Siêu Nhiên Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
388606073-256-k500424.jpg

Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Tác giả: ga-chien-nuoc-mam
Thể loại: Siêu nhiên
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Cụ Hết - một ông lão bình dị giữa khu Chợ Lớn ồn ào, không phải thầy pháp, cũng chẳng phải thầy bói, nhưng lại bị đồn thổi là cao nhân thuật âm dương.

Chẳng biết do số trời hay do cái miệng khéo léo của cụ, người sống kẻ chết cứ thế kéo đến nhờ giúp đỡ. [tác giả: Hà Hải Đăng] Tags: comedydetectivefantasymysteryparanormalsliceoflifesupernaturalurbanlegend​
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Cụ Hết.


Quận 6, những năm 2000.

Một ngày mưa đầu mùa đổ ào ào, mát rượi, như muốn dập tắt cái nóng chảy mỡ từ con đường Nguyễn Văn Luông.

Hàng cây ven đường, vốn bị cả khu coi như "kỳ đà cản mũi," bỗng xanh mướt lên kỳ lạ.

Ngày thường, mấy cây này chỉ có hai công dụng: làm chỗ đổ nước lèo thừa từ xe hủ tiếu gõ, hoặc "nhà vệ sinh dã chiến" cho mấy ông nhậu.

Chăm sóc?

Đừng mơ!

Ai cũng lầm bầm nó chắn mặt tiền quán, sống hay chết cũng chẳng ai thèm quan tâm.

Vậy mà cơn mưa đầu mùa lại giống như phép lạ.

Nước mưa ào xuống, rửa sạch hết tô nước lèo, bụi bặm, thậm chí cả "di sản" của mấy bợm nhậu.

Hàng cây đứng thẳng tắp, tỏa ra màu xanh mơn mởn, như vừa đi spa về.

Giữa dòng đời tấp nập, tụi nó vẫn hiên ngang sống, như muốn nói: "Kệ mấy người, tui vẫn khỏe!"

Hôm đó, ông Còn "đi" sau một cơn đau tim.

75 tuổi, tiền sử bệnh tim lâu năm, nghe tới đây thì ai cũng gật gù kiểu: "Ừ, tới lúc rồi."

ông Còn từng làm chủ một tiệm tạp hóa lớn có tiếng, nhưng đã nghỉ bán từ 10 năm trước, giao hết cho thằng lớn lo.

Vợ ông thì mất cách đây đúng một năm.

Cuộc đời ông tính ra cũng tạm gọi là viên mãn, chỉ trừ một chi tiết hơi ngược đời: ông già của ông, cụ Hết, năm nay hơn 90 nhưng vẫn "chạy phà phà."

Cụ Hết khỏe một cách khó hiểu.

Da có nhăn nheo nhưng giọng thì vẫn sang sảng, mấy chứng bệnh vặt như đau khớp, đau lưng cũng không làm cụ xi nhê.

Đây đã là lần thứ ba cụ phải "tiễn" con mình – một việc mà đáng lẽ cụ không nên có kinh nghiệm.

Hai lần trước, hai người con khác của cụ lần lượt ra đi,cũng vì bệnh già, để lại cụ đứng giữa đám tang mà ai cũng ngại nói gì với cụ.

Lần này, cụ lại tiếp tục vai "khách mời bất đắc dĩ" trong đám ma của ông Còn.

Đứng trước chiếc quan tài của thằng lớn, cụ Hết trông lạc quẻ y như khách lạ.

Thắp nhang hay không?

Lạy hay không?

Cụ cứ bước ra bước vô, mắt nhìn cái hòm mà mặt như đang suy tính bài toán khó.

Người nhà cũng chẳng dám mở lời, vì nghĩ bảo ông cha thắp nhang cho con mình thì... kỳ kỳ, sao nghe trái tự nhiên.

Cả không gian tang lễ trở nên ngộp thở, tiếng muỗi bay nghe rõ hơn cả tiếng thở dài.

Rồi, may mà có thằng Tuấn, cháu đích tôn của cụ, con lớn ông Còn, lanh trí kéo cụ Hết ra khỏi bầu không khí ngượng ngập.

Nó nhỏ nhẹ:

"Nội ơi, nội ngồi đây lâu chắc mỏi rồi.

Hay nội vô trong nghỉ chút nha?"

Cụ Hết gật gù đi theo, nhưng trước khi khuất bóng sau cánh cửa, cụ còn quay lại, nhìn cái quan tài mà buông một câu:

"Chắc tụi nó qua bển dành đất trước cho tao."

Cả nhà im như thóc, không biết khóc hay cười.

Có người cố nhịn mà vai rung bần bật.

Đợi cụ Hết vừa đi khuất, cả gian nhà bỗng như bật van xả, một trận cười rần rần pha lẫn tiếng nấc nghẹn.

Thiệt tình, trong cảnh tréo ngoe như vậy, không cười thì cũng chẳng biết làm gì khác!

Hồi ba đứa nó còn khỏe, tụi nó ép cụ Hết vô chế độ "hưu non."

Tụi nó nói: "Ba lớn tuổi rồi, giờ nhà có điều kiện, ba ngồi chơi xơi nước, tụi con lo hết!"

Nghe thì ấm lòng, nhưng thiệt ra, cụ Hết thấy không khác gì bị "tạm giam tại gia."

Thời trẻ, cụ đã quen bị bà vợ quản thúc: "Ông đi đâu?

Làm gì?

Sao không ở nhà phụ tui?"

Cụ lén đi uống ly cà phê mà bà cũng tra hỏi như công an thẩm vấn.

Vậy mà giờ đây, cụ tưởng thoát kiếp bị kềm, ai dè vừa thoát bà vợ đã dính ngay ba đứa con.

Cụ tính ra ngoài dạo phố cho khuây khỏa, tụi nó lại cấm tiệt: "Ba lớn tuổi rồi, lỡ đi lạc như mấy cụ trong xóm, tụi con tìm không ra thì phiền lắm!"

Cụ nghe mà tức, thầm nghĩ: "Ủa, tụi bây tính tao là con nít chắc?

Tao đi nửa đời người rồi chớ bộ!"

Nhưng cũng đành chịu, vì tụi nó nói đúng... nửa phần.

Thế là cụ đành quanh quẩn trong xóm, làm bạn với mấy ông cụ gần nhà.

Nhưng khổ nỗi, từng ông lần lượt "đứt bóng," cụ chưa kịp than thì mấy ổng đã đi hết lượt.

Cụ nhìn quanh, thấy không còn ai để rủ rê, đành chuyển qua chơi với tụi nhóc trong xóm.

Hồi đầu thì vui lắm, tụi nhỏ cứ quấn quýt bên cụ.

Khi thì cụ Hết chỉ tụi nó làm diều, làm cầu lông, khi thì kể chuyện ngày xưa.

Nhưng tụi nhỏ lớn nhanh như thổi, đứa nào cũng lần lượt "ra riêng" vì phải đi học, đi làm.

Vậy là cụ Hết hết người để giải sầu, lại tiếp tục ra ra vào vào cái sân nhỏ trước xóm, chỉ làm bạn với mấy quyển sách.

Giờ đây, thằng lớn nhất trong bộ "ba đứa nhỏ" nhà cụ đã khăn gói đi đoàn tụ với ông bà.

Cụ Hết đứng trước sân, nơi người ta còn đang lục đục dọn mấy bộ trống kèn của đội nhạc đám ma.

Cụ chống hông, mắt nhìn xa xăm, lòng lâng lâng: "Tới lượt tao tự do rồi!

Giờ tao muốn đi đâu thì đi, không ai cấm cản nữa."

Cụ hít một hơi dài, như để tận hưởng trọn vẹn cái mùi vị của tự do – mùi nhang khói lẫn mùi cháo lòng đâu đó ngoài hẻm.

Cụ bước tới cổng, chân vừa nhấc khỏi ngưỡng cửa thì khựng lại, gãi gãi đầu:

"Ủa, tự do rồi mà... giờ đi đâu đây ta?"

Đứng ngẫm một lúc, cụ lẩm bẩm: "Hay đi ăn hủ tiếu gõ?

Mà mới ăn sáng.

Hay qua nhà ông Sáu?

Ổng đứt bóng hồi năm ngoái..."

Nghĩ tới nghĩ lui, cụ đành quay vào nhà, lẩm bẩm thêm: "Tự do kiểu này cũng... lạ ha!"
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Tự Do


Từ sau đám ma ông Còn, cụ Hết bỗng trở thành người đàn ông "bận rộn" nhất xóm.

Sáng cụ đi sớm, tối cụ về trễ, có hôm về muộn tới mức con nhỏ giúp việc chờ mở cửa mà gật gà gật gù, suýt ngã ra ghế.

Thấy cụ đi miết, nhưng cả nhà chẳng ai dám hó hé hỏi: "Cụ đi đâu, gặp ai, làm gì?"

Vì tụi nó hiểu, giờ cụ tự do rồi, đừng dại mà đụng tới.

Cả đời cụ Hết đã làm tròn trách nhiệm của mình, phải nói là "xuất sắc đến mệt mỏi."

Nào là lấy vợ, sinh con, nuôi dạy tụi nó thành tài, dựng vợ gả chồng cho tụi nó, rồi giao của cải, rồi phụ chăm cháu, rồi cháu lớn lại sinh chắt.

Cụ tự nhủ: "Cái vòng lặp này mà không dừng lại, chắc tao cũng... ngưng thở theo!"

May mà giờ cái "nhiệm vụ không hồi kết" đó coi như chấm dứt.

Cả nhà cụ Hết đã đoàn tụ bên kia, để lại mình cụ Hết với cái sân trống.

Buồn thì cũng buồn, nhưng cụ nghĩ: "Buồn hoài được gì?

Tụi nó đoàn tụ, viên mãn hết rồi.

Còn tao?

Tao còn sống nhăn đây mà!"

Vậy là cụ quyết định sống cho mình.

Mỗi lần ra khỏi cổng, cụ hít một hơi như thể đánh dấu: "Giờ là thời của tao, mấy đứa nhỏ đừng có hòng rầy rà!"

Ban đầu, cụ Hết chỉ lang thang loanh quanh gần nhà, kiểu như "làm quen với tự do từ từ."

Cụ lân la kết bạn với mấy ông cụ xóm bên, nhưng sau vài lần trà nước, cụ phát hiện ra một sự thật đau lòng: tụi ông cụ kia cũng bị quản thúc tại gia y chang cụ hồi trước.

Người thì bị con cái canh gắt, người thì đau chân đau lưng, có đi được cũng chỉ tới cái ghế đá trước nhà là hết hơi.

Mà oái oăm hơn, cụ nghe loáng thoáng mấy đứa con của tụi nó còn cấm cửa, không cho cha mẹ tụi nó giao du với cụ Hết.

Lý do?

Nghe đâu tụi nó sợ cụ Hết "nhiệt tình quá," dắt nguyên đội ông bà lão đi luôn, mà đi theo kiểu... không về.

Cụ Hết nghe mà tức muốn bật ngửa: "Ủa, tao trông giống kiểu đầu nậu chuyên dụ người lớn tuổi trốn nhà lắm hả?!"

Nhưng tức thì tức, cụ cũng không giận lâu, chỉ cười xòa: "Thôi, tụi nó nói sao thì cứ để vậy, mình tự do là được rồi!"

Thế là cụ quay xe, tự làm bạn với chính mình, còn mấy ông cụ kia thì cứ ở nhà mà sợ hão!

Từ việc lang thang loanh quanh xóm, giờ cụ Hết "nâng cấp" phạm vi lên quận kế bên, hẳn quận 5.

Điệu bộ cụ thì khỏi nói, lịch sự chuẩn phong cách: quần dài, áo sơ mi đóng thùng, dây nịt da, đội thêm cái nón bê rê cũ.

Tay cầm cây gậy chống, nhưng thiệt tình, gậy chỉ để cầm cho có phong cách.

Chỉ đôi khi đi bộ lâu quá, cụ mới chống xuống nghỉ một chút.

Cụ nghĩ: "Tuổi này mà không cầm gậy, coi bộ hơi... kỳ."

Đi ra đường, cụ đúng kiểu "người của công chúng."

Ai cũng ngoái lại nhìn, không biết vì cụ già một cách "ấn tượng" hay vì cụ cứ lang thang một mình trông tội tội.

Có người lẩm bẩm:

"Con cháu ông đâu mà để ông già đi một mình vậy trời?"

Đỉnh điểm là bữa nọ, cụ đứng chờ đèn đỏ ở ngã tư.

Một chiếc xe máy tạt qua, người lái dúi vào tay cụ tờ một trăm ngàn rồi rồ ga chạy mất.

Cụ đứng đó, chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, muốn trả lại cũng không kịp.

Cầm tờ tiền, cụ lắc đầu cười khổ:

"Ủa, chớ mình nhìn giống vậy thiệt hả?!"

Cụ Hết đi ngoài đường mà phong thái đúng kiểu "người không còn gì để mất."

Cụ không vội, cứ nhàn nhã bước từng bước, chậm rãi mà khoan thai như thể tận hưởng từng giây phút của tự do.

Ai trên đường cũng bận rộn, còn cụ thì cứ như đang đi dạo trong công viên.

Đi được vài trăm mét, cụ mệt thì cụ ngồi bệt xuống vệ đường, bệ cây, hay ghế đá, chẳng câu nệ chỗ nào.

Cụ nghĩ bụng: "Giờ mình có tất cả thời gian trên đời, mắc gì phải gấp?"

Khi nào đói, cụ Hết lại ghé vào một quán ăn ven đường, chậm rãi gọi một tô mì nhỏ hay tô phở "con nít."

Ở tuổi cụ, ăn uống đâu cần nhiều, chỉ cần no bụng là được.

Mà lạ cái, cụ đi ăn ở đâu cũng được mời chào đon đả: "Ông cụ, mời vô đây!

Cụ ngồi ghế này cho mát!"

Đến khi ăn xong, cụ nằng nặc móc tiền ra trả, thì chủ quán cứ phẩy tay: "Thôi cụ ơi, cụ ăn nhiêu đây mà lấy tiền coi sao được!"

Ban đầu cụ còn ngượng, sau thành quen.

Cụ nghĩ: "Trả được thì trả, còn không lấy thì thôi, cũng hổng ép!"

Cứ thế, cụ đi lang thang khắp nơi, như thể cả cái thành phố đã biến thành cái sân nhà của mình.

Đi tới khi mệt thì cụ ngồi nghỉ đâu đó, xong lại thong thả đứng dậy đi tiếp.

Mỗi khi chán, cụ lại bắt một chiếc xe ôm về nhà.

Mà khổ, mấy bác xe ôm thấy cụ già cả, cũng không chịu lấy tiền.

Có lần, cụ dúi tờ tiền vào tay bác xe ôm, bác còn lắc đầu:

"Cụ để dành mua bánh ăn, con lấy sao đặng!"

Thành ra, cụ Hết nhìn lại túi tiền của mình mà tự cười: "Ủa, vậy là có tiền, mà xài hổng được, cũng đâu khác gì hổng có!"

Cụ Hết giờ đây tự do đúng nghĩa, không ai cấm cản, chẳng ai quản thúc.

Mặc dù cái cơ thể của cụ đôi khi cũng rệu rã, khớp gối thì kêu răng rắc, có lúc còn phải xài tã.

Nhưng cụ nghĩ: "Hề chi!

Quan trọng là còn đi được, còn thở được, vậy là ngon rồi!"

Thế nhưng, tự do cũng không phải lúc nào hoàn hảo.

Vì giờ đây, có một chuyện làm cụ Hết phải băn khoăn, mà nói thiệt, lúc đầu cụ cũng hơi...

ớn.

Đó là từ sau đám ma của thằng Hải, cụ bỗng... thấy ma!
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Ma với cỏ!


Cụ Hết không chỉ thấy một con hay hai con ma, mà là cả một bầy lủ khủ.

Ban đầu, cụ tưởng mình nhìn nhầm, nhưng hôm đó, ngồi ở cái ghế đá quen thuộc, cụ rõ ràng thấy ông Sáu.

Cụ mừng rỡ ra bắt chuyện, nói chuyện rôm rả đủ thứ chuyện đời.

Được một lúc, cụ chợt nhớ: "Ủa, ông Sáu đứt bóng từ năm ngoái rồi mà?"

Cụ đứng hình vài giây, nhưng rồi cũng không thấy sợ.

Cụ nghĩ bụng: "Chắc tới lượt mình sắp đứt bóng nên giờ mới thấy ma cỏ vậy!"

Nghĩ xong, cụ bình tĩnh ngồi xuống trò chuyện tiếp, vì cụ nghĩ: "Cũng được, làm quen trước, lát có qua bển thì không lạ nước lạ cái."

Nhưng lạ cái, mấy tháng trôi qua mà cụ vẫn chưa thấy mình có dấu hiệu "chán thở."

Cụ đi khám, bác sĩ bảo: "Bố khỏe lắm, sống còn lâu!"

Thế là cụ nhận ra, việc thấy ma này chắc không phải "triệu chứng gần đất xa trời," mà chỉ là... hên xui hoặc một cái lý do gì đó mà cụ chưa biết được.

Cụ Hết quyết định giữ kín chuyện này, không kể với ai.

Cụ sợ người ta nghĩ cụ lú, rồi tống cụ vô viện dưỡng lão thì toi.

Thế là cụ tiếp tục lang thang, và dĩ nhiên, tiếp tục thấy ma.

Có hôm, cụ còn ngồi hẳn xuống, vừa nhâm nhi ly cà phê vừa tán gẫu với tụi nó.

Tụi ma cũng lạ, chẳng ai hù dọa gì cụ, chỉ ngồi cười cười như thể tụi nó đang đi du lịch.

Có người biết mình đã mất, chỉ muốn lang thang vài bữa cho đã cái "tự do" trước khi đi đâu thì đi.

Có người lại chưa nhận ra mình đã đứt bóng, ngồi cãi tay đôi với cụ Hết:

"Ông nói gì kỳ vậy ông già?

Rõ ràng tôi còn sống nhăn, ông nhìn kỹ lại đi!"

Nhưng qua nhiều lần gặp gỡ, cụ Hết để ý một điều: không ai trong tụi ma biết cái "bên kia" tròn méo ra sao.

Tụi nó chỉ đang chần chừ, chưa vội đi, như kiểu còn muốn tận hưởng cái cõi này thêm chút nữa.

Thấy vậy, cụ Hết cũng nảy ra ý tưởng: "Hay kiếm thằng Hải coi sao!"

Cụ đi loay hoay, hết quận này đến quận khác, lân la mấy góc phố mà tụi ma hay tụ tập, mong thấy bóng dáng thằng con lớn.

Nhưng lạ cái, cụ không thấy nó đâu.

Cụ ngẫm một hồi, gật gù tự quả quyết: "Thằng này chắc đi đoàn tụ ông bà thiệt rồi.

Nó mà còn lảng vảng ở đây, dễ gì tao được tự do đi vậy!"

Nghĩ tới đây, cụ còn rùng mình, nổi da gà, hơn cả cái lần đầu cụ gặp ma ông Sáu.

Cụ bần thần thầm nghĩ: "May mà nó không ở lại, chứ nó mà lượn qua lượn lại chắc tao lại bị quản thúc lần nữa.

Sống không yên, chết cũng không yên!"

Tụi ma này có chung một kiểu dáng thương hiệu: mờ mờ, nhạt nhòa như mấy tấm hình chụp thiếu sáng.

Nhìn qua là biết ngay "à, ma đây!"

Nhưng không phải kiểu ghê rợn máu me, cũng chẳng có đèn pin chiếu từ dưới lên mặt cho rùng rợn.

Đã vậy, tụi nó càng không có mấy chiêu "hù" cổ điển kiểu răng nanh nhe ra như phim Hong Kong.

Cụ Hết nghe nói ma là do chấp niệm mà sinh ra.

Cụ cũng chẳng đồng tình lắm.

Vì rõ ràng, có mấy "vị" ma cụ gặp, chẳng có tí chấp niệm nào hết.

Hỏi ra thì tụi nó bảo: "Tui không có gì vướng bận đâu, chỉ muốn dạo chơi vài bữa cho sướng rồi đi thôi."

Thành ra, cụ Hết cũng bó tay, không biết tụi ma có cái logic gì để xuất hiện.

Không rõ chết là thành ma hết, hay phải đủ điều kiện mới được làm.

Nhưng cụ thấy rõ tụi nó đứng rần rần trước mặt, đông vui như hội chợ.

Mà cũng kỳ, tụi ma không giống kiểu zombie trong phim Mỹ, lờ đờ như đang thiếu cà phê.

Cũng không phải dạng cương thi của phim Tàu, đứng im rồi trợn mắt trừng trừng.

Tụi này cứ rần rần trước mặt, cười cười nói nói, nhìn rất... hòa nhã.

Tụi ma này, nói thiệt, nhìn mà không để ý kỹ còn tưởng người sống.

Ăn bận bình thường, nói năng y chang, đi đứng qua lại, bữa nào vui còn thấy tụi nó tụm ba tụm năm ngồi tán gẫu.

Đỉnh điểm là tụi nó cũng biết uống cà phê, ăn phở như ai.

Có điều, ly cà phê và tô phở của tụi nó nhìn kiểu mờ mờ, chắc là "hàng nhập khẩu từ cõi kia."

Làm sao tụi nó lôi ra được, cụ Hết cũng chẳng buồn hỏi.

"Thắc mắc nhiều mệt óc!"

Cụ Hết tự nhủ, trong cái thế giới này, cụ mà thấy ma rồi la lên, làm trò hoảng sợ hay bày bùa phép, chắc chỉ tổ khiến người sống nhìn cụ như người mất trí.

Rồi sau đó?

Dễ gì cụ không bị tống thẳng vô trại dưỡng lão, không có đường quay lại.

Mà tụi ma cũng không quá bất ngờ khi cụ thấy tụi nó.

Tụi nó cứ nhìn cụ cười cười, có con ma thấy cụ nhìn, nó còn giơ tay chào lại cụ nữa, kiểu như đã quen chuyện này.

Người bất ngờ, ngỡ ngàng, chắc chỉ có cụ Hết.

Nhưng rồi cụ cũng mau quen, chỉ nhún vai:

"Thôi, ma với cỏ, thấy thì chào một tiếng, sống chết gì cũng lịch sự là được!"
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Thờ Cúng


Ông Nhân,vừa là bạn thân chí cốt vừa là anh em họ của ông Còn, con trai cụ Hết, là một chủ xưởng bự trong khu Chợ Lớn.

Người ta hay gọi ông là "doanh nhân tự thân," nhưng nói trắng ra là ông tự tay gây dựng tất cả từ con số không, mà cũng không cậy nhờ ai trong họ hàng.

Ông Nhân thấp đậm, dáng người chắc nịch như cái thùng phi, đeo cặp kính dày cộp mà nhìn vô thấy luôn cả tương lai.

Tóc ông cắt ngắn sát da đầu, phong cách lúc nào cũng chỉn chu: quần jean dài, áo thun bỏ thùng, nhìn phát là biết ngay một người "ngoài 60 nhưng hiện đại chứ không hề lạc hậu!"

Hồi nhỏ, ông Nhân mồ côi sớm, được bà con cưu mang.

Nhưng lớn lên, ông nhất quyết không dựa dẫm ai, tự thân lập nghiệp ở Chợ Lớn, một mình gây dựng cơ ngơi.

Đồng hành cùng ông chỉ có vợ và con – hai "cộng sự" đắc lực trong cả việc kinh doanh lẫn việc nhà.

Như bao doanh nhân Chợ Lớn khác, ông Nhân rất tin vào tâm linh.

Dù trong giấy tờ mục "tôn giáo" ghi trơ trọi "không có đạo," nhưng thực tế, ông đi đủ hết: chùa, nhà thờ, thậm chí cả miếu hay đền.

Có chỗ nào người ta bảo linh thiêng, ông đều ghé.

Lần nào ông cũng khấn cầu bài bản: "Gia đình bình an, làm ăn suôn sẻ, khỏe mạnh lâu dài."

Chỉ khác cái là, ông Nhân không phân biệt bên nào, miễn "bên nào phù hộ tốt thì tôi cảm ơn hết!"

Nhưng càng có tuổi, ông Nhân càng cảm thấy việc chạy vòng vòng chùa, nhà thờ, miếu đền không còn làm ông thấy yên tâm như trước.

Nói trắng ra, khấn mãi cũng không thấy đủ "năng lượng bình an" nữa.

Trong lòng ông cứ thấy thiếu thiếu, một kiểu lo lắng âm ỉ mà chính ông cũng không hiểu nổi.

Mà kỳ lạ là ông chẳng làm gì gọi là tội lỗi để phải dằn vặt cả.

Chỉ là lâu lâu nóng tính, ông hay hét mấy thằng lính trong xưởng: "Tụi bây làm ăn kiểu này, đuổi hết, tao tự làm còn lẹ hơn!"

Vậy thôi, có đáng gì đâu.

Tài sản của ông, nói giàu thì không giàu, nhưng cũng dư sức cho cả nhà ăn uống no đủ thêm vài chục năm mà không cần vắt óc kiếm sống.

Thế mà ông Nhân vẫn không thoát được cái nỗi sợ kỳ cục.

Nó kiểu như một "nỗi bất an hiện sinh," cứ lởn vởn trong đầu, không rõ từ đâu tới.

Ông nghĩ bụng: "Ủa, không nợ nần, không tội lỗi, không bị ai dí, vậy sợ cái gì?"

Nhưng nó vẫn đeo bám, như kiểu cái sự trống rỗng vô hình nào đó cứ vỗ vai ông nhắc nhở: "Này ông Nhân, cuộc đời ngắn lắm, lo mà làm gì đó đi!"

Làm gì thì ông không biết, chỉ biết càng ngày ông càng thấy mình như "chạy deadline" với chính bản thân mà không hiểu vì sao.

Trong một lần, ông Nhân tham dự lễ giỗ lớn ở nhà bà con, lễ giỗ tròn năm của một cụ ông vừa "đứt bóng."

Con cháu cụ hợp sức góp tiền xây hẳn một ngôi nhà cúng nhỏ, đặt ngay trước căn nhà cũ của cụ.

Ngôi nhà tuy nhỏ nhưng hoa văn thì cầu kỳ không chê được, từ chạm trổ gỗ đến sơn son thếp vàng, bên trong còn đặt hẳn một bàn thờ gỗ "full option," chia làm ba tầng hoành tráng.

Tầng cao nhất thờ Phật, tầng giữa thờ gia tiên xa xưa, tầng cuối thờ cụ bà đã mất lâu và cụ ông vừa qua đời.

Vấn đề nảy sinh ở tầng dưới cùng.

Cụ bà mất hồi ngoài 40, khi ấy không có di ảnh, nên gia đình lôi tấm hình cụ lúc còn xuân xanh, chừng đôi mươi, để thờ tạm.

Kết quả?

Một tấm hình thiếu nữ trẻ trung, má ửng hồng, tóc buông lơi, đặt ngay cạnh cụ ông râu tóc bạc phơ, mặt đầy dấu ấn của thời gian.

Nếu không phải có người giải thích trước, dễ đến 90% khách đến đều tưởng cụ ông vừa mất và cụ "thiếu nữ" là con gái cụ, chứ chẳng ai nghĩ hai người này từng là vợ chồng.

Ông Nhân quay qua thầm nghĩ: "Đúng là sống sao không quan trọng, mà chết phải đầu tư cái tấm ảnh coi được!"

Ông Nhân bước vào nhà cúng với phong thái nghiêm trang, chuẩn bị "hoàn thành thủ tục" trước khi nhập tiệc.

Chủ tiệc đứng ngay cửa, như thể đang đón tiếp nguyên thủ quốc gia, thấy ông Nhân vừa bỏ giày liền lẹ tay rút ngay 3 cây nhang, châm lửa bén cháy, rồi trịnh trọng đưa bằng hai tay.

Ông Nhân nhận lấy 3 cây nhang đang cháy bập bùng, hơi bất ngờ nhưng vẫn giữ phong thái nghiêm túc.

Ông cẩn thận quạt cho lửa tắt, xong đứng thẳng như cây bút, chụm nhang sát vào trán, mắt khép hờ, miệng lầm rầm khấn điều gì đó nhưng chỉ mình ông biết nội dung.

Chủ tiệc đứng kế bên, cúi đầu nhẹ một góc 45 độ, tỏ vẻ hết sức kính cẩn.

Khấn xong, ông Nhân bắt đầu hành trình cắm nhang theo thứ tự nghiêm ngặt: tầng trên thờ Phật, tầng giữa thờ gia tiên, cuối cùng là tầng dưới thờ cụ ông cụ bà.

Khi nhang đã cắm đầy đủ, chủ tiệc tiến tới, bắt tay ông Nhân thật chặt, giọng đầy cảm kích:

"Cảm ơn anh Nhân nhiều!"

Rồi chủ tiệc đích thân dẫn ông ra tận bàn tiệc, sắp xếp chỗ ngồi ngay vị trí "VIP."

Ông Nhân ngồi xuống, lòng lâng lâng, không phải vì sắp được ăn tiệc thịnh soạn, cũng không phải do làn khói dày đặc của đống nhang cắm chật kín trong nhà cúng.

Cái cảm giác ấy đến từ một phát hiện trọng đại: Trong giây phút đứng trước bàn thờ, chắp tay cắm nhang, ông bỗng nhận ra lời giải cho nỗi trống trải bấy lâu nay.

Đúng vậy!

Câu trả lời nằm ngay trước mắt ông: "Phải cúng ông bà!"

Ông Nhân nghĩ bụng: "Đây chính là chìa khóa để lấp đầy tâm hồn.

Muốn hết bất an?

Muốn hết trống vắng?

Phải cúng, phải khấn, phải xây nhà cúng bự như vầy!"

Và ngay lúc đó, ông đã âm thầm lên kế hoạch: "Rồi, về nhà làm liền, không chần chừ!"

Nghĩ là làm, ông Nhân lập tức huy động một đội thợ chuyên xây nhà cúng, quyết tâm dựng nên một "kiệt tác tâm linh" ngay giữa sân nhà mình.

Cái sân đó vốn là nơi tụi nhỏ trong nhà chạy nhảy đá banh, chỗ vợ ông trải đồ ăn phơi khô và ngồi tám chuyện với mấy bà hàng xóm.

Nhưng giờ, sân đã nhường chỗ cho một công trình "vĩ đại," chẳng ai dám ý kiến.

Ngôi nhà cúng được thiết kế hiện đại, bốn mặt thông thoáng, "đón gió bốn phương tám hướng" theo đúng chuẩn Kinh Dịch.

Nhưng mái nhà và chi tiết trang trí thì ngược lại, hoàn toàn cổ điển, cầu kỳ như một ngôi chùa thu nhỏ.

Nhìn tổng thể, ngôi nhà là sự hòa quyện giữa phong cách Đông và Tây: vừa "thâm trầm" vừa "sang trọng," khiến cả khu dân cư phải ngước nhìn.

Ai đi ngang cũng không khỏi trầm trồ:

"Nhà cúng gì mà bự hơn cái biệt thự phía sau?!"

Và đúng như thế, ngôi nhà cúng chắn ngay trước biệt thự khang trang của ông, biến ngôi biệt thự thành một... công trình phụ.

Nhưng ông Nhân không hề bận tâm, vì với ông, nhà cúng phải thật sự xứng tầm!

Nhưng đến đây, ông Nhân đối diện với một vấn đề cực lớn: bắt đầu cúng thế nào, bày biện trên bàn thờ ra sao, ông hoàn toàn mù tịt.

Cả đời ông chỉ biết xây xưởng, buôn bán, chứ cái môn "tâm linh ứng dụng" này ông chưa từng học qua.

Không biết thì phải hỏi, vậy là ông Nhân mời ngay các anh em trong nhà đến "đại hội bàn tròn" để góp ý.

Sau một hồi "đại hội bàn tròn," không khí càng lúc càng căng thẳng như chảo dầu sôi.

Người thì khăng khăng "Phật phải ở tầng trên, cao nhất," người khác lại gân cổ cãi: "Gia tiên mới là quan trọng, đặt thấp quá thì... vô lễ!"

Có ông dứt khoát hơn, đứng lên chốt hạ: "Tôi nói thiệt, thờ ông bà mà không có đĩa heo quay là... trật lất!"

Lời qua tiếng lại, ai cũng cứng cỏi bảo vệ ý kiến của mình.

Lúc đầu thì chỉ là trao đổi kiến thức tâm linh, nhưng đến đoạn này, mấy ông bà đã cởi áo ngoài, xắn tay áo trong, mặt đỏ au như gà chọi, sẵn sàng trao đổi thêm cả kiến thức ... võ thuật.

Ông Nhân ngồi chính giữa mà lòng rối như tơ vò.

Vừa tính đứng dậy phát biểu hòa giải, ông đã nghe một tiếng "đùng" từ ông anh lớn trong họ, như tiếng trống kết thúc hiệp đấu:

"Thôi!

Cãi nhau chi cho mệt.

Cái gì không biết thì hỏi cụ Hết!"

Cả phòng bỗng im phăng phắc, không khí căng như dây đàn.

Tất cả đổ dồn ánh mắt về ông anh, người đang phất tay như vừa nghĩ ra chân lý.

Ông nói tiếp, giọng dõng dạc, đầy thuyết phục:

"Cụ Hết sống gần trăm tuổi, nhìn biết bao sự đời.

Cái gì cụ cũng rành.

Cúng sao cho đúng?

Thờ sao cho đủ?

Cứ cụ là sáng nhất!"

Cả phòng gật gù, trông như vừa tìm thấy ánh sáng sau cơn bão đêm.

Ông Nhân nghe xong thì mừng như bắt được vàng, nhưng trong lòng vẫn thoáng lo.

Ông chớp mắt nghĩ bụng: "Mời cụ thiệt là ổn, nhưng cụ lớn tuổi rồi, không biết cụ còn nhớ hết mấy cái luật thờ cúng này không?

Lỡ cụ bảo đặt bàn thờ ngoài... ban công thì tính sao?"

Tuy vậy, trước ánh mắt đầy kỳ vọng của họ hàng, ông Nhân không dám từ chối.

Ông cười cười gật đầu, tự an ủi: "Thôi kệ, cụ Hết không biết thì mình gợi ý cụ... chế, chứ giờ mình đâu còn lựa chọn nào khác."

Vậy là ông Nhân đứng dậy, chỉnh lại cái áo bỏ thùng, làm vẻ uy nghiêm:

"Rồi, để tôi đi mời cụ.

Đúng là việc này, không ai qua được cụ Hết!"
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Tui cũng đâu có rành!


Sáng hôm đó, cụ Hết ăn bận chỉnh tề hết cỡ.

Áo sơ mi tay dài đóng thùng, quần tây xếp ly thẳng tắp do con bé giúp việc vừa ủi, cụ nhìn mà gật gù tự khen mình "bảnh bao!"

Cụ đội thêm cái mũ bê rê treo trên móc, với tay lấy cây gậy, sẵn sàng cho một ngày phiêu lưu mới.

Vừa bước ra sân, con ma ông Sáu đứng ngoài nhìn vô, cười toe toét, buông một câu chọc ghẹo:

"Chà, bữa nay ăn diện dữ vậy, tính đi kiếm vợ hả cụ?"

Cụ Hết nghe mà phì cười, định quay lại "bẻ" con ma ông Sáu một trận.

Nhưng liếc qua, thấy con bé giúp việc đứng đó, mắt cứ liếc qua liếc lại như thể chuẩn bị ghi lại mọi hành động của cụ để báo cáo với thằng Hải.

Cụ liền nuốt lời định nói vào bụng, nghĩ bụng: "Thôi, không chấp với ma, lỡ thằng Hải mà biết chuyện thấy ma, chắc nó tống mình vô viện dưỡng lão ngay!"

Thế là cụ chỉ khẽ nhếch mép cười nhẹ, tay vẫy cây gậy, rồi ung dung bước đi như không có gì xảy ra, để con ma ông Sáu đứng đó mà tiếp tục cười khúc khích.

Bỗng một chiếc xe hơi màu trắng bóng loáng, thắng cái "réttt" trước cổng nhà cụ Hết.

Mấy bà bán đồ ăn sáng xung quanh giật mình, đũa bún rơi xuống, mắt tròn mắt dẹt: "Trời đất, xã hội đen bắt cóc...

ông già hả?!"

Cửa xe mở ra, và bước xuống là cái dáng lùn lùn, áo thun quần jean, cặp kính dày cộm quen thuộc – ông Nhân.

Không cần nhìn kỹ, chỉ cần thấy bóng lưng là cụ Hết đã nhận ra ngay.

Cụ Hết thở dài, mặt chẳng buồn che giấu sự mệt mỏi, thầm nghĩ: "Sắp mất toi một ngày vì cái thằng nhõi này!"

Nhưng cụ vẫn giữ phép, ngẩng đầu chào, giọng đều đều nhưng không kém phần trách:

"Thằng Hồng hả?

Ăn sáng chưa mày?

Ghé qua làm ly cà phê với tao đi."

Ông Nhân chưa kịp để cụ Hết ngồi ấm chỗ trong cái quán cà phê đối diện, cũng chẳng đợi hết vài câu xã giao lấy lệ, đã vội vàng cúi người, giọng khẩn khoản:

"Dạ, cụ ơi, mấy tháng nay con xây cái nhà cúng.

Định dời di ảnh ba má con vô đó, rồi thờ luôn ông bà tổ tiên.

Nhưng con... con chưa biết trình tự ra sao hết.

Hôm nay con tới đây là để nhờ cụ chỉ dẫn ạ!"

Cụ Hết nghe xong, nhướng mày một cái, nhấp một ngụm cà phê, lòng thầm nghĩ: "Ủa, tao cũng đâu có rành vụ này?"

Thực ra, trước giờ chuyện cúng kiếng trong gia đình cụ toàn do mấy ông anh lo liệu, vì cụ không phải là anh lớn.

Còn trong nhà riêng của cụ, hồi vợ cụ mất, thằng Tuấn – con trai lớn – đứng ra lo hết.

Nó còn cẩn thận chừa một chỗ trống kế bên bàn thờ mẹ nó, kiểu như phòng hờ cho... cụ.

Ai mà ngờ, mấy đứa con cụ lại lần lượt đi trước cụ Hết.

Thế là cái chỗ trống "phòng hờ" đó giờ dùng để đặt vừa vặn cả ba cái di ảnh của tụi nó.

Còn chuyện cúng kiếng, truyền luôn qua tay thằng Hải – cháu nội cụ.

Nghĩ đi nghĩ lại, cụ Hết mới cay đắng nhận ra: "Tính ra mình là lớn tuổi nhất trong nhà, nhưng chưa bao giờ đụng đến mấy cái vụ cúng kiến này.

Vậy mà giờ tụi nhỏ nó cứ tưởng mình là bậc thầy tâm linh!"

Cụ nhấp thêm ngụm cà phê, liếc ông Nhân đang ngồi đợi, rồi thầm nghĩ: "Cái thằng, tới nhờ tao mà còn không biết tao chưa từng cúng bao giờ!"

Nhưng cụ Hết vẫn nhận lời của ông Nhân.

Phần vì cụ cũng rảnh, muốn đi chơi đổi gió, phần vì tò mò muốn xem cái nhà cúng mới xây ấy có "người quen" nào dọn vô chưa hay toàn là ma hàng xóm đến ở ké.

Vậy là cụ chậm rãi bước lên chiếc xe hơi màu đen bóng loáng của ông Nhân.

Mấy bà bán đồ ăn sáng xung quanh há hốc mồm, xì xầm: "Trời đất ơi, cụ Hết bữa nay được đại gia đón tận cửa luôn kìa!"

Nhưng không chỉ người sống trầm trồ, mà ngay cả tụi ma hàng xóm cũng đứng tụ lại gần đó, chỉ trỏ bàn tán.

Một con ma tặc lưỡi nói: "Nhìn cái xe kìa, bóng tới mức soi gương được luôn.

Lúc còn sống, tao đi cái xe đạp còn muốn sụm bánh, chưa biết xe hơi là cái gì!"

Tụi ma nhìn cụ Hết bước lên xe, vừa ngưỡng mộ vừa ghen tị.

Một con ma khác chép miệng: "Đúng là già rồi mà vẫn được đi xe hơi, tao phục ông cụ này thiệt!"

Cụ Hết nghe loáng thoáng tụi ma bàn tán, chỉ cười thầm, lòng nghĩ: "Ờ, tụi bây cứ nhìn đi, chơi lớn chút cho bõ mấy chục năm bị gò bó!"

Vậy là ông Nhân đã thành công thỉnh được một "bậc thầy tâm linh" uy tín nhất dòng họ.

Còn cụ hết dự là được đi chơi một bữa đã đời.
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Ma Bà Tư


Tới nơi, cụ Hết vừa bước xuống xe đã trố mắt nhìn cái nhà cúng to bự tổ chảng trước mặt.

Nhìn lại cái biệt thự đằng sau, cụ chỉ biết thở dài: "Đúng là cái biệt thự này so với cái nhà cúng chẳng khác nào... cái toa-lét công cộng!"

Nhưng điều khiến cụ chú ý hơn là cái nhà cúng này trống huơ trống hoác.

Không một bóng ma nào chịu dọn vô ở, dù xung quanh, tụi ma hàng xóm tụ năm tụ ba đông như cái chợ.

Cụ còn thấy cả bà Tư – chị ruột của mình, má nuôi của ông Nhân, cũng đang ngồi tụ tập nói chuyện với tụi ma gần đó.

Vừa lúc đó, ông Nhân mở cửa xe mời cụ vào nhà uống trà trước khi tham quan cái nhà cúng.

Nhưng cụ chưa kịp bước đi thì con ma bà Tư đã lù lù đứng ngay trước mặt, trông như chờ sẵn.

Cụ Hết mừng rỡ, tính chạy lại bắt chuyện.

Nhưng rồi cụ kịp nhớ ra, hôm nay con bé giúp việc theo sát từng bước.

Lỡ mà nó thấy cụ đứng giữa sân nói chuyện tay đôi với con ma bà Tư, kiểu gì tối nay cũng méc thằng Hải rồi cụ bị tống vô trại dưỡng lão.

Vậy là cụ chỉ giả bộ phủi phủi tay, làm như đang đuổi muỗi, rồi lén ra hiệu: "Chị đợi chút, xíu nữa em nói chuyện với chị sau!"

Con ma bà Tư thấy vậy, chỉ nhướng mày nhìn cụ, chắc cũng chẳng hiểu thằng em mình định giở trò gì.

Còn cụ Hết thì nhanh chóng quay đi, làm bộ mặt nghiêm chỉnh bước vô nhà.

Sau một hồi trà nước, ông Nhân khệ nệ dẫn cụ Hết ra cái nhà cúng to tổ chảng.

Vừa bước vào sân, cụ Hết đã phải nheo mắt, tay che trán, nhìn chằm chằm cái công trình đồ sộ trước mặt.

Cụ lẩm bẩm:

"Trời đất, đây là nhà cúng hay lâu đài vậy?

Cái biệt thự đằng sau giờ đúng y như cái... nhà vệ sinh công cộng luôn!"

Cụ đi vòng quanh cái nhà cúng, mắt dừng lại ở từng chi tiết hoa văn chạm trổ trên cột, rồi ngó qua cái bục cao giữa nhà.

Cụ suýt bật cười thành tiếng khi nghĩ thầm:

"Cái này mà đặt một cái rương vàng lên, đúng kiểu kho báu trong phim Mỹ luôn!

Không biết thằng Nhân xây cái này cúng hay tính mời người ta tới quay phim khảo cổ?"

Ông Nhân thấy cụ Hết vừa đi vừa "nghiệm lý," vẻ mặt trầm tư, mắt sáng quắc, thì mừng rỡ, trong bụng reo lên:

"Đúng rồi!

Đúng thầy rồi!

Nhìn phong thái vậy ai dám cãi!"

Cụ Hết lúc này cũng đưa tay phẩy nhẹ như mấy ông thầy cúng trong phim kiếm hiệp, rồi trầm giọng:

"Hồng, tránh chỗ, để tao tập trung coi!"

Ông Nhân nghe vậy, lập tức gật đầu lia lịa, rồi vội lật đật đi ra ngoài sân, như thể sợ làm loãng "tâm pháp" của cụ.

Cụ Hết nhìn bóng ông Nhân vừa khuất sau cánh cửa, thở phào nhẹ nhõm, rồi quay qua bước chầm chậm về phía con ma bà Tư đang đứng chống nạnh, vẻ mặt bực bội như muốn "ăn tươi nuốt sống" ai đó.

Cụ cười trừ, giọng xởi lởi:

"Chị Tư, chị... khỏe không chị?"

Con ma bà Tư nhướn mày, hất cằm, gằn giọng:

"Khỏe mụ nội mày!

Tao chết rồi mà mày hỏi khỏe không, hỏi như không hỏi.

Mày không ở nhà phụ con vợ mày coi tiệm, mà đi đâu với thằng Nhân?

Tao nói cho mày biết, mày liệu hồn về đi, không con vợ mày nó cạo đầu mày thì đừng có kêu!"

Cụ Hết nghe mà muốn bật ngửa.

Cụ thở dài, lòng thầm nghĩ:

"Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa.

Đúng là chị em, sống hay chết cũng không tha cho thằng này!"

Không muốn đôi co, cụ quyết định "lật bài" nhanh như lật bánh tráng.

Cụ liếc qua cái nhà cúng to tổ bố, rồi quay sang bà Tư, giọng tỉnh bơ:

"Thằng Hồng nó xây cho chị cái nhà cúng bự tổ chảng, đèn đóm sáng choang như tiệm vàng, vậy sao chị không dời vô ở mà còn tụ năm tụ ba với mấy bà hàng xóm làm gì?"

Bà Tư hất hàm, khoanh tay, mắt liếc cụ Hết một cái đầy mỉa mai:

"Hồi đó, chỗ đó là cái sân, tụi nhỏ hay ra đá banh, vợ nó với mấy đứa osin thì kéo ghế ra ngồi tám chuyện, làm đồ ăn.

Tao ngồi coi tụi nó vừa làm vừa nói dóc, nghe vui ghê!

Mày biết không, có bữa tụi nó nói chuyện từ bầu bí đến phim Hàn Quốc, rồi chửi ông hàng xóm suốt buổi.

Vậy mà tao thấy...mắc cười, tao mới nhấn nhá ở lại lâu vậy."

Bà thở dài, mắt nhìn lướt qua cái nhà cúng to tổ chảng mà thằng Nhân xây, giọng vừa chán chường vừa tức tối:

"Giờ nó dẹp cái sân để xây cái nhà cúng này, tụi nhỏ phải qua nhà hàng xóm đá banh.

Vợ nó với tụi osin thì kéo hết qua sân nhà người ta ngồi tám, còn đem đồ ăn qua đó nấu nữa.

Rồi tao cũng đi theo, qua bển nghe tám chuyện cho vui.

Chớ ở đây có cái gì mà làm?

Ngồi đếm bóng đèn hả mậy?"

Cụ Hết nghe mà không nhịn được, phì cười thành tiếng, tay vỗ đùi cái bốp.

Cụ nhướng mày, giọng đầy giễu cợt:

"Ủa, vậy chỗ này giờ thành... bảo tàng hả chị?

Xây to quá, trưng bày ngó thì đẹp, mà đúng là chẳng ma nào dám vô ở!"

Cụ Hết liếc cái nhà cúng to đùng trước mặt, rồi quay sang bà Tư, cố gắng giữ vẻ nghiêm túc:

"Thôi, giờ chị nói đi, cái nhà này chị muốn trang trí sao, để em nói thằng Nhân nó làm theo ý chị!"

Bà Tư ngán ngẩm, hai tay khoanh lại, giọng nhạt như nước ốc:

"Tao chết rồi còn muốn cái gì nữa, mày nói nghe mắc cười!

Nó xây thì nó tự tính, còn không mày ở đây rồi thì mày tính giùm nó đi."

Rồi bà liếc về phía nhà hàng xóm, nơi vợ thằng Nhân đang ngồi buôn chuyện rôm rả.

Bà Tư hất cằm:

"Thôi tao đi qua bển nghe con vợ nó kể chuyện tiếp.

Tới khúc cao trào rồi, bỏ giữa chừng thì tiếc lắm!

Còn mày thì liệu hồn mà về nhà canh cái cửa hàng đi.

Lỡ mất mối, con vợ mày mà về nhà la thì đừng có khóc!"

Nói rồi, bà Tư xoay người, tà áo mờ mờ của bà phất phơ theo gió, đi thẳng một lèo về phía nhà hàng xóm.

Cụ Hết đứng đó, gậy trên tay, nhìn bóng bà chị mờ dần mà chỉ biết thở dài.
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Bậc thầy phong thuỷ.


Cụ Hết đứng đó, chưng hửng nhìn bóng bà Tư – bà chị quá cố – từ từ rời đi, lòng thì rối bời không biết phải giải quyết cái vụ nhà cúng này ra sao cho phải.

Lúc này, anh em con cháu của ông Nhân đã tề tựu đông đủ, đứng xung quanh cái nhà cúng, mắt đổ dồn vào cụ như đang đợi "thánh chỉ."

Ai cũng thì thầm: "Cụ Hết đúng là cao nhân, coi kỹ dữ vậy, cả tiếng đồng hồ mà chưa phán!"

Nhưng có ai biết đâu, cụ Hết nãy giờ chỉ đứng tám chuyện với bà Tư, hoàn toàn quên béng luôn vụ nhà cúng.

Chợt cụ nảy ra một ý tưởng vừa có cái để nói vừa để bà tư bớt qua nhà hàng xóm hóng chuyện.

Cụ với tay gọi ông Nhân lại gần, rồi làm bộ nghiêm trọng:

"Hồng, lại đây tao nói!"

Mọi người, cả người lẫn ma, nghe vậy liền tụ lại đông như đi xem hát.

Tụi ma hàng xóm, bao gồm cả bà Tư, cũng lố nhố đứng xem cụ Hết "phán," mặt mày "đứa" nào cũng tò mò hóng hớt.

Cụ Hết hắng giọng, gõ cây gậy xuống đất một cái, chậm rãi nói:

"Cái nhà cúng này tao coi kỹ rồi.

Phong thủy, Kinh Dịch gì đầy đủ hết, nhưng mày còn thiếu...

Hoả!"

Cả đám người lẫn ma tròn mắt nhìn cụ, ông Nhân bối rối hỏi:

"Thiếu Hoả là sao cụ?"

Cụ Hết gật gù như bậc thầy phong thủy, phán tiếp:

"Mày làm sao làm, dời ông Táo lên đây.

Dặn con vợ mày, có nấu nướng gì thì lên nhà cúng mà nấu.

Có bếp, có lửa, ông bà mới yên lòng, phong thủy mới trọn vẹn."

Ông Nhân gật gù, như thể vừa nghe lời vàng ý ngọc.

Nhưng cụ chưa dừng ở đó, chỉ tay lên bàn thờ, tiếp tục giảng giải:

"Còn trên bàn thờ, nhà người ta có cái gì, mày bày y chang cái đó là được.

Đừng sáng tạo chi nhiều, rườm rà ông bà khó chịu!"

Nghe xong, tụi người đứng dưới vỗ tay rần rần như nghe diễn thuyết.

Còn tụi ma thì rỉ tai nhau:

"Ông này coi bộ được à nha, phán chắc nịch luôn"

Từ ngày ông Nhân dời cái bếp lên nhà cúng, ông như tìm thấy đam mê mới – sắm sửa đồ bếp.

Nào là bộ nồi, bộ dao, bộ thớt, thậm chí mấy món dụng cụ kỳ lạ mà vợ ông còn không biết dùng để làm gì cũng được ông rinh về.

Lý do?

Vì bây giờ, cái bếp là "linh hồn" của cái nhà cúng hoành tráng kia, không thể để sơ sài được.

Kể từ khi vợ ông Nhân được trang bị "đồ nghề xịn hơn cả nhà hàng," bà cũng hết đi qua hàng xóm tám chuyện.

Ngược lại, mấy bà hàng xóm giờ tụ lại ngay bếp nhà cúng nhà ông, chuyện trò chí chóe cả ngày.

Bà nào bước vô cũng tấm tắc:

"Trời đất, cái bếp gì mà đồ nghề còn hơn tiệm phở đầu hẻm vậy bà Hồng!"

Tụi con nít trong xóm thì khỏi nói, thấy mấy bà tụ ở đâu là tụi nó bu theo đó.

Cái sân ngày trước không còn, chỗ chật chội, tụi nhỏ cũng chẳng bận tâm.

Tụi nó bày đủ trò mới để chơi, từ đuổi bắt quanh mấy cái chân bàn thờ đến trốn tìm sau mấy bộ nồi bóng loáng.

Kết quả là cái nhà cúng khang trang giờ đây không còn vẻ trang nghiêm như ý ông Nhân mơ ước, mà đã biến thành một cái chợ mini.

Tiếng mấy bà cười nói, tụi nhỏ la hét, hòa lẫn tiếng lóc cóc chặt thịt, xào nấu vang rần rần cả ngày.

Mấy lần cụ Hết ghé chơi, cụ lại thấy cảnh quen thuộc: mấy con ma hàng xóm, bao gồm cả bà Tư – bà chị quá cố của cụ, tụ tập ngay góc bếp hóng chuyện, rồi rôm rả bàn luận với nhau, mặc dù người sống thì không ai hay biết.

Người nói chuyện người, ma ma cũng líu lo chuyện ma, chẳng ai nhường ai.

Cụ Hết ngồi đó, vừa uống trà vừa lắc đầu ngán ngẩm, nghĩ bụng: "Đúng là ồn gấp đôi so với bình thường.

Sống hay chết gì cũng chẳng ai chịu bớt bớt cái miệng!"

Từ khi ông Nhân dời cái bếp lên nhà cúng, theo lời tư vấn "chuyên môn" của cụ Hết, ông bắt đầu thấy công việc làm ăn suôn sẻ hơn hẳn.

Tụi lính lác trong xưởng bỗng nhiên trông có sinh khí hơn, làm việc phăm phăm như được tăng thêm năng lượng.

Mà không ai rõ lý do là gì.

Ông Nhân thì phỏng đoán chắc do cái nhà cúng khang trang linh thiêng phù hộ.

Nhưng cụ Hết ngồi nghe, chỉ cười thầm: "Phù hộ con khỉ, tụi lính ăn ngon quá thì khỏe người thôi!"

Quả thật, cái bếp nấu nướng cả ngày, toàn là đồ ngon lành, lại thơm phức, ai đi qua cũng phải tấm tắc.

Tụi lính vừa được ăn cơm no, đồ ăn ngon, xong lại lao vào làm việc nhiệt tình.

Nhìn tụi nó ăn hao cơm thấy rõ, cụ Hết ngồi quan sát, nghĩ thêm: "Coi bộ bếp này không chỉ nuôi ông bà, mà còn nuôi luôn cả cái xưởng!"

Nhưng ông Nhân thì chẳng để ý mấy chuyện đó.

Trong mắt ông, chỉ cần thấy việc làm ăn tiến bộ là đủ.

Ông tự hào nghĩ bụng: "Đúng rồi, dời bếp lên là sáng suốt.

Ai bảo nghe cụ Hết là sai?"

Từ đó, hễ gặp bà con, đối tác làm ăn hay bạn bè, ông Nhân đều khoe: "Nhà tui có ông cụ coi phong thủy hay dữ lắm!

Nhưng phải có duyên cụ mới chịu xem cho!"

Ông nói mà mặt mày rạng rỡ, như thể cụ Hết là bậc thầy phong thủy chính thống được cấp bằng quốc tế.

Lời đồn lan xa, cụ Hết bất đắc dĩ trở thành "thầy phong thủy" có tiếng trong vùng.

Uy tín của cụ không chỉ đến từ việc ông Nhân – một dân làm ăn có máu mặt – hết lời ca ngợi, mà còn vì cụ là người lớn tuổi nhất nhì trong quận, người ta mặc định cụ phải biết nhiều thứ.

Chỉ có cụ Hết là thấy... ngán tận cổ.

Cụ nghĩ bụng: "Mình có rành gì cái nghề này đâu, mà giờ tự nhiên phải kiêm thêm việc kỳ lạ này, thiệt hết biết!"

Cụ chỉ muốn được tự do đi đây đi đó mà thôi.
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Bên bển


Giờ đây, cụ Hết có thêm một điểm đến trong hành trình lang thang bất tận của mình: nhà ông Nhân.

Mỗi lần thấy cụ tới, ông Nhân mừng ra mặt, như thể cao nhân ghé thăm trần thế.

Không những ông Nhân đon đả ra đón, mà cả bà vợ và tụi lính trong xưởng cũng thích cụ hết.

Ai cũng bảo: "Cụ Hết đúng là có thần thái của một vị tiên.

Nhẹ nhàng, thanh thoát, cứ như vừa từ núi xuống chơi!"

Nhưng thực tế, lý do duy nhất cụ Hết ghé nhà ông Nhân chẳng liên quan gì tới phong thủy hay khí chất "tiên nhân."

Cụ đến chỉ vì... con ma bà Tư, chị ruột của cụ, là con ma duy nhất mà cụ quen từ khi bắt đầu thấy ma tới giờ.

Cụ nghĩ bụng: "Người sống thì không rảnh để tám, chỉ có bà Tư là chịu ngồi nói chuyện lâu.

Qua đây vừa uống trà, vừa tám với bả, đỡ buồn hẳn!"

Mỗi lần cụ tới, con ma bà Tư cũng xuất hiện, hai chị em lại ríu rít nói chuyện như chưa từng xa cách.

Tụi lính và bà Hồng thì cứ tưởng cụ đang trầm tư suy nghĩ gì cao siêu lắm, ai mà biết cụ thực chất đang vừa nhấp trà vừa tám chuyện với bà Tư mấy chuyện người sống lẫn người chết trong xóm.

Một lần, trong lúc ngồi uống trà, cụ Hết tò mò hỏi bà Tư:

"Lúc chị mất, làm sao mà giờ chị lại thành vầy?"

Bà Tư ngồi tướng y như mấy bà bán cá ngoài chợ, tay gõ gõ ly trà "nhập khẩu từ cõi kia," thản nhiên trả lời:

"Bữa đó tao ngủ, rồi cái... tự nhiên tao ngủ luôn.

Tỉnh ra, tao thấy mình đang lơ lửng.

Nhìn xuống, tụi thằng Nhân bu vô cái thân tao nằm trên ghế bố mà khóc rần rần.

Lúc đó tao mới hiểu: 'À, tao đi rồi!'"

Bà hớp thêm ngụm trà, tay bốc miếng mứt gừng to bự, cái hộp mứt cũng thuộc dạng "hàng xách tay từ cõi kia."

Bả nhai nhồm nhoàm, kể tiếp:

"Lúc đó tao thấy mấy con ma hàng xóm tụ lại đầy trước cổng, quen có, lạ có.

Ban đầu tao cũng hơi ớn, nhưng rồi tao nhớ ra, mình cũng là ma mà, sợ gì nữa.

Vậy là tao ra ngoài chơi với tụi nó, chớ ở trong nhà nhìn tụi thằng Nhân bù lu bù loa tao còn ngán hơn!"

Cụ Hết phì cười, hỏi tiếp:

"Rồi sao chị không 'qua bển' mà lang thang ở đây làm chi?

Em nhớ chị mất hơn mười mấy năm rồi đó!"

Bà Tư cười khẩy, tay bốc thêm miếng mứt khác, vừa nhai vừa nói:

"Thì tao cũng tính đi lâu rồi.

Mấy bà ma hàng xóm kể, làm ma rồi 'hứ' một cái là qua bển liền, nhẹ tưng hà, không ai quản gì hết.

Chỉ có điều, lúc đó tao thấy hình như quên quên cái gì quan trọng lắm.

Tao nghĩ phải nhớ ra cái đó rồi mới đi được."

Cụ Hết tò mò, hỏi:

"Ủa, chị quên cái gì mà quan trọng dữ vậy?"

Bà Tư ngẫm nghĩ một chút, rồi nhún vai:

"Ừ, tao cũng không nhớ nữa!

Thôi, để tao nhớ ra rồi tao nói mày nghe.

Giờ tao phải đi nghe con vợ thằng Nhân kể tiếp cái phim Hàn Quốc hôm bữa."

Nói xong, bà Tư phẩy tay bỏ đi, để lại cụ Hết ngồi gãi đầu thầm nghĩ:

"Chắc phải đề xuất thằng Nhân lắp cái tivi ngoài nhà cúng cho bà Tư coi.

Hồi đó bả mê tivi lắm mà nhà nghèo, phải đi coi ké hàng xóm.

Giờ có nhà cúng xịn mà không có tivi, chắc bả cũng bứt rứt lắm đây!"

Nghĩ là làm, cụ Hết gọi ông Nhân lại, giọng điệu nghiêm túc:

"Mày coi sao lắp thêm cái tivi ngoài nhà cúng nha mày.

Tao thấy... vẫn còn thiếu miếng Hoả."

Ông Nhân nghe mà sáng rực cả mắt, gật đầu lia lịa:

"Trời đất, cụ Hết nói vậy thì chỉ có đúng!

Phải khẩn trương lắp cho có lộc."

Thế là cái nhà cúng, từ khi có cái bếp đã đông đúc, giờ thêm cái tivi thì lại càng chật như nêm.

Mà lạ cái, dường như tụi ma còn đông hơn người.

Tụi nó ngồi bó gối, chăm chú coi tivi từ sáng tới tối mịt, chuyển hết từ phim Hàn Quốc, phim truyền hình cho tới... phim hoạt hình.

Tụi nó coi mê mải, không bỏ sót tập nào, y như kiểu sợ "bên kia" không phát lại.

Cụ Hết ngồi ngoài nhìn vô, thấy cảnh tụi ma chen chúc trước cái tivi, cụ không khỏi lo lắng.

Cụ lẩm bẩm: "Ngồi gần vậy, coi chừng hư mắt hết bây giờ!"

Nhưng rồi cụ khựng lại, gãi đầu, tự hỏi: "Ủa, mà ma có bị hư mắt không cà?"

Câu hỏi vừa bật ra, cụ lại thấy mình... hơi rảnh!
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Chay hay mặn


Khu nhà cụ Hết đúng chuẩn vị trí "vàng": vừa gần chợ, vừa gần chùa.

Vì vậy, khu sạp đồ mặn thì khỏi bàn, bạt ngàn, nhưng khu sạp bán đồ chay cũng không kém cạnh, mà có khi còn bán đắt hơn mấy khu chợ khác.

Điều đáng nói là, dù có hai phe "mặn" và "chay," nhưng cả hai sống với nhau rất chan hòa, vui vẻ.

Mỗi ngày, lính sạp này qua cà rởn với lính sạp kia, như kiểu đối tác chiến lược.

Ngày ăn chay, sạp đồ mặn bán ít lại, còn ngày thường thì sạp đồ mặn lên ngôi.

Người ăn chay trường cứ trung thành với sạp đồ chay, còn người ăn chay theo ngày thì tuần này ghé sạp này, tuần sau lại ghé sạp kia, luân phiên đều đặn như lịch trực.

Thành ra, chẳng ai giành chén cơm của ai, mà còn góp phần làm cho cả khu chợ rộn ràng như hội.

Người mua lẫn người bán đều tấm tắc:

"Đúng là một khu chợ văn minh, chan hòa, chay mặn đủ cả!"

Nhưng đó là chuyện thường ngày, chứ tới ngày Tết hay ngày giỗ, khu chợ gần nhà cụ Hết lại trở nên náo nhiệt theo cách khác: không ai nhường ai khi nói về chuyện... cúng kiếng.

Trong một buổi họp chợ gần Tết, cả hai phe "chay" và "mặn" ngồi họp mà như sắp lao vào trận chiến.

Ông Năm Tàu Hủ, đại diện phe đồ chay, vỗ bàn cái rầm:

"Cúng kiếng dù ở đâu cũng vậy, phải cúng đồ chay thì ông bà mới độ!"

Bà Ba bán thịt heo nghe vậy liền bật dậy, chỉ tay cãi lại:

"Ông nói tầm bậy tầm bạ!

Cúng chay thì mấy cụ làm sao có sức mà gồng gánh con cháu?"

Bà Năm bán gà luộc đơm thêm:

"Đúng rồi!

Xưa giờ cúng gia tiên toàn cúng gà luộc.

Ai ăn chay thì cúng chay, chứ hùi xưa ông bà ăn mặn mà cúng chay, vậy coi sao được?"

Bà Chín bán mì sợi, đứng giữa ranh giới "chay mặn đều bán," chỉ lắc đầu nói vài câu kiểu huề vốn:

"Tui thấy vầy, ông bà nào hồi xưa ăn chay thì cúng chay, ăn mặn thì cúng mặn, vậy là hợp lý nhất."

Nghe vậy, bà Bảy bán cơm chay đập cái vá xuống rổ cơm:

"Vậy tui hỏi bà, lỡ mấy cụ ăn mặn, mà con cháu bây giờ ăn chay hết, cúng đồ mặn xong không ai ăn, rồi đổ cho chó hả?"

Vừa nghe tới câu "đổ cho chó ăn," phe đồ mặn sôi máu, gườm gườm đứng dậy.

Phe đồ chay thấy vậy cũng chẳng vừa, chuẩn bị lao ra "giao lưu vài đường cơ bản."

Tình hình căng như dây đàn, thì chú bảo vệ chợ vội vàng chạy vào, dang tay can:

"Thôi thôi, bình tĩnh!

Chay hay mặn gì cũng từ từ.

Giờ có gì qua nhà cụ Hết hỏi.

Cụ sống gần trăm tuổi, cái gì cụ chẳng biết!"

Nghe vậy, cả chợ liền dừng tay, đồng loạt gật gù: "Ừ ha, cụ Hết mà nói thì chắc ăn!"

Rồi đợi tan chợ, cả hai phe xếp hàng rồng rắn kéo nhau qua nhà cụ, chuẩn bị chờ "cao nhân" phán xử.

Hôm đó, cụ Hết không có ở nhà.

Con bé giúp việc đứng dựa cây chổi, thông báo một cách trịnh trọng:

"Cụ đi rồi, có người mời cụ đi coi phong thủy."

Cả đám người nghe xong liền ồ lên, mắt tròn mắt dẹt:

"Trời đất!

Không ngờ gần chợ mình lại có cao nhân ẩn dật.

Kỳ này nhất định phải gặp được cụ hỏi cho ra lẽ!"

Thế là đám đông lố nhố đứng tụ trước nhà cụ, nói chuyện rôm rả.

Anh Tuấn, cháu nội cụ Hết, nghe ồn ào liền tò mò bước ra, giọng vui vẻ:

"Ủa, bà con tụ họp đông vui quá, có chuyện gì không?"

Ông Năm Tàu Hủ nhanh nhảu đáp, vẻ nghiêm trọng y như đang trình bày vấn đề quốc gia:

"Anh Tuấn ở đây lâu năm, chắc cũng có chút ý kiến sáng suốt.

Tụi tui đang cãi nhau xem cúng kiếng thì nên cúng chay hay mặn để ông bà phù hộ cho con cháu."

Anh Tuấn nghe xong, cố giữ nét mặt nghiêm túc, nhưng trong lòng muốn cười lăn ra đất.

Anh cười nhẹ rồi phán như thầy giải quyết hòa bình:

"Vậy thế này, sắp tới nhà ai có giỗ, cứ làm cả chay lẫn mặn.

Sau đó mời cụ nhà qua dự.

Cụ ăn xong chắc chắn sẽ phán cho ra lẽ."

Nghe xong, cả đám người như được khai sáng, vỗ đùi đen đét:

"Ừ, đúng rồi, nhờ cụ Hết phán là ai cũng phải nghe theo, cụ là người cao tuổi nhất khu này mà"

Vậy là cả chợ đồng lòng lập kế hoạch, ai cũng háo hức chờ ngày cụ Hết "ngự giá vi hành" để đưa ra phán quyết cuối cùng cho cuộc tranh luận.

Hôm đó, đám giỗ nhà một ông chủ sạp gần chợ, cũng gần nhà cụ Hết.

Bình thường gia chủ chỉ làm mâm cơm đơn giản, mời bà con trong nhà tới ăn.

Nhưng lần này thì khác.

Ngay giữa lúc chợ đang tranh cãi vụ cúng chay hay mặn, đám giỗ bỗng dưng được "tài trợ" bởi cả hai phe, biến thành một sự kiện linh đình.

Trong nhà không đủ chỗ, gia chủ phải sắp bàn dài ra cả làn đường khu chợ.

Đám giỗ mà như lễ hội, khách mời toàn là nhân vật máu mặt trong khu.

Đã vậy, nhiều người còn đề nghị được mang theo cả người nhà, người quen.

Lý do?

"Ăn giỗ là phụ, nghe cụ Hết phân xử chay mặn mới là chính!"

Đặc biệt, có cả ông Nhân – người "fan cứng" của cụ Hết, nhiệt tình lăng xê cụ nhất.

Nhờ cụ Hết coi cái nhà cúng mà ông Nhân làm ăn phất lên như diều gặp gió, nên giờ cứ hễ mở miệng là ca ngợi cụ như bậc thánh sống.

Chuyện ông Nhân kể lan xa, ai cũng nghe, ai cũng tò mò muốn tận mắt thấy "cao nhân" trong xóm.

Chỉ có cụ Hết là hoàn toàn không hay biết gì.

Cụ vẫn giữ lối sống thong dong, ngày ngày lang thang du ngoạn khắp nơi, tận hưởng cái tự do của mình.

Sáng đi, tối mịt mới về.

Con bé giúp việc chẳng bao giờ biết cụ đi đâu, mà nó cũng không dám hỏi.

Từ lần đi chung qua nhà ông Nhân, nó mặc định mỗi lần cụ vắng nhà là cụ được mời đi... coi phong thủy.

Trong khi cả khu chợ háo hức chờ đợi "cao nhân" phán xử, cụ Hết vẫn đang ung dung nhấp trà và tán chuyện với mấy con ma ở một góc nào đó, chẳng hay rằng sắp trở thành "trọng tài bất đắc dĩ" cho cuộc chiến chay mặn náo nhiệt nhất năm.
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Trên bàn có cái gì... ăn cái đó.


Ngày trọng đại đã tới, cả khu chợ vốn đã ồn ào, hôm nay còn náo nhiệt gấp đôi vì cái đám giỗ "không giống ai" kia.

Người nhà ra vô tấp nập, nhưng khu vực bếp mới thật sự là tâm điểm, đông nghẹt như lễ hội.

Hai phe chay và mặn chia hẳn hai khu vực riêng, mỗi bên đều cử đầu bếp "xịn" nhất mà mình biết để đảm trách.

Bếp bên này xào nấu, bếp bên kia hấp luộc, mùi thơm bốc lên làm cả khu chợ bụng reo cồn cào.

Ai đi ngang cũng phải quay đầu lại nhìn, vừa đi vừa hít hà: "Trời, cái đám giỗ gì mà hoành tráng hơn tiệc cưới!"

Đến trưa, quan khách đã tề tựu đông đủ.

Toàn là những dân làm ăn lớn trong khu, chưa kể mấy anh chị cán bộ quản lý khu vực cũng được mời tới.

Mà nói thiệt, gọi là đám giỗ cũng hơi quá, vì thực ra đây là cái cớ để hai phe chay mặn phân xử xem cúng món gì mới phải lễ.

Bàn tiệc rôm rả, mọi người vừa trò chuyện vừa... hóng nhân vật chính của ngày hôm nay – cụ Hết.

Cụ Hết thì ai mà không biết.

Cụ sống ở khu này từ thời nảo thời nao, ai sinh ra lớn lên ở đây cũng đều quen mặt cụ.

Mấy anh chị cán bộ hay mấy dân làm ăn lớn bây giờ, hồi nhỏ cũng từng được cụ chỉ làm diều, kể chuyện, bày đủ trò chơi.

Nói chung, cụ như "thần tượng tuổi thơ" của cả khu.

Nhưng điều làm cả đám đông ngỡ ngàng là khi nghe cụ Hết được ca tụng là "chuyên gia phong thủy giấu nghề."

Mấy người ngồi gật gù, mắt mở to:

"Ủa, cụ Hết mà là cao nhân hả?

Thiệt bất ngờ nha!"

Nhưng rồi ai cũng đồng loạt trầm ngâm, như thể vừa giác ngộ một chân lý lớn:

"Mà cũng đúng ha, cụ nhìn vậy thôi chứ cụ chắc chắn giấu biết bao nhiêu thứ.

Đúng là 'Chân Nhân Bất Lộ Tướng'!"

Cụ Hết mãi tới tối hôm qua mới biết mình được mời đi ăn giỗ.

Lý do?

Con bé giúp việc cuối cùng mới nhớ ra để thưa chuyện với cụ.

Hóa ra, người ta mời cụ từ tận hai tuần trước, nhưng con bé thì vừa quên vừa ngủ gà ngủ gật cả tuần, thành ra mãi giờ mới báo.

Nó vừa xoa đầu vừa lí nhí:

"Dạ... tại ngày nào cụ cũng về khuya, con chờ hoài không nổi, nên quên mất..."

Cụ Hết nghe mà chỉ phì cười: "Thôi, cũng được.

Có giỗ là vui rồi!"

Trưa hôm đó, cụ Hết được anh Tuấn – cháu nội cụ, và con bé giúp việc tháp tùng sang đám giỗ.

Cụ khoác lên mình bộ quần áo chỉnh tề, nón bê rê đội ngay ngắn, tay cầm cây gậy như thường lệ.

Đám giỗ chỉ cách nhà một quãng ngắn, nhưng cụ Hết bước đi chậm rãi mà khoan thai như thường lệ.

Anh Tuấn vừa bước theo vừa nhìn đám đông tách ra nhường đường cho cụ mà cười thầm: "Trời, hôm nay cụ đúng là VIP!"

Còn con bé giúp việc thì lẽo đẽo theo sau, lâu lâu lại chỉnh áo cụ, miệng lẩm bẩm: "Đợt này cụ nổi tiếng quá rồi!"

Vậy là cả ba người, một cụ, một cháu, một giúp việc, hùng dũng tiến vào đám giỗ.

Ai thấy cụ cũng xì xào, ánh mắt đầy ngưỡng mộ:

"Đó, cao nhân tới rồi kìa!"

Sau khi cụ Hết bước vào gian nhà chính, cụ thắp nhang đầy đủ, đúng lễ nghi.

Xong xuôi, người cao tuổi nhất trong nhà kính cẩn mời cụ vào ngồi ở cái bàn trước – bàn dành riêng cho các bậc trưởng thượng trong họ.

Nhưng đối với cụ Hết, cụ nhìn quanh một lượt, rồi thầm nghĩ: "Trưởng thượng gì tụi này... mấy đứa nhóc thì có!"

Thiệt tình, ngày xưa cụ Hết đi lính về, mấy ông bà này còn đang bú sữa mẹ hoặc lẫm chẫm tập đi.

Ai mà cụ chẳng biết, mặt mũi từng đứa còn in trong đầu như ngày hôm qua.

Cái lũ mà cụ từng bế trên tay, dạy thổi kèn lá chuối, chạy lăng xăng quanh sân, giờ tóc bạc điểm đầu, ngồi đây nghiêm nghị, mặt mày căng thẳng, cứ như đang cố "diễn" cho ra dáng người lớn.

Cụ nhìn mà không khỏi buồn cười.

Vì rõ ràng, cái vẻ trưởng thượng này chỉ là học lóm từ mấy thế hệ trước.

"Có ai mà từng ở cái tuổi này bao giờ đâu, nên làm sao biết phải xử sự thế nào.

Thấy người trước làm gì thì mình làm vậy thôi, có khác gì mấy đứa nhỏ bắt chước người lớn chơi đồ hàng đâu."

Cụ nhấp một ngụm trà, nhìn cả bàn mà trong bụng cứ cười khẩy.

"Đúng là lớn tuổi rồi, nhưng không có nghĩa là không còn là mấy đứa nhóc ngày xưa.

Chỉ là giờ, tụi nó biết nghiêm mặt để diễn cho đúng vai mà thôi."

Cụ Hết mắt liếc một vòng, không chỉ thấy người sống mà còn thấy cả đám mấy con ma đang lố nhố tụ lại quanh bàn tiệc.

Tụi ma mắt chằm chằm nhìn cụ, tay chỉ chỉ trỏ trỏ, vẻ trầm trồ lắm, cứ như cụ là nhân vật VIP mà tụi nó mong ngóng từ lâu.

Nhưng trong mắt cụ, mấy con ma này mới đúng là "trưởng thượng" xịn, dù con ma nào cũng trẻ măng.

Đơn giản thôi, vì người chết rồi, muốn ở tuổi nào mà chẳng được?

"Lang thang vài trăm năm, nhưng vẫn cứ là thanh niên," cụ nghĩ bụng.

Tuy vậy, cụ để ý, tụi ma này cũng không khác người sống là mấy.

"Chết rồi, có ai rành cách làm ma đâu," cụ thầm cười.

Thành ra, tụi nó cũng tập trung lại đợi cụ phán xử y như đám người sống kia.

Có điều, cái mùi thơm phức từ bếp núc làm tụi ma...

đói bụng.

Không chịu nổi, tụi nó tự bày mấy cái bàn riêng, bàn nào bàn nấy đồ ăn thơm lừng, chay mặn đầy đủ, nước nôi bia bọt cũng có.

Chỉ khác cái là, tất cả đều là "hàng nhập khẩu từ cõi kia," nhìn mờ mờ như sương.

Dù đói là vậy, nhưng mấy con ma này cũng giữ phép, ngồi ngay ngắn đợi cụ Hết.

Dù sao thì cụ Hết, dù sinh sau vài con ma trong đám, nhưng cụ sống thọ hơn hẳn, mà sống lâu hơn tức là nhiều kinh nghiệm hơn.

Tụi nó nể cụ lắm, chẳng dám ăn uống trước cụ.

Thành ra, giờ đây cả người âm lẫn người dương đều đổ dồn ánh mắt vào cụ Hết, hồi hộp chờ cụ "phán" xem cúng chay hay mặn mới đúng.

Tụi ma thì nhìn vậy thôi, chứ thật ra tụi nó đâu cần đồ cúng.

Muốn ăn món nào, tụi nó "nhập" thẳng vô món đó, còn đồ cúng chỉ là cho người sống ăn, tụi ma không thèm để ý.

Khi chủ nhà mời dùng tiệc, cả đám người lẫn ma cầm đũa lên rào rào, nhưng không ai dám ăn ngay.

Tất cả lén quay sang nhìn cụ Hết, xem cụ sẽ gắp món chay hay món mặn đầu tiên.

Cụ Hết thì chẳng hay biết gì về vụ tranh cãi này, cụ chỉ tính ăn cho ngon rồi chiều về ngủ một giấc khỏe người.

Nghĩ vậy, cụ ung dung gắp một miếng xôi, cho vào miệng nhai ngon lành.

Thấy cụ gắp xôi – món chay mặn đều được– đầu tiên, cả đám người thở phào nhẹ nhõm.

Nhưng rồi vẫn chưa yên tâm hẳn, ánh mắt lại len lén quan sát tiếp.

Một người lớn tuổi trong họ, không chịu nổi không khí căng thẳng, bạo gan hỏi:

"Thưa cụ, chay hay mặn mới phải ạ?"

Cụ Hết nghe câu hỏi mà tưởng người ta đang hỏi cụ thích ăn món chay hay món mặn.

Cụ nghĩ bụng: "Ủa, mâm đâu phải do mình nấu, có món nào thì ăn món đó thôi chứ còn lựa chọn gì nữa?"

Vậy là cụ trả lời gọn lỏn, mặt tỉnh rụi:

"Trên bàn có món gì, ăn món đó."

Cả đám người nghe xong, tự nhiên như giác ngộ chân lý.

Mọi người ồ lên, bàn tán rì rầm:

"Đúng rồi!

Quả là lời của cao nhân!

Chay hay mặn cũng chẳng quan trọng, miễn có món là được.

Trên bàn có món gì, ăn món đó, đi chợ có món gì, cúng món đó, đơn giản mà hợp lý!"

Từ người sống đến tụi ma, ai nấy cũng đều gật gù đồng tình, như thể cả thế giới vừa được hòa giải bởi một câu nói.

Cả buổi tiệc bỗng trở nên rôm rả hơn hẳn.

Sạp chay lẫn sạp mặn đều thở phào nhẹ nhõm, rồi quay sang cụng ly rần rần, mọi khúc mắc, tranh chấp tan biến sạch.

Con bé giúp việc và anh Tuấn ngồi bên thì cố nén cười.

Tụi nó biết tỏng, xưa giờ cụ Hết vốn dễ ăn dễ mặc, trên bàn có món gì cụ ăn món đó, chẳng bao giờ thắc mắc.

Ai mà ngờ câu nói đơn giản ấy lại hóa chân lý, làm hòa cả hai phe chay mặn, người sống lẫn người chết.

Sau bữa tiệc, cụ Hết về nhà, làm một giấc ngủ trưa ngon lành, không mộng mị, không lo nghĩ gì.

Trong khi đó, đám người sống lẫn tụi ma ở buổi tiệc thì gật gù, rì rầm bàn tán:

"Công nhận cụ Hết đúng là bậc chân nhân.

Chuyện âm hay chuyện dương cụ cũng am tường.

Quả thật cao tay!"
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Liêm đầu vàng


Càng ngày, cụ Hết càng đi xa hơn, vì mấy khu gần nhà cụ đã lang thang hết sạch.

Giờ đây, cụ "mở rộng địa bàn" tới tận quận 10, quận 3.

Cứ đi chán, mỏi chân, cụ lại bắt xe ôm về nhà.

Rồi hôm sau, cụ lại bắt xe ôm quay ngược đến đúng chỗ hôm qua đang khám phá dở dang, tiếp tục hành trình của mình.

Có ngày cụ chỉ đi một đoạn ngắn, rồi kiếm một quán nước ven công viên, gọi ly cà phê.

Cụ ngồi đó, thong thả nhấm nháp, vừa trò chuyện với người sống vừa tám với mấy con ma gần đó.

Cụ chẳng phân biệt ai là ai, hễ ai ngồi cạnh là cụ bắt chuyện, không cần biết họ còn thở hay đã "đứt bóng."

Ngồi chán, cụ lại đứng dậy, cây gậy trong tay, tiếp tục lang thang vô định.

Chẳng biết điểm đến là đâu, cũng chẳng cần mục đích gì cụ thể.

Nhưng điều lạ là cụ thấy mình hạnh phúc và vui vẻ hơn bao giờ hết.

Hôm nay, cụ Hết ngồi ở một quán nước lạ, nhấp từng ngụm cà phê nhạt như nước vo gạo.

Quán này nhỏ xíu, nhưng đang náo nhiệt hơn bình thường vì một đám đông tụ tập gần đó, mắt tròn mắt dẹt, chăm chú hướng về bà bán nước, người đang kể chuyện... thấy ma.

Bà bán nước tròn mắt, tay vung vẩy đầy kịch tính:

"Ghê lắm nghen!

Hôm đó tui có việc, phải đi qua khúc đường đó.

Mà mới có 10h tối thôi!

Rõ ràng tui thấy bóng một người to bự lắm, đô con mà to như một cái núi, hiện rõ mồn một giữa đường.

Tui sợ quá, ráng đi nhanh để vượt qua nó.

Ai dè, nó quay lại nhìn tui!"

Cả đám xung quanh nín thở.

Bà hạ giọng, làm mặt nghiêm trọng:

"Cái đầu nó thì đen thui, không rõ mắt mủi thế nào, bất ngờ nó quay qua nhìn tui một cái, lúc đó như muốn đứng tim với nó.

Vừa nhìn xong một cái, con ma biến mất tiêu!

Trời ơi, tới giờ kể lại mà tui còn nổi da gà nè!"

Nói xong, bà tự ôm tay mình, rùng mình một cái, y như thật.

Đám người xung quanh đồng loạt "ồ" lên, có người chép miệng: "Nghe mà lạnh sống lưng!"

Mấy người trong đám nghe xong, bắt đầu căng thẳng, mắt láo liên nhìn nhau.

Một anh thanh niên chột dạ, gãi đầu nói:

"Ê, nói vậy là không phải một mình bà thấy đâu!

Có khi tui cũng thấy nữa!

Ban đêm ban hôm, tự nhiên thấy bóng người to cao, đô con, cái đầu đen như lọ nghẹ, chạy vèo qua là mất tiêu!

Mà lạ lắm nghen, đi từ xa là đã thấy rồi!"

Cả đám như được kích hoạt chế độ "đồng cảm tâm linh," nhao nhao lên kể chuyện.

Người thì khẳng định đã từng thấy rõ ràng, kẻ khác thì chỉ nhớ mang máng.

Có người còn vỗ đùi cái bốp, hớn hở:

"Vậy là tui không bị hoa mắt!

Đúng là có ma thiệt mà!"

Nhưng chuyện chưa dừng ở đó.

Bên kia, mấy con ma cũng đang đứng lố nhố hóng chuyện, nghe một hồi thì bắt đầu... rùng mình.

Một con ma trẻ con níu áo con ma lớn tuổi, lắp bắp nói:

"Ủa ủa... kỳ vậy?

Bộ... mình cũng bị hù nữa hả?"

Một con ma khác gật đầu chắc nịch:

"Ừ!

Hồi bữa đi ngang khúc đó, tự nhiên tao cũng thấy cái bóng y chang như vậy.

Nhìn chưa kịp rõ nữa là nó biến mất tiêu!

Tao còn tưởng là tụi bây, ai ngờ giờ mới biết... nó hù luôn cả ma!"

Cả đám người và đám ma, mỗi bên tự diễn giải câu chuyện theo cách riêng, bên nào cũng bắt đầu... sợ.

Chỉ có cụ Hết vẫn ung dung, nhấp ngụm cà phê cuối cùng, khoái chí nhìn cảnh người sống lẫn ma cùng hoang mang không biết ai hù ai.

Cụ gật gù, nghĩ bụng:

"Kỳ này phải ghé cái khúc đường đó coi sao mới được!"

Từ ngày thấy ma, cụ không còn sợ ma nữa.

"Chết rồi thì ma cũng như người thôi, có gì đâu mà ghê."

Nhưng mà cái gì không phải ma, cũng không phải người thì cụ lại hơi ngán.

Con người ta vốn có xu hướng sợ cái mình không biết, mà cụ cũng không ngoại lệ.

Nhưng có điều, cái tò mò của cụ luôn lớn hơn bất kỳ nỗi sợ nào.

Nghĩ vậy, cụ rút tờ tiền để lên bàn, chậm rãi đứng dậy, sửa lại cái nón bê rê, tay vững vàng chống gậy.

Rồi cứ thế, thong thả đi về phía cái khúc đường mà thiên hạ đồn có ma.

Trời về chiều, nắng lờ mờ rồi tắt hẳn, con đường vốn đã âm u lại càng vắng lặng một cách đáng ngờ.

Lúc trời còn sáng, hàng quán hai bên còn nhộn nhịp, tiếng người qua lại rôm rả.

Nhưng khi nắng vừa dứt, mấy quán xá đồng loạt đóng cửa, để lại con đường hoang vu như phim kinh dị.

Lâu lâu chỉ có vài chiếc xe chạy vội qua, chắc cũng đang ráng phóng nhanh để... không phải chạy một mình.

Cụ Hết thong thả bước dọc theo con đường, dưới ánh đèn đường vàng vọt, mờ mờ ảo ảo.

Nhà cửa hai bên đóng cửa kín mít, nhìn mà cũng thấy... hơi rợn.

Bỗng!

Một tràng âm thanh gầm rú vang lên từ phía sau, chát chúa như pháo nổ, nhưng đanh thép đến khó chịu.

Cụ Hết hơi giật mình, nhưng rồi lại bình tĩnh ngay.

Vì cụ đã quá quen thuộc với cái âm thanh này: pô xe độ của tụi dân chơi!

Đúng như cụ đoán, từ cuối đường, một đoàn xe máy phóng tới, đèn pha quét sáng loang loáng.

Đứa nào đứa nấy đầu xanh đầu đỏ, mặc đồ choi choi, ngồi trên những chiếc xe hai bánh độ pô, tháo biển số, tháo luôn dàn nhựa cho xe nhẹ bớt.

Tụi nó vừa chạy vừa nẹt pô đùng đoàng như bắn pháo hoa giao thừa, rần rần cả dãy phố.

Cụ Hết nhìn cảnh tượng mà chép miệng: "Chắc con đường này vắng không phải vì ma cỏ gì, mà do tụi nó đua xe quá, người ta sợ tai nạn nên trốn hết rồi!"

Tụi quậy chạy qua chỗ cụ, xe nào cũng chở một đứa con gái váy ngắn cũn cỡn, tụi nó đứng cả lên yên xe, la hét như đi hội chợ.

Chiếc nào cũng bốc đầu hết tốc lực, xé gió lao về phía trước.

Nhưng rồi, đúng lúc đang bốc đầu phóng qua một quãng đường vắng...

BÙM!

Ngay lề đường phía trước bỗng xuất hiện một cái bóng!

Nhưng không phải bóng mờ mờ như mấy con ma cụ Hết hay thấy, mà rõ mồn một!

Một bóng người to bự, cơ bắp cuồn cuộn dưới bóng tối nhá nhem, cao gần mét tám, đứng sừng sững như một ngọn núi nhỏ.

Mà cái đáng sợ nhất là... cái đầu.

Cái đầu tròn vo, bóng loáng, nhưng đen thui, không có mặt mũi gì hết.

Tụi loi nhoi phóng đến gần, đứa nào đứa nấy đang cười hô hố thì đột nhiên...

đồng loạt thắng gấp!

Bánh xe rít lên cái kẹt dài cả mét, mấy đứa té như rạ, lăn lông lốc trên đường.

Xe cộ lăn quay, người nằm la liệt như vừa có một cuộc tông xe tập thể.

Lồm cồm bò dậy, đứa nào đứa nấy mặt cắt không còn giọt máu.

Không còn hét hò, không còn bốc đầu.

Tụi nó không kịp dựng xe lại cho ngay ngắn, cứ chộp lấy xe, đạp số rồi rú ga biến mất trong im lặng.

Không còn nẹt pô, không còn hú hét.

Tụi nó im lìm chạy đi như những công dân gương mẫu.

Cụ Hết đứng xa xa, mắt nheo lại, tiếp tục quan sát cái bóng.

Đợi tụi đua xe rú ga chạy mất dạng, cái bóng từ từ... cởi áo khoác ra.

Lớp áo khoác dày cộm rơi xuống, để lộ bên trong có nhét mấy cái hộp nho nhỏ, làm dáng người trông đô con lực lưỡng hơn thực tế.

Cởi xong áo khoác, cái bóng... tiếp tục cởi luôn cái nón bảo hiểm bự chảng, đen thui!

Cái đầu tròn vo bí ẩn hóa ra... chỉ là cái nón.

Nhưng thứ lộ ra bên trong mới thật sự gây bất ngờ!

Không phải người, mà là một con ma mờ mờ mà cụ Hết thường thấy.

Nhưng con ma này không giống mấy con khác.

Nó cao tận mét tám, ốm tong ốm teo, đầu tóc vàng chóe dựng ngược, quần áo thời trang lòe loẹt, nhìn đúng chuẩn... một con ma dân chơi!

Cụ Hết nhìn cảnh tượng đó mà phì cười trong bụng: "Hèn gì hù được tụi đua xe!

Đúng là dân chơi gặp dân chơi."

Chân tướng "thế lực hù người" nay đã rõ ràng.

Cụ Hết chống gậy, thong thả tiến lại gần con ma, lúc này đang thở hồng hộc như thể vừa mới cởi bộ đồ linh vật trong mấy công viên giải trí.

Nó còn bận hất tóc, chỉnh quần áo lại cho gọn gàng.

Cụ nhìn nó, chậm rãi hỏi:

"Nè, cậu hù tụi nó chạy xe, rồi lỡ tụi nó lật xe chết thiệt là cậu mang nợ đó nha!"

Con ma giật nảy mình, tròn mắt nhìn cụ Hết như thể lần đầu tiên có người sống bắt chuyện với mình.

Nó ngơ ngác hỏi lại:

"Ủa...

ông thấy tui hả?

Sao hay vậy?"

Cụ Hết phì cười, thở dài:

"Trời, giờ ma còn ngạc nhiên khi bị thấy nữa hả?

Tui nghe người ta đồn ở đây có ma quỷ chuyên hù người đi đường, nên tui tới coi thử.

Ai dè, nguyên con ma dân chơi, ốm tong ốm teo, chứ có gì ghê đâu."

Con ma liếc cụ, khoanh tay, hất tóc dựng ngược một cái, giọng bực bội:

"Nè ông già!

Tui có tên đàng hoàng, không phải 'con ma dân chơi' gì hết trơn nha!

Tại tui có chuyện nên mới ở đây hù tụi nó, chứ ai rảnh đâu mà dọa người ta miết.

Còn ông là ai?

Thần thánh phương nào mà mò tới đây?

Tính bắt tui đi hả?

Tui nói trước, bắt thì cứ bắt, tui hổng có sợ!"

Cụ Hết bật cười khà khà, khoát tay:

"Thôi, thôi, đừng có căng.

Tui đâu phải cơ quan chức năng mà đi bắt ai.

Với lại, bắt ma thì không tới lượt tui."

Rồi cụ chỉ tay về phía một cái ghế đá gần công viên:

"Vậy thôi giờ vô kia ngồi, kể tui nghe chuyện của cậu coi sao.

Cả tui và cậu chắc cũng rảnh lắm mà, ngồi tám chuyện cũng không thiệt hại gì."

Con ma nheo mắt nhìn cụ, ra chiều ngờ vực, nhưng rồi cũng phẩy tay:

"Thôi được!

Ông chịu khó bắt chuyện với ma thì tui cũng chịu khó kể!"

Thế là, một ông già và một con ma dân chơi, thong thả bước về phía ghế đá công viên, chuẩn bị cho một cuộc tám chuyện không giống ai.

Con ma mở lời trước, giọng có chút tự hào pha lẫn tiếc nuối:

"Tui tên Liêm.

Hồi còn sống, tui là đại ca của mấy thằng đua xe hồi nãy.

Nhưng mà làm đại ca thì... không có tiền.

Nhà tui nghèo, thằng em tui đi học mà không có tiền đóng học phí, nên tui mới phải đi chở thuốc lá lậu từ biên giới về kiếm ăn."

Nó thở dài một hơi, rồi kể tiếp:

"Mỗi chuyến hàng thường có bốn người chạy, mấy người kia là dân nhà nghề hết, chỉ có tui là 'lính mới', còn yếu, nên chạy cuối cùng.

Hồi còn sống, tui đua xe với đàn em thì ngon lành lắm, nhưng mà buôn lậu thì là một đẳng cấp khác, phải cứng dữ lắm!"

Cụ Hết gật gù, giọng trầm trầm hỏi:

"Rồi sao cậu thành ra vầy?"

Thằng Liêm nhếch môi cười nhạt, nói tiếp:

"Bữa đó tui tính làm chuyến cuối rồi nghỉ.

Ai dè... thành luôn chuyến cuối đời!

Cũng như mọi khi, tui quấn đầy người toàn thuốc lá, lận chật ních dưới áo khoác, đội cái nón bảo hiểm bự chảng che kín mặt..."

Nói xong, nó chỉ vào cái áo khoác độn thuốc lá với cái nón bảo hiểm đen thui mà nó vừa cởi ra, rồi giải thích:

"Nè, bữa đó tui mặc bộ này nè.

Rồi trong lúc chạy như điên về điểm tập kết, tui tông trúng một thằng nhỏ đang chạy xe đạp băng qua đường.

Thằng nhỏ đập đầu xuống đất, máu chảy lênh láng nguyên khúc lộ."

Cụ Hết nhướng mày: "Rồi thằng nhỏ sao?"

Thằng Liêm nhăn mặt:

"Thằng nhỏ sống chết ra sao thì tui không rõ, lúc đó hoảng quá nên tui bật dậy, nổ máy chạy tiếp.

Chỉ có điều... tui đâu biết cú tông đó làm hư thắng xe.

Tui cứ nẹt pô chạy hết tốc lực mà không hay là xe đã mất thắng.

Rồi cuối cùng, tui... lủi vô nguyên một hàng dừa ven đường."

Nó giơ hai tay, nhún vai, mặt tỉnh bơ:

"Đó, ông thấy tui bây giờ là do tui lủi vô hàng dừa với cái xe mất thắng đó."

Cụ Hết nhíu mày nhìn nó một hồi, rồi thở dài, chép miệng:

"Rồi sao bây giờ cậu lại ra góc đường này hù tụi nhóc loi nhoi đó?"

Thằng Liêm buồn bã, cúi đầu, giọng chậm lại:

"Từ lúc tui thành ra vầy, tui cứ lang thang suy nghĩ về cuộc đời mình.

Hồi đó, tui chỉ nghĩ làm sao có tiền, làm sao sống cho 'ngầu', chứ đâu có nghĩ tới hậu quả.

Giờ nhìn lại, hối hận lắm.

Nhưng mà số tui nó vậy, tui cũng đâu biết làm sao để tránh được."

Nó ngừng lại một chút, rồi nói tiếp:

"Rồi tui phát hiện, không biết làm sao, hễ tui mặc cái áo khoác độn thuốc lá với đội cái nón bảo hiểm vô, là tự nhiên tui hiện ra.

Người cũng thấy, mà ma cũng thấy."

Cụ Hết nghe tới đây thì gật gù, trong bụng thầm nghĩ: "À, hóa ra là ma có đồng phục!"

Thằng Liêm thở dài:

"Từ đó tui mới quyết định lang thang chỗ này, mỗi lần thấy tụi đàn em cũ của tui đua xe ngang qua đây, là tui hù cho tụi nó sợ chạy mất dép.

Để nó bỏ cái tật đua xe, đừng có rơi vào con đường như tui hồi xưa nữa.

Tụi nó sợ quá, hết dám đua, rồi về nhà học hành đàng hoàng."

Nó ngước nhìn cụ Hết, giọng có chút tự hào:

"Tui không làm được gì nhiều, nhưng ít ra cũng 'hướng thiện' cho tụi nhỏ được chút đỉnh, đúng không?"

Cụ Hết khoanh tay, ngồi suy nghĩ một chút, rồi lẩm bẩm:

"Ừ, tính ra cũng có lý...

Nhưng mà lỡ hù mạnh quá, tụi nó đâm đầu vô cột điện thì sao?"

Thằng Liêm giật mình, trố mắt, nhìn trân trân vào cụ Hết như thể chưa từng nghĩ tới chuyện đó bao giờ.

Nó đơ người ra vài giây, rồi như ngộ ra cái chuyện ngu ngốc mà nó làm bấy lâu nay.

Trời ơi, lỡ mà hù quá tay, tụi nhỏ quăng xe vô cột điện, nó đi theo mình luôn thì sao?

Nghĩ tới đó, nó rùng mình.

Có lẽ ông bà nó còn "độ" nên may mắn tới giờ chưa ai vì nó mà lật xe chết.

Không thôi là ngoài nợ trần gian, nó còn gánh thêm nợ âm phủ!

Cụ Hết thấy thằng nhỏ chìm vào suy tư quá lâu, cụ bèn nhấp một ngụm trà rồi chậm rãi hỏi tiếp:

"Vậy, khi cậu mất rồi, người ta có cho tiền để thằng em cậu đi học không?"

Thằng Liêm nghe nhắc tới thằng em, bỗng dưng oà lên khóc!

Nó khóc như mưa, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, nhưng điều kỳ lạ là không có một giọt nào rớt xuống đất.

Chắc do ma thì nước mắt cũng là... nước "nhập từ bển".

Giữa công viên vắng, chỉ có một ông già và một con ma dân chơi, một bên tỉnh bơ, một bên thì khóc bù lu bù loa như trẻ con mất kẹo.

Cụ Hết chống cằm, thở dài trong bụng: "Cái thằng này, lúc sống chắc chả khóc ngày nào, giờ chết rồi lại khóc dữ quá!"

Hôm đó, cả người và ma ngồi tâm sự suốt cả buổi tối.

Hai cái bóng—một đậm, một mờ—ngồi trên ghế đá công viên, dưới ánh đèn đường vàng vọt, trông chẳng khác gì hai ông cháu đang tám chuyện đời.

Lâu lâu, trong màn đêm tĩnh mịch, lại vang lên vài tiếng nấc nghẹn, không phải tiếng khóc hù dọa như trong phim kinh dị, mà là tiếng của một kẻ còn nhiều chuyện dang dở.

Người đi ngang chỉ thấy cụ Hết ngồi lặng lẽ trên ghế đá, tưởng cụ đang ngẫm nghĩ chuyện đời.

Mà cũng đúng, chỉ là chuyện đời... của cả người sống lẫn người chết.
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Vòng Tiền


Từ sau buổi trò chuyện với cụ Hết, thằng Liêm đầu vàng quyết định...

đi theo cụ về nhà luôn.

Phần vì nó không biết phải đi đâu sau khi "giác ngộ" với cụ, phần vì nó vẫn còn vương vấn chuyện thằng em nên chưa vội đi "qua bển."

Cụ Hết thấy nó tội nghiệp, cũng chẳng đuổi.

"Thôi kệ, miễn đừng quậy phá ai là được."

Vậy là giờ đây, cụ Hết đi đâu, thằng Liêm cũng lẽo đẽo theo như hình với bóng.

Mấy con ma hàng xóm thấy cụ Hết dắt theo nguyên thằng "đệ" cõi âm, lại còn là thằng đầu vàng dân chơi, bèn trêu chọc:

"Ê thằng đầu vàng!

Mày theo ám ông cụ, lỡ ổng có gì thì coi chừng mang họa nha mày!"

Thằng Liêm không thèm trả lời, chỉ hứ một tiếng cho qua chuyện.

Cụ Hết chỉ cười mỉm, nhưng trong lòng vẫn nhớ câu chuyện về thằng em của Liêm.

Cụ suy nghĩ một hồi, rồi hỏi:

"Vậy, nhà cậu ở đâu, để tui đi thăm thằng em cậu."

Thằng Liêm thoáng sững lại, rồi chỉ đường cho cụ.

Vậy là sáng hôm sau, cụ Hết không đi lang thang như thường lệ, mà bắt xe ôm chạy thẳng đến khu Kênh Tàu Hủ.

Tới nơi, cụ đứng trước cái hẻm mà thằng Liêm chỉ, mắt quan sát một lượt.

Đây là khu ổ chuột.

Những căn nhà chen chúc, có nhà xây trên đất, có nhà kiểu nhà sàn vươn ra mép kênh.

Không căn nào xây bằng gạch đàng hoàng, mà toàn được chắp vá từ mấy tấm gỗ cũ, mái lợp bằng những tấm tôn xiêu vẹo, kê hờ lên để che mưa che nắng.

Đường đi chung không phải đường nhựa, cũng chẳng lát xi măng, chỉ là nền đất lồi lõm, ổ gà chằng chịt, từng vũng nước to nhỏ thi nhau trải dài trên mặt đường.

Rác rưởi chất đống khắp nơi.

Mùi tanh của nước kênh bốc lên hôi nồng, hòa lẫn với mùi rác phân hủy.

Thỉnh thoảng, cụ Hết lại thấy vài cái ống tiêm vất vương vãi ven đường, dấu vết của những con nghiện lặng lẽ lẩn khuất trong xóm.

Cụ Hết thong thả bước qua khu ổ chuột, trông cụ như lạc lõng giữa cái không gian ẩm thấp, chật chội xung quanh.

Từng đám người xăm mình rằn ri, đứng tụm năm tụm ba bên vách nhà.

Những đứa trẻ gầy nhom, mặt mày lem luốc, quần áo rách rưới ngồi bệt dưới đất.

Mấy ông bà già da đen đúa, nhăn nheo, lặng lẽ ngồi trước cửa nhà nhìn ra con đường lầy lội.

Đám con gái chừng mười sáu, mười bảy, mặc đồ diêm dúa, tay ẵm mấy đứa trẻ đỏ hỏn, đứa nào đứa nấy trông lớn trước tuổi.

Tất cả đều ngước nhìn cụ Hết với ánh mắt tò mò.

Nhưng không phải kiểu dò xét như mọi khi có người lạ vào xóm, mà là ngạc nhiên, vì sao một ông già trông như ông tiên trong truyện cổ tích lại ghé đến cái xóm đầy tệ nạn này?

Cụ vẫn thong thả bước tới cái nhà nhỏ cuối đường, nơi thằng Liêm chỉ, mặc kệ ánh mắt của cả xóm dõi theo.

Gọi là "nhà" thì có vẻ hơi quá, vì thứ trước mặt cụ trông giống cái chòi hơn.

Cái chòi này không nằm trên đất bằng, mà xây tạm bợ trên mấy cây cọc lấn ra Kênh Tàu Hủ.

Mấy tấm gỗ cũ kỹ, lỗ chỗ ghép lại thành vách.

Mái tôn cũ rách, quá ngắn, chỉ che được một phần của cái chòi, phần còn lại bị bỏ trống, phơi ra ngoài trời.

Không có cửa.

Bên trong, ngoài tấm ván kê cao thành giường, thêm vài móc quần áo treo lủng lẳng hướng ra phía kênh, thì không còn món đồ nào đáng giá.

Cụ Hết đứng trước chòi, thong dong chờ đợi, đợi người trong nhà nhận ra sự có mặt của mình.

Bên cạnh, thằng Liêm đầu vàng nhìn căn nhà cũ nát, ánh mắt vừa quen thuộc vừa xót xa.

Bước ra chào cụ Hết là một bà già tầm bảy chục tuổi, dáng người gầy gò, khuôn mặt khắc khổ.

Theo sau bà là một thằng bé ốm yếu, nước da xanh xao.

Nó đứng nép sau lưng bà, đôi mắt lộ rõ vẻ sợ sệt, tay nắm chặt vạt áo bà như sợ có người tới bắt nó đi mất.

Cái nhà nhỏ xíu, chật đến mức cụ Hết không thể bước vào, đành ngồi xuống cái tấm gỗ kê vội trước cửa, đối diện với bà cụ, chuẩn bị cho một cuộc trò chuyện mà cụ đã đoán trước là chẳng dễ dàng gì.

Sau vài câu chào hỏi xã giao, cụ Hết nhẹ nhàng nói:

"Tôi có quen thằng Liêm."

Bà cụ giật mình, thoáng ngạc nhiên, nhưng cũng không dám hỏi thêm.

Bà chỉ thở dài, ánh mắt nhìn xa xăm:

"Cách đây gần mười năm, tui gánh đậu phộng đi bán ở khu Chợ Lớn.

Đêm đó trời mưa, tui thấy hai đứa nhỏ đứng nép bên hông chợ.

Thằng Liêm lúc đó ốm nhom, trên tay bồng theo một thằng bé còn đỏ hỏn.

Nó mặc cái áo rách bươm, ướt sũng nước.

Tui thương quá nên đem về nuôi.

Nghèo thì nghèo, có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo.

Ai ngờ đâu... nó nghe tụi xóm bên rủ rê, đi chở thuốc lá lậu rồi bỏ mạng."

Bà già thở dài lần nữa, rồi nhìn lên cái bàn thờ vừa được gác tạm từ một tấm gỗ cũ.

Trên đó là một tấm ảnh chụp vội của thằng Liêm, giờ đã thành ảnh thờ.

Nhang trên bàn thờ vẫn còn bốc khói nghi ngút.

Cụ Hết không hỏi thêm gì nữa.

Cụ chỉ lặng lẽ rút một cây nhang, đốt lên, rồi cắm vào bát hương.

Bên cạnh, thằng Liêm đứng đó, cái bóng mờ nhạt giữa không gian ẩm thấp.

Nó nhìn cụ Hết thắp nhang cho mình, lúng túng không biết phải làm gì.

Cuối cùng, nó chỉ đứng nghiêm trang, đầu hơi cúi nhẹ, như một đứa con trai ngoan ngoãn đang cảm tạ lòng tốt của bậc trưởng bối.

Sau khi chào bà cụ và thằng nhỏ, cụ Hết rời khỏi khu ổ chuột.

Nhưng cụ không về nhà.

Cụ bắt xe ôm, đi thẳng đến nhà ông Nhân.

Trước đây, sau khi được cụ Hết "xem phong thủy" cho cái nhà cúng, ông Nhân làm ăn phất lên thấy rõ.

Khách hàng tới nườm nượp, xưởng làm ăn suôn sẻ, tiền vô như nước.

Biết ơn cụ Hết, ông Nhân nhiều lần muốn gửi cụ một số tiền lớn để tỏ lòng cảm kích.

Nhưng lần nào đem tiền tới nhà biếu cụ, cụ cũng khoát tay thẳng thừng:

"Tao già rồi, có ăn xài gì đâu mà tốn tiền tốn bạc!

Mày giữ đó mà lo cho tụi nhỏ."

Ông Nhân nghe mà cười méo xệch, nhưng vẫn không bỏ cuộc.

Vài lần sau, ông đổi chiến thuật, tìm cách nhờ anh Tuấn, cháu nội cụ Hết, dúi tiền giùm.

Anh Tuấn nhìn ông Nhân, ra vẻ hiểu chuyện, nhưng lại cười cười trả lời:

"Chuyện của Nội, con không dám quyết, chú Hồng.

Chắc phải hỏi Nội thôi!"

Vậy là hết đường.

Dù có làm ra của ăn của để, ông Nhân vẫn không thể trả ơn cho cụ Hết chuyện cái nhà cúng.

Đành tạm gác lại, chờ dịp thuận lợi để thưa chuyện với cụ sau.

Hôm nay, cụ Hết bắt xe ôm tới nhà ông Nhân.

Vừa thấy cụ, ông Nhân mừng rỡ, đon đả chạy ra chào, mời cụ vô uống trà.

Còn con ma bà Tư—chị ruột cụ, như mọi khi cũng ra đón.

Nhưng hôm nay, bà Tư hơi khựng lại.

Bởi vì đi sát cụ Hết là một thằng ma đầu vàng, cao lêu nghêu, tiu nghỉu như con nít đi sau mẹ.

Bà Tư hơi nhíu mày, định hỏi, nhưng cụ Hết khoát tay, ra hiệu:

"Không sao đâu chị, thằng này em lo được."

Bà Tư nhìn cụ, rồi nhìn thằng Liêm, rồi lại nhìn cụ.

Nhưng cụ đã bước vào sân nhà, đi thẳng tới ghế đá quen thuộc, nơi cụ hay ngồi uống trà với ông Nhân.

Cụ ngồi xuống, nhấp ngụm trà, thằng Liêm đứng kế bên cao lêu nghêu nhưng vẫn như đứa nhỏ hầu cụ.

Mấy con ma hàng xóm thấy có chuyện, tò mò bu lại.

"Hôm nay cụ Hết lại kể chuyện gì nữa đây?"

Thằng Liêm ngó quanh một lượt, bỗng thấy ngạc nhiên.

Hóa ra, cụ Hết có tiếng với cả người âm!

Sau khi nhấp thêm ngụm trà, cụ Hết chậm rãi chìa ra một tờ giấy, trên đó ghi tên và địa chỉ của em trai thằng Liêm.

Cụ đặt tờ giấy trước mặt ông Nhân, rồi nói bằng giọng trầm trầm:

"Có một thằng bé không có tiền đi học.

Mày coi, làm ăn có dư chút đỉnh nào thì lo cho nó.

Được tới đâu hay tới đó.

Coi như xả tài tích phước."

Ông Nhân mắt sáng rỡ.

Bao nhiêu lần trước, ông muốn gửi tiền cho cụ Hết, cụ đều từ chối.

Bây giờ, cụ lên tiếng, tuy không phải giúp riêng cụ, nhưng đây chính là cơ hội để ông được làm mạnh thường quân!

Không chần chừ, ông Nhân mừng rỡ nhận tờ giấy, gật đầu chắc nịch:

"Dạ cụ yên tâm!

Con sẽ lo cho thằng nhỏ học hành đàng hoàng, tới nơi tới chốn!"

Thằng Liêm đứng bên cạnh, mắt tròn xoe.

Nó nghẹn họng nhìn cụ Hết, rồi nhìn ông Nhân, rồi lại nhìn cụ Hết.

Tới lúc này, nó mới hiểu...

Cụ Hết không chỉ giúp nó hiểu ra chuyện, mà còn giúp nó lo cho thằng em—điều mà khi còn sống, nó không thể làm được.

Bà Tư hiểu chuyện, biết tính thằng em mình xưa giờ hay lo chuyện bao đồng, giúp người mà chẳng màng lợi lộc.

Bà chẳng nói gì với cụ Hết, chỉ xoay qua nhìn thằng Liêm, nheo mắt dặn dò:

"Mày có đi theo thì lo mà coi chừng ổng."

Mà bà không nói rõ là coi chừng cái gì.

Thằng Liêm cũng chẳng dám hỏi, chỉ dạ dạ vâng vâng, rồi tiu nghỉu lẽo đẽo theo sau cụ Hết như một thằng nhỏ mới bị mẹ dạy dỗ.

Thế là, từ đó, cụ Hết bỗng có một thằng "lính ruột" cõi âm, đi đâu cũng lẽo đẽo theo hầu.

Mà cụ đâu có mướn!
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Chơi Ngải.


Những năm 2000, khu quận 5 quận 6 rộ lên tin đồn râm ran rằng: muốn giàu nhanh thì cứ... chơi ngải.

Mà ngải thì nghe đâu của mấy ông thầy bùa dưới quê mới biết luyện sao cho "chuẩn bài".

Người nào muốn thỉnh ngải thì phải tìm đúng thầy có tâm, chứ trật lất là coi như ôm hoạ sát thân.

Có lẽ vì cái tin đồn đó mà trong khu, dân làm ăn hễ nghe phong thanh ai chơi ngải, hay có ông thầy nào luyện ngải mát tay là kéo nhau tụ lại tám tới bến.

Nào là giàu lên vùn vụt, nào là phải chăm sóc ngải kỹ lưỡng như nuôi con mọn.

Tò mò thì tò mò, nhưng ông Nhân, vốn là tay làm ăn đàng hoàng có tiếng, nhất quyết không dây vào mấy chuyện này.

Phần vì ông đã có cụ Hết – vị "thầy phong thuỷ gia truyền siêu cấp vô địch".

Phần vì ông cũng hơi nhát, lỡ nuôi không nổi ngải, để nó "quật" thì sao.

Nhưng cuộc đời làm ăn đâu thiếu những buổi trà dư tửu hậu.

Trong một buổi nhậu lai rai, ông Nhân tình cờ nghe được câu chuyện này:

Bà Hạnh, một đại gia sản xuất đồng hồ có tiếng trong khu, vừa nhấp trà vừa nhíu mày vẻ đầy bí hiểm, bắt đầu câu chuyện:

"Tui nói mấy ông nghe, cái trò chơi ngải này không có giỡn đâu!

Mang nó về nhà mà nuôi, giàu thì giàu, nhưng phải biết cho nó ăn.

Không là xong phim!"

Ông Chung, một ông trùm gia công bao bì, ngồi kế bên thì thắc mắc, mặt ngơ ngác:

"Ủa bà nói gì kỳ vậy?

Tui nghe nói ngải là cái cây mà.

Cây thì ăn uống kiểu gì?"

Bà Hạnh búng tay một cái, làm bộ như người từng trải:

"Ông không biết chứ ngải mà đói, nó quậy tan nhà tan cửa luôn đó ông à!

Nuôi là phải cúng đồ mặn.

Gà vịt, trứng, máu tươi...

Ông không cúng, nó không cho ông yên đâu!"

Ông Chung nghe xong thì xanh mặt, xua tay lia lịa:

"Thôi tui xin!

Làm ăn không được thì làm lại chứ dính vô cái thứ này, chưa giàu đã chết!"

Tuy miệng thì bảo, "Tui đâu cần mấy cái ngải này!", nhưng tính tò mò của ông Nhân thì không chịu ngồi yên.

Ông quay qua bà Hạnh, giả bộ hững hờ:

"Bà chỉ tui chỗ coi.

Không phải tui ham gì đâu, nhưng mà cũng muốn biết coi... cái ngải nó ra làm sao, để biết mà còn tránh nó!"

Bà Hạnh nghe vậy, cười khẩy một cái, rồi nháy mắt đầy bí ẩn:

"Ông cứ tới cái chùa gần chợ Lớn.

Nhưng nghe tui dặn kỹ: đừng vô chính điện làm gì.

Đi vòng ra cổng sau, ở đó có cái phòng nhỏ riêng biệt.

Gặp thầy Giác, thầy từng là chuyên gia sên ngải.

Nhưng tui cũng nghe đồn thôi nha, đừng hỏi thêm!"

Nghe tới đây, ông Nhân nuốt nước bọt cái "ực".

Hôm sau, không đợi ai nhắc, ông lật đật xách xe tìm tới cái chùa bà Hạnh nói.

Chùa nằm trong một con hẻm nhỏ yên tĩnh, nhưng phía trước thì náo nhiệt vô cùng.

Đủ thứ hàng quán bày biện hai bên: bán nhang đèn, đồ phong thuỷ, rồi lại có nguyên xe bánh mì to đùng nằm ngay góc cổng.

Mùi bánh mì thơm lừng làm ông Nhân hơi "lạc trôi" một chút, suýt nữa thì tấp vào mua ổ bánh mì chả cá.

Đi vào trong sân chùa, ông thấy một ông sư già đang nhàn nhã quét lá.

Động tác ông sư chậm rãi, nhẹ nhàng, như kiểu lá rơi bao nhiêu thì ông quét bấy nhiêu, không vội vã.

Cảnh này khiến ông Nhân thấy yên lòng đôi chút, nhưng rồi nhớ lời bà Hạnh dặn, ông liền nhanh chân đi ra phía cổng sau.

Nghe ông Nhân hỏi thầy Giác, ông bảo vệ nhìn ông một lượt từ đầu tới chân, như để đánh giá xem ông thuộc dạng "nghiêm túc" hay chỉ tới chơi.

Rồi ông bảo vệ chỉ tay về góc sân, giọng nhát gừng:

"Dựng xe gọn vô đó đi, rồi ra mà ngồi chờ.

Ở đây ai cũng phải chờ tới lượt hết!"

Ông Nhân lật đật dựng xe, quay lại đã thấy một hàng dài người ngồi chen chúc trước căn phòng nhỏ của thầy Giác.

Có người ngồi nghiêm trang như đi họp phụ huynh, có người vẻ mặt âu lo như vừa trúng tờ giấy báo nợ, lại có người ngồi chắp tay cầu khấn, miệng lầm bầm như luyện khẩu hình.

Ông Nhân ngó cảnh đó, lòng hơi chùng xuống:

"Trời đất, đông vậy?

Tưởng chừng mình tới sớm, ai ngờ đông ngang bến xe ngày Tết!"

Ngồi đợi, ông bắt đầu nghe mấy người trong hàng rỉ tai nhau về thầy Giác.

Thầy Giác năm nay tầm hơn bốn mươi.

Hồi trước, thầy là "chuyên gia coi bói" nổi danh ở chợ An Đông.

Mỗi ngày khách kéo tới đông nghẹt, xếp hàng dài từ sáng tới tối, nói thầy "phán câu nào trúng câu đó".

Nhưng rồi, có một ngày thầy... buồn chuyện gia đình, cụ thể là mâu thuẫn gì thì không ai biết rõ.

Người thì bảo thầy bị vợ bỏ, người khác lại nói thầy thất tình, không chịu nổi áp lực.

Kết quả là thầy bỏ hết, lên chùa xin đi tu.

Có điều, thầy bảo mình "vẫn còn nhiều việc đời chưa giải quyết xong", nên sư trụ trì ở đây không cho thầy thọ giới chính thức.

Thầy được ở lại chùa, nhưng phải cạo đầu, mặc áo nâu, và sống trong căn phòng nhỏ tách biệt ở cổng sau.

Thế là thầy tiếp tục hành nghề "tư vấn tâm linh", mà dân tình gọi nôm na là... coi bói.

Người nào gặp thầy cũng nói thầy phán chuẩn không cần chỉnh, nhưng phải kiên nhẫn chờ lâu vì số lượng khách đông như chợ Tết.

Nghe tới đây, ông Nhân ngồi không yên, bụng vừa tò mò vừa nôn nao, không biết thầy Giác sắp nói gì khi gặp mình.

Rồi ông liếc qua hàng dài trước mắt, tự nhủ:

"Chắc mai mốt thầy mở thêm cái máy phát số thứ tự thì ngon lành hơn!"

Hơn một tiếng ngồi đợi, cuối cùng ông Nhân cũng đến lượt.

Cửa phòng mở ra, ông bước vào, một mùi trầm hương thơm ngát lập tức xộc vào mũi.

Căn phòng của thầy Giác là sự kết hợp hoàn hảo giữa nghiêm túc và... phô trương.

Trầm hương thơm nức, máy lạnh chạy ào ào, kệ sách đầy ắp các loại sách, nhìn qua là thấy sự phân chia rõ ràng: bên trái là sách Phật giáo, bên phải là mớ kinh dịch, tử vi, phong thủy... như thư viện di động.

Dưới kệ là tủ kính trưng bày đủ loại vòng tay, đá quý, và mấy món đồ phong thủy trông cứ như bày hàng trong chợ.

Thầy Giác ngồi sau bàn gỗ, dáng thấp, bụng hơi phệ, mặc áo cà sa vàng óng, trông chẳng giống một sư tu hành gì cả mà giống hơn một ông chủ cửa hàng phong thủy đang sẵn sàng chốt hàng cho khách.

Thầy Giác cười gượng gạo, ngồi thẳng người lại: "Hôm nay ông anh đến xem tử vi hay là coi gia trạch phong thủy?"

Ông Nhân không để ý đến câu hỏi, mà thẳng thừng vào vấn đề: "bà Hạnh giới thiệu, Tôi nghe nói ông rành về Ngải.

Tui tới đây tìm hiểu để phòng hờ."

Vừa nghe tới chữ "Ngải", mặt thầy Giác biến sắc, mắt ông giật bắn lên.

Ông Nhân thấy rõ cái vẻ hoang mang trên mặt thầy, còn ông thầy Giác thì vội vàng ra cửa, khép lại thật chặt rồi kéo rèm cửa che kín mít, như thể sợ cả khu phố nghe được.

Quay lại bàn, thầy Giác thì thầm, giọng khẽ khàng: "Đúng là trước đây tôi có làm nghề đó, nhưng tôi bỏ rồi...

Cái đó không ổn chút nào đâu."

Ông Nhân cười, xua tay: "Tui chỉ muốn tìm hiểu về ngải để lỡ tui có đắc tội với ai bị người ta bỏ ngải, tui còn biết mà né hoặc gỡ"

Thấy ông Nhân là người lớn tuổi, có vẻ là dân làm ăn trí thức, lại được bà Hạnh là mối quen lâu năm giới thiệu, thầy Giác nghĩ chắc ổng chỉ muốn nghiên cứu cái huyền bí này thôi, thầy Giác nhướng mày hỏi lại: "Thật không?

Ông chỉ nghiên cứu thôi à?"

Ông Nhân cam đoan: "Hôm nay tui chỉ muốn nghiên cứu để tránh né thôi, không có mục đích gì khác."

Thầy Giác gật gù, như thoáng yên tâm mặc dù ở ông Nhân có vẻ gì đó đáng để thầy giác trút tâm sự về đời mình.

Rồi ông đứng dậy, ra ngoài nói lớn: "Hôm nay không tiếp khách nữa, bà con đợi mai ghé lại nhé.

Thầy sẽ giảm giá!"

Rồi quay lại bảo ông bảo vệ ngừng nhận khách, rồi vào pha ấm trà, tiếp chuyện với ông Nhân.

Thầy Giác từ từ mở lời, giọng điệu như thể kể chuyện xưa: "Hồi xưa, đúng là tui có học sên ngải, luyện ngải từ mấy ông thầy phép ở dưới quê.

Cái vùng đó đất độc, linh thiêng lắm, cây cỏ gì cũng có thể luyện ngải, chứ không cần phải đúng cây ngải mới được.

Ban đầu tui học được mấy chiêu nhỏ, ví dụ như luyện ngải yêu, ngải ăn nói, mấy chiêu dễ dễ."

Ông thầy Giác hít một hơi rồi nói tiêp:

"Nhưng về sau, tui luyện rồi không cần mấy ông thầy nữa, mấy cây ngải tự nó dạy tui luôn.

Cây nào tui cũng có thể nói chuyện, nó còn chỉ tui cách luyện ngải tiền, ngải làm đẹp, rồi cả ngải để hại người nữa.

Khi tui học luyện, ngải càng mạnh, tui càng học được nhiều trò mới.

Đến lúc mấy ông thầy phát hiện tui có khả năng nói chuyện với ngải, họ bảo tui làm hư chuyện rồi, không thể kiềm được nữa, nên họ đuổi tui thẳng cổ!"

Ông thầy nói mà mặt vẫn tỉnh bơ, như thể chuyện đuổi cổ là một chuyện bình thường.

Thầy Giác tiếp tục kể, giọng kể như thể đang tỏ ra thật thản nhiên: "Rồi tui đi lên Thành Phố, lang thang mấy khu chợ để coi bói dạo.

Lâu lâu có mấy người nhờ tui sên ngãi.

Nhưng nhớ lại mấy ông thầy nói tui làm hư chuyện, tui quyết định không làm cho ai hết.

Nhưng rồi có một hôm, có một ông bán thuốc lá dạo lại làm quen với tui, mời đi nhậu rồi nhờ tui sên cho ông một cây ngãi để ông ăn nói cho dễ.

Ông nói khổ quá, muốn ăn nói hay hơn để làm ăn đổi đời.

Ngải ăn nói dễ nhất, mà tui nghĩ cũng chẳng hại ai, ông bán thuốc lá thì cũng khổ, tui nghĩ làm giúp ổng cũng không sao.

Ai ngờ đâu, từ đó ổng phất lên như diều gặp gió.

Mở mấy xe bán thuốc lá ngay chợ cũ, rồi gặp tui, trả tui nhiều tiền để nhờ tui sên thêm một cây ngãi thu hút tiền.

Lúc đó tui đang thiếu tiền cưới vợ, thấy cũng có lý, nên tui nhắm mắt làm luôn cho ổng một cây ngãi thu hút tài lộc.

Mà không ngờ, từ đó ổng trở thành đầu nậu bán thuốc lá rồi thành ông trùm trong thế giới ngầm.

Không chỉ bán thuốc lá nữa, ổng còn tổ chức buôn lậu thuốc qua biên giới!

Tui bắt đầu thấy cây ngải tui làm cho ổng mạnh quá rồi.

Giống như hai cây ngải đó thành tinh rồi cũng nên.

Nên mỗi lần ổng muốn gặp tui để bắt tui luyện thêm tui lại né.

Ổng cho người tìm tui thông qua vợ con tui, tui phải đưa hai mẹ con về quê rồi tá túc tại cái chùa này.

Mấy trò luyện ngải đó, giờ tui cũng không dám đụng tới nữa!"

Thầy Giác thở dài, giọng nặng trĩu: "Tui cũng không hiểu sao tui lại kể hết cho ông nghe.

Chắc tại tui cảm thấy ông có cái gì đó... có thể giúp được tui, dù tui cũng không rõ ông có cái gì.

Nhưng thôi, ông giữ kín giùm tui.

Tui không muốn vợ con tui bị phiền hà nữa."

Thầy ngừng một lát, rồi nhấn mạnh, giọng trầm thấp: "Mấy cây ngãi đó, tụi nó không phải thứ tầm thường.

Tụi nó biết nói, biết nghĩ.

Mà khi ai nuôi tụi nó lớn, tụi nó sẽ lớn mãi.

Đến lúc tụi nó mạnh quá, chủ của nó cũng không còn kiểm soát được, rồi tụi nó quay lại nuốt chửng chính người nuôi mình."

Ông Nhân nghe tới đây mà lạnh sống lưng, tóc gáy dựng đứng.

Lời nói của thầy Giác như lẩn quẩn trong đầu ông, đầy u ám.

Thầy Giác cố gắng an ủi: "Nhưng ông anh yên tâm, đừng đụng tới mấy cái trò đó là chẳng ai hay ngãi nào đụng được tới ông anh đâu.

Còn tui, tui vẫn đang tìm cách để hai cây ngãi tui lỡ sên cho ông trùm thuốc lá kia không lớn nữa.

Nếu không, hậu quả chắc chắn khó lường."

Nghe tới đây, ông Nhân bỗng nhớ tới cụ Hết – một huyền thoại trong làng tâm linh, người từng giải quyết bao nhiêu ca khó nhằn nhất trong khu vực.

Ông liền đề nghị:

"Hay ông thử hỏi cụ Hết xem sao.

Nhiều khi cụ biết cách chỉ cho ông."

Thầy Giác thoáng giật mình, mắt trợn lên như vừa nghe thấy tên một nhân vật thần thoại.

Ông đã nghe danh cụ Hết từ lâu qua lời kể của các khách đi coi bói.

Dù cụ mới nổi tiếng gần đây, nhưng ai cũng bảo cụ là "chân nhân bất lộ tướng" – người vừa cao tuổi nhất vùng, vừa không sống nhờ cái nghề tâm linh này.

Khác với thầy Giác, cụ Hết chỉ ra tay khi được nhờ và tuyệt đối không dính dáng tới tiền bạc hay lợi nhuận.

Thầy Giác lẩm bẩm, như nói với chính mình:

"Vậy là giờ tui – một người tư vấn tâm linh – lại phải đi gặp một bậc thầy tâm linh khác để được... tư vấn."

Nói xong, thầy Giác thở dài, rồi nhìn ông Hồng với ánh mắt cảm kích.

"Chắc tui phải đi thử một lần."

Ông Nhân bật cười, xua tay: "Yên tâm, tui giữ bí mật giùm ông.

Nhưng mà ông nợ tui chầu cà phê nghen!"
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Cụ già vô nghĩ


Hôm nay, cụ Hết thong thả lang thang tới khu nhà thờ Cha Tam, một trong những ngôi nhà thờ lâu đời nhất khu quận 5.

Cụ đi chậm rãi vào sân nhà thờ, thằng Liêm đầu vàng lẽo đẽo theo sau, trông chẳng khác gì một đệ tử trung thành theo hầu sư phụ.

Nếu ai mà thấy được cả hai, chắc sẽ tưởng cụ Hết là một đại cao nhân bí ẩn, có một đệ tử mét tám, ốm nhom như que củi chuyên đi theo hộ tống.

Nhưng thực tế, đây chỉ là một cặp đôi hoàn cảnh mà số phận gá lại với nhau.

Thằng Liêm nhăn nhó, liếc quanh nhà thờ rồi càm ràm:

"Nè ông già, tưởng nay ông đi dạo công viên hay vô chợ tám chuyện, ai dè ông lết vô đây chi vậy?

Chỗ này chán thấy mồ!"

Cụ Hết không buồn nhìn nó, chỉ chậm rãi đáp:

"Chỗ nào chưa đi thì mình đi thôi.

Tao sống ở khu này bao lâu, vậy mà chưa từng vô đây coi thử.

Hôm nay trời đẹp, đi tham quan một bữa cho biết."

Thật vậy, quang cảnh nhà thờ vào một ngày thường trong tuần thật yên ả và vắng lặng.

Ánh nắng chiếu rực rỡ trên những mái ngói mang đậm nét truyền thống, đối lập với kiến trúc phương Tây đặc trưng của nhà thờ.

Sự kết hợp hài hòa giữa hai phong cách này tạo nên một vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa thiêng liêng, khiến ngôi nhà thờ trăm năm tuổi trở thành một nét chấm phá đặc biệt giữa lòng khu chợ sầm uất của quận 5.

Ngày thường, nơi đây không có quá nhiều người qua lại.

Nhưng với cụ Hết, cảnh tượng cụ nhìn thấy lại hoàn toàn khác.

Trước bậc thềm nhà thờ, một hàng dài những người đã khuất đang quỳ gối cầu nguyện.

Dù không còn thuộc về thế giới này, họ vẫn thành tâm, không hề lơ là hay làm cho có lệ.

Ngược lại, từng dáng người đều miên mật đắm chìm trong lời nguyện cầu, ánh mắt tĩnh lặng mà sâu thẳm.

Khung cảnh ấy mang đến một cảm giác vừa hoành tráng, vừa an lạc, không hề ma mị hay đáng sợ.

Dường như, dù ở cõi nào, lòng tin cũng vẫn luôn là điểm tựa của con người.

Giữa không gian tĩnh lặng và thiêng liêng, cụ Hết cảm thấy lòng mình nhẹ bẫng.

Cụ chậm rãi bước vào gian sảnh chính, nơi những hàng ghế gỗ dài xếp ngay ngắn dành cho khách hành hương và giáo dân đến cầu nguyện.

Không suy nghĩ gì nhiều, cụ ngồi xuống, chắp hai tay trước ngực.

Bất giác, cụ nhắm mắt lại.

Không cầu xin điều gì, cũng chẳng mong muốn gì hơn—chỉ đơn giản là cảm tạ.

Cảm tạ vì một khoảnh khắc yên bình.

Thằng Liêm đầu vàng lẽo đẽo theo sau, thấy cụ ngồi xuống, nó cũng vô thức ngồi theo.

Nhìn cụ chắp tay cầu nguyện, nó tò mò bắt chước làm y chang, nhưng chẳng biết nói gì, nên chỉ lầm bầm vài câu... cho có nghi thức.

Vậy là, giữa không gian linh thiêng này, một ông già không theo đạo và một con ma quậy phá vô tình cùng nhau cúi đầu trước một thế giới lớn hơn chính họ.

Không ai bảo ai, nhưng cả hai đều cảm thấy mình thật nhỏ bé trước sự hùng vĩ này.

Sau khi thăm nhà thờ, cụ Hết thong thả đi bộ về nhà.

Thằng Liêm lẽo đẽo theo sau, đầu vẫn còn lởn vởn suy nghĩ, bỗng lên tiếng:

"Hồi nãy lạ quá hén, ông già?"

Cụ Hết chỉ mỉm cười, không đáp.

Kệ cho thằng nhóc âm phủ luyên thuyên suốt dọc đường.

Hôm nay, cụ về sớm hơn mọi khi, sau một cuộc phiêu lưu ngắn ngủi nhưng lại đầy bất ngờ.

Nhưng vừa bước vào sân nhà, cụ chững lại.

Trước cửa, một vị khách đã ngồi chờ từ bao giờ.

Không ai khác—ông thầy Giác coi bói.

Mặt thầy Giác hôm nay có vẻ...

đăm chiêu hơn bình thường.

Nhìn ông thầy, cụ Hết thầm nghĩ: "Lại có chuyện gì nữa đây?"

Thầy Giác thấy cụ Hết bước vào, liền vội đứng dậy chào, giọng đầy kính trọng.

Sau vài câu xã giao, cụ Hết thong thả rót trà, đẩy chén về phía thầy Giác, rồi ung dung ngồi xuống.

Không để mất thêm thời gian, thầy Giác khẽ ho một tiếng, rồi nghiêm túc thưa chuyện:

"Con nghe tiếng cụ rành về thuật âm dương đã lâu, nay con ghé lại khẩn khoản nhờ cụ giúp con một chuyện."

Cụ Hết nhướng mày, vẫn chưa nói gì, chỉ chậm rãi nhấp trà, ra hiệu cho thầy nói tiếp.

Thầy Giác nuốt nước bọt, rồi kể lại từ đầu—về hai cây ngải do chính tay ông sên ra cho một đại ca giang hồ, về việc hai cây đó giờ phát triển mất kiểm soát, không ai chế ngự được, mà bản thân thầy cũng không dám lại gần nữa.

Cuối cùng, thầy cúi đầu, giọng đầy khẩn khoản:

"Con không còn cách nào khác, nên mới đến nhờ cụ đến xem qua và xử lý giùm con...

Nếu không, e là hậu quả khó lường."

Cụ Hết nghe xong, đặt chén trà xuống bàn, chậm rãi vuốt râu, mắt lim dim như đang suy nghĩ.

Sau vài giây trầm ngâm, cụ gật đầu nhận lời, bảo rằng sẽ đến xem qua.

Còn giải quyết được hay không thì... chưa chắc.

Thầy Giác mừng rỡ, cúi đầu cảm tạ, rồi hẹn hôm sau sẽ đánh xe hơi đến chở cụ đi xem hai cây ngải.

Dáng đi của ông thầy nhẹ nhõm hơn hẳn khi rời khỏi nhà cụ Hết, như thể vừa tìm thấy một chiếc phao cứu sinh giữa biển động.

Thằng Liêm đầu vàng từ nãy đến giờ vẫn ngồi nghe, nhíu mày đầy khó hiểu, rồi lẩm bẩm:

"Ủa, cây mà cũng quậy được hả?"

Cụ Hết nhún vai, tỉnh bơ đáp:

"Tao cũng đâu có biết...

Nhưng mà được dịp đi xe hơi thì đi."

Thằng Liêm trố mắt, nhìn cụ đầy ngờ vực:

"Ủa, vậy để xử lý hai cái cây đó thì cần gì, cho nó một cái cưa là xong hết chứ gì?"

Cụ Hết nhìn nó, thở dài một hơi.

Trước giờ, cụ đọc nhiều sách vở lúc rảnh, nhưng chưa bao giờ biết bùa ngải ra làm sao, chứ đừng nói cách xử lý hai cái cây đang quậy tung trời kia.

Cụ đáp kiểu huề vốn:

"Tới đâu hay tới đó thôi.

Tao cũng đâu biết phải làm sao."

Thằng Liêm nghe xong, há hốc mồm, rồi lắc đầu ngao ngán.

Trong đầu nó chợt loé lên một suy nghĩ:

"Rồi xong!

Tui biết hôm bữa bà Tư dặn cẩn thận là cẩn thận cái gì rồi...

Ông già này không phải không sợ gì hết vì ổng dữ dằn... mà là tại vì ổng không biết cái gì để mà sợ!"

Nhìn cụ Hết vẫn ung dung nhấp trà, mặt tỉnh rụi, thằng Liêm chỉ biết thở dài.

"Mình theo ổng lâu nay, tưởng ổng là cao nhân... ai dè ổng cũng không biết gì hết!"
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Hai Cây Ngải


Sáng hôm sau, cụ Hết ăn mặc chỉnh tề, quần dài, giày da có quai hậu, áo dài tay đóng thùng gọn gàng, đội thêm chiếc nón bê-rê, tay cầm cây gậy chống quen thuộc.

Dáng vẻ trịnh trọng, như thể sắp đi hội nghị cấp cao, chứ không phải đi xử lý... hai cây ngải.

Đúng giờ hẹn, thầy Giác đánh chiếc Suzuki... chở hàng tới đón cụ.

Cụ Hết bước ra sân, thấy chiếc xe chở hàng lọc cọc đậu trước cửa, cụ hơi khựng lại một giây.

Mặc dù đây cũng là xe hơi như lần trước, nhưng lần này... nó có vẻ "thực dụng" hơn hẳn.

Dù có hơi bỡ ngỡ, nhưng cụ không tỏ ý chê bai.

Ngược lại, mắt cụ long lanh như thể lần đầu tiên được ngồi lên một chiếc xe... chở hàng.

Thằng Liêm đầu vàng cũng tọt lên băng ghế sau, mặt nghiêm túc hơn mọi khi.

Nó biết hôm nay cụ Hết phải đối mặt với dân giang hồ thứ dữ.

Cụ có thể không biết gì, nhưng nó thì biết rõ tụi này.

Nó hít một hơi dài, rồi nắm chặt cái nón bảo hiểm và cái áo khoác độn thuốc lá bên trong—hai thứ giúp nó hiện ra trong mắt người sống khi mặc vào.

Hôm nay, nó quyết tâm phải bảo vệ cụ, dù có chuyện gì xảy ra.

Ở băng ghế trước, cụ Hết hoàn toàn không biết những toan tính của thằng đệ cõi âm, cụ vẫn ung dung nghịch cái quạt máy trên xe, chỉnh tới chỉnh lui cho gió thổi ngay vào người cho mát.

Khi đến nơi, một kho hàng tập kết thuốc lá hiện ra, nép mình kín đáo sau dãy sạp bán thuốc lá, khuất khỏi khu dân cư.

Không biển hiệu, không ồn ào, chỉ có một bầu không khí nặng trịch như thể nơi đây không dành cho người lạ.

Chiếc Suzuki chở hàng lăn bánh vào bãi đỗ, động cơ vừa tắt, cụ Hết, thầy Giác và thằng Liêm—hai người sống, một người khuất—cùng tiến vào.

Trước khi vào văn phòng, cả bọn phải đi qua một con hẻm chật chội, nơi hàng lớp đàn em xăm trổ đứng chặn cửa, ánh mắt sắc lạnh dò xét từng bước chân.

Thầy Giác hất hàm, không chớp mắt, giọng trầm trầm:

"Cho gặp anh Bảy Vé Dò.

Nói có thầy Giác kiếm."

Tụi nó nghe thấy cái tên, không hỏi thêm, như đã được dặn từ trước.

Một thằng quay lưng dẫn đường, cả nhóm bước vào một căn phòng lớn, đằng sau chất đầy những thùng thuốc lá.

Giữa phòng là một cái bàn gỗ trầy xước, trước bàn là... anh Bảy.

Đang ngồi ghi ghi chép chép trên cuốn sổ nhỏ.

Gã to con như cái tủ lạnh, cởi trần, mặc quần lính rằn ri.

Hai vết sẹo dài ngoằn ngoèo nổi bật trên bụng, da ngăm đen, đến mức phải căng mắt mới thấy rõ dòng chữ Tàu xăm trên bắp tay.

Chỉ mới thoáng thấy anh Bảy, thằng Liêm đã căng thẳng tột độ, mặt tái mét như thể muốn ngất xỉu ngay tại chỗ.

Nếu không có cụ Hết đứng bên cạnh, nó đã "nhập" luôn vào vách tường mà chuồn từ lâu.

Mặc dù bây giờ không ai có thể làm gì được nó, vì nó chỉ còn là một hồn ma, nhưng chứng kiến lại cảnh này, ký ức của nó khi còn sống trỗi dậy, nỗi sợ cũ làm nó run như cầy sấy.

Anh Bảy vừa thoáng thấy hai bóng người, trong đó có thầy Giác, liền đon đả đứng dậy chào, nét mặt có chút vui mừng.

Nhưng khi liếc nhanh qua cụ Hết, gã bất giác nuốt nước bọt cái ực.

Một ông lão đầu bạc như tiên ông, ăn mặc chỉnh tề, lại hạ cố đến một nơi như thế này—chuyện này có vẻ không bình thường chút nào.

Anh Bảy không dám chậm trễ, nhanh chóng kéo ghế mời hai vị khách ngồi, rồi trịnh trọng mở lời:

"Nhờ thầy Giác mà tôi có cơ ngơi như ngày nay.

Mấy lần tôi tìm thầy không được.

Không phải vì tôi muốn thầy sên thêm ngải... mà thật lòng tôi muốn trả lại thầy hai cây ngải kia."

Câu nói vừa dứt, thầy Giác há hốc mồm, suýt làm rớt ly trà trên tay.

Bao nhiêu năm nay, ổng cứ nghĩ anh Bảy tìm mình là để bắt mình sên thêm ngải, nên mới sống chui sống nhủi, đưa vợ con về quê, rồi tự nhốt mình trong chùa để trốn.

Ai mà ngờ... gã đại ca lẫy lừng này chỉ muốn trả lại hai cây ngải?!

Thầy Giác trợn tròn mắt, miệng lắp bắp, không biết nên vui hay nên tức.

Cụ Hết thì vẫn tỉnh bơ, chậm rãi nhấp trà, như thể chuyện này chẳng có gì bất ngờ lắm.

Thằng Liêm đứng kế bên bụm miệng cười khúc khích.

Chuyện gì chứ chuyện một đại ca giang hồ khét tiếng bỗng hoảng loạn vì hai... cái cây thì đúng là chuyện hiếm có khó tìm.

Anh Bảy tiếp tục kể, giọng đầy nghiêm trọng:

"Từ lúc nhận hai cây ngải, tui làm ăn phất lên dữ lắm.

Nhưng có điều lạ..."

Gã ngừng một chút, như để cân nhắc từ ngữ, rồi nhìn thầy Giác chằm chằm:

"Tụi nó càng ngày càng lớn, mặc dù tui vẫn cho tụi nó 'ăn' đầy đủ như thầy dặn.

Nhưng hình như... càng lúc tụi nó càng khỏe.

Ban đêm ngủ, tui bắt đầu thấy tụi nó trong mơ..."

Anh Bảy liếm môi, giọng thấp xuống:

"Tụi nó nói cái gì mà...

'không đủ'... phải thêm... cái gì đó... mà tui không hiểu."

Nói tới đây, trán gã lấm tấm mồ hôi, như thể nhớ lại những giấc mơ đó cũng đủ khiến gã nổi da gà.

"Tui sợ quá, nên tách hai cây ngải ra, để mỗi cây một phòng riêng biệt.

Từ lúc đó, tụi nó có yếu đi một chút.

Nhưng mà..."

Gã hít sâu một hơi, rồi kết luận:

"...Dạo gần đây, trong mơ, tui thấy tụi nó trở nên ghê gớm hơn cả hồi xưa!

Mà hình như tụi nó không còn hình dạng một cái cây nữa, mà có dạng như bóng của một người."

Cụ Hết nghe xong, vẫn điềm nhiên, nhưng chậm rãi đặt ly trà xuống bàn.

Bên cạnh, thằng Liêm không cười nổi nữa, chỉ nuốt khan một cái.

Thầy Giác nghe xong, mặt cắt không còn giọt máu.

Trong đầu thầy chỉ có một suy nghĩ duy nhất:

"Kỳ này lớn chuyện rồi!"

Thầy Giác hít sâu một hơi, giọng thấp xuống, đầy lo lắng:

"Cụ ơi, kỳ này nguy rồi!

Hai cây ngải này... nó không còn là cây nữa!"

"Tụi nó đang trở thành thực thể có ý thức, có suy nghĩ riêng.

Và sức mạnh của tụi nó... không ngừng lớn lên theo thời gian.

Nếu không kiểm soát kịp, tui sợ tụi nó sẽ trở thành những thực thể hùng mạnh, có thể gây đại loạn cho cả khu vực, thậm chí là cho cả thành phố!"

Thầy nuốt khan một cái, lau vội mồ hôi trên trán, giọng càng lúc càng thấp như sợ có thứ gì đó nghe được:

"Hồi trước, mình còn kiểm soát được vì tụi nó chỉ cần 'ăn' là đủ.

Nhưng giờ... tụi nó không còn chịu nằm yên trong chậu nữa.

Tụi nó có thể di chuyển, có thể nghĩ, có thể... làm những chuyện mà tui không dám tưởng tượng."

Thầy Giác siết chặt hai tay, giọng khô khốc:

"Sử dụng cách thông thường... chắc chắn không thể khống chế được tụi nó nữa!"

Nói đến đây, thầy quay qua nhìn cụ Hết, ánh mắt đầy tuyệt vọng, như thể đang cầu cứu vị cứu tinh cuối cùng.

Bên cạnh, cụ Hết vẫn bình thản như đang nghe kể chuyện trong quán cà phê.

Còn thằng Liêm đầu vàng thì run rẩy, lầm bầm:

"Ủa, bộ giờ mình không phải đi nhổ cỏ mà là đi đánh boss hả?"

Từ nãy đến giờ, cụ Hết chỉ ngồi nhấp trà, nghe chuyện, lâu lâu gật gù, chứ chưa nói một câu nào đáng kể.

Giờ đây, cả thầy Giác, thằng Liêm và anh Bảy đều đồng loạt đổ dồn mắt về phía cụ, chờ xem cao nhân sẽ phán gì.

Bầu không khí căng như dây đàn.

Cuối cùng, cụ Hết chậm rãi đặt ly trà xuống bàn, thong thả nói:

"Dù có gì, trước hết ta phải xem qua hai cái cây để coi sao đã."

Cả bọn thở phào nhẹ nhõm, cảm giác như vừa có một cọc gỗ đóng xuống giữa cơn bão.

Dù cụ ít nói, nhưng câu nào cũng hợp lý, làm ai nấy cũng vững dạ hơn.

Anh Bảy nghe xong, nhưng vẫn còn tò mò, quay sang hỏi thầy Giác:

"Vậy nếu nó trở thành cái gì đó như thầy nói, thì nó sẽ làm gì người đã nuôi nấng tụi nó?"

Thầy Giác khẽ nheo mắt, giọng trầm xuống, cố tỏ ra bí ẩn:

"Hồi xưa, tui có nghe mấy thầy dưới quê nói... nếu nó thoát ra khỏi chậu... thì việc đầu tiên nó làm là tìm người nuôi nó đầu tiên."

Anh Bảy khựng lại, lông mày nhíu chặt.

"Rồi... rồi nó làm gì?"

Thầy Giác thở hắt ra, lắc đầu:

"Mấy ổng không chịu nói.

Mà tui đoán... chuyện đó chắc không dễ chịu gì lắm đâu.

Anh Bảy phải coi chừng."

Anh Bảy im lặng, trán lấm tấm mồ hôi, mặt mày anh Bảy vốn đen đúa, bây giờ trắng bệch còn hơn thầy Giác lúc nãy.

Bên cạnh, thằng Liêm cũng tái mặt, lầm bầm:

"Ủa, vậy chứ nuôi nó từ đầu để làm gì trời..."

Anh Bảy đứng dậy, mặt căng thẳng, ra hiệu mời cả hai vị khách theo mình đến hai căn phòng nhỏ ở góc kho hàng—nơi mỗi phòng đặt một cái cây, tách biệt nhau ra.

Thằng Liêm cũng lặng lẽ đi theo, nhưng mặt nó không còn chút huyết sắc.

Càng bước gần tới, một cảm giác lạnh lẽo kỳ quái dần lan tỏa trong không khí.

Đến nơi, Anh Bảy mở cửa, để lộ ra một không gian kỳ dị.

Bên trong hai căn phòng là nơi chuyên dùng để nuôi cây ngải.

Ánh sáng đỏ lòm hắt xuống từ cái đèn trên trần, tạo nên một không gian rợn người.

Trước mỗi chậu cây là một cái lư hương, cắm đầy nhang nghi ngút, khói quẩn quanh trong phòng khiến không khí càng thêm nặng nề.

Nhưng kinh khủng nhất... là mùi.

Một thứ mùi hôi thối nồng nặc bốc lên từ chậu cây.

Không giống mùi đất, mà là một hỗn hợp nhớp nháp kỳ quặc, nồng nặc mùi tanh tưởi—mùi của thứ gì đó không thuộc về cõi này.

Còn hai cái cây...

Xiêu vẹo, cao tầm hơn một mét, ốm yếu nhưng lại tủa ra nhiều nhánh nhỏ, như những cánh tay gầy guộc vươn ra từ bóng tối.

Chúng không giống bất kỳ loài cây nào trên đời, mà trông như thể nó đang sống, đang thở, và...

đang theo dõi người đối diện.

Cụ Hết đứng im lặng, quan sát thật kỹ.

Bên cạnh, thằng Liêm nuốt khan, rút cái nón bảo hiểm ra ôm chặt, chuẩn bị... bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra.

Bỗng, thằng Liêm nghe thấy một tiếng thì thầm.

Rất nhỏ.

Nhưng rõ ràng phát ra từ hai cái cây.

Nó căng tai lắng nghe, và loáng thoáng nhận ra mấy từ rời rạc:

"...không đủ... cho thêm... cứu..."

Nó giật mình xoay qua nhìn cụ Hết.

Cụ cũng nghe thấy.

Nhưng có điều... cụ nghe còn rõ hơn nó.

Không chỉ nghe, mà cụ còn "thấy".

Trên thân cây, hai cái bóng lờ mờ đang ngồi chiễm chệ, ốm tong teo như bộ xương, mắt đen sâu hoắm, không rõ mặt mũi.

Hai cái bóng đó không chỉ đang nhìn chăm chăm vào đám người... mà còn đang nhìn thấy thằng Liêm.

Nhưng thằng Liêm lại không thấy được tụi nó.

Cụ Hết không tỏ vẻ hoảng hốt, chỉ chậm rãi đưa tay ra hiệu cho mọi người đi chỗ khác.

Không ai hiểu gì, nhưng ai nấy đều lặng lẽ rời khỏi căn phòng, để yên cho cụ Hết đứng lại một mình.

Cụ đứng im thật lâu, như thể đang trò chuyện với hai cái cây... hoặc đúng hơn là hai thứ đang ngồi trên nó.

Một hồi sau, cụ Hết quay ra, vẫn dáng vẻ ung dung như không có chuyện gì xảy ra.

Trong khi đó, thầy Giác và anh Bảy căng như dây đàn, mặt cắt không còn giọt máu.

Cụ chậm rãi đề xuất một ý tưởng khiến cả hai người suýt té ghế:

"Tui tính vầy, ông anh cho tui đem hai cái cây kia về nhà, rồi để tui tính."

Anh Bảy giang hồ thứ thiệt, nhưng bất lực hoàn toàn trước mấy chuyện tâm linh.

Nghe cụ Hết nói vậy, gã nhẹ hẳn như rút được cả tấn gánh nặng trên vai.

Thằng Liêm và thầy Giác thì đứng đực ra như trời trồng, mắt mở to như hai hòn bi ve, miệng há hốc.

Cả hai thầm nghĩ cùng một câu:

"Ông già này... một là điên rồi, hai là ổng cao tay tới mức có thể trị được hai cái cây ngải ma quỷ kia!"

Anh Bảy thì cảm động suýt khóc, vỗ vai cụ Hết mà mếu máo:

"Ơn này của cụ... con sẽ không bao giờ quên được!

Lỡ cụ có gì... con sẽ lo cho cụ đàng hoàng!"

Nói xong, anh Bảy vội vàng ra lệnh cho tụi đệ tử khiêng hai chậu cây lên xe hàng của thầy Giác, rồi chở thẳng về nhà cụ Hết.

Tới nơi, tụi đàn em khiêng đồ vào xong là chuồn lẹ như có ma rượt, không dám nán lại dù chỉ một phút.

Thầy Giác và thằng Liêm đứng gãi đầu, nhìn cụ Hết bằng ánh mắt đầy nghi hoặc.

Cụ không có vẻ gì là dân bùa phép, cũng chẳng có vẻ gì là người biết trấn yểm...

Vậy mà giờ đây, cụ ung dung vác về nhà hai cây ngải hắc ám như thể...

đi xin hai chậu hoa về trồng.

Rốt cuộc, cụ có phép gì trong tay, hay chỉ đơn giản là cụ không biết sợ?!
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Trận Chiến Đất Lở


Đêm đó, trăng sáng lờ mờ, phủ một lớp ánh sáng nhợt nhạt xuống khu vườn nhỏ nhà cụ Hết.

Cụ vẫn chưa ngủ, lẳng lặng bước ra sân, nơi hai chậu ngải ma quái vừa được đặt xuống hồi chiều.

Thằng Liêm đứng nép bên cửa, nhìn cụ mà lạnh sống lưng.

Nó không hiểu nổi...

ông già này đang tính làm cái gì.

Từ hồi biết cụ, nó chưa bao giờ thấy cụ biết trấn yểm hay làm bùa phép gì cả.

Bây giờ lại dám mò ra vườn giữa đêm, một mình đối diện với hai cây ngải...

Đúng là không biết sợ là gì!

Nó toan lên tiếng can ngăn, nhưng rồi nghĩ lại... cụ mà đã quyết thì có trời cản được.

Thế là nó thở dài, cắn răng đi theo, vừa đi vừa rùng mình tưởng tượng cụ sắp làm bùa phép gì đó trời long đất lở.

Nhưng ra tới nơi, nó trố mắt.

Cụ Hết không mặc đồ bảnh bao như ban sáng, cũng không mặc áo trấn yểm hay tay cầm pháp khí gì cả.

Cụ mặc áo ba lỗ, quần đùi, dép lào y chang ông già đi làm vườn.

Cầm trên tay là... một cái xẻng.

Thằng Liêm đứng đực ra.

Ủa?

Chứ không phải giờ này đáng lẽ phải đốt bùa, vẽ trận pháp gì đó hả?

Cụ Hết thì vẫn thản nhiên.

Cụ chống nạnh quan sát hai cái cây một hồi lâu, rồi cầm xẻng xúc từng phần đất hôi thối ra khỏi chậu.

Mùi tanh bốc lên nồng nặc.

Thằng Liêm cũng vô thức bịt mũi theo.

Nhưng cụ Hết chẳng thèm để ý.

Cụ bưng cả cái cây lên, vác ra chỗ vòi nước, xối ào ào rửa sạch bộ rễ nhớp nháp.

Từng lớp đất đen ngòm trôi tuột đi, để lộ ra một bộ rễ... trắng phau, thanh khiết một cách kỳ lạ.

Cụ chậc lưỡi, lầm bầm:

"Tao biết ngay mà!"

Sau đó, cụ lặt hết những cái lá ốm yếu trên thân cây, cắt bỏ luôn những nhánh khô, chỉ chừa lại những đọt non vừa nhú.

Xong xuôi, cụ ngoắc thằng Liêm lại.

"Lại đây, phụ một tay coi!"

Thằng Liêm giật mình.

Nó hồn ma chứ đâu phải thợ làm vườn, sao kêu nó phụ được?

Nhưng rồi nó nhớ ra...

Khi nó hiện ra với cái nón bảo hiểm và áo khoác, nó có thể tương tác với đồ vật.

Nó nhún vai, thôi thì chơi tới bến luôn.

Hai ông cháu—một người một ma—cặm cụi nhấc hai cái cây lên, trộn đất mới với phân hữu cơ, rồi trồng lại vào hai cái chậu bự hơn.

Lèn chặt đất.

Tưới đẫm nước.

Làm tới cây thứ hai cũng y vậy.

Cả hai hì hục loay hoay cả buổi, mồ hôi mồ kê nhễ nhại (cụ Hết), còn thằng Liêm thì lạnh toát cả sống lưng (theo đúng nghĩa đen).

Tới khi xong xuôi, thằng Liêm chống nạnh, thở dài:

"Vậy nãy giờ... mình chỉ đi thay đất trồng cây thôi hả ông già?"

Cụ Hết phủi tay, điềm nhiên đáp:

"Chứ sao?

Mày tưởng tao đi trừ tà hả?"

Thằng Liêm há hốc miệng, rồi chớp mắt nhìn lại hai cái cây xanh tươi trước mặt.

Nó bắt đầu cảm thấy... có gì đó sai sai.

Sau khi xong việc, cụ Hết thong thả đi vào nhà, pha một ấm trà nóng.

Rồi cụ kê cái bàn gỗ nhỏ ra trước sân, ngay giữa công trình vừa hoàn thành—hai chậu cây mới được trồng lại.

Cụ ung dung ngồi xuống, nhấp một ngụm trà.

Không gian yên tĩnh hẳn.

Bỗng nhiên, hai thực thể lờ mờ hồi sớm từ từ hiện ra trước mặt cụ.

Lần này, không chỉ cụ Hết thấy... mà thằng Liêm cũng thấy.

Nhưng không giống lúc ban ngày, chỉ thấy lờ mờ...

Bây giờ, nó thấy rõ mồn một.

Hai thực thể đó... không phải bóng đen, cũng không phải thực thể đáng sợ.

Mà là hai cô bé nhỏ xíu, chỉ cao cỡ bắp chân người lớn.

Cả hai mặc áo cổ trang, mặt xanh xao, người ốm yếu như vừa trải qua một cơn bạo bệnh.

Thằng Liêm đứng hình, lắp bắp:

"Ủa... hồi nãy cái gì quái dị lắm mà... sao giờ là hai đứa con nít vậy!?"

Cụ Hết không ngạc nhiên lắm.

Cụ bình tĩnh đặt tách trà xuống, gật đầu chào hai cô bé, giọng điềm đạm:

"Chào hai đứa, khỏe chưa?"

Hai đứa bé ngước lên nhìn cụ, rồi khẽ gật đầu.

Vậy là bên ấm trà nghi ngút khói, cụ Hết bắt đầu trò chuyện với hai linh hồn nhỏ bé vừa mới "hồi sinh" từ hai chậu cây ma quái.

Hai cô bé cúi đầu chào cụ Hết, giọng lí nhí:

"Cảm ơn cụ, không nhờ cụ thì tụi tui đã chết mòn trong đó rồi."

Thằng Liêm vẫn chưa hết ngạc nhiên, hỏi ngay:

"Hai vị... là cây ngải này hả!?"

Hai đứa bé lắc đầu quầy quậy.

"Không có nha!

Tụi tui không phải ngải.

Cái cây này là nguyệt quế.

Tụi tui là Mộc Tiên, sống trong cái cây này từ lâu lắm rồi."

Thằng Liêm trố mắt:

"Mộc Tiên!?"

Cô bé còn lại gật đầu, chép miệng than thở:

"Ở khu tụi tui ở, rừng thiêng lắm, nên cây gì người ta cũng gọi là cây ngải hết."

"Mấy ông thầy bà học hành nửa vời, cứ thấy cây lạ là bứng lên trồng vô chậu.

Rồi không biết nghe ai xúi, cứ bón nào là hột gà, vịt lộn, rồi chuột chết ngay dưới gốc cây.

Ngày nào cũng nhang khói nghi ngút, tụi tui muốn ngộp luôn mà không làm gì được."

Cô bé kia gật gù tiếp lời:

"Chưa hết đâu, còn bắt tụi tui vô cái phòng đóng kín, mở đèn đỏ suốt ngày đêm!

Đèn đỏ đáng lẽ chỉ dùng cho giai đoạn phát triển thôi, ai đời mở liên tục vậy!?

Rồi cái đống phân hột gà hột vịt, cộng với mùi nhang mùi khói hơn chục năm trời!

Ông nghĩ coi, cây nào mà chịu nổi!?"

"Tụi tui cũng muốn ngỏm theo mà ngỏm không được!"

Nói tới đây, hai đứa nhỏ bặm môi, tỏ vẻ tủi thân.

Rồi cả hai quay qua cụ Hết, đôi mắt long lanh biết ơn:

"May mà có ông già thấy tụi tui mới ra tay giúp đỡ..."

Cụ Hết nghe xong, phì cười.

Cụ ngửa người tựa vào ghế, thở ra một hơi dài, tay chậm rãi rót thêm tách trà:

"Vậy ra... từ đầu tới cuối, chỉ là hai cái cây bị hành quá mức thôi chứ gì?"

Thằng Liêm trợn tròn mắt, miệng há hốc:

"Cái gì!?

Vậy nãy giờ... tụi nó không phải là ngải hại người hả!?"

Hai cô bé Mộc Tiên lập tức phản bác, giọng dõng dạc:

"Thưa ông anh!

Trên đời này không có cái cây nào có thể hại người hết.

Trừ phi người ta đi đốn cây, không chịu né bị cây đè trúng thôi.

Còn hoạ hoằn lắm thì ăn bậy bạ trúng cây độc rồi lăn ra ngỏm.

Chứ không có cây nào tự nhiên đi hại người hết!

Chỉ có người hại người thôi, ông anh đầu vàng ơi!"

Thằng Liêm đứng đơ như cây cơ.

Nó ngớ người ra một hồi, rồi lẩm bẩm:

"Ờ ha...

Đúng là chỉ có người mới hại được người..."

Rồi nó quay sang nhìn cụ Hết, ánh mắt đầy nghi ngờ:

"Sao cụ biết hay vậy?"

Cụ Hết bình thản nhấp một ngụm trà, rồi chậm rãi đáp:

"Từ đầu tao đã biết đây là hai cây nguyệt quế rồi."

Rồi cụ liếc thằng Liêm, giọng đầy tự hào:

"Mà đừng có khinh tao nha!

Hồi xưa mấy chục năm trời tao đọc nhiều sách lắm đó.

Với lại, tao có kinh nghiệm làm vườn lúc rảnh nữa.

Nhìn cái là biết liền."

Thằng Liêm gãi đầu:

"Vậy tui tưởng ông xài bùa phép gì đó chứ..."

Cụ Hết phì cười:

"Chớ mày tưởng tao sẽ vẽ bùa, dán bùa rồi bắt tụi nó vô bình hồ lô hả?

Làm gì có!"

Thằng Liêm ngước nhìn trời, thở dài một hơi thật dài.

Rồi nó quay sang hai cô bé Mộc Tiên, nhíu mày thắc mắc:

"Vậy sao ông Bảy đó từ khi có hai chậu cây lại làm ăn phất lên như vậy?"

Một cô bé nhún vai, giọng tỉnh queo:

"Thời ổng tới thì ổng phất thôi, sao tụi tui biết được.

Ai rồi cũng có thời mà."

Thằng Liêm chớp mắt, rồi gãi đầu ra chiều hiểu chuyện.

Hóa ra, tất cả chỉ là một vòng xoáy ảo tưởng.

Từ thầy Giác, đến anh Bảy, rồi cả chính nó nữa—ai cũng tự vẽ ra một thứ huyễn hoặc để tin vào, rồi lại tự hù dọa chính mình.

Cái ảo tưởng đó sinh ra lo sợ.

Rồi con người cứ thế chạy theo cái bóng ma quỷ do chính họ tạo ra.

Hai cô bé Mộc Tiên liếc nhìn thằng Liêm, rồi lại cười khúc khích.

Lần đầu tiên sau nhiều năm, cả hai mới được tự do hít thở khí trời đúng nghĩa.

Còn thằng Liêm, sau khi chứng kiến trận đấu đất lở này ... nó cũng thấy nhẹ nhõm trong lòng.
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Anh Bảy Vé Dò.


Sáng hôm sau, cụ Hết vận đồ chỉnh tề, tay cầm gậy, đầu đội nón bê rê, chuẩn bị đi dạo chơi như mọi khi.

Bỗng một chiếc xe hơi màu đen bóng loáng, còn xịn hơn cả chiếc của ông Nhân trước đây, trờ tới, đậu chắn ngang hết cả lối trước nhà cụ.

Mấy bà bán hàng trước cổng và cả đám ma hàng xóm mắt tròn mắt dẹt, lại có dịp bàn tán xôn xao:

"Chà!

Hôm nay cụ Hết lại có khách xịn tới chơi!"

Từ băng ghế sau, một người đàn ông to con bước ra.

Không ai khác chính là anh Bảy Vé Dò.

Hôm nay, anh diện áo khoác da bò, quần rằn ri, mang giày ống cao.

Nhìn qua cứ tưởng anh mới từ phim hành động bước ra.

Vừa bước xuống xe, anh dáo dác nhìn quanh xem hai cái cây hôm qua cụ Hết để ở đâu.

Rồi mắt anh sáng rỡ khi nhận ra:

Hai cái cây...

đã khác hẳn!

Sáng nay, cụ Hết đã thay đất, thay chậu, tưới tắm đàng hoàng.

Hai cây ngải dữ dằn hôm qua, bây giờ nhìn chẳng khác gì... hai cây kiểng trồng trước sân chùa.

Anh Bảy khựng lại vài giây.

Rồi nhanh chóng điều chỉnh tư thế thành một người đàn ông tự tin, chững chạc, chậm rãi bước tới cổng, gõ cửa cọc cọc.

Cánh cửa mở ra, con bé giúp việc ló đầu ra.

Thấy một gã giang hồ to con đứng trước cửa, con bé cũng chẳng mảy may hoảng sợ, chỉ thản nhiên hỏi:

"Anh kiếm ai?"

Anh Bảy tằng hắng, nghiêm giọng:

"Tui kiếm cụ Hết!"

Con bé gật gù, đáp tỉnh bơ:

"Cụ sắp đi coi phong thuỷ cho người ta rồi, để tui vô hỏi coi cụ có tiếp khách không đã."

Nói xong, nó đóng cửa cái rầm!

Anh Bảy đứng đơ ngoài cổng.

Từ trước đến giờ, chưa ai dám để anh Bảy Vé Dò đứng đợi trước cửa kiểu này.

Nhưng anh không dám giận.

Vì đây không phải người thường...

đây là cao nhân.

Hai cái cây hung dữ như quỷ, chỉ sau một đêm mà cụ đã biến nó thành cây kiểng.

Người làm được chuyện này, sao có thể là tầm thường!?

Anh Bảy nuốt nước bọt, đứng nghiêm chỉnh trước cửa, lòng thầm kính nể.

Cụ Hết nghe nói có khách tới, cũng không nỡ để người ta về.

Mặc dù hôm nay cụ định ra khu Hải Thượng Lãn Ông xem dân tình trang trí chuẩn bị Tết thế nào, nhưng thôi, khách đã tới thì tiếp đãi cho đàng hoàng trước đã.

Cụ nhờ con bé giúp việc mời khách vào, kê cái bàn nhỏ ngoài sân, pha giúp cụ ấm trà.

Rồi cụ thong thả cởi nón, gác lại cây gậy, sửa sang áo quần, chuẩn bị ra tiếp khách.

Trong khi đó, thằng Liêm đầu vàng đứng lướt mắt nhìn vị khách không mời mà đến.

Nó nuốt nước bọt cái ực.

Trời ạ, đây là anh Bảy Vé Dò, tay giang hồ cộm cán nhất thế giới ngầm mười mấy năm nay!

Không phải dạng dân chơi lơ mơ ngoài đường có thể so sánh được.

Ấy thế mà giờ đây, gã giang hồ lẫy lừng một cõi...

đang ngồi co ro bó gối trên cái ghế nhỏ trước sân nhà cụ Hết.

Nhìn chẳng khác gì một đứa học trò đang đợi thầy giáo ra... xử phạt.

Cụ Hết thong thả bước ra sân.

Anh Bảy thấy bóng cụ, liền đứng bật dậy chào, nghiêm túc như học trò thấy thầy giáo bước vào lớp.

Thằng Liêm đứng kế bên, mắt dò xét gã giang hồ lẫy lừng.

Sau vài câu chào hỏi xã giao, anh Bảy chỉ tay về phía hai chậu cây, rồi nghiêm giọng hỏi:

"Thưa cụ, tối qua hẳn đã có một trận đấu phép long trời lở đất xảy ra ở đây hả cụ?"

Anh Bảy liếc qua hai cái cây, rồi đảo mắt nhìn đống đất còn vương vãi khắp sân.

Rõ ràng là tối qua ở đây có chuyện.

Cụ Hết định giơ tay chỉ vào hai cái cây, giải thích rằng cụ chỉ thay đất cho hai vị Mộc Tinh kia khỏe lại thôi, không có trận chiến phép thuật nào hết.

Nhưng vừa hé miệng, cụ thấy con bé giúp việc đang lù lù bưng bộ ấm trà ra, nghểnh tai nghe ngóng.

Cụ khựng lại ngay!

Cái con bé này mà nghe cụ nói bậy bạ, nó méc lại với thằng Tuấn, rồi thằng Tuấn lại lo cụ bị hoang tưởng, thế nào cũng tống cụ vô trại dưỡng lão thì mất hết tự do.

Vậy là cụ chỉ khoát tay, nói gọn lỏn:

"Hôm qua tôi có làm ít việc, rồi cũng xong chuyện mà thôi."

Cụ cố ý không nhắc tới hai vị Mộc Tinh, cũng chẳng đả động gì đến mấy yếu tố thần bí, tránh con bé giúp việc nghe được.

Nhưng...

ít nói như vậy, lại khiến anh Bảy hiểu lầm còn nhiều hơn.

Gã giang hồ cộm cán thoáng lạnh sống lưng, thầm nghĩ:

"Trời đất, một trận tan hoang cả khu vườn thế này mà ông cụ nói như không có gì.

Chắc chắn là một trận đại chiến thần thánh mà cụ không muốn kể lại thôi!"

Anh Bảy nuốt nước bọt cái ực, ánh mắt nhìn cụ Hết càng thêm kính nể.

Cụ Hết đặt ly trà xuống bàn, nhướng mày nhìn anh Bảy, giọng chậm rãi:

"Hôm nay cậu tới đây, chắc không phải chỉ để hỏi về hai cái cây này hả?

Hay là... cậu tính đem tụi nó về lại?

Nếu muốn, tui chỉ cậu cách chăm bón."

Nghe tới chuyện mang hai cái cây về, mặt anh Bảy lập tức tái mét.

Gã giang hồ lừng lẫy giang hồ từng đi qua bao nhiêu cuộc đụng độ sống còn...

... mà giờ chỉ cần nghe tới chuyện "đem hai cái cây về" thôi đã thấy ớn lạnh, trán lấm tấm mồ hôi.

Anh Bảy vội vàng khua tay, miệng lắp bắp:

"Dạ thôi, thôi cụ ơi!

Con xin phép nhờ cụ giữ giùm, cụ lo liệu sao cũng được, con không dám rớ tới nữa đâu ạ."

Gã nói xong, còn vô thức nhích ghế lùi ra xa... như sợ hai cái chậu cây sẽ tự bò tới bên mình vậy.

Cụ Hết nhìn gã, khẽ nhếch môi cười, rồi lặng lẽ nhấp một ngụm trà.

Thằng Liêm đứng kế bên, nhìn cái cảnh này mà bụm miệng cười khúc khích.

Sau đó anh Bảy đặt ly trà xuống bàn, trầm ngâm một lúc rồi mới mở lời, như tâm sự chuyện đời mình:

"Hôm qua nay, con mới thấy cụ thiệt là cao nhân.

Con ở khu này cũng lâu, có mắt mà không thấy Thái Sơn, nay mới được dịp tới học hỏi cụ."

Cụ Hết chẳng nói gì, chỉ hớp một ngụm trà, gật gù:

"Cậu quá lời rồi!"

Anh Bảy hít một hơi sâu, rồi chậm rãi kể tiếp:

"Chắc cụ cũng biết, con làm cái nghề này..."

Gã lưỡng lự một chút, rồi nhún vai.

"...nói trắng ra là không mấy gì lương thiện."

"Trước đây, sau khi con thỉnh hai cái cây từ thầy Giác, thiệt tình mà nói, con thấy mình ăn nên làm ra lắm.

Công việc thuận lợi, tiền vô như nước, mọi chuyện suôn sẻ hơn bao giờ hết."

Nói tới đây, anh Bảy bất giác vân vê mấy ngón tay, như đang cố kìm nén một cơn căng thẳng lâu ngày đợi bùng nổ.

"...

Nhưng càng kiếm được tiền, càng có quyền lực, con lại càng thấy bất an, lo sợ."

"Lo rằng tới một lúc nào đó, cái công việc này, cái địa vị này... sẽ đưa con và gia đình con rơi thẳng xuống vực thẳm."

"Lúc đó, dù có hai chục chậu cây 'ngải' cũng không cứu được con nữa."

Anh Bảy nghiến răng, ánh mắt thoáng vẻ mệt mỏi, như thể những đêm dài mất ngủ vì lo lắng đã trở thành chuyện cơm bữa.

Cụ Hết lặng lẽ đặt ly trà xuống bàn, mắt nheo nheo nhìn gã giang hồ lẫy lừng một cõi, chờ gã nói tiếp.

Anh Bảy Trải Lòng

"Hùi xưa, khi chưa lập gia đình, cái gì con cũng dám làm.

Không có gì là con không dám đụng tới."

"Nhưng từ khi có vợ con, con mới nhận ra...

Cái công việc này, nó có thể quật con xuống hố bất kỳ lúc nào."

Anh Bảy hít một hơi thật sâu, giọng nghẹn lại.

"Con thì sao cũng được."

"Nhưng con của con... nó còn nhỏ."

"Vợ con... bả chỉ là cô giáo."

"Con không nỡ nhìn vợ con mình... chịu khổ."

Nói đến đây, gã không kiềm được nữa.

Một gã giang hồ có số má, từng đối đầu với bao nguy hiểm, từng vào sinh ra tử...

... giờ đây ngồi co ro trước cụ Hết, rưng rưng nước mắt.

Cảm giác như mọi căng thẳng, mọi lo âu, mọi dồn nén từ bao nhiêu năm...

... giờ đây vỡ òa như đất sạt giữa ngày hè, chỉ chờ trận mưa đầu mùa mà đổ xuống cho bằng hết.

Anh Bảy bật khóc, khóc như chưa từng được khóc.

Giữa cái sân nhà bình dị của cụ Hết, dưới bóng mấy chậu cây ngả nghiêng theo gió,

Gã khóc như một đứa trẻ.

Cụ Hết ngồi bên cạnh, chẳng nói gì, chỉ lặng lẽ hớp một ngụm trà.

Dáng cụ thanh thoát, thoát tục, yên lặng mà vững chãi...

... như một gốc cây cổ thụ, để người ta tựa vào lúc lòng dậy sóng.

Cụ Hết Nhíu Mày

Thằng Liêm đứng đó, mắt tròn vo như cái nắp nồi, không thể tin được.

Một gã giang hồ lừng lẫy, trùm thuốc lá lậu, một tay che cả khu chợ đen...

... mà lại ngồi khóc tu tu trước mặt cụ Hết!?

Nhưng nó không cười.

Nó nhớ lại lần đầu gặp cụ Hết, nó cũng khóc tu tu y như vậy.

Tự nhiên, nó không còn sợ anh Bảy nữa.

Mà lại thấy đồng cảm với gã.

Cụ Hết nãy giờ vẫn điềm tĩnh, trầm ngâm.

Rồi cụ chậm rãi đặt ly trà xuống, nhướng mày hỏi:

"Vậy sao cậu không bỏ nghề, kiếm nghề khác mà làm?"

Anh Bảy quệt nước mắt, thở dài:

"Cụ ơi, cụ tưởng dễ vậy hả?"

"Cái nghề bán thuốc lá này, một khi đã chen chân vào rồi..."

"... thì không thể rút ra được."

Anh Bảy nhìn xa xăm, giọng trầm xuống:

"Nếu con rút lui, mấy thằng đối thủ sẽ dìm con ngay lập tức.

Còn tụi đàn em... nó sẽ bâu vào, xâu xé, giành phần."

"Ở trên lưng cọp, chỉ có thể ngồi đó..."

"... mà đợi con cọp chết, hoặc là mình chết."

Anh Bảy nghiến răng, ánh mắt xa xăm, nhìn về phía chân trời.

Cụ Hết bình thản nhấp ngụm trà, mắt lim dim như đang suy ngẫm điều gì cao siêu lắm.

Rồi cụ đặt ly trà xuống, chậm rãi hỏi:

"Vậy tôi có thể giúp gì cho cậu?"

Anh Bảy mừng như bắt được vàng, gật đầu lia lịa:

"Cụ là cao nhân cái thế, tinh thông phép âm dương, Con xin cụ luyện giúp con một lá bùa bình an."

"...

Không phải cho con, mà là cho vợ con và sấp nhỏ.

Cụ cao tay hơn cả thầy Giác, vậy xin cụ từ bi mà giúp con."

Cụ Hết bên ngoài thì trầm ngâm, nhưng trong bụng thì kêu trời:

"Nữa hả trời!?"

"Tao đâu có rành vụ này!?"

Nhưng cụ chưa vội trả lời.

Chỉ nhẹ nhàng vuốt râu, nhướng mày đầy bí ẩn, rồi lấp lửng:

"Hiểu rồi...

Vậy trước mắt cậu cứ về đi, để tôi suy nghĩ xem sao."

Cụ không hứa, cũng không từ chối.

Mà nói để suy nghĩ.

Anh Bảy nghe xong mừng rơn, suýt quỳ xuống lạy cụ.

May mà con bé giúp việc kịp thời xông ra cản lại.

Nó hốt hoảng, sợ cụ bị tổn thọ.

Còn thằng Liêm thì đứng kế bên, bụm miệng cười.

Nó biết rõ, cụ có phép gì đâu mà nhờ!
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Luyện bùa bình an.


Cụ Hết đợi anh Bảy đi khuất, rồi mới quay sang thằng Liêm, giọng tò mò:

"Gã này là ai?

Xuất thân ở đâu?

Mày cũng là dân giang hồ, chắc biết hả?"

Thằng Liêm vỗ ngực cái bộp, ra vẻ thông thạo chốn giang hồ lắm:

"Xời!

Dân giang hồ cái đất này ai tui không biết, huống hồ là anh Bảy."

Rồi nó hạ giọng, bắt đầu kể:

Anh Bảy xuất thân là trẻ mồ côi, được nuôi dưỡng trong cái cô nhi viện kế bên nhà thờ Cha Tam.

Nhưng chưa kịp lớn, ổng đã bỏ đi bụi đời, lăn lộn trong khu Chợ Lớn.

Lúc đầu, ổng tụ tập một đám nhóc lóc nhóc, tổ chức chạy vé dò kiếm cơm.

Nhưng mà ở Chợ Lớn, ai chạy vé dò mà không "vô băng" của ổng thì bị ổng kéo đàn em tới đập ra bã.

Rồi từ từ, ổng nắm luôn cái "thị trường vé dò" trong chợ.

Mỗi thứ bảy, ổng còn bắt tụi đàn em nhỏ vô nhà thờ nghe Cha giảng đạo.

Bởi vậy, dân trong giới mới gọi là "Anh Bảy Vé Dò".

Chứ không phải vì ổng thứ bảy trong nhà đâu!

Thằng Liêm nói xong, cười khẩy, như thể câu chuyện này chẳng có gì lạ lẫm với nó.

Thằng Liêm chồm người lên, nói tiếp, giọng bí hiểm như đang kể chuyện phim hành động:

"Lớn lên chút xíu, ổng để lại cái băng chạy vé dò cho đàn em tự lo, rồi một mình bỏ qua Campuchia vài năm.

Mà tui nghi chuyến đi đó không phải đi du lịch nha!"

Cụ Hết nhướng mày, hỏi: "Rồi sao nữa?"

Thằng Liêm chỉ vào bụng mình, rồi làm bộ vẽ vẽ lên vai:

"Từ đó ổng mới có hai cái sẹo trước bụng với cái hình xăm chữ Tàu trên vai đó!"

Nó ngừng lại một chút, nhíu mày như đang hồi tưởng, rồi kể tiếp:

"Sau khi về nước, ổng làm đủ nghề.

Hồi đầu giữ xe, rồi mở quầy vé số, sau đó mới lấn qua bán thuốc lá dạo.

Ai mà ngờ, từ khi ổng đụng vô cái nghề thuốc lá, ổng phất lên như diều gặp gió, thành ông trùm luôn!"

Nói tới đây, thằng Liêm gãi đầu, ra chiều khó tin lắm:

"Mà tui nói nghe nè, tui cứ tưởng ổng là dân anh chị trăm phần trăm, ai ngờ hôm qua ổng nói tui mới biết...

Ổng có vợ con đàng hoàng!

Mà bà vợ còn là... cô giáo nữa chứ!?"

Cụ Hết bỗng ngẫm nghĩ điều gì đó, ánh mắt thoáng nét suy tư sâu xa.

Buổi sáng vài ngày sau, cụ bắt đầu ngày mới, tay với lấy cây gậy quen thuộc và đội ngay chiếc nón bê rê đã theo cụ bao năm.

Thằng Liêm thấy cụ có vẻ chuẩn bị đi đâu đó, liền hớt hải hỏi:

"Ông già tính đi đâu vậy?"

Cụ Hết không ngoảnh lại, chỉ đáp gọn lỏn:

"Đi luyện bùa."

Nói xong, cụ vẫy tay gọi xe ôm, rồi leo lên chiếc xe vừa trờ tới, chậm rãi bảo tài xế chạy đến mái ấm nuôi dạy trẻ gần nhà thờ Cha Tam—nơi từng nuôi lớn anh Bảy Vé Dò ngày nào.

Như mọi khi, cụ Hết bước chậm rãi vào mái ấm, không vội vàng, cũng chẳng thúc giục ai.

Cái mái ấm này đã cũ kỹ lắm rồi, tường loang lổ, lớp sơn xanh bong tróc từng mảng.

Những bóng đèn treo trên cao lờ mờ như sắp tắt, dù vẫn sáng nhưng không đủ xua đi cái cảm giác tối tù mù bên trong.

Trước mặt cụ, một đám trẻ nheo nhóc, đứa thì bò lê dưới sàn, đứa thì chạy nhảy lung tung, đứa ôm sách vở ngồi học bài.

Mấy bà sơ đang tất bật chuẩn bị bữa trưa, vừa khuấy cháo, vừa đút cơm, vừa quát mấy đứa quậy phá.

Thấy một ông lão tóc bạc đứng trước cửa, mấy bà sơ thoáng ngạc nhiên, nhưng rồi vẫn tiếp tục công việc, không ai dám bỏ dở giữa chừng.

Cụ Hết đi tới cái quầy ngay cửa, chậm rãi ngồi xuống, đặt gậy sang bên.

Cụ không gọi ai, không hối ai phải tiếp mình, chỉ ngồi yên đó, như thể có tất cả thời gian trên đời.

Thằng Liêm đứng kế bên, gãi đầu gãi tai, ngó ngang ngó dọc, rồi nhìn cụ khó hiểu:

"Luyện bùa...

ở chỗ này hả!?"

Nó định hỏi tiếp, nhưng vừa lúc đó, một bà sơ già tóc đã lấm tấm bạc đi tới, trên tay cầm theo quyển sổ, vừa mở ra vừa hỏi cụ Hết vài câu.

Cụ gật nhẹ đầu, rồi đưa ra một phong bì đã được cẩn thận gói lại từ trước.

Trên phong bì, chỗ người gửi, cụ tỉ mỉ đề rõ mấy chữ:

Bảy Vé Dò.

Bà sơ khẽ nhíu mày, nhưng không hỏi thêm, chỉ nhận phong bì bằng hai tay, rồi cẩn thận mở sổ, ghi tên Bảy Vé Dò vào danh sách quyên góp và tờ biên nhận, viết xong còn trịnh trọng gấp lại, trao biên nhận cho cụ.

Cụ Hết cầm lấy tờ giấy, nhẹ nhàng cất vào túi, rồi chậm rãi đứng dậy, gật đầu chào bà sơ già, quay qua cúi đầu chào những sơ khác.

Mấy sơ đang bận tay đút cơm, nhưng cũng đồng loạt lên tiếng:

"Các con, đứng dậy, chào cụ đi nào!"

Lập tức, một loạt đứa trẻ bé xíu đồng thanh cúi đầu, giọng vang lên lanh lảnh:

"Chúng con cảm ơn ạ!"

Cụ Hết mỉm cười, gật đầu nhẹ, rồi quay lưng rời đi.

Thằng Liêm lẽo đẽo theo sau, đứng chứng kiến từ đầu đến cuối, trong lòng đầy thắc mắc.

Nó hiểu cụ vừa quyên góp tiền cho mái ấm, nhưng tại sao lại gọi đó là "luyện bùa"!?

Nó muốn hỏi lắm, nhưng rồi nghĩ lại, nó quyết định để dành lúc nào rảnh rỗi sẽ hỏi sau.

Cụ Hết không về nhà ngay, mà bắt xe ôm thẳng đến kho hàng thuốc lá của anh Bảy.

Vừa bước xuống xe, cụ thong thả đi vào.

Đám giang hồ đứng gác trước cửa—đầu xanh đầu đỏ, mình mẩy xăm trổ rồng rắn—vừa trông thấy cụ liền thoáng giật mình.

Nhớ ra đây không phải người thường, mà chính là vị cao nhân đã trấn yểm hai cây ngải quái gở của đại ca mình, tụi nó vội vã đứng nghiêm, không dám hó hé câu nào.

Một thằng có vẻ đầu đàn, rón rén bước lên trước, khúm núm hỏi:

"Dạ... cụ tìm anh Bảy ạ?"

Cụ Hết gật nhẹ đầu, không nói nhiều.

Thấy cụ gật đầu, thằng giang hồ đầu đàn lập tức quay phắt lại, hất mặt ra hiệu cho đàn em:

"Dẹp đường, dẹp đường!"

Lập tức, tụi đàn em dạt sang hai bên, mở một lối đi rộng rãi dẫn thẳng vào trong, chẳng khác nào một cảnh phim xã hội đen Hong Kong.

Cụ Hết vẫn ung dung, chậm rãi bước vào, phía sau là đám giang hồ lấm lét cúi đầu.

Anh Bảy đang ngồi soi xét đám hàng mới nhập, vừa nghe báo cụ Hết đến, liền hốt hoảng đứng bật dậy, bỏ hết công việc.

Chạy ra tận cửa, anh đích thân đón cụ, miệng cười toét đến mang tai, giọng còn vội vã hơn cả đàn em:

"Trời đất, cụ tới mà con không hay!

Mời cụ, mời cụ vào trong, con rót trà liền!"

Không để cụ động tay động chân, anh Bảy tự mình pha trà, đích thân rót trà, rồi hai tay cung kính dâng lên.

Nhưng chưa kịp ngồi xuống xả giao vài câu, cụ Hết đã mở lời trước, giọng điềm đạm nhưng chắc nịch:

"Hôm bữa cậu có nhờ tôi luyện bùa, nhớ không?"

Anh Bảy mắt sáng rỡ, vội gật đầu liên tục, giọng đầy háo hức:

"Dạ nhớ, nhớ chứ cụ!"

Cụ Hết thong thả thò tay vào túi áo, rút ra một tờ giấy gấp gọn, nhẹ nhàng đẩy về phía anh Bảy.

"Đây.

Cái bùa tôi làm cho cậu."

Anh Bảy tròn mắt, há miệng.

Cái bùa nhìn chẳng có hoa văn kỳ bí, cũng không có nét chữ bùa chú ngoằn ngoèo.

Chỉ là một tờ giấy biên nhận bình thường.

Thấy anh đờ đẫn, cụ Hết thản nhiên nhấp thêm một ngụm trà, rồi điềm nhiên nói tiếp:

"Còn vợ con cậu... thì tự cậu phải luyện bùa cho họ."

Anh Bảy chớp mắt liên tục, mấp máy môi, nhưng chưa kịp thắc mắc thì cụ Hết đã nói tiếp:

"Tiền bạc thì tính xong rồi.

Coi như tôi trả tiền cho cậu hai cái cây tôi lấy về hôm trước."

Nói rồi, cụ đứng dậy chuẩn bị ra về, không hề nói thêm lời nào.

Anh Bảy cầm tờ giấy, tay hơi run run, chậm rãi mở ra xem.

Vừa thấy dòng chữ ghi trên tờ biên nhận, anh như bị ai đó đánh mạnh vào ngực, mắt dán chặt vào cái chữ ký phía dưới.

Chữ ký của bà sơ.

Người đã cưu mang, nuôi nấng anh ở mái ấm hơn mấy chục năm trước.

Cái nét chữ mà anh không bao giờ quên được.

Cái nét chữ đó là nét chữ dạy anh biết đọc biết viết.

Bỗng dưng, hàng loạt ký ức xưa cũ ùa về như cơn sóng lớn, tràn ngập lòng anh.

Anh rưng rưng.

Anh hiểu ra rồi.

Đây chính là cái bùa mạnh nhất mà anh cần.

Còn thằng Liêm đứng kế bên, chứng kiến từ đầu đến cuối, mắt mở to, há mồm, lòng nó bàng hoàng:

"Bùa gì mà linh dữ vậy trời!?"

Nó nhìn cụ Hết, ánh mắt đầy kính nể.

Hai thầy trò rời khỏi kho hàng, lặng lẽ đi về, chỉ có thằng Liêm lâng lâng như bản thân nó làm được việc tốt, còn anh Bảy ở lại, lòng rơm rớm, mắt đỏ hoe.
 
Hồ Sơ Tâm Linh Của Cụ Hết
Đổi Vận


Anh Bảy ngồi bần thần, mắt dán chặt vào tờ biên nhận, tay nâng niu như thể sợ chỉ cần gấp mạnh một chút, nét chữ trong đó sẽ bay đi mất.

Từ trước đến nay, anh từng cầm biết bao nhiêu tờ giấy: hợp đồng làm ăn, giấy vay nợ, giấy thế chấp.

Nhưng chưa có tờ giấy nào làm anh rối bời như thế này.

Tận cả tuần sau, anh Bảy vẫn chưa hoàn hồn, vẫn đi làm, vẫn điều phối đàn em, nhưng hồn vía thì như gửi đi đâu mất.

Có lúc, anh đang ngồi bàn công việc, tay vô thức mò vào túi áo, rút tờ biên nhận ra xem lại, nhìn chằm chằm vào chữ ký của bà sơ, rồi lại thở dài gấp lại cẩn thận.

Băng nhóm dưới trướng bắt đầu xì xào, tụi đàn em hoang mang vì đại ca dạo này trầm tư kỳ lạ, không còn hung hãn chửi bới như trước.

Tụi nó đoán già đoán non, có đứa bảo "Ảnh bị bùa của thầy pháp già ếm", có đứa thì thì thào "Chắc ảnh gặp được chân sư, khai sáng rồi".

Chỉ có anh Bảy là biết rõ nhất.

Anh nhớ mãi câu nói của cụ Hết, từng lời vẫn còn văng vẳng bên tai:

"Còn vợ con cậu... thì tự cậu phải luyện bùa cho họ."

Anh Bảy chợt hiểu.

Bùa bình an, chẳng phải cái gì cao siêu.

Bùa bình an... chính là do mình tạo ra.

Không phải từ ai khác.

Mấy hôm sau, anh Bảy gom góp hết số tiền mình có—số tiền mà anh có thể tự do tiêu xài mà không ảnh hưởng đến cái băng nhóm của mình, cũng không đụng chạm đến phần tiền dành cho vợ con.

Anh cẩn thận bỏ vào phong bì, trịnh trọng ghi tên vợ con lên đó.

Rồi anh lấy chiếc xe giao hàng cũ kỹ, loại xe mà tụi đàn em vẫn hay dùng để chở thuốc lá lậu, đội vội cái nón bảo hiểm che kín đầu vì sợ người khác nhận ra, rồi tự mình lái thẳng đến mái ấm mồ côi—nơi từng nuôi nấng anh suốt những năm tháng tuổi thơ.

Hôm nay bà sơ già không có mặt, chỉ có các sơ trẻ loay hoay trông lũ nhỏ.

Anh Bảy đậu xe bên ngoài, chậm rãi bước vào quầy tiếp tân và lặng lẽ ngồi đợi.

Anh không thúc giục, không vội vã, vì thật ra, anh muốn nán lại thêm một chút.

Anh ngẩng nhìn xung quanh, nhìn ngắm từng góc nhỏ loang lỗ cũ kỹ của mái ấm.

Mấy đứa trẻ cười đùa, nghịch phá, có đứa ê a học bài, có đứa được sơ bón cho từng muỗng cơm, vừa ăn vừa bị la rầy vì tội quậy phá.

Tất cả những hình ảnh ấy quá quen thuộc, quá thân thương, quá sâu nặng với anh.

Tựa như chỉ cần ngồi đây lâu thêm một chút nữa thôi...Anh sẽ vỡ òa như sóng biển.

Một sơ trẻ thấy anh Bảy ngồi lặng lẽ ở quầy tiếp tân, vội vàng làm cho xong việc, rồi cầm cuốn sổ lớn, bước đến trước mặt anh.

Sơ đặt sổ xuống bàn, ngước nhìn anh với ánh mắt hiền từ, rồi hỏi vài câu gì đó.

Anh Bảy không nói nhiều, chỉ gật nhẹ đầu, rồi chìa chiếc phong bì ra.

Vị sơ trẻ cẩn thận nhận lấy, rồi rút xấp giấy biên nhận ra, tỉ mỉ ghi chép, nắn nót từng nét chữ khi điền lại những cái tên được ghi trên phong bì.

Sau khi hoàn tất, sơ trịnh trọng gấp phong bì lại, đưa trở lại vào tay anh Bảy, như một lời chứng nhận cho một quyết định lớn lao.

Anh Bảy rưng rưng, đứng dậy, quay người bước đi, không dám nán lại lâu hơn.

Nhưng ngay khi anh vừa xoay lưng, phía trong mấy sơ đã ra hiệu, cả đám trẻ nheo nhóc lập tức đứng phắt dậy, đồng thanh hô lớn:

"Chúng con cảm ơn ạ!!!"

Tiếng trẻ con trong veo, vang vọng khắp căn phòng.

Anh Bảy giật mình, chững lại.

Lần đầu tiên trong nhiều năm, anh mới nghe lại câu chào này—câu chào của mái ấm năm xưa, câu anh Bảy đã từng nói biết bao nhiêu lần, nhưng chưa lần nào hiểu trọn vẹn ý nghĩa của câu cảm ơn đơn giản đó

Cho tới bây giờ, anh Bảy lần đầu tiên cảm nhận được cái sức nặng của câu chào mà mình từng nói hàng trăm lần.

Anh quay người lại, cúi đầu thật thấp, khúm núm như cậu bé ngày nào, lúc đó cậu quyết từ bỏ Mái Ấm đi bụi đời mà chưa kịp chào từ biệt.

"Chào các sơ và mọi người."

Trong khoảnh khắc đó, nước mắt rơi lã chã, nhưng anh không để ai thấy.

Anh vội vàng quệt đi, rồi bước nhanh ra ngoài, như thể sợ nếu còn đứng lại, mình sẽ òa khóc như một đứa trẻ.

Hôm nay, anh Bảy đã quyết rồi.

Anh sẽ dứt khoát bỏ nghề.

Dù phía trước có ra sao thì ra, dù phải trả giá thế nào, anh cũng không hối hận nữa.

Vì anh biết chắc, từ giây phút này, cuộc đời mình đã sang trang.

Anh Bảy dắt chiếc xe chở thuốc lá dạo ra, đạp mạnh cần khởi động, rồi đội chiếc nón bảo hiểm đen kịt lên đầu.

Anh hít một hơi dài, như thể đang hít trọn cả quá khứ của mình, rồi rồ ga, lao về phía con đường quen thuộc—nơi cái kho hàng thuốc lá đang chờ anh ra quyết định cuối cùng cho sự nghiệp lẫy lừng của mình.

Nhưng ngay lúc đó...

Từ phía đối diện, một thằng choi choi khác, áo khoác phồng to vì lận đầy thuốc lá lậu bên trong, đầu đội nón bảo hiểm đen kịt, giống y hệt của anh Bảy, đang phi như điên về hướng kho hàng.

Thằng nhóc mắt chỉ chăm chăm nhìn về phía trước, như sợ có ai đuổi theo.

Nó không thấy chiếc xe cà tàng của anh Bảy đang từ từ băng qua đường.

RẦM!!!

Một cú tông trời giáng.

Chiếc xe của anh Bảy bị quăng sang một bên, co rúm lại như một tờ giấy bị vò nát, còn anh Bảy thì bay thẳng vào lề đường, nằm bất động.

Còn thằng nhóc kia...

Như một phép màu nào đó, chiếc xe của nó chỉ xây xác một chút, còn cái áo khoác bị rách bươm, làm thuốc lá rơi lả tả khắp đường.

Nhưng nó không quan tâm.

Nó lồm cồm bò dậy, nhanh như chớp dựng xe, rồi rồ ga phóng mất hút, bỏ lại anh Bảy nằm sõng soài giữa đường, như một kẻ vừa bị chính quá khứ của mình quật ngã.

Anh Bảy được người dân xung quanh đưa đi cấp cứu.

Cú va chạm quá mạnh khiến anh bất tỉnh suốt một tuần.

Bác sĩ nói anh rất may mắn, cú đâm gây chấn động não, nhưng không nguy hiểm đến tính mạng.

Anh chỉ cần nghỉ ngơi vài ngày, rồi sẽ tỉnh lại.

Vợ con anh túc trực ngày đêm bên giường bệnh, lo lắng từng chút một.

Đến ngày thứ tám, anh Bảy lờ mờ tỉnh dậy, đôi mắt nặng trĩu mở ra, nhìn thấy vợ và con ngồi cạnh giường, nước mắt rưng rưng vì vui mừng.

Anh thở phào nhẹ nhõm.

Tất cả đều ổn.

Nhưng...

ở ngoài kia, trong suốt một tuần anh bất tỉnh, thế giới của anh đã hoàn toàn thay đổi.

Cái băng nhóm mà anh gầy dựng suốt bao năm trời, nay như rắn mất đầu, bị một băng đảng đối lập thâu tóm nhanh gọn.

Tụi đàn em cũ của anh không còn ai lãnh đạo, đứa thì đầu quân cho băng nhóm mới, đứa không muốn theo nữa thì rút êm.

Mặc dù giờ đây tụi nó không còn là đàn em của anh nữa, nhưng đứa nào cũng xem anh như một huyền thoại, như một người mở đường mà tụi nó từng kính nể.

Khi anh Bảy tỉnh lại, có đứa tìm đến, gạ anh tái xuất, lấy lại băng đảng, nhưng anh chỉ khoát tay, giọng chậm rãi nhưng dứt khoát:

"Tao già rồi...

Giờ tao có vợ con.

Thôi, nhân cơ hội này, tao cũng rút."

Tụi đàn em nghe vậy, không ai dám ép thêm.

Mọi người gật đầu, ai nấy cũng tự tính đường tương lai của mình.

Một thời đại kết thúc.

Nhưng với anh Bảy, đó không phải là kết thúc... mà là một khởi đầu mới.

Bất giác, anh Bảy sờ tay vào túi áo.

Chạm vào hai tờ biên nhận đã nhăn nhúm vì vụ tai nạn, anh chợt khựng lại.

Chắc là vợ anh đã bỏ vào, như một lời cầu nguyện cho anh tai qua nạn khỏi.

Anh mỉm cười, gấp tờ giấy lại cẩn thận, đặt vào ngăn ví.

Giờ đây, cái "bùa bình an" của cụ Hết, không chỉ che chở cho vợ con anh, mà còn cứu cả chính anh nữa.

Về sau, nghe nói anh Bảy quay lại nghề xưa, mở một quầy in vé dò trước chợ, nơi ngày trước anh từng bắt đầu tất cả.

Mỗi tuần, anh đều đi nhà thờ, cúi đầu lặng lẽ cầu nguyện.

Và thỉnh thoảng, người ta lại thấy anh ghé thăm cụ Hết, ngồi uống trà, trò chuyện, như một người học trò cũ thăm lại thầy xưa.
 
Back
Top Bottom