Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Hoàng Thúc, Thiếp Ngoan Mà

[BOT] Mê Truyện Dịch

Active member
Quản Trị Viên
Tham gia
7/9/25
Bài viết
420,166
Điểm cảm xúc
0
Điểm thành tích
36
AP1GczP2HE_Ihz4gB7eQ7q6wqqmU9aJPPGhnRJJ6B9AZ7YpzKZcBAFj1qnNlGSzOw3ORD2V24c_GhZ5WhBPF6ohSim7vKmtkD-VVNjo2dR2jbVLFx7KX8ysRR9ZsuZDHj8uBIG7XLGXa8gCblC5wzXYdjLjF=w215-h322-s-no-gm

Hoàng Thúc, Thiếp Ngoan Mà
Tác giả: Ôn Tam
Thể loại: Ngôn Tình, Cổ Đại, Ngược, Sủng
Trạng thái: Đang ra


Giới thiệu truyện:

Chiếu chỉ bất ngờ giáng xuống, thiếu nữ mười sáu tuổi Chúc Chiếu trở thành Văn Vương phi do Hoàng đế đích thân chỉ định, gả cho vị “Hoàng thúc” lớn hơn nàng mười tuổi – một trong những vương gia có địa vị thấp kém nhất, chỉ từng gặp qua một lần.

Từ đó, cuộc sống tân nương của nàng bắt đầu.

Cùng các phi tần ngắm vũ y, thưởng nhạc khúc, san sẻ “niềm vui chốn khuê phòng”, mang hai cuốn xuân đồ về phủ thì bị trách mắng;
Dự trà hội cùng công chúa, bàn chuyện “thuần phục phu quân”, chứng kiến Thái phó mã quỳ gối van xin, lại bị trách mắng;
Hẹn phu nhân quan viên dạo vườn, tai nghe đầy tiếng “ai oán của thê bị ruồng bỏ”, rồi lại bị chuốc rượu đến say khướt, Văn Vương thân chinh đến đón, tỉnh lại vẫn là bị trách mắng.

Nghe nói gần đây Văn Vương thường lui tới nơi phong trần, Chúc Chiếu nén đau đề nghị nạp thiếp để chàng vui lòng, kết quả… lại bị trách mắng.

Văn Vương đỡ trán: “Nàng ngoan một chút, được không?”

Chúc Chiếu gật đầu: “Hoàng thúc, thiếp ngoan mà!”

Nàng hiền lành nghe lời, chưa từng bước chân khỏi vương phủ, vậy mà nửa đêm đi bắt mèo cũng có thể bắt gặp Văn Vương đang lôi kéo quần thần, mở tiểu nghị tại mật thất – dường như đang mưu toan soán vị…

Trong thư phòng, Văn Vương lạnh giọng: “Kẻ nào?!”

Chúc Chiếu ôm mèo nhỏ: “…Meo.”

Ghi chú của tác giả: Ngọt có, ngược có, đọc là đủ! Tiết tấu chậm, bối cảnh lịch sử hư cấu, xin đừng đối chiếu thực tế.​
 
Hoàng Thúc, Thiếp Ngoan Mà
Chương 1: Mộng Xưa


Vào cuối tháng hai, tuyết ở kinh thành đã rơi suốt ba ngày mà vẫn chưa tan. Chúc Chiếu còn nhớ khi ấy nàng vừa mới từ trong cung trở về, chẳng bao lâu sau thì di nương cũng tới phủ, dẫn theo tỷ tỷ Hoàn Oánh và ca ca Đàm Nhi. Di nương mỉm cười gặp phụ thân nàng, rồi bảo Hoàn Oánh tỷ tỷ và Đàm Nhi ca ra hậu viện chơi cùng nàng.

Hoàn Oánh tỷ tỷ đã chín tuổi, đọc nhiều sách, thường tự cho mình thanh cao. Nàng ở cùng di nương tại Lang Tây, ít khi vào kinh, nên số lần gặp Chúc Chiếu cũng chẳng là bao, tình cảm giữa hai người không sâu đậm.

Đàm Nhi ca thì lại thích chơi đùa, chỉ là hắn vẫn nhớ năm Chúc Chiếu ba tuổi, hắn từng dẫn nàng ra ngoài chơi nước vào giữa hè. Khi ấy tuy làm ướt người cũng không phải chuyện gì to tát, Chúc Chiếu chỉ ướt hai cánh tay mà về nhà đã sốt cao không lui, mất nửa tháng mới đỡ. Từ đó, Đàm Nhi ca biết thân thể nàng yếu ớt, nên cũng chẳng còn thích dẫn nàng chơi nữa.

Mẫu thân Chúc Chiếu khi mang thai nàng đã phải uống nhiều thuốc, lại sinh non, suýt mất nửa cái mạng. Chúc Chiếu sinh ra thân thể yếu nhược, phải dùng thuốc mấy năm mới có thể đi lại, nhưng vẫn không thể vận động nhiều. Mẫu thân vì muốn nàng dễ nuôi, nên đặt cho nàng một chữ hiệu là Trường Ninh.

Khi Hoàn Oánh tỷ tỷ và Đàm Nhi ca ra hậu viện liền buông tay Chúc Chiếu ra, ngồi một bên bàn luận về mấy quyển sách vừa đọc. Chúc Chiếu cũng thích đọc sách, nghe họ nhắc đến “Luận Ngữ” thì muốn bắt chuyện. Nhưng khi nàng cất tiếng đọc thuộc cả văn bản, Hoàn Oánh và Đàm Nhi liền nói nàng khoe khoang văn chương, rồi đẩy nàng sang một bên.

Chúc Chiếu cầm tay, nói: “Di nương bảo các người cùng ta chơi mà.”

Đàm Nhi ca nghe vậy liền nhíu mày, quát: “Ngươi còn dám mách với nương ta nữa?”

Chúc Chiếu quay người định chạy đi mách, Hoàn Oánh tỷ tỷ thông minh, biết rõ phụ thân Chúc Chiếu làm Bí thư giám, chức quan cao hơn phụ thân họ rất nhiều, mẫu thân nàng lại là tỷ tỷ của mẫu thân họ, nếu Chúc Chiếu thật sự đi mách, e là sẽ chuốc thiệt vào thân.

Hoàn Oánh tỷ tỷ bèn nói: “Trường Ninh à, muội muốn chơi, không bằng chúng ta chơi trò trốn tìm đi? Muội với Đàm Nhi đi trốn, ta đi tìm! Nếu ta tìm được muội, thì muội thua, sau đó đổi lại, ta trốn, muội tìm ta, có được không?”

Chúc Chiếu khi ấy mới sáu tuổi, chưa hiểu lời Hoàn Oánh có bao nhiêu phần thật giả, liền gật đầu đồng ý. Nàng bắt đầu tìm một nơi để trốn trong Chúc phủ, vừa quay người đi, Đàm Nhi tưởng Hoàn Oánh thật sự muốn chơi, cũng toan đi theo, nhưng lại bị Hoàn Oánh lén kéo áo giữ lại.

Hai người thấy Chúc Chiếu biến mất ở cuối hành lang, khi chạy còn khúc khích cười, liền mặc kệ nàng. Chưa kịp nói được vài câu, thì nương họ đã tới, vội vã kéo hai người đi, sắc mặt đầy căng thẳng.

Chúc Chiếu còn nhỏ, chỉ nhớ khi ấy nàng rất muốn thắng, nên tìm chỗ trốn thật khó. Nàng chui vào thư phòng của ca ca. Ca ca nàng là họa sư trong cung, thư phòng đầy tranh chữ, còn có cả hũ trữ tranh. Chúc Chiếu ôm tranh trong hũ, dọn chỗ trống rồi chui vào, lấy một cuộn tranh đậy lên trên, chỉ chừa một khe nhỏ, chờ xem Hoàn Oánh tỷ tỷ tức giận vì không tìm ra nàng.

Ai ngờ, Chúc Chiếu đợi đến ngủ quên trong hũ, trời sẩm tối, bên ngoài náo loạn mà vẫn chẳng thấy ai đến.

Cửa thư phòng bất ngờ bị đẩy mở từ bên ngoài, trời đã tối, ánh lửa không rõ từ đâu hắt lên giấy dán cửa sổ, rọi sáng cả bầu trời trên phủ Chúc.

Chúc Chiếu nghe tiếng mở cửa, dụi mắt len lén nhìn qua khe, thấy một nam tử áo xanh như ngã nhào vào phòng, vội vàng đóng cửa lại rồi tra then, sau đó loạng choạng tới kệ sách tìm thứ gì đó. Hắn chạm vào một hũ trà, vặn một cái, làm một ngăn bí mật bật mở.

Nam tử áo xanh lấy tranh trong ngăn, trải lên bàn, vội viết gì đó lên giấy, còn chưa viết xong thì ngoài cửa sổ đã có bóng người, máu nóng văng lên giấy dán, lưỡi đao lóe lên. Chúc Chiếu từ trong hũ hé mở tranh trên đầu, ngẩn ngơ đứng dậy, lộ nửa người ra ngoài.

Người đang viết hoàn toàn mải mê, không để ý trong phòng còn người khác.

Chúc Chiếu sợ hãi, nhưng vẫn nhận ra ánh lửa, mùi máu nồng nặc lan đến. Nàng nghe thấy tiếng phụ nữ thét gào thảm thiết bên ngoài, liền run giọng gọi: “Ca ca…”

Nam tử đang viết – Chúc Hiểu – nghe tiếng gọi như bị sét đánh, kinh hoảng ngẩng đầu, thấy ngay Chúc Chiếu ở gần đó, sắc mặt lập tức trắng bệch. Hắn vội vã buông bút, bước tới bế nàng ra khỏi hũ, ôm chặt vào lòng, hơi thở hỗn loạn.

“Trường Ninh, sao muội lại ở đây… sao muội có thể ở đây?” Chúc Hiểu xoa đầu nàng, nhìn thẳng vào mắt nàng, vành mắt đỏ như rỉ máu, dịu giọng dỗ dành: “Quên chuyện hôm nay đi, Trường Ninh, bất kể lát nữa có xảy ra chuyện gì, cũng đừng lên tiếng, nghe rõ chưa?”

Chúc Chiếu nửa hiểu nửa không, nhưng vẫn ngoan ngoãn gật đầu. Chúc Hiểu nhìn tranh trên bàn, do dự rồi buông tay, định bế nàng rời đi. Nhưng tay vừa chạm cửa, liền nghe tiếng bước chân rầm rập bên ngoài.

Hắn gần như theo bản năng, nhanh chóng đặt nàng lại trong hũ, ngoài kia đã có người ra lệnh lục soát. Chúc Hiểu cầm lấy giá nến, châm lửa đốt bức tranh trên bàn. Tranh còn chưa cháy, người đã đến ngoài cửa.

Thấy Chúc Chiếu vẫn trong hũ, hắn tay nắm chặt tờ giấy, tay kia cầm bức tranh, quỳ một gối bên nàng: “Trường Ninh, đừng ra ngoài, đừng lên tiếng!”

Rồi hắn đậy bức tranh lên miệng hũ, tiện tay nhặt một bức thư họa dưới đất, nhét mảnh giấy vào miệng, nhai nuốt xuống. Khi bóng người đổ lên cửa, hắn lao ra ngoài không chút do dự.

“Bắt lấy hắn!”

Chính vào khoảnh khắc ấy, một tiếng sấm dữ dội vang lên, tia chớp xé trời lóe sáng, khiến thân thể nhỏ bé của Chúc Chiếu run rẩy trong chiếc hũ đựng thư họa.

Qua khe hở của bức họa đậy trên, nàng trông thấy tiểu viện bên ngoài thư phòng. Chúc Hiểu chỉ chạy đến bên bể cá, hắn ném bức họa trong tay vào đống lửa. Những kẻ áo đen truy sát hắn, nửa thì lao tới cứu lấy bức tranh, nửa thì vung đao chém thẳng vào thân thể hắn.

Trong đôi mắt đang run rẩy của Chúc Chiếu phản chiếu ánh lửa rực cháy, phản chiếu cả những thi thể nằm la liệt ngoài cửa và thân ảnh đẫm máu của Chúc Hiểu.

Ngọn lửa đêm ấy cháy dữ dội dị thường, đến nỗi cơn mưa rào bất chợt cũng chẳng thể dập tắt.

Lửa lan tới thư phòng, Chúc Chiếu vẫn khắc ghi lời dặn của ca ca. Nàng che miệng, không dám phát ra tiếng động, cũng không dám chui ra khỏi chiếc hũ thư họa. Cho đến khi ánh lửa vây lấy bốn phía, chiếu sáng rực cả thư phòng, nàng không còn thấy rõ cảnh tượng bên ngoài, điều duy nhất lọt vào tầm mắt là bức họa đậy phía trên đầu.

Ánh lửa trên mái nhà phản chiếu lên bức họa, trên đó là những khuôn mặt sống động như thật – tất cả đều là những người nàng chưa từng gặp qua, ai nấy vận quan phục, từ cửu phẩm tiểu quan đến nhất phẩm đại thần, xếp thành hàng ngay ngắn, ai cũng hướng về phía trời như đang cầu nguyện. Mỗi khuôn mặt đều không giống nhau, chi tiết đến độ nàng phân biệt được sự khác biệt giữa hai người cùng mặc một loại quan phục – từ chân mày, sống mũi đến cằm đều khác biệt rõ rệt.

Bức họa và ánh lửa cùng in đậm trong con ngươi khiếp đảm của Chúc Chiếu.

Nàng run lẩy bẩy, ho sặc khói nhưng vẫn cố che kín miệng mũi, không dám phát ra tiếng. Đến khi bức họa cháy lan, lửa bén vào bên trong, thiêu cháy cả váy áo nàng, một kèo xà trên nóc nhà mới sập xuống, ngói đen rơi rào rào, kéo theo mưa lớn đổ xuống hũ.

Kẻ bước vào khi ấy là một nam nhân mặc hắc y, đeo kiếm bên hông. Khi Chúc Chiếu thấy hắn, nàng đã bị mưa xối ướt sũng, buông tay khỏi miệng mũi, vừa hít thở đã òa khóc nức nở.

Nam nhân áo đen vội vã ôm lấy nàng ra khỏi hũ, khi ấy thư phòng của họa sư hoàng cung đã cháy thành tro tàn.

Khi bị ôm ra, Chúc Chiếu vùng vẫy dữ dội, hé miệng cắn chặt vào vai người đó. Nàng gần như dốc hết sức lực, toàn thân run rẩy, người kia không kêu đau, mãi đến khi đưa nàng thoát khỏi lửa đỏ phủ Chúc phủ, mới chậm rãi bước tới một người.

Người ấy cao ráo, vóc dáng gầy gò, dưới áo choàng đen thêu long văn lộ ra lớp bạch y, sau lưng có kẻ cầm dù đen che mưa. Tán dù rộng lớn khiến mưa chẳng thể ướt được một góc y phục hay vấy lên giày hắn.

Nam nhân áo đen bế Chúc Chiếu đứng trước mặt người đó, hạ giọng: “Vương gia, còn một nhân chứng sống.”

Hắn kéo nhẹ Chúc Chiếu, nhưng không kéo nổi. Vai bị cắn càng lúc càng đau, hắn đành nghiêng người để đối phương nhìn rõ nàng.

Khi ấy, phần lưng áo Chúc Chiếu bị cháy rách, lộ ra phần da thịt nơi vai bị bỏng, lại thêm bị mưa xối, nàng run lên vì lạnh nhưng vẫn không buông vai kẻ ôm mình.

Chúc Chiếu sau đó trông thấy một bàn tay – các ngón thon dài, khớp xương rõ ràng, ngón cái đeo một chiếc nhẫn bạch ngọc, trên nhẫn khắc hình rồng ẩn hiện giữa mây.

Bàn tay ấy nhẹ nhàng nắm hai bên má nàng, không dùng sức. Khi ấy nàng đã kiệt quệ, ho khói suốt một thời gian dài, mắt mờ chẳng rõ khuôn mặt người kia, nhưng nàng nhớ rõ giọng nói.

Hắn nói: “Tiểu Trường Ninh, ngoan nào, buông ra đi.”

Chúc Chiếu nhớ giọng nói ấy, nên buông ra. Cả hàm đau nhức, trong miệng toàn vị máu.

Người kia cởi áo choàng phủ lên người nàng, chỉnh lại chiếc khóa vàng trường mệnh đeo trên cổ, nhẹ nhàng vuốt tóc nàng, rồi bảo người bế nàng: “Đưa nàng đến phủ thân nhân, mong cả đời này, đừng trở lại kinh thành nữa.”

Người kia nghe lệnh, nhanh chóng rời đi, bỏ lại Chúc phủ vẫn chìm trong biển lửa. Trong mắt Chúc Chiếu, bóng người dưới tán dù mỗi lúc một xa. Đêm đó, dù nàng không thấy rõ mặt, nhưng mãi mãi ghi nhớ, nhớ lấy giọng nói ấy, nhớ hắn là ai.

Họ không kiêng dè, gọi người đó là “Vương gia”, Chúc Chiếu biết, hắn là Văn Vương.

Bóng cây lay động, xe ngựa lắc lư, bánh xe xóc phải đá, khiến mọi người trong xe chao đảo. Lập tức có tiếng nói: “Lão Dương, đánh xe cho ổn chút!”

“Xin lỗi phu nhân, đường thật khó đi.” – Tiếng lão Dương từ bên ngoài vang lên.

Một tiếng “lão Dương”, một tiếng “phu nhân” – đủ để đánh thức Chúc Chiếu còn đang mắc kẹt trong cơn ác mộng. Nàng tựa vào thành xe, đưa tay sờ trán, chỗ vừa va vào có chút đau.

Trong xe còn năm người khác.

Ngồi giữa là di nương của Chúc Chiếu, bên cạnh là hai người con: Hoàn Oánh mười chín tuổi và Đàm Nhi mười bảy tuổi. Bên trái Hoàn Oánh là nhị phu nhân – kế thất của nàng ta, và bên cạnh bà ta là tiểu nữ mười hai tuổi – Hoàn Tình.

Chúc Chiếu ngồi phía Đàm Nhi, nhưng cách khá xa, gần sát cửa xe.

Rèm xe bị gió hất tung, lúc này đang giữa mùa hè, chứ chẳng phải trời tuyết tháng hai như trong mộng.

Chúc Chiếu không ngờ bản thân lại nhớ rõ như vậy.

Giấc mơ vừa rồi khiến tim nàng vẫn còn bàng hoàng chưa yên.

Năm ấy nàng còn nhỏ, sau đó được đưa đến nhà di nương, lâm trọng bệnh. Khi khỏi bệnh, di nương từng hỏi đêm ấy phủ Chúc đã xảy ra chuyện gì, nàng chỉ nói đã quên. Bình thường nhớ lại cũng chẳng nhớ được chi tiết, vậy mà nay trong mộng tất thảy rõ ràng như thật – như thể nàng vừa sống lại một lần nữa.

Chúc Chiếu vén rèm xe, nhìn ra ngoài hít thở gió trời. Di nương lại hỏi: “Lão Dương, còn bao lâu nữa thì đến kinh thành?”

“Gần rồi, phu nhân, trước khi mặt trời lặn là tới!” – Lão Dương đáp, rồi hỏi thêm: “Phu nhân vào kinh lần này là gặp gia chủ sao?”

Lão Dương không phải người nhà di nương, chỉ là phu xe bà ta thuê. Kinh thành có nhiều quan lại, nhưng quan nhỏ thường khó mua nhà, vợ con ở quê, mỗi dịp lễ mới vào kinh thăm, chuyện này vốn thường tình.

Di nương hừ một tiếng, liếc sang Chúc Chiếu, không đáp.

Chúc Chiếu hiểu ý, biết nên im lặng, tốt nhất là đến cả hơi thở cũng nhẹ đi, dứt khoát quay mặt nhìn cảnh liễu xanh ngoài rèm xe.

Di nương mang nàng vào kinh, không phải để gặp thân thích, mà bởi nửa tháng trước, một đạo thánh chỉ từ ngàn dặm truyền đến phủ di nương tại Lang Tây.
 
Hoàng Thúc, Thiếp Ngoan Mà
Chương 2: Ban Hôn


Mười năm trước, ngày hai mươi ba tháng hai, toàn gia Bí thư giám Chúc Thịnh ở kinh thành gặp đại nạn, sát thủ đột nhập vào phủ trong đêm, giết sạch cả nhà. Phu nhân và trưởng tử Chúc Hiểu đều không sống sót, nguyên nhân xảy ra án mạng không ai hay biết, tất cả dấu vết trong phủ cũng bị trận đại hỏa thiêu sạch.

Vụ án được giao cho Đại Lý Tự điều tra, nhưng hung thủ hành động vô cùng cẩn mật, không để lại bất kỳ dấu vết nào quanh phủ Chúc. Đại Lý Tự truy xét hồi lâu cũng không thu được kết quả gì. Sau đó, từ nhà họ Từ mới biết, Chúc Thịnh còn có một tiểu nữ – hôm xảy ra chuyện đã theo di nương rời phủ từ sớm nên may mắn sống sót.

Vì vụ án nhà họ Chúc, Đại Lý Tự đã thẩm vấn nhà họ Từ không biết bao nhiêu lần. Chủ gia Từ – Từ Đông – là võ tướng của Tử Môn quân trong kinh thành, xuất thân thô lậu, chỉ thông thạo quyền cước. Hắn lấy vợ là Từ Liễu thị – muội muội cùng cha khác mẹ với phu nhân Chúc Thịnh, song hai nhà lại không thân thiết.

Mỗi lần bị hỏi tại sao trước khi phủ Chúc gặp nạn, Từ Đông lại để thê tử mình đưa Chúc Chiếu rời đi, Từ Đông đều khăng khăng nói không biết gì.

Thực ra, ngay lần đầu bị hỏi, suýt nữa Từ Đông đã nói ra sự thật: Chúc Chiếu không phải do thê tử hắn đưa đi ban ngày, mà là nửa đêm về sáng, Từ Liễu thị khi đang trên đường trở về Lang Tây thì bị người chặn xe, giao cho một Chúc Chiếu đang hôn mê.

Từ Đông đầu óc đơn giản, nhưng Từ Liễu thị thì giảo hoạt. Nàng biết nếu họ nói thật, Đại Lý Tự tất sẽ bám riết không buông. Nếu bị truy hỏi về người giao Chúc Chiếu, có nhìn rõ mặt không, tại sao không giữ lại, sau đó có điều tra gì không… Những câu ấy, nàng không thể đối phó nổi.

Khi ấy Từ Liễu thị nói: “Phu quân nghĩ mà xem, tỷ phu là Bí thư giám, biết bao nhiêu cơ mật trong cung, lỡ như đắc tội quyền quý nào đó mới bị diệt môn, nếu chúng ta cũng bị lôi vào, chẳng có lợi gì cho đường quan lộ của chàng, thậm chí nhà họ Từ cũng sẽ gặp họa.”

Tử Môn quân chẳng qua chỉ là lính gác cổng thành trong số nhiều đội quân ở kinh thành. Từ Đông vừa được phong làm tổ trưởng, ngay cả ngưỡng cửa quan trường cũng chưa bước vào, sao dám dây vào tranh đấu triều đình?

Thế nên, hắn đành nghe theo lời thê tử, bất kể Đại Lý Tự hỏi bao nhiêu lần, vẫn nói rằng hôm đó thê tử hắn vào kinh thăm trượng phu, tiện ghé Chúc phủ, thấy Chúc Chiếu đáng yêu, lại chơi thân với con hắn, được Chúc Thịnh cho phép nên đưa về Lang Tây ở vài tháng, đến tiết Thanh Minh thì đưa về lại.

Ai ngờ ngay sau khi họ đưa Chúc Chiếu đi, nhà họ Chúc liền gặp chuyện.

Sau đó, Đại Lý Tự dây dưa với nhà họ Từ suốt một năm mà không điều tra ra manh mối nào, vụ án bị xếp xó, chẳng nói là chưa phá được, cũng chẳng điều thêm người tra xét.

Mười năm – thời gian đủ để người ta quên đi đêm cuối tháng hai ấy, quên đi một ngọn lửa thiêu rụi cả phủ Bí thư giám ở kinh thành. Chỉ là sau này có người nói, năm đó thiên tai nhân họa không ngớt – bởi năm ấy, ngoại trừ vụ án nhà họ Chúc, tiên hoàng cũng băng hà.

Tiên hoàng chỉ có một hoàng tử, tuổi còn nhỏ, khi đăng cơ mới bốn tuổi, các thân vương lục đục tranh quyền đoạt thế, giành giật quyền nhiếp chính.

Lần này Chúc Chiếu theo di nương nhập kinh, cũng là để gặp một vị vương gia.

Chỉ là vị vương gia này khác hẳn với những thân vương khác. Tiên hoàng có bốn đệ, ba người đã phong thân vương, chỉ riêng vị này không được phong, thậm chí từ sau chuyện xảy ra mười năm trước, còn bị hoàng đế mới lạnh nhạt, trở thành người bị lãng quên trong số các vương gia.

Không có quyền, tiền cũng chẳng dư, phủ đệ ít người, ngày thường chỉ biết tiêu khiển nhàn nhã.

Hắn là Văn Vương – Minh Vân Kiến.

Nửa tháng trước, thánh chỉ đột ngột giáng xuống phủ họ Từ ở Lang Tây, Từ Liễu thị quỳ rạp trước cửa phủ, vẻ mặt đầy kinh ngạc hoang mang. Mãi tới khi nội giám truyền chỉ rời đi, nàng vẫn còn ngẩn người, quỳ gối chưa đứng dậy.

Nội giám thấy nàng còn quỳ, bật cười: “Từ phu nhân, mau tiếp chỉ đứng dậy đi.”

Từ Liễu thị ngơ ngác tiếp chỉ, tay run run cầm chặt cuộn lụa vàng, không dám tin hỏi: “Công công… thật sao? Thánh chỉ thật sự là ban hôn? Gả con gái tỷ tỷ ta, tức là… tức là Chúc Chiếu, cho Văn Vương sao?!”

“Bọn nô tài đích thân tới đây, còn có thể giả sao?” Nội giám từng truyền nhiều thánh chỉ, chưa bao giờ thấy gia đình hàn môn nào có thể gả nữ nhi cho vương gia kinh thành, liền nói: “Từ phu nhân nhớ rõ ngày cưới ghi trong chỉ, sớm thu xếp vào kinh đi. Văn Vương tuy đã hai mươi sáu tuổi, nhưng phủ không có trắc thất, Chúc tiểu thư vào phủ chính là Văn Vương phi, chớ sơ suất.”

Nội giám nói vậy là vì lúc rời kiệu đã thấy Từ Liễu thị sai Chúc Chiếu ra ngoài mua đồ, dặn dò đủ điều, còn nữ nhi ruột của nàng thì ngồi trong sân chải tóc, đùa nghịch trâm ngọc.

Thánh chỉ để lại, nội giám chờ thêm cũng chẳng thấy Từ Liễu thị vui mừng hay có chút thành ý, bèn phất tay áo rời đi.

Vài hôm sau, Chúc Chiếu mang đồ về, mới nghe di nương nói sẽ đưa nàng vào kinh.

Trước giờ Từ Liễu thị vào kinh thăm Từ Đông chưa từng dẫn nàng theo, lần này lại dẫn, Chúc Chiếu nghi ngờ. Trước lúc xuất phát, Từ Liễu thị mới nói, trong kinh có thánh chỉ gả nàng cho Văn Vương, đây là mệnh vua không thể khước từ. Mấy hôm trước không tiết lộ là vì phải hỏi kỹ Từ Đông, thư hồi đáp của hắn cũng đã định rõ – phải là Chúc Chiếu gả đi.

Xe ngựa đi bảy ngày, cuối cùng cũng đến gần kinh thành.

Ngay lúc xe gần tới nơi, Chúc Chiếu mới mơ thấy giấc mộng kia.

Có lẽ vì đến giờ nàng vẫn chưa kịp thích nghi với thánh chỉ, nên mới mơ lại những ký ức mơ hồ thời thơ ấu. Nay gió hè thổi qua, nàng đã gần như quên đi trong mộng có cơn mưa lớn, quên đi sau khi được cứu ra khỏi Chúc phủ, liệu có thật từng thấy Văn Vương dưới tán ô ấy, hay là lớp áo khoác từng mang hơi ấm của hắn.

Có lẽ tất cả chỉ là ký ức hư ảo của tuổi thơ, không phải thực.

Như lời lão Dương đánh xe – khi mặt trời sắp lặn phía tây, xe ngựa đã đến cổng thành kinh đô.

Từ Liễu thị thấy Hoàn Oánh soi gương nhỏ chỉnh sửa tóc, không nhịn được bèn đẩy trán nàng: “Giờ con sửa soạn cho ai ngắm vậy?”

“Vào kinh rồi mà, nghe nói người của Văn Vương phủ sẽ ra đón sắp xếp chỗ ở. Chút nữa xuống xe, nhất định có người nhìn thấy, biết đâu Văn Vương cũng có mặt đấy.” – Hoàn Oánh cười đáp.

Từ Đàm nói thẳng: “Tỷ có trang điểm thêm cũng vô ích. Trong thánh chỉ ghi tên là Chúc Chiếu, chứ không phải tỷ.”

“Đàm nhi, im miệng!” – Từ Liễu thị trừng mắt nhìn hắn, trong lòng cũng thấy không vui. Về tài học, Từ Hoàn Oánh ở Lang Tây cũng được coi là tài nữ có tiếng. Về dung mạo, dù Chúc Chiếu mặt mày thanh tú, nhưng do từ nhỏ thể nhược đa bệnh, thân hình mảnh khảnh, da dẻ nhợt nhạt, so ra kém xa Từ Hoàn Oánh đầy đặn duyên dáng. Nếu thực sự chọn Vương phi cho Văn Vương, thì thế nào cũng chẳng đến lượt Chúc Chiếu.

Trong lòng Từ Liễu thị ngẫm nghĩ, nếu lát nữa quả thật được gặp Văn Vương, đem Hoàn Oánh và Chúc Chiếu so sánh, cao thấp rõ ràng, biết đâu lại có thể đưa luôn Hoàn Oánh vào phủ.

Dù Văn Vương không được sủng ái ở kinh, nhưng dù sao cũng là vương gia, nhà thường dân nào dám mơ tới địa vị Vương phi?

Sau khi xuất trình thư vào thành, xe ngựa đến kinh thành đúng lúc ánh tà dương vừa tắt. Qua cổng thành son đỏ, trước mắt là cảnh phồn hoa náo nhiệt. Đại lộ kinh thành rộng rãi đến độ mấy cỗ xe đi song song cũng không chật chội.

Chúc Chiếu vừa vào thành đã nhìn chằm chằm ra ngoài qua rèm. Không biết từ khi nào, Từ Hoàn Tình thức giấc, chen đến bên nàng nhìn cùng. Cô bé lanh lợi, tính tình hiếu kỳ, kéo tay Chúc Chiếu hớn hở reo lên: “Trường Ninh tỷ, mau nhìn kìa! Tòa lầu kia cao thật đấy! Ngói sao lại màu xanh thế? Muội chưa từng thấy!”

Trong phủ họ Từ, chỉ có Nhị phu nhân và Hoàn Tình gọi nàng là “Trường Ninh”. Chính vì cách gọi này thân thiết, Chúc Chiếu cũng có phần thiên vị hai người.

Trí nhớ tuổi thơ tuy mơ hồ nhưng chưa hẳn mất hết. Chúc Chiếu mỉm cười, đưa tay chạm nhẹ chóp mũi Hoàn Tình: “Đó là ngói lưu ly. Tòa lầu muội thấy tên là Phương Xuân Vân Các, là tửu lâu lớn nhất kinh thành, toàn bộ đều xây theo kiểu vuông vức.”

“Giờ không phải nữa rồi.” – Từ Đàm chen vào, chỉ một nơi khác: “Thấy tòa lầu cao đỏ vàng kia không? Đó mới là tửu lâu lớn nhất, tốt nhất hiện nay ở kinh thành.”

Chúc Chiếu đưa mắt nhìn theo, bên cạnh tửu lâu ấy là một lầu nhỏ mái đỏ, lòng nàng bỗng trùng xuống, mi mắt khẽ run.

Nơi đó – chính là cổng Chúc phủ năm xưa.

Sau vụ cháy, Chúc phủ bị triều đình thu hồi, sau lại ban cho vị đại thần nào, nàng không hay biết.

Từ Đàm vẫn thao thao bất tuyệt, không rõ là đang giới thiệu cho Hoàn Tình hay đang khoe khoang kiến thức. Thấy hắn mặt mày hớn hở, tự đắc vì hiểu rộng biết nhiều, còn liếc nhìn nàng liên tục. Chúc Chiếu mỉm cười, kéo tay Hoàn Tình nói: “Muội xem, Đàm ca ca hiểu biết thật đấy, đúng là lợi hại.”

Câu khen nửa đùa nửa thật khiến Từ Đàm phấn khởi, bị Hoàn Tình níu kéo liền cùng nàng chen ra góc khác ngồi tán chuyện.

Ngay cả khi Từ Đàm đọc sai chữ trên biển hiệu, Chúc Chiếu cũng không sửa, chỉ có Từ Hoàn Oánh ngồi phía sau vén rèm bật cười: “Chữ với nghĩa đều cho chó ăn rồi à? Ngươi xem ngươi nói đúng cái nào chưa?”

Sống trong nhà họ Từ, Từ Liễu thị cho Chúc Chiếu không thiếu ăn mặc, nhưng môi trường ấy dạy nàng biết giữ mực, khi nào nên lùi, lúc nào không nên gây chú ý.

Trời tối dần, hai bên đường phố kinh thành đều treo lồng đèn, người qua lại ít hơn, đường dễ đi, xe ngựa dừng trước một quán trọ. Lão Dương ngẩng đầu nhìn, cười nói: “Từ công tử, ta ít học, xem thử đây có phải Trung Duyệt khách đ**m không?”

“Câu này là đang chọc ghẹo hắn à?” – Từ Hoàn Oánh cười, đẩy Hoàn Tình ra rồi tự mình nhìn ra ngoài: “Không sai, đúng chỗ này rồi.”

Nàng lập tức nhảy khỏi xe ngựa.

Cả xe cũng lần lượt xuống theo. Đang giờ ăn tối, quán trọ đông khách, tiểu nhị bận túi bụi, chỉ kịp vẫy tay từ xa.

Chưởng quầy không mấy nhiệt tình ra hỏi vài câu, Từ Liễu thị liếc nhìn Chúc Chiếu, nàng liền hiểu ý, bước về phía sau xe lấy hành lý. Từ Liễu thị nhìn quanh cửa quán, rồi vào trong, kế toán hỏi: “Phu nhân tìm gì vậy?”

Từ Liễu thị mỉm cười hỏi nhỏ: “Tiên sinh cho hỏi, mấy hôm nay có người từ Văn Vương phủ đến đây không?”

“Không có.” – Chưởng quầy đáp gọn.

Sắc mặt Từ Liễu thị sa sầm, Từ Hoàn Oánh đứng bên cạnh cũng thất vọng. Từ Liễu thị miễn cưỡng lấy bạc trả tiền, nói: “Phiền ngài, đặt ba phòng.”

Kế toán thu bạc, dẫn người vào. Từ Liễu thị bảo Nhị phu nhân: “Tối nay ngươi với Hoàn Tình và Chúc Chiếu ở chung một phòng.”

“Vâng.” – Nhị phu nhân luôn cung kính với Từ Liễu thị, không dám cãi, chỉ dặn Hoàn Tình nhỏ tiếng khi chơi với Chúc Chiếu.

Vào kinh, nơi nào cũng có thể gặp người quyền quý, tốt nhất là giữ kín đáo, tránh gây chú ý.

Lão Dương thấy cả nhà đã vào trong, ngoái lại nhìn Chúc Chiếu vẫn đang sắp hành lý ở sau xe. Sáu bảy phần đồ đạc một mình nàng lo, trên tay đã treo không ít túi, lão lắc đầu chặc lưỡi, thấy nhiều cũng lười can thiệp.

Chúc Chiếu vừa xếp hành lý vừa thấy tai không còn âm thanh huyên náo, mới nhẹ nhàng thở ra, vai trĩu xuống, ánh mắt đăm đăm nhìn mặt gỗ thô ráp phía sau xe, khó nói nổi liệu việc không gặp người của Văn Vương phủ lúc này là may mắn hay thất vọng.

Nay nàng không còn thân nhân tại kinh, đã được ban hôn cho Văn Vương, lại có thư nói sẽ có người đến đón, nhưng nay chẳng thấy ai, tức là bên kia chẳng xem trọng nàng, hoặc vốn không ưng thuận cuộc hôn nhân này.

Cạnh quán trọ có một ngõ hẹp, chỉ vừa cho một người đi. Cơn gió thổi suốt từ trong ngõ bỗng lặng, tóc mai bay nhẹ cũng dần hạ xuống. Cảm giác như có ai đang nhìn, Chúc Chiếu quay đầu nhìn vào ngõ tối – một bóng người bất ngờ hiện ra trong bóng đêm, khiến nàng giật mình.

Chỗ đó… vừa rồi rõ ràng không có ai!

Chúc Chiếu sững sờ nhìn đối phương. Khoảng cách không đầy mười bước, người ấy hoàn toàn ẩn trong bóng tối, chỉ có ngọc bội xanh lục trên kiếm đeo ngang hông phản chiếu ánh sáng mờ.

Chúc Chiếu trông thấy ngọc bội ấy, bất chợt nhớ đến cảnh trong mộng – năm đó, khi nàng trốn trong hũ tranh, bóng đen đáp xuống mang kiếm, cũng lấp lánh viên ngọc xanh ấy.

“Ngươi là người của Văn Vương phủ?” – Nàng vừa cất tiếng hỏi thì đã nghe tiếng di nương gọi giục, đáp lời xong quay đầu lại nhìn, hẻm nhỏ kia đã không còn ai.
 
Hoàng Thúc, Thiếp Ngoan Mà
Chương 3: Tái Ngộ


Chúc Chiếu nhìn quanh, chẳng còn thấy bóng đen kia đâu. Tay xách hành lý dần siết chặt, nhưng nàng vẫn đeo lên vai từng túi lớn túi nhỏ, lặng lẽ bước vào quán trọ.

Lên đến lầu hai, nàng mới phân phát hành lý vào từng phòng. Lúc ấy, Từ Hoàn Tình đã bắt đầu nhốn nháo đòi ra ngoài chơi.

Cửa sổ tầng hai đang mở, dưới phố đã có các quầy đêm bày hàng. Cả ngày ngồi xe khiến mọi người đều mệt nhoài, từ trưa cũng chưa ăn cơm. Mùi khoai nướng thơm nức lan xa, Từ Hoàn Tình khó mà ngồi yên cũng là điều dễ hiểu.

Chúc Chiếu theo nàng ghé bên cửa sổ nhìn xuống, thấy xa xa có nhà ai bốc khói lam chiều, xe đẩy bán bánh ngọt chậm rãi dọc lề đường, vừa đi vừa rao mời gọi lũ trẻ con chưa kịp về nhà ghé mua vài miếng.

Từ Hoàn Tình níu tay áo nàng, không nhịn được nói: “Trường Ninh tỷ, dắt muội đi đi! Mẫu thân nói đại nương không ra ngoài thì chúng ta cũng không được ra, nhưng muội thật muốn đi!”

Chúc Chiếu biết rõ, Nhị phu nhân vào Từ phủ cũng trải qua nhiều sóng gió, sau khi vào phủ thì nhường nhịn khắp nơi, nếu không Từ Liễu thị đã chẳng cho ở lại đến nay. Dù hai người ngoài mặt hoà thuận, nhưng để nàng dắt Từ Hoàn Tình ra ngoài thì không tiện, đổi người khác có khi còn hợp hơn.

Nàng bèn nói: “Muội đi tìm Đàm ca ca, nếu huynh ấy chịu ra ngoài, chúng ta nhất định được theo.”

Từ Hoàn Tình nghe thế liền chạy đi tìm Từ Đàm, bị hắn mắng mấy câu cũng không đi, bám riết không tha. Từ Đàm hết cách, thực ra hắn cũng rất muốn ra ngoài nên dắt tay Từ Hoàn Tình đi báo với Từ Liễu thị.

Từ Hoàn Oánh nghe Từ Đàm nói ra ngoài, tất nhiên cũng đòi đi. Từ Liễu thị bèn bảo: “Cho cả con bé Chúc Chiếu đi theo, có mua gì thì để nó xách.”

Từ Hoàn Oánh và Từ Đàm theo Từ Liễu thị vào kinh vài lần mỗi năm, khá quen đường sá, vừa ra khỏi quán trọ đã rảo bước đến chỗ mình biết.

Từ Hoàn Tình mới đến kinh thành hai ba năm trước một lần, giờ nơi nơi đã thay đổi, mà càng lớn, ký ức tuổi nhỏ lại càng mờ nhạt.

Từ Hoàn Oánh và Từ Đàm đi trước, chẳng đoái hoài phía sau, Từ Hoàn Tình bèn hỏi Chúc Chiếu: “Trường Ninh tỷ, mẫu thân bảo muội năm tuổi còn sống ở đây, sao chẳng nhớ gì nhỉ?”

Chúc Chiếu nghĩ rồi đáp: “Có lẽ vì trẻ con thường từ sáu tuổi trở lên mới nhớ rõ những gì từng trải.”

Mẫu thân Từ Hoàn Tình vốn là cô gái quê ở một trấn ngoại thành. Vì Từ Liễu thị sinh Từ Đàm xong sức khỏe sa sút, hai năm không vào kinh, nên Từ Đông mới gặp Nhị phu nhân, rồi lâu ngày nảy sinh tình cảm, lập nên một gia đình nhỏ tại kinh. Nhưng Từ Đông sợ vợ, mãi chẳng dám nói rõ. Sau này Từ Liễu thị tự phát hiện, ầm ĩ một trận, khi ấy Từ Hoàn Tình đã bốn năm tuổi. Dù tức giận, Từ Liễu thị cũng phải chấp nhận Nhị phu nhân, may là người này biết nhún nhường. Trong nhà, mọi việc lớn nhỏ vẫn do Từ Liễu thị làm chủ. Mỗi lần vào kinh, Nhị phu nhân chưa chắc được đi cùng, huống hồ là Hoàn Tình.

Từ Hoàn Oánh chỉ tay về phía trước: “Chỗ đó có thi xã, nhớ hồi xuân năm ấy ta có để lại một nửa bài thơ, không biết có ai đối được không, ta đi xem!”

“Thơ phú thì có gì hay.” – Từ Đàm đáp – “Vẫn là chuyện kể trong Lầu Tước Nhi hấp dẫn hơn. Ta đi bên trái, tỷ tùy ý.”

Vừa dứt lời, Từ Hoàn Oánh liền lấy tay chọc lưng hắn: “Toàn học cái thói xấu của người lớn!”

Lầu Tước Nhi là nơi nghe kể chuyện nổi danh ở kinh, chỉ là bên trong không phải uống trà mà uống rượu. Những chuyện kể cũng chẳng phải tích cổ tích danh nhân, mà là chuyện ** *n nam nữ. Nói là kể chuyện, nhưng thực chất sau màn trướng là những điều phòng the truyền miệng, học một nghe mười.

Từ Hoàn Oánh và Từ Đàm tách nhau ra, Từ Hoàn Tình không biết nên theo ai.

Từ Hoàn Oánh đi nơi thanh nhã, nhưng tính nết chẳng dễ gần. Từ Đàm dễ nói chuyện, nhưng chỗ đến lại khiến nữ nhân ngại ngần. Hoàn Tình do dự một hồi, cuối cùng đi theo Từ Hoàn Oánh.

Chúc Chiếu thấy nàng miễn cưỡng, liền an ủi: “Học hỏi tỷ tỷ con chữ là điều tốt.”

“Muội không muốn giống bà chằn như tỷ ấy, mười chín tuổi còn chưa gả được.” – Từ Hoàn Tình nói câu này, khiến nụ cười của Chúc Chiếu khựng lại. Hồi trước, Từ Hoàn Tình chưa từng nói như vậy. Có lẽ con người, lớn lên rồi, cũng học thêm không ít điều không hay.

Chỉ ngẩn người một thoáng, Hoàn Tình đã bước theo Từ Hoàn Oánh. Nàng không dám nắm tay tỷ tỷ mình, chỉ quay đầu vẫy tay với Chúc Chiếu: “Trường Ninh tỷ, mau tới!”

Chúc Chiếu hoàn hồn, cười nhẹ đáp: “Tới đây!”

Vừa nhấc chân, bên cạnh bỗng có nhóm trẻ con chen qua, ép vào tay nàng, miệng hò hét có người phát kẹo phía trước. Nàng bị đám trẻ chen lấn đến không thể di chuyển, chỉ đành đứng đợi chúng đi qua.

Theo hướng tụi nhỏ kéo tới, Chúc Chiếu quả nhiên thấy một người đang phát kẹo. Khi ngẩng lên nhìn, nụ cười nàng lập tức cứng lại – người kia mặc hắc y, tóc búi cao, đeo kiếm bên hông, kiếm gắn ngọc bội xanh, dáng đứng thẳng tắp. Trong tay hắn là những viên kẹo mạch nha bọc giấy vàng, chia cho lũ trẻ qua đường.

Chúc Chiếu ngây người nhìn hắn, mới nhận ra – người này trừ trang phục ra thì hoàn toàn khác với kẻ từng cứu nàng giữa đêm mưa và biển lửa năm xưa. Hắn trẻ hơn nhiều, vóc dáng tuy cao ráo, nhưng rõ ràng chỉ là thiếu niên tầm mười ba mười bốn tuổi.

Lũ trẻ nhận kẹo xong liền tản đi, chỉ còn một hai đứa nán lại bên thiếu niên hỏi: “Ca ca còn kẹo không?”

Thiếu niên lắc đầu, bọn trẻ mới thất vọng rời đi.

Chúc Chiếu tiến đến gần thiếu niên nọ, nhưng không dám tới quá gần, cảnh giác hỏi: “Người trong hẻm sau khách đ**m khi nãy là ngươi sao?”

Thiếu niên nhìn nàng. Gương mặt gầy gò, nước da sạm, nhưng đôi mắt trong veo, phản chiếu rõ nét gương mặt nàng. Hắn gật đầu. Chúc Chiếu lại hỏi tiếp: “Ngươi là người của Văn Vương phủ?”

Hắn lại gật đầu. Như chợt nhớ điều gì, thiếu niên rút ra một xấp giấy từ trong ngực. Tờ đầu tiên viết: “Vương gia bảo ta theo cô.”

Chúc Chiếu ngẩn ra, khẽ hỏi: “Ngươi không thể nói chuyện?”

Thiếu niên mím môi, không gật cũng chẳng lắc, nhưng cũng xem như đã trả lời. Dáng vẻ hắn như đang mong chờ nàng hỏi tiếp điều gì đó. Chúc Chiếu bèn thử dò: “Ngươi biết vì sao hôm nay Văn Vương không thể đến khách đ**m không?”

Thiếu niên có vẻ vui mừng, tìm ra một tờ giấy: “Kinh thành người đông, mắt cũng nhiều.”

Chúc Chiếu hiểu ra – hành động của Văn Vương phủ đang bị giám sát. Nàng nhìn xấp giấy trong tay thiếu niên, nhưng hắn vội cất đi, lui lại nửa bước. Nàng chớp mắt hỏi: “Vương gia sai ngươi đến, có điều gì muốn nói với ta sao?”

Thiếu niên tìm một tờ khác, đưa tới trước mặt nàng: “Canh Tuất tối nay, gặp lại ở chốn cũ.”

Chúc Chiếu ngẩn người – hiện tại mặt trời đã lặn, chính là giờ Tuất.

“Nếu ta không ra khỏi khách đ**m thì sao?” – nàng hỏi.

Thiếu niên có vẻ đắc ý, chìa ra tờ giấy: “Ta có mê hương.”

Chúc Chiếu nhướng mày – Văn Vương không đến, lại phái người đến đón, rõ ràng kinh thành đông người, dễ bị lộ, mà đối phương vẫn biết rõ nàng là ai, tức là hành tung của nàng cũng bị theo dõi. Nàng càng thêm nghi hoặc.

Nàng vẫn luôn không hiểu vì sao hoàng đế lại ban hôn giữa nàng và Văn Vương – một người mười năm không cưới vợ, tuổi cách biệt cả chục năm, nơi ở lại cách xa ngàn dặm.

Nàng siết lấy phần vạt áo trước ngực – nơi ẩn giấu chiếc khóa vàng trường mệnh duy nhất còn lại từ nhà họ Chúc. Giờ Tuất đã đến, “chốn cũ”… chỉ có thể là Chúc phủ năm xưa.

Thiếu niên giơ lên tờ cuối cùng: “Tiểu Trường Ninh, còn nhớ đường kinh thành không?”

Chữ viết như kéo nàng trở lại cơn mộng – tiếng gọi ôn nhu dịu dàng giữa đêm mưa dầm: “Tiểu Trường Ninh, ngoan nào, buông ra đi.”

Chúc Chiếu buông tay khỏi ngực, ngước nhìn con đường quen thuộc – cách đây không xa chính là nơi từng là Chúc phủ.

Thiếu niên đã dùng hết giấy, từng tờ một đều được cất lại. Chúc Chiếu bước theo hắn, lặng lẽ nhìn từng tảng đá xanh nứt nẻ, cỏ dại mọc đầy, nhưng vẫn không thể che đi dấu vết tuổi thơ nàng từng qua lại nơi này.

Con đường nhỏ không dài, chẳng mấy chốc đã ra đến đại lộ. Trước cửa Chúc phủ xưa là bãi đất hoang và vài căn nhà cũ, nơi có rặng trúc mà ca ca nàng từng yêu thích – thường đến đó vẽ tranh, để nàng ngồi bên xem.

Giờ đây nơi ấy đã đổi dạng, Chúc phủ biến thành tửu lâu, treo lồng đèn sáng rực – tên là “Tửu Phong Thập Lý”, bên cạnh là lầu đỏ, chính là nơi Từ Đàm nói là tửu lâu lớn nhất kinh thành.

Nghĩ đến Từ Hoàn Oánh và Từ Hoàn Tình, Chúc Chiếu giật mình. Vừa nãy bị đám trẻ chen lấn, hai người kia không rõ đã đi đâu. Trong khi nàng bị hút theo người Văn Vương phủ, chẳng còn để tâm đến ai nữa.

Giữa lúc đang lo lắng, nàng nghe thấy tiếng nói phía trước: “Nghe nói hôm nay có cô nương Lưu Mạt đến biểu diễn tại Tửu Phong Thập Lý, kinh thành nhiều quý nhân đều đến, chậm chân sợ chẳng có chỗ tốt đâu!”

Thiếu niên không dừng, bước theo hai người kia vào tửu lâu.

Chúc Chiếu ngẩn người nhìn bảng hiệu mạ vàng điêu khắc bên ngoài lầu: “Tửu Phong Thập Lý – Thập lý bất vi viễn, bách lý diệc khả lai.”

Bên trong đèn sáng như ban ngày, hai bên lối vào là giá nến hoa mỹ – đèn chụp khắc hình rắn quấn trúc, cá chơi sóng… ý vị có phần lẳng lơ.

Quay đầu nhìn lại, đối diện chính là nơi từng là Chúc phủ, giờ treo bảng “Tá Thập Lý”, nàng thấy lòng xót xa, bao hồi ức ùa về – buồn bã, tức giận, chua xót.

Thiếu niên đã vào trong, quay lại vẫy nàng. Chúc Chiếu do dự, nhưng vẫn bước theo.

Tiếng đàn sáo trống gõ rộn ràng. Nàng theo sau thiếu niên lên tầng ba – nơi này toàn là nhã gian, cao hơn các tầng dưới, từng phòng được che bởi rèm lụa và châu sa, khó thấy rõ bên trong. Nhưng nàng biết rõ – hầu hết các phòng không có người, bởi bên trong không có đèn.

Thiếu niên dừng lại trước một gian phòng. Ánh nến lay động, phản chiếu một bóng người. Người ấy đội ngọc quan, tay cầm chén rượu, đang ngồi chờ – trước mặt trống không, dường như đang đợi nàng.

Chúc Chiếu lưỡng lự, vô thức nhìn xuống dưới – đúng lúc cô nương Lưu Mạt đang cởi áo ngoài, vai ngọc hiện lộ, má ửng đỏ, đám đàn ông bên dưới la ó hò hét.

Mặt Chúc Chiếu đỏ bừng, chợt nghe một giọng nói vang lên:

“Sao thế? Đã đến đây, gặp bổn vương chẳng lẽ không quan trọng bằng xem người múa sao?”

Nàng giật mình quay lại, nghẹn thở.

Một bàn tay thon dài, khớp xương rõ nét vén rèm sa. Ngón cái đeo ngọc bạch ngọc, nửa gương mặt sau rèm khiến nàng không khỏi sững sờ.

Người ấy… phong tư như ngọc, đã chững chạc trầm ổn, mày kiếm nhập tán, mắt đào phản chiếu ánh nến, sống mũi cao, môi mỏng khẽ cười. Hắn vận bạch y, chỉ có đồng tử và tóc đen như mực. Khi ánh mắt chạm nàng, như kéo cả linh hồn nàng chìm vào sâu thẳm.
 
Hoàng Thúc, Thiếp Ngoan Mà
Chương 4: Vương Thúc


Chúc Chiếu cúi đầu, chậm rãi bước tới trước nhã gian. Thiếu niên áo đen vén lên một bên rèm châu cùng màn lụa, nhường lối cho nàng vào trong. Ngay sau đó, màn lại buông xuống, rèm châu đong đưa, bên trong và bên ngoài nhã gian nơi tửu lâu, như hai thế giới hoàn toàn tách biệt.

Bàn trong nhã gian không lớn, hai bên đặt ghế thái sư có đệm mềm.

Văn Vương ngồi một bên bàn, bởi tiết trời oi ả, trong tay còn cầm một chiếc quạt gấp viền bạc, áo trên người cũng không hoàn toàn là sắc trắng, phần cuối áo nhuộm chút sắc xanh biếc, bên trên thêu một con khổng tước không lớn không nhỏ. Đuôi khổng tước vắt nửa vòng quanh vạt áo, lồng vào giữa là hai đường kim tuyến vàng bạc, hình thêu sinh động như thật.

Chúc Chiếu đứng bên bàn, có phần lúng túng, ánh mắt lại dừng trên bàn, thấy trên bàn bày vài món ăn ngon miệng, nửa chay nửa mặn, vẫn còn nóng, chỉ có một ấm trà, rót ra một chén trà thanh, một chén trà sơn tra.

“Ngồi đi.” Minh Vân Kiến mở lời, chiếc quạt chỉ về phía đối diện.

Chúc Chiếu lúc này mới ngồi xuống, trước mặt là bát không và đôi đũa, nàng hơi nghi hoặc liếc mắt nhìn đối phương, trong lòng không khỏi thắc mắc, chẳng lẽ đêm nay mời nàng đến đây, chỉ để dùng bữa?

Minh Vân Kiến chống cằm một tay, ngón trỏ khẽ gõ bên tai có nhịp điệu, ánh mắt gần như từ đôi mắt nàng, chậm rãi nhìn xuống.

Tóc Chúc Chiếu sau một ngày xóc nảy trên xe ngựa không còn gọn gàng, vì nhà Từ Đông cũng chẳng mấy khá giả, từ nhỏ nàng toàn mặc lại đồ cũ của Từ Hoàn Oánh hoặc đồ nàng ta không mặc nữa. Bộ y phục trên người nàng hôm nay là đồ cũ của Từ Hoàn Oánh khi mười ba tuổi, nhưng vì từ nhỏ Chúc Chiếu thân thể yếu nhược, gầy gò mảnh khảnh, nên mặc vào cũng không quá lố.

Chiếc váy vàng nhạt đơn sắc, không có hoa văn, dây buộc tóc trên đầu cũng chẳng có trang sức gì, chỉ có một đóa trâm ngọc lục sắc, nhìn kỹ có thể thấy thiếu mất hai hạt châu nhỏ, đó là món Từ Hoàn Oánh chê không muốn, nên đưa cho nàng đeo.

Ánh nhìn của Minh Vân Kiến thực ra không kéo dài lâu, nhưng vì trong nhã gian chỉ có hai người bọn họ, khiến Chúc Chiếu cảm thấy hết sức ngượng ngập. Nàng khẽ rụt vai lại, đôi tay đặt dưới bàn căng thẳng siết chặt. Đợi khi Minh Vân Kiến thu ánh mắt, khẽ thở dài một hơi, nói: “Đúng là một đứa nhỏ.”

Chúc Chiếu “a” khẽ một tiếng, ngẩng đầu nhìn.

“Bổn vương nói ngươi còn quá nhỏ.” Minh Vân Kiến tặc lưỡi, bỗng trở nên uể oải. Hắn phất mạnh chiếc quạt gấp, mặt quạt trắng tinh, không có hoa văn gì, gió quạt bay, thổi tung mái tóc hắn. Minh Vân Kiến nói: “Ngươi lần này vào kinh, ắt là vì chuyện ban hôn, ngươi có hiểu, ban hôn là gì chăng?”

“Thưa vương thúc… hoàng… vương gia, tiểu nữ hiểu ý của ban hôn.” Chúc Chiếu suýt lỡ lời, vội vàng sửa lại, lại lộ vẻ nói năng vụng về.

Khi xưa, nàng từng gọi Minh Vân Kiến là “vương thúc”, là do học theo Tam công chúa Minh Tử Thu gọi vậy.

Chúc Chiếu thuở nhỏ, lúc Chúc gia còn vững vàng, phụ thân là Bí thư giám, huynh trưởng là họa sư trong cung, cả hai thường lui tới hoàng cung. Mẫu thân nàng vốn xuất thân thường dân, nhưng từng một lần vào chùa cầu Phật, ngẫu nhiên cứu được Quý phi khi đó, trở thành tri kỷ, cho nên đôi ba lần được lệnh vào cung bầu bạn cùng Quý phi giải sầu.

Quý phi có một nam một nữ, nữ là Tam công chúa. Vì Chúc Chiếu thân thể yếu đuối, thường theo mẫu thân vào cung, nên cũng nhiều lần chơi đùa cùng Tam công chúa, hai người thân thiết. Năm Tam công chúa năm tuổi, tiên đế Minh Thiên Tử sai huynh nàng vẽ chân dung cho công chúa, Chúc Chiếu liền theo cùng.

Giữa lúc nghỉ ngơi, Tam công chúa nằng nặc đòi chơi trò đuổi bắt, Chúc Chiếu thua một ván, bịt mắt trong sân nhỏ bằng bàn tay, lần theo tiếng cười của công chúa mà đuổi theo. Nàng rõ ràng nghe tiếng cười ngay trước mặt, nhưng lại đâm sầm vào chân một người khác.

Chúc Chiếu lúc ấy vui mừng, giật khăn bịt mắt ra nói: “Ta bắt được người rồi! Bắt được rồi!”

Tam công chúa đang núp sau một người, Chúc Chiếu hai tay ôm chặt lấy chân người nọ. Người ấy rất cao, vận y phục trắng tinh, Chúc Chiếu phải ngẩng đầu hết cỡ mới thấy rõ mặt hắn. Đó là lần đầu tiên nàng gặp Minh Vân Kiến. Khi ấy hắn cũng chỉ mới mười lăm, thiếu niên vừa trưởng thành, nét mặt lạnh lẽo như sương, tựa như vừa chịu một đả kích lớn.

Tam công chúa nắm tay hắn nói: “Vương thúc! Vương thúc chơi với ta đi!”

Chúc Chiếu vẫn đứng trước hắn, chắn đường hắn, mà chẳng rõ vì sao, tuy còn nhỏ chưa hiểu chuyện, nàng lại cảm nhận được nỗi bi thương nơi hắn. Ánh mắt hắn vô hồn, môi mím chặt, bị công chúa nài nỉ mãi mới chịu rời đi, vừa đi vừa nói: “Trường Ninh, mũi ngươi chảy máu rồi!”

Chúc Chiếu giật mình, đưa tay sờ mũi, quả nhiên là đầy máu, nghe thấy có người chảy máu, Minh Vân Kiến lúc này mới bừng tỉnh. Hắn cúi người cao lớn xuống, gần như ngang bằng nàng, rồi đưa tay nâng má nàng, bảo nàng ngẩng đầu, không còn nét u sầu khi nãy nữa. Hắn lấy khăn tay trong ngực ra, giúp nàng lau máu mũi.

“Tử Thu, đây là con nhà ai?” Minh Vân Kiến cẩn thận để Chúc Chiếu tựa vào mình, giữ mũi nàng dạy thở bằng miệng. Chúc Chiếu suýt nữa bị máu sặc, mắt đỏ hoe, như muốn khóc mà cố nhịn.

Tam công chúa đáp: “Là người Chúc gia! Hỏng rồi, mẫu phi nói thân thể muội ấy yếu, không được chạy nhảy, mẫu phi mà biết ta dẫn nàng chơi, nhất định sẽ giận! Phải rồi, ca ca nàng ở phía trước, ta đi gọi Chúc họa sư!”

Tam công chúa đi rồi, mãi một lúc sau mới quay lại, trong lúc đó Minh Vân Kiến đã cầm máu cho nàng xong, vẫn luôn ngồi cạnh nàng, đợi công chúa quay lại cùng Chúc Hiểu.

Lúc đó Chúc Chiếu ngẩng đầu, hai tay nhỏ dang ra giữ thăng bằng, đôi mắt tròn xoe ngấn lệ, cố mở to không để lệ trào ra. Minh Vân Kiến hỏi nàng: “Ngươi đã khó chịu đến thế, sao không khóc?”

Chúc Chiếu đáp: “Mẫu thân dạy, vào cung thì không được khóc.”

Minh Vân Kiến khẽ cười thành tiếng, gật đầu nói: “Đúng vậy, trong cung không ai khóc cả.”

“Trước kia thân thể con đau, thường hay khóc, mỗi lần con khóc, cha nương cũng khóc theo, con không muốn họ khóc, nên con không thể khóc.” Chúc Chiếu nói rất nghiêm túc.

Minh Vân Kiến đưa tay búng nhẹ lên trán nàng, nói: “Đúng là một đứa nhỏ được người thương yêu.”

Hắn chẳng rõ là nghĩ đến điều gì, lại từ trong tay áo lấy ra một chiếc khóa vàng, nhẹ nhàng đeo lên cổ Chúc Chiếu, nói: “Tiểu Trường Ninh, chiếc khóa vàng trường mệnh này, tặng cho ngươi.”

Chúc Chiếu nghe có quà, liền quên ngay chuyện vừa chảy máu mũi, cúi đầu nhìn vào lòng, thấy một chiếc khóa vàng nhỏ chỉ bằng lòng bàn tay nàng, bên trên còn treo hai chiếc chuông nhỏ. Mặt khóa khắc hình kỳ lân đạp lửa, nàng lập tức vui mừng, mắt cười cong cong, ngẩng lên nhìn Minh Vân Kiến, liên tục nói: “Tạ ơn vương thúc!”

Tiếng Tam công chúa vang lên từ phía sau bụi hoa, thân ảnh thấp thoáng. Minh Vân Kiến thấy người đến thì liền đứng dậy rời đi, Chúc Chiếu ôm chiếc khóa vàng trong tay, nhìn bóng lưng thẳng tắp của hắn mà gọi: “Vương thúc, cáo biệt!”

Quả thực họ đã gặp lại, nhưng chỉ một năm sau, đứa nhỏ từng được gọi là “có người thương yêu” trong lời Minh Vân Kiến, đã trở thành kẻ cô độc giữa nhân gian.

Một tiếng “vương thúc” buột miệng khiến Chúc Chiếu nhớ lại những chuyện thuở ấu thơ. Nàng cảm thấy kỳ lạ, rõ ràng ký ức khi năm sáu tuổi đều đã mờ nhạt, thế nhưng cảnh tượng lần đầu gặp Minh Vân Kiến trong ngự hoa viên lại khắc sâu không phai.

Quý phi năm xưa, nay đã là Thái hậu đương triều, Tam công chúa Minh Tử Thu cũng đã trở thành Mộ Hoa công chúa, Văn Vương vẫn là Văn Vương, chỉ có điều, vương thúc nay đã trở thành hoàng thúc.

“Trong mắt vương gia, hẳn thấy chuyện lần này Hoàng thượng ban hôn là chuyện nực cười lắm nhỉ.” Chúc Chiếu siết chặt vạt áo, hít sâu một hơi, nói: “Tiểu nữ biết trong mắt vương gia mình là người như thế nào. Tuy đã cập kê, nhưng trong mắt vương gia, vẫn chỉ là đứa trẻ. Thành thân với một đứa trẻ, vương gia không vui cũng là điều dễ hiểu.”

“Tiểu nữ không rõ ý chỉ của Thánh thượng có thể thay đổi được hay không, nếu vương gia thực sự không muốn, tiểu nữ có thể vào cung thỉnh tội thay người, nói rằng là do tiểu nữ không đồng thuận. Tiểu nữ và vương gia cũng chẳng có bao lần tiếp xúc, chỉ sợ thật sự khó hòa hợp. Nếu Hoàng thượng không chấp thuận… Dù sao mệnh của Chúc Chiếu, cũng là do vương gia cứu lấy mười năm trước. Chỉ cần vương gia mở miệng, thì dẫu có phải… có phải…” Chúc Chiếu nói đến đây, giọng đã mang theo chút sợ hãi, nhưng cũng là thật tâm muốn nói hết lòng mình.

Cả nhà đều bị giết, chỉ còn mình nàng sống sót. Thực ra nếu năm xưa nàng chết rồi, cũng chẳng phải chịu nhiều nỗi khổ về sau.

Minh Vân Kiến phẩy nhẹ cây quạt, khẽ cười nói: “Sao? Ngươi thà chết, cũng không muốn gả cho bổn vương ư?”

“Tiểu nữ… không hề có ý đó.” Chúc Chiếu ngẩng đầu nhìn hắn.

Minh Vân Kiến cụp mắt, nói: “Ngươi sẽ vào cung, nhưng chỉ sau khi thành thân với bổn vương, vào cung để tạ ân. Chuyện ban hôn, ngươi ta đều không thể thay đổi. So với việc vì cãi mệnh mà mất mạng, chi bằng thuận theo, để xem kẻ nào đang khuấy nước đục phía sau.”

Câu này vừa thốt ra, Chúc Chiếu lập tức ngây người.

Nàng trợn to mắt, nín thở, trong đầu cứ mãi lặp lại lời ấy, bỗng chốc hình ảnh ngọn lửa ngút trời và cảnh Chúc Hiểu bị loạn đao chém chết trong sân hiện ra như trước mắt.

“Hoàng đế hiện tại mới mấy tuổi? Một đứa trẻ mười bốn tuổi, hiểu gì về chuyện ban hôn? Huống hồ bổn vương đã không muốn cưới vợ suốt mười năm, hắn chen vào lúc này, chẳng phải quá muộn hay sao.” Giọng Minh Vân Kiến vẫn mang vẻ lười nhác, ánh mắt trở lại nhìn Chúc Chiếu, khẽ nhướng mày, nói: “Chỉ là có kẻ muốn nhắc lại chuyện cũ, kéo ngươi về kinh, làm trò cho vài người xem mà thôi.”

“Vương gia biết… năm xưa Chúc phủ vì sao lại gặp họa chăng?” Chúc Chiếu cố nén giọng run rẩy, hỏi hắn.

Minh Vân Kiến nhìn vào đôi mắt đã đẫm lệ của nàng, khẽ lắc đầu: “Bổn vương chẳng qua là kẻ chẳng có trọng lượng trong triều, chẳng nhìn thấu được nước sâu nông cạn. Chỉ mong không tranh giành, để giữ mình mà sống. Hôm nay bị ban hôn, cũng chỉ là vì mang danh vương gia, khiến người ta để mắt đến nhiều hơn. Ngươi và ta, đều là quân cờ trong tay kẻ khác mà thôi.”

Nghe hắn nói vậy, Chúc Chiếu buông hàm răng đang cắn chặt môi ra.

Cũng phải, ngay cả những người ở Lang Tây cũng hiểu, nay trong triều kẻ thực sự thao túng cục diện, không phải Hoàng thượng. Văn võ đại thần chia ba thế lực: Nhung Thân vương đứng đầu, Phong Dịch Quận vương nắm trung quyền, còn Hạ Thái phó thì dao động, nhưng vì được giới nho sĩ kính trọng mà giữ vững thế đứng.

Văn Vương, e rằng còn không bằng bất kỳ phe nào trong ba thế lực ấy. Việc hắn thường làm nhất, chỉ là mang những món đồ thú vị ngoài cung dâng lên cho Hoàng thượng vui chơi mà thôi.

“Vậy hôm đó vương gia vì sao lại xuất hiện trước Chúc phủ?” Chúc Chiếu hỏi tiếp.

Minh Vân Kiến đáp: “Hôm ấy bổn vương uống rượu bên ngoài, trên đường về trông thấy hỏa quang từ phía Chúc phủ, nên mới tới xem. Dù bổn vương chẳng có bao nhiêu quyền thế, nhưng tiên đế từng giao cho bổn vương lệnh của Dạ Kỳ quân. Ba ngàn quân tuần tra đêm bảo vệ kinh thành, nếu họ sơ suất, thì tội lỗi cũng đổ lên đầu bổn vương.”

“Thì ra… là vậy.” Chúc Chiếu gật đầu, coi như đã hiểu vì sao đêm đó, có người trong trang phục đen đột ngột từ trời cao xuất hiện, bế nàng ra khỏi biển lửa.

Nàng không kìm được liếc về phía bóng người ngoài màn lụa, chỉ e thiếu niên dẫn nàng đến hôm nay cũng là một thành viên trong Dạ Kỳ quân. Y phục đen, ngọc xanh, chính là dấu hiệu của họ. Mỗi khi trời tối, trên đường thỉnh thoảng sẽ thấy người của Dạ Kỳ quân, cũng không phải điều gì hiếm lạ, nên Văn Vương mới cho người ấy đến khách đ**m tìm nàng.

“Vương gia mấy năm nay ở kinh, có từng nghe chút phong thanh nào về chuyện năm xưa của Chúc phủ chăng?” Chúc Chiếu ôm hy vọng cuối cùng, hỏi.

Mi mắt Minh Vân Kiến khẽ run, nín thở một khắc rồi mới đáp: “Ngay cả Đại Lý Tự còn tra không ra, bổn vương càng không biết. Dù ngươi đã vào kinh, bổn vương vẫn phải nhắc ngươi, chớ nên hỏi chuyện năm xưa nữa. Hổ đấu tranh mồi, bầy thú đều e sợ. Nếu ngươi thông minh, thì nên hiểu rõ rằng, chẳng hỏi chẳng nghe, quên đi quá khứ, mới là điều tốt nhất cho ngươi.”

“Tiểu nữ hiểu.” Chúc Chiếu gật đầu, rón rén ngẩng mắt, nhìn vào mắt hắn, rồi nói: “Huống hồ, nếu… nếu tiểu nữ thực sự gả cho vương gia, mà còn truy hỏi chuyện xưa, ắt sẽ gây nguy cho phủ Văn Vương. Dù đêm đó là do vương gia vô tình bắt gặp hay đã nghe được tin gì, nhưng người phái người đến cứu Tiểu thiếp khỏi biển lửa là sự thật. Vương gia là ân nhân của thần thiếp, thần thiếp sẽ ghi nhớ ân tình ấy, quyết không làm điều gì bất lợi với ân nhân.”

Minh Vân Kiến không ngờ nàng sẽ nói như vậy, ánh mắt thoáng sững lại, rồi bật cười hai tiếng, khiến không khí nặng nề cũng vơi đi đôi phần: “Không ăn thì món ăn nguội mất. Hôm nay mời ngươi đến đây, bổn vương vốn chẳng định nói những chuyện này.”

“Vậy vương gia mời thần thiếp tới là vì cớ gì?” Chúc Chiếu hỏi.

Minh Vân Kiến gắp một lát ngó sen chua vào bát nàng, vừa không rõ thật giả vừa nói: “Đã tới thì cứ ở lại. Bổn vương nông cạn, chỉ đơn giản là muốn xem thử, vương phi tương lai của bổn vương dung mạo thế nào.”

Chúc Chiếu nghe xong, mặt tức thì đỏ bừng, tay cầm đũa vô thức siết lại.

Minh Vân Kiến lại nói: “Cũng không tệ.”

Chúc Chiếu khựng lại, trong lòng lẩm bẩm… chỉ là “không tệ” thôi sao?

Đối diện lại bổ sung: “Quá gầy, quá nhỏ, bổn vương không thích.”

Chúc Chiếu: “…”
 
Hoàng Thúc, Thiếp Ngoan Mà
Chương 5: Bón Ăn


Từ thuở còn nhỏ, mẫu thân đã dạy Chúc Chiếu quy củ trên bàn ăn: ăn không nói, ngủ không lời, ấy là lẽ cơ bản.

Những năm qua, nàng sống tại nhà của Di nương, mỗi lần ăn cơm cùng Từ Liễu thị, bàn ăn luôn có tiếng của Từ Đàm, kế đó là Từ Hoàn Oánh quát mắng Từ Đàm im lặng. Từ Liễu thị vì trọng con trai, thường bênh vực hắn, rốt cuộc một bữa cơm, chỉ có nàng và nhị phu nhân là im lặng không nói.

Bữa cơm tối nay, tuy không còn tiếng ồn bên tai, nhưng Chúc Chiếu vẫn chẳng thể toàn tâm thưởng thức những món ăn tinh tế nơi tửu lâu sang trọng bậc nhất kinh thành.

Chúc Chiếu nâng bát nhỏ, đũa không va thành bát, ăn rất khẽ, hầu như không phát ra tiếng động. Người đối diện – Minh Vân Kiến – cũng vậy, chỉ là so với sự rụt rè của nàng, hắn thật sự giống như đang tùy tiện dùng bữa.

Đợi đến khi hai người buông bát đũa, Minh Vân Kiến mới hỏi: “Chén trứng hấp có ngon không?”

Chúc Chiếu đang lén lút quan sát hắn, bị hỏi bất ngờ, vội đáp: “Ngon ạ.”

“Là trứng hấp ngon, hay bổn vương dễ ăn cơm hơn?” Minh Vân Kiến lật tay phe phẩy quạt.

Nghe hắn nói thế, mặt nàng lại đỏ lên, chẳng biết trong đêm nay má đã đỏ bao nhiêu lần, mà lần nào cũng vì mấy lời trêu ghẹo của hắn.

“Thấy ngươi ăn cơm chỉ động vào mỗi chén trứng trước mặt, còn nhìn bổn vương tới hai mươi lần trong một bữa, chẳng hay bổn vương có dính muối trên mặt sao?” Minh Vân Kiến hỏi xong, Chúc Chiếu lập tức lắc đầu.

Hắn bỗng đứng dậy, đi vòng qua bàn, tiến tới bên cửa sổ của nhã gian, đẩy một nửa cánh cửa nhìn ra ngoài, rồi giơ quạt vẫy tay gọi nàng: “Lại đây.”

Chúc Chiếu ngoan ngoãn đứng dậy bước đến, khi đứng bên cạnh hắn, nàng có thể ngửi thấy hương thơm nhàn nhạt tỏa ra từ người hắn, cúi mắt nhìn xuống, thấy bên hông hắn đeo một túi hương có thêu hoa kiến lan, trông đã cũ, mùi hương bên trong cũng là lan nhè nhẹ.

Nhã gian mà Minh Vân Kiến chọn có cửa sổ đối diện với chính môn xưa kia của Chúc phủ, lúc này trời đã lên đèn, bên ngoài trước cửa tửu lâu “Tá Thập Lý” người đến kẻ đi nhộn nhịp.

So với cấu trúc ngày xưa của Chúc phủ thì hiện tại, ngoài phần mặt tiền còn giữ nguyên, phần bên trong đã được xây dựng lại hoàn toàn.

Minh Vân Kiến nói: “Chúc phủ bị hỏa hoạn thiêu rụi, tiên đế cũng vì chuyện Dạ Kỳ quân tuần tra không chu toàn mà trách phạt bổn vương. Sau đó, tiên đế lệnh cho Tán Thân vương xử lý hậu sự Chúc phủ. Nay nơi đó đã trở thành sản nghiệp dưới tên Tán Thân vương, bề ngoài là do thương nhân mở tửu lâu, thực chất đều nằm dưới trướng của hắn.”

Tán Thân vương vốn nổi tiếng là tham lam như Trư Bát Giới giữ kho, Chúc phủ rơi vào tay hắn, dẫu Chúc Chiếu còn sống, cũng chẳng thể đòi lại được.

Chúc Chiếu nhìn tửu lâu “Tá Thập Lý” – nơi từng là Chúc phủ, lòng không khỏi dâng trào cảm xúc. Mười năm qua, nàng chưa từng nghĩ đến việc truy xét điều gì, cũng chẳng từng mong muốn thay đổi gì, dù trong lòng chất chứa biết bao nghi hoặc, phẫn nộ, lẫn bi thương về vụ thảm án diệt môn năm xưa, nàng vẫn luôn e sợ – hoặc nói chính xác hơn là… nhút nhát.

Con gái quan gia, dù chưa từng thân cận triều đình, nhưng vẫn nghe kể không ít về mưu toan nơi triều cục. Khi phụ thân và huynh trưởng còn sống, mỗi lần bàn chuyện quốc sự, đều bảo mẫu thân bế nàng tránh đi, chẳng muốn để nàng dính líu, càng không muốn nàng bị cuốn vào cơn sóng gió.

Không hành động, chính là cái cớ nàng tự đặt ra cho sự nhát gan của bản thân. Nếu thật sự nàng vì tìm kiếm chân tướng mà trở lại kinh sư, cải danh đổi dạng, lấy thân nhỏ chống chọi cơn lốc, chỉ e đó chẳng phải điều phụ mẫu hay huynh trưởng mong muốn.

Có lẽ, điều họ mong là nàng được sống bình an, vui vẻ đến hết đời.

Ở Từ phủ, tuy chẳng vui vẻ, nhưng cũng tạm gọi là an ổn.

Sự thật năm xưa của Chúc phủ là gì? Chẳng qua là trót nhìn thấu dã tâm của kẻ nào đó trong triều, bị sát hại để răn đe người khác, hoặc bị diệt tận gốc vì lo sợ hậu họa.

“Vương tôn quý tộc, một lời một chữ như núi sập, một hơi một thở như bão cuốn. Vốn dĩ là dùng quyền quyết kết, lấy thế định sinh tử, còn tiểu nữ, chỉ là kẻ trong biển người mênh mông mà thôi.” Chúc Chiếu nhẹ giọng thốt lên câu ấy, sau đó lui một bước, hướng về phía Minh Vân Kiến hơi khom người hành lễ, nói: “Đa tạ vương gia khoản đãi, giờ đã không sớm, tiểu nữ xin cáo từ.”

“Bổn vương bảo Tiểu Tùng đưa ngươi về.” Minh Vân Kiến nói.

“Đa tạ vương gia, nhưng nơi đây cách Trung Duyệt khách đ**m chẳng xa, tiểu nữ lúc đến đã nhớ rõ đường, có thể tự quay về.” Chúc Chiếu nói xong, thấy Minh Vân Kiến không nhấn mạnh muốn người đi theo nữa, liền biết hắn cũng chẳng có ý thực lòng muốn giữ người, bèn thức thời tự mình rời đi.

Rời khỏi nhã gian, Chúc Chiếu mới thấy nhẹ nhõm, nàng không kìm được quay đầu nhìn thiếu niên đứng bên cạnh. Thiếu niên khoanh tay trước ngực, mắt tròn xoe len lén nhìn vào trong nhã gian, Chúc Chiếu khẽ gật đầu mỉm cười với hắn rồi quay người rời bước.

Nàng rời khỏi Tửu Phong Thập Lý rất nhanh, không dám nhìn vào sảnh đường tầng một, cũng không rõ cô nương Lưu Mạt đã nhảy múa đến đoạn nào, chỉ nghe tiếng reo hò bên trong mỗi lúc một lớn, đủ biết khách nhân đang vô cùng phấn khích.

Trên đường quay về, nàng tình cờ đi ngang phía dưới nhã gian của Minh Vân Kiến. Chỉ cần hắn cúi đầu là có thể trông thấy bóng dáng thiếu nữ trong váy vàng nhạt ấy. Nàng đang ôm đôi má đỏ hồng, bước chân gấp gáp rời đi. Trước khi rẽ vào hẻm nhỏ, dường như còn lưu luyến, ngoảnh lại nhìn tửu lâu “Tá Thập Lý”, ánh nhìn ấy thật dài, nhưng cuối cùng vẫn xoay người rời bước.

Minh Vân Kiến khép quạt lại, ánh mắt dần trầm xuống, không còn nét cười đùa ban nãy. Hắn xoay người, ngồi lại vào ghế thái sư, như thì thầm với chính mình, nhưng cũng như đang nói với thiếu niên ngoài cửa: “Nàng ấy khác hẳn với dáng vẻ trong ký ức của bổn vương.”

Tiểu Tùng nghe thấy hắn đột nhiên lên tiếng, liền bước vào nhã gian, đứng nghiêm cẩn bên cạnh.

Minh Vân Kiến hơi nhướng mày: “Bổn vương nhớ lần đầu gặp nàng là tại ngự hoa viên, nàng khi ấy còn nhỏ lắm, chưa cao quá thắt lưng bổn vương. Nay đã lớn thế này rồi, thậm chí còn sắp trở thành thê tử của bổn vương. Tiểu hoàng đế muốn ép bổn vương, liền tìm lại nàng, thậm chí ban nàng cho bổn vương. Chỉ là một người đáng thương, hà tất phải đẩy nàng vào bàn cờ này.”

Nàng rất nhút nhát.

Minh Vân Kiến nhận ra ngay, Chúc Chiếu quá mức cẩn trọng. Mấy lần hắn thăm dò bằng lời, nàng chẳng có biểu hiện gì muốn đòi lại công đạo cho Chúc phủ, chỉ là mỗi khi hỏi đến, hô hấp nàng liền rối loạn. Nàng không phải không muốn, mà là không dám.

Nhưng nàng cũng rất thông minh.

Từ lời nàng nói trước khi rời đi, có thể thấy Chúc Chiếu vốn dĩ luôn hiểu rõ cục diện triều chính Đại Chu hiện tại. Cũng bởi nàng hiểu, nên mới tự xưng là “một trong muôn dân”, có lòng, nhưng bất lực, không đủ sức thay đổi thế cuộc.

Song, không phải mọi chuyện đều là bất biến.

Minh Vân Kiến khẽ cười, liếc nhìn chiếc bát sứ đựng món trứng hấp đã sạch trơn trên bàn, rồi quay sang thiếu niên bên cạnh nói: “Từ mai, mỗi tối mang cho nàng một chén trứng hấp. Thêm vào ít tôm cá nữa, đã mười sáu rồi, vậy mà nhìn chẳng có dáng dấp gì cả.”

Tiểu Tùng thấy Minh Vân Kiến nở nụ cười, cũng bất giác vui theo. Hắn cũng cảm thấy, vị vương phi tương lai hôm nay hắn gặp, trông chẳng giống một thiếu nữ mười sáu chút nào. Hắn còn nhỏ hơn nàng ba tuổi mà đã cao hơn một cái đầu, thân hình nàng gầy yếu nhỏ bé, hệt như chưa trưởng thành, khó trách vương gia muốn nàng ăn uống đầy đủ hơn.

Tiểu Tùng ngẫm nghĩ, rồi dùng đũa chấm nước trà, viết lên bàn một câu: “Nếu nàng không thích thì sao?”

Minh Vân Kiến đứng dậy, vươn vai lười nhác: “Vậy thì thay món khác. Trước khi vào Vương phủ, tốt nhất là trắng trẻo mập mạp một chút, bổn vương xem như thay Chúc Thịnh nuôi dưỡng con gái vậy.”

Chiếc quạt bạc vén màn lụa và rèm châu, Minh Vân Kiến bước ra khỏi nhã gian, Tiểu Tùng theo sau. Khi ngang qua đại sảnh tầng một, nghe tiếng reo hò náo nhiệt, hắn không nhịn được cúi đầu nhìn thử, bắt gặp cô nương Lưu Mạt đang múa, lộ ra đôi chân trắng nõn, làn da mịn màng, đầu gối hồng hồng, từng ngón chân đẹp như ngọc.

Tiểu Tùng chỉ dám liếc một cái, rồi vội quay đi giả bộ nghiêm túc, ánh mắt tránh xa, lại ngước nhìn bóng lưng thẳng tắp phía trước. Từ đầu đến cuối, Minh Vân Kiến vẫn giữ tư thế ngay ngắn, tay chắp sau lưng, không hề nghiêng mắt nhìn xuống, cũng chẳng buồn ngó đến dung mạo mỹ nhân kia.

Chúc Chiếu trở về ngã rẽ nơi chia tay với Từ Hoàn Oánh và Từ Hoàn Tình, đợi gần một nén nhang mà không thấy ai, hỏi người qua đường mới biết trời đã tối, thi xã đã đóng cửa, nàng đoán hai người kia hẳn đã quay về khách đ**m, liền đi theo hướng đó.

Về đến khách đ**m, Từ Liễu thị vì cả ngày vất vả nên đã sớm đi nghỉ, Từ Hoàn Tình cũng cùng Từ Hoàn Oánh trở về, chỉ có phòng Từ Đàm là đèn không sáng, hắn chơi bời ra sao, Từ Liễu thị chưa bao giờ quản.

Chúc Chiếu đẩy cửa phòng bước vào, thấy nhị phu nhân đã cùng Từ Hoàn Tình ngủ rồi, chỉ còn chiếc đệm trải trên trường kỷ để nàng nghỉ. Trường kỷ vốn là để ngồi, may mà thân hình nàng nhỏ bé, co chân lại vẫn có thể ngủ tạm.

Tối đó nàng ra sau viện lấy nước rửa mặt, sau khi rửa xong, ngồi một mình trong sân, ngơ ngẩn nhìn ánh trăng treo lơ lửng nơi cành quế xanh. Lúc này hoa quế chưa nở, phải chờ hơn ba tháng nữa, khi hoa kim quế vừa chớm, cũng là lúc thánh chỉ định ngày nàng vào Văn Vương phủ làm vương phi.

Tính ra, chỉ còn chưa đầy trăm ngày.

Sáng hôm sau, Từ Liễu thị cùng nhị phu nhân dẫn ba người con đi thăm Từ Đông. Vì lễ vật để cả ở khách đ**m, nên để Chúc Chiếu ở lại trông coi.

Nàng chẳng có giao tình gì với Từ Đông, không đi ngược lại thoải mái hơn. Trước khi Từ Hoàn Oánh đi, nàng mượn hai quyển sách, ngồi trong phòng từ tốn đọc.

Đến gần tối, vẫn chưa thấy ai trở về, Chúc Chiếu tựa vào trường kỷ chợp mắt một khắc, lúc mặt trời lặn, có người gõ cửa phòng.

Chúc Chiếu mở cửa, thấy phía sau tiểu nhị là một thiếu niên, thân hình cao gầy, nét mặt nghiêm túc. Gặp ánh mắt nàng, hắn chỉ gật đầu chào, không đợi nàng mời đã bước vào, đặt hộp thức ăn lên bàn.

Trên bàn bày ba món mặn cùng một phần điểm tâm.

Chúc Chiếu ngẩn người nhìn bữa cơm trước mặt, những món khác nàng không nhớ rõ, chỉ có chén trứng hấp là ấn tượng sâu sắc – đêm qua nàng vừa ăn.

Nàng mở to mắt, ngẩng đầu nhìn thiếu niên: “Ngươi là Tiểu Tùng phải không?”

Thiếu niên gật đầu.

Chúc Chiếu lại hỏi: “Là Văn Vương bảo ngươi đưa tới?”

Thiếu niên tiếp tục gật đầu.

Chúc Chiếu có phần bối rối, chẳng biết mình có nên ngồi xuống ăn hay không. Thiếu niên mắt tròn xoe, nhìn chằm chằm từng cử động của nàng, thấy nàng mãi chưa động đũa, bèn rút một tờ giấy từ trong người, đưa tới trước mặt nàng. Trên đó viết: “Ăn xong, ta phải về bẩm báo.”

Chúc Chiếu: “…”

Xem ra… bữa cơm này không phải tùy tiện, mà là mệnh lệnh.

Nàng vội vàng ngồi xuống, cầm đũa. Tửu Phong Thập Lý không chỉ nổi danh với rượu Kim Túy, món ăn cũng thật ngon.

Tuy ở Từ phủ nàng không đến nỗi ăn khổ, nhưng từ nhỏ nàng muốn ăn món cá trước mặt Từ Hoàn Oánh, chỉ vì tay áo vướng vào canh cá mà bị Từ Liễu thị mắng một trận, bảo nàng không biết phép tắc, còn nói quy củ nhà họ Từ là chỉ được ăn ba món trước mặt mình.

Từ đó về sau, ba món đặt trước mặt nàng, luôn là những món nhạt nhẽo nhất trên bàn.

Dù vậy, bếp nhà họ Từ nấu cũng không tệ, nàng vẫn khá thích.

Hôm nay được ăn thỏa thích, tôm bóc vỏ từng con to bằng miệng muỗng, cá đã gỡ xương, thái lát xào cùng trứng gà thành canh sánh mịn, điểm thêm vài lát thịt xông khói tăng hương vị, rau xanh điểm tô, tất cả đều ngon tuyệt.

Chúc Chiếu thực sự không để sót một miếng nào, thậm chí còn vô ý trước mặt Tiểu Tùng buông một tiếng ợ nhẹ. Tuy nàng đã dùng tay áo che miệng, nhưng Tiểu Tùng vẫn nghe thấy.

Sau khi dọn sạch đống bát đũa hỗn độn, trước khi rời đi, Tiểu Tùng lại đưa nàng xem thêm một tờ giấy: “Ngày mai giờ này, ta lại đến.”

Chúc Chiếu chớp mắt, đợi hắn đi rồi mới nhớ ra điều gì, vội gọi với theo: “Thay ta cảm tạ vương gia!”

Hai khắc sau, tại thư phòng Văn Vương phủ, Minh Vân Kiến đang dùng khăn lau nhẹ lá lan trên bàn, Tiểu Tùng vội vã bước vào, hộp cơm đã tiện tay ném lại cho Phong Thập Lý trên đường về.

Minh Vân Kiến không thèm liếc mắt, chỉ hờ hững nói: “Vô phép.”

Tiểu Tùng bĩu môi, có vẻ sốt ruột muốn nói điều gì. Đợi đến khi Minh Vân Kiến lau xong chậu lan, mới liếc nhìn bút mực trên bàn. Được ngầm cho phép, Tiểu Tùng vội vàng cầm bút viết dòng đầu tiên:

“Vương phi ăn khỏe, ăn sạch.”

Minh Vân Kiến không phản ứng gì.

Tiểu Tùng viết tiếp: “Miệng nàng trông nhỏ, nhưng một lần có thể ăn hai miếng bánh ngọc tử.”

Minh Vân Kiến khẽ nhướng mày, nhớ lại xem miệng Chúc Chiếu rốt cuộc là lớn hay nhỏ.

Tiểu Tùng lại viết: “Nàng ợ.”

Lại thêm một dòng: “Nàng nhờ tiểu nhân cảm tạ vương gia.”

Minh Vân Kiến đọc đến đó, thu lại ánh nhìn, tiếp tục ngắm chậu lan dưới ánh đèn, không rõ vui buồn, chỉ nhẹ giọng nói: “Mai tiếp tục.”
 
Hoàng Thúc, Thiếp Ngoan Mà
Chương 6: Xuất Giá


Sau khi Tiểu Tùng mang cơm đến không bao lâu, Từ Liễu thị cùng nhị phu nhân đã trở về, Từ Hoàn Tình mũi thính, vừa xông vào phòng đã reo lên: “Thơm quá, có đồ ăn ngon!”

Buổi tối Từ Đông còn phải giữ cửa thành, mấy người họ không lưu lại ăn cơm, quay về khách đ**m rồi gọi vài món đơn giản. Chúc Chiếu lấy cớ đọc sách quên ăn, không cùng dùng bữa.

Tối đó, nhị phu nhân lại áy náy vì để nàng ngủ trên trường kỷ, Chúc Chiếu thì chẳng để tâm, hiện thời tiết vẫn còn nóng, có chiếu tre lót dưới đất ngủ cũng không lạnh, nàng nghĩ mình cũng chẳng còn ở lại với nhà họ Từ bao lâu nữa, cứ tạm vậy đi.

Đêm ấy, hiếm hoi thay, Chúc Chiếu ngủ rất ngon.

Hôm sau, khi mặt trời đã lên cao, có người từ phủ Văn Vương đến. Là hai gã gia đinh độ năm mươi tuổi, đến gặp Từ Liễu thị, nói theo lệnh Văn Vương, mọi chi phí sinh hoạt thường ngày của cả nhà họ Từ tại kinh đô sẽ do Vương phủ lo liệu. Tuy nhiên, vì Vương gia bận việc, sẽ không có dịp gặp mặt. Nếu có chuyện cần, chỉ cần cử một người đến truyền tin là được, đừng tùy tiện đến phủ quấy rầy.

Nói xong, hai người để lại ít bạc cho chưởng quầy rồi rời đi, đến nỗi Từ Liễu thị còn chưa kịp hỏi câu nào.

“Hừ! Thái độ gì thế này chứ!” Từ Liễu thị đập bàn, đến bữa sáng cũng chẳng buồn ăn ngon.

Từ Hoàn Oánh ngồi bên thì ung dung húp cháo, nói: “Mẫu thân còn chưa nhận ra sao? Chiếu theo lý thì Hoàng thượng ban hôn, chúng ta vào kinh, Văn Vương lẽ ra phải thu xếp tất cả, chính miệng hắn nói sẽ chuẩn bị. Kết quả hôm đầu chúng ta đến, chẳng có gì sẵn sàng cả.”

“Hôm qua suốt một ngày, chẳng thấy một ai, chắc sáng nay trong phủ có người nhắc tới, Văn Vương mới nhớ ra chuyện này, sai người mang ít bạc tới cho có lệ thôi.” Từ Hoàn Oánh lắc đầu, ánh mắt quét sang Chúc Chiếu đang cúi đầu ăn bánh bao, nói: “Có vài người, e là chẳng có số làm vương phi đâu.”

Từ Liễu thị cũng liếc nhìn Chúc Chiếu một cái, lặng lẽ ăn mì. Nhị phu nhân vỗ nhẹ vai nàng, dịu giọng: “Con cũng đừng để tâm, người ta là vương gia, vốn dĩ là chúng ta trèo cao. Sau này vào phủ, chỉ cần con ngoan ngoãn, hiểu lễ nghi, ta nghĩ vương gia sẽ không bạc đãi con đâu.”

Chúc Chiếu mỉm cười với nhị phu nhân. Chuyện sáng nay, nàng chẳng để vào lòng. Nhưng vì người của Vương phủ đã đến và để lại bạc thuê phòng, số bạc ấy đủ sống nửa năm tại kinh đô, nên nàng được ở riêng một gian phòng, tuy không phải thượng phòng, nhưng do khách đến đông, nên phòng nàng cách xa nhà họ Từ.

Chiều tối, Tiểu Tùng quả nhiên giữ lời, lại đến.

Lần này hắn không đi từ cửa chính, mà gõ vào cửa sổ phòng nàng. Chúc Chiếu đẩy cửa sổ ra, thấy thiếu niên áo đen đang ngồi xổm trên bệ cửa, một tay bám lên khung, tay kia xách hộp thức ăn, khiến nàng giật mình. Mời hắn vào phòng chưa bao lâu, đã nghe Từ Hoàn Tình gọi ngoài cửa: “Trường Ninh tỷ tỷ, ăn cơm thôi!”

Tiểu Tùng đã rất quen đường đi nước bước, chẳng hề ngạc nhiên khi thấy nàng đổi phòng, liền mở hộp thức ăn, bày ra những món giống hôm qua. Hôm nay điểm tâm là bánh sữa dê thay cho bánh ngọc tử.

“Trường~ Ninh~ tỷ~ tỷ~”

Từ Hoàn Tình lại gọi thêm một tiếng, rồi Chúc Chiếu nghe Từ Liễu thị nói: “Nó không ăn thì thôi, còn phải đợi người mời à?”

Chúc Chiếu vội vàng lên tiếng: “A Tình, giúp ta nói với di nương, ta hơi đau bụng, tối nay không ăn.”

Nhị phu nhân liền lên tiếng thay nàng: “Chắc vì chuyện sáng nay khiến nàng buồn lòng, trưa ăn cũng chẳng được bao nhiêu, lát nữa ăn xong để lại ít cho nàng ấy là được.”

Chúc Chiếu còn định nói thêm gì, lại cảm thấy nói nhiều cũng vô ích. Bên ngoài Từ Hoàn Tình bị kéo đi, Từ Hoàn Oánh nói đùa với Từ Đàm rằng nàng chắc trốn trong phòng khóc rồi.

Chúc Chiếu quay lại nhìn bữa cơm thịnh soạn trong phòng, hôm nay lượng thức ăn hình như còn nhiều hơn hôm qua một muỗng.

Tiểu Tùng bày biện xong, đứng bên cạnh, mắt tròn xoe nhìn nàng chằm chằm, trong tay đã chuẩn bị sẵn một xấp giấy, dường như chỉ đợi nàng lên tiếng.

Hôm nay Chúc Chiếu ngoan ngoãn ngồi xuống ăn trước, đợi ăn được nửa bát cơm, Tiểu Tùng đi vòng quanh nàng hai lượt, nàng mới nói: “Ngươi cho rằng ta có điều muốn hỏi phải không?”

Tiểu Tùng gật đầu rất đương nhiên.

Chúc Chiếu nhìn hắn: “Tối qua sau khi ngươi rời đi, khách đ**m có bốn người cùng đến, tuy ăn mặc không quá sang trọng, nhưng mỗi người một phòng. Nếu họ quen nhau, thì với giá phòng của Trung Duyệt khách đ**m, lẽ ra phải ở ghép hai người một phòng. Vậy nên, người trong số đó là do Vương phủ sắp xếp, mục đích là hôm nay có thể tách ta ra khỏi người của Từ gia.”

Tiểu Tùng hơi tròn mắt, cúi đầu xem lại xấp giấy, rút ra hai tờ.

Chúc Chiếu lại nói: “Huống hồ hôm nay ngươi đến, quen thuộc mà gõ cửa sổ ta. Ngươi đã biết ta ở đâu, chứng tỏ vương gia cũng biết rõ.”

Tiểu Tùng lại rút thêm một tờ.

“Sáng nay Vương phủ cử người đến, thái độ đối với di nương cũng không mấy tốt, e là cố ý theo lệnh vương gia.” Chúc Chiếu mím môi, liếc chén trứng hấp đã gần cạn: “Sáng nay Từ Đàm nói có ông lão nào đó loanh quanh bên ngoài khá lâu. Hắn nói bâng quơ, ai cũng không để tâm. Nhưng người của Vương phủ vừa đi, ông lão ấy cũng biến mất. Chỉ e… có người đang giám sát hôn sự này.”

Tiểu Tùng khựng lại, cúi đầu nhìn xấp giấy trong tay, lật qua lật lại hai lần, nhíu mày rút ra mấy tờ, vốn chuẩn bị bao nhiêu lời lẽ, cuối cùng chỉ còn lại hai tờ.

Chúc Chiếu nói: “Nếu ta đoán không nhầm, trong hai tờ còn lại của ngươi, có một tờ viết là ‘ngày mai ta lại đến’, phải không?”

Tiểu Tùng vò tờ giấy ấy thành một cục, ném sang bên. Tờ còn lại, thấy Chúc Chiếu mãi không hỏi nữa, bèn tức giận nhét vào tay áo, cả người lập tức ỉu xìu.

Chúc Chiếu thấy hắn như vậy lại thấy buồn cười, bèn đưa cho hắn một miếng bánh sữa dê, hỏi hắn có muốn ăn không. Tiểu Tùng lắc đầu, không nói, nhưng ánh mắt đã nói rõ — đây là đồ Văn Vương ban, hắn không thể động vào.

Có lẽ vì suốt cả bữa, Chúc Chiếu không để hắn có cơ hội đưa ra bất kỳ tờ giấy nào, nên Tiểu Tùng đứng một bên cúi gằm mặt suốt lúc nàng ăn, đợi đến khi nàng ăn xong mới bắt đầu dọn bàn. Đĩa bát trên bàn, chẳng sót lại món nào.

Chúc Chiếu ăn đến mức gần như ngồi bẹp bên bàn không dậy nổi, bụng nàng hơi phồng lên, thở dài một hơi. Ăn đến thế quả là khổ sở, nhưng lại chẳng dám để thừa — cảm giác này, giống như được Hoàng đế ban yến, dù là cơm thiu cũng phải nuốt cho bằng sạch.

Trong lòng nàng chẳng hiểu nổi, Minh Vân Kiến mỗi tối bảo Tiểu Tùng đưa cơm đến là có ý gì, nhưng rõ ràng Tiểu Tùng cứ đứng đó nhìn chằm chằm, nàng dừng đũa ba lần, hắn cũng không động đậy. Chúc Chiếu đoán, e là nếu nàng không ăn sạch, hắn sẽ không chịu rời đi.

Đến khi Tiểu Tùng thu dọn xong hộp cơm, chuẩn bị trèo ra cửa sổ, Chúc Chiếu thực sự chẳng đứng nổi để tiễn hắn, nhưng vẫn hỏi ra thắc mắc trong lòng: “Vì sao vương gia lại sai ngươi đưa cơm cho ta?”

Tiểu Tùng nghe xong thì dừng chân, mắt sáng rỡ, quay đầu lại, lục lọi trong tay áo, cuối cùng lấy ra tờ giấy còn lại, đưa tới trước mặt nàng, môi cũng khẽ nhếch cười. Bao nhiêu lời chuẩn bị, rốt cuộc cũng có dịp để nói.

Trên giấy viết: “Vương gia muốn người mập hơn một chút.”

Chúc Chiếu: “…”

Chỉ đơn giản vậy thôi sao?! Không phải nhiệm vụ gì đặc biệt sao?

“Vậy nếu ta thực sự ăn không nổi, có thể không ăn không?” Chúc Chiếu hỏi tiếp.

Tiểu Tùng chớp mắt, mím môi. Chúc Chiếu biết hắn không thể quyết định được, mỉm cười nói: “Ngươi về, giúp ta hỏi vương gia nhé. Hôm qua ta đánh ợ là vì trưa không ăn gì, nên tối mới ăn được nhiều. Hôm nay ta đã ăn trưa, giờ no đến mức không đứng nổi rồi.”

Tiểu Tùng gật đầu, xem như đồng ý giúp nàng truyền lời. Khi hắn rời khỏi, là nhảy thẳng từ cửa sổ xuống. Chúc Chiếu nhìn mà thót tim, gắng gượng đứng dậy ra bên cửa sổ nhìn xuống, thì thấy chính là con ngõ nhỏ hôm đầu nàng gặp hắn. Tiểu Tùng đã đi mất, rõ ràng là không sao.

Sau khi nhận lời, Tiểu Tùng lập tức quay về phủ, hỏi Minh Vân Kiến. Vị vương gia ấy đáp đúng một câu: “Ăn không nổi thì đừng ăn, ăn đến chết ai chịu?”

Tiểu Tùng gật đầu, lại viết: “Ăn chết rồi thì vương gia sẽ chẳng còn vương phi nữa.”

Kết quả, tờ giấy bị Minh Vân Kiến vò nát, ném vào mặt hắn.

Thiếu niên bị đuổi ra khỏi thư phòng, tung mình lên mái nhà, từ trong lòng cẩn thận lấy ra một thứ — là chút bánh sữa dê còn sót, hắn đã tự mua ở Tửu Phong Thập Lý lúc đi lấy cơm cho Chúc Chiếu.

Cắn một miếng, hơi tanh, lại hơi mặn. Tiểu Tùng nhăn mặt, nhổ xuống bụi cỏ dưới mái hiên, trong lòng cảm khái: Vương phi tương lai mà ăn hết được thứ này, cũng thật khó cho nàng rồi!



Những ngày sau đó, Tiểu Tùng vẫn đúng giờ đúng khắc mang cơm đến phòng Chúc Chiếu. Lượng thức ăn có phần giảm bớt, nhưng món nhiều, lượng ít. Mỗi lần, chỉ khi nàng ăn hết, hắn mới chịu thu dọn. Nửa tháng trôi qua, Chúc Chiếu đôi lúc soi gương cũng cảm thấy mặt mình tròn trịa lên đôi chút.

Trăm ngày — khi mới theo Từ Liễu thị vào kinh, nàng còn nghĩ thời gian dài đằng đẵng, nhưng trong cảnh nhàn rỗi không việc gì, thoắt một cái đã qua.

Họ đến kinh thành vào tiết Tiểu thử, khi gió thu nổi lên, trong viện sau Trung Duyệt khách đ**m, cây kim quế cao hai tầng rưỡi đã nở rộ. Đợt hoa đầu tiên vẫn còn trắng muốt, chen chúc giữa lá xanh, hương quế lan xa đến nửa con phố.

Ba tháng trôi qua, người phủ Văn Vương đến tổng cộng ba lần.

Lần đầu là để thanh toán mọi chi phí ăn ở trăm ngày tại khách đ**m cho nhà họ Từ.

Lần thứ hai là đưa “khoản bổ sung” — nói là vậy, thực ra là phần hồi môn mà Văn Vương chuẩn bị cho Chúc Chiếu. Dù gì Từ Đông cũng chỉ là Tử Môn quân, bổng lộc một năm chẳng bằng một đêm chi tiêu của vương tôn quý tộc. Nếu của hồi môn cho Chúc Chiếu quá sơ sài, không chỉ khiến nhà họ Từ mất mặt, mà Văn Vương cũng không giữ được thể diện.

Lần thứ ba, Từ Đông cố tình xin nghỉ một ngày ở nhà, Chúc Chiếu cùng Từ Liễu thị, nhị phu nhân và mọi người đến tiểu viện ngoài thành mà Từ Đông đã mua — nhà có một sảnh hai phòng, sân trước nhỏ, mấy người chen chúc bên trong khiến gian sảnh có phần chật chội.

Người phủ Văn Vương lần này đến khá đông, là để chính thức đưa sính lễ, đồng thời ấn định ngày thành hôn.

Đám cưới này do Hoàng đế hiện tại ban hôn, song Hoàng thượng tuổi nhỏ, dường như chẳng mấy bận tâm. Sau khi ra chiếu thư, cũng không đả động thêm gì đến đôi uyên ương được chỉ hôn ấy. Phía Chúc Chiếu, càng không ai quan tâm.

Quả đúng như lời Minh Vân Kiến từng nói: cả hai chỉ là quân cờ trong tay người khác, ngay cả Hoàng đế, cũng là một quân cờ trong cuộc tranh quyền thế lực.

Lễ vật Văn Vương đưa tới không phô trương, cũng không keo kiệt, chuẩn mực, đúng quy chế. Từ Liễu thị xưa nay khinh thường những kẻ quyền quý trong phủ Văn Vương, nhưng khi tiếp nhận sính lễ, vẫn không giấu nổi vài nét tươi cười trên mặt.

Ngày mồng tám tháng Mười, Chúc Chiếu xuất giá từ tiểu viện của Từ Đông.

Từ Đông là chủ gia, Từ Liễu thị là chính thất. Ngoài viện đặt sáu bàn tiệc, chiêu đãi huynh đệ trong quân của Từ Đông — ai nấy đều không thể rời đi lâu.

Từ Liễu thị mời hai đầu bếp phụ trách hậu trù, nhị phu nhân cũng vội vàng bưng bê. Từ Đông có ý giới thiệu Từ Đàm cho người trong quân, nên hắn cũng không rảnh. Từ Hoàn Tình còn nhỏ, cuối cùng chỉ còn Từ Hoàn Oánh là người duy nhất miễn cưỡng theo Chúc Chiếu đưa dâu.

Bộ giá y Chúc Chiếu mặc là do phủ Văn Vương sai người may sau khi gửi “khoản bổ sung” một tháng trước, tuy không nói là tốt nhất, nhưng cũng là loại vải vóc, thêu thùa hạng nhất. Trang sức châu ngọc, tuy không phải tinh phẩm, nhưng đều là hàng thật.

Văn Vương cưới vợ — chuyện này ở kinh thành quả thật gây không ít lời đồn. Dù sao cũng là một vương gia, mang họ Minh chính thống, là hoàng thúc đương triều. Hai mươi sáu tuổi vẫn chưa cưới hỏi, nay lại thành thân, sao lại không khiến người bàn tán?

Chiêng trống vang trời, cũng náo nhiệt một phen. Hoa kiệu đi khắp các ngõ phố trong kinh, đúng là rước dâu như thật. Chỉ là, ai nấy đều lấy làm lạ: nàng dâu gả cho Văn Vương kia, chẳng phải tiểu thư danh môn, cũng chẳng phải con gái nhà quyền quý trong triều. Danh phận Vương phi thì người trong triều biết, nhưng dân gian, lại chẳng ai rõ ràng.
 
Hoàng Thúc, Thiếp Ngoan Mà
Chương 7: Uống Rượu Giao Bôi


Chúc Chiếu đội khăn trùm đỏ, ngồi trong kiệu suốt một quãng dài mới đến trước Văn vương phủ. Theo đúng quy củ, nàng phải được Hoàn Oánh đưa giao tận tay khách đón dâu của Văn vương phủ.

Khi Chúc Chiếu nắm tay Hoàn Oánh, lòng bàn tay đã ướt đẫm mồ hôi. Hoàn Oánh cúi sát tai nàng, nhàn nhạt dặn dò: “Ngươi dẫu sợ, cũng phải ưỡn ngực mà bước. Hôm nay đã bước chân vào cửa này, nếu không dám ngẩng đầu, chỉ e suốt đời chẳng thể ngẩng nổi đầu. Lấy vương gia chưa hẳn là chuyện hay, tự mình lo liệu lấy.”

Nói đoạn, Hoàn Oánh liền trao tay Chúc Chiếu cho một người khác. Chúc Chiếu tựa vào vai người nọ, chỉ ngửi thấy mùi son phấn phảng phất. Một bà lão gọi nàng là “tân nương tử tới rồi”, lại có người hô “vương phi nhập môn”. Những thanh âm vang bên tai nàng đều xa lạ, nhưng trong lòng nàng chỉ lặp lại lời Hoàn Oánh vừa nói.

Lời của Hoàn Oánh, không phải châm chọc, mà là lời cảnh tỉnh.

Chúc Chiếu hiểu rõ, có người bề ngoài khó gần, lời nói chua ngoa, nhưng thực ra tâm địa chẳng mấy độc ác.

Dưới khăn trùm đầu, nàng chẳng nhìn thấy gì, chỉ lờ mờ thấy tà váy người phụ nữ đi trước nhẹ nhàng bước về phía tân phòng trong hậu viện. Trên tà váy thêu đôi uyên ương, nền lụa xanh lam, thực đẹp mắt.

Hôm nay Văn vương thành thân, khách khứa tới phủ đều không phải kẻ tầm thường. Ngoài các đại thần trong triều, còn có Nhung thân vương, Tán thân vương và Hiền thân vương – đều là thúc bá của đương kim hoàng đế, đương nhiên không thể vắng mặt.

Mấy vị vương gia thuở còn là hoàng tử, Nhung thân vương là Nhị hoàng tử, Tán thân vương đứng thứ ba, Tiên đế tức Minh thiên tử là thứ năm, Hiền thân vương là thứ sáu, còn Minh Vân Kiến – Văn vương – là mười một. Trong số các vương gia, hắn là người nhỏ tuổi nhất, địa vị cũng thấp nhất.

Hắn và các huynh đệ tuy không thân thiết, nhưng cũng không có hiềm khích gì.

Tán thân vương từng nói: “Vẫn là Thập nhất đệ sung sướng, suốt ngày chỉ biết tiêu khiển giải trí, đâu như bọn ta, bận rộn không ngơi.”

Minh Vân Kiến không nắm đại quyền trong triều, thứ duy nhất hắn giữ được chính là ba ngàn quân Dạ Kỳ ở kinh thành. Dù gọi là ba ngàn, nhưng tuyệt chẳng tới bốn ngàn người. So với Nhung thân vương che trời một tay, hay Hiền thân vương, hắn đều chẳng sánh kịp.

Hiền thân vương chí ít còn lấy được con gái thượng thư Binh bộ làm vương phi.

Bao năm nay, người ta nhìn vào vị trí vương phi của Minh Vân Kiến, cũng là nhìn xem hắn có dã tâm với triều cục hay không. Nhưng phải nói, từ sau khi Minh thiên tử băng hà, suốt gần mười năm nay, Minh Vân Kiến sống quá tùy tiện. Hắn không kết bè kéo cánh, không tặng quà, không mở tiệc, thậm chí chẳng cưới vợ. Thỉnh thoảng không dự triều, trời nóng thì dâng tấu xin nghỉ, nói muốn về Giang Nam tránh nóng.

Dù mấy vị thân vương có muốn dè chừng hắn, thì hành động của hắn cũng chẳng khiến ai cảnh giác nổi.

Hiền thân vương từng vì rảnh rỗi mà phái người theo dõi hắn khi hắn về Giang Nam tránh nóng. Lần nào đi khỏi kinh, lần ấy đều theo, theo suốt năm sáu năm, năm nào cũng như năm nào, chẳng qua là du ngoạn sơn thủy, ngâm thơ vẽ tranh, thỉnh thoảng nổi hứng thì kết giao vài người giang hồ.

Hắn cũng chẳng luyện võ, đến thanh kiếm còn cầm không nổi. Vì vài kẻ gặp gỡ sơ giao mà viết hai bài thơ, thơ truyền ngàn dặm vào kinh, đến tay Hiền thân vương, ông ta mới xác nhận: người này, quả thật vô tranh.

Nhưng Hiền thân vương cũng rõ, kẻ không dã tâm mới có thể sống lâu trong chốn quan trường.

Chỉ là, điều từng chứng thực là “vô tranh”, lại bị phá vỡ vào một ngày thu vàng mồng tám tháng mười năm nay.

“Thập nhất đệ lấy ai không lấy, lại cố tình lấy người nhà họ Chúc.” Tán thân vương từ tiệc rượu bước ra, kéo Hiền thân vương đang say đi ngắm trăng, cùng đến nhà xí giải sầu, hai người vai khoác vai, trong các huynh đệ, họ là thân nhất.

Bên hông viện có hai cây quế, che lấp đi phần nào mùi xú uế.

Tán thân vương đứng trong xí thất, lộ nửa thân, Hiền thân vương thì đứng dưới gốc cây, khẽ nhíu mày: “Triều đình ai chẳng biết, nhà họ Chúc… từng là tâm phúc của Nhung thân vương.”

“Bí thư giám Chúc Thịnh, từ lúc nhập quan trường đã dựa vào Nhung thân vương. Con trai ông ta có tài hội họa xuất chúng, sau khi được vào cung học vẽ, trở thành họa sư hoàng gia. Nhưng ta nghe nói… Chúc Hiểu từng vẽ cho Nhung thân vương một bức tranh, không biết tam ca từng nghe chưa?” Hiền thân vương hỏi.

Tán thân vương chỉnh lại y phục, đẩy cửa bước ra, liếc mắt nhìn hắn ta: “Nghe rồi, nhưng chưa từng thấy, cũng không rõ vẽ gì. Song có lời đồn, mười năm trước nhà họ Chúc thảm tử, chính vì bức họa ấy.”

“Tam ca cho rằng, cái chết của nhà họ Chúc, có phải do Nhung thân vương ra tay?” Hiền thân vương hạ giọng hỏi.

Tán thân vương thoáng ngập ngừng, rồi đáp: “Đã là tâm phúc, nếu không phản bội, sao lại bị diệt cả nhà? Hơn nữa, theo ta biết, đến giờ Nhung thân vương vẫn đang tìm hung thủ năm xưa. Nếu thật là huynh ấy làm, giả vờ tìm hai năm là đủ buông tay rồi, Đại Lý Tự cũng chẳng truy xét, vậy mà mấy mật thám dưới trướng huynh ấy vẫn âm thầm điều tra. Chuyện này, e rằng không phải do huynh ấy làm.”

“Hay là do tam ca ra tay?” Hiền thân vương giả vờ cười hỏi một câu.

Tán thân vương sắc mặt cứng lại, sau đó lại cười hì hì hai tiếng, đưa tay chỉ vào mặt Hiền thân vương mà nhấn nhá: “Lục đệ, lời đệ thật thú vị.”

“Hiện giờ tiểu hoàng đế càng lúc càng lớn, tuy còn an phận, nhưng chung quy vẫn là con sói non. Văn vương tuy không làm nên trò trống gì, nhưng rất giỏi lấy lòng tiểu hoàng đế. Nay hắn cưới nữ nhi nhà họ Chúc, chẳng phải là đang đứng về phía Nhung thân vương hay sao? Bằng không thì huynh nói xem, hắn độc thân bao năm, đột nhiên được ban hôn, không thấy lạ lùng sao? Có khi việc ban hôn, là do chính hắn tự tìm đến tiểu hoàng đế mà xin cũng nên.” Hiền thân vương vừa nói vừa lắc đầu, bật cười: “Nhưng ta cũng không thấy hắn vì thành thân mà vui vẻ cho lắm.”

“Mười năm nay Thập nhất đệ không cưới, vì ai, cả kinh thành đều rõ.” Tán thân vương nói đến đây, liền trông thấy lễ bộ thị lang lắc lư thân hình thấp bé đi tới, tay còn cầm ly rượu. Thấy hai vị thân vương, ông ta hành lễ rồi hơi say, kéo hai người nói rằng phía trước đang đợi họ.

Tiệc cưới dần vào hồi kết, khách khứa lục tục rời đi. Người trong Văn vương phủ cũng phân nhau đưa các đại thần dự tiệc ra tận cổng, lên kiệu hồi phủ, từng người một tiễn đi. Những ai say khướt không còn đi nổi, thì được an bài nghỉ lại trong phòng khách.

Minh Vân Kiến tuy không hỏi han chính sự, song trong triều cũng có vài vị văn thần làm bạn. Mỗi lần ra ngoài đều là để giết thời gian, tiêu dao với bút mực. Hôm nay hắn thành thân, mấy người bạn kia cũng nể mặt mà đến đủ, kéo theo cả đám đại thần ngày thường miệng lưỡi đầy đạo trị quốc ra chơi trò chuốc rượu.

Văn nhân giỏi ăn nói, những đại thần đã ngồi ở ngôi cao kia làm sao là đối thủ? Chỉ ba lời hai tiếng, rượu đã rót xuống bụng không ít. Hôn lễ Văn vương hôm nay, kể cũng thật náo nhiệt.

Tiền viện tưng bừng, hậu viện lại yên tĩnh lạ thường.

Chúc Chiếu không có nha hoàn thân cận, bởi vậy khi nàng bước vào tân phòng, trong phòng chỉ có một mình nàng. Người đón dâu đặt nàng ngồi xong liền bị mời đi dự tiệc ở thiên sảnh.

Chúc Chiếu ngồi nghiêm chỉnh bên mép giường, hai tay đặt lên đầu gối, hơi thở cũng nhẹ đi nhiều. Chỉ là đầu đội quá nhiều trang sức, nặng đến nỗi đầu óc nàng có chút choáng váng.

Cũng không rõ đã đợi bao lâu, nàng chỉ biết trong lòng lặng lẽ tụng đi tụng lại cả “Đại Học” lẫn “Trung Dung” mấy lượt, đến mức suýt thiếp đi. Đúng lúc ngáp một cái, ngoài cửa mới có chút động tĩnh.

Không phải tiếng bước chân của người trong phủ, hôm nay Văn vương phủ bận rộn, hạ nhân đi đứng đều như bay, vội vàng hối hả. Nhưng người đến lúc này, bước chân lại vững vàng, không gấp không chậm. Đến trước cửa phòng mới giơ tay đẩy cửa ra.

Theo quy củ, phải có nha hoàn bưng cân vui. Nhà thường dân dùng cân đồng hoặc mạ vàng, có người thì dùng vàng ròng. Nhưng Văn vương phủ thì khác, dùng ngọc như ý thay thế, càng thêm xa hoa tôn quý.

Rượu giao bôi cũng được rót trong chén vàng khay ngọc.

Thế nhưng trong phòng không có người, Chúc Chiếu nghe tiếng cửa mở, lại rõ ràng cảm nhận luồng gió thu lùa vào. Khi cửa khép lại lần nữa, nàng cơ hồ nín thở. Chúc Chiếu căng thẳng đến mức hai tay siết chặt lấy váy, lắng nghe tiếng bước chân người kia chậm rãi tiến lại gần, cho đến khi một đôi ủng xuất hiện trước mắt, nàng mới chậm rãi nhắm mắt, cố gắng trấn tĩnh lại.

Minh Vân Kiến đứng yên trước mặt Chúc Chiếu, nhìn thiếu nữ trước mắt lưng thẳng tắp nhưng lồng ng.ực phập phồng dữ dội. Hắn thấy bàn tay không mấy mịn màng của nàng đang siết chặt tà váy, làm đôi phượng hoàng trên đó nhăn nhúm lại.

Ánh mắt hắn vẫn trong trẻo, mọi sự đều đã theo đúng kế hoạch người khác sắp đặt. Hắn, quân cờ bị lợi dụng, cuối cùng cũng phát huy tác dụng. Việc này vốn nằm trong dự tính, thế nhưng trong lòng vẫn loạn như tơ vò.

Cưới một cô nương nhỏ hơn mình mười tuổi, ở kinh thành chẳng phải chuyện lạ. Quan lại quyền quý, nhà nào chẳng có vài a hoàn mỹ lệ tuổi trẻ, tuy chẳng thể ra mặt, nhưng cũng khiến người ta vừa mắt.

Song Minh Vân Kiến vẫn thấy nực cười, bởi hắn còn nhớ rõ dáng vẻ khi Chúc Chiếu còn nhỏ – bé tẹo, đó là đứa trẻ, là một tiểu hài nhi. Dù giờ nhìn lại, cũng chẳng thấy trưởng thành là bao.

Hắn rốt cuộc lui lại hai bước, xoay người ngồi xuống bên bàn đặt ngọc như ý và rượu giao bôi, trông thấy trên bàn có một đĩa lạc, liền bốc một nắm cho vào miệng nhai nhồm nhoàm.

Chúc Chiếu nghe tiếng hắn bóc lạc, mở to mắt đầy nghi hoặc, cẩn thận lắng nghe, đúng thật là tiếng ăn lạc.

Minh Vân Kiến im lặng, Chúc Chiếu cũng không dám lên tiếng. Qua chừng một khắc, Minh Vân Kiến ăn đến phát chán, mới cất lời: “Nàng quả là nghe lời, biết bổn vương vào rồi, thấy chẳng có động tĩnh, vậy mà cũng không biết tự mình tháo khăn trùm.”

Chúc Chiếu mím môi, thật thà đáp: “Nhị phu nhân dạy rằng… khăn trùm, phải do phu quân vén.”

Nghe giọng nàng mềm mại, mang theo chút e dè, bàn tay Minh Vân Kiến đang chống trán hơi siết lại, giữa mày cũng khẽ nhíu. Hắn thở dài, vẫn là cầm lấy ngọc như ý trên bàn bước đến, vén chiếc khăn trùm đỏ kia lên, lúc này mới thật sự nhìn rõ dung mạo tân nương.

Trước kia, nàng thường mặc lại đồ cũ của Hoàn Oánh. Kỳ thực da nàng trắng, không hợp với sắc vàng nhạt, khiến thân hình càng gầy guộc. Nhưng nay mặc bộ y phục đỏ thắm, lại toát lên mấy phần kiều diễm.

Ba tháng qua, Chúc Chiếu đã mập lên đôi chút.

Không còn gầy nhom như gà con ngày mới tới kinh thành. Minh Vân Kiến còn nhớ lần đầu trông thấy nàng, nàng mặc bộ váy vàng, trông y như chú gà con chưa đầy mười ngày tuổi, lớp lông tơ vàng mỏng dính dán sát người, nhỏ đến mức hai tay có thể bóp ch.ết.

Hôm nay, có phấn có son, má phơn phớt hồng, tóc tai trang sức và áo cưới đều do người đặc chế, rất vừa người, rất đẹp. Tuy vóc dáng nàng vẫn nhỏ, vai còn hơi gầy, nhưng so với trăm ngày trước, đã tốt hơn nhiều.

Minh Vân Kiến chợt nhớ lại, bảy ngày trước khi thành thân, Tiểu Tùng mang cơm đến cho Chúc Chiếu, lúc trở về viết một câu lên giấy: “Vương phi béo lên rồi, nhìn dễ coi hơn nhiều.”

Chúc Chiếu mặt đỏ như lửa, khẽ ngẩng đầu nhìn Minh Vân Kiến đứng trước mặt.

Đôi mắt tròn của nàng vì quá căng thẳng mà hơi ươn ướt, đuôi mắt điểm hai chấm phấn đỏ, như cánh hoa đào. Tuy thân thể có thêm chút thịt, nhưng cằm vẫn nhọn.

Minh Vân Kiến cứ thế chăm chú nhìn nàng, đến khi nàng thẹn thùng chẳng dám ngẩng đầu nữa, hắn mới hỏi: “Nàng với Tử Thu, ai lớn hơn?”

“Tam công chúa lớn hơn thần thiếp nửa năm.” Chúc Chiếu đáp.

Nàng còn nhớ rõ, nàng và Minh Tử Thu đều sinh vào mùng ba, nàng là mùng ba tháng Chạp, còn Minh Tử Thu là mùng ba tháng Sáu.

Nghe nàng nói thế, Minh Vân Kiến “chậc” một tiếng, xoay người bước trở lại bàn, tiện tay ném ngọc như ý lên mặt bàn, rồi ngồi xuống, cách Chúc Chiếu trọn mười bước. Hai người cứ thế lặng lẽ nhìn nhau, ánh nến trong tân phòng lúc sáng lúc mờ.

Chúc Chiếu liếc mắt nhìn chén rượu giao bôi trên bàn, kiên nhẫn đợi một lát, sợ đối phương say rồi quên mất, liền cẩn thận nhắc: “Nhị phu nhân có nói, đêm thành thân cần uống rượu giao bôi.”

Minh Vân Kiến nghe vậy bỗng bật cười, bưng chén rượu bước lại trước mặt nàng, đưa nàng một chén, rồi tự mình mang theo một chiếc ghế tròn, ngồi xuống bên mép giường. Hắn hơi nghiêng đầu nhìn nàng, chớp mắt một cái, hỏi: “Rượu giao bôi nên uống thế nào, nhị phu nhân của nàng có dạy không?”

Khoảng cách giữa hai người cực gần, đầu gối gần như chạm vào nhau. Trên áo Minh Vân Kiến có chút mùi rượu, lúc trước khi dùng ngọc như ý vén khăn trùm của nàng, Chúc Chiếu đã ngửi thấy, nay càng thêm rõ ràng.

Nàng lắc đầu, đúng là Nhị phu nhân không dạy cách uống rượu giao bôi.

Trước khi rời khỏi phủ Từ Đông, Từ Liễu thị chỉ căn dặn nàng rằng khăn trùm phải do Văn vương vén, rượu giao bôi nhất định phải uống, và… nếu đêm động phòng có chuyện gì không thích hợp, cũng phải cố mà nhẫn nhịn.

Minh Vân Kiến thấy nàng chớp chớp đôi mắt tròn xoe, liền dứt khoát nắm lấy cổ tay nàng, hai người khoác tay giao bôi, hắn uống trước. Ống tay áo đỏ thẫm che mất nửa gương mặt, đôi mắt hoa đào ở khoảng cách gần nhìn thẳng vào nàng, chờ nàng nhấc chén.

Chúc Chiếu mặt đỏ bừng, nhìn ly rượu trong vắt trong tay, nhắm mắt, tiến lại gần uống một ngụm, học theo sự sảng khoái lúc Minh Vân Kiến uống.

Vừa nuốt xuống cổ họng, nàng hơi sững người, mở mắt nhìn lại chén, lại liếc sang Minh Vân Kiến, thì thầm: “Là… nước.”

Minh Vân Kiến gật đầu, khẽ “ừ” một tiếng.

Chúc Chiếu hỏi: “Rượu giao bôi, chẳng phải là rượu sao?”

Minh Vân Kiến thu tay về, liếc nàng một cái: “Trẻ con thì tốt nhất đừng uống rượu.”
 
Hoàng Thúc, Thiếp Ngoan Mà
Chương 8: Hoa Chúc


Long phụng hoa chúc chầm chậm thiêu đốt, một giọt sáp nến theo mép nến trượt xuống.

Trong tân phòng, Chúc Chiếu trừng lớn đôi mắt, chăm chú nhìn đôi tay của mình. Ngồi trên ghế bên giường, cách nàng không xa là Minh Vân Kiến, hắn rõ ràng cũng đang lúng túng, không biết phải làm gì.

Trong sự tĩnh lặng này, Chúc Chiếu len lén liếc nhìn Minh Vân Kiến mấy lần, thực ra cũng chẳng thể gọi là lén lút, bởi đôi mắt nàng rất to, hai ngọn nến trước cửa sổ sáng rực, ánh lửa phản chiếu trong đồng tử nàng, chỉ cần nàng khẽ liếc mắt, Minh Vân Kiến đều trông thấy.

Sự yên tĩnh như vậy, thật không nên tồn tại.

Sau khi được ban hôn, vài vị bằng hữu trong Hàn Lâm Viện từng kể với Minh Vân Kiến những chuyện xảy ra đêm động phòng. Trong số họ, không phải ai cũng cưới được người mình yêu, nhưng khi nhắc đến đêm tân hôn, ai nấy đều nói là đêm ngọt ngào.

Ít nhất cũng không lúng túng như hắn hiện tại.

Minh Vân Kiến cuối cùng cũng phá vỡ sự yên ắng lạ thường: “Đầu sức của nàng… nặng lắm không?”

Chúc Chiếu “a” một tiếng, đưa tay đỡ lấy món trang sức trên đầu. Đó là một chiếc kim quan, phần lớn là đồng thau uốn thành hình hoa, kết thêm mã não, trân châu, quả thực nặng nề, nàng khẽ gật đầu.

Minh Vân Kiến nói: “Vậy thì tháo xuống đi, nàng chỉ cần thở thôi cũng làm nó rung lắc, mấy cái tua lấp lánh kia làm mắt ta nhức mỏi.”

Chúc Chiếu ngoan ngoãn nghe lời, mò mẫm tháo bỏ phát sức trên đầu, không dễ dàng gì, còn làm rối một vài lọn tóc, một đoạn xõa xuống trước ngực. Tóc đen óng ả, không còn châu ngọc trang sức che lấp, càng thêm thanh tú.

“Đã tháo rồi, chi bằng nghỉ sớm một chút.” Minh Vân Kiến vừa nói xong thì đột ngột đứng dậy.

Chúc Chiếu lập tức cảm thấy một luồng áp lực, ngẩng đầu nhìn hắn, hai chữ “căng thẳng” như muốn nhảy ra từ trong mắt nàng.

Trước khi xuất giá, Nhị phu nhân họ Từ có dạy nàng một vài điều. Bà vốn ngại ngùng, nên cũng chỉ nói sơ lược, đại khái giúp nàng hiểu được đôi chút. Chúc Chiếu khi ấy nghe không mấy rõ, nhưng lúc này những hình ảnh mờ mịt, mông lung lại đột nhiên hiện lên trong đầu, khiến nàng nín thở, toàn thân cứng đờ như khúc gỗ.

Minh Vân Kiến từ trên cao nhìn xuống, trầm mặc một lát rồi nói: “Bổn vương quay về phòng mình.”

Chúc Chiếu sững sờ, Minh Vân Kiến nói xong liền xoay người rời đi. Nàng chỉ có thể trơ mắt nhìn hắn, trong bộ hỷ phục đỏ sẫm, bước ra khỏi tân phòng, còn thuận tay đóng cửa phòng lại. Một lúc sau, nơi đây trở nên yên ắng, Chúc Chiếu mới hồi thần.

Chuyện mà Từ nhị phu nhân căn dặn, e là trong thời gian ngắn sẽ không xảy đến với nàng.

Cũng phải, chuyện thành thân vốn chẳng phải ý nguyện của họ. Hơn nữa, Chúc Chiếu khi còn nhỏ từng ở kinh thành, từng nghe Minh Tử Thu kể vài chuyện về Minh Vân Kiến, biết khi hắn còn là thiếu niên, trong lòng từng có người mình yêu. Nhưng khi ấy cũng là thánh chỉ ban hôn, vị tiểu thư khuê các hắn đem lòng yêu lại thành thân với người khác.

Mười năm trôi qua, Minh Vân Kiến vẫn chưa cưới vợ. Trong trăm ngày nàng ở kinh, từng nghe lời đồn trong khách đ**m, nói rằng hắn sở dĩ chưa cưới, là vì không thể buông bỏ người xưa. Những lời ấy, thật giả khó phân, nhưng Chúc Chiếu nghĩ, hắn đã hai mươi sáu tuổi, nếu không có thánh chỉ thì hắn cũng chẳng thành thân. Dù không phải vì người trong lòng, thì cũng là một lòng nghiêm cẩn với hôn nhân.

Nếu không phải là người mình chân thành yêu quý, dù bị ép cưới bởi thánh chỉ, cũng tuyệt chẳng hồ đồ mà động phòng.

Chúc Chiếu đoán như thế, trong lòng cũng không quá buồn. Chỉ là bị người ta từ chối không lời, rốt cuộc vẫn có chút mất mặt. Nhưng những điều nàng tưởng tượng vừa rồi không thành hiện thực, nàng lại cảm thấy nhẹ nhõm.

Người đi rồi, Chúc Chiếu liền không còn ngồi yên được nữa. Nghi lễ nên làm đều đã xong, nàng thực sự đã đói từ lâu.

Bao ngày qua, mỗi ngày Tiểu Tùng đều đúng giờ mang cơm đến. Chúc Chiếu hễ trời tối mà chưa ăn là dạ dày lại réo rắt. Hôm nay trang điểm phục sức mất cả nửa ngày, lại còn chờ giờ lành để xuất môn, sau đó bị đưa vào tân phòng, nàng không dám nhúc nhích, mỏi lưng ê vai chưa nói, bụng cũng không biết đã kêu bao nhiêu lần.

Trên bàn trong tân phòng bày vài món bánh ngọt và trái cây, lạc được Minh Vân Kiến ăn mất một nửa, còn có chà là đỏ, long nhãn và bánh đậu đỏ. Nàng nhấc lớp váy dày cộm lên, ngồi xuống bên bàn, thấy không có đũa muỗng thì dùng tay bốc. Ăn mấy quả chà là đỏ xong, cơn thèm bị khơi dậy, nàng cũng chẳng bận tâm nhiều nữa, thấy gì ăn nấy.

Chúc Chiếu tuyệt đối không ngờ, Minh Vân Kiến lại quay trở lại.

Hắn vừa rời khỏi tân phòng không bao xa, thì đã dừng chân tại hành lang. Mùi hương nhè nhẹ của hoa tỳ bà ngoài hành lang đưa tới, hắn quay đầu nhìn về phía bên phải, liền thấy dưới mái đình ngói xanh là một rừng hoa tỳ bà đỏ rực, đèn lồng dưới hành lang chiếu sáng, thoáng nhìn như một đám lửa đang bùng cháy.

Một vài ký ức chợt ùa về. Trên tường vây của Chúc phủ ngày trước cũng lợp ngói lưu ly màu xanh. Khi ấy hắn uống say, được người của Dạ Kỳ Quân dìu đi, từ xa nhìn về cửa phủ Chúc gia, dù trời mưa như trút nước cũng không thể dập tắt đám lửa sau cánh cổng kia. Không biết là rượu chưa tan hay mưa quá lớn, sắc đỏ rực ấy, bất chợt giống hệt hoa tỳ bà đỏ giữa đám lá xanh hiện tại.

Minh Vân Kiến rút cây quạt bạc đeo bên hông, phe phẩy vài cái, rồi quay người trở về tân phòng.

Hắn đến trước cửa nhẹ nhàng đẩy ra, liền thấy Chúc Chiếu vừa tháo bỏ chiếc áo khoác dày nặng bên ngoài, chỉ còn mặc trung y thêu hoa phù dung, đoan trang ngồi bên bàn, vẫn giữ phong thái đoan nhã mà đang… nhét miếng bánh đậu đỏ thứ ba vào miệng.

Khoảnh khắc ấy, Minh Vân Kiến bỗng nhớ lại một câu, Tiểu Tùng từng nói đúng: miệng nàng nhìn thì nhỏ nhắn, nhưng một lần có thể nhét không chỉ hai miếng bánh ngọc tử, mà là ba miếng bánh đậu đỏ.

Chúc Chiếu nghe thấy tiếng cửa mở, lại đột ngột và chẳng hề báo trước, khiến nàng giật mình, quay đầu lại thấy Minh Vân Kiến, trong miệng còn đầy đồ ăn chưa nuốt kịp, hoảng hốt đến đỏ bừng mắt, nhai không nổi, vụn bánh đậu đỏ phun cả ra ngoài.

Nàng vội chống tay vào mép bàn, một tay bịt miệng ho sặc sụa, đến nỗi không thở nổi.

Minh Vân Kiến vội bước tới, đặt quạt xuống, rót cho nàng một ly nước. Chúc Chiếu uống xong mới cảm thấy dễ chịu hơn đôi chút, nhưng vẫn chưa ngừng ho, ngực tức đến nghẹn.

Uống liền mấy ngụm nước, nàng mới nuốt trôi được miếng bánh mắc kẹt trong cổ họng, rồi vỗ nhẹ ngực, ho đã dịu bớt, mặt đỏ bừng, nước mắt tuôn rơi, còn một giọt vương nơi hàng mi dưới.

Minh Vân Kiến thấy nàng uống nước quá vội, dưới cằm dính ít vụn bánh và nước trà, bèn đi tới, nâng mặt nàng lên bằng hai ngón tay, dùng khăn tay mang theo lau sạch cằm và khóe môi cho nàng, mày hơi chau lại. Trong suốt quá trình ấy, Chúc Chiếu sợ đến nỗi không dám mở miệng, đến ho cũng không dám, chỉ cố nhịn mà khẽ run vai, nín lặng ho khan.

Đợi đến khi Minh Vân Kiến lau xong, mới buông tay khỏi má nàng, ngồi xuống đối diện, bất lực nhìn nàng.

Sắc mặt Chúc Chiếu vừa có phần ấm ức, lại vừa có chút kinh ngạc. Nàng nghi hoặc nhìn Minh Vân Kiến, tuy không nói lời nào, nhưng hắn cũng hiểu nàng đang muốn hỏi: “Sao lại quay lại?”

“Có ai là tiểu thư nhà lành mà ăn liền ba miếng bánh như nàng không? Có ai giành với nàng à?” Minh Vân Kiến trước tiên trách nhẹ một câu, rồi lại nói: “Huống chi, bổn vương là quỷ sao? Thấy ta lại sặc đến mức ấy, nàng sợ ta ư?”

Chúc Chiếu lắc đầu, vì mới ho xong nên cổ họng còn khàn, giọng khẽ khàn khàn: “Không phải sợ… chỉ là… thiếp ăn hơi… mất phong thái.”

“Còn biết mình không phong nhã,” Minh Vân Kiến nói.

Chúc Chiếu cúi gằm đầu xuống.

Nghĩ đến chuyện mình quay lại, Minh Vân Kiến lại nói: “Hôm nay thành thân, vốn chẳng phải ý nguyện của đôi ta. Bổn vương không ép buộc nàng, cũng sẽ không làm điều gì vượt khuôn phép. Nhưng trong phủ nhiều tai mắt, nàng dù sao cũng là một…” Chữ “đứa trẻ” đến bên môi lại bị hắn nuốt ngược trở lại, đổi lời: “Là người mới vào phủ. Nếu tối nay ta quay về phòng mình, e vài hạ nhân đầu óc chậm chạp sẽ tỏ ý bất kính với nàng. Vì vậy, đêm nay ta sẽ lưu lại.”

Chúc Chiếu nhìn hắn, chớp mắt mấy cái, cuối cùng cũng hiểu ý Minh Vân Kiến.

Hắn là Văn vương, ngày ngày phải thượng triều, lại có bằng hữu trong triều. Tuy rằng hoàng thượng không nhất định giao cho hắn việc gì trọng yếu, nhưng cũng không thể lúc nào cũng ở nhà trông nom nàng.

Vốn dĩ đã là một cuộc hôn nhân không tình nguyện, từ khi vào kinh đến nay, Minh Vân Kiến chưa từng tỏ ra nhiệt tình với nàng. Nếu tối nay hắn không ở lại, thì thân phận Văn vương phi của nàng chẳng khác gì một món đồ trưng bày. Trước mặt Văn vương không có tiếng nói, người dưới cũng sẽ chẳng nể mặt.

“Chúc Hiểu… từng gặp bổn vương vài lần. Nếu có thể kết giao sâu sắc, ắt hẳn là bạn hiền tri kỷ. Nàng là muội của Chúc Hiểu, lại theo Tử Thu gọi bổn vương là hoàng thúc, vậy thì bổn vương sẽ tạm thời chăm lo cho nàng.” Minh Vân Kiến nói: “Từ nay, cứ xem Văn vương phủ như nhà mình, mọi chi dùng, đều theo tiêu chuẩn vương phi mà lấy ở phủ khố. Ngày mai bổn vương sẽ chọn hai nha hoàn theo hầu nàng, được chứ?”

Chúc Chiếu gật đầu, ngoan ngoãn đáp: “Vâng.”

Minh Vân Kiến khẽ “ừ” một tiếng, hỏi: “Còn thắc mắc gì nữa không?”

Chúc Chiếu lập tức đáp: “Có.”

“Hỏi đi.”

“Vậy sau này, thiếp nên gọi ngài là… vương gia, hay là phu quân, hay… hoàng thúc?” Chúc Chiếu nghiêm túc hỏi.

Minh Vân Kiến nghĩ ngợi, nói: “Trừ ‘phu quân’ ra, nàng thích gọi gì thì gọi.”

“Thiếp còn một chuyện nữa…” Chúc Chiếu lên tiếng, “Đêm nay… thiếp ngủ đâu?”

“Trên giường,” Minh Vân Kiến trả lời không chút do dự.

Chúc Chiếu lại hỏi: “Vậy ngài thì sao?”

Minh Vân Kiến nhìn quanh tân phòng, nhất thời câm nín — tân phòng này thế mà lại không có lấy một chiếc trường kỷ. Trong phòng ngoài chiếc giường cưới chạm rồng khắc phụng thì chỉ có bốn chiếc ghế tròn, vài tấm bình phong, chẳng thấy có gian nhỏ nào để nghỉ ngơi cả.

Một nén hương sau…

Chúc Chiếu nằm trong góc trong cùng của giường, vẫn còn mặc nguyên y phục, đắp chiếc áo choàng dày thêu đôi phượng, tất cả trang sức đầu đã tháo xuống để trên bàn. Nàng nằm với tư thế cứng đờ, hai tay đặt ngay ngắn trên bụng, chỉ có con ngươi là len lén liếc sang bên phải.

Trên chiếc giường lớn ấy, chăn được cuộn thành một dải dài, đặt giữa giường để phân chia ranh giới. Chúc Chiếu nằm trong, còn Minh Vân Kiến trong bộ hỷ phục đỏ sẫm nằm ngoài.

Chỉ cần nàng xoay đầu là có thể thấy được một bên mặt của Minh Vân Kiến. Trong lòng có điều muốn hỏi, Chúc Chiếu lựa lúc ánh đèn mờ nhạt, Minh Vân Kiến chưa chắc trông thấy biểu cảm của nàng, mới lấy can đảm hỏi khẽ: “Vương gia từng nói ở Tửu Phong Thập Lý rằng, muốn gặp thiếp là để xem dung mạo của ta. Câu ấy… là lừa thiếp đúng không?”

Nếu thật sự để tâm đến sắc mạo, tức là còn có chút quan tâm. Mà đã chẳng có tâm tư gì, thì ngày nàng vừa về kinh, việc hắn đến gặp chắc chắn là có nguyên nhân khác.

Minh Vân Kiến không đáp, nhưng cũng chẳng phủ nhận. Hắn chỉ xoay người, quay lưng về phía Chúc Chiếu, đối mặt với đôi hỉ chúc đỏ rực và những sợi kim tuyến treo trên rèm giường, khẽ thở dài.

Mười năm bình lặng, một đêm điên rồ.

Nến cháy gần tắt, chỉ còn vài ngọn bên cửa sổ. Sau đó, ánh sáng chập chờn cũng dần bị gió lùa từ khe cửa thổi tắt, tân phòng chợt chìm trong bóng tối. Bên ngoài vẫn còn đèn sáng, hạ nhân lo việc hậu cần chưa ai đi ngủ, nhưng không ai dám đi ngang qua viện này, sợ quấy nhiễu chủ nhân.

Trong đầu nghĩ nhiều chuyện thì dễ đau đầu, Minh Vân Kiến nhắm mắt hơn một canh giờ mới thấy có chút buồn ngủ. Phía sau hắn, Chúc Chiếu nằm yên lặng như một con mèo, chẳng lật người lần nào.

Giờ tý vừa qua, đèn trong Văn vương phủ cũng đã tắt bớt, chỉ còn vài ngọn để soi sáng cho người chưa ngủ.

Minh Vân Kiến vẫn nằm ngửa, chưa thực sự thiếp đi, chợt nghe thấy tiếng động khe khẽ bên tai. Hắn hơi nhíu mày, chưa mở mắt, nhưng cảm nhận được chăn đệm bên người bị ai đó đè lên, rồi một góc áo lướt qua tay hắn — đến lúc này hắn mới không nhịn được, mở mắt ra.

Vừa mở mắt, đã đối diện với Chúc Chiếu đang ngồi xổm bên cạnh hắn, một tay đặt trên mép giường, định trèo qua người hắn để xuống giường.

Bộ hỷ phục trên người nàng hơi cồng kềnh, ống tay rộng thùng thình. Nàng đang cắn vạt tay áo trái, tay phải xắn cao, không biết rơi xuống từ lúc nào, đánh thức Minh Vân Kiến.

Nàng cứ thế ngồi xổm bên hông hắn, tròn xoe đôi mắt như mèo đêm, tóc dài rối nhẹ dính vào má.

Minh Vân Kiến bị dáng vẻ này dọa đến tỉnh hẳn cơn buồn ngủ vừa lóe lên.

Hắn vội chống tay ngồi dậy, trừng mắt nhìn nàng: “Nàng làm gì vậy?”

Chúc Chiếu lập tức rụt tay chân lại, nhả vạt tay áo, ôm gối ngồi xuống mép chăn, mặt đỏ bừng, lí nhí đáp: “Chưa ăn no… nên không ngủ được.”

Minh Vân Kiến chỉ cảm thấy huyệt thái dương giật giật. Lại thấy khi nàng vừa rồi cúi người muốn lén lút trèo xuống giường, cổ áo hơi xộc xệch, lộ ra một ánh vàng lấp lánh.

Đó là một chiếc khóa vàng trường mệnh, mặt khắc hình Kỳ Lân đạp lửa. Ánh mắt Minh Vân Kiến chợt tối lại, qua một hồi mới hỏi: “Muốn ăn gì?”

Chúc Chiếu đưa ra một yêu cầu không hề quá đáng: “Mì.”
 
Hoàng Thúc, Thiếp Ngoan Mà
Chương 9: Tặng Quế


Sau một ngày bận rộn, đầu bếp trong Văn vương phủ vừa mới được lên giường sưởi ấm, lại bị gọi dậy nấu một bát mì trứng.

Trứng được đánh tơi xào thành từng mảnh nhỏ, đổ nước vào đun sôi tạo thành nước súp sánh ngậy màu trắng đục, lại thêm vài lát thịt xông khói, cho sợi mì bản to được thái bằng dao vào, chẳng mấy chốc, bát mì đã được bưng vào tân phòng của Văn vương và Văn vương phi.

Trước kia Chúc Chiếu vốn không ăn đêm, nhiều khi đến bữa tối nàng cũng chẳng thấy đói. Nhưng có lẽ vì mấy ngày nay Tiểu Tùng đều đặn mang cơm đến, khẩu phần lại vừa đủ để nàng ăn hơi căng mà vẫn dễ chịu, nên Chúc Chiếu nghĩ, có lẽ nàng đã bị Tiểu Tùng nuôi thành thói quen rồi.

Chúc Chiếu ăn mì vẫn coi như đoan trang, nhưng nàng có thói quen ăn đầy miệng, hai má phồng lên, rồi mới từ tốn nhai kỹ nuốt xuống, chứ không giống các tiểu thư khuê các khác, nhón từng miếng nhỏ, chậm rãi nhai nuốt.

Minh Vân Kiến khoác áo choàng đen, hơi ngái ngủ nhìn nàng ăn. Nàng nghiêng người về phía bàn, ánh nến đặt ở giữa, những món trang sức lấp lánh đặt bên cạnh được chiếu sáng, phản chiếu ánh sáng lên khuôn mặt Chúc Chiếu.

Hắn nhìn dáng vẻ nàng ăn mì, luôn cảm thấy hình ảnh này quen thuộc.

Một lúc sau, hắn nhớ ra rồi.

Năm hắn mười bảy, Tán Thân vương từng tặng hắn một món đồ — một con chuột hoa ngũ đạo lông mày, hiếm thấy, nhốt trong chiếc lồng bạc nhỏ. Minh Vân Kiến nuôi nó một thời gian. Con vật nhỏ ấy rất thích ăn hạt thông và lạc, nhưng mỗi lần được cho ăn, nó không ăn ngay mà nhét vào má. Tuy thân hình nhỏ nhắn, nhưng mỗi lần ăn, khuôn mặt đều tròn vo.

Ừm, giống hệt Chúc Chiếu lúc này.

Còn con chuột hoa ấy sau này thế nào? Minh Vân Kiến nghĩ lại, hình như chưa đến tuổi hai mươi, con vật ấy đã bị hắn cho ăn đến chết no.

Chúc Chiếu ăn xong mì, đến cả nước súp cũng không để sót, chia làm mấy lần uống cạn. Sau đó, nàng lấy khăn tay lau miệng một cách hơi ngượng ngùng. Tư thế thì có vẻ đoan trang, chỉ là… chưa từng thấy ai đoan trang mà ăn hết được cả bát mì lớn như thế.

“Ăn no rồi à?” Minh Vân Kiến hỏi.

Chúc Chiếu gật đầu, không quên khen tay nghề của đầu bếp Văn vương phủ: “Ngon lắm.”

Minh Vân Kiến nghe vậy khẽ cười.

Ăn xong, Chúc Chiếu lại quay về nằm bên trong giường, đắp áo choàng đỏ, nghiêng người vào trong. Trời cũng đã không còn sớm, cơn buồn ngủ dần kéo tới. Trong lúc lơ mơ, dường như nàng nghe thấy Minh Vân Kiến lẩm bẩm: “Ăn no rồi ngủ, thật đúng là vô ưu.”

Sáng sớm hôm sau, Chúc Chiếu bị tiếng người đi lại trong Văn vương phủ đánh thức.

Cửa tân phòng vẫn đóng, nhưng Minh Vân Kiến – người tối qua ngủ bên cạnh nàng – đã không còn ở đó. Chúc Chiếu dụi mắt ngồi dậy, phát hiện trên người mình đắp một lớp chăn mỏng, bàn trong phòng đã được dọn dẹp gọn gàng, y phục cần mặc hôm nay đặt ngay ngắn trên ghế cạnh đầu giường. Nàng đoán chắc mình ngủ say quá, nên không biết người hầu đã vào phòng dọn từ lúc nào.

Sau khi thay y phục, mở cửa phòng, Chúc Chiếu phát hiện ngoài cửa có hai nha hoàn đang đứng. Cả hai đều mặc váy lam nhạt, một người cài hoa hồng phấn, một người cài hoa vàng nhạt.

Thấy nàng mở cửa, hai người vội ngừng trò chuyện, cung kính hành lễ gọi một tiếng: “Vương phi.”

Một tiếng “vương phi” khiến Chúc Chiếu hơi ngẩn ngơ.

Thấy nàng đã thay xong y phục nhưng tóc vẫn búi theo kiểu thiếu nữ, hai người vội mời nàng trở lại phòng, một người chải đầu, một người bưng nước, giúp nàng rửa mặt chải tóc lại.

Trong lúc được chải tóc, Chúc Chiếu cũng hỏi thăm lai lịch của họ. Hóa ra cả hai đều bị gia đình bán vào phủ từ khi mới sáu tuổi, người tên Đào Chi, người tên Đàn Tâm, đã ở phủ hơn mười năm.

Tất cả nha hoàn trong vương phủ, đến hai mươi tuổi đều có thể lựa chọn ở lại hay rời phủ để gả chồng.

Tất nhiên, nếu diện mạo xinh đẹp, lại hầu hạ bên cạnh vương gia, may mắn được để ý, sẽ trở thành mỹ tỳ. Mỹ tỳ thì không thể xuất phủ lấy chồng, nếu được sủng ái, sinh con thì có thể được phong làm thiếp trong mười, hai mươi năm sau.

Chúc Chiếu nghe họ nói vậy, liền hỏi: “Vậy vương gia có mỹ tỳ nào không?”

“Vương phi không biết đấy thôi, nha hoàn trong phủ không ai được tiếp cận vương gia cả, người hầu bên cạnh đều là phủ đinh,” Đào Chi đáp, Đàn Tâm lại bổ sung: “Còn có cả Tiểu Tùng.”

Chúc Chiếu gật đầu, rồi hỏi tuổi của hai người, mới biết một người mười tám, một người mười chín. Lẽ ra sang năm đã có thể rời phủ, nhưng nay được Minh Vân Kiến chỉ định hầu hạ bên nàng, tất nhiên sẽ không rời đi nữa.

Cũng may, cả hai đều không phụ không mẫu, bị bán vào phủ thì cũng cắt đứt liên hệ với người nhà, bằng lòng ở lại hầu hạ.

Minh Vân Kiến chọn người lớn tuổi hơn một chút ở cạnh Chúc Chiếu, thật ra cũng là để dễ bề chăm sóc, tránh để người cùng tuổi hoặc nhỏ tuổi hơn gần gũi nàng quá, cùng nhau ham chơi phá lệ, chuyện nhỏ là phá quy củ, chuyện lớn là gây rắc rối.

Sau khi Chúc Chiếu rửa mặt xong, Đào Chi liền đến thư phòng thỉnh Minh Vân Kiến.

Chúc Chiếu và Minh Vân Kiến là do hoàng thượng ban hôn, tuy hoàng thượng cho phép hắn nghỉ lễ, nhưng theo lễ nghi, đã thành thân thì phải vào cung tạ ân.

Bộ y phục nàng mặc hôm nay cũng không phải thường phục, mà là lễ phục nữ quyến vào cung. Chỉ riêng các loại trâm cài trên đầu, đã không kém gì hôm qua khi nàng xuất giá về Văn vương phủ.

Giờ vào cung vẫn còn sớm, đợi đến lúc hoàng thượng hạ triều mới được phép diện kiến. Chúc Chiếu lại quen dậy sớm, trời mới vừa sáng, mặt trời mới mọc, trong sân mùi hoa quế thoang thoảng, qua một đêm đã vàng ươm, hương thơm ngào ngạt, ngọt dịu.

Chúc Chiếu rời phòng, đứng bên cạnh một cây quế trong sân. Cây này không lớn, nhưng cũng chỉ cao gấp đôi nàng. Nàng bám vào cành bị đè thấp, khéo léo hái từng đóa hoa nhỏ, bàn tay trái đã đầy hoa quế.

“Đường đường là Văn vương phi, sao lại hóa thành kẻ trộm hoa thế này?” Minh Vân Kiến đến nơi thì thấy cảnh ấy, bèn đứng sau lưng trêu.

Chúc Chiếu quay đầu lại, hai người đối mặt, trên người đều vận y phục trang trọng, nghiêm chỉnh.

Y phục của Chúc Chiếu đối với nàng mà nói, có phần chững chạc hơn tuổi. Đại Chu tôn sùng sắc huyền và vàng kim, chỉ hoàng thân quốc thích mới được dùng. Bộ váy hôm nay của Chúc Chiếu gồm áo lót màu huyền, váy ngoài xanh đậm, trên chiếc váy mã diện thêu mấy đóa xuân lan thanh nhã, viền váy và cổ tay áo được viền bằng kim tuyến óng ánh.

Nhìn thoáng qua thì rất ổn, nhưng ngắm kỹ thì lại như đứa trẻ con khoác lên mình y phục người lớn.

Y phục của Minh Vân Kiến cũng chẳng thoải mái hơn là bao, riêng đồ trang sức đeo bên hông đã bốn món. Tóc dài được vấn cao, đội ngọc quan, trên áo hắn thêu mấy con kim long.

Long có năm móng là biểu tượng của thiên tử, nhưng trên y phục của thân vương, vương gia và hoàng tử đều có thể dùng, chỉ khác biệt ở kích cỡ và cách thể hiện.

Chúc Chiếu liếc nhìn long văn trên áo và y phục huyền sắc của Minh Vân Kiến, hoa quế trong tay nàng bị gió sớm cuốn đi một nửa. Nàng chợt nhớ đến đêm mưa mười năm trước trước cổng Chúc phủ, ánh mắt khẽ hạ xuống, liền thấy ngón cái tay phải của hắn đang đeo một chiếc nhẫn bạch ngọc.

“Cho chàng đấy.” Chúc Chiếu chìa hoa quế trong tay ra cho Minh Vân Kiến.

Minh Vân Kiến liếc nhìn hoa trong tay nàng, lòng bàn tay nàng khô ráo, hoa quế vốn không giữ được, chỉ cần mở tay ra thì gió sớm đã có thể cuốn bay sạch. Vì vậy tay nàng hơi khum lại, mấy chục đóa hoa nhỏ vàng óng, tỏa hương ngát, thơm ngào ngạt.

Minh Vân Kiến đưa tay, dùng quạt bạc gõ nhẹ lên đầu nàng: “Theo bổn vương vào cung.”

Người khác tặng quế thường là tặng cả cành, Chúc Chiếu lại tặng những đóa nhỏ được tỉ mỉ nhặt từ kẽ lá.

Nhưng trước khi rời khỏi sân, Minh Vân Kiến vẫn liếc nhìn cây quế ấy — cây không lớn, lá vẫn xanh biếc, bẻ cành thì quả là đáng tiếc.

Tặng quế, ngụ ý quý.

Ngồi lên xe ngựa, Chúc Chiếu và Minh Vân Kiến đối diện nhau. Xe ngựa của Văn vương không hoa lệ như các thân vương khác, nhưng người đánh xe của Dạ Kỳ Quân thì khá oai phong.

Xe ngựa gần đến cổng cung, Minh Vân Kiến hỏi: “Nàng hiểu rõ lễ nghi trong cung chứ?”

“Vương gia vào điện yết kiến, thiếp đến bái kiến Thái hậu,” Chúc Chiếu đáp.

“Hôm nay gặp nàng, e rằng không chỉ có mỗi Thái hậu.” Minh Vân Kiến nói, “Tiểu hoàng đế vừa tròn mười, Thái hậu vì muốn củng cố địa vị cho nó, cũng để thu phục triều thần, đã lần lượt nạp cho nó mấy phi tần, nay trong cung đã có mười nữ nhân của hoàng đế. Cộng thêm Đại công chúa và Nhị công chúa, nàng cần phải nhớ mặt từng người, tránh sau này vào cung lần nữa mà không nhận ra.”

“Thiếp trí nhớ không tệ.” Chúc Chiếu nói, rồi nhận ra lời hắn thiếu mất một người, liền hỏi: “Tam công chúa không ở trong cung sao?”

“Nàng ấy năm mười ba tuổi mắc bệnh nặng, suýt mất mạng. Thái y bó tay, may có lang y giang hồ cứu được, nói phải ăn trái cúng trong Phổ Phật Tự vài năm mới khỏi hẳn. Tính ra, sau rằm sẽ trở về.” Minh Vân Kiến nói đến đây, liếc nhìn Chúc Chiếu, hỏi: “Nghe nói, hồi nhỏ nàng cũng yếu ớt?”

“Vâng.” Chúc Chiếu còn nhớ, lần đầu gặp Minh Vân Kiến nàng đã chảy máu cam, còn làm bẩn khăn tay của người ta.

“Mẫu thân thiếp sinh ta khi chưa đủ tháng. Ca ca thiếp kể, thiếp còn bọc trong tã đã bệnh mấy trận rồi, lớn lên cũng coi như lết lết bò bò mà qua được. Hồi nhỏ thường xuyên uống thuốc, cha nương mới đặt tên ta là Trường Ninh.” Chúc Chiếu nói.

Minh Vân Kiến khẽ nói: “Trường Lạc, Khang Ninh.”

Chúc Chiếu gật đầu, mỉm cười dịu dàng: “Chính là ý đó.”

Xe ngựa dừng trước cổng cung, Tiểu Tùng nhảy xuống trước, vén rèm mời Minh Vân Kiến và Chúc Chiếu xuống.

Sau khi Minh Vân Kiến xuống xe, Tiểu Tùng mới nhận ra hôm nay quên đem ghế kê chân — Văn vương thân hình cao lớn, xe ngựa trong phủ cũng do hắn dùng, chẳng ai nghĩ đến việc đặt một chiếc ghế bên sau xe.

Chúc Chiếu tuy không cao, nhưng nhảy xuống xe không vấn đề gì, chỉ là y phục phiền phức, muốn vén váy đã phải vén đến mấy lớp. Váy mã diện lắm nếp, nàng ôm lấy váy, đang tìm hướng nhảy xuống thì đám thị vệ trước cổng cung đều quay lại nhìn nàng.

Chúc Chiếu vội vàng buông váy xuống che kín giày, Minh Vân Kiến liền quay lại, đi đến bên xe, đưa quạt bạc cho nàng.

Chúc Chiếu còn chưa hiểu chuyện gì, tay vừa nhận lấy, đã bị Minh Vân Kiến vòng tay đỡ lấy eo, chỉ khẽ nâng một cái, nàng đã nhẹ nhàng bước xuống xe, đồ trang sức cũng chỉ khẽ lay động.

Minh Vân Kiến thu lại cây quạt nàng cầm, vừa đi vừa nói: “Lễ nghi trong cung rườm rà, hôm nay sai còn được, về sau không được sai nữa. Trước đây nàng từng vào cung rồi, còn nhớ chứ?”

“Vẫn nhớ.” Chúc Chiếu gật đầu. Hồi nhỏ nàng thường theo mẫu thân vào cung, tuy khi đó còn nhỏ, quý phi miễn cho nàng nhiều lễ tiết, nhưng nàng nhớ rõ mẫu thân khi vào cung đã gặp ai, hành lễ thế nào.

“Nhắc thêm một câu, Đại công chúa không phải người dễ thân cận, nên tránh xa. Tránh không được thì tâng bốc vài câu là được, nàng ấy như con công, được khen là xòe đuôi.” Minh Vân Kiến dặn.

Chúc Chiếu “ồ” một tiếng, nàng biết Đại công chúa — là con gái trưởng của Tiên đế Minh Thiên Tử và hoàng hậu, còn đương kim Thái hậu khi đó chỉ là quý phi. Tiên hoàng hậu chỉ sinh được Đại công chúa, nên từ nhỏ đã được nuông chiều sinh tính kiêu ngạo.

“Biết nịnh hót không?” Minh Vân Kiến đi đến cổng cung thứ hai, quay đầu lại hỏi Chúc Chiếu.

Chúc Chiếu nhìn hắn, chớp mắt nói: “Vương gia phong thần tuấn tú, tuấn lãng bất phàm.”

“…” Minh Vân Kiến khẽ nhíu mày, sau một lúc nói: “Coi như biết đi…”

Chúc Chiếu thở phào, bước nhỏ nhẹ nhàng chạy đuổi theo sau.

Đến cổng cung thứ ba, xem như đã thật sự vào cung. Từ đây hai người phải tách ra, mỗi người đi về nơi riêng, rồi theo nghi thức mà trở về cùng nhau, hồi phủ.

Thái hậu trong cung rất hiền hòa, đã sớm sai cung nữ chờ sẵn để dẫn Chúc Chiếu vào yết kiến. Khi tách khỏi Minh Vân Kiến, Chúc Chiếu nghe hắn dặn: “Nếu gặp rắc rối, cứ yên lặng đợi bổn vương.”
 
Back
Top Bottom