Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 160: Cuối cùng nàng cũng hiểu mình đã chết thế nào



Lý Doanh ngồi bật dậy, mờ mịt nhìn quanh.

Chẳng phải nàng đã hồn phi phách tán rồi sao? Đây là đâu chứ?

Khi đảo mắt một vòng, ánh nhìn dừng lại trên chiếc dao cầm đặt ngay ngắn trên bàn. Nàng thấy bàng hoàng. Đây chẳng phải cây dao cầm ba mươi năm trước của nàng sao? Còn nơi này, sao lại giống Phượng Dương Các mà nàng từng cư ngụ cách đây ba mươi năm đến vậy?

Thị nữ Lan Hương cung kính bước vào, dâng lên một phong thư: “Công chúa, đây là thư của Trịnh lang quân.”

Lan Hương? Sao nàng ấy vẫn còn trẻ thế này? Trịnh lang quân nào? Là Trịnh Quân sao?

Dù Trịnh Quân là vị hôn phu của nàng, nhưng vì chưa chính thức trở thành phò mã, nên Lan Hương cùng những tỳ nữ khác vẫn luôn gọi hắn là “Trịnh lang quân”.

Phượng Dương Các, Lan Hương, phong thư, Trịnh Quân… Lý Doanh hoàn toàn ngây ngẩn, rốt cuộc đang xảy ra chuyện gì?

Nàng nhìn chằm chằm Lan Hương, khiến thị nữ cũng bối rối, cứ tưởng nàng không muốn nhận thư của Trịnh Quân, dè dặt hỏi rằng: “Công chúa, có cần nô tỳ mang thư này trả lại cho Trịnh lang quân không ạ?”

Lời còn chưa dứt, Lý Doanh bỗng vươn tay giật lấy phong thư, vội vã mở ra đọc.

Đây là thư hẹn gặp nàng vào giờ Tuất tối nay, tại hồ sen trong cung.

Trong thư, Trịnh Quân nói hắn có chuyện muốn bàn bạc với nàng.

Ba mươi năm qua, Lý Doanh vẫn nhớ rõ từng câu từng chữ trong bức thư đòi mạng này, sau khi đọc xong, đầu óc nàng càng thêm hỗn loạn.

Lan Hương thử thăm dò, nhẹ giọng gọi: “Công chúa?”

Lý Doanh không đáp lại, Lan Hương cũng không dám lên tiếng. Mặc dù tính tình Lý Doanh ôn hòa, chưa bao giờ khắt khe với cung tỳ, nhưng chung quy nàng vẫn là vị công chúa được Thánh nhân sủng ái nhất, bởi vậy trong Phượng Dương Các, không ai dám tỏ ra vô lễ trước mặt nàng. Một lúc lâu sau, Lý Doanh mới ngây dại ngẩng đầu, hỏi Lan Hương: “Lan Hương, hôm nay là ngày tháng năm nào?”

Lan Hương càng thêm nghi hoặc, nhưng vẫn thận trọng đáp: “Bẩm công chúa, hôm nay là mùng sáu tháng mười, năm Thái Xương thứ hai mươi.”

Mùng sáu tháng mười, năm Thái Xương thứ hai mươi… Ngày nàng qua đời.

Lý Doanh ngây người hồi lâu, bỗng bật cười khổ. Nàng nói với Lan Hương: “Ta biết rồi, ngươi lui xuống đi.”

Lan Hương hành lễ, lặng lẽ rời đi. Trong phòng yên ắng đến mức có thể nghe thấy cả tiếng kim rơi.

Một lát sau, Lý Doanh cầm lấy phong thư mỏng manh, đi hài đế dày, bước đến trước dao cầm. Nàng quỳ xuống, khẽ chạm vào dây đàn, tiếng nhạc thanh thoát vang lên. Lý Doanh đưa tay phủ lên dây đàn, miệng lẩm bẩm: “Thì ra… là vậy.”

Chẳng trách Ngư Phù Nguy từng nói với nàng, quỷ lại của Vong Tử Thành đều mặc áo đỏ.

Trước đây, nàng chưa từng để tâm đến chuyện này. Nhưng trong Địa phủ, hai lần quỷ lại đến bắt nàng đều mặc áo xanh, chỉ có lần bắt Thịnh Vân Đình ở Trường An, quỷ lại mới mặc áo đỏ.

Vậy nên, người muốn bắt nàng căn bản không phải quỷ lại của Vong Tử Thành.

Nàng nhớ lại lần cùng A Sử Na Gia đến Quỷ Phán Điện. Ở nơi đó, quỷ lại đều mặc áo xanh.

Người muốn bắt nàng, là quỷ lại của Quỷ Phán Điện.

Quỷ Phán Điện là nơi giam giữ hồn phách của Quách Cần Uy, cũng là nơi giam giữ hồn phách của những ai tự vẫn.

Cuối cùng, nàng đã hiểu rõ, chính mình đã chết thế nào.

Nàng nhìn gương đồng, nhìn khuôn mặt phản chiếu trong đó. Nàng là Lý Doanh, mà cũng không phải Lý Doanh. Nàng không còn là công chúa Vĩnh An Lý Doanh, người sẽ hỏi câu “sao không ăn thịt”, thay vào đó, nàng là công chúa Lý Doanh của triều Đại Chu, người đã trải qua ba mươi năm bãi bể nương dâu, từng có một đoạn tình khắc cốt ghi tâm, từng chứng kiến cảnh dân sinh điêu linh, cũng từng thấy cảnh non sông cường thịnh.

Nàng dán mắt vào bóng hình trong gương, khóe môi nhếch lên, nở một nụ cười chua xót: “Thì ra… ta đã giết chính ta.”

Là Lý Doanh của ba mươi năm sau, kết liễu Lý Doanh của ba mươi năm trước.



Lá thư của Trịnh Quân tuột khỏi tay nàng, nhẹ rơi xuống đất. Đôi mắt trong trẻo trên gương đồng dần chìm trong thống khổ tuyệt vọng.

Trước mắt nàng hiện lên cảnh tượng dưới Địa phủ: Ngư Phù Nguy bóp chặt cổ nàng, giận dữ chất vấn: “Ngươi hại cả nhà họ Trịnh ta! Ngươi lấy tư cách gì để tự xưng hai tiếng lương thiện?” Chẳng trách Ngư Phù Nguy lại phẫn nộ và muốn giết nàng đến vậy. Thì ra, kẻ đứng sau huyết án Thái Xương… lại chính là nàng.

Nàng đã hại cả nhà họ Trịnh, hại những người vô tội trong huyết án Thái Xương, khiến thành Trường An chìm trong bể máu.

Nàng mà cũng được xem là người lương thiện sao?

Lương tâm cắn rứt, dồn ép đến mức khiến nàng gần như nghẹt thở. Nàng từng nói với Thôi Tuần rằng, cả đời này nàng chưa từng làm chuyện ác, vì sao lại bị giam cầm trong hồ sen tối tăm lạnh lẽo, vì sao nàng không thể đầu thai? Hóa ra, những tội nghiệt nàng gây ra, những hậu quả nàng để lại, còn nặng nề hơn bất kỳ ai khác trên đời này.

Tại Quỷ Phán Điện, Quách Cần Uy từng nói: “Những kẻ tự vẫn, cứ đến ngày Tuất, ngày Hợi đều phải chịu đựng nỗi đau trước lúc chết một lần nữa, cho đến khi hết tuổi thọ định sẵn mới có thể siêu sinh.” Nhưng có lẽ vì tội nghiệt quá nặng, không chỉ phải chịu đựng sự giày vò ấy hết lần này đến lần khác, mà đến tận lúc dùng hết thọ mệnh nàng vẫn không thể tái sinh. Nàng bị giam cầm trong hồ sen lạnh buốt suốt ba mươi năm, không thể luân hồi, không thể chuyển thế. Ba mươi năm sau, được Thôi Tuần cứu ra, đứng trước mộ chàng, rồi lại quay về ba mươi năm trước, vĩnh viễn chìm trong vòng lặp bất tận, không có đường ra.

Đây có lẽ… chính là phán quyết của Tần Quảng Vương dành cho nàng.

Về phần nguyên do nàng có thể từ ba mươi năm sau quay lại ba mươi năm trước, có lẽ là vì nàng từng sở hữu xá lợi Phật đỉnh. Mà xá lợi Phật đỉnh vốn là pháp tướng không sinh không diệt, cho nên nàng có thể quay ngược thời gian, tự chọn lấy vận mệnh của chính mình.

Nàng có thể tự quyết định: sống hay là chết.



Lý Doanh ngơ ngác.

Nàng có thể lựa chọn sống, tiếp tục làm nàng công chúa nhỏ cao quý, sống một cuộc sống hạnh phúc dưới sự che chở của a gia và a nương. Nàng sẽ không phải chịu đựng nỗi đau chết chìm trong nước hết lần này đến lần khác, bị mắc kẹt trong hồ sen lạnh lẽo tối um, không phải trải qua mối tình nghiệt ngã đến mức đứt đoạn ruột gan, càng không cần phải đối mặt với tột nghiệt nặng nề khi chính tay tạo ra thảm án Thái Xương. Tội nghiệt ấy quá lớn, tưởng chừng có thể đè nát nàng.

Nàng đưa tay che mặt, đau đớn đến nghẹt thở. Nàng có thể chọn cách sống tiếp, nhưng còn người dân thôn Ngưu gia thì sao? Còn bách tính Đại Chu thì sao? Nếu không có tân chính, họ sẽ phải sống thế nào?

Chẳng lẽ cứ để môn phiệt mãi mãi là môn phiệt, hàn môn mãi mãi là hàn môn?

Chẳng lẽ cứ để những đứa trẻ thông minh như Lý Nhi hay Hổ Nô, suốt đời chỉ có thể cuốc cày nơi đồng ruộng?

Chẳng lẽ cứ để Đại Chu không thể phục hưng, triều chính tiếp tục mục ruỗng, để Đột Quyết thừa cơ xâm chiếm, khiến giang sơn gấm vóc tươi đẹp này rơi vào vó ngựa của người Hồ?

Chẳng lẽ cứ để bi kịch Ngũ Hồ loạn Hoa lại tái diễn thêm lần nữa hay sao?

Không, nàng không thể để điều ấy xảy ra.

Nàng buông tay xuống, trong mắt đong đầy ánh lệ. Dường như, nàng đã hạ đủ quyết tâm.



Giờ Dậu, Lý Doanh thay bộ y phục màu xanh, khoác lên mình chiếc áo chẽn, ống tay bó sát, phối cùng váy lụa xen kẽ hai màu đỏ trắng, mái tóc vấn kiểu song hoàn vọng tiên, cài một chiếc trâm vàng, giữa trán điểm đóa hoa điền đỏ như giọt lệ, trên vai khoác một tấm sa mỏng. Đây chính là dáng vẻ khi nàng lần đầu gặp gỡ Thôi Tuần.

Nàng đến tẩm cung của a nương. Từ buổi trưa gặp di mẫu, a nương đã tức giận khác thường. Lý Doanh hiểu rõ, hẳn là di mẫu lại xúi giục bà về chuyện của Trịnh Hoàng hậu, khiến bà giận đến mức bỏ cơm. Khi nàng bước vào, Khương Quý phi đang tựa trên trường kỷ, sắc mặt ủ rũ. Lý Doanh lặng lẽ nằm xuống bên cạnh, nghiêng người gối lên chân bà.

Khương Quý phi v.uốt ve mái tóc nàng, thấy con gái cưng, tâm tình cũng tốt hơn nhiều, bà cười nói: “Minh Nguyệt Châu, sao hôm nay lại ăn mặc đẹp thế này?”

“Ăn mặc đẹp không tốt sao ạ?” Lý Doanh mỉm cười, đáp: “Con diện thêm tí thì a nương sẽ vui vẻ khi nhìn thấy con, ngay cả a gia cũng vậy.”

Khương Quý phi gật đầu. Lý Doanh vẫn ngoan ngoãn nằm trên đùi bà như hồi nhỏ. Nàng khẽ nói: “A nương, con muốn ngủ một lát.”

Khương Quý phi bật cười: “Được.”

Lý Doanh nhắm mắt, tựa như chìm vào giấc ngủ say. Nhưng hồi lâu sau, nàng lại thì thầm, giọng điệu mơ màng, như tỉnh mà cũng như chưa tỉnh: “A nương, nếu sau này người gặp được một vị lang quân họ Thôi ở Bác Lăng, tên là Thôi Tuần, bất luận xảy ra chuyện gì, con cũng xin người hãy giữ lại tính mạng cho chàng.”

Khương Quý phi kinh ngạc, bà không hiểu vì sao nữ nhi lại đột nhiên nói những lời này, liền cất giọng hỏi: “Lang quân họ Thôi ở Bác Lăng, tên là Thôi Tuần sao?”

Lý Doanh “dạ” một tiếng: “Chàng tự là Vọng Thư, a nương, người đừng quên nhé.”

“Con đang nói gì đấy? Minh Nguyệt Châu, con đã mơ thấy gì sao?”

Lý Doanh không trả lời, chỉ cố chấp nói: “A nương, người hãy hứa với con đi.”

Khương Quý phi không còn cách nào khác, đành đáp: “Được, a nương hứa với con.”

Lý Doanh thầm thở phào nhẹ nhõm. Thật ra, nàng muốn hỏi Khương Quý phi, vị Thái hậu sẽ nắm giữ đại quyền nghiêng trời lệch đất sau này, rằng bà có thể đối xử với Thôi Tuần tốt hơn dù chỉ một chút hay không? Đừng đánh chàng, cũng đừng phạt chàng. Nhưng lời đến bờ môi lại hóa thành một tiếng thở dài, giọng nàng nhỏ dần: “A nương, con phải đến chỗ a gia, con đi trước nhé.”

Khương Quý phi tuy lấy làm lạ, nhưng vẫn gật đầu: “Ừ, đi đi.”

Lý Doanh cũng gật đầu đáp lại, đứng dậy mang vào đôi hài đế dày, ngoảnh lại nhìn Khương Quý phi lần cuối, chậm rãi rời khỏi cửa cung.



Nàng đi đến điện Thần Long. Những ngày qua, Thái Xương Đế vẫn luôn nằm liệt giường vì lâm trọng bệnh. Trịnh Hoàng hậu muốn chăm sóc, nhưng người không cho phép. A nương nàng cũng muốn vào hầu hạ, người vẫn một mực cự tuyệt. Lý Doanh biết Thôi Tụng Thanh đã thuyết phục được Thái Xương Đế, khiến người hạ lệnh để Kim Di giết nàng. Sau đó, chính nỗi day dứt vì đã hại chết con gái đã hành hạ người đến mức ngã bệnh. Nàng chần chừ đứng ngoài điện một lát, nhớ đến lời Kế Thanh Dương đã nói: sau khi tra hỏi y, a gia đã thả y đi, để rồi mang mặc cảm tội lỗi và băng hà chỉ sau mười năm. Hẳn là khi ấy, Kế Thanh Dương đã nói rõ chân tướng cái chết của nàng, khiến a gia dằn vặt đến khi chết.

Nàng rất muốn vào điện Thần Long, rất muốn nói chuyện với a gia. Nhưng cuối cùng, nàng chỉ ngẩng đầu, ánh mắt phức tạp nhìn về phía điện Thần Long, trung tâm quyền lực tối cao của Đại Chu, rồi lại cúi xuống, không bước vào nữa.

Bởi vì thực ra nàng và a gia đều đang làm cùng một việc.

Lý Doanh xoay người, từng bước đi về phía hồ sen.

Tất cả cung nữ bên cạnh đều bị nàng tìm cớ cho lui, và nàng một mình đi đến bữa tiệc chết chóc đã được sắp đặt sẵn này.

Trời đêm buông xuống, dưới ánh trăng mờ ảo, Lý Doanh chậm rãi tiến bước. Càng đến gần hồ sen, tâm tư nàng lại càng thêm tĩnh lặng.

Nàng nghĩ, nếu là Lý Doanh của ba mươi năm trước, có lẽ cũng sẽ nguyện chết. Nhưng cái chết đó ắt hẳn sẽ mang theo nhiều uất ức, tủi hờn. Bởi khi ấy, thậm chí nàng còn chẳng biết những điều khoản trong chính sách mới là gì, cũng chưa từng tận mắt chứng kiến người dân thôn Ngưu Gia cùng nhau uống thánh thủy để rồi chết vì hy vọng hão huyền, chưa từng thấy một người nông dân nào tự mình nỗ lực thi cử, nhập triều làm quan, càng chưa từng thấy tướng sĩ Đại Chu có thể đánh lui Đột Quyết ra khỏi dãy Âm Sơn chỉ trong một trận. Nhưng Lý Doanh ba mươi năm sau đã chứng kiến tất cả những điều này. Vậy nên hôm nay, nàng chết không chút miễn cưỡng hay oán hận, chỉ có sự bình tĩnh và quyết tâm.

Trên đường đi, nàng cũng đã hiểu rõ lời Ngư Phù Nguy từng nói: “Ngươi xứng làm người lương thiện sao?” Đúng là nàng có lỗi với những nạn nhân của huyết án Thái Xương, cũng không xứng được gọi là lương thiện. Nhưng nhất sát muôn sinh (một mạng đổi lấy nhiều mạng), nàng chỉ có thể đưa ra lựa chọn này.

Vậy nên, nàng chấp nhận vĩnh viễn bị vây hãm trong vòng tròn của cái chết, lấy đó để chuộc lại tội nghiệt đã gây ra.

Hồ sen tháng mười, hoa sen đều đã héo rũ. Lý Doanh nhìn chăm chăm vào mặt nước tối đen, chợt lên tiếng: “Kế Thanh Dương.”

Thiếu niên Kế Thanh Dương đang ẩn nấp bên hồ sen bỗng sửng sốt.

Lý Doanh nói: “Kế Thanh Dương, ta biết ngươi đến cứu ta. Nhưng đừng cứu ta.”

Nàng nghe thấy tiếng lá cây xào xạc, giọng thiếu niên khàn đặc vang lên: “Công chúa… người đã biết về mệnh lệnh của Thánh nhân rồi sao?”

Lý Doanh không trả lời. Kế Thanh Dương nghiến răng: “Không, Thanh Dương sẽ cứu công chúa. Dù người muốn giết công chúa có là Thánh nhân, Thanh Dương cũng phải cứu công chúa bằng được.”

Lý Doanh lắc đầu: “Đây là vận mệnh ta tự mình lựa chọn. Nếu ngươi còn nhớ ân cứu mạng của ta, hãy hứa với ta, sau này bất kể xảy ra chuyện gì, ngươi cũng không được tới cứu ta.”

Kế Thanh Dương làm sao có thể đồng ý? Lý Doanh lặp lại: “Kế Thanh Dương, hứa với ta.”

Thiếu niên nắm chặt tay, y vẫn nghĩ rằng chính phụ thân đã ép nàng đến bước đường này, mà không biết rằng, chính nàng là người chủ động muốn chết.

Nhưng rồi, Lý Doanh lại nhắc đến lần thứ ba. Y không thể ngăn cản nàng, chỉ có thể cắn răng, rơi nước mắt đồng ý.

Lý Doanh mỉm cười: “Kế Thanh Dương, sau này đừng làm tay sai của Bách Kỵ Tư nữa, hãy làm một người tốt đi nhé. Nhất định ngươi sẽ trở thành một người được người đời kính trọng.”

Sau tán lá rậm rạp, ngoài tiếng lệ rơi vỡ tan trên mặt đất, không còn bất kỳ thanh âm nào khác.

Lý Doanh cúi đầu, nhìn xuống mặt nước sâu không thấy đáy.

Cùng lúc đó, Vương Đoàn Nhi run rẩy, từng bước tiến đến để giết nàng.

Trịnh Quân hối hận khôn nguôi, thúc ngựa phi nhanh đến cứu nàng.

Thẩm Dung nắm chặt một cây ngân châm, nhẫn tâm đâm thẳng vào con rối gỗ có khắc sinh thần bát tự của nàng.

Thái Xương Đế túm chặt cổ áo Kim Di, gào khản giọng ra lệnh không được giết nàng.

Nhưng người mà họ muốn giết, muốn cứu, giờ phút này lại đang nhắm mắt, dang rộng hai tay, trong đầu dần hiện lên một bóng hình kiều diễm như đóa sen. Nàng khẽ nói: “Thập Thất lang, ta đến gặp chàng đây.”

Thân mình nàng nghiêng về phía trước, rơi xuống hồ sen.

Từ đó, quá khứ lụi tàn, nàng lại lần nữa rơi vào vòng tuần hoàn vô tận.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 161: Kết thúc chính văn



Phong Châu, trong doanh trướng phủ đầy tuyết trắng.

Trên đường khải hoàn hồi triều, Thôi Tuần gắng gượng suốt mười ngày, cảm thấy sinh mệnh mình đang dần hao kiệt. Đến ngày mùng mười tháng ba, hắn đã không thể bước nổi dù chỉ một bước, những lúc mê man còn nhiều hơn những lúc tỉnh táo. Hắn biết đại nạn đã đến, bèn triệu Hà Thập Tam cùng những người khác vào trướng, dặn dò hậu sự.

Mười gia quyến của quân Thiên Uy theo hắn rời Trường An Bắc chinh ngày ấy, đến nay năm người đã bỏ mạng nơi sa trường. Đó đều là những thiếu niên vừa tròn mười bốn tuổi. Thế nhưng, không ai hối hận vì lựa chọn của mình. Được chết như các a huynh, ngã xuống trên cùng một chiến trường, với họ mà nói, đó là một vinh quang.

Mắt Hà Thập Tam đỏ hoe. Bên cạnh Thôi Tuần là một hòm gỗ chất đầy châu chấu kết bằng cỏ, hắn vẫn đang cầm một con vừa mới được đan xong. Ngón tay hắn không còn linh hoạt, nên con châu chấu cỏ này vừa méo mó vừa vụng về, nhìn rất khó coi. Hắn đưa châu chấu cỏ cho Hà Thập Tam, ra hiệu đặt vào trong hòm gỗ. Một nghìn con châu chấu cỏ, rốt cuộc cũng đã bện xong.

Hắn dặn Hà Thập Tam rằng, đợi sau khi hắn chết, hãy đưa chiếc hòm này về Thôi phủ ở Trường An. Hà Thập Tam cố nén đau thương, nghẹn ngào hỏi: “A huynh, vậy còn huynh thì sao? Huynh không về Trường An nữa sao?”

Thôi Tuần khẽ lắc đầu, giọng trầm thấp: “Hãy chôn ta ở Lạc Nhạn Lĩnh, để ta an giấc cùng các a huynh của đệ.”

Nghe vậy, Hà Thập Tam cuối cùng không thể kiềm nén thêm, òa khóc nức nở. Thôi Tuần mỉm cười nhẹ nhàng, nói: “Khóc gì chứ? Thân này, vốn chỉ là khách qua đường ở thế gian. Từ đây hồn về cõi trời, chẳng còn điều gì vướng bận.”

Hắn siết chặt túi hương của Lý Doanh trong tay, bỗng thầm thì: “Chỉ không nỡ, Minh Nguyệt Châu…”

Sau khi nói lời ấy, toàn thân hắn đã chẳng còn chút sức lực nào nữa, mang theo nỗi lưu luyến và áy náy đối với Lý Doanh, chậm rãi khép mắt lại.

Bàn tay đang nắm chặt chiếc túi thơm cũng vô lực rơi xuống.

Năm người, gồm cả Hà Thập Tam, loạng choạng quỳ xuống, tiếng khóc vang trời: “A huynh!”

Hắn từng là người mà bọn họ căm hận nhất, vậy mà vào khoảnh khắc này, những thiếu niên ấy lại thực lòng quỳ xuống đất, khóc lóc gọi hắn hai tiếng “A huynh”.

Bọn họ thực lòng thừa nhận hắn, thực lòng kính trọng hắn, như đối với một người huynh trưởng ruột thịt.

Bởi vì hắn xứng đáng được thừa nhận, xứng đáng để bọn họ kính trọng.



Giữa bóng tối mịt mùng, Thôi Tuần mở mắt ra.

Lúc đầu, hắn tưởng rằng linh hồn hắn đã tan thành tro bụi, vĩnh viễn không còn luân hồi, vì thế bóng tối này chính là màn đêm bất tận giam cầm hắn. Nhưng trong bóng đêm ấy, hắn lại nhìn thấy một tia sáng. Thôi Tuần mơ màng bước về phía đó, rốt cuộc tiến vào làn sương mù dày đặc.

Từ trong sương mù, hắn có thể lờ mờ nhận ra trước mắt mình là một dòng sông sâu thẳm, mặt sông rộng lớn vô biên, không thể nhìn thấy cảnh tượng ở bên bờ đối diện. Trong lòng hắn tràn đầy nghi hoặc: “Đây là đâu?”

Là sông Nại Hà ư? Là Địa phủ sao? Nhưng hắn đã hồn phi phách tán, đâu thể đến được Địa phủ.

Ngay lúc Thôi Tuần còn hoảng hốt, bỗng hắn nghe thấy tiếng gọi: “Thập Thất lang!”

Hắn nhìn theo tiếng gọi, chỉ thấy lớp sương dần tản ra, năm vạn Thiên Uy quân đông nghìn nghịt, đứng trước mặt hắn như mây đen áp xuống.

Đứng đầu hàng quân chính là Quách Cần Uy.

Bên cạnh còn có Tào Ngũ lang và cả Thịnh Vân Đình.

Thôi Tuần còn đang bàng hoàng thì Tào Ngũ lang đã sải bước đến gần, ôm chặt lấy hắn: “Thập Thất lang!”

Tào Ngũ lang buông tay ra, lúc này Thôi Tuần mới hoàn hồn, nhỏ giọng hỏi: “Mọi người… sao lại ở đây?”

“Đây là Địa phủ, bờ sông Nại Hà. Những kẻ hại chết chúng ta đã chịu báo ứng, vốn dĩ chúng ta có thể rời khỏi Vong Tử Thành, đi đầu thai chuyển thế. Nhưng vì lo lắng cho huynh nên mới ở đây đợi huynh, sau đó mới rời đi.”

“Đợi ta…” Thôi Tuần lẩm bẩm: “Nhưng ta…”

Hắn muốn nói, hắn đã mất đi linh hồn, hà tất cứ phải đợi hắn? Nhưng lời này còn chưa kịp thốt ra, hắn đã hiểu ra điều gì đó. Việc hắn xuất hiện ở Địa phủ có lẽ là do một cơ duyên nào đó. Hắn nhìn về phía Tào Ngũ lang cùng các huynh đệ Thiên Uy quân, vành mắt nóng bừng, nước mắt dâng lên: “Nếu như không đợi được ta, mọi người định không đầu thai nữa sao?”

Tào Ngũ lang gật đầu chắc nịch: “Đương nhiên!”

Hắn kéo Thôi Tuần đến trước mặt Quách Cần Uy: “Quách soái cũng đang đợi huynh đó.”

Thôi Tuần nhìn Quách Cần Uy, trong thoáng chốc, hắn bỗng cảm thấy tủi hổ, cúi đầu không dám đối diện ngài: “Cháu… cháu đã phụ lòng dạy bảo của Quách soái. Quách soái vẫn luôn nhắc nhở cháu phải sống quang minh lỗi lạc, nhưng cháu đã không làm được… Suốt sáu năm qua, cháu đã phạm phải quá nhiều sai lầm…”

“Thập Thất lang.” Quách Cần Uy vỗ vai hắn, giọng điệu day dứt: “Nếu có sai, thì cũng là ta sai. Ta đã đặt toàn bộ gánh nặng minh oan lên vai cháu, khiến cháu phải chịu muôn vàn khổ cực, không thể trở thành người như ta hằng kỳ vọng. Nhưng cháu vẫn giữ trọn lời hứa với ta. Cháu là đại ân nhân của tất cả mọi người.”

Mắt Thôi Tuần đỏ lên, hắn không quen được người khác xem như ân nhân, cũng không cho rằng những khổ ải mình phải trải qua đều là lỗi của Quách Cần Uy. Ngược lại, hắn chỉ cảm thấy mình đã làm điều nên làm. Để chuyển hướng câu chuyện, hắn hỏi: “Đúng rồi, Quách soái, chẳng phải Minh Nguyệt Châu từng nói hồn phách của ngài luôn bị giam giữ trong Quỷ Phán Điện, chưa đến tận số thì không thể rời đi, vậy làm sao ngài có thể ra ngoài?”

“Bách tính Đại Chu lập vô số từ đường thờ cúng ta, hương khói không dứt, công đức tích lũy. Khi các tướng sĩ của Thiên Uy quân rời khỏi Vong Tử Thành, Tần Quảng Vương cũng thả ta ra, để ta đi đầu thai cùng họ.”

Thôi Tuần lẩm bẩm: “Thì ra là vậy.”

“Một công chuộc một tội, bao gồm cả cháu đấy, Thập Thất lang. Cháu biết rõ chuyến Bắc chinh lần này sẽ gặp cảnh cửu tử nhất sinh, vậy mà vẫn xin được tiên phong, đoạt lại sáu châu, cứu giúp bách tính, buộc Đột Quyết phải rút lui ba ngàn dặm. Cháu đã lập được công lao cái thế, công của cháu đủ để chuộc tội rồi.” Quách Cần Uy nói, “Cháu ôm tâm niệm tan xương nát thịt để ra trận, nhưng chính điều đó lại cứu lấy cháu.”

Chẳng trách hắn có thể đặt chân đến Địa phủ, hóa ra chính hắn đã tự cứu lấy mình.

Thôi Tuần bừng tỉnh, Thịnh Vân Đình bỗng lên tiếng: “Thập Thất lang, bọn ta phải đi đầu thai rồi, đệ có muốn đi cùng không?”

Thôi Tuần ngẩn ra, rồi khẽ lắc đầu: “Không, đệ còn phải đợi một người.”

Quách Cần Uy hiểu ý, trầm mặc một lúc rồi nói: “Thập thất lang, bọn ta đi đây, bảo trọng.”

Dứt lời, năm vạn tướng sĩ Thiên Uy quân đồng loạt quỳ một gối trước Thôi Tuần. Hắn ngây người, còn chưa kịp quỳ đáp lễ thì đã bị Quách Cần Uy ngăn lại: “Thập Thất lang.”

Ông nói: “Cái quỳ này, cháu xứng đáng được nhận.”

Thôi Tuần nhìn những huynh đệ Thiên Uy quân quỳ xuống hành lễ với mình, mắt hắn ngập nước. Sau đó, năm vạn anh linh mang theo sự quyến luyến, hóa thành từng đốm sáng màu xanh lục, trôi dạt về phía con đò đã chờ sẵn của người lái đò.

Ánh sáng xanh như dòng máu đào loang vào nền đất, kết nên dải ngân hà lộng lẫy bắc ngang dòng Nại Hà đen thẳm. Lũ quỷ thú dưới đáy sông cũng yên lặng phục xuống, không dám quấy nhiễu. Khi con đò nhỏ khuất bóng ở bên bờ đối diện, dải ngân hà xanh biếc cũng chậm rãi tiêu tan.

Thôi Tuần đứng lặng, dõi theo họ vượt qua Nại Hà, đi về phía bờ bên kia. Sau đó, hắn xoay người, nhìn về hướng Sinh Tử Đạo.

Hắn đang đợi một người.

Hắn không biết phải đợi bao lâu, chỉ biết rằng, cho dù có dài đến đâu, hắn cũng sẽ chờ mãi.



Con đò nhỏ cuối cùng cũng quay lại, cùng trở về với nó là người lái đò đội nón trúc.

Người lái đò kéo thấp vành nón, cất tiếng gọi: “Thôi Tuần.”

Thôi Tuần ngoảnh lại.

Người lái đò hỏi: “Cậu đang đợi Minh Nguyệt Châu sao?”

Thôi Tuần ngạc nhiên, không rõ vì sao đối phương lại biết chuyện này, nhưng hắn vẫn gật đầu đáp: “Phải.”

“Nàng đã trở về rồi.”

“Về đâu cơ?”

“Ba mươi năm trước.”

Thôi Tuần bối rối, chăm chú quan sát người lái đò, rồi tiến lên một bước, cung kính hành lễ: “Dám hỏi nhà đò, ba mươi năm trước mà ngài nói là có ý gì?”

Người lái đò gật đầu: “Đúng như cậu nghĩ, là ba mươi năm trước.” Ông nói: “Nàng đã quay về năm Thái Xương thứ hai mươi, ngày mùng sáu tháng mười, cũng vào ngày đó, nàng đã tự tay kết liễu chính mình.”

Thôi Tuần ngỡ ngàng, Minh Nguyệt Châu… đã tự sát ư? Chẳng lẽ đây mới là chân tướng về cái chết của nàng?

Hắn buột miệng hỏi: “Nhưng sao hồn phách của nàng lại có thể quay về ba mươi năm trước?”

“Sao lại không?” Người lái đò đáp: “Mỗi người đều có luân hồi, từ sinh đến tử, sau khi chết lại đầu thai chuyển kiếp, cứ thế tiếp diễn. Nhưng vòng luân hồi của Minh Nguyệt Châu không hướng đến kiếp sau. Nó sẽ không ngừng lặp lại những gì xảy ra trong kiếp này.”

Thôi Tuần ngẫm thật kỹ, hắn dần hiểu ra. Giống như trên đời có những người được gọi là “thần tiên sống” hay thuật sĩ, bọn họ giỏi bói toán, tiên đoán sự việc chuẩn xác đến khó tin, thậm chí có thể nhìn thấu chuyện xảy ra vài chục năm sau. Trong số đó, nổi danh nhất phải kể đến Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong. [1]

[1] Lý Thuần Phong (602-670) là người thời Sơ Đường (Thế kỷ VII). Ông là nhà thiên văn học, khí tượng học, chiêm tinh học, cũng đồng thời là thầy phong thủy nổi tiếng nhất thời Đường. Viên Thiên Cương (Cang) (khoảng 573–645) là một nhà chiêm tinh, phong thủy và bói toán nổi tiếng thời nhà Đường. Ông được xem là bậc thầy trong việc đoán mệnh, quan sát tướng số, và dự báo thiên tượng.

Theo truyền thuyết, Lý Thuần Phong từng cùng với Viên Thiên Cương (Cang) soạn ra “Thôi Bối đồ”, giảng giải về Dịch học trên cơ sở khoa học, đáng tiếc cuốn sách tới hiện nay không còn bản gốc nguyên vẹn mà chỉ còn các phụ bản có phần sai lệch lưu truyền. Tương truyền rằng, “Thôi Bối Đồ” là Đường Thái Tông Lý Thế Dân vì để đoán vận mệnh của Đường triều nên đã mời hai vị đại sư Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cương đến suy tính. Không ngờ, Lý Thuần Phong suy tính ra đến vận mệnh của Trung Quốc 2000 năm sau. Cho đến lúc Viên Thiên Cang đẩy lưng của Lý Thuần Phong và nói: “Thiên cơ không thể tiết lộ, hay là đi về nghỉ ngơi đi!” mới dừng lại. Cho nên cuốn sách này được đặt tên là “Thôi Bối Đồ” (ý là đẩy lưng).

Những kẻ được gọi là “thần tiên sống” ấy, có lẽ cũng giống như Lý Doanh, hồn phách của họ quay về quá khứ, chiếm lấy thân xác của chính họ khi còn trẻ, nhờ vậy mới biết trước những sự việc sắp sửa diễn ra.

Ví như dân gian vẫn thường nhắc đến chuyện “khai thiên nhãn”. Người ta kể rằng, có thuật sĩ trong lúc uống rượu hay vui chơi, bỗng dưng ngã xuống bất tỉnh. Đến khi tỉnh lại, họ liền có năng lực tiên đoán tương lai. Nhưng có lẽ, họ không hề được “khai thiên nhãn”, linh hồn ngụ trong thân thể đó không còn là họ ở thời điểm hiện tại nữa, mà là họ của mấy chục năm sau.

Thôi Tuần hỏi: “Vậy có nghĩa là Minh Nguyệt Châu của ngày mùng sáu tháng mười đã không còn là Minh Nguyệt Châu của trước đó nữa rồi?”

Người lái đò gật đầu: “Nàng đã từ hiện tại quay về quá khứ.”

Lý Doanh của ngày mùng sáu tháng mười, cũng giống như những thuật sĩ kia, trong khoảnh khắc nào đó, đã có được năng lực tiên tri.

Thôi Tuần rốt cuộc cũng hiểu ra, vì sao dù năm lần bảy lượt muốn lấy mạng hắn, nhưng Thái hậu vẫn chọn dừng tay. Bà nói rằng từng đáp ứng lời thỉnh cầu của một ai đó, nên mới tạm tha cho hắn. Xem ra, người đó chính là đứa con gái mà bà trân trọng nhất: Lý Doanh.

Ngay từ đầu, người cứu hắn đã là Lý Doanh.

Thôi Tuần vốn còn đang băn khoăn, hồn phách của Lý Doanh ba mươi năm sau rốt cuộc từ đâu mà đến? Nhưng rồi hắn lại nghĩ, hồn phách ba mươi năm sau, chẳng phải chính là của Lý Doanh của ba mươi năm trước đó sao?

Xưa kia, Hoàng hậu của Văn Đế tiền triều một lần mộng tỉnh, thảng thốt kêu lên với Văn Đế: “Đừng đến Tây Giao, ắt có đại họa.”

Khi đó, Văn Đế đang giận dỗi với Hoàng hậu, vì câu nói ấy của bà nên đã cố tình thay đổi kế hoạch, chuyển địa điểm đi săn từ Đông Giao sang Tây Giao. Kết quả, ngài bị gấu đen đang bị kinh hoàng xông tới, bản thân thì ngã ngựa trọng thương rồi băng hà. Cũng chính vì sự kiện này mà Hoàng hậu bị Thái hậu ép chết.

Có lẽ khi ấy, hoàng hậu Văn Đế cũng giống như Lý Doanh bây giờ, trùng sinh trở về quá khứ, muốn cứu Văn Đế, nhưng không ngờ chính lời nói của bà lại khiến Văn Đế bỏ mạng, còn bà cũng không thoát khỏi kết cục bị bức tử.

Nhân chính là quả, mà quả cũng chính là nhân.

Thôi Tuần im lặng hồi lâu. Người lái đò hỏi: “Cậu vẫn muốn đợi nàng sao?”

Có lẽ nàng sẽ mãi mãi bị giam cầm trong vòng luân hồi của chính mình, hắn sẽ không bao giờ đợi được nàng nữa.

Thôi Tuần gật đầu: “Muốn.”

“Dù chính nàng chọn cái chết? Dù chính nàng là kẻ khởi đầu huyết án Thái Xương? Trong lòng cậu, nàng vẫn là viên minh châu thuần khiết, mang tấm lòng trong suốt như lưu ly sao?”

“Phải.” Thôi Tuần trầm tĩnh nhìn người lái đò đội nón trúc: “Ba mươi năm trước, tình hình ra sao, trong sử sách đều ghi chép rõ ràng. Thế gia cường thịnh, trong “Tông tộc chí”, Ngũ tính Thất vọng thậm chí còn đứng trên hoàng thất họ Lý. Tân chính làm tổn hại lợi ích thế gia, căn bản không thể thực thi. Trong khi Đột Quyết binh hùng tướng mạnh, Khả hãn dã tâm bừng bừng, cứ theo đà này, không đến năm mươi năm, vó ngựa Đột Quyết sẽ lại như triều trước, giày xéo biên cương, Đại Chu chỉ còn cách cắt đất cầu hòa. Đến khi đó, bao nhiêu bách tính sẽ trở thành nô lệ của man di? Đây cũng chính là lý do Tiên đế đành lòng chấp thuận giết con gái.”

Hắn tiếp tục nói: “Giết một người để cứu vạn người, dù tạo nghiệp chướng, nhưng cũng có công đức. Minh Châu trở lại quá khứ, nàng có thể chọn sống sót, cũng có thể dùng hiểu biết của mình để thay đổi vận mệnh bản thân, thậm chí của những người khác. Nhưng kéo một sợi tơ có thể động cả cục diện, nàng không thể gánh nổi hậu quả từ sự thay đổi ấy. Nếu kết cục đó là tân chính thất bại, Đột Quyết nam hạ, tái diễn thảm kịch Ngũ Hồ loạn Hoa, nàng sẽ tự trách đến chết. Vì vậy, nàng thà chọn một kết cục đã biết trước, dù lựa chọn đó khiến nàng thống khổ vạn phần, thậm chí vĩnh viễn mắc kẹt trong vòng lặp tuần hoàn, nàng vẫn sẽ làm như vậy. Một người như thế, vì sao không xứng được gọi là người mang tấm lòng lưu ly?”

Người lái đò dường như có chút dao động. Ông hơi ngước mắt, gật đầu, rồi đưa tay chỉ về phía sau: “Minh Châu, đến rồi.”

Thôi Tuần giật mình, quay đầu lại, quả nhiên nhìn thấy Lý Doanh.



Lý Doanh chỉ nhớ mình rơi xuống hồ sen, nhưng không biết vì sao lại xuất hiện ở Địa phủ, trước mắt còn có cả Thôi Tuần. Nàng mờ mịt đứng đó, cho đến khi Thôi Tuần sực tỉnh, vội vàng bước tới ôm chặt lấy nàng vào lòng, nàng mới tỉnh táo lại.

Nàng tự hỏi: “Chuyện này là sao?”

Không phải nàng đã bị vây hãm trong vòng lặp bất tận rồi sao? Vì cớ gì lại xuất hiện ở đây?

Nàng run rẩy, không dám tin, đưa tay ôm lấy Thôi Tuần: “Ta… có phải ta đang mơ không?”

“Không phải mơ.” TThôi Tuần ôm chặt nàng như trân bảo vừa mất đi rồi lại tìm được, hốc mắt ửng đỏ. Hắn không muốn buông tay, nhưng thoáng chốc chợt nhớ ra điều gì đó, bèn buông nàng ra. Lý Doanh vẫn cảm thấy như đang trong mộng, nàng hỏi: “Chẳng phải chàng đã cầu nguyện trước xá lợi Phật đỉnh, vì sao…”

“Chuyện dài lắm.” Thôi Tuần đáp: “Minh Nguyệt Châu, trước tiên đến gặp a gia nàng đi đã.”

Lý Doanh sững người: “A gia?”

Người lái đò chầm chậm tháo chiếc nón trúc xuống, một gương mặt mà Lý Doanh vô cùng quen thuộc hiện ra trước mắt nàng.

Nàng kinh ngạc thốt lên: “A gia?”

Tròng mắt Thái Xương Đế ánh lên vệt nước mắt. Đây là lần đầu tiên Lý Doanh thấy người rơi lệ. Dường như người vô cùng hổ thẹn, không dám bước lên ôm nàng.

Lý Doanh mím môi, nhanh chóng tiến lên, lao vào vòng tay người: “A gia.”

Ngón tay Thái Xương Đế run run, cuối cùng vẫn như khi nàng còn bé, xoa nhẹ mái tóc nàng, ôm nàng vào lòng.

Người nghẹn ngào nói: “Minh Nguyệt Châu, tha thứ cho a gia nhé.”

Lý Doanh nước mắt mờ nhòe, nàng ngẩng đầu lên, khẽ nói: “A gia, con đã không còn trách người từ lâu rồi.”

Thái Xương Đế nghe vậy, trong lòng ngổn ngang trăm mối, nhất thời nghẹn ứ đến không biết phải nói câu gì.

Lý Doanh hỏi: “A gia, vì sao người lại ở đây?”

Thôi Tuần đứng bên cạnh đáp: “Minh Nguyệt Châu, vì nàng nên a gia nàng mới đến nơi này.”

Thái Xương Đế khẽ gật đầu. Qua lời kể của người, Lý Doanh mới hay, sau khi băng hà, Thái Xương Đế xuống Địa phủ. Thập điện Diêm Vương phán rằng suốt thời gian tại vị, người chăm lo chính sự, tận tâm trị quốc, có công đức to lớn với bá tánh, đáng lẽ nên được phi thăng lên thiên đình làm tiên. Nhưng vì đã gây ra huyết án Thái Xương, sát nghiệp quá nặng, cuối cùng chỉ có thể làm một tán tiên nhỏ bé nơi Địa phủ.

Thế nhưng, Thái Xương Đế đã biết rõ về nguyên nhân cái chết của Lý Doanh từ lời kể của Kế Thanh Dương. Người lập tức hỏi Thập điện Diêm Vương, con gái mình giờ đang ở đâu. Khi hay tin Lý Doanh vĩnh viễn bị trói buộc trong vòng tròn luân hồi, Thái Xương Đế thà từ bỏ vị trí tán tiên, nguyện làm người lái đò trên bờ sông Nại, đưa vong hồn qua sông, tích lũy công đức, để xóa đi tội nghiệt của nàng, giúp nàng thoát khỏi luân hồi càng sớm càng tốt.

Từ một đế vương chí cao, suốt hai mươi năm qua, người đã hóa thành một người chèo đò nơi Địa phủ, đưa đón không dưới trăm vạn cô hồn. Hai mươi năm gom góp công đức, chỉ để dành riêng cho Lý Doanh. Hôm nay chính là ngày công và tội của nàng đã hóa giải lẫn nhau, nên nàng mới có thể thoát khỏi luân hồi, đặt chân đến Địa phủ.

Lý Doanh nức nở không thành tiếng: “A gia…”

Thái Xương Đế lắc đầu: “Minh Nguyệt Châu, đừng đau lòng vì a gia, đây là điều a gia nên làm.”

Người nhìn sang Thôi Tuần: “Thôi Tuần.”

Thôi Tuần kính cẩn đáp: “Có thần.”

Thái Xương Đế nắm lấy tay Lý Doanh, rồi đặt vào tay Thôi Tuần: “Thôi Tuần, ta giao con gái ta cho con. Hãy cùng nàng đầu thai đi nhé.”

Nhưng Lý Doanh lại luyến tiếc nhìn sang Thôi Tuần, nàng cắn chặt môi, lệ vương khóe mắt: “A gia, con không muốn đầu thai. Một khi đã đầu thai, con sẽ không còn là con nữa.”

Thôi Tuần cũng sẽ chẳng còn là Thôi Tuần nữa.

Thái Xương Đế mỉm cười: “Nếu như con vẫn là con, còn Thôi Tuần vẫn là Thôi Tuần thì sao?”

Lý Doanh sững sờ, nàng không hiểu, Thôi Tuần cũng không hiểu.

Thái Xương Đế than nhẹ một tiếng: “A nương của con đã giúp con luôn được là chính con.”

Ngày hồn phách Lý Doanh tiêu tán trước bia mộ của Thôi Tuần, đèn trường minh ở bốn vạn ngôi chùa thờ Phật trên khắp Đại Chu đồng loạt vụt tắt. Thái hậu biết, từ nay về sau, con gái bà… đã không còn nữa.

Bà chợt nhớ về ba năm trước, khi còn ở điện Bồng Lai, nội thị đến bẩm báo rằng trong Thiên Uy quân có một người họ Thôi, hiện đang ở Đại Lý Tự. Người này thà chịu cực hình đến gần chết chứ nhất quyết không nhận tội quy hàng Đột Quyết. Bà không kiên nhẫn, vốn dĩ đã chẳng ưa gì Thôi thị ở Bác Lăng, đã thế tên này còn là giặc phản quốc, lại càng khiến người ta chán ghét. Bà lạnh nhạt nói: “Chẳng phải đã dặn đừng bẩm báo chuyện của hắn với ngô rồi sao?”

Nội thị vội vàng cúi đầu: “Nô tài lắm lời.”

Thế nhưng, người này từng được Thôi Tụng Thanh ban ân, nên vẫn muốn tìm cách cứu cháu ông ta. Y bèn cẩn trọng dò xét: “Thái hậu, nhưng Thôi Tuần hắn… có khi…”

Lời còn chưa dứt, Thái hậu đã đột ngột đứng dậy: “Ngươi nói hắn tên gì?”

“Thôi… Thôi Tuần…”

“Tự là gì?”

“Hình như là… Vọng Thư…”

Thôi Tuần… Thôi Vọng Thư… Thái hậu chợt nhớ lại, vào ngày ái nữ qua đời, nàng đã gối đầu lên đầu gối bà, nhỏ nhẹ nói những lời ấy.

Nhưng, sao Minh Nguyệt Châu lại biết về sự tồn tại của Thôi Tuần.

Bà ôm trọn nghi hoặc trong lòng, mãi đến khi Lý Doanh hiển hiện trước mắt, bà mới hiểu ra.

Thì ra ba mươi năm trước, người bà gặp được chính là Minh Nguyệt Châu trùng sinh trở về. Chẳng phải bị Thái Xương Đế sát hại, chính nàng đã tự đẩy mình trầm xuống hồ sen.

Nỗi bi ai dâng trào trong lòng bà, bà hiểu rõ, địa vị hôm nay của bà, sự an khang của Đại Chu, tất thảy đều khởi nguồn từ cái chết của ái nữ. Minh Nguyệt Châu đã hy sinh cả sinh mạng để đổi lấy tất cả. Sao bà có thể tiếp tục bao che cho con trai mình?

Bà hạ chỉ gi.ết ch.ết Long Hưng Đế. Nhưng rồi, Thôi Tuần lại cầu xin bà, mong bà cho phép hắn Bắc chinh. Bà biết, chuyến đi này hắn không thể trở về, nhưng sáu năm trước đã trải qua chiến loạn, hắn đã quen với sáu châu, cũng hiểu rõ Đột Quyết, chẳng ai thích hợp để cầm quân hơn hắn.

Cuối cùng, bà vẫn đồng ý để hắn ra trận. Cũng vì vậy, bà lại một lần nữa mất đi Minh Nguyệt Châu.

Bà rơi lệ không ngừng, chẳng hay hồn phách Lý Doanh lưu lạc phương nào, cũng không biết Thôi Tuần đang phiêu bạt chốn nao. Bà chỉ có thể đứng trước Phật đài thành tâm cầu nguyện, dù rằng bản thân đã chấp chính bao năm, dấu ấn công trạng viết đầy trong sử sách, vốn có thể phi thăng thành tiên sau khi qua đời, nhưng bà nguyện từ bỏ toàn bộ công đức kiếp này, cam lòng đi vào luân hồi như bách tính, đổi lấy nhân duyên đời đời kiếp kiếp cho Thôi Tuần và Lý Doanh, để hai người có thể tiếp tục tiền duyên chưa trọn.

Lý Doanh bỗng thấy mắt cay xè, nàng khẽ gọi: “A nương…”

Thôi Tuần cũng không ngờ Thái hậu lại làm vậy. Hắn cảm thấy hết sức phức tạp, bà vốn chẳng hề ưa hắn, thế nhưng đến cuối cùng, lại nguyện dùng đến đại giới để tác thành cho hắn và Lý Doanh.

Hắn nắm chặt tay Lý Doanh, hai người từ khoảnh khắc tối tăm nhất đi đến nơi ánh sáng bừng mở, phút chốc như cách biệt cả một kiếp người.

Thái Xương Đế nhìn Lý Doanh, nhẹ giọng nói: “Hai con đời đời kiếp kiếp, nối lại nhân duyên, vậy thì không cần uống canh Mạnh Bà nữa. Sau này, con vẫn là con, Thôi Tuần vẫn là Thôi Tuần.”

Ông lại nói: “Đi thôi, ta đưa hai con qua sông Nại Hà.”

Lý Doanh rưng rưng gật đầu, bỗng hỏi: “A gia, người không đi cùng chúng con sao?”

Nàng đã không còn bị vây khốn trong vòng luân hồi, Thái Xương Đế cũng không cần phải làm người đưa đò nữa.

Thái Xương Đế lắc đầu: “A gia còn phải đợi a nương con.”

Lý Doanh cắn nhẹ môi, thần sắc mơ hồ, nắm chặt tay Thôi Tuần, cùng hắn bước lên con đò nhỏ. Thái Xương Đế chống sào, đò nhẹ nhàng trôi về giữa dòng Nại Hà.

Màn sương trắng nơi bờ bên kia dần dần tan đi, nàng và Thôi Tuần mười ngón đan xen, từ đây “cầm tay nhau, bạc đầu giai lão”, mãi chẳng chia lìa.

*

HOÀN CHÍNH VĂN
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 162: Ngoại truyện luân hồi (1): Ngựa tre chàng cưỡi đến nơi; Đùa vui tung những trái mơ quanh giường



* Tên chương này được tác giả đặt theo hai câu thơ: “Lang kỵ trúc mã lai, nhiễu sàng lộng thanh mai.” trích từ Trường Can Hành của tác giả Lý Bạch.

Bài Trường Can hành của Lý Bạch nói về đôi trai gái quen nhau từ thuở còn thơ, năm 14 tuổi cô gái lấy chàng trai này làm chồng. Năm 16 tuổi, người vợ trẻ nhớ chồng đang ở xa nên từ làng Trường Can nàng đi đến Trường Phong Sa đón chồng. Bài này có những câu hồi tưởng thời trẻ con, liên quan với thành ngữ Thanh mai trúc mã: “Lang kỵ trúc mã lai, Nhiễu sàng lộng thanh mai, Đồng cư Trường Can lí, Lưỡng tiểu vô hiềm sai” (Chàng cưỡi ngựa tre đến, Đi quanh sàn giếng hái mơ xanh, Cùng sống ở làng Trường Can, Hai đứa còn ngây thơ). Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 163: Ngoại truyện luân hồi (2): Quả cầu này, xem như sính lễ



Trên sân đấu, trận kịch chiến càng lúc càng căng thẳng, bên ngoài sân, tiếng hò reo cổ vũ của các quý nữ cũng vang lên không dứt. So với triều trước, phong tục Đại Chu cởi mở hơn nhiều, nữ tử có thể cưỡi ngựa, buôn bán, đọc sách, lại thêm việc Nữ đế đăng cơ, địa vị nữ nhân càng được nâng cao. Các quý nữ sinh ra trong thời Vĩnh An cũng chẳng hề kiêng dè chuyện cổ vũ cho các thiếu niên trên sân đấu. Lý Doanh cũng hòa theo dòng người, đứng bật dậy, không ngừng hô lớn: “Thập Thất lang, cẩn thận bên trái!”

“Cẩn thận bên phải!”

“Thập Thất lang, đánh hay lắm!”

Nữ tử thanh xuân rạng rỡ bên ngoài sân nhiệt thành cổ vũ cho lang quân trong lòng mình, trong khi thiếu niên trên sân càng đánh càng hăng, liên tiếp vung côn, điều khiển quả cầu lao thẳng vào khung thành, tuyệt thế vô song.

Không ít quý nữ đến từ Ngô Trung cũng bắt đầu thì thầm to nhỏ: “Vị lang quân kia là ai thế?”

“Tướng mạo tuấn tú, chơi mã cầu cũng xuất sắc.”

“Nghe nói là công tử nhà Thứ sử Dương Châu, họ Bùi, đứng thứ mười bảy.”

“Đã có hôn phối chưa?”

“Chưa đâu.”

Các quý nữ vừa nghe vậy, trong lòng bỗng rộn ràng, ai nấy đều âm thầm suy tính, đợi khi trận đấu kết thúc nhất định phải tìm cơ hội làm quen. Cuối cùng, cũng không nằm ngoài dự đoán, trận đấu cũng khép lại với chiến thắng áp đảo nghiêng về quan học Dương Châu.

Khi Thôi Tuần cầm lấy quả cầu vàng chạm rỗng trong tay, hắn bỗng thấy trong lòng dâng lên một cảm giác kỳ lạ. Quả cầu này được chế tác bằng vàng ròng, là phần thưởng cao quý mà quan học hai vùng dành tặng cho người có màn trình diễn xuất sắc nhất. Chiến thắng này, hắn xứng đáng nhận được.

Ngón tay nắm chặt quả cầu, hồi ức kiếp trước chợt ùa về. Vào những tháng ngày cuối cùng của đời trước, vì chịu cực hình, ngón tay hắn gân cốt đứt lìa, đến cả co duỗi cũng không làm được. Khi ấy, ngay cả việc uống thuốc, ăn cháo cũng phải nhờ Lý Doanh đút cho. Dù về sau vết thương dần hồi phục, nhưng cũng chẳng thể cầm nổi đôi đũa cho ra hồn, một nét hành thảo đẹp đẽ cũng chẳng thể viết ra nữa, đến cả con châu chấu cỏ cũng chẳng thể đan được.

Nhưng nay, rốt cuộc hắn đã có một đôi tay lành lặn, có thể cầm vững côn nguyệt, có thể tung hoành trên sân mã cầu, giành lấy chiến thắng vinh quang. Cảm giác này, sao không kỳ diệu cho được?

Bỗng một đồng đội gọi hắn: “Thập Thất lang! Chúng ta về uống rượu mừng nào!”

Thôi Tuần lúc này mới bừng tỉnh, ngẩng đầu lên, nhìn gương mặt có vài phần giống Tào Ngũ kia, khóe môi bất giác cong lên: “Được thôi.”

Kiếp này, Thôi Tuần có phụ mẫu yêu thương, có bạn hữu bầu bạn, dù tính tình vẫn lạnh nhạt như kiếp trước, nhưng đã vơi đi không ít u ám. Vài người bạn thân bá vai hắn, cười rộ: “Đi thôi!”

Hắn bỗng dừng bước: “Đợi đã.”

Ánh mắt hắn dõi về phía Lý Doanh đang bị mấy nam sinh vây quanh. Thiếu nữ đứng đó, dáng vẻ xinh đẹp thanh thoát, tựa vầng minh nguyệt trên cao. Bất chợt, hắn cất tiếng gọi: “Minh Nguyệt Châu!”

Lý Doanh ngước mắt lên.

“Cho muội đấy!”

Quả cầu vàng chạm rỗng được ném về phía nàng, Lý Doanh theo phản xạ đón lấy. Thôi Tuần thản nhiên nói: “Là của muội rồi.”

Nàng ôm quả cầu, ngẩn ngơ không biết làm sao. Quả cầu vàng ba năm mới có một lần, vậy mà hắn lại cứ thế trao cho nàng?

Giữa đám thiếu niên vây quanh, hắn phất tay về phía nàng, phong thái hào hùng không khác gì thời còn ở Thiên Uy quân: “Ta đi trước đây.”

Ánh nắng vàng rực rỡ chiếu xuống, như khoác lên hắn một bộ khôi giáp sáng ngời.

Hắn chợt dừng lại, ngoái đầu nhìn nàng, mỉm cười nói thêm: “Quả cầu này, xem như sính lễ.”

Lý Doanh sững người. Một lúc sau, nàng hoàn hồn, lắc lắc quả cầu vàng, cười vui với Thôi Tuần: “Thế thì không được rồi, vẫn còn thiếu đấy.”

“Vậy thì bù thêm.”

“Nói lời giữ lời đấy nhé.”

Trời trong mây tạnh, thiếu niên khoác trường bào nguyệt bạch ống tay bó, mang giày cao cổ, cùng thiếu nữ điểm chu sa hình giọt lệ trên trán, bốn mắt nhìn nhau, ý cười lặng lẽ lan tràn. Một đôi bích nhân, quả thực xứng đôi vô cùng.

Những quý nữ Ngô Trung tìm đến Thôi Tuần trông thấy cảnh này liền hiểu ra, thì ra Bùi Thập Thất lang đã có người trong lòng. Họ đành thất vọng rời đi. Mấy nam sinh thầm ngưỡng mộ Lý Doanh nghe rõ hai chữ “sính lễ“, cũng đành dập tắt tâm tư. Việc này truyền đến tai Bùi Thứ sử và Đỗ Tư mã, cha mẹ hai nhà chỉ nhìn nhau cười lớn. Xem ra, đã đến lúc định hôn sự cho đôi trẻ rồi.



Nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp chinh, thỉnh kỳ, qua một loạt thủ tục rườm rà, nửa năm đã trôi qua. Hôn sự giữa Thôi Tuần và Lý Doanh cũng gần như đã định.

Mặc dù Đỗ nương tử có phần không nỡ rời xa con gái, nhưng nhìn hai đứa trẻ tình đầu ý hợp, hơn nữa, Bùi Thập Thất lang là đứa nhỏ bà nhìn rõ sự trưởng thành từ bé, từ nhân phẩm đến tính tình đều không có điểm nào để chê, bà cũng đành gác lại sự luyến tiếc, đồng ý cuộc hôn nhân này.

Chỉ đợi Thôi Tuần tham gia kỳ thi Tiến sĩ năm nay xong, hắn sẽ quay về rước dâu.

Hắn đã giành đầu bảng trong kỳ châu thí, tiếp theo là điện thí. Sắp xếp hành lý xong xuôi, cùng bạn bè lên đường đến Trường An, đến bờ kênh vận, hắn cứ đi ba bước thì ngoái đầu lại một lần, mãi không chịu lên thuyền.

Bạn bè bắt đầu trêu chọc: “Chẳng lẽ không thấy Minh Nguyệt Châu nên không muốn lên thuyền?”

Hắn cười ngại ngùng: “Ta muốn chờ nàng thêm chút nữa.”

Vừa dứt lời, đã thấy Lý Doanh thở hổn hển chạy đến, trong tay nắm chặt một túi gấm. Nàng chạy vội đến bên hắn, nhét túi gấm vào ngực hắn: “Đây là bùa hộ mệnh ta cầu được cho chàng ở chùa Khai Nguyên, có nó bên người, nhất định chàng sẽ đỗ cao.”

Thôi Tuần mở túi ra, bên trong lại trống không. Lý Doanh cũng ngẩn người: “Sao thế này? Ta dậy từ sớm để thắp hương đầu tiên, vất vả lắm mới xin được lá bùa này, sao lại chẳng có gì cả?”

Nàng bỗng nhiên tỉnh ngộ, tức giận giậm chân: “Nhất định có kẻ nào đó cũng muốn đỗ đạt cao nên đã trộm lá bùa của ta rồi! Không được, ta phải quay lại chùa Khai Nguyên tìm ra tên đạo tặc ấy!”

“Đừng đi.” Thôi Tuần ngăn nàng lại, nói: “Chẳng lẽ chỉ nhờ một tấm bùa là có thể biến từ người xếp cuối thành người đứng đầu sao? Minh Nguyệt Châu, không sao đâu.”

Lý Doanh vẫn chưa cam lòng, Thôi Tuần liền nói: “Thay vì đi tìm lá bùa, chi bằng tặng ta một thứ khác.”

“Thứ gì?”

Hắn đáp: “Một lọn tóc của nàng.”

Lý Doanh ngạc nhiên: “Tóc ta ư?”

Thôi Tuần gật đầu: “Thấy tóc như thấy người. Minh Nguyệt Châu, ta muốn nàng cùng ta tham gia điện thí.”

Kiếp trước, vì tự ti mà hắn chưa từng chủ động bày tỏ tình cảm với nàng, ngược lại, Lý Doanh vẫn luôn can đảm tiến về phía hắn. Đợi đến khi hắn có thể gạt bỏ gánh nặng trong lòng thì quãng đời còn lại đã chẳng còn bao nhiêu. Những ngày cuối cùng ấy, hắn thương tích đầy mình, thân thể hao kiệt, dù ở bên Lý Doanh, trong lòng vẫn luôn quẩn quanh nỗi sợ hãi và chua xót. Hắn chưa từng có được cơ hội như kiếp này, tự do bày tỏ tình cảm cháy bỏng dành cho nàng.

Kiếp trước, nàng chủ động tiến về phía hắn. Kiếp này, hắn muốn chủ động tiến về phía nàng.

Mặt Lý Doanh thoáng ửng đỏ. Nàng rút dao nhỏ, cắt một lọn tóc, đưa cho Thôi Tuần. Hắn nâng niu nhận lấy, trân trọng đặt vào túi gấm bên hông. Hắn nói: “Minh Nguyệt Châu, túi hương này, ta nhất định sẽ giữ gìn cẩn thận. Dù có chết đi, cũng quyết không để mất.”

Giống như kiếp trước vậy.

Lý Doanh khẽ hừ một tiếng: “Đừng nói nhảm về chuyện chết chóc, ta còn đang đợi chàng quay về cưới ta đây.”

Thôi Tuần khẽ gật đầu, ý cười tựa gió xuân: “Ta nhất định sẽ về.”

Thuyền sắp rời bến, hắn bước lên khoang, còn nàng vẫn đứng trên bờ vẫy tay, lưu luyến không rời. Hắn cũng chần chừ chưa chịu vào khoang, chợt nghe bên cạnh có người cất tiếng gọi: “Các hạ có vẻ rất giống một cố nhân.”



Thôi Tuần ngoảnh đầu lại, không khỏi sửng sốt. Thì ra là Ngư Phù Nguy.

Năm đầu tiên của niên hiệu Vĩnh An, Ngư Phù Nguy đỗ thám hoa, rốt cuộc cũng thực hiện được khát vọng bấy lâu. Khởi đầu từ chức Hiệu thư lang quan hàm cửu phẩm, nay đã thăng đến chức Thứ sử Lạc Châu tam phẩm. Lạc Dương là kinh đô phụ, địa vị của Thứ sử Lạc Châu vô cùng trọng yếu, gần như ngang hàng với tể tướng, có thể thấy Nữ đế vô cùng coi trọng hắn.

Thôi Tuần mím môi, chắp tay hành lễ: “Ngư Thứ sử.”

Ngư Phù Nguy đã ngoài trung niên, dung mạo chưa lộ dấu vết suy tàn, vẫn anh tuấn phi phàm như hồi trẻ. Có lẽ là do tâm tính phóng khoáng, bất kham, dù ở chốn quan trường cũng không thay đổi, thế nên tướng mạo mới chẳng khác gì xưa.

Khi Thôi Tuần đứng thẳng dậy, ánh mắt bình thản đối diện với Ngư Phù Nguy. Ngư Phù Nguy cũng quan sát hắn từ trên xuống dưới, đôi mắt này… thật sự quá giống người ấy. Đều là đôi mắt đào hoa, yêu mị kiều diễm cùng khí chất thanh lãnh như sương tuyết, chẳng khác nào cùng một khuôn đúc ra. Ngư Phù Nguy: “Tiểu lang quân có phải cố nhân chăng?”

Thôi Tuần gật đầu. Ngư Phù Nguy thở dài một hơi: “Quả nhiên.”

Ánh mắt hắn dừng lại nơi bờ sông, nhìn Lý Doanh. Nàng vẫn thanh lệ tú nhã, đoan trang trầm tĩnh như xưa. Hắn lại hỏi: “Vậy nàng, cũng là cố nhân chứ?”

Thôi Tuần đáp: “Phải.”

Ngư Phù Nguy ngẩn ra hồi lâu, nhẹ giọng than: “Tốt.”

Chẳng rõ chữ “tốt“ này là thán phục nhân duyên giữa Thôi Tuần và Lý Doanh, hay là cảm thán sự nhân từ đặc biệt của số mệnh.

Ánh mắt hắn rơi xuống tay nải sau lưng Thôi Tuần, hỏi: “Ngài định đến Trường An?”

“Ừm, đi ứng thí.”

“Nàng không đi cùng sao?”

Người hắn nhắc đến tất nhiên là Lý Doanh. Thôi Tuần đáp: “Không đi.”

“Đáng tiếc.” Ngư Phù Nguy nói: “Bệ hạ rất nhớ nàng.”

Bệ hạ chính là Nữ đế. Từ sau khi Nữ đế đăng cơ, bà đổi xưng hiệu “Thánh nhân” thành “bệ hạ”. [1] Chuyện bà đau đáu nhớ mong người con gái yểu mệnh của mình, thiên hạ ai ai cũng biết. Năm đó, khi Thôi Tuần bệnh nặng qua đời, đèn trường minh được thắp ở bốn vạn ngôi chùa thờ Phật trên khắp cả nước đồng loạt tắt lịm chỉ trong một đêm, dù cố gắng thế nào cũng không thể thắp sáng lại. Nữ đế bi thương đến cùng cực, nhưng ngay sau đó, bấc đèn bỗng dưng tự cháy lên lần nữa. Khoảnh khắc ấy, bà lại dấy lên hy vọng, mong rằng ái nữ đã đầu thai chuyển thế, chứ không còn là một hồn phách vất vưởng trên thế gian.

[1] Bệ hạ (陛下) là kính ngữ dành cho hoàng đế. Bệ (陛) là các bậc thang của cung điện. Theo sách Độc đoán của Thái Ung thời Đông Hán, bệ hạ có nghĩa gốc là từ dùng để chỉ những cận thần đứng dưới bậc thềm để bảo vệ vua. Ngày xưa, quan hoặc dân không được trực tiếp tâu với vua, mà phải nhờ vị cận thần đứng ở bậc thềm tâu lại. Sau này, bệ hạ trở thành danh hiệu kính trọng dùng để gọi vua. Trong Đông Chu liệt quốc chí có câu: “Thiên tử tự xưng là “trẫm”, các quan tấu trình sự việc gọi vua là bệ hạ (Thiên tử tự xưng viết: “trẫm”; thần hạ tấu sự xưng “bệ hạ” (chương 108). Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 164: Ngoại truyện luân hồi (3): Trạng nguyên lang



Tháng ba tiết xuân ấm áp, sĩ tử khắp nơi tề tựu về Trường An, mở ra kỳ thi Tiến sĩ thường niên. Có người tá túc tại khách xá, có kẻ dứt khoát lưu lại các kỹ viện ở phường Bình Khang. Người đến miếu Văn Xương Đế Quân khấn cầu bảng vàng đề danh, kẻ đến bái tượng Khổng Tử, mong được Khổng Thánh nhân phù hộ. Khắp các tiệm lớn nhỏ trong thành, mỗi mẻ bánh Trạng nguyên vừa ra lò đều lập tức bị mua sạch. Lại có không ít sĩ tử cầm tập thơ của mình, cất công đến bái kiến quyền quý, hy vọng tìm được cơ hội tiến thân.

Thôi Tuần không đến bất cứ đâu, ngày ngày chỉ chuyên tâm ôn tập trong khách xá. Nơi này thực ra cách phủ đệ của hắn ở kiếp trước không xa, song hắn chưa một lần ghé qua.

Bá phụ hắn, Thôi Tụng Thanh, sau khi cáo quan vì tuổi cao, liền lưu lại Trường An, dùng những năm tháng cuối đời để dìu dắt sĩ tử hàn môn, tìm kiếm nhân tài cho Đại Chu. Nhờ được ông đích thân dạy dỗ, cháu trai của Nghiêm Tam nương là Hổ Nô đã thi đỗ Tiến sĩ, nay đã ra ngoài nhậm chức. Nghe nói Hổ Nô thanh liêm chính trực, một lòng vì dân, quả thật không phụ tấm danh thiếp mà Thôi Tuần đã trao cho cậu năm ấy.

Phủ đệ của Thôi Tuần vẫn được Thôi Tụng Thanh chăm nom chu toàn, không khác gì lúc trước. Không biết mỗi lần đến đó, trong lòng ông có dấy lên chút hối hận nào không? Nếu năm đó ông chịu tin hắn sớm hơn, thì nhân tài ưu tú nhất của Thôi thị đất Bác Lăng đã chẳng đến nỗi uổng mạng như vậy.

Bằng hữu của Thôi Tuần từng kéo hắn ra ngoài du ngoạn một lần, ngang qua Thôi phủ thì trông thấy Hà Thập Tam cùng Thịnh A Man dẫn theo gia quyến Thiên Uy quân đến đó. Thịnh A Man nay đã chín chắn hơn nhiều, cửa tiệm mở ra làm ăn cũng rất khấm khá, danh vọng trong thành Trường An cũng không nhỏ. Hà Thập Tam hiện là tướng quân trấn giữ một phương, lần này dẫn quân hồi kinh bàn giao công vụ. Trong sân, một đội quân sĩ khoác giáp Minh Quang đang quét dọn, còn Thịnh A Man thì tỉ mỉ lau từng lớp bụi bám trên cánh cửa sơn son.

Từ xa, Thôi Tuần nghe thấy Hà Thập Tam hỏi nàng: “Thịnh a tỷ, tỷ nói xem a huynh giờ sống có ổn không?”

Thịnh A Man cắn môi, kiên định gật đầu: “Huynh ấy đã cứu bách tính sáu châu, Thập điện Diêm Vương cũng chẳng nỡ làm khó đâu. Bây giờ, huynh ấy nhất định đang sống rất tốt.”

Hà Thập Tam ngồi xuống, nhặt một viên đá cuội dưới đất. Trong mắt cậu thoáng qua tia u ám, ngón tay siết chặt viên đá, lẩm bẩm: “Chỉ cần ta giữ vững biên cương, không để giặc Hồ xâm phạm, thì a huynh chắc chắn sẽ sống tốt.”

Cậu nhớ lại khoảnh khắc khi người ấy lâm chung, thân thể gầy trơ xương, gần như chỉ còn da bọc lấy bộ cốt gầy gò, vậy mà vẫn dốc cạn tâm lực, gắng gượng giữ lại một hơi tàn để nói cho cậu nghe về những điều cần lưu ý ở biên quan. Chỉ đến khi đã dặn dò xong, người ấy mới siết chặt túi hương trong tay, trút đi hơi thở cuối cùng. Người ấy chưa từng hổ thẹn với bộ giáp Minh Quang trên người. Hà Thập Tam đã thề rằng, cậu nhất định kế thừa vinh quang của a huynh và Thiên Uy quân, và cậu thực sự đã làm được.

Hà Thập Tam nắm viên đá cuội trong tay, mắt cụp xuống: “A huynh, chuyện trước đây, mong huynh thứ lỗi cho đệ. Chuyện sau này, đệ nhất định sẽ không khiến huynh thất vọng.”



Thôi Tuần đưa mắt nhìn thoáng qua Thôi phủ rồi rời đi. Cuộc đời của Thôi Vọng Thư đã khép lại, những người thân thuộc năm xưa dù tưởng nhớ hắn nhưng vẫn tiếp tục sống tốt, thế là đủ để an ủi lòng hắn.

Hắn trở về khách xá, đóng cửa không ra ngoài, tiếp tục ôn tập. Dù tin vào mười mấy năm khổ học của bản thân, hắn vẫn hiểu ngoài kia còn có người giỏi hơn cả mình, không thể trông mong bảng vàng từ trên trời rơi xuống.

Đến ngày thi đình, người chủ trì khoa cử năm nay chính là Cảnh Thành vương Lý Trưng. Thân phận của Lý Trưng, có thể nói là vô cùng khó xử.

Bởi vì hắn là cốt nhục duy nhất còn sót lại của Long Hưng Đế.

Năm đó, khi Long Hưng Đế dần mất đi quyền lực, để lấy lòng Thái hậu, ngài buộc phải đưa A Sử Na Ngột Đóa rời khỏi cung, quay lại sủng ái Hoàng hậu cùng những phi tần khác. Chính trong khoảng thời gian ấy, Hoàng hậu hoài thai long chủng. Đến khi Long Hưng Đế bị bức tử, đế hiệu bị phế bỏ, Thái hậu cho phép các phi tần của ngài được tự do trở về quê nhà tái giá. Nhưng có lẽ thân phận quá đặc thù, nên chẳng ai rời đi.

Thái hậu liền sắp xếp cho họ ở lại cung Thang Tuyền, mọi chi phí sinh hoạt đều như trước. Lúc này bà chỉ là một người mẹ đau lòng vì đứa con trai đã khuất, nên dùng hết sức để bảo toàn cuộc sống của những nữ tử đáng thương ấy.

Chính tại cung Thang Tuyền, Hoàng hậu hạ sinh di cốt duy nhất của Long Hưng đế. Chỉ là, có lẽ vì sợ hãi Thái hậu, nàng và các phi tần khác đều giữ kín chuyện này, không hề truyền ra ngoài mà lặng lẽ nuôi dưỡng đứa trẻ. Mãi đến khi hài nhi tròn hai tuổi, vị Nữ đế đương triều mới hay tin.

Ngày ấy, Nữ đế tóc bạc phơ, chống gậy, sắc mặt giận dữ, ra lệnh cho Kim Ngô Vệ lập tức trảm đứa trẻ. Nhưng Hoàng hậu ôm chặt con trong lòng, nhất quyết không buông. Các phi tần khác cũng đồng loạt lấy thân che chở cho đứa bé, không để Kim Ngô Vệ lại gần. Hoàng hậu nước mắt lưng tròng, giọng khàn đặc vì khóc: “Bệ hạ đã tha mạng cho cốt nhục của Thẩm Khuyết, cớ gì lại không chịu dung tha cho chính tôn nhi của mình?”

Chúng phi tần quỳ rạp xuống, không ngừng dập đầu van xin. Nữ đế tức giận quát lớn: “Các ngươi có biết phụ thân của đứa trẻ này đã gây ra tội nghiệt gì không? Chính hắn là kẻ chủ mưu! Hắn không xứng có con!”

Dường như bao căm phẫn và thất vọng chất chứa với Long Hưng Đế đều trút hết lên đứa trẻ hai tuổi kia. Thế nhưng, nhóm nữ nhân đáng thương ấy không ai phản bác, họ chỉ khóc. Tất cả dùng thân mình che chắn cho đứa bé, Hoàng hậu nức nở nghẹn ngào: “Thần thiếp biết, trượng phu thần thiếp đã sai… nhưng con của thần thiếp, nó vô tội… Nếu thằng bé không được sống tiếp, thần thiếp… cũng chẳng thiết sống nữa…“

Không chỉ nàng, mà tất cả phi tần khác cũng không thể sống tiếp. Thực ra, nếu không phải vì đứa trẻ này, từ khi Long Hưng đế bị ban chết, họ đã chẳng còn tha thiết với nhân gian.

Nữ đế nhìn những nữ nhân đang khóc than, lòng thở dài. Năm đó, khi chọn hậu phi cho Long Hưng đế, bà đã cố tình chọn những người ôn hòa, biết an phận, mong rằng hậu cung sẽ không dấy lên tranh đoạt. Quả thực, hậu cung không có tranh chấp, nhưng cũng chính sự yên bình ấy đã hủy hoại cuộc đời của những nữ nhân vẫn luôn xem trượng phu như lẽ sống này.

Bà nhìn xuống đứa bé hai tuổi đang được Hoàng hậu ôm chặt trong lòng. Đứa trẻ vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, chỉ mở to đôi mắt, tò mò quan sát mẫu thân và các di mẫu đang khóc đến rối loạn. Dáng dấp của nó vừa giống Long Hưng Đế, lại có đôi nét hao hao với Lý Doanh.

Một niệm thành ma, một niệm cũng có thể thành Phật.

Nữ đế nghiến chặt răng, cuối cùng vẫn dẫn theo Kim Ngô Vệ, phất tay áo bỏ đi.

Chỉ có cung nữ trong điện Thần Long biết rằng, đêm hôm ấy, Nữ đế đã thức trắng suốt đêm, lệ ướt đẫm gối.



Đứa con rớt lại của Long Hưng Đế cứ thế run rẩy trưởng thành. Dù là cốt nhục duy nhất còn tồn tại trên đời của Nữ đế, nhưng bà vẫn chẳng hề quan tâm. Chính mẫu thân hắn là người đã đặt tên cho hắn: Lý Trưng. Chữ “Trưng” mang ý nghĩa sáng tỏ, hy vọng hắn có thể phân biệt đúng sai, không đi theo vết xe đổ của phụ thân, vì quyền lực mà đánh mất lương tâm, cuối cùng phạm phải lỗi lầm không thể cứu vãn.

Nữ đế không mời danh sư chỉ dạy Lý Trưng, vậy nên các phi tần trong cung Thang Tuyền tự mình dạy dỗ hắn. Dù phụ thân hắn có bị phế bỏ đế hiệu thì hắn vẫn là cháu của cả Thái Xương Đế lẫn Nữ đế, vậy mà đến tước hiệu quận vương cũng chẳng có. Năm hắn tròn mười tuổi, có một Ngự sử giỏi phỏng đoán Thánh ý đã dâng mật sớ, thỉnh cầu Nữ đế lập Lý Trưng làm Hoàng thái tôn.

Trong mật sớ viết rằng: “Hiện nay, triều đình tranh luận không dứt về chuyện lập trữ, hoàng tộc họ Lý và hoàng tộc họ Khương đều như hổ đói rình mồi. Nhưng bất luận là bên nào cũng không phải cốt nhục của bệ hạ. Đối với họ Khương, bệ hạ là cô mẫu, từ xưa đến nay chưa từng có tiền lệ lập miếu thờ cho cô mẫu. Hơn nữa, triều Đại Chu đã lập quốc trăm năm, gốc rễ của hoàng tộc họ Lý đã ăn sâu, nếu truyền ngôi cho họ Khương, e rằng tông thất không phục, thiên hạ tất loạn.

Mặt khác, đối với hoàng tộc họ Lý, bệ hạ chính là cái gai trong mắt, là người đã cướp đi thiên hạ của bọn họ. Một khi bệ hạ băng hà, tất sẽ bị thanh trừng ngay tức khắc. Đến khi đó, không chỉ quốc sách bị xóa bỏ, mà họ Khương cũng khó tránh khỏi kiếp nạn diệt tộc. Để không bị diệt tộc, họ Khương tất cũng phải nổi binh tạo phản, vẫn là một trận đại loạn.

Vì thế, xét về thực tế, lập Lý Trưng – người có cả huyết thống họ Lý lẫn họ Khương – là lựa chọn tối ưu nhất.”

Thế nhưng, Nữ đế đọc xong liền nổi giận đùng đùng, quẳng tấu chương xuống đất, trách mắng Ngự sử là kẻ chỉ biết xu nịnh, sau đó biếm ông ta khỏi kinh sư. Từ đó về sau, không ai dám nhắc đến chuyện lập Lý Trưng nữa.

Thế nhưng, dù không ai dám đề cập, vẫn có người xem Lý Trưng như cái đinh trong thịt. Không lâu sau đó, cung Thang Tuyền bỗng dưng phát hỏa. Nếu không nhờ Hoàng hậu liều chết cứu giúp, e rằng hắn đã táng thân trong biển lửa.

Dẫu vậy, trận hỏa hoạn quá lớn đã thiêu đen cả Vong Ưu Đình, nơi mang bút tích do chính Thái Xương Đế đề chữ, do chính Lý Doanh ban tên.

Nữ đế vội vã chạy đến, bàn tay khẽ vuốt lên trụ đình đã cháy xém. Bà trầm mặc hồi lâu, rồi vẫy tay gọi thiếu niên đang sợ hãi nép sau lưng Hoàng hậu: “Lại đây.”

Lý Trưng giờ đã cao đến ngang vai Nữ đế, cậu rụt rè bước đến trước mặt bà, ngẩng đầu nhìn người thân cận nhất của mình trên cõi đời này, khẽ gọi một tiếng: “Bệ… bệ hạ.”

Cậu thậm chí còn chẳng dám gọi một tiếng tổ mẫu.

Nữ đế lặng lẽ nhìn cậu. Bà vươn tay ra, Hoàng hậu và các phi tần vừa thoát khỏi cửa tử đồng loạt quỳ xuống, thống thiết cầu xin: “Bệ hạ!”

Nữ đế chẳng màng đến họ, chỉ đưa tay lau vết ám khói còn vương trên gương mặt nhỏ nhắn của Lý Trưng. Qua đôi mắt e dè của cậu, nàng tựa hồ trông thấy bóng dáng của rất nhiều người, chồng, con trai, và cả con gái của bà.

Bà lặng im hồi lâu, sau đó chậm rãi nói: “Con à, từ hôm nay, con chính là Cảnh Thành vương của Đại Chu.”



Từ ngày ấy, Lý Trưng được phong vương. Tựa hồ để cảnh cáo những kẻ đang âm thầm manh động, Nữ đế phong Lư Hoài làm thầy dạy của hắn, đồng thời để hắn tham gia chính vụ. Cùng với thời gian, tài năng của hắn dần lộ rõ. Hắn không giống phụ thân, kẻ từng vì quyền thế mà không từ thủ đoạn, ngược lại, hắn giống cô cô của mình hơn, thuần hậu, lương thiện, chí nhân chí hiếu. Đối với kẻ sĩ, hắn khiêm nhường lễ độ, mà trước những lời chế nhạo cũng không hề tỏ ra thấp kém. Lư Hoài từng tâu với Nữ đế rằng, Lý Trưng mang phong thái của một bậc nhân quân.

Song, Nữ đế chỉ coi như chưa từng nghe thấy. Người bà yêu quý nhất bây giờ chính là công chúa Tề An. Công chúa Tề An xuất thân từ dòng tộc Khương thị, năm nay vừa tròn mười tám, dung mạo có vài phần giống với Lý Doanh. Nữ đế yêu thương nàng hết mực, khắp thiên hạ đều đồn rằng, có lẽ bà sẽ lập công chúa Tề An làm trữ quân.

Tề An tính tình kiêu ngạo, trái lại, Lý Trưng lại ôn hòa nhã nhặn hơn rất nhiều. Giữa hai người thường xảy ra xung đột, song lần nào hắn cũng là kẻ nhường bước. Hắn mang tội nghiệt của phụ thân, chẳng được Nữ đế yêu thương. Dẫu là đích tôn duy nhất của Thái Xương Đế và Nữ đế, là người thừa kế danh chính ngôn thuận nhất, nhưng kẻ đặt kỳ vọng vào hắn vẫn ít xa so với công chúa Tề An.

Giữa tình thế gian nan ấy, Lý Trưng được giao trọng trách chủ trì khoa cử Tiến sĩ năm nay. Nữ đế tuổi đã ngoài bát tuần, thân thể không còn được như xưa, chẳng thể tham gia điện thí, mọi việc đều để hắn toàn quyền quyết định. Hắn cũng chẳng phụ kỳ vọng, cẩn trọng chu toàn, nghiêm minh công chính. Tại điện Tử Thần, hắn triệu tập các danh nho, đối chiếu lần lượt từ thi từ ca phú, kinh sử tử tập cho đến sách vấn thời vụ, cuối cùng tuyển ra Trạng nguyên là Bùi Thập Thất lang đến từ Dương Châu, Bùi Hành.



Gió xuân thoả chí ngựa phi. Xem hoa cho hết trọn ngày Trường An. [1]

[1] Hai câu trích từ bài “Đăng khoa hậu” (Sau khi thi đỗ) của tác giả Mạnh Giao. Bản dịch của Nguyen gia Dinh (thivien)

Các tân khoa Tiến sĩ được ban ân mặc triều phục màu đỏ thẫm, thắt đai vàng, đầu cài hoa, khoác gấm lụa, thúc ngựa phi nhanh qua đại lộ Chu Tước. Dân chúng Trường An ùn ùn kéo đến dọc con phố, chỉ để ngắm phong thái tân khoa. Các tiểu nương tử trước hết đều tìm kiếm vị Thám hoa, bởi từ trước đến nay, Thám hoa thường là người có dung mạo đẹp trai nhất. Đến khi nhìn thấy, quả nhiên Thám hoa diện mạo anh tuấn bất phàm, danh xứng với thực. Sau đó, ánh mắt họ mới chuyển sang Trạng nguyên.

Chỉ thấy thiếu niên Trạng nguyên chân mày như vẽ, hàng mi tựa như lông quạ, triều phục đỏ như lửa, đôi mắt đào hoa sóng sánh ánh nước, chỉ một thoáng nhìn cũng đủ khiến người ta trầm luân.

Dáng vẻ này, dù đem so với Liên Hoa Lang nức tiếng mười mấy năm trước, cũng chẳng hề kém cạnh.

Những tiểu nương mắt mày e ấp, lần lượt ném lên người thiếu niên những đóa hoa trong tay, đỗ quyên, hải đường, mẫu đơn, cánh hoa rơi xuống như mưa, trải đầy lối đi của đoàn Tiến sĩ.

Giữa khung cảnh náo nhiệt, Trạng nguyên bỗng nghe thấy một thanh âm giòn giã nhưng quen thuộc cất lên: “Này!”

Hắn ngẩn người, ngước đầu theo tiếng gọi. Trên lầu hai của một quán trà ven đường, một thiếu nữ đang tựa người bên khung cửa sổ gỗ, tươi cười gọi hắn.

Lý Doanh? Nàng đến Trường An rồi sao?

Lý Doanh cầm trong tay một đóa tường vi đỏ đang nở rộ, lắc nhẹ rồi ném về phía Thôi Tuần.

Hắn đưa tay đón lấy, đóa tường vi này trông rất giống với bông hoa hắn từng tặng nàng ở kiếp trước.

Thôi Tuần nâng đóa hoa lên, đưa tới chóp mũi ngửi thử, đoạn nhướn mày, nhoẻn cười với thiếu nữ trên lầu quán.

Nụ cười ấy quá mức diễm lệ, đến mức lu mờ cả sắc thắm của đóa hoa tường vi trong tay.

Bên trong quán trà, một thiếu nữ cẩm y hoa lệ cũng vì nụ cười ấy mà thất thần. Nàng ta dõi mắt theo thiếu niên Trạng nguyên rạng rỡ như ráng chiều, rồi ghé tai dặn dò tỳ nữ đứng cạnh mấy câu.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 165: Ngoại truyện luân hồi (4): Kết tóc



Sau khi đoàn tân khoa Tiến sĩ phi ngựa qua phố Chu Tước, điểm đến tiếp theo chính là đề danh tại tháp Đại Nhạn trong chùa Từ Ân. Tất cả Tiến sĩ đều cùng nhau trèo l*n đ*nh tháp, khắc tên mình lên tường tháp Đại Nhạn. Từ trên cao nhìn xuống, non sông rộng lớn trải dài trước mắt, trong lòng ai nấy đều tràn đầy hứng khởi, chí khí ngút trời. Không biết ai đó đột nhiên đùa một câu: “Người trẻ tuổi nhất được đề danh trên đỉnh tháp Đại Nhạn chính là vị tiểu lang họ Bùi.”

Thôi Tuần nghe vậy, chỉ khẽ cười. Hắn cúi đầu nhìn xuống Trường An quen thuộc vô cùng. Trước đây, nơi này đối với hắn chỉ toàn khinh rẻ và ruồng bỏ, vậy mà hôm nay, hắn lại có thể hiên ngang thúc ngựa qua ngự nhai, [1] đề danh lên tháp Nhạn. Trong khoảnh khắc ấy, bao nhiêu xúc cảm dâng trào, muôn vàn tư vị khó tả.

[1] “Ngự nhai” (御街) là con đường dành riêng cho vua chúa đi lại trong kinh thành thời phong kiến. Đây thường là tuyến đường quan trọng, rộng lớn, được lát đá và thông suốt đến hoàng cung.

Sau lễ đề danh, tiếp theo là yến tiệc tại sông Khúc Giang. Từ trước đến nay, mỗi kỳ yến hội đều do hoàng đế đích thân chủ trì, nhưng vì Nữ đế sức khỏe không tốt, lần này yến tiệc được giao cho Cảnh Thành vương Lý Trưng đảm trách.

Trong yến tiệc, vị Cảnh Thành vương mười sáu tuổi phong thái tao nhã, ôn hòa như ngọc, thi ca trác tuyệt, xuất khẩu thành chương, mỗi lời nói ra đều khiến người nghe như gió xuân phơi phới. Thám hoa hơi ngả đầu, ghé tai nói với Thôi Tuần: “Cảnh Thành vương xuất chúng thế này, chẳng hiểu sao bệ hạ lại không yêu thích gì ngài ấy?”

Thôi Tuần chỉ cười, không đáp.

Trong lúc yến tiệc diễn ra, Thượng thư Tả bộc xạ Lư Hoài không ít lần đưa mắt nhìn về phía Thôi Tuần. Đến khi tiệc tan, trời đã ngả màu hoàng hôn, quan khách lần lượt ra về. Lúc Thôi Tuần đang chậm rãi quay lại khách xá, liền bị Lư Hoài gọi lại.

Mười sáu năm trước, Lư Hoài từng nhậm chức Thiếu khanh Đại Lý Tự, sau đó lần lượt thăng lên Trung thư thị lang, Trung thư lệnh, trải qua nhiều năm rèn giũa, cuối cùng được phong làm Tể tướng. Hắn cũng thực hiện đúng nguyên tắc làm quan khi còn trẻ: “Kẻ trung thành tận tụy, dù là thù cũng được thưởng; kẻ phạm pháp tắc trách, dù là thân thích cũng phải phạt.”

Thiên lý mã của họ Lư đất Phạm Dương, cuối cùng cũng bộc lộ toàn vẹn tài năng, trở thành vị Tể tướng được đánh giá cao nhất từ khi triều Đại Chu khai quốc đến nay. Về sau, trong sử sách cũng không thể thiếu lời ca tụng công lao, lưu danh thiên cổ, vinh quang vạn đời.

Thôi Tuần ngoảnh lại, cung kính chắp tay hành lễ: “Lư tướng công.”

Lư Hoài gật đầu, đợi hắn đứng thẳng dậy rồi từ tốn lên tiếng: “Cậu chính là tân khoa Trạng nguyên, Bùi Hành?”

Thôi Tuần đáp: “Vâng.”

Lư Hoài nhìn hắn, trầm ngâm một thoáng, rồi thở dài nói: “Nhìn cậu có nét rất giống với một cố nhân của ta.”

Thôi Tuần như đã biết trước nhưng vẫn hỏi: “Là ai vậy?”

Ánh mắt Lư Hoài vụt qua một tia hoài niệm, xen lẫn đôi chút chua xót. Hắn khẽ cười, nhưng nụ cười ấy lại mang theo vẻ cay đắng: “Là một người… rất khó để đánh giá.”

Thôi Tuần lắng nghe, Lư Hoài ngẫm nghĩ giây lát rồi tiếp tục: “Năm Vĩnh An thứ ba, ta phụ trách tu chỉnh sử sách. Khi đó, các sử quan tranh luận không dứt về việc nên đưa y vào “Liệt truyện Nịnh thần” hay “Liệt truyện Thanh liêm”. Người thì nói rằng y có công đánh đuổi Đột Quyết, không gì sánh bằng, không nên bị xếp vào hàng gian nịnh. Kẻ thì cho rằng y nhờ nịnh hót đi lên, nào xứng được đặt trong “Liệt truyện Thanh liêm”?”

Lư Hoài dừng một chút rồi nói tiếp: “Sau cùng, ta bảo rằng, nếu đã không thể phân định rõ ràng, vậy thì cứ dành riêng cho y một truyện ký, ta sẽ tự mình chấp bút. Rốt cuộc y là gian nịnh hay là thanh liêm, cứ để hậu thế luận bàn.”

Thôi Tuần nhẹ giọng đáp: “Người Lư tướng công nói đến có phải là Thôi Vọng Thư, vị Thiếu khanh của Sát Sự Thính năm xưa? Truyện ký do Lư tướng công viết, ta đã đọc qua, quả nhiên công bằng sáng suốt.”

Bài truyện ký ấy dài hơn hẳn so với những tập truyện khác. Lư Hoài thở dài: “Có những chuyện, ta hỏi Ngư Phù Nguy, có những chuyện, ta hỏi Thịnh A Man. Mọi điều lớn nhỏ, ta đều ghi chép lại, như vậy hậu thế sẽ không đến mức giống như ta năm đó, bị thành kiến che mờ đôi mắt.”

Đó chính là câu cuối cùng trong truyện ký mà hắn đã viết: “Thánh nhân từng nói, điều ta tin là đôi mắt, nhưng mắt cũng chưa hẳn đã đáng tin; điều ta nương nhờ là tấm lòng, nhưng lòng người chưa chắc đủ bền vững. Biết người không dễ, hiểu được người lại càng khó.”

Cũng chính nhờ tập truyện ký tỉ mỉ đến từng chi tiết của Lư Hoài mà bách tính Đại Chu có cơ hội nhìn thấy quá khứ của vị Liên Hoa Lang đã bệnh mất hơn mười năm trước. Kể từ đó, vô số dị bản quái lạ xoay quanh y liên tục ra đời, chỉ tính riêng số sách Lý Doanh từng đọc đã không biết bao nhiêu mà kể.

Thôi Tuần trong lòng vừa buồn cười vừa cảm khái, nhưng nhiều hơn cả vẫn là lòng kính trọng cùng biết ơn dành cho Lư Hoài. Hắn khẽ nói: “Nếu Thôi Vọng Thư dưới suối vàng có hay, chắc hẳn cũng sẽ cảm kích tất cả những gì Lư tướng công đã làm cho y.”

Lư Hoài chỉ cười trừ: “Y có cảm kích hay không, ta không biết. Nhưng trước ngục thất Đại Lý Tự năm đó, y đã gọi ta một tiếng huynh. Ta nghĩ, hẳn y đã coi ta là bằng hữu rồi.”

Thôi Tuần nói: “Có lẽ, từ trước đó rất lâu, y đã xem Lư tướng công là bạn rồi.”

Lư Hoài khẽ gật đầu, nhìn về phía vị Trạng nguyên trẻ tuổi trước mặt, bỗng bật cười tự giễu: “Không biết vì sao, hôm nay ta lại nói với cậu nhiều như vậy, có lẽ là do uống rượu hơi nhiều.”

Giữa cơn say nhè nhẹ, hắn như trông thấy bóng hình năm xưa thấp thoáng nơi chàng Trạng nguyên trẻ tuổi này. Nhưng người đó… đã bệnh mất mười sáu năm rồi.

Lư Hoài khẽ thở dài: “Xem như ta và Trạng nguyên lang có duyên. Tháng sau, tiểu nữ của ta sẽ thành thân với con trai của cố nhân Vương Huyên. Nếu khi ấy cậu rảnh rỗi, có thể đến uống một chén rượu mừng.”

Thôi Tuần lập tức đáp: “Đó là vinh hạnh của ta.”

Lư Hoài gật đầu, lúc này, Cảnh Thành vương Lý Trưng cũng tìm tới. Trước tiên Lý Trưng chào hắn một tiếng: “Thầy.”

Lý Trưng cung kính hành lễ với Lư Hoài: “Thì ra thầy ở đây.”

Lư Hoài mỉm cười: “Phải, gặp được Trạng nguyên lang do điện hạ tự mình chọn ra, thế nên nói thêm đôi lời.”

Lý Trưng ôn hòa nhìn Thôi Tuần, mỉm cười: “Trạng nguyên lang tài hoa xuất chúng, trong khi thầy lại là người quý trọng nhân tài, có lẽ vì vậy mà hợp ý thầy chăng?”

Hắn và Lư Hoài đứng sóng vai bên nhau, một thầy một trò. Trong khoảnh khắc ấy, Thôi Tuần chợt nhớ đến Lư Dụ Dân và Long Hưng Đế năm nào, họ cũng từng là thầy trò như thế. Nhưng Lư Hoài vĩnh viễn không thể trở thành Lư Dụ Dân, mà Lý Trưng cũng chẳng phải Long Hưng Đế.

Hắn mỉm cười nhàn nhã, chắp tay nói: “Đa tạ điện hạ khen ngợi.”

Lý Trưng gật đầu, ánh mắt đầy vẻ tán thưởng. Đây là lần đầu tiên hắn chủ trì kỳ thi Tiến sĩ, cũng là lần đầu tiên tự mình chọn ra một vị Trạng nguyên. Thôi Tuần càng xuất sắc, hắn càng cảm thấy tự hào. Dù có lòng kết giao nhưng nghĩ đến thân phận nhạy cảm, hắn không muốn để người ta cho rằng Thôi Tuần là vây cánh của mình, bèn do dự một chút rồi nói: “Nếu Trạng nguyên lang không còn việc gì khác, ta sẽ đưa thầy về phủ trước.”

Thôi Tuần chắp tay hành lễ: “Cung tiễn điện hạ, cung tiễn Lư tướng công.”



Từ yến tiệc ở Khúc Giang trở về, khi đến khách xá thì trời đã khuya, tinh tú đầy trời. Thôi Tuần dừng bước, quả nhiên thấy thiếu nữ đang ngồi trên bậc đá xanh, chống cằm, nhoẻn miệng cười nhìn hắn.

Giống như kiếp trước, mỗi lần nàng ngồi trên bậc đá xanh trước phủ Thôi gia, đợi hắn hạ triều.

Thôi Tuần cong khóe môi, sải bước tiến đến. Thiếu nữ cũng đứng dậy, chạy đến ôm chầm lấy hắn. Nàng ngẩng mặt, đôi mắt sáng rực như chứa đựng cả trời sao, nụ cười bừng nỡ như hoa sớm. Nàng nói: “Chàng đỗ Trạng nguyên rồi.”

Hắn ôm nàng vào lòng, cười khẽ: “Ừ, vậy là ta có thể cưới nàng rồi.”

Lý Doanh cười nói: “Hôm nay có rất nhiều người chúc mừng chàng, nhưng ta vẫn muốn tặng chàng một món quà.”

“Hửm? Quà gì vậy?”

“Nào, đi theo ta.”

Lý Doanh kéo tay hắn, đưa vào phòng khách. Gian phòng nằm ở tầng hai của khách xá, mở cửa sổ ra, liền có thể nhìn thấy cả bầu trời đêm mênh mông.

Nàng quay lại, nói với hắn: “Chàng nhìn ra ngoài đi.”

Thôi Tuần hướng mắt ra ngoài, chỉ thấy vầng trăng sáng, sao trời lấp lánh cùng thành Trường An tịch mịch trong màn đêm. Hắn quay đầu, thoáng nghi hoặc: “Bên ngoài có gì sao?”

“Chàng nhìn kỹ lại đi.”

Hắn nhìn ra lần nữa. Giây lát sau, muôn vàn những bông pháo hoa nở bung giữa bầu trời, soi sáng đêm đen, như thể biến đêm thành ngày. Hắn không khỏi thốt lên: “Là pháo hoa.”

Lý Doanh nhoẻn cười: “Phải, ta đã mua pháo hoa để chúc mừng chàng.”

Trước song cửa, gương mặt nàng tựa như đóa hoa đào hé nở, sau lưng là ngàn vạn ánh pháo hoa sáng rỡ. Sắc màu huy hoàng của những tia lửa rọi lên gương mặt nàng, nước da trắng mịn như thể cũng đang phát sáng. Thôi Tuần nhìn nàng, yêu chiều đáp lại: “Ta rất thích món quà này.”

“Nó có khiến chàng vui hơn so với lúc cưỡi ngựa qua ngự nhai, đề danh trên tháp Nhạn, hay dự yến tiệc ở sông Khúc Giang không?”

Chẳng chút chần chừ, hắn gật đầu: “Minh Nguyệt Châu, chỉ cần là quà nàng tặng thì đều quý giá hơn vạn vật trên thế gian.”

Hắn lấy từ trong ngực áo ra chiếc túi hương mà nàng đã trao cho mình. Mở ra, bên trong là một lọn tóc đã được hắn dùng dây đỏ buộc lại cùng với lọn tóc của mình.

Lý Doanh giật mình: “Đây là kết tóc sao?”

Kết tóc phu thê, ân ái trọn đời, chẳng chút ngờ vực. Nàng chưa từng nghĩ, một người ít nói, lãnh đạm như Thôi Tuần lại có thể vụng trộm cắt một lọn tóc, buộc chung với tóc của nàng, kết thành một dải với lọn tóc của nàng. Trong đầu nàng chợt hiện lên hình ảnh hắn cẩn thận dùng dây đỏ quấn lấy hai lọn tóc, trong lòng không khỏi rung động. Nàng thì thầm: “Thập Thất lang, ta còn tưởng chàng sẽ không làm những chuyện thế này.”

Thôi Tuần hơi sững người: “Vì sao?”

Như để tỏ rõ lòng mình, hắn lại lấy ra từ trong túi hương ra đóa hoa tường vi mà ban ngày nàng đã tiện tay ném cho hắn.

Lý Doanh đón lấy, cánh hoa vẫn đỏ thắm như lửa. Đó chỉ là một đóa hoa nàng vô tình ném đi. Nàng lẩm bẩm: “Sao ngay cả cái này cũng giữ lại kia chứ?”

“Đương nhiên phải giữ lại rồi.” Thôi Tuần nhẹ giọng: “Bất cứ thứ gì nàng tặng ta, ta đều sẽ trân trọng hết mức.”

Đời trước, quả cầu hương bằng bạc mạ vàng mà Lý Doanh tặng hắn đã bị giẫm nát trong nhà lao của Đại Lý Tự. Đó là tiếc nuối lớn nhất của hắn. Đời này, mỗi một thứ nàng trao, hắn đều trân trọng cất giữ trong rương gỗ trong phòng ngủ, chưa từng để chúng vướng phải chút tổn hại nào.

Lý Doanh cầm đóa tường vi, bất chợt cười rộ: “Thập Thất lang, cài giúp ta, được không?”

Thôi Tuần khẽ gật đầu, cẩn thận cầm lấy đóa hoa, nhẹ nhàng cài lên tóc mai nàng. Làn da nàng vốn đã trắng như tuyết, tường vi đỏ rực cài lên mái tóc đen như mây, càng khiến nàng thêm thanh tao thoát tục, mỹ lệ không gì sánh bằng. Hắn ngẩn ngơ ngắm nàng, tim đập hỗn loạn. Trong đầu thoáng nghĩ, không thể khinh bạc nàng, nhưng rồi lại nghĩ, hai người đã đính hôn, sắp thành phu thê, hôn một cái cũng đâu có gì quá đáng.

Có lẽ hắn thất thần quá lâu, Lý Doanh bỗng ngẩng mặt, đặt một nụ hôn lên môi hắn. Thôi Tuần sững sờ, nàng lại khẽ cười, trong nụ cười vương chút ngượng ngùng, lại xen lẫn vẻ đắc ý. Hắn dần hoàn hồn, cũng bật cười, cúi xuống đáp lại nụ hôn ấy.

Ngoài cửa sổ, pháo hoa rực rỡ. Trong gian phòng nhỏ, chàng Trạng nguyên trẻ tuổi cùng người con gái chàng yêu đang trao nhau nụ hôn say đắm. Ban đầu, chỉ là những cái chạm môi dè dặt, thẹn thùng và thuần khiết, dần dà lại biến thành giao hòa nóng bỏng, quấn quýt không rời. Giây phút này, thế gian tựa hồ chỉ còn lại hai người. Chàng chỉ thấy nàng, mà nàng cũng chỉ nhìn thấy chàng thôi.



Sáng hôm sau, khi tỉnh giấc trong phòng khách, Thôi Tuần vẫn cảm thấy hết thảy tựa như một giấc mơ. Hắn đưa tay chạm nhẹ lên môi mình, nơi đó vẫn còn vương hơi ấm từ nụ hôn của nàng đêm qua. Mặt hắn hơi nóng lên, rồi bỗng nhiên muốn tự vả mình một cái. Rốt cuộc, đời này cũng như đời trước, lần nào cũng là nàng chủ động. Bọn họ sắp thành thân rồi, đêm động phòng… đâu thể cứ để nàng dẫn dắt mãi được.

Thế nên, hắn vội vàng xuống giường, rửa mặt chải đầu qua loa, rồi lập tức muốn đi tìm nàng. Nhưng vừa mở cửa ra, lại bắt gặp mấy vị nội thị đứng chờ bên ngoài.

Hắn hơi sững lại, một tên nội thị cất giọng the thé: “Bệ hạ ban xuống thánh chỉ.”

Hắn quỳ xuống tiếp chỉ, nhưng nội dung trong thánh chỉ lại là sắc phong hắn làm phò mã của công chúa Tề An.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 166: Ngoại truyện luân hồi (5): Đèn tắt mười sáu năm, một vầng trăng sáng hiện



Hôm qua còn là Trạng nguyên lang, hôm nay đã thành tù nhân dưới thềm điện.

Thôi Tuần kháng chỉ ngay tại chỗ, khiến công chúa Tề An mất hết thể diện. Vì tội kháng chỉ, hắn bị tống vào ngục thất của Đại Lý Tự. Ngục tốt rất khâm phục Trạng nguyên lang vì dám đối đầu với công chúa, liền lén khuyên nhủ: “Công chúa Đại Chu xưa nay kiêu ngạo, người mà nàng ta để mắt tới, đừng nói chưa thành thân, ngay cả đã thành thân rồi, thê tử cũng có thể bị ban chết. Chuyện này cũng không phải chưa từng có tiền lệ. Lang quân tuổi trẻ tài cao, hà tất phải chịu tội này? Chi bằng thuận theo công chúa Tề An, làm phò mã của nàng. Huống chi, công chúa Tề An rất có khả năng sẽ là bệ hạ tương lai, đến lúc đó lang quân chẳng những là phò mã mà còn có thể là hoàng phu, chung tay cai quản thiên hạ.”

Thôi Tuần lắc đầu: “Đa tạ ý tốt của ngài, nhưng phò mã hay hoàng phu, ta đều không màng. Kiếp này, ta chỉ muốn cùng một người nắm tay đến đầu bạc.”

Ngục tốt thở dài: “Nhưng với tính tình của công chúa Tề An, e rằng vị tiểu nương tử mà lang quân muốn nắm tay cả đời ấy, chưa chắc có thể giữ được mạng.”

Ánh mắt Thôi Tuần chợt lạnh đi. Quả thực, Đại Chu phong tục cởi mở, địa vị công chúa cực kỳ tôn quý. Nam nhân được công chúa để mắt tới, có người bị phụ thân, huynh trưởng truy đuổi ngay trên đường đón dâu, có người thì phải chứng kiến cảnh thê tử kết tóc bị ban chết, nhưng tuyệt nhiên không ai có thể thoát khỏi tay các nàng. Nếu xét theo lẽ ấy, chỉ e Lý Doanh cũng đang ở trong vòng nguy hiểm.

Hắn bất giác sốt ruột, trầm ngâm giây lát rồi hỏi ngục tốt: “Có thể… để ta gặp một người không?”



Chuyện tân khoa Trạng nguyên bị tống vào đại lao vì kháng chỉ, không chịu làm phò mã gây chấn động cả triều đường. Thế nhưng, phần lớn quan viên không ai dám lên tiếng can gián. Một là, đây chẳng qua chỉ là chuyện phong hoa tuyết nguyệt. Công chúa Tề An mỹ mạo như hoa, tuy tính tình cao ngạo nhưng vẫn là một giai nhân, có lẽ Trạng nguyên lang chỉ là đang bướng bỉnh nhất thời, chờ khi bình tâm lại rồi, sớm muộn gì cũng sẽ thuận theo thôi. Hai là, Nữ đế đã ngoài tám mươi, sức khỏe ngày càng sa sút, e rằng chẳng còn sống được mấy tháng nữa. Công chúa Tề An rất có thể sẽ là vị quân chủ kế nhiệm, ai lại dại dột đi đắc tội nàng vào lúc này?

Chỉ có Cảnh Thành vương Lý Trưng là sốt ruột đến mức xoay vòng vòng. Hắn tìm đến thầy dạy của mình là Lư Hoài, bức xúc nói: “Trạng nguyên lang là rường cột nước nhà, sao có thể vì chút lòng riêng mà bắt giam người ta chứ? Nếu Trạng nguyên lang một ngày không chịu khuất phục, chẳng lẽ công chúa Tề An cũng một ngày không chịu thả người? Đúng là nực cười!”

Lư Hoài điềm tĩnh hỏi: “Điện hạ muốn cứu Trạng nguyên lang?”

Lý Trưng không hề do dự, gật đầu nói: “Trạng nguyên lang do chính ta đề bạt. Bất kể phẩm hạnh hay tài biện luận cũng đều đứng đầu, là bậc nhân tài hiếm có. Nếu được mài giũa thêm, tương lai ắt đảm đương nổi vị trí Tể phụ. Ta không đành lòng thấy y bị hủy hoại chỉ vì tư tâm của Tề An.”

Hắn ngừng lại giây lát, rồi tha thiết cầu xin Lư Hoài: “Thầy, người mà bệ hạ tín nhiệm nhất chính là thầy. Người có thể ra mặt cầu tình cho Trạng nguyên lang, thỉnh bệ hạ ngăn cản Tề An không?”

Lư Hoài nhìn gương mặt tuấn tú như ngọc của hắn, lắc đầu.

Lý Trưng sững người: “Chẳng phải thầy rất tâm đầu ý hợp với Trạng nguyên lang sao? Cớ gì lại không muốn cứu y?”

Lư Hoài điềm nhiên nói: “Không phải ta không muốn cứu y.” Hắn dừng lại một lát, rồi tiếp: “Mà là ta muốn điện hạ tự mình đứng ra.”

“Ta ư?” Lý Trưng buột miệng: “Nhưng bệ hạ chán ghét ta đến thế, sao có thể chấp thuận lời thỉnh cầu của ta?”

“Điện hạ, không thể vì bệ hạ chán ghét mình mà cái gì cũng không dám làm.” Lư Hoài nhắc nhở: “Trạng nguyên lang là do chính tay điện hạ chọn ra, nếu ngay cả cứu y mà điện hạ cũng không dám, về sau, bất cứ ai cũng có thể khinh thường người. Điện hạ muốn như thế thật sao?”

“Ai cũng có thể xem thường…” Lý Trưng đau khổ cúi đầu: “Không, ta không muốn… Phụ thân ta có sai lầm của ông ấy, nhưng ta thì có lỗi gì? Gánh chịu sự chán ghét của bệ hạ vẫn chưa đủ, chẳng lẽ còn phải gánh cả sự khinh rẻ của mọi người hay sao? Ta không muốn.”

Hắn nắm chặt tay, ánh mắt dần trở nên kiên định: “Thầy nói đúng, Trạng nguyên lang là nhân tài do ta tuyển chọn, hơn nữa, nếu không phải ta điểm y làm Trạng nguyên, y sẽ không cưỡi ngựa dạo ngự nhai, lại càng không bị Tề An để mắt tới. Về công hay tư, ta đều có trách nhiệm phải cứu y.”

Sau khi hạ quyết tâm, Lý Trưng lập tức cầu kiến Nữ đế, yêu cầu thả Thôi Tuần. Nữ đế nhìn hắn, thản nhiên hỏi: “Ngươi và y có giao tình riêng?”

Lý Trưng lắc đầu: “Không hề, chỉ từng gặp trong điện thí và yến tiệc ở khúc Giang, ngoài ra chưa từng có dịp trò chuyện riêng.”

“Nếu thế thì tại sao ngươi vẫn tận tâm tận lực cứu y?”

Lý Trưng gạt bỏ mọi sợ hãi, nhìn thẳng Nữ đế, trầm giọng nói: “Bệ hạ, thiên hạ đại sự, xét đến cùng cũng chỉ xoay quanh một chữ “Lý”. Bùi Hành đã có hôn ước, Tề An không nên cưỡng ép, lại càng không không nên vì tức giận mà giam giữ y. Nếu đến cả Trạng nguyên của Đại Chu cũng có thể bị đối xử như vậy, thì lòng của sĩ tử thiên hạ chẳng phải đều sẽ lạnh lẽo lắm sao? Chuyện này, Tề An không có lý, vì thế, dù ta không có giao tình gì với Bùi Hành, nhưng cũng nguyện ra tay cứu giúp chỉ vì chữ “Lý” ấy.”

Nữ đế chăm chú nhìn Lý Trưng, nhìn khuôn mặt mang vài phần tương tự phụ thân hắn. Một lúc lâu sau, bà mới chậm rãi khép mắt, nói: “Lúc Tề An thỉnh chỉ, trẫm không hề hay biết Bùi Hành đã có hôn ước. Nhưng thánh chỉ đã ban ra, quân vô hí ngôn. Y công khai kháng chỉ, chung quy cũng phải trả giá. Ngươi không cần nói thêm gì nữa.”

Nữ đế thẳng thừng cự tuyệt thỉnh cầu của Lý Trưng. Thế nhưng, hắn vẫn không bỏ cuộc, mỗi ngày quỳ trước điện Thần Long, chỉ để cầu xin cho một người mà bản thân không hề quen biết. Nghĩa cử ấy khiến triều thần không khỏi nhìn hắn bằng con mắt khác.



Ngục thất Đại Lý Tự.

Thôi Tuần lặng lẽ ngồi trong buồng giam. Có lẽ do Lư Hoài âm thầm căn dặn nên không ai làm khó hắn. Chỉ là căn phòng này, vừa vặn chính là nơi đã giam giữ hắn ở kiếp trước. Hắn vẫn còn thấy những vết máu khô đọng lại trên nền đá xanh, tàn tích của những trận tra tấn hắn từng chịu đựng. Thôi Tuần cụp mắt, bình thản chờ đợi. Cho đến khi bên ngoài vang lên một giọng nói quen thuộc, xen lẫn tiếng khóc thút thít: “Thập Thất lang!”

Lý Doanh thực không thể tưởng tượng nổi, vì sao mới chỉ qua một giấc ngủ, mà Thôi Tuần đã từ Trạng nguyên lang biến thành kẻ tù tội. Nàng kinh hãi đến mức chẳng biết làm gì, lập tức sai tỳ nữ hồi báo về Dương Châu, nhắn Đỗ Tư mã cùng Bùi Thứ sử mau chóng đến cứu người, còn bản thân thì thu dọn hành trang, chuẩn bị đến Đại Lý Tự gặp Thôi Tuần.

Nàng gỡ xuống toàn bộ trâm vàng, vòng tay bằng vàng, nghĩ rằng những thứ này hẳn là đáng giá, chỉ cần đưa cho ngục tốt thì sẽ được gặp mặt hắn chăng…

Nhưng chưa đợi nàng đến ngục Đại Lý Tự, ngục tốt đã cho người truyền lời, bảo nàng mau chóng đến đó, Thôi Tuần muốn gặp nàng.

Hơn nữa, ngục tốt ấy không nhận một đồng bạc nào của nàng, chỉ nói rằng y kính phục cốt cách của Trạng nguyên lang nên mới mạo hiểm làm việc này. Lý Doanh cảm động, liền nhét toàn bộ vòng tay, trâm vàng vào tay y, sau đó vội vàng chạy đến ngục giam.

Càng tiến gần đến nơi ấy, trong lòng nàng càng dâng lên nỗi bất an khó tả, như thể bản thân đã từng đặt chân đến nơi này, và từng trải qua những ký ức không mấy tốt đẹp.

Nhưng dù có thấy sợ đến đâu, nàng vẫn phải cứu Thôi Tuần. Nàng cưỡng ép mình trấn tĩnh, bước chân nhanh hơn.

Đến khi trông thấy hắn qua song sắt, mũi nàng cay xè, nước mắt liên tục trào ra. Nàng bám chặt song sắt, nức nở hỏi: “Thập Thất lang, sao chàng lại thành ra thế này?”

Thôi Tuần chỉ lắc đầu: “Minh Nguyệt Châu, nàng đừng lo vì sao ta rơi vào tình cảnh này. Hiện giờ, chỉ có nàng mới có thể cứu ta.”

Lý Doanh hỏi ngay: “Ta phải làm sao để cứu chàng đây?”

“Hãy vào cung Đại Minh, gặp một người.”

“Ai?”

“Bệ hạ.”

Lý Doanh hít sâu một hơi: “Bệ hạ? Nhưng người yêu thương công chúa Tề An lắm mà, liệu có đồng ý gặp không? Hơn nữa, ngay cả Cảnh Thành vương cầu xin, người cũng thẳng thừng từ chối, ta đến cầu xin liệu có ích gì? Chi bằng đợi a gia tới, rồi hẵng bàn bạc sau.”

“Không, nhất định có tác dụng.” Hắn nói: “Minh Nguyệt Châu, nàng hãy tin ta.”

Lý Doanh ngẩn ra trong chốc lát, nhưng nếu Thôi Tuần bảo nàng tin hắn, nàng sẽ tin hắn. Nàng liền gật đầu: “Được, ta sẽ xin gặp bệ hạ. Nhưng người thân phận cao quý, lẽ nào lại chịu gặp ta?”

Thôi Tuần suy nghĩ giây lát, liền cầm giấy bút, viết vội mấy hàng chữ lên tờ giấy trắng, rồi lấy từ trong người ra một chiếc túi hương cũ kỹ, bên trong có nút tóc, cẩn thận gấp tờ giấy nhét vào. Hắn đưa túi hương cho nàng, trầm giọng nói: “Nàng hãy tìm Thượng thư Tả Bộc xạ Lư Hoài, nhờ ông ấy giao cái này đến tay bệ hạ. Khi đó, người sẽ triệu kiến nàng.”

Lý Doanh nghe vậy, trong lòng mờ mịt như lạc vào sương khói, nhưng vẫn nhận lấy túi hương, gật đầu: “Được, ta đi tìm Lư tướng công ngay đây.”

“Chờ đã.” Thôi Tuần đột nhiên gọi nàng lại, hắn hơi lúng túng, ấp úng một hồi nhưng rốt cuộc vẫn nói ra: “Minh Nguyệt Châu, sau khi mọi chuyện xong xuôi, nhớ bảo bệ hạ trả lại túi hương này cho ta.”

Lý Doanh dở khóc dở cười: “Giờ là lúc nào rồi, chàng còn lo lắng chuyện ấy?”

“Nhớ trả lại ta…“ Hắn nghiêm túc nói.

Nàng nhét túi hương vào trong tay áo, không còn cách nào khác ngoài đáp: “Được, để ta bảo người trả lại chàng.”



Lý Doanh làm theo lời dặn, tìm đến Lư Hoài và nhờ hắn chuyển túi hương đến tay Nữ đế. Thực lòng mà nói, nàng chẳng dám ôm hy vọng gì xa vời, bởi lẽ Nữ đế vô cùng sủng ái công chúa Tề An, sao có thể chỉ vì một chiếc túi hương mà tha cho Thôi Tuần? Nhưng không ngờ, vừa đưa túi hương vào cung Đại Minh, Lư Hoài đã báo lại rằng: Nữ đế muốn gặp nàng.

Lý Doanh có phần ngạc nhiên, nhưng cũng không dám trì hoãn, lập tức theo Lư Hoài tiến cung. Nàng chưa từng đặt chân vào cung Đại Minh, nhưng không hiểu vì sao, từng mái đình, từng tán cây nơi đây lại khiến nàng có cảm giác quen thuộc lạ thường. Trong lúc vô thức ngắm nhìn khắp nơi, nàng đã đến trước điện Thần Long. Lư Hoài không đi tiếp, chỉ bảo nàng một mình tiến vào trong.

Lý Doanh thấp thỏm bước vào điện, sau lưng, nội thị lặng lẽ khép chặt cửa điện.

Từ xa, nàng đã thấy một bóng dáng gầy guộc, già nua đang tựa nghiêng trên trường kỷ. Từ lâu đã nghe nói Nữ đế thân thể yếu nhược, nửa năm nay hiếm khi lâm triều, nay nhìn tận mắt, quả nhiên không phải lời đồn.

Lý Doanh quỳ xuống dập đầu: “Thần nữ tham kiến bệ hạ.”

Nữ đế cất giọng run rẩy, phất nhẹ tay với nàng: “Lại đây.”

Lý Doanh hơi sững lại, giọng Nữ đế cũng chậm rãi hơn: “Đừng sợ, lại đây.”

Nàng mới đứng dậy, lòng hồi hộp tiến từng bước về phía Nữ đế. Khi đến trước giường, nàng quỳ xuống, Nữ đế cố gắng ngồi dậy, nhưng thân thể đã già yếu, bàn tay nắm chặt lấy chiếc túi gấm cũng lỏng dần, khiến nó rơi xuống đất. Sợi tóc kết quấn bằng chỉ đỏ cùng mảnh giấy gai trắng cũng theo đó rơi ra.

Lý Doanh cúi đầu, nhìn thấy hàng chữ viết trên giấy: “Kiếp trước kiếp này, chỉ kết tóc cùng một người. Đèn tắt mười sáu năm, một vầng trăng sáng hiện.”

Nàng chưa kịp hiểu hết ý nghĩa của nó, đang mơ hồ suy nghĩ thì Nữ đế nói: “Ngẩng đầu lên.”

Lý Doanh ngước nhìn Nữ đế. Ban đầu, nàng vốn rất e ngại vị đế vương cao cao tại thượng này, nhưng khi trông thấy dung nhan của bà, nỗi sợ bỗng chốc tan biến, thay vào đó lại dâng lên một cảm giác thân thuộc khó tả. Đôi mắt Nữ đế đã dần trở nên mờ đục, bà run rẩy vươn tay, khẽ chạm vào gương mặt nàng, động tác dịu dàng tựa như đang v.uốt ve chính con gái ruột thịt của mình. Bà khẽ hỏi: “Nhũ danh của con là gì?”

“Minh Nguyệt Châu.”

Vừa dứt lời, Lý Doanh trông thấy rõ ràng một giọt lệ từ khóe mắt đã vẩn đục của Nữ đế, chầm chậm lăn xuống. Giọng bà run run: “Con sinh năm nào?”

“Năm Nguyên niên Vĩnh An.” *

*Tức là năm Vĩnh An thứ nhất.

“Năm Nguyên niên Vĩnh An…“ Nữ đế lẩm bẩm, ngón tay bà lướt qua từng đường nét trên khuôn mặt nàng, từ đôi mắt, sống mũi, rồi nước mắt bỗng nhiên trào ra như mưa: “Tốt… tốt…“

Lý Doanh không hiểu ý tứ trong lời nói của bà, nàng lo lắng hỏi: “Bệ hạ…“

“Đứng dậy.” Nữ đế nói, “Để trẫm ôm con một cái.”

Phản ứng của Nữ đế khiến Lý Doanh có chút khó hiểu, nhưng nàng vẫn làm theo, ngồi xuống mép giường, để mặc Nữ đế ôm lấy mình. Giây phút ấy, không hiểu vì sao, sự nôn nao trong lòng hoàn toàn biến mất. Chỉ còn lại cảm giác như một đứa trẻ đang nép vào lòng mẫu thân.

Nàng cảm nhận rõ ràng từng giọt nước mắt nóng hổi rơi xuống lưng mình. Nữ đế thì thào: “Minh Nguyệt Châu, Minh Nguyệt Châu của a nương, cuối cùng con cũng đã về rồi…”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 167: Ngoại truyện luân hồi (6): Đêm nay trẫm đến, là để ban cho ngươi một đời vinh hoa



Nữ đế lộ ra vẻ bi thương cùng đau đớn, khiến Lý Doanh ngây thơ cũng phải động lòng. Nàng thậm chí quên cả việc hỏi vì sao Nữ đế lại tự xưng là “a nương“, chỉ lặng lẽ tựa vào lòng bà. Một lúc lâu sau, Nữ đế mới buông nàng ra, song vẫn nắm chặt tay nàng, không buông.

Bàn tay Lý Doanh mềm mại trắng nõn, mang nét đặc trưng của thiếu nữ. Nữ đế cảm thán: “Minh Nguyệt Châu vẫn còn nhỏ dại thế này, nhưng a nương… đã già mất rồi, già đến nỗi… suýt nữa không thể trông rõ nữa.”

Lý Doanh mím nhẹ môi, dè dặt gọi: “Bệ hạ…”

Tiếng gọi ấy khiến Nữ đế sực tỉnh, dường như sợ làm nàng hoảng sợ, bà dịu dàng nói: “Con gái của trẫm, cũng tên là Minh Nguyệt Châu.”

Con gái của Nữ đế? Nữ đế chỉ có duy nhất một cô con gái, lẽ nào nhũ danh của công chúa Vĩnh An cũng là Minh Nguyệt Châu sao?

Lý Doanh bỗng hiểu ra, nàng cẩn trọng hỏi: “Vậy… công chúa Vĩnh An, con gái của bệ hạ có dung mạo giống Chẩm Nguyệt lắm đúng không ạ?”

Nữ đế chăm chú nhìn nàng, trong ánh mắt chứa đựng vẻ từ ái hiếm khi xuất hiện: “Ừ, rất giống.”

Lý Doanh chợt hiểu vì sao Nữ đế lại có phản ứng như vậy. Nếu nàng giống công chúa Vĩnh An thì chẳng phải Thôi Tuần có hy vọng được cứu rồi sao?

Nàng lấy hết can đảm, nhỏ nhẹ nói: “Bệ hạ, hôm nay Chẩm Nguyệt đến đây, là vì vị hôn phu của Chẩm Nguyệt, Bùi Hành.”

Dường như sợ Nữ đế nổi giận, Lý Doanh vội vàng nói tiếp: “Bùi Hành đã đính ước với Chẩm Nguyệt từ lâu. Lễ nạp thái, vấn danh, nạp cát đều đã hoàn thành, chỉ đợi chàng đỗ đạt công danh rồi mới cưới Chẩm Nguyệt vào cửa. Nào ngờ công chúa Tề An thấy chàng vừa mắt, cố ép chàng làm phò mã. Chàng không chịu, thế là bị giam vào ngục…”

Nói đến đây, nàng không khỏi tức giận: “Dù nàng ta là công chúa, cũng không thể làm như thế được.”

Nàng giận đến mức mày cũng cau lại, thần sắc đầy vẻ bất bình. Nữ đế vẫn mỉm cười, giọng điệu cưng chiều: “Đúng, đâu thể làm thế được.”

Lý Doanh ngẩn người: “Bệ hạ…”

“Nhưng nếu đó là Minh Nguyệt Châu của trẫm, dù nàng ấy có vừa ý một vị thần tiên trên trời, trẫm cũng sẽ đoạt về cho nàng ấy.”

“Bệ hạ…”

“Yên tâm đi, trẫm chưa từng có ý làm khó Bùi Hành. Hôm đó khi Tề An đến cầu chỉ, trẫm không hề biết y đã đính hôn. Nếu trẫm biết, tuyệt đối sẽ không hạ thánh chỉ.”

Lý Doanh thở phào nhẹ nhõm: “Chẩm Nguyệt biết ngay mà, bệ hạ đâu phải người vô lý.”

Nữ đế nắm tay nàng, mỉm cười: “Trước kia khi còn là Thái hậu, trẫm chẳng mấy khi thấu tình đạt lý. Nhưng sau khi lên ngôi, trẫm lại thành người biết lý lẽ rồi.”

“Vì sao ạ?”

“Bởi vì… mỗi người trên thế gian này đều có thể là Minh Nguyệt Châu của trẫm. Nếu trẫm dung túng quyền quý ức h**p bá tánh, lỡ như một ngày nào đó, người bị ức h**p chính là Minh Nguyệt Châu của trẫm, thì phải làm sao đây?”

Lý Doanh nghe mà nửa hiểu nửa không. Minh Nguyệt Châu mà bà nhắc đến, hẳn chính là con gái của bà, công chúa Vĩnh An. Công chúa Vĩnh An đã qua đời từ sớm, từ những gì Nữ đế vừa nói, nàng đoán rằng Nữ đế cho rằng công chúa đã đầu thai chuyển thế, và có thể là bất cứ ai trên đời này, vậy nên bà không thể để quyền quý hoành hành ngang ngược.

Nàng có chút ấm ức: “Nếu đã như vậy, vì sao bệ hạ còn chưa chịu thả Bùi Hành?”

“Y công khai kháng chỉ, trẫm đương nhiên phải giam y vài ngày, trừng phạt đôi chút. Nếu không, uy nghi quân chủ để đâu?”

“Vậy bệ hạ định khi nào thì thả chàng ra?”

“Đợi thêm đi, đừng vội.”

Nhưng Lý Doanh làm sao không vội cho được? Có điều Nữ đế đã nói vậy, nếu nàng cứ tiếp tục nài ép thì sẽ thành không biết điều mất. Vì thế, chỉ đành tủi thân cúi đầu, khẽ đáp: “Vâng.”

Thấy vậy, Nữ đế lại bật cười, bà v.uốt ve mái tóc nàng, nhẹ giọng hỏi: “A gia, a nương của con vẫn luôn đối xử rất tốt với con, đúng không?”

Chỉ có như vậy, mới nuôi dưỡng nên một Lý Doanh đơn thuần thẳng thắn như bây giờ.

Lý Doanh gật đầu: “Tốt lắm ạ.”

“Còn Bùi Hành thì sao? Y đối với con có tốt không?”

“Tốt, vô cùng tốt.” Lý Doanh gật đầu thật mạnh: “Trên đời này, Chẩm Nguyệt sẽ không tìm được lang quân nào tốt với Chẩm Nguyệt hơn chàng ấy nữa đâu.”

Nữ đế nhìn nàng, trong khoảnh khắc mơ hồ, dường như lại trông thấy Lý Doanh của kiếp trước đứng trước mặt mình, nói về Thôi Tuần với vẻ mặt hạnh phúc. Kiếp này, mỗi khi nhắc đến Thôi Tuần, khóe môi nàng vẫn cong lên như thế, đôi mắt vẫn trong veo lấp lánh như thế.

Nữ đế thở dài khe khẽ, giọng nhỏ đến mức gần như không nghe thấy: “Vẫn cứ thích y đến vậy…”

Lý Doanh không nghe rõ, mà Nữ đế cũng không lặp lại, chỉ cười, nhẹ than: “Thôi vậy, con gái lớn rồi chẳng thể giữ mãi được.”

Bà ngưng một lát, lại một lần nữa hứa hẹn: “Yên tâm đi, trẫm sẽ trả cho con một lang quân nguyên vẹn, không sứt mẻ.”



Đêm ấy, ngục thất Đại Lý Tự nghênh đón một vị quý nhân đặc biệt.

Tiếng then cửa vang lên lách cách, Nữ đế với mái tóc bạc phơ, chống gậy chậm rãi bước vào trong buồng giam của Thôi Tuần. Bà phất tay bảo nội thị lui ra, híp mắt nhìn thiếu niên trước mặt, cẩn thận đánh giá.

Thôi Tuần không hề tỏ ra kinh ngạc trước sự xuất hiện của bà. Hắn bình tĩnh quỳ xuống, cúi đầu hành lễ, khi ngẩng lên liền nghe Nữ đế lẩm bẩm: “Quả nhiên có vài phần giống.”

Ánh mắt bà dừng lại trên khuôn mặt tuấn mỹ như đóa hoa sen, chợt hỏi: “Vọng Thư, kiếp này có tốt không?”

“Tốt.” Thôi Tuần đáp, giọng điệu bình thản: “Thần có một thân thể khỏe mạnh, có cha mẹ yêu thương, lại có Minh Nguyệt Châu bầu bạn, thần… tâm nguyện viên mãn.”

Nữ đế lặng lẽ nhìn hắn một hồi lâu, sau đó mới khẽ gật đầu. Bà rút từ trong tay áo ra một chiếc túi gấm, đưa cho Thôi Tuần: “Lúc Minh Nguyệt Châu rời đi, nó cứ cố chấp dặn trẫm phải trả lại vật này cho nó. Đây có phải là thứ ngươi muốn không?”

Thôi Tuần nắm chặt túi gấm trong tay, sắc mặt không hề thay đổi: “Bệ hạ thương yêu công chúa vô hạn, bất luận thứ gì thuộc về công chúa, tất nhiên bệ hạ đều muốn giữ gìn. Huống hồ trong túi gấm này còn có một lọn tóc của công chúa. Chỉ là, vật này đối với thần vô cùng trân quý, vì vậy đành mạo phạm thôi.”

Nữ đế bật cười: “Ngươi thật biết cách ăn nói.”

Giống y như kiếp trước, không chỉ đoán được tâm ý bà, mà còn dám đoán.

Bà hỏi: “Nếu ngươi đã giỏi suy đoán Thánh ý như vậy, vậy thử đoán xem, đêm nay trẫm đến đây là vì chuyện gì?”

“Bệ hạ muốn tìm một lý do để thả thần?”

Nữ đế không phủ nhận. Dưới ánh nến leo lét, gương mặt bà càng lộ vẻ già nua. Bà ho nhẹ hai tiếng, rồi mới tiếp tục: “Trẫm không còn nhiều thời gian nữa, chuyện lập trữ phải sớm định đoạt. Vọng Thư, trẫm muốn nghe ý kiến của ngươi.”

Thôi Tuần không hề do dự, dứt khoát nói: “Nên lập Cảnh Thành vương.”

Lời này khiến Nữ đế hơi bất ngờ: “Ồ? Vì sao?”

“Cảnh Thành vương là cốt nhục duy nhất của bệ hạ và Minh Hoàng Đế, lại có đức tính nhân hiếu. Nếu người đăng cơ, hoàng tộc họ Lý tất sẽ không dị nghị, gia tộc họ Khương cũng được bảo toàn. Hiện nay, Tân chính Thái Xương đã được thi hành bốn mươi sáu năm, thiên hạ cần một minh quân vừa nhân từ vừa anh minh để tiếp tục thịnh thế Đại Chu. Cảnh Thành vương… có thể làm được điều đó.”

Lời tán thưởng dành cho Cảnh Thành vương khiến Nữ đế trầm mặc. Bà đảo mắt nhìn quanh phòng giam chật hẹp: “Trẫm còn nhớ, chính ngay tại nơi này, ngươi từng bị phụ thân y hạ lệnh tra tấn, mười ngón tay bị bẻ gãy, trên người không còn lấy một tấc da lành lặn. Nếu không có đại nạn đó, kiếp trước ngươi cũng không đến nỗi mất sớm khi mới hai mươi bốn tuổi. Ngươi không hận y sao?”

Thôi Tuần thản nhiên đáp: “Đó là ân oán giữa thần và phụ thân y. Khi đó Cảnh Thành vương còn nằm trong bụng mẹ, dù thần có hận sâu đến đâu, cũng không thể oán trách một bào thai còn chưa ra đời.”

Nữ đế dừng mắt trên người hắn.

Nữ đế nhìn hắn chăm chú. Trước đây, bà từng xem thường hắn, cho rằng hắn chỉ là kẻ tiểu nhân không chút khí tiết, để được sống hắn sẵn sàng dập đầu đến vỡ cả trán, chẳng hề giống một người xuất thân từ danh môn Thôi thị ở Bác Lăng. Nhưng về sau, bà dần nhận ra có lẽ mình đã sai.

Giờ phút này, đứng giữa nhà lao tăm tối, bà lại một lần nữa xác nhận rằng, bà đã sai thật rồi.

Về điểm này, bà không bằng Minh Nguyệt Châu.

Một lúc lâu sau, Nữ đế mới thở dài: “Tốt, không vì tư tình mà làm hỏng chính sự. Vọng Thư, ngươi xứng đáng với tấm chân tình của Minh Nguyệt Châu.”

Bà nói tiếp: “Về kiến nghị lập trữ vừa rồi, trẫm sẽ để Hoàng môn thị lang ghi lại, viết vào sử sách.”

Thôi Tuần sững người. Nữ đế lại cười: “Vọng Thư, đêm nay trẫm đến đây là để ban cho ngươi một đời vinh hoa.”

Lời vừa dứt, Thôi Tuần liền hiểu.

Hiện nay, trong triều đình, dù các đại thần đều cho rằng Cảnh Thành vương là người thích hợp nhất để kế vị, nhưng vì kiêng dè Nữ đế, không ai dám mở miệng đề nghị. Nhưng Thôi Tuần lại dám liều mạng dâng lời khẩn thỉnh, thử hỏi Cảnh Thành vương làm sao có thể không cảm kích?

Một khi Cảnh Thành vương đăng cơ, tất nhiên sẽ nhớ đến công lao giúp đỡ của hắn, đây cũng chính là điều mà Nữ đế gọi là “ban cho một đời vinh hoa“.

Thôi Tuần mím môi, thật tâm cúi đầu hành lễ: “Tạ bệ hạ.”

Chờ hắn ngẩng lên, Nữ đế lại nói: “Nhưng Vọng Thư, ngươi vẫn phải ở lại ngục thất Đại Lý Tự thêm vài ngày nữa.”

Bà cười khẽ: “Vì muốn cứu ngươi, mỗi ngày Cảnh Thành vương đều quỳ trước điện Thần Long, khẩn cầu trẫm minh xét, thả ngươi ra khỏi ngục thất Đại Lý Tự. Trẫm đương nhiên cũng nên thuận theo ý nó, đúng không?”

Vài ngày sau, Nữ đế thuận theo lời can gián của Cảnh Thành vương, hạ lệnh phóng thích Thôi Tuần. Chúng nhân trong thiên hạ đều ca ngợi Cảnh Thành vương nhân nghĩa. Về phần Thôi Tuần, Cảnh Thành vương có ân cứu mạng với y, tất nhiên y cũng sẽ khắc ghi đại ân này. Sau này, tất sẽ lưu lại giai thoại quân thần tương hợp, khiến người đời hết lời ca tụng.

Nữ đế cố tình nhường lại ân tình này cho Cảnh Thành vương, dụng tâm sâu xa cỡ này khiến Thôi Tuần muôn vàn cảm khái. Hắn cúi xuống dập đầu, trầm giọng nói: “Tạ ơn bệ hạ.”

“Nếu thật lòng cảm tạ trẫm, vậy hãy đối xử thật tốt với Minh Nguyệt Châu.” Nữ đế nhấn mạnh từng chữ. “Vọng Thư, trẫm giao nữ nhi mà trẫm yêu quý nhất cho ngươi.”

Thôi Tuần cũng nghiêm giọng đáp: “Xin bệ hạ yên tâm, đời đời kiếp kiếp, thần sẽ luôn bảo vệ Minh Nguyệt Châu chu toàn.”



Về cuộc trò chuyện đêm đó, chính sử ghi chép rằng Thôi Tuần là người “ngay thẳng dám nói”, không chỉ một lần nữa từ chối làm phò mã của công chúa Tề An, mà còn dâng lời can gián trước Nữ đế, phân tích lợi hại, kiến nghị “lập Cảnh Thành vương làm trữ quân”. Sau khi bước ra khỏi ngục thất, Nữ đế “đại nộ”, giận dữ quát mắng: “Tiểu tử to gan!” rồi phán “Trảm”.

Sau đó, khi Cảnh Thành vương biết được lời khuyên can của Thôi Tuần. Hắn và Thôi Tuần vốn không hề có giao tình, ai mà ngờ Thôi Tuần lại dám mạo hiểm tính mạng, liều chết thỉnh cầu lập hắn làm Thái tử? Cảnh Thành vương xúc động vô cùng, chẳng màn Nữ đế đang nổi cơn thịnh nộ, vẫn quỳ trước điện Thần Long cầu xin.

Sự thành tâm của Cảnh Thành vương chấn động lòng người, bách tính cảm phục, học sĩ Quốc Tử Giám cũng đồng loạt dâng sớ xin Nữ đế tha chết cho Thôi Tuần. Nữ đế không thể làm trái lòng dân, ba ngày sau, cuối cùng cũng hạ lệnh thả Thôi Tuần ra khỏi ngục thất Đại Lý Tự.

Cùng ngày đó, Nữ đế đột nhiên ngất xỉu, bệnh tình ngày một nặng hơn. Chúng thần đồng loạt dâng sớ, khẩn cầu sớm ngày lập trữ. Sau khi suy xét kỹ càng, Nữ đế hạ chiếu, lập Cảnh Thành vương Lý Trưng làm Hoàng thái tôn.

Thiên hạ đều truyền tai nhau rằng, vì Thôi Tuần liều chết khuyên can ở trong ngục nên mới thuyết phục được Nữ đế.

Bởi lần can gián này, sau khi Lý Trưng đăng cơ, suốt những năm trị vì đều một lòng trọng dụng Thôi Tuần. Mà Thôi Tuần cũng vì “ân cứu mạng” nên luôn cúc cung tận tụy, dùng hết tâm sức phò tá, quân thần tin cậy lẫn nhau, không hề có nửa phần ngăn cách, trở thành khuôn mẫu quân thần nổi tiếng nhất trong lịch sử.

Sau khi Thôi Tuần được thả khỏi ngục thất Đại Lý Tự, hôn lễ giữa hắn và Lý Doanh cũng bắt đầu được chuẩn bị rốt ráo.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 168: Ngoại truyện luân hồi (7): Đại hôn



Khi cuộc tranh đoạt ngôi trữ quân lắng xuống, khắp phố lớn ngõ nhỏ ở Trường An lại bắt đầu bàn tán về một chuyện khác.

Đó chính là hôn sự giữa tân khoa Trạng nguyên Bùi Hành và tiểu thư Đỗ Chẩm Nguyệt nhà Đỗ Tư mã ở Dương Châu. Hôn sự của đôi thanh niên nam nữ này trải qua không ít trắc trở. Ban đầu, hai nhà định sẵn hôn ước từ thuở nhỏ, tiếp đó Bùi Hành thi đỗ Trạng nguyên tại Trường An, vốn dĩ là một chuyện vui vẻ vẹn toàn, nào ngờ lại bị công chúa Tề An chen lấn. Nếu không nhờ Hoàng thái tôn không từ bỏ việc cứu giúp, e rằng bây giờ Bùi Hành vẫn còn đang ở trong ngục thất của Đại Lý Tự, nói chi đến chuyện thành thân cùng Đỗ Chẩm Nguyệt.

Vậy nên, khi nghe tin Bùi Hành đích thân tới bái kiến Hoàng thái tôn, thỉnh ngài đến phủ dự tiệc cưới, không ai lấy đó làm lạ.

Chỉ là… cả nhà họ Bùi lẫn nhà họ Đỗ đều ở Dương Châu, cớ sao lại tổ chức hôn lễ tại Trường An?



Trong thành Trường An, Bùi gia và Đỗ gia đều có trạch viện. Đỗ gia vốn xuất thân thương hộ, gia tài trăm vạn, trạch viện nguy nga hoành tráng.

Mặt trời ngả bóng tây, sau khi hoàn tất lễ bái tổ tiên, Thôi Tuần liền cùng bằng hữu cưỡi ngựa tới Đỗ trạch đón dâu. Đỗ trạch nằm trong phường Sùng Nhân, chỉ cách hoàng thành mỗi một bức tường. Trên đường đi, trống nhạc vang rền, sáo đàn rộn rã, thậm chí còn truyền tới cả đại nội cung Đại Minh.

Thôi Tuần bất giác ngước nhìn về phía cung Đại Minh.

Cử hành hôn lễ ở Trường An vốn là ý của hắn. Nữ đế đã chẳng còn bao nhiêu thời gian, e rằng chỉ trong vòng hai tháng nữa thôi sẽ tới ngày đại hạn. Điều bà lo lắng nhất lúc này hẳn là chung thân đại sự của nữ nhi. Hắn nghĩ, dù bà chỉ có thể nghe thấy thanh âm của đoàn rước dâu thôi cũng đã là tốt lắm rồi.

Hắn thu ánh mắt, tiếp tục thúc ngựa tới Đỗ trạch.

Tới nơi, cửa lớn Đỗ trạch vẫn đóng chặt, bên trong vang lên tiếng cười đùa của nữ quyến. Một giọng nói trong trẻo cất lên: “Người nào đến vậy?”

“Dương Châu, Bùi Hành.”

“Đến đây có việc gì?”

“Cầu thân, rước thê tử.”

“Thê tử của chàng là ai?”

“Khuê danh Chẩm Nguyệt.”

Trong Đỗ trạch lại vang lên một trận cười nói rôm rả: “Mời lang quân xuống ngựa.”

Thôi Tuần vừa xuống ngựa, cánh cửa lớn sơn đỏ chậm rãi mở ra. Hắn nhấc chân bước vào, vừa vào đến nơi, một cây gậy lớn đã vung thẳng tới.

Đây là một trong những tập tục đón rể của Đại Chu, gọi là “hạ tế”. Các nương tử trong phủ tay cầm côn bổng, vừa đùa giỡn vừa hô lớn: “Con rể là chó nhà vợ, đánh đập tùy ý!”, sau đó ùa lên, quất lấy quất để. Theo phong tục, bên đằng trai không thể chịu đòn thay, chỉ có thể đứng một bên xem tân lang bị “hạ tế” với vẻ mặt hả hê.

Thôi Tuần nghiêng người tránh đòn, bất chợt nhìn lên lầu các, thấy cửa sổ hé mở một góc, tân nương xinh đẹp như hoa hơi mím môi, lén lén nhìn hắn trộm cười.

Một gậy rơi xuống người hắn, nhưng cú đánh nặng nề lại hạ xuống hờ hững, nhẹ tựa lông hồng. Một nương tử khẽ ghé tai hắn, nhỏ giọng nói: “Minh Nguyệt Châu đã dặn trước rồi, nếu đánh đau lang quân, nàng ấy sẽ giận bọn ta mất.”

Thôi Tuần ngước mắt, liền thấy Lý Doanh đã trang điểm chỉnh tề. Mái tóc đen nhánh vấn cao, cài một cây trâm vàng khảm ngọc. Giữa trán nàng điểm một đóa hoa điền hình giọt lệ, gò má ửng màu phấn hồng, môi thoa son đỏ thạch lựu, đẹp đến mức khiến người ta ngây dại, chẳng thể rời mắt.

Thôi Tuần nhìn Lý Doanh, còn Lý Doanh lại chống tay lên cửa sổ nhìn hắn. Ở Bùi trạch hay trong quan học, Thôi Tuần luôn giữ dáng vẻ bình chân như vại, nàng chưa từng thấy hắn bị trêu ghẹo bao giờ. Lý Doanh vừa thẹn thùng vừa e lệ, nhìn về phía hắn, nhưng khi bắt gặp ánh mắt của Thôi Tuần cũng đang dừng trên người mình, mặt nàng thoáng chốc đỏ bừng, vội “cạch” một tiếng đóng sập cửa sổ. Song, nghe tiếng ồn ào trong sân, nàng lại tò mò không nhịn được, rón rén mở cửa sổ lần nữa, nhìn ra bên ngoài.

Thôi Tuần mải ngắm nàng đến thất thần, kết quả chịu thêm mấy gậy nữa. Tuy không đau, nhưng trông lại khá chật vật. Lý Doanh thấy vậy thì không đành lòng nhìn hắn bị đùa cợt. Nàng bốc một nắm kim đậu đặt trên bàn trang điểm, ném bừa xuống sân. Kim đậu vừa rơi xuống đất, nhóm nữ quyến liền hiểu ý, đồng loạt ngẩng đầu nhìn về phía lầu các. Chỉ thấy tân nương biết mình quá che chở cho lang quân, xấu hổ đến mức vội đóng chặt cửa sổ. Mấy nương tử âm thầm cười trộm, trêu nàng “con gái lớn không thể giữ trong nhà”, chưa qua cửa mà đã biết xót lang quân của mình rồi. Nhờ thế, màn “hạ tế” cũng kết thúc qua loa.

Sau đó là nâng rượu, ngâm thơ, đối đáp. Thôi Tuần phải nói hết một vạn lời hay ý đẹp, khó khăn lắm đến được trước cửa khuê phòng của Lý Doanh. Lúc này, đã đến bước lang quân thúc giục trang điểm.

Bên ngoài, thân hữu nhà trai đồng loạt cất tiếng gọi: “Tân nương tử, mau ra đây! Tân nương tử, mau ra đây!”

Sau mấy chục lượt hô hào, tân nương khoác trên mình bộ hôn phục màu lam sẫm cuối cùng cũng nhẹ nhàng bước ra, tay nâng chiếc quạt tròn bằng lụa mỏng che đi dung nhan, chậm rãi tiến về phía trước dưới sự dìu đỡ của tỳ nữ. Nhưng trong đại đường lại giăng kín từng lớp màn thêu, trên mặt đất dưới màn thêu đặt một bộ yên ngựa. Tân nương xoay người hướng về phương nam, an tọa trên yên ngựa, chính là hành lễ “Điện nhạn”.

Chim nhạn vốn chỉ chung thủy một đôi, nếu mất đi bạn đời, nó sẽ không chọn bạn mới. Bởi vậy, nghi thức “Điện nhạn” tượng trưng cho sự trọn đời trọn kiếp trong hôn nhân. Thôi Tuần cầm con nhạn đã chuẩn bị sẵn, ném vào trong màn. Bên trong, nhóm nữ quyến nhà họ Đỗ nhanh chóng lấy lụa đỏ bọc kín chim nhạn, sau đó dùng gấm ngũ sắc quấn chặt mỏ để nó không kêu lên. Ngoài màn, giữa tiếng xúi giục của nhà họ Đỗ, Thôi Tuần ứng khẩu, ngâm liền mấy bài thơ “Dỡ màn”. Đường huynh của Lý Doanh vỗ tay cười lớn: “Quả không hổ danh tân khoa Trạng nguyên, cố thế nào cũng không làm khó được. Người đâu, dỡ màn!”

Một đứa cháu trai và một đứa cháu gái mới bảy tuổi của Lý Doanh nhảy chân sáo, vén màn thêu lên. Thôi Tuần bước vào trong, đón lấy con nhạn đã bị buộc chặt mỏ. Lý Doanh vẫn ngay ngắn ngồi trên yên ngựa, quạt tròn lụa mỏng che mặt, Thôi Tuần chỉ có thể trông thấy vành tai nàng đỏ ửng tựa như ngọc thạch, chắc hẳn cũng đang căng thẳng lắm. Hắn khẽ cười, vén vạt áo quỳ xuống trước mặt nàng, đặt con nhạn bên cạnh, giọng điệu thấp thoáng ý cười: “Khanh khanh, lên xe hoa được chưa?”

Đôi tai nhỏ nhắn của Lý Doanh càng đỏ bừng lên, nấp sau quạt, nàng cắn nhẹ môi đáp: “Còn chưa hành lễ, ai là khanh khanh của chàng?”

Thôi Tuần bật cười: “Được rồi, Minh Nguyệt Châu của ta, nàng chịu lên xe hoa chưa?”

Lý Doanh hơi hạ thấp quạt, khuôn mặt trắng nõn như bạch ngọc đã phủ kín sắc hồng. Nàng không trực tiếp đáp lời, chỉ cụp hàng mi dài xuống, bẽn lẽn hỏi: “Chàng quỳ thế không thấy đau sao? Còn không mau đứng dậy.”

Như vậy nghĩa là đã đồng ý. Hai người cùng nhau bước ra khỏi màn thêu, đến bái biệt phụ mẫu của Lý Doanh. Vợ chồng Đỗ Tư Mã đều lưu luyến không nỡ rời xa con gái, Đỗ mẫu vành mắt đỏ hoe, dặn dò nàng sau khi về nhà chồng không được tùy hứng nữa, phải sống thật tốt với Thôi Tuần. Lý Doanh rưng rưng nước mắt, gật đầu đồng ý từng điều một. Sau đó, Thôi Tuần mới dìu nàng bước lên xe hoa, hướng về Bùi trạch.



Bùi trạch sớm đã trải dài mười dặm hồng trang, Lý Doanh bước trên thảm đỏ, giữa vòng vây của bao người, đi vào thanh lư [1] được dựng lên giữa sân. Phu thê Bùi Thứ sử đã chờ từ lâu, quan viên khắp Trường An cũng đều có mặt. Ngoài Hoàng thái tôn Lý Trưng, Tể phụ Lư Hoài, Thứ sử Lạc Dương Ngư Phù Nguy, ngay cả cựu Tể phụ Thôi Tụng Thanh, người đã ẩn cư nhiều năm, cũng đích thân đến dự. Cảnh tượng náo nhiệt vô cùng.

[1] “Thanh lư” (青廬) Mình nghĩ là kiểu rạp cưới được dựng tạm thời, phục vụ cho mục đích cưới hỏi.

Lúc Thôi Tụng Thanh nhìn thấy dung mạo tân lang, ông đã thoáng sững sờ, có lẽ gương mặt ấy khiến ông ta nhớ đến người cháu bạc mệnh năm xưa. Đáy mắt ánh lên nét u buồn, nếu cháu trai còn sống, họ Thôi ở Bác Lăng cũng chẳng đến mức ngày càng suy bại như hôm nay. Thời thế xoay vần, vận mệnh khó lường.

Nhưng Thôi Tụng Thanh đã ngoài thất thập cổ lai hy, tuổi thọ chẳng còn bao nhiêu, tâm cảnh khác xưa, lúc này vô cùng bình thản. Ông nhanh chóng điều chỉnh tâm tình, chúc mừng tân lang cùng tân nương. Khác với niềm hân hoan của những người khác, niềm vui của Ngư Phù Nguy lại chất chứa nhiều cảm xúc phức tạp. Hắn là người duy nhất ở đây biết rõ tiền duyên của hai người. Những hình ảnh quá khứ lần lượt hiện lên trước mắt hắn: có cảnh ở Quỷ thị, khi hắn cười cợt Thôi Tuần không kéo nổi cây cung sắt, khiến Lý Doanh tức giận; có cảnh nàng bất chấp tính mạng đi vào Địa phủ, cứu Thôi Tuần khi y bị Kim Di hãm hại; có cảnh Thôi Tuần quỳ trên hai trăm linh một bậc đá ở chùa Pháp Môn, dập đầu hai trăm linh một lần, khắp người nhuốm máu, mới cầu được xá lợi Phật đỉnh. Dẫu cho mười sáu năm đã trôi qua, những hình ảnh ấy vẫn chỉ như mới xảy ra hôm qua, in dấu rõ ràng trong lòng hắn.

Hắn nhìn chăm chú vào hai người trẻ tuổi trước mặt, hai người vẫn trẻ trung như thuở nào, niềm hạnh phúc đong đầy ánh mắt. Ngư Phù Nguy bật cười, nâng ly rượu nho trên bàn, nhấp một ngụm, men rượu dâng lên, khiến hắn hơi ngà ngà say. Hắn nhìn hai người, trong lòng thầm nguyện: Những khổ nạn kiếp trước, đến đây xem như kết thúc. Kiếp này, cầu cho hai người thuận hòa viên mãn.

Khi tân lang và tân nương chuẩn bị bái kiến phu thê Bùi Thứ sử, bỗng thấy Kim Ngô Vệ vội vã tiến vào thanh lư, hô vang: “Bệ hạ giá lâm!”

Mọi người cả kinh, đồng loạt đứng dậy quỳ xuống nghênh đón. Nữ đế thân thể đã suy nhược đến mức không thể đi lại, bà ngồi trên bộ liễn, được Kim Ngô Vệ nâng vào. Bùi Thứ sử không rõ vì sao Nữ đế đột nhiên đến đây, lập tức quỳ rạp: “Thần khấu kiến bệ hạ.”

Giọng Nữ đế không hề có vẻ gì là giận dữ, ngược lại còn rất hòa nhã: “Bùi khanh, động tĩnh của hỷ sự nhà khanh đã truyền đến tận cung Đại Minh rồi đấy.”

Sắc mặt Bùi Thứ sử lập tức tái nhợt, kinh hãi dập đầu: “Hôn sự của khuyển tử quấy nhiễu thánh giá, thần có tội!”

Ông liên tục dập đầu nhận tội, Lý Trưng cũng biến sắc, vừa định mở lời cầu xin thì Nữ đế đã nói: “Đang ngày vui, đừng quỳ nữa.”

Bà khẽ phất tay, ra hiệu cho nội thị đỡ mình xuống bộ liễn, được dìu đến vị trí mà Bùi mẫu vừa ngồi. Nữ đế an tọa, chậm rãi nói: “Tân lang và tân nương đang hành lễ đúng không? Tiếp tục đi.”

Nhưng nghi lễ tiếp theo là tân lang tân nương bái kiến cao đường, trong Nữ đế lại đang ngồi ở vị trí của Bùi mẫu, khiến vợ chồng Bùi Thứ sử không dám manh động. Nữ đế thấy vậy, bật cười: “Nếu đã vậy, chi bằng để tân lang và tân nương hành lễ với trẫm đi.”

Vợ chồng Bùi Thứ sử nhìn nhau, không ai đoán nổi Thánh ý, những người trong thanh lư cũng không thể đo lường tâm tư đế vương, chỉ có Ngư Phù Nguy hiểu ngay lập tức.

Thôi Tuần biết ý, hắn kéo nhẹ tay áo Lý Doanh, hạ giọng nói: “Bệ hạ là mẫu nghi thiên hạ, tức là mẫu thân của thần và nương tử. Thần cùng nương tử, bái kiến bệ hạ.”

Nói xong, hắn quỳ xuống hành lễ với Nữ đế. Theo tục cưới hỏi của Đại Chu, nam quỳ, nữ không quỳ. Lý Doanh hoàn hồn, đưa hai tay chắp trước ngực, khom người hành lễ. Khoảnh khắc nàng đứng dậy, dường như trông thấy trong mắt Nữ đế thấp thoáng ánh lệ. Nàng nghĩ, có lẽ Nữ đế xem nàng như con gái ruột của mình.

Thế nhưng, Nữ đế lại không kịp nhìn thấy con gái mình xuất giá.

Nghĩ đến đây, lòng nàng cũng không khỏi ngậm ngùi. Bái đường xong xuôi, phu thê lại vái lạy nhau. Tới đây, hôn lễ đã thành, nàng chính thức trở thành thê tử nhà họ Bùi.

Nữ đế run rẩy đứng dậy, nắm lấy tay Lý Doanh, vạn lời muốn nói, cuối cùng chỉ gói gọn trong một chữ “Tốt.” Bà nắm tay nàng, đặt vào tay Thôi Tuần, căn dặn: “Trạng nguyên lang, hãy đối xử tốt với tân nương của ngươi. Nếu không, trẫm tuyệt đối không tha cho ngươi.”

Thôi Tuần nắm tay Lý Doanh, nghiêm giọng đáp: “Thần tuân thánh dụ.”

Nữ đế gật nhẹ đầu. Nội thị tiến lên đỡ bà lên bộ liễn. Chúng nhân quỳ xuống tiễn biệt. Lý Doanh nhìn theo bóng lưng Nữ đế, lòng bỗng trào dâng nỗi lưu luyến khó tả. Nàng ngước lên, vừa lúc Nữ đế cũng ngoảnh lại, không nỡ rời đi.

Không biết lấy đâu ra dũng khí, nàng nói: “Bệ hạ yên tâm, tân nương sẽ cùng phu quân bên nhau trọn đời, mãi đến bạc đầu.”

Nữ đế rơi lệ, nụ cười chứa chan nỗi chua xót. Bà khẽ gật đầu, dưới sự hộ tống của Kim Ngô Vệ và nội thị, dần dần khuất bóng khỏi thanh lư.



Nữ đế rời đi, mọi người vẫn còn đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra. Người thì cho rằng Nữ đế tuổi tác đã cao, luyến tiếc khói lửa nhân gian, nghe tiếng tấu nhạc liền ghé qua Bùi phủ một chuyến. Có người lại phỏng đoán rằng, Nữ đế day dứt chuyện giam nhầm Trạng nguyên lang, nên nay mới đến, lấy lại chút thể diện cho y. Cũng kẻ khác cho rằng, sự góp mặt của Nữ đế đơn thuần chỉ là để nâng đỡ Hoàng thái tôn.

Chân tướng thực sự, chỉ có Ngư Phù Nguy và Thôi Tuần cùng biết.

Nữ đế đến vì đứa con gái mà bà thương yêu nhất.

Lý Doanh dõi theo bóng lưng Nữ đế, không hiểu sao khóe mắt lại dâng lên chút hơi ẩm. Dường như đoán được tâm tư của nàng, Thôi Tuần ghé sát bên tai nàng, dịu giọng: “Minh Nguyệt Châu, ta ở đây.”

Lý Doanh khẽ “ừ” một tiếng, thu lại tâm tình, cùng Thôi Tuần nhận lời chúc mừng từ mọi người. Sau đó, nàng được đưa vào động phòng. Kết thúc nghi thức hạ quạt, uống rượu hợp cẩn, quan khách đều thức thời rời đi, trong phòng chỉ còn lại hai người họ.

Lý Doanh ngồi trên giường, vô thức trở nên căng thẳng, ngón tay siết chặt lấy chăn gấm. Thôi Tuần buông rèm, ngoài màn ánh nến lay động, soi rõ bóng dáng yêu kiều của nàng. Mái tóc dài như thác đổ xuống, làn da trắng ngần như ngọc, lộ rõ vẻ thanh tú dịu dàng. Nàng lén lút đưa mắt nhìn hắn, nhưng ngay sau đó lại ngượng ngùng cúi đầu, không dám nhìn thẳng.

Thôi Tuần cũng có chút hồi hộp, nhưng vẫn ngồi xuống bên nàng, nâng gương mặt tinh xảo như ngọc chạm của nàng lên, chậm rãi cúi đầu, hôn lên trán nàng, rồi hôn lên đôi môi nàng. Lý Doanh bị hắn hôn đến mơ màng, chẳng hay từ lúc nào y phục trên người đã bị cởi bỏ, mà nàng cũng đã bị hắn ôm vào trong chăn gấm.

Nàng ngượng đến mức nhắm chặt mắt, không dám nhìn hắn. Thôi Tuần hôn lên hàng mi của nàng, cẩn trọng hỏi: “Minh Nguyệt Châu, có được không?”

Lý Doanh vẫn nhắm mắt, vừa thẹn vừa bực: “Chàng… chàng không tự biết làm sao? Còn phải hỏi ta?”

Thôi Tuần bỗng bật cười, cúi xuống hôn lên má nàng. Về sau thế nào, cả hai cũng chẳng nhớ rõ nữa, chỉ biết bên trong màn trướng đỏ thẫm, tình ý cuộn trào. Thiếu niên nếm được vị ngọt, gọi “nước” hết lần này đến lần khác, mãi đến khi trời gần sáng, hai người mới chìm vào giấc ngủ.

Tiếng trống báo sáng vang lên ba nghìn nhịp mỗi ngày ở cổng Thừa Thiên cũng không đánh thức được họ. Đến sáng hôm sau, theo lý phải vào bái kiến thúc thẩm, nhưng vợ chồng Bùi Thứ sử lại căn dặn không ai được quấy rầy hai người. Mãi đến gần trưa, một tiếng sấm nổ vang trời mới khiến Lý Doanh lờ mờ tỉnh lại.

Nàng phát hiện bản thân vẫn đang rúc trong lòng Thôi Tuần, cánh tay hắn ôm chặt lấy eo nàng. Lý Doanh lơ đãng nhìn lướt qua lưng hắn, thấy vết cào đỏ hằn trên da thịt, trên vai còn có dấu răng nàng để lại, ngại đến mức đỏ bừng cả mặt, tim cũng không khỏi đập loạn.

Nàng cọ cọ vào lồng ngực hắn, vậy mà hắn vẫn chưa tỉnh. Nàng bỗng sinh lòng nghịch ngợm, khẽ hôn lên cằm hắn. Nếu hắn vẫn không dậy, nàng sẽ véo mũi hắn cho mà xem!

Đúng lúc ấy, một tiếng sấm nữa lại vang lên, Lý Doanh giật mình rụt vào lòng hắn, siết chặt lấy hắn. Trong khoảnh khắc đó, ký ức như thủy triều, ào ạt tràn về trong tâm trí nàng.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 169: Ngoại truyện luân hồi (8): A nương



Hồ sen, chàng thanh niên tuấn mỹ như đóa sen, khoác hạc bào đen tuyền, Địa phủ u ám rợn người, bia mộ trên Lạc Nhạn Lĩnh, cùng người lái đò chống sào đứng trên sông Nại Hà, từng cảnh tượng lần lượt hiện lên trước mắt nàng. Nàng há miệng, nhưng chẳng thể thốt ra lời nào. Đôi mắt ngây dại nhìn chàng Trạng nguyên đang say ngủ trước mắt, để rồi bất giác, nàng ôm chặt lấy chàng, từng giọt nước mắt lặng lẽ trượt dài nơi khóe mi. Rốt cuộc, nàng bật khóc thành tiếng.

Có lẽ bị nước mắt nàng làm bỏng rát, hoặc cũng có thể vì nghe thấy tiếng nức nở, Thôi Tuần chậm rãi mở mắt. Hắn ngẩn ngơ nhìn Lý Doanh: “Minh Nguyệt Châu, sao nàng lại khóc?”

Lý Doanh ôm chặt hắn, vùi đầu vào ngực hắn, nghẹn ngào không ngừng: “Thập Thất lang, Thập Thất lang…”

Thôi Tuần khẽ đáp: “Ta ở đây.”

Thế nhưng, ký ức tiền kiếp và hiện tại đan xen khiến Lý Doanh trong thoáng chốc cứ ngỡ mình vẫn đang còn chìm trong mộng mị. Nàng sợ, sợ rằng chỉ cần nới lỏng vòng tay, Thôi Tuần sẽ lại biến mất. Sợ rằng trước mặt nàng lại một lần nữa hiện lên tấm bia đá lạnh lẽo kia.

Thế nên, nàng chỉ ôm chặt lấy hắn, thế nào cũng không chịu buông tay. Thôi Tuần dần nhận ra sự khác lạ của nàng: “Minh Nguyệt Châu, nàng sao vậy?”

Lý Doanh nấc nghẹn: “Ta sợ.”

“Sợ gì cơ?”

“Ta sợ ta vừa buông tay, chàng sẽ không còn nữa.”

“Sao ta có thể biến mất được chứ?”

Thôi Tuần an ủi nàng, bàn tay vỗ về lên tấm lưng mảnh mai: “Minh Nguyệt Châu, ta ở đây.”

Lý Doanh cứ thế khóc thật lâu, đến khi dần trấn tĩnh lại, nàng mới nhận ra: đây không phải giấc mộng, mà là kiếp sau của nàng.

Nàng ôm Thôi Tuần, cảm nhận rõ ràng cơ thể ấy đã không còn vẻ yếu nhược của con hạc ốm bệnh, cô độc như kiếp trước, thay vào đó là vóc dáng cao gầy của một thiếu niên. Cánh tay ấy cũng rắn rỏi nhờ những năm tháng luyện tập cưỡi ngựa bắn cung, chứ không phải cánh tay run rẩy, không giương nổi cây cung cũ. Bàn tay ấy cũng không còn lạnh lẽo như thuở ấy, mà ấm nóng đến lạ thường. Tất cả những điều này khiến nàng chịu tin rằng: đây không phải giấc mộng thoáng qua, mà là kiếp sau tốt đẹp mà phụ mẫu đã đánh đổi tất cả để dành lại cho nàng.

“A gia… a nương…” Lý Doanh thì thào.

Nghe nàng nhắc đến cha mẹ, lúc này Thôi Tuần mới chợt nhận ra điều gì đó: “Minh Nguyệt Châu… nàng…”

Lý Doanh rưng rưng nước mắt, khẽ gật đầu: “Thập Thất lang, ta đã nhớ lại tất cả rồi. Ta là Đỗ Chẩm Nguyệt, cũng là công chúa Vĩnh An, Lý Doanh.”

Thôi Tuần sững sờ, thoáng chốc liền siết chặt nàng vào lòng. Hắn hôn lên mái tóc nàng, đôi mắt đỏ hoe: “Minh Nguyệt Châu, nàng đã nhớ lại rồi.”

Nàng đã nhớ lại tất cả, nhớ rõ mọi chuyện của kiếp trước, nhớ những gì cả hai từng trải qua, từng mảnh ghép thuộc về Lý Doanh đều đã lấp đầy. Từ nay trở đi, nàng là Đỗ Chẩm Nguyệt, là Lý Doanh, và cũng là Minh Nguyệt Châu, trọn vẹn thuộc về hắn.

Lý Doanh tựa vào lòng Thôi Tuần: “Thập Thất lang, còn a nương…?”

Nước mắt nàng không ngừng tuôn rơi: “Có phải a nương…?”

Nàng còn chưa kịp nói hết câu, bên ngoài bỗng vang lên tiếng gõ cửa gấp gáp: “Lang quân, nương tử, không hay rồi, xảy ra chuyện lớn rồi!”



Chuyện lớn ấy chính là Nữ đế đột nhiên lâm trọng bệnh, hôm nay chính là ngày cuối cùng.

Lý Doanh hoàn toàn không nhớ mình đã ngồi dậy khỏi giường bằng cách nào. Nàng chỉ cảm thấy đầu óc trống rỗng, chẳng thể suy nghĩ thêm điều gì. Thôi Tuần quỳ xuống, giúp nàng đi tất gấm, rồi lấy đôi giày đế cao xỏ vào chân nàng. Lý Doanh đứng dậy một cách mơ hồ, trước mắt tối sầm, suýt nữa ngã nhào xuống đất. Thôi Tuần kịp thời đỡ lấy nàng, khiến nàng ngã vào lòng hắn. Giây phút ấy, nàng như bừng tỉnh khỏi cơn mê, vội nắm chặt lấy tay áo hắn, tha thiết cầu khẩn: “Thập Thất lang, ta phải đi gặp a nương! Ta muốn gặp a nương ta!”

“Ta biết, ta sẽ đưa nàng đi gặp người.”

Lý Doanh gật đầu, nhưng đôi chân vẫn mềm nhũn đến mức không thể đứng vững. Thôi Tuần mím môi, cúi xuống bế nàng lên, sải bước rời đi.

Thôi Tuần bế Lý Doanh thẳng lên xe ngựa, sau đó mới ra lệnh cho xa phu giục roi, đưa xe lao nhanh đến phủ Ngư Phù Nguy.

Đến nơi, vừa hay Ngư Phù Nguy đang chuẩn bị lên xe để vào cung Đại Minh, Thôi Tuần chặn hắn lại, thuật lại một cách ngắn gọn việc Lý Doanh đã khôi phục ký ức, đồng thời nhờ hắn đưa bọn họ tiến cung.

Ngư Phù Nguy không nhiều lời, dứt khoát gật đầu đồng ý. Hai người vội vã theo hắn lên đường đến cung Đại Minh.



Trước điện Thần Long, tất cả quan viên từ thất phẩm trở lên có mặt trong kinh đều đã tụ tập đông đủ. Sắc mặt ai nấy đều hoang mang, lo lắng. Đứng ở hàng đầu, Hoàng thái tôn Lý Trưng càng lộ vẻ thất thần. Dù Nữ đế chưa từng đối xử tốt với hắn, nhưng đối với vị tổ mẫu này, hắn vừa kính nể lại vừa e sợ. Nay Nữ đế sắp không còn, trong khi hắn mới chỉ mười sáu tuổi, vừa được phong làm Hoàng thái tôn, không có Nữ đế, hắn thực sự có thể gánh vác giang sơn rộng lớn này sao?

Ngay cả bản thân hắn cũng không dám chắc.

Tể phụ Lư Hoài đứng bên cạnh trầm giọng gọi: “Điện hạ.”

Một tiếng gọi ấy kéo Lý Trưng về thực tại. Hắn ngơ ngác nhìn Lư Hoài: “Thầy… ta phải làm sao đây?”

“Điện hạ là Hoàng thái tôn, trước tiên cần phải ổn định cục diện.” Lư Hoài nhìn đám đại thần đang hoảng loạn bên ngoài điện, ôn tồn khuyên nhủ: “Bệ hạ đã chọn điện hạ làm Hoàng thái tôn, chứng tỏ người đặt trọn niềm tin vào điện hạ, tuyệt đối không thể phụ lòng tin ấy.”

Bệ hạ… tin tưởng hắn sao… Lý Trưng như được tiếp thêm dũng khí, tinh thần phấn chấn trở lại: “Thầy nói đúng, bệ hạ đã giao phó trách nhiệm này cho ta, ta nhất định không để người thất vọng.”

Hắn lập tức trấn định tinh thần, bước xuống bậc thềm, xoa dịu triều thần, nghiêm lệnh Kim Ngô Vệ canh chặt cửa cung, không để bất kỳ tin tức nào lọt ra ngoài làm xáo trộn lòng dân. Đồng thời, hắn cũng hạ lệnh điều động cấm quân Nam Nha và Bắc Nha trấn giữ các cổng thành, đề phòng có kẻ thừa cơ gây loạn. Từng bước sắp xếp đều có trật tự, khiến Lư Hoài cuối cùng cũng yên tâm phần nào.

Lúc này, Thứ sử Lạc Châu Ngư Phù Nguy dẫn theo vợ chồng Trạng nguyên lang tiến cung. Hắn đưa Thôi Tuần và Lý Doanh đến cửa phụ của điện Thần Long, nhờ nội thị truyền báo, nói rằng vợ chồng Trạng nguyên đến, muốn cầu kiến Nữ đế.

Ngư Phù Nguy từ trước đến nay rất được Nữ đế tin tưởng, dù nội thị có phần nghi hoặc nhưng vẫn vội vàng vào trong bẩm báo. Không bao lâu sau, y quay lại, thông báo rằng Nữ đế truyền triệu vợ chồng Trạng nguyên lang.



Lý Doanh gần như chạy một mạch đến tẩm điện của Nữ đế. Vừa bước vào, nàng liền lao đến bên giường bệnh, quỳ xuống bật khóc: “A nương…”

Một tiếng “A nương“ ấy khiến Nữ đế hiểu ra mọi chuyện, biết rằng nàng đã nhớ lại tất cả. Thân thể người đã suy yếu đến mức chẳng còn chút sức lực, nhưng vẫn cố gắng run rẩy vươn tay, muốn lau đi nước mắt trên mặt Lý Doanh. Nàng hoảng hốt nắm lấy bàn tay bà, khóc không thành tiếng: “A nương, Minh Nguyệt Châu đến muộn rồi.”

“Không muộn, không muộn…” Nữ đế cũng rơi lệ: “Vừa kịp, vừa kịp.”

“A nương…” Lý Doanh gục xuống bên giường, giọng nàng lạc đi: “A nương, ngự y nhất định sẽ chữa khỏi cho người, nhất định sẽ làm được!”

“Đứa ngốc.” Nữ đế yếu ớt mỉm cười: “A nương đã tám mươi tuổi rồi, trên đời này, ai lại không già đi, ai lại không chết cơ chứ? Sống đến tám mươi tuổi, đã là phúc thọ lắm rồi.”

“Nhưng Minh Nguyệt Châu còn bao nhiêu điều muốn nói với a nương, Minh Nguyệt Châu không nỡ rời xa a nương…”

Nữ đế run run nắm lấy tay nàng, vẫn dịu dàng như thuở nàng còn nhỏ, giọng bà tràn ngập vẻ cưng chiều: “Minh Nguyệt Châu, con đừng nói không nỡ rời xa a nương. A nương có thể tận mắt thấy con xuất giá, có thể ngồi trong thanh lư, được con dập đầu bái lạy, chỉ riêng chừng ấy đã khiến a nương không còn gì để hối tiếc nữa rồi.”

Bà hơi dừng lại, rồi nói: “A gia con đã đợi a nương đủ lâu rồi, a nương phải đi tìm ông ấy thôi…”

Lý Doanh ngẩn người, thấy trong đôi mắt Nữ đế thấp thoáng ánh lệ: “Bao năm phu thê, a gia con có lỗi với a nương, a nương cũng có lỗi với ông ấy. Món nợ này, a nương không tính nổi nữa rồi. Đợi đến được hoàng tuyền, a nương sẽ tìm ông ấy, rồi cùng tính toán cho rõ…”

Lý Doanh không nhịn được nữa, khóc òa lên: “A nương…”

Nữ đế khẽ thở dài, nhìn về phía Thôi Tuần, người vẫn đang quỳ bên cạnh Lý Doanh: “Vọng Thư.”

“Thần có mặt.”

“Giao Minh Nguyệt Châu cho con, trẫm rất yên tâm. Trẫm tin rằng, con sẽ yêu thương nó cả đời này.”

Hốc mắt Thôi Tuần đỏ lên: “Thần nhất định sẽ làm được.”

Nữ đế khẽ gật đầu: “Con mang thứ trên bàn lại đây.”

Thôi Tuần đứng dậy, trên bàn đặt một phong chiếu lệnh cùng một vật được bọc trong lụa vàng. Hắn mang đến trước mặt Nữ đế, bà không nhận lấy, mà chỉ dặn: “Mở ra.”

Thôi Tuần mở lớp lụa, bên trong lại là hai tấm Đan thư thiết khoán. [1]

[1] Đan thư thiết khoán (chữ Hán: 丹書鐵券) hay Đan thư thiết khế (丹書鐵契), Kim thư thiết khoán (金書鐵券), Thiết khoán (鐵券), Thệ thư (誓書) là một loại văn bản của các triều đại phong kiến Trung Quốc cấp từ thời Nhà Hán để ban thưởng cho những người có công lớn với triều đình. Vì đôi khi văn bản này có điều khoản miễn tội tử hình cho người được ban thưởng, nên trong dân gian đôi khi Đan thư thiết khoán còn được gọi là Miễn tử (kim) bài (免死(金)牌). Nguồn
 
Back
Top Bottom