Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm

Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 90


《 22.1 — Hồi tưởng 》

Tạ Cánh tỉnh dậy, trong mơ hồ y cứ ngỡ rằng bên ngoài có đến một trăm con Lục Ngải đang cất giọng hót vang.

Y biết bọn họ dậy muộn, cũng biết từ khi có thêm hai đứa trẻ, địa vị trong nhà của Lục Lệnh Tùng và cả chính mình đều bị xếp ở phía sau, càng biết rõ từ trên xuống dưới phủ này đều ngầm đồng ý rằng những tiếng động do Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh gây ra không được tính là "ồn ào".

Nhưng Lục Ngải thì chỉ có một con duy nhất, còn Lục Thư Ninh cộng với đám nha hoàn trong nội viện cưng em như búp bê vải thì có thể tạo ra âm thanh sánh ngang với chín mươi chín Lục Ngải, quả là khiến cho người ta thán phục, rạng danh gia môn.

Tạ Cánh khoác áo xuống giường mở cửa, quá trình đi ra cần phải trèo qua người Lục Lệnh Tùng còn đang ngái ngủ, mà cách trèo qua chính là thò một chân bước thẳng qua ngực hắn.

Cửa vừa mở ra, Lục Thư Ninh đã chạy vụt vào như một cơn gió lốc, quả nhiên phía sau là Lục Ngải đang đuổi theo như tên bắn. Trước khi có ai kịp nhìn thấy cô bé rõ ràng, em đã lướt nhanh hơn để lách người vào trong, vào rồi còn lanh trí thẳng tay đóng sập cửa lại, ngăn chặn "truy binh" ở phía sau. Lục Ngải không kịp thắng lại, đâm sầm vào cánh cửa kêu "bộp" một tiếng. Tiếng động khiến Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh đồng loạt giật mình, chỉ thấy nó loạng choạng xoay hai vòng tại chỗ, sau đó quay đầu đổi hướng tìm đường khác, "vèo" một phát phóng ra ngoài từ khe cửa sổ vừa hé ra.

Lục Lệnh Tùng lại ngã người nằm xuống, cầm lấy gối bịt kín đầu, mơ màng nói: "Ta thấy tất cả mọi người đều điên cả rồi."

Tạ Cánh không còn buồn ngủ nữa, ngồi xuống trước gương chải tóc, cất giọng gọi ra ngoài: "Ngân Trù, giữ hai đứa nó lại giúp ta! Đã nói bao nhiêu lần rồi, chưa ăn sáng thì không được ra vườn chơi mà!"

Ngân Trù vội vàng chặn đường Lục Thư Ninh, căn bản không có thời gian trả lời y, cô nhóc đứng dưới hành lang nghe thấy vậy thì quay đầu lại, khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ bừng vì chạy nhảy, em cười tít mắt, giòn giã nói: "Vương phi ơi, một khắc nữa là đến giờ ăn trưa rồi!"

Tạ Cánh nghẹn lời, ngẩng đầu nhìn lên thấy mặt trời đã treo cao giữa tầng không, y bèn im lặng đóng cửa sổ lại.

Lục Thư Ninh gần ba tuổi suốt ngày chạy nhảy không biết mệt, chơi thay phần anh trai em hồi cậu còn nhỏ. Từ ngõ Ô Y, điện Minh Loan dến phủ Chiêu vương đều coi đứa bé này như vàng bạc châu báu, dù rằng sự ra đời của em không hoàn toàn nằm trong dự liệu của mọi người.

Năm đó từ quận Trần trở về, Hoàng đế tuy không giao việc cho Lục Lệnh Tùng, nhưng lại để Tạ Cánh treo danh ở Lễ bộ, theo Trương Thái phó xử lý các mục công việc liên quan đến khoa thi năm kế tiếp. Công việc này kéo dài mãi đến khi kì thi Đình của năm Trinh Hữu thứ mười ba kết thúc, y mới được rảnh rỗi đôi chút.

Lần nào kỳ thi mùa xuân diễn ra cũng là thời điểm giao bận rộn giao thiệp lễ nghĩa nhất trong kinh thành. Những tân khoa tiến sĩ đều cân nhắc về con đường làm quan và hôn nhân, trong khi các triều thần và sĩ tộc cũng chủ động chọn lựa người tài. Tạ Cánh dù đã cố gắng tỏ ra "uể oải lười biếng", nhưng vẫn không thể tránh khỏi phải thường xuyên xuất hiện trong những cuộc hội họp như thế. Đối với một quan viên Lễ bộ bình thường, mối quan hệ đặc biệt giữa chủ khảo và môn sinh đã đủ khiến họ dễ trở thành tâm điểm, huống hồ y còn có thêm danh phận Chiêu Vương phi, thế là càng dễ bị đẩy lên đầu sóng ngọn gió.

Tạ Cánh không muốn đợi tới lúc Hoàng đế nhận ra y bị ép đến "sôi sục" rồi mới đến cảnh cáo y, khi đó đã muộn. Mà ngay lúc y đang suy nghĩ cách thoát thân thì Lục Thư Ninh xuất hiện.

Tạ Cánh mừng như mở cờ trong bụng, lập tức chạy thẳng vào cung, đầu tiên tìm cách đùn đẩy hết công việc ở Lễ bộ đi. Lục Lệnh Chương giờ đã lớn hơn, phần lớn thời gian đều theo các vị đại nho ở Quốc Tử Giám học tập, Tạ Cánh cũng chỉ cần đến điện Lâm Hải mấy ngày một lần, thế nên y quyết định xin miễn luôn việc giảng bài ban ngày, từ đó nhàn nhã đến mức chẳng còn gì để làm.

Lục Lệnh Tùng dù dậy muộn nhưng chỉnh trang nhanh hơn Tạ Cánh, hắn là người đầu tiên bước vào phòng khách. Lục Thư Thanh nằm bò ra bàn, vừa chăm chú đọc quyển truyện truyền kỳ, vừa chậm rãi ăn cơm rượu nếp ướp lạnh vừa mới được lấy từ hầm băng ra. Lục Lệnh Tùng hỏi: "Bây giờ con ăn một bụng đồ lạnh thế này, lát nữa có ăn cơm nổi không?"

Lục Thư Thanh ló đầu nhìn qua, thấy Tạ Cánh vẫn còn trong phòng, chưa chú ý đến bên này, cậu bèn đẩy nửa chén cơm rượu nếp còn lại về phía cha mình, giơ sách lên che mặt: "Vậy con không ăn nữa."

Sau bữa trưa, trái cây theo mùa được dọn lên như thường lệ. Trong chiếc đĩa bảo thạch tráng men đỏ là những quả thanh mai tẩm đường, còn trên đĩa pha lê lót lá chuối lại là những trái anh đào đỏ thẫm. Màu sắc xanh đỏ xen kẽ vào nhau tươi roi rói khiến người ta không khỏi phải đưa mắt liếc nhìn.

Bình thường Lục Thư Thanh luôn là người ăn chậm nhất, nhưng hôm nay cậu đã ăn no nê từ sớm nên ôm sách rời bàn, Tạ Cánh lấy làm lạ: "Hôm nay con không ăn trái cây sao?"

Lục Thư Thanh không ngẩng đầu lên, khi bước xuống bậc thềm suýt nữa là đâm sầm vào cột nhà, đến lúc này cậu mới ngước mắt nhìn đường, quay đầu lại cười đáp: "Dì bảo con ăn ít đồ lạnh thôi ạ."

Buổi trưa, Ngân Trù nhân lúc thời tiết đẹp mang dược liệu ra phơi trên chiếu trải ngoài sân viện. Lục Lệnh Tùng ôm Lục Thư Ninh ngồi xéo một bên, hắn đặt con gái ngồi lên đùi, dạy cô bé nhận biết tên các loại thuốc. Trong vườn có một góc nhỏ dành riêng cho Ngân Trù trồng cây thuốc, Lục Thư Thanh hay đi theo cô trồng cây, Ngân Trù cũng cho cậu một ít hạt giống để tự chăm sóc, kết quả có cây sống, có cây chết, mùa hè năm ngoái có lần cậu bị cảm nắng, thế là dùng luôn cây hoắc hương chính tay mình trồng được để uống.

Tạ Cánh vào thư phòng, khi đi ngang qua Lục Thư Thanh, y liếc nhìn cuốn sách trong tay con trai, phát hiện đó là "Sưu Thần Ký", thảo nào nhóc con lại mải mê đọc đến mức quên ăn quên ngủ như vậy, y bèn thuận miệng nói: "Ông ngoại con có một bộ bản thêu minh họa, nếu con đọc xong thì có thể sang ngõ Ô Y mượn về xem."

Thật ra y không quá bận tâm chuyện con trai đọc sách gì. Cả thư phòng của bản thân lẫn của Lục Lệnh Tùng đều rộng mở cho Lục Thư Thanh vào, chỉ cần cậu có thể đọc hiểu thì muốn chọn sách gì cũng được. Cuộc đời của Lục Thư Thanh hoàn toàn khác với cha mẹ mình, cậu được nâng lên giữa trung tâm quyền lực quá sớm, nhận được nhiều sự chú ý và sủng ái, nhưng hai người bọn họ lại chỉ hy vọng cậu thu bớt hào quang, không cần phải quá xuất chúng.

Lục Thư Thanh chợt nói: "À phải rồi mẹ, ngày mai con hẹn cậu, mợ và anh họ cùng đến núi Mai đạp thanh, xem nai con đó."

Nghe nhắc đến chuyện đi chơi, Tạ Cánh bỗng nhớ ra việc gì, bèn hỏi: "Hôm nọ mẹ có đặt xấp thiệp hoa dập nổi mà con bảo đẹp lên bàn, con có thấy không? Đoan ngọ tháng sau chúng ta sẽ tổ chức tiệc trong vườn, con đã viết thiệp mời bạn bè chưa?"

Tuy không phải kiểu người thích đi kết bạn đây đó, nhưng Lục Thư Thanh vẫn có một nhóm bạn thân thiết cùng trang lứa là con cháu các gia đình quan lại. Cậu gật đầu: "Mọi người đều đã hồi âm rồi, chỉ còn nhà họ Vương thì vẫn chưa có tin tức gì thôi ạ."

Tạ Cánh chợt nhớ đến cô bé sống nội tâm và ít nói hiếm khi đến phủ Chiêu Vương kia, không khỏi thở dài: "Mẹ lại quên dặn con, nhà của A Hoàng và nhà chúng ta... Không giống nhau, gửi thiệp có khi lại gây phiền phức cho con bé."

Lục Thư Thanh cảm thấy khó hiểu, cậu chưa bao giờ nghĩ nhóm bạn của mình – những cậu ấm cô chiêu đều có xuất thân tôn quý, được nuông chiều từ nhỏ cũng có thể gặp phải thứ gọi là "phiền phức". Nhưng thấy mẹ nói chuyện bằng giọng điệu nghiêm túc, cậu chỉ khẽ gật đầu, tỏ ý đã hiểu.

Hai mẹ con ngồi đối diện nhau, suốt cả buổi chiều yên tĩnh, trừ vài lần Tạ Cánh nhắc nhở Lục Thư Thanh uống nước ra thì không có ai lên tiếng. Đến khi ánh hoàng hôn chiếu xiên qua cửa sổ, hắt lên một góc bàn, đột nhiên Lục Thư Thanh hắt hơi một cái, Tạ Cánh giật mình, lập tức ngẩng đầu lên, phát hiện Lục Lệnh Tùng không biết đã tựa vào cửa sổ từ bao giờ, đang cầm một nhánh cỏ đuôi chó mềm mại, nhẹ nhàng cọ qua chóp mũi của con trai.

Tạ Cánh cau mày nhìn hắn: "Anh cứ phải trêu người ta mới chịu được à!"

"Ầy, mùa xuân đâu phải lúc để đọc sách." Lục Lệnh Tùng dùng những ngón tay thon dài vân vê hai nhánh cỏ, khéo léo đan chúng vào nhau.

"Ninh Ninh đâu?"

"Ở phòng khách, đang xem Ngân Trù kết vòng hoa nhài, ta rủ mà không chịu đi." Hắn chìa con thỏ nhỏ được bện từ cỏ đuôi chó ra cho Lục Thư Thanh xem, "Ra ngoài thử cung mới của con không?"

Lục Thư Thanh vươn vai duỗi người, gật đầu đồng ý. Cậu cúi xuống xỏ giày, định đi ra cửa chính thư phòng, men theo hành lang ra vườn.

"Con vòng xa thế làm gì?" Lục Lệnh Tùng đột ngột kẹp lấy cánh tay cậu, lấy đà nhấc bổng con trai qua bậu cửa sổ. "Xuống đây nào!"

Tạ Cánh đứng bên cạnh thờ ơ nhìn kiểu ra cửa này, vừa mới hoàn hồn lại đã thấy cả hai cha con đều đang nhìn mình chăm chú, y từ chối ngay tắp lự: "Em không ra bằng đường này đâ—"

Còn chưa dứt lời, Lục Lệnh Tùng đã vươn tay vào trong, gần như vác nguyên nửa người trên của y lên vai: "Em cũng xuống đây cho ta!"

Hắn không cho Tạ Cánh cơ hội phản kháng, Tạ Cánh nằm trên vai hắn hoảng hốt kêu lên, chẳng biết mái tóc dài của ai lướt qua chùm hoa tử đằng, khiến cho những cánh hoa tím rơi xuống như cơn mưa, vương đầy trên tay áo.

Trước đó, Lục Lệnh Tùng đã đặc biệt nhờ một người thợ giỏi làm cho Lục Thư Thanh một cây cung nhẹ – món đồ được "đo ni" cho cậu con trai vóc dáng chưa đủ cao, sức chưa đủ lớn, cánh tay chưa đủ dài. Dù kích thước nhỏ hơn cung tên tiêu chuẩn, nhưng được chế tác vô cùng tinh xảo. Cánh cung được làm từ gỗ thông tím thượng hạng, giá trị còn cao hơn cả những món vũ khí thường trang bị cho quân kinh kỳ và Vũ Lâm Vệ.

Lục Thư Thanh học cưỡi ngựa bắn cung từ chính cha và cô ruột của mình. Dù tuổi còn nhỏ và điều kiện thể chất còn hạn chế, đến giờ cậu vẫn chưa thật sự có được thành tựu gì lớn lao, nhưng nhờ nền tảng vững chắc, động tác của cậu vô cùng chuẩn chỉnh, tư thế không chê vào đâu được, đủ để hù dọa người khác.

Tạ Cánh đứng đối diện hai cha con, y vốn định đứng ngoài quan sát để nhìn rõ quá trình dạy học, thì bỗng nghe thấy Lục Lệnh Tùng cất giọng gọi:

"Em đứng ở bên đấy làm gì? Muốn làm bia sống à?"

Tạ Cánh bất đắc dĩ bước lại gần: "Vị điện hạ nào tự xưng tài thiện xạ của bản thân là không trượt phát nào ấy nhỉ? Một người sống sờ sờ, đứng xa có hai bước mà anh cũng sợ bắn trúng người ta sao?"

Lục Lệnh Tùng không đáp lại y mà quay sang Lục Thư Thanh, dặn dò cậu: "Con nhớ cho kỹ bài học này — dù khoảng cách có gần đến đâu, đầu mũi tên cũng không bao giờ được hướng về phía người mình. Xạ thuật là tranh thắng với gió, mà gió thì chẳng bao giờ nói lý lẽ cả."

Buổi chiều, khi đã quá giờ quy định, bác Chu đang chuẩn bị khóa cổng lớn của phủ Chiêu Vương thì một vị khách không ngờ tới đột nhiên đến thăm.

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh cùng ra tiền thính, nhìn thấy Chung Triệu đang đứng khoanh tay mỉm cười, trên mặt bàn bên cạnh có đặt một chiếc hộp gỗ đen hình vuông được sơn đỏ.

"Bệ hạ bảo ông đưa tới à? Vào giờ này?" Tạ Cánh nghe lý do đến của ông ta xong, hoài nghi hỏi.

Chung Triệu gật đầu: "Lời nói đều là sự thật, tiểu nhân không dám chậm trễ dù chỉ một giây, vừa được lệnh là chạy từ điện Thần Long đến đây ngay."

Trong kinh đều biết Hoàng đế đang ngã bệnh, cũng chẳng hiểu vì sao ông không lo dưỡng bệnh, nửa đêm đột nhiên muốn tặng đồ cho phủ Chiêu Vương.

Giao thừa mấy tháng trước, vì không đủ kiên nhẫn chịu đựng đêm đón năm mới nhàm chán trong cung, Tạ Cánh đã âm thầm đưa con trai và con gái chuồn ra ngoài, đến thành phía Nam chơi bời suốt đêm. Cứ tưởng rằng sau đó dù trong cung không ghi sổ cũng sẽ càm ràm vài câu, không ngờ bệnh tình của thiên tử trở nặng, chẳng ai màng quan tâm đến chuyện bọn họ phạm luật không mấy nghiêm trọng này nữa.

Chuyện này nổ ra khiến lòng người chao đảo, tin đồn bay khắp nơi, sức khỏe của Hoàng đế bỗng chốc trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn bộ giới quyền quý Kim Lăng. Đương nhiên là họ không thật sự để tâm đến "sức khỏe thánh thượng", mà chỉ vì khứu giác chính trị nhạy bén đã mách bảo rằng, trong thời điểm này ắt sẽ có biến động về việc lập Thái tử. Gia tộc của bọn họ trong trăm năm tới hưng suy ra sao đều dựa vào lần đặt cược duy nhất này.

Lục Lệnh Tùng khẽ giơ tay, người hầu lập tức lặng lẽ rút lui, bác Chu là người cuối cùng rời đi, tiện tay đóng chặt cánh cửa sảnh lớn, trong phòng chỉ còn lại ba người.

Chung Triệu "À" một tiếng, có chút khó xử nói: "Bệ hạ dặn dò tiểu nhân phải tránh toàn bộ 'người ngoài', bằng bất cứ giá nào cũng phải giao thứ này đến tận tay điện hạ."

Ánh mắt Lục Lệnh Tùng và ông ta đồng loạt hướng sang Tạ Cánh. Tạ Cánh phản ứng chậm hơn một nhịp, lúc này mới nói: "Ừ, thế ta ra ngoài vậy."

Y nói xong liền xoay người định đi, nhưng Lục Lệnh Tùng đột nhiên lên tiếng: "Đợi đã."

Tạ Cánh quay đầu lại nhìn, nghe hắn nói với Chung Triệu: "Chi Vô không phải người ngoài. Ta và Vương phi cùng chung một lòng, không có gì phải giấu giếm, bất kể là thứ gì cũng có thể để cho Vương phi nhìn thấy."

Sắc mặt của Chung Triệu thoáng thay đổi, ông ta quan sát sắc mặt hai người một lúc rồi cười hòa giải: "Nói cũng phải... Bệ hạ cũng không nói là không được cho Vương phi xem."

Nói rồi, ông ta cung kính dâng chiếc hộp gỗ lên. Lục Lệnh Tùng tiện tay mở nắp, lại thấy bên trong còn một hộp gấm nhỏ hơn.

Hắn cau mày nói: "Sao mà kín đáo vậy?"

Từng lớp từng lớp được bóc ra, cuối cùng để lộ một lớp vải lót bằng tơ vàng óng ánh. Động tác của Lục Lệnh Tùng khựng lại trong giây lát, hắn quay đầu nhìn về phía Tạ Cánh, người từ đầu đến giờ vẫn luôn im lặng theo dõi.

"... Điện hạ?" Chung Triệu lên tiếng giục.

Tạ Cánh chạm mắt hắn, chỉ khẽ gật đầu, lúc này Lục Lệnh Tùng mới không do dự nữa, dứt khoát mở nốt lớp phủ cuối cùng.

Bên trong là một chiếc ngọc tỷ trắng tinh không tì vết, óng ánh sáng ngời. Thoạt nhìn thì thấy ngoài chất ngọc cực phẩm ra, dường như không có thêm gì đặc biệt.

Thế nhưng, đến khi cả Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh đồng loạt nhìn rõ tám chữ triện "Thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương" được khắc trên đó, cả hai đều hít sâu một hơi.

Tạ Cánh lùi ra nửa bước, lạnh giọng hỏi: "Bệ hạ định làm gì đây!?"

Chung Triệu lại ung dung đáp: "Hai vị thử nhìn kỹ thêm chút nữa xem?"

Lục Lệnh Tùng cau mày, cẩn thận nhấc ngọc tỷ lên, nhẹ nhàng xoay nó trong tay, giơ lên trước ánh nến quan sát một lúc rồi bỗng nói: "Đây là ngọc Lam Điền."

Chung Triệu vỗ tay khen: "Điện hạ quả là tinh mắt. Cơ mà, ngọc Lam Điền này dù có quý giá đến đâu thì vẫn kém hơn một bậc so với Hòa Thị Bích."

Tạ Cánh đã ngầm hiểu ý của ông: "Tương truyền vào thời Tần, Tần Thủy Hoàng từng cho khắc hai chiếc ngọc tỷ truyền quốc, một chiếc làm từ Hòa Thị Bích danh chấn thiên hạ, một chiếc làm từ ngọc Lam Điền, chiếc trước là thật, chiếc sau chỉ là 'mắt cá' dùng để đánh lạc hướng. Đế nghiệp của các triều đại sau, ai cũng coi việc giành được Hòa Thị Bích là dấu hiệu của sự kế thừa chính thống."

Chung Triệu gật đầu: "Từ khi dựng nước đến nay, hai chiếc ngọc tỷ này đã trấn giữ cung Thái Sơ hơn trăm năm. Hòa Thị Bích là căn cơ xã tắc quốc tộ, đương nhiên bệ hạ sẽ không dễ dàng 'đưa' nó ra khỏi cung. Nhưng chiếc này—" Giọng điệu của ông ta mang theo ẩn ý sâu xa, "Giả thì giả, nhưng không thể nói đây là món đồ tầm thường, càng không thể nói là món đồ vô dụng."

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh nhìn nhau, không ai còn muốn động vào ngọc tỷ truyền quốc bằng ngọc Lam Điền kia nữa.

Nói trắng ra, dù ngọc đẹp quý giá đến đâu thì cũng có giới hạn. Điều thật sự khiến Hòa Thị Bích vượt qua giá trị của "ngọc", chính là hai câu nói tượng trưng cho thiên thụ quân quyền được khắc trên nó.

"Chung Triệu," Lục Lệnh Tùng trầm ngâm hồi lâu mới nói, "Ngọc tỷ này tuy không phải Hòa Thị Bích, nhưng tám chữ kia cũng đâu phải tùy tiện khắc lên. Nếu hôm nay ta nhận lấy vật này, rốt cuộc là tiếp nhận thiên mệnh ở phương nào?"

Chung Triệu uyển chuyển ám chỉ: "Bệ hạ sai tiểu nhân đêm khuya mang báu vật này tới, ngài nói xem là phương nào? Chính là bầu trời ngay trên đầu chúng ta đấy chứ đâu."

"Giả như người thật sự có ý đó," Tạ Cánh lên tiếng, "Thì cũng không nên đưa nó đến đây vào lúc này. Bệ hạ phúc trạch lâu dài, đang độ tuổi xuân, sao lại phải gửi gắm ngọc tỷ này đến phủ Chiêu Vương chúng ta?"

Nửa câu sau được y nhấn mạnh từng chữ, đặc biệt là hai chữ 'gửi gắm', gần như không còn che giấu ý định phủi sạch quan hệ, tránh né chuyện này nữa.

Chung Triệu nghẹn lời giây lát, chỉ biết cười trừ: "Bệ hạ cũng nói rồi, tương lai còn dài, tình huống khi ấy sẽ như thế nào, đến lúc đấy rồi hẵng bàn. Nhưng tám chữ này không chỉ có lai lịch, mà còn ẩn chứa kỳ vọng của bệ hạ, hàm ý trong đó, hai vị có hiểu được không?"

Nghe Chung Triệu thuật lại, Lục Lệnh Tùng trầm mặc suy nghĩ, đương nhiên Hoàng đế không nói rõ ràng, cũng không phải cứ đem miếng ngọc truyền quốc giả này đến tay hắn là đồng nghĩa với việc đóng đinh hắn vào vị trí trữ quân. Biết đâu chừng, giờ này còn có một chiếc ngọc tỷ giả khác cũng đang trên đường đến điện Lâm Hải thì sao? Lục Lệnh Chương năm nay mười lăm, đã đến tuổi có thể mở phủ tham chính rồi.

Thái độ mập mờ này khiến người ta khó mà đoán định được. Nhưng vật do thiên tử ban tặng lại có giá trị tương đương thánh chỉ, bọn họ không thể không nhận.

Hồi lâu sau, Lục Lệnh Tùng đặt ngọc tỷ trở lại vị trí ban đầu, cất bước đi về phía chiếc bàn hợp hoan hình bán nguyệt bên bức tường phía tây của sảnh chính, mở hộp kiếm đặt trên đó ra rồi cất chiếc hộp sơn mài vào chỗ trống phía dưới cùng, sau đó lần nữa khóa lại.

Hắn xoay người lại nói: "Chìa khóa của hộp kiếm này ta luôn mang theo bên mình, chiếc còn lại nằm ở chỗ Vương phi. Hôm nay ta cất ngọc tỷ này ở đây, chuyện này chỉ có bệ hạ biết, ta và Vương phi biết, Chung Triệu ông cũng biết. Thiên tử thánh minh, nếu ngày sau có chuyện gì xảy ra vì miếng ngọc này, thì chỉ có thể là do ba người chúng ta mà ra. Đương nhiên ta và Vương phi tự biết cẩn trọng chú ý... Chung Triệu, ông cũng nên suy nghĩ thấu đáo."

Chung Triệu nặn ra một nụ cười đúng mực không thể bắt bẻ được: "Tiểu nhân xin khắc ghi trong lòng."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 91


《 22.2 》

Chung Triệu đã hoàn thành trọn vẹn công việc mà Hoàng đế giao phó, hồi cung phục mệnh. Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh cùng nhau về thư phòng, trằn trọc không ngủ được.

Tạ Cánh vốn thiếu kinh nghiệm xử lý loại chuyện này, bấy giờ trong lòng cũng chưa có chủ ý rõ ràng. Y chỉ đang cố gắng giữ bình tĩnh, nói với Lục Lệnh Tùng: "Chìa khóa hộp kiếm kia em chưa từng chạm vào, em cũng sẽ không lấy thứ đó ra xem thêm lần nào nữa."

Lục Lệnh Tùng gật đầu: "Ta biết, ta nói như vậy chỉ là để nhắc nhở Chung Triệu thôi."

"Anh nói xem, rốt cuộc đây thực sự là ý của bệ hạ như Chung Triệu đã ám chỉ, hay là một cách thử lòng mới?"

Lục Lệnh Tùng suy nghĩ một chút rồi đáp: "Phụ hoàng lâm bệnh, mẫu hậu và mẹ ta đều ít khi vào gặp. Chung Triệu là người thường xuyên túc trực hầu hạ, có khả năng tiếp xúc gần nhất. Lời ám chỉ của ông ta không phải không có lý, có giá trị tham khảo, nhưng chúng ta tuyệt đối không thể tin toàn bộ."

Tạ Cánh bĩu môi: "Theo em thấy, với tính cách của bệ hạ, làm gì có chuyện dễ dàng nhìn thấu như vậy. Chẳng qua người muốn xem chúng ta có giữ được bình tĩnh hay không thôi."

Lục Lệnh Tùng tỏ vẻ tán thành: "Nếu không giữ được bình tĩnh mà đem chuyện này ra ngoài nói linh tinh, phủ tướng sẽ ra mặt trừng trị chúng ta, chẳng cần đến phụ hoàng nhúng tay đâu."

"Huống chi, chúng ta càng không thể nóng vội chạy đến hỏi bệ hạ." Tạ Cánh lập tức tiếp lời, "Loại chuyện này xưa nay chưa từng có ai hỏi, cũng tuyệt đối không được hỏi. Thiên tử ban cho anh thứ gì, ắt hẳn có ý đồ riêng, anh dè dặt nhận lấy, đó là ân thưởng. Nhưng nếu anh tỏ ra hứng thú với chuyện này, vậy là đại nghịch bất đạo rồi. Từ xưa đến nay, những vị quân chủ đến tận khoảnh khắc tiên hoàng băng hà mới được lên ngôi Thái tử, chẳng phải họ đều phải trải qua quãng thời gian nơm nớp lo sợ như vậy sao?"

"Vấn đề lại quay về điểm ban đầu rồi." Lục Lệnh Tùng mệt mỏi day ấn đường, "Chúng ta phải làm gì đây? Cứ để nó nằm trong hộp kiếm sao?"

Tạ Cánh bước tới, nâng tay nhẹ nhàng xoa bóp cơ vai căng cứng của hắn. Lục Lệnh Tùng nghiêng mặt, khẽ hít một hơi rồi nắm lấy tay áo y: "Sao lại có mùi đàn hương?"

"Hai đứa nhóc kia không thích mùi hương liệu, chê mùi nồng quá làm chúng nó đau đầu, vậy mà suốt ngày cứ thích lăn lộn trên người em chơi. Thế nên em đành ủ chút đàn hương lên quần áo, coi như tận dụng để an thần vậy."

Lục Lệnh Tùng nhắm mắt dưỡng thần, tận hưởng lực bóp nhẹ nhàng từ bàn tay của Tạ Cánh một lúc, rồi bất chợt vươn tay kéo y xuống, cả hai cùng ngã lên giường, sóng vai nằm cạnh nhau, cùng mở mắt nhìn lên xà nhà.

"Có lẽ chúng ta không cần căng thẳng như thể đối diện kẻ địch đến thế, tự dưng lại kiến bản thân rối loạn." Tạ Cánh cất giọng, "Nhưng ít nhất cũng không thể hoàn toàn bị động, không thể cứ nằm đây chờ người ta đánh đến tận cửa được."

Đây thực chất chỉ là lẽ thường tình, Lục Lệnh Tùng dĩ nhiên hiểu rõ, nhưng hiểu được thì dễ, giải quyết chúng mới là khó: "Với những chuyện này, muốn nắm thế chủ động trong tay, cách hữu hiệu và trực tiếp nhất chính là kiểm soát quân đội. Thế nhưng, tầng lớp lãnh đạo của quân kinh kỳ và Vũ Lâm Vệ có mạng lưới thế lực vô cùng phức tạp, mỗi phe đều trung thành với chủ nhân của mình, tự kiềm chế lẫn nhau, tuy nội bộ rối ren nhưng khi đối diện với người ngoài thì lại vững như sắt thép. Giờ chúng ta muốn chen chân vào còn khó hơn lên trời."

Tạ Cánh đột nhiên nói: "Vậy nếu như... Chúng ta tự nuôi quân của mình thì sao?"

Lục Lệnh Tùng khẽ giật mình, kinh ngạc nghiêng đầu sang nhìn y. Trong nhận thức của hắn, Tạ Cánh từ nhỏ đã lớn lên trong vòng tay bao bọc của cả gia tộc, bản thân y cũng vô cùng coi trọng và yêu quý người thân, vốn không phải kiểu người chủ động đưa ra những phương án mạo hiểm đầy rủi ro như thế này.

Đương nhiên hắn hiểu rõ ý của Tạ Cánh không phải là mười mấy hộ gia đinh tầm thường của phủ Chiêu vương, mà là một đội quân tinh nhuệ với kỷ luật nghiêm minh, vũ trang đầy đủ, lấy một địch mười, một đội quân riêng chỉ nghe theo lệnh của bọn họ.

Mà đây lại là chuyện dù ở bất kỳ triều đại nào cũng bị coi là đại nghịch bất đạo, một khi đã giương cung thì sẽ không còn đường quay đầu.

Lục Lệnh Tùng cẩn thận liệt kê từng vấn đề: "Nuôi một đội quân cần rất nhiều tiền, cần sắt để đúc rèn vũ khí, cần lương thảo, cần bãi luyện binh và trưởng quan. Quan trọng nhất là phải chiêu mộ được binh sĩ giỏi. Mỗi một khâu đều sẽ có vô số vấn đề phát sinh, cũng tiềm ẩn vô số sơ hở có thể bị phát hiện. Nếu muốn làm việc này, chúng ta phải chuẩn bị sẵn tinh thần hao tổn nhiều năm tâm huyết, có khi mất trắng tất cả, thậm chí rước họa sát thân."

Tạ Cánh im lặng hồi lâu, ánh mắt dần trở nên kiên định: "Không vào hang cọp, sao bắt được cọp con. Trên đời này chưa từng có chuyện gì làm mà không cần mạo hiểm. So với việc bất ngờ gặp biến cố mà tay không tấc sắt, để cho người người mặc sức xâu xé, em thà mạo hiểm một lần. Ít nhất nếu nắm giữ binh quyền trong tay, chúng ta có thể giấu mình trong bóng tối, còn kẻ địch thì ở ngoài sáng."

Lục Lệnh Tùng khẽ thở dài, có thể thấy hắn vẫn chưa hoàn toàn đồng tình với ý tưởng kinh thiên động địa này. Hắn không lập tức đáp lời, chỉ lặng lẽ vươn tay sờ má Tạ Cánh.

Tạ Cánh chợt nhận ra, người trước nay luôn cẩn trọng suy tính như Lục Lệnh Tùng lúc này lại không thể hoàn toàn làm chủ cảm xúc và quyết định của mình. Chuyện này quá mức trọng đại, dĩ nhiên không phải là chuyện có thể vỗ trán quyết định chỉ sau một đêm. Mà với kinh nghiệm sống có hạn và sự từng trải dù sâu rộng đến đâu, y cũng không dám chắc rằng họ nhất định sẽ thành công.

Y vốn không có ý gây áp lực cho Lục Lệnh Tùng: "Em không hiểu gì về việc nuôi quân luyện binh. Dù là quyết định hay thực hiện, tất cả đều nghe theo anh. Nếu anh thấy quá nguy hiểm, khó nắm phần thắng, thì cứ coi như em chưa từng nhắc đến chuyện này, mọi thứ đều do anh định đoạt."

Lục Lệnh Tùng suy nghĩ chốc lát rồi nói thẳng: "Vẽ chiến lược thì ta làm không ít, nhưng em cũng biết mà, ta chưa từng thật sự đặt chân lên chiến trường dù chỉ một ngày."

Tạ Cánh lặng lẽ nhìn hắn, bọn họ quen biết nhau đã tròn mười năm, tính cách của cả hai so với thời thiếu niên mười sáu mười bảy tuổi ít nhiều cũng có chút thay đổi. Tạ Cánh tự nhận bản thân hiểu rất rõ Lục Lệnh Tùng, người này tuy hành xử khéo léo, luôn đứng ở vị trí chủ đạo trong việc kiểm soát cục diện, chưa bao giờ dễ dàng để lộ sự e dè, nhưng tận sâu trong bản chất, hắn lại không phải là một người khá thiếu tự tin.

Y nghĩ rằng điều này bắt nguồn từ sự ngờ vực lộ liễu và không có điểm dừng mà Hoàng đế dành cho hắn, điều này khiến hắn chẳng thể nào đoán được rốt cuộc phải làm đến "mức" nào mới được xem là hoàn hảo. Lâu dần, ngay cả chính bản thân Lục Lệnh Tùng cũng bắt đầu hoài nghi năng lực của mình.

"Từ xưa đến nay, em thấy minh quân lương tướng không hẳn nhất định phải có tài năng phi thường, nhưng nhất định phải có con mắt tinh tường để nhận ra nhân tài, phải có phong thái biết người khéo dùng, phải bày ra được thủ đoạn để thu phục lòng người. Trong lòng em, anh chính là người như vậy. Anh sinh ra đã có bản lĩnh khiến người khác tin phục, cam tâm tình nguyện đi theo. Em là người ở gần anh nhất, em tin vào quyết định và sự quyết đoán của anh, cũng tin vào mắt nhìn của mình."

"Nếu anh vẫn còn đắn đo hoài nghi chuyện này có thể thành hay không, vậy thì em không có gì để nói. Nhưng nếu anh nghi ngờ bản thân mình có thể làm được hay không, em sẽ nói rõ ràng cho anh biết, rằng chỉ cần anh sẵn lòng làm, em sẽ không chút do dự mà dốc hết sức mình để giúp anh. Tiền của em không nhiều, không thể so với Vương phủ hay nhà họ Ngô, nhưng ngoài phần đã chuẩn bị cho Ninh Ninh không thể sử dụng ra, thì tất cả những gì còn lại em đều sẵn sàng trao hết cho anh. Quận Trần có sắt, em có thể tìm cách thông qua quan phủ để tạo đường rèn đúc vũ khí; lương thảo không đủ, em có thể đem tiền xuống ruộng mua chịu trước; đất đai không có, em sẽ dùng những trạch viện bỏ trống để an trí binh sĩ. Chỉ cần anh muốn, chỉ cần em có thể cho, em đều sẽ cho anh."

Những gì Tạ Cánh nói được cũng chỉ đến thế. Y chỉ có thể kiên định đứng vững sau lưng Lục Lệnh Tùng, không lùi nửa bước, phải như vậy, hắn mới có thể yên tâm mạnh dạn vượt qua chông gai, tiến bước về phía trước.

Giờ khắc này, y và Lục Lệnh Tùng không giống một đôi phu thê cùng hưởng vinh nhục nữa, mà y như mang theo cả gia sản và sinh mạng của mình, dốc hết tiền đồ tươi sáng để nương tựa vị chủ công mà y tín nhiệm và ngưỡng vọng.

Lục Lệnh Tùng trầm mặc rất lâu, dường như đã động lòng, lại như có phần khó xử trước sự phó thác nặng nề này.

"Em phải suy nghĩ cho kỹ," hắn siết chặt lấy bàn tay của Tạ Cánh, giọng đầy yêu thương, "Nếu như việc này bại lộ, đừng nói đến chuyện hợp táng cùng huyệt, đến cả cái xác nguyên vẹn cũng chưa chắc đã giữ được."

Đôi mắt trong veo của Tạ Cánh sáng rực lên: "Nhưng nếu việc này thành, vậy em đây có công phò rồng rồi."

Lục Lệnh Tùng nghe mà nghẹn lời, biết rõ trong bốn chữ này, điều Tạ Cánh thực sự muốn nói không phải chữ 'công', mà là chữ 'rồng'.

Hắn lật người đè Tạ Cánh phía dưới, nâng cằm y lên cúi đầu hôn xuống. Bức phù điêu khắc trên tường điện Lâm Hải năm đó có chú chim phượng hoàng đỏ cao ngạo, cô độc mà xa cách, giờ phút này đây, chú chim phượng hoàng ấy đã đang ngoan ngoãn nằm dưới thân hắn, vòng tay ôm lấy lưng hắn, cùng hắn vành tai kề tóc mai.

"Vương phi thân yêu của ta, hiền phu nhân, em trai ngoan của ta," Lục Lệnh Tùng bất đắc dĩ gọi y từng tiếng, "Em thật là... Sao em có thể ngay thẳng đến mức này chứ? Nếu ta thật sự có vài suy nghĩ không muốn để người khác biết, chẳng phải em sẽ bị ta bán đi mà còn ngây ngô đếm tiền hộ ta hay sao?"

Tạ Cánh buồn bực hừ một tiếng: "Vậy thì xem như em nhìn lầm người, tự nhận lấy xui xẻo. Nhưng anh cũng đừng mong được sống yên ổn — suốt mười năm nay anh đã bỏ công dốc lòng để diễn màn yêu em sâu đậm đến nhường nào rồi, dù cho đó có là giả đi nữa, dù ngày sau em có thật sự bị anh hại chết đi nữa, thì cả đời này anh cũng đừng hòng quên được em."

Lục Lệnh Tùng bịt miệng y: "Đừng có nói mấy lời xui xẻo này chứ."

Hai người nửa đùa nửa thật mà dây dưa trên giường, tay chân quấn quít, âu yếm nhau đến mức hơi thở dần trở nên gấp gáp. Lục Lệnh Tùng cởi áo ngoài ra, Tạ Cánh cũng l*t s*ch chỉ chừa lại một chiếc áo ngủ dài, chất vải mềm mại rủ xuống.

"Em biết rồi," Tạ Cánh đột nhiên bật dậy, ngồi lên người Lục Lệnh Tùng, "Em biết làm cách nào để tạm thời ứng phó bên phía bệ hạ rồi."

Lục Lệnh Tùng nhíu mày, đầu ngón tay nghịch ngợm mân mê nốt ruồi nhỏ sau gân gót chân của y: "Em nhất định phải nói ngay lúc này sao?"

"Không chỉ nói, mà còn phải viết ra nữa," Tạ Cánh thúc giục, "Anh tự viết mới được. Mau lên, em đi chuẩn bị bút mực cho anh."

Lục Lệnh Tùng đành phải bước chân trần ra ngoài, ngồi xuống trước bàn. Tạ Cánh nhẹ nhàng kéo vạt áo khoác hờ trên người, đứng bên cạnh hắn: "Anh cứ khuyên bệ hạ rằng Nhị điện hạ đã đến tuổi rồi, lại học hành chăm chỉ, không cần tiếp tục giữ trong cung nữa. Đến lúc triều nghị có thể cho phép dự thính, các bộ các nha cũng nên để điện hạ có cơ hội làm quen. Vả lại, cũng đã đến lúc cân nhắc chuyện lập phủ và tứ hôn rồi."

"Chắc chắn là mẫu hậu rất thích nghe những lời này," Lục Lệnh Tùng vừa viết vừa nói, "Chỉ là bà ấy không thể chủ động mở lời đề xuất được."

Tạ Cánh xắn tay áo mài mực cho hắn: "Vậy nên mới phải mượn lời anh, hơn nữa phải gửi tấu sớ lên ngay sáng mai, không thể để bệ hạ tiếp tục xem Nhị điện hạ như một đứa trẻ được."

"Nhưng cho dù phụ hoàng có đồng ý để Lệnh Chương ra ngoài, cũng chưa chắc nó có thể tự mình làm việc. Phần lớn vẫn sẽ bị phủ Tướng lợi dụng danh nghĩa, mượn cờ hiệu 'Nhị điện hạ' để nhà mình được thuận tiện thôi."

"Chính vì vậy mới tốt. Chẳng lẽ chỉ có nhà họ Tạ và nhà họ Ngô chúng ta mới phải suốt ngày dè dặt, cẩn trọng từng bước, trong khi bọn họ lại ngang ngược muốn làm gì thì làm hay sao? Chẳng qua trước đây vì Nhị điện hạ còn nhỏ, không dính dáng gì đến triều chính nên bệ hạ mới không thường xuyên cảnh báo, răn đe phủ Tướng thôi. Nếu người đã thích đấu dế, vậy ta sẽ cùng người bàn về cách chơi, trong hũ chỉ có một con chạy qua chạy lại, con kia thì cứ giả chết suốt ngày, như thế còn gì thú vị nữa?"

Lục Lệnh Tùng viết xong, đẩy tấu chương sang một bên cho mực khô. Hắn kéo ghế lùi lại một chút, ngả người tựa vào lưng ghế. Ngay khoảnh khắc đó, Tạ Cánh nghiêng người lách vào khoảng trống giữa hắn và bàn sách rồi ngồi hẳn lên mép bàn, hai tay chống ra sau. Sau đó y nhấc một chân đặt lên đầu gối của đối phương, động tác trườn tới nhẹ nhàng mà linh hoạt như con rắn. Cuối cùng, mũi chân chạm nhẹ xuống vị trí g*** h** ch*n hắn như chuồn chuồn lướt nước, lòng bàn chân cách một lớp vải khẽ cọ qua lại như trêu ghẹo.

"Ở đây sao?" Lục Lệnh Tùng kìm nén hơi thở gấp gáp, bàn tay siết mạnh vòng eo của y hơn.

"Ừ, ở đây." Tạ Cánh nâng tay chạm vào một bên sườn mặt hắn, ngón út bỗng ngoắt nhẹ, kéo một lọn tóc từ búi tóc buộc cao của hắn ra, để nó rủ xuống bên thái dương.

"Em đã nói em tin vào mắt nhìn của mình mà." Y cúi đầu chăm chú quan sát Lục Lệnh Tùng hồi lâu, đầu ngón chân nghịch ngợm đùa vui, nhướng mày trêu hắn: "Đi đâu mới tìm được người đẹp như thế này đây?"

Không lâu sau đó, quả nhiên Lục Lệnh Chương đã chính thức từ biệt những ngày tháng vùi đầu khổ học trong cung, bắt đầu thường xuyên ra vào triều dưới sự ngầm cho phép của Hoàng đế. Trước đây, sau khi mở phủ, thật ra Lục Lệnh Tùng cũng từng có một quãng thời gian vô công rồi nghề, nhàn rỗi mãi đến khi kết hôn mới dần dấn thân vào chính sự, mà khi ấy cũng là do Hoàng đế chợt nhớ đến mới tùy tiện giao cho hắn vài công việc. Nhưng đến lượt Lục Lệnh Chương, Hoàng đế đã không còn đủ sức để kiểm soát chặt chẽ mọi chuyện nữa, lại thêm sự thu xếp của cả nhà họ Vương, tình cảnh hoàn toàn khác hẳn so với Lục Lệnh Tùng "có tiếng chẳng có miếng" của năm đó.

Cùng lúc ấy, vợ chồng Chiêu vương ít vào cung hơn hẳn, nhưng lại xuất hiện bên ngoài nhiều hơn. Trước đây vì sợ phiền phức mà có thể từ chối họ sẽ từ chối ngay, bây giờ thì ai đến cũng không cự tuyệt, ngay cả tiệc nhà vào dịp Đoan Ngọ tháng Năm cũng mời đông đủ tân khách. Vương phủ chỉ góp mặt khi cần ăn uống vui chơi, còn những lời mời mọc mang tính xã giao, kết giao quyền thế thì lại vờ như không thấy, cũng coi như chưa từng nhận được.

Thậm chí, có lần hai người còn tay xách nách mang mấy vò rượu Mai Sơn Tuyết chạy đến Tần Hoài Xuân vào giữa khuya, lên lầu đóng cửa uống suốt cả đêm, sáng ra nếu hết rượu thì về ngủ, nếu vẫn còn thì tiếp tục uống.

Thế là trong thành Kim Lăng rộ lên lời đồn rằng Chiêu Vương và Vương phi "chìm đắm trong tửu sắc". Nhưng những lời nói này lại không hoàn toàn chính xác, vì suy cho cùng, hai người chưa từng làm phiền ai, lại càng không phóng túng đến mức triệu gọi kỹ nữ. Nếu có say đi nữa, thì cũng chỉ là cùng nhau đắm chìm trong "sắc" của chính đối phương, người ngoài chẳng có lý do gì để xen vào.

Tuy nhiên, vẫn có một hai người trong kinh thành có đủ tư cách và cả gan "xen vào" chuyện này. Nhẫn nhịn suốt một tháng, cuối cùng, trưởng công chúa Lục Lệnh Chân một tay bế Lục Thư Ninh, một tay xách roi, mang theo khí thế "thần cản giết thần, Phật cản giết Phật" xông thẳng lên lầu hai Tần Hoài Xuân.

"Lục Tử Phụng!" Lục Lệnh Chân lấy hơi, cất giọng gào lên, "Lục Lệnh Tùng! Lăn ra đây cho em!"

Nàng như cơn cuồng phong xô sóng, sải bước lùng sục hết một lượt các nhã gian trên lầu hai, cuối cùng, ánh mắt Lục Lệnh Chân khóa chặt vào căn phòng rộng nhất hướng ra mặt phố. Nàng nhấc chân đạp mạnh, cửa phòng lập tức bật tung ra, thế là "phong thái" không hề có lấy một lớp che chắn của Chiêu Vương và Vương phi hoàn toàn bị phơi bày trước mắt tất cả những kẻ hiếu kỳ trong Tần Hoài Xuân.

Nói là quá quắt thì cũng chưa đến mức quá quắt, chỉ là không được nho nhã cho lắm, hai người một người thì say khướt, ngửa mặt dựa vào lan can lầu hai, nhìn thế nào cũng thấy lo hắn sẽ bất cẩn rơi xuống dưới. Người còn lại thì ngủ say đến mức chẳng biết trời trăng mây gió gì, hơn nửa thân mình cuộn lại trong vòng tay người bên cạnh. Mùi rượu hòa lẫn với hương liệu trong phòng xộc thẳng vào mũi, gắt đến nỗi nhức hết cả đầu.

Lục Lệnh Chân vung roi lên, quất liên tiếp mấy nhát vào mép bàn, từng tiếng động giòn giã vang lên: "Mọi người nhìn rõ cho ta này! Chiêu Vương điện hạ của chúng ta bây giờ giỏi giang đến mức nào! Mặc kệ phụ hoàng mẫu phi! Bỏ bê cả Vương phủ! Con cái cũng chẳng đoái hoài! Chỉ biết dụ dỗ anh dâu ta chìm đắm trong rượu chè giữa ban ngày ban mặt! Anh xem, say thế này có còn ra thể thống gì nữa không?"

Lục Thư Ninh rất biết phối hợp, lập tức ngồi bệt xuống đất, há miệng gào khóc nức nở.

Tiếng khóc này như một hồi chuông đánh thức bản năng, kéo Tạ Cánh khỏi cơn ngủ mê. Y đột ngột bật dậy khỏi vòng tay Lục Lệnh Tùng, chớp mắt nhìn chằm chằm Lục Thư Ninh ba giây, chậm rãi nhận dạng khuôn mặt nhỏ bé kia rồi nở một nụ cười: "... Ninh Ninh đến rồi à, đừng khóc, mẹ ở đây."

Y vươn tay ra, nhưng Lục Thư Ninh nhảy còn nhanh hơn cả thỏ, vội chui vào vòng tay của cô mình. Em bịt mũi lại: "Không muốn mẹ ôm đâu."

Lục Lệnh Chân sải bước đến bên lan can, túm lấy cổ áo Lục Lệnh Tùng xách lên: "Anh có còn biết nhà mình ở đâu không hả? Hả?"

Lục Lệnh Tùng đưa tay chỉ xuống phía dưới. Lục Lệnh Chân cúi đầu nhìn theo, tức đến bật cười: "Ở dưới đó là sông! Anh là Hà Bá hay Long Vương thế?"

Hai người họ uống rượu thật, say cũng thật, không hề giả vờ chút nào. Một mình Lục Lệnh Chân hoàn toàn không kéo nổi hai con ma men này. Nhưng may mắn là bọn họ cũng chẳng cần nàng kéo, cứ thế nghiêng ngả, xiêu vẹo leo vào xe ngựa.

Về đến vương phủ, Ngân Trù bế Lục Thư Ninh, định gọi tiểu tư đến đỡ, nhưng Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh lại đồng loạt xua tay, tỏ vẻ mình không say, không cần giúp. Thế là bọn họ chỉ đành mặc cho hai người lảo đảo dắt díu nhau, tay chân xoắn quýt chầm chậm trở về nội viện.

Đi ngang qua thư phòng, đúng lúc Lục Thư Thanh vừa ngẩng đầu lên, ánh mắt chiếu thẳng vào đôi cha mẹ chẳng còn nhớ hôm nay là ngày nào của mình. Lục Lệnh Tùng thấy cậu, cố gượng bám vào khung cửa để đứng vững, Tạ Cánh thì hoàn toàn dựa vào cánh tay hắn, dùng nó làm trụ đỡ.

Lục Lệnh Tùng cất giọng điệu dỗ dành mà ngay cả Lục Thư Ninh cũng chẳng tin nổi nói: "Thanh Nhi... Con ngoan, xin lỗi con, cha xin lỗi, cha và mẹ uống nhiều quá, làm ồn đến con rồi, giờ cha mẹ đi ngay đây..."

Tạ Cánh lẩm bẩm phụ họa: "Đi đi đi, đi ngay đây."

Nói rồi, bọn họ lại khoác vai nhau loạng choạng muốn rời đi, nhưng vừa xoay người một cái, trời đất đã chao đảo, suýt nữa là đâm sầm vào nhau, rồi lại loạng choạng đi về phía nhà trước.

Lục Thư Thanh nhìn hai người sắp toi công mà không đành lòng, cuối cùng không nhịn được nữa, cậu đưa tay day trán: "... Cha, mẹ, hai người đi nhầm rồi, phòng ngủ ở bên kia mà."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 92


《 22.3 》

Ngày ngày chìm trong men say, mơ mơ màng màng mà sống tuy là một cách rất hiệu quả, nhưng cũng rất hại thân, suy cho cùng không phải kế lâu dài. Vì vậy, sau trận náo loạn do Lục Lệnh Chân gây ra, bọn họ lại đổi sang chiêu khác. Cứ cách một khoảng thời gian, Vương phủ sẽ mở rộng cửa đón khách, cho phép ra vào khu vườn vốn hiếm người có cơ hội đặt chân đến, tới nỗi suýt nữa phủ Chiêu Vương đã trở thành danh lam thắng cảnh.

Chỉ riêng Y Bích Đài mà Lục Lệnh Tùng xây tặng Tạ Cánh là tạm thời vẫn không nỡ mở cho người ngoài vào. Lâu dần, mọi người trong nhà đều rèn được kỹ năng vững tâm giữa vô vàn tiếng ồn ào náo nhiệt, ngay cả khi bên ngoài có khách, Tạ Cánh vẫn có thể cùng bọn trẻ thản nhiên ngủ trưa trên đài. Lục Thư Ninh bị mẹ và anh trai kẹp giữa, cả ba xoắn vào nhau thành cái bánh quẩy, đắp chung một tấm chăn lông cáo mềm mại.

Thế nhưng người lạ người quen đến rồi đi, còn thư hồi âm từ nhà họ Vương thì mãi vẫn chưa thấy đâu. Mùa thu năm Trinh Hữu thứ mười sáu, không rõ vì chuyện gì mà Vương Hề và Thôi Thục Thế đánh nhau một trận kịch liệt, nghe nói suýt nữa kéo lên tận nha môn. Từ đó trở đi, Lục Thư Thanh không còn gặp lại A Hoàng nữa.

Cậu cảm thấy hoang mang, bèn hỏi mẹ: "Tại sao có những người đột nhiên lại biến mất như vậy ạ?"

Tạ Cánh ngồi cạnh cậu dưới giàn xích đu, cả hai vừa nhàn nhã đung đưa, vừa chia nhau một đĩa bánh gạch cua. Y nghĩ ngợi một lát rồi đáp: "Nhân duyên trong đời người là như vậy, thế sự tựa mây trôi, vô thường lại là điều bình thường nhất. Người đi cùng chúng ta bỗng chốc rời đi, hoặc đột nhiên có người xuất hiện tiếp tục đồng hành, tất cả đều là những chuyện hết sức bình thường. Sau này con trải qua nhiều hơn, rồi sẽ dần quen thôi."

Vào một ngày cuối thu gió man mát dễ chịu, đúng là rất khó để cảm nhận sự "bi thương cô quạnh". Cơn gió từ phía sau thổi tới làm rối tung mái tóc của hai người. Nỗi buồn biệt ly mơ hồ trong lòng Lục Thư Thanh nhanh chóng bị thổi bay, cậu híp mắt lại thích thú nói: "Mẹ ơi, con muốn đu cao hơn nữa."

"Được thôi." Tạ Cánh nhảy xuống khỏi chiếc xích đu bên cạnh, đặt đĩa bánh xuống rồi bước ra sau lưng cậu. "Nắm chặt vào nhé!"

Sau đó y dùng sức đẩy một cái, Lục Thư Thanh reo lên vui vẻ, tựa như chú chim ưng non lướt qua mặt đất rồi lao thẳng vào vòng tay của bầu trời mà không bị ràng buộc bởi bất kì thứ gì.

Sau khi tiết trời trở lạnh, thời gian dường như cũng trôi chậm lại. Ngày tháng trong phủ Chiêu Vương tĩnh lặng chảy trôi như dòng nước, chầm chậm kéo đến cuối năm. Nghe nói vì sức khỏe Hoàng đế không tốt, cho nên đêm trừ tịch năm nay trong cung sẽ không tổ chức yến tiệc nữa, cửa cung cũng sẽ được khóa lại từ lúc hoàng hôn. Vì vậy, Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh bàn bạc, ban ngày vào cung bái kiến Hoàng đế và Hoàng hậu, hoàn tất các nghi thức cần thiết, đến trưa thì dùng bữa cùng Ngô thị và Lục Lệnh Chân ở điện Minh Loan, còn buổi tối thì trở về ngõ Ô Y đón giao thừa.

Quần áo mới may cho thế tử và quận chúa được đưa tới từ sáng sớm. Mấy cô gái trong viện dùng vải thừa may thêm một chiếc cổ áo cho Lục Ngải. Con vẹt xanh đeo chiếc khăn quàng đỏ trên cổ, ai đi ngang qua cũng đều ghé mắt nhìn khiến nó đắc ý vô cùng. Chỉ có Lục Thư Thanh không thấy chiếc khăn xấu mà còn khen đẹp, cậu để Lục Ngải đậu trên vai, cậu chủ nhỏ đi đâu nó cũng theo sát không rời. Lục Ngải cũng mười một, mười hai tuổi có lẻ rồi, đã không còn nhỏ nữa nhưng vẫn nhanh nhẹn chẳng kém ngày trước. Lục Lệnh Tùng nói, nếu như được chăm sóc chu đáo thì nó sẽ còn sống thêm được lâu lắm.

Sáng sớm ba mươi Tết, Ngân Trù búi tóc bánh bao cho Lục Thư Ninh, hai bên đỉnh đầu còn tách thêm một đường cong mềm mại trông như đôi tai mèo. Giữa hai búi tóc được quấn dây lụa đỏ, cứ cách một đốt ngón tay lại có một chiếc kẹp đèn lồng vàng nhỏ, mỗi khi em chạy nhảy liền vang lên tiếng leng keng trong trẻo. Lục Lệnh Tùng thấy chúng rất thú vị, cứ một lúc lại vươn tay kéo nhẹ một cái, rồi chốc chốc lại chạm vào để tạo ra âm thanh.

Tạ Cánh ngồi trước bàn trang điểm rửa mặt. Lục Thư Ninh trèo lên đùi y, vòng tay ôm cổ chủ động đòi hôn. Mới sáng sớm bé con đã dụ dỗ khiến Tạ Cánh choáng váng đầu óc, y chỉ cảm thấy bản thân đã sinh được một nàng tiên nhỏ, vội dính lấy đôi má mềm mại núng nính hôn mãi như bị mê hoặc. Cuối cùng, vì sợ làm rối búi tóc của cô bé, y mới miễn cưỡng buông em ra.

Trên bức tường phía sau gương có treo bức tranh "Cửu cửu tiêu hàn đồ", đây là một thú tiêu khiển tao nhã theo lệ xưa, trên tranh vẽ một cành mai gồm có chín nhánh, mỗi nhánh có chín bông mai trắng. Bắt đầu từ Đông chí, mỗi sáng khi thức dậy chải chuốt sẽ tiện tay tô đỏ một đóa hoa. Đợi đến khi tám mươi mốt đóa mai đỏ nở rộ cũng là lúc mùa xuân ấm áp tràn về. Vì Lục Thư Ninh thường xuyên ra vào phòng cha mẹ, thế nên trước bàn trang điểm bày bừa đủ thứ đồ chơi em để lại. Tạ Cánh nắm bàn tay nhỏ xíu của con gái chấm một ít son hồng, sau đó bế em lên, tô màu cho bức tiêu hàn đồ đã sắp hoàn thành.

Sáng sớm, ở nhà trước đã có không ít người đến chúc Tết và tặng lễ vật cho Vương phủ. Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh bảo hai đứa trẻ đi thăm tổ mẫu trước, còn họ thì phải tiếp khách một lát rồi mới vào cung.

Trong điện Thần Long không thấy bóng dáng của Hoàng đế và Hoàng hậu đâu, hỏi thị vệ mới biết họ đều ở Tây cung, có lẽ bây giờ đang trên đường trở về, thị vệ bèn bảo hai người đợi một lát hành lang. Nói ra cũng thật buồn cười, ngày xưa, chính tại chỗ này họ đã bị phạt quỳ suốt cả đêm giao thừa, sau khi Lục Lệnh Tùng từ chối nhận đất phiên và tuyên bố sẽ hủy hôn.

Trời đông lạnh cắt da, không ai muốn mở miệng nói chuyện, cứ thế đứng yên dưới bậc thềm chờ đợi trong buồn chán. Bỗng nhiên một cơn gió lạnh thổi qua, cả hai đều giơ tay lên che mặt, buộc phải nghiêng người nhắm mắt lại để tránh gió.

Tạ Cánh nhíu mày, nhìn lên bầu trời hơi u ám: "Em cảm giác hình như mình mặc hơi ít đồ cho Ninh Ninh."

Lục Lệnh Tùng lại hỏi: "Em có lạnh không?"

Tạ Cánh gật đầu, hắn bèn ra hiệu cho đối phương đứng sát lại một chút rồi mở rộng áo choàng để y chui vào, sau đó quấn chặt người vào lòng. Cả hai cùng vùi mặt vào lớp cổ áo mềm mại, ấm áp của nhau, Tạ Cánh cầm lò sưởi nhỏ còn nóng áp lên bụng Lục Lệnh Tùng, nhẹ nhàng v**t v*.

Rồi họ lại chìm vào im lặng, bên tai chỉ còn tiếng gió Bắc rít gào.

Không rõ đã đứng như vậy bao lâu, chẳng ai để ý xung quanh có động tĩnh gì, mãi đến khi phía sau vang lên một tiếng ho khan dài, cố tình nhấn nhá cho ra nhịp của Chung Triệu, cả hai mới sực tỉnh, chậm rãi buông nhau ra, quay đầu nhìn lại.

Trước mặt họ, một hàng người dày đặc đang đồng loạt im lặng nhìn sang với ánh mắt kinh ngạc. Đi đầu hàng là đế hậu, Hoàng đế đang nắm tay Lục Thư Thanh; chậm hơn một, hai bước là Ngô thị bế Lục Thư Ninh trong lòng, quả nhiên trên người cô bé đã được khoác thêm một chiếc áo choàng dày; Lục Lệnh Chân và Lục Lệnh Chương đứng hai bên, phía sau còn có các phi tần, nữ quan cùng một đoàn dài cung nhân, nội giám kéo dài đến mức không thể nhìn thấy hết được.

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh vội tách nhau xa một chút, nhưng giấu đầu thì hở đuôi, mọi người đều đã thấy rõ cảnh hai người ôm ấp ngay trước điện Thần Long, hoàn toàn không để tâm đến xung quanh.

Hoàng đế chậm rãi bước tới, đều giọng nói một câu: "Ở bên ngoài làm xấu mặt còn chưa đủ à?"

Giọng ông tuy không lớn nhưng ai nấy đều nghe rõ, cũng hiểu ông đang ám chỉ điều gì. Chuyện nửa năm qua Chiêu Vương và Vương phi hoang đường phóng túng đã sớm lan truyền khắp kinh thành. Chẳng có ai vì nhìn thấy bọn họ ăn mặc chỉnh tề đứng ở đây mà quên đi những lời cười chê liên quan đến họ cả.

Hai người không phản bác được, chỉ im lặng hành lễ. Làm vợ chồng danh chính ngôn thuận mười năm, là mối quan hệ quang minh chính đại chẳng có gì phải lẩn tránh, cũng không phải lén lút yêu đương, nhưng bị cả trưởng bối lẫn hậu bối tận mắt chứng kiến cảnh thân mật quá mức như vậy, cả hai vẫn khó tránh khỏi lúng túng.

Bọn họ lặng lẽ hòa vào đoàn người hiển quý bậc nhất thiên hạ. Khi đi ngang qua Lục Thư Thanh, Tạ Cánh tinh nghịch nháy mắt với cậu cậu cái, còn Lục Lệnh Tùng thì bước đến bên Lục Lệnh Chân, hai anh em nhìn nhau không chớp mắt, bắt đầu thì thầm to nhỏ.

Lục Lệnh Chân hả hê hỏi: "Bị mắng rồi chứ gì?"

Lục Lệnh Tùng nghiến răng đáp lại: "Em đừng vội mừng, hôm nay đông người, đừng ai hòng thoát được."

Lục Lệnh Chân khẽ nâng sợi tua treo ngọc bên hông lên quấn quanh đầu ngón tay, bắt đầu xoay tròn, dửng dưng nói: "Em mặt dày quen rồi, anh lo mà coi chừng anh dâu bị lôi chuyện cũ ra nói oan đi kìa."

Lục Lệnh Tùng liếc nhìn nàng: "Sáng sớm đến giờ em làm gì thế? Sao mà cả người mồ hôi không vậy?"

Trong nhóm người hoàng thất, Lục Lệnh Chân là người ăn mặc "mát mẻ" nhất, cô nàng chỉ khoác một chiếc áo tay hẹp màu đỏ thẫm thêu họa tiết ô trám và củ ấu, tươi sáng đến nỗi chói mắt. Ở độ tuổi chưa tròn đôi mươi, nhan sắc của Trưởng công chúa giống như mẫu đơn đỏ nở vươn khỏi lan can, đối với nơi cung cấm trang nghiêm mà nói thì nó quá đỗi rực rỡ, quá đỗi táo bạo. Trong vườn ngự uyển, vẻ đẹp ấy dường như chẳng có chốn dung thân, khiến cho người ta thấp thỏm, sợ rằng bông hoa này sẽ nở rộ chớp nhoáng rồi chóng tàn.

Nàng ra vẻ thần bí, vẫy tay gọi Lục Lệnh Tùng lại gần, đợi đến khi đủ để nghe được, nàng mới kề tai hắn thì thầm: "Không nói cho anh biết đâu."

Nhưng vừa đi được thêm mấy bước niềm vui đã hóa buồn, sợi tua trên tay nàng vô tình bị vướng nên tuột ra, xoay tròn trên không rồi bay thẳng về phía Hoàng hậu, va vào tà váy của bà ta kêu "bộp" một tiếng, miếng ngọc nứt ra.

Lục Lệnh Tùng không kiềm chế được mà bật cười trả thù, nhưng vì nhịn quá mức khiến tiếng cười mắc kẹt trong cổ họng, nghe rất buồn cười. Hoàng hậu lạnh lùng ngoảnh lại nhìn, Lục Lệnh Chương ở bên cạnh thì cúi người nhặt sợi tua bị đứt lên, lễ phép trả lại cho Lục Lệnh Chân, cuối cùng cũng bị Vương thị lườm cho một cú sắc như dao.

Vào điện ngồi xuống, uống ba chén rượu ấm, Lục Lệnh Chân mới lấy một nắm bùa bình an đầy màu sắc từ trong ngực áo ra, công bố bí mật của mình: "Sáng nay em dậy sớm lên chùa Linh Cốc xin bùa hộ mệnh cho cả nhà đấy. Trên mỗi cái đều ghi tên họ và ngày sinh, mọi người mau tới nhận phần của mình đi."

Những tấm bùa chỉ là những mảnh giấy mỏng, khiến cho dòng chữ "tiêu trừ bệnh tật, bình an vô sự" in trên đó có phần thiếu sức thuyết phục. Lục Lệnh Tùng nghi ngờ hỏi: "Chùa Linh Cốc dù gì cũng là chùa có tiếng, chẳng lẽ bùa chỉ là mảnh giấy này thôi sao? Em không bị lừa đấy chứ?"

Nhìn kỹ lại, cái gọi là "cả nhà" mà Lục Lệnh Chân nhắc đến thực sự rất rộng —— không chỉ có mẹ, anh trai, anh dâu và các cháu, mà còn có cả cậu mợ bên ngoại là nhà họ Ngô, thậm chí ngay cả Hoàng đế, Hoàng hậu và Lục Lệnh Chương cũng có phần.

Đế hậu ngồi trên cao không nghe thấy lời họ nói, nhưng Lục Lệnh Chương thì có, vừa nhìn thấy tên mình trên bùa, cậu đã không khỏi ngạc nhiên.

Lục Lệnh Chân cười ha ha cho qua chuyện, thấp giọng nói: "À... Thật ra là em mua ở quầy hàng trước cổng chùa. Người bán bảo phải mua từ mười hai cái trở lên, nên để đủ số, em đành phải viết hết tên mọi người vào thôi."

Lục Lệnh Tùng: "Vậy thì đúng là bị lừa rồi đấy cô nương!"

Cuối cùng Lục Lệnh Chân cũng chịu thú nhận sự thật: "Được rồi, nhưng thật ra là vì người bán đó có một cây đao Hồ cực đẹp luôn ấy. Ban đầu người ta không chịu bán, nhưng thấy em thật lòng thích, ông ta bèn bám lấy em, không những hét giá trên trời, mà còn bắt em mua hết đống bùa bình an trên sạp thì mới chịu bán đao."

Trưởng công chúa từ nhỏ đã quen nhìn binh khí mà anh trai dùng, con mắt xem đao kiếm cũng được luyện ra từ đó. Nàng nói đao tốt thì chắc chắn tám chín phần là thật. Dù chưa thức tỉnh thiên phú mặc cả, nhưng về độ tinh tường với vũ khí, nàng hoàn toàn kế thừa truyền thống của người Việt* chuyên rèn kiếm.

(*) Nước Việt – tên nước thời Chu, ở phía đông tỉnh Chiết Giang ngày nay, sau này mở rộng lên vùng Giang Tô, Sơn Đông.

Quả nhiên, vừa nghe thấy có đao tốt, Lục Lệnh Tùng lập tức quên sạch chuyện cười nhạo cô em gái bị lừa tiền: "Anh không tin, trừ phi em cho anh mượn chơi thử." Đáp lại hắn chỉ là một động tác cắt cổ đầy hung dữ của Lục Lệnh Chân.

Lục Lệnh Chương mở túi hương luôn mang theo bên mình, nhét tấm bùa bình an thuộc về bản thân vào trong, sau đó lặng lẽ ra hiệu với chị gái. Lục Lệnh Chân mỉm cười với cậu, giấu tay dưới bàn làm một động tác chắp tay ôm quyền, ý nói "cảm ơn đã ủng hộ". Sau đó, nàng chọn ra mấy tấm dành cho Hoàng đế, Hoàng hậu và Ngô thị rồi bước lên phía trước.

Tạ Cánh đang ôm Lục Thư Ninh, dạy cô bé nhận mặt mấy chữ "bình an vô sự", còn nhỏ giọng bảo: "Tên chữ của mẹ cũng có chữ 'Vô' này đấy." Còn chưa êm đềm được bao lâu, bỗng phía trước vang lên giọng Hoàng đế quát mắng: "Lần sau đừng có mang những thứ này vào cung nữa!"

Mọi người đều sững sờ, ngay cả Lục Lệnh Chân vốn không sợ trời chẳng sợ đất cũng giật mình co rúm người lại theo phản xạ trước cơn thịnh nộ bất ngờ của phụ hoàng. Dưới chân nàng là tấm bùa bình an dâng lên Hoàng đế đã bị xé rách, cung nhân nhanh nhẹn bước lên dọn sạch những mảnh giấy vụn kia, để tránh phạm húy thiên tử, trên tấm bùa này chỉ viết ngày sinh tháng đẻ, không có tên họ.

Hoàng đế vốn rất ít khi nổi giận, phần lớn thời gian chỉ giữ vẻ mặt bình thản, không lộ vui buồn. Đối với đứa con gái này ông lại càng có thái độ dửng dưng, chẳng mấy bận tâm đến hành tung của nàng. Lục Lệnh Chân đứng sững tại chỗ, trước đó nàng nghĩ rằng phụ hoàng có lẽ cũng sẽ chỉ hời hợt với thứ này, tùy tiện để qua một bên, nhưng hoàn toàn không ngờ tới việc chỉ là một hàng số viết ngày sinh đơn giản lại có thể khiến long nhan đại nộ như vậy.

Lục Lệnh Tùng thấy vậy, bước lên phía trước nói: "Sinh thần của phụ hoàng là ngày thiên hạ đều biết đến, Chân Chân làm như vậy là để thể hiện lòng hiếu thảo, thật lòng mong phụ hoàng long thể khang kiện. Dù có chút đường đột, nhưng cũng không thể coi là sai lầm đâu ạ."

Hắn đoán có thể Hoàng đế chỉ đang kiêng kỵ mấy chữ "tiêu trừ bệnh tật", nhưng ngẫm lại thì không giống lắm. Có thể thấy rằng cơn giận của Hoàng đế bắt nguồn từ ngày sinh nhật kia, mà chuyện này lại càng kỳ lạ hơn nữa. Sinh thần của thiên tử là đại lễ cả nước ăn mừng, bao nhiêu năm qua vẫn ổn, tại sao đột nhiên lại trở thành điều kiêng kỵ? Chẳng lẽ tấm bùa này viết sai ngày sinh? Thật ra Hoàng đế không sinh vào ngày đó ư?

Lục Lệnh Tùng chỉ lo che chở cho Lục Lệnh Chân, trong lúc vội vàng lại lỡ lời, nói ra những điều không nên nói. Vừa thấy hoàng đế dời ánh mắt sang trưởng tử, có ý chuyển hướng trách phạt, Ngô thị lập tức lên tiếng hòa giải cho hai con: "Chân Chân còn nhỏ, ngốc nghếch không hiểu nặng nhẹ, bệ hạ trách mắng đôi câu là được rồi. Hôm nay là ngày đoàn viên sum vầy, xin đừng trách phạt bọn trẻ."

Lục Thư Thanh cũng biết lựa lời khuyên giải, cậu lắc lắc tay Hoàng đế, lanh lợi nói: "Tổ phụ đừng giận, con vừa mới học xong hiếu thuận kinh, để con đọc cho người nghe nhé."

Hoàng đế nghe cháu trai khuyên nhủ, sắc mặt mới dịu đi đôi chút, chỉ bực bội phất tay ra hiệu cho Lục Lệnh Chân lui xuống.

Đến giờ ăn trưa, rời khỏi điện Thần Long, tính tình kiêu ngạo bướng bỉnh của cô công chúa đã lại chiếm thế thượng phong, sắc mặt nàng sa sầm, cả đường đi chẳng nói một lời. Cửa điện Minh Loan vừa đóng lại, Lục Lệnh Chân hậm hực than vãn: "Lòng tốt mà bị coi thành gan lừa! Sau này có muốn ta hiếu kính thì cũng đừng hòng! Dù ông ấy có chướng mắt ta đến đâu đi nữa, chẳng lẽ thật sự giết ta được chắc!"

Không ai lên tiếng ngăn cản, cũng không ai nhắc nhở nàng phải giữ mồm giữ miệng —— ngay cả cung nhân theo hầu bên cạnh Ngô thị cũng thấy ấm ức thay cho nàng. Đêm trừ tịch đáng ra nên là lúc vui vẻ thoải mái, vậy mà mới sáng sớm đã bị phá hỏng, thật sự là vô cùng mất hứng.

Ngô thị trở về tẩm điện, lấy một cây chổi nhỏ chuyên để phủi giường ra, nhẹ nhàng quét lên áo ngoài của con gái, dù trên đó chẳng có chút bụi nào.

Lục Lệnh Chân lập tức bật dậy: "Mẹ, mẹ làm gì thế! Đây là đồ con mới thay đấy!"

Ngô thị lại nói: "Giúp con phủi sạch vận xui và những chuyện bực bội, để chúng ở lại năm cũ, đừng mang sang năm mới."

Lục Lệnh Chân nghe vậy, không những không phản đối mà còn giật lấy cây chổi hăng hái quét mạnh lên người mình mấy cái như muốn trút giận, khiến cả phòng nhìn đều bật cười.

Tạ Cánh thấy nàng lại bĩu môi, mặt mày ỉu xìu, ủ rũ chui vào trong giường, bèn nhỏ giọng bảo Lục Thư Ninh: "Con xem, cô không vui rồi, chúng ta mau đi dỗ cô con thôi."

Lục Thư Ninh lập tức chui vào lòng Lục Lệnh Chân, hết cọ lại rúc giống như một con thỏ nhỏ đào hang, đây chính là cách thể hiện sự thân thiết mà cô bé thích nhất. Tạ Cánh thì ngồi xuống bên cạnh, vòng tay qua ôm lấy vai nàng: "Hôm nay bệ hạ nổi giận, e là còn có nguyên do khác, không phải cố ý nhằm vào em đâu. Anh biết em đang tức giận, nhưng thiên hạ lắm kẻ đáng giận, nhiều chuyện phiền lòng, nếu cứ ôm hết từng chuyện một vào lòng, chẳng phải sớm muộn gì em cũng tức đến mức phình ra như cá nóc sao?"

Y ghé sát tai Lục Lệnh Chân thì thầm: "Mấy năm nay anh luôn tự nhủ, Hoàng hậu tức giận thì anh không tức, anh mà tức chết để bà ta được như ý thì sao? Trái lại, nếu khiến người khác tức ngược, một người tức thì tính là thắng một, hai người tức thì anh lời thêm một nữa. Bà cô của anh ơi, em mua đao bị lừa tiền thì thôi, coi như tiêu tiền trừ họa, nhưng loại chuyện này tuyệt đối không thể để người khác hưởng lợi được."

Lục Lệnh Tùng chẳng biết từ lúc nào đã ghé tới, đột nhiên chen vào từ phía sau: "Nếu em mà chết vì tức, anh sẽ không vui đâu."

Hai người bị hắn làm cho giật nảy mình. Chỉ thấy Lục Lệnh Tùng híp mắt cười vui vẻ, lần lượt gõ nhẹ lên mũi Lục Lệnh Chân rồi véo d** tai Tạ Cánh, sau đó hắn vung tay phải lên, lưỡi đao vừa tinh xảo vừa sắc bén tựa sương thu đã được hắn lấy ra từ lúc nào, giờ đây đang nằm gọn trong lòng bàn tay theo tư thế xoay ngược.

"Vừa hay hôm trước anh mới có được một miếng da đào vàng thượng hạng, ngày mai sẽ làm thành vỏ đao cho em, đính thêm vài viên minh châu nữa, treo bên hông ra ngoài phố cho oách." Hắn nhìn em gái mình, hỏi nàng: "Như vậy em đã nguôi giận chưa?"
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 93


《 22.4 》

Ngoài và trong hoàng cung là hai khung cảnh năm mới hoàn toàn khác biệt. Nếu không có lệnh cấm rõ ràng, dân chúng sẽ không vì thiên tử ốm đau mà bỏ qua việc đón Tết. Phố phường thành Nam tấp nập người xe qua lại, sông Tần Hoài chăng đèn kết hoa rực rỡ. Trên xe ngựa rời khỏi hoàng cung, lòng dạ Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh đã sớm bị kéo đi xa, chỉ hận không thể lập tức bay về nhà ngoại.

Những nơi tập trung các gia tộc quyền quý chẳng có lúc nào thiếu khách khứa bè bạn, mà ngõ Ô Y lại càng nườm nượp người ra vào, mấy năm qua Tạ Dực và Tạ Duyễn đều phải tiếp đãi từ sáng sớm đến tận khi trời tối mịt. Bốn người phủ Chiêu Vương về nhà mà nom như phường trộm cướp, không dám đi cửa chính, chỉ sợ bị người ta bắt gặp rồi lôi kéo làm thân, đến lúc đó lại phải khách sáo hàn huyên một phen.

Vừa vào nội viện, Lục Thư Ninh đã bị Diêu thị kéo lại, dùng "thủ pháp" x** n*n bé cưng thành thạo của mình nắn em cả buổi trời. Chị và Tạ Duyễn không có con gái, vậy nên họ rất yêu thương Lục Thư Ninh, coi em như con ruột.

Vừa bóp mặt cô bé, chị vừa ra vẻ thần bí kéo Tạ Cánh sang một bên, hỏi nhỏ: "Em đã nhìn thấy chưa?"

Tạ Cánh không hiểu: "Thấy gì cơ ạ?"

Diêu thị hất cằm ra ngoài: "Con gái nhà họ Lý ấy."

Tạ Cánh nhìn ra sân, lúc này mới phát hiện dưới hành lang có ba thiếu niên đang tụ tập, đó chính là Tạ Tuấn cùng hai người cháu của Lý Kỳ. Nhà họ Lý vốn chỉ là thương gia mới nổi, còn nhà họ Tạ lại là danh môn vọng tộc lâu đời, bình thường quan hệ thế này rất khó mà qua lại, cũng chưa chắc đôi bên sẽ coi trọng lẫn nhau, nhưng nhờ vào mối nhân duyên của y và Lục Lệnh Tùng, từ lợi ích lớn lao đến giao tình của hậu bối, hai nhà cứ thế hòa thuận mà làm bạn.

Tạ Tuấn mắt tinh thấy y, bèn cất giọng gọi: "Chú về rồi đấy ạ!"

Hai người bên cạnh cậu cũng quay đầu lại, đó là một cặp chị em song sinh có phong thái vô cùng xuất sắc, cả hai cung kính hành lễ với Tạ Cánh từ xa.

Lý Dã có lẽ là người khiến Tạ Cánh cảm thấy dễ chịu nhất trong số những người mà y từng gặp trên đời, một cô gái như đắm mình trong gió xuân. Trời sinh cô có đôi mắt biết cười, khi nhìn người khác luôn dịu dàng mềm mại, không hề mang tính công kích nhưng cũng không khiến người ta nghĩ rằng cô dễ bị ức h**p. Mặc dù trong chốn quan trường đầy rẫy những người khoe tài khoe sắc, nhưng kiểu người tự nhiên, dễ gây thiện cảm và lấy lòng tin như cô thật sự rất hiếm thấy.

Trái lại, Lý Huống, người em trai có dung mạo tương tự cô lại có vẻ ngoài khó gần, cậu ta có thói quen nhíu nhẹ đầu mày, cả người toát lên vẻ kiêu ngạo lạnh lùng. Ngay cả khi cười cũng chỉ là nụ cười mỉa mai chế giễu. Việc cậu ta có thể trở thành bạn tri kỷ với Tạ Tuấn – một tên nhóc tính tình có phần vô tư trong sáng, đúng là chuyện vừa bất ngờ lại vừa hợp lý.

Tạ Cánh cũng chào hỏi lại với họ, sau đó xoay mặt lại, ngạc nhiên nói với chị dâu: "Cô bé nhà họ Lý và Tuấn Nhi là, là... Em còn tưởng chỉ là bạn bè quen biết bình thường thôi chứ."

Diêu thị buông tay, nói: "Cũng vì chị không biết có phải hay không, cho nên mới đến hỏi em đấy."

Tạ Cánh vẫn chưa thể chấp nhận sự thật này ngay được. Trong tiềm thức của y, Tạ Tuấn vẫn là hạt đậu nhỏ dính người giống như Lục Thư Thanh, chẳng ngờ chớp mắt một cái đã lớn khôn, trở thành lang quân cao ráo tuấn tú, lại còn có cả mối tơ tình khó mở lời cùng ai.

Ngoài sảnh vọng đến tiếng Lục Thư Thanh gọi "mợ ơi", Diêu thị bèn dặn dò Tạ Cánh: "Lúc nào rảnh thì em để ý giúp chị một chút nhé." Nói xong, chị lớn tiếng đáp lời rồi ôm Lục Thư Ninh rời đi.

Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng tạm thời thành người nhàn rỗi, đầu tiên vòng qua nhà sau một vòng, mỗi người tiện tay cầm mấy chiếc bánh mè chiên, sau đó ngồi xuống cạnh nhau trên chiếc ghế dài ngoài sân, buồn chán tán gẫu đôi câu.

"Em đang tính, mấy ngày nữa đến phủ chúc tết thầy sẽ tiện thể nhờ vả một câu, cũng sẽ thường xuyên đưa Thanh Nhi đến phủ Thái phó chơi, lúc nào không có việc gì làm thì nhờ thầy dẫn nó theo đến Quốc Tử Giám mở mang tầm mắt."

Khóe miệng Tạ Cánh còn dính dầu bóng nhẫy, Lục Lệnh Tùng đưa ngón tay lên ra hiệu, y lại không để tâm mà phẩy tay: "Ôi dào, dù sao cũng chẳng ai thấy, ăn xong rồi lau một thể luôn."

Lục Lệnh Tùng suy nghĩ một lúc rồi nói: "Sang năm thằng bé cũng chín tuổi rồi, thời gian trôi qua nhanh thật."

Lục Thư Thanh chín tuổi, cũng có nghĩa là bọn họ đã kết hôn được chín năm. Tạ Cánh vẫn còn nhớ rõ cảnh tượng vào ngày mùng bảy tháng Giêng năm Trinh Hữu thứ tám, y khoác lễ phục thêu chim công màu đỏ ánh vàng, từng bước rời khỏi phủ này, đặt bàn tay của mình lên lòng bàn tay của Lục Lệnh Tùng.

"Chúng ta cũng sắp đến tuổi nhi lập* rồi nhỉ." Tạ Cánh le lưỡi, "Đáng sợ quá đi."

(*) 而立之年 (nhị lập chi niên) là một thành ngữ Trung Quốc, chỉ độ tuổi 30 tuổi của người đàn ông. Cụm từ này xuất phát từ Luận Ngữ của Khổng Tử: "Ta mười lăm tuổi chí học, ba mươi tuổi lập thân, bốn mươi tuổi không còn mê muội, năm mươi tuổi biết mệnh trời, sáu mươi tuổi thì nghe gì cũng thông, bảy mươi tuổi thì làm gì cũng theo ý muốn mà không vượt khuôn phép." Trong đó, "而立" (nhị lập) nghĩa là đã đạt đến tuổi trưởng thành, có sự nghiệp và lập thân vững chắc.

Lục Lệnh Tùng nghiêng đầu nhìn sang, với dáng vẻ thản nhiên chẳng vướng bận điều gì, và tay thì vẫn đang cầm bánh điểm tâm thế kia của y, chẳng thấy có gì gọi là đang sợ hãi cả.

Hắn vỗ vai đối phương: "Có chuyện này ta luôn cảm thấy tò mò, nhưng không tiện hỏi em."

"Ồ?" Tạ Cánh ngạc nhiên, "Ngần ấy năm rồi, còn có chuyện gì mà anh ngại hỏi hả?"

Lục Lệnh Tùng vén lọn tóc rũ trước ngực y sang một bên, nâng chiếc hộp hương nhỏ bằng bạc lên: "Ngày đó khi lén ta kết tóc, rốt cuộc trong lòng em đã nghĩ gì vậy?"

Tạ Cánh sững người, chậm rãi nhai thêm hai cái. Y chưa từng nghiêm túc suy nghĩ đến chuyện này.

Tình cảm của y dành cho Lục Lệnh Tùng từ ban đầu chỉ là tò mò, rồi dần trở thành ngưỡng mộ, đến không nỡ rời xa, và cuối cùng là "yêu", rõ ràng đó là một hành trình dài dằng dặc, dù đôi khi có những khoảnh khắc sáng tỏ thoáng qua, nhưng phần lớn sự thay đổi đều diễn ra trong vô thức.

Vào đêm tân hôn, y chắc chắn rằng mình thật sự thích Lục Lệnh Tùng, điều này không sai, nhưng nói rằng y đã yêu sâu đậm đến mức nguyện cùng sống chết thì hoàn toàn không phải. Bây giờ nghĩ lại, Tạ Cánh cũng cảm thấy hành động nhân lúc đối phương ngủ say lén lút kết tóc có phần quá táo bạo và mãnh liệt.

Nghẹn lời hồi lâu, Tạ Cánh chỉ có thể lắp bắp: "... Em nghĩ, có lẽ là, vì đêm đó tiếp xúc da thịt với anh... Năm đó em mới mười sáu tuổi, bình thường chưa từng gần gũi với ai như vậy, có khi là đầu óc nóng lên, bèn..."

Nói đến đây, y lại càng phát hiện chuyện này cũng có lý. Một thiếu niên hoàn toàn không có kinh nghiệm về chuyện yêu đương, đối diện với người chồng mà mình vốn có hảo cảm, lại vừa mới chính thức thành thân lần đầu trải nghiệm mây mưa ân ái, cảm giác rất tuyệt, trong lúc say mê hứa hẹn cả đời cũng không phải là không có khả năng.

Lục Lệnh Tùng nghe câu trả lời của y, lộ ra vẻ mặt vừa mang hơi hướm nghiền ngẫm, vừa như được yêu thương mà sợ hãi.

"Còn anh chỉ giỏi lừa em bằng mấy lời ngon ngọt." Tạ Cánh chọt vào ngực hắn.

Lục Lệnh Tùng đáp: "Em đừng vội. Ta không chỉ có chuyện ngại không dám hỏi, mà còn có chuyện ngại không dám nói với em nữa đây."

"Gì cơ?"

"Trước đây ta suy nghĩ kỹ rồi, hình như đã hiểu vì sao phụ hoàng lại nói em có thể 'kiềm chế' ta."

Hắn nhớ lại một chút: "Từ trước khi em đứng đầu bảng Tam Nguyên, ta đã nghe không biết bao nhiêu lời đồn về em rồi. Bọn họ đều nói em mắt cao hơn đầu, không biết điều, không biết khách sáo, kiêu căng quái gở, không biết lớn nhỏ, không hiểu lễ nghĩa — tóm lại chẳng có lời nào tốt đẹp."

"Từ nhỏ đến lớn, những người ta tiếp xúc đều là tinh anh cả, ai nấy đều trơn tru khéo léo, giỏi xử sự. Ta chưa từng thấy ai ở thành Kim Lăng dám không màng để tâm đến mặt mũi của bản thân như vậy, thế nên ta rất muốn tự mình xem thử, rốt cuộc em là thần thánh phương nào."

Tạ Cánh ghé sát lại, lườm hắn: "Sau khi gặp rồi có phải thất vọng lắm không?"

"Không." Lục Lệnh Tùng lắc đầu. "Chỉ cảm thấy em trông như búp bê sứ, không giống người thật."

"Ồ, bảo sao vừa mới thành thân, có người đã không biết xấu hổ ngang nhiên ngủ chung giường với người ta, chẳng thèm nghĩ đến chuyện chia phòng nữa cơ."

Lục Lệnh Tùng đẩy nhẹ y một cái, cười nói: "Thật ra ta rất ngưỡng mộ em. Ta nghĩ bản thân từ nhỏ đã phải chịu áp lực nặng gấp trăm ngàn lần em, vậy mà đến một chữ 'không' cũng chẳng dám nói. Ta không dám làm mất mặt các công khanh quyền quý, không dám cãi ý phụ hoàng mẫu hậu, thậm chí đối diện với người ta không thích hay chuyện không muốn làm, ta cũng không dám cau mày dù chỉ một chút."

"Sau này khi chính thức quen biết em, tiếp xúc với em nhiều hơn, kết hôn rồi sinh Thanh Nhi, ta không biết liệu em có nhận ra hay không, nhưng ta đã không còn 'nghe lời' như trước nữa. Ta thích học theo dáng vẻ tùy tiện, ngang tàng của em, muốn làm gì thì làm, giận sẽ nói, ghét sẽ mắng... Tóm lại, mỗi lần thấy em, ta như thấy được một mặt khác của chính mình, dù không thể với tới nhưng lòng vẫn luôn hướng về. Tự nhiên cũng không kìm được mà coi trọng tính cách của em."

Hắn nói đến đây, Tạ Cánh đang ngẩn người thì bỗng nhiên Lục Thư Ninh chạy vào trong sân, không biết đang chơi trò gì, vừa nhìn thấy y cô bé đã lập tức nhào tới, khuôn mặt nhỏ đỏ bừng vì chạy nhảy, liên tục gọi "mẹ".

"Sao thế?" Tạ Cánh hỏi.

"Con chỉ muốn gọi mẹ thôi." Lục Thư Ninh ngẩng đầu lên, chiếc chuông nhỏ sau đầu khẽ va vào nhau phát ra âm thanh trong trẻo.

Tạ Cánh bẻ một miếng bánh trong tay, đưa cho em: "Nếm thử đi, bánh vừa mới chiên xong là thơm nhất đấy."

Lục Lệnh Tùng nhắc nhở: "Chừa bụng lát nữa còn ăn sủi cảo hoa mai nữa, nửa tháng trước đã đòi ăn rồi, con mà không ăn hết lần sau cha không làm nữa đâu."

Tạ Cánh ôm Lục Thư Ninh, cúi đầu nhìn em vất vả cắn miếng bánh bằng hàm răng sữa nhỏ như hạt gạo, bỗng nhiên đáp lại câu nói ban nãy của Lục Lệnh Tùng: "Chẳng qua là anh trưởng thành sớm hơn em một chút, gánh vác nhiều trọng trách hơn mà thôi. Em chưa bao giờ cần anh mắng chửi người cùng em, cũng chưa bao giờ cần anh vì em mà đối nghịch với bệ hạ và Hoàng hậu. Những thứ mà em muốn thật ra chỉ là một đài ao nhỏ, một đĩa bánh hấp và một vò rượu mà thôi. Con nói xem có đúng không, Ninh Ninh?"

Lục Thư Ninh vốn chẳng nghe y nói gì, chỉ ngẩng mặt lên, dùng cái đầu nhỏ cọ vào cằm y.

Đến chạng vạng tối, khách khứa mới dần dần tản đi, Tạ Cánh đi lên nhà trước, thấy Tạ phu nhân và Diêu thị đang quây quần bên lồng xông hương, vừa trông lò sưởi vừa cắt giấy hoa. Tạ phu nhân khéo tay vô cùng, cắt giấy thành hình "hỉ thước đăng chi" và "liên niên hữu dư". Thấy con trai nhỏ tới, bà bèn dùng chiêu cũ thường hay dỗ Tạ Cánh lúc y còn bé, tiện tay cắt một bông hoa tròn nhỏ, chấm chút hồ rồi dán lên mu bàn tay y.

Tạ Cánh vẫn còn rất thích trò này, vui vẻ ngắm nghía cả buổi, Diêu thị bật cười trêu: "Ninh Ninh chẳng thèm chơi trò này, em còn không bằng con bé nữa ấy."

"À, lúc đến đây con có thấy chữ 'Phúc' mới dán trên cửa chính, " Tạ Cánh nói, "Là chữ Thanh Nhi viết đấy mẹ."

Mọi năm, câu đối xuân ở phủ Chiêu vương và các phòng trong phủ ở ngõ Ô Y đều do y tranh thủ viết một lèo trong buổi chiều nào đó cuối tháng Chạp. Mấy hôm trước, đúng lúc thấy Lục Thư Thanh rảnh rỗi không có việc gì làm, lại đứng bên cạnh xem, Tạ Cánh bèn tiện thể bảo cậu viết hai tờ, không ngờ trông cũng khá giống.

Tạ phu nhân trêu chọc: "Cha con biết vậy nên vui mừng không ngớt, sáng nay gà còn chưa gáy đã dậy rồi, hớn hở mang đi dán ngay. Có khách nào tới cũng phải khoe một lần, sợ người ta không biết đây là chữ do cháu ngoại bảo bối của ông ấy viết."

Diêu thị xen vào hỏi: "Mà đêm nay các em ở lại đây chứ? Giường chiếu ở Nam viện đều đã dọn dẹp xong xuôi rồi, vả lại trong cung cũng không bắt bớ, ở thêm vài hôm nữa cũng có sao đâu."

Chưa đợi Tạ Cánh trả lời, Tạ Tuấn đã dẫn em trai và em gái họ của mình đi vào. Lục Thư Ninh ngồi trên vai cậu, còn Lục Thư Thanh bị cậu kẹp dưới cánh tay, trên tay cậu nhóc còn cầm một chiếc đèn lồng vải lụa, chắc là mới được mua cho từ chỗ mấy người bán đèn dạo dọc phố bên ngoài. Diêu thị vừa nhìn thấy đã nói ngay: "Thanh Nhi và Ninh Ninh ngủ với mợ nhé, quyết định vậy đi."

"Sao con lại không được nhận đãi ngộ này?" Tạ Tuấn d*ng ch*n ngồi phịch xuống giữa trường kỷ, tiện tay cầm một tờ giấy đỏ và cây kéo nhỏ lên, bắt đầu loẹt xoẹt cắt loạn xạ.

Thế là bị Diêu thị vỗ vào tay một cái, chị trừng mắt: "Con mấy tuổi đầu rồi mà còn đòi ngủ chung với mẹ hả?"

Tạ Tuấn ôm đầu, tránh bàn tay Tạ phu nhân đang chuẩn bị xoa đầu cậu như xoa mèo con chó con, cự nự: "Bà nội, bà có nghe thấy không! Con lớn bằng này rồi, không thể tùy tiện xoa đầu được đâu, con còn phải cao thêm nữa đó!"

Trong sảnh đốt lò sưởi suốt cả ngày, hương ấm lan tỏa khắp nơi. Tạ Cánh thấy mấy anh em chơi vui đến đổ mồ hôi, bèn bảo chúng cởi áo ngoài ra. Tạ Tuấn liếc thấy chiếc khóa trường mệnh trên ngực Lục Thư Thanh, chợt nhớ ra điều gì đó, cậu nói: "Chú, hôm nay Thái thú Ung Châu nhờ người mang một lô phôi ngọc* đến làm quà mừng. Cha con nghĩ năm xưa Thái thú từng có duyên thầy trò với điện hạ, từ chối thì không phải phép nên đã nhận và đáp lễ rồi. Vừa nãy cha cũng đã sai người mang một phần sang Vương phủ, chú và điện hạ xem rồi quyết định phân chia đi."

(*) Nguyên văn là "ngọc liệu" (玉料) có nghĩa là nguyên liệu ngọc hoặc phôi ngọc. Đây là từ dùng để chỉ các loại đá quý như ngọc bích, ngọc phỉ thúy, hoặc các loại ngọc khác ở dạng thô, chưa được chế tác.

Tạ Cánh ngoài miệng đáp cho có, nhưng trong lòng lại có chút nghi hoặc. Lục Lệnh Tùng và người thầy từ thời niên thiếu này thật ra cũng không có giao tình gì nhiều, thậm chí bình thường đối phương còn chẳng hề qua lại với phủ Chiêu vương, sao đúng thời điểm này lại đột nhiên mang quà cáp đến nhà họ Tạ? Chẳng lẽ là nghe được lời đồn gì đó về việc tranh đoạt ngôi vị Thái tử, muốn nhân cơ hội này lôi kéo quan hệ, tìm cách để được điều về kinh thành?

Vì giao thừa năm nay đông người, bữa tối được dọn ngay tại sảnh trước. Tạ Cánh có mang theo rượu Mai Sơn Tuyết từ Vương phủ tới, nhưng sợ cha mẹ lo lắng cho mình vì chuyện uống rượu nên cũng không dám uống nhiều, chỉ bảo người mở một vò góp vui mà thôi.

Tết ở Kim Lăng không có tục lệ ăn sủi cảo, mọi năm đều dùng chè trôi nước làm món chính, chẳng ai có lòng gói bánh. Sủi cảo là món Lục Lệnh Tùng làm riêng cho Tạ Cánh. Ban đầu mọi người biết y thích nên đều nhường hết cho y, Tạ Cánh ăn hai cái mới nhận ra, bèn bảo: "Mọi người cứ ăn đi chứ, mình con làm sao ăn hết được."

Lục Lệnh Tùng nói: "Ta có gói tiền đồng vào hai cái bất kì, cầu mong năm mới tài vận hanh thông, vạn sự như ý, không biết ai sẽ ăn trúng để lấy hên đây nhỉ?"

Hắn vừa dứt lời, cả nhà bèn đồng loạt ra tay, thậm chí ngay cả Tạ Dực cũng âm thầm tham gia. Đầu tiên Lục Thư Ninh và Tạ Tuấn cùng nhắm tới một chiếc sủi cảo, Tạ Tuấn muốn nhường cho cô bé, kết quả Lục Thư Ninh tuy nhỏ tuổi nhưng cũng hiểu đạo lý trên đời không có bánh từ trên trời rơi xuống, em chớp mắt một cái, lập tức đảo khách thành chủ: "Xưa giờ vận may của anh chẳng ra gì, thôi thì để em đổi sang cái khác vậy."

Rồi cô bé trơ mắt nhìn Tạ Tuấn ăn trúng đồng tiền đầu tiên.

Đúng là Tạ Tuấn đã quen với vận xui quấn thân, lúc này vui mừng đến nỗi suýt nhảy cẫng lên, không thèm để ý đến Lục Thư Ninh đang há hốc mồm kinh ngạc, lập tức quay sang hỏi xin Diêu thị một đoạn dây tơ, buộc đồng tiền lại treo trên cổ, còn thề thốt rằng ngay cả khi tắm cũng sẽ không tháo ra: "Năm sau có thể thắng lại tiền đã thua Lý Huống ở trường đua ngựa hay không đều trông cậy vào mày đó."

Ba cha con Tạ Cánh thì chọn cánh dùng "nhãn lực" để tìm kiếm, lớp vỏ của bánh hấp có đồng tiền gói bên trong sẽ hơi khác một chút, hiển nhiên là cả ba người đều cùng lúc nhận ra điều này. Ba đôi đũa vừa nhanh, vừa chuẩn, vừa gọn, chọc ra sáu cái lỗ trên chiếc sủi cảo dài, mép đồng tiền cũng lộ ra, âm mưu biến thành dương mưu, cuộc phân tranh may mắn bỗng chốc biến thành cuộc thi xem ai dùng đũa khéo hơn.

Tạ Cánh cầm đũa rất cao, mọi người cười nói rôm rả còn thấy kỳ lạ, đều bảo rằng cầm đũa cao thì sẽ gả xa, nhưng Tạ Cánh lại gả gần đến nỗi cưỡi ngựa cũng thấy phiền.

Câu nói kia là thật hay giả cũng không rõ, nhưng đúng là Tạ Cánh dùng đũa không thạo bằng cha và anh trai của mình, dù sao họ cũng ăn cơm nhiều hơn y ngần ấy năm. Mới vài lượt mà Tạ Cánh đã rơi vào thế yếu, ỉu xìu nhận thua, ngậm ngùi nhìn đồng tiền thở dài thườn thượt.

Cuối cùng, Tạ Dực là người chủ động rút lui, tỏ vẻ không thèm tranh giành chuyện nhàm chán này với con cháu, ông hừ một tiếng, nhường lại đồng tiền cho Tạ Duyễn. Nhưng nhìn sang bộ dáng háo thắng tranh đoạt như con nít của em trai mình, anh không nhịn được cười, thế là nhét luôn đồng tiền vào tay y: "Cho em này!"

Tạ Cánh lập tức cười tươi roi rói, biểu cảm thay đổi còn nhanh hơn cả Lục Thư Ninh, y cảm ơn một tiếng ngọt ngào như ngâm mật rồi kẹp đồng tiền giữa đầu ngón tay, xoay nó một vòng như làm ảo thuật, sau đó đưa tới trước mặt Lục Lệnh Tùng, khoe khoang với hắn: "Thấy chưa? Là anh trai em cho em đấy."

Lục Lệnh Tùng thấy y đáng yêu quá chừng, nghiêng đầu qua thì thầm bên tai: "Vui đến vậy à? Nhưng người gói đồng tiền vào sủi cảo cho em là ai ấy nhỉ?"

Tạ Cánh thoáng nở nụ cười nghịch ngợm, rót đầy chén rượu cụng nhẹ với Lục Lệnh Tùng, dùng tông giọng chỉ hai người nghe thấy nói khẽ: "Đương nhiên cũng là anh trai rồi."

Nói xong, y gọi Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh lại, dùng trà thay rượu, nâng chén nói: "Thôi được rồi, chén này con xin kính cha mẹ, anh trai và chị dâu. Cảm ơn mọi người đêm ba mươi đã cho bọn con tá túc, còn chuẩn bị cả bàn thức ăn thịnh soạn như thế này để thiết đãi. Nhưng nói trước nhé, chén này kính rồi là bọn con sẽ ăn chực uống chực đến tận Nguyên tiêu luôn, không được đuổi đi đâu đấy!"

Tạ phu nhân bật cười, mắng yêu: "Cả nhà nghe xem ai đó nói gì kìa! Lão đại à, lẽ ra lúc nãy con nên ném đồng tiền đó vào chén, để tiền kêu leng keng cho nó nghe, không khéo người ta lại tưởng ở ngõ Ô Y có ăn mày đấy!

Tạ Tuấn đã bắt đầu lôi "bùa may mắn" của mình ra giở trò: "Chú làm như thế là không hay đâu nhé, được lộc đầu năm thì phải hào phóng mời khách chứ. Tối nay tiền xua đuổi tà ma phải gói dày một chút mới được nha."

Lục Thư Thanh thì vẫn chậm rãi ăn phần của mình, cậu đã bắt đầu ăn từ trước khi mọi người cùng dùng bữa, đến khi mọi người ăn xong cả rồi cậu vẫn còn đang từ tốn nhấm nháp, tính ra cũng coi như là ăn chậm nhai kỹ, từ đầu đến cuối không hề bị gián đoạn. Cậu không rảnh miệng để nói chuyện, nhưng nghe thấy anh họ đòi tiền xua đuổi tà ma, cậu bèn tích cực gật đầu, "ừm ừ" như tán thành.

Dùng xong bữa tối, thức ăn thừa được dọn xuống, Diêu thị đột nhiên vỗ đùi một cái, kêu lên: "Sáng nay con có giấu mấy thứ hay ho, đúng lúc này đem ra chơi cho tiêu cơm được đấy!"

Nói xong, chị giống như thiếu nữ đôi mươi phấn khích rời khỏi chỗ ngồi, nhanh nhẹn dẫn đám trẻ con ùa ra ngoài, đến áo khoác cũng không kịp mặc, cuối cùng vẫn là Tạ Duyễn lên tiếng gọi lại, ném chiếc áo choàng của mình sang cho chị.

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh cũng theo ra góp vui, hóa ra Diêu thị đã sưu tầm được một đống pháo hoa đủ màu sắc không biết từ đâu ra, hào hứng sai hai người họ giúp đốt lên. "Tô Tiên Mai Hoa" mô phỏng cánh hoa tím nhụy trắng, "Bảo Bình Tượng Thiên" thì giống như từng chùm phượng tím rực rỡ, còn có "Thủy Kiêu Liên", "Biến Địa Cẩm", từng đợt từng đợt vút lên không trung, bừng nở rồi rơi xuống, tan ra vô tận tựa như muôn vàn ánh sao lấp lánh ngay trên khoảng trời nhỏ bé của phủ nhà họ Tạ.

Họ đốt pháo hoa không phải để phô trương xa xỉ hay thể hiện gia thế cao sang, cũng không phải để thu hút ánh mắt tò mò của phố phường, chỉ đơn giản là muốn ngắm nhìn cảnh đẹp, để lòng mình và cả nhà đều được vui vẻ. Ban đầu, Lục Lệnh Tùng còn lo Lục Thư Ninh sẽ sợ nên đưa tay che tai cho em, thế nhưng cô bé đã sớm bị cảnh tượng rực rỡ kia làm cho mê mẩn, em đưa bàn tay nhỏ xíu ra hứng những mảnh vụn của pháo hoa, lại phát hiện xúc cảm không giống như trong tưởng tượng, ngơ ngác buột miệng: "Lạnh quá."

Tạ Cánh đứng ở bên cạnh, nghe thấy vậy nụ cười thoáng sững lại, bất giác ngây người. Trời lạnh, pháo tàn, không phải điềm lành. Y không hiểu sao lại thấy bất an, lẩm bẩm: "Vào nhà thôi, cẩn thận gió lạnh."

Thế là bọn trẻ giống như bầy chim én trở về tổ, ngoan ngoãn nghe lời rúc vào bên cạnh y.

Mọi người đều mạnh miệng nói muốn thức đón giao thừa, nhưng dần dần ai nấy cũng bắt đầu ngáp ngắn ngáp dài, gục ngả xiêu vẹo. Tạ phu nhân xưa nay không thể thức khuya, đã tựa vào bên cạnh Tạ Dực lim dim từ lâu. Tạ Tuấn vốn đang ngồi gối đầu lên đùi bà đọc thoại bản giết thời gian, bỗng phát hiện Tạ Dực ra hiệu cho mình, ngẩng lên thấy bà nội đang gật gù ngủ gật, hai ông cháu cậu nhìn nhau bật cười. Lục Thư Ninh thì đã ngủ say trong lòng Tạ Duyễn, còn Diêu thị lại không chịu ngơi tay, lấy giấy dát vàng gấp nguyên bảo, chuẩn bị cho lễ tế tổ ngày mai.

Lục Thư Thanh vừa quấn mình trong chiếc chăn nhung dày, vừa bị kẹp giữa cha mẹ, thỉnh thoảng còn nấc lên một cái. Tạ Cánh bảo cậu cởi giày tất ra, để chân trần dưới tấm chăn áp sát vào lò sưởi, lòng bàn chân được hun nóng ấm áp.

Có lẽ là do hương liệu có tác dụng an thần, hoặc là do hơi men nồng ấm, cũng có lẽ vì không khí ở nhà ngoại luôn ngập tràn cảm giác bình yên, Tạ Cánh chỉ thấy cả người mình đều được thả lỏng, xương cốt như mềm nhũn ra, bồng bềnh giữa lớp da thịt. Y lơ đễnh nắm lấy ngón tay Lục Lệnh Tùng chơi đùa, mơ hồ nghĩ, nếu năm nào đêm giao thừa cũng có thể an nhàn vô lo như thế này thì tốt biết bao.

Đến chừng canh ba, khi chính y cũng bắt đầu mơ màng buồn ngủ, thì bỗng cảm giác Lục Lệnh Tùng khẽ vỗ nhẹ: "Chi Vô, tỉnh dậy đi, mau nhìn này."

Tạ Cánh hồi thần, hé mắt ra, đột nhiên phát hiện ngoại trừ màn sương mỏng lượn lờ, ngoài sân đang có vô vàn bông tuyết trắng tinh bay lả tả, khiến cho khoảnh khắc chớm bình minh của năm mới sáng như ban ngày.

Lục Lệnh Tùng khẽ thở dài: "Tuyết lại rơi rồi."

Không rõ chữ "lại" này là nói đến trận tuyết trước khi họ thành thân vào năm Trinh Hữu thứ tám, hay là từ rất nhiều, rất nhiều năm về trước khi cả hai vẫn còn là trẻ con, vào lần đầu tiên gặp nhau, Lục Lệnh Tùng đã nhét một nắm tuyết vào cổ áo Tạ Cánh.

Pháo hoa đã tàn, những mảnh giấy màu xinh đẹp rơi xuống sân, bên dưới là ánh đèn vạn nhà chiếu rọi, lấp lánh và rực rỡ như gấm vóc trải dài. Mà tuyết thì vẫn cứ mỏng manh, lặng lẽ, chầm chậm bao trùm, khiến cho hơi ấm rượu nồng, làn khói cháo nóng hổi cùng với sự huyên náo đêm giao thừa bỗng chốc lắng xuống, hóa thành một đoạn kết dài dằng dặc và trắng muốt như sứ.

Tuyết rơi là điềm lành báo hiệu mùa màng bội thu, đây hẳn là một dấu hiệu tốt, Tạ Cánh thầm nghĩ. Mong rằng mọi chuyện trong năm Trinh Hữu thứ mười bảy sẽ được suôn sẻ, cả nhà bình an.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 94


《 23.1 — Hiện tại 》

Đêm khuya, trên cổng thành Tử Kim Sơn*.

(*) Ở đây mình có chút nhầm lẫn, đó giờ mình toàn edit "紫金山" thành "núi Tử Kim", nhưng hôm nay mới biết tên đúng phải giữ nguyên là Tử Kim Sơn, vì đây là tên một địa danh nằm ở phía tây tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, thời Hán gọi là Chung Sơn. Mình đã sử dụng tên cũ từ đầu truyện nên sẽ bắt đầu thay đổi từ đây và rà soát lỗi sau, xin lỗi các bạn đọc nhiều lắm ạ >
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 95


《 23.2 》

Tạ Cánh ngồi bệt trên sàn trong đại sảnh quan thự, quay lưng về phía cửa, trước mặt là từng chồng tấu chương, hồ sơ và sổ sách chất cao như núi, bên cạnh chân còn có một hộp cơm chưa hề đụng vào.

Bên dưới công đường là đám quan viên của Hộ bộ, ai nấy đều liên tục cau mày, không ngừng thở dài.

Nạn rét đã qua, trận lụt đầu xuân năm nay cũng tạm thời có dấu hiệu thuyên giảm, cha con Vương Thục tái nhậm chức, việc đầu tiên làm là gióng trống khua chiêng cải cách chế độ. Quyền sở hữu đất đai là thứ không thể thay đổi, vì vậy chỉ có thể kiếm chuyện trên thuế khóa, mỹ danh gọi là "cùng dân nghỉ ngơi".

Cải cách thông thường phải chọn thí điểm trước, rồi tiến hành từng bước — tuy nhiên, giảm thuế khác hẳn với những chính sách vô thưởng vô phạt khác, vì nó thật sự có liên quan đến chuyện dân chúng vừa thoát khỏi họa lớn, và những người đang sống cảnh tha hương có sống sót được hay không. Nếu may mắn được giảm thuế, dù chỉ dư ra một hai phần tiền lẻ cũng đã đủ cứu mạng cả nhà họ; còn nếu chẳng may không được giảm, thì chuyện này không đơn giản chỉ là họa vô đơn chí.

Việc cải cách do phủ Tướng chủ trì, hiển nhiên, nơi đầu tiên được miễn giảm thuế chính là quận Hội Kê – nơi mà năm trước đã nhận được khoản tiền cứu trợ nhiều nhất, cũng là nơi tập trung chủ yếu các sản nghiệp của nhà họ Vương sau khi họ vượt sông Nam tiến. Tiếp đó là quê nhà của Vương thị - quận Lang Nha.

Hạng mục công việc này tương đối nhiều, Tạ Cánh dọn cả bàn làm việc đến Hộ bộ, đích thân thay Vương Thục giám sát. Lục Lệnh Chương ở bên trên chỉ phất tay một cái, ném hết tất cả những bản tấu can gián lẫn lời bóng gió chỉ trích việc chọn thí điểm không hợp lý xuống cho y, bảo y tự mình đối phó; mặt khác còn có đủ kiểu quan lại năm lần bảy lượt tìm cách vòng vo dò la tin tức từ y. Nửa tháng trôi qua, mọi thứ vẫn cứ ngổn ngang chồng chất khiến y đau đầu không thôi.

Tạ Cánh chỉnh lại tóc mai đã rối tung, hốc mắt y mỏi nhừ, mũi thì cay xè, cố gắng giữ tỉnh táo để tính toán, chợt nghe thấy phía dưới truyền lên tiếng gọi như gọi hồn của thuộc quan: "Đại nhân, đại nhân à..."

Bình thường nhóm thuộc quan kia không dám tùy tiện lên tiếng quấy rầy vị tổ tông vừa mới từ trên trời rơi xuống này, trừ phi gặp phải tình huống mà họ thật sự không xoay xở nổi.

Không rõ là Tạ Cánh không nghe thấy tiếng gọi hay là không muốn đáp lại, mãi mà y vẫn cứ nghiêng người bất động, còn chưa đợi thuộc quan khó xử gọi thêm lần thứ hai, "tình huống" đã sải bước đến ngay phía sau y.

Tạ Cánh chỉ cảm thấy cổ họng căng chặt, cổ áo bị đối phương túm lấy nhấc bổng lên, y ngoái đầu lại trừng mắt, thấy Lục Lệnh Tùng đang cúu đầu nhìn xuống mình, hai hàng mi của y khẽ run lên.

"Chuyện gì cũng có thể thương lượng mà, ngài thả tôi xuống trước đã."

Lục Lệnh Tùng nhẹ nhàng buông tay. Tạ Cánh chỉnh lại vạt áo của mình, loạng choạng lùi về sau nửa bước, nói: "Mấy ngày nay đại sảnh của Hộ bộ đón tiếp không biết bao nhiêu khách quý rồi, chẳng hay điện hạ cũng đến tìm tôi vì chuyện cải cách?"

"Tạ đại nhân đã cùng ta bàn xong chuyện chia chác Lạc Ấp và 'tang vật' của quận Trần, cớ sao chỉ lo làm áo cưới cho phủ Tướng mà không tính toán cho mình chút nào thế?"

Tạ Cánh nghe vậy, quay lại nhìn sắc mặt đám quan lại, chỉ thấy bọn họ vẫn còn ngơ ngác chờ y chỉ thị.

Lục Lệnh Tùng cười lạnh một tiếng: "Ta miễn thuế cho bách tính trên đất phong của Chiêu Vương, cũng là cầu tài cho nhà mình, xưa nay chưa từng sợ miệng lưỡi thế gian. Ngươi đã muốn nhúng tay vào, chẳng lẽ còn sợ người ta biết ư?"

Đúng là Tạ Cánh không sợ người khác biết, chỉ cần không dính dáng đến chính sự, chuyện y "vơ vét của cải" Vương Thục cũng chẳng quan tâm, bèn nói: "Điện hạ, mời ngài sang bên này nói chuyện."

Lục Lệnh Tùng xoay người đi trước, quét mắt một vòng đám thuộc quan của Hộ bộ, chỉ tay cảnh cáo: "Liệu mà giữ cho kín cái miệng của các ngươi."

Những người có mặt không ai dám lên tiếng, chỉ biết gật đầu như mổ thóc, lúc này Lục Lệnh Tùng mới dời bước vào nội sảnh. Tạ Cánh theo sau hắn, còn nghe thấy phía sau có người thấp giọng chửi rủa một câu.

Rèm cửa nội sảnh buông xuống, Tạ Cánh lập tức tiến đến trước mặt Lục Lệnh Tùng, hít hà mấy cái: "Mau lên, em ngửi thấy mùi thơm rồi!"

Lục Lệnh Tùng lấy từ trong ngực ra một gói giấy đưa cho y: "Ta nghĩ chắc em cũng chưa kịp ăn cơm."

Tạ Cánh cau mày: "Sao lại giấu trong áo, dính dầu rồi phải giặt, phiền chết đi được."

Lục Lệnh Tùng cười: "Cũng có bắt em giặt cho ta đâu."

Đây là thói quen mà Tạ Cánh giữ được trong suốt ba năm qua. Trước đây khi làm Chiêu Vương phi, mười ngón tay của y đương nhiên là không dính nước xuân, càng không biết thứ gì bẩn thì phải giặt ra sao, loại vải nào phải xử lý theo cách nào. May là ở Ung Châu không có cẩm y hoa phục cho y phá phách, quần áo bằng vải thô có giặt kiểu gì cũng không thể hỏng được.

Trong lớp giấy dầu là mấy chiếc sủi cáo nhân thịt bò được áp chảo vàng ruộm vẫn còn bốc hơi nóng hổi, hai mắt Tạ Cánh sáng lên: "Lâu rồi không được ăn, anh mua ở chỗ đó à?"

Lục Lệnh Tùng gật đầu: "Chỉ là không còn giòn như lúc vừa ra lò thôi."

Cách Vương phủ không xa, ở khu chợ ven sông Tần Hoài có một tiệm nhỏ chuyên bán sủi cảo nhân thịt bò chiên và súp lòng bò nấu lá đậu phụ, đây là một cửa tiệm không mấy nổi bật, Lục Lệnh Tùng hay tiện tay mua về khi đi ngang qua để giải tỏa cơn thèm. Khi ấy Tạ Cánh vừa sinh Lục Thư Ninh xong, ngán ngẩm mấy món thanh đạm nhạt nhẽo, vì thường được mua cho ăn nên y nhớ mãi hương vị này.

Lục Lệnh Tùng thấy y ngồi xuống dùng bữa bèn nhắc đến chuyện chính: "Tuyên Thất truyền tin về, hai quận Ngô Hưng và Tân An đã bắt đầu náo loạn. Sớ xin chỉ thị của Quận thủ sáng mai sẽ được dâng vào cung."

Tạ Cánh ậm ờ đáp: "Chỉ mới có từng ấy thôi hả, một mình Hội Kê đã đủ dấy lên sóng lớn ngập trời rồi, đợi danh sách các châu quận thử nghiệm cải cách đợt này được công bố đi, xem còn náo loạn đến đâu nữa."

Trước đó, những khu vực nhận được nhiều tiền cứu trợ nhất và những nơi hiện tại tiên phong thực hiện giảm thuế thực chất gần như hoàn toàn trùng khớp. Sở dĩ khi ấy không thấy ai phản kháng mà giờ lại bạo động liên miên, chính là vì thiên tai vừa qua, bách tính mới được thở ra một hơi.

Lục Lệnh Tùng nói: "Quận Tân An quản lý khu vực Huy Châu và vùng phụ cận, nhà nhà đều làm nghề buôn bán, sợ nhất là thuế nặng. Hơn nữa, vì số người ở lại canh tác rất ít nên gần như chẳng hưởng được bao nhiêu lợi ích từ chính sách hỗ trợ nông nghiệp, bởi vậy đó là nơi bạo loạn dữ dội nhất."

Tạ Cánh gật đầu, suy nghĩ một chút rồi hỏi: "Quận Ngô Hưng... Có phải cũng nhờ công lao của Tuấn Nhi không?"

Vài sĩ tộc ở Ngô Hưng như họ Diêu, họ Thẩm, họ Thi vốn đã cùng chung chiến tuyến, mối liên hệ giữa các nhà vô cùng mật thiết. Hôn sự giữa Tạ Duyễn và Diêu thị chính là một "kế sách" đôi bên cùng có lợi: vừa là cách để họ Tạ ở quận Trần củng cố chỗ đứng trong giới sĩ tộc bản địa Giang Nam, vừa là con đường để các môn phiệt ở Ngô Hưng đả thông cửa ngõ kinh thành. Trên chính đàn những năm Kiến Ninh, Trinh Hữu, họ vẫn luôn dựa sát bên Trần quận Tạ thị.

Mà khi nhà họ Tạ sụp đổ, thông gia cũng bị liên lụy, ai nấy đều rụt rè cẩn trọng, tự giấu đi hào quang sắc bén của nhà mình. Nay đã có cơ hội chấn hưng gia tộc, thay cờ đổi chủ, dĩ nhiên đều âm thầm chú ý theo dõi.

Lục Lệnh Tùng gật đầu, khẳng định suy đoán của Tạ Cánh. Tạ Tuấn vừa là con cháu dòng chính của Trần quận Tạ thị, vừa là ngoại thân của sĩ tộc Ngô Hưng, với thân phận của cậu, xuất hiện vào thời điểm này để lôi kéo, thuyết phục, ngấm ngầm thông đồng quả là thích hợp nhất.

"Mùa đông năm ngoái ai nấy đều lo sợ bất an, Giang Nam Giang Bắc đều khó khăn như nhau. Bách tính không có sức gây chuyện, cũng không đến mức cảm thấy bất công. Thế nhưng một khi cuộc sống dễ thở hơn đôi chút, lại chọn cải cách ngay lúc này, sự chênh lệch giữa các châu quận sẽ được thể hiện rất rõ, chênh lệch cực kỳ nhiều. Tân An và Ngô Hưng đều ở gần Hội Kê, nhìn mình sống khốn đốn thê lương, còn láng giềng gần ngay trước mắt lại dần khởi sắc, làm sao lòng người không dao động cho được?"

"Chính là lời này." Lục Lệnh Tùng thở dài. "Lúc trước ta giải thích cho Thanh nhi nghe, đến cả nó cũng hiểu được lẽ 'xưa nay triều đại đổi ngôi, chẳng qua đều là mưu tính tư lợi giữa các gia tộc' mà thôi."

Tạ Cánh hơi ngạc nhiên: "Anh còn nói với nó những chuyện này à? Em cứ tưởng hai cha con anh chỉ toàn nói chuyện ăn chơi thôi chứ."

Lục Lệnh Tùng bật cười: "Em nói chuyện có lý chút đi, chẳng phải trước giờ bọn ta cũng thường nói chuyện đàng hoàng sao? Ta với em ở chung mới chỉ toàn nói chuyện ăn chơi đấy! Huống hồ đâu phải người ta không hiểu, sao lại không thể nói? Trái lại là em cứ lo trước lo sau, coi thằng bé như trẻ con mãi."

Tạ Cánh nhướng mày: "Một tên nhóc con lạnh không biết mặc thêm áo, nóng lên lại ham lạnh, sáng sớm không ai gọi thì cứ nằm ườn trên giường chẳng chịu dậy, té ngã còn khóc gọi mẹ, có chỗ nào không giống trẻ con hả? Bây giờ anh lại bảo muốn nó học mấy thứ âm mưu dương mưu này, em không nỡ đâu."

Y vò tờ giấy gói đã trống không lại, sau đó dùng khăn lau qua đầu ngón tay, tiện tay vuốt lại tóc mai, nào ngờ lại vuốt xuống được một nắm tóc, nhìn mấy sợi tóc nằm trong lòng bàn tay khiến người ta giật mình.

Cả hai đều sững sốt, Tạ Cánh líu lưỡi: "Chắc là do gần đây mệt nhọc quá, rụng nhiều thế này."

Lục Lệnh Tùng khẽ gạt những sợi tóc ấy khỏi tay y, để chúng rơi xuống đất, thản nhiên tiếp lời: "Chẳng qua vì thằng bé không muốn trưởng thành trước mặt em thôi, ta tưởng em hiểu rõ điều đó chứ."

Tạ Cánh ngồi xuống trước bàn bên cạnh hắn, nghe hắn chậm rãi hỏi tiếp: "Trước khi đi, không phải em đã dặn bác Chu đốt hết bút tích của mình đi sao?"

Lục Thư Thanh khi đó không rõ thâm ý của hành động này, cũng không biết cha mẹ thật ra chưa bao giờ đoạn tuyệt, còn giận dỗi với Lục Lệnh Tùng một phen. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, hai cha con vẫn còn giữ khoảng cách, chưa trở lại như trước kia không gì là không chia sẻ với nhau. Một ngày nọ, Lục Lệnh Tùng ngồi bên cạnh cùng cậu đọc sách, đúng lúc đọc đến "Bi Phẫn Thi" của Thái Diễm, "Ta không dám lên tiếng nữa, còn Thanh Nhi thì vẫn như thường, mặt mày tỉnh bơ đọc câu: 'Người bảo mẹ nên đi, há còn ngày trở lại'..."

Tạ Cánh run lên, trong lòng thầm đọc tiếp: Xưa mẹ luôn nhân từ, nay sao chẳng còn thương. Con còn chưa trưởng thành, biết làm sao vơi nhớ?

Lục Thư Thanh đọc xong thì ngẩng đầu lên nhìn, Lục Lệnh Tùng nghẹn lời hồi lâu mới hỏi cậu: "Con trách mẹ không đưa con đi cùng sao?"

"Là con đã nói mẹ đừng đưa con theo," Đó là lần đầu tiên Lục Thư Thanh nhắc đến chuyện này trước mặt cha, "Đưa con theo, chỉ sợ sẽ còn nguy hiểm hơn cả việc mẹ và Ninh Ninh đi một mình; huống hồ nếu không có con ở Kim Lăng, tổ mẫu và cô sẽ trở thành lựa chọn hàng đầu để phủ Tướng dùng kiềm chế cha, con càng không thể đẩy họ lên đầu sóng ngọn gió."

Lục Lệnh Tùng thấy cậu có vẻ như đã suy nghĩ thấu đáo từ sớm, hắn lặng người: "Nhỡ đâu lần này mẹ con đi không có tin tức, thật sự không còn ngày trở lại..."

Lục Thư Thanh ngơ ngác nhìn hắn: "Cha cũng đâu có tin tức của mẹ, đúng không ạ? Nếu như mẹ và em có thể bình an vô sự mà sống tiếp, thì dù cả đời này không gặp lại con cũng đành chấp nhận; nhưng nếu, nếu như họ..."

Cậu không nói tiếp được, lời sau nghẹn lại nơi cuống họng, lòng dạ Lục Lệnh Tùng run rẩy, hắn kéo con trai vào lòng ôm lấy cậu, Lục Thư Thanh vùi mặt vào hõm vai cha, giọng nghèn nghẹn: "Con đã nghĩ đến kết quả xấu nhất từ lâu rồi, con đã nghĩ, nếu thật sự không còn mẹ nữa, con phải sống thế nào rồi."

Tạ Cánh nghe xong, im lặng hồi lâu, rồi y bỗng nói: "... Nhưng em chưa từng nghĩ đến."

Y đưa tay chống lên hai đầu gối, úp mặt xuống lòng bàn tay, chất giọng buồn bã truyền ra từ kẽ ngón tay: "Em chưa từng nghĩ, nếu không còn các con nữa, em sẽ phải sống như thế nào."

Lúc ở trong ngục, cha và anh trai đã dặn y "đừng báo thù", không phải Tạ Cánh không nghe lọt tai. Y hiểu rất rõ rằng sự hy sinh của người nhà không phải để y ngu xuẩn lao vào rồi góp thêm một mạng, nhưng vẫn là câu nói đó, những gì đã định trong số mệnh ắt sẽ xảy đến.

Ngày hôm nay y làm chuyện này, nói trắng ra không phải vì người đã khuất, cũng không phải vì bản thân mình. Người chết đèn tắt, thanh danh dù có trong sạch đến đâu cũng không thể khiến người thân sống lại; về phần mình, những năm qua y đã quen với cảnh giằng xé trong vũng lầy quyền lực, nếu cả quãng đời còn lại thật sự cũng phải sống trong cảnh dè dặt, luồn cúi xu nịnh, vậy thì y cũng đành nhận mệnh.

Nhưng y và Lục Lệnh Tùng không chỉ có bản thân mình, họ đã là cha mẹ, để Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh không phải chịu cảnh cốt nhục chia lìa thêm một lần nữa, để chúng không phải sống trong nơm nớp lo sợ, ăn bữa hôm lo bữa mai, chuyện này họ bắt buộc phải làm.

"Thanh Nhi dù có biết chuyện đến đâu, có thể hiểu những mưu mô thủ đoạn này đến mấy thì cũng chỉ là hiểu thôi. Vẫn còn lâu lắm mới đến lúc nó có thể thoát khỏi sự che chở của cha mẹ, tự mình thử sức dang cánh."

Tạ Cánh xòe hai tay ra, nói năng lộn xộn: "Các con của em còn chưa thể tự bảo vệ mình, con gái em còn nhỏ như vậy! Con bé mới đến thế gian này được bao lâu, đã xa em được bao nhiêu ngày đêm đâu chứ? Nếu chúng chẳng may gặp chuyện gì, em, em..."

Lục Lệnh Tùng nhẹ giọng thay y nói hết lời: "Nhưng ta vẫn còn sống khoẻ mạnh cơ mà?"

Hai người nhìn nhau, đều hiểu rõ những gì vừa nói không phải lời bông đùa.

Lục Lệnh Tùng bỗng nhớ lại một cảnh tượng từ rất nhiều năm trước, ngày hôm đó Lục Thư Thanh bị Đinh Ngọc bắt đi, cả nhà thức trắng đêm trong sảnh chính của Vương phủ đợi tin, khi ấy hắn đã nghĩ, nếu Lục Thư Thanh có mệnh hệ gì, thì giữa hắn và Tạ Cánh cũng hoàn toàn kết thúc.

Giờ phút này cảm giác đó chỉ có hơn chứ không kém — nếu như các con gặp phải chuyện bất trắc, thì vợ chồng họ không chỉ chẳng thể coi như không có gì mà tiếp tục ở bên nhau, mà nửa đời còn lại của hắn và Tạ Cánh cũng đừng mong được yên ổn, không phát điên thì cũng chết tức tưởi.

"Niềm an ủi duy nhất là nhà họ Ngô và cậu còn có thể nhờ cậy, ít ra cũng sắp xếp được một con đường lui ổn thỏa." Tạ Cánh thở dài.

Lục Lệnh Tùng nói ra tiếng lòng của y: "Còn chưa tận mắt thấy chúng trưởng thành, ta không cam lòng ra đi đâu."

Danh sách được tìm thấy trong di vật của Tiêu Thái hậu vẫn còn rõ mồn một, kết cục của hơn trăm "tử huyệt" trên đó, đến giờ họ vẫn chưa biết rõ, cũng không dám nghĩ tới.

Tạ Cánh vô thức bẻ khớp tay, nói: "Lúc còn chưa sinh Thanh Nhi, em đã âm thầm tính toán sắp đặt cho nó, cứ nghĩ rằng bản thân đã suy tính đủ nhiều, đủ lâu dài rồi. Đến khi nhìn vào cục diện hôm nay mới hận bản thân ngu ngốc vì đã hồ đồ đưa nó đến thế gian vẩn đục này."

Lục Lệnh Tùng khẽ cười: "Nếu theo lời em nói, truy xét tới tận cùng căn nguyên để chặt đứt từ khi manh nha, thì lẽ ra ngày nhỏ em và ta không nên gặp mặt trong cung mới phải."

Tạ Cánh quay đầu nhìn hắn chăm chú: "Lần đó là vào mùa đông năm Kiến Ninh thứ mười một, ngay trước thềm năm mới nhỉ?"

Ở Ung Châu, y thường mơ thấy ngõ hẻm sâu hun hút của cung Thái Sơ. Trong mơ, y hết lần này đến lần khác băng qua con đường lát gạch dài dằng dặc không có điểm dừng đó. Lúc đi từ biệt cha và anh, lúc đưa con cái đến Thần Long điện vấn an, lúc tham dự Quỳnh Lâm yến của các tân khoa tiến sĩ, dĩ nhiên còn có cả khi còn nhỏ, y đã cùng mẹ đến Tây cung bái yết, lần đầu gặp được Lục Lệnh Tùng.

Mùa đông năm Kiến Ninh thứ mười một, Tạ Cánh ở lại Kim Lăng hơn một tháng, trải qua không ít chuyện có thể xem như "kỳ ngộ" trong những năm tháng trẻ dại của mình. Y đã được gặp Diêu thị khi ấy hãy còn là khuê nữ trong lần theo trưởng bối đến thăm nhà họ Diêu; y được Tạ Duyễn dẫn đến miếu Phu Tử thắp hương cầu học nghiệp, thậm chí còn từng làm việc tốt, giúp một người phụ nữ tình cờ gặp trên phố gửi thư cho chồng để đoàn tụ... Những chuyện này, cùng với lần gặp thoáng qua với Lục Lệnh Tùng dường như đã dần nhạt phai.

Tạ Cánh năm tám tuổi từng nài nỉ mẹ đưa mình vào cung hoàn toàn không ngờ rằng sau này y cũng sẽ trở thành một phần của nơi đó, không ngờ cung Thái Sơ sẽ nuốt chửng người thân của y, chia cách y và người y yêu, rồi từng chút một thao túng con cái của y giống như nước ấm nấu ếch.

Cung điện này xưa nay vẫn luôn là một con quái vật, còn số mệnh của y đã được định sẵn ngay từ khoảnh khắc ấy rồi.

Đang không biết nói gì, bên ngoài phòng bỗng vang lên tiếng thông báo, nghe giọng người tới là một thuộc hạ thường xuyên giúp họ chuyển thư từ ở Tuyên Thất.

Gã không kịp giải thích tại sao mình lại mạo hiểm đến thẳng quan thự để tìm người, chỉ vội đưa một phong thư, nhỏ giọng nói: "Thư tay của Thái thú Ung Châu Hà Cáo, gửi tám trăm dặm khẩn cấp, nói rằng có chuyện hệ trọng, nhất định phải xác nhận với Vương phi."

Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng trao đổi ánh mắt, sau đó vội vàng xé thư ra xem. Cách hành văn của Hà Cáo ngắn gọn một cách đáng ngạc nhiên, chỉ hỏi rằng lá thư đính kèm có phải là do Tạ Cánh viết cho Lục Lệnh Chân hay không.

Quả nhiên trong thư còn kèm theo một tờ giấy mỏng, chỉ vừa rút thư nhìn thoáng qua, da đầu Tạ Cánh đã tê rần lên. Nét chữ này... Giống hệt với nét chữ trên mảnh giấy tiết lộ vị trí di chiếu thật, là Khứ Hà thể khó phân biệt thật giả.

Y lắc đầu lẩm bẩm: "Không phải em viết... Em chưa từng viết bức thư này."

Lục Lệnh Tùng dồn sự chú ý vào nội dung của bức thư tay đó, tập trung đọc một lúc, hắn chợt lạnh giọng hỏi gấp: "Thư này đã đưa đến tay Trưởng công chúa rồi sao?"

Thuộc hạ gật đầu, giải thích: "Hà đại nhân phái người đến nhờ Vương phi xác nhận bức thư, đồng thời lập tức điều trinh sát đuổi theo Trưởng công chúa và Hạc Vệ đã lên đường hồi kinh."

Lục Lệnh Tùng cau chặt mày: "Đuổi kịp không?"

Thuộc hạ lại do dự đáp: "Tiểu nhân không rõ, Ung Châu... Vẫn chưa gửi thư hồi âm."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 96


《 23.3 》

Thật ra ngay từ khi nhận được thư tay của "Tạ Cánh", Lục Lệnh Chân đã hoài nghi.

Chiến sự tạm thời gián đoạn, tuy rằng Hạc Vệ và quân phòng thủ Ung Châu không phải trận nào cũng thắng, nhưng nhờ chiến thuật du kích mà Lục Lệnh Chân lựa chọn, họ đã giảm thiểu tổn thất đến mức thấp nhất. Các châu quận biên giới nhờ vậy cũng bảo toàn được nguyên khí, có thể dư dả sức lực giúp dân chúng ứng phó với thiên tai.

Gian nan trong đó tuy chỉ có hơn chứ không kém gì so với khu vực Giang Hoài, nhưng bởi vì không có lợi ích đan xen phức tạp giống những nơi kia, quan dân cùng đồng lòng hợp sức nên tình hình ở đây đơn giản hơn nhiều.

Lục Lệnh Chân xin chỉ dụ hồi kinh vào cuối xuân, khi ấy đội quân chủ lực của Mạc Bắc đã rút lui, Đinh Giám dẫn theo thuộc hạ của mình làm nhiệm vụ bọc hậu cho đoàn quân, rời khỏi sông Vô Định – nơi chúng đã án binh bất động mấy tháng nay.

Chính vào thời điểm then chốt này, thư của Tạ Cánh đến.

Trước khi rời kinh, Lục Lệnh Chân và Lục Lệnh Tùng đã thống nhất với nhau là "mọi tin tức đều dựa vào quân báo", tức gần như tương đương với việc họ chỉ liên lạc một chiều. Lục Lệnh Tùng có thể biết được tình hình của nàng thông qua quân báo và tấu chương của Hà Cáo, nhưng chưa từng chủ động viết thư cho nàng, tất cả tin tức đều được truyền qua văn thư quan phủ. Mấy tháng nay, Lục Lệnh Chân chỉ nhận được đúng một lá thư nhà từ Lục Thư Thanh.

Nàng dám chắc Lục Lệnh Tùng sẽ nói cho Tạ Cánh biết về cách thức liên lạc đã bàn trước, và để tránh phát sinh phiền phức, anh dâu của nàng cũng sẽ tuyệt đối không tự ý gửi thư cho nàng.

Điều đầu tiên được nhắc đến trong bức thư tay là tiết lộ thân phận của Đinh Giám, cùng mối liên hệ của gã với vụ bắt cóc Lục Thư Thanh chưa thể thông tỏ năm xưa. Khi biết được chuyện này, Lục Lệnh Chân tuy ngạc nhiên nhưng cũng chỉ cảm thán đôi chút, hoàn toàn không bận tâm đến việc Đinh Giám có thật sự phản quốc hay không. Dù gì cũng là đối thủ từng giao chiến mấy lần, dù có truy xét lại chuyện xưa ân oán chất chồng cũng chẳng có ý nghĩa gì.

Thứ hai, trong thư nói rằng Tuyên Thất đã chặn được thư tín giữa một người trong triều và Mạc Bắc, trong đó tiết lộ thời gian và tuyến đường trở về của Lục Lệnh Chân cho quân địch, mưu toan nội ứng ngoại hợp, nhân lúc Hạc Vệ rời khỏi thành Ung Châu một mình tiến về phía trước, chúng sẽ chặn đường tiếp viện của quân phòng thủ Ung Châu để bao vây Hạc Vệ.

Đối với Lục Lệnh Chân, sự cấp bách và nghiêm trọng của việc này hoàn toàn không cùng mức độ với chuyện đầu tiên. Nhận được bức thư tay này khi chỉ còn vài ngày nữa là Hạc Vệ khởi hành, nàng lập tức đi tìm Hà Cáo.

Không chỉ vì lối chữ Khứ Hà vô cùng quen thuộc, điều thật sự khiến Lục Lệnh Chân không còn hoài nghi về tính chân thực của bức thư chính là hai con dấu trên trang giấy – vừa có công ấn của Thượng Thư Đài, lại có cả con dấu riêng của Tạ Cánh, con dấu mà trước giờ nàng đã thấy rất nhiều lần trên thiệp mời của phủ Chiêu Vương.

Hà Cáo cũng đồng ý với nàng rằng chuyện như thế này thà tin còn hơn không, bèn nhất trí quyết định xác nhận tuyến đường và thời gian, đồng thời bố trí một đội quân phòng thủ Ung Châu âm thầm hộ tống.

Bức thư tay cứ thế nằm lại trên bàn của Hà Cáo. Sau khi Lục Lệnh Chân và Hạc Vệ tranh thủ trời tối rời khỏi thành Ung Châu, Hà đại nhân ngồi xuống, vô tình liếc thấy nó, càng nhìn nét chữ Khứ Hà ấy càng cảm thấy có điều gì đó kỳ lạ.

Ông tìm những bút tích cũ mà Tạ Cánh để lại khi còn làm việc tại phòng thu chi ở phủ Thái Thú, đối chiếu một hồi cũng không có kết quả, thị lực của ông có hạn, thật sự không phát hiện ra được bất kỳ điểm khác biệt nào.

Hà Cáo suy nghĩ kĩ hơn, rồi bỗng giật mình kinh hãi, trong lòng chợt nảy lên một phỏng đoán mà ông tuyệt đối không mong muốn xảy ra, nhưng cũng không phải không có khả năng.

Ông không dám lấy sự an nguy của Trưởng công chúa ra để mạo hiểm dù chỉ một phần vạn, lập tức phái đi ngựa chạy nhanh nhất, một để đuổi theo Hạc Vệ, một tiến về kinh thành, dùng cách liên lạc với Tuyên Thất mà Lục Lệnh Tùng để lại, xin xác nhận từ Tạ Cánh rằng liệu lá thư ấy có thật sự do y viết hay không.

Lục Lệnh Chân lắng tai nghe, ngoại trừ tiếng quân mã thì chỉ có tiếng nước sông Vô Định cuồn cuộn chảy trôi. Ở bờ Nam của con sông vốn cũng có người dân sinh sống, nhưng vì lũ lụt mùa xuân nghiêm trọng, bách tính đành phải dắt díu nhau chuyển vào trong thành lân cận. Cách đây hai tháng, Hà Cáo đã phải hao tổn không ít công sức mới giải quyết xong những chuyện này.

Sau khi quân Mạc Bắc rút đi, giữa bờ Bắc và dãy núi xuất hiện một con đường mới. Mặc dù chật hẹp và hiểm trở, nước có lúc ngập đến đầu gối, đôi khi còn phải xuống ngựa lội qua, nhưng cũng chính vì thế mà hẻm núi này cực kỳ kín đáo vắng vẻ. Đây cũng là lý do Hà Cáo và nàng lựa chọn lối đi này.

Phó tướng giục ngựa tiến đến bên cạnh nàng, nói: "Công chúa, trinh sát vừa truyền tin về, quân Ung Châu mai phục ở trước cửa hẻm núi đã vào vị trí, một khi có biến, bất kể là bắn tên hay tiếp viện đều chỉ cần trong nháy mắt thôi."

Lục Lệnh Chân ngẩng đầu, nhìn về phía hẻm núi chìm vào trong màn đêm đen đặc, đáp: "Đợi ra khỏi khúc sông này, qua được trường thành, chỉ cần tốc độ hành quân nhanh hơn thì rủi ro sẽ giảm đi rất nhiều, đến lúc đó bảo bọn họ mau chóng quay về đi."

Phó tướng tuân lệnh, vừa định lui xuống thì chợt thấy phía xa có một bóng người, kẻ đó đang từ hướng đường núi dần dần tiến lại gần, hắn nghi hoặc nói: "Sao có người quay lại rồi, nhanh vậy ư?

Lục Lệnh Chân cho thổi kèn theo hiệu lệnh "dừng lại" của Hổ Sư lệnh. Nàng nhìn kỹ về phía kia, người đến quả nhiên vẫn là trinh sát quân Ung Châu, so với người lúc nãy, người này rõ ràng gấp gáp và hoảng loạn hơn nhiều, còn cách mấy chục bước đã lớn giọng gọi "Công chúa".

"Làm gì mà hốt hoảng vậy?" Lục Lệnh Chân tiến lên hỏi.

"Trạm gác vừa thấy có một đội quân từ đường núi phía Bắc đi về hướng thành Ung Châu, xem quy mô thì giống quân của Đinh Giám. Có vẻ như chúng rút đi được nửa đường thì đột nhiên đổi hướng, không rõ làm sao biết được một phần quân Ung Châu không có trong thành!"

Hắn vừa dứt lời, trong đoàn quân Hạc Vệ cũng có người hô lớn: "Nhìn kìa, lửa hiệu đã thắp lên rồi!

Lửa hiệu bùng cháy rất nhanh, Hà Cáo trong thành nhất định có thể nhìn thấy. Lục Lệnh Chân trầm ngâm giây lát, nhanh chóng nói: "Nếu chỉ với lực lượng dưới trướng Đinh Giám thì không đời nào chúng dám đối đầu trực diện. Mục tiêu của hắn rất có thể là những thôn xóm nhỏ ngoài thành. Chắc chắn hắn đã tính đến việc quân Ung Châu phân tán, điều động sẽ mất nhiều thời gian. Hơn nữa, một khi Hà đại nhân điều quân, phòng thủ trong thành sẽ càng trống trải. Nói không chừng hắn còn có hậu chiêu, chỉ đợi đúng lúc này để thừa cơ tiến vào."

Trinh sát vội hỏi: "Ý người là..."

"Quân thủ trên núi và Hạc Vệ đều không về Ung Châu kịp." Lục Lệnh Chân xoay người giơ tay, lại một lần nữa ra hiệu truyền lệnh: "Nhưng chặn Đinh Giám lại từ trước, chúng ta làm được."

Trinh sát quân Ung Châu lập tức phóng ngựa đi thông báo cho thủ lĩnh của hắn dẫn quân trở về theo đường cũ, tìm cách chặn đường quân Đinh Giám. Hạc Vệ thì ngay tức khắc men theo lối tắt từ cửa núi vòng qua gò đồi phía Bắc, tập kích bất ngờ từ sau lưng địch.

Lục Lệnh Chân nghe phó tướng hỏi: "Công chúa cho rằng Đinh Giám tự ý hành động hay là nhận được quân lệnh?"

Nàng đáp ngược chiều gió: "Hắn đảm nhiệm bọc hậu cho đại quân Mạc Bắc, vị trí đó khi rút quân chẳng khác nào kẻ chết thay. Xem ra chủ nhân của hắn không hài lòng với thành quả chiến đấu mùa đông năm nay, hơn nữa chưa hoàn toàn tin tưởng dòng máu của người Hán trong hắn, không thể nào để hắn quay lại công phá Ung Châu."

Phó tướng lại nói: "... Vậy chẳng lẽ là hắn không cam lòng, muốn đánh cược lần cuối để lập công chuộc tội sao?"

Lục Lệnh Chân trầm ngâm: "Đợi đến lúc gặp mặt sẽ rõ."

Địa hình phía Bắc nhiều vách đá hiểm trở và đất hoang, những dãy núi gần sông cũng không cao lớn, thiếu thốn cây cối có thể dùng làm nơi ẩn nấp. Vì vậy, Hạc Vệ không đốt đuốc, chỉ dựa vào khả năng nhìn đêm hơn người nhờ khổ luyện nhiều năm, lặng lẽ và nhanh chóng hành quân. Tầm khoảng giữa đêm, hơn nghìn người đã di chuyển đến khe núi phía Bắc. Trước một vách đá tương đối thông thoáng, Lục Lệnh Chân ghìm cương ngựa, ra hiệu cho binh lính hai bên dừng lại.

Đứng từ trên cao nhìn xuống có thể thu hết tình hình phía xa vào trong mắt. Thế nhưng trong tầm mắt Lục Lệnh Chân, nàng lại không thấy được bóng dáng của quân đội Đinh Giám theo như tin truyền, rằng "chúng đang đi từ đường núi phía Bắc hướng về Ung Châu", chỉ có ánh lửa bập bùng của kỵ binh dưới chân núi — đó là hàng dài đội quân Ung Châu uốn lượn như con rắn.

Phó tướng bỗng chỉ về lưng chừng sườn núi, kinh hô: "Công chúa, chúng không đi tiếp về phía trước nữa mà lên thẳng trên núi rồi!"

Lục Lệnh Chân nhìn theo, quả nhiên kia là đội quân của Đinh Giám, nhưng chúng không có vẻ gì là đang hành quân, mà giống như đang đứng yên, chờ đợi điều gì đó. Nàng nhíu mày, với khoảng cách và góc độ này, Đinh Giám hoàn toàn có thể thấy rõ quân Ung Châu dưới chân núi, nhưng tại sao gã lại án binh bất động, chỉ lặng lẽ nhìn theo bọn họ đi về phía Tây?

Tốc độ hành quân của quân Ung Châu tuy không bằng Hạc Vệ, nhưng họ cũng là những tinh binh kỵ xạ được tôi luyện qua nhiều năm chinh chiến ngoài quan ải, nếu không nắm bắt thời cơ, đợi đến khi bọn họ kịp quay về thành, thì dù là những thôn xóm nhỏ lẻ bên ngoài thành, quân Mạc Bắc cũng khó lòng chiếm được ưu thế.

Lục Lệnh Chân đang định tiến lại gần hơn để quan sát kỹ, thì đội ngũ của Đinh Giám bỗng nhiên có động tĩnh.

Viên lệnh quan bên cạnh Đinh Giám và người đứng cuối đội ngũ lần lượt vung cờ lệnh vài lần để truyền tin cho nhau. Cách thức phất cờ này lại bắt nguồn từ quân kinh kỳ Đại Tề mà Lục Lệnh Chân vô cùng quen thuộc. Tuy phương pháp truyền lệnh của quan binh không phong phú bằng Hổ Sư lệnh, nhưng lại đơn giản dễ nhớ, năm đó Lục Lệnh Tùng đã từng dạy nàng.

Theo như thư của Tạ Cánh nói, Đinh Giám là con trai của Đinh Viện, một vị tướng lĩnh thuộc Bắc đại doanh thời Kiến Ninh. Dù đã qua hai, ba mươi năm, nhưng trong những lần giao chiến, đặc biệt là khi Đinh Giám tự mình dẫn quân tác chiến mà không hợp tác với các tướng lĩnh Mạc Bắc khác, Lục Lệnh Chân vẫn có thể cảm nhận rõ ràng phong cách chiến đấu của quân kinh kỳ. Nói trắng ra, đây chính là bản lĩnh xuất chúng mà Đinh Giám đã luyện được từ thuở thiếu thời, tuy đã lưu lạc dị tộc nhưng cũng khó lòng thay đổi.

Cờ lệnh ở phía cuối đội ngũ có ý nghĩa là "không có", còn lá cờ ở đầu đội ngũ lại có ý bảo "lui lại". Thông điệp đầu tiên là tin tức mà cuối đội truyền về cho chủ tướng, còn thông điệp nối tiếp là mệnh lệnh Đinh Giám đưa ra ngay sau đó.

Thế nhưng, "không có" thường được sử dụng khi trinh sát hoặc quân tiên phong không phát hiện tung tích địch, nhằm báo hiệu phía trước an toàn, mà cờ lệnh lúc này rõ ràng không thể dùng để biểu thị "phía trước không có quân Ung Châu" được.

Song, mệnh lệnh của Đinh Giám lại là lui về phía sau, giống như đang cố ý chờ để xác nhận quân Ung Châu đã hoàn toàn rời đi rồi mới quay lại — Chẳng lẽ gã muốn ôm cây đợi thỏ, chờ Hạc Vệ không hay biết gì chạy đến tiếp viện rồi bao vây tiêu diệt sao?

Lục Lệnh Chân lẩm bẩm: "...Không, không phải."

Cho đến giờ, có lẽ mục tiêu của Đinh Giám chưa từng là Ung Châu, cũng hoàn toàn không phải gã muốn đánh lén, đánh úp hay lập công chuộc tội gì cả.

Ngay từ đầu, gã đã nhắm vào Hạc Vệ, muốn dùng kế dụ quân Ung Châu rời đi, sau đó bao vây Hạc Vệ ở trong núi!

Nhưng Hạc Vệ dù có xảo quyệt thiện chiến đến đâu, tổng cộng cũng chỉ có khoảng nghìn người, trong suốt mùa đông này, ngay cả trong các trận lớn nhỏ, người chỉ huy họ cũng không phải lúc nào cũng là Trưởng công chúa. Lục Lệnh Chân thường dẫn quân Ung Châu, còn Hạc Vệ lại chọn dùng chiến thuật "tận dụng triệt để", tùy cơ ứng biến.

Đinh Giám phản quốc về với Mạc Bắc, nhưng cũng chẳng phải kẻ tận tâm tận lực gì, giữa bọn chúng còn có hiềm khích với nhau. Thật lòng mà nói, Lục Lệnh Chân không nghĩ gã có lý do gì để mạo hiểm tự ý rời vị trí chiến đấu, truy đuổi Hạc Vệ khi chưa nhận được quân lệnh. Dù có hận, gã cũng nên hận Hổ Sư và Lục Lệnh Tùng – người đã giáng đòn chí mạng gây thiệt hại cho hắn mới đúng. Có chăng, cờ lệnh "không có" này không phải chỉ quân Ung Châu, cũng không phải chỉ Hạc Vệ, mà là ám chỉ trong đội quân đó không có Kiến Uy tướng quân của Đại Tề, không có Trưởng công chúa, không có Lục Lệnh Chân nàng?

Đinh Giám và nàng dù đã giao chiến nhưng không hề quen biết nhau trước đó. Lục Lệnh Chân từng suy nghĩ rất kỹ đối thủ này, nhưng nàng cũng chỉ mới biết được đôi chút về tính tình và quá khứ của hắn qua bức thư vài ngày trước.

Nghĩ tới đây, hai mắt nàng bỗng mở to, cảm giác lạnh lẽo tức khắc lan dọc sống lưng, bức thư đó!

Nội dung bức thư còn cố tình nhắc tới chuyện "đổi đường". Ngay từ đầu chỉ có quân Mạc Bắc là luôn đóng quân ở bờ Bắc sông Vô Định, vậy thì kẻ nắm rõ nhất về thời gian rút quân và đường đi... Đương nhiên cũng chính là quân Mạc Bắc rồi!

Trong đầu Lục Lệnh Chân xoay chuyển thật nhanh, sao anh dâu của nàng lại biết những điều này? Hay là Tạ Cánh vốn dĩ không biết, và y thật sự không biết, mà là có kẻ mạo danh y, giả nét chữ thậm chí đánh cắp cả con dấu riêng của y để làm giả bức thư, mục đích chính là truyền tin cho Lục Lệnh Chân, dụ nàng chọn con đường này, để cả Hạc Vệ cũng bị vây khốn ở đây?

Nếu sự thật là như vậy, ai là người có thể làm được chuyện này? Ngay cả Hà Cáo cũng không nhận ra sao?

Đội quân của Đinh Giám bắt đầu tiến lên. Lục Lệnh Chân đã giao chiến với chúng không chỉ một lần ở khu vực này, vậy nên nàng có thể nhận ra con đường gã chọn chính là đường tắt mà quân Ung Châu từng mai phục, và cũng là con đường mà Hạc Vệ mới lên núi khi nãy. Giờ đã không còn chướng ngại hay mai phục, chỉ chưa đầy nửa canh giờ nữa thôi, đối phương chắc chắn sẽ đến được cửa ngõ duy nhất của hẻm núi và phong tỏa nó. Còn vị trí hiện tại của Hạc Vệ thì nằm gần đỉnh núi, từ đây muốn đi về hướng Nam hay Bắc đều không thể nhanh hơn Đinh Giám.

Theo tuyến đường mà Đinh Giám đã hoạch định, chắc chắn gã sẽ đích thân dẫn quân tới cửa hẻm núi ở phía Nam. Điều duy nhất có khả năng xảy ra chính là ai đó có thể kéo dài thời gian, khiến gã không kịp quay lại điều động viện quân. Dù cho dưới chân núi phía Bắc – nơi nằm ngoài tầm nhìn của Lục Lệnh Chân có để lại binh lực, nàng vẫn tin rằng Hạc Vệ đủ sức để thoát khỏi vòng vây.

Lục Lệnh Chân xoay người lại, thần sắc vẫn như thường, nói: "Chia quân ra phía Đông, ở giữa, phía Tây mỗi nơi một nhóm, xuống núi theo hướng Bắc. Nếu gặp địch tập kích thì đừng dây dưa, đây vốn dĩ là sở trường của các ngươi, vậy nên cứ đánh càng nhanh càng tốt rồi về thành Ung Châu tìm cách tránh vài ngày. Sau đó hãy nghe ngóng tình hình, nếu mọi sự yên ổn thì lập tức về kinh, tìm Chiêu Vương điện hạ phục mệnh. Nhớ cho kỹ, đừng để Hà đại nhân biết các anh có mặt trong thành."

Các thân binh ở gần nàng nhất đều không hành động ngay. Nhưng bản chất của Hạc Vệ từ trước đến giờ đã khiến họ ít nói hơn binh sĩ bình thường, huống chi là nghi ngờ quyết định của Lục Lệnh Chân. Im lặng hồi lâu, chỉ có một người thấp giọng nói: "Công chúa, năm đó khi chúng tôi bị điện hạ phân ra khỏi Hổ Sư, đưa về dưới trướng của người, chúng tôi đã từng lập lời thề, rằng chuyện quan trọng đều do người làm chủ, coi việc bảo vệ an nguy của người là trách nhiệm của mình."

Lục Lệnh Chân nghe vậy, khẽ cười hắt một tiếng, sau đó quay mặt nhìn về phía dãy núi chìm trong đêm đen thẫm. Nàng hiểu ý của thuộc hạ, từ khi Hạc Vệ thành lập, họ đã được huấn luyện rằng phải bảo vệ vị chủ nhân này bằng mọi giá, đồng thời tuân theo mệnh lệnh của nàng vô điều kiện. Nếu nàng là công chúa, họ phải "trung quân", nếu nàng là tướng quân, họ phải "tận trách".

Thế nhưng, mối quan hệ tưởng chừng chặt chẽ, kín kẽ này lại bắt nguồn từ anh trai của nàng, chứ không phải từ chính nàng. Cũng giống như việc nàng có thể trở thành công chúa của đất nước này bởi vì nàng là con gái của phụ hoàng, hoàn toàn không liên quan gì đến bản thân nàng cả.

Lục Lệnh Tùng đã nổi tiếng với phong cách hành quân linh hoạt đến mức "xảo quyệt" từ lâu, trong khi Lục Lệnh Chân lại thường tỏ ra có chút ngay thẳng vụng về. Trong ba năm đó, Lục Lệnh Tùng thỉnh thoảng sẽ về kinh ở lại vài ngày, lúc rảnh rỗi hai người thường đàm đạo về binh pháp. Có lần, hắn hỏi nàng: "Dùng cách thức múa đao khua kiếm của em để vận dụng vào chuyện này đi, chẳng phải em luôn rất giỏi dùng sự khéo léo của mình hay sao? Sao lên chiến trường lại giống như ruồi mất đầu thế này?"

Nàng không suy nghĩ nhiều, chỉ đáp: "Múa đao khua kiếm thế nào là chuyện của em, sống chết do trời, em chỉ cần chịu trách nhiệm cho tính mạng của mình là được. Nhưng làm tướng lĩnh quân, em phải chịu trách nhiệm cho tính mạng của hàng vạn người, không dám không nơm nớp lo sợ."

Lục Lệnh Tùng nghe xong im lặng hồi lâu, cuối cùng gạt đổ sa bàn: "Em thử diễn lại một lần nữa cho anh xem nào."

Về sau, sự điềm tĩnh trong hành quân của Hổ Sư và sự khéo léo trong tác chiến của Hạc Vệ có lẽ đều bắt nguồn từ lần "bàn luận suông" tưởng chừng ngẫu nhiên và tầm thường của anh em họ.

Lục Lệnh Chân tuyệt đối không phải người lỗ m ãng háo thắng, nhưng nàng không dám chắc liệu Hạc Vệ có thật sự là mục tiêu của Đinh Giám hay không. Nếu không phải, vậy thì khi nhìn thấy nàng, Đinh Giám sẽ không tiếp tục phái người đuổi về phía Bắc; nếu phải, vậy thì sự kìm chân của nàng có thể tranh thủ thêm thời gian giúp Hạc Vệ thoát thân.

"Rời khỏi Kim Lăng, hòa thân không thành, thật ra các anh không cần phải xem ta là công chúa nữa; đi theo đến Ung Châu cũng không phải do các anh tự nguyện, người đề bạt các anh không phải ta, lương bổng của các anh cũng không phải do ta phát, càng không cần phải nhận ta làm chủ tướng. Trước đây các anh bằng lòng nể mặt ta, ta rất cảm kích, hôm nay gặp chuyện, ta không thể để các anh theo ta mạo hiểm được."

Các thuộc hạ nhìn nhau, Lục Lệnh Chân nói đến đó thì dừng lại, rồi nàng ngước mắt ra hiệu cho phó tướng. Đối phương thoáng sững lại, đành khẽ giọng nói: "Chư vị, đừng nói những chuyện không liên quan nữa, mau chóng lên đường thôi."

Mọi người nghe vậy cũng không nói gì nữa, lập tức tản đi, chốc lát sau đội quân đã chia ra ba nhánh nhưng không giục ngựa đi ngay, họ vẫn đang chờ đợi mệnh lệnh của Trưởng công chúa theo thói quen.

Lục Lệnh Chân chỉ nói: "Sau này còn gặp lại."

Rồi nàng vung roi ngựa lên, trong nháy mắt đã hòa cùng màn đêm sâu hun hút, chẳng hề quay đầu.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 97


《 23.4 》

Đinh Giám dẫn binh đến cửa hẻm núi ở bờ Bắc sông Vô Định thì trời đã gần sáng. Trên tảng đá phía trước đã có một kỵ binh đang chờ sẵn, người mang giáp bạc hông đeo kiếm dài, cưỡi ngựa Đại Uyển kia chính là Trưởng công chúa nước Tề – Lục Lệnh Chân.

Hai người nhìn nhau từ xa, im lặng đối đầu. Lục Lệnh Chân chỉ có một mình, không lùi cũng không tiến, nàng lạnh lùng ngồi thẳng trên lưng ngựa, nghiêng người chắn ngang giữa đường núi, ánh mắt dán chặt vào Đinh Giám và quân Mạc Bắc phía đối diện.

Không biết đã qua bao lâu, Đinh Giám bỗng nhiên vỗ tay một cái, một tên tù binh bị trói gô cổ và tay được đẩy ra khỏi hàng ngũ phía sau gã. Kẻ đó toàn thân đẫm máu, dáng đi chật vật không tả nổi, loạng choạng tiến về phía Lục Lệnh Chân.

Lục Lệnh Chân sững người, phát hiện quần áo trên người hắn là quan phục của Đại Tề. Sau khi nhìn kỹ hơn, nàng lập tức nhận ra kẻ này chính là thuộc quan của Thái thú Ung Châu, một tâm phúc bên cạnh Hà Cáo.

Nàng không kìm được cất tiếng chất vấn: "... Ngươi đã thông đồng với địch sao?"

Đinh Giám nghe vậy bật cười khoái chí: "E là công chúa trách lầm vị nghĩa sĩ này rồi."

Gã quay sang tên thuộc quan kia, nói: "Chẳng phải mày đến truyền tin sao? Công chúa đang ở trước mắt mày kia, có gì thì nói đi nào."

Trong đầu Lục Lệnh Chân như có tiếng nổ vang, sau khi nàng rời đi, Hà Cáo có lẽ đã phát hiện ra bức thư tay kia là giả, hơn nữa còn phái người tới báo tin cho Hạc Vệ! Chỉ tiếc là đã chậm một bước, người đưa tin cuối cùng đã bị Đinh Giám chặn lại.

Quả nhiên, tên thuộc quan nghiến răng căm phẫn liếc Đinh Giám một cái, giọng run rẩy: "Hà đại nhân lệnh cho tôi đến báo với công chúa, thư từ kinh thành có điều bất thường, giống như là bẫy. Xin người mau chóng tìm cách rút quân về thành Ung Châu!"

Lục Lệnh Chân còn chưa kịp cảm thấy áy náy vì suýt nghi ngờ Hà Cáo, đã nghe thấy Đinh Giám hỏi: "Truyền lời xong chưa?"

Sau đó, gã giơ kích phóng tới, tên thuộc quan lập tức ngã xuống, chết ngay tại chỗ!

Tiếng thét vì kinh hoảng của Lục Lệnh Chân nghẹn lại trong cổ họng, hai mắt trừng lớn đầy phẫn nộ, nhưng nàng ép bản thân phải đứng yên tại chỗ, không được phép dao động dù chỉ một chút.

Đinh Giám đi quanh thi thể của tên thuộc quan hai vòng, thản nhiên nói: "Hà Cáo mấy năm nay già cả lẩm cẩm, lú lẫn rồi, mắt mũi cũng không còn rõ nữa. Một con nhóc ranh như ngươi không nhận ra chữ của thằng họ Tạ kia thì thôi, vậy mà ngay cả lão ta cũng không nhận ra."

Lục Lệnh Chân lạnh giọng đáp: "Khi Hà đại nhân rời kinh, anh ấy vẫn còn nhỏ, nhận ra được mới lạ."

Đinh Giám điềm nhiên đáp: "Lão rời kinh chứ có phải mù điếc đâu. Lão già đó còn tinh tường lắm, tình hình trong kinh lão nắm rõ như lòng bàn tay. Ngươi cho rằng số của họ Tạ kia may mắn như vậy à, lưu lạc đến Ung Châu, muốn vào phủ Thái thú là được vào, muốn làm phụ tá là được làm ư? Ngươi nghĩ xem, nếu Hà Cáo không biết rõ danh tính và thân phận thật sự của nó, lão dám tùy tiện thu nhận một kẻ ngoại lai vô danh tiểu tốt làm cánh tay đắc lực cho mình sao?"

Lục Lệnh Chân cau mày, nàng từng nghe Lục Thư Thanh kể lại hành trình của Tạ Cánh ở Ung Châu, trước giờ chỉ cho rằng vì muốn điều tra chân tướng vụ thảm án của nhà họ Tạ nên Tạ Cánh mới chủ động nương nhờ phủ Thái thú, từ đó thăm dò Hà Cáo. Nhưng theo như lời Đinh Giám nói, chẳng lẽ ngay từ đầu việc Hà Cáo thu nhận Tạ Cánh đã nằm trong tính toán của ông ta, là cố ý sao?

Đinh Giám cười lạnh: "Sao hả, không tin à? Năm đó cha ta làm việc ở Đông cung, từng nói Hà đại nhân chính là kẻ diễn giỏi nhất trong cả phủ Thái tử, chuyên giả ngu ăn thịt hổ, không ai qua mặt nổi lão. Chẳng phải lần này các ngươi lại bị lão diễn cho xem sao? Để ta đoán nhé, hẳn là anh trai anh dâu ngươi đã cảm động rớt nước mắt vì 'ơn thu nhận' của lão, hứa hẹn đưa lão hồi kinh dưỡng già rồi đúng không?"

Lục Lệnh Chân cố giữ bình tĩnh, cất giọng đều đều: "Bức thư gửi cho anh dâu ta, là do nội ứng của ngươi trong triều giả mạo phải không? Kẻ thông đồng với địch không phải người chết oan này, cũng không phải Hà Cáo, mà chính là ngươi."

Đinh Giám cất giọng cười to: "Cha ta bị bức chết ở nơi xứ người, mẹ và chị gái chết thảm, ta sống trong lãnh thổ Đại Tề các ngươi nửa bước cũng khó đi, chẳng qua chỉ là chọn một con đường sống khác mà thôi! Ta dựa vào cái gì phải học Bá Di, Thúc Tề không ăn thóc nhà Chu* chứ? Trái lại là ngươi đấy, một đứa con gái bị đẩy đi hòa thân, nếu vẫn một lòng hướng về triều đình của ngươi thì mới thật là nực cười!"

(*) "伯夷叔齐不食周粟" (Bá Di Thúc Tề bất thực Chu túc) là một điển cố trong văn học Trung Quốc, xuất phát từ câu chuyện về hai anh em Bá Di (伯夷) và Thúc Tề (叔齐) thời nhà Thương và nhà Chu. Câu này thường dùng để chỉ những người có khí tiết, không chịu khuất phục trước quyền lực hay sự ban ơn của người mà họ cho là bất chính, dù có phải chịu thiệt thòi hay mất mát.

Lục Lệnh Chân im lặng, không phản bác cũng không đáp lời, bởi vì lời Đinh Giám nói đã nhắm trúng vào tâm sự của nàng. Thân phận "công chúa" mang đến cho nàng hai mươi năm vinh hoa nhưng cũng là gông cùm dát gấm. Mọi sự "tự do" lọt qua kẽ tay nàng nếu không phải nhờ phụ hoàng thờ ơ thì cũng nhờ anh trai đảm bảo. Mà nàng, bởi vì đã nhận ơn nuôi dưỡng của thiên hạ nên không có tư cách oán trách điều gì, nếu không sẽ bị chất vấn là được lợi còn làm bộ giả khổ.

Ta đã hưởng bao năm gấm vóc lụa là, đứng trên vạn người, có lẽ ta nên yên lòng lấy thân mình đáp đền lê dân bá tánh chăng? Lục Lệnh Chân vẫn luôn nghĩ về câu hỏi này, nhưng mãi mà nàng vẫn chưa nghĩ thông. Đây là vấn đề mà người mẹ dịu hiền, anh trai kiên cường hay anh dâu thông tuệ của nàng cũng không thể giải đáp được, bởi vì không ai trong họ có hoàn cảnh giống nàng, không một ai có thể đồng cảm với nàng. Lần đầu tiên trong đời, Trường công chúa không có ai để dựa vào, không có sách vở nào để tham khảo, trên con đường hoang vu chưa từng có dấu chân, nàng chỉ có thể mờ mịt dáo dác.

Nhưng với sự phóng khoáng tồn tại từ trong xương tủy, Lục Lệnh Chân sẽ không dễ dàng bị sự mê mang nhất thời ấy đánh gục. Nàng chọn cách không nghĩ ra thì tạm gác lại, nói suông chẳng bằng hành động, vì vậy nàng đã tự xin hòa thân, rời xa cố hương, nhanh chóng trở thành Kiến Uy tướng quân.

Lục Lệnh Chân chỉ nói: "Ta rời khỏi cung điện là để tìm lấy tự do, không phải để báo đáp 'đất nước' đã giam cầm ta cả đời. Ta chỉ muốn bảo vệ và đền ơn ngàn vạn người xa lạ đã từng nuôi dưỡng ta, bằng cách mà ta yêu thích hơn thôi."

Lục Lệnh Chân không muốn tranh luận những chuyện này với Đinh Giám, nhưng nàng mơ hồ hiểu rằng, từ sâu tận đáy lòng, suy nghĩ của họ có vài phần tương đồng.

Đinh Giám nghe vậy, liếc mắt nhìn Lục Lệnh Chân: "Ngươi còn có tiền đồ hơn thằng anh trai ngu xuẩn của ngươi đấy, chỉ tiếc sai lầm lớn nhất của ngươi chính là có người anh trai như hắn. Cho nên, ta đành tiễn ngươi lên đường vậy."

Lục Lệnh Chân nhớ đến bức thư giả từng nhắc, rằng năm ấy, chính Đinh Giám cùng chị gái của hắn – Đinh Ngọc, người bị bán vào biệt viện núi Thang Sơn của nhà họ Ngô từ nhỏ, đã nhận lời ủy thác của kẻ vô danh nào đó, vì "cứu Tạ Cánh" mà giết Lục Thư Thanh. Cuối cùng nhiệm vụ không thành, Đinh Ngọc tự sát tại chỗ, còn Đinh Giám thì trốn thoát rồi bặt vô âm tín.

Nghĩ đến lời Đinh Giám vừa nói về việc "mẹ và chị gái chết thảm", Lục Lệnh Chân khẽ siết dây cương, vừa đi vòng quanh một đoạn không xa không gần, vừa liên tục phòng bị thế tấn công của đối phương, nàng hỏi: "Ngươi muốn báo thù cho chị gái của mình sao?"

Nàng nhếch môi cười: "Chị ngươi giết người không thành nên chỉ còn cách tự sát, vậy nên Đinh tướng quân muốn tìm ta để báo thù ư?"

Đinh Giám cả giận quát: "Nếu không phải do anh trai ngươi ép buộc, chị ấy sẽ không vì bảo vệ ta mà phải bỏ mạng, chị ấy vốn dĩ không cần phải chết!"

Lục Lệnh Chân hừ lạnh một tiếng như thể vừa nghe được chuyện nực cười nhất thiên hạ: "Vậy thì chị ta vốn không cần phải giết người thay kẻ khác! Ta mặc kệ phía sau có người đang hô mưa gọi gió muốn các ngươi giết Lục Tử Phụng hay giết ta, cũng thường thôi, bọn ta sinh ra đã mang họ này, chết trong tranh đoạt quyền vị cũng đành nhận mệnh! Nhưng cháu ta năm ấy còn chưa được nửa tuổi, một đứa trẻ vô tri vô giác, các ngươi dám nhắm vào nó thì đúng là tội ác tày trời!"

Đinh Giám nghe vậy, sắc mặt càng tối lại: "Công chúa là đang phẫn nộ thay ai đây? Thay anh trai và anh dâu của ngươi? Hay là thay cháu ngươi? Ngươi có biết tội ác tày trời mà ngươi nói, ngược lại đã thành toàn cho một nhân duyên tốt đẹp không?"

Lục Lệnh Chân thật tình không biết, chờ gã nói tiếp: "Ngươi có biết sau khi anh trai ngươi ép chết chị ta đã làm gì không? Hôm đó vừa rạng sáng, các ngươi đều cho rằng ta đã chạy thoát, Lục Lệnh Tùng và Tuyên Thất cũng không đuổi kịp ta, nhưng thực ra ta vốn chưa từng rời khỏi thành Kim Lăng."

"Lục Lệnh Tùng đúng là thằng ngu, ta cứ thế theo hắn về lại phủ Chiêu Vương, hắn cũng không phát hiện ra, ngươi đoán xem thế nào? Hắn bận bịu dỗ dành Vương phi của mình, thổ lộ tình cảm cùng người đã đâm ta một nhát vào cánh tay phải đó, vợ chồng con cái cùng hưởng niềm vui gia đình! Phải nói, ta đã được xem một vở kịch tình sâu nghĩa nặng cực kỳ cảm động, suýt chút nữa đã rơi cả nước mắt!"

Hắn quay đầu nhìn chằm chằm Lục Lệnh Chân: "Chị em ta vì trả ơn cứu mạng, khi nhận lời người khác giết Lục Lệnh Tùng và Lục Thư Thanh đã sớm vứt bỏ vinh nhục, mặc kệ ngươi muốn chất vấn thế nào cũng được. Nhưng cha mẹ ta vô tội chết oan, hơn một trăm thân quyến của các thần tử bị Quân Giới án năm Kiến Ninh thứ mười hai liên lụy cũng vô tội chết oan, họ trở thành oan hồn dưới đất vì giang sơn cơ nghiệp của nhà họ Lục các ngươi. Ta hỏi ngươi, được bao nhiêu người nhà thiên gia các ngươi dám đứng ra lấy máu đền mạng!?"

Lục Lệnh Chân khẽ giật mình, lẩm bẩm nhắc lại: "...Năm Kiến Ninh thứ mười hai, Quân Giới án?"

Đinh Giám cười thê lương: "Ngươi tưởng ta báo thù chỉ vì chị của ta thôi sao? Trưởng công chúa điện hạ, ngươi thật sự không biết gì về chuyện cũ ư!"

Trời đã sáng hẳn, gã giục ngựa tiến gần, duy trì khoảng cách vừa đủ để mũi kích của mình và lưỡi kiếm của Lục Lệnh Chân giao nhau, cất giọng như đang kể về một lời đồn đại từ xa xưa:

"Tổ mẫu của ngươi, Tiêu Thái hậu năm đó vì muốn khống chế Tiên Đế, đã chọn một nhóm hàn sĩ không xuất thân danh môn vào Đông cung, bao gồm cả cha ta và các đồng liêu của ông ấy. Sau đó, bà ta ra lệnh cho nhà họ Tiêu giam giữ toàn bộ gia quyến của những thần tử Đông cung này, chỉ đến cuối năm mới được đoàn tụ một lần. Khi bị chia cắt khỏi cha mình, ta chỉ mới bốn tuổi."

"Sau khi đăng cơ, mâu thuẫn giữa Tiên đế và Tiêu Thái hậu ngày càng sâu sắc. Đến năm Kiến Ninh thứ mười hai, để đoạt lại thực quyền, lão đã ngầm hứa hẹn với cha ta và những người khác rằng, nếu họ chịu phản bội và giúp lão trừ khử Lan Lăng Tiêu thị, sau khi xong việc sẽ cho họ đoàn tụ với người thân. Họ đã đồng ý."

"Sau đó Quân Giới án diễn ra. Cha ta cùng Hứa Dịch khi ấy đang giữ chức Tư Lệ Hiệu Úy đã dẫn đầu quân kinh kỳ phản loạn, hai nhà Vương – Thôi liên thủ, đoạt lại binh quyền Vũ Lâm Vệ, Tiêu Thái hậu thất bại."

"Bọn ta vui mừng nghĩ cuối cùng cả nhà cũng được đoàn tụ. Ai ngờ hai nhà Vương, Thôi chia chác không đều, đều muốn ôm hết công lao phò vua, không chịu giao quyền, bèn dâng tấu lên Tiên đế, bọn họ dùng lại cách của Tiêu Thái hậu năm xưa, tiếp tục giam giữ gia quyến của cha ta và những người khác, không cho những hàn sĩ này có cơ hội trở mình."

"Nhưng nhà họ Tiêu quyết để cá chết lưới rách, trước khi lẩn trốn khỏi kinh thành đã 'giải quyết' sạch bọn ta. Ta và chị từ nhỏ đã học võ, nhờ mẹ che chắn, khó khăn lắm mới có thể thoát thân — còn tiện tay cứu được Chung Triệu, khi ấy ông ta đã bệnh nặng hấp hối, bị bỏ rơi giữa đường, sau đó mới tìm được cha ta để báo tin cho họ."

"Những cựu thần Đông cung cầu xin Tiên đế thực hiện lời hứa, giúp họ tìm lại người thân, nhưng lão già đó đã chọn thỏa hiệp với các sĩ tộc — lão chỉ thờ ơ đứng nhìn, khoanh tay không cứu."

"Đương nhiên, cha ta và những người khác đều vô cùng phẫn nộ, nhưng cơn giận của một đám hạ thần không quyền không thế, mạng hèn như cỏ rác thì đáng giá bao nhiêu đồng chứ? Không lâu sau, bọn họ cũng đành khuất phục trước thiên uy, người bằng lòng cam chịu thì ở lại kinh thành tiếp tục làm quan, nhưng tiền đồ cũng khó liệu; còn những kẻ không nuốt trôi được cơn giận này, có người thì bị giáng chức, từ quan cũng có, đều lưu lạc nơi đất khách quê người. Cha ta bệnh chết trên đường đi, mười mấy năm khổ học dùi mài, cuối cùng hóa thành công dã tràng, tay trắng vẫn hoàn tay trắng."

Mãi sau, Lục Lệnh Chân mới khó nhọc hỏi: "Vậy người thân của những thần tử đó... ngoài chị em các ngươi và Chung Triệu, còn có ai... Thoát ra được không?"

"Không ai cả," Đinh Giám hung dữ đáp lại, "Mẹ ta, mẹ của Chung Triệu, con gái của vợ chồng Hà Cáo... Họ bị giam trong hầm ngầm của một kho hàng ở thành Tây suốt bảy ngày, hơn trăm mạng già yếu, phụ nữ và trẻ em cuối cùng đều chết đói cả."

Lục Lệnh Chân hoàn toàn câm lặng, trong đầu hiện lên mái tóc bạc trắng và gương mặt đầy nếp nhăn của Hà Cáo, cùng thái độ lẩn tránh và mỏi mệt không sao nói hết khi nghe nàng nhắc đến việc để "vợ con cùng hưởng đặc quyền".

Nàng vô thức nhủ thầm, đây là tội ác của cha và tổ tiên nàng, là tội ác của các thế gia quý tộc một tay che trời, là tội ác của hoàng quyền, nàng vốn chẳng cần phải gánh vác, thế nhưng ngón tay lại không kìm được mà khẽ run rẩy.

"Cuối cùng, ta còn một câu hỏi nữa," hồi lâu sau, Lục Lệnh Chân mới siết chặt thanh kiếm trong tay, "Kẻ có ơn với các ngươi, sai các ngươi giết Lục Thư Thanh và kẻ đứng sau Chung Triệu là cùng một người sao?"

Đinh Giám cũng nâng cặp kích tay của gã lên: "Sắp chết đến nơi rồi, ta sẽ nói cho ngươi biết vậy."

Nói đoạn, gã tiến về phía Lục Lệnh Chân vài bước, dùng âm lượng chỉ hai người họ có thể nghe được mà thốt ra một cái tên. Lục Lệnh Chân hoảng hồn lạnh toát cả người, không tin nổi nhìn chằm chằm đối phương, nhưng trong khoảnh khắc đó nàng đã hiểu ra được vì sao trên phong thư giả lại xuất hiện con dấu riêng của Tạ Cánh, và cả Khứ Hà thể chẳng phân biệt nổi thật giả.

Đinh Giám không cho nàng thêm thời gian để nghĩ ngợi, lập tức vung kích tay về phía trước, Lục Lệnh Chân theo bản năng rút kiếm đón đỡ, khi tâm trí còn chưa kịp quay về thì cơ thể đã dựa vào ký ức cơ bắp để giao chiến với đối phương.

Đây không phải là một trận chiến, mà là một cuộc tỷ thí. Lục Lệnh Chân mơ hồ trở lại khoảnh sân điện Minh Loan, chỉ có điều đối thủ của nàng đã không còn là Lục Lệnh Tùng, từng chiêu thức đều mang theo sát ý tuyệt đối không quay đầu. Quân Mạc Bắc phía sau Đinh Giám đã dần bao vây lại, họ chưa chắc đã hiểu được ân oán giữa chủ soái của mình và tướng địch, nhưng mối đe dọa của người con gái dị tộc này trên chiến trường mạnh mẽ đến mức nào, họ đều đã tận mắt chứng kiến.

Sức của Lục Lệnh Chân không bằng Đinh Giám, trước giờ nàng vẫn luôn dựa vào sự nhẹ nhàng và tốc độ của vũ khí để kiểm soát đối thủ. Lúc này, ánh kiếm đã nhanh đến mức nối liền thành một dải, tập trung tấn công vào cánh tay phải của Đinh Giám, tay còn lại điều khiển dây cương để thay đổi phương hướng, tranh thủ chớp lấy khoảng trống giữa kích tay.

Nhưng Lục Lệnh Chân đã hành quân liên tục suốt mấy ngày, đêm qua thức trắng không chợp mắt, vượt núi tập kích, lại thêm vừa rồi tinh thần chấn động mạnh, sau khi giao thủ vài trăm chiêu với đối phương, nàng khó tránh khỏi dần rơi vào thế yếu. "Duy khoái bất phá*" chỉ có thể đạt được với điều kiện tiên quyết là ngươi cũng phải khống chế địch nhanh chóng, trước khi bị phá thì đã phải thu được đầu kẻ địch. Nhưng Đinh Giám lại không phải là một đối thủ có thể cho nàng cơ hội như vậy.

(*) Duy khoái bất phá (唯快不破) là một thành ngữ Trung Quốc, nghĩa đen là "chỉ có nhanh mới không bị phá vỡ". Ý nghĩa của câu này là trong nhiều tình huống, tốc độ và sự nhanh nhạy chính là yếu tố quyết định để chiếm ưu thế và tránh bị đánh bại.

Lục Lệnh Chân biết nếu nàng không thể mạnh mẽ xông lên thêm lần nữa, e rằng không chỉ mất mạng mà còn khó lòng khiến đối thủ trọng thương. Ánh mắt nàng lạnh đi, quyết đoán nhảy khỏi lưng ngựa, hai tay nắm chặt chuôi kiếm rồi xoay người, chém xéo xuống từ một góc độ mà cánh tay đối phương khó có thể với tới. Trong khoảnh khắc, máu tươi văng tung tóe, một kiếm ấy vậy mà đã chém đứt cánh tay phải của Đinh Giám, còn để lại một vết cắt dài và sâu sém vào bên hông gã.

Nhưng cùng lúc đó, phần lưng của Lục Lệnh Chân vì mất đi sự phòng bị đã không tránh được lộ ra trước mặt Đinh Giám. Gã mặc kệ bản thân trọng thương, không chút do dự dùng tay trái cầm kích, hung hăng nện thẳng vào lưng nàng, kéo nàng ngã nhào xuống đất ngay tức khắc.

"Trước khi tự sát, chị ta từng trúng một kiếm của Lục Lệnh Tùng. Hôm nay, ta sẽ trả lại bằng hết."

Lục Lệnh Chân nằm rạp trên mặt đất đầy cát bụi, cố chuyển động nửa thân trên bò về phía trước, gắng sức với lấy thanh kiếm của mình, nhưng cơ thể đã lung lay sắp đổ, khó lòng chống đỡ nổi. Đinh Giám chẳng mảy may quan tâm tới cánh tay bị chặt đứt của mình, chỉ nhanh hơn nàng một cái chớp mắt, gã giật lấy thanh kiếm dài, rồi không chút do dự đâm thẳng xuống, xuyên qua cơ thể Lục Lệnh Chân từ sau lưng!

"Trói cô ta vào ngựa." Đinh Giám hờ hững nhìn cơ thể đột ngột cứng đờ của Lục Lệnh Chân, thuộc hạ nghe lệnh nhanh chóng trói chặt hai tay nàng vào chân sau của chiến mã, cơ thể bị lật ngửa lên trời, treo lủng lẳng phía sau ngựa.

Ngay sau đó, Đinh Giám mặt không đổi sắc giơ tay vung mạnh roi. Chiến mã giật mình hí dài một tiếng, lập tức kéo theo Lục Lệnh Chân lao như điên xuống dốc núi!

Ban đầu, cả năm giác quan đều gần như tê liệt, Lục Lệnh Chân thậm chí không cảm nhận được cả cơn choáng vàng vì mất máu và nỗi đau da thịt bị xé toạc. Khoảnh khắc ấy, nàng chỉ khẽ thở dài một tiếng, chợt nhớ đến chiếc vòng tay đan bằng chỉ màu trên cổ tay – món đồ chơi mà khi còn nhỏ anh dâu đã tự tay kết cho nàng, sợi dây thừng không ngừng cọ xát với nền đất, chỉ sợ là sắp đứt mất rồi. Nếu anh ấy biết được chắc chắn sẽ tết lại cho nàng một cái mới, nhưng liệu nàng có còn được gặp lại anh nữa không?

Núi non nơi biên ải gồ ghề và hiểm trở, máu nóng ròng ròng tuôn ra từ sau lưng Lục Lệnh Chân. Cảm giác bỏng rát như thiêu đốt ấy mãi sau mới kéo tới tựa như nằm trên đống lửa, nỗi đau xương thịt bị nghiền nát rồi lại trả về chỗ cũ giống như có người treo ngược nàng lên cao, khiến cho ảo ảnh trước mắt trở nên rõ ràng, không để nàng có cơ hội mê man vượt qua đoạn cực hình cuối cùng này.

Trong khoảnh khắc ấy, Lục Lệnh Chân nhìn thấy rất nhiều người, nghĩ đến rất nhiều chuyện.

Người đầu tiên nàng nghĩ đến là mẹ mình, Lục Lệnh Chân th* d*c, nhưng đến cả việc hít thở cũng trở nên khó khăn, cảm giác áy náy với Ngô thị chưa bao giờ mạnh mẽ xộc vào trong tim giống như lúc này. Từ những chuyện nhỏ nhặt như lén trốn ra khỏi cung để đi chơi, đến chuyện lớn như cố chấp thay áo cưới thành chiến bào, mỗi lần làm trái lễ giáo, dù cho có quyết tâm tới đâu nàng cũng không khỏi lo lắng, chẳng biết liệu bản thân có khiến cho mẹ khó xứ hay không? Nhưng từ trước đến nay Ngô thị chỉ luôn nói "Con đi đi", chưa từng nói với nàng rằng "Con về đi". Giờ thì nàng thật sự không thể trở về nữa rồi.

Đương nhiên Lục Lệnh Chân cũng nghĩ tới Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh. Lần này nàng có thể ra đi mà không thấy hổ thẹn, có thể ngẩng cao đầu hãnh diện rồi, các anh đã nghe tin chưa? Đã xem chiến báo chưa? Tài năng của nàng, công lao của nàng, trong đại kế liên quan đến sự tồn vong của cả gia tộc, nàng đã hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách hoàn mỹ rồi, nàng đã không phụ sự dạy dỗ và kỳ vọng của bọn họ rồi. Chỉ là nàng không kịp, cũng không thể nói cho họ biết danh tính những kẻ phản bội triều đình. Nhưng anh trai và anh dâu đều yêu thương nàng như cha mẹ thương con, Lục Lệnh Chân không hề nghi ngờ rằng đến một ngày nào đó, bọn họ nhất định sẽ thay nàng trả hết mối thù còn dang dở.

Nàng còn nghĩ tới đứa cháu trai và cháu gái còn nhỏ dại của mình, nhớ sự ấm áp và niềm vui mà chúng mang lại, nhớ bé cưng Ninh Ninh từ khi mới sinh đã mềm mại như đám mây nhỏ, cứ quẫy đạp chui rúc trong lòng nàng không rời. Còn Lục Thư Thanh, Lục Lệnh Chân đã hứa với cậu rằng năm nay nhất định sẽ về kinh cùng cậu đón sinh nhật. Thanh Nhi từ nhỏ đã là đứa trẻ trọng chữ tín, nếu đến khi ấy không thấy cô về, nàng sợ rằng cậu bé sẽ trách mình nuốt lời mất. Bao giờ nàng mới lại được nghe bọn nhỏ gọi một tiếng "cô " nữa đây?

Lục Lệnh Chân thậm chí nghĩ tới người em trai hiền lành ít nói, lúc thì gần gũi khi lại xa cách của mình. Nàng nghĩ tới tất cả mọi người, thật ra những mảnh ký ức vụn vặt, xa xôi ấy còn chưa đủ để gọi là đèn kéo quân, chỉ là nàng muốn cố khắc sâu từng khuôn mặt thêm một chút trong giây phút sắp xa cách này, sợ rằng ngày gặp lại dưới cửu tuyền không còn nhận ra nhau, kiếp sau không thể làm người thân nữa — thật ra khi nghĩ tới người thân của mình, nàng đã không dám nghĩ tiếp nữa.

Thật ra, vào đúng một khắc cuối cùng ấy, Lục Lệnh Chân chỉ nghĩ tới chính mình.

Vào buổi trưa năm Trinh Hữu thứ chín ấy, nàng đã chọn một con diều hình chim nhạn trong kho phủ Chiêu Vương, kéo bằng được anh trai và anh dâu cùng ra đảo Bạch Lộ, giữa tiết xuân nồng nàn, nàng không chút do dự thả cho con diều ấy bay thật cao, thật xa, thuở thiếu thời nhẹ nhàng chẳng phải bận tâm điều gì theo cánh chim nhạn xé gió xuyên mây, vụt thẳng lên chín tầng trời.

Thế nhưng dù có bay cao, bay xa đến mấy, sợi dây diều vẫn bị nàng nắm chặt trong tay, có thế nào cũng không đứt. Khi đó, Lục Lệnh Chân đã thật lòng mong rằng nó sẽ đứt, dù đó chỉ là một chú chim nhạn được tạo nên từ giấy và mực vẽ, nàng cũng không đành lòng nhìn nó bị trói buộc nơi lầu các, không thể nhìn thấy ánh mặt trời.

Nhưng mãi mà nó vẫn không chịu đứt.

Tựa như ngay khoảnh khắc người thợ thủ công hạ bút, vận mệnh và kiếp số của nó đã bị khắc vào sổ sinh tử, phàm nhân máu thịt làm sao có thể nghịch thiên cải mệnh? Mang trong mình bản tính phóng khoáng tùy ý, không có nghĩa là nàng toàn năng hay không gì có thể ngăn cản được, nàng dốc hết tâm tư vứt bỏ mọi muộn phiền, chạy khỏi cửa điện Hàm Chương, chạy khỏi cung Thái Sơ, chạy khỏi cổng thành Kim Lăng, cuối cùng giật mình nhận ra rằng, từ đầu đến cuối, nàng chưa từng thoát khỏi cánh cửa số mệnh mang tên "Trưởng công chúa".

Lục Lệnh Chân mở to mắt, nhìn lên bầu trời yên ả, trong vắt như thấy đáy dần trở nên mơ hồ. Nàng lại thấp thoáng trông thấy chú chim nhạn ấy bay về, hoặc có lẽ suốt mười mấy năm qua nó vẫn lượn lờ trên tầng không kia, chưa từng bay xa, giống như đến cuối cùng, nàng vẫn không thể chạm tới chữ 'Chân' xa xăm mịt mờ trong cái tên và số mệnh của mình.

Bầu trời xanh ngưng đọng.

Mùa xuân năm Cảnh Dụ thứ năm, Kiến Uy tướng quân, Trưởng công chúa Lục Lệnh Chân của Đại Tề hoăng thệ, khi ấy nàng vẫn chưa tròn hai mươi tư tuổi. Sinh thời nàng lấy thân làm mồi nhử, một mình xông vào trận địch, bị chiến mã kéo lê suốt mười ba dặm mới tắt thở mà chết.

Đến chết cũng không nhắm mắt.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 98


《 23.5 》

Trong điện Thần Long, Lục Lệnh Chương ngồi nghiêng người, đỡ trán nhắm mắt nghỉ ngơi. Bỗng dưng trong mộng có điều gì đó làm gã giật mình tỉnh lại, vung tay vô ý gạt đổ chén trà nguội uống dở trên bàn.

Nước trà màu nâu lập tức loang ra, thấm ướt tấu chương và sổ sách, cùng với chiếc túi hương mà gã chẳng biết mình đã tháo xuống từ lúc nào rồi tiện tay bỏ ở đó.

Thái giám trong điện âm thầm nhanh chân tiến lên dọn dẹp. Lục Lệnh Chương chầm chậm xoa mi tâm, gã dựa lưng vào ghế, tiện tay nhấc chiếc túi hương ấy lên, vẩy nước đọng trên nó rồi kéo dây buộc ra, nhìn thoáng vào bên trong.

Đó chẳng qua chỉ là mấy loại hương liệu và bùa bình an, trong cung còn vô số thứ tương tự mà thiên tử có thể tùy ý lấy dùng, cho dù túi hương có bị nước thấm ướt thì cũng chẳng đáng kể...

Nhưng rồi ánh mắt Lục Lệnh Chương đột nhiên khựng lại, dừng trên một mảnh giấy đã phai màu và ố vàng, vẻ ngoài của nó trông chẳng có gì nổi bật, nhưng Lục Lệnh Chương nhớ rất kĩ lá bùa bình an này, nhiều năm trước, cụ thể là bao nhiêu năm không còn nhớ rõ nữa, gã đã nhận được mảnh giấy này từ Lục Lệnh Chân.

Chị gái của gã vì muốn mua thanh đao Hồ yêu thích mà bị người ta lừa sạch tiền, ôm về một đống bùa bình an sặc sỡ, bên trên đã viết đầy đủ tên của cả nhà. Khi ấy Lục Lệnh Chương chăm chú nhìn ba chữ "Lục Lệnh Chương" một lúc, sau đó đích thân bỏ lá bùa vào trong túi hương này. Lục Lệnh Chân rất vui, còn lén lút chắp tay cảm ơn gã ở dưới bàn.

Hôm qua gã đi ngang qua điện Hàm Chương, cửa điện đã bị khoá gần nửa năm, có điều mấy ngày trước chiến sự và thiên tai ở Ung Châu đã dần lắng xuống, gã nhận được tấu chương xin phép về kinh của Lục Lệnh Chân, chắc là cũng sắp trở về rồi.

Khi Lục Lệnh Chương vừa mới đăng cơ, điện này suýt chút nữa đã bị đổi tên, "điện Hàm Chương" kế thừa tên gọi cổ, từ thời Nam triều Lưu Tống, khi Thọ Dương công chúa say giấc trước điện, hoa mai rơi trên trán đã khiến nàng nổi danh khắp thiên hạ. Nhưng dù có lai lịch thế nào đi nữa, suy cho cùng vẫn phạm huý vào tên của tân đế.

Lễ bộ đã chuẩn bị sẵn một loạt những cái tên có thể thay thế rồi trình lên, cậu và mẫu hậu của gã cũng giục như đòi mạng, bắt gã lập tức đổi tên. Ngay cả Lục Lệnh Chân cũng dùng giọng điệu bướng bỉnh quen thuộc của nàng mà nói, chả sao cả, tốt nhất là cho chị dọn ra ngoài ở luôn đi.

Nhưng Lục Lệnh Chương lại vô cùng kiên quyết, gần như là cố chấp không chịu đổi — gã không muốn mang thêm phiền toái đến cho gia đình nhỏ vừa trải qua biến cố lớn của anh chị, mặc dù chút "lộn xộn" này so với cảnh vợ con ly tán, mỗi người một phương mà họ phải chịu thật sự chẳng đáng nhắc tới.

Bùa bình an bị thấm nước trà, nét chữ càng thêm nhòe nhoẹt, đã hoàn toàn không thể đọc ra được nữa. Lục Lệnh Chương thở dài một tiếng, vừa định đưa cho thái giám quét dọn bên cạnh mang đi vứt, nhưng suy nghĩ bỗng lóe lên, gã do dự giây lát, cuối cùng vẫn thu tay lại, vuốt phẳng mảnh giấy rồi đặt sang một góc bàn cho khô.

Sau đó gã tiện tay cầm lấy quyển tấu chương mới vừa được trình lên, lật mở một cách thờ ơ, nét bút của Thái thú Ung Châu Hà Cáo lập tức hiện ra trước mắt.

Lục Lệnh Chương chăm chú đọc mấy hàng chữ kia hồi lâu, thấp giọng lẩm bẩm: "... Đi mời hoàng huynh vào cung, ngay lập tức."

Tạ Cánh bước vào thư phòng phủ Tướng sớm hơn bình thường nửa canh giờ, phát hiện Vương Thục, anh em Vương Khế và Vương Hề, cả Thôi Thục Thế cùng mấy vị mưu sĩ môn sinh đã sớm ngồi kín cả phòng. Thấy y đi vào, vài ánh mắt khác thường lập tức hướng về phía y.

Vào ra phủ Tướng, Tạ Cánh đã quen với "đãi ngộ" này từ lâu, y chỉ lặng lẽ bước tới ngồi xuống vị trí trống ngay sát bên dưới Vương Thục, nghe đối phương thản nhiên mở miệng: "Sáng nay có một tấu chương từ Ung Châu gửi về, ngươi xem thử đi."

Tạ Cánh nghe đến hai chữ "Ung Châu", sắc mặt hơi căng thẳng nhưng cũng không nghi ngờ, chỉ cúi đầu xuống đọc.

Dường như mọi người trong phòng đều đang chờ đợi một phản ứng khác thường nào đó từ y dù chỉ là chút biểu cảm, vậy mà Tạ Cánh không hề hấn gì. Y vẫn giữ nguyên tư thế hơi cúi đầu, thậm chí chẳng mảy may cử động, hồi lâu sau mới ngẩng đầu lên, bình thản trả lại tấu chương.

Thôi Thục Thế liếc mắt nhìn Tạ Cánh một cái, thoáng cau mày rồi giãn ra, sau đó chuyển chủ đề: "Cha, đây chính là cơ hội của chúng ta. Việc cấp bách bây giờ là phải nhân lúc Chiêu Vương đang khó xử vì chuyện này, mau chóng giải quyết đội quân mà Trưởng công chúa mang tới Ung Châu, không thể lặp lại sai lầm năm đó khi chúng ta để lỡ Hổ Sư được."

Vương Thục chậm rãi nói: "Hiện giờ cánh của bệ hạ đã cứng cáp rồi, người cũng có suy tính khác, muốn trực tiếp động vào chỉ sợ là không dễ."

Vương Khế bèn nói: "Em dâu nói không sai. Dù không thể tiếp quản thì nhất định cũng phải nghĩ cách tiêu diệt, đừng để bệ hạ nhân cơ hội này lấy đó làm nhân tình, thuận nước đẩy thuyền đưa cho phủ Chiêu Vương. Con nghe nói những người đó đều là thân vệ Trưởng công chúa nuôi dưỡng ở Kim Lăng, lúc trước đã giữ kín không công khai, hẳn là có ý định dùng làm tử sĩ."

"Một đội quân như vậy, để lại trong kinh còn phiền phức hơn ở biên cương, nhưng rơi vào tay Lục Lệnh Tùng lại càng phiền hơn là đưa về kinh." Vương Thục trầm ngâm một lúc, bỗng nhiên quay sang Thôi Thục Thế hỏi: "Em trai cô hiện giờ vẫn còn làm việc trong cấm quân chứ?"

"Em trai thiếp Thôi Tế Thế hiện đang giữ chức Vũ Lâm Ngoại tham quân, ngoài ra không còn ai ở trong quân nữa."

Vương Thục gật đầu, nói: "Vậy chẳng bằng đi đường vòng, muốn lấy trước phải cho, dùng danh nghĩa ban thưởng để sung công cho bọn họ, trước tiên đưa vào Vũ Lâm vệ, đến lúc đó điều động cũng dễ dàng hơn nhiều. Bảo em trai của cô chú ý một chút, chuẩn bị sẵn đi."

Vương Hề nghe tới đây, không khỏi bất mãn nói: "Cha, chức Hữu tán kỵ thường thị mới được bổ nhiệm tháng trước cũng là con cháu nhà họ Thôi mà!"

Thôi Thục Thế lạnh lùng liếc Vương Hề một cái, châm chọc: "Nếu anh không phục thì tự mình tìm người so tài thử xem sao. Anh họ của tôi tuy không phải nhân tài xuất chúng gì, nhưng võ nghệ vẫn cao hơn tôi một bậc đấy. Ồ quên mất, mà nhị công tử bây giờ liệu có đánh thắng nổi cả tôi không ấy nhỉ?"

Vương Hề trừng mắt với nàng ta một cái, không dám nói gì thêm.

Chính vì Vương Thục không bận tâm đến việc nàng và Vương Hề có hòa thuận hay không, Thôi Thục Thế mới dám ngang ngược như vậy. Vương Khế có con trai trưởng, Vương Thục cũng không mong Vương Hề nối dõi tông đường, bởi thế lão mới dung túng cho đứa con dâu thứ mang vai trò "mưu thần" này, chỉ cần nàng đủ trung thành và khôn khéo, lão cũng chẳng ép nàng phải giữ thể diện phu thê.

Vì vậy, nhân lúc Vương Thục chán ngán không muốn quan tâm đến con trai thứ, các mưu sĩ cũng lúng túng khi bị ép phải chứng kiến chuyện nhà của phủ Tướng, Thôi Thục Thế vội để ý đến sắc mặt của Tạ Cánh.

Vẫn không chút dao động.

Mãi đến khi Vương Thục cho mọi người giải tán, Thôi Thục Thế thấy xung quanh không còn ai bèn đuổi theo Tạ Cánh đang rời khỏi phủ, nàng phải níu lấy tay áo đối phương mới có thể khiến y dừng lại: "Người..."

Hai đồng tử của Tạ Cánh dường như đã tan rã, lúc này trông y cứ như một con rối gỗ đứng trên bậc thềm, hờ hững, lạnh lùng nhìn chăm chăm vào những viên gạch phía trước, đừng nói chi nghe thấy Thôi Thục Thế gọi, e rằng đến cả việc bên cạnh có người hay không y cũng chẳng hay biết.

Thôi Thục Thế không biết làm sao, chỉ đành dặn dò thị nữ phía sau: "Đưa Tạ đại nhân về bằng cửa sau đi."

Tạ Cánh lên xe về phủ, suốt dọc đường vào nhà cũng không thốt lấy nửa lời, ánh mắt cứ đăm đăm cố định vào một khoảng không nào đó. Mãi sau, y mới chớp mắt một cái như bừng tỉnh khỏi cơn mê. Thật ra trạng thái này cũng không khác gì ngày thường, đến mức đám người hầu hoàn toàn không nhận ra y có gì khác lạ.

Cánh cửa sau lưng vừa khép lại, một tờ giấy đã nhẹ nhàng rơi xuống từ trên xà nhà, đây là cơ quan mà Tạ Tuấn hay dùng nhất, chỉ có chiều cao của Tạ Cánh, cùng thói quen đẩy cửa và bước chân của y mới có thể kích hoạt được.

Tạ Cánh cúi đầu, nhìn thẳng vào nội dung trên tờ giấy.

Vết mực vẫn còn mới, nét chữ vội vàng nhưng ngay lập tức ghim chặt trái tim của y trở về thực tại, rồi ném phịch xuống đất không chút thương tiếc, máu thịt tan nát.

"Mong chú và điện hạ nén bi thương, đại sự phải thành, mới có thể báo thù cho Trưởng công chúa."

Tạ Tuấn có thể liên lạc trực tiếp với Tuyên Thất, mà tin tức đã được Tuyên Thất xác nhận gần như không có khả năng sai lệch hay làm giả.

Tạ Cánh thất thần đứng yên tại chỗ, hoang mang như thể vừa trải qua một kiếp người dài đằng đẵng. Rồi đột nhiên y lao tới chiếc gương lớn đặt ở góc phòng, nhón chân muốn mở ra cánh cửa dẫn vào mật thất, y phải đi tìm Lục Lệnh Tùng, y phải ở bên Lục Lệnh Tùng.

Thế nhưng đúng lúc này lại đang gặp kỳ nước dâng, lối đi không thông nên khung gương đã bị khóa từ trước, lúc này không thể mở ra được. Tạ Cánh bèn dùng đầu đập mạnh vào gương, đập đến mức trời đất quay cuồng, rồi y bỗng giật mình, mồ hôi lạnh túa ra khắp người. Gặp được Lục Lệnh Tùng rồi thì sao? Có ích gì đâu? Bọn họ ở bên nhau rồi thì thế nào?

Cũng chẳng thay đổi được gì cả.

Giờ đây Tạ Cánh đã không còn nghi ngờ, rằng nhất định là kiếp trước mình chết chưa hết tội. Nếu không thì y thật sự không biết bản thân đã gây ra tội nghiệt gì, hay đã mắc phải món nợ máu nào, nên kiếp này mới bị trời phạt hết lần này tới lần khác như vậy!

Suy nghĩ trong y rối loạn, đứng không vững ngồi cũng không yên, liên tục đi lại trong phòng như mắc chứng rối loạn phân ly, cứ như thể một khi dừng lại thì sẽ có lửa bốc cháy dưới chân ngay lập tức. Trước mắt y tối sầm từng cơn, không phải là cơn choáng váng khi đột ngột đứng dậy sau thời gian dài ngồi yên, mà là trời đất xung quanh bỗng dưng nghiêng ngả hỗn loạn, y chợt nhận ra mình còn nghĩ đến cái chết.

Tạ Cánh nỗ lực tìm kiếm trong đầu, rồi bàng hoàng phát hiện bản thân không thể bám víu được chút khát vọng sống nào. Không phải là y không muốn, mà là y không làm được. Những ký ức tươi đẹp và rực rỡ trong quá khứ hãy còn khắc sâu trong tâm trí, nhưng y không nếm được chút niềm vui nào từ chúng.

Khoảnh khắc nhà họ Tạ bị sao trảm, khoảnh khắc y đưa Lục Thư Ninh rời khỏi phủ Chiêu Vương, cả khoảnh khắc y dặn dò Lục Thư Thanh đi trước ở núi Thang, không phải y chưa từng dao động, chưa từng nghĩ đến chữ đó. Thế nhưng giờ phút này, điều làm Tạ Cánh sợ hãi chính là ngay cả việc cố gắng nghĩ đến hai đứa trẻ cũng chẳng thể dấy lên trong y khát vọng "sống".

Đâu phải bọn trẻ chưa từng trải qua ngày tháng không có mẹ, Lục Lệnh Tùng chăm sóc chúng rất tốt, còn có Ngô Thái phi, có Ngân Trù, chúng sẽ không thiếu thốn sự quan tâm và tình thương. Trong thành Kim Lăng có đến hàng ngàn hàng vạn tiểu thư khuê các dịu dàng, thông minh, nhã nhặn, chọn bừa một người cũng đủ hoàn hảo và xứng đáng trở thành mẹ kế của chúng... Tạ Cánh giật mình nhận ra bản thân vậy mà chẳng bận lòng chút nào.

Trong thâm tâm, y chỉ nghĩ đến cái chết.

Chiếc bình sứ trên bàn có cắm một nhánh mẫu đơn vừa hái, cánh hoa hãy còn đọng sương, diễm lệ ướt át. Tạ Cánh đưa tay, cẩn thận chạm nhẹ vào nó, chỉ sợ kinh động tiên nhân, động tác giống như đang v**t v* khuôn mặt non mềm, tươi sáng, rực rỡ tựa ánh ban mai của thiếu nữ Lục Lệnh Chân.

Đột nhiên y cảm thấy mặt nóng bừng lên, dòng chất lỏng như lửa bỏng rát trào dâng, chảy dọc xuống gò má, hai má đến hai quai hàm, thiêu đốt dung nhan được tháng năm ưu ái của y, đục khoét thành những vết nứt tan tác. Tạ Cánh vô thức đưa tay lau đi, sau đó giật mình nhìn thấy sắc đỏ thẫm trong lòng bàn tay, y chậm rãi ngẩng đầu nhìn vào gương...

Hai hàng huyết lệ.

Vương thị khẽ buông lỏng tay, tấu chương rơi xuống bàn, phát ra một tiếng "cạch" rất nhẹ.

Bà ta luống cuống chỉ một cung nhân phía trước bậc thềm: "Ngươi, ngươi đến, đến điện Minh Loan..."

Nhưng rồi bàn tay ấy khựng lại giữa không trung, đôi môi Vương thị hơi hé ra, giống như bị người ta dùng thuật định thân cố định tại chỗ, sững người đứng giữa điện cả buổi trời.

Cung nhân sợ hãi, không thể không cung kính lên tiếng gọi: "...Thái hậu?"

Vương thị bỗng dưng ngã ngồi xuống đất, đờ đẫn lắc đầu: "Không, không có gì, ngươi lui xuống đi."

Lục Lệnh Chương im lặng đứng một bên quan sát biểu cảm và cử chỉ của mẹ mình, lúc này mới dặn dò: "Truyền ý chỉ của trẫm, chuyện của Trưởng công chúa không được báo cho điện Minh Loan. Nếu trong cung có bất kì lời đồn đãi nào, g**t ch*t không luận tội."

Thậm chí chưa nghe hết câu, Vương thị đã đứng bật dậy, bước nhanh ra khỏi đại điện như muốn chạy trốn, nhưng lại vừa vặn chạm mặt Lục Lệnh Tùng ngay dưới cửa điện.

Lục Lệnh Tùng không ngờ sẽ gặp được Thái hậu ở đây, lại thấy bà ta tỏ vẻ kinh hãi, dùng ánh mắt kỳ quái pha trộn giữa khoái ý, thương hại và sự xót xa mà trước giờ hắn chưa từng thấy để nhìn hắn thật sâu, sau đó vội vã rời đi.

Hắn chưa kịp nghĩ nhiều, chỉ hỏi Lục Lệnh Chương: "Là quân báo sao? Hạc Vệ đi đến đâu rồi?"

Lục Lệnh Chương hít sâu một hơi, cho lui đám nội giám hầu hạ trong điện rồi bước tới trước mặt Lục Lệnh Tùng, đứng đối diện với hắn. Anh trai của gã có dáng người cao ráo và cường tráng, từ nhỏ gã đã quen ngước nhìn đối phương, đến giờ vẫn vậy.

"Ta biết hoàng huynh không tin những thứ ghi trên giấy như công văn tấu chương..." Gã nói, rồi hơi ngoái đầu ra hiệu một chút.

Lục Lệnh Tùng nhìn thấy có một người bước ra từ ngoài rèm, trên đùi có vết thương, sắc mặt tiều tụy, anh ta chính là phó tướng của Lục Lệnh Chân, cũng là một trong những thủ lĩnh của Hạc Vệ.

"Vậy nên ta đã nhờ Tạ Tuấn đưa anh ta vào cung, có một số chuyện, có lẽ để anh ta tự mình nói với hoàng huynh sẽ thích hợp hơn."

Lục Lệnh Tùng dùng ánh mắt sắc như chim ưng nhìn chằm chằm vào phó tướng: "Các ngươi đã trở về rồi, tại sao lại không đến Vương phủ phục mệnh? Công chúa đâu?"

Phó tướng khó xử nhìn thoáng qua Lục Lệnh Chương, người nọ bất đắc dĩ dời tầm mắt, ra hiệu cho anh ta nói những gì cần nói.

"Hẳn là điện đã xem bức thư giả mạo Vương phi gửi cho Trưởng công chúa rồi đúng chứ?"

Lục Lệnh Tùng nghe vậy khẽ sững người: "Ta nghe Tuyên Thất nói Hà đại nhân phát hiện có điều bất thường nên lập tức phái người đuổi theo công chúa, thế nào? Các ngươi không gặp được trinh sát à?"

Phó tướng chậm rãi lắc đầu: "Đến chậm một bước, trinh sát đã bị Đinh Giám bắt lại rồi."

"Đinh Giám? Chẳng phải hắn đã rút quân rồi sao?"

Phó tướng chật vật giải thích: "... Hạc Vệ đi đến bờ sông Vô Định, phát hiện Đinh Giám dẫn binh quay ngược về hướng Ung Châu. Trưởng công chúa lo lắng binh lực trong thành không đủ, bèn để quân Ung Châu phụng mệnh Hà đại nhân đi cùng chúng tôi quay về trước, còn Hạc Vệ ở lại ứng cứu sau, phòng ngừa bất trắc."

"Nhưng mục tiêu của Đinh Giám không phải Ung Châu, thậm chí không phải là Hạc Vệ, mà là... Trưởng công chúa. Khi phát hiện ra điều này, chúng tôi đã bị bao vây trên núi, công chúa lệnh cho toàn quân đi về phía Bắc trước, còn người thì đi về phía Nam gặp Đinh Giám. Viện binh Mạc Bắc tới khi chúng tôi vừa xuống núi, chỉ thiếu chút nữa thôi, nếu không phải công chúa lập tức bảo chúng tôi rời đi, e là Hạc Vệ đã... không còn ai trở về."

"Về sau Hà đại nhân nghe ngóng được, sở dĩ Mạc Bắc lại phái binh tiếp viện là vì Đinh Giám đã lập quân lệnh trạng, nhất định phải bắt được Trưởng công chúa..." Phó tướng nghẹn ngào, không nói nổi mấy chữ kia, chỉ nức nở thốt lên: "Chính công chúa đã cứu chúng tôi."

"Hạc Vệ, Hà đại nhân dẫn theo quân thủ thành cùng bách tính ở Ung Châu đã tìm kiếm suốt năm ngày ở vùng ven sông Vô Định... Nhưng vẫn không thể tìm thấy di cốt của Trưởng công chúa. Chúng tôi không dám chậm trễ thêm nữa, đành phải lên đường về kinh."

Lời vừa dứt, điện Thần Long rộng lớn chìm vào tĩnh lặng hồi lâu, gió theo khe cửa sổ chưa đóng kín lùa vào, cuốn rèm lụa mỏng bay lên, đây chỉ là một buổi chiều cuối xuân bình thường biết bao.

Lục Lệnh Tùng khẽ nhíu mày, từ tốn hỏi: "... Di cốt của ai?"

Phó tướng không dám nói thêm lời nào.

Lục Lệnh Chương phất tay bảo anh ta lui xuống, ánh mắt gã dừng lại trên bóng lưng của anh trai, muốn lên tiếng nhưng chẳng biết phải nói gì.

Không biết đã qua bao lâu, Lục Lệnh Tùng bỗng nhiên vung tay áo xoay người, mang theo một trận gió nhanh chóng bước ra khỏi điện Thần Long. Lục Lệnh Chương ngẩn người hồi lâu mới giật mình đuổi theo, đến khi kịp nhận ra thì đã thấy hắn đang đi về phía điện Hàm Chương.

Ngõ vĩnh hạng dài dằng dặc, cô quạnh và chật hẹp, ba anh em họ đã cùng lớn lên ở đây. Vào đêm trước Đông chí năm Trinh Hữu thứ tám, cũng chính trên con đường này, Lục Lệnh Chương đã được chị gái dắt theo, lén lút vượt qua trạm gác và đám cung nhân tuần đêm, trong lòng còn giấu một cuộn tranh liên hoàn họ lén mua ở chợ đêm, trở về điện Lâm Hải sâu hun hút và tối đen như mực.

Gã ló mặt ra khỏi cổ áo, gió lạnh thổi đến làm đôi má ửng đỏ, rụt rè hỏi:

"... Nếu mẫu hậu phát hiện thì phải làm sao đây chị?"

Lục Lệnh Chân nhìn gã, ánh mắt sáng như sao băng xẹt qua bên tai: "Em là em trai của chị mà, chị sẽ bảo vệ em."

Vị trí của điện Hàm Chương không tính là hẻo lánh, nhưng lại thiếu hơi người, dù đang ở dưới ánh mặt trời cũng toát lên vẻ tiêu điều. Ý chỉ của Lục Lệnh Chương đã được ngầm thi hành, hiển nhiên tin dữ vẫn chưa truyền vào sâu trong cung điện này. Đám nội giám nhàn rỗi còn đang dụi mắt ngái ngủ, bỗng giật mình phát hiện Chiêu Vương điện hạ đang sải bước đi tới, chạy theo phía sau hắn là vị thiên tử trẻ tuổi.

Lục Lệnh Tùng dừng lại bên ngoài điện, nắm tay siết chặt đập loạn lên cánh cửa, gần như mất kiên nhẫn gầm lên: "Lục Lệnh Chân! Mở cửa cho anh!"

Nội giám trợn mắt câm nín, không ai hiểu nổi vì sao Chiêu Vương lại đột nhiên chạy tới điện Hàm Chương đã bỏ không nửa năm để tìm Trưởng công chúa, nói dễ nghe thì là hành động tùy tiện vô phép, nói khó nghe thì chính là điên loạn thất thường.

Nhưng mà Hoàng đế cũng không ngăn cản hắn, chỉ dừng lại ở cách đó không xa, lặng lẽ dùng ánh mắt buồn bã nhìn theo.

"Lục Lệnh Chân, em mở cửa ra cho anh! Em có chặn anh ngoài này cũng vô dụng thôi! Anh biết là em ở trong đó!"

Đương nhiên sẽ không có ai mở cửa. Sẽ không có ai như Lục Lệnh Chân ngày còn quấn hai búi tóc, cất thanh kiếm gỗ chặn cửa đi, miễn cưỡng bước ra đón anh trai của mình, chu môi nói: "Em biết là anh không giận em thật mà!"

Lục Lệnh Tùng không nhận được lời hồi đáp, giọng dần hạ xuống, thì thầm gọi hai tiếng "Chân Chân", rồi hắn bất chợt ngẩng đầu, ánh mắt gắt gao khóa chặt vào ổ khóa nặng nề kia, đao dài thoáng chốc rời khỏi vỏ.

Lục Lệnh Chương rùng mình, vô thức gọi to: "Hoàng huynh!"

Thế nhưng đã quá muộn, ánh sáng lạnh lẽo lóe lên, Lục Lệnh Tùng vung đao chém rớt ổ khóa, dây xích đồng loảng xoảng rơi xuống đất.

Cửa điện rộng mở, ánh dương chiếu vào bên trong khiến bụi mịn bay tứ tung, cành mai trắng đã khô héo nghiêng lệch, giữa sân điện trống trãi không một bóng người.

Lục Lệnh Tùng như bị giáng một gậy, toàn thân kịch chấn, hơi thở dồn dập. Hồi lâu sau, hắn mới loạng choạng lùi lại mấy bước, đứng chết trân tại chỗ như thể sức lực đã bị rút cạn toàn bộ trong nháy mắt.

Sao nói gió Tây chẳng chóng tàn, Hàm Chương vẫn còn đây đợi chủ.

Mãi lâu sau, Lục Lệnh Tùng mới khẽ lên tiếng: "Đừng đưa em ấy vào hoàng lăng."

"Đừng truy tôn, đừng sắc phong, đừng thụy hiệu, dù là tướng quân hay công chúa, đừng chất chồng bất cứ thứ gì lên người con bé. Hãy để em được thanh thản, chỉ mang theo cái tên của mình mà đi."

"Đừng để em ấy phải ràng buộc với hoàng tộc, với cả ta lẫn người, đừng để liệt tổ liệt tông nhận ra em ấy, đừng để em sinh thời đã không thoát khỏi kiếp làm con gái đế vương, đến suối vàng rồi vẫn phải mang gông xiềng, chẳng được yên giấc."

Lục Lệnh Chương do dự nói: "Nhưng hoàng tỷ đã tự xin..."

Lục Lệnh Tùng chỉ đáp: "Đây là điều con bé muốn."

Vào cái ngày Lục Lệnh Chân lần đầu so tài thắng hắn, sau bữa tối, khi cả nhà ngồi dưới hành lang hóng mát. Tạ Cánh vừa điều chỉnh dây đàn nguyệt mà Ngô thị mới được ban cho, vừa đệm nhạc cho những bài đồng dao Lục Thư Ninh ngẫu hứng ngân nga. Lục Lệnh Tùng đứng khoanh tay đón gió, lắng nghe chút được chút không.

Rồi hắn chợt nghe thấy cách một cánh cửa sổ, Ngô thị đang giúp Lục Lệnh Chân gội đầu bóng gió hỏi: "Chân Chân bây giờ đánh thắng được cả anh trai rồi, lợi hại lắm đấy. Chỉ là mẹ có điều không hiểu, từ nhỏ con đã lập chí tòng quân là muốn đền ơn nước, muốn lập công, hay là muốn cứu thế đây?"

Lục Lệnh Chân đáp: "Không muốn gì hết. Con cũng chưa từng nghĩ tới. Sao đột nhiên mẹ lại hỏi vậy?"

Ngô thị im lặng giây lát, không trả lời mà hỏi tiếp: "Vậy nếu như được thờ phụng trong tông miếu, lưu danh sử sách như các bậc vương hầu tướng tá xưa nay, Chân Chân có vui không?"

Lục Lệnh Chân không hề do dự dù chỉ một chút, hỏi ngược lại mẹ mình: "Có ai lại rỗi hơi viết truyện riêng cho một cô công chúa? Có ai lại phá lệ 'thỉnh' thần chủ của một vương cơ hoàng nữ vào tông miếu đâu hả mẹ? Lui một vạn bước, lưu danh sử sách, vào tông miếu, chết cũng chết rồi thì có gì đáng để mà hãnh diện chứ? Chẳng lẽ con còn phải đội ơn kẻ nâng đỡ mình, hớn hở vui mừng biến thành một hàng chữ, một khúc gỗ, chết cả ngàn vạn năm vẫn để lại tên họ trong hoàng cung này sao ạ?"

Lục Lệnh Tùng nghe thấy tiếng nước róc rách và tiếng "ôi chao" của Ngô thị, đoán chừng Lục Lệnh Chân bỗng nhiên ngồi bật dậy, làm nước ở đuôi tóc bắn hết lên áo mẹ.

Nàng không để ý, cao giọng nói: "Mà cũng chưa chắc đâu, ngàn vạn năm sau, đến lúc đó cung Thái Sơ có còn tồn tại hay không cũng khó nói, chưa biết chừng đã hóa thành nắm tro vốc đất từ lâu rồi!"

Tạ Cánh cũng nghe thấy câu này, ngẩng đầu nhìn sang thì bắt gặp ánh mắt của Lục Lệnh Tùng, cả hai đều bật cười.

Ngô thị đành phải dịu giọng hòa giải: "Được rồi được rồi, mẹ xin nghe dạy, gội đầu tiếp nào."

Lục Lệnh Chương nghe xong lời thuật lại của Lục Lệnh Tùng cũng không hỏi thêm gì nữa. Hai anh em đứng cạnh nhau hồi lâu, rồi Lục Lệnh Tùng xoay người, cứ thế rời đi mà không nói lời nào, bóng lưng của hắn trông vừa cô độc vừa buồn bã.

Một người anh trai vừa đổ gục, một người con, người chồng và người cha đã lặng lẽ đứng lên.

Lục Lệnh Chương vẫn im lặng theo sau, cùng hắn bước vào điện Minh Loan, gã khẽ phất tay ngăn cung nhân thông báo, đứng từ xa nhìn vào trong sân, thấy ánh hoàng hôn màu đỏ cam rơi xuống tấm rèm lụa trắng của tẩm điện. Mái hiên nơi mẹ từng gội đầu cho con gái giờ đây không biết có ai còn nhàn nhã ngồi đùa vui.

Gã nghe được giọng nói ôn hòa và dịu dàng như đang ngâm khúc ca theo nhịp điệu của Ngô Thái phi vang lên: "Khi nào thì Chân Chân về con nhỉ?"

Đáp lại bà là chất giọng bẩm sinh đã có khả năng giúp người ta an lòng của Lục Lệnh Tùng: "Sắp rồi mẹ ạ, sắp về rồi."

Lục Lệnh Chương kéo chặt vạt áo, cúi đầu xuống, chậm rãi rời khỏi điện Minh Loan.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 99


《 24.1 — Hồi tưởng 》

Thiên điện điện Thần Long vô cùng yên tĩnh, mùi thuốc nồng đậm lan tỏa khắp nơi, Tạ Cánh ngồi bên bếp lò sưởi ấm thân mình. Cái rét mùa đông ngày càng đậm, suốt cả ngày trời đều âm u, chỉ xuống xe ngựa đi đến cổng cung thôi, tay y đã bị gió thổi cóng đến nỗi đau rát.

Bệnh tình của Hoàng đế rõ ràng chẳng khá lên mấy, kỳ thực không ai ngờ lại nhanh đến vậy. Dù nói ông đã lâm bệnh đã hơn một năm, nhưng thật ra cũng chỉ là lúc tái phát lúc thuyên giảm, hơn nữa cũng không phải chứng bệnh nguy hiểm đến tính mạng mạng, triều đình trên dưới vẫn không khỏi ôm cảm giác may mắn.

Tạ Cánh vào cung hầu bệnh theo lệ, nhưng Hoàng đế không muốn gặp y, cũng không có tinh thần để gặp, chẳng qua y cứ đến cho có lệ, để phủ Chiêu Vương không bị người ta lời ra tiếng vào mà thôi.

Chỉ có hôm nay là khác, Hoàng đế đặc biệt triệu kiến, còn dặn y dẫn cả Lục Thư Thanh đi cùng.

Mấy năm nay, Lục Thư Thanh được làm anh trai, tự thấy mình đã là người lớn, không còn hay quấn quít làm nũng như hồi bé nữa. Nhưng điều này cũng không do cậu quyết định, dăm ba bữa vẫn bị Tạ Cánh lôi kéo ôm ấp thân mật một hồi, mà Lục Thư Thanh cũng ngoan ngoãn, nằm trong lòng mẹ thì yên phận làm chú mèo con, lười biếng ở yên không nhúc nhích.

Sưởi ấm một lúc, Chung Triệu từ nội điện bước ra: "Vương phi và thế tử đã chờ lâu, bệ hạ vừa mới ngủ trưa dậy, có thể vào thỉnh an rồi."

Hai người đứng dậy, vừa định cất bước thì thấy sắc mặt Chung Triệu khẽ thay đổi: "... Bệ hạ chỉ truyền một mình thế tử vào thôi."

Lục Thư Thanh ngoái đầu nhìn lại, Tạ Cánh chỉ đẩy nhẹ vai cậu một cái: "Mẹ đợi ở đây."

Y dõi theo bóng con trai biến mất sau cánh cửa, sau đó nhàm chán đi dạo xung quanh điện. Trên bàn có một đĩa sứ men xanh chất đầy kẹo thuốc củ mài, chắc là Hoàng đế sai người chuẩn bị cho Lục Thư Thanh. Lớp vỏ chiên vàng óng ánh giòn rụm được lăn qua lớp đường mật rồi rắc thêm vụn đào, bên trong lại mềm dẻo, vị ngọt cũng rất vừa phải. Trong cung vốn không có ai thích đồ ngọt. Dù sao miệng cũng đang nhàn rỗi, mùi thơm ngầy ngậy kia lại quá quyến rũ, Tạ Cánh bèn nhón một miếng bỏ vào miệng nhai.

Sau khi ăn xong, y lấy một con dao khắc nhỏ và một miếng ngọc trắng vừa tay ra, bắt đầu cắm cúi đục khắc.

Cuối năm ngoái, ngõ Ô Y nhận được một lô phôi ngọc Lam Điền do Thái thú Ung Châu Hà Cáo gửi tặng. Tạ Duyễn đưa sang phủ Chiêu Vương một ít, bỏ không trong kho mấy tháng trời. Tạ Cánh nhàn rỗi chẳng có việc gì làm, bèn chọn ra vài miếng có chất ngọc tốt nhất, vừa để học vừa để luyện tay, định khắc thành một cặp ngọc trắng sinh đôi, sang năm làm quà mừng sinh nhật Lục Lệnh Tùng.

Lục Thư Thanh bước vào hậu điện, rèm trướng buông thấp, đàn hương lượn lờ, khung cảnh dưới trời chiều mờ ảo như thể được cắt ra từ một góc tranh cổ.

Hoàng đế vẫn mặc nguyên quần áo, nửa nằm nửa tựa trên tháp, trước mặt ông là một bàn cờ dang dở, ngẩng đầu nhìn thấy cậu, ông nói: "Thanh Nhi đến rồi à."

Lục Thư Thanh thấy tinh thần ông hãy còn tỉnh táo, chẳng giống người vừa tỉnh giấc chút nào. Chén thuốc bên cạnh vẫn còn bốc hơi nóng, cậu bèn bảo: "Tôn nhi giúp tổ phụ uống thuốc trước ạ."

Hoàng đế phất tay ngăn lại: "Ngồi xuống chơi nốt ván cờ này với tổ phụ đã. Cầm quân đen hay quân trắng, tùy con chọn."

Lục Thư Thanh không dám trái ý, đành ngoan ngoãn ngồi xuống đối diện. Cậu không cần quan sát thế cục trên bàn cờ, chỉ cầm quân trắng theo thói quen. Chả là vì ở nhà lúc nào cha cũng nhường cậu mà chẳng mảy may băn khoăn, quy tắc lại lỏng lẻo, thích thì hồi cờ, muốn thì đổi người thay quân, giữa chừng còn được chỉ dạy tận tay, đều là những chuyện thường xảy ra.

"Con cũng biết chứ, Thanh Nhi," Hoàng đế từ tốn nói, "Tài chơi cờ của cha con là do trẫm dạy từ hồi nó còn nhỏ đấy."

Lục Thư Thanh ngoài miệng đáp: "Đương nhiên ạ, cha rất thường nhắc đến chuyện này với con." Nhưng trong lòng lại nghĩ: con chẳng biết gì cả. Cậu chỉ biết Lục Lệnh Tùng rất kính trọng vị sư trưởng họ Hà từng bị giáng chức thuở xưa, từ lâu cứ đinh ninh rằng chính Hà đại nhân là người đã dạy cha mình chơi cờ.

Dường như Hoàng đế đã nhìn thấu tâm tư của cậu, nhưng không bảo đúng sai, chỉ nói: "Nó thật sự hay nhắc đến trẫm à?"

"Tiếc là phong cách chơi cờ của nó quá dựa vào bản năng và trực giác, lối chơi phóng khoáng táo bạo nhưng chẳng chịu trau chuốt." Ông nói tiếp, "Thúc phụ của con thì lại không cần mài giũa, chẳng phải vì khéo léo linh hoạt, mà là vì không hề sắc sảo chút nào."

Ông giương mắt, nhìn Lục Thư Thanh cười hòa ái: "Cả hai đều không phải phẩm chất mà bậc thiên tử nên có."

Lục Thư Thanh không hoàn toàn hiểu được ẩn ý sâu xa trong lời Hoàng đế, nhưng cậu biết rõ một điều, chữ "thiên tử" ấy tuyệt đối không nên xuất hiện trong cuộc trò chuyện của bọn họ lúc này. Thế nhưng, lời tiếp theo còn khiến cậu khó mà đối đáp hơn:

"Sẽ là con sao, Thanh Nhi?"

Cái gì sẽ là cậu? Cậu sẽ là cái gì? Cậu chỉ là thế tử của phủ Chiêu Vương, một đứa trẻ ngày ngày vô lo vô nghĩ, chẳng phải vướng bận cơm áo gạo tiền. Tổ phụ luôn yêu thương cậu, thậm chí là sủng ái quá mức, cũng vô cùng khoan dung với em gái cậu. Trong ấn tượng của Lục Thư Thanh, tổ phụ chưa từng nổi giận, càng không có những cơn đau buồn hay bộc lộ niềm vui sướng tột độ. Mọi chuyện trong mắt ông đều chỉ nhàn nhạt trôi qua mà thôi. Nhưng cha mẹ cậu lại không nhận được "đãi ngộ" như vậy. Cha cậu chán ghét việc đối đầu với tổ phụ và Hoàng hậu, vậy nên có thể tránh là tránh; mẹ cậu lại chẳng ngại chống đối trước mặt, nhưng vì để cậu và em gái được đối xử tử tế mà nhịn nhường vài phần.

Lục Thư Thanh cúi đầu, thành thật đáp: "Tôn nhi ngu dốt."

"Không, con là một đứa trẻ thông minh. Tổ phụ mới là một kẻ tầm thường." Hoàng đế bình thản nói: "Một quân vương tầm thường và một người cha càng tầm thường hơn. Chẳng hiểu văn trị võ công, cả đời chỉ biết dùng thuật cân bằng, rút chân ra khỏi ván cờ quyền lực này rồi lại bước vào ván tiếp theo."

"Nhưng Thanh Nhi à, với một người tầm thường không thể tự quyết định vận mệnh của mình, bị đẩy lên vị trí tối cao như trẫm mà nói, đòi hỏi trẫm làm một vị nhân quân thì chẳng có gì đáng trách. Nhưng nếu bắt trẫm phải làm minh quân thì quả là bất công, cũng rất tàn nhẫn. Cách duy nhất để bảo vệ bản thân chính là tọa sơn quan hổ đấu, thần tử tranh chấp thiên tử được lợi, để bọn họ tự đấu đá lẫn nhau, như thế mới không còn ai để ý đến trẫm."

"Nói đi cũng phải nói lại, quân tử vô vi nhi vô bất vi*. Suy cho cùng, chẳng phải minh quân thánh chủ cũng chỉ gói gọn trong hai chữ 'chế hoành' thôi sao? Hiểu người, dùng người, sau đó kiểm soát được dòng chảy và sự biến động của quyền lực, đây mới là việc một Hoàng đế thành công nên làm. Mà việc đó, chẳng cần tự thân người ấy phải có tài năng xuất chúng."

(*) Quân tử vô vi nhi vô bất vi (君子无为而无不为) là một câu xuất phát từ triết lý Đạo gia, đặc biệt liên quan đến tư tưởng của Lão Tử trong "Đạo Đức Kinh". Có thể hiểu: bậc quân tử (người đức hạnh, có trí tuệ) không cần phải ra sức kiểm soát mọi việc, không cần tranh đoạt, áp đặt, nhưng nhờ thuận theo đạo lý và thời thế mà việc gì cũng có thể thành công. Câu này nhấn mạnh vào "vô vi nhi trị" (dùng sự "không hành động" để "trị vì"), tức là người lãnh đạo sáng suốt không cần can thiệp vào từng chi tiết nhỏ, mà tạo ra môi trường tốt, để mọi việc tự vận hành trơn tru.

Lục Thư Thanh chống mu bàn tay đỡ má, mắt chăm chăm nhìn bàn cờ đầy những quân đen trắng đan xen, trong lòng như có từng trận trống dồn vang lên. Cậu không dám đáp lời nào.

"Thanh Nhi, con lớn lên trong vòng tay cha mẹ con, tổ phụ rất yên tâm. Còn trẫm, đến cả cha mình trẫm còn chẳng nhớ dáng vẻ ra sao, và mẹ..." Ông thở dài, "Mẹ trẫm giờ đang ở đâu rồi?"

"Phụ vương con từ trước đến nay vẫn luôn chướng mắt những mưu kế thủ đoạn ấy. Nhưng rồi sẽ có một ngày nó hiểu ra, cho dù rất nhiều chuyện trẫm làm là vì chính bản thân mình, nhưng dạy cho nó những điều này cũng chỉ vì nó mà thôi. Đúng là trẫm chẳng quan tâm gì đến nó, nhưng trẫm không hề hận nó, cũng không muốn hại nó."

Lục Thư Thanh im lặng hồi lâu, nhẹ nhàng đặt quân cờ xuống, sau đó ngước đôi mắt tròn trong trẻo lên nhìn hoàng đế: "Tổ phụ, con thắng rồi."

Hoàng đế sững người rồi bật cười: "Phải, con thắng rồi."

Khi Lục Thư Thanh đi ra ngoài, Trương Diên và Tạ Cánh đang đứng ngoài cửa nhỏ giọng trò chuyện, cậu hơi nghiêng người chào: "Con vấn an Thái phó."

Trương Diên vội đáp lễ: "Thế tử đa lễ, lão thần không dám nhận."

Chung Triệu đứng bên cạnh ra hiệu, nói: "Thái phó, mời ngài vào trong, bệ hạ còn có vài lời muốn nói."

Tạ Cánh nắm tay Lục Thư Thanh rời khỏi điện Thần Long, lên xe, y hỏi: "Con có đói không? Mẹ bảo Chung Triệu chuẩn bị một hộp bánh ngọt, không thì chịu khó đợi thêm chút nữa đến bữa tối nhé? Hôm nay lạnh thật, e là sắp mưa rồi, tối nay ăn lẩu cho ấm vậy."

Lục Thư Thanh thuận miệng đáp vài câu cho có lệ. Tạ Cánh nhận ra cậu đang mất tập trung nhưng không hỏi thẳng, chỉ lặng lẽ chờ đợi. Quả nhiên một lúc sau thấy cậu ngẩng đầu lên, giả vờ như vô tình hỏi: "Cụ tổ mẫu của con giờ ở đâu ạ?"

Tạ Cánh cũng làm như chẳng để tâm, trả lời cậu: "Thái hậu vẫn ở Kê Minh tự mà, con quên rồi à? Mồng một Tết năm nay vốn định đến thỉnh an, nhưng người đã cắt đứt trần duyên, không muốn gặp ai nữa."

Lục Thư Thanh "ồ" một tiếng, gật đầu rồi lại hỏi tiếp: "Vậy... Cha sẽ kế thừa đại thống sao mẹ?"

Tạ Cánh nghẹn lời một lúc, khó lòng nắm bắt được chữ "vậy" đầy ngây thơ để chuyển chủ đề của Lục Thư Thanh. Nhưng y chợt nhớ, năm xưa chính mình cũng từng ngây ngô hỏi Lục Lệnh Tùng câu hỏi tương tự, mà sau bao năm, đến tận bây giờ, câu trả lời của y vẫn chẳng khác gì so với lời Lục Lệnh Tùng ngày ấy: "Thanh Nhi, mẹ không biết."

Lục Thư Thanh nhỏ giọng lẩm bẩm: "Tổ phụ nói với con về phẩm hạnh mà một Hoàng đế nên có. Người bảo cha không có, con cũng thấy cha không có."

Tạ Cánh tò mò hỏi: "Tại sao con lại nghĩ như vậy?"

"Tổ phụ nói thiên tử không nên để người khác nhìn thấu niềm vui hay nỗi giận của mình, thậm chí chẳng nên bày tỏ hỉ nộ ái ố. Có thể không cần sở hữu tài trị quốc xuất chúng, nhưng nhất định phải có ánh mắt sắc bén như đuốc để nhìn thấu lòng người, chọn được bề tôi phù hợp thay mình phát triển đại nghiệp. Đồng thời cũng phải khéo léo giữ thế cân bằng giữa những quần thần này, để cho bọn họ đánh nhau nhưng cũng phải kiêng dè lẫn nhau mà không ai dám ngấp nghé tranh quyền đoạt vị."

Tạ Cánh im lặng, đây đúng là đạo lý làm vua vừa khôn ngoan vừa hiệu quả, và Hoàng đế lại chọn nói điều đó với Lục Thư Thanh. Phải biết rằng, ông chưa bao giờ dạy dỗ Lục Lệnh Tùng bằng những lời mang hàm ý sâu xa như thế.

Điều này dĩ nhiên không có khả năng chỉ vì Lục Thư Thanh mới tròn chín tuổi, tâm tư đơn thuần, sẽ không nảy sinh những suy nghĩ không nên có.

"Nhưng cha con thì khác, cha mà ghét ai thì trước mặt người đó cũng chẳng buồn quan tâm đến lý lẽ, không ưa chuyện gì là la toáng lên cho cả thiên hạ đều biết. Học được món ăn mới sẽ nấu liền nửa tháng đến nỗi con ăn cũng phát ngán, phải nổi giận phàn nàn mới chịu thôi. Lúc ở bên mẹ thì cha chẳng còn nhìn thấy ai, cũng chẳng thèm nghe gì nữa... Nếu cha mà làm Hoàng đế, chỉ cần liếc mắt một cái thôi người ta cũng biết cha ưa, ghét thứ gì rồi."

Lời còn chưa dứt, Tạ Cánh đã bật cười thành tiếng, vươn tay xoa đầu Lục Thư Thanh làm mấy lọn tóc bên thái dương cậu rối bù lên. Cuối cùng, y nhẹ nhàng áp má mình vào trán cậu, vỗ về: "Dù cha con có trở thành Hoàng đế hay không, dù ai là người ngồi lên vị trí đó, thì con vẫn mãi mãi là con trai của cha mẹ, điều này vĩnh viễn sẽ không bao giờ thay đổi."

Ai cũng nói là trời sắp mưa, nhưng mãi đến giờ tắt đèn trời vẫn chẳng rơi hạt mưa nào, không khí khô sinh lạnh, gió thổi qua làm giấy dán cửa kêu lên soàn soạt như tiếng than thở.

Tạ Cánh gối đầu lên âm thanh ấy mà chìm vào giấc ngủ, y vừa thiếp đi, cảm giác như mới chỉ chợp mắt một lát thì bên ngoài đã vang lên tiếng bước chân lộn xộn và tiếng hô hoán dồn dập, y gượng dậy trong cơn mơ màng, chỉ nhìn thấy bóng lưng Lục Lệnh Tùng khoác vội áo ngủ mỏng manh chạy ra ngoài.

Tạ Cánh giật mình, lắng tai nghe kỹ mới nhận ra bên ngoài viện có tiểu tư đang lớn tiếng hô: "Đông phòng cháy rồi!"

Đông phòng của nhà chính vốn chỉ là căn phòng dư có đặt thêm một chiếc giường để nghỉ tạm. Sau khi Lục Thư Ninh ra đời, căn phòng đó mới được tu sửa và mở rộng thêm, để dành cho em và nhũ mẫu ở, đến lúc Lục Thư Ninh cai sữa, nhũ mẫu cũng xin từ về quê, từ đó đến giờ chỉ còn Ngân Trù là vẫn luôn ở bên chăm sóc em.

Tạ Cánh vén chăn, chẳng màng để tâm gian ngoài rét lạnh, lảo đảo chạy theo Lục Lệnh Tùng đang lao ra khỏi phòng, nhìn thấy Ngân Trù ôm Lục Thư Ninh quấn chăn kín người ngồi trong phòng khách, y mới nhẹ nhàng thở ra.

"Có bị thương chỗ nào không?" Y ngồi xuống bên cạnh lò sưởi, tự tay vắt khăn đưa cho Ngân Trù, sau đó đón lấy Lục Thư Ninh từ tay cô, vỗ nhẹ lưng em để trấn an.

"Không bị thương, chỉ là bị dọa sợ thôi." Ngân Trù nói, "Lúc đó nến hầu như đã tắt cả rồi. Tôi vì đọc sách nên mới đặt đèn lên sạp nhỏ cách cửa sổ rất xa, nhưng cửa sổ đã đóng kín, không có khe hở nào, thật sự không biết tại sao lại bị cháy."

Lục Lệnh Tùng đi xem xét Đông phòng, lúc này đã quay lại, nói: "Lửa cháy hơi lạ, ta đã sai người dọn dẹp phía trước rồi. Đêm nay cứ tạm nghỉ ngơi trước, ngày mai nhất định phải tra rõ chuyện này."

Vì có gió nên lửa lan rất nhanh, may mà phát hiện kịp thời nên đã khống chế được, nhưng vì nơi cháy là nội viện nơi vợ chồng Chiêu Vương và tiểu Quận chúa ở nên động tĩnh khá lớn, nhất thời trong ngoài vương phủ nhốn nháo cả lên, ai nấy đều bàng hoàng sợ hãi.

Tạ Cánh đang dặn dò mọi người lui về nghỉ ngơi, bỗng thấy bác Chu vội vã từ ngoại viện chạy đến, sắc mặt nghiêm trọng: "Điện hạ, vừa nãy trong cung có một thái giám đến thay Chung Triệu gửi thư. Nói là việc gấp, xin điện hạ và vương phi đọc ngay."

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh liếc nhau, nhận lấy thư mở ra, chỉ thấy Chung Triệu viết: "Bệ hạ bất ngờ bí mật triệu kiến Trung giám Vũ Lâm Vệ vào điện Thần Long, truyền chỉ 'phong tỏa ngõ Ô Y, kê biên tài sản Tạ phủ'. Vũ Lâm trung vệ đã điểm binh, chuẩn bị xuất phát qua Công Xa môn!"

Đọc thư xong, Tạ Cánh chấn động nhưng không dám để lộ ra ngoài, chỉ hoảng sợ lặp lại: "... Kê biên?"

Lục Lệnh Tùng lại nghĩ đến điều khác: "Phụ hoàng đột nhiên hạ chỉ vào giờ này à? Thái giám truyền tin kia còn đó không?"

Bác Chu lắc đầu: "Đặt thư xuống rồi vội vàng rời đi ngay, hình như không dám nán lại lâu."

Tạ Cánh suy nghĩ thật nhanh — rốt cuộc ngõ Ô Y có gì đáng để bị khám xét chứ? Tạ Dực và Tạ Duyễn đâu phải hạng người tham tài vơ vét, tài sản trong nhà ngoài bổng lộc, tiền thuê ruộng, lợi nhuận buôn bán, thì cũng chỉ có quà cáp qua lại xã giao. Tuy số tiền không nhỏ, nhưng nếu triều đình nắm được nhược điểm thì hẳn đã tính sổ từ lâu rồi, đâu cần chờ đến hôm nay?

Huống hồ, điều Lục Lệnh Tùng vừa nói lại đầy điểm đáng ngờ — Hoàng đế đang mang bệnh, chính sự còn chẳng buồn ngó ngàng, sao đột nhiên lại muốn gây khó dễ cho nhà họ Tạ? Thời điểm này, tốc độ này, còn cả cách hành động bất ngờ ấy, dường như đều đã được Hoàng đế sắp đặt từ lâu, thậm chí còn rất chắc chắn rằng nhất định sẽ tìm được thứ gì đó kinh thiên động địa ở Tạ phủ...

Nghĩ đến đây, Tạ Cánh bỗng nhiên rùng mình, xoay người lao thẳng ra khỏi nội viện, men theo hành lang quanh co chạy như điên về phía sảnh trước, chỉ thấy trên bàn gỗ hợp hoan sát tường phía Tây trống trơn, chiếc hộp kiếm cất ngọc tỷ Lam Điền truyền quốc đã không cánh mà bay!

"Là Chung Triệu!" Tạ Cánh xoay mặt lại, hét lớn về phía Lục Lệnh Tùng đang đuổi theo phía sau, "Hay là bệ hạ? Ngoài anh và em, chỉ có hai người họ biết bên trong hộp kiếm có gì!"

Lục Lệnh Tùng sững người tại chỗ, lẩm bẩm: "Là phụ hoàng sai khiến Chung Triệu..."

Cả hai đều không rét mà run: Nếu Vũ Lâm Vệ lục soát ngõ Ô Y mà tìm được hộp kiếm kia, nhà kho Tạ phủ lại chất ngọc Lam Điền như núi, hậu quả... Thật sự không dám tưởng tượng.

Tạ Cánh nghiến răng căm hận: "Rõ ràng bọn họ cố tình phóng hỏa đêm nay, nhân lúc hỗn loạn để trộm hộp kiếm rồi vu oan cho nhà họ Tạ!"

Nếu trực tiếp giấu ngọc tỷ truyền quốc vào Tạ phủ rồi giả vờ lục ra để giá họa, e là rất khó khiến thiên hạ tin phục. Trong điện Thần Long có đến hàng trăm nội giám, cung nhân, thị vệ trấn giữ, đến cả các đại thần cũng khó mà đến gần long án, muốn ngang nhiên lấy trộm ngọc tỷ trước mắt bao người là chuyện khó như lên trời.

Nhưng nếu cất nó vào hộp kiếm của phủ Chiêu Vương, tình thế sẽ khác hẳn. Thiên tử coi trọng Chiêu Vương, ngầm có ý chọn hắn trở thành người kế vị. Thế nhưng ngọc tỷ Lam Điền truyền quốc đại diện cho sự tín nhiệm lại xuất hiện trong phủ nhà vợ của Chiêu Vương. Chuyện này có thể nói là Chiêu Vương lòng mang ý xấu, bí mật đem ngọc tỷ ra ngoài giấu; cũng có thể nói là nhà họ Tạ ngấp nghé ngai vàng, vậy nên lén bảo Vương phi lấy trộm ngọc tỷ mang về ngõ Ô Y.

"Ông ấy ban ngọc tỷ truyền quốc cho phủ Chiêu Vương... Chẳng lẽ chỉ để đến ngày hôm nay có cớ vu hãm chúng ta một cách đường hoàng thôi sao?"

Lục Lệnh Tùng vừa dứt lời, trong đầu bỗng ong một tiếng, hiển nhiên Tạ Cánh cũng lập tức hiểu ra nước cờ này — Hoàng đế muốn ép bọn họ đưa ra lựa chọn!

Chọn con đường thứ hai, nhà họ Tạ tự chịu chết, nếu Chiêu Vương biết thức thời, dứt khoát cắt đứt sạch sẽ có lẽ vẫn còn cơ hội bù trừ công tội.

Chọn con đường thứ nhất, tức thì phủ Chiêu Vương và nhà họ Tạ phải cùng chịu chết.

Hoặc có lẽ đây vốn không phải một ván cờ có sự lựa chọn. Ngay từ đầu Hoàng đế đã ngầm đưa ra đáp án — cuộc tranh giành ngôi vị Thái tử còn chưa ngã ngũ, ông ta cũng không muốn bất kỳ đứa con trai nào của mình chết trước.

Tạ Cánh nghĩ mãi cũng chẳng rõ vì sao Hoàng đế lại đột ngột muốn đẩy nhà bọn họ vào chỗ chết. Là vì ông ta tự biết mình chẳng còn sống được bao lâu, người thừa kế đã được chọn, nên bắt đầu dọn dẹp những mối nguy tiềm tàng trong quá trình chuyển giao quyền lực ư? Nhưng nhà họ Tạ vốn chỉ là một gia tộc ngôn quan, so với phủ Tướng thì trong tay họ chẳng có chút thực quyền nào. Nếu thật sự có họa ngầm, phải chăng cũng chỉ vì nhà họ Tạ là ngoại thích, là nhà mẹ của Lục Thư Thanh. Nếu như sau này cậu đăng cơ, nhà họ Tạ ắt có khả năng sẽ cùng được vẻ vang, trở thành một "Lan Lăng Tiêu thị" hay "Lang Gia Vương thị" thứ hai...

Nếu như đây là nỗi băn khoăn của Hoàng đế, vậy nghĩa là Lục Thư Thanh nhất định sẽ có ngày trở thành quân vương.

Điều đó cũng đồng nghĩa rằng người thừa kế mà Hoàng đế chọn thật sự chính là Lục Lệnh Tùng.

Tạ Cánh đột nhiên sững sờ, nhớ lại những lời Hoàng đế nói với Lục Thư Thanh khi gọi cậu vào trong điện ngày hôm nay, y bỗng ngộ ra một điều – nhà họ Tạ đã bị "trừ mẹ giữ con" rồi.

Lục Lệnh Tùng dặn dò Chu Bá lập tức kín đáo tiêu hủy số ngọc Lam Điền mà Tạ Duyễn từng cho chuyển đến phủ Chiêu Vương. Sau đó hắn quay người lại, thấy Tạ Cánh vô cùng bình tĩnh nói:

"Tử Phụng, anh lập tức thay quần áo vào cung bày tỏ lòng trung thành với bệ hạ đi. Hãy phủi sạch quan hệ với em, càng làm lớn chuyện càng tốt, để càng nhiều người nghe thấy càng hay. Phải cho cả hoàng cung đều biết ngọc tỷ truyền quốc là do em tự ý giấu ở nhà họ Tạ, em muốn lợi dụng con để tranh ngôi vị. Số ngọc Lam Điền đó cũng là em bí mật đem về đây để che mắt người khác. Anh chỉ cần bảo vệ phủ Chiêu Vương là được, đến lúc cần thiết hãy dứt khoát đoạn tuyệt với em và cả nhà họ Tạ!"

"Đây là họ muốn giá họa cho người khác, sao em có thể dễ dàng nhận hết về mình mà không tranh luận một lời thế?"

"Nếu là kẻ khác giá họa, có lẽ còn chút cơ may biện giải... Nhưng người muốn giá họa hôm nay là thiên tử, oan ức này cũng chỉ có thể tố lên thiên tử, tranh cãi thêm thì có ích lợi gì chứ?"

Lục Lệnh Tùng nhíu chặt mày, quả quyết nói: "Ta sẽ không để em một mình mạo hiểm như vậy!"

Tạ Cánh thở dài như trấn an: "Không đâu, yên tâm đi, nhà họ Tạ vẫn còn đan thư thiết khoán..."

Hoàng thân phạm tội sẽ không bị tru di cửu tộc, đây là luật lệ từ xưa đã có. Hoàng đế dùng ngọc tỷ truyền quốc để gán tội cũng là chuyện đã rồi, nhưng muốn đổ tội lên đầu ai, y vẫn có khả năng gắng sức tranh giành đến cùng. Nếu như y tự mình gánh lấy tội danh này, nhà họ Tạ và thân quyến có thể nhờ vào đan thư thiết khoán mà giữ được mạng sống, phủ Chiêu Vương cắt đứt quan hệ với y, Lục Lệnh Tùng và con của y cũng sẽ được an toàn.

Tạ Cánh bất ngờ lao tới trước, rút Phi Quang đã vô thức giấu trong tay áo khi vừa choàng tỉnh ra, kề ngang cổ Lục Lệnh Tùng, lưỡi dao sắc lạnh sượt qua trong bóng đêm, mang theo hơi lạnh rét thấu xương.

Mọi người trong phòng đều kinh hoảng nói không nên lời, Tạ Cánh lại chỉ chăm chăm nhìn thẳng vào mắt Lục Lệnh Tùng, giọng y run lên, gằn từng chữ một:

"Lục Tử Phụng, em giao con của chúng ta cho anh. Nếu chẳng may có sơ suất, dù em có hóa thành lệ quỷ, rơi xuống mười tám tầng địa ngục cũng sẽ kéo anh xuống cùng."

Ánh mắt Lục Lệnh Tùng trầm xuống, ánh nhìn xoáy sâu vào đáy mắt Tạ Cánh. Hắn chậm rãi giơ tay lên, cứ thế nắm chặt lấy lưỡi dao Phi Quang sắc nhọn, máu tươi lập tức trào ra khỏi lòng bàn tay, từng giọt đỏ thẫm nhỏ xuống cổ tay áo của hắn, rồi rơi xuống trước ngực áo Tạ Cánh.

"Được."

Tạ Cánh nghe vậy, khẽ thở ra một hơi thật dài, từng thớ cơ bắp toàn thân vốn đang căng thẳng siết chặt nhờ khoảnh khắc này mà buông lỏng. Phi Quang trượt khỏi tay y, rơi xuống đất vang lên một tiếng chói tai, tựa như tiếng ngọc vỡ tan nát.

Cả hai đều đã mệt mỏi đến cực hạn, dưới cằm Lục Lệnh Tùng thậm chí còn lún phún gốc râu.

Tạ Cánh lặng lẽ tháo miếng ngọc trắng với đường nét điêu khắc vẫn chưa hoàn thiện hết từ bên hông xuống, ngón tay y khẽ run, nhanh chóng áp mảnh ngọc vào trước ngực Lục Lệnh Tùng rồi kéo vạt áo hắn xuống che lại.

Y thấp giọng nói ngắn gọn: "Vốn định đợi đến sinh nhật anh rồi mới tặng, bây giờ có lẽ không kịp nữa rồi."

Tạ Cánh bất chợt vươn tay ôm chặt lấy cổ Lục Lệnh Tùng, hơi ngẩng đầu hôn lên môi hắn. Nụ hôn này mãnh liệt khác thường, không mang theo d*c v*ng hay sự quyến luyến dịu dàng nào, mà là sự dồn dập như muốn gửi gắm toàn bộ tình cảm cả đời vào từng hơi thở.

Gần như cùng lúc đó, Lục Lệnh Tùng cũng vòng tay siết chặt y vào lòng, bàn tay nhuốm máu vô tình in lên áo ngủ màu trắng tinh của y, đầm đìa sắc đỏ.

Đám hạ nhân đều im lặng cúi đầu, mặc cho bọn họ ôm hôn nhau trước cơn cuồng phong sắp sửa kéo đến.

Hồi lâu sau khi đôi môi tách rời, Tạ Cánh vẫn ôm lấy khuôn mặt Lục Lệnh Tùng trong tay, nhìn hắn ở khoảng cách gần trong gang tấc, khẽ nói:

"Khanh nhìn thấy ngọc, giống như thấy ta."

Dứt lời, không chờ Lục Lệnh Tùng hồi đáp, y lập tức quay người, lạnh giọng hạ lệnh: "Chuẩn bị xe, đưa điện hạ vào cung!"
 
Back
Top Bottom