Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm

Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 100


《 24.2 》

Trước khi vào cung, Lục Lệnh Tùng đã làm ba việc.

Việc thứ nhất, hắn sai người đến Trích Tinh lâu đưa tin, nhờ Tiêu Dao điều động nhân thủ Tuyên Thất âm thầm mai phục xung quanh phủ Chiêu Vương, bảo vệ Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh.

Việc thứ hai, hắn giao cho bác Chu và Ngân Trù mang toàn bộ sổ sách, điền sản, khế đất của phủ Chiêu Vương đến nhà họ Ngô. Nhờ cậu ruột hắn là Ngô Khâm giúp đỡ, lập tức tách riêng tất cả phần tài sản thuộc về Tạ Cánh ngay trong đêm. Toàn bộ "chân kim bạch ngân" mà hắn từng tặng y - từ ruộng đất, tiền trang, cửa hiệu, biệt viện ngoại thành đến các lâm viên ở Giang Nam - tất cả đều sang tên cho hai đứa trẻ.

Việc cuối cùng, hắn tự tay viết thư gửi cho Lý Kỳ, nhờ cậy chỉnh đốn ba nghìn quân Hổ Sư mà hắn đã bí mật nuôi dưỡng ở Hoài Bắc suốt hơn một năm qua, đưa bọn họ đến đóng quân cách thành Kim Lăng trăm dặm, sẵn sàng chờ tin.

Sau cùng hắn bước lên xe ngựa của Vương phủ, tiến thẳng về phía điện Thần Long.

Chung Triệu canh giữ ngay trước cửa tẩm điện, trông thấy Lục Lệnh Tùng cũng chẳng hề tỏ vẻ ngạc nhiên, cứ như thể người nhân loạn lấy trộm hộp kiếm đựng ngọc tỷ truyền quốc không phải lão, người đến Vương phủ báo tin cũng không phải do lão sai đến.

Lục Lệnh Tùng cũng không nói lời dư thừa, trước khi bước vào tẩm điện, hắn ngoái đầu lại, liếc nhìn Chung Triệu một cái thật sâu.

Giờ ngủ của Hoàng đế đã qua từ lâu, nhưng trong nội điện đèn đuốc vẫn lập lòe, rõ ràng là đang chờ người đến. Lục Lệnh Tùng vén áo, quỳ xuống bên giường, mở miệng thẳng thắn: "Phụ hoàng, ngày ấy người giao ngọc tỷ Lam Điền truyền quốc cho phủ Chiêu Vương bảo quản, thế mà Vương phi dựa vào thân phận mẹ ruột của Thanh Nhi, muốn giúp nhà họ Tạ mưu quyền đoạt lợi, lén mang ngọc tỷ về ngõ Ô Y để giấu, lòng dạ bất thần lộ rõ rành rành, đúng là đại nghịch bất đạo!"

Mành vải được vén lên chậm rãi, một nửa khuôn mặt của Hoàng đến bị che khuất trong bóng tối, không nhìn rõ thần sắc, chỉ hỏi: "Là do Vương phi của con làm sao?"

Lục Lệnh Tùng hiểu rõ ẩn ý phía sau - từ bỏ Vương phi và nhà họ Tạ, bảo vệ phủ Chiêu Vương, đây chính là sự lựa chọn của hắn vì ngai vị sao?

Hắn ngẩng đầu, ép mình phải bắt lấy ánh mắt Hoàng đế, giữ vững ánh nhìn: "Nếu phụ hoàng cho phép, nhi thần sẽ lập tức hạ chỉ phế bỏ Vương phi, mọi tội danh đều tùy phụ hoàng luận xử."

Hoàng đế cất giọng: "Chung Triệu, chuẩn bị bút mực."

Cửa điện lập tức mở ra, Chung Triệu bưng giấy bút lặng lẽ bước đến sau lưng Lục Lệnh Tùng, cung kính bày biện ra cho hắn, Hoàng đế ôn hòa nói: "Tùy trẫm luận xử à? Có đan thư thiết khoán ở đó, trẫm không trị tội nó."

Ngòi bút trong tay Lục Lệnh Tùng khẽ khựng lại: "... Phụ hoàng không trị tội y sao?"

Ánh mắt Hoàng đế nhìn hắn gần như mang theo sự "thẩm xét," tựa như có thể mổ xẻ con người hắn từ trong ra ngoài, không chỗ nào che giấu được. Mãi lâu sau, ông mới thản nhiên cất lời: "Dù nó có phạm trăm ngàn điều sai trái, suy cho cùng vẫn có công sinh hạ thế tử. Dẫu gì cũng làm vợ chồng mười năm, con lại từng quá mức sủng ái nó, muốn giữ cho nó một con đường sống cũng là chuyện thường tình, trẫm không có lý do gì để không đồng ý."

Lục Lệnh Tùng nghe rõ sức nặng trong từng câu chữ, Hoàng đế thậm chí chẳng buồn che đậy bản chất "giá họa" phía sau, dường như cũng chẳng để tâm liệu hắn có thật lòng muốn phế bỏ Tạ Cánh hay không.

"Nhưng nhà họ Tạ... Con không thể nhúng tay vào nữa. Trẫm đã giao cho Vương Thục xử lý. Phủ Tướng là người ngoài cuộc, xét xử sẽ có chừng mực. Muốn tránh hiềm nghi, muốn để cho thiên hạ thấy trẫm không thiên vị, con cũng nên chuẩn bị sẵn sàng đi."

Lục Lệnh Tùng lặng lẽ hạ bút, trong đầu nhanh chóng tính toán - tại sao phủ Tướng lại trở thành người ngoài cuộc? Chuyện này dính dáng đến tranh đoạt ngôi vị thái tử, mà phủ Tướng xưa nay luôn ở trong vòng xoáy quyền lực, luôn đứng trên đầu sóng ngọn gió, trừ phi... Trừ phi cuộc tranh đấu này sắp hồi kết, Hoàng đế đã có quyết định trong lòng: Phủ Tướng bị loại khỏi ván cờ rồi.

Bị loại rồi, đương nhiên sẽ không còn lợi ích liên quan. Quan trọng hơn hết là cũng chẳng còn khả năng xoay chuyển tình hình nhờ vị thế ứng cử nữa. Vì vậy, Hoàng đế mới cho phép phủ Tướng trở thành phe phán xử "công bằng".

Lục Lệnh Tùng lại nghĩ đến câu nói "chuẩn bị" kia. Muốn hắn chuẩn bị cái gì? Tại sao hắn phải chuẩn bị?

Ngay từ đầu, mục tiêu gán tội của Hoàng đế căn bản không phải là Tạ Cánh, mà là Trần quận Tạ thị. Xét đến cùng, chỉ xử lý một mình Tạ Cánh cũng chẳng có ý nghĩa gì. Thật ra Hoàng đế cũng chẳng thèm trừng phạt y, bởi vì ông quá rõ rằng trong tay Tạ Cánh không có thực quyền, rằng y chỉ là một tên công tử bột vô dụng. Cắt đứt hoàn toàn mối quan hệ giữa Lục Thư Thanh và Trần quận Tạ thị, triệt hạ tận gốc mối lo ngoại thích bành trướng mới là lý do Hoàng đế ra tay với Tạ gia.

Lục Lệnh Tùng mơ hồ nhận ra, đáp án cuối cùng của vấn đề đã tra tấn hắn từ khi sinh ra, hành hạ hắn như gông cùm xiềng xích giờ phút này đã dần hiện rõ trước mắt, vô cùng sinh động.

Hai con dế trong lồng đã phân thắng bại, Hoàng đế đang vì phủ Chiêu Vương - hoặc nói chính xác hơn, là vì con đường lên ngôi của Lục Thư Thanh mà quét sạch mọi chướng ngại, nhưng đây chỉ mới là bắt đầu, Lục Lệnh Tùng nghĩ. Từ trước đến nay, chủ nhân luôn đối xử với hai con dế trong tay tàn nhẫn như nhau. Hoàng đế tuyệt đối không phải nhất thời hứng lên mới giao quyền xử lý nhà họ Tạ cho phủ Tướng, ông còn một nước cờ sau, đó là mượn danh tranh đấu giữa hai gia tộc để tiện tay thanh trừ cả Lang Gia Vương thị.

Đừng ai hòng chạy thoát.

Lục Lệnh Tùng ngẩng phắt đầu lên, sống lưng lạnh buốt, hắn nhìn Hoàng đế dưới ánh đèn mờ nhạt - đây thật sự là một người bệnh già yếu ớt, gần đất xa trời đây sao?

Tạ Cánh khoác vội áo choàng, phi ngựa lao thẳng đến Tạ phủ. Càng đến gần, tiếng huyên náo trong đêm càng vang rõ. Giờ này, ngay cả tiếng đàn hát bên bờ sông Tần Hoài cũng đã im bặt, bầu không khí khác thường theo mặt nước lan tràn đến khắp đầu đường xó chợ, người người nhà nhà khép chặt kín cửa, lặng lẽ dỏng tai trong bóng đêm, chứng kiến cơn biến động sắp diễn ra giữa ngõ Ô Y trâm anh thế phiệt kia.

Thành Kim Lăng sắp đổi trời thay đất rồi, ai cũng nghĩ vậy.

Vũ Lâm Vệ cầm kiếm đứng đầy trước ngõ Ô Y, những người không phận sự đã bị đuổi đi từ sớm, khi Tạ Cánh ghìm cương ngựa dừng lại, trước mặt y chỉ toàn là ánh sáng của binh khí, cùng với vô số ánh mắt không có nhiệt độ toát ra từ bên dưới khôi giáp.

Thủ lĩnh nhìn y một lát rồi lên tiếng trước: "Vương phi đến rồi à."

Tạ Cánh thấp giọng nói: "Cho ta vào nhà."

Thủ lĩnh chắp tay làm lễ: "Nhà họ Tạ bị nghi tàng trữ quốc tỷ, liên lụy đến căn cơ quốc bổn, chuyện lớn như vậy, chúng thần chỉ tuân theo thánh chỉ của bệ hạ, phải tra hết từ trong ra ngoài, không được phép cho bất kì ai ra vào."

"Vậy thì hãy để ta gặp cha và anh ta, gặp ở đây cũng được."

Thủ lĩnh cười lạnh: "Hai vị Tạ đại nhân giờ này đã bị đưa vào chiếu ngục rồi, chỉ còn chờ thẩm vấn thôi."

Tạ Cánh chấn động: "Các ngươi làm sao dám tự tiện bắt giam mệnh quan triều đình!"

"Bệ hạ có lệnh, để Vương tướng toàn quyền quyết định vụ án này." Thủ lĩnh đưa tay chỉ vào trong ngõ, "Tìm ra được ngọc tỷ Lam Điền truyền quốc mà bệ hạ để Chiêu Vương điện hạ giúp bảo quản ở quý phủ, trong lối vào kho Tạ phủ cũng cất trữ một lượng lớn phôi ngọc trông giống ngọc Lam Điền, đây đều là chứng cứ xác thực."

Tạ Cánh im lặng một chút rồi trở mình xuống ngựa: "Chuyện này là do một mình ta làm, từ trên xuống dưới nhà họ Tạ không ai biết, bệ hạ có trách tội, cũng nên để một mình ta gánh chịu."

"Hả?" Tên thủ lĩnh kia cười nghiền ngẫm, "Các người cho lời khai sao không bàn với nhau trước thế? Cha anh ngươi đã nhận tội không kiêng dè, nói rằng bọn họ mưu toan vị trí Thái tử, lừa lấy ngọc tỷ từ ngươi, ngươi mới là kẻ không biết chuyện đấy."

"Muốn gán tội cho ai, nào có thiếu gì lý lẽ!" Tạ Cánh quát, "Ta thân là Chiêu Vương phi, dù phạm tội nặng đến mức bị chém đầu cũng không liên lụy đến cửu tộc. Vương tướng nhất định muốn làm liên lụy người vô tội, chẳng lẽ định vứt bỏ danh tiếng trong sạch và sự sáng suốt của thế gia văn thần trăm năm như Lang Gia Vương thị sao? Chẳng lẽ còn muốn xông vào hoàng cung, nhốt cả bệ hạ vào chiếu ngục hay sao?"

Dứt lời, y nhấc chân định xông thẳng vào trong. Kiếm của Vũ Lâm Vệ hai bên đã lập tức rút khỏi vỏ, tên thủ lĩnh vừa định ra lệnh cho thuộc hạ cưỡng chế bắt y lại, chợt nghe từ xa có người quát to: "Đợi đã!"

Người vừa tới ghìm cương ngựa ngay phía sau Tạ Cánh, y ngoảnh đầu nhìn lại, người kia chính là con trai trưởng của Vương Thục - Vương Khế. Trong tay hắn cầm một trục cuốn: "Hạ quan vừa từ trong cung tới, phụng chỉ Chiêu vương mang một dụ lệnh đến, Vương phi có muốn nghe cùng không?"

Mọi người tản ra, nhường đường cho hắn. Vương Khế vòng lên trước mặt Tạ Cánh, từ tốn mở trục cuốn trong tay ra, cất giọng đọc: "Truyền thủ dụ của Chiêu Vương: Vương phi Tạ thị kiêu ngạo lộng hành, xa hoa hoang phí, dựa vào con cái để mưu quyền, dòm ngó trữ vị, không xứng làm khuôn phép trong nhà, không đủ tư cách dạy dỗ con cái. Tước bỏ tỷ thụ, đuổi ra khỏi phủ, đoạn tuyệt ân nghĩa."

Vương Khế ngồi trên lưng ngựa, cúi mắt nhìn xuống Tạ Cánh: "Tạ đại nhân giờ không còn là hoàng thân quốc thích nữa rồi. Tội danh này có liên lụy đến cửu tộc hay không, e là còn phải cân nhắc lại cho cẩn thận."

Dù đã dặn dò Lục Lệnh Tùng, đến lúc cần thiết phải dứt khoát cắt đứt, tuyệt đối không được mềm lòng, nhưng khi tận tai nghe thấy bốn chữ "đuổi ra khỏi phủ," Tạ Cánh vẫn không kìm được mà thoáng sững sờ.

Mấy nghìn ngày đêm đầu ấp tay gối, chỉ cần vài câu chữ đã xóa sạch chẳng còn dấu vết, nhân duyên thiên gia quả thật giống như sợi tơ vàng dệt nên long bào, mỏng manh yếu ớt, vừa chạm đã đứt, làm sao sánh được với sợi tóc xanh kết phát bền chặt, thủy chung một đời?

Tạ Cánh ngẩng đầu nhìn lại, lạnh lùng nói: "Nhà họ Tạ có đan thư thiết khoán do Thái Tông Hoàng đế ban cho. Dù Vương Thục có thật sự muốn truy cứu tội liên đới, cũng phải căn cứ vào tổ pháp. Tội danh bất kính với tổ tiên, lạm dụng chức quyền, phủ Tướng có gánh vác nổi không? Thỏ khôn chết, chó săn bị làm thịt, hôm nay phủ Tướng ép nhà họ Tạ đến đường cùng, không sợ ngày mai bệ hạ sẽ mượn cớ này mà dẹp luôn nhà họ Vương hay sao? Bọ ngựa bắt ve, chim sẻ chực sẵn, kẻ hưởng lợi thật sự vẫn còn chờ phía sau kia kìa!"

Vương Khế chỉ lắc đầu, nói đầy ẩn ý: "Ai nói phủ Tướng không sợ? Ai nói phủ Tướng bất kính với đan thư thiết khoán? Lệnh miễn tử nhà họ Tạ đời đời cất giữ, cả kinh thành này ai mà không biết, đương nhiên phải cho quý phủ tận dụng hết mức rồi. Còn dùng thế nào - các hạ cứ việc mở to mắt đấy mà chờ xem là được."

Nói xong, hắn xoay mặt dặn dò tên thủ lĩnh: "Nếu Tạ đại nhân đã muốn gặp người thân, vậy thì cứ để cho y gặp."

Cửa chính Tạ phủ mở rộng, Vũ Lâm Vệ chia thành hai hàng đứng sừng sững. Dẫn theo gia đinh đứng trước sảnh chính, giằng co với bọn họ ở phía đối diện chính là Tạ phu nhân ăn mặc chỉnh tề.

Tạ Cánh gần như bị áp giải vào ngõ Ô Y. Chẳng biết là ai đã thô bạo nện chuôi kiếm vào khoeo chân y, đẩy Tạ Cánh quỳ sụp xuống ngay bên ngoài bậc cửa.

Tạ phu nhân trông thấy y, vẻ mặt vốn dĩ bình tĩnh cuối cùng cũng thoáng hiện chút tức giận: "Y là Chiêu Vương phi, các người dám động vào y sao!?"

Tạ Cánh căng mắt tìm kiếm nhưng không thấy bóng dáng Diêu thị và Tạ Tuấn đâu. Mãi đến khi nghe thấy tiếng quát mắng vang lên từ góc nhà, y mới phát hiện Tạ Tuấn đang bị trói chặt vào cột dưới hành lang. Có lẽ lúc xảy ra chuyện, cậu là người đầu tiên lao ra che chắn cho bà nội và mẹ, nhưng rốt cuộc vẫn không địch lại số đông, bị khống chế ngược lại. Còn chị dâu y thì bị mấy tên Vũ Lâm Vệ cầm kiếm vây chặt, không cho chị đến gần Tạ Tuấn.

"Cha và anh ta đều đã vào ngục, ta cũng có thể lập tức đi theo các người, nhưng phủ Tướng còn muốn làm khó cả phụ nữ trẻ con và gia nhân vô tội trong phủ này, chẳng lẽ thật sự muốn đuổi tận giết tuyệt hay sao?"

Tạ Cánh vùng vẫy định đứng dậy, nhưng lập tức bị hai tên lính giữ chặt. Vương Khế nhàn nhạt cất giọng: "Vậy là Tạ đại nhân vẫn chưa hiểu rõ rồi, người muốn đối phó với nhà họ Tạ nào phải là phủ Tướng chứ? Bệ hạ muốn mượn dao giết người, nhà họ Vương chẳng qua chỉ thừa cơ rèn đao sắc, để cho người dùng thuận tay hơn mà thôi."

Tên thủ lĩnh đứng bên cạnh hắn nhân cơ hội lên tiếng: "Hạ quan nhận thánh chỉ của bệ hạ, làm việc công không hề có ý làm khó. Kính mong phu nhân lấy đại cục làm trọng, cùng thiếu phu nhân và tiểu công tử đi theo Vũ Lâm Vệ một chuyến, để sớm ngày định đoạt vụ án, trả lại sự trong sạch cho quý phủ mới phải."

Hắn cố ý nhấn mạnh nửa câu sau, nhưng Tạ phu nhân lập tức khinh miệt phì một tiếng, quát lên: "Đúng là lòng dạ thối nát! Thanh danh của nhà họ Tạ ở quận Trần, lũ chuột nhắt hèn hạ như các ngươi mà cũng dám tùy tiện bôi nhọ sao?"

Bà quét mắt nhìn đám binh sĩ, ánh mắt sắc bén như hóa thành thực thể, khiến người ta hoảng hốt, chột dạ, không rét mà run: "Nếu ta bước qua cánh cửa này thì giả cũng thành thật, không cũng thành có, chẳng phải sẽ khiến nhà họ Tạ mang tội mưu phản đúng như mong muốn của các ngươi sao? Chuyện chưa từng làm, tội danh bị gán ép vô cớ, dù các ngươi có đảo lộn thị phi, dù có nghiêm hình bức cung, dù phu quân và con trai ta có nhận tội, ta cũng tuyệt đối không nhận!"

Vương Khế chẳng hề nao núng, thản nhiên nói: "Phu nhân cốt cách rắn rỏi, không hổ là nhất phẩm cáo mệnh phu nhân chấp chưởng mọi việc trong nhà suốt mấy mươi năm qua. Chỉ là phu nhân muốn giữ gìn thanh danh của mình, cũng nên nghĩ đến những gia nhân nô bộc sau lưng bà kia - Tạ đại nhân vừa rồi nói rất hay, bọn họ có tội tình gì mà phải cố thủ ở ngõ Ô Y này, chết chôn cùng phu nhân chứ?"

Ánh mắt Tạ phu nhân trở nên nghiêm nghị: "Ân oán này không liên quan đến những người ngoài như họ, nếu như ngươi vẫn còn để ý danh tiết của Lang Gia Vương thị, vậy thì thả cho bọn họ đi đi!"

Vương Khế chỉ thong thả nói: "Thiên hạ làm gì có chuyện vừa vẹn tròn hiếu nghĩa, lại đủ cả lòng trung? Bệ hạ đã ban khẩu dụ, không có chiếu thì dù là ai đi nữa cũng không được tự tiện ra vào Tạ phủ, chiếu ngục còn chẳng chứa nổi cả nhà các người đâu. Bọn họ đều phải ngoan ngoãn ở lại trong phủ chờ xử trí. Vương tướng đã chỉ đích danh cả ba mẹ con bà cháu các người, ngay cả vị phế Chiêu vương phi này," hắn liếc qua Tạ Cánh, "Đều được đặc cách ân chuẩn, miễn khỏi bắt giam đấy."

Diêu thị ở bên kia giận quá bật cười: "Ân chuẩn à? Vương tướng tự cho mình là ai chứ? Dù sau này Nhị điện hạ đăng cơ, họ Vương cũng chỉ là ngoại thích, mãi mãi chỉ là ngoại thích mà thôi! Các ngươi tưởng bọn ta không biết sao? Ngọc tỷ Lam Điền kia vốn là đồ giả thôi, đừng nói là thiên tử gửi ở phủ Chiêu Vương, dù có thật sự rơi vào tay nhà họ Tạ đi nữa, thì quốc bổn trăm năm của Đại Tề sao có thể dễ dàng bị một miếng ngọc cỏn con làm lung lay được? Là phủ Tướng đang coi thường thiên uy, hay là người mang ngọc có tội? Phôi ngọc Lam Điền trong kho Tạ phủ là do Thái thú Ung Châu Hà Cáo dâng tặng vào đêm giao thừa năm ngoái, khi cho nhập phủ đã ghi chép rõ ràng, giấy trắng mực đen còn đó, các ngươi không đi điều tra nguồn gốc, rốt cuộc là đang lấp l**m cái gì?"

Sắc mặt Vương Khế khẽ biến, có lẽ hắn không ngờ Diêu thị lại dám vạch trần mọi chuyện trước mặt bao nhiêu người như vậy. Hắn lạnh giọng nói: "Diêu phu nhân ăn nói cẩn thận. Dù cô không cần mạng sống nữa, cũng phải nghĩ xem lệnh lang sẽ ra sao đi chứ."

Tạ Tuấn nghe vậy, mặc kệ lưỡi kiếm của Vũ Lâm Vệ vẫn kề sau gáy, lớn tiếng mắng: "Ngươi đừng hòng lấy ta ra để uy h**p mẹ ta! Nhà họ Tạ chẳng có ai sợ chết, chỉ sợ chết không trong sạch, chết không có ý nghĩa mà thôi!"

"Mạnh miệng quá nhỉ." Vương Khế đưa mắt lướt qua từng người một, chậm rãi nói tiếp: "Liên lụy phủ Tướng thì cũng đanh thôi, nhưng nếu tiểu công tử và hai vị phu nhân tiếp tục nhắc đến thánh thượng, oán hận long đình, mấy trăm người ở đây đều nghe rõ rành rành, vậy thì cái gọi là 'dị tâm' và 'tội danh' e rằng không thể coi là vu oan giá họa nữa, đến lúc ấy các người chẳng thể bịa đặt thêm được đâu!"

Tạ phu nhân không nhúc nhích, chỉ cười lạnh: "Sao bọn ta lại không dám nhắc đến thánh thượng chứ? Phôi ngọc cũng bị tịch thu rồi, ngọc tỷ truyền quốc từ đâu rơi xuống cũng bị lục soát ra rồi, ngõ Ô Y ngoài đám phàm nhân da thịt bọn ta ra thì chẳng còn thứ gì để báo đáp 'ân tri ngộ cất nhắc' của thiên tử mấy năm qua nữa! Nếu người còn muốn, cứ việc lấy đi!"

Tạ Cánh bị ghìm lại không nhúc nhích được, chỉ có thể kêu lên: "Mẹ hãy tạm giữ lại chút đường lui, dù có vào ngục trước, con cũng còn cách cứu vãn! Nhà họ Vương há lại không màng thanh danh lưu vào sử sách?" Y ngẩng đầu trừng Vương Khế một cái, "Chắc chắn phủ Tướng cũng chẳng muốn chịu cảnh bị vạn dân phi nhổ, buông lời chê trách truyền đời đâu!"

Tạ phu nhân vẫn bình tĩnh, dường như bà đã nhìn thấu đến tận cùng số phận: "Con tưởng rằng bây giờ chúng ta trở mặt với chúng ở ngõ Ô Y này, hay là bị giam vào chiếu ngục làm con ba ba trong hũ thêm mấy ngày nữa thì kết cục sẽ khác nhau sao?"

Y đành chuyển sang Diêu thị: "Chị à! Chị và Tạ Tuấn đưa mẹ đi trước đi, đừng quan tâm đến danh tiết của nhà họ Tạ nữa, có thứ gì quan trọng hơn sinh mạng của mọi người chứ!"

Trong mắt Diêu thị lộ ra một vẻ buồn bã tiếc nuối, chị cũng không hề nhúc nhích: "Nếu bọn họ thật sự kính trọng tấm đan thư thiết khoán kia, thì mối họa hôm nay vốn dĩ sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Giờ đã đến nước này rồi, chỉ còn lại hai kết cục, đó là 'sợ bóng sợ gió một trận' và 'thập tử vô sinh' mà thôi. Chi Vô, em cảm thấy sẽ là kết cục nào đây?"

Tạ Cánh sững người, miệng há ra nhưng chẳng thể thốt thành lời. Y ngơ ngẩn nhìn đám gia nhân lấp đầy sân phủ, những gương mặt ấy phần lớn đều rất quen thuộc, thậm chí có không ít người đã sống trong phủ này còn lâu hơn cả tuổi của y. Tạ Cánh lẩm bẩm khẩn cầu: "Mọi người... Hãy đi đi..."

Không một ai nhúc nhích.

"Mọi người đi đi mà!"

Rất lâu sau, không biết là ai đã lên tiếng: "Nhị công tử, chúng tôi không đi được."

Tạ Cánh giật mình phát hiện, ngoại trừ y ra, dường như tất cả mọi người có mặt ở đây đều rất rõ ràng, rằng họ không có đường lui, không có cơ hội xoay chuyển cơn biến loạn này. Tất cả những biện pháp tạm thời lui một bước để giữ mạng, đứng trước ván cờ chính trị tàn khốc này hoàn toàn không tồn tại.

Hoặc là không có chuyện gì xảy ra, hoặc là chết.

Điều gì sẽ chờ đợi bọn họ? Tất cả mọi người đều biết, hơn nữa đã biết từ lâu. Ba thế hệ nhà họ Tạ lần lượt bị giam vào ngục, những người còn lại cũng sẽ bị tiêu diệt tận gốc. Dù trốn ra được khỏi cánh cửa này, bọn họ cũng sẽ mang tội kháng chỉ, trở thành tội nhân mưu nghịch, căn bản không còn đường sống để mong cầu. Nếu buộc phải đón nhận cái chết, thì chết ngay sau cánh cửa này, ít nhất họ cũng không phải gánh tiếng xấu vì bị cuốn vào cuộc tranh quyền đoạt vị kia, ít nhất là không phụ ơn nghĩa Trần quận Tạ thị đã che chở cho gia quyến, hương thân của họ bao năm qua, ít nhất là không cô phụ ân huệ và lòng trung giữa chủ tớ bọn họ.

Giống như Tạ Tuấn đã nói, họ phải chết một cách trong sạch, chết phải có ý nghĩa.

Vương Khế đã mất kiên nhẫn nghe lời dông dài, hắn đi lại trước cổng, thỉnh thoảng quay đầu nhìn vào bên trong Tạ phủ, tựa như đang cân nhắc sức nặng tình thế. Một lúc lâu sau, hắn mở miệng hỏi, giọng điệu khó dò: "Các ngươi đều cam lòng chết theo chủ nhân sao?"

Không ai trả lời.

Vương Khế lại chuyển ánh mắt về phía Diêu thị và Tạ Tuấn: "Hai mẹ con các người thì sao?"

Cả hai đều nhìn hắn bằng ánh mắt khinh thường.

Cuối cùng, hắn dừng ánh mắt trên người Tạ phu nhân: "Phu nhân cũng không đi à?"

Tạ phu nhân thản nhiên đáp: "Dù có đứng trước mặt thiên tử, ta cũng chỉ nói những lời như vậy thôi, các ngươi đừng hòng ép ta bước nửa bước ra khỏi cánh cửa này. Hôm nay ai muốn bước vào nhà họ Tạ, thì trước tiên phải bước qua xác ta!"

Vương Khế không do dự nữa, gần như ngay khi Tạ phu nhân vừa dứt lời, hắn đã lập tức giơ tay lên, tên thủ lĩnh lập tức nhận lệnh, Vũ Lâm Vệ chờ đợi ngoài cửa đã lâu đồng loạt giương cung. Lòng Tạ Cánh chấn động, bật tiếng gào xé họng: "Mẹ..."

Nhưng bàn tay Vương Khế đã phất xuống, mưa tên rời dây, toàn bộ đầu mũi tên đều hướng thẳng vào dáng người vốn chưa từng lung lay nghiêng ngã bên dưới cổng lớn.

Tạ Cánh chỉ cảm thấy thế giới bên tai sau khoảnh khắc này bỗng trở nên tĩnh lặng, hai mắt y trừng to đến nỗi muốn nứt ra, thậm chí quên cả chớp mắt, chỉ có thể trơ mắt nhìn từng mũi tên xuyên thẳng vào lồng ngực mỏng manh, chẳng có chút phòng bị nào của mẹ mình. Y không thể đếm được rốt cuộc đã có bao nhiêu mũi tên, bởi vì máu nhanh chóng trào ra thấm ướt áo gấm của Tạ phu nhân, ngay trước khoảnh khắc tận mắt chứng kiến bà ngửa mặt ngã xuống chẳng thể tránh né, hình ảnh ấy đã vĩnh viễn khắc sâu vào đáy mắt Tạ Cánh.

Tạ Cánh cảm thấy mình hẳn là đã gào thét đến khản giọng, nhưng y chẳng nghe thấy gì cả, cũng không rõ là do tai mình đã điếc đặc hay bản thân không còn thốt lên được tiếng nào nữa.

Vương Khế lặng lẽ nhìn thi thể Tạ phu nhân ngã xuống bậc thềm, không còn động đậy nữa: "Như phu nhân mong muốn."

Cuộc xung đột lập tức bùng nổ, Tạ Cánh trơ mắt nhìn người hầu trong phủ xông lên giữa mưa tên và giáo mác, dù không thể chống lại cấm quân, bọn họ vẫn không hẹn mà đồng loạt vây chặt lấy thi thể của Tạ phu nhân, bảo vệ bà ở giữa.

Y nhìn thấy Diêu thị tay không tấc sắt mạnh mẽ đoạt lấy thanh kiếm dài của Vũ Lâm Vệ, chém đứt dây trói trên người Tạ Tuấn, dùng khí thế thần cản giết thần, Phật ngăn giết Phật dọn dẹp mọi chướng ngại đưa cậu chạy ra tiền thính, sau đó xoay lưng lại, lấy thân mình làm khóa chắn trước cửa hông, bị truy binh một đao chém ngang cổ.

Y nhìn thấy ánh lửa đỏ rực bùng lên từ nội viện, như thể đó mới thật sự là nơi phải thiêu rụi trong đêm đông năm Trinh Hữu thứ mười bảy này. Y nhìn thấy bầu trời tảng sáng phủ kín mây dày xuống tận hiên nhà, rồi chỉ trong chớp mắt, cơn mưa lớn trút xuống như thác đổ, nhưng cớ sao cơn mưa ấy lại chẳng thể dập tắt ngọn lửa ngút trời kia?

Lửa không có tiếng động, mưa cũng không có tiếng động, cả tiếng người trút hơi thở cuối cùng cũng chẳng còn nữa.

Tạ Cánh bị ghì chặt xuống đất, dùng sức giãy giụa cũng không thoát nổi, hai mắt y không sao nhắm lại được, thảm kịch ở ngõ Ô Y ngày hôm nay đã in sâu vào từng ngày từng đêm còn lại trong cuộc đời y.

Cuối cùng, y ngẩng đầu lên, để mặc cơn mưa xối thẳng vào mặt, tầm mắt lập tức trở nên mơ hồ. Giữa sân nhà là một mảnh hỗn độn, bàn thờ sụp xệ, bình và gương ở hai phía Đông, Tây đã vỡ nát, vậy mà tấm biển "Bách Nhẫn Gia Thanh" vẫn kiên cố treo cao trước sảnh, chắc chắn đến tàn nhẫn.

Mà thanh đao treo trên đầu chữ "Nhẫn"* kia, sau trăm năm gồng gánh nhẫn nhịn gầy dựng vinh hoa, cuối cùng, ngay giờ phút này cũng đã đường hoàng hạ xuống.

(*) Bên trên chữ Nhẫn - 忍 có chữ Dao - 刀 (dao, đao)
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 101


《 24.3 》

Tạ Cánh bị áp giải đến dưới cầu Chu Tước. Y ngoái đầu nhìn lại, bầu trời phía trên ngõ Ô Y đã bị ánh lửa nhuốm màu ráng đỏ, gợi lên ký ức về buổi sáng chín năm trước, vào ngày Lục Thư Thanh chào đời. Đó là lần đầu tiên y cảm nhận được sự bất lực của việc "kết hôn cùng thiên gia", mà bánh xe vận mệnh đã lặng lẽ xoay chuyển từ rất lâu trước đó, định sẵn kết cục cho từng người.

Chỉ khi ngõ Ô Y đã hoàn toàn bị phong tỏa, Vũ Lâm Vệ mới nới lỏng tay, để mặc y chật vật quỳ rạp xuống đất, thế nhưng trên gương mặt ấy chẳng hề có vẻ bi thương hay rơi giọt nước mắt nào, chỉ có ánh mắt đờ đẫn ngước lên nhìn bọn họ, như thể linh hồn đã lìa khỏi thể xác.

Tên thủ lĩnh quay sang xin chỉ thị từ Vương Khế: "Đại nhân, cứ thế thả y đi sao?"

Vương Khế không quay đầu lại, vô cảm mở ô ra: "Mặc kệ cậu ta đi đâu thì đi, thành Kim Lăng rộng lớn như vậy, để xem nhà nào dám cho cậu ta vào."

Tạ Cánh không biết mình đã gắng gượng đứng dậy từ lúc nào, y loạng choạng chống đỡ thân mình, lê từng bước nặng nề đi về phía trước một cách vô định. Đến khi tinh thần dần tỉnh táo trở lại, y mới nhận ra cảnh vật trước mắt đã chẳng còn bóng dáng của ngõ Ô Y nữa. Quần áo ngủ và áo choàng bên ngoài đều đã ướt đẫm, quay đầu nhìn lại, phía sau chỉ có duy nhất một thân ảnh vẫn luôn lặng lẽ đi theo từ đầu đến cuối, đó chính là Y Vân đã cùng y đi đến Tạ phủ đêm qua.

"... Chúng ta đi đâu bây giờ?" Tạ Cánh giơ tay, vuốt bờm Y Vân, "Ta còn nơi nào để đi nữa?"

Y Vân dùng đôi mắt trong veo đơn thuần nhìn y, sau đó hơi cúi đầu xuống, giống như muốn bảo Tạ Cánh hãy trèo lên lưng mình.

Mười năm ở Kim Lăng, y đã cắm rễ quá sâu vào phủ Chiêu Vương, giống như lại được lớn lên trong chiếc bình mật ngọt ấy, tất cả mọi người xung quanh đều hết mực thương y - cha mẹ, anh trai, cháu trai đều thương y, những đứa con bé bỏng cũng thương y, Lục Lệnh Tùng thương y, thậm chí đến cả Diêu thị và Lục Lệnh Chân cũng thương y. Những việc y không muốn làm thì có thể không làm, những nỗi phiền muộn không muốn bận lòng cũng chẳng cần bận lòng.

Đến giờ, khi thật sự phải cắt đứt tất cả, Tạ Cánh mới bàng hoàng nhận ra sự ngây thơ của bản thân từ lâu đã tạo nên một vực thẳm ngăn cách y với thế giới bên ngoài. Y có thể sống tùy ý, bởi vì luôn có người đứng ra chống đỡ tất cả cho y. nhưng tách khỏi thân phận Chiêu Vương phi và tiểu Tạ công tử, y mới nhận ra bản thân chẳng thể đi nổi dù chỉ nửa bước.

Tạ Cánh vô thức muốn về bên cạnh các con, nhưng y không thể trở về phủ Chiêu Vương được nữa, phế truất còn nghiêm trọng hơn cả bị ruồng bỏ. Nhà họ Tạ đã chìm trong biển lửa, y còn có thể đi đâu đây? Đến nhà họ Ngô? Nhà họ Diêu? Trích Tinh lâu? Cung Thái Sơ? Hay là chiếu ngục...

Chiếu ngục!

Tạ Cánh nhanh chóng lục tìm từng cái tên, chức vị của những người từng là đồng liêu, đồng khoa, môn sinh, và thế giao của Tạ Dực, ai có thể giúp y vào chiếu ngục gặp được cha và anh trai bây giờ?

Nhạy bén cảm nhận được sự hoang mang lo sợ của Tạ Cánh, Y Vân bèn sải vó chạy nhanh như gió, đưa y về khu Thanh Khê, nơi tập trung phủ đệ của các quan lại ở phía Đông thành. Dù Hoàng đế đã bệnh nặng nhiều ngày không tảo triều, giờ này lẽ ra các gia tộc quyền quý cũng nên mở cửa đón khách rồi. Thế nhưng chạy dọc suốt con phố dài, đến cả một bóng người đi đường cũng chẳng thấy đâu.

Y tự trấn an bản thân, chắc là do mưa quá lớn khiến mọi người ngại ra ngoài mà thôi. Nhưng từng cánh cổng phủ cao vút, lạnh lùng khép chặt trước mắt lại tàn nhẫn nhắc nhở y rằng không phải như vậy. Thậm chí có vài người hầu len lén ló đầu từ cửa ngách nhìn ra, thấy bóng y thì lập tức cuống quít rụt người vào trong, nhanh tay đóng chặt cửa lại.

Tạ Cánh sững người trong chớp mắt, sau đó nhảy xuống ngựa, loạng choạng chạy đến bậc thềm trước một nhà, quỳ sụp xuống: "Vãn sinh Tạ Cánh khấu đầu bái kiến, xin thế bá mở cửa nghe chuyện!"

Bên trong cửa rõ ràng có tiếng bước chân dồn dập vang lên, nhưng khe cửa chẳng hé ra chút nào, y chỉ có thể cầm lấy tay cầm đập mạnh vào cửa, cố làm cho giọng nói của mình lấn át cả tiếng mưa: "Cầu xin thế bá niệm tình nhiều năm làm bạn, chỉ cần nói một câu vì nhà họ Tạ thôi cũng được!"

Lại nghe thấy trong viện có người nói: "Bản thân bỉ phủ còn khó đảm bảo, mong Tạ đại nhân hãy đi nơi khác!"

Tạ Cánh quỳ lui hai bước, đứng dưới mái hiên run rẩy một lát rồi xoay người lảo đảo đi về phía nhà khác ở đối diện: "Vãn sinh Tạ Cánh khấu đầu bái kiến, nhà họ Tạ hàm oan khó chữa, kính mong mở cửa nghe chuyện!"

Lúc này, khóa đồng ở bên trong bỗng kêu hai tiếng "răng rắc".

Y chưa từ bỏ ý định, lại đến nhà sát vách: "Vãn sinh Tạ Cánh khấu đầu bái kiến, cha và anh tôi đã bị giam vào ngục, xin ngài giúp tôi được vào ngục gặp họ!"

Chỉ nghe thấy lời đáp lạnh lùng: "Tạ Dực và Tạ Duyễn phải phục pháp thôi, tội thần mưu nghịch, gặp thế nào mà gặp?"

Tạ Cánh tiếp tục chạy dọc con phố, dừng lại trước từng phủ đệ của những quan viên mà y biết, thậm chí chẳng quen mặt, hai gối liên tục nện xuống đất, kiên trì đập cửa từng nhà, gọi đến khàn cả giọng.

"Vãn sinh Tạ Cánh khấu đầu bái kiến, xin thế thúc rủ lòng thương, giúp cho tôi được gặp họ!"

"Vãn sinh Tạ Cánh khấu đầu bái kiến, Vũ Lâm Vệ tự tiện xông vào ngõ ô y, sát hại người thân vô tội của tôi, cầu xin tiên sinh nghĩ cách nói giúp nhà họ Tạ!"

"Vãn sinh Tạ Cánh khấu đầu bái kiến, cầu xin đại nhân vào cung giúp chuyển lời, cho phép tôi được yết kiến thánh thượng để trần tình oan khuất!"

"Vãn sinh Tạ Cánh khấu đầu bái kiến!"

...

Cuối cùng, đến cả một tiếng hồi đáp cũng chẳng còn. Tạ Cánh cố gắng lắng tai nghe, nhưng y chẳng nghe thấy gì nữa.

Có lẽ không ít người trong số bọn họ đã từng bị y đóng cửa từ chối, từng chịu đựng thái độ lạnh nhạt của y năm đó. Khi còn đắm chìm trong những ngày tháng huy hoàng, phóng túng và ngông cuồng của tuổi trẻ, vì ngu ngốc mà y đã gieo xuống biết bao nhiêu nhân quả, giờ đây phải nhận lấy kết cục kết cục này cũng là đáng đời y. Nhưng nếu trời cao muốn trừng phạt thì cứ trừng phạt một mình y là được rồi, cha mẹ, anh trai và chị dâu y đều là người đức hạnh, chẳng hề làm gì sai trái, vì sao họ lại phải gánh chịu sự tàn nhẫn của số mệnh thay cho y chứ?

Thầy bại thì tớ cụp đuôi, lẽ ra y nên sớm hiểu ra điều này. Một khi rơi từ mây xanh xuống bùn lầy, những kẻ gió chiều nào theo chiều ấy, giỏi nhất trong việc bo bo giữ mình đó dù từng mang ơn cha và anh y há sẽ dám liều lĩnh dấn thân vào hiểm nguy, lên tiếng vì Trần quận Tạ thị?

"Vãn sinh Tạ Cánh... khấu đầu bái kiến..."

Lời còn chưa dứt, khuỷu tay Tạ Cánh đã bị ai đó đỡ lấy, động tác quỳ lạy chỉ thực hiện được một nửa, y mờ mịt ngẩng đầu, qua màn mưa mông lung, phát hiện chẳng biết từ khi nào bản thân đã đến trước phủ Thái phó, Trương Diên đẩy cửa ra.

Y lau nước mưa đầm đìa trên mặt, gọi, "... Thầy."

Trương Diên rủ mắt nhìn y: "Vào phủ thay quần áo trước đi đã."

Nhưng Tạ Cánh chỉ liên tục dập đầu lên bậc thềm đá, dồn dập khẩn cầu: "Không, không cần đâu, xin thầy giúp con, giúp nhà họ Tạ, xin thầy giúp con được gặp cha và anh con một lần!"

Trương Diên dừng động tác của y lại, bất lực thở dài rồi quay lại dặn dò: "Gọi xe ngựa, đến chiếu ngục."

Hạ nhân phủ thái phó vô cùng chu đáo, đốt chậu than trong buồng xe, chuẩn bị cả quần áo mới, áo khoác chống lạnh và trà nóng, quần áo Tạ Cánh ướt sũng dính sát vào cơ thể, nhưng y chẳng mảy may bận tâm.

Trương Diên ngưng mày suy nghĩ hồi lâu mới hỏi: "Con đã đến ngõ Ô Y rồi sao?"

Tạ Cánh gật đầu, Trương Diên hiểu ngay rằng y đã biết kết cục của mẹ, chị dâu và cháu trai của mình. Tuy rằng sự việc chỉ mới diễn ra cách đây chưa đến một canh giờ, nhưng những biến động trong thành Kim Lăng luôn được truyền đi rất nhanh, e là thần tử đầu đường cuối phố đều đã nghe được họa nhà họ Tạ rồi.

Trương Diên lại hỏi: "Phế bỏ vị trí Vương phi của con, thật sự là ý của điện hạ sao?"

"... Không phải ạ." Tạ Cánh khẽ đáp, "Nhưng đây đã là chuyện mà hiện tại hắn có thể làm vì con rồi, đối với con đây là chuyện hữu dụng nhất, chỉ có triệt để phủi bỏ quan hệ, mới không làm liên lụy đến Thanh Nhi và Ninh Ninh."

Trương Diên muốn nói lại thôi, ông trầm ngâm một lúc rồi đè lên đầu vai Tạ Cánh: "Chi Vô, thầy biết con đau lòng, nhưng bây giờ không phải lúc. Con không được lung lay. Phủ Tướng và Vũ Lâm Vệ lấy việc công làm việc tư, giết hại phụ nữ và trẻ em, về tình về lý đều không thể chiếm thế thượng phong. Giờ con phải tìm mọi cách bảo vệ những người còn sống, nghĩ xem làm thế nào tận dụng triệt để giá trị của đan thư thiết khoán."

Tạ Cánh lặng người, tập trung nhìn vào đống than cháy đỏ một lúc lâu: "Trước khi con và điện hạ thành thân, thầy đã từng khuyên con suy nghĩ kĩ. Có lẽ ngay khi ấy, thầy đã lường trước sẽ có ngày hôm nay."

Trương Diên thở dài một hơi thật khẽ: "Hẳn là cha con cũng từng dặn dò, phải đề phòng tai họa diệt môn."

"Là con sai rồi sao?" Tạ Cánh khàn giọng hỏi, lại như tự lẩm bẩm, "Thầy ơi, là con hại bọn họ sao?"

Trương Diên nhìn y đầy cảm thông, im lặng một lúc lâu rồi bỗng nói một câu không đầu không đuôi: "Con vốn đã có cơ hội tránh được một kiếp rồi đấy thôi."

Chiếu ngục và cấm quân vốn không thuộc cùng một hệ thống, vậy mà Tạ Cánh vẫn trông thấy bóng dáng của Vũ Lâm Vệ canh giữ bên ngoài cổng lớn. Y theo Trương Diên bước xuống xe. Đám binh lính còn chưa kịp lên tiếng ngăn cản thì Trương Diên đã vung tay áo, giơ tay để lộ một vật - chính là chiếc nhẫn ban chỉ bằng sừng tê giác mà Hoàng đế vẫn mang bên mình suốt bao năm qua

Thứ này có hiệu lực chẳng khác nào thiên tử đích thân đến tận nơi. Đừng nói là ra vào chiếu ngục, đi thẳng vào cấm cung cũng không ai dám cản đường. Vũ Lâm Vệ chỉ nhận được lệnh để mắt nghiêm ngặt đến cha con Ngự sử đại phu, Vương tướng cũng không dặn dò gì thêm về việc cấm người khác vào thăm tù. Huống chi, hai tay thư sinh trói gà không chặt như Trương Thái phó và Chiêu Vương phi đây cũng không đủ khả năng cướp ngục, thế nên chúng đành để họ vào trong.

Tạ Cánh chỉ biết Trương Diên được Hoàng đế tín nhiệm, nhưng không ngờ đến cả nhẫn ban chỉ mà ông cũng có thể giữ, chẳng lẽ Hoàng đế cần làm việc gì không tiện đích thân ra mặt, muốn nhờ Trương Diên làm thay hay sao? Nhưng trong lòng y như có lửa đốt, chỉ muốn được gặp cha và anh trai ngay lập tức nên không kịp nghĩ nhiều, bèn vội vã chạy vào bên trong.

Tạ Dực và Tạ Duyễn dù chưa bị dùng hình, nhưng bởi vì cả hai người đều kiên quyết không thừa nhận ngọc tỷ Lam Điền có liên quan đến Tạ Cánh, nhận toàn bộ tội về mình, vậy nên đều bị giam ở buồng giam trọng phạm nằm sâu nhất trong chiếu ngục.

Trương Diên không theo cùng, chỉ dặn dò: "Nghe lời cha và anh con nói, nhớ không được hành động theo cảm tính."

Đêm qua, bên ngoài nhà lao long trời lở đất, hai người trong lao cũng tiều tụy cả đêm, như thể đã già đi mười tuổi, khi Tạ Cánh tìm đến, cha y vẫn ngồi xếp bằng đối diện với vách tường gạch, mặt không đổi sắc, nhưng ánh mắt dưới ngọn đèn yếu ớt đã trở nên vẩn đục.

Y chỉ có thể im lặng, nhẹ nhàng quỳ gối bên ngoài song sắt.

Tạ Duyễn phát hiện ra sự có mặt của Tạ Cánh ở đây trước, anh lao tới bắt lấy cổ tay y, dường như vẫn chưa nhận ra điều gì, cẩn thận dò xét một lượt, thấy y vẫn bình an, anh vội hỏi: "Trong nhà thế nào rồi? Mẹ và bọn họ đã bị đưa đi rồi à? Chị dâu em và Tuấn Nhi thì sao?"

Tạ Cánh hé miệng rồi khép lại, y hoàn toàn không thể nói ra nỗi thảm khốc mà ngõ Ô Y đã phải gánh chịu. Thực tế, mãi đến khi nghe Tạ Duyễn đặt câu hỏi, y mới chậm chạp nhận ra bản thân vừa rơi vào nỗi đau đớn tột cùng vì đã mất đi ba người thân yêu nhất. Y bàng hoàng nhận ra mẹ y, chị dâu và cháu trai của y không phải đang trở về quê hay đi xa nữa, họ đã chết rồi.

Nhanh như vậy, đơn giản như vậy, bọn họ đã âm dương cách biệt với y, từ nay về sau không còn cơ hội gặp lại nữa.

Tạ Duyễn không nhận được câu trả lời. vô thức lắc tay y: "... Chi Vô, em nói gì đi chứ!"

Tạ Cánh dần phát run mất kiểm soát theo từng cú lay của anh trai, sắc mặt y trắng bệch, trán đẫm mồ hôi lạnh, hai cánh môi tím tái, răng va vào nhau lập cập, cả người cứ thế run lên bần bật.

Tạ Duyễn sững người giây lát, rồi đột nhiên buông tay, lùi lại nửa bước, đứng yên bất động, không thốt nổi thêm lời nào.

Giữa sự im lặng kéo dài tưởng như vô tận, Tạ Cánh chậm rãi thốt ra từng chữ, giọng run rẩy: "Đã qua biết bao triều đại, kết hôn cùng thiên gia, chẳng có dòng tộc nào không bị diệt môn, đó chỉ là chuyện sớm muộn."

Tạ Dực vẫn luôn ngồi lặng lẽ trong góc phòng, từ đầu đến cuối chẳng hề lên tiếng, nghe được lời ấy, cuối cùng cũng chậm rãi mở miệng: "Trước khi con gả vào phủ Chiêu Vương, cha đã từng bàn bạc với mẹ con, rằng nếu một ngày nào đó gặp họa diệt môn, chúng ta nên đối phó thế nào."

Ông nâng bàn tay già nua đầy nếp nhăn lên, không biết muốn vẽ ra hình bóng ai đó trong không trung: "Cha nói, nếu muốn giữ gìn thanh danh cho Trần quận Tạ thị thì không tránh khỏi việc phải có người hy sinh. Nhưng bà ấy lại nói, danh tiết chỉ là chuyện nhỏ, nếu có thể giữ được tính mạng cả nhà thì dù mang tiếng xấu cả đời cũng có làm sao?"

"Không ngờ đến tận hôm nay," Tạ Dực quay đầu nhìn lại, nước mắt đã tuôn đầy mặt, "Cha muốn giữ mạng cho bà ấy, bà ấy lại muốn giữ lấy thanh danh cho cha."

"Ta luôn kính trọng Tạ đại nhân giữ mình thanh liêm, lòng dạ chân thành." Giọng nói của Vương Thục vang lên từ trong bóng tối. Đến lúc này, Tạ Cánh mới nhận ra không biết từ bao giờ đối phương đã lặng lẽ đứng sau lưng y.

"Rời khỏi quan trường, ta và Tạ đại nhân vốn chẳng có hiềm khích gì. Lang Gia Vương thị và Trần quận Tạ thị từ thời Tấn đã là láng giềng ở ngõ Ô Y, giao tình thông gia kéo dài đến nay. Đời này, nếu không vì chuyện tranh đoạt trữ vị, ta và ông vốn dĩ không nên đối đầu như nước với lửa thế này."

"Uy lực của đan thư thiết khoán, tại hạ vô cùng tâm phục; vinh quang mà công trạng của tam công mang lại, ta cũng rất ngưỡng mộ. Tạ đại nhân và hai vị công tử cốt nhục tình thâm, ta cũng là người làm cha, trong lòng không khỏi đồng cảm. Tự nhiên không đành lòng đuổi tận giết tuyệt, gây khó dễ cho quý phủ."

"Chỉ là hoàng mệnh có phạm, bệ hạ nảy lòng nghi ngờ sẽ ra tay với nhà họ Tạ, phủ Tướng bị kẹp giữa cũng khó xử." Vương Thục giữ nguyên thái độ khách sáo, treo nụ cười trên môi, "Không bằng chúng ta chọn một cách chiết trung, đan thư thiết khoán có thể miễn tội chết cho một người mang huyết mạch nhà họ Tạ - còn người đó là ai, ba vị tự mình quyết định đi, thế nào?"

Tạ Cánh sững sờ. Chợt nhớ lại lời của Vương Khế, rằng "Hãy chờ xem đan thư thiết khoán sẽ được sử dụng như thế nào", giờ y mới tỉnh ngộ, thì ra ngay từ đầu, tính toán của phủ Tướng chính là muốn trong ba người còn sống sót của nhà họ Tạ bọn họ, chỉ có một người tránh được kiếp nạn này.

Thấy cha con Tạ Dực đều im lặng, Vương Thục chỉ lắc đầu: "Muốn ai sống thì người đó được sống, thế chẳng phải đã nhân từ hết mức rồi hay sao?"

Lão tiếc nuối nói: "À, không phải ba vị muốn nhường đan thư thiết khoán này cho các vị phu nhân, hay là tiểu công tử đấy chú? Tiếc quá, là do bọn họ không muốn đến nơi này mà, tại hạ cũng hết cách rồi."

Tạ Cánh lập tức bùng nổ, lao lên túm chặt cổ áo Vương Thục: "Hơn trăm mạng người nhà họ Tạ đè trên vai phủ Tướng các người, Vương tướng cẩn thận kẻo nửa đêm nằm ngủ chẳng yên, bị oan hồn tìm đến đòi mạng đấy!"

Vương Thục giống như nghe được chuyện gì nực cười lắm: "Kẻ ban cho kim bài miễn tử kia là người chết, còn người quyết định 'cái chết' có thể miễn hay không lại là người sống. Lại nói, người chết dù có lập bao nhiêu công trạng hiển hách đi nữa, cũng chẳng thể ngăn được chuyện người sống muốn làm." Nói đến đây, nụ cười trên môi lão đã tắt hẳn, chỉ còn lại vẻ lạnh lùng châm chọc lộ ra không chút che giấu: "Trăm mạng người đó không phải đè trên vai phủ Tướng đâu, mà sẽ đè lên vai ngươi đấy, Vương phi à."

Tạ Cánh cứng đờ, lồng ngực đau nhói như bị kim châm, Vương Thục đẩy y ra, phủi phẳng vết nhăn trên cổ áo, hờ hững nói: "Thánh thượng còn thiếu kiên nhẫn hơn ta nhiều, ba vị nên nhanh chóng quyết định đi."

Ngoài hành lang có gió thổi tới, ngọn đèn dầu trên vách tường chập chờn lay động, cuối cùng lắc lư một hồi rồi tắt ngấm, bóng tối lập tức nuốt trọn cả nhà lao. Xa xa có giọt nước lạnh lẽo tí tách rơi trên nền đá, không biết đã lạnh lùng rơi như thế bao nhiêu năm tháng rồi.

Tạ Cánh nghe thấy sau lưng lại có tiếng bước chân, người đến dường như mang theo ánh lửa, bởi vì y nhìn thấy gương mặt cha và anh trai lần nữa được ánh sáng chiếu rọi, mà cả hai chỉ im lặng nhìn y.

Đó chính là đáp án của họ.

Đối với Tạ Dực và Tạ Duyễn mà nói, hai chữ "lựa chọn" vốn chẳng hề tồn tại - dù là viên sủi cảo bọc đồng xu nho nhỏ trên bàn cơm tất niên, hay là cơ hội trốn thoát, với bọn họ, Tạ Cánh chưa bao giờ là một sự lựa chọn, mà là đáp án duy nhất.

Tạ Cánh lui lại hai bước, quả quyết nói: "Không..."

Tạ Duyễn chỉ nở nụ cười khổ sở: "Em phải sống."

"Không!" Tạ Cánh không chấp nhận nổi, liều mạng lắc đầu, "Không muốn! Em không muốn! Xin đừng nhường lại cho em... Đừng để em lại một mình, chẳng bằng để em chết đi!"

Vương Thục đứng một bên, mỉm cười nói: "Chư vị chắc là hồ đồ rồi, sao lại nói lung tung thế này? Ai bảo chờ đợi nhà họ Tạ nhất định là tội chết? Cớ gì Vương phi lại lo lắng đến chuyện 'sống sót một mình' như vậy? Thánh chỉ còn chưa ban xuống, đừng vội vàng chụp cho phủ Tướng tội tày trời này chứ!"

Tạ Duyễn không nhìn lão ta lấy một cái, mà vẫn chuyên chú nhìn em trai: "Ông ta nói đúng, nhớ cho kĩ, em chẳng có hận thù gì cả, cũng không có kẻ thù nào chờ em báo thù, em chỉ cần sống cho tốt, sống lâu trăm tuổi là được."

Tạ Cánh gần như vừa bò vừa lăn đến bên cửa nhà lao, vươn tay muốn chạm vào người cha y: "Cha, cha cho con được chết đi, cho con đi phụng dưỡng mẹ con đi!"

Nhưng Tạ Dực chỉ bình tĩnh nói: "... Đứa nhỏ này, con nào phải sống một mình đâu chứ?"

"Cha và anh con ngoại trừ con ra, đời này đã chẳng còn ai để nhớ mong rồi. Nhưng con vẫn còn có Thanh Nhi và Ninh Ninh mà. Nếu như không có con, chúng phải sống làm sao bây giờ?"

Trong khoảnh khắc trước mắt Tạ Cánh trở nên mơ hồ.

Y đã mất đi mẹ của mình rồi. Chẳng lẽ các con của y cũng phải đi vào bước đường này, mất đi mẹ của chúng hay sao?

Tạ Dực nhìn y cười từ ái: "Bọn cha đi trước, xuống dưới đoàn viên, chờ đến trăm năm con nhắm mắt xuôi tay, cũng có người đến đón... Lúc còn nhỏ, trên đường đến Kim Lăng ăn Tết, con cũng bị lạc đường rồi ngồi khóc to trước cửa nhà đấy, có nhớ không?"

Tạ Cánh điên cuồng lắc song sắt, xiềng xích phát ra âm thanh chói tai, nhưng Tạ Dực vẫn ngồi thẳng lưng ở chỗ cũ, chẳng hề nhúc nhích.

"Xem ra là chọn xong rồi nhỉ?" Vương Thục vỗ tay, nhìn sang người đến sau, "Vậy điện hạ..."

Người thứ năm có mặt lên tiếng: "Bệ hạ nghe nói Tạ Chi Vô tự tiện xông vào chiếu ngục, ra lệnh ta đến cho lui người không có phận sự, để Vương tướng thuận tiện tra án."

Tạ Cánh hoảng sợ quay đầu, nhìn thấy người đang được ánh đèn bao phủ, chính là Lục Lệnh Tùng.

Đèn dầu chiếu sáng mặt hắn đến rõ ràng, Tạ Duyễn ở trong lao nhìn thấy, lúc này mới biến sắc, chửi ầm lên: "Điện hạ còn có mặt mũi đến đây sao? Những năm qua ngài nhẫn nhục chịu đựng, diễn cũng vất vả quá rồi!"

Lục Lệnh Tùng thờ ơ phì cười: "Sao ta lại không có mặt mũi được chứ? Mười năm qua phủ Chiêu Vương chưa từng bạc đãi y dù chỉ một ngày. Con y sinh ra là thế tử, quận chúa tôn quý đứng trên vạn người, ăn mặc dùng toàn kỳ trân dị bảo, ta có từng nợ y thứ gì chăng?"

Tạ Duyện xùy một tiếng: "Nếu chỉ vì hưởng vinh hoa phú quý, thằng bé cần gì phải khổ sở gả cho ngài? Nó chịu bao nhiêu uất ức, nếm trải bao nhiêu khổ cực, tiền đồ đứt đoạn, đến giờ lại mất đi gia đình! Nó chưa từng phạm phải tội thất xuất, một lòng si mê yêu thương ngài. Điện hạ à, giờ ngài phụ lòng nó, phản bội nó, bỏ rơi nó! Trần quận Tạ thị đã nợ ngài điều gì sao? Mẹ già ngoài sáu mươi của ta lại có tội tình gì? Vợ con chết oan của ta có thù hận gì với ngài kia chứ?!"

Lục Lệnh Tùng nghe đến cuối cùng, sắc mặt thoáng cứng lại, nhưng hắn đã nhanh chóng che giấu đi nét thất thần đó, lạnh lùng nói: "Tạ đại nhân muốn đổ hết tội lỗi lên đầu ta, vậy thì tùy ngài thôi, ngài cứ việc trút giận, nhưng ta nói rõ cho ngài biết, nhà họ Tạ sa sút đến nước này, đều là do Tạ Chi Vô y gieo gió gặt bão, chẳng thể trách ai được!"

Vương Thục thích thú đứng nhìn hồi lâu, lúc này mới nói: "Điện hạ, không còn sớm nữa, cần gì phải dây dưa?"

Lục Lệnh Tùng không nhiều lời nữa, chỉ đưa tay luồn qua xương sườn Tạ Cánh, xốc y từ dưới đất lên lôi thẳng ra ngoài. Tạ Cánh vùng vẫy dữ dội, cố sức quay đầu lại nhìn cha và anh lần cuối nhưng cổ đã bị giữ chặt, trong tầm mắt chỉ còn thấy Vương Thục đứng cuối hành lang, gương mặt ẩn nấp trong bóng tối.

Vì Vương Thục dẫn Vũ Lâm Vệ vào đóng giữ nên đám sai dịch của chiếu ngục đã tạm thời bị đuổi đi. Quãng đường ngắn tới công đường chưa đến hai mươi bước tĩnh mịch không người canh giữ, chẳng ai nhìn rõ bọn họ, cũng không ai biết họ đang nói gì.

Phần gáy của Tạ Cánh bị Lục Lệnh Tùng dùng tay giữ lấy, cảm giác như bị chia thành hai thế giới - lòng bàn tay nóng ấm rịn đầy mồ hôi, và miếng ngọc trắng lạnh buốt đến thấu tim.

Là miếng ngọc mà y đã kín đáo trao cho Lục Lệnh Lùng vào đêm trước khi rời khỏi Vương phủ.

Lục Lệnh Tùng không chút lưu tình kéo Tạ Cánh đi về phía trước, đưa y đi càng lúc càng xa cha và anh mình. Một tay hắn siết chặt miếng ngọc lạnh buốt, tay còn lại khóa chặt lấy gáy y, kề sát bên tai, giọng điệu dồn dập nhưng vô cùng khẽ khàng: "Em nói gì, bảo bối, em muốn nói gì?"

Tạ Cánh đã không còn sức cất giọng, Lục Lệnh Tùng đành phải nhìn khẩu hình của y, chỉ thấy Tạ Cánh bấu chặt lấy đầu vai hắn, tuyệt vọng lẩm bẩm: "... Đừng bỏ em lại một mình."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 102


《 24.4 》

Bên ngoài chiếu ngục đã chẳng còn thấy bóng dáng Trương Thái phó đâu, chỉ có chiếc xe ngựa đưa Lục Lệnh Tùng vào cung là đang dừng ở đó, cùng với Y Vân theo tới từ thành Đông.

Nhìn thấy hai chủ nhân thân quen nhất xuất hiện trước cửa, nó hưng phấn giậm nhẹ bốn vó, nhưng bất thình lình thấy Lục Lệnh Tùng thả lỏng tay, Tạ Cánh mất đi điểm tựa ngã xuống bậc thang, Y Vân bèn thở phì phò mấy tiếng, vừa sợ vừa nghi nhìn hết người này đến người kia.

Vũ Lâm Vệ đứng hai bên đều nắm chặt binh khí, nhìn không chớp mắt, như thể Tạ Cánh vốn không tồn tại, Lục Lệnh Tùng cũng không liếc nhìn y thêm lần nào nữa, chi bước thẳng lên xe ngựa rời đi.

Tạ Cánh nằm thẳng xuống mặt đất ẩm ướt không nhúc nhích, đêm qua y chỉ ngủ hơn một canh giờ, sau đó cảm xúc dao động quá độ, trải qua sinh ly tử biệt, dù là thể xác hay tinh thần cũng đều đã đến giới hạn.

Y Vân cúi sát xuống người y, giấu phần đầu của Tạ Cánh bên dưới cổ mình như đang che mưa cho y.

"Phiền ngươi một chuyến cuối cùng thôi, đưa ta vào cung đi," Không biết đã qua bao lâu, Tạ Cánh mới khàn giọng nói, "Rồi ngươi quay về Vương phủ, ăn một bữa no nê, sau đó ngủ một giấc cho thỏa nhé."

Y Vân nửa hiểu nửa không, chờ Tạ Cánh lên ngựa ngồi ngay ngắn, nó bèn tung vó chạy thẳng một đường đưa y đến cung Thái Sơ. Thị vệ bên ngoài cung ngăn y lại, Tạ Cánh chỉ bình tĩnh nói: "Bệ hạ thứ cho ta vô tội, các ngươi không biết sao? Dù ta không còn là Chiêu Vương phi, nhưng vẫn còn chức vụ ở Lễ bộ, vẫn là mệnh quan triều đình, các ngươi thật sự muốn cản ta sao?"

Thị vệ đành lục soát người y theo lệ của triều thần, sau đó thả cho y vào. Tạ Cánh bước đi yếu ớt, giống như một du hồn không chốn nương tựa men theo quan đạo đi đến Công Xa môn, ngước mắt lên nhìn bảng chữ triện sơn vàng bên trên, sau đó quỳ thẳng người, dập đầu xuống đất.

Khi Lục Lệnh Tùng trở về Vương phủ, biến cố của ngõ Ô Y đã truyền khắp hai bờ sông Tần Hoài, trạch viện ngày nào cũng vang lên tiếng cười nói đùa vui không ngớt, giờ chỉ còn lại bầu không khí yên tĩnh và nghiêm trọng khác thường.

Lục Thư Thanh đứng chờ ở cửa chính, thấy hắn về bèn vội vàng chạy đến nhào vào lòng cha. Lục Lệnh Tùng ôm lấy cậu bước nhanh vào trong: "Ngoan nào, vào nhà rồi nói."

Vào nhà, hắn quay lại dặn dò tiểu tư: "Khóa cửa lớn, từ hôm nay Vương phủ từ chối tiếp khách, ai đến cũng không gặp."

Lục Thư Thanh ôm một bụng lo lắng, cậu chưa bao giờ thấy dáng vẻ nghiêm túc như vậy của cha mình, nhanh chóng bị dọa sợ đỏ mắt. Lục Lệnh Tùng cúi đầu trông thấy vậy, cảm xúc trong lòng bỗng dưng hỗn loạn, vươn một tay ra ôm cậu vào lòng: "Thanh Nhi..."

"Mẹ đi đâu rồi ạ? Nhà ngoại đã xảy ra chuyện gì? Vì sao đêm qua phòng ngủ của Ninh Ninh lại bị cháy ạ?"

Lục Lệnh Tùng đờ đẫn đối mặt với hàng loạt ngờ vực của con trai, căn bản chẳng biết bắt đầu từ đâu. Trên đường về nhà hắn phải cho người thám thính, mới biết được những câu chất vấn của Tạ Duyễn chẳng phải khi không mà có, Tạ phu nhân và mẹ con Diêu thị thật sự đã chết ở ngõ Ô Y vào đêm qua, chết dưới đao kiếm của nhà họ Vương và Vũ Lâm Vệ.

Hiển nhiên là vì Tạ Cánh chưa nói chuyện bọn họ chỉ giả vờ đoạn tuyệt cho cha và anh biết. Tạ Duyễn là người thẳng tính, tinh thần và tâm trạng rối ren đến cùng cực nên mới oán hận hắn, âu cũng là chuyện bình thường; nhưng không biết người tâm tư kín đáo lão lạt như Tạ Dực có nhìn thấu kế này hay không.

Dù sao đi nữa, Lục Lệnh Tùng cũng không so đo việc cha anh của Tạ Cánh gán tiếng xấu cho mình. Điều khiến hắn bó tay chịu trói, đó là hắn không biết cách giải thích chuyện này cho bọn trẻ. Hẳn phải nói cho Lục Thư Thanh như thế nào, để cậu biết rằng cha đã phế truất vợ của mình, vứt bỏ mẹ của con, nếu phải nói một cách chính xác, thì giờ đây y đã không còn được coi là mẹ của con nữa.

Hắn phải nói với Lục Thư Thanh như thế nào, rằng mẹ con và nhà ngoại đã bị mưu hại, gặp phải tai họa ngập đầu, rằng bà ngoại, mợ và anh họ của con, những người thân yêu nhất của con đã trở thành oan hồn nơi suối vàng, mà kẻ thao túng tất thảy, rất có thể chính là tổ phụ của con - người đã ban cho con những đặc ân khác biệt.

Đoạn tuyệt và phụ lòng, giết chóc và cái chết, hắn phải giải thích tất cả những chuyện này thế nào cho đứa con trai hãy còn trẻ dại, luôn được nâng niu cưng chiều và chẳng rành thế sự của hắn đây?

Hồi lâu không nhận được câu trả lời, Lục Thư Thanh lo lắng gọi: "Cha ơi!"

"Thanh Nhi à," Lục Lệnh Tùng hoàn hồn, nói: "Nếu như mẹ con không về được thì phải làm sao bây giờ?"

Lục Thư Thanh rõ ràng thoáng sững người, sau đó vòng tay qua gáy của cha cậu ôm chặt gáy hắn, không nói gì nữa.

Hai người đi vào sảnh chính, gặp được cậu của Lục Lệnh Tùng là Ngô Khâm, Lý Kỳ và Tiêu Dao cũng đang ở đây, bác Chu và Ngân Trù thì đứng một bên. Nhưng người lớn dù không rõ chi tiết vụ thảm án lắm, nhưng đều ăn ý để tâm đến Lục Thư Thanh còn ngây thơ, không ai hỏi thẳng ra.

"Ninh Ninh đâu?" Lục Lệnh Tùng hỏi.

"Đêm qua quận chúa sợ hãi, giày vò suốt nửa đêm," Bác Chu đáp, "Giờ này vẫn còn đang ngủ."

Tiêu Dao tiếp lời: "Yên tâm đi, có người của Tuyên Thất trông coi nhà sau, ở Vương phủ sẽ an toàn tuyệt đối."

Lục Lệnh Tùng thở phào một hơi, vuốt giữa đầu mày: "Ta mới từ chiếu ngục về, chỉ không phải lo lắng về tính mạng, nhưng sợ là sau khi kết án sẽ khó mà ở lại kinh thành."

Ngô Khâm trấn an: "Nhà mình trong và ngoài kinh, ở tất cả các huyện đều có thôn trang, thu xếp cho Vương phi một nơi ở gần đây đều không phải vấn đề, cố tránh tai mắt chừng nửa năm, chờ cho tình hình dịu lại, thường xuyên gặp mặt chẳng phải cũng dễ dàng sao?"

Lý Kỳ cũng nói: "Huống chi bệ hạ cũng sắp... Đan thư thiết khoán đã giúp Vương phi thoát tội, phủ Tướng cũng không thể truy cứu thêm nữa, chờ cho vị ở điện Thần Long kia nguôi giận thì lại đưa Vương phi trở về, ai còn có thể ngăn được nữa?"

Thế nhưng Tiêu Dao lại lắc đầu: "Không đơn giản như vậy đâu. Bệ hạ mượn tay phủ Tướng để quét sạch nhà họ Tạ không chỉ vì kẻ sắp chết chẳng đáng bận tâm, mà còn bởi vì không muốn tự làm bẩn tay áo. Lòng kiêng dè phủ Tướng của ngài ấy so với nhà họ Tạ chỉ hơn chứ không ít, sao có thể dễ dàng chắp tay hào phóng giao cơ hội tốt để phủ Tướng bênh che bè cánh, một nhà độc đại được? Chắc hẳn là còn giấu hậu chiêu."

Nàng mím môi, quan sát thần sắc của Lục Lệnh Tùng một phen, rồi lại để mắt đến Lục Thư Thanh, thử dò hỏi: "Trước mắt, ý định của điện hạ thế nào?"

Lý Kỳ nhân lúc này nhắc nhở: "Ba nghìn quân Hổ Sư đã đang chờ ở ngoài thành rồi."

Ngô Khâm nghe vậy, cau mày nhìn Lục Lệnh Tùng, nói một câu đầy hàm ý: "Điện hạ chớ quên, Quý phi và Trưởng công chúa vẫn đang ở trong cung, một khi phủ Tướng và Hoàng hậu chất vấn, chỉ sợ họ sẽ trở thành mục tiêu chịu thiệt trước nhất."

Lục Lệnh Tùng im lặng hồi lâu mới lên tiếng: "Vũ Lâm Vệ nay đã bị phủ Tướng khống chế trong tay, quân kinh kỳ tuy quân số áp đảo, nhưng thủ lĩnh chỉ thích làm theo ý mình, vài châu phủ lân cận kinh đô lại nghe theo mệnh lệnh của thiên tử, nếu như phụ hoàng đốt lửa hiệu, rất có khả năng bọn họ sẽ xuất binh tiếp viện. Trước sau có địch, thập diện mai phục, chỉ bằng quy mô của Hổ Sư hiện tại cùng với binh lực trong ngoài kinh có thể lập tức điều động để chống đỡ thì vẫn chẳng khác nào lấy trứng chọi đá."

"Hoài Bắc đã có lưu dân làm loạn mấy ngày liền, bởi vì phụ hoàng bệnh nặng, Thượng Thư đài vẫn cứ dây dưa không triển khai, tạm gác đối sách, cũng không phái binh dẹp loạn. Nếu có thể tìm lối tắt, trước tiên ta sẽ mượn cớ bình định, danh chính ngôn thuận mở rộng Hổ Sư, lập cờ hiệu, tùy thời mà giải quyết nguồn cung binh lính, quân phí, lương thảo, đợi thêm một thời gian, ta chắc chắn có thể khiến cho trong kinh kiêng dè, không dám làm bậy."

Lời nói xoay chuyển, hắn do dự nói: "Nhưng mà..."

Ngô Khâm đã sớm nghĩ đến chuyện kia, vừa rồi cũng đã lên tiếng chỉ điểm. Tiêu Dao và Lý Kỳ không góp ý thêm, trong lòng đều rõ ràng, bước cờ "lý trí" này có thể mang đến hậu quả gì.

Lục Lệnh Tùng thở dài, nhìn Lục Thư Thanh: "Nếu là mẹ con, em ấy sẽ lựa chọn thế nào đây?"

Hắn xuyên qua đôi mắt kia để nhìn một người khác, hỏi từ tận đáy lòng, Chi Vô, em sẽ lựa chọn thế nào?

Em có chọn dẫn đội quân riêng chẳng có thành tựu gì đánh thẳng vào kinh thành, thẳng thừng cắt đứt quan hệ với con cái, mẹ và em gái cùng tất thảy quan hệ thông gia, phe cánh, lấy cái giá gần như không có khả năng thành công, đổi lấy hai người thân duy nhất còn sống của nhà vợ hay không? Con đường sống của vợ em là do cha và anh của y đánh đổi mạng mình để có được, liệu em có đem tia hy vọng mong manh ấy để đặt cược cho một ván cờ không hồi kết, mạo hiểm đến mức có thể đánh mất y mãi mãi hay không?

Lúc trước, mong muốn ban đầu của phủ Chiêu Vương khi nuôi dưỡng Hổ Sư chính là để phòng ngừa tai họa trời giáng mà không có sức đánh trả, nhưng đến giờ phút này, sự thật tàn khốc vẫn giáng xuống như một đòn cảnh cáo, mang đến bài học đầm đìa máu thịt khiến họ phải hối hận suốt đời - thời gian không đủ, tầm nhìn không xa, bọn họ ngu trung, ngu thiện, lại ngây thơ xem hoàng quyền như trò đùa!

Giá như họ sớm bắt tay xây dựng Hổ Sư, giá như những năm tháng ấy họ bớt ảo tưởng và tô vẽ thái bình, bớt say sưa đắm chìm trong giấc mộng phong hoa tuyết nguyệt một chút, thì người rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan hôm nay có lẽ đã không phải là họ.

Lục Thư Thanh cảm thấy khó hiểu trước câu hỏi bất chợt của Lục Lệnh Tùng, cũng chưa đủ sức phỏng đoán mối nguy mà Trần quận Tạ thị gặp phải qua cuộc đối thoại của các vị trưởng bối. Nhưng cậu có thể hiểu được thần sắc của Lục Lệnh Tùng, người cha vẫn luôn trầm ổn, anh dũng và thuần thục của cậu, lúc này thật sự không thể nhìn thấy con đường phía trước.

Cậu chỉ có thể đáp vẻn vẹn một câu: "Cha, con không biết nữa."

"Cha cũng không biết. Nhưng chỉ là cha không chịu nổi việc cứ phải ngồi chờ đợi như thế này nữa." Lục Lệnh Tùng nhẹ nhàng vỗ lên lưng Lục Thư Thanh, cậu lập tức ngoan ngoãn trượt xuống khỏi đầu gối hắn.

"Muộn nhất là đêm nay, ta phải nghĩ cách vào ngõ Ô Y..." Hắn đứng dậy, quay mặt về phía mọi người, khó khăn nói ra hai chữ cuối cùng: "Tẩm liệm."

Mưa đông lạnh thấu tận xương, là cơn mưa xối xả hiếm có nhiều năm nay ở Kim Lăng, người người đều coi đây là điềm gở. Tạ Cánh sợ mưa lạnh mùa đông còn hơn cả cái nóng gay gắt mùa hè, nhưng cái lạnh đến cứng đờ trên thân thể y lại chẳng thể nào chống đỡ nổi sự rét buốt từ tận đáy lòng.

Y chỉ biết trời tối rồi lại sáng, sáng rồi lại tối, trong cấm đình ngoài Công Xa môn, các nội giám cung nữ, lính Vũ Lâm Vệ tuần tra xếp hàng đi qua liên tục đều chỉ để lại cho y một ánh nhìn đầy sợ hãi; thỉnh thoảng có triều thần được triệu vào cung cũng chỉ đứng nhìn từ xa, không dám dừng lại nói với y dù chỉ một câu.

Trong lúc đó, y thậm chí còn nhìn thấy Lục Thư Ninh một lần.

Ngô thị ôm em rời khỏi điện Thần Long, vì mưa quá lớn, họ đành phải tạm trú dưới mái hiên. Đương nhiên Lục Thư Ninh đã lập tức nhận ra người đang quỳ gối ở cách đó không xa chính là mẹ của em. Đã hơn một ngày đêm em không được gặp mẹ, không được mẹ hôn và ôm vào lòng.

Nhưng vì sao mẹ trông chẳng giống như ngày thường chút nào? Vì sao vầng trán trắng trẻo như tuyết của mẹ lại dính đầy máu và vết bẩn?

Lục Thư Ninh không hiểu mà vẫn muốn nhìn cho kĩ, em bất an giãy giụa trong ngực tổ mẫu, nhưng Ngô thị đã chợt giơ tay lên, nhẹ nhàng che đi mắt em.

Vậy nên Tạ Cánh vốn chưa kịp chạm mắt với Lục Thư Ninh, chỉ trông thấy chiếc áo choàng màu xanh lá mạ của em, sửng sốt trong một cái chớp mắt rồi lại vô cảm cúi đầu xuống. Y đã hoàn toàn đánh mất khái niệm thời gian, máu chảy dọc theo lông mày và lông mi của y, nhỏ xuống, đọng lại thành một vũng nhỏ dưới nền đá trước mặt.

Cho đến chạng vạng ngày thứ ba, khi kẻng báo tang sầu não vang lên tứ phía, tất cả mọi chuyện mới được tuyên bố chấm dứt.

Tháng Chạp năm Trinh Hữu thứ mười bảy, Hoàng đế không thể gắng gượng với bệnh tật được nữa, trước khi lâm chung, bên cạnh ông chỉ có nội giám Chung Triệu và Thái phó Trương Diên.

Khi rời khỏi điện Thần Long, Trương Thái phó còn mang theo di chiếu của thiên tử, chiếu truyền ngôi vua cho đích tử Lục Lệnh Chương. Đối với Trần quận Tạ thị vì tội danh tư tàng quốc tỷ - phế Chiêu vương phi Tạ Cánh có công sinh hạ thế tử, lại nhờ ơn che chở của đan thư thiết khoán nên được miễn tội chết, những người còn lại trong tộc tùy theo mức độ thân sơ mà luận tội.

Còn kẻ chủ mưu Tạ Dực cùng gia quyến sẽ lập tức áp giải đến dưới cầu Chu Tước, do Chiêu Vương thân làm giám quan, "trảm lập quyết".

Bách quan đều mặc quần áo trắng, tề tựu dưới Công Xa môn, chỉ chừa lại một khoảng trống ở giữa, dành cho "phế Chiêu Vương phi" - kẻ may mắn thoát chết mang dáng vẻ nhếch nhác chật vật.

Chung Triệu kéo dài giọng đọc di chiếu. Lục Lệnh Tùng đứng đầu hàng ngũ, tiếp chỉ rồi quay người sải bước ra khỏi cửa cung, vừa vặn đi ngang qua Tạ Cánh.

Tay trái hắn cầm thánh chỉ, tay phải đặt trên chuôi kiếm. Lướt qua bên người Tạ Cánh chẳng qua chỉ là thoáng chốc, nhưng bỗng nhiên y lại bật thẳng người dậy, bất ngờ nắm chặt lấy mũi kiếm liều mạng kéo ngược về phía mình.

Trong nháy mắt Lục Lệnh Tùng gần như tưởng y muốn cướp kiếm tự vẫn, theo bản năng ghìm chặt vỏ kiếm, không để cho y toại nguyện.

Mắt mày Tạ Cánh bị lớp máu hòa cùng bùn đất và mưa lạnh che phủ, khoảng cách giữa y và Lục Lệnh Tùng chỉ gần trong gang tấc. Thế nhưng màn mưa dày đặc kia tựa như bức bình phong kiên cố nhất, khiến người trước mặt như cách xa đến tận chân trời góc bể.

"Buông tay," Lục Lệnh Tùng nhìn thẳng không chớp mắt, "Hay là ngươi muốn mượn thanh kiếm này để chết?"

Chỉ một khắc sau, hắn nghe thấy Tạ Cánh nhỏ giọng gọi: "Điện hạ."

Giọng nói của y hòa lẫn với tiếng mưa rơi, suýt nữa đã không lọt vào tai Lục Lệnh Tùng. Tim hắn bỗng chốc thắt lại, giống như có một bàn tay thò vào lồng ngực hắn hung hăng khuấy đảo, khó lòng kìm được mà quay đầu nhìn đối phương.

Đó là gương mặt mà dù ở trong mơ hắn cũng có thể vẽ ra được từng đường nét, hắn đã từng nâng niu gương mặt ấy đến nỗi không nỡ để nó dính một hạt bụi, một vết bẩn, nhưng thứ tình cảm thân thuộc, sâu nặng ấy giờ đây chỉ còn đủ để giúp hắn phân biệt được đâu là nước mưa, đâu là nước mắt mà thôi.

Lục Lệnh Tùng bỗng nhận ra... Hắn chưa bao giờ thấy Tạ Cánh "khóc".

Cử chỉ ngạo mạn nhã nhặn ngày xưa đều đã chẳng còn, Tạ Cánh giờ đây chỉ còn biết liều mạng nắm chặt lấy thanh kiếm bên hông Lục Lệnh Tùng, giống như bấu víu vào cọng rơm cứu mạng cuối cùng, mê man khẩn cầu: "Cầu xin điện hạ niệm tình mười năm vợ chồng, niệm tình em vì anh sinh con dưỡng cái, hầu hạ tận tâm, xin hãy cứu lấy nhà họ Tạ, cứu lấy cha và anh của em. Em nguyện lấy mạng mình để báo đáp, chỉ xin điện hạ giữ lại mạng sống cho họ!"

Lục Lệnh Tùng hơi nghiêng người, chậm rãi đưa tay phải nâng khuôn mặt của Tạ Cánh lên.

Hai mắt y đẫm lệ, mông lung nhìn hắn, thì thầm: "... Tử Phụng, em xin anh, anh Tử Phụng..."

Lục Lệnh Tùng cực kỳ cẩn thận, yêu thương dùng ngón cái lau đi vệt nước mắt trên má y, sau đó mở miệng, nhưng giọng điệu chẳng mang lấy một tia ấm áp:

"Bây giờ ta sẽ đến cầu Chu Tước, cần ta đưa ngươi đi một đoạn đường chứ?"

Tông giọng không cao không thấp, vừa vặn để quần thần hai bên đều nghe rõ. Lục Lệnh Tùng tận mắt nhìn thấy cả người Tạ Cánh bắt đầu run rẩy dữ dội sau khi nghe xong những lời ấy, nước mắt y tuôn ra mãnh liệu như vỡ đê, lúc này trông y giống như một người mất hết lý trí đột nhiên hiểu được thế nào là đau thương, và rồi cả một đời đau thương ấy cứ thế hóa thành dòng lệ, ồ ạt dâng trào.

Lục Lệnh Tùng hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi dáng vẻ "khóc không thành tiếng" lại có thể xuất hiện trên gương mặt của Tạ Cánh. Nhưng giờ phút này, y lại khóc đến mức chẳng thể nói nổi một câu trọn vẹn, đến nỗi dần không kìm được mà bật lên tiếng kêu gào thảm thiết, đây chính là thê tử kết tóc của hắn.

Lục Lệnh Tùng thậm chí còn nhìn thấy được bên dưới vạt áo của Tạ Cánh lấp ló chiếc hộp hương chức đựng tóc kết của hai người.

Thế nhưng, chủ nhân của hộp hương ấy giờ đây lại vì một câu nói của hắn mà khóc như đứt từng khúc ruột, khàn giọng tàn nhẫn oán hận hắn: "Trước khi thành thân, cha tôi đã hết sức ngăn cản. Ngày đó tôi khư khư cố chấp, quả nhiên giờ đây đã tự rước lấy báo ứng rồi!"

Tạ Cánh chưa bao giờ gào thét thảm thiết đến xé gan xé ruột như thế: "Lục Tử Phụng, anh giỏi lắm! Anh giỏi lắm! Hôm nay anh cứ việc giết sạch cả nhà họ Tạ tôi trước đi, rồi về nhà giết luôn cả Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh, sau đó chúng ta cùng chết, xuống hoàng tuyền rồi vẫn sẽ làm vợ chồng thôi!"

"Vợ chồng?" Lục Lệnh Tùng cười lạnh, dùng vỏ kiếm nâng cằm Tạ Cánh lên "Ai lại muốn làm vợ chồng với ngươi chứ?"

Hắn không nhiều lời nữa, dứt khoát rút kiếm về, nghênh ngang rời đi. Cả triều văn võ trợn mắt há miệng xem hết một màn này, hơn trăm chiếc ô giấy dầu trắng nối tiếp nhau che kín bầu trời, chỉ còn lại hai người ở chính giữa, một đứng một quỳ, rồi bóng dáng họ dần kéo dài, xa mãi, cùng đội chung một mảnh trời mênh mang xám xịt.

Pháp trường được dựng trên cầu Chu Tước, dân chúng lần đầu tiên chứng kiến cảnh quốc tang chưa kịp buồn bã đã vội giết người. Huống hồ kẻ bị trói trên đó đã từng là gia tộc quyền quý nhất nhì thành Kim Lăng, không tránh khỏi lòng đầy thương xót, nhất thời chẳng hẹn mà cùng tụ tập bên cầu, dù mưa như trút cũng chẳng ngăn nổi bước chân.

Gọi là "mãn môn sao trảm", nhưng thật ra đâu còn mãn môn nữa - Tạ phu nhân, Diêu thị cùng Tạ Tuấn và hơn trăm gia nhân tôi tớ trong phủ đã sớm hóa thành tro bụi trong trận hỏa hoạn ở ngõ Ô Y rồi. Người thật sự bị áp giải lên pháp trường, đến cuối cùng chỉ còn lại hai cha con Tạ Dực và Tạ Duyễn.

Chiêu Vương ngồi trên đài giám trảm, ánh mắt hờ hững buông xuống, chẳng rõ rơi vào đâu giữa khoảng không mờ mịt.

Xa xa truyền đến những tiếng xì xào bàn tán, bao vây lấy "nhân vật chính" của trận huyết án đêm nay - Tạ Cánh, người đang từng bước chậm rãi đi từ Công Xa môn đến dưới cầu Chu Tước.

Đám đông tự động tách sang hai bên, chừa ra cho y một con đường. Tạ Cánh cứ thế thẫn thờ tiến về phía trước, nhìn thấy cha và anh trai đầu tóc rối bù, nhìn thấy Lục Lệnh Tùng mặt chẳng lộ vui buồn, nhìn thấy đao phủ cầm đao đứng nghiêm, nhưng tất cả đều chẳng thể lay động biểu cảm trên mặt y dù chỉ một chút.

Y đứng dưới đài hệt như một con rối gỗ, đón lấy ánh nhìn thân thuộc và bình thản từ Tạ Dực và Tạ Duyễn.

Nhưng vẫn chẳng hề dao động.

Dân chúng xung quanh không khỏi liếc mắt nhìn nhau, thứ bọn họ mong chờ được thấy là cảnh vợ chồng rạn nứt, cha con ly biệt, chứ không phải một kẻ sống sót lạnh lùng đến mức quái đản như vậy.

Bọn họ dần dần kéo giãn khoảng cách với Tạ Cánh như tránh né quái vật. Hạng người gì mà đối diện với biến cố kinh thiên động địa của gia tộc, chứng kiến cha anh sắp chết thảm lại có thể bình tĩnh đến vậy, thờ ơ đến vậy, giống như việc này chẳng liên quan đến mình như vậy?

Kẻ cầu sống hèn mọn, kẻ hèn nhát sợ chết, Tạ Chi Vô còn sống mà vô tâm vô cảm.

Việc hành hình chậm nhất không thể muộn hơn giờ Dậu - dù đã mấy ngày rồi chẳng thấy mặt trời đâu. Thuộc quan tính giờ bằng đồng hồ nước, tiến lên xin chỉ thị: "Điện hạ, đã qua giờ Thân, không thể trì hoãn thêm nữa."

Lệnh bài định đoạt sinh tử đang nằm trong tay Lục Lệnh Tùng, hắn rõ ràng hơn ai hết, chỉ cần một tiếng hạ lệnh, toàn bộ mười năm quá khứ của hắn sẽ hoàn toàn sụp đổ.

Tiếng cười vang, tiếng đàn ca, giàn hoa tử đằng, rượu ngon, khung cửa sổ phòng sách khép hờ vào buổi chiều, tất cả như thủy triều cuộn trào, nhanh chóng trôi tuột khỏi ký ức hắn, cuối cùng dừng lại ở mùa đông năm Kiến Ninh thứ mười một, giữa trời đất một màu trắng xóa, hắn cúi người vốc một nắm tuyết, ném về phía đứa bé nhỏ nhắn, đáng yêu như búp bê đang đứng trước mặt.

Đó là một cú ném rất nhẹ, nhưng lại vô cùng nặng nề, kết cục chỉ còn lại tình yêu và cái chết, giống như lúc này, hắn buông lỏng ngón tay, que lửa rơi xuống.

Vạn người nín thở, lặng ngắt như tờ.

Vậy mà đúng vào khoảnh khắc ấy, một gã hầu từ Vương phủ lảo đảo chạy lên đài, dâng cho hắn một mảnh giấy với nét chữ nguệch ngoạc, chính là chữ viết của cậu hắn:

Tạ Tuấn còn sống.

Lục Lệnh Tùng chấn động dữ dội, hắn bật dậy khỏi ghế, hoàn toàn quên mất mình đang ở đâu, trước mặt là ánh mắt của bao nhiêu người. Hắn thậm chí không kịp xác nhận thực hư, chỉ vội vàng lao xuống khỏi đài cao, cố hết sức chạy về phía Tạ Dực và Tạ Duyễn đã sắp đóng lại số phận, để nói cho họ biết rằng "Tạ Tuấn còn sống", dù chỉ là bốn chữ này thôi.

Nhưng rốt cuộc, hắn vẫn chậm một bước.

Chỉ đúng một bước mà thôi.

Trong khoảnh khắc ấy, sấm sét chợt nổi lên, lưỡi đao giáng xuống giữa tiếng sét xé toang bầu trời như vạn dòng ngân hà nứt vỡ, ánh đao lạnh lẽo xuyên qua màn mưa dày đặc, phản chiếu cái kết hùng vĩ của triều đại Trinh Hữu.

Tạ Cánh đứng giữa đám đông, chẳng hề chớp mắt lấy một lần.

==

Min: gom 4c lại đau một lần khóc cho đã

(sẽ còn lần 2 lần 3...)
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 103


《 25.1 - Hiện tại 》

Đầu hạ năm Cảnh Dụ thứ năm, quan tài của cố Trưởng công chúa Lục Lệnh Chân được đưa về Kim Lăng, vì đến cuối vẫn không thể tìm thấy di thể, cho nên trong quan tài chỉ có quần áo và mũ.

Thiên tử hạ lệnh cử hành quốc tang, cấm bày tiệc tùng, cưới hỏi suốt hai mươi bảy ngày. Chiếu theo di nguyện của công chúa, không truy phong thụy hiệu, không nhập tông miếu, tạm quàn linh cữu ở điện Hàm Chương, chọn ngày an táng theo nghi lễ quân đội.

Thuở thiếu thời, Trưởng công chúa thường khoác áo lông nhẹ, cưỡi ngựa nhanh ra vào phố chợ, dân chúng hai bờ sông Hoài nhìn đã quen, chẳng lấy làm lạ. Nay công chúa vì nước hy sinh, người dân trong thành đều đau lòng khôn xiết, nhà nhà tự nguyện treo cờ tang trước cửa, từ xa nhìn lại, cả kinh thành trắng xóa một màu như có tuyết rơi giữa tiết trời tháng sáu.

Mẹ đẻ của công chúa là Ngô Thái phi tuổi đã cao, ngày ngày ở điện Minh Loan không hỏi thế sự, tạm thời vẫn chưa được thông báo tình hình thực tế; mà Chiêu Vương vì quá nhớ thương em gái, đã cáo bệnh ở trong phủ nửa tháng không ra ngoài.

Mùng mười tháng Sáu, thiên tử đích thân cùng các quan lại lên đường rời thành, đến nơi cách thành Bắc bốn mươi dặm, băng qua đảo Bát Quái, đến sát bờ sông Trường Giang chờ đón linh cữu của Trưởng công chúa về kinh.

Đêm mùng mười tháng Sáu, phủ Chiêu Vương.

Lục Lệnh Tùng đứng trước gương trong phòng ngủ, kể từ mùa xuân năm ngoái sau khi từ Ung Châu về kinh, trao trả binh quyền Hổ Sư, đã lâu rồi hắn mới mặc giáp trở lại.

Ngân Trù và anh em họ Từ chờ ở gian ngoài nhà chính, thấy hắn đi ra, Từ Giáp dâng trường kiếm lên trước mặt, do dự nói: "Điện hạ thật sự muốn đi một mình sao ạ?"

Lục Lệnh Tùng nhận lấy kiếm: "Ngày đó ta thu nhận anh em các cậu, không phải là để các cậu dùng mạng của mình để đánh cược cùng ta."

Rồi hắn quay sang Ngân Trù: "Bọn trẻ còn ngủ sao?"

Ngân Trù đáp: "Hành lý tùy thân tôi đã chuẩn bị xong xuôi, đợi đến canh ba thủy triều vừa rút, tôi sẽ lập tức đánh thức thế tử và quận chúa rồi đi."

Lục Lệnh Tùng gật đầu: "Đường hầm có thể thông đến nhà họ Ngô, cậu của ta sẽ giúp chị rời khỏi Kim Lăng trước khi Thiên Minh môn khóa cửa. Thanh Nhi cũng biết đường, ta biết nó từng lén đưa Ninh Ninh đi qua đó."

Ngân Trù muốn nói lại thôi, Lục Lệnh Tùng chỉ nghiêm mặt nói: "Từ ngày chúng ta quen biết tại Trích Tinh lâu, cùng sống chung dưới mái hiên Vương phủ, thoáng cái đã mười bốn năm rồi. Chi Vô tin tưởng chị như chị gái ruột, mấy năm nay vợ chồng ta xa cách biền biệt, Thanh Nhi đều nhờ có chị tận tâm chăm sóc, bầu bạn."

"Nếu như lần này thành công, cả nhà chúng ta sẽ cùng hưởng vinh hoa; nhưng nếu ta và Chi Vô có gặp bất trắc, xin chị đừng quan tâm thù mới hận cũ, hãy đưa bọn trẻ rời khỏi vùng đất thị phi này, cả đời cũng đừng quay lại nữa. Từ nay về sau, chị chính là mẹ ruột của chúng, chúng cũng nhất định sẽ phụng dưỡng chị cả đời như mẹ mình."

"Trong quá khứ Vương phủ đã kéo chị vào hiểm cảnh, ngày giờ này lại nhờ cậy tương lai, hôm nay ta cúi đầu bái tạ cả, đại ân khó nói hết lời cảm tạ, chỉ mong còn có ngày gặp lại."

Dứt lời, hắn vung áo bào quỳ xuống, khấu đầu, hành lễ thật sâu với Ngân Trù.

Nhiều năm qua, Ngân Trù, hắn và Tạ Cánh sớm chiều ở chung, lại vô cùng yêu thương hai đứa trẻ không nỡ xa rời, từ lâu đã coi nhau như người nhà. Cô tự hiểu chuyện lúc này quan trọng hơn hết thảy, cũng không ngăn Lục Lệnh Tùng lại, chỉ trịnh trọng đáp lễ tương tự, đáp: "Tôi nhất định sẽ không phụ sự phó thác của điện hạ và Vương phi, bảo vệ thế tử quận chúa, mong ngày đoàn viên."

Lục Lệnh Tùng đứng dậy, nói với anh em họ Từ: "Hành động cẩn thận, nghe lời Ngân Trù phân phó, ta giao con của mình cho các ngươi."

Hai người chỉ có thể vâng dạ không ngớt, Ngân Trù nghiêm mặt hỏi: "... Điện hạ không đến chào từ biệt thế tử và quận chúa sao?"

Lục Lệnh Tùng sững lại một chút, ngoái nhìn ngọn đèn dầu mông lung treo hiên nhà, chỉ lắc đầu.

"Ta nói thế này cũng chẳng phải là phó thác hậu sự, dù sao thì giờ đây..." Hắn cười nhạt, "Cũng chẳng phải là năm Trinh Hữu thứ mười bảy nữa."

Vì lệnh cấm du dã thanh sắc, các kỹ viện nổi tiếng khắp khu vực sông Tần Hoài đều ngoan ngoãn đóng cửa im lìm không kinh doanh. Trích Tinh lâu lại càng được Tiêu Dao "chăm sóc" đặc biệt, đến một ngọn đèn cũng không có.

Lục Lệnh Tùng đã quá quen thuộc với đường đến Trích Tinh lâu. Hắn thúc ngựa lao băng băng, suốt dọc đường không thấy một bóng người, đi thẳng đến bên ngoài cửa sau của Trích Tinh lâu, nơi có rặng liễu ven bờ yên tĩnh và ẩm thấp.

Không gian tĩnh mịch.

Hắn gõ vài tiếng theo nhịp Hổ Sư Lệnh, cánh cửa sau mở hé ra một chút, gã phụ tá của Tuyên Thất ló mặt ra, trong căn phòng phía sau gã cũng tối đến nỗi đưa tay chẳng thấy năm ngón, nhưng Lục Lệnh Tùng biết rõ trong bóng tối có người, trong tay người có kiếm.

"Tiêu Dao đến núi Mạc Phủ rồi à?"

Phụ tá gật đầu, nhỏ giọng đáp: "Thủ lĩnh truyền tin, đội quân tám ngàn người đã tập trung đủ tại núi Mạc Phủ, phủ Tướng cũng không điều binh lực từ dư bộ Hổ Sư ra khỏi thành."

"Đến cuối cùng vẫn không tin tưởng, không dám dùng." Lục Lệnh Tùng lạnh lùng nói, "Nhưng nếu lão ta mưu tính không sâu, thật sự điều quân thì lúc đấy mới thật sự khó đối phó."

Thiên tử qua đêm ở ngoài thành, tất nhiên sẽ điều động một đội quân từ tứ đại doanh theo hộ tống. Vương Thục và đám tùy tùng của lão ta đi theo bên cạnh loan giá, khi rút quân từ quân kinh kỳ, để phòng ngừa bất trắc, dĩ nhiên lão sẽ ra lệnh cho các quân cờ bí mật mà phủ Tướng cài cắm trong bốn doanh, chọn ra những người đáng tin cậy đi cùng.

Còn những "tân binh" đến từ tàn quân Hổ Sư bị chia cắt, cùng đội quân ở núi Mạc Phủ gần như cũng là tàn quân Hổ Sư đương nhiên đều bị loại khỏi danh sách "đáng tin", toàn bộ đều ở lại trong kinh thành.

Chính sự thiếu tín nhiệm này lại vô tình tạo điều kiện cho Lục Lệnh Tùng hành động thuận lợi.

Phụ tá hỏi: "Người của Tuyên Thất đều đã sẵn sàng chờ lệnh bên trong, bao giờ xuất phát, xin ngài chỉ thị?"

Lục Lệnh Tùng thoáng nhìn ánh trăng: "Không vội, đợi đến canh ba đổi ca rồi lên đường."

Mỗi đêm, nhân lực tuần tra phòng thủ ở Kim Lăng đều đến từ quân kinh kỳ, hôm nay binh lực trong thành không đủ, những người còn lại buộc phải kiêm nhiệm nhiều vị trí, khi đổi ca, tinh lực ắt sẽ lơi lỏng, khó tránh khỏi sơ suất.

Phụ tá nhận lệnh, rồi hỏi tiếp: "Từ Trích Tinh lâu đến kho vũ khí đi qua đường Chu Tước là con đường ngắn nhất, nhưng vì đường trống nên sẽ dễ bị chú ý. Ngài có muốn đi đường vòng không?"

Lục Lệnh Tùng không trả lời mà hỏi ngược lại: "Các ngươi đã từng tiếp xúc với Hạc Vệ chưa?"

"Đầu năm Cảnh Dụ, khi Hạc Vệ còn dưới quyền Trưởng công chúa, chúng tôi từng phối hợp làm vài việc."

Phụ tá rất cẩn trọng khi nhắc đến Trưởng công chúa, nhưng Lục Lệnh Tùng lại làm như không nghe thấy mấy chữ đó, chỉ hỏi: "Ngươi thấy bọn họ thế nào?"

"Tại hạ không dám tùy tiện đánh giá. Những năm gần đây, người của Tuyên Thất đều chịu sự sai khiến của thủ lĩnh và điện hạ, phần lớn chỉ lo việc do thám tin tức, truyền tin, tra án, đã không còn là Tuyên Thất làm ám vệ dưới trướng Tiêu Thái hậu nữa."

Lục Lệnh Tùng phất tay ý bảo không sao: "Dù sao thì đó cũng là tổ tông của nghề này, ngươi cứ nói thẳng đi."

Phụ tá bèn đáp: "Trưởng công chúa rất biết cách huấn luyện, Hạc Vệ nhẫn nại, hành động gọn gàng dứt khoát, là một đội ám vệ đủ tiêu chuẩn, có thể đảm đương trọng trách nặng nề."

Lục Lệnh Tùng nhìn gã thật sâu: "Ta luôn tin rằng Tuyên Thất dày dạn kinh nghiệm hơn Hạc Vệ, càng quen thuộc với việc lấy thành trấn, phố phường làm chiến trường hơn. Đương nhiên, cũng nhanh nhạy hơn. Vì vậy, ta không ngại đi thẳng qua đường Chu Tước để đến kho vũ khí."

Trán phụ tá lấm tấm mồ hôi, gã hiểu rõ đây vừa là sự tin tưởng của Chiêu Vương, cũng vừa là áp lực từ hắn. Những năm qua, tuy rằng Tuyên Thất đã giúp đỡ Vương phủ không ít việc, nhưng Lục Lệnh Tùng vẫn luôn bận tâm đến minh ước với Tiêu Dao, cố ý tránh hiềm nghi, chưa từng trực tiếp nhúng tay vào quyền chỉ huy Tuyên Thất, dùng sự công bằng để thể hiện rằng hắn không có lòng kiếm soát, tranh giành Tuyên Thất làm của riêng.

Chiến dịch đêm nay, xét đến sự phân công, giá trị chiến lược và khoảng cách địa lý, Lục Lệnh Tùng và Tiêu Dao đã trao đổi binh lực dưới trướng. Tiêu Dao dẫn người đi trước đến núi Mạc Phủ ở phía Bắc thành để chỉnh đốn binh mã, còn Lục Lệnh Tùng xuất phát từ Vương phủ đến Trích Tinh lâu, tiếp quản Tuyên Thất.

Đây là bước đầu tiên.

Mà việc Lục Lệnh Tùng tiếp quản Tuyên Thất cũng mới chỉ là bước đầu tiên trong bước đầu tiên ấy.

Mặc dù Tiêu Dao - thủ lĩnh duy nhất mà Tuyên Thất phục tùng không có mặt ở đây, nhưng Chiêu Vương tuyệt đối sẽ không cho phép Tuyên Thất có bất kì suy nghĩ gian dối nào, càng không chấp nhận việc bọn họ đứng ngoài trận chiến này mà không dốc hết toàn lực.

Gã không biết liệu Chiêu Vương có chừa lại đường lui cho mình hay không, nhưng gã biết rõ, chọn đi đường Chu Tước, nghĩa là Chiêu Vương tuyệt đối không để lại đường lui nào cho Tuyên Thất. Chính sự khác biệt giữa "không biết" và "biết" đã khắc sâu nỗi sợ hãi trong gã trước quyền lực và uy thế của Chiêu Vương.

Thấy phụ tá im lặng, Lục Lệnh Tùng bình tĩnh nói thêm: "Năm xưa ta từng giao ước với thủ lĩnh của các ngươi, đợi mọi chuyện kết thúc, ta sẽ tấu lên bệ hạ, để Tuyên Thất được phục chức, danh chính ngôn thuận xuất hiện ngoài sáng."

Làm sao phụ tá không nghe ra được hàm ý nửa ban ơn nửa đe dọa trong câu nói ấy, lúc này không dám nhiều lời nữa, lập tức quay người vào trong, đích thân nhắc nhở và cảnh tỉnh các đồng liêu.

Đợi đến khi trống canh ba vang lên, tiếng mõ tuần đêm lững thững trôi dọc theo sông Tần Hoài đi xa dần, Lục Lệnh Tùng trở mình lên ngựa. Tuyên Thất từ trong bóng tối nối đuôi xuất hiện, lặng lẽ xếp thành đội hình chỉnh tề, theo sát sau lưng hắn, hướng về mục tiêu thứ hai trong đêm nay - kho vũ khí Kim Lăng

Đường Chu Tước tuy là ngự nhai rộng rãi và trang nghiêm bậc nhất, nhưng cũng chính vì cái "trang nghiêm" đó mà không chỉ dân thường, ngay cả quan lại cũng không dám tùy tiện qua lại vào giờ giới nghiêm.

Đúng như Lục Lệnh Tùng dự liệu, quả nhiên bọn họ lợi dụng được kẽ hở trong lúc đổi ca canh gác, đường Chu Tước thênh thang không có trở ngại, nếu không phải đã mai phục sẵn từ trước, dàn trận chờ bắt người, thì căn bản không thể ngăn được họ.

Kho vũ khi Kim Lăng nằm ở phía Đông Nam cung Thái Sơ, đi thẳng hết đường Chu Tước, sau đó rẽ sang ngã rẽ phía Đông là tới, vị trí nằm cách Trích Tinh lâu chỉ bốn, năm dặm.

Lục Lệnh Tùng đã thông tin cho nhà họ Thôi, Thôi Tế Thế lấy cớ "Vũ Lâm Ngoại Vệ đổi ca cập rập, không tiện đến trả vũ khí", âm thầm nhờ bảo vệ kho vũ khí châm chước cho, đóng cửa khóa kho muộn hơn một chút.

Lúc này cửa lớn đã rộng mở, tên lính canh trước cửa buồn ngủ, mãi đến khi Lục Lệnh Tùng ghìm ngựa dừng dưới bậc thềm, gã mới giật mình một cái, trố mắt nhìn: "Điện, điện hạ, sao muộn thế này rồi mà ngài còn..."

Tuyên Thất không cần Lục Lệnh Tùng phân phó, đều ăn ý nhanh chân rảo bước tấn công. Bảo vệ kho là người của tứ đại doanh, mỗi tháng luân phiên một nhóm, tuy rằng cũng là quân kinh kỳ, nhưng suy cho cùng không phải là đối thủ của Tuyên Thất, chỉ qua mấy hiệp, hơn mười binh sĩ trong ngoài cửa lớn đã bị khống chế.

Đã có thuộc quan chạy như bay đến hấp tấp gọi "Hồ đại nhân", bảo tin cho bảo vệ luân phiên trực ban. Hồ thủ bị kia vội vàng tìm đến trước cửa, Lục Lệnh Tùng ngước nhìn, thì ra là một gương mặt quen.

Hồ thủ bị thấy Lục Lệnh Tùng cũng hơi giật mình, nhanh nhảu chào: "Mấy tên thuộc hạ của tôi ngu dốt, không biết đã khiến điện hạ khó chịu việc chi?"

Lục Lệnh Tùng chỉ híp mắt nhìn quân sĩ xúm lại phía sau lưng đối phương, trong bụng nhẩm tính, tính được binh lực trong cả kho vũ khí này tổng cộng không đến trăm người, hắn bèn giơ tay ra hiệu, Tuyên Thất tiếp tục tấn công mạnh mẽ, chỉ trong khoảnh khắc, một nhóm đã lao vào giao đấu cùng quân bảo vệ, một nhóm khác lập tức xông vào tiền thính, xâm nhập vào sâu bên trong kho vũ khí.

Hồ thủ bị thấy tình hình không ổn, nhưng vẫn kiêng dè trước thân phận của Chiêu Vương, chỉ giương vũ khí lên nói: "Xin điện hạ hành động thận trọng!"

Lúc này Lục Lệnh Tùng mới quay lại nhìn gã, giọng xa xăm: "Hồ Canh, nguyên quán Thục Trung, năm Cảnh Dụ thứ hai ta đánh hạ Kiếm Môn hầu, trong lúc loạn lạc ngươi tìm đến Hổ Sư, vì có công trong trận Tây Xuyên nên được cất nhắc trở thành bách phu trưởng*."

(*) Trong bối cảnh quân sự cổ đại Trung Quốc, bách phu trưởng là chức quan võ chỉ huy một đội gồm khoảng 100 binh lính. Tương đương với đội trưởng hoặc trung đội trưởng trong quân đội hiện đại.

"Cha mẹ ngươi được an dưỡng tại thành Cẩm Quan, thời gian qua vẫn còn khỏe mạnh chứ?"

Hồ thủ bị kia sững người, vừa rồi gã chào đón trọng hậu chính vì đối phương là chủ cũ, nhưng gã hoàn toàn không ngờ Chiêu Vương vẫn nhớ một tên tiểu tốt chẳng quan trọng gì trong số ba ngàn binh sĩ như gã, càng không ngờ chủ cũ sẽ nhận ra gã.

Lục Lệnh Tùng vẫn rất ung dung, khiến cho gã khó mà nắm chắc được liệu đây là một câu hàn huyên hay là một lời... Đe dọa.

Nhưng cha mẹ gã nhận được ân huệ của phủ Chiêu Vương, được thu xếp cho an dưỡng tuổi già ở Ích Châu, đúng là không sai. Không riêng gì gã, những thuộc hạ Hổ Sư cũ đã bị tách ra của gã chẳng biết đã có bao nhiêu người thân được Chiêu Vương chăm lo cho.

Thanh đao trên tay Hồ thủ bị bất giác buông xuống, gã chỉ thấp giọng gọi một tiếng: "Điện hạ!"

Lục Lệnh Tùng chỉ lẳng lặng nhìn gã: "Giờ này lẽ ra Vũ Lâm Vệ nên hoàn thành việc hoàn trả vũ khí, kho vũ khí nên được khóa lại từ lâu rồi."

Sau khi được nhắc nhở, Hồ Canh mới chợt nhận ra suốt cả đêm nay gã chỉ thấy Vũ Lâm Trung Vệ đến, nhưng mãi chẳng thấy Vũ Lâm Ngoại Vệ nào mang vũ khí trả về. Lại nghĩ đến lời "nhắc nhớ" bất ngờ của Thôi Tế Thế trước đó, trong lòng không khỏi thở than, đúng là vận rủi ập đến, khéo sao lại đánh ngay đêm nay.

Lục Lệnh Tùng quan sát sắc mặt gã, tiếp tục nói: "Chuyện đêm nay, trời biết, đất biết, ta và ngươi biết, còn triều dã sẽ biết gì? Bọn họ chỉ biết ngươi dẫn dắt thủ hạ đúng giờ đóng cửa kho vũ khí, làm đúng phận sự canh giữ bên trong -- còn ta, Chiêu Vương mới là kẻ dẫn binh cưỡng ép xông vào."

"Dù sau này có truy cứu tội danh, cùng lắm cũng chỉ trách ngươi bị lực lượng áp đảo, chứ chẳng ai trách ngươi chưa đánh đã hàng. Sức nặng của chuyện này, ngươi phải tự hiểu chứ?"

Đương nhiên Hồ Canh hiểu rõ trong hai "tội danh" này, tội nào nặng tội nào nhẹ. Gã không biết Chiêu Vương đang mưu đồ chuyện gì, nhưng rất rõ ràng, hành vi này đã chạm đến ngưỡng đại nghịch bất đạo. Nếu Chiêu Vương thành công, gã sẽ một bước lên mây, thăng quan tiến chức; nhưng nếu Chiêu Vương thất bại, bọn họ sẽ phải gánh gồng xuất thân "cựu binh Hổ Sư", chỉ sợ sẽ khó có ngày nổi danh, bất cứ lúc nào cũng có khả năng bị thanh trừ.

Gã trố mắt một lúc rồi quyết định, lệnh cho thuộc hạ hai bên: "Đón tiếp điện hạ, đóng chặt cửa trước, kho vũ khí đã khóa cửa đúng giờ, nhớ rõ hết chưa hả!"

Thuộc hạ lĩnh mệnh tránh sang hai bên, chuẩn bị đóng cửa cài khóa. Lục Lệnh Tùng gật đầu với Hồ Canh, sau đó dẫn ngựa đi vào, đoạn nói với phụ tá sau lưng: "Thả diều, truyền tin cho Hạc Vệ."

Diều giấy là cách đưa tin mà bọn họ đã giao hẹn từ trước, không đến một khắc đồng hồ sau, Tạ Tuấn đã dẫn theo Hạc Vệ xuất hiện trên một con ngõ khác.

Từ khi mất đi chủ tướng, trở về kinh thành, Hạc Vệ đã trở thành đội quân không chủ. Phủ Tướng đề phòng Hạc Vệ về tay Lục Lệnh Tùng, mới sáng sớm đã dâng thư ép Hoàng đế đồng ý để Hạc Vệ tạm thời sát nhập vào Vũ Lâm Vệ, thế nhưng không sử dụng bọn họ ngay, vậy nên đã mấy ngày liên tiếp Hạc Vệ không có việc gì làm, bị người ta kiểm soát. Quan trọng hơn hết chính là trong tay họ không có binh đao, không có quyền giữ vũ khí.

Nhưng chính vì bọn họ đang mặc quan phục và áo giáp của Vũ Lâm Vệ, từ doanh trại trong cung thành đi thẳng một đường đến đây, dù ven đường có gặp được lính tuần, chúng cũng chỉ xem họ nhưng đội binh Vũ Lâm Vệ bình thường, không quá đa nghi.

Tuyên Thất đưa đủ vũ khí để trang bị cho ngàn người từ trong kho ra, lặng lẽ vận chuyển qua cửa hông phía Đông của kho vũ khí, giao cho Hạc Vệ.

Tạ Tuấn bước đến bên cạnh Lục Lệnh Tùng, hạ giọng hỏi: "Có tin gì từ chú chưa ạ?"

Ba ngày trước, giữa đêm khuya, bọn họ đã bí mật gặp nhau tại Trích Tinh lâu để bàn bạc kế hoạch khởi sự. Người tham dự ngoại trừ Tiêu Dao, Lý Kỳ, còn có Trịnh Kiêu và Thôi Tế Thế cùng một số tướng lĩnh khác - họ hoặc từng là thuộc hạ cũ của Hổ Sư, hoặc là người có mối quan hệ mật thiết với phủ Chiêu Vương. Nhưng Tạ Tuấn không thấy Tạ Cánh xuất hiện, cũng không kịp hỏi Lục Lệnh Tùng xem rốt cuộc là y không thể thoát thân để đến, hay là chẳng hề hay biết gì cả?

Lục Lệnh Tùng chỉ cười: "Bọn ta đã sắp một tháng không gặp nhau rồi, hôm qua em ấy đã theo phủ Tướng rời khỏi thành, làm sao ta biết được?"

Tạ Tuấn cau mày: "Tiêu sư phụ tiếp nhận dư bộ ở núi Mạc Phủ, nếu như truyền vào tai phủ Tướng, Vương Thục mà nghi là do chú sắp xếp, muốn gây bất lợi cho chú thì phải làm sao bây giờ."

"Vậy nên mới gọi là tạm thời tiếp nhận," Lục Lệnh Tùng giải thích, "Chuyện chúng ta cần làm bây giờ đó là triệu tập thuộc hạ Hổ Sư cũ, cần tranh thủ nhất chính là các tướng sĩ ở bốn doanh bằng lòng quy phục Hổ Sư. Tám ngàn binh mã ở núi Mạc Phủ đều là người phe ta, là hậu thủ mà chúng ta đã chuẩn bị, trước khi chú con thoát khỏi hiểm cảnh, em ấy sẽ không hành động thiếu suy nghĩ. Nhờ Tiêu sư phụ đến đó là để chiếm lấy tiên cơ, tránh cho Vương thị mượn vây cánh khống chế núi Mạc Phủ."

Tạ Tuấn miễn cưỡng gật đầu, nhưng vẫn không giấu được vẻ lo lắng, không nhịn được nói: "Điện hạ cũng biết đây là hiểm cảnh..."

Lục Lệnh Tùng vỗ vai cậu: "Con yên tâm, lần này ta sẽ bảo vệ em ấy, ta đã đủ khả năng bảo vệ em ấy."

Hạc Vệ nhận binh khí, chỉnh trang xong xuôi, Lục Lệnh Tùng phân một nhóm người từ Tuyên Thất ra đóng giữ tại kho vũ khí, những người còn lại theo hắn đi về phía Tây Bắc cung Thái sơ. Hồ Canh xung phong đi cùng, chỉ dặn dò thuộc hạ nghe theo lệnh Tuyên Thất, Lục Lệnh Tùng cũng không nhiều lời, phất tay đồng ý cho gã theo.

Đến cung thành, Thôi Tế Thế đã dẫn binh chờ sẵn ở bên ngoài cổng chính: "Đêm nay, Vũ Lâm Ngoại Vệ đang trực có ba ngàn người, họ đều ở đây, chỉ đợi điện hạ ra lệnh là sẽ mở cửa cung ngay."

Lục Lệnh Tùng gật đầu chào gã: "Làm phiền Thôi đại nhân, tấm lòng trung thành dám đặt cược cả tiền đồ và sinh mạng của ngài, tại hạ vô cùng cảm kích."

Thôi Tế Thế chắp tay đáp lễ: "Điện hạ đã nói là làm, mong ngài không quên công lao của trưởng tỷ tôi và Thanh Hà Thôi thị."

Ba ngàn binh sĩ thuộc Vũ Lâm Ngoại Vệ, một ngàn Hạc Vệ, cộng thêm vài trăm người Tuyên Thất - tổng số quân này gần như đã tương đương với đội quân Hổ Sư sơ khởi mà năm ấy Lục Lệnh Tùng dẫn dắt từ ngoại ô Kim Lăng đến Hoài Bắc.

Vũ Lâm Vệ, tứ đại doanh, quan binh từ các châu quận xung quanh kinh thành - năm xưa, họ chính là kẻ địch ở ngoài sáng của hắn, tổng cộng lên đến cả trăm ngàn người; mà giờ phút này đây, chính những kẻ đó lại âm thầm trở thành đồng minh của hắn, cũng là một lực lượng khổng lồ đến hàng trăm ngàn người.

Nhẫn nại tổ chức, vào sinh ra tử suốt bốn năm, chỉ đơn giản là để đổi lấy cục diện này mà thôi.

Lục Lệnh Tùng xoay người, đối diện với hàng ngũ dày đặc đã bày trận dưới cổng cung. Những người này có xuất thân, lập trường khác nhau, đã từng phục tùng dưới trướng chủ soái của riêng mình, thế nhưng giờ đây, bọn họ đều tiến lui như một, hóa thành thanh trường kiếm sắc bén trong tay hắn.

"Chư vị vì triều đình mà bôn ba khắp trong ngoài thành, thế nhưng bên trong cung cấm, phủ Tướng chuyên quyền, Vương thị lộng hành, chèn ép bệ hạ đủ đường, khiến cho thiên gia chẳng thể toàn tâm báo đáp công lao của các vị."

"Tối nay, ta phụng mệnh thiên tử dẹp loạn khôi phục chính đạo. Nếu được sống, ta sẽ cùng chư vị bàn định tiếp; nhưng nếu phải chết, một mình ta sẽ đi trước. Công hay tội, đúng hay sai, tất thảy đều sẽ được bẩm báo rõ ràng với bệ hạ."

Dứt lời, hắn rút kiếm khỏi vỏ, cao giọng hô lên: "Mở cổng cung!"

Hơn bốn ngàn người từ Tuyên Dương môn bên ngoài hoàng thành xông thẳng vào trong, một đường tiến về phía Nam cung thành, chạm trán với Vũ Lâm Trung Vệ trước Công Xa môn.

Hai đội cấm vệ trong và ngoài tuy thuộc hai phe cánh khác nhau, nhưng ngày thường vẫn hay chạm mặt, thế lực phía sau cũng dây dưa phức tạp, khó nhường nhịn nhau, lúc này đột nhiên chẳng biết nên tiến hay lùi, suýt nữa làm loạn trận tuyến.

Xưa nay tuy chưa từng có cuộc chính biến nào mà không đổ máu, nhưng trong lần bàn bạc trước đó, thái độ của Lục Lệnh Tùng đối với Vũ Lâm Vệ và quân kinh kỳ luôn là "Có thể chiêu an thì tránh đồ sát", đồ sát chỉ khiến một lực lượng tinh nhuệ bị tổn hại nặng nề, dù là bên nào thắng đi nữa.

Vì vậy, trận giao chiến trước Công Xa môn không kéo dài quá lâu, các cổng ở thành ngoài đều đã bị Vũ Lâm Ngoại Vệ phong tỏa, Trung Vệ không thể thoát ra ngoài cầu viện, mà rút lui sâu hơn vào trong cung thành thì chẳng khác nào tìm đường chết.

Trong tình thế đôi bên ngang sức ngang tài, số lượng Trung Vệ lại không chiếm ưu thế, tuy chưa đến mức lập tức quay giáo đầu hàng, nhưng bọn họ đã ngừng giao chiến, đứng yên tại chỗ rơi vào thế giằng co.

Xét cho cùng, bọn họ đều là cấm quân của thiên gia, chỉ bị các thế gia tranh quyền chi phối chứ không trung thành tuyệt đối với bất kỳ nhà nào hay phe phái nào. Dù cho đứng sau thủ lĩnh của mình là Lang Gia Vương thị, hay là Thanh Hà Thôi thị đứng sau thủ lĩnh của đồng liêu, cả hai lý do đều không đủ khiến họ dứt khoát lựa chọn "đầu hàng" hay "liều chết kháng cự" đến cùng.

Thứ cần nhất hiện tại chính là một mệnh lệnh có uy quyền hơn hết thảy.

Lục Lệnh Tùng biết rõ điều này, hắn không chút do dự dừng lại, tiến thẳng về phía trước, vừa mới công phá Công Xa môn đã lập tức hạ lệnh chia ra bốn nhánh, Tạ Tuấn mang một ít binh mã đến điện Minh Loan, bảo vệ Ngô Thái phi; Tuyên Thất trấn giữ ba cổng Đông, Tây, Bắc trong thành. Thôi Tế Thế dẫn dắt Vũ Lâm Ngoại Vệ tiếp tục cầm chân Trung Vệ, kéo dài thời gian; còn hắn dẫn Hạc Vệ tiến về phía điện Lâm Hải.

Vương thị vừa nghe động tĩnh đã bật dậy, khoác thêm áo bước ra chính điện, chỉ thấy ngoài sân đèn đuốc sáng rực, bóng người dày đặc. Lục Lệnh Tùng đứng đơn độc ngoài hành lang, sắc mặt không đổi, lặng lẽ chờ bà.

Bà ta quát lớn: "Chiêu Vương, ngươi dẫn binh bao vây hoàng cung, uy h**p Thái hậu, chẳng lẽ là muốn tạo phản hay sao?"

Lục Lệnh Tùng chẳng biến sắc: "Mẫu hậu hồ đồ rồi, nhi thần hãy còn chưa làm người bị thương mảy may, chẳng đụng đến bất kỳ ai trong cung, cũng không phong tỏa cổng cung, người trái một câu bao vây, phải một câu tạo phản, mẫu hậu muốn nhi thần mang tiếng oan này thế nào cho phải đây!"

"Ngươi cứ như vậy mà giết ai gia ở điện Lâm Hải này, để cả đời mang danh mưu triều soán vị đi! Ngươi tưởng rằng kéo em trai ngươi và phủ Tướng xuống là có thể ngồi yên ổn trên ngai vàng kia hay sao?"

"Thứ ta muốn không phải là mạng của mẫu hậu," Lục Lệnh Tùng xùy cười, "Ta càng không cần đến ngai vàng kia!"

Hắn bước nhanh vào, lấy một quyển trục từ trong ngực áo ra đặt trước mặt Vương thị, sắc mặt lập tức trở nên lạnh lùng hung hiểm: "Ta muốn lấy lại công đạo cho em gái mình, đây gọi là thanh quân trắc, giúp đỡ việc nước cho thiên gia, hôm nay ta đường đường chính chính đứng trước mặt mẫu hậu nói lời ngay thẳng, dù cho có nửa lời sai trái - ai dám xen vào?"

Vương thị thoáng sững người, cúi đầu nhìn nội dung trong quyển trục. Đó là một dụ lệnh đã được soạn sẵn, mượn lời của Hoàng Thái hậu là bà ta, ra lệnh cho Lục Lệnh Tùng khởi binh thảo phạt Lang Gia Vương thị vì tội thông đồng với địch phản quốc, hại chết Trưởng công chúa.

Sắc mặt Vương thị thay đổi mấy lần, giọng nói phát run: "Ai gia biết ngươi vẫn luôn phẫn hận. Nhưng cái chết của Trưởng công chúa không có liên quan đến Lang Gia Vương thị. Tin dữ truyền về Kim Lăng, ai gia cũng không nỡ nói rõ sự thật cho mẹ ngươi hay. Những lời trên giấy này thật giả thế nào, trong lòng ngươi nên tự cân nhắc cho rõ chứ!"

Cung nhân nơm nớp lo sợ nâng ngọc tỷ Thái hậu lên, con dấu đã được nhúng màu đỏ bùn, hai tay giơ cao khỏi đầu, dâng đến trước mặt Vương thị, cầu xin: "Thái hậu!"

Vương thị lạnh lùng nói: "Chiêu Vương, ngươi dám cả gan cưỡng ép ta!"

Lục Lệnh Tùng chỉ lạnh lùng giơ tay lên như thể đã mất hết kiên nhẫn, hai gã Hạc Vệ không nói một lời ép sát Vương thị đang ngồi ở vị trí chủ vị, lưỡi đao lạnh buốt kề sát bên cổ bà ta. Cung nhân kia quỳ gối tiến đến, cả người không ngừng run rẩy nhưng vẫn mạnh mẽ túm lấy cổ tay Vương thị, ấn mạnh con dấu vào phần đề tên trên dụ lệnh.

Lục Lệnh Tùng giật lấy quyển trục, giơ cao lên rồi dõng dạc đọc lớn: "Hữu tướng Vương Thục cùng hai con trai và bè đảng thông đồng với Mạc Bắc, trộm dùng công ấn của Thượng Thư đài và tư ấn của Thượng thư hữu bộc xạ, giả truyền quân cơ, ngụy tạo thư tín, hại cố Kiến Uy tướng quân rơi vào vòng vây địch, chẳng còn thi cốt!"

"Ăn nói bừa bãi!" Vương thị trừng mắt nhìn hắn chằm chằm, nghiến răng nghiến lợi nói, "Bức thư đó rõ ràng là chữ do phế phi của ngươi viết, chẳng liên quan gì đến người nhà họ Vương cả!"

Lục Lệnh Tùng cũng không để ý đến bà ta, chỉ hướng ra sân quát: "Bổn vương thể theo thủ dụ của Thái hậu, chấn chỉnh hai quân Vũ Lâm Vệ, sát nhập vào bốn doanh kinh kỳ, ra ngoài kinh tiêu diệt phản tặc, làm rõ đúng sai, thanh quân trắc, trả thù nước, trả thù cho anh linh của Kiến Uy tướng quân, nghênh đón thiên tử về vị trí cũ!"

Nói xong hắn bỗng nhiên xoay người, nhìn về phía Vương thị đang cúi mình, cất cao giọng nói: "Mẫu hậu hiểu rõ đại nghĩa, lấy công diệt tư, xứng đáng làm gương muôn đời, đứa con bất tài Lục Lệnh Tùng kính lạy!"

Hai gã Hạc Vệ nghe theo, cung kính lui xuống, binh sĩ dưới thềm nghe thấy vậy cũng đồng loạt quỳ xuống theo hắn, sau đó đồng thanh hô vang "Thiên tuế".

Vương thị giận tái mặt nhưng chẳng nói nổi câu nào, chỉ lạnh lùng nhìn hắn chằm chặp. Lục Lệnh Tùng hơi ngẩng đầu lên, dùng âm lượng chỉ hai người có thể nghe được, như cười mà chẳng phải cười, nói: "Đương nhiên nhi thần biết phủ Tướng không thông đồng với địch, nhưng mà... Như vậy thì sao chứ?"
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 104


《 25.2 》

Lồng đèn từng ngọn, từng ngọn sáng lên, nhưng bầu không khí trong hoàng thành lại yên ắng đến kỳ lạ. Đám nội giám lui tới giữa các điện các, bước chân gấp gáp nhưng đều cúi đầu im lặng, truyền đạt ý chỉ mà Thái hậu vừa ban xuống đến từng người.

Cửa chính điện Lâm Hải quả thực chưa từng bị phong tỏa, nhưng có mấy ai dám liều cái mạng mình để mò vào xem trò vui? Các cung nhân không biết bên trong điện rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chỉ thấy một chỉ dụ giấy trắng mực đen được đưa đến, cùng với con dấu màu đỏ tươi của Thái hậu hãy còn nhòe nhoẹt chưa khô.

Đã mấy ngày liền Ngô Thái phi ngủ chẳng yên giấc, trước đó không lâu, Lục Lệnh Tùng có gửi thư vào, nói là dạo này giao mùa thời tiết thất thường, Lục Thư Thanh bỗng nhiên nhiễm phong hàn, hắn bận chăm sóc suốt, sợ lây bệnh nên chưa vào cung thỉnh an mẫu thân. Tuy chẳng phải chuyện gì to tát, nhưng lòng bà vẫn cứ thấp thỏm không yên, từng hỏi bao giờ Lục Lệnh Chân sẽ về, nhưng lần nào cũng chỉ nhận được câu trả lời mơ hồ.

Giữa lúc nửa mơ nửa tỉnh, nghe được tiếng xì xào bàn tán, bà bèn cất giọng gọi: "Có chuyện gì vậy?"

Cung nhân điện Minh Loan đều biết chuyện Lục Lệnh Chân mất, ngầm hiểu lẫn nhau, đều không đành lòng nói cho Ngô thị biết. Mới vừa rồi họ lại nhận được thư của Chiêu Vương, trong thư ngài lệnh cho các nàng những ngày này dù có ra sao cũng không được rời khỏi điện Minh Loan nửa bước, đồ ăn thức uống sẽ có người đưa tới, chờ đến khi mọi chuyện kết thúc, hắn sẽ đích thân đến đón Ngô thị.

"Không có gì ạ," Cung nhân vội trả lời, "Ở ngoài này gió mạnh, thổi lệch giàn trồng hoa thôi, nương nương cứ ngủ đi."

"Thôi, ta ngủ không được," Ngô thị lắc đầu, khoác hờ áo trên vai rồi ngồi dậy, sai người thắp đèn, "Mang đai lưng ngọc mà ta chưa làm xong đến đây, còn mấy hôm nữa là Chân Chân về rồi, vừa kịp để phối cùng với quần áo mùa hè mới may cho nó."

Sau khi có được ý chỉ của Vương thị, chuyện thứ nhất Lục Lệnh Tùng làm không phải là đến điện Minh Loan tìm mẹ hắn, cũng không giải quyết hai nhóm quân Vũ Lâm đang giằng co.

Thậm chí hắn chẳng sốt ruột rời khỏi điện Lâm Hải, mà chỉ án binh bất động, lệnh cho một đội Hạc Vệ "giám sát" lão nội giám chưởng sự của điện, dẫn lão ta xuất cung truyền chỉ - đóng tất cả các cổng hoàng thành Kim Lăng.

Trong thành, tin tức điện Lâm Hải lan dần ra ngoài, mà sau khi Lục Lệnh Tùng hạ lệnh cho người phong tỏa cổng thành, tin tức lại truyền ngược từ bốn phía vào trong, dần dần bao vây lấy cả kinh thành.

Vì vậy không lâu sau đó, các tướng lĩnh Vũ Lâm Vệ từ nhỏ đến lớn đều đã nghe được phong thanh, vội vã mang quân tiến cung ngay trong đêm.

Thôi Tế Thế dù nắm trong tay mấy ngàn quân Vũ Lâm Ngoại Vệ, nhưng ngang cấp với anh ta vẫn còn có Trung tham quân, cấp trên là Ngoại giám quân và Trung giám quân, còn có tổng thống lĩnh là Vũ Lâm Trung lang tướng, những kẻ này đều không dễ đối phó, trong đó vừa có người của nhà họ Vương, vừa có con cháu các thế tộc khác, dù có qua lại cùng Thôi thị hay phủ Chiêu Vương thì cũng không thể hoàn toàn coi như đứng cùng chiến tuyến.

Vũ Lâm Trung lang tướng là thân thích của Vương Thục, trong hội săn xuân ở núi Thang năm ngoái, Trung Lang tướng tiền nhiệm vì nghe theo lệnh Lục Lệnh Chương, "sơ ý" thả cho Lục Thư Thanh trốn thoát nên đã bị Vương Thục kéo xuống, tự nâng người trong tộc lên thay thế vị trí đó.

Gã nói với Thôi Tế Thế từ xa: "Cấu kết cùng Chiêu Vương, thêu dệt tội danh cho phủ Tướng, chẳng lẽ ngươi muốn kéo theo cả tộc Thanh Hà Thôi thị cùng làm nghịch tặc hay sao?"

"Vương tướng quân nói sai rồi," Thôi Tế Thế chỉ cười lạnh, "Chiêu Vương điện hạ vừa mới xin được ý chỉ của Thái hậu, chẳng lẽ ngài cũng muốn chụp mũ "thêu dệt" cho Thái hậu hay sao? Thái hậu một lòng vì nước, dám buông bỏ tình thân với Lang Gia Vương thị, đâu như Vương tướng quân, trong đầu chỉ toàn tính toán cho lợi ích của nhà mình!"

Khi đến dưới Công Xa môn, Lục Lệnh Tùng vừa vặn nghe lọt câu nói này. Doanh trại Vũ Lâm Vệ cũng nằm trong hoàng thành, các binh sĩ đã tập trung ngay ngắn ở đây từ sớm, chờ đợi chỉ thị, vậy nên tên Trung lang tướng kia nhìn thấy hắn bèn đưa tay lên theo bản năng, chuẩn bị lệnh cho binh sĩ dưới trướng mình nghênh chiến.

Nhưng tác dụng của việc đánh hạ kho vũ khí trước tiên mà Lục Lệnh Tùng thực hiện giờ đây đã thể hiện rõ ràng - những Vũ Lâm Vệ không có phiên trực đều tay không tấc sắt, dù có không phục hay muốn chống đối hắn cũng chẳng làm nên chuyện gì.

Huống hồ, hắn còn mang theo thủ dụ của Thái hậu.

Lục Lệnh Tùng chỉ ngồi yên trên lưng ngựa, đến kiếm cũng chẳng rời khỏi vỏ, hắn cất giọng nói: "Thánh quân lâm triều, trước hết phải lấy nhân hiếu làm đầu. Bệ hạ báo thù rửa hận cho Trưởng công chúa, là cái 'nhân' của người làm em; tuân theo thủ dụ của Thái hậu, thanh trừ phủ Tướng, chính là cái 'hiếu' của bậc làm con. Vương tướng quân thân là thống lĩnh cấm quân của thiên tử, nếu ngươi vẫn muốn nghe lệnh Vương Thục, vậy thì thứ nhất là làm ngơ trước oan khuất của Trưởng công chúa đã hi sinh vì nước, thứ hai là coi thường khí tiết lấy nghĩa diệt thân của Thái hậu, thứ ba là đẩy thiên tử vào cảnh bất nhân bất hiếu!"

Hắn dời mắt nhìn quanh một lượt, quét qua từng khuôn mặt của các tướng lĩnh: "Các vị tướng quân, thiên tử và Thái hậu là chủ, các vị và ta đều là thần! Từ xưa đến nay, các vị có từng nghe thấy thần tử nào mà lại đẩy chủ nhân của mình vào cảnh bất nhân bất hiếu hay chưa?"

Nói xong, hắn đưa quyển trục trên tay cho một gã Hạc Vệ bên cạnh, lạnh giọng nói: "Đưa thủ dụ của Thái hậu cho các tướng quân đi, để cho bọn họ đọc thật kĩ. Dù trời đêm tối đen cũng đừng đọc sót một chữ nào."

Mọi người ngươi truyền cho ta, ta truyền cho hắn, lần lượt đọc thủ dụ, sau đó nhìn nhau. Cuối cùng truyền đến tay Vương tướng quân, gã đang định mở miệng cãi lại, đám thuộc hạ phía sau đã đồng loạt quỳ xuống, nơm nớp lo sợ nói: "Chúng thần cẩn tuân ý chỉ, sẵn lòng cúc cung vì Thái hậu và bệ hạ!"

"Nếu như chư vị đều đã quyết tâm hết lòng, vậy xem như sự việc xảy ra dưới Công Xa môn đêm nay không đáng trách, Chẳng qua là ý chỉ truyền đến không kịp, khiến các nghĩa sĩ Vũ Lâm Vệ đồng tâm cùng thiên tử hiểu lầm một chút mà thôi."

"Nhưng mà..." - Lục Lệnh Tùng nhíu mày, nhìn vị Trung lang tướng đang tiến thoái lưỡng nan, hờ hững nói, "Ngày sau nếu bệ hạ và Thái hậu hỏi đến, Vương tướng quân muốn ta trả lời thế nào, ta còn cần phải... Suy nghĩ lại."

Vương tướng quân lạnh lùng trừng mắt đáp lại hắn, nhưng nhìn quanh không có ai là không tuân theo thủ dụ của Thái hậu. Bản thân gã dù được Vương Thục đề bạt, nhưng quân - tướng có hiềm khích là một bí mật công khai. Nhỡ đâu Chiêu Vương thật sự phụng mệnh thiên tử đến chỉnh đốn phủ Tướng, gã không thể không sợ sau này Hoàng đế sẽ tính sổ.

Mãi lâu sau, gã không nói lời nào mà chỉ xuống ngựa, quỳ dập đầu trước thủ dụ, tỏ ra kính phục.

Lục Lệnh Tùng xùy nhẹ một tiếng, không nhìn gã nữa mà quay sang nói với Thôi Tế Thế: "Việc trong cung giao lại cho Thôi đại nhân toàn quyền xử lý, phiền ngài cố thủ hoàng thành, cung thành cùng tất cả cửa ngõ các điện, không có lệnh của bổn vương, bất cứ ai cũng không được ra vào."

Hắn ngoái đầu nhìn về phía điện Lâm Hải và điện Thần Long ẩn mình trong bóng tối: "Nơi nào vốn có người, cứ để họ an phận ở yên bên trong; nơi nào vốn trống, thì không được phép cho ai bước vào."

Cửa thành vừa khóa lại chưa bao lâu, tin tức đã truyền đến quân kinh kỳ. Vài vị chủ tướng đã theo thiên tử rời khỏi kinh thành, dư bộ Hổ Sư còn ở lại trong doanh vừa nhận tin liền hiểu ngay rằng đã đến lúc bọn họ ra tay, bấy lâu nay vẫn âm thầm liên lạc, giờ đây đã chỉnh trang xong, chỉ cần một tiếng ra lệnh của chủ cũ.

Kế hoạch của Lục Lệnh Tùng là chia quân làm năm đường, hắn tự mình dẫn Hạc Vệ xuất phát từ cung Thái Sơ, mà dư bộ Hổ Sư và quân kinh kỳ đã bị "chiêu hàng" trong bốn doanh cũng cần có người chỉ huy riêng, cùng tiến đến cổng thành phía Bắc bên bờ Trường Giang rồi hội hợp, sau đó "đoạt" lại thiên tử từ tay nhà họ Vương.

Tuy nhiên, quân quyền và những mối liên kết then chốt khác có sự khác biệt, phải là người tuyệt đối đáng tin, Lục Lệnh Tùng mới yên tâm giao quân Hổ Sư vào tay họ. Huống chi, việc Lục Lệnh Chân vắng mặt ngoài dự tính... Đã khiến số người có thể tin cậy lại càng ít đi.

Núi Mạc Phủ nằm gần Bắc đại doanh, tạm giao cho Tiêu Dao chỉ huy; Đông đại doanh nằm cùng hướng với phủ nhà họ Lý thì giao cho Lý Kỳ; còn Trịnh Kiêu vốn xuất thân từ Tây đại doanh, từ lâu đã có uy danh và quan hệ vững chắc trong quân, đương nhiên sẽ giao cho hắn lãnh binh. Nhưng còn Nam đại doanh - vừa là nơi nằm cách mục tiêu xa nhất, lại vừa là đội quân ít quan hệ với phủ Chiêu Vương nhất, giờ đây bỗng rơi vào cảnh rắn mất đầu.

Vậy mà đúng lúc này, con trai và con gái của Trịnh Kiêu - hai cháu ruột của Lý Kỳ là Lý Dã và Lý Huống lại chủ động xin chiến, mong được tạm thay chỉ huy Nam đại doanh.

Cặp chị em song sinh này tuy trẻ tuổi, Lý Dã là người trầm tĩnh, Lý Huống lại sống kín đáo, thoạt trông chẳng giống người luyện võ, nhưng thật ra từ nhỏ họ đã theo cha và cậu ra vào quân kinh kỳ, thông thạo cả võ nghệ lẫn binh pháp.

Chưa kể đến hôn sự giữa Lý Dã và Tạ Tuấn vẫn còn đang bị gác lại, trước đây, ba người họ vốn là tri kỷ cùng chung chí hướng. Ấy vậy mà mấy ngày trước, khi bất ngờ tái ngộ người bạn, người thương "đã sớm qua đời" sau bốn năm xa cách, Lý Dã và Lý Huống lại chẳng lộ ra chút mừng rỡ hay bi thương nào. Hai người chỉ thoáng kinh ngạc, sau đó sắc mặt đồng loạt trầm xuống, chẳng thèm nói thêm câu nào.

Khi đó Lý Kỳ đã nói với Lục Lệnh Tùng thế này: "Không hổ là chị em sinh đôi, đây là đang trách Tuấn Nhi suốt bốn năm nay im ỉm không chút tăm hơi đấy, giận thật rồi."

Trịnh Kiêu vốn là người hiền lành không giỏi ăn nói, nghe vậy cũng chỉ buông tay cười khổ: "Chuyện của bọn trẻ, ta nào quyết được, đành để chúng tự hòa giải thôi."

Thế nên Lục Lệnh Tùng cũng chỉ lo giải quyết việc công, tỉ mỉ dặn dò chị em nhà họ Lý kế hoạch đêm khởi sự, những chuyện khác hoàn toàn không hỏi tới.

Nhờ Vũ Lâm Vệ thay thế, Tạ Tuấn mới có thể dẫn Tuyên Thất rút lui khỏi điện Minh Loan, ra ngoài cung thành tìm Lục Lệnh Tùng, chuẩn bị tiến về mục tiêu tiếp theo là cổng thành phía Bắc.

Lục Lệnh Tùng vừa sai phó tướng Hạc Vệ điểm binh, vừa hỏi Tạ Tuấn: "Con muốn đi theo ta, hay ở lại trấn giữ trong cung?"

"Đương nhiên là đi theo điện hạ rồi ạ."

Lục Lệnh Tùng cân nhắc một chút: "Ta biết con nóng lòng báo thù, nhưng nhà mẹ của Chi Vô chỉ còn một mình con thôi, hẳn là chú con cũng từng dặn dò con nhất định phải bảo vệ bản thân."

Hắn nhìn Tạ Tuấn, nghiêm túc nói: "Tuấn Nhi, con là cháu ruột của Chi Vô, chúng ta là người một nhà, ta phải bảo vệ con, nhưng ta cũng muốn để con đi làm chuyện con muốn làm. Vậy nên chỉ cần trong lòng con hiểu rõ, ta sẽ không ngăn cản con."

Tạ Tuấn suy nghĩ hồi lâu, chậm rãi mà kiên định đáp: "Điện hạ đau lòng vì công chúa ra đi, nỗi hận cha anh bị hại chết của chú, chẳng có ai sống dễ chịu hơn con. Hai người đã làm được đến mức này, kiên nhẫn trù tính, quyết đoán khởi sự, dám một mình xông vào hiểm nguy, vậy thì có gì mà con phải sợ chứ?"

Lục Lệnh Tùng nghe vậy, biết rằng lòng cậu đã tỏ, thế là không hỏi nhiều nữa mà chỉ vươn tay chỉnh lại giáp vai cho Tạ Tuấn, bỗng nhiên chú ý thấy vũ khí bên hông cậu đã thay đổi: "Phi Quang đâu? Ta nhớ mấy năm nay con vẫn luôn mang theo bên mình."

Tạ Tuấn cười: "Ngày gặp lại chú con đã trả lại rồi. Chú nói với con, Phi Quang là món quà đầu tiên mà điện hạ tặng cho chú, tuy rằng đó là dao hiểm nhuốm máu, nhưng đối với chú, tác dụng phòng thân của nó còn kém xa tác dụng trấn an rất nhiều."

Khi Lục Lệnh Tùng đến cổng Bắc, dư bộ Hổ Sư đã tập hợp xong, đóng quân dưới thành. Trịnh Kiêu thúc ngựa đến, bẩm báo: "Trừ đội quân ở núi Mạc Phủ vẫn án binh bất động, còn lại hơn hai vạn quân Hổ Sư, cộng thêm một vạn quân kinh kỳ tự nguyện quy phục, tổng cộng khoảng ba vạn quân ở đây đều đã sẵn sàng."

"Đủ rồi." Lục Lệnh Tùng gật đầu nói, "Phủ Tướng chỉ mang theo chừng hai vạn quân ra ngoài thôi."

Thế nhưng Tiêu Dao lại bước tới với sắc mặt nặng nề, nàng đưa cho Lục Lệnh Tùng một bản quân báo, nói: "Thám tử tôi phái đi đã kịp trở về trước khi cổng thành khóa. Báo rằng trước khi cùng thiên tử rời thành, Vương Thục vì lo kinh thành trống trải đã âm thầm sai người gửi thư cho Quận thủ* Hoài Dương Trình Văn, lệnh ông ta xuất binh cần vương, phòng ngừa biến cố, hiện quân phòng thủ Hoài Dương chỉ còn cách Kim Lăng chưa đến năm ngày đường."

(*) Chỗ này trong raw là Thái thú (太守), nhưng đoạn bên dưới tác giả vẫn dùng Quận thủ như các chương trước từng nhắc tới, mình nghĩ đây là bug nên đã chỉnh lại cho hợp lý.

Trịnh Kiêu cau mày: "Đêm đó điện hạ có nói, trong số các quận huyện xung quanh, chỉ có Quận thủ Hoài Dương Trình Văn là kẻ không biết điều, không chịu liên minh với phủ Chiêu Vương, vẫn luôn e sợ phủ Tướng, ông ta xuất binh cũng không có gì lạ. Nhưng nếu Vương Thục mượn danh thiên tử, lại còn gây áp lực với Tế Âm, Hạ Phi nữa..."

Lục Lệnh Tùng vẫn rất bình tĩnh, chỉ phất tay nói: "Đợi đến rạng sáng mai, khi ý chỉ của Thái hậu truyền khắp kinh thành, những danh gia vọng tộc ở Giang Nam từng giao hảo với nhà mẹ của Tuấn Nhi mà nó đã liên lạc trước đó sẽ lập tức dâng sổ con lên Thượng thư đài, vạch trần từng tội trạng của Vương Thục và phủ Tướng. Đến lúc đó, về tình hay lý thì Vương Thục cũng đều không chiếm được lẽ phải, không dùng được danh nghĩa của thiên tử nữa, dù lão có cưỡng ép hay mua chuộc, các quận khác cũng chỉ có thể làm ngơ, giả câm giả điếc mà thôi, không cần trả lời thư đâu."

Tiêu Dao nói tiếp: "Vương Thục còn đồng thời phái Vương Khế đích thân đến quận Hội Kê, trưng thu lương thảo từ ruộng đất của Lang Gia Vương thị, sau đó đưa thẳng về kinh thành từ phía Bắc, chỉ sợ là muốn dùng số lương thảo này để giải quyết cấp bách cho hai vạn binh mã và triều thần trong mấy ngày tới."

Trịnh Kiêu sững người, lập tức hiểu ý: "Vốn dĩ hôm nay bệ hạ và quần thần đã phải trở về sau khi đón linh cữu của Trưởng công chúa. Đảo Bát Quái là một đảo nhỏ giữa lòng sông, một khi giằng co lâu ngày, đường rút lui bị cắt đứt, thì lương thực cho hơn hai vạn người sẽ trở thành vấn đề lớn. Dù sản lượng ở ruộng riêng của phủ Tướng có nhiều đến đâu cũng không cầm cự nổi ngần ấy ngày!"

Lục Lệnh Tùng gật đầu, giọng trầm hẳn xuống: "Muốn đánh hay muốn cầm cự đều đâu phải do lão định đoạt. Đã muốn giở trò bẩn thỉu, ta đây cũng sẵn sàng hầu đến cùng."

Ngày mười một tháng Sáu năm Cảnh Dụ thứ năm, cổng thành Bắc mở, Chiêu Vương dẫn hơn ba vạn binh đóng quân bên bờ Trường Giang, đối đầu từ xa với đội ngũ mà phủ Tướng mang ra khỏi kinh thành, những người đồng đội của quân kinh kỳ ngày nào giờ đây lại giương đao giáo chĩa thẳng vào nhau, tạo nên thế trận đối chọi.

Việc "Phủ tướng mới là chủ mưu thật sự khiến Trưởng công chúa hi sinh vì nước" dần lan rộng trong dân chúng khắp kinh thành, nhưng vì Hoàng đế và quần thần vẫn đang bị phủ Tướng khống chế, vậy nên quyết định phân xử từ "thiên tử" - người có quyền uy tối cao đến nay vẫn chưa được ban xuống.

Giữa lúc giằng co không phải là không có giao tranh. Tiêu Dao, Lý Dã và Lý Huống mỗi người đều từng dẫn quân giao chiến một lần. Dù cả ba trận đều thắng lợi trở về, nhưng quy mô không lớn, chưa đủ để xoay chuyển cục diện.

Giờ đây mọi người đều đã biết đến dụ lệnh của Thái hậu, phủ Tướng muốn phủi sạch quan hệ, biện hộ rằng đây là chiếu giả, gần như không còn hiệu lực. Dù các sĩ tộc đã dâng tấu vạch trần từng tội trạng của phủ Tướng - từ tội tham quyền trục lợi đến tội chiếm đoạn tài sản, nhưng những điều này dân chúng đã thừa biết từ lâu, chỉ là tức nước nhưng chưa vỡ bờ. Mà điều thật sự khiến lòng người sôi sục, làm dấy lên làn sóng căm hận khắp kinh thành vẫn là tội danh hại chết Trưởng công chúa, người vốn luôn được dân chúng kính yêu và nể trọng.

Ngày mười bốn tháng Sáu, Hữu tướng Vương Thục đã biệt tăm mấy ngày bỗng nhiên lộ diện. Lão cởi bỏ mũ quan, mặc áo tang trắng bước ra trước trận. Cùng lúc đó, trên tầng cao nhất của Dao đài - tòa lầu các nguy nga tráng lệ nằm cách bờ Trường Giang không xa, có một người bị trói chặt hai tay, đẩy đến mép lan can tầng thượng, đối diện với hai đạo quân.

Chúng tướng sĩ Hổ Sư nhìn kỹ, ai nấy đều kinh hãi - người kia chính là vợ của chủ soái bọn họ, chính phi của Chiêu Vương, nay đã là Thượng thư hữu bộc xạ, tay sai của phủ Tướng - Tạ Cánh, Tạ Chi Vô.

Bên bờ sông phía đối diện, sau lưng Vương Thục là Lục Lệnh Chương đã bị đoàn nghi trượng của thiên tử che khuất khuôn mặt, cùng với đám đông triều thần sợ hãi đến nỗi chẳng dám thở mạnh.

Vương Thục lấy một tờ giấy từ trong tay áo ra, giơ cao lên: "Chữ viết trên lá thư mà Trưởng công chúa nhận được trước khi hi sinh chính là Khứ Hà thể do tội nhân phản quốc Tạ Cánh tự tay viết. Bút tích vẫn còn nguyên vẹn, kèm theo con dấu riêng, giấy trắng mực đen rõ ràng, có thể kiểm chứng tại chỗ!"

Bên bờ sông lập tức rộ lên tiếng bàn tán xôn xao, chợt nghe Vương Thục lạnh lùng quát tiếp: "Chiêu Vương đảo lộn thị phi, giá họa cho phủ Tướng, lừa gạt Thái hậu, lòng dạ đáng tru diệt! Lang Gia Vương thị giữ gìn chính nghĩa vì trăm quan vạn dân, đã bắt giữ tội nhân Tạ Cánh tại đây, khẩn cầu bệ hạ giáng tội, dùng kẻ này tế vong linh Trưởng công chúa trên trời!"
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 105


《 25.3 》

Đợi Vương Thục nói xong, lời bàn tán của chúng tướng sĩ cũng nhỏ dần rồi dừng bặt, lúc này Lục Lệnh Chương mới chậm rãi đứng dậy, bước ra khỏi bóng che của tán lọng.

Gã tiến đến trước mặt Vương Thục, lão lập tức cung kính quỳ xuống, hai tay dâng lên lá thư viết bằng Khứ Hà thể cùng với lời bịa đặt quân tình: "Chứng cứ ở đây, mong bệ hạ minh xét!"

Lục Lệnh Chương không nhận lấy, chỉ hơi rũ mắt, nhìn lướt qua lá thư trong tay Vương Thục.

"Con dấu công này, hễ là người có quyền ra vào Thượng thư đài đều có thể lấy được, chẳng có gì lạ cả." Gã nhàn nhạt cất giọng: "Con dấu còn lại là con dấu riêng của Tạ khanh, nó đang ở đâu? Mang đến cho trẫm xem."

Vương Thục lập tức đáp: "Thần đã so sánh với văn thư lưu lại ở Hàn Lâm viện, bốn năm trước ở Lễ bộ Tạ phạm thường xuyên sử dụng con dấu này, từ năm ngoài về kinh nhậm chức chưa từng dùng lại nữa. Thần đã cho người đến ngõ Ô Y điều tra, vẫn chưa có kết quả, nếu như bệ hạ không đợi được, thần sẽ sai người dùng hình ép hỏi Tạ phạm ngay lập tức."

Lục Lệnh Chương không trả lời lão, im lặng hồi lâu mới hỏi lại: "Cậu mới vừa nói... Muốn tế vong linh của hoàng tỷ trên trời sao?"

Vương Thục gật đầu, nhưng Lục Lệnh Chương chỉ thở dài: "Nhắc đến 'vong linh trên trời', bỗng nhiên trẫm chợt nhớ ra, vào ngày mười chín tháng Năm, trước sau minh thọ, phụ hoàng đã vào trong mộng của trẫm."

Lời vừa thốt ra, không chỉ bá quan văn võ mà ngay cả Vương Thục cũng lập tức cúi rạp đầu sát đất, tỏ lòng kính trọng đối tiên đế hiển linh báo mộng.

"Sau khi phụ hoàng băng hà, đây là lần đầu tiên trẫm được gặp người trong mộng, trẫm muốn trò chuyện cùng người, nhưng phụ hoàng chẳng nói một lời, người chỉ mặc quần áo mỏng, đứng lẻ loi trong tẩm điện. Trẫm đến gần nhìn thử mới biết ông ấy gầy trơ xương, kéo tay áo lên thì thấy cả người bầm tím!"

"Sau khi tỉnh lại, trẫm cảm thấy vô cùng sợ hãi, nghĩ đây chẳng phải điềm lành. Quả nhiên chưa được mấy ngày, tin dữ của hoàng tỷ đã truyền về."

Những hiện tượng lạ này chính là thứ thiên gia để ý nhất, cũng kiêng kỵ nhất, quần thần dáo dác nhìn nhau, Vương Thục bèn nói: "Sau đó, bệ hạ có từng gọi đại sư ở đàn tế Bắc Giao đến bói lành dữ hay không?"

Lục Lệnh Chương thoáng nhìn lão: "Đây là chuyện hệ trọng nhất liên quan đến xã tắc quốc tộ, nếu chỉ dựa vào việc bói quẻ, trẫm không thể yên lòng, cũng sợ rằng hồn thiêng của phụ hoàng chẳng dược an nghỉ."

"Vì vậy," gã thu chất giọng đau buồn lại, "Trẫm nghĩ, trẫm vẫn nên tự mình kiểm chứng, tìm đến ngọn nguồn mới là chính đạo."

Cơ thể Vương Thục cứng đờ, khựng lại rõ ràng, các thần tử cũng mơ hồ khó hiểu. Tiên đế về trời đã hơn bốn năm, chẳng ai đoán ra được cái gọi là "tự mình kiểm chứng" mà Lục Lệnh Chương nói đến rốt cuộc là kiểm thế nào.

Khi Vương Thục vẫn còn giữ tư thế quỳ, suy nghĩ xem nên đối đáp thế nào, Lục Lệnh Chương đã cất bước lướt qua lão, hướng về phía bờ bên kia nơi Lục Lệnh Tùng đang dẫn đầu các tướng sĩ, cất giọng sang sảng: "Tạ công tử, mời phụ hoàng ra gặp đi!"

Lục Lệnh Tùng ở bên kia bờ nghe vậy bỗng giật mình, đột nhiên quay phắt lại, nhìn Tạ Tuấn ở phía sau mình. Một vài triều thần cũng nhìn theo hướng của Chiêu Vương, nhận ra Tạ Tuấn - người đáng lẽ "đã chết" từ lâu, ai nấy đều trợn tròn mắt như vừa gặp ma.

Tạ Tuấn lại hoàn toàn điềm nhiên, quay sang ra hiệu cho Tuyên Thất. thuộc hạ lập tức lĩnh mệnh, dẫn theo một nhóm người nhanh chóng rút về hướng cổng thành, không biết đi đâu làm gì.

Sau đó cậu mới hành lễ với Lục Lệnh Tùng, thành khẩn thì thầm: "Điện hạ thứ lỗi, bởi vì bệ hạ sợ nhiễu loạn mưu kế của người, cho nên đã lệnh con không được báo cho người biết trước."

Lục Lệnh Tùng lắc đầu, cũng không nói thêm gì nữa, chỉ ngưng mắt nhìn cửa thành Bắc đang mở rộng, lẳng lặng chờ đợi.

Không lâu sau đã thấy nhóm người Tuyên Thất quay trở lại cổng thành, chính giữa bọn họ là một cỗ quan tài bằng vàng, sắc vàng óng ánh nay đã phai màu, ánh lên một vẻ tối tăm ảm đạm!

Triều thần và tướng sĩ có mặt lập tức nháo nhào, nghẹn lời nhìn trân trân. Vương Thục không còn tâm trí nghĩ xem rốt cuộc Tạ Tuấn đã "chết đi sống lại" bằng cách nào, lão khó tin ngẩng đầu, nhìn chằm chằm Lục Lệnh Chương: "Bệ hạ đã... Tự ý khai quật lăng tẩm của tiên đế, kinh động quan quách!?"

Lục Lệnh Chương chỉ dùng ánh mắt ngây thơ nửa thật nửa giả nhìn lão, "Nếu không làm như vậy, làm sao trẫm có thể lĩnh hội được thâm ý của phụ hoàng ở trong mộng đây?"

Vương Thục lạnh giọng quát: "Bệ hạ, người chết sẽ không nói chuyện, cũng không thể nói chuyện!"

"Vậy nên người chết cũng sẽ không nói dối, và không thể nói dối," Lục Lệnh Chương cười khẩu, mỉa mai: "Cậu à, cậu nên gọi là tiên đế chứ, chú ý ngôn từ của cậu đi."

Quan tài vàng rất nặng, quá trình vận chuyển dài dằng dặc mà vô cùng quái dị, dù đang là giữa ban ngày, nhưng lòng dạ của mấy vạn người xem đều lạnh toát.

Tầm mắt Lục Lệnh Tùng vẫn không đổi, trong đầu nhanh chóng nghĩ. Lục Lệnh Chương hẳn là đã biết được kế hoạch khởi sự thông qua Thôi Thục Thế, nhưng theo tính toán của phủ Chiêu Vương, đáng lẽ gã phải vờ như chẳng hay biết gì, đóng tròn vai kẻ ngoài cuộc, hoàn toàn không ngờ gã lại âm thầm chuẩn bị đến mức này.

Lục Lệnh Tùng bất ngờ hỏi Tạ Tuấn: "Tiêu Dao cuối tháng trước có mấy ngày không liên lạc được với con, lúc đó con đã đi làm chuyện này giúp bệ hạ sao?"

Tạ Tuấn gật đầu: "Ngay khi nghe tin Trưởng công chúa qua đời, bệ hạ đã đoán được điện hạ sẽ xem chuyện này như cơ hội khởi binh. Vì thế lập tức sai con dẫn Tuyên Thất đến hoàng lăng Tử Kim Sơn, đưa linh cữu tiên đế ra ngoài, để hôm nay... Cũng chính vì Trưởng công chúa mới mất, chuẩn bị hậu sự cần xây dựng tu chỉnh xung quanh hoàng lăng, nên dù có hành động ở gần cũng chẳng ai nghi ngờ gì."

Theo phép, quan tài không được đặt xuống đất, Lục Lệnh Chương bèn dùng loan giá của thiên tử làm nơi đặt tạm. Sau đó gã gọi vài thái y theo quân ra ngoài thành đến - đứng đầu là Tần Viện phán mà nhà họ Ngô tiến cử, hỏi: "Nến làm như thế nào, chắc là Tần đại nhân chẳng cần trẫm phân phó đâu nhỉ?"

Chúng thần nghe vậy, tự hiểu là phải mở quan tài kiểm tra di cốt công khai, lúc này đều không kìm được nữa, quỳ gối dập đầu, đồng thanh hô lên: "Không được đâu bệ hạ!"

Đào phần mộ của tiên đế, mở nắp quan tài khám nghiệm tử thi, chuyện này đủ để gọi là chấn động tày trời, khiến người đời khiếp sợ. Vương Thục lạnh lùng cảnh cáo: "Nếu hôm nay bệ hạ thật sự làm như vậy, sẽ khó thoát khỏi tiếng xấu là kẻ hành động điên loạn, báng nghịch luân thường, danh hiếu đễ cũng không gánh nỗi, chỉ sợ khó mà trở thành minh quân được người đời ca tụng!"

Nhưng hiển nhiên, Lục Lệnh Chương vẫn phớt lờ lão, gã không quan tâm đến những tiếng phản đối của triều thần xung quanh, càng không quan tâm tương lai sử quan sẽ dùng bút pháp Xuân Thu để viết về sự "hoang đường" của mình như thế nào.

Gã chỉ nhìn thẳng vào mắt Vương Thục một cách quái dị, mãi lâu sau mới cong môi cười, lạnh giọng quát: "Mở nắp quan tài!"

Mặc dù Tuyên Thất đã xử lý qua cỗ quan tài vàng trước khi vận chuyển ra ngoài, nhưng vẫn không thể ngăn được mùi hôi thối bốc lên ngay khi nắp quan tài bật mở. Đám binh sĩ đều vội vàng bịt mũi, các triều thần cũng giơ tay áo che mặt, chẳng ai dám cả gan nhìn thẳng "long nhan". Chỉ có Lục Lệnh Chương và Vương Thục là không nhúc nhích, ánh mắt ghim chặt vào quan tài không rời.

Tiên đế băng hà vào mùa đông, lại vì chính biến mà phải vội vã nhập liệm, an táng qua loa, vì vậy khi ấy thi thể chưa kịp phân hủy bao nhiêu. Từ đó đến nay vẫn chôn sâu dưới lòng đất, dù đã bốn năm trôi qua, dấu vết vẫn chưa hoàn toàn biến mất.

Tần thái y cùng các thái y kiểm tra hồi lâu, rồi thì thầm trao đổi với nhau vài câu trước khi ngự tiền bẩm báo: "Bẩm bệ hạ, bên trên di cốt của tiên đế đúng là có vết tím bầm lan rộng khắp người, nếu vi thần nhớ không lầm, thì đây giống như một loại kỳ độc ở Điền Trung, tên gọi là 'Tích Cốt Huyền', có thể hạ độc bằng cách dẫn độc vào cơ thể người thông qua một sợi chỉ, độc phát tác rất chậm, thời gian ít nhất là một tháng, nhưng một khi trở nặng sẽ rất khó chữa, thập tử vô sinh."

Sau khi nghe xong, quần thần bắt đầu nhao nhao như sẩm nổ, nếu như nhóm Tần thái y nói không sai, thì thứ khiến cho tiên đế triền miên trên giường bệnh lúc tuổi già vốn chẳng phải là "bệnh", mà là "độc", rõ ràng tiên đến không hề bệnh mất như triều dã đã đồn đoán!

Trong đám đông lập tức có người lên tiếng: "Trong những năm cuối đời của tiên đế, hầu hạ bên cạnh ngài chỉ có các nội giám và cung nhân, còn lại chẳng phải chỉ có Thái hậu và Ngô Thái phi nương nương thôi hay sao?"

Có người phản bác lại ngay: "Chư vị cũng đừng quên, đây chính là độc Điền Trung, chúng ta mới được nghe lần đầu, cũng chưa từng được thấy tận mắt, hai vị nương nương, nô bộc và tỳ nữ ở sâu trong cung thì lấy được thứ này từ đâu chứ?"

Vương Thục chẳng để ý quần thần mồm năm miệng mười tranh luận, chỉ giương mắt, u ám nói với Lục Lệnh Chương: "Trước khi lâm chung, hầu hạ tiên đế trong điện chỉ có nội giám Chung Triệu và Trương Thái phó, Chung Triệu từ ngày đó cũng đã bặt vô âm tín, không chừng chính lão ôm lòng đại nghịch bất đạo, hạ độc giết vua rồi sợ tội bỏ trốn!"

Lục Lệnh Chương không tỏ thái độ gì, chỉ đột nhiên giơ tay lên, không nhanh không chậm bắt đầu cởi bỏ long bào, đến áo ngoài, trung y, ngay cả lớp che chắn cuối cùng là lý y cũng bị c** s*ch.

Cuối cùng, đập vào tầm mắt của tất cả mọi người là nửa thân trên tr*n tr** của vị thiên tử trẻ tuổi. Mà trên làn da trắng nhợt như mang bệnh ấy chi chít những mảng máu bầm loang lổ, xanh tím đan xen, thậm chí có chỗ đã lở loét. Trên cẳng tay phải của gã có một vệt máu tụ màu tím sẫm kéo dài như sợi dây mảnh, giống hệt tình trạng Tích Cốt Huyền không thể rút bỏ mà Tần thái y đã miêu tả.

"Cậu à," Lục Lệnh Chương phảng phất như đang cười, "Chung Triệu đã chẳng rõ tung tích. Vậy chẳng lẽ những dấu vết trên người trẫm cũng là do ông ta hạ độc hãm hại hay sao?"

Từ trên Dao đài nhìn xuống, Tạ Cánh có thể thấy rõ tất cả những việc diễn ra ở bên dưới. Đã qua bảy ngày kể từ đêm mùng bảy tháng này, Vương Thục vẫn không cho Thôi Thục Thế đổi chỉ Tích Cốt Huyền mới cho y.

Chuyện này, từ việc Vương Thục âm thầm mượn binh của Quận thủ Hoài Dương, phái Vương Khế đi lấy lương thảo, đến tin tức "thiên tử sẽ rời thành nghênh đón linh cữu Trưởng công chúa", từng mảnh ghép chồng lên nhau đủ để Tạ Cánh đoán ra được, Vương Thục hẳn đã đoán trước phủ Chiêu Vương sẽ nhân cơ hội này ra tay với lão, cho nên mới phòng bị từ sớm.

Cánh tay phải bị dây thừng trói chặt của y đã bắt đầu tím tái dần, thỉnh thoảng lại nhói lên từng cơn đau như bị kim châm. Khoảnh khắc trông thấy thân trên của Lục Lệnh Chương, y đã hoàn toàn hiểu rõ, nếu không tìm được cách đổi chỉ Tích Cốt Huyền, kết cục đang chờ đợi y sẽ là gì.

Như mọi người chứng kiến, Lục Lệnh Chương giống với tiên đế năm xưa, cũng như Thôi Thục Thế và Tạ Cánh, gã bị cậu ruột của mình hạ độc bằng Tích Cốt Huyền.

Thôi Thục Thế cũng chính là người mỗi tháng thay Tích Cốt Huyền cho gã. Và thỏa thuận giữa nàng ta với Lục Lệnh Chương rất có thể đã bắt đầu từ chính cơ hội này.

Tình trạng trên người Lục Lệnh Chương bây giờ, xem ra ít nhất cũng gần trăm ngày không được thay chỉ mới, độc đã ăn sâu vào tận xương, không còn cách nào cứu vãn được nữa. Nhìn vẻ mặt khiếp sợ của Vương Thục, có thể thấy rằng lệnh "ngừng thay chỉ" này không phải do lão truyền đạt.

Vậy thì chỉ có thể là ý của Lục Lệnh Chương.

Là gã lệnh cho Thôi Thục Thế ngừng thay chỉ Tích Cốt Huyền cho mình, để mặc cho độc kia phát tác đến tình trạng nhìn thấy mà giật mình, khó lòng cứu chữa này, khiến nó trở thành vật chứng hữu dụng nhất, để ngày giờ này thẳng thừng lật đổ phủ Tướng!

Mà với sự hiểu biết của Tạ Cánh về Thôi Thục Thế, nàng ta sẽ không ngăn cản Lục Lệnh Chương làm như vậy.

Hai người họ đã thỏa thuận thành công sau khi Lục Lệnh Chương đăng cơ không lâu, vậy nên Thôi Thục Thế cũng đã sớm biết, một ngày nào đó Lục Lệnh Chương sẽ dùng tính mạng của mình để lật đổ Lang Gia Vương thị. Kể từ đó, đế vị sẽ tự nhiên rơi vào tay phủ Chiêu Vương - điều Thôi Thục Thế muốn chính là nâng đỡ quân chủ của Thanh Hà Thôi thị, đây mới là nguyên nhân chính khiến nàng ta chọn giúp đỡ Tạ Cánh, cũng như liên minh với phủ Chiêu Vương!

Quần thần còn chưa kịp hoàn hồn sau cú sốc thiên tử ra lệnh khai quan, lại lập tức bàng hoàng khi biết cả tiên đế lẫn hoàng đế đương triều đều bị hạ độc bằng "Tích Cốt Huyền", một người đã mất mạng vì độc, người còn lại e cũng chẳng sống được bao lâu nữa, lúc này không ai còn đủ sức bày tỏ sự ngạc nhiên hay ngờ vực, cả bãi sông chìm trong sự im lặng đầy bất lực.

Lục Lệnh Chương lại chẳng buồn bận tâm liệu bọn họ có chấp nhận nổi sự thật hay không, càng không định cho họ thời gian để suy tính xem nên đứng về phía nào. Gã chỉ khoác hờ lại y phục, rồi cất giọng với hàng vạn quân thần và tướng sĩ trước mặt:

"Phu nhân Thôi thị - vợ con trai thứ của Vương Thục có thể làm chứng. Năm Trinh Hữu thứ mười lăm, Vương Thục tình cờ có được công thức điều chế Tích Cốt Huyền, không lâu sau đó, ông ta thông đồng với Thái hậu dùng loại độc này để hãm hại tiên đế. Trẫm đăng cơ chưa lâu, ông ta lại giở trò cũ, một lần nữa hạ độc trẫm bằng loại kỳ độc này. Ông ta dùng nó để uy h**p trẫm phải giao hết đại quyền triều chính vào tay mình, để rồi khuấy động triều đình, giúp nhà họ Vương độc đại!"

"Trẫm nghe nói, sĩ tộc Giang Nam trong kinh thành đã dâng sớ, liệt kê mười mấy trọng tội của phủ Tướng. Giờ lại thêm tội danh mưu hại hai đời quân chủ, ôm mộng cướp nước đoạt chính quyền, thì dù giả truyền quân lệnh có phải do Tạ khanh làm hay không cũng chẳng thay đổi được sự thật: Nghiệp chướng của phủ Tướng nặng như núi, chỉ có thể giết sạch không tha!"

Rồi gã bỗng xoay người lại, gọi Lục Lệnh Tùng một tiếng như đinh chặt sắt: "Chiêu Vương!"

Lục Lệnh Tùng tức thì hiểu ý, nửa quỳ hành lễ đáp: "Có thần!"

"Hôm nay trẫm giao cho hoàng huynh trọng trách thanh quân trắc, dẫn quân Hổ Sư bắt giữ nghịch tặc Vương Thục cùng hai con trai của ông ta! Quân kinh kỳ nhận mệnh của phủ Tướng, theo trẫm xuất thành những ngày qua từ giờ lập tức quy về dưới trướng hoàng huynh!"

Phía sau, quân kinh kỳ vừa nghe thánh chỉ lập tức xôn xao nghi hoặc, không biết nên phục tùng thiên tử hay tiếp tục trung thành với vị chủ cũ đã bị vạch tội. Nhưng Lục Lệnh Tùng chẳng nghĩ ngợi thêm, lúc này chỉ huy quân xông thẳng qua bên kia sông, bao vây Vương Thục, Vương Hề và vây cánh, sau đó nói với quân kinh kỳ: "Các ngươi suy nghĩ cho kỹ, Vương Khế chỉ cần về đến đây là sẽ trở thành tội phạm bị bắt giam chờ chết. Lương thảo hắn vận chuyển sẽ lập tức sung vào quốc khố, nếu các ngươi không muốn nghe lệnh thiên tử, cũng chẳng muốn chịu sự quản lý của bổn vương thì cứ việc vờ câm vờ điếc, án binh bất động, chỉ là đừng sợ đến lúc đó phải chết đói ngoài thành thôi!"

Chúng tướng sĩ nghe lời ấy, lại thấy phủ Tướng đúng là đã không thể cứu vãn, Chiêu Vương và các thuộc hạ lại dũng mãnh, giằng co đến tận giờ bất quá cũng chỉ vì không nỡ xuống tay tàn sát đồng bào, bận tâm giữ gìn thanh danh và chính thống mà thôi, nếu như nghiêm túc đánh nhau sợ là không có kết cục tốt đẹp. Thế là ai nấy nhao nhao tiến lên, cởi kiếm quỳ xuống, bày tỏ lòng quy thuận.

Lục Lệnh Tùng lệnh trói đám người Vương Thục lại, sau đó đến trước mặt Lục Lệnh Chương, nói: "Bẩm bệ hạ, ngày đó dù thần có hoài nghi về nguyên nhân cái chết của phụ hoàng, nhưng bởi vì phủ Tướng lạm quyền, không dám hỏi rõ, chỉ đành phải đưa Chung Triệu rời khỏi kinh thành, tiến hành thẩm vấn. Nhưng sau đó Chung Triệu cũng bị diệt khẩu, giờ đã không còn trên nhân thế."

"Xin bệ hạ chỉ thị, có cần lập tức lên đường về kinh, hỏi tội bỏ ngục phủ Tướng hay không?"

Lục Lệnh Chương vẫn đứng thẳng tại chỗ, bình tĩnh từ đầu đến cuối: "Đừng vội, nếu hôm nay đã kinh động đến giấc ngủ của phụ hoàng, vậy thì phải tra xét đến ngọn nguồn sự việc, tránh cho ngày sau lại rối loạn."

Rồi gã bỗng chuyển tầm mắt về phía các thái y đang vây quanh quan tài vàng, hỏi sâu xa: "Tần Viện phán, ông còn tra được gì nữa?"

Tần thái y cẩn trọng đáp: "Bệ hạ, theo vi thần suy tính, chỉ độc Tích Cốt Huyền dù được hạ khi tiên đễ vẫn còn sống, nhưng độc phát tác không thể ngăn chặn, xem mức độ ăn mòn vào trong xương thì giống như là người chết rồi độc mới ngầm dần."

"Hửm?" Lục Lệnh Chương nghiền ngẫm hỏi, "Ý ông nói, đúng là phủ Tướng đã hạ Tích Cốt Huyền cho phụ hoàng, nhưng khi phụ hoàng còn sống độc tính vẫn còn được kiểm soát, chưa đến nỗi giống như trẫm bây giờ sao?"

"Đúng vậy," Tần thái y nơm nớp lo sợ đáp, "Vi thần tìm thấy được một vết thương trí mạng do bị va đập ở dưới hàm của tiên đế, nếu không vì điều gì khác, thì đây mới là nguyên nhân cái chết của ngài."

"Như vậy," Lục Lệnh Chương lẩm bẩm, "Là đột tử, chết oan à."

Gã trầm ngâm một lát, đột nhiên chậm rãi quay mặt đi, dùng ánh mắt sắc như móc câu nhìn về hướng nào đó ở phía các quần thần: "Chung Triệu đã chết rồi, vậy người từng giây từng phút canh giữ bên phụ hoàng lúc lâm chung, sau đó một tay chủ trì việc khâm liệm, cũng chỉ còn mỗi mình ngài thôi đấy..."

Lục Lệnh Chương mặt không đổi sắc đối diện với Trương Diên: "... Thái phó?"
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 106


《 25.4 》

Trương Diên bước ra khỏi đám người, biểu cảm chẳng hề hoảng loạn, chậm rãi quỳ xuống trước mặt Lục Lệnh Chương, nói: "Thần thẹn vì được tiên đế giao phó trọng trách, trong lòng vô cùng run sợ. Có một lời, thần vốn định mang theo xuống suối vàng, nhưng nay tội trạng của phủ Tướng đã bị vạch rõ, bệ hạ lại một lòng hiếu thảo, đến hôm nay, thần chỉ sợ không thể không nói ra."

Lục Lệnh Chương nhìn Trương Diên một lát rồi vươn tay đỡ lấy khuỷu tay ông: "Thái phó lớn tuổi rồi, bình thân đi."

"Tạ ơn bệ hạ niệm tình." Trương Diên đứng lên, không nhanh không chậm nói, "Một đêm tháng Giêng năm Trinh Hữu thứ mười sáu, tiên đế bỗng nhiên cho gọi thần vào cung gấp... Nội giám Chung Triệu chặn được mật hàm của phủ Tướng, Lang Gia Vương thị nóng vội muốn ôm lấy trữ vị, tiên đế không cho phép, vì vậy Vương Thục đã bàn bạc với Thái hậu, muốn tìm cơ hội hạ Tích Cốt Huyền cho ngài."

"Tiên đế tin cậy thần nên mới thẳng thắn bày tỏ mọi chuyện. Thần đương nhiên cũng muốn máu chảy đầu rơi, lo lắng hết lòng. Vì vậy, thần đã hiến kế, xin ngài cứ thế nghe theo, mặc kệ nhà họ Vương tự cho rằng đã hạ độc thành công, lơ là cảnh giác. Sau đó cáo bệnh để tránh đánh rắn động cỏ, giả vờ nặng dần, đợi đến khi nắm được chứng cứ xác thực tội phản nghịch của phủ Tướng, lúc đó nhổ cỏ tận gốc cũng chưa muộn."

"Sở dĩ thần dám lấy long thể ra đánh cược, là vì vợ thần lúc sinh thời yếu ớt lắm bệnh, bệnh lâu thành thầy. Thần tìm kiếm đủ loại thuốc hay, từng thấy ghi chép về loại độc này trong y thư, cũng biết rằng nếu định kỳ thay dây tẩm độc, thì độc sẽ không lan sâu đến mức nguy hại đến tính mạng."

"Tiên đế chấp thuận ngu kiến của thần, vậy nên như chư vị đã biết, ngày mười bảy tháng Giêng năm Trinh Hữu thứ mười sáu, tiên đế đột nhiên trở bệnh, 'bệnh' một trận suốt hai năm trời."

Tạ Cánh nhìn Trương Diên, sắc mặt đông cứng lại. Ngày "mười bảy tháng Giêng" này y nhớ rất rõ ràng - vào đêm giao thừa cách đó không lâu, y đã lén dẫn hai đứa trẻ chuồn ra ngoài chơi, lòng nơm nớp lo sợ trong cung trách phạt mà cuối cùng lại chẳng sao, sau đó nhận được tin tiên đế ngã bệnh, khi đó y còn thầm thở phào nhẹ nhõm.

Nhưng rồi Tạ Cánh bỗng cảm thấy Trương Diên giờ phút này trở nên vô cùng lạ lẫm, điều này rất khó nói, nhưng ông của bây giờ trông lạ hơn nhiều so với người thầy mà y quen thân, qua lại nhiều năm.

Vài ngày trước, hay nói đúng hơn là ngày mùng chín tháng Sáu, một ngày trước khi thiên tử dẫn đầu trăm quan ra khỏi thành nghênh đón linh cữu Trưởng công chúa, Trương Diên đã gửi cho y một bức thư, trên thư chỉ viết một đoạn trích từ sách sử cũ:

"Xưa kia Tuyên đế phế Tào Sảng, mời Thái úy Tưởng Tế về chung chiến tuyến, tăng thêm uy thế và trọng vọng."

Tạ Cánh đọc xong bỗng dưng rùng mình. Vào thời điểm chuyển giao hai nhà Ngụy - Tấn, khi Tư Mã Ý phế Tào Sảng, ông đã dẫn theo Thái úy Tưởng Tế - người nắm giữ quyền chỉ huy cấm quân suốt mười bốn năm đi cùng, nhằm gia tăng thanh thế và phần thắng, khiến cho ba quân khiếp sợ.

Trương Diên dùng những lời này nhắc nhở y, cũng là để bóng gió hỏi thăm kế hoạch khởi sự và sắp xếp của phủ Chiêu Vương, hơn nữa còn ám chỉ, nếu cần thiết có thể cùng ông ấy hợp mưu, để "tăng thêm uy thế và vọng trọng".

Bây giờ nghĩ lại, không chỉ có Vương Thục nghi ngờ phủ Chiêu Vương sẽ nhân cơ hội này chất vấn mà sớm liên hệ Trình Văn xuất binh, Trương Diên cũng đã tính được phủ Chiêu Vương sẽ lợi dụng thời cơ để khởi sự từ trước.

Nhưng lúc đó Tạ Cánh đang chìm trong tin dữ Lục Lệnh Chân qua đời, tinh thần sa sút, thứ nhất là y thật sự không biết kế hoạch của Lục Lệnh Tùng, thứ hai là không có sức đáp lại.

Mà y còn chưa kịp gửi thư tạ lỗi, biến cố đã xảy ra.

"Đến tháng Chạp năm Trinh Hữu thứ mười bảy, triều cục rối ren, Vương thị ngày càng hống hách. Đúng lúc ấy, vụ án nhà họ Tạ bí mật tàng trữ ngọc tỷ Lam Điền bại lộ, Vương Thục là người đứng ra thẩm tra vụ án này nhưng lại lấy công mưu tư, giết hại người vô tội, tùy tiện bắt bớ tội liên đới. Tiên đế cùng thần thương nghị, cho rằng đã đến lúc thu lưới, quyết định chờ sau khi nhà họ Tạ bị kết tội sẽ lập tức ra tay xử lý nhà họ Vương."

Tuy đã sớm đoán được tiên đế sẽ có ý định này, nhưng khi nghe Trương Diên dửng dưng kể ra câu chuyện "thỏ khôn chết, chó săn bị nấu" như vậy, Lục Lệnh Tùng vẫn không khỏi cảm thấy ghê tởm.

Đêm lục soát ngõ Ô Y, hắn vào điện Thần Long điện yết kiến, tự tay phế bỏ Tạ Cánh. Khi ấy thần sắc, lời nói và áp lực mà tiên đế thể hiện hoàn toàn chẳng giống dáng vẻ của một người sắp chết chút nào, hắn thật sự đã từng hoài nghi, nhưng vì quá đỗi hoang đường nên chỉ đành giữ kín trong lòng, không dám nhắc đến.

"Tiên đế đã ban cho thần chiếc nhẫn ban chỉ sừng tê mà ngài mang bên mình nhiều năm, lệnh thần lấy nó làm tín vật, tùy cơ hành động, có thể điều động hai đội quân Vũ Lâm vốn nằm dưới sự kiểm soát của phủ Tướng. Để đánh lừa nhà họ Vương, tiên đế thậm chí còn tự tay viết sẵn di chiếu, giao cho Chung Triệu giữ gìn cẩn thận, đợi đến khi ngài 'băng hà' sẽ công bố ra thiên hạ. Một khi phủ Tướng lợi dụng di chiếu lộng quyền gây chuyện, ta lập tức có lý do hốt gọn cả ổ."

"Nhưng mà, đến chiều ngày thứ ba sau khi Tạ gia bị giam vào ngục, thần theo lệ vào cung thỉnh an, đúng như Tần thái y chẩn đoán, tiên đế đã bị kẻ khác dùng hung khí sát hại, đột ngột qua đời."

"Phủ Tướng bận thừa cơ hãm hại Trần quận Tạ thị, nâng đỡ bệ hạ thượng vị để củng cố quyền thế nhà mình, chỉ mong tiên đế sớm ngày ngưng thở, vậy nên cũng không kiểm tra lại di thể của ngài ấy, chỉ trao toàn quyền xử lý tang lễ cho thần và Hồng Lư tự."

"Đêm đó, sau khi phát hiện tiên đế bị ngộ sát, trong điện Thần Long chỉ có mỗi Chung Triệu ở bên cạnh ngài. Nhưng thần còn chưa kịp hỏi kĩ ngọn nguồn, Chung Triệu đã biến mất chẳng rõ tung tích."

Ông giương mắt nhìn Lục Lệnh Tùng: "Bây giờ mới biết, hóa ra là bị Chiêu Vương điện hạ tự mang đi thẩm vấn."

Những lời Trương Diên nói ra không hề có sơ hở, thời gian trước sau, các sự kiện lớn nhỏ, từng chi tiết đều khớp với ấn tượng của mọi người. Thế nhưng, dù nguyên nhân có rõ ràng đến đâu, "kết quả" cuối cùng vẫn mơ hồ - ông không biết ai mới là hung thủ thật sự đã sát hại tiên đế, cũng không hề điều tra hay chiêu cáo thiên hạ. Trong lời nói ẩn ý ám chỉ Chung Triệu có liên quan, nhưng điều đó lại mâu thuẫn với lòng trung thành và tận tân mà Chung Triệu luôn thể hiện với tiên đế, khiến người ta cảm thấy hoang mang.

Lục Lệnh Chương nghe xong, suy nghĩ một lúc rồi hỏi lại: "Vậy theo lời Thái phó, người ở Hồng Lư tự hẳn cũng đã từng thấy dấu vết bất thường trên thi thể phụ hoàng sao?"

Trương Diên điềm tĩnh đáp: "Phải mất ít nhất năm, sáu ngày, Tích Cốt Huyền mới lan ra ngoài da. Vì vậy khi tiên đế qua đời, trên người không hề có dấu vết rõ ràng. Hung thủ lại dùng vật cùn để ra tay, nên vết thương dưới cằm của ngài chẳng mấy nổi bật, chỉ tụ máu bên trong, nhìn bên ngoài thi thể sẽ không thấy được, nhưng trên hài cốt thì lại thấy rất rõ. Hồng Lư tự khi ấy chỉ cho rằng tiên đế không vượt qua được bạo bệnh mà rời khỏi nhân gian, tất nhiên không dám tự tiện kiểm tra thi thể, đó là hành vi đại bất kính."

Ánh mắt hai người giao nhau, không ai nhường ai dù chỉ một chút. Một lát sau, Lục Lệnh Chương bỗng bật cười khẽ: "Xem ra, hung thủ giết hại phụ hoàng tạm thời khó mà tra ra được rồi. Nhưng còn hung thủ giết hại hoàng tỷ, trẫm cũng có vài chuyện muốn hỏi Thái phó."

Trương Diên cúi mình đáp: "Thần nhất định biết gì nói nấy."

"Vừa rồi cậu nói muốn dùng hình tra hỏi tung tích con dấu riêng của Tạ khanh, theo trẫm thấy, chuyện này e là không cần thiết nữa."

"Vì con dấu đó," Lục Lệnh Chương rút một vật ra khỏi tay áo, giơ lên cho mọi người xung quanh nhìn, cao giọng nói: "Đang ở chỗ trẫm đây!"

Chúng thần xôn xao, Lục Lệnh Chương lệnh cho nội giám mang con dấu cùng bức thư kia đến, đặt cạnh nhau để đối chiếu rồi truyền cho các đại thần xem xét, kiểm tra thực hư.

"Vài ngày trước, thế tử của Chiêu Vương vào cung gặp trẫm, nói rằng nó từng thấy bức thư giả mạo quân tình, hại chết hoàng tỷ do Thái thú Ung Châu Hà Cáo gửi về, thậm chí còn biết rõ tung tích của con dấu riêng đóng trên thư... Bốn năm trước, Tạ khanh chịu tội bị phế, khi rời khỏi vương phủ y đã để lại con dấu này. Thế tử nhìn vật nhớ người, từ đó vẫn luôn mang theo bên mình."

"Theo lời thế tử, nó đã giấu con dấu này trong túi hương của mình, ngay cả Thái phi và hoàng huynh cũng không hề hay biết, bốn mùa không rời người, mỗi ngày đều kiểm tra, con dấu chưa từng bị mất lần nào."

"Như vậy, cần phải là người có thể thường xuyên tiếp cận thế tử, lại không khiến nó đề phòng, mới có khả năng nhân lúc cần thiết nhanh chóng lấy trộm con dấu riêng, sau đó lặng lẽ trả về chỗ cũ mà không để nó phát hiện có điều gì bất thường."

Lục Lệnh Chương quay sang nhìn Trương Diên: "Những năm qua Thái phó đích thân dạy dỗ thế tử học hành, sớm chiều bên cạnh, có thể nói là tận tâm tận lực."

"Vậy thì," ánh mắt hắn trầm xuống, "Người có thể tự do ra vào Thượng thư đài, tiếp cận thế tử để lấy cắp con dấu, đồng thời giả mạo Khứ Hà thể đến mức khó phân thật giả... Thái phó có manh mối gì không?"

Trương Diên chậm rãi nhấn từng chữ: "Đáp án mà bệ hạ muốn, chẳng phải đã nằm ngay trong câu hỏi này rồi sao?"

Lục Lệnh Chương khẽ sững người, nhíu mày chất vấn: "Chẳng lẽ Thái phó muốn nói với trẫm rằng, quân cơ giả mạo kia là do thế tử giả truyền, tự giữ tự trộm con dấu hay sao? Thế tử năm nay mới chỉ có mười bốn tuổi thôi!"

Trương Diên cười lạnh một tiếng: "Tuổi tác thì có gì quan trọng? Thời Tần, Cam La mười hai tuổi đã bái thượng khanh. Thế tử vừa sinh ra đã mang danh Gia Thụy, thông minh thanh tú, tài đức vẹn toàn, trong kinh thành có ai chẳng biết? Ba điều kiện bệ hạ vừa nhắc tới, thế tử có điểm nào không thỏa mãn chứ?"

"Con dấu là do thế tử giữ, điều này vốn không cần phải bàn đến; thế tử theo thần học chính sự, luyện tập sách lược vấn đối, thường xuyên ra vào Thượng thư đài, các quan lại sớm đã quen mắt. Mà Khứ Hà thể vốn là chữ viết của mẹ ruột thế tử, muốn tìm chữ gốc để luyện tập phỏng theo thì dễ như trở bàn tay! Thần từng tận mắt thấy bản chép tay Khứ Hà thể của thế tử trong thư phòng ở Lan đài trong cung, chứng cứ rành rành, nếu bệ hạ không tin có thể lập tức đến kiểm tra!"

Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng đồng loạt biến sắc. Lục Lệnh Tùng lập tức rút kiếm khỏi vỏ, mũi kiếm chỉ thẳng vào Trương Diên: "Thái phó ăn nói cẩn thận! Con trai bổn vương luôn kính trọng ông, coi ông như bậc trưởng bối trong nhà, vậy mà Thái phó lại dùng lời bịa đặt này để vu hãm một đứa trẻ hay sao?"

Có triều thần cũng lên tiếng: "Lời Thái phó nói đúng thật là vô lý! Thế tử thân thiết với Trưởng công chúa từ nhỏ, nay ngài lại nói thế tử là người đẩy cô ruột của mình vào chỗ chết, làm sao văn võ bá quan cả triều có thể tin phục đây?"

Lục Lệnh Chương vẫn giữ nguyên vẻ bình thản, chỉ nâng tay ngăn cản những tiếng xôn xao, hỏi:

"Nếu con dấu riêng này vốn dĩ không nằm trong tay Tạ khanh, Thái phó lại khẳng định chắc nịch rằng kẻ giả truyền quân tình là thế tử, vậy trẫm có thể hiểu rằng, tội danh của Tạ khanh đã được rửa sạch rồi phải không?"

Trương Diên khựng lại trong giây lát, rồi gật đầu, giọng chắc nịch: "Phải."

Lục Lệnh Chương lập tức phân phó thị vệ: "Vậy thì cởi trói cho Tạ khanh, mời y đến ngự tiền đối chất."

Hạc Vệ đã nhận lệnh Lục Lệnh Tùng, canh giữ sát bên Dao đài từ lâu, lúc này vội vàng tiến lên tháo dây trói cho y. Tạ Cánh chẳng màng đến vẻ ngoài lộn xộn hay cơn đau âm ỉ trên cánh tay mình, vội chạy xuống lầu, thậm chí chẳng kịp nhìn Lục Lệnh Tùng lấy một cái, run giọng hỏi Trương Diên: "... Thầy, bức thư giả truyền quân cơ là do thầy viết, đúng không?"

Trương Diên không đáp, y lại càng thêm gấp gáp: "Mảnh giấy tiết lộ cho nhà họ Vương biết nơi cất giấu di chiếu thật của tiên đế cũng là thầy viết, có đúng không?"

Vừa rồi, trong lời tự thuật, Trương Diên đã cố ý né tránh trọng điểm, lướt qua chuyện di chiếu thật giả và người thừa kế mà tiên đế thực sự chọn là ai. Bởi vậy vừa nghe hết lời Tạ Cánh nói, mọi người đều ngạc nhiên, đưa mắt nhìn nhau.

Lục Lệnh Tùng thấy trạng thái của Tạ Cánh không ổn, có dấu hiệu mất kiểm soát, bèn tiến lên vài bước, kín đáo đứng ở vị trí có thể thuận tiện đưa tay kéo y lại khi cần.

Mà Tạ Cánh vẫn điên cuồng hét lên từng tiếng: "Chung Triệu, Đinh Ngọc và Đinh Giám là thân quyến còn sót lại của các cựu thần Đông cung sau Quân Giới án. Thầy là người cứu bọn họ, thầy sai chị em Đinh Ngọc lần lượt ám sát Chiêu Vương, bắt cóc Thanh Nhi, lại thông đồng cùng Chung Triệu đánh cắp ngọc tỷ Lam Điền để vu oan cho nhà họ Tạ - thầy, có phải như vậy không?!"

Y gào thét đến nỗi tưởng như trái tim như bị xé toạc, cuối cùng chợt nhận ra bản thân vẫn không thể sửa được cách gọi "thầy" đầy kính trọng mà mình đã luôn treo trên môi từ năm mười sáu tuổi.

Trương Diên để mặc cho Tạ Cánh ép hỏi, mãi lâu sau cũng chỉ lạnh lùng nói: "Giết hắn, cũng chỉ vì cứu con mà thôi."

Tạ Cánh thoáng sững sờ, hoảng hốt lùi lại hai bước. Năm đó, ở nhà cũ của Đinh gia, Đinh Ngọc từng nhắc đến kẻ vô danh muốn giết Lục Lệnh Tùng và Lục Thư Thanh. Nàng ta đã thuật lại nguyên văn lời của "hắn" rằng: "Người đó nói, làm tất cả những chuyện này là để cứu người. Giết bọn họ, cũng chỉ vì cứu người."

Mà giờ đây, người đó đã chính miệng nói câu ấy với y.

Đang lúc giằng co, bỗng nhiên một thám tử của quân kinh kỳ phóng ngựa lao đến, gấp gáp bẩm báo: "Bẩm bệ hạ, Quận thủ Hoài Dương Trình Văn đã dẫn binh đến, hiện đang đóng quân ở bên kia bờ sông!"

Các tướng lĩnh lập tức quay đầu nhìn lại, quả nhiên, phía xa bãi bồi ven sông lờ mờ hiện ra từng lớp binh mã dày đặc, cờ hiệu phấp phới in rõ chữ "Trình" to tướng.

Mà đi đầu đội ngũ, trước ngựa của Trình Văn dường như còn có một người đang đứng lẻ loi.

Quần thần còn đang mơ hồ chưa hiểu chuyện gì, nhưng Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh gần như đã lập tức nhận ra bóng người kia -- đó chính là con trai họ, Lục Thư Thanh, người đáng lẽ đã được đưa đi khỏi Kim Lăng từ lâu!

Giọng nói của Trương Diên vang lên: "Bệ hạ, Thế tử giả tạo quân tình, thông đồng với địch phản quốc. Thần đã ra lệnh cho Quận thủ Hoài Dương Trình Văn bắt giữ, chờ đợi xử trí."

Lời chưa dứt, Lục Lệnh Tùng đã lạnh lùng cất giọng: "Trình Văn là người của ông!"

Trương Diên bật cười nhạt: "Đâu chỉ Trình Văn." Trương Diên mỉm cười, "Tất cả cựu thần Đông cung còn sót lại sau Quân Giới án năm Kiến Ninh thứ mười hai đều là người của ta!"

"Ông không muốn mưu đoạt ngôi vị," Lục Lệnh Chương dùng ánh mắt sắc bén nhìn Trương Diên, "Nhưng hết lần này đến lần khác nhằm vào thiên gia, ám sát hoàng huynh, bắt cóc thế tử, giết phụ hoàng, hại hoàng tỷ -- Thái phó, rốt cuộc ông muốn gì? Các ông muốn gì?"

"Ta muốn cái gì, bọn ta muốn gì ư?" Trương Diên quát lên, "Bất cứ lão thần nào ở đây từng tận mắt chứng kiến thảm án năm đó, chẳng lẽ trong lòng các ông không rõ sao?"

Ông ta nhìn Lục Lệnh Chương giễu cợt: "Bệ hạ còn quá trẻ, nếu như hôm nay vẫn giữ được mạng hồi cung, chẳng bằng ngài cứ thẩm vấn Vương tướng, hỏi cả Thái hậu mà xem, thử hỏi bọn họ mà xem năm đó hơn trăm mạng người, thân thích của các cựu thần Đông cung bị Lan Lăng Tiêu thị khống chế cuối cùng có kết cục gì! Cha ngươi, mẹ ngươi, mẫu tộc của ngươi, tổ mẫu ngươi và cả những thế gia đại tộc mà giang sơn họ Lục ngươi cậy nhờ rốt cuộc đã gây ra những tội nghiệt tàn khốc gì!"

Trình Văn rõ ràng không quyết đoán như Trương Diên, việc bắt giữ Thế tử có vẻ cũng chẳng phải do lão tự nguyện. Dù vậy, giọng nói của lão vẫn có hơi yếu ớt: "Trương Thái phó truyền tin cho thần, nói rằng thế tử bị nghi dính líu đến trọng tội mưu hại Trưởng công chúa, lại đang trên đường trốn khỏi kinh thành, lệnh thần bắt giữ thế tử áp giải đến đây. Còn quận chúa cùng các tùy tùng đồng hành cùng thế tử, thần không hề làm tổn thương một ai, đã thả bọn họ đi rồi..."

Lục Lệnh Tùng lập tức nói: "Trình Văn, ông thả thế tử ra, bổn vương đảm bảo giữ nguyên chức vị của ông, cũng không thu lại binh mã dưới trướng ông!"

Nhưng Trình Văn chỉ khẽ lắc đầu: "Điện hạ thứ tội, thần không muốn gia quan tấn tước, cũng chẳng cần giữ quân quyền. Thần chỉ muốn báo thù cho người vợ đã bị cuốn vào quyền đấu của hoàng thất rồi chết oan mà thôi."

Hàn quang trên lưỡi đao của Trình Văn lạnh đến rùng mình, treo lơ lửng trên đỉnh đầu Lục Thư Thanh: "Thiên gia đồ sát người thân của bọn ta, bọn ta chỉ đành lấy máu trả máu, giết sạch huyết mạch thiên gia."

"Nếu điện hạ ngài," Lão bình tĩnh nhìn anh em Lục Lệnh Tùng, "Hoặc là bệ hạ, ai bằng lòng đến đây thế mạng cho thế tử, thần sẽ tạm thả người."

Lục Lệnh Tùng muốn đi về phía bờ sông, nhưng bị Lục Lệnh Chương ngăn cản, siết chặt lấy cổ tay hắn buộc hắn phải dừng lại, sau đó đưa mắt ra hiệu về phía đội quân đằng sau.

Lục Lệnh Tùng lập tức hiểu ý, Lục Lệnh Chương muốn hắn lựa thời cơ dẫn binh tấn công, giải trừ sự uy h**p từ lực lượng thủ binh Hoài Dương, mà chuyện này hiển nhiên chỉ có Lục Lệnh Tùng là luôn nắm chắc được phần thắng.

Lục Lệnh Tùng cắn răng, đành phải đứng lại.

Lục Lệnh Chương dắt ngựa của mình đến, một mình một ngựa đi về phía đội kỵ binh ở phía đối diện. Bãi sông nước cạn, chỗ sâu nhất cũng không cao quá đầu gối ngựa, chờ đến khi gã lên đến bờ bên kia, Trình Văn cũng không do dự mà buông tay thả Lục Thư Thanh đi về phía trước.

Không biết từ khi nào, Trương Diên đã giật lấy cán cung trên loan giá xuống, thứ chỉ tượng trưng cho quyền uy của thiên tử vốn không dùng cho thực chiến, nhắm thẳng vào Lục Thư Thanh đang chẳng hề phòng bị, mũi tên rời cung trong chớp mắt.

Ngay khoảnh khắc ấy, Lục Lệnh Chương chợt cảm nhận luồng gió rít gào từ phía sau, một nỗi bất an mãnh liệt dâng trào. Gần như là phản xạ từ bản năng, gã lập tức giật cương quay ngoặt ngựa lại, lao đến chắn trước Lục Thư Thanh.

Mũi tên cắm thẳng vào giữa ngực gã.

Lục Thư Thanh sợ điếng người, trơ mắt nhìn Lục Lệnh Chương ngã xuống ngay trước mặt mình, thiên tử không mặc quân trang, trung y mỏng manh nhanh chóng bị máu tươi nhuộm đỏ rực.

Cậu hoảng sợ thét lên: "Thúc phụ!"

Trương Diên còn muốn bắn thêm mũi tên thứ hai, nhưng chẳng ai cho ông ta cơ hội ấy nữa. Lục Lệnh Tòng đã vội kéo Tạ Cánh về phía mình, gần như dùng một tay ôm y lên ngựa, Tạ Cánh cũng không cần hắn nhiều lời, lập tức chộp lấy dây cương, phóng như gió lốc về phía Trương Diên.

Mười lăm năm trước, trên quan đạo ngoài thành Kim Lăng, họ cũng từng cùng cưỡi trên một con ngựa như thế, trốn thoát khỏi cuộc truy sát của thích khách.

Lục Lệnh Tùng vung kiếm chém đứt nửa cán cung, ngay sau đó, hàng loạt trường thương của quân kinh kỳ ập xuống đè lên vai Trương Diên, ghìm chặt không cho ông ta nhúc nhích. Chỉ trong chớp mắt, binh sĩ Hổ Sư đã tràn qua bờ bên kia giao chiến cùng thủ binh Hoài Dương. Lý Kỳ và Trịnh Kiêu cầm chân Trình Văn, khiến cho lão không có cơ hội đe dọa Lục Thư Thanh ở bên bờ sông nữa.

Không phải Lục Thư Thanh chưa từng thấy máu, nhưng cậu thật sự chưa bao giờ chứng kiến đao quang kiếm ảnh dữ dội nơi chiến trường - ngay cả cái chết, cậu cũng chỉ từng được đồng cảm qua lời kể.

Cậu quỳ sụp xuống đất, muốn rút tên ra nhưng lại không biết phải ra tay từ đâu, chỉ biết luống cuống lẩm bẩm gọi: "Thúc phụ..."

Lục Lệnh Chương hé mắt: "Đừng phí công vô ích, ta vốn đã là người sắp chết. Có trị được vết thương cũng không giải được độc."

Lục Thư Thanh điên cuồng lắc đầu: "Dì con, còn có Tần thái y nữa, bọn họ đều rất giỏi y thuật, nhất định sẽ có cách! Họ nhất định tìm ra thuốc giải độc để cứu thúc phụ!"

Lục Lệnh Chương cố gắng kéo ra một nụ cười nhạt nhòa: "Nếu như thật sự có thuốc giải, làm sao chúng ta có thể định tội giết vua cho Lang Gia Vương thị được đây?"

"Thanh Nhi," gã khẽ gọi nhũ danh của Lục Thư Thanh, "Hôm nay xem như thúc phụ đã trả xong ân tình hoàng tẩu đã từng bảo vệ năm xưa rồi."

Nước mắt Lục Thư Thanh lập tức trào ra.

Giữa tầm nhìn mông lung, thấy Lục Lệnh Chương khẽ nâng tay lên, cậu vội vàng cúi người xuống, ghé sát tai vào bên môi đối phương, lắng nghe gã đứt quãng nói vài câu cùng hơi thở mong manh.

Cậu giữ nguyên tư thế quỳ thật lâu, lâu đến nỗi cơ thể trong tay đã mất dần độ ấm, và bên tai cũng chẳng còn âm thanh nào nữa.

Cuối cùng, Lục Thư Thanh mới đờ đẫn đứng dậy, lảo đảo đi về phía bờ sông nơi cha mẹ cậu và quần thần đang đứng, thẫn thờ nói:

"Bệ hạ, băng hà..."

Đám đông thoáng chốc im lặng như chết, rồi bất ngờ bùng nổ thành những tiếng than thở và bàn tán xôn xao. Giữa tiếng ồn ào hỗn loạn ấy, chẳng rõ là vị tướng quân hay thượng thư nào bất chấp lễ nghi xông lên nắm lấy tay cậu dò hỏi: "Thế tử, trước lúc ra đi, bệ hạ đã dặn dò ngài điều gì?"

Thật ra ở đây chẳng có ai không quan tâm đến vấn đề này.

Họ đều cho rằng Lục Lệnh Chương nhất định đã để lại lời dặn về việc truyền ngôi, về âm mưu của phủ Tướng, toan tính của Thái hậu hoặc là bí mật nào đó đủ sức xoay chuyển cả triều đình và hậu cung - giống như những chuyện động trời đã được phơi bày ra ánh sáng ngày hôm nay. Người người chen chúc nhào đến trước mặt Lục Thư Thanh, tranh nhau hỏi dồn, thế tử, bệ hạ có để lại di chiếu gì không?

Bất chợt, Lục Thư Thanh cảm giác bản thân bị một đôi tay mạnh mẽ kéo lại. Chỉ trong khoảnh khắc, tất cả mọi tiếng ồn ào cùng với chân tướng đều bị ngăn cách, đến khi hoàn hồn, cậu mới nhận ra mình đã đang ở trong lòng cha mẹ rồi.

Mặt cậu kề sát vào hõm vai của mẹ, còn vòng tay ôm trọn lấy lưng cậu chính là vòng tay của cha.

Hai mắt Lục Thư Thanh lại bắt đầu nhòe đi, chậm rãi nghĩ: Trên đời này chỉ có mỗi mình cậu biết rõ, thật ra thúc phụ chẳng hề nói những lời đó.

Lục Lệnh Chương chỉ nhẹ nhàng, chầm chậm kể cho cậu nghe rằng: "Khi con còn nhỏ... Thúc phụ cũng chưa lớn lắm. Có một ngày, ta nhìn thấy Ngô nương nương ôm con ngồi dưới bóng râm của cây mai ở Tây cung, hoàng huynh và hoàng tẩu ngồi cạnh bên, trò chuyện giải sầu với bà ấy."

"Cô con thì ôm Ninh Ninh ngồi trên bệ đá hồ Thái Dịch, cầm nhánh liễu đan giỏ..."

"Khi ấy ta rất muốn qua đó, nhưng ta biết rõ mình không thể... Các con là người một nhà."

"Thanh Nhi, các con mới là người một nhà."

Đây là những lời cuối cùng của Lục Lệnh Chương.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 107


《 26.1 - Hồi tưởng 》

Đêm khuya, cơn mưa lớn vừa dứt chưa đầy một canh giờ, đã cuốn trôi sạch sẽ mùi máu tanh ngập tràn thành Kim Lăng suốt ba ngày đầy rẫy giết chóc.

Dưới chân cầu Chu Tước, từng ngôi nhà đều đóng chặt cửa nẻo, không ai dám phát ra dù chỉ một tiếng động nhỏ. Mọi người đều sợ rằng chỉ cần sơ sẩy một chút thôi là sẽ lập tức bị ghép tội mưu phản. Không chỉ vì thiên tử vừa mới băng hà, mà còn bởi vì cảnh hành quyết ghê rợn bên cầu lúc chạng vạng khiến ai nấy đều khiếp sợ.

Mà "kẻ sống sót" Tạ Cánh - người chẳng hề bộc lộ chút đau buồn nào, chỉ thờ ơ, lạnh lùng nhìn cha và anh mình bị xử trảm, giờ phút này đang nằm trơ trọi dưới chân cầu Chu Tước, nhưng lại chẳng nhúc nhích lấy một cái khiến người ta hoài nghi không biết liệu y còn sống hay đã chết rồi.

Song, giữa màn đêm tĩnh mịch, một cỗ xe ngựa giản dị đến nỗi khó lòng khiến người ta chú ý bỗng lăn bánh đến, dừng lại dưới chân cầu, một bóng người vén rèm bước xuống, bế Tạ Cánh lên xe rồi ngay lập tức chạy vụt đi.

Xe ngựa chạy vòng quanh khúc sông Tần Hoài hồi lâu, cuối cùng mới tiến về cổng bên kín đáo, hẻo lánh nằm ở phía Tây phủ Chiêu Vương. Bên trong buồng xe có đặt mấy chậu than, trán Lục Lệnh Tùng và Ngân Trù đều lấm tấm mồ hôi, nhưng cơ thể Tạ Cánh thì vẫn lạnh ngắt, bởi vì kiệt sức, lại vì đói rét và phải chịu nỗi đau tinh thần quá lớn nên đã lâm vào cơn mê man.

Lục Lệnh Tùng cởi bỏ quần áo ướt sũng và dính đầy bùn đất của Tạ Cánh, dùng nước nóng và khăn mềm cẩn thận lau sạch cơ thể đối phương rồi thay cho y quần áo ngủ. Cuối cùng, hắn vòng tay ôm chặt Tạ Cánh vào lòng, dùng chính thân nhiệt của mình để sưởi ấm cho y, còn kéo thêm một chiếc áo choàng dày phủ kín cả hai người.

Ngân Trù đã cho y uống thuốc trước, nhìn cánh môi tái nhợt của Tạ Cánh, cô lo lắng nói: "Không nguy hiểm đến tính mạng, chỉ là hàn khí đã ngấm vào cơ thể, còn nghiêm trọng hơn cả sương lạnh mùa thu. Nhất định phải chăm sóc cẩn thận, nếu để lại gốc bệnh thì hậu quả sẽ rất khó lường."

Lục Lệnh Tùng gật đầu, nói khẽ: "Những ngày sau này, nhờ chị chăm sóc em ấy cùng bọn trẻ."

"Đương nhiên rồi," Ngân Trù chẳng chút do dự đáp lại, nhưng lời vừa thốt ra, cô bỗng cảm nhận được điều khác thường: "Ý của điện hạ là... Ngài định đi đâu?"

Lục Lệnh Tùng nhìn cô, ngập ngừng nói: "Ta sẽ rời khỏi Kim Lăng."

Ngân Trù hoảng hốt: "Hôm nay nhà họ Tạ mới vừa gặp nạn, Vương thị nâng đỡ Nhị điện hạ lên ngôi, sau đó chắc chắn sẽ còn có thêm động thái khác, nếu ngài không ở đây, ai sẽ chống đỡ phủ Chiêu Vương bây giờ?"

Lục Lệnh Tùng nhìn về phía ánh lửa mông lung đang chập chờn cháy, hít một hơi: "Chính vì phụ hoàng đã băng hà, Lệnh Chương đăng cơ, ta mới không thể tiếp tục ở lại Kim Lăng. Trong kinh có vô số cặp mắt nhìn chằm chằm vào ta, nhìn chằm chằm vào Thanh Nhi. Nếu không nhổ tận gốc phủ Chiêu Vương, phủ Tướng chắc chắn sẽ không chịu dừng tay."

"Tân đế vừa lên ngôi, khi còn sống phụ hoàng đã đề phòng phủ Tướng rất sát sao, phần lớn binh quyền đều đã phân tán vào tay các sĩ tộc khác nhau. Nhà họ Vương dù muốn thâu tóm toàn bộ quyền lực, cũng chẳng phải trong một sớm một chiều là làm được. Huống hồ, các Quận thủ trấn giữ khắp nơi đều có lòng riêng, với sức nặng lời nói của phủ Tướng trong giai đoạn này, họ căn bản sẽ không được nhiều người ủng hộ, cũng sẽ không thể tập hợp đủ lực lượng để tiêu diệt tất cả những kẻ mang dị tâm."

"Cho nên ta nhất định phải bắt lấy thời cơ này, lợi dụng kẽ hở ấy, chỉ cần ta có thể phát triển binh lực trong tay trước khi phủ Tướng đứng vững, họ tuyệt đối sẽ không dám tùy tiện ra tay với người thân của ta ở kinh thành."

"Huống hồ nắm binh quyền là chuyện sớm muộn gì cũng phải làm. Nếu bên hông không có đao kiếm, ngày sau muốn rửa mối hận hôm nay, làm sao ta có thể thành công khi tay không tấc sắt?"

Ánh mắt hắn dừng lại trên gương mặt của Tạ Cánh: "Ta đã nếm trải một bài học kinh nghiệm rồi, cái giá phải trả quá đắt, cả đời này ta sẽ không tái phạm lần hai."

Ngân Trù nghe vậy, im lặng hồi lâu mới nói: "... Nhưng chuyện đó phải mất bao lâu đây? Đao kiếm không có mắt, lỡ như -"

Lục Lệnh Tùng hiểu rõ những lời chưa nói hết của cô, chỉ cười khổ một cái: "Nếu thật sự có ngày đó, thì cũng là mệnh số ta đã định. Lỡ như ta không còn, có lẽ những kẻ kia sẽ thôi không nhòm ngó, nóng lòng muốn đẩy bọn họ vào chỗ chết nữa."

Bầu không khí phủ Chiêu Vương vô cùng nặng nề, phần lớn hạ nhân vẫn còn chưa đi ngủ, lo lắng cho chủ nhân và cả vận mệnh của bản thân sau này. Lục Lệnh Tùng bế Tạ Cánh đi thẳng về phòng ngủ, Ngân Trù mang hòm thuốc của cô tới, chuẩn bị châm cứu để loại bỏ hàn khí ngấm vào cơ thể y.

Nhân lúc có chút thời gian, Lục Lệnh Tùng dặn thị nữ chuẩn bị cho mình mấy bộ quần áo, còn hắn thì bước vào thư phòng ở nhà trước, lục ra từng lá thư qua lại với các sĩ tộc, quan lại, thương hộ trong ngoài kinh thành suốt những năm qua, lần lượt cẩn thận kiểm tra, hễ là thư nào có nội dung nhạy cảm, có khả năng bị kẻ khác lợi dụng để bới móc, hắn sẽ lập tức thiêu hủy.

Chợt thấy trong số đó có vài bức thư Tạ Cánh gửi cho hắn - số lượng rất ít, có thể đếm trên đầu ngón tay, bởi trong mười năm qua họ thật sự chẳng mấy khi phải chia xa. Cách xưng hô trong thư có phần đặc biệt, ở đầu thư, y viết: "Tử Phụng, em anh như gặp gỡ", đến cuối thư lại chỉ ký vỏn vẹn hai chữ "Em Cánh".

Trong thư tuyệt nhiên không có một lời sướt mướt yêu đương nào. Dù người ngoài có đọc phải, e rằng cũng chẳng ai đoán được đây là thư nhà của một đôi vợ chồng. Nhưng hắn lại dễ dàng đọc ra tình cảm của y từ những câu chữ tưởng như chỉ là lời bâng quơ.

Y muốn cùng Lục Lệnh Tùng ra ngoài thành du xuân, bèn viết: "Ngựa tốt trong chuồng béo lắm rồi đấy."

Khi thèm món cá vược hấp tỏi vàng Lục Lệnh Tùng nấu, y viết: "Ngày mai phải đi câu cá cùng một đồng liêu."

Soạn được khúc đàn mới, y muốn gảy cho hắn nghe, lại viết: "Dạo này em dỗ Ninh Ninh ngủ bằng một bài đồng dao khác rồi."

Nếu chỉ đơn giản là nhớ hắn, thì ở cuối thư y sẽ thêm một câu khách sáo, vụng về che giấu: "Kết thư quyến luyến, khó tỏ hết lời."

Lục Lệnh Tùng nhìn chằm chằm mấy tờ giấy mỏng ngẩn người hồi lâu. Trên giấy thư có in hoa văn như ý mạ vàng mảnh dẻ, loang lổ vài vệt mây xanh xám mờ ảo tựa như bầu trời sau cơn mưa lúc này.

Sau đó hắn hạ tay xuống, thả thư đốt đi.

Tuấn mã như gió, mùi thơm của cá vược hấp tỏi, tiếng đàn lâm lang trong nháy mắt bị ngọn lửa cuốn thành tro tàn.

Mãi lâu sau, Lục Lệnh Tùng hoàn hồn ngẩng đầu lên, mới phát hiện ra Lục Thư Thanh khoác áo lông cáo đang đứng trước cửa, chẳng biết đã nhìn hắn bao lâu.

"Thanh Nhi?" Lục Lệnh Tùng vội vàng gọi cậu vào, sau đó đóng cửa sổ lại rồi khoác áo khoác của mình cho cậu: "Sao giờ này con còn chưa ngủ?"

Lục Thư Thanh gật đầu, cúi đầu xuống, mãi mà vẫn không chịu ngẩng lên.

Lục Lệnh Tùng kéo ghế đến ngồi xuống trước mặt Lục Thư Thanh, nâng mặt con trai lên: "Có phải con muốn nói với cha điều gì không?"

Lục Thư Thanh do dự rất lâu, rốt cuộc mới quyết định, nói liền một mạch: "Đêm qua tổ phụ băng hà, truyền ngôi cho thúc phụ, trên di chiếu nói muốn sao trảm cả nhà ngoại, lệnh cho cha làm quan giám trảm, phải không ạ?"

Lục Lệnh Tùng nhìn cậu: "Đúng vậy."

"Vì sao?" Cậu run rẩy hỏi: "Ông ngoại và cậu đã phạm lỗi gì khiến tổ phụ không vừa lòng? Mẹ con đã làm sai điều gì khiến cha không vừa lòng?"

Lục Lệnh Tùng sững sờ, lắc đầu nhỏ giọng đáp: "Không, Thanh Nhi, bọn họ đều không sai... Nếu như nói mẹ con đã làm gì sai, vậy cũng chỉ có thể là vì năm ấy tâm chí của em ấy chưa đủ kiên định, không dứt khoát kháng hôn, không từ chối gả cho cha."

Lục Thư Thanh gần như nức nở: "Vậy vì sao cha lại phế bỏ chức Vương phi của mẹ? Vì sao phải rời khỏi nhà?"

Lục Lệnh Tùng im lặng hồi lâu, chỉ nói: "Không phải chỉ có theo sát bên cạnh từng tấc không rời mới là cách bảo vệ một người. Có đôi khi, con ở quá gần người thân của mình mới là hại người đó."

Lục Thư Thanh chỗ hiểu chỗ không, nhưng cậu chợt nhớ đến việc mình đưa thiệp mời cho người bạn thân A Hoàng, cuối cùng chỉ khiến phủ Tướng nghi ngờ cả cô bé và mẹ em, bấy giờ mới mơ hồ cảm nhận được nỗi buồn mà cha cậu muốn truyền đạt.

"Thanh Nhi, sinh ra trong dòng dõi của chúng ta, đối với con vừa là đại hạnh, cũng vừa là bất hạnh. Chuyện hôm nay, cha không có thời gian để nói rõ với con, những chuyện này bây giờ con nghe cũng không thể hiểu hết được. Nhưng chỉ có một điều, con phải nhớ kỹ -"

Lục Lệnh Tùng nhìn thẳng vào mắt con trai lớn, giọng nghiêm túc: "Cha và mẹ con còn sống ngày nào, thì ngày đó con chẳng cần phải lo lắng, sợ hãi bất cứ chuyện gì cả."

Dỗ dành Lục Thư Thanh đi ngủ xong, Lục Lệnh Tùng trở về nội viện, nhìn thấy Lục Ngải ở trên giá nuôi chim đang vùi đầu vào dưới cánh ngủ. Tai của nó rất thính, có thể nhận biết tiếng bước chân của người nhà. Lục Lệnh Tùng vừa bước lên hành lang, nó đã rút đầu ra, nhẹ nhàng bay đến đậu lên tay hắn.

"Sao mi cũng tỉnh rồi?" Lục Lệnh Tùng cong ngón tay cọ lên bộ lông mềm của nó, nhỏ nhẹ hỏi: "Có lạnh không? Vào phòng ngủ đi."

Lục Ngải hiểu tính người, hai ngày nay nó đã nhìn thấy thảm cảnh trong nhà, đến cả Lục Thư Thanh bình thường thích chơi với nó nhất còn chẳng nở lấy một nụ cười, vậy nên cũng không mở miệng nói chuyện.

Nó mổ vào lòng bàn tay Lục Lệnh Tùng, theo hắn đến sương phòng phía Đông. Đêm nay Ngân Trù bận chăm sóc Tạ Cánh, để cho một thị nữ khác ở bên cạnh Lục Thư Ninh, lúc này cô nàng đang lim dim ngủ bên cạnh lồng xông hương ở gian ngoài.

Lục Lệnh Tùng không đánh thức nàng, nhẹ chân nhẹ tay đi vào trong, đến bên cạnh giường Lục Thư Ninh. Tóc của con gái nhỏ vô cùng mềm mại, xõa tung trên gối nằm, em hít thở đều đặn, hiển nhiên đã ngủ say.

Từ lâu Lục Lệnh Tùng đã nhận ra rằng, so với hắn, Tạ Cánh và Lục Thư Thanh - ba người thân thiết nhất với em, thì Lục Thư Ninh không thường bộc lộ cảm xúc mãnh liệt như bọn họ, hay nói cách khác, em không phải là kiểu người can trường.

Điều này không có nghĩa là em lạnh lùng hay vô tâm, mà ngược lại, Lục Thư Ninh quan sát mọi chuyện rất tinh tế, dù tốt hay xấu, chỉ là phản ứng của em luôn rất hòa nhã, biết cách khắc chế, nếu thuận theo ý em thì tốt, không như ý cũng chẳng sao.

Điều này thực sự rất khác biệt, em chỉ mới ba tuổi, không biết sau này tính tình có còn như vậy nữa hay không.

Lục Ngải bay lên khung giường đậu, co chân lên giống hệt một người bảo vệ trung thành, dường như nó lại buồn ngủ.

Lục Lệnh Tùng nói với nó: "Mi không muốn đi à, vậy thì ở lại cùng con bé đi."

Nói xong, hắn cúi người cầm tay Lục Thư Ninh lên, nhẹ nhàng hôn lên mu bàn tay em.

Vợ và con trai sớm chiều ở bên cạnh hắn suốt mười năm qua, thân mật khắng khít, mẹ và em gái càng ở bên cạnh hắn lâu hơn, gần như cả nửa đời người, thế nhưng Lục Thư Ninh đã đến bên hắn được bao lâu đâu chứ? Trời xanh ban cho hắn một viên ngọc quý, hắn còn chưa đưa em ra ngoài nhìn non xanh nước biếc mà hắn đã từng đưa mẹ và anh trai của em đi, vẫn chưa dạy cho em chơi kiếm, uống rượu, chưa cùng em chơi cờ, uống trà, vẫn chưa kịp cùng em lớn lên mỗi ngày.

Rồi cũng sẽ có cơ hội thôi, Lục Lệnh Tùng tự an ủi trong lòng, dù không có hắn, Tạ Cánh, Lục Thư Thanh, hoặc là Lục Lệnh Chân, bọn họ đều có thể thay hắn làm những việc này.

Ngân Trù đã châm cứu cho Tạ Cánh xong, tuy rằng cơ thể của y đã ổn định lại, nhưng mặt lại đỏ lên một cách bất thường, có lẽ là sốt rồi.

Thấy Lục Lệnh Tùng trở lại phòng ngủ, cô bèn nói: "Tôi đã nói nhà bếp sắc một ít thuốc bổ dễ tiêu, điện hạ cứ đút cho Vương phi uống, rồi đắp chăn giữ ấm cho ra mồ hôi là được."

"Chị vất vả rồi, mau đi nghỉ đi." Lục Lệnh Tùng bảo Ngân Trù lui xuống, sau đó ngồi xuống mép giường, nhẹ nhàng ôm nửa người Tạ Cánh dậy, đút từng muỗng thuốc cho y.

Ba ngày nay Tạ Cánh chưa ăn uống gì, môi khô nứt nẻ, cổ họng nuốt cũng khó khăn. Dù đang mê man, y vẫn cau chặt mày, bởi vì cơ thể nóng nực khó chịu, y không ngừng giãy giụa trong vòng tay Lục Lệnh Tùng.

"Đừng sợ, chúng ta về nhà rồi, đều qua rồi..." Lục Lệnh Tùng kề sát mặt Tạ Cánh, ghé vào tai y thấp giọng nói: "Mọi chuyện đều kết thúc cả rồi."

Hắn hơi cúi đàu xuống, hôn lên mi tâm đã nhăn lại thành chữ xuyên của Tạ Cánh, rồi đến hai mí mắt, chóp mũi của y. Hắn có được một Vương phi dung sắc tuyệt vời, ngày đó ở Tần Hoài Xuân hắn đã nhìn Tạ Cánh thêm vài lần có lẽ là vì vẻ đẹp rất khác biệt của y, thời gian qua lâu, Lục Lệnh Tùng chẳng còn nhớ rõ suy nghĩ của mình lúc đó nữa.

Tiên đế tứ hôn cho bọn họ chết rồi, sẽ không còn ai ép buộc họ phải miễn cưỡng ở bên nhau nữa, thế nhưng, cả hai thật sự không thể tách rời được nữa rồi.

Nếu cuộc hôn nhân này là một sai lầm, nếu khởi đầu của nó chỉ toàn những phù phiếm, d*c v*ng, bắt nguồn từ bản tính ham mê sắc đẹp, vậy thì tại sao lại không cho nó một kết thúc nhẹ nhàng như thế? Tại sao nhất định phải dùng chữ "tình" rối ren, nặng nề và nghiêm trang đến nghẹt thở để lấp đầy nó, để khi nên dứt lại chẳng thể dứt?

Nụ hôn của Lục Lệnh Tùng chỉ dừng lại ở chóp mũi, không di chuyển xuống thêm. Hắn chợt nhớ đến lời phàn nàn của Tạ Cánh, y nói khi hai người vừa kết hôn, dù bọn họ có thân mật đến đâu, dù ngủ chung phòng, Lục Lệnh Tùng đều chưa từng chủ động hôn môi y. Vì lời phàn nàn này mà Lục Lệnh Tùng mới âm thầm quyết định, mỗi ngày về nhà hắn sẽ hôn Tạ Cánh, nhất định phải để cho y nhớ thật kỹ, nhớ kỹ nụ hôn này không phải là Lục Lệnh Tùng bố thí cho y, mà là đặc quyền của y. Chỉ cần Tạ Cánh nhớ, y sẽ biết rằng bản thân muốn bao nhiêu nụ hôn thì có thể đòi bấy nhiêu.

Hắn lại ghé sát bên tai Tạ Cánh, liên tục thì thầm gọi tự của y, "Chi Vô".

Rõ ràng Tạ Cánh có phản ứng với tiếng gọi ấy, cơ thể run lên đầy bất an, cổ áo hơi xộc xệch để lộ ra chiếc hộp hương bằng bạc nhỏ đeo trước ngực.

Dường như Lục Lệnh Tùng nghĩ đến chuyện gì đó, hắn nhẹ nhàng đặt Tạ Cánh xuống gối, rồi đi đến trước bàn gương, tìm được một cây kéo vàng nhỏ. Hắn biết mình nợ Tạ Cánh một lễ kết tóc đôi bên tình nguyện, quang minh chính đại.

Nhưng hắn chỉ kịp bù đắp cho y bằng cách này.

Lục Lệnh Tùng vừa cẩn thận cắt một lọn tóc nhỏ từ mái tóc của cả hai, vừa tiếp tục nói: "Anh Tử Phụng phải đi đây. Ta không biết khi nào chúng ta mới có thể gặp lại - hay liệu có còn gặp lại được nữa hay không. Nhưng những chuyện đó không quan trọng nữa, ta chỉ cần em sống tiếp. Em có còn nhớ Tạ đại nhân đã nói gì không? Bất kể khi nào, điều đầu tiên là em phải sống. Họ ở trên trời sẽ dõi theo em, ta ở nhân gian dõi theo em."

Sau đó, hắn vụng về sửa sang lại lọn tóc, suy nghĩ một chút rồi cất vào túi áo trong cùng của trang phục.

Lọn tóc mà Tạ Cánh đã kết vào đêm tân hôn là ước hẹn bọn họ sẽ sống mãi bên nhau không rời, lọn tóc mà Lục Lệnh Tùng kết đêm nay, là bằng chứng bọn họ dù chết cũng chẳng bao giờ xa nhau.

Lấy tóc làm chứng, trời đất chứng giám.

Thị nữ đã chuẩn bị hành lý cho hắn xong xuôi, Lục Lệnh Tùng thay sang áo tay bó cổ tròn để dề bề hành động, chiếc móc khóa bạc "trường vô tương vong" được móc vào đai lưng, mang theo cả miếng ngọc trắng mà mấy hôm trước Tạ Cánh đã kín đáo trao cho.

Đoạn, hắn đi đến bên bàn, nhấc bút viết mấy dòng chữ, thổi cho khô mực rồi gấp tờ giấy lại, nhét xuống gối đầu của Tạ Cánh.

Làm xong hết thảy, cuối cùng, Lục Lệnh Tùng thoáng nhìn Tạ Cánh thật sâu, sau đó quay phắt người lại, sải bước ra khỏi phòng.

Bác Chu đã đợi ở gian ngoài: "Điện hạ, Lý tướng quân có gửi thư đến."

Lục Lệnh Tùng nhận thư, trong thư Lý Kỳ nói, Tạ Tuấn may mắn còn sống đã được nhà họ Ngô sắp xếp đưa ra ngoài thành, Chung Triệu cũng đã bị khống chế, âm thầm đưa ra khỏi cung. Đội quân ba ngàn binh sĩ Hổ Sư nay đã đang đóng trại bên bờ sông, chỉ đợi Chiêu Vương đến hội hợp, cùng xuất phát đến Hoài Bắc.

Hắn cất thư vào trong tay áo, nói với bác Chu: "Ta đi đây."

Bác Chu cũng không nhiều lời, ông đã ở phủ Chiêu Vương hơn mười năm, tận mắt chứng kiến vị chủ tử này trưởng thành, từ làm anh, làm chồng đến làm cha. Chỉ cần là chuyện Lục Lệnh Tùng đã quyết định, ông chỉ cần theo đó mà làm là được.

Ông chỉ hỏi: "Tôi đi dắt Y Vân đến cho điện hạ nhé?"

Lục Lệnh Tùng lắc đầu, đi thẳng về phía nhà trước, bước vào chuồng ngựa ở bên cửa. Y Vân có chuồng ngựa riêng của mình, gần như trong nháy mắt khi Lục Lệnh Tùng xuất hiện, nó đã bước đến gần, cào móng guốc chờ đợi chủ nhân dắt mình ra khỏi chuồng giống như bao năm qua, v**t v* một hồi, sau đó leo lên mình cưỡi gió lao đi, tự do chẳng có gì ràng buộc.

Nhưng lần này Lục Lệnh Tùng lại bước qua nó, chọn một chú ngựa trắng non trẻ hơn.

Y Vân mở to đôi mắt sáng ngời, dùng ánh mắt phục tùng nhưng vô cùng tủi thân nhìn hắn, Lục Lệnh Tùng giải thích: "Cô bé ngoan, chuyến này đi xa ngàn dặm, chưa biết sống chết ra sao, ta không nỡ để ngươi đi cùng. Ngươi ở lại Kim Lăng cùng bọn họ, cả nhà bình an ở bên nhau, được chứ?"

Y Vân hí lên một tiếng không cao không thấp, chẳng biết là trách hắn tự tiện chủ trương, hay là chúc hắn "Thuận buồm xuôi gió".

Lục Lệnh Tùng chỉ vuốt lông bờm của nó, nở nụ cười, sau đó không nấn ná thêm nữa, hắn leo lên một con ngựa trắng, kẹp theo gió lạnh phi ra khỏi cửa lớn phủ Chiêu Vương, chạy thẳng về phía thành Kim Lăng không quay đầu lại.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 108


《 26.2 》

Khi Tạ Cánh tỉnh lại đã là cuối tháng Chạp, năm Trinh Hữu thứ mười bảy sắp kết thúc.

Đợt sốt phong hàn kéo dài lần này có lẽ là trận ốm nặng nhất trong đời y, phải gần hai mươi ngày Tạ Cánh mới gắng gượng ngồi dậy được, tựa người vào đầu giường nghỉ ngơi. Nhưng người tỉnh rồi mà tâm vẫn chưa tỉnh, từ sáng đến tối y cứ đờ đẫn nhìn vào khoảng không, ít nói ít cười. Ngân Trù nhìn thấy mà hoảng, cứ như quay lại quãng thời gian vô tri vô giác lúc y vừa sinh Lục Thư Thanh.

Lục Thư Thanh lo lắng cho mẹ, buổi tối muốn ở bên cạnh y, Tạ Cánh bèn ôm cậu ngủ, cũng không hỏi Lục Lệnh Tùng đã đi đâu; Lục Thư Ninh chạy đến đòi bế, Tạ Cánh cũng ôm em vào lòng, hai người lẳng lặng dựa sát nhau cả nửa ngày trời.

Tin tức Lục Lệnh Tùng xuất kinh trong đêm, dẫn ba ngàn binh mã tiến về Hoài Bắc bình loạn vừa lan truyền đã lập tức dấy lên sóng gió. Các triều thần tùy theo mức độ thân sơ với Vương phủ mà chia thành hai phe ý kiến trái ngược nhau. Một phe phản đối, cho rằng Chiêu Vương bất trung bất hiếu, chưa đợi đến khi tang lễ tiên đế kết thúc đã bỏ mặc trọng trách hiếu tử để đi xa, chưa kể còn tự ý nuôi binh mà không thông qua Binh bộ, đúng là lòng dạ khó lường. Trái lại, phe ủng hộ nói rằng bạo loạn ở Hoài Bắc đã kéo dài nhiều tháng không dứt, Chiêu Vương ra tay bình loạn là gánh vác nỗi lo cho nước nhà, phân ưu với Hoàng đế bận trăm công nghìn việc, dù không thể không trách cứ, nhưng cũng không cần quá khắt khe.

Ban đầu, thế lực hai phe coi như ngang nhau, nhưng thời gian qua đi, đội quân "Hổ Sư" ngang tàng ra đời này thế như chẻ tre, không chỉ nhanh chóng dẹp yên quân phản loạn, mà còn hợp nhất đám phản quân tốt xấu lẫn lộn ở các nơi ấy vào quân ngũ, nhân số tăng lên rõ ràng trông thấy, hơn nữa lại còn nhận được lòng biết ơn của quan dân nhiều châu quận ở bờ Bắc sông Hoài.

Đến nước này rồi, nếu như trị tội "loạn đảng", chỉ sợ triều đình cũng sẽ lâm vào thế bí.

Tân đế đăng cơ, điều nên làm nhất vào thời điểm này chính là trấn an trong ngoài, mua chuộc lòng dân, nỗ lực duy trì ổn định. Cuối cùng, Lục Lệnh Chương ra mặt ban chiếu trao hổ phù cho Chiêu Vương, cấp phát một chút quân phí tượng trưng, thậm chí còn phong tặng danh hiệu cho sinh mẫu của Chiêu Vương là Ngô Thái phi coi như khen thưởng – tóm lại, đó được xem như sự thừa nhận công khai về tính hợp pháp của việc thành lập Hổ Sư.

Nhưng điều này không có nghĩa là phủ Chiêu Vương ở kinh thành có thể sống yên ổn.

Nhờ đan thư thiết khoán, Tạ Cánh đã được phán vô tội, theo lý y có thể tự do hành động. Nhưng Vũ Lâm Vệ bị nhà họ Vương bày mưu đặt kế, lấy cớ Tạ Cánh đã bị phế truất, không còn tư cách dùng thân phận Chiêu Vương phi để ở lại Vương phủ nữa, ba phen bốn bận tìm đến tận cửa, lấy danh nghĩa "thay mặt Chiêu Vương điện hạ thanh lý môn hộ" để ép đuổi y ra khỏi phủ.

Mấy ngày liên tục, bác Chu và Ngân Trù đều dẫn theo gia đinh ra chặn lại, đôi bên tranh chấp bên ngoài sảnh trước, che giấu kín kẽ mọi chuyện với nội viện. Họ không muốn để Lục Thư Thanh thân là thế tử phải đối diện trực tiếp với cuộc tranh đấu quyền lực, rước họa vào thân này, càng không muốn Tạ Cánh phiền muộn thêm nữa.

Mãi đến khi Lục Lệnh Chân nhân lúc mọi người đang khóc tang lẻn đến phủ Chiêu Vương, nàng mới trông thấy cảnh tượng trước mắt.

Mặc cho tên Giáo úy cầm đầu đe dọa, uy h**p thế nào, bác Chu vẫn chỉ đứng khoanh tay trên bậc thềm với vẻ mặt điềm tĩnh, phía sau ông là đám gia đinh cầm đao nghiêm nghị đứng thẳng, không lùi dù chỉ nửa bước.

Lục Lệnh Chân lạnh lùng quan sát một lúc, rồi bỗng nhiên nhấc chân đá văng tên lính chắn trước mặt mình, sau đó thẳng tay gạt đám người xung quanh sang một bên, rút chiếc roi giấu trong tay áo quất mạnh hai cái, đánh thẳng vào lưng tên Giáo úy.

Giáo úy đau đớn ngã nhào sang một bên, vừa hoảng vừa giận chửi một tiếng, nhưng quay đầu lại đã thấy Lục Lệnh Chân đứng trên cao nhìn xuống mình bằng ánh mắt lạnh lẽo, gã sững sốt, lắp bắp hỏi: "Trưởng công chúa?! Người, sao người lại đến đây..."

"Ngươi hỏi ta?" Lục Lệnh Chân lạnh lùng bật cười. "Ngươi ăn gan hùm mật gấu ở đâu mà dám hỏi ta? Ngay trong thành Kim Lăng này, dưới chân thiên tử, bà cô này muốn đến thì đến, muốn đi thì đi, đến lượt con chó cậy thế chủ nhà ngươi ở đây lắm mồm hay sao?"

Hai mắt nàng sáng rực như đuốc, quét nhìn lần lượt từng quan tướng Vũ Lâm Vệ, lạnh giọng hỏi: "Các ngươi là cái thá gì mà dám kêu gào làm loạn trước cửa phủ Chiêu Vương? Nếu chán làm việc rồi thì đừng nghĩ đến cái đầu trên cổ nữa, cứ việc đến tìm ta, chúng ta từ từ tính!"

Ngôi sao hung tính tình nóng nảy kiêu ngạo như lửa đây, ở trong kinh thành ngay cả tân đế cũng phải nể nàng ba phần. Huống hồ nàng lại là em gái ruột của "công thần" Chiêu Vương. Vũ Lâm Vệ đã nghe danh từ lâu, cũng biết rõ nếu dám đối đầu với Trưởng công chúa giữa đường giữa xá thế này thì chỉ có nước bị người đời chỉ trích, về phủ Tướng cũng khó mà ăn nói.

Thế là bọn họ không dám chọc giận Lục Lệnh Chân thêm nữa, vội vàng dập đầu tạ tội rồi xám mặt rút lui.

Bác Chu thở dài một hơi, hành lễ chào Lục Lệnh Chân: "Hôm nay may nhờ có công chúa giải vây, nếu không chẳng biết chúng còn muốn lắm miệng bao lâu nữa. Vương phi đang ở trong viện nghỉ ngơi rồi, mong công chúa bớt giận, ít nhiều cũng đừng tỏ ra bực tức nữa, đừng để Vương phi nhìn ra manh mối gì."

Lục Lệnh Chân uống một chén trà xanh nhỏ để hạ lửa, sau đó đi đến nội viện, thị nữ ở trong noãn các thấy nàng, nhỏ giọng nói: "Công chúa ngồi chơi một lát, Vương phi vừa ngủ trưa dậy, tôi đi báo với người một tiếng. Nhưng dạo này Vương phi cứ buồn bã ủ dột, sợ là..."

Lục Lệnh Chân lắc đầu, bước hai bước đến đứng trước cửa, cất giọng nói: "Anh ơi, là em, Chân Chân đây. Nếu anh sợ gặp mặt lại đau lòng, vậy thì không gặp cũng không sao, anh nghe em nói là được. Hổ Sư thiện chiến, hiện giờ rất được lòng dân chúng ở Hoài Bắc; Thanh Nhi và Ninh Ninh mỗi ngày đều vào cung giữ đạo hiếu, có em và mẹ trông chừng rồi; trước khi đi anh trai có giao cho em một đội quân, khoảng chừng ngàn người, đặt tên là Hạc Vệ, phủ Tướng có gây khó dễ, em cũng sẽ không khoanh tay đứng nhìn, để mặc cho chúng chém giết đâu. Huống chi còn có chị Tiêu và Tuyên Thất hỗ trợ, anh hãy cứ yên tâm dưỡng bệnh, đừng lo lắng."

Nàng dứt lời, chỉ chốc lát sau, cửa được đẩy ra từ bên trong, Ngân Trù bước ra chào: "Không phải Vương phi không muốn gặp công chúa, chỉ là nay người đã trở thành hậu nhân của tội thần, lại đã chẳng còn thân phận, chỉ sợ lén lút gặp mặt sẽ mang đến phiền toái cho công chúa."

"Mấy bộ váy áo lụa này là đồ mới may xong, vốn định cuối năm mang đến cho công chúa. Vương phi nói người mặc màu đỏ là đẹp nhất, chỉ là áo tang còn đây, mặc lên cũng không phù hợp, mong công chúa cứ tạm thời giữ lấy, chờ ngày sóng yên biển lặng, chắc chắn sẽ có cơ hội mặc thôi."

Cô đặt những bộ trang phục hoa lệ vào tay Lục Lệnh Chân, nói tiếp: "Vương phi nhờ tôi chuyển lời, công chúa ở trong cung cũng nên hành động cẩn thận, bảo vệ bản thân và thái phi cho tốt, nhất định phải chu toàn mọi thứ, sống bình an cả đời."

Lục Lệnh Chân nhìn chằm chằm vào cánh cửa khép hờ, chóp mũi cay xè – Tạ Cánh đang ở phía sau cánh cửa kia, thậm chí nàng có thể nhìn thấy được hình bóng mờ nhạt của y, nhưng cánh cửa này mỏng như gang tấc mà cũng dày tựa trời xa, ngăn cách giữa họ là nghìn trùng núi hận mới cất, là thù cũ kết thành vạn sông.

Cuối cùng, nàng chỉ nói: "Anh à... Em đi đây."

Từ phủ Chiêu Vương về cung, Lục Lệnh Chân cưỡi ngựa phi nhanh một mạch, đến trước Công Xa môn thì xoay người xuống ngựa, ném dây cương cho tên nội giám bên cạnh, đang định đi vào tìm mẹ thì chợt thấy một tờ giấy từ trong bọc hành lý đựng quần áo rơi ra, xoay vòng rồi đáp xuống chân nàng.

Lục Lệnh Chân cúi người nhặt lên, nét mực Khứ Hà thể hãy còn mới, hóa ra là mấy câu thơ khuyết mà Tạ Cánh vừa mới vội vàng viết rồi giấu vào y phục gửi đến nàng. Lục Lệnh Chân khẽ ngâm: "... Tân nương mới về phủ, em chồng dìu đến giường. Nay buộc phải rời phủ, cô bé đã lớn khôn. Tận tâm chăm sóc mẹ, nương tựa nhau mà sống. Mồng bảy cùng ngày chín, vui đùa chớ lãng quên..."

... Vui đùa chớ lãng quên.

Lục Lệnh Chân vẫn còn nhớ rõ ngày anh trai và anh dâu thành hôn, trên áo cưới của Tạ Cánh có thêu hình chim công uốn lượn bằng chỉ vàng. Nay đã phải tiễn đưa chim công bay xa, chẳng biết nó sẽ dừng chân nơi nào, càng không biết ngày sau liệu có còn cơ hội gặp lại hay không.

Nàng nắm chặt tờ giấy trong tay, lảo đảo từng bước đi dọc theo vĩnh hạng tiến vào cung, vừa hay gặp kiệu liễn của Lục Lệnh Chương đang đi ngược lại.

Lục Lệnh Chương ngạc nhiên nhìn nàng, sai người dừng kiệu, khẽ hỏi: "Hoàng tỷ làm sao thế này?"

Lục Lệnh Chân bất chợt hoàn hồn, đưa tay lên sờ mới phát hiện ra, chẳng biết từ lúc nào, trên mặt nàng đã vương đầy nước mắt.

"Không sao," nàng chậm rãi lắc đầu, giương mắt lên nhìn Lục Lệnh Chương trên kiệu, "...Chị không sao."

Quốc tang trước mắt, tất cả mọi thứ đều được giản lược, theo sát sau đó là năm mới, cũng chẳng ai dám gióng trống khua chiên ăn mừng.

Dù vậy, Tạ Cánh vẫn lệnh cho nhà bếp nấu chè trôi nước, chia cho tất cả nô bộc và thị nữ trong phủ ăn cùng, sau đó kết toán lương bổng, tiền thưởng trong nửa năm như thường lệ, rồi cho rời kinh về nhà đoàn viên, không cần ở lại kinh thành, cuối cùng bảo những người còn lại tự lui xuống nghỉ ngơi. Vương phủ ít đi hơn phân nửa nhân khẩu, để lại bầu không khí thê lương mà đau đớn không sao tả nổi.

Cơ thể của Tạ Cánh vẫn còn đang yếu, y khoác áo trên vai ngồi trong noãn các, vây quanh lồng xông hương dùng bữa cùng với Ngân Trù và hai đứa trẻ.

Thấy Lục Thư Thanh không gắp thêm thức ăn mà chỉ yên lặng ăn mì trong tô trước mặt, Tạ Cánh vô thức nhắc cậu: "Con chừa bụng đi, một lát nữa còn có..."

Y nói đến đây thì sững sốt, những người còn lại cũng dừng đũa, nhìn y muốn nói lại thôi. Một lát nữa còn có cái gì? Mọi năm, món sủi cảo hoa mai hấp của Lục Lệnh Tùng đều sẽ được mang lên cuối cùng, nhưng trong "tiệc" lúc này lại không có Lục Lệnh Tùng, hiển nhiên cũng không có sủi cảo hoa mai hấp,

Tạ Cánh bỗng nhiên cảm giác cổ họng mình nghẹn ứ lại, y giật run người, ăn không nổi nữa.

Y vẫn luôn mặc kệ cơn mê man do bệnh tật làm tê liệt đầu óc mình, cố hết sức không nghĩ đến người thân đã bị tàn sát, không nghĩ đến Lục Lệnh Tùng đang tha hương nơi đất khách. Ngõ Ô Y không còn trước mắt, chốn thương tâm như phủ Chiêu Vương lại bầu bạn với y sớm tối.

Nơi đây từ bàn ghế đến cỏ cây, từ ao đài quán tạ đến màn thêu bình phong... Không có nơi nào thiếu vắng bóng dáng của Lục Lệnh Tùng, không nơi nào là không có dấu vết chung sống của y và Lục Lệnh Tùng. Đêm tân hôn năm ấy, y nói với Lục Lệnh Tùng: "Nhưng đây là nhà của anh." Vậy mà hớp mắt đã mười năm trôi qua, nơi này giờ đã thực sự trở thành nhà của y, nhưng người cho y ngôi nhà ấy giờ đang ở nơi nào?

Bữa cơm tất niên trôi qua trong vắng lặng, mỗi người đều ôm tâm sự riêng. Sau khi dọn dẹp bát đũa, bác Chu bước vào, nói: "Vương phi, quản sự phủ Thái phó tới, nói rằng Thái phó biết Vương phi khó nguôi ngoai, sợ người bất tiện không có chỗ để tế bái, cho nên mang mấy thứ này đến, mong rằng Vương phi có thể vơi bớt nỗi đau nhớ người nhà, nén lại đau buồn, thương lấy bản thân."

Tạ Cánh nhận lấy xem, kia đều là tiền giấy vàng mã, đồ dùng đốt khi cúng tế. Ngày lễ tết vốn luôn là dịp cúng bái tổ tiên và người thân đã khuất, nhưng mà giờ đây chẳng ai cho phép y thờ cúng một dòng họ phản nghịch mang tội dòm ngó ngôi vua nữa.

Y nhất thời nghẹn lời, rất lâu sau mới nói với bác Chu: "Phiền bác giúp ta truyền lời, chúc thầy sức khỏe an khang, sau khỏi bệnh, nếu có thời gian ta nhất định sẽ đích thân đến nhà, bái tạ thầy ngày đó đã giúp ta gặp được cha anh."

Chờ đêm muộn, Tạ Cánh mới dắt theo Lục Thư Thanh lặng lẽ đi ra nhà sau, tìm một nơi hẻo lánh ít gió, đốt sạch tất cả những món giấy tiền vàng mã kia.

Giao thừa năm Trinh Hữu thứ mười bảy không có tuyết, cũng chẳng phải năm được mùa. Tạ Cánh lại nhớ đến nguyện vọng mà y đã từng cầu trong năm cũ kia – lời khẩn cầu chỉ giản đơn như vậy thôi, đó mà cũng gọi là lời cầu nguyện xa xỉ hay sao? Thứ mà cha và anh đã nhường cho y, món quà may mắn mà y muốn nhận được chỉ là một đồng tiền nho nhỏ, nào phải là cơ hội một mình sống sót, còn cả nhà thì chết thảm đâu chứ!

Đống lửa sáng bừng nóng hừng hực chẳng giống như pháo hoa đẹp mắt, rực rỡ rồi lại lạnh buốt. Trận hỏa hoạn năm Trinh Hữu thứ mười sáu đã sớm tàn, đốt sạch nhà y chẳng chừa lại gì.

"Mẹ ơi," Lục Thư Thanh bỗng gọi y, "Mẹ cũng sẽ bỏ bọn con mà đi sao?"

"Trên đời chẳng có bữa tiệc nào không tàn cả," Tạ Cánh đáp, "Con của mẹ, thân thể mẹ cũng là phàm thai, cuối cùng rồi sẽ có ngày rời xa con thôi."

Lục Thư Thanh bỗng nhiên quay lưng lại ôm lấy eo mẹ, lẳng lặng vùi mặt vào lồng ngực của y.

"Sao thế?" Tạ Cánh khẽ v**t v* gáy cậu.

Lục Thư Thanh chỉ nhỏ giọng nói: "Lạnh ạ."

Ngân Trù đang chờ ở nhà chính, thấy Tạ Cánh trở về từ nhà sau, cô bước lên đón đầu: "Mấy ngày trước lúc Vương phi còn hôn mê, lúc dọn dẹp giường người hầu đã tìm thấy cái này ở dưới gối, chắc là mấy lời mà điện hạ để lại cho người trước khi đi."

Cô đưa lá thư của Lục Lệnh Tùng cho Tạ Cánh, "Lúc ấy tôi sợ Vương phi đau lòng hại sức cho nên cất lại trước. Mấy nay thấy người đã bình tâm đôi chút, nếu Vương phi cảm thấy buồn, chẳng bằng dành ít thời gian đọc thư xem."

Tạ Cánh không ngờ Lục Lệnh Tùng sẽ để lại lời gì cho y, trước giờ khi từ biệt nhau họ chưa bao giờ làm chuyện này. Bởi vì luôn tin chắc vào khả năng gặp lại, cho nên không có điều gì cần nói ngay, cũng không có ngày nào là không thể đợi được, chẳng cần rườm rà, cứ việc đợi đến ngày gặp lại rồi nói cũng chưa muộn. Trừ phi ——

Sẽ không còn ngày gặp lại nữa.

Trong lòng Tạ Cánh đột nhiên dâng lên một dự cảm chẳng lành, y cúi đầu xuống, chăm chú đọc xem Lục Lệnh Tùng đã viết những gì:

"Ta đã khởi hành đến tả Hoài nơi xa, e rằng ngày gặp lại khanh hãy còn xa ngút ngàn. Bệnh tình lần này hung hiểm hơn bao giờ hết, khanh nhất định phải nghe kỹ lời dặn của Ngân Trù, mặc thêm áo, bớt lo nghĩ, đừng kén ăn. Thay ta yêu thương các con ngàn vạn lần, thiết tha mong nhớ!"

"Khởi hành vội vã, chưa kịp chờ khanh tỉnh lại, trong lòng đầy áy náy, những lời từ tận đáy lòng đều gửi vào lời thầm thì bên tai. Nếu khanh nằm ngủ, nghe thấy tiếng ai thì thầm căn dặn bên gối thì chẳng phải ai khác đâu, mà chính là nỗi vấn vương sâu đậm của ta đã theo khanh vào trong mộng đấy!"

"Được voi đòi tiên là bản tính con người. đã có mười năm, liền mong trăm năm; đã kết tóc xanh, liền mong bạc đầu; đã được đời này kiếp này, liền mong đời đời kiếp kiếp. Đêm nay ly biệt chẳng biết lành dữ, nếu ngày sau gặp lúc nguy khốn, may mắn thì da ngựa bọc thây, ta sẽ ở suối vàng đợi khanh bảy mươi năm; nếu chẳng may chôn thân nơi sa trường, thì trời đất mênh mang, nơi đâu cũng là chỗ chôn xương."

Ngân Trù đã lặng lẽ lui ra từ lâu, để lại một mình Tạ Cánh đứng dưới hành lang, cả người y run lên bần bật, tay chẳng cầm vững được giấy. Ánh trăng giữa trời cao rọi xuống sân nhà, hắt sáng lên những lá cờ tang treo cao bốn phía, mai trắng nở rộ, tỏa hương thanh khiết ngàn dặm, đây chính là "đêm tuyết" chỉ thuộc về phủ Chiêu Vương.

Ánh mắt y dừng lại trên những dòng thư cuối cùng:

"Ta khanh bên nhau trọn vẹn mười xuân, buồn vui nhân thế trăm vị, ta đều đã cùng khanh nếm trải từng thứ, dù chết cũng không hối tiếc."

"Từ đây gió sương mưa tuyết đất Kim Lăng, nơi nào khanh đi đến, hồn ta mãi theo sau."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 109


《 26.3 》

Tạ Cánh xốc màn, nhẹ nhàng leo lên giường, kéo chăn đắp kín cho Lục Thư Thanh, cậu xoay mặt vào bên trong, chân hơi co lại, đã ngủ say rồi.

Sau đó y trở mình nằm xuống, hai mắt mở to nhìn trân trân lên chóp màn. Chiếc màn này từ lâu đã không còn là màn đỏ thêu hoa lựu ngày đại hôn của y và Lục Lệnh Tùng nữa. Năm mười sáu tuổi, y cũng nằm như thế này, trên chiếc giường này, nhưng không nghĩ sẽ có ngày hôm nay.

Trong lúc sốt cao, đúng là Tạ Cánh có nghe thấy ai đó ghé vào tai mình nói chuyện, nhưng y cứ ngỡ đó là mơ hay chỉ là tưởng tượng. Đối phương từng gọi tên y, muốn y phải "sống", cứ thế lặp đi lặp lại mãi, ngay cả trong cơn mê man, Tạ Cánh cũng vô thức cảm nhận được sự lo lắng của hắn.

Hóa ra đó là Lục Lệnh Tùng. Thật ra cũng chỉ có thể là Lục Lệnh Tùng.

Bọn họ đều muốn y sống tiếp, nhưng sống còn khó hơn chết nhiều. Khi cuộc hành hình dưới cầu Chu Tước kết thúc, cuối cùng y cũng gục ngã sau ba ngày không ngủ không nghỉ, một giây trước khi mất đi ý thức, hình ảnh đầu của cha và anh vẫn in sâu trong đáy mắt. Khoảnh khắc ấy y chỉ một mực nghĩ đến cái chết.

Dù đã được cứu về Vương phủ dưỡng bệnh, suy nghĩ này vẫn thường xuyên lóe lên trong đầu y - cho đến khi đọc xong bức thư đó.

Với sự hiểu biết của Tạ Cánh về Lục Lệnh Tùng, y có thể không chút do dự nói rằng, Lục Lệnh Tùng đã viết nó như một bức di thư.

Lục Lệnh Tùng là một người đặc biệt như vậy, trước khi đưa ra quyết định, đôi khi hắn sẽ tỏ ra do dự, tự ti, thậm chí nhu nhược; nhưng một khi đã quyết định xong, ý chí và năng lực thực thi mạnh mẽ của hắn lại khiến người ta phải kinh sợ. Tạ Cánh hoàn toàn có thể tưởng tượng ra cảnh tượng ấy - dù tình cảm trong bức di thư nặng tựa ngàn cân, nhưng khi viết nó, Lục Lệnh Tùng chắc chắn vẫn điềm nhiên như không, chẳng điều gì có thể ngăn cản hắn bước tiếp trên "con đường" đã chọn, kể cả cái chết.

Rất không may, dù có được quay trở lại trăm ngàn lần, Tạ Cánh vẫn sẽ tâm phục khẩu phục trước khí phách ấy. Từ nhỏ y đã mắt cao hơn đầu, ngạo mạn chẳng coi ai ra gì, vậy mà lại nguyện ý làm vợ, làm em, làm bề tôi, tận tụy theo sát Lục Lệnh Tùng bao nhiêu năm trời, chỉ vì hai điều, đó là sự "dứt khoát" lạnh lùng với mọi việc và sự "tàn nhẫn" thành thạo với con người của Lục Lệnh Tùng.

Vì vậy, Tạ Cánh không thể suốt ngày lấy nước mắt rửa mặt, an nhiên sống trong đau khổ và hối hận, để mặc Lục Lệnh Tùng một mình l**m máu trên lưỡi đao, mạo hiểm vì cả nhà được.

Báo thù có lẽ là chuyện viển vông, không biết tự lượng sức mình, nhưng ít nhất Tạ Cánh biết phải bắt đầu từ đâu - ngòi nổ dẫn đến tai họa của nhà họ Tạ chính là lô ngọc Lam Điền bất ngờ xuất hiện, cùng món lễ vật đột ngột được đưa tới vào thời điểm đáng ngờ của Hà Cáo.

Ngọc Lam Điền được khai thác trong vùng đất thuộc phạm vi Ung Châu, cũng chính là nơi Hà Cáo đang nhậm chức. Khoảng cách từ kinh thành đến nơi đó xa hơn nghìn dặm, nếu không có khoái mã hay xe thuận gió, chỉ dựa vào khả năng của bản thân y, có lẽ phải mất hơn nửa năm mới có thể đến nơi.

Tạ Cánh không sợ hành trình dài bôn ba, chỉ sợ nếu y rời đi, để lại các con bơ vơ ở Vương phủ, thì đêm đêm làm sao có thể yên giấc?

Nhưng làm cách nào để đưa bọn trẻ rời kinh? Chưa chắc y đã được phép đưa chúng ra khỏi kinh thành - Lục Thư Thanh gần như chắc chắn không thể; nhưng dù có đưa đi được, y cũng tay không tấc sắt, Phi Quang chẳng rõ đã ở đâu, y tự bảo vệ mình còn không nổi, huống chi là che chở con của mình? Bao năm nay ở trong kinh, ngoại trừ ăn không ngồi rồi, củi gạo dầu muối chẳng đụng tay, đạo lý đối nhân xử thế lại như tờ giấy trắng, y có thể làm được việc gì để nuôi con, che chở chúng khỏi mưa giông bão táp đây?

Sau gần một tháng kể từ khi tận mắt chứng kiến người thân bị tàn sát mà bản thân lại bất lực không thể cứu giúp, cảm giác tuyệt vọng sâu sắc và bất lực rốt cuộc cũng chậm rãi nhấn chìm Tạ Cánh.

Bên tai vang lên tiếng sột soạt khe khẽ, Lục Thư Thanh trở mình trong cơn mơ, cậu chẳng hề hay biết gì, chỉ vô thức kéo lấy một cánh tay của Tạ Cánh lại, đặt ngang ra rồi mơ màng gối đầu lên đó, còn dụi đầu vào lòng mẹ vài cái.

Trong bóng tối, Tạ Cánh sững sờ, cảm giác chua xót chợt dâng lên như thể ngâm mình trong nước mơ chua, như thế này, bảo y làm sao nhẫn tâm rời đi được đây?

Mùng một tháng Giêng, tân đế Lục Lệnh Chương đăng cơ tế trời, đổi niên hiệu thành Cảnh Dụ. Bởi vì gã chỉ mới mười sáu tuổi, chưa làm lễ gia quan, vậy nên Thái hậu Vương thị và Hữu tướng Vương thục đã cùng nhau phụ chính.

Xét đến bài học khi bị Lục Lệnh Chân quất roi trước đó, lần này khi quay trở lại đứng trước cửa phủ Chiêu Vương, Vũ Lâm Vệ đã mang theo vũ khí, rõ ràng đến với ý đồ bất thiện.

Có lẽ vì Lang Gia Vương thị cầm quyền đã trở thành thế cục không thể lay chuyển, lại có ngoại thích của thiên tử chống lưng nên tên Giáo úy gan to hơn hẳn. Dù sao bọn chúng cũng không đến giết người phóng hỏa, chỉ là đuổi một phế phi bị Chiêu Vương đích thân phế bỏ mà thôi. Lục Lệnh Tùng trở về có truy cứu trách nhiệm thì liệu có thể gây lên sóng gió gì chăng?

Vì vậy lần này gã hoàn toàn bỏ qua kiểu cách "trước lễ sau binh", trực tiếp dẫn người phá cửa xông vào, một đường thẳng tiến không chút kiêng dè.

Gia đinh có người về quê chưa trở lại, nhất thời không thể tập hợp đầy đủ. Bác Chu dẫn theo một đám gia nhân và nha hoàn ùa ra, cố gắng ngăn bọn chúng lại dưới sảnh chính. Ngân Trù và Lục Thư Thanh đang ở trong phòng thuốc, nghe thấy động tĩnh, cuối cùng vẫn không tránh khỏi phải đối mặt với cuộc xung đột này.

Ngân Trù lập tức chắn trước người cậu, quát lớn: "Dám mang binh khí xông vào Vương phủ, các ngươi điên rồi sao?"

Tên Giáo úy cợt nhã: "Cô nương nói chuyện thật nực cười, nếu bọn ta vào đây bị coi là xông vào trái phép, thì tội thần họ Tạ ở lại đây suốt nửa tháng nay, chẳng phải đã trở thành con tu hú cướp tổ rồi sao?"

"Phế lập Vương phi là chuyện riêng của phủ Chiêu Vương," Bác Chu lên tiếng, "Dù muốn đuổi người đi, thì cũng phải do điện hạ đích thân ra lệnh mới đúng. Tùy tiện can thiệp vào việc nhà của thần tử, chẳng lẽ đây chính là sách lược phụ chính mà Vương tướng của chúng ta muốn dùng hay sao?"

Giáo úy khựng lại, bản thân gã làm oai thì không sao, nhưng lại không dám để phủ Tướng bị vướng vào lời đàm tiếu như vậy. Gã đảo mắt nhìn đám gia nhân: "Các ngươi ai nấy đều ra sức che chở cho y như thế, thật khiến ta cảm thấy kỳ lạ. Chẳng lẽ... Cái gọi là phế truất Vương phi, thực chất chỉ là chiêu trò lá mặt lá trái của điện hạ, mượn cớ che mắt người đời để lén lút nuôi dưỡng tội nhân trong Vương phủ hay sao?"

Lời này nói trúng nỗi lòng của mọi người, nhất thời không ai dám manh động, Giáo úy thấy vậy, đắc ý nói: "Nếu chuyện này là thật, vậy thì ta phải bấm báo lên bệ hạ và Vương tướng, xin các ngài tra rõ một phen. Ai biết chừng, Trưởng công chúa cũng có phần tham gia vào đấy."

Lục Thư Thanh đẩy nhẹ Ngân Trù một cái, cô quay sang, chỉ nghe cậu nói: "Dì à, để con lên."

"Thanh Nhi, con..."

Lục Thư Thanh chỉ lắc đầu, cậu băng qua đám hạ nhân Vương phủ đang che chắn trước mặt mình, chậm rãi bước ra bậc thềm, chẳng chút sợ hãi ngẩng đầu nhìn thẳng vào Giáo úy: "Nghe khẩu khí của đại nhân, dường như đây không phải lần đầu tiên ngươi đến phủ nhỉ? Chẳng lẽ Trường sử, Tham quân, Giám thừa Vũ Lâm Vệ đều chết cả rồi nên mới phái một tên Giáo úy nhỏ bé đến hỏi chuyện ta sao? Ta là thế tử Chiêu Vương được tiên đế thân phong, Vũ Lâm Vệ bất kính với ta như vậy, chẳng phải đã đặt thể diện của tiên đế và thiên gia dưới chân rồi sao?"

Tên Giáo úy kia mới được đề bạt không lâu, trước đó chưa từng có cơ hội nhận diện Lục Thư Thanh, ban đầu gã hoàn toàn không để đứa trẻ này vào mắt, mãi đến khi nghe cậu nói xong, gã mới ngập ngừng lùi lại vài bước, miễn cưỡng hành lễ, nhưng giọng điệu vẫn rất coi thường: "Thế tử thứ tội, không phải Vũ Lâm Vệ khinh thường quân uy, lần này tôi thật sự được Vương tướng đích thân chỉ định đến đây, nếu có sơ sót về lễ nghi thì cũng chỉ là bất đắc dĩ."

"Đích thân chỉ định?" Lục Thư Thanh lạnh giọng nói, "Bây giờ địa vị của Vương tướng lên cao rồi, nhưng ông ta là quân thượng, hay là nhiếp chính vương? Bất quá cũng chỉ là một thần tử phụ chính mà thôi, ông ta dám cả gan làm càn, quyết định trên đầu hoàng thúc luôn hay sao?"

Giáo úy thấy cậu không bị danh tiếng của Vương Thục làm lung lay, đành phải đổi cách đe dọa: "Vương tướng còn không quên dặn dò tôi phải quan tâm thế tử nhiều hơn, dù gì cũng là 'Gia Thụy' trăm năm khó gặp, sinh ra trong điện Cửu Hoa, lại được tiên đế có lòng bồi dưỡng. chỉ có điều thế tử tuổi còn nhỏ, ít trải sự đời, chẳng lẽ không biết một lòng gắn bó với thiên gia, ngược lại sẽ khiến người khác nghi ngờ rằng thế tử và Chiêu Vương có mưu đồ bất chính hay sao?"

Lục Thư Thanh cười lạnh một tiếng: "Cha ta là công thần được chính miệng bệ hạ khâm định, chỉ dựa vào mấy lời xằng bậy vừa rồi của đại nhân, gieo rắc hiềm khích giữa quân thần, huynh đệ, dù có chết vạn lần cũng không đủ chuộc tội!"

Cậu bước lên vài bước, đứng ở vị trí chỉ cách Giáo ủy vẻn vẹn nửa cánh tay, nói: "Tuy mẹ ta không còn là thê tử của Chiêu Vương, nhưng người vĩnh viễn là mẹ ruột của thế tử, ngươi muốn đuổi người đi, vậy để ta chỉ cho ngươi một cách."

Lục Thư Thanh đột nhiên vươn tay rút hơn nửa thanh đao của Giáo uy ra khỏi vỏ, mặt không đổi sắc nói: "Ngươi cầm nó chém ta một nhát, sau đó mang xác ta đến bẩm báo với hoàng thúc, nói mẹ ta tâm trí rối loạn, điên cuồng giết con, không thích hợp ở lại Vương phủ nữa. Nếu như ngươi có thể làm được chuyện này, ta tôn trọng sự dũng cảm của ngươi; nhưng nếu làm không được... Vậy thì mau dẹp cái ý nghĩ này lại đi!"

Cậu nhìn Giáo úy bằng ánh mắt khinh miệt. bác Chu thấy mà lo lắng không thôi, lại mơ hồ như được gặp bộ dáng cao ngạo của tân khoa trạng nguyên lang năm xưa.

Giáo úy đang bực tức trong lòng, lại bị Lục Thư Thanh khích tướng, rốt cuộc cũng rút đao ra thật. Mọi người thấy vậy liền hô lớn "Thế tử!" rồi định xông lên ngăn cản, nhưng đám binh sĩ Vũ Lâm Vệ bên cạnh đã hung hăng tiến tới, thô bạo chặn họ lại, không để ai đến gần.

"Một thằng oắt con miệng còn hôi sữa, thật sự nghĩ chuyện múa đao vung kiếm là trò chơi trẻ con sao! Hôm nay dù ta thực sự đả thương ngươi rồi đổ tội lên đầu tội nhân họ Tạ, kẻ thiệt thòi cũng chỉ có mẹ con các ngươi thôi, liên quan gì đến ta chứ!"

Dứt lời, gã bèn giơ đao, định bổ thẳng xuống người Lục Thư Thanh, nhưng đúng lúc này, một cái bóng xanh biếc lao nhanh từ trên cao xuống, nện thẳng vào mặt gã. Giáo úy chỉ cảm nhận được cơn đau nhói, đến khi định thần lại thì trên mặt đã xuất hiện vài vết xước đang rướm máu.

"Cái thứ quái quỷ gì đây!" Gã chửi rủa, vừa ngẩng lên thì thấy Lục Ngải chao liệng trên đỉnh đầu như chim kền kền, dáng vẻ hung hãn tựa như đang chờ thời cơ bổ nhào xuống thêm một cú nữa.

Lục Thư Thanh cau mày gọi: "Lục Ngải, về đây! Ta không cần ngươi giúp!"

Giáo úy vươn tay muốn bắt lấy Lục Ngải, nhưng Lục Thư Thanh đã dùng bả vai húc vào xương sườn gã, khiến cho gã mất trọng tâm lảo đảo nửa bước. Giáo úy túm lấy cổ áo Lục Thư Thanh định ném cậu ra xa, hai bên giằng co hỗn loạn, bỗng phía sau vang lên một giọng nói:

"Dừng tay!"

Mọi người ngoảnh lại, không biết từ lúc nào Tạ Cánh đã tỉnh dậy, lần theo tiếng ồn đi đến giữa chính đường, vẻ ngoài của y ốm yếu xanh xao, sắc mặt tiều tụy, phải tựa vào cửa mới gượng đứng thẳng được.

Lục Thư Thanh nhân lúc Giáo úy phân tâm lập tức vùng khỏi sự kìm kẹp, chạy nhanh về bên cạnh mẹ.

Tạ Cánh cất giọng đanh thép: "Chẳng nhọc Vương gia hao tâm tổn trí, nếu Chiêu Vương đã không dung thứ, ta cũng chẳng mặt dày ở lại. Đến giờ chưa đi, là vì bệnh trong người trầm trọng, thật sự không dậy nổi."

Giáo úy ma mãnh híp mắt dò xét: "Nhìn bộ dạng các hạ hôm nay, ta thấy chẳng giống như không dậy nổi chút nào?"

Tạ Cánh thản nhiên nói: "Dĩ nhiên là vì đã khôi phục hơn nửa, cho nên ta mới đích thân đến báo cho đại nhân biết, sáng sớm mai ta sẽ rời khỏi Vương phủ, rời khỏi kinh thành, ta sẽ không nấn ná ở lại Kim Lăng thêm một phút giây nào nữa."

Giáo úy vừa định mở miệng chất vấn đã nghe y nói tiếp: "Sáng mai đại nhân cứ việc dẫn binh quay lại, tận mắt canh chừng hay tự tay áp giải ta ra khỏi thành cũng được, như vậy hẳn đã đủ báo cáo với Vương tướng rồi chứ?"

Giáo úy trầm ngâm hồi lâu rồi hung hăng đe dọa: "Hạn chót là sáng mai, nếu còn chưa chịu đi thì đừng trách ta không khách sáo!"

Dứt lời, gã phất tay ra hiệu thuộc hạ rút lui, nhưng mới đi được hai bước, gã đã chợt khựng lại, xoay người nhìn về phía mái hiên bằng ánh mắt u ám, bàn tay chầm chậm lần về chiếc nỏ cơ đeo ở thắt lưng.

Tạ Cánh biến sắc, dùng một tay kéo Lục Thư Thanh ra phía sau mình che chở, thế nhưng chỉ thấy tên Giáo uy giơ nỏ cơ lên, nhắm về phía Lục Ngải đã bay về trên giá đậu.

Mọi người chỉ nghe "phựt" một tiếng, con vẹt vỗ cánh muốn tránh đi nhưng đã chậm một bước, thân thể mềm mại xinh đẹp trong nháy mắt đã bị tên nỏ đâm xuyên qua. Lục Ngải rít lên một tiếng thảm thiết rồi rơi thẳng từ không trung xuống, nằm trên bậc thềm ngọc lạnh lẽo tựa như đóa đỗ quyên đỏ úa tàn, ôm hương mà chết.

Không còn động đậy nữa.

Lục Thư Thanh trợn mắt, cả kinh hô lên: "Lục Ngải!"

Tên Giáo úy chỉ cười, bỏ lại một câu "Súc sinh", sau đó nghênh ngang dẫn người rời đi.

Lục Thư Thanh lảo đảo bước tới, luống cuống tay chân nâng xác của con vẹt lên: "Lục Ngải, Lục Ngải? Ngươi nói chuyện đi, nói với ta một câu đi!"

Nhưng máu của Lục Ngải đã thấm đẫm từng ngón tay của cậu rồi.

Dù có gọi thế nào cũng không nhận được câu trả lời, Lục Thư Thanh ngơ ngác hồi lâu mới ngẩng đầu lên, khó tin mà cầu xin mẹ giúp đỡ: "Mẹ, mẹ mau đến xem Lục Ngải đi, sao Lục Ngải không còn động đậy nữa vậy..."

Cả người Tạ Cánh lạnh buốt, y phải dùng hết hơi sức mới có thể gắng gượng gọi một câu, giọng khàn đặc: "Thanh Nhi..."

Lục Thư Thanh bỗng bật khóc, cậu ngồi nguyên tại chỗ, nói năng lộn xộn, khóc không thành tiếng: "Mẹ! Lục Ngải chết rồi! Lục Ngải bị hắn hại chết rồi!"

Tiếng khóc thê lương khiến người nghe không khỏi đau lòng như đứt ruột. Nỗi đau đớn khi mất đi nhà ngoại, Vương phủ xảy ra biến cố, cha mẹ đoạn tuyệt, Lục Lệnh Tùng đi xa giống như thủy triều cuồn cuộn tràn tới, cái chết của Lục Ngải trở thành cọng rơm cuối cùng quật ngã Lục Thư Thanh, mọi sự nhẫn nhịn, giả vờ mạnh mẽ suốt nửa tháng qua đều sụp đổ tan tành trong khoảnh khắc này.

Hoàng hôn buông xuống, trong sân nội viện.

Tạ Cánh đào một cái hố đất dưới gốc cây mai trắng nơi vẫn thường treo giá vẹt. Lục Thư Thanh tự tay rửa sạch cái xác bé nhỏ của Lục Ngải, bộ lông xanh biếc mà nàng vẹt luôn kiêu hãnh khoe khoang cũng được chải chuốt lại cho mượt mà, óng ánh đẹp đẽ.

Ngân Trù mang một chiếc khăn lụa đến quấn nó lại, sau lại tìm một chiếc hộp gấm đẹp, trải vào trong đó lớp nệm thật êm, để thêm cả cái chén và muỗng vàng nhỏ mà nó yêu thích nữa.

Lục Thư Ninh vẫn chưa hiểu được những chuyện đang xảy ra, em ngồi xổm bên cạnh "quan tài" của Lục Ngải, vừa nhẹ nhàng vỗ về nó, vừa hát cho nó nghe khúc hát ru mà em học được từ mẹ. Em cứ nghĩ là Lục Ngải chỉ đang ngủ.

Hai mắt Lục Thư Thanh sưng đỏ, ngây ngốc nhìn cảnh tượng trước mặt. Rồi cậu bỗng tháo chiếc khóa trường mệnh trên cổ mình xuống, lấy một hạt châu trong chuỗi hạt dưới vòng ra, đặt lên bên mắt bị mũi tên bắn thủng của Lục Ngải: "Ngày nào ngươi cũng mổ thứ này, mổ không được thì lại làm phiền ta. Bây giờ tặng cho ngươi đấy, ta không thèm nữa."

Hạt châu trong suốt lấp lánh làm nổi bật vẻ rực rỡ của nàng anh vũ, sinh động tựa như lúc còn sống.

Hộp gấm khép lại, khi được hạ táng, Lục Thư Ninh xung phong cầm lấy cái xẻng nhỏ, thay mẹ và anh trai hoàn thành việc lấp đất.

Sự hồn nhiên chưa hiểu sự đời của Lục Thư Nịnh dường như khiến cái chết trở nên giống như một màn hỷ tang, mà thật ra đây cũng chẳng phải điều xấu, Tạ Cánh thầm nghĩ. Linh hồn của Lục Ngải hẳn cũng sẽ nhẹ nhàng tự tại, cưỡi làn gió thơm bay thẳng đến nơi bồng lai tiên cảnh, hóa thành loài Thanh Điểu xinh đẹp, tôn quý nhất trước xa giá của Tây Vương Mẫu.
 
Back
Top Bottom