Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều

Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 110: Ngoại truyện 5 – Bùi Nghiên Chiêu



(Sáu năm trước.)

Kỳ khảo hạch và chiêu mộ ba năm một lần của Huyền Ảnh Ti luôn là sự kiện lớn trong kinh thành.

Khác với các kỳ thi võ cử khép kín, khảo võ của Huyền Ảnh Ti được tổ chức tại lòng chảo giữa Tiểu Hoàn Sơn, không hạn chế thân phận người đến xem. Vì vậy, từ sáng sớm, Tiểu Hoàn Sơn đã có không ít người tụ tập, bàn luận sôi nổi về những thí sinh trong võ trường.

Bùi Nghiên Chiêu lúc này đang thu mình ở góc võ trường. Thỉnh thoảng vài ánh mắt tò mò liếc nhìn về phía y, phần lớn đều vì ngoại hình nổi bật.

Bởi trong số các thí sinh, chỉ mình y là vô danh tiểu tốt.

Từ khi rời khỏi Phùng phủ, tuy đã làm việc cho Huyền Ảnh Ti, nhưng vì tuổi còn nhỏ, chức quan thấp, lại cố tình che giấu thực lực, nên trong kinh thành chẳng mấy ai biết đến y.

Ngoại trừ một người đứng trong đám đông – Phùng Gia Ấu.

Bùi Nghiên Chiêu luôn ép bản thân không nhìn lên núi, nhưng y biết Phùng Gia Ấu chắc chắn có mặt.

Trong tâm trí, y có thể mường tượng rõ ánh mắt nàng nhìn mình, đầy chất vấn, kỳ vọng, xen lẫn sự tủi thân và oán trách.

Y không muốn nhìn, cũng không dám nhìn, sợ rằng lý trí của mình sẽ sụp đổ dưới ánh mắt đó. Y chỉ có thể cúi đầu một chút, ép mình bình tĩnh, tập trung vào khảo hạch sắp tới, nhất định không được làm mất mặt nghĩa phụ.

Hôm nay, y phải làm nên tên tuổi, phải lấy thân phận một thiếu niên mười sáu tuổi mà đoạt lấy chức Thiên hộ của Huyền Ảnh Ti. Chính thức bước vào chốn quan trường, mở ra một cuộc đời mới.

Cũng là để chuộc tội cho cha mình.

Thực ra, hộ tịch của y là giả. Sau khi được Thẩm Khâu cứu về, y đã được sửa tuổi nhỏ đi.

Tuy nhiên trên thực tế, y cũng chỉ mới mười bảy. Tuổi còn nhỏ, nhưng đã trải qua nhiều bước ngoặt sinh tử.

Lần đầu tiên là năm bốn tuổi, cha y bị kết tội trong vụ án kho lương Điền Trung.

Từ một công tử quyền quý sinh ra trong nhung lụa, chỉ trong một đêm y trở thành tội đồ bị giam cầm. Chính Thẩm Khâu bất chấp khói lửa chiến loạn, vượt đường xa đưa y về kinh thành.

Lần thứ hai là khi y bảy tuổi, đang đi học thì nhận được một lá thư nặc danh.

Trong thư nói rằng, nhà họ Bùi vốn dĩ có thể tránh được kiếp nạn, tất cả đều do Phùng Hiếu An mật báo với Ngự Sử Đài chuyện cha y từng làm mất lệnh bài, nên Lục Ngự sử mới đứng ra buộc tội.

Bùi Nghiên Chiêu chưa kịp oán hận, thì thư lại kể thêm: cha y – Bùi Trác Chính – không hoàn toàn bị oan.

Ban đầu, Bùi Trác Chính, với tư cách là thủ lĩnh của Hội Đồng Minh, chỉ muốn gây quỹ để hỗ trợ tổ chức.

Dưới sự dẫn dắt của “người viết thư”, ông cấu kết với các thương nhân buôn muối lớn cùng quan viên Hộ Bộ, lợi dụng kẽ hở trong chính sách muối. Kết quả dẫn đến lượng lương thực nhập vào kho Điền Trung ít hơn con số báo cáo thực tế.

Trong suy nghĩ của Bùi Trác Chính, Nam Cương đã an phận gần trăm năm, xác suất xảy ra chiến tranh quy mô lớn là rất thấp.

Thiếu hụt một ít lương thực không đáng kể, nhưng lại có thể thu được lợi nhuận lớn từ thương nhân buôn muối, từ đó giúp Hội Đồng Minh làm nhiều việc tốt cho bá tánh.

Nhưng đã có lần đầu, thì sẽ có lần hai, lần ba…

Khối tài sản trong tay Bùi Trác Chính nhanh chóng phình to, khiến ông dần lạc lối. E sợ Phùng Hiếu An và những người khác phát hiện ra manh mối rồi khó bề giải thích, ông bắt đầu xa cách họ.

Đến khi Bùi Trác Chính nhận ra mình đã đi sai từ đầu, muốn hối cải và bù đắp thì đã quá muộn.

Nam Cương Vương bất ngờ dấy binh tiến về phía Bắc, quân Đại Ngụy nhanh chóng bại trận, kho lương Điền Trung bị phơi bày trước thiên hạ.

Bùi Trác Chính biết mình có tội, cũng sẵn sàng lấy cái chết để chuộc tội.

Nhưng đây là tội danh tru di cửu tộc, để bảo toàn cha mẹ, vợ con, ông buộc phải chấp nhận đề nghị của ‘người viết thư’, giao nộp Hội Đồng Minh để đổi lấy cơ hội thoát thân.

Bùi Nghiên Chiêu biết rõ, ‘người viết thư’ chính là ‘kẻ phản bội’ mà Thẩm Khâu luôn tìm kiếm. Nhưng y chỉ dám hỏi Thẩm Khâu xem kẻ mật báo có phải là Phùng Hiếu An không. Không dám đưa lá thư đó cho Thẩm Khâu xem.

Bởi trong suy nghĩ của Thẩm Khâu, cha y luôn là ‘nạn nhân’ bị kẻ hèn hạ nham hiểm lừa gạt mà nhất thời hồ đồ.

Song Bùi Nghiên Chiêu hiểu, những gì viết trong thư mới là sự thật. Cha y hoàn toàn tỉnh táo, nhận thức được bản thân từng bước sa vào bùn lầy.

Hiện giờ, Bùi Nghiên Chiêu đã mất đi tất cả, chỉ còn điểm tựa duy nhất là Thẩm Khâu. Y không dám tưởng tượng nếu Thẩm Khâu biết được sự thật, rồi thất vọng hoàn toàn với cha mình, thì sẽ đối xử với mình ra sao.

Y đoán, ‘kẻ phản bội’ gửi lá thư này với ý đồ giáng cho y một đòn chí mạng nhân lúc y vừa đến tuổi biết nghĩ. Muốn xem phản ứng của y, muốn nhìn thấu tính cách y, rồi cân nhắc xem y có đáng để lôi kéo hay không…

Y trở thành quân cờ đặt bên cạnh Thẩm Khâu.

Có lẽ vì y không vượt qua được ‘bài kiểm tra’, từ đó đến nay kẻ phản bội vẫn không liên lạc lại.

Lần ngoặt thứ ba trong đời Bùi Nghiên Chiêu xảy ra vào năm thứ hai sau khi biết rõ chân tướng.

Thẩm Khâu về nhà cho y biết rằng Phùng Các lão đang âm thầm chọn chồng cho cháu gái nhỏ nhà mình.

Phùng Hiếu An mất tích, nhà họ Phùng chỉ còn một mầm non duy nhất. Phùng Các lão muốn chọn một thiếu niên làm ‘con rể nuôi từ bé’ và trực tiếp dạy dỗ. Sợ rằng văn nhân bạc tình, ông chỉ muốn chọn con trai của các võ quan cấp thấp.

Bùi Nghiên Chiêu rất muốn thử, không chỉ vì y cho rằng nhà họ Phùng nợ mình, mà còn vì một lý do thực tế.

Gia cảnh nhà Thẩm Khâu túng thiếu, nuôi dưỡng hai đứa trẻ thực sự vất vả.

Nghĩa phụ của y tuy giao du với nhiều quý tộc và thương nhân giàu có trong Hội Đồng Minh, nhưng chỉ vay tiền, tuyệt đối không nhận của ai món quà nào. Và lần duy nhất vay tiền là vì nghĩa mẫu lâm bệnh nặng.

Nếu được chọn, Bùi Nghiên Chiêu muốn giảm bớt gánh nặng cho Thẩm Khâu.

Hơn nữa, khi ấy Thẩm Khâu đang muốn chuyển từ Kinh Kỳ Doanh sang Huyền Ảnh Ti, nếu có thể ‘bán’ nghĩa tử để đổi lấy một lần giúp đỡ của Phùng Các lão thì quả là đôi bên đều có lợi.

Vì thế, Bùi Nghiên Chiêu kiên quyết đòi đi, một mực bảo Thẩm Khâu phải ‘bán’ mình đi cho bằng được.

Sau khi thuận lợi bước chân vào Phùng phủ, ngoài việc học văn luyện võ, thời gian còn lại y đều ở cạnh cô bé tiểu thư nhà họ Phùng ấy.

Tuổi nhỏ đã gặp nhiều biến cố, lại sống trong nhà kẻ thù, ‘ngậm đắng nuốt cay’ mà lớn lên, tuy y chỉ là thiếu niên nhưng tâm tính đã chẳng khác gì người lớn.

Mà Phùng Gia Ấu cũng là cô bé thông minh, sớm hiểu chuyện, tâm tư chững chạc vượt xa bạn đồng trang lứa.

Từ nhỏ nàng không cha không mẹ bên cạnh, ông nội bận rộn chính sự, nàng sớm biết người trước mặt là phu quân tương lai của mình nên mọi chuyện đều ỷ lại vào y.

Còn y, vừa kinh ngạc trước tài trí và chí hướng của nàng, vừa xót thương nàng côi cút, nên cũng hết lòng chăm sóc.

Nỗi hận trong lòng y đối với Phùng Hiếu An kỳ thực không sâu sắc như Thẩm Khâu tưởng. Phùng Hiếu An có lẽ đã chết, y chẳng cần phải oán hận gì một cô bé không hay biết chuyện.

Thế nhưng, càng lớn lên, càng ở cạnh nhau lâu, khi tình cảm dần đâm chồi, những ý nghĩ ban đầu ấy lại dần đổi thay.

Y có thể không oán giận nàng, nhưng không thể chấp nhận chuyện bản thân nảy sinh tình cảm với con gái kẻ thù.

Khi nhận ra dấu hiệu đó, y liền tìm Thẩm Khâu xin ông nghĩ cách đưa mình rời khỏi Phùng phủ.

Y ra đi trong đêm, thậm chí không từ biệt Phùng Gia Ấu.

Khi ấy, Bùi Nghiên Chiêu nghĩ rất đơn giản, cả hai vẫn còn nhỏ, làm gì hiểu được tình cảm nam nữ. Chẳng qua chỉ là cảm giác gắn bó thời niên thiếu, xa cách rồi thì sớm muộn cũng phai nhạt.

Sự thật quả thực cũng là như thế. Trong Huyền Ảnh Ti, y tiếp xúc với bao điều mới lạ, trong vòng một hai năm, đã gần như quên hẳn Phùng Gia Ấu.

Nhưng sống trong cùng kinh thành, dù cố ý né tránh thì vẫn khó mà không tái ngộ.

Lần gặp lại ấy, Bùi Nghiên Chiêu kinh ngạc phát hiện nàng đã thay đổi rất nhiều. Mới đó thôi mà cô bé con trong ký ức đã hóa thành thiếu nữ xinh tươi như nhành liễu non.

Chỉ một ánh mắt giao nhau, hạt mầm tình cảm y từng dồn sức đè nén… phút chốc chọc thủng mặt đất và trỗi dậy.

Y đoán Phùng Gia Ấu cũng có cảm giác giống mình.

Một khi mầm đã nhú, không những không kìm lại được, mà còn lớn nhanh như gió cuốn.

Cùng với đó là ngọn lửa căm hận trong lòng bừng lên theo.

Tình cảm càng sâu, hận thù càng lớn.

Tại sao người tố giác lại là Phùng Hiếu An?

Là Thẩm Khâu cũng được, cớ gì lại là ông ta?

Nàng là con gái ai cũng được, tại sao cứ phải là con gái của Phùng Hiếu An?

Trong những đêm dài khó chịu đựng, Bùi Nghiên Chiêu đã tự thuyết phục bản thân hàng ngàn lần.

Phụ thân đáng bị trừng phạt, ý chí không vững, không vượt nổi cám dỗ, gián tiếp hại chết biết bao nhiêu người. Nếu phải lấy mạng trả nợ thì có đến vạn mạng cũng chẳng đủ.

Nghĩa phụ chẳng phải cũng nói rồi sao, nếu Phùng Hiếu An không đủ nhẫn tâm viết bức thư tố cáo đó, ông cũng sẽ viết. Họ không thể khoanh tay nhìn Hội Đồng Minh trở thành thanh đao trong tay kẻ gian tà.

Hắn không nên hận Phùng Hiếu An.

Càng không nên kéo ân oán đời trước vào mối quan hệ giữa y và Phùng Gia Ấu.

Nhưng… y thực sự không làm được.



Khi Bùi Nghiên Chiêu bước lên lôi đài, vẫn không nhìn lên núi.

Dưới ánh mắt chăm chú của Phùng Gia Ấu, y giao đấu với tâm trạng rối bời, nhưng chừng đó cũng đủ để chiến thắng. Đúng như yêu cầu của Thẩm Khâu, toàn vẹn bước lên, toàn vẹn rời xuống. Tất cả đối thủ đều không trụ nổi quá mười chiêu dưới tay y.

Giữa kinh thành đầy nhân tài, y một trận thành danh.

Nhưng khi cuộc khảo thí kết thúc, đám đông trên núi chuẩn bị rời đi thì xảy ra chuyện ngoài ý muốn.

Một con báo dữ không biết từ đâu lao ra, tuy không gây thương tích nhưng đã khiến đám đông nhốn nháo kinh hãi, tiếng hét vang lên khắp nơi.

Lòng Bùi Nghiên Chiêu còn rối loạn hơn cả đám đông, vội vã tìm bóng dáng Phùng Gia Ấu giữa biển người. Cuối cùng cũng thấy nàng bị đám đông xô ngã xuống đất.

Bùi Nghiên Chiêu lập tức tung mình về phía nàng, nhưng khi gần đến nơi, đầu óc y bỗng tỉnh táo. Quanh nàng giờ đã an toàn, không còn nguy cơ bị giẫm đạp nữa, y hoảng hốt cái gì đây?

Ngay lúc đó, Phùng Gia Ấu dường như cảm nhận được y, quay đầu nhìn sang.

Bùi Nghiên Chiêu lập tức đổi hướng, đáp xuống bên cạnh một thiếu nữ rồi đỡ cô ấy dậy. Chiếc mũ rèm che mặt của cô gái rơi xuống, lộ ra dung nhan, nhưng y hoàn toàn không biết cô ấy là ai, cũng chẳng bận tâm. Chỉ là một tấm bia đỡ vừa khéo mà thôi.

Cô gái đỏ mặt cảm tạ, y lại không nghe lọt chữ nào, tâm trí chỉ rối bời suy đoán — liệu Phùng Giai Ấu có nhìn thấy không? Lòng thầm trách mình quá đáng, đã không giúp nàng thì thôi, sao còn đi đỡ một cô gái khác.

Lớn lên cùng nhau, Bùi Nghiên Chiêu hiểu rõ tính tình Phùng Gia Ấu. Nhìn ngoài thì phóng khoáng rộng rãi, nhưng tâm tư nàng thì nhọn như đầu kim, hay nghĩ ngợi nhiều, dễ rơi vào luẩn quẩn.

Càng nghĩ y càng hối hận, không nhịn được quay đầu nhìn Phùng Gia Ấu.

Thấy nàng nhấc váy chạy xuống núi, dáng điệu như bị trẹo chân. Y sợ nàng xảy ra chuyện, lại không nhịn được mà đuổi theo.

Phùng Gia Ấu dường như đã kiệt sức, dừng lại bên một gốc cây và từ từ ngồi xổm xuống.

Bùi Nghiên Chiêu cũng dừng lại, nấp sau một gốc cây khác gần đó.

Y loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc, từ thút thít đầy kiềm chế đến bật lên không chút che giấu, khiến hai mắt y cũng đỏ hoe. Y dựa lưng vào thân cây, cố gắng khống chế bản thân, lòng bàn tay bị chính móng tay của mình bấm chặt đến rỉ máu.

Thế nhưng, những giọt nước mắt của nàng như một dòng lũ, dần phá tan tất cả hàng rào phòng ngự trong lòng y.

Cuối cùng, y không thể kiềm chế thêm nữa, bước ra từ phía sau cây, định lao về phía nàng. Trong khoảnh khắc ấy, mọi hận thù đều tan biến, đời này y chỉ muốn có nàng.

Nhưng trước khi y kịp tới, một người khác đã nhanh chân hơn, tiến đến trước mặt nàng, cúi người đưa nàng một chiếc khăn tay:

“Tiểu thư…”

“Đồ lưu manh từ đâu tới đây!” Phùng Gia Ấu vung tay hất chiếc khăn, đứng dậy, nhấc váy tiếp tục chạy xuống núi.

Ánh mắt của Bùi Nghiên Chiêu dừng lại trên người kia. Vì đã làm việc ở Huyền Ảnh Ti ba năm, y biết đó là Lý Tự Tu của phủ Trung Văn Bá. Người này đang làm việc tại Hàn Lâm Viện, gần đây vừa giành được một vị trí tại Hộ Bộ ở Kim Lăng và sắp rời kinh thành nhậm chức. Quan vị không cao, nhưng lại phụ trách quản lý muối – một chức vụ béo bở được rất nhiều người để mắt tranh giành.

Phủ Trung Văn Bá đã suy thoái nhiều năm, Lý Tự Tu không quyền không thế nhưng lại có thể giành được vị trí này, quả thực có điều gì đó bất thường.

Bởi thế, theo lệ, Huyền Ảnh Ti đã bắt đầu bí mật điều tra.

Chỉ là thân thế Lý Tự Tu trong sạch đơn giản, không tra ra điều gì lớn. Cùng lắm là thấy hắn xưa nay luôn cố ý giữ thái độ khiêm tốn, che giấu tài năng. Mà chuyện này vốn chẳng hiếm trên quan trường.

“Khương Bình, mau lại đây!” Lý Tự Tu gọi lớn.

Bùi Nghiên Chiêu nhìn thấy một thiếu niên chạy tới như bay:

“Công tử có gì căn dặn?”

Lý Tự Tu chỉ về hướng Phùng Gia Ấu vừa biến mất:

“Mau đuổi theo, xem cô ấy là tiểu thư nhà nào. Tra thêm vì sao cô ấy lại khóc đau lòng đến thế.”

Thiếu niên tên Khương Bình dường như không thể tin nổi, đứng ngẩn ra một lúc. Mãi đến khi bị Lý Tự Tu gấp gáp thúc giục, cậu ta mới vội vàng chạy đi.

Bùi Nghiên Chiêu lặng lẽ quan sát Lý Tự Tu – vẻ nho nhã, phong thái điềm tĩnh, không hề vướng chút bụi trần – cúi người nhặt chiếc khăn rơi trên mặt đất. Chiếc khăn đã dính đầy đất cát, nhưng Lý Tự Tu chẳng màng, cẩn thận giữ nó trong tay.

Bị Lý Tự Tu làm gián đoạn, cơn lũ cảm xúc trong lòng Bùi Nghiên Chiêu rút đi, để lại một mặt hồ phẳng lặng.

Y chợt nhận ra, Phùng Gia Ấu trẻ trung xinh đẹp, lại tài hoa hơn người, không có y, nàng vẫn sẽ được những người đàn ông ưu tú khác trân trọng và yêu thương. Còn y, hôm nay vừa mới gây tiếng vang trong kinh thành, tương lai cũng không thiếu những cô gái xinh đẹp sẵn sàng ngã vào lòng.

Trải qua vô số lần giằng xé, Bùi Nghiên Chiêu đã hoàn toàn chắc chắn một điều: bản thân không phải người rộng lượng, thậm chí có thể nói là cực kỳ nhỏ nhen. Hận thù tuy ít, nhưng luôn âm ỉ trong lòng, bất cứ lúc nào cũng có thể trỗi dậy khiến y đau đớn.

Càng gần nàng, những cảm xúc này càng trỗi dậy thường xuyên. Khi y đau khổ, cũng sẽ không để nàng được yên.

Cuộc đời còn dài, mà hai người họ không phải không thể sống thiếu nhau, hà cớ gì phải chịu đựng nỗi dày vò này?

Bùi Nghiên Chiêu quay lưng bước đi, tự nhắc nhở mình không được phạm phải sai lầm như hôm nay. Nếu y không tàn nhẫn, nàng sẽ không hết hi vọng.

Từ giờ trở đi, y phải nhẫn tâm hơn, dứt khoát giúp nàng đoạn tuyệt.

Chỉ cần vượt qua giai đoạn này, cả y và nàng đều sẽ sống tốt hơn.

Cứ tiếp tục bước về phía trước thôi.
 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 111: Ngoại truyện 6 – Từ Tông Hiến x Lý phu nhân cùng mọi người trong thư viện



(Hai mươi bảy năm trước)

Lý Thanh Vãn và Từ Tông Hiến quen nhau tại một quán cờ.

Hôm ấy là tiết Hoa Triều, theo truyền thống của Đại Ngụy, những quý nữ chưa kết hôn ở kinh thành muốn nổi danh thường sẽ tham gia hội Hoa Triều hàng năm do công chúa, quận chúa tổ chức.

Lý Thanh Vãn vốn là đích nữ của phủ Trung Văn Bá, không chỉ dung mạo xinh đẹp mà còn nổi tiếng với tài thư pháp, cầm kỳ thi họa đều thông. Cha mẹ nàng rất kỳ vọng, mong nàng nhân dịp này lộ chút tài hoa để sau này được gả cao.

Thế mà nàng lại giả bệnh, cố tình thoái thác không đi.

Sau một phen tranh cãi với song thân, nàng lén thay nam trang trốn khỏi phủ, một mình đến quán cờ.

Từ nhỏ Lý Thanh Vãn đã yêu thích chơi cờ. Nửa năm trước, nàng còn là khách quen của tất cả các quán cờ lớn nhỏ trong kinh thành.

Chỉ là dạo gần đây ít ghé lại, bởi trong những quán cờ ấy, nàng không còn tìm được đối thủ xứng tầm. Tuy nhiên, mỗi lần nàng chỉ thắng nửa quân, đôi khi còn cố ý thua để không gây chú ý.

Nửa tháng trước, người bạn chơi cờ nói với nàng, anh ta gặp một cao thủ tại một quán cờ ăn tiền. Cách đánh của người này cực kỳ giống nàng, thường chỉ thắng nửa hoặc một quân, lại còn hay nhường ván.

Sự tò mò của Lý Thanh Vãn bị khơi dậy, rảnh rỗi nàng sẽ đến quán cờ đó tìm thử, nhưng mãi vẫn chưa gặp được người ấy.

Hôm nay tâm trạng không vui, guồng chân mà đi đến, ai ngờ vừa khéo chạm mặt.

Người ấy rất dễ nhận ra, áo xanh giản dị, đầu đội mũ có rèm che kín mặt.

Thấy bên kia bàn cờ chưa có ai ngồi, Lý Thanh Vãn lập tức đi đến ngồi xuống, theo quy tắc, đặt mười văn tiền bên cạnh bàn cờ.

Khi ấy Từ Tông Hiến đang chuẩn bị rời đi, định từ chối vị ‘tiểu công tử’ này, nhưng thấy nàng chau mày, vẻ mặt u sầu, chàng lại mềm lòng, bèn ngồi xuống chơi cùng một ván.

Lý Thanh Vãn không tập trung nên thua rất nhanh, bực bội lấy ra thêm mười văn tiền để chơi ván nữa.

Ván thứ hai nàng nghiêm túc hơn nhưng vẫn thua chàng một quân cờ.

Ván thứ ba cũng vậy.

Sau khi thắng lần thứ ba, Từ Tông Hiến không cho nàng thêm cơ hội nữa, cầm lấy ba mươi văn tiền, đứng dậy rời khỏi quán cờ.

Hai người đấu ba ván cờ, mất cả một buổi chiều.

Từ đầu đến cuối, nàng không nói một lời, chàng cũng im lặng. Hai người gần nhau đến thế nhưng chưa từng trao đổi câu nào.

Dưới ánh hoàng hôn, Lý Thanh Vãn chạy ra khỏi quán cờ, lập tức sai người theo dõi Từ Tông Hiến.

Khi biết được chàng là học trò của thư viện Thịnh Cảnh, nàng liền hiểu ra lý do chàng đội mũ rèm và cố tình giấu đi thực lực.

Là một học trò, còn là học trò của đại nho Nhạc Mông, việc chàng đánh cờ cược tiền kiếm sống là điều khó chấp nhận. Nếu bị tố cáo, chàng có thể bị đuổi khỏi thư viện.

Lý Thanh Vãn ngay lập tức lấy chiếc trâm vàng yêu thích nhất, kèm theo một trăm lạng bạc, sai hạ nhân đưa cho chàng.

Ý tứ rất rõ ràng, nàng đã để mắt đến chàng.

Rèm mũ che khuất, nàng không nhìn rõ dung mạo của chàng, cũng chưa từng ngẩng đầu lên nhìn kỹ.

Nhưng qua ba ván cờ, nàng đã hiểu chàng khá nhiều.

Nàng luôn tin rằng phong cách chơi cờ của một người có thể phản ánh tính cách của người đó. Qua những nước cờ, nàng thấy được nội tâm của chàng.

Từ Tông Hiến là người quang minh lỗi lạc, quả thật không hổ là học trò của bậc đại nho Nhạc Mông.

Nhưng một khi bị dồn vào bước đường cùng, chàng lại có thể quyết đoán phá lệ, dùng chiêu hiểm phá thế, giành chiến thắng bất ngờ.

Lý Thanh Vãn luôn tôn trọng những văn nhân có cốt cách, trọng khí tiết, nhưng đôi khi nàng cũng cảm thấy họ có phần cổ hủ.

Đặc biệt trong cục diện triều chính rối ren hiện tại – gian thần lộng quyền, hôn quân mê tín một gã quốc sư giang hồ, Đông Xưởng tùy tiện làm bừa, coi mạng người như cỏ rác, từ quan đến dân đều nơm nớp lo sợ.

Các sĩ tử liều chết dâng sớ can gián, lớp này ngã xuống, lớp khác tiếp bước, kết quả chẳng thay đổi được, chỉ khiến lũ gian thần càng thêm lộng hành.

Trong tình cảnh như vậy, những người có thể đứng vững trong quan trường phần nhiều là kẻ mưu mẹo khéo léo, giỏi luồn lách. Song họ lại thường chỉ biết đến lợi ích cá nhân.

Mà Từ Tông Hiến là sự dung hòa giữa hai thái cực ấy. Chàng vừa có nguyên tắc vừa linh hoạt, vừa mang phong thái quân tử vừa không bị ràng buộc bởi tiểu tiết. Không phải loại người tầm thường.

Nàng để ý đến chàng không phải vì cho rằng chàng sẽ làm nên đại sự trong tương lai. Nàng đơn thuần ngưỡng mộ chàng, thầm thương trộm nhớ.

Nhưng kết quả nằm ngoài dự đoán: Từ Tông Hiến trả lại cả trâm lẫn bạc.

Chàng khéo léo nhắn rằng, nàng cho rằng hai người là ‘kỳ phùng địch thủ’ nhưng thực tế không hoàn toàn như vậy. Ẩn ý rằng trình chơi cờ của nàng chưa đủ để làm đối thủ của chàng.

Lý Thanh Vãn ngẩn người, không những không tức giận mà còn đặt lá thư lên ngực, mỉm cười.



Đây không phải lần đầu Từ Tông Hiến nhận được ‘tín vật định tình’ từ các cô gái.

Dù xuất thân hàn vi nhưng chàng vẫn là thí sinh đang chờ thi cử, lại là học trò của thư viện Thịnh Cảnh. Không ít người muốn đặt cược vào chàng, đặc biệt là vì chàng nghèo khó, không quyền không thế, rất dễ dàng tiếp cận.

Từ Tông Hiến không thích cảm giác bị coi là ‘hàng có lời’, bất kể là thứ nữ thương hộ hay tiểu thư thế gia, chàng đều từ chối như nhau.

Duy chỉ có đôi mắt long lanh đượm tình của Lý Thanh Vãn là chàng nhớ mãi.

Kết hợp với nét mặt nghiêm túc khi nàng chơi cờ, ánh mắt ấy lại càng gây ấn tượng mạnh.

Chàng không sợ Lý Thanh Vãn tức giận mà tố giác chuyện chàng đánh cờ cược tiền với thư viện, vì qua những nước cờ, chàng biết nàng không phải người nhỏ nhen.

Thế nên, khi có thời gian, chàng vẫn ghé quán cờ đó để kiếm tiền trang trải phí sinh hoạt ở kinh thành.

Các đồng môn hàn vi trong thư viện thường kiếm sống bằng cách chép sách, nhưng công việc này vừa kiếm được ít, vừa tẻ nhạt và lãng phí thời gian.

Chơi cờ là sở thích lớn nhất của chàng, vừa thư giãn lại vừa có thu nhập, cớ chi không làm?



Hôm nay, vừa đến quán cờ không lâu, Lý Thanh Vãn đã tới. Nhưng nàng không chơi cờ với chàng, chỉ đứng ngoài quan sát.

Nàng đứng mãi cho đến khi chàng rời đi mới thôi.

Lần tiếp theo, chàng lại gặp nàng quan sát.

Trong suốt quá trình, Từ Tông Hiến vài lần ngẩng đầu lên nhìn, nhận ra nàng luôn chăm chú vào những quân cờ đen trắng trên bàn, nhíu mày suy nghĩ. Chàng hiểu, nàng đang nghiêm túc học hỏi.

Chàng đã nói nàng chưa đủ tầm làm đối thủ, giờ nàng quyết tâm hiểu rõ nước cờ của chàng để một ngày vượt qua.

Từ Tông Hiến bắt đầu cảm thấy Lý tiểu thư này thú vị thật. Đằng nào nàng cũng chẳng quấy rầy, chàng cứ để mặc nàng.

Không ngờ cái ‘mặc kệ’ ấy vậy mà lại kéo dài suốt nửa năm. Ngày nắng hay mưa nàng đều đến, sáng đi tối về cùng chàng ở quán cờ.

Bản thân Từ Tông Hiến cũng không nhận ra, số lần chàng đến quán cờ càng lúc càng tăng, và thời gian đến ngày càng cố định.

Cho đến khi Lý Thanh Vãn không xuất hiện ba lần liên tiếp, chàng chơi cờ với người khác mà lòng không yên, mới mơ hồ nhận ra.

Khi Lý Thanh Vãn xuất hiện lần nữa, nàng trực tiếp ngồi đối diện chàng:

“Ta muốn thử lại một lần.”

Nửa năm qua, nàng đã thử hàng chục lần, nhưng vẫn không thể thắng chàng lần nào.

“Thật ra…” Từ Tông Hiến định nói nàng đã tiến bộ rất nhiều, gần như nắm bắt được lối chơi của chàng, khiến chàng ngày càng khó thắng.

Tuy nhiên, nếu chàng không nhường, dù mười năm nữa nàng cũng không thể thắng chàng.

Từ Tông Hiến không nói thêm gì nữa, tiếp tục đấu cờ, nhưng lòng rất muốn hỏi vì sao dạo trước nàng không đến.

Nghĩ mãi mà không thể cất lời.

Lý Thanh Vãn lại chủ động lên tiếng:

“Dạo trước ta không đến được, vì cha ta đã định một mối hôn sự cho ta…”

Bàn tay cầm quân cờ của Từ Tông Hiến khựng lại.

Lý Thanh Vãn chỉ nhìn vào bàn cờ:

“Ta vốn không ưng người đó… Nhưng người ta thích lại không thích ta. Dù sao cũng không còn lựa chọn nào tốt hơn, ta đành thuận theo.”

Mất một lúc lâu, Từ Tông Hiến mới đặt quân cờ xuống.

Lý Thanh Vãn im lặng.

Chàng cũng im lặng.

Một lúc lâu sau, Lý Thanh Vãn đột nhiên hỏi:

“Huynh nhường ta đấy à? Nhường một nước này, huynh sẽ thua thôi.”

Từ Tông Hiến giật mình, ngạc nhiên nhận ra mình đã đi sai nước.

Sự bối rối thoáng qua trên gương mặt chàng không thoát khỏi ánh mắt Lý Thanh Vãn.

Nàng cười lên, hếch cằm nói:

“Thế nào, giờ ta đủ trình làm ‘kỳ phùng địch thủ’ của huynh chưa?”

Từ Tông Hiến liền ngẩng đầu:

“Gạt ta?”

“Gạt?” Lý Thanh Vãn nhướn mày, “Chẳng phải binh pháp nói ‘binh bất yếm trá’ đó sao? Một chiêu nhiễu loạn này, sao có thể tính là gạt được?”

Nhìn chàng siết chặt quân cờ, chừng như tức giận, nàng lại giải thích:

“Ta không nói dối đâu. Dạo trước không đến đúng thật là vì chuyện hôn sự. Chỉ là ta không đồng ý, tuyệt thực mấy ngày để ép cha ta phải từ bỏ ý định.”

Từ Tông Hiến không đáp, lẳng lặng đặt quân cờ xuống bàn.

Lý Thanh Vãn nhíu mày:

“Huynh vẫn chưa chịu thua sao?”

“Thế cờ đúng là bất lợi cho ta.” Từ Tông Hiến bình thản đáp, “Nhưng chưa đến phút cuối, chưa biết ai thắng ai thua. Bỏ cuộc không phải là phong cách của ta.”

Lý Thanh Vãn cau có:

“Huynh nhường ta một lần thì sao chứ? Cứ phải tranh thắng thua bằng được với ta? Trong quán cờ, ai huynh cũng nhường, chỉ riêng ta là chưa từng? Huynh có thù oán gì với ta à?”

Từ Tông Hiến: “…”

Im lặng một thoáng, chàng nói:

“Vì ta biết rõ… huynh không thích người khác nhường mình, đúng chứ?”

Lý Thanh Vãn đáp:

“Đúng, nhưng ‘người khác’ đó không bao gồm huynh.”

Từ Tông Hiến vừa lấy thêm một quân cờ đen trong hộp cờ ra, nghe nàng nói vậy, tay khựng lại hồi lâu rồi mới cất lời:

“Lý… công tử, phụ thân công tử chọn người ấy cho… huynh, có thể huynh không xem trọng tương lai của hắn. Nhưng chỉ riêng ‘hiện tại’ của hắn thôi… cũng đã là độ cao mà cả đời này e là ta chẳng bao giờ với tới được.”

Chàng chậm rãi nói tiếp:

“Ta rất tự tin vào chính mình, nhưng thế gian vốn chẳng như bàn cờ, chẳng thể đoán trước. Ta chưa từng trông chờ vào may mắn, và cũng không muốn công tử ôm bất kỳ hi vọng nào không thực tế. Ta sợ nhường huynh lại chính là hại huynh. Ta hi vọng…

Lý Thanh Vãn im lặng lắng nghe chàng nói về lợi và hại, hết lý lẽ này đến lý lẽ khác, rườm rà mãi không dứt.

Đây là lần đầu tiên nàng nghi ngờ quan điểm ‘tính cách con người bộc lộ qua lối chơi cờ’. Từ Tông Hiến trên bàn cờ tàn nhẫn, quyết đoán bao nhiêu thì trong tình cảm lại chậm chạp, bị động bấy nhiêu.

Nhưng Lý Thanh Vãn vẫn kiên nhẫn nghe chàng nói, không chen lời, cũng không phản bác, dáng vẻ và ánh mắt ngoan ngoãn như mèo con.

Dưới đôi mắt long lanh dịu dàng ấy của nàng, Từ Tông Hiến rốt cuộc không mở miệng nói tiếp được nữa.

Chàng mân mê quân cờ trong tay một lúc lâu, rồi ném nó trở lại hộp cờ, bất lực thở dài:

“Được rồi, ta không tranh với nàng nữa, ta thua rồi.”



Thư viện Thịnh Cảnh.

Trịnh phu tử đang nói chuyện với Nhạc Mông, lý do là có học sinh tố cáo Từ Tông Hiến chơi cờ ăn tiền trong quán cờ:

“Viện trưởng, ngài thương anh ta nhà nghèo mà miễn học phí, thế mà anh ta lại làm chuyện tổn hại danh tiếng thư viện như vậy…”

Nhạc Mông cười nói:

“Chỉ là ván cờ mười văn tiền, thêm chút cược cho vui mà thôi, nào đáng gọi là đánh bạc? Trước kia ta từng đấu cờ với một phú thương Giang Tô, còn thắng được cả căn nhà giá trị ngàn vàng của ông ta đấy.”

“Cái này sao có thể so sánh được?” Trịnh phu tử nhíu mày, thăm dò nói, “Hình như ngài luôn dành ưu ái đặc biệt cho Từ Tông Hiến.”

Nếu không thì ông ta đã trực tiếp đuổi Từ Tông Hiến ra khỏi thư viện, đâu cần phải xin ý kiến viện trưởng.

Nhạc Mông không phủ nhận:

“Nếu không có gì bất ngờ, năm sau trò ấy sẽ có một chỗ trong ba hạng đầu. Chuyện đó cũng chưa đáng kể đâu, hơn thế nữa, trò ấy có tầm nhìn lớn, sau này không chừng còn làm đến Thủ phụ Nội Các.”

Trịnh phu tử thật sự bất ngờ. Trong mắt ông ta, Từ Tông Hiến luôn lặng lẽ cô độc, dù thành tích không tệ nhưng cũng không quá nổi trội, mà xử sự thì chẳng lấy gì làm đúng mực.

Nhìn ngoài thì ôn hòa nhã nhặn, nhưng bên trong lại bướng bỉnh, không chịu ràng buộc, chẳng giữ quy củ.

Nhạc Mông ngẩng lên nhìn trời, mây đen phủ kín, như báo mưa giông sắp đổ:

“Thời buổi này, kẻ giữ được mình ngay thẳng lại không đủ sức đỡ nổi thiên hạ ngay thẳng. Những lúc đại loạn, chỉ có người đặc biệt, với cách thức đặc biệt mới có thể xua tan bóng tối, cứu vãn thế cuộc.”

Trịnh phu tử thở dài, biết rằng nét u uất hiện rõ trên gương mặt Nhạc Mông là vì ông lại nhớ đến nhóm sĩ tử liều chết can gián nửa năm trước. Trong đó có cả môn sinh mà Nhạc Mông tâm đắc nhất.

Nhạc Mông nói tiếp:

“Từ Tông Hiến không phải kẻ lòng dạ bất chính. Trò ấy là người có chủ kiến và nguyên tắc riêng, lại chỉ sống theo quy củ của chính mình mà thôi. Không cần quản trò ấy, mà có quản cũng chẳng được.”

Trịnh phu tử không nói đến Từ Tông Hiến nữa, hỏi:

“Vậy ngoài anh ta, không biết trong thế hệ này của thư viện ta, ngài còn thấy ai đáng chú ý?”

Nhạc Mông đáp không chút do dự:

“Phó Mân.”

Trịnh phu tử gật đầu đồng tình. Ông ta cũng ấn tượng với Phó Mân, chàng trai này thật sự thông minh, đến mức làm ông ta phải kinh ngạc.

Không ngờ Nhạc Mông lại đổi giọng:

“Đáng tiếc, hắn trái ngược với Từ Tông Hiến, không có tâm thế rộng lớn, lập trường không kiên định… Người để cảm tính lấn át lý trí không thích hợp tranh giành nơi quan trường, chỉ hợp làm mưu sĩ phía sau những quyền thần, thưởng trăng uống rượu mà thôi…”

Trịnh phu tử cười:

“Vậy thật trùng hợp, Nhạc Phồn là người đơn giản, sau này Phó Mân có thể giúp đỡ cậu ấy.”

Nhạc Mông im lặng một lúc:

“Nhạc Phồn không thể làm quan.”



“Phò mã Đại Ngụy không thể làm quan, nếu ta cưới công chúa Vĩnh Nhàn…”

Trong hoa viên Nhạc phủ, Ông Phồn đang kéo Phó Mân ra nói chuyện:

“Lúc trước ta đã hạ quyết tâm. Thời buổi gian thần chiếm quyền, dân chúng lầm than, ta muốn góp sức làm chút gì đó, đành phụ lòng công chúa… Nhưng giờ nghĩa phụ cũng hi vọng ta làm phò mã… Hoạn đảng luôn dòm ngó thư viện chúng ta, nghĩa phụ bị vây trong nguy hiểm trùng trùng. Nếu ta làm phò mã, nghĩa phụ sẽ có thêm một tầng bảo vệ, từ đó có thể che chở cho nhiều học trò hơn…”

Phó Mân lặng lẽ lắng nghe.

Trên danh nghĩa, Ông Phồn mang họ Nhạc, là con trai của viện trưởng. Nhưng Phó Mân biết cả hai anh em họ đều mang họ Ông, thuộc dòng dõi quý tộc Nam Cương. Họ được viện trưởng nhận nuôi vì lời ủy thác của bằng hữu quá cố.

Cha của hai anh em Ông Phồn mất sớm. Trước đó, cả nhà ba người sống ẩn mình trong một con ngõ bình dân ở kinh thành, là hàng xóm với Phó Mân.

Hai cậu bé tuổi tương đương, lớn lên cùng nhau thành bạn chí cốt.

Phó Mân mồ côi cha từ nhỏ, mẹ là thợ thêu hiền lành chịu khó, chuyện gì cũng nhẫn nhịn. Thân thể yếu ớt nên cậu luôn bị bắt nạt. Lần nào Ông Phồn cũng đứng ra che chở rồi cõng cậu đội mưa gió đi tìm thầy thuốc.

Sau khi hai anh em được viện trưởng nhận nuôi, Ông Phồn nói muốn có bạn học cùng, kéo Phó Mân đến bên cạnh.

Nhờ mối quan hệ với Nhạc Mông, cuộc sống hai mẹ con Phó Mân mới đỡ chật vật phần nào. Cậu cũng được tập trung học hành, cùng Ông Phồn thi cử.

Thật ra, Phó Mân chẳng mặn mà gì với thi cử làm quan, cũng không hứng thú cứu vớt dân chúng khỏi cảnh lầm than. Bởi chính cậu và mẹ mình cũng từng là những người khốn khổ, bị dày vò bởi những đồng loại cùng tầng lớp.

Trước khi thấy rõ sự đen tối của triều cục, cậu đã nếm trải sự xấu xa của lòng người.

Từ xưa đến nay, kẻ mạnh bắt nạt kẻ yếu, kẻ yếu lại ức h**p những kẻ yếu hơn. Dù thời thế có đổi thay thế nào, điều này mãi mãi không thay đổi, cũng chẳng thể nào cứu vãn.

Thế nhưng Ông Phồn lại mang chí lớn, khi thì muốn làm Đại đô đốc, lúc lại khao khát thành Thủ phụ, miệng lúc nào cũng nhắc đến ‘bách tính’.

Vì thế, Phó Mân đã bắt đầu học mưu lược từ rất sớm, đọc binh thư ngày đêm.

Cậu cố giấu đi sự thất vọng của mình với thế gian, lo sợ Ông Phồn phát hiện ra mà cho rằng cậu không xứng đáng làm tri kỷ.

“Ngươi thấy thế nào?” Ông Phồn nói xong liền hỏi Phó Mân.

“Ta thấy thế nào cũng được,” Phó Mân đáp, “Quan trọng là trong lòng ngươi nghiêng về hướng nào.”

Ông Phồn:

“Ta đương nhiên muốn tự tay trừ khử bọn gian nịnh…”

Nhưng Phó Mân biết, sau cùng Ông Phồn sẽ chọn làm phò mã.

Tình cảm với công chúa không phải trọng tâm. Mà vì Phó Mân hiểu rất rõ lòng kính yêu của Ông Phồn dành cho viện trưởng.

Nói gì xa xôi, chỉ riêng ân tình viện trưởng dành cho mình bao năm qua vì Ông Phồn, Phó Mân cũng đã sẵn lòng làm bất cứ điều gì cho ông.

Hai người đương trò chuyện thì thị nữ vào báo rằng Ông Nhược Di đã về. Ông Phồn lập tức đứng dậy đi tìm.

Phó Mân vội nhắc:

“A Phồn, A Nhược năm nay đã cập kê, là cô gái lớn rồi, ngươi nói năng nhớ chừng mực.”

Ông Phồn ngoái đầu cười trêu:

“Ngươi xót hả? Đợi năm sau ngươi thi đỗ công danh, cưới nó về nhà rồi thì ta không quản nữa!”

Phó Mân lập tức đỏ bừng mặt:

“Ta vừa nhắc ngươi giữ miệng, cái miệng ngươi đúng là…”

Ông Phồn cười lớn, rồi chạy đi tìm em gái.

Khi thấy Ông Nhược Di mặc nam trang, tay xách kiếm, hắn lập tức đuổi hết thị nữ rồi mắng như tát nước:

“Có phải muốn huynh nhốt muội lại, muội mới chịu thôi không? Muội không biết nghĩa phụ đang trong tình cảnh nào sao? Muội ra ngoài thì tỷ võ, ở nhà thì nuôi cổ. Nếu bị phát hiện, không chỉ ảnh hưởng thanh danh của nghĩa phụ mà còn có thể bị hoạn đảng lấy cớ làm lớn chuyện…”

Ông Nhược Di nghe mãi thành quen, coi như gió thoảng bên tai:

“Huynh đến đúng lúc lắm, muội định tìm huynh đây. Nghe nói nghĩa phụ muốn huynh cưới công chúa?”

Mặt Ông Phồn sa sầm:

“Thái độ này của muội là sao? Không muốn huynh cưới công chúa? Trước kia huynh nói muốn ra làm quan, chẳng phải muội còn trách huynh sao?”

Ông Nhược Di đáp:

“Muội không nên trách huynh à? Huynh quên mình là người Nam Cương rồi phải không? Cứ suốt ngày nghĩ cách cống hiến cho Đại Ngụy. Nếu triều đình Đại Ngụy tốt đẹp lên, khi họ cường thịnh, người đầu tiên họ muốn tấn công chính là Nam Cương chúng ta. Huynh có bị gì không đấy?”

Ông Phồn giận tím mặt:

“Huynh làm vậy là vì bách tính khổ sở, không phải vì Đại Ngụy. Người bị gì mới là muội! Đừng quên vì sao chúng ta phải ở Đại Ngụy. Là bởi người Nam Cương muốn thiêu chết muội! Cha dẫn chúng ta trốn đi, chính nghĩa phụ đã mạo hiểm nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn!”

“Ở Nam Cương, trẻ con ra đời khiến mẹ chết vì khó sinh đều bị thiêu sống, đó là hủ tục tồn tại hàng trăm năm, người trong tộc không nhằm vào muội. Tục lệ không chấp nhận được thì phải cố gắng thay đổi, chứ không phải phản bội.”

Ông Nhược Di lạnh lùng nói:

“Huống hồ, không phải muội cố nhớ mình người Nam Cương, mà chính nghĩa phụ luôn nhắc nhở muội.”

Anh trai nàng thoạt nhìn văn võ toàn tài, nhưng thực chất thành tựu chẳng đạt được đến mức lẽ ra phải có.

Vì Nhạc Mông cố tình kìm hãm.

Nhạc Mông không muốn Ông Phồn quá xuất sắc. Một người Nam Cương giỏi như vậy, với Đại Ngụy mà nói chính là mối họa ngầm.

“Ông ấy muốn huynh cưới công chúa, bởi vì không muốn huynh làm quan, không muốn một người Nam Cương trở thành trọng thần của Đại Ngụy.”

Ông Nhược Di nhìn thẳng vào mắt Ông Phồn, nói:

“Chính nghĩa phụ dạy muội câu này: ‘Không phải đồng tộc, lòng dạ tất khác’.”

Sự lạnh lùng trong ánh mắt nàng khiến Ông Phồn bàng hoàng:

“Nhược Di, nghĩa phụ có những toan tính đó cũng dễ hiểu. Ngoài chuyện đó ra, ông ấy yêu thương huynh muội chúng ta như con ruột. Sao muội có thể phủ nhận toàn bộ tình cảm ông dành cho chúng ta chỉ vì chút tư tâm đó chứ?”

Ông Nhược Di kéo tay anh trai, khuyên nhủ:

“Đại ca, muội nghe nói tân Nam Cương Vương có dũng có mưu. Chúng ta về Nam Cương đi, phò tá ngài ấy tấn công Đại Ngụy. Hiện giờ là thời cơ tốt nhất, Đại Ngụy đang mục ruỗng rồi… À đúng rồi, chẳng phải huynh muốn cứu bách tính Đại Ngụy sao? Cách trực tiếp nhất là lật đổ vương quyền Đại Ngụy, thay thế họ bằng chúng ta…”

Ông Phồn hất tay nàng ra, như thể không còn nhận ra người trước mặt, rồi quay lưng bỏ đi.

Ông Nhược Di nhìn theo bóng anh trai, buông một câu chửi: “Đồ ngốc u mê!”, lòng ngập tràn tiếc nuối và bất lực.

Nàng không thể đứng nhìn Ông Phồn bị trói buộc trong thân phận phò mã, sống một đời tầm thường.

Rồi sẽ đến lượt nàng.

Sau này Nhạc Mông sẽ sắp xếp hôn sự cho nàng, người được chọn chắc chắn cũng chỉ là con nhà quyền quý không thế lực.

Anh trai luôn muốn gả nàng cho Phó Mân. Nàng không thích nhưng cũng không phản đối. Vì nàng biết, Nhạc Mông sẽ tuyệt đối không đồng ý.

Phó Mân tài trí hơn người, tương lai sáng lạn, lại có tình cảm sâu đậm với anh em nàng. Nếu bị anh em nàng lôi kéo, ắt trở thành mối họa khôn lường.

Ông Nhược Di nhắm mắt lại, tay mân mê chuôi kiếm.

Hoạn đảng luôn tìm kiếm cơ hội hạ bệ Nhạc Mông và vùi dập phe thanh lưu. Nếu Nhạc Mông ngã xuống, liệu đại ca có hoàn toàn thất vọng với Đại Ngụy mà dẫn nàng quay về Nam Cương?

Sau đó khôi phục gia tộc, phò tá tân vương, nhân loạn chiếm lấy Đại Ngụy, thống nhất thiên hạ?

Nhưng Nhạc Mông…

Đúng như lời đại ca nói, ông ấy thực sự yêu thường nàng như viên ngọc quý trong tay.

Lòng vừa mềm đi thì Ông Nhược Di lại nghĩ tới tám chữ: “Không phải đồng tộc, lòng dạ tất khác”, nghĩ tới lòng riêng của ông.

Nàng là người không thể dung nổi một hạt cát trong mắt, yêu thương mà không trọn vẹn thì chẳng khác gì không yêu.

Sau bao lần tự giằng co, cuối cùng Ông Nhược Di cứng rắn hạ quyết tâm, bắt đầu tìm cơ hội giúp hoạn đảng kéo đổ Nhạc Mông.

Ba tháng sau, cơ hội ấy đến.





Tác giả có lời cuối chương tiết lộ thêm nhiều nội dung quan trọng, xin đừng bỏ qua:

Lúc ấy Ông Nhược Di còn quá trẻ, không đủ nhạy bén với chính trị. Nàng đơn giản cho rằng việc tố cáo bài thơ Nhạc Mông từng viết chỉ khiến một mình ông gặp họa.

Không ngờ hoạn đảng làm lớn chuyện, gây ra thảm án thư viện, lại không ngờ anh trai nàng cũng bị hại, bị sát hại bởi Tào Tung giữa lúc hỗn loạn…

Nói nàng cố ý hại chết người chỉ là suy đoán của Từ Tông Hiến sau này.

Những sự việc xảy ra sau đó đều đã được kể trong chính văn, không nhắc lại ở đây. Nhưng xin được tóm tắt lại như sau:

Những học trò không chịu vu oan cho Nhạc Mông đều bị đàn áp tàn bạo. Từ Tông Hiến và Phó Mân bị bắt vào Đông Xưởng, còn Ông Nhược Di giả chết để thoát thân.

Phó Mân được công chúa cứu ra nhưng ngỡ hai anh em Ông gia đã chết, lòng hoàn toàn nguội lạnh, sinh ra chán ghét thế gian.

Trong khi đó, Ông Nhược Di trốn chạy chật vật về Nam Cương, gặp Nam Cương Vương, và Hàn Trầm ra đời.

Kể từ khi đi theo Nam Cương Vương, nàng bắt đầu tiếp xúc với chính trị.

Mang theo thù hận và dã tâm, nàng bắt đầu viết thư dụ dỗ Phó Mân. Lý lẽ không khác những gì nàng từng thuyết phục anh trai: con đường cứu thế thực sự là thống nhất thiên hạ.

Cứu thế vốn là giấc mộng của anh trai nàng.

Phó Mân lại là người lập trường không vững, chẳng có tình cảm sâu sắc với giang sơn xã tắc. Việc y từ chối vu oan Nhạc Mông không phải vì cốt cách và khí tiết, mà đơn thuần vì lòng biết ơn.

Vừa hay, bốn năm sau thảm kịch thư viện, một nhóm thanh niên đã lập nên Hội Đồng Minh.

Minh chủ mời Phó Mân tham gia, mà vị minh chủ đó lại là một quan lớn của Đô Ti Điền Nam. Nhân cơ hội này, Phó Mân để mắt đến kho lương Điền Trung.



Nói về Từ Tông Hiến, như lời y từng kể với Lạc Thanh Lưu.

Sau biến cố kinh hoàng, chàng sống vật vờ trong cung suốt năm, sáu năm. Mãi khi ôm con trai đi đoạn đường ấy, ngọn lửa đấu tranh trong chàng mới bùng lên lần nữa.

Bảo chàng ‘hắc hóa’ thì không đúng. Bởi bản chất chàng vốn không phải người thuần ‘trắng’, không phải người cao thượng, chính trực, tuân thủ lễ nghĩa. Nếu không, Lý Thanh Vãn sao có thể mang thai trước khi thành thân?

Về việc chàng nhất quyết không bôi nhọ viện trưởng — ấy là đáy lòng chàng còn giữ một đạo làm người.

Con đường tiến thân của Từ Tông Hiến thể hiện rõ triết lý: đánh không lại thì nhập hội.

Với tài năng và học vấn, chàng bước chân vào ‘Quốc Tử Giám’ của Thập Nhị Giám – Nội Thư Đường, dạy học cho hoạn quan, rồi từng bước leo lên làm Chưởng ti.

Dùng tư tưởng làm vũ khí, dần dần kiểm soát toàn bộ Thập Nhị Giám.

Sau đó thăng chức lên Ti Lễ Giám, trở thành Bỉnh bút của ti này, cứu Lạc Thanh Lưu và xây dựng mạng lưới tình báo của riêng mình.

Tiếp đến, trong đêm hoàng đế băng hà, chàng liên thủ với Tề Phong – kẻ chủ động dâng mình, phong tỏa kinh thành, tắm máu hoàng cung. Đích thân đưa Đại đốc công tiền nhiệm – kẻ từng ra lệnh gây nên thảm kịch ở thư viện – về chầu đất lạnh.

Tự tay trả xong món nợ máu.


 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 112: Ngoại truyện 7 – Tạ Lãm và Ấu Nương của hắn



Từ kinh thành trở về Tây Bắc, Tạ Lãm đưa Phùng Gia Ấu đến bên bờ Hắc Thủy tổ chức lại lễ cưới theo phong tục Mười Tám Trại.

Hôn lễ rất đơn giản, hai người cùng quỳ trước dòng sông, lần lượt tuyên thệ lời thề trung thành* với nhau.

*Mình cảm thấy khái niệm “trung thành” của người Mười Tám Trại, đặc biệt là với Tạ Lãm, không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa chung thủy (chỉ yêu một người), mà còn bao hàm nhiều điều sâu sắc hơn — như sự chân thành, hết lòng, dốc cạn tâm can vì người mình yêu.

Chỉ cần nhìn cách Tạ Lãm yêu thương và chăm sóc Ấu Nương của hắn là có thể cảm nhận rõ điều đó. Vì vậy, mình quyết định giữ nguyên chữ “trung thành” theo bản gốc.

Tạ Lãm nói một câu, nàng lặp lại một câu.

Hai người nói xong, Tạ Lãm đỡ nàng đứng dậy:

“Xong rồi, lễ hoàn tất.”

Phùng Gia Ấu ngơ ngác:

“Vậy là xong rồi à?”

Tạ Lãm đang hân hoan, khóe mắt đuôi mày đều mang ý cười, bị nàng hỏi lại với giọng nghi hoặc cũng ngẩn ra, hỏi lại:

“Dọc đường chẳng phải ta đã nói với nàng rồi sao? Hôn lễ ở trại ta, chính là quỳ trước mẫu hà thề nguyền thôi.”

Đúng là hắn có nói thế thật, nhưng Phùng Gia Ấu cứ tưởng ít nhiều gì cũng sẽ có người đến dự.

Dù gì hắn cũng là thiếu trại chủ Mười Tám Trại, khách dự lễ chắc hẳn không ít. Huống chi người phương Bắc phần nhiều giỏi ca múa, nàng còn ngỡ sẽ có tiết mục rộn ràng gì đó để chúc mừng nữa kia.

Ngờ đâu chỉ có hai người, áo quần cũng là trang phục thường dân giản dị trong trại. Tất cả mộc mạc đến mức giống hệt đôi trai gái rủ nhau bỏ trốn.

May mà đây chỉ là lễ cưới bổ sung. Chứ nếu là thuở mới quen, chưa hiểu rõ con người Tạ Lãm, e rằng nàng đã ngỡ hắn cố ý qua loa với mình.

Nàng dè dặt hỏi:

“Có phải… vì Tạ Lâm Khê giả mạo thân phận của chàng, nên chúng ta phải tổ chức lén lút thế này không?”

“Lén lút á?”

Tạ Lãm nghĩ một thoáng mới hiểu ý nàng, bèn khoát tay cười:

“Không phải đâu. Hôn lễ của bọn ta vốn là như vậy. Người trong trại tin rằng thành thân là chuyện của hai người, không cần người ngoài chứng kiến. Nàng đừng nghĩ phong tục này qua loa, trong lòng bọn ta, sông Hắc Thủy thiêng liêng nhất. Nếu không thành tâm, chẳng ai dám thề nguyện trước mẫu hà đâu…”

Nghe xong, Phùng Gia Ấu nhận ra mình thất lễ, vội vã chắp tay hướng về phía sông xin lỗi rối rít.

Tạ Lãm nhìn dáng vẻ vừa cuống quýt vừa thành kính của nàng mà bật cười, ôm nàng vào lòng:

“Không biết không có tội. Yên tâm đi, mẫu hà nhà ta rộng lượng lắm, sẽ không trách nàng đâu.”

Phùng Gia Ấu vẫn chưa yên lòng:

“Phu quân, hay mình làm lại lần nữa nhé. Hồi nãy ta cứ tưởng chàng đang dạy ta…”

Nàng ngỡ họ đang tập dợt trước.

“Không cần.” Tạ Lãm nắm tay nàng xoay người bước đi, “Nàng lặn lội đường xa từ kinh thành tới tận đây, mẫu hà biết nàng thành tâm, vậy là đủ rồi.”

Sau lưng hai người có cây đại thụ bị đổ, thân to chắc nịch, vừa hay có thể ngồi nghỉ chân.

Phùng Gia Ấu quay mặt về phía sông, ngồi xuống trước:

“Nơi này chắc là chỗ chàng thích nhất dọc Hắc Thủy, đúng không?”

Tạ Lãm ngồi xuống cạnh nàng:

“Sao nàng biết?”

Phùng Gia Ấu vỗ nhẹ lên thân cây dưới mông:

“Ta nhớ cái cây này.”

Hồi trước, sau khi biết rõ thân thế và bị Tạ Triều Ninh nhục mạ, hắn tức giận bỏ đi, chính là trốn đến đây.

Giờ đưa nàng đến đây làm lễ cưới, đủ thấy nơi này có ý nghĩa đặc biệt với hắn.

“Chẳng có gì đặc biệt cả, chỉ là nơi này yên tĩnh, ít người lui tới làm phiền.”

Tạ Lãm duỗi thẳng chân, nhìn chăm chăm vào mũi giày của mình, giọng như chìm vào hồi ức.

“Hình như lúc ta mười tuổi thì phải, không nhớ rõ lắm. Khi ấy ta một mình phóng ngựa ra ngoài giết mã tặc, bị thương nặng, trên đường quay về thành Hắc Thủy thì gục ngã tại đây…”

Cách thành chẳng bao xa, vậy mà cha hắn dẫn người tìm ba ngày ba đêm cũng không thấy. Cuối cùng là hắn tự tỉnh dậy, lảo đảo lê bước quay về.

“Sao trước giờ chưa từng nghe chàng kể?”

Trên đường tới Tây Bắc, Phùng Gia Ấu liên tục bắt hắn kể chuyện thời nhỏ, vậy mà đoạn này nàng chưa từng nghe qua.

“Xem mắt nàng kìa, cứ như ta đang bịa chuyện chọc nàng ấy.”

Từ nhỏ tới lớn, số trận Tạ Lãm đánh có lẽ còn nhiều hơn số bữa cơm nàng ăn, làm sao nhớ hết nổi. Nhờ nàng hỏi tới, hắn mới sực nhớ ra.

Cũng lạ, ngoài đôi bàn tay chai dày do luyện võ, trên người hắn chẳng có vết sẹo rõ ràng nào. Nên mỗi khi kể với nàng về chiến tích lẫy lừng của mình, hắn đều thấy… thiếu khí thế.

“Nàng coi nè.” Tạ Lãm kéo vạt áo, nghiêng người để lộ bờ vai cho nàng xem.

Vết thương do một nhát chém của Hàn Trầm ở Nam Cương ngày trước, khi ấy da thịt rách toạc, thế mà chỉ mới hai ba tháng đã mờ nhạt hẳn, chẳng còn vẻ gì ghê rợn nữa. Những vết thương cũ khác trên người cũng vậy, nếu không nhìn kỹ cũng khó thấy được.

Phùng Gia Ấu đâu nghĩ hắn bịa chuyện, nhưng cái tướng than thở như thể uất ức lắm thật trêu người.

Nàng không nhịn được, đưa tay xỉ mạnh lên trán hắn:

“Chàng đúng là có phúc lại chẳng biết hưởng. Ta mà có được thể chất như chàng, nằm mơ cũng phải cười tỉnh đó!”

Ngày thường không cẩn thận trầy xước chút xíu, nàng đã sốt ruột không thôi vì sợ để lại sẹo.

Trước khi quen Tạ Lãm, nàng chẳng tin nổi trên đời lại có người mang gương mặt trắng trẻo tuấn tú thế kia mà suốt ngày chê mình xấu, đòi đi phơi nắng cho đen, cho sạm, còn muốn có sẹo cho ngầu.

Tạ Lãm chả biết giải thích sao cho xuôi, đành ngượng ngùng kéo áo lại chỉnh tề.

Phùng Gia Ấu thường chê thẩm mỹ của hắn có vấn đề, Tạ Lãm lại nghĩ bụng: khẩu vị của nàng cũng có hơn gì đâu.

Trước kia nàng rất không ưa ngày mưa, bảo rằng ẩm ướt phát bực. Vậy mà từ khi đặt chân lên đại mạc lại suốt ngày mong ngóng trời mưa.

Tạ Lãm hỏi lý do, nàng bảo: từ đêm mưa gió hiểm nguy ấy, nàng bắt đầu yêu những cơn mưa. Từ khi hai người quen nhau, nàng đã thấy vô số dáng vẻ của hắn, nhưng dáng vẻ hắn đêm ấy lạ khiến nàng rung động nhất.

Tạ Lãm ngẫm nghĩ mãi mới nhớ ra, đó là đêm ở nghĩa trang, khi bọn họ bị chặn cướp sổ sách bằng chứng.

Hôm ấy, hắn vừa giết người, vừa thuần ngựa trong mưa, ướt như chuột lột, nhếch nhác không để đâu cho hết. Đã thế còn bị tên ‘trộm xác’ Lạc Thanh Lưu lén lấy quyển xuân cung đồ giấu trong hộp binh khí. Hắn xấu hổ đến mức chỉ muốn độn thổ.

Đó là một trong số ít những đêm mà hắn chẳng muốn nhớ lại.

Đang thầm than thở trong bụng, bỗng nghe Phùng Gia Ấu hỏi:

“Phải rồi, theo tục lệ của các chàng, phu thê bái lạy mẫu hà xong, tiếp theo sẽ làm gì?”

Tạ Lãm sực tỉnh, định nói: tất nhiên là cùng nhau về nhà.

Ai ngờ Phùng Gia Ấu đã đứng khỏi thân cây, nghiêng người ngồi lên đùi hắn, tay vòng qua ôm cổ hắn.

Trời chạng vạng, nhiệt độ ngày đêm trên sa mạc chênh lệch lớn, Tạ Lãm tưởng nàng lạnh, bèn siết chặt eo nàng, ôm vào lòng.

Chợt ngẫm lại câu hỏi ban nãy, hắn mới giật mình nhận ra, nàng hỏi ‘bước tiếp theo’, là nói đến chuyện… động phòng? Còn định làm ngay trên sa mạc mênh mông?

Tạ Lãm tức thì đờ cả người. Hắn đã thua nàng cái khoản ‘gan dạ’ này từ lâu, bụng thầm bái phục khả năng ‘không biết ngại’ của nàng:

“Ấu Nương, phong tục chỗ ta… không thoáng như nàng tưởng đâu.”

Phùng Gia Ấu liếc mắt nhìn quanh, rồi nhướng mày nhìn hắn:

“Chàng vừa nói nơi này kín đáo lắm mà, chàng nằm đây ba ngày mà cha chàng còn tìm không ra kia mà?”

“Nhưng ở đây là ngoài trời, lỡ có người đi ngang thì sao…”

Tạ Lãm không biết nàng đùa hay thật, vội vàng ôm nàng đứng dậy, đi về phía con ngựa đang gặm cỏ, đặt nàng ngồi lên yên.

Hắn nhảy lên ngồi phía sau, ôm lấy nàng:

“Trời nổi gió rồi, mình về thôi. Nàng nói mai muốn đi cùng ta đến Suối Trăng mà, lỡ cảm lạnh thì không đi được đâu.”

Hắn định kéo cương, thì bị nàng đè tay lại.

Tạ Lãm nhận ra nàng hơi khác lạ, liền cúi đầu nghiêng người nhìn nàng, hỏi khẽ:

“Sao vậy?”

Phùng Gia Ấu tựa vào ngực hắn, cắn nhẹ môi. Nàng do dự mấy ngày nay rồi, cuối cùng không nhịn được mà khuyên:

“Phu quân à, y thuật của cô cô chàng cao như vậy, thay đổi được dung mạo cho Tạ Lâm Khê luôn. Nếu thân thể chàng có gì không thoải mái thì nhờ cô cô xem giúp đi. Đừng để ý mặt mũi…”

“Khoan đã…” Tạ Lãm nghe mà ngơ ngác, “Hôm qua cô cô vừa bắt mạch cho ta, bảo nội thương đã không còn đáng ngại. Chẳng phải nàng cũng ở đó, còn hỏi không biết bao nhiêu câu sao?”

Phùng Gia Ấu nói lí nhí:

“Nội thương gần khỏi thì ta biết rồi, nhưng… có phải để lại di chứng gì khó nói không?”

Lúc hắn còn dưỡng thương, nàng luôn cố ý tránh né. Giờ thì tuy chưa hoàn toàn bình phục, nhưng chuyện vợ chồng hẳn không thành vấn đề. Vậy mà mấy ngày kề cận gần đây, hắn lại chẳng tỏ ý muốn thân mật với nàng.

Chắc chắn là có vấn đề.

Tạ Lãm cố nghĩ xem “di chứng khó nói” là cái gì, đến khi hiểu ra thì suýt rớt xuống ngựa.

“Nàng cứ nghĩ đâu đâu thế hả? Ta sao có vấn đề được?”

Mặt Tạ Lãm lúc trắng lúc xanh:

“Thân thể ta thế nào ta rành nhất. Tuy không sao nữa rồi, nhưng vẫn chưa hồi phục đến mức đỉnh cấp. Còn cần nghỉ ngơi thêm mười ngày nửa tháng.”

Phùng Gia Ấu không hiểu:

“Chuyện nhỏ như vậy cũng cần chàng đạt đến ‘đỉnh cấp’ á? Ngày thường chẳng phải chàng hay đắc ý với ta, bảo ta yếu ớt, chàng còn chưa dùng đến ba thành công lực sao?”

Tạ Lãm: “…”

Phùng Gia Ấu nghi hoặc ngẩng đầu:

“Chàng nói đi.”

Tạ Lãm xấu hổ vô cùng, đành gượng gạo giải thích:

“Chuyện nhỏ thì không cần thật… Nhưng nếu lúc này có thai, thì thành chuyện lớn rồi.”

Phùng Gia Ấu bất giác cau mày — chẳng lẽ còn nguy cơ nào mà nàng chưa biết?

“Lại nghĩ bậy rồi.” Tạ Lãm đưa tay vuốt phẳng nếp nhăn giữa trán nàng,“Ta không nhớ đã nghe ai nói, rằng con cái sinh ra lúc cha mẹ có thân thể tốt nhất sẽ khỏe mạnh và ưu tú hơn so những lúc khác… Không biết đúng không nhưng cẩn thận vẫn hơn…”

Phùng Gia Ấu chưa từng nghe qua chuyện này, nhưng lo lắng này của Tạ Lãm làm nàng thấy ngọt ngào vô hạn. Giống như nàng từng nói với mẫu thân, Tạ Lãm là người chồng tốt, sau này nhất định cũng sẽ là người cha tốt.

Tạ Lãm đã nói ra, liền muốn giải thích cặn kẽ:

“Nàng không biết đâu, mỗi lần nghĩ đến đứa nhỏ là ta lại đau đầu.”

Tạ Lãm đã bắt đầu lo lắng từ hồi ở sông Tế.

“Nếu con thông minh như nàng thì quá tốt rồi. Nếu có thiên phú võ học như ta, cũng không tệ. Nhưng nếu nó giống mặt kia của cả hai chúng ta… Ta cứ có cảm giác nó sẽ là một đứa vừa yếu ớt vừa không có đầu óc, lại còn chuyên khắc cha nó nữa…”

Ngẫm kỹ lại, người như hắn, hay như Thẩm Thời Hành, có lẽ vẫn còn được coi là khá tốt.

Phùng Gia Ấu: “……”

Tạ Lãm dè dặt thương lượng với nàng:

“Cho nên, chúng ta chú ý chút vẫn tốt hơn. Chờ ta dưỡng thương đến khi hồi phục hoàn toàn, đạt trạng thái đỉnh cấp rồi hãy sinh con. Như vậy sau này, nếu có lúc ta bị nó chọc tức đến hộc máu, ta chỉ cần cảm thán đây là số mệnh thôi. Đỡ phải vừa phun máu vừa tự vả, hối hận năm xưa không biết nhịn mà tự chuốc lấy trách nhiệm…”

Phùng Gia Ấu nghẹn lời:

“Thiệt là khổ cho chàng, nghĩ được đến cả chuyện xa xôi như vậy…”



Tác giả có lời muốn nói:

A Lười à, ngươi nghĩ nhiều quá rồi. Conn trai ngươi sau này văn võ song toàn lắm, chỉ có điều… từ nhỏ đã rất sùng bái Lý Tự Tu thôi.
 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 113: Ngoại truyện 8 – Trở lại kinh thành



Khác với sự ‘lo xa’ của Tạ Lãm, Phùng Gia Ấu dường như chưa từng nghiêm túc cân nhắc xem lúc nào thì thích hợp sinh con.

Thật ra hồi mới thành thân, nàng từng có ý định dùng đứa trẻ để trói buộc Tạ Lãm. Đáng sợ nhất là, khi ấy nàng còn không thấy ý nghĩ ấy có gì sai trái.

May thay, sau này nàng kịp nhận ra sai lầm, cũng bắt đầu thấy rõ những khiếm khuyết trong tính cách của chính mình. Từ khi thành phu thê với Tạ Lãm, nàng thực sự thay đổi rất nhiều, tốt đẹp hơn từng ngày.

Mà giờ khi nghe Tạ Lãm nhắc đến chuyện mong ngóng con cái, nàng cũng nghiêm túc nghĩ qua một lượt.

Con cái sinh ra xinh đẹp giỏi giang, tất nhiên là chuyện vui. Nhưng nếu không được vậy… nàng thấy cũng chẳng sao.

Trong mắt nàng, điều quan trọng là cha mẹ đủ năng lực để cho con một cuộc đời no đủ, để con được sống theo ý mình. Dẫu con có yếu ớt và đầu óc không lanh lợi, cũng chẳng phải chuyện gì to tát.

Nhưng nàng hiểu, Tạ Lãm mang trong mình nỗi cố chấp với hai chữ “cường mạnh” — xuất phát từ hoàn cảnh trưởng thành của hắn mà ra. Mười mấy năm trước, đại mạc Tây Bắc còn bị Bắc Nhung và mã tặc hoành hành, nếu không mạnh mẽ, quả thật không thể sống nổi.

Cho nên tuy xót xa trước sự hà khắc đến mức tàn nhẫn của Tạ Triều Ninh đối với Tạ Lãm, Phùng Gia Ấu vẫn có thể thông cảm cho ông.

Nhớ đến Tạ Triều Ninh, nàng lại hơi nhức đầu.

Hai người họ về thành Hắc Thủy đã mấy ngày rồi, vậy mà cha con hai người, chẳng ai chịu tới tìm ai. Rõ ràng trong lòng ai nấy đều quan tâm đến người kia, nhưng ngoài mặt lại cố chấp, không ai chịu bước trước một bước.

Dẫu vậy, Phùng Gia Ấu không định khuyên can, bởi Tạ Lãm cũng chưa từng khuyên nàng phải làm hòa với Phùng Hiếu An bao giờ.

Tạ Lãm vẫn còn đang bàn với nàng:

“Vậy… nàng thấy thế nào?”

“Chàng hỏi ta làm gì? Ta chỉ lo chàng có di chứng mà lại sĩ diện giấu bệnh không chịu chữa thôi.”

Thấy hắn không sao, Phùng Gia Ấu yên tâm, nói:

“Chỉ cần chàng nhịn được thì tùy chàng.”

“Nàng còn chưa rõ bản lĩnh nhẫn nhịn của thế nào à?” Tạ Lãm bắt đầu tỏ ra tự hào, “Hồi trước nàng trăm phương ngàn kế mê hoặc ta, mà ta vẫn ngồi yên như tượng đấy thôi. Chuyện đao kiếm trong tay ta không có đối thủ chẳng phải nhờ thiên phú thôi đâu.”

Phùng Gia Ấu nhẹ nhàng “à” một tiếng:

“Vậy mười ngày nửa tháng nữa chàng có thể hồi phục đến đỉnh cấp không? Hay là để bảo đảm, chàng dưỡng thêm… một hai năm nữa nhé?”

Tạ Lãm: “…”

Một câu liền đâm nát lòng kiêu hãnh của Tạ Lãm, hắn cuống quýt xin tha:

“Thôi tôi, ta không dám! Nửa tháng là cực hạn của ta rồi, kéo dài thêm nữa thì dù không bệnh cũng bị nhịn đến phát bệnh mất.”

Nàng đâu có biết, gần đây mỗi tối hắn phải gồng mình chịu đựng ra sao, chẳng khác nào bị tra tấn. Thuốc tránh thai hại thân, Tạ Lãm tuyệt đối không muốn nàng phải uống.

Hắn hạ thấp giọng:

“Huống hồ nếu ta thật sự có di chứng gì… người chịu khổ nhất chẳng phải là nàng sao?”

Phùng Gia Ấu ngoắc ngoắc ngón tay, Tạ Lãm liền cúi đầu ghé tai.

Nàng đưa tay che miệng, giọng như gió xuân thì thầm:

“Chàng nói sớm có phải tốt rồi không? Nếu chàng nhịn khổ quá, ta còn có cách khác giúp chàng mà.”

Tạ Lãm chau mày ngẫm nghĩ một thoáng. Dù gì cũng từng bị ép xem không ít xuân cung đồ, hắn hiểu ngay, tai đỏ ửng, khí huyết ùn ùn dồn lên đầu không cách nào khống chế, bật cười đến lắp bắp:

“Chuyện… chuyện này…”

Phùng Gia Ấu lại nghiêm mặt, nói rành rọt:

“Ta có thể đọc cho chàng nghe 《Đại học》, 《Trung Dung》, 《Luận Ngữ》, 《Mạnh Tử》. Đảm bảo nghe xong, lửa lớn cỡ nào cũng tự tắt.”

Nụ cười của Tạ Lãm đông cứng trên mặt: “…”

Hay lắm, hệt như bị dội một gáo nước lạnh từ đầu xuống chân, lạnh buốt đến tận tim gan.

Phùng Gia Ấu véo vành tai đỏ au sắp ‘bay màu’ của hắn, trêu:

“Chậc chậc, ta còn chưa bắt đầu đọc nữa mà, mới nhắc vài tên sách thôi chàng đã tỉnh táo lại rồi.”

Tạ Lãm biết nàng cố ý ghẹo mình, lắc đầu muốn tránh khỏi tay nàng, vừa thẹn vừa tức, nghiến răng ken két.

Đám tiểu thuyết kia thiển cận hết sức.

Trong đó, mấy chuyện nam nữ toàn thấy nam chính chiếm thế thượng phong, nữ chính chỉ cần bị nói vài lời trêu ghẹo đã đỏ mặt ngượng ngùng, mềm nhũn nhào vào lòng người ta.

Nhìn lại Ấu Nương của hắn xem?

Về tới kinh thành, nhất định phải mang mớ truyện ấy đập hết lên mặt Thẩm Thời Hành cho hả giận!

Tạ Lãm âm thầm mắng mình hồ đồ. Ai đời muốn học hỏi chút tình thú vợ chồng, lại nghĩ tới chuyện đọc sách Thẩm Thời Hành viết? Cái tên đó cả một người trong lòng còn chẳng có, toàn viết ra tưởng tượng vớ vẩn mà thôi!

Phùng Gia Ấu cố nén cười:

“Vậy rốt cuộc chàng đang tức giận, hay là… thất vọng đấy?”

“Thôi mà, Ấu Nương, nàng đừng trêu ta nữa.”

Tạ Lãm đã biết, luận da mặt hay cởi mở, hắn không thể đọ nổi với nàng. Dù có may mắn chiếm thế chủ động một lần, thì những ngày kế tiếp, nàng cũng sẽ bất thình lình phản công, khiến hắn trở tay không kịp.

Phùng Gia Ấu thấy trêu đủ rồi bèn cười nói:

“Mình về thôi.”

“Ừ.”

Tạ Lãm siết nhẹ dây cương, chầm chậm đưa nàng quay về hướng thành Hắc Thủy. Chẳng chuyện chi vội vã, hai người để mặc ngựa đi thong thả, như đi dạo dưới ánh trăng.

Đêm xuống, sa mạc hạ nhiệt rất nhanh. Tạ Lãm cởi áo khoác ngoài thô dày, từ phía sau choàng chặt lấy nàng. Phùng Gia Ấu cuộn mình trong áo choàng, nép vào lòng hắn, chỉ lộ mỗi khuôn mặt nho nhỏ.

Bầu trời đêm thăm thẳm trên cao, sao rải như ngọc, bốn bề sa mạc mênh mông cát đá.

Trống trải. Yên tĩnh

Giữa đất trời này, dường như chỉ còn lại hai người bọn họ.

Lòng bất giác dâng lên cảm giác hư ảo không chân thật, Phùng Gia Ấu hơi hoảng, gọi khẽ:

“Phu quân?”

Tạ Lãm đáp ngay:

“Ừ?”

“Không có gì, chỉ là… muốn gọi chàng một tiếng thôi.”

Gió đêm lùa qua, sợ cát bụi thổi rát da, nàng rụt người sâu hơn vào áo chàng, chỉ lộ mỗi đôi mắt lấp lánh.

“Vừa nãy ta chợt thấy… cứ như đang nằm mơ vậy đó.”

“Đang mơ?”

“Ừm, một giấc mơ rất đẹp… Nhưng lại rất sợ chỉ là mơ, sợ rằng sau khi tỉnh dậy, phát hiện mình chỉ trượt chân ngã đập đầu trong hội Hoa Triều, mê man một trận mà thôi… Chẳng có Xích Lưu Kim, Phùng Hiếu An không trở về, còn chàng, chàng chưa từng xuất hiện… Trong thoáng chốc ta không phân nổi đâu là mộng, đâu là thật, cảm thấy hoang mang…”

“Cảnh lạ đất lạ, trái hẳn với nơi quen thuộc nên thường sinh ra cảm giác vậy thôi. Lần đầu ta rời Tây Bắc, đến đất Thục, cũng từng có cảm giác như đang trong mơ vậy.”

Tạ Lãm cúi đầu, đặt một nụ hôn nhẹ lên tóc mai nàng, khẽ khàng trấn an:

“Yên tâm, ta ở đây.”

Mỗi khi hắn nói nhiều thì thường hóa linh tinh, nhưng khi lời lẽ ngắn gọn thì lại có sức mạnh không thể nghi ngờ. Một câu này khiến cõi lòng đang hoang mang của Phùng Gia Ấu lập tức an định lại.



Khi hai người thong dong cưỡi ngựa về đến thành Hắc Thủy, từ xa Tạ Lãm đã thấy một bóng người đứng trên thành lâu — Tạ Triều Ninh.

Đợi họ đến gần, bóng người ấy biến mất.

Tạ Lãm biết cha hắn vẫn đang đứng đó, đợi hắn bước lên. Ông đã chủ động bước một bước, dĩ nhiên hắn cũng không thể không thuận thế bước xuống.

Tạ Lãm đưa Phùng Gia Ấu về nơi ở trước, thu xếp cho nàng ổn thõa, đợi nàng thiếp đi mới quay trở ra, đi thẳng lên thành lâu.

Hắn đi về phía bóng lưng của Tạ Triều Ninh, không nhắc lại chuyện mâu thuẫn trước đây, chỉ gọi một tiếng:

“Cha.”

Tạ Triều Ninh quay đầu, ánh mắt ra chìu kinh ngạc, môi nhếch cười lạnh:

“Sao hả? Không định tính sổ chuyện trước kia ta nuôi mày như chó à?”

Tạ Lãm khoanh tay đứng cách ông vài bước, mày kiếm xếch lên, thần sắc ngang tàng chẳng nể ai:

“Mười bảy mười tám năm trước, nhà mình nghèo rớt thế kia, có muốn nuôi con như người cũng chưa chắc được ăn no hơn chó.”

Tạ Triều Ninh: “……”

Tạ Lãm nghiêm túc:

“Thôi được rồi, mấy chuyện cũ nát đó cha con mình khỏi nhắc nữa. Lần này con về, là có chuyện nghiêm túc muốn bàn.”

Tạ Triều Ninh cười khẩy:

“Cái đồ súc sinh mày cũng biết có chuyện nghiêm túc cơ à?”

Tạ Lãm sa sầm mặt:

“Cha làm ơn đừng ngắt lời được không?”

Tạ Triều Ninh khoát tay:

“Được rồi, mày nói đi.”

Tạ Lãm hơi ngập ngừng, rồi mở lời:

“Con muốn thương lượng với cha chuyện Mười Tám Trại ta nhận chiêu an của Đại Ngụy.”

Tạ Triều Ninh nhìn hắn từ đầu đến chân, cười nhạt:

“Hồi trước, hễ nhị thúc mày nhắc tới chiêu an là mày bùng nổ như pháo, làm như thể ‘Đại Ngụy dám phái người tới chiêu an, ta lập tức dẫn thiết kỵ san bằng bọn họ’. Đến mức bọn ta ai nấy đều bị dọa không dám hé môi. Mà giờ… mới qua một năm ngắn ngủi…”

Tạ Lãm nhướng mày kinh ngạc:

“Có đến mức đó sao?”

Tạ Triều Ninh cười khẩy:

“Tính khí của mày ra sao, chẳng lẽ bản thân còn không rõ?”

Tạ Lãm thật sự không rõ lắm, chỉ thấy mình hồi đó tuổi trẻ bốc đồng, phản đối hơi to tiếng chút chút mà thôi.

Thảo nào trước kia nhị thúc cứ thấp thỏm sợ hắn tạo phản. Thì ra không phải do hắn sùng bái Hạng Vũ – Tây Sở Bá Vương.

Tạ Lãm gãi đầu cười cười:

“Lúc khuyên Nam Cương Vương quy thuận Đại Ngụy, con đã nghĩ thông rồi. Chấp nhận hay không chấp nhận chiêu an, suy cho cùng chỉ là chuyện trên danh nghĩa. Đại Ngụy muốn lấy tiếng cường thịnh thống nhất thôi, chứ căn bản không dám đưa quân trấn đóng. Tây Bắc vẫn là địa bàn của cha con mình, do con và cha định đoạt.”

Dừng một chốc rồi nói tiếp:

“Nghĩa huynh, à, đại ca con và Trình Lệnh Thư đến giờ vẫn chưa thành thân. Con nghĩ chắc là sợ lúc nào đó con không chịu nổi kinh thành sẽ về Tây Bắc giành lại thân phận thiếu trại chủ. Nếu thân phận của huynh ấy bị lộ sẽ liên lụy đến Trình Lệnh Thư. Con muốn để huynh ấy biết, thân phận thiếu trại chủ này, con nhường lại cho huynh ấy. Con đã quyết định, sẽ tiếp tục làm quan trong triều với thân phận của huynh ấy.”

Sau khi Mười Tám Trại nhận chiêu an, từ thiếu trại chủ hắn sẽ trở thành thế tử của Vương hầu. Triều đình nhiều lắm cũng chỉ ban cho một chức quan nhàn tản không thực quyền. Tuyệt đối không để hắn ngồi vào ghế Chỉ huy sứ Huyền Ảnh Ti.

Phải biết rằng, Huyền Ảnh Ti là cấm quân thân tín của thiên tử, chỉ nghe lệnh hoàng đế, giám sát bách quan, còn có quyền ‘giết trước tâu sau’. Hiện tại thiên tử còn nhỏ, nên quyền lực trong tay Chỉ huy sứ gần như có thể một tay che trời.

Chỉ có tiếp tục dùng thân phận của Tạ Lâm Khê, hắn mới có thể trở thành quyền thần trong triều Đại Ngụy, thúc đẩy thi hành luật mới và làm nhiều hơn nữa để ổn định thời cục.

Tạ Triều Ninh khẽ gật đầu:

“Mày nghĩ kỹ thì tốt. Mày biết rồi, trước nay ta không gay gắt phản đối chuyện chiêu an như mày.”

Thực lòng mà nói ông vẫn mang tình cảm sâu đậm với Đại Ngụy bởi tổ tiên Tạ gia bao đời làm tướng. Thanh miêu đao trong tay ông chính là vật truyền thừa – để giữ nước giữ thành – của gia tộc.

Phụ thân Tạ Triều Ninh mất sớm nơi chiến trường, ông lớn lên nhờ cơm canh của trăm nhà trong quân doanh, mười hai tuổi đã khoác giáp theo quân chinh chiến. Năm xưa bị đày đến đây, đoạt lại thành Hắc Thủy từ tay Bắc Nhung, tập hợp Mười Tám Trại kháng địch. Tất cả cũng bởi ông tự biết mình là quân nhân, phải giữ lấy phòng tuyến này cho trăm vạn bá tánh phía sau.

Về sau quyết không quy thuận là vì ông phát hiện ra quan hệ giữa Tề Phong và Tạ Lãm. Ông nghi ngờ cha mẹ của Tạ Lãm đã chết trong tay Tề Phong.

Khi ấy Tề Phong đã là Đại đô đốc, vì bảo vệ Tạ Lãm mà phải đối đầu với cả triều đình.

Tạ Triều Ninh nói:

“Để ta chờ thêm…”

“Không nhận chiêu an ngay bây giờ.” Tạ Lãm ngắt lời ông.

Hắn đã tính toán hết rồi:

“Phải đợi thêm chút nữa, chờ đến khi Thẩm Khâu rời khỏi Huyền Ảnh Ti và tiến cử con kế nhiệm chức Chỉ huy sứ. Khi ấy, cha ra tay khuấy chút phong ba ở Tây Bắc, khiến triều đình tưởng nơi này bất ổn. Con sẽ chủ động xin chỉ ra tay chiêu an, còn cha thì thuận thế chấp nhận. Như vậy việc Mười Tám Trại quy thuận sẽ do một mình con xúc tiến, toàn bộ là công lao của con, đủ để bảo đảm con thuận lợi thăng chức, đứng vững trong triều.”

Phùng Hiếu An từng kể về những thay đổi của Tạ Lãm với Tạ Triều Ninh trong thư.

Dù đã biết trước, nhưng tận mắt thấy vẫn khiến ông không khỏi ngỡ ngàng:

“Chuyện này… vợ mày dạy cho à?”

Tạ Lãm hừ nhẹ khinh thường:

“Cha coi thường con quá rồi đó. Dù gì cũng lăn lộn trong quan trường tầng cao của Đại Ngụy một thời gian, tai nghe mắt thấy không ít. Mấy chuyện này chỉ là kiến thức cơ bản thôi, cần gì ai dạy?”

Tạ Lãm chưa từng bàn với Phùng Gia Ấu về mấy toan tính này. Dù hắn biết nếu để nàng ra tay, công lao từ việc chiêu an Mười Tám Trại chắc chắn sẽ được nàng xoay chuyển lớn hơn nữa.

Nhưng Tạ Lãm hiểu, Phùng Gia Ấu tuyệt đối không muốn xen vào việc này. Từ khi họ quen nhau đến nay, bất kể rơi vào hoàn cảnh nào, nàng cũng chưa từng nhắc một chữ về ‘chiêu an’ với hắn.

Trong lòng nàng, việc trở thành công cụ để triều đình ‘chiêu an’ hắn, là điều nàng không sao chấp nhận được.

Vậy thì cứ để hắn tự quyết.

Tạ Triều Ninh nghe xong, chân mày nhíu chặt.

Tạ Lãm nhìn ông với ánh mắt cảm thông:

“Bảo sao cha mang một thân bản lĩnh, lăn lộn mấy năm trời trong quân doanh Đại Ngụy mà chẳng thành được cái danh cái phận gì. Làm quan trong triều Đại Ngụy đâu phải như trên sa mạc chúng ta – nắm đấm cứng hơn thì thắng, mạnh tay hơn thì nắm quyền. Làm quan ấy à, phải biết quyền biến, mà quyền biến là gì cha hiểu không?”

Tạ Triều Ninh bị câu ấy chọc tức đến bật cười:

“Ta không hiểu? Chính vì hiểu, nên mới không muốn uốn cong cốt khí của mình.”

Tạ Lãm trầm giọng:

“Nếu chỉ liên quan đến thân mình thì cốt khí đương nhiên đáng giá hơn cả mạng. Nhưng cha thử nghĩ xem…”

Hắn nhắc đến vụ án kho lương Điền Trung:

“Nếu năm xưa cha đừng quá thanh cao, chịu nhẫn một chút leo lên vị trí cao ở Đô Ti Điền Nam. Thì lúc Bùi Trách Chính cấu kết với đám thương buôn muối, thò tay vào kho lương, với sự cẩn trọng của cha, lẽ không phát hiện ra? Có khi đã ngăn được họa lớn rồi!”

Tạ Triều Ninh nghe vậy thì sững người.

Tạ Lãm nói tiếp:

“Con đi được đến hôm nay mới nhận ra lời nhị thúc nói rất có lý.”

Hắn đưa tay sờ bên hông, mới phát hiện hôm nay mình không mang theo đao, lại nói:

“Quyền biến và đao kiếm đều là công cụ hữu dụng. Bản thân nó chẳng mang chính tà, chỉ tùy vào người sử dụng mà thành.”

Sắc mặt Tạ Triều Ninh dần trở nên nghiêm túc:

“Tiểu Sơn, ta luôn mong con thận trọng hơn, bớt xốc nổi lại. Nhưng ta cũng không muốn con sống quá uất ức, tự trói mình vào một cái ách nặng nề như vậy…”

Tạ Lãm cắt lời ông:

“Nặng thì có, nhưng không thấy uất ức.”

Nói rồi, hắn sải bước tới bên tường thành, đưa mắt nhìn ra biển cát mênh mông.

Hắn đang mặc trang phục của dân trong trại, mái tóc dài đen nhánh ngày thường luôn buộc cao, giờ buông xõa ra, được chiếc vòng tóc bằng xương giữ hờ hững. Gió đêm thổi qua, tóc bay phơ phất.

“Cha, cha thật lòng muốn làm đại trại chủ này sao? Ban đầu là vì bảo vệ dân thành, dân trại, bảo vệ cả con. Về sau lại vì sự bình yên của cả Tây Bắc…”

Hắn xoay người lại, nhìn thẳng vào mắt Tạ Triều Ninh:

“Từ năm mười ba tuổi, cha và nhị thúc đã luôn dạy con – “trên người có người, ngoài núi có núi”. Khuyên con rảnh rỗi nên ra ngoài nhiều để mở mang tầm mắt. Những năm qua, con đã thấy đủ loại âm mưu quỷ kế, cũng đã đặt chân lên biết bao non xanh nước biếc. Còn cha, mười mấy năm qua ở lại nơi bụi cát sa mạc không đổi, làm người giữ thành cô độc. Cha có từng thấy mình uất ức không?”

Tạ Triều Ninh sững sờ nhìn con trai, nhất thời không thốt nên lời.

Tạ Lãm bật cười, nhẹ nhàng nói:

“Chờ nhận chiêu an rồi, có con đứng trong triều làm chỗ dựa, cha sẽ được tự do hơn nhiều.”

Tới lúc này, Tạ Triều Ninh mới thực sự cảm nhận được — tiểu tử ngốc nhà mình giờ đã thật sự trưởng thành.

Trong lòng trăm vị ngổn ngang. Không hiểu sao, ông lại thấy hơi nhớ thằng nhóc bướng bỉnh ngày nào, cái thằng hay chọc ông tức đến đau đầu nhức óc.

Nhớ lại dáng vẻ con sói con nhe nanh trợn mắt ngày xưa… hình như cũng đáng yêu đáo để. Vậy mà sao khi ấy ông lại nổi nóng đến thế chứ?

Hai cha con lâu ngày không gặp, trò chuyện suốt đến tận nửa đêm.



Khi Tạ Lãm trở về phòng, thì thấy Phùng Gia Ấu vẫn còn thức.

Hắn vừa cởi áo vừa hỏi:

“Nàng ngủ rồi tỉnh dậy, hay là vẫn vẫn thức đợi ta?”

Phùng Gia Ấu đáp tỉnh rụi:

“Ta sợ vừa chợp mắt, liền hai cha con chàng đánh nhau ồn ào làm thức…”

Tạ Lãm dở khóc dở cười:

“Cha con ta đánh nhau ở cổng thành thì tiếng cũng đâu vang đến tận đây.”

Phùng Gia Ấu chống tay ngồi dậy, nửa thân người ló ra khỏi chăn:

“Hai người thật sự đánh nhau hả?”

“Không có.”

Tạ Lãm tháo chiếc vòng cài tóc, tiện tay vứt lên bàn, sải bước đến bên giường, cúi người ấn nàng nằm lại vào chăn:

“Bao nhiêu năm rồi ta không đánh nhau với ông ấy. Có đánh thì cũng là ông ấy cầm roi quất ta, ta chạy vòng vòng né, đợi ông ấy tức giận hết mức, ta mới ló đầu ra chịu vài roi, coi như xong chuyện.”

Phùng Gia Ấu lúc này mới thở phào, ngoan ngoãn nằm lại trong chăn.

Tạ Lãm ngồi xuống mép giường, cởi giày nhưng vẫn chưa vội nằm xuống. Hắn đứng trên thành lâu suốt cả đêm, cả người từ đầu đến chân thấm đẫm hơi lạnh đặc trưng của đêm sa mạc.

Chờ khí lạnh ấy dần tan trong hơi ấm của căn phòng, hắn mới nhẹ tay vén góc chăn, nằm xuống bên cạnh nàng.

Phùng Gia Ấu nghiêng người ôm lấy hắn. Lúc này thân thể Tạ Lãm đã ấm áp hẳn lên, trong đêm lạnh, chiếc ôm thế này vvừa sưởi ấm thân thể, lại sưởi cả lòng người.

Nàng cũng không hỏi hắn đã trò chuyện những gì với Tạ Triều Ninh. Thức suốt nửa đêm, cơn buồn ngủ dâng lên nhanh chóng, nàng rúc vào vòng tay hắn, chẳng bao lâu sau đã thiếp đi.



Sáng hôm sau, Tạ Lãm dẫn Phùng Gia Ấu đến Suối Trăng, uống không ít nước suối mát lành.

Sau đó, hai người ở lại thành Hắc Thủy thêm mười ngày, rồi lên đường trở về kinh.

Lần này họ cố ý ghé ngang Uy Viễn đạo, đến thăm Tạ Lâm Khê và Trình Lệnh Thư.

Đúng như Tạ Lãm từng nói với Tạ Triều Ninh, hắn đến gặp Tạ Lâm Khê để bàn bạc chuyện hoán đổi thân phận của hai người.

Khi Tạ Lãm và Tạ Lâm Khê đang trò chuyện trong hoa viên, Trình Lệnh Thư cùng Phùng Gia Ấu ngồi uống trà trong đại sảnh.

Trình Lệnh Thư không kiềm được, hỏi tới ba lần:

“Phu quân của ngươi thực sự quyết định tiếp tục làm quan ở kinh thành với thân phận của đại ca mình sao?”

Phùng Gia Ấu thong thả nâng chén trà, chậm rãi đáp:

“Sao ngươi quan tâm đến phu quân của ta nhiều vậy?”

Trình Lệnh Thư nghẹn lời, tức tối nói:

“Phùng Gia Ấu, ta chịu làm hòa với ngươi vì nể người là em dâu của ân nhân ta, ngươi đừng có được nước làm tới.”

Phùng Gia Ấu không trêu nữa, bật cười thành tiếng:

“Đúng vậy đó. Ngươi chuẩn bị làm tân nương đi là vừa. Chỉ có điều, hai người bọn ta không đến hôn lễ được, thân thể ta không tiện lặn lội về Tây Bắc lần nữa. Khi ấy sẽ nhờ người mang lễ đến mừng.”

Bấy giờ Trình Lệnh Thư mới nhẹ lòng, nâng chén trà nhấp một ngụm:

“Lâm Khê sẽ vui lắm. Lần ở ngoài thành Hắc Thủy, phu quân ngươi không chịu nhận chàng làm đại ca, còn xem chàng như kẻ thù, chàng đã buồn bã suốt một thời gian dài…”

“Đáng đời!” Phùng Gia Ấu hờ hững nói, “Tại anh ta lừa phu quân ta trước.”

Trình Lệnh Thư cũng không cãi, chỉ chuyển chủ đề:

“Giờ chúng ta đã là chị em dâu, ta cố gắng hòa giải với ngươi, nhưng với Tùy Anh thì tuyệt đối không.”

Phùng Gia Ấu đưa mắt nhìn nàng:

“Nói cứ như Tùy Anh muốn hòa giải với ngươi lắm vậy.”

Trình Lệnh Thư vội phân trần:

“Ta cần nói rõ một câu, ta ghét cô ta không phải vì chuyện cô ta đánh anh trai ta đâu. Anh trai ta tranh kép hát với cô ta, bị đánh què cũng là đáng đời.”

Phùng Gia Ấu cười:

“Ta biết mà, từ nhỏ ngươi đã chẳng ưa gì Tùy Anh, cảm thấy nàng ấy kiêu căng hống hách, làm đủ chuyện xằng bậy. Rồi còn ghét lây sang cả ta, cho rằng ta cùng một giuộc với Tùy Anh, hùa theo làm càn.”

“Nói ‘làm đủ chuyện xằng bậy’ thì hơi quá.” Trình Lệnh Thư nhớ lại những ân oán thưở nhỏ giữa mình và Tùy Anh, nhất thời cũng khó nói nên lời…

So với những ân oán tình thù đang trải qua lúc này, chuyện năm xưa giữa các nàng bỗng hóa trò trẻ con vặt vãnh, ngây ngô…



Chẳng mấy chốc, Tạ Lãm đã đến trước đại sảnh, gọi Phùng Gia Ấu, hai người lại tiếp tục lên đường trở về.

Khi xe ngựa bắt đầu lăn bánh, Phùng Gia Ấu thoáng lo:

“Chỉ một tuần trà ngắn ngủi, chàng thật sự có thể nói hết mọi chuyện với Tạ Lâm Khê sao?”

Chuyện hoán đổi thân phận, lại thêm huyết hải thâm cừu của cha mẹ… chẳng thể chỉ mấy câu mà rõ ràng hết được.

Tạ Lãm khoanh tay, nhếch môi cười lạnh:

“Không phải chỉ mấy câu thôi sao? Ngoài mấy lời ấy ra, ta còn gì cần nói với hắn?”

Tạ Lâm Khê từng bước giăng bẫy, lừa hắn từ Tây Bắc vào kinh thành, lại còn bắt tay với nhị thúc đào hố cho hắn nhảy. Hắn không so đo với nhị thúc là bởi ông ấy từng dạy dỗ, chăm sóc hắn.

“Còn Tạ Lâm Khê là cái thá gì mà dám coi ta như con rối trong tay, đùa bỡn như kẻ ngốc?”

Thật ra, Tạ Lãm cũng dần hiểu tấm lòng Tạ Lâm Khê với mình. Y sợ hắn tạo phản, sợ hắn làm mất mặt cha mẹ, sợ hắn đem chiến loạn gieo lên đầu bách tính. Y chỉ muốn mở cho hắn thêm một con đường, thêm một lựa chọn trong đời.

Dẫu sao, làm tặc vương ở Tây Bắc vốn chẳng phải con đường hắn tự chọn.

Mà suy cho cùng, chính toan tính ấy lại là khởi điểm cho những điều tốt đẹp. Hắn gặp được người mình yêu thương, tìm thấy phương hướng mới trong đời.

Song cho dù hiểu được điều đó, Tạ Lãm vẫn không bớt bực mỗi lần đối mặt với Tạ Lâm Khê, chẳng thể cười nổi một cái.

Bây giờ không, sau này cũng chẳng khác.

Rời phủ tướng quân một đoạn xa, Tạ Lãm mới dịu giọng lại như thường:

“Ấu nương, nàng yên tâm. Nên nói gì ta đều đã nói hết. Chỉ chuyện mẹ ta từng bị Tề Phong… ta không nói với hắn.”

Phùng Gia Ấu khẽ gật đầu:

“Chuyện đó quả thực chẳng cần thiết phải nói.”



Lúc này, Tạ Lâm Khê và Trình Lệnh Thư vẫn đứng trước cổng phủ tướng quân, dõi mắt nhìn theo chiếc xe ngựa dần khuất xa.

Trình Lệnh Thư ngẩng đầu nhìn y:

“Xem sắc mặt đệ đệ chàng, chắc vừa rồi nổi giận với chàng không ít.”

Tạ Lâm Khê lắc đầu cười:

“Mặt mũi thì đúng là không dễ coi thật, nhưng nói chuyện đâu ra đấy, không thừa một lời vô nghĩa.”

Trình Lệnh Thư không hoàn toàn tin. Trong ấn tượng của nàng, Tạ Lãm vẫn là người hung hãn từng muốn giết nàng tế cờ tạo phản ở ngoài thành Hắc Thủy.

Tạ Lâm Khê nở nụ cười nhẹ, cảm khái:

“Đệ đệ ta thực sự là người rất xuất sắc. Dù ở chốn triều đình hay nơi giang hồ hiểm ác, nó đều có thể đứng vững. Nếu song thân nơi cửu tuyền biết được, hẳn cũng mỉm cười yên lòng.”

Trình Lệnh Thư lại thở dài:

“Chỉ e những gian truân trong đó, chỉ một mình hắn hiểu rõ nhất.”

Tạ Lâm Khê thu lại nụ cười, có phần tự trách:

“Là huynh trưởng, bao gánh nặng vốn dĩ nên do ta gánh vác, rốt cuộc lại đẩy cả lên vai nó… Nhưng ta thật sự không bằng nó, cách biệt quá xa…”

Trình Lệnh Thư ngắt lời:

“Không phải lỗi của chàng. Là tại hắn quá mạnh — mạnh đến mức không còn giống người thường, căn bản chẳng thể đem ra mà so sánh.”

Tạ Lâm Khê ngẩn ra, sau đó bật cười:

“Nàng nói… cũng có lý.”



Xe ngựa rời khỏi cửa ải của Uy Viễn đạo, chạy vào đường lớn dẫn về kinh thành.

Phùng Gia Ấu vén rèm nhìn ra ngoài, thầm thở dài:

“Phu quân, rời khỏi Uy Viễn Đạo rồi, chàng càng lúc càng rời xa quê nhà đó…”

Đêm qua thiếu ngủ, Tạ Lãm đang lim dim nghỉ ngơi:

“Ngày xưa ta bỏ nhà đi cả chục lần một năm ấy chứ.”

Phùng Gia Ấu nhẹ nhàng nhắc:

“Đâu có giống. Khi đó chỉ là rời đi tạm thời, còn hôm nay chàng đi là để sống hẳn ở kinh thành. Sau này muốn quay lại cũng chẳng dễ dàng…”

Tạ Lãm uể oải đáp:

“Cưỡi con thiên lý mã nhà ta, vài ngày là tới nơi, có phải ra ngoài cõi trời đâu. Ta muốn về thì về, ai cản được?”

Phùng Gia Ấu nhẫn nại:

“Nhưng ý nghĩa lại khác rồi.”

Tạ Lãm hiểu điều nàng ngụ ý:

“Mấy người đọc sách nhiều như nàng cứ hay thích nghĩ mấy chuyện ‘ý nghĩa’. Không có thì cũng cố moi ra cho bằng được, rồi thì sầu xuân buồn thu, ngâm thơ đối câu… Ta thấy toàn là tự chuốc khổ vào thân.”

Phùng Gia Ấu: “…”

Tạ Lãm cười cười nói tiếp:

“Ta thật sự chẳng thấy gì đặc biệt cả. Giờ thì chỉ thấy… buồn ngủ thôi.”

Tạ Lãm nhoài người kéo rèm xuống, khép chặt cửa sổ, rồi quay lại ngó nàng chăm chú:

“Nàng không buồn ngủ à? Lấy đâu ra sức mà nghĩ vẩn vơ vậy?”

Câu hỏi ấy kéo hồn Phùng Gia Ấu quay về hiện thực, bất giác nhớ lại chuyện tối qua.

Bị ánh mắt ấy nhìn chằm chằm không rời, má nàng nóng bừng.

Rõ ràng biết hôm nay sẽ lên đường, vậy mà đêm qua hắn đột nhiên nói thân thể đã khôi phục đến đỉnh cấp, không ngại chuyện nàng có thể hoài thai nữa.

Nín nhịn bao lâu, một khi buông thả liền như mãnh thú xổng lồng, giày vò nàng gần suốt cả đêm.

“Ngủ một lát đi.”

Tạ Lãm vươn tay kéo nàng lại gần, để nàng tựa vào ngực mình, còn hắn thì nghiêng đầu gối lên vai nàng.

Từ trước tới nay, hắn luôn là người ngẩng cao đầu cho người khác dựa vào. Nếu có ai từng bảo hắn sẽ có ngày “dính người” như chim non thế này, có lẽ đã bị hắn rút đao ra chém thẳng tay.

Nhưng từ khi bị thương, hắn đã quen gối đầu lên vai Phùng Gia Ấu. Đôi vai gầy gầy của nàng vậy mà lại mang đến cho hắn cảm giác bình yên lớn vô cùng.

Trước khi gặp Phùng Gia Ấu, thứ duy nhất khiến hắn cảm thấy an tâm chỉ có thanh đao trong tay.



Hai vợ chồng từ Tây Bắc về tới kinh thành thì đã là cuối xuân đầu hạ.

Tạ Lãm chính thức tiếp nhận chức Trấn phủ của Bắc Trấn Phủ Ti thuộc Huyền Ảnh Ti, còn Phùng Gia Ấu thì bắt đầu dốc sức chỉnh sửa bộ luật mới.

Giữa hè, Hàn Trầm từ Nam Cương ngược lên Bắc, đích thân vào triều tiếp nhận sắc phong từ tiểu hoàng đế Đại Ngụy.

Sau trăm năm ly tán, Nam Cương cuối cùng cũng được nhập lại vào bản đồ Đại Ngụy.

Vốn dĩ Hàn Trầm còn muốn dâng sớ tố cáo Phó Mân, nhưng sau khi gặp Từ Tông Hiến không bao lâu Phó Mân đã uống thuốc độc tự tận.

Lo liệu xong chính sự, Hàn Trầm ở lại kinh thành mấy ngày, cùng Tạ Lãm uống rượu không dứt.

Hai thiếu niên từng tung hoành giang hồ năm nào, trải qua bao biến cố thăng trầm, cuối cùng vẫn có thể nâng chén, cười nói thảnh thơi.

Chờ Hàn Trầm quay về Nam Cương, dưới sự sắp xếp của Phùng Hiếu An, Liễu Doanh Doanh được một vị quận vương ở đất Thục nhận làm nghĩa nữ, sau đó ban hôn cho Hàn Trầm, trở thành vương phi của Nam Cương.

Mối họa lớn từng khiến triều đình đau đầu suốt bao năm — Nam Cương — tạm thời xem như khép lại.

Tháng Mười Một, Thẩm Khâu chuẩn bị chuyển sang quân phủ nhậm chức Đại đô đốc. Theo lệ của Huyền Ảnh Ti, ông tiến cử Tạ Lãm kế nhiệm chức Chỉ huy sứ.

Tính cả thời gian làm Ti trực ở Đại Lý Tự, Tạ Lãm mới chỉ vào kinh được vỏn vẹn hai năm.

Trong triều, người phản đối hắn không ít, đặc biệt là phe văn thần mới nổi liên tục cản trở, với lý do hắn thăng tiến quá nhanh, chưa đủ năng lực.

Cho đến khi Tạ Lãm ra mặt thành công chiêu an thổ phỉ Mười Tám Trại, uy danh chấn động triều dã, khiến mọi lời dị nghị lập tức im bặt.

Dù Tạ Triều Ninh không đệ trình thư hàng, thậm chí còn chẳng buồn vào kinh nhận phong, triều đình cũng chẳng bận tâm, càng không dám truy cứu. Bởi lúc này điều họ cần chỉ là một cái ‘danh nghĩa’ để duy trì sự ổn định trên bề mặt.

Sang năm sau, Đại Ngụy đổi niên hiệu thành Vĩnh An.

Tháng Giêng năm Vĩnh An nguyên niên, Tạ Lãm chính thức lên nhậm chức Chỉ huy sứ Huyền Ảnh Ti, dần nắm quyền chỉ huy hơn mười vạn Huyền Ảnh vệ trong khắp Đại Ngụy. Cộng thêm đội thiết kỵ Tây Bắc từng theo hắn chinh chiến, Tạ Lãm bây giờ trở thành người có thực quyền lớn nhất triều — chỉ một cái lật tay là có thể khiến thiên hạ đổi màu.

Thế nhưng, nhị thúc hắn lại cực kỳ yên tâm, còn cười bảo hắn cứ tiếp tục cố gắng.

Đầu tháng Sáu, Phùng Gia Ấu sinh hạ một bé trai.

Tên của nàng và Tạ Lãm đều do Phùng Hiếu An đặt. Tuy đến giờ nàng vẫn không chịu gọi ông một tiếng “cha”, nhưng khi Tạ Lãm đề nghị để ông đặt tên, Phùng Gia Ấu cũng không phản đối.

Lúc ấy, ngay bên cạnh Phùng Hiếu An là bản luật mới đã chỉnh sửa hoàn tất, chuẩn bị trình lên Nội Các dưới tên Phùng Gia Ấu.

Ông đặt tay lên bản luật ấy trầm ngâm hồi lâu, rồi chọn ra hai chữ: Chân Ngô.

Thoát khỏi bề ngoài mà nhìn vào bản chất — Tạ Chân Ngô.

Thật ra Tạ Lãm không mấy thích cái tên này.

Hắn nhờ nhị thúc đặt tên, là vì biết ông rất tài hoa. Như cái tên “Lãm” ông đặt cho hắn — lấy từ câu “Hội đương lăng tuyệt đỉnh, nhất lãm chúng sơn tiểu” (Lên đến đỉnh cao, nhìn xuống thấy núi non đều nhỏ bé) và hắn quả thật đã vươn tới đỉnh trong võ học.

Hắn chỉ mong nhị thúc có thể đặt cho con trai mình một cái tên thông minh, mang hàm ý sâu sắc.

Thế nhưng hai chữ “Chân Ngô” này, tuy xua tan được nỗi lo của Tạ Lãm rằng con trai mình sẽ là một cái bị thịt, song lại khiến hắn nảy sinh lo lắng khác…

Trong đầu hắn cứ hiện lên hình ảnh một tiểu đạo sĩ ông cụ non, ngày ngày giảng đạo nghĩa không dứt.

Tuy nhiên Phùng Gia Ấu lại tỏ ra rất thích — nên hắn cũng đành xuôi theo.


 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 114: Ngoại truyện 9 – Chuyện nuôi con của A Lười và Gia Dầu – HOÀN



Sau đó, Tạ Lãm bắt đầu theo tập tục kinh thành, tất bật lo tiệc đầy tháng cho cậu nhóc Tạ Chân Ngô nhà mình.

Phùng Gia Ấu thì chuyên tâm dưỡng sức, không hỏi han can thiệp gì, để mặc hắn lo liệu, coi như một phen tập tành.

Về phần mẹ nàng, Giang Hội Từ, sau khi rời khỏi Phùng gia quay về Giang gia ở Dương Châu, vẫn luôn bận rộn trông nom việc buôn bán của gia đình.

Cho đến khi mang thai Chân Ngô, Phùng Gia Ấu vẫn chưa có dịp về Dương Châu thăm bà. Hai mẹ con chỉ trao đổi thư từ. sinh nhật thì gửi quà cho nhau.

Khoảng thời gian thai nghén là lúc Phùng Gia Ấu nhớ mẹ da diết. Đôi khi rảnh rang, nàng hay thầm đoán: đến tiệc đầy tháng của con, cữu cữu chắc chắn sẽ đưa biểu ca đến, chẳng biết nương có đi cùng không?

Theo lẽ thường thì bà nên đến. Nhưng lần đó bà rời khỏi kinh thành vô cùng dứt khoát, như thể cả đời này chẳng muốn gặp lại Phùng Hiếu An nữa. Sợ là bà cũng vì thế mà chẳng muốn quay lại nơi này.

Huống chi xưa nay mẹ nàng luôn thấy con gái mình đã trưởng thành độc lập và mạnh mẽ, chẳng cần ai phải quan tâm lo lắng.

Phùng Gia Ấu hiểu cho bà, nhưng lòng lại không khỏi hụt hẫng.

Có một đêm, suy nghĩ rơi vào lẩn quẩn, nàng nằm tủi thân rấm rứt khóc. Tạ Lãm bị nàng làm cho hết hồn, dỗ dành suốt đến sáng, thậm chí còn bỏ cả buổi chầu sáng, muốn lập tức phi ngựa tới Dương Châu, rước mẹ vợ về cho bằng được.

Nhưng hắn hiểu rõ tính nết của Phùng Gia Ấu — nếu mẹ nàng có đến, nhất định phải do tự bà muốn đến. Chứ nếu do hắn cất công đi mời, e rằng còn khiến Phùng Gia Ấu chạnh lòng thêm.

Nào ngờ, Giang Hội Từ lại đã sớm lên đường bắc tiến, đến kinh thành trước ngày Phùng Gia Ấu sinh nửa tháng.

Vì muốn thuận tiện chăm con gái, bà chẳng buồn để ý lời ra tiếng vào, dọn thẳng vào khu phòng phía đông trong Phùng phủ.

Còn Phùng Hiếu An thì gần như chuyển luôn sang ở tại Đại Lý Tự, nếu không phải bắt buộc thì cũng chẳng quay về phủ làm gì.

Mãi đến khi Phùng Gia Ấu sinh xong, bé A Ngô chuẩn bị đầy tháng, Giang Hội Từ cũng sắp trở về Dương Châu, Phùng Gia Ấu vẫn còn hồ nghi: có phải cha nàng đã mời mẹ đến?

Giang Hội Từ mệt mỏi khi phải giải thích mãi:

“Nương phải nói bao nhiêu lần nữa đây? Là nương tự mình muốn đến. Con gái ruột của nương sinh con, nương làm mẹ mà còn cần ai mời?”

Nhiều năm qua, Giang Hội Từ từng không biết làm sao để đối mặt với con gái.

Bà từng tránh né nàng, mà nguyên do thật ra là vì nỗi tự ti bị kinh thành trói buộc. Bà xem mình chỉ là con gái nhà buôn, toàn thân nặng mùi tiền, đầu óc suốt ngày vướng bận chuyện nhi nữ tình trường, thấp hèn đến tột cùng.

Sau khi rời khỏi kinh thành, trở về nơi mình quen thuộc, trở về lĩnh vực mà bản thân giỏi nhất, bà dần dần lấy lại lòng kiêu hãnh.

Nghĩ lại chuyện xưa, bà càng thấy có lỗi với con. Chuyện đã qua chẳng thể bù đắp, và con gái bà đã trưởng thành, lấy được người chồng đáng tin, người làm mẹ như bà giờ chẳng còn mấy quan trọng. Chỉ trong những thời khắc như thế này, con gái mới thật sự cần đến mẹ, sao bà lại không đến cho được?

Phùng Gia Ấu không phải không tin, ngồi trên giường, vừa ngắm mẹ mình dỗ A Ngô ngủ, vừa khẽ giọng nói:

“Con chỉ nghĩ, chắc nương không muốn gặp cha…”

Thật ra Giang Hội Từ không căm ghét Phùng Hiếu An. Nếu chỉ là ghét, thì còn có thể gắng nhẫn nhịn. Sự thật là bà đang cố gắng buông bỏ, muốn bước tiếp về phía trước.

Nếu cứ gặp mặt mãi, e rằng sẽ khó giữ được sự dứt khoát. Không đến mức dao động, nhưng sẽ chuốc thêm phiền não.

Giang Hội Từ dời ánh mắt khỏi gương mặt nhỏ xíu trong tay, chuyển sang nhìn con gái:

“Nương từng vì ông ấy mà bỏ bê con gái mình. Nếu giờ vẫn vì ông ấy mà lưỡng lự không dám làm gì, vậy thì nương hòa ly với ông ấy còn có ý nghĩa gì nữa?”

Phùng Gia Ấu không trả lời được, chỉ nói:

“Dù sao, lần này nương đến ở với con suốt thời gian qua, con thật sự vui lắm. Cảm ơn nương.”

Chẳng ngờ chỉ một câu cảm ơn chân thành ấy, lại khiến lòng Giang Hội Từ đau như cắt.

Đứa bé trong tay bà với đôi mắt sáng long lanh giống hệt Phùng Gia Ấu khi còn bé.

Nước mắt bà suýt trào ra. May mà Phùng Gia Ấu đang cúi đầu, không thấy được mắt bà đang đỏ hoe.

Giang Hội Từ vội hít sâu một hơi, bế cậu nhóc bước đến bên án thư.

Trên bàn bày la liệt mấy tờ giấy tyên thành, đều là ghi chép của Tạ Lãm về việc tổ chức tiệc đầy tháng. Tuy chữ viết có phần nguệch ngoạc, nhưng từng dòng từng mục đều rất tỉ mỉ.

Giang Hội Từ bật cười:

“Nếu không tận mắt chứng kiến suốt một hai tháng nay, nương thật không tin nổi, tính tình hoang dã bất kham như Tạ Tiểu Sơn lại có thể tinh tế chu đáo như vậy.”

Không chỉ thể hiện trong mấy tờ giấy này, mà còn trong mọi việc hắn chăm sóc Phùng Gia Ấu. Từ khi bé A Ngô ra đời, mỗi đêm đều là hắn đích thân ôm con trông nom, chưa từng để bà vú bế đi.

Phùng Gia Ấu nói:

“Con đã nói với nương rồi mà, chàng là người bên ngoài thô ráp bên trong tinh tế. Tìm khắp thiên hạ khó mà kiếm được phu quân nào tốt hơn chàng.”

Trước mặt Giang Hội Từ, nàng chưa từng tiếc lời khen ngợi Tạ Lãm, nói quá lên cũng chẳng sao — mục đích là để mẹ nàng có thể yên lòng ở lại Dương Châu sống an ổn.

Giang Hội Từ lo lắng:

“Đêm trông con, chưa sáng đã phải vào triều. Con cũng nên khuyên phu quân con, có thể nhờ vú em thì cứ để vú em chăm, chớ nên vì cố quá mà hại đến thân thể.”

“Chàng ấy biết chừng mực mà. Với lại, đó là việc chàng nên làm. Con mang thai mười tháng, chẳng phải còn cực khổ hơn sao? Có ai thay con chịu giúp đâu.”

Thật lòng nàng cũng xót lắm. Năm nay Tạ Lãm vừa nhậm chức Chỉ huy sứ Huyền Ảnh Ti, giờ lại thêm vai trò làm cha, bận đến xoay như chong chóng, ngủ muộn hơn chó dậy sớm hơn gà. Nhưng hắn làm mọi việc trong vui vẻ và trong sức mình, nàng có lý do gì để ngăn cản?

“Nương à, con nói câu này nương đừng giận. Năm xưa nương thua ở chỗ lúc nào cũng hy sinh, lúc nào cũng xót cha, mới khiến ông ấy quen với việc đặt nương ở vị trí sau cùng.”

Trước kia, Phùng Gia Ấu hiếm khi tâm sự với mẫu thân, lại chẳng hiểu rõ chuyện giữa cha mẹ thuở trước, nên không dám tùy tiện đánh giá.

Nhưng qua quãng thời gian sống cùng nhau, nàng có thể khẳng định — chuyện cha sau khi về kinh vẫn không đón mẹ về ngay, phần lớn là do thói quen được mẹ nàng nuông chìu tạo nên.

“Giờ nương hòa ly với cha rồi, nhắc lại cũng vô nghĩa. Nhưng nương còn trẻ, biết đâu mai này sẽ gặp được người thật sự xứng đáng…”

Sợ bị Giang Hội Từ mắng, nàng càng nói càng nhỏ giọng.

Giang Hội Từ lại bật cười:

“Con cho rằng cứ hễ vướng vào tình cảm là nương mụ mị hết đầu óc sao?”

Phùng Gia Ấu càng không dám nói lớn:

“Thì… nương cũng chưa thử lại lần nào mà, phải không ạ?”

“Con nói vậy nương cũng chẳng phản bác được.”

Giang Hội Từ ôm bé A Ngô ngồi xuống, trầm ngâm một lúc rồi nghiêm túc nói:

“Hồi xưa nương mụ mị vì yêu thật, nhưng nương nghĩ phần lớn vì đối phương là cha con… Con nghĩ xem, trên đời này nương còn có thể gặp ai hơn được ông ấy không?”

Phùng Gia Ấu: “…”

Dù trong lòng nàng luôn thấy Phùng Hiếu An không xứng làm con, làm chồng, càng không xứng làm cha, là người tệ bạc vô cùng.

Nhưng xét về tướng mạo lẫn tài trí, ông đúng là hiếm gặp. Công bằng mà nói, nếu ông không phải cha mình, có khi Phùng Gia Ấu không hận mà còn thực lòng bội phục.

Từ lúc ông trở lại kinh thành, những gì ông làm cũng khá ra dáng một người cha mẫu mực. Có thể thấy ông đang thật tâm muốn nối lại tình cảm cha con.

Thời gian trôi qua, oán hận trong nàng nguôi dần. Dù không muốn thừa nhận, nhưng quả thật, lòng nàng đã dần nảy nở chút tình cảm cha con.

Tuy nhiên, đời này Phùng Gia Ấu quyết sẽ không bao giờ thật lòng gọi ông một tiếng “cha” trước mặt.

Cuộc đời mà, luôn có những điều tiếc nuối, như gia gia nàng cũng ra đi trong bao điều day dứt.

Phùng Hiếu An… ông ấy xứng đáng nhận lấy nỗi tiếc nuối đó.



Hai ngày nữa là đến tiệc đầy tháng của bé A Ngô. Hôm ấy tan triều, cả Phùng Hiếu An và Tạ Lãm đều không về nha môn.

Hai người cùng ngồi xe trở về Phùng phủ để chuẩn bị cho ngày lễ.

Trên xe, Tạ Lãm dè dặt nhắc:

“Nhị thúc này, tiệc đầy tháng xong là nhị thẩm sẽ rời kinh về Dương Châu đó.”

Phùng Hiếu An nhìn sang hắn:

“Chẳng phải bà ấy từ Dương Châu tới sao?”

Tạ Lãm thở dài:

“Cơ hội tốt như vậy mà thúc cứ lẩn tránh, cả ngày trốn trong nha môn, chẳng hiểu là vì cớ gì.”

Phùng Hiếu An có nỗi khổ riêng:

“Bà ấy vì con gái mà chẳng màng danh tiếng, ta thì không thể không giữ danh tiếng cho bà ấy.”

Tạ Lãm biết nhị thúc mình thật lòng với nhị thẩm:

“Nhị thúc à… nam tử hán đại trượng phu cúi đầu xin lỗi vợ mình cũng không có gì mất mặt cả.”

Phùng Hiếu An chỉ cười, không đáp.

Ông biết — việc đó chẳng có gì là mất mặt cả. Nếu có thể cứu vãn, ông sẵn lòng cúi đầu xin lỗi, thậm chí quỳ xuống cầu xin bà tha thứ cũng được.

Nhưng vấn đề thực sự giữa ông và Giang Hội Từ vẫn là câu ông đã tự thuyết phục mình buông tay khi đó:

Thứ bà muốn, ông không thể cho.

Bà luôn mong có thể chiếm lấy một chỗ thật lớn trong lòng ông. Nhưng từ trước khi gặp bà, tim ông đã chẳng còn bao nhiêu chỗ trống — phần lớn đã dành hết cho công lý và lê dân bá tánh.

Nếu cố giữ bà lại bên mình và hứa hẹn đủ điều, rốt cuộc đó cũng chỉ là lời hứa không thể thực hiện. Đến cuối cùng, trái tim bà có lẽ mãi mãi chẳng thể được lấp đầy.

Thay vì thế, chi bằng để bà rời đi, mở ra một chân trời thuộc về riêng bà, để bà có thể tìm được sự mãn nguyện ở nơi chốn khác.

Biết đâu… một ngày nào đó…

Phùng Hiếu An nắm tay lại, trong tâm trí trôi nổi trong miên man, dường như nghe thấy Tạ Lãm hỏi:

“Nhị thúc, thúc tự đẩy mình vào cảnh cô độc, bị người thân xa lánh thế này, có khi nào từng hối hận không?”

Phùng Hiếu An không né tránh, đáp thẳng:

“Không phải có từng hối hận hay không — mà là, mỗi một ngày, ta đều hối hận.

Nếu được làm lại từ đầu, ta tuyệt đối sẽ không đi gây dựng cái Hội Đồng Minh kia. Đó vốn chẳng phải con đường đúng đắn.

Ta cũng sẽ không bỏ vợ bỏ con mà chạy đến Tây Bắc, bởi có đến cả trăm cách để ta chuộc lại lỗi lầm năm xưa.

Và ta cũng không trốn biệt hơn chục năm trời, bởi hoá ra, đối mặt chẳng đáng sợ như ta tưởng.

Cầu công đạo, cứu bách tính, thực ra chẳng cần phải hy sinh đến thế. Rất nhiều việc, rõ ràng là có thể dung hòa, là do ta quá thiên lệch mà thôi..”

Vừa nói, ánh mắt Phùng Hiếu An vừa lướt qua Tạ Lãm, rồi dừng lại nơi khung cửa sổ đang mở.

“Nhưng nếu là một lần làm lại không mang theo ký ức, với tuổi đời, kinh nghiệm và hoàn cảnh thuở ấy, rất có thể ta vẫn sẽ đi vào vết xe cũ. Dù có làm lại bao nhiêu lần, kết cục e rằng cũng chẳng khác hôm nay là bao.

Cũng nhờ đã từng đi con đường ấy, nên bây giờ ta mới có đủ bản lĩnh để hiểu rằng: mình hoàn toàn có thể làm tốt cả hai.

Nói thế để thấy, cái gọi là hối hận, ngoài việc tự giày vò mình, e rằng cũng chẳng mang lại ích lợi gì.”

Rơi vào bước đường hôm nay… cũng là quả báo mà ông tự chuốc lấy.



Lúc Tạ Lãm trở về phủ, Phùng Gia Ấu đang ngủ bù giấc sáng.

Hắn rón rén bước đến bên nôi, thấy bé A Ngô cũng đang say giấc nồng.

Tạ Lãm cúi người ngắm nghía gương mặt bé xíu, vừa nhăn nhúm vừa xấu xí của con trai, nhìn mãi mà vẫn chưa chán.

Từ ngày con ra đời đến giờ, chỉ cần hắn ở nhà là nhất định tự tay chăm sóc, không phải vì không tin bà vú, mà vì muốn mau chóng nhập vai, làm quen với vị trí của người cha.

A Ngô sắp tròn tháng, đôi khi nửa đêm nghe thấy tiếng khóc, hắn còn tưởng mình bị ảo giác, không dám tin bản thân đã làm cha người ta.

Ngắm con chán chê, Tạ Lãm rởi khỏi nôi, đến bên giường, tháo giày quan rồi nằm xuống cạnh Phùng Gia Ấu, định tranh thủ chợp mắt với nàng một lúc. Hắn đúng là mệt đến rã rời, suốt buổi triều sáng nay cứ gật gà gật gù, chẳng biết đám đại thần cãi vã đỏ mặt tía tai vì chuyện gì.

Phùng Gia Ấu chưa ngủ sâu, vốn nằm ở mé ngoài, nghe động liền nhích vào trong một chút.

Trời đang giữa hè, trong phòng oi ả, hai người nằm gần nhau chỉ càng thêm nóng. Huống chi nàng vẫn còn trong cữ, không thể tắm rửa thường xuyên như lúc bình thường, cả người dính dính khó chịu.

Ấy thế mà Tạ Lãm cứ khăng khăng phải ôm lấy nàng từ phía sau. Cũng may người hắn xưa nay đông ấm hạ mát, tạm thời kề sát vào cũng không đến nỗi khó chịu lắm.

Phùng Gia Ấu nhận ra hắn có điều ấm ức:

“Sao vậy? Lên triều bị ai chèn ép hả?”

“Ta giờ là Chỉ huy thân quân của Hoàng thượng, ai dám chèn ép ta?”

Nhắc đến bọn quan lại kia, Tạ Lãm hừ khẽ đầy khinh bỉ:

“Loại tiểu nhân như Lý Tự Tu, vòng vo bóng gió chửi xéo ta, ta nghe không hiểu thì nhị thúc sẽ thay ta tính sổ. Dù sao đánh cọp phải có anh em, ra trận phải có cha con, hắn sánh sao được?”

Phùng Gia Ấu tủm tỉm cười:

“Vậy rốt cuộc là chuyện gì? Sáng ra còn thấy chàng hăm hở lắm mà?”

“Không có gì lớn, chỉ là lúc cùng nhị thúc về, nói chuyện đôi câu, nghe ông kể vài điều về cuộc đời…”

Tạ Lãm biết nàng không thích nghe chuyện về nhị thúc nên không kể thêm nữa, chỉ nghiêng người, dùng chóp mũi cọ cọ vào gáy nàng, thì thầm:

“Ấu nương…”

Nàng bị hắn cọ nhột, nhưng không dám nhúc nhích mạnh, sợ châm lửa lên người hắn. Từ lúc nàng mang thai đến giờ, hắn đã nhịn suốt chín tháng.

Tạ Lãm thở dài bên tai nàng:

“Trước kia ta cứ tưởng mình vô địch thiên hạ, chuyện gì cũng có thể gánh vác. Nhưng giờ nghĩ lại, nếu đặt bản thân vào thời loạn hai chục năm trước, e rằng cũng khó mà không bị dòng đời cuốn trôi.”

“Thì vốn là vậy.” Phùng Gia Ấu chưa bao giờ nghĩ thiên hạ này chỉ cần một người là có thể bình định, cũng chẳng cho rằng họ giỏi hơn tiền nhân bao nhiêu.

Miệng nói là dọn tàn cục, nhưng trên thực tế, tiền nhân đã dọn dẹp qua vô số tàn cục rồi, chỉ là vẫn còn sót lại chút rối ren chưa kịp thu xếp mà thôi.

Nàng nói:

“So với cha mẹ đời trước, chúng ta thực ra là một thế hệ rất may mắn.”

Tạ Lãm gật đầu đồng tình, lòng thầm thấy nàng nói quá đúng.

Cũng bởi vậy, họ càng phải cố gắng hơn nữa… để A Ngô sau này có thể trở thành một thế hệ còn may mắn hơn.



Đêm xuống, phủ Trấn Quốc Công.

Yến tiệc đầy tháng sắp được tổ chức ở Phùng phủ khiến không ít người đau đầu vì chuyện chọn quà mừng.

Trong số đó có cả Tùy Anh.

Thật ra từ trước khi Phùng Gia Ấu sinh nở, Tùy Anh đã chuẩn bị xong quà. Nhưng mấy hôm nay càng nhìn lại càng thấy… không đủ tấm lòng. Phùng Gia Ấu là người bạn thân nhất của nàng, mà bé A Ngô lại là con trai đỡ đầu của nàng.

Lễ vật nhất định phải thật đặc biệt mới được.

Nhưng Tùy Anh nghĩ mãi cũng không ra — với một người chẳng thiếu gì như Phùng Giai Ấu, thì còn món quà nào có thể gọi là đặc biệt nữa đây? Có thứ quý giá nào Phùng Gia Ấu muốn mà Giang gia ở Dương Châu không thể lo được chứ?

Nghĩ mãi, nghĩ mãi… rồi thiếp đi lúc nào không hay.

Trong mơ màng, nàng cảm thấy có ai đó ngồi xuống mép giường, nhẹ nhàng kéo chăn đắp lại cho nàng. Trong tiềm thức, nàng biết đó là Lạc Thanh Lưu nên không hoảng hốt hay giật mình tỉnh dậy.

Hơn một năm qua, hai người vẫn thường gặp nhau như này, nhưng nếu tính kỹ thì số lần cũng chẳng nhiều.

Trước kia, Lạc Thanh Lưu thường tới vào đầu đêm. Nhưng hai ba tháng gần đây hắn được Từ Tông Hiến cất nhắc, chức vụ ở Ti Lễ Giám ngày càng cao, việc càng lúc càng nhiều, cũng bị người ta để mắt tới nhiều hơn.

Cho nên phần lớn hắn chỉ có thể đến vào lúc nửa đêm về sáng. Mà vì còn phải theo Từ Tông Hiến lên triều sớm nên thời gian ở lại cũng chẳng được bao lâu, vừa đến đã lại phải vội vã quay về cung.

Thường thì chỉ cần nghe tiếng chuông nhỏ reo lên, Tùy Anh đã tỉnh giấc trước khi hắn bước vào phòng.

Nhưng đôi khi ban ngày mệt quá, nửa đêm nàng ngủ mê man chẳng nghe thấy chuông, Lạc Thanh Lưu cũng chẳng gọi, chỉ lặng lẽ ngồi bên giường, hoặc đến bàn sách lật xem những binh thư nàng vừa đọc trong ngày.

Mấy lần như vậy, sáng ra nàng đều chẳng hay đêm qua hắn đã đến. Về sau trong lúc trò chuyện vô tình nhắc tới nàng mới biết.

Hôm đó nàng nổi giận với Lạc Thanh Lưu không để đâu cho hết.

Giờ muốn gặp được hắn đã khó. Sau này khi Từ Tông Hiến rút khỏi trung tâm quyền lực vì con trai, cùng Lý Thanh Vãn ẩn cư, thì Lạc Thanh Lưu sẽ là Đại đốc công kế nhiệm. Họ muốn gặp nhau lại càng thêm khó.

Tuy nàng cũng có con đường riêng để đi, cũng bận rộn chẳng kém ai, không phải lúc nào cũng nghĩ về hắn. Nhưng mỗi đêm trước khi ngủ, lòng vẫn cứ mơ hồ mong đợi.

Nàng chất vấn hắn có hiểu cho cảm giác đó của nàng không?

Từ bé Tùy Anh đã sống với hai ‘gương mặt’. Đối với người ngoài nàng lúc nào cũng nóng nảy bộc trực, chẳng có chút kiên nhẫn. Nhưng đối với người nàng để tâm, lại hiền lành dịu dàng như một con mèo nhỏ.

Tất nhiên, ngoại trừ đứa em trai Tùy Tư Nguyên và cái tên đầu óc có vấn đề Thẩm Thời Hành kia ra.

Vậy nên hôm nàng nổi giận, Lạc Thanh Lưu, người luôn hiểu nàng nhất, cũng bị dọa cho sợ không nhẹ.

Nàng cho hắn hai lựa chọn: một là đánh thức nàng dậy, hai là lên giường nằm xuống bên nàng.

Sau đó Lạc Thanh Lưu có thử gọi nàng thật. Nhưng lúc ấy nàng quá mệt, ngồi dậy ngáp ngắn ngáp dài, hai mắt đỏ hoe đầy tia máu.

Từ đó về sau, mỗi khi lại gặp cảnh ấy, hắn chẳng đành lòng gọi nữa, vẫn mặc nguyên y phục, lặng lẽ nằm xuống quay mặt đối diện nàng.

Bên cạnh đột nhiên có người nằm xuống, dù có mệt đến mấy Tùy Anh cũng nhận ra hắn đã tới.

Nhưng nàng cũng không vì vậy mà được nước lấn tới. Từ chuyện hắn dám bước vào phòng nàng, rồi ngồi bên giường nàng, cho đến khi bằng lòng nằm xuống cạnh nàng…

Tùy Anh không rõ một người cố chấp như hắn đã phải vật lộn để vượt qua từng bước ấy ra sao, nhưng chắc chắn là chẳng hề dễ dàng.

Nàng nằm thêm một lúc mới chầm chậm mở mắt ra.

Vừa hay bắt gặp Lạc Thanh Lưu đang vươn tay định vén mấy sợi tóc vương ngang sống mũi nàng ra sau tai.

Hắn định rút tay về, nhưng rồi vẫn tự nhiên làm nốt động tác ấy:

“Ta làm nàng tỉnh giấc à?”

“Chàng đánh thức được ta, chứng tỏ hôm nay ta cũng không mệt lắm.”

Tùy Anh ngồi dậy, níu tay áo hắn, vừa nhăn mặt vừa than:

“Chàng đến đúng lúc lắm, ta đang đau đầu đây, không biết nên tặng gì cho Tiểu A Ngô.”

Lạc Thanh Lưu ngạc nhiên:

“Chẳng phải nàng đã chuẩn bị từ sớm rồi sao?”

Tùy Anh lắc đầu:

“Những món ấy tuy quý giá thật, nhưng ta thấy vẫn chưa đủ đặc biệt. Không đủ thể hiện tấm lòng ta dành cho thằng bé. Dù gì ta cũng là mẹ đỡ đầu của nó mà.”

Lạc Thanh Lưu khẽ cười:

“Nàng định làm mẹ đỡ đầu của Tiểu A Ngô à?”

Tùy Anh cũng cười:

“Ta và Tiểu Gia đã hứa với nhau từ nhỏ rồi, sau này sẽ làm mẹ đỡ đầu cho con của nhau.”

Nói đến đây, nàng vội bổ sung ngay:

“Tính theo nghĩa nào đó thì ước hẹn ấy của hai đứa cũng coi như thành rồi. Ta là mẹ đỡ đầu của Tiểu A Ngô, còn Tiểu Gia thì thành sư nương của Tư Nguyên nhà ta.”

Vừa nói xong, nàng lén liếc nhìn sắc mặt Lạc Thanh Lưu, thấy hắn không phản ứng gì mới yên tâm.

Nhưng Lạc Thanh Lưu chỉ đang cố giữ nét mặt bình thản, trong lòng thực ra không hề yên ổn.

Chỉ là thứ cảm xúc ấy lại không giống như Tùy Anh nghĩ.

Hắn đang tự trách mình.

Rất nhiều điều, hắn chẳng thể cho nàng được. Hắn nợ nàng, người chịu thiệt thòi là nàng. Thế mà nàng lúc nào cũng quá đỗi cẩn thận, lúc nào cũng sợ hắn phải chịu uất ức.

Lẽ ra… không nên như vậy.

Không thể để im lặng kéo dài, Lạc Thanh Lưu lên tiếng:

“Nói đến em trai nàng, dạo này tiến bộ nhiều đấy. Lúc nãy đi ngang qua vườn, ta thấy nó nửa đêm vẫn còn đang luyện đao.”

Thường thì mỗi lần có ai khen Tùy Tư Nguyên, Tùy Anh sẽ cười vui ngay.

Không ngờ lần này nàng lại hậm hực:

“Tạ Lãm thật quá đáng!”

Lạc Thanh Lưu bị tiếng quát bất ngờ làm giật mình.

“Hắn với Lý Tự Tu không ưa nhau, rồi lại đem em ta ra trút giận!”

Hiện tại, Tùy Tư Nguyên có hai sư phụ. Văn là Lý Tự Tu. Võ là Tạ Lãm.

Cả hai đều là kỳ tài trong lĩnh vực của mình, chỉ cần bái được một người đã là đại phúc.

Mà bái được cả hai… thì đúng là đời khổ không ai bằng.

Hai ông thầy kia chẳng ai nhường ai, ngấm ngầm so xem ai dạy giỏi hơn, xem Tùy Tư Nguyên học văn tốt hơn hay luyện võ giỏi hơn.

Dù cả hai đều dốc lòng truyền dạy, nhưng khối lượng bài vở thì thật sự khiến người ta sứt đầu mẻ trán, sống dở chết dở.

Tùy Anh vừa nói vừa tức đỏ mặt:“Lý Tự Tu thì ít ra còn sót lại chút tình người. Còn Tạ Lãm – đúng là không có nửa phần nhân tính! Chỉ vì mấy hôm trước Tư Nguyên đọc thêm vài quyển sách, bỏ sót một bài đao pháp, thế mà bị bắt luyện đao suốt ba đêm liền đến tận sáng!”

Mặt Tùy Anh đỏ bừng vì tức, Lạc Thanh Lưu dỗ dành:

“Đúng là họ có phần tranh đua, nhưng chắc chắn cũng cân nhắc đến sức chịu đựng của Tư Nguyên. Nàng cũng đừng lo quá. Với lại, dạo này nó tiến bộ không ít đâu.”

“Thôi đừng nhắc nữa.” Tùy Anh xua tay, vẻ mặt đầy phiền muộn, “Nghĩ tiếp xem nên tặng gì cho Tiểu A Ngô thì hơn.”

Lạc Thanh Lưu nói:

“Nếu nàng không đặt nặng chuyện vật chất, chỉ muốn tỏ tấm lòng thôi, thì ta có một món này khá hợp. Mai ta sai người mang tới, nàng dùng làm quà là vừa đẹp.”

Tùy Anh tò mò:

“Món gì thế?”

Lạc Thanh Lưu cũng không làm bộ giấu diếm:

“Thiết hàn Yên Sơn, chuyên dùng để rèn binh khí. Thứ này hiếm lắm, ta mới lấy được mấy hôm trước, thật đúng dịp.”

Tùy Anh lập tức nghĩ đến cái hộp binh khí rực rỡ của Tạ Lãm:

“Tạ đại nhân chắc không thiếu thứ này đâu nhỉ?”

“Ta không biết hắn có thiếu hay không, nhưng chắc chắn là sẽ không chê nhiều đâu.”

Lạc Thanh Lưu cười rồi kể:

“Loại ám khí mà Tạ phu nhân luôn mang theo bên người, chính là dùng loại Hàn thiết Yên Sơn này đấy.”

Chuyện này Tùy Anh biết, Phùng Gia Ấu từng kể với nàng rằng Tạ Lãm đã nấu chảy mấy thanh đao, đích thân đúc thành.

Lạc Thanh Lưu nói thêm một việc nàng chưa biết:

“Hồi trước thành hoang gần biên giới Nam Cương, lúc bọn ta giao chiến với cận vệ hoàng thất Nam Cương, Tạ phu nhân từng dùng ám khí đó một lần, nàng nhớ không?”

“Nhớ.” Tùy Anh gật đầu.

“Khi ấy có mấy chiếc châm bắn trúng thủ lĩnh đội cận vệ, phần còn lại thì găm vào tường gần đó… Sau khi chúng ta rút về Đô Ti Điền Nam, Tạ huynh vừa tỉnh dậy khỏi hôn mê, nói năng còn chưa rõ, đã vội gọi ta tới, hỏi ta có khỏe chưa, bảo là có chuyện hệ trọng muốn nhờ.”

Chuyện đã qua khá lâu, giờ nhắc lại mà Lạc Thanh Lưu vẫn không nhịn được cười:

“Lúc đó nhìn vẻ thần bí nghiêm trọng của huynh ấy, ta còn tưởng là chuyện quốc sự gì ghê gớm. Ai ngờ đâu… lại là nhờ ta quay lại thành hoang, nhặt cho được mấy chiếc kim châm bị rơi!”

Môi Tùy Anh không nén được toét cười:

“Chàng không thật sự đi đấy chứ?”

“Ta đi chứ. Người kiêu ngạo như huynh ấy hiếm hoi lắm mới mở miệng nhờ vả. Sao ta có thể không đi được?”

Lạc Thanh Lưu xòe hai bàn tay đẹp đẽ ra, cảm thán:

“Từng cây, từng cây nhổ ra khỏi bức tường phủ đầy rêu… cũng vất vả lắm đấy.”

Tùy Anh lúc này mới thật sự tin:

“Xem ra thứ hàn thiết đó thật sự quý giá.”

Lạc Thanh Lưu giải thích:

“Chủ yếu là vì rất hiếm, không phải cứ có tiền là mua được.”

Tùy Anh lườm hắn:

“Tại chàng không thiếu tiền. Chứ phần đông mọi người dù có gặp được cũng chưa chắc mua nổi.”

Lạc Thanh Lưu ngượng ngùng gãi mũi, rồi dặn thêm:

“Nàng đừng kể chuyện này với Tạ phu nhân nhé. Tạ huynh mà biết ta lộ ra chuyện xấu hổ của huynh ấy thế nào cũng tìm ta tính sổ.”

Tùy Anh cười khúc khích:

“Chàng kể với ta, chẳng phải là để ta thay chàng ‘báo thù’ xả giận trong lòng hả?”

Lạc Thanh Lưu: “…”

“Còn bày đặt ra vẻ nữa.” Tùy Anh cười tủm tỉm liếc hắn một cái, rồi hỏi tiếp, “À đúng rồi, chàng chuẩn bị quà cho Tiểu A Ngô chưa?”

“Cũng giống nàng, ban đầu đã tính xong cả rồi, giờ nhìn lại… tự nhiên thấy vẫn chưa đủ chân thành.”

Tùy Anh không còn rầu rĩ nữa, đến lượt Lạc Thanh Lưu nhíu mày, đau đầu nghĩ ngợi.

Trong lúc mải nghĩ, hắn vô thức thốt ra tiếng lòng:

“Nàng là mẹ đỡ đầu của Tiểu A Ngô, vậy ta chính là cha đỡ đầu rồi. Thế thì phải cân nhắc lại quà tặng, chọn món nào thật xứng mới được…”

Lần đầu tiên Tùy Anh nghe hắn nói ra lời ‘xác định mối quan hệ’ như vậy, tim chợt hẫng một nhịp, ngay cả hô hấp chừng như cũng ngưng một thoáng. Nàng rất muốn nói: Chàng ngốc à? Đã là cha mẹ đỡ đầu thì tặng chung một món quà là được rồi còn gì.

Nhưng nghĩ vậy thôi, nàng không dám nói ra, sợ hắn bừng tỉnh không biết sẽ phản ứng kỳ quặc thế nào. Hai người họ bên nhau chưa lâu, nàng vẫn chưa hiểu hắn hoàn toàn, lo rằng bản thân không xử lý tốt được.

Vừa tỉnh dậy chưa được bao lâu, đầu óc mơ màng, thân thể cũng uể oải, thế nên Tùy Anh nhẹ nhàng ôm lấy cánh tay hắn, tựa cằm lên vai hắn.

Nàng cảm nhận được lưng hắn hơi căng cứng. Biết hắn vẫn chưa quen với những động chạm thân mật thế này, nhưng ít ra… hắn cũng không còn tránh né như trước.

Như lời Phùng Gia Ấu vẫn hay an ủi nàng: chỉ cần chịu đựng qua những ngày gian khổ, thì những tháng ngày sau đó… ắt sẽ dần dần tốt lên thôi.



Lạc Thanh Lưu rời đi, Tùy Anh cũng không ngủ thêm nữa. Nàng trở dậy thay đồ, chạy một mạch ra vườn.

Quả nhiên, Tùy Tư Nguyên vẫn đang luyện đao giữa vườn.

Nàng đứng bên kia luống hoa, lớn tiếng quát:

“Đã hai đêm liền không ngủ rồi đấy! Muốn luyện đến liệt luôn hả? Lời sư phụ thì nghe răm rắp, còn lời tỷ tỷ ruột thì bỏ ngoài tai hết rồi đúng không?!”

Tùy Tư Nguyên cúi gằm mặt, mặt mày bí xị, không dám cãi lại, mà cũng chẳng dám ngừng tay.

Tùy Anh nhìn bộ dạng khúm núm của em trai, trong lòng chua chát chẳng biết nói sao cho phải.

Ban đầu nàng lo lắng lắm, sợ Lý Tự Tu và Tạ Lãm đều không thu phục nổi tên em trai ngang tàng quậy phá của mình. Về sau mới nhận ra, tại mình kiến thức hạn hẹp.

Tên Lý Tự Tu kia chỉ cần ba tấc lưỡi, cũng đủ khiến em trai nàng ngoan ngoãn cúi đầu. Chỉ mười ngày ngắn ngủi, mà nó đã suốt ngày “thầy Lý nói thế này, thầy Lý bảo thế kia”…

Tạ Lãm thì lại chẳng dùng vũ lực để đè người như nàng tưởng.

Hôm từ Tây Bắc trở về, hắn tặng cho Tùy Tư Nguyên một thanh đao do chính tay hắn rèn.

Ban đầu, thằng nhóc tỏ rõ thái độ coi thường. Bởi nhìn bề ngoài, đao không có gì đặc biệt, chất liệu cũng chẳng quý hiếm, trông như làm cho có.

Nào ngờ mới vung vài lần, Tùy Tư Nguyên sửng sốt. Thanh đao ấy dường như được tạo ra để dành riêng cho cậu vậy, hợp tay, hợp sức, phát huy sở trường, tránh hết sở đoản. Quả thật là thanh binh khí vừa tay nhất từ trước tới nay.

Thế là bị ‘thu phục’ luôn. Từ đó bám theo Tạ Lãm gọi ‘sư phụ’ suốt ngày.

Thật là quá tốt.

Chỉ mong hai vị đại sư này đừng tiếp tục lấy em nàng làm công cụ tranh cao thấp, thì sẽ càng tốt hơn nữa.



Sáng hôm sau, Tùy Anh tới Phùng phủ tìm Phùng Gia Ấu để… mách tội.

Phùng Gia Ấu thì làm được gì bây giờ?

Thật sự là… chẳng làm gì được cả.

Những chuyện nhỏ không liên quan đến nguyên tắc như thế này, nếu nàng nói với Tạ Lãm, hắn chắc chắn sẽ gật đầu đồng ý ngay miệng, tỏ ra hào sảng lắm. Nhưng vừa quay lưng đã nhe răng trợn mắt, làm khó cho Tùy Tư Nguyên hơn nữa.

Huống hồ, cách Tạ Lãm dạy Tùy Tư Nguyên cũng chẳng gọi là nghiêm khắc gì cho cam — bởi với bản thân, hắn còn khắc nghiệt hơn thế nhiều.

Nghĩ đến đây, Phùng Gia Ấu nhìn bé A Ngô đang nằm trong lòng bú sữa, không khỏi dấy lên lo lắng.

Tiểu A Ngô còn hai hôm nữa mới đầy tháng, gương mặt bé con vẫn còn nhăn nheo, chưa rõ giống ai hơn, cũng chưa biết mai sau nên theo văn hay theo võ.

Đợi đến khi thằng bé lớn thêm chút nữa, nếu một ngày nào đó bị Tạ Lãm phát hiện nó có chút tư chất luyện võ, thì e là chẳng còn ngày nào yên thân đâu…

Tuy nhiên, Phùng Gia Ấu xưa nay vốn rất tin vào câu “mẹ hiền hay làm hỏng con”, nên cũng không tiện can thiệp.



Tới ngày tiệc đầy tháng, Phùng Gia Ấu không cần ra mặt. Tạ Lãm cũng chẳng bước chân khỏi phòng, chỉ ở cạnh hai mẹ con.

Hắn có thể dụng tâm tính toán từng li từng tí trong việc sắp xếp yến tiệc, nhưng kêu hắn đứng ra tiếp khách thì miễn. Chẳng học, cũng chẳng thèm học. Bữa tiệc ngoài kia xảy ra chuyện gì đã có nhị thúc hắn ra mặt rồi.

Bé A Ngô đang ngủ. Mà trẻ con một khi ngủ say thì không dễ bị đánh thức. Tạ Lãm ngồi bên nôi, tay mân mê khối hàn thiết Yên Sơn mới nhận được, mặt mày đầy thích thú:

“Thanh Lưu đúng là chịu chi vì Tùy Anh. Khối này ta từng mua được một lần, từ đó đến giờ chưa từng thấy ai rao bán nữa. Vậy mà hắn nói tặng là tặng luôn.”

Phùng Gia Ấu đang nửa nằm trên giường đọc sách, hỏi:

“Sao chàng biết là Thanh Lưu tặng cho A Anh?”

“Lần trước ta tiện tay rèn đao cho Tư Nguyên xong, hắn đến hỏi ta có thể rèn cho Tùy Anh một thanh kiếm vừa tay không.”

Tạ Lãm tuy không phải thợ rèn hạng nhất, nhưng lại rất biết tùy người mà chế, tạo ra binh khí đúng với người sử dụng vô cùng.

“Hắn nói sẽ lo phần nguyên liệu, ta thấy cũng được nên gật đầu. Sau đó chẳng nghe gì thêm, giờ nhìn khối sắt này thì chắc là nguyên liệu hắn tìm được.”

Phùng Gia Ấu thầm hiểu ra, cười khẽ:

“Thanh Lưu đối với A Anh thật không có gì để chê, là một người đàn ông hiếm có, A Anh động lòng với huynh ấy cũng phải thôi.”

Tạ Lãm nghe nàng khen người khác thì không vui chút nào, cho dù người đó là Lạc Thanh Lưu. Hắn cau mày làu bàu:

“Sao nàng không khen ta? Cái gì hắn cũng học từ ta, đến nguyên liệu rèn vũ khí cũng chọn y như ta, chẳng có lấy một chút sáng tạo nào hết!”

Phùng Gia Ấu nhìn dáng vẻ tức tối của hắn thì buồn cười nhưng nàng cố làm ra vẻ ngạc nhiên:

“Thì ra bộ kim châm trong tay áo của ta cũng làm từ loại hàn thiết này à?”

“Đúng thế.”

Phùng Gia Ấu híp mắt, giọng thong thả:

“Nhưng ta chưa bao giờ đưa nó cho Thanh Lưu xem, vậy làm sao huynh ấy nhận ra?”

Một câu hỏi khiến Tạ Lãm nghẹn họng, chau mày suy nghĩ.

Một lúc lâu sau, mới chợt nhớ ra, chính là lần nhờ Lạc Thanh Lưu tới thành hoang nhặt kim dùm mình.

Liếc sang Phùng Gia Ấu, thấy nàng cười tủm tỉm đầy ẩn ý, ánh mắt trêu chọc. Tạ Lãm lập tức hiểu ra Lạc Thanh Lưu đã bán đứng mình.

Hắn lập tức bật dậy, định chạy ra ngoài tiệc tìm Lạc Thanh Lưu tính sổ. Nhưng sực nhớ bây giờ hai người ngoài mặt không cùng phe, Lạc Thanh Lưu không đến dự tiệc

Thế là ỉu xìu ngồi xuống, nhỏ giọng biện bạch:

“Ấu Nương… không phải ta tiếc tiền đâu, chỉ là mấy cây kim ấy đều do ta tự tay mài từng cây một, vất vả như thế, mất thì tiếc lắm.”

Thật ra là tiếc tiền thật. Năm xưa mua khối hàn thiết ấy hắn đã vét sạch tiền dành dụm bao năm.

Nhưng không thể để Phùng Gia Ấu nghĩ mình keo kiệt được.

Thực ra Phùng Gia Ấu chỉ thấy buồn cười mà thôi.

Tạ Lãm đổi đề tài:

“À đúng rồi, Thẩm Thời Hành tặng gì vậy?”

Theo lệ ở kinh thành, những người quan hệ thân thiết thường gửi lễ đến từ hôm trước.

Tạ Lãm có linh cảm Thẩm Thời Hành sẽ tặng thứ gì đó kỳ quặc, nói chung là chẳng giống ai.

Phùng Gia Ấu đáp:

“Một rổ vàng. Nói là chàng cứ hay soi mói huynh ấy, tặng gì chàng cũng không vừa lòng, thế nào cũng kiếm chuyện nói cho bằng được, nên dứt khoát đưa tiền, bảo chàng tự đi mà mua.”

Tạ Lãm: “…”

Hắn lại hỏi tiếp:

“Còn Lý Tự Tu? Mang danh là đồ đệ nhị thúc, A Ngô là cháu ngoại của nhị thúc, chắc không dám đưa quà tệ đâu nhỉ?”

“Là một bộ thư pháp quý hiếm mà anh ta sưu tầm được và quý trọng, với một bộ sách vỡ lòng do chính tay anh ta soạn.”

Nàng vừa nói vừa chỉ tay về phía kệ sách đang xếp đầy ắp.

Những quyển đó nàng đã đọc hết cả rồi.

“Không hổ là đế sư. Sách viết còn hay hơn cả mấy bộ sách vỡ lòng đang lưu hành hiện giờ. Chắc không lâu nữa sẽ được ban hành rộng rãi khắp cả nước.”

Phùng Gia Ấu không khỏi thầm nghĩ, nếu năm đó ở Kim Lăng, Lý Tự Tu mà chịu gửi cho nàng bộ sách thiếu nhi kiểu này, biết đâu… nàng đã ưng y rồi cũng nên.

Tạ Lãm cười khẩy, chẳng lấy làm cảm kích chút nào:

“Thư pháp thì miễn cưỡng coi như có giá trị, nhưng mấy quyển sách vỡ lòng sắp được in đại trà toàn quốc thì có gì quý hiếm?”

Phùng Gia Ấu nhẹ nhàng nói:

“Thì in ra phát hành là bản khắc gỗ thôi, còn cái anh ta tặng cho A Ngô là bản viết tay — độc bản, chỉ có một, tất nhiên quý giá rồi.”

Tạ Lãm biết một bức thư pháp của Lý Tự Tu cũng đã đáng giá ngất ngưởng, huống chi là cả một bộ sách. Nhưng biết thì biết, hắn vẫn hừ mũi khinh khỉnh:

“Lý Tự Tu còn sống sờ sờ ra đó, ai biết sau này có viết thêm bao nhiêu bản đem tặng nữa.”

Phùng Gia Ấu không buồn tranh luận:

“Chàng nói cũng đúng.”

Lúc này, bé A Ngô trong nôi phát ra tiếng ư a.

Tạ Lãm vội vàng nhìn sang thì thấy bé m.út m.út môi vài cái, rồi lại thiếp đi.

Nói đến quà tặng… Lý Tự Tu đã mang sách vỡ lòng tặng con trai hắn, vậy thì…

Tạ Lãm tung tung khối Hàn thiết nặng trịch trong tay, nói:

“Vậy ta sẽ dùng khối hàn thiết này, rèn cho A Ngô một con dao nhỏ để chơi.”

Phùng Gia Ấu khuyên:

“Loại sắt này hiếm lắm, chàng cứ chờ thêm đã, giờ còn chẳng biết A Ngô có phải là người hợp luyện võ hay không mà.”



Sau tiệc đầy tháng, Giang Hội Từ rời kinh thành, quay về Dương Châu tiếp tục việc kinh doanh.

Lần này, Phùng Gia Ấu và Tạ Lãm cùng tiễn bà ra đến bến đò, vừa đi vừa nói cười vui vẻ.

Hoàn toàn khác với lần tiễn biệt trước đây, trong lòng Phùng Gia Ấu không còn chút buồn thương nào. Bởi nàng đã thật sự tin rằng con đường mẹ chọn là đúng đắn, và bà đang sống ngày một tốt hơn.

Còn chuyện mai sau thế nào, vẫn là điều chưa biết.

Có thể một ngày nào đó, mẹ nàng nhận ra lòng mình vẫn chẳng thể buông bỏ Phùng Hiếu An, rồi quay về đoàn tụ với ông.

Mà cũng có thể, bà sẽ gặp được một người đàn ông tốt hơn, rồi tái giá lần nữa.

Dù là kết cục nào, Phùng Gia Ấu cũng tin rằng mẹ nàng sẽ không còn sống như ngày trước — bị động và chịu đựng nữa.



Sau đó, chuyện lớn tiếp theo mà Phùng Gia Ấu phải đối mặt chính là trình luật mới lên triều đình.

Quá trình diễn ra gần đúng như lời Lý Tự Tu từng dự đoán. Sau khi Phùng Hiếu An dâng bản luật dưới tên nàng, triều đình lập tức dậy sóng.

Còn chưa đợi Nội Các kịp phản ứng, Ti Lễ Giám đã là bên đầu tiên phản đối.

Từ trước đến nay, Từ Tông Hiến vốn không hay làm việc theo kiểu cực đoan, vậy mà lần này, ông lại dẫn đầu hoạn đảng, phản đối vô cùng gay gắt. Tựa như bộ luật mới của Phùng Gia Ấu đã động đến lợi ích nào đó của bọn họ vậy.

Từ đó, Nội Các vốn nên là phe cứng rắn lại đâm ra ỡm ờ, không rõ ràng.

Sau hai năm đứng giữa cơn bão dư luận, cuối cùng bản luật do chính tay nàng biên soạn đã được triều đình phê chuẩn, định ngày đầu năm tới sẽ bắt đầu áp dụng.



Sau đợt bận rộn ấy, hai vợ chồng lại đưa nhau trở về thành Hắc Thủy một chuyến.

Khác với lần trước, lần này họ dẫn theo cả Tiểu A Ngô — lúc này đã hai tuổi rưỡi.

Nói đến chuyện A Ngô lớn lên thành thế nào, bao lo lắng trước đó của Tạ Lãm hóa ra đều là chuyện lo bò trắng răng. Bé không những chẳng phải bị thịt, mà còn vô cùng lanh lợi, biết nói sớm, thuộc thơ nhanh, đầu óc cực kỳ nhanh nhạy.

Mới có hai tuổi, khi Tạ Lãm dạy Tùy Tư Nguyên luyện võ, nhóc con đứng bên lon ton bắt chước theo. Dù thân thể mềm nhũn, nhưng dáng dấp lại giống đến tám phần.

Phùng Gia Ấu chỉ coi như nhìn cho vui, còn Tạ Lãm đã chắc như đinh đóng cột rằng bé là hạt mầm võ học, trong lòng mừng húm.

Vậy nên lần này hắn nhất quyết phải đưa A Ngô về thành Hắc Thủy một thời gian. Bản thân Tạ Lãm chưa từng dạy võ cho trẻ nhỏ, nhưng cha hắn thì lại là cao thủ trong việc đó, từng đào tạo ra một thiếu niên mười ba tuổi đã xưng bá khắp Tây Bắc.

Thế nên chuyện khai mở căn cơ võ học cho A Ngô, Tạ Lãm một lòng muốn giao cho Tạ Triều Ninh.



Dọc đường về Tây Bắc, Phùng Gia Ấu cứ nơm nớp không yên. Nàng quá rõ tính tình nghiêm khắc của Tạ Triều Ninh, không ngừng tự hỏi có cần thiết phải làm vậy không.

Cho đến khi họ đặt chân tới thành Hắc Thủy, nàng mới nhận ra mình đã nghĩ nhiều rồi.

Nàng quên mất rằng, có một loại tình thân gọi là ‘tình ông cháu’.

Tạ Triều Ninh vừa trông thấy bé A Ngô, liền lập tức từ người cha nghiêm khắc biến thành một ông nội hiền lành. Mặt mũi lạnh tanh với con trai bao nhiêu, thì nhìn cháu nội lại dịu dàng cưng chìu bấy nhiêu.

Nghe xong ý định của Tạ Lãm, ông chỉ bảo:

“Cứ từ từ, để thằng bé nghỉ ngơi mấy hôm rồi tính.”

Hôm ấy, thấy cháu trai bị nắng làm đỏ mặt, trông như thể cũng thừa hưởng cái ‘tật’ của nhà họ Lục, Tạ Triều Ninh lập tức tặng cho bé một cây dù che nắng đặc chế.

Còn liên tục dặn dò:

“Nắng sa mạc gắt lắm, da non dễ bị bỏng. Có nắng thì phải che, đừng có học thằng cha ngốc của con, khi xưa bị nắng thiêu tróc mấy lớp da.”

Tạ Lãm kinh ngạc:

“Cha! Trước kia chẳng phải cha cứ bảo con phải chịu khó ra nắng thì chân mới cứng, còn mắng con là con trai mà sợ nắng làm gì?”

Tạ Triều Ninh đáp tỉnh rụi:

“Hồi đó là vì nhà mình ăn uống chẳng ra sao, không phơi nắng thì mày lớn lên chân tay yếu ớt. Giờ thì khác rồi, có thiếu thốn gì đâu, không cần tắm nắng xương cốt cũng vững vàng, khỏi lo.”

Tạ Lãm: “…”

Khi A Ngô luyện võ mệt quá, nhõng nhẽo đòi ăn kẹo, Tạ Triều Ninh liền móc cả nắm trong tay áo ra đưa ngay.

Tạ Lãm càng thêm sửng sốt:

“Cha! Ngày xưa con chỉ mới nói muốn ăn kẹo là ăn ngay một bạt tai! Cha chẳng bảo con trai thì phải khổ mới nhớ đời còn gì?”

Tạ Triều Ninh lườm hắn:

“Hồi đó cơm còn chẳng đủ no, mày còn đòi ăn kẹo, lấy đâu ra mà cho?”

Tạ Lãm: “…”

A Ngô vừa mới nói thích thỏ con, chưa đến nửa ngày sau, Tạ Triều Ninh đã bắt hẳn một ổ đem về.

Tạ Lãm cười nhạt:

“Cha chẳng từng bảo ‘ham chơi hại thân’ sao? Trước kia con mà muốn nuôi con gì là cha cấm hết, chỉ tặng cho con mỗi con kền kền trụi lông!”

Tạ Triều Ninh nói dứt khoát:

“Cũng là câu cũ thôi. Hồi ấy người ăn còn không đủ, lấy đâu ra đồ dư mà nuôi thú cưng? Cha cho mày nuôi kền kền là bởi nó chỉ ăn xác thối, khỏi giành phần cơm của nhà mình.”

Hay lắm! Tạ Lãm cảm thấy mình sắp tức đến trào máu.

Hóa ra bao nhiêu năm trời, những lý lẽ cao vời hắn từng bị nhồi nhét hồi nhỏ, nào là “ăn khổ mới nên người”, nào là “nam nhi đại trượng phu phải thế này thế nọ”…

Tất thảy đều là… xạo sự hết!

Nguồn cơn cũng chỉ gói gọn trong một chữ: nghèo!

Vốn định ở lại thành Hắc Thủy vài ba tháng, cuối cùng Tạ Lãm chỉ cầm cự được nửa tháng đã vội vã dắt vợ con cuốn gói quay về kinh. Ở lại thêm vài ngày nữa, hắn sợ thằng bé nhà mình sẽ bị ông nội nuông chiều đến hỏng.

Phùng Gia Ấu ở thành Hắc Thủy suốt ngày xem trò vui, hôm nào cũng cười tít mắt.

Thấy dáng vẻ Tạ Lãm đêm hôm thu xếp đồ đạc bỏ chạy, nàng lại được thêm trận cười nữa.



Sau khi thất bại trong việc nhờ người khác khai mở võ học cho con, về tới kinh thành, Tạ Lãm đành tự mình ra tay, bắt đầu trực tiếp dạy Tiểu A Ngô tập võ.

Còn việc khai mở văn học thì giao hẳn cho ông ngoại Phùng Hiếu An cùng mẹ bé đảm đương, hắn tuyệt nhiên không nhúng tay vào.

Tiểu A Ngô lớn ngày một nhanh. Người ta bảo “ba tuổi nhìn ra cả đời”, ai nấy đều khen sau này lớn lên thể nào cũng văn võ song toàn.

Tạ Lãm mừng không để đâu cho hết, nhưng trong lòng lại có một nỗi bực bội không nói nên lời.

Hắn phát hiện con trai mình càng lớn càng giống người mà hắn ghét nhất kinh thành — Lý Tự Tu.

Không phải giống về vẻ ngoài, mà là cách nói chuyện, dáng điệu, từng cử chỉ, thỉnh thoảng khiến hắn có cảm giác như đang nhìn thấy một Tiểu Lý Tự Tu vậy.

Nhưng nghĩ kỹ lại, hắn nhớ nhị thúc từng nói, Lý Tự Tu và Phùng Gia Ấu không hợp nhau, bởi Lý Tự Tu khá giống ông. Vậy nên, có lẽ Tiểu A Ngô giống ông ngoại.

Tuy nhiên, đến khi Tiểu A Ngô được hơn năm tuổi, Tạ Lãm mới chính thức xác nhận một sự thật:

Thằng bé không giống nhị thúc, mà thật sự có vài phần giống Lý Tự Tu.

Lần trước lên Tây Bắc, Tiểu A Ngô đã bộc lộ căn bệnh di truyền của nhà họ Lục — chỉ cần bị nắng chiếu vào là hai má đỏ ửng không bình thường. Chứng này còn nặng hơn cả Tạ Lãm và Tạ Lâm Khê năm xưa.

Trong những ngày đông nắng nhẹ dịu của kinh thành, chỉ cần phơi nắng trưa một chút thôi, hai má bé đã đỏ ửng như thoa phấn hồng.

Tạ Lãm đích thân làm cho bé một cây dù nhỏ, cán dù có thể xoay được, tháo ra thì hóa thành một thanh kiếm ngắn. Bên ngoài là dù che nắng, bên trong kỳ thực là ám khí, gọi là dù giấu kiếm.

Lúc được tặng, Tiểu A Ngô vui mừng thích thú .

Vừa xoay người đã chạy ngay vào phòng lấy bút lông ra, mặt mày hí hửng định viết chữ lên tán dù trắng tinh.

Tạ Lãm thoáng sững lại, lập tức liên tưởng tới những vạt áo viết đầy thơ phú của Lý Tự Tu, mặt sầm xuống:

“Tiểu A Ngô, con định viết gì lên dù?”

Tiểu A Ngô chớp mắt:

“Con thấy dù này trắng quá, nên muốn viết mấy câu thơ lên cho đỡ đơn điệu.”

Quả nhiên là thế! Tạ Lãm truy hỏi:

“Tại sao? Thấy trống thì con có thể vẽ, con vẽ đẹp lắm mà, cớ gì cứ phải viết thơ?”

Tiểu A Ngô cúi gằm mặt:

“Cái này… cái này…”

Tạ Lãm nghiêm mặt:

“Ngẩng đầu lên nói cho đàng hoàng! Không cho lắp ba lắp bắp!”

Tiểu A Ngô nhỏ giọng thú nhận:

“Là con học theo Lý đại nhân.”

Tạ Lãm đương nhiên đã đoán ra:

“Cha hỏi tại sao con lại học theo hắn? Thấy thú vị lắm hả?”

Tiểu A Ngô lúng túng:

“Nương không cho con nói…”

Tạ Lãm nghe xong liền quay người đi tìm Phùng Gia Ấu, nhưng trước khi đi vẫn không quên căn dặn con trai:
“Không được viết gì lên cái dù này hết! Áo của Lý đại nhân có thể thay mỗi ngày, nhưng dù giấu kiếm của con thì không.”



Phùng Gia Ấu đang xem văn thư ở thư lâu. Thấy phu quân hằm hằm xách theo bút lông của Tiểu A Ngô bước vào, đoán ra được bảy tám phần, tim nàng giật thót.

Tạ Lãm ném cây bút xuống bàn, nhưng giọng lại không quá gay gắt:

“Ấu Nương, nàng nói ta biết coi, chuyện này là thế nào? Sao A Ngô lại học theo Lý Tự Tu? Mà nàng còn bảo nó giấu ta?”

Phùng Gia Ấu vội vàng đứng dậy, ấn Tạ Lãm ngồi xuống, nhẹ nhàng xoa lưng dỗ dành:

“Tại ta sợ chàng sẽ giận… Chuyện này ta cũng không thể làm gì khác được. Từ khi học chữ đến giờ, A Ngô đã khâm phục tài học của Lý Tự Tu, xem anh ta là thần tượng, còn lấy làm mục tiêu phấn đấu. Nó nói muốn làm đế sư, muốn vào Nội Các, làm đến chức Thủ phụ. Nhưng chuyện này cũng là suy nghĩ bình thường mà.”

Tạ Lãm cau mày:

“Nhưng vấn đề là… thằng bé gặp hắn được mấy lần đâu? Đếm trên đầu ngón tay vẫn còn dư. Sao lại thần tượng dữ vậy?”

Không lẽ tên họ Lý đó bỏ bùa con trai mình?

Phùng Gia Ấu đã nghĩ tới chuyện này từ lâu:

“Ta đoán là do bộ sách vỡ lòng anh ta tặng lúc A Ngô đầy tháng.”

Tạ Lãm sững lại:

“Sách vỡ lòng?”

Phùng Gia Ấu nhắc:

“Chính là mấy quyển sách anh ta tự tay biên soạn, gửi tặng A Ngô lúc đầy tháng ấy…”

Tiểu A Ngô được y khai mở tư tưởng, chắc chắn âm thầm bị ảnh hưởng, e là chẳng ít đâu.

Tạ Lãm nghiến răng:

“Giỏi lắm Lý Tự Tu!”

Hắn sớm biết tên đó không có lòng tốt gì mà. Con hắn còn đỏ hỏn mà y đã âm thầm ra tay rồi!

Mai gặp trên triều, nhất định phải xử y một trận ra trò!

Tạ Lãm hậm hực đứng lên, trở lại tìm con trai.

Việc cấp bách bây giờ là phải lật đổ hình tượng “thần tượng” của Lý Tự Tu trong lòng thằng bé.

Song, Tạ Lãm ‘lật’ suốt nửa năm, kết quả vẫn chẳng mảy may thay đổi.

Tiểu A Ngô bây giờ nằng nặc đòi đến bái Lý Tự Tu làm thầy!

Tạ Lãm đương nhiên không đời nào chịu.

Tiểu A Ngô cầu xin không được, bèn đổi cách, ngày nào cũng lẽo đẽo đi theo cha, lý lẽ phân tích đủ điều.

Tạ Lãm vờ như không nghe thấy.

Một ngày nọ, Tiểu A Ngô không nhịn được nữa, ấm ức kêu:

“Cha! Sao cha vô lý vậy chứ?!”

Vừa đúng lúc Tạ Lãm đang muốn ngồi xuống, đường hoàng ‘nói lý lẽ’ với con trai.

So với việc ngưỡng mộ Lý Tự Tu, thì mấy lý lẽ quanh co nói mãi không dứt của con trai mới khiến hắn đau đầu hơn cả.

Tạ Lãm bắt đầu:

“Cha nghe nói hôm qua con cãi nhau với con trai của Thị lang Công Bộ ở lớp học? Nó còn ra tay đánh con, mà con vẫn ngồi đó giảng đạo lý cho nó?”

Tiểu A Ngô gật đầu:

“Nếu con đánh lại, chẳng phải con cũng giống nó, là người không biết lý lẽ phải trái sao? Cha yên tâm, cuối cùng con nói thắng nó rồi. Nó xin lỗi con, cả thầy cũng khen con đó ạ.”

Tạ Lãm đưa tay day day thái dương, cố kiềm chế cảm xúc:

“Vậy nếu nó nhất quyết không chịu nghe, cứ đánh con thì sao? Con có biết trên đời này không phải ai cũng chịu nghe lý lẽ không?”

Tiểu A Ngô đương nhiên biết chứ. Cha bé chính là điển hình sống động cho kiểu người chẳng bao giờ chịu nghe lý lẽ!

Người ta vẫn nói: Rồng sinh rồng, phượng sinh phượng, con chuột sinh ra đã biết đào hang.

Tiểu A Ngô ngày ngày tự nhắc nhở mình: tuyệt đối không được nóng nảy, phải lấy đức phục người.

Còn nếu thực sự không được nữa…

Tiểu A Ngô sờ tay lên chiếc ô đeo bên hông:

“Cha, cha quên là con có dù giấu kiếm sao? Nếu thật sự gặp kẻ ngang ngược, không nghe lý lẽ, con nhất định sẽ rút kiếm.”

Nghe tới đây Tạ Lãm ruốt cuộc cũng được an ủi:

“May mà con không ngốc lắm. Cha đã nói bao nhiêu lần rồi, muốn người ta nghe lời, cuối cùng vẫn phải dựa vào sức mạnh. Chỉ có học võ cho giỏi, thì mới không bị ai bắt nạt, mới khiến thiên hạ nghe theo con.”

Tiểu A Ngô gật đầu rành rọt:

“Đúng ạ. Con phải đánh cho mấy kẻ không chịu nghe lỹ lẽ phải câm miệng, quỳ xuống, ngoan ngoãn nghe con giảng đạo lý!

Tạ Lãm chết sững:

“Con rút kiếm… là để bắt người ta nghe con giảng đạo lý?”

Tiểu A Ngô tỉnh bơ:

“Dạ vâng.”

Tạ Lãm nghiến răng:

“Tạ Chân Ngô, mớ lý lẽ vớ vẩn đó… con nhất quyết phải giảng cho bằng được hả?”

Tiểu A Ngô ngơ ngác:

“Kết quả cuối cùng là mọi người đều phải nghe con mà. Chẳng phải đúng như yêu cầu của cha sao? Con sai chỗ nào?”

Tạ Lãm: “…”

“Phải rồi, con không sai, là cha sai.” Tạ Lãm không rõ vì mình cãi không lại cậu bé hay bị cậu bé làm tức đến nghẹn họng.

Hắn quay người đi thẳng đến thư lâu tìm Phùng Gia Ấu:

“Ấu Nương…”

“Làm sao vậy?” Phùng Gia Ấu nghe giọng hắn đầy ấm ức, vội ngẩng đầu khỏi đống công văn.

Tạ Lãm bước tới, ngồi xổm xuống cạnh chân nàng, gục đầu lên đầu gối nàng:

“Hay là… chúng ta cố thêm lần nữa, sinh thêm một đứa đi. Lần này có ra một đứa ngốc cũng chẳng sao…”

Sớm biết sẽ sinh ra một đứa khiến người ta phải đau đầu như vậy, thì lúc trước hắn còn nhẫn nhịn làm gì?

Phùng Gia Ấu hiểu ngay:

“Lại bị A Ngô chọc tức phải không? Thật ra con không cố đâu, chỉ là suy nghĩ hơi… đặc biệt thôi.”

Trong đầu lúc nào cũng đầy mấy ý tưởng kỳ quặc, đến nàng còn không uốn nắn nổi.

Mà thật ra, chỗ này rất giống Tạ Lãm. Cách tư duy đều có chút ‘dị biệt’, nhưng mỗi người lại ‘dị’ một kiểu riêng.

“Không liên quan tới A Ngô. Ta thật lòng muốn có thêm một đứa nữa thôi.”

Tạ Lãm bây giờ chẳng tin mấy kinh nghiệm sinh con ngày trước nữa:

“Chọn ngày chi bằng ngay hôm nay, chúng ta sinh luôn bây giờ đi.”

Dứt lời, hắn đứng dậy, thuận thế bế bổng Phùng Gia Ấu lên khỏi ghế.

Nàng dở khóc dở cười:

“Sao chàng vẫn tùy hứng thế chứ? Lúc trước ta nói muốn sinh thêm, ai là người bảo nuôi một đứa đã đủ khổ, chẳng muốn hai ta lại khổ thêm lần nữa hả?”

Lúc A Ngô mới sinh, những ngày tháng khó nhọc nhất đều do Tạ Lãm một tay chăm lo ngày đêm. Suốt ba năm trời hắn hốc hác thấy rõ, mãi đến hai năm gần đây A Ngô lớn thêm một chút, hắn mới dần hồi phục.

“Nay đã khác xưa. Suy nghĩ con người cũng thay đổi mà.”

Tạ Lãm lúc trước đâu biết chuyện sẽ thành ra thế này, giờ chỉ muốn sinh thêm đứa nữa xem sao.

“Giờ ta cũng có cảm giác giống nàng — nhà có thêm tiếng cười vẫn là tốt hơn.”



Tác giả có lời muốn nói:

Ngoại truyện đến đây là hết rồi, tui thấy vậy là đủ rồi ha~

Giờ nghỉ ngơi để dành sức viết bản thảo cho bộ tiên hiệp sắp mở tiếp theo. Các tỷ muội, hẹn gặp ở truyện sau nhé!

Ai đọc hết rồi thì nhớ để lại đánh giá tốt cho cái kết nhe!

— Toàn văn hoàn —
 
Back
Top Bottom