Cập nhật mới

Chào mừng bạn đến với diễn đàn 👋, Khách

Để truy cập nội dung và tất cả dịch vụ của diễn đàn, bạn cần đăng ký hoặc đăng nhập. Việc đăng ký hoàn toàn miễn phí.

Dịch Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên

[BOT] Mê Truyện Dịch
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 70: A cữu



Thi thể của Tiêu Thừa Sách được đưa về Lan Lăng, Tiêu gia chọn ngày lành tháng tốt để hạ táng.

Thái hoàng thái hậu vì muốn an ủi con gái duy nhất, đã thỉnh cầu Tống Hành ban thêm thực ấp cho hoàng cô Đại trưởng công chúa Tống Vi Lan, đồng thời thăng chức cho thứ tử của nàng, Tiêu Thừa Cảnh, thành quan tứ phẩm ở kinh thành.

Tống Hành thuở nhỏ từng được vị hoàng cô này che chở, giữa hai người vốn có chút tình thân. Lại thêm Thái hoàng thái hậu nhiều ngày qua vì chuyện này mà phiền muộn, hắn bất đắc dĩ phải đồng ý. Tuy nhiên, vì Tiêu Thừa Cảnh tư chất tầm thường nên chỉ được ban một chức quan nhàn tản.

Tống Vi Lan chỉ còn duy nhất người con trai này, không dám mơ ước xa vời. Nàng chỉ mong con mình có thể bình an sống đến cuối đời. Một chức quan tứ phẩm an nhàn, vừa có không ít bổng lộc, vừa tránh xa vòng xoáy quyền lực, đủ để bảo toàn cho hắn, sao nàng có thể không hài lòng?

Tiêu Thừa Cảnh từ Lan Lăng lên đường đến Lạc Dương nhậm chức. Tống Vi Lan nhận được ý chỉ của Thái hoàng thái hậu, theo hắn cùng đến Lạc Dương, tạm thời trú tại cung của Thái hoàng thái hậu.

Tình hình chiến sự ở tiền tuyến ngày càng căng thẳng, Tống Hành không có tâm tư để ý đến những chuyện khác. Ngay cả yến tiệc tiếp đón cũng bỏ qua, chỉ gặp Tống Vi Lan và Tiêu Thừa Cảnh mỗi một lần tại cung Thái hoàng thái hậu.

Đêm ấy, hai mẹ con họ nhắc đến Tiêu Thừa Sách, không khỏi đau đớn khôn cùng, khóc đến nước mắt giàn giụa.

Giờ khắc này, họ dường như không phải là Thái hoàng thái hậu và Đại trưởng công chúa cao quý, mà chỉ là người bà, người mẹ mất đi người cháu, người con của mình.

Sơ Vũ nhìn cảnh tượng này, mắt cũng đỏ hoe. Nàng kìm nén nước mắt, cẩn thận mang khăn đến cho hai người lau mặt, nhẫn nại khuyên nhủ hồi lâu. Mãi đến lúc ấy, họ mới ngừng khóc.

Gần đây, ngoài nỗi lo vì chiến sự và thiên tai, trong lòng Tống Hành bỗng dâng lên một dự cảm không mấy rõ ràng, những cảm xúc khó tả đó khiến hắn ăn không ngon, ngủ không yên. Chỉ khi được gặp được nàng, giai nhân hắn luôn đặt nơi đầu trái tim, hắn mới cảm thấy nhẹ nhõm phần nào.

Thế nhưng, từ đầu xuân đến nay, nàng không chỉ cố ý tránh hắn mỗi ngày mà còn không thèm nói chuyện với hắn. Dù là trên giường, hắn hành xử khép nép, trăm phương ngàn kế lấy lòng, nàng vẫn chẳng dành cho hắn sắc mặt cùng nụ cười dễ coi.

Nàng vốn là người dịu dàng, tính tình mềm mại, nhưng nếu bị hắn ép quá, nàng cũng sẽ tức giận, đấm thình thịch vào ngực, vào vai hắn, mở miệng mắng hắn không phải người.

Tống Hành lại vô cùng thích bộ dạng nàng như vậy, khi không còn là tảng đá vô tri trước mặt hắn. Mỗi lần như thế, hắn đều mặt dày đưa mặt lại gần, để nàng đánh vào mặt cũng không sao, chỉ cần nàng chú ý nhẹ tay, đừng để ai nhận ra là được.

Nếu có người để ý, chắc hẳn họ sẽ nhận thấy rằng, tuy mỗi ngày Dương Thượng nghi đều bận rộn công vụ nhưng phần lớn thời gian vẫn giữ được tâm trạng khá tốt. Thân hình vốn gầy guộc của nàng giờ đã có phần đầy đặn hơn, khuôn mặt cũng tròn trịa hẳn ra.

Ngược lại, vị Thánh thượng cường tráng khôi ngô, có lẽ vì lao tâm quốc sự, thường xuyên cau mày trước mặt quần thần, thân hình dường như gầy đi vài phần.

Mãi đến khi sứ giả nước Ngụy đến cầu hòa, hàng chân mày của Tống Hành mới tạm giãn ra, tiếp sứ giả nước Ngụy tại Minh Đường.

Vị Võ An hầu Thẩm Kính An, người đã công phá hai trấn Trấn Hải và Tuyên Hấp, một tướng tài thành danh khá muộn, cũng là người hắn rất muốn gặp. Hắn bèn đặt điều kiện gặp người này để đồng ý hòa đàm.

Sứ giả lập tức phi ngựa hồi báo về Biện Châu.

Ngay đêm hôm đó, Giang Tiều triệu Thẩm Kính An vào cung.

Đã hơn năm mươi tuổi mới có được một vị tướng kiệt xuất như vậy, nếu lần này y gặp bất trắc, Giang Tiều biết đi đâu để tìm một người thay thế y nữa đây?

Thẩm Kính An nhìn ra vẻ khó xử của Giang Tiều, liền mở lời trước: “Thánh thượng có điều gì xin cứ nói thẳng.”

Giang Tiều nghe vậy, hàng mày đang nhíu lại càng siết chặt hơn: “Tống Hành muốn khanh đến Lạc Dương hòa đàm.”

Lạc Dương. Đúng lúc y cũng dự định đến nơi ấy, vừa hay nhân cơ hội đưa Nhị nương sớm trở về nước Ngụy, để y có thể bảo vệ nàng chu toàn.

Thẩm Kính An đoán được Giang Triều e ngại điều gì, lập tức ôm quyền trần tình:

“Thánh thượng không cần lo lắng cho thần. Cổ nhân có câu: “Lưỡng quốc giao binh bất trảm lai sứ”. Cho dù quốc quân nước Triệu có hận thần vì đã lấy mạng Tiêu Thừa Sách, phế đi một cánh tay của Tiết Phụng, thì cũng chỉ có thể đường đường chính chính lấy mạng thần trên chiến trường. Chẳng nhẽ hắn lại hạ mình thực hiện những hành động ti tiện ngay trong địa giới nước Triệu?”

Dứt lời, Giang Tiều vẫn còn do dự. Ông ta từng có giao tình sâu đậm với Tống Lâm, nhưng lại không mấy quen thuộc với tính cách của con trai ông ta, vị quốc quân hiện tại. Nếu người đang tại vị là Tống Lâm, ông ta sẽ không ngần ngại phái Thẩm Kính An đi hòa đàm. Nhưng với một Tống Hành có tiếng là ngoan độc, nhẫn tâm, ông ta khó mà yên lòng được.

Thẩm Kính An nhìn thấy trên mặt ông ta vẫn còn nét lưỡng lự và kiêng dè, nhưng cuối cùng vẫn quỳ gối xuống, chân thành nói: “Vị quốc quân nước Triệu kia tuy thủ đoạn tàn nhẫn, nhưng cũng không phải hạng tiểu nhân đê hèn. Dân chúng Bắc địa đã hết lòng ủng hộ phụ tử bọn họ, trong tay hắn cũng có không ít lương tướng trung thành quy thuận, hẳn là phẩm tính cũng có chỗ tương đồng. Thánh thượng cứ an tâm, thần đi chuyến này nhất định không phụ sự ủy thác, mang theo hòa ước trở về Biện Châu bình an vô sự.”

Giang Tiều thấy y đã quyết ý ra đi, cuối cùng cũng hạ quyết tâm, cúi người đỡ y đứng dậy, cao giọng nói:

“Tri Dật chưa bao giờ khiến trẫm thất vọng, trẫm tự nhiên tin tưởng khanh. Chỉ là, ngoại nhân đều nói tiểu tử Tống Hành lòng dạ thâm sâu, không giống như phụ thân hắn, hào sảng cương trực. Chuyến đi này, khanh nhất định phải thật cẩn thận.”

Thẩm Kính An lại dập đầu cảm tạ ba lần, lúc này mới chịu đứng lên.

Ngoài cửa sổ, ánh trăng đã lên đến đỉnh trời, còn chưa đến giờ cài then đóng cửa. Giang Tiều liền gọi y ngồi xuống, tự tay rót một chén trà, lại hỏi thăm về đứa cháu gái lưu lạc bên ngoài của y.

Chuyện đưa người từ cung Triệu quốc về hẳn nhiên không thể giấu giếm. Nếu giờ vì chỉ vì tránh nghi ngờ mà che đậy, sau này có lời đồn không hay, ngược lại khó bề biện giải, chỉ làm mối quan hệ quân thần thêm xa cách.

Nghĩ vậy, Thẩm Kính An đặt chén trà xuống, nói thật: “Thần thay mặt cháu gái Nhị nương của thần cảm tạ Thánh thượng đã quan tâm. Thú thật với Thánh thượng, cháu gái thần hiện đang làm nữ quan trong cung Triệu quốc. Chuyến này thần cũng muốn đón nàng về Ngụy quốc. Nếu Thánh thượng không yên tâm, thần có thể an trí nàng nơi khác, không để nàng ở lại phủ của thần.”

Giang Tiều nghe vậy, có ý ban ơn để hắn một lòng trung thành với Ngụy quốc, bèn nói: “Cháu gái khanh lưu lạc bên ngoài bao năm, hẳn chịu không ít khổ sở. Trẫm sao nhẫn tâm để các khanh chia cắt thân nhân? Nếu Tri Dật tin tưởng nàng, tất nhiên có thể để nàng ở lại phủ chăm sóc.”

Thẩm Kính An vừa nghe xong, lập tức lại muốn quỳ xuống tạ ơn, nhưng Giang Tiều nhanh chóng khoát tay ngăn lại, ra hiệu không cần đa lễ. Sau khi cùng y uống trà, trò chuyện đôi câu, ông ta mới sai nội thị tiễn Thẩm Kính An xuất cung.

Thẩm Kính An ra khỏi hoàng cung, lên ngựa trở về phủ.

Gió xuân về đêm mát lành sảng khoái, Thẩm Kính An thuận tay mở cửa sổ, lấy ra miếng đệm đầu gối do chính tay Lý Lệnh Nghi may, nhìn về hướng núi Kính Đình, ôm chiếc đệm trong tay, v**t v* hết lần này đến lần khác.

Không hiểu sao, lòng y bỗng bình yên lạ thường. Thậm chí y có một linh cảm rằng, chuyến này trở về từ Triệu quốc, chẳng bao lâu nữa y sẽ gặp được nàng.

Tối đó thu xếp hành trang xong xuôi, sáng sớm hôm sau, trong buổi thiết triều, Giang Tiều ban cho Thẩm Kính An một ngàn tinh binh tháp tùng, hẹn giờ Thìn ngày kế tiếp sẽ cùng khởi hành từ Biện Châu, lên đường đến Lạc Dương bàn chuyện hòa đàm.

Ba ngày sau khi Thẩm Kính An xuất phát, Tống Hành nhận được một phong mật báo.

Mọi thông tin về cuộc đời của Thẩm Kính An, dù nhỏ nhặt đến đâu, đều bị ẩn sĩ đào bới đến tận gốc rễ. So với con đường công danh của hắn, Tống Hành lại quan tâm hơn đến quãng thời gian Thẩm Kính An sống tại Tấn Châu.

Không ngờ, hắn lại chính là cậu của Dương Sở Âm.

Hai người họ tuy không có quan hệ máu mủ, nhưng tình cảm giữa hắn và mẫu thân nàng lại thân thiết như chị em ruột thịt cùng mẹ sinh ra.

Tống Hành không sao dùng lời để diễn tả tâm trạng của mình lúc này.

Bên tai hắn dường như lại vang vọng những lời cay nghiệt mà nàng thốt ra ngày hôm đó: Anh trai nàng từng cứu em trai hắn, còn hắn thì lấy oán trả ân, lại còn cưỡng đoạt nàng.

Còn giờ thì a cữu nàng lại đoạt mạng trưởng tử của hoàng cô hắn…

Đây có tính là báo ứng không?

Tống Hành lặng lẽ đốt tờ thư ấy trên giá nến, vị trí hai bên thái dương bắt đầu co giật.

Nếu nàng biết chuyện này, nhớ lại trên đời mình còn có một người cậu, liệu nàng có bất chấp tất cả mà rời bỏ hắn, rời xa nơi này?

Cơn đau ở trán ngày càng lan rộng. Tống Hành khép mắt đầy thống khổ.

Đây là hoàng thành nước Triệu. Chỉ cần hắn không thả nàng đi, cả đời nàng đừng mong bước ra khỏi thành Tử Vi dù chỉ nửa bước. Hắn thực sự không cần phải lo lắng đến vậy. Nhưng, hắn lại chẳng khống chế được bản thân, không thể ngừng nghĩ đến điều này.

Trên đời này, ngoài nàng ra, không còn ai có thể xoa dịu nỗi đau cùng cảm xúc hỗn loạn trong lòng hắn lúc này.

Cục Thượng nghi.

Thi Yến Vi dùng xong bữa tối, mang một ít công việc còn dang dở trở về phòng xử lý.

Ngòi bút trong tay không ngừng di chuyển, bỗng nghe ngoài bậu cửa sổ truyền đến tiếng mèo kêu.

Nghe tiếng ấy, nàng liền nhận ra đó là con mèo mướp lông vàng hôm nọ.

Nàng liền đặt cây bút lông sói xuống, lấy ra mấy miếng cá khô đã nhờ người ở ngự thiện phòng làm riêng, nhoẻn cười bước ra ngoài.

Dưới ánh trăng, bóng dáng một người một mèo đổ dài trên nền đất.

Thi Yến Vi v**t v* bộ lông mềm mại của nó, rồi khẽ gãi gãi vùng đầu và phần lông mềm nơi cổ. Con mèo sau khi ăn no liền ở lại lâu hơn thường lệ, để nàng thỏa thích vỗ về.

Phía sau, từ lúc nào đã xuất hiện một bóng người cao lớn. Thi Yến Vi hoàn toàn không hay biết, đợi đến lúc con mèo mướp rời đi, nàng quay người định về, lúc này mới bắt gặp hắn.

Ý cười trên mặt lập tức đông cứng chỉ trong nháy mắt. Thi Yến Vi làm như không thấy, đi thẳng vào phòng.

Tống Hành theo sau nàng bước vào, còn chưa kịp khép cửa, hắn đã nôn nóng ôm chầm lấy nàng từ đằng sau.

Thi Yến Vi vốn cho rằng hắn tìm đến là để phát tiết, tự biết chống cự cũng vô ích, nên chẳng buồn phản kháng, chỉ xem bản thân như một khối gỗ, giọng điệu lạnh lùng: “Thánh thượng làm nhanh cho xong, thần còn công vụ còn chưa xử lý hết.”

“Âm Nương, chỉ cần kỳ hạn năm năm chưa trọn, nàng sẽ không rời khỏi trẫm, đúng không?”

Thi Yến Vi không hiểu tại sao hắn đột nhiên hỏi như vậy. Dù nàng muốn rời đi, nhưng đất dưới chân này chẳng phải vẫn là đất của vương triều hay sao? Không có sự cho phép của hắn, nàng làm sao thoát ra được?

Có lẽ hắn lại phát điên, thay đổi cách thăm dò ý nghĩ chân thật trong lòng nàng. Nàng đành phải tùy tiện đối đáp cho qua, miễn cưỡng thốt ra hai chữ: “Sẽ không.”

“Trẫm đã biết Âm Nương nhất định là người giữ lời, không nỡ đối xử tàn nhẫn với trẫm như thế.” Từng lời của Tống Hành như lời tự nhủ, vừa nói vừa xoay người nàng lại, bế bổng nàng lên, nâng nàng ngang tầm rồi cúi xuống, chiếm lấy phiến môi mềm mại, đỏ như chu sa.

Suốt bốn tháng qua, hắn chịu khó học hỏi, tham khảo không ít sách vở tạp thư, không còn giống như trước đây, chỉ biết dùng sức mà chẳng quan tâm đến cảm nhận của nàng. Giờ đây, hắn làm mọi thứ bài bản hơn, hiếm khi khiến nàng bộc lộ vẻ đau đớn.

Nếu hắn có thể khiến nàng thỏa mãn, thỉnh thoảng nàng cũng sẽ mở lòng từ bi, thưởng cho hắn vài tiếng ngâm khẽ.

Tống Hành đặt nàng lên bàn, rời khỏi đôi môi nàng, rồi cúi người xuống. Sự khô rát trong miệng hắn dịu lại, cơn đau đầu cũng dần thuyên giảm.

Không biết tự lúc nào, cả hai đã nằm trên giường La Hán. Tống Hành ôm lấy nàng, hỏi: “Nếu nàng thích con mèo đó, sao không giữ nó ở viện của mình, như vậy sẽ được gặp nó thường xuyên hơn?”

Đôi mắt Thi Yến Vi phủ một màn sương mờ, hơi thở ngắt quãng, đáp lời từng chút một: “Nó quen tự do ngoài kia rồi. Nếu thực sự muốn ở lại đây, nó tự khắc sẽ không rời đi. Nó không chịu ở, tức là nó không muốn. Ta mà ép buộc, dù lấy danh nghĩa vì nó, cũng chỉ là mặc kệ ý nguyện của nó, thế thì khác nào nhốt nó vào một cái lồng lớn hơn.”

Tống Hành thừa hiểu ý tứ trong lời nói của nàng. Hôm nay nàng chịu nói với hắn nhiều như thế, chẳng qua là mượn chuyện mèo để bóng gió, chỉ trích hành động của hắn mà thôi.

“Âm Nương, trẫm thật lòng thích nàng. Chỉ cần nàng muốn, trẫm có thể lập nàng…”

Nhưng chưa đợi hắn nói hết, Thi Yến Vi đã dứt khoát ngắt lời: “Ta không muốn. Mong Thánh thượng đừng quên giao ước giữa hai ta.”

Hắn cố gắng níu giữ, nhưng thứ muốn giữ lại lại không cách nào giữ được. Ngay nơi lồng ngực, vết sẹo nàng để lại bỗng trở nên ngứa ngáy, đau rát. Tống Hành đặt tay nàng lên vết sẹo ấy, siết chặt eo nàng, nói khẽ: “Được, trẫm giữ lời. Trẫm sẽ không hỏi nữa.”

Bàn tay nàng cảm nhận được từng nhịp tim hắn, bình ổn, vững vàng. Thi Yến Vi thấy phiền, muốn rút tay lại, nhưng Tống Hành cố chấp không cho, còn dùng một tay áp chặt bàn tay mềm mại của nàng, ánh mắt lộ rõ vẻ cầu xin.

“Âm Nương, tin trẫm lần này được không? Trẫm sẽ thay đổi vì nàng. Trẫm sẽ không thua kém Trần Nhượng, mọi điều nàng muốn, trẫm đều sẽ dâng lên bằng cả hai tay.”

Nhịp tim hắn không hề tăng lên, chứng tỏ hắn không hề nói dối. Nhưng điều nàng muốn không phải kỳ trân dị bảo, cũng chẳng phải quyền thế hay danh lợi, mà là tự do, vừa vặn lại thứ hắn không thể cho nàng.

Thi Yến Vi đờ đẫn để hắn giữ tay mình, không đáp một lời.

Khoảnh khắc đó, nàng thoáng thấy trong ánh mắt Tống Hành là vẻ thống thiết, bi thương.

Chỉ là thoáng qua rất nhanh, nhưng nàng biết mình không nhìn nhầm.

Biểu cảm ấy, trước đây nàng từng có vô số lần. Hắn cũng từng thấy, nhưng lại chọn cách ngó lơ, vì thế, điều nàng đáp lại hắn cũng chỉ là sự phớt lờ.

Tống Hành suy nghĩ rối bời, tâm sự nặng nề, nhất thời lơ đãng, phản ứng chậm mất nửa nhịp.

Thi Yến Vi dường như cũng không nhận ra, chỉ đẩy vai hắn, giục hắn mau rời đi.

Tống Hành mặt dày quấn lấy nàng, lại vòng tay ôm lấy lưng nàng, dò hỏi: “Âm Nương, ngày mai không cần thượng triều, trẫm ở lại đây canh giấc cho nàng có được không?”

Thi Yến Vi dần mất kiên nhẫn, đưa tay vỗ nhẹ lên mặt hắn, nuốt lại lời muốn đuổi cổ hắn đi, chỉ nói: “Thánh thượng nếu còn muốn có lần sau, thì tốt nhất đừng nói thêm gì nữa.”

Nói xong, nàng bày ra vẻ ghét bỏ kéo tay áo hắn ra, đứng dậy rời khỏi người hắn.

Tống Hành muốn nói lại thôi, sợ làm nàng phật ý. Mấy ngày nay, khó khăn lắm mới khiến nàng chịu nói nhiều hơn với hắn một chút. Nếu lần sau nàng lại không thèm đoái hoài gì đến hắn, chẳng phải bao công sức đều sẽ đổ sông đổ biển hay sao?

Nghĩ vậy, Tống Hành đành nén lại cơn bực còn chưa kịp bùng phát, quay về điện Triều Nguyên đi thẳng vào phòng tắm, ngâm mình trong nước lạnh, tự tìm cách giải tỏa.

Mấy ngày sau, sứ đoàn nước Ngụy đặt chân đến Lạc Dương.

Lưu Thượng cung vốn có ấn tượng tốt về Thi Yến Vi, nhận xét nàng vừa chịu khó vừa chu đáo, nên việc tiếp đãi sứ đoàn vẫn giao cho nàng cùng Dao Tư tán đồng phụ trách, thêm Dư Tư khách hỗ trợ quản lý và đối chiếu thông tin quan khách.

Hôm sau, dạ yến được tổ chức tại điện Cam Lộ trong cung Thượng Dương.

Cuộc hòa đàm diễn ra khá suôn sẻ. Ước chừng thêm một, hai ngày nữa là hiệp ước có thể ký kết, sơ bộ đề ra là hai bên đình chiến mười năm, mở rộng giao thương.

Thẩm Kính An tự biết công tư không thể lẫn lộn, vì vậy tại Minh Đường, y không nhắc đến Nhị nương trước mặt Tống Hành.

Tuy nhiên, yến tiệc đêm nay không bàn chính sự, lại có quan viên hai nước làm chứng, đây hẳn là thời cơ tốt để đề cập đến chuyện đó.

Từ lời nói đến sinh hoạt hàng ngày của Tống Hành đều được Ký Cư lang ghi chép lại, còn của Thái hoàng thái hậu thì do nữ quan thuộc cục Thượng nghi phụ trách. Theo lý, việc này không cần đến tay Thượng nghi làm. Chẳng qua Nguyễn Tư tịch gặp kỳ nguyệt sự, thân thể không khỏe. Thi Yến Vi thấy vậy liền giúp nàng đảm nhận công việc này.

Nhân lúc Thái hoàng thái hậu chưa lên tiếng, Thi Yến Vi thò nhẹ nửa cái đầu ra từ sau tấm bình phong, nhanh chóng quan sát mọi người trong phòng một lượt, cuối cùng ánh mắt dừng lại trên người Tống Hành.

Hắn vận một bộ cổn phục màu đen tuyền mười hai chương văn, trên đầu đội mũ miện có rèm châu bằng bạch ngọc che khuất nửa khuôn mặt, khiến người ta không nhìn rõ biểu cảm hay dung mạo của hắn. Bộ y phục trang trọng ấy càng tôn thêm vẻ uy nghiêm, không giận tự uy, chỉ cần nhìn thoáng qua cũng khiến người ta sinh lòng áp lực.

Tống Hành chưa bao giờ ăn mặc như vậy trước mặt Thi Yến Vi. Mỗi lần đến tìm, hắn đều thay thường phục và búi tóc gọn gàng, có lẽ vì sợ nàng sẽ thêm phần sợ hãi và kháng cự, khó lòng thích ứng được.

Đôi mắt trong veo của Thi Yến Vi chỉ lướt qua người hắn, dừng lại trên bộ cổn miện đế vương mới tinh, rồi chẳng còn hứng thú nhìn thêm. [1]

[1][1] Cổn Miện (袞冕), hay Miện phục (冕服) là lễ phục cao cấp nhất dành cho nam giới ở Đông Á cổ đại. Nó chủ yếu bao gồm “quan” (冠, vương miện), “thượng y” (上衣, áo khoác, thường là màu đen), “hạ thường”(下裳, váy dưới, màu đỏ nhạt), cũng như các thành phần pha phụ kiện khác. Nguồn
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 71: Rời đi



Mọi người lục tục rời đi, trong điện chỉ còn lại vài người bọn họ.

Dù có Thái hoàng thái hậu ở bên, Tống Hành cũng không thể kiềm chế cơn giận trong lòng. Hắn hất mạnh tay của Trương nội thị ra, gầm lên một tiếng, quát y cút đi.

Trương nội thị chưa từng thấy Tống Hành nổi giận đến mức này, sợ đến mức hai chân mềm oặt. Thái hoàng thái hậu thấy vậy, lập tức ra hiệu cho hắn lui xuống.

Nhưng chưa kịp bước được mấy bước, Tống Hành đã từ trên đài lao xuống, ba bước gộp thành hai, tiến thẳng về phía Thẩm Kính An và Thi Yến Vi.

“Nhị lang! Dừng tay! Cháu thật sự muốn vì một nữ nhân mà mê muội đến vậy sao?!” Thái hoàng thái hậu hốt hoảng kêu lên. Đúng lúc hai nước đang đàm phán hòa bình, sao có thể giết sứ giả nước Ngụy? Bà sốt ruột can ngăn, đến mức quên gọi hắn là “Thánh thượng”, chỉ biết dùng cách xưng hô như khi còn ở Thái Nguyên, hy vọng có thể kéo hắn tỉnh lại.

Nhưng trong đầu Tống Hành chỉ có ý niệm g**t ch*t Thẩm Kính An, không để Thi Yến Vi rời khỏi hắn. Lời của Thái hoàng thái hậu toàn toàn bị hắn phớt lờ.

Thi Yến Vi thấy hắn càng lúc càng gần, không kịp nghĩ ngợi nhiều, nàng chỉ biết rằng nàng không thể chịu đựng thêm một giây phút nào ở lại Tử Vi Thành này hay bên cạnh Tống Hành nữa. Nàng dồn hết can đảm, bất chấp tất cả, chắn trước Thẩm Kính An.

“Tống Hành, nếu ngươi muốn giết a cữu của ta, thì hãy giết ta trước! A cữu là người thân duy nhất trên đời này đối xử tốt với ta. Nếu hôm nay người chết dưới tay ngươi, ta nhất định sẽ không sống một mình!” Vừa nói, nàng vừa rút chiếc trâm vàng trên tóc, không chút do dự kề sát vào cổ mình.

Tống Hành hai mắt đỏ ngầu, vẻ mặt mất kiểm soát. Dù thấy Thi Yến Vi lấy mạng uy h**p, hắn vẫn không lùi bước, tay siết chặt thanh kiếm, cất giọng khàn đặc: “Âm Nương, tránh ra! Trẫm không muốn làm tổn thương nàng, đừng ép trẫm!”

Đã bước đến nước này, không thể quay đầu lại. Nếu Vũ An hầu thực sự chết, Tống Hành nhất định sẽ nổi giận với nàng vì đã nhận Thẩm Kính An, chứ đừng nói đến việc tuân thủ ước hẹn năm năm. Thay vì chết mòn trong thâm cung, chết ngay bây giờ có lẽ chính là sự giải thoát.

Đầu trâm đã đâm vào da thịt, máu rỉ ra từng giọt. Thi Yến Vi kiên quyết nói: “Cậu ấy chết, ta cũng chết! Tống Hành, ta nói được làm được!”

Máu đỏ tươi k*ch th*ch thị giác của Tống Hành, lý trí của hắn dần quay lại. Trái tim như bị siết chặt, hắn nghiến răng nhịn đau, cao giọng chất vấn nàng: “Nàng hận trẫm đến vậy sao, chỉ muốn rời xa trẫm?”

Thi Yến Vi nhìn thẳng vào mắt hắn, lạnh lùng đáp: “Đúng! Ta hận ngươi, hận đến mức không muốn nhìn thêm một lần nào nữa!”

Lời nói như lưỡi dao vô hình, từng nhát cứa rách lòng hắn, khiến hắn đau đớn khôn nguôi.

Kiếm trong tay rơi xuống đất, phát ra âm thanh vang dội.

Cơ thể Tống Hành như mất hết sức lực, mắt ánh lên vẻ u ám, gần như dốc toàn bộ sinh lực để cầu xin: “Âm Nương, đừng tự làm tổn thương mình. Trẫm không giết hắn, không giết hắn nữa.”

Tống Hành khàn giọng, đôi mắt ánh lệ. Thi Yến Vi nhìn thấy sự đau đớn trong mắt hắn, từ từ buông trâm, lùi lại đứng cạnh Thẩm Kính An.

Thái hoàng thái hậu đau lòng nhìn đứa cháu mà bà luôn tự hào nay phủ phục trước gấu váy của một nữ nhân. Bà thầm hối hận, giá như biết trước thế này, bà đã không giữ nữ nhân họ Dương ấy lại phủ, chỉ đưa chút bạc rồi tiễn đi là xong.

Giờ hối thì cũng đã muộn, chỉ còn cách khuyên nhủ Nhị lang buông tay.

“Nhị lang, nàng ta không còn ý với con. Dù con có cưỡng cầu thế nào cũng vô ích. Chi bằng để nàng theo Võ An hầu rời đi.”

Lời vừa dứt, Tống Hành im lặng hồi lâu, mãi sau mới lên tiếng, yêu cầu Thái hoàng thái hậu và Thẩm Kính An rời khỏi điện.

Thẩm Kính An lo lắng, dù thể nào cũng không thể yên tâm khi nàng ở lại với một kẻ đang phát cuồng, dùng ngữ khí kiên định nói: “Nhị nương, a cữu sẽ không để cháu ở đây một mình.”

Có lẽ vì mối dây thân tình còn sót lại từ tiền kiếp, chỉ mới gặp một lần mà nàng đã cảm thấy thân thiết, không rõ vì sao lại tin tưởng y. Thi Yến Vi bình thản trấn an y: “A cữu yên tâm. Nếu hắn thực sự muốn hại cháu, vừa rồi đã không buông kiếm. Cháu sẽ nói chuyện với hắn rồi ra ngay, sẽ không sao đâu.”

Thẩm Kính An nghe vậy nhưng vẫn không yên tâm, đứng lặng tại chỗ, ngập ngừng.

Thi Yến Vi ngoảnh lại nhìn y, khẽ mỉm cười, giọng điệu điềm tĩnh: “A cữu yên tâm, cháu sẽ không sao đâu. Lần này người hãy tin cháu.”

Biết không lay chuyển được nàng, Thẩm Kính An đành thở dài nhượng bộ, dịu giọng: “Được, a cữu sẽ chờ ở ngoài điện. Nếu có chuyện gì, cứ lớn tiếng gọi, ta sẽ lập tức vào. A cữu từng vào sinh ra tử, không phải người dễ dàng khuất phục.”

Thi Yến Vi gật đầu, rồi quay lại nhìn Tống Hành.

Hắn có vẻ như đã chờ quá lâu, không còn kiên nhẫn nữa. Vừa thấy Thẩm Kính An và Thái hoàng thái hậu rời khỏi, hắn liền kéo Thi Yến Vi vào lòng, tựa cằm lên mái tóc mềm mại của nàng.

“Âm Nương, đêm đó nàng đã hứa với trẫm, rằng khi chưa đủ năm năm, nàng sẽ không rời xa trẫm. Trẫm giữ lời, không còn giam cầm nàng trong cung, để nàng làm nữ quan, tự dùng đôi tay mình kiếm sống, không để ai biết quan hệ giữa nàng và trẫm, cũng chưa từng ép nàng phải sinh con. Vậy mà sao nàng nỡ bội ước, chưa tròn năm năm đã muốn rời bỏ trẫm? Nàng không thể làm tổn thương trẫm như vậy.”

Thi Yến Vi không vùng vẫy, chỉ khẽ nghiêng đầu, tránh khỏi cằm hắn, ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt hắn, lời lẽ sắc bén:

“Muốn nói đến bội ước, chẳng phải chính Thánh thượng là người đã phá vỡ ước định ba năm giữa chúng ta trước sao? Ta làm vậy, cũng chỉ là đáp trả lại mà thôi.”

“Đừng nói là năm năm, dù là mười năm, hai mươi năm hay ba mươi năm, ta cũng không bao giờ tha thứ cho người, càng không thể yêu người. Trong lòng ta, người mãi mãi không thể sánh bằng dù chỉ một góc của Trần Nhượng!”

Nghe những lời này, lòng Tống Hành đau như dao cắt. Không biết từ bao giờ, nàng đã chiếm trọn trái tim hắn, chi phối cảm xúc hắn dễ như trở bàn tay. Điều đó không đơn thuần chỉ vì hắn thích nàng mà có thể giải thích được.

Trong thoáng chốc, chữ “yêu” hiện lên trong tâm trí hắn.

Hắn đã yêu nàng rồi sao? Không, hắn không thể có thứ tình cảm đó. Không, hắn không thể có thứ tình cảm đó. Đó là điều mà kẻ phàm tục và ngu muội mới theo đuổi. Hắn là quân vương của một nước, tuyệt đối không thể chứa chấp thứ tình cảm yếu mềm và phiền toái này.

Không thể thừa nhận, không dám thừa nhận. Tống Hành đau đớn nhắm chặt mắt, lông mày nhíu chặt như bị một cơn đau quặn thắt bao trùm.

Thi Yến Vi nhìn ra nguồn cơn đau khổ của hắn, không chút mềm lòng, lạnh lùng đâm thêm nhát dao: “Tống Hành, người lộ ra vẻ mặt đau khổ như vậy, chẳng lẽ là vì người đã yêu ta rồi sao? Người yêu chính con chim nhỏ mà người từng nuôi dưỡng, yêu người đàn bà mà người vẫn coi là nữ gian chuyên lừa đảo!”

“Nhưng phải làm sao đây? Nàng ấy không chỉ là em ruột ân nhân cứu mạng của em trai người, lại là cháu ngoại của kẻ thù giết con của hoàng cô người…”

Nàng còn chưa dứt lời, Tống Hành không thể kìm nén nỗi đau trong lòng, hai tay siết chặt thành nắm đấm, gân xanh nổi lên, giận dữ gầm lên: “Dương Sở Âm, nàng câm miệng cho trẫm!”

Thi Yến Vi hoàn toàn thờ ơ trước cơn thịnh nộ và sự bất lực của hắn, đưa tay vỗ nhẹ vào mặt hắn đầy khinh bỉ, ánh mắt như đang nhìn một vật thể nực cười, liên tục truy hỏi hắn: “Người là hoàng đế nước Triệu, còn a cữu của nàng ấy là Vũ An hầu nước Ngụy. Giữa hai người là thù nước hận nhà. Đến bước này rồi, người vẫn còn vọng tưởng giữ nàng ấy lại, mong nàng ấy cũng sẽ yêu người sao?”

Từng câu từng chữ của nàng đều chạm vào nỗi đau của hắn, buộc hắn đối diện với chữ “yêu” mà hắn luôn né tránh.

Nàng sẽ không thích hắn, càng không yêu hắn. Vậy thì tại sao hắn phải quỵ lụy như một con chó vẫy đuôi cầu xin nàng? Dù thế nào đi nữa, khi năm năm kết thúc, nàng cũng sẽ rời xa hắn.

Chi bằng thả nàng ra, cũng là giải thoát cho chính mình.

Là vua một nước, sao có thể vướng bận vào tình ái nam nữ? Hắn nên cưới một hoàng hậu hiền lương thục đức, chiêu nạp các quý nữ thế tộc làm phi, con cháu đầy đàn.

Hắn nhất định sẽ làm tốt.

Sợ bản thân hối hận, Tống Hành không dám nhìn nàng thêm dù chỉ một cái. Khuôn mặt u ám, giọng điệu khàn khàn: “Cút đi. Từ nay về sau, trẫm không muốn gặp lại nàng nữa.”

Không gặp lại nàng nữa. Thi Yến Vi trong lòng phấn khởi nhưng lại nghi ngờ mình nghe lầm, không dám lộ chút vui mừng nào, chỉ khẽ hỏi lại: “Người bằng lòng để ta rời khỏi nước Triệu rồi sao?”

Tống Hành quay lưng, không nói thêm lời nào.

Không phủ nhận chính là ngầm đồng ý. Thi Yến Vi lo sợ hắn sẽ đổi ý, không dám dây dưa mà cố gắng giữ bình tĩnh, nhẹ bước rời khỏi.

Bên ngoài, màn đêm đã buông sâu. Thẩm Kính An đứng khoanh tay dưới mái hiên.

Nghe tiếng cửa điện mở, y lập tức quay lại nhìn.

“A cữu.” Thi Yến Vi khẽ gọi y.

Nhìn nữ lang trước mắt với dung nhan rực rỡ mà đoan trang, y cảm thấy nàng đã khác đi so với khi còn nhỏ. Dù nét mặt không thay đổi nhiều nhưng thần thái đã trưởng thành hơn, càng giống a tỷ khi ở ngưỡng đôi mươi.

Thẩm Kính An bước đi bên nàng, chờ khi rời khỏi Điện Cam Lộ một đoạn mới mở miệng hỏi: “Hắn có đồng ý để cháu rời đi không?”

Thi Yến Vi khẽ gật đầu: “Dạ, hắn đồng ý rồi.”

Thẩm Kính An cuối cùng cũng buông được tảng đá trong lòng, thở ra một hơi nhẹ nhõm, trầm ngâm một lát rồi nói tiếp: “Chỉ cần hắn đồng ý là tốt rồi. A cữu vốn nghĩ sự tình không dễ dàng như vậy. Lũ ở Đại Vận Hà đã rút, để tránh đêm dài lắm mộng, khi hòa đàm kết thúc, ta sẽ không ghé Văn Thủy thăm a nương và a huynh của cháu nữa mà trực tiếp lên thuyền ở bến tàu phía nam, theo đường thủy để đến Biện Châu.”

Thi Yến Vi nhẹ nhàng đáp: “Mọi chuyện đã có nguyên do, a nương và a huynh ở dưới suối vàng biết rõ chắc chắn sẽ không trách cháu và a cữu.”

Thẩm Kính An khẽ gật đầu: “Ta đã lập bài vị của họ tại Biện Châu. Đến nơi, ta sẽ dẫn Nhị nương đi thắp hương bái tế.”

Thi Yến Vi nghe vậy, lại càng chân thành cảm tạ: “Đa tạ a cữu. Nếu không nhờ a cữu cứu thoát, Nhị nương thực sự không biết phải thoát khỏi hắn thế nào.”

Chữ “hắn” nàng vừa nhắc đến, không cần nói cũng rõ là ai.

Thẩm Kính An cảm thấy đau lòng, giọng hạ thấp: “Hắn đối xử với cháu…” Vừa thốt ra ba chữ liền cảm thấy không ổn, như thể xát muối vào vết thương của Nhị nương, bèn nuốt lời lại, đổi giọng an ủi: “Mọi chuyện đều đã qua. Những điều không vui trong quá khứ không cần nhắc lại. Sau này, a cữu nhất định bảo vệ Nhị nương, để cháu một đời yên ổn, năm tháng vô lo.”

Thi Yến Vi lặng người. Đã bao lâu rồi nàng chưa cảm nhận được sự ấm áp từ người thân? Nghĩ lại, dường như đã quá lâu rồi. Đến nơi này, bất giác đã ba năm, thân thể này cùng linh hồn nàng trải qua hơn một ngàn đêm ngày.

Từ mười tám đến hai mốt tuổi, vì người đàn ông đó, nàng đã bỏ lỡ và đánh mất quá nhiều.

Ánh trăng thanh lạnh chiếu lên con đường nhỏ bằng đá. Thi Yến Vi ngước mắt nhìn vầng trăng sáng vằng vặc trên cao, chợt nhớ tới công chúa Tuyên Thành Lý Lệnh Nghi đang ẩn cư ở núi Kính Đình, bèn hỏi: “A cữu, từ Biện Châu đến Tuyên Châu phải mất bao lâu?”

Nghe đến hai chữ “Tuyên Châu”, Thẩm Kính An thoáng nghĩ đến nữ tử khí chất thanh tao như trúc ấy, trong lòng hơi xao động, chậm rãi đáp: “Nếu cưỡi ngựa hết sức thì mất khoảng mười ngày; nếu đi xe ngựa, phải mất gần hai mươi ngày.”

“Nhị nương hỏi vậy, có phải muốn đến Tuyên Châu?”

Thi Yến Vi không trả lời ngay, chỉ thành thật nói: “Cháu muốn gặp công chúa Tuyên Thành ở núi Kính Đình.”

Nghe vậy, Thẩm Kính An không khỏi nghi hoặc. Công chúa đồng tuổi với hắn, lớn hơn Nhị nương mười một tuổi, chỉ từng tu đạo ở Trường An và Tuyên Châu, trong khi Nhị nương lớn lên ở Văn Thủy, sau lại được đưa đến Thái Nguyên. Sao nàng có thể biết công chúa?

“Nhị nương quen biết công chúa ư?” Thẩm Kính An hỏi.

Thi Yến Vi lắc đầu: “Không phải quen, mà là cháu muốn kết giao.”

Thẩm Kính An nghe vậy, lòng chợt dâng lên một cơn phẫn nộ. Nàng bị kẻ đó bức đến tuyệt vọng, liệu có ý định noi gương công chúa, ẩn cư tu đạo để tránh thế sự?

Cảm giác ấy khiến y hận không thể lập tức g**t ch*t Tống Hành để đòi lại công bằng cho Nhị nương.

Thấy a cữu trầm mặc, Thi Yến Vi lo rằng y hiểu nhầm, vội giải thích: “A cữu, cháu không có ý lên núi tu hành, chỉ là nghe được câu chuyện về công chúa Tuyên Thành, một nữ tử kỳ tài khiến người người kính phục, cháu ngưỡng mộ nàng nên mới muốn kết giao thôi.”

“Thì ra là vậy. Chuyện này không khó, ta và công chúa Tuyên Thành có chút giao tình. Nếu Nhị nương muốn gặp, đến Biện Châu, ta sẽ viết thư giới thiệu và cho người đưa cháu đến Tuyên Châu. Công chúa thấy thư, tất sẽ gặp cháu.”

Thi Yến Vi chân thành cảm tạ, định nói lời cảm ơn thì Thẩm Kính An đã ngắt lời: “Nhị nương hà tất phải khách sáo như thế. Trưởng bối quan tâm hậu bối vốn là lẽ thường tình. Cháu không cần đa lễ, nói nhiều lại khiến hai ta như người xa lạ.”

Thi Yến Vi nghe xong chỉ khẽ mỉm cười, gật đầu đáp lại.

Bất tri bất giác, đã tới bên ngoài cục Thượng nghi, nàng nghĩ trong này là nơi ở của các nữ quan, không tiện mời y vào ngồi một lát, bèn nói: “Cháu đến rồi, trời cũng không còn sớm, a cữu cũng nên mau chóng quay về nghỉ ngơi đi.”

Thẩm Kính An đáp: “Được, ta nhìn cháu vào rồi sẽ đi.”

Thi Yến Vi chắp tay hành lễ từ biệt, quay người bước vào cục Thượng nghi. Vừa đi nàng vừa nghĩ, ngày khác nhất định phải hỏi xem liệu a cữu đã thành thân chưa, trong nhà có đứa em họ nào đáng yêu như Lâm Doanh không để nàng chơi cùng.

Đêm ấy, tâm trạng nàng khoan khoái nhưng vẫn thấp thỏm lo rằng Tống Hành liệu có rút lại ý định hay không. Hai loại cảm xúc đan xen khiến nàng trằn trọc khó ngủ, mãi đến giờ Tý (~23h) mới mơ màng chìm vào giấc mộng.

Sáng hôm sau, vì tinh thần trách nhiệm, nàng vẫn dậy thật sớm xử lý những công vụ cần thiết. Đến chiều tối, cơm nước xong xuôi, nàng lại chong đèn thức khuya, biên soạn một quyển tập để hướng dẫn công việc từ những kinh nghiệm đã tích lũy trong mấy tháng qua, giúp người kế nhiệm thuận tiện nắm bắt.

Ba ngày sau, hai nước Triệu và Ngụy đạt được thỏa thuận, ký kết hiệp ước.

Buổi chiều hôm ấy, Thẩm Kính An cho người báo tin nàng rằng sáng mai giờ Thìn (~7h) sẽ rời thành Tử Vi để quay về Biện Châu.

Trong ba ngày ấy, Tống Hành chưa từng xuất hiện trước mặt nàng, khiến nỗi bất an trong lòng nàng cũng dần tan biến. Khi nhận được tin chắc chắn sẽ rời đi vào ngày mai, nàng vui mừng khôn xiết, gần như không giấu nổi nét hoan hỷ trên mặt.

Diêu Tư tán biết tin Thi Yến Vi tìm được thân nhân, sắp rời đi, bèn tới chúc mừng. Thi Yến Vi tặng nàng một số vật dụng, cùng uống hai chén trà rồi tiễn nàng ra đến ngoài viện.

Bên gốc quế nơi bức tường phía tây, một bóng dáng cao lớn chầm chậm bước ra dưới ánh trăng. Khi Thi Yến Vi vừa khép cửa liền bị hắn ôm chặt ngang lưng.

Lưng nàng áp sát vào lồng ngực hắn, không cần quay đầu cũng biết người tới là ai.

Không phải là hắn thay đổi quyết định rồi đấy chứ? Một ý nghĩ như sét đánh ngang tai, nàng kinh hãi mở to mắt, định vùng vẫy thoát khỏi vòng tay hắn để tranh luận.

Đối phương như đoán được ý định của nàng, bàn tay to lớn ôm chặt lấy nàng, cúi đầu sát tai, giọng trầm thấp: “Âm Nương, nếu muốn ngày mai thuận lợi rời khỏi cổng cung, đêm nay ngoan ngoãn nghe lời, đừng chọc giận trẫm.”

Dứt lời, không để nàng phản ứng, hắn bế ngang nàng lên, đạp cửa bước vào, đi thẳng tới điện Triều Nguyên.

Thi Yến Vi hiểu rõ tính tình hắn, dù trong lòng tràn ngập oán hận nhưng vì ngày mai được rời đi, nàng đành cắn răng nhẫn nhịn, không dám kêu la.

Đây là Triệu cung của hắn, dù có gọi người tới thì nhục nhã cũng chỉ thuộc về nàng.

Tống Hành không kiên nhẫn bế nàng vào nội điện, vừa nhìn thấy Trương nội thị và những người khác, hắn bước nhanh vào tiền điện nơi phê tấu chương và bàn chuyện quốc sự, lớn tiếng quát: “Cút hết ra ngoài điện!”

Trương nội thị vội vàng đáp lời, cúi người thận trọng khép cửa lại, dẫn theo mọi người rời ra ngoài cổng cung.

Thi Yến Vi biết rõ hắn muốn làm gì, chỉ nằm bất động như một con cá chết, mặc hắn định đoạt.

Tống Hành quét sạch đồ trên bàn xuống đất, đặt nàng ngồi lên mép bàn.

Mặc dù gấp gáp nhưng hắn vẫn cúi xuống để thỏa cơn khát trước.

Thân thể Thi Yến Vi mềm nhũn, hai tay nhỏ bé níu chặt lấy vạt áo trên vai hắn, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi.

Đôi mắt từ khi nào đã phủ lên một làn sương mờ, nàng c*n m** d***, không nói một lời.

Tống Hành dường như không bận tâm nàng có nói hay không, sắc mặt lạnh nhạt, cúi đầu c** th*t l*ng vàng điệp tiệp, áo bào rộng thùng thình rơi xuống đất, áp sát nàng, ghim chặt nàng lại.

Giữa đầu hạ, không khí có phần oi bức.

Mồ hôi trên người hắn như hơi nước bốc lên, nóng bức khó chịu.

Thi Yến Vi cũng toát nhẹ mồ hôi.

Lớp áo lụa mỏng manh thấm ướt mồ hôi, bám sát vào làn da, càng tôn lên vóc dáng yêu kiều lả lướt của nàng.

Tống Hành nhìn nàng chăm chú, vài hơi sau, lớp vải mềm rơi xuống như cánh hoa, yên lặng nằm trên nền gạch xanh thẫm.

Mép bàn nơi bàn tay nàng áp lên, nhờ nhiệt độ cơ thể mà ấm dần.

Tâm trí trống rỗng, không nghĩ nổi gì nữa.

Ngay cả hàng mi dài cong vút cũng run run.

Hai người đều bướng bỉnh, không để phát ra bất kỳ tiếng động nào.

Chỉ còn tiếng gió và tiếng nước ngoài khung cửa sổ.

Tống Hành ôm chặt nàng, đắm mình trong sự quyến luyến, rồi bất ngờ bế nàng lên, đi tới bên cửa sổ, nhìn ánh trăng cùng hai bóng hình in trên đó.

Đầu óc Thi Yến Vi dần tỉnh táo, lại bắt đầu hoài nghi không biết Tống Hành có hối hận hay không. Tuy nhiên, hắn chẳng để nàng có quá nhiều thời gian suy nghĩ, cảm giác mệt mỏi khiến đầu óc trống rỗng lại một lần nữa ùa về.

Khi trước tới đây để đóng ngọc tỷ, Thi Yến Vi chưa từng cảm thấy tiền điện của điện Triều Nguyên lớn đến vậy. Giờ đây, từng bước chân Tống Hành đo lường, chỉ cảm thấy đi hết một vòng sao lại dài đến thế.

Nàng không biết hắn đã đi bao lâu, cũng không rõ bản thân trải qua bao lần từ tỉnh táo đến mơ hồ, rồi từ mơ hồ lại tỉnh táo.

Chiếc áo hoàng bào dài màu vàng sáng đã bị hắn ném xuống thảm, ép nàng phải quỳ lên đó.

Tống Hành không thể thấy rõ mặt nàng, chỉ cảm nhận nàng tựa như viên nam châu thuần khiết hiếm có, chói lọi đến mức khiến hắn mặc cảm, tự ti.

Nàng là nữ lang kiên cường, thiện lương nhất hắn từng gặp, nhưng sự kiên cường ấy chỉ dành để đối đầu hắn, còn sự thiện lương kia lại chỉ dành cho người khác. Ngay cả con mèo nhỏ nàng chỉ mới gặp một lần, nàng cũng có thể nở nụ cười dịu dàng, kiên nhẫn đối xử.

Nàng có thể nhân từ với vạn vật trên thế gian, nhưng lại chẳng dành nổi chút từ bi nào cho hắn.

Dù tấm thảm mềm mại đến đâu, hắn vẫn sợ làm đau đầu gối nàng, không bao lâu sau, hắn bế nàng lên, đặt nàng ngồi xuống giường La Hán trước bình phong.

Thi Yến Vi đã mệt lả, tựa cằm vào hõm vai hắn. Tống Hành cúi đầu nhìn đầu gối nàng, quả nhiên đỏ ửng, nổi bật trên làn da trắng muốt.

Đến tận canh ba, (~23h) Tống Hành mới buông tha nàng. Sau khi chỉnh trang y phục, hắn bế nàng đến phòng tắm, đặt nàng vào thùng nước ấm.

Hắn đã sai lão tự nhân Trương chuẩn bị sẵn y phục từ sớm. Tống Hành đích thân giúp nàng rửa sạch, lấy cao dưỡng bôi lên làn da nàng. Dù hiện tại ít khi hắn làm nàng đau, nhưng vì muốn nàng thoải mái nên hắn vẫn có thói quen làm vậy.

Mát lạnh và dễ chịu. Thi Yến Vi vốn quen với việc bôi thuốc từ trước nên cũng không từ chối.

Đến khi hắn giúp nàng mặc đồ xong, trời đã gần sang giờ Tý. (~23h)

Biết nàng khó có thể tự đi về, hắn định cõng nàng, cúi người xuống trước mặt nàng.

Đôi chân Thi Yến Vi như nhũn ra, không muốn động đậy.

Người phía sau chờ mãi không thấy động tĩnh, Tống Hành hiểu ý, bế nàng về thẳng nơi ở trong cục Thượng Nghi.

Đêm đã khuya, bốn bề tĩnh lặng, chỉ còn tiếng bước chân của hắn và tiếng côn trùng rả rích.

Thi Yến Vi buồn ngủ, hai mí mắt cứ dính chặt vào nhau.

Nàng ngủ chập chờn được chừng nửa khắc, sau đó cảm nhận được mình được đặt vào trong chăn gấm. Nàng bỗng tỉnh giấc, hé mắt ra liền nghe tiếng Tống Hành thì thầm: “Trẫm sẽ quên nàng.”

Đây là câu thứ hai hắn nói với nàng tối nay.

Thi Yến Vi hy vọng đó là câu cuối cùng, bèn đáp gọn một chữ: “Được.”

Tống Hành sẽ buông tha nàng.

Lòng nàng nhẹ bẫng, không còn nặng nề phiền muộn nữa. Cộng thêm việc vừa hao tổn thể lực, vừa đặt lưng xuống giường Thi Yến Vi đã chìm luôn vào giấc ngủ sâu.

Trăng lặn biển xanh, mặt trời mọc từ hướng đông.

Ánh bình minh dát lên chân trời một màu hoàng kim rực rỡ.

Thi Yến Vi chỉnh lại y phục, dù đôi chân còn đau nhức, nàng vẫn cố giữ dáng đi bình thường, nên chẳng bao lâu mồ hôi đã rịn đầy sau lưng.

Thẩm Kính An phái tỳ nữ đến đón nàng.

Ngoài thành Tử Vi, Thẩm Kính An ngồi trên lưng ngựa cao lớn, tỳ nữ đỡ nàng lên xe, ngăn cách hoàn toàn với thế giới bên ngoài.

Tống Hành cùng thái hoàng thái hậu đến tiễn. Khi Thi Yến Vi lướt qua Thẩm Kính An, nàng nhận ra Tống Hành không hề liếc nhìn mình lấy một lần.

Không quan tâm họ nói gì bên ngoài, nàng chỉ mong mau chóng rời khỏi chiếc lồng giam khổng lồ này.

Chỉ một khắc sau, bánh xe bắt đầu lăn, đoàn người rầm rộn hướng về phía bến tàu nam thị.

Thái hoàng thái hậu vốn nghĩ Tống Hành sẽ đợi xe đi xa mới rời đi, không ngờ chỉ vài nhịp thở sau, hắn đã quay lưng bước đi, không ngoái lại, tựa như không hề lưu luyến nữ lang ngồi trên cỗ xe đó.

Thái hoàng thái hậu nghĩ, vậy là tốt nhất. Nếu Nhị lang không còn vướng bận gì nàng, có thể sớm ngày thành thân, lập hậu, kéo dài dòng dõi.

Nghĩ tới đây, những khúc mắc trong lòng Thái hoàng thái hậu dần được cởi bỏ, bà lên bộ liễn, khởi hành về cung.

Bến tàu phía nam.

Thi Yến Vi bước xuống xe ngựa, vén nhẹ tấm rèm của mũ che, nhìn ra ngoài. Hàng trăm con thuyền lớn nhỏ khác nhau neo đậu trên lòng sông rộng lớn của kênh đào. Con thuyền họ sắp lên có sức chứa đến hơn một trăm người.

Gió hè nhẹ nhàng thổi qua, làm tà áo lụa của nàng bay phất phơ. Thẩm Kính An xoay người xuống ngựa, bước lại gần nàng, ân cần hỏi liệu nàng có say sóng không.

Thi Yến Vi đáp: “Làm phiền a cữu bận tâm. Cháu không bị say sóng. Hai năm trước, cháu từng đi thuyền từ Đồng Quan đến Lạc Dương rồi.”

“Không say thì tốt.” Nói đến đây, y chợt nghĩ đến công chúa. Nàng hiếm khi ra ngoài, hầu như chỉ cưỡi ngựa hoặc ngồi xe, vì chính nàng đã nói rằng mình say sóng nặng. Lần đầu từ Đồng Quan đi thuyền đến Dương Châu, suýt chút nữa ói đến gầy sọp.

Đang suy nghĩ, thuyền phu bước tới báo rằng mọi thứ đã sẵn sàng, có thể lên thuyền.

Thẩm Kính An nhường Thi Yến Vi đi trước.

Nàng bước qua cầu thuyền lên boong, theo người dẫn đường vào trong khoang thuyền xem xét, sau đó ra đứng trên boong ngắm nhìn những ngọn núi xanh biếc nối dài ở đằng xa. Thi Yến Vi bỗng cảm thấy mọi thứ thật không chân thực.

Cuối cùng, nàng đã thoát khỏi tầm kiểm soát của Tống Hành, tìm lại tự do.

Sau khi sắp xếp xong xuôi mọi chuyện trên thuyền, Thẩm Kính An bước đến bên nàng, kể về cảnh sắc của thành Biện Châu.

Thi Yến Vi chỉ biết thành Biện Châu qua phim ảnh. Nghe Thẩm Kính An mô tả, lòng không khỏi trào dâng niềm mong chờ. Khi đến Biện Châu nghỉ ngơi vài hôm, nàng dự định sẽ đi tiếp đến Tuyên Châu.

Hai người đứng trò chuyện một lúc, thấy nắng càng lúc càng gay gắt, Thẩm Kính An khuyên nàng vào khoang thuyền nghỉ ngơi. Nếu muốn ngắm cảnh, đợi hoàng hôn rồi ra ngoài cũng không muộn.

Lúc ấy có thể ngắm mây đỏ rực trời, mặt trời lặn nhường chỗ cho vầng trăng lên cao, cảnh sắc ấy sẽ thật thú vị.

Bảy ngày sau, thuyền cập bến Biện Châu.

Thi Yến Vi đội mũ che, bước xuống thuyền, rồi lên xe ngựa đến Thẩm phủ.

Quý phủ của Thẩm Kính An là do Giang Tiều ban tặng, tuy diện tích không rộng bằng Tống phủ nhưng bởi vì Thẩm Kính An không thê không thiếp, cũng không có con cái, sống một mình nên dù rộng rãi thì vẫn mang cảm giác trống trải.

Dẫu có thêm Thi Yến Vi, phủ vẫn nhuốm một màu tịch mịch, quạnh hiu.

Thẩm Kính An không về phủ cùng nàng mà vào cung diện kiến Giang Tiều.

Tối đó, Giang Tiều mở yến tiệc đón gió tẩy trần trong cung, mừng Thẩm Kính An và đoàn sứ giả.

Giang Tiều có bốn con trai và hai con gái còn sống đến tuổi trưởng thành. Trưởng tử Giang Thịnh do nguyên phối Từ Hoàng hậu sinh ra nhưng yểu mệnh, đã qua đời từ sớm. Thứ tử Giang Hoằng là con của kế thất, Hoàng hậu Trịnh thị. Tam tử Giang Tầm và tứ tử Giang Hiên đều do sủng phi Hứa Quý phi hạ sinh.

Trưởng nữ Giang Viên và thứ nữ Giang Linh lại do Trịnh hoàng hậu và thiếp thất Vi Lệ phi sinh ra.

Dẫu Giang Tiêu có tài mưu lược, giỏi thu phục nhân tài nhưng lại có bản tính háo sắc. Trong những năm Thẩm Kính An theo ông ta, đã chứng kiến không dưới mười thiếp thất vẻ ngoài mạo mỹ được nạp vào phủ, bất kể là khuê nữ, nữ tử từng hòa ly hay góa bụa.

Diện mạo của Nhị nương giống mẹ nàng, vốn đã nổi bật giữa đám mỹ nhân thông thường, huống chi trong buổi dạ yến hôm nay, sự chú ý sẽ là khó tránh khỏi. Do đó, khi Giang Tiều hỏi sao cháu gái không đến, Thẩm Kính An viện cớ rằng nàng lưu lạc ở bên ngoài nhiều năm, ngại giao tiếp, chỉ thích ở một mình, không thích ra ngoài.

Giang Tiều lại hỏi nàng đã từng gả chồng chưa.

Thẩm Kính An đáp rằng nhan sắc nàng không nổi trội, lại không nơi nương tựa, nên chưa có mối mai, đến hai mươi vẫn chưa xuất giá.

Nghe vậy, Giang Tiều không gặng hỏi thêm, quay sang uống rượu với Vi Lệ phi.

Bốn con trai Giang Tiều theo thứ tự ngồi dưới tay trái ông ta, thái tử Giang Thịnh, Khang vương Giang Hoằng, và Ngô vương Giang Hiên đều mang theo chính thất. Chỉ Hạ vương Giang Tầm dẫn theo vương phi họ Vương và nhũ nhân Phùng thị.

Phùng thị hoa dung nguyệt mạo, vóc dáng thướt tha, rất được Giang Tầm yêu mến. Chưa đầy nửa năm vào vương phủ, nàng gần như chiếm trọn sự sủng ái, ngay cả Hạ Vương phi cũng không làm gì được.

Thẩm Kính An không mấy hứng thú với yến tiệc, uống vài ly rượu rồi cáo lui, mãi đến khi yến tiệc sắp kết thúc mới quay lại.

Sau khi xuất cung, y cưỡi ngựa trở về phủ, gọi bà mụ đến hỏi thăm thì được biết Nhị nương mệt mỏi sau chuyến đi, đã nghỉ ngơi từ sớm.

Y thưởng bạc, dặn phải chăm sóc nàng chu đáo. Đêm đó viết thư, sáng hôm sau cử người đến đô đốc phủ lo giấy tờ cho chuyến đi Tuyên Châu.

Vì vắng mặt ở Biện Châu hơn hai mươi ngày, công vụ tích tụ khá nhiều. Bận rộn xử lý suốt đêm, khi tiếng trống canh vang lên thì đã là canh hai. (~21h)

Thi Yến Vi ở quý phủ nhàn nhã không việc gì làm, nên thường trò chuyện cùng các bà mụ, tỳ nữ hoặc lấy cờ song lục ra, tỉ thí cùng người khác.

Lại một ngày nữa trôi qua, công vụ giảm bớt, Thẩm Kính An về sớm, hỏi nàng đã quen với cuộc sống mới ở phủ chưa.

Thi Yến Vi đáp rằng mọi thứ đều tốt, chỉ là cả ngày quanh quẩn trong phủ nên có chút buồn chán.

“Nhị nương có biết cưỡi ngựa không?” Thẩm Kính An hỏi.

“Ngày trước, cháu từng học cưỡi ngựa ở Tống phủ.”

“Biết cưỡi ngựa thì dễ rồi. Ra ngoại thành dạo chơi một ngày cũng tốt. Dạo gần đây bận rộn nhiều việc, chưa kịp chăm lo cho cháu, mai ta sẽ cử vài thị vệ võ nghệ cao cường theo cháu ra ngoài, ta cũng yên tâm hơn. Còn nữa, trong thành Biện Châu lắm kẻ ăn chơi ph*ng đ*ng, ta sợ chúng làm cháu kinh động. Khi ra ngoài, Nhị nương nhớ đội mũ che.”

Thi Yến Vi liền gật đầu, đáp: “Làm phiền a cữu nhọc lòng, Nhị nương biết rồi ạ.”

Thẩm Kính An nhấp một ngụm trà, rồi nói đến chuyện thông hành, dặn nàng kiên nhẫn chờ thêm ba đến năm ngày.

Thi Yến Vi cảm động trước sự tận tình của y, trong lòng càng thêm kính trọng, xem y như người thân thực sự.

“A cữu đã dùng bữa tối chưa?”

Thẩm Kính An đáp: “Chưa. Nếu Nhị nương cũng chưa ăn, thì cùng nhau dùng bữa đi.”

Thi Yến Vi không từ chối, Thẩm Kính An liền sai người tới phòng bếp truyền thiện.

Bốn ngày sau, Thi Yến Vi đã dạo quanh những nơi nhộn nhịp nhất trong thành Biện Châu. Đi cùng nàng là hai, ba tỳ nữ và bà mụ, phía sau còn có thị vệ giữ khoảng cách phù hợp, nên cũng không xảy ra sự cố hay nguy hiểm nào.

Chiều hôm ấy, Thẩm Kính An mang theo giấy thông hành đến gặp nàng.

Thi Yến Vi cầm tờ giấy trong tay, tim đập nhanh hơn. Nỗi mong chờ được gặp Lý Lệnh Nghi càng mãnh liệt, nàng không muốn chậm trễ thêm ngày nào nữa. Nàng nói rõ ý định sẽ rời Biện Châu vào sáng sớm hôm sau để đến Tuyên Châu.

Sự sốt sắng và nhiệt tình của nàng đối với công chúa dường như có phần quá mức. Mặc dù Thẩm Kính An không hiểu tại sao nàng lại vội vã như vậy, nhưng y cũng không hỏi thêm. Sau khi ngồi lại đôi chút, y rời khỏi viện của nàng.

Y gọi quản sự đến, sai chuẩn bị xe ngựa và tìm một phu xe đáng tin, dặn rằng sáng sớm hôm sau sẽ hộ tống nương tử đến Tuyên Châu.

Đêm đó, Thi Yến Vi thu dọn hành lý rồi đi nghỉ sớm.

Đúng giờ Mão hai khắc (~5h30), nàng dậy rửa mặt chải đầu.

Trịnh mụ trong viện tuổi đã cao, nên Thi Yến Vi không muốn phiền bà. Vì Thẩm Kính An kiên quyết yêu cầu nàng mang theo một người hầu cận, nàng chọn một tỳ nữ đồng niên tên là Úc Kim.

Trong lúc trò chuyện, nàng biết tên của Úc Kim là do Trịnh mụ đặt, lấy từ loài hoa có mùi hương thơm ngát là uất kim hương (hoa oải hương/lavender)

Tuyên Châu cách Biện Châu hơn một ngàn hai trăm dặm. Thi Yến Vi đi đường ban ngày, nghỉ ngơi ban đêm, lại phải để ngựa thư giãn giữa chặng, theo đúng nguyên tắc làm việc nghỉ ngơi kết hợp. Dù Thẩm Kính An dự tính hai mươi ngày, nàng vẫn mất đến hai mươi lăm, hai mươi sáu ngày mới tới nơi.

Hôm ấy, nàng nghỉ ngơi trong thành Tuyên Châu một ngày, hôm sau chuyển sang cưỡi ngựa tiến về núi Kính Đình ở ngoại thành.

Kể từ sau khi triều đại trước diệt vong, đạo quán nơi Lý Lệnh Nghi ở hiếm khi có người lui tới dâng hương. Tuy nhiên, nàng vẫn còn đủ tiền bạc nên không quá lo lắng về chuyện sinh kế.

Dùng xong bữa trưa, Lý Lệnh Nghi ngồi dưới giàn nho, vừa pha vừa thưởng trà. Bên cạnh nàng chỉ có một cung nhân đi theo từ khi xuất cung, tên là Vọng Tình.

“Thưa công chúa, có người ở ngoài đạo quán đưa thư tới.”

Lý Lệnh Nghi đưa tay nhận lấy phong thư, nhìn nét chữ trên phong bì, nàng nhận ra ngay đó là bút tích của Thẩm Kính An.

Mở thư ra xem, y đã tìm thấy cháu gái bị thất lạc. Nàng ấy đặc biệt từ Biện Châu ngàn dặm xa xôi tới đây, mong muốn gặp mặt công chúa. Đồng thời, y còn khẩn cầu nàng “thu nhận” cháu gái, xin phép để nàng được ở lại đạo quán thêm vài ngày.

Lý Lệnh Nghi khẽ mỉm cười, gấp lá thư lại cho vào phong bì, lấy chén trà đè lên. Sau đó, nàng đứng dậy, bước ra khỏi đạo quán…
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 72: Đáp án



Mùa hạ, tháng sáu, trời nóng bức, bầu trời xanh thẳm như được gột rửa, làn gió nhẹ thổi qua người, mang theo chút hơi nóng.

Thi Yến Vi đứng dưới gốc cây quế bên ngoài đạo quán tránh nắng. Đám thị vệ thì giữ khoảng cách xa gần, đứng chờ dưới bóng cây.

Cánh cửa gỗ “két” một tiếng mở ra, Thi Yến Vi nghe thấy liền bung chiếc ô giấy dầu, đứng chờ ngoài cửa.

Lý Lệnh Nghi bước ra, đập vào mắt là hình ảnh một nữ lang đang che ô hoa.

Trên chiếc ô vẽ vài nhành sen lá thanh tao, nét vẽ trong trẻo mà trang nhã.

Nữ lang dưới ô có gương mặt hồng hào, đôi môi đỏ thắm, dung nhan tú lệ, tựa như tiên nữ lạc trần, khiến người nhìn chẳng thể rời mắt.

Lúc này, nàng cũng đang tĩnh lặng quan sát Lý Lệnh Nghi.

Lý Lệnh Nghi đã ngoài ba mươi, song nhờ tâm tư tĩnh tại, ăn uống điều độ, sinh hoạt nề nếp, bảo dưỡng kỹ lưỡng nên thoạt nhìn chỉ như nữ tử đôi mươi. Gương mặt nàng tựa hoa hải đường chớm nở, đôi mày thanh thoát như ngọn núi xa, khí chất ôn hòa như lan, tao nhã như trúc, mang theo vẻ xuất trần thoát tục.

Ánh mắt hai người chạm nhau, Lý Lệnh Nghi mỉm cười dịu dàng, cất giọng ôn hòa:

“Nếu đã là cháu gái của Thẩm lang quân, cứ gọi ta là Lệnh Nghi.”

Nói xong, nàng mời Thi Yến Vi vào trong đạo quan.

Thi Yến Vi thoáng căng thẳng, nghe nàng nói, vội đáp một tiếng “được,” rồi quên cả việc hành lễ, lặng lẽ theo sau nàng tiến vào trong.

“Công… Lệnh Nghi, ta có chuyện muốn nói riêng với cô.” Thi Yến Vi liếc nhìn thị nữ Vọng Tình đứng bên cạnh nàng, rồi ra hiệu cho Úc Kim phía sau mình ngồi lại dưới giàn nho hóng mát.

Lý Lệnh Nghi sống ở đây nhiều năm, từng gặp không ít người. Nhưng dáng vẻ vừa hồi hộp vừa mong chờ như của Thi Yến Vi lại rất hiếm gặp, nụ cười trên môi càng thêm dịu dàng: “Được.”

Nói xong, nàng bảo Vọng Tình lui xuống rồi dẫn Thi Yến Vi vào phòng.

Sau khi khép cửa, Thi Yến Vi nghe rõ từng nhịp tim mình vang dội trong lồng ngực.

Nàng vừa xúc động vừa bối rối, ngồi xuống bên cạnh Lý Lệnh Nghi, khó nhọc thốt ra một câu: “Lệnh Nghi có biết câu “kỳ biến ngẫu bất biến” không?” [1]

[1]

[1] Phần này hình như là câu thường dùng để ghi nhớ công thức lượng giác. Đầy đủ là: “Kỳ biến ngẫu bất biến, dấu cách tử giai hoán”.

Lời vừa dứt, nụ cười trên mặt Lý Lệnh Nghi thoáng ngưng đọng, vẻ mặt trở nên nghiêm túc. Sau một lúc im lặng, nàng hỏi lại:

“Là một công thức lượng giác?”

Thi Yến Vi nghe thế, gần như chắc chắn rằng nàng cũng giống như mình, đều từ hiện đại xuyên không đến.

Cảm giác vui mừng khôn xiết khiến mắt nàng cay cay. Thi Yến Vi kìm nén cảm xúc, ánh mắt ngấn lệ: “Dù không nhớ rõ cách dùng, nhưng nhớ mang máng đó là công thức bổ trợ trong lượng giác.”

Lý Lệnh Nghi cũng chìm trong niềm vui bất ngờ, dù vậy nàng vẫn giữ vẻ điềm tĩnh, nhẹ giọng hỏi: “Mình vẫn chưa biết tên của bạn.”

Cách nàng hỏi không giống với người cổ đại, thay vì hỏi “Không biết nữ lang đây họ gì tên gì?”, nàng lại dùng cách hỏi của người hiện đại.

Thi Yến Vi cũng không dùng lối nói của người xưa nữa, sau một hồi chậm rãi đáp: “Trước kia là Thi Yến Vi, giờ gọi là Dương Sở Âm. Trước khi đến đây, Lệnh Nghi chắc cũng có tên khác nhỉ?”

Đã bao lâu rồi nàng chưa xưng tên ở thời hiện đại trước mặt người khác. Giật mình nhận ra, điều đó đã xảy ra từ rất lâu trước đây, lâu đến mức nàng gần như không còn nhớ nổi nữa.

Sau một thoáng ngẩn ngơ, Lý Lệnh Nghi gật đầu, chậm rãi đáp: “Trước đây, mình là Lương Thiển, giờ là Lý Lệnh Nghi.”

Lương Thiển. Một cái tên vừa đơn giản lại vừa dễ nghe.

Khi mới đến thế giới này, hẳn nàng ấy cũng giống như mình, mang trong lòng những cảm xúc cô độc, hoang mang và lạc lõng. Nghĩ đến đây, lòng Thi Yến Vi dấy lên cảm giác đồng điệu sâu sắc.

Dù quê quán, tỉnh thành có khác nhau, nhưng mối quan hệ giữa họ lúc này đã vượt qua cái gọi là đồng hương.

Trong xã hội phong kiến “ăn thịt người không nhả xương” này, việc gặp được một người giống mình, từng được giáo dục hiện đại, hơn nữa lại cùng giới tính, quả là niềm vui khó diễn tả bằng lời.

“Lương Thiển, sau này mình có thể gọi bạn là Thiển Thiển được không?”

Không hiểu sao, Thi Yến Vi không muốn gọi nàng là Lệnh Nghi. Nàng mơ hồ cảm thấy, nếu Lý Lệnh Nghi thực sự yêu thích thân phận công chúa, thì đã chẳng tu đạo lánh đời.

Đã nhiều năm Lý Lệnh Nghi không nghe ai gọi mình như thế, bất giác nhớ đến những người bạn thời hiện đại, từ bạn thân đến bạn cùng phòng đều thích gọi nàng bằng cái tên ấy. Vì thế, nàng không chút do dự mà đồng ý, giọng nói mang theo ý cười:

“Nếu bạn gọi mình như vậy, mình cũng sẽ gọi bạn là Vi Vi.”

Cảm giác chua xót vì những ký ức cũ theo cuộc trò chuyện nhẹ nhàng dần phai đi, Thi Yến Vi cũng bật cười: “Cũng được, nếu có ai hỏi thì cứ bảo là tên thân mật chúng mình đặt cho nhau.”

Đang nói chuyện, nàng bỗng nhớ đến những chuyện đã trải qua trước khi xuyên không, liền hỏi Lý Lệnh Nghi làm sao lại đến được nơi này.

Lý Lệnh Nghi đáp: “Mình mắc bệnh tim bẩm sinh phức tạp, năm hai mươi lăm tuổi đã không qua nổi lần phẫu thuật thứ hai. Sau khi đến đây, mình từng gặp một đạo trưởng bị què chân. Ông ấy nói với mình rằng mạng này là nhờ cha mẹ mình thành tâm hành thiện suốt hơn hai mươi năm mà có được. Thân phận công chúa trong mắt người nơi đây có lẽ là mệnh phú quý trời sinh, nhưng với người đến từ thời đại kinh tế tri thức như mình, thực ra mình chẳng ưa gì những lễ nghi ràng buộc, nam tôn nữ ti, tam cương ngũ thường… Dẫu có là công chúa cao quý, cũng chỉ là con chim bị nhốt trong lồng son dưới chế độ phụ quyền và phu quyền mà thôi.”

Câu chuyện dần trở nên nặng nề, Thi Yến Vi không ngờ nàng lại thổ lộ nhiều như thế. Ngực nàng thoáng nghẹn lại, không biết phải an ủi thế nào.

Thi Yến Vi còn đang lưỡng lự, lại nghe Lý Lệnh Nghi khẽ nói: “Mình đã đấu tranh với chính mình đủ lâu rồi. Mình thà sống thật với bản thân.”

“Câu nói này là điều mà mình đã nhận ra trước khi quyết định tu đạo, chọn lánh đời. Khi đó, mình từng nghĩ, có lẽ mình nên thuận theo số mệnh, gả cho người mà hoàng đế chỉ định, từ đó sống những ngày tháng phú quý, an nhàn nhưng vô nghĩa, để rồi kết thúc cuộc đời như vậy cũng được.”

“Dù cuộc sống hiện tại dù có phần thanh đạm, vẫn có thể xem là tự tại. Mình mệt thì có thể ngủ, đói thì ăn, buồn chán thì xuống núi dạo chợ, không còn như ngày xưa trong cung bị người ta kè kè suốt ngày, kiềm chế cả tính tình lẫn cử chỉ. Thỉnh thoảng nhớ đến người và chuyện ở hiện đại, không cần gò ép bản thân nữa, cứ thoải mái mà khóc một trận cho thỏa.”

Lý Lệnh Nghi nói xong, Thi Yến Vi dường như vẫn chìm đắm trong những lời ấy, chưa thể bừng tỉnh. Lý Lệnh Nghi nhẹ nhàng vỗ mu bàn tay nàng, hỏi nàng làm sao lại đến nơi này.

Thi Yến Vi kể lại rằng sau khi gặp tai nạn giao thông, vừa mở mắt đã thấy mình nằm trong một căn nhà gỗ cổ xưa, thanh tịnh. Sau đó, nàng gặp Tống Hành, bị hắn ép buộc làm ngoại thất của hắn. Trong thời gian đó, nàng đã hai lần tìm cách bỏ trốn nhưng đều bị hắn bắt về. Mãi cho đến khi a cữu của nguyên thân là Thẩm Kính An đến Triệu quốc, nàng mới có cơ hội thoát khỏi lòng bàn tay hắn.

Trong thời đại này, chỉ có nhan sắc mà không có gia thế, há chẳng phải là một loại khổ nạn sao?

Lý Lệnh Nghi nghe xong, khẽ thở dài một tiếng, trở lại phong thái cổ nhân, an ủi nàng: “May mà tất cả đã qua rồi. Vô cớ phải chịu kiếp nạn này, về sau ắt sẽ khổ tận cam lai, bình an hỉ nhạc.”

Thi Yến Vi đã lâu không dùng cách nói chuyện của người hiện đại, trong phút chốc khó mà chuyển đổi kịp, huống chi sau này còn phải dùng ngôn từ cổ nhiều, sợ rằng sẽ lộ sơ hở trước người khác. Nàng bèn thuận theo, nói theo kiểu cách cổ nhân: “Ta còn nhiều chuyện muốn nói với cô, e rằng phải ở lại đây một thời gian. Nếu cô không chê, cho ta một gian phòng ở lại nhé? Lễ nghĩa qua lại, đợi ít hôm nữa, cô cũng theo ta đến Biện Châu vài ngày được không? Chúng ta ở cùng nhau trò chuyện, nói nói cười cười, ngày tháng trôi qua cũng đỡ buồn chán hơn.”

Lý Lệnh Nghi không bài xích gì với Biện Châu, cũng không có ác cảm với Thẩm Kính An. Lần trước khi đến Biện Châu, Thẩm Kính An sắp xếp chu toàn, để tránh dị nghị, đã đặc biệt bố trí nàng ở biệt phủ ngoài thành. Lần này có Thi Yến Vi đi cùng, nàng có thể ở cùng nàng ấy trong Thẩm phủ, không lo lời ra tiếng vào.

“Được, đợi khi nào cô chán ở đây rồi, ta sẽ cùng cô về Biện Châu một thời gian.”

Đêm đó, hai người dùng xong bữa tối, ngồi dưới giàn nho uống trà, ngắm trăng sao.

Úc Kim sai những thị vệ khỏe mạnh mang đầy nước vào, rồi Vọng Tình dẫn họ tới phòng phía bên để nghỉ ngơi.

Đạo quán này do Ai Đế sai người trùng tu sửa chữa, tuy không quá lớn nhưng cũng không nhỏ, có đủ vài gian phòng, cả phòng thay đồ cũng có hai ba gian, vì vậy nghỉ lại đây cũng khá thuận tiện.

Thi Yến Vi tự mình rửa mặt chải đầu xong, Úc Kim khăng khăng muốn ngủ cùng phòng với nàng. Ban đầu, nàng định ra ngoài nằm trên chiếc sạp thấp để trực đêm, nhưng thấy Úc Kim ngủ như vậy e không thoải mái, Thi Yến Vi đành gọi nàng lên giường ngủ cùng.

Úc Kim nghĩ nàng lần đầu ngủ ở đạo quán trên núi nên có chút không quen, cần có người bên cạnh, liền vui vẻ đồng ý ngay.

Có người để trút bầu tâm sự, tâm trạng Thi Yến Vi trở nên nhẹ nhõm. Nàng không còn nghĩ về những đêm bị Tống Hành áp bức, nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.

Không ngờ rằng, đêm đó nàng lại mơ thấy ba mẹ và Trần Nhượng. Họ cứu trợ động vật hoang dã, triệt sản và xây tổ cho chúng; đến tận vùng núi hẻo lánh giúp đỡ những cô bé không có điều kiện học hành; nhiều lần thành tâm quỳ trước tượng thần, cầu nguyện cho nàng có cơ hội sống lại.

Giấc mơ hiện lên như một cuốn phim quay nhanh, thời gian trôi vùn vụt, chỉ trong chốc lát, tóc ba mẹ đã hoa râm, còn Trần Nhượng cũng bước vào tuổi trung niên.

Dường như anh vẫn chưa kết hôn, vẫn sống một mình. Trong phòng đặt một khung ảnh chụp chung của nàng và Trần Nhượng khi đi biển. Trần Nhượng bước vào phòng, cầm lấy khung ảnh, thì thầm gì đó với người trong ảnh. Thi Yến Vi muốn tiến lại gần để nghe rõ nhưng bất luận cố gắng thế nào, nàng vẫn không thể di chuyển. Nàng như một làn khí vô hình, không hề có thực thể.

Thi Yến Vi nằm trên giường, khóe mắt ướt đẫm, đôi mày nhíu chặt, nắm chặt chăn.

Bỗng nhiên, khung cảnh trong mơ tối sầm lại.

Khi ánh sáng trở lại, căn phòng trước mắt đã biến thành nội điện Triều Nguyên.

Trong khoảnh khắc, Thi Yến Vi kinh hãi đến mất hồn, vội bật dậy khỏi giường, không kịp xỏ giày, gần như dốc hết sức chạy về phía cửa.

Nhưng chưa kịp tới cửa, nàng đã nghe tiếng cánh cửa bị đẩy mở ra.

Tống Hành bước vào, bóng dáng hắn bị ánh sáng phía sau kéo dài, đổ tràn khắp nền.

Tim Thi Yến Vi đập thình thịch, hai chân run rẩy, mềm nhũn, bị hắn từng bước ép về phía giường La Hán sau lưng.

“Âm Nương, nàng định đi đâu?” Giọng nói trầm thấp của hắn vang lên khiến nàng sợ hãi tới nỗi nghẹt thở, da đầu tê dại.

“Đừng lại đây, đừng lại đây!” Thi Yến Vi tuyệt vọng gào lên, vớ lấy chén trà trên bàn nhỏ ném về phía hắn.

Hắn không tránh, mặc chén trà đập vào người, nước trà lạnh thấm ướt y phục nhưng vẫn thản nhiên như không.

“Hôm nay sao Âm Nương lại giận dữ như vậy? Trẫm đến giúp nàng hạ hỏa, được chứ?” Tống Hành vừa nói, vừa cởi đai lưng, dễ dàng trói chặt cổ tay nàng.

Sau đó, hắn thản nhiên cởi bỏ áo bào đen tuyền ngay trước mặt nàng.

Thi Yến Vi hoảng sợ tột độ, nhưng không còn đường lui, chỉ biết nhắm chặt mắt, không dám mở ra nhìn thân hình cao lớn, rắn rỏi như thành đồng vách sắt của hắn.

Tống Hành cúi xuống, bàn tay to lớn kéo váy nàng.

Trên thảm bên cửa sổ, giữa giường, hắn giam cầm nàng, khống chế nàng như muốn đóng đinh nàng xuống đất.

Kiệt sức, nàng không thể kháng cự, chỉ một tay hắn cũng đủ khiến nàng bất lực.

Sợ hãi theo bản năng, nàng lắc đầu liên tục, từ chối chén canh sâm.

“Không, ta không uống…” Thi Yến Vi bật thành tiếng, bừng tỉnh khỏi cơn ác mộng.

Mồ hôi ướt đẫm áo ngủ, khóe mắt nàng còn đọng lại những giọt nước mắt từ giấc mộng.

Bên cạnh, Úc Kim bị tiếng động đánh thức, lập tức tỉnh táo. Thấy nương tử nhà mình ngồi dậy, tay đặt lên ngực, thở hổn hển, nàng vội vàng xoa lưng trấn an: “Tiểu nương tử gặp ác mộng sao?”

Thi Yến Vi khẽ gật đầu, nhìn ra cửa sổ. Trời vẫn chưa sáng hẳn, nhưng ánh sáng mờ nhạt đã le lói, chắc cũng sắp bình minh.

Úc Kim xuống giường, rót một ly nước lạnh mang tới. Thi Yến Vi đón lấy, cảm ơn rồi nhấp từng ngụm nhỏ. Nàng không còn sợ hãi như lúc nãy nhưng cũng chẳng còn buồn ngủ nữa.

Suốt cả ngày hôm đó, giấc mơ ấy cứ bám lấy nàng, khiến nàng lo lắng Tống Hành sẽ đổi ý, phái người tới bắt nàng về cung.

Dù muốn nói chuyện cùng Lý Lệnh Nghi, nàng lại chẳng thể tập trung, chỉ ngồi im lặng, ánh mắt thẫn thờ.

Thấy bộ dáng thất thần của Thi Yến Vi, Lý Lệnh Nghi không khỏi lên tiếng dò hỏi.

Thi Yến Vi chỉ đáp rằng đêm qua gặp ác mộng, ngoài ra không có gì đáng ngại.

Lý Lệnh Nghi trầm ngâm giây lát, thầm nghĩ có thể khiến nàng bồn chồn lo lắng đến vậy, trên đời này e rằng chỉ có tên quân vương cầm thú kia thôi.

“Người ta thường nói, ngày nghĩ nhiều, đêm mộng mị. Có lẽ Vi Vi vẫn còn mắc kẹt trong những chuyện xưa, tâm không thể yên ổn. Ở đây ta có sẵn giấy bút, nếu không có việc gì, chi bằng chép vài lần kinh tĩnh tâm để lòng tĩnh lặng hơn.”

Không tìm được cách nào khác để khiến lòng mình dịu lại, Thi Yến Vi nghe vậy không dám trái lời. Nàng liền lấy bút mực, thêm nước vào nghiên, rồi cầm bút bắt đầu chép kinh.

Lý Lệnh Nghi đứng bên cạnh nhìn một lát, thấy nàng dần dần bình tâm lại, tập trung vào từng nét chữ, lúc này mới yên lòng rời đi làm việc khác.

Thành Tử Vi, điện Triều Nguyên.

Tống Hành đã phê sổ con suốt cả buổi trưa, đôi mắt không khỏi nhức mỏi, không khỏi cảm thấy nhức mắt, tê tay, bèn đặt bút, bước đến bên cửa sổ.

Đưa tay chạm vào gỗ nơi bệ cửa, hơi nóng truyền đến lòng bàn tay, hẳn là bị ánh nắng gay gắt cả chiều nay nung nóng.

Không biết vì sao, hắn chợt nhớ đến điều gì đó, hình ảnh ngón tay thanh mảnh, búi tóc buông lơi, khuyên tai khẽ lay động, tấm lưng trắng ngần tựa tuyết, tất cả đều tương phản rõ rệt với làn da rám nắng thô ráp của hắn.

Hắn nhớ lại đêm hôm đó, trong chính gian điện này, hắn và nàng thân mật gắn bó, từ trên bàn, giường La Hán cho đến cả tấm thảm. Khắp nơi dường như vẫn còn vương lại hơi thở của nàng.

Nàng mềm mại, thơm hương, hoàn toàn khác biệt với hắn, một kẻ vai u thịt bắp, nhất là khi ở bên cạnh nàng, sự vạm vỡ của hắn càng trở nên dữ tợn đến đáng sợ. Khó trách nàng chưa bao giờ dám nhìn thẳng vào thân hình hắn.

Hắn tự nhủ, lẽ ra không nên tiếp tục nghĩ về nàng. Dù d*c v*ng có sâu đến mấy, cũng chỉ cần nhẫn nhịn thêm ít lâu. Chờ a bà tìm cho hắn một nữ nhi thế gia tài sắc song toàn, tự nhiên sẽ có người hợp ý hắn hơn nàng, có gì đâu mà hắn phải bận lòng như thế nữa.

Nghĩ đến đây, Tống Hành rút tay khỏi bệ cửa, ngồi xuống giường La Hán. Trên bàn nhỏ bên cạnh có đặt một khay đá băng, tỏa ra từng làn khí mát lạnh, đáng lý ra có thể xua đi sự bức bối trong lòng, nhưng không ngờ, ký ức về nàng lại một lần nữa xâm chiếm tâm trí hắn.

Hắn ngồi không yên, do dự hồi lâu, cuối cùng cất giọng ra lệnh cho Trương nội thị chuẩn bị nước lạnh.

Từ khi Dương thượng nghi rời đi đến nay đã hơn một tháng, không biết bao nhiêu lần như thế rồi. Thánh thượng cấm bất kỳ ai nhắc đến chữ “Dương,” còn cố ý tránh mọi thứ liên quan đến cục Thượng Nghi. Bề ngoài tỏ vẻ không bận tâm, nhưng thực chất lại chỉ là tự dối lòng.

Thánh thượng đã bước vào tuổi tam thập nhi lập, Trương nội thị thực lòng mong người sớm thoát khỏi quá khứ, cưới hoàng hậu, nạp phi tần, để con cháu đầy đàn, củng cố quốc bản.

Khi nước đã chuẩn bị xong, Tống Hành không cho ai hầu hạ, tự mình cởi bỏ long bào vàng rực. Y phục hôm nay không phải bộ y phục đêm đó, nhưng khi thoáng nhìn qua, hình ảnh cũ lại hiện rõ mồn một, thôi thúc hắn quỳ xuống đất.

Hắn hồi tưởng tấm lưng trần trắng muốt như nam châu, thở trở nên gấp gáp, không sao dập tắt nổi ngọn lửa đang bùng cháy trong lòng. Cuối cùng vì không thể đè nén, hắn sa vào những ảo tưởng trụy lạc, khép dần ngón tay.

Tuy nhiên, bàn tay ấy vẫn không thể nào ngừng lại.

Cũng khó trách, lúc ở Thái Nguyên, nàng luôn chỉ biết khóc.

Hắn thật đáng chết, chưa từng một lần nghĩ tới nàng, lúc đó, nàng hẳn là rất sợ hắn, phải không?

Tống Hành khẽ nhắm mắt, lẩm bẩm với không trung: “Trước đây là trẫm không tốt, Âm Nương đánh trẫm chút để xả giận, được không?”

Qua một lúc lâu, Tống Hành mới cắn răng, phát ra một tiếng gầm thấp.

Hoàng bào vàng thắm, đã dính đầy sương trắng.

Sau cơn cuồng vọng, Tống Hành lại tự giận bản thân vì đã không kiểm soát được mình.

Một nữ gian dối trá như nàng, đâu đáng để hắn day dứt như vậy?

Nàng coi thường hắn, nhưng bên ngoài có vô số nữ nhân nguyện làm phi tần của hắn, sinh con nối dõi cho hắn.

Hắn nghĩ đến nước Ngụy lẫn nước Sở phía nam, quốc chủ đều đã quá tuổi ngũ tuần, làm sao có thể so với hắn, một vị hoàng đế đang tuổi tráng niên?

Nàng rời bỏ hắn, tuyệt đối không thể tìm được nam lang nào tốt hơn hắn.

Ngoài hắn ra, cũng chẳng ai có thể mang đến cho nàng quyền thế tối thượng.

Hắn sẽ khiến nàng hiểu rõ quyết định rời bỏ hắn ngày ấy ngu xuẩn đến nhường nào.

Hắn nhất định sẽ quên nàng triệt để, dù cho nàng có khóc lóc, quỳ gối cầu xin trước mặt hắn, hắn cũng sẽ không mảy may dao động.

Nghĩ vậy, Tống Hành bước vào bồn tắm, dòng nước mát lạnh ngập đến eo, cơn bực bội dần tan biến.

Trương nội thị rất tinh ý, đã chuẩn bị sẵn bộ áo lót do chính tay Thi Yến Vi khâu.

Dù bề ngoài Thánh thượng tỏ ra chê bai, nhưng lần nào tắm xong cũng chỉ mặc chúng mới có thể bình tâm lại. Nếu không, ban đêm người khó lòng yên giấc.

Y phục Dương thượng nghi để lại, Thánh thượng không cho cung nhân đụng vào, đích thân thu dọn mang về điện Triều Nguyên, giờ đang nằm im lìm trong tủ áo.

Trương nội thị chờ bên ngoài phòng tắm, đợi Tống Hành ra, hỏi hắn muốn về tiền điện hay nội điện.

Tống Hành vẫn còn công vụ chưa xử lý xong nên đi về phía tiền điện.

Đến gần canh ba, (~23h) Tống Hành mới quay lại nội điện nghỉ ngơi.

Bảo Sênh đã quan sát mấy ngày nay, thấy cảm xúc của Thánh thượng ổn định, hàng ngày hoặc gặp đại thần, hoặc phê duyệt tấu chương, nghĩ rằng hẳn đã quên Dương nương tử, liền đi đường tắt đến cung Thái hoàng thái hậu.

Thái hoàng thái hậu nghe xong, tâm trạng thoải mái hơn, liền chỉnh lý danh sách đã chọn, để Tống Vi Lan xem qua một lượt. Trước bữa tối, bà sai Sơ Vũ tới điện Triều Nguyên, mời Thánh thượng tới dùng bữa.

Tống Hành đã hai, ba ngày không đến vấn an Thái hoàng thái hậu, nên khi Sơ Vũ đến mời, hắn không từ chối, xử lý xong tấu chương liền lên kiệu đến điện Huy Du.

Nghe nội thị truyền báo, Thái hoàng thái hậu vẫn ngồi yên, Tống Vi Lan đứng dậy.

Tống Hành trước tiên vấn an Thái hoàng thái hậu, rồi gọi Tống Vi Lan một tiếng “hoàng cô”, bảo nàng không cần đa lễ.

Sau bữa tối, ba người súc miệng rửa tay, Thái hoàng thái hậu bảo Sơ Vũ lấy bức họa ra, lần lượt giới thiệu những người bà đã chọn kỹ càng.

So với lần đầu tiên giới thiệu, số lượng lần này giảm hơn một nửa, đều là con gái nhà thế gia vọng tộc, tài sắc, phẩm hạnh không thiếu thứ gì.

Tống Hành xem qua, chỉ thấy họ như cùng một khuôn mặt, liền tùy ý chỉ năm, sáu người, rồi viện cớ còn việc triều chính còn tồn đọng, để rời điện Huy Du.

Mấy ngày nay, Thi Yến Vi chép kinh tĩnh tâm, quả nhiên lòng dạ thư thái hơn, không còn gặp những cơn ác mộng kinh hoàng nữa. Mỗi ngày nàng trò chuyện, uống trà với Lý Lệnh Nghi, cùng nàng xuống núi dạo chợ, thưởng thức các món ăn và đặc sản ở Tuyên Châu.

Chiều hôm ấy, Thi Yến Vi đội mũ sa xuống núi, thấy dưới lều mát có người b*n n**c ngọt ướp lạnh và dưa ướp đá, nhìn rất hấp dẫn. Sau khi hỏi giá, nàng nhoẻn miệng cười, bảo Úc Kim cùng vài thị vệ tìm chỗ ngồi, mọi người cùng nếm thử.

Úc Kim vốn là người cẩn thận, thấy Thi Yến Vi từ ngày vào phủ đến nay không hề thấy nguyệt tín ghé qua, nghi ngờ cơ thể nàng không tốt, liền khuyên nên bớt ăn đồ lạnh. Đợi về Biện Châu, nhất định phải mời một y công giỏi về phụ khoa đến khám.

Thi Yến Vi do uống nhiều thuốc, thêm vào hàn khí nhập thể, vì lo ngại mang thai nên không dám uống thuốc điều hòa, kỳ kinh nguyệt rối loạn cũng đã lâu, chưa khi nào đến đúng ngày cả. Sau đó nàng vào cung nước Triệu làm Thượng nghi, tần suất hành phòng cũng không nhiều như trước, chưa kể Tống Hành chưa khi nào dám để lọt vào trong, nên cũng không lo chuyện có thai.

Tuy nhiên, hiện tại nàng đã có a cữu che chở, lại đang ở trong địa phận nước Ngụy, cũng có thể xem xét việc điều dưỡng cơ thể. Nếu cứ kéo dài tình trạng này, mỗi khi đến kỳ kinh nguyệt không chỉ đau bụng khó chịu mà e rằng còn ảnh hưởng đến sức khỏe.

Thi Yến Vi đã có chủ ý, không dám tham ăn, chỉ nhấp nhẹ nửa bát rồi dừng lại, sau đó mua một miếng dưa ướp đá nhỏ. Nàng cảm thấy loại quả này tuy không đỏ mọng như thời hiện đại, vị cũng chẳng ngọt ngon bằng, nhưng ở thời đại này có thể thưởng thức được như thế đã là hiếm có. Trả tiền xong, nàng không đi đâu thêm, chỉ ghé qua chợ mua cả một quả lớn, mang về cho Lý Lệnh Nghi và Vọng Tình cùng thưởng thức.

Mùa hạ nóng nực, Thái hoàng thái hậu cho gọi Lưu thượng cung, dặn bà nghĩ ra một cái cớ để mời các quý nữ vào hưu mộc giữa tháng này đến cung dự yến.

Lưu Thượng cung đề xuất rằng tháng sáu là mùa thưởng sen, không cần dùng món chính mà thay bằng chè đậu xanh, núi hạt dẻ, dưa lạnh và nước mơ chua.

Thái hoàng thái hậu nghe xong rất hài lòng, liền giao cho Lưu Thượng cung sắp xếp người lo liệu.

Sau khi Thi Yến Vi rời đi, vị trí Thượng nghi cũng để trống, Lưu thượng cung có ý nâng đỡ Dao Tư tán, liền giao việc này cho nàng cùng với Vương Thượng nghi phụ trách.

Ngày hai mươi tháng sau, hưu mộc.

Từ sáng sớm, Tống Hành đã nhận được lời mời của Thái hoàng thái hậu, dặn hắn trưa nay đến hồ Cửu Châu ngắm sen.

Hắn vì nhiều năm hành quân đánh trận bên ngoài nên không sợ nóng, nhưng nghĩ tới việc gặp nhiều nữ lang cùng một lúc lại cảm thấy lười nhác, nấn ná cạnh thùng băng mãi đến gần giờ mới ngồi lên bộ liễn, hướng về hồ Cửu Châu.

Khi Tống Hành tới nơi, các quý nữ đã chờ trong thủy tạ từ lâu. Thấy hắn xuống kiệu, họ đồng loạt đứng dậy, tiến tới bậc thềm hành lễ.

Một cơn gió thoảng qua, mang theo hương sen nhè nhẹ, hòa lẫn với mùi hương phấn thoảng trên người các quý nữ. Tống Hành vốn không thích mùi hương nồng, khẽ nhíu mày khó nhận ra, ánh mắt lướt nhanh qua mà không dừng lại ở ai. Hắn thản nhiên nói:

“Đã là Thái hoàng thái hậu cho gọi các ngươi đến đây, không cần quá câu nệ phép tắc.”

Dứt lời, hắn bước chân dài, đi thẳng vào thủy tạ, thong thả ngồi xuống ghế cao chính giữa.

Thái hoàng thái hậu thấy hắn chỉ chăm chú uống trà, chẳng buồn trò chuyện, sắc mặt thoáng trầm, liền sai người mang bánh tô sơn lên. [2]

[2][2] tô sơn: là loại kem của thời nhà Đường.

Cung nhân trước tiên dâng bánh cho Tống Hành và Thái hoàng thái hậu. Nhìn lướt qua các nữ nhân bên dưới, bà mỉm cười nói với hắn: “Bánh tô sơn này làm từ sữa tươi và quả tươi rưới lên đá bào, ngọt mát thanh tao, rất hợp giải nhiệt. Thánh thượng dùng thử một chút xem sao.”

Tống Hành vốn không thích đồ ngọt, nhưng cũng chẳng tiện làm mất lòng Thái hoàng thái hậu, chỉ nhẹ nhàng “ừ” một tiếng, cầm thìa nếm qua.

Lần gần đây nhất hắn ăn đồ ngọt, là tết Thượng Nguyên, cùng nữ gian kia ăn đường viên.

Lời nàng khi ấy vẫn còn văng vẳng bên tai: Phải cho thêm chút rượu nếp, ăn mới không ngấy.

Nghĩ đến đây, động tác cầm thìa của hắn khẽ khựng lại. Ngước mắt lên nhìn các quý nữ, thấy họ dù ăn uống đoan trang, nhưng dáng vẻ lại có phần thích thú. Hắn bất giác tự hỏi: Nàng liệu có thích bánh tô sơn? Ba năm qua, mỗi dịp hè nàng không ở bên hắn, liệu nàng có tự mình đi mua tô sơn không?

Ánh mắt hắn dừng lại ở bát bánh trước mặt một quý nữ, nhưng không phải nhìn nàng mà là nhìn chằm chằm vào món bánh.

Sữa tươi rưới trên đá bào sao sánh được làn da trắng như tuyết của nàng? Nghĩ đến dáng vẻ nàng ăn bánh, hẳn là đôi môi hồng khẽ mở, từng miếng nhỏ nhắn chậm rãi đưa vào miệng. Đôi môi ấy mềm mại, nhỏ xinh, ăn nhiều chắc chẳng nổi, nhưng những món ăn nhẹ như thế lại rất hợp với nàng.

Thái hoàng thái hậu nhận thấy ánh mắt Tống Hành đang dừng ở đâu đó, liền nhìn theo. Bà trông thấy một gương mặt quả hạnh bầu bĩnh, tuy không mạo mỹ thoát tục như nữ tử họ Dương kia nhưng vẫn là một nữ lang thanh tú động lòng người. Nhìn nàng có vẻ nhỏ tuổi hơn, lớn lên ắt sẽ càng thêm phần xinh đẹp.

Nàng là nữ lang nhà ai? Thái hoàng thái hậu đã có tuổi, trí nhớ không còn được như trước, bà thoáng nghĩ, rồi nghiêng đầu hỏi nhỏ Tống Vi Lan bên cạnh.

Tống Vi Lan mỉm cười, đáp khẽ: “A nương, đó là tiểu nữ nhi của Hiển Quốc công, ở nhà xếp hàng thứ tư.”

Thái hoàng thái hậu gật gù: “Ồ,” một tiếng, lại dùng ánh mắt lại dò xét dáng vóc nàng, cảm thấy nàng khỏe mạnh hơn hẳn so với Dương thị, sắc mặt hồng hào, vóc dáng đầy đặn.

Trần Thư Ngưng cảm giác có người đang nhìn mình, liền ngẩng đầu lên. Nàng phát hiện đó là Thái hoàng thái hậu, còn Thánh thượng dường như cũng nhìn về phía nàng, nhưng ánh mắt lại như đang chăm chú nhìn vào bát tô sơn ở trên bàn chứ không phải nhìn nàng.

Chẳng phải Thánh thượng cũng có một bát đó sao, sao lại nhìn bát của nàng? Hay là người thấy bát của nàng có vẻ ngon hơn?

Thái hoàng thái hậu thấy mình bị bắt gặp, bèn thản nhiên quay đi, ánh mắt dừng ở đóa mẫu đơn tịnh đế thêu trên bức bình phong gần đó.

Trương nội thị lặng lẽ đứng sau lưng Tống Hành, ánh mắt thoáng lo lắng khi thấy bát bánh sơn trên bàn chỉ mới động một chút, còn người thì lại đăm chiêu, nhìn về xa xăm. Hắn liền khẽ ho một tiếng, che miệng nhắc nhở:

“Thánh thượng, bánh của người sắp tan rồi.”

Tống Hành giật mình bừng tỉnh, nhớ ra hôm nay là dịp chọn phi tần, nhưng lòng lại tràn ngập hình bóng nàng. Chẳng lẽ nàng là nữ tử Miêu Cương, trước đây đã hạ cổ độc lên người hắn?

Nghĩ lại thấy buồn cười, nếu nàng thật sự hạ cổ, chắc hẳn cũng phải là loại cổ chí mạng, có thể lấy mạng hắn chứ không thể nào lại hạ cổ tình.

Tống Hành khẽ cười tự giễu, không chạm thêm vào bát bánh, rót cho mình chén trà nhạt, chậm rãi thưởng thức.

Thái hoàng thái hậu, sau khi quan sát kỹ Trần Thư Ngưng, lại chuyển mắt nhìn Tống Hành. Thấy hắn từ đầu đến cuối chẳng buồn liếc qua bất kỳ nữ lang nào khác, bà ngầm hiểu rằng tâm tư hắn đã đặt vào tiểu nữ nhi của Hiển Quốc công.

Tiệc tàn, Thái hoàng thái hậu giữ Tống Hành lại nói chuyện.

“Có phải đã Thánh thượng để mắt đến Trần Tứ nương của phủ Hiển Quốc công rồi không?” Vừa hỏi, ánh mắt bà vừa hướng về chỗ Trần Thư Ngưng từng ngồi.

Tống Hành không nhớ rõ diện mạo nàng, thậm chí cũng chẳng để tâm. Nhưng bốn chữ “Hiển Quốc công phủ” lại để lại ấn tượng khá tốt.

Hiển Quốc công Trần Khiên, từng giữ chức tể tướng triều trước, nổi danh cương trực, không kết bè kéo cánh, là bậc thanh lưu trong triều. Chính các mưu thần dưới trướng hắn phải tốn không ít công sức mới thuyết phục được Trần Khiên quy thuận Triệu quốc.

Một người như Trần Khiên, chính trực liêm khiết, hẳn không thể dạy ra một nữ nhi kiêu căng, ngạo mạn, tâm địa bất chính.

Hậu cung, chỉ cần một nữ nhân hiền lương, đủ khả năng quản lý chu toàn, giúp hắn bớt đi lo nghĩ, là ai cũng không khác biệt.

Nếu a bà đã hỏi vậy tức cũng cảm thấy nàng là người thích hợp.

Tống Hành nghĩ như thế, nhưng vẫn không thể thuận miệng nói rằng mình có cảm tình với nàng. Hắn cân nhắc một hồi, cuối cùng hời hợt đáp: “Nếu a bà cảm thấy nàng phù hợp, hưu mộc lần tới, cứ mời nàng đến điện Huy Du uống trà là được.”

Thái độ tuy có chút lãnh đạm, nhưng cũng không đến mức dửng dưng như trước. Thái hoàng thái hậu nghe xong, lòng tràn đầy hy vọng, vội vàng gật đầu đồng ý. Sau khi Tống Hành rời đi, bà liền sai người điều tra cặn kẽ tính tình của Trần Tứ nương.

Từ khi Thi Yến Vi rời khỏi Triệu quốc, Tống Hành hiếm khi bước chân ra khỏi điện Triều Nguyên, ngoài việc đi tuần tra quân doanh và đích thân huấn luyện binh sĩ, hắn đều vùi mình trong công vụ.

Như hôm nay, tuy mười ngày mới đến một ngày hưu mộc, hắn cũng chỉ sáng sớm luyện kiếm, dùng qua bữa rồi lại quay về nội điện phê duyệt tấu chương.

Kể từ lúc trở về từ hồ Cửu Châu Trì, sắc mặt người vẫn chẳng chút vui vẻ, tựa hồ từ ngày Dương Thượng Nghi theo Vũ An Hầu rời đi, chưa khi nào Thánh thượng nở nụ cười lần nữa.

Trương nội thị nhìn thấy cảnh ấy mà lo lắng không yên, trong lòng thầm nghĩ nếu cứ kéo dài như vậy, e rằng Thánh thượng sẽ sinh bệnh mất thôi. Vốn hy vọng hôm nay gặp vài tiểu thư xinh đẹp sẽ giúp người khuây khỏa, nào ngờ về rồi tâm trạng lại càng ủ dột hơn.

Thấm thoắt đã mười ngày trôi qua.

Ngày mùng một tháng bảy.

Thái hoàng thái hậu đặc biệt triệu Trần Tứ nương đến điện Huy Du uống trà.

Trước đó, lời đồn về việc Thánh thượng chọn phi đã lan truyền khắp nơi. Nay Thái hoàng thái hậu lại đích thân triệu kiến một mình nàng, cho dù là kẻ ngốc cũng có thể hiểu rõ hàm ý trong chuyện này.

Hiển Quốc công gia, Trần Khiên, vốn nghe danh Tống Hành không gần nữ sắc, tâm tư khó lường, không hề có ý định kết thân với hoàng thất. Nay hay tin tiểu nữ được triệu vào cung, ông chẳng xem đó là điều đáng mừng, trái lại càng thêm lo lắng. Khi Trần Thư Ngưng sửa soạn lên đường, ông đã dặn dò không dưới ba lần, rằng nàng phải ăn nói cẩn trọng, tuyệt đối không được đắc tội với những bậc quý nhân trong cung.

Trần Thư Ngưng vốn là người lanh lợi tùy hứng, không mấy ưa thích những quy củ ràng buộc trong cung. Nhớ lại lần trước dự yến, nàng chẳng buồn hé lời với bất kỳ ai quen biết ngồi cạnh, bởi thế càng thêm chán ngán nơi này.

Nàng vốn nghĩ bản thân không phải người nổi bật nhất trong số các quý nữ kia, Thái hoàng thái hậu và Thánh thượng hẳn sẽ không để ý đến mình. Nào ngờ, lần này Thái hoàng thái hậu lại chỉ đích danh nàng, mời một mình nàng đến uống trà.

Không có ai quen biết, chỉ nghĩ đến điều này thôi nàng đã cảm thấy bất an, không biết phải làm thế nào cho phải.

Khi vào cung, cung nhân tại điện Huy Du mở cửa mời nàng vào. Trần Thư Ngưng bước đến, chắp tay trước ngực quỳ gối, cung kính hành lễ.

Thái hoàng thái hậu vẫn giữ vẻ hòa nhã, còn vị Thánh thượng bên cạnh bà, sắc mặt tựa băng tuyết, lạnh lẽo đủ khiến người ta đông cứng.

Lần đầu đối diện áp lực lớn như vậy, Trần Thư Ngưng từ một người có tính cách hoạt bát bỗng trở nên rụt rè, thận trọng, không dám nhiều lời.

Mãi cho đến khi Thái hoàng thái hậu khẽ mỉm cười, hỏi nàng có biết pha trà hay không, nàng mới hoàn hồn, cung kính trả lời.

Thái hoàng thái hậu bèn sai người mang đủ bộ dụng cụ pha trà đến, bảo nàng pha một ấm trà để mọi người cùng thưởng thức.

Trần Thư Ngưng lập tức làm theo, cẩn thận pha trà rồi rót vào ba chén. Nàng dâng chén đầu tiên cho Thái hoàng thái hậu, kế đến là Thánh thượng và Tống Vi Lan.

Thái hoàng thái hậu liền hỏi sao không dâng Thánh thượng trước. Trần Thư Ngưng liền đáp các triều đại Trung Nguyên lấy xưa nay đều dùng hiếu đạo trị quốc. Thánh thượng kính trọng Thái hoàng thái hậu, triều thần đều đa tỏ tường. Hơn nữa, Thánh thượng vừa dùng trà lạnh, hẳn cũng không vội dùng trà nóng ngay.

“Thật là đứa trẻ tinh tế.” Thái hoàng thái hậu khen ngợi, rồi quay nhìn Tống Hành và Tống Vi Lan, thì thấy sắc mặt Tống Hành vẫn bình thản, trong khi Tống Vi Lan khẽ gật đầu tán thưởng, rõ ràng cũng cảm thấy nàng không tệ.

Thái hoàng thái hậu rất hài lòng, bèn giữ nàng lại dùng bữa tối trong cung, rồi bảo Tống Hành đưa nàng đi dạo, ngắm hoa tử vi đang nở rộ trong ngự hoa viên.

Tống Hành chẳng hề có ấn tượng đặc biệt nào với nàng, hắn chỉ làm theo ý Thái hoàng thái hậu, không chút để tâm.

Về phía Trần Thư Ngưng, phải ở cùng hắn khiến nàng cảm thấy vô cùng gò bó. Sau khi dạo một vòng quanh hoa viên, hai người trở lại điện Huy Du, trước khi trời tối, Thái hoàng thái hậu sai người tiễn nàng xuất cung.

Khi ấy, Tống Vi Lan vẫn ngồi trong điện, Thái hoàng thái hậu không kiêng dè gì, trực tiếp hỏi Tống Hành thấy vị Trần tứ nương này thế nào.

Tống Hành trầm tư hồi lâu, không thể đưa ra quyết định.

Thái hoàng thái hậu có chút mất kiên nhẫn, khẽ nhíu đôi mày bạc: “Nhị lang, chẳng lẽ cháu vẫn còn nhớ đến nữ tử họ Dương kia?”

Nữ tử họ Dương mà a nương vừa nhắc đến chính là cháu hái kẻ đã hại chết Đại lang.

Tống Vi Lan nhớ đến trưởng tử chết dưới đao Thẩm Kính An khi còn chưa tròn hai mươi lăm tuổi, không khỏi nghiến răng căm phẫn. Ngón tay nàng siết chặt lấy chén trà trong tay, hơi thở gấp gáp, lời nói bật ra khỏi miệng mà không kịp giữ ý, thậm chí quên cả quy củ, gọi thẳng Tống Hành là “Nhị lang”.

“Nhị lang vẫn còn nhớ đến cháu gái của tướng quân nước Ngụy sao?! Khi xưa, Thừa Sách từng cùng Nhị lang đọc sách, luyện võ. Nó luôn kính trọng biểu huynh của mình nhất…”

Lời chưa dứt, ánh mắt nghiêm nghị của Thái hoàng thái hậu đã lạnh lùng liếc qua, ra hiệu cho nàng im lặng, chớ buông lời hồ đồ thêm nữa.

Sắc mặt Tống Hành càng thêm âm trầm. Sau một hồi tĩnh lặng kéo dài, giọng nói trầm thấp của nam lang chợt vang lên: “Trẫm sẽ lập nàng làm hoàng hậu. Đồng thời, xin nhờ a bà chọn thêm bốn nữ lang để lấp đầy vị trí tứ phi.”

Đêm ấy, Tống Hành thức đến khuya để tự tay viết thánh chỉ, nhưng khi đến bước đóng ngọc tỷ, hắn lại chần chừ mãi, không hạ tay.

Bất giác, trong tâm trí hắn hiện lên hình ảnh nữ lang từng cầm ngọc tỷ với đôi tay thon dài, trắng ngần. Nàng ngồi trong lòng hắn, ánh mắt tập trung như đang nghĩ ngợi điều gì đó.

Hắn từng nói sẽ tặng nàng ngọc tỷ truyền quốc để nàng tùy ý chơi đùa. Nàng khi ấy đã quay đầu nhìn hắn, ánh mắt như sao trời rực sáng, soi thẳng tận đáy lòng hắn.

Cơn đau âm ỉ nơi thái dương khiến Tống Hành khẽ cau mày. Hắn đóng nắp hộp cất ngọc tỷ lại, đặt thánh chỉ sang một bên chờ mực khô.

Đêm đó, hắn tiếp tục phê duyệt tấu chương đến tận canh ba mới đi nghỉ.

Sáng hôm sau, Tống Hành sai Khâm Thiên Giám tính toán ngày lành để lập hậu.

Ba ngày sau, Khâm Thiên Giám đưa ra dự báo. Tin này cũng lập tức truyền đến tai Thái hoàng thái hậu.

Tống Vi Lan nói: “Lần này Nhị lang chắc chắn sẽ đưa ra quyết định. Sáng mai thánh chỉ nhất định sẽ được ban xuống.”

Thái hoàng thái hậu dù vẻ ngoài điềm tĩnh, nhưng trong lòng vẫn thấp thỏm không yên, chỉ khẽ đáp: “Hy vọng là vậy.”

Tại điện Triều Nguyên.

Tống Hành đã điền ngày tháng vào thánh chỉ, nhưng lại chưa đóng ngọc tỷ.

Hắn nghĩ: “Đợi đến sáng mai rồi đóng cũng chưa muộn.”

Nghĩ xong, hắn đắt thánh chỉ sang một bên, hoàn tất công việc còn lại rồi lên giường đi ngủ.

Những ngày gần đây, hắn ép bản thân không được nghĩ đến nữ gian chuyên lừa gạt kia, bận rộn với quốc sự, chẳng để tâm đến bất kỳ chuyện nào khác.

Trong giấc mơ, điện Triều Nguyên hiện lên tràn ngập đèn hoa, không khí rộn ràng náo nhiệt.

Tống Hành đẩy cửa bước vào, cảnh tượng trước mắt khiến hắn lặng người.

Trên chiếc giường lớn, một nữ lang vận hôn phục màu xanh lục đang an tĩnh ngồi đó.

Tim hắn bỗng đập mạnh, lòng bàn tay rịn mồ hôi.

Nữ lang ngồi trên giường dường như cảm nhận được có người đang tới gần, khẽ nghiêng mình, nhẹ nhàng gạt chiếc quạt che mặt ra, nở nụ cười nhàn nhạt.

Khuôn mặt xa lạ của nàng hiện lên khiến Tống Hành kinh hãi, cả người như rơi vào hố băng.

Nàng là ai?

Hắn cố gắng nhớ lại. Đúng rồi, nàng là con gái của Trần Khiên, nhưng hắn không tài nào nhớ được dung mạo hay tên tuổi của nàng.

Thực sự phải cưới nàng sao? Hắn tự hỏi đi hỏi lại trong lòng.

Chỉ sau một thoáng, hắn đã tìm ra câu trả lời.

Không phải nàng. Người hắn muốn cưới không phải là nàng, người hắn muốn gặp cũng không phải là nàng.

Bất chợt, mộng cảnh chuyển về biệt viện trước khi hắn đăng cơ.

“Quỳ Ngưu Nô.”

Thanh âm trong trẻo của một nữ lang vang lên bên tai, khiến đôi mắt Tống Hành sáng rõ. Hắn quay đầu tìm kiếm nơi phát ra giọng nói.

Dưới ánh nến lung linh, người con gái mà hắn ngày đêm mong nhớ đang ngồi trên ghế nguyệt nha. Nàng vận váy lụa quế hoa, đôi mắt hoa đào long lanh nhìn hắn, ánh lên tình ý dạt dào.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 73: Quyết tâm



Ánh trăng lan tràn qua song cửa, hòa quyện cùng ánh nến cam vàng, nhưng tất cả ánh sáng ấy đều không thể sánh bằng dung nhan rực rỡ của nàng.

Phải rồi, người mà hắn muốn gặp là nàng. Hắn muốn nhìn thấy nàng mặc lục y gả cho hắn, trở thành tân nương của hắn.

Ngoài nàng ra, chẳng có bất kỳ nữ lang nào có thể khiến ánh mắt hắn lưu luyến.

Phản ứng từ sâu thẳm bản năng không thể lừa dối, Tống Hành chẳng cách nào tự lừa mình dối người.

Hắn không muốn cùng bất kỳ ai khác làm chuyện thân mật, cơ thể không hề khơi dậy chút hứng thú nào, chỉ duy nhất với Âm Nương, hắn mới khát khao điều đó.

Lẽ ra hắn nên nhận ra điều này từ sớm. Ba năm qua, rõ ràng hắn chưa từng chạm vào nữ lang nào khác ngoài nàng. Dù khi xuất chinh bên ngoài, nghe các tướng sĩ thường tụ họp đàm luận về thú vui x*c th*t, hay những lần hành quân ngang qua các thành trấn, không ít người tìm đến chốn phong nguyệt để giải tỏa nhu cầu, nhưng hắn chưa bao giờ nghĩ đến việc tìm ai khác.

Trước khi gặp Âm Nương, hắn vốn không ưa thích những chuyện như vậy, thậm chí xem đó là sự lãng phí thời gian. Nhưng từ lúc hắn động lòng với nàng, từ khi cơ thể hắn được nàng chạm tới, hắn mới hiểu được niềm vui của chuyện ** *n. Kể từ đó, cả thân thể lẫn trái tim hắn đều chỉ mong có nàng, không dung nạp nổi bất kỳ ai.

Nếu nàng muốn, hắn nguyện dâng cả hậu vị cho nàng.

“Âm Nương…” Tống Hành cất tiếng gọi đầy trìu mến, chưa đợi nàng phản ứng, hắn đã sải bước đến gần.

Nữ nhân ngày đêm mong nhớ nay đứng ngay trước mắt, Tống Hành chẳng thể nào đè nén nỗi nhớ nhung. Đôi cánh tay rắn rỏi vòng qua eo nàng, siết chặt.

Hắn cúi người, ghé sát bên tai nàng, thì thầm hắn thích nàng đến mức nào, rồi cầu xin nàng cũng thích hắn dù chỉ một chút.

Nàng lặng lẽ nghe hắn nói hết, rất lâu sau vẫn không đáp lại chữ “được” mà hắn hằng mong đợi.

Dẫu là trong mộng, nàng cũng không chịu đồng ý.

Tim hắn nặng trĩu, sống mũi cay xè.

“Ta… thật có lỗi, ngày trước là ta đã làm nàng đau, khiến nàng tổn thương, buồn khổ. Ta thật sự có lỗi… về sau tuyệt đối sẽ không như vậy nữa… Âm Nương, tha thứ cho ta được không?”

Lời vừa dứt, gian phòng tĩnh lặng như tờ. Một hồi lâu sau, nàng vẫn im lặng, như con rối vô hồn để mặc hắn điều khiển.

Hắn đã từng phạm không ít sai lầm, gây cho nàng biết bao tổn thương. Nàng làm sao có thể dễ dàng tha thứ? Hắn vẫn nghĩ rằng ngày tháng phía trước còn dài, chỉ cần hắn hết lòng bù đắp, nàng nhất định sẽ nguôi ngoai mà ở lại bên hắn. Nhưng không ngờ, nàng lại căm ghét hắn đến vậy, hằng ngày chỉ mong thoát khỏi hắn, ra đi dứt khoát không lời từ biệt.

Nàng chỉ để lại cho hắn vẻn vẹn một chữ “được”.

Tống Hành không muốn nghĩ thêm về những điều đau lòng ấy nữa.

“Âm Nương…” Tống Hành khẽ gọi, tay vuốt nhẹ lên mái tóc đen nhánh của nàng, rồi lướt xuống gò má.

Thấy nàng không đẩy hắn ra, trái tim hắn thoáng trở nên nhẹ nhõm. Hắn nhẹ nhàng bế nàng lên, đôi môi mỏng áp lên đôi môi nàng, từ tốn tách ra, đưa lưỡi vào khẽ chạm đến đầu lưỡi nàng, nụ hôn tràn đầy yêu thương và quấn quýt.

Không biết từ lúc nào, nàng đã bị hắn đặt lên bàn trang điểm, tà váy bị hắn kéo cao đến tận eo.

Tống Hành rời môi nàng, cúi mình trước mặt nàng, giúp nàng gợi lên cảm xúc.

Chẳng bao lâu sau, đôi mắt nàng vì sự chăm sóc dịu dàng của hắn mà ngấn nước, rơi xuống những giọt sương ngọc.

Hắn tháo đai ngọc, chống hai tay lên bàn, chậm rãi tiến tới, cho nàng thời gian thích nghi, không còn sợ hãi hay kháng cự như trước.

Đôi mắt ngập nước của nàng đối diện với ánh nhìn cháy bỏng của hắn.

“Âm Nương…” Hắn tiến lại gần, rời khỏi án thư, bàn tay rắn rỏi nắm lấy mười ngón tay nàng, đôi môi mỏng đặt lên mi tâm nàng, cố gắng kiềm chế h*m m**n cùng lực đạo.

Nhưng sự kìm nén ấy không làm dịu đi cảm giác nóng bức trong người hắn, khó chịu như con kiến bò trên chảo nóng.

Nước mắt nàng bắt đầu rơi, như những hạt mưa nhỏ từng chút đập thẳng vào trái tim hắn.

Tống Hành nhẫn nhịn đến mức đôi mắt cũng muốn đỏ lên, làn da rám nắng tỏa ra hơi nóng, dòng máu trong người sôi sục, thôi thúc hắn tìm ra lối thoát.

Cảm giác lơ lửng giữa chừng này khiến nàng cũng khổ sở, không biết bản thân mình muốn gì, chỉ thấy cơ thể nóng bức vô cùng. Rõ ràng hắn cũng đang tỏa nhiệt, nhưng nàng lại cảm thấy hơi thở của hắn mang theo chút cảm giác lành lạnh, như có thể xoa dịu cơn khô nóng, liền vô thức nép sát vào hắn. Không biết từ khi nào, nàng đã quấn chặt lấy hắn như dây leo ôm lấy thân cây.

Nàng cần hắn. Tống Hành vô cùng kinh ngạc lẫn vui mừng. Trong đôi mắt phượng như lóe lên ánh sáng, hắn thành kính hôn lên giữa đôi mày nàng, siết chặt mười ngón tay đan vào nhau, từng bước dẫn dắt.

Chợt, nàng phát ra tiếng rên khẽ…

Tống Hành lau nước mắt nơi đuôi mắt nàng, dịu giọng dỗ dành: “Ta sẽ khiến nàng vui sướng. Gọi ta đi, Âm Nương.”

Ý thức dần mờ nhạt, đầu óc trở nên hỗn loạn, hắn nghe thấy nàng gọi hắn là “Thánh thượng.”

Tống Hành khẽ lắc đầu, một tay nắm chặt lấy nàng, giọng nói tựa gió cuốn, sửa lại lời nàng: “Âm Nương ngoan, không phải gọi như vậy. Nàng phải gọi ta là Quỳ Ngưu Nô.”

Quỳ Ngưu Nô. Ba chữ ấy xoay quanh trong đầu nàng, khiến tâm trí nàng chẳng thể cưỡng lại sức ép của hắn.

Ngón chân trắng hồng khẽ co lại, nàng ngước mắt lên nhìn hắn, ánh mắt mờ mịt ngấn lệ. Nàng mở miệng, lần này lớn tiếng hơn chút: “Quỳ Ngưu Nô…”

Tống Hành không thể diễn tả sự thỏa mãn của mình lúc này. Hắn dịu dàng v**t v* lưng nàng, khen ngợi: “Âm Nương ngoan, ngoài nàng ra, không ai được phép gọi ta như vậy.”

“Ta chỉ thuộc về mình Âm Nương, và Âm Nương cũng chỉ có thể là của ta. Ta nhất định sẽ đưa nàng ra khỏi nước Ngụy, để chúng ta đều có thể gặp nhau mỗi ngày.”

Chẳng phải nàng vẫn đang ở bên hắn đó sao? Nhưng không hiểu sao khi hắn nói những lời này, nàng lại quay đầu đi, nhắm mắt lại, không thèm để ý đến hắn nữa.

Tuy nhiên, điều này không làm giảm đi hứng thú của Tống Hành.

Tống Hành bế nàng bước tới trước bức bình phong hoa điểu gập làm ba, vẫn không mệt mỏi nâng niu nàng. Hơi thở ấm áp thì thầm bên tai nàng: “Âm Nương, nàng cũng phải thích ta, nhất định phải thích ta. Trên đời này, chỉ có ta mới xứng với nàng. Nếu là người khác, làm sao có thể nuôi được nàng, thỏ ngọc tham ăn này, làm sao có thể khiến nàng thỏa mãn như vậy?”

Sau một lúc lâu, cuối cùng nữ lang cũng không còn sức để nói, chỉ có thể yếu ớt quàng tay quanh cổ hắn, ôm lấy hắn.

Tống Hành cắn nhẹ vành tai nàng, từng bước một, vững vàng và nhanh chóng, hắn tiến về phía giường.

Cơ thể mềm mại của nàng dần kiệt sức, nước mắt và mồ hôi hòa quyện, giọng khản đặc cầu xin để nàng được nghỉ ngơi trên giường.

Cảm nhận được sự thay đổi của nàng, Tống Hành dừng lại đúng lúc, ôm nàng bước thêm một đoạn, rồi mới chịu buông nàng xuống lớp chăn êm ái.

Trong mộng, mọi thứ đều chân thật đến mức khiến người ta khó lòng phân biệt. Hắn không nhớ đã bao nhiêu lần, chỉ biết đến khi bên ngoài truyền đến tiếng gõ cửa của Trương nội thị, thúc giục hắn thức dậy, giấc mộng mới chấm dứt.

Tống Hành xoa nhẹ sống mũi cao thẳng của mình, từ từ mở đôi mắt vẫn còn nhập nhèm buồn ngủ, vén chăn bước xuống giường. Đến lúc ấy, hắn mới nhận ra chiếc q**n l*t của mình đã không còn nguyên vẹn.

Đến cả đệm giường cũng chẳng khá hơn là bao.

Nếu đã khát vọng đến mức này, không thể quên nổi nàng, thì cớ sao không thuận theo trái tim mà hành động?

Hắn từng để nàng rời đi, đương nhiên cũng có thể lần nữa mang nàng trở về.

Hãy để nàng an ổn thêm một thời gian ở đất Ngụy.

Tống Hành thay bộ q**n l*t sạch, ra lệnh mang nước vào. Sau khi rửa mặt, mặc phục sức chỉnh tề, hắn để nội thị giúp mình vấn tóc gọn gàng.

Nếu không tận mắt thấy Thánh thượng vì Dương thị nữ mà lưu luyến đến tận khuya mới hồi cung, Bảo Sênh suýt nữa đã tin rằng hắn thực sự là Thánh nhân thanh tâm quả dục, không gần nữ sắc.

Trương nội thị lại đặc biệt chú ý đến việc lập hậu của hắn, âm thầm theo dõi đến từng nhất cử nhất động. Nhìn thấy tinh thần của Thánh thượng dường như phấn chấn hơn, không còn u sầu như những ngày trước, liền đoán rằng có lẽ người đã nhận được tin vui nào đó.

Có lẽ Thánh thượng đã nghĩ thông, quyết định sống những ngày yên ổn với tân hậu.

Trương nội thị thầm nghĩ như vậy, theo sát Tống Hành rời khỏi điện Triều Nguyên, cung kính đi phía sau long liễn.

Trên triều đường, quần thần đều ngầm hiểu ý chỉ Tống Hành đưa ra mấy ngày trước về việc lập hậu. Lại thêm Thái sử lệnh [1] vừa yết kiến Thánh thượng hôm qua, hẳn rằng hôm nay chính là ngày Thánh thượng ban chiếu lập hậu.

[1]

Thế nhưng, suốt buổi lâm triều, chẳng những không có chiếu lập hậu, mà Thánh thượng lại nói đến thiên tượng, bảo rằng đêm qua khi rảnh rỗi, người nhận thấy thiên tượng có điểm khác thường, ra lệnh cho Thái Thường tự [2] điều tra nguyên nhân.

[2]

Thái Sử lệnh vốn mỗi đêm đều quan sát thiên tượng, nhưng chưa từng phát hiện điều gì bất thường. Dẫu vậy, nếu Thánh thượng đã nói, hẳn là có lý do riêng, ông đành bước ra, khom mình tiếp chỉ một cách kính cẩn.

Sau triều, ông liền bước đến ngoài điện Triều Nguyên, xin cầu kiến Thánh thượng.

Tống Hành không vòng vo mà thẳng thắn ra lệnh cho Thái Sử lệnh nghĩ ra một lý do để biện minh rằng hiện tại quốc quân không thể lập hậu hay nạp phi.

Mới mấy ngày trước còn yêu cầu ông chọn ngày lành tháng tốt để sách lập hoàng hậu, nay lại bắt ông bịa ra một thiên tượng không hề tồn tại. Thái Sử lệnh chỉ cảm thấy vị quân vương trẻ tuổi này thực sự có phần làm khó người khác, hành vi cũng hết sức kỳ lạ.

Từ cổ chí kim, làm gì có vị hoàng đế nào gần ba mươi tuổi mà vẫn chưa lập hậu, nạp phi, để lục cung trống không như vậy kia chứ?

Việc này quả thật hoang đường, nhưng mệnh vua khó cãi, vì mạng sống của chính mình, Thái Sử lệnh đành cắn răng chấp nhận.

Ngày ấy, Thái hoàng thái hậu chờ mãi mà vẫn không nhận được tin tức lập hậu của Tống Hành. Ba ngày sau, bà lại nghe được tin rằng Thái Thường tự báo cáo thiên tượng cho thấy có điềm lạ. Thánh nhân phán rằng trước khi thiên tượng thay đổi, không nên lập hậu hay nạp phi, nếu không sẽ ảnh hưởng đến quốc vận.

Lời lẽ hoang đường này có thể ngăn chặn miệng lưỡi của những kẻ khác, nhưng không qua mắt được Thái hoàng thái hậu. Bà thầm nghĩ: Nhị lang thật sự vì nữ nhân họ Dương ấy mà mất trí rồi sao? Không lập hậu, không nạp phi? Chẳng lẽ ngày sau đánh bại Ngụy quốc, hắn còn định đón nữ nhân ấy về cung, sắc lập làm hoàng hậu?

Hoặc là, ngay lúc này hắn sẽ nghĩ cách đưa nữ tử họ Dương ra khỏi nước Ngụy?

Trong lòng bất an, đầu đau như búa bổ, thêm tiết trời tháng bảy chuyển thu, ban đêm lại chịu vài cơn gió lạnh, không bao lâu bà liền nhiễm phong hàn. Tống Hành nghe tin, lúc này mới đến điện Huy Du để thỉnh an Thái hoàng thái hậu.

“Nếu lão thân không lâm bệnh, có phải Nhị lang sẽ mãi trốn tránh, không chịu đến gặp ta nữa không?”

Thái hoàng thái hậu vừa uống thuốc xong, trong miệng vẫn còn dư vị đắng chát, nhưng lòng bà lúc này còn đắng hơn. Chân mày bà cau chặt, trầm giọng hỏi Tống Hành.

Tống Hành vẫn giữ nét mặt ung dung, đáp: “Trẫm không có ý đó. Chỉ là gần đây quốc sự bận rộn, nhất thời quên mất việc đến thăm a bà.”

Quốc sự bận rộn? Nếu hắn thật sự lấy quốc sự làm trọng thì sẽ không vì một nữ tử họ Dương mà trì hoãn việc lập hậu, nạp phi, kéo dài dòng dõi hoàng tộc?

Thái hoàng thái hậu tức giận đến mức không thể giữ vẻ ôn hòa được nữa. Vị đắng trong miệng và trong lòng dường như càng thêm nồng, bà chỉ biết ôm ngực, giọng run run: “Chỉ vài tháng nữa, Nhị lang sẽ tròn ba mươi tuổi. Các đời đế vương từ xưa đến nay, làm gì có ai không lập hậu, không nạp phi? Hơn nữa, dưới gối người lại chưa có con cái, giang sơn cơ nghiệp của Triệu quốc này, tương lai người muốn giao cho ai kế thừa?”

Tống Hành im lặng giây lát, đôi mày giãn ra, giọng điềm tĩnh: “Không quá vài năm nữa, trẫm sẽ tự mình đưa Dương thị về. Hoàng hậu của trẫm, chỉ có thể là nàng. Đích tử của trẫm, cũng chỉ có thể là con của nàng.”

Thái hoàng thái hậu gần như không thể tin nổi những gì mình vừa nghe. Bà tức đến mức mắt tối sầm, cố gắng nuốt cơn khó chịu xuống, trừng mắt nhìn hắn, quát lớn: “Nhị lang, cháu điên rồi! Dương thị chỉ là một cô nhi, lại là cháu gái của Vũ An hầu, làm sao có thể xứng làm hoàng hậu? Nhị lang, chẳng lẽ cháu bị nàng ta chuốc mê hồn dược rồi sao?”

Mắng xong, bà ho sặc sụa không ngừng.

Lúc này, ý định của Tống Hành đã như đinh đóng cột. Dù Thái hoàng thái hậu lấy gia pháp tổ tông ra ép buộc, hắn cũng không đời nào thay đổi quyết định.

Thấy Thái hoàng thái hậu tức giận đến mức này, để tránh bà nổi giận làm tổn hại sức khỏe, Tống Hành không ở lại lâu, liền đứng dậy cáo từ: “Trẫm đã nói nàng làm được thì nhất định sẽ làm được. A bà đang bệnh, việc triều chính và hậu cung không cần xen vào, hãy an tâm dưỡng bệnh. Trẫm còn nhiều tấu chương chưa phê, khi nào rảnh sẽ lại đến thăm người sau.”

Nói xong, hắn sải bước rời khỏi điện Huy Du.

Trương nội thị thấy Tống Hành bước vào điện Huy Du với sắc mặt bình thường, nhưng lúc đi ra lại mang theo vẻ trầm lặng, liền hiểu ngay có chuyện bất hòa với Thái hoàng thái hậu. Hăn không dám nhiều lời, chỉ lặng lẽ theo người về điện Triều Nguyên, rồi dặn dò cung nhân trong điện cẩn thận hầu hạ, tránh làm Thánh thượng phật ý.

Tuyên Châu.

Thi Yến Vi đã ở lại nơi này hơn hai mươi ngày, thăm thú hết các danh lam thắng cảnh xung quanh. Sau khi hoàn thành bản du ký, nàng bắt đầu thu xếp hành lý, ngỏ ý mời Lý Lệnh Nghi cùng về Biện Châu.

Hai người đã sớm hẹn trước, nên Lý Lệnh Nghi đương nhiên không từ chối. Nàng cùng Vọng Tình sắp xếp mọi đồ đạc gọn gàng, không khóa cửa đạo quán, để mặc cửa lớn cửa nhỏ đều mở toang.

Úc Kim thấy vậy không khỏi khó hiểu, liền lên tiếng hỏi.

Lý Lệnh Nghi cười nhẹ đáp: “Phúc sinh vô lượng thiên tôn, nếu có ai qua đường cần chỗ trú chân, có thể nghỉ lại trong đạo quán một đêm.”

Thi Yến Vi nghe thế liền mỉm cười nói: “Mấy hôm trước chẳng phải có lão bà và nữ lang đến tránh mưa trong đạo quán sao? Cách đây vài ngày lại có một nam lang du ngoạn ở xa xin nghỉ nhờ một đêm, chẳng lẽ Úc Kim đã quên rồi?”

Úc Kim nghe xong, mặt thoáng đỏ bừng, ngượng ngùng nói: “Hai vị nữ quan có lòng nhân hậu, giúp người khi cần, là do em hẹp hòi rồi.”

Lý Lệnh Nghi nghe vậy, khẽ mỉm cười, nói: “Mỗi khi ra ngoài, khóa cửa cẩn thận là lẽ đương nhiên, đâu có gì hẹp hòi đâu.”

Bốn người cười nói vui vẻ, cùng nhau xuống núi. Khi đến nơi, Úc Kim thấy xe ngựa đã có thêm một con ngựa kéo, so với lúc đến chỉ có một, có lẽ tiểu nương tử thấy một con ngựa kéo bốn người là quá sức, nên đã mua thêm một con.

Trên đường trở về Biện Châu, Thi Yến Vi lo lắng ngựa quá sức mà sinh bệnh, nên dọc đường nghỉ ngơi nhiều hơn lúc đi. Phải mất tròn ba mươi ngày, cả đoàn mới tới được Biện Châu.

Thi Yến Vi viết thư báo trước cho Biện Châu, Thẩm Kính An biết Lý Lệnh Nghi sẽ về cùng nàng nên vô cùng mừng rỡ. Y sai người dọn dẹp một viện tử cổ kính, chuẩn bị sẵn bồ đoàn và hương án, chờ hai người đến nơi. Bà mụ quản sự dẫn Lý Lệnh Nghi về viện của nàng.

Giờ Dậu nhị khắc, Thẩm Kính An cưỡi ngựa về phủ.

Tiểu tư báo rằng tiểu nương tử đã về phủ, còn dẫn theo một nữ quan.

Thẩm Kính An nghe vậy mừng rỡ, bước nhanh vào phủ. Nhưng để tránh mạo phạm Lý Lệnh Nghi, y quyết định tìm gặp cháu gái trước.

Vào đến viện, y thấy Thi Yến Vi đang cùng Lý Lệnh Nghi đánh cờ dưới tàng hoa quế.

Trung thu sắp tới, cành cây đã đầy nụ, hương quế thoang thoảng theo làn gió mát.

“Gia chủ.” Úc Kim là người đầu tiên nhìn thấy y, vội đứng dậy khỏi ghế đá, chắp tay trước ngực thi lễ.

Thi Yến Vi và Lý Lệnh Nghi cũng đứng lên, hành lễ.

Khác với những lần gặp riêng Thi Yến Vi, hôm nay Thẩm Kính An có vẻ hơi lúng túng. Tay phải y buông lỏng, nhưng tay trái lại siết thành nắm đấm nhỏ, đôi môi mỏng hơi nhếch lên, có vẻ như tai y cũng hơi đỏ.

Người trong cuộc thường u mê, kẻ bên ngoài sáng tỏ. Lý Lệnh Nghi không nhận ra điều gì, nhưng Thi Yến Vi lại nhạy bén nhận ra ngay.

Thẩm Kính An chuyển ánh mắt từ Lý Lệnh Nghi sang Thi Yến Vi, nửa đùa nửa thật: “Dạo này Nhị nương trông có vẻ tròn trịa hơn, chắc hẳn đồ ăn ở Tuyên Châu hợp khẩu vị, ngày nào cũng ăn thỏa thích nhỉ?”

Vừa nói, y vừa quay sang nhìn Lý Lệnh Nghi, như chỉ đang đơn thuần cảm ơn: “Cũng phải cảm tạ công chúa đã chiếu cố cháu gái ta suốt thời gian qua.”

Lý Lệnh Nghi mỉm cười: “Thẩm lang quân không cần khách sáo. Năm ngoái ở Biện Châu, lang quân đã giúp đỡ ta rất nhiều, đây chẳng qua là lễ đáp lại.”

Thi Yến Vi nghe hai người đối đáp, không khỏi tò mò về mối quan hệ của họ, liền hỏi: “Không biết a cữu và Lệnh Nghi gặp nhau thế nào?”

Thẩm Kính An ra hiệu cho hai nàng ngồi xuống tiếp tục chơi cờ, mình thì ngồi xuống một chiếc ghế đá gần đó, ra lệnh cho Úc Kim pha trà, rồi mới chậm rãi mở lời: “Hồi đó, a cữu tòng quân ở Tấn Châu đã nhiều năm, nhưng không ít lần bị những kẻ có bối cảnh thế gia cướp công, mãi chẳng lập được chiến công nào đáng kể, càng không nói đến việc được trọng dụng. Sau này, a nương của cháu mang theo cháu và Tam lang rời khỏi Tấn Châu. Mẹ cháu gửi thư về mẫu tộc, nhưng thư chưa mở đã bị đốt. A cữu không hay biết các người đi đâu, thêm vào tiền đồ mờ mịt, lòng tự nhiên nguội lạnh, nên mới rời Tấn Châu đến Trường An tìm cơ hội. Khi ấy, nghe nói công chúa Tuyên Thành được hoàng đế sủng ái, thường cứu giúp người khốn khó, a cữu liền mong được diện kiến. Nhưng mỗi ngày có hàng chục người cầu kiến, nên phải mười lần lui tới bên ngoài Diên Sinh quan mới được gặp. Công chúa nhẫn nại khuyên giải, giúp a cữu vực dậy tinh thần, còn ban cho ba quan tiền. Dựa vào số bạc ấy, a cữu từ Trường An đi đến Hứa Châu, gia nhập Võ quân, rồi nhờ chiến công mà được đương kim Thánh nhân chú ý, sau đó chuyển vào làm quân tiên phong Tuyên Võ, từng bước đạt tới vị trí hôm nay.”

“Những năm qua, a cữu luôn ghi nhớ ân đức của công chúa, mỗi năm đều đến núi Kính Đình thăm nàng. Năm ngoái, khi Thánh thượng mới đăng cơ, hai trấn Trấn Hải và Tuyên Hấp toan lợi dụng danh nghĩa triều trước để chiêu binh mãi mã, chiêu dụ cựu thần. A cữu kịp thời sai người đón công chúa về thành Biện Châu lánh nạn. Nhờ vậy mới có chuyện công chúa nhắc đến ân tình của a cữu vừa rồi.”

Thi Yến Vi chăm chú lắng nghe, đến mức không để ý quân cờ của mình đặt ở đâu. Lý Lệnh Nghi ngồi đối diện thấy vậy liền trêu chọc: “Âm Nương nghe đến nhập thần rồi, quên mất mình đang cầm quân trắng sao?”

Vừa nói, nàng vừa đặt xuống một quân đen, ăn được cả mảng lớn quân trắng.

Chừng một khắc sau, quân đen thắng.

Thi Yến Vi nhìn sâu vào mắt Thẩm Kính An, mỉm cười nhẹ nhàng: “Cháu không địch nổi Lệnh Nghi, a cữu giúp cháu gỡ lại có được không?”

Thẩm Kính An đón lấy ánh mắt nàng, nhận thấy dường như nàng đã nhận ra điều gì, liền không từ chối ý tốt của nàng.

Hai người giao đấu một hồi, trời đã chập choạng tối.

Thi Yến Vi tiễn họ ra đến cổng viện, thấy Thẩm Kính An và Lý Lệnh Nghi sóng vai rời đi, lòng thầm hiểu hắn đang tiễn nàng về.

Vài ngày sau, Thi Yến Vi quan sát hai người nhiều lần, càng thêm chắc chắn suy đoán trong lòng.

Ngày hưu mộc, Thẩm Kính An dậy sớm luyện công, Thi Yến Vi dùng xong bữa sáng liền đến thỉnh an.

Khi tỳ nữ lui ra pha trà, nàng thẳng thắn hỏi: “Có phải a cữu đã có tình cảm với Lệnh Nghi không?”

Thẩm Kính An vịn tay vào ghế thiền, không phủ nhận.

“Công chúa tâm đ*o kiên định, không muốn hoàn tục. A cữu tôn trọng tâm ý của nàng, không muốn nàng phiền muộn. Chỉ cần mỗi năm gặp được vài ngày như hiện tại, a cữu đã mãn nguyện. Huống chi, nay a cữu đã tìm lại được cháu. Nếu sau này cháu gặp được ý trung nhân, sinh vài ba đứa nhỏ, chỉ sợ a cữu sẽ bận rộn luôn tay.”

Thời thế hiện tại, người có quyền thế đa phần đều thê thiếp đầy nhà, thật hiếm ai như a cữu.

Thi Yến Vi cảm thán trong lòng. Nàng và Lương Thiển đều là linh hồn đến từ hiện đại, tự nhiên không muốn cưới gả làm thê tử ở nơi này. Chỉ là tiếc thay cho tấm chân tình của a cữu.

“A cữu chớ nói bừa. Cháu nào muốn cưới gả sinh con gì! A cữu chẳng hay biết sao? Nữ nhân khi sinh nở tựa như bước một chân vào quỷ môn quan. Khi xưa a nương mang thai con đã thân thể yếu nhược. Sau đó chỉ vừa quá ba mươi đã sớm lìa trần. Ai biết liệu có phải do việc sinh nở làm hao tổn nguyên khí không? Nếu a cữu thích trẻ con, sao không đến phường tế bần nhận nuôi vài đứa bé không còn cha mẹ?”

Khi xưa, lúc a nương mang thai Dương Duyên và nguyên thân, Thẩm Kính An đều không ở bên cạnh bà, nên y không thể biết rõ những hiểm nguy ấy. Dẫu vậy, trong số những nam nhân, y lại là người hiếm hoi biết lắng nghe và cảm thông. Nghe xong lời này của nàng, hồi tưởng lại dáng vẻ gầy yếu bệnh tật của a tỷ sau khi trở về nhà mẹ đẻ, y không khỏi tự trách mình vì đã lỡ lời.

“Quả thực là a cữu không hiểu nỗi khổ của nữ lang khi sinh nở. Hôm nay nghe Nhị nương nói thế, a cữu đã được khai sáng. Từ nay sẽ không hỏi đến chuyện hôn nhân của Nhị nương nữa. Nếu sau này Nhị nương muốn lập nữ hộ, a cữu cũng sẽ tôn trọng ý nguyện của Nhị nương.”

Thi Yến Vi nhìn y đối xử tốt với mình như thế, trong lòng chẳng khỏi dâng lên cảm giác áy náy. Bởi nàng nào phải Dương Sở Âm, mà chỉ là một linh hồn từ hiện đại, hoàn toàn không liên can gì đến y.

Nhưng rồi nàng tự nhủ, nếu nói ra sự thật chẳng phải chỉ khiến y thêm đau lòng? Nếu lỡ làm y kinh hãi, e rằng còn bị coi là yêu quái… Nghĩ kỹ lại, cuối cùng vẫn không nên nói thì hơn.

Một lúc sau, tỳ nữ mang trà nóng vào. Thi Yến Vi nhấp nhẹ một ngụm, rồi khẽ cười:

“A cữu này, hôm nay trời đẹp thế này, bờ sông Biện chắc hẳn rất náo nhiệt. Hay là người cùng cháu và Lệnh Nghi ra bờ sông dạo một vòng? Lệnh Nghi bảo năm ngoái ở Biện Châu có loại bánh hoa quế thơm ngọt vô cùng. Cháu cũng muốn thử xem sao.”

Được cùng người trong lòng tản bộ ngắm cảnh, Thẩm Kính An nào có thể từ chối.

Ba năm sau.

Thành Tuyên Châu.

Thi Yến Vi ôm một bé gái chừng hai tuổi bước lên xe ngựa trở về Biện Châu. Bên cạnh nàng vẫn là Úc Kim như thuở nào.

Lý Lệnh Nghi cũng đồng hành cùng nàng đến Biện Châu. Sau khi lưu lại đó vài ngày, nàng sẽ lên đường đến Yên Châu để gặp một cố nhân.

Gần đây, triều đình nước Ngụy không được yên ổn. Thế lực Đông Cung dần thất sủng, ngược lại, Khang vương ngày càng được thánh ân sủng ái. Hai phe thế lực tranh đấu quyết liệt, các đại thần trong triều buộc phải chọn đứng về một phía.

Thời gian dài, trong giới sĩ tộc quyền quý bắt đầu lan truyền tin đồn: Nhũ nhân họ Vương của Khang vương rất được lòng Thánh thượng, chính nhờ nàng mà Khang vương mới có được ân sủng.

Chuyện chốn thâm cung thế này, vốn dĩ không thể vô căn cứ mà truyền ra.

Ba năm qua, Thánh thượng đắm chìm trong tửu sắc, sa đọa trong hưởng lạc. Dù quốc khố có phần khởi sắc, nhưng so với sự cần kiệm và chuyên cần của quốc quân nước Triệu, quốc khố Triệu quốc ngày càng thịnh vượng, khiến khoảng cách giữa hai nước càng thêm rộng lớn.

Ban đầu, Thẩm Kính An cùng một nhóm lão thần hết lòng can gián, tuy nhiên, sau nhiều lần nghe phải lời không lọt tai, Giang Tiều bắt đầu không còn nhẫn nại, hoặc là tảng lờ cho qua, hoặc là viện cớ bệnh không tiếp.

Ngày Thi Yến Vi đặt chân đến Biện Châu, đúng lúc cuối hạ đầu thu. Nắng trưa gay gắt, Úc Kim xuống xe trước, giương ô che nắng. Thi Yến Vi bế Dương Quân trong lòng, chậm rãi tiến vào phủ.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 74: Trân Trân



Buổi chiều đầu thu vẫn còn chút oi bức. Dương Quân ngồi trên xe ngựa suốt mấy ngày liền, giờ trở về căn phòng quen thuộc, chẳng mấy chốc đã nằm dài trên giường ngủ say.

Lý Lệnh Nghi và Thi Yến Vi ngồi sát bên nhau, cùng chăm chú ngắm nhìn Dương Quân. Cả hai ngày càng tin rằng quyết định giữ cô bé lại thay vì đưa đến phường tế bần, là điều hoàn toàn đúng đắn.

Dẫu việc chăm sóc cô bé đôi khi rất vất vả, nhưng bé cũng mang đến không ít tiếng cười. Tương lai có bé bên cạnh, dù hai người không ở cùng nhau, Thi Yến Vi vẫn xem như có chỗ dựa tinh thần.

Huống chi, a cữu của nàng mới ba mươi lăm tuổi, nếu một ngày nào đó, người để ý đến một nữ lang khác và cưới làm chính thê, Thi Yến Vi ra riêng tự lập môn hộ, có Dương Quân làm bạn, tương lai cũng có người thừa kế gia sản.

“Trân Trân trông có vẻ cao hơn rồi, xem ra chúng ta lại có việc để làm đây.”

Trân Trân là cái tên họ đặt cho cô bé khi quyết định nhận nuôi bé, sau lần tình cờ phát hiện bé nằm trong tã lót ngoài đạo quán hai năm trước.

Vì Lý Lệnh Nghi là người tu hành, không tiện dùng họ của nàng, nên lấy họ Dương của Thi Yến Vi để đặt tên cho cô bé.

Suốt hai năm qua, Thi Yến Vi thường xuyên đưa cô bé qua lại giữa Biện Châu và Tuyên Châu, nhờ vậy mà bé không bị say xe ngựa hay thuyền. Thi Yến Vi thậm chí còn ôm cô bé du thuyền trên sông Biện nhiều lần.

Lúc Dương Quân tỉnh giấc, mặt trời bên ngoài đã ngả về tây. Thi Yến Vi đưa tay sờ lên sau gáy bé, quả nhiên mồ hôi đã thấm ướt áo trong.

Nàng lấy từ tủ ra một miếng vải mềm sạch sẽ, nhẹ nhàng đặt vào sau lưng Dương Quân, khiến phần vải trên cổ áo lộ ra một mảnh màu sắc khác biệt.

Lý Lệnh Nghi lần đầu thấy nàng làm vậy liền cảm thán là đã không nhìn lầm, họ đều là những người từng làm dì nhỏ ở thời hiện đại.

Dương Quân chỉ hơn hai tuổi, đang ở độ tuổi hiếu động. Vừa tỉnh dậy, bé liền khụt khịt mũi kêu đói, ăn no rồi lại leo trèo khắp giường La Hán và bàn nhỏ.

Khi Thẩm Kính An đến, trời đã vào giữa giờ Dậu.

Hoàng hôn đỏ rực cả nửa bầu trời, vầng trăng non ẩn sau lớp mây.

Thẩm Kính An đến mà không thông báo, bước thẳng vào cửa, thấy Dương Quân đang đứng trên bàn nhỏ tập nói với cháu gái. Ánh mắt Thẩm Kính An liếc qua Lý Lệnh Nghi, chỉ chốc lát rồi bước tới, mỉm cười nói: “Đã lâu không gặp, Trân Trân có nhớ cữu ông không?”

Dương Quân tuy nhỏ nhưng trí nhớ cũng khá, lần trước khi rời Biện Châu chưa đầy vài tháng, gặp lại Thẩm Kính An, cô bé sợ hãi trốn sau lưng Thi Yến Vi, nhất quyết không chịu gần gũi.

Lần này, bé không còn sợ, cái đầu nhỏ lắc lư rồi chăm chú gật đầu, đôi mắt to tròn chớp chớp: “Nhớ, nhớ ạ.”

Thẩm Kính An đưa tay xoa nhẹ lên mái tóc bé, sau đó quang minh chính đại chuyển ánh nhìn sang Lý Lệnh Nghi, tỏ ý cảm tạ vì nàng đã chăm sóc mẹ con họ trong thời gian qua.

Lý Lệnh Nghi cười khẽ, trêu y học đâu ra những lời khách sáo ấy.

Thẩm Kính An đón ánh mắt của hai người, liền cúi người bế Dương Quân lên, nhẹ nhàng ước chừng trọng lượng rồi cảm thán: “Trân Trân lại lớn thêm rồi.” Y khẽ cười, hỏi ý cô bé: “Trân Trân ngoan, cữu ông dẫn con ra vườn hái hoa có được không?”

Dương Quân nghe xong, đôi mắt to tròn như quả nho căng mọng sáng bừng lên, gật đầu liên hồi như giã thuốc, miệng cười toe: “Con muốn hái, hái hoa đỏ tươi, hoa lớn… lớn… thật lớn!”

Thẩm Kính An dịu giọng giải thích: “Trân Trân muốn nói đến mẫu đơn mùa xuân à? Nhưng giờ không có mẫu đơn cho con hái đâu, đành để con chọn hoa khác vậy.”

Dương Quân dường như không hiểu rõ lời y nói, chỉ biết đại khái rằng giờ không thể hái loại hoa bé yêu thích, bĩu môi hồng nhìn hết sức đáng yêu, phụng phịu đáp: “Thôi được, vậy… con hái hoa khác cũng được.”

Nói rồi, bé thúc giục Thẩm Kính An mau đưa mình ra vườn.

Thi Yến Vi và Lý Lệnh Nghi không có việc gì làm, nhấp ngụm trà rồi cũng theo sau bước vào vườn.

Lý Lệnh Nghi hiểu biết nhiều về thảo mộc, liền chủ động dạy Dương Quân nhận biết hoa cỏ cây cối trong vườn. Các tỳ nữ cũng không ngơi nghỉ, theo sát bước chân hai người.

Thẩm Kính An đứng dưới gốc cây quế, thu lại nụ cười, ánh mắt thoáng nét trầm tư dưới ánh chiều tà dịu nhẹ. Y chăm chú nhìn Thi Yến Vi, khẽ nói: “Ba năm qua đi, dung nhan của Nhị nương vẫn như trước, dường như càng thêm viên mãn, khí sắc cũng tốt hơn nhiều.”

Ý tại ngôn ngoại: Giờ nàng vẫn đẹp đến mê hoặc lòng người.

Thi Yến Vi nhận thấy tâm tình y hôm nay không còn vẻ bình thản như trước, dường như mang theo ưu tư, liền thu lại nụ cười.

“Thời cuộc hiện nay không ổn, lòng ta luôn cảm thấy bất an. Nhị nương gần đây nên hạn chế ra ngoài, có thiếu thứ gì, cứ để hạ nhân lo liệu là được.”

Thời cuộc bất ổn. Thi Yến Vi ngẫm nghĩ lời này, đoán rằng vị thế của Đông Cung có lẽ không còn vững vàng như trước.

Đông Cung nhận thấy nguy cơ, tất nhiên phản kích. Vài ngày trước vừa tra ra một vụ án muối lậu, có dấu hiệu liên quan đến phe Khương vương.

Giang Tiều vốn đa nghi, cán cân vốn đã nghiêng về phía Đông Cung nay lại cân bằng trở lại đôi chút.

Khương vương không cam tâm để cục diện khó khăn này phá vỡ tâm huyết mình gây dựng, lại sai Vương thị đến bên gối Giang Tiều thổi gió.

Khang Vương không cam lòng để thế cục mà mình dày công gây dựng bị phá hủy, lại sai Vương thị đến bên gối Giang Tiều rỉ tai.

Các triều đại qua đi, hễ hoàng đế có nhiều con trai thì việc tranh đoạt ngôi vị thái tử luôn đẫm máu và tàn khốc.

Giang Tiều đã cao tuổi, bốn người con trai đều tráng kiện. Hai năm trước, Quý phi họ Phòng vừa được phong đã hạ sinh thêm một hoàng tử. Đứa trẻ chưa đầy một tuổi đã được phong làm Duyện vương, đủ thấy Giang Tiều sủng ái thế nào.

Thi Yến Vi trầm ngâm hồi lâu, gật đầu, nhớ đến Lương Thiển từng nói muốn đến Duyện Châu thăm cố nhân, trong lòng không khỏi lo lắng, bèn hỏi: “Lệnh Nghi còn định đi Duyện Châu một chuyến, a cữu thấy bây giờ đi, có ổn không?”

Thẩm Kính An cân nhắc hồi lâu, nhíu mày đáp: “Khoảng bốn năm trăm dặm đường, nếu cưỡi ngựa, chừng năm sáu ngày là tới. Nếu công chúa nhất quyết đi, tốt nhất nên đi nhanh về nhanh.”

“Dạ, cháu sẽ nói chuyện với Lệnh Nghi. Nếu nàng còn muốn đi, e rằng lại phải phiền a cữu chuẩn bị giấy thông hành.”

Thẩm Kính An chỉ hận không thể làm thêm điều gì cho nàng, nào nề hà gì chuyện nhỏ nhặt ấy, không chút do dự mà đáp ứng ngay.

Đêm đó, Thi Yến Vi trò chuyện với Lý Lệnh Nghi, biết nàng đã quyết, liền sai người tiễn về. Sáng hôm sau, nàng dỗ Dương Quân ngủ yên rồi báo lại cho Thẩm Kính An.

Thẩm Kính An thay nàng sắp xếp giấy tờ, cử thêm vài thị vệ thân thủ tốt đi theo tháp tùng. Lúc này y mới tạm yên lòng, để nàng lên đường tới Duyện Châu.

Trời đất chuyển vần, tháng bảy trôi qua, sắc thu càng thêm đậm.

Lạc Dương, điện Triều Nguyên.

Tống Hành nhận được mật báo, mở ra xem qua, đoạn ném vào ngọn lửa trên giá nến, để cháy thành tro tàn.

Mặc dù biết rõ người của Thẩm Kính An nhất định sẽ bảo vệ nàng chu toàn, nhưng trong lòng hắn vẫn không yên.

Cứ xem như hắn lại hèn mọn thêm một lần.

“Hãy cử thêm tử sĩ thân thủ xuất chúng đến Thẩm phủ ở Biện Châu, tập trung bảo vệ nàng.”

Nam nhân đứng trước án thư, chắp tay trước ngực, cung kính đáp lại: “Ti hạ tuân lệnh.”

Tống Hành căn dặn thêm vài chuyện rồi khoát tay, ra hiệu cho lui. Chẳng bao lâu sau, trong điện chỉ còn lại một mình hắn.

Đêm mỗi lúc một sâu, bên ngoài điện vắng lặng không tiếng động.

Ba năm qua, quốc khố ngày một dồi dào, trong tay Tống Hành tích trữ không ít báu vật được nữ lang yêu thích: Từ lông thú quý do Bột Hải tiến cống, trân châu lớn như dạ minh châu, đến đồ sứ thượng phẩm của Củng huyện, hay những món đồ trang trí chạm khắc từ san hô lớn dọc bờ biển Lư Long, và cả châu báu, ngọc thạch từ các nước hải ngoại…

Từ khi hạ quyết tâm lập nàng làm hậu, Đại trưởng công chúa Tống Vi Lan đã năm lần bảy lượt tìm cách gây khó dễ, lớn tiếng cho rằng nữ tử họ Dương là họa quốc yêu cơ, trách hắn không màng đến nỗi đau mất con của nàng ta. Tống Hành không để tâm, chỉ hạ lệnh đưa nàng ra khỏi cung.

Thái hoàng thái hậu vì thế tranh cãi với hắn không ngừng, nhưng Tống Hành vẫn không động lòng, viện cớ bà tuổi cao, nên giao toàn bộ hậu cung cho lục cục nhị thập ty xử lý. Tương lai lập hậu, mọi sự sẽ giao cho hoàng hậu định đoạt.

Biện Châu, Khang vương phủ.

Khang vương và Hạ vương đang bí mật thương nghị.

Hạ vương hỏi một viên quan mặc quan phục đỏ thẫm: “Chuyện muối lậu ở Dương Châu đã xử lý ổn thỏa chưa?”

Hóa ra vụ án muối lậu này là do Đông Cung phát hiện, sau khi nhận thấy nguy cơ, điều tra sâu mới lôi ra được mối liên hệ với phe của Khang vương. Hiện giờ vụ án này đã được giao cho Đại lý tự và Hình bộ đồng xử lý.

Giang Tiều bản tính đa nghi, từng có ý định phế Đông Cung để lập Khang vương. Nay xảy ra chuyện này, lòng tin lung lay, tạm gác lại suy nghĩ.

Khang vương không cam lòng để công sức xây dựng bao năm sụp đổ, liền sai Vương thị thổi gió vào tai Giang Tiều.

Nhưng gần đây, Giang Tiều dường như không còn sủng ái Vương thị như trước, hiếm khi lưu nàng ngủ lại. Trái ngược, gần đây lại có quan hệ với một thừa huy (thị thiếp) của Đông Cung.

Viên quan cung kính đáp: “Hai vị vương gia yên tâm, mọi sự đã thu xếp ổn thỏa, tuyệt không ai tra ra được vết tích nào liên quan đến vương gia. Chỉ cần đẩy kẻ dưới ra làm vật thí nữa là được.”

Sau một hồi cân nhắc, hắn nói tiếp: “Ti hạ cho rằng nếu muốn khởi sự, không bằng lợi dụng vụ án này, khiến Vũ An hầu rời khỏi Biện Châu. Chủ tướng không có mặt, quân đội tất sẽ không đáng lo ngại.”

Hạ vương cũng có ý này, phụ họa nói: “Vũ An hầu trung thành với Thánh thượng, lại có ý thiên vị Đông Cung. Ta từng nhiều lần lôi kéo hắn, từ vàng bạc châu báu đến mỹ nhân, nhưng hắn không hề lay động. Không làm đồng minh được thì chỉ có thể là kẻ địch.”

Khang vương suy nghĩ hồi lâu, cảm thấy lời ấy có lý, liền định kế hoạch. Hắn hỏi tiếp về tình hình các tướng canh giữ các cổng thành, bàn bạc đến lúc trời khuya dần…

Hạ vương ra cửa hông của phủ, tình cờ gặp một chiếc kiệu nhỏ tiến vào. Người ngồi trong kiệu chẳng phải ai xa lạ, chính là Vương nhũ nhân, người đang là tâm điểm của những lời dị nghị khắp kinh thành dạo gần đây.

Nhị huynh là người ngay cả mỹ nhân từng được cưng chiều bấy lâu cũng có thể hai tay dâng lên. Nếu đổi lại là hắn, tuyệt không làm được trò đó.

Hạ vương ghìm ngựa quay về phủ, giao ngựa cho tiểu đồng dắt vào chuồng, rồi thẳng bước đến một viện trống trải. Nơi đây từng là chỗ ở của Phùng nhũ nhân, ái thiếp mà hắn trân trọng nhất.

Hôm ấy, Phùng thị lao vào lòng hắn, khóc lóc kể tội Thánh thượng đã phạm phải hành vi bất luân đối với nàng.

Hạ vương như bị sét đánh giữa trời quang, toàn thân chấn động, nhất thời chưa thể hồi thần. Chưa kịp hỏi thêm để xác minh sự tình, Phùng thị đã rút trâm bạc cài trên đầu, đâm thẳng vào cổ mình. Máu tươi phun trào, hắn cố sức thế nào cũng không thể cầm lại được.

Từ hôm đó, hắn âm thầm quyết tâm phải đòi lại công đạo từ phụ hoàng.

Nhưng hắn chỉ là một hoàng tử không được sủng ái, đã khi nào phụ hoàng chịu để mắt đến hắn? Muốn đòi lại công đạo, muốn phụ hoàng cũng nếm trải nỗi đau, hắn chỉ có thể nhờ cậy người khác.

Nhị huynh Khang vương, con trai của kế thất Trịnh hoàng hậu, là lựa chọn tốt nhất. Tuy hắn không màng chính sự, nhưng hắn thừa hiểu dã tâm đoạt ngôi Đông cung của Nhị huynh. Hơn nữa, Nhị huynh còn là kẻ lòng muông dạ thú, tâm tư thâm hiểm khó lường.

Mấy ngày sau, tin Phùng nhũ nhân qua đời lan truyền khắp nơi. Giang Tiều không khỏi áy náy với Hạ vương, vì Hạ vương đã cố ý lấy lòng ông ta, nói rằng Phùng thị được Thánh thượng sủng ái vốn là phúc phần của nàng ta, không ngờ nàng ta quá cao ngạo, tự mình tìm cách tự vẫn. Người như thế, thật không xứng hưởng thụ hoàng ân.

Giang Tiều nghe xong cảm thán trước tấm lòng hiếu thảo của Hạ vương, có ý muốn bù đắp nên phong Hạ vương làm Trung thư Thị lang.

Sáng hôm sau, tại triều, các đại thần thuộc phe Khang vương đột nhiên đề nghị phái Thẩm Kính An đi tuần tra án muối lậu ở Giang Hoài.

Việc muối sắt quan hệ đến dân sinh và thu thuế, tuyệt đối không phải chuyện nhỏ. Thẩm Kính An là tâm phúc của Giang Tiều, lại là người đoan chính ngay thẳng, Giang Tiều đương nhiên hoàn toàn tin tưởng y. Đổi lại người khác, chỉ sợ lợi ích chồng chất, chẳng ai dám gánh vác.

Giang Tiều suy nghĩ kỹ càng rồi hạ khẩu dụ, lệnh Trung thư tỉnh thảo chiếu thư.

Ngày hôm đó sau buổi triều, Thẩm Kính An hồi phủ.

Lý Lệnh Nghi đã rời đi hơn mười ngày, hẳn giờ đang ở Duyện Châu, vài ngày nữa sẽ quay lại Biện Châu.

Khi Thẩm Kính An đến, Thi Yến Vi đang ôm Dương Quân kể chuyện cổ tích cho cô bé.

Hôm nay, Thi Yến Vi kể câu chuyện “Cá con tìmmẹ” nhưng đã cải biên lại theo cách riêng của nàng.

Úc Kim ngồi bên ghế nguyệt nha, khâu vá quần áo.

Thẩm Kính An cho nàng lui ra.

“Vài ngày tới, a cữu phải rời Biện Châu đến Dương Châu tuần muối. Công chúa còn chưa về, chỉ có con và Trân Trân ở lại trong thành, lòng a cữu không yên tâm chút nào.”

Thi Yến Vi đưa khóa Khổng Minh cho Dương Quân chơi, đôi mày liễu khẽ chau lại.

“A cữu lo rằng sẽ có kẻ nhắm vào Thẩm phủ sao?”

Không nói rõ được đang lo điều gì, chỉ cảm thấy có chuyện lớn sắp xảy ra. Nếu nói là nhắm vào Thẩm phủ, y không có con nối dõi, cũng không có thân thích nam giới nào đủ khiến phe Khang vương để mắt tới, đâu đáng để bọn họ hao tâm tổn sức như vậy.

Thẩm Kính An lắc đầu, “Khó nói, chỉ thấy thời điểm này có điều bất ổn. Nhị nương phải cẩn thận, tích trữ thêm lương thực cũng không thừa. Nếu không có việc gì cần kíp, hãy hạn chế người trong phủ ra ngoài.”

Thi Yến Vi thoáng trầm tư, rồi khẽ gật đầu: “Cháu hiểu rồi, a cữu cứ an tâm mà đi.”

Đúng như Thẩm Kính An dự liệu, sáng sớm hôm sau thánh chỉ hạ xuống, lệnh y ngày mai giờ Thìn khởi hành đi Dương Châu.

Buổi chiều, Thẩm Kính An tới Đông Cung yết kiến Thái tử.

Trước khi đi, y giao lệnh bài điều động thị vệ trong phủ cho Thi Yến Vi giữ, dặn dò kỹ lưỡng, sau đó mang tâm sự nặng nề cưỡi ngựa rời khỏi thành.

Mấy ngày sau.

Đến giờ thắp đèn, phường chợ bắt đầu đóng cửa.

Thi Yến Vi ngồi cùng Dương Quân trên giường La Hán, chơi một lúc những món đồ nhỏ để dỗ trẻ con, lại vẽ một lúc những bức họa đơn giản cho cô bé, chẳng mấy chốc đã gần sang canh hai.

Tỳ nữ mang nước ấm đến rửa mặt, Thi Yến Vi tự tay lau gương mặt nhỏ nhắn trắng hồng của Dương Quân.

Đột nhiên, bên ngoài vang lên tiếng đánh nhau.

Nghe âm thanh, dường như có hai nhóm người đang giao chiến.

Tiếng binh khí va chạm sắc bén khiến Dương Quân sợ hãi òa khóc.

Thi Yến Vi vội ôm chặt cô bé vào lòng, bịt kín tai bé lại.

Thị vệ của quý phủ nhanh chóng vây quanh, đứng ngoài cửa trấn an nàng không cần lo sợ.

Một khắc sau, tiếng đánh nhau bên ngoài dần lắng xuống, nhưng tiếng bước chân lại dồn dập áp sát vào Thẩm phủ.

Bọn chúng dường như muốn phá cửa xông vào, có ý đồ giết sạch người trong phủ.

Thị vệ trong phủ đều là những người do Thẩm Kính An đích thân tuyển chọn và huấn luyện, ai nấy đều tinh nhuệ, thân thủ phi phàm. Tuy nhiên, đám binh lính xông vào lại đông như kiến cỏ, khiến tình thế dần trở nên căng thẳng.

Mặc dù chống cự quyết liệt, nhưng sau một khắc giằng co, thị vệ Thẩm phủ dần tỏ ra yếu thế, vài binh lính cầm đao đã xông vào được, thấy người liền chém.

Phủ đệ chìm trong cơn hỗn loạn.

Bất thình lình, từ trong bóng tối lao ra mười mấy bóng đen. Người nào người nấy võ nghệ cao cường, hơn hẳn đám thị vệ trong phủ, mỗi kẻ một địch mười. Chẳng bao lâu đã trợ giúp thị vệ Thẩm phủ đẩy lui binh lính địch ra ngoài phủ.

Những kẻ đó là đến để giết nàng sao?

Thi Yến Vi cố gắng hồi tưởng, nhưng nhớ rằng a cữu chưa từng kết oán với Đông cung, ngược lại còn giữ thái độ giao hảo. Chỉ là vị Khang vương dạo gần đây danh tiếng lẫy lừng kia, a cữu lại không hề đánh giá cao.

Chẳng lẽ đêm nay Khang vương làm phản, sai đám binh lính đó tới giết người trong Thẩm phủ?

Nếu quả là như vậy, a cữu chắc chắn đã bị bọn chúng điệu hổ ly sơn. Tình thế trong cung hiện giờ nguy cấp, chỉ e a cữu cũng lành ít dữ nhiều.

Lòng Thi Yến Vi rối bời, chưa kịp nghĩ xem phải làm gì thì binh mã dưới trướng Thẩm Kính An từ Đông Cung tới.

Bên trong quý phủ, thị vệ trưởng thầm nghĩ: Tiểu nương tử chẳng qua chỉ là nữ nhân nơi khuê phòng, hà tất phải bận tâm đến chuyện bên ngoài. Bởi vậy, chuyện có người âm thầm tương trợ vừa rồi, hắn cũng không định nói cho Thi Yến Vi hay, tính toán đợi khi gia chủ hồi phủ sẽ bẩm báo để người quyết định.

Thi Yến Vi giao Dương Quân cho Úc Kim chăm sóc, rồi bước ra ngoài, cúi người cảm tạ các tướng sĩ đã đến cứu giúp.

Tiểu võ quan theo Thẩm Kính An nhiều năm, biết rõ tướng quân có một cháu gái lưu lạc bên ngoài, ba năm trước mới tìm về được. Giờ thấy nàng cúi đầu cảm tạ, vội vàng xua tay: “Nương tử không cần đa lễ.”

Suốt đêm, Thi Yến Vi chẳng thể chợp mắt. Khó khăn lắm mới dỗ Dương Quân ngủ được, nàng rời giường, ngồi thu mình trên giường La Hán.

A cữu sống chết chưa rõ, Lương Thiển cũng chưa trở về. Nàng sao có thể an lòng?

Khi tia sáng đầu tiên của buổi bình minh rọi xuống chính điện, ngôi vị quốc quân nước Ngụy sẽ chính thức truyền lại cho thái tử Giang Thịnh.

Theo sử quan ghi chép, cái chết của Giang Tiều là do Khang vương và Hạ vương tạo phản, đích thân Hạ vương ra tay sát hại. Khi Giang Tiều bị giết, ông ta đang vui thú cùng Lưu thừa huy trên giường. Thái tử kịp thời đến cứu giá, bắn chết Khang vương và Hạ vương ngay trước cửa tẩm cung.

Chỉ trong một đêm ngắn ngủi, Thánh thượng cùng hai vị vương gia đều bỏ mạng.

Ba ngày sau, Lý Lệnh Nghi trở về Tuyên Châu.

Thẩm Kính An sau khi tuần tra vùng Giang Hoài, không chỉ giải quyết vụ án buôn lậu muối, mà còn phát hiện nhiều vấn đề khác. Đợi thu thập đủ chứng cứ, y lập tức hồi kinh, trở về Biện Châu.

Thời gian y rời đi đã gần hai tháng, nhưng triều đình nay khác xưa. Một triều vua, một triều thần. Khi Thẩm Kính An quay lại, triều cục đã thay đổi nghiêng trời lệch đất.

Thẩm Kính An yết kiến tân đế Giang Thịnh, bẩm báo những vụ án mới tra được.

Giang Thịnh vốn được thế tộc quyền quý ủng hộ, mối quan hệ đan xen chằng chịt. Do đó, hắn chỉ lệnh thanh trừng phe Khang vương và Hạ vương, còn những người khác thì được bỏ qua.

“Có câu “nước trong quá thì không có cá”, chẳng lẽ Thẩm hầu gia không hiểu đạo lý này?”

“Nay thiên hạ thái bình, biên cương không có chiến sự lớn. Nước Sở chỉ là đất man di ở Lĩnh Nam, binh lực chưa bằng một nửa triều ta, hoàn toàn không đáng lo ngại. Thẩm hầu nắm giữ mười vạn binh mã trấn giữ kinh thành đã gần bốn năm, triều đình sớm có lời dị nghị. Lâu dần, khó tránh khỏi dèm pha. Chi bằng giao lại binh quyền. Nếu sau này có chiến sự, trẫm tự nhiên sẽ trả lại binh phù cho hầu gia. Nghe danh hầu gia trung thành phụng chủ, chẳng lẽ chỉ vì trẫm tuổi trẻ mà sinh lòng khinh nhờn?”

Lời này rõ ràng là không muốn hoàn trả binh phù.

Tâm địa nghi kỵ, độc đoán của hắn đã ra đến nông nỗi này sao? Nghĩ đến Thánh thượng một đời chinh chiến mới dựng nên cơ nghiệp nước Ngụy, nay giao vào tay người như vậy, chẳng biết tương lai sẽ ra sao.

Thẩm Kính An nghĩ đến đây, lòng lạnh đi nửa phần. Giờ đây Giang Thịnh là quân, y là thần, thưởng hay phạt đều không thể chối từ. Dù trong lòng không cam, y cũng đành cúi đầu, tạ ơn lĩnh chỉ.

Rời cung về phủ, thị vệ trưởng bẩm báo chuyện các hắc y nhân giúp họ đẩy lùi thủ hạ Khang vương.

Nghe xong, trong đầu Thẩm Kính An lập tức hiện lên hai chữ: Tống Hành.

Dám liều chết dùng sát chiêu như vậy, ngoài những tử sĩ được nuôi dưỡng từ nhỏ bò ra từ xác chết chất thành đống, y thật sự không nghĩ ra ai khác.

Người có khả năng nuôi tử sĩ vốn không nhiều, huống hồ đám tử sĩ này lại đến để bảo vệ Nhị nương.

Hắn vẫn chưa buông bỏ Nhị nương sao? Thẩm Kính An thấy lòng rối bời. Sợ nàng và công chúa phát hiện điều gì, y quyết định quay về viện của mình, tạm thời không gặp họ.

Nước Triệu.

Tống Hành đứng trước dư đồ.

Trương nội thị đứng bên ngoài đại điện, khẽ thưa: “Hồi bẩm Thánh thượng, Bất Lương Soái cầu kiến.”

Tống Hành ra lệnh cho người đưa vào.

Bất Lương soái bước vào, cúi người cung kính: “Hồi bẩm Thánh thượng, có tin từ nước Ngụy truyền tới.”

Tống Hành khẽ nhíu mày: “Nói.”

“Ngày nhị vương Khang và Hạ bức cung, người mà Thánh thượng phái đi đã cứu được Dương nương tử cùng… cùng…”

Bất Lương Soái thoáng lưỡng lự, không chắc nữ hài kia cùng Thánh thượng có quan hệ gì, càng không biết phải xưng hô thế nào.

“Cùng ai? Chẳng lẽ lại là Vũ An hầu Thẩm Kính An? Theo trẫm biết, lúc đó hắn đang ở Dương Châu.”

Bất Lương Soái do dự một lát, cau mày cẩn trọng thưa: “Hồi bẩm Thánh thượng, bên cạnh Dương nương tử còn có một đứa trẻ gọi nàng là a nương, gọi Vũ An hầu là cữu ông, chừng hai tuổi.”

Một đứa bé gọi nàng là “a nương”…

Tống Hành nghe vậy, lửa giận lập tức bùng lên, khó kiềm chế được cảm xúc. Nàng sao có thể? Sao nàng dám sinh con cho người khác?!

“Trả lời trẫm, bên cạnh nàng còn có nam nhân nào khác không?”

Bất Lương Soái lắc đầu: “Chưa từng có ai thấy Dương nương tử đi cùng nam lang nào khác, chỉ có công chúa Tuyên Thành của tiền triều ở cùng nàng.”

Không có nam lang khác… Vậy cha của đứa trẻ rất có thể là hắn?

Nhưng không đúng! Tính theo thời gian, nếu đứa bé là con của hắn, thì chỉ có thể là vào thời điểm sau khi nàng trở thành Thượng nghi. Nhưng khi đó, hắn chưa từng ở bên trong…

Khoan đã!

Tống Hành đột nhiên nhớ lại một đêm… Hôm đó, hắn cầu nàng, nàng lại từ chối. Trong khoảnh khắc thất vọng, tâm trí hắn mơ hồ, chẳng lẽ khi ấy vô tình để lại chút mầm mống?

Phải, chính là khi ấy.

Nghĩ đến đây, lòng hắn tràn ngập vui sướng.

Tống Hành lập tức triệu gọi người của cục Thượng y, hỏi rõ tháng cuối cùng trước khi nàng rời cung có lãnh vật dụng dành cho kỳ nguyệt sự hay không.

Nghĩ đến việc nàng thường đau bụng khi đến kỳ nguyệt sự, hắn tiếp tục gọi Lưu Thượng cung đến hỏi xem nàng có xin nghỉ phép vì lý do đó không.

Cả hai nơi đều khẳng định là không.

Phải rồi, chính là khi ấy. Nàng đã mang thai con của hắn!

Đứa trẻ đó là cốt nhục của hắn và nàng.

Hắn sẽ phong đứa bé làm công chúa, sẽ làm một phu quân và một người cha tốt. Nàng sẽ trở thành tiểu nương tử hạnh phúc nhất thiên hạ, và con của họ sẽ là tiểu hài tử hạnh phúc nhất trên đời.

Tống Hành đắm chìm trong những suy nghĩ ấy, vui sướng đến phát cuồng, khó lòng che giấu niềm hân hoan trên gương mặt, lập tức ban thưởng cho Lưu Thượng cung và Triệu Thượng y mỗi người hai mươi quan tiền.

Lưu Thượng cung và Triệu Thượng y đều là những người tinh ý, vừa thấy thái độ của Thánh thượng liền đoán được nguyên do. Họ hiểu rằng những tin đồn về Dương Thượng nghi trước và sau khi rời cung có lẽ không phải là giả.

Tối hôm đó, Tống Hành phấn khích đến mức phê duyệt tấu chương suốt đêm. Qua giờ Tý, nằm trên giường, hắn vẫn nghe rõ nhịp tim mạnh mẽ của mình, mãi không thể bình tâm, càng không tài nào chợp mắt. Hắn chỉ nghĩ đến nàng, nhớ nàng, lòng ngọt ngào như được tẩm mật.

May rằng ngày mai không cần thượng triều sớm, hắn quyết định buông thả bản thân, cho phép mình ngủ thêm một chút.

Mãi đến khi đêm đã về khuya, hắn mới thiếp đi.

Trong mơ, hắn lại biến thành con mèo nhỏ, nhảy lên lòng nữ lang.

Nữ lang ôm hắn vào lòng, nhẹ nhàng v**t v* bộ lông mềm mại.

Đột nhiên, trọng lượng trong lòng tăng lên đáng kể, chưa kịp phản ứng, chú mèo nhỏ đã biến thành một lang quân cao lớn, dùng hai cánh tay rắn chắc giam cầm nàng trong lòng dễ như trở bàn tay.

Chỉ trong chốc lát, y phục trên người nàng rơi xuống đất.

Làn gió nóng ẩm của đêm hè thổi qua da thịt, khiến Tống Hành càng khó kiềm chế hơn. Đôi mắt phượng sâu thẳm của hắn như muốn lột bỏ cả lớp kha tử cuối cùng.

Nàng đáng thương và bất lực, gắng sức bảo vệ mảnh áo lót mỏng manh, càng chống cự càng kịch liệt. Nhưng vừa mới nhấc chân khỏi mép giường, đã bị hắn mạnh mẽ kéo lại.

Trong giấc mơ, ký ức dường như vẫn dừng lại ở Tống phủ, đôi mắt nàng đỏ hoe, giọng nói yếu ớt van xin: “Gia chủ không thể như vậy… cầu ngài, xin đừng đối xử với ta như thế… tha cho ta…”
 

Hệ thống tùy chỉnh giao diện

Từ menu này bạn có thể tùy chỉnh một số phần của giao diện diễn đàn theo ý mình

Chọn màu sắc theo sở thích

Chế độ rộng / hẹp

Bạn có thể chọn hiển thị giao diện theo dạng rộng hoặc hẹp tùy thích.

Danh sách diễn đàn dạng lưới

Bạn có thể điều chỉnh danh sách diễn đàn hiển thị theo dạng lưới hoặc danh sách thường.

Chế độ lưới có hình ảnh

Bạn có thể bật/tắt hiển thị hình ảnh trong danh sách diễn đàn dạng lưới.

Ẩn thanh bên

Bạn có thể ẩn thanh bên để giảm sự rối mắt trên diễn đàn.

Cố định thanh bên

Giữ thanh bên cố định để dễ dàng sử dụng và truy cập hơn.

Bỏ bo góc

Bạn có thể bật/tắt bo góc của các khối theo sở thích.

Back