Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam

Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam
Chương 20: Thắp Đèn Mai – Phần 17



“…Hạ Trang ca ca, chàng… vẫn luôn muốn giết thiếp sao?” — Mai Linh mím môi, vành mắt đỏ hoe, song nước mắt lại không thể rơi xuống. Lồng ng.ực nàng phập phồng dữ dội, nói ra lời ấy, nàng cảm thấy tim mình như bị xé toạc.

Chiếc túi gấm trong tay Hạ Trang bị hắn siết chặt đến mức run rẩy, hai bàn tay thõng xuống hai bên người cũng run lẩy bẩy. Trước ánh mắt chất vấn của Mai Linh, Hạ Trang mấp máy môi, lời nói dối đã đến miệng… nhưng hắn lại không sao thốt nên lời.

“Chàng đã làm gì với Mộ Dung tỷ tỷ?” Mai Linh hỏi.

Mai Linh cắn môi, nghẹn ngào nói:

“Trong lòng chàng, người quan trọng nhất luôn là tỷ ấy. Thiếp chưa từng nghi ngờ điều đó. Thiếp chưa bao giờ mong chờ điều gì từ chàng… thế nhưng… chàng lại muốn giết thiếp…”

Hạ Trang không thể phản bác, nhưng cũng chẳng thể thừa nhận. Mai Linh từng bước từng bước tiến về phía hắn.

Khương Thanh Tố khựng lại, ánh mắt liếc xuống dưới, vô thức vẫn còn giữ tay ngăn Đơn Tà.

Đơn Tà lại đang nhìn tay nàng nắm lấy cổ tay mình — cánh tay mảnh dẻ ấy rõ ràng không thể cản nổi hắn, nhưng roi trong tay hắn… lại không sao vung xuống được.

Thẩm Trường Thích thì lúng túng vô cùng — trong sân, một người một linh đang rơi vào bi kịch yêu hận sinh tử, mà trên nóc tông từ, hai vị âm ty đại nhân cũng sắp động thủ! Hắn nên xem chỗ nào trước?… À không, hắn nên lo chỗ nào trước mới phải?

“Nếu lúc này người đang chiếm giữ thân thể Lý Mộ Dung là Mai Linh, vậy Lý Mộ Dung thì sao?” — Khương Thanh Tố nhíu mày.

Đơn Tà nhìn về phía bản thể của Mai Linh, đáp:

“Ở trong cây.”



Nếu hồn phách của Lý Mộ Dung hiện đang tập hợp trong bản thể Mai Linh, là hồn phách hoàn chỉnh, thì giờ chính là lúc thích hợp nhất để hành động, đưa nàng đi.

Khương Thanh Tố vốn không muốn sự việc trở nên phức tạp. Khi nãy nàng ngăn Đơn Tà, chỉ vì muốn bảo vệ một Mai Linh thiện lương, vô tội, và một Lý Mộ Dung không hay biết gì — không muốn ai bị tổn thương.

Nghĩ vậy, nàng buông tay, lui lại một bước, chỉ về phía bản thể Mai Linh, nói:

“Đơn đại nhân, xin mời.”

Đơn Tà: “……”

Thẩm Trường Thích: “……”

Đơn Tà thu Trấn Hồn Tiên về, lòng bàn tay ngưng tụ Minh Hỏa lam sắc, ngọn lửa dần hóa thành một lá bùa. Bùa còn chưa hiện hoàn toàn, Mai Linh đã có hành động.

Hàng loạt cánh mai bay lên, bao phủ cả cây mai và Hạ Trang bên trong. Trong cơn lốc không gió, vang lên tiếng gào như tiếng phụ nữ xé lòng, Mai Linh ngẩng đầu há miệng, tiếng gào ấy từ trong miệng nàng phát ra, đồng thời từng sợi tơ sáng vàng óng, như vạn sợi chỉ, cũng tuôn ra theo.

Ánh sáng ấy chói đến mức Khương Thanh Tố và những người khác đều phải giơ tay che mắt.

Hạ Trang đứng giữa trung tâm lốc xoáy, nhìn thấy Mai Linh đang tách khỏi thân thể Lý Mộ Dung, cũng thấy Lý Mộ Dung dần biến đổi: từ ấm áp mềm mại, sang trắng bệch, rồi xanh tím, cuối cùng xuất hiện thi ban.

Gương mặt diễm lệ bị hủy hoại tức thì, mái tóc đen rối như cỏ dại. Thân hình gầy guộc đến thảm thương, đến khi Mai Linh hoàn toàn thoát khỏi thể xác, Lý Mộ Dung chỉ còn lại bộ hài khô gục xuống đất.

Dưới lớp xiêm y, thân thể khô quắt như hai que củi chống đỡ. Thi thể đã thối rữa, mùi hương mai xen lẫn mùi tử khí.

Hạ Trang định lao đến đỡ lấy, nhưng Mai Linh vừa thoát ra đã chặn đường hắn.

Bản thể của Mai Linh vốn là cây, tu vi lại chưa đủ để hiện hình người hoàn chỉnh. Nàng chỉ có thể dựa vào linh lực tạo ra hình bóng mơ hồ — nửa như cát, nửa như nước, lơ lửng giữa không trung.

Hạ Trang hai lần tìm cách vòng qua nàng, đều bị nàng cản lại.

Hắn nhìn gương mặt Mai Linh — xa lạ, chẳng giống bất kỳ nữ tử nào hắn từng gặp. Mắt tròn, đuôi mắt dài, môi nhỏ thoảng hương mai. Tựa mỹ nhân bước ra từ tranh cổ, nàng nhìn hắn, bi thương mà tức giận, hỏi:

“Tỷ tỷ đã chết rồi. Chàng còn yêu tỷ ấy không? Chàng thật sự yêu tỷ ấy, như trong lòng chàng vẫn nghĩ sao?”

Nghe hai chữ “chết rồi” từ miệng nàng, Hạ Trang lập tức vung tay đẩy nàng ra, chặt đứt vai nàng, nàng hóa tan, rồi lại tụ hình ở bên cạnh.

“Vì muốn báo ân, ta chấp nhận buông bỏ trăm năm tu hành, cam lòng đắc tội địa phủ, chỉ để giữ hồn phách tỷ tỷ lại nhân gian, không để nàng vượt cầu Nại Hà, không để nàng đi đầu thai.” — Mai Linh nói, rồi dần lùi lại, đôi mắt nhìn thẳng vào Hạ Trang.

Nơi nàng vừa đi qua, từng sợi cát tụ lại quanh thi thể, ánh sáng vàng rực kéo thi thể dậy — nhưng xác ấy chẳng còn gì, chỉ còn một đống xương khô tơi tả.

Gương mặt Lý Mộ Dung từng khiến người ta say mê, giờ đây đã thành xác thối, da dẻ rách rưới, tóc tai xõa tung.

“Còn chàng? Với một Lý Mộ Dung đã thành thế này, chàng còn yêu được không?” — Mai Linh quăng thi thể ấy về phía Hạ Trang.

Gương mặt đen tím của thi thể càng lúc càng gần, Hạ Trang hoảng loạn lùi lại liên tục, ngã phịch xuống đất, mắt mở trừng trừng, kinh hoàng cực độ.

Hắn nhìn đầu Lý Mộ Dung ngã nghiêng, mái tóc phủ nửa khuôn mặt, cả người run rẩy, miệng há mà không nói thành tiếng.

“Chàng yêu là dung nhan mỹ lệ, hay trái tim dịu dàng?” — Mai Linh nhào tới, mắt sáng rực như linh vật, nhìn thẳng Hạ Trang, nói:

“Chỉ khi ta còn trong thân thể tỷ tỷ, nàng mới mãi mãi giữ được vẻ đẹp ấy. Nếu chàng giết ta, thì dù tỷ tỷ sống lại, cũng chỉ có thể sống với hình hài này.”

“Thế thì… chàng còn muốn giết ta sao, Hạ Trang ca ca…?” — Mai Linh tiến lại gần, đôi môi nhỏ hé mở, biến thành cái miệng khổng lồ như dã thú, lộ răng nanh sắc nhọn — ảo ảnh thoáng qua, rồi lại trở lại làn linh ảnh mong manh. Mắt nàng u sầu:

“Ta nguyện thành toàn cho chàng, nếu chàng dám.”

Hạ Trang bừng tỉnh, nhìn lại thi thể dưới đất, lập tức bật dậy, cuống quýt chạy khỏi tông từ như kẻ điên.

Thân ảnh thư sinh lao đi trong bóng tối, vừa chạy vừa hét loạn, khiến cả phủ chấn động. Hạ nhân đều bị đánh thức, nhưng chỉ thấy một kẻ áo xộc xệch, miệng lảm nhảm, thất thểu chạy xa dần trong hoảng loạn.

Khương Thanh Tố mở to mắt, nhìn cục diện trong sân biến chuyển chóng vánh. Kẻ từng muốn giết Mai Linh, giờ lại bị chính “vẻ đẹp chết chóc” của ái thê hù dọa mà tháo chạy. Còn Mai Linh — bị người mình thương tổn đến tận tâm can — chỉ biết nằm rạp dưới đất, khóc nức như gió thoảng.

Đơn Tà khẽ búng tay, lá bùa vàng mang lửa xanh chậm rãi bay đến trước mặt Mai Linh. Nàng ngẩng đầu lên, thoáng ngần ngại khi thấy ánh Minh Hỏa rực sáng, rồi ánh mắt khựng lại khi thấy dấu ấn đỏ chói của Thập Phương Điện in trên lá bùa. Nàng đã hiểu, người đến là ai.

Hồn phách hoàn chỉnh của Lý Mộ Dung tách ra từ bản thể của Mai Linh, lặng lẽ bước ra. Nàng nhìn thấy thi thể chính mình — rách nát tả tơi nằm nơi đất lạnh — rồi quay đầu, thấy Mai Linh cũng đang quỳ bên cạnh, ánh kim trên người vẫn chưa tan hết.

Đây là lần đầu tiên hai người đối mặt thật sự. Trước đây, tuy chung một thân thể, nhưng một người chiếm ban ngày, một người giữ đêm tối, chưa từng thấy nhau.

Lý Mộ Dung tiến đến, đứng trước mặt Mai Linh, rồi nhẹ nhàng đưa tay đỡ nàng dậy. Dù không chạm được, nhưng dường như có một lực vô hình nào đó gắn kết lấy hai người, khiến hành động ấy mang theo một cảm giác chân thật lạ kỳ.

Khi nãy Mai Linh có thể là đã dọa Hạ Trang, có thể là đã lừa hắn — nhưng từng lời từng hành động của hắn, Lý Mộ Dung đều thấy. Nàng thấy được sự điên cuồng của hắn, sự cố chấp, rồi là nỗi sụp đổ và kinh hoảng. Đó là một Hạ Trang mà sinh thời nàng chưa từng được chứng kiến — sống động, phơi bày trọn vẹn con người thật.

Lý Mộ Dung nhìn Mai Linh, nhẹ giọng nói:

“Cảm ơn ngươi.”

Mai Linh nghe vậy, nước mắt lập tức rơi như châu ngọc. Nàng lắc đầu, nghẹn ngào đáp:

“Ta… mới là người phải cảm ơn tỷ.”

Cảm ơn Lý Mộ Dung với sự hồn nhiên thuần hậu năm xưa, đã để nàng lần đầu biết đến nhân gian. Dẫu chỉ ở trong viện nhỏ của Mai Trang, nàng đã được nếm vị đất, đón gió, đội mưa, và trong đêm tuyết phủ lạnh lẽo, từng được một tiểu cô nương cao chưa bằng thân cây ôm chăn ra quấn lấy gốc rễ nàng mà sưởi ấm.

Nàng từng trải qua bốn mùa, từng biết thế nào là rung động. Tất cả, còn quý hơn cả trăm năm ngủ yên giữa mùi hương đèn nhang.

Khương Thanh Tố khẽ thở dài, từ mái nhà đáp xuống sân. Thẩm Trường Thích tính theo sau, nhưng bị ánh mắt Đơn Tà liếc qua, lập tức đứng im bất động.

Lý Mộ Dung trông thấy Khương Thanh Tố thong thả bước tới, hiểu ngay nàng đến vì mình. Nàng thoáng khựng lại, rồi dịu dàng cúi đầu.

Mai Linh nhận ra Khương Thanh Tố — Bạch Vô Thường của địa phủ — vội bước tới định chắn trước Lý Mộ Dung. Nhưng Lý Mộ Dung liền nói:

“Không cần đâu. Ta và nàng đã có giao ước. Một khi có thể qua cầu Nại Hà, ta sẽ theo nàng đi.”

Mai Linh quay sang nhìn nàng, giọng run nhẹ:

“Tỷ… không sợ chết sao?”

Lý Mộ Dung khẽ cười, ánh mắt thanh thản:

“Ta đã chết rồi.”

Mai Linh nghe xong, lặng lẽ nhường đường. Khương Thanh Tố đứng yên tại chỗ, chờ Lý Mộ Dung bước đến.

Từng bước chậm rãi tiến tới, đến gần rồi, Lý Mộ Dung bỗng quay đầu lại, dịu dàng dặn dò:

“Mai Trang chẳng còn ai nữa. Ngươi có thể đi bất cứ đâu. Ta thuở nhỏ từng đến nhiều nơi, núi xanh nước biếc… đều rất đẹp.”

Nói xong, nàng không quay đầu lại nữa.

Khương Thanh Tố vừa chạm tay vào nàng, liền một luồng khói xám nổi lên, tan biến trước khi kịp vượt qua mái nhà.

Mai Linh đứng sững tại chỗ. Nàng xoay một vòng, váy áo nhẹ xoay theo gió. Tường loang lổ bỗng trở nên sạch sẽ, dây leo khô biến thành mầm xanh, trong tông từ, khói hương chưa từng ngắt. Lão gia, phu nhân dắt theo cô bé Lý Mộ Dung tới thắp hương tổ tiên.

Lý Mộ Dung, đôi mắt tròn xoe, chăm chú nhìn chiếc hộp nhỏ bên bàn thờ. Bên trong có một hạt giống, nàng không nhận ra, liền lén lấy ra nghịch. Ngày ấy, gió mát trời trong, xuân sắc tràn đầy.

Một cơn gió thổi qua, cánh mai từ tông từ bay đi tứ tán. Gốc mai đã sống mười mấy năm cũng héo rũ, hoa tàn không để lại dấu vết.

Trên cầu Nại Hà, Khương Thanh Tố dẫn Lý Mộ Dung đi, trong lòng chẳng yên. Bên bờ Vong Xuyên vẫn còn rất nhiều người đang chờ được đưa qua, ngày mới chỉ qua một đêm, mà lại thêm bao sinh tử xoay vần.

Đến trước mặt Mạnh Bà, Khương Thanh Tố do dự hỏi:

“Hạ Trang rời bỏ cô như vậy, cô không tiếc sao? Hôm qua còn nói nguyện dùng mạng mình đổi lấy bình an của hắn.”

Lý Mộ Dung nhìn nàng, ngẩn người, rồi lắc đầu:

“Không. Nếu cho ta làm lại một lần nữa… ta vẫn nguyện ý.”

Khương Thanh Tố nhíu mày, không hiểu:

“Tại sao? Hắn không yêu cô như cô nghĩ. Đến cả thân xác cô, hắn cũng không dám nhìn.”

Lý Mộ Dung đón lấy bát canh, mỉm cười đáp:

“Cô… đời trước từng yêu ai chưa? Nếu thật sự từng yêu, thì dù người ấy không yêu cô, cô vẫn sẽ dốc hết lòng vì họ. Huống hồ…”

Nàng ngừng lại, không nói nốt. Rồi ngửa cổ uống canh Mạnh Bà, Mạnh Bà chỉ đường, nàng lặng lẽ bước đi.

Khương Thanh Tố không tiễn xa, chỉ đứng lại tại chỗ, vì một câu nói kia… mà lòng đau như dao cắt.

Nàng từng yêu ai sao?

Nếu người ấy không yêu nàng… nàng thực sự còn dám yêu hết mình sao?

Còn hai chữ “huống hồ”… rốt cuộc có nghĩa là gì?
 
Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam
Chương 21: Thắp Đèn Mai – Phần 18



Lời của Lý Mộ Dung có lẽ chỉ là thuận miệng mà nói, thế nhưng trong lòng Khương Thanh Tố, lại gieo xuống một hạt giống chẳng hề nhỏ. Nếu nàng biết rằng, về sau suốt một thời gian dài, chính vì mấy lời ấy mà tâm nàng chẳng lúc nào được an tĩnh, nhất định nàng sẽ kéo Lý Mộ Dung lại trước khi nàng kịp uống canh Mạnh Bà, ép nàng nói cho ra cái câu “huống hồ…” còn dang dở kia.

Tiễn xong Lý Mộ Dung, Khương Thanh Tố cũng xem như hoàn thành một vụ án người-quỷ-linh ba giới, mà lẽ ra nên được Đơn Tà “bạo lực” giải quyết. Ấy vậy mà không một ai bị thương, cũng chẳng ai bị hại.

Đơn Tà không trở lại địa phủ. Việc tiễn đưa Lý Mộ Dung được giao cho Khương Thanh Tố lo liệu. Nàng trông thấy hồn phách Lý Mộ Dung biến mất nơi giếng luân hồi, liền phủi tay một cái, chuẩn bị quay lại nhân gian. Trước đó, nàng tiện đường ghé qua Diêm Vương Điện.

Diêm Vương là người chẳng có lấy chút oai nghiêm, lúc nào cũng cười hì hì. Hơi có da có thịt, Khương Thanh Tố còn chưa kịp tới gần điện, mấy vị âm sai, quỷ sai thân quen đã vội vã tránh né. Trước kia từng thân thiết bao nhiêu, giờ lại ngại ngần bấy nhiêu.

Nàng nhìn thấy Hoàng Phong — hắn vừa trông thấy nàng liền quay lưng định rời đi. Khương Thanh Tố cười khẽ:

“Hoàng Phong đại nhân! Vừa thấy ta đã bỏ chạy là sao? Trên người ta có độc à?”

Hoàng Phong khựng bước, đã bị gọi tên thì chẳng thể giả vờ không nghe. Hắn quay lại, gượng gạo cười:

“Đâu có đâu có, ta chỉ là chợt nhớ ra có việc, nên mới quay đầu đi. Mà vừa rồi không nhìn thấy đại nhân đến thật.”

Dứt lời, hắn lại lén ghé tai Khương Thanh Tố hỏi nhỏ:

“Vị Hắc Vô Thường kia… không đi theo ngài đấy chứ?”

Khương Thanh Tố nhướn mày, hiểu ngay tâm tư. Trong địa phủ này, kẻ mà mọi người kiêng kỵ nhất — chính là Đơn Tà.

Nàng cười đáp:

“Không đâu. Hắn còn đang ở nhân gian, vụ án tại Mai Trang Lăng Thành vừa xong, vẫn còn chút hậu sự chưa giải quyết. Nếu ngươi có việc tìm hắn, ta có thể nhắn lại…”

“Ấy ấy đừng! Ta không có chuyện gì cả! Không có chút chuyện nào hết! Ta nhàn lắm!” — Hoàng Phong cuống quýt xua tay.

Khương Thanh Tố vẫn giữ nụ cười, khiến hắn tự nhận ra mình vừa nói hớ, vội cười trừ mấy tiếng.

Nàng hỏi:

“Thôi được rồi. Gần đây ta không ở đây, Diêm Vương Điện vẫn ổn chứ?”

Hoàng Phong than thở:

“Ngài không có mặt, Diêm Vương bận tối mắt luôn.”

“Giờ ta muốn gặp ngài ấy, có tiện không?”

Hoàng Phong giơ tay chỉ thẳng vào đại điện:

“Vừa vặn rảnh. Ngài cứ vào đi.”

Khương Thanh Tố gật đầu, đi thẳng vào Diêm Vương Điện. Nàng thuộc đường như lòng bàn tay, đi tới nơi làm việc riêng của Diêm Vương. Sau tấm rèm kia, từng là góc của riêng nàng — bàn làm việc từng chất đầy công văn giờ đã bị dọn đi, chỉ còn lại màn châu lặng lẽ.

Nàng thấy Diêm Vương đang tựa lưng nhắm mắt nghỉ ngơi, chân mày hơi nhíu, khóe miệng trễ xuống, trên mí mắt còn vương một tầng u khí.

Khương Thanh Tố khẽ cười, mở lời:

“Diêm Vương gia, đang nghỉ ngơi đấy à?”

Diêm Vương nghe tiếng lập tức ngồi nghiêm chỉnh, cố giả vẻ đang trầm tư. Nhận ra là Khương Thanh Tố, hắn lập tức rên lên một tiếng, mặt mày rầu rĩ:

“Phỉ Nguyệt! Ngươi tới rồi à? Là vì Đơn Tà không giữ ngươi nữa sao? Mau mau, chỗ sau rèm vẫn dành cho ngươi đó…”

“Đơn đại nhân đâu có nói không cần ta.” — Nàng mỉm cười sâu hơn. Diêm Vương nghe vậy, lập tức thu hồi toàn bộ biểu cảm, nhếch môi:

“Vậy ngươi đến tìm ta làm gì?”

“Có vài chuyện muốn hỏi rõ. Hỏi xong ta sẽ lên lại nhân gian.” — nàng ngẩng đầu chỉ phía trên.

“Ngươi hỏi đi.”

“Ngài làm Diêm Vương bao lâu rồi?”

“Chừng… một nghìn tám trăm năm gì đó.”

“Vậy ai phong cho ngài chức Diêm Vương?”

Diêm Vương suýt buột miệng trả lời, ánh mắt bỗng lóe sáng, nhìn Khương Thanh Tố dò xét:

“Ngươi hỏi chuyện này làm gì?”

Nàng hờ hững đáp:

“Đơn đại nhân từng nói, hắn luôn là Hắc Vô Thường của địa phủ. Ta muốn biết, khi ngài nhận chức, hắn đã ở đó chưa? Hắn từng là người phàm không? Vì sao cả địa phủ ai cũng e dè hắn? Hiểu rõ, sau này dễ chung sống hơn.”

Diêm Vương hít sâu, hạ thấp giọng cười:

“Chuyện liên quan đến hắn… Phỉ Nguyệt, ta dạy ngươi một điều. Về Đơn Tà, nhất định — không hỏi, không nói, không tò mò. Làm tốt việc của Thập Phương Điện là đủ để sống yên ổn cùng hắn rồi.”

Bị Diêm Vương nói thế, Khương Thanh Tố lại càng thêm hiếu kỳ. Tính nàng đời trước vốn vậy — chuyện gì chưa rõ thì khó lòng bỏ qua. Có điều Diêm Vương không cho nàng cơ hội hỏi tiếp, chỉ một câu “bận rồi” liền đuổi nàng đi. Nàng cũng không thể lưu lại lâu trong điện được nữa.

Rời khỏi Diêm Vương điện, nàng lại lần bước đến cầu Nại Hà, trong lòng vẫn băn khoăn: Thân phận của Đơn Tà, tính khí của hắn, cả năng lực kỳ dị của hắn nữa… Người này đầy rẫy bí ẩn. Nếu không gỡ ra được, lòng nàng khó an, tâm lại càng thêm nghẹn.

Trở lại nhân gian, nàng về thẳng khách đ**m. Tính ra cũng chỉ nửa ngày đưa tiễn Lý Mộ Dung, thêm lúc ghé qua Diêm Vương điện, thì trời nhân gian đã bắt đầu hửng sáng.

Vừa đẩy cửa phòng Đơn Tà, quả nhiên ba người kia vẫn đủ mặt. Một người như cũ, ngồi tĩnh tại bên ghế thái sư cạnh cửa sổ, không hề tiếp cận ai. Hai người còn lại thì tụ đầu rì rầm chuyện trò, tay vừa bóc hạt dưa vừa kể lại chuyện xảy ra trong Mai Trang.

Chung Lưu đã được Đơn Tà sai đi điều tra bùa vàng. Việc giữa Lý Mộ Dung – Mai Linh – Hạ Trang ở từ đường, hắn không rõ. Giờ được Thẩm Trường Thích kể lại, thêm mắm dặm muối càng ly kỳ.

Khương Thanh Tố bước vào, Thẩm Trường Thích liền nhướn mày cười:

“Bạch đại nhân về rồi à? Lý Mộ Dung lúc đi có khóc lóc la hét không?”

Khương Thanh Tố mỉm cười ngồi xuống đối diện hắn:

“Con gái nhà khuê các, nào có như vậy?”

Chung Lưu nghe xong thấy không đúng, chỉ vào Thẩm Trường Thích nói:

“Huynh vừa kể ta nghe mà, rằng Lý Mộ Dung vì bị Hạ Trang bỏ rơi nên gào khóc thất thanh, làm Hạ Trang phát điên bỏ chạy!”

Khương Thanh Tố: “…”

Thẩm Trường Thích xoay bút, cười đáp:

“Ta đời trước từng là người kể chuyện, hiểu mà.”



Đơn Tà nãy giờ vẫn im lặng, lúc này bỗng mở miệng:

“Hồn phách của ngươi, cần trả lại rồi.”

Khương Thanh Tố sực nhớ, hồn phách của mình vẫn còn trong tay Đơn Tà, còn cái trong thân thể nàng hiện tại lại là của một quỷ hồn đã lang thang nhân gian cả trăm năm. Nàng gật đầu, bước tới trước mặt Đơn Tà, chớp mắt hỏi:

“Phải làm sao mới nhận lại được?”

Thẩm Trường Thích chen lời:

“Đưa tay ra là được rồi.”

Nàng đưa tay, Thẩm Trường Thích cười khúc khích. Đơn Tà liếc hắn một cái, phun một chữ “phong” — miệng Thẩm Trường Thích lập tức bị khóa, mặt mày khổ sở nhìn về phía Chung Lưu, người sau chỉ thở dài:

“Ngươi cũng đáng đời lắm.”



Ngồi đối diện Đơn Tà, Khương Thanh Tố nhắm mắt lại. Lúc bị rút hồn phách khỏi thân thể, nàng không có chút cảm giác nào. Nhưng khi hồn phách của chính mình được đưa trở lại, cảm giác ấy sâu sắc vô cùng.

Những ký ức bị lãng quên, từng đoạn mơ hồ như khói mây, giờ đồng loạt ùa về.

Kể cả thời khắc nàng mất hồn, ngẩn ngơ sống qua những tháng ngày điên loạn… và cả đêm tuyết năm ấy.

Một đoạn thơ:

“Trường dạ bất miên, minh nguyệt hà chước chước.

Tưởng văn tán hoán thanh, hư ứng không trung nặc.”

Nửa bài nàng viết, nửa sau là nét bút cứng cáp mạnh mẽ của người khác — đêm tuyết ấy, khi nàng tỉnh mộng, trong phòng bỗng có một người đứng lặng ngoài cửa sổ — Đơn Tà.

Khi ấy hắn hỏi:

“Ngươi là ai?”

Nàng đáp:

“Khương Thanh Tố.”

Hắn hỏi tiếp:

“Vì sao mài mực?”

Nàng nói:

“Muốn viết bài thơ, nhờ người mang cho chàng ấy.”

“Chàng ấy là ai?”

“Người ta gọi là… Thánh Thượng.”

Bài thơ đó, nàng từng đốt — vì nghĩ: Viết rồi, chưa chắc gửi được. Gửi rồi, chưa chắc được đọc. Đọc rồi, chưa chắc đến cứu nàng.

Vậy mà… hôm sau trong phòng, nàng lại thấy tờ giấy có nét chữ của mình, cháy dở, chẳng nhớ đã viết khi nào.



“Bạch đại nhân thấy thế nào?” — giọng Chung Lưu kéo nàng khỏi dòng hồi ức.

Nàng sững người, chớp mắt lấy lại tỉnh táo. Chỉ thấy mình vẫn nhìn Đơn Tà không rời. Vội dời mắt nhìn ra ngoài cửa sổ:

“Không sao rồi.”

Chung Lưu thở phào:

“Vậy là chúng ta giữ được mạng rồi.”

Thẩm Trường Thích: “…”

Giữ mạng gì chứ? Ta đã chết rồi mà!



Trên đường ngoài kia, dân chúng đang ùa về một hướng.

“Bọn họ đi đâu vậy?” — Khương Thanh Tố hỏi.

“Xem tuồng.” — Đơn Tà lạnh nhạt đáp.

Khương Thanh Tố tò mò:

“Lăng Thành có gánh hát à? Đi xem chút chứ?”

Nào ngờ, nơi đó… lại là Mai Trang.



Trước cửa Mai Trang, dân chúng đang xì xào. Có người chửi Hạ Trang mưu đồ giết vợ để chiếm tài sản, có người mắng Mai Trang thành chốn tà môn. Lão quản gia già nổi giận, cầm chổi đuổi hết mọi người.

Gió lùa qua cổng lớn, tấm biển “Lý phủ” cũ kỹ lộ ra nét thời gian, từng mảng tróc lở. Trên đầu tượng sư tử đá, tuyết tan nhỏ từng giọt, như nước mắt rơi từ khóe mắt sư tử.

Khương Thanh Tố khẽ thở dài:

“Thế nhân đều bạc bẽo, chỉ tiếc Lý Mộ Dung một tấm chân tình không đổi.”

Đơn Tà hỏi:

“Ngươi làm sao biết thiên hạ đều bạc bẽo?”

Nàng ngẩn người, chỉ vào cổng phủ:

“Ta thấy rồi, Hạ Trang đêm qua hoảng sợ bỏ chạy.”

Đơn Tà hơi nhướn mày, khóe môi cong lên đầy ẩn ý, rồi sải bước rời đi.

Khương Thanh Tố líu ríu theo sau:

“Hắn làm sao thế? Ta nói sai à?”

Thẩm Trường Thích: “…”

Chung Lưu bật cười:

“Thẩm huynh bảo rồi, Bạch đại nhân hiểu lầm — Hạ Trang có chạy đi, nhưng lại quay về. Tiếc rằng Mai Linh đã không còn, Lý Mộ Dung cũng đã đi rồi. Hắn ôm son phấn và lược đào, quỳ trước thi thể nàng mà khóc nức nở. Giờ chắc vẫn còn ngồi trước từ đường, thần trí mê loạn đó.”

Khương Thanh Tố lặng đi, nhìn vào Lý phủ. Trời trong xanh, Lý phủ từng tấp nập nay chỉ còn tiếng gió, mang theo chút nghẹn ngào.

Khẽ lẩm bẩm:

“Đã chẳng màng thi thể, thì giữ lấy trang dung làm chi?”

Chung Lưu nói:

“Người mà, ai lại không sợ ma quỷ? Có lẽ… hắn thật sự bị Mai Linh dọa chạy, rồi cũng thật lòng yêu Lý Mộ Dung mà quay lại. Dù sao, chuyện của Mai Trang… cũng đã khép lại rồi.”

Khương Thanh Tố cúi đầu mỉm cười:

“Phải, kết thúc rồi.”

Nàng đuổi theo Đơn Tà, giọng vui vẻ:

“Đơn đại nhân, đừng đi nhanh thế. Chúng ta bàn tiếp đi, xem rốt cuộc người đời vô tình nhiều, hay hữu tình nhiều hơn?”

Đơn Tà thản nhiên:

“Không hứng thú.”

“Chậc, mặt lạnh thì có gì thú vị? Thẩm đại nhân vẫn bảo ngài lạnh lùng lắm đấy.” — nàng trêu.

Thẩm Trường Thích: “…”

Oan quá, ta nào dám!



Mai Trang yên ắng, dân gian lưu truyền:

“Tiên nhân chiết chi mai, Mai Trang tích kim tài. Ngọc tử tùy thư chí, thực hương kỷ bách niên. Giao oa tàng hạch tiếu, nhập thổ mai hoa lai. x**n th** hựu phùng quân, mạch mạch tình đậu khai. Giáng thần điểm yên chi, phượng quan đầu thượng đái. Biện tác nhân duyên khởi, sinh tử lưỡng tương tán.”

Nghĩa là:

Tiên nhân bẻ nhành mai, nơi Mai Trang từng tích lũy vàng ngọc quý báu.

Ngọc trai được gửi theo thư, hương thơm còn lưu truyền suốt trăm năm.

Ếch giấu hạt giống trong tiếng cười, chôn xuống đất rồi hoa mai lại nở rộ.

Dòng nước mùa xuân lại gặp người, từng làn nước chảy mang theo tình ý đâm chồi nở rộ.

Thần tiên điểm nét mày, mũ phượng lộng lẫy đội trên đầu người thiếu nữ.

Bàn về mối duyên khởi thủy, đến cuối cùng cũng là sinh ly tử biệt.

Có câu rằng:

Gặp tiên gặp quỷ, phúc họa khó lường.
 
Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam
Chương 22: Bát trường sinh – Phần 1



“Đại Chiêu ta nay đã bước sang năm Quang Vĩnh thứ mười hai, chư vị thử nghĩ xem, kể từ sau khi Nam Di giao chiến cùng triều ta ba năm liền rồi đại bại, đến nay có phải quốc thái dân an, nhà nhà cá thịt đầy mâm?” Người đứng trên đài cao vung tay hô lớn, bên dưới lập tức vang lên tiếng hò reo phụ họa: “Phải! Phải lắm!”

Người nọ mặc trường sam, đầu đội khăn vải nhỏ, tóc mai điểm bạc, tay cầm cây quạt phe phẩy trong gió. Trời nóng bức vô cùng, bên dưới hàng hàng lớp lớp những người đang uống trà mát, đều là đến nghe kể chuyện. Cạnh nơi kể chuyện là một quán trà, ông lão kể chuyện, bà lão bưng trà dâng hạt dưa, lạc rang cho khách.

Mặt trời đã khuất sau núi, người ở lại đều là những kẻ say mê câu chuyện chưa muốn rời đi. Trà đã rót mấy lượt, ông bà lão cũng kiếm được kha khá.

Ông lão lấy quạt đập mạnh lên bàn rồi đứng bật dậy, cất giọng: “Chư vị có biết vì ai mà hôm nay chúng ta mới có thể sống những ngày thái bình thế này không?”

“Là nhờ Lạc tướng quân chứ còn ai! Nếu không có ông ấy đánh đuổi Nam Di, chúng ta sao được yên ổn thế này?” Có người đáp.

“Theo ta thì là Khúc Thái phó. Ông ấy học vấn uyên thâm, lại là thầy dạy thái tử, môn sinh của ông ta khắp triều đình, ngay cả huyện lệnh huyện ta cũng là năm ngoái thi đỗ từ môn hạ ông ấy.” Người khác tiếp lời.

Ông lão phe phẩy quạt cười hề hề: “Mấy nhân vật đó công trạng lẫy lừng người ta đã nói nhiều rồi. Nay lão phu muốn kể về một kỳ nhân, là người đã mất trước khi Nam Di rút về tổ địa — vị nữ tể tướng duy nhất của Đại Chiêu quốc — Khương Thanh Tố!”

“Nhắc đến ả làm gì?! Ả phản quốc cấu kết với địch!” Không rõ ai hô lên, người khác liền phụ họa theo.

Thấy mọi người tức giận, ông lão vội vàng trấn an: “Đừng vội, đừng vội. Lão phu từng ở kinh thành mười hai năm, bảy năm nàng ấy làm quan ta đều chứng kiến tận mắt! Khương Thanh Tố là người thế nào, ta biết rõ nhất. Huống hồ triều đình vốn không có trung thần tuyệt đối, cũng chẳng có gian thần tuyệt đối. Kẻ làm quan nếu gian, thì ắt phải giảo hoạt, biết lấy lòng quân vương, cũng phải giỏi lo việc nước. Kẻ làm quan nếu trung, dù có tâm báo quốc nhưng nhiều lúc lại quá cứng nhắc. Trong đó còn nhiều uẩn khúc, để lão phu từ từ kể…”



Trên đài người kể chuyện say sưa như thể bản thân chính là hoàng đế ngồi long ỷ, mắt nhìn thấu mọi cục diện trong triều.

Ngồi hàng ghế cuối là một nữ tử mặc bạch y, tay khẽ vê hạt lạc, đầu ngón tay thon dài nhẹ nhàng tách bỏ lớp vỏ đỏ, rồi đưa lạc vào miệng. Dù đang giữa hè, nàng vẫn mặc áo cổ cao mà không hề thấy mồ hôi.

Mái tóc đen nhánh xõa xuống lưng, chỉ dùng dải lụa đơn sơ buộc lại. Nàng vừa nhón thêm một hạt lạc, thì bên cạnh có cơn gió thoảng qua, một nam tử áo xanh đã ngồi xuống trước mặt nàng, miệng cười toe toét: “Bạch đại nhân, đang nghe kể chuyện à?”

Khương Thanh Tố ngẩng đầu nhìn Thẩm Trường Thích, hỏi: “Sao? Các ngươi xử lý xong rồi à?”

Thẩm Trường Thích ồ lên một tiếng: “Xong xuôi cả rồi, chẳng phải tới đón ngài đây sao?”

Nghe thấy chuyện trên đài, đôi mắt hắn cười cong như trăng non: “Ôi chao, đang kể chuyện về lúc ngài còn sống đó à? Ông lão kia bảo ngài mang chí khí nam nhi, bởi thế mới muốn làm quan, thường xuyên vào cung chẳng phải vì tư tình với hoàng thượng như lời đồn, mà là… thích hoàng hậu nương nương! Trời đất ơi, xem hắn nói gì kìa, không biết tôn trọng người chết gì cả, chậc chậc chậc, ta không chịu nổi, đi thôi, về thôi!”

Thẩm Trường Thích đứng bật dậy, vờ làm bộ giận dữ, hai tay khoanh trước ngực, dậm chân như thiếu nữ. Khương Thanh Tố vốn chẳng để tâm, nhưng bị hắn trêu chọc, rốt cuộc không nhịn được bật cười khẽ.

Thẩm Trường Thích cũng cười theo: “Cười rồi là hết giận rồi nhé.”

Khương Thanh Tố dần thu lại nét cười, đặt mấy đồng bạc vụn lên bàn, liếc nhìn ông lão đang thao thao bất tuyệt trên đài, rồi xoay người rời khỏi quán trà, hai tay giấu sau lưng bước đi thong thả: “Ta còn đang giận đây.”

Thẩm Trường Thích biết nàng đã nguôi ngoai, liền cười đáp: “Tính tình Vô Thường đại nhân, chẳng phải ngài cũng quá rõ rồi sao? Bảy năm cùng làm việc, chịu đựng một chút chẳng phải là xong à?”

“Chịu đựng?” Khương Thanh Tố đưa tay ra trước, tay phải đập lên lòng bàn tay trái: “Tính ra, đây là lần thứ sáu rồi!”

Thẩm Trường Thích chỉ biết cười gượng.

Huyện Địch Thủy nằm dọc theo dòng nước, sông chia huyện thành hai nửa, vài cây cầu vồng bắt qua. Hôm nay trúng dịp Thất Tịch, phố xá nhộn nhịp không ngớt. Đặc biệt quanh miếu Nguyệt Lão lại càng đông. Trẻ nhỏ đeo mặt nạ, cụ già bán đèn hoa, các loại tạp kỹ đều tràn ra đường, nơi kể chuyện ban nãy chỉ là một góc trong cảnh náo nhiệt ấy. Rời khỏi quán trà, khung cảnh vẫn ồn ào nhộn nhịp.

Nhiều thiếu nữ mười tám đôi mươi thẹn thùng đeo mặt nạ che mặt, người nhà bình dân thì đi thành nhóm, nhà quyền quý có nha hoàn theo sau, tay bưng đèn hoa sen định thả dưới cầu nhân duyên. Các cô nương lướt qua Khương Thanh Tố, nàng liếc nhìn đèn hoa, hừ nhẹ một tiếng.

Nàng nói: “Lần nào cũng vậy! Vừa thuyết phục được hồn ma, bất kể nam hay nữ, chỉ còn thiếu chút nữa là theo ta đi, vốn định dùng lời mà giải quyết, không tổn hại người sống, chẳng làm đau kẻ chết, thế chẳng phải tốt hơn sao? Kết quả thì sao? Đơn đại nhân lại vung roi một phát, cuối cùng là người sống khóc ròng, người chết la ó, ép buộc chia tách, cưỡng chế rót canh, bắt ép đầu thai!”

Thẩm Trường Thích nghe nàng trách Đơn Tà, tóc gáy cũng dựng cả lên, mắt đảo quanh dè dặt phụ họa: “Phải phải, ngài ấy mà không quất roi ở nhân gian thì ngứa ngáy không chịu được.”

Xin trời, câu này ngàn vạn lần đừng để Vô Thường đại nhân nghe thấy!

Khương Thanh Tố hơi ngẩng cằm: “Nếu chuyện thu hồn có ta cũng được mà không có ta cũng chẳng sao, thì chẳng bằng ta đi nghe kể chuyện, vừa nhàn nhã vừa bớt hao hơi tổn sức.”

Thẩm Trường Thích kêu lên: “Thập Phương điện mà không có ngài thì làm sao xoay xở nổi?”

Khương Thanh Tố nhếch môi liếc hắn: “Thật sao?”

“Thật chứ! Tài năng của ngài ai ở địa phủ mà chẳng biết rõ!” Thẩm Trường Thích cười hề hề ghé sát lại: “Thật ra, Diêm Vương mấy lần định điều ngài về thẳng Thập Phương điện, nhưng đều bị Vô Thường đại nhân giữ lại không cho đi.”

Khương Thanh Tố hơi nhướn mày, chớp mắt một cái. Thẩm Trường Thích tiếp lời: “Thật đấy, khi ngài sang các âm ty khác làm việc, Diêm Vương đã đến rồi, ta tận tai nghe thấy Vô Thường đại nhân nói không cho ngài quay về đâu, nói rằng Thập Phương điện chúng ta trông cậy cả vào ngài. Ngài nghĩ xem, mỗi lần chúng ta ra ngoài xử lý án, chẳng phải đều dựa vào công tác chuẩn bị chu đáo của ngài, phối hợp với Vô Thường đại nhân ăn ý, mới có thể thu hồn về trong thời gian ngắn nhất sao?”

Khương Thanh Tố khựng lại, trong đầu hiện lên khuôn mặt lạnh như sương giá của Đơn Tà, đôi mắt phượng nheo lại nhìn hồn ma, Trấn Hồn Tiên chưa cần giơ lên đã khiến hồn ma kinh hãi. Nàng khẽ lắc đầu: “Hắn sẽ không nói vậy đâu.”

Nhưng lời Thẩm Trường Thích nói cũng khiến tâm trạng nàng dịu đi phần nào.

Lần này ra ngoài xử lý vụ án, vốn là theo dấu một nam hồn. Nam hồn ấy vốn không phải người huyện Địch Thủy, khi còn sống là người tích đức làm lành, do sinh ra trong nhà giàu sang, phụ mẫu đã mời cao nhân ban cho hắn một miếng ngọc hộ thân. Sau khi chết, vì chấp niệm quá sâu, lại nhờ ngọc hộ mệnh nên không bị âm binh đưa về địa phủ, mà một mực tìm đến Địch Thủy để gặp vị hôn thê chưa kịp cưới của mình.

Thông thường loại hồn phách không chịu siêu sinh này tuy thuộc quyền quản lý của Thập Phương điện, nhưng có thể để quỷ sứ hoặc Chung Lưu xử lý, không đến nỗi phải kinh động Khương Thanh Tố và Đơn Tà cùng ra mặt.

Chính là vì vị hôn thê của hắn trời sinh có “quỷ nhãn”, có thể nhìn thấy hồn ma lang thang nơi nhân thế. Hai người gặp nhau liền ôm đầu khóc lớn, nam tử không nói mình đã chết, nữ tử cũng tưởng là tái ngộ, lâu ngày xa cách lửa gần rơm, chỉ qua một đêm… khiến nữ tử mang trong mình quỷ thai.

Quỷ thai vốn là do âm khí của nam hồn xâm nhập vào thân thể nữ tử, mười tháng sau sẽ sinh ra một khối huyết nhục không mặt không tay chân.

Tên của nam hồn hiện lên trong âm dương sách do Thẩm Trường Thích quản lý, chính vì sự việc hoang đường này mới cần đến Đơn Tà và Khương Thanh Tố cùng ra tay — vừa thu hồi nam hồn, vừa trừ bỏ quỷ thai trong bụng nữ tử.

Khương Thanh Tố thấy hai người tình thâm nghĩa trọng, đã mềm mỏng khuyên giải, cảm động bằng lý lẽ, nam hồn đã bắt đầu dao động, nói cần suy nghĩ thêm. Khương Thanh Tố tuy cũng lo lắng xảy ra chuyện, nhưng vẫn ôn tồn thuyết phục, nữ tử khóc lóc nức nở khiến lòng nàng cũng động chút từ bi.

Kết quả, Đơn Tà đứng bên hừ lạnh, chỉ nói bốn chữ: “Giả tạo lừa lọc.”

Rồi vung một roi, khiến hồn phách nam tử tan tành. Nữ tử kinh hãi đau đớn ôm bụng gào thét, quỳ rạp trước mặt Khương Thanh Tố cầu xin. Khương Thanh Tố lúc đó vừa đau mắt, vừa đau đầu, vừa đau tai, chỉ đành làm rùa rụt cổ rút lui — thực sự bị chọc giận mà bỏ đi.

Khi quay lại ngôi miếu hoang ngoài huyện Địch Thủy nơi họ rời đi trước đó, bên bãi cỏ khô và bức tường đổ nát, đã có một bóng dáng áo đen đứng sẵn.

Người đó đứng quay lưng, ngẩng đầu nhìn vầng trăng trên đỉnh đầu, Trấn Hồn Tiên đã được thu về. Chung Lưu không có mặt, hiển nhiên là đã đưa nữ tử về, trong bụng cũng đã trừ xong quỷ thai, bằng không mai sau sinh ra tất sẽ hại nàng suốt đời. Còn nam hồn kia… Haiz, nếu chỉ là lưu luyến nhân gian chưa muốn siêu sinh thì còn có thể linh động xử lý, cùng lắm đầu thai làm súc sinh hay sinh vào nhà nghèo, nhưng hắn lại không màng âm dương cách biệt mà gây nên quỷ thai, tất phải bị đày xuống địa ngục chịu khổ hình.

“Trở về rồi à?” Một giọng nói lãnh đạm vang lên.

Thẩm Trường Thích im lặng, Khương Thanh Tố liếc hắn một cái rồi ngẩng đầu ưỡn ngực, bước tới gần Đơn Tà, khẽ hắng giọng: “Đơn đại nhân, thủ đoạn cao minh thật đấy.”

“Ngươi đang giận ta?” Nam tử áo đen tóc đen từ từ quay đầu nhìn nữ tử đứng bên phải mình. Đêm nay trăng tròn, ánh trăng sáng vằng vặc, miếu hoang nơi đây trống trải, không gì che chắn gió, nhưng lại khiến mùa hè dịu bớt phần nào oi bức.

Khương Thanh Tố đáp: “Ai dám chứ?”

“Ngươi chẳng phải đang dám sao?” Đơn Tà thu lại ánh mắt, gương mặt tuấn tú cứng cỏi trong ánh trăng lại lộ ra vài phần dịu dàng. Dùng chữ “nguyệt vận hàm quang” để miêu tả hắn lúc này cũng không quá lời.

Đơn Tà nói tiếp: “Ta đã nói chỉ cho ngươi ba ngày. Mặt trời lặn thì thời hạn cũng hết, nếu ngươi không thể giải quyết trong thời gian quy định, thì phải dùng cách của ta.”

Khương Thanh Tố mím môi: “…Cứng nhắc quá.”

Thẩm Trường Thích nghe đến hai chữ này, vai giật một cái, trừng mắt nhìn Khương Thanh Tố. Trời đất ơi! Bạch đại nhân đang mắng Vô Thường đại nhân đấy à!

Khóe môi Đơn Tà hơi cong: “Nam tử kia lừa ngươi thôi, hắn biết rõ mình phải xuống địa ngục, định mượn cớ suy nghĩ để tìm cơ hội chạy trốn.”

Khương Thanh Tố méo miệng: “…” nửa ngày không thốt nên lời, chỉ “hừ” một tiếng.

“Ha.” Đơn Tà vẫn cong môi cười khẽ.

Thẩm Trường Thích vừa rồi chỉ thấy ngạc nhiên, giờ đã hóa thành kinh hãi thực sự. Mẹ ơi! Vô Thường đại nhân cười rồi kìa!

Vị Hắc Vô Thường vừa cười vừa liếc Khương Thanh Tố, nhả ra hai chữ nhè nhẹ: “Ngây thơ.”

Một cơn gió nữa thổi qua, cuốn bay tầng mây đang che trăng. Dưới cầu nhân duyên trong huyện Địch Thủy lúc này cực kỳ náo nhiệt, đông người không tả xiết. Bao thiếu nữ xếp hàng chờ thả đèn hoa. Có cô gái vừa bước tới trước, trên mặt đeo mặt nạ hình chim khổng tước, khẽ khàng đặt đèn hoa xuống nước, mắt cụp xuống, hai tay chắp lại trước ngực.

“Nguyệt Lão phù hộ, xin cho Hiếu ca ca của ta đỗ cao khoa bảng.”
 
Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam
Chương 23: Bát trường sinh – Phần 2



“Tiểu thư!” Một thiếu nữ mặc áo vàng, trạc mười sáu mười bảy tuổi, đứng bên cầu Nhân Duyên hướng về phía bờ sông gọi: “Tiểu thư!”

Nữ tử vừa thả đèn hoa từ từ ngẩng đầu nhìn lại, nửa gương mặt lộ ra sau chiếc mặt nạ khẽ nhếch môi cười, nàng vươn tay đẩy nước, đưa đèn trôi xa hơn.

Trên sông, vô số đèn hoa thắp sáng, mỗi chiếc đèn hình hoa sen đều đặt một ngọn nến nhỏ bên trong, cạnh nến còn có một mảnh giấy để viết lời nguyện cầu gửi đến Nguyệt Lão. Nếu ngọn đèn nào được Nguyệt Lão lựa chọn, điều ước sẽ thành sự thật.

“Nguyệt Lão ơi, xin ngài nhất định phải chọn đèn của con. Chi Hiếu ca ca thi trượt hai lần rồi, nếu lần này vẫn không đỗ, sao dám đến gặp phụ thân con cầu hôn? Nếu ngài giúp huynh ấy thi đỗ, mỗi năm con đều đến đây dâng hương cảm tạ ngài.” Nói rồi, nàng cắn môi, nhấc váy đi lên bờ, nhường chỗ cho các thiếu nữ phía sau tiến lên.

Sau khi lên bờ và trở lại con đường lớn, thiếu nữ áo vàng mới tiến lại gần, lấy khăn lụa lau tay cho nàng: “Tiểu thư, trời đã tối, chúng ta về phủ thôi.”

Nữ tử gật đầu, kéo tay nha hoàn nói: “Tư Quyên, mai em đi cùng ta đến tìm Trương bá nhé.”

Tư Quyên có chút do dự, mím môi đáp: “Tiểu thư, em nghĩ trước khi Trương công tử đỗ đạt, người chớ nên tìm Trương bá. Mỗi lần lão gia biết đều không vui.”

Nữ tử nói: “Chi Hiếu ca ca vào kinh rồi, Trương bá tuổi cao, sao ta nỡ không chăm nom giúp?”

Tư Quyên thở dài: “Người là nhị tiểu thư của phủ họ Trần, lão gia trong vùng danh vọng không nhỏ, kẻ muốn cưới người làm vợ cũng không ít, thế mà…”

“—Tư Quyên!” Nữ tử trừng mắt sau lớp mặt nạ, giọng nghiêm: “Không được nói nữa. Về phủ.”

“Vâng.”

Hai người men theo bờ sông chậm rãi rời đi, bóng dáng dần khuất trong ánh đèn rực rỡ nơi cầu Nhân Duyên. Trên sông, đèn hoa ngày càng nhiều, khiến những đèn thả trước đó bị xô lệch. Hai chữ “cao trung” được viết bằng nét chữ thanh tú bị nước làm nhòe, ngọn đèn hoa sen lay lắt rồi dần chìm xuống đáy sông.

“Đêm nay trăng thật tròn.” Thẩm Trường Thích cất lời.

Không rõ từ khi nào, hắn đã trèo lên bờ tường ngôi miếu hoang, ngồi bên bụi cỏ khô, một tay chống cằm nhìn trăng. Trong lòng thấy hơi bối rối, chủ yếu vì muốn phá tan không khí ngượng ngập giữa Hắc Bạch Vô Thường đang đứng bên nhau mà cứ như cách biệt một dòng Vong Xuyên.

Nói xong, hắn cúi đầu nhìn về phía Khương Thanh Tố và Đơn Tà, hai người vẫn đứng yên, chẳng ai lên tiếng.

Thẩm Trường Thích thở dài, từ từ xoay người, hai chân đung đưa trên tường, tay cầm bút và sách. Bìa sách bị hắn gập lại, ngòi bút chạm lên giấy.

“Đây đã là lần thứ sáu Bạch Tố Tố và Hắc Bá Vương cãi nhau rồi. Tiểu thư danh môn, vốn không chịu nổi cái kiểu thô lỗ cục mịch của gã đàn ông núi rừng. Bạch Tố Tố mặt mày u ám, viền mắt đỏ hoe, đôi mày lá liễu hơi chau lại, môi anh đào mím chặt, thỉnh thoảng lại liếc nhìn Hắc Bá Vương, trong lòng thầm nghĩ: Gã đàn ông thô kệch này, chẳng biết dỗ dành người ta chút nào!”

“Vô Thường đại nhân!” Giọng Chung Lưu có chút gấp gáp, phá tan bầu không khí kỳ quặc.

Thẩm Trường Thích vừa viết tới đoạn Hắc Bá Vương chẳng biết dỗ người, liền ép Bạch Tố Tố lên giường, chuẩn bị c** q**n hành sự thì giật mình thu bút sách lại, giả vờ như không có chuyện gì. Nhưng khi nhìn về phía Đơn Tà, phát hiện Khương Thanh Tố lại đang nhìn hắn chằm chằm.

Thẩm Trường Thích chớp chớp mắt, Khương Thanh Tố nhướn mày: “Viết truyện đấy à?”

Thẩm Trường Thích nhảy xuống khỏi tường, lắc đầu: “Không có, ta đang xem âm dương sách thôi.”

Khương Thanh Tố bật cười khẽ khàng, rõ ràng không tin. Gã này đã mấy trăm năm ở Thập Phương điện chuyên viết mấy thứ không đứng đắn, chỉ riêng mấy năm nàng đến đây đã tận mắt thấy hơn hai chục bức xuân cung đồ hắn vẽ. Nói dối mà cũng không biết giấu kỹ.

Chung Lưu nhẹ nhàng đáp xuống, hai tay chống đầu gối thở d.ốc một hồi mới nói: “Vô Thường đại nhân! Ta vừa đâm chết một người rồi!”

Thẩm Trường Thích giật mình: “Trời đất, ngươi mạnh tay vậy sao?”

Đơn Tà liếc hắn một cái, Thẩm Trường Thích lập tức ngậm miệng. Khương Thanh Tố hỏi: “Sinh tử của người thế gian đều có định số, người đó vốn đang sắp chết rồi à?”

“Đúng! Ấn đường đen, hồn phách đã có dấu hiệu rời thể, chắc chắn là người sắp chết.” Chung Lưu nói rồi nhăn mặt: “Nhưng mà… ta sao có thể giết người chứ? Vô Thường đại nhân từng nói, tay ta không thể vấy máu người!”

Khương Thanh Tố nhìn sang Đơn Tà, hỏi: “Vậy là sao?”

Đơn Tà đáp: “Chung Lưu là quỷ sứ do ta lưu lại nhân gian, có năng lực bắt quỷ trừ yêu. Tuy còn sống, nhưng cũng đã là người chết, nên không thể sát sinh.”

Khương Thanh Tố chưa hiểu, lại quay sang nhìn Thẩm Trường Thích. Hắn toan giải thích, nhưng vừa nhìn thấy ánh mắt của Đơn Tà liền nuốt ngược lời định nói. Vô Thường đại nhân chắc chắn là thấy phiền, không muốn nghe tiếng hắn nữa.

Chung Lưu nói: “Tức là ta có thể giết quỷ nhưng không thể giết người. Vô Thường đại nhân bảo vệ ta ở nhân gian suốt bao năm, nhưng sinh lão bệnh tử của thế nhân chẳng liên quan đến ta. Dù ta có cầm đao đâm vào ngực người khác, lưỡi đao cũng sẽ hóa vô hình, người kia tuyệt không bị thương.”

Khương Thanh Tố giờ mới hiểu: “Vậy là ngươi không thể giết người, thế hắn chết thế nào?”

“Ta đã kiểm tra, không có vết thương, tuổi tác đang tráng kiện. Duy chỉ có vấn đề về tim phổi, nếu bị kích động tức giận có thể phát bệnh mà chết. Nhưng ta chỉ đụng vào vai hắn thôi, lý ra không đến mức đó.” Chung Lưu nói rồi nhìn về phía Đơn Tà: “Vô Thường đại nhân, chẳng lẽ… có chuyện xảy ra rồi?”

Đơn Tà hỏi Thẩm Trường Thích: “Âm dương sách có ghi lại gì không?”

Thẩm Trường Thích hoảng hốt, lập tức lôi âm dương sách ra, Khương Thanh Tố cũng ghé lại nhìn. Vừa thấy trang bìa có ghi mấy chữ như “Chuyện phòng the của nàng họ Bạch và phu quân”, nàng liền nhíu mày, thầm nghĩ: tên lắm chuyện này quả nhiên chẳng bao giờ viết gì đứng đắn.

Hắn dùng bút xóa đi phần chữ trên bìa, ba chữ “Âm Dương Sách” hiện ra. Lật từng trang xem kỹ, nội dung trước đó hắn viết cũng biến mất, chỉ toàn là giấy trắng. Hắn ngẩng đầu nói: “Không có gì bất thường.”

Chung Lưu ngẩn người: “Chẳng lẽ là trùng hợp thật?”

Đơn Tà trầm ngâm một chút, rồi nói với Chung Lưu: “Ở lại trông chừng nữ nhân mang quỷ thai kia. Ba ngày sau nếu nàng ta không phát điên thì là bình an vô sự. Việc này ta sẽ về Thập Phương điện tra xét. Nếu dương gian còn biến cố, hãy đốt phù truyền tin.”

Chung Lưu lập tức gật đầu: “Tuân lệnh!”

Lời đã nói xong, cũng là lúc họ nên trở về địa phủ. Thẩm Trường Thích thở phào nhẹ nhõm, cất cuốn sách đi, ghé lại bên Chung Lưu thì thầm thêm vài câu.

Khương Thanh Tố không để ý đến hắn, theo sau Đơn Tà, trong lòng đầy hiếu kỳ về thân phận của Chung Lưu nên hỏi: “Chung Lưu đã sống được bao nhiêu năm rồi?”

“Hơn hai trăm năm.” Đơn Tà đáp.

Khương Thanh Tố lại hỏi: “Hơn hai trăm năm trước, ngài làm sao biết đến hắn? Làm sao khiến hắn đồng ý? Người sống nơi thế gian, không chết thì không có sinh. Khi ngươi đưa ra yêu cầu ấy, hắn chẳng lẽ không sợ sao?”

Đơn Tà liếc nhìn nàng, cúi đầu đôi chút. Khương Thanh Tố ngẩng đầu lên, chớp mắt, trong đôi mắt to tròn ngập tràn tò mò.

Thực ra, khi nàng còn sống, lúc làm quan tại kinh thành, nàng vốn không tin vào chuyện quỷ thần. Dẫu trong Đại Chiêu quốc đầy rẫy lời đồn ma quái, có kẻ điên, kẻ ngớ ngẩn, từng có một người đồng liêu nhận hối lộ, vốn là dòng dõi thanh liêm, đêm ấy liền mộng thấy tổ tiên trong từ đường mắng nhiếc.

Nhưng Khương Thanh Tố không sợ. Tay nàng cũng từng nhuốm máu không ít, chẳng tin vào báo ứng, chỉ nghĩ người sống ai rồi cũng chết, chết kiểu gì cũng vẫn là chết. Nhưng giờ nghĩ lại, nếu lúc đó có người hứa cho nàng bất tử, liệu nàng sẽ nghĩ sao?

Đơn Tà chợt hỏi: “Ngươi hết giận rồi à?”

Khương Thanh Tố ngẩn người, nhớ lại chuyện quỷ thai, liền phẩy tay, khóe miệng mỉm cười: “Chuyện nhỏ thôi, ta nào dám giận Đơn đại nhân chứ.” Rồi nàng còn giơ ngón cái lên: “Ngài làm tốt lắm! Việc gì cũng cần nhanh gọn dứt khoát, có ngài ra tay, vừa tiết kiệm thời gian lại hiệu quả.”

Đơn Tà thấy bộ dạng giảo hoạt của nàng, khẽ lắc đầu thu ánh mắt lại: “Chung gia nhà hắn, đời đời đều phục vụ cho ta.”

“Đời đời?” Khi nói vậy, hai người đã về đến địa phủ.

Qua cầu Nại Hà, Đơn Tà đáp: “Đúng. Ta đã không còn nhớ Chung Lưu là người thứ mấy rồi.”

Trong lòng Khương Thanh Tố thẫn thờ. Hôm nay người qua cầu không nhiều, ngược lại dưới cầu, hồn phách trôi trên nước khá đông. Người được qua cầu là kẻ khi còn sống tích đức hành thiện, kẻ trôi dưới nước ắt từng phạm lỗi, dù lớn hay nhỏ, cũng đều có nghiệp.

Vài hồn phách lướt qua bên người họ, hai người cũng vừa lúc bước lên điểm cao nhất của cầu Nại Hà. Từ đây nhìn xa, sông Vong Xuyên có nhiều thuyền chở khách âm, bờ sông lờ mờ trong sương mù, phía xa lại có làn khói xanh lượn lờ, giữa khói là vài ngôi nhà, không biết là nơi ở của quỷ sai âm ty nào.

Khương Thanh Tố đưa tay kéo ống tay áo Đơn Tà, rồi thấy mình có phần quá thân mật nên lập tức thu tay lại, mỉm cười nói: “Đừng vội về, ngắm phong cảnh một chút.”

Đơn Tà liếc nhìn nàng, rồi theo hướng tay nàng mà nhìn. Sau đó, hắn nói: “Ngày nào chẳng giống ngày nào. Hồn phách vào địa phủ, tùy theo tội nghiệp mà chia nơi đến, cả bầu trời u oán lạnh lẽo phủ lên trên, có gì đáng ngắm đâu?”

Khương Thanh Tố nhếch môi, im lặng một lát, thấy hắn cũng chưa vội đi tiếp, bèn hỏi: “Đơn đại nhân, ngài đi dương gian nhiều lần như vậy, từng bao giờ thưởng ngoạn cảnh đẹp nơi nhân thế chưa?”

Đơn Tà hai tay sau lưng, lưng thẳng tắp. Mái tóc đen mượt, ánh mắt thanh tĩnh, môi mỏng khẽ hé: “Nhân gian hay địa phủ cũng vậy, có gì đẹp đâu?”

Khương Thanh Tố bật cười khẽ: “Ha.” Môi vẫn còn cong. Đơn Tà nghe thấy liền cau mày, ánh mắt thoáng vẻ khó chịu. Khương Thanh Tố vội thu nụ cười lại: “Ta không có ý cười nhạo đâu, chỉ là cảm thấy… ngài quả thật chỉ yêu mấy thứ máu me hung tàn trong địa ngục, còn với cái đẹp thì chẳng hứng thú gì.”

Đơn Tà nói: “Ngươi thì đẹp đấy.”

Khương Thanh Tố ngẩn ra, chớp chớp mắt. Rõ ràng không có tim đập, nhưng lại cảm thấy tim mình lệch nhịp một khắc. Nàng lặng lẽ dịch sang bên một chút, hỏi: “Ý ngài là sao?”

“Chính là như ta nói.” Đơn Tà đáp: “Trong mắt ta, thấy gì là nấy. Núi là núi, nước là nước, hoa cỏ cây cối là hoa cỏ cây cối. Núi với núi, ngoài hình dáng cao thấp và thổ nhưỡng thì chẳng khác gì nhau. Nước với nước, ngoài độ trong đục sâu cạn, cũng chẳng khác gì nhau. Còn hoa cỏ cây cối…”

“Cũng chẳng khác gì ngoài màu sắc và hình dạng, đúng không?” Khương Thanh Tố tiếp lời, rồi chỉ xuống những hồn phách dưới cầu: “Vậy trong mắt ngài, những kẻ này cũng giống như núi sông hoa cỏ?”

“Hồn phách chính là hồn phách, ngoài sạch và dơ, chẳng khác nhau.” Đơn Tà nói xong, Khương Thanh Tố chỉ vào mình: “Ta chẳng phải cũng giống bọn họ, không có thân xác, chỉ là một hồn phách, khi còn sống còn từng giết người đấy.”

Đơn Tà nhìn nàng, ánh mắt ấy khiến Khương Thanh Tố cảm thấy như mình bị nhìn thấu mọi thứ. Tay nàng buông thõng hai bên, siết chặt lại, đối diện ánh mắt hắn. Mắt Đơn Tà rất đẹp, ánh mắt phượng sâu thẳm như vực đen không một tia sáng, hàng mi dài rũ xuống, như đêm đen không sao, ngũ quan cứng cỏi phối lại không giống quỷ, mà giống tiên.

Hắn nói: “Ngươi thì khác.”

Chỉ ba chữ. Nói xong, hắn quay người bỏ đi.
 
Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam
Chương 24: Bát trường sinh – Phần 3



Khương Thanh Tố còn đang ngây người, thì Thẩm Trường Thích đã từ biệt Chung Lưu xong, chạy tới, than một tiếng: “Ta chỉ nói với tên ngốc đó vài câu, các ngài đã không đợi ta rồi. Hại ta lại tốn thêm một đạo phù. Bạch đại nhân, ngài giúp ta xin Vô Thường đại nhân hai đạo nữa đi, ngài xin thì ngài ấy sẽ cho mà.”

Khương Thanh Tố nhìn bóng áo đen vừa khuất trên cầu, chớp chớp mắt rồi nhìn Thẩm Trường Thích: “Ta… ta có đẹp không?”

Thẩm Trường Thích lùi một bước, tay ôm ngực như phòng bị: “Ngài… ngài định làm gì ta?”

Khương Thanh Tố phẩy tay: “Dù ta có định làm gì cũng chẳng đến lượt ngươi, chỉ cần thành thật trả lời là được.”

Thẩm Trường Thích thở phào, hắn nào dám tranh người với Hắc Bá Vương, liền gật đầu: “Đẹp chứ.”

“So với núi xanh nước biếc thì sao?” Khương Thanh Tố thấy chưa đủ, liền chỉ xuống những hồn phách dưới cầu hỏi: “So với họ thì sao?”

Thẩm Trường Thích ngẩn ra, đáp: “Đẹp hơn họ, nhưng mà… nói thật, không bằng Phượng Kiều Nương. Lần đầu ta gặp nàng, ta sững sờ luôn.”

“Phượng Kiều Nương là ai?” Khương Thanh Tố nhíu mày, thầm nghĩ mấy chuyện gì kỳ quặc đây.

Thẩm Trường Thích “ồ” một tiếng, nói: “Phượng Kiều Nương là hoa khôi của kỹ viện, qua đây bảy năm trước. Nhưng đừng khinh nàng vì là kỹ nữ, nàng chỉ bán nghệ không bán thân. Vì bị ép nên mới tự vẫn bằng thuốc độc. Khi nàng tới, vừa hay gặp vị Bạch đại nhân tiền nhiệm, ôi chao, ông ấy mê nàng đến nỗi từ quan đuổi theo nàng đi đầu thai. Chính vì thế mà Diêm Vương mới để ngài tiếp nhận chức vụ ấy.”





Khương Thanh Tố: “……”

Nhớ lại sắc mặt Đơn Tà khi nói câu kia, hoàn toàn không giống nói đùa, mà hắn cũng đâu phải người hay đùa. Trong khi Thẩm Trường Thích cứ thao thao bất tuyệt kể chuyện Phượng Kiều Nương, rồi lan sang vị Bạch Vô Thường đời trước, miệng hắn không ngừng được nữa.

Khương Thanh Tố lười nghe, nhấc chân bước đi, Thẩm Trường Thích vội đuổi theo: “Bạch đại nhân, ngài giận vì ta không nói ngài đẹp nhất sao? Đừng không thèm nói chuyện với ta chứ, đừng đi nhanh vậy…”

Đơn Tà không quản chuyện nhỏ ở Thập Phương điện, nhưng Khương Thanh Tố lại thích can thiệp. Nàng vốn không ngồi yên được, bèn đem sổ sinh tử của người bị Chung Lưu đụng chết ra xem đi xem lại.

Trên sổ ghi rõ: người đó ngày mồng tám tháng Bảy vì đánh bạc thua mười ván, tâm trạng bất ổn, phát bệnh tim, vì lang y đến chậm nên tử vong. So với hôm bị Chung Lưu đụng chỉ sớm hơn một ngày.

Chết ngày mồng bảy hay mồng tám vốn không khác biệt lớn, lại chẳng phải việc gì kinh thiên động địa. Khi xuống địa phủ, người đó nghe mình chết sớm một ngày còn thở phào, nói may mà không thua sạch tiền, ít ra cũng để lại chút tài sản cho vợ con. Vậy là hắn vui vẻ đi đầu thai.

Khương Thanh Tố không chỉ xem sổ sinh tử của người đó, mà cả vợ con hắn cũng tra qua. Tất cả đều bình thường, không tín ngưỡng, chẳng đắc tội ai. Vậy làm sao lại chết sớm một ngày?

Ban đầu việc ấy cũng dần chìm vào quên lãng, vì mỗi ngày có quá nhiều người tử vong, chuyện qua lại rối như tơ vò. Nhưng một tháng sau, đầu tháng Tám, lại có một người chết sớm một ngày nữa — lần này khiến Khương Thanh Tố chú ý.

Hôm đó, Đơn Tà đi Địa Ngục, Thẩm Trường Thích đang ở thư phòng Thập Phương điện vẽ vời, chẳng chịu cho Khương Thanh Tố xem, lại còn nhìn nàng với vẻ mặt kỳ lạ khiến nàng khó chịu. Chán không có việc gì, nàng bèn đến điện Diêm Vương tìm người quen, đúng lúc gặp Dạ Du đang đánh cờ với Diêm Vương, nàng bèn ngồi xuống xem.

Dạ Du đánh cờ rất giỏi, Diêm Vương chẳng phải đối thủ. Khương Thanh Tố chỉ ngồi trên ghế nhỏ một bên, mỉm cười không nói. Diêm Vương liếc nàng: “Phi Nguyệt, ngươi xem ta nên đi nước nào…”

Khương Thanh Tố định đáp thì Dạ Du lập tức rít lên: “Bạch đại nhân, xem cờ không được nói.”

Khương Thanh Tố đáp: “Ta tất nhiên biết xem cờ không nói. Chẳng lẽ ta còn chỉ chỗ cho Diêm Vương đi à? Nói ra ta thành gì?” Nói xong lại tiện tay chỉ một nước, Diêm Vương mừng rỡ đặt cờ. Dạ Du mặt đen sì nói: “Ngươi đúng là tiểu nhân.”

Khương Thanh Tố cười cười. Trước đây nàng từng đấu cờ với Dạ Du, hắn cũng chẳng phải đối thủ. Đang khi cuộc cờ gay cấn, bỗng ngoài điện có người hô lớn: “Không xong rồi! Diêm Vương gia, có chuyện lớn rồi!”

“Ngươi mới không xong ấy!” Diêm Vương giận dữ hất bàn cờ, phá tan một ván đang thắng thế. Dạ Du thở dài, chỉ vào bàn cờ: “Ngài thế là chơi xấu đấy nhé?”

Diêm Vương bĩu môi: “Ngay cả Đơn Tà ta còn dám chơi xấu, huống gì ngươi?”

Dứt lời liền đi ra ngoài.

Ván cờ tan rã, Khương Thanh Tố cũng mất hứng, theo sau.

Diêm Vương ngồi lên đài cao, quỷ sai vừa hô lớn dẫn người phạm vào. Khương Thanh Tố và Dạ Du đứng bên nhìn lướt qua — là một nam tử trẻ, khoảng hai mươi tuổi, sắc mặt tràn đầy phẫn uất.

“Gây náo động ngoài điện, vì lý do gì?” Diêm Vương hỏi.

Nam tử kia ngẩng đầu, liền hét lớn: “Ta không đáng chết hôm nay! Vì sao lại bắt hồn ta xuống đây?!”

Diêm Vương liếc quỷ sai, người kia nói: “Hắn không tin mình chết trẻ, Mã Diện đại nhân tra sổ sinh tử, xác nhận hắn chết sớm thật — chỉ sớm một ngày.”

Diêm Vương nhướn mày: “Một ngày?”

“Một ngày?! Đây đâu chỉ là chuyện một ngày?!” Nam tử gào: “Đại Chiêu có quốc pháp, quan viên nếu chết khi còn tại chức, thân quyến sẽ được trợ cấp! Ta vừa mới đỗ Bảng Nhãn! Giờ Tỵ hôm nay, bổ nhiệm lệnh sẽ tới nhà ta! Gia quyến ta dốc cạn gia tài cho ta học hành, dù có chết cũng phải sau khi nhận lệnh bổ nhiệm! Có thế họ mới không trắng tay sống lay lắt!”

Khương Thanh Tố đứng bên nghe mà nhướng mày — quả thực Đại Chiêu quốc có quy định như vậy, mà luật này, chính là do nàng khi còn tại vị biên soạn. Nhưng kỳ lạ chính ở chỗ, người này cũng chết sớm một ngày, khiến nàng không khỏi nhớ tới người đàn ông đã chết cách đây một tháng.

“Diêm Vương gia ở trên! Sổ sinh tử viết ta chết khi nào thì chết khi đó, sao lại bị bắt xuống sớm? Việc này liên quan đến tính mạng cả gia đình ta! Cầu xin Diêm Vương gia cho ta quay về!” Người thanh niên không ngừng dập đầu van xin.

Diêm Vương vuốt râu trầm ngâm: “Nhưng khí số ngươi đã tận, không thể hoàn dương được nữa. Dù có sai người đưa ngươi trở lại, hồn lìa khỏi xác thì không cách gì sống lại. Chi bằng sớm đi đầu thai, đời sau tìm một gia đình phú quý mà sống.”

Nói rồi, Diêm Vương phất tay, lệnh lôi người kia ra ngoài.

Người nọ vẫn giãy giụa, giọng đã khản đặc: “Diêm Vương gia! Cầu xin ngài! Ta không đáng chết! Ta không nên chết lúc này! Ta không cần sống thêm cả đời, chỉ cần qua giờ Tỵ hôm nay, để ta nhận được lệnh bổ nhiệm thôi…”

Người bị kéo đi, tiếng gào thét cũng dần mất. Sau đó ắt sẽ là theo cách của Đơn Tà — cưỡng chế cho uống canh Mạnh Bà, rồi đá xuống giếng Luân Hồi.

Diêm Vương đuổi người xong, quay lại định kéo Dạ Du tiếp tục đánh cờ, nhưng Dạ Du chê hắn gian lận, bảo sẽ đi. Diêm Vương đành kéo Khương Thanh Tố. Mọi khi nàng vẫn nhường nhịn hắn, nhưng hôm nay trong lòng bận chuyện, đành cáo từ về Thập Phương điện.

Vừa đến trước điện, đã thấy Thẩm Trường Thích ngồi vắt chân trước bậc thềm, rung đùi hí hoáy viết sách, khóe miệng mang theo nụ cười khó chịu nổi.

“Thẩm.” Khương Thanh Tố mở miệng, hắn lập tức cất sách, ngẩng đầu cười nịnh: “Bạch đại nhân, ngài về rồi?”

“Lại đây, nghiên cứu cái này.” Khương Thanh Tố lắc lư sổ sinh tử trong tay, chính là của người thanh niên chết trước khi nhận lệnh bổ nhiệm.

Vào trong điện, nàng ngồi xuống ghế, trải quyển sổ ra bàn. Thẩm Trường Thích đứng bên, hai người cùng xem xét cuộc đời của người này — chẳng có điểm nào bất thường, hơn hai mươi năm đèn sách chỉ mong đỗ đạt.

Trong sổ sinh tử ban đầu ghi: sau khi nhận lệnh bổ nhiệm, vì từng đắc tội với Tương Thân Vương trước đây, mà bị hắn thuê sát thủ gi.ết ch.ết tại nhà vào giờ Dần. Mọi sự có đầu cuối, không sai lệch.

Thẩm Trường Thích xem đi xem lại, rồi nhíu mày: “Không có gì bất hợp lý cả, sao lại chết sớm một cách kỳ quặc như vậy?”

Khương Thanh Tố ngẫm nghĩ: “Hiện giờ ở nhân gian là giờ nào?”

“Giờ Dần.” Thẩm Trường Thích đáp.

Mắt nàng sáng lên, bèn lật luôn sổ sinh tử của người đàn ông chết cách đây một tháng — vốn ghi chết vào giờ Tuất ngày mồng tám tháng Bảy, nhưng thực tế lại là giờ Tuất ngày mồng bảy.

Tính kỹ lại — không sai dù chỉ một khắc. Cả hai đều chết sớm đúng mười hai canh giờ, tức một ngày trọn vẹn.

Khương Thanh Tố hỏi: “Nhân gian có tu sĩ nào, biết pháp thuật nào khiến người khác chết sớm mười hai canh giờ không?”

Thẩm Trường Thích lắc đầu: “Chưa từng nghe qua.”

“Vậy có pháp thuật nào… có thể đoạt đi mười hai canh giờ thọ mệnh của người khác?” nàng lại hỏi.

Thẩm Trường Thích lại lắc đầu, nhưng rồi khựng lại, vẻ mặt thoáng nghi hoặc. Hắn đưa tay sờ cằm, bỗng nhiên trợn mắt, thốt lên: “A!”

Khương Thanh Tố giật mình, trừng mắt: “La hét cái gì?”

“Ta… ta biết là gì rồi!” Thẩm Trường Thích tròn xoe mắt: “Là đồ vật của Vô Thường đại nhân!”

“Đơn Tà?” Khương Thanh Tố nhướn mày, hắn vội vã xua tay: “Không không, không thể gọi tên đại nhân.”

“Không phải hắn đang ở đây.” Khương Thanh Tố hừ nhẹ.

“Dù sao cũng không được gọi.” Hắn kéo ghế ngồi xuống, chống cằm, ra chiều hồi tưởng: “Để ta nhớ… vật đó gọi là gì nhỉ… quên mất rồi, chuyện này đã gần bốn trăm năm, khi đó ta mới nhậm chức chưa bao lâu. Vô Thường đại nhân cùng Bạch đại nhân đời trước đưa ta đi xử một vụ án, để lại ở nhân gian một vật.”

“Khi đó có một lão nhân sở hữu quỷ nhãn, nuôi bốn, năm đứa trẻ chết thảm trong tay bọn buôn người như cháu ruột. Việc này liên quan đến Bạch đại nhân tiền nhiệm — vốn là thất hoàng tử trong cung. Khi ấy triều đình chưa phải họ Triệu, chưa phải Đại Chiêu, sáu hoàng tử chia bè kết đảng, triều đình chia năm xẻ bảy. Thất hoàng tử là con của hoàng hậu, đêm sinh ra thì sát thủ của sáu hoàng tử đã rình sẵn bên ngoài phủ, chờ để giết.”

Khương Thanh Tố gật đầu — tranh quyền đoạt vị là chuyện thường thấy, chính phụ thân nàng khi xưa cũng từng là phe của ngũ hoàng tử, hoàng đế hiện tại.

“Vị ngự y già ấy đời đời phục vụ hoàng gia. Hoàng hậu biết không thể giữ con trong cung, bèn nhờ ông ấy mang đi lánh nạn. Ông giấu đứa bé trong hòm thuốc, đem đi, cả nhà ông sau đó bị tàn sát, hai cháu nhỏ mới biết đi cũng chết theo.” Thẩm Trường Thích kể: “Hai mươi năm sau, hoàng đế qua đời, trong cơn hỗn loạn, thất hoàng tử bị giết, đến âm phủ trở thành Bạch Vô Thường. Khi đi điều tra cùng Vô Thường đại nhân, nhận ra ngự y năm xưa. Vì áy náy, ông ấy xin Vô Thường đại nhân một món đồ.”

“Chính là thứ ngươi quên tên?” Khương Thanh Tố hỏi.

“Đúng, là một cái bát. Có thể ‘mượn mệnh’ — không, đúng hơn là chỉ có mượn mà không thể hoàn trả.” Thẩm Trường Thích đáp: “Bạch đại nhân đời trước đã cam kết đời đời kiếp kiếp không đầu thai, mãi mãi làm thuộc hạ của Vô Thường, để đổi lấy trăm năm an khang cho lão ngự y — không bệnh không tai.”

“Rồi sao nữa?” Khương Thanh Tố nhìn hắn, hỏi.

“Sau hơn trăm năm, ông ấy chịu không nổi sự buồn tẻ của địa phủ, cầu xin được rời đi. Vô Thường đại nhân không cho. Ông ta lén uống canh Mạnh Bà, bị phát hiện, đánh đổ canh, rồi bị đẩy xuống địa ngục.”
 
Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam
Chương 25: Bát trường sinh – Phần 4



Khương Thanh Tố nghe xong kết cục của vị Bạch Vô Thường đời trước, trong lòng chợt thấy lạnh sống lưng, liền hỏi: “Đơn Tà thường xuyên xuống địa ngục, là để thăm hắn sao?”

Thẩm Trường Thích kéo môi, có chút gượng gạo: “Ngài nói vậy… ta chợt thấy cũng có lý. Nhưng người bị ngài ấy giam trong địa ngục nhiều lắm, muốn thăm thì chắc cũng không chỉ có một đâu.”

Lưng Khương Thanh Tố càng thấy lạnh hơn.

Thẩm Trường Thích lại nói: “Nói cho cùng, cũng là do Bạch đại nhân đời trước tự chuốc lấy. Rõ ràng đã hứa với Vô Thường đại nhân đời đời kiếp kiếp không đầu thai, thế mà lại không chịu nổi sự tịch mịch ở địa phủ, nhớ nhung nhân thế, nhớ đến vị ngọt đắng cay, tiếng cười, nỗi đau, hơi ấm nơi nhân gian.”

Khương Thanh Tố nhìn hắn hỏi: “Ngươi không nhớ ư? Dù khi còn sống cuộc đời chẳng tốt đẹp gì, ngươi chưa bao giờ nhớ cảm giác được sống sao? Tình, yêu, hận, oán… Sau khi làm quỷ sai, những thứ đó đều không còn nữa, ngươi chẳng tiếc ư?”

Thẩm Trường Thích lặng người, cúi đầu đáp: “Nói ra thì lạ thật. Ta vốn là kẻ chịu được cô đơn. Bị nữ nhân tổn thương, chết dưới tay một người đàn bà, từ đó chẳng còn mơ mộng gì về tình yêu. Cái ta còn nhớ chỉ là… ăn ngon thôi. May mà thỉnh thoảng còn được lên dương gian thưởng thức. Ta vốn chết vì tội nói nhiều, lại hay bị Vô Thường đại nhân đánh, nên chẳng hề luyến tiếc cảm giác đau đớn đâu.”

Khương Thanh Tố hơi ngạc nhiên — không ngờ hắn lại nghĩ thông suốt đến vậy. Ngược lại, bản thân nàng, dù là kẻ chết vì chém đầu, vẫn có chút kỳ vọng được cảm nhận nỗi đau. Có lúc nàng còn nghĩ nếu phạm lỗi, liệu có thể bị Đơn Tà đánh cho một roi không, để thử cảm giác đó. Ý nghĩ vừa lóe lên đã bị nàng lập tức phủi sạch — nàng đâu có sở thích quái dị, việc gì phải chuốc lấy đau khổ không đâu?

Đổi đề tài, nàng hỏi: “Vậy cái bát ngươi nói… có liên quan đến chuyện hai người kia chết sớm một ngày?”

Thẩm Trường Thích như sực tỉnh, lắc đầu: “Không chắc, nhưng rất giống. Cái bát ấy có thể ‘mượn mệnh’, chỉ cần có người đồng ý giao thọ mệnh của mình, tên tuổi và sinh thần bát tự của người ấy sẽ bị in xuống đáy bát, đổi lại, người dùng bát sẽ được kéo dài thọ mệnh thêm một ngày. Mỗi người chỉ có thể mượn một lần, và chỉ một ngày. Vừa rồi ngài nói vậy, ta mới nhớ tới.”





“Cái bát ấy sau này không thu lại sao?” Khương Thanh Tố hỏi.

Thẩm Trường Thích lắc đầu: “Sau khi lão nhân ấy chết lúc tròn trăm tuổi, chẳng ai biết cái bát ấy lưu lạc đi đâu. Nhân gian rộng lớn, tìm cũng vô vọng.”

Khương Thanh Tố gật đầu, coi như đã hiểu đôi chút. Nếu cái bát ấy trông bình thường, lão nhân kia cũng chỉ là người muốn sống lâu hơn, thì khi ông chết, vật ấy ắt sẽ bị xem như đồ vô giá trị mà lưu lạc vào tay người khác. Biết đâu… nó đã được dùng suốt từ bấy đến nay.

Nếu không vì chỉ trong vòng một tháng đã có hai người chết sớm một ngày, nàng cũng chưa chắc sẽ nghĩ đến khả năng này.

Theo lời Thẩm Trường Thích, cái bát chỉ tước đi một ngày thọ mệnh. Nếu một người trường thọ dùng từ năm hai mươi, tám mươi năm sau mới đến hạn, người bị mượn mệnh thậm chí đã không còn trên đời.

“Nhưng biết rồi thì sao? Biết đâu hai người đó cho mượn mạng đã từ mười mấy năm trước rồi.” Thẩm Trường Thích ngả người lên ghế, thở dài: “Huống chi, cũng chẳng chắc là do cái bát ấy.”

“Ngươi tiêu cực vậy, không sợ Đơn đại nhân quất cho một roi?” Khương Thanh Tố liếc hắn, ánh mắt lại vô tình lướt đến bóng áo đen đang bước vào từ cửa chính.

Thẩm Trường Thích vẫn cười tươi: “Vô Thường đại nhân lâu rồi chưa đánh ta nha!”

“Một roi cho tỉnh táo lại?” Giọng lạnh lẽo vang lên ở cửa. Người bước vào, tà áo đen lay động trong gió, vẽ ra từng vòng gợn. Thẩm Trường Thích nghe tiếng liền trượt khỏi ghế, lắp bắp đứng dậy: “Không! Ta quý trọng hồn phách lắm!”

“Tra ra gì rồi?” Đơn Tà tiến đến bàn, liếc nhìn Khương Thanh Tố khi đi ngang. Nàng ngẩng đầu, chớp mắt, thầm nghĩ — sao lại đứng gần thế?

Thẩm Trường Thích hắng giọng cúi đầu, Khương Thanh Tố mới giật mình, đứng dậy nhường ghế cho Đơn Tà, rồi kéo ghế Thẩm Trường Thích vừa ngồi, chuyển qua ngồi một bên: “Đơn đại nhân, mấy trăm năm trước ngài có từng đánh rơi một cái bát không?”

“Nghe như chuyện liên quan đến Bát Trường Sinh.” Đơn Tà liếc Thẩm Trường Thích: “Ngươi định giấu?”

“Không có không có!” Thẩm Trường Thích rối rít phủ nhận.

Khương Thanh Tố bật cười, tay chống cằm: “Thôi đừng để ý đến hắn. Ngài có cách nào tìm được Bát Trường Sinh ở nhân gian không?”

“Không có cũng phải tìm. Đó là sai lầm xưa, phải sửa.” Đơn Tà chậm rãi đứng dậy, nhíu mày, thở dài, lùi một bước: “Tránh xa một chút, ta kiểm tra.”

“Tra gì? Ta giúp được không?” Khương Thanh Tố hỏi, tiến gần.

Đơn Tà liếc nàng: “Tránh xa là giúp rồi.”

“Tuân lệnh!” Khương Thanh Tố kéo ghế lui hẳn về sau, đứng ngang với Thẩm Trường Thích, khẽ nghiêng đầu thì thầm: “Cái cách ngài ấy nói chuyện đúng là đáng ghét.”

Thẩm Trường Thích: “…” Hắn không nghe gì cả, tuyệt đối không nghe thấy gì hết!

Trên bàn bỗng nổi lên một cơn gió, hai cuốn sinh tử sổ tự động lật về trang đầu tiên, chữ viết trên giấy hóa thành từng nét mực bay lên, lơ lửng giữa không trung, ánh sáng xanh lam huyền ảo phủ quanh. Trong quầng sáng, những hình ảnh cuộc đời hiện lên như cuộn phim.

Không chỉ là những đại sự được ghi sơ lược trong sổ, mà đến cả từng bữa ăn, từng ngụm nước, từng bước chân, từng hành động — đều hiện rõ.

Gió lật áo Đơn Tà, mái tóc đen dài như mực tung bay như nước chảy. Mắt hắn dán chặt vào từng dòng chữ ngày càng nhanh lướt qua. Về sau, Khương Thanh Tố chỉ còn thấy những vệt bóng lướt vùn vụt, chẳng thể đọc nổi nữa.

Tình trạng đó kéo dài hơn nửa canh giờ. Trong suốt thời gian ấy, Khương Thanh Tố và Thẩm Trường Thích nín thở không dám lên tiếng. Thập Phương điện lần đầu yên tĩnh đến thế. Cuối cùng, sổ sinh tử khép lại, ánh sáng tắt ngấm.

Đơn Tà nhắm mắt, thở ra một hơi dài, giữa chân mày vẫn còn vết nhăn mệt mỏi. Khương Thanh Tố chớp mắt, khẽ tiến lại gần, nhỏ giọng hỏi: “Đơn đại nhân, ngài ổn chứ?”

Lẽ nào trong nửa canh giờ ấy, hắn thật sự xem hết toàn bộ chuyện ăn uống ngủ nghỉ suốt đời của hai người kia?

Đơn Tà chống tay lên bàn, tóc xõa rủ che nửa khuôn mặt. Sau khi nàng hỏi xong, hắn mới chậm rãi ngẩng đầu, hai hàng lông mày xếch kéo dài tới thái dương, đôi mắt phượng hé mở, cất giọng: “Huyện Địch Thủy, quán bánh nướng của lão Trương.”

Khương Thanh Tố ngẩn người: “Cái gì cơ?”

“Trong suốt cuộc đời của hai người kia, chỉ có duy nhất một điểm giao nhau — đều từng lấy ba cái bánh nướng từ quán lão Trương ở huyện Địch Thủy mà không trả tiền.” Nói rồi, hắn liếc về phía Thẩm Trường Thích.

Thẩm Trường Thích hiểu ý, lập tức lôi ra một đạo phù, truyền tin cho Chung Lưu, yêu cầu lập tức điều tra rõ quán bánh lão Trương cùng tất cả người vật có liên quan.

Khương Thanh Tố nói: “Sắc mặt ngài không tốt lắm.”

Đơn Tà đứng thẳng người, thản nhiên đáp: “Không sao.”

Chung Lưu cần thời gian tra xét, ba người trong Thập Phương điện tạm thời không rời địa phủ. Thẩm Trường Thích sợ bị Đơn Tà nhìn thấy nên trốn lên lầu tìm xuân cung đồ bầu bạn, nhân tiện tiếp tục viết mấy chuyện phòng the dang dở.

Trong đại điện chỉ còn lại Khương Thanh Tố và Đơn Tà. Nàng nhìn hắn, hắn không nhìn lại, nhưng rõ ràng biết có ánh mắt đang dán vào mình.

“Ngươi có chuyện muốn hỏi?” Đơn Tà mở lời trước, phá tan sự im lặng.

Khương Thanh Tố ồ một tiếng, gãi gãi bên má, trong đầu lật tung cả đống lý do, cuối cùng mỉm cười nói: “Ta…”

“Không cần vòng vo, cứ nói thẳng.” Đơn Tà ngắt lời.

“Vừa rồi ngài… có phải rất đau không?” nàng thành thật tiến gần hỏi.

Hắn nhìn nàng, ánh mắt hai người giao nhau, không ai tránh né. Hàng mi của hắn khẽ động, ánh mắt trầm xuống: “Ta không cảm thấy đau.”

“Nhưng rõ ràng sắc mặt ngài đã thay đổi…” nàng chau mày.

“Là do kiệt sức.” Đơn Tà đáp.

“Ồ.” Khương Thanh Tố hơi thất vọng — vốn nghĩ hắn khác mọi quỷ sai khác, nào ngờ cũng vô cảm như bao người.

“Ngươi… muốn cảm thấy đau à?” Đơn Tà đột ngột hỏi.

Khương Thanh Tố ngẩn ra, không ngờ hắn lại chủ động nói chuyện. Ngẫm kỹ câu hỏi ấy, nàng đáp: “Thay vì nói là muốn cảm thấy đau, thì đúng hơn là muốn được sống. Nếu ta nói không muốn, ngài hẳn nhìn ra ngay. Nhưng thứ ta khao khát không chỉ là nỗi đau, mà là tất cả cảm xúc của một người sống… nghe thật buồn cười phải không?”

Đơn Tà không cười. Chính nàng lại tự cười nhạt: “Lúc đầu là ta đốt sổ sinh tử, không muốn đầu thai. Bây giờ lại là ta, khao khát cảm nhận được thân phận của một con người.”

“Có lẽ, ngươi chưa từng chết.” Hắn nói.

Nàng nghi hoặc, nghiêng đầu: “Ý ngài là sao?”

“Người đời dù vinh hoa hay khổ ải, trước khi đi đầu thai đều phải uống canh Mạnh Bà. Bát canh đó rửa sạch ký ức, chỉ còn lại phần hồn thuần túy. Nhưng ngươi chưa uống, ngươi chưa rửa bỏ thứ thuộc về thân xác, chưa tái sinh, vẫn còn có thể lang thang nhân gian, nếm trải mùi vị nhân sinh. Vậy thì… có thể gọi là chết được sao?”

Nghe vậy, Khương Thanh Tố chỉ thấy câu chữ xoắn xuýt khó hiểu. Nàng không biết nhiều về sinh tử, nàng chỉ biết: nếu sống mà không có thú vui của sống, thì chẳng khác gì chết. Ngược lại, nếu chết mà còn giữ được hứng thú sinh tồn, vậy thì cũng không thể gọi là chết.

Nàng cảm thấy lời Đơn Tà có ý khác, bèn hỏi lại: “Còn ngài? Ngài cũng như ta sao?”

Giống như nàng — lang thang giữa sống và chết, không thể thật sống, cũng không nỡ chết?

Đơn Tà lắc đầu, ánh mắt nhìn ra khoảng tối ngoài Thập Phương điện: “Ta… chưa từng sống.”

Nói xong, hắn đứng dậy, rõ ràng không định tiếp tục cuộc trò chuyện. Khương Thanh Tố dõi theo bóng lưng hắn đi về phía thang gác. Do dự, nàng đứng bật dậy, gọi khẽ:

“Đơn đại nhân!”

Hắn dừng lại, không quay đầu.

Nàng nói: “Thẩm bảo ta rằng, Bạch đại nhân đời trước đã hứa với ngài mãi mãi không đầu thai, ở lại Thập Phương điện làm Vô Thường, vì thế ngài mới phá lệ trao Trường Sinh Bát cho lão nhân kia. Như vậy… có nghĩa là ngài không muốn cô độc?”

“Ngài biết một ngày nào đó, Thẩm sẽ đi đầu thai. Ta biết Diêm Vương cũng chỉ ngự nơi địa phủ ngàn năm. Còn ta, chỉ mới đến địa phủ hơn mười năm, hiểu biết chẳng nhiều, nhưng… ta muốn hỏi, liệu ngài có cần một người sẽ mãi mãi ở bên ngài?”

Khương Thanh Tố nói những lời ấy, tay đặt lên ngực, lòng bàn tay yên tĩnh, nhưng tim nàng như muốn nhảy khỏi cổ họng.

Nàng nhìn vào bóng lưng đen đặc kia — nàng đang đánh cược, đang khao khát một cơ hội. Một cơ hội khiến nàng, chỉ còn cách sống một bước chân nữa.

“Có gì thì nói thẳng.” Đơn Tà nói.

Khương Thanh Tố cắn môi, hít sâu một hơi: “Ta nguyện ý mãi mãi ở lại Thập Phương điện, nếu ngài không đuổi ta đi, ta sẽ không rời đi. Nhưng… ta hy vọng ngài có thể ban cho ta mọi cảm giác mà một người sống từng trải qua — đau đớn, lạnh lẽo, nóng nực… Tất cả những gì mà thân xác người trần có thể cảm nhận, ta đều muốn được nếm trải.”
 
Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam
Chương 26: Bát trường sinh – Phần 5



“Ngài thật sự đã nói vậy với Vô Thường đại nhân sao?” Trên đường đến cầu Nại Hà, Thẩm Trường Thích tròn mắt, miệng há ra đầy kinh ngạc xen lẫn hứng thú. Hắn đánh giá Khương Thanh Tố từ trên xuống dưới mấy lượt: “Sao ngài vẫn bình an vô sự vậy?”

Khương Thanh Tố híp mắt nhìn về phía trước — nơi Đơn Tà đang đi trước vài bước. Biết đâu mấy lời của Thẩm Trường Thích hắn đều nghe rõ cả rồi.

Khương Thanh Tố thở dài: “Ngươi tưởng ta là ngươi à? Gặp chuyện là bị đánh chắc?”

Thẩm Trường Thích đập tay: “Thế thì quá bất công rồi!”

Khương Thanh Tố nghĩ lại, chính mình cũng thấy khó tin. Hình ảnh lúc nàng tràn đầy cảm xúc nói ra điều kiện trao đổi với Đơn Tà cứ văng vẳng trong đầu. Nghĩ lại, nàng cảm thấy mình thật ngu ngốc, như một đứa trẻ chưa lớn.

Người kia là ai chứ? Là Hắc Vô Thường khiến cả địa phủ khiếp sợ. Dù nàng đoán được có thể hắn cũng không thích cô độc, điều đó cũng không có nghĩa nàng có thể đường hoàng nói ra điều kiện. Nếu trong mắt hắn, sinh mệnh của nàng không đáng kể, thì lời nói ấy chẳng khác nào tự mình chuốc nhục. Những cảm xúc người sống có thể trải qua — một kẻ đã chết, sao còn dám mơ?

Khương Thanh Tố ngừng lại rồi nói: “Ngài ấy tuy không đáp lời, nhưng…”

Lúc ấy, Đơn Tà đứng nghiêng người về phía nàng, áo dài đen rũ trên thân, lưng thẳng tắp, mái tóc đen buông xuống eo theo gió nhẹ lay động. Hắn không quay đầu lại, chỉ hơi nâng tay, lòng bàn tay hướng lên, một ngọn Minh Hỏa bùng cháy, tạo thành một tờ phù lệnh.

Ban đầu nàng tưởng hắn định giữ nàng lại, không cho theo ra nhân gian, châm biếm lời nàng vừa nói, châm biếm chính con người nàng.





Nhưng khi tờ phù bay tới trước mặt, nàng mới phát hiện đó là phù đen, viền vàng mờ nhạt, hoa văn là những ký tự cổ xưa. Nàng từng đọc sách thánh hiền, khi còn sống từng xem chữ cổ tại các tàng thư lâu trong cung, nhưng vẫn chưa từng thấy loại chữ kỳ dị thế này.

Đó không phải là loại phù dùng để lui về địa phủ sau khi hoàn thành công vụ ở dương gian.

Đơn Tà lúc đó đã rời đi, lên lầu, chỉ để lại một câu: “Ngươi có thể thử viết tên mình lên, đốt nó đi. Nhưng hiệu lực chỉ có mười hai canh giờ.”

Ý nghĩa câu này, Khương Thanh Tố không dám đoán bừa. Nàng mơ hồ cảm thấy — nếu thật sự viết tên mình lên và đốt đi, có lẽ sẽ được sống lại mười hai canh giờ với cảm giác của người đang sống. Nàng mong đợi, nhưng cũng sợ thất vọng, nên giấu tờ phù kỹ trong lớp áo, định khi có cơ hội sẽ hỏi rõ lại hắn.

Thẩm Trường Thích đi cùng mà đợi mãi vẫn chưa nghe thấy tiếp theo, đã vượt qua cầu Nại Hà mà nàng vẫn không nói gì thêm, liền sốt ruột giậm chân: “Nhưng mà sao? Bạch đại nhân, sao ngài cũng học theo Vô Thường đại nhân, thích úp úp mở mở rồi hả…”

Chưa dứt lời, Đơn Tà phía trước đã tỏ rõ uy lực, khiến Thẩm Trường Thích lập tức bị phong âm — miệng mím chặt cứng, cong vẹo một cách khổ sở, chỉ còn đôi mắt nháy liên tục nhìn Khương Thanh Tố cầu cứu rồi lại nhìn bóng lưng Đơn Tà, vai rũ xuống, vẻ mặt cực kỳ tủi thân.

Khương Thanh Tố nhìn điệu bộ “vịt câm” của hắn mà bật cười. Quay sang nhìn Đơn Tà, thấy hắn đang nhìn mình với ánh mắt chẳng tốt lành gì, nàng liền giơ tay lên thề: “Ta tuyệt đối không nói xấu Đơn đại nhân sau lưng!”

Thẩm Trường Thích: “……” Ngài nói thiếu rồi đó!

Tay Khương Thanh Tố chưa kịp hạ xuống, đã thấy gió thổi lướt qua đầu ngón tay, mang theo vài chiếc lá liễu mơn man rơi bên tay.

Cảnh sắc xung quanh đột ngột thay đổi. Địa phủ đen kịt từng tầng tan biến từ trên xuống. Ánh sáng ban mai của trần gian rọi xuống thân thể nàng, bên tai văng vẳng tiếng nước chảy. Nàng ngoảnh sang nhìn Đơn Tà — người ấy trong ánh sáng rực rỡ đầu ngày như đang được bao phủ bởi một tầng ánh kim, giống như chính tờ phù kia hóa thành người.

Hắn mặc một thân trường y màu huyền, hai lớp áo mỏng nhẹ, trong là đỏ như máu, ngoài là đen như sa, thắt lưng buộc dây mảnh, tay áo rộng. Tóc dài không buông xuống như thường ngày, mà hai lọn tóc từ mai được vắt ra sau gáy, buộc bằng dây đỏ sẫm, một lọn tóc vắt qua trán. Nhìn qua lại giống một công tử chưa lấy vợ ở kinh thành — nhiều thêm mấy phần sinh khí.

Khương Thanh Tố cúi đầu khẽ cười, tiện tay bứt nhành liễu đung đưa chơi đùa.

Giờ họ đang đứng bên cầu Nhân Duyên tại huyện Địch Thủy. Trời vừa hửng sáng, ít người ra đường, càng không ai tới miếu Nguyệt Lão. Ba người đột ngột xuất hiện giữa gió sớm, cũng chẳng ai trông thấy.

Miệng Thẩm Trường Thích bị phong, mắt đảo liên tục. Khương Thanh Tố “à” lên một tiếng: “Chúng ta từng đến đây rồi.”

“Quỷ thai.” Đơn Tà đáp.

“Phải rồi!” Nàng vẫn còn nhớ một tháng trước là lễ Thất Tịch, phố xá huyện Địch Thủy tấp nập chưa từng có. Nàng từng thấy nhiều thiếu nữ ôm đèn hoa sen, tay trong tay đi về phía miếu Nguyệt Lão, còn mình thì ngồi trong quán trà nghe kể chuyện — toàn chuyện nhảm nhí về mình.

Ba người đi khỏi khu vực miếu Nguyệt Lão, liền thấy Chung Lưu ngồi xổm bên một tảng đá ven sông. Hắn mặc y phục rách nát, gấu quần như bị chó gặm, sợi vải lòng thòng. Tay áo cuộn tới khuỷu, bên hông vẫn là hồ lô và đống đồ linh tinh leng keng. Hắn cầm quạt mo phe phẩy, vừa thấy Đơn Tà và Khương Thanh Tố liền nhảy xuống đất.

“Vô Thường đại nhân, Bạch đại nhân.” Sau đó liếc qua Thẩm Trường Thích, bật cười: “Thẩm ca, lại nói sai bị phạt rồi à?”

Thẩm Trường Thích: “……” Hãy nhìn ánh mắt khinh bỉ và đầy bi thương của hắn đây!

“Vô Thường đại nhân, bên này.” Cười xong, Chung Lưu đi trước dẫn đường. Vừa đi vừa nói: “Hai hôm nay ta đã điều tra rõ gần hết chuyện của quán bánh lão Trương. Quán này là của một người tên Trương Sinh, nhưng từ khi dọn tới huyện Địch Thủy đã không dùng tên thật nữa.”

“Lão Trương khoảng sáu mươi tuổi, có một người con trai hơn hai mươi tên Trương Chi Hiếu. Là con cầu tự, nên lão vô cùng yêu thương. Ban ngày bán bánh nướng trước cổng khách đ**m Trường Phong, số tiền kiếm được đều dồn hết cho Trương Chi Hiếu học hành. Ba năm trước, Trương Chi Hiếu thi đỗ tú tài, là tú tài duy nhất của huyện Địch Thủy. Tuy ba năm sau thi tiếp không đỗ, nhưng tú tài đã là quý giá, nên họ cũng không phải khốn khó.” Chung Lưu nói tiếp: “Ta đã đặt ba phòng hạng nhất tại khách đ**m Trường Phong, tới đó rồi nói chuyện kỹ hơn.”

Khương Thanh Tố vừa ngắm cảnh vừa đi, suốt dọc đường không ngớt ngoái nhìn. Toàn huyện Địch Thủy tuy không phồn hoa nhưng lại mang một nét thanh nhàn như chốn bồng lai tiên cảnh. Trời sáng rồi mà dân làng vẫn chưa ra đồng, còn thong thả trong nhà, cũng nhờ nơi đây đất lành, nước tốt, trong ao cá lội tôm bơi, hạt giống cứ gieo là mọc thành rau tốt. Nhờ đó, người người mới có thể ăn chơi đôi chút, hưởng thụ cuộc sống thanh bình một ngày.

Khi đến khách đ**m Trường Phong, Chung Lưu bước vào trước, tiểu nhị đon đả đón tiếp, không quên chào hỏi khách quý.

Khách đ**m này nằm gần lối ra huyện, qua nửa con phố phía trước là hết nhà dân, tuy số phòng không nhiều như trong nội thành nhưng lại nằm ở vị trí đắc địa. Đối diện là một con phố toàn hàng quán buôn bán, bất kỳ khách vãng lai nào đi qua Địch Thủy cũng đều chọn Trường Phong làm nơi nghỉ chân đầu tiên.

Nếu lão Trương chọn đặt quầy bánh trước cửa khách đ**m này, thì dù chỉ được chia một phần khách của khách đ**m, cũng đã đủ giúp ông ta kiếm được kha khá.

Khương Thanh Tố và Đơn Tà theo tiểu nhị lên tầng hai. Vào phòng, nàng mới phát hiện nơi này có dãy cửa sổ lớn, bốn cánh mở ra một khung cảnh rộng rãi, đứng từ đây nhìn ra có thể thấy rõ cả con phố phía dưới, tầm nhìn thông thoáng từ trái sang phải.

“Quý khách có dùng bữa sáng gì không? Khách đ**m chúng ta không tính tiền bữa sáng đâu ạ.” Tiểu nhị đứng ở cửa lễ phép hỏi.

Chung Lưu xua tay: “Chủ nhân nhà ta không dùng bữa sáng. Đây là chút bạc, từ giờ đừng đến quấy rầy nếu không được gọi.”

Hắn đưa cho tiểu nhị một thỏi bạc vụn, tiểu nhị vui mừng rối rít cảm ơn rồi lui ra.

Khi cửa phòng đóng lại, Chung Lưu mới nói: “Chủ khách đ**m Trường Phong tên là Hà Huyền Tài, cũng từng là tú tài, khách đ**m là sản nghiệp cha truyền con nối. Hắn chưa kịp đỗ đạt thì lâm bệnh qua đời. Trước lúc mất có cưới một người vợ — cũng chính là bà chủ hiện tại — Hà thị, tên thật là Vương Vân Thúy, nhân hậu hiền hòa, thường giúp đỡ kẻ nghèo, nên mới cho phép lão Trương bày quầy bán bánh trước cửa.”

Khương Thanh Tố khẽ gật đầu, rồi quay ra nhìn phố xá phía ngoài. Lúc này, một vài hàng quán đã bắt đầu mở cửa buôn bán, có bóng người qua lại, không rõ là dân bản địa hay lữ khách.

Nàng hỏi Đơn Tà: “Đơn đại nhân, hai người chết trước kia, là lúc nào thì đem mệnh ra mượn?”

“Trịnh Đại Nghiệp, người huyện Địch Thủy, chưa từng rời khỏi đây, làm tạp dịch trong phủ họ Giả. Hai năm sáu tháng trước, đã lấy ba cái bánh nướng từ quầy của lão Trương mà không trả tiền. Ngụy Đạo Như, người huyện Ô tỉnh Thiểm Việt, mùa thu năm ngoái trên đường đi thi qua Địch Thủy, gia cảnh bần hàn, để tiết kiệm tiền cũng lấy ba cái bánh mà không trả.” Đơn Tà vừa nói vừa tựa vào lưng ghế, trở tay xuất ra một cây quạt giấy trắng, khẽ phe phẩy, xua đi cái oi nồng trong không khí.

“Thời gian còn chưa xa, nếu không phải là trùng hợp, thì ta xem lần này chúng ta thật sự có cơ hội tìm lại được bát trường sinh rồi.” Khương Thanh Tố nói xong lại hướng mắt ra ngoài. Người trên phố đã đông hơn, và nàng cũng thấy được lão Trương.

Lão lưng còng, tóc bạc trắng, râu đã được tỉa gọn, mặc áo vải thô, nhưng so với Chung Lưu thì vẫn còn sạch sẽ hơn. Hai tay nổi rõ gân xanh, đẩy xe lò bánh tới gần khách đ**m Trường Phong.

Ngay trước cửa khách đ**m có mái hiên che mưa — dựng riêng cho ông. Lão đẩy xe tới dưới mái, lấy khăn từ dưới bàn ra lau mồ hôi trên trán, rồi mới bày từng thứ lên bàn: bột, nhân thịt, hành hoa, đường trắng, cùng một bình dầu.

Cuối cùng, lão Trương mới cẩn trọng lấy ra một tờ giấy đã nhàu nát dính đầy dầu mỡ từ ngực áo. Giấy đã cũ, nhưng góc cạnh vẫn nguyên vẹn. Trên giấy viết hai dòng chữ rõ ràng: Trương Chi Hiếu, và ngày tháng năm sinh bát tự của hắn.

Tay hơi run, lão đặt giấy lên bàn, rồi từ túi lấy ra một cái bát đè lên. Bát ấy làm bằng sứ trắng như ngọc, trải qua mấy trăm năm mà vẫn không chút tì vết. Nhìn qua chỉ như một chiếc bát sứ bình thường, nhưng với thân là quỷ sứ, Khương Thanh Tố chỉ nhìn một lần liền thấy được bên trong bát có chút nước trong vắt lấp lánh ánh sáng.

Nàng quay lại mỉm cười hỏi Đơn Tà: “Đơn đại nhân, ngài định lấy lại bát trường sinh này như thế nào đây?”
 
Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam
Chương 27: Bát trường sinh – Phần 6



Không biết từ khi nào, tại nhân gian khi Thập Phương điện đến điều tra vụ án đã hình thành một quy củ bất thành văn — mọi việc trước tiên đều do Khương Thanh Tố xử lý theo đường lối văn, nếu nàng không thể trong thời hạn quy định giảm nhẹ tổn thất và hoàn thành nhiệm vụ, thì sẽ đến lượt Đơn Tà dùng võ trấn áp.

Nhiều năm trôi qua, Khương Thanh Tố từng xử lý không ít vụ án, chỉ có đôi ba lần là gặp phải những người quá ngoan cố, khó đối phó, đến hạn thì Đơn Tà sẽ rút Trấn Hồn Tiên bên hông ra xử lý.

Trời sáng dần, dân chúng huyện Địch Thủy ngày càng đông, khách đ**m Trường Phong có nhiều khách vãng lai trú lại, kẻ thì từ thành trấn gần đó đến chơi, người thì đi ngang qua, mang theo hành lý cồng kềnh rời khách đ**m. Khi ngửi thấy hương bánh nướng từ sạp bánh của lão Trương, liền tiện tay mua hai cái làm lương khô cho đường xa.

Khương Thanh Tố ngồi dựa bên cửa sổ, tay chống cằm quan sát lão Trương ở dưới. Nàng thấy có người mua bánh và đưa tiền, lão Trương vẫn giữ nụ cười hiền hậu tiễn khách, chiếc bát trắng như ngọc đặt bên cạnh vẫn chưa hấp thụ bất cứ điều gì.

Phong ấn trên miệng Thẩm Trường Thích đã đến lúc giải, hắn thở phào nhẹ nhõm vì cuối cùng cũng được nói, kéo Chung Lưu lại hỏi Khương Thanh Tố: “Này, ngươi có cảm thấy Bạch đại nhân bây giờ trông giống hệt Vô Thường đại nhân không?”

“Ngươi mới phát hiện à?” Chung Lưu hạ giọng thì thầm: “Đôi khi ta thấy Bạch đại nhân cười với ta, đột nhiên lại liên tưởng đến khuôn mặt âm lãnh của Vô Thường đại nhân.”

“Ta nghe thấy các ngươi nói đấy.” Khương Thanh Tố không ngoảnh lại, ánh mắt vẫn hướng ra cửa sổ, dõi theo hành động của lão Trương. “Còn nữa, đừng tưởng Đơn Tà không có ở đây mà dám nói xấu sau lưng ngài ấy, ngài ấy có thể nghe thấy.”

Thẩm Trường Thích: “… Kẻ hay nói xấu nhất chính là ngài mà!”

Chung Lưu gật đầu phụ họa: “Đúng vậy đúng vậy!”

Khương Thanh Tố quay đầu cười dịu dàng: “Ta thì không bị đánh như các ngươi cơ mà.”

Cả hai: “…”

Nàng vừa quay đầu lại liền ngẩn người, chớp mắt vài cái rồi hỏi có chút ngượng ngùng: “Đơn đại nhân, ngài ở đó từ khi nào thế?”

Thẩm Trường Thích và Chung Lưu lập tức như chuột gặp mèo, dựng đứng cả người lên, đồng loạt cúi đầu vái chào về phía cửa: “Vô Thường đại nhân!”

“Phụt ha ha ha…” Khương Thanh Tố cười rộ lên, chỉ vào hai người mà cười đến run rẩy: “Nhát gan!”

Hai tên nhát gan từ từ ngẩng đầu nhìn ra cửa — làm gì có Đơn Tà nào! Là nàng bày trò trêu họ.

Thẩm Trường Thích thở dài: “Bạch đại nhân ôi…”

Khương Thanh Tố che nửa gương mặt bằng tay áo, mắt mày cong cong, vì cười mà ánh mắt trở nên sáng rỡ khác thường. Hai người nhìn nàng ngẩn ngơ, thầm nghĩ trên khuôn mặt vốn có vẻ nhàn nhạt kia lại có thể ẩn giấu một đôi mắt rực rỡ đến vậy.

“Bạch đại nhân cười gì thế?” Giọng nói lạnh lùng vang lên ngoài cửa.

Cả hai quay đầu nhìn — lần này thì thật sự là Hắc Vô Thường trở về rồi.

Khương Thanh Tố ngẩng đầu nhìn hắn, khẽ lắc đầu: “Không có gì, Thẩm vừa kể một chuyện cười. Hắn nghe kể rằng ta từng theo đuổi hoàng hậu nương nương đấy.”

Thẩm Trường Thích: “…” Rõ ràng là chính ngươi nghe kể lúc nghe kể chuyện mà!

Chung Lưu không hiểu, tròn mắt hỏi nhỏ: “Ngài thật sự thích nữ nhân à?”

Khương Thanh Tố gật đầu nghiêm túc: “Ừ, ta thích nữ nhân, còn Vô Thường đại nhân của các ngươi thì thích nam nhân đấy.”

Thẩm Trường Thích: “…” Tính tình Bạch đại nhân càng lúc càng xấu…

Chung Lưu che miệng, len lén liếc Đơn Tà đầy kinh hãi.

Đơn Tà liếc nhìn hắn: “Ngu ngốc.”

Khương Thanh Tố lại bật cười, tiếng cười lanh lảnh vang lên từ tay áo. Đơn Tà liếc nàng một cái, nàng sợ bị thi pháp nên nhanh chóng ngưng cười, ngoái nhìn ra cửa sổ — vừa vặn nhìn thấy hai người đang đứng bên sạp bánh của lão Trương mà không mua gì, cũng không rời đi.

Người đứng trước là một cô nương khoảng mười bảy mười tám, mặc váy lụa hồng, chất vải tốt, trang sức tinh xảo, tay cầm khăn tay, khuôn mặt tươi cười trò chuyện với lão Trương. Sau lưng nàng là một tiểu nha hoàn cùng tuổi, ăn mặc giản dị hơn một chút nhưng vẫn thuộc loại khá ở con phố này, vẻ mặt hơi mất kiên nhẫn.

Chưa kịp đoán họ nói gì, gió mát bỗng lướt qua tai nàng, có gì đó chạm nhẹ vào vành tai. Khương Thanh Tố quay đầu lại — thấy đầu ngón tay thon dài chống lên bậu cửa bên vai trái nàng, tay áo đen thêu hoa văn đỏ, không cần nhìn mặt cũng biết là ai.

Có lẽ chính ngón tay ấy vừa chạm vào tai nàng.

Nàng còn chưa kịp mở miệng thì âm thanh dưới lầu đã rõ ràng lọt vào tai.

Nữ tử kia dịu dàng nói: “Trương bá, chân ngài giờ thế nào rồi? Thuốc lần trước cháu mua cho ngài vẫn dùng chứ?”

“Dùng rồi, dùng rồi, để tiểu thư lo lắng quá.” Lão Trương lau mồ hôi trên trán bằng khăn treo trên cổ. “Sau này tiểu thư đừng lãng phí những thứ quý giá như vậy cho lão già này nữa, thật không tiện.”

Tiểu thư họ Trần đỏ mặt: “Không sao đâu, trước kia Trương bá và Chi Hiếu ca ca từng chăm sóc cháu nhiều lắm. Hơn nữa… biết đâu sau này chúng ta là người một nhà, cháu chăm sóc Trương bá là lẽ nên làm.”

Lão Trương vội nói: “Trần Tiểu thư là đến tìm Hiếu nhi à? Giờ này nó chắc còn đang dạy học ở tư thục. Lão đây bận rộn, muốn nhờ tiểu thư một chuyện nhỏ.”

Trần tiểu thư lập tức gật đầu: “Ngài cứ nói.”

Lão Trương lấy vài chiếc bánh nướng từ bàn, dùng giấy dầu gói lại rồi đưa cho tiểu thư họ Trần: “Phiền Trần tiểu thư mang giúp mấy cái bánh này đến cho con trai lão. Trời cũng đã muộn, sợ nó lại không chịu về ăn cơm. Cái này để nó lót dạ, kẻo đói.”

Tiểu thư họ Trần nhận lấy, gật đầu, nụ cười hơi ngượng ngùng nở trên mặt: “Vâng, cháu sẽ mang tới giúp ngài.”

Rời khỏi quầy bánh, Trần tiểu thư mặt vẫn còn hồng hồng, tay cầm bánh như thể đang giữ bảo vật. Khương Thanh Tố nghe thấy tiểu nha hoàn phía sau có chút bất mãn: “Tên lão già đó nghĩ gì vậy? Coi tiểu thư là người đưa cơm sao? Ở nhà thì việc rót trà cũng là chúng ta lo, sao giờ lại phải đi đưa đồ ăn cho con trai lão ấy chứ?”

“Tư Quyên! Em không hiểu đâu.” Trần tiểu thư trách nhẹ, “Nếu không có Trương bá, không có Chi Hiếu ca ca, làm sao có ta của hiện tại?”

Nha hoàn tên Tư Quyên còn muốn nói gì nữa, nhưng cuối cùng lại nuốt lời vào bụng. Hai người dần khuất bóng khỏi phố, còn gương mặt lão Trương vẫn không hề rút nụ cười.

Khương Thanh Tố cau mày, hỏi: “Nữ tử ấy là ai?”

“Cô nương nào?” Chung Lưu bước tới hỏi.

Khương Thanh Tố chỉ tay về hướng họ vừa đi.

Chung Lưu thoáng nhìn bóng lưng hai người đã đủ nhận ra: “Ồ, đó là tiểu thư út của Trần viên ngoại ở Địch Thủy, tên là Trần Cẩm Sơ, còn nha hoàn đi cùng tên là Tư Quyên.”

“Con gái nhà quyền quý, sao lại quen biết được cha con nhà nghèo kia?” Khương Thanh Tố lại hỏi.

Chung Lưu đáp: “Mấy năm trước, Trần tiểu thư cùng mẫu thân về nhà ngoại, trên đường về Địch Thủy đi ngang núi thì gặp mùa mưa, sạt lở đất chặn mất xe ngựa, ngựa bị hoảng chạy mất, phu xe bị đá đè trọng thương. Hai gã gia đinh đi tìm đường thì không quay lại, ba mẫu tử cùng một nha hoàn bị mắc kẹt suốt đêm trong rừng. Sáng hôm sau, Trương Chi Hiếu đang lên núi hái thuốc thì gặp, đã giúp họ ra khỏi núi, lại tìm được xe ngựa và phu xe mới, đưa họ về tận Địch Thủy.”

“Ra thế, cho nên Trần tiểu thư có tình cảm với Trương Chi Hiếu.” Khương Thanh Tố gật đầu. Khó trách nàng lại bỏ cả dáng vẻ tiểu thư mà đến tận quầy bánh nói chuyện với lão Trương.

Chung Lưu tiếp lời: “Tuy là vậy, nhưng Trần viên ngoại chê Trương Chi Hiếu thư sinh yếu đuối, gia cảnh nghèo hèn, không nỡ gả con gái cưng cho người như thế. Ông ta bảo cho Trương Chi Hiếu vài năm, nếu có thể đỗ đạt làm quan thì sẽ gả Trần tiểu thư cho hắn. Chỉ tiếc, ba năm nay Trương Chi Hiếu thi rớt liên tục, nửa tháng trước đành đi dạy học ở tư thục, nếu không sợ đến cả cơm cũng không đủ ăn.”

Khương Thanh Tố khẽ “ồ” một tiếng, càng hiểu thêm về hai nhà Trương – Trần. Lúc này, lại thấy có người từ khách đ**m bước ra, theo thói quen đi về phía quầy bánh của lão Trương.

Chưa đợi khách hỏi, lão Trương đã mở lời: “Công tử nếu bằng lòng vì tiểu nhi nhà ta mà cầu phúc, lão sẽ tặng ba cái bánh nướng.”

Người mua bánh trông chừng ngoài hai mươi, nghe vậy liền hỏi: “Ta không mua, mà ông vẫn tặng ba cái bánh sao?”

“Nếu công tử chịu cầu phúc, lão sẽ tặng.” Lão Trương đáp.

Người kia bật cười, nghĩ trong lòng: lại có chuyện tốt thế này à? Liền hỏi tiếp: “Cầu phúc thế nào?”

Lão Trương chỉ vào bát trường sinh: “Đặt tay lên ngực, chắp lại, gom phúc khí trong lòng rồi đưa lên trên bát, để nó rơi vào trong là được.”

“Chỉ vậy thôi sao?” Người kia thấy lão gật đầu liền làm theo. Chỉ mấy cái chớp mắt, tay áp ngực một chút rồi nâng lên trên bát.

Khương Thanh Tố nhìn thấy rõ — một luồng ánh sáng tinh thuần tụ trong lòng bàn tay người đó, khi tay nâng lên bát, một giọt nước sáng lấp lánh rơi từ đầu ngón tay xuống bát, dung hợp với làn nước ở đáy bát.

Lão Trương lập tức gói ba cái bánh đưa cho người nọ, thành kính cúi đầu: “Đa tạ!”

Người kia thấy kỳ quái, vừa cười vừa đi, nghĩ bụng: mình có làm gì đâu, chỉ là cầu phúc giúp người, được ba cái bánh là lời rồi, sao lão còn cảm ơn mình?

Người đi rồi, lão Trương nhìn về phía bát trường sinh, ánh mắt ôn hòa, rồi lại cúi đầu nhào bột.

Khương Thanh Tố nhướng mày, chỉ vào cái bát hỏi Đơn Tà: “Ngài thấy rồi đó, sao không ra tay?”

Nói xong mới phát hiện Đơn Tà đứng sát sau lưng, gần đến mức nàng có thể nhìn rõ từng sợi lông mi hắn. Nàng liền quay đầu lại, tiếp tục nhìn ra ngoài.

Đơn Tà đáp: “Đây là trong thời hạn ba ngày của ngươi. Ta đã hứa không can thiệp.”

Khương Thanh Tố hỏi: “Chỉ một ngày thôi mà cũng có thể khiến mệnh người đổi khác. Ngài cũng thấy rồi đấy, trên trời dưới đất là cả một sự khác biệt.”

“Là do họ tự dâng mệnh. Chạm vào bát trường sinh là tự thay đổi kết cục, chẳng thể trách ai.” Đơn Tà nói.

“Nhưng họ không hề biết cái giá phải trả.” Khương Thanh Tố cau mày.

“Trên đời nào có bữa cơm nào miễn phí?” Đơn Tà khẽ gập quạt, nhẹ gõ lên đ.ỉnh đầu nàng: “Đều là tự chuốc lấy.”

Khương Thanh Tố sờ lên đầu — hình như hơi đau thật, nàng chớp mắt, ngẩng lên — Đơn Tà đã đi khỏi, nàng gõ thử vào đầu mình… không thấy đau. Lạ thật…
 
Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam
Chương 28: Bát trường sinh – Phần 7



Đơn Tà trong ba ngày không nhúng tay vào chuyện của Bát trường sinh, Khương Thanh Tố dĩ nhiên vui mừng. Trước đây, lúc nàng bắt kẻ nam nhân gieo thai quỷ, hắn lại đúng lúc ra tay đánh roi, khiến Khương Thanh Tố tức đến mức bỏ đi nghe kể chuyện.

Trước khi ra khỏi cửa, Khương Thanh Tố hỏi Đơn Tà có định đi đâu, hay muốn quay về Thập Phương điện nghỉ ba ngày. Đơn Tà ngồi trên ghế thái sư, tay cầm một quyển sách đọc, mí mắt cũng không buồn nhấc, thản nhiên đáp: “Ngươi đi đường ngươi là được.”

Khương Thanh Tố khẽ nhếch môi, đẩy cửa ra rồi lại khép lại. Thẩm Trường Thích và Chung Lưu nhàm chán không có việc gì, tự nhiên đi theo phía sau nàng. Dù cho hiện tại tính cách của Khương Thanh Tố giống Đơn Tà đến tám phần, nhưng rốt cuộc vẫn không phải là hắn.

“Ra ngoài với Bạch đại nhân còn được ăn ngon uống ngon hơn.” – đó là nguyên văn lời của Thẩm Trường Thích. Không ai bịt miệng hắn, muốn nói gì thì nói, còn có thể dọa Chung Lưu mua đồ cho mình. Nếu Chung Lưu không chịu, hắn liền tỏ vẻ giận dỗi, thực ra chỉ là hai tay chống hông, chau mày, bày ra bộ dạng như tiểu thê tử không chịu đi nếu không được mua quà.

Khương Thanh Tố để mặc hai người sau lưng đùa giỡn, bản thân men theo con đường Trần Cẩm Sơ rời đi mà định bắt đầu điều tra từ Trương Chi Hiếu.

Hiển nhiên, lão Trương tuy đã khoảng sáu mươi, nhưng bên dưới Bát trường sinh lại ép tên của Trương Chi Hiếu. Trương Chi Hiếu cả đời ra sao, sinh tử bộ ghi chép thế nào, việc đó sau này hãy xem. Nhân lúc trời còn sáng, nàng muốn xem xét mối quan hệ giữa Trương Chi Hiếu và Trần Cẩm Sơ, cũng như liệu Trương Chi Hiếu có biết công dụng của Bát trường sinh hay không. Cũng có thể… lão Trương thực sự không hay biết gì về công dụng của nó.

Khi xử án ở nhân gian, Khương Thanh Tố luôn giữ hai nguyên tắc: một là cố gắng tránh tổn thương người không đáng bị tổn thương – ví như Trần Cẩm Sơ, người lương thiện giữa trung tâm vụ án; hai là nếu sự việc có lý do và có thể cảm thông, thì giảm nhẹ hình phạt cho kẻ phạm tội – dù sao thì kiếp người bất toàn, lạc lối giữa đời thường đều là những kẻ đáng thương.

Khi còn làm quan trong triều, nàng chưa từng nghĩ đến những điều này, chỉ một lòng một dạ nghĩ đến lợi ích của một người mà thôi. Miễn là có lợi cho người đó, nàng sẽ làm, chẳng đoái hoài gì đến kẻ đáng thương khác.

Giờ đây mới phát hiện, làm một vị quan tốt, kỳ thực lại càng thoải mái tự tại.





Tới ngã rẽ, Khương Thanh Tố dừng bước, ngoảnh đầu nhìn hai người đang tranh giành khúc giò heo, nhướng mày nói: “Hay các ngươi quay lại theo Đơn đại nhân đi?”

Chung Lưu lập tức giành lấy giò heo về tay mình, cả hai người đứng thẳng, ngoan ngoãn nghe lời. Thẩm Trường Thích thì lưỡi dài, nhân lúc Chung Lưu không để ý liền li.ếm lấy một cái.

Chung Lưu: “Eo ôi~ Cho ngươi đấy, cho ngươi đấy!”

Thẩm Trường Thích: “Hê hê.”

Khương Thanh Tố: “……”

Một lát sau, nàng chỉ vào hai con đường phía sau hỏi: “Đường nào dẫn tới tư thục?”

“Phía bên phải.” – Chung Lưu chỉ đường, rồi dứt khoát đi lên trước dẫn đường, vừa đi vừa kể lại lịch sử của tư thục này. Đường đến tư thục không xa, qua ngã rẽ chẳng bao lâu là đến.

Địa phương tên Địch Thủy là một thủy thành, xung quanh tư thục cũng có thác nước và con suối nhỏ, xây dựng giữa khu rừng lưng chừng núi, vừa yên tĩnh lại vừa hữu tình. Những đứa trẻ nhà khá giả đều được gửi đến đây học tập.

Tư thục tổng cộng chỉ có hai phu tử dạy học. Trương Chi Hiếu là một trong hai người. Trước kia chỉ có một ông lão từ huyện khác tới, nghe nói thi rớt mới bắt đầu dạy học, nhưng đã từng dạy ra vài vị cử nhân.

Khi Khương Thanh Tố đến cổng tư thục thì vừa lúc mấy đứa trẻ tan học về nhà, đeo cặp sách lon ton chạy ra ngoài, có vài đứa hẹn nhau đi chơi. Khi đi ngang qua Khương Thanh Tố, có hai đứa tò mò ngẩng đầu nhìn nàng, vừa thấy Chung Lưu phía sau liền sợ hãi chạy biến.

Thẩm Trường Thích đang nhai giò heo nói: “Xem cái dáng dơ dáy của ngươi kìa, dọa bọn nhỏ rồi đấy.”

Chung Lưu liếc mắt nhìn, vừa khéo thấy nửa cái giò bị nhét cả vào miệng, khoé miệng nứt toét tới tận má, bèn nói: “Ngươi cũng chẳng soi gương lại mà xem, Thẩm ca, lấy tay áo che mặt lại đi. Đừng nói trẻ con, đến ta còn muốn sợ nữa là.”

Thẩm Trường Thích nâng tay phải, lấy tay áo dài che nửa mặt, cặp mắt len lén liếc trái liếc phải hỏi: “Trương Chi Hiếu đâu?”

Khương Thanh Tố chưa thấy Trương Chi Hiếu, nhưng lại thấy thị nữ của Trần Cẩm Sơ là Tư Quyên. Thấy ánh mắt của Tư Quyên hướng về nơi nào, nàng liền đoán được Trương Chi Hiếu nhất định ở đó, bèn bước tới.

Quả nhiên, Trương Chi Hiếu và Trần Cẩm Sơ đang ở hậu viện tư thục. Nơi đó có một hàng rau xanh do ông lão trồng, Trương Chi Hiếu thi thoảng giúp chăm sóc. Ngoài vườn rau còn có một bãi cỏ rộng, bên cạnh là thác nước và con suối, nước không chảy xiết, còn có mấy con cá bơi lội.

Khương Thanh Tố đứng bên cạnh ngôi nhà gỗ của tư thục, không đứng cùng phía với Tư Quyên nhưng lại dễ dàng nhìn rõ Trương Chi Hiếu và Trần Cẩm Sơ.

Trương Chi Hiếu ngồi trên bãi cỏ, Trần Cẩm Sơ ngồi cạnh hắn. Một người là tiểu thư khuê các, một người là thư sinh nho nhã, giữa hai người còn chừa một khoảng khá lớn, không ngồi sát nhau.

Trên tay Trương Chi Hiếu cầm một chiếc bánh nướng, có chút ngượng ngùng, chưa ăn mà nhìn về phía Trần Cẩm Sơ hỏi: “Cuốn sách lần trước mượn muội đọc rồi chứ?”

Trần Cẩm Sơ gật đầu, môi mỉm cười: “Đọc rồi. Huynh viết sao?”

Trương Chi Hiếu gãi đầu lúng túng: “Chỉ là viết linh tinh thôi.”

“Rất hay mà, Chi Hiếu ca ca thật tài hoa. Cuốn sách này, muội… muội có thể giữ lại không?” – Trần Cẩm Sơ hỏi.

Trương Chi Hiếu gật đầu, rồi lại cụp mắt, nụ cười nơi khóe môi dần tắt: “Cũng chỉ có muội là nghĩ vậy thôi. Ta đã thi rớt ba lần, muốn thi lại cũng phải đợi đến sang năm.”

Trần Cẩm Sơ nói: “Chi Hiếu ca ca, muội… muội không sao cả. Tài năng của huynh sẽ không bị chôn vùi đâu. Chuyện với phụ thân muội… muội sẽ nói lại lần nữa.”

Trương Chi Hiếu đột nhiên nhớ ra gì đó, hỏi nàng: “Muội có muốn thả diều không? Lão tiên sinh đã mời thầy làm diều đến dạy bọn trẻ, ta cũng làm một chiếc, để ở thư phòng. Ngày mai nếu thời tiết đẹp, chúng ta cùng đi thả diều nhé.”

“Được ạ!” – Trần Cẩm Sơ đáp lời.

Tai trái của Khương Thanh Tố từng bị Đơn Tà chạm qua, nên mới có thể nghe rõ cuộc đối thoại từ xa như thế. Hai người đứng phía sau nàng thì không may mắn như vậy, líu ríu hỏi nhau: “Nói gì vậy nhỉ?”

Khương Thanh Tố đáp: “Chỉ là những lời tình tứ vô nghĩa khi nam nữ trẻ tuổi cảm mến nhau thôi.”

“Bạch đại nhân tai thật thính.” – Thẩm Trường Thích tâng bốc.

Khương Thanh Tố giơ tay sờ tai trái, khẽ bĩu môi. Lúc này, lão tiên sinh thấy ba người thần thần bí bí, tay còn bê một chậu rau vừa rửa xong, liền hỏi: “Các người là ai?”

Thẩm Trường Thích và Chung Lưu ngẩn ra. Khương Thanh Tố thì nhanh chóng đổi sắc mặt, mỉm cười nói với lão tiên sinh: “Ngài chính là phu tử của tư thục này sao?”

“Là ta.” – lão gật đầu.

Khương Thanh Tố nói: “Ôi chao, ta mới chuyển đến Địch Thủy huyện, phu quân định buôn bán tại đây, sợ rằng sẽ định cư lâu dài. Vừa hay con ta cũng đến tuổi học chữ, bèn dẫn hai gia nhân đi theo đường người ta chỉ tới tìm tư thục. Vừa thấy lũ trẻ tan học, tiện thể ghé xem cảnh quan một chút, mong phu tử thứ lỗi vì đã quấy rầy.”

Lão tiên sinh thấy Khương Thanh Tố cử chỉ đoan trang, không giống phu nhân nhà dân thường, liền mỉm cười: “Thì ra là vậy. Phu nhân, mời theo ta, ta dẫn người đi tham quan một chút.”

Khương Thanh Tố theo sau lão tiên sinh. Thẩm Trường Thích và Chung Lưu nhìn nhau, thầm nghĩ đúng là Bạch đại nhân giỏi ứng biến, dáng vẻ hiền thục lương mẫu vừa nãy quả thật biến ra trong nháy mắt. Nàng gọi là “phu quân”, chẳng phải ý chỉ Hắc Vô Thường đại nhân sao?

Khương Thanh Tố trò chuyện cùng lão tiên sinh một lúc lâu. Không chỉ nắm được tình hình tư thục, nàng còn từ miệng lão tiên sinh moi ra không ít chuyện liên quan đến Trương Chi Hiếu. Thẩm Trường Thích và Chung Lưu ở phía sau nghe đến há hốc mồm, không khỏi tán thưởng: quả nhiên là người từng làm đại quan, nắm bắt tâm lý người khác thật chuẩn xác.

Khương Thanh Tố nói với lão tiên sinh rằng sẽ cân nhắc cẩn thận về việc chọn tư thục, rồi dẫn hai người rời khỏi nơi ấy.

Tổng thể mà nói, Trương Chi Hiếu và Trần Cẩm Sơ nhìn qua không có vấn đề gì lớn, không giống kẻ làm chuyện mượn mạng để mưu lợi cho bản thân. Sau khi rời khỏi tư thục, Khương Thanh Tố định quay về âm ty để tra kỹ lại sinh tử bộ, xem rốt cuộc vấn đề nằm ở đâu.

Cùng Thẩm Trường Thích trở về Thập Phương điện, Khương Thanh Tố nhìn đại điện trống không thì khẽ sững người: “Đơn đại nhân vậy mà chưa trở về?”

Thẩm Trường Thích cũng thấy lạ: “Chẳng lẽ tới địa ngục rồi?”

Khương Thanh Tố tuy có chút nghi hoặc, nhưng cũng chẳng quản hắn được. Nàng mở sinh tử bộ ra xem trước sinh tử của Trương Chi Hiếu. Quyển sách mới lật vài trang, sau tên Trương Chi Hiếu liền không còn ghi chép gì nữa.

Ghi chép ban đầu dừng lại ở chỗ hắn thi đậu tú tài chưa được bao lâu thì bệnh chết tại giường. Lẽ ra đến đó là đã hết đời người, nhưng chi tiết “bệnh chết” lại chưa hoàn tất, mà sinh tử bộ vẫn tiếp tục ghi nhận những chuyện sau khi chết. Ví dụ như tiếp tục đi thi, rồi quen biết và yêu thương Trần Cẩm Sơ. Cuộc đời hắn giống như một quyển sách chưa viết xong, những chuyện hôm nay vẫn được ghi lại trong sinh tử bộ.

Trương Chi Hiếu hẹn Trần Cẩm Sơ thả diều, nếu không có gì thay đổi thì đó là sự thật đã định. Nhưng sinh tử bộ lại không hề ghi chuyện thả diều ngày mai, chỉ dừng lại ở hôm nay. Có lẽ đợi đến khi việc xảy ra rồi, nó mới được ghi thêm.

Khương Thanh Tố cảm thấy kỳ quái, hỏi Thẩm Trường Thích: “Mệnh của con người đều có định số, sao đến lượt hắn lại như tự mình viết ra?”

Thẩm Trường Thích đáp: “Đó chính là năng lực của Bát trường sinh. Thế gian có nhiều điều khó hiểu, nếu đã qua tay của Vô Thường đại nhân, thì mệnh ai cũng có thể bị viết lại.”

Khương Thanh Tố khựng lại, khép sinh tử bộ, trong lòng thầm nghĩ: nếu nàng từng gặp Đơn Tà, liệu mệnh nàng có thể đổi khác chăng? Nhưng cũng đúng thôi, ngày xưa nàng vốn chẳng tin có quỷ thần. Nếu thật sự gặp Đơn Tà, e rằng còn chửi hắn là kẻ lừa bịp.

Khương Thanh Tố và Thẩm Trường Thích quay lại khách đ**m Trường Phong ở Địch Thủy huyện, thì thấy “kẻ lừa bịp” ấy đang đùa cợt với bà chủ khách đ**m.

Khương Thanh Tố đứng ở cửa khách đ**m, khẽ nhướng mày. Thẩm Trường Thích thấy Đơn Tà vẻ mặt “như gió xuân ấm áp” thì cũng không dám bước vào. Chung Lưu thì trốn phía sau cầu thang, hiển nhiên bị thái độ đổi khác của Vô Thường đại nhân dọa cho phát hoảng.

Bà chủ khách đ**m khoảng ngoài ba mươi, dung mạo vẫn còn mặn mà, trang điểm kỹ lưỡng, dựa nghiêng vào khung cửa dẫn ra hậu viện, tay cầm khăn lụa nói gì đó với Đơn Tà.

Đơn Tà mặt không biểu cảm. Dù nhìn qua có vẻ không hứng thú, nhưng không xoay người bỏ đi cũng đã đủ khiến người khác thấy rợn rồi.

Thẩm Trường Thích chạy tới bên cạnh Chung Lưu, hai người cùng ngồi thụp dưới cầu thang dẫn lên tầng hai. Thẩm Trường Thích hỏi: “Vô Thường đại nhân sao vậy?”

Chung Lưu đáp: “Dọa người lắm. Vừa rồi ta từ trên lầu xuống, định đi hậu viện thì bị bà chủ chặn lại, hai người bọn họ nói chuyện đến giờ luôn, chẳng biết đang nói gì.”

Khương Thanh Tố đã nghe được, trong tai trái nàng vang lên đoạn đối thoại. Chỉ là bà chủ khách đ**m hỏi Đơn Tà thích uống rượu gì, để cho người mang đến. Nói hậu viện bừa bộn, mong hắn đừng tùy tiện lui tới. Sau đó lại kể lể cảnh một mình quản lý khách đ**m, cô đơn lạnh lẽo thế nào.

Nói xong, còn đưa tay cầm khăn lụa khẽ phẩy vào ngực Đơn Tà. Khương Thanh Tố thấy rõ, Minh Hỏa âm u bắt đầu bốc lên nơi vai hắn. Người kia nhìn ngoài thì không phản ứng gì, nhưng thực chất trong lòng chắc chắn đang giận. Nếu bà chủ nói thêm vài câu, e rằng hắn sẽ ra tay.

Vì thế, Khương Thanh Tố giơ tay đặt lên lan can cầu thang, cất tiếng gọi từ sau lưng Đơn Tà: “Phu quân~ ta trở về rồi đây.”
 
Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam
Chương 29: Bát trường sinh – Phần 8



Khương Thanh Tố cứu được bà chủ khách đ**m Trường Phong một mạng, nhưng rõ ràng đối phương không hề hay biết, bởi vậy chẳng những không có ý cảm kích, trái lại còn thấy nàng vướng víu chướng mắt. Bà ta hất khăn tay, bĩu môi một tiếng rồi xoay người bước thẳng ra hậu viện.

Lúc này, sắc mặt Thẩm Trường Thích và Chung Lưu chẳng khác gì nhau, chỉ là cằm của Chung Lưu không dài bằng Thẩm Trường Thích. Nhìn thấy cằm của Thẩm Trường Thích như sắp rớt xuống đất, hắn liền giơ tay vỗ một cái: “Thẩm ca! Dọa người ta rồi, thu lại đi!”

Thẩm Trường Thích thu cằm lại, Khương Thanh Tố tay vịn cầu thang, những ngón tay thon dài nhẹ gõ lên mặt gỗ, hơi nghiêng đầu liếc về phía Đơn Tà.

Đơn Tà nhìn chằm chằm khuôn mặt của Khương Thanh Tố, sắc mặt không đổi, cụp mắt rồi quay lưng, không đi về hướng hậu viện mà trực tiếp lên lầu. Khương Thanh Tố cũng bước theo. Đợi hai người họ rời đi, Thẩm Trường Thích và Chung Lưu mới dám thì thầm to nhỏ.

Thẩm Trường Thích: “Thế này là sao? Ta còn chưa viết xong truyện, bọn họ đã muốn thật tình rồi sao?”

Chung Lưu: “Sợ chết khiếp, hai chữ ‘Phu quân’ sao lại có thể được Bạch đại nhân gọi ra nhẹ nhàng uyển chuyển đến vậy?”

Thẩm Trường Thích hít một hơi: “Chẳng lẽ sau lưng ta, bọn họ đã có mối quan hệ không thể nói với quỷ rồi?”

Chung Lưu chớp mắt: “Ơ? Đợi chút, Thẩm ca, vừa nãy huynh nói chuyện gì cơ?”

Khương Thanh Tố theo sau Đơn Tà một bước bước vào phòng, Đơn Tà ngồi ở vị trí gần cửa sổ, nàng thì ngồi bên bàn. Trời đã về chiều, lão Trương đẩy xe bánh nướng đã rời khỏi khách đ**m Trường Phong. Tuy mặt trời đã lặn, nhưng chính là lúc đèn hoa rực rỡ lên, phố huyện Địch vẫn nhộn nhịp như thường, một con phố trải dài đèn lồng đỏ chót, người qua lại như mắc cửi.





Khương Thanh Tố hỏi: “Đơn đại nhân sao lại có liên can đến bà chủ khách đ**m Trường Phong vậy?”

Đơn Tà phe phẩy quạt, không trả lời nàng, chỉ hỏi lại: “Hôm nay tra được gì rồi?”

Khương Thanh Tố “ồ” một tiếng: “Sắp rồi.”

Khóe môi Đơn Tà khẽ nhếch, “sắp rồi”, tức là chưa có gì cả.

Khương Thanh Tố thấy nụ cười kia liền đưa tay gãi mũi, trước mặt người này, xem ra nàng chẳng giấu được gì, rõ ràng đã bị nhìn thấu là hôm nay không thu hoạch được gì.

Khương Thanh Tố hỏi hắn: “Bát Trường Sinh của Đơn đại nhân từ đâu mà có? Ta thấy cái bát này cổ quái vô cùng, không giống vật tầm thường, năng lực cũng chẳng phải là điều mà quỷ sai của Âm ty có thể có được, chẳng lẽ là được cao nhân nào đó tặng cho đại nhân sao?”

Đừng nói là quỷ sai Âm ty, dù có là Diêm Vương cũng không có quyền thay đổi vận mệnh người khác. Ấy vậy mà cái bát này chẳng những có thể thay đổi, lại còn thay đổi một cách đường hoàng không chịu sự ràng buộc nào.

Đơn Tà hỏi nàng: “Việc này liên quan đến vụ án sao?”

“Há lại không?” Khương Thanh Tố mỉm cười, nói mà mặt mũi tỉnh bơ, không biết ngượng là gì, “Nếu ta không biết nguồn gốc Bát Trường Sinh, sao có thể giải quyết những chuyện liên quan đến nó?”

Đơn Tà nhìn nụ cười kia của Khương Thanh Tố, đáp: “Là vật của ta.”

Khương Thanh Tố hơi nhướng mày: “Đơn đại nhân rốt cuộc thân phận là gì? Sao ta cảm thấy… ngài dường như còn hơn cả Diêm Vương…”

Chưa nói xong, hai người đã nghe thấy tiếng của Thẩm Trường Thích vọng lên từ dưới lầu. Hắn cùng Chung Lưu đứng ở bên ngoài, từ dưới trông thấy tay áo Đơn Tà thò ra ngoài cửa sổ, liền giơ tay vẫy: “Vô… Ngô đại nhân, phu nhân! Xuống đây xem pháo hoa nè!”

Đơn Tà dời mắt nhìn xuống, Khương Thanh Tố nghe tiếng cũng bước đến bên cửa sổ. Căn phòng có nhiều cửa sổ, nàng đẩy cánh bên phải ra, hơi thò đầu ra ngoài, liền thấy Thẩm Trường Thích đang cầm một đống đồ ăn không biết mua từ đâu về, còn Chung Lưu thì đứng bên cạnh trêu chọc hắn.

“Xem pháo hoa gì?” Khương Thanh Tố hỏi.

Thẩm Trường Thích chỉ về phía đám đông đang đổ tới một nơi: “Bên đó! Hôm nay huyện Địch Thủy mời Thổ Địa thần, có pháo hoa xem, mọi người kéo nhau đến xem náo nhiệt!”

“Vậy các ngươi đi đi, sao phải kéo cả ta?” Khương Thanh Tố chống cằm, khẽ liếc mắt về phía Đơn Tà, khóe môi cong lên, hai người tự nhiên mà quên mất cuộc đối thoại vừa rồi. Nàng nửa híp mắt, giọng điệu có phần trêu ghẹo lười biếng: “Vả lại, ‘Ngô đại nhân’ của các ngươi không thích náo nhiệt đâu.”

Ba chữ “Ngô đại nhân” bị nàng cố tình nhấn mạnh. Đơn Tà cúi đầu bật cười khẽ, phe phẩy quạt rồi đứng dậy bước ra cửa: “Đi thôi.”

Khương Thanh Tố sững người, đóng cửa sổ lại hỏi: “Ngài thật định đi xem pháo hoa sao?”

“Còn có việc cần điều tra.” Đơn Tà đáp. Khương Thanh Tố đi theo, trong lòng cảm thấy Đơn Tà chắc hẳn đang lén làm gì đó nàng không biết, mấy năm qua chung đụng cũng đủ để nàng rút ra kinh nghiệm.

Việc thỉnh thần như vậy ở Đại Chiêu quốc chẳng phải điều gì lạ lùng. Nhiều nơi vẫn lập miếu Thổ Địa, nơi nhỏ thì một miếu, nơi lớn thì ba bốn miếu đều có. Mỗi khi xây xong miếu Thổ Địa đều phải gõ chiêng gõ trống, rước thần linh vào miếu để phù hộ cho vùng đất ấy.

Bốn người Khương Thanh Tố theo dòng người đi ở cuối đoàn, phía trước có người ăn mặc lòe loẹt đi hai hàng, ở giữa là tượng Thổ Địa được khiêng trên vai bởi bốn người, nhìn nặng nề, vóc dáng lớn, ngũ quan sinh động như thật.

Dân huyện Địch Thủy có người quỳ lạy, có người thì thầm kể về nguồn gốc Thổ Địa thần.

Khương Thanh Tố hỏi Chung Lưu: “Một nơi nhỏ thế này, sao lại thỉnh tượng Thổ Địa to đến vậy?”

Thông thường tượng cao bằng người thật chỉ được xây ở thành trì phồn thịnh. Dù huyện Địch Thủy vật tư dồi dào nhưng dân cư thưa thớt, diện tích không lớn, cổng huyện đã có một miếu Thổ Địa cao nửa người, không lý gì lại thỉnh thêm một tượng lớn như thế.

Tượng càng lớn, miếu càng cao, chi phí càng nhiều. Nếu sau này hương khói không vượng, sẽ hoàn toàn lỗ vốn. Huống chi còn có thuyết rằng, nơi nhỏ không giữ nổi thần lớn, không cần thiết thì mời cũng vô ích.

Chung Lưu đáp: “Là bà chủ khách đ**m Trường Phong thuê người làm đấy. Xây miếu là tiền của bà ta, Thổ Địa cũng do bà ta mời. Đám người này chỉ góp phần náo nhiệt, giúp khiêng, rồi lát nữa còn được ăn mấy bữa ở khách đ**m.”

Khương Thanh Tố nghe xong liền nhướn mày, hai tay khoanh trước ngực, nửa khép mắt nói: “Khách đ**m Trường Phong mỗi năm lời lãi ra sao? Xây miếu thỉnh thần một tay bà ta lo liệu, e là bao năm tích góp đều dồn cả vào đó?”

“Bà ta vốn là người hay làm việc thiện, không thì sao lại để lão Trương bán hàng trước cửa nhà?” Chung Lưu buột miệng nói, rồi mọi người liền nghe thấy tiếng pháo hoa xé gió lao lên trời, Chung Lưu bị thu hút lập tức kéo Thẩm Trường Thích chạy lên phía trước.

Thẩm Trường Thích xuống nhân gian chỉ toàn nghĩ chuyện ăn uống, bị Chung Lưu kéo đi suýt nữa nghẹn chết, lập tức đuổi theo đòi đánh: “Ngươi bao nhiêu tuổi rồi mà còn nghịch ngợm thế hả?!”

Khương Thanh Tố nhìn một con quỷ hơn bốn trăm tuổi với một người hơn hai trăm tuổi mà như trẻ con mới mười tuổi chạy nhảy giữa đám đông, không nhịn được bật cười khẽ. Nàng dùng khuỷu tay hích nhẹ vào cánh tay Đơn Tà đứng bên cạnh, hỏi nhỏ: “Này, có phải ngài thấy khách đ**m Trường Phong khả nghi, nên mới không trở về Thập Phương điện?”

Đơn Tà liếc nhìn khuỷu tay Khương Thanh Tố đang huých vào tay mình, lạnh nhạt nói: “Bạch đại nhân, xin giữ thân phận.”

“Vâng, Đơn đại nhân.” Khương Thanh Tố bất đắc dĩ gật đầu, tiện chân bước ngang sang vài tấc để khỏi chạm vào hắn nữa.

“Khách đ**m Trường Phong nằm về hướng đông, cửa chính hướng dương, bố trí cửa sổ và bàn ghế đều hợp phong thủy, vốn là cát địa. Thế mà lại bị âm khí bao phủ, oán khí không tan, đặc biệt là hậu viện của khách đ**m, có phù chú khóa cửa, không phải để trấn quỷ, mà là tụ âm, rất kỳ lạ.” Đơn Tà nói, rồi hơi nghiêng đầu về phía bức tượng Thổ Địa đang được người ta khiêng trên vai: “Làm gì có chuyện thỉnh thần vào ban đêm, ta nghĩ thứ mà bọn họ vác trên vai không phải là thần, mà là một cái xác chết.”

Khương Thanh Tố nghe xong lạnh cả sống lưng, lập tức quay đầu nhìn lại mà chẳng thấy gì, thầm nghĩ bản thân là người của Âm ty, còn sợ gì quỷ chứ?

Nghĩ vậy nàng liền lùi lại vài tấc vừa né tránh, lại dịch sát đến gần Đơn Tà, chau mày hỏi: “Ngài nghĩ khách đ**m Trường Phong có liên quan đến Bát Trường Sinh?”

“Không thể loại trừ khả năng ấy.” Đơn Tà đáp, “Ba ngày hẹn của ngươi, chỉ cần đưa Bát Trường Sinh về là xong. Kẻ nên chết thì chết, người nên sống thì sống, còn những điều quái dị trong khách đ**m Trường Phong, ta lại rất muốn điều tra một phen.”

Pháo hoa liên tiếp nở rộ trên không trung, tiếng nổ vang rền như pháo, những tia lửa sáng loáng rơi xuống. Nhiều người đang xem náo nhiệt cũng dừng bước, không tiếp tục đi theo tượng thần vào miếu nữa, phần lớn ở lại ngẩng đầu ngắm pháo hoa.

Khương Thanh Tố cũng không tiếp tục đi, Thẩm Trường Thích và Chung Lưu e rằng đã chen đến hàng đầu. Đơn Tà tay cầm quạt, một tay đặt sau lưng, ngẩng đầu nhìn pháo hoa rực rỡ nhưng lại chẳng có chút hứng thú.

“Đơn đại nhân, pháo hoa đẹp không?” Khương Thanh Tố hỏi.

Đơn Tà đáp: “Pháo hoa với tia lửa khác gì nhau?”

Khương Thanh Tố: “…”

Thôi vậy, trong mắt người này e là chẳng có gì gọi là mỹ lệ. Có lẽ… hắn nói chưa từng sống qua. Một kẻ từ khi sinh ra đã là quỷ, chưa từng nếm trải ngọt bùi cay đắng, sao có thể cảm thụ được cái gọi là đẹp xấu, cũng là điều dễ hiểu.

“Chi Hiếu ca ca! Mau nhìn kìa! Đẹp quá!” Một giọng nói quen thuộc vang lên, Khương Thanh Tố quay đầu nhìn về phía bên phải, quả nhiên thấy Trần Cẩm Sơ đang đứng bên cạnh Trương Chi Hiếu, tung tăng nhảy nhót chỉ tay lên trời.

Trương Chi Hiếu thấy Trần Cẩm Sơ cười vui vẻ, tâm tình cũng tốt theo, khóe môi mang ý cười nhàn nhạt, ánh mắt ôn nhu sâu lắng nhìn nàng.

Khương Thanh Tố nhìn thấy khuôn mặt Trương Chi Hiếu, chợt ngây người, không hiểu sao lại nhớ đến ngày xưa, nàng cũng từng thấy biểu cảm như vậy trên gương mặt một người nào đó — gần như là yêu rồi, chỉ là… vẫn thiếu một chút gì đó.

Thiếu cái gì?

Tựa như là… chân thành.

Có lẽ ánh mắt của nàng quá mức trực diện, lại thêm khoảng cách không xa, Trương Chi Hiếu lập tức cảm nhận được ánh nhìn ấy, quay mặt về phía nàng. Khương Thanh Tố tim đập thình thịch, ngay lập tức một chiếc quạt giấy trắng mở ra trước mặt, che khuất ánh mắt kia.

Khương Thanh Tố ngẩn ngơ nhìn tấm giấy trắng trên quạt, Đơn Tà khẽ nghiêng người đổi góc độ, hoàn toàn che khuất nàng, giọng trầm thấp: “Thấy rồi à?”

Khương Thanh Tố chớp mắt, đột ngột ngẩng đầu nhìn Đơn Tà: “Ngài cũng thấy rồi sao?”

Thấy rõ gương mặt Trương Chi Hiếu — khi nhìn Trần Cẩm Sơ thì dịu dàng thuần lương, sâu tình lễ độ; nhưng khi hướng ánh mắt về phía nàng, trong khoảnh khắc ấy như biến thành một khuôn mặt tà quỷ ghê rợn, sắc mặt không phải là ánh sáng ngũ sắc của pháo hoa, mà là trắng đen đối lập, âm khí đầy rẫy.

Một đứa trẻ nghịch ngợm chạy chơi va phải chân Khương Thanh Tố, khiến nàng ngã vào lòng Đơn Tà. Nàng chợt tỉnh khỏi cảm giác rợn người khi nhìn thấy khuôn mặt âm trầm kia, quay đầu nhìn đứa trẻ — trên mặt nó cũng đeo một chiếc mặt nạ quỷ mặt xanh nanh vàng, nhưng lại ngoan ngoãn cúi đầu nói: “Thưa phu nhân, xin lỗi đã đụng vào người.”

Khương Thanh Tố lắc đầu. Đứa trẻ đi rồi, nàng khẽ khàng, khàn giọng hỏi: “Vừa rồi ta thấy… đó là gì?”

Chẳng lẽ là ảo giác?

Đơn Tà đáp: “Là chân tâm.”
 
Back
Top Bottom