áp khi nhìn về phía Tạ Tuấn và Tạ Cánh giờ đã dần lạnh đi, hắn nở một nụ cười mỉa mai: "Làm gì có chuyện dát vàng? Rõ ràng chỉ là một chiếc ghế được chất chồng từ xương cốt mà thôi."

<i>(*) Nguyên văn là "</i>六朝的洗妆水<i>", theo mình hiểu thì đây có thể là một cách ẩn dụ chỉ dòng nước sông Tần Hoài, nơi chứng kiến sự hưng thịnh và suy vong của sáu triều đại, nó mang theo dấu vết của lịch sử xa hoa phồn thịnh nhưng cũng đầy biến động. Vậy nên mình đã</i><i> edit phiên phiến</i><i> thành "làn nước gột rửa dung mạo của lục triều", nếu mình có hiểu sai thì cả nhà cho mình xin ý kiến để sửa đổi nhen.</i>
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 90


<b>《</b><b> 22.1 — Hồi tưởng </b><b>》</b>

Tạ Cánh tỉnh dậy, trong mơ hồ y cứ ngỡ rằng bên ngoài có đến một trăm con Lục Ngải đang cất giọng hót vang.

Y biết bọn họ dậy muộn, cũng biết từ khi có thêm hai đứa trẻ, địa vị trong nhà của Lục Lệnh Tùng và cả chính mình đều bị xếp ở phía sau, càng biết rõ từ trên xuống dưới phủ này đều ngầm đồng ý rằng những tiếng động do Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh gây ra không được tính là "ồn ào".

Nhưng Lục Ngải thì chỉ có một con duy nhất, còn Lục Thư Ninh cộng với đám nha hoàn trong nội viện cưng em như búp bê vải thì có thể tạo ra âm thanh sánh ngang với chín mươi chín Lục Ngải, quả là khiến cho người ta thán phục, rạng danh gia môn.

Tạ Cánh khoác áo xuống giường mở cửa, quá trình đi ra cần phải trèo qua người Lục Lệnh Tùng còn đang ngái ngủ, mà cách trèo qua chính là thò một chân bước thẳng qua ngực hắn.

Cửa vừa mở ra, Lục Thư Ninh đã chạy vụt vào như một cơn gió lốc, quả nhiên phía sau là Lục Ngải đang đuổi theo như tên bắn. Trước khi có ai kịp nhìn thấy cô bé rõ ràng, em đã lướt nhanh hơn để lách người vào trong, vào rồi còn lanh trí thẳng tay đóng sập cửa lại, ngăn chặn "truy binh" ở phía sau. Lục Ngải không kịp thắng lại, đâm sầm vào cánh cửa kêu "bộp" một tiếng. Tiếng động khiến Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh đồng loạt giật mình, chỉ thấy nó loạng choạng xoay hai vòng tại chỗ, sau đó quay đầu đổi hướng tìm đường khác, "vèo" một phát phóng ra ngoài từ khe cửa sổ vừa hé ra.

Lục Lệnh Tùng lại ngã người nằm xuống, cầm lấy gối bịt kín đầu, mơ màng nói: "Ta thấy tất cả mọi người đều điên cả rồi."

Tạ Cánh không còn buồn ngủ nữa, ngồi xuống trước gương chải tóc, cất giọng gọi ra ngoài: "Ngân Trù, giữ hai đứa nó lại giúp ta! Đã nói bao nhiêu lần rồi, chưa ăn sáng thì không được ra vườn chơi mà!"

Ngân Trù vội vàng chặn đường Lục Thư Ninh, căn bản không có thời gian trả lời y, cô nhóc đứng dưới hành lang nghe thấy vậy thì quay đầu lại, khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ bừng vì chạy nhảy, em cười tít mắt, giòn giã nói: "Vương phi ơi, một khắc nữa là đến giờ ăn trưa rồi!"

Tạ Cánh nghẹn lời, ngẩng đầu nhìn lên thấy mặt trời đã treo cao giữa tầng không, y bèn im lặng đóng cửa sổ lại.

Lục Thư Ninh gần ba tuổi suốt ngày chạy nhảy không biết mệt, chơi thay phần anh trai em hồi cậu còn nhỏ. Từ ngõ Ô Y, điện Minh Loan dến phủ Chiêu vương đều coi đứa bé này như vàng bạc châu báu, dù rằng sự ra đời của em không hoàn toàn nằm trong dự liệu của mọi người.

Năm đó từ quận Trần trở về, Hoàng đế tuy không giao việc cho Lục Lệnh Tùng, nhưng lại để Tạ Cánh treo danh ở Lễ bộ, theo Trương Thái phó xử lý các mục công việc liên quan đến khoa thi năm kế tiếp. Công việc này kéo dài mãi đến khi kì thi Đình của năm Trinh Hữu thứ mười ba kết thúc, y mới được rảnh rỗi đôi chút.

Lần nào kỳ thi mùa xuân diễn ra cũng là thời điểm giao bận rộn giao thiệp lễ nghĩa nhất trong kinh thành. Những tân khoa tiến sĩ đều cân nhắc về con đường làm quan và hôn nhân, trong khi các triều thần và sĩ tộc cũng chủ động chọn lựa người tài. Tạ Cánh dù đã cố gắng tỏ ra "uể oải lười biếng", nhưng vẫn không thể tránh khỏi phải thường xuyên xuất hiện trong những cuộc hội họp như thế. Đối với một quan viên Lễ bộ bình thường, mối quan hệ đặc biệt giữa chủ khảo và môn sinh đã đủ khiến họ dễ trở thành tâm điểm, huống hồ y còn có thêm danh phận Chiêu Vương phi, thế là càng dễ bị đẩy lên đầu sóng ngọn gió.

Tạ Cánh không muốn đợi tới lúc Hoàng đế nhận ra y bị ép đến "sôi sục" rồi mới đến cảnh cáo y, khi đó đã muộn. Mà ngay lúc y đang suy nghĩ cách thoát thân thì Lục Thư Ninh xuất hiện.

Tạ Cánh mừng như mở cờ trong bụng, lập tức chạy thẳng vào cung, đầu tiên tìm cách đùn đẩy hết công việc ở Lễ bộ đi. Lục Lệnh Chương giờ đã lớn hơn, phần lớn thời gian đều theo các vị đại nho ở Quốc Tử Giám học tập, Tạ Cánh cũng chỉ cần đến điện Lâm Hải mấy ngày một lần, thế nên y quyết định xin miễn luôn việc giảng bài ban ngày, từ đó nhàn nhã đến mức chẳng còn gì để làm.

Lục Lệnh Tùng dù dậy muộn nhưng chỉnh trang nhanh hơn Tạ Cánh, hắn là người đầu tiên bước vào phòng khách. Lục Thư Thanh nằm bò ra bàn, vừa chăm chú đọc quyển truyện truyền kỳ, vừa chậm rãi ăn cơm rượu nếp ướp lạnh vừa mới được lấy từ hầm băng ra. Lục Lệnh Tùng hỏi: "Bây giờ con ăn một bụng đồ lạnh thế này, lát nữa có ăn cơm nổi không?"

Lục Thư Thanh ló đầu nhìn qua, thấy Tạ Cánh vẫn còn trong phòng, chưa chú ý đến bên này, cậu bèn đẩy nửa chén cơm rượu nếp còn lại về phía cha mình, giơ sách lên che mặt: "Vậy con không ăn nữa."

Sau bữa trưa, trái cây theo mùa được dọn lên như thường lệ. Trong chiếc đĩa bảo thạch tráng men đỏ là những quả thanh mai tẩm đường, còn trên đĩa pha lê lót lá chuối lại là những trái anh đào đỏ thẫm. Màu sắc xanh đỏ xen kẽ vào nhau tươi roi rói khiến người ta không khỏi phải đưa mắt liếc nhìn.

Bình thường Lục Thư Thanh luôn là người ăn chậm nhất, nhưng hôm nay cậu đã ăn no nê từ sớm nên ôm sách rời bàn, Tạ Cánh lấy làm lạ: "Hôm nay con không ăn trái cây sao?"

Lục Thư Thanh không ngẩng đầu lên, khi bước xuống bậc thềm suýt nữa là đâm sầm vào cột nhà, đến lúc này cậu mới ngước mắt nhìn đường, quay đầu lại cười đáp: "Dì bảo con ăn ít đồ lạnh thôi ạ."

Buổi trưa, Ngân Trù nhân lúc thời tiết đẹp mang dược liệu ra phơi trên chiếu trải ngoài sân viện. Lục Lệnh Tùng ôm Lục Thư Ninh ngồi xéo một bên, hắn đặt con gái ngồi lên đùi, dạy cô bé nhận biết tên các loại thuốc. Trong vườn có một góc nhỏ dành riêng cho Ngân Trù trồng cây thuốc, Lục Thư Thanh hay đi theo cô trồng cây, Ngân Trù cũng cho cậu một ít hạt giống để tự chăm sóc, kết quả có cây sống, có cây chết, mùa hè năm ngoái có lần cậu bị cảm nắng, thế là dùng luôn cây hoắc hương chính tay mình trồng được để uống.

Tạ Cánh vào thư phòng, khi đi ngang qua Lục Thư Thanh, y liếc nhìn cuốn sách trong tay con trai, phát hiện đó là "Sưu Thần Ký", thảo nào nhóc con lại mải mê đọc đến mức quên ăn quên ngủ như vậy, y bèn thuận miệng nói: "Ông ngoại con có một bộ bản thêu minh họa, nếu con đọc xong thì có thể sang ngõ Ô Y mượn về xem."

Thật ra y không quá bận tâm chuyện con trai đọc sách gì. Cả thư phòng của bản thân lẫn của Lục Lệnh Tùng đều rộng mở cho Lục Thư Thanh vào, chỉ cần cậu có thể đọc hiểu thì muốn chọn sách gì cũng được. Cuộc đời của Lục Thư Thanh hoàn toàn khác với cha mẹ mình, cậu được nâng lên giữa trung tâm quyền lực quá sớm, nhận được nhiều sự chú ý và sủng ái, nhưng hai người bọn họ lại chỉ hy vọng cậu thu bớt hào quang, không cần phải quá xuất chúng.

Lục Thư Thanh chợt nói: "À phải rồi mẹ, ngày mai con hẹn cậu, mợ và anh họ cùng đến núi Mai đạp thanh, xem nai con đó."

Nghe nhắc đến chuyện đi chơi, Tạ Cánh bỗng nhớ ra việc gì, bèn hỏi: "Hôm nọ mẹ có đặt xấp thiệp hoa dập nổi mà con bảo đẹp lên bàn, con có thấy không? Đoan ngọ tháng sau chúng ta sẽ tổ chức tiệc trong vườn, con đã viết thiệp mời bạn bè chưa?"

Tuy không phải kiểu người thích đi kết bạn đây đó, nhưng Lục Thư Thanh vẫn có một nhóm bạn thân thiết cùng trang lứa là con cháu các gia đình quan lại. Cậu gật đầu: "Mọi người đều đã hồi âm rồi, chỉ còn nhà họ Vương thì vẫn chưa có tin tức gì thôi ạ."

Tạ Cánh chợt nhớ đến cô bé sống nội tâm và ít nói hiếm khi đến phủ Chiêu Vương kia, không khỏi thở dài: "Mẹ lại quên dặn con, nhà của A Hoàng và nhà chúng ta... Không giống nhau, gửi thiệp có khi lại gây phiền phức cho con bé."

Lục Thư Thanh cảm thấy khó hiểu, cậu chưa bao giờ nghĩ nhóm bạn của mình – những cậu ấm cô chiêu đều có xuất thân tôn quý, được nuông chiều từ nhỏ cũng có thể gặp phải thứ gọi là "phiền phức". Nhưng thấy mẹ nói chuyện bằng giọng điệu nghiêm túc, cậu chỉ khẽ gật đầu, tỏ ý đã hiểu.

Hai mẹ con ngồi đối diện nhau, suốt cả buổi chiều yên tĩnh, trừ vài lần Tạ Cánh nhắc nhở Lục Thư Thanh uống nước ra thì không có ai lên tiếng. Đến khi ánh hoàng hôn chiếu xiên qua cửa sổ, hắt lên một góc bàn, đột nhiên Lục Thư Thanh hắt hơi một cái, Tạ Cánh giật mình, lập tức ngẩng đầu lên, phát hiện Lục Lệnh Tùng không biết đã tựa vào cửa sổ từ bao giờ, đang cầm một nhánh cỏ đuôi chó mềm mại, nhẹ nhàng cọ qua chóp mũi của con trai.

Tạ Cánh cau mày nhìn hắn: "Anh cứ phải trêu người ta mới chịu được à!"

"Ầy, mùa xuân đâu phải lúc để đọc sách." Lục Lệnh Tùng dùng những ngón tay thon dài vân vê hai nhánh cỏ, khéo léo đan chúng vào nhau.

"Ninh Ninh đâu?"

"Ở phòng khách, đang xem Ngân Trù kết vòng hoa nhài, ta rủ mà không chịu đi." Hắn chìa con thỏ nhỏ được bện từ cỏ đuôi chó ra cho Lục Thư Thanh xem, "Ra ngoài thử cung mới của con không?"

Lục Thư Thanh vươn vai duỗi người, gật đầu đồng ý. Cậu cúi xuống xỏ giày, định đi ra cửa chính thư phòng, men theo hành lang ra vườn.

"Con vòng xa thế làm gì?" Lục Lệnh Tùng đột ngột kẹp lấy cánh tay cậu, lấy đà nhấc bổng con trai qua bậu cửa sổ. "Xuống đây nào!"

Tạ Cánh đứng bên cạnh thờ ơ nhìn kiểu ra cửa này, vừa mới hoàn hồn lại đã thấy cả hai cha con đều đang nhìn mình chăm chú, y từ chối ngay tắp lự: "Em không ra bằng đường này đâ—"

Còn chưa dứt lời, Lục Lệnh Tùng đã vươn tay vào trong, gần như vác nguyên nửa người trên của y lên vai: "Em cũng xuống đây cho ta!"

Hắn không cho Tạ Cánh cơ hội phản kháng, Tạ Cánh nằm trên vai hắn hoảng hốt kêu lên, chẳng biết mái tóc dài của ai lướt qua chùm hoa tử đằng, khiến cho những cánh hoa tím rơi xuống như cơn mưa, vương đầy trên tay áo.

Trước đó, Lục Lệnh Tùng đã đặc biệt nhờ một người thợ giỏi làm cho Lục Thư Thanh một cây cung nhẹ – món đồ được "đo ni" cho cậu con trai vóc dáng chưa đủ cao, sức chưa đủ lớn, cánh tay chưa đủ dài. Dù kích thước nhỏ hơn cung tên tiêu chuẩn, nhưng được chế tác vô cùng tinh xảo. Cánh cung được làm từ gỗ thông tím thượng hạng, giá trị còn cao hơn cả những món vũ khí thường trang bị cho quân kinh kỳ và Vũ Lâm Vệ.

Lục Thư Thanh học cưỡi ngựa bắn cung từ chính cha và cô ruột của mình. Dù tuổi còn nhỏ và điều kiện thể chất còn hạn chế, đến giờ cậu vẫn chưa thật sự có được thành tựu gì lớn lao, nhưng nhờ nền tảng vững chắc, động tác của cậu vô cùng chuẩn chỉnh, tư thế không chê vào đâu được, đủ để hù dọa người khác.

Tạ Cánh đứng đối diện hai cha con, y vốn định đứng ngoài quan sát để nhìn rõ quá trình dạy học, thì bỗng nghe thấy Lục Lệnh Tùng cất giọng gọi:

"Em đứng ở bên đấy làm gì? Muốn làm bia sống à?"

Tạ Cánh bất đắc dĩ bước lại gần: "Vị điện hạ nào tự xưng tài thiện xạ của bản thân là không trượt phát nào ấy nhỉ? Một người sống sờ sờ, đứng xa có hai bước mà anh cũng sợ bắn trúng người ta sao?"

Lục Lệnh Tùng không đáp lại y mà quay sang Lục Thư Thanh, dặn dò cậu: "Con nhớ cho kỹ bài học này — dù khoảng cách có gần đến đâu, đầu mũi tên cũng không bao giờ được hướng về phía người mình. Xạ thuật là tranh thắng với gió, mà gió thì chẳng bao giờ nói lý lẽ cả."

Buổi chiều, khi đã quá giờ quy định, bác Chu đang chuẩn bị khóa cổng lớn của phủ Chiêu Vương thì một vị khách không ngờ tới đột nhiên đến thăm.

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh cùng ra tiền thính, nhìn thấy Chung Triệu đang đứng khoanh tay mỉm cười, trên mặt bàn bên cạnh có đặt một chiếc hộp gỗ đen hình vuông được sơn đỏ.

"Bệ hạ bảo ông đưa tới à? Vào giờ này?" Tạ Cánh nghe lý do đến của ông ta xong, hoài nghi hỏi.

Chung Triệu gật đầu: "Lời nói đều là sự thật, tiểu nhân không dám chậm trễ dù chỉ một giây, vừa được lệnh là chạy từ điện Thần Long đến đây ngay."

Trong kinh đều biết Hoàng đế đang ngã bệnh, cũng chẳng hiểu vì sao ông không lo dưỡng bệnh, nửa đêm đột nhiên muốn tặng đồ cho phủ Chiêu Vương.

Giao thừa mấy tháng trước, vì không đủ kiên nhẫn chịu đựng đêm đón năm mới nhàm chán trong cung, Tạ Cánh đã âm thầm đưa con trai và con gái chuồn ra ngoài, đến thành phía Nam chơi bời suốt đêm. Cứ tưởng rằng sau đó dù trong cung không ghi sổ cũng sẽ càm ràm vài câu, không ngờ bệnh tình của thiên tử trở nặng, chẳng ai màng quan tâm đến chuyện bọn họ phạm luật không mấy nghiêm trọng này nữa.

Chuyện này nổ ra khiến lòng người chao đảo, tin đồn bay khắp nơi, sức khỏe của Hoàng đế bỗng chốc trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn bộ giới quyền quý Kim Lăng. Đương nhiên là họ không thật sự để tâm đến "sức khỏe thánh thượng", mà chỉ vì khứu giác chính trị nhạy bén đã mách bảo rằng, trong thời điểm này ắt sẽ có biến động về việc lập Thái tử. Gia tộc của bọn họ trong trăm năm tới hưng suy ra sao đều dựa vào lần đặt cược duy nhất này.

Lục Lệnh Tùng khẽ giơ tay, người hầu lập tức lặng lẽ rút lui, bác Chu là người cuối cùng rời đi, tiện tay đóng chặt cánh cửa sảnh lớn, trong phòng chỉ còn lại ba người.

Chung Triệu "À" một tiếng, có chút khó xử nói: "Bệ hạ dặn dò tiểu nhân phải tránh toàn bộ 'người ngoài', bằng bất cứ giá nào cũng phải giao thứ này đến tận tay điện hạ."

Ánh mắt Lục Lệnh Tùng và ông ta đồng loạt hướng sang Tạ Cánh. Tạ Cánh phản ứng chậm hơn một nhịp, lúc này mới nói: "Ừ, thế ta ra ngoài vậy."

Y nói xong liền xoay người định đi, nhưng Lục Lệnh Tùng đột nhiên lên tiếng: "Đợi đã."

Tạ Cánh quay đầu lại nhìn, nghe hắn nói với Chung Triệu: "Chi Vô không phải người ngoài. Ta và Vương phi cùng chung một lòng, không có gì phải giấu giếm, bất kể là thứ gì cũng có thể để cho Vương phi nhìn thấy."

Sắc mặt của Chung Triệu thoáng thay đổi, ông ta quan sát sắc mặt hai người một lúc rồi cười hòa giải: "Nói cũng phải... Bệ hạ cũng không nói là không được cho Vương phi xem."

Nói rồi, ông ta cung kính dâng chiếc hộp gỗ lên. Lục Lệnh Tùng tiện tay mở nắp, lại thấy bên trong còn một hộp gấm nhỏ hơn.

Hắn cau mày nói: "Sao mà kín đáo vậy?"

Từng lớp từng lớp được bóc ra, cuối cùng để lộ một lớp vải lót bằng tơ vàng óng ánh. Động tác của Lục Lệnh Tùng khựng lại trong giây lát, hắn quay đầu nhìn về phía Tạ Cánh, người từ đầu đến giờ vẫn luôn im lặng theo dõi.

"... Điện hạ?" Chung Triệu lên tiếng giục.

Tạ Cánh chạm mắt hắn, chỉ khẽ gật đầu, lúc này Lục Lệnh Tùng mới không do dự nữa, dứt khoát mở nốt lớp phủ cuối cùng.

Bên trong là một chiếc ngọc tỷ trắng tinh không tì vết, óng ánh sáng ngời. Thoạt nhìn thì thấy ngoài chất ngọc cực phẩm ra, dường như không có thêm gì đặc biệt.

Thế nhưng, đến khi cả Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh đồng loạt nhìn rõ tám chữ triện <i>"Thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương"</i><i> </i>được khắc trên đó, cả hai đều hít sâu một hơi.

Tạ Cánh lùi ra nửa bước, lạnh giọng hỏi: "Bệ hạ định làm gì đây!?"

Chung Triệu lại ung dung đáp: "Hai vị thử nhìn kỹ thêm chút nữa xem?"

Lục Lệnh Tùng cau mày, cẩn thận nhấc ngọc tỷ lên, nhẹ nhàng xoay nó trong tay, giơ lên trước ánh nến quan sát một lúc rồi bỗng nói: "Đây là ngọc Lam Điền."

Chung Triệu vỗ tay khen: "Điện hạ quả là tinh mắt. Cơ mà, ngọc Lam Điền này dù có quý giá đến đâu thì vẫn kém hơn một bậc so với Hòa Thị Bích."

Tạ Cánh đã ngầm hiểu ý của ông: "Tương truyền vào thời Tần, Tần Thủy Hoàng từng cho khắc hai chiếc ngọc tỷ truyền quốc, một chiếc làm từ Hòa Thị Bích danh chấn thiên hạ, một chiếc làm từ ngọc Lam Điền, chiếc trước là thật, chiếc sau chỉ là 'mắt cá' dùng để đánh lạc hướng. Đế nghiệp của các triều đại sau, ai cũng coi việc giành được Hòa Thị Bích là dấu hiệu của sự kế thừa chính thống."

Chung Triệu gật đầu: "Từ khi dựng nước đến nay, hai chiếc ngọc tỷ này đã trấn giữ cung Thái Sơ hơn trăm năm. Hòa Thị Bích là căn cơ xã tắc quốc tộ, đương nhiên bệ hạ sẽ không dễ dàng 'đưa' nó ra khỏi cung. Nhưng chiếc này—" Giọng điệu của ông ta mang theo ẩn ý sâu xa, "Giả thì giả, nhưng không thể nói đây là món đồ tầm thường, càng không thể nói là món đồ vô dụng."

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh nhìn nhau, không ai còn muốn động vào ngọc tỷ truyền quốc bằng ngọc Lam Điền kia nữa.

Nói trắng ra, dù ngọc đẹp quý giá đến đâu thì cũng có giới hạn. Điều thật sự khiến Hòa Thị Bích vượt qua giá trị của "ngọc", chính là hai câu nói tượng trưng cho thiên thụ quân quyền được khắc trên nó.

"Chung Triệu," Lục Lệnh Tùng trầm ngâm hồi lâu mới nói, "Ngọc tỷ này tuy không phải Hòa Thị Bích, nhưng tám chữ kia cũng đâu phải tùy tiện khắc lên. Nếu hôm nay ta nhận lấy vật này, rốt cuộc là tiếp nhận thiên mệnh ở phương nào?"

Chung Triệu uyển chuyển ám chỉ: "Bệ hạ sai tiểu nhân đêm khuya mang báu vật này tới, ngài nói xem là phương nào? Chính là bầu trời ngay trên đầu chúng ta đấy chứ đâu."

"Giả như người thật sự có ý đó," Tạ Cánh lên tiếng, "Thì cũng không nên đưa nó đến đây vào lúc này. Bệ hạ phúc trạch lâu dài, đang độ tuổi xuân, sao lại phải gửi gắm ngọc tỷ này đến phủ Chiêu Vương chúng ta?"

Nửa câu sau được y nhấn mạnh từng chữ, đặc biệt là hai chữ 'gửi gắm', gần như không còn che giấu ý định phủi sạch quan hệ, tránh né chuyện này nữa.

Chung Triệu nghẹn lời giây lát, chỉ biết cười trừ: "Bệ hạ cũng nói rồi, tương lai còn dài, tình huống khi ấy sẽ như thế nào, đến lúc đấy rồi hẵng bàn. Nhưng tám chữ này không chỉ có lai lịch, mà còn ẩn chứa kỳ vọng của bệ hạ, hàm ý trong đó, hai vị có hiểu được không?"

Nghe Chung Triệu thuật lại, Lục Lệnh Tùng trầm mặc suy nghĩ, đương nhiên Hoàng đế không nói rõ ràng, cũng không phải cứ đem miếng ngọc truyền quốc giả này đến tay hắn là đồng nghĩa với việc đóng đinh hắn vào vị trí trữ quân. Biết đâu chừng, giờ này còn có một chiếc ngọc tỷ giả khác cũng đang trên đường đến điện Lâm Hải thì sao? Lục Lệnh Chương năm nay mười lăm, đã đến tuổi có thể mở phủ tham chính rồi.

Thái độ mập mờ này khiến người ta khó mà đoán định được. Nhưng vật do thiên tử ban tặng lại có giá trị tương đương thánh chỉ, bọn họ không thể không nhận.

Hồi lâu sau, Lục Lệnh Tùng đặt ngọc tỷ trở lại vị trí ban đầu, cất bước đi về phía chiếc bàn hợp hoan hình bán nguyệt bên bức tường phía tây của sảnh chính, mở hộp kiếm đặt trên đó ra rồi cất chiếc hộp sơn mài vào chỗ trống phía dưới cùng, sau đó lần nữa khóa lại.

Hắn xoay người lại nói: "Chìa khóa của hộp kiếm này ta luôn mang theo bên mình, chiếc còn lại nằm ở chỗ Vương phi. Hôm nay ta cất ngọc tỷ này ở đây, chuyện này chỉ có bệ hạ biết, ta và Vương phi biết, Chung Triệu ông cũng biết. Thiên tử thánh minh, nếu ngày sau có chuyện gì xảy ra vì miếng ngọc này, thì chỉ có thể là do ba người chúng ta mà ra. Đương nhiên ta và Vương phi tự biết cẩn trọng chú ý... Chung Triệu, ông cũng nên suy nghĩ thấu đáo."

Chung Triệu nặn ra một nụ cười đúng mực không thể bắt bẻ được: "Tiểu nhân xin khắc ghi trong lòng."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 91


<b>《</b><b> 22.</b><b>2</b><b> </b><b>》</b>

Chung Triệu đã hoàn thành trọn vẹn công việc mà Hoàng đế giao phó, hồi cung phục mệnh. Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh cùng nhau về thư phòng, trằn trọc không ngủ được.

Tạ Cánh vốn thiếu kinh nghiệm xử lý loại chuyện này, bấy giờ trong lòng cũng chưa có chủ ý rõ ràng. Y chỉ đang cố gắng giữ bình tĩnh, nói với Lục Lệnh Tùng: "Chìa khóa hộp kiếm kia em chưa từng chạm vào, em cũng sẽ không lấy thứ đó ra xem thêm lần nào nữa."

Lục Lệnh Tùng gật đầu: "Ta biết, ta nói như vậy chỉ là để nhắc nhở Chung Triệu thôi."

"Anh nói xem, rốt cuộc đây thực sự là ý của bệ hạ như Chung Triệu đã ám chỉ, hay là một cách thử lòng mới?"

Lục Lệnh Tùng suy nghĩ một chút rồi đáp: "Phụ hoàng lâm bệnh, mẫu hậu và mẹ ta đều ít khi vào gặp. Chung Triệu là người thường xuyên túc trực hầu hạ, có khả năng tiếp xúc gần nhất. Lời ám chỉ của ông ta không phải không có lý, có giá trị tham khảo, nhưng chúng ta tuyệt đối không thể tin toàn bộ."

Tạ Cánh bĩu môi: "Theo em thấy, với tính cách của bệ hạ, làm gì có chuyện dễ dàng nhìn thấu như vậy. Chẳng qua người muốn xem chúng ta có giữ được bình tĩnh hay không thôi."

Lục Lệnh Tùng tỏ vẻ tán thành: "Nếu không giữ được bình tĩnh mà đem chuyện này ra ngoài nói linh tinh, phủ tướng sẽ ra mặt trừng trị chúng ta, chẳng cần đến phụ hoàng nhúng tay đâu."

"Huống chi, chúng ta càng không thể nóng vội chạy đến hỏi bệ hạ." Tạ Cánh lập tức tiếp lời, "Loại chuyện này xưa nay chưa từng có ai hỏi, cũng tuyệt đối không được hỏi. Thiên tử ban cho anh thứ gì, ắt hẳn có ý đồ riêng, anh dè dặt nhận lấy, đó là ân thưởng. Nhưng nếu anh tỏ ra hứng thú với chuyện này, vậy là đại nghịch bất đạo rồi. Từ xưa đến nay, những vị quân chủ đến tận khoảnh khắc tiên hoàng băng hà mới được lên ngôi Thái tử, chẳng phải họ đều phải trải qua quãng thời gian nơm nớp lo sợ như vậy sao?"

"Vấn đề lại quay về điểm ban đầu rồi." Lục Lệnh Tùng mệt mỏi day ấn đường, "Chúng ta phải làm gì đây? Cứ để nó nằm trong hộp kiếm sao?"

Tạ Cánh bước tới, nâng tay nhẹ nhàng xoa bóp cơ vai căng cứng của hắn. Lục Lệnh Tùng nghiêng mặt, khẽ hít một hơi rồi nắm lấy tay áo y: "Sao lại có mùi đàn hương?"

"Hai đứa nhóc kia không thích mùi hương liệu, chê mùi nồng quá làm chúng nó đau đầu, vậy mà suốt ngày cứ thích lăn lộn trên người em chơi. Thế nên em đành ủ chút đàn hương lên quần áo, coi như tận dụng để an thần vậy."

Lục Lệnh Tùng nhắm mắt dưỡng thần, tận hưởng lực bóp nhẹ nhàng từ bàn tay của Tạ Cánh một lúc, rồi bất chợt vươn tay kéo y xuống, cả hai cùng ngã lên giường, sóng vai nằm cạnh nhau, cùng mở mắt nhìn lên xà nhà.

"Có lẽ chúng ta không cần căng thẳng như thể đối diện kẻ địch đến thế, tự dưng lại kiến bản thân rối loạn." Tạ Cánh cất giọng, "Nhưng ít nhất cũng không thể hoàn toàn bị động, không thể cứ nằm đây chờ người ta đánh đến tận cửa được."

Đây thực chất chỉ là lẽ thường tình, Lục Lệnh Tùng dĩ nhiên hiểu rõ, nhưng hiểu được thì dễ, giải quyết chúng mới là khó: "Với những chuyện này, muốn nắm thế chủ động trong tay, cách hữu hiệu và trực tiếp nhất chính là kiểm soát quân đội. Thế nhưng, tầng lớp lãnh đạo của quân kinh kỳ và Vũ Lâm Vệ có mạng lưới thế lực vô cùng phức tạp, mỗi phe đều trung thành với chủ nhân của mình, tự kiềm chế lẫn nhau, tuy nội bộ rối ren nhưng khi đối diện với người ngoài thì lại vững như sắt thép. Giờ chúng ta muốn chen chân vào còn khó hơn lên trời."

Tạ Cánh đột nhiên nói: "Vậy nếu như... Chúng ta tự nuôi quân của mình thì sao?"

Lục Lệnh Tùng khẽ giật mình, kinh ngạc nghiêng đầu sang nhìn y. Trong nhận thức của hắn, Tạ Cánh từ nhỏ đã lớn lên trong vòng tay bao bọc của cả gia tộc, bản thân y cũng vô cùng coi trọng và yêu quý người thân, vốn không phải kiểu người chủ động đưa ra những phương án mạo hiểm đầy rủi ro như thế này.

Đương nhiên hắn hiểu rõ ý của Tạ Cánh không phải là mười mấy hộ gia đinh tầm thường của phủ Chiêu vương, mà là một đội quân tinh nhuệ với kỷ luật nghiêm minh, vũ trang đầy đủ, lấy một địch mười, một đội quân riêng chỉ nghe theo lệnh của bọn họ.

Mà đây lại là chuyện dù ở bất kỳ triều đại nào cũng bị coi là đại nghịch bất đạo, một khi đã giương cung thì sẽ không còn đường quay đầu.

Lục Lệnh Tùng cẩn thận liệt kê từng vấn đề: "Nuôi một đội quân cần rất nhiều tiền, cần sắt để đúc rèn vũ khí, cần lương thảo, cần bãi luyện binh và trưởng quan. Quan trọng nhất là phải chiêu mộ được binh sĩ giỏi. Mỗi một khâu đều sẽ có vô số vấn đề phát sinh, cũng tiềm ẩn vô số sơ hở có thể bị phát hiện. Nếu muốn làm việc này, chúng ta phải chuẩn bị sẵn tinh thần hao tổn nhiều năm tâm huyết, có khi mất trắng tất cả, thậm chí rước họa sát thân."

Tạ Cánh im lặng hồi lâu, ánh mắt dần trở nên kiên định: "Không vào hang cọp, sao bắt được cọp con. Trên đời này chưa từng có chuyện gì làm mà không cần mạo hiểm. So với việc bất ngờ gặp biến cố mà tay không tấc sắt, để cho người người mặc sức xâu xé, em thà mạo hiểm một lần. Ít nhất nếu nắm giữ binh quyền trong tay, chúng ta có thể giấu mình trong bóng tối, còn kẻ địch thì ở ngoài sáng."

Lục Lệnh Tùng khẽ thở dài, có thể thấy hắn vẫn chưa hoàn toàn đồng tình với ý tưởng kinh thiên động địa này. Hắn không lập tức đáp lời, chỉ lặng lẽ vươn tay sờ má Tạ Cánh.

Tạ Cánh chợt nhận ra, người trước nay luôn cẩn trọng suy tính như Lục Lệnh Tùng lúc này lại không thể hoàn toàn làm chủ cảm xúc và quyết định của mình. Chuyện này quá mức trọng đại, dĩ nhiên không phải là chuyện có thể vỗ trán quyết định chỉ sau một đêm. Mà với kinh nghiệm sống có hạn và sự từng trải dù sâu rộng đến đâu, y cũng không dám chắc rằng họ nhất định sẽ thành công.

Y vốn không có ý gây áp lực cho Lục Lệnh Tùng: "Em không hiểu gì về việc nuôi quân luyện binh. Dù là quyết định hay thực hiện, tất cả đều nghe theo anh. Nếu anh thấy quá nguy hiểm, khó nắm phần thắng, thì cứ coi như em chưa từng nhắc đến chuyện này, mọi thứ đều do anh định đoạt."

Lục Lệnh Tùng suy nghĩ chốc lát rồi nói thẳng: "Vẽ chiến lược thì ta làm không ít, nhưng em cũng biết mà, ta chưa từng thật sự đặt chân lên chiến trường dù chỉ một ngày."

Tạ Cánh lặng lẽ nhìn hắn, bọn họ quen biết nhau đã tròn mười năm, tính cách của cả hai so với thời thiếu niên mười sáu mười bảy tuổi ít nhiều cũng có chút thay đổi. Tạ Cánh tự nhận bản thân hiểu rất rõ Lục Lệnh Tùng, người này tuy hành xử khéo léo, luôn đứng ở vị trí chủ đạo trong việc kiểm soát cục diện, chưa bao giờ dễ dàng để lộ sự e dè, nhưng tận sâu trong bản chất, hắn lại không phải là một người khá thiếu tự tin.

Y nghĩ rằng điều này bắt nguồn từ sự ngờ vực lộ liễu và không có điểm dừng mà Hoàng đế dành cho hắn, điều này khiến hắn chẳng thể nào đoán được rốt cuộc phải làm đến "mức" nào mới được xem là hoàn hảo. Lâu dần, ngay cả chính bản thân Lục Lệnh Tùng cũng bắt đầu hoài nghi năng lực của mình.

"Từ xưa đến nay, em thấy minh quân lương tướng không hẳn nhất định phải có tài năng phi thường, nhưng nhất định phải có con mắt tinh tường để nhận ra nhân tài, phải có phong thái biết người khéo dùng, phải bày ra được thủ đoạn để thu phục lòng người. Trong lòng em, anh chính là người như vậy. Anh sinh ra đã có bản lĩnh khiến người khác tin phục, cam tâm tình nguyện đi theo. Em là người ở gần anh nhất, em tin vào quyết định và sự quyết đoán của anh, cũng tin vào mắt nhìn của mình."

"Nếu anh vẫn còn đắn đo hoài nghi chuyện này có thể thành hay không, vậy thì em không có gì để nói. Nhưng nếu anh nghi ngờ bản thân mình có thể làm được hay không, em sẽ nói rõ ràng cho anh biết, rằng chỉ cần anh sẵn lòng làm, em sẽ không chút do dự mà dốc hết sức mình để giúp anh. Tiền của em không nhiều, không thể so với Vương phủ hay nhà họ Ngô, nhưng ngoài phần đã chuẩn bị cho Ninh Ninh không thể sử dụng ra, thì tất cả những gì còn lại em đều sẵn sàng trao hết cho anh. Quận Trần có sắt, em có thể tìm cách thông qua quan phủ để tạo đường rèn đúc vũ khí; lương thảo không đủ, em có thể đem tiền xuống ruộng mua chịu trước; đất đai không có, em sẽ dùng những trạch viện bỏ trống để an trí binh sĩ. Chỉ cần anh muốn, chỉ cần em có thể cho, em đều sẽ cho anh."

Những gì Tạ Cánh nói được cũng chỉ đến thế. Y chỉ có thể kiên định đứng vững sau lưng Lục Lệnh Tùng, không lùi nửa bước, phải như vậy, hắn mới có thể yên tâm mạnh dạn vượt qua chông gai, tiến bước về phía trước.

Giờ khắc này, y và Lục Lệnh Tùng không giống một đôi phu thê cùng hưởng vinh nhục nữa, mà y như mang theo cả gia sản và sinh mạng của mình, dốc hết tiền đồ tươi sáng để nương tựa vị chủ công mà y tín nhiệm và ngưỡng vọng.

Lục Lệnh Tùng trầm mặc rất lâu, dường như đã động lòng, lại như có phần khó xử trước sự phó thác nặng nề này.

"Em phải suy nghĩ cho kỹ," hắn siết chặt lấy bàn tay của Tạ Cánh, giọng đầy yêu thương, "Nếu như việc này bại lộ, đừng nói đến chuyện hợp táng cùng huyệt, đến cả cái xác nguyên vẹn cũng chưa chắc đã giữ được."

Đôi mắt trong veo của Tạ Cánh sáng rực lên: "Nhưng nếu việc này thành, vậy em đây có công phò rồng rồi."

Lục Lệnh Tùng nghe mà nghẹn lời, biết rõ trong bốn chữ này, điều Tạ Cánh thực sự muốn nói không phải chữ 'công', mà là chữ 'rồng'.

Hắn lật người đè Tạ Cánh phía dưới, nâng cằm y lên cúi đầu hôn xuống. Bức phù điêu khắc trên tường điện Lâm Hải năm đó có chú chim phượng hoàng đỏ cao ngạo, cô độc mà xa cách, giờ phút này đây, chú chim phượng hoàng ấy đã đang ngoan ngoãn nằm dưới thân hắn, vòng tay ôm lấy lưng hắn, cùng hắn vành tai kề tóc mai.

"Vương phi thân yêu của ta, hiền phu nhân, em trai ngoan của ta," Lục Lệnh Tùng bất đắc dĩ gọi y từng tiếng, "Em thật là... Sao em có thể ngay thẳng đến mức này chứ? Nếu ta thật sự có vài suy nghĩ không muốn để người khác biết, chẳng phải em sẽ bị ta bán đi mà còn ngây ngô đếm tiền hộ ta hay sao?"

Tạ Cánh buồn bực hừ một tiếng: "Vậy thì xem như em nhìn lầm người, tự nhận lấy xui xẻo. Nhưng anh cũng đừng mong được sống yên ổn — suốt mười năm nay anh đã bỏ công dốc lòng để diễn màn yêu em sâu đậm đến nhường nào rồi, dù cho đó có là giả đi nữa, dù ngày sau em có thật sự bị anh hại chết đi nữa, thì cả đời này anh cũng đừng hòng quên được em."

Lục Lệnh Tùng bịt miệng y: "Đừng có nói mấy lời xui xẻo này chứ."

Hai người nửa đùa nửa thật mà dây dưa trên giường, tay chân quấn quít, âu yếm nhau đến mức hơi thở dần trở nên gấp gáp. Lục Lệnh Tùng cởi áo ngoài ra, Tạ Cánh cũng l*t s*ch chỉ chừa lại một chiếc áo ngủ dài, chất vải mềm mại rủ xuống.

"Em biết rồi," Tạ Cánh đột nhiên bật dậy, ngồi lên người Lục Lệnh Tùng, "Em biết làm cách nào để tạm thời ứng phó bên phía bệ hạ rồi."

Lục Lệnh Tùng nhíu mày, đầu ngón tay nghịch ngợm mân mê nốt ruồi nhỏ sau gân gót chân của y: "Em nhất định phải nói ngay lúc này sao?"

"Không chỉ nói, mà còn phải viết ra nữa," Tạ Cánh thúc giục, "Anh tự viết mới được. Mau lên, em đi chuẩn bị bút mực cho anh."

Lục Lệnh Tùng đành phải bước chân trần ra ngoài, ngồi xuống trước bàn. Tạ Cánh nhẹ nhàng kéo vạt áo khoác hờ trên người, đứng bên cạnh hắn: "Anh cứ khuyên bệ hạ rằng Nhị điện hạ đã đến tuổi rồi, lại học hành chăm chỉ, không cần tiếp tục giữ trong cung nữa. Đến lúc triều nghị có thể cho phép dự thính, các bộ các nha cũng nên để điện hạ có cơ hội làm quen. Vả lại, cũng đã đến lúc cân nhắc chuyện lập phủ và tứ hôn rồi."

"Chắc chắn là mẫu hậu rất thích nghe những lời này," Lục Lệnh Tùng vừa viết vừa nói, "Chỉ là bà ấy không thể chủ động mở lời đề xuất được."

Tạ Cánh xắn tay áo mài mực cho hắn: "Vậy nên mới phải mượn lời anh, hơn nữa phải gửi tấu sớ lên ngay sáng mai, không thể để bệ hạ tiếp tục xem Nhị điện hạ như một đứa trẻ được."

"Nhưng cho dù phụ hoàng có đồng ý để Lệnh Chương ra ngoài, cũng chưa chắc nó có thể tự mình làm việc. Phần lớn vẫn sẽ bị phủ Tướng lợi dụng danh nghĩa, mượn cờ hiệu 'Nhị điện hạ' để nhà mình được thuận tiện thôi."

"Chính vì vậy mới tốt. Chẳng lẽ chỉ có nhà họ Tạ và nhà họ Ngô chúng ta mới phải suốt ngày dè dặt, cẩn trọng từng bước, trong khi bọn họ lại ngang ngược muốn làm gì thì làm hay sao? Chẳng qua trước đây vì Nhị điện hạ còn nhỏ, không dính dáng gì đến triều chính nên bệ hạ mới không thường xuyên cảnh báo, răn đe phủ Tướng thôi. Nếu người đã thích đấu dế, vậy ta sẽ cùng người bàn về cách chơi, trong hũ chỉ có một con chạy qua chạy lại, con kia thì cứ giả chết suốt ngày, như thế còn gì thú vị nữa?"

Lục Lệnh Tùng viết xong, đẩy tấu chương sang một bên cho mực khô. Hắn kéo ghế lùi lại một chút, ngả người tựa vào lưng ghế. Ngay khoảnh khắc đó, Tạ Cánh nghiêng người lách vào khoảng trống giữa hắn và bàn sách rồi ngồi hẳn lên mép bàn, hai tay chống ra sau. Sau đó y nhấc một chân đặt lên đầu gối của đối phương, động tác trườn tới nhẹ nhàng mà linh hoạt như con rắn. Cuối cùng, mũi chân chạm nhẹ xuống vị trí g*** h** ch*n hắn như chuồn chuồn lướt nước, lòng bàn chân cách một lớp vải khẽ cọ qua lại như trêu ghẹo.

"Ở đây sao?" Lục Lệnh Tùng kìm nén hơi thở gấp gáp, bàn tay siết mạnh vòng eo của y hơn.

"Ừ, ở đây." Tạ Cánh nâng tay chạm vào một bên sườn mặt hắn, ngón út bỗng ngoắt nhẹ, kéo một lọn tóc từ búi tóc buộc cao của hắn ra, để nó rủ xuống bên thái dương.

"Em đã nói em tin vào mắt nhìn của mình mà." Y cúi đầu chăm chú quan sát Lục Lệnh Tùng hồi lâu, đầu ngón chân nghịch ngợm đùa vui, nhướng mày trêu hắn: "Đi đâu mới tìm được người đẹp như thế này đây?"

Không lâu sau đó, quả nhiên Lục Lệnh Chương đã chính thức từ biệt những ngày tháng vùi đầu khổ học trong cung, bắt đầu thường xuyên ra vào triều dưới sự ngầm cho phép của Hoàng đế. Trước đây, sau khi mở phủ, thật ra Lục Lệnh Tùng cũng từng có một quãng thời gian vô công rồi nghề, nhàn rỗi mãi đến khi kết hôn mới dần dấn thân vào chính sự, mà khi ấy cũng là do Hoàng đế chợt nhớ đến mới tùy tiện giao cho hắn vài công việc. Nhưng đến lượt Lục Lệnh Chương, Hoàng đế đã không còn đủ sức để kiểm soát chặt chẽ mọi chuyện nữa, lại thêm sự thu xếp của cả nhà họ Vương, tình cảnh hoàn toàn khác hẳn so với Lục Lệnh Tùng "có tiếng chẳng có miếng" của năm đó.

Cùng lúc ấy, vợ chồng Chiêu vương ít vào cung hơn hẳn, nhưng lại xuất hiện bên ngoài nhiều hơn. Trước đây vì sợ phiền phức mà có thể từ chối họ sẽ từ chối ngay, bây giờ thì ai đến cũng không cự tuyệt, ngay cả tiệc nhà vào dịp Đoan Ngọ tháng Năm cũng mời đông đủ tân khách. Vương phủ chỉ góp mặt khi cần ăn uống vui chơi, còn những lời mời mọc mang tính xã giao, kết giao quyền thế thì lại vờ như không thấy, cũng coi như chưa từng nhận được.

Thậm chí, có lần hai người còn tay xách nách mang mấy vò rượu Mai Sơn Tuyết chạy đến Tần Hoài Xuân vào giữa khuya, lên lầu đóng cửa uống suốt cả đêm, sáng ra nếu hết rượu thì về ngủ, nếu vẫn còn thì tiếp tục uống.

Thế là trong thành Kim Lăng rộ lên lời đồn rằng Chiêu Vương và Vương phi "chìm đắm trong tửu sắc". Nhưng những lời nói này lại không hoàn toàn chính xác, vì suy cho cùng, hai người chưa từng làm phiền ai, lại càng không phóng túng đến mức triệu gọi kỹ nữ. Nếu có say đi nữa, thì cũng chỉ là cùng nhau đắm chìm trong "sắc" của chính đối phương, người ngoài chẳng có lý do gì để xen vào.

Tuy nhiên, vẫn có một hai người trong kinh thành có đủ tư cách và cả gan "xen vào" chuyện này. Nhẫn nhịn suốt một tháng, cuối cùng, trưởng công chúa Lục Lệnh Chân một tay bế Lục Thư Ninh, một tay xách roi, mang theo khí thế "thần cản giết thần, Phật cản giết Phật" xông thẳng lên lầu hai Tần Hoài Xuân.

"Lục Tử Phụng!" Lục Lệnh Chân lấy hơi, cất giọng gào lên, "Lục Lệnh Tùng! Lăn ra đây cho em!"

Nàng như cơn cuồng phong xô sóng, sải bước lùng sục hết một lượt các nhã gian trên lầu hai, cuối cùng, ánh mắt Lục Lệnh Chân khóa chặt vào căn phòng rộng nhất hướng ra mặt phố. Nàng nhấc chân đạp mạnh, cửa phòng lập tức bật tung ra, thế là "phong thái" không hề có lấy một lớp che chắn của Chiêu Vương và Vương phi hoàn toàn bị phơi bày trước mắt tất cả những kẻ hiếu kỳ trong Tần Hoài Xuân.

Nói là quá quắt thì cũng chưa đến mức quá quắt, chỉ là không được nho nhã cho lắm, hai người một người thì say khướt, ngửa mặt dựa vào lan can lầu hai, nhìn thế nào cũng thấy lo hắn sẽ bất cẩn rơi xuống dưới. Người còn lại thì ngủ say đến mức chẳng biết trời trăng mây gió gì, hơn nửa thân mình cuộn lại trong vòng tay người bên cạnh. Mùi rượu hòa lẫn với hương liệu trong phòng xộc thẳng vào mũi, gắt đến nỗi nhức hết cả đầu.

Lục Lệnh Chân vung roi lên, quất liên tiếp mấy nhát vào mép bàn, từng tiếng động giòn giã vang lên: "Mọi người nhìn rõ cho ta này! Chiêu Vương điện hạ của chúng ta bây giờ giỏi giang đến mức nào! Mặc kệ phụ hoàng mẫu phi! Bỏ bê cả Vương phủ! Con cái cũng chẳng đoái hoài! Chỉ biết dụ dỗ anh dâu ta chìm đắm trong rượu chè giữa ban ngày ban mặt! Anh xem, say thế này có còn ra thể thống gì nữa không?"

Lục Thư Ninh rất biết phối hợp, lập tức ngồi bệt xuống đất, há miệng gào khóc nức nở.

Tiếng khóc này như một hồi chuông đánh thức bản năng, kéo Tạ Cánh khỏi cơn ngủ mê. Y đột ngột bật dậy khỏi vòng tay Lục Lệnh Tùng, chớp mắt nhìn chằm chằm Lục Thư Ninh ba giây, chậm rãi nhận dạng khuôn mặt nhỏ bé kia rồi nở một nụ cười: "... Ninh Ninh đến rồi à, đừng khóc, mẹ ở đây."

Y vươn tay ra, nhưng Lục Thư Ninh nhảy còn nhanh hơn cả thỏ, vội chui vào vòng tay của cô mình. Em bịt mũi lại: "Không muốn mẹ ôm đâu."

Lục Lệnh Chân sải bước đến bên lan can, túm lấy cổ áo Lục Lệnh Tùng xách lên: "Anh có còn biết nhà mình ở đâu không hả? Hả?"

Lục Lệnh Tùng đưa tay chỉ xuống phía dưới. Lục Lệnh Chân cúi đầu nhìn theo, tức đến bật cười: "Ở dưới đó là sông! Anh là Hà Bá hay Long Vương thế?"

Hai người họ uống rượu thật, say cũng thật, không hề giả vờ chút nào. Một mình Lục Lệnh Chân hoàn toàn không kéo nổi hai con ma men này. Nhưng may mắn là bọn họ cũng chẳng cần nàng kéo, cứ thế nghiêng ngả, xiêu vẹo leo vào xe ngựa.

Về đến vương phủ, Ngân Trù bế Lục Thư Ninh, định gọi tiểu tư đến đỡ, nhưng Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh lại đồng loạt xua tay, tỏ vẻ mình không say, không cần giúp. Thế là bọn họ chỉ đành mặc cho hai người lảo đảo dắt díu nhau, tay chân xoắn quýt chầm chậm trở về nội viện.

Đi ngang qua thư phòng, đúng lúc Lục Thư Thanh vừa ngẩng đầu lên, ánh mắt chiếu thẳng vào đôi cha mẹ chẳng còn nhớ hôm nay là ngày nào của mình. Lục Lệnh Tùng thấy cậu, cố gượng bám vào khung cửa để đứng vững, Tạ Cánh thì hoàn toàn dựa vào cánh tay hắn, dùng nó làm trụ đỡ.

Lục Lệnh Tùng cất giọng điệu dỗ dành mà ngay cả Lục Thư Ninh cũng chẳng tin nổi nói: "Thanh Nhi... Con ngoan, xin lỗi con, cha xin lỗi, cha và mẹ uống nhiều quá, làm ồn đến con rồi, giờ cha mẹ đi ngay đây..."

Tạ Cánh lẩm bẩm phụ họa: "Đi đi đi, đi ngay đây."

Nói rồi, bọn họ lại khoác vai nhau loạng choạng muốn rời đi, nhưng vừa xoay người một cái, trời đất đã chao đảo, suýt nữa là đâm sầm vào nhau, rồi lại loạng choạng đi về phía nhà trước.

Lục Thư Thanh nhìn hai người sắp toi công mà không đành lòng, cuối cùng không nhịn được nữa, cậu đưa tay day trán: "... Cha, mẹ, hai người đi nhầm rồi, phòng ngủ ở bên kia mà."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 92


<b>《</b><b> 22.3 </b><b>》</b>

Ngày ngày chìm trong men say, mơ mơ màng màng mà sống tuy là một cách rất hiệu quả, nhưng cũng rất hại thân, suy cho cùng không phải kế lâu dài. Vì vậy, sau trận náo loạn do Lục Lệnh Chân gây ra, bọn họ lại đổi sang chiêu khác. Cứ cách một khoảng thời gian, Vương phủ sẽ mở rộng cửa đón khách, cho phép ra vào khu vườn vốn hiếm người có cơ hội đặt chân đến, tới nỗi suýt nữa phủ Chiêu Vương đã trở thành danh lam thắng cảnh.

Chỉ riêng Y Bích Đài mà Lục Lệnh Tùng xây tặng Tạ Cánh là tạm thời vẫn không nỡ mở cho người ngoài vào. Lâu dần, mọi người trong nhà đều rèn được kỹ năng vững tâm giữa vô vàn tiếng ồn ào náo nhiệt, ngay cả khi bên ngoài có khách, Tạ Cánh vẫn có thể cùng bọn trẻ thản nhiên ngủ trưa trên đài. Lục Thư Ninh bị mẹ và anh trai kẹp giữa, cả ba xoắn vào nhau thành cái bánh quẩy, đắp chung một tấm chăn lông cáo mềm mại.

Thế nhưng người lạ người quen đến rồi đi, còn thư hồi âm từ nhà họ Vương thì mãi vẫn chưa thấy đâu. Mùa thu năm Trinh Hữu thứ mười sáu, không rõ vì chuyện gì mà Vương Hề và Thôi Thục Thế đánh nhau một trận kịch liệt, nghe nói suýt nữa kéo lên tận nha môn. Từ đó trở đi, Lục Thư Thanh không còn gặp lại A Hoàng nữa.

Cậu cảm thấy hoang mang, bèn hỏi mẹ: "Tại sao có những người đột nhiên lại biến mất như vậy ạ?"

Tạ Cánh ngồi cạnh cậu dưới giàn xích đu, cả hai vừa nhàn nhã đung đưa, vừa chia nhau một đĩa bánh gạch cua. Y nghĩ ngợi một lát rồi đáp: "Nhân duyên trong đời người là như vậy, thế sự tựa mây trôi, vô thường lại là điều bình thường nhất. Người đi cùng chúng ta bỗng chốc rời đi, hoặc đột nhiên có người xuất hiện tiếp tục đồng hành, tất cả đều là những chuyện hết sức bình thường. Sau này con trải qua nhiều hơn, rồi sẽ dần quen thôi."

Vào một ngày cuối thu gió man mát dễ chịu, đúng là rất khó để cảm nhận sự "bi thương cô quạnh". Cơn gió từ phía sau thổi tới làm rối tung mái tóc của hai người. Nỗi buồn biệt ly mơ hồ trong lòng Lục Thư Thanh nhanh chóng bị thổi bay, cậu híp mắt lại thích thú nói: "Mẹ ơi, con muốn đu cao hơn nữa."

"Được thôi." Tạ Cánh nhảy xuống khỏi chiếc xích đu bên cạnh, đặt đĩa bánh xuống rồi bước ra sau lưng cậu. "Nắm chặt vào nhé!"

Sau đó y dùng sức đẩy một cái, Lục Thư Thanh reo lên vui vẻ, tựa như chú chim ưng non lướt qua mặt đất rồi lao thẳng vào vòng tay của bầu trời mà không bị ràng buộc bởi bất kì thứ gì.

Sau khi tiết trời trở lạnh, thời gian dường như cũng trôi chậm lại. Ngày tháng trong phủ Chiêu Vương tĩnh lặng chảy trôi như dòng nước, chầm chậm kéo đến cuối năm. Nghe nói vì sức khỏe Hoàng đế không tốt, cho nên đêm trừ tịch năm nay trong cung sẽ không tổ chức yến tiệc nữa, cửa cung cũng sẽ được khóa lại từ lúc hoàng hôn. Vì vậy, Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh bàn bạc, ban ngày vào cung bái kiến Hoàng đế và Hoàng hậu, hoàn tất các nghi thức cần thiết, đến trưa thì dùng bữa cùng Ngô thị và Lục Lệnh Chân ở điện Minh Loan, còn buổi tối thì trở về ngõ Ô Y đón giao thừa.

Quần áo mới may cho thế tử và quận chúa được đưa tới từ sáng sớm. Mấy cô gái trong viện dùng vải thừa may thêm một chiếc cổ áo cho Lục Ngải. Con vẹt xanh đeo chiếc khăn quàng đỏ trên cổ, ai đi ngang qua cũng đều ghé mắt nhìn khiến nó đắc ý vô cùng. Chỉ có Lục Thư Thanh không thấy chiếc khăn xấu mà còn khen đẹp, cậu để Lục Ngải đậu trên vai, cậu chủ nhỏ đi đâu nó cũng theo sát không rời. Lục Ngải cũng mười một, mười hai tuổi có lẻ rồi, đã không còn nhỏ nữa nhưng vẫn nhanh nhẹn chẳng kém ngày trước. Lục Lệnh Tùng nói, nếu như được chăm sóc chu đáo thì nó sẽ còn sống thêm được lâu lắm.

Sáng sớm ba mươi Tết, Ngân Trù búi tóc bánh bao cho Lục Thư Ninh, hai bên đỉnh đầu còn tách thêm một đường cong mềm mại trông như đôi tai mèo. Giữa hai búi tóc được quấn dây lụa đỏ, cứ cách một đốt ngón tay lại có một chiếc kẹp đèn lồng vàng nhỏ, mỗi khi em chạy nhảy liền vang lên tiếng leng keng trong trẻo. Lục Lệnh Tùng thấy chúng rất thú vị, cứ một lúc lại vươn tay kéo nhẹ một cái, rồi chốc chốc lại chạm vào để tạo ra âm thanh.

Tạ Cánh ngồi trước bàn trang điểm rửa mặt. Lục Thư Ninh trèo lên đùi y, vòng tay ôm cổ chủ động đòi hôn. Mới sáng sớm bé con đã dụ dỗ khiến Tạ Cánh choáng váng đầu óc, y chỉ cảm thấy bản thân đã sinh được một nàng tiên nhỏ, vội dính lấy đôi má mềm mại núng nính hôn mãi như bị mê hoặc. Cuối cùng, vì sợ làm rối búi tóc của cô bé, y mới miễn cưỡng buông em ra.

Trên bức tường phía sau gương có treo bức tranh "Cửu cửu tiêu hàn đồ", đây là một thú tiêu khiển tao nhã theo lệ xưa, trên tranh vẽ một cành mai gồm có chín nhánh, mỗi nhánh có chín bông mai trắng. Bắt đầu từ Đông chí, mỗi sáng khi thức dậy chải chuốt sẽ tiện tay tô đỏ một đóa hoa. Đợi đến khi tám mươi mốt đóa mai đỏ nở rộ cũng là lúc mùa xuân ấm áp tràn về. Vì Lục Thư Ninh thường xuyên ra vào phòng cha mẹ, thế nên trước bàn trang điểm bày bừa đủ thứ đồ chơi em để lại. Tạ Cánh nắm bàn tay nhỏ xíu của con gái chấm một ít son hồng, sau đó bế em lên, tô màu cho bức tiêu hàn đồ đã sắp hoàn thành.

Sáng sớm, ở nhà trước đã có không ít người đến chúc Tết và tặng lễ vật cho Vương phủ. Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh bảo hai đứa trẻ đi thăm tổ mẫu trước, còn họ thì phải tiếp khách một lát rồi mới vào cung.

Trong điện Thần Long không thấy bóng dáng của Hoàng đế và Hoàng hậu đâu, hỏi thị vệ mới biết họ đều ở Tây cung, có lẽ bây giờ đang trên đường trở về, thị vệ bèn bảo hai người đợi một lát hành lang. Nói ra cũng thật buồn cười, ngày xưa, chính tại chỗ này họ đã bị phạt quỳ suốt cả đêm giao thừa, sau khi Lục Lệnh Tùng từ chối nhận đất phiên và tuyên bố sẽ hủy hôn.

Trời đông lạnh cắt da, không ai muốn mở miệng nói chuyện, cứ thế đứng yên dưới bậc thềm chờ đợi trong buồn chán. Bỗng nhiên một cơn gió lạnh thổi qua, cả hai đều giơ tay lên che mặt, buộc phải nghiêng người nhắm mắt lại để tránh gió.

Tạ Cánh nhíu mày, nhìn lên bầu trời hơi u ám: "Em cảm giác hình như mình mặc hơi ít đồ cho Ninh Ninh."

Lục Lệnh Tùng lại hỏi: "Em có lạnh không?"

Tạ Cánh gật đầu, hắn bèn ra hiệu cho đối phương đứng sát lại một chút rồi mở rộng áo choàng để y chui vào, sau đó quấn chặt người vào lòng. Cả hai cùng vùi mặt vào lớp cổ áo mềm mại, ấm áp của nhau, Tạ Cánh cầm lò sưởi nhỏ còn nóng áp lên bụng Lục Lệnh Tùng, nhẹ nhàng v**t v*.

Rồi họ lại chìm vào im lặng, bên tai chỉ còn tiếng gió Bắc rít gào.

Không rõ đã đứng như vậy bao lâu, chẳng ai để ý xung quanh có động tĩnh gì, mãi đến khi phía sau vang lên một tiếng ho khan dài, cố tình nhấn nhá cho ra nhịp của Chung Triệu, cả hai mới sực tỉnh, chậm rãi buông nhau ra, quay đầu nhìn lại.

Trước mặt họ, một hàng người dày đặc đang đồng loạt im lặng nhìn sang với ánh mắt kinh ngạc. Đi đầu hàng là đế hậu, Hoàng đế đang nắm tay Lục Thư Thanh; chậm hơn một, hai bước là Ngô thị bế Lục Thư Ninh trong lòng, quả nhiên trên người cô bé đã được khoác thêm một chiếc áo choàng dày; Lục Lệnh Chân và Lục Lệnh Chương đứng hai bên, phía sau còn có các phi tần, nữ quan cùng một đoàn dài cung nhân, nội giám kéo dài đến mức không thể nhìn thấy hết được.

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh vội tách nhau xa một chút, nhưng giấu đầu thì hở đuôi, mọi người đều đã thấy rõ cảnh hai người ôm ấp ngay trước điện Thần Long, hoàn toàn không để tâm đến xung quanh.

Hoàng đế chậm rãi bước tới, đều giọng nói một câu: "Ở bên ngoài làm xấu mặt còn chưa đủ à?"

Giọng ông tuy không lớn nhưng ai nấy đều nghe rõ, cũng hiểu ông đang ám chỉ điều gì. Chuyện nửa năm qua Chiêu Vương và Vương phi hoang đường phóng túng đã sớm lan truyền khắp kinh thành. Chẳng có ai vì nhìn thấy bọn họ ăn mặc chỉnh tề đứng ở đây mà quên đi những lời cười chê liên quan đến họ cả.

Hai người không phản bác được, chỉ im lặng hành lễ. Làm vợ chồng danh chính ngôn thuận mười năm, là mối quan hệ quang minh chính đại chẳng có gì phải lẩn tránh, cũng không phải lén lút yêu đương, nhưng bị cả trưởng bối lẫn hậu bối tận mắt chứng kiến cảnh thân mật quá mức như vậy, cả hai vẫn khó tránh khỏi lúng túng.

Bọn họ lặng lẽ hòa vào đoàn người hiển quý bậc nhất thiên hạ. Khi đi ngang qua Lục Thư Thanh, Tạ Cánh tinh nghịch nháy mắt với cậu cậu cái, còn Lục Lệnh Tùng thì bước đến bên Lục Lệnh Chân, hai anh em nhìn nhau không chớp mắt, bắt đầu thì thầm to nhỏ.

Lục Lệnh Chân hả hê hỏi: "Bị mắng rồi chứ gì?"

Lục Lệnh Tùng nghiến răng đáp lại: "Em đừng vội mừng, hôm nay đông người, đừng ai hòng thoát được."

Lục Lệnh Chân khẽ nâng sợi tua treo ngọc bên hông lên quấn quanh đầu ngón tay, bắt đầu xoay tròn, dửng dưng nói: "Em mặt dày quen rồi, anh lo mà coi chừng anh dâu bị lôi chuyện cũ ra nói oan đi kìa."

Lục Lệnh Tùng liếc nhìn nàng: "Sáng sớm đến giờ em làm gì thế? Sao mà cả người mồ hôi không vậy?"

Trong nhóm người hoàng thất, Lục Lệnh Chân là người ăn mặc "mát mẻ" nhất, cô nàng chỉ khoác một chiếc áo tay hẹp màu đỏ thẫm thêu họa tiết ô trám và củ ấu, tươi sáng đến nỗi chói mắt. Ở độ tuổi chưa tròn đôi mươi, nhan sắc của Trưởng công chúa giống như mẫu đơn đỏ nở vươn khỏi lan can, đối với nơi cung cấm trang nghiêm mà nói thì nó quá đỗi rực rỡ, quá đỗi táo bạo. Trong vườn ngự uyển, vẻ đẹp ấy dường như chẳng có chốn dung thân, khiến cho người ta thấp thỏm, sợ rằng bông hoa này sẽ nở rộ chớp nhoáng rồi chóng tàn.

Nàng ra vẻ thần bí, vẫy tay gọi Lục Lệnh Tùng lại gần, đợi đến khi đủ để nghe được, nàng mới kề tai hắn thì thầm: "Không nói cho anh biết đâu."

Nhưng vừa đi được thêm mấy bước niềm vui đã hóa buồn, sợi tua trên tay nàng vô tình bị vướng nên tuột ra, xoay tròn trên không rồi bay thẳng về phía Hoàng hậu, va vào tà váy của bà ta kêu "bộp" một tiếng, miếng ngọc nứt ra.

Lục Lệnh Tùng không kiềm chế được mà bật cười trả thù, nhưng vì nhịn quá mức khiến tiếng cười mắc kẹt trong cổ họng, nghe rất buồn cười. Hoàng hậu lạnh lùng ngoảnh lại nhìn, Lục Lệnh Chương ở bên cạnh thì cúi người nhặt sợi tua bị đứt lên, lễ phép trả lại cho Lục Lệnh Chân, cuối cùng cũng bị Vương thị lườm cho một cú sắc như dao.

Vào điện ngồi xuống, uống ba chén rượu ấm, Lục Lệnh Chân mới lấy một nắm bùa bình an đầy màu sắc từ trong ngực áo ra, công bố bí mật của mình: "Sáng nay em dậy sớm lên chùa Linh Cốc xin bùa hộ mệnh cho cả nhà đấy. Trên mỗi cái đều ghi tên họ và ngày sinh, mọi người mau tới nhận phần của mình đi."

Những tấm bùa chỉ là những mảnh giấy mỏng, khiến cho dòng chữ "tiêu trừ bệnh tật, bình an vô sự" in trên đó có phần thiếu sức thuyết phục. Lục Lệnh Tùng nghi ngờ hỏi: "Chùa Linh Cốc dù gì cũng là chùa có tiếng, chẳng lẽ bùa chỉ là mảnh giấy này thôi sao? Em không bị lừa đấy chứ?"

Nhìn kỹ lại, cái gọi là "cả nhà" mà Lục Lệnh Chân nhắc đến thực sự rất rộng —— không chỉ có mẹ, anh trai, anh dâu và các cháu, mà còn có cả cậu mợ bên ngoại là nhà họ Ngô, thậm chí ngay cả Hoàng đế, Hoàng hậu và Lục Lệnh Chương cũng có phần.

Đế hậu ngồi trên cao không nghe thấy lời họ nói, nhưng Lục Lệnh Chương thì có, vừa nhìn thấy tên mình trên bùa, cậu đã không khỏi ngạc nhiên.

Lục Lệnh Chân cười ha ha cho qua chuyện, thấp giọng nói: "À... Thật ra là em mua ở quầy hàng trước cổng chùa. Người bán bảo phải mua từ mười hai cái trở lên, nên để đủ số, em đành phải viết hết tên mọi người vào thôi."

Lục Lệnh Tùng: "Vậy thì đúng là bị lừa rồi đấy cô nương!"

Cuối cùng Lục Lệnh Chân cũng chịu thú nhận sự thật: "Được rồi, nhưng thật ra là vì người bán đó có một cây đao Hồ cực đẹp luôn ấy. Ban đầu người ta không chịu bán, nhưng thấy em thật lòng thích, ông ta bèn bám lấy em, không những hét giá trên trời, mà còn bắt em mua hết đống bùa bình an trên sạp thì mới chịu bán đao."

Trưởng công chúa từ nhỏ đã quen nhìn binh khí mà anh trai dùng, con mắt xem đao kiếm cũng được luyện ra từ đó. Nàng nói đao tốt thì chắc chắn tám chín phần là thật. Dù chưa thức tỉnh thiên phú mặc cả, nhưng về độ tinh tường với vũ khí, nàng hoàn toàn kế thừa truyền thống của người Việt* chuyên rèn kiếm.

<i>(*) Nước Việt – tên nước thời Chu, ở phía đông tỉnh Chiết Giang ngày nay, sau này mở rộng lên vùng Giang Tô, Sơn Đông.</i>

Quả nhiên, vừa nghe thấy có đao tốt, Lục Lệnh Tùng lập tức quên sạch chuyện cười nhạo cô em gái bị lừa tiền: "Anh không tin, trừ phi em cho anh mượn chơi thử." Đáp lại hắn chỉ là một động tác cắt cổ đầy hung dữ của Lục Lệnh Chân.

Lục Lệnh Chương mở túi hương luôn mang theo bên mình, nhét tấm bùa bình an thuộc về bản thân vào trong, sau đó lặng lẽ ra hiệu với chị gái. Lục Lệnh Chân mỉm cười với cậu, giấu tay dưới bàn làm một động tác chắp tay ôm quyền, ý nói "cảm ơn đã ủng hộ". Sau đó, nàng chọn ra mấy tấm dành cho Hoàng đế, Hoàng hậu và Ngô thị rồi bước lên phía trước.

Tạ Cánh đang ôm Lục Thư Ninh, dạy cô bé nhận mặt mấy chữ "bình an vô sự", còn nhỏ giọng bảo: "Tên chữ của mẹ cũng có chữ 'Vô' này đấy." Còn chưa êm đềm được bao lâu, bỗng phía trước vang lên giọng Hoàng đế quát mắng: "Lần sau đừng có mang những thứ này vào cung nữa!"

Mọi người đều sững sờ, ngay cả Lục Lệnh Chân vốn không sợ trời chẳng sợ đất cũng giật mình co rúm người lại theo phản xạ trước cơn thịnh nộ bất ngờ của phụ hoàng. Dưới chân nàng là tấm bùa bình an dâng lên Hoàng đế đã bị xé rách, cung nhân nhanh nhẹn bước lên dọn sạch những mảnh giấy vụn kia, để tránh phạm húy thiên tử, trên tấm bùa này chỉ viết ngày sinh tháng đẻ, không có tên họ.

Hoàng đế vốn rất ít khi nổi giận, phần lớn thời gian chỉ giữ vẻ mặt bình thản, không lộ vui buồn. Đối với đứa con gái này ông lại càng có thái độ dửng dưng, chẳng mấy bận tâm đến hành tung của nàng. Lục Lệnh Chân đứng sững tại chỗ, trước đó nàng nghĩ rằng phụ hoàng có lẽ cũng sẽ chỉ hời hợt với thứ này, tùy tiện để qua một bên, nhưng hoàn toàn không ngờ tới việc chỉ là một hàng số viết ngày sinh đơn giản lại có thể khiến long nhan đại nộ như vậy.

Lục Lệnh Tùng thấy vậy, bước lên phía trước nói: "Sinh thần của phụ hoàng là ngày thiên hạ đều biết đến, Chân Chân làm như vậy là để thể hiện lòng hiếu thảo, thật lòng mong phụ hoàng long thể khang kiện. Dù có chút đường đột, nhưng cũng không thể coi là sai lầm đâu ạ."

Hắn đoán có thể Hoàng đế chỉ đang kiêng kỵ mấy chữ "tiêu trừ bệnh tật", nhưng ngẫm lại thì không giống lắm. Có thể thấy rằng cơn giận của Hoàng đế bắt nguồn từ ngày sinh nhật kia, mà chuyện này lại càng kỳ lạ hơn nữa. Sinh thần của thiên tử là đại lễ cả nước ăn mừng, bao nhiêu năm qua vẫn ổn, tại sao đột nhiên lại trở thành điều kiêng kỵ? Chẳng lẽ tấm bùa này viết sai ngày sinh? Thật ra Hoàng đế không sinh vào ngày đó ư?

Lục Lệnh Tùng chỉ lo che chở cho Lục Lệnh Chân, trong lúc vội vàng lại lỡ lời, nói ra những điều không nên nói. Vừa thấy hoàng đế dời ánh mắt sang trưởng tử, có ý chuyển hướng trách phạt, Ngô thị lập tức lên tiếng hòa giải cho hai con: "Chân Chân còn nhỏ, ngốc nghếch không hiểu nặng nhẹ, bệ hạ trách mắng đôi câu là được rồi. Hôm nay là ngày đoàn viên sum vầy, xin đừng trách phạt bọn trẻ."

Lục Thư Thanh cũng biết lựa lời khuyên giải, cậu lắc lắc tay Hoàng đế, lanh lợi nói: "Tổ phụ đừng giận, con vừa mới học xong hiếu thuận kinh, để con đọc cho người nghe nhé."

Hoàng đế nghe cháu trai khuyên nhủ, sắc mặt mới dịu đi đôi chút, chỉ bực bội phất tay ra hiệu cho Lục Lệnh Chân lui xuống.

Đến giờ ăn trưa, rời khỏi điện Thần Long, tính tình kiêu ngạo bướng bỉnh của cô công chúa đã lại chiếm thế thượng phong, sắc mặt nàng sa sầm, cả đường đi chẳng nói một lời. Cửa điện Minh Loan vừa đóng lại, Lục Lệnh Chân hậm hực than vãn: "Lòng tốt mà bị coi thành gan lừa! Sau này có muốn ta hiếu kính thì cũng đừng hòng! Dù ông ấy có chướng mắt ta đến đâu đi nữa, chẳng lẽ thật sự giết ta được chắc!"

Không ai lên tiếng ngăn cản, cũng không ai nhắc nhở nàng phải giữ mồm giữ miệng —— ngay cả cung nhân theo hầu bên cạnh Ngô thị cũng thấy ấm ức thay cho nàng. Đêm trừ tịch đáng ra nên là lúc vui vẻ thoải mái, vậy mà mới sáng sớm đã bị phá hỏng, thật sự là vô cùng mất hứng.

Ngô thị trở về tẩm điện, lấy một cây chổi nhỏ chuyên để phủi giường ra, nhẹ nhàng quét lên áo ngoài của con gái, dù trên đó chẳng có chút bụi nào.

Lục Lệnh Chân lập tức bật dậy: "Mẹ, mẹ làm gì thế! Đây là đồ con mới thay đấy!"

Ngô thị lại nói: "Giúp con phủi sạch vận xui và những chuyện bực bội, để chúng ở lại năm cũ, đừng mang sang năm mới."

Lục Lệnh Chân nghe vậy, không những không phản đối mà còn giật lấy cây chổi hăng hái quét mạnh lên người mình mấy cái như muốn trút giận, khiến cả phòng nhìn đều bật cười.

Tạ Cánh thấy nàng lại bĩu môi, mặt mày ỉu xìu, ủ rũ chui vào trong giường, bèn nhỏ giọng bảo Lục Thư Ninh: "Con xem, cô không vui rồi, chúng ta mau đi dỗ cô con thôi."

Lục Thư Ninh lập tức chui vào lòng Lục Lệnh Chân, hết cọ lại rúc giống như một con thỏ nhỏ đào hang, đây chính là cách thể hiện sự thân thiết mà cô bé thích nhất. Tạ Cánh thì ngồi xuống bên cạnh, vòng tay qua ôm lấy vai nàng: "Hôm nay bệ hạ nổi giận, e là còn có nguyên do khác, không phải cố ý nhằm vào em đâu. Anh biết em đang tức giận, nhưng thiên hạ lắm kẻ đáng giận, nhiều chuyện phiền lòng, nếu cứ ôm hết từng chuyện một vào lòng, chẳng phải sớm muộn gì em cũng tức đến mức phình ra như cá nóc sao?"

Y ghé sát tai Lục Lệnh Chân thì thầm: "Mấy năm nay anh luôn tự nhủ, Hoàng hậu tức giận thì anh không tức, anh mà tức chết để bà ta được như ý thì sao? Trái lại, nếu khiến người khác tức ngược, một người tức thì tính là thắng một, hai người tức thì anh lời thêm một nữa. Bà cô của anh ơi, em mua đao bị lừa tiền thì thôi, coi như tiêu tiền trừ họa, nhưng loại chuyện này tuyệt đối không thể để người khác hưởng lợi được."

Lục Lệnh Tùng chẳng biết từ lúc nào đã ghé tới, đột nhiên chen vào từ phía sau: "Nếu em mà chết vì tức, anh sẽ không vui đâu."

Hai người bị hắn làm cho giật nảy mình. Chỉ thấy Lục Lệnh Tùng híp mắt cười vui vẻ, lần lượt gõ nhẹ lên mũi Lục Lệnh Chân rồi véo d** tai Tạ Cánh, sau đó hắn vung tay phải lên, lưỡi đao vừa tinh xảo vừa sắc bén tựa sương thu đã được hắn lấy ra từ lúc nào, giờ đây đang nằm gọn trong lòng bàn tay theo tư thế xoay ngược.

"Vừa hay hôm trước anh mới có được một miếng da đào vàng thượng hạng, ngày mai sẽ làm thành vỏ đao cho em, đính thêm vài viên minh châu nữa, treo bên hông ra ngoài phố cho oách." Hắn nhìn em gái mình, hỏi nàng: "Như vậy em đã nguôi giận chưa?"
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 93


<b>《</b><b> 22.4 </b><b>》</b>

Ngoài và trong hoàng cung là hai khung cảnh năm mới hoàn toàn khác biệt. Nếu không có lệnh cấm rõ ràng, dân chúng sẽ không vì thiên tử ốm đau mà bỏ qua việc đón Tết. Phố phường thành Nam tấp nập người xe qua lại, sông Tần Hoài chăng đèn kết hoa rực rỡ. Trên xe ngựa rời khỏi hoàng cung, lòng dạ Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh đã sớm bị kéo đi xa, chỉ hận không thể lập tức bay về nhà ngoại.

Những nơi tập trung các gia tộc quyền quý chẳng có lúc nào thiếu khách khứa bè bạn, mà ngõ Ô Y lại càng nườm nượp người ra vào, mấy năm qua Tạ Dực và Tạ Duyễn đều phải tiếp đãi từ sáng sớm đến tận khi trời tối mịt. Bốn người phủ Chiêu Vương về nhà mà nom như phường trộm cướp, không dám đi cửa chính, chỉ sợ bị người ta bắt gặp rồi lôi kéo làm thân, đến lúc đó lại phải khách sáo hàn huyên một phen.

Vừa vào nội viện, Lục Thư Ninh đã bị Diêu thị kéo lại, dùng "thủ pháp" x** n*n bé cưng thành thạo của mình nắn em cả buổi trời. Chị và Tạ Duyễn không có con gái, vậy nên họ rất yêu thương Lục Thư Ninh, coi em như con ruột.

Vừa bóp mặt cô bé, chị vừa ra vẻ thần bí kéo Tạ Cánh sang một bên, hỏi nhỏ: "Em đã nhìn thấy chưa?"

Tạ Cánh không hiểu: "Thấy gì cơ ạ?"

Diêu thị hất cằm ra ngoài: "Con gái nhà họ Lý ấy."

Tạ Cánh nhìn ra sân, lúc này mới phát hiện dưới hành lang có ba thiếu niên đang tụ tập, đó chính là Tạ Tuấn cùng hai người cháu của Lý Kỳ. Nhà họ Lý vốn chỉ là thương gia mới nổi, còn nhà họ Tạ lại là danh môn vọng tộc lâu đời, bình thường quan hệ thế này rất khó mà qua lại, cũng chưa chắc đôi bên sẽ coi trọng lẫn nhau, nhưng nhờ vào mối nhân duyên của y và Lục Lệnh Tùng, từ lợi ích lớn lao đến giao tình của hậu bối, hai nhà cứ thế hòa thuận mà làm bạn.

Tạ Tuấn mắt tinh thấy y, bèn cất giọng gọi: "Chú về rồi đấy ạ!"

Hai người bên cạnh cậu cũng quay đầu lại, đó là một cặp chị em song sinh có phong thái vô cùng xuất sắc, cả hai cung kính hành lễ với Tạ Cánh từ xa.

Lý Dã có lẽ là người khiến Tạ Cánh cảm thấy dễ chịu nhất trong số những người mà y từng gặp trên đời, một cô gái như đắm mình trong gió xuân. Trời sinh cô có đôi mắt biết cười, khi nhìn người khác luôn dịu dàng mềm mại, không hề mang tính công kích nhưng cũng không khiến người ta nghĩ rằng cô dễ bị ức h**p. Mặc dù trong chốn quan trường đầy rẫy những người khoe tài khoe sắc, nhưng kiểu người tự nhiên, dễ gây thiện cảm và lấy lòng tin như cô thật sự rất hiếm thấy.

Trái lại, Lý Huống, người em trai có dung mạo tương tự cô lại có vẻ ngoài khó gần, cậu ta có thói quen nhíu nhẹ đầu mày, cả người toát lên vẻ kiêu ngạo lạnh lùng. Ngay cả khi cười cũng chỉ là nụ cười mỉa mai chế giễu. Việc cậu ta có thể trở thành bạn tri kỷ với Tạ Tuấn – một tên nhóc tính tình có phần vô tư trong sáng, đúng là chuyện vừa bất ngờ lại vừa hợp lý.

Tạ Cánh cũng chào hỏi lại với họ, sau đó xoay mặt lại, ngạc nhiên nói với chị dâu: "Cô bé nhà họ Lý và Tuấn Nhi là, là... Em còn tưởng chỉ là bạn bè quen biết bình thường thôi chứ."

Diêu thị buông tay, nói: "Cũng vì chị không biết có phải hay không, cho nên mới đến hỏi em đấy."

Tạ Cánh vẫn chưa thể chấp nhận sự thật này ngay được. Trong tiềm thức của y, Tạ Tuấn vẫn là hạt đậu nhỏ dính người giống như Lục Thư Thanh, chẳng ngờ chớp mắt một cái đã lớn khôn, trở thành lang quân cao ráo tuấn tú, lại còn có cả mối tơ tình khó mở lời cùng ai.

Ngoài sảnh vọng đến tiếng Lục Thư Thanh gọi "mợ ơi", Diêu thị bèn dặn dò Tạ Cánh: "Lúc nào rảnh thì em để ý giúp chị một chút nhé." Nói xong, chị lớn tiếng đáp lời rồi ôm Lục Thư Ninh rời đi.

Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng tạm thời thành người nhàn rỗi, đầu tiên vòng qua nhà sau một vòng, mỗi người tiện tay cầm mấy chiếc bánh mè chiên, sau đó ngồi xuống cạnh nhau trên chiếc ghế dài ngoài sân, buồn chán tán gẫu đôi câu.

"Em đang tính, mấy ngày nữa đến phủ chúc tết thầy sẽ tiện thể nhờ vả một câu, cũng sẽ thường xuyên đưa Thanh Nhi đến phủ Thái phó chơi, lúc nào không có việc gì làm thì nhờ thầy dẫn nó theo đến Quốc Tử Giám mở mang tầm mắt."

Khóe miệng Tạ Cánh còn dính dầu bóng nhẫy, Lục Lệnh Tùng đưa ngón tay lên ra hiệu, y lại không để tâm mà phẩy tay: "Ôi dào, dù sao cũng chẳng ai thấy, ăn xong rồi lau một thể luôn."

Lục Lệnh Tùng suy nghĩ một lúc rồi nói: "Sang năm thằng bé cũng chín tuổi rồi, thời gian trôi qua nhanh thật."

Lục Thư Thanh chín tuổi, cũng có nghĩa là bọn họ đã kết hôn được chín năm. Tạ Cánh vẫn còn nhớ rõ cảnh tượng vào ngày mùng bảy tháng Giêng năm Trinh Hữu thứ tám, y khoác lễ phục thêu chim công màu đỏ ánh vàng, từng bước rời khỏi phủ này, đặt bàn tay của mình lên lòng bàn tay của Lục Lệnh Tùng.

"Chúng ta cũng sắp đến tuổi nhi lập* rồi nhỉ." Tạ Cánh le lưỡi, "Đáng sợ quá đi."

<i>(*) </i>而立之年<i> (nhị lập chi niên) là một thành ngữ Trung Quốc, chỉ độ tuổi 30 tuổi của người đàn ông. Cụm từ này xuất phát từ Luận Ngữ của Khổng Tử: "Ta mười lăm tuổi chí học, ba mươi tuổi lập thân, bốn mươi tuổi không còn mê muội, năm mươi tuổi biết mệnh trời, sáu mươi tuổi thì nghe gì cũng thông, bảy mươi tuổi thì làm gì cũng theo ý muốn mà không vượt khuôn phép." Trong đó, "</i>而立<i>" (nhị lập) nghĩa là đã đạt đến tuổi trưởng thành, có sự nghiệp và lập thân vững chắc.</i>

Lục Lệnh Tùng nghiêng đầu nhìn sang, với dáng vẻ thản nhiên chẳng vướng bận điều gì, và tay thì vẫn đang cầm bánh điểm tâm thế kia của y, chẳng thấy có gì gọi là đang sợ hãi cả.

Hắn vỗ vai đối phương: "Có chuyện này ta luôn cảm thấy tò mò, nhưng không tiện hỏi em."

"Ồ?" Tạ Cánh ngạc nhiên, "Ngần ấy năm rồi, còn có chuyện gì mà anh ngại hỏi hả?"

Lục Lệnh Tùng vén lọn tóc rũ trước ngực y sang một bên, nâng chiếc hộp hương nhỏ bằng bạc lên: "Ngày đó khi lén ta kết tóc, rốt cuộc trong lòng em đã nghĩ gì vậy?"

Tạ Cánh sững người, chậm rãi nhai thêm hai cái. Y chưa từng nghiêm túc suy nghĩ đến chuyện này.

Tình cảm của y dành cho Lục Lệnh Tùng từ ban đầu chỉ là tò mò, rồi dần trở thành ngưỡng mộ, đến không nỡ rời xa, và cuối cùng là "yêu", rõ ràng đó là một hành trình dài dằng dặc, dù đôi khi có những khoảnh khắc sáng tỏ thoáng qua, nhưng phần lớn sự thay đổi đều diễn ra trong vô thức.

Vào đêm tân hôn, y chắc chắn rằng mình thật sự thích Lục Lệnh Tùng, điều này không sai, nhưng nói rằng y đã yêu sâu đậm đến mức nguyện cùng sống chết thì hoàn toàn không phải. Bây giờ nghĩ lại, Tạ Cánh cũng cảm thấy hành động nhân lúc đối phương ngủ say lén lút kết tóc có phần quá táo bạo và mãnh liệt.

Nghẹn lời hồi lâu, Tạ Cánh chỉ có thể lắp bắp: "... Em nghĩ, có lẽ là, vì đêm đó tiếp xúc da thịt với anh... Năm đó em mới mười sáu tuổi, bình thường chưa từng gần gũi với ai như vậy, có khi là đầu óc nóng lên, bèn..."

Nói đến đây, y lại càng phát hiện chuyện này cũng có lý. Một thiếu niên hoàn toàn không có kinh nghiệm về chuyện yêu đương, đối diện với người chồng mà mình vốn có hảo cảm, lại vừa mới chính thức thành thân lần đầu trải nghiệm mây mưa ân ái, cảm giác rất tuyệt, trong lúc say mê hứa hẹn cả đời cũng không phải là không có khả năng.

Lục Lệnh Tùng nghe câu trả lời của y, lộ ra vẻ mặt vừa mang hơi hướm nghiền ngẫm, vừa như được yêu thương mà sợ hãi.

"Còn anh chỉ giỏi lừa em bằng mấy lời ngon ngọt." Tạ Cánh chọt vào ngực hắn.

Lục Lệnh Tùng đáp: "Em đừng vội. Ta không chỉ có chuyện ngại không dám hỏi, mà còn có chuyện ngại không dám nói với em nữa đây."

"Gì cơ?"

"Trước đây ta suy nghĩ kỹ rồi, hình như đã hiểu vì sao phụ hoàng lại nói em có thể 'kiềm chế' ta."

Hắn nhớ lại một chút: "Từ trước khi em đứng đầu bảng Tam Nguyên, ta đã nghe không biết bao nhiêu lời đồn về em rồi. Bọn họ đều nói em mắt cao hơn đầu, không biết điều, không biết khách sáo, kiêu căng quái gở, không biết lớn nhỏ, không hiểu lễ nghĩa — tóm lại chẳng có lời nào tốt đẹp."

"Từ nhỏ đến lớn, những người ta tiếp xúc đều là tinh anh cả, ai nấy đều trơn tru khéo léo, giỏi xử sự. Ta chưa từng thấy ai ở thành Kim Lăng dám không màng để tâm đến mặt mũi của bản thân như vậy, thế nên ta rất muốn tự mình xem thử, rốt cuộc em là thần thánh phương nào."

Tạ Cánh ghé sát lại, lườm hắn: "Sau khi gặp rồi có phải thất vọng lắm không?"

"Không." Lục Lệnh Tùng lắc đầu. "Chỉ cảm thấy em trông như búp bê sứ, không giống người thật."

"Ồ, bảo sao vừa mới thành thân, có người đã không biết xấu hổ ngang nhiên ngủ chung giường với người ta, chẳng thèm nghĩ đến chuyện chia phòng nữa cơ."

Lục Lệnh Tùng đẩy nhẹ y một cái, cười nói: "Thật ra ta rất ngưỡng mộ em. Ta nghĩ bản thân từ nhỏ đã phải chịu áp lực nặng gấp trăm ngàn lần em, vậy mà đến một chữ 'không' cũng chẳng dám nói. Ta không dám làm mất mặt các công khanh quyền quý, không dám cãi ý phụ hoàng mẫu hậu, thậm chí đối diện với người ta không thích hay chuyện không muốn làm, ta cũng không dám cau mày dù chỉ một chút."

"Sau này khi chính thức quen biết em, tiếp xúc với em nhiều hơn, kết hôn rồi sinh Thanh Nhi, ta không biết liệu em có nhận ra hay không, nhưng ta đã không còn 'nghe lời' như trước nữa. Ta thích học theo dáng vẻ tùy tiện, ngang tàng của em, muốn làm gì thì làm, giận sẽ nói, ghét sẽ mắng... Tóm lại, mỗi lần thấy em, ta như thấy được một mặt khác của chính mình, dù không thể với tới nhưng lòng vẫn luôn hướng về. Tự nhiên cũng không kìm được mà coi trọng tính cách của em."

Hắn nói đến đây, Tạ Cánh đang ngẩn người thì bỗng nhiên Lục Thư Ninh chạy vào trong sân, không biết đang chơi trò gì, vừa nhìn thấy y cô bé đã lập tức nhào tới, khuôn mặt nhỏ đỏ bừng vì chạy nhảy, liên tục gọi "mẹ".

"Sao thế?" Tạ Cánh hỏi.

"Con chỉ muốn gọi mẹ thôi." Lục Thư Ninh ngẩng đầu lên, chiếc chuông nhỏ sau đầu khẽ va vào nhau phát ra âm thanh trong trẻo.

Tạ Cánh bẻ một miếng bánh trong tay, đưa cho em: "Nếm thử đi, bánh vừa mới chiên xong là thơm nhất đấy."

Lục Lệnh Tùng nhắc nhở: "Chừa bụng lát nữa còn ăn sủi cảo hoa mai nữa, nửa tháng trước đã đòi ăn rồi, con mà không ăn hết lần sau cha không làm nữa đâu."

Tạ Cánh ôm Lục Thư Ninh, cúi đầu nhìn em vất vả cắn miếng bánh bằng hàm răng sữa nhỏ như hạt gạo, bỗng nhiên đáp lại câu nói ban nãy của Lục Lệnh Tùng: "Chẳng qua là anh trưởng thành sớm hơn em một chút, gánh vác nhiều trọng trách hơn mà thôi. Em chưa bao giờ cần anh mắng chửi người cùng em, cũng chưa bao giờ cần anh vì em mà đối nghịch với bệ hạ và Hoàng hậu. Những thứ mà em muốn thật ra chỉ là một đài ao nhỏ, một đĩa bánh hấp và một vò rượu mà thôi. Con nói xem có đúng không, Ninh Ninh?"

Lục Thư Ninh vốn chẳng nghe y nói gì, chỉ ngẩng mặt lên, dùng cái đầu nhỏ cọ vào cằm y.

Đến chạng vạng tối, khách khứa mới dần dần tản đi, Tạ Cánh đi lên nhà trước, thấy Tạ phu nhân và Diêu thị đang quây quần bên lồng xông hương, vừa trông lò sưởi vừa cắt giấy hoa. Tạ phu nhân khéo tay vô cùng, cắt giấy thành hình "hỉ thước đăng chi" và "liên niên hữu dư". Thấy con trai nhỏ tới, bà bèn dùng chiêu cũ thường hay dỗ Tạ Cánh lúc y còn bé, tiện tay cắt một bông hoa tròn nhỏ, chấm chút hồ rồi dán lên mu bàn tay y.

Tạ Cánh vẫn còn rất thích trò này, vui vẻ ngắm nghía cả buổi, Diêu thị bật cười trêu: "Ninh Ninh chẳng thèm chơi trò này, em còn không bằng con bé nữa ấy."

"À, lúc đến đây con có thấy chữ 'Phúc' mới dán trên cửa chính, " Tạ Cánh nói, "Là chữ Thanh Nhi viết đấy mẹ."

Mọi năm, câu đối xuân ở phủ Chiêu vương và các phòng trong phủ ở ngõ Ô Y đều do y tranh thủ viết một lèo trong buổi chiều nào đó cuối tháng Chạp. Mấy hôm trước, đúng lúc thấy Lục Thư Thanh rảnh rỗi không có việc gì làm, lại đứng bên cạnh xem, Tạ Cánh bèn tiện thể bảo cậu viết hai tờ, không ngờ trông cũng khá giống.

Tạ phu nhân trêu chọc: "Cha con biết vậy nên vui mừng không ngớt, sáng nay gà còn chưa gáy đã dậy rồi, hớn hở mang đi dán ngay. Có khách nào tới cũng phải khoe một lần, sợ người ta không biết đây là chữ do cháu ngoại bảo bối của ông ấy viết."

Diêu thị xen vào hỏi: "Mà đêm nay các em ở lại đây chứ? Giường chiếu ở Nam viện đều đã dọn dẹp xong xuôi rồi, vả lại trong cung cũng không bắt bớ, ở thêm vài hôm nữa cũng có sao đâu."

Chưa đợi Tạ Cánh trả lời, Tạ Tuấn đã dẫn em trai và em gái họ của mình đi vào. Lục Thư Ninh ngồi trên vai cậu, còn Lục Thư Thanh bị cậu kẹp dưới cánh tay, trên tay cậu nhóc còn cầm một chiếc đèn lồng vải lụa, chắc là mới được mua cho từ chỗ mấy người bán đèn dạo dọc phố bên ngoài. Diêu thị vừa nhìn thấy đã nói ngay: "Thanh Nhi và Ninh Ninh ngủ với mợ nhé, quyết định vậy đi."

"Sao con lại không được nhận đãi ngộ này?" Tạ Tuấn d*ng ch*n ngồi phịch xuống giữa trường kỷ, tiện tay cầm một tờ giấy đỏ và cây kéo nhỏ lên, bắt đầu loẹt xoẹt cắt loạn xạ.

Thế là bị Diêu thị vỗ vào tay một cái, chị trừng mắt: "Con mấy tuổi đầu rồi mà còn đòi ngủ chung với mẹ hả?"

Tạ Tuấn ôm đầu, tránh bàn tay Tạ phu nhân đang chuẩn bị xoa đầu cậu như xoa mèo con chó con, cự nự: "Bà nội, bà có nghe thấy không! Con lớn bằng này rồi, không thể tùy tiện xoa đầu được đâu, con còn phải cao thêm nữa đó!"

Trong sảnh đốt lò sưởi suốt cả ngày, hương ấm lan tỏa khắp nơi. Tạ Cánh thấy mấy anh em chơi vui đến đổ mồ hôi, bèn bảo chúng cởi áo ngoài ra. Tạ Tuấn liếc thấy chiếc khóa trường mệnh trên ngực Lục Thư Thanh, chợt nhớ ra điều gì đó, cậu nói: "Chú, hôm nay Thái thú Ung Châu nhờ người mang một lô phôi ngọc* đến làm quà mừng. Cha con nghĩ năm xưa Thái thú từng có duyên thầy trò với điện hạ, từ chối thì không phải phép nên đã nhận và đáp lễ rồi. Vừa nãy cha cũng đã sai người mang một phần sang Vương phủ, chú và điện hạ xem rồi quyết định phân chia đi."

<i>(*) Nguyên văn là "ngọc liệu" (</i>玉料<i>) có nghĩa là nguyên liệu ngọc hoặc phôi ngọc. Đây là từ dùng để chỉ các loại đá quý như ngọc bích, ngọc phỉ thúy, hoặc các loại ngọc khác ở dạng thô, chưa được chế tác.</i>

Tạ Cánh ngoài miệng đáp cho có, nhưng trong lòng lại có chút nghi hoặc. Lục Lệnh Tùng và người thầy từ thời niên thiếu này thật ra cũng không có giao tình gì nhiều, thậm chí bình thường đối phương còn chẳng hề qua lại với phủ Chiêu vương, sao đúng thời điểm này lại đột nhiên mang quà cáp đến nhà họ Tạ? Chẳng lẽ là nghe được lời đồn gì đó về việc tranh đoạt ngôi vị Thái tử, muốn nhân cơ hội này lôi kéo quan hệ, tìm cách để được điều về kinh thành?

Vì giao thừa năm nay đông người, bữa tối được dọn ngay tại sảnh trước. Tạ Cánh có mang theo rượu Mai Sơn Tuyết từ Vương phủ tới, nhưng sợ cha mẹ lo lắng cho mình vì chuyện uống rượu nên cũng không dám uống nhiều, chỉ bảo người mở một vò góp vui mà thôi.

Tết ở Kim Lăng không có tục lệ ăn sủi cảo, mọi năm đều dùng chè trôi nước làm món chính, chẳng ai có lòng gói bánh. Sủi cảo là món Lục Lệnh Tùng làm riêng cho Tạ Cánh. Ban đầu mọi người biết y thích nên đều nhường hết cho y, Tạ Cánh ăn hai cái mới nhận ra, bèn bảo: "Mọi người cứ ăn đi chứ, mình con làm sao ăn hết được."

Lục Lệnh Tùng nói: "Ta có gói tiền đồng vào hai cái bất kì, cầu mong năm mới tài vận hanh thông, vạn sự như ý, không biết ai sẽ ăn trúng để lấy hên đây nhỉ?"

Hắn vừa dứt lời, cả nhà bèn đồng loạt ra tay, thậm chí ngay cả Tạ Dực cũng âm thầm tham gia. Đầu tiên Lục Thư Ninh và Tạ Tuấn cùng nhắm tới một chiếc sủi cảo, Tạ Tuấn muốn nhường cho cô bé, kết quả Lục Thư Ninh tuy nhỏ tuổi nhưng cũng hiểu đạo lý trên đời không có bánh từ trên trời rơi xuống, em chớp mắt một cái, lập tức đảo khách thành chủ: "Xưa giờ vận may của anh chẳng ra gì, thôi thì để em đổi sang cái khác vậy."

Rồi cô bé trơ mắt nhìn Tạ Tuấn ăn trúng đồng tiền đầu tiên.

Đúng là Tạ Tuấn đã quen với vận xui quấn thân, lúc này vui mừng đến nỗi suýt nhảy cẫng lên, không thèm để ý đến Lục Thư Ninh đang há hốc mồm kinh ngạc, lập tức quay sang hỏi xin Diêu thị một đoạn dây tơ, buộc đồng tiền lại treo trên cổ, còn thề thốt rằng ngay cả khi tắm cũng sẽ không tháo ra: "Năm sau có thể thắng lại tiền đã thua Lý Huống ở trường đua ngựa hay không đều trông cậy vào mày đó."

Ba cha con Tạ Cánh thì chọn cánh dùng "nhãn lực" để tìm kiếm, lớp vỏ của bánh hấp có đồng tiền gói bên trong sẽ hơi khác một chút, hiển nhiên là cả ba người đều cùng lúc nhận ra điều này. Ba đôi đũa vừa nhanh, vừa chuẩn, vừa gọn, chọc ra sáu cái lỗ trên chiếc sủi cảo dài, mép đồng tiền cũng lộ ra, âm mưu biến thành dương mưu, cuộc phân tranh may mắn bỗng chốc biến thành cuộc thi xem ai dùng đũa khéo hơn.

Tạ Cánh cầm đũa rất cao, mọi người cười nói rôm rả còn thấy kỳ lạ, đều bảo rằng cầm đũa cao thì sẽ gả xa, nhưng Tạ Cánh lại gả gần đến nỗi cưỡi ngựa cũng thấy phiền.

Câu nói kia là thật hay giả cũng không rõ, nhưng đúng là Tạ Cánh dùng đũa không thạo bằng cha và anh trai của mình, dù sao họ cũng ăn cơm nhiều hơn y ngần ấy năm. Mới vài lượt mà Tạ Cánh đã rơi vào thế yếu, ỉu xìu nhận thua, ngậm ngùi nhìn đồng tiền thở dài thườn thượt.

Cuối cùng, Tạ Dực là người chủ động rút lui, tỏ vẻ không thèm tranh giành chuyện nhàm chán này với con cháu, ông hừ một tiếng, nhường lại đồng tiền cho Tạ Duyễn. Nhưng nhìn sang bộ dáng háo thắng tranh đoạt như con nít của em trai mình, anh không nhịn được cười, thế là nhét luôn đồng tiền vào tay y: "Cho em này!"

Tạ Cánh lập tức cười tươi roi rói, biểu cảm thay đổi còn nhanh hơn cả Lục Thư Ninh, y cảm ơn một tiếng ngọt ngào như ngâm mật rồi kẹp đồng tiền giữa đầu ngón tay, xoay nó một vòng như làm ảo thuật, sau đó đưa tới trước mặt Lục Lệnh Tùng, khoe khoang với hắn: "Thấy chưa? Là anh trai em cho em đấy."

Lục Lệnh Tùng thấy y đáng yêu quá chừng, nghiêng đầu qua thì thầm bên tai: "Vui đến vậy à? Nhưng người gói đồng tiền vào sủi cảo cho em là ai ấy nhỉ?"

Tạ Cánh thoáng nở nụ cười nghịch ngợm, rót đầy chén rượu cụng nhẹ với Lục Lệnh Tùng, dùng tông giọng chỉ hai người nghe thấy nói khẽ: "Đương nhiên cũng là anh trai rồi."

Nói xong, y gọi Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh lại, dùng trà thay rượu, nâng chén nói: "Thôi được rồi, chén này con xin kính cha mẹ, anh trai và chị dâu. Cảm ơn mọi người đêm ba mươi đã cho bọn con tá túc, còn chuẩn bị cả bàn thức ăn thịnh soạn như thế này để thiết đãi. Nhưng nói trước nhé, chén này kính rồi là bọn con sẽ ăn chực uống chực đến tận Nguyên tiêu luôn, không được đuổi đi đâu đấy!"

Tạ phu nhân bật cười, mắng yêu: "Cả nhà nghe xem ai đó nói gì kìa! Lão đại à, lẽ ra lúc nãy con nên ném đồng tiền đó vào chén, để tiền kêu leng keng cho nó nghe, không khéo người ta lại tưởng ở ngõ Ô Y có ăn mày đấy!

Tạ Tuấn đã bắt đầu lôi "bùa may mắn" của mình ra giở trò: "Chú làm như thế là không hay đâu nhé, được lộc đầu năm thì phải hào phóng mời khách chứ. Tối nay tiền xua đuổi tà ma phải gói dày một chút mới được nha."

Lục Thư Thanh thì vẫn chậm rãi ăn phần của mình, cậu đã bắt đầu ăn từ trước khi mọi người cùng dùng bữa, đến khi mọi người ăn xong cả rồi cậu vẫn còn đang từ tốn nhấm nháp, tính ra cũng coi như là ăn chậm nhai kỹ, từ đầu đến cuối không hề bị gián đoạn. Cậu không rảnh miệng để nói chuyện, nhưng nghe thấy anh họ đòi tiền xua đuổi tà ma, cậu bèn tích cực gật đầu, "ừm ừ" như tán thành.

Dùng xong bữa tối, thức ăn thừa được dọn xuống, Diêu thị đột nhiên vỗ đùi một cái, kêu lên: "Sáng nay con có giấu mấy thứ hay ho, đúng lúc này đem ra chơi cho tiêu cơm được đấy!"

Nói xong, chị giống như thiếu nữ đôi mươi phấn khích rời khỏi chỗ ngồi, nhanh nhẹn dẫn đám trẻ con ùa ra ngoài, đến áo khoác cũng không kịp mặc, cuối cùng vẫn là Tạ Duyễn lên tiếng gọi lại, ném chiếc áo choàng của mình sang cho chị.

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh cũng theo ra góp vui, hóa ra Diêu thị đã sưu tầm được một đống pháo hoa đủ màu sắc không biết từ đâu ra, hào hứng sai hai người họ giúp đốt lên. "Tô Tiên Mai Hoa" mô phỏng cánh hoa tím nhụy trắng, "Bảo Bình Tượng Thiên" thì giống như từng chùm phượng tím rực rỡ, còn có "Thủy Kiêu Liên", "Biến Địa Cẩm", từng đợt từng đợt vút lên không trung, bừng nở rồi rơi xuống, tan ra vô tận tựa như muôn vàn ánh sao lấp lánh ngay trên khoảng trời nhỏ bé của phủ nhà họ Tạ.

Họ đốt pháo hoa không phải để phô trương xa xỉ hay thể hiện gia thế cao sang, cũng không phải để thu hút ánh mắt tò mò của phố phường, chỉ đơn giản là muốn ngắm nhìn cảnh đẹp, để lòng mình và cả nhà đều được vui vẻ. Ban đầu, Lục Lệnh Tùng còn lo Lục Thư Ninh sẽ sợ nên đưa tay che tai cho em, thế nhưng cô bé đã sớm bị cảnh tượng rực rỡ kia làm cho mê mẩn, em đưa bàn tay nhỏ xíu ra hứng những mảnh vụn của pháo hoa, lại phát hiện xúc cảm không giống như trong tưởng tượng, ngơ ngác buột miệng: "Lạnh quá."

Tạ Cánh đứng ở bên cạnh, nghe thấy vậy nụ cười thoáng sững lại, bất giác ngây người. Trời lạnh, pháo tàn, không phải điềm lành. Y không hiểu sao lại thấy bất an, lẩm bẩm: "Vào nhà thôi, cẩn thận gió lạnh."

Thế là bọn trẻ giống như bầy chim én trở về tổ, ngoan ngoãn nghe lời rúc vào bên cạnh y.

Mọi người đều mạnh miệng nói muốn thức đón giao thừa, nhưng dần dần ai nấy cũng bắt đầu ngáp ngắn ngáp dài, gục ngả xiêu vẹo. Tạ phu nhân xưa nay không thể thức khuya, đã tựa vào bên cạnh Tạ Dực lim dim từ lâu. Tạ Tuấn vốn đang ngồi gối đầu lên đùi bà đọc thoại bản giết thời gian, bỗng phát hiện Tạ Dực ra hiệu cho mình, ngẩng lên thấy bà nội đang gật gù ngủ gật, hai ông cháu cậu nhìn nhau bật cười. Lục Thư Ninh thì đã ngủ say trong lòng Tạ Duyễn, còn Diêu thị lại không chịu ngơi tay, lấy giấy dát vàng gấp nguyên bảo, chuẩn bị cho lễ tế tổ ngày mai.

Lục Thư Thanh vừa quấn mình trong chiếc chăn nhung dày, vừa bị kẹp giữa cha mẹ, thỉnh thoảng còn nấc lên một cái. Tạ Cánh bảo cậu cởi giày tất ra, để chân trần dưới tấm chăn áp sát vào lò sưởi, lòng bàn chân được hun nóng ấm áp.

Có lẽ là do hương liệu có tác dụng an thần, hoặc là do hơi men nồng ấm, cũng có lẽ vì không khí ở nhà ngoại luôn ngập tràn cảm giác bình yên, Tạ Cánh chỉ thấy cả người mình đều được thả lỏng, xương cốt như mềm nhũn ra, bồng bềnh giữa lớp da thịt. Y lơ đễnh nắm lấy ngón tay Lục Lệnh Tùng chơi đùa, mơ hồ nghĩ, nếu năm nào đêm giao thừa cũng có thể an nhàn vô lo như thế này thì tốt biết bao.

Đến chừng canh ba, khi chính y cũng bắt đầu mơ màng buồn ngủ, thì bỗng cảm giác Lục Lệnh Tùng khẽ vỗ nhẹ: "Chi Vô, tỉnh dậy đi, mau nhìn này."

Tạ Cánh hồi thần, hé mắt ra, đột nhiên phát hiện ngoại trừ màn sương mỏng lượn lờ, ngoài sân đang có vô vàn bông tuyết trắng tinh bay lả tả, khiến cho khoảnh khắc chớm bình minh của năm mới sáng như ban ngày.

Lục Lệnh Tùng khẽ thở dài: "Tuyết lại rơi rồi."

Không rõ chữ "lại" này là nói đến trận tuyết trước khi họ thành thân vào năm Trinh Hữu thứ tám, hay là từ rất nhiều, rất nhiều năm về trước khi cả hai vẫn còn là trẻ con, vào lần đầu tiên gặp nhau, Lục Lệnh Tùng đã nhét một nắm tuyết vào cổ áo Tạ Cánh.

Pháo hoa đã tàn, những mảnh giấy màu xinh đẹp rơi xuống sân, bên dưới là ánh đèn vạn nhà chiếu rọi, lấp lánh và rực rỡ như gấm vóc trải dài. Mà tuyết thì vẫn cứ mỏng manh, lặng lẽ, chầm chậm bao trùm, khiến cho hơi ấm rượu nồng, làn khói cháo nóng hổi cùng với sự huyên náo đêm giao thừa bỗng chốc lắng xuống, hóa thành một đoạn kết dài dằng dặc và trắng muốt như sứ.

Tuyết rơi là điềm lành báo hiệu mùa màng bội thu, đây hẳn là một dấu hiệu tốt, Tạ Cánh thầm nghĩ. Mong rằng mọi chuyện trong năm Trinh Hữu thứ mười bảy sẽ được suôn sẻ, cả nhà bình an.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 94


<b>《</b><b> </b><b>23.1 — Hiện tại</b><b> </b><b>》</b>

Đêm khuya, trên cổng thành Tử Kim Sơn*.

<i>(*) Ở đây mình có chút nhầm lẫn, đó giờ mình toàn edit "</i>紫金山<i>" thành "núi Tử Kim", nhưng hôm nay mới biết tên đúng phải giữ nguyên là Tử Kim Sơn, vì đây là tên một địa danh nằm ở phía tây tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, thời Hán gọi là Chung Sơn. Mình đã sử dụng tên cũ từ đầu truyện nên sẽ bắt đầu thay đổi từ đây và rà soát lỗi sau, xin lỗi các bạn đọc nhiều lắm ạ ></i>
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 95


<b>《</b><b> 23.2 </b><b>》</b>

Tạ Cánh ngồi bệt trên sàn trong đại sảnh quan thự, quay lưng về phía cửa, trước mặt là từng chồng tấu chương, hồ sơ và sổ sách chất cao như núi, bên cạnh chân còn có một hộp cơm chưa hề đụng vào.

Bên dưới công đường là đám quan viên của Hộ bộ, ai nấy đều liên tục cau mày, không ngừng thở dài.

Nạn rét đã qua, trận lụt đầu xuân năm nay cũng tạm thời có dấu hiệu thuyên giảm, cha con Vương Thục tái nhậm chức, việc đầu tiên làm là gióng trống khua chiêng cải cách chế độ. Quyền sở hữu đất đai là thứ không thể thay đổi, vì vậy chỉ có thể kiếm chuyện trên thuế khóa, mỹ danh gọi là "cùng dân nghỉ ngơi".

Cải cách thông thường phải chọn thí điểm trước, rồi tiến hành từng bước — tuy nhiên, giảm thuế khác hẳn với những chính sách vô thưởng vô phạt khác, vì nó thật sự có liên quan đến chuyện dân chúng vừa thoát khỏi họa lớn, và những người đang sống cảnh tha hương có sống sót được hay không. Nếu may mắn được giảm thuế, dù chỉ dư ra một hai phần tiền lẻ cũng đã đủ cứu mạng cả nhà họ; còn nếu chẳng may không được giảm, thì chuyện này không đơn giản chỉ là họa vô đơn chí.

Việc cải cách do phủ Tướng chủ trì, hiển nhiên, nơi đầu tiên được miễn giảm thuế chính là quận Hội Kê – nơi mà năm trước đã nhận được khoản tiền cứu trợ nhiều nhất, cũng là nơi tập trung chủ yếu các sản nghiệp của nhà họ Vương sau khi họ vượt sông Nam tiến. Tiếp đó là quê nhà của Vương thị - quận Lang Nha.

Hạng mục công việc này tương đối nhiều, Tạ Cánh dọn cả bàn làm việc đến Hộ bộ, đích thân thay Vương Thục giám sát. Lục Lệnh Chương ở bên trên chỉ phất tay một cái, ném hết tất cả những bản tấu can gián lẫn lời bóng gió chỉ trích việc chọn thí điểm không hợp lý xuống cho y, bảo y tự mình đối phó; mặt khác còn có đủ kiểu quan lại năm lần bảy lượt tìm cách vòng vo dò la tin tức từ y. Nửa tháng trôi qua, mọi thứ vẫn cứ ngổn ngang chồng chất khiến y đau đầu không thôi.

Tạ Cánh chỉnh lại tóc mai đã rối tung, hốc mắt y mỏi nhừ, mũi thì cay xè, cố gắng giữ tỉnh táo để tính toán, chợt nghe thấy phía dưới truyền lên tiếng gọi như gọi hồn của thuộc quan: "Đại nhân, đại nhân à..."

Bình thường nhóm thuộc quan kia không dám tùy tiện lên tiếng quấy rầy vị tổ tông vừa mới từ trên trời rơi xuống này, trừ phi gặp phải tình huống mà họ thật sự không xoay xở nổi.

Không rõ là Tạ Cánh không nghe thấy tiếng gọi hay là không muốn đáp lại, mãi mà y vẫn cứ nghiêng người bất động, còn chưa đợi thuộc quan khó xử gọi thêm lần thứ hai, "tình huống" đã sải bước đến ngay phía sau y.

Tạ Cánh chỉ cảm thấy cổ họng căng chặt, cổ áo bị đối phương túm lấy nhấc bổng lên, y ngoái đầu lại trừng mắt, thấy Lục Lệnh Tùng đang cúu đầu nhìn xuống mình, hai hàng mi của y khẽ run lên.

"Chuyện gì cũng có thể thương lượng mà, ngài thả tôi xuống trước đã."

Lục Lệnh Tùng nhẹ nhàng buông tay. Tạ Cánh chỉnh lại vạt áo của mình, loạng choạng lùi về sau nửa bước, nói: "Mấy ngày nay đại sảnh của Hộ bộ đón tiếp không biết bao nhiêu khách quý rồi, chẳng hay điện hạ cũng đến tìm tôi vì chuyện cải cách?"

"Tạ đại nhân đã cùng ta bàn xong chuyện chia chác Lạc Ấp và 'tang vật' của quận Trần, cớ sao chỉ lo làm áo cưới cho phủ Tướng mà không tính toán cho mình chút nào thế?"

Tạ Cánh nghe vậy, quay lại nhìn sắc mặt đám quan lại, chỉ thấy bọn họ vẫn còn ngơ ngác chờ y chỉ thị.

Lục Lệnh Tùng cười lạnh một tiếng: "Ta miễn thuế cho bách tính trên đất phong của Chiêu Vương, cũng là cầu tài cho nhà mình, xưa nay chưa từng sợ miệng lưỡi thế gian. Ngươi đã muốn nhúng tay vào, chẳng lẽ còn sợ người ta biết ư?"

Đúng là Tạ Cánh không sợ người khác biết, chỉ cần không dính dáng đến chính sự, chuyện y "vơ vét của cải" Vương Thục cũng chẳng quan tâm, bèn nói: "Điện hạ, mời ngài sang bên này nói chuyện."

Lục Lệnh Tùng xoay người đi trước, quét mắt một vòng đám thuộc quan của Hộ bộ, chỉ tay cảnh cáo: "Liệu mà giữ cho kín cái miệng của các ngươi."

Những người có mặt không ai dám lên tiếng, chỉ biết gật đầu như mổ thóc, lúc này Lục Lệnh Tùng mới dời bước vào nội sảnh. Tạ Cánh theo sau hắn, còn nghe thấy phía sau có người thấp giọng chửi rủa một câu.

Rèm cửa nội sảnh buông xuống, Tạ Cánh lập tức tiến đến trước mặt Lục Lệnh Tùng, hít hà mấy cái: "Mau lên, em ngửi thấy mùi thơm rồi!"

Lục Lệnh Tùng lấy từ trong ngực ra một gói giấy đưa cho y: "Ta nghĩ chắc em cũng chưa kịp ăn cơm."

Tạ Cánh cau mày: "Sao lại giấu trong áo, dính dầu rồi phải giặt, phiền chết đi được."

Lục Lệnh Tùng cười: "Cũng có bắt em giặt cho ta đâu."

Đây là thói quen mà Tạ Cánh giữ được trong suốt ba năm qua. Trước đây khi làm Chiêu Vương phi, mười ngón tay của y đương nhiên là không dính nước xuân, càng không biết thứ gì bẩn thì phải giặt ra sao, loại vải nào phải xử lý theo cách nào. May là ở Ung Châu không có cẩm y hoa phục cho y phá phách, quần áo bằng vải thô có giặt kiểu gì cũng không thể hỏng được.

Trong lớp giấy dầu là mấy chiếc sủi cáo nhân thịt bò được áp chảo vàng ruộm vẫn còn bốc hơi nóng hổi, hai mắt Tạ Cánh sáng lên: "Lâu rồi không được ăn, anh mua ở chỗ đó à?"

Lục Lệnh Tùng gật đầu: "Chỉ là không còn giòn như lúc vừa ra lò thôi."

Cách Vương phủ không xa, ở khu chợ ven sông Tần Hoài có một tiệm nhỏ chuyên bán sủi cảo nhân thịt bò chiên và súp lòng bò nấu lá đậu phụ, đây là một cửa tiệm không mấy nổi bật, Lục Lệnh Tùng hay tiện tay mua về khi đi ngang qua để giải tỏa cơn thèm. Khi ấy Tạ Cánh vừa sinh Lục Thư Ninh xong, ngán ngẩm mấy món thanh đạm nhạt nhẽo, vì thường được mua cho ăn nên y nhớ mãi hương vị này.

Lục Lệnh Tùng thấy y ngồi xuống dùng bữa bèn nhắc đến chuyện chính: "Tuyên Thất truyền tin về, hai quận Ngô Hưng và Tân An đã bắt đầu náo loạn. Sớ xin chỉ thị của Quận thủ sáng mai sẽ được dâng vào cung."

Tạ Cánh ậm ờ đáp: "Chỉ mới có từng ấy thôi hả, một mình Hội Kê đã đủ dấy lên sóng lớn ngập trời rồi, đợi danh sách các châu quận thử nghiệm cải cách đợt này được công bố đi, xem còn náo loạn đến đâu nữa."

Trước đó, những khu vực nhận được nhiều tiền cứu trợ nhất và những nơi hiện tại tiên phong thực hiện giảm thuế thực chất gần như hoàn toàn trùng khớp. Sở dĩ khi ấy không thấy ai phản kháng mà giờ lại bạo động liên miên, chính là vì thiên tai vừa qua, bách tính mới được thở ra một hơi.

Lục Lệnh Tùng nói: "Quận Tân An quản lý khu vực Huy Châu và vùng phụ cận, nhà nhà đều làm nghề buôn bán, sợ nhất là thuế nặng. Hơn nữa, vì số người ở lại canh tác rất ít nên gần như chẳng hưởng được bao nhiêu lợi ích từ chính sách hỗ trợ nông nghiệp, bởi vậy đó là nơi bạo loạn dữ dội nhất."

Tạ Cánh gật đầu, suy nghĩ một chút rồi hỏi: "Quận Ngô Hưng... Có phải cũng nhờ công lao của Tuấn Nhi không?"

Vài sĩ tộc ở Ngô Hưng như họ Diêu, họ Thẩm, họ Thi vốn đã cùng chung chiến tuyến, mối liên hệ giữa các nhà vô cùng mật thiết. Hôn sự giữa Tạ Duyễn và Diêu thị chính là một "kế sách" đôi bên cùng có lợi: vừa là cách để họ Tạ ở quận Trần củng cố chỗ đứng trong giới sĩ tộc bản địa Giang Nam, vừa là con đường để các môn phiệt ở Ngô Hưng đả thông cửa ngõ kinh thành. Trên chính đàn những năm Kiến Ninh, Trinh Hữu, họ vẫn luôn dựa sát bên Trần quận Tạ thị.

Mà khi nhà họ Tạ sụp đổ, thông gia cũng bị liên lụy, ai nấy đều rụt rè cẩn trọng, tự giấu đi hào quang sắc bén của nhà mình. Nay đã có cơ hội chấn hưng gia tộc, thay cờ đổi chủ, dĩ nhiên đều âm thầm chú ý theo dõi.

Lục Lệnh Tùng gật đầu, khẳng định suy đoán của Tạ Cánh. Tạ Tuấn vừa là con cháu dòng chính của Trần quận Tạ thị, vừa là ngoại thân của sĩ tộc Ngô Hưng, với thân phận của cậu, xuất hiện vào thời điểm này để lôi kéo, thuyết phục, ngấm ngầm thông đồng quả là thích hợp nhất.

"Mùa đông năm ngoái ai nấy đều lo sợ bất an, Giang Nam Giang Bắc đều khó khăn như nhau. Bách tính không có sức gây chuyện, cũng không đến mức cảm thấy bất công. Thế nhưng một khi cuộc sống dễ thở hơn đôi chút, lại chọn cải cách ngay lúc này, sự chênh lệch giữa các châu quận sẽ được thể hiện rất rõ, chênh lệch cực kỳ nhiều. Tân An và Ngô Hưng đều ở gần Hội Kê, nhìn mình sống khốn đốn thê lương, còn láng giềng gần ngay trước mắt lại dần khởi sắc, làm sao lòng người không dao động cho được?"

"Chính là lời này." Lục Lệnh Tùng thở dài. "Lúc trước ta giải thích cho Thanh nhi nghe, đến cả nó cũng hiểu được lẽ 'xưa nay triều đại đổi ngôi, chẳng qua đều là mưu tính tư lợi giữa các gia tộc' mà thôi."

Tạ Cánh hơi ngạc nhiên: "Anh còn nói với nó những chuyện này à? Em cứ tưởng hai cha con anh chỉ toàn nói chuyện ăn chơi thôi chứ."

Lục Lệnh Tùng bật cười: "Em nói chuyện có lý chút đi, chẳng phải trước giờ bọn ta cũng thường nói chuyện đàng hoàng sao? Ta với em ở chung mới chỉ toàn nói chuyện ăn chơi đấy! Huống hồ đâu phải người ta không hiểu, sao lại không thể nói? Trái lại là em cứ lo trước lo sau, coi thằng bé như trẻ con mãi."

Tạ Cánh nhướng mày: "Một tên nhóc con lạnh không biết mặc thêm áo, nóng lên lại ham lạnh, sáng sớm không ai gọi thì cứ nằm ườn trên giường chẳng chịu dậy, té ngã còn khóc gọi mẹ, có chỗ nào không giống trẻ con hả? Bây giờ anh lại bảo muốn nó học mấy thứ âm mưu dương mưu này, em không nỡ đâu."

Y vò tờ giấy gói đã trống không lại, sau đó dùng khăn lau qua đầu ngón tay, tiện tay vuốt lại tóc mai, nào ngờ lại vuốt xuống được một nắm tóc, nhìn mấy sợi tóc nằm trong lòng bàn tay khiến người ta giật mình.

Cả hai đều sững sốt, Tạ Cánh líu lưỡi: "Chắc là do gần đây mệt nhọc quá, rụng nhiều thế này."

Lục Lệnh Tùng khẽ gạt những sợi tóc ấy khỏi tay y, để chúng rơi xuống đất, thản nhiên tiếp lời: "Chẳng qua vì thằng bé không muốn trưởng thành trước mặt em thôi, ta tưởng em hiểu rõ điều đó chứ."

Tạ Cánh ngồi xuống trước bàn bên cạnh hắn, nghe hắn chậm rãi hỏi tiếp: "Trước khi đi, không phải em đã dặn bác Chu đốt hết bút tích của mình đi sao?"

Lục Thư Thanh khi đó không rõ thâm ý của hành động này, cũng không biết cha mẹ thật ra chưa bao giờ đoạn tuyệt, còn giận dỗi với Lục Lệnh Tùng một phen. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, hai cha con vẫn còn giữ khoảng cách, chưa trở lại như trước kia không gì là không chia sẻ với nhau. Một ngày nọ, Lục Lệnh Tùng ngồi bên cạnh cùng cậu đọc sách, đúng lúc đọc đến "Bi Phẫn Thi" của Thái Diễm, "Ta không dám lên tiếng nữa, còn Thanh Nhi thì vẫn như thường, mặt mày tỉnh bơ đọc câu: <i>'Người bảo mẹ nên đi, há còn ngày trở lại'</i>..."

Tạ Cánh run lên, trong lòng thầm đọc tiếp: <i>Xưa mẹ luôn nhân từ, nay sao chẳng còn thương. Con còn chưa trưởng thành, biết làm sao vơi nhớ?</i>

Lục Thư Thanh đọc xong thì ngẩng đầu lên nhìn, Lục Lệnh Tùng nghẹn lời hồi lâu mới hỏi cậu: "Con trách mẹ không đưa con đi cùng sao?"

"Là con đã nói mẹ đừng đưa con theo," Đó là lần đầu tiên Lục Thư Thanh nhắc đến chuyện này trước mặt cha, "Đưa con theo, chỉ sợ sẽ còn nguy hiểm hơn cả việc mẹ và Ninh Ninh đi một mình; huống hồ nếu không có con ở Kim Lăng, tổ mẫu và cô sẽ trở thành lựa chọn hàng đầu để phủ Tướng dùng kiềm chế cha, con càng không thể đẩy họ lên đầu sóng ngọn gió."

Lục Lệnh Tùng thấy cậu có vẻ như đã suy nghĩ thấu đáo từ sớm, hắn lặng người: "Nhỡ đâu lần này mẹ con đi không có tin tức, thật sự không còn ngày trở lại..."

Lục Thư Thanh ngơ ngác nhìn hắn: "Cha cũng đâu có tin tức của mẹ, đúng không ạ? Nếu như mẹ và em có thể bình an vô sự mà sống tiếp, thì dù cả đời này không gặp lại con cũng đành chấp nhận; nhưng nếu, nếu như họ..."

Cậu không nói tiếp được, lời sau nghẹn lại nơi cuống họng, lòng dạ Lục Lệnh Tùng run rẩy, hắn kéo con trai vào lòng ôm lấy cậu, Lục Thư Thanh vùi mặt vào hõm vai cha, giọng nghèn nghẹn: "Con đã nghĩ đến kết quả xấu nhất từ lâu rồi, con đã nghĩ, nếu thật sự không còn mẹ nữa, con phải sống thế nào rồi."

Tạ Cánh nghe xong, im lặng hồi lâu, rồi y bỗng nói: "... Nhưng em chưa từng nghĩ đến."

Y đưa tay chống lên hai đầu gối, úp mặt xuống lòng bàn tay, chất giọng buồn bã truyền ra từ kẽ ngón tay: "Em chưa từng nghĩ, nếu không còn các con nữa, em sẽ phải sống như thế nào."

Lúc ở trong ngục, cha và anh trai đã dặn y "đừng báo thù", không phải Tạ Cánh không nghe lọt tai. Y hiểu rất rõ rằng sự hy sinh của người nhà không phải để y ngu xuẩn lao vào rồi góp thêm một mạng, nhưng vẫn là câu nói đó, những gì đã định trong số mệnh ắt sẽ xảy đến.

Ngày hôm nay y làm chuyện này, nói trắng ra không phải vì người đã khuất, cũng không phải vì bản thân mình. Người chết đèn tắt, thanh danh dù có trong sạch đến đâu cũng không thể khiến người thân sống lại; về phần mình, những năm qua y đã quen với cảnh giằng xé trong vũng lầy quyền lực, nếu cả quãng đời còn lại thật sự cũng phải sống trong cảnh dè dặt, luồn cúi xu nịnh, vậy thì y cũng đành nhận mệnh.

Nhưng y và Lục Lệnh Tùng không chỉ có bản thân mình, họ đã là cha mẹ, để Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh không phải chịu cảnh cốt nhục chia lìa thêm một lần nữa, để chúng không phải sống trong nơm nớp lo sợ, ăn bữa hôm lo bữa mai, chuyện này họ bắt buộc phải làm.

"Thanh Nhi dù có biết chuyện đến đâu, có thể hiểu những mưu mô thủ đoạn này đến mấy thì cũng chỉ là hiểu thôi. Vẫn còn lâu lắm mới đến lúc nó có thể thoát khỏi sự che chở của cha mẹ, tự mình thử sức dang cánh."

Tạ Cánh xòe hai tay ra, nói năng lộn xộn: "Các con của em còn chưa thể tự bảo vệ mình, con gái em còn nhỏ như vậy! Con bé mới đến thế gian này được bao lâu, đã xa em được bao nhiêu ngày đêm đâu chứ? Nếu chúng chẳng may gặp chuyện gì, em, em..."

Lục Lệnh Tùng nhẹ giọng thay y nói hết lời: "Nhưng ta vẫn còn sống khoẻ mạnh cơ mà?"

Hai người nhìn nhau, đều hiểu rõ những gì vừa nói không phải lời bông đùa.

Lục Lệnh Tùng bỗng nhớ lại một cảnh tượng từ rất nhiều năm trước, ngày hôm đó Lục Thư Thanh bị Đinh Ngọc bắt đi, cả nhà thức trắng đêm trong sảnh chính của Vương phủ đợi tin, khi ấy hắn đã nghĩ, nếu Lục Thư Thanh có mệnh hệ gì, thì giữa hắn và Tạ Cánh cũng hoàn toàn kết thúc.

Giờ phút này cảm giác đó chỉ có hơn chứ không kém — nếu như các con gặp phải chuyện bất trắc, thì vợ chồng họ không chỉ chẳng thể coi như không có gì mà tiếp tục ở bên nhau, mà nửa đời còn lại của hắn và Tạ Cánh cũng đừng mong được yên ổn, không phát điên thì cũng chết tức tưởi.

"Niềm an ủi duy nhất là nhà họ Ngô và cậu còn có thể nhờ cậy, ít ra cũng sắp xếp được một con đường lui ổn thỏa." Tạ Cánh thở dài.

Lục Lệnh Tùng nói ra tiếng lòng của y: "Còn chưa tận mắt thấy chúng trưởng thành, ta không cam lòng ra đi đâu."

Danh sách được tìm thấy trong di vật của Tiêu Thái hậu vẫn còn rõ mồn một, kết cục của hơn trăm "tử huyệt" trên đó, đến giờ họ vẫn chưa biết rõ, cũng không dám nghĩ tới.

Tạ Cánh vô thức bẻ khớp tay, nói: "Lúc còn chưa sinh Thanh Nhi, em đã âm thầm tính toán sắp đặt cho nó, cứ nghĩ rằng bản thân đã suy tính đủ nhiều, đủ lâu dài rồi. Đến khi nhìn vào cục diện hôm nay mới hận bản thân ngu ngốc vì đã hồ đồ đưa nó đến thế gian vẩn đục này."

Lục Lệnh Tùng khẽ cười: "Nếu theo lời em nói, truy xét tới tận cùng căn nguyên để chặt đứt từ khi manh nha, thì lẽ ra ngày nhỏ em và ta không nên gặp mặt trong cung mới phải."

Tạ Cánh quay đầu nhìn hắn chăm chú: "Lần đó là vào mùa đông năm Kiến Ninh thứ mười một, ngay trước thềm năm mới nhỉ?"

Ở Ung Châu, y thường mơ thấy ngõ hẻm sâu hun hút của cung Thái Sơ. Trong mơ, y hết lần này đến lần khác băng qua con đường lát gạch dài dằng dặc không có điểm dừng đó. Lúc đi từ biệt cha và anh, lúc đưa con cái đến Thần Long điện vấn an, lúc tham dự Quỳnh Lâm yến của các tân khoa tiến sĩ, dĩ nhiên còn có cả khi còn nhỏ, y đã cùng mẹ đến Tây cung bái yết, lần đầu gặp được Lục Lệnh Tùng.

Mùa đông năm Kiến Ninh thứ mười một, Tạ Cánh ở lại Kim Lăng hơn một tháng, trải qua không ít chuyện có thể xem như "kỳ ngộ" trong những năm tháng trẻ dại của mình. Y đã được gặp Diêu thị khi ấy hãy còn là khuê nữ trong lần theo trưởng bối đến thăm nhà họ Diêu; y được Tạ Duyễn dẫn đến miếu Phu Tử thắp hương cầu học nghiệp, thậm chí còn từng làm việc tốt, giúp một người phụ nữ tình cờ gặp trên phố gửi thư cho chồng để đoàn tụ... Những chuyện này, cùng với lần gặp thoáng qua với Lục Lệnh Tùng dường như đã dần nhạt phai.

Tạ Cánh năm tám tuổi từng nài nỉ mẹ đưa mình vào cung hoàn toàn không ngờ rằng sau này y cũng sẽ trở thành một phần của nơi đó, không ngờ cung Thái Sơ sẽ nuốt chửng người thân của y, chia cách y và người y yêu, rồi từng chút một thao túng con cái của y giống như nước ấm nấu ếch.

Cung điện này xưa nay vẫn luôn là một con quái vật, còn số mệnh của y đã được định sẵn ngay từ khoảnh khắc ấy rồi.

Đang không biết nói gì, bên ngoài phòng bỗng vang lên tiếng thông báo, nghe giọng người tới là một thuộc hạ thường xuyên giúp họ chuyển thư từ ở Tuyên Thất.

Gã không kịp giải thích tại sao mình lại mạo hiểm đến thẳng quan thự để tìm người, chỉ vội đưa một phong thư, nhỏ giọng nói: "Thư tay của Thái thú Ung Châu Hà Cáo, gửi tám trăm dặm khẩn cấp, nói rằng có chuyện hệ trọng, nhất định phải xác nhận với Vương phi."

Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng trao đổi ánh mắt, sau đó vội vàng xé thư ra xem. Cách hành văn của Hà Cáo ngắn gọn một cách đáng ngạc nhiên, chỉ hỏi rằng lá thư đính kèm có phải là do Tạ Cánh viết cho Lục Lệnh Chân hay không.

Quả nhiên trong thư còn kèm theo một tờ giấy mỏng, chỉ vừa rút thư nhìn thoáng qua, da đầu Tạ Cánh đã tê rần lên. Nét chữ này... Giống hệt với nét chữ trên mảnh giấy tiết lộ vị trí di chiếu thật, là Khứ Hà thể khó phân biệt thật giả.

Y lắc đầu lẩm bẩm: "Không phải em viết... Em chưa từng viết bức thư này."

Lục Lệnh Tùng dồn sự chú ý vào nội dung của bức thư tay đó, tập trung đọc một lúc, hắn chợt lạnh giọng hỏi gấp: "Thư này đã đưa đến tay Trưởng công chúa rồi sao?"

Thuộc hạ gật đầu, giải thích: "Hà đại nhân phái người đến nhờ Vương phi xác nhận bức thư, đồng thời lập tức điều trinh sát đuổi theo Trưởng công chúa và Hạc Vệ đã lên đường hồi kinh."

Lục Lệnh Tùng cau chặt mày: "Đuổi kịp không?"

Thuộc hạ lại do dự đáp: "Tiểu nhân không rõ, Ung Châu... Vẫn chưa gửi thư hồi âm."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 96


<b>《</b><b> 23.3 </b><b>》</b>

Thật ra ngay từ khi nhận được thư tay của "Tạ Cánh", Lục Lệnh Chân đã hoài nghi.

Chiến sự tạm thời gián đoạn, tuy rằng Hạc Vệ và quân phòng thủ Ung Châu không phải trận nào cũng thắng, nhưng nhờ chiến thuật du kích mà Lục Lệnh Chân lựa chọn, họ đã giảm thiểu tổn thất đến mức thấp nhất. Các châu quận biên giới nhờ vậy cũng bảo toàn được nguyên khí, có thể dư dả sức lực giúp dân chúng ứng phó với thiên tai.

Gian nan trong đó tuy chỉ có hơn chứ không kém gì so với khu vực Giang Hoài, nhưng bởi vì không có lợi ích đan xen phức tạp giống những nơi kia, quan dân cùng đồng lòng hợp sức nên tình hình ở đây đơn giản hơn nhiều.

Lục Lệnh Chân xin chỉ dụ hồi kinh vào cuối xuân, khi ấy đội quân chủ lực của Mạc Bắc đã rút lui, Đinh Giám dẫn theo thuộc hạ của mình làm nhiệm vụ bọc hậu cho đoàn quân, rời khỏi sông Vô Định – nơi chúng đã án binh bất động mấy tháng nay.

Chính vào thời điểm then chốt này, thư của Tạ Cánh đến.

Trước khi rời kinh, Lục Lệnh Chân và Lục Lệnh Tùng đã thống nhất với nhau là "mọi tin tức đều dựa vào quân báo", tức gần như tương đương với việc họ chỉ liên lạc một chiều. Lục Lệnh Tùng có thể biết được tình hình của nàng thông qua quân báo và tấu chương của Hà Cáo, nhưng chưa từng chủ động viết thư cho nàng, tất cả tin tức đều được truyền qua văn thư quan phủ. Mấy tháng nay, Lục Lệnh Chân chỉ nhận được đúng một lá thư nhà từ Lục Thư Thanh.

Nàng dám chắc Lục Lệnh Tùng sẽ nói cho Tạ Cánh biết về cách thức liên lạc đã bàn trước, và để tránh phát sinh phiền phức, anh dâu của nàng cũng sẽ tuyệt đối không tự ý gửi thư cho nàng.

Điều đầu tiên được nhắc đến trong bức thư tay là tiết lộ thân phận của Đinh Giám, cùng mối liên hệ của gã với vụ bắt cóc Lục Thư Thanh chưa thể thông tỏ năm xưa. Khi biết được chuyện này, Lục Lệnh Chân tuy ngạc nhiên nhưng cũng chỉ cảm thán đôi chút, hoàn toàn không bận tâm đến việc Đinh Giám có thật sự phản quốc hay không. Dù gì cũng là đối thủ từng giao chiến mấy lần, dù có truy xét lại chuyện xưa ân oán chất chồng cũng chẳng có ý nghĩa gì.

Thứ hai, trong thư nói rằng Tuyên Thất đã chặn được thư tín giữa một người trong triều và Mạc Bắc, trong đó tiết lộ thời gian và tuyến đường trở về của Lục Lệnh Chân cho quân địch, mưu toan nội ứng ngoại hợp, nhân lúc Hạc Vệ rời khỏi thành Ung Châu một mình tiến về phía trước, chúng sẽ chặn đường tiếp viện của quân phòng thủ Ung Châu để bao vây Hạc Vệ.

Đối với Lục Lệnh Chân, sự cấp bách và nghiêm trọng của việc này hoàn toàn không cùng mức độ với chuyện đầu tiên. Nhận được bức thư tay này khi chỉ còn vài ngày nữa là Hạc Vệ khởi hành, nàng lập tức đi tìm Hà Cáo.

Không chỉ vì lối chữ Khứ Hà vô cùng quen thuộc, điều thật sự khiến Lục Lệnh Chân không còn hoài nghi về tính chân thực của bức thư chính là hai con dấu trên trang giấy – vừa có công ấn của Thượng Thư Đài, lại có cả con dấu riêng của Tạ Cánh, con dấu mà trước giờ nàng đã thấy rất nhiều lần trên thiệp mời của phủ Chiêu Vương.

Hà Cáo cũng đồng ý với nàng rằng chuyện như thế này thà tin còn hơn không, bèn nhất trí quyết định xác nhận tuyến đường và thời gian, đồng thời bố trí một đội quân phòng thủ Ung Châu âm thầm hộ tống.

Bức thư tay cứ thế nằm lại trên bàn của Hà Cáo. Sau khi Lục Lệnh Chân và Hạc Vệ tranh thủ trời tối rời khỏi thành Ung Châu, Hà đại nhân ngồi xuống, vô tình liếc thấy nó, càng nhìn nét chữ Khứ Hà ấy càng cảm thấy có điều gì đó kỳ lạ.

Ông tìm những bút tích cũ mà Tạ Cánh để lại khi còn làm việc tại phòng thu chi ở phủ Thái Thú, đối chiếu một hồi cũng không có kết quả, thị lực của ông có hạn, thật sự không phát hiện ra được bất kỳ điểm khác biệt nào.

Hà Cáo suy nghĩ kĩ hơn, rồi bỗng giật mình kinh hãi, trong lòng chợt nảy lên một phỏng đoán mà ông tuyệt đối không mong muốn xảy ra, nhưng cũng không phải không có khả năng.

Ông không dám lấy sự an nguy của Trưởng công chúa ra để mạo hiểm dù chỉ một phần vạn, lập tức phái đi ngựa chạy nhanh nhất, một để đuổi theo Hạc Vệ, một tiến về kinh thành, dùng cách liên lạc với Tuyên Thất mà Lục Lệnh Tùng để lại, xin xác nhận từ Tạ Cánh rằng liệu lá thư ấy có thật sự do y viết hay không.

Lục Lệnh Chân lắng tai nghe, ngoại trừ tiếng quân mã thì chỉ có tiếng nước sông Vô Định cuồn cuộn chảy trôi. Ở bờ Nam của con sông vốn cũng có người dân sinh sống, nhưng vì lũ lụt mùa xuân nghiêm trọng, bách tính đành phải dắt díu nhau chuyển vào trong thành lân cận. Cách đây hai tháng, Hà Cáo đã phải hao tổn không ít công sức mới giải quyết xong những chuyện này.

Sau khi quân Mạc Bắc rút đi, giữa bờ Bắc và dãy núi xuất hiện một con đường mới. Mặc dù chật hẹp và hiểm trở, nước có lúc ngập đến đầu gối, đôi khi còn phải xuống ngựa lội qua, nhưng cũng chính vì thế mà hẻm núi này cực kỳ kín đáo vắng vẻ. Đây cũng là lý do Hà Cáo và nàng lựa chọn lối đi này.

Phó tướng giục ngựa tiến đến bên cạnh nàng, nói: "Công chúa, trinh sát vừa truyền tin về, quân Ung Châu mai phục ở trước cửa hẻm núi đã vào vị trí, một khi có biến, bất kể là bắn tên hay tiếp viện đều chỉ cần trong nháy mắt thôi."

Lục Lệnh Chân ngẩng đầu, nhìn về phía hẻm núi chìm vào trong màn đêm đen đặc, đáp: "Đợi ra khỏi khúc sông này, qua được trường thành, chỉ cần tốc độ hành quân nhanh hơn thì rủi ro sẽ giảm đi rất nhiều, đến lúc đó bảo bọn họ mau chóng quay về đi."

Phó tướng tuân lệnh, vừa định lui xuống thì chợt thấy phía xa có một bóng người, kẻ đó đang từ hướng đường núi dần dần tiến lại gần, hắn nghi hoặc nói: "Sao có người quay lại rồi, nhanh vậy ư?

Lục Lệnh Chân cho thổi kèn theo hiệu lệnh "dừng lại" của Hổ Sư lệnh. Nàng nhìn kỹ về phía kia, người đến quả nhiên vẫn là trinh sát quân Ung Châu, so với người lúc nãy, người này rõ ràng gấp gáp và hoảng loạn hơn nhiều, còn cách mấy chục bước đã lớn giọng gọi "Công chúa".

"Làm gì mà hốt hoảng vậy?" Lục Lệnh Chân tiến lên hỏi.

"Trạm gác vừa thấy có một đội quân từ đường núi phía Bắc đi về hướng thành Ung Châu, xem quy mô thì giống quân của Đinh Giám. Có vẻ như chúng rút đi được nửa đường thì đột nhiên đổi hướng, không rõ làm sao biết được một phần quân Ung Châu không có trong thành!"

Hắn vừa dứt lời, trong đoàn quân Hạc Vệ cũng có người hô lớn: "Nhìn kìa, lửa hiệu đã thắp lên rồi!

Lửa hiệu bùng cháy rất nhanh, Hà Cáo trong thành nhất định có thể nhìn thấy. Lục Lệnh Chân trầm ngâm giây lát, nhanh chóng nói: "Nếu chỉ với lực lượng dưới trướng Đinh Giám thì không đời nào chúng dám đối đầu trực diện. Mục tiêu của hắn rất có thể là những thôn xóm nhỏ ngoài thành. Chắc chắn hắn đã tính đến việc quân Ung Châu phân tán, điều động sẽ mất nhiều thời gian. Hơn nữa, một khi Hà đại nhân điều quân, phòng thủ trong thành sẽ càng trống trải. Nói không chừng hắn còn có hậu chiêu, chỉ đợi đúng lúc này để thừa cơ tiến vào."

Trinh sát vội hỏi: "Ý người là..."

"Quân thủ trên núi và Hạc Vệ đều không về Ung Châu kịp." Lục Lệnh Chân xoay người giơ tay, lại một lần nữa ra hiệu truyền lệnh: "Nhưng chặn Đinh Giám lại từ trước, chúng ta làm được."

Trinh sát quân Ung Châu lập tức phóng ngựa đi thông báo cho thủ lĩnh của hắn dẫn quân trở về theo đường cũ, tìm cách chặn đường quân Đinh Giám. Hạc Vệ thì ngay tức khắc men theo lối tắt từ cửa núi vòng qua gò đồi phía Bắc, tập kích bất ngờ từ sau lưng địch.

Lục Lệnh Chân nghe phó tướng hỏi: "Công chúa cho rằng Đinh Giám tự ý hành động hay là nhận được quân lệnh?"

Nàng đáp ngược chiều gió: "Hắn đảm nhiệm bọc hậu cho đại quân Mạc Bắc, vị trí đó khi rút quân chẳng khác nào kẻ chết thay. Xem ra chủ nhân của hắn không hài lòng với thành quả chiến đấu mùa đông năm nay, hơn nữa chưa hoàn toàn tin tưởng dòng máu của người Hán trong hắn, không thể nào để hắn quay lại công phá Ung Châu."

Phó tướng lại nói: "... Vậy chẳng lẽ là hắn không cam lòng, muốn đánh cược lần cuối để lập công chuộc tội sao?"

Lục Lệnh Chân trầm ngâm: "Đợi đến lúc gặp mặt sẽ rõ."

Địa hình phía Bắc nhiều vách đá hiểm trở và đất hoang, những dãy núi gần sông cũng không cao lớn, thiếu thốn cây cối có thể dùng làm nơi ẩn nấp. Vì vậy, Hạc Vệ không đốt đuốc, chỉ dựa vào khả năng nhìn đêm hơn người nhờ khổ luyện nhiều năm, lặng lẽ và nhanh chóng hành quân. Tầm khoảng giữa đêm, hơn nghìn người đã di chuyển đến khe núi phía Bắc. Trước một vách đá tương đối thông thoáng, Lục Lệnh Chân ghìm cương ngựa, ra hiệu cho binh lính hai bên dừng lại.

Đứng từ trên cao nhìn xuống có thể thu hết tình hình phía xa vào trong mắt. Thế nhưng trong tầm mắt Lục Lệnh Chân, nàng lại không thấy được bóng dáng của quân đội Đinh Giám theo như tin truyền, rằng "chúng đang đi từ đường núi phía Bắc hướng về Ung Châu", chỉ có ánh lửa bập bùng của kỵ binh dưới chân núi — đó là hàng dài đội quân Ung Châu uốn lượn như con rắn.

Phó tướng bỗng chỉ về lưng chừng sườn núi, kinh hô: "Công chúa, chúng không đi tiếp về phía trước nữa mà lên thẳng trên núi rồi!"

Lục Lệnh Chân nhìn theo, quả nhiên kia là đội quân của Đinh Giám, nhưng chúng không có vẻ gì là đang hành quân, mà giống như đang đứng yên, chờ đợi điều gì đó. Nàng nhíu mày, với khoảng cách và góc độ này, Đinh Giám hoàn toàn có thể thấy rõ quân Ung Châu dưới chân núi, nhưng tại sao gã lại án binh bất động, chỉ lặng lẽ nhìn theo bọn họ đi về phía Tây?

Tốc độ hành quân của quân Ung Châu tuy không bằng Hạc Vệ, nhưng họ cũng là những tinh binh kỵ xạ được tôi luyện qua nhiều năm chinh chiến ngoài quan ải, nếu không nắm bắt thời cơ, đợi đến khi bọn họ kịp quay về thành, thì dù là những thôn xóm nhỏ lẻ bên ngoài thành, quân Mạc Bắc cũng khó lòng chiếm được ưu thế.

Lục Lệnh Chân đang định tiến lại gần hơn để quan sát kỹ, thì đội ngũ của Đinh Giám bỗng nhiên có động tĩnh.

Viên lệnh quan bên cạnh Đinh Giám và người đứng cuối đội ngũ lần lượt vung cờ lệnh vài lần để truyền tin cho nhau. Cách thức phất cờ này lại bắt nguồn từ quân kinh kỳ Đại Tề mà Lục Lệnh Chân vô cùng quen thuộc. Tuy phương pháp truyền lệnh của quan binh không phong phú bằng Hổ Sư lệnh, nhưng lại đơn giản dễ nhớ, năm đó Lục Lệnh Tùng đã từng dạy nàng.

Theo như thư của Tạ Cánh nói, Đinh Giám là con trai của Đinh Viện, một vị tướng lĩnh thuộc Bắc đại doanh thời Kiến Ninh. Dù đã qua hai, ba mươi năm, nhưng trong những lần giao chiến, đặc biệt là khi Đinh Giám tự mình dẫn quân tác chiến mà không hợp tác với các tướng lĩnh Mạc Bắc khác, Lục Lệnh Chân vẫn có thể cảm nhận rõ ràng phong cách chiến đấu của quân kinh kỳ. Nói trắng ra, đây chính là bản lĩnh xuất chúng mà Đinh Giám đã luyện được từ thuở thiếu thời, tuy đã lưu lạc dị tộc nhưng cũng khó lòng thay đổi.

Cờ lệnh ở phía cuối đội ngũ có ý nghĩa là "không có", còn lá cờ ở đầu đội ngũ lại có ý bảo "lui lại". Thông điệp đầu tiên là tin tức mà cuối đội truyền về cho chủ tướng, còn thông điệp nối tiếp là mệnh lệnh Đinh Giám đưa ra ngay sau đó.

Thế nhưng, "không có" thường được sử dụng khi trinh sát hoặc quân tiên phong không phát hiện tung tích địch, nhằm báo hiệu phía trước an toàn, mà cờ lệnh lúc này rõ ràng không thể dùng để biểu thị "phía trước không có quân Ung Châu" được.

Song, mệnh lệnh của Đinh Giám lại là lui về phía sau, giống như đang cố ý chờ để xác nhận quân Ung Châu đã hoàn toàn rời đi rồi mới quay lại — Chẳng lẽ gã muốn ôm cây đợi thỏ, chờ Hạc Vệ không hay biết gì chạy đến tiếp viện rồi bao vây tiêu diệt sao?

Lục Lệnh Chân lẩm bẩm: "...Không, không phải."

Cho đến giờ, có lẽ mục tiêu của Đinh Giám chưa từng là Ung Châu, cũng hoàn toàn không phải gã muốn đánh lén, đánh úp hay lập công chuộc tội gì cả.

Ngay từ đầu, gã đã nhắm vào Hạc Vệ, muốn dùng kế dụ quân Ung Châu rời đi, sau đó bao vây Hạc Vệ ở trong núi!

Nhưng Hạc Vệ dù có xảo quyệt thiện chiến đến đâu, tổng cộng cũng chỉ có khoảng nghìn người, trong suốt mùa đông này, ngay cả trong các trận lớn nhỏ, người chỉ huy họ cũng không phải lúc nào cũng là Trưởng công chúa. Lục Lệnh Chân thường dẫn quân Ung Châu, còn Hạc Vệ lại chọn dùng chiến thuật "tận dụng triệt để", tùy cơ ứng biến.

Đinh Giám phản quốc về với Mạc Bắc, nhưng cũng chẳng phải kẻ tận tâm tận lực gì, giữa bọn chúng còn có hiềm khích với nhau. Thật lòng mà nói, Lục Lệnh Chân không nghĩ gã có lý do gì để mạo hiểm tự ý rời vị trí chiến đấu, truy đuổi Hạc Vệ khi chưa nhận được quân lệnh. Dù có hận, gã cũng nên hận Hổ Sư và Lục Lệnh Tùng – người đã giáng đòn chí mạng gây thiệt hại cho hắn mới đúng. Có chăng, cờ lệnh "không có" này không phải chỉ quân Ung Châu, cũng không phải chỉ Hạc Vệ, mà là ám chỉ trong đội quân đó không có Kiến Uy tướng quân của Đại Tề, không có Trưởng công chúa, không có Lục Lệnh Chân nàng?

Đinh Giám và nàng dù đã giao chiến nhưng không hề quen biết nhau trước đó. Lục Lệnh Chân từng suy nghĩ rất kỹ đối thủ này, nhưng nàng cũng chỉ mới biết được đôi chút về tính tình và quá khứ của hắn qua bức thư vài ngày trước.

Nghĩ tới đây, hai mắt nàng bỗng mở to, cảm giác lạnh lẽo tức khắc lan dọc sống lưng, bức thư đó!

Nội dung bức thư còn cố tình nhắc tới chuyện "đổi đường". Ngay từ đầu chỉ có quân Mạc Bắc là luôn đóng quân ở bờ Bắc sông Vô Định, vậy thì kẻ nắm rõ nhất về thời gian rút quân và đường đi... Đương nhiên cũng chính là quân Mạc Bắc rồi!

Trong đầu Lục Lệnh Chân xoay chuyển thật nhanh, sao anh dâu của nàng lại biết những điều này? Hay là Tạ Cánh vốn dĩ không biết, và y thật sự không biết, mà là có kẻ mạo danh y, giả nét chữ thậm chí đánh cắp cả con dấu riêng của y để làm giả bức thư, mục đích chính là truyền tin cho Lục Lệnh Chân, dụ nàng chọn con đường này, để cả Hạc Vệ cũng bị vây khốn ở đây?

Nếu sự thật là như vậy, ai là người có thể làm được chuyện này? Ngay cả Hà Cáo cũng không nhận ra sao?

Đội quân của Đinh Giám bắt đầu tiến lên. Lục Lệnh Chân đã giao chiến với chúng không chỉ một lần ở khu vực này, vậy nên nàng có thể nhận ra con đường gã chọn chính là đường tắt mà quân Ung Châu từng mai phục, và cũng là con đường mà Hạc Vệ mới lên núi khi nãy. Giờ đã không còn chướng ngại hay mai phục, chỉ chưa đầy nửa canh giờ nữa thôi, đối phương chắc chắn sẽ đến được cửa ngõ duy nhất của hẻm núi và phong tỏa nó. Còn vị trí hiện tại của Hạc Vệ thì nằm gần đỉnh núi, từ đây muốn đi về hướng Nam hay Bắc đều không thể nhanh hơn Đinh Giám.

Theo tuyến đường mà Đinh Giám đã hoạch định, chắc chắn gã sẽ đích thân dẫn quân tới cửa hẻm núi ở phía Nam. Điều duy nhất có khả năng xảy ra chính là ai đó có thể kéo dài thời gian, khiến gã không kịp quay lại điều động viện quân. Dù cho dưới chân núi phía Bắc – nơi nằm ngoài tầm nhìn của Lục Lệnh Chân có để lại binh lực, nàng vẫn tin rằng Hạc Vệ đủ sức để thoát khỏi vòng vây.

Lục Lệnh Chân xoay người lại, thần sắc vẫn như thường, nói: "Chia quân ra phía Đông, ở giữa, phía Tây mỗi nơi một nhóm, xuống núi theo hướng Bắc. Nếu gặp địch tập kích thì đừng dây dưa, đây vốn dĩ là sở trường của các ngươi, vậy nên cứ đánh càng nhanh càng tốt rồi về thành Ung Châu tìm cách tránh vài ngày. Sau đó hãy nghe ngóng tình hình, nếu mọi sự yên ổn thì lập tức về kinh, tìm Chiêu Vương điện hạ phục mệnh. Nhớ cho kỹ, đừng để Hà đại nhân biết các anh có mặt trong thành."

Các thân binh ở gần nàng nhất đều không hành động ngay. Nhưng bản chất của Hạc Vệ từ trước đến giờ đã khiến họ ít nói hơn binh sĩ bình thường, huống chi là nghi ngờ quyết định của Lục Lệnh Chân. Im lặng hồi lâu, chỉ có một người thấp giọng nói: "Công chúa, năm đó khi chúng tôi bị điện hạ phân ra khỏi Hổ Sư, đưa về dưới trướng của người, chúng tôi đã từng lập lời thề, rằng chuyện quan trọng đều do người làm chủ, coi việc bảo vệ an nguy của người là trách nhiệm của mình."

Lục Lệnh Chân nghe vậy, khẽ cười hắt một tiếng, sau đó quay mặt nhìn về phía dãy núi chìm trong đêm đen thẫm. Nàng hiểu ý của thuộc hạ, từ khi Hạc Vệ thành lập, họ đã được huấn luyện rằng phải bảo vệ vị chủ nhân này bằng mọi giá, đồng thời tuân theo mệnh lệnh của nàng vô điều kiện. Nếu nàng là công chúa, họ phải "trung quân", nếu nàng là tướng quân, họ phải "tận trách".

Thế nhưng, mối quan hệ tưởng chừng chặt chẽ, kín kẽ này lại bắt nguồn từ anh trai của nàng, chứ không phải từ chính nàng. Cũng giống như việc nàng có thể trở thành công chúa của đất nước này bởi vì nàng là con gái của phụ hoàng, hoàn toàn không liên quan gì đến bản thân nàng cả.

Lục Lệnh Tùng đã nổi tiếng với phong cách hành quân linh hoạt đến mức "xảo quyệt" từ lâu, trong khi Lục Lệnh Chân lại thường tỏ ra có chút ngay thẳng vụng về. Trong ba năm đó, Lục Lệnh Tùng thỉnh thoảng sẽ về kinh ở lại vài ngày, lúc rảnh rỗi hai người thường đàm đạo về binh pháp. Có lần, hắn hỏi nàng: "Dùng cách thức múa đao khua kiếm của em để vận dụng vào chuyện này đi, chẳng phải em luôn rất giỏi dùng sự khéo léo của mình hay sao? Sao lên chiến trường lại giống như ruồi mất đầu thế này?"

Nàng không suy nghĩ nhiều, chỉ đáp: "Múa đao khua kiếm thế nào là chuyện của em, sống chết do trời, em chỉ cần chịu trách nhiệm cho tính mạng của mình là được. Nhưng làm tướng lĩnh quân, em phải chịu trách nhiệm cho tính mạng của hàng vạn người, không dám không nơm nớp lo sợ."

Lục Lệnh Tùng nghe xong im lặng hồi lâu, cuối cùng gạt đổ sa bàn: "Em thử diễn lại một lần nữa cho anh xem nào."

Về sau, sự điềm tĩnh trong hành quân của Hổ Sư và sự khéo léo trong tác chiến của Hạc Vệ có lẽ đều bắt nguồn từ lần "bàn luận suông" tưởng chừng ngẫu nhiên và tầm thường của anh em họ.

Lục Lệnh Chân tuyệt đối không phải người lỗ m ãng háo thắng, nhưng nàng không dám chắc liệu Hạc Vệ có thật sự là mục tiêu của Đinh Giám hay không. Nếu không phải, vậy thì khi nhìn thấy nàng, Đinh Giám sẽ không tiếp tục phái người đuổi về phía Bắc; nếu phải, vậy thì sự kìm chân của nàng có thể tranh thủ thêm thời gian giúp Hạc Vệ thoát thân.

"Rời khỏi Kim Lăng, hòa thân không thành, thật ra các anh không cần phải xem ta là công chúa nữa; đi theo đến Ung Châu cũng không phải do các anh tự nguyện, người đề bạt các anh không phải ta, lương bổng của các anh cũng không phải do ta phát, càng không cần phải nhận ta làm chủ tướng. Trước đây các anh bằng lòng nể mặt ta, ta rất cảm kích, hôm nay gặp chuyện, ta không thể để các anh theo ta mạo hiểm được."

Các thuộc hạ nhìn nhau, Lục Lệnh Chân nói đến đó thì dừng lại, rồi nàng ngước mắt ra hiệu cho phó tướng. Đối phương thoáng sững lại, đành khẽ giọng nói: "Chư vị, đừng nói những chuyện không liên quan nữa, mau chóng lên đường thôi."

Mọi người nghe vậy cũng không nói gì nữa, lập tức tản đi, chốc lát sau đội quân đã chia ra ba nhánh nhưng không giục ngựa đi ngay, họ vẫn đang chờ đợi mệnh lệnh của Trưởng công chúa theo thói quen.

Lục Lệnh Chân chỉ nói: "Sau này còn gặp lại."

Rồi nàng vung roi ngựa lên, trong nháy mắt đã hòa cùng màn đêm sâu hun hút, chẳng hề quay đầu.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 97


<b>《</b><b> 23.4 </b><b>》</b>

Đinh Giám dẫn binh đến cửa hẻm núi ở bờ Bắc sông Vô Định thì trời đã gần sáng. Trên tảng đá phía trước đã có một kỵ binh đang chờ sẵn, người mang giáp bạc hông đeo kiếm dài, cưỡi ngựa Đại Uyển kia chính là Trưởng công chúa nước Tề – Lục Lệnh Chân.

Hai người nhìn nhau từ xa, im lặng đối đầu. Lục Lệnh Chân chỉ có một mình, không lùi cũng không tiến, nàng lạnh lùng ngồi thẳng trên lưng ngựa, nghiêng người chắn ngang giữa đường núi, ánh mắt dán chặt vào Đinh Giám và quân Mạc Bắc phía đối diện.

Không biết đã qua bao lâu, Đinh Giám bỗng nhiên vỗ tay một cái, một tên tù binh bị trói gô cổ và tay được đẩy ra khỏi hàng ngũ phía sau gã. Kẻ đó toàn thân đẫm máu, dáng đi chật vật không tả nổi, loạng choạng tiến về phía Lục Lệnh Chân.

Lục Lệnh Chân sững người, phát hiện quần áo trên người hắn là quan phục của Đại Tề. Sau khi nhìn kỹ hơn, nàng lập tức nhận ra kẻ này chính là thuộc quan của Thái thú Ung Châu, một tâm phúc bên cạnh Hà Cáo.

Nàng không kìm được cất tiếng chất vấn: "... Ngươi đã thông đồng với địch sao?"

Đinh Giám nghe vậy bật cười khoái chí: "E là công chúa trách lầm vị nghĩa sĩ này rồi."

Gã quay sang tên thuộc quan kia, nói: "Chẳng phải mày đến truyền tin sao? Công chúa đang ở trước mắt mày kia, có gì thì nói đi nào."

Trong đầu Lục Lệnh Chân như có tiếng nổ vang, sau khi nàng rời đi, Hà Cáo có lẽ đã phát hiện ra bức thư tay kia là giả, hơn nữa còn phái người tới báo tin cho Hạc Vệ! Chỉ tiếc là đã chậm một bước, người đưa tin cuối cùng đã bị Đinh Giám chặn lại.

Quả nhiên, tên thuộc quan nghiến răng căm phẫn liếc Đinh Giám một cái, giọng run rẩy: "Hà đại nhân lệnh cho tôi đến báo với công chúa, thư từ kinh thành có điều bất thường, giống như là bẫy. Xin người mau chóng tìm cách rút quân về thành Ung Châu!"

Lục Lệnh Chân còn chưa kịp cảm thấy áy náy vì suýt nghi ngờ Hà Cáo, đã nghe thấy Đinh Giám hỏi: "Truyền lời xong chưa?"

Sau đó, gã giơ kích phóng tới, tên thuộc quan lập tức ngã xuống, chết ngay tại chỗ!

Tiếng thét vì kinh hoảng của Lục Lệnh Chân nghẹn lại trong cổ họng, hai mắt trừng lớn đầy phẫn nộ, nhưng nàng ép bản thân phải đứng yên tại chỗ, không được phép dao động dù chỉ một chút.

Đinh Giám đi quanh thi thể của tên thuộc quan hai vòng, thản nhiên nói: "Hà Cáo mấy năm nay già cả lẩm cẩm, lú lẫn rồi, mắt mũi cũng không còn rõ nữa. Một con nhóc ranh như ngươi không nhận ra chữ của thằng họ Tạ kia thì thôi, vậy mà ngay cả lão ta cũng không nhận ra."

Lục Lệnh Chân lạnh giọng đáp: "Khi Hà đại nhân rời kinh, anh ấy vẫn còn nhỏ, nhận ra được mới lạ."

Đinh Giám điềm nhiên đáp: "Lão rời kinh chứ có phải mù điếc đâu. Lão già đó còn tinh tường lắm, tình hình trong kinh lão nắm rõ như lòng bàn tay. Ngươi cho rằng số của họ Tạ kia may mắn như vậy à, lưu lạc đến Ung Châu, muốn vào phủ Thái thú là được vào, muốn làm phụ tá là được làm ư? Ngươi nghĩ xem, nếu Hà Cáo không biết rõ danh tính và thân phận thật sự của nó, lão dám tùy tiện thu nhận một kẻ ngoại lai vô danh tiểu tốt làm cánh tay đắc lực cho mình sao?"

Lục Lệnh Chân cau mày, nàng từng nghe Lục Thư Thanh kể lại hành trình của Tạ Cánh ở Ung Châu, trước giờ chỉ cho rằng vì muốn điều tra chân tướng vụ thảm án của nhà họ Tạ nên Tạ Cánh mới chủ động nương nhờ phủ Thái thú, từ đó thăm dò Hà Cáo. Nhưng theo như lời Đinh Giám nói, chẳng lẽ ngay từ đầu việc Hà Cáo thu nhận Tạ Cánh đã nằm trong tính toán của ông ta, là cố ý sao?

Đinh Giám cười lạnh: "Sao hả, không tin à? Năm đó cha ta làm việc ở Đông cung, từng nói Hà đại nhân chính là kẻ diễn giỏi nhất trong cả phủ Thái tử, chuyên giả ngu ăn thịt hổ, không ai qua mặt nổi lão. Chẳng phải lần này các ngươi lại bị lão diễn cho xem sao? Để ta đoán nhé, hẳn là anh trai anh dâu ngươi đã cảm động rớt nước mắt vì 'ơn thu nhận' của lão, hứa hẹn đưa lão hồi kinh dưỡng già rồi đúng không?"

Lục Lệnh Chân cố giữ bình tĩnh, cất giọng đều đều: "Bức thư gửi cho anh dâu ta, là do nội ứng của ngươi trong triều giả mạo phải không? Kẻ thông đồng với địch không phải người chết oan này, cũng không phải Hà Cáo, mà chính là ngươi."

Đinh Giám cất giọng cười to: "Cha ta bị bức chết ở nơi xứ người, mẹ và chị gái chết thảm, ta sống trong lãnh thổ Đại Tề các ngươi nửa bước cũng khó đi, chẳng qua chỉ là chọn một con đường sống khác mà thôi! Ta dựa vào cái gì phải học Bá Di, Thúc Tề không ăn thóc nhà Chu* chứ? Trái lại là ngươi đấy, một đứa con gái bị đẩy đi hòa thân, nếu vẫn một lòng hướng về triều đình của ngươi thì mới thật là nực cười!"

<i>(*) "</i>伯夷叔齐不食周粟<i>" (Bá Di Thúc Tề bất thực Chu túc) là một điển cố trong văn học Trung Quốc, xuất phát từ câu chuyện về hai anh em Bá Di (</i>伯夷<i>) và Thúc Tề (</i>叔齐<i>) thời nhà Thương và nhà Chu. Câu này thường dùng để chỉ những người có khí tiết, không chịu khuất phục trước quyền lực hay sự ban ơn của người mà họ cho là bất chính, dù có phải chịu thiệt thòi hay mất mát.</i>

Lục Lệnh Chân im lặng, không phản bác cũng không đáp lời, bởi vì lời Đinh Giám nói đã nhắm trúng vào tâm sự của nàng. Thân phận "công chúa" mang đến cho nàng hai mươi năm vinh hoa nhưng cũng là gông cùm dát gấm. Mọi sự "tự do" lọt qua kẽ tay nàng nếu không phải nhờ phụ hoàng thờ ơ thì cũng nhờ anh trai đảm bảo. Mà nàng, bởi vì đã nhận ơn nuôi dưỡng của thiên hạ nên không có tư cách oán trách điều gì, nếu không sẽ bị chất vấn là được lợi còn làm bộ giả khổ.

Ta đã hưởng bao năm gấm vóc lụa là, đứng trên vạn người, có lẽ ta nên yên lòng lấy thân mình đáp đền lê dân bá tánh chăng? Lục Lệnh Chân vẫn luôn nghĩ về câu hỏi này, nhưng mãi mà nàng vẫn chưa nghĩ thông. Đây là vấn đề mà người mẹ dịu hiền, anh trai kiên cường hay anh dâu thông tuệ của nàng cũng không thể giải đáp được, bởi vì không ai trong họ có hoàn cảnh giống nàng, không một ai có thể đồng cảm với nàng. Lần đầu tiên trong đời, Trường công chúa không có ai để dựa vào, không có sách vở nào để tham khảo, trên con đường hoang vu chưa từng có dấu chân, nàng chỉ có thể mờ mịt dáo dác.

Nhưng với sự phóng khoáng tồn tại từ trong xương tủy, Lục Lệnh Chân sẽ không dễ dàng bị sự mê mang nhất thời ấy đánh gục. Nàng chọn cách không nghĩ ra thì tạm gác lại, nói suông chẳng bằng hành động, vì vậy nàng đã tự xin hòa thân, rời xa cố hương, nhanh chóng trở thành Kiến Uy tướng quân.

Lục Lệnh Chân chỉ nói: "Ta rời khỏi cung điện là để tìm lấy tự do, không phải để báo đáp 'đất nước' đã giam cầm ta cả đời. Ta chỉ muốn bảo vệ và đền ơn ngàn vạn người xa lạ đã từng nuôi dưỡng ta, bằng cách mà ta yêu thích hơn thôi."

Lục Lệnh Chân không muốn tranh luận những chuyện này với Đinh Giám, nhưng nàng mơ hồ hiểu rằng, từ sâu tận đáy lòng, suy nghĩ của họ có vài phần tương đồng.

Đinh Giám nghe vậy, liếc mắt nhìn Lục Lệnh Chân: "Ngươi còn có tiền đồ hơn thằng anh trai ngu xuẩn của ngươi đấy, chỉ tiếc sai lầm lớn nhất của ngươi chính là có người anh trai như hắn. Cho nên, ta đành tiễn ngươi lên đường vậy."

Lục Lệnh Chân nhớ đến bức thư giả từng nhắc, rằng năm ấy, chính Đinh Giám cùng chị gái của hắn – Đinh Ngọc, người bị bán vào biệt viện núi Thang Sơn của nhà họ Ngô từ nhỏ, đã nhận lời ủy thác của kẻ vô danh nào đó, vì "cứu Tạ Cánh" mà giết Lục Thư Thanh. Cuối cùng nhiệm vụ không thành, Đinh Ngọc tự sát tại chỗ, còn Đinh Giám thì trốn thoát rồi bặt vô âm tín.

Nghĩ đến lời Đinh Giám vừa nói về việc "mẹ và chị gái chết thảm", Lục Lệnh Chân khẽ siết dây cương, vừa đi vòng quanh một đoạn không xa không gần, vừa liên tục phòng bị thế tấn công của đối phương, nàng hỏi: "Ngươi muốn báo thù cho chị gái của mình sao?"

Nàng nhếch môi cười: "Chị ngươi giết người không thành nên chỉ còn cách tự sát, vậy nên Đinh tướng quân muốn tìm ta để báo thù ư?"

Đinh Giám cả giận quát: "Nếu không phải do anh trai ngươi ép buộc, chị ấy sẽ không vì bảo vệ ta mà phải bỏ mạng, chị ấy vốn dĩ không cần phải chết!"

Lục Lệnh Chân hừ lạnh một tiếng như thể vừa nghe được chuyện nực cười nhất thiên hạ: "Vậy thì chị ta vốn không cần phải giết người thay kẻ khác! Ta mặc kệ phía sau có người đang hô mưa gọi gió muốn các ngươi giết Lục Tử Phụng hay giết ta, cũng thường thôi, bọn ta sinh ra đã mang họ này, chết trong tranh đoạt quyền vị cũng đành nhận mệnh! Nhưng cháu ta năm ấy còn chưa được nửa tuổi, một đứa trẻ vô tri vô giác, các ngươi dám nhắm vào nó thì đúng là tội ác tày trời!"

Đinh Giám nghe vậy, sắc mặt càng tối lại: "Công chúa là đang phẫn nộ thay ai đây? Thay anh trai và anh dâu của ngươi? Hay là thay cháu ngươi? Ngươi có biết tội ác tày trời mà ngươi nói, ngược lại đã thành toàn cho một nhân duyên tốt đẹp không?"

Lục Lệnh Chân thật tình không biết, chờ gã nói tiếp: "Ngươi có biết sau khi anh trai ngươi ép chết chị ta đã làm gì không? Hôm đó vừa rạng sáng, các ngươi đều cho rằng ta đã chạy thoát, Lục Lệnh Tùng và Tuyên Thất cũng không đuổi kịp ta, nhưng thực ra ta vốn chưa từng rời khỏi thành Kim Lăng."

"Lục Lệnh Tùng đúng là thằng ngu, ta cứ thế theo hắn về lại phủ Chiêu Vương, hắn cũng không phát hiện ra, ngươi đoán xem thế nào? Hắn bận bịu dỗ dành Vương phi của mình, thổ lộ tình cảm cùng người đã đâm ta một nhát vào cánh tay phải đó, vợ chồng con cái cùng hưởng niềm vui gia đình! Phải nói, ta đã được xem một vở kịch tình sâu nghĩa nặng cực kỳ cảm động, suýt chút nữa đã rơi cả nước mắt!"

Hắn quay đầu nhìn chằm chằm Lục Lệnh Chân: "Chị em ta vì trả ơn cứu mạng, khi nhận lời người khác giết Lục Lệnh Tùng và Lục Thư Thanh đã sớm vứt bỏ vinh nhục, mặc kệ ngươi muốn chất vấn thế nào cũng được. Nhưng cha mẹ ta vô tội chết oan, hơn một trăm thân quyến của các thần tử bị Quân Giới án năm Kiến Ninh thứ mười hai liên lụy cũng vô tội chết oan, họ trở thành oan hồn dưới đất vì giang sơn cơ nghiệp của nhà họ Lục các ngươi. Ta hỏi ngươi, được bao nhiêu người nhà thiên gia các ngươi dám đứng ra lấy máu đền mạng!?"

Lục Lệnh Chân khẽ giật mình, lẩm bẩm nhắc lại: "...Năm Kiến Ninh thứ mười hai, Quân Giới án?"

Đinh Giám cười thê lương: "Ngươi tưởng ta báo thù chỉ vì chị của ta thôi sao? Trưởng công chúa điện hạ, ngươi thật sự không biết gì về chuyện cũ ư!"

Trời đã sáng hẳn, gã giục ngựa tiến gần, duy trì khoảng cách vừa đủ để mũi kích của mình và lưỡi kiếm của Lục Lệnh Chân giao nhau, cất giọng như đang kể về một lời đồn đại từ xa xưa:

"Tổ mẫu của ngươi, Tiêu Thái hậu năm đó vì muốn khống chế Tiên Đế, đã chọn một nhóm hàn sĩ không xuất thân danh môn vào Đông cung, bao gồm cả cha ta và các đồng liêu của ông ấy. Sau đó, bà ta ra lệnh cho nhà họ Tiêu giam giữ toàn bộ gia quyến của những thần tử Đông cung này, chỉ đến cuối năm mới được đoàn tụ một lần. Khi bị chia cắt khỏi cha mình, ta chỉ mới bốn tuổi."

"Sau khi đăng cơ, mâu thuẫn giữa Tiên đế và Tiêu Thái hậu ngày càng sâu sắc. Đến năm Kiến Ninh thứ mười hai, để đoạt lại thực quyền, lão đã ngầm hứa hẹn với cha ta và những người khác rằng, nếu họ chịu phản bội và giúp lão trừ khử Lan Lăng Tiêu thị, sau khi xong việc sẽ cho họ đoàn tụ với người thân. Họ đã đồng ý."

"Sau đó Quân Giới án diễn ra. Cha ta cùng Hứa Dịch khi ấy đang giữ chức Tư Lệ Hiệu Úy đã dẫn đầu quân kinh kỳ phản loạn, hai nhà Vương – Thôi liên thủ, đoạt lại binh quyền Vũ Lâm Vệ, Tiêu Thái hậu thất bại."

"Bọn ta vui mừng nghĩ cuối cùng cả nhà cũng được đoàn tụ. Ai ngờ hai nhà Vương, Thôi chia chác không đều, đều muốn ôm hết công lao phò vua, không chịu giao quyền, bèn dâng tấu lên Tiên đế, bọn họ dùng lại cách của Tiêu Thái hậu năm xưa, tiếp tục giam giữ gia quyến của cha ta và những người khác, không cho những hàn sĩ này có cơ hội trở mình."

"Nhưng nhà họ Tiêu quyết để cá chết lưới rách, trước khi lẩn trốn khỏi kinh thành đã 'giải quyết' sạch bọn ta. Ta và chị từ nhỏ đã học võ, nhờ mẹ che chắn, khó khăn lắm mới có thể thoát thân — còn tiện tay cứu được Chung Triệu, khi ấy ông ta đã bệnh nặng hấp hối, bị bỏ rơi giữa đường, sau đó mới tìm được cha ta để báo tin cho họ."

"Những cựu thần Đông cung cầu xin Tiên đế thực hiện lời hứa, giúp họ tìm lại người thân, nhưng lão già đó đã chọn thỏa hiệp với các sĩ tộc — lão chỉ thờ ơ đứng nhìn, khoanh tay không cứu."

"Đương nhiên, cha ta và những người khác đều vô cùng phẫn nộ, nhưng cơn giận của một đám hạ thần không quyền không thế, mạng hèn như cỏ rác thì đáng giá bao nhiêu đồng chứ? Không lâu sau, bọn họ cũng đành khuất phục trước thiên uy, người bằng lòng cam chịu thì ở lại kinh thành tiếp tục làm quan, nhưng tiền đồ cũng khó liệu; còn những kẻ không nuốt trôi được cơn giận này, có người thì bị giáng chức, từ quan cũng có, đều lưu lạc nơi đất khách quê người. Cha ta bệnh chết trên đường đi, mười mấy năm khổ học dùi mài, cuối cùng hóa thành công dã tràng, tay trắng vẫn hoàn tay trắng."

Mãi sau, Lục Lệnh Chân mới khó nhọc hỏi: "Vậy người thân của những thần tử đó... ngoài chị em các ngươi và Chung Triệu, còn có ai... Thoát ra được không?"

"Không ai cả," Đinh Giám hung dữ đáp lại, "Mẹ ta, mẹ của Chung Triệu, con gái của vợ chồng Hà Cáo... Họ bị giam trong hầm ngầm của một kho hàng ở thành Tây suốt bảy ngày, hơn trăm mạng già yếu, phụ nữ và trẻ em cuối cùng đều chết đói cả."

Lục Lệnh Chân hoàn toàn câm lặng, trong đầu hiện lên mái tóc bạc trắng và gương mặt đầy nếp nhăn của Hà Cáo, cùng thái độ lẩn tránh và mỏi mệt không sao nói hết khi nghe nàng nhắc đến việc để "vợ con cùng hưởng đặc quyền".

Nàng vô thức nhủ thầm, đây là tội ác của cha và tổ tiên nàng, là tội ác của các thế gia quý tộc một tay che trời, là tội ác của hoàng quyền, nàng vốn chẳng cần phải gánh vác, thế nhưng ngón tay lại không kìm được mà khẽ run rẩy.

"Cuối cùng, ta còn một câu hỏi nữa," hồi lâu sau, Lục Lệnh Chân mới siết chặt thanh kiếm trong tay, "Kẻ có ơn với các ngươi, sai các ngươi giết Lục Thư Thanh và kẻ đứng sau Chung Triệu là cùng một người sao?"

Đinh Giám cũng nâng cặp kích tay của gã lên: "Sắp chết đến nơi rồi, ta sẽ nói cho ngươi biết vậy."

Nói đoạn, gã tiến về phía Lục Lệnh Chân vài bước, dùng âm lượng chỉ hai người họ có thể nghe được mà thốt ra một cái tên. Lục Lệnh Chân hoảng hồn lạnh toát cả người, không tin nổi nhìn chằm chằm đối phương, nhưng trong khoảnh khắc đó nàng đã hiểu ra được vì sao trên phong thư giả lại xuất hiện con dấu riêng của Tạ Cánh, và cả Khứ Hà thể chẳng phân biệt nổi thật giả.

Đinh Giám không cho nàng thêm thời gian để nghĩ ngợi, lập tức vung kích tay về phía trước, Lục Lệnh Chân theo bản năng rút kiếm đón đỡ, khi tâm trí còn chưa kịp quay về thì cơ thể đã dựa vào ký ức cơ bắp để giao chiến với đối phương.

Đây không phải là một trận chiến, mà là một cuộc tỷ thí. Lục Lệnh Chân mơ hồ trở lại khoảnh sân điện Minh Loan, chỉ có điều đối thủ của nàng đã không còn là Lục Lệnh Tùng, từng chiêu thức đều mang theo sát ý tuyệt đối không quay đầu. Quân Mạc Bắc phía sau Đinh Giám đã dần bao vây lại, họ chưa chắc đã hiểu được ân oán giữa chủ soái của mình và tướng địch, nhưng mối đe dọa của người con gái dị tộc này trên chiến trường mạnh mẽ đến mức nào, họ đều đã tận mắt chứng kiến.

Sức của Lục Lệnh Chân không bằng Đinh Giám, trước giờ nàng vẫn luôn dựa vào sự nhẹ nhàng và tốc độ của vũ khí để kiểm soát đối thủ. Lúc này, ánh kiếm đã nhanh đến mức nối liền thành một dải, tập trung tấn công vào cánh tay phải của Đinh Giám, tay còn lại điều khiển dây cương để thay đổi phương hướng, tranh thủ chớp lấy khoảng trống giữa kích tay.

Nhưng Lục Lệnh Chân đã hành quân liên tục suốt mấy ngày, đêm qua thức trắng không chợp mắt, vượt núi tập kích, lại thêm vừa rồi tinh thần chấn động mạnh, sau khi giao thủ vài trăm chiêu với đối phương, nàng khó tránh khỏi dần rơi vào thế yếu. "Duy khoái bất phá*" chỉ có thể đạt được với điều kiện tiên quyết là ngươi cũng phải khống chế địch nhanh chóng, trước khi bị phá thì đã phải thu được đầu kẻ địch. Nhưng Đinh Giám lại không phải là một đối thủ có thể cho nàng cơ hội như vậy.

<i>(*) Duy khoái bất phá (</i>唯快不破<i>) là một thành ngữ Trung Quốc, nghĩa đen là "chỉ có nhanh mới không bị phá vỡ". Ý nghĩa của câu này là trong nhiều tình huống, tốc độ và sự nhanh nhạy chính là yếu tố quyết định để chiếm ưu thế và tránh bị đánh bại.</i>

Lục Lệnh Chân biết nếu nàng không thể mạnh mẽ xông lên thêm lần nữa, e rằng không chỉ mất mạng mà còn khó lòng khiến đối thủ trọng thương. Ánh mắt nàng lạnh đi, quyết đoán nhảy khỏi lưng ngựa, hai tay nắm chặt chuôi kiếm rồi xoay người, chém xéo xuống từ một góc độ mà cánh tay đối phương khó có thể với tới. Trong khoảnh khắc, máu tươi văng tung tóe, một kiếm ấy vậy mà đã chém đứt cánh tay phải của Đinh Giám, còn để lại một vết cắt dài và sâu sém vào bên hông gã.

Nhưng cùng lúc đó, phần lưng của Lục Lệnh Chân vì mất đi sự phòng bị đã không tránh được lộ ra trước mặt Đinh Giám. Gã mặc kệ bản thân trọng thương, không chút do dự dùng tay trái cầm kích, hung hăng nện thẳng vào lưng nàng, kéo nàng ngã nhào xuống đất ngay tức khắc.

"Trước khi tự sát, chị ta từng trúng một kiếm của Lục Lệnh Tùng. Hôm nay, ta sẽ trả lại bằng hết."

Lục Lệnh Chân nằm rạp trên mặt đất đầy cát bụi, cố chuyển động nửa thân trên bò về phía trước, gắng sức với lấy thanh kiếm của mình, nhưng cơ thể đã lung lay sắp đổ, khó lòng chống đỡ nổi. Đinh Giám chẳng mảy may quan tâm tới cánh tay bị chặt đứt của mình, chỉ nhanh hơn nàng một cái chớp mắt, gã giật lấy thanh kiếm dài, rồi không chút do dự đâm thẳng xuống, xuyên qua cơ thể Lục Lệnh Chân từ sau lưng!

"Trói cô ta vào ngựa." Đinh Giám hờ hững nhìn cơ thể đột ngột cứng đờ của Lục Lệnh Chân, thuộc hạ nghe lệnh nhanh chóng trói chặt hai tay nàng vào chân sau của chiến mã, cơ thể bị lật ngửa lên trời, treo lủng lẳng phía sau ngựa.

Ngay sau đó, Đinh Giám mặt không đổi sắc giơ tay vung mạnh roi. Chiến mã giật mình hí dài một tiếng, lập tức kéo theo Lục Lệnh Chân lao như điên xuống dốc núi!

Ban đầu, cả năm giác quan đều gần như tê liệt, Lục Lệnh Chân thậm chí không cảm nhận được cả cơn choáng vàng vì mất máu và nỗi đau da thịt bị xé toạc. Khoảnh khắc ấy, nàng chỉ khẽ thở dài một tiếng, chợt nhớ đến chiếc vòng tay đan bằng chỉ màu trên cổ tay – món đồ chơi mà khi còn nhỏ anh dâu đã tự tay kết cho nàng, sợi dây thừng không ngừng cọ xát với nền đất, chỉ sợ là sắp đứt mất rồi. Nếu anh ấy biết được chắc chắn sẽ tết lại cho nàng một cái mới, nhưng liệu nàng có còn được gặp lại anh nữa không?

Núi non nơi biên ải gồ ghề và hiểm trở, máu nóng ròng ròng tuôn ra từ sau lưng Lục Lệnh Chân. Cảm giác bỏng rát như thiêu đốt ấy mãi sau mới kéo tới tựa như nằm trên đống lửa, nỗi đau xương thịt bị nghiền nát rồi lại trả về chỗ cũ giống như có người treo ngược nàng lên cao, khiến cho ảo ảnh trước mắt trở nên rõ ràng, không để nàng có cơ hội mê man vượt qua đoạn cực hình cuối cùng này.

Trong khoảnh khắc ấy, Lục Lệnh Chân nhìn thấy rất nhiều người, nghĩ đến rất nhiều chuyện.

Người đầu tiên nàng nghĩ đến là mẹ mình, Lục Lệnh Chân th* d*c, nhưng đến cả việc hít thở cũng trở nên khó khăn, cảm giác áy náy với Ngô thị chưa bao giờ mạnh mẽ xộc vào trong tim giống như lúc này. Từ những chuyện nhỏ nhặt như lén trốn ra khỏi cung để đi chơi, đến chuyện lớn như cố chấp thay áo cưới thành chiến bào, mỗi lần làm trái lễ giáo, dù cho có quyết tâm tới đâu nàng cũng không khỏi lo lắng, chẳng biết liệu bản thân có khiến cho mẹ khó xứ hay không? Nhưng từ trước đến nay Ngô thị chỉ luôn nói "Con đi đi", chưa từng nói với nàng rằng "Con về đi". Giờ thì nàng thật sự không thể trở về nữa rồi.

Đương nhiên Lục Lệnh Chân cũng nghĩ tới Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh. Lần này nàng có thể ra đi mà không thấy hổ thẹn, có thể ngẩng cao đầu hãnh diện rồi, các anh đã nghe tin chưa? Đã xem chiến báo chưa? Tài năng của nàng, công lao của nàng, trong đại kế liên quan đến sự tồn vong của cả gia tộc, nàng đã hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách hoàn mỹ rồi, nàng đã không phụ sự dạy dỗ và kỳ vọng của bọn họ rồi. Chỉ là nàng không kịp, cũng không thể nói cho họ biết danh tính những kẻ phản bội triều đình. Nhưng anh trai và anh dâu đều yêu thương nàng như cha mẹ thương con, Lục Lệnh Chân không hề nghi ngờ rằng đến một ngày nào đó, bọn họ nhất định sẽ thay nàng trả hết mối thù còn dang dở.

Nàng còn nghĩ tới đứa cháu trai và cháu gái còn nhỏ dại của mình, nhớ sự ấm áp và niềm vui mà chúng mang lại, nhớ bé cưng Ninh Ninh từ khi mới sinh đã mềm mại như đám mây nhỏ, cứ quẫy đạp chui rúc trong lòng nàng không rời. Còn Lục Thư Thanh, Lục Lệnh Chân đã hứa với cậu rằng năm nay nhất định sẽ về kinh cùng cậu đón sinh nhật. Thanh Nhi từ nhỏ đã là đứa trẻ trọng chữ tín, nếu đến khi ấy không thấy cô về, nàng sợ rằng cậu bé sẽ trách mình nuốt lời mất. Bao giờ nàng mới lại được nghe bọn nhỏ gọi một tiếng "cô " nữa đây?

Lục Lệnh Chân thậm chí nghĩ tới người em trai hiền lành ít nói, lúc thì gần gũi khi lại xa cách của mình. Nàng nghĩ tới tất cả mọi người, thật ra những mảnh ký ức vụn vặt, xa xôi ấy còn chưa đủ để gọi là đèn kéo quân, chỉ là nàng muốn cố khắc sâu từng khuôn mặt thêm một chút trong giây phút sắp xa cách này, sợ rằng ngày gặp lại dưới cửu tuyền không còn nhận ra nhau, kiếp sau không thể làm người thân nữa — thật ra khi nghĩ tới người thân của mình, nàng đã không dám nghĩ tiếp nữa.

Thật ra, vào đúng một khắc cuối cùng ấy, Lục Lệnh Chân chỉ nghĩ tới chính mình.

Vào buổi trưa năm Trinh Hữu thứ chín ấy, nàng đã chọn một con diều hình chim nhạn trong kho phủ Chiêu Vương, kéo bằng được anh trai và anh dâu cùng ra đảo Bạch Lộ, giữa tiết xuân nồng nàn, nàng không chút do dự thả cho con diều ấy bay thật cao, thật xa, thuở thiếu thời nhẹ nhàng chẳng phải bận tâm điều gì theo cánh chim nhạn xé gió xuyên mây, vụt thẳng lên chín tầng trời.

Thế nhưng dù có bay cao, bay xa đến mấy, sợi dây diều vẫn bị nàng nắm chặt trong tay, có thế nào cũng không đứt. Khi đó, Lục Lệnh Chân đã thật lòng mong rằng nó sẽ đứt, dù đó chỉ là một chú chim nhạn được tạo nên từ giấy và mực vẽ, nàng cũng không đành lòng nhìn nó bị trói buộc nơi lầu các, không thể nhìn thấy ánh mặt trời.

Nhưng mãi mà nó vẫn không chịu đứt.

Tựa như ngay khoảnh khắc người thợ thủ công hạ bút, vận mệnh và kiếp số của nó đã bị khắc vào sổ sinh tử, phàm nhân máu thịt làm sao có thể nghịch thiên cải mệnh? Mang trong mình bản tính phóng khoáng tùy ý, không có nghĩa là nàng toàn năng hay không gì có thể ngăn cản được, nàng dốc hết tâm tư vứt bỏ mọi muộn phiền, chạy khỏi cửa điện Hàm Chương, chạy khỏi cung Thái Sơ, chạy khỏi cổng thành Kim Lăng, cuối cùng giật mình nhận ra rằng, từ đầu đến cuối, nàng chưa từng thoát khỏi cánh cửa số mệnh mang tên "Trưởng công chúa".

Lục Lệnh Chân mở to mắt, nhìn lên bầu trời yên ả, trong vắt như thấy đáy dần trở nên mơ hồ. Nàng lại thấp thoáng trông thấy chú chim nhạn ấy bay về, hoặc có lẽ suốt mười mấy năm qua nó vẫn lượn lờ trên tầng không kia, chưa từng bay xa, giống như đến cuối cùng, nàng vẫn không thể chạm tới chữ 'Chân' xa xăm mịt mờ trong cái tên và số mệnh của mình.

Bầu trời xanh ngưng đọng.

Mùa xuân năm Cảnh Dụ thứ năm, Kiến Uy tướng quân, Trưởng công chúa Lục Lệnh Chân của Đại Tề hoăng thệ, khi ấy nàng vẫn chưa tròn hai mươi tư tuổi. Sinh thời nàng lấy thân làm mồi nhử, một mình xông vào trận địch, bị chiến mã kéo lê suốt mười ba dặm mới tắt thở mà chết.

Đến chết cũng không nhắm mắt.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 98


<b>《</b><b> 23.5 </b><b>》</b>

Trong điện Thần Long, Lục Lệnh Chương ngồi nghiêng người, đỡ trán nhắm mắt nghỉ ngơi. Bỗng dưng trong mộng có điều gì đó làm gã giật mình tỉnh lại, vung tay vô ý gạt đổ chén trà nguội uống dở trên bàn.

Nước trà màu nâu lập tức loang ra, thấm ướt tấu chương và sổ sách, cùng với chiếc túi hương mà gã chẳng biết mình đã tháo xuống từ lúc nào rồi tiện tay bỏ ở đó.

Thái giám trong điện âm thầm nhanh chân tiến lên dọn dẹp. Lục Lệnh Chương chầm chậm xoa mi tâm, gã dựa lưng vào ghế, tiện tay nhấc chiếc túi hương ấy lên, vẩy nước đọng trên nó rồi kéo dây buộc ra, nhìn thoáng vào bên trong.

Đó chẳng qua chỉ là mấy loại hương liệu và bùa bình an, trong cung còn vô số thứ tương tự mà thiên tử có thể tùy ý lấy dùng, cho dù túi hương có bị nước thấm ướt thì cũng chẳng đáng kể...

Nhưng rồi ánh mắt Lục Lệnh Chương đột nhiên khựng lại, dừng trên một mảnh giấy đã phai màu và ố vàng, vẻ ngoài của nó trông chẳng có gì nổi bật, nhưng Lục Lệnh Chương nhớ rất kĩ lá bùa bình an này, nhiều năm trước, cụ thể là bao nhiêu năm không còn nhớ rõ nữa, gã đã nhận được mảnh giấy này từ Lục Lệnh Chân.

Chị gái của gã vì muốn mua thanh đao Hồ yêu thích mà bị người ta lừa sạch tiền, ôm về một đống bùa bình an sặc sỡ, bên trên đã viết đầy đủ tên của cả nhà. Khi ấy Lục Lệnh Chương chăm chú nhìn ba chữ "Lục Lệnh Chương" một lúc, sau đó đích thân bỏ lá bùa vào trong túi hương này. Lục Lệnh Chân rất vui, còn lén lút chắp tay cảm ơn gã ở dưới bàn.

Hôm qua gã đi ngang qua điện Hàm Chương, cửa điện đã bị khoá gần nửa năm, có điều mấy ngày trước chiến sự và thiên tai ở Ung Châu đã dần lắng xuống, gã nhận được tấu chương xin phép về kinh của Lục Lệnh Chân, chắc là cũng sắp trở về rồi.

Khi Lục Lệnh Chương vừa mới đăng cơ, điện này suýt chút nữa đã bị đổi tên, "điện Hàm Chương" kế thừa tên gọi cổ, từ thời Nam triều Lưu Tống, khi Thọ Dương công chúa say giấc trước điện, hoa mai rơi trên trán đã khiến nàng nổi danh khắp thiên hạ. Nhưng dù có lai lịch thế nào đi nữa, suy cho cùng vẫn phạm huý vào tên của tân đế.

Lễ bộ đã chuẩn bị sẵn một loạt những cái tên có thể thay thế rồi trình lên, cậu và mẫu hậu của gã cũng giục như đòi mạng, bắt gã lập tức đổi tên. Ngay cả Lục Lệnh Chân cũng dùng giọng điệu bướng bỉnh quen thuộc của nàng mà nói, chả sao cả, tốt nhất là cho chị dọn ra ngoài ở luôn đi.

Nhưng Lục Lệnh Chương lại vô cùng kiên quyết, gần như là cố chấp không chịu đổi — gã không muốn mang thêm phiền toái đến cho gia đình nhỏ vừa trải qua biến cố lớn của anh chị, mặc dù chút "lộn xộn" này so với cảnh vợ con ly tán, mỗi người một phương mà họ phải chịu thật sự chẳng đáng nhắc tới.

Bùa bình an bị thấm nước trà, nét chữ càng thêm nhòe nhoẹt, đã hoàn toàn không thể đọc ra được nữa. Lục Lệnh Chương thở dài một tiếng, vừa định đưa cho thái giám quét dọn bên cạnh mang đi vứt, nhưng suy nghĩ bỗng lóe lên, gã do dự giây lát, cuối cùng vẫn thu tay lại, vuốt phẳng mảnh giấy rồi đặt sang một góc bàn cho khô.

Sau đó gã tiện tay cầm lấy quyển tấu chương mới vừa được trình lên, lật mở một cách thờ ơ, nét bút của Thái thú Ung Châu Hà Cáo lập tức hiện ra trước mắt.

Lục Lệnh Chương chăm chú đọc mấy hàng chữ kia hồi lâu, thấp giọng lẩm bẩm: "... Đi mời hoàng huynh vào cung, ngay lập tức."

Tạ Cánh bước vào thư phòng phủ Tướng sớm hơn bình thường nửa canh giờ, phát hiện Vương Thục, anh em Vương Khế và Vương Hề, cả Thôi Thục Thế cùng mấy vị mưu sĩ môn sinh đã sớm ngồi kín cả phòng. Thấy y đi vào, vài ánh mắt khác thường lập tức hướng về phía y.

Vào ra phủ Tướng, Tạ Cánh đã quen với "đãi ngộ" này từ lâu, y chỉ lặng lẽ bước tới ngồi xuống vị trí trống ngay sát bên dưới Vương Thục, nghe đối phương thản nhiên mở miệng: "Sáng nay có một tấu chương từ Ung Châu gửi về, ngươi xem thử đi."

Tạ Cánh nghe đến hai chữ "Ung Châu", sắc mặt hơi căng thẳng nhưng cũng không nghi ngờ, chỉ cúi đầu xuống đọc.

Dường như mọi người trong phòng đều đang chờ đợi một phản ứng khác thường nào đó từ y dù chỉ là chút biểu cảm, vậy mà Tạ Cánh không hề hấn gì. Y vẫn giữ nguyên tư thế hơi cúi đầu, thậm chí chẳng mảy may cử động, hồi lâu sau mới ngẩng đầu lên, bình thản trả lại tấu chương.

Thôi Thục Thế liếc mắt nhìn Tạ Cánh một cái, thoáng cau mày rồi giãn ra, sau đó chuyển chủ đề: "Cha, đây chính là cơ hội của chúng ta. Việc cấp bách bây giờ là phải nhân lúc Chiêu Vương đang khó xử vì chuyện này, mau chóng giải quyết đội quân mà Trưởng công chúa mang tới Ung Châu, không thể lặp lại sai lầm năm đó khi chúng ta để lỡ Hổ Sư được."

Vương Thục chậm rãi nói: "Hiện giờ cánh của bệ hạ đã cứng cáp rồi, người cũng có suy tính khác, muốn trực tiếp động vào chỉ sợ là không dễ."

Vương Khế bèn nói: "Em dâu nói không sai. Dù không thể tiếp quản thì nhất định cũng phải nghĩ cách tiêu diệt, đừng để bệ hạ nhân cơ hội này lấy đó làm nhân tình, thuận nước đẩy thuyền đưa cho phủ Chiêu Vương. Con nghe nói những người đó đều là thân vệ Trưởng công chúa nuôi dưỡng ở Kim Lăng, lúc trước đã giữ kín không công khai, hẳn là có ý định dùng làm tử sĩ."

"Một đội quân như vậy, để lại trong kinh còn phiền phức hơn ở biên cương, nhưng rơi vào tay Lục Lệnh Tùng lại càng phiền hơn là đưa về kinh." Vương Thục trầm ngâm một lúc, bỗng nhiên quay sang Thôi Thục Thế hỏi: "Em trai cô hiện giờ vẫn còn làm việc trong cấm quân chứ?"

"Em trai thiếp Thôi Tế Thế hiện đang giữ chức Vũ Lâm Ngoại tham quân, ngoài ra không còn ai ở trong quân nữa."

Vương Thục gật đầu, nói: "Vậy chẳng bằng đi đường vòng, muốn lấy trước phải cho, dùng danh nghĩa ban thưởng để sung công cho bọn họ, trước tiên đưa vào Vũ Lâm vệ, đến lúc đó điều động cũng dễ dàng hơn nhiều. Bảo em trai của cô chú ý một chút, chuẩn bị sẵn đi."

Vương Hề nghe tới đây, không khỏi bất mãn nói: "Cha, chức Hữu tán kỵ thường thị mới được bổ nhiệm tháng trước cũng là con cháu nhà họ Thôi mà!"

Thôi Thục Thế lạnh lùng liếc Vương Hề một cái, châm chọc: "Nếu anh không phục thì tự mình tìm người so tài thử xem sao. Anh họ của tôi tuy không phải nhân tài xuất chúng gì, nhưng võ nghệ vẫn cao hơn tôi một bậc đấy. Ồ quên mất, mà nhị công tử bây giờ liệu có đánh thắng nổi cả tôi không ấy nhỉ?"

Vương Hề trừng mắt với nàng ta một cái, không dám nói gì thêm.

Chính vì Vương Thục không bận tâm đến việc nàng và Vương Hề có hòa thuận hay không, Thôi Thục Thế mới dám ngang ngược như vậy. Vương Khế có con trai trưởng, Vương Thục cũng không mong Vương Hề nối dõi tông đường, bởi thế lão mới dung túng cho đứa con dâu thứ mang vai trò "mưu thần" này, chỉ cần nàng đủ trung thành và khôn khéo, lão cũng chẳng ép nàng phải giữ thể diện phu thê.

Vì vậy, nhân lúc Vương Thục chán ngán không muốn quan tâm đến con trai thứ, các mưu sĩ cũng lúng túng khi bị ép phải chứng kiến chuyện nhà của phủ Tướng, Thôi Thục Thế vội để ý đến sắc mặt của Tạ Cánh.

Vẫn không chút dao động.

Mãi đến khi Vương Thục cho mọi người giải tán, Thôi Thục Thế thấy xung quanh không còn ai bèn đuổi theo Tạ Cánh đang rời khỏi phủ, nàng phải níu lấy tay áo đối phương mới có thể khiến y dừng lại: "Người..."

Hai đồng tử của Tạ Cánh dường như đã tan rã, lúc này trông y cứ như một con rối gỗ đứng trên bậc thềm, hờ hững, lạnh lùng nhìn chăm chăm vào những viên gạch phía trước, đừng nói chi nghe thấy Thôi Thục Thế gọi, e rằng đến cả việc bên cạnh có người hay không y cũng chẳng hay biết.

Thôi Thục Thế không biết làm sao, chỉ đành dặn dò thị nữ phía sau: "Đưa Tạ đại nhân về bằng cửa sau đi."

Tạ Cánh lên xe về phủ, suốt dọc đường vào nhà cũng không thốt lấy nửa lời, ánh mắt cứ đăm đăm cố định vào một khoảng không nào đó. Mãi sau, y mới chớp mắt một cái như bừng tỉnh khỏi cơn mê. Thật ra trạng thái này cũng không khác gì ngày thường, đến mức đám người hầu hoàn toàn không nhận ra y có gì khác lạ.

Cánh cửa sau lưng vừa khép lại, một tờ giấy đã nhẹ nhàng rơi xuống từ trên xà nhà, đây là cơ quan mà Tạ Tuấn hay dùng nhất, chỉ có chiều cao của Tạ Cánh, cùng thói quen đẩy cửa và bước chân của y mới có thể kích hoạt được.

Tạ Cánh cúi đầu, nhìn thẳng vào nội dung trên tờ giấy.

Vết mực vẫn còn mới, nét chữ vội vàng nhưng ngay lập tức ghim chặt trái tim của y trở về thực tại, rồi ném phịch xuống đất không chút thương tiếc, máu thịt tan nát.

<i>"Mong chú và điện hạ nén bi thương, đại sự phải thành, mới có thể báo thù cho Trưởng công chúa."</i>

Tạ Tuấn có thể liên lạc trực tiếp với Tuyên Thất, mà tin tức đã được Tuyên Thất xác nhận gần như không có khả năng sai lệch hay làm giả.

Tạ Cánh thất thần đứng yên tại chỗ, hoang mang như thể vừa trải qua một kiếp người dài đằng đẵng. Rồi đột nhiên y lao tới chiếc gương lớn đặt ở góc phòng, nhón chân muốn mở ra cánh cửa dẫn vào mật thất, y phải đi tìm Lục Lệnh Tùng, y phải ở bên Lục Lệnh Tùng.

Thế nhưng đúng lúc này lại đang gặp kỳ nước dâng, lối đi không thông nên khung gương đã bị khóa từ trước, lúc này không thể mở ra được. Tạ Cánh bèn dùng đầu đập mạnh vào gương, đập đến mức trời đất quay cuồng, rồi y bỗng giật mình, mồ hôi lạnh túa ra khắp người. Gặp được Lục Lệnh Tùng rồi thì sao? Có ích gì đâu? Bọn họ ở bên nhau rồi thì thế nào?

Cũng chẳng thay đổi được gì cả.

Giờ đây Tạ Cánh đã không còn nghi ngờ, rằng nhất định là kiếp trước mình chết chưa hết tội. Nếu không thì y thật sự không biết bản thân đã gây ra tội nghiệt gì, hay đã mắc phải món nợ máu nào, nên kiếp này mới bị trời phạt hết lần này tới lần khác như vậy!

Suy nghĩ trong y rối loạn, đứng không vững ngồi cũng không yên, liên tục đi lại trong phòng như mắc chứng rối loạn phân ly, cứ như thể một khi dừng lại thì sẽ có lửa bốc cháy dưới chân ngay lập tức. Trước mắt y tối sầm từng cơn, không phải là cơn choáng váng khi đột ngột đứng dậy sau thời gian dài ngồi yên, mà là trời đất xung quanh bỗng dưng nghiêng ngả hỗn loạn, y chợt nhận ra mình còn nghĩ đến cái chết.

Tạ Cánh nỗ lực tìm kiếm trong đầu, rồi bàng hoàng phát hiện bản thân không thể bám víu được chút khát vọng sống nào. Không phải là y không muốn, mà là y không làm được. Những ký ức tươi đẹp và rực rỡ trong quá khứ hãy còn khắc sâu trong tâm trí, nhưng y không nếm được chút niềm vui nào từ chúng.

Khoảnh khắc nhà họ Tạ bị sao trảm, khoảnh khắc y đưa Lục Thư Ninh rời khỏi phủ Chiêu Vương, cả khoảnh khắc y dặn dò Lục Thư Thanh đi trước ở núi Thang, không phải y chưa từng dao động, chưa từng nghĩ đến chữ đó. Thế nhưng giờ phút này, điều làm Tạ Cánh sợ hãi chính là ngay cả việc cố gắng nghĩ đến hai đứa trẻ cũng chẳng thể dấy lên trong y khát vọng "sống".

Đâu phải bọn trẻ chưa từng trải qua ngày tháng không có mẹ, Lục Lệnh Tùng chăm sóc chúng rất tốt, còn có Ngô Thái phi, có Ngân Trù, chúng sẽ không thiếu thốn sự quan tâm và tình thương. Trong thành Kim Lăng có đến hàng ngàn hàng vạn tiểu thư khuê các dịu dàng, thông minh, nhã nhặn, chọn bừa một người cũng đủ hoàn hảo và xứng đáng trở thành mẹ kế của chúng... Tạ Cánh giật mình nhận ra bản thân vậy mà chẳng bận lòng chút nào.

Trong thâm tâm, y chỉ nghĩ đến cái chết.

Chiếc bình sứ trên bàn có cắm một nhánh mẫu đơn vừa hái, cánh hoa hãy còn đọng sương, diễm lệ ướt át. Tạ Cánh đưa tay, cẩn thận chạm nhẹ vào nó, chỉ sợ kinh động tiên nhân, động tác giống như đang v**t v* khuôn mặt non mềm, tươi sáng, rực rỡ tựa ánh ban mai của thiếu nữ Lục Lệnh Chân.

Đột nhiên y cảm thấy mặt nóng bừng lên, dòng chất lỏng như lửa bỏng rát trào dâng, chảy dọc xuống gò má, hai má đến hai quai hàm, thiêu đốt dung nhan được tháng năm ưu ái của y, đục khoét thành những vết nứt tan tác. Tạ Cánh vô thức đưa tay lau đi, sau đó giật mình nhìn thấy sắc đỏ thẫm trong lòng bàn tay, y chậm rãi ngẩng đầu nhìn vào gương...

Hai hàng huyết lệ.

Vương thị khẽ buông lỏng tay, tấu chương rơi xuống bàn, phát ra một tiếng "cạch" rất nhẹ.

Bà ta luống cuống chỉ một cung nhân phía trước bậc thềm: "Ngươi, ngươi đến, đến điện Minh Loan..."

Nhưng rồi bàn tay ấy khựng lại giữa không trung, đôi môi Vương thị hơi hé ra, giống như bị người ta dùng thuật định thân cố định tại chỗ, sững người đứng giữa điện cả buổi trời.

Cung nhân sợ hãi, không thể không cung kính lên tiếng gọi: "...Thái hậu?"

Vương thị bỗng dưng ngã ngồi xuống đất, đờ đẫn lắc đầu: "Không, không có gì, ngươi lui xuống đi."

Lục Lệnh Chương im lặng đứng một bên quan sát biểu cảm và cử chỉ của mẹ mình, lúc này mới dặn dò: "Truyền ý chỉ của trẫm, chuyện của Trưởng công chúa không được báo cho điện Minh Loan. Nếu trong cung có bất kì lời đồn đãi nào, g**t ch*t không luận tội."

Thậm chí chưa nghe hết câu, Vương thị đã đứng bật dậy, bước nhanh ra khỏi đại điện như muốn chạy trốn, nhưng lại vừa vặn chạm mặt Lục Lệnh Tùng ngay dưới cửa điện.

Lục Lệnh Tùng không ngờ sẽ gặp được Thái hậu ở đây, lại thấy bà ta tỏ vẻ kinh hãi, dùng ánh mắt kỳ quái pha trộn giữa khoái ý, thương hại và sự xót xa mà trước giờ hắn chưa từng thấy để nhìn hắn thật sâu, sau đó vội vã rời đi.

Hắn chưa kịp nghĩ nhiều, chỉ hỏi Lục Lệnh Chương: "Là quân báo sao? Hạc Vệ đi đến đâu rồi?"

Lục Lệnh Chương hít sâu một hơi, cho lui đám nội giám hầu hạ trong điện rồi bước tới trước mặt Lục Lệnh Tùng, đứng đối diện với hắn. Anh trai của gã có dáng người cao ráo và cường tráng, từ nhỏ gã đã quen ngước nhìn đối phương, đến giờ vẫn vậy.

"Ta biết hoàng huynh không tin những thứ ghi trên giấy như công văn tấu chương..." Gã nói, rồi hơi ngoái đầu ra hiệu một chút.

Lục Lệnh Tùng nhìn thấy có một người bước ra từ ngoài rèm, trên đùi có vết thương, sắc mặt tiều tụy, anh ta chính là phó tướng của Lục Lệnh Chân, cũng là một trong những thủ lĩnh của Hạc Vệ.

"Vậy nên ta đã nhờ Tạ Tuấn đưa anh ta vào cung, có một số chuyện, có lẽ để anh ta tự mình nói với hoàng huynh sẽ thích hợp hơn."

Lục Lệnh Tùng dùng ánh mắt sắc như chim ưng nhìn chằm chằm vào phó tướng: "Các ngươi đã trở về rồi, tại sao lại không đến Vương phủ phục mệnh? Công chúa đâu?"

Phó tướng khó xử nhìn thoáng qua Lục Lệnh Chương, người nọ bất đắc dĩ dời tầm mắt, ra hiệu cho anh ta nói những gì cần nói.

"Hẳn là điện đã xem bức thư giả mạo Vương phi gửi cho Trưởng công chúa rồi đúng chứ?"

Lục Lệnh Tùng nghe vậy khẽ sững người: "Ta nghe Tuyên Thất nói Hà đại nhân phát hiện có điều bất thường nên lập tức phái người đuổi theo công chúa, thế nào? Các ngươi không gặp được trinh sát à?"

Phó tướng chậm rãi lắc đầu: "Đến chậm một bước, trinh sát đã bị Đinh Giám bắt lại rồi."

"Đinh Giám? Chẳng phải hắn đã rút quân rồi sao?"

Phó tướng chật vật giải thích: "... Hạc Vệ đi đến bờ sông Vô Định, phát hiện Đinh Giám dẫn binh quay ngược về hướng Ung Châu. Trưởng công chúa lo lắng binh lực trong thành không đủ, bèn để quân Ung Châu phụng mệnh Hà đại nhân đi cùng chúng tôi quay về trước, còn Hạc Vệ ở lại ứng cứu sau, phòng ngừa bất trắc."

"Nhưng mục tiêu của Đinh Giám không phải Ung Châu, thậm chí không phải là Hạc Vệ, mà là... Trưởng công chúa. Khi phát hiện ra điều này, chúng tôi đã bị bao vây trên núi, công chúa lệnh cho toàn quân đi về phía Bắc trước, còn người thì đi về phía Nam gặp Đinh Giám. Viện binh Mạc Bắc tới khi chúng tôi vừa xuống núi, chỉ thiếu chút nữa thôi, nếu không phải công chúa lập tức bảo chúng tôi rời đi, e là Hạc Vệ đã... không còn ai trở về."

"Về sau Hà đại nhân nghe ngóng được, sở dĩ Mạc Bắc lại phái binh tiếp viện là vì Đinh Giám đã lập quân lệnh trạng, nhất định phải bắt được Trưởng công chúa..." Phó tướng nghẹn ngào, không nói nổi mấy chữ kia, chỉ nức nở thốt lên: "Chính công chúa đã cứu chúng tôi."

"Hạc Vệ, Hà đại nhân dẫn theo quân thủ thành cùng bách tính ở Ung Châu đã tìm kiếm suốt năm ngày ở vùng ven sông Vô Định... Nhưng vẫn không thể tìm thấy di cốt của Trưởng công chúa. Chúng tôi không dám chậm trễ thêm nữa, đành phải lên đường về kinh."

Lời vừa dứt, điện Thần Long rộng lớn chìm vào tĩnh lặng hồi lâu, gió theo khe cửa sổ chưa đóng kín lùa vào, cuốn rèm lụa mỏng bay lên, đây chỉ là một buổi chiều cuối xuân bình thường biết bao.

Lục Lệnh Tùng khẽ nhíu mày, từ tốn hỏi: "... Di cốt của ai?"

Phó tướng không dám nói thêm lời nào.

Lục Lệnh Chương phất tay bảo anh ta lui xuống, ánh mắt gã dừng lại trên bóng lưng của anh trai, muốn lên tiếng nhưng chẳng biết phải nói gì.

Không biết đã qua bao lâu, Lục Lệnh Tùng bỗng nhiên vung tay áo xoay người, mang theo một trận gió nhanh chóng bước ra khỏi điện Thần Long. Lục Lệnh Chương ngẩn người hồi lâu mới giật mình đuổi theo, đến khi kịp nhận ra thì đã thấy hắn đang đi về phía điện Hàm Chương.

Ngõ vĩnh hạng dài dằng dặc, cô quạnh và chật hẹp, ba anh em họ đã cùng lớn lên ở đây. Vào đêm trước Đông chí năm Trinh Hữu thứ tám, cũng chính trên con đường này, Lục Lệnh Chương đã được chị gái dắt theo, lén lút vượt qua trạm gác và đám cung nhân tuần đêm, trong lòng còn giấu một cuộn tranh liên hoàn họ lén mua ở chợ đêm, trở về điện Lâm Hải sâu hun hút và tối đen như mực.

Gã ló mặt ra khỏi cổ áo, gió lạnh thổi đến làm đôi má ửng đỏ, rụt rè hỏi:

"... Nếu mẫu hậu phát hiện thì phải làm sao đây chị?"

Lục Lệnh Chân nhìn gã, ánh mắt sáng như sao băng xẹt qua bên tai: "Em là em trai của chị mà, chị sẽ bảo vệ em."

Vị trí của điện Hàm Chương không tính là hẻo lánh, nhưng lại thiếu hơi người, dù đang ở dưới ánh mặt trời cũng toát lên vẻ tiêu điều. Ý chỉ của Lục Lệnh Chương đã được ngầm thi hành, hiển nhiên tin dữ vẫn chưa truyền vào sâu trong cung điện này. Đám nội giám nhàn rỗi còn đang dụi mắt ngái ngủ, bỗng giật mình phát hiện Chiêu Vương điện hạ đang sải bước đi tới, chạy theo phía sau hắn là vị thiên tử trẻ tuổi.

Lục Lệnh Tùng dừng lại bên ngoài điện, nắm tay siết chặt đập loạn lên cánh cửa, gần như mất kiên nhẫn gầm lên: "Lục Lệnh Chân! Mở cửa cho anh!"

Nội giám trợn mắt câm nín, không ai hiểu nổi vì sao Chiêu Vương lại đột nhiên chạy tới điện Hàm Chương đã bỏ không nửa năm để tìm Trưởng công chúa, nói dễ nghe thì là hành động tùy tiện vô phép, nói khó nghe thì chính là điên loạn thất thường.

Nhưng mà Hoàng đế cũng không ngăn cản hắn, chỉ dừng lại ở cách đó không xa, lặng lẽ dùng ánh mắt buồn bã nhìn theo.

"Lục Lệnh Chân, em mở cửa ra cho anh! Em có chặn anh ngoài này cũng vô dụng thôi! Anh biết là em ở trong đó!"

Đương nhiên sẽ không có ai mở cửa. Sẽ không có ai như Lục Lệnh Chân ngày còn quấn hai búi tóc, cất thanh kiếm gỗ chặn cửa đi, miễn cưỡng bước ra đón anh trai của mình, chu môi nói: "Em biết là anh không giận em thật mà!"

Lục Lệnh Tùng không nhận được lời hồi đáp, giọng dần hạ xuống, thì thầm gọi hai tiếng "Chân Chân", rồi hắn bất chợt ngẩng đầu, ánh mắt gắt gao khóa chặt vào ổ khóa nặng nề kia, đao dài thoáng chốc rời khỏi vỏ.

Lục Lệnh Chương rùng mình, vô thức gọi to: "Hoàng huynh!"

Thế nhưng đã quá muộn, ánh sáng lạnh lẽo lóe lên, Lục Lệnh Tùng vung đao chém rớt ổ khóa, dây xích đồng loảng xoảng rơi xuống đất.

Cửa điện rộng mở, ánh dương chiếu vào bên trong khiến bụi mịn bay tứ tung, cành mai trắng đã khô héo nghiêng lệch, giữa sân điện trống trãi không một bóng người.

Lục Lệnh Tùng như bị giáng một gậy, toàn thân kịch chấn, hơi thở dồn dập. Hồi lâu sau, hắn mới loạng choạng lùi lại mấy bước, đứng chết trân tại chỗ như thể sức lực đã bị rút cạn toàn bộ trong nháy mắt.

<i>Sao nói gió Tây chẳng chóng tàn, Hàm Chương vẫn còn đây đợi chủ.</i>

Mãi lâu sau, Lục Lệnh Tùng mới khẽ lên tiếng: "Đừng đưa em ấy vào hoàng lăng."

"Đừng truy tôn, đừng sắc phong, đừng thụy hiệu, dù là tướng quân hay công chúa, đừng chất chồng bất cứ thứ gì lên người con bé. Hãy để em được thanh thản, chỉ mang theo cái tên của mình mà đi."

"Đừng để em ấy phải ràng buộc với hoàng tộc, với cả ta lẫn người, đừng để liệt tổ liệt tông nhận ra em ấy, đừng để em sinh thời đã không thoát khỏi kiếp làm con gái đế vương, đến suối vàng rồi vẫn phải mang gông xiềng, chẳng được yên giấc."

Lục Lệnh Chương do dự nói: "Nhưng hoàng tỷ đã tự xin..."

Lục Lệnh Tùng chỉ đáp: "Đây là điều con bé muốn."

Vào cái ngày Lục Lệnh Chân lần đầu so tài thắng hắn, sau bữa tối, khi cả nhà ngồi dưới hành lang hóng mát. Tạ Cánh vừa điều chỉnh dây đàn nguyệt mà Ngô thị mới được ban cho, vừa đệm nhạc cho những bài đồng dao Lục Thư Ninh ngẫu hứng ngân nga. Lục Lệnh Tùng đứng khoanh tay đón gió, lắng nghe chút được chút không.

Rồi hắn chợt nghe thấy cách một cánh cửa sổ, Ngô thị đang giúp Lục Lệnh Chân gội đầu bóng gió hỏi: "Chân Chân bây giờ đánh thắng được cả anh trai rồi, lợi hại lắm đấy. Chỉ là mẹ có điều không hiểu, từ nhỏ con đã lập chí tòng quân là muốn đền ơn nước, muốn lập công, hay là muốn cứu thế đây?"

Lục Lệnh Chân đáp: "Không muốn gì hết. Con cũng chưa từng nghĩ tới. Sao đột nhiên mẹ lại hỏi vậy?"

Ngô thị im lặng giây lát, không trả lời mà hỏi tiếp: "Vậy nếu như được thờ phụng trong tông miếu, lưu danh sử sách như các bậc vương hầu tướng tá xưa nay, Chân Chân có vui không?"

Lục Lệnh Chân không hề do dự dù chỉ một chút, hỏi ngược lại mẹ mình: "Có ai lại rỗi hơi viết truyện riêng cho một cô công chúa? Có ai lại phá lệ 'thỉnh' thần chủ của một vương cơ hoàng nữ vào tông miếu đâu hả mẹ? Lui một vạn bước, lưu danh sử sách, vào tông miếu, chết cũng chết rồi thì có gì đáng để mà hãnh diện chứ? Chẳng lẽ con còn phải đội ơn kẻ nâng đỡ mình, hớn hở vui mừng biến thành một hàng chữ, một khúc gỗ, chết cả ngàn vạn năm vẫn để lại tên họ trong hoàng cung này sao ạ?"

Lục Lệnh Tùng nghe thấy tiếng nước róc rách và tiếng "ôi chao" của Ngô thị, đoán chừng Lục Lệnh Chân bỗng nhiên ngồi bật dậy, làm nước ở đuôi tóc bắn hết lên áo mẹ.

Nàng không để ý, cao giọng nói: "Mà cũng chưa chắc đâu, ngàn vạn năm sau, đến lúc đó cung Thái Sơ có còn tồn tại hay không cũng khó nói, chưa biết chừng đã hóa thành nắm tro vốc đất từ lâu rồi!"

Tạ Cánh cũng nghe thấy câu này, ngẩng đầu nhìn sang thì bắt gặp ánh mắt của Lục Lệnh Tùng, cả hai đều bật cười.

Ngô thị đành phải dịu giọng hòa giải: "Được rồi được rồi, mẹ xin nghe dạy, gội đầu tiếp nào."

Lục Lệnh Chương nghe xong lời thuật lại của Lục Lệnh Tùng cũng không hỏi thêm gì nữa. Hai anh em đứng cạnh nhau hồi lâu, rồi Lục Lệnh Tùng xoay người, cứ thế rời đi mà không nói lời nào, bóng lưng của hắn trông vừa cô độc vừa buồn bã.

Một người anh trai vừa đổ gục, một người con, người chồng và người cha đã lặng lẽ đứng lên.

Lục Lệnh Chương vẫn im lặng theo sau, cùng hắn bước vào điện Minh Loan, gã khẽ phất tay ngăn cung nhân thông báo, đứng từ xa nhìn vào trong sân, thấy ánh hoàng hôn màu đỏ cam rơi xuống tấm rèm lụa trắng của tẩm điện. Mái hiên nơi mẹ từng gội đầu cho con gái giờ đây không biết có ai còn nhàn nhã ngồi đùa vui.

Gã nghe được giọng nói ôn hòa và dịu dàng như đang ngâm khúc ca theo nhịp điệu của Ngô Thái phi vang lên: "Khi nào thì Chân Chân về con nhỉ?"

Đáp lại bà là chất giọng bẩm sinh đã có khả năng giúp người ta an lòng của Lục Lệnh Tùng: "Sắp rồi mẹ ạ, sắp về rồi."

Lục Lệnh Chương kéo chặt vạt áo, cúi đầu xuống, chậm rãi rời khỏi điện Minh Loan.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 99


<b>《</b><b> 24.1 — Hồi tưởng </b><b>》</b>

Thiên điện điện Thần Long vô cùng yên tĩnh, mùi thuốc nồng đậm lan tỏa khắp nơi, Tạ Cánh ngồi bên bếp lò sưởi ấm thân mình. Cái rét mùa đông ngày càng đậm, suốt cả ngày trời đều âm u, chỉ xuống xe ngựa đi đến cổng cung thôi, tay y đã bị gió thổi cóng đến nỗi đau rát.

Bệnh tình của Hoàng đế rõ ràng chẳng khá lên mấy, kỳ thực không ai ngờ lại nhanh đến vậy. Dù nói ông đã lâm bệnh đã hơn một năm, nhưng thật ra cũng chỉ là lúc tái phát lúc thuyên giảm, hơn nữa cũng không phải chứng bệnh nguy hiểm đến tính mạng mạng, triều đình trên dưới vẫn không khỏi ôm cảm giác may mắn.

Tạ Cánh vào cung hầu bệnh theo lệ, nhưng Hoàng đế không muốn gặp y, cũng không có tinh thần để gặp, chẳng qua y cứ đến cho có lệ, để phủ Chiêu Vương không bị người ta lời ra tiếng vào mà thôi.

Chỉ có hôm nay là khác, Hoàng đế đặc biệt triệu kiến, còn dặn y dẫn cả Lục Thư Thanh đi cùng.

Mấy năm nay, Lục Thư Thanh được làm anh trai, tự thấy mình đã là người lớn, không còn hay quấn quít làm nũng như hồi bé nữa. Nhưng điều này cũng không do cậu quyết định, dăm ba bữa vẫn bị Tạ Cánh lôi kéo ôm ấp thân mật một hồi, mà Lục Thư Thanh cũng ngoan ngoãn, nằm trong lòng mẹ thì yên phận làm chú mèo con, lười biếng ở yên không nhúc nhích.

Sưởi ấm một lúc, Chung Triệu từ nội điện bước ra: "Vương phi và thế tử đã chờ lâu, bệ hạ vừa mới ngủ trưa dậy, có thể vào thỉnh an rồi."

Hai người đứng dậy, vừa định cất bước thì thấy sắc mặt Chung Triệu khẽ thay đổi: "... Bệ hạ chỉ truyền một mình thế tử vào thôi."

Lục Thư Thanh ngoái đầu nhìn lại, Tạ Cánh chỉ đẩy nhẹ vai cậu một cái: "Mẹ đợi ở đây."

Y dõi theo bóng con trai biến mất sau cánh cửa, sau đó nhàm chán đi dạo xung quanh điện. Trên bàn có một đĩa sứ men xanh chất đầy kẹo thuốc củ mài, chắc là Hoàng đế sai người chuẩn bị cho Lục Thư Thanh. Lớp vỏ chiên vàng óng ánh giòn rụm được lăn qua lớp đường mật rồi rắc thêm vụn đào, bên trong lại mềm dẻo, vị ngọt cũng rất vừa phải. Trong cung vốn không có ai thích đồ ngọt. Dù sao miệng cũng đang nhàn rỗi, mùi thơm ngầy ngậy kia lại quá quyến rũ, Tạ Cánh bèn nhón một miếng bỏ vào miệng nhai.

Sau khi ăn xong, y lấy một con dao khắc nhỏ và một miếng ngọc trắng vừa tay ra, bắt đầu cắm cúi đục khắc.

Cuối năm ngoái, ngõ Ô Y nhận được một lô phôi ngọc Lam Điền do Thái thú Ung Châu Hà Cáo gửi tặng. Tạ Duyễn đưa sang phủ Chiêu Vương một ít, bỏ không trong kho mấy tháng trời. Tạ Cánh nhàn rỗi chẳng có việc gì làm, bèn chọn ra vài miếng có chất ngọc tốt nhất, vừa để học vừa để luyện tay, định khắc thành một cặp ngọc trắng sinh đôi, sang năm làm quà mừng sinh nhật Lục Lệnh Tùng.

Lục Thư Thanh bước vào hậu điện, rèm trướng buông thấp, đàn hương lượn lờ, khung cảnh dưới trời chiều mờ ảo như thể được cắt ra từ một góc tranh cổ.

Hoàng đế vẫn mặc nguyên quần áo, nửa nằm nửa tựa trên tháp, trước mặt ông là một bàn cờ dang dở, ngẩng đầu nhìn thấy cậu, ông nói: "Thanh Nhi đến rồi à."

Lục Thư Thanh thấy tinh thần ông hãy còn tỉnh táo, chẳng giống người vừa tỉnh giấc chút nào. Chén thuốc bên cạnh vẫn còn bốc hơi nóng, cậu bèn bảo: "Tôn nhi giúp tổ phụ uống thuốc trước ạ."

Hoàng đế phất tay ngăn lại: "Ngồi xuống chơi nốt ván cờ này với tổ phụ đã. Cầm quân đen hay quân trắng, tùy con chọn."

Lục Thư Thanh không dám trái ý, đành ngoan ngoãn ngồi xuống đối diện. Cậu không cần quan sát thế cục trên bàn cờ, chỉ cầm quân trắng theo thói quen. Chả là vì ở nhà lúc nào cha cũng nhường cậu mà chẳng mảy may băn khoăn, quy tắc lại lỏng lẻo, thích thì hồi cờ, muốn thì đổi người thay quân, giữa chừng còn được chỉ dạy tận tay, đều là những chuyện thường xảy ra.

"Con cũng biết chứ, Thanh Nhi," Hoàng đế từ tốn nói, "Tài chơi cờ của cha con là do trẫm dạy từ hồi nó còn nhỏ đấy."

Lục Thư Thanh ngoài miệng đáp: "Đương nhiên ạ, cha rất thường nhắc đến chuyện này với con." Nhưng trong lòng lại nghĩ: con chẳng biết gì cả. Cậu chỉ biết Lục Lệnh Tùng rất kính trọng vị sư trưởng họ Hà từng bị giáng chức thuở xưa, từ lâu cứ đinh ninh rằng chính Hà đại nhân là người đã dạy cha mình chơi cờ.

Dường như Hoàng đế đã nhìn thấu tâm tư của cậu, nhưng không bảo đúng sai, chỉ nói: "Nó thật sự hay nhắc đến trẫm à?"

"Tiếc là phong cách chơi cờ của nó quá dựa vào bản năng và trực giác, lối chơi phóng khoáng táo bạo nhưng chẳng chịu trau chuốt." Ông nói tiếp, "Thúc phụ của con thì lại không cần mài giũa, chẳng phải vì khéo léo linh hoạt, mà là vì không hề sắc sảo chút nào."

Ông giương mắt, nhìn Lục Thư Thanh cười hòa ái: "Cả hai đều không phải phẩm chất mà bậc thiên tử nên có."

Lục Thư Thanh không hoàn toàn hiểu được ẩn ý sâu xa trong lời Hoàng đế, nhưng cậu biết rõ một điều, chữ "thiên tử" ấy tuyệt đối không nên xuất hiện trong cuộc trò chuyện của bọn họ lúc này. Thế nhưng, lời tiếp theo còn khiến cậu khó mà đối đáp hơn:

"Sẽ là con sao, Thanh Nhi?"

Cái gì sẽ là cậu? Cậu sẽ là cái gì? Cậu chỉ là thế tử của phủ Chiêu Vương, một đứa trẻ ngày ngày vô lo vô nghĩ, chẳng phải vướng bận cơm áo gạo tiền. Tổ phụ luôn yêu thương cậu, thậm chí là sủng ái quá mức, cũng vô cùng khoan dung với em gái cậu. Trong ấn tượng của Lục Thư Thanh, tổ phụ chưa từng nổi giận, càng không có những cơn đau buồn hay bộc lộ niềm vui sướng tột độ. Mọi chuyện trong mắt ông đều chỉ nhàn nhạt trôi qua mà thôi. Nhưng cha mẹ cậu lại không nhận được "đãi ngộ" như vậy. Cha cậu chán ghét việc đối đầu với tổ phụ và Hoàng hậu, vậy nên có thể tránh là tránh; mẹ cậu lại chẳng ngại chống đối trước mặt, nhưng vì để cậu và em gái được đối xử tử tế mà nhịn nhường vài phần.

Lục Thư Thanh cúi đầu, thành thật đáp: "Tôn nhi ngu dốt."

"Không, con là một đứa trẻ thông minh. Tổ phụ mới là một kẻ tầm thường." Hoàng đế bình thản nói: "Một quân vương tầm thường và một người cha càng tầm thường hơn. Chẳng hiểu văn trị võ công, cả đời chỉ biết dùng thuật cân bằng, rút chân ra khỏi ván cờ quyền lực này rồi lại bước vào ván tiếp theo."

"Nhưng Thanh Nhi à, với một người tầm thường không thể tự quyết định vận mệnh của mình, bị đẩy lên vị trí tối cao như trẫm mà nói, đòi hỏi trẫm làm một vị nhân quân thì chẳng có gì đáng trách. Nhưng nếu bắt trẫm phải làm minh quân thì quả là bất công, cũng rất tàn nhẫn. Cách duy nhất để bảo vệ bản thân chính là tọa sơn quan hổ đấu, thần tử tranh chấp thiên tử được lợi, để bọn họ tự đấu đá lẫn nhau, như thế mới không còn ai để ý đến trẫm."

"Nói đi cũng phải nói lại, quân tử vô vi nhi vô bất vi*. Suy cho cùng, chẳng phải minh quân thánh chủ cũng chỉ gói gọn trong hai chữ 'chế hoành' thôi sao? Hiểu người, dùng người, sau đó kiểm soát được dòng chảy và sự biến động của quyền lực, đây mới là việc một Hoàng đế thành công nên làm. Mà việc đó, chẳng cần tự thân người ấy phải có tài năng xuất chúng."

<i>(*) Quân tử vô vi nhi vô bất vi (</i>君子无为而无不为<i>) là một câu xuất phát từ triết lý Đạo gia, đặc biệt liên quan đến tư tưởng của Lão Tử trong "Đạo Đức Kinh". Có thể hiểu: bậc quân tử (người đức hạnh, có trí tuệ) không cần phải ra sức kiểm soát mọi việc, không cần tranh đoạt, áp đặt, nhưng nhờ thuận theo đạo lý và thời thế mà việc gì cũng có thể thành công. Câu này nhấn mạnh vào "vô vi nhi trị" (dùng sự "không hành động" để "trị vì"), tức là người lãnh đạo sáng suốt không cần can thiệp vào từng chi tiết nhỏ, mà tạo ra môi trường tốt, để mọi việc tự vận hành trơn tru.</i>

Lục Thư Thanh chống mu bàn tay đỡ má, mắt chăm chăm nhìn bàn cờ đầy những quân đen trắng đan xen, trong lòng như có từng trận trống dồn vang lên. Cậu không dám đáp lời nào.

"Thanh Nhi, con lớn lên trong vòng tay cha mẹ con, tổ phụ rất yên tâm. Còn trẫm, đến cả cha mình trẫm còn chẳng nhớ dáng vẻ ra sao, và mẹ..." Ông thở dài, "Mẹ trẫm giờ đang ở đâu rồi?"

"Phụ vương con từ trước đến nay vẫn luôn chướng mắt những mưu kế thủ đoạn ấy. Nhưng rồi sẽ có một ngày nó hiểu ra, cho dù rất nhiều chuyện trẫm làm là vì chính bản thân mình, nhưng dạy cho nó những điều này cũng chỉ vì nó mà thôi. Đúng là trẫm chẳng quan tâm gì đến nó, nhưng trẫm không hề hận nó, cũng không muốn hại nó."

Lục Thư Thanh im lặng hồi lâu, nhẹ nhàng đặt quân cờ xuống, sau đó ngước đôi mắt tròn trong trẻo lên nhìn hoàng đế: "Tổ phụ, con thắng rồi."

Hoàng đế sững người rồi bật cười: "Phải, con thắng rồi."

Khi Lục Thư Thanh đi ra ngoài, Trương Diên và Tạ Cánh đang đứng ngoài cửa nhỏ giọng trò chuyện, cậu hơi nghiêng người chào: "Con vấn an Thái phó."

Trương Diên vội đáp lễ: "Thế tử đa lễ, lão thần không dám nhận."

Chung Triệu đứng bên cạnh ra hiệu, nói: "Thái phó, mời ngài vào trong, bệ hạ còn có vài lời muốn nói."

Tạ Cánh nắm tay Lục Thư Thanh rời khỏi điện Thần Long, lên xe, y hỏi: "Con có đói không? Mẹ bảo Chung Triệu chuẩn bị một hộp bánh ngọt, không thì chịu khó đợi thêm chút nữa đến bữa tối nhé? Hôm nay lạnh thật, e là sắp mưa rồi, tối nay ăn lẩu cho ấm vậy."

Lục Thư Thanh thuận miệng đáp vài câu cho có lệ. Tạ Cánh nhận ra cậu đang mất tập trung nhưng không hỏi thẳng, chỉ lặng lẽ chờ đợi. Quả nhiên một lúc sau thấy cậu ngẩng đầu lên, giả vờ như vô tình hỏi: "Cụ tổ mẫu của con giờ ở đâu ạ?"

Tạ Cánh cũng làm như chẳng để tâm, trả lời cậu: "Thái hậu vẫn ở Kê Minh tự mà, con quên rồi à? Mồng một Tết năm nay vốn định đến thỉnh an, nhưng người đã cắt đứt trần duyên, không muốn gặp ai nữa."

Lục Thư Thanh "ồ" một tiếng, gật đầu rồi lại hỏi tiếp: "Vậy... Cha sẽ kế thừa đại thống sao mẹ?"

Tạ Cánh nghẹn lời một lúc, khó lòng nắm bắt được chữ "vậy" đầy ngây thơ để chuyển chủ đề của Lục Thư Thanh. Nhưng y chợt nhớ, năm xưa chính mình cũng từng ngây ngô hỏi Lục Lệnh Tùng câu hỏi tương tự, mà sau bao năm, đến tận bây giờ, câu trả lời của y vẫn chẳng khác gì so với lời Lục Lệnh Tùng ngày ấy: "Thanh Nhi, mẹ không biết."

Lục Thư Thanh nhỏ giọng lẩm bẩm: "Tổ phụ nói với con về phẩm hạnh mà một Hoàng đế nên có. Người bảo cha không có, con cũng thấy cha không có."

Tạ Cánh tò mò hỏi: "Tại sao con lại nghĩ như vậy?"

"Tổ phụ nói thiên tử không nên để người khác nhìn thấu niềm vui hay nỗi giận của mình, thậm chí chẳng nên bày tỏ hỉ nộ ái ố. Có thể không cần sở hữu tài trị quốc xuất chúng, nhưng nhất định phải có ánh mắt sắc bén như đuốc để nhìn thấu lòng người, chọn được bề tôi phù hợp thay mình phát triển đại nghiệp. Đồng thời cũng phải khéo léo giữ thế cân bằng giữa những quần thần này, để cho bọn họ đánh nhau nhưng cũng phải kiêng dè lẫn nhau mà không ai dám ngấp nghé tranh quyền đoạt vị."

Tạ Cánh im lặng, đây đúng là đạo lý làm vua vừa khôn ngoan vừa hiệu quả, và Hoàng đế lại chọn nói điều đó với Lục Thư Thanh. Phải biết rằng, ông chưa bao giờ dạy dỗ Lục Lệnh Tùng bằng những lời mang hàm ý sâu xa như thế.

Điều này dĩ nhiên không có khả năng chỉ vì Lục Thư Thanh mới tròn chín tuổi, tâm tư đơn thuần, sẽ không nảy sinh những suy nghĩ không nên có.

"Nhưng cha con thì khác, cha mà ghét ai thì trước mặt người đó cũng chẳng buồn quan tâm đến lý lẽ, không ưa chuyện gì là la toáng lên cho cả thiên hạ đều biết. Học được món ăn mới sẽ nấu liền nửa tháng đến nỗi con ăn cũng phát ngán, phải nổi giận phàn nàn mới chịu thôi. Lúc ở bên mẹ thì cha chẳng còn nhìn thấy ai, cũng chẳng thèm nghe gì nữa... Nếu cha mà làm Hoàng đế, chỉ cần liếc mắt một cái thôi người ta cũng biết cha ưa, ghét thứ gì rồi."

Lời còn chưa dứt, Tạ Cánh đã bật cười thành tiếng, vươn tay xoa đầu Lục Thư Thanh làm mấy lọn tóc bên thái dương cậu rối bù lên. Cuối cùng, y nhẹ nhàng áp má mình vào trán cậu, vỗ về: "Dù cha con có trở thành Hoàng đế hay không, dù ai là người ngồi lên vị trí đó, thì con vẫn mãi mãi là con trai của cha mẹ, điều này vĩnh viễn sẽ không bao giờ thay đổi."

Ai cũng nói là trời sắp mưa, nhưng mãi đến giờ tắt đèn trời vẫn chẳng rơi hạt mưa nào, không khí khô sinh lạnh, gió thổi qua làm giấy dán cửa kêu lên soàn soạt như tiếng than thở.

Tạ Cánh gối đầu lên âm thanh ấy mà chìm vào giấc ngủ, y vừa thiếp đi, cảm giác như mới chỉ chợp mắt một lát thì bên ngoài đã vang lên tiếng bước chân lộn xộn và tiếng hô hoán dồn dập, y gượng dậy trong cơn mơ màng, chỉ nhìn thấy bóng lưng Lục Lệnh Tùng khoác vội áo ngủ mỏng manh chạy ra ngoài.

Tạ Cánh giật mình, lắng tai nghe kỹ mới nhận ra bên ngoài viện có tiểu tư đang lớn tiếng hô: "Đông phòng cháy rồi!"

Đông phòng của nhà chính vốn chỉ là căn phòng dư có đặt thêm một chiếc giường để nghỉ tạm. Sau khi Lục Thư Ninh ra đời, căn phòng đó mới được tu sửa và mở rộng thêm, để dành cho em và nhũ mẫu ở, đến lúc Lục Thư Ninh cai sữa, nhũ mẫu cũng xin từ về quê, từ đó đến giờ chỉ còn Ngân Trù là vẫn luôn ở bên chăm sóc em.

Tạ Cánh vén chăn, chẳng màng để tâm gian ngoài rét lạnh, lảo đảo chạy theo Lục Lệnh Tùng đang lao ra khỏi phòng, nhìn thấy Ngân Trù ôm Lục Thư Ninh quấn chăn kín người ngồi trong phòng khách, y mới nhẹ nhàng thở ra.

"Có bị thương chỗ nào không?" Y ngồi xuống bên cạnh lò sưởi, tự tay vắt khăn đưa cho Ngân Trù, sau đó đón lấy Lục Thư Ninh từ tay cô, vỗ nhẹ lưng em để trấn an.

"Không bị thương, chỉ là bị dọa sợ thôi." Ngân Trù nói, "Lúc đó nến hầu như đã tắt cả rồi. Tôi vì đọc sách nên mới đặt đèn lên sạp nhỏ cách cửa sổ rất xa, nhưng cửa sổ đã đóng kín, không có khe hở nào, thật sự không biết tại sao lại bị cháy."

Lục Lệnh Tùng đi xem xét Đông phòng, lúc này đã quay lại, nói: "Lửa cháy hơi lạ, ta đã sai người dọn dẹp phía trước rồi. Đêm nay cứ tạm nghỉ ngơi trước, ngày mai nhất định phải tra rõ chuyện này."

Vì có gió nên lửa lan rất nhanh, may mà phát hiện kịp thời nên đã khống chế được, nhưng vì nơi cháy là nội viện nơi vợ chồng Chiêu Vương và tiểu Quận chúa ở nên động tĩnh khá lớn, nhất thời trong ngoài vương phủ nhốn nháo cả lên, ai nấy đều bàng hoàng sợ hãi.

Tạ Cánh đang dặn dò mọi người lui về nghỉ ngơi, bỗng thấy bác Chu vội vã từ ngoại viện chạy đến, sắc mặt nghiêm trọng: "Điện hạ, vừa nãy trong cung có một thái giám đến thay Chung Triệu gửi thư. Nói là việc gấp, xin điện hạ và vương phi đọc ngay."

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh liếc nhau, nhận lấy thư mở ra, chỉ thấy Chung Triệu viết: "Bệ hạ bất ngờ bí mật triệu kiến Trung giám Vũ Lâm Vệ vào điện Thần Long, truyền chỉ 'phong tỏa ngõ Ô Y, kê biên tài sản Tạ phủ'. Vũ Lâm trung vệ đã điểm binh, chuẩn bị xuất phát qua Công Xa môn!"

Đọc thư xong, Tạ Cánh chấn động nhưng không dám để lộ ra ngoài, chỉ hoảng sợ lặp lại: "... Kê biên?"

Lục Lệnh Tùng lại nghĩ đến điều khác: "Phụ hoàng đột nhiên hạ chỉ vào giờ này à? Thái giám truyền tin kia còn đó không?"

Bác Chu lắc đầu: "Đặt thư xuống rồi vội vàng rời đi ngay, hình như không dám nán lại lâu."

Tạ Cánh suy nghĩ thật nhanh — rốt cuộc ngõ Ô Y có gì đáng để bị khám xét chứ? Tạ Dực và Tạ Duyễn đâu phải hạng người tham tài vơ vét, tài sản trong nhà ngoài bổng lộc, tiền thuê ruộng, lợi nhuận buôn bán, thì cũng chỉ có quà cáp qua lại xã giao. Tuy số tiền không nhỏ, nhưng nếu triều đình nắm được nhược điểm thì hẳn đã tính sổ từ lâu rồi, đâu cần chờ đến hôm nay?

Huống hồ, điều Lục Lệnh Tùng vừa nói lại đầy điểm đáng ngờ — Hoàng đế đang mang bệnh, chính sự còn chẳng buồn ngó ngàng, sao đột nhiên lại muốn gây khó dễ cho nhà họ Tạ? Thời điểm này, tốc độ này, còn cả cách hành động bất ngờ ấy, dường như đều đã được Hoàng đế sắp đặt từ lâu, thậm chí còn rất chắc chắn rằng nhất định sẽ tìm được thứ gì đó kinh thiên động địa ở Tạ phủ...

Nghĩ đến đây, Tạ Cánh bỗng nhiên rùng mình, xoay người lao thẳng ra khỏi nội viện, men theo hành lang quanh co chạy như điên về phía sảnh trước, chỉ thấy trên bàn gỗ hợp hoan sát tường phía Tây trống trơn, chiếc hộp kiếm cất ngọc tỷ Lam Điền truyền quốc đã không cánh mà bay!

"Là Chung Triệu!" Tạ Cánh xoay mặt lại, hét lớn về phía Lục Lệnh Tùng đang đuổi theo phía sau, "Hay là bệ hạ? Ngoài anh và em, chỉ có hai người họ biết bên trong hộp kiếm có gì!"

Lục Lệnh Tùng sững người tại chỗ, lẩm bẩm: "Là phụ hoàng sai khiến Chung Triệu..."

Cả hai đều không rét mà run: Nếu Vũ Lâm Vệ lục soát ngõ Ô Y mà tìm được hộp kiếm kia, nhà kho Tạ phủ lại chất ngọc Lam Điền như núi, hậu quả... Thật sự không dám tưởng tượng.

Tạ Cánh nghiến răng căm hận: "Rõ ràng bọn họ cố tình phóng hỏa đêm nay, nhân lúc hỗn loạn để trộm hộp kiếm rồi vu oan cho nhà họ Tạ!"

Nếu trực tiếp giấu ngọc tỷ truyền quốc vào Tạ phủ rồi giả vờ lục ra để giá họa, e là rất khó khiến thiên hạ tin phục. Trong điện Thần Long có đến hàng trăm nội giám, cung nhân, thị vệ trấn giữ, đến cả các đại thần cũng khó mà đến gần long án, muốn ngang nhiên lấy trộm ngọc tỷ trước mắt bao người là chuyện khó như lên trời.

Nhưng nếu cất nó vào hộp kiếm của phủ Chiêu Vương, tình thế sẽ khác hẳn. Thiên tử coi trọng Chiêu Vương, ngầm có ý chọn hắn trở thành người kế vị. Thế nhưng ngọc tỷ Lam Điền truyền quốc đại diện cho sự tín nhiệm lại xuất hiện trong phủ nhà vợ của Chiêu Vương. Chuyện này có thể nói là Chiêu Vương lòng mang ý xấu, bí mật đem ngọc tỷ ra ngoài giấu; cũng có thể nói là nhà họ Tạ ngấp nghé ngai vàng, vậy nên lén bảo Vương phi lấy trộm ngọc tỷ mang về ngõ Ô Y.

"Ông ấy ban ngọc tỷ truyền quốc cho phủ Chiêu Vương... Chẳng lẽ chỉ để đến ngày hôm nay có cớ vu hãm chúng ta một cách đường hoàng thôi sao?"

Lục Lệnh Tùng vừa dứt lời, trong đầu bỗng ong một tiếng, hiển nhiên Tạ Cánh cũng lập tức hiểu ra nước cờ này — Hoàng đế muốn ép bọn họ đưa ra lựa chọn!

Chọn con đường thứ hai, nhà họ Tạ tự chịu chết, nếu Chiêu Vương biết thức thời, dứt khoát cắt đứt sạch sẽ có lẽ vẫn còn cơ hội bù trừ công tội.

Chọn con đường thứ nhất, tức thì phủ Chiêu Vương và nhà họ Tạ phải cùng chịu chết.

Hoặc có lẽ đây vốn không phải một ván cờ có sự lựa chọn. Ngay từ đầu Hoàng đế đã ngầm đưa ra đáp án — cuộc tranh giành ngôi vị Thái tử còn chưa ngã ngũ, ông ta cũng không muốn bất kỳ đứa con trai nào của mình chết trước.

Tạ Cánh nghĩ mãi cũng chẳng rõ vì sao Hoàng đế lại đột ngột muốn đẩy nhà bọn họ vào chỗ chết. Là vì ông ta tự biết mình chẳng còn sống được bao lâu, người thừa kế đã được chọn, nên bắt đầu dọn dẹp những mối nguy tiềm tàng trong quá trình chuyển giao quyền lực ư? Nhưng nhà họ Tạ vốn chỉ là một gia tộc ngôn quan, so với phủ Tướng thì trong tay họ chẳng có chút thực quyền nào. Nếu thật sự có họa ngầm, phải chăng cũng chỉ vì nhà họ Tạ là ngoại thích, là nhà mẹ của Lục Thư Thanh. Nếu như sau này cậu đăng cơ, nhà họ Tạ ắt có khả năng sẽ cùng được vẻ vang, trở thành một "Lan Lăng Tiêu thị" hay "Lang Gia Vương thị" thứ hai...

Nếu như đây là nỗi băn khoăn của Hoàng đế, vậy nghĩa là Lục Thư Thanh nhất định sẽ có ngày trở thành quân vương.

Điều đó cũng đồng nghĩa rằng người thừa kế mà Hoàng đế chọn thật sự chính là Lục Lệnh Tùng.

Tạ Cánh đột nhiên sững sờ, nhớ lại những lời Hoàng đế nói với Lục Thư Thanh khi gọi cậu vào trong điện ngày hôm nay, y bỗng ngộ ra một điều – nhà họ Tạ đã bị "trừ mẹ giữ con" rồi.

Lục Lệnh Tùng dặn dò Chu Bá lập tức kín đáo tiêu hủy số ngọc Lam Điền mà Tạ Duyễn từng cho chuyển đến phủ Chiêu Vương. Sau đó hắn quay người lại, thấy Tạ Cánh vô cùng bình tĩnh nói:

"Tử Phụng, anh lập tức thay quần áo vào cung bày tỏ lòng trung thành với bệ hạ đi. Hãy phủi sạch quan hệ với em, càng làm lớn chuyện càng tốt, để càng nhiều người nghe thấy càng hay. Phải cho cả hoàng cung đều biết ngọc tỷ truyền quốc là do em tự ý giấu ở nhà họ Tạ, em muốn lợi dụng con để tranh ngôi vị. Số ngọc Lam Điền đó cũng là em bí mật đem về đây để che mắt người khác. Anh chỉ cần bảo vệ phủ Chiêu Vương là được, đến lúc cần thiết hãy dứt khoát đoạn tuyệt với em và cả nhà họ Tạ!"

"Đây là họ muốn giá họa cho người khác, sao em có thể dễ dàng nhận hết về mình mà không tranh luận một lời thế?"

"Nếu là kẻ khác giá họa, có lẽ còn chút cơ may biện giải... Nhưng người muốn giá họa hôm nay là thiên tử, oan ức này cũng chỉ có thể tố lên thiên tử, tranh cãi thêm thì có ích lợi gì chứ?"

Lục Lệnh Tùng nhíu chặt mày, quả quyết nói: "Ta sẽ không để em một mình mạo hiểm như vậy!"

Tạ Cánh thở dài như trấn an: "Không đâu, yên tâm đi, nhà họ Tạ vẫn còn đan thư thiết khoán..."

Hoàng thân phạm tội sẽ không bị tru di cửu tộc, đây là luật lệ từ xưa đã có. Hoàng đế dùng ngọc tỷ truyền quốc để gán tội cũng là chuyện đã rồi, nhưng muốn đổ tội lên đầu ai, y vẫn có khả năng gắng sức tranh giành đến cùng. Nếu như y tự mình gánh lấy tội danh này, nhà họ Tạ và thân quyến có thể nhờ vào đan thư thiết khoán mà giữ được mạng sống, phủ Chiêu Vương cắt đứt quan hệ với y, Lục Lệnh Tùng và con của y cũng sẽ được an toàn.

Tạ Cánh bất ngờ lao tới trước, rút Phi Quang đã vô thức giấu trong tay áo khi vừa choàng tỉnh ra, kề ngang cổ Lục Lệnh Tùng, lưỡi dao sắc lạnh sượt qua trong bóng đêm, mang theo hơi lạnh rét thấu xương.

Mọi người trong phòng đều kinh hoảng nói không nên lời, Tạ Cánh lại chỉ chăm chăm nhìn thẳng vào mắt Lục Lệnh Tùng, giọng y run lên, gằn từng chữ một:

"Lục Tử Phụng, em giao con của chúng ta cho anh. Nếu chẳng may có sơ suất, dù em có hóa thành lệ quỷ, rơi xuống mười tám tầng địa ngục cũng sẽ kéo anh xuống cùng."

Ánh mắt Lục Lệnh Tùng trầm xuống, ánh nhìn xoáy sâu vào đáy mắt Tạ Cánh. Hắn chậm rãi giơ tay lên, cứ thế nắm chặt lấy lưỡi dao Phi Quang sắc nhọn, máu tươi lập tức trào ra khỏi lòng bàn tay, từng giọt đỏ thẫm nhỏ xuống cổ tay áo của hắn, rồi rơi xuống trước ngực áo Tạ Cánh.

"Được."

Tạ Cánh nghe vậy, khẽ thở ra một hơi thật dài, từng thớ cơ bắp toàn thân vốn đang căng thẳng siết chặt nhờ khoảnh khắc này mà buông lỏng. Phi Quang trượt khỏi tay y, rơi xuống đất vang lên một tiếng chói tai, tựa như tiếng ngọc vỡ tan nát.

Cả hai đều đã mệt mỏi đến cực hạn, dưới cằm Lục Lệnh Tùng thậm chí còn lún phún gốc râu.

Tạ Cánh lặng lẽ tháo miếng ngọc trắng với đường nét điêu khắc vẫn chưa hoàn thiện hết từ bên hông xuống, ngón tay y khẽ run, nhanh chóng áp mảnh ngọc vào trước ngực Lục Lệnh Tùng rồi kéo vạt áo hắn xuống che lại.

Y thấp giọng nói ngắn gọn: "Vốn định đợi đến sinh nhật anh rồi mới tặng, bây giờ có lẽ không kịp nữa rồi."

Tạ Cánh bất chợt vươn tay ôm chặt lấy cổ Lục Lệnh Tùng, hơi ngẩng đầu hôn lên môi hắn. Nụ hôn này mãnh liệt khác thường, không mang theo d*c v*ng hay sự quyến luyến dịu dàng nào, mà là sự dồn dập như muốn gửi gắm toàn bộ tình cảm cả đời vào từng hơi thở.

Gần như cùng lúc đó, Lục Lệnh Tùng cũng vòng tay siết chặt y vào lòng, bàn tay nhuốm máu vô tình in lên áo ngủ màu trắng tinh của y, đầm đìa sắc đỏ.

Đám hạ nhân đều im lặng cúi đầu, mặc cho bọn họ ôm hôn nhau trước cơn cuồng phong sắp sửa kéo đến.

Hồi lâu sau khi đôi môi tách rời, Tạ Cánh vẫn ôm lấy khuôn mặt Lục Lệnh Tùng trong tay, nhìn hắn ở khoảng cách gần trong gang tấc, khẽ nói:

"Khanh nhìn thấy ngọc, giống như thấy ta."

Dứt lời, không chờ Lục Lệnh Tùng hồi đáp, y lập tức quay người, lạnh giọng hạ lệnh: "Chuẩn bị xe, đưa điện hạ vào cung!"
 
Back
Top Bottom