Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm

Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 80


《 19.2 》

Tạ Cánh đứng trong thư phòng của Tạ Tuấn, đưa mắt nhìn quanh bốn bức tường. Mặc dù đã được người hầu nhà họ Vương dọn dẹp sạch sẽ không còn hạt bụi, nhưng cả căn phòng vẫn trống trải, không còn lại đồ vật gì.

Vào cái ngày ngõ Ô Y bị sao kiểm, từ nửa đêm về sáng, Tạ phủ đã xảy ra hỏa hoạn, trong tiếng than khóc và kêu gào thê thảm, không biết là ai đã vô tình đánh đổ giá nến, ngọn lửa nhanh chóng bùng lên, thiêu rụi toàn bộ dãy tường và phòng ốc phía Đông Bắc, trong đó có cả phòng ngủ và thư phòng của Tạ Tuấn.

Sau khi cha và anh trai của y bị xử trảm, Tạ phủ cũng bắt đầu bị phong tỏa và tạm thời sung vào của công. Tạ Cánh nghe Lục Lệnh Tùng kể rằng triều đình đã cử người đến dọn dẹp tàn tích rồi tu sửa lại một loạt, còn có tin đồn nói rằng nơi này sẽ được sử dụng vào mục đích khác, nhưng mãi chẳng thấy động tĩnh gì. Mãi đến đầu năm nay, khi Tạ Cánh trở về kinh thành, phủ đệ mới được trả về cho chủ cũ.

Bây giờ nghĩ lại, mệnh lệnh sửa chữa Tạ phủ năm xưa, có lẽ chính là do Lục Lệnh Chương ban bố.

Năm đó, ở trong nhà góc nào cũng thấy được kỳ trân dị bảo, có lẽ chúng đã bị tịch thu, hoặc là đám binh sĩ lợi dụng lúc hỗn loạn đục nước béo cò khoắng sạch ra ngoài rồi. Tạ Cánh chưa từng, cũng không dám bước vào phòng của cha mẹ và anh chị, nhìn vật nhớ người là điều khiến người ta đau thấu tâm can nhất, mà y cũng chẳng biết có bao nhiêu đồ vật họ từng dùng khi còn sống vẫn còn được giữ lại.

Quản gia cúi đầu bẩm báo: "Bình thường ngoài Nam viện, các viện khác đều được khóa lại. Mỗi sáng chúng tôi mở cửa quét dọn xong lại khóa ngay, sau đó cũng chẳng ai đụng đến chìa khóa. Vừa rồi đã gọi tất cả mọi người trong phủ lại, từng người đều thử so tay với dấu tay kia, nhưng không một ai khớp cả."

Tạ Cánh từ từ đặt tay mình lên dấu tay trên bàn so thử, nhận thấy dấu tay này lớn hơn tay mình một chút, khớp xương lộ rõ, chắc là của một người đàn ông. Vết máu vẫn còn mới, có lẽ nó được để lại không lâu trước khi thị nữ đến mở cửa vào buổi sáng.

Y quay lại hỏi: "Trong nhà có bị mất thứ gì không? Kể cả trong phòng này hay là chỗ ở của các ngươi?"

Quản gia là một người lão luyện, nếu không thì Vương Thục đã chẳng cử ông ta đến Tạ phủ làm việc. Ông ta đã dặn dò mọi người trở về kiểm tra đồ cá nhân từ trước, bấy giờ mới nói: "Ngày chuyển vào đây, tuy đại nhân thương tâm không muốn quản việc, nhưng chúng tôi thì vẫn phải tuân thủ quy trình, liệt kê đầy đủ mọi đồ đạc ở các viện. Vừa rồi đã cho kiểm tra lại, không thấy thiếu thứ gì cả."

Thật ra Tạ Cánh hỏi câu này cũng chỉ để cho có mà thôi, rõ ràng kẻ kia đột nhập vào đây không phải để trộm cắp, mà chỉ để dọa nạt, hơn nữa đối tượng dọa nạt dường như không phải là y, mà là đám người hầu này – nếu không sao hắn lại không để lại dấu tay ở Nam viện nơi y ở?

Lòng y khẽ động, Tạ Cánh hơi ngẩng lên, ánh mắt quét qua đám người hầu đang tụ tập trong sân, rất biết xuôi theo làm ra vẻ nghiêm trọng, nói "Nếu đã vậy, ban đêm các ngươi nhớ cần cẩn thận một chút. Bất kể là người hay ma, nếu đã có lần một, chắc chắn sẽ lại có lần hai, chưa biết chừng sẽ có lần ba, lần bốn đấy, chờ xem thế nào đã."

Trước đây, đám thị nữ và tiểu tư trong phủ đều rất tinh tường, ngày ngày tận tụy canh giữ trước cửa phòng Tạ Cánh. Mỗi khi y bước ra ngoài là sẽ luôn có người theo sát không rời nửa bước. Tạ Cánh vẫn thường nghĩ rằng, Lục Lệnh Tùng chọn đặt lối vào đường hầm bí mật ngay trong phòng y quả là rất sáng suốt, chí ít đám người kia cũng không thể đứng cạnh giường để mà nhìn chằm chằm khi y ngủ.

Tuy nhiên, sau sự việc dấu tay máu, lại thêm lời "dặn dò" chẳng khác gì thêm dầu vào lửa của Tạ Cánh, người trong phủ bắt đầu cảm thấy bất an. Ban đêm, nếu không có việc gì làm thì phần lớn đều đóng chặt cửa phòng, những kẻ trực đêm cũng tụ lại với nhau hòng tăng thêm can đảm, thành ra chúng cũng lơ là luôn cả việc kiểm soát Tạ Cánh.

Thế nhưng còn chưa đợi chủ nhân của dấu tay máu kia tiếp tục hành động, Tạ Cánh đã nhận được một thánh chỉ ngoài ý muốn: Lục Lệnh Chương hạ lệnh cho y nhanh chóng khởi hành, băng sông Hoài đến Từ Châu, thay mặt thiên tử đôn đốc tình hình cứu trợ tại các quận Hoài Dương, Tế Âm và Hạ Phi.

Cầm thánh chỉ trên tay, lòng Tạ Cánh lập tức sáng tỏ như gương — Lục Lệnh Chương đã biết rõ kế hoạch khởi sự của bọn họ vào mùa xuân năm sau. Mặc kệ trước đây Lục Lệnh Chương có từng nghi ngờ phủ Chiêu Vương hay không, việc phái Tạ Cánh thực hiện nhiệm vụ này ít nhất có thể chứng minh được hiện tại gã đã đặt lòng tin vào bọn họ.

Lục Lệnh Tùng đã rời kinh từ nửa tháng trước, trên danh nghĩa là tuần tra đất phong, điểm đến thật sự chính là Lạc Ấp. Nhưng chuyến đi này còn có một nhiệm vụ quan trọng hơn — đó là khi đi qua các quận ở Hoài Bắc, Lục Lệnh Tùng sẽ xác nhận xem mạng lưới quan hệ phức tạp mà hắn bí mật xây dựng từ ba năm trước khi dẫn binh đóng quân ở đây có còn vận hành trơn tru hay không. Điều này nhằm đảm bảo rằng đến mùa xuân năm sau, khi kinh thành có biến, quân phòng thủ tại các khu vực này sẽ không "nhiệt tình" hay "chủ động" xuất binh cần vương.

Đoàn tùy tùng của hắn đã tách ra từ khi vừa rời khỏi Kim Lăng, tiếp tục hành trình lên phía Bắc như bình thường, còn Lục Lệnh Tùng thì một mình tiến vào Hoài Bắc. Hắn sẽ hoàn thành công việc, sau đó nhập vào đoàn chính trên quan đạo để tránh gây sự chú ý, cũng như có thể dễ dàng khai báo với triều đình.

Thánh chỉ lần này được Lục Lệnh Chương giao trực tiếp cho Tạ Cánh vào khoảng nửa tháng sau khi Lục Lệnh Tùng rời kinh, khớp với thời điểm các Khâm sai lần lượt nhậm chức, cũng đến các địa phương để kiểm tra tình hình cứu trợ. Vì vậy, việc Tạ Cánh lên đường không khiến ai nghi ngờ, cũng không có lý do gì để liên hệ chuyến đi này với lộ trình của Chiêu Vương.

Khi Tạ Cánh mang tin tức này đến phủ Tướng báo lại với Vương Thục, Thôi Thục Thế cũng có mặt bên cạnh, nàng vẫn giữ thái độ bình thản không gợn sóng như mọi khi. Tạ Cánh không nhìn ra được liệu nàng có biết trước chuyện này hay không, nhưng theo hiểu biết của y, bởi Thôi Thục Thế có âm thầm qua lại với điện Thần Long, giữa hai người cũng có thoả thuận, vậy nên Lục Lệnh Chương nắm rõ kế hoạch của bọn họ rất có thể là vì trong lúc giúp họ "bày tỏ lòng trung," Thôi Thục Thế đã ngầm gợi ý đôi lời.

Phái y đến Hoài Bắc, mang danh là để thử lòng trung thành của phủ Tướng, thực tế là để kiểm tra xem các châu huyện này có thực sự nằm trong tầm kiểm soát của Lục Lệnh Tùng hay không. Điều này có thể cũng là một kế sách mà Thôi Thục Thế đề xuất cho Lục Lệnh Chương.

Vương Thục đọc xong thánh chỉ bèn liếc mắt nhìn vợ thằng con thứ của mình, có vẻ như ông ta đang suy nghĩ về động cơ của Lục Lệnh Chương.

Thôi Thục Thế lập tức hiểu ý, rù rì giải thích: "Điều Tạ đại nhân ra khỏi kinh thành, chúng ta mất đi người phát ngôn trên triều đình, nhưng dù sao thì có vài lời cũng nên để cha và anh Cả đứng ra nói, có thể thấy Hoàng thượng không muốn nhìn thấy nhà chúng ta đứng ngoài cuộc."

Nàng quay lại chỉ vào tấm bản đồ treo trên tường: "Vào giữa triều Vĩnh Gia, khi Lang Gia Vương thị theo nhà Tấn di chuyển vào trong Nam, Quách Phác đã từng giúp Vương Đạo dự đoán lành dữ, quẻ nói: 'Cát, không có bất lợi. Hoài Thủy chia cắt, Vương thị diệt vong.' Theo ngu kiến của thiếp, đây chính là cơ hội hiếm có cho chúng ta. Quận Lang Gia vốn thuộc Từ Châu, mặc dù chuyến này Tạ đại nhân không đi xa đến vậy, nhưng dù sao cũng có mối quan hệ sâu sắc. Nếu như chúng ta có thể ra tay cứu giúp trong lúc khó khăn, người dân ở các quận Hoài Bắc chắc chắn sẽ rất cảm kích."

Vương Thục không lên tiếng, nhưng Tạ Cánh nhìn thần sắc của ông ta thì biết Thôi Thục Thế đã nói trúng suy nghĩ của ông. Triều đình đã cho phép phân bổ tiền cứu trợ cho nơi thiệt hại nhẹ nhất là Chiết Đông nhưng lại là khoản lớn nhất. Lúc này dân chúng hãy còn khốn đốn vì sinh kế, không rỗi rãi để tranh cãi về sự bất công này. Tuy nhiên, nếu sang năm tình hình cải thiện, có người lôi chuyện cũ ra để tính toán thì danh tiếng và lòng dân mà ông ta cẩn thận duy trì bao năm qua cho Lang Gia Vương thị sẽ gặp phải nguy cơ.

Chảy một ít máu, chừa lại con đường sống cho những người không liên quan, chẳng phải giờ đây ở kinh thành, hai nhà Ngô – Lý cũng đang làm như vậy hay sao? Đến lúc tính toán rồi mới nói tiếp, Vương thị của ông ta đâu chỉ dùng Tạ Cánh làm bia đỡ đạn, làm kẻ chịu tội thay, chẳng phải cũng cho y làm việc thiện tích đức đấy sao?

Vương Thục trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng nói với Tạ Cánh: "Hoài Thủy là cửa ngõ của Kim Lăng, vô cùng quan trọng, cậu không ngại thì hãy thử thăm dò tình hình một chút đi."

Tạ Cánh vội vã lên đường, còn chưa đến cuối năm đã rời khỏi Kim Lăng. Để phòng trường hợp bất trắc, y đã tuyển chọn một nhóm người từ dư bộ Hổ Sư dưới chân núi Mạc Phủ, trong số đó còn có Từ Ất và Từ Giáp. Nhóm người này và người hầu đi theo của nhà họ Vương chia thành hai phe rõ rệt, đề phòng lẫn nhau, trái lại Tạ Cánh có thể nhân dịp này thở phào một hơi.

Chiến lược đầu tiên của y là ra roi thúc ngựa đến quận Hạ Phi – nơi nằm ở xa nhất, sau đó quay đầu rồi tiến thẳng về kinh. Một là vì quận Hạ Phi ở phía Bắc, tình hình thiệt hại nghiêm trọng và cấp bách hơn, hai là vì Lục Lệnh Tùng có lẽ vừa mới rời khỏi đó không lâu, nếu như Quận thủ có ý đồ bất chính, thì họ cũng không đủ thời gian để thực hiện, rất dễ dàng để lộ sơ hở.

Đêm giao thừa, họ bị gió tuyết buộc phải dừng lại ở ngoại thành, bất đắc dĩ, đoàn người chỉ có thể ghé tạm vào một nhà trọ ven đường. Tạ Cánh nói rằng mình đã mặc đủ ấm rồi, không cần thêm lửa sưởi, bảo hai anh em họ Từ mang lò than duy nhất vào phòng bên trong cho mọi người, những binh sĩ trực đêm cũng bị y khuyên về nghỉ ngơi. Cũng may căn phòng mà y ở không có cửa sổ nào bị hỏng, quần áo và chăn đệm đều được cuộn chặt trên người, đủ để đối phó với cái lạnh; còn phòng của các hạ nhân dưới lầu không biết vì sao lại bị gió lùa vào, không có than để sưởi ấm, chỉ sợ là không chịu nổi.

Tạ Cánh đã đi nằm từ sớm, suy nghĩ xem ngày mai vào thành thì kiểm tra từ chỗ nào trước, y gối đầu lên tiếng gió, cuộn tròn mình trong góc giường, đang mơ màng chuẩn bị vào giấc thì chợt nghe thấy tiếng "ken két" vang lên rất rõ.

Tạ Cánh cứ tưởng là cửa sổ bị gió thổi bật mở ra, nhưng còn chưa kịp bước xuống giường đã chợt cảm giác tấm màn sau lưng sột soạt động đậy, một giây sau, một bàn tay ấm áp đã dán lên khuôn mặt lạnh ngắt của y.

Tạ Cánh suýt nữa là thất thanh kêu lên, nhưng có vẻ người đến đoán được phản ứng của y nên thuận thế bịt miệng y lại. Trong nháy mắt khi da thịt tiếp xúc, Tạ Cánh đã chịu ngồi yên, bởi y nhận ra ngay được đó là hơi thở thuộc về riêng Lục Lệnh Tùng.

Y ngạc nhiên xoay người, vén chăn lên để cho Lục Lệnh Tùng chui vào, còn mình thì ôm chầm lấy eo đối phương. Quần áo của hắn hãy còn nhuốm hơi lạnh, nhưng cơ thể thì ấm áp hơn rất nhiều, Tạ Cánh co chân lại, cọ xát với bắp chân của hắn theo bản năng hòng tăng nhiệt độ lòng bàn chân.

"Em còn tưởng là anh đi tồi."

Lục Lệnh Tùng vòng tay nhẹ nhàng xoa gáy Tạ Cánh, giúp y lưu thông máu: "Vốn định đi vào hôm qua, nhưng bị tuyết rơi làm trì hoãn. Nếu đi rồi thì làm sao gặp được em nữa."

"Chứ dấu tay kia... Không phải là của anh sao?" Tạ Cánh bỗng nhiên nhớ ra, vô thức hỏi.

Lục Lệnh Tùng khó hiểu: "Dấu tay gì?"

Tạ Cánh đoán dấu tay máu kia chính là tác phẩm của Lục Lệnh Tùng, nhưng chợt nghĩ đối phương không có chìa khóa, muốn vào thư phòng của Tạ Tuấn chỉ có thể phá khóa, nhưng theo quản gia nói, khóa cửa không có dấu vết hỏng hóc. Hơn nữa, nếu thật sự là do Lục Lệnh Tùng làm, hắn cũng chẳng cần phải lừa y, không báo tin cho y biết.

Hay là kẻ đột nhập có chìa khóa? Nhưng năm đó rối loạn, lắm người nhiều tai mắt, Tạ Cánh căn bản không thể điều tra được xem ai đã lấy chìa khóa của Tạ phủ.

Cuối cùng y chỉ lắc đầu, nói "Không có gì, chắc là em nằm mơ vớ vẩn thôi.", đại sự vẫn còn đó, y không muốn Lục Lệnh Tùng nhọc lòng quan tâm những chuyện này.

"Sao em lại đến đây?" Lục Lệnh Tùng quen đường quen nẻo chôn mặt vào cổ y hôn lấy hôn để, vừa hôn vừa dùng lòng bàn tay ấm áp ấp lên bụng dưới mềm mại của Tạ Cánh.

Tạ Cánh khai báo giản lược cho hắn một lượt từ đầu đến cuối, y nói: "Em che giấu thân phận đến đây, buổi chiều nhìn thấy xe ngựa của quan phủ dừng ở bên ngoài, còn tưởng là quận thủ Hạ Phi chơi trò trêu ong ghẹo bướm gì đó, không muốn kéo rèm lên, hóa ra là anh."

"Em còn đang định hỏi anh đây, vòng quanh một hồi như vậy, những nút thắt quan trọng đều đã xử lý ổn thỏa chưa? Có việc nào cần em khai thông, hoặc phải dùng danh nghĩa của Tạ gia không? Hay chỉ cần dùng em để thăm dò lòng trung thành của bọn họ thôi?"

Lục Lệnh Tùng nghe vậy thoáng ngập ngừng, khoảnh khắc ấy lập tức bị Tạ Cánh nhạy bén bắt được, y nhắc nhở: "Đã đến nước này rồi, sống chết cùng nhau, thẳng làm vua thua làm giặc đã không còn là chuyện của anh hay em nữa rồi, cũng chẳng có ai thiếu nợ ai, anh cần em làm gì thì cứ nói thẳng ra đi."

"Trước hết em cứ làm tốt việc Vương Thục giao phó là được," Lục Lệnh Tùng chăm chú nhìn y trong bóng tối hồi lâu, sau đó hôn mạnh lên hai má y mỗi bên một cái. "Những chuyện cần khơi thông, cần mượn danh nghĩa Tạ gia, ta đều đã sắp xếp ổn thỏa rồi."

Tạ Cánh hơi bất mãn, Lục Lệnh Tùng hôn y kiểu này cứ như hôn trẻ con không bằng, y bèn ghé sát lại, vừa dùng chóp mũi cọ vừa hé răng khẽ cắn, hôn một đường từ yết hầu Lục Lệnh Tùng lên đến môi hắn.

"Nếu còn dư sức, em có thể thử thăm dò toàn bộ Quận thủ các quận một lần, nhưng trực giác của ta luôn chính xác," Lục Lệnh Tùng ngừng lại, giọng nhẹ bẫng, "Vấn đề nằm ở Hoài Dương."

Tạ Cánh lặng lẽ ghi nhớ, trong lòng đã rõ ý hắn, chỉ là không muốn tiếp tục phí sức bàn chuyện công nữa.

"Sáng mai anh đi sớm à?" Y chưa từ bỏ ý định hỏi thêm một câu, bàn tay đã len vào lớp áo, quấn lấy lưng Lục Lệnh Tùng, cảm nhận những vết sẹo trên da hắn. "Em muốn làm."

Nói thế nhưng Tạ Cánh cũng hiểu rõ, cả thời gian lẫn địa điểm đều không thích hợp. Đã lâu không sinh hoạt vợ chồng, một khi khơi mào, e rằng cả hai đều sẽ khó mà kiềm chế được.

"Sắp rồi," Lục Lệnh Tùng vân vê vành tai của y, "Sắp xong rồi, đến lúc đó đêm đêm ta đều sẽ ở bên cạnh em, không lên triều cũng sẽ ở cạnh em."

Thật ra Tạ Cánh không hề buồn ngủ, nhưng y chỉ có thể cố gắng điều chỉnh hơi thở sao cho đều đặn, tránh không lật người gây tiếng động. Nếu y cứ thao thức mãi không ngủ, Lục Lệnh Tùng cũng sẽ thức trắng đêm cùng với y. Ngày mai Tạ Cánh có thể nhàn nhã ngồi xe ngựa để vào thành, nhưng Lục Lệnh Tùng thì phải cưỡi ngựa đón gió tuyết, không thể không nghỉ ngơi đàng hoàng. Tạ Cánh giả vờ như mình đã ngủ say, chỉ có như vậy Lục Lệnh Tùng mới yên tâm mà ngủ.

Suốt cả đêm chỉ có tiếng gió Bắc gào thét, đến hừng đông thì tuyết ngừng rơi. Ánh mặt trời chưa kịp ló dạng, nhưng tuyết phủ khắp nơi cũng đã khiến cảnh vật trở nên sáng sủa hơn. Lục Lệnh Tùng tỉnh dậy, cẩn thận gỡ cánh tay đang ôm mình của Tạ Cánh ra rồi xuống giường.

Tạ Cánh giấu nửa mặt vào trong chăn, lặng lẽ dõi theo bóng lưng của hắn. Suốt mười bốn năm qua, y đã trải qua vô số buổi sáng như vậy, im lặng, thờ ơ nhìn Lục Lệnh Tùng rửa mặt chải đầu, thay quần áo. Khi mọi thứ đã đâu vào đấy, chuẩn bị mở cửa bước ra, Lục Lệnh Tùng luôn quay đầu lại nhìn về phía giường theo thói quen. Nếu bắt gặp Tạ Cánh đang mở to đôi mắt đen láy nhìn mình, hắn sẽ bật cười, quay lại ngồi xuống mép giường, nửa ôm lấy y rồi lại quấn quýt thêm một hồi.

Nhưng hôm nay Lục Lệnh Tùng không làm như vậy. Hắn chỉ qua loa chỉnh trang, cầm kiếm lên bước vội tới cửa, do dự trong giây lát rồi sải bước xuống lầu, tựa như nếu còn nấn ná thêm chút nữa, hắn sẽ không thể nhịn được mà ngoảnh lại.

Tạ Cánh ngẩn người nhìn cánh cửa vừa mở ra lại khép lại, bỗng dưng cảm thấy buồn cười. Y cảm giác Lục Lệnh Tùng lúc này chẳng khác nào chàng thư sinh ma quỷ trong thoại bản, lén lút hẹn hò với tiểu thư nhà lành, đến khi trời sáng lại biến mất không một dấu vết. Nếu không phải bên người vẫn còn sót lại hơi ấm, y sẽ chẳng thể phân biệt được liệu ngày hôm qua là thật hay chỉ là mộng.

Tạ Cánh ngồi bần thần hết nửa tuần trà, rồi bỗng nhiên bật dậy như thấy ma, y xỏ giày, khoác vội áo choàng, cuống cuồng lảo đảo chạy xuống cầu thang nơi Lục Lệnh Tùng vừa rời đi.

Trong sảnh nhà trọ vắng vẻ chỉ có một tên tiểu nhị đang ngái ngủ. Tạ Cánh không hề dừng bước mà đi thẳng ra ngoài, lao vào cái lạnh thấu xương của thế giới ngập tuyết, gió mạnh như dao sắc cứa vào mặt y.

Trong lòng có tiếng nói bi thương vang lên, rằng: "Ngươi nên quay lại thôi", y không nên đuổi theo, vì y chắc chắn mình không thể đuổi kịp. Chỉ là y đột nhiên không thể nào kiểm soát được nỗi sợ hãi ùn ùn kéo đến, bao phủ lấy y như cơn tuyết lớn, đến nỗi thần hồn nát thần tính, coi mỗi bóng lưng rời bỏ y đều là lần gặp mặt cuối cùng, và mỗi cuộc chia tay đều là lời vĩnh biệt.

Y không cất tiếng gọi với theo, chỉ lặng lẽ siết chặt áo choàng bọc kín cơ thể, nghênh đón gió tuyết, từng bước chân tiến tới chìm sâu trong lớp tuyết dày, trông vô cùng chật vật nhưng không chịu khuất phục, cố chấp đuổi theo tiếng vó ngựa đang ngày một xa dần.

Không rõ đã đuổi theo bao lâu, Tạ Cánh cảm giác thời gian như kéo dài cả trăm năm, nhưng thực tế có lẽ chỉ là trăm bước chân ngắn ngủi. Y buông tay áo đang che trước trán để chắn gió lạnh xuống, bỗng nhiên nhận ra giữa không gian trắng xóa vô tận, có một bóng đen đang từ từ di chuyển về phía y, bóng đen đến gần Tạ Cánh, càng lúc càng rõ ràng, càng lúc càng chân thật — đó là Lục Lệnh Tùng.

Vừa nhìn thấy Tạ Cánh, Lục Lệnh Tùng đã lập tức quay đầu ngựa, chạy băng băng về phía y.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 81


《 19.3 》

Đến khi gần như chỉ còn cách Tạ Cánh vài bước. Lục Lệnh Tùng mới ghìm cương ngựa. Hắn nghiêng người xuống, cánh tay mạnh mẽ luồn qua dưới nách y, nhấc bổng người lên, đặt y ngồi ngang trên lưng ngựa rồi ôm siết người vào lòng.

Trong khoảnh khắc ấy, Lục Lệnh Tùng thật sự đã nghĩ đến việc quay đầu, mang theo Tạ Cánh đến một phương trời xa xôi vô định, hoàn toàn biến mất khỏi trận tuyết trắng mịt mù này.

Cứ để trong kinh tin rằng bọn họ đã bất hạnh chết đi, đến hài cốt cũng chẳng còn — để bọn họ có thể lẩn khuất suốt đời trong một vùng núi sâu rừng thẳm nào đó, không bao giờ xuất hiện nữa.

Nhưng bản thân Lục Lệnh Tùng cũng biết rằng đây chính là đầm rồng hang hổ. Đừng nói những điều khác, chỉ cần nghĩ đến các con, nghĩ đến người mẹ hãy còn đang ở Kim Lăng dầu sôi lửa bỏng, bất cứ lúc nào cũng có thể rơi vào hiểm nguy, thì họ không thể nào thanh thản sống tạm dù chỉ một ngày.

Lục Lệnh Tùng giữ ngựa đứng yên, nhẹ nhàng v**t v* tóc mai của Tạ Cánh, hỏi: "Sao em lại đuổi theo ra đây?"

Tạ Cánh không trả lời, chỉ lặng lẽ nâng tay mình lên, đan mười ngón tay vào tay đối phương, kéo tay hắn kề bên môi hôn vài cái.

Lục Lệnh Tùng cúi đầu, ghé tai y an ủi: "Đâu phải ta ra chiến trường, chỉ là đi tuần tra tình hình thiên tai thôi mà, sẽ không có gì nguy hiểm đâu."

"Em biết... Chỉ là em không yên tâm."

Từ ngày bọn họ gặp lại đến nay, đây không phải là lần đầu Tạ Cánh thẳng thắn bộc lộ sự mệt mỏi, lo lắng và bất an trước mặt Lục Lệnh Tùng. Y vốn là người đa sầu đa cảm, trước đây chỉ toàn tốt khoe xấu che, nhưng những ký ức quá mức đau thương đã dạy cho y cách tỏ ra yếu đuối, có thể thẳng thắn biểu đạt rằng "Em rất lo cho anh", Tạ Cánh hiểu rằng điều này có thể khiến Lục Lệnh Tùng kiêng dè hơn khi đối mặt với hiểm nguy — dù là vì nghĩ đến y, hay vì không muốn y lo lắng, hành động của hắn ít nhiều cũng sẽ cẩn thận hơn một chút.

"Chỉ cần hai, ba tháng thôi, nói không chừng chẳng lâu đến vậy đâu, đầu xuân ta sẽ về."

Tạ Cánh ngẩng lên, ánh mắt nhìn hắn có chút mơ hồ, chậm rãi hỏi: "Những gì anh nói tối qua... là thật chứ? Anh hứa với em sẽ không dẫn binh rong ruổi khắp trời Nam biển Bắc nữa? Chờ mọi chuyện xong xuôi, anh sẽ xin Hoàng thượng cho từ quan, chỉ giữ danh nghĩa Vương gia nhàn tản, đóng chặt cổng lớn phủ Chiêu Vương, chỉ ở bên em thôi đúng chứ?"

Lục Lệnh Tùng nghe y hỏi, mỗi một câu hắn đều quả quyết trả lời "Ừ" mà không hề do dự. Nhưng dường như Tạ Cánh vẫn không dám tin: "Trước kia anh cũng từng nói cả đời này anh sẽ không rời xa em dù chỉ một ngày một đêm mà."

Lục Lệnh Tùng nhìn vào mắt y, im lặng hồi lâu rồi khẽ thở dài: "Ta không thể đưa em theo được."

Lời nói này như đưa họ trở lại những năm tháng của tuổi hai mươi, khi cả hai gắn bó như keo sơn, thỉnh thoảng phải xa nhau, người này chỉ có thể tiếc nuối, nâng niu trấn an người kia rằng: "Ta không thể đưa em theo được."

Nhưng bây giờ họ đã không còn là những chàng trai độ hai mươi nữa. Ngay cả suy nghĩ rằng "Ta sẽ đưa em theo" vốn đã là một giấc mơ hoang đường, vậy mà hắn còn nói điều ấy ra một cách rõ ràng, đúng là khiến người ta tức cười.

Dẫu vậy, Lục Lệnh Tùng vẫn tự nhiên thốt lên những lời này theo bản năng. Giống như chợt tỉnh khỏi mộng đẹp ngày chiết liễu tiễn biệt ở Bá Lăng, bịn rịn chia tay trong cơn mưa bụi mù mịt, trở về với trời đất trắng tuyết lạnh thấu xương. Tạ Cánh cũng bừng tỉnh, chợt nhận ra bản thân đã thiếu suy nghĩ đến mức nào mới hành xử ngây ngô và vô nghĩa đến thế này. Một cơn rùng mình ập đến, y vội đưa tay đẩy hai người cách xa nhau thêm một chút.

"Anh nói đúng," y vỗ nhẹ lên cánh tay đang ôm eo mình của Lục Lệnh Tùng, "Anh nên lên đường thôi."

Lục Lệnh Tùng cũng đã lấy lại tinh thuần, thuận theo y mà buông tay, để mặc Tạ Cánh tự trượt xuống khỏi lưng ngựa. Đoạn, y cởi chiếc áo choàng màu đỏ tươi ra, vỗ nhẹ vài cái cho thẳng nếp rồi khoác trở lại lên lưng ngựa, phủ kín phần đùi và đầu gối của Lục Lệnh Tùng.

"Em làm gì thế?" Lục Lệnh Tùng ngạc nhiên, đưa tay muốn ngăn cản, nhưng Tạ Cánh chỉ khẽ lắc đầu, cố nở một nụ cười.

Y chỉ cần chạy nhanh một chút là có thể trở về nhà trọ, nhưng con đường phía trước của Lục Lệnh Tùng phải dài đến ngàn dặm, hắn cần chiếc áo choàng này hơn y nhiều.

"Chuyến này đi đêm ngày gấp rút, tuyết dày trời lạnh," Tạ Cánh khoanh tay trước ngực, kéo chặt lớp áo trong, bước lùi dần ra phía sau, để lại trên nền tuyết trắng một chuỗi dấu chân lẻ loi, từng bước cách xa Lục Lệnh Tùng. "Hãy để nó thay em ở bên cạnh anh."

Dẫu gì Kim Lăng vẫn là nơi ngay dưới chân thiên tử, tuy thỉnh thoảng có nạn dân ồ ạt đổ vào, triều đình vẫn tạm thời xoay xở được. Nhưng quận Hạ Phi đường thông thủy bộ, dân chúng vào Nam ra Bắc không thể không đặt chân đến nơi này, ngược lại không thể sắp xếp chu toàn như ở trong kinh thành. Đây cũng không phải là quê hương của các thế gia vọng tộc, không có hào môn chống lưng, khi gặp tại họa chỉ có thể tự sinh tự diệt. Suốt ba tháng qua họ cũng chỉ mới chờ được một mình Tạ Cánh đến.

Lúc này Tạ Cánh mới hiểu vì sao Lục Lệnh Tùng lại dặn y phải hoàn thành công việc mà Vương Thục giao trước, nếu còn sức mới thử thăm dò lòng dạ các Quận thủ. So với tình hình ở quận Hạ Phi, những âm mưu mờ ám kia thật chẳng đáng nhắc tới.

Đêm trước khi rời khỏi nhà trọ, Lục Lệnh Tùng đã để lại trên bàn mấy trang giấy mà hắn tự viết, trong đó ghi chép chi tiết về lý lịch của Quận thủ các quận mà y sẽ đi qua. Quận thủ Hạ Phi xuất thân từ tầng lớp bình dân, vô cùng tận tụy, đây cũng là người do chính tay Lục Lệnh Tùng đề bạt lên chức vụ này trong thời gian hắn đóng quân diệt thổ phỉ tại đây. Nhưng dù có lòng, ông ta cũng khó mà xoay sở khi trong thành đã thiếu hụt suốt cả mùa đông. Cũng may mà những năm qua cần cù làm lụng, người dân vẫn còn chút lương thực dự trữ trong nhà để cầm cự, chỉ là hoàn toàn không đủ khả năng cứu giúp người khác.

Con người ta thường rất mau quên những ký ức đau khổ, rõ ràng Tạ Cánh cũng từng chịu khổ, nhưng trở lại kinh thành chưa đầy một năm, lần nữa tập quen với cuộc sống ăn ngon mặc đẹp như trước kia, y đã không còn nhớ được cảm giác chịu đói chịu rét là như thế nào.

Trên đường đến đây, y gần như đã phân phát hết số quần áo mang theo, chỉ giữ lại đồ đủ để chống lạnh. Từ Giáp lớn lên trong cảnh cơ hàn, hiểu rõ sự bất lực trước tình thế hiện tại, cậu bèn khuyên nhủ: "Vương phi hãy nghĩ thoáng một chút đi. Dù người có giúp được một hai người, cũng không thể cứu cả thành này. Chưa kể, vài ngày nữa đến Tế Âm, Hoài Dương, tình cảnh ở đấy cũng đâu tốt đẹp gì hơn nơi này đâu?"

Tạ Cánh cau mày, trầm ngâm hồi lâu rồi quay đầu nhìn thành trì tiêu điều, chỉ nói: "Các cậu dẫn binh lính vào thành, đi một vòng xem nhà nào bị tuyết đè hư hại thì giúp họ sửa sang lại. Còn nữa, bảo đám người nhà họ Vương tháo dỡ xe ngựa ra, dùng rèm và vải bạt may thành quần áo, chặt khung xe làm củi, đem đến kho phủ, xem có thể bù đắp được gì hay không."

Từ Ất sau lưng nghe vậy thoáng sững sờ, hỏi y: "Vậy chặng đường sau này..."

"Cưỡi ngựa là được, điện hạ của các cậu làm được, lý nào ta lại có ngoại lệ."

Tạ Cánh đã dốc hết sức tranh thủ được nhiều khoản cứu trợ nhất có thể, nhưng quốc khố vốn đã eo hẹp, đào đầu này lấp đầu kia chắc chắn sẽ khiến Vương Thục sinh nghi.

Sau khi về kinh, mọi chi tiêu của y đều dựa vào bổng lộc, tiền công của người hầu trong phủ đều do nhà họ Vương chi trả, y không phải bỏ ra đồng nào. Toàn bộ tài sản trước đây đều đã ký gửi dưới danh nghĩa của Lục Lệnh Tùng. Dẫu y có lòng muốn tự bỏ tiền túi thì nhất thời cũng không biết lấy ở đâu ra cho đủ. Dù vậy, vị Quận thủ nọ vẫn vô cùng biết ơn, liên tục nói cảm ơn làm Tạ Cánh không khỏi xấu hổ.

Trước đó, Tạ Cánh đã phái Từ Giáp giả làm người của phủ Tướng, âm thầm tìm gặp Quận thủ bóng gió dò hỏi hành tung của Lục Lệnh Tùng. Quả nhiên đối phương miệng kín như bưng, một mực khẳng định rằng ba năm trước sau khi dẹp loạn, Chiêu Vương đã rời khỏi Hạ Phi và từ đó không hề quay lại, cũng chẳng liên lạc lấy một lần, càng không tiết lộ chút gì về kế hoạch của Lục Lệnh Tùng cho "phủ Tướng".

Sau đó, đoàn người tiếp tục đi xuống phía Nam đến Tế Âm. Nơi đây tình hình thiên tai tuy nhẹ hơn một chút nhưng cũng không khả quan mấy, họ lại phải xoay sở đủ đường. Quận thủ Tế Âm cũng có phản ứng tương tự, tuyệt đối không hé răng tiết lộ Lục Lệnh Tùng từng xuất hiện ở đây hay đã nhờ cậy việc gì. Điều này nằm trong dự đoán của Tạ Cánh. Y nhớ lại lời nhắc nhở trước khi rời đi của Lục Lệnh Tùng, rằng có lẽ Hoài Dương – nơi nằm gần kinh thành hơn, có cấu trúc dân cư phức tạp và cục diện quan trường nhỏ bé hơn mới là nơi dễ phát sinh biến cố nhất.

Trong lúc đang lo liệu công việc, Tạ Cánh nhận được thư của Lục Thư Ninh. Hiện giờ em và Lục Thư Thanh đã được chia ra gửi nuôi ở nhà họ Lý và nhà họ Ngô. Bởi vì phủ Tướng cũng cài cắm tai mắt trong nhà họ Ngô nên Lục Thư Thanh không dám manh động, đành phải an phận nương nhờ sự che chở của ông cậu để giữ an toàn trước mắt.

Ngược lại, phủ Tướng chẳng hề để mắt đến đứa con gái là Lục Thư Ninh ở nhà họ Lý, nhờ vậy mà em có cơ hội viết thư rồi nhờ đội buôn gửi đi. Trong thư em chỉ đề cập vài câu tóm gọn một chuyện, nhưng lại khiến Tạ Cánh vô cùng để tâm.

Đó là vào mấy ngày trước, đúng vào đêm Giao thừa. Ngô Thái phi không có con cái bên cạnh, cả Kim Lăng rộng lớn như vậy chỉ còn lại ba bà cháu là ruột thịt. Trong lòng hai anh em cũng cảm thấy buồn bã, cuối cùng quyết định cùng nhau ở bên cạnh tổ mẫu để đón năm mới, vì thế đều vào cung.

Đại họa giáng xuống, thiên tử không thể phô trương tổ chức tiệc tùng. Lục Lệnh Chương không có phi tần, vì vậy bữa tiệc cung đình cũng chỉ có vài người nhà trong cung, có già có trẻ, bữa tiệc tất niên qua loa kết thúc.

Không ngờ sau khi tiệc tan, Lục Thư Ninh còn chưa kịp rời khỏi điện Thần Long thì đã bị Lục Lệnh Chương gọi lại.

Tuổi tác của Lục Lệnh Chương và Lục Thư Thanh cách nhau không quá nhiều, có thể miễn cưỡng coi là thân quen, trước đây gã cũng chưa từng làm khó dễ đối phương. Nhưng với Lục Thư Ninh, Lục Lệnh Chương chưa từng gặp mặt em nhiều, sự xa lạ hiện rõ trong ánh mắt của cả hai.

Rất dễ nhận thấy Lục Lệnh Chương chưa từng tiếp xúc với bé gái nào ở độ tuổi của em, đứng cách Lục Thư Ninh vài bước, gã do dự rất lâu rồi mới đưa tay ra, ý bảo Lục Thư Ninh có thể nắm lấy: "Để thúc phụ dẫn con đi xem một nơi."

Lục Thư Ninh vô thức quay đầu nhìn anh trai của em, nhưng Lục Thư Thanh đã bị các triều thần bao vây, lấy cớ trò truyện để thăm dò hướng đi của phủ Chiêu Vương, cậu sợ mình sơ sẩy một chút là sẽ bị mấy lão cáo già này bắt chẹt, vậy nên chỉ có thể cẩn thận đối đáp, nhất thời không thể rời đi được.

"Không lâu đâu," Lục Lệnh Chương biết em đang cảnh giác, "Chỉ đi xem một lúc thôi, sau đó ta đưa con ra cửa cung. Mẫu hậu sẽ không giữ con lại được."

Lục Thư Ninh chỉ biết khẽ cắn môi đi theo gã. Hai người không lên kiệu mà đi bộ chầm chậm đến cung điện phía Đông Bắc, Lục Lệnh Chương im lặng dẫn em vào điện các vắng lặng, lệnh cho nội giám cầm đèn, Lục Thư Ninh nhìn chăm chú một hồi mới nhận ra nơi này chính là Viện tranh cung đình đã nhiều năm không mở khoa thi tuyển nhân tài.

Bản tranh mẫu mà lúc trước Lục Thư Thanh mang về cho em vốn được lấy từ chỗ này, khi đó hai anh em còn rất tiếc nuối, Viện tranh bị khóa quanh năm khiến cho rất nhiều kiệt tác khó thấy ánh mặt trời.

"Mấy ngày trước đã nghe hoàng huynh nhắc đến, nói là con rất thích, trẫm bèn gọi người tu sửa lại. Về sau cho con tự do ra vào, nếu như cần tìm tranh cũ thì cứ vào trong cung mà tìm."

Lục Thư Ninh do dự đáp: "Đa tạ thúc phụ..."

"Không cần," Lục Lệnh Chương chắp tay sau lưng quan sát nội điện yên tĩnh, "Nếu như sang năm qua được thiên tai, lúc đó ta sẽ mở một khoa thi vẽ, chọn ra cho con mấy người làm sư phụ."

Lúc này, trong đầu Lục Thư Ninh nhớ rõ ràng những gì cha từng dạy về lễ nghi vấn đáp trong cung, em chỉ hơi khom người, thưa: "Ý tốt của thúc phụ, con xin nhận. Chỉ là con xuất thân từ phủ Chiêu Vương, thuộc ngoại thần, không dám tùy ý vào cung, càng không dám tự tiện bước chân vào Viện tranh."

Lục Lệnh Chương quay đầu lại, rũ mắt lẳng lặng quan sát em một lúc. Trên gương mặt lanh lợi và xinh xắn của em, gã có thể nhận ra bóng dáng của vài người thân trong gia đình. Càng lớn trông em càng giống với người chị gái đang viễn chinh ở nơi xa của gã, nhưng lại không mang khí khái anh hùng gần giống như một vị tướng của Lục Lệnh Chân, đây có lẽ là do đường nét của em đã được trung hòa với nét duyên dáng thanh tao từ mẹ ruột.

Nhưng dù có ra sao đi nữa, cô bé cũng không nên chỉ là một vị khách lạc lõng ở nơi cung điện này.

Cuối cùng, Lục Lệnh Chương chỉ lắc đầu, thản nhiên nói: "Ở đây con không phải là ngoại thần."

Lục Thư Ninh không thể ghi lại từng chi tiết biểu cảm của Lục Lệnh Chương vào trong thư, những gì em có thể làm chỉ là thuật lại câu nói cuối cùng đó cho mẹ em biết.

Sửa sang lại Viện tranh không phải là một công trình lớn lao gì, nhưng nếu muốn thực hiện nó, Lục Lệnh Chương vẫn phải vượt qua nhà họ Vương, âm thầm đưa ra chỉ thị.

Cách một trang giấy, Tạ Cánh không tài nào đoán được ý nghĩa thực sự mà Lục Lệnh Chương muốn biểu đạt qua câu nói kia. Từ đầu đến cuối, Lục Lệnh Chương chưa từng thổ lộ tâm tư với họ, mọi việc đều liên hệ gián tiếp qua lời của Thôi Thục Thế. Nhất là khi thái độ của gã đối với ngôi vị Hoàng đế bỗng trở nên càng mơ hồ và khó đoán. Lục Lệnh Chương muốn thoát khỏi sự kìm kẹp của nhà mẹ, rốt cuộc là để giành lấy tự do thực thi hoàng quyền, hay là để đạt được sự giải thoát hoàn toàn và chính thức cho số mệnh của mình?

Lấy lòng Lục Thư Ninh có lẽ là một kiểu gây áp lực nhẹ nhàng, nhằm hạ xuống một bậc thang trước những mưu tính từ phía anh trai và anh dâu; nhưng cũng có thể Lục Lệnh Chương thuận tay làm như vậy chỉ đơn thuần là vì gã nhớ đến đứa cháu gái duy nhất này mà thôi.

Lục Thư Ninh viết rằng, đêm đó sau khi rời khỏi hoàng cung, em đã kể lại toàn bộ câu chuyện cho anh trai mình. Lục Thư Thanh cân nhắc kỹ lưỡng, cuối cùng vẫn khuyên em không nên đến Viện tranh: "Không phải là chúng ta nghi ngờ lòng tốt của thúc phụ, nhưng thời cuộc đang rối ren, ai ai cũng dòm ngó phủ Chiêu Vương, nếu thường xuyên lui tới nội cung, chỉ sợ người ta sẽ có cớ gièm pha gia đình mình."

Câu nói này rất uyển chuyển, nhưng Tạ Cánh đọc một lần đã nhận ra ngay mối băn khoăn trong lòng con trai mình: Thứ nhất, đúng là cậu nghi ngờ ý đồ của Lục Lệnh Chương, nhưng nếu trực tiếp phỏng đoán động cơ của hoàng đế cũng như thúc phụ, thì sẽ trở thành kẻ bất trung bất kính. Thứ hai, suy cho cùng thì sở thích của Lục Thư Ninh vẫn chưa phải là thứ được thế tục công nhận. Trong lúc triều đình đang đối mặt với đại họa, nếu chuyện này lộ ra ngoài sẽ khó tránh khỏi bị trách là vô cảm trước nỗi khổ của bách tính.

Tạ Cánh thở dài một tiếng. Tuy trong lòng không mong muốn các con mình bị cuốn vào những tranh chấp của thế hệ trước, nhưng y vẫn phải gửi thư hồi đáp, dặn Lục Thư Ninh nghe theo lời anh trai em: "Ngoại trừ đến điện Minh Loan vấn an tổ mẫu, con hãy cố gắng đừng đến gần Viện tranh."

Trước khi tiến vào địa phận thành Hoài Dương, Tạ Cánh lấy cớ kinh thành thiếu nhân lực nghiêm trọng, công khai lệnh cho toàn bộ tàn quân Hổ Sư đang tháp tùng trở về Kim Lăng trước mặt người hầu nhà họ Vương. Nhưng ngay sau đó, y bí mật chỉ thị họ cải trang thành dân chạy nạn từ phương Bắc đến trà trộn vào bách tính trong thành.

Y chỉ căn dặn một câu với Từ Giáp, bảo cậu đi tung tin khắp các ngõ ngách trong thành, để cho mọi người biết rằng: tin này giờ đã lan truyền khắp Giang Bắc, bất cứ ai đến Kim Lăng cầu xin phủ Chiêu Vương, thì điện hạ và thế tử chắc chắn sẽ rộng lòng giúp đỡ, không phân biệt địa vị cao thấp, sẽ không có ai bị từ chối. Bọn họ chỉ tạm nghỉ chân tại Hoài Dương, sắp sửa lên kinh cầu xin phủ Chiêu Vương rủ lòng thương xót.

Bối cảnh Quận thủ quận Hoài Dương – Trình Văn phức tạp hơn hẳn hai người trước đó. Bởi vì trùng hợp làm sao, ông ta cũng từng là thần tử của Đông cung dưới triều tiên đế. Sau vụ án lớn cuối năm Kiến Ninh, ông ta là một trong số ít người tự nguyện treo ấn từ quan. Mấy năm sau, ông được phục chức, trở thành Quận thủ Hoài Dương, so với việc bị đẩy đến vùng biên cương như Ung Châu, Lương Châu như nhóm Hà Cáo và Hứa Dịch, thì đây quả là một chức vụ nhẹ nhàng và thuận lợi.

Kể từ sau khi vào thành cho đến năm ngày sau đó, cửa phủ Quận thủ luôn đóng chặt, Trình Văn viện đủ mọi lý do để từ chối, nói mình không tiện gặp Tạ Cánh.

Tạ Cánh vẫn bình chân như vại, nhẫn nại chờ đợi. Trong lúc đó, tin đồn về phủ Chiêu Vương cùng phe cánh bao gồm nhà Ngô và họ Lý đã lan khắp thành Hoài Dương như vũ bão, đến mức tưởng chừng không thể ngăn lại nổi, có nguy cơ lan dọc theo dòng nước sông Hoài đến tận Kim Lăng.

Cuối cùng, Trình Văn cũng chịu đề nghị gặp Tạ Cánh tại nhà riêng, thậm chí phải vội vàng cho người đến gõ cửa phòng y vào lúc nửa đêm.

Tạ Cánh không muốn gia nhân nhà họ Vương đi cùng mình vào phủ Quận thủ, chỉ thuận miệng nói: "Đợi ở ngoài hay không tùy các ngươi, nhưng nếu chẳng may vô tình khiến ta mất mạng, làm lỡ việc lớn của Vương tướng, e rằng các ngươi trở về cũng khó lòng ăn nói."

Những người đó suy cho cùng vẫn sợ hãi uy quyền của chủ nhân thật sự, nghe y nói cũng có lý, họ bèn đứng chờ từ xa ngoài cổng phủ. Tạ Cánh một mình vào trong, chỉ thấy nơi đây canh phòng nghiêm ngặt, cũng không thấy tiểu tư hay thị nữ qua lại mà chỉ toàn thân binh trang bị vũ khí, trông chẳng giống nhà riêng mà giống như cơ quan công quyền hơn.

Bước vào sảnh chính, bốn phía đều có binh sĩ canh giữ, Trình Văn cũng không giả bộ khách sáo mà nói thẳng vào vấn đề:

"Gần đây trong thành lan truyền lời đồn tạo thanh thế cho Chiêu Vương điện hạ, chẳng hay có phải do Tạ đại nhân vô tình mang đến không? Nếu đúng là vậy thì phiền ngài tự mình dẹp yên, nếu không phải, xin nhờ đại nhân chuyển lời đến Vương tướng, rằng những lời thiếu hiểu biết như thế tuyệt đối không phải là do tại hạ xúi giục."

Tạ Cánh cũng không vòng vo, y hỏi thẳng: "Trình đại nhân chớ vội. Nghe nói gần đây Chiêu Vương điện hạ từng ghé qua thành Hoài Dương và ở lại đây vài ngày. Ta chỉ muốn hỏi một câu, rốt cuộc Chiêu Vương đã làm gì?"

Trình Văn sửng sốt: "Tai mắt của đại nhân quả là nhanh nhạy. Chỉ không biết câu hỏi này là ý của đại nhân, hay là Vương tướng muốn hỏi đây?"

Tạ Cánh cười cười: "Lời này sai rồi, trong thiên hạ này chẳng phải ở đâu cũng đều là đất của vua sao? Ở đâu có cái gọi là ta muốn hỏi? Lại ở đâu có cái gọi là Vương tướng muốn hỏi? Từ trước đến nay ta đều bôn ba vì phủ Tướng, chuyến này cũng là thay mặt thiên tử thị sát. Vương tướng và bệ hạ một lòng, những lời nói và việc làm đều xuất phát từ điện Thần Long cả thôi."

Trình Văn không ngờ chuyện này lại có liên quan đến Lục Lệnh Chương, ông ta trầm ngâm một lát rồi đáp: "Hóa ra bệ hạ có nỗi lo huynh đệ tương tàn. Chỉ là không may, lòng của Chiêu Vương điện hạ lại không cùng hướng với bệ hạ."

Tạ Cánh xoay mặt lại, nhíu mày hỏi: "Nói như vậy, Chiêu Vương thực sự đã đến đây sao?"

"Không dám giấu diếm," Trình Vân nhìn y chằm chằm, nói sâu xa, "Chiêu Vương đến đây, là để nhờ tại hạ làm một việc."

Tạ Cánh khéo léo buộc câu chuyện vào Lục Lệnh Chương: "Việc ấy có gây nguy hiểm cho thiên tử, làm lung lay xã tắc hay không?"

Tạ Cánh biết nếu hỏi thẳng sẽ không nhận được câu trả lời, y bèn đổi cách nói, hướng trọng tâm câu chuyện về phía Hoàng đế. Nếu Lục Lệnh Tùng yêu cầu Trình Văn sau này án binh bất động, từ chối cần vương, thì việc đó có thể được giải thích thành có ý đồ chống đối Lục Lệnh Chương, chứ không nhất thiết nhắm vào phủ Tướng.

Tạ Cánh đã liệu được rằng khả năng cao Trình Văn sẽ thừa nhận. Nhưng bất ngờ thay, đối phương lại lắc đầu, bình thản nói: "Đại nhân quả thật rất thông minh, nhưng lần này ngươi đã tính sai ý đồ của cựu chủ nhân rồi."

Cách Trình Văn gọi Lục Lệnh Tùng là "cựu chủ nhân" thay vì nhắc đến quan hệ hôn nhân đã kết thúc giữa họ rõ ràng là một cách ám chỉ cho y biết rằng: Lục Lệnh Tùng không có thời gian rảnh nhằm vào Tạ Cánh vì thù hận riêng, tất cả những rắc rối giữa hắn và y hiện tại đều xuất phát từ cuộc đấu tranh quyền lực và tranh giành lợi ích.

Quả nhiên, Trình Văn đã nói tiếp: "Ý đồ của Chiêu vương chẳng hề liên quan gì đến bệ hạ cả."

Tạ Cánh lập tức cảm nhận có điều bất thường, y đột ngột quay đầu nhìn chằm chằm Trình Văn. Chỉ thấy đối phương chợt nở một nụ cười lạnh lẽo kỳ quái, sau đó vẫy tay một cái, trong nháy mắt, tiếng giáp trụ va chạm vào nhau vang lên, thân vệ trong sảnh đồng loạt rút kiếm, lưỡi gươm sáng loáng vây chặt lấy Tạ Cánh.

"Chiêu Vương điện hạ nhờ ta," Trình Văn bước lên nửa bước, nói nhỏ, "Giúp ngài ấy loại trừ mối họa lớn là Tạ đại nhân đây."

"Vậy thì khó xử quá," Tạ Cánh lùi lại một bước, vẻ mặt không hề hoảng loạn: "Ta chính là mối họa lớn của Chiêu Vương, nhưng cũng là người của phủ Tướng. Nếu đại nhân giết ta, sẽ chẳng ai có thể ngăn cản những lời đồn đại lan truyền vào kinh thành, đến lúc ấy phủ Tướng sẽ không thể không cho rằng đại nhân đã sớm quy hàng Chiêu Vương, vì thế mới g**t ch*t tâm phúc của họ, giúp Chiêu Vương trừ đi họa lớn."

Trình Văn do dự một chút rồi thấp giọng phủ nhận, quả quyết nói: "Vương Thục tuyệt đối không thể coi ngươi, một kẻ họ Tạ là tâm phúc được. Ngươi chỉ đang làm cáo mượn oai hùm, cố gắng moi móc thông tin từ ta thôi, đúng không?"

Tạ Cánh híp mắt, đang chuẩn bị đáp trả thì đột nhiên nghe thấy một âm thanh vang lên từ cửa phòng phía sau: "Tạ đại nhân dù không phải là tâm phúc của Vương tướng, thì cũng là tâm phúc của thiên tử đấy thôi."

Trình Văn nghe vậy, vô thức ngước mắt nhìn về phía cửa phòng. Khi nhìn thấy người xuất hiện, ông ta bỗng sững người, vẻ mặt vô cùng ngạc nhiên, cảm giác không phải chỉ vì có kẻ lạ xâm nhập vào khu vực đã được bảo vệ nghiêm ngặt mà như thể nhìn thấy ma quỷ giữa ban ngày, suốt cả buổi chỉ biết trố mắt nhìn người kia, lắp bắp hỏi: "Ngươi... Ngươi...?"

Người đến khoái chí đáp lời: "Ta làm sao?"

Trình Văn đứng sững tại chỗ, nói năng lộn xộn: "Ngươi làm như vậy là tội khi quân, đáng chết..."

"Tuyên Thất mai danh ẩn tích nhiều năm là thật, nhưng thiên tử chưa bao giờ hạ chỉ bỏ mặt, nay ta phụng mệnh bảo vệ Khâm sai của thiên tử chu toàn thì có tội gì?"

Vừa nghe thấy giọng nói đó, cả người Tạ Cánh đã lập tức cứng đờ, đầu óc hoàn toàn mất năng lực suy nghĩ. Tất cả phương án thoát thân mà y đã chuẩn bị, cùng vô số lời nói dối được lên kế hoạch sẵn đều vỡ tan thành từng mảnh hỗn loạn.

Y hoảng hốt, máy móc xoay người ra sau, người kia từng bước tiến gần vào vòng vây, vẻ mặt vô cùng bình thản, bước chân nhẹ tênh như đang dạo chơi. Đối phương cầm trên tay một con dao ngắn, đó chính là dao găm Phi Quang mà y để lại khi rời kinh bốn năm trước, từ đó cũng không còn biết tung tích.

Đã vô số lần Tạ Cánh nằm mơ thấy cảnh tượng này, nhưng y chưa bao giờ ngu ngốc mà hy vọng viển vông, chưa bao giờ dám mơ tưởng điều đó có thể trở thành hiện thực. Y đã luôn tin rằng trong quãng đời còn lại này, bản thân sẽ không bao giờ được gặp lại người trước mắt nữa...

Đó là Tạ Tuấn hai mươi tuổi vẫn còn khỏe mạnh, cùng với khuôn mặt vô cùng giống với cha mẹ đã qua đời của cậu, một khuôn mặt đầy sức sống.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 82


《 19.4 》

Tạ Tuấn bước đến giữa đại sảnh, ánh mắt không dừng lại ở Tạ Cánh, người vừa xoay người lại, mà chỉ lướt thẳng qua vai y, nhìn về phía Trình Văn đang hoảng sợ.

Rõ ràng Trình Văn biết được tướng mạo của Tạ Tuấn lúc cậu "còn sống", ông ta run giọng hỏi: "Ngươi không sợ ta sẽ nói với phủ Tướng rằng ngươi vẫn còn sống sao?"

Tạ Tuấn dùng bụng ngón tay v**t v* sống dao Phi Quang, nói: "Đến cả thiên tử cũng biết ta còn sống, ông nghĩ phủ Tướng không biết hay sao? Huống hồ, Trình đại nhân cũng nên nghĩ kĩ xem, bản thân ông có giữ nổi cái mạng này để đưa tin đến chỗ Vương tướng hay không đi?"

Nghe vậy, Trình Văn thoáng chần chừ. Có vẻ như Tạ Tuấn thật sự không hề lo sợ việc bị phơi bày trong trạng thái bị phủ Tướng quản chế. Nếu đây không phải là sự ngạo mạn quá đà, vậy chỉ có thể là cậu và Tạ Cánh đều đã đầu hàng, và cả hai chú cháu họ hiện đang phục vụ cho cùng một chủ nhân.

Tạ Cánh bình tĩnh đứng yên tại chỗ, khi ánh mắt Trình Văn xoáy sâu vào y, y đã giấu kín được sự kinh ngạc trên khuôn mặt ban đầu. Y vốn không rõ lời nói của Tạ Tuấn là thật hay giả, dù Tạ Tuấn trông chỉ như đang phô trương thanh thế thôi, nhưng y đã khẳng định được một điều, đó là Trình Văn thật sự sợ hãi trước thế lực của phủ Tướng.

Khi Tạ Tuấn giao đấu với thuộc hạ của Trình Văn, Tạ Cánh lập tức nhận ra đó là biến thể của Phi Quang Lục Thức – bộ chiêu thức mà y đã từng thấy Lục Lệnh Tùng và Tiêu Dao thực hiện. Nhưng lúc này chứng kiến Tạ Tuấn thi triển nó, y lại có cảm giác như đã qua mấy đời. Tạ Tuấn vốn không chuyên tâm học võ, gia đình cũng chẳng mong cậu gia nhập quân ngũ để tránh nguy cơ thương tích, chỉ hy vọng cậu sẽ đi theo con đường khoa cử truyền thống của gia đình. Nhưng vì thiếu niên thường có khuynh hướng tôn sùng việc dùng sức mạnh vượt qua các luật lệ để thể hiện trước đám bạn bè đồng trang lứa, nên trước đây tuy cậu có chút căn cơ, nhưng vẫn chưa đạt đến trình độ thuần thục như hiện tại.

Tạ Cánh không sao nhìn rõ được chiêu thức của cậu. Tạ Tuấn di chuyển rất linh hoạt, khéo léo né tránh giữa vòng vây binh đao, từng động tác đều thoáng hiện bóng dáng của Tiêu Dao. Nếu không nhờ bao năm qua liên tục khổ luyện và trải nghiệm bằng vô số lần giao đấu, Tạ Cánh khó mà tưởng tượng được một thiếu niên ôn hòa hiền lành ngày trước lại có thể thay đổi như thể lột xác đến vậy.

Tiếng vũ khí vang lên trong phủ khiến nhóm gia nhân của nhà họ Vương ở bên ngoài chú ý. Mặc dù trước đó Tạ Cánh đã căn dặn, nhưng họ cũng không dám để y xảy ra chuyện gì bất trắc, sợ làm lỡ việc mà Vương Thục đã giao phó. Đợi đến họ lần theo tiếng động mà tìm vào trong, Tạ Tuấn đã nhân lúc hỗn loạn mà rời đi. Thuộc hạ của Trình Văn không thể đuổi kịp cậu, Tạ Cánh cũng hoàn toàn không nhìn thấy được hướng đi của cậu.

Sau khi hồi kinh, Tạ Cánh đến gặp Vương Thục trước để phục mệnh. Y giấu nhẹm hành tung của Lục Lệnh Tùng, chỉ trình bày chi tiết hành vi bất trung của Trình Văn. Những sự kiện xảy ra giữa chừng, bao gồm cả biến cố bất ngờ liên quan đến Tạ Tuấn cũng được y thuật lại không sót một chữ. So với lời bẩm báo của nhóm hạ nhân kia, những gì y báo cáo với Vương Thục cũng được xem như đã hoàn thành nhiệm vụ một cách trọn vẹn rồi.

Thành Kim Lăng nếu nói nhỏ thì chỉ như một bàn cờ trong lòng bàn tay, nhưng nếu nói lớn lại vô cùng rộng lớn và phức tạp. Muốn tìm một người ở đây chẳng khác nào mò kim đáy bể, huống hồ là đi tìm một người chết.

Từ đầu đến cuối, những dấu hiệu mà Tạ Tuấn để lại cho Tạ Cánh cũng chỉ có "Tuyên Thất" và "thiên tử".

Năm đó, con đường mà Tạ Tuấn bước đi là một con đường thênh thang xán lạn. Xuất thân cao quý đã định đoạt vận mệnh của cậu từ sớm. Cũng như ông nội, cha cậu và cả Tạ Cánh trước khi bị chỉ hôn, cuộc đời của Tạ Tuấn đã được vạch ra một cách chi tiết, bước dần lên cao, từng bước đều được thế tục cho phép, người người kỳ vọng.

Nếu không vì biến cố bất ngờ xảy ra, thì Tuyên Thất vốn từng là "chim săn" mang tiếng xấu của tiền triều sẽ chẳng có bất kỳ sự liên quan nào đến một người như cậu.

Phi Quang nằm ở trong tay Tạ Tuấn, vậy liệu Lục Lệnh Tùng có biết rõ chuyện này hay không? Tạ Tuấn nương nhờ Tuyên Thất, liệu rằng có sự trợ giúp của Tiêu Dao hay không?

Tạ Cánh mím môi, cau chặt mày suy nghĩ trong im lặng, nhớ lại những cuộc trò chuyện với hai người này từ khi y về kinh, cố gắng suy đoán xem liệu có manh mối nào trong hành vi hay ngôn từ của họ ngầm ám chỉ đến điều này hay không.

Nhưng y và Lục Lệnh Tùng đã nói rất nhiều chuyện, quá lộn xộn, nếu lúc đó không nhận ra có điều gì khác thường, thì bây giờ muốn nhớ lại từng chi tiết e rằng rất khó; ngược lại là Tiêu Dao, bọn họ chỉ gặp nhau vỏn vẹn vài lần...

Tạ Cánh bỗng nhiên sực nhớ ra, ngày hôm đó Tuyên Thất tìm được tờ giấy phỏng theo chữ viết của y trong thư phòng của Vương Thục. Sau khi giao tờ giấy đó cho y, Tiêu Dao đã có một khoảnh khắc ngập ngừng muốn nói lại thôi, nàng nói rằng còn một chuyện chưa từng nói cho y biết, nhưng vẫn còn nhiều thời gian, cuối cùng chỉ bảo rằng "Đợi đến lúc nên nói, tôi sẽ nói cho Vương phi nghe."

Tạ Cánh đứng phắt dậy lao nhanh ra cửa, vừa đi vừa dặn người chuẩn bị ngựa, phóng ngựa thẳng tới bờ sông Tần Hoài. Bấy giờ trời đã tối đen, Trích Tinh lâu náo nhiệt kẻ ra người vào, làm sao có thể tìm được bóng dáng Tiêu Dao. Tạ Cánh lòng như lửa đốt, suýt nữa đã không kiềm chế được mà lớn tiếng gọi người giữa đám đông. Y loay hoay tìm kiếm một vòng, một tiểu tư mới len lén đến gần y, nói nhỏ: "Chủ nhân của chúng tôi mời Vương phi lên thuyền gặp người."

Tiêu Dao ngồi trên mũi thuyền, quay đầu lại nhìn thấy Tạ Cánh, có vẻ như nàng chờ đợi đã lâu: "Tôi biết là Vương phi sẽ đến mà."

Tạ Cánh bước lên mạn thuyền, nhìn vào khoang thuyền phía sau nàng, hỏi: "Chuyện mà lần trước Tiêu cô nương vẫn chưa nói với ta, bây giờ có thể nói hay chưa?"

Tiêu Dao khẽ cười: "Chẳng phải Vương phi đã nhìn thấy rồi sao? Có lời gì muốn hỏi, không bằng trực tiếp đến hỏi người mà Vương phi muốn tìm đi."

Tạ Cánh hiểu ý, cúi thấp người hành lễ với nàng: "Ân tình mà Tiêu cô nương dành cho nhà họ Tạ lớn lao, Chi Vô nhất định sẽ báo đáp bằng cả xương máu."

Tiêu Dao lắc tay, nâng khuỷu tay để y đứng thẳng dậy, không nói thêm lời nào.

Theo chuyện kể năm đó, lấy Phi Quang làm tín vật, Tiêu Dao và Lục Lệnh Tùng đã kết thành đồng minh, Tuyên Thất hỗ trợ phủ Chiêu Vương có thể coi như nằm trong thỏa thuận, nhưng việc Tiêu Dao thu nhận Tạ Tuấn là hành động theo lòng tốt, hoàn toàn nằm ngoài bổn phận.

Tạ Cánh ngước mắt nhìn nàng, bao năm nay, những gì phủ Chiêu Vương hứa hẹn với Tiêu Dao chỉ giống như một tấm ngân phiếu vô giá trị, khó lòng thực hiện trong thời gian ngắn. Lục Lệnh Tùng có thể tạm thời giúp đỡ tài chính để duy trì cuộc sống cho những người trong tộc họ Tiêu, nhưng muốn giúp họ xóa bỏ tội tịch, trở về quê cũ, đoàn tụ với gia đình không phải là chuyện mà một kẻ không nắm quyền hành trong tay có thể dễ dàng làm được.

Mà y cũng không dám khẳng định phủ Chiêu Vương chắc chắn sẽ thành công. Tiêu Dao và Tuyên Thất vẫn luôn giống như một thanh kiếm sắc bén, tai mắt thông thiên, nghe lệnh làm việc, mười mấy năm qua trước sau như một, nhưng nếu chọn sai người để đặt cược, rồi cuối cùng Chiêu Vương thất bại, bị đẩy vào cảnh tù tội, thì Tiêu Dao còn có thể tìm ai để thực hiện lời hứa che chở cho Lan Lăng Tiêu thị đây?

Thế nhưng ở trên đời này, lựa chọn cũng là một loại năng lực. Một khi đã đưa ra sự lựa chọn, thì nhất định phải đủ quyết đoán để gánh chịu hậu quả. Tạ Cánh nghĩ, Tiêu Dao hẳn cũng rất thấu hiểu đạo lý này, thế nên bao năm qua, nàng chưa từng một lần mở miệng thúc giục Lục Lệnh Tùng, hỏi hắn rằng "Chuyện khi nào mới thành?".

Có lẽ Tiêu Dao đã chọn giúp đỡ Tạ Tuấn, cho cậu chốn dung thân là vì cảnh ngộ cửa nát nhà tan, tứ cố vô thân của cậu tương tự với bản thân nàng. Nhưng dù thế nào đi nữa, nhìn từ một góc độ khác, nếu không vào hang cọp, làm sao có thể bắt được cọp con? Nếu mai sau phủ Chiêu Vương thực sự có thể lên nắm quyền, ơn cứu giúp này sẽ là một cơ hội hoàn hảo để Tiêu thị có thể lật ngược tình thế. Trong phạm vi năng lực cho phép, việc Tiêu Dao cứu lấy Tạ Tuấn đối với nàng chẳng phải là chuyện thiệt thòi.

Tạ Cánh thất thần đứng bên mạn thuyền, mãi sau mới nghe thấy Tiêu Dao khuyên mình: "Vương phi vào trong đi."

Tạ Tuấn đang co chân, nghiêng người ngủ gà ngủ gật bên chiếc đèn. Thật ra cậu đã cảm nhận được sự thay đổi khi thuyền di chuyển, nhưng vì đây là thuyền mà Tiêu Dao thường xuyên sử dụng khi tiếp khách, trong tối lại có Tuyên Thất nên cậu vốn chẳng mấy để tâm.

Không ngờ, khi tấm màn được vén lên, người rảo bước tiến vào trong khoang thuyền thoáng xuất hiện trước mắt cậu, lại khiến cậu suýt nữa tưởng bản thân hoa mắt, vô thức gọi: "Chú ạ?"

Tạ Cánh bước đến trước mặt cậu như người mất hồn, sau đó quỳ nửa chân, ghé sát vào ngắm kĩ mặt mày của chàng thanh niên, cuối cùng siết chặt lấy tay cậu: "Chú biết mà..."

Cảm giác đau đớn mà Tạ Cánh cảm nhận được thậm chí còn mãnh liệt hơn cả lần đầu y gặp lại Lục Thư Thanh, giống như xé toạc một vết sẹo đã kết mày, để lộ ra mảng thịt non nớt xấu xí. Rồi khi cơ thể đang được hồi sinh, y lại phải ôm ấp lấy vết thương cũ, vết thương in dấu khoảnh khắc vĩnh viễn chẳng thể quên đi được.

Tạ Tuấn bất đắc dĩ cười khổ: "Ban đầu con còn định tránh chú, vậy nên hôm đó giải vây xong là tranh thủ lúc còn loạn mà bỏ trốn, ai ngờ chú vẫn tìm được con."

Tạ Cánh lắp bắp: "Sao... sao con lại làm vậy?"

Tạ Tuấn chậm rãi nói: "Điều cuối cùng mà con nhớ được chính là mẹ đã đẩy con vào cổng phía Đông Bắc... Nhưng lúc đó, bên trong đã cháy sạch hết rồi."

Cậu quay mặt về phía Tạ Cánh, lẳng lặng nhìn y: "Khi tỉnh lại, con thấy mình đang ở doanh trại Hổ Sư ở Hoài Bắc, trong lều của điện hạ."

Lúc đầu Tạ Cánh còn chưa rõ "điện hạ" trong lời cậu là chỉ ai, y chỉ ngồi yên tại chỗ, ngây người suy nghĩ một lúc lâu xem trong thành Kim Lăng này ngoài Lục Lệnh Tùng còn ai có thể xưng là "điện hạ". Y thậm chí đã liên tưởng đến Lục Lệnh Chân, nhưng vẻ mặt của Tạ Tuấn đã nói cho y biết, đó chính là đáp án mà y không dám tin vào.

Y nghe Tạ Tuấn tiếp tục kể: "Chi tiết hôm đó, điện hạ không chủ động kể cho con nghe, con cũng chưa bao giờ dám hỏi. Đến tận bây giờ, con vẫn không biết điện hạ đã cứu con ra ngoài như thế nào."

Ánh mắt đờ đẫn của Tạ Cánh hướng về phía ngọn nến, ánh sáng dao động khiến y như rơi vào màn sương. Y thì thào mở miệng, giọng nói thấp đến mức như một lời thì thầm: "Vậy vì sao anh ấy... Chưa bao giờ nói với chú chuyện này?"

Tạ Tuấn lập tức tiếp lời: "Chú đừng trách điện hạ! Thật ra... Là do con đã xin điện hạ và Tiêu sư phụ, tạm thời đừng nói cho chú biết con vẫn còn sống."

Tạ Cánh ngạc nhiên nhìn cậu, y há miệng, nhưng lại không dám hỏi ra những lời đã trót lưỡi, y không muốn nghe thấy đáp án đáng sợ nhất kia. Y chỉ muốn hỏi có phải là vì chú nương tựa Vương thị, kết bè kết cánh, theo chúng làm tùy tùng, chà đạp lên thanh danh của nhà họ Tạ, vậy nên con mới không muốn nhận lại chú hay không?

Nhưng Tạ Tuấn chỉ thản nhiên nói: "Gia môn bất hạnh phải chịu thảm họa này, nếu người thân quan trọng nhất, gần gũi nhất của con biết con còn sống thì sẽ rất lo lắng, sẽ bị ràng buộc. Lỡ như con gặp bất trắc trong lúc rửa oan báo thù, thì chỉ lần nữa khiến cho những người thân yêu thêm đau khổ mà thôi. Thà rằng không nhận nhau, cứ coi như con đã chết hẳn, mọi người đều sẽ sống yên bình, mạnh ai nấy sống cuộc đời của mình."

Cậu rũ mắt, mỉm cười: "Thật ra bốn năm nay con rất ít ở trong kinh, nhưng thỉnh thoảng vẫn đi xem Thanh Nhi. Có một hai lần gì đấy, con nghĩ chắc là nhóc con đó cảm nhận được con đang nhìn em ấy."

Lòng Tạ Cánh khẽ run lên, vô thức hỏi: "Vậy dấu tay máu trong thư phòng của con mấy hôm trước..."

Tạ Tuấn nghe vậy, bỗng bày ra vẻ mặt tinh nghịch của thiếu niên: "Mấy hôm đó con vừa trở lại Kim Lăng, nhìn chú làm gì cũng có lũ người nhà họ Vương canh chừng, không có được chút tự do nào, con bèn nghĩ đến việc lén lút làm trò quỷ, dọa cho chúng sợ, tốt nhất là để chúng bị dọa cho cút hết khỏi ngõ Ô Y đi, chú cũng có thể sống thư thả một chút."

Khi nói chuyện, cậu để lộ nửa chiếc răng nanh sắc nhọn, xua đi phần nào vẻ buồn bã xa lạ khiến Tạ Cánh bỗng dưng ngẩn ra, trước mắt mơ hồ trông thấy Tạ Tuấn bé xíu luôn quấn quýt bên mình, nghịch ngợm đùa vui chẳng bao giờ yên tĩnh, hoàn toàn trái ngược với dáng vẻ điềm đạm của Lục Thư Thanh, trên bàn tiệc, cậu luôn giữ vai trò tiếp đãi anh em bạn bè, nói những câu đùa vui để làm vui lòng ông bà, tiếng nói cười như vẫn còn văng vẳng bên tai.

Tạ Cánh nhẹ nhàng v**t v* hai má cậu, rồi chợt nhận ra Tạ Tuấn đã gia quan, không còn là đứa con nít để người ta có thể tùy tiện bóp má như trước kia nữa. Y còn định hỏi Tạ Tuấn có từng đến thăm cô bé nhà họ Lý hay không, nhưng nghĩ lại, nếu cậu đã không muốn khiến những người yêu thương mình lo lắng trước khi báo được thù lớn, chỉ sợ cũng sẽ không để lại chút tình cảm nào cho Lý Dã, tránh phụ lòng con gái người ta cả đời.

"Lần này ở Hoài Dương con vẫn luôn âm thầm đi theo sao? Làm sao lão Quận thủ họ Trình kia lại biết con?"

"Con sợ chú ra ngoài kia gặp bất trắc, cho nên đã xin sư phụ cho âm thầm theo đoàn một chuyến, không ngờ lại gây rắc rối," Tạ Tuấn thở dài, "Năm đó Trình Văn từ quan nhưng chưa về quê ngay mà vẫn ở lại kinh thành, qua lại mật thiết với các cựu thần Đông cung của tiên đế. Lúc đó con thường dẫn Thanh Nhi đến phủ Trương Thái phó, cũng có giao thiệp với vài người, tình cờ quen biết Trình Văn."

Tạ Cánh chợt phát hiện ra xưng hô giữa cậu và Tiêu Dao: "Sư phụ sao?"

Tạ Tuấn đáp: "Lúc con vừa tỉnh lại, tinh thần rất sa sút, điện hạ lo con không thể về kinh một mình, cho nên dẫn con theo quân Hổ Sư thả lỏng tâm trạng mấy tháng. Sau đó bọn họ xuất phát về Ngân Châu, điện hạ đã nhờ Tiêu sư phụ thu lưu con, con cũng gia nhập Tuyên Thất ngay lúc đó, kể từ đó về sau chỉ cần về kinh thành, con đều ở lại Trích Tinh lâu."

Tạ Cánh cau mày: "Vậy quan hệ giữa con và bệ hạ là sao?"

Tạ Tuấn gượng cười: "Đầu năm nay, trong lúc làm nhiệm vụ con sơ ý bị nhị phu nhân Thôi thị của phủ Tướng phát hiện tung tích. Cô ta coi đây là nhược điểm, đã cùng con làm một giao dịch."

Tạ Cánh không ngờ đến chuyện này mà Thôi Thục Thế cũng nhúng tay vào: "Cô ta muốn Tuyên Thất làm gì cho nhà họ Thôi ư?"

Tạ Tuấn lắc đầu: "Con không biểu lộ bất kì điều gì, cũng không đề cập đến Tuyên Thất và sư phụ. Thôi phu nhân rất tinh thông việc "làm ăn" bằng quyền mưu, cô ta chỉ cần biết rằng con còn sống, có năng lực hành động tương đối như vậy là đủ, về phần sau lưng con có ai che chở, cô ta rất biết chừng mực, không hỏi nhiều."

Tạ Cánh nhớ lại ngày ở Tần Hoài Xuân, Thôi Thục Thế tỏ ra rất ngạc nhiên khi biết rằng Tuyên Thất vẫn luôn âm thầm tồn tại, có lẽ từ lúc đó, nàng ta đã liên hệ việc Tạ Tuấn còn sống với Tuyên Thất rồi.

"Thôi phu nhân không yêu cầu con phải làm việc cho cô ta, hay cả Thanh Hà Thôi thì," Tạ Tuấn nói, "Phu nhân đã dẫn con đến chỗ thiên tử, chỉ bảo con chờ lệnh bệ hạ, hoàn thành những công việc mà ngài ấy không thể làm được, đổi lại phu nhân sẽ che chở cho con, bảo vệ con tự do ra vào kinh thành và các nha, ty có liên quan đến nhà họ Vương."

Tạ Cánh lập tức hiểu được dụng ý của Thôi Thục Thế. Nhà mẹ của nàng – sau khi Thôi Thái úy qua đời không còn ai chống đỡ, dần dần bị Vương thị bòn rút, thật ra ngay từ đầu nàng đã không đủ khả năng thực hiện các âm mưu thủ đoạn gì, kể cả khi lợi dụng Tạ Tuấn. Hiện tại, Thôi Thục Thế cũng là phe yếu thế nhất trong ván cờ ở Kim Lăng, nàng không có võ trang, không có người để điều động, cũng không có quan hệ rộng rãi trong quan trường.

Nhưng Thôi Thục Thế đã lợi dụng chính nhược điểm này, chỉ chuyên tâm mưu đồ tâm kế và đấu tranh quyền lực, không đụng đến đao kiếm, không nhìn thấy máu. Nàng không thu nhận người tài như Tạ Tuấn, mà giao cậu cho Lục Lệnh Chương, rồi coi việc này làm con bài để đổi lấy những bồi thường có lợi cho bản thân. Tương tự, khi hợp mưu với phủ Chiêu Vương, nàng cũng không trực tiếp can thiệp mà giao con dấu riêng cho Tạ Cánh, sau này họ sẽ làm gì với nó, nàng cũng hoàn toàn không quan tâm.

Trong tương lai, dù phủ Chiêu Vương thất bại, nhà họ Vương sụp đổ hay thiên tử bị phế truất, nàng vẫn có thể tìm được chủ mới để phục vụ, cũng có thể dẫn dắt Thanh Hà Thôi thị rút lui an toàn.

"Con đã đồng ý sao?" Tạ Cánh trầm ngâm một lúc mới hỏi.

Tạ Tuấn thoáng ngập ngừng, gật đầu: "... Vì con cũng muốn biết, thảm họa của nhà họ Tạ rốt cuộc có bao nhiêu phần liên quan đến đương kim hoàng thượng."

Tạ Cánh không đáp lại, chuyện này đến cả y cũng không thể trả lời được. Y đã làm rõ chuyện chữ viết của Vương thị, phát hiện ra có một thế lực thứ ba đứng phía sau trao đi tờ giấy kia, nhưng mãi vẫn không hiểu được, liệu một người cũng có liên quan như Lục Lệnh Chương đang sắm vai gì trong vở hài kịch này.

Nhưng có một điều có thể chắc chắn, rằng chỉ bằng từng này thử thách và sự đề phòng mà Vương Thục đã dành cho Tạ Cánh, thì Lục Lệnh Chương tuyệt đối không chỉ là một con rối để mặc người khác sắp đặt.

"Bệ hạ đã giao cho con việc gì?"

Tạ Tuấn chớp chớp mắt: "Chú còn nhớ không, hồi hội săn ở núi Thang năm ngoái, lúc Thanh Nhi trốn ra khỏi hang động kia, Vũ Lâm Vệ đáng lẽ phải đóng quân ở đó lại canh gác sai vị trí, vô tình để Thanh Nhi chạy thoát ấy?"

Tạ Cánh cả kinh: "Là con sao?!"

Tạ Tuấn gật đầu: "Bệ hạ ở trong cung xa xôi, không tiện ra vào, dù đã biết kế hoạch của Vương Thục từ trước, nhưng ngài không thể đích thân điều động Vũ Lâm Vệ. May mà lúc đó Vương Thục cũng đã rời khỏi núi Thang, con bèn cầm thủ dụ của bệ hạ điều quân gác ở cửa hang đi. Nhưng từ đầu đến giờ, bệ hạ chỉ giao cho mỗi việc ấy thôi."

Trong khoang thuyền yên tĩnh hồi lâu, Tạ Cánh chỉ nhìn chằm chặp đuôi thuyền, không nói gì.

Nhớ đến lần gặp lại Lục Lệnh Tùng ở Ung Châu, y đã trách cứ hắn suốt ba năm Nam chinh Bắc chiến, không ở trong kinh bầu bạn với Lục Thư Thanh, để con trai lẻ loi một mình, bây giờ mới biết hóa ra không phải như vậy.

Lục Lệnh Tùng để con của họ ở lại Kim Lăng, đưa Tạ Tuấn vừa chịu tang cha ông theo bên mình, chính là để thay người chú thất trách là y thực hiện nghĩa vụ dạy dỗ, bảo vệ, là để bù đắp thay cho kẻ thân ở ngàn dặm xa xôi, khi ấy chỉ biết trơ mắt nhìn những người thân thuộc chết ngay trước mặt nhưng chỉ biết bó tay chịu trói, vừa hổ thẹn vừa hối hận.

Tạ Cánh không biết nên diễn tả tâm trạng của mình lúc này như thế nào. Họ của y — chữ "Tạ" thuộc về y đã nhuốm bẩn. Không phải từ khi y chịu khuất nhục nương th*n d*** mái hiên phủ Tướng, bắt đầu bè lũ xu nịnh, mà là từ năm Trinh Hữu thứ tám, khoảnh khắc y bước chân vào phủ Chiêu Vương, nó đã bám bụi, nhuốm bẩn, nhơ nhớp bùn. Y bước một chân vào cánh cổng hoàng gia nguy nga dựng từ xương trắng, sơn bằng máu tươi, kể từ khi ấy, cỏ thơm hoa quý mọc đầy trên bậc thềm kia đều đã chẳng còn liên quan gì đến y nữa.

Vì sao đan thư thiết khoán lại có thể miễn tội chết cho y, bởi vì y không còn liên quan đến bọn họ nữa. Y không thể cùng họ chia sẻ vinh quang, cũng không thể cùng họ chia sẻ cái chết. Tạ Tuấn mới chính là con cháu danh chính ngôn thuận của Trần quận Tạ thị, chỉ cậu mới có tư cách nói mình mang huyết thống sạch sẽ của nhà họ Tạ.

Tạ Cánh chợt nhớ lại đêm giao thừa ở nhà trọ, khi y hỏi Lục Lệnh Tùng rằng có việc gì cần y "lấy danh nghĩa nhà họ Tạ" để hay không, Lục Lệnh Tùng lại trả lời rằng "mọi chuyện đã thu xếp xong cả rồi." Nếu người nhân danh nhà họ Tạ không phải là hậu duệ tự thẹn mình dơ bẩn là y, vậy có nghĩa là...

"Tuấn Nhi," Tạ Cánh gọi, "Lần này trước khi trở về kinh con đã ở đâu?"

"Từ sau hội săn xuân núi Thang năm ngoái, cho đến cuối năm con đều ở Ngân Châu," Tạ Tuấn đáp nhanh, "Điện hạ bảo con lấy danh Tạ thị ở quận Trần, âm thầm thuyết phục lôi kéo các sĩ tộc ở Giang Nam trừ quận Hội Kê, nói không được cũng không sao, chỉ cần có thể châm ngòi quan hệ giữa bọn họ và Vương thị là đủ rồi."

Tạ Cánh suy nghĩ một chút liền hiểu được ý đồ của Lục Lệnh Tùng. Quận thủ Hoài Dương – Trình Văn là một ví dụ điển hình: lão già này sợ phủ Tướng không sợ Thiên tử, lại chẳng hay biết phủ Tướng và Hoàng đế đã cách lòng từ lâu. Ngày sau, nếu kinh thành thực sự có biến, phủ Tướng điều binh mã các châu huyện lân cận đến tự cứu, nhất định sẽ lấy danh nghĩa "cần vương". Đến lúc lúc đó, những địa phương này hiểu rõ người thắp lên đài lửa cầu viện thực ra là phủ Tướng chứ không phải Hoàng đế, mà thiếu đi "quân uy" trấn áp từ bên trên, tự nhiên họ sẽ cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định xuất binh.

Bên ngoài, Tiêu Dao khẽ gảy một khúc nhạc trên đàn tỳ bà, nhắc nhở bọn họ rằng đã không còn sớm nữa. Tạ Cánh chỉ đành chuẩn bị rời đi, nhưng vẫn cẩn thận dặn dò Tạ Tuấn thêm lần nữa: "Con cứ việc bình thường như trước đi, tuyệt đối không được mạo hiểm đến thăm hay bảo vệ chú. Chú có Vương thị làm chỗ dựa, hiện tại sẽ không thất bại được. Khi ra ngoài phải cẩn trọng, nếu gặp được Thôi phu nhân thì coi như may mắn, nhưng rủi đụng phải người khác, hậu quả khó mà đoán định."

Tạ Tuấn gật đầu đồng ý từng lời: "Chú cũng phải bảo trọng."

Tạ Cánh đứng lên, vừa định vén rèm bước ra, đột nhiên thoáng nhìn sang dao găm treo bên hông Tạ Tuấn, trong lòng y lóe lên một suy nghĩ, liền hỏi: "Mấy năm qua, Phi Quang ở trong tay con..."

"Điện hạ nói rằng đây là vật tùy thân của chú, giao cho con giữ tạm. Ngày sau có duyên, ắt sẽ gặp lại."

Tạ Tuấn vừa nói vừa định tháo xuống trả lại, nhưng Tạ Cánh chỉ lắc đầu, ngăn cản động tác của cậu lại, chỉ hỏi: "Vậy con có biết Phi Quang Lục Thức không? Là Tiêu cô nương dạy con, hay là..."

"Là điện hạ dạy con. Khi con về kinh, đi theo sư phụ thì đã học xong rồi."

Tạ Cánh khẽ "ừ" một tiếng, dường như không để tâm lắn, một lúc lâu sau, y mới nhẹ nhàng hỏi: "Vậy thức cuối cùng trong sáu thức là gì?"

Tạ Tuấn nghe vậy thì hơi bất ngờ, bởi trong nhận thức của cậu, dù không biết sử dụng Phi Quang Lục Thức, nhưng là chủ nhân của Phi Quang, Tạ Cánh đã mang nó theo bên mình suốt mười năm trời, không thể không biết tên của chiêu thức cuối cùng.

Thật ra ngay cả Tạ Cánh cũng có chút bàng hoàng. Những năm qua, số lần y sử dụng Phi Quang ít ỏi đến đáng thương, lại chẳng có thức nào ra thức nào, dần dà không còn nhớ để mà tò mò hay tìm hiểu chiêu thức cuối cùng mà Lục Lệnh Tùng từng từ chối dạy y, chỉ nói rằng "Cả đời này em cũng không dùng đến đâu", rốt cuộc đó là gì.

Thế nhưng, Tạ Tuấn vẫn nghe lời làm theo, cậu ấn vào Phi Quang, rút dao ra khỏi vỏ, thậm chí chu đáo diễn giải chi tiết bằng hành động, mũi dao xoay ngược lại, ánh sáng lạnh léo lóe lên, dừng lại sát yết hầu của Tạ Cánh với khoảng cách suýt soát với da thịt.

Tạ Cánh nghe thấy cậu thay Lục Lệnh Tùng nói ra câu nói đến chậm mười bốn năm...

"Thức cuối cùng, tên là Ngọc Nát Đá Tan."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 83


《 20.1 — Hồi tưởng 》

Kim Lăng, cuối xuân năm Trinh Hữu thứ mười hai.

Tạ Cánh ngủ trưa dậy, vén nửa màn ra, trong phòng không có một bóng người, sự yên ắng tĩnh mịch dường như có chút uể oải. Chỉ có làn gió xuyên qua hành lang thổi nhẹ bức rèm lụa xanh buông rủ, nhè nhẹ lay động ve vuốt, chơi đùa với nền đá, tạo nên một bóng xanh lười nhác đổ xuống.

Tạ Cánh chán chường xỏ giày, thong thả bước đến cửa sổ, nghiêng người nhìn ra sân, bên ngoài chỉ có hai thị nữa tựa vào ghế mỹ nhân, vừa gà gật vừa cặm cụi may vá. Thấy vậy, y đưa tay xoa nhẹ sau gáy rồi chậm rãi rời phòng, thư thả băng qua hành lang.

Tạ Cánh đi đứng luôn khẽ khàng, không làm các cô gái còn đang ngái ngủ giật mình trong tiết xuân muộn. Nội viện trước giờ vẫn luôn yên tĩnh, mấy ngày nay thời tiết dần trở nên oi bức, cửa thư phòng hầu như mở suốt ban ngày. Tạ Cánh đứng tựa vào khung cửa, vừa đủ để trông thấy ghế sập kê gần cửa sổ bên trong.

Lục Lệnh Tùng co một chân ngồi trên sập, tay chống cằm, mắt dán vào bàn cờ bên cạnh bàn, nét mặt trầm ngâm, hiếm khi thấy hắn mang dáng vẻ trầm tĩnh, điềm đạm như vậy; còn Lục Thư Thanh thì đang nằm ngủ bên cạnh hắn, đầu nhóc con tựa vào chiếc gối mềm mà Tạ Cánh hay dùng, trên người đắp tạm áo ngoài của cha.

Tạ Cánh không lên tiếng làm phiền họ, vừa định xoay người ra ngoài, đột nhiên thấy Lục Thư Thanh nghiêng người, nhập nhèm mở mắt rồi loạng choạng ngồi dậy, nhỏ giọng nói gì đó với cha cậu. Tạ Cánh nghe không rõ, nhưng y đoán là cậu nhóc nói khát nước, vì sau đó Lục Lệnh Tùng đã rót nửa chén trà nhỏ, thổi thổi rồi đưa đến bên miệng Lục Thư Thanh, cầm chén trên tay cho cậu uống hết.

Lục Thư Thanh uống nước xong lại mềm nhũn người rúc mình vào gối ngủ tiếp. Lục Lệnh Tùng không quay trở lại bàn cờ ngay, vẫn giữ nguyên tư thế quay nửa đầu, lặng lẽ ngắm khuôn mặt đang ngủ của con trai nhỏ, sau đó hắn cúi xuống, hôn khẽ lên trán cậu bé một cái.

Tạ Cánh cảm nhận được ánh nắng ấm áp chiếu lên sau gáy, khiến da thịt nơi đó trở nên nóng hổi, hơi lấm tấm mồ hôi. Y bước qua bậc cửa, khi đi ngang gian ngoài thì tiện tay lấy chiếc quạt lụa đặt trên giá bày cổ vật, nhẹ chân bước đến bên giường nhỏ, ngồi bên mép chéo sau lưng Lục Lệnh Tùng, dự định dọa hắn một phen.

Dù không quay đầu lại nhưng Lục Lệnh Tùng đã sớm nhận ra động tác của y. Hắn bất ngờ nắm lấy cổ tay Tạ Cánh, thuận thế kéo mạnh một cái khiến y mất thăng bằng, nửa người đổ lên lưng hắn, mặt đập thẳng vào xương bả vai cứng rắn.

Nghe thấy cười của Lục Lệnh Tùng, Tạ Cánh bèn xoa xoa mũi, ngẩng đầu lên, đánh lên lưng hắn một phát không mạnh không nhẹ, sau đó lại nhích mặt tới gần, nghiêng qua vài phân đặt cằm lên vai hắn.

"Anh này," Tạ Cánh khẽ đẩy hai cái vào vai Lục Lệnh Tùng, tay phe phẩy quạt tạo gió, "Thương lượng chút chuyện đi."

"Hửm?" Lục Lệnh Tùng hơi ngồi thẳng dậy, bàn tay hãy còn đang chống cằm giờ đã buông ra, nhẹ nhàng v**t v* gò má y.

Tạ Cánh nhỏ giọng nói: "Sáng nay em vừa nhận được thư, tháng trước nhà họ Tạ có ông chú vừa qua đời, tính đến nay thế hệ của ông nội em đã không còn ai nữa. Mấy chi trong họ đang bàn bạc, bảo rằng cần chia lại nhà cũ và tổ nghiệp. Nhà bọn em chuyển vào trong kinh cũng đã lâu, vốn ít qua lại với người trong họ còn sống ở quận Trần, nhưng chuyện thế này thì không thể vắng mặt. Cha và anh cả còn bận công việc không đi được, trong nhà muốn để kẻ phú quý nhàn hạ là em về đó một chuyến."

"Đi đường kiểu gì cũng mất hơn một tháng," Lục Lệnh Tùng khẽ hất cằm về phía Lục Thư Thanh, "Sợ là nhóc con này không chịu xa em lâu như vậy đâu."

"Chính vì thế nên em mới nói chuyện này với anh đấy. Thay vì để em đưa con đi một mình, chẳng bằng cả nhà chúng ta cùng về, tiện thể để anh xem nơi em từng sống và học tập lúc nhỏ."

Lục Lệnh Tùng khẽ hừ một tiếng, xoay người lại vòng tay ôm Tạ Cánh theo tư thế khoác vai: "Sao ta cứ cảm giác ai đó đang tính toán gì trong đầu thế nhỉ? Em thật lòng muốn dẫn ta đi xem nơi em sống và học tập ngày nhỏ, hay là định du sơn ngoạn thủy cả đoạn đường muốn tìm người trả tiền? Hả tiểu Tạ công tử?"

Tạ Cánh bị nói trúng tim đen, cười khúc khích ngã vào lòng hắn: "Anh chỉ cần nói anh có chịu trả hay không thôi!"

Lục Lệnh Tùng nắm cằm y kéo sang: "Trả thì trả, nhưng có một điều kiện."

Tạ Cánh ghé tai qua, vừa nghe Lục Lệnh Tùng nói được một nửa đã đỏ mặt, giơ tay vỗ lên đùi hắn: "Giữa ban ngày ban mặt, anh không biết xấu hổ sao!"

Lục Lệnh Tùng cau mày: "Không đồng ý à? Thế ta không trả nhé? Em và con tự đi về đi."

Tạ Cánh mắng hắn: "Cái đồ thừa nước đục thả câu! Chẳng qua là anh dựa vào —"

Lục Lệnh Tùng rủ mắt nhìn thẳng vào y: "Dựa vào cái gì?"

"Dựa vào em không nỡ để anh ở lại Vương phủ một mình!"

Điều khiến Tạ Cánh cảm thấy bối rối không phải vì mặt y đã đỏ lên, mà là vì bị Lục Lệnh Tùng phát hiện ra điều đó. Y thoát khỏi vòng tay của đối phương, quay lưng đi, vỗ nhẹ vào người Lục Thư Thanh: "Thanh Nhi, dậy thôi con."

Thật ra Lục Thư Thanh đã tỉnh từ sau khi uống nước, nhưng dù là buổi sáng hay chiều, cậu vẫn cứ thích lề mề ngủ nướng thêm một chút. Nghe mẹ gọi, cậu mới chậm rãi hé một bên mắt như thể chỉ vừa mới tỉnh dậy.

Tạ Cánh xoa nhẹ lên cái bụng mềm mại núng nính của cậu, cười nói: "Dậy rửa mặt đi thôi, chẳng phải chúng ta đã hẹn buổi chiều sẽ cùng làm mực in sao?"

Lục Thư Thanh chợt nhớ ra việc quan trọng, nghiêm túc lặp lại: "Làm mực in!" Sau đó, cậu rề rà xỏ giày vớ, tự đi vào phòng rửa mặt cho tỉnh táo hơn.

Tạ Cánh vòng ra gian ngoài thu dọn những cánh hoa lựu đã phơi khô, vừa làm vừa cao giọng nói với Lục Lệnh Tùng: "Thu dọn bàn đi, con trai anh làm mấy việc này vụng về lắm, cẩn thận lại làm xước bàn cờ hoàng hoa lê của anh đấy."

Lục Lệnh Tùng đáp lại một tiếng, dọn dẹp bàn rồi rời khỏi thư phòng. Khi đi ngang qua Tạ Cánh, hắn nghịch ngợm vỗ nhẹ lên lưng y, thế là bị Tạ Cánh lườm cho một cái sắc lẹm, lúc này mới nghiêm túc nói: "Tối nay phải vào cung dùng bữa, đến lúc đó ta sẽ tìm cơ hội nhắc chuyện với phụ hoàng."

Thu cánh hoa rụng vào mùa xuân để tự làm mực in, cùng với những sở thích tao nhã khác liên quan đến văn phòng tứ bảo mà Tạ Cánh mang theo vào phủ Chiêu Vương đều là thói quen y đã giữ từ nhỏ. Một ngày nọ, tình cờ thấy Tạ Cánh nhặt những cánh hoa lựu đỏ rực dọc đường trước cổng phủ, Lục Thư Thanh bèn háo hức vén tà áo làm túi, ríu rít chạy theo sau y, giúp mẹ gom cánh hoa. Sau đó, cậu nhóc không ngừng nhắc đi nhắc lại, rằng đến khi nào làm mực in thì phải gọi cậu tham gia cùng.

Lục Thư Thanh chạy về, ôm trong lòng một chiếc cối nhỏ, đây là món đồ Tạ Cánh nhờ thợ trong phủ gia công riêng, đã tính toán kỹ lưỡng theo sức lực của cậu. Nhóc con dùng cả tay chân bò lên sập, vui vẻ reo lên: "Xong rồi ạ!"

Tạ Cánh nhìn gò má ướt nhẹp của con trai thì không khỏi cau mày, kéo nhóc lại gần, dùng tay áo lau mặt cho cậu: "Mặt toàn là nước thế này, không khéo lại dính cánh hoa bây giờ đấy."

Làm mực in là một việc "nhàn nhã" nhưng rất phức tạp và tốn thời gian, đòi hỏi người làm phải có đủ thời gian và lòng kiên nhẫn. So với ủ rượu Mai Sơn Tuyết, nó chẳng dễ dàng hơn là bao. Theo phương pháp cổ truyền, người ta thường dùng chu sa để nhuộm màu, nhưng Tạ Cánh cảm thấy sắc đỏ của chu sa quá đậm, cho nên y đã thay bằng cánh hoa lựu có màu sắc tươi tắn hơn. Cánh hoa được rửa qua rượu trắng, phơi khô, nghiền mịn thành bột rồi trộn cùng dầu của cây thầu dầu, đất sét trắng, nhung ngải cứu và băng phiến, giã nhuyễn đến khi thành dạng bột nhão, sau đó cho vào bình sứ men kính có miệng rộng, đậy nắp thủy tinh, đem phơi nắng đủ bảy ngày, thỉnh thoảng khuấy đều hỗn hợp bằng que tre. Qua ba tháng, màu sắc rực rỡ sẽ dần hiện lên.

Tạ Cánh vốn chỉ định lấy cớ chiều ý Lục Thư Thanh, để cậu bé làm chơi cho vui. Nhưng thấy cậu cầm chày cặm cụi giã rất nghiêm túc, y không khỏi bật cười, trêu: "Thanh Nhi, con có biết mình giống gì không?"

Lục Thư Thanh ngẩng đầu nhìn y, Tạ Cánh bèn dùng ngón út cọ nhẹ vào mũi cậu: "Giống hệt thỏ ngọc giã thuốc trên cung trăng vậy."

"Vậy mẹ là Hằng Nga bay lên cung trăng đó."

"Nhưng Hằng Nga lên cung trăng mỗi đêm đều nhớ nhà, một mình cô đơn lạnh lẽo. Nếu mẹ đi xa nhà như vậy, con sẽ làm sao đây?"

Lục Thư Thanh vẫn chăm chú "giã thuốc," không ngẩng đầu lên: "Chẳng phải thỏ ngọc và Hằng Nga lúc nào cũng ở bên nhau sao?"

"Hay là nhờ Hậu Nghệ bắn cả mặt trăng xuống đi mẹ," Lục Thư Thanh nghiêm túc đáp, "Con thấy cung bạc trong thư phòng của cha rất đẹp, có thể mượn cha để cho ông ấy dùng."

Kể từ khi bắt được con dấu chơi của Hoàng đế trong lễ thôi nôi, Lục Thư Thanh đã trở thành khách quen của điện Thần Long. Tạm chưa bàn đến cái danh "Gia Thụy", nhưng sự sủng ái mà hoàng đế dành cho cậu bé là điều mà cả hoàng cung đều nhìn thấy rõ. Mỗi tháng ít nhất hai, ba lần, Hoàng đế lại bảo Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh đưa nhóc con vào cung cùng dùng bữa tối.

Bấy giờ Lục Lệnh Chân chỉ vừa tròn mười bốn, bắt đầu ra dáng thiếu nữ. Nàng vừa từ võ đài ngoài cung trở về, trên người mặc một bộ đồ cưỡi ngựa mới may, đầu đội chiếc mũ roi mà phụ nữ Hồ thường đội, bước vào điện Thần Long với dáng vẻ tùy tiện, Hoàng đế thấy vậy chỉ cau mày, còn Hoàng hậu trách nhẹ một câu "Chẳng ra thể thống gì cả", nàng le lưỡi, cũng chẳng để tâm.

Sau bữa ăn, nhân lúc Hoàng đế còn đang ngồi trêu đùa với Lục Thư Thanh, Lục Lệnh Tùng bèn trình bày đơn giản dự định rời kinh về quận Trần, hắn nói thêm: "Thư Thanh không thể ở xa mẹ, để thằng bé ở lại trong cung chỉ sợ sẽ làm phiền phụ hoàng, mà nhi thần cũng không yên tâm để mẹ con họ lên đường một mình."

Hoàng đế không nói gì, Tạ Cánh bắt đầu cảm thấy bồn chồn, chưa chắc ông đã chịu để Lục Lệnh Tùng rời kinh thời gian dài như vậy, cũng có khả năng sẽ đột ngột đề nghị đưa Lục Thư Thanh vào trong cung.

Không ngờ Hoàng hậu đột nhiên lên tiếng: "Gần đây Tử Phụng đã theo bộ Công làm việc, đầu tháng nay lại vừa từ công trình trị thủy ở Kinh Khẩu trở về, theo lý cũng nên thở phào nhẹ nhõm, nghỉ ngơi một thời gian rồi."

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh nhìn nhau, mấy năm nay Hoàng đế cũng lần lượt giao cho Lục Lệnh Tùng đảm đương một vài trọng trách, nhưng đều chỉ là những việc lặt vặt không mấy quan trọng, hơn nữa đều là luân phiên qua lại sáu bộ, chưa từng để hắn làm việc ở một nha môn quá lâu. Hoàng hậu vẫn luôn kiêng dè, nhưng vì Lục Lệnh Tùng quả thực là cư xử rất đúng mực, cũng chẳng có "chiến tích" gì chói mắt, thế là bà ta cũng không nhiều lời nữa.

Lần này, việc giám sát xây dựng kênh đào ở Kinh Khẩu có thể tạm tính là việc lớn, nhưng Lục Lệnh Tùng không có công cũng chẳng có lỗi, Hoàng hậu không kiềm chế được nữa, muốn đuổi hắn khỏi ngự tiền trong vài tháng tới.

Hoàng đế suy nghĩ hồi lâu rồi chậm rãi lên tiếng: "Nếu đã vậy, trên đường đi phải chăm sóc Thanh Nhi thật chu đáo, trễ nhất là trước Trung thu phải về kinh."

Lục Lệnh Tùng vội vàng đáp vâng, Hoàng hậu cũng rời khỏi chỗ theo Hoàng đế vào thiên điện để hầu hạ. Trong chính điện lúc này chỉ còn lại mấy người trẻ, Lục Lệnh Chân lập tức phấn chấn ngồi thẳng lưng lên, bắt đầu bóc trái cây ăn.

Lục Thư Thanh vừa trượt xuống khỏi lòng Hoàng đế đã bị Lục Lệnh Chương đón lấy, cẩn thận bế lên. dè dặt đút cho cậu bé món thạch kem bát bảo, muỗng vừa đưa đến miệng nhóc con, cậu mới nhớ quay sang hỏi Tạ Cánh: "Thanh Nhi có ăn ngọt được không..."

Tạ Cánh dùng đũa khều hạt trong mứt táo ra, đáp: "Ăn được, nhưng ít thôi."

Lục Lệnh Tùng khẽ nghiêng người về phía y, ghé sát tai y thì thầm: "Chắc là phụ hoàng đã được mẫu hậu nhắc nhở, cũng nhận ra rằng nửa năm nay đã dùng ta hơi nhiều, sợ người trong triều dị nghị nên mới đồng ý nhanh gọn như thế."

Tạ Cánh đưa tay ngắt một chùm quả anh đào, đút một quả vào miệng Lục Lệnh Tùng, bản thân cũng ngậm lấy một quả: "Nói chung có thể đi là được rồi."

Lục Lệnh Chương ngẩng đầu lên, e dè hỏi: "Hoàng huynh, các anh định đi như thế nào?"

Lục Lệnh Tùng suy nghĩ một chút: "Chắc là sẽ đi đường thủy đến Từ Châu trước, sau đó đổi sang xe ngựa đi thẳng một đường quan đạo thôi."

Lục Lệnh Chương ngưỡng mộ thở dài, nhỏ giọng nói: "Từ đó đến giờ em chưa được đi thuyền lần nào."

Tạ Cánh chỉ dặn dò: "Thời gian này Nhị điện hạ đến Quốc Tử Giám đọc sách, các tiên sinh đã lớn tuổi, lúc dạy học khó tránh có hơi bảo thủ, nhớ đừng để xảy ra xung đột, không thì Hoàng hậu lại tức giận."

"Thôi được rồi," Lục Lệnh Tùng đứng dậy duỗi người, vươn một tay bế Lục Thư Thanh lên ôm trong khuỷu tay, "Lệnh Chương làm gì có gan cãi vã với thầy, nó cũng đâu phải là trưởng công chúa của chúng ta."

Lục Lệnh Chân nghe vậy, nhặt vỏ trái cây trên bàn ra ném về phía hắn, sau đó đuổi theo hắn ra ngoài điện: "Trước khi đi anh nhớ dắt Y Vân vào trong cung cho em đó nha!"

Bởi vì đúng là có ý định dạo chơi ngắm cảnh xuân dọc đường, bọn họ không dẫn theo tiểu tư và thị nữ, hành lý cũng chỉ toàn quần áo gọn nhẹ đơn giản, đến bến thuyền Tuyên Hóa thì gọi một chiếc thuyền khách không lớn cũng không nhỏ. Người lái thuyền là một người Ngô đến từ huyện Trường Châu, nói tiếng Quan Thoại không mấy lưu loát, chỉ có thể nhờ Lục Lệnh Tùng mặc cả với gã.

Tạ Cánh ngồi nghiêng ở đuôi thuyền, để cho Lục Thư Thanh giẫm lên đầu gối y đứng dậy, ngắm nhìn đủ loại người lui tới bến thuyền bằng ánh mắt mới lạ; quanh bến thuyền có thuyền buôn bán thức ăn, hoa quả; còn có thuyền xướng khúc, làm xiếc và các trò mua vui; trên mui thuyền của một nhà nào đó có một chút vẹt lớn toàn thân xanh mướt, Lục Thư Thanh thấy nó thì phấn khích reo lên: "Lục Ngải!"

Có lẽ vì tên húy của cả hai không bàn mà hợp ý nhau, lại còn sớm chiều ở bên cạnh nhau, cùng nhau lớn lên, tóm lại Lục Ngải có lòng bao dung vô hạn với Lục Thư Thanh, từ khi cậu được sở hữu phòng ngủ riêng, đêm nào nó cũng im lìm canh chừng bên gối. Ban đầu Lục Lệnh Tùng còn sợ con trai vô tình làm "trắc phi" buồn chết, còn định ngủ cùng cậu vài đêm, sau này phát hiện ra con vẹt và nhóc con kia tình cảm sâu đậm số một thiên hạ, căn bản chẳng đến lượt hắn chen chân vào, hắn đành ôm chút bực dọc chạy về phòng tìm Vương phi danh chính ngôn thuận của mình.

Tạ Cánh nghiêng tai nghe một chút, lấy làm tiếc nói: "Bây giờ số từ mà thằng bé biết nói đã nhiều hơn Lục Ngải rồi đấy."

Có người vỗ lên vai y, Tạ Cánh ngoái đầu lại, thấy Lục Lệnh Tùng đưa người lái thuyền đến đây, người lái thuyền nhìn Lục Thư Thanh, hỏi: "Đây là em trai cậu à?"

Câu từ ngắn gọn Tạ Cánh vẫn có thể nghe hiểu được, y bèn tranh trả lời trước Lục Lệnh Tùng: "Bọn tôi đều là em trai của hắn." Sau đó ôm lấy khuôn mặt nhỏ nhắn của Lục Thư Thanh kề sát vào mặt mình, cười hỏi, "Anh thấy bọn tôi có giống nhau không?"

Người lái thuyền nheo mắt, chỉ vào Tạ Cánh và Lục Thư Thanh, "Hai người các cậu thì giống nhau," rồi gã chỉ Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng, "Còn hai cậu thì không giống."

Ở bến tàu thì nhộn nhịp tiếng người, nhưng vừa ra khơi đã lập tức yên ắng lại, bên tai chỉ nghe được tiếng gió và tiếng sóng nước sông Hoài cuồn cuộn, nhẹ nhàng tiễn đưa thuyền nhỏ đi xa bờ. Tạ Cánh nhìn Kim Lăng nhỏ dần trong tầm mắt, lặng lẽ thở phào một hơi nhẹ nhõm. Y cứ ngỡ đời này mình sẽ rất khó có cơ hội rời khỏi kinh thành, tuy rằng cuộc sống ở phủ Chiêu Vương rất thoải mái tự tại, nhưng ở bên trong bức tường thành kia, y không thể không gắn kết bản thân mình cùng với hoàng gia.

Lục Thư Thanh là một người bạn đồng hành cực kì lý tưởng, cậu nhóc không kén ăn kén mặc, chỉ cần được ở bên cạnh cha mẹ là đã thỏa mãn lắm rồi, bởi vì c** nh* người, Tạ Cánh bồng bế cũng không tốn sức, lúc mệt mỏi nhóc con này cũng không khóc quấy, chỉ cần tựa đại vào đâu đó là có thể ngủ ngon.

Lục Lệnh Tùng xoay người vào khoang thuyền, mang theo mùi hương mằn mặn thoang thoảng. Tạ Cánh chun mũi một cái, xoay mặt lại nhìn thấy gói lá sen trong tay hắn, bên trong là cơm nếp bọc lấy lòng đỏ trứng và thịt vịt vẫn còn bốc hơi nóng.

"Mua từ khi nào thế?" Tạ Cánh mừng rõ hỏi, lúc nãy y có thấy thuyền buôn hét bán, vốn định mua ăn thử, nhưng sợ không sạch sẽ, không hợp khẩu vị của Lục Thư Thanh nên đành thôi.

Trên bàn có sẵn chén đũa của thuyền khách, Lục Lệnh Tùng ngắt một miếng cơm nếp cho Lục Thư Thanh rồi đưa gói lá sen cho Tạ Cánh, y cau mày lắc đầu: "Em không cầm đâu, dính tay lắm, anh ăn trước đi, còn dư lại thì bỏ vào chén của em."

Lục Lệnh Tùng nếm thử: "Mùi thịt vịt hơi nồng một chút, không ngon bằng trong cung làm, nhưng bán chẳng rẻ chút nào."

"Anh cũng nên thấy hài lòng đi, mấy ngày nữa về Trần Lưu, nhà bọn em chỉ có rau dưa ăn với cơm, còn không biết phải thiết đãi điện hạ như thế nào mới đủ đây."

"Ta không quan tâm," Lục Lệnh Tùng vén tóc mai bị gió thổi loạn của Tạ Cánh ra sau tai, "Ta vốn định ra ngoài khoe khắp phố rằng mình cưới được một người vợ xinh đẹp, tiếc là có người nhất quyết phải làm em trai ta, ta đành phải tính toán rõ ràng với anh em mình, từng đồng vàng cắc bạc đều phải đòi lại từ em mới được."

Tạ Cánh cảnh giác nhìn hắn: "Đòi thế nào?"

Lục Lệnh Tùng nhún vai: "Ta đã đưa ra điều kiện rồi mà."

Tạ Cánh nhéo hắn một cái: "Vô sỉ! Nói trước cho anh biết, giường ngủ của em vừa cũ vừa nhỏ, nhỡ mà... Anh cũng đừng có trách em đấy!"
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 84


《 20.2 》

Thật ra kinh nghiệm đi xa của Tạ Cánh cũng chẳng hơn Lục Lệnh Chương quanh năm ở trong cung là bao, từ nhỏ đến lớn, y được đi chơi xa vài chuyến bất quá cũng chỉ là qua lại giữa Kim Lăng và quận Trần. Mà vật giá, quy tắc, phong cảnh và con người trong kinh cũng hoàn toàn khác với bên ngoài, kiến thức của Lục Lệnh Tùng chỉ là kiểu nửa vời, Tạ Cánh khi ấy lại ngây ngô giống hệt như Lục Thư Thanh, chỉ biết đi theo sau người thân ngắm cảnh náo nhiệt, thứ gì chưa từng được ăn thì đòi ăn, chưa từng được chơi thì đòi chơi, dù sao nhà họ cũng không thiếu tiền.

Nhưng chuyến này đi còn là vì chuyện chính, cũng không thể để cho người trong họ chờ lâu, vây nên cũng không thể nán lại trên đường trong thời gian dài.

Khi thuyền đến Dương Châu thì trời cũng đã khuya, không tiện lên bờ tìm nhà trọ, hai người bàn bạc rồi quyết định dừng chân ở bến thuyền, nhưng sẽ nghỉ ngơi trên thuyền một đêm, sáng sớm ngày hôm sau mới vào thành.

Ngủ đến nửa đêm, Tạ Cánh đang mê man thì bỗng cảm giác Lục Lệnh Tùng đang vỗ nhẹ mình, định lên tiếng hỏi một câu "Sao thế", đối phương đã bịt miệng y lại, ý bảo đừng lên tiếng, sau đó dùng ngón tay viết lên lưng Tạ Cánh hai chữ —— "Có trộm".

Tạ Cánh ngừng thở, bình tĩnh ôm chặt Lục Thư Thanh vào lòng để bảo vệ, rồi y phát hiện người bên cạnh đang lặng lẽ vén chăn, động tĩnh nhỏ đến mức gần như bị che lấp bởi tiếng lục lọi đồ đạc khe khẽ, giống như một loài thú chuyên đi đêm, nhanh nhẹn rời khỏi giường.

Ngay sau đó, từ trong khoang thuyền vang lên một tiếng kêu đầy sợ hãi, tiếp theo là âm thanh va chạm và tiếng người bị đẩy ngã xuống sàn. Chỉ trong vòng ba chiêu ngắn ngủi, không gian xung quanh đã im ắng trở lại. Chẳng bao lâu sau, ánh nến bừng lên. Tạ Cánh ngồi dậy nhìn kỹ, phát hiện có một người đang bị trói quỳ trước giường. "Sợi dây" dùng để trói kẻ trộm kia chính là đai lưng vắt trên thành giường của y.

Lục Lệnh Tùng rủ mắt nhìn vị khách không mời mà đến: "Thân thủ không tệ."

Tên trộm kia trông vẫn còn trẻ, cơ thể gầy như que củi, trên gương mặt lộ rõ vẻ bối rối sợ hãi. Tạ Cánh lắng tai nghe tiếng ngáy như sấm của người chèo thuyền bên ngoài, nghĩ hẳn là kẻ này đã nhân lúc trời tối gió lớn, chọn bừa một chiếc thuyền đang neo ở bến để ra tay.

Lục Lệnh Tùng lại hỏi: "Chân ướt chân ráo vào nghề à? Lần đầu sao?"

Thấy tên trộm gật đầu như giã tỏi, hắn bật cười: "Ta bảo mà, ở trong phòng thì thôi đi, nhưng đây là khoang thuyền, dưới sàn rỗng, bước chân của ngươi nặng thế có khi đánh thức được cả người chết đấy."

Lời này tất nhiên có phần phóng đại, nhưng tên trộm kia quả thực xui xẻo, đụng phải người luyện võ quanh năm và cực kỳ nhạy cảm với âm thanh như Lục Lệnh Tùng. Đổi lại là người khác, chẳng hạn như Tạ Cánh, suốt cả quả trình y chẳng hề nhận ra điều gì bất thường.

"Đừng nói chuyện nữa, đánh thức Thanh Nhi rồi đây này." Rõ ràng Tạ Cánh vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi nỗi sợ của vụ bắt cóc mấy năm trước, cảnh giác hỏi gã: "Ngươi là người ở đâu? Tại sao lại đi làm những chuyện này?"

Ánh nến không đủ sáng, tên trộm nhìn từ xa, thấy Tạ Cánh ngồi dậy từ phía bên trong giường, mái tóc dài mềm mại buông một bên vai, trong lòng còn ôm một đứa trẻ. Tên trộm cứ đinh ninh đó là một người phụ nữ, vậy nên khi nghe giọng y, gã ngẩn người một lúc lâu rồi mới lắp bắp nói:

"Tiểu nhân đến từ Hà Đông, đi theo đồng hương lên một chiếc thuyền buôn làm việc, ai ngờ bị lừa gạt, đến Dương Châu thì bị đuổi khỏi thuyền, hành lý tiền bạc đều bị chủ thuyền chiếm mất. Đã ba ngày nay không có gì ăn, tiểu nhân mới làm chuyện hồ đồ. Cầu xin hai vị niệm tình tiểu nhân lần đầu phạm lỗi, tha cho tôi một con đường sống."

Dương Châu xưa nay giàu có, vị trí lại tiếp giáp kênh đào nên dân cư đông đúc, kẻ đến người đi cũng nhiều, chuyện kẻ gian lợi dụng khu vực này để trộm cắp, lừa đảo đã chẳng còn xa lạ.

"Coi như ta tích đức thay con trai mình, tiêu tai diệt họa, số bạc này đủ để ngươi đi thuyền đến Kim Lăng. Đến đó cứ tìm một hiệu buôn của nhà họ Ngô, đưa tờ giấy này cho quản lý ở đó xem, nhờ họ tìm cho ngươi một công việc để kiếm sống." Lục Lệnh Tùng vừa nói vừa ngồi xuống bàn, nhấc bút viết vài dòng, "Đương nhiên, nếu ngươi không muốn đi, ở lại thành Dương Châu cũng có thể kiếm sống, nhưng nếu còn táy máy trộm cắp để bị bắt được, ta sẽ không dễ dàng bỏ qua như bây giờ đâu... Ngươi tên là gì?"

Tên trộm vội đáp: "Tiểu nhân tên Trương Tam."

Lục Lệnh Tùng nhanh chóng thêm hai nét để hoàn thiện cái tên trên giấy, rồi hắn lấy ấn triện của Chiêu Vương từ trong túi hành lý ra, quay sang nhìn Lục Thư Thanh, hỏi: "Thanh Nhi, con xem cha đang dùng cái gì đây?"

Lục Thư Thanh vốn đang lim dim trong lòng mẹ, nghe đến đây hai lỗ tai vô hình đột nhiên dựng lên, lập tức ngẩng đầu dậy. Thấy trong tay cha là một chiếc bình sứ men kính nhỏ, đựng đầy mực in bằng hoa lựu khô mà chính tay mình đã làm, cậu lập tức đòi hỏi: "Cho con đóng dấu!"

"Được, được," Lục Lệnh Tùng chiều chuộng bế cậu lên, đáp: "Để tiểu Lục đại nhân của chúng ta đóng dấu nhé."

Trương Tam được cởi trói, nhận lấy bạc và tờ giấy. Khi thấy trên giấy đóng dấu ba chữ "Chiêu Vương tỉ", gã hơi giật mình, khó tin lắp bắp nói: "Đa, đa tạ... Ngài là..."

Lục Lệnh Tùng vừa ngáp vừa khoát tay nói: "Đi đi, hay ngươi còn muốn ngủ thêm một giấc nữa rồi mới đi?"

Ngày hôm sau, trời vừa hửng sáng, bọn họ lên bờ thuê hai con ngựa tốt từ trạm dịch. Vì đường xá đông đúc không tiện đi lại, cả hai bèn chọn đường tắt qua ngoại ô để vào thành. Thời gian này Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng đều có công việc riêng, đã lâu không có dịp cùng nhau ra ngoài du ngoạn, giờ đây không khỏi sinh tính trẻ con, muốn phân tranh cao thấp một phen.

"Thanh Nhi, con muốn ngồi ngựa của ai?" Tạ Cánh hỏi một câu bằng giọng điệu mười phần chắc chín, đoán chắc Lục Thư Thanh sẽ luôn chọn bám lấy y.

Nhưng dường như Lục Thư Thanh đã có tính toán từ trước: "Anh họ nói với con làm anh đương nhiên lợi hại hơn, con muốn ngồi ngựa của cha!"

Tạ Cánh cau mày: "Cha con chứ có phải anh con đâu, con nói những lời này cũng vô dụng thôi."

Lục Thư Thanh đảo mắt: "Nhưng con thấy mẹ cũng gọi cha là anh* mà!"

(*) Anh ở đây là anh trai nha =)))))

Những năm qua, việc Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng "tranh sủng" trước mặt con trai đã trở thành chuyện thường thấy. Lục Lệnh Tùng đắc ý nhướng mày nhìn Tạ Cánh như thể khoe khoang, rồi bế Lục Thư Thanh lên ngựa của mình. Tạ Cánh làm bộ chẳng thèm, ghen tị nói: "Thì thôi vậy! Thắng nhờ tay người khác thì đâu phải là anh hùng. Thanh Nhi, con nhớ cho kỹ, sau này nếu con có thể tự mình vượt qua được cha mẹ, đó mới là bản lĩnh thật sự!"

Nói xong y hô lên một tiếng, lập tức thúc ngựa phi trước.

Y đã không còn nhớ lần cuối cùng bản thân được tự do cưỡi ngựa thế này là khi nào — có lẽ là từ trước khi Lục Thư Thanh ra đời. Gió xuân ấm áp thổi tung mái tóc dài của y ra phía sau. Phật gia gọi tóc xanh là "sợi phiền não", nhưng Tạ Cánh chỉ ngửa đẩu ra phía sau, tận hưởng cảm giác thư thái khi mọi phiền muộn trong lòng đều bị vứt bỏ lên tận mây xanh.

Vì phải trông chừng đứa con nhỏ ngồi trước mình, lo cậu bé sẽ bị xóc hoặc ngã, Lục Lệnh Tùng không dám chạy quá nhanh. Ngược lại, Tạ Cánh thảnh thơi không chút vướng bận, chỉ tập trung thúc ngựa cho bốn vó sải dài, nhanh chóng bỏ xa bọn họ. Lục Thư Thanh vô cùng thất vọng, khuôn mặt nhỏ nhắn xụ xuống, lên án: "Anh họ lừa con."

Tạ Cánh đến đích đợi hai cha con, nỗi ghen tị lúc này đã bay sạch sành sanh, kiêu ngạo gọi to: "Lục Tử Phụng! Anh à! Anh có phục không?"

Lục Lệnh Tùng bất đắc dĩ trề môi, hắn nhảy xuống ngựa, nhân cơ hội dụ dỗ Lục Thư Thanh: "Vậy nên con đừng có suốt ngày rúc trong phòng không chịu vận động. Phải siêng năng luyện tập cưỡi ngựa thì mới có thể làm được mọi việc."

Xoay người lại, hắn bắt gặp Tạ Cánh vẫn ung dung ngồi trên lưng ngựa. Có lẽ vì thấy nóng, Tạ Cánh đã gom toàn bộ mái tóc dài vốn thả sau lưng buộc cao lên gọn gàng. Hơn nữa để tiện đi lại, trước khi lên bờ y đã thay sang áo bào cổ tròn, tay áo hẹp được xắn lên đến khuỷu tay, để lộ làn da trắng trẻo. Y dùng mu bàn tay lau mồ hôi lấm tấm trên trán, trông vừa thoải mái vừa tùy ý, nhìn thẳng về phía hắn nở nụ cười.

Trong khoảnh khắc đó, Lục Lệnh Tùng hơi sững người, vô thức cảm thấy chói mắt, không biết là vì ánh sáng xuyên qua những tán cây rừng hay vì nụ cười quá đỗi tươi tắn mà đã lâu lắm rồi hắn không được nhìn thấy ở đối phương.

Nhìn vào khuôn mặt ấy, không ai nghĩ rằng y đã là mẹ của một đứa trẻ, sẽ không ai tưởng tượng được rằng những cảm xúc như suy sụp, mất kiểm soát hay cuồng loạn đã từng xuất hiện trên con người này. Càng không thể tin rằng y đã từng đứng bên bờ vực tuyệt vọng, thậm chí... từng có suy nghĩ muốn kết thúc tất cả.

Lục Lệnh Tùng thoáng thất thần, vô thức bước về phía trước vài bước, đi đến trước mặt Tạ Cánh, vươn hai tay về phía y.

Tạ Cánh mở to mắt khó hiểu, sau đó lập tức nhận ra Lục Lệnh Tùng muốn ôm mình xuống ngựa. Mặc dù có hơi ngượng ngùng, nhưng y vẫn rất tự nhiên nghiêng người, ngã vào lồng ngực hắn.

Lục Lệnh Tùng ấn đầu Tạ Cánh vào hõm cổ mình, ghé tai y thì thầm: "Hôm nay ta thật sự, thật sự rất vui."

Tạ Cánh chẳng mảy may hay biết, chỉ hùa theo: "Đương nhiên rồi! Hôm nay em cũng rất vui. Được ra ngoài chơi ai mà lại không thấy vui chứ!"

Lục Lệnh Tùng không giải thích thêm, chỉ lặng lẽ tự nhủ trong lòng: Ta vừa vui, vừa cảm thấy may mắn vì vẫn được thấy em cười rạng rỡ như vậy.

Đến chiều tối, họ quay lại bến thuyền, vừa lúc những ngọn đèn lồng rực rỡ được thắp lên, báo hiệu đến giờ hoạt động của chợ đêm. Lục Lệnh Tùng dẫn Lục Thư Thanh dạo qua vài vòng, mua một vài món đồ chơi mới lạ, nhưng khi trở về thuyền thì không thấy Tạ Cánh đâu. Hỏi thăm người lái thuyền, họ mới biết y đang trốn ở đuôi thuyền, nhâm nhi vò rượu mới vừa mua.

Lục Thư Thanh tai thính, khẽ "Ồ" lên một tiếng: "Hình như mẹ đang hát."

Lục Lệnh Tùng chẳng lạ gì giọng hát của Tạ Cánh. Lúc trước hắn thường nghe y hát ru Lục Thư Thanh. Không có kỹ thuật gì đặc biệt, giọng hát ấy được y cố tình giữ chậm rãi, nhẹ nhàng, hoàn toàn khác với chất giọng trong trẻo vốn có của bản thân. Còn lúc này, cái gọi là "hát" cũng chỉ là vài giai điệu ngắt quãng, mơ hồ, từ âm mũi ngân nga thành điệu nhạc, không hẳn là một bài hát, nhưng lại phảng phất một cảm giác trọn vẹn.

Lục Lệnh Tùng vén rèm, nhìn thấy Tạ Cánh đang gối lên hai tay nằm ở đuôi thuyền, mặt y hơi ửng đỏ, hai mắt lim dim. Quần áo mùa xuân mỏng nhẹ ôm lấy người y, áo khoác mỏng như cánh ve mềm mại đắp lên nửa người dưới, khiến những đường nét cơ thể y trở nên dịu dàng như một mảnh trăng non màu ngà mới rơi xuống trần thế.

Chỉ cần nhìn thoáng qua, Lục Lệnh Tùng liền biết Tạ Cánh đã hơi say.

Tửu lượng của cả hai đều không tệ, ở Vương phủ cùng nhau đối ẩm đến say mèm là chuyện thường tình. Nhưng Tạ Cánh luôn để tâm đến vô số chuyện "lỡ như", lỡ như Hoàng đế bất ngờ triệu kiến, hay lỡ Lục Thư Thanh đột nhiên đau bệnh nóng sốt, bởi vậy chẳng bao giờ y để mình thật sự chìm trong men say.

Nhưng giờ phút này, rõ ràng y đã thả lỏng sợi dây căng thẳng ấy, không biết vì đã rời xa tầm tay của thiên tử uy nghiêm, hay bởi vì trận đua ngựa sung sướng ban sáng. Nếu nói khi ấy Tạ Cánh chỉ đang nhặt nhạnh lại dáng vẻ vui buồn thẳng thắn còn sót lại của tính cách vốn có, thì lúc này đây, y đã thực sự rơi vào giấc mộng cũ ngày còn trẻ dại ngông cuồng, không buồn không lo.

Lục Lệnh Tùng nghiêng người ngồi xuống bên cạnh y, uống cạn chút rượu lạnh còn sót lại trong hũ. Trong lòng hắn bỗng trào lên một suy nghĩ khó tả: chuyến hành trình tiến lên phía Bắc về quận Trần này, đối với Tạ Cánh – một Vương phi vốn không sinh ra để bị vây hãm trong cung cấm, có lẽ là một cuộc trở về với tự do.

Tạ Cánh cảm nhận được sự hiện diện của hắn, khẽ mở mắt nhìn một chút, rồi đột nhiên nhỏ giọng hỏi: "Anh sẽ trở thành Hoàng đế sao?"

Nghe y hỏi xong, Lục Lệnh Tùng thoáng giật nảy mình. Đây là một vấn đề nhạy cảm và tế nhị. Trước đây, khi cả hai còn chưa hoàn toàn tin tưởng lẫn nhau, họ từng đem chuyện này ra để đùa cợt, nhưng sau khi kết hôn, họ đã ngầm hiểu với nhau rằng sẽ không nhắc đến nữa. Dẫu vậy, với thân phận của Lục Thư Thanh, thái độ của Hoàng đế cùng với việc Hoàng hậu gây khó dễ, suy cho cùng đều không thể tách khỏi hai chữ "Thái tử", thế nhưng họ vẫn ôm lấy một chút ảo tưởng trốn tránh.

Hoàng đế hiện vẫn đang ở độ tuổi sung mãn nhất, thân thể khỏe mạnh, nếu không có gì bất trắc, đợi đến khi họ thật sự phải đối mặt với vấn đề này, có lẽ Lục Lệnh Chương cũng đã trưởng thành. Đến lúc ấy, thời cuộc sẽ ra sao vẫn còn là điều chưa thể đoán trước.

Lục Lệnh Tùng chỉ lắc đầu, khẽ đáp: "Ta không biết."

Dù nói vậy, nhưng hai người đều hiểu rõ, câu trả lời ít nhất sẽ đúng một nửa. Nếu Hoàng đế hoàn toàn không có ý định để Lục Lệnh Tùng kế thừa ngai vàng, thì ông sẽ không buông thả để hắn tự do hành động, cũng sẽ không thu lại quyền lực của hắn để hạn chế ảnh hưởng.

Hai mắt Lục Lệnh Tùng lấp lánh như những vì sao, phản chiếu ánh đèn sông mờ ảo. Tạ Cánh nhìn gương mặt trẻ trung của đối phương, bỗng nhận ra rằng y khó lòng tưởng tượng ra hình ảnh của người mà mình đã quá quen thuộc, người đầu ấp tay gối với mình sẽ ra sao nếu thật sự trở thành Hoàng đế cửu ngũ chí tôn.

"Nếu thật sự có ngày đó, em chỉ có một yêu cầu: hãy lập Lục Thư Thanh làm Thái tử, để thằng bé an ổn ngồi vững vị trí Đông Cung."

Tạ Cánh không biết liệu y và Lục Lệnh Tùng có còn có thêm con cái hay không, dù là con trai hay con gái, điều duy nhất y mong muốn chỉ là ngăn cản thế hệ sau của mình mắc phải số phận phải nghi kị, tranh đấu với anh em. Huống chi suốt bao triều đại đổi thay, anh em cùng mẹ đấu đá nhau cũng chẳng phải là chuyện hiếm gặp.

Lục Lệnh Tùng trầm mặc một lát rồi kiên định đáp: "Ta vẫn giữ lời nói trước đây, Thanh Nhi sẽ là con nối dõi duy nhất của ta – dù thằng bé nhận lại từ ta phủ Chiêu Vương, hay là điện Thần Long đi chăng nữa."

Tạ Cánh khẽ gật đầu, y biết Lục Lệnh Tùng sẽ nói như vậy, cũng không nghi ngờ hắn sẽ làm như vậy.

Hồi lâu sau, Lục Lệnh Tùng ngẩng đầu nhìn sang y: "Còn em sẽ là ——"

Tạ Cánh hiểu ý liếc mắt nhìn hắn, Lục Lệnh Tùng khựng lại, không nói hết câu. Tuy nhiên, hai chữ "Hoàng hậu" đã tự động xuất hiện trên môi hắn.

Không sai.

Y sẽ là Hoàng hậu của Lục Lệnh Tùng.

Kể từ năm đó, ngày Tạ Cánh còn chưa trở thành Chiêu Vương phi, sau khi dùng bữa tại điện Lâm Hải và rời đi, quay lại nhìn những ánh đèn lờ mờ ở nơi cung điện kia, y đã từng nghĩ đến một ngày như vậy. Y không biết Vương thị đã từng như thế nào khi còn là một thiếu nữ, nhưng không thể nghi ngờ, rằng người con gái họ Vương ấy đã trở thành một xác chết tuyệt mỹ ở nơi lăng tẩm lộng lẫy bao quanh bởi những bức tường thành màu son và mái ngói xanh này.

Vương phi và Hoàng hậu không giống nhau, mà Vương phi cũng chẳng hề giống với bất kỳ ai khác. Ở phủ Chiêu Vương, khoảng cách giữa y và "lễ giáo" thậm chí còn khác xa lúc còn ở Ô Y. Bởi ngay cả với một gia đình vương hầu hay quan lại bình thường, dù có là chính thất cũng sẽ không bao giờ được phép ngủ chung phòng với phu quân mỗi ngày, càng khỏi phải nói đến nơi thâm cung kia.

Nếu như y thật sự trở thành Hoàng hậu, thì thứ mà y gặp phải trên con đường phía trước sẽ là gì? Y không biết liệu mình có phải một mình trải qua đêm dài buồn chán ở điện Lâm Hải hay không, không biết Lục Lệnh Tùng sẽ giải quyết mối quan hệ với nhà mẹ của Đông Cung là Tạ thị ở quận Trần thế nào... Không biết, liệu y có phải chia sẻ Lục Lệnh Tùng với nhiều người khác hay không?

Ngay từ lần đầu tiên Tạ Cánh nảy sinh những suy nghĩ này, Lục Lệnh Tùng vẫn chưa thích y, thậm chí dường như y cũng chưa thích đối phương. Y chỉ là hơi buồn bã, xót xa, hơi thương cảm, lấy tư cách là người ngoài để suy đoán ý nghĩ của Vương thị. Dù không thể tránh khỏi để cảm xúc lây sang mình, nhưng nó cũng chỉ dừng lại ở việc thở dài tiếc nuối về quá khứ với cuộc sống ngang tàng tự do của bản thân.

Nhưng bây giờ mọi chuyện đã khác. Mối quan hệ giữa y và Lục Lệnh Tùng đã thay đổi — họ đã hứa sẽ ở bên nhau suốt đời, không phải sao?

Những câu hỏi này đã không còn có thể được giải quyết đơn giản chỉ bằng một câu "Y và Lục Lệnh Tùng tin tưởng lẫn nhau" nữa. Vô vàn cảm xúc phức tạp, đủ loại lo âu, sự ngờ vực vô căn cứ, tính toán lẫn nhau, nhượng bộ, lựa chọn, kiểm soát và cân bằng mới là vợ chồng thiên gia.

Cuối cùng, điều duy nhất mà y có thể nắm trong tay rõ ràng chỉ có mỗi mình Lục Thư Thanh.

Men say khiến Tạ Cánh phản ứng có hơi chậm, nhưng trong đầu y vẫn rất rõ ràng. Y nắm lấy tay của Lục Lệnh Tùng, nhìn vào mắt hắn, thành khẩn mà hoang mang nói: "Em thật sự muốn luôn ở bên cạnh anh, em cũng muốn một ngày nào đó, sau trăm năm, em có thể đường đường chính chính được hợp táng cùng anh trong cùng một mộ, em muốn trở thành Hoàng hậu của anh. Nhưng có lẽ... Em không đủ khả năng gánh vác."

Thật ra y không cần phải nói ra những lời này, vì khoảng thời gian từ lúc Lục Lệnh Tùng ngừng nói đến giờ đã đủ để y biết rằng tất cả những do dự, mơ hồ trong lòng mình đều đã được đối phương thấu hiểu.

"Vậy thì em cũng không cần phải ép mình gánh vác vai trò đó."

Tạ Cánh khẽ giật mình trước lời này, Lục Lệnh Tùng trở tay nắm lấy tay y: "Long ỷ đối với ta chỉ là một chiếc ghế mà thôi, ta có thể nhường lại nó cho Lục Lệnh Chương, nếu như cái giá phải trả là mất đi em, thì ta thà không làm Hoàng đế còn hơn."

"Vì sao?"

Lục Lệnh Tùng giơ cánh tay lên, dùng ngón tay nhẹ nhàng chạm vào má Tạ Cánh, rồi chậm rãi đẩy khóe môi của y lên, cố tình nặn ra một nụ cười trông có hơi ngốc nghếch.

"Ta không muốn thấy nụ cười của hôm nay sẽ biến mất khỏi gương mặt em."

*

Tác giả: Nhớ kĩ người tên Trương Tam này nha ~
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 85: (H)


《 20.3 》

Đi đường suốt một tháng, tiết trời bắt đầu vào hạ, cuối cùng họ cũng vào đến địa phận quận Trần Lưu. So với ngõ Ô Y tấc đất tấc vàng nhưng lại phải chia sẻ với các sĩ tộc khác, thì quê nhà của Tạ gia hoàn toàn không phải chen chúc như vậy. Dinh thự rộng lớn và uy nghi của nhà họ Tạ chiếm diện tích hàng trăm mẫu, còn chưa kể đến những sản nghiệp trải rộng bên ngoài.

Từ nhỏ Tạ Cánh đã sống khép kín trong nội viện, lại xa quê năm năm, chính y cũng không nhớ rõ đường về, cuối cùng phải nhờ hỏi thăm tá điền mới tìm được đường đi.

Chạng vạng tối, nông dân mang cuốc xẻng trở về nhà, nhao nhao bàn tán về những người khách lạ từ phương xa đến. Tạ Cánh vén rèm xe lên, nhìn về phía trước hồi lâu, Lục Thư Thanh đột nhiên chui vào từ dưới khuỷu tay y, ngẩng đầu tò mò quan sát vẻ mặt của mẹ nhóc, sau đó quay đầu lại, dõi theo ánh nhìn của y về phía xa.

Cuối chân trời là những hàng cây dương cao chót vót, ánh nắng chiều đỏ rực bị treo lơ lửng trên những cành cây sắc nhọn, tựa như xuyên thủng ranh giới của hoàng hôn. Từng vệt sáng nhuộm màu máu ồ ạt tràn xuống, dọa cho lũ quạ đen hoảng sợ bay tứ tung.

Từ nhỏ đến giờ Lục Thư Thanh chưa từng nhìn thấy cảnh tượng nào như vậy, có tiếng chuông chiều buồn bã từ ngôi chùa xa vọng lại, âm thanh mộc mạc mà cổ kính, tựa như sông núi Trung Nguyên.

Tạ Cánh ôm Lục Thư Thanh ngồi lên càng xe, vươn tay chỉ cho cậu nhìn: "Đây là nơi mẹ lớn lên."

Lục Lệnh Tùng quan sát tường ngoài của sân nhỏ, đột nhiên hỏi: "Hình như đã nhiều năm không được tu sửa rồi nhỉ?"

Tạ Cánh gật đầu: "Từ khi em còn nhỏ đã như vậy, gạch ngói đều cũ kỹ cả rồi."

Hiển nhiên Lục Lệnh Tùng cũng nhận ra điều này. Dù nhà mẹ họ Ngô của hắn không phải là dòng dõi danh môn hiển hách, và khi chọn đất có lẽ cũng không đến lượt họ được tự do chọn vị trí đắc địa nhất, nhưng về việc xây dựng thì thật sự đúng là một công trình quy mô lớn, hiển nhiên sẽ không xuất hiện tình trạng 'bên ngoài dát vàng, bên trong mục nát' thế này.

"Chẳng lẽ là vì chưa thỏa thuận chi phí sửa chữa xong?"

Ý tứ trong lời nói của hắn khá rõ ràng, có vẻ như đang định bỏ tiền túi của mình. Tạ Cánh biết rất rõ tình hình tiền nong của phủ Chiêu Vương, tuy khoản tiền cần để tu sửa nơi này không phải là vấn đề lớn, nhưng cũng không thể để Lục Lệnh Tùng chi trả toàn bộ.

"Không phải chuyện tiền bạc, mà là do nhiều người trong tộc đã dọn ra ngoài lập nghiệp, vậy nên trong nhà cũng ít người ở. Nhưng anh nhắc em mới nhớ, dù không còn ai ở cũng không thể bán đi cơ nghiệp này. Sau khi về kinh, em sẽ báo lại với cha một tiếng, cha nhất định sẽ bỏ tiền lo liệu."

Tạ Cánh nói đến đây thì liếc nhìn Lục Lệnh Tùng một cái, cười bảo: "Sao anh giống mấy vị công tử nhà giàu trong kịch nam thế, gặp bất kể chuyện gì, dù có xảy ra hay không cũng muốn bỏ tiền trước?"

Lục Lệnh Tùng cũng cười: "Đây gọi là lo xa, em không thấy à, có một nhà cậu tốt giúp ta được bao nhiêu chuyện, giờ lại thêm một nhà vợ hiền do phụ hoàng ban cho, đương nhiên ta phải thường xuyên lôi kéo, đề phòng bất trắc chứ."

Mặc dù lời hắn nói nghe có vẻ giống như đùa cợt, nhưng sự thật đúng là như vậy. Nếu Hoàng đế ban hôn nhằm mục đích "buộc Tạ gia vào cuộc, góp sức cho phủ Chiêu Vương", thì việc chọn một dòng họ danh giá như Tạ thị ở Trần Lưu với vị trí địa lý gần với đất phong Lạc Ấp của Lục Lệnh Tùng, để đôi bên cùng chung hoạn nạn sẽ càng dễ thúc đẩy mối quan hệ lợi ích không thể tách rời.

Người nhà họ Tạ đã sớm nhận được tin tức, đều đang đứng chờ trước cổng chính chủ trạch. Mấy năm trước, khi Tạ Cánh rời quê nhà xuống phía Nam, y chỉ là một vãn bối thuộc lớp con cháu trong một đại gia tộc, nhiều nhất cũng chỉ được khen là làm rạng danh gia môn. Nhưng ngày giờ này trở lại, y đã là hoàng thân quốc thích, nhận được cái quỳ lạy ngang hàng của trưởng bối. Cho dù chuyến đi này không có Lục Lệnh Tùng đồng hành, thân phận Chiêu Vương phi của Tạ Cánh cũng đã khiến khoảng cách giữa y và người trong họ như trời và vực. Kiểu "vinh quy bái tổ" như thế này đúng là khiến người ta thổn thức.

Sau khi ông bà qua đời, ở quận Trần này Tạ Cánh đã không còn ai đặc biệt thân thiết nữa, vậy nên cũng không có chuyện gì để ôn lại, hàn huyên nửa ngày, họ đã quyết định được ngày để cả tộc tề tụ ở từ đường bàn chuyện chính.

"Đi bên nào vậy?" Dùng bữa tối xong, Lục Lệnh Tùng đứng ngoài phòng, xoay mặt hỏi Tạ Cánh đang thất thần. Việc dẫn đường này lẽ ra đám tôi tớ có thể làm một cách tự nhiên, nhưng thấy Vương phi cứ đứng sững tại chỗ, không lên tiếng cũng không động đậy, chẳng có ai dám lắm lời.

Những nô bộc già năm xưa phần lớn đã không còn ở đây nữa, lúc nãy khi ăn cơm Tạ Cánh không tìm được gương mặt quen thuộc nào, nhất thời hơi hoảng hốt, cho đến khi nhìn thấy hành lang dẫn đến tiểu viện nơi mình lớn lên, y mới lờ mờ cảm nhận được cảm xúc chân thật khi trở về quê cũ.

Tạ Cánh ngoái đầu nhìn lại: "Ngày xưa căn phòng này là nơi thầy đồ tổ chức kì thi, em cùng một nhóm anh em trong tộc xếp hàng lần lượt đọc thuộc lòng, qua được rồi còn phải vào thư phòng của ông đọc lại lần nữa... Phòng ngủ của em ở phía Tây, không biết có còn giữ lại không."

Người hầu rũ mắt đáp lời: "Thưa vẫn còn, Vương phi, cả phòng trong lẫn noãn các đều đã được dọn dẹp, cũng đã thay chăn đệm mới từ sớm."

Tạ Cánh có hơi lúng túng, còn đang tìm từ ngữ thích hợp để nói, lại nghe Lục Lệnh Tùng tranh thủ ghé sát tai trêu Lục Thư Thanh bằng giọng nhỏ nhẹ: "Con nghe chưa, có thấy đáng sợ không, một bài văn phải đọc thuộc lòng mấy lượt đấy. Cái này cha không quyết định được đâu, nếu sau này mẹ con cũng bắt con làm thế thì cha chịu thôi, nhưng con yên tâm, cha sẽ luôn đứng về phía con..."

"Thôi ngay chưa hả!" Tạ Cánh dở khóc dở cười, khẽ vỗ một cái lên người Lục Lệnh Tùng, lúc này nét mặt căng thẳng suốt buổi tối của y mới giãn ra.

Điều Tạ Cánh không ngờ tới, chính là cái gọi là "giữ lại" trong miệng người hầu hóa ra lại mang ý nghĩa sâu xa hơn thế – cách bài trí, sắp xếp trong gian phòng mà y từng ở hoàn toàn không có chút thay đổi nào. Cuốn sách mà y vô tình lấy ra đọc vào đêm trước khi rời nhà vẫn được úp xuống mặt bàn hệt như cũ, vậy mà từng trang giấy lại chẳng vướng một hạt bụi, rất dễ nhận thấy rằng đã có người ngày ngày đến lau chùi. Tất thảy cứ như y chỉ vừa mới rời phòng đi dạo trong sân một chút, chén trà bên cạnh vẫn còn hơi ấm, thế nhưng năm năm đã qua, những người thân yêu từng hiện hữu bên y giờ đây chỉ tựa một giấc mộng dài.

Tạ Cánh bỗng cảm thấy nhẹ nhõm đi phần nào, khẽ thở ra một hơi. Trước đó y vẫn thấp thỏm cho rằng chuyến trở về này sẽ chỉ "gây thêm phiền phức" cho phụ lão trong họ, nhưng dường như không phải như vậy. Tuy đúng là có phần xa lạ, nhưng dù có ra sao đi nữa thì dinh thự này vẫn nhớ đến y, vẫn chấp nhận y như một thành viên nhà họ Tạ.

Trong khi đó, toàn bộ sự chú ý của Lục Lệnh Tùng lại bị cuốn vào quyển trục treo trên tường. Đó là một tác phẩm do chính tay Tạ Cánh viết bằng Khứ Hà thể khi còn chưa thành thạo. Thấy hắn định giơ tay gỡ xuống, Tạ Cánh vội ngăn lại: "Anh làm gì thế?"

"Đem về chứ làm gì." Hắn nói cứ như chuyện hiển nhiên. "Bút tích của Vương phi dù quý giá đến đâu, đảo một vòng trong đám quyền hoạn bên ngoài phủ cũng có thể tìm được một hai bức. Nhưng đây là tác phẩm thật của tiểu Tạ công tử, chẳng lẽ ta không nên mang về treo lên mà cung phụng sao? Hay là... Em muốn lấy tiền của ta?"

Tạ Cánh nghẹn lời, chỉ có thể lắc đầu.

"Thế thì xong rồi nhé." Lục Lệnh Tùng đảo khách thành chủ, lập tức quay lại dặn dò: "Cất hết những thứ này lại, đóng gói cẩn thận rồi xếp vào rương mang về."

Bởi vì đường đi mệt mỏi, Lục Thư Thanh đã đi ngủ ở noãn các, cũng không sợ lạ giường, Tạ Cánh dỗ dành chưa tới hai câu thì nhóc con đã ngủ say mất rồi. Mùa hè ở phía Bắc không oi bức như Kim Lăng, mặt trời vừa lặn thì nhiệt độ cũng giảm xuống. Tạ Cánh trở lại gian trong, Lục Lệnh Tùng vừa tắm xong, đang ngồi chờ y về, thấy y bước đến thì cứ nhìn chằm chằm, ngạc nhiên hỏi: "Quần áo ở đâu ra thế?"

"Là quần áo em mặt hồi còn nhỏ, vốn định tìm để sau này cho Thanh Nhi mặc, không ngờ em phát hiện hình như cũng không chật lắm, vậy nên mặc cho anh xem." Vạt áo ngủ của y hơi phanh ra, để lộ "mạt phục" ôm sát người, cũng chính là loại áo lót mà người ta hay gọi là "áo yếm". Mặc dù loại áo này không chỉ dành riêng cho trẻ con hay phụ nữ, nhưng từ sau khi kết hôn, Tạ Cánh chưa từng mặc lại nó lần nào mà luôn dùng trung y để thay thế.

Lục Lệnh Tùng bình tĩnh nhìn Tạ Cánh hồi lâu, rồi bỗng nhiên vươn tay thăm dò vào trong áo ngủ của y, phát hiện ra phần áo phía sau lưng quả nhiên chỉ có hai sợi dây nhỏ cố định.

"Ta chịu thua em luôn đấy." Lục Lệnh Tùng rõ ràng đã bị y làm cho hoảng hốt đến câm nín, tay đã đưa vào rồi nhưng lại quên mất cách di chuyển.

Tạ Cánh buồn cười: "Em vẫn còn mặc nguyên quần áo đàng hoàng, vậy mà anh đã đầu hàng rồi sao?"

Y rời khỏi vòng tay Lục Lệnh Tùng khoảng một thước, cởi chiếc áo mỏng ra nhưng vẫn khoác hờ trên lưng, sau đó cúi người để lộ xương quai xanh và cánh tay thon dài, mái tóc dài xõa xuống thoáng che đi, tạo nên sự tương phản rõ rệt giữa màu đen và trắng, càng làm nổi bật chiếc yếm đỏ trông có phần gợi cảm quá mức.

Đương nhiên Lục Lệnh Tùng đã nhận ra Tạ Cánh định làm gì. Hắn cam chịu số phận mà nghĩ, ai có thể liên hệ được người viết nên những con chữ ngoài kia với kẻ săn mồi ph*ng đ*ng trước mắt này chứ? Nhưng nói gì đi nữa, dù những kẻ kia có bỏ ra nghìn vàng để sở hữu một bản chữ viết tay của Tạ Cánh, thì đó cũng chỉ là những vật ngoài thân mà hắn có thể nhìn thấy khắp nơi trong phủ Chiêu Vương. Điều quan trọng nhất vẫn là người này đã thuộc về hắn, dáng vẻ này chỉ có mình hắn được nhìn thấy mà thôi.

Tạ Cánh c** th*t l*ng của Lục Lệnh Tùng, x** n*n v**t v* g** th*t đã bắt đầu có phản ứng vài cái. Những ngày này trên đường đi nhiều bất tiện, lại có Lục Thư Thanh ngủ chung, hai người cũng chẳng có đủ sức để làm những chuyện mờ ám này, nhịn suốt cả tháng không chạm vào nhau, lúc này vừa khiêu khích một chút là vật kia đã c**ng c*ng lên.

Tạ Cánh hơi nghiêng mặt qua, há miệng l**m láp lấy thân trụ từ gốc lên trên, đầu lưỡi thỉnh thoảng đẩy lên một cái, lướt qua gân xanh và lỗ nhỏ trên đỉnh đầu, nước bọt ướt át rưới đẫm d**ng v*t đã tím đỏ, mà đôi môi y cũng ánh lên vẻ ướt át quá đỗi diễm lệ. Tạ Cánh không giỏi việc này lắm, bởi vì ngày trước làm mấy lần đều khiến môi dưới sưng đỏ bất thường, hôm sau gặp người khác cũng không biết giải thích thế nào, vậy nên Lục Lệnh Tùng không để y dùng miệng làm nữa.

Nhưng y đã từng được trải nghiệm cảm giác tuyệt diệu đó, biết Lục Lệnh Tùng sẽ cảm thấy sướng nên cũng thích chăm sóc hắn như vậy. Chỉ mới ngậm lấy phần đầu hoàn toàn c**ng c*ng đã buộc Tạ Cánh phải há to miệng, nuốt sâu hơn lại càng vất vả hơn. Y thường nuốt vào rất chậm, cũng vì thế mà phải tốn kha khá thời gian cho quá trình này, từng chút một, từ nông đến sâu, y ngậm lấy toàn bộ d**ng v*t vào khoang miệng ấm nóng rồi bắt chước tần suất và độ chặt của việc g*** h*p mà phun ra nuốt vào, được vài lần đã thấy hai má mỏi nhừ, đành phải phu ra tiếp tục l**m láp như lúc đầu, chất lỏng sền sệt và nước bọt vô tình dính lên cằm, y bèn lấy vạt áo Lục Lệnh Tùng lau đi.

Lục Lệnh Tùng thường sẽ không cho y ngậm sâu đến yết hầu, vì làm như vậy sẽ khó tránh khỏi bị thương cổ họng, dù rồi cũng sẽ khàn giọng mất mấy ngày. Nhưng không cần dùng đến cổ họng, Tạ Cánh vẫn có cách làm đối phương cảm thấy sướng. Y thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn phản ứng của Lục Lệnh Tùng, thấy hắn nhíu mày cắn môi có vẻ không chịu nổi, d**ng v*t cũng sắp "bùng nổ", y bắt đầu thả chậm động tác để hắn lấy lại bình tĩnh. Đợi khi đối phương buông lỏng cảnh giác, y mới bất ngờ m*t mạnh một cái, vòm họng giống như huyệt đạo xoắn chặt lấy hung khí, phát ra tiếng nước d*m d*c.

Bình thường thì lúc này Lục Lệnh Tùng đã khó nhịn cong người, không lâu sau sẽ phóng thích trong miệng y, nhưng hôm nay Tạ Cánh cũng hơi mệt, không muốn kéo dài. Cảm thấy nhiệt độ và độ cứng của d**ng v*t đã đủ hầu hạ người ta l*n đ*nh, lỗ sau của bản thân cũng đủ ướt, y bèn nhả g** th*t ra rồi ngẩng người lên đòi hôn đối phương.

Lục Lệnh Tùng hiểu ý, vừa cúi đầu hôn y vừa đỡ lấy hai cánh mông bế y lên, cả hai quấn quýt ngã xuống chiếc giường mà Tạ Cánh đã nằm ngủ từ nhỏ. Chiếc giường này đương nhiên không rộng rãi bằng giường ở Vương phủ, nhưng cũng không quá cũ kĩ đến mức cần tu sửa. Tạ Cánh nằm ngửa, nhìn Lục Lệnh Tùng gập hai chân của y lên, nghĩ đến yêu cầu mà đối phương đã đề cập, y không khỏi bật cười: "Tại sao phải làm trên giường này mới được?"

Hai người đều đã sớm đ*ng t*nh, cần những k*ch th*ch mạnh mẽ hơn cả nụ hôn để góp vui, thế nhưng Lục Lệnh Tùng vẫn hôn y rất nghiêm túc, từ môi đến vai rồi đến bụng dưới. Sau khi sinh con, cơ thể Tạ Cánh tuy không thay đổi nhiều nhưng đầy đặn, nở nang hơn trước, không còn quá gầy như hồi mười sáu, mười bảy, hơn nữa bụng dưới vô cùng mềm mại. Lục Lệnh Tùng vén vạt áo yếm lên, dùng lòng bàn tay nhẹ nhàng ấn lên bụng y, nửa người dưới nhân lúc đó lấy đà đẩy vào, khiến cho Tạ Cánh bật ra một tiếng thở dài thỏa mãn.

Lục Lệnh Tùng vốn tưởng rằng không còn thứ gì có thể khiến họ đỏ mặt lúc h**n ** nữa, nhưng hắn thật sự không ngờ Tạ Cánh lại dám mặc loại trang phục này trước mặt mình. Hắn muốn xuyên xỏ cơ thể của Tạ Cánh trên chiếc giường mà y ngủ từ nhỏ đến lớn, chỉ đơn giản bởi vì điều này khó tránh khỏi khiến cho người ta liên tưởng, rằng nếu như họ có cơ hội quen biết nhau từ độ tuổi đó, nói không chừng cũng sẽ lén lút trên chiếc giường riêng tư của một trong hai người, ở phía sau tấm màn kia mà ve vuốt lẫn nhau, vừa hồi hộp, vừa vụng về nếm trải trái cấm đầu đời trong sự ngây ngô vụng dại.

Chỉ cần nghĩ đến một Tạ Cánh không biết đề phòng, ngây thơ hơn cả thời điểm họ vừa kết hôn đã khiến Lục Lệnh Tùng c**ng c*ng không chịu nổi.

Huyệt đạo hơi chặt, có lẽ vì thời gian chuẩn bị ngắn, chưa đủ trơn tru nhưng cũng không đến mức khiến Tạ Cánh đau đớn. Y thúc giục "Nhanh lên", Lục Lệnh Tùng cũng chẳng còn e ngại, mỗi cú thúc đều nhắm chuẩn vào miếng thịt mềm nhạy cảm mà đâm sâu vào, không cho Tạ Cánh cơ hội thích ứng, hơi thở dồn dập khẽ khàng lập tức biến thành những tiếng r*n r* đầy sung sướng.

Tạ Cánh sợ đánh thức Lục Thư Thanh, cũng sợ người hầu bàn tán nên không dám phóng túng k** r*n như ở Vương phủ, chỉ có thể cắn lấy gối đầu. Quần áo ngủ của y rơi vãi bên giường, q**n l*t cũng đã bị Lục Lệnh Tùng cởi bỏ, trên người chỉ còn đúng một chiếc yếm đỏ che thân, đầu d**ng v*t cứ theo nhịp đẩy mà cọ vào vải làm y ngứa ngáy, cả người run lên bần bật, hai chân kẹp chặt lấy eo của người đang di chuyển nhanh chóng.

Những năm qua, sự thay đổi của Lục Lệnh Tùng thật ra rõ ràng hơn y nhiều. Từ những ngày tháng cuối cùng của thuở thiếu thời ngây ngô bước vào giai đoạn trở thành một người đàn ông trưởng thành, hoàn thiện. Có lẽ vẫn sẽ có người chê trách hắn là một người cha chưa đủ chín chắn, nhưng chẳng ai nghi ngờ hắn chính là một người cha tốt. Tất nhiên là với tình cảnh hiện tại, trong mắt Tạ Cánh, sự "trưởng thành" của Lục Lệnh Tùng thể hiện qua lồng ngực nóng bỏng, rắn chắc hơn khi ôm lấy y, và kỹ thuật cũng trở nên điêu luyện hơn.

Lợi ích của việc dùng miệng an ủi trước đó là sự k*ch th*ch liên tục không "hành hạ" Tạ Cánh quá lâu, cả Lục Lệnh Tùng và y đều không cố kìm nén d*c v*ng, khi gần đến giới hạn đối phương đều đâm lút cán, mỗi cú thúc đẩy đều khiến Tạ Cánh co giật, cuối cùng y xuất tinh trong tay Lục Lệnh Tùng trước. Để tránh việc vệ sinh quá phiền phức, Lục Lệnh Tùng không bắn vào bên trong y mà chỉ phóng thích chất lỏng màu trắng đặc sánh ra giữa khe mông.

Tạ Cánh nghiêng người tựa vào đầu giường để ổn định hơi thở, khuỷu tay chạm vào mái tóc hơi ẩm của Lục Lệnh Tùng, y bèn sẵn tay cầm khăn lụa lên lau sơ cho hắn, khẽ nói: "Em nhớ trước đây đã nói với anh, thật ra nếu chúng ta chuyển đến Lạc Ấp sống lâu dài cũng không tệ, trời cao Hoàng đế xa, không có ai quản thúc, còn có thể thỉnh thoảng về thăm quê."

Lục Lệnh Tùng dùng bàn tay rảnh rỗi v**t v* bên đùi y, đáp: "Nhưng như vậy sẽ phải tạm xa những người thân ở Kim Lăng, về lâu dài cuối cùng cũng khó mà trọn vẹn đôi bên."

Tạ Cánh thở dài: "Em biết mà. Thật ra trong nhà chỉ có mỗi mình em là nhớ nhung quận Trần không thôi, mẹ và chị dâu vốn là người Giang Nam, cha và anh trai thì hoàn toàn chưa từng sống ở quận Trần, bọn họ đều coi Kim Lăng là quê hương."

Lục Lệnh Tùng nhớ lại rất lâu trước đây, khi họ gặp riêng nhau ở Dao Đài trước khi cưới, Tạ Cánh đã không chút do dự nói "Dù thế nào thì Kim Lăng cũng đã tính là quê người rồi". Hắn im lặng một lúc rồi hỏi: "Em có từng nghĩ, nếu như em cũng được nuôi dạy ở Kim Lăng từ nhỏ thì tình cảnh sẽ như thế nào không?"

Tạ Cánh khựng lại một chút: "Anh muốn nghe lời thật lòng không?"

Lục Lệnh Tùng nghi hoặc: "Chuyện này có gì mà phải giả dối chứ? Em cứ nói thật đi."

"Nói thật thì em vẫn luôn cảm thấy, nếu như em quen biết anh từ sớm, chưa chắc hai ta đã có được duyên phận như ngày hôm nay."

Lục Lệnh Tùng bối rối nhìn y, Tạ Cánh bèn giải thích: "Tuy rằng thân phận của anh đặc biệt, nhưng giao du rộng khắp các tầng lớp, còn em thì, anh cũng biết mà, ngay cả việc ứng đối với đồng liêu đồng môn em cũng không giỏi. Dù cho có được lớn lên ở kinh thành từ nhỏ, dù cho nhà họ Tạ sớm muộn gì cũng sẽ không tránh được việc giao thiệp với anh, nhưng con người của em cùng lắm cũng chỉ có thể làm một người quen sơ với Chiêu Vương điện hạ mà thôi."

Lục Lệnh Tùng nhướng mày, chỉ vào vệt t*nh d*ch chảy g*** h** ch*n y: "... Quen sơ?"

Tạ Cánh quật chiếc khăn lụa vào hắn: "Em đang nói chuyện nghiêm túc với anh đấy! Tự bản thân em không giỏi giao tiếp, không biết lấy lòng người khác, chỉ sợ dù có quen biết em, anh cũng sẽ chẳng thấy em có gì thú vị."

Dường như y đã từng suy nghĩ về chuyện này từ lâu. Giờ phút này mây mưa vừa tan, thần trí còn hơi mệt mỏi, vậy nên mới chẳng để ý mà lỡ miệng nói ra.

"Nếu em không phải là Chiêu Vương phi, cũng sẽ không đi dạy Nhị điện hạ. Có lẽ em sẽ phải nhẫn nhịn ở Hàn Lâm Viện rất nhiều năm — cha và anh cả nhất định cũng sẽ tránh hiềm nghi, tuyệt đối không mở đường nâng đỡ em. Có chăng là em sẽ bị điều ra ngoài kinh, bắt đầu từ chức huyện lệnh hay quan lại các châu, đi lên từng bước. Dù em thật sự có chí tiến thủ đi nữa, đến lúc leo đến được vị trí có thể lọt vào mắt anh, e rằng em cũng đã có tuổi rồi."

Lục Lệnh Tùng nghe y nói xong thì im lặng một lúc lâu, rồi bất chợt giật lấy chiếc khăn trên tay y ném sang một bên, sau đó dang tay ôm chặt lấy eo Tạ Cánh, kéo y sát vào lòng. Hai người da thịt tr*n tr** dán chặt vào nhau, thân mật khắng khít: "Cái gì mà "đến được vị trí có thể lọt vào mắt ta" chứ? Ngay khi tên em được đề lên đầu bảng Tam Nguyên, ta đã để mắt đến em rồi."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 86


《 20.4 》

Từ cửa hông phía Tây Nam của dinh thự nhà họ Tạ đi ra, men theo đường bờ ruộng đi một đoạn sẽ gặp một con suối nhỏ ở đầu ruộng, nước suối chỉ ngập đến ngang hông. Đây là nơi nông dân gần xa thường xuyên lui tới để lấy nước. Những ngày này, Tạ Cánh đều bận rộn ở sảnh chính cùng người trong tộc kiểm kê từng hạng mục trong sản nghiệp, còn Lục Lệnh Tùng thì đi dạo xung quanh. Kỳ trân văn vật ở dinh thự chẳng kém gì những nhà quyền quý ở ngõ Ô Y, hắn thảnh thơi dạo một vòng mà không gặp trở ngại gì. Nhưng rồi cũng chẳng còn việc gì để làm, hắn cũng đã nhắm tới dòng suối kia từ sớm, chỉ là trong phủ còn có Lục Thư Thanh, nếu chưa được Tạ Cánh cho phép, hắn không dám tự ý dẫn nhóc con đi nghịch nước.

Trở về viện, hạ nhân đang hối hả đi tìm hắn, đưa đến một mảnh giấy, nói là Tạ Cánh dặn dò: "Người bảo nhất định phải giao tận tay điện hạ."

Tim Lục Lệnh Tùng khẽ chùng xuống, nghĩ không biết có phải vì phân chia tài sản không đều hay y bị ai bắt nạt nên mới tìm hắn viện trợ hay không. Nhưng ngẫm lại, tộc nhân họ Tạ dù làm quan hay làm ruộng, dù giàu có hay bình thường thì ai cũng đều an phận với mệnh số của mình, hẳn không thể xảy ra chuyện tranh giành gia sản ầm ĩ tới mức phải động tay động chân.

Hắn vội vàng mở tờ giấy ra xem, phát hiện trên đó chỉ có một câu: "Tối nay em muốn ăn cơm vụn vàng."

Người hầu còn sốt ruột thay cả hắn, vội hỏi: "Có chuyện gì quan trọng sao ạ?"

Lục Lệnh Tùng im lặng hồi lâu rồi đáp: "... Không sao. Phòng bếp ở đâu?"

Đến giờ ăn, Lục Thư Thanh tuy không đến mức phải có người đuổi theo sau đút từng muỗng cơm, nhưng cậu nhóc có thói quen nhai kỹ, ăn chậm rì rì, mà lúc đang ăn lại hay lơ đễnh. Chạng vạng tối khi Tạ Cánh trở về phòng, cậu vẫn còn ngồi trên bậc cửa, trên tay bưng một cái chén nhỏ, chậm rãi xúc từng muỗng cơm bỏ vào miệng.

Tạ Cánh hỏi con: "Sao con lại ngồi đây ăn vậy?"

"Ông bà ở ngoài kia cũng ăn như vậy."

"Ngoài nào?"

Lục Thư Thanh giơ tay lên thật cao, vẽ một vòng tròn rộng trong không trung rồi chỉ về hướng Tây Nam: "Ở —— ngoài đó ạ."

Tạ Cánh không hiểu lắm, rảo bước vào phòng, Lục Lệnh Tùng ở bên trong đáp thay: "Nhóc con này thấy người dân quê ngồi ngay trên bờ ruộng ăn cơm nên học theo đấy."

Trên bàn đã dọn sẵn bữa tối cho Tạ Cánh, hương thơm của gạo nóng và hơi ấm của thức ăn vẫn còn tỏa ra nghi ngút hòa quyện vào nhau. Cơm vụn vàng thực ra chính là cơm chiên trứng, đây là món thuộc loại ít tốn công sức nhất trong danh sách các món ăn của Lục Lệnh Tùng, cũng không cần kỹ thuật gì đặc biệt. Hắn vốn không thích nấu món này, nhưng trong phủ từ trên xuống dưới ai ai cũng thích, mỗi lần nấu xong, tiểu tư nha hoàn đều đứng chầu chực bên ngoài phòng khách, đợi ba vị chủ tử dùng cơm xong là lập tức ùa vào tranh nhau vét sạch.

Không giống như loại cơm chiên trứng mà trứng được xào thành từng mảng nhỏ giống như "vụn vàng" thường thấy trong hàng quán ở ngoài, Lục Lệnh Tùng có thói quen đánh trứng thật đều, để lớp trứng vàng óng phủ lên từng hạt cơm, trông như những bông hoa cúc vàng nhỏ xíu nở rộ giữa mùa xuân. Vì là cơm nhà làm, hắn không tiếc nguyên liệu, hào phóng rắc đầy đậu Hà Lan và tôm xắt hạt lựu. Cũng do hắn nêm nếm khá nhạt nên Tạ Cánh thường múc một muỗng ớt bằm nhỏ để vào góc chén, thỉnh thoảng trộn vào ăn cùng.

Y đã bận rộn cả ngày, lúc này bụng đói cồn cào, ăn non nửa bát mới có thời gian mở miệng nói chuyện với Lục Lệnh Tùng: "Trị đại quốc cũng giống như nấu một món ăn nhỏ, mà món ăn nhỏ thì lại là món khó nấu nhất. Anh chiên cơm ngon thế này là đã thành minh quân thiên cổ trong lòng em rồi."

Lục Lệnh Tùng nghẹn lời, nhưng không có đầu bếp nào lại ghét bị khách khen cả. Thấy Tạ Cánh ăn ngon miệng, hắn cũng vui vẻ, nghiêng đầu nhìn y một lúc, bỗng hỏi: "Tối nay em còn việc gì không?"

Thấy y lắc đầu, Lục Lệnh Tùng bèn nói: "Vậy chúng ta ra con suối ngoài kia bơi đi."

Tạ Cánh nghĩ mãi mới nhớ ra đến con suối mà đối phương đề cập tới. Lúc còn nhỏ y rất nghịch ngợm, thường cùng các anh em họ ra đó bắt cá, bị thầy giáo bắt được rồi trách phạt, từ đó về sau không được ra đó chơi nữa.

Nói đến chuyện bơi lội, Tạ Cánh vốn không lớn lên ở vùng sông nước chằng chịt như Giang Hoài, kỹ năng bơi cũng chỉ ở mức bình thường. Ở Kim Lăng, y lại càng ít có cơ hội. Ao cạn và hồ sau trong vương phủ thì không thích hợp để làm chuyện này, bãi cát ven bờ sông Trường Giang lại nguy hiểm, nước xiết không an toàn, còn sông Tần Hoài tuy khá phù hợp, nhưng vấn đề là nơi đó quá ồn ào, người qua kẻ lại tấp nập, nếu để cả thành nhìn thấy cảnh tượng Chiêu vương điện hạ c** tr*n dạy thế tử bơi, thì chắc chắn ngày hôm sau bọn họ sẽ phải vào cung lĩnh phạt.

Nhìn thấy đôi mắt sáng bừng lên của Lục Lệnh Tùng, rõ ràng là vì hiếm khi hắn được thoát khỏi những ràng buộc, nhất thời nổi hứng muốn chơi đùa, mà thời tiết lại thật sự oi bức, Tạ Cánh cũng không có lý do gì để làm mất hứng của hắn.

"Nhưng mà Thanh Nhi không thể ngâm nước quá lâu, em sợ con bị cảm lạnh."

Lục Lệnh Tùng hứa chắc nịch: "Ta biết chừng mực mà. Chân chân là do một tay ta chăm bẵm lớn lên, chuyện này mà em còn không tin ta sao?"

Hai người bàn bạc xong xuôi, Tạ Cánh gọi tôi tớ vào dọn dẹp bát đũa, xoay mặt nhìn ra cửa, thấy Lục Thư Thanh vẫn chưa ăn hết chén cơm.

Mùa hè ở phương Bắc trời tối muộn hơn, ba người lại trò chuyện thêm vài câu, đợi tiêu hóa bớt thức ăn mới chậm rãi bước ra hậu viện. Lúc này, phía chân trời vẫn còn sót lại một mảng xanh đậm mơ hồ.

Tạ Cánh đứng trên bờ ruộng, cầm hai chiếc đèn lồng họ mang theo đến để chiếu sáng cho Lục Lệnh Tùng. Lục Thư Thanh hoàn toàn không biết bơi, nhưng may mắn là cậu không hề sợ nước. Cơ thể bé nhỏ của nhóc con được Lục Lệnh Tùng dễ dàng đỡ lên bằng một tay, tay còn lại ở bên cạnh bảo vệ, bắt đầu dạy cậu từ cách nín thở.

Thế nhưng Lục Thư Thanh lại không mấy hứng thú với việc học bơi, có thể thấy cậu thích vỗ nước tung tóe theo kiểu bơi chó hơn. Lục Lệnh Tùng xách con trai lên chơi trò hất nước, chẳng mấy chốc nước đã bắn đến tận gấu quần của Tạ Cánh khiến y phải vứt đèn xuống đất, nhảy vội ra xa cách đó ba trượng, cảnh cáo: "Hôm nay em không xuống nước thôi đấy. Có giỏi thì lần sau về hồ nước nóng trong nhà đánh tiếp, không tạt đến mức hai cha con anh phải xin tha thì em theo họ anh!"

Hai người dưới nước không hề xem trọng lời thách đấu chẳng có phân lượng gì của y. Lục Thư Thanh trèo lên sau cổ cha giống như con khỉ nhỏ, được hắn vác hẳn lên vai thì phấn khích hét ầm lên. Lục Lệnh Tùng chạy vài bước lên bờ suối, đuổi theo Tạ Cánh đang hốt hoảng bỏ chạy. Nhưng vì chân trần chạy không tiện, bị vấp một cái, trong khoảnh khắc đó, hắn chỉ kịp che chắn cho Lục Thư Thanh, còn bản thân thì đành kéo theo cả Tạ Cánh ngã xuống mép bờ, cả người ướt sũng, bọt nước văng tung tóe khắp nơi.

Tạ Cánh vừa th* d*c vừa gằn giọng: "Tốt nhất là anh hãy rời khỏi người em trong vòng ba tiếng đếm. Nếu không, sáng mai cả quận Trần sẽ lan truyền tin động trời là Chiêu Vương phi tàn nhẫn ra tay giết chồng đó. Ba, hai, một, một, một..."

Chữ "một" lặp lại cả chục lần, nhưng Lục Lệnh Tùng vẫn bất động. Đếm đến mức chính Tạ Cánh cũng không nhịn được nữa mà cười phá lên, vừa mắng vừa đẩy hắn: "Buông Thanh Nhi ra, đừng có đè con!"

Ba người tách ra, Lục Thư Thanh da thịt non mềm, sợ con bị đá vụn và cát sỏi làm trầy da, Lục Lệnh Tùng bèn nhấc bổng cậu đặt thẳng lên người Tạ Cánh. Mất đi vật chắn, lúc ngửa mặt nằm xuống đất, Tạ Cánh mới chú ý đến cảnh sắc trên cao, y vội vàng đẩy Lục Thư Thanh: "Mau ngẩng đầu lên, nhìn kìa!"

Ban ngày trời trong xanh không một gợn mây, đến khi màn đêm buông xuống, bầu trời đầy sao rực rỡ hiện ra rõ mồn một. Dải ngân hà tráng lệ rực rỡ kéo dài từ phía Đông Bắc đến tựa như nước sông Hoàng Hà đổ xuống từ chín tầng trời cao, cuồn cuộn chẳng dứt, rực sáng muôn đời.

Ban đầu, Tạ Cánh không kịp nhận ra điều gì khác biệt. Ở Kim Lăng, số lượng sao trên trời không ít hơn nơi đây là bao, nhưng khi sao rơi vào đáy mắt thì lại chẳng giống chút nào. Mãi đến khi nghe thấy Lục Lệnh Tùng khẽ thốt lên một tiếng thán phục như thể đây là lần đầu tiên hắn được nhìn thấy bầu trời sao, y mới chợt tỉnh ngộ — sự khác biệt không nằm ở những vì tinh tú, mà ở chính vòm trời kia. Bầu trời ở kinh thành bị chia cắt thành từng ô vuông như bàn cờ, nhưng đêm ở quận Trần thì lại rộng lớn và khoáng đạt đến nỗi có thể dung nạp vạn vật — đây chính là bầu trời cố hương mà y vẫn luôn đau đáu nhớ về, ngay cả trong mơ cũng mãi vấn vương.

Trên đường về nhà, Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng sóng vai đi phía trước, họ băng qua bờ ruộng, thỉnh thoảng có vài con đom đóm sáng rực chầm chậm bay lên từ giữa đám cỏ, dệt thành một con đường về nhà lấp lánh ánh sáng trắng dịu nhẹ. Lục Thư Thanh không nhanh không chậm bước theo sau, Tạ Cánh vô thức đưa tay ra phía sau muốn nắm lấy tay con, cậu nhóc bèn tung người nhảy lên bắt lấy, giẫm lên bóng của mẹ và cha.

Hoàng đế vốn đã định sẵn thời hạn hồi kinh cho bọn họ là trước Trung thu, nhưng mới vừa sang đầu tháng bảy đã truyền thánh chỉ đến thúc giục. Phụ tử thiên gia đúng thật là khó làm, đặt ngay trước mắt thì sợ nuông chiều quá đà, đặt ngoài tầm mắt thì sợ khó lòng kiểm soát.

Lục Thư Thanh vừa mới thân quen với đám trẻ con trong họ, Tạ Cánh cũng muốn được sống thêm những tháng ngày không cần hở chút là lại phải vào cung thỉnh an. Thật ra không có ai muốn trở về nhanh như vậy, nhưng quân mệnh treo lơ lửng trên đỉnh đầu, chung quy trong lòng vẫn không thoải mái, cuối cùng đành quyết định lên đường về kinh vào ngày mười sáu tháng Bảy, bởi vì họ không muốn bỏ lỡ sự náo nhiệt của tết Trung Nguyên.

Giữa tháng Bảy không chỉ là dịp cúng tế người thân đã khuất, mà còn là thời điểm thu hoạch mùa màng, từ xưa vẫn có tục lấy "tang sự làm vui". Ở Kim Lăng, do hệ thống sông ngòi phong phú, người ta thường thả đèn hoa đăng trên sông để bày tỏ lòng tưởng nhớ, còn ở phương Bắc, tập tục cũ lại là treo đèn trên mộ phần và dâng hương cúng tế. Dinh thự của nhà họ Tạ được xây dựng ở vùng ngoại ô huyện Dương Hạ của quận Trần, phần mộ tổ tiên và từ đường nằm trên ruộng đất của gia tộc nên chiếm diện tích khá lớn, tọa lạc ngay con đường tất phải đi qua khi vào thành.

Bọn họ đợi đến khi trời tối hẳn mới lên đường. Sau khi Tạ Cánh cúng bái trước phần mộ của ông bà nội, y nói với Lục Thư Thanh: "Con có thấy những ngọn đèn này không? Trong tim đèn có một vương quốc nhỏ, những người thân đã khuất của con đều sống ở trong đó. Chỉ cần con thắp sáng đèn, họ sẽ nhìn thấy con."

Lục Thư Thanh vẫn chưa hoàn toàn hiểu được ý nghĩa của cái chết, mà Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh cũng không cố gắng dạy cho cậu hiểu về điều ấy. Dù sao thì bốn vị trưởng bối trong nhà vẫn còn khỏe mạnh, một thời gian nữa chắc cũng chưa phải đối mặt với chuyện này. Đợi khi cậu lớn hơn, học đến câu "dài ngắn theo mệnh trời, mong cầu rồi cũng tận", tự nhiên sẽ hiểu.

Trên phố chợ đêm, đâu đâu cũng là những giọng nói với khẩu âm xa lạ. Lục Lệnh Tùng tự nhận cách phát âm của mình rõ ràng, vậy mà liên tục gặp mấy người bán hàng tỏ vẻ mơ hồ, nói không hiểu gì khiến hắn vô cùng buồn bực. Hắn thử bắt chước kiểu phát âm kỳ lạ của chữ "trung", rồi hỏi Tạ Cánh: "Em có nói được tiếng quê nhà không?"

Tạ Cánh lắc đầu, rồi lại gật đầu: "Em nghe hiểu, nói cũng được đôi chút nhưng không chuẩn. Hồi nhỏ, thầy dạy rằng sau này bọn em đều phải lên kinh ứng thí, chỉ được phép nói tiếng Quan Thoại. Ông bà nội cũng chỉ nói chuyện với em bằng tiếng Quan Thoại."

Đi ngang qua một quầy hàng nhỏ bán món gọi là "bánh canh", một loại mì cắt được nấu trong nước dùng đậm đà hầm từ xương dê, đặc sệt và có màu trắng ngà như sữa bò. Người bán còn cho thêm đậu phụ, rong biển thái sợi, trứng cút vào nấu cùng mì, mùi thơm nức mũi khiến người ta không khỏi nuốt nước bọt.

Lục Thư Thanh vốn đang vùi mặt vào vai mẹ, chỉ để lộ đôi mắt tròn xoe đen láy nhìn xung quanh, vừa ngửi thấy mùi thơm liền hít hít mũi, không cưỡng lại được mà ngoảnh đầu nhìn qua. Lục Lệnh Tùng tự giác rút tiền ra mua, hắn gắp một sợi mì, thổi nguội rồi đưa lên tận miệng con trai.

Tạ Cánh nghiêng mặt nhìn, nhắc nhở: "Con tự cầm lấy mà ăn, hút hẳn sợi mì cho hết, đừng để rơi vãi xuống cổ áo."

Lục Thư Thanh hút sợi mì trông y hệt chú chuột nhỏ, nuốt hết rồi mới nói: "Dì bảo là không được 'húp sùm sụp...' như thế này."

"Con còn muốn ăn nữa không?" Lục Lệnh Tùng hỏi, rồi tiếp lời, "Dì con nói đúng, ở nhà và trên bàn tiệc trong cung thì đúng là không được. Nhưng ra ngoài chơi thì không quen biết ai cả, con muốn ăn thế nào thì cứ ăn thế ấy."

Ba người nhanh chóng ăn hết sạch tô bánh canh. Tạ Cánh vốn không thích mùi thịt dê, nhưng cách chế biến của dân gian nồng đượm hương vị đời thường, dùng nhiều dầu mỡ và gia vị mặn nên đã át đi hết mùi gây của dê, chỉ còn lại hương thơm đậm đà đặc trưng. Bao năm sớm chiều ở bên cạnh Lục Lệnh Tùng, thật ra y cũng đã dần bị ảnh hưởng, quen với khẩu vị của hắn mà chẳng hay biết. Lại thêm Lục Thư Thanh còn nhỏ, thức ăn cho trẻ con cần nấu thanh đạm, vậy nên đã lâu y không có cơ hội được thưởng thức hương vị nguyên bản của món ăn quê nhà.

Trung Nguyên cũng là dịp lễ Vu Lan của đạo Phật, ngoài chợ được dựng sân khấu cao diễn vở "Mục Liên cứu mẹ". Trong cung năm nào cũng diễn "Khuyên thiện ký*", Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh đã nghe đến phát chán, nhưng kịch dân gian Trung Nguyên ở đây kết hợp cả võ thuật và xiếc tạp kỹ, xem cũng khá mới lạ.

(*) "Khuyên thiện ký"《劝善记》 là một vở kịch truyền kỳ nổi tiếng do Dư Tượng Đẩu – một nhà văn thời Minh, sáng tác. Đây là một tác phẩm thuộc thể loại khuyên răn con người hướng thiện, mang nội dung giáo huấn về nhân quả báo ứng, khuyến khích người ta làm việc tốt và tránh điều ác.

Chỉ là vở Mục Liên vốn trang trọng, thâm trầm và có phần u tối. Ban nãy đi ngang qua phần mộ tổ tiên Lục Thư Thanh còn không sợ, vậy mà đến lúc thấy trên sân khấu diễn cảnh mẹ của Mục Liên bị đày xuống quỷ đạo sau khi qua đời, phải chịu đủ cực hình thì lại bị dọa đến tái mặt, ôm chặt lấy mẹ mình không chịu buông.

Tạ Cánh chỉ còn cách nhẹ nhàng đung đưa dỗ dành, thì thầm trấn an nhóc con: "Đây là vở diễn dạy người đời rằng thiện ác cuối cùng đều gặp báo ứng. Mẹ của con một đời giàu sang bình yên, có thể không có công đức gì to lớn nhưng chưa từng tạo nghiệp chướng, sẽ không phải chịu cực hình như thế đâu, con yên tâm nhé."

Dỗ dành cả buổi trời, Lục Thư Thanh mới chịu tin rằng không phải người mẹ nào cũng phải xuống địa ngục chịu khổ, miễn cưỡng đồng ý để Lục Lệnh Tùng bế mình lên, ngồi cao trên vai cha, cùng đi mua bánh đậu phộng ngọt giòn thơm vừa ra lò.

Tạ Cánh tìm một quán trà bên đường, gọi một ấm tín dương mao tiêm ngồi đợi họ. Trong quán có ca múa nhạc giúp khách quan giải trí, y nhàm chán ngồi xem một lúc, chợt nảy ra ý muốn đùa giỡn, bèn thuận miệng mượn một chiếc vòng ngọc màu xanh lá mạ của cô gái đánh đàn nguyệt bên cạnh đeo vào cổ tay, sau đó vén tay áo lên, đảm bảo hai cánh tay trần có thể đủ che giấu thân phận của mình.

Đến khi Lục Lệnh Tùng quay lại, vừa đi ngang qua nhã tọa bên này, Tạ Cánh đột nhiên vươn tay ra từ sau rèm lụa chặn bước hắn, rồi ngón tay khẽ lật, chiếc quạt xếp cài hờ bên thắt lưng Lục Lệnh Tùng rơi vào tay y.

Vải rèm lụa mỏng, ánh sáng bên trong rực rỡ, tuy không nhìn rõ khuôn mặt Tạ Cánh nhưng dáng người và động tác của y thì lại rất rõ ràng. Y bắt chước động tác múa quạt trong khúc Côn Sơn, một tay cầm cánh quạt, một tay đỡ mép quạt, chỉ dùng hai điểm tựa mà xoay ngược lên xuống. Rồi y đổi sang cầm hai bên sườn quạt, vừa để quạt tự động lật mặt vừa xoay cánh quạt, vẽ nên một đường cong mềm mại tròn trịa. Từng động tác biến hóa mượt mà như nước chảy mây trôi, cuối cùng gập quạt lại kêu "cách" một tiếng, đưa ra khỏi rèm, chỉ thẳng vào trước mặt Lục Lệnh Tùng.

Lục Lệnh Tùng chẳng lộ rõ biểu cảm: "Thanh Nhi, con thấy bàn tay này có đẹp không?"

Lục Thư Thanh gật dầu, hắn lại nói: "Vậy chúng ta gọi chủ nhân của nó ra ngắm một chút, chịu không?"

Tạ Cánh nghe vậy thoáng sững sờ, nhưng chỉ một khắc sau cổ tay đã bị nắm lấy, cả người bị kéo ra khỏi rèm lụa, mất thăng bằng ngã về phía trước.

Lục Lệnh Tùng cười nói: "Bàn tay của em dù có hóa thành tro ta cũng nhận ra được."

Tạ Cánh đã đứng vững, xoay nửa vòng thoát khỏi vòng tay của đối phương, sau đó ném quạt giấy về lại cho hắn, nói như khiêu khích: "Những gì em biết còn nhiều hơn thế nữa đấy."

Cánh tay của y thon dài trắng trẻo, đặc biệt khi vén tay áo cao lên, để lộ ra khuỷu tay có đường nét thanh tú, vì gầy mà tạo thành một góc cong sắc sảo. Tạ Cánh nhìn thẳng không chớp mắt, chỉ chăm chăm khóa chặt ánh mắt vào Lục Lệnh Tùng. Cổ tay y nâng lên, hạ xuống, uốn cong, thả lỏng, lượn vòng trước ngực thành thế "vân thủ", rồi một tay hướng xuống, một tay hướng lên, đầu ngón tay đan chéo vào nhau, uốn lượn linh hoạt giống thân rắn, tựa như mọi phong tình đều chảy xuôi theo đôi bài tay tạo thành nhịp cầu nối dài trước mặt.

Lần này thì Lục Lệnh Tùng đã nhận ra được: "Phiên vân phúc vũ thủ?"

Tạ Cánh đắc ý gật đầu, cúi xuống hôn mạnh một cái lên má Lục Thư Thanh đang vỗ tay cổ vũ, cười bảo: "Năm ngoái em học của chị Tiêu đấy."

Lục Lệnh Tùng không truy hỏi y học để làm gì — vì chỉ cần đoán thôi cũng biết, đây hẳn là một trong những chiêu mà Tạ Cánh dùng để "thu phục" hắn. Hắn chỉ nắm lấy khuỷu tay xinh đẹp ấy, khẽ v**t v* mấy lần, nói: "Tay rất đẹp, múa cũng rất hay, chỉ là chưa khoác đúng y phục, chưa đứng đúng nơi mà thôi."

Tạ Cánh linh cảm Lục Lệnh Tùng sắp nói gì đó không đứng đắn, quả nhiên, hắn hạ giọng thì thầm bên tai y: "Ta thấy giường ngủ ở Vương phủ cũng đủ rộng. Đợi về nhà ta tặng em y phục mới, em múa ở trong màn, lúc ấy ngắm mỹ nhân dưới đèn chẳng phải còn thú vị hơn là xem ở đây sao?"

Mới chỉ tưởng tượng đến cảnh ấy Tạ Cánh đã thấy ê răng, y bèn xua tay nói: "Khen anh sớm quá rồi. Dựa vào tài làm hôn quân bẩm sinh này của anh, tốt nhất là đừng kế thừa đại thống, em không muốn vào trong sử sách mà lại mang tiếng là yêu phi họa quốc đâu."

Ngày rời khỏi quận Trần là một buổi sáng sớm, người nhà họ Tạ vẫn kính cẩn đến đưa tiễn giống như ngày y trở về. Nhưng bây giờ Tạ Cánh đã hiểu được rằng, sự thầm lặng ấy không phải là xa cách lạnh lùng, mà là quy tắc đối nhân xử thế của nhà họ Tạ ở quận Trần – những con người gắn bó với cố thổ, an phận với thiên mệnh. Họ không biết cách nịnh bợ, cũng chẳng giỏi bày tỏ nỗi lưu luyến, chỉ lặng lẽ đứng đó, lặng lẽ đưa tiễn, để mặc cho tình cảm máu mủ sâu đậm ấy hòa tan vào không khí.

Tạ Cánh vịn khung cửa sổ xe, ngoái đầu lại nhìn thật lâu. Mãi đến khi tổ trạch phía sau hóa thành một chấm đen không còn nhìn rõ được nữa, y mới lặng lẽ ngồi lại vào trong.

Lục Lệnh Tùng thấp giọng an ủi y: "Chắc chắn chúng ta sẽ còn quay lại mà."

Tạ Cánh khẽ gật đầu, nhưng trong lòng lại nghĩ, có lẽ là rất nhiều, rất nhiều năm về sau, hoặc có lẽ, y sẽ chẳng còn cơ hội nào để quay về nữa.

==

Min: Tình hình thì tui đã bơi được hơn nửa truyện, và tình tiết truyện cũng sắp sửa vô đà để đến cao trào rồi, cũng không biết từ đầu đến giờ mọi người đọc có cảm thấy bản edit ổn không, có thắc mắc tình tiết nào hay là có gì muốn hỏi tui không ha, spoil (?) cũng được? Nếu có thì cmt ở đây cho tui biết nhen, được thì tui sẽ giải đáp hết nè 🙆🏻‍♀️

Với tui cũng chỉ muốn nói là cuộc vui nào rồi cũng sẽ tàn, mấy bồ cứ từ từ chuẩn bị tinh thần đi (nếu chưa đọc QT), vì truyện dù không có tag ngược nhưng tui đọc hết cũng khóc mấy bận rồi đó kkk
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 87


《 21.1 — Hiện tại 》

Lục Lệnh Tùng trở về Kim Lăng vào kinh trập năm Cảnh Dụ thứ năm. Lúc này, nạn rét hại ở phương Bắc đã tạm lắng xuống, tuy nhiên vì lũ lụt mùa xuân kéo dài, đất đai bị đóng băng khiến việc gieo trồng gặp khó khăn, đi cùng với nhu cầu nghỉ ngơi lại sức vẫn là những vấn đề không thể xem nhẹ. Dù vậy, ít nhất thì mùa đông khắc nghiệt cũng đã tạm qua đi. Nhờ có Lục Lệnh Tùng trấn giữ đất phong, áp dụng chính sách "trên nghiêm dưới thoáng" để điều hành quan lại và bách tính, các quận thuộc khu vực Hà Lạc không dám ngang nhiên tham ô hủ bại, những hành vi tư lợi về cơ bản đã bị triệt trừ, trật tự dần được khôi phục. Nhưng vì nhớ nhà, Lục Lệnh Tùng không nán lại lâu, nhanh chóng lên đường hồi kinh.

Khi đi đến vùng ngoại ô phía Tây thành, sắp đến Dao Đài, từ xa hắn đã nhìn thấy có một người một ngựa đứng bên vệ đường, hiển nhiên là đã chờ từ lâu.

Dáng người kia quen thuộc, đứng yên bất động — chính là Tạ Cánh.

Ngày hắn về kinh có trình tấu xin chỉ thị của Lục Lệnh Chương, triều đình hẳn cũng đã biết, nhưng Tạ Cánh đặc biệt đến tận đây chờ hắn chắc hẳn là có chuyện quan trọng cần nói.

Các tùy tùng phía sau chỉ là quan lại bình thường trong triều, không tính là thân tín của Lục Lệnh Tùng, vậy nên dù có nghi kị, hắn cũng không thể biểu hiện ra trước mặt bọn họ. Phải thừa nhận rằng, tin đồn đôi khi lại là thứ hữu dụng, hôm đó Chiêu Vương mang kiếm vào điện, suýt nữa thì b*p ch*t Tạ đại nhân, cả triều văn võ đều tận mắt chứng kiến. Câu chuyện ngày càng bị thêu dệt thái quá, đến mức giờ đây khi hai người chạm mặt riêng, chẳng ai nghĩ rằng giữa họ có điều gì mờ ám nữa, chỉ sợ một lát nữa nếu đôi bên sỉ nhục nhau đến mức lao vào ẩu đả, thì liệu họ có nên can ngăn hay không.

Cho đến khi đoàn người đến gần, Tạ Cánh vẫn giữ nguyên gương mặt lạnh băng, dáng người ngay ngắn, nhưng tay lại vung nhẹ roi ngựa, đi đến chắn ngay giữa đường, chặn đoàn xe của Lục Lệnh Tùng, sau đó y nâng tay hành lễ.

Lục Lệnh Tùng chỉ nói: "Chó ngoan không cản đường, nếu không phải ngươi chịu bỏ công mở tiệc đón gió tẩy trần cho ta thì mau cút sang một bên đi."

Tạ Cánh bật cười lạnh lùng, hỏi thẳng: "Tôi nghe nói lần này điện hạ đến Lạc ấp còn đặc biệt ghé qua quận Trần, chuyện này có thật không?"

Lạc Ấp nằm giáp với Duyễn Châu, mà quận Trần Lưu lại trực thuộc dưới quyền quản lý của Thứ sử Duyễn Châu. Tên của Tạ Duyễn cũng là từ đó mà có, thể hiện rằng dòng họ dù di cư khỏi Giang Nam nhưng chưa bao giờ quên cội nguồn. Trước đó Lục Lệnh Tùng đúng là đã tiện đường ghé qua quận Trần, thứ nhất là để trấn an dân chúng, thứ hai là để tận mắt nhìn xem cảnh ngộ của tổ trạch và tộc nhân còn lại của nhà họ Tạ sau khi trải qua bao biến cố như bị khám xét tịch thu, kết án, lao dịch, lưu đày giờ ra sao.

Lục Lệnh Tùng nói: "Ta thay thiên tử cứu trợ bách tính, giương cao cờ hiệu của thiên tử, thương xót dân chúng của thiên tử, có gì không đúng? Ta muốn đi đâu chẳng lẽ đến lượt con cháu tội thần đến đây chỉ trỏ hay sao?"

Tạ Cánh chỉ thản nhiên đáp: "Lý do thoái thác của điện hạ tuy quang minh chính đại, nhưng Trần Lưu không thuộc phạm vi đất phong của điện hạ. Nếu như trong cung biết được ngài tự tiện đến đó, ngài nghĩ bệ hạ và Thái hậu sẽ cho rằng ngài đang lo nghĩ vì dân, hay là cảm thấy ngài đang tự ý vượt quyền?"

Lục Lệnh Tùng khẽ "xì" một tiếng, nhướn mày: "Vậy ngươi muốn thế nào?"

"Năm đó nhà họ Tạ sụp đổ, Giang Nam lẫn Giang Bắc đều chịu tội liên đới, người trong họ ở quận Trần tuy thoát khỏi án tử nhưng chịu khổ sai thì chẳng thiếu phần nào, toàn bộ gia sản bị sung công. Vì bệ hạ chưa có chỉ định xử lý số tài vật đó nên cũng chẳng ai dám động đến, tất cả đều chất đống trong kho phủ Duyễn Châu, hiện tôi muốn cùng điện hạ chia chác tài sản."

"Nói ở đâu?"

Tạ Cánh bật cười một tiếng, vươn tay chỉ lên Dao đài cách đó không xa: "Tôi đã chuẩn bị trà Bích Loa Xuân thượng hạng, mời điện hạ."

Bên trong Dao đài, anh em họ Từ đã dẫn theo một nhóm cựu binh Hổ Sư canh giữ từ trước, bảo đảm không có kẻ nào không phận sự ra vào. Lục Lệnh Tùng ra lệnh cho tùy tùng vào thành trước, mỗi người trở về nha môn phục mệnh, còn hắn thì theo Tạ Cánh lên tầng cao nhất.

Tạ Cánh bước đến bên cửa sổ, nhìn đám thuộc quan cùng y trở về từ miền Bắc đang lục tục rời đi. Lục Lệnh Tùng uống liền hai chén trà giải khát, ánh mắt dừng lại trên bóng lưng gầy của y. Hắn biết rõ đối phương không thực sự muốn nói về chuyện "chia chác tài sản", vậy nên cũng chỉ im lặng chờ y mở lời.

Một lúc lâu sau, Tạ Cánh mới xoay người lại, nói: "Em muốn cầu xin anh một chuyện."

Lục Lệnh Tùng khẽ gật đầu: "Em nói đi."

Giọng điệu của Tạ Cánh rất bình tĩnh, giống như đang tuyên bố một quyết định đã được cân nhắc kỹ lưỡng từ lâu: "Đợi đến khi huyết thù được báo, em muốn Lục Thư Thanh đổi sang họ mẹ. Một là tránh xa những tranh đấu của hoàng gia, hai là để nhà họ Tạ không tuyệt hậu. Trăm năm sau, sản nghiệp của Vương phủ sẽ để lại cho Ninh Ninh, mẹ con em không cần tước vị gì nữa."

Y lặng lẽ quan sát nét mặt của Lục Lệnh Tùng khi nghe đến câu "để nhà họ Tạ không tuyệt hậu", chỉ thấy hàng mi đối phương khẽ run nhẹ, nhưng rồi lại tự nhiên cất lời như thể chẳng có gì đáng để cân nhắc: "Cứ theo ý em đi, dù mang họ gì, thằng bé vẫn mãi là con trai của chúng ta."

Tạ Cánh nghe xong không đáp lại ngay mà chỉ lặng lẽ nhìn hắn, biểu cảm chẳng chút gợn sóng.

Lục Lệnh Tùng mờ mịt đối diện với ánh mắt ấy, rõ ràng không hiểu vì sao ba tháng không gặp, Tạ Cánh vẫn chưa nhào vào lòng hắn như cái ngày hai người sắp chia xa kia.

Hồi lâu sau, Tạ Cánh mới bất lực thở dài: "Hôm đó, ở bên ngoài thành Hạ Phi, anh nói với em rằng những chuyện cần mượn danh nghĩa nhà họ Tạ, anh đều đã xử lý xong. Vậy em muốn hỏi, nếu người anh mượn danh không phải là em, thì rốt cuộc đó là ai?"

Câu hỏi này đã đủ thẳng thắn, hàm ý đủ sâu xa, sắc mặt Lục Lệnh Tùng thay đổi trong nháy mắt: "Em biết rồi sao?"

"Em biết rồi." Tạ Cánh nhìn hắn không rời, "Em không chỉ biết Tạ Tuấn còn sống, mà còn biết được chiêu cuối cùng của Phi Quang Lục Thức có tên là 'Ngọc nát đá tan."

Có lẽ Lục Lệnh Tùng chỉ đoán được nửa câu đầu, hắn thoáng sững sờ, im lặng hồi lâu, cuối cùng cũng khẽ thở dài:

"Phải rồi... Chẳng phải trước đây ta đã nói rồi sao? Cả đời này em sẽ không bao giờ cần dùng đến nó. Ta đưa Phi Quang cho em là để em tự bảo vệ mình, nào phải để em liều mạng đồng quy vu tận với kẻ thù? Nếu em thật sự làm vậy... Thì ta còn sống để làm gì nữa?"

Nghe vậy, bả vai Tạ Cánh khẽ run lên. Y đứng sững tại chỗ, đôi mắt sâu thẳm dán chặt vào Lục Lệnh Tùng thật lâu, sau cùng, dường như y đã cam chịu tất thảy, thấp giọng hừ một tiếng rồi sải bước về phía đối phương, ngẩng đầu lên, ôm lấy mặt hắn mạnh mẽ hôn lên.

Động tác của y quá đỗi đột ngột, đến mức mất vài giây Lục Lệnh Tùng mới kịp phản ứng. Nhưng Tạ Cánh chẳng hề bận tâm, chỉ vội vàng c*n m*t lấy môi hắn một cách vồn vã, lại bị đối phương đáp trả gấp bội. Đầu lưỡi len sâu vào khoang miệng, càn quét từng ngóc ngách, không cho y chút cơ hội đế hít thở nào. Càng về sau, Lục Lệnh Tùng đã hoàn toàn nắm thế chủ động. Hắn bế Tạ Cánh đến tựa vào chiếc giường thấp, hôn ngấu nghiến đến nỗi y chỉ biết ngửa đầu lên đón lấy, cả người mềm nhũn trong lồng ngực của hắn. Đầu gối của Tạ Cánh dần mất kiểm soát, chầm chậm cong xuống, cuối cùng quỳ sấp lên đùi bạn đời trong tư thế quấn chặt lấy nhau.

Chẳng biết môi lưỡi đã quấn quít bao lâu, đến khi đôi môi rời khỏi nhau, cả hai đều thở hổn hển, ánh mắt ướt át giao nhau, trên cánh môi đỏ ửng còn có dấu răng.

Đến lúc này, Lục Lệnh Tùng mới thật sự yên lòng. Hắn ôm chặt lấy Tạ Cánh, hỏi y: "Làm sao em biết được? Có phải đã gặp Tuấn Nhi rồi không?"

Tạ Cánh đáp: "Trình Văn, Quận thủ Hoài Dương kiêng dè phủ Tướng, đã làm không ít chuyện khuất tất. Lão sợ em là người Vương Thục phái đến để nắm thóp nên muốn ra tay g**t ch*t. Tuấn Nhi đã xuất hiện, cứu em thoát khỏi nguy hiểm."

Lục Lệnh Tùng khẽ cong ngón tay cọ qua gò má y: "Thật ra có mấy lần, ta thấy em đau lòng như vậy, suýt nữa không nhịn được mà nói ra rồi. Nhưng thằng bé cứ dặn đi dặn lại, bảo ta và Tiêu Dao đừng nói cho em biết. Nghĩ tới nghĩ lui, ta thấy vẫn nên tôn trọng ý muốn của nó. Em có trách ta không?"

Tạ Cánh cau mày: "Anh đúng là... Nếu em trách anh, liệu có để cho anh hôn đến nỗi suýt ngất đi không?"

Lục Lệnh Tùng bật cười: "Coi như không uổng công ta suốt ba tháng qua, ngày nào cũng khoác áo choàng của em."

Tạ Cánh liếc hắn, ánh mắt nửa tin nửa ngờ: "Anh mặc thật sao? Em còn tưởng anh sẽ giấu vào một góc nào đó chứ."

Lục Lệnh Tùng ghé sát bên tai y, nói: "Ba năm ở Ung Châu, ta luôn mang theo đai lưng cũ của em. Ban đêm đặt cạnh bên gối, nắm trong tay mà ngủ. Những khi thực sự nhịn không nổi, ta sẽ ngửi lấy mùi hương còn vương lại trên nó rồi tự giải tỏa. Như vậy đã đủ chưa?"

Tạ Cánh ngẩn người, ngước mắt trừng hắn một cái rồi cúi xuống, cắn mạnh lên yết hầu hắn chẳng chút lưu tình.

Lục Lệnh Tùng không bỏ qua cho y: "Còn em thì sao? Em nhớ ta chứ?"

"Hôm nay anh nhất định ép em nói ra những lời này mới được sao?" Tạ Cánh cứ thế buông xuôi, "Từ khi biết Tuấn Nhi vẫn còn sống, ngày nào em cũng mong anh mau chóng quay về, để tận tai nghe anh nói rằng chính anh đã cứu cháu trai của em. Chỉ cần nghĩ đến bốn chữ 'Ngọc nát đá tan', em lại càng muốn chính miệng hỏi anh một câu —tại Dao đài này, ngay trong căn phòng này, cũng đã sắp mười lăm năm rồi! Ngay từ khi đó, anh đã sợ em chết rồi sao? Ở phủ Tướng, khi Vương Thục, Vương Khế và Thôi Thục Thế tranh luận không ngớt về chính sự, em chỉ ngồi đó, âm thầm nhẩm đếm ngày tháng. Em nhớ anh đến phát điên, chỉ hận không thể lập tức vượt trời độn thổ mà chạy đến Lạc ấp để ở bên anh. Như vậy đã đủ chưa?"

Lục Lệnh Tùng kề trán mình vào trán y, thấp giọng nói: "Đủ rồi, dù có hơi sướt mướt một chút, nhưng những điều ta làm cũng chẳng đứng đắn gì cho cam, chúng ta coi như hòa nhé."

Tạ Cánh chợt nhớ đến nghi hoặc của Tạ Tuấn hôm ấy, bèn hỏi: "Rốt cuộc anh đã cứu Tạ Tuấn ra ngoài bằng cách nào? Em có hỏi nó, nhưng nó cũng nói là không rõ."

Lục Lệnh Tùng hơi bùi ngùi: "Chuyện này cũng là do cơ may mà thôi, đôi khi ta nghĩ lại cũng thấy khó tin. Em còn nhớ ngày xưa, trên đường chúng ta về quận Trần từng chạm trán một tên trộm không?"

Tạ Cánh vô thức gật đầu nhưng biểu cảm rất mơ màng, hiển nhiên là không nhớ rõ lắm.

"Ban đầu ta cũng chẳng có ấn tượng gì nhiều, cho đến khi hắn ta nói năm đó hắn đột nhập lên thuyền chở khách ở Dương Châu, chúng ta không đưa hắn đến chỗ quan, lại còn cho hắn một tờ giấy làm kế sinh nhai cứu mạng, ta mới mơ hồ nhớ ra chuyện này."

Lục Lệnh Tùng giải thích, ngày đó kẻ trộm tên Trương Tam kia cầm lấy bức thư có đóng dấu của Chiêu Vương đến Kim Lăng, nhờ thân thủ nhanh nhẹn, quả nhiên gã đã có được công việc ở thương hội của nhà họ Ngô, mấy năm sau cũng kiếm được ít tiền.

Về sau, tin tức tiên đế bệnh nặng lan truyền khiến người ta xôn xao, người trong kinh bắt đầu thấp thỏm, với tư cách là nhà cậu của Chiêu Vương – người được đề cử lên trữ vị, chuyện làm ăn của nhà họ Ngô cũng bị ảnh hưởng. Vì để kiếm sống mà Trương Tam bỏ ra chút tiền, có được một chức nhỏ, ổn định làm việc trong Vũ Lâm Quân.

Không lâu sau đó tiên đế băng hà, nhà họ Tạ gặp hoạ, Trương Tam nhận được quân lệnh đến ngõ Ô Y nhặt xác, khắc phục hậu quả, thu dọn hiện trường.

"Cái xác" của Tạ Tuấn được một đồng liêu của Trương Tam phát hiện ra. Khi đó Tạ Tuấn đã hôn mê do sặc khói, cậu nằm giữa đám cháy, hơi thở yếu ớt. Hai người này phát hiện Tạ Tuấn vẫn còn sống, lại thấy dung mạo và áo quần của cậu khác thường, cảm thấy lo sợ, không biết liệu bản thân có bị cuốn vào một góc âm mưu quyền lực của thiên gia hay không.

Năm ấy khi nhận được lá thư, Trương Tam đã biết được thân phận thật của Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh, về sau lại luôn sống ở trong kinh, chẳng xa lạ gì phủ Chiêu Vương. Gã thừa biết nơi mà mình đến chính là nhà mẹ của Chiêu Vương phi, thiếu niên đang hấp hối trước mặt gã rất có khả năng chính là người thân của vị Vương phi này.

Còn về tên lính kia, có lẽ là vì nhút nhát và mềm lòng, hắn ta cũng không nhẫn tâm đứng nhìn một người sống sờ sờ tắt thở ngay trước mắt.

"Hai người họ bàn bạc với nhau, đổi quần áo của một tiểu đồng đã bị thiêu cháy đến mức khó phân biệt vẻ ngoài cho Tạ Tuấn, sau đó để thằng bé vào đống xác chết đưa ra ngoài, tìm cách che giấu. Khi đó em đang quỳ ở điện Thần Long, khăng khăng sống chết không rời, Trương Tam chỉ có thể nhờ vào mối quen cũ của nhà họ Ngô để tìm cậu của ta giúp đỡ. Đêm hôm ấy, nhân lúc hỗn loạn, ta rời Kim Lăng đến hội quân với Hổ Sư đã đưa nó đi theo."

Tạ Cánh nghe xong, lặng lẽ suy ngẫm hồi lâu. so với những người mang danh 'hậu duệ thiên hoàng quý tộc' như bọn họ, Trương Tam có lẽ chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt, nhỏ bé như hạt bụi, sử sách sẽ không bỏ mặc vương hầu tướng lĩnh để ghi chép về một người vô danh. Nhưng chính nhân vật mờ nhạt ấy lại là người đã cứu lấy hậu nhân duy nhất của nhà họ Tạ.

Năm đó, bọn họ không phải đang bố thí ân huệ cho Trương Tam, mà là để lại phúc báo cho chính số mệnh khó dò của bản thân mình trong tương lai đầy hiểm nguy, gieo xuống một hạt giống thiện lành, để rồi nhiều năm sau kết thành quả ngọt, giúp họ thoát khỏi cái chết trong gang tấc.

"Ba ngày đêm đó trăm mối ngổn ngang, khi thì lên tận mây xanh, khi lại rơi xuống vực thẳm, có hai chuyện ta vẫn luôn lấy làm tiếc," Lục Lệnh Tùng nhớ lại, nói: "Chuyện thứ nhất là lúc ấy ta vội vã rời kinh trong đêm, không dám chậm trễ dù chỉ một khắc, vì thế chưa kịp nói lời cảm ơn Trương Tam và vị đồng liêu kia, cũng không biết giờ họ đang an thân ở nơi nào rồi. Những khó khăn trong quá trình cứu Tuấn Nhi ta cũng chỉ được nghe cậu kể lại sau này thôi."

Tạ Cánh khẽ vuốt ngực hắn, an ủi: "Dẫu trên đời có biết bao nhiêu người trùng tên trùng họ, nhưng chờ khi mọi sự lắng xuống, chúng ta cùng nhau đi tìm từng người một, nhất định sẽ tìm ra mà."

Lục Lệnh Tùng phủ tay lên mu bàn tay y, nắm lấy rồi áp vào bên má mình, nói tiếp: "Chuyện thứ hai, đó là ta biết được tin Tuấn Nhi còn sống quá muộn. Lúc ấy giờ hành quyết đã cận kề, đến cuối cùng ta vẫn không kịp báo tin này cho nhạc phụ và Tạ đại nhân biết."

Hắn cảm nhận được Tạ Cánh đột nhiên giật lên, không kìm được mà ôm siết y vào lòng, nghe giọng nói thoáng run rẩy của y cất lên: "Chỉ suýt chút nữa thôi — chỉ một chút nữa thôi cha và anh đã biết Tuấn Nhi còn sống rồi."

Tạ Cánh gục vào trước ngực hắn, hồi lâu sau vẫn không nói một lời. Lục Lệnh Tùng đã nếm trải cảm giác thất bại trong gang tấc ấy từ bốn năm trước. Giây phút thất vọng nhận ra bản thân dù dốc hết sức vẫn không thể vãn hồi điều gì, hắn mới cảm thấy con người trong cuộc đời này thật nhỏ bé, còn tạo hóa thì lại tàn nhẫn chơi đùa với số phận người ta chẳng khác nào mèo vờn chuột. Vận mệnh khi giáng xuống thì nhẹ nhàng như tơ liễu, nhưng sinh ly tử biệt đối với phàm nhân như bọn họ lại nặng tựa Thái Sơn.

Lục Lệnh Tùng cảm thấy vải áo trên vai mình ẩm ướt, nhưng khi Tạ Cánh ngẩng đầu lên thì hắn lại chẳng thấy vệt nước mắt nào. Y đã không còn là tiểu Tạ công tử chỉ biết quỳ gối dưới cổng công xa khóc lóc thảm thiết nữa rồi.

"Lần này ta về quận Trần, thấy ruộng đất có lẽ đã bỏ hoang một nửa, tổ trạch thì vẫn còn, nhưng chắc bên trong đã bị cướp vào khoắng sạch, lộn xộn không chịu nổi, cỏ dại mọc um tùm. Cũng may năm xưa ta đã mang theo những bức tranh chữ lúc nhỏ của em đi, đó là bảo vật vô giá, mất rồi là hối hận cả đời. Ngoài ra, ta không thấy có ai ở đó — chắc là mọi người đều đã rời đi từ lâu rồi, vậy cũng là chuyện tốt."

Tạ Cánh lặp lại như đang lẩm bẩm với chính mình: "Không còn ai nữa... Đều đã đi cả rồi à."

Lục Lệnh Tùng thò tay vào trong vạt áo, lấy ra một con hổ bông nhỏ đã hơi sờn cũ nhưng vẫn sạch sẽ vô cùng, đưa đến trước mặt Tạ Cánh: "Ta thấy cái này rơi dưới gầm giường, nghĩ có lẽ là đồ chơi lúc nhỏ của em nên đã giặt sạch rồi mang về cho em này."

Tạ Cánh ngơ ngác nhận lấy, vải may gấu bông đã bị năm tháng bào mòn đến mức vừa mỏng vừa thô, lớp bông bên trong cũng rơi rụng hơn nửa, nhưng đường kim mũi chỉ vẫn tinh tế và ngay ngắn như mới, từng sợi chỉ màu rực rỡ năm nào dường như vẫn còn thấp thoáng đâu đó bóng dáng đôi bàn tay của mẹ.

Đây là món quà năm đó Tạ phu nhân đã tự tay may tặng y, khi ấy Tạ Cánh còn rất nhỏ, thậm chí nhỏ hơn cả Lục Thư Ninh bây giờ.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 88


《 21.2 》

Tạ Cánh nhét chú hổ bông nhỏ vào sát ngực mình, chợt có chút hoang mang, nói: "Anh không giống người khác."

Lục Lệnh Tùng hỏi: "Sao lại nói vậy?"

"Người ta thường bảo phu thê như chim cùng rừng, khi hoạn nạn tới thì mỗi con bay một hướng. Em thật sự không hiểu vì sao anh lại làm đến mức này vì em, cũng không biết bản thân em có đáng để anh làm như vậy hay không. Tử Phụng, anh tốt đến mức khiến em cảm thấy có hơi sợ hãi."

Nói đến đây, Tạ Cánh bỗng tròn mắt, để lộ ra biểu cảm ngây thơ đã lâu lắm rồi chưa từng xuất hiện trên khuôn mặt y, cùng với giọng điệu trong trẻo chẳng vướng chút bụi trần, hoài nghi hỏi: "Anh thật sự thích em đến vậy sao? Em có gì để anh thích đến thế ư? Nếu thật là như vậy, thì đó cũng coi như là một thành tựu trong đời em rồi."

Lời này vừa thốt ra, cả hai đều bật cười. Lục Lệnh Tùng cười khoái chí, bày ra cái vẻ trông không khác gì thiếu niên phong lưu thuở tân hôn. Hắn đẩy nhẹ Tạ Cánh đang ngồi trên đùi mình: "Ta muốn ôm em."

"Chẳng phải đang ôm rồi sao?"

"Không phải ôm như vậy."

Tạ Cánh đành phải đứng dậy, Lục Lệnh Tùng đổi sang kiểu ôm như bế con gái nhỏ, một tay đỡ dưới người y, tay còn lại vòng qua vai, giữ chặt y trong lòng mình. Tạ Cánh không còn cách nào khác, đành vòng hai tay qua gáy hắn để làm điểm tựa. Dáng người y vốn mảnh mai, đối với Lục Lệnh Tùng mà nói chính là nhẹ như lông hồng, hắn cứ thế ôm chặt Tạ Cánh xoay vài vòng như đang chơi đùa với trẻ con. Tiếng cười của y vang lên giống như vạt áo phất phơ giữa gió, bỗng chốc nhớ đến câu hỏi "thích hay không thích" đáng lẽ chẳng nên xuất hiện trong cuộc trò chuyện của đôi vợ chồng đã kết hôn hơn mười năm.

Một lúc lâu sau, Lục Lệnh Tùng mới dừng lại, ngẩng đầu hỏi y: "Năm đó, ta từng vô tình nghe được từ điện Thần Long, mẫu hậu oán trách hỏi phụ hoàng, nói không biết em đã cho ta uống bùa mê thuốc lú gì mà ta đi đâu cũng phải mang em theo. Em nói xem, có phải là thật không?"

"Em còn cần phải dùng đến những thủ đoạn đó sao?" Tạ Cánh nhướng mày, nhìn hắn từ trên cao xuống, làm bộ muốn hôn lên trán đối phương nhưng đến gần bỗng dừng lại, "Hả? Phu quân?"

Lúc lên giường Lục Lệnh Tùng không ít lần gọi y là "ái phi" hay "phu nhân", nhưng Tạ Cánh lại rất hiếm khi trực tiếp gọi hắn là "phu quân". Nếu có cũng chỉ là gọi trong những lúc cần ẩn danh để xưng hô với người ngoài. Lý do là vì y không thích hàm ý trong câu "phu vi thê cương", cũng giống như câu nói "tương kính như tân" đều khiến y cảm thấy có khoảng cách và xa lạ.

"Vậy mà còn chưa tính là bùa mê thuốc lú sao?" Lục Lệnh Tùng siết chặt cánh tay vòng sau eo Tạ Cánh, tư thế ôm để đối phương cao hơn mình một chút, rồi vùi mặt vào ngực y, tựa đầu lên lớp vải mềm mại. So với việc tiếp xúc trực tiếp làn da mịn màng, lớp vải ngăn cách này lại càng tăng thêm cảm giác mập mờ như thể ôm chiếc đàn tỳ bà trong tay.

Dù Tạ Cánh chỉ đang dỗ hắn vui, giống như sự quyến luyến và ỷ lại mà y thường bộc lộ kể từ sau khi họ tái ngộ, thật ra những điều này cũng không cần thiết lắm, nhưng y làm như vậy là để bù đắp cho "sai lầm" của tuổi mười bảy, khi y luôn hạn chế sự tự do của đối phương, và để tự nhắc nhở bản thân, đồng thời cũng nhắc nhở Lục Lệnh Tùng, hình thức hóa bảo đảm, khuyên bảo lẫn nhau, rằng: Cả hai người bọn họ đều vô cùng, vô cùng cần nhau, phải thật trân trọng, không được dễ dàng buông tay.

"Ta không tốt như em nghĩ đâu." Cuối cùng Lục Lệnh Tùng cũng đặt Tạ Cánh xuống, "Ta chẳng qua chỉ là một kẻ có lòng tham mà không có gan làm thôi. Ví dụ như ngày đó, nếu triều đình không phát hiện ra hành tung của em, chỉ mặt gọi tên em hồi kinh, thì ta hoàn toàn không muốn để em một mình bước vào phủ Tướng chịu nhục nhã, cũng không muốn để em nhúng tay vào vũng huyết thù này. Kế hoạch ban đầu của ta là giấu em vào đội quân Hổ Sư, đưa em về Kim Lăng, nhốt trong hậu viện Vương phủ. Mỗi ngày em chẳng cần làm gì cả, chỉ cần chờ ta về. Ta sẽ tự tay chém đầu từng kẻ thù của em, mang thủ cấp của chúng đặt ở trước giường em."

Nhìn thấy vẻ mặt ngây ra vì sửng sốt của Tạ Cánh, Lục Lệnh Tùng lắc đầu: "Ta còn có suy nghĩ quá đáng hơn nữa đấy — ta thậm chí đã từng nghĩ đến chuyện khuyên em đừng báo thù, cứ làm theo lời dặn của cha và anh trai em trong ngục, sống thật tốt cuộc đời của em. Ta muốn nhốt em bên cạnh mình không rời nửa bước, bởi vì ta đã quá mệt mỏi với những cơn ác mộng, đêm đêm đều thấy em chết thảm, tỉnh dậy lại chẳng thấy em đâu. Có ai sống mà không vì mình, có ai mà không ích kỷ đâu chứ? Nhưng lễ nghĩa và liêm sỉ không cho phép ta làm như vậy, thế nên ta đơn giản coi như chưa từng nghĩ đến nó."

Tạ Cánh im lặng rất lâu, cuối cùng chỉ gật đầu: "Không sao mà, em hiểu. Nếu đổi lại em là anh, so với những người đã khuất mà còn chẳng phải máu mủ ruột rà — thì trong thâm tâm, em vẫn thấy ở bên người còn sống quan trọng hơn."

"Điều ta thấy may mắn nhất chính là năm đó em không bị các nhà quyền quý trong kinh 'bắt rể dưới bảng vàng', mà lại bị phụ hoàng 'bắt dâu dưới bảng vàng'." Lục Lệnh Tùng thấp giọng cười, "Dù chỉ vì một chuyện này thôi, ta cũng đã biết ơn người cả đời rồi, cũng có thể nguôi ngoai mối oán hận tích tụ với người suốt ba mươi năm nay. Nhưng mà, Chi Vô à, ta không muốn nói thẳng ra, cái gọi là 'may mắn' của ta được xây dựng dựa trên điều gì, hay đã gây ra hậu quả gì cho em, chính em là người hiểu rõ nhất."

Lục Lệnh Tùng chỉ nói đến đây, Tạ Cánh đương nhiên hiểu được. Đây có lẽ là điều mà hắn vẫn luôn không muốn y biết — hắn cảm thấy may mắn vì y trở thành Chiêu Vương phi, mà Chiêu Vương phi lại mang đến tai họa diệt môn cho nhà họ Tạ ở quận Trần. Giữa người thân và người yêu mãi mãi sẽ không bao giờ tìm được hai chữ vẹn toàn.

Tạ Cánh suy tư hồi lâu mới nói: "Tử Phụng, trong lòng em luôn có một khúc mắc, em cảm thấy không thoải mái, vậy nên vẫn chưa từng kể với anh. Đêm trước ngày chúng ta kết hôn năm Trinh Hữu thứ tám, cha đã gọi em vào thư phòng, dùng điển cố Dương Tuấn thời Tấn để nói cho em biết rằng: 'Kết hôn cùng thiên gia, chưa từng có dòng tộc nào không bị diệt môn, chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi'."

Đúng là Lục Lệnh Tùng chưa từng nghe chuyện này, hắn thoáng sững sờ, nhìn Tạ Cánh chờ y nói tiếp.

"Ngày đó em còn ngây thơ, không phục, không hề tin những lời ấy. Mà em vốn cũng không hiểu rằng 'muốn làm gì' tuyệt đối không có nghĩa là 'có thể làm được'. Nhưng sự thật không phải như vậy. Cha nói đến năm ba mươi tuổi em mới có thể hiểu được điều này, và đúng là phải đến ba mươi tuổi, em mới thực sự thấu suốt. Em, anh, bọn trẻ... Cuộc đời mà mỗi người chúng ta có thể tự mình kiểm soát, thật ra..." Y đưa tay làm động tác mô phỏng, "Chỉ bé bằng này mà thôi."

"Hôm nay em sẽ thành thật với anh, vào một số thời điểm — đặc biệt là khi ở trước cửa công xa, dù em có quỳ, có khóc, có cầu xin thế nào đi nữa cũng không có ai đoái hoài, không một ai quan tâm đến sự sống chết của người thân em — chính vào lúc đó, em thật sự đã hối hận, em thật sự từng ước rằng mình chưa bao giờ trở thành Chiêu Vương phi."

"Cho dù nhà họ Tạ không thể không bị cuốn vào tranh đoạt ngôi vị, nhưng nếu với tư cách mưu sĩ, có lẽ nhà em vẫn có thể đổi lấy được sự khoan dung của tân quân, không truy cứu chuyện cũ. Nhưng với thân phận thông gia thì chắc chắn chỉ có đường chết."

Lục Lệnh Tùng nghe đến đây chỉ cười khổ: "Vậy nên, sau khi nhà họ Tạ gặp chuyện, ta không còn dám nói với em rằng ta đã từng vui mừng thế nào khi em trở thành Vương phi của ta nữa."

Tạ Cánh lại lắc đầu: "Không, em không giải thích điều này để nói rằng em vẫn còn hối hận về chuyện đó. Điều em muốn anh hiểu chính là với em, 'Chiêu Vương phi' và thê tử kết tóc của anh không phải cùng một người. Thê tử kết tóc của anh chưa bao giờ hối hận vì đã gả cho anh."

"Bản tính khó dời, có lẽ sau này em vẫn sẽ phạm phải những hồ đồ, vẫn sẽ mắc kẹt trong mớ suy nghĩ quẩn quanh như vậy. Em chỉ muốn anh kéo em lại, bất kể là giam giữ em, trói chặt em lại, hay làm thế nào cũng được, anh nhất định phải kéo em lại, nếu không em sợ mình sẽ hối hận. Em biết mình chắc chắn sẽ hối hận."

Chiêu Vương hồi kinh chưa lâu, sự kiện lớn đầu tiên của năm Cảnh Dụ thứ năm đã xảy ra – Thái hoàng thái hậu Tiêu thị, người ẩn cư tại chùa Kê Minh chuyên tâm lễ Phật nhiều năm đã không thể qua khỏi mùa xuân năm nay. Sau mấy ngày bệnh nặng triền miên, bà hoăng thệ, hưởng thọ tám mươi hai tuổi.

Từ sau khi mẫu tộc bị di dời về phương Bắc, Tiêu thị đã sống hơn hai mươi năm gần như bị giam cầm ở sâu trong ngôi chùa này không màng thế sự. Tuy lúc sinh thời thân phận của bà có phần khó xử, nhưng sau khi mất, triều đình vốn luôn lấy hiếu thuận làm đầu không thể không làm tròn nghi lễ trang trọng. Có điều, xét đến việc Tiêu thị "một lòng hướng Phật", mà Kim Lăng lại vừa mới thoát khỏi đợt giá rét khắc nghiệt, không tiện tổ chức lễ tang quá mức rình rang, triều đình chỉ ban lệnh quốc tang hai mươi bảy ngày, rồi an táng bà tại hoàng lăng núi Tử Kim.

Theo di nguyện của Tiêu thị, linh cữu của bà sẽ được quàn tại chùa Kê Minh. Thiên tử phải trấn giữ cung cấm, không thể ngày ngày đến viếng. Còn Vương Thục đang "ốm đau triền miên", vừa sang xuân đã bất ngờ khỏi bệnh như một kì tích, cùng với con trai Vương Khế tinh thần phấn chấn trở lại quan trường, ban đầu lão còn định dốc sức nhận lấy trọng trách chủ trì tang lễ, nhưng Lục Lệnh Chương chỉ hời hợt buông một câu: "Cậu cũng lớn tuổi rồi, nghỉ ngơi thêm vài ngày vẫn hơn", sau đó giao nhiệm vụ này cho cha con Chiêu Vương, những người thuộc hàng tôn thất danh chính ngôn thuận.

Các quan viên phải thay phiên túc trực bên linh cữu, trong lòng hiểu rõ thế gia Lan Lăng Tiêu thị đã sớm suy tàn, hoàng tộc cũng không còn để tâm đến vị Thái hoàng thái hậu này, vì thế mà họ cũng lần lữa trễ nải, khi thì đến muộn, lúc lại về sớm, lười biếng tránh việc. Dù sao thì Chiêu Vương cũng chẳng quan tâm. Chỉ có một mình Tạ Cánh ngày nào cũng đến chùa Kê Minh đúng giờ, lúc không có lượt trực còn chủ động thay phiên giúp những đồng liêu không tình nguyện. Chúng thần đều nghẹn lời, không biết còn tưởng Thái hậu Tiêu thị từng ban cho y ân tình sâu nặng tựa núi non gì đó.

Tạ Cánh vốn chẳng có chút ấn tượng nào với Tiêu thị, không thích cũng không ghét, muốn giả khóc thì y diễn được, nhưng muốn thật sự đau buồn thì y không làm nổi. Ngược lại, nhờ bá quan đến chùa tế bái, y mới có thể thường xuyên gặp bọn trẻ, vì thế mà thầm vui mừng.

Trong Đại Hùng Bảo Điện, sư thầy tụng kinh suốt đêm, xung quanh lờ mờ vọng đến tiếng ngáy của các thần tử. Khoảng canh hai, Tạ Cánh nhẹ nhàng đứng dậy, nâng vạt áo nhẹ nhàng lui ra điện sau mà không để phát ra bất kì tiếng động nào. Trong điện lặng như tờ, ánh nến leo lét sáng, cửa mở hé ra một khe nhỏ, Lục Thư Ninh đang co ro ngủ trên giường.

Tạ Cánh vừa đến gần, em đã nhập nhèm mở mắt, thấy rõ người đến bèn lí nhí than thở: "Mẹ ơi, con buồn ngủ quá."

Thấy khuôn mặt nhỏ nhắn lộ rõ vẻ mệt mỏi, Tạ Cánh đau lòng đến mức không biết phải nói từ đâu: "Nhìn xem con đáng thương chưa kìa, lại đây mẹ hôn nào."

Y ôm Lục Thư Ninh vào lòng nhẹ nhàng lắc lư, một tay khẽ xoa lưng em dỗ dành. Một lát sau, Lục Lệnh Tùng từ hành lang bước vào, trên tay bưng một cái chén đang bốc khói nghi ngút: "Đồ chay chỉ có bấy nhiêu thôi, sủi cảo nhân rau, cũng sạch sẽ ngon miệng lắm."

Tạ Cánh không rảnh tay, Lục Lệnh Tùng bèn gắp từng cái một đút cho y, nghe y vừa nhai vừa nói: "Đói chết mất... Thanh Nhi đâu? Cả buổi tối em chẳng thấy bóng dáng thằng bé đâu hết."

"Quỳ suốt cả ngày, đầu gối bầm tím hết. Lúc tối vừa khóc tang xong thì ta đã âm thầm cho nó về trước rồi."

Chiêu Vương và thế tử chỉ cần có mặt vào hai buổi sớm tối khóc tang làm lễ là được, Lục Thư Thanh vắng mặt cũng không hề hấn gì. Tạ Cánh cau mày, vừa chỉnh lại tóc mai của Lục Thư Ninh vừa bất mãn liếc ra ngoài điện: "Ngày nào cũng bắt một đứa trẻ nhỏ như vậy thay kẻ khác làm tròn đạo hiếu, rặt một lũ tim đen ruột thối."

Y cũng chẳng rõ mình đang mắng chửi ai, có lẽ y cũng tự mắng chửi chính mình – người đã sinh ra hai đứa trẻ này, khiến chúng bất hạnh phải mang thân phận con cháu hoàng gia.

Dùng xong bữa khuya, Lục Lệnh Tùng cầm đèn lên, nói: "Ta dẫn em đi xem một nơi."

Tạ Cánh định đặt Lục Thư Ninh trở lại giường nhưng em không chịu rời khỏi vòng tay y. Tạ Cánh đành lấy một chiếc áo khoác trùm lên đầu con, che chắn cơn gió lạnh ban đêm.

Năm ngoái, nhân dịp minh thọ của tiên đế, Lục Lệnh Chương từng dẫn triều thần đến chùa Kê Minh tế bái. Khi đó, một sư thầy đã đưa Tạ Cánh đến gian phòng nhỏ nơi y gặp Lục Thư Ninh – đứa trẻ khi ấy vẫn chưa thể thích ứng với việc xa rời y. Sau này nghĩ lại, Tạ Cánh nghĩ chắc là Lục Lệnh Tùng có người của mình trong chùa, vậy nên mới có thể sắp xếp việc này mà chẳng ai hay biết.

Lục Lệnh Tùng tiếp tục dẫn đường, đi đến tận hậu viện tối om vắng lặng. Hắn khẽ huýt một tiếng sáo, một nhà sư trực đêm lập tức từ trong bóng tối bước ra, không nói lời nào mà chỉ đưa một chiếc chìa khóa vào tay hắn.

Cuối cùng, họ dừng lại trước góc khuất nhất của ngôi chùa, nơi có vách núi đá làm bức tường ngăn. Lục Lệnh Tùng quay đầu lại, ánh mắt xuyên qua màn đêm tối tăm nhìn thẳng vào Tạ Cánh: "Những thứ bên trong... em chuẩn bị sẵn tinh thần đi."

Dọc đường đi Tạ Cánh đã không ngừng suy đoán. Trong nhà từ trên xuống dưới, thứ có thể liên quan đến chùa Kê Minh trừ Thái hoàng thái hậu Tiêu thị ra, y thật sự không nghĩ ra được Lục Lệnh Tùng còn có thể cất giấu thứ gì ở đây để cho y xem nữa.

Ổ khóa đồng tuy đã cũ nhưng không bám bụi, dễ nhận thấy có người thường xuyên lau chùi. Lục Lệnh Tùng mở khóa, đẩy cửa bước vào, sau đó tránh sang một bên. Ánh đèn lướt qua gian phòng tối đen không thấy nổi năm ngón, trong khoảnh khắc ấy, Tạ Cánh đã nhìn rõ cảnh tượng trước mắt.

Quan tài.

Bốn cỗ quan tài.

Toàn thân Tạ Cánh thoáng chốc lạnh buốt, sắc mặt tái nhợt. Y không cần nhìn tên trên bài vị cũng đã biết, bởi vì con số "bốn" ấy đã nói lên mọi chuyện.

Đây là quan tài của cha mẹ, anh trai và chị dâu của y – không phải mộ chôn quần áo di vật, mà là hài cốt thật đã được tẩm liệm.

Lục Lệnh Tùng đứng sau y nhỏ nhẹ cất giọng như thể sợ kinh động đến người đã khuất: "Thanh Nhi biết nơi này, năm nào ta cũng dẫn thằng bé đến bái tế, dù không hẳn là đúng ngay ngày giỗ."

Chỉ cần nghĩ đến những chuyện này cũng đủ khiến Tạ Cánh cảm thấy khó thở, lồng ngực đau nhói. Ba năm qua, y hết lần này đến lần khác trốn tránh ký ức về ba ngày ấy, nhưng những chuyện đã qua tựa một cực hình, giống như có người giữ chặt cổ y, ép y mở to mắt ra nhìn, để cho từng nhát dao đầm đìa máu thịt kia khắc sâu vào đáy mắt. Đến chết cũng không thể quên được.

Bất kể là Tạ Dực, Tạ Duyễn bị hỏi chém ở cầu Chu Tước, hay Tạ phu nhân và Diêu thị đã mất mạng tại ngõ Ô Y, Tạ Cánh đều đứng gần họ ngay trong gang tấc, trơ mắt nhìn họ chết thê thảm.

Cha và anh cả bị chém rơi đầu, mẹ thì bị loạn tiễn xuyên tim, tất cả những khoảnh khắc này Tạ Cánh đều có mặt.

Nhà họ Tạ bị kết tội khi quân mưu nghịch phải tru di tam tộc. Dù không nhục nhã đến mức bị treo xác phơi thây giữa phố thị chúng, nhưng người thân của y vốn dĩ cũng nên chịu cảnh giống như đám hạ nhân nhà họ Tạ, bị Vũ Lâm Vệ kiểm tra xong sẽ đưa tới bãi tha ma, một mồi lửa thiêu xác thành tro bụi, không còn lại gì dù chỉ một mảnh xương cốt.

Mà Tạ Cánh căn bản không cần suy đoán cũng biết rõ, rốt cuộc ai đã giúp y tẩm liệm thi thể của cha mẹ, anh trai và chị dâu, lại còn niêm phong quan tài, lập linh vị, dát vàng bọc bạc, sắp xếp ổn thỏa, giữ gìn suốt mấy năm ở chùa Kê Minh.

Y càng không dám nghĩ việc này khó khăn đến nhường nào, bởi lẽ thực hiện việc này còn khó hơn, phức tạp hơn cả việc cứu Tạ Tuấn, gần như là không có khả năng.

Tạ Cánh nhìn về phía Lục Lệnh Tùng như người mất hồn. Ngay lúc này, ngay trước linh vị của anh trai y, đối phương đã thật sự đã gánh vác trách nhiệm của tiếng "anh" mà y luôn miệng gọi suốt mười mấy năm trời. Lục Lệnh Tùng cũng ra dáng anh lớn, nhẹ nhàng xoa l*n đ*nh đầu y: "Chi tiết việc tẩm liệm, em nghe xong sẽ chịu không nổi đâu, nên ta không nói nữa."

"Lục Tử Phụng." Tạ Cánh nói không nên lời, chỉ biết ngây ngốc gọi tên Lục Lệnh Tùng, "Lục Tử Phụng!"

Lục Lệnh Tùng duỗi tay ôm lấy bờ vai y, đỡ lấy cơ thể đang lảo đảo sắp gục ngã, hỏi: "Có cần ta dìu em hành lễ không?"

Mấy lần Tạ Cánh cố gắng quỳ xuống nhưng đều không thành, cuối cùng chẳng biết làm sao mà thoát khỏi cánh tay của Lục Lệnh Tùng, xoay người loạng choạng tông cửa lao ra ngoài, chạy đến bậc thềm, khuỵu xuống cắn chặt môi gào thét trong im lặng.

Hoa anh đào ở chùa Kê Minh đã nở rộ đầy cành, những cánh hoa trắng như tuyết giống hệt lá cờ tang treo cao, thê lương chiếu rọi bầu trời đêm sâu thăm thẳm. Trên trán Tạ Cánh vẫn còn buộc dải khăn tang trắng, trên người là đồ tang vải gai, tựa như y đang đến chịu tang cho người nhà dù là khoảnh khắc ngắn ngủi và muộn màng. Nhưng trớ trêu thay, y có thể khóc lóc thảm thiết trước linh cữu của một người hoàn toàn xa lạ như Tiêu Thái hậu, vậy mà lại chẳng thể bật ra dù chỉ một tiếng nức nở cho người thân nằm tại nơi hang hốc hẻo lánh này.

Lục Thư Ninh dùng chóp mũi nhẹ nhàng cọ vào má y, giọng nói trong trẻo như đang ngân nga của em cất lên: "Anh con kể, đã từng có một người nói với anh rằng những người thân đã mất của chúng ta đều sống tại một vương quốc nhỏ ở bên trong tim đèn, chỉ cần mẹ thắp đèn lên, họ sẽ nhìn thấy mẹ; nhưng dù mẹ không thắp đèn đi nữa, họ vẫn sẽ mãi mãi nhớ đến mẹ..."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 89


《 21.3 》

Sau khi tang lễ của Tiêu Thái hậu kết thúc, Tạ Cánh nhận được một bức thư ngoài dự liệu. Người đưa thư là Tạ Tuấn, phương thức không khác gì dấu tay máu lần trước. Đêm khuya, một mảnh giấy mỏng thình lình từ trên xà nhà rơi xuống bàn đọc sách của y. Tạ Cánh ngước nhìn lên, nhưng ngay cả bóng dáng của Tạ Tuấn cũng chẳng thấy, không khỏi cảm thán nhóc con này bây giờ đúng là xuất thần nhập quỷ, đi không để dấu, đến không thấy hình.

Nội dung thư rất ngắn gọn, nói rằng Tuyên Thất đã phát hiện một số thứ trong di vật của Tiêu Thái hậu, có liên quan đến chuyện trọng đại. Tiêu Dao hẹn Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh giờ Hợi ba ngày sau gặp nhau ở Trích Tinh lâu để bàn bạc.

Vẫn là con thuyền lần trước. Tạ Cánh không thấy Tạ Tuấn đâu, Tiêu Dao bèn giải thích: "Nó ở trên bờ trông chừng động tĩnh rồi."

Lục Lệnh Tùng đến trước y, có chút tò mò hỏi: "Rốt cuộc là phát hiện ra cái gì? Đây là lần đầu tiên ta thấy chị dùng mấy chữ như 'liên quan đến chuyện trọng đại' đấy."

Tiêu Dao đi thẳng vào vấn đề: "Tuyên Thất đã có tai mắt trong chùa Kê Minh từ lâu. Đêm Tiêu Thái hậu qua đời, họ phát hiện có kẻ hành tung khả nghi lẻn vào thiền phòng nơi bà ấy từng ở, dường như đang tìm kiếm thứ gì đó. Vậy nên Tuyên Thất đã ra tay trước, kiểm tra thật kĩ trước khi trong cung cử người đến thu dọn di vật. Cuối cùng, họ tìm thấy một ngăn bí mật nằm sau bức tranh Phật trên tường và phát hiện ra chiếc hộp gỗ bị khóa kín này."

Tạ Cánh thầm nghĩ, có lẽ trước đây y đã sai khi cho rằng trong chùa là người của Lục Lệnh Tùng, hóa ra vẫn là nhờ Tuyên Thất ra tay. Tiêu Dao đã giúp đỡ bọn họ rất nhiều, nếu đại sự không thành, e rằng bọn họ khó mà báo đáp nổi.

Lục Lệnh Tùng cầm hộp gỗ lên lắc thử: "Đây là khóa cơ quan."

Tiêu Dao gật đầu: "Nếu cố ép phá khóa, thủy ngân bên trong văng ra chắc chắn sẽ khiến kẻ trộm mất mạng. Chỉ có người của Tuyên Thất, hoặc nói chính xác hơn là người mang họ Tiêu trong Tuyên Thất mới biết cách mở. Năm đó trước khi Tiêu thị sụp đổ, Tuyên Thất còn hoạt động công khai, quyền chỉ huy nằm trong tay Tiêu Thái hậu, mọi hành động của sư phụ tôi – cũng chính là thủ lĩnh tiền nhiệm của Tuyên Thất, đều phải theo lệnh bà ta. Vậy nên bà ta làm ra được thứ này cũng chẳng có gì lạ."

Rồi nàng nhướng mày: "Có điều đúng là trùng hợp thật, tôi cũng là người họ Tiêu trong Tuyên Thất."

Tiêu Dao tháo một bên khuyên tai, vặn nhẹ một vòng để lộ ra cây châm nhỏ, sau đó luồn vào ổ khóa cơ quan, khéo léo mở chốt.

"Trong hộp có tổng cộng ba món đồ: đầu tiên là mười bốn trang giấy này, tất cả đều là bút tích của Tiêu Thái hậu khi còn sống." Nàng dừng một chút rồi nói tiếp, "Mỗi một trang trong này thôi cũng đủ để làm lung lay gốc rễ của vương triều rồi."

Lục Lệnh Tùng đứng ở góc thuận, là người đầu tiên nhìn thấy trang giấy trên cùng. Ánh mắt của hắn chợt tối sầm xuống: "Sao thứ này lại ở trong tay bà ta?"

Tiêu Dao lấy tờ giấy ra, đẩy đến trước mặt hắn, Tạ Cánh cũng ghé lại nhìn thoáng qua: "... Thiếp canh sinh thần của Tiên đế?"

Đương nhiên Lục Lệnh Tùng rất quen thuộc với tên húy, bát tự và ba đời tổ tông của phụ hoàng mình. Hắn chỉ liếc qua vài dòng chữ trên giấy thôi mà hai đầu mày đã cau chặt lại, dùng ánh mắt phức tạp nhìn Tiêu Dao: "Chuyện này là thật sao?"

Tiêu Dao nhún vai: "Một bản ở Thái Miếu, một bản trong hộp này, trong hai bản ắt sẽ có một giả một thật."

Tạ Cánh cũng nhanh chóng nhận ra điểm bất thường: Trên tờ thiếp canh này, người được ghi là mẹ ruột của Tiên đế không phải là Tiêu Thái hậu mà chỉ có vỏn vẹn bốn chữ "Cung nhân Dương thị". Hơn nữa, ngày sinh tháng đẻ cũng khác với ngày "mười chín tháng Năm" vốn được ghi trong minh thọ của Tiên đế mà y biết.

Hàm ý trong chuyện này không cần nói cũng hiểu: Nếu thiếp canh do chính tay Tiêu Thái hậu ghi chép lại là thật, thì bản thiếp canh ghi Tiên đế là đích tử do Trung cung sinh ra vào ngày mười chín tháng Năm được dùng để thờ cúng trong Thái Miếu chính là giả.

Dù sao cũng không có duyên được gần gũi thân thiết, Lục Lệnh Tùng không có cảm xúc gì đặc biệt đối với việc "bà nội không phải là bà nội ruột". Hắn hỏi thẳng vào mấu chốt vấn đề: "Cho dù năm xưa Tiêu Thái hậu có thật sự nhận con của cung nhân về nuôi đi nữa thì cũng bình thường thôi mà, chẳng phải chuyện gì hiếm lạ. Vấn đề là phụ hoàng có biết chuyện này không? Và... vị cung nhân họ Dương kia có kết cục thế nào?"

"Tiên đế biết chứ." Tạ Cánh đột nhiên lạnh giọng tiếp lời: "Chính vì người biết mình không phải con ruột của Tiêu Thái hậu, không có thân phận đích tử chẳng thể chê vào đâu được, cũng không có tính chính thống tuyệt đối khi kế vị; thậm chí còn biết mình vốn chẳng được sinh ra ở điện Cửu Hoa... Cho nên người mới coi trọng và nâng đỡ Lục Thư Thanh đến thế. Tiên đế làm như vậy là để củng cố suy nghĩ trong lòng thiên hạ, rằng bản thân người cũng giống như Cao Tông hoàng đế, sinh ra ở điện Cửu Hoa, là chân mệnh thiên tử danh chính ngôn thuận. Để cho dân chúng thấy rằng, dù chỉ đơn giản là vì cùng được sinh ra trong một cung điện với người, Thanh Nhi cũng có thể được hưởng vinh sủng và tôn vinh không gì sánh bằng."

Khoang thuyền rơi vào yên tĩnh trong chốc lát. Lục Lệnh Tùng nhẹ nhàng phủ tay lên tay y như để an ủi, nhưng Tạ Cánh chỉ khẽ lắc đầu. Quả thật là y không ngờ, trong mắt Tiên đế, "công cụ" Lục Thư Thanh này lại đảm đương nhiều trọng trách đến thế, từ một lời phúc sấm "Gia Thụy", thử lòng quần thần, củng cố quyền lực đến tái khẳng định tính chính thống. Tạ Cánh nghĩ đến đây gần như bật cười thành tiếng, món đồ hữu ích đến vậy, chẳng trách Tiên đế lại đặc biệt ưu ái.

Một hồi lâu sau, Tiêu Dao mới thấp giọng nói: "E là kết cục của Dương thị cũng không tốt đẹp gì. Năm đó thủ đoạn của Thái hậu như sấm chớp, chuyện thế này bà ta còn dám làm thì chắc chắn sẽ nhổ cỏ tận gốc. Còn về phần để lại tờ thiếp canh thật này... Có lẽ là vì nửa đời sau trong lòng bà ta vẫn có hơi cắn rứt, lại thêm lòng tin vào Phật pháp cho nên mới phải ôm giữ nỗi sợ báo ứng nơi nhân thế mà thôi."

Lục Lệnh Tùng tiếp lời: "Ta chỉ biết rằng, năm đó phụ hoàng có thể vào Đông cung hoàn toàn là nhờ có 'nhà mẹ' là Lan Lăng Tiêu thị hậu thuẫn. Còn việc Tiêu Thái hậu đã dùng cách gì để khống chế và thao túng người, phụ H**ng X* cách bà ta bao nhiêu phần vì chuyện mẹ ruột của người, chuyện này thì không ai biết được."

Đúng lúc này, Tiêu Dao lấy từ trong hộp gỗ ra thêm một xấp giấy: "Món đồ thứ hai đây, hẳn là có thể giải thích một phần nguyên nhân khiến tiên đế xa cách Tiêu Thái hậu."

Ngay đầu cuộn giấy là một dòng chữ nhỏ, chính là nét chữ của Tiêu Thái hậu: "Toàn bộ diễn biến Quân Giới án năm Kiến Ninh thứ mười hai."

Đây chính là vụ án cuối thời Kiến Ninh mà triều thần đều biến sắc khi nhắc tới, cũng là chuyện đại kỵ không thể bàn luận ở kinh thành. Toàn bộ văn thư và ghi chép liên quan trong cung đều đã bị tiêu hủy sạch sẽ. Có lẽ Tiêu Thái hậu đã lường trước điều này nên mới tự tay viết lại tỉ mỉ mọi tình tiết như thể đang soạn một bản lời khai, ghi chép lại trọn vẹn cuộc "chính biến" không khói lửa ấy.

Sau khi Tiên đế đăng cơ, người đã thu phục các thế gia sĩ tộc như Lang Gia Vương thị, Thanh Hà Thôi thị,... nhiều lần chèn ép phe phái của Tiêu Thái hậu. Tạ Cánh nhớ lại, năm Kiến Ninh thứ sáu, ông nội y đã chọn cáo lão hồi hương, rời khỏi dòng nước xiết chốn triều đình, đưa y khi đó chỉ mới ba tuổi về quận Trần, e rằng nguyên nhân là vì đây.

Cuộc tranh đấu giữa hai phe tiếp diễn suốt nhiều năm, cho đến đêm mùng ba tháng Chín năm Kiến Ninh thứ mười hai. Đêm ấy, Tiêu Thái hậu lệnh cho Tuyên Thất phong tỏa hai cổng Minh Dương môn và Hữu Dịch môn ở phía Tây hoàng thành – cũng chính là tuyến đường mỗi ngày Vũ Lâm Vệ đổi ca và giao nộp vũ khí quân giới. Vì thế, đội Vũ Lâm Vệ ở bên ngoài không thể vào cung đúng thời gian quy định, còn Tiêu Thái hậu thì cưỡng chế hợp nhất Vũ Lâm Vệ ở trong thành, điều binh tiến vào điện Thần Long để khống chế Tiên đế.

Nhóm cựu thần Đông cung dưới trướng Tiên đế đa phần xuất thân bình dân, nhờ đỗ đạt khoa cử mà bước vào quan lộ, nhiều năm qua vẫn luôn phụ thuộc phe Tiêu Thái hậu đến giây phút ấy lại bất ngờ trở mặt. Tư lệ Hiệu uý Hứa Dịch và Trung lĩnh quân Bắc đại doanh Đinh Viện dẫn quân kinh kỳ làm phản, nội ứng ngoại hợp cùng những người nghe tin từ bên ngoài như Thị trung Vương Thục và Kinh triệu doãn Thôi Hiến, cuối cùng thu phục được đội quân Vũ Lâm vốn thiếu thốn vũ khí, giam lỏng Tiêu Thái hậu, bãi chức thủ lĩnh Tuyên Thất, buộc phe phái này phải lui vào bóng tối.

Niên hiệu "Kiến Ninh" của Tiên đế chỉ kéo dài đến năm thứ mười hai. Sau khi lật đổ nhà họ Tiêu, sang năm ông đổi niên hiệu thành "Trinh Hữu", hẳn là cũng mang ý nghĩa gột bỏ cái cũ, mở ra cái mới.

Lục Lệnh Tùng phì cười một tiếng, mắt lướt qua từng hàng chữ: "Binh lính tay không tấc sắt, lại không chiếm kho vũ khí để trang bị quân sĩ. Đừng nói đến việc bắt trói Hoàng đế, dù có thực sự bắt được một con rồng đi nữa thì cũng có ích gì?"

Với tư cách người từng trải, Tiêu Dao nhớ lại: "Cha mẹ tôi mất sớm, tôi chỉ biết mình là người nhà họ Tiêu, được sư phụ nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Khi Quân Giới án nổ ra, tôi chỉ mới mười ba tuổi. Không lâu sau khi đưa tôi về quê thì sư phụ qua đời, tâm nguyện duy nhất là để tôi rửa sạch tội danh cho hàng vạn tộc nhân vô tội của Lan Lăng Tiêu thị. Đến năm Trinh Hữu thứ năm, tôi đưa Tuyên Thất quay về Kim Lăng, lấy Phi Quang làm điều kiện trao đổi, kết thành đồng minh cùng điện hạ khi ngài ấy vừa mới mở phủ."

Tạ Cánh chợt tưởng tượng đến cảnh tượng năm đó, Lục Lệnh Tùng chỉ mới mười lăm tuổi, chưa có quyền lực hay thế lực trong tay đã phải đối mặt với Tiêu Dao – một cô gái trí dũng song toàn đã được tôi luyện từ bé, nắm giữ cả một lực lượng hùng hậu để bàn bạc điều kiện. Chắc chắn hắn đã phải cố gắng làm ra vẻ bình tĩnh, ung dung như một người lớn. Nghĩ vậy, y không khỏi cảm thấy buồn cười.

Lục Lệnh Tùng trầm ngâm chốc lát, nhạy bén nhận ra: "Trong hai nhóm người mà phụ hoàng mượn sức, thế gia hai họ Vương, Thôi quả thật cũng từ đó ngày càng hiển hách. Nhưng các thuộc hạ cũ của Đông cung thì sao? Ngoại trừ Trương Thái phó có thể coi là đường làm quan thuận lợi, tại sao phần lớn đều mai danh ẩn tích?"

Hắn nhớ rất rõ, không lâu sau sự kiện này, Hà Cáo đã bị giáng chức điều đến Ung Châu. Chẳng lẽ là do Tiên đế chèn ép vì ghi hận bọn họ từng dựa vào Tiêu Thái hậu? Hay chỉ đơn giản là có mới nới cũ? Nhưng điều này không hợp lý, bởi vì để ngăn chặn việc các thế gia trở thành Lan Lăng Tiêu thị thứ hai, đáng lẽ ra Tiên đế phải trọng dụng những cựu thần Đông cung xuất thân bình dân này để kiềm chế ngoại thích mới phải.

Tiêu Dao hất cằm về phía mấy tờ giấy cuối cùng trong hộp: "Ừ, ngài cứ xem trước đi đã."

Món đồ thứ ba là một danh sách – chính là danh sách các thần tử dưới trướng Đông cung khi tiên đế còn là Thái tử. Nhưng đặc biệt ở chỗ nó không chỉ ghi lại họ tên của riêng những quan viên này:

Chiêm sự Trương Diên, vợ Đặng thị;

Thiếu chiêm sự Hà Cáo, con gái Hà Duy;

Thiếu chiêm sự Chung Duệ, mẹ Lâm thị, em trai Chung Triệu;

Phủ thừa Hứa Dịch, cha Hứa Thưởng, vợ Lưu thị;

Phủ thừa Trình Văn, vợ Triệu thị;

Tả thứ tử Đinh Viện, vợ Cao thị, con trai Đinh Giám, con gái Đinh Ngọc;

...

Những cái tên cứ như vậy nằm dày đặc hết ba trang giấy.

Tạm không bàn đến danh tính của những quan viên đầu tiên trong danh sách, điều đáng chú ý chính là danh sách này còn bao gồm cả tên cha mẹ, anh em, vợ con của bọn họ, tổng cộng hơn một trăm người. Mặc dù trên giấy ngoài tên, chức vị và các mối quan hệ ra thì không ghi thêm điều gì khác, nhưng có ai ngồi trong khoang thuyền này mà không hiểu được ẩn ý —

Đây là hơn một trăm con người sống sờ sờ ngay trước mắt, đồng thời cũng là hơn một trăm "nhược điểm" chí mạng.

Một bản danh sách được viết đầy những "nhược điểm".

Điều đáng nói hơn nữa, Tiêu Thái hậu đã sử dụng chức vị mà Trương Diên cùng những người khác có được khi vừa nhậm chức trong Đông cung, nghĩa là danh sách này đã được lập ra từ ít nhất ba mươi năm trước. Sau khi thành công nâng đỡ con nuôi lên ngôi Thái tử, bà ta đã dày công chọn lọc một nhóm thuộc quan mà mình hài lòng nhất, rồi cẩn thận nắm chặt thân quyến của bọn họ trong tay, để họ toàn tâm toàn ý phục vụ cho mình, cho Đông cung, cho Lan Lăng Tiêu thị.

Đọc hết toàn bộ danh sách, có thể thấy trong đây hầu như không có bất kỳ thế gia vọng tộc nào ở hai vùng Giang Nam và Giang Bắc. Nói cách khác, cha mẹ, vợ con của những quan viên thuộc Đông cung này, cũng như chính họ đều xuất thân bình dân, không có được bất kỳ đặc quyền nào.

Bầu không khí chìm trong im lặng hồi lâu, Tạ Cánh mới ngập ngừng nói: "Vợ của Trương thái phó mất sớm, ông ấy sống cô độc nửa đời, không hề tái giá, chuyện này cả Kim Lăng ai cũng biết."

Lục Lệnh Tùng hoàn toàn hiểu được ý của y, hắn tiếp lời: "Ta thì lại không có ấn tượng gì về việc vợ chồng Hà đại nhân từng có con gái."

Tạ Cánh bỗng sững người, quay sang nhìn hắn: "Vậy lúc trước Hà phu nhân đối xử với Ninh Ninh..."

Lục Lệnh Tùng cẩn thận gật đầu: "Ninh Ninh từng nói với ta rằng khi còn ở Ung Châu, Hà phu nhân đối xử với con bé rất tốt, coi con như con ruột, con bé còn nói bà ấy 'vẽ người rất đẹp, cũng từng vẽ rất nhiều tranh về trẻ con, trông sống động hệt như thật'."

Không gian lại lần nữa rơi vào tĩnh lặng.

Một lúc lâu sau, vẫn là Lục Lệnh Tùng cất tiếng, bắt đầu xâu chuỗi những manh mối rối ren trong đầu:

"Về phần Chung Triệu... Tuy rằng cuối cùng lão phản bội ta, nhưng trước khi lôi kéo hắn về phe mình, ta đã điều tra qua thân thế của lão. Lão là cô nhi, chưa từng nghe nói có anh trai. Trước lúc chết, lão cũng chưa từng nhắc đến điều gì có liên quan đến chuyện này."

"Đinh Ngọc chính là 'A Ngọc' mất tích ở biệt thự núi Thang, cũng chính là cô gái đã bắt cóc Thanh Nhi rồi chết dưới kiếm của ta; Còn Đinh Giám là người quen cũ của chúng ta, hẳn là anh trai của ả, đêm đó gã hành động cùng Đinh Ngọc nhưng sau đó trốn thoát được, không ngờ lại chạy sang Mạc Bắc đầu quân cho địch."

Tiêu Dao nhẹ nhàng gõ ngón tay lên mép giấy: "Vậy nếu theo như lời mà Đinh Ngọc từng nói, người đã giao nhiệm vụ cho ả giết điện hạ và thế tử để 'cứu' Vương phi rốt cuộc là ai? Liệu có phải là ai đó nằm trong danh sách này không?"

Ba người đưa mắt nhìn nhau, cuối cùng bó tay lắc đầu.

Kết cục của các cựu thần Đông cung trong danh sách này chủ yếu chia làm hai loại: Một là giống như Trương Diên, tiếp tục ở lại ngự tiền, nhưng cũng chỉ có mình ông ta lên được chức Thái phó; thứ hai là giống như Hà Cáo, Hứa Dịch, bị điều đến các châu quận xa xôi, dù đến nay đã mất thì cũng đều từng tại chức vài năm rồi mới qua đời.

Những người chết ngay trên đường nhậm chức như Chung Thụy, Đinh Viện chỉ là số ít. Còn Trình Văn là trường hợp hiếm hoi duy nhất bị bãi quan nhưng vẫn ở lại kinh thành, vài năm sau lại được phục chức, giữ một vị trí béo bở ở Hoài Dương.

Vậy còn người nhà của họ thì sao?

Một cảm giác nghẹt thở dâng lên trong lòng Lục Lệnh Tùng. Hắn biết Tạ Cánh và Tiêu Dao im lặng là vì bọn họ cũng đang nghĩ đến cùng một chuyện như hắn – hơn một trăm phụ nữ, người già và trẻ nhỏ bị nhà họ Tiêu "giam cầm" năm đó đã đi đâu sau khi Quân Giới án diễn ra?

Hắn chỉ từng gặp Đinh Ngọc, Đinh Giám và Chung Triệu. Vậy những người còn lại thì sao? Họ đang ở đâu?

Liệu họ có còn sống hay không?

Đến lúc ra khỏi khoang thuyền thì trời đã khuya. Mây đen che khuất ánh trăng, cơn mưa xuân rơi lất phất, thời tiết vô cùng oi bức và ngột ngạt. Hàng quán hai bên bờ sông đìu hiu vì thời thế, khách du ngoạn cũng chẳng thấy mấy ai. Tạ Cánh nhận ra bóng dáng của Tạ Tuấn, cậu đang ngồi bên khung cửa một tòa nhà nhỏ sát mép bờ sông, tấm lưng hơi khom xuống toát lên vẻ buồn tẻ và cô quạnh.

"Anh xem, trông thằng nhóc này cứ như một đứa trẻ lớn xác vậy." Tạ Cánh nói xong tự bật cười, Tạ Tuấn đã đến tuổi cập quan, dù sao cũng không thể coi là "trẻ con" được nữa.

Nghe thấy tiếng nói, Tạ Tuấn ngoảnh lại nhưng không nghe rõ bọn họ nói gì, cậu chỉ mỉm cười về phía ấy rồi xoay người lại lấy gì đó trong phòng, sau đó nhấc tay ném một chiếc ô giấy dầu xuống từ tầng hai.

Lục Lệnh Tùng giơ tay đón lấy, bung ô ra che cho cả hai. Ô giấy dầu đã cũ đầy vết ố vàng, những đóa liên kiều vẽ trên đó đã phai màu, nét vẽ đan xen vào nhau như một trang sách cổ bị xé vụn, miễn cưỡng chắp vá lại thành hình. Thế nhưng khi được bật mở ra, nó vẫn giống như một vầng trăng tròn trịa giữa lòng trời.

Hai người đồng loạt cất lên tiếng thở dài khe khẽ, đưa mắt nhìn nhau. Lục Lệnh Tùng nói: "Ta có hơi xúc động một chút. Về những câu chuyện cũ, những con người từ hơn ba mươi năm trước, khi ấy huy hoàng, kinh thiên động địa biết bao, vậy mà đến giờ, có kẻ vô danh sống lặng lẽ, có kẻ bỏ mạng nơi suối vàng, cũng có kẻ cứ thế biến mất khỏi thế gian này."

Tạ Cánh gật đầu: "Chúng ta là những con dế trong tay tiên đế, mà tiên đế lại là con rối trong tay Tiêu Thái hậu. Từng đời chồng chất, từng lớp bủa vây, chỉ cần chiếc long ỷ dát vàng kia vẫn còn đó, thì vòng lặp này vĩnh viễn không có ngày kết thúc."

Dưới thuyền, làn nước gột rửa dung mạo của lục triều* vẫn nhẹ nhàng chảy xuôi về phía trước, thoang thoảng hương thơm dịu ngọt. Lục Lệnh Tùng nhìn sóng nước dập dờn trên mặt sông Tần Hoài, ánh mắt hãy còn mang chút ấm áp khi nhìn về phía Tạ Tuấn và Tạ Cánh giờ đã dần lạnh đi, hắn nở một nụ cười mỉa mai: "Làm gì có chuyện dát vàng? Rõ ràng chỉ là một chiếc ghế được chất chồng từ xương cốt mà thôi."

(*) Nguyên văn là "六朝的洗妆水", theo mình hiểu thì đây có thể là một cách ẩn dụ chỉ dòng nước sông Tần Hoài, nơi chứng kiến sự hưng thịnh và suy vong của sáu triều đại, nó mang theo dấu vết của lịch sử xa hoa phồn thịnh nhưng cũng đầy biến động. Vậy nên mình đã edit phiên phiến thành "làn nước gột rửa dung mạo của lục triều", nếu mình có hiểu sai thì cả nhà cho mình xin ý kiến để sửa đổi nhen.
 
Back
Top Bottom