Ngôn Tình Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 160: Cuối cùng nàng cũng hiểu mình đã chết thế nào


Lý Doanh ngồi bật dậy, mờ mịt nhìn quanh.

Chẳng phải nàng đã hồn phi phách tán rồi sao? Đây là đâu chứ?

Khi đảo mắt một vòng, ánh nhìn dừng lại trên chiếc dao cầm đặt ngay ngắn trên bàn. Nàng thấy bàng hoàng. Đây chẳng phải cây dao cầm ba mươi năm trước của nàng sao? Còn nơi này, sao lại giống Phượng Dương Các mà nàng từng cư ngụ cách đây ba mươi năm đến vậy?

Thị nữ Lan Hương cung kính bước vào, dâng lên một phong thư: “Công chúa, đây là thư của Trịnh lang quân.”

Lan Hương? Sao nàng ấy vẫn còn trẻ thế này? Trịnh lang quân nào? Là Trịnh Quân sao?

Dù Trịnh Quân là vị hôn phu của nàng, nhưng vì chưa chính thức trở thành phò mã, nên Lan Hương cùng những tỳ nữ khác vẫn luôn gọi hắn là “Trịnh lang quân”.

Phượng Dương Các, Lan Hương, phong thư, Trịnh Quân… Lý Doanh hoàn toàn ngây ngẩn, rốt cuộc đang xảy ra chuyện gì?

Nàng nhìn chằm chằm Lan Hương, khiến thị nữ cũng bối rối, cứ tưởng nàng không muốn nhận thư của Trịnh Quân, dè dặt hỏi rằng: “Công chúa, có cần nô tỳ mang thư này trả lại cho Trịnh lang quân không ạ?”

Lời còn chưa dứt, Lý Doanh bỗng vươn tay giật lấy phong thư, vội vã mở ra đọc.

Đây là thư hẹn gặp nàng vào giờ Tuất tối nay, tại hồ sen trong cung.

Trong thư, Trịnh Quân nói hắn có chuyện muốn bàn bạc với nàng.

Ba mươi năm qua, Lý Doanh vẫn nhớ rõ từng câu từng chữ trong bức thư đòi mạng này, sau khi đọc xong, đầu óc nàng càng thêm hỗn loạn.

Lan Hương thử thăm dò, nhẹ giọng gọi: “Công chúa?”

Lý Doanh không đáp lại, Lan Hương cũng không dám lên tiếng. Mặc dù tính tình Lý Doanh ôn hòa, chưa bao giờ khắt khe với cung tỳ, nhưng chung quy nàng vẫn là vị công chúa được Thánh nhân sủng ái nhất, bởi vậy trong Phượng Dương Các, không ai dám tỏ ra vô lễ trước mặt nàng. Một lúc lâu sau, Lý Doanh mới ngây dại ngẩng đầu, hỏi Lan Hương: “Lan Hương, hôm nay là ngày tháng năm nào?”

Lan Hương càng thêm nghi hoặc, nhưng vẫn thận trọng đáp: “Bẩm công chúa, hôm nay là mùng sáu tháng mười, năm Thái Xương thứ hai mươi.”

Mùng sáu tháng mười, năm Thái Xương thứ hai mươi… Ngày nàng qua đời.

Lý Doanh ngây người hồi lâu, bỗng bật cười khổ. Nàng nói với Lan Hương: “Ta biết rồi, ngươi lui xuống đi.”

Lan Hương hành lễ, lặng lẽ rời đi. Trong phòng yên ắng đến mức có thể nghe thấy cả tiếng kim rơi.

Một lát sau, Lý Doanh cầm lấy phong thư mỏng manh, đi hài đế dày, bước đến trước dao cầm. Nàng quỳ xuống, khẽ chạm vào dây đàn, tiếng nhạc thanh thoát vang lên. Lý Doanh đưa tay phủ lên dây đàn, miệng lẩm bẩm: “Thì ra… là vậy.”

Chẳng trách Ngư Phù Nguy từng nói với nàng, quỷ lại của Vong Tử Thành đều mặc áo đỏ.

Trước đây, nàng chưa từng để tâm đến chuyện này. Nhưng trong Địa phủ, hai lần quỷ lại đến bắt nàng đều mặc áo xanh, chỉ có lần bắt Thịnh Vân Đình ở Trường An, quỷ lại mới mặc áo đỏ.

Vậy nên, người muốn bắt nàng căn bản không phải quỷ lại của Vong Tử Thành.

Nàng nhớ lại lần cùng A Sử Na Gia đến Quỷ Phán Điện. Ở nơi đó, quỷ lại đều mặc áo xanh.

Người muốn bắt nàng, là quỷ lại của Quỷ Phán Điện.

Quỷ Phán Điện là nơi giam giữ hồn phách của Quách Cần Uy, cũng là nơi giam giữ hồn phách của những ai tự vẫn.

Cuối cùng, nàng đã hiểu rõ, chính mình đã chết thế nào.

Nàng nhìn gương đồng, nhìn khuôn mặt phản chiếu trong đó. Nàng là Lý Doanh, mà cũng không phải Lý Doanh. Nàng không còn là công chúa Vĩnh An Lý Doanh, người sẽ hỏi câu “sao không ăn thịt”, thay vào đó, nàng là công chúa Lý Doanh của triều Đại Chu, người đã trải qua ba mươi năm bãi bể nương dâu, từng có một đoạn tình khắc cốt ghi tâm, từng chứng kiến cảnh dân sinh điêu linh, cũng từng thấy cảnh non sông cường thịnh.

Nàng dán mắt vào bóng hình trong gương, khóe môi nhếch lên, nở một nụ cười chua xót: “Thì ra… ta đã giết chính ta.”

Là Lý Doanh của ba mươi năm sau, kết liễu Lý Doanh của ba mươi năm trước.



Lá thư của Trịnh Quân tuột khỏi tay nàng, nhẹ rơi xuống đất. Đôi mắt trong trẻo trên gương đồng dần chìm trong thống khổ tuyệt vọng.

Trước mắt nàng hiện lên cảnh tượng dưới Địa phủ: Ngư Phù Nguy bóp chặt cổ nàng, giận dữ chất vấn: “Ngươi hại cả nhà họ Trịnh ta! Ngươi lấy tư cách gì để tự xưng hai tiếng lương thiện?” Chẳng trách Ngư Phù Nguy lại phẫn nộ và muốn giết nàng đến vậy. Thì ra, kẻ đứng sau huyết án Thái Xương… lại chính là nàng.

Nàng đã hại cả nhà họ Trịnh, hại những người vô tội trong huyết án Thái Xương, khiến thành Trường An chìm trong bể máu.

Nàng mà cũng được xem là người lương thiện sao?

Lương tâm cắn rứt, dồn ép đến mức khiến nàng gần như nghẹt thở. Nàng từng nói với Thôi Tuần rằng, cả đời này nàng chưa từng làm chuyện ác, vì sao lại bị giam cầm trong hồ sen tối tăm lạnh lẽo, vì sao nàng không thể đầu thai? Hóa ra, những tội nghiệt nàng gây ra, những hậu quả nàng để lại, còn nặng nề hơn bất kỳ ai khác trên đời này.

Tại Quỷ Phán Điện, Quách Cần Uy từng nói: “Những kẻ tự vẫn, cứ đến ngày Tuất, ngày Hợi đều phải chịu đựng nỗi đau trước lúc chết một lần nữa, cho đến khi hết tuổi thọ định sẵn mới có thể siêu sinh.” Nhưng có lẽ vì tội nghiệt quá nặng, không chỉ phải chịu đựng sự giày vò ấy hết lần này đến lần khác, mà đến tận lúc dùng hết thọ mệnh nàng vẫn không thể tái sinh. Nàng bị giam cầm trong hồ sen lạnh buốt suốt ba mươi năm, không thể luân hồi, không thể chuyển thế. Ba mươi năm sau, được Thôi Tuần cứu ra, đứng trước mộ chàng, rồi lại quay về ba mươi năm trước, vĩnh viễn chìm trong vòng lặp bất tận, không có đường ra.

Đây có lẽ… chính là phán quyết của Tần Quảng Vương dành cho nàng.

Về phần nguyên do nàng có thể từ ba mươi năm sau quay lại ba mươi năm trước, có lẽ là vì nàng từng sở hữu xá lợi Phật đỉnh. Mà xá lợi Phật đỉnh vốn là pháp tướng không sinh không diệt, cho nên nàng có thể quay ngược thời gian, tự chọn lấy vận mệnh của chính mình.

Nàng có thể tự quyết định: sống hay là chết.



Lý Doanh ngơ ngác.

Nàng có thể lựa chọn sống, tiếp tục làm nàng công chúa nhỏ cao quý, sống một cuộc sống hạnh phúc dưới sự che chở của a gia và a nương. Nàng sẽ không phải chịu đựng nỗi đau chết chìm trong nước hết lần này đến lần khác, bị mắc kẹt trong hồ sen lạnh lẽo tối um, không phải trải qua mối tình nghiệt ngã đến mức đứt đoạn ruột gan, càng không cần phải đối mặt với tột nghiệt nặng nề khi chính tay tạo ra thảm án Thái Xương. Tội nghiệt ấy quá lớn, tưởng chừng có thể đè nát nàng.

Nàng đưa tay che mặt, đau đớn đến nghẹt thở. Nàng có thể chọn cách sống tiếp, nhưng còn người dân thôn Ngưu gia thì sao? Còn bách tính Đại Chu thì sao? Nếu không có tân chính, họ sẽ phải sống thế nào?

Chẳng lẽ cứ để môn phiệt mãi mãi là môn phiệt, hàn môn mãi mãi là hàn môn?

Chẳng lẽ cứ để những đứa trẻ thông minh như Lý Nhi hay Hổ Nô, suốt đời chỉ có thể cuốc cày nơi đồng ruộng?

Chẳng lẽ cứ để Đại Chu không thể phục hưng, triều chính tiếp tục mục ruỗng, để Đột Quyết thừa cơ xâm chiếm, khiến giang sơn gấm vóc tươi đẹp này rơi vào vó ngựa của người Hồ?

Chẳng lẽ cứ để bi kịch Ngũ Hồ loạn Hoa lại tái diễn thêm lần nữa hay sao?

Không, nàng không thể để điều ấy xảy ra.

Nàng buông tay xuống, trong mắt đong đầy ánh lệ. Dường như, nàng đã hạ đủ quyết tâm.



Giờ Dậu, Lý Doanh thay bộ y phục màu xanh, khoác lên mình chiếc áo chẽn, ống tay bó sát, phối cùng váy lụa xen kẽ hai màu đỏ trắng, mái tóc vấn kiểu song hoàn vọng tiên, cài một chiếc trâm vàng, giữa trán điểm đóa hoa điền đỏ như giọt lệ, trên vai khoác một tấm sa mỏng. Đây chính là dáng vẻ khi nàng lần đầu gặp gỡ Thôi Tuần.

Nàng đến tẩm cung của a nương. Từ buổi trưa gặp di mẫu, a nương đã tức giận khác thường. Lý Doanh hiểu rõ, hẳn là di mẫu lại xúi giục bà về chuyện của Trịnh Hoàng hậu, khiến bà giận đến mức bỏ cơm. Khi nàng bước vào, Khương Quý phi đang tựa trên trường kỷ, sắc mặt ủ rũ. Lý Doanh lặng lẽ nằm xuống bên cạnh, nghiêng người gối lên chân bà.

Khương Quý phi v.uốt ve mái tóc nàng, thấy con gái cưng, tâm tình cũng tốt hơn nhiều, bà cười nói: “Minh Nguyệt Châu, sao hôm nay lại ăn mặc đẹp thế này?”

“Ăn mặc đẹp không tốt sao ạ?” Lý Doanh mỉm cười, đáp: “Con diện thêm tí thì a nương sẽ vui vẻ khi nhìn thấy con, ngay cả a gia cũng vậy.”

Khương Quý phi gật đầu. Lý Doanh vẫn ngoan ngoãn nằm trên đùi bà như hồi nhỏ. Nàng khẽ nói: “A nương, con muốn ngủ một lát.”

Khương Quý phi bật cười: “Được.”

Lý Doanh nhắm mắt, tựa như chìm vào giấc ngủ say. Nhưng hồi lâu sau, nàng lại thì thầm, giọng điệu mơ màng, như tỉnh mà cũng như chưa tỉnh: “A nương, nếu sau này người gặp được một vị lang quân họ Thôi ở Bác Lăng, tên là Thôi Tuần, bất luận xảy ra chuyện gì, con cũng xin người hãy giữ lại tính mạng cho chàng.”

Khương Quý phi kinh ngạc, bà không hiểu vì sao nữ nhi lại đột nhiên nói những lời này, liền cất giọng hỏi: “Lang quân họ Thôi ở Bác Lăng, tên là Thôi Tuần sao?”

Lý Doanh “dạ” một tiếng: “Chàng tự là Vọng Thư, a nương, người đừng quên nhé.”

“Con đang nói gì đấy? Minh Nguyệt Châu, con đã mơ thấy gì sao?”

Lý Doanh không trả lời, chỉ cố chấp nói: “A nương, người hãy hứa với con đi.”

Khương Quý phi không còn cách nào khác, đành đáp: “Được, a nương hứa với con.”

Lý Doanh thầm thở phào nhẹ nhõm. Thật ra, nàng muốn hỏi Khương Quý phi, vị Thái hậu sẽ nắm giữ đại quyền nghiêng trời lệch đất sau này, rằng bà có thể đối xử với Thôi Tuần tốt hơn dù chỉ một chút hay không? Đừng đánh chàng, cũng đừng phạt chàng. Nhưng lời đến bờ môi lại hóa thành một tiếng thở dài, giọng nàng nhỏ dần: “A nương, con phải đến chỗ a gia, con đi trước nhé.”

Khương Quý phi tuy lấy làm lạ, nhưng vẫn gật đầu: “Ừ, đi đi.”

Lý Doanh cũng gật đầu đáp lại, đứng dậy mang vào đôi hài đế dày, ngoảnh lại nhìn Khương Quý phi lần cuối, chậm rãi rời khỏi cửa cung.



Nàng đi đến điện Thần Long. Những ngày qua, Thái Xương Đế vẫn luôn nằm liệt giường vì lâm trọng bệnh. Trịnh Hoàng hậu muốn chăm sóc, nhưng người không cho phép. A nương nàng cũng muốn vào hầu hạ, người vẫn một mực cự tuyệt. Lý Doanh biết Thôi Tụng Thanh đã thuyết phục được Thái Xương Đế, khiến người hạ lệnh để Kim Di giết nàng. Sau đó, chính nỗi day dứt vì đã hại chết con gái đã hành hạ người đến mức ngã bệnh. Nàng chần chừ đứng ngoài điện một lát, nhớ đến lời Kế Thanh Dương đã nói: sau khi tra hỏi y, a gia đã thả y đi, để rồi mang mặc cảm tội lỗi và băng hà chỉ sau mười năm. Hẳn là khi ấy, Kế Thanh Dương đã nói rõ chân tướng cái chết của nàng, khiến a gia dằn vặt đến khi chết.

Nàng rất muốn vào điện Thần Long, rất muốn nói chuyện với a gia. Nhưng cuối cùng, nàng chỉ ngẩng đầu, ánh mắt phức tạp nhìn về phía điện Thần Long, trung tâm quyền lực tối cao của Đại Chu, rồi lại cúi xuống, không bước vào nữa.

Bởi vì thực ra nàng và a gia đều đang làm cùng một việc.

Lý Doanh xoay người, từng bước đi về phía hồ sen.

Tất cả cung nữ bên cạnh đều bị nàng tìm cớ cho lui, và nàng một mình đi đến bữa tiệc chết chóc đã được sắp đặt sẵn này.

Trời đêm buông xuống, dưới ánh trăng mờ ảo, Lý Doanh chậm rãi tiến bước. Càng đến gần hồ sen, tâm tư nàng lại càng thêm tĩnh lặng.

Nàng nghĩ, nếu là Lý Doanh của ba mươi năm trước, có lẽ cũng sẽ nguyện chết. Nhưng cái chết đó ắt hẳn sẽ mang theo nhiều uất ức, tủi hờn. Bởi khi ấy, thậm chí nàng còn chẳng biết những điều khoản trong chính sách mới là gì, cũng chưa từng tận mắt chứng kiến người dân thôn Ngưu Gia cùng nhau uống thánh thủy để rồi chết vì hy vọng hão huyền, chưa từng thấy một người nông dân nào tự mình nỗ lực thi cử, nhập triều làm quan, càng chưa từng thấy tướng sĩ Đại Chu có thể đánh lui Đột Quyết ra khỏi dãy Âm Sơn chỉ trong một trận. Nhưng Lý Doanh ba mươi năm sau đã chứng kiến tất cả những điều này. Vậy nên hôm nay, nàng chết không chút miễn cưỡng hay oán hận, chỉ có sự bình tĩnh và quyết tâm.

Trên đường đi, nàng cũng đã hiểu rõ lời Ngư Phù Nguy từng nói: “Ngươi xứng làm người lương thiện sao?” Đúng là nàng có lỗi với những nạn nhân của huyết án Thái Xương, cũng không xứng được gọi là lương thiện. Nhưng nhất sát muôn sinh <i>(một mạng đổi lấy nhiều mạng)</i>, nàng chỉ có thể đưa ra lựa chọn này.

Vậy nên, nàng chấp nhận vĩnh viễn bị vây hãm trong vòng tròn của cái chết, lấy đó để chuộc lại tội nghiệt đã gây ra.

Hồ sen tháng mười, hoa sen đều đã héo rũ. Lý Doanh nhìn chăm chăm vào mặt nước tối đen, chợt lên tiếng: “Kế Thanh Dương.”

Thiếu niên Kế Thanh Dương đang ẩn nấp bên hồ sen bỗng sửng sốt.

Lý Doanh nói: “Kế Thanh Dương, ta biết ngươi đến cứu ta. Nhưng đừng cứu ta.”

Nàng nghe thấy tiếng lá cây xào xạc, giọng thiếu niên khàn đặc vang lên: “Công chúa… người đã biết về mệnh lệnh của Thánh nhân rồi sao?”

Lý Doanh không trả lời. Kế Thanh Dương nghiến răng: “Không, Thanh Dương sẽ cứu công chúa. Dù người muốn giết công chúa có là Thánh nhân, Thanh Dương cũng phải cứu công chúa bằng được.”

Lý Doanh lắc đầu: “Đây là vận mệnh ta tự mình lựa chọn. Nếu ngươi còn nhớ ân cứu mạng của ta, hãy hứa với ta, sau này bất kể xảy ra chuyện gì, ngươi cũng không được tới cứu ta.”

Kế Thanh Dương làm sao có thể đồng ý? Lý Doanh lặp lại: “Kế Thanh Dương, hứa với ta.”

Thiếu niên nắm chặt tay, y vẫn nghĩ rằng chính phụ thân đã ép nàng đến bước đường này, mà không biết rằng, chính nàng là người chủ động muốn chết.

Nhưng rồi, Lý Doanh lại nhắc đến lần thứ ba. Y không thể ngăn cản nàng, chỉ có thể cắn răng, rơi nước mắt đồng ý.

Lý Doanh mỉm cười: “Kế Thanh Dương, sau này đừng làm tay sai của Bách Kỵ Tư nữa, hãy làm một người tốt đi nhé. Nhất định ngươi sẽ trở thành một người được người đời kính trọng.”

Sau tán lá rậm rạp, ngoài tiếng lệ rơi vỡ tan trên mặt đất, không còn bất kỳ thanh âm nào khác.

Lý Doanh cúi đầu, nhìn xuống mặt nước sâu không thấy đáy.

Cùng lúc đó, Vương Đoàn Nhi run rẩy, từng bước tiến đến để giết nàng.

Trịnh Quân hối hận khôn nguôi, thúc ngựa phi nhanh đến cứu nàng.

Thẩm Dung nắm chặt một cây ngân châm, nhẫn tâm đâm thẳng vào con rối gỗ có khắc sinh thần bát tự của nàng.

Thái Xương Đế túm chặt cổ áo Kim Di, gào khản giọng ra lệnh không được giết nàng.

Nhưng người mà họ muốn giết, muốn cứu, giờ phút này lại đang nhắm mắt, dang rộng hai tay, trong đầu dần hiện lên một bóng hình kiều diễm như đóa sen. Nàng khẽ nói: “Thập Thất lang, ta đến gặp chàng đây.”

Thân mình nàng nghiêng về phía trước, rơi xuống hồ sen.

Từ đó, quá khứ lụi tàn, nàng lại lần nữa rơi vào vòng tuần hoàn vô tận.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 161: Kết thúc chính văn


Phong Châu, trong doanh trướng phủ đầy tuyết trắng.

Trên đường khải hoàn hồi triều, Thôi Tuần gắng gượng suốt mười ngày, cảm thấy sinh mệnh mình đang dần hao kiệt. Đến ngày mùng mười tháng ba, hắn đã không thể bước nổi dù chỉ một bước, những lúc mê man còn nhiều hơn những lúc tỉnh táo. Hắn biết đại nạn đã đến, bèn triệu Hà Thập Tam cùng những người khác vào trướng, dặn dò hậu sự.

Mười gia quyến của quân Thiên Uy theo hắn rời Trường An Bắc chinh ngày ấy, đến nay năm người đã bỏ mạng nơi sa trường. Đó đều là những thiếu niên vừa tròn mười bốn tuổi. Thế nhưng, không ai hối hận vì lựa chọn của mình. Được chết như các a huynh, ngã xuống trên cùng một chiến trường, với họ mà nói, đó là một vinh quang.

Mắt Hà Thập Tam đỏ hoe. Bên cạnh Thôi Tuần là một hòm gỗ chất đầy châu chấu kết bằng cỏ, hắn vẫn đang cầm một con vừa mới được đan xong. Ngón tay hắn không còn linh hoạt, nên con châu chấu cỏ này vừa méo mó vừa vụng về, nhìn rất khó coi. Hắn đưa châu chấu cỏ cho Hà Thập Tam, ra hiệu đặt vào trong hòm gỗ. Một nghìn con châu chấu cỏ, rốt cuộc cũng đã bện xong.

Hắn dặn Hà Thập Tam rằng, đợi sau khi hắn chết, hãy đưa chiếc hòm này về Thôi phủ ở Trường An. Hà Thập Tam cố nén đau thương, nghẹn ngào hỏi: “A huynh, vậy còn huynh thì sao? Huynh không về Trường An nữa sao?”

Thôi Tuần khẽ lắc đầu, giọng trầm thấp: “Hãy chôn ta ở Lạc Nhạn Lĩnh, để ta an giấc cùng các a huynh của đệ.”

Nghe vậy, Hà Thập Tam cuối cùng không thể kiềm nén thêm, òa khóc nức nở. Thôi Tuần mỉm cười nhẹ nhàng, nói: “Khóc gì chứ? Thân này, vốn chỉ là khách qua đường ở thế gian. Từ đây hồn về cõi trời, chẳng còn điều gì vướng bận.”

Hắn siết chặt túi hương của Lý Doanh trong tay, bỗng thầm thì: “Chỉ không nỡ, Minh Nguyệt Châu…”

Sau khi nói lời ấy, toàn thân hắn đã chẳng còn chút sức lực nào nữa, mang theo nỗi lưu luyến và áy náy đối với Lý Doanh, chậm rãi khép mắt lại.

Bàn tay đang nắm chặt chiếc túi thơm cũng vô lực rơi xuống.

Năm người, gồm cả Hà Thập Tam, loạng choạng quỳ xuống, tiếng khóc vang trời: “A huynh!”

Hắn từng là người mà bọn họ căm hận nhất, vậy mà vào khoảnh khắc này, những thiếu niên ấy lại thực lòng quỳ xuống đất, khóc lóc gọi hắn hai tiếng “A huynh”.

Bọn họ thực lòng thừa nhận hắn, thực lòng kính trọng hắn, như đối với một người huynh trưởng ruột thịt.

Bởi vì hắn xứng đáng được thừa nhận, xứng đáng để bọn họ kính trọng.



Giữa bóng tối mịt mùng, Thôi Tuần mở mắt ra.

Lúc đầu, hắn tưởng rằng linh hồn hắn đã tan thành tro bụi, vĩnh viễn không còn luân hồi, vì thế bóng tối này chính là màn đêm bất tận giam cầm hắn. Nhưng trong bóng đêm ấy, hắn lại nhìn thấy một tia sáng. Thôi Tuần mơ màng bước về phía đó, rốt cuộc tiến vào làn sương mù dày đặc.

Từ trong sương mù, hắn có thể lờ mờ nhận ra trước mắt mình là một dòng sông sâu thẳm, mặt sông rộng lớn vô biên, không thể nhìn thấy cảnh tượng ở bên bờ đối diện. Trong lòng hắn tràn đầy nghi hoặc: “Đây là đâu?”

Là sông Nại Hà ư? Là Địa phủ sao? Nhưng hắn đã hồn phi phách tán, đâu thể đến được Địa phủ.

Ngay lúc Thôi Tuần còn hoảng hốt, bỗng hắn nghe thấy tiếng gọi: “Thập Thất lang!”

Hắn nhìn theo tiếng gọi, chỉ thấy lớp sương dần tản ra, năm vạn Thiên Uy quân đông nghìn nghịt, đứng trước mặt hắn như mây đen áp xuống.

Đứng đầu hàng quân chính là Quách Cần Uy.

Bên cạnh còn có Tào Ngũ lang và cả Thịnh Vân Đình.

Thôi Tuần còn đang bàng hoàng thì Tào Ngũ lang đã sải bước đến gần, ôm chặt lấy hắn: “Thập Thất lang!”

Tào Ngũ lang buông tay ra, lúc này Thôi Tuần mới hoàn hồn, nhỏ giọng hỏi: “Mọi người… sao lại ở đây?”

“Đây là Địa phủ, bờ sông Nại Hà. Những kẻ hại chết chúng ta đã chịu báo ứng, vốn dĩ chúng ta có thể rời khỏi Vong Tử Thành, đi đầu thai chuyển thế. Nhưng vì lo lắng cho huynh nên mới ở đây đợi huynh, sau đó mới rời đi.”

“Đợi ta…” Thôi Tuần lẩm bẩm: “Nhưng ta…”

Hắn muốn nói, hắn đã mất đi linh hồn, hà tất cứ phải đợi hắn? Nhưng lời này còn chưa kịp thốt ra, hắn đã hiểu ra điều gì đó. Việc hắn xuất hiện ở Địa phủ có lẽ là do một cơ duyên nào đó. Hắn nhìn về phía Tào Ngũ lang cùng các huynh đệ Thiên Uy quân, vành mắt nóng bừng, nước mắt dâng lên: “Nếu như không đợi được ta, mọi người định không đầu thai nữa sao?”

Tào Ngũ lang gật đầu chắc nịch: “Đương nhiên!”

Hắn kéo Thôi Tuần đến trước mặt Quách Cần Uy: “Quách soái cũng đang đợi huynh đó.”

Thôi Tuần nhìn Quách Cần Uy, trong thoáng chốc, hắn bỗng cảm thấy tủi hổ, cúi đầu không dám đối diện ngài: “Cháu… cháu đã phụ lòng dạy bảo của Quách soái. Quách soái vẫn luôn nhắc nhở cháu phải sống quang minh lỗi lạc, nhưng cháu đã không làm được… Suốt sáu năm qua, cháu đã phạm phải quá nhiều sai lầm…”

“Thập Thất lang.” Quách Cần Uy vỗ vai hắn, giọng điệu day dứt: “Nếu có sai, thì cũng là ta sai. Ta đã đặt toàn bộ gánh nặng minh oan lên vai cháu, khiến cháu phải chịu muôn vàn khổ cực, không thể trở thành người như ta hằng kỳ vọng. Nhưng cháu vẫn giữ trọn lời hứa với ta. Cháu là đại ân nhân của tất cả mọi người.”

Mắt Thôi Tuần đỏ lên, hắn không quen được người khác xem như ân nhân, cũng không cho rằng những khổ ải mình phải trải qua đều là lỗi của Quách Cần Uy. Ngược lại, hắn chỉ cảm thấy mình đã làm điều nên làm. Để chuyển hướng câu chuyện, hắn hỏi: “Đúng rồi, Quách soái, chẳng phải Minh Nguyệt Châu từng nói hồn phách của ngài luôn bị giam giữ trong Quỷ Phán Điện, chưa đến tận số thì không thể rời đi, vậy làm sao ngài có thể ra ngoài?”

“Bách tính Đại Chu lập vô số từ đường thờ cúng ta, hương khói không dứt, công đức tích lũy. Khi các tướng sĩ của Thiên Uy quân rời khỏi Vong Tử Thành, Tần Quảng Vương cũng thả ta ra, để ta đi đầu thai cùng họ.”

Thôi Tuần lẩm bẩm: “Thì ra là vậy.”

“Một công chuộc một tội, bao gồm cả cháu đấy, Thập Thất lang. Cháu biết rõ chuyến Bắc chinh lần này sẽ gặp cảnh cửu tử nhất sinh, vậy mà vẫn xin được tiên phong, đoạt lại sáu châu, cứu giúp bách tính, buộc Đột Quyết phải rút lui ba ngàn dặm. Cháu đã lập được công lao cái thế, công của cháu đủ để chuộc tội rồi.” Quách Cần Uy nói, “Cháu ôm tâm niệm tan xương nát thịt để ra trận, nhưng chính điều đó lại cứu lấy cháu.”

Chẳng trách hắn có thể đặt chân đến Địa phủ, hóa ra chính hắn đã tự cứu lấy mình.

Thôi Tuần bừng tỉnh, Thịnh Vân Đình bỗng lên tiếng: “Thập Thất lang, bọn ta phải đi đầu thai rồi, đệ có muốn đi cùng không?”

Thôi Tuần ngẩn ra, rồi khẽ lắc đầu: “Không, đệ còn phải đợi một người.”

Quách Cần Uy hiểu ý, trầm mặc một lúc rồi nói: “Thập thất lang, bọn ta đi đây, bảo trọng.”

Dứt lời, năm vạn tướng sĩ Thiên Uy quân đồng loạt quỳ một gối trước Thôi Tuần. Hắn ngây người, còn chưa kịp quỳ đáp lễ thì đã bị Quách Cần Uy ngăn lại: “Thập Thất lang.”

Ông nói: “Cái quỳ này, cháu xứng đáng được nhận.”

Thôi Tuần nhìn những huynh đệ Thiên Uy quân quỳ xuống hành lễ với mình, mắt hắn ngập nước. Sau đó, năm vạn anh linh mang theo sự quyến luyến, hóa thành từng đốm sáng màu xanh lục, trôi dạt về phía con đò đã chờ sẵn của người lái đò.

Ánh sáng xanh như dòng máu đào loang vào nền đất, kết nên dải ngân hà lộng lẫy bắc ngang dòng Nại Hà đen thẳm. Lũ quỷ thú dưới đáy sông cũng yên lặng phục xuống, không dám quấy nhiễu. Khi con đò nhỏ khuất bóng ở bên bờ đối diện, dải ngân hà xanh biếc cũng chậm rãi tiêu tan.

Thôi Tuần đứng lặng, dõi theo họ vượt qua Nại Hà, đi về phía bờ bên kia. Sau đó, hắn xoay người, nhìn về hướng Sinh Tử Đạo.

Hắn đang đợi một người.

Hắn không biết phải đợi bao lâu, chỉ biết rằng, cho dù có dài đến đâu, hắn cũng sẽ chờ mãi.



Con đò nhỏ cuối cùng cũng quay lại, cùng trở về với nó là người lái đò đội nón trúc.

Người lái đò kéo thấp vành nón, cất tiếng gọi: “Thôi Tuần.”

Thôi Tuần ngoảnh lại.

Người lái đò hỏi: “Cậu đang đợi Minh Nguyệt Châu sao?”

Thôi Tuần ngạc nhiên, không rõ vì sao đối phương lại biết chuyện này, nhưng hắn vẫn gật đầu đáp: “Phải.”

“Nàng đã trở về rồi.”

“Về đâu cơ?”

“Ba mươi năm trước.”

Thôi Tuần bối rối, chăm chú quan sát người lái đò, rồi tiến lên một bước, cung kính hành lễ: “Dám hỏi nhà đò, ba mươi năm trước mà ngài nói là có ý gì?”

Người lái đò gật đầu: “Đúng như cậu nghĩ, là ba mươi năm trước.” Ông nói: “Nàng đã quay về năm Thái Xương thứ hai mươi, ngày mùng sáu tháng mười, cũng vào ngày đó, nàng đã tự tay kết liễu chính mình.”

Thôi Tuần ngỡ ngàng, Minh Nguyệt Châu… đã tự sát ư? Chẳng lẽ đây mới là chân tướng về cái chết của nàng?

Hắn buột miệng hỏi: “Nhưng sao hồn phách của nàng lại có thể quay về ba mươi năm trước?”

“Sao lại không?” Người lái đò đáp: “Mỗi người đều có luân hồi, từ sinh đến tử, sau khi chết lại đầu thai chuyển kiếp, cứ thế tiếp diễn. Nhưng vòng luân hồi của Minh Nguyệt Châu không hướng đến kiếp sau. Nó sẽ không ngừng lặp lại những gì xảy ra trong kiếp này.”

Thôi Tuần ngẫm thật kỹ, hắn dần hiểu ra. Giống như trên đời có những người được gọi là “thần tiên sống” hay thuật sĩ, bọn họ giỏi bói toán, tiên đoán sự việc chuẩn xác đến khó tin, thậm chí có thể nhìn thấu chuyện xảy ra vài chục năm sau. Trong số đó, nổi danh nhất phải kể đến Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong. [1]

<i>[1] Lý Thuần Phong (602-670) là người thời Sơ Đường (Thế kỷ VII). Ông là nhà thiên văn học, khí tượng học, chiêm tinh học, cũng đồng thời là thầy phong thủy nổi tiếng nhất thời Đường. Viên Thiên Cương (Cang) (khoảng 573–645) là một nhà chiêm tinh, phong thủy và bói toán nổi tiếng thời nhà Đường. Ông được xem là bậc thầy trong việc đoán mệnh, quan sát tướng số, và dự báo thiên tượng. </i>

<i>Theo truyền thuyết, Lý Thuần Phong từng cùng với Viên Thiên Cương (Cang) soạn ra “Thôi Bối đồ”, giảng giải về Dịch học trên cơ sở khoa học, đáng tiếc cuốn sách tới hiện nay không còn bản gốc nguyên vẹn mà chỉ còn các phụ bản có phần sai lệch lưu truyền. Tương truyền rằng, “Thôi Bối Đồ” là Đường Thái Tông Lý Thế Dân vì để đoán vận mệnh của Đường triều nên đã mời hai vị đại sư Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cương đến suy tính. Không ngờ, Lý Thuần Phong suy tính ra đến vận mệnh của Trung Quốc 2000 năm sau. Cho đến lúc Viên Thiên Cang đẩy lưng của Lý Thuần Phong và nói: “Thiên cơ không thể tiết lộ, hay là đi về nghỉ ngơi đi!” mới dừng lại. Cho nên cuốn sách này được đặt tên là “Thôi Bối Đồ” (ý là đẩy lưng).</i>

Những kẻ được gọi là “thần tiên sống” ấy, có lẽ cũng giống như Lý Doanh, hồn phách của họ quay về quá khứ, chiếm lấy thân xác của chính họ khi còn trẻ, nhờ vậy mới biết trước những sự việc sắp sửa diễn ra.

Ví như dân gian vẫn thường nhắc đến chuyện “khai thiên nhãn”. Người ta kể rằng, có thuật sĩ trong lúc uống rượu hay vui chơi, bỗng dưng ngã xuống bất tỉnh. Đến khi tỉnh lại, họ liền có năng lực tiên đoán tương lai. Nhưng có lẽ, họ không hề được “khai thiên nhãn”, linh hồn ngụ trong thân thể đó không còn là họ ở thời điểm hiện tại nữa, mà là họ của mấy chục năm sau.

Thôi Tuần hỏi: “Vậy có nghĩa là Minh Nguyệt Châu của ngày mùng sáu tháng mười đã không còn là Minh Nguyệt Châu của trước đó nữa rồi?”

Người lái đò gật đầu: “Nàng đã từ hiện tại quay về quá khứ.”

Lý Doanh của ngày mùng sáu tháng mười, cũng giống như những thuật sĩ kia, trong khoảnh khắc nào đó, đã có được năng lực tiên tri.

Thôi Tuần rốt cuộc cũng hiểu ra, vì sao dù năm lần bảy lượt muốn lấy mạng hắn, nhưng Thái hậu vẫn chọn dừng tay. Bà nói rằng từng đáp ứng lời thỉnh cầu của một ai đó, nên mới tạm tha cho hắn. Xem ra, người đó chính là đứa con gái mà bà trân trọng nhất: Lý Doanh.

Ngay từ đầu, người cứu hắn đã là Lý Doanh.

Thôi Tuần vốn còn đang băn khoăn, hồn phách của Lý Doanh ba mươi năm sau rốt cuộc từ đâu mà đến? Nhưng rồi hắn lại nghĩ, hồn phách ba mươi năm sau, chẳng phải chính là của Lý Doanh của ba mươi năm trước đó sao?

Xưa kia, Hoàng hậu của Văn Đế tiền triều một lần mộng tỉnh, thảng thốt kêu lên với Văn Đế: “Đừng đến Tây Giao, ắt có đại họa.”

Khi đó, Văn Đế đang giận dỗi với Hoàng hậu, vì câu nói ấy của bà nên đã cố tình thay đổi kế hoạch, chuyển địa điểm đi săn từ Đông Giao sang Tây Giao. Kết quả, ngài bị gấu đen đang bị kinh hoàng xông tới, bản thân thì ngã ngựa trọng thương rồi băng hà. Cũng chính vì sự kiện này mà Hoàng hậu bị Thái hậu ép chết.

Có lẽ khi ấy, hoàng hậu Văn Đế cũng giống như Lý Doanh bây giờ, trùng sinh trở về quá khứ, muốn cứu Văn Đế, nhưng không ngờ chính lời nói của bà lại khiến Văn Đế bỏ mạng, còn bà cũng không thoát khỏi kết cục bị bức tử.

Nhân chính là quả, mà quả cũng chính là nhân.

Thôi Tuần im lặng hồi lâu. Người lái đò hỏi: “Cậu vẫn muốn đợi nàng sao?”

Có lẽ nàng sẽ mãi mãi bị giam cầm trong vòng luân hồi của chính mình, hắn sẽ không bao giờ đợi được nàng nữa.

Thôi Tuần gật đầu: “Muốn.”

“Dù chính nàng chọn cái chết? Dù chính nàng là kẻ khởi đầu huyết án Thái Xương? Trong lòng cậu, nàng vẫn là viên minh châu thuần khiết, mang tấm lòng trong suốt như lưu ly sao?”

“Phải.” Thôi Tuần trầm tĩnh nhìn người lái đò đội nón trúc: “Ba mươi năm trước, tình hình ra sao, trong sử sách đều ghi chép rõ ràng. Thế gia cường thịnh, trong “Tông tộc chí”, Ngũ tính Thất vọng thậm chí còn đứng trên hoàng thất họ Lý. Tân chính làm tổn hại lợi ích thế gia, căn bản không thể thực thi. Trong khi Đột Quyết binh hùng tướng mạnh, Khả hãn dã tâm bừng bừng, cứ theo đà này, không đến năm mươi năm, vó ngựa Đột Quyết sẽ lại như triều trước, giày xéo biên cương, Đại Chu chỉ còn cách cắt đất cầu hòa. Đến khi đó, bao nhiêu bách tính sẽ trở thành nô lệ của man di? Đây cũng chính là lý do Tiên đế đành lòng chấp thuận giết con gái.”

Hắn tiếp tục nói: “Giết một người để cứu vạn người, dù tạo nghiệp chướng, nhưng cũng có công đức. Minh Châu trở lại quá khứ, nàng có thể chọn sống sót, cũng có thể dùng hiểu biết của mình để thay đổi vận mệnh bản thân, thậm chí của những người khác. Nhưng kéo một sợi tơ có thể động cả cục diện, nàng không thể gánh nổi hậu quả từ sự thay đổi ấy. Nếu kết cục đó là tân chính thất bại, Đột Quyết nam hạ, tái diễn thảm kịch Ngũ Hồ loạn Hoa, nàng sẽ tự trách đến chết. Vì vậy, nàng thà chọn một kết cục đã biết trước, dù lựa chọn đó khiến nàng thống khổ vạn phần, thậm chí vĩnh viễn mắc kẹt trong vòng lặp tuần hoàn, nàng vẫn sẽ làm như vậy. Một người như thế, vì sao không xứng được gọi là người mang tấm lòng lưu ly?”

Người lái đò dường như có chút dao động. Ông hơi ngước mắt, gật đầu, rồi đưa tay chỉ về phía sau: “Minh Châu, đến rồi.”

Thôi Tuần giật mình, quay đầu lại, quả nhiên nhìn thấy Lý Doanh.



Lý Doanh chỉ nhớ mình rơi xuống hồ sen, nhưng không biết vì sao lại xuất hiện ở Địa phủ, trước mắt còn có cả Thôi Tuần. Nàng mờ mịt đứng đó, cho đến khi Thôi Tuần sực tỉnh, vội vàng bước tới ôm chặt lấy nàng vào lòng, nàng mới tỉnh táo lại.

Nàng tự hỏi: “Chuyện này là sao?”

Không phải nàng đã bị vây hãm trong vòng lặp bất tận rồi sao? Vì cớ gì lại xuất hiện ở đây?

Nàng run rẩy, không dám tin, đưa tay ôm lấy Thôi Tuần: “Ta… có phải ta đang mơ không?”

“Không phải mơ.” TThôi Tuần ôm chặt nàng như trân bảo vừa mất đi rồi lại tìm được, hốc mắt ửng đỏ. Hắn không muốn buông tay, nhưng thoáng chốc chợt nhớ ra điều gì đó, bèn buông nàng ra. Lý Doanh vẫn cảm thấy như đang trong mộng, nàng hỏi: “Chẳng phải chàng đã cầu nguyện trước xá lợi Phật đỉnh, vì sao…”

“Chuyện dài lắm.” Thôi Tuần đáp: “Minh Nguyệt Châu, trước tiên đến gặp a gia nàng đi đã.”

Lý Doanh sững người: “A gia?”

Người lái đò chầm chậm tháo chiếc nón trúc xuống, một gương mặt mà Lý Doanh vô cùng quen thuộc hiện ra trước mắt nàng.

Nàng kinh ngạc thốt lên: “A gia?”

Tròng mắt Thái Xương Đế ánh lên vệt nước mắt. Đây là lần đầu tiên Lý Doanh thấy người rơi lệ. Dường như người vô cùng hổ thẹn, không dám bước lên ôm nàng.

Lý Doanh mím môi, nhanh chóng tiến lên, lao vào vòng tay người: “A gia.”

Ngón tay Thái Xương Đế run run, cuối cùng vẫn như khi nàng còn bé, xoa nhẹ mái tóc nàng, ôm nàng vào lòng.

Người nghẹn ngào nói: “Minh Nguyệt Châu, tha thứ cho a gia nhé.”

Lý Doanh nước mắt mờ nhòe, nàng ngẩng đầu lên, khẽ nói: “A gia, con đã không còn trách người từ lâu rồi.”

Thái Xương Đế nghe vậy, trong lòng ngổn ngang trăm mối, nhất thời nghẹn ứ đến không biết phải nói câu gì.

Lý Doanh hỏi: “A gia, vì sao người lại ở đây?”

Thôi Tuần đứng bên cạnh đáp: “Minh Nguyệt Châu, vì nàng nên a gia nàng mới đến nơi này.”

Thái Xương Đế khẽ gật đầu. Qua lời kể của người, Lý Doanh mới hay, sau khi băng hà, Thái Xương Đế xuống Địa phủ. Thập điện Diêm Vương phán rằng suốt thời gian tại vị, người chăm lo chính sự, tận tâm trị quốc, có công đức to lớn với bá tánh, đáng lẽ nên được phi thăng lên thiên đình làm tiên. Nhưng vì đã gây ra huyết án Thái Xương, sát nghiệp quá nặng, cuối cùng chỉ có thể làm một tán tiên nhỏ bé nơi Địa phủ.

Thế nhưng, Thái Xương Đế đã biết rõ về nguyên nhân cái chết của Lý Doanh từ lời kể của Kế Thanh Dương. Người lập tức hỏi Thập điện Diêm Vương, con gái mình giờ đang ở đâu. Khi hay tin Lý Doanh vĩnh viễn bị trói buộc trong vòng tròn luân hồi, Thái Xương Đế thà từ bỏ vị trí tán tiên, nguyện làm người lái đò trên bờ sông Nại, đưa vong hồn qua sông, tích lũy công đức, để xóa đi tội nghiệt của nàng, giúp nàng thoát khỏi luân hồi càng sớm càng tốt.

Từ một đế vương chí cao, suốt hai mươi năm qua, người đã hóa thành một người chèo đò nơi Địa phủ, đưa đón không dưới trăm vạn cô hồn. Hai mươi năm gom góp công đức, chỉ để dành riêng cho Lý Doanh. Hôm nay chính là ngày công và tội của nàng đã hóa giải lẫn nhau, nên nàng mới có thể thoát khỏi luân hồi, đặt chân đến Địa phủ.

Lý Doanh nức nở không thành tiếng: “A gia…”

Thái Xương Đế lắc đầu: “Minh Nguyệt Châu, đừng đau lòng vì a gia, đây là điều a gia nên làm.”

Người nhìn sang Thôi Tuần: “Thôi Tuần.”

Thôi Tuần kính cẩn đáp: “Có thần.”

Thái Xương Đế nắm lấy tay Lý Doanh, rồi đặt vào tay Thôi Tuần: “Thôi Tuần, ta giao con gái ta cho con. Hãy cùng nàng đầu thai đi nhé.”

Nhưng Lý Doanh lại luyến tiếc nhìn sang Thôi Tuần, nàng cắn chặt môi, lệ vương khóe mắt: “A gia, con không muốn đầu thai. Một khi đã đầu thai, con sẽ không còn là con nữa.”

Thôi Tuần cũng sẽ chẳng còn là Thôi Tuần nữa.

Thái Xương Đế mỉm cười: “Nếu như con vẫn là con, còn Thôi Tuần vẫn là Thôi Tuần thì sao?”

Lý Doanh sững sờ, nàng không hiểu, Thôi Tuần cũng không hiểu.

Thái Xương Đế than nhẹ một tiếng: “A nương của con đã giúp con luôn được là chính con.”

Ngày hồn phách Lý Doanh tiêu tán trước bia mộ của Thôi Tuần, đèn trường minh ở bốn vạn ngôi chùa thờ Phật trên khắp Đại Chu đồng loạt vụt tắt. Thái hậu biết, từ nay về sau, con gái bà… đã không còn nữa.

Bà chợt nhớ về ba năm trước, khi còn ở điện Bồng Lai, nội thị đến bẩm báo rằng trong Thiên Uy quân có một người họ Thôi, hiện đang ở Đại Lý Tự. Người này thà chịu cực hình đến gần chết chứ nhất quyết không nhận tội quy hàng Đột Quyết. Bà không kiên nhẫn, vốn dĩ đã chẳng ưa gì Thôi thị ở Bác Lăng, đã thế tên này còn là giặc phản quốc, lại càng khiến người ta chán ghét. Bà lạnh nhạt nói: “Chẳng phải đã dặn đừng bẩm báo chuyện của hắn với ngô rồi sao?”

Nội thị vội vàng cúi đầu: “Nô tài lắm lời.”

Thế nhưng, người này từng được Thôi Tụng Thanh ban ân, nên vẫn muốn tìm cách cứu cháu ông ta. Y bèn cẩn trọng dò xét: “Thái hậu, nhưng Thôi Tuần hắn… có khi…”

Lời còn chưa dứt, Thái hậu đã đột ngột đứng dậy: “Ngươi nói hắn tên gì?”

“Thôi… Thôi Tuần…”

“Tự là gì?”

“Hình như là… Vọng Thư…”

Thôi Tuần… Thôi Vọng Thư… Thái hậu chợt nhớ lại, vào ngày ái nữ qua đời, nàng đã gối đầu lên đầu gối bà, nhỏ nhẹ nói những lời ấy.

Nhưng, sao Minh Nguyệt Châu lại biết về sự tồn tại của Thôi Tuần.

Bà ôm trọn nghi hoặc trong lòng, mãi đến khi Lý Doanh hiển hiện trước mắt, bà mới hiểu ra.

Thì ra ba mươi năm trước, người bà gặp được chính là Minh Nguyệt Châu trùng sinh trở về. Chẳng phải bị Thái Xương Đế sát hại, chính nàng đã tự đẩy mình trầm xuống hồ sen.

Nỗi bi ai dâng trào trong lòng bà, bà hiểu rõ, địa vị hôm nay của bà, sự an khang của Đại Chu, tất thảy đều khởi nguồn từ cái chết của ái nữ. Minh Nguyệt Châu đã hy sinh cả sinh mạng để đổi lấy tất cả. Sao bà có thể tiếp tục bao che cho con trai mình?

Bà hạ chỉ gi.ết ch.ết Long Hưng Đế. Nhưng rồi, Thôi Tuần lại cầu xin bà, mong bà cho phép hắn Bắc chinh. Bà biết, chuyến đi này hắn không thể trở về, nhưng sáu năm trước đã trải qua chiến loạn, hắn đã quen với sáu châu, cũng hiểu rõ Đột Quyết, chẳng ai thích hợp để cầm quân hơn hắn.

Cuối cùng, bà vẫn đồng ý để hắn ra trận. Cũng vì vậy, bà lại một lần nữa mất đi Minh Nguyệt Châu.

Bà rơi lệ không ngừng, chẳng hay hồn phách Lý Doanh lưu lạc phương nào, cũng không biết Thôi Tuần đang phiêu bạt chốn nao. Bà chỉ có thể đứng trước Phật đài thành tâm cầu nguyện, dù rằng bản thân đã chấp chính bao năm, dấu ấn công trạng viết đầy trong sử sách, vốn có thể phi thăng thành tiên sau khi qua đời, nhưng bà nguyện từ bỏ toàn bộ công đức kiếp này, cam lòng đi vào luân hồi như bách tính, đổi lấy nhân duyên đời đời kiếp kiếp cho Thôi Tuần và Lý Doanh, để hai người có thể tiếp tục tiền duyên chưa trọn.

Lý Doanh bỗng thấy mắt cay xè, nàng khẽ gọi: “A nương…”

Thôi Tuần cũng không ngờ Thái hậu lại làm vậy. Hắn cảm thấy hết sức phức tạp, bà vốn chẳng hề ưa hắn, thế nhưng đến cuối cùng, lại nguyện dùng đến đại giới để tác thành cho hắn và Lý Doanh.

Hắn nắm chặt tay Lý Doanh, hai người từ khoảnh khắc tối tăm nhất đi đến nơi ánh sáng bừng mở, phút chốc như cách biệt cả một kiếp người.

Thái Xương Đế nhìn Lý Doanh, nhẹ giọng nói: “Hai con đời đời kiếp kiếp, nối lại nhân duyên, vậy thì không cần uống canh Mạnh Bà nữa. Sau này, con vẫn là con, Thôi Tuần vẫn là Thôi Tuần.”

Ông lại nói: “Đi thôi, ta đưa hai con qua sông Nại Hà.”

Lý Doanh rưng rưng gật đầu, bỗng hỏi: “A gia, người không đi cùng chúng con sao?”

Nàng đã không còn bị vây khốn trong vòng luân hồi, Thái Xương Đế cũng không cần phải làm người đưa đò nữa.

Thái Xương Đế lắc đầu: “A gia còn phải đợi a nương con.”

Lý Doanh cắn nhẹ môi, thần sắc mơ hồ, nắm chặt tay Thôi Tuần, cùng hắn bước lên con đò nhỏ. Thái Xương Đế chống sào, đò nhẹ nhàng trôi về giữa dòng Nại Hà.

Màn sương trắng nơi bờ bên kia dần dần tan đi, nàng và Thôi Tuần mười ngón đan xen, từ đây “cầm tay nhau, bạc đầu giai lão”, mãi chẳng chia lìa.

*

<b>HOÀN CHÍNH VĂN</b>
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 162: Ngoại truyện luân hồi (1): Ngựa tre chàng cưỡi đến nơi; Đùa vui tung những trái mơ quanh giường


<i>* Tên chương này được tác giả đặt theo hai câu thơ: “Lang kỵ trúc mã lai, nhiễu sàng lộng thanh mai.” trích từ Trường Can Hành của tác giả Lý Bạch.</i>

Bài Trường Can hành của Lý Bạch nói về đôi trai gái quen nhau từ thuở còn thơ, năm 14 tuổi cô gái lấy chàng trai này làm chồng. Năm 16 tuổi, người vợ trẻ nhớ chồng đang ở xa nên từ làng Trường Can nàng đi đến Trường Phong Sa đón chồng. Bài này có những câu hồi tưởng thời trẻ con, liên quan với thành ngữ Thanh mai trúc mã: “Lang kỵ trúc mã lai, Nhiễu sàng lộng thanh mai, Đồng cư Trường Can lí, Lưỡng tiểu vô hiềm sai” (Chàng cưỡi ngựa tre đến, Đi quanh sàn giếng hái mơ xanh, Cùng sống ở làng Trường Can, Hai đứa còn ngây thơ). Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 163: Ngoại truyện luân hồi (2): Quả cầu này, xem như sính lễ


Trên sân đấu, trận kịch chiến càng lúc càng căng thẳng, bên ngoài sân, tiếng hò reo cổ vũ của các quý nữ cũng vang lên không dứt. So với triều trước, phong tục Đại Chu cởi mở hơn nhiều, nữ tử có thể cưỡi ngựa, buôn bán, đọc sách, lại thêm việc Nữ đế đăng cơ, địa vị nữ nhân càng được nâng cao. Các quý nữ sinh ra trong thời Vĩnh An cũng chẳng hề kiêng dè chuyện cổ vũ cho các thiếu niên trên sân đấu. Lý Doanh cũng hòa theo dòng người, đứng bật dậy, không ngừng hô lớn: “Thập Thất lang, cẩn thận bên trái!”

“Cẩn thận bên phải!”

“Thập Thất lang, đánh hay lắm!”

Nữ tử thanh xuân rạng rỡ bên ngoài sân nhiệt thành cổ vũ cho lang quân trong lòng mình, trong khi thiếu niên trên sân càng đánh càng hăng, liên tiếp vung côn, điều khiển quả cầu lao thẳng vào khung thành, tuyệt thế vô song.

Không ít quý nữ đến từ Ngô Trung cũng bắt đầu thì thầm to nhỏ: “Vị lang quân kia là ai thế?”

“Tướng mạo tuấn tú, chơi mã cầu cũng xuất sắc.”

“Nghe nói là công tử nhà Thứ sử Dương Châu, họ Bùi, đứng thứ mười bảy.”

“Đã có hôn phối chưa?”

“Chưa đâu.”

Các quý nữ vừa nghe vậy, trong lòng bỗng rộn ràng, ai nấy đều âm thầm suy tính, đợi khi trận đấu kết thúc nhất định phải tìm cơ hội làm quen. Cuối cùng, cũng không nằm ngoài dự đoán, trận đấu cũng khép lại với chiến thắng áp đảo nghiêng về quan học Dương Châu.

Khi Thôi Tuần cầm lấy quả cầu vàng chạm rỗng trong tay, hắn bỗng thấy trong lòng dâng lên một cảm giác kỳ lạ. Quả cầu này được chế tác bằng vàng ròng, là phần thưởng cao quý mà quan học hai vùng dành tặng cho người có màn trình diễn xuất sắc nhất. Chiến thắng này, hắn xứng đáng nhận được.

Ngón tay nắm chặt quả cầu, hồi ức kiếp trước chợt ùa về. Vào những tháng ngày cuối cùng của đời trước, vì chịu cực hình, ngón tay hắn gân cốt đứt lìa, đến cả co duỗi cũng không làm được. Khi ấy, ngay cả việc uống thuốc, ăn cháo cũng phải nhờ Lý Doanh đút cho. Dù về sau vết thương dần hồi phục, nhưng cũng chẳng thể cầm nổi đôi đũa cho ra hồn, một nét hành thảo đẹp đẽ cũng chẳng thể viết ra nữa, đến cả con châu chấu cỏ cũng chẳng thể đan được.

Nhưng nay, rốt cuộc hắn đã có một đôi tay lành lặn, có thể cầm vững côn nguyệt, có thể tung hoành trên sân mã cầu, giành lấy chiến thắng vinh quang. Cảm giác này, sao không kỳ diệu cho được?

Bỗng một đồng đội gọi hắn: “Thập Thất lang! Chúng ta về uống rượu mừng nào!”

Thôi Tuần lúc này mới bừng tỉnh, ngẩng đầu lên, nhìn gương mặt có vài phần giống Tào Ngũ kia, khóe môi bất giác cong lên: “Được thôi.”

Kiếp này, Thôi Tuần có phụ mẫu yêu thương, có bạn hữu bầu bạn, dù tính tình vẫn lạnh nhạt như kiếp trước, nhưng đã vơi đi không ít u ám. Vài người bạn thân bá vai hắn, cười rộ: “Đi thôi!”

Hắn bỗng dừng bước: “Đợi đã.”

Ánh mắt hắn dõi về phía Lý Doanh đang bị mấy nam sinh vây quanh. Thiếu nữ đứng đó, dáng vẻ xinh đẹp thanh thoát, tựa vầng minh nguyệt trên cao. Bất chợt, hắn cất tiếng gọi: “Minh Nguyệt Châu!”

Lý Doanh ngước mắt lên.

“Cho muội đấy!”

Quả cầu vàng chạm rỗng được ném về phía nàng, Lý Doanh theo phản xạ đón lấy. Thôi Tuần thản nhiên nói: “Là của muội rồi.”

Nàng ôm quả cầu, ngẩn ngơ không biết làm sao. Quả cầu vàng ba năm mới có một lần, vậy mà hắn lại cứ thế trao cho nàng?

Giữa đám thiếu niên vây quanh, hắn phất tay về phía nàng, phong thái hào hùng không khác gì thời còn ở Thiên Uy quân: “Ta đi trước đây.”

Ánh nắng vàng rực rỡ chiếu xuống, như khoác lên hắn một bộ khôi giáp sáng ngời.

Hắn chợt dừng lại, ngoái đầu nhìn nàng, mỉm cười nói thêm: “Quả cầu này, xem như sính lễ.”

Lý Doanh sững người. Một lúc sau, nàng hoàn hồn, lắc lắc quả cầu vàng, cười vui với Thôi Tuần: “Thế thì không được rồi, vẫn còn thiếu đấy.”

“Vậy thì bù thêm.”

“Nói lời giữ lời đấy nhé.”

Trời trong mây tạnh, thiếu niên khoác trường bào nguyệt bạch ống tay bó, mang giày cao cổ, cùng thiếu nữ điểm chu sa hình giọt lệ trên trán, bốn mắt nhìn nhau, ý cười lặng lẽ lan tràn. Một đôi bích nhân, quả thực xứng đôi vô cùng.

Những quý nữ Ngô Trung tìm đến Thôi Tuần trông thấy cảnh này liền hiểu ra, thì ra Bùi Thập Thất lang đã có người trong lòng. Họ đành thất vọng rời đi. Mấy nam sinh thầm ngưỡng mộ Lý Doanh nghe rõ hai chữ “sính lễ“, cũng đành dập tắt tâm tư. Việc này truyền đến tai Bùi Thứ sử và Đỗ Tư mã, cha mẹ hai nhà chỉ nhìn nhau cười lớn. Xem ra, đã đến lúc định hôn sự cho đôi trẻ rồi.



Nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp chinh, thỉnh kỳ, qua một loạt thủ tục rườm rà, nửa năm đã trôi qua. Hôn sự giữa Thôi Tuần và Lý Doanh cũng gần như đã định.

Mặc dù Đỗ nương tử có phần không nỡ rời xa con gái, nhưng nhìn hai đứa trẻ tình đầu ý hợp, hơn nữa, Bùi Thập Thất lang là đứa nhỏ bà nhìn rõ sự trưởng thành từ bé, từ nhân phẩm đến tính tình đều không có điểm nào để chê, bà cũng đành gác lại sự luyến tiếc, đồng ý cuộc hôn nhân này.

Chỉ đợi Thôi Tuần tham gia kỳ thi Tiến sĩ năm nay xong, hắn sẽ quay về rước dâu.

Hắn đã giành đầu bảng trong kỳ châu thí, tiếp theo là điện thí. Sắp xếp hành lý xong xuôi, cùng bạn bè lên đường đến Trường An, đến bờ kênh vận, hắn cứ đi ba bước thì ngoái đầu lại một lần, mãi không chịu lên thuyền.

Bạn bè bắt đầu trêu chọc: “Chẳng lẽ không thấy Minh Nguyệt Châu nên không muốn lên thuyền?”

Hắn cười ngại ngùng: “Ta muốn chờ nàng thêm chút nữa.”

Vừa dứt lời, đã thấy Lý Doanh thở hổn hển chạy đến, trong tay nắm chặt một túi gấm. Nàng chạy vội đến bên hắn, nhét túi gấm vào ngực hắn: “Đây là bùa hộ mệnh ta cầu được cho chàng ở chùa Khai Nguyên, có nó bên người, nhất định chàng sẽ đỗ cao.”

Thôi Tuần mở túi ra, bên trong lại trống không. Lý Doanh cũng ngẩn người: “Sao thế này? Ta dậy từ sớm để thắp hương đầu tiên, vất vả lắm mới xin được lá bùa này, sao lại chẳng có gì cả?”

Nàng bỗng nhiên tỉnh ngộ, tức giận giậm chân: “Nhất định có kẻ nào đó cũng muốn đỗ đạt cao nên đã trộm lá bùa của ta rồi! Không được, ta phải quay lại chùa Khai Nguyên tìm ra tên đạo tặc ấy!”

“Đừng đi.” Thôi Tuần ngăn nàng lại, nói: “Chẳng lẽ chỉ nhờ một tấm bùa là có thể biến từ người xếp cuối thành người đứng đầu sao? Minh Nguyệt Châu, không sao đâu.”

Lý Doanh vẫn chưa cam lòng, Thôi Tuần liền nói: “Thay vì đi tìm lá bùa, chi bằng tặng ta một thứ khác.”

“Thứ gì?”

Hắn đáp: “Một lọn tóc của nàng.”

Lý Doanh ngạc nhiên: “Tóc ta ư?”

Thôi Tuần gật đầu: “Thấy tóc như thấy người. Minh Nguyệt Châu, ta muốn nàng cùng ta tham gia điện thí.”

Kiếp trước, vì tự ti mà hắn chưa từng chủ động bày tỏ tình cảm với nàng, ngược lại, Lý Doanh vẫn luôn can đảm tiến về phía hắn. Đợi đến khi hắn có thể gạt bỏ gánh nặng trong lòng thì quãng đời còn lại đã chẳng còn bao nhiêu. Những ngày cuối cùng ấy, hắn thương tích đầy mình, thân thể hao kiệt, dù ở bên Lý Doanh, trong lòng vẫn luôn quẩn quanh nỗi sợ hãi và chua xót. Hắn chưa từng có được cơ hội như kiếp này, tự do bày tỏ tình cảm cháy bỏng dành cho nàng.

Kiếp trước, nàng chủ động tiến về phía hắn. Kiếp này, hắn muốn chủ động tiến về phía nàng.

Mặt Lý Doanh thoáng ửng đỏ. Nàng rút dao nhỏ, cắt một lọn tóc, đưa cho Thôi Tuần. Hắn nâng niu nhận lấy, trân trọng đặt vào túi gấm bên hông. Hắn nói: “Minh Nguyệt Châu, túi hương này, ta nhất định sẽ giữ gìn cẩn thận. Dù có chết đi, cũng quyết không để mất.”

Giống như kiếp trước vậy.

Lý Doanh khẽ hừ một tiếng: “Đừng nói nhảm về chuyện chết chóc, ta còn đang đợi chàng quay về cưới ta đây.”

Thôi Tuần khẽ gật đầu, ý cười tựa gió xuân: “Ta nhất định sẽ về.”

Thuyền sắp rời bến, hắn bước lên khoang, còn nàng vẫn đứng trên bờ vẫy tay, lưu luyến không rời. Hắn cũng chần chừ chưa chịu vào khoang, chợt nghe bên cạnh có người cất tiếng gọi: “Các hạ có vẻ rất giống một cố nhân.”



Thôi Tuần ngoảnh đầu lại, không khỏi sửng sốt. Thì ra là Ngư Phù Nguy.

Năm đầu tiên của niên hiệu Vĩnh An, Ngư Phù Nguy đỗ thám hoa, rốt cuộc cũng thực hiện được khát vọng bấy lâu. Khởi đầu từ chức Hiệu thư lang quan hàm cửu phẩm, nay đã thăng đến chức Thứ sử Lạc Châu tam phẩm. Lạc Dương là kinh đô phụ, địa vị của Thứ sử Lạc Châu vô cùng trọng yếu, gần như ngang hàng với tể tướng, có thể thấy Nữ đế vô cùng coi trọng hắn.

Thôi Tuần mím môi, chắp tay hành lễ: “Ngư Thứ sử.”

Ngư Phù Nguy đã ngoài trung niên, dung mạo chưa lộ dấu vết suy tàn, vẫn anh tuấn phi phàm như hồi trẻ. Có lẽ là do tâm tính phóng khoáng, bất kham, dù ở chốn quan trường cũng không thay đổi, thế nên tướng mạo mới chẳng khác gì xưa.

Khi Thôi Tuần đứng thẳng dậy, ánh mắt bình thản đối diện với Ngư Phù Nguy. Ngư Phù Nguy cũng quan sát hắn từ trên xuống dưới, đôi mắt này… thật sự quá giống người ấy. Đều là đôi mắt đào hoa, yêu mị kiều diễm cùng khí chất thanh lãnh như sương tuyết, chẳng khác nào cùng một khuôn đúc ra. Ngư Phù Nguy: “Tiểu lang quân có phải cố nhân chăng?”

Thôi Tuần gật đầu. Ngư Phù Nguy thở dài một hơi: “Quả nhiên.”

Ánh mắt hắn dừng lại nơi bờ sông, nhìn Lý Doanh. Nàng vẫn thanh lệ tú nhã, đoan trang trầm tĩnh như xưa. Hắn lại hỏi: “Vậy nàng, cũng là cố nhân chứ?”

Thôi Tuần đáp: “Phải.”

Ngư Phù Nguy ngẩn ra hồi lâu, nhẹ giọng than: “Tốt.”

Chẳng rõ chữ “tốt“ này là thán phục nhân duyên giữa Thôi Tuần và Lý Doanh, hay là cảm thán sự nhân từ đặc biệt của số mệnh.

Ánh mắt hắn rơi xuống tay nải sau lưng Thôi Tuần, hỏi: “Ngài định đến Trường An?”

“Ừm, đi ứng thí.”

“Nàng không đi cùng sao?”

Người hắn nhắc đến tất nhiên là Lý Doanh. Thôi Tuần đáp: “Không đi.”

“Đáng tiếc.” Ngư Phù Nguy nói: “Bệ hạ rất nhớ nàng.”

Bệ hạ chính là Nữ đế. Từ sau khi Nữ đế đăng cơ, bà đổi xưng hiệu “Thánh nhân” thành “bệ hạ”. [1] Chuyện bà đau đáu nhớ mong người con gái yểu mệnh của mình, thiên hạ ai ai cũng biết. Năm đó, khi Thôi Tuần bệnh nặng qua đời, đèn trường minh được thắp ở bốn vạn ngôi chùa thờ Phật trên khắp cả nước đồng loạt tắt lịm chỉ trong một đêm, dù cố gắng thế nào cũng không thể thắp sáng lại. Nữ đế bi thương đến cùng cực, nhưng ngay sau đó, bấc đèn bỗng dưng tự cháy lên lần nữa. Khoảnh khắc ấy, bà lại dấy lên hy vọng, mong rằng ái nữ đã đầu thai chuyển thế, chứ không còn là một hồn phách vất vưởng trên thế gian.

[1] Bệ hạ (陛下) là kính ngữ dành cho hoàng đế. Bệ (陛) là các bậc thang của cung điện. Theo sách Độc đoán của Thái Ung thời Đông Hán, bệ hạ có nghĩa gốc là từ dùng để chỉ những cận thần đứng dưới bậc thềm để bảo vệ vua. Ngày xưa, quan hoặc dân không được trực tiếp tâu với vua, mà phải nhờ vị cận thần đứng ở bậc thềm tâu lại. Sau này, bệ hạ trở thành danh hiệu kính trọng dùng để gọi vua. Trong Đông Chu liệt quốc chí có câu: “Thiên tử tự xưng là “trẫm”, các quan tấu trình sự việc gọi vua là bệ hạ (Thiên tử tự xưng viết: “trẫm”; thần hạ tấu sự xưng “bệ hạ” (chương 108). Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 164: Ngoại truyện luân hồi (3): Trạng nguyên lang


Tháng ba tiết xuân ấm áp, sĩ tử khắp nơi tề tựu về Trường An, mở ra kỳ thi Tiến sĩ thường niên. Có người tá túc tại khách xá, có kẻ dứt khoát lưu lại các kỹ viện ở phường Bình Khang. Người đến miếu Văn Xương Đế Quân khấn cầu bảng vàng đề danh, kẻ đến bái tượng Khổng Tử, mong được Khổng Thánh nhân phù hộ. Khắp các tiệm lớn nhỏ trong thành, mỗi mẻ bánh Trạng nguyên vừa ra lò đều lập tức bị mua sạch. Lại có không ít sĩ tử cầm tập thơ của mình, cất công đến bái kiến quyền quý, hy vọng tìm được cơ hội tiến thân.

Thôi Tuần không đến bất cứ đâu, ngày ngày chỉ chuyên tâm ôn tập trong khách xá. Nơi này thực ra cách phủ đệ của hắn ở kiếp trước không xa, song hắn chưa một lần ghé qua.

Bá phụ hắn, Thôi Tụng Thanh, sau khi cáo quan vì tuổi cao, liền lưu lại Trường An, dùng những năm tháng cuối đời để dìu dắt sĩ tử hàn môn, tìm kiếm nhân tài cho Đại Chu. Nhờ được ông đích thân dạy dỗ, cháu trai của Nghiêm Tam nương là Hổ Nô đã thi đỗ Tiến sĩ, nay đã ra ngoài nhậm chức. Nghe nói Hổ Nô thanh liêm chính trực, một lòng vì dân, quả thật không phụ tấm danh thiếp mà Thôi Tuần đã trao cho cậu năm ấy.

Phủ đệ của Thôi Tuần vẫn được Thôi Tụng Thanh chăm nom chu toàn, không khác gì lúc trước. Không biết mỗi lần đến đó, trong lòng ông có dấy lên chút hối hận nào không? Nếu năm đó ông chịu tin hắn sớm hơn, thì nhân tài ưu tú nhất của Thôi thị đất Bác Lăng đã chẳng đến nỗi uổng mạng như vậy.

Bằng hữu của Thôi Tuần từng kéo hắn ra ngoài du ngoạn một lần, ngang qua Thôi phủ thì trông thấy Hà Thập Tam cùng Thịnh A Man dẫn theo gia quyến Thiên Uy quân đến đó. Thịnh A Man nay đã chín chắn hơn nhiều, cửa tiệm mở ra làm ăn cũng rất khấm khá, danh vọng trong thành Trường An cũng không nhỏ. Hà Thập Tam hiện là tướng quân trấn giữ một phương, lần này dẫn quân hồi kinh bàn giao công vụ. Trong sân, một đội quân sĩ khoác giáp Minh Quang đang quét dọn, còn Thịnh A Man thì tỉ mỉ lau từng lớp bụi bám trên cánh cửa sơn son.

Từ xa, Thôi Tuần nghe thấy Hà Thập Tam hỏi nàng: “Thịnh a tỷ, tỷ nói xem a huynh giờ sống có ổn không?”

Thịnh A Man cắn môi, kiên định gật đầu: “Huynh ấy đã cứu bách tính sáu châu, Thập điện Diêm Vương cũng chẳng nỡ làm khó đâu. Bây giờ, huynh ấy nhất định đang sống rất tốt.”

Hà Thập Tam ngồi xuống, nhặt một viên đá cuội dưới đất. Trong mắt cậu thoáng qua tia u ám, ngón tay siết chặt viên đá, lẩm bẩm: “Chỉ cần ta giữ vững biên cương, không để giặc Hồ xâm phạm, thì a huynh chắc chắn sẽ sống tốt.”

Cậu nhớ lại khoảnh khắc khi người ấy lâm chung, thân thể gầy trơ xương, gần như chỉ còn da bọc lấy bộ cốt gầy gò, vậy mà vẫn dốc cạn tâm lực, gắng gượng giữ lại một hơi tàn để nói cho cậu nghe về những điều cần lưu ý ở biên quan. Chỉ đến khi đã dặn dò xong, người ấy mới siết chặt túi hương trong tay, trút đi hơi thở cuối cùng. Người ấy chưa từng hổ thẹn với bộ giáp Minh Quang trên người. Hà Thập Tam đã thề rằng, cậu nhất định kế thừa vinh quang của a huynh và Thiên Uy quân, và cậu thực sự đã làm được.

Hà Thập Tam nắm viên đá cuội trong tay, mắt cụp xuống: “A huynh, chuyện trước đây, mong huynh thứ lỗi cho đệ. Chuyện sau này, đệ nhất định sẽ không khiến huynh thất vọng.”



Thôi Tuần đưa mắt nhìn thoáng qua Thôi phủ rồi rời đi. Cuộc đời của Thôi Vọng Thư đã khép lại, những người thân thuộc năm xưa dù tưởng nhớ hắn nhưng vẫn tiếp tục sống tốt, thế là đủ để an ủi lòng hắn.

Hắn trở về khách xá, đóng cửa không ra ngoài, tiếp tục ôn tập. Dù tin vào mười mấy năm khổ học của bản thân, hắn vẫn hiểu ngoài kia còn có người giỏi hơn cả mình, không thể trông mong bảng vàng từ trên trời rơi xuống.

Đến ngày thi đình, người chủ trì khoa cử năm nay chính là Cảnh Thành vương Lý Trưng. Thân phận của Lý Trưng, có thể nói là vô cùng khó xử.

Bởi vì hắn là cốt nhục duy nhất còn sót lại của Long Hưng Đế.

Năm đó, khi Long Hưng Đế dần mất đi quyền lực, để lấy lòng Thái hậu, ngài buộc phải đưa A Sử Na Ngột Đóa rời khỏi cung, quay lại sủng ái Hoàng hậu cùng những phi tần khác. Chính trong khoảng thời gian ấy, Hoàng hậu hoài thai long chủng. Đến khi Long Hưng Đế bị bức tử, đế hiệu bị phế bỏ, Thái hậu cho phép các phi tần của ngài được tự do trở về quê nhà tái giá. Nhưng có lẽ thân phận quá đặc thù, nên chẳng ai rời đi.

Thái hậu liền sắp xếp cho họ ở lại cung Thang Tuyền, mọi chi phí sinh hoạt đều như trước. Lúc này bà chỉ là một người mẹ đau lòng vì đứa con trai đã khuất, nên dùng hết sức để bảo toàn cuộc sống của những nữ tử đáng thương ấy.

Chính tại cung Thang Tuyền, Hoàng hậu hạ sinh di cốt duy nhất của Long Hưng đế. Chỉ là, có lẽ vì sợ hãi Thái hậu, nàng và các phi tần khác đều giữ kín chuyện này, không hề truyền ra ngoài mà lặng lẽ nuôi dưỡng đứa trẻ. Mãi đến khi hài nhi tròn hai tuổi, vị Nữ đế đương triều mới hay tin.

Ngày ấy, Nữ đế tóc bạc phơ, chống gậy, sắc mặt giận dữ, ra lệnh cho Kim Ngô Vệ lập tức trảm đứa trẻ. Nhưng Hoàng hậu ôm chặt con trong lòng, nhất quyết không buông. Các phi tần khác cũng đồng loạt lấy thân che chở cho đứa bé, không để Kim Ngô Vệ lại gần. Hoàng hậu nước mắt lưng tròng, giọng khàn đặc vì khóc: “Bệ hạ đã tha mạng cho cốt nhục của Thẩm Khuyết, cớ gì lại không chịu dung tha cho chính tôn nhi của mình?”

Chúng phi tần quỳ rạp xuống, không ngừng dập đầu van xin. Nữ đế tức giận quát lớn: “Các ngươi có biết phụ thân của đứa trẻ này đã gây ra tội nghiệt gì không? Chính hắn là kẻ chủ mưu! Hắn không xứng có con!”

Dường như bao căm phẫn và thất vọng chất chứa với Long Hưng Đế đều trút hết lên đứa trẻ hai tuổi kia. Thế nhưng, nhóm nữ nhân đáng thương ấy không ai phản bác, họ chỉ khóc. Tất cả dùng thân mình che chắn cho đứa bé, Hoàng hậu nức nở nghẹn ngào: “Thần thiếp biết, trượng phu thần thiếp đã sai… nhưng con của thần thiếp, nó vô tội… Nếu thằng bé không được sống tiếp, thần thiếp… cũng chẳng thiết sống nữa…“

Không chỉ nàng, mà tất cả phi tần khác cũng không thể sống tiếp. Thực ra, nếu không phải vì đứa trẻ này, từ khi Long Hưng đế bị ban chết, họ đã chẳng còn tha thiết với nhân gian.

Nữ đế nhìn những nữ nhân đang khóc than, lòng thở dài. Năm đó, khi chọn hậu phi cho Long Hưng đế, bà đã cố tình chọn những người ôn hòa, biết an phận, mong rằng hậu cung sẽ không dấy lên tranh đoạt. Quả thực, hậu cung không có tranh chấp, nhưng cũng chính sự yên bình ấy đã hủy hoại cuộc đời của những nữ nhân vẫn luôn xem trượng phu như lẽ sống này.

Bà nhìn xuống đứa bé hai tuổi đang được Hoàng hậu ôm chặt trong lòng. Đứa trẻ vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, chỉ mở to đôi mắt, tò mò quan sát mẫu thân và các di mẫu đang khóc đến rối loạn. Dáng dấp của nó vừa giống Long Hưng Đế, lại có đôi nét hao hao với Lý Doanh.

Một niệm thành ma, một niệm cũng có thể thành Phật.

Nữ đế nghiến chặt răng, cuối cùng vẫn dẫn theo Kim Ngô Vệ, phất tay áo bỏ đi.

Chỉ có cung nữ trong điện Thần Long biết rằng, đêm hôm ấy, Nữ đế đã thức trắng suốt đêm, lệ ướt đẫm gối.



Đứa con rớt lại của Long Hưng Đế cứ thế run rẩy trưởng thành. Dù là cốt nhục duy nhất còn tồn tại trên đời của Nữ đế, nhưng bà vẫn chẳng hề quan tâm. Chính mẫu thân hắn là người đã đặt tên cho hắn: Lý Trưng. Chữ “Trưng” mang ý nghĩa sáng tỏ, hy vọng hắn có thể phân biệt đúng sai, không đi theo vết xe đổ của phụ thân, vì quyền lực mà đánh mất lương tâm, cuối cùng phạm phải lỗi lầm không thể cứu vãn.

Nữ đế không mời danh sư chỉ dạy Lý Trưng, vậy nên các phi tần trong cung Thang Tuyền tự mình dạy dỗ hắn. Dù phụ thân hắn có bị phế bỏ đế hiệu thì hắn vẫn là cháu của cả Thái Xương Đế lẫn Nữ đế, vậy mà đến tước hiệu quận vương cũng chẳng có. Năm hắn tròn mười tuổi, có một Ngự sử giỏi phỏng đoán Thánh ý đã dâng mật sớ, thỉnh cầu Nữ đế lập Lý Trưng làm Hoàng thái tôn.

Trong mật sớ viết rằng: “Hiện nay, triều đình tranh luận không dứt về chuyện lập trữ, hoàng tộc họ Lý và hoàng tộc họ Khương đều như hổ đói rình mồi. Nhưng bất luận là bên nào cũng không phải cốt nhục của bệ hạ. Đối với họ Khương, bệ hạ là cô mẫu, từ xưa đến nay chưa từng có tiền lệ lập miếu thờ cho cô mẫu. Hơn nữa, triều Đại Chu đã lập quốc trăm năm, gốc rễ của hoàng tộc họ Lý đã ăn sâu, nếu truyền ngôi cho họ Khương, e rằng tông thất không phục, thiên hạ tất loạn.

Mặt khác, đối với hoàng tộc họ Lý, bệ hạ chính là cái gai trong mắt, là người đã cướp đi thiên hạ của bọn họ. Một khi bệ hạ băng hà, tất sẽ bị thanh trừng ngay tức khắc. Đến khi đó, không chỉ quốc sách bị xóa bỏ, mà họ Khương cũng khó tránh khỏi kiếp nạn diệt tộc. Để không bị diệt tộc, họ Khương tất cũng phải nổi binh tạo phản, vẫn là một trận đại loạn.

Vì thế, xét về thực tế, lập Lý Trưng – người có cả huyết thống họ Lý lẫn họ Khương – là lựa chọn tối ưu nhất.”

Thế nhưng, Nữ đế đọc xong liền nổi giận đùng đùng, quẳng tấu chương xuống đất, trách mắng Ngự sử là kẻ chỉ biết xu nịnh, sau đó biếm ông ta khỏi kinh sư. Từ đó về sau, không ai dám nhắc đến chuyện lập Lý Trưng nữa.

Thế nhưng, dù không ai dám đề cập, vẫn có người xem Lý Trưng như cái đinh trong thịt. Không lâu sau đó, cung Thang Tuyền bỗng dưng phát hỏa. Nếu không nhờ Hoàng hậu liều chết cứu giúp, e rằng hắn đã táng thân trong biển lửa.

Dẫu vậy, trận hỏa hoạn quá lớn đã thiêu đen cả Vong Ưu Đình, nơi mang bút tích do chính Thái Xương Đế đề chữ, do chính Lý Doanh ban tên.

Nữ đế vội vã chạy đến, bàn tay khẽ vuốt lên trụ đình đã cháy xém. Bà trầm mặc hồi lâu, rồi vẫy tay gọi thiếu niên đang sợ hãi nép sau lưng Hoàng hậu: “Lại đây.”

Lý Trưng giờ đã cao đến ngang vai Nữ đế, cậu rụt rè bước đến trước mặt bà, ngẩng đầu nhìn người thân cận nhất của mình trên cõi đời này, khẽ gọi một tiếng: “Bệ… bệ hạ.”

Cậu thậm chí còn chẳng dám gọi một tiếng tổ mẫu.

Nữ đế lặng lẽ nhìn cậu. Bà vươn tay ra, Hoàng hậu và các phi tần vừa thoát khỏi cửa tử đồng loạt quỳ xuống, thống thiết cầu xin: “Bệ hạ!”

Nữ đế chẳng màng đến họ, chỉ đưa tay lau vết ám khói còn vương trên gương mặt nhỏ nhắn của Lý Trưng. Qua đôi mắt e dè của cậu, nàng tựa hồ trông thấy bóng dáng của rất nhiều người, chồng, con trai, và cả con gái của bà.

Bà lặng im hồi lâu, sau đó chậm rãi nói: “Con à, từ hôm nay, con chính là Cảnh Thành vương của Đại Chu.”



Từ ngày ấy, Lý Trưng được phong vương. Tựa hồ để cảnh cáo những kẻ đang âm thầm manh động, Nữ đế phong Lư Hoài làm thầy dạy của hắn, đồng thời để hắn tham gia chính vụ. Cùng với thời gian, tài năng của hắn dần lộ rõ. Hắn không giống phụ thân, kẻ từng vì quyền thế mà không từ thủ đoạn, ngược lại, hắn giống cô cô của mình hơn, thuần hậu, lương thiện, chí nhân chí hiếu. Đối với kẻ sĩ, hắn khiêm nhường lễ độ, mà trước những lời chế nhạo cũng không hề tỏ ra thấp kém. Lư Hoài từng tâu với Nữ đế rằng, Lý Trưng mang phong thái của một bậc nhân quân.

Song, Nữ đế chỉ coi như chưa từng nghe thấy. Người bà yêu quý nhất bây giờ chính là công chúa Tề An. Công chúa Tề An xuất thân từ dòng tộc Khương thị, năm nay vừa tròn mười tám, dung mạo có vài phần giống với Lý Doanh. Nữ đế yêu thương nàng hết mực, khắp thiên hạ đều đồn rằng, có lẽ bà sẽ lập công chúa Tề An làm trữ quân.

Tề An tính tình kiêu ngạo, trái lại, Lý Trưng lại ôn hòa nhã nhặn hơn rất nhiều. Giữa hai người thường xảy ra xung đột, song lần nào hắn cũng là kẻ nhường bước. Hắn mang tội nghiệt của phụ thân, chẳng được Nữ đế yêu thương. Dẫu là đích tôn duy nhất của Thái Xương Đế và Nữ đế, là người thừa kế danh chính ngôn thuận nhất, nhưng kẻ đặt kỳ vọng vào hắn vẫn ít xa so với công chúa Tề An.

Giữa tình thế gian nan ấy, Lý Trưng được giao trọng trách chủ trì khoa cử Tiến sĩ năm nay. Nữ đế tuổi đã ngoài bát tuần, thân thể không còn được như xưa, chẳng thể tham gia điện thí, mọi việc đều để hắn toàn quyền quyết định. Hắn cũng chẳng phụ kỳ vọng, cẩn trọng chu toàn, nghiêm minh công chính. Tại điện Tử Thần, hắn triệu tập các danh nho, đối chiếu lần lượt từ thi từ ca phú, kinh sử tử tập cho đến sách vấn thời vụ, cuối cùng tuyển ra Trạng nguyên là Bùi Thập Thất lang đến từ Dương Châu, Bùi Hành.



Gió xuân thoả chí ngựa phi. Xem hoa cho hết trọn ngày Trường An. [1]

<i>[1] Hai câu trích từ bài “Đăng khoa hậu” (Sau khi thi đỗ) của tác giả Mạnh Giao. Bản dịch của Nguyen gia Dinh (thivien)</i>

Các tân khoa Tiến sĩ được ban ân mặc triều phục màu đỏ thẫm, thắt đai vàng, đầu cài hoa, khoác gấm lụa, thúc ngựa phi nhanh qua đại lộ Chu Tước. Dân chúng Trường An ùn ùn kéo đến dọc con phố, chỉ để ngắm phong thái tân khoa. Các tiểu nương tử trước hết đều tìm kiếm vị Thám hoa, bởi từ trước đến nay, Thám hoa thường là người có dung mạo đẹp trai nhất. Đến khi nhìn thấy, quả nhiên Thám hoa diện mạo anh tuấn bất phàm, danh xứng với thực. Sau đó, ánh mắt họ mới chuyển sang Trạng nguyên.

Chỉ thấy thiếu niên Trạng nguyên chân mày như vẽ, hàng mi tựa như lông quạ, triều phục đỏ như lửa, đôi mắt đào hoa sóng sánh ánh nước, chỉ một thoáng nhìn cũng đủ khiến người ta trầm luân.

Dáng vẻ này, dù đem so với Liên Hoa Lang nức tiếng mười mấy năm trước, cũng chẳng hề kém cạnh.

Những tiểu nương mắt mày e ấp, lần lượt ném lên người thiếu niên những đóa hoa trong tay, đỗ quyên, hải đường, mẫu đơn, cánh hoa rơi xuống như mưa, trải đầy lối đi của đoàn Tiến sĩ.

Giữa khung cảnh náo nhiệt, Trạng nguyên bỗng nghe thấy một thanh âm giòn giã nhưng quen thuộc cất lên: “Này!”

Hắn ngẩn người, ngước đầu theo tiếng gọi. Trên lầu hai của một quán trà ven đường, một thiếu nữ đang tựa người bên khung cửa sổ gỗ, tươi cười gọi hắn.

Lý Doanh? Nàng đến Trường An rồi sao?

Lý Doanh cầm trong tay một đóa tường vi đỏ đang nở rộ, lắc nhẹ rồi ném về phía Thôi Tuần.

Hắn đưa tay đón lấy, đóa tường vi này trông rất giống với bông hoa hắn từng tặng nàng ở kiếp trước.

Thôi Tuần nâng đóa hoa lên, đưa tới chóp mũi ngửi thử, đoạn nhướn mày, nhoẻn cười với thiếu nữ trên lầu quán.

Nụ cười ấy quá mức diễm lệ, đến mức lu mờ cả sắc thắm của đóa hoa tường vi trong tay.

Bên trong quán trà, một thiếu nữ cẩm y hoa lệ cũng vì nụ cười ấy mà thất thần. Nàng ta dõi mắt theo thiếu niên Trạng nguyên rạng rỡ như ráng chiều, rồi ghé tai dặn dò tỳ nữ đứng cạnh mấy câu.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 165: Ngoại truyện luân hồi (4): Kết tóc


Sau khi đoàn tân khoa Tiến sĩ phi ngựa qua phố Chu Tước, điểm đến tiếp theo chính là đề danh tại tháp Đại Nhạn trong chùa Từ Ân. Tất cả Tiến sĩ đều cùng nhau trèo l*n đ*nh tháp, khắc tên mình lên tường tháp Đại Nhạn. Từ trên cao nhìn xuống, non sông rộng lớn trải dài trước mắt, trong lòng ai nấy đều tràn đầy hứng khởi, chí khí ngút trời. Không biết ai đó đột nhiên đùa một câu: “Người trẻ tuổi nhất được đề danh trên đỉnh tháp Đại Nhạn chính là vị tiểu lang họ Bùi.”

Thôi Tuần nghe vậy, chỉ khẽ cười. Hắn cúi đầu nhìn xuống Trường An quen thuộc vô cùng. Trước đây, nơi này đối với hắn chỉ toàn khinh rẻ và ruồng bỏ, vậy mà hôm nay, hắn lại có thể hiên ngang thúc ngựa qua ngự nhai, [1] đề danh lên tháp Nhạn. Trong khoảnh khắc ấy, bao nhiêu xúc cảm dâng trào, muôn vàn tư vị khó tả.

<i>[1] “Ngự nhai” (御街) là con đường dành riêng cho vua chúa đi lại trong kinh thành thời phong kiến. Đây thường là tuyến đường quan trọng, rộng lớn, được lát đá và thông suốt đến hoàng cung.</i>

Sau lễ đề danh, tiếp theo là yến tiệc tại sông Khúc Giang. Từ trước đến nay, mỗi kỳ yến hội đều do hoàng đế đích thân chủ trì, nhưng vì Nữ đế sức khỏe không tốt, lần này yến tiệc được giao cho Cảnh Thành vương Lý Trưng đảm trách.

Trong yến tiệc, vị Cảnh Thành vương mười sáu tuổi phong thái tao nhã, ôn hòa như ngọc, thi ca trác tuyệt, xuất khẩu thành chương, mỗi lời nói ra đều khiến người nghe như gió xuân phơi phới. Thám hoa hơi ngả đầu, ghé tai nói với Thôi Tuần: “Cảnh Thành vương xuất chúng thế này, chẳng hiểu sao bệ hạ lại không yêu thích gì ngài ấy?”

Thôi Tuần chỉ cười, không đáp.

Trong lúc yến tiệc diễn ra, Thượng thư Tả bộc xạ Lư Hoài không ít lần đưa mắt nhìn về phía Thôi Tuần. Đến khi tiệc tan, trời đã ngả màu hoàng hôn, quan khách lần lượt ra về. Lúc Thôi Tuần đang chậm rãi quay lại khách xá, liền bị Lư Hoài gọi lại.

Mười sáu năm trước, Lư Hoài từng nhậm chức Thiếu khanh Đại Lý Tự, sau đó lần lượt thăng lên Trung thư thị lang, Trung thư lệnh, trải qua nhiều năm rèn giũa, cuối cùng được phong làm Tể tướng. Hắn cũng thực hiện đúng nguyên tắc làm quan khi còn trẻ: “Kẻ trung thành tận tụy, dù là thù cũng được thưởng; kẻ phạm pháp tắc trách, dù là thân thích cũng phải phạt.”

Thiên lý mã của họ Lư đất Phạm Dương, cuối cùng cũng bộc lộ toàn vẹn tài năng, trở thành vị Tể tướng được đánh giá cao nhất từ khi triều Đại Chu khai quốc đến nay. Về sau, trong sử sách cũng không thể thiếu lời ca tụng công lao, lưu danh thiên cổ, vinh quang vạn đời.

Thôi Tuần ngoảnh lại, cung kính chắp tay hành lễ: “Lư tướng công.”

Lư Hoài gật đầu, đợi hắn đứng thẳng dậy rồi từ tốn lên tiếng: “Cậu chính là tân khoa Trạng nguyên, Bùi Hành?”

Thôi Tuần đáp: “Vâng.”

Lư Hoài nhìn hắn, trầm ngâm một thoáng, rồi thở dài nói: “Nhìn cậu có nét rất giống với một cố nhân của ta.”

Thôi Tuần như đã biết trước nhưng vẫn hỏi: “Là ai vậy?”

Ánh mắt Lư Hoài vụt qua một tia hoài niệm, xen lẫn đôi chút chua xót. Hắn khẽ cười, nhưng nụ cười ấy lại mang theo vẻ cay đắng: “Là một người… rất khó để đánh giá.”

Thôi Tuần lắng nghe, Lư Hoài ngẫm nghĩ giây lát rồi tiếp tục: “Năm Vĩnh An thứ ba, ta phụ trách tu chỉnh sử sách. Khi đó, các sử quan tranh luận không dứt về việc nên đưa y vào “Liệt truyện Nịnh thần” hay “Liệt truyện Thanh liêm”. Người thì nói rằng y có công đánh đuổi Đột Quyết, không gì sánh bằng, không nên bị xếp vào hàng gian nịnh. Kẻ thì cho rằng y nhờ nịnh hót đi lên, nào xứng được đặt trong “Liệt truyện Thanh liêm”?”

Lư Hoài dừng một chút rồi nói tiếp: “Sau cùng, ta bảo rằng, nếu đã không thể phân định rõ ràng, vậy thì cứ dành riêng cho y một truyện ký, ta sẽ tự mình chấp bút. Rốt cuộc y là gian nịnh hay là thanh liêm, cứ để hậu thế luận bàn.”

Thôi Tuần nhẹ giọng đáp: “Người Lư tướng công nói đến có phải là Thôi Vọng Thư, vị Thiếu khanh của Sát Sự Thính năm xưa? Truyện ký do Lư tướng công viết, ta đã đọc qua, quả nhiên công bằng sáng suốt.”

Bài truyện ký ấy dài hơn hẳn so với những tập truyện khác. Lư Hoài thở dài: “Có những chuyện, ta hỏi Ngư Phù Nguy, có những chuyện, ta hỏi Thịnh A Man. Mọi điều lớn nhỏ, ta đều ghi chép lại, như vậy hậu thế sẽ không đến mức giống như ta năm đó, bị thành kiến che mờ đôi mắt.”

Đó chính là câu cuối cùng trong truyện ký mà hắn đã viết: “Thánh nhân từng nói, điều ta tin là đôi mắt, nhưng mắt cũng chưa hẳn đã đáng tin; điều ta nương nhờ là tấm lòng, nhưng lòng người chưa chắc đủ bền vững. Biết người không dễ, hiểu được người lại càng khó.”

Cũng chính nhờ tập truyện ký tỉ mỉ đến từng chi tiết của Lư Hoài mà bách tính Đại Chu có cơ hội nhìn thấy quá khứ của vị Liên Hoa Lang đã bệnh mất hơn mười năm trước. Kể từ đó, vô số dị bản quái lạ xoay quanh y liên tục ra đời, chỉ tính riêng số sách Lý Doanh từng đọc đã không biết bao nhiêu mà kể.

Thôi Tuần trong lòng vừa buồn cười vừa cảm khái, nhưng nhiều hơn cả vẫn là lòng kính trọng cùng biết ơn dành cho Lư Hoài. Hắn khẽ nói: “Nếu Thôi Vọng Thư dưới suối vàng có hay, chắc hẳn cũng sẽ cảm kích tất cả những gì Lư tướng công đã làm cho y.”

Lư Hoài chỉ cười trừ: “Y có cảm kích hay không, ta không biết. Nhưng trước ngục thất Đại Lý Tự năm đó, y đã gọi ta một tiếng huynh. Ta nghĩ, hẳn y đã coi ta là bằng hữu rồi.”

Thôi Tuần nói: “Có lẽ, từ trước đó rất lâu, y đã xem Lư tướng công là bạn rồi.”

Lư Hoài khẽ gật đầu, nhìn về phía vị Trạng nguyên trẻ tuổi trước mặt, bỗng bật cười tự giễu: “Không biết vì sao, hôm nay ta lại nói với cậu nhiều như vậy, có lẽ là do uống rượu hơi nhiều.”

Giữa cơn say nhè nhẹ, hắn như trông thấy bóng hình năm xưa thấp thoáng nơi chàng Trạng nguyên trẻ tuổi này. Nhưng người đó… đã bệnh mất mười sáu năm rồi.

Lư Hoài khẽ thở dài: “Xem như ta và Trạng nguyên lang có duyên. Tháng sau, tiểu nữ của ta sẽ thành thân với con trai của cố nhân Vương Huyên. Nếu khi ấy cậu rảnh rỗi, có thể đến uống một chén rượu mừng.”

Thôi Tuần lập tức đáp: “Đó là vinh hạnh của ta.”

Lư Hoài gật đầu, lúc này, Cảnh Thành vương Lý Trưng cũng tìm tới. Trước tiên Lý Trưng chào hắn một tiếng: “Thầy.”

Lý Trưng cung kính hành lễ với Lư Hoài: “Thì ra thầy ở đây.”

Lư Hoài mỉm cười: “Phải, gặp được Trạng nguyên lang do điện hạ tự mình chọn ra, thế nên nói thêm đôi lời.”

Lý Trưng ôn hòa nhìn Thôi Tuần, mỉm cười: “Trạng nguyên lang tài hoa xuất chúng, trong khi thầy lại là người quý trọng nhân tài, có lẽ vì vậy mà hợp ý thầy chăng?”

Hắn và Lư Hoài đứng sóng vai bên nhau, một thầy một trò. Trong khoảnh khắc ấy, Thôi Tuần chợt nhớ đến Lư Dụ Dân và Long Hưng Đế năm nào, họ cũng từng là thầy trò như thế. Nhưng Lư Hoài vĩnh viễn không thể trở thành Lư Dụ Dân, mà Lý Trưng cũng chẳng phải Long Hưng Đế.

Hắn mỉm cười nhàn nhã, chắp tay nói: “Đa tạ điện hạ khen ngợi.”

Lý Trưng gật đầu, ánh mắt đầy vẻ tán thưởng. Đây là lần đầu tiên hắn chủ trì kỳ thi Tiến sĩ, cũng là lần đầu tiên tự mình chọn ra một vị Trạng nguyên. Thôi Tuần càng xuất sắc, hắn càng cảm thấy tự hào. Dù có lòng kết giao nhưng nghĩ đến thân phận nhạy cảm, hắn không muốn để người ta cho rằng Thôi Tuần là vây cánh của mình, bèn do dự một chút rồi nói: “Nếu Trạng nguyên lang không còn việc gì khác, ta sẽ đưa thầy về phủ trước.”

Thôi Tuần chắp tay hành lễ: “Cung tiễn điện hạ, cung tiễn Lư tướng công.”



Từ yến tiệc ở Khúc Giang trở về, khi đến khách xá thì trời đã khuya, tinh tú đầy trời. Thôi Tuần dừng bước, quả nhiên thấy thiếu nữ đang ngồi trên bậc đá xanh, chống cằm, nhoẻn miệng cười nhìn hắn.

Giống như kiếp trước, mỗi lần nàng ngồi trên bậc đá xanh trước phủ Thôi gia, đợi hắn hạ triều.

Thôi Tuần cong khóe môi, sải bước tiến đến. Thiếu nữ cũng đứng dậy, chạy đến ôm chầm lấy hắn. Nàng ngẩng mặt, đôi mắt sáng rực như chứa đựng cả trời sao, nụ cười bừng nỡ như hoa sớm. Nàng nói: “Chàng đỗ Trạng nguyên rồi.”

Hắn ôm nàng vào lòng, cười khẽ: “Ừ, vậy là ta có thể cưới nàng rồi.”

Lý Doanh cười nói: “Hôm nay có rất nhiều người chúc mừng chàng, nhưng ta vẫn muốn tặng chàng một món quà.”

“Hửm? Quà gì vậy?”

“Nào, đi theo ta.”

Lý Doanh kéo tay hắn, đưa vào phòng khách. Gian phòng nằm ở tầng hai của khách xá, mở cửa sổ ra, liền có thể nhìn thấy cả bầu trời đêm mênh mông.

Nàng quay lại, nói với hắn: “Chàng nhìn ra ngoài đi.”

Thôi Tuần hướng mắt ra ngoài, chỉ thấy vầng trăng sáng, sao trời lấp lánh cùng thành Trường An tịch mịch trong màn đêm. Hắn quay đầu, thoáng nghi hoặc: “Bên ngoài có gì sao?”

“Chàng nhìn kỹ lại đi.”

Hắn nhìn ra lần nữa. Giây lát sau, muôn vàn những bông pháo hoa nở bung giữa bầu trời, soi sáng đêm đen, như thể biến đêm thành ngày. Hắn không khỏi thốt lên: “Là pháo hoa.”

Lý Doanh nhoẻn cười: “Phải, ta đã mua pháo hoa để chúc mừng chàng.”

Trước song cửa, gương mặt nàng tựa như đóa hoa đào hé nở, sau lưng là ngàn vạn ánh pháo hoa sáng rỡ. Sắc màu huy hoàng của những tia lửa rọi lên gương mặt nàng, nước da trắng mịn như thể cũng đang phát sáng. Thôi Tuần nhìn nàng, yêu chiều đáp lại: “Ta rất thích món quà này.”

“Nó có khiến chàng vui hơn so với lúc cưỡi ngựa qua ngự nhai, đề danh trên tháp Nhạn, hay dự yến tiệc ở sông Khúc Giang không?”

Chẳng chút chần chừ, hắn gật đầu: “Minh Nguyệt Châu, chỉ cần là quà nàng tặng thì đều quý giá hơn vạn vật trên thế gian.”

Hắn lấy từ trong ngực áo ra chiếc túi hương mà nàng đã trao cho mình. Mở ra, bên trong là một lọn tóc đã được hắn dùng dây đỏ buộc lại cùng với lọn tóc của mình.

Lý Doanh giật mình: “Đây là kết tóc sao?”

Kết tóc phu thê, ân ái trọn đời, chẳng chút ngờ vực. Nàng chưa từng nghĩ, một người ít nói, lãnh đạm như Thôi Tuần lại có thể vụng trộm cắt một lọn tóc, buộc chung với tóc của nàng, kết thành một dải với lọn tóc của nàng. Trong đầu nàng chợt hiện lên hình ảnh hắn cẩn thận dùng dây đỏ quấn lấy hai lọn tóc, trong lòng không khỏi rung động. Nàng thì thầm: “Thập Thất lang, ta còn tưởng chàng sẽ không làm những chuyện thế này.”

Thôi Tuần hơi sững người: “Vì sao?”

Như để tỏ rõ lòng mình, hắn lại lấy ra từ trong túi hương ra đóa hoa tường vi mà ban ngày nàng đã tiện tay ném cho hắn.

Lý Doanh đón lấy, cánh hoa vẫn đỏ thắm như lửa. Đó chỉ là một đóa hoa nàng vô tình ném đi. Nàng lẩm bẩm: “Sao ngay cả cái này cũng giữ lại kia chứ?”

“Đương nhiên phải giữ lại rồi.” Thôi Tuần nhẹ giọng: “Bất cứ thứ gì nàng tặng ta, ta đều sẽ trân trọng hết mức.”

Đời trước, quả cầu hương bằng bạc mạ vàng mà Lý Doanh tặng hắn đã bị giẫm nát trong nhà lao của Đại Lý Tự. Đó là tiếc nuối lớn nhất của hắn. Đời này, mỗi một thứ nàng trao, hắn đều trân trọng cất giữ trong rương gỗ trong phòng ngủ, chưa từng để chúng vướng phải chút tổn hại nào.

Lý Doanh cầm đóa tường vi, bất chợt cười rộ: “Thập Thất lang, cài giúp ta, được không?”

Thôi Tuần khẽ gật đầu, cẩn thận cầm lấy đóa hoa, nhẹ nhàng cài lên tóc mai nàng. Làn da nàng vốn đã trắng như tuyết, tường vi đỏ rực cài lên mái tóc đen như mây, càng khiến nàng thêm thanh tao thoát tục, mỹ lệ không gì sánh bằng. Hắn ngẩn ngơ ngắm nàng, tim đập hỗn loạn. Trong đầu thoáng nghĩ, không thể khinh bạc nàng, nhưng rồi lại nghĩ, hai người đã đính hôn, sắp thành phu thê, hôn một cái cũng đâu có gì quá đáng.

Có lẽ hắn thất thần quá lâu, Lý Doanh bỗng ngẩng mặt, đặt một nụ hôn lên môi hắn. Thôi Tuần sững sờ, nàng lại khẽ cười, trong nụ cười vương chút ngượng ngùng, lại xen lẫn vẻ đắc ý. Hắn dần hoàn hồn, cũng bật cười, cúi xuống đáp lại nụ hôn ấy.

Ngoài cửa sổ, pháo hoa rực rỡ. Trong gian phòng nhỏ, chàng Trạng nguyên trẻ tuổi cùng người con gái chàng yêu đang trao nhau nụ hôn say đắm. Ban đầu, chỉ là những cái chạm môi dè dặt, thẹn thùng và thuần khiết, dần dà lại biến thành giao hòa nóng bỏng, quấn quýt không rời. Giây phút này, thế gian tựa hồ chỉ còn lại hai người. Chàng chỉ thấy nàng, mà nàng cũng chỉ nhìn thấy chàng thôi.



Sáng hôm sau, khi tỉnh giấc trong phòng khách, Thôi Tuần vẫn cảm thấy hết thảy tựa như một giấc mơ. Hắn đưa tay chạm nhẹ lên môi mình, nơi đó vẫn còn vương hơi ấm từ nụ hôn của nàng đêm qua. Mặt hắn hơi nóng lên, rồi bỗng nhiên muốn tự vả mình một cái. Rốt cuộc, đời này cũng như đời trước, lần nào cũng là nàng chủ động. Bọn họ sắp thành thân rồi, đêm động phòng… đâu thể cứ để nàng dẫn dắt mãi được.

Thế nên, hắn vội vàng xuống giường, rửa mặt chải đầu qua loa, rồi lập tức muốn đi tìm nàng. Nhưng vừa mở cửa ra, lại bắt gặp mấy vị nội thị đứng chờ bên ngoài.

Hắn hơi sững lại, một tên nội thị cất giọng the thé: “Bệ hạ ban xuống thánh chỉ.”

Hắn quỳ xuống tiếp chỉ, nhưng nội dung trong thánh chỉ lại là sắc phong hắn làm phò mã của công chúa Tề An.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 166: Ngoại truyện luân hồi (5): Đèn tắt mười sáu năm, một vầng trăng sáng hiện


Hôm qua còn là Trạng nguyên lang, hôm nay đã thành tù nhân dưới thềm điện.

Thôi Tuần kháng chỉ ngay tại chỗ, khiến công chúa Tề An mất hết thể diện. Vì tội kháng chỉ, hắn bị tống vào ngục thất của Đại Lý Tự. Ngục tốt rất khâm phục Trạng nguyên lang vì dám đối đầu với công chúa, liền lén khuyên nhủ: “Công chúa Đại Chu xưa nay kiêu ngạo, người mà nàng ta để mắt tới, đừng nói chưa thành thân, ngay cả đã thành thân rồi, thê tử cũng có thể bị ban chết. Chuyện này cũng không phải chưa từng có tiền lệ. Lang quân tuổi trẻ tài cao, hà tất phải chịu tội này? Chi bằng thuận theo công chúa Tề An, làm phò mã của nàng. Huống chi, công chúa Tề An rất có khả năng sẽ là bệ hạ tương lai, đến lúc đó lang quân chẳng những là phò mã mà còn có thể là hoàng phu, chung tay cai quản thiên hạ.”

Thôi Tuần lắc đầu: “Đa tạ ý tốt của ngài, nhưng phò mã hay hoàng phu, ta đều không màng. Kiếp này, ta chỉ muốn cùng một người nắm tay đến đầu bạc.”

Ngục tốt thở dài: “Nhưng với tính tình của công chúa Tề An, e rằng vị tiểu nương tử mà lang quân muốn nắm tay cả đời ấy, chưa chắc có thể giữ được mạng.”

Ánh mắt Thôi Tuần chợt lạnh đi. Quả thực, Đại Chu phong tục cởi mở, địa vị công chúa cực kỳ tôn quý. Nam nhân được công chúa để mắt tới, có người bị phụ thân, huynh trưởng truy đuổi ngay trên đường đón dâu, có người thì phải chứng kiến cảnh thê tử kết tóc bị ban chết, nhưng tuyệt nhiên không ai có thể thoát khỏi tay các nàng. Nếu xét theo lẽ ấy, chỉ e Lý Doanh cũng đang ở trong vòng nguy hiểm.

Hắn bất giác sốt ruột, trầm ngâm giây lát rồi hỏi ngục tốt: “Có thể… để ta gặp một người không?”



Chuyện tân khoa Trạng nguyên bị tống vào đại lao vì kháng chỉ, không chịu làm phò mã gây chấn động cả triều đường. Thế nhưng, phần lớn quan viên không ai dám lên tiếng can gián. Một là, đây chẳng qua chỉ là chuyện phong hoa tuyết nguyệt. Công chúa Tề An mỹ mạo như hoa, tuy tính tình cao ngạo nhưng vẫn là một giai nhân, có lẽ Trạng nguyên lang chỉ là đang bướng bỉnh nhất thời, chờ khi bình tâm lại rồi, sớm muộn gì cũng sẽ thuận theo thôi. Hai là, Nữ đế đã ngoài tám mươi, sức khỏe ngày càng sa sút, e rằng chẳng còn sống được mấy tháng nữa. Công chúa Tề An rất có thể sẽ là vị quân chủ kế nhiệm, ai lại dại dột đi đắc tội nàng vào lúc này?

Chỉ có Cảnh Thành vương Lý Trưng là sốt ruột đến mức xoay vòng vòng. Hắn tìm đến thầy dạy của mình là Lư Hoài, bức xúc nói: “Trạng nguyên lang là rường cột nước nhà, sao có thể vì chút lòng riêng mà bắt giam người ta chứ? Nếu Trạng nguyên lang một ngày không chịu khuất phục, chẳng lẽ công chúa Tề An cũng một ngày không chịu thả người? Đúng là nực cười!”

Lư Hoài điềm tĩnh hỏi: “Điện hạ muốn cứu Trạng nguyên lang?”

Lý Trưng không hề do dự, gật đầu nói: “Trạng nguyên lang do chính ta đề bạt. Bất kể phẩm hạnh hay tài biện luận cũng đều đứng đầu, là bậc nhân tài hiếm có. Nếu được mài giũa thêm, tương lai ắt đảm đương nổi vị trí Tể phụ. Ta không đành lòng thấy y bị hủy hoại chỉ vì tư tâm của Tề An.”

Hắn ngừng lại giây lát, rồi tha thiết cầu xin Lư Hoài: “Thầy, người mà bệ hạ tín nhiệm nhất chính là thầy. Người có thể ra mặt cầu tình cho Trạng nguyên lang, thỉnh bệ hạ ngăn cản Tề An không?”

Lư Hoài nhìn gương mặt tuấn tú như ngọc của hắn, lắc đầu.

Lý Trưng sững người: “Chẳng phải thầy rất tâm đầu ý hợp với Trạng nguyên lang sao? Cớ gì lại không muốn cứu y?”

Lư Hoài điềm nhiên nói: “Không phải ta không muốn cứu y.” Hắn dừng lại một lát, rồi tiếp: “Mà là ta muốn điện hạ tự mình đứng ra.”

“Ta ư?” Lý Trưng buột miệng: “Nhưng bệ hạ chán ghét ta đến thế, sao có thể chấp thuận lời thỉnh cầu của ta?”

“Điện hạ, không thể vì bệ hạ chán ghét mình mà cái gì cũng không dám làm.” Lư Hoài nhắc nhở: “Trạng nguyên lang là do chính tay điện hạ chọn ra, nếu ngay cả cứu y mà điện hạ cũng không dám, về sau, bất cứ ai cũng có thể khinh thường người. Điện hạ muốn như thế thật sao?”

“Ai cũng có thể xem thường…” Lý Trưng đau khổ cúi đầu: “Không, ta không muốn… Phụ thân ta có sai lầm của ông ấy, nhưng ta thì có lỗi gì? Gánh chịu sự chán ghét của bệ hạ vẫn chưa đủ, chẳng lẽ còn phải gánh cả sự khinh rẻ của mọi người hay sao? Ta không muốn.”

Hắn nắm chặt tay, ánh mắt dần trở nên kiên định: “Thầy nói đúng, Trạng nguyên lang là nhân tài do ta tuyển chọn, hơn nữa, nếu không phải ta điểm y làm Trạng nguyên, y sẽ không cưỡi ngựa dạo ngự nhai, lại càng không bị Tề An để mắt tới. Về công hay tư, ta đều có trách nhiệm phải cứu y.”

Sau khi hạ quyết tâm, Lý Trưng lập tức cầu kiến Nữ đế, yêu cầu thả Thôi Tuần. Nữ đế nhìn hắn, thản nhiên hỏi: “Ngươi và y có giao tình riêng?”

Lý Trưng lắc đầu: “Không hề, chỉ từng gặp trong điện thí và yến tiệc ở khúc Giang, ngoài ra chưa từng có dịp trò chuyện riêng.”

“Nếu thế thì tại sao ngươi vẫn tận tâm tận lực cứu y?”

Lý Trưng gạt bỏ mọi sợ hãi, nhìn thẳng Nữ đế, trầm giọng nói: “Bệ hạ, thiên hạ đại sự, xét đến cùng cũng chỉ xoay quanh một chữ “Lý”. Bùi Hành đã có hôn ước, Tề An không nên cưỡng ép, lại càng không không nên vì tức giận mà giam giữ y. Nếu đến cả Trạng nguyên của Đại Chu cũng có thể bị đối xử như vậy, thì lòng của sĩ tử thiên hạ chẳng phải đều sẽ lạnh lẽo lắm sao? Chuyện này, Tề An không có lý, vì thế, dù ta không có giao tình gì với Bùi Hành, nhưng cũng nguyện ra tay cứu giúp chỉ vì chữ “Lý” ấy.”

Nữ đế chăm chú nhìn Lý Trưng, nhìn khuôn mặt mang vài phần tương tự phụ thân hắn. Một lúc lâu sau, bà mới chậm rãi khép mắt, nói: “Lúc Tề An thỉnh chỉ, trẫm không hề hay biết Bùi Hành đã có hôn ước. Nhưng thánh chỉ đã ban ra, quân vô hí ngôn. Y công khai kháng chỉ, chung quy cũng phải trả giá. Ngươi không cần nói thêm gì nữa.”

Nữ đế thẳng thừng cự tuyệt thỉnh cầu của Lý Trưng. Thế nhưng, hắn vẫn không bỏ cuộc, mỗi ngày quỳ trước điện Thần Long, chỉ để cầu xin cho một người mà bản thân không hề quen biết. Nghĩa cử ấy khiến triều thần không khỏi nhìn hắn bằng con mắt khác.



Ngục thất Đại Lý Tự.

Thôi Tuần lặng lẽ ngồi trong buồng giam. Có lẽ do Lư Hoài âm thầm căn dặn nên không ai làm khó hắn. Chỉ là căn phòng này, vừa vặn chính là nơi đã giam giữ hắn ở kiếp trước. Hắn vẫn còn thấy những vết máu khô đọng lại trên nền đá xanh, tàn tích của những trận tra tấn hắn từng chịu đựng. Thôi Tuần cụp mắt, bình thản chờ đợi. Cho đến khi bên ngoài vang lên một giọng nói quen thuộc, xen lẫn tiếng khóc thút thít: “Thập Thất lang!”

Lý Doanh thực không thể tưởng tượng nổi, vì sao mới chỉ qua một giấc ngủ, mà Thôi Tuần đã từ Trạng nguyên lang biến thành kẻ tù tội. Nàng kinh hãi đến mức chẳng biết làm gì, lập tức sai tỳ nữ hồi báo về Dương Châu, nhắn Đỗ Tư mã cùng Bùi Thứ sử mau chóng đến cứu người, còn bản thân thì thu dọn hành trang, chuẩn bị đến Đại Lý Tự gặp Thôi Tuần.

Nàng gỡ xuống toàn bộ trâm vàng, vòng tay bằng vàng, nghĩ rằng những thứ này hẳn là đáng giá, chỉ cần đưa cho ngục tốt thì sẽ được gặp mặt hắn chăng…

Nhưng chưa đợi nàng đến ngục Đại Lý Tự, ngục tốt đã cho người truyền lời, bảo nàng mau chóng đến đó, Thôi Tuần muốn gặp nàng.

Hơn nữa, ngục tốt ấy không nhận một đồng bạc nào của nàng, chỉ nói rằng y kính phục cốt cách của Trạng nguyên lang nên mới mạo hiểm làm việc này. Lý Doanh cảm động, liền nhét toàn bộ vòng tay, trâm vàng vào tay y, sau đó vội vàng chạy đến ngục giam.

Càng tiến gần đến nơi ấy, trong lòng nàng càng dâng lên nỗi bất an khó tả, như thể bản thân đã từng đặt chân đến nơi này, và từng trải qua những ký ức không mấy tốt đẹp.

Nhưng dù có thấy sợ đến đâu, nàng vẫn phải cứu Thôi Tuần. Nàng cưỡng ép mình trấn tĩnh, bước chân nhanh hơn.

Đến khi trông thấy hắn qua song sắt, mũi nàng cay xè, nước mắt liên tục trào ra. Nàng bám chặt song sắt, nức nở hỏi: “Thập Thất lang, sao chàng lại thành ra thế này?”

Thôi Tuần chỉ lắc đầu: “Minh Nguyệt Châu, nàng đừng lo vì sao ta rơi vào tình cảnh này. Hiện giờ, chỉ có nàng mới có thể cứu ta.”

Lý Doanh hỏi ngay: “Ta phải làm sao để cứu chàng đây?”

“Hãy vào cung Đại Minh, gặp một người.”

“Ai?”

“Bệ hạ.”

Lý Doanh hít sâu một hơi: “Bệ hạ? Nhưng người yêu thương công chúa Tề An lắm mà, liệu có đồng ý gặp không? Hơn nữa, ngay cả Cảnh Thành vương cầu xin, người cũng thẳng thừng từ chối, ta đến cầu xin liệu có ích gì? Chi bằng đợi a gia tới, rồi hẵng bàn bạc sau.”

“Không, nhất định có tác dụng.” Hắn nói: “Minh Nguyệt Châu, nàng hãy tin ta.”

Lý Doanh ngẩn ra trong chốc lát, nhưng nếu Thôi Tuần bảo nàng tin hắn, nàng sẽ tin hắn. Nàng liền gật đầu: “Được, ta sẽ xin gặp bệ hạ. Nhưng người thân phận cao quý, lẽ nào lại chịu gặp ta?”

Thôi Tuần suy nghĩ giây lát, liền cầm giấy bút, viết vội mấy hàng chữ lên tờ giấy trắng, rồi lấy từ trong người ra một chiếc túi hương cũ kỹ, bên trong có nút tóc, cẩn thận gấp tờ giấy nhét vào. Hắn đưa túi hương cho nàng, trầm giọng nói: “Nàng hãy tìm Thượng thư Tả Bộc xạ Lư Hoài, nhờ ông ấy giao cái này đến tay bệ hạ. Khi đó, người sẽ triệu kiến nàng.”

Lý Doanh nghe vậy, trong lòng mờ mịt như lạc vào sương khói, nhưng vẫn nhận lấy túi hương, gật đầu: “Được, ta đi tìm Lư tướng công ngay đây.”

“Chờ đã.” Thôi Tuần đột nhiên gọi nàng lại, hắn hơi lúng túng, ấp úng một hồi nhưng rốt cuộc vẫn nói ra: “Minh Nguyệt Châu, sau khi mọi chuyện xong xuôi, nhớ bảo bệ hạ trả lại túi hương này cho ta.”

Lý Doanh dở khóc dở cười: “Giờ là lúc nào rồi, chàng còn lo lắng chuyện ấy?”

“Nhớ trả lại ta…“ Hắn nghiêm túc nói.

Nàng nhét túi hương vào trong tay áo, không còn cách nào khác ngoài đáp: “Được, để ta bảo người trả lại chàng.”



Lý Doanh làm theo lời dặn, tìm đến Lư Hoài và nhờ hắn chuyển túi hương đến tay Nữ đế. Thực lòng mà nói, nàng chẳng dám ôm hy vọng gì xa vời, bởi lẽ Nữ đế vô cùng sủng ái công chúa Tề An, sao có thể chỉ vì một chiếc túi hương mà tha cho Thôi Tuần? Nhưng không ngờ, vừa đưa túi hương vào cung Đại Minh, Lư Hoài đã báo lại rằng: Nữ đế muốn gặp nàng.

Lý Doanh có phần ngạc nhiên, nhưng cũng không dám trì hoãn, lập tức theo Lư Hoài tiến cung. Nàng chưa từng đặt chân vào cung Đại Minh, nhưng không hiểu vì sao, từng mái đình, từng tán cây nơi đây lại khiến nàng có cảm giác quen thuộc lạ thường. Trong lúc vô thức ngắm nhìn khắp nơi, nàng đã đến trước điện Thần Long. Lư Hoài không đi tiếp, chỉ bảo nàng một mình tiến vào trong.

Lý Doanh thấp thỏm bước vào điện, sau lưng, nội thị lặng lẽ khép chặt cửa điện.

Từ xa, nàng đã thấy một bóng dáng gầy guộc, già nua đang tựa nghiêng trên trường kỷ. Từ lâu đã nghe nói Nữ đế thân thể yếu nhược, nửa năm nay hiếm khi lâm triều, nay nhìn tận mắt, quả nhiên không phải lời đồn.

Lý Doanh quỳ xuống dập đầu: “Thần nữ tham kiến bệ hạ.”

Nữ đế cất giọng run rẩy, phất nhẹ tay với nàng: “Lại đây.”

Lý Doanh hơi sững lại, giọng Nữ đế cũng chậm rãi hơn: “Đừng sợ, lại đây.”

Nàng mới đứng dậy, lòng hồi hộp tiến từng bước về phía Nữ đế. Khi đến trước giường, nàng quỳ xuống, Nữ đế cố gắng ngồi dậy, nhưng thân thể đã già yếu, bàn tay nắm chặt lấy chiếc túi gấm cũng lỏng dần, khiến nó rơi xuống đất. Sợi tóc kết quấn bằng chỉ đỏ cùng mảnh giấy gai trắng cũng theo đó rơi ra.

Lý Doanh cúi đầu, nhìn thấy hàng chữ viết trên giấy: “Kiếp trước kiếp này, chỉ kết tóc cùng một người. Đèn tắt mười sáu năm, một vầng trăng sáng hiện.”

Nàng chưa kịp hiểu hết ý nghĩa của nó, đang mơ hồ suy nghĩ thì Nữ đế nói: “Ngẩng đầu lên.”

Lý Doanh ngước nhìn Nữ đế. Ban đầu, nàng vốn rất e ngại vị đế vương cao cao tại thượng này, nhưng khi trông thấy dung nhan của bà, nỗi sợ bỗng chốc tan biến, thay vào đó lại dâng lên một cảm giác thân thuộc khó tả. Đôi mắt Nữ đế đã dần trở nên mờ đục, bà run rẩy vươn tay, khẽ chạm vào gương mặt nàng, động tác dịu dàng tựa như đang v.uốt ve chính con gái ruột thịt của mình. Bà khẽ hỏi: “Nhũ danh của con là gì?”

“Minh Nguyệt Châu.”

Vừa dứt lời, Lý Doanh trông thấy rõ ràng một giọt lệ từ khóe mắt đã vẩn đục của Nữ đế, chầm chậm lăn xuống. Giọng bà run run: “Con sinh năm nào?”

“Năm Nguyên niên Vĩnh An.” *

<i>*Tức là năm Vĩnh An thứ nhất.</i>

“Năm Nguyên niên Vĩnh An…“ Nữ đế lẩm bẩm, ngón tay bà lướt qua từng đường nét trên khuôn mặt nàng, từ đôi mắt, sống mũi, rồi nước mắt bỗng nhiên trào ra như mưa: “Tốt… tốt…“

Lý Doanh không hiểu ý tứ trong lời nói của bà, nàng lo lắng hỏi: “Bệ hạ…“

“Đứng dậy.” Nữ đế nói, “Để trẫm ôm con một cái.”

Phản ứng của Nữ đế khiến Lý Doanh có chút khó hiểu, nhưng nàng vẫn làm theo, ngồi xuống mép giường, để mặc Nữ đế ôm lấy mình. Giây phút ấy, không hiểu vì sao, sự nôn nao trong lòng hoàn toàn biến mất. Chỉ còn lại cảm giác như một đứa trẻ đang nép vào lòng mẫu thân.

Nàng cảm nhận rõ ràng từng giọt nước mắt nóng hổi rơi xuống lưng mình. Nữ đế thì thào: “Minh Nguyệt Châu, Minh Nguyệt Châu của a nương, cuối cùng con cũng đã về rồi…”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 167: Ngoại truyện luân hồi (6): Đêm nay trẫm đến, là để ban cho ngươi một đời vinh hoa


Nữ đế lộ ra vẻ bi thương cùng đau đớn, khiến Lý Doanh ngây thơ cũng phải động lòng. Nàng thậm chí quên cả việc hỏi vì sao Nữ đế lại tự xưng là “a nương“, chỉ lặng lẽ tựa vào lòng bà. Một lúc lâu sau, Nữ đế mới buông nàng ra, song vẫn nắm chặt tay nàng, không buông.

Bàn tay Lý Doanh mềm mại trắng nõn, mang nét đặc trưng của thiếu nữ. Nữ đế cảm thán: “Minh Nguyệt Châu vẫn còn nhỏ dại thế này, nhưng a nương… đã già mất rồi, già đến nỗi… suýt nữa không thể trông rõ nữa.”

Lý Doanh mím nhẹ môi, dè dặt gọi: “Bệ hạ…”

Tiếng gọi ấy khiến Nữ đế sực tỉnh, dường như sợ làm nàng hoảng sợ, bà dịu dàng nói: “Con gái của trẫm, cũng tên là Minh Nguyệt Châu.”

Con gái của Nữ đế? Nữ đế chỉ có duy nhất một cô con gái, lẽ nào nhũ danh của công chúa Vĩnh An cũng là Minh Nguyệt Châu sao?

Lý Doanh bỗng hiểu ra, nàng cẩn trọng hỏi: “Vậy… công chúa Vĩnh An, con gái của bệ hạ có dung mạo giống Chẩm Nguyệt lắm đúng không ạ?”

Nữ đế chăm chú nhìn nàng, trong ánh mắt chứa đựng vẻ từ ái hiếm khi xuất hiện: “Ừ, rất giống.”

Lý Doanh chợt hiểu vì sao Nữ đế lại có phản ứng như vậy. Nếu nàng giống công chúa Vĩnh An thì chẳng phải Thôi Tuần có hy vọng được cứu rồi sao?

Nàng lấy hết can đảm, nhỏ nhẹ nói: “Bệ hạ, hôm nay Chẩm Nguyệt đến đây, là vì vị hôn phu của Chẩm Nguyệt, Bùi Hành.”

Dường như sợ Nữ đế nổi giận, Lý Doanh vội vàng nói tiếp: “Bùi Hành đã đính ước với Chẩm Nguyệt từ lâu. Lễ nạp thái, vấn danh, nạp cát đều đã hoàn thành, chỉ đợi chàng đỗ đạt công danh rồi mới cưới Chẩm Nguyệt vào cửa. Nào ngờ công chúa Tề An thấy chàng vừa mắt, cố ép chàng làm phò mã. Chàng không chịu, thế là bị giam vào ngục…”

Nói đến đây, nàng không khỏi tức giận: “Dù nàng ta là công chúa, cũng không thể làm như thế được.”

Nàng giận đến mức mày cũng cau lại, thần sắc đầy vẻ bất bình. Nữ đế vẫn mỉm cười, giọng điệu cưng chiều: “Đúng, đâu thể làm thế được.”

Lý Doanh ngẩn người: “Bệ hạ…”

“Nhưng nếu đó là Minh Nguyệt Châu của trẫm, dù nàng ấy có vừa ý một vị thần tiên trên trời, trẫm cũng sẽ đoạt về cho nàng ấy.”

“Bệ hạ…”

“Yên tâm đi, trẫm chưa từng có ý làm khó Bùi Hành. Hôm đó khi Tề An đến cầu chỉ, trẫm không hề biết y đã đính hôn. Nếu trẫm biết, tuyệt đối sẽ không hạ thánh chỉ.”

Lý Doanh thở phào nhẹ nhõm: “Chẩm Nguyệt biết ngay mà, bệ hạ đâu phải người vô lý.”

Nữ đế nắm tay nàng, mỉm cười: “Trước kia khi còn là Thái hậu, trẫm chẳng mấy khi thấu tình đạt lý. Nhưng sau khi lên ngôi, trẫm lại thành người biết lý lẽ rồi.”

“Vì sao ạ?”

“Bởi vì… mỗi người trên thế gian này đều có thể là Minh Nguyệt Châu của trẫm. Nếu trẫm dung túng quyền quý ức h**p bá tánh, lỡ như một ngày nào đó, người bị ức h**p chính là Minh Nguyệt Châu của trẫm, thì phải làm sao đây?”

Lý Doanh nghe mà nửa hiểu nửa không. Minh Nguyệt Châu mà bà nhắc đến, hẳn chính là con gái của bà, công chúa Vĩnh An. Công chúa Vĩnh An đã qua đời từ sớm, từ những gì Nữ đế vừa nói, nàng đoán rằng Nữ đế cho rằng công chúa đã đầu thai chuyển thế, và có thể là bất cứ ai trên đời này, vậy nên bà không thể để quyền quý hoành hành ngang ngược.

Nàng có chút ấm ức: “Nếu đã như vậy, vì sao bệ hạ còn chưa chịu thả Bùi Hành?”

“Y công khai kháng chỉ, trẫm đương nhiên phải giam y vài ngày, trừng phạt đôi chút. Nếu không, uy nghi quân chủ để đâu?”

“Vậy bệ hạ định khi nào thì thả chàng ra?”

“Đợi thêm đi, đừng vội.”

Nhưng Lý Doanh làm sao không vội cho được? Có điều Nữ đế đã nói vậy, nếu nàng cứ tiếp tục nài ép thì sẽ thành không biết điều mất. Vì thế, chỉ đành tủi thân cúi đầu, khẽ đáp: “Vâng.”

Thấy vậy, Nữ đế lại bật cười, bà v.uốt ve mái tóc nàng, nhẹ giọng hỏi: “A gia, a nương của con vẫn luôn đối xử rất tốt với con, đúng không?”

Chỉ có như vậy, mới nuôi dưỡng nên một Lý Doanh đơn thuần thẳng thắn như bây giờ.

Lý Doanh gật đầu: “Tốt lắm ạ.”

“Còn Bùi Hành thì sao? Y đối với con có tốt không?”

“Tốt, vô cùng tốt.” Lý Doanh gật đầu thật mạnh: “Trên đời này, Chẩm Nguyệt sẽ không tìm được lang quân nào tốt với Chẩm Nguyệt hơn chàng ấy nữa đâu.”

Nữ đế nhìn nàng, trong khoảnh khắc mơ hồ, dường như lại trông thấy Lý Doanh của kiếp trước đứng trước mặt mình, nói về Thôi Tuần với vẻ mặt hạnh phúc. Kiếp này, mỗi khi nhắc đến Thôi Tuần, khóe môi nàng vẫn cong lên như thế, đôi mắt vẫn trong veo lấp lánh như thế.

Nữ đế thở dài khe khẽ, giọng nhỏ đến mức gần như không nghe thấy: “Vẫn cứ thích y đến vậy…”

Lý Doanh không nghe rõ, mà Nữ đế cũng không lặp lại, chỉ cười, nhẹ than: “Thôi vậy, con gái lớn rồi chẳng thể giữ mãi được.”

Bà ngưng một lát, lại một lần nữa hứa hẹn: “Yên tâm đi, trẫm sẽ trả cho con một lang quân nguyên vẹn, không sứt mẻ.”



Đêm ấy, ngục thất Đại Lý Tự nghênh đón một vị quý nhân đặc biệt.

Tiếng then cửa vang lên lách cách, Nữ đế với mái tóc bạc phơ, chống gậy chậm rãi bước vào trong buồng giam của Thôi Tuần. Bà phất tay bảo nội thị lui ra, híp mắt nhìn thiếu niên trước mặt, cẩn thận đánh giá.

Thôi Tuần không hề tỏ ra kinh ngạc trước sự xuất hiện của bà. Hắn bình tĩnh quỳ xuống, cúi đầu hành lễ, khi ngẩng lên liền nghe Nữ đế lẩm bẩm: “Quả nhiên có vài phần giống.”

Ánh mắt bà dừng lại trên khuôn mặt tuấn mỹ như đóa hoa sen, chợt hỏi: “Vọng Thư, kiếp này có tốt không?”

“Tốt.” Thôi Tuần đáp, giọng điệu bình thản: “Thần có một thân thể khỏe mạnh, có cha mẹ yêu thương, lại có Minh Nguyệt Châu bầu bạn, thần… tâm nguyện viên mãn.”

Nữ đế lặng lẽ nhìn hắn một hồi lâu, sau đó mới khẽ gật đầu. Bà rút từ trong tay áo ra một chiếc túi gấm, đưa cho Thôi Tuần: “Lúc Minh Nguyệt Châu rời đi, nó cứ cố chấp dặn trẫm phải trả lại vật này cho nó. Đây có phải là thứ ngươi muốn không?”

Thôi Tuần nắm chặt túi gấm trong tay, sắc mặt không hề thay đổi: “Bệ hạ thương yêu công chúa vô hạn, bất luận thứ gì thuộc về công chúa, tất nhiên bệ hạ đều muốn giữ gìn. Huống hồ trong túi gấm này còn có một lọn tóc của công chúa. Chỉ là, vật này đối với thần vô cùng trân quý, vì vậy đành mạo phạm thôi.”

Nữ đế bật cười: “Ngươi thật biết cách ăn nói.”

Giống y như kiếp trước, không chỉ đoán được tâm ý bà, mà còn dám đoán.

Bà hỏi: “Nếu ngươi đã giỏi suy đoán Thánh ý như vậy, vậy thử đoán xem, đêm nay trẫm đến đây là vì chuyện gì?”

“Bệ hạ muốn tìm một lý do để thả thần?”

Nữ đế không phủ nhận. Dưới ánh nến leo lét, gương mặt bà càng lộ vẻ già nua. Bà ho nhẹ hai tiếng, rồi mới tiếp tục: “Trẫm không còn nhiều thời gian nữa, chuyện lập trữ phải sớm định đoạt. Vọng Thư, trẫm muốn nghe ý kiến của ngươi.”

Thôi Tuần không hề do dự, dứt khoát nói: “Nên lập Cảnh Thành vương.”

Lời này khiến Nữ đế hơi bất ngờ: “Ồ? Vì sao?”

“Cảnh Thành vương là cốt nhục duy nhất của bệ hạ và Minh Hoàng Đế, lại có đức tính nhân hiếu. Nếu người đăng cơ, hoàng tộc họ Lý tất sẽ không dị nghị, gia tộc họ Khương cũng được bảo toàn. Hiện nay, Tân chính Thái Xương đã được thi hành bốn mươi sáu năm, thiên hạ cần một minh quân vừa nhân từ vừa anh minh để tiếp tục thịnh thế Đại Chu. Cảnh Thành vương… có thể làm được điều đó.”

Lời tán thưởng dành cho Cảnh Thành vương khiến Nữ đế trầm mặc. Bà đảo mắt nhìn quanh phòng giam chật hẹp: “Trẫm còn nhớ, chính ngay tại nơi này, ngươi từng bị phụ thân y hạ lệnh tra tấn, mười ngón tay bị bẻ gãy, trên người không còn lấy một tấc da lành lặn. Nếu không có đại nạn đó, kiếp trước ngươi cũng không đến nỗi mất sớm khi mới hai mươi bốn tuổi. Ngươi không hận y sao?”

Thôi Tuần thản nhiên đáp: “Đó là ân oán giữa thần và phụ thân y. Khi đó Cảnh Thành vương còn nằm trong bụng mẹ, dù thần có hận sâu đến đâu, cũng không thể oán trách một bào thai còn chưa ra đời.”

Nữ đế dừng mắt trên người hắn.

Nữ đế nhìn hắn chăm chú. Trước đây, bà từng xem thường hắn, cho rằng hắn chỉ là kẻ tiểu nhân không chút khí tiết, để được sống hắn sẵn sàng dập đầu đến vỡ cả trán, chẳng hề giống một người xuất thân từ danh môn Thôi thị ở Bác Lăng. Nhưng về sau, bà dần nhận ra có lẽ mình đã sai.

Giờ phút này, đứng giữa nhà lao tăm tối, bà lại một lần nữa xác nhận rằng, bà đã sai thật rồi.

Về điểm này, bà không bằng Minh Nguyệt Châu.

Một lúc lâu sau, Nữ đế mới thở dài: “Tốt, không vì tư tình mà làm hỏng chính sự. Vọng Thư, ngươi xứng đáng với tấm chân tình của Minh Nguyệt Châu.”

Bà nói tiếp: “Về kiến nghị lập trữ vừa rồi, trẫm sẽ để Hoàng môn thị lang ghi lại, viết vào sử sách.”

Thôi Tuần sững người. Nữ đế lại cười: “Vọng Thư, đêm nay trẫm đến đây là để ban cho ngươi một đời vinh hoa.”

Lời vừa dứt, Thôi Tuần liền hiểu.

Hiện nay, trong triều đình, dù các đại thần đều cho rằng Cảnh Thành vương là người thích hợp nhất để kế vị, nhưng vì kiêng dè Nữ đế, không ai dám mở miệng đề nghị. Nhưng Thôi Tuần lại dám liều mạng dâng lời khẩn thỉnh, thử hỏi Cảnh Thành vương làm sao có thể không cảm kích?

Một khi Cảnh Thành vương đăng cơ, tất nhiên sẽ nhớ đến công lao giúp đỡ của hắn, đây cũng chính là điều mà Nữ đế gọi là “ban cho một đời vinh hoa“.

Thôi Tuần mím môi, thật tâm cúi đầu hành lễ: “Tạ bệ hạ.”

Chờ hắn ngẩng lên, Nữ đế lại nói: “Nhưng Vọng Thư, ngươi vẫn phải ở lại ngục thất Đại Lý Tự thêm vài ngày nữa.”

Bà cười khẽ: “Vì muốn cứu ngươi, mỗi ngày Cảnh Thành vương đều quỳ trước điện Thần Long, khẩn cầu trẫm minh xét, thả ngươi ra khỏi ngục thất Đại Lý Tự. Trẫm đương nhiên cũng nên thuận theo ý nó, đúng không?”

Vài ngày sau, Nữ đế thuận theo lời can gián của Cảnh Thành vương, hạ lệnh phóng thích Thôi Tuần. Chúng nhân trong thiên hạ đều ca ngợi Cảnh Thành vương nhân nghĩa. Về phần Thôi Tuần, Cảnh Thành vương có ân cứu mạng với y, tất nhiên y cũng sẽ khắc ghi đại ân này. Sau này, tất sẽ lưu lại giai thoại quân thần tương hợp, khiến người đời hết lời ca tụng.

Nữ đế cố tình nhường lại ân tình này cho Cảnh Thành vương, dụng tâm sâu xa cỡ này khiến Thôi Tuần muôn vàn cảm khái. Hắn cúi xuống dập đầu, trầm giọng nói: “Tạ ơn bệ hạ.”

“Nếu thật lòng cảm tạ trẫm, vậy hãy đối xử thật tốt với Minh Nguyệt Châu.” Nữ đế nhấn mạnh từng chữ. “Vọng Thư, trẫm giao nữ nhi mà trẫm yêu quý nhất cho ngươi.”

Thôi Tuần cũng nghiêm giọng đáp: “Xin bệ hạ yên tâm, đời đời kiếp kiếp, thần sẽ luôn bảo vệ Minh Nguyệt Châu chu toàn.”



Về cuộc trò chuyện đêm đó, chính sử ghi chép rằng Thôi Tuần là người “ngay thẳng dám nói”, không chỉ một lần nữa từ chối làm phò mã của công chúa Tề An, mà còn dâng lời can gián trước Nữ đế, phân tích lợi hại, kiến nghị “lập Cảnh Thành vương làm trữ quân”. Sau khi bước ra khỏi ngục thất, Nữ đế “đại nộ”, giận dữ quát mắng: “Tiểu tử to gan!” rồi phán “Trảm”.

Sau đó, khi Cảnh Thành vương biết được lời khuyên can của Thôi Tuần. Hắn và Thôi Tuần vốn không hề có giao tình, ai mà ngờ Thôi Tuần lại dám mạo hiểm tính mạng, liều chết thỉnh cầu lập hắn làm Thái tử? Cảnh Thành vương xúc động vô cùng, chẳng màn Nữ đế đang nổi cơn thịnh nộ, vẫn quỳ trước điện Thần Long cầu xin.

Sự thành tâm của Cảnh Thành vương chấn động lòng người, bách tính cảm phục, học sĩ Quốc Tử Giám cũng đồng loạt dâng sớ xin Nữ đế tha chết cho Thôi Tuần. Nữ đế không thể làm trái lòng dân, ba ngày sau, cuối cùng cũng hạ lệnh thả Thôi Tuần ra khỏi ngục thất Đại Lý Tự.

Cùng ngày đó, Nữ đế đột nhiên ngất xỉu, bệnh tình ngày một nặng hơn. Chúng thần đồng loạt dâng sớ, khẩn cầu sớm ngày lập trữ. Sau khi suy xét kỹ càng, Nữ đế hạ chiếu, lập Cảnh Thành vương Lý Trưng làm Hoàng thái tôn.

Thiên hạ đều truyền tai nhau rằng, vì Thôi Tuần liều chết khuyên can ở trong ngục nên mới thuyết phục được Nữ đế.

Bởi lần can gián này, sau khi Lý Trưng đăng cơ, suốt những năm trị vì đều một lòng trọng dụng Thôi Tuần. Mà Thôi Tuần cũng vì “ân cứu mạng” nên luôn cúc cung tận tụy, dùng hết tâm sức phò tá, quân thần tin cậy lẫn nhau, không hề có nửa phần ngăn cách, trở thành khuôn mẫu quân thần nổi tiếng nhất trong lịch sử.

Sau khi Thôi Tuần được thả khỏi ngục thất Đại Lý Tự, hôn lễ giữa hắn và Lý Doanh cũng bắt đầu được chuẩn bị rốt ráo.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 168: Ngoại truyện luân hồi (7): Đại hôn


Khi cuộc tranh đoạt ngôi trữ quân lắng xuống, khắp phố lớn ngõ nhỏ ở Trường An lại bắt đầu bàn tán về một chuyện khác.

Đó chính là hôn sự giữa tân khoa Trạng nguyên Bùi Hành và tiểu thư Đỗ Chẩm Nguyệt nhà Đỗ Tư mã ở Dương Châu. Hôn sự của đôi thanh niên nam nữ này trải qua không ít trắc trở. Ban đầu, hai nhà định sẵn hôn ước từ thuở nhỏ, tiếp đó Bùi Hành thi đỗ Trạng nguyên tại Trường An, vốn dĩ là một chuyện vui vẻ vẹn toàn, nào ngờ lại bị công chúa Tề An chen lấn. Nếu không nhờ Hoàng thái tôn không từ bỏ việc cứu giúp, e rằng bây giờ Bùi Hành vẫn còn đang ở trong ngục thất của Đại Lý Tự, nói chi đến chuyện thành thân cùng Đỗ Chẩm Nguyệt.

Vậy nên, khi nghe tin Bùi Hành đích thân tới bái kiến Hoàng thái tôn, thỉnh ngài đến phủ dự tiệc cưới, không ai lấy đó làm lạ.

Chỉ là… cả nhà họ Bùi lẫn nhà họ Đỗ đều ở Dương Châu, cớ sao lại tổ chức hôn lễ tại Trường An?



Trong thành Trường An, Bùi gia và Đỗ gia đều có trạch viện. Đỗ gia vốn xuất thân thương hộ, gia tài trăm vạn, trạch viện nguy nga hoành tráng.

Mặt trời ngả bóng tây, sau khi hoàn tất lễ bái tổ tiên, Thôi Tuần liền cùng bằng hữu cưỡi ngựa tới Đỗ trạch đón dâu. Đỗ trạch nằm trong phường Sùng Nhân, chỉ cách hoàng thành mỗi một bức tường. Trên đường đi, trống nhạc vang rền, sáo đàn rộn rã, thậm chí còn truyền tới cả đại nội cung Đại Minh.

Thôi Tuần bất giác ngước nhìn về phía cung Đại Minh.

Cử hành hôn lễ ở Trường An vốn là ý của hắn. Nữ đế đã chẳng còn bao nhiêu thời gian, e rằng chỉ trong vòng hai tháng nữa thôi sẽ tới ngày đại hạn. Điều bà lo lắng nhất lúc này hẳn là chung thân đại sự của nữ nhi. Hắn nghĩ, dù bà chỉ có thể nghe thấy thanh âm của đoàn rước dâu thôi cũng đã là tốt lắm rồi.

Hắn thu ánh mắt, tiếp tục thúc ngựa tới Đỗ trạch.

Tới nơi, cửa lớn Đỗ trạch vẫn đóng chặt, bên trong vang lên tiếng cười đùa của nữ quyến. Một giọng nói trong trẻo cất lên: “Người nào đến vậy?”

“Dương Châu, Bùi Hành.”

“Đến đây có việc gì?”

“Cầu thân, rước thê tử.”

“Thê tử của chàng là ai?”

“Khuê danh Chẩm Nguyệt.”

Trong Đỗ trạch lại vang lên một trận cười nói rôm rả: “Mời lang quân xuống ngựa.”

Thôi Tuần vừa xuống ngựa, cánh cửa lớn sơn đỏ chậm rãi mở ra. Hắn nhấc chân bước vào, vừa vào đến nơi, một cây gậy lớn đã vung thẳng tới.

Đây là một trong những tập tục đón rể của Đại Chu, gọi là “hạ tế”. Các nương tử trong phủ tay cầm côn bổng, vừa đùa giỡn vừa hô lớn: “Con rể là chó nhà vợ, đánh đập tùy ý!”, sau đó ùa lên, quất lấy quất để. Theo phong tục, bên đằng trai không thể chịu đòn thay, chỉ có thể đứng một bên xem tân lang bị “hạ tế” với vẻ mặt hả hê.

Thôi Tuần nghiêng người tránh đòn, bất chợt nhìn lên lầu các, thấy cửa sổ hé mở một góc, tân nương xinh đẹp như hoa hơi mím môi, lén lén nhìn hắn trộm cười.

Một gậy rơi xuống người hắn, nhưng cú đánh nặng nề lại hạ xuống hờ hững, nhẹ tựa lông hồng. Một nương tử khẽ ghé tai hắn, nhỏ giọng nói: “Minh Nguyệt Châu đã dặn trước rồi, nếu đánh đau lang quân, nàng ấy sẽ giận bọn ta mất.”

Thôi Tuần ngước mắt, liền thấy Lý Doanh đã trang điểm chỉnh tề. Mái tóc đen nhánh vấn cao, cài một cây trâm vàng khảm ngọc. Giữa trán nàng điểm một đóa hoa điền hình giọt lệ, gò má ửng màu phấn hồng, môi thoa son đỏ thạch lựu, đẹp đến mức khiến người ta ngây dại, chẳng thể rời mắt.

Thôi Tuần nhìn Lý Doanh, còn Lý Doanh lại chống tay lên cửa sổ nhìn hắn. Ở Bùi trạch hay trong quan học, Thôi Tuần luôn giữ dáng vẻ bình chân như vại, nàng chưa từng thấy hắn bị trêu ghẹo bao giờ. Lý Doanh vừa thẹn thùng vừa e lệ, nhìn về phía hắn, nhưng khi bắt gặp ánh mắt của Thôi Tuần cũng đang dừng trên người mình, mặt nàng thoáng chốc đỏ bừng, vội “cạch” một tiếng đóng sập cửa sổ. Song, nghe tiếng ồn ào trong sân, nàng lại tò mò không nhịn được, rón rén mở cửa sổ lần nữa, nhìn ra bên ngoài.

Thôi Tuần mải ngắm nàng đến thất thần, kết quả chịu thêm mấy gậy nữa. Tuy không đau, nhưng trông lại khá chật vật. Lý Doanh thấy vậy thì không đành lòng nhìn hắn bị đùa cợt. Nàng bốc một nắm kim đậu đặt trên bàn trang điểm, ném bừa xuống sân. Kim đậu vừa rơi xuống đất, nhóm nữ quyến liền hiểu ý, đồng loạt ngẩng đầu nhìn về phía lầu các. Chỉ thấy tân nương biết mình quá che chở cho lang quân, xấu hổ đến mức vội đóng chặt cửa sổ. Mấy nương tử âm thầm cười trộm, trêu nàng “con gái lớn không thể giữ trong nhà”, chưa qua cửa mà đã biết xót lang quân của mình rồi. Nhờ thế, màn “hạ tế” cũng kết thúc qua loa.

Sau đó là nâng rượu, ngâm thơ, đối đáp. Thôi Tuần phải nói hết một vạn lời hay ý đẹp, khó khăn lắm đến được trước cửa khuê phòng của Lý Doanh. Lúc này, đã đến bước lang quân thúc giục trang điểm.

Bên ngoài, thân hữu nhà trai đồng loạt cất tiếng gọi: “Tân nương tử, mau ra đây! Tân nương tử, mau ra đây!”

Sau mấy chục lượt hô hào, tân nương khoác trên mình bộ hôn phục màu lam sẫm cuối cùng cũng nhẹ nhàng bước ra, tay nâng chiếc quạt tròn bằng lụa mỏng che đi dung nhan, chậm rãi tiến về phía trước dưới sự dìu đỡ của tỳ nữ. Nhưng trong đại đường lại giăng kín từng lớp màn thêu, trên mặt đất dưới màn thêu đặt một bộ yên ngựa. Tân nương xoay người hướng về phương nam, an tọa trên yên ngựa, chính là hành lễ “Điện nhạn”.

Chim nhạn vốn chỉ chung thủy một đôi, nếu mất đi bạn đời, nó sẽ không chọn bạn mới. Bởi vậy, nghi thức “Điện nhạn” tượng trưng cho sự trọn đời trọn kiếp trong hôn nhân. Thôi Tuần cầm con nhạn đã chuẩn bị sẵn, ném vào trong màn. Bên trong, nhóm nữ quyến nhà họ Đỗ nhanh chóng lấy lụa đỏ bọc kín chim nhạn, sau đó dùng gấm ngũ sắc quấn chặt mỏ để nó không kêu lên. Ngoài màn, giữa tiếng xúi giục của nhà họ Đỗ, Thôi Tuần ứng khẩu, ngâm liền mấy bài thơ “Dỡ màn”. Đường huynh của Lý Doanh vỗ tay cười lớn: “Quả không hổ danh tân khoa Trạng nguyên, cố thế nào cũng không làm khó được. Người đâu, dỡ màn!”

Một đứa cháu trai và một đứa cháu gái mới bảy tuổi của Lý Doanh nhảy chân sáo, vén màn thêu lên. Thôi Tuần bước vào trong, đón lấy con nhạn đã bị buộc chặt mỏ. Lý Doanh vẫn ngay ngắn ngồi trên yên ngựa, quạt tròn lụa mỏng che mặt, Thôi Tuần chỉ có thể trông thấy vành tai nàng đỏ ửng tựa như ngọc thạch, chắc hẳn cũng đang căng thẳng lắm. Hắn khẽ cười, vén vạt áo quỳ xuống trước mặt nàng, đặt con nhạn bên cạnh, giọng điệu thấp thoáng ý cười: “Khanh khanh, lên xe hoa được chưa?”

Đôi tai nhỏ nhắn của Lý Doanh càng đỏ bừng lên, nấp sau quạt, nàng cắn nhẹ môi đáp: “Còn chưa hành lễ, ai là khanh khanh của chàng?”

Thôi Tuần bật cười: “Được rồi, Minh Nguyệt Châu của ta, nàng chịu lên xe hoa chưa?”

Lý Doanh hơi hạ thấp quạt, khuôn mặt trắng nõn như bạch ngọc đã phủ kín sắc hồng. Nàng không trực tiếp đáp lời, chỉ cụp hàng mi dài xuống, bẽn lẽn hỏi: “Chàng quỳ thế không thấy đau sao? Còn không mau đứng dậy.”

Như vậy nghĩa là đã đồng ý. Hai người cùng nhau bước ra khỏi màn thêu, đến bái biệt phụ mẫu của Lý Doanh. Vợ chồng Đỗ Tư Mã đều lưu luyến không nỡ rời xa con gái, Đỗ mẫu vành mắt đỏ hoe, dặn dò nàng sau khi về nhà chồng không được tùy hứng nữa, phải sống thật tốt với Thôi Tuần. Lý Doanh rưng rưng nước mắt, gật đầu đồng ý từng điều một. Sau đó, Thôi Tuần mới dìu nàng bước lên xe hoa, hướng về Bùi trạch.



Bùi trạch sớm đã trải dài mười dặm hồng trang, Lý Doanh bước trên thảm đỏ, giữa vòng vây của bao người, đi vào thanh lư [1] được dựng lên giữa sân. Phu thê Bùi Thứ sử đã chờ từ lâu, quan viên khắp Trường An cũng đều có mặt. Ngoài Hoàng thái tôn Lý Trưng, Tể phụ Lư Hoài, Thứ sử Lạc Dương Ngư Phù Nguy, ngay cả cựu Tể phụ Thôi Tụng Thanh, người đã ẩn cư nhiều năm, cũng đích thân đến dự. Cảnh tượng náo nhiệt vô cùng.

<i>[1] “Thanh lư” (青廬) Mình nghĩ là kiểu rạp cưới được dựng tạm thời, phục vụ cho mục đích cưới hỏi.</i>

Lúc Thôi Tụng Thanh nhìn thấy dung mạo tân lang, ông đã thoáng sững sờ, có lẽ gương mặt ấy khiến ông ta nhớ đến người cháu bạc mệnh năm xưa. Đáy mắt ánh lên nét u buồn, nếu cháu trai còn sống, họ Thôi ở Bác Lăng cũng chẳng đến mức ngày càng suy bại như hôm nay. Thời thế xoay vần, vận mệnh khó lường.

Nhưng Thôi Tụng Thanh đã ngoài thất thập cổ lai hy, tuổi thọ chẳng còn bao nhiêu, tâm cảnh khác xưa, lúc này vô cùng bình thản. Ông nhanh chóng điều chỉnh tâm tình, chúc mừng tân lang cùng tân nương. Khác với niềm hân hoan của những người khác, niềm vui của Ngư Phù Nguy lại chất chứa nhiều cảm xúc phức tạp. Hắn là người duy nhất ở đây biết rõ tiền duyên của hai người. Những hình ảnh quá khứ lần lượt hiện lên trước mắt hắn: có cảnh ở Quỷ thị, khi hắn cười cợt Thôi Tuần không kéo nổi cây cung sắt, khiến Lý Doanh tức giận; có cảnh nàng bất chấp tính mạng đi vào Địa phủ, cứu Thôi Tuần khi y bị Kim Di hãm hại; có cảnh Thôi Tuần quỳ trên hai trăm linh một bậc đá ở chùa Pháp Môn, dập đầu hai trăm linh một lần, khắp người nhuốm máu, mới cầu được xá lợi Phật đỉnh. Dẫu cho mười sáu năm đã trôi qua, những hình ảnh ấy vẫn chỉ như mới xảy ra hôm qua, in dấu rõ ràng trong lòng hắn.

Hắn nhìn chăm chú vào hai người trẻ tuổi trước mặt, hai người vẫn trẻ trung như thuở nào, niềm hạnh phúc đong đầy ánh mắt. Ngư Phù Nguy bật cười, nâng ly rượu nho trên bàn, nhấp một ngụm, men rượu dâng lên, khiến hắn hơi ngà ngà say. Hắn nhìn hai người, trong lòng thầm nguyện: Những khổ nạn kiếp trước, đến đây xem như kết thúc. Kiếp này, cầu cho hai người thuận hòa viên mãn.

Khi tân lang và tân nương chuẩn bị bái kiến phu thê Bùi Thứ sử, bỗng thấy Kim Ngô Vệ vội vã tiến vào thanh lư, hô vang: “Bệ hạ giá lâm!”

Mọi người cả kinh, đồng loạt đứng dậy quỳ xuống nghênh đón. Nữ đế thân thể đã suy nhược đến mức không thể đi lại, bà ngồi trên bộ liễn, được Kim Ngô Vệ nâng vào. Bùi Thứ sử không rõ vì sao Nữ đế đột nhiên đến đây, lập tức quỳ rạp: “Thần khấu kiến bệ hạ.”

Giọng Nữ đế không hề có vẻ gì là giận dữ, ngược lại còn rất hòa nhã: “Bùi khanh, động tĩnh của hỷ sự nhà khanh đã truyền đến tận cung Đại Minh rồi đấy.”

Sắc mặt Bùi Thứ sử lập tức tái nhợt, kinh hãi dập đầu: “Hôn sự của khuyển tử quấy nhiễu thánh giá, thần có tội!”

Ông liên tục dập đầu nhận tội, Lý Trưng cũng biến sắc, vừa định mở lời cầu xin thì Nữ đế đã nói: “Đang ngày vui, đừng quỳ nữa.”

Bà khẽ phất tay, ra hiệu cho nội thị đỡ mình xuống bộ liễn, được dìu đến vị trí mà Bùi mẫu vừa ngồi. Nữ đế an tọa, chậm rãi nói: “Tân lang và tân nương đang hành lễ đúng không? Tiếp tục đi.”

Nhưng nghi lễ tiếp theo là tân lang tân nương bái kiến cao đường, trong Nữ đế lại đang ngồi ở vị trí của Bùi mẫu, khiến vợ chồng Bùi Thứ sử không dám manh động. Nữ đế thấy vậy, bật cười: “Nếu đã vậy, chi bằng để tân lang và tân nương hành lễ với trẫm đi.”

Vợ chồng Bùi Thứ sử nhìn nhau, không ai đoán nổi Thánh ý, những người trong thanh lư cũng không thể đo lường tâm tư đế vương, chỉ có Ngư Phù Nguy hiểu ngay lập tức.

Thôi Tuần biết ý, hắn kéo nhẹ tay áo Lý Doanh, hạ giọng nói: “Bệ hạ là mẫu nghi thiên hạ, tức là mẫu thân của thần và nương tử. Thần cùng nương tử, bái kiến bệ hạ.”

Nói xong, hắn quỳ xuống hành lễ với Nữ đế. Theo tục cưới hỏi của Đại Chu, nam quỳ, nữ không quỳ. Lý Doanh hoàn hồn, đưa hai tay chắp trước ngực, khom người hành lễ. Khoảnh khắc nàng đứng dậy, dường như trông thấy trong mắt Nữ đế thấp thoáng ánh lệ. Nàng nghĩ, có lẽ Nữ đế xem nàng như con gái ruột của mình.

Thế nhưng, Nữ đế lại không kịp nhìn thấy con gái mình xuất giá.

Nghĩ đến đây, lòng nàng cũng không khỏi ngậm ngùi. Bái đường xong xuôi, phu thê lại vái lạy nhau. Tới đây, hôn lễ đã thành, nàng chính thức trở thành thê tử nhà họ Bùi.

Nữ đế run rẩy đứng dậy, nắm lấy tay Lý Doanh, vạn lời muốn nói, cuối cùng chỉ gói gọn trong một chữ “Tốt.” Bà nắm tay nàng, đặt vào tay Thôi Tuần, căn dặn: “Trạng nguyên lang, hãy đối xử tốt với tân nương của ngươi. Nếu không, trẫm tuyệt đối không tha cho ngươi.”

Thôi Tuần nắm tay Lý Doanh, nghiêm giọng đáp: “Thần tuân thánh dụ.”

Nữ đế gật nhẹ đầu. Nội thị tiến lên đỡ bà lên bộ liễn. Chúng nhân quỳ xuống tiễn biệt. Lý Doanh nhìn theo bóng lưng Nữ đế, lòng bỗng trào dâng nỗi lưu luyến khó tả. Nàng ngước lên, vừa lúc Nữ đế cũng ngoảnh lại, không nỡ rời đi.

Không biết lấy đâu ra dũng khí, nàng nói: “Bệ hạ yên tâm, tân nương sẽ cùng phu quân bên nhau trọn đời, mãi đến bạc đầu.”

Nữ đế rơi lệ, nụ cười chứa chan nỗi chua xót. Bà khẽ gật đầu, dưới sự hộ tống của Kim Ngô Vệ và nội thị, dần dần khuất bóng khỏi thanh lư.



Nữ đế rời đi, mọi người vẫn còn đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra. Người thì cho rằng Nữ đế tuổi tác đã cao, luyến tiếc khói lửa nhân gian, nghe tiếng tấu nhạc liền ghé qua Bùi phủ một chuyến. Có người lại phỏng đoán rằng, Nữ đế day dứt chuyện giam nhầm Trạng nguyên lang, nên nay mới đến, lấy lại chút thể diện cho y. Cũng kẻ khác cho rằng, sự góp mặt của Nữ đế đơn thuần chỉ là để nâng đỡ Hoàng thái tôn.

Chân tướng thực sự, chỉ có Ngư Phù Nguy và Thôi Tuần cùng biết.

Nữ đế đến vì đứa con gái mà bà thương yêu nhất.

Lý Doanh dõi theo bóng lưng Nữ đế, không hiểu sao khóe mắt lại dâng lên chút hơi ẩm. Dường như đoán được tâm tư của nàng, Thôi Tuần ghé sát bên tai nàng, dịu giọng: “Minh Nguyệt Châu, ta ở đây.”

Lý Doanh khẽ “ừ” một tiếng, thu lại tâm tình, cùng Thôi Tuần nhận lời chúc mừng từ mọi người. Sau đó, nàng được đưa vào động phòng. Kết thúc nghi thức hạ quạt, uống rượu hợp cẩn, quan khách đều thức thời rời đi, trong phòng chỉ còn lại hai người họ.

Lý Doanh ngồi trên giường, vô thức trở nên căng thẳng, ngón tay siết chặt lấy chăn gấm. Thôi Tuần buông rèm, ngoài màn ánh nến lay động, soi rõ bóng dáng yêu kiều của nàng. Mái tóc dài như thác đổ xuống, làn da trắng ngần như ngọc, lộ rõ vẻ thanh tú dịu dàng. Nàng lén lút đưa mắt nhìn hắn, nhưng ngay sau đó lại ngượng ngùng cúi đầu, không dám nhìn thẳng.

Thôi Tuần cũng có chút hồi hộp, nhưng vẫn ngồi xuống bên nàng, nâng gương mặt tinh xảo như ngọc chạm của nàng lên, chậm rãi cúi đầu, hôn lên trán nàng, rồi hôn lên đôi môi nàng. Lý Doanh bị hắn hôn đến mơ màng, chẳng hay từ lúc nào y phục trên người đã bị cởi bỏ, mà nàng cũng đã bị hắn ôm vào trong chăn gấm.

Nàng ngượng đến mức nhắm chặt mắt, không dám nhìn hắn. Thôi Tuần hôn lên hàng mi của nàng, cẩn trọng hỏi: “Minh Nguyệt Châu, có được không?”

Lý Doanh vẫn nhắm mắt, vừa thẹn vừa bực: “Chàng… chàng không tự biết làm sao? Còn phải hỏi ta?”

Thôi Tuần bỗng bật cười, cúi xuống hôn lên má nàng. Về sau thế nào, cả hai cũng chẳng nhớ rõ nữa, chỉ biết bên trong màn trướng đỏ thẫm, tình ý cuộn trào. Thiếu niên nếm được vị ngọt, gọi “nước” hết lần này đến lần khác, mãi đến khi trời gần sáng, hai người mới chìm vào giấc ngủ.

Tiếng trống báo sáng vang lên ba nghìn nhịp mỗi ngày ở cổng Thừa Thiên cũng không đánh thức được họ. Đến sáng hôm sau, theo lý phải vào bái kiến thúc thẩm, nhưng vợ chồng Bùi Thứ sử lại căn dặn không ai được quấy rầy hai người. Mãi đến gần trưa, một tiếng sấm nổ vang trời mới khiến Lý Doanh lờ mờ tỉnh lại.

Nàng phát hiện bản thân vẫn đang rúc trong lòng Thôi Tuần, cánh tay hắn ôm chặt lấy eo nàng. Lý Doanh lơ đãng nhìn lướt qua lưng hắn, thấy vết cào đỏ hằn trên da thịt, trên vai còn có dấu răng nàng để lại, ngại đến mức đỏ bừng cả mặt, tim cũng không khỏi đập loạn.

Nàng cọ cọ vào lồng ngực hắn, vậy mà hắn vẫn chưa tỉnh. Nàng bỗng sinh lòng nghịch ngợm, khẽ hôn lên cằm hắn. Nếu hắn vẫn không dậy, nàng sẽ véo mũi hắn cho mà xem!

Đúng lúc ấy, một tiếng sấm nữa lại vang lên, Lý Doanh giật mình rụt vào lòng hắn, siết chặt lấy hắn. Trong khoảnh khắc đó, ký ức như thủy triều, ào ạt tràn về trong tâm trí nàng.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 169: Ngoại truyện luân hồi (8): A nương


Hồ sen, chàng thanh niên tuấn mỹ như đóa sen, khoác hạc bào đen tuyền, Địa phủ u ám rợn người, bia mộ trên Lạc Nhạn Lĩnh, cùng người lái đò chống sào đứng trên sông Nại Hà, từng cảnh tượng lần lượt hiện lên trước mắt nàng. Nàng há miệng, nhưng chẳng thể thốt ra lời nào. Đôi mắt ngây dại nhìn chàng Trạng nguyên đang say ngủ trước mắt, để rồi bất giác, nàng ôm chặt lấy chàng, từng giọt nước mắt lặng lẽ trượt dài nơi khóe mi. Rốt cuộc, nàng bật khóc thành tiếng.

Có lẽ bị nước mắt nàng làm bỏng rát, hoặc cũng có thể vì nghe thấy tiếng nức nở, Thôi Tuần chậm rãi mở mắt. Hắn ngẩn ngơ nhìn Lý Doanh: “Minh Nguyệt Châu, sao nàng lại khóc?”

Lý Doanh ôm chặt hắn, vùi đầu vào ngực hắn, nghẹn ngào không ngừng: “Thập Thất lang, Thập Thất lang…”

Thôi Tuần khẽ đáp: “Ta ở đây.”

Thế nhưng, ký ức tiền kiếp và hiện tại đan xen khiến Lý Doanh trong thoáng chốc cứ ngỡ mình vẫn đang còn chìm trong mộng mị. Nàng sợ, sợ rằng chỉ cần nới lỏng vòng tay, Thôi Tuần sẽ lại biến mất. Sợ rằng trước mặt nàng lại một lần nữa hiện lên tấm bia đá lạnh lẽo kia.

Thế nên, nàng chỉ ôm chặt lấy hắn, thế nào cũng không chịu buông tay. Thôi Tuần dần nhận ra sự khác lạ của nàng: “Minh Nguyệt Châu, nàng sao vậy?”

Lý Doanh nấc nghẹn: “Ta sợ.”

“Sợ gì cơ?”

“Ta sợ ta vừa buông tay, chàng sẽ không còn nữa.”

“Sao ta có thể biến mất được chứ?”

Thôi Tuần an ủi nàng, bàn tay vỗ về lên tấm lưng mảnh mai: “Minh Nguyệt Châu, ta ở đây.”

Lý Doanh cứ thế khóc thật lâu, đến khi dần trấn tĩnh lại, nàng mới nhận ra: đây không phải giấc mộng, mà là kiếp sau của nàng.

Nàng ôm Thôi Tuần, cảm nhận rõ ràng cơ thể ấy đã không còn vẻ yếu nhược của con hạc ốm bệnh, cô độc như kiếp trước, thay vào đó là vóc dáng cao gầy của một thiếu niên. Cánh tay ấy cũng rắn rỏi nhờ những năm tháng luyện tập cưỡi ngựa bắn cung, chứ không phải cánh tay run rẩy, không giương nổi cây cung cũ. Bàn tay ấy cũng không còn lạnh lẽo như thuở ấy, mà ấm nóng đến lạ thường. Tất cả những điều này khiến nàng chịu tin rằng: đây không phải giấc mộng thoáng qua, mà là kiếp sau tốt đẹp mà phụ mẫu đã đánh đổi tất cả để dành lại cho nàng.

“A gia… a nương…” Lý Doanh thì thào.

Nghe nàng nhắc đến cha mẹ, lúc này Thôi Tuần mới chợt nhận ra điều gì đó: “Minh Nguyệt Châu… nàng…”

Lý Doanh rưng rưng nước mắt, khẽ gật đầu: “Thập Thất lang, ta đã nhớ lại tất cả rồi. Ta là Đỗ Chẩm Nguyệt, cũng là công chúa Vĩnh An, Lý Doanh.”

Thôi Tuần sững sờ, thoáng chốc liền siết chặt nàng vào lòng. Hắn hôn lên mái tóc nàng, đôi mắt đỏ hoe: “Minh Nguyệt Châu, nàng đã nhớ lại rồi.”

Nàng đã nhớ lại tất cả, nhớ rõ mọi chuyện của kiếp trước, nhớ những gì cả hai từng trải qua, từng mảnh ghép thuộc về Lý Doanh đều đã lấp đầy. Từ nay trở đi, nàng là Đỗ Chẩm Nguyệt, là Lý Doanh, và cũng là Minh Nguyệt Châu, trọn vẹn thuộc về hắn.

Lý Doanh tựa vào lòng Thôi Tuần: “Thập Thất lang, còn a nương…?”

Nước mắt nàng không ngừng tuôn rơi: “Có phải a nương…?”

Nàng còn chưa kịp nói hết câu, bên ngoài bỗng vang lên tiếng gõ cửa gấp gáp: “Lang quân, nương tử, không hay rồi, xảy ra chuyện lớn rồi!”



Chuyện lớn ấy chính là Nữ đế đột nhiên lâm trọng bệnh, hôm nay chính là ngày cuối cùng.

Lý Doanh hoàn toàn không nhớ mình đã ngồi dậy khỏi giường bằng cách nào. Nàng chỉ cảm thấy đầu óc trống rỗng, chẳng thể suy nghĩ thêm điều gì. Thôi Tuần quỳ xuống, giúp nàng đi tất gấm, rồi lấy đôi giày đế cao xỏ vào chân nàng. Lý Doanh đứng dậy một cách mơ hồ, trước mắt tối sầm, suýt nữa ngã nhào xuống đất. Thôi Tuần kịp thời đỡ lấy nàng, khiến nàng ngã vào lòng hắn. Giây phút ấy, nàng như bừng tỉnh khỏi cơn mê, vội nắm chặt lấy tay áo hắn, tha thiết cầu khẩn: “Thập Thất lang, ta phải đi gặp a nương! Ta muốn gặp a nương ta!”

“Ta biết, ta sẽ đưa nàng đi gặp người.”

Lý Doanh gật đầu, nhưng đôi chân vẫn mềm nhũn đến mức không thể đứng vững. Thôi Tuần mím môi, cúi xuống bế nàng lên, sải bước rời đi.

Thôi Tuần bế Lý Doanh thẳng lên xe ngựa, sau đó mới ra lệnh cho xa phu giục roi, đưa xe lao nhanh đến phủ Ngư Phù Nguy.

Đến nơi, vừa hay Ngư Phù Nguy đang chuẩn bị lên xe để vào cung Đại Minh, Thôi Tuần chặn hắn lại, thuật lại một cách ngắn gọn việc Lý Doanh đã khôi phục ký ức, đồng thời nhờ hắn đưa bọn họ tiến cung.

Ngư Phù Nguy không nhiều lời, dứt khoát gật đầu đồng ý. Hai người vội vã theo hắn lên đường đến cung Đại Minh.



Trước điện Thần Long, tất cả quan viên từ thất phẩm trở lên có mặt trong kinh đều đã tụ tập đông đủ. Sắc mặt ai nấy đều hoang mang, lo lắng. Đứng ở hàng đầu, Hoàng thái tôn Lý Trưng càng lộ vẻ thất thần. Dù Nữ đế chưa từng đối xử tốt với hắn, nhưng đối với vị tổ mẫu này, hắn vừa kính nể lại vừa e sợ. Nay Nữ đế sắp không còn, trong khi hắn mới chỉ mười sáu tuổi, vừa được phong làm Hoàng thái tôn, không có Nữ đế, hắn thực sự có thể gánh vác giang sơn rộng lớn này sao?

Ngay cả bản thân hắn cũng không dám chắc.

Tể phụ Lư Hoài đứng bên cạnh trầm giọng gọi: “Điện hạ.”

Một tiếng gọi ấy kéo Lý Trưng về thực tại. Hắn ngơ ngác nhìn Lư Hoài: “Thầy… ta phải làm sao đây?”

“Điện hạ là Hoàng thái tôn, trước tiên cần phải ổn định cục diện.” Lư Hoài nhìn đám đại thần đang hoảng loạn bên ngoài điện, ôn tồn khuyên nhủ: “Bệ hạ đã chọn điện hạ làm Hoàng thái tôn, chứng tỏ người đặt trọn niềm tin vào điện hạ, tuyệt đối không thể phụ lòng tin ấy.”

Bệ hạ… tin tưởng hắn sao… Lý Trưng như được tiếp thêm dũng khí, tinh thần phấn chấn trở lại: “Thầy nói đúng, bệ hạ đã giao phó trách nhiệm này cho ta, ta nhất định không để người thất vọng.”

Hắn lập tức trấn định tinh thần, bước xuống bậc thềm, xoa dịu triều thần, nghiêm lệnh Kim Ngô Vệ canh chặt cửa cung, không để bất kỳ tin tức nào lọt ra ngoài làm xáo trộn lòng dân. Đồng thời, hắn cũng hạ lệnh điều động cấm quân Nam Nha và Bắc Nha trấn giữ các cổng thành, đề phòng có kẻ thừa cơ gây loạn. Từng bước sắp xếp đều có trật tự, khiến Lư Hoài cuối cùng cũng yên tâm phần nào.

Lúc này, Thứ sử Lạc Châu Ngư Phù Nguy dẫn theo vợ chồng Trạng nguyên lang tiến cung. Hắn đưa Thôi Tuần và Lý Doanh đến cửa phụ của điện Thần Long, nhờ nội thị truyền báo, nói rằng vợ chồng Trạng nguyên đến, muốn cầu kiến Nữ đế.

Ngư Phù Nguy từ trước đến nay rất được Nữ đế tin tưởng, dù nội thị có phần nghi hoặc nhưng vẫn vội vàng vào trong bẩm báo. Không bao lâu sau, y quay lại, thông báo rằng Nữ đế truyền triệu vợ chồng Trạng nguyên lang.



Lý Doanh gần như chạy một mạch đến tẩm điện của Nữ đế. Vừa bước vào, nàng liền lao đến bên giường bệnh, quỳ xuống bật khóc: “A nương…”

Một tiếng “A nương“ ấy khiến Nữ đế hiểu ra mọi chuyện, biết rằng nàng đã nhớ lại tất cả. Thân thể người đã suy yếu đến mức chẳng còn chút sức lực, nhưng vẫn cố gắng run rẩy vươn tay, muốn lau đi nước mắt trên mặt Lý Doanh. Nàng hoảng hốt nắm lấy bàn tay bà, khóc không thành tiếng: “A nương, Minh Nguyệt Châu đến muộn rồi.”

“Không muộn, không muộn…” Nữ đế cũng rơi lệ: “Vừa kịp, vừa kịp.”

“A nương…” Lý Doanh gục xuống bên giường, giọng nàng lạc đi: “A nương, ngự y nhất định sẽ chữa khỏi cho người, nhất định sẽ làm được!”

“Đứa ngốc.” Nữ đế yếu ớt mỉm cười: “A nương đã tám mươi tuổi rồi, trên đời này, ai lại không già đi, ai lại không chết cơ chứ? Sống đến tám mươi tuổi, đã là phúc thọ lắm rồi.”

“Nhưng Minh Nguyệt Châu còn bao nhiêu điều muốn nói với a nương, Minh Nguyệt Châu không nỡ rời xa a nương…”

Nữ đế run run nắm lấy tay nàng, vẫn dịu dàng như thuở nàng còn nhỏ, giọng bà tràn ngập vẻ cưng chiều: “Minh Nguyệt Châu, con đừng nói không nỡ rời xa a nương. A nương có thể tận mắt thấy con xuất giá, có thể ngồi trong thanh lư, được con dập đầu bái lạy, chỉ riêng chừng ấy đã khiến a nương không còn gì để hối tiếc nữa rồi.”

Bà hơi dừng lại, rồi nói: “A gia con đã đợi a nương đủ lâu rồi, a nương phải đi tìm ông ấy thôi…”

Lý Doanh ngẩn người, thấy trong đôi mắt Nữ đế thấp thoáng ánh lệ: “Bao năm phu thê, a gia con có lỗi với a nương, a nương cũng có lỗi với ông ấy. Món nợ này, a nương không tính nổi nữa rồi. Đợi đến được hoàng tuyền, a nương sẽ tìm ông ấy, rồi cùng tính toán cho rõ…”

Lý Doanh không nhịn được nữa, khóc òa lên: “A nương…”

Nữ đế khẽ thở dài, nhìn về phía Thôi Tuần, người vẫn đang quỳ bên cạnh Lý Doanh: “Vọng Thư.”

“Thần có mặt.”

“Giao Minh Nguyệt Châu cho con, trẫm rất yên tâm. Trẫm tin rằng, con sẽ yêu thương nó cả đời này.”

Hốc mắt Thôi Tuần đỏ lên: “Thần nhất định sẽ làm được.”

Nữ đế khẽ gật đầu: “Con mang thứ trên bàn lại đây.”

Thôi Tuần đứng dậy, trên bàn đặt một phong chiếu lệnh cùng một vật được bọc trong lụa vàng. Hắn mang đến trước mặt Nữ đế, bà không nhận lấy, mà chỉ dặn: “Mở ra.”

Thôi Tuần mở lớp lụa, bên trong lại là hai tấm Đan thư thiết khoán. [1]

[1] Đan thư thiết khoán (chữ Hán: 丹書鐵券) hay Đan thư thiết khế (丹書鐵契), Kim thư thiết khoán (金書鐵券), Thiết khoán (鐵券), Thệ thư (誓書) là một loại văn bản của các triều đại phong kiến Trung Quốc cấp từ thời Nhà Hán để ban thưởng cho những người có công lớn với triều đình. Vì đôi khi văn bản này có điều khoản miễn tội tử hình cho người được ban thưởng, nên trong dân gian đôi khi Đan thư thiết khoán còn được gọi là Miễn tử (kim) bài (免死(金)牌). Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 170: Ngoại truyện luân hồi (9): Hết Ngoại truyện luân hồi


Sau khi Nữ đế băng hà, Tể phụ Lư Hoài phò trợ Hoàng thái tôn Lý Trưng đăng cơ. Tuy Lý Trưng tuổi còn nhỏ, nhưng hàn môn khắp thiên hạ vẫn khắc ghi ân đức của Thái Xương Đế và Nữ đế, nguyện dốc lòng phò tá. Bản tính Lý Trưng nhân hậu, ngay cả với công chúa Tề An, người từng nhiều lần gây khó dễ, hắn cũng không hạ sát, chỉ lệnh nàng không được tham dự triều chính, còn những đãi ngộ khác vẫn được giữ nguyên.

Hắn là đứa trẻ được sinh ra với tội nghiệt của phụ thân, dưới sự dạy dỗ tận tâm của mẫu thân, di mẫu và các bậc trưởng bối, cùng giáo huấn nghiêm cẩn của người làm thầy là Lư Hoài, đã học được cách cho dù đau khổ đến đâu cũng không được oán hận bất kỳ ai. Những năm tháng tuổi thơ đầy sóng gió và lo sợ dần qua đi, cuối cùng hắn cũng đón lấy thời khắc rực rỡ thuộc về mình.

Sau khi Nữ đế băng hà, những việc bà từng làm vì Lý Trưng đều được Lư Hoài thuật lại một cách chân thực. Khi Lý Trưng còn nhỏ, bề ngoài Nữ đế tỏ ra không hề quan tâm, nhưng thực chất lại âm thầm truyền lệnh cho Nội thị tỉnh, dù là ai cũng không được phép bạc đãi mẹ con hắn.

Khi cung Thang Tuyền đột nhiên bốc cháy, bề ngoài Nữ đế không tra xét, nhưng nửa tháng sau, Vĩnh vương họ Khương, người đang rất được Thánh sủng, bỗng chốc thất thế, bị tống vào ngục tra hỏi, cuối cùng bị ép chết trong nhà lao. Từ đó, họ Khương im hơi lặng tiếng, không còn dám nhúng tay vào chuyện của Lý Trưng nữa.

Lần Lý Trưng tuần tra đường thủy chẳng may nhiễm bệnh, bệnh tình phát tác dữ dội, Nữ đế liền lệnh cho năm ngự y trong cung ngày đêm không nghỉ, lập tức đến Trác quận để chữa trị cho hắn.

Đó là chưa kể đến những đêm hắn xử lý chính sự tại cung Đại Minh, tập trung phê duyệt tấu chương dưới ánh đèn, thức trắng suốt đêm, thì cũng là bấy nhiêu lần Nữ đế tóc đã bạc trắng, chống gậy đứng ngoài cửa sổ, xuyên qua lớp màn cửa lụa mỏng, lặng lẽ dõi theo bóng dáng thiếu niên gục đầu viết chữ. Bà không dám đối diện với hắn, nhưng điều đó không có nghĩa là bà không thương yêu hắn.

Lý Trưng mặc tang phục, nước mắt tuôn rơi, giờ đây hắn mới hay, hóa ra tổ mẫu đã yêu thương hắn đến nhường nào. Bà để lại cho hắn giang sơn Đại Chu, để lại cho hắn bậc hiền thần phụ tá, để lại lòng dân thiên hạ… Thế nhưng, hắn lại chẳng còn cơ hội để thốt lên một lời cảm tạ.



Nữ đế băng hà, để lại một phong di chiếu, trong đó có một điều lệnh khiến triều thần chấn động: thu nhận con gái của Tư mã Dương Châu, Đỗ Chẩm Nguyệt, làm nghĩa nữ, phong làm công chúa Vạn An, lại còn ban cho vợ chồng nàng hai tấm Đan thư thiết khoán.

Chúng thần đều sửng sốt, bởi lẽ Đỗ Chẩm Nguyệt chỉ từng diện kiến Nữ đế một lần duy nhất vào ngày thành hôn của mình, cũng chính là một ngày trước khi Nữ đế băng hà. Chỉ có một lần gặp gỡ thoáng qua, vì cớ gì Nữ đế lại phong nàng làm công chúa, còn ban cho nàng đặc ân cao quý đến vậy?

Có cung nhân lớn tuổi tiết lộ nguyên do: dung mạo của Đỗ Chẩm Nguyệt còn giống ái nữ của Nữ đế, Lý Doanh, hơn cả công chúa Tề An. Hẳn là Nữ đế nhìn thấy nàng, trong lòng nhớ đến người cũ, nên mới dành cho nàng ân huệ trọng hậu như vậy.

Suy cho cùng, nhờ có gương mặt mà công chúa Tề An từng được Nữ đế cưng chiều suốt bao năm. Nay gặp được một người còn giống hơn thế, thu làm nghĩa nữ, lại ban Đan thư thiết khoán, cũng không phải điều quá khó hiểu.

Song, chuyện phong công chúa chỉ là chuyện nhỏ, vấn đề nằm ở chỗ Đan thư thiết khoán vốn là chí bảo trong thiên hạ, làm sao có thể tùy ý ban tặng cho một nữ tử không có công trạng gì?

Thế nhưng, nghĩ đến ân trạch mà tổ mẫu để lại cho gia tộc, Lý Trưng xúc động đến rơi lệ, lòng tràn ngập cảm kích cùng tiếc thương đối với Nữ đế. Vì thế, hắn kiên quyết bác bỏ mọi dị nghị, hạ lệnh tuân theo di chiếu, sắc phong Đỗ Chẩm Nguyệt làm công chúa, ban Đan thư thiết khoán, bảo hộ phu thê nàng bình an trọn đời.



Bảy năm sau.

Trời cao trong vắt, gió nhẹ hiu hiu.

Thôi Tuần ngồi trên thảm cỏ, cách hắn vài bước là một bé gái xinh xắn như ngọc chạm, chừng hơn một tuổi. Bé vịn vào ghế nguyệt nha, miệng líu ríu gọi: “A gia.” Thôi Tuần bật cười: “A gia không bế con đâu, tự mình đi qua đây nào.”

Bé gái ấm ức, đôi mắt tròn xoe ngân ngấn nước, giọng nũng nịu vẫn không ngừng gọi: “A gia.” Nhưng Thôi Tuần vẫn chỉ lắc đầu: “Tự đi qua đây nào.”

Bé con vẫn chưa dám buông tay. Hắn kiên nhẫn dỗ dành: “Giảo Giảo, [1] đừng sợ, a gia đón con mà.”

<i>[1] Giảo Giảo (皎皎): Chữ “Giảo“ này nghĩa là “sáng trong, sáng vằng vặc, sáng ngời.”</i> <i>Nhũ danh của bé con đáng yêu thực sự ~</i>

Nói đoạn, hắn dang rộng cánh tay. Bé gái thấy vậy, lấy hết can đảm buông ghế nguyệt nha, chập chững từng bước nhỏ về phía hắn. Đi được ba bốn bước, bé vấp ngã nhào vào lòng hắn. Thôi Tuần nhẹ nhàng ôm lấy con, vỗ về lưng bé: “A gia đâu có gạt Giảo Giảo, sẽ không để con ngã đâu. Nào, đi thêm vài bước nữa nhé?”

Nói rồi, hắn bế bé lên, đặt trở lại bên ghế nguyệt nha. Lần này, bé dạn dĩ hơn, đi được thêm một bước so với lúc trước, rồi lại lao vào lòng hắn. Lặp đi lặp lại vài lần, từng bước đi của bé càng lúc càng nhiều hơn, trên khuôn mặt nhỏ nhắn chẳng còn vẻ sợ sệt nữa, mà thay vào đó là tiếng cười khanh khách giòn tan. Lần cuối cùng, Thôi Tuần cưng chiều bế con lên, chạm nhẹ vào chóp mũi bé: “Giảo Giảo của a gia thật dũng cảm. Đi nào, chúng ta đi tìm a nương thôi.”

Hắn ôm bé gái, ra khỏi gian phòng, bước vào sân. Lý Doanh đang cùng một bé trai ba tuổi thả diều. Đứa trẻ ấy có gương mặt giống Thôi Tuần đến lạ. Bé gái trong lòng Thôi Tuần vừa nhìn thấy Lý Doanh liền vươn tay, gọi: “A nương”, đòi nàng bế.

Hai đứa trẻ này chính là cốt nhục của Thôi Tuần và Lý Doanh. Bảy năm trước, sau khi Nữ đế băng hà, Lý Trưng đăng cơ, vì cảm kích Thôi Tuần đã hết lòng tranh biện, giúp y trong việc lập trữ, nên vô cùng coi trọng hắn. Thôi Tuần xuất thân Trạng nguyên, ban đầu được phong chức Quốc tử Tứ môn Tiến sĩ cửu phẩm, sau đó không ngừng trui rèn. Giờ đây, mới hai mươi ba tuổi, hắn đã là Lại bộ Thị lang hàm tứ phẩm, tốc độ thăng tiến này quả thực không thể coi là chậm.

Sau khi được phong làm công chúa, nhờ có Thôi Tuần ở bên bầu bạn, Lý Doanh dần vượt qua nỗi đau mất mẹ. Dù trên danh nghĩa nàng chỉ là nghĩa nữ của Nữ đế, nhưng vẫn tự nguyện giữ tang ba năm. Hai đứa trẻ của nàng, đều ra đời sau khi mãn tang.

Lý Doanh đón lấy bé gái từ trong lòng Thôi Tuần, dịu dàng hỏi: “Hôm nay Giảo Giảo đã tự đi được mấy bước rồi?”

Giảo Giảo mới một tuổi, ngoài hai tiếng “A nương” và “A gia”, còn chưa nói được gì khác. Anh trai của bé bỗng làm mặt quỷ, cười trêu: “Giảo Giảo nhát gan lắm ạ, chắc chẳng dám bước lấy một bước nào đâu.”

Giảo Giảo vừa trông thấy mặt quỷ liền mếu máo, rồi òa khóc.

Thôi Tuần bất đắc dĩ: “Bùi Tiễn, nếu con còn dọa muội muội nữa, a gia sẽ đánh đòn con đấy!”

Trước khi Bùi Tiễn chào đời, Thôi Tuần từng có vô số đêm thao thức vì kích động, chỉ mong con nhanh chóng ra đời để hắn có thể yêu thương, bảo bọc, tận tâm làm một người phụ thân tốt. Nhưng đến khi thật sự có con rồi, hắn mới nhận ra, có những lời không nên nói quá sớm.

Bùi Tiễn cứ như một tiểu ma vương, hoạt bát nghịch ngợm, cả ngày không chịu ngồi yên, hoàn toàn trái ngược với tính cách của Thôi Tuần. Hắn đã nhẫn nhịn hết lần này đến lần khác, nhưng cuối cùng vẫn không nhịn được phải quất mấy roi. Bùi Tiễn vốn sợ hắn, mỗi khi bị quở trách đều le lưỡi rồi ngừng ngay, không dám tiếp tục trêu em gái nữa.

Lý Doanh vừa dỗ dành Giảo Giảo, trong lòng vừa buồn cười lại vừa tức giận. Nàng gõ nhẹ lên đầu Bùi Tiễn: “Lần nào cũng vậy, cứ phải đợi a gia trách phạt con mới mới chịu thôi.”

Bùi Tiễn ôm đầu, phụng phịu lẩm bẩm: “Lần nào a nương cũng thế.”

Nàng nhướn mày: “Cũng thế là sao?”

Bùi Tiễn lớn tiếng nói: “Mỗi lần a gia trách phạt Tiễn nhi, a nương đều đứng về phía a gia. A nương chỉ thương trượng phu của mình, không thương con trai của mình.”

Đứa trẻ ba tuổi vừa nói vừa tủi thân đến mức hai mắt ầng ậc nước, Lý Doanh không khỏi cạn lời: “Nghe ai nói vậy? A nương không thương con khi nào chứ?”

Thôi Tuần trầm giọng: “Nói lại lần nữa.”

Bùi Tiễn bị hắn dọa đến òa khóc, con diều trong tay cũng rơi xuống đất. Lý Doanh lắc đầu: “Tám phần là tin lời công chúa Vinh Xương rồi.”

Công chúa Vinh Xương là đích nữ của Hoàng đế, bằng tuổi Bùi Tiễn. Đương kim Hoàng đế tính tình trầm ổn, nhưng Hoàng hậu lại phóng khoáng, sinh ra công chúa Vinh Xương cực kỳ lanh lợi, ba ngày không bị đánh là lại trèo lên nóc nhà. Công chúa Vinh Xương và Bùi Tiễn rất hợp nhau, thường xuyên cùng chơi đùa, cùng nghịch ngợm, nhưng thỉnh thoảng cũng giận dỗi, giận chưa được hai canh giờ lại làm hòa, dính lấy nhau như hình với bóng, chẳng khác gì một đôi oan gia.

Bùi Tiễn vừa khóc vừa nói: “Vinh Xương bảo rằng chưa từng thấy phu thê nào như a gia và a nương, thành thân nhiều năm mà vẫn ân ái như vậy. Bạn ấy còn nói, a nương chỉ thương a gia, không thương Tiễn nhi…”

Câu này, nếu chỉ nghe nửa sau, cũng không hẳn là lời xấu.

Bùi Tiễn vừa khóc, Giảo Giảo liền không khóc nữa, mà chỉ chớp chớp đôi mắt tò mò nhìn anh trai khóc đến lem nhem như mèo hoa. Lý Doanh liền đặt Giảo Giảo vào lòng Thôi Tuần, sau đó nhặt con diều dưới đất lên, dỗ dành con trai: “Vinh Xương nói sai rồi. A nương thương a gia, nhưng cũng thương Tiễn nhi nữa. Trong lòng a nương, Tiễn nhi là quan trọng nhất, quan trọng nhất đây này.”

Bùi Tiễn nắm chặt con diều, nức nở: “Thật không ạ?”

“Thật.” Lý Doanh xoa đầu con: “Chứ chẳng nhẽ a nương lại lừa con?”

Nàng nghiêng đầu, liếc nhìn Thôi Tuần đầy trách móc, dường như trách hắn quá nghiêm khắc, dọa sợ con rồi. Thôi Tuần không còn cách nào khác, vừa ôm Giảo Giảo, vừa nói với con trai: “Tiễn nhi, nếu con không khóc nữa, a gia sẽ dẫn con đi cưỡi ngựa.”

Vừa nghe đến cưỡi ngựa, Bùi Tiễn lập tức phấn chấn, nín khóc ngay: “Được! Con muốn cưỡi ngựa!”

Tốc độ hết dỗi này khiến Thôi Tuần suýt hoài nghi vừa rồi có phải mình đang nằm mơ hay không.

Nhưng đã hứa với con thì phải làm.

Thế nên, hưu mộc mười ngày mới có một lần của Thôi Tuần cứ thế trôi qua vèo vèo. Buổi sáng dạy con gái tập đi, buổi chiều dẫn con trai cưỡi ngựa.



Đêm xuống, svất vả lắm mới dỗ hai đứa nhỏ đi ngủ, Lý Doanh hôn nhẹ lên bầu má của Bùi Tiễn và Giảo Giảo, lúc này mới có chút nhàn rỗi để cùng trượng phu trò chuyện. Nàng chống tay, ngắm nhìn hai đứa con đang say ngủ, khóe môi bất giác cong lên: “Thập Thất Lang, chàng xem, bọn trẻ đáng yêu biết bao.”

Những đứa trẻ đáng yêu này, là do nàng sinh ra.

Không ngờ nàng lại có thể sinh ra hai đứa trẻ đáng yêu đến thế.

Lý Doanh cứ ngắm mãi không chán. Bùi Tiễn vừa nằm mơ vừa lầu bầu một tiếng, vô thức đá chăn qua một bên. Thôi Tuần cẩn thận đắp lại cho con, còn Giảo Giảo thì ngủ rất ngoan, chẳng buồn cử động. Hắn nhìn hai đứa trẻ, bật cười: “Lúc ngủ nhìn đáng yêu hơn hẳn.”

Lý Doanh khẽ cười, nhẹ giọng trách: “Chàng nói thế thì khác nào cứ tỉnh dậy là không còn đáng yêu nữa?”

Thôi Tuần suy nghĩ một chút rồi đáp: “Tuy có hơi ồn ào, nhưng phần lớn thời gian vẫn rất đáng yêu.”

Vậy nên, chỉ cần có chút rảnh rỗi, hắn thà ở bên con cái, tự mình dạy chúng đi đứng, dạy chúng cưỡi ngựa bắn cung, chứ không giao phó cho nô bộc. Hắn không muốn bỏ lỡ bất cứ khoảnh khắc trưởng thành nào của con mình.

Lý Doanh cũng không khác gì hắn.

Nàng mỉm cười, chui vào lòng trượng phu, vòng tay ôm lấy eo hắn: “Được rồi, chàng đã dành thời gian cả ngày cho con, bây giờ đến lượt ta rồi.”

Hai người tựa vào nhau, y hệt lúc mới thành thân, thủ thỉ những lời tâm tình. Cứ thế trò chuyện một lúc, tiếng trống canh hai đã vang lên. Lý Doanh lưu luyến nói: “Ngủ thôi, ngày mai chàng còn phải vào triều.”

Thôi Tuần mỉm cười, cúi đầu hôn lên môi nàng: “Minh Nguyệt Châu, chúng ta còn cả một đời bên nhau.”

“Ừ, chúng ta còn cả một đời.”

Lý Doanh nép vào lòng hắn, bên cạnh là hai đứa trẻ đang ngủ say, khung cảnh này thật quá đỗi viên mãn. Trong thoáng chốc, nàng chợt nhớ đến cha mẹ của mình.

Nàng thầm thì trong lòng: A gia, a nương, hai người có thấy không? Minh Nguyệt Châu đã làm mẹ rồi. Minh Nguyệt Châu bây giờ, thật sự rất hạnh phúc. A gia, a nương ơi, Minh Nguyệt Châu cảm ơn hai người.

Nguyện kiếp sau của hai người cũng được hạnh phúc như Minh Nguyệt Châu vậy.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 171: Ngoại truyện Thiên Uy quân: Một vài chuyện cũ (Thượng)


<i>*Ngoại truyện 171-172 về Thiên Uy quân được viết dưới góc nhìn của Thịnh A Man, phần dẫn truyện mình sẽ gọi Thôi Tuần là “y”.</i>

Trên chiếc xe lừa, A Man ôm chặt bọc hành lý, ngồi cùng vài vị nương tử trẻ tuổi. Các nàng đều đi thăm trượng phu, còn nàng thì đến thăm a huynh.

Từ sau khi Thịnh Vân Đình nhập ngũ, hắn hiếm khi trở về Trường An. Nàng ngày đêm mong nhớ, lần này liền cùng vài người đồng hương vượt ngàn dặm đường xa đến Thanh Châu.

Trong xe lừa, các nương tử ríu rít trò chuyện, ai nấy đều háo hức vì sắp gặp lại trượng phu. Giữa lúc cười nói rôm rả, nương tử nhà họ Trương bất chợt quay sang hỏi: “A Man, muội vẫn chưa đính thân đúng không?”

“Dạ, vẫn chưa.”

“Thiên Uy quân thiếu gì chứ không thiếu đàn ông. Lần này muội đến thăm a huynh, nhân tiện bảo huynh ấy chọn cho muội một người tốt trong quân rồi đính thân luôn đi.”

A Man lập tức đỏ bừng mặt: “Muội chỉ đến thăm a huynh, chuyện khác, muội không nghĩ tới.”

“Ôi chao, muội đã mười bốn rồi, cũng đến tuổi định thân rồi đấy. Nếu không nhờ a huynh lo liệu, chẳng lẽ muội định để đám thúc bá nhà họ Thịnh sắp đặt cho sao?” Nương tử nhà họ Trương bĩu môi: “Toàn lũ trọng giàu khinh nghèo.”

A Man mím môi, khẽ nói: “Mấy năm qua, nếu không nhờ các tẩu tẩu giúp đỡ, có lẽ muội đã bị bọn họ bán đi rồi.”

“Đừng nói vậy. A huynh muội là huynh đệ đồng sinh cộng tử với trượng phu bọn ta, muội chính là muội muội của chúng ta, tất nhiên bọn ta phải giúp đỡ rồi.”

A Man nở nụ cười, gật nhẹ đầu: “Vâng!”



Sau gần hai tháng rong ruổi đường dài, cả nhóm người cuối cùng cũng đặt chân đến Thanh Châu. Thịnh Vân Đình, huynh trưởng của A Man, đích thân dẫn người ra nghênh đón. A Man nắm lấy cánh tay huynh trưởng, từ trên xe lừa nhảy xuống, phủi nhẹ bụi bám trên y phục rồi than thở: “Cuối cùng cũng đến nơi.”

Thanh Châu quả thực xa xôi quá.

Thịnh Vân Đình nắm lấy vai nàng, từ trên xuống dưới quan sát hồi lâu, vành mắt đỏ hoe: “A Man lớn rồi, càng lớn càng giống a nương, xinh đẹp y hệt.”

A Man thẹn ngùng cúi đầu. Lúc này, nương tử nhà họ Trương vừa đoàn tụ với hôn phu, quay sang nhanh nhảu nói: “Vân Đình a huynh này, trên đường đến đây, bọn ta đã bàn bạc với A Man, bảo huynh tìm giúp muội ấy một chàng trai tuấn tú trong quân doanh, định sẵn hôn sự. Muội ấy còn ngượng ngùng đấy, chuyện này huynh phải lưu tâm đấy nhé!”

A Man đỏ bừng cả mặt, vội vàng ngắt lời nương tử nhà họ Trương: “Trương gia tẩu tẩu, đừng nói nữa…”

Nhưng Thịnh Vân Đình lại cười sảng khoái: “Tìm một chàng trai trong quân sao? Chuyện này thì có gì là khó? Cứ giao cho ta!”

A Man ôm mặt: “A huynh, nếu huynh còn nói nữa, muội sẽ quay về Trường An đấy!”

Thịnh Vân Đình cười phá lên: “Được rồi, được rồi! A Man ngại rồi, không nhắc nữa, không nhắc nữa.”

Mọi người đang vui vẻ cười đùa thì chợt nghe tiếng vó ngựa vang lên. A Man cùng mấy vị nương tử vô thức ngoảnh lại, chỉ thấy không xa có một thiếu niên khoác giáp Minh Quang màu vàng, cưỡi trên lưng tuấn mã màu trắng, đang phi thẳng về phía quân doanh.

Nàng nên dùng từ gì để hình dung thiếu niên đó đây? A Man vốn không đọc nhiều sách, cố gắng suy nghĩ cũng chẳng tìm ra từ nào thích hợp. Nàng chỉ cảm thấy so với bất cứ lang quân nào nàng từng gặp, người kia đều xuất sắc hơn hẳn. Đặc biệt là thần thái kiêu ngạo của y, cứ như thân phận còn tôn quý hơn cả quận vương trong hoàng thất.

Nàng nghe thấy Tạ gia tẩu tẩu khẽ thốt lên: “Trời ơi, sao trên đời lại có một tiểu lang quân tuấn mỹ thế này, trông chẳng khác nào thần tiên giáng thế.”

Đúng vậy, phải dùng chữ “tuấn mỹ” để hình dung. Không giống như phần lớn các binh sĩ của Thiên Uy quân, da dẻ rám nắng, thân hình cường tráng, bàn tay thô ráp, y lại sở hữu vóc người cao gầy, nước da trắng như ngọc lạnh. Tư thế cưỡi ngựa của y cũng vô cùng tao nhã, bàn tay nắm chặt dây cương thon dài tinh tế, ngón tay còn đẹp hơn tay nữ nhi. Chỉ nhìn thoáng qua cũng biết đây là đôi tay chưa từng lao động nặng nhọc, móng tay được cắt tỉa sạch sẽ gọn gàng. Nhìn thế nào cũng không giống một binh sĩ xuất thân bần hàn trong Thiên Uy quân, mà trông chẳng khác nào một công tử thế gia cao ngạo tôn quý.

Thiếu niên khẽ liếc về phía các nàng, A Man chỉ cảm thấy đây là đôi mắt đẹp nhất mà nàng từng thấy trong đời. Đuôi mắt của y hơi nhếch lên, con ngươi óng ánh như sóng nước, hình dáng chẳng khác nào cánh hoa đào bung nở giữa ngày xuân. Không biết có phải do vừa rong ruổi trên lưng ngựa hay không, mà nơi khóe mắt y vương một tầng ửng đỏ nhàn nhạt. Cái nhìn ấy khiến đôi mắt y càng thêm phần giống với cánh hoa đào.

A Man cứ thế ngẩn người, thất thần nhìn vào đôi mắt ấy, đến mức ngay cả khi Thịnh Vân Đình lên tiếng, nàng cũng chẳng nghe lọt một chữ.

Thiếu niên gật khẽ đầu với Thịnh Vân Đình cùng nhóm người bên cạnh, sau đó kẹp chân vào bụng ngựa, hướng thẳng vào trong quân doanh. Đợi y đi xa, mấy nương tử mới kịp hoàn hồn. Nương tử nhà họ Triệu ngơ ngẩn hỏi phu quân mình: “Người vừa rồi là ai thế?”

“Đó là Thôi Tuần, tự Vọng Thư, năm nay mới mười lăm tuổi.”

“Trong Thiên Uy quân của chàng cũng có nhân vật tôn quý bậc này sao?” Nương tử nhà họ Triệu cảm thán, “Nhìn cứ như công tử thế gia vậy.”

Huynh trưởng nhà họ Triệu bật cười: “Thì người ta vốn dĩ đã là công tử thế gia, đích tử của danh môn Thôi thị đất Bác Lăng.”

Bác Lăng Thôi thị?

Nhóm nương tửu hít vào một hơi, chẳng phải đó chính là danh môn đệ nhất thiên hạ, đứng đầu sĩ tộc hay sao? Công tử Thôi thị, sao lại xuất hiện trong Thiên Uy quân thế này?

A Man dựng thẳng tai lắng nghe, chỉ nghe huynh trưởng nhà họ Triệu nói về chuyện của Thôi Tuần. Hóa ra y được vị bá phụ nổi danh là “Bạch y Khanh tướng” Thôi tướng công tiến cử vào Thiên Uy quân. Y là người lãnh đạm, khi mới vào quân cũng không thích nói chuyện, sau đó, nhờ Quách soái sắp xếp để y và Thịnh Vân Đình, Tào Ngũ cùng ăn cùng ngủ, cùng sinh hoạt mỗi ngày, dần dà mới khiến y cởi mở hơn.

Nương tử nhà họ Triệu nghe vậy, liền nhìn Thịnh Vân Đình với vẻ thương cảm: “Một công tử tôn quý, tính tình lại lạnh nhạt, hẳn là rất khó chung đụng nhỉ?”

Thịnh Vân Đình cũng cảm thấy buồn cười: “Cũng không hẳn. Thập thất lang ấy à, nhìn thì lạnh lùng thế thôi, thực ra không khó ở chung đâu. Chẳng qua là cậu ấy không dễ dàng mở lòng với ai, nhưng một khi đã thân thiết rồi, cậu ấy sẵn sàng bỏ mạng vì các huynh đệ. Các muội cứ quen cậu ấy rồi sẽ biết, đôi khi, cậu ấy cũng rất đáng yêu.”



Chỉ là, những ngày sau đó ở quân doanh, A Man hoàn toàn không cảm nhận được nét đáng yêu mà a huynh nàng từng nói, bởi lẽ từ đầu đến cuối, Thôi Tuần đều giữ thái độ lạnh nhạt đến mức chưa từng nói với nàng một câu nào.

Không chỉ với nàng, mà với tất cả các nữ tử khác cũng vậy. Dường như y luôn giữ sự cảnh giác cao độ với những người lạ, chưa bao giờ chủ động bắt chuyện với ai. Dường như y cũng rất khó để đặt lòng tin vào bất kỳ ai. A Man thật không tưởng tượng nổi a huynh nàng và những người khác đã làm cách nào để khiến y mở lòng, bởi nhìn từ góc độ đi nữa, đó cũng là một nhiệm vụ bất khả thi.

Chỉ là, dù nàng có hiếu kỳ đến đâu, thì lần này đến đây, mục đích chính vẫn là thăm a huynh, chứ không phải để tìm hiểu về Thôi Tuần. Vì vậy, nàng ép bản thân phải kìm nén sự tò mò, dồn hết tâm tư vào a huynh, trân trọng quãng thời gian ngắn ngủi được ở bên huynh ấy.

Những ngày trong quân doanh vô cùng tẻ nhạt. Vừa canh năm, trời còn tờ mờ sáng, tất cả đã phải điểm danh, sau đó luyện tập suốt cả ngày, mãi đến giờ Dậu mới kết thúc, cứ bảy ngày mới được nghỉ một lần. A Man để ý vị tiểu công tử họ Thôi kia chưa từng vắng mặt điểm danh, lúc luyện tập cũng hết sức nghiêm túc. Dường như y rất giỏi bắn cung, mỗi lần so tài cùng a huynh, mũi tên nào cũng trúng ngay hồng tâm, ngay cả a huynh cũng không thể bì được với y.

A Man thầm nghĩ, nếu cứ tiếp tục như vậy, với gia thế và tài năng của y, sau này nhất định sẽ trở thành một vị tướng còn lợi hại hơn cả Quách soái.

Trong khi nàng bận để tâm đến Thôi Tuần thì Thịnh Vân Đình lại bận rộn tìm cho nàng một mối duyên trong quân doanh. Theo lời a huynh nàng, binh sĩ trong Thiên Uy quân đều là những hảo hán đáng tin cậy, nàng chọn ai cũng được. Vì thế, huynh ấy dẫn theo mấy người đến ra mắt nàng, nhưng nàng chỉ ậm ừ cho qua. Rất nhanh, ngày nàng phải trở về cũng sắp đến, thế mà vẫn chưa chọn được ai. Dù có chút tiếc nuối, nhưng Thịnh Vân Đình vẫn tôn trọng quyết định của nàng.

Hôm trước ngày về, đúng dịp quân doanh được nghỉ ngơi, Tào Ngũ lang rủ nàng đi dạo chợ phường. Tào Ngũ lang lớn hơn nàng một tuổi, khuôn mặt bầu bĩnh, tính cách hào sảng, lại cùng là người Trường An. Thịnh Vân Đình vốn định tác hợp cho hai người, nhưng tiếc rằng đầu óc Tào Ngũ lang lúc nào cũng chỉ nghĩ đến đao thương cung kiếm, hoàn toàn không vướng bận chuyện tình cảm, ngốc nghếch như khúc gỗ. Thịnh Vân Đình đành bó tay, quay sang tìm người khác cho nàng.

Chợ phường náo nhiệt, hàng quán san sát, có tiệm buôn ngựa lạc đà, cửa hàng hương liệu, sạp bán vải vóc… A Man cũng muốn xem thử chợ ở Thanh Châu có gì khác so với chợ Đông Tây ở Trường An hay không, thế nên lập tức đồng ý.

Lúc cả nhóm đang chuẩn bị xuất phát, vì Tào Ngũ lang thân thiết với Thôi Tuần nên chuyện gì cũng không quên kéo y theo. Vì vậy, cậu cũng lớn tiếng gọi Thôi Tuần cùng đi. Thôi Tuần vốn không có hứng thú với chợ phường, nên đã thẳng thừng từ chối. Tào Ngũ lang bị từ chối nhưng vẫn hào hứng, cười hì hì nói: “Thập Thất lang, đi cùng đi! Biết đâu lại tìm được loại sáp bôi dây cung thật tốt cho cây cung sắt của huynh đấy.”

Dây cung của cây cung sắt đã hơi sờn, đúng là cần phải dùng sáp để bảo dưỡng. Nghe vậy, Thôi Tuần thoáng trầm ngâm, rồi khẽ gật đầu.

Nhìn cảnh ấy, A Man cuối cùng cũng hiểu vì sao Thôi Tuần lại chịu mở lòng với Tào Ngũ lang và những người khác. Gặp cảnh bị từ chối hết lần này đến lần khác mà vẫn giữ nguyên sự nhiệt tình như chưa có gì xảy ra, e rằng trên đời này chỉ có mỗi mình Tào Ngũ lang làm được.

Thấy Thôi Tuần đồng ý, Tào Ngũ lang hết sức vui mừng, liền kéo y đi, cả nhóm cùng nhau đến chợ phường trong thành Thanh Châu.



Chợ phường náo nhiệt vô cùng, trừ lụa là và vàng sắt không được bày bán, còn lại thứ gì cũng có. Song, khác với chợ Đông và chợ Tây của Trường An, chợ phường ở Thanh Châu có nhiều người Hồ hơn hẳn. Ngoài Hồ thương, còn có người dân từ các bộ lạc biên cương dắt ngựa, lùa dê đến trao đổi hàng hóa. Bốn phía ngập tràn những loại ngôn ngữ khác nhau, A Man hứng thú nhìn đông ngó tây, trong khi Thôi Tuần chỉ một lòng đi tìm loại sáp bôi dây cung, Tào Ngũ cũng chạy theo giúp y.

Cả hai còn chưa tìm ra sáp bôi thì A Man chợt trông thấy một cây trâm gỗ. Cây trâm được chạm khắc hình đóa sen, từng cánh hoa, nh** h** đều tinh xảo sống động y như thật. Nàng len lén liếc sang Thôi Tuần đang mải mê tìm sáp, nhớ tới lời huynh trưởng từng nói, y có một biệt danh khác là “Liên Hoa Lang”, nhưng dường như không mấy thích cái tên này.

Dù sao đi nữa, y cũng là đàn ông, có ai lại muốn mang tên của một đóa sen kia chứ.

Có lẽ với y, đó là sỉ nhục.

Nhưng A Man lại cảm thấy, lấy hoa sen làm tên, kỳ thực cũng hợp với y lắm. Một là, dung mạo y còn đẹp hơn cả hoa sen. Hai là, hoa sen mọc lên từ bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, thanh khiết không gì sánh bằng. Dù y có dáng vẻ tuyệt mỹ biết bao, thì cũng chưa từng dựa vào vẻ bề ngoài để làm chuyện phóng túng, đối với các tiểu nương tử cũng chẳng hề khoe mẽ, giữ mình trong sạch, chẳng phải rất giống với hoa sen sao?

Chỉ là, những điều này, nàng cũng chỉ dám nghĩ thầm trong lòng, chứ không dám thốt ra trước mặt y.

Nàng đứng yên trước quầy hàng bày trâm sen, chần chừ không nỡ bước đi. Tào Ngũ thấy thế liền ghé mắt nhìn: “Ồ, trâm gỗ này đẹp đấy, chạm hình gì thế? Hoa đào à?”

A Man nắm chặt thân cây trâm trong tay: “…Ừm, là hoa đào.”

Tào Ngũ thấy nàng mãi chưa mua, tưởng nàng tiếc tiền, bèn hào phóng rút tiền ra định mua giúp. A Man vội vã từ chối, tuy không dư dả là bao, nhưng bổng lộc của Thịnh Vân Đình đều gửi cả cho nàng, trâm sen này, nàng vẫn tự mua được.

Nàng trộm nhìn về phía Thôi Tuần. Y vẫn đang tập trung xem sáp cung ở sạp hàng đối diện, không hề hay biết chuyện bên này. A Man bèn hỏi giá, nhanh chóng chốt mua cây trâm, rồi ung dung giấu kỹ vào ống tay áo.



Khi đoàn người chuẩn bị hồi doanh, bỗng nghe thấy một trận huyên náo. Tào Ngũ vốn thích những nơi đông người tụ tập, bèn kéo Thôi Tuần đi tìm xem có chuyện gì. Đi đến nơi thì thấy một nhóm thương nhân Thổ Phồn [1] bày bố lôi đài, mời người Đại Chu bước lên tỷ thí.

<i>[1] Thổ Phồn (chữ Hán: 吐蕃, bính âm: Tǔbō, tiếng Tạng: བོད་ཆེན་པོ།, THL: Bö chen po), hoặc Đại Phồn quốc (chữ Hán: 大蕃国, bính âm: Dàbō guó), là một đế quốc của người Tạng tồn tại từ thế kỷ thứ 7 tới thế kỷ thứ 9, sau khi thống nhất các quốc gia cổ đại tại cao nguyên Thanh Tạng, lãnh thổ thời cực thịnh trải dài tại Đông Á, Trung Á và Nam Á ngày nay. Nguồn chú thích Wikipedia.</i>

<i>Thổ Phồn và Đột Quyết khác nhau nhé mọi người. </i>

Gã thương nhân Thổ Phồn cầm đầu cao giọng nói rằng, nghe đồn ở Đại Chu, văn có đấu văn, võ có võ đấu, gã ta văn võ song toàn, nên ai thắng được gã cả võ lẫn văn thì năm trăm lượng hoàng kim này, gã xin dâng tặng.

Năm trăm lượng hoàng kim, quả là một con số trên trời. Dưới đài, một hán tử có dáng vẻ du hiệp nghe xong thì lòng ngứa ngáy, liền nhảy lên đài, muốn cùng thương nhân Thổ Phồn kia so tài một phen.

Tào Ngũ xem mà thích chí vô cùng, còn Thôi Tuần lại chẳng mấy hứng thú, chỉ dửng dưng nói với cậu: “Trời sắp tối rồi, đi mau kẻo lỡ điểm danh sáng mai.”

“Chờ đã, xem thêm chút nữa đi.”

Tào Ngũ không buồn nhúc nhích, Thôi Tuần đành bất lực: “Huynh không đi thì ta đi trước.”

Tào Ngũ đang căng cổ nhìn lên đài xem người ta đấu văn thế nào, nào có chịu đi: “Vậy huynh cứ đi đi. Đám người Hồ này kiêu căng ngạo mạn, ta phải tận mắt nhìn cảnh bọn chúng phải ói ra năm trăm lượng vàng mới được!”

Trong lúc hai người họ nói chuyện, A Man vẫn lặng lẽ dỏng tai nghe ngóng. Nàng thầm nghĩ, với tính cách thờ ơ của Thôi Tuần, nhất định y sẽ mặc kệ bỏ đi, nhưng mấy binh sĩ Thiên Uy quân bên cạnh nàng lại có vẻ như đã quá quen, chẳng ai tỏ ra sốt ruột cả.

A Man bèn ghé tai, hỏi nhỏ một binh sĩ Thiên Uy quân đứng gần: “Huynh không khuyên hai người họ sao?”

Người kia liếc về phía Tào Ngũ và Thôi Tuần: “Không việc gì phải khuyên cả, Thập Thất lang sẽ không đi trước đâu.”

“Tại sao?”

“Tào Ngũ quá bốc đồng, không đời nào y để cậu ấy lại một mình, nên sẽ không đi.”

Không yên tâm về Tào Ngũ? A Man thoáng kinh ngạc. Nhìn kiểu gì, Thôi Tuần cũng chẳng giống người cẩn thận chu đáo, càng không phải người biết nghĩ cho ai. Hơn nữa, từ khi nàng gặp họ đến nay, chỉ thấy Tào Ngũ một mực quấn quýt hồ hởi với Thôi Tuần, chứ chưa thấy Thôi Tuần đối xử ngang bằng với Tào Ngũ. Y sẽ không đi thật sao?

Nhưng quả nhiên, Thiên Uy quân kia đã nói đúng. Thôi Tuần không bỏ đi, mà chỉ thở dài một hơi, sau đó, như thể cam chịu số phận, đứng lại bên cạnh Tào Ngũ đang kích động dõi theo trận tỷ thí, thậm chí chẳng buồn bước lấy một bước.

Vậy thì… có lẽ y cũng không hẳn là người quá lạnh lùng?



Trên lôi đài, du hiệp Đại Chu nhảy lên trước tiên, cất tiếng hỏi: “Đấu văn thế nào? Đấu võ ra sao?”

“Đấu văn ấy à, đương nhiên là so tài bút mực.” Thương nhân Thổ Phồn chỉ về tấm bảng gỗ dựng sẵn phía trước, nói bằng tiếng Hán không mấy thuần thục: “Dùng kiếm thay bút, ai viết xong một chữ trước thì người đó thắng.”

Du hiệp nghe xong, thầm nghĩ trò này quá đỗi đơn giản, liền đáp: “Được! Năm trăm lượng hoàng kim, không được nuốt lời!”

Thương nhân Thổ Phồn nhoẻn cười tự tin, ném cho hắn một thanh kiếm. Du hiệp bắt lấy, định tiến đến trước bảng gỗ, nhưng vừa nhấc chân đã bị đối phương vung kiếm chặn lại. Hắn trợn mắt: “Ngươi có ý gì?”

“Chỉ viết chữ thôi thì còn gì thú vị nữa.” Thương nhân Thổ Phồn vung kiếm, thế kiếm ào ạt như mãnh hổ giương vuốt: “Phải viết được chữ dưới lưỡi kiếm của đối thủ, thế mới gọi là bản lĩnh!”

Du hiệp bừng bừng lửa giận. Hắn vốn tinh thông vài đường kiếm pháp, nào có sợ gì một thương nhân Thổ Phồn? Thế là cả hai lao vào giao đấu, từng đường kiếm đan xen, vừa đấu vừa ép sát đến gần tấm bảng gỗ. Kiếm pháp của du hiệp thì uyển chuyển, trong khi kiếm pháp của thương nhân Thổ Phồn lại mạnh mẽ. Nhưng chỉ sau vài chiêu, du hiệp đã dần rơi xuống thế hạ phong.

Dưới đài, Thôi Tuần thoáng nhíu mày, thân thủ thế này, lẽ nào chỉ là nhà buôn đơn thuần thôi sao?

Ngay trong khoảnh khắc y đang trầm tư, du hiệp bị đánh bại. Hắn bị đối phương đá thẳng vào ngực, lảo đảo ngã khỏi lôi đài. Cùng lúc đó, thương nhân Thổ Phồn vung kiếm, khắc từng nét lên mộc bài ba chữ to rõ: “Hai chân dê.”

Dưới đài lập tức xôn xao. “Hai chân dê“ là từ mà người Hồ từng dùng để sỉ nhục người Hán vào thời Ngũ Hồ loạn Hoa, ám chỉ cảnh bao nhiêu người Hán đã bị biến thành món ăn trên bàn tiệc của chúng. Hành động này của thương nhân Thổ Phồn rõ ràng là đang khiêu khích Đại Chu!

Tào Ngũ giận đến dựng tóc gáy, chẳng nghĩ ngợi gì đã định nhảy lên lôi đài. Nhưng vừa cử động, đã bị Thôi Tuần kéo lại. Cậu tức tối quát: “Đừng cản ta!”

Thôi Tuần quát lại: “Huynh biết viết chữ không?”

Tào Ngũ sững người. Cậu vốn mù chữ, sau khi vào Thiên Uy quân, nhờ Quách Cần Uy nhấn mạnh rằng quân sĩ Thiên Uy quân không thể không biết chữ, cậu mới bắt đầu học. Nhưng đến tận bây giờ, cùng lắm chỉ biết nhận mặt chữ, chứ chưa thể viết được trọn vẹn.

Cậu cắn răng: “Lẽ nào cứ để mặc hắn ta ngang ngược như vậy sao?”

Thôi Tuần trầm giọng: “Ta lên!”



Y nhặt thanh trường kiếm rơi dưới đất của du hiệp kia, tung người nhảy lên lôi đài. Hồ thương Thổ Phồn vừa thấy đó là một thiếu niên trắng trẻo tuấn tú, lập tức sinh lòng khinh thị, cất giọng chế giễu: “Đại Chu không còn ai nữa sao? Lại để một thiếu niên chưa đến tuổi cập quan lên đây đối địch?”

Thôi Tuần cười nhạt: “Hừ! Đại Chu anh kiệt tầng tầng lớp lớp, dù chỉ là một thiếu niên chưa đến tuổi cập quan cũng dư sức hạ gục ngươi.”

Hồ thương hừ một tiếng: “Đừng có khoác lác, đừng để đến lúc thua rồi lại khóc lóc chạy về tìm a nương ngươi.”

Thôi Tuần thoáng biến sắc, lời của gã chạm đến nỗi đau thầm kín trong lòng y, ánh mắt liền lạnh đi mấy phần: “Lắm lời, có dám đấu không?”

“Đấu!” Hồ thương đảo mắt nhìn y một lượt từ trên xuống dưới: “Thua rồi thì tính sao đây?”

Nghe vậy, Thôi Tuần cười vang, như thể vừa nghe được một chuyện nực cười nhất trên đời: “Thua? Dựa vào ngươi mà cũng đòi thắng nổi ta sao?”

Giọng cười mang theo vẻ khinh bỉ không chút che giấu, khiến gã thương nhân người Hồ giận sôi gan, quyết tâm phải dạy dỗ cho tên nhãi này một trận ra trò. Gã vung kiếm, đường kiếm hung hãn lao về phía Thôi Tuần.

Thôi Tuần hơi nghiêng người, dễ dàng né khỏi nhát kiếm kia, đoạn siết chặt chuôi kiếm, vung lên bổ thẳng vào mặt gã Hồ thương. Gã lập tức giơ kiếm chống đỡ, nhưng lực đạo của đối phương quá lớn, khiến cả cánh tay cũng tê rần, phải loạng choạng lùi lại hai bước. Hồ thương kinh hãi, không ngờ thiếu niên này lại có sức mạnh đáng gờm đến vậy! Gã không dám khinh suất nữa, lập tức dồn toàn lực giao đấu với Thôi Tuần.

Trên lôi đài, thiếu niên vung kiếm như du long, chiêu nào chiêu nấy sắc bén, ép Hồ thương không ngừng thoái lui. Gã vất vả chống đỡ, song kiếm pháp của Thôi Tuần nhanh như cuồng phong bạo vũ, khiến gã không kịp xoay sở. Lưỡi kiếm lóe sáng, liên tục để lại những vết thương trên người Hồ thương. Gã siết chặt chuôi kiếm, trong lòng đã hoảng loạn, đòn thế cũng trở nên rối loạn.

Thôi Tuần nhìn ra sơ hở, mũi kiếm chạm đất, mượn lực bật lên, lưỡi kiếm sáng như tia chớp bổ xuống cổ tay gã. Hồ thương đau nhói, lập tức buông rơi trường kiếm trong tay.

Kiếm vừa rơi xuống đất, không còn gì ngăn cản, Thôi Tuần lập tức bổ kiếm xuống đầu gã. Hồ thương trợn trừng mắt, hai gối mềm nhũn, sợ hãi đến mức suýt quỳ xuống cầu xin tha mạng. Ngay lúc đó, một tùy tùng cất tiếng hô lớn bằng tiếng Thổ Phồn, rồi ném một thanh đại đao tới. Hồ thương vội chụp lấy, giơ đao đỡ đòn. Nhưng Thôi Tuần đã dồn toàn lực vào nhát kiếm này, lưỡi kiếm bổ trúng chính giữa đại đao, vậy mà lại chém đôi binh khí của gã thành hai mảnh.

Hồ thương lảo đảo mấy bước, ngã sõng soài xuống đất, vô cùng chật vật.

Dưới đài, đám người Hán hô hào vang dội, ai nấy đều lấy làm hả dạ. Có người còn chỉ vào tấm gỗ lớn, bật cười nhạo báng. Hồ thương nhìn theo, chỉ thấy trên tấm gỗ đã được khắc hai nét chữ đầy phóng khoáng: “Hồ cẩu!”

Chữ viết đẹp đẽ hơn gã, kiếm pháp cũng mạnh hơn gã.

Hồ thương giận đến mức thổ huyết, nghiến răng bò dậy, trừng trừng nhìn Thôi Tuần. Trên lôi đài, thiếu niên mười lăm tuổi vẫn mỉm cười, thần sắc ấy vừa ngạo nghễ vừa khinh miệt, hệt như đang nhìn một con sâu cái kiến không chịu nổi một đòn.

Hồ thương hung hăng lau vết máu trên khóe miệng: “Được! Đấu văn ngươi thắng! Nhưng vẫn còn đấu võ!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 172: Ngoại truyện Thiên Uy quân: Một vài chuyện cũ (Hạ)


Thôi Tuần nhếch môi, hờ hững nói: “Đấu võ thì đấu võ. Có điều, nói rõ trước, nếu ngươi thua, đừng khóc lóc chạy về tìm Tán phổ của các ngươi.” [1]

<i>[1] “Tán phổ” (贊普) dùng để chỉ vua của Thổ Phồn (Tây Tạng thời cổ). Đây là danh xưng dành cho quốc vương của vương triều Thổ Phồn, tương tự như “hoàng đế” hay “đại hãn” ở các nền văn hóa khác.</i>

Lời này chẳng khác nào trả đũa câu khiêu khích vừa rồi của gã Hồ thương. A Man nghe vậy, càng thêm hiểu rõ tính tình y. Thiếu niên có dung mạo đẹp như hoa sen này tuyệt đối không phải người rộng lượng, trái lại còn rất thù dai.

Hồ thương suýt nữa thì tức đến phun máu, gằn giọng quát: “Nam nhi Thổ Phồn bọn ta lớn lên trên lưng ngựa, sao có thể thua ngươi được?”

Nghe khẩu khí, xem ra cuộc đấu võ này sẽ quyết định thắng bại trên lưng ngựa.

Hồ thương giơ tay chỉ lên trời: “Thấy không? Ai cưỡi ngựa bắn rơi đại nhạn trên trời trước thì kẻ đó thắng!”

Thôi Tuần cười nhạt, gật đầu dứt khoát: “Được thôi.”



Dưới lôi đài, quần chúng tự động dạt sang hai bên, nhường ra một khoảng đường rộng.

Hồ thương là người ra tay trước, cưỡi ngựa lao vút đi, vung roi thúc ngựa chạy băng băng. Gã giương cung lắp tên, nhắm chuẩn một con nhạn lớn bay ngang trời, rồi buông tay. Mũi tên như sao xẹt lao thẳng lên cao, cắm phập vào thân con chim. Gã Hồ thương ghìm cương, hất cằm về phía Thôi Tuần, hừ lạnh: “Tiểu tử, đến lượt ngươi đấy!”

Nói đoạn, gã xuống ngựa, tiện tay ném cây cung cho Thôi Tuần. Nhưng y chẳng buồn đưa tay đón, mặc kệ cây cung rơi bịch xuống đất. Hồ thương bị bất ngờ, rồi bật cười ha hả: “Sợ rồi à?”

Thôi Tuần thản nhiên đáp: “Cây cung này không ổn.”

Ánh mắt y lướt qua con ngựa của đối phương: “Ngựa này cũng không ổn.”

Hồ thương cứng đờ người, sau đó vừa thẹn vừa giận, quát: “Cây cung này là giác cung của Thổ Phồn ta, nhẹ nhưng chắc chắn, vậy mà ngươi dám chê là không ổn? Ngựa của Thổ Phồn ta, khỏe mạnh béo tốt, so với ngựa Trung Nguyên không biết tốt hơn bao nhiêu lần!”

Thôi Tuần lười đôi co với gã, chỉ cất tiếng gọi: “Tào Ngũ!”

“Đây!” Tào Ngũ hăng hái vỗ lên lưng bạch mã của Thôi Tuần. Con ngựa lập tức phi như bay, mang theo cây thiết thai cung lao về phía Thôi Tuần. Lúc đến gần y, bạch mã lại thong thả dừng bước, ngoan ngoãn cúi đầu để mặc y vỗ về.

Thôi Tuần vuốt nhẹ đầu ngựa, khẽ cười: “Cung ngựa của Trung Nguyên tốt hơn hay của Thổ Phồn tốt hơn, thử rồi sẽ biết.”



Thôi Tuần tay nắm chặt cây cung sắt, nhẹ nhàng tung mình lên lưng ngựa. Hôm nay y không mặc khôi giáp mà chỉ vận trường bào tay bó màu trắng, cổ tròn như Tào Ngũ và những người khác, trên đầu đội một chiếc khăn quấn xanh đen. Y phục giản đơn chẳng chút cầu kỳ, nhưng khi khoác lên người lại toát lên phong thái tiêu sái, tuấn mỹ vô song. Y cầm cung sắt trong tay, ngửa đầu cười vang, dáng vẻ ngông nghênh hào sảng của thiếu niên anh tài khiến bao tiểu nương tử trong thành đều không khỏi đỏ mặt thẹn thùng.

Bạch mã lao vun vút như gió cuốn. Thôi Tuần cầm chắc cung trong tay phải, tay trái rút một mũi tên lông tên từ túi đựng tên, kéo căng dây cung, đặt tên vào. Trên không, một đàn nhạn đang đang xẹt qua tầng mây. Y nheo mắt, kéo cung đến cực hạn rồi thả tay. Chỉ nghe “vút” một tiếng, mũi tên xé gió lao đi, xuyên thẳng bầu trời, bắn trúng đàn nhạn, trong chớp mắt, mũi tên xuyên qua thân nhạn, khiến nó rơi xuống mặt đất.

Một dân phu nhặt con nhạn lên, kinh hô: “Là hai con nhạn!”

Một mũi tên bắn trúng hai con nhạn, hiển nhiên Thôi Tuần đã thắng!

Gã thương nhân người Hồ sững sờ, Thôi Tuần cười nhạt: “Thế nào?”

Dân chúng Đại Chu cũng rộn ràng reo hò: “Năm trăm lượng vàng! Năm trăm lượng vàng!”

Hồ thương sực tỉnh, vội la lên: “Không tính! Không tính!”

Tào Ngũ giận dữ: “Ngươi định lật lọng?”

Hồ thương quay sang Thôi Tuần, nói: “Ngươi bắn trúng hai con nhạn một lúc chẳng qua là nhờ vào may mắn! Chúng ta tái đấu một lần nữa đi!”

“Ồ? Tái đấu thế nào?”

Hồ thương liếc nhìn mấy vò rượu Thanh Khương trong đoàn thương đội: “Thế này đi, mỗi người một vò rượu, nếu ngươi uống cạn rồi vẫn có thể bắn trúng hai con nhạn, ta liền nhận thua!”

Thứ rượu này chỉ cần uống hết một vò đã đủ để người ta say mèm, đừng nói bắn trúng hai con nhạn, ngay cả đứng vững có lẽ cũng không làm nổi. Đây rõ ràng là quỷ kế của Hồ thương, nhưng Thôi Tuần chẳng chút do dự, chỉ gật đầu: “Được! Nhưng đừng có nuốt lời đấy!”



Hồ thương mở nắp vò rượu, ngửa cổ tu ừng ực. Tửu lượng của gã không tệ, uống cạn một vò mà vẫn không hề có dấu hiệu say. Lên ngựa, giương cung, bắn, một con nhạn lập tức rơi xuống. Gã ghìm cương, hất hàm nói với Thôi Tuần: “Đến lượt ngươi.”

A Man có chút lo lắng, hỏi nhỏ Tào Ngũ: “Tửu lượng của Vọng Thư a huynh thế nào? Có khi nào vừa uống đã say không?”

Tào Ngũ cũng thấp thỏm chẳng kém: “Tửu lượng của Thập Thất lang cũng không tệ, nhưng chưa từng thử cưỡi ngựa bắn tên sau khi uống rượu… Hừ, chó người Hồ này, giảo hoạt thật!”

Giữa lúc mọi người còn đang lo ngại, Thôi Tuần đã mở nắp vò rượu Thanh Khương, hương nồng sực lên, giữa mùi rượu còn phảng phất mùi hương lúa mạch. Y hơi nhướn mày: “Rượu ngon.”

Hồ thương đắc ý nói: “Dĩ nhiên! Đây là mỹ tửu trứ danh của Thổ Phồn bọn ta, so với rượu Trung Nguyên các ngươi cũng chẳng hề thua kém!”

Thôi Tuần ngửa cổ uống một ngụm lớn, sau đó đặt xuống vò rượu, đưa tay quệt đi vệt rượu nơi khóe môi, khóe môi khẽ nhếch lên, nở một nụ cười nhàn nhạt: “Thổ Phồn có mỹ tửu, Trung Nguyên cũng có mỹ tửu, bách tính hai bên vốn có thể giao thương, cùng hưởng lợi lộc, người Thổ Phồn được uống rượu Trung Nguyên, người Trung Nguyên cũng có thể thưởng thức rượu Thổ Phồn. Vậy mà có kẻ chỉ vì tư lợi cá nhân, ép bách tính lâm vào cảnh chiến hỏa triền miên. Đáng buồn! Đáng hận!”

Hồ thương đến từ Thổ Phồn bỗng khựng lại. Thôi Tuần không nói thêm gì nữa, chỉ ngửa cổ, nâng vò rượu lên uống cạn. Trời trong gió nhẹ, ráng mây rực đỏ như lửa. Thiếu niên áo trắng nheo mắt, nét cười phảng phất nơi chân mày, khóe mắt. Y ngửa cổ, từng ngụm từng ngụm rượu trôi xuống, toát lên vẻ phóng khoáng bất kham. Khi vò rượu cạn sạch, y vung tay ném mạnh sang bên, vò rượu vỡ nát thành từng mảnh.

Thôi Tuần ngửa đầu cười lớn hai tiếng, huýt sáo một hơi. Con bạch mã lập tức lao vút tới, mang theo cả thiết thai cung. Y lật người lên ngựa, vững tay cầm cung, rút ra một mũi tên lông chim, nheo mắt, giương cung căng tròn như trăng rằm. Mũi tên rít gió bay vút lên không trung, xuyên qua hai con nhạn lớn, khiến chúng rơi thẳng xuống đất.

Đám đông xung quanh đồng loạt hò reo vang dội. Hồ thương đến từ Thổ Phồn trợn mắt há mồm, Thôi Tuần ghìm chặt cương ngựa, ánh mắt mang theo đôi phần men say, hỏi: “Thế nào?”

Lần này, gã Hồ thương người Thổ Phồn thua tâm phục khẩu phục, bèn hỏi: “Các h* th*n thủ cao cường, xin hỏi tôn tính đại danh?”

“Tôn tính đại danh?” Thôi Tuần men say dâng lên, hai gò má đỏ hây hây như mây tía: “Mỗ chẳng qua chỉ là một tiểu tốt ở Thanh Châu mà thôi.”

“Tiểu tốt mà có bản lĩnh thế này sao?”

Thôi Tuần nửa cười nửa không, nhìn thẳng vào gã: “Thanh Châu có hàng chục vạn người Hán, Đại Chu có hàng triệu người Hán. Người như mỗ, ở Đại Chu chỉ như một hạt cát giữa biển trời bao la. Chỉ cần con người còn, sơn hà còn, thì ngay cả lũ dê hai chân cũng có thể xua đuổi đám man di người Hồ các ngươi!”

Đám tùy tùng của Hồ thương người Thổ Phồn chỉ nghe hiểu hai chữ “man di“, lập tức nổi giận, định xông lên. Nhưng Hồ thương kia lại giơ tay ngăn cản. Gã trầm mặc giây lát, sau cùng khẽ gật đầu: “Đa tạ, thụ giáo.”

Nói rồi, gã sai người dâng lên năm trăm lượng hoàng kim. Thôi Tuần chẳng buồn liếc mắt nhìn lấy một lần, chỉ phất tay bảo Tào Ngũ mang đi, chia cho những người dân nghèo khó. Sau đó, y ghìm cương, chậm rãi phóng ngựa về hướng quân doanh, bóng dáng dần khuất trong ánh tịch dương mờ nhạt.

Mãi về sau, Tào Ngũ và những người khác mới biết, thì ra gã Hồ thương người Thổ Phồn kia chính là Xích Tán, con trai thứ hai của Tán phổ nước Thổ Phồn. Mười năm trước, Thổ Phồn bại trận, từ đó phải dâng cống nạp, giao hảo với Đại Chu. Nhưng vương tử Xích Tán lại không phục, lần này tìm đến Thanh Châu chẳng qua là để dò xét thực hư. Không ngờ lại bại dưới tay Thôi Tuần. Qua chuyện này, gã mới hiểu rằng “thiên ngoại hữu thiên, nhân ngoại hữu nhân”. [2] Một thiếu niên mười lăm tuổi đã có bản lĩnh như thế, huống hồ cả Đại Chu?

<i>[2] trên trời còn có trời cao hơn, trên người còn có người giỏi hơn.</i>

Từ đó về sau, vương tử Xích Tán thu lại thói hung hăng, suốt đời không dám xâm phạm Đại Chu nữa.

Có điều, những chuyện này hiện giờ Tào Ngũ và đám binh sĩ đều chưa hay biết. Cả đoàn người phi ngựa thật nhanh, cuối cùng cũng kịp trở về Thiên Uy quân. Ai nấy đều vội vàng rửa mặt qua loa, lập tức ngả lưng nghỉ ngơi, tránh lỡ mất buổi điểm danh ngày mai.



Sáng hôm sau, lại xảy ra một chuyện phiền phức.

Chưa đến canh năm, A Man đã định sang tìm a huynh. Hôm nay, nàng sẽ cùng nhóm nương tử nhà họ Triệu khởi hành về Trường An, nên muốn trò chuyện với a huynh một lúc trước khi đi. Thế nhưng, khi đến trước phòng, nàng lại thấy cửa gỗ mở toang, giữa a huynh và Tào Ngũ dường như đang xảy ra tranh cãi.

A Man tiến lại gần, nghe Thịnh Vân Đình trách mắng Tào Ngũ: “Lúc Thập Thất lang uống rượu, sao đệ không ngăn cản nó? Lại để nó say đến mức này?”

Tào Ngũ cúi đầu ủ rũ, vẻ không cam tâm, nhỏ giọng lẩm bẩm: “Ai bảo đám Hồ cẩu đó quá ngông cuồng…”

“Còn dám cãi! Vậy đệ đi gọi Thập Thất lang dậy cho ta!”

Thấy hai người càng cãi càng to, A Man vội can ngăn: “A huynh, huynh và Tào Ngũ đang làm gì vậy?”

Tào Ngũ thấy nàng thì như vớ được cứu tinh: “A Man muội tử, muội đến đúng lúc lắm! Không ngờ rượu Thanh Khương hôm qua lại thâm hậu như vậy, đến giờ Thập Thất lang vẫn chưa tỉnh, thế nào cũng không chịu dậy. Chỉ còn chút nữa là đến giờ điểm danh rồi, nếu chậm trễ, quân pháp xử trí, lúc đó phải làm sao đây?”

A Man nghe vậy, không khỏi kinh ngạc. Không chịu dậy? Bốn chữ này mà lại có thể liên quan đến Thôi Tuần sao?

Từ khi đến đây, A Man chưa từng thấy Thôi Tuần vắng mặt trong buổi điểm danh nào. Có khi Tào Ngũ còn than thở rằng canh năm điểm danh quá sớm, nhưng Thôi Tuần chưa từng oán thán lấy một lời. Một người tự giác như y… mà cũng có thể nằm ì không chịu dậy ư?

A Man lén nhìn vào trong phòng, chỉ thấy trên chiếc giường đơn sơ, Thôi Tuần quấn chăn kín người, ngủ mê mệt. Có lẽ y còn chưa tỉnh rượu, đôi gò má vẫn phớt hồng như hoa đào, sắc đỏ ửng phản chiếu trên làn da trắng tựa bạch ngọc, khiến dung mạo y càng thêm phần mơ màng thoát tục. A Man lặng người trong thoáng chốc.

Chỉ đến khi Tào Ngũ lên tiếng gọi, nàng mới hoàn hồn: “A Man muội tử, hay là muội thử đánh thức Thập Thất lang đi?”

Thịnh Vân Đình nghe vậy, suýt nữa tức cười đến ngã ngửa: “Ngay cả đệ còn gọi không được, đệ nghĩ muội muội của ta có thể đánh thức Thập Thất lang sao?”

Dứt lời, hắn sải bước đến bên giường, đẩy vai Thôi Tuần: “Thập Thất lang, dậy mau, Quách soái sắp điểm danh rồi!”

Thôi Tuần bị lay tỉnh, mí mắt hơi hé, trong đôi đồng tử vẫn còn lờ mờ chút men say. Y nhìn Thịnh Vân Đình một cái, rồi nhắm mắt lại, ngủ tiếp.

Thịnh Vân Đình dở khóc dở cười: “Thập Thất lang, dậy ngay! Trễ giờ sẽ bị phạt hai mươi quân côn đấy!”

Thế nhưng, Thôi Tuần dường như rất khó chịu vì bị quấy rầy giấc ngủ, bèn kéo chăn trùm kín đầu, quay mặt vào tường, không buồn để ý đến hắn. Thái độ hệt như một thiếu niên mười lăm tuổi bình thường, biết làm nũng, biết giận dỗi, vẫn còn có chút trẻ con.

A Man chưa bao giờ thấy Thôi Tuần như thế, nàng không khỏi ngạc nhiên đến ngây ngẩn. Nhưng với Thịnh Vân Đình và Tào Ngũ, cảnh tượng này lại chẳng lạ lẫm gì. Thịnh Vân Đình thấy gọi mãi không được, đành thở dài: “Thôi vậy, Thập Thất lang, đệ cứ ngủ tiếp đi.”

Tào Ngũ vội hỏi: “Thế còn điểm danh thì sao?”

“Cứ nói với tướng quân rằng Thập Thất lang phát hiện một đoàn thương nhân người Thổ Phồn đáng ngờ trong chợ, đã đuổi theo điều tra, giờ vẫn chưa quay về.”

“Cách này… có ổn không?”

“Ổn, cứ vậy đi.”

Nói xong, Thịnh Vân Đình cũng không quên dặn dò A Man: “A Man, muội trông Thập Thất lang giúp ta.” Rồi cùng Tào Ngũ vội vã đi đến nơi điểm danh.



Thịnh Vân Đình và Tào Ngũ rời đi rồi, A Man cũng không biết phải chăm sóc Thôi Tuần thế nào, hoặc có lẽ, y căn bản chẳng cần nàng chăm sóc. Y kéo chăn trùm kín, ngủ say sưa, đến cả mặt mũi cũng chẳng lộ ra ngoài. Nàng mím môi, nhìn người đang cuộn tròn trong chăn, khóe môi bất giác cong lên. A huynh từng nói, quen biết Thôi Tuần lâu ngày sẽ nhận ra, y không hề lạnh lùng như vẻ bề ngoài, thậm chí đôi khi còn khá đáng yêu. Khi ấy, nàng còn cho rằng a huynh chỉ đùa vui, nhưng lúc này đây… có lẽ là thật.

Thôi Tuần cứ thế ngủ thẳng đến gần giờ Ngọ. Y ngủ rất yên tĩnh, đến mức A Man không khỏi nghi ngờ liệu y có bị ngạt thở trong chăn hay không. Nàng ngồi xếp bằng dưới đất, buồn chán lật xem binh thư trên bàn. Những quyển sách này hẳn đều là của Thôi Tuần, trên đó có bút tích của y, ghi chép những chú giải và quan điểm riêng. Nét chữ của y rất đẹp, là lối hành thảo phải không nhỉ? Nét bút ấy dù bay bổng nhưng lại rất mạnh mẽ, tràn đầy khí thế. Chỉ tiếc, nàng biết không nhiều chữ, nên xem cũng chẳng hiểu mấy.

Nhận ra Thôi Tuần sắp tỉnh, A Man bỗng có chút e ngại. Nàng vội đứng dậy, nhanh chóng rời khỏi phòng, nhưng đi loanh quanh một hồi lại chẳng nỡ rời xa. Nàng đang lưỡng lự thì bắt gặp a huynh cùng Tào Ngũ trở về. Trên tay a huynh còn cầm theo một chiếc bánh hồ. Nhìn thấy nàng, hắn liền hỏi: “A Man, Thập Thất lang đã tỉnh chưa?”

“Chắc là… tỉnh rồi.”

Thịnh Vân Đình gật đầu: “A Man, muội sắp lên đường rồi nhỉ? Ta vào đưa bánh cho Thập Thất lang trước, cả sáng nay cậu ấy chưa ăn gì, hẳn là đói lắm rồi. Chờ lát nữa ta ra tìm muội.”

“Được.” Nàng chần chừ một chút rồi hỏi: “A huynh, Vọng Thư a huynh không đi điểm danh, liệu có sao không?”

“Không sao, ta với Tào Ngũ đã ứng phó xong rồi.”

Dứt lời, Thịnh Vân Đình cùng Tào Ngũ đi vào phòng. A Man nghe thấy ba người trong đó nói chuyện, nhưng chưa kịp nghe rõ thì bỗng thấy một người đàn ông vận khôi giáp, khí phách uy vũ sải bước đến gần.

Nàng sững người, còn người kia khi thấy nàng thì dừng lại, quan sát kỹ lưỡng một hồi rồi cười nói: “Cháu là A Man, muội muội của Vân Đình, đúng không?”

“Dạ…”

Người đàn ông kia bật cười: “Mỗ là chủ soái Thiên Uy quân, Quách Cần Uy.”

Quách Cần Uy? Nghe xong cái tên này, A Man theo bản năng định hành lễ, nhưng bị ông ngăn lại: “Đừng hành lễ, trong Thiên Uy quân, mọi người đều như huynh đệ một nhà.”

Ông lại hỏi: “A huynh của cháu đâu?”

A Man chỉ về phía phòng: “Trong đó ạ.”

Quách Cần Uy gật đầu, đẩy cánh cửa gỗ khép hờ rồi bước vào. Cùng lúc đó, tiếng nói chuyện trong phòng lập tức im bặt.

Thoạt đầu A Man còn lấy làm lạ, nhưng ngay sau đó liền hiểu ra. Vừa rồi a huynh và Tào Ngũ đã lừa Quách Cần Uy, bảo rằng Thôi Tuần đã đuổi theo đoàn thương buôn Thổ Phồn. Vậy nếu ông nhìn thấy Thôi Tuần ở đây, chẳng phải chuyện sẽ bại lộ ngay sao?

Nàng bực bội đến mức tự cốc vào trán mình. Sao nàng lại không nghĩ đến điều này sớm hơn chứ!

Nếu sớm nghĩ ra, thể nào nàng cũng phải ngăn Quách Cần Uy lại.

Nàng vội bước tới bên cửa sổ, lén nhìn vào trong, quả nhiên thấy ba người Thịnh Vân Đình đều quỳ rạp xuống đất, đầu cúi thấp, bộ dạng chẳng dám thở mạnh.

Quách Cần Uy trông có vẻ rất tức giận: “Ta còn đang lo lắng cho Thập Thất lang, có ý sai các cậu đi tìm nó, không ngờ các cậu lại liên thủ dối gạt ta!”

Thôi Tuần rõ ràng đã tỉnh rượu, y lộ vẻ hổ thẹn: “Quách soái, tại cháu tham ngủ làm lỡ mất giờ điểm danh, xin ngài cứ xử phạt theo quân pháp.”

Thịnh Vân Đình vội lên tiếng: “Quách soái, cháu nói dối, muốn phạt thì phạt cháu đi.”

Tào Ngũ cũng nói: “Quách soái, chuyện này không liên quan đến hai người họ. Tại hôm qua cháu kéo Thập Thất lang ra chợ phường uống rượu, nếu không cậu ấy đã chẳng say đến mức này. Hai mươi quân côn đó cứ để cháu chịu cho!”

Quách Cần Uy tức đến bật cười: “Xem ra quân côn của Thiên Uy quân ta vẫn chưa đủ nặng, nên mới có kẻ tranh nhau chịu phạt thế này! Đừng giành nữa, không ai được thoát cả!”

Nghe đến đây, tim A Man thắt lại. Nàng chẳng buồn suy nghĩ thêm, lập tức đẩy cửa xông vào, chạy thẳng vào phòng: “Quách soái, xin đừng phạt a huynh của cháu! Thực ra mọi chuyện đều có nguyên do cả.”

Nàng nói một hơi như trút đậu khỏi ống tre, tóm tắt rõ ràng mọi chuyện.

Nghe xong, sắc mặt Quách Cần Uy cuối cùng cũng dịu lại đôi phần: “Vậy tức là vì tỷ thí với Hồ thương từ Thổ Phồn nên Thập Thất lang mới say rượu, bỏ lỡ điểm danh?”

A Man gật đầu lia lịa: “Đúng vậy, xin Quách soái đừng trách phạt bọn họ.”

Có lẽ nhớ lại cảnh mình buổi sáng lười biếng không chịu rời giường, Thôi Tuần bỗng chốc lúng túng đến mức chỉ hận không thể đào một cái lỗ để chui xuống: “Quách soái, quân lệnh như sơn, đã điểm danh trễ thì vẫn là điểm danh trễ, không có lý do gì cả. Xin Quách soái cứ trách phạt hai mươi quân côn, Thôi Tuần không dám oán thán.”

A Man sốt ruột muốn nói gì đó, nhưng Quách Cần Uy đã quát lên: “Câm miệng! Cậu tưởng đến lượt cậu quyết định ở đây sao?”

Thôi Tuần ngẩn ra, cúi đầu đầy xấu hổ. Quách Cần Uy lại quở trách: “Xương cốt của cậu cứng hơn người khác à? Hay là thích chịu quân côn?”

Tào Ngũ vừa nghe xong, vui mừng nói: “Quách soái, có phải là người định tha cho bọn cháu rồi không?”

Quách Cần Uy trừng mắt với cậu một cái, khiến Tào Ngũ lập tức rụt cổ, cúi đầu, không dám hó hé thêm nửa lời. Trong phòng yên lặng đến mức một cây kim rơi xuống đất cũng có thể nghe rõ. Hồi lâu sau, Quách Cần Uy mới hơi hắng giọng: “Thôi được, dù sao cũng có thể xem mấy đứa như đã giành lại thể diện cho Đại Chu. Hôm nay, ta tạm tha cho cả ba người.”

Tào Ngũ và Thịnh Vân Đình mừng rỡ vô cùng: “Đa tạ Quách soái!”

Thôi Tuần vẫn còn áy náy vì việc trễ giờ điểm danh, Quách Cần Uy thấy vậy bèn nói: “Nhưng mà, tuy có thể miễn phạt hai mươi quân côn, nhưng mấy ngươi các cậu thông đồng lừa gạt ta, tội này không thể bỏ qua, vẫn nên có một chút trừng phạt. Vậy đi, phạt ba người các cậu trực đêm bảy ngày.”

Vốn dĩ bọn họ cũng phải thay phiên trực đêm, hình phạt này thực sự chẳng đáng kể gì. Nhưng với Thôi Tuần mà nói, ít ra cũng khiến y cảm thấy nhẹ nhõm phần nào. Y chắp tay đáp: “Tạ Quách soái.”

Quách Cần Uy hừ lạnh một tiếng, sắc mặt vẫn như cũ, nhưng khi sắp bước ra cửa, ông lại quay đầu nhìn Thôi Tuần, làm như thờ ơ nói: “Bắn trúng hai con nhạn thì có gì đáng khoe khoang? Chiều nay đến võ đài, ta dạy cháu một mũi tên bắn hạ ba con.”

Khóe môi Thôi Tuần cuối cùng cũng cong nhẹ lên, y ôm quyền chân thành đáp lại: “Đa tạ Quách soái!”



Buổi chiều, Thôi Tuần và Tào Ngũ đến võ đài, còn Thịnh Vân Đình thì đưa tiễn A Man. Bên đường cổ đạo, hàng dương liễu rủ bóng lay động trong gió. Thịnh Vân Đình Thịnh Vân Đình quyến luyến không nỡ xa muội muội, hắn đem toàn bộ bổng lộc của mình nhét vào tay A Man: “Muội cầm lấy đi, để dành làm của hồi môn.”

A Man bật cười: “Nhân duyên còn chưa có, sao cần chuẩn bị của hồi môn chứ? A huynh, huynh giữ lại đi.”

Thịnh Vân Đình lắc đầu: “Ta ở đây có cơm ăn, chỗ ngủ, nào có tốn kém gì đâu. Muội cứ cầm lấy.”

A Man không thắng nổi huynh trưởng, đành phải nhận lấy. Thịnh Vân Đình lại thở dài: “Chỉ tiếc chuyến này muội đến đây, vẫn chưa tìm được một mối hôn sự tốt.”

A Man nghe vậy, vô thức đưa tay khẽ vuốt cây trâm sen giấu trong ống tay áo, lòng bỗng dấy lên một dũng khí lạ lùng. Nàng mở miệng, giọng ngập ngừng: “A huynh, thật ra… lần này muội đến đây, đã tìm được người muốn gả rồi…”

Thịnh Vân Đình cả kinh, mừng rỡ hỏi: “Là ai?”

Hai gò má A Man ửng hồng, nhưng cái tên ấy, rốt cuộc nàng vẫn không thể thốt ra thành lời. Thịnh Vân Đình nhìn nàng đầy nghi hoặc, hắn vốn tinh tế, lập tức hồi tưởng lại mọi cử chỉ gần đây của muội muội, sắc mặt đột nhiên biến đổi: “Không phải muội muốn gả cho… Thập Thất lang đấy chứ?”

A Man không phủ nhận, nàng cắn môi: “A huynh…”

“Không được!” Thịnh Vân Đình gạt phắt đi: “Gia thế cậu ấy thế nào, nhà chúng ta làm sao với nổi!”

A Man cuống quýt: “Làm thê không xứng, làm thiếp cũng được mà! A huynh, muội thích Thập Thất lang, muội muốn gả cho chàng!”

Thịnh Vân Đình giận đến tím mặt: “Nếu muội vẫn là muội muội của ta, thì đừng nhắc lại lời này lần thứ hai! Nghe đây, nhà họ Thịnh dù nghèo, nhưng nữ nhi họ Trịnh, quyết không làm thiếp!”

A Man ngây người, vành mắt lập tức đỏ hoe. Thịnh Vân Đình dù có chút hối hận vì đã nặng lời, nhưng vẫn cứng rắn nói: “A Man, người nghèo có thể nghèo tiền bạc, nhưng chí khí không thể thấp hèn. Muội có thể thích một người, nhưng không thể vì thích người ấy mà vứt bỏ tôn nghiêm, cam tâm tình nguyện làm thiếp của người ta. Muốn người khác xem trọng mình, trước hết phải biết tự yêu lấy bản thân. Nếu không, thứ tình cảm của muội cũng chỉ có thể tự làm cảm động chính mình, chứ không thể lay động được bất kỳ ai. Nghe rõ chưa?”

A Man nửa hiểu nửa không. Thịnh Vân Đình nhìn nàng, trầm giọng: “Muội đi đi. Sau này, rồi muội sẽ hiểu rõ những lời ta nói hôm nay.”

A Man cắn môi, khẽ gật đầu. Nàng ôm chặt bọc hành lý, leo lên xe ngựa. Khi xe bắt đầu lăn bánh, nàng vén rèm, ngoái đầu nhìn lại, thấy a huynh vẫn đứng nguyên tại chỗ, dõi theo nàng không rời, chẳng chịu quay đi. Mũi nàng chợt cay cay, liền thò đầu ra, lớn tiếng gọi: “A huynh, muội sẽ nhớ lời huynh dặn!”

“A huynh, muội sẽ giữ gìn tự tôn, cũng sẽ biết quý trọng bản thân! Huynh cứ yên tâm!”

Trong tiếng hô vang trong trẻo của thiếu nữ, bánh xe ngựa lặng lẽ lăn đi, đưa nàng rời khỏi Thanh Châu.



Về sau, khi A Man dần trưởng thành, nàng ngày một thấu hiểu những lời a huynh từng nói.

Phải biết tự quý trọng chính mình, thì mới được người khác trân trọng.

Từ đó, nàng sẽ không vì thích một người đàn ông mà cam nguyện làm thiếp cho hắn.

Nàng không muốn làm thiếp của bất kỳ ai.

Chỉ có điều cây trâm cài hình hoa sen năm nào, vẫn được nàng cẩn thận cất dưới gối, giữ gìn như một báu vật.

Về sau nữa, chính là trận chiến ở Lạc Nhạn Lĩnh.

A huynh chết rồi, Tào Ngũ cũng chết rồi. Người từng là ánh trăng sáng thanh cao, không thể với tới trong lòng nàng, Thôi Vọng Thư, lại trở thành vũng bùn nhơ bị người người phỉ nhổ.

Sau vô số đêm khóc đến đứt từng đoạn ruột gan, cuối cùng cây trâm sen ấy cũng bị nàng ném xuống hồ, chìm vào bùn đất, vĩnh viễn không lại được nữa.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 173: Ngoại truyện Đế Hậu (1): Bước lên mây


Trước cửa Vọng Tiên, một thiếu nữ vận váy lụa Bích Đan sáu mảnh, hòa lẫn trong hàng trăm khuê nữ đồng trang lứa, xuất thân từ gia đình trong sạch, nối gót theo sau Hoa điểu sử, từng người một tiến vào đại môn.

Bên cạnh nàng, một thiếu nữ mặc váy thạch lựu đỏ bĩu môi than thở: “Không thể đi từ cổng chính Đan Phượng, chỉ có thể vào cung Đại Minh qua cửa hông như cửa Vọng Tiên, ai bảo được Hoa điểu sử tuyển chọn là cá chép hóa rồng chứ?”

Nàng ta lại quay sang thiếu nữ áo xanh hỏi: “Linh Diệp, ngươi nói có phải không?”

Thiếu nữ áo xanh được gọi là Linh Diệp không lên tiếng, chỉ cúi nhìn đôi giày thêu hoa văn bảo tướng tuyệt đẹp dưới chân, tựa hồ đang xuất thần. Thiếu nữ váy thạch lựu đỏ thấy vậy, liền hậm hực nói: “Lúc nào cũng như câm như hến, nếu còn mơ tưởng được Thánh nhân sủng ái, đúng là nằm mộng giữa ban ngày.”

Phía trước, Hoa điểu sử dường như nghe thấy động tĩnh, quay đầu quát: “Ai còn lắm lời nữa, lập tức đuổi ra khỏi cung!”

Thiếu nữ váy thạch lựu đỏ giật nảy mình, không dám hó hé thêm tiếng nào, ngoan ngoãn theo đoàn bước qua cung môn. Hoa điểu sử đứng bên cửa, kiểm tra lại nhân số, đến khi trông thấy thiếu nữ áo xanh gọi là Linh Diệp, bèn gật đầu tỏ vẻ tán thưởng.

Nội thị đứng cạnh Hoa điểu sử lấy làm khó hiểu, liền hỏi: “Dám hỏi trung quan, Khương Linh Diệp này chẳng qua xuất thân thương gia, dù có dung mạo khuynh thành thì thân phận vẫn quá mức thấp kém, vì sao trung quan lại chọn nàng ta?”

“Ngươi biết gì chứ?” Hoa điểu sử quát khẽ, ánh mắt dõi theo bóng dáng yểu điệu trong bộ váy xanh phía trước, nhỏ giọng lẩm bẩm: “Khương nương tử này, về sau phúc phận ắt sẽ lớn lắm, e rằng còn là phúc phận mà ta và ngươi khó bề tưởng tượng nổi.”

Nội thị nghe vậy chỉ thầm chê cười trong bụng. Gã cảm thấy con gái một hàng buôn hèn mọn thì có phúc phận gì kia chứ? Dẫu có khoác lên mình xiêm y lụa là, mang trên chân đôi hài thêu tinh xảo, thì cũng không thể xóa nhòa khí chất phàm tục của nàng ta. Huống hồ trong cung có Hoàng hậu, có chư vị tần phi, tất cả đều xuất thân thế gia, cao quý vô song.

Thánh nhân đương triều văn võ song toàn, trẻ tuổi tài cao, sao có thể để mắt đến một nữ tử thương hộ, thậm chí một chữ bẻ đôi cũng không biết như Khương Linh Diệp?

Hoa điểu sử, đúng là hồ đồ rồi.

Khương Linh Diệp vừa đi ngang qua, nàng nghe rõ lời của nội thị, cũng nghe rõ lời của Hoa điểu sử. Đối với lời của nội thị, nàng không lộ ra chút giận dữ nào. Những lời châm chọc như thế, nàng đã nghe quá nhiều. Đối với lời của Hoa điểu sử, tuy là lần đầu tiên được nghe, nhưng nàng cũng không tỏ ra vui mừng, chỉ giữ dáng vẻ thận trọng, dè dặt.

Chỉ đến khi bước qua cửa Vọng Tiên, nàng mới hơi ngước mắt, nhìn khắp cung Đại Minh nguy nga tráng lệ.

Khi không còn gì phải che giấu, trong đôi mắt nàng lúc này, chỉ có dã tâm đang trào dâng cuồn cuộn.

Cung Đại Minh, cửa Vọng Tiên, nàng đã bước vào rồi.

Cửa hông thì sao chứ? Chỉ cần cuối cùng có thể ngồi lên vị trí kia, ai lại bận tâm nàng đi vào bằng cửa chính hay cửa hông?

Cửa Vọng Tiên, chính là bậc thang đưa nàng lên tận mây xanh.

Bên tai là những tiếng cảm thán, ngưỡng mộ của các thiếu nữ về cung Đại Minh. Khương Linh Diệp mím môi, cụp mắt xuống. Khi nàng ngẩng đầu lên lần nữa, ánh mắt đã không còn chút dã tâm nào. Nàng lại trở thành một Khương Linh Diệp cẩn thận, trầm mặc như trước.



Sau khi được Hoa điểu sử chọn lựa tiến cung, các nữ tử xuất thân lương gia đều phải qua một lượt huấn luyện lễ nghi từ Nội thị tỉnh, rồi sau đó được phân về các cung phòng khác nhau. Những ai có bạc thì lót tay cho Nội thị tỉnh, để được phân vào cung phòng mà mình mong muốn. Còn ai không có bạc thì bị phân ngẫu nhiên. Khương Linh Diệp không có bạc, nàng bị phân đến Tê Phượng các của Hiền phi.

Những khuê nữ hiểu rõ nội tình đều không khỏi thở dài thương hại cho nàng, bởi lẽ Hiền phi tuy có phong hào là “Hiền” nhưng lại là người đố kỵ, tàn nhẫn bậc nhất. Với nhan sắc này, nếu Khương Linh Diệp rơi vào tay nàng ta, e rằng sẽ bị hành hạ đến mức không còn hình người.

Thế nhưng, Khương Linh Diệp không hề than vãn, chỉ lặng lẽ đến Tê Phượng các theo sự sắp xếp. Quả nhiên, vừa đến nơi, Hiền phi trong bộ y phục hoa lệ nhìn nàng từ trên xuống dưới một lượt, rồi lập tức đày nàng ra ngoại điện giặt quần áo, không cho phép bước vào chính điện nửa bước.

Ngày thường, Hiền phi cũng đặc biệt cảnh giác với nàng, không chỉ sai cung nữ thân tín trông chừng nàng chặt chẽ, mà mỗi lần hầu hạ Thánh giá, nàng ta đều đuổi nàng đi thật xa. Thế nhưng, các cung nữ dần nhận ra, từ khi vào Tê Phượng các đến nay đã nửa năm, Khương Linh Diệp vẫn luôn an phận thủ thường, hoàn toàn không có chút ý định tranh sủng nào. Chắc hẳn nàng ta cũng tự biết thân phận thấp kém, không dám mơ giấc mộng bay lên cành cao.

Dần dà, Hiền phi cũng bớt đề phòng Khương Linh Diệp. Nàng ta dốc toàn bộ tâm trí vào việc tranh sủng với Hoàng hậu Trịnh thị. Lại thêm nửa năm nữa trôi qua, nàng ta thậm chí đã quên mất trong Tê Phượng các còn có một người tên là Khương Linh Diệp.



Chỉ là, dù Hiền phi đã quên mất Khương Linh Diệp, nhưng tham vọng trong mắt nàng chưa từng phai nhạt, trái lại, ngày một mãnh liệt hơn.

Ẩn nhẫn suốt một năm, cuối cùng cơ hội cũng tới. Hiền phi vì không được sủng ái nên tính khí ngày càng nóng nảy, những cung nữ hầu cận đã có mấy người bị đánh đến mất mạng. Bởi Khương Linh Diệp làm việc chu toàn, rốt cuộc nàng cũng có được cơ hội tiến vào nội điện, hầu hạ bên cạnh.

Bằng hữu của nàng, Ngọc Uyển, lo lắng khuyên can: “Muội chớ nên đi.”

Nhưng Khương Linh Diệp lại không chút do dự tiến vào nội điện, hầu cận Hiền phi.

Chỉ có đứng gần, nàng mới có cơ hội diện Thánh.

Tính khí Hiền phi vẫn khó ở như trước, Khương Linh Diệp cẩn trọng hầu hạ, dù vô duyên vô cớ phải chịu không ít trận đòn, nhưng may mắn vẫn giữ được tính mạng. Chính trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, nàng đã đợi được ngày vị đế vương trẻ tuổi đặt chân đến Tê Phượng các.

Đây là lần đầu tiên Khương Linh Diệp được diện kiến Hoàng đế. Người năm nay vừa tròn mười chín, đang độ thanh xuân rực rỡ. Khương Linh Diệp lén lút nâng mắt nhìn lên, chỉ thấy Hoàng đế dáng vóc cao ráo, mày kiếm mắt sao, tóc mai sắc như dao cắt, quả nhiên là một thiếu niên phong hoa tuyệt đại.

Bảo sao dù không được đoái hoài gì đến nhưng Hiền phi vẫn si mê không dứt, nhớ nhung đến cuồng dại.

Ánh mắt Hoàng đế nhàn nhạt lướt qua bóng dáng đang quỳ rạp của Khương Linh Diệp. Hiền phi cũng theo đó nhìn sang. Tim Khương Linh Diệp như thắt lại, lập tức cúi đầu sát đất, không dám ngẩng lên. Hoàng đế nhanh chóng dời mắt đi, Hiền phi thấy nàng biết giữ bổn phận, trong lòng càng thêm hài lòng.

Hoàng đế cùng Hiền phi bước vào nội điện, tiếp theo là một hồi hoan lạc triền miên. Khương Linh Diệp đứng hầu ngoài cửa, một lần chờ chính là cả đêm đằng đẵng.

Tới khi gần canh năm, những tỳ nữ đứng hầu đều gật gù buồn ngủ, duy chỉ có Khương Linh Diệp vẫn tỉnh táo, không hề có chút buồn ngủ nào. Suốt cả đêm, nàng đã suy tính đủ đường. Hiền phi quen thói ngủ nướng, tối qua lại hao tổn thể lực, chắc chắn canh năm vẫn chưa tỉnh. Về phần Hoàng đế, theo những gì nàng dò hỏi được trong suốt một năm qua, người chưa từng dậy muộn. Đại Chu thượng triều vào canh năm, người luôn dậy sớm hơn nửa canh giờ để chuẩn bị. Nếu vậy, đến lúc ấy, trong điện chỉ có mỗi mình Hoàng đế tỉnh giấc.

Khương Linh Diệp đã tính toán kỹ càng từng bước một. Khi còn nửa canh giờ nữa là tới canh năm, nàng quay sang nói với những cung tỳ bên cạnh: “Thánh nhân sắp dậy rồi, chúng ta phải vào hầu hạ thôi.”

Các cung tỳ kia đều sợ Hiền phi đến phát khiếp, vội vàng lắc đầu, e rằng nếu bị bắt gặp sẽ bị chủ tử nghi ngờ có tâm tư khác. Bọn họ nhìn nhau, rồi đồng loạt đẩy nàng ra trước, như thể đang đẩy nàng vào giữa hố lửa: “Linh Diệp, ngươi vào đi.”

Khương Linh Diệp giả bộ than nhẹ: “Vậy thì để ta vào.”

Nàng đi vào trong điện giữa ánh mắt thương cảm của mọi người, quỳ rạp bên cạnh gường, chờ đợi đế vương tỉnh giấc. Quả nhiên, sau một hồi tiếng xột xoạt khe khẽ, màn trướng khẽ động, Hoàng đế bước xuống giường, trong khi Hiền phi vẫn còn đang say ngủ.

Khương Linh Diệp gấp gáp quỳ gối trượt tới, nhặt lấy đôi ủng da đen đặt dưới giường, cung kính mang vào cho Hoàng đế. Trong suốt quá trình ấy, người hơi nheo mắt, dường như đang cân nhắc điều gì đó, chăm chú nhìn nàng.

Sau khi giúp Hoàng đế mang giày tất xong, Khương Linh Diệp mới lén ngước mắt nhìn lên. Chỉ thấy Hoàng đế để trần thân trên, đường nét cơ bắp rắn rỏi mà săn chắc, trên vùng bụng còn vương vài dấu vết ám muội. Khuôn mặt nàng thoáng ửng hồng, nhưng không vội cúi đầu né tránh, chỉ hơi hé môi, nhẹ giọng gọi: “Thánh…”

Hoàng đế đưa ngón tay đặt lên môi, khẽ “suỵt” một tiếng. Người chậm rãi quan sát nàng, ánh mắt lộ rõ vẻ thích thú, rồi dang tay ra, ra hiệu cho nàng giúp người mặc y phục.

Khương Linh Diệp vội lấy hoàng bào màu vàng rực, nhẹ nhàng phủ lên người Hoàng đế. Khi giúp Hoàng đế chỉnh trang vạt áo, ngón tay nàng dường như vô ý lướt nhẹ qua vành tai Hoàng đế, rồi lại lướt xuống, vu.ốt ve phần bên gáy.

Trên cơ thể đàn ông, tai và gáy chính là hai bộ phận dễ bị khơi dậy ha.m mu.ốn nhất khi được nữ tử dùng đầu ngón tay m*n tr*n.

Phải, nàng đang mê hoặc Hoàng đế.

Một màn quyến rũ đã được âm thầm sắp đặt từ lâu.



Hoàng đế hơi nhướn mày kiếm, nhưng không lên tiếng, chỉ im lặng dang tay, để mặc nàng giúp người mặc y phục. Khương Linh Diệp cụp mắt, tiếp tục chỉnh lại áo bào cho Hoàng đế, thắt chiếc đai ngọc tê giác đen. Khi thắt đai, không rõ là vô tình hay hữu ý, cánh tay nàng gần như vòng qua eo người, đầu ngón tay xuyên qua lớp áo mỏng, lướt qua phần hông rắn chắc.

Nàng cài xong đai lưng, nhẹ nhàng giấu phần chuôi đai vào trong. Suốt cả quá trình, Hoàng đế vẫn điềm nhiên, không cất tiếng, cũng chẳng hề ngăn cản hay trách mắng nàng. Khương Linh Diệp cảm thấy tim đập dồn dập, chẳng rõ màn mê hoặc vừa rồi có tác dụng hay không. Phải chăng nàng đã thất bại? Có khi nào Hoàng đế vốn chẳng hề để tâm đến nàng?

Nhưng không sao. Dù lần này thất bại, chỉ cần nàng còn ở Tê Phượng các, hoặc rộng hơn là còn ở cung Đại Minh, nếu nàng còn một hơi thở, nàng vẫn sẽ có cơ hội.

Vì thế, nàng không hề nản lòng. Sau khi giấu kỹ chuôi đai, không còn cớ để chạm vào người nữa, nàng bèn buông tay, chuẩn bị lui xuống hai bước. Nhưng ngay khoảnh khắc đó, một bàn tay nóng bỏng đột ngột đặt lên thắt lưng nàng. Chưa kịp phản ứng, nàng đã bị một cánh tay cường tráng nắm chặt, lôi mạnh vào lòng.

Ngực nàng đập thẳng vào lồng ng.ực Hoàng đế, nàng hoảng hốt ngẩng đầu, đối diện với ánh mắt thâm sâu, nửa như cười nửa như không của người.

Cánh tay Hoàng đế siết chặt như gọng kìm, lòng bàn tay thô ráp mang theo vết chai sần trượt nhẹ trên vòng eo thon thả, tựa như một sự đáp trả, khiến nàng bỗng chốc run lên. Người nhếch khóe môi, dường như rất hài lòng với phản ứng ấy. Một tay chậm rãi vu.ốt ve khuôn mặt thanh tú của nàng, rồi trượt dần xuống, ve vuốt làn da phía sau gáy.

Bên trong màn trướng, hơi thở của Hiền phi vẫn đều đặn, êm ái.

Khương Linh Diệp kinh hãi liếc về phía màn trướng, trong đáy mắt dấy lên nỗi hoang mang khiếp sợ. Bên ngoài màn, cung tỳ xinh đẹp hoảng loạn bất an. Bên trong màn, phi tử vẫn say giấc, chẳng hay biết gì. Có lẽ chính khung cảnh vụng trộm táo bạo này này đã khơi dậy cảm giác k.ích th.ích chưa từng có trong lòng vị đế vương trẻ tuổi. Ánh mắt người càng trở nên u tối, bàn tay lướt trên hông nàng cũng ngày một nóng rực.

Đúng lúc này, Hiền phi lại nói mớ mấy tiếng, trở mình một cách vô thức. Khương Linh Diệp càng thêm bàng hoàng, thân thể mảnh mai trong vòng tay Hoàng đế cũng run rẩy không ngừng. Thấy vậy, Hoàng đế bỗng bật cười, không rõ là đang cười nàng, hay cười điều gì khác.

Bên trong màn giường, Hiền phi lại yên lặng như cũ. Hoàng đế nâng cằm Khương Linh Diệp, từ trên cao nhìn xuống, chạm phải đôi mắt đong đầy sợ hãi của nàng. Rõ ràng hắn mới là con mồi trong ván cờ này, vậy mà giờ đây, thế trận lại xoay vần, con mồi đã hóa thành thợ săn.

Ngón tay hắn trượt trên đôi môi mềm mại như cánh anh đào của nàng, chầm chậm miết qua, như đang đùa bỡn. Hắn không hôn nàng, như thể nàng vốn chẳng xứng đáng nhận được nụ hôn ấy, nàng chỉ là một món đồ chơi hèn mọn bị hắn tùy ý bỡn cợt mà thôi.

Hắn ngắm nhìn tỳ nữ xinh đẹp trước mặt, thấy trong mắt nàng dần hiện lên sự nhục nhã, hắn liền tỏ vẻ hài lòng. Đến khi đã chơi chán, hắn thấy mất hứng, định đẩy nàng ra, nhưng đúng lúc đó, Khương Linh Diệp bất ngờ hé môi, cắn chặt lấy đầu ngón tay hắn.

Hoàng đế sững lại.

Một nữ nô ti tiện, liều lĩnh quyến rũ hắn ngay trước giường chủ tử, vậy mà lại dám cắn hắn sao?

Trong đôi mắt nàng, một màn lệ mỏng tựa hồ muốn trào ra, sau lớp lệ ấy, không chỉ có tủi hờn mà còn có cả nỗi uất ức và sự không cam lòng.

Là sự không cam lòng đối với số phận.

Cảm giác ấy khiến Hoàng đế thoáng chốc nhớ lại cái ngày hắn biết mình không phải thân sinh của Thái hậu Tiết thị, nhớ lại lúc hay tin mẹ ruột của mình bị bịt mặt, miệng ngậm cám rồi chôn xuống lòng đất… Khi đó, hắn cũng thấy không cam lòng.

Hắn nhìn chằm chằm vào Khương Linh Diệp, cánh tay siết chặt lấy nàng bất giác thả lỏng. Nàng cũng chậm rãi buông ra, dấu răng in trên đầu ngón tay hắn, tuy không sâu nhưng cũng chẳng hời hợt. Hoàng đế rút tay lại, thấy rõ trên đầu ngón tay đã hằn lên một vết cắn đỏ tươi.

Còn nàng, đã nhanh nhẹn lui về phía sau, quỳ mọp xuống đất, hai tay chồng lên nhau đặt trên nền gỗ mun, trán chạm lên mu bàn tay. Đây là tư thế thấp hèn nhất của một nô tỳ.

Vị Hoàng đế trẻ tuổi cúi mắt nhìn dấu răng trên ngón tay mình, lại liếc nhìn nàng một cái thật sâu, sau đó mặt không biểu cảm, phất tay áo rời đi.

Đợi đến khi bóng Hoàng đế khuất hẳn, Khương Linh Diệp mới ngẩng đầu.

Trong đáy mắt nàng lúc này, nỗi kinh hoàng, tủi nhục, ấm ức, bất cam đều đã biến mất, chỉ còn lại một sự tĩnh lặng vô cùng.



Cả ngày hôm đó, sắc mặt Hiền phi vô cùng khó coi.

Khi Khương Linh Diệp quỳ xuống dâng trà, Hiền phi nhận lấy chén trà, nhấp một ngụm rồi đặt xuống, ánh mắt đầy nghi hoặc nhìn nàng: “Lúc ngươi hầu hạ Thánh nhân thay y phục, có xảy ra chuyện gì không?”

“Không ạ.” Khương Linh Diệp thần sắc không đổi, đáp.

“Không thật đấy chứ?”

“Không.” Nàng lần nữa phủ nhận.

Hiền phi trừng mắt nhìn nàng. Thiếu nữ trước mặt vừa tròn mười sáu, đang độ xuân thì như đóa hoa vừa chớm nở, sở hữu vẻ đẹp mà ngay đến cả Hiền phi cũng phải thừa nhận là tuyệt sắc.

Bỗng nhiên, Hiền phi vung tay giáng xuống một bạt tai thật mạnh. Khương Linh Diệp bị đánh đến ngã sấp xuống đất, má sưng đỏ, nơi khóe môi rỉ ra tơ máu. Hiền phi giận dữ quát: “Nghe cho rõ đây, nếu ngươi dám mê hoặc Thánh nhân, ta sẽ lột da ngươi!”

Khương Linh Diệp điều chỉ lại tư thế, nàng quỳ ngay ngắn, thái độ vẫn cung kính như trước, không ngừng dập đầu cầu xin: “Tiểu tỳ không dám, tiểu tỳ không dám.”

Thế nhưng, vào khoảnh khắc trán nàng chạm xuống nền đất, trong lòng lại thầm nghĩ:

Không dám ư?

Không. Lần sau vẫn dám.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 174: Ngoại truyện Đế Hậu (2): Sủng hạnh


Những ngày sau đó, Hoàng đế dường như đã quên mất cung tỳ lớn gan ở Tê Phượng các. Suốt nửa tháng, hắn không hề đặt chân đến nơi này. Nếu đổi lại là người khác, hẳn sẽ nóng ruột không yên mà muốn tìm đến Hoàng đế để được ân sủng. Thế nhưng, Khương Linh Diệp lại không phải người khác. Nàng vô cùng nhẫn nại, không chủ động tiếp cận Hoàng đế, ngược lại vẫn một mực cần mẫn làm tròn bổn phận. Sự an phận này khiến Hiền phi thêm một lần yên tâm về nàng.

Chỉ có điều, Hiền phi không hề biết rằng, Khương Linh Diệp không phải đang an phận, mà là đang chờ đợi thời cơ tiếp theo.

Từ lần trước khi quyến rũ Hoàng đế, nàng đã nhạy bén nhận ra một điều: vị đế vương trẻ tuổi, tuấn tú vừa đăng cơ ấy là người cực kỳ thông minh và có tính kiểm soát cực mạnh. Hắn ghét bị coi là con mồi để săn đuổi, vì vậy luôn muốn đảo ngược thế cục, biến khách thành chủ. Hắn không tin một cung tỳ dám táo tợn quyến rũ mình lại có thể sợ hãi đến mức run rẩy lùi bước, vậy nên khi nhìn thấu màn vờ vịt ấy, hắn chẳng hề thương tiếc, cứ thế coi nàng như món đồ chơi để tùy ý tiêu khiển. Nếu không phải nàng kịp thời điều chỉnh cách thức để tiếp cận, e rằng trong mắt hắn, nàng cũng sẽ chẳng khác gì những cung tỳ từng dùng thủ đoạn để mê hoặc hắn trước đây, hoàn toàn không đáng để bận tâm.

Chỉ khác một điều, so với những cung tỳ thấp hèn ấy, nàng đã để lại một ấn tượng sâu sắc hơn. Khi bị hắn trêu đùa, họ đều sẽ ngoan ngoãn hé môi, mềm mại đón nhận, mong được tiếp tục dụ dỗ hắn. Còn nàng, lại không như thế. Nàng mở miệng, nhưng không phải để ngậm lấy đầu ngón tay hắn, mà là để cắn hắn một cái thật mạnh.

Đây là điều mà hắn không ngờ tới. Với một người đàn ông thông tuệ đến mức đáng sợ, phải khiến hắn bất ngờ mới có thể được hắn nhớ kỹ.

Hắn không đến tìm nàng, có lẽ là để thăm dò xem nàng có giống như những cung tỳ ngu xuẩn và nông cạn từng mơ tưởng trèo lên long sàng của hắn hay không, ngoài một gương mặt dễ nhìn cùng chút to gan ra thì chẳng có gì hơn cả.



Hôm ấy, Khương Linh Diệp dâng trà, không may gặp lúc Hiền phi đang bực bội. Nàng ta tức giận hất mạnh chén trà nóng, nước sôi văng thẳng lên mu bàn tay nàng, lập tức để lại một mảng đỏ ửng. Hiền phi quát lên: “Đồ vô dụng! Dâng trà cũng không xong, cút ra ngoài!”

Khương Linh Diệp đã sớm quen với chuyện này. Nàng bình thản thu dọn mảnh vỡ của chén trà màu ngọc bích, sau đó cúi đầu hành lễ rồi lui ra khỏi nội điện. Từ xa, nàng vẫn còn nghe thấy tiếng Hiền phi quở trách những cung tỳ khác.

Khi Ngọc Uyển vội vã mang thuốc trị thương đến, trên mu bàn tay Khương Linh Diệp đã nổi lên mấy vết phồng rộp. Ngọc Uyển vừa đau lòng vừa cẩn thận bôi thuốc cho nàng, vừa bất bình than thở: “Chỉ vì Thánh nhân không sủng ái nàng ta, nên ngày nào nàng ta cũng lấy chúng ta ra để trút giận.”

Khương Linh Diệp không hùa theo lời oán trách. Ngọc Uyển thở dài: “Trước đây ta đã bảo muội đừng vào nội điện hầu hạ Hiền phi, muội cứ không nghe, giờ thì hay rồi, ngày nào cũng bị đánh bị mắng, Linh Diệp ơi là Linh Diệp, muội nói xem, có hối hận không?”

Khương Linh Diệp mỉm cười: “Đây là lựa chọn của muội, chẳng có gì để hối hận cả.”

“Ta biết, muội cảm thấy ở nội điện bổng lộc cao hơn, có thể giúp đỡ gia đình. Nhưng có bạc trong tay thì cũng phải giữ được cái mạng rồi mới tiêu được chứ.” Ngọc Uyển nhớ đến mấy tỳ nữ đã bị Hiền phi đánh chết, hốc mắt đỏ hoe: “Hiền phi ngang ngược như thế, cũng chẳng ai dám quản nàng ta. Cũng phải thôi, ai bảo nàng ta có thể gọi Tiết Thái hậu một tiếng “di mẫu” chứ? Ai bảo triều chính bây giờ đều nằm trong tay Tiết Thái hậu chứ?”

Nghe đến đây, Khương Linh Diệp mới ngước mắt lên: “Ngọc Uyển, chuyện trước đây muội nhờ tỷ dò hỏi, đã có tin tức gì chưa?”

Ngọc Uyển sững lại một chút, rồi đáp: “Có thì có… nhưng muội hỏi chuyện này làm gì?”

“Tỷ đừng hỏi, muội có việc cần dùng.”

“Được thôi.” Ngọc Uyển bất đắc dĩ đáp. Nàng biết rõ người bạn này của mình bề ngoài khiêm nhường, nhưng thực chất lại người có đầu óc. Khương Linh Diệp nhờ nàng làm gì, nàng liền làm nấy. Ngọc Uyển đảo mắt nhìn quanh, xác nhận không có ai rình mò, lúc này mới hạ giọng nói với Khương Linh Diệp: “Ta đã hỏi một lão nội thị ở điện Thần Long, Thánh nhân đích thực không phải con ruột của Tiết Thái hậu. Mẹ đẻ của người là Lưu mỹ nhân của Tiên đế. Khi ấy, Tiết Thái hậu vẫn còn là Quý phi, bà ta không thể sinh con, liền vu hãm Lưu mỹ nhân dùng vu cổ, sau đó đánh chết bà ấy ngay trong cung. Lúc Lưu mỹ nhân được hạ táng, mặt bị che bằng tóc, miệng ngậm đầy cám, chết vô cùng thê thảm.”

“Lúc Lưu mỹ nhân qua đời, Thánh nhân vẫn còn quấn tã. Tiết Thái hậu đã giành lấy người, nhận làm con mình. Sau này, bà ta hạ bệ hết thảy phi tần trong cung, một tay nâng đỡ Thánh nhân lên ngôi. Nhưng thiên hạ nào có bức tường không lọt gió, chuyện Tiết Thái hậu giết mẹ giữ con, người trong cung hầu như đều biết cả, chỉ có điều… Thánh nhân lại chẳng hay biết, không ai dám kể lại với người.”

Khương Linh Diệp trầm ngâm một hồi, rồi hỏi: “Tỷ có chắc là Thánh nhân không biết không?”

“Đương nhiên là không biết. Nếu không, ai lại có thể chung sống thuận hòa với kẻ thù đã giết mẹ mình chứ? Thánh nhân nghe lời Tiết Thái hậu lắm, bà ta muốn người nạp ai làm phi, người liền nạp người đó, thế nên Tiết Thái hậu rất hài lòng với người.”

Khương Linh Diệp nhớ lại đêm đó khi nàng cố ý mê hoặc vị Hoàng đế trẻ tuổi ấy. Đôi mắt hắn thâm sâu khó lường, khóe môi như cười như không, đầu ngón tay chạm vào môi nàng, nhiệt độ nóng rực. Hắn mới mười chín tuổi, nhưng đối diện với mỹ sắc lại chẳng hề động tâm, với nữ tử quyến rũ hắn, hắn dễ dàng nhìn thấu.

Một thiếu niên như thế, nhưng lại không hay biết gì chuyện mà cả hậu cung đều biết thật sao?

Khương Linh Diệp không tin.

Lúc này, Ngọc Uyển vẫn đang bôi thuốc lên mu bàn tay nàng. Thuốc mát lạnh, xoa dịu vết bỏng. Đợi bôi xong, Khương Linh Diệp mới hoàn hồn, lấy ra một bọc lụa, mở ra, bên trong là những mảnh vỡ của chén trà màu ngọc bích.

Nàng nói: “Đây là chén trà Hiền phi đánh vỡ, được chế tác từ thanh ngọc thượng hạng. Dù đã vỡ, vẫn có thể bán được giá cao. Ngọc Uyển, tỷ giúp muội đem bán đi.”

Ngọc Uyển nhận lấy nhưng trong lòng vẫn thấp thỏm: “Liệu có bị Hiền phi phát hiện không?”

“Không đâu.”

Toàn bộ tâm tư của Hiền phi đều đặt lên người vị trượng phu trẻ tuổi tuấn tú kia, làm gì có thời gian để ý đến một cái chén trà vỡ.

“Nhưng như vậy chẳng phải quá mạo hiểm sao?” Ngọc Uyển lo lắng, “Bổng lộc của muội đủ để phụng dưỡng phụ mẫu, lại có thể giúp đỡ a tỷ, cần nhiều bạc thế này để làm gì?”

“Muội có chỗ cần dùng.”

Ngọc Uyển thấy không khuyên nổi nàng, chỉ đành thở dài: “Thôi được, nếu Hiền phi biết muội đem những chén trà, bình hoa nàng ta đập vỡ đi bán, e là sẽ tức chết mất.”

Khương Linh Diệp nghe vậy, khẽ cười. Nếu Hiền phi biết nàng dùng số bạc đó để làm gì, sợ rằng còn tức đến thổ huyết.



Mùng chín tháng chín, tiết Trùng Dương.

Tiết Trùng Dương là ngày tưởng nhớ người thân, vì vậy cung Đại Minh tổ chức cung yến linh đình, Hoàng đế cùng các phi tần, thái hậu và chư vương đều tề tựu một chỗ. Khương Linh Diệp ở Tê Phượng các cũng có thể nghe thấy tiếng tấu nhạc réo rắt vọng ra từ điện Lân Đức. Hiền phi không dẫn nàng đến đó, nhưng chẳng sao cả, nếu không có cơ hội, nàng sẽ tự mình tạo ra cơ hội.

Khương Linh Diệp rảo bước đến rừng phù dung bên ngoài điện Lân Đức. Lúc này, từng đóa mộc phù dung đang nở rộ rực rỡ. Bên ngoài rừng phù dung, phía nội điện dường như đang biểu diễn bách hí. Nàng có thể nghe thấy tiếng cười nói rộn ràng của vương công quý tộc, nhưng nàng không vội, chỉ kiên nhẫn chờ đợi giữa rừng hoa.

Rốt cuộc, một bóng dáng hoàng y xuất hiện, loạng choạng tiến tới dưới sự dìu đỡ của các nội thị.

Hoàng đế dường như đã say đến thất thần, nôn mửa mấy lần liền. Mấy nội thị đứng bên hầu hạ, đến khi hắn đã nôn cạn dạ dày, chỉ còn hơi men lẫn vị đắng trong cổ họng, Hoàng đế mới xua tay ra hiệu cho bọn họ lui xuống. Một nội thị có chút do dự, cẩn trọng hỏi: “Thánh nhân không hồi điện Lân Đức sao?”

Hoàng đế quát khẽ: “Chuyện này không đến lượt nô tài ngươi xen vào!”

Tên nội thị vội vã cúi đầu tạ tội, sau đó mấy người họ rón rén lui xuống, đứng cách xa Hoàng đế.

Rừng phù dung lập tức chìm vào yên tĩnh, chỉ còn lại một mình Hoàng đế. Hắn ho nhẹ vài tiếng, rồi bất lực ngồi xếp bằng xuống đất. Ánh trăng nhàn nhạt đổ xuống, bóng lưng của bậc đế vương chí tôn giữa trời đất lại lộ vẻ hiu quạnh đến lạ thường.

Điện Lân Đức cách hắn chỉ một khoảng ngắn, nơi ấy có đích mẫu của hắn, có thê tử, có phi tần, có huynh đệ ruột thịt, tất cả đều là những người thân thiết nhất với hắn trên cõi đời này. Vậy mà, hắn lại chẳng muốn quay về.

Hắn ngửa đầu nhìn lên vầng trăng non mới nhú. Trong cơn chếnh choáng, hắn như thấy một bóng dáng yêu kiều thấp thoáng trên nền trời tĩnh mịch.

Nhưng lạ thay, hắn không tài nào nhìn rõ dung mạo của người.

Phải rồi, hắn thậm chí còn chẳng biết người trông như thế nào.

Mùng chín tháng chín, tiết Trùng Dương, ngày tưởng nhớ thân nhân.

Vị đế vương mười chín tuổi, bằng một giọng chỉ mình hắn có thể nghe thấy, khẽ gọi hai chữ: “Mẫu thân.”



Hoàng đế cụp mắt, một giọt lệ rơi xuống đất, tan biến chẳng chút dấu vết.

Bỗng hắn nghe thấy tiếng bước chân giẫm gãy cành khô. Hắn chấn động, lập tức ngẩng đầu, ánh mắt hoài niệm phút chốc lặng xuống, thay vào đó là sự lạnh lùng và tàn nhẫn. Hắn đứng bật dậy, quát lớn: “Ai?”

Một cung tỳ dung mạo kiều diễm từ sau gốc cây chậm rãi bước ra, quỳ rạp xuống đất: “Tiểu tỳ bái kiến Thánh nhân.”

Bóng dáng này, vô cùng quen thuộc. Hoàng đế hạ lệnh: “Ngẩng đầu lên.”

Khương Linh Diệp từ tốn ngẩng đầu, Hoàng đế thoáng rùng mình, kế đó bật cười lạnh: “Là ngươi.”

Giọng hắn hờ hững: “Ngươi đến đây làm gì? Đừng nói với trẫm rằng ngươi chỉ “vô tình” xuất hiện ở rừng phù dung này.”

Giọng Hoàng đế càng bình thản, chứng tỏ cơn giận trong lòng càng sâu. Thế nhưng, Khương Linh Diệp không hề tỏ ra hoảng sợ, nàng thản nhiên đáp: “Tiểu tỳ không phải vô tình, mà là cố ý đợi Thánh nhân ở đây.”

Nàng thẳng thắn thừa nhận, Hoàng đế thoáng ngây người, nhưng rất nhanh liền trấn tĩnh: “Được lắm. Nói xem, ngươi đã mua chuộc tên nội thị nào? Hắn phải to gan lớn mật đến nhường nào, mới dám dẫn trẫm vào rừng phù dung này?”

Khương Linh Diệp đáp: “Mọi tội lỗi đều do một mình tiểu tỳ. Tiểu tỳ không cam chịu số phận, muốn đánh cược tiền đồ của chính mình bằng sinh mệnh, không liên quan đến bất kỳ ai khác. Nếu Thánh nhân muốn giết, xin chỉ giết một mình tiểu tỳ.”

Nàng ngang nhiên bộc tỏ dã tâm của mình trước mặt đế vương. Hoàng đế híp mắt nhìn nàng thật lâu, đoạn chậm rãi bước tới: “Đứng lên.”

Khương Linh Diệp đứng dậy. Hoàng đế có vóc người cao lớn, nàng chỉ cao tới vai hắn. Hắn lại nhàn nhã ra lệnh: “Ngẩng đầu.”

Khương Linh Diệp lại ngẩng đầu. Đôi mắt đẹp tựa trăng non, ánh lên tham vọng và khát khao, nhìn thẳng vào Hoàng đế.

Đây là dã tâm và d.ục vọ.ng mà nàng chưa từng để lộ trước mặt ai suốt một năm vào cung. Nàng đang đánh cược, cược rằng Hoàng đế không thích bị người khác toan tính, ngược lại, hắn ưa sự thẳng thắn, dã tâm thẳng thắn, d.ục vọ.ng thẳng thắn.

Còn con cờ trong ván cược này chính là tất cả những tin tức nàng thu thập được suốt một năm qua, cùng với những phán đoán của nàng về Hoàng đế sau lần cố tình quyến rũ hắn bên giường Hiền phi.

Hoàng đế bóp cằm nàng, ép nàng ngẩng đầu, cười lạnh: “Ngươi muốn làm nữ nhân của trẫm đến vậy sao?”

Khương Linh Diệp cũng cười: “Muốn.”

Hoàng đế vu.ốt ve gương mặt nàng, bỗng nhiên đẩy nàng mạnh vào thân cây phù dung, ghé sát tai nàng nói: “Được, trẫm sẽ thành toàn cho ngươi. Ngay tại đây.”



Hơi thở hắn mang theo hơi rượu, phả lên cổ nàng. Không chút thương tiếc, hắn cởi đai lưng nàng, xuyên thấu nàng, chiếm đoạt nàng. Khương Linh Diệp nhíu chặt mày, cắn môi, chịu đựng cơn hoang dã bộc phát của vị đế vương trẻ tuổi. Hoàng đế chẳng hề có ý niệm thương hoa tiếc ngọc, hắn ngước mắt nhìn về điện Lân Đức đèn đuốc sáng trưng, siết chặt lấy vòng eo thon của nàng, cắn nhẹ vành tai nàng, cất giọng khàn khàn: “Biết vì sao trẫm chọn chỗ này không?”

Khương Linh Diệp cắn chặt môi dưới, không để tiếng rên bật ra. Hoàng đế khẽ cười: “Vì ngươi thấp hèn.”

“Hừ, ngươi thấy điện Lân Đức kia chứ? Toàn bộ phi tần của trẫm đều ở đó, từng người một đều cao quý hơn ngươi cả vạn lần. Hoàng hậu, Hiền phi, Đức phi, tất cả đều muốn lấy lòng trẫm, cầu trẫm sủng hạnh. Nhưng trẫm không muốn. Trẫm muốn ngay tại nơi này, sủng hạnh một cung tỳ hèn mọn.”

Nghe những lời nhục mạ ấy, Khương Linh Diệp chẳng những không tức giận, mà còn bật cười. Nàng ngẩng đầu, đôi tay mềm mại quấn lấy cổ hắn, thì thầm: “Bởi vì họ đều là người Thái hậu lựa chọn, đúng không?”

Hoàng đế sững sờ.

Cả thân thể Khương Linh Diệp run lên, trán lấm tấm mồ hôi, nhưng ngay cả trong tình cảnh nhếch nhác này, nàng vẫn nhìn Hoàng đế mỉm cười: “Nhưng tiểu tỳ… là do Thánh nhân chọn.”

“Tiểu tỳ có thể được Thánh nhân tin cậy, bởi vì tiểu tỳ chẳng có gì cả, chỉ có Thánh nhân.”

“Tiểu tỳ có thể trở thành một người có ích cho Thánh nhân.”

Hoàng đế chăm chú nhìn nàng, dường như không tin nổi: “Ngươi? Dựa vào đâu?”

“Dựa vào việc tiểu tỳ xuất thân thương hộ, nghèo khổ bần hàn, nhưng vẫn có thể lọt vào mắt xanh của Hoa điểu sử; dựa vào việc tiểu tỳ bị phân đến hầu tại Tê Phượng các, nhưng vẫn có thể tiến vào nội điện phục thị; dựa vào việc chỉ nhờ một lần diện kiến, mà Thánh nhân đã ghi nhớ dung mạo tiểu tỳ; dựa vào việc tiểu tỳ chỉ là một cung tỳ, lại có thể mua chuộc nội thị, được Thánh nhân sủng hạnh giữa rừng phù dung này…”

Khương Linh Diệp cắn môi, vòng tay vịn vào cổ Hoàng đế, lưng tựa vào thân cây phù dung sần sùi, mồ hôi không ngừng lăn xuống. Nàng khẽ cười: “Chỉ cần Thánh nhân nguyện ném xuống cho tiểu tỳ một chiếc thang mây, tiểu tỳ nhất định có thể bước lên mây xanh.”

Ánh mắt Hoàng đế cuối cùng cũng thay đổi. Hắn trầm giọng hỏi: “Rốt cuộc ngươi muốn gì?”

Nàng… muốn gì ư?

Ánh mắt Khương Linh Diệp thoáng hiện vẻ ngẩn ngơ.

Nàng trầm mặc hồi lâu, rồi khẽ thì thầm: “Ta muốn… thay đổi vận mệnh của chính mình.”

Không muốn giống như mẫu thân, gả cho một con buôn, sinh ra hai nữ nhi, rồi hai nữ nhi lại gả cho con buôn, sinh thêm thế hệ con buôn khác, cứ mãi luẩn quẩn trong tầng lớp thấp kém nhất của Đại Chu. Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, cứ thế tuần hoàn, cứ thế tiếp diễn.

Ngón tay Hoàng đế siết chặt lấy vòng eo nàng, để lại từng vệt hằn đỏ trên làn da: “Chỉ bằng việc quyến rũ trẫm, bị sủng hạnh ở nơi hoang dã này, hầu hạ giống như một kỹ nữ, mà ngươi nghĩ rằng có thể thay đổi vận mệnh của mình sao?”

“Con đường là do con người đi nhiều mà ra, nếu không đi, sao biết có thể thành công hay không?” Khương Linh Diệp tóc tai rối bời, nàng cắn môi, yếu ớt cười: “Còn về việc được sủng hạnh ở đâu, được sủng hạnh như thế nào, chỉ cần có thể lên được mây xanh, thì có gì là quan trọng nữa đâu? Khi đã chẳng có gì trong tay, thân thể cũng có thể trở thành lợi thế. Hai chữ trinh tiết ấy, không thể trói buộc ta, Khương Linh Diệp.”

Hoàng đế lặng lẽ nhìn nàng, hồi lâu sau mới rời khỏi cơ thể nàng, bàn tay cũng buông khỏi eo nàng. Mất đi điểm tựa, Khương Linh Diệp đành phải vịn vào thân cây, hai chân run lẩy bẩy, dáng vẻ vô cùng chật vật.

Hoàng đế bật cười khẽ, chậm rãi chỉnh lại y phục, xoay người bước đi. Trước khi rời đi, hắn để lại một câu: “Khương Linh Diệp, trẫm nhớ kỹ ngươi rồi.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 175: Ngoại truyện Đế Hậu (3): Phong hiệu


Hoàng đế rời đi, Khương Linh Diệp cố nén cơn đau nhức trong rừng phù dung, chỉnh lại xiêm y cho ngay ngắn. Đến khi chắc chắn không để lộ ra chút dấu vết nào, nàng mới gắng gượng rời khỏi nơi đó.

Điện Lân Đức vẫn náo nhiệt như trước, tiếng tơ trúc vang vọng bên tai. Hẳn là Hoàng đế đã quay về đại điện, chắc chắn bên trong đang tưng bừng huyên náo. Khương Linh Diệp nhìn về phía điện Lân Đức nguy nga tráng lệ, có thể tưởng tượng ra cảnh tượng phồn hoa ở bên trong. Nhưng lúc này, dưới ánh trăng, bóng dáng nàng lại đơn độc lẻ loi hơn bao giờ hết.

Nàng đứng nhìn một lúc, khóe môi khẽ cong, sau đó chịu đựng tình trạng rệu rã trên người, từng bước từng bước trở về Tê Phượng các.



Từ đó về sau, Hoàng đế dường như đã quên hẳn sự tồn tại của nàng, chưa từng ban cho nàng bất cứ danh phận nào. Giống như nàng chỉ là một phiến hồng ở phường Bình Khang, hứng thú thì sủng hạnh một đêm, chẳng đáng để được sắc phong.

Ngẫm lại sự thô bạo của hắn đêm ấy, chẳng phải cũng chỉ xem nàng như một kỹ nữ thôi đó sao?

Hoàng đế không ban danh phận cho nàng, nàng cũng không đi cầu xin, chỉ lặng lẽ ở lại Tê Phượng các hầu hạ Hiền phi như trước, chưa từng hé lộ chuyện mình được Hoàng đế lâm hạnh.

Thoáng chốc, một tháng trôi qua. Hiền phi theo Thái hậu đến chùa Pháp Môn dâng hương, cũng nhờ thế mà Khương Linh Diệp cùng những cung nhân khác có được một phen nhàn rỗi. Nhưng đúng ngày hôm đó, Hoàng đế lại bất ngờ đến Tê Phượng các.

Đối diện với đám cung nhân đang phủ phục hành lễ khắp điện, Hoàng đế như sực nhớ ra điều gì, nhàn nhạt nói: “Ồ, Hiền phi không có ở đây.”

Hắn vừa định xoay người rời đi, bên ngoài mây đen bỗng giăng kín, xem chừng chẳng mấy mà trời sẽ mưa. Hoàng đế mỉm cười nói: “Xem ra, trời muốn giữ trẫm lại rồi.”

Lời vừa dứt, ánh mắt hắn vẫn dán chặt vào Khương Linh Diệp, còn nàng thì chỉ cúi đầu, vầng trán chạm nhẹ lên mu bàn tay, không hề ngẩng lên dù chỉ một lần.

Sau đó, Hoàng đế tiến vào nội điện nghỉ tạm, chờ mưa ngớt rồi mới hồi điện Thần Long. Hắn ngồi nghiêm chỉnh bên bàn gỗ tử đàn, tiện tay lật xem một cuốn sách, thản nhiên nói: “Trẫm không cần quá nhiều nô tỳ hầu hạ, giữ lại một người là đủ.”

Cung tỳ trong Tê Phượng các đưa mắt nhìn nhau, không ai dám lên tiếng, cuối cùng vẫn là Khương Linh Diệp bình thản quỳ xuống: “Tiểu tỳ hầu hạ Thánh nhân.”



Nội điện yên tĩnh đến mức chỉ còn nghe tiếng mưa rơi tí tách xuống nền gạch. Khương Linh Diệp quỳ bên cạnh, mài mực cho Hoàng đế. Hắn nâng chén trà nhấp một ngụm, rồi đặt xuống, ung dung hỏi: “Vì sao không đến tìm trẫm đòi một danh phận?”

Khương Linh Diệp khựng lại, Hoàng đế liếc nàng một cái, khóe môi lộ ý cười mà như không cười: “Hay là ngươi đang chơi trò lạt mềm buộc chặt?”

“Tiểu tỳ không dám…”

“Ngươi không dám?” Hoàng đế khẽ cười: “Có gì mà ngươi không dám làm?”

“Tiểu tỳ không dám.” Khương Linh Diệp cúi đầu, tiếp tục yên lặng mài mực: “Danh phận là thứ do Thánh nhân ban, Thánh nhân cho, tiểu tỳ mới dám nhận. Nếu Thánh nhân không ban, tiểu tỳ nào dám cầu?”

Hoàng đế im lặng, mắt vẫn dán vào cổ tay trắng nõn đang lướt trên nghiên mực của nàng. Đột nhiên, hắn vươn tay nắm lấy, kéo mạnh nàng vào lòng. Khương Linh Diệp không kịp đề phòng, suýt nữa kinh hô thành tiếng, nhưng vừa liếc nhanh ra cửa sổ, nàng đã mím môi, nhịn xuống.

Mỹ nhân ôn hương nhuyễn ngọc trong lòng, tâm trạng bực bội cả ngày của Hoàng đế phút chốc tan biến. Hắn thong thả miết nhẹ cằm nàng, cất giọng cười khẽ: “Nàng quả là thông minh.”

Hắn nói: “Hoàng hậu, tứ <i>(4)</i> phi, cửu <i>(9)</i> tần, nhị thập thất <i>(27)</i> thế phụ, bát thập nhất <i>(81)</i> ngự thê, con đường lên mây của nàng, rốt cuộc muốn đi đến đâu?”

Khương Linh Diệp đáp: “Chuyện này không phải do tiểu tỳ quyết định, mà là do Thánh nhân quyết định.”

“Ồ? Trẫm còn tưởng nàng tin vào “nhân định thắng thiên” cơ đấy.” [1]

<i>[1] nhân định thắng thiên: ý chí, lòng quyết tâm của con người có thể thắng được ý trời, có thể thay đổi được định mệnh.</i>

Khương Linh Diệp ngước mắt nhìn hắn, nhỏ nhẹ nói: “Thánh nhân e là không biết, tiểu tỳ xuất thân thương hộ.”

Nàng bình tĩnh tiếp lời: “Thương hộ làm ăn, trước tiên phải có vốn. Hiện giờ tiểu tỳ ngay cả một đồng vốn cũng không có, sao dám mơ đến giấc mộng kiếm lời vạn kim đây?”

Hoàng đế vẫn chậm rãi vu.ốt ve cằm nàng, ánh mắt dường như đăm chiêu suy nghĩ. Có lẽ, hắn đang nghĩ về chính mình, năm xưa đối mặt với kẻ thù giết mẹ, hận thấu xương nhưng lại bất lực vì không quyền không thế, mỗi ngày đều phải diễn một màn mẫu từ tử hiếu với kẻ thù, ngoài mặt cung kính, trong lòng căm hận.

Khương Linh Diệp dường như nhìn thấu tâm tư của hắn. Nàng rúc vào trong lòng Hoàng đế, nhỏ giọng nói: “Nhưng nếu Thánh nhân bằng lòng xuất vốn cho tiểu tỳ, tiểu tỳ… có thể giúp Thánh nhân kiếm lời vạn lượng hoàng kim.”

Lúc nói lời này, trong mắt nàng không thể che giấu nổi dã tâm cuồn cuộn. Trên đời này, chỉ trước mặt Hoàng đế nàng mới chịu để lộ dã tâm ấy.

Quả nhiên, Hoàng đế nhìn nàng hồi lâu, bỗng mỉm cười: “Đã từng có ai nói với nàng rằng, mắt nàng rất đẹp chưa?”

Khương Linh Diệp hơi ngẩn ra, Hoàng đế lại nói: “Trẫm thích đôi mắt của nàng.”

Hắn lướt ngón tay qua hàng mi nàng: “Số vốn nàng cần, trẫm sẽ cho.”



Hoàng đế hứa sẽ ban danh phận cho Khương Linh Diệp. Thế nhưng, danh phận chưa kịp trao, tai họa đã giáng xuống trước.

Đây là lần đầu tiên Khương Linh Diệp bị người khác hãm hại. Nàng không hề hay biết rằng khi mình đang hầu hạ Hoàng đế trong nội điện thì một tỳ nữ tên Xuân Nhiễm ở Tê Phượng các vẫn luôn ngó nghiêng ngoài cửa. Dù bị Kim Ngô Vệ canh gác ngăn lại, không thể vào trong, nhưng chừng đó đã đủ để Xuân Nhiễm nghĩ ra một kế sách đưa Khương Linh Diệp vào chỗ chết.

Thực ra, giữa Khương Linh Diệp và Xuân Nhiễm không hề có thù oán. Nhưng trên đời này, có những chuyện đâu cần phải có thù oán thì mới bị hãm hại. Xuân Nhiễm muốn sống yên dưới trướng Hiền phi, nhất định nàng ta phải bẩm báo chuyện này để lấy lòng chủ tử.

Sáng sớm hôm sau, Hiền phi đã trở về sau chuyến lễ Phật ở chùa Pháp Môn.

Xuân Nhiễm vào gặp Hiền phi, ở lại nội điện rất lâu.

Lúc ra ngoài, vừa vặn chạm mặt Khương Linh Diệp đang mang trà đến. Có lẽ vì chột dạ, Xuân Nhiễm không trò chuyện cười đùa với Khương Linh Diệp như thường ngày, mà lại cúi đầu tránh ánh mắt nàng.

Chính khoảnh khắc bối rối ấy đã khiến Khương Linh Diệp cảm thấy có điều chẳng lành.

Nàng không tiếp tục mang trà mà vội vã quay về phòng, lục tung toàn bộ số vàng bạc mình có. Đây đều là những thứ nàng đổi được nhờ những món đồ Hiền phi làm vỡ, từ chén ngọc bích đến bình hoa. Nàng nhét tất cả vào tay Ngọc Uyển: “Ngọc Uyển, tỷ mau đem hết chỗ này đến cho nội thị bên cạnh Thánh nhân, nhờ họ giúp muội chuyển lời. Chỉ cần nói rằng, vạn kim… sắp biến mất rồi.”

Ngọc Uyển sững sờ: “Đưa… đưa cho nội thị của Thánh nhân? Nói… vạn kim sắp biến mất rồi? Nghĩa là sao?”

“Chính xác là vậy.” Khương Linh Diệp cuống quýt: “Tỷ đi ngay đi, chậm trễ là không kịp nữa!”

“Nhưng ta vẫn chưa hiểu…”

“Tỷ không cần hiểu. Tỷ chỉ cần biết, mạng của muội nằm trong tay tỷ.”

Khương Linh Diệp đẩy mạnh Ngọc Uyển: “Mau lên!”

Ngọc Uyển dù chưa hiểu rõ ngọn ngành, nhưng vẫn cuống cuồng rời khỏi Tê Phượng các. Chân nàng vừa bước qua cửa, vài nội thị đã tìm tới phòng Khương Linh Diệp, không nói một lời, lập tức dùng giẻ rách nhét vào miệng Khương Linh Diệp, rồi lôi thẳng đến nội thất chuyên xử phạt cung nhân.



Khương Linh Diệp bị treo lên, từng nhát roi quất xuống tàn nhẫn. Khắp thân thể nàng đầy rẫy vết máu, sắc đỏ loang lổ trên làn da trắng ngần. Hiền phi ngồi ngay trước mặt nàng, gằn từng chữ một: “Hôm qua, Thánh nhân đến Tê Phượng các, ngươi đã nói gì với người?”

Khương Linh Diệp cắn răng, một mực không thừa nhận: “Không… không nói gì cả.”

Hiền phi cười khẩy: “Không nói gì sao? Lạ thật đấy. Lần trước Thánh nhân đến Tê Phượng các, ngươi hầu người thay y phục. Lần này đến Tê Phượng các, vẫn là ngươi hầu người chợp mắt. Sao cứ luôn là ngươi?”

“Bởi vì… bởi vì những người khác không dám hầu hạ Thánh nhân… tiểu tỳ mới cả gan bước tới…”

Hiền phi nửa lời cũng không tin. Nàng ta chăm chú quan sát Khương Linh Diệp, thiếu nữ trước mắt dù đầy thương tích, tóc tai rối bời, nhưng nhan sắc khuynh thành vẫn khó để che lấp. Ánh mắt Hiền phi ánh lên sự ghen ghét, lạnh giọng: “Từ lúc ngươi bước vào Tê Phượng các, ta đã biết, ngươi chính là một con hồ ly tinh!”

Bản năng của nữ nhân mách bảo nàng ta không thể tin lời Khương Linh Diệp, càng không tin giữa ả và Hoàng đế không có gì xảy ra. Hiền phi cất giọng sắc lạnh: “Người đâu, nghiệm thân cho ả!”



Những bà vú già như lang như hổ xông lên. Khương Linh Diệp cắn chặt môi, đôi mắt ngập nước. Hiền phi trông thấy, càng đắc ý hơn: “Ngươi nên sớm thú nhận đi, còn hơn chịu nỗi nhục này.”

Nước mắt rơi lã chã, song Khương Linh Diệp vẫn kiên quyết lắc đầu: “Không có.”

Lời nói quả quyết khiến những người có mặt, trừ Hiền phi, đều bắt đầu hoài nghi, liệu có phải Khương Linh Diệp bị oan không?

Nhưng Hiền phi chẳng chút dao động, nàng ta đã mất kiên nhẫn, quát lớn: “Nghiệm!”

Kết quả, Khương Linh Diệp đã thất thân.

Hiền phi giận đến phát run, giật lấy roi da, vung lên quật mạnh xuống người Khương Linh Diệp: “Tiện tỳ! Mở miệng là dối trá? Không phải ngươi nói là không sao? Vậy đây là gì?”

Roi vụt xuống liên tiếp như mưa, để lại từng vết máu rướm trên da thịt. Nếu cứ tiếp tục như vậy, e rằng chưa kịp đợi Hoàng đế đến cứu, Khương Linh Diệp đã bị đánh đến chết rồi.



Khương Linh Diệp nghiến răng chịu đựng cơn đau, nàng ngẩng đầu nhìn Hiền phi: “Tiểu tỳ khai, tiểu tỳ khai đây.”

Hiền phi ngừng tay, hừ lạnh: “Tiện tỳ! Không đánh thì không chịu nói!”

Nàng nghiến răng hỏi: “Nói! Ngươi quyến rũ Thánh nhân từ bao giờ?”

“Là… là lần trước, khi Thánh nhân tới ngụ ở Tê Phượng các…”

Khương Linh Diệp như sợ hãi đến tột độ, vừa khóc vừa lắp bắp thuật lại từng câu từng chữ chuyện mình quyến rũ Hoàng đế. Hiền phi tức đến tái mặt: “Tiện nhân! Đúng là phòng ngày phòng đêm, không ngờ lại phòng không nổi trộm trong nhà! Nói! Ngươi thất thân từ khi nào?”

“Là vào ngày Trùng Dương…”

Khương Linh Diệp không bỏ sót một chi tiết nào, kể lại tường tận chuyện xảy ra vào ngày hôm đó. Hiền phi nghe xong, lửa giận càng bùng lên, vung roi quất nàng mấy nhát: “Tiện tỳ thấp hèn! Ngươi là kỹ nữ sao? Không, ngươi còn đê tiện hơn cả kỹ nữ!”

Một roi nữa giáng thẳng xuống người Khương Linh Diệp, Hiền phi lạnh lùng hỏi tiếp: “Còn hôm qua thì sao? Ngươi và Thánh nhân đã những làm gì?”

“Hôm qua… không làm gì cả… nhưng… Thánh nhân nói tiểu tỳ… có đôi mắt rất đẹp…”

Hiền phi sững lại.

Ghen tuông như một cơn sóng lớn ập đến, nhấn chìm tâm trí nàng ta: “Thánh nhân nói mắt ngươi rất đẹp?”

Đột nhiên, Hiền phi phá lên cười điên dại: “Được, vậy ta sẽ khoét mắt ngươi, dâng lên Thánh nhân!”

Con dao sắc bén được đưa vào tay Hiền phi, nàng ta nắm chặt chuôi dao, từng bước tiến lại gần Khương Linh Diệp. Bàn tay giữ chặt cằm nàng, lưỡi dao sắc lẹm từ từ hướng về phía đôi mắt: “Ta muốn xem thử, bị móc xuống rồi, mắt ngươi có còn đẹp nữa không!”



Lưỡi dao sắp chạm vào mắt Khương Linh Diệp thì bỗng dưng có tiếng quát giận dữ vang lên: “Dừng tay!”

Hiền phi sững người.

Bên ngoài nội thất, Hoàng đế đang đứng đó.

Hắn sải bước đi vào, ánh mắt quét qua thân hình tả tơi, y phục rách nát của Khương Linh Diệp. Đôi môi mím chặt, đáy mắt thấp thoáng một tia giận dữ.

Hẳn là vì suýt nữa mất đi người có thể kiếm về ngàn vàng cho hắn nên mới giận chứ gì.

Chứ đâu phải vì lo lắng sống chết của nàng.

Hiền phi ấp úng: “Thánh… Thánh nhân!”

Hoàng đế chẳng buồn để tâm đến nàng ta, mà chỉ lạnh lùng đẩy nàng ta ra. Hắn cởi long bào màu vàng sáng, khoác lên người Khương Linh Diệp, rồi tháo sợi dây trói chặt đôi cổ tay nàng. Khương Linh Diệp kiệt sức, cơ thể mềm nhũn, ngã nhào vào lồng ng.ực hắn.

Ý thức được mình thất lễ trước ngự tiền, nàng cố gượng dậy, nhưng Hoàng đế trầm giọng hỏi: “Còn đi được không?”

Khương Linh Diệp khẽ gật đầu, giọng yếu ớt: “Được…”

“Trẫm không để nàng tự đi.” Hắn bế ngang nàng lên, sải bước ra khỏi nội thất: “Trẫm đưa nàng đi trị thương.”

Phía sau vang lên tiếng của Hiền phi: “Thánh nhân! Con nô tỳ này…”

Nàng ta còn chưa kịp nói hết câu, Hoàng đế đã quay đầu lại, nói: “Hiền phi, nàng ấy không còn là nô tỳ nữa. Từ giờ khắc này, nàng là chính Tiệp dư tam phẩm.”



Mãi đến khi Hoàng đế rời đi, Hiền phi mới hoàn hồn.

Những lời chối cãi ban đầu, rồi sau đó là từng câu từng chữ thú nhận rõ ràng, hóa ra chỉ là kế trì hoãn của ả nô tỳ này, nhằm kéo dài thời gian đợi Hoàng đế đến cứu.

Nghĩ thông suốt điều này, rồi lại liên tưởng đến dáng vẻ trước nay luôn nhẫn nhịn chịu đòn, dè dặt thận trọng của Khương Linh Diệp, một ớn rét từ sống lưng lan tỏa khắp cả người Hiền phi.

Lòng dạ sâu xa đến bậc này, quả thực đáng sợ tột cùng.

Cả hậu cung, bao gồm cả Hoàng hậu Trịnh thị, e rằng không ai là đối thủ xứng tầm của ả.

Về sau, mọi chuyện xảy ra đều chứng minh suy đoán của nàng ta là đúng.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 176: Ngoại truyện Đế Hậu (4): “Sao nàng biết chỉ là diễn kịch chứ không phải thật lòng?”


Hoàng đế bế Khương Linh Diệp trở về điện Thần Long. Sau đó không lâu, liền nghe tin Hiền phi đến gặp Tiết Thái hậu, khóc lóc ầm ĩ, cầu xin bà làm chủ cho mình.

Nghe xong đầu đuôi câu chuyện, Tiết Thái hậu chỉ bật cười: “Chỉ là một món đồ chơi, có đáng để ngươi khóc lóc như vậy không?”

Hiền phi nức nở: “Nhưng Thánh nhân đã phong cho ả làm Tiệp dư…”

“Tiệp dư thì sao? Cũng đâu phải lập làm Hoàng hậu.”

“Nhưng ả thấp hèn như thế, dựa vào đâu mà được làm Tiệp dư?”

Tiết Thái hậu cười nhạt: “Ai nói xuất thân thấp hèn thì không thể làm Tiệp dư? Trong số phi tần của Tiên đế, người có xuất thân thấp kém cũng đâu phải là ít.”

“Nhưng… nhưng ả yêu mị quyến rũ! Ả dám quyến rũ Thánh nhân ngay trước giường của thần thiếp! Còn cùng Thánh nhân trong rừng phù dung… rừng phù dung…” Hiền phi tức giận đến mức lấy tay che mặt, nấc nghẹn: “Ả đê tiện đến mức thiếp cũng chẳng dám nói ra!”

Tiết Thái hậu thản nhiên đáp: “Một cung tỳ muốn đổi đời, chẳng phải chỉ có cách dụ dỗ đàn ông thôi sao? Khi dụ dỗ, còn mong giữ được sự cao quý? Chuyện này chẳng có gì to tát cả.”

“Nhưng di mẫu ơi, tâm cơ của ả quá sâu, e rằng sẽ khiến hậu cung gà chó không yên!”

Tiết Thái hậu không muốn nghe thêm nữa, ngáp nhẹ một cái rồi nói: “Thôi được rồi, chỉ là một cung tỳ, chưa có bản lĩnh lớn đến thế đâu. Ngô rồi, lui xuống đi.”

Dứt lời, bà thẳng thừng đuổi khách, cũng không hề tỏ ý phản đối việc Hoàng đế phong Khương Linh Diệp làm Tiệp dư. Dù sao, Hoàng đế là con trai bà, còn Hiền phi chỉ là cháu gái.

Giữa con trai và cháu gái, bà vẫn biết phải thiên vị ai hơn.

Dù rằng đứa con trai này không phải ruột thịt của bà thì đã sao? Hiện giờ, bà chính là mẫu thân của Hoàng đế, nhờ thân phận này, bà có thể một tay nắm trọn quyền hành, muốn làm gì thì làm.

Vậy nên chuyện nhỏ nhặt như việc Hoàng đế phong một nô tỳ làm Tiệp dư, bà chẳng buồn quản. Bà không muốn ép Hoàng đế quá mức.



Khương Linh Diệp cứ thế thuận lợi được phong làm Tiệp dư, ban cho nơi ở tại Phượng Dương các. Đứng giữa gian điện lộng lẫy, nhìn quanh những bày biện xa hoa, nàng chợt cảm thấy như mình đã bước sang một thế giới khác, mọi thứ dường như chỉ là giấc mộng thoáng qua.

Chỉ mới mấy ngày trước, nàng vẫn chỉ là một nô tỳ mặc người đánh mắng, chủ nhân muốn nàng sống thì nàng phải sống, muốn nàng chết thì nàng không thể có đường lui. Sinh mạng mỏng manh chẳng khác nào cỏ rác, không đáng một xu. Nhưng giờ đây, nàng cũng đã trở thành chủ nhân, trong nội điện, một hàng dài nô tỳ quỳ phục dưới chân, đợi lệnh hầu hạ. Mà nàng, cũng có thể định đoạt số phận của họ, muốn họ sống thì họ sống, muốn họ chết thì họ chết.

Đây chính là mùi vị của quyền lực sao?

Khương Linh Diệp nhìn đám nô tỳ cúi đầu dè dặt, ánh mắt nàng thoáng vẻ thất thần. Nhưng rất nhanh, nàng bừng tỉnh, bước lên trước, từng người một dìu họ đứng dậy. Đám nô tỳ chưa từng gặp qua chủ nhân nào như vậy, ai nấy đều kinh ngạc đến ngây người.

Nàng mỉm cười ôn hòa: “Các ngươi, ta cũng xuất thân là nô tỳ, ta hiểu nỗi khổ của những người cùng cảnh ngộ. Ta không dám hứa hẹn điều gì lớn lao, nhưng có một điều ta có thể đảm bảo, ta sẽ đối đãi với các ngươi như với một con người.”

Bọn họ đưa mắt nhìn nhau, chưa từng có ai nói với họ như vậy, cũng chưa từng có ai xem họ là con người để đối đãi. Trong lòng bàng hoàng, họ không biết phải phản ứng thế nào.

Nhưng rồi, Khương Linh Diệp dùng hành động để chứng minh lời nói của mình.

Nàng không giống những phi tần khác, không hề hà khắc với nô tỳ, trái lại còn vô cùng khoan hậu. Những phần thưởng Hoàng đế ban tặng, nàng không hề giữ riêng cho mình, mà rộng rãi chia sẻ với hạ nhân. Khi gia quyến của họ lâm bệnh, nàng sẽ thêm bạc để họ có điều kiện xoay sở. Lòng người có ân, lâu dần, nô tỳ trong Phượng Dương các đều cảm kích đến rơi lệ, một lòng trung thành với nàng, không chút nghi ngờ.



Sau khi Khương Linh Diệp được phong làm Tiệp dư, Hoàng đế sủng ái vô cùng, đến cả lúc phê duyệt tấu chương trong điện Thần Long cũng muốn nàng bầu bạn bên cạnh.

Khương Linh Diệp đã thuần thục việc mài mực. Khi nàng cúi đầu mài mực, thỉnh thoảng lại ngước lên, liếc nhìn tấu chương trên bàn ngự án. Hoàng đế thấy vậy, bật cười hỏi: “Nàng biết chữ sao?”

Khương Linh Diệp khẽ lắc đầu, trong đáy mắt hiếm hoi ánh lên một tia mất mát: “Không biết ạ.”

Nhà quá nghèo, có cơm ăn đã là may mắn, nào có dư bạc để học chữ.

Hoàng đế hỏi: “Vậy tại sao nàng cứ nhìn chằm chằm vào tấu chương của trẫm?”

Nàng mím môi, chậm rãi đáp: “Thần thiếp không nhìn tấu chương, mà đang nhìn cây bút trong tay Thánh nhân.”

“Ồ?” Hoàng đế cúi xuống, nhìn cây bút lông sói trong tay mình: “Bút thì có gì đáng xem?”

Khương Linh Diệp cẩn trọng đáp: “Thần thiếp cảm thấy, cây bút này, rất nặng.”

“Nặng ư?” Hoàng đế nhướng mày, cầm cây bút lên thử cảm nhận: “Nặng chỗ nào?”

Nàng mím môi, lấy hết can đảm, cung kính nói: “Bẩm Thánh nhân, ngoại tổ phụ của thần thiếp từng buôn hương liệu ở Trường An. Ngoại tổ cần cù, nhân hậu, gầy dựng cơ nghiệp bao năm, cuối cùng cũng tích góp được chút gia sản. Khi ấy, các nước Tây Vực đều ưa chuộng xạ hương Trung Nguyên, giá cả vì thế mà ngày một leo thang. Nếu mang xạ hương bán sang Tây Vực, tất sẽ thu về lợi nhuận lớn.”

“Vì vậy, ngoại tổ phụ dốc toàn bộ gia tài, thu mua một lượng lớn xạ hương, dự định chở sang Tây Vực buôn bán. Nào ngờ, triều đình đột nhiên hạ một đạo sắc lệnh, quy định xạ hương cũng như tơ lụa, vàng sắt, không được phép tự ý đưa ra Tây Vực. Lúc ấy, xe bò đã mua, người làm cũng đã thuê, sắc lệnh vừa ban, Tây Vực lập tức trở thành con đường không thể đặt chân tới.”

Hoàng đế nghe vậy, trầm ngâm một hồi rồi hỏi: “Sau đó thì sao?”

Khương Linh Diệp cụp mắt, giọng nhẹ bẫng: “Sau đó… một năm sau, sắc lệnh này bị thu hồi, xạ hương được mang ra buôn bán như trước. Nhưng ngoại tổ phụ thần thiếp vì uất ức đã thành bệnh, rồi qua đời. Thứ ông để lại cho cha mẹ thần thiếp không phải là gia tài, mà là vô số chủ nợ. Từ đó về sau, trong nhà thần thiếp không còn lấy một hạt gạo thừa.”

Chỉ một đạo sắc lệnh thay đổi trong tích tắc cũng đủ khiến một gia đình tan cửa nát nhà. Giọng nói của nàng nghẹn lại, hốc mắt đỏ hoe, song vẫn cúi đầu tiếp tục mài mực: “Cho nên, thần thiếp cảm thấy, cây bút của Thánh nhân, rất nặng. Nặng đến mức có thể định đoạt sinh tử của vạn dân trăm họ.”

Hoàng đế cúi đầu nhìn cây bút trong tay mình, hồi lâu sau mới khẽ nói: “Đạo sắc lệnh đó, là do tổ phụ trẫm ban ra.”

Tổ phụ của Hoàng đế là một hôn quân khét tiếng, sủng ái phi tần vô độ, sủng phi nói gì thì chính là như thế. Chỉ vì một lời làm nũng của sủng phi, than phiền giá xạ hương quá cao khiến chị em nàng ta không đủ tiền mua dùng, vậy mà vị Hoàng đế kia đã vung bút, hạ xuống đạo sắc lệnh khiến cả gia tộc Khương Linh Diệp rơi vào cảnh bần cùng.

Hoàng đế lẳng lặng cầm bút, từng nét từng nét phê lên tấu chương. Một lúc sau, hắn bỗng lên tiếng: “Trẫm… sẽ không đi theo vết xe đổ của tổ phụ.”

Khương Linh Diệp ngước mắt lên nhìn, chỉ nghe Hoàng đế nói: “Nàng cứ yên tâm, từ nay về sau, mỗi lần hạ bút, trẫm đều sẽ suy xét cẩn trọng.”

Viền mắt nàng nóng lên, liền buông nghiên mực xuống, cúi đầu lạy tạ, chân thành khấu bái: “Thiếp xin thay lê dân bách tính thiên hạ, dập đầu tạ ơn Thánh nhân.”

Hoàng đế dừng bút, nhìn nàng, qua một lúc lâu mới nhạt giọng dời ánh mắt đi. Hắn nhúng ngòi bút lông sói vào mực, rồi hờ hững nói: “Mực sắp cạn rồi, còn không mau mài thêm?”

Khương Linh Diệp vội đáp: “Thiếp sẽ làm ngay.”



Nàng chăm chú mài mực, Hoàng đế chuyên tâm phê duyệt tấu chương, không hay không biết, lúc này đã gần đến giờ Ngọ. Bên ngoài điện Thần Long trời cao mây tạnh, ánh nắng vàng trải khắp nhân gian, còn bên trong điện cũng ngập tràn một bầu không khí ấm áp, dịu dàng.

Hoàng đế đang duyệt một bản tấu, bỗng liếc mắt nhìn nàng, khóe môi nhếch lên, bật cười mấy tiếng. Khương Linh Diệp cắn môi, lòng hiếu kỳ dâng lên, ngẩng đầu trộm ngắm hắn. Hoàng đế bỗng nhướn mày: “Có phải đang nghĩ, vì sao trẫm lại cười không?”

Khương Linh Diệp gật đầu.

Hoàng đế cầm bản tấu, đọc cho nàng nghe, thì ra đây là một tấu chương khuyên can hắn không nên sủng ái nàng quá mức.

Tấu chương do Thái thú Cừ Châu dâng lên. Lão Thái thú tuổi tác đã cao, nghe nói gần đây Hoàng đế vô cùng yêu mến một nữ tử xuất thân thương hộ, trong lòng lo lắng không thôi. Trong bản tấu, lão đem nàng ví với Đát Kỷ và Bao Tự, khuyên nhủ Hoàng đế nên giữ khoảng cách, bớt gần gũi Khương Linh Diệp và tốt hơn hết là nên lui tới với các phi tần có xuất thân tôn quý như Hiền phi. Ở cuối tấu chương, lão Thái thú còn viết, trong dân gian lưu truyền lời đồn, nói rằng Khương Tiệp dư chính là hồ ly hóa thành, vì thế khẩn cầu Hoàng đế mời đạo sĩ đến xem xét, liệu nàng có phải yêu nghiệt hay không.

Nghe đến đoạn này, Khương Linh Diệp không nhịn được mà bật cười. Hoàng đế nói: “Lão bêu riếu nàng đến mức này mà nàng còn cười được sao?”

Khương Linh Diệp nháy mắt, khẽ cười nói: “Vậy chẳng hay Thánh nhân có định mời đạo sĩ tới xem thử liệu thiếp có phải yêu quái không?”

Trong mắt nàng thấp thoáng nét tinh nghịch hiếm thấy. Hoàng đế nhìn nàng, đáy lòng khẽ rung động, liền kéo nàng vào lòng, cằm tựa lên cần cổ trắng ngần của nàng: “Chết dưới hoa mẫu đơn, làm quỷ cũng phong lưu. Dù nàng có là yêu, trẫm cũng nhận.”

Hắn tiếp lời: “Người dâng bản tấu này, nên đánh hay nên phạt, nàng định đoạt đi.”

Khương Linh Diệp mỉm cười, cầm tấu chương lên, tùy ý ném vào lò hương trên bàn gỗ tử đàn. Chỉ trong chớp mắt, từng tấc giấy hóa thành tro bụi trong ánh lửa cam vàng. Nàng thong thả nói: “Thiếp đã xử lý xong rồi.”

Hoàng đế nhướn mày: “Nàng không giận sao?”

“Trên đời này có hàng vạn điều không vui, nếu chuyện gì thiếp cũng giận, e rằng sẽ giận không xuể.” Khương Linh Diệp đáp: “Huống hồ, chính thiếp là người đã bước tới trước mặt Thánh nhân, vậy những ghen ghét và phỉ báng theo sau, đương nhiên thiếp cũng phải gánh chịu. Bằng không, chẳng phải mọi điều tốt đẹp trên đời này đều bị thiếp chiếm hết rồi sao? Nào có đạo lý như vậy?”

Lời vừa dứt, Hoàng đế không kìm được mà bật cười. Hắn ôm nàng chặt hơn, nhẹ giọng nói: “Giờ trẫm thực sự mong mỏi, có thể cùng nàng sinh hạ một đứa trẻ.”

“Sao Thánh nhân lại nói vậy?”

“Trẫm muốn xem xem, đứa trẻ do nàng dạy dỗ, sẽ trở thành người như thế nào.”

Khương Linh Diệp cũng bật cười. Hoàng đế bế nàng đặt lên đùi, cằm hắn lấm tấm râu xanh lướt qua hõm cổ nàng, khiến nàng thấy nhột, cười khanh khách né tránh. Đùa nghịch một lúc, ánh mắt nàng vô tình lướt qua những tấu chương đặt trên bàn, động tác né tránh cũng khựng lại đôi chút.

Hoàng đế hít hà mùi hương thanh khiết trên gáy nàng, chủ động hỏi: “Có muốn học chữ không?”

Ánh mắt Khương Linh Diệp lóe lên sự vui mừng: “Thiếp… có thể sao?”

“Đương nhiên là có thể.” Hoàng đế nói: “Trẫm sẽ tự mình dạy nàng.”

Nàng vội vàng cúi đầu, cảm kích đáp: “Đa tạ Thánh nhân.”

Hoàng đế càng ôm nàng chặt hơn, khóe môi mang theo ý cười: “Nhưng mà, trẫm đâu dễ làm thầy của ai.”

Khương Linh Diệp hờn dỗi: “Vậy thiếp phải làm sao thì Thánh nhân mới chịu làm thầy của thiếp đây?”

“Trẫm muốn nàng trả công.” Hắn nhìn nàng, giọng điệu ung dung: “Mà còn phải trả bằng thứ có một không hai ở trên đời này?”

“Mọi thứ của thiếp, chẳng phải đều do Thánh nhân ban cho hay sao? Thiếp cũng không có gì gọi là độc nhất vô nhị cả.”

Hoàng đế bật cười sảng khoái, phất tay hất tấu chương trên bàn gỗ tử đàn sang một bên. Trong tiếng kinh hô khe khẽ của nàng, hắn đã đè nàng xuống mặt bàn, giọng trầm khàn: “Nếu không có, vậy thì lấy chính nàng để bù đi.”



Trong điện Thần Long, mưa gió triền miên, dây dưa quấn quýt. Hoàng đế không còn thô bạo như lần ở rừng phù dung, từng động tác đều trở nên dịu dàng hơn rất nhiều. Khương Linh Diệp run run, lần đầu tiên nàng cảm nhận được thứ cảm giác khác ngoài nỗi đau đớn kia, một niềm khoái lạc tột cùng. Nàng ngước nhìn vị đế vương đang đè lên người mình, trong cơn mê man, lòng nàng dâng lên thứ cảm xúc lạ lẫm. Những ngón tay đặt trên bàn gỗ tử đàn hết siết lại rồi lại buông lơi, như muốn níu giữ điều gì đó, nhưng lại không dám. Ánh mắt Hoàng đế sâu thẳm tựa như vực nước, sâu đến mức nàng không tài nào nhìn thấu tâm tư hắn. Bất chợt, bàn tay hắn phủ lên tay nàng, mười ngón đan xen, gắn chặt vào nhau, tựa như đôi tình nhân thân mật nhất.

Khương Linh Diệp sững sờ nhìn Hoàng đế, cắn nhẹ bờ môi run rẩy, những ngón tay khẽ động, thử thăm dò, cuối cùng nàng cũng rụt rè nắm lấy bàn tay hắn.



Sau cơn mây mưa, Khương Linh Diệp sắc mặt ửng hồng, tựa vào lòng Hoàng đế, mái tóc rối bời, vài lọn dính vào gò má. Nàng nhỏ giọng trách móc: “Tóc thiếp rối tung cả rồi, lát nữa ra ngoài, nhất định sẽ bị người ta chê cười mất.”

“Không phải rất tốt sao?” Hoàng đế đặt một nụ hôn nhẹ lên vành tai nàng: “Một vị đế vương hoang dâm giữa ban ngày, một Tiệp dư lẳng lơ mê hoặc quân chủ, đúng là trời sinh một cặp.”

Khương Linh Diệp chợt hiểu ra, liền bày ra vẻ phàn nàn: “Thì ra Thánh nhân muốn mượn thiếp để diễn một vở kịch.”

Một vở kịch cho Tiết Thái hậu xem, để bà ta nghĩ rằng Hoàng đế dễ dàng sa vào nữ sắc, không đủ tư cách chấp chưởng quyền hành.

Hoàng đế cười khẽ: “Sao nàng biết đây là diễn kịch, mà không phải thật lòng?”

Tim nàng bất giác run lên, nhưng rất nhanh, nàng nhoẻn cười: “Thiếp tự biết thân phận mình.”

Nàng chưa bao giờ cho rằng một đế vương thâm trầm cơ trí, ôm chí lớn như hắn lại có thể động lòng vì nàng.

Nghe vậy, Hoàng đế mỉm cười, không hề phản bác, chỉ nói: “Cứ thế mà ra ngoài đi.”

Khương Linh Diệp sớm đoán được kết cục này, nàng liền đáp: “Thần thiếp tuân chỉ.”

Nàng định đứng dậy, nhưng lại bị hắn kéo mạnh, ngã vào lòng hắn lần nữa. Nàng ngẩng lên, ánh mắt khó hiểu: “Thánh nhân?”

Hắn không đáp, chỉ nhẹ nhàng nâng cằm nàng lên, ánh mắt từ trên cao nhìn xuống, trong đó chứa đựng thứ cảm xúc mơ hồ khó đoán.

Bỗng nhiên, hắn lại nói: “Khương Linh Diệp.”

“Thiếp ở đây.”

Nhưng hắn chẳng nói thêm gì nữa, chỉ bất chợt cúi xuống, đặt lên môi nàng một nụ hôn.

Hắn vậy mà… hôn nàng ư?

Đây là lần đầu tiên hắn hôn môi nàng.

Khương Linh Diệp thoáng sửng sốt.

Hoàng đế cười khẽ, vỗ nhẹ mu bàn tay nàng: “Xuống dưới đi.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 177: Ngoại truyện Đế Hậu (5): “Trẫm và nàng, thử một lần xem sao”


Hoàng đế đích thân dạy nàng học chữ, Khương Linh Diệp tiếp thu rất nhanh. Khi dạy, hắn luôn nắm lấy tay nàng, kiên nhẫn hướng dẫn từng nét bút. Hoàng đế tinh thông nhiều thể chữ, trong đó giỏi nhất là lối Phi Bạch. Hắn hỏi: “Nàng muốn học kiểu chữ nào?”

Khương Linh Diệp nghĩ ngợi một lát rồi đáp: “Tiểu Khải.”

Hoàng đế cười: “Trẫm còn tưởng nàng sẽ muốn trẫm dạy Phi Bạch.”

Khương Linh Diệp nói: “Phi Bạch đương nhiên rất đẹp, nhưng khó học hơn Tiểu Khải rất nhiều. Hiện thiếp còn chưa viết nổi một chữ, tất nhiên phải học từ thứ đơn giản nhất.”

Hoàng đế nắm lấy tay nàng, khẽ cười: “Nàng thông minh lắm.”

Hắn kiên trì dạy, nàng chuyên tâm học, ngày đêm miệt mài không biết mệt mỏi. Chẳng bao lâu sau, nàng đã có thể nhận biết mặt chữ, thậm chí còn viết được Tiểu Khải khá ngay ngắn.

Từ khi biết chữ, Khương Linh Diệp đặc biệt thích đọc sách. Hoàng đế hào phóng đem hết tàng thư của mình cho nàng mượn. Thuở đầu, nhiều cuốn sách chữ nghĩa quá mức uyên thâm, Khương Linh Diệp đọc không hiểu, những lúc như thế Hoàng đế liền ôm nàng vào lòng, giảng giải từng chữ một. Khương Linh Diệp tựa trong lòng Hoàng đế, thỉnh thoảng lại ngước mắt hỏi đôi câu, hắn cũng chẳng phiền, nhẫn nại trả lời từng chút từng chút một.

Hôm ấy trong Phượng Dương các, vẫn là cảnh tượng quen thuộc. Hoàng đế đang giảng cho nàng nghe câu: “Người khác làm một lần thì mình làm trăm lần, người khác làm mười lần thì mình làm nghìn lần. Nếu có thể kiên trì như vậy, kẻ ngu cũng sáng, kẻ yếu cũng mạnh.” Đột nhiên, hắn bật cười.

Khương Linh Diệp khó hiểu: “Thánh nhân đang cười gì đấy?”

Hoàng đế ung dung nói: “Bên ngoài đều mắng trẫm là hôn quân, mắng nàng là yêu phi. Nhưng bọn họ đâu có ngờ rằng, trong Phượng Dương các này, hôn quân lại đang giảng sách cho yêu phi nghe.”

Khương Linh Diệp hơi nóng mặt, khẽ cọ cọ vào lồng ng.ực Hoàng đế, lẩm bẩm: “Thánh nhân lại trêu thiếp.”

Hoàng đế vuốt nhẹ mái tóc nàng, cười khẽ: “Giai nhân trong lòng, nếu trẫm chỉ giảng sách một cách đứng đắn, chẳng phải quá nhàm chán rồi sao?”

Khương Linh Diệp nói: “Có phải Thánh nhân thấy trêu ghẹo thiếp là việc hết sức thú vị?”

Khóe môi Hoàng đế thấp thoáng nét cười, nhưng đôi mắt đen thẳm lại nghiêm túc đáp: “Không phải việc trêu ghẹo Tiệp dư thú vị, mà là bản thân Tiệp dư vốn đã thú vị.”

Khương Linh Diệp vốn đang nép trong lòng hắn, ngẩng đầu nhìn hắn cười rạng rỡ, nhưng khi chạm phải đôi mắt sâu như hồ nước kia, nàng bỗng chột dạ, vội vàng dời ánh mắt đi. Nàng khẽ nói: “Thiếp thì có gì thú vị chứ?”

“Điểm nào cũng thú vị cả.” Hoàng đế đáp: “Một đóa mẫu đơn, cứ thế lớn lên, tất nhiên xinh đẹp, nhưng vẫn không thú vị bằng việc nhìn thấy nó dốc sức bung nở.”

Khương Linh Diệp nghe vậy, không khỏi bật cười: “Thì ra trong lòng Thánh nhân, thiếp là một đóa mẫu đơn sao?”

“Nếu không thì là gì?”

Khương Linh Diệp mím môi cười khẽ. Trải qua quãng thời gian này, nàng không còn dè dặt, cẩn trọng cân nhắc từng câu từng chữ khi đối diện với hắn như lúc ban đầu nữa. Nàng nhìn ra được, người đàn ông này không chỉ thích dã tâm của nàng, mà còn thích sự táo bạo, đôi khi có phần lấn lướt của nàng. Nàng nói: “Thiếp vẫn luôn cho rằng, trong lòng Thánh nhân, thiếp chỉ là một ngọn cỏ dại.”

Hoàng đế hơi sững lại, rồi cũng bật cười: “Nếu nàng là cỏ dại, vậy trẫm là gì?”

Khương Linh Diệp ngẫm nghĩ một chút, rồi đáp: “Thánh nhân là Hoàng đế Đại Chu, bách tính đều nương tựa vào người. Vậy nên, Thánh nhân chính là trụ cột.”

“Trụ cột?” Hoàng đế nghiền ngẫm hai chữ ấy, thong thả nói: “Cũng phải. Một cây trụ sừng sững giữa trời, đơn độc vô cùng. Nếu bên cạnh có cỏ dại bầu bạn, thì ít ra cũng bớt sự cô quạnh.”

Hắn bỗng dưng thốt ra câu ấy, khiến Khương Linh Diệp không hiểu rõ hàm ý. Nhịp tim nàng chợt rối loạn, chẳng biết là vì không hiểu ý Hoàng đế, hay vì chính câu nói ấy làm lòng nàng rung động.

Nàng cúi đầu, hồi lâu sau mới nói: “Trụ cột đứng giữa vạn dân, sao có thể cảm thấy cô đơn chứ?”

Hoàng đế lắc đầu cười: “Giữa vạn người, vẫn là con người. Mà đã là người, thì ắt có thất tình lục dục. Kẻ dứt tình tuyệt ái, chỉ có thể là hòa thượng mà thôi.”

Hắn vu.ốt ve vòng eo mảnh mai của Khương Linh Diệp, dừng lại chốc lát, rồi từ từ nói: “Trẫm không thể làm hòa thượng, vậy nên có lúc, trẫm cũng cảm thấy cô đơn, cũng mong có một người cùng chung chí hướng, có thể đồng hành với trẫm trên con đường đế vương dài vạn dặm này.”

Hắn chưa từng nói với Khương Linh Diệp những lời này, hoặc có lẽ, vị đế vương thâm sâu khó đoán ấy chưa bao giờ để lộ mặt yếu mềm trước nàng. Vì thế, nàng luôn cho rằng hắn vô tình vô ái, mạnh mẽ đến mức không gì không làm được, cũng sẽ không vì bất kỳ nữ nhân nào mà dừng bước.

Lúc Hoàng đế nói đến việc muốn tìm một người đồng hành, ánh mắt hắn lẳng lặng khóa chặt lấy nàng, sâu thẳm tựa đêm đen. Khương Linh Diệp mấp máy môi, nhưng rồi lại nhanh chóng dời đi ánh nhìn, trái tim dường như cũng lỡ nhịp. Khi nãy, nàng còn có thể đối đáp trơn tru, nũng nịu đùa bỡn với hắn, vậy mà lúc này, lại chẳng thể nói được một lời.

Hoàng đế thấy gò má nàng ửng hồng, diễm lệ tựa đào xuân thì không khỏi động lòng, liền cúi xuống hôn nhẹ lên môi nàng. Đang lúc Khương Linh Diệp tưởng hắn lại muốn đòi hỏi điều gì, thì hắn chỉ khẽ cười, cầm lấy quyển sách bên cạnh: “Vừa rồi trẫm có giảng “Người khác làm một lần, mình làm trăm lần; người khác làm mười lần, mình làm nghìn lần. Nếu thực sự có thể kiên trì theo đạo lý này, thì dù ngu dốt cũng có thể trở nên sáng suốt, dù yếu mềm cũng có thể trở nên kiên cường.” Giờ trẫm nói cho nàng biết, câu này có ý nghĩa gì.”

“Ý là, người khác bỏ ra một phần nỗ lực để làm việc, thì mình phải bỏ ra gấp trăm lần; người khác dùng mười phần sức lực, mình phải dùng đến nghìn phần. Nếu có thể kiên trì như thế, thì dù kẻ ngu muội cũng có thể trở nên sáng suốt, dù kẻ yếu đuối cũng có thể trở nên mạnh mẽ.”

Trong Phượng Dương các, Hoàng đế vẫn đóng vai người thầy như thường ngày, chỉ là tâm tư của người học trò đã sớm trở nên rối bời.



Tuy rằng nhất thời bị Hoàng đế làm cho dao động, nhưng như Khương Linh Diệp đã nói, nàng tự biết rõ thân phận của mình. Huống hồ, từ khi biết chữ, nàng đã đọc rất nhiều sách sử. Trong đó, nàng càng thấm thía một điều: thân là một phi tần chốn hậu cung, nếu như toàn tâm toàn ý đặt vào một người đàn ông, kết cục cuối cùng sẽ thê thảm đến nhường nào. Những ví dụ như thế, từ xưa đến nay, nhiều vô kể.

Nàng không dám tin Hoàng đế.

Hoàng đế dường như đã quên mất câu nói hôm ấy với nàng, một lần nữa trở lại dáng vẻ của bậc quân vương cường đại, lãnh đạm, tâm cơ sâu xa, không để lộ chút sơ hở nào. Khương Linh Diệp thậm chí hoài nghi, liệu những lời nói hôm đó có phải chỉ là ảo giác của nàng hay không.

Nàng học theo lời Hoàng đế dạy, dốc trăm lần, ngàn lần công sức để cố gắng. Dần dần, nàng nhận biết được nhiều chữ hơn, ngay cả những bản tấu chương đầy một bụng chữ, khó hiểu của các đại thần, nàng cũng có thể đọc hiểu. Hoàng đế chưa từng né tránh để nàng xem tấu chương, thậm chí còn cùng nàng thảo luận một hai điều. Khương Linh Diệp cũng mạnh dạn đưa ra kiến giải của mình, mà có đôi lời, ngay cả Hoàng đế cũng không khỏi tán thưởng.

Đó chính là lúc nàng bộc lộ được tài năng thiên phú về chính sự của mình, cũng như thực hiện được lời hứa trong rừng phù dung ngày ấy là sẽ trở thành một người có ích với Hoàng đế.



Bởi có sự tồn tại của Tiết Thái hậu nên chuyện đấu đá trong hậu cung của Hoàng đế có thể nói là cực kỳ khốc liệt. Họ Trịnh ở Huỳnh Dương, họ Tiết ở Hà Đông, họ Vương ở Lang Nha, lần lượt từng thế gia đại tộc đưa nữ nhi tiến cung, sau lưng mỗi người đều có gia tộc hùng mạnh chống đỡ. Mỗi nhà đều mong mỏi huyết mạch của mình có thể ngồi lên long vị, để thay thế họ Thôi ở Bác Lăng, trở thành danh môn đệ nhất thiên hạ.

Trong hoàn cảnh như thế, một nữ tử xuất thân thương hộ thấp kém lại độc chiếm thịnh sủng của Hoàng đế, điều này khiến toàn bộ thế gia khó hiểu vô cùng.

Nàng dựa vào cái gì?

Trong chớp mắt, muôn vàn công kích từ khắp nơi ùn ùn kéo đến, cả trong tối lẫn ngoài sáng. Khương Linh Diệp không hề cầu xin Hoàng đế ra tay giúp đỡ, bởi nếu ngay cả trong hậu cung nàng cũng không thể tự sinh tồn, thì làm sao có thể khiến Hoàng đế tin rằng nàng là một người hữu dụng?

Đám cung tỳ trong Phượng Dương các một lòng trung thành với nàng, nàng cũng bỏ công thu phục người hầu tại tẩm cung của các phi tần khác, để họ truyền tin cho nàng. Nhờ vậy, nàng biết rõ trong cung, Hoàng hậu Trịnh thị, Hiền phi và Đức phi tranh chấp chẳng khác gì gà chọi. Hoàng hậu Trịnh thị có ngôi chính cung, Hiền phi dựa vào Thái hậu, còn Đức phi lại có con nối dõi. Trịnh Hoàng hậu muốn giữ vững địa vị, Hiền phi và Đức phi lại nhòm ngó địa vị kia, ba người không ai chịu nhường ai.

Vậy nên, ngoài việc tránh xa Hiền phi, nàng thường xuyên lui tới tẩm cung của Hoàng hậu Trịnh thị và Đức phi, tỏ rõ sự kính cẩn, thần phục của mình.

Thậm chí Khương Linh Diệp còn tự tay làm bánh canh, mang đến dâng tặng Trịnh Hoàng hậu và Đức phi để bày tỏ thiện ý. Nàng được phong làm Tiệp dư đã một năm, nhưng đến nay vẫn chưa được thăng vị. Phụ thân cũng chưa được ban tước hầu. Ngày qua ngày, Trịnh Hoàng hậu và Đức phi dần cảm thấy nàng không có dã tâm, không đáng lo ngại, liền chuyển toàn bộ sự chú ý sang đối phó với những phi tần khác.

Cứ như vậy, Khương Linh Diệp lặng lẽ sinh tồn trong hậu cung. Sủng ái của Hoàng đế dành cho nàng chưa từng phai nhạt, nhưng hầu hết mọi người trong cung đều cho rằng vị Tiệp dư khiêm nhường, thận trọng này e rằng chỉ dừng lại ở bậc Tiệp dư, nào có cơ hội tiến xa hơn.



Đôi khi, Hoàng đế lén đưa Khương Linh Diệp ra khỏi cung. Một thiếu niên tuấn mỹ và một thiếu nữ kiều diễm sánh bước bên nhau, trông vô cùng xứng đôi. Thế nhưng, những lần Hoàng đế xuất cung không phải là để vui chơi, mà là để Khương Linh Diệp dẫn người đến phường Diên Tộ, nơi tập trung những bách tính bần hàn, lắng nghe họ bày tỏ bất mãn với Hoàng đế, với Đại Chu.

Mỗi lần nghe xong, Hoàng đế đều trầm mặc hồi lâu. Trong điện Tử Thần, hắn chậm rãi nói với Khương Linh Diệp: “Nàng xem, phố Chu Tước và hai chợ Đông Tây, phồn hoa bậc nào. Nhưng trong mắt trẫm, chỉ như lửa mạnh tưới dầu, sớm muộn gì cũng đến lúc trăng tròn lại khuyết.”

Hôm nay, Khương Linh Diệp vừa cùng Hoàng đế giúp đỡ một kẻ hành khất. Nhà lão nghèo đến mức phải bán thân làm nô. Về sau già yếu, bị chủ nhân đuổi ra ngoài. Lão run rẩy nói với Hoàng đế: “Con trai ta cũng là nô bộc. Đến khi già rồi, nó cũng sẽ bị chủ nhân đuổi đi, lúc ấy, e rằng cũng chỉ có thể như ta, sống nhờ vào việc ăn xin mà thôi. Ai… như chúng ta, số mệnh từ khi sinh ra đã định sẵn, chẳng có cơ hội thay đổi.”

Lời này khiến Khương Linh Diệp không khỏi chấn động. Nàng đem toàn bộ số bạc trên người trao cho lão ăn mày, dù trong lòng hiểu rõ, những đồng bạc ấy chẳng thể nào thay đổi vận mệnh của lão, cũng chẳng thể thay đổi vận mệnh của con trai lão.

Nàng mím môi, cả gan nói với Hoàng đế: “Thánh nhân, vì sao ở Đại Chu, con cháu quan lại mãi là quan lại, còn con cháu dân nghèo mãi là dân nghèo? Cõi đời này, nào có đạo lý như thế?”

Hoàng đế nhìn nàng, bình thản bảo: “Nói tiếp đi.”

“Thiếp may mắn được Thánh nhân thương xót, mới từ một nữ nhi thương hộ mà trở thành Tiệp dư. Nhưng thiên hạ này, mấy ai có được may mắn như thiếp?” Khương Linh Diệp nghĩ đến những cuốn sách sử từng đọc: “Thiếp cho rằng, trên đời này, hạng bần cùng vẫn chiếm phần đông. Khi họ ngày càng không thấy hy vọng trên con đường phía trước, họ sẽ trở thành Trần Thắng, Ngô Quảng, Trương Giác. [1] Thiếp cả gan kiến nghị, chế độ tuyển quan của Đại Chu nên có sự thay đổi.”

<i>[1] Trần Thắng, Ngô Quảng, Trương Giác: 3 nhân vật dẫn đầu các cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Trung Quốc.</i>

Hoàng đế nghe xong, lặng thinh không nói. Khương Linh Diệp cứ ngỡ mình đã lỡ lời, đang lo lắng bất an thì Hoàng đế chợt cất giọng: “Trẫm cũng có ý này.”

Khương Linh Diệp vui mừng ngẩng đầu nhìn hắn. Hoàng đế nói tiếp: “Còn gì nữa, nói hết đi.”



Hôm đó, Hoàng đế và Khương Linh Diệp trò chuyện hồi lâu trong điện Tử Thần. Cả hai đều có những suy nghĩ tương đồng về cải cách chế độ tuyển quan của Đại Chu. Cuối cùng, Hoàng đế đưa nàng đến trước ngự tọa, bàn tay nhẹ vuốt tay vịn được chạm khắc tinh xảo, để rồi than thở: “Nếu không thay đổi, ngự tọa này, e rằng sẽ rơi vào tay người Hồ.”

Khương Linh Diệp nói: “Thánh nhân muốn đổi, ắt sẽ làm được.”

Lời này không phải nịnh hót mà xuất phát từ tận đáy lòng. Trước khi vào cung Đại Minh, nàng chưa từng nghĩ vị thiếu niên đế vương này lại có ngày dẫn nàng đi khắp nơi, lắng nghe tiếng lòng của dân chúng nghèo khó ở Trường An. Hắn có tham vọng, có khí phách, thông minh quả quyết, lại biết giấu tài chờ thời. Có chuyện gì mà hắn không làm được chứ?

Hoàng đế khẽ cười, ngồi trên ngự tọa bằng gỗ tiểu diệp tử đàn, [2] hỏi nàng: “Ngự tọa này, trông có đẹp không?”

[2] tiểu diệp tử đàn: có nguồn gốc từ Ấn Độ. Theo tiếng Phạn, “tử” nghĩa là may mắn, tốt lành, “đàn” là bố thí. Cây này còn có biệt danh vương mộc tử đàn (vua của các loại gỗ). Tiểu diệp tử đàn Ấn Độ có thời gian sinh trưởng hàng trăm năm. Loại này là có chất gỗ cứng và nặng, tom sao vàng nhỏ tựa như vàng ròng, kim sa trắng nhỏ có thể nhìn thấy khi soi đèn flash. Gỗ có mùi thơm ngọt nhẹ, sẽ rõ hơn khi đeo vòng tay lâu ngày hoặc đốt lên. Gỗ này có 2 màu: đỏ cam và đỏ tím sen lẫn sao vàng bắt mắt. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 178: Ngoại truyện Đế Hậu (6): Sinh nữ nhi


Hoàng đế muốn Khương Linh Diệp thử tin tưởng hắn, nhưng nàng hồi lâu vẫn không thể lấy lại tinh thần. Liên tiếp mấy đêm liền, nàng trằn trọc không sao chợp mắt nổi.

Nàng không thể nói rõ trong lòng mình là cảm giác gì, hoảng sợ, mong chờ hay bất an? Đến canh ba, nàng thường nghiêng người, mở to mắt nhìn khuôn mặt khi ngủ của Hoàng đế, cứ nhìn như thế đến tận canh năm.

Nàng thừa nhận, bản thân quả thực đã động lòng với hắn. Một người đàn ông trẻ tuổi, tuấn lãng, thông minh, văn võ song toàn, lại còn nắm trong tay quyền lực chí cao vô thượng, rất khó để nữ nhân không động lòng. Huống hồ, tính khí của Hoàng đế cũng không tệ, hắn chưa từng tùy ý giết hại hạ nhân, trong chuyện phòng the, trừ lần thô bạo trong rừng phù dung, thì từ đó về sau, hắn vẫn luôn nhẹ nhàng. Một trượng phu như vậy, thật dễ khiến nữ nhân sa vào lưới tình.

Thế nhưng, Khương Linh Diệp hiểu rõ, nàng vào cung là vì quyền thế, địa vị, là để thay đổi vận mệnh của chính mình, chứ không phải để yêu một người đàn ông. Bao nhiêu bài học từ những phi tần trong sử sách khiến nàng không dám giao trọn con tim cho Hoàng đế. Nàng sợ bản thân yêu lầm người, cuối cùng chỉ có thể nhận lấy kết cục thê lương.

Vậy nên, dù biết mình đã động lòng, nàng vẫn ra sức kiềm chế thứ tình cảm ấy.

Trong sự giằng xé ấy, nàng mang thai.



Khương Linh Diệp vui mừng xen lẫn kinh ngạc. Nàng lén gọi ngự y đến xem mạch không lâu sau khi được sủng hạnh, nhưng kết quả lại khiến nàng thất vọng vô cùng, ngự y nói nàng khó thụ thai, sau này e rằng sẽ vất vả đường con cái.

Cũng chẳng phải vì thích trẻ con nên thất vọng, mà là vì trong chốn hậu cung này, có một đứa trẻ sẽ giúp ích rất nhiều cho địa vị của nàng. Ngay cả Tiết Thái hậu quyền thế nghiêng trời, được sủng ái hơn hết thảy, cuối cùng vẫn phải đoạt lấy con của người khác để củng cố vị trí.

Nhưng rất nhanh sau đó, Khương Linh Diệp liền điều chỉnh lại suy nghĩ của mình. Nàng không nên chỉ nhìn vào chuyện Tiết Thái hậu cướp đoạt con của người khác để giữ vững địa vị, mà phải thấy rằng, dù cả đời bà ta chưa từng sinh con, vẫn có thể ngồi vững trên ngôi cao Thái hậu. Vậy nên, có con đương nhiên là tốt, nhưng nếu không có, cũng chẳng phải trời long đất lở.

Nếu không phải Tiết Thái hậu quá tàn độc, không chỉ đoạt con mà còn giết mẹ, thậm chí là hành hạ đến chết, ngay cả người đã khuất cũng không buông tha, khiến sinh mẫu của Hoàng đế bị trói chặt, bịt miệng bằng cám rồi đem chôn, còn ngoại thích của Hoàng đế thì bị tru diệt sạch sẽ, chỉ cần bà ta không tận diệt đến mức ấy, Hoàng đế ắt vẫn sẽ hiếu thuận với bà ta, chứ không phải chỉ giả vờ kính trọng ngoài mặt như bây giờ.

Khương Linh Diệp vu.ốt ve bụng mình. Trong khoảnh khắc ấy, nàng bỗng có cảm giác không chân thực.

Nàng đã có con rồi sao? Nàng sắp làm mẹ rồi sao?



Hoàng đế vô cùng mừng rỡ khi hay tin nàng mang thai, hắn ghé tai áp lên bụng Khương Linh Diệp: “Chẳng nghe thấy gì cả.”

Khương Linh Diệp thoáng hờn dỗi: “Mới hai tháng thôi, làm sao mà nghe được chứ.”

Hoàng đế cười vang: “Nàng nói phải, trẫm quá nôn nóng rồi.”

Khương Linh Diệp cắn môi, trong lòng có chút lo lắng, bèn nói ra một cách uyển chuyển: “Dạo này thiếp không thể hầu hạ bên cạnh, mong Tam lang đừng quên thiếp, hãy thường xuyên đến Phượng Dương các thăm thiếp.”

Hoàng đế bật cười: “Lẽ nào Linh Diệp cho rằng mỗi lần trẫm đến Phượng Dương các đều là vì muốn nàng thị tẩm sao?”

Khương Linh Diệp nhớ lại biết bao đêm triền miên say đắm, gò má không khỏi nóng bừng, nhỏ giọng lẩm bẩm: “Chẳng lẽ không phải sao?”

Hoàng đế xoa nhẹ bụng nàng, tiếng cười trầm thấp: “Trẫm đâu phải dã thú đ*ng t*nh, trẫm đến Phượng Dương các là vì nàng, đâu phải vì chuyện giường chiếu. Còn những chuyện sau đó… chỉ trách trẫm không thể kiềm lòng.”

Hoàng đế thẳng thắn bộc bạch khiến Khương Linh Diệp vừa thẹn thùng, vừa buồn cười. Nàng nghiêng người tựa vào lòng hắn, bàn tay ấm áp đang đặt trên bụng nàng như truyền hơi ấm vào tận đáy lòng. Nàng ngập ngừng một thoáng, rồi thổ lộ nỗi lo canh cánh bấy lâu nay: “Tam lang, thiếp sợ lắm.”

“Sợ gì?”

“Sợ con sinh ra bị thiếu tay thiếu chân.” Khương Linh Diệp thì thầm: “Thiếp đã mơ thấy mấy lần rồi, nên thấy lo lắm.”

“Không đâu, trong cung có ngự y mà.”

“Ngự y cũng đâu thể chẩn đoán ra được.” Khương Linh Diệp đầy vẻ lo âu: “Đây là lần đầu tiên thiếp mang thai, thiếp không biết nỗi lo lắng này có phải là bình thường hay không.”

Hoàng đế là đàn ông, hắn cũng không rõ rốt cuộc Khương Linh Diệp đang suy nghĩ vẩn vơ hay vốn dĩ phụ nữ mang thai đều sẽ như vậy. Hắn trầm ngâm một lúc rồi nói: “Thế này đi, mẫu thân và a tỷ của nàng hẳn có kinh nghiệm, trẫm ban cho họ môn tịch, để họ có thể tùy ý ra vào hoàng cung, cùng nàng san sẻ âu lo.”

Ban môn tịch cho thân quyến của hậu phi, đặc ân cho phép tùy ý xuất nhập cung, đây vốn là đãi ngộ chỉ dành cho Hoàng hậu và tứ phi. Khương Linh Diệp chỉ là một Tiệp dư, lẽ ra không được hưởng ân điển này. Trong lòng nàng vừa kinh hỉ, lại vừa thấp thỏm: “Tam lang, chuyện này… có thích đáng không?”

“Sao lại không thích đáng?” Hoàng đế xoa nhẹ bụng nàng, tựa hồ vô cùng yêu quý đứa trẻ này: “Tiệp dư lo lắng trong lúc thai nghén, mong muốn có mẫu thân và a tỷ bầu bạn, âu cũng là lẽ thường tình, trẫm tin rằng đám ngôn quan kia cũng sẽ thấu hiểu.”

Khương Linh Diệp mím môi, rồi mỉm cười đáp: “Thiếp xin thay đứa bé này, tạ ơn Tam lang.”



Có mẹ ruột và chị gái vào cung trấn an, nỗi lo lắng của Khương Linh Diệp trong lần đầu làm mang thai cuối cùng cũng vơi bớt phần nào. Hơn nữa, đứa trẻ trong bụng nàng vô cùng ngoan ngoãn, chẳng hề quấy phá một chút nào. Nàng cũng không giống mẫu thân và a tỷ, không có những cơn nôn nghén hay suy nhược, vì vậy vẫn còn đủ sức lực để đọc sách và cùng Hoàng đế bàn luận tấu chương. Nàng đặt tay lên bụng, cõi lòng tràn ngập dịu dàng. Đứa trẻ này còn chưa ra đời, nhưng nàng đã dốc hết thảy tình yêu thương cho nó.

Nàng dịu giọng nói: “Con ngoan, con thật hiểu chuyện, con là bảo vật quý giá nhất mà Bồ Tát Từ Thị đã ban tặng cho a nương.”

Nàng ngày càng mong chờ đến ngày con ra đời.



Thế nhưng, trong hậu cung này, ngoại trừ Hoàng đế cùng Khương Linh Diệp đang mong mỏi đứa trẻ chào đời thì dĩ nhiên, vẫn còn những người không hề mong đợi. Đứng đầu trong số đó chính là Hiền phi.

Hiền phi vẫn luôn căm hận Khương Linh Diệp bởi nàng từng là người hầu trong cung của nàng ta. Nay Khương Linh Diệp hoài thai, lại càng được Hoàng đế sủng ái, khiến Hiền phi càng thêm ghen ghét. Nàng ta ngấm ngầm ra tay với đồ ăn thức uống của Khương Linh Diệp, nhưng may thay, Tiết Thái hậu đã kịp thời phát hiện.

Tiết Thái hậu nghiêm khắc quở trách: “Nhìn ngươi xem, chẳng có chút tiền đồ nào cả! Nếu Khương Linh Diệp sinh hoàng tử, ắt có Đức phi toan tính, ngươi không có lấy một đứa con, thì tranh đoạt cái gì? Còn nếu là công chúa, càng không đáng để ngươi hao tâm tổn trí. Việc triều chính đã đủ khiến ngô phiền lòng rồi. Hừ, đám sĩ đại phu đó chẳng ưa gì chuyện nữ nhân nắm quyền, ngô cảnh cáo ngươi, đừng có sinh sự nữa!”

Bị Thái hậu cảnh báo, Hiền phi không dám manh động nữa. Về phần Đức phi, vì khinh thường xuất thân thấp hèn của Khương Linh Diệp, trước giờ vẫn chẳng xem nàng ra gì. Hơn nữa, bào thai trong bụng nàng còn chưa rõ là nam hay nữ, nên nàng ta cũng chưa vội ra tay.

Nhờ vậy, Khương Linh Diệp bình an vô sự cho đến ngày sinh nở.



Năm Thái Xương thứ tư, ngày hai mươi bảy tháng Giêng.

Hôm ấy, thành Trường An vừa có một trận tuyết rơi. Dân gian có câu: “Tuyết lành báo năm được mùa,“ bởi thế nên Hoàng đế long nhan đại duyệt. Huống hồ hội đèn Thượng Nguyên vẫn chưa qua được bao lâu, trong thành Trường An vẫn ngập tràn bầu không khí lễ hội tưng bừng.

Trưa hôm ấy, Khương Linh Diệp cùng Hoàng đế dùng bữa. Bụng nàng đã lộ rõ, ngự y chẩn đoán, ít ngày tới có khi sẽ là ngày lâm bồn.

Hoàng đế nghiêng người, tựa tai lên bụng nàng lắng nghe. Lúc này, hắn đã có thể nghe thấy động tĩnh của thai nhi. Hắn mãi chìm đắm trong âm thanh ấy một hồi mới ngồi thẳng dậy, cười bảo: “Trẫm nghe Lâm ngự y kể rằng, mỗi khi y áp tai lên bụng thê tử, đứa trẻ trong bụng sẽ đạp cho một cái. Thế nhưng, con của trẫm lại chưa từng đá trẫm lần nào.”

Khương Linh Diệp khẽ cười: “Chẳng những chưa từng đá Tam lang, mà ngay cả thiếp cũng vậy.”

Hoàng đế lấy làm lạ: “Trên đời lại có đứa trẻ ngoan ngoãn như thế thật ư?”

“Theo thiếp thấy, chắc vì con biết a gia vất vả quốc sự, biết a nương mang thai cực nhọc, nên mới không muốn gây thêm phiền toái cho a gia và a nương.”

Hoàng đế lại vu.ốt ve phần bụng đã nhô cao của Khương Linh Diệp, mỉm cười nói với hài nhi trong bụng: “Con ngoan quá, con nói xem, a gia nên ban thưởng gì cho con đây? Thế này đi, a gia sẽ ban quận Quảng Lăng cho con làm đất phong, phong hiệu của con sẽ là Vĩnh An, mang ý nghĩa vĩnh viễn bình an.”

Quận Quảng Lăng quận là vùng đất phong giàu có bậc nhất Đại Chu, phong hào Vĩnh An càng thể hiện nỗi lòng yêu thương con sâu đậm. Khương Linh Diệp vừa kinh ngạc, vừa xúc động, nàng khuyên nhủ: “Tam lang, đừng quá nuông chiều đứa trẻ này.”

“Chuyện này, trẫm đã suy nghĩ rất lâu, Linh Diệp, nàng đừng khuyên trẫm nữa.”

Khương Linh Diệp vẫn cảm thấy không ổn, còn muốn khuyên tiếp, nhưng bụng nàng chợt quặn đau, mồ hôi lạnh lập tức túa ra. Hoàng đế thấy vậy thì hoảng hốt: “Linh Diệp, nàng sao thế?”

“Thiếp… thiếp sắp sinh rồi…”



Trong Phượng Dương các, Hoàng đế sốt ruột đi đi lại lại bên ngoài. Sau cánh cửa gỗ, tiếng rên đau của Khương Linh Diệp vang lên đầy kiềm nén. Người ta vẫn nói, phụ nữ sinh con đau đớn chẳng khác nào một lần dạo qua Quỷ Môn Quan, thế nhưng ngay cả trong cơn đau tột độ, nàng vẫn cố sức đè nén thanh âm. Nàng lúc nào cũng vậy, cẩn trọng dè dặt, từng bước như đi trên băng mỏng.

Dù hắn đã nói với nàng rằng hãy thử tin tưởng hắn, nàng vẫn không dám.

Có lẽ là vì xuất thân của nàng quá thấp kém, nhà mẹ đẻ lại chẳng có thế lực gì, khiến nàng trở nên đơn độc trong cung Đại Minh, chẳng dám nuôi hy vọng gì lớn lao. Nàng sợ rằng, nếu trao hết tình yêu cho Hoàng đế, đến cuối cùng, kết cục nàng nhận lại chỉ là hồng nhan chưa già, ân tình đã cạn.

Bởi lẽ, chuyện nữ tử si tình gặp phải nam tử bạc tình, thực sự đã có quá nhiều tiền lệ.

Nhưng giữa hai người, luôn phải có một người bước tới trước, chứ không thể cứ mãi chờ đợi đối phương chủ động.

Hoàng đế đã hạ quyết tâm. Giữ biển người mênh mông, hắn chọn nàng, nữ tử có dã tâm, có thủ đoạn, lại vô cùng thông minh sắc sảo, hắn nguyện để nàng đồng hành cùng mình trên con đường đế vương đầy gian nan này, và để làm được điều đó, hắn nhất định phải xóa bỏ hết mọi lo lắng trong lòng nàng. Hắn đẩy cửa, định bước vào phòng sinh.

Nội thị bên cạnh gấp gáp ngăn lại: “Thánh nhân, phòng sinh ô uế, lại có huyết khí, chính là điềm xấu đấy ạ!”

“Điềm xấu gì chứ, trẫm không tin những thứ này.”

Hoàng đế vừa dứt lời liền định xông vào phòng sinh, mấy nội thị vội vàng ôm chặt lấy chân hắn, khẩn thiết van nài: “Thánh nhân không nghĩ cho mình, cũng phải nghĩ cho Khương Tiệp dư và hoàng tự! Thánh nhân là chân long thiên tử, có trời cao che chở, nhưng nếu tai họa giáng xuống Khương Tiệp dư và hoàng tự, thì phải làm sao đây?”

Nghe vậy, Hoàng đế thoáng do dự. Trong phòng, Khương Linh Diệp cũng nghe được lời khuyên can ấy, nước mắt nàng bất giác trào ra, chẳng rõ vì cơn đau giày xéo hay vì xúc động. Nàng nắm lấy tay cung tỳ bên cạnh, yếu ớt nói: “Đi nói với Thánh nhân, tạ ơn người vì lòng tốt, nhưng không cần vì ta mà phá vỡ quy củ… Ta không sao cả, nhưng ta không muốn đứa trẻ này vừa chào đời đã bị người đời chỉ trích… Nếu người thật sự muốn ở bên ta, vậy thì… lấy tóc thay người vậy…”

Cung nữ vội vã chạy ra bẩm báo. Nghe đến đoạn “không muốn đứa trẻ bị người đời chỉ trích“, Hoàng đế lặng thinh. Đợi đến khi cung tỳ thuật lại phần sau, Hoàng đế dường như đã rút ra chủy thủ, nhưng nội thị lại được một phen hoảng loạn khuyên can, nào là long thể quý giá, tuyệt đối không thể cắt tóc. Thế nhưng chẳng bao lâu sau, bên ngoài liền trở nên tĩnh lặng. Cung nữ hớt hải chạy vào, tay run rẩy dâng lên một lọn tóc của Hoàng đế.

Khương Linh Diệp nước mắt giàn giụa, nàng siết chặt lọn tóc trong tay, như thể đang nắm lấy bàn tay ấm áp của hắn. Nàng nhắm mắt lại, từng cơn đau đớn xé nát thân thể, nhưng cuối cùng, nàng không còn kiềm nén nữa. Giống như bao nữ nhân bình thường khác, nàng đã bật ra tiếng kêu đau trước mặt trượng phu.



Trong tiếng rên đau khổ của Khương Linh Diệp, Hoàng đế bồn chồn như kiến bò trên chảo nóng. Phong thái ung dung, phong nhã ngày thường hoàn toàn biến mất, hắn gấp đến mức mồ hôi túa ra đầy trán. Một canh giờ sau, giữa cơn đau quặn cuối cùng của Khương Linh Diệp, tiếng khóc non nớt của trẻ sơ sinh vang lên.

Khương Linh Diệp đã đau đến mức lịm đi, mơ mơ màng màng nghe thấy cung tỳ dọn dẹp gian phòng sạch sẽ, rồi Hoàng đế vội vã bước vào. Việc đầu tiên hắn làm là ngồi xuống bên giường nàng, vuốt mái tóc ướt đẫm mồ hôi, lo lắng hỏi cung tỳ: “Tiệp dư không sao chứ?”

Cung tỳ đáp: “Thánh nhân yên tâm, Tiệp dư thập phần bình an.”

Lúc này Hoàng đế mới thở phào nhẹ nhõm. Cung tỳ bế đứa trẻ đến gần, tiếp lời: “Chúc mừng Thánh nhân, Tiệp dư đã hạ sinh một tiểu công chúa.”

Lời chúc mừng tuy vang lên, nhưng trong giọng nói lại có chút tiếc nuối, bởi đáng tiếc, đó lại không phải là một hoàng tử.

Khương Linh Diệp lơ mơ nghe thấy, trong lòng bỗng dưng khó chịu. Công chúa thì sao chứ? Công chúa cũng là cốt nhục của nàng, nàng chẳng hề thấy tiếc nuối, trái lại còn vô cùng vui mừng.

Nhưng chưa đợi nàng lên tiếng, Hoàng đế đã sung sướng như một thiếu niên, nét mặt bừng sáng: “Công chúa sao? Trẫm đã đoán từ trước rồi! Chỉ có công chúa mới ngoan thế này thôi! Công chúa tốt mà! Công chúa tốt mà!”

Hắn ẵm bồng đứa bé trong lòng, nhìn nữ nhi bật cười sảng khoái: “Công chúa Vĩnh An của trẫm, chào đời rồi!”

Niềm hân hoan của hắn không giống như giả vờ, trong lòng Khương Linh Diệp bất giác không khỏi cảm động. Nàng ra sức muốn mở mắt nhìn hắn, nhưng cơ thể quá đỗi mệt mỏi, dù thế nào cũng không thể mở ra nổi, nhưng vẫn nghe thấy cung tỳ lấy lòng Hoàng đế: “Tiệp dư sinh công chúa chỉ mất một canh giờ, ngay cả ngự y cũng nói chưa từng gặp ai sinh nhanh như vậy. Xem ra công chúa sợ Tiệp dư phải chịu khổ đây mà!”

Hoàng đế cúi đầu nhìn nữ nhi trong lòng, cẩn thận hôn lên trán cô bé: “Công chúa Vĩnh An từ nhỏ đã hiểu chuyện như thế, quả là bảo vật do Bồ Tát ban tặng. Trẫm đã nghĩ ra mấy cái nhũ danh, đợi a nương con tỉnh lại, sẽ để nàng quyết định.”

Hắn ôm công chúa bằng một tay, tay còn lại nắm lấy tay Khương Linh Diệp: “Linh Diệp, mau tỉnh lại đi, nhìn xem con của nàng và trẫm này.”



Khi mặt trời đã ngả bóng về tây, Khương Linh Diệp mới từ từ tỉnh lại. Nàng vừa mở mắt liền thấy Hoàng đế vẫn còn trong phòng, chưa rời đi. Hắn gục bên mép giường nàng, cạnh đó là đứa trẻ vừa mới chào đời, ngủ ngon lành. Đứa con bé bỏng, khuôn mặt nhăn nheo, chưa thể nhìn ra dung mạo sau này sẽ ra sao.

Khương Linh Diệp nhìn con, rồi lại dời ánh mắt sang Hoàng đế đang gối đầu lên mép giường mà ngủ. Ở góc độ này, gương mặt hắn lộ rõ những đường nét tuấn mỹ, sáng ngời như nhật nguyệt soi rọi. Nàng khẽ động ngón tay, muốn được như bao thê tử chốn nhân gian, được đưa tay chạm vào khuôn mặt trượng phu mình.

Nhưng Hoàng đế đã thức giấc. Khương Linh Diệp giật mình, vội rụt tay về giấu dưới lớp chăn gấm. Hắn ngước mắt nhìn nàng, thấy nàng đã tỉnh, hào hứng nói: “Linh Diệp, nàng tỉnh rồi.”

Hoàng đế cẩn thận bế đứa trẻ đặt cạnh nàng, để nàng nhìn mặt con: “Con của chúng ta.”

Khương Linh Diệp gật đầu: “Ừm, con của chúng ta.”

“Trẫm thấy con giống nàng.” Hoàng đế cười nói. “Sau này lớn lên, nhất định sẽ khuynh đảo thiên hạ.”

Khương Linh Diệp mím môi cười: “Nhăn nhúm thế này, trông xấu xí lắm, thiếp không nhìn ra được điểm nào giống thiếp, lại càng không nhìn ra được nhan sắc sẽ kinh diễm nhân gian về sau.”

“Xấu chỗ nào chứ?” Hoàng đế bất mãn: “Xinh yêu thế này cơ mà.”

“Ừm… xinh yêu lắm…”

Hoàng đế cũng bật cười, cùng nàng nói thêm mấy câu tâm tình, rồi nhẹ giọng bảo: “Trẫm đã nghĩ tận mấy nhũ danh, để trẫm nói nàng nghe.”

Hắn kể ra những cái tên mà hắn đang đắn đo suy nghĩ. Khương Linh Diệp lắng nghe, ánh mắt càng thêm nhu hòa như nước. Nàng đưa tay ra khỏi chăn gấm, chầm chậm nắm lấy bàn tay Hoàng đế, rồi dịu dàng nói: “Gọi con là Minh Nguyệt Châu đi.”

Hoàng đế nhìn bàn tay nhỏ nhắn của nàng chủ động nắm lấy mình, thoáng sững sờ. Khương Linh Diệp mỉm cười, chậm rãi nói: “Minh Nguyệt Châu, một trong bảy báu vật trong kinh Phật. Đứa trẻ này là trân bảo mà Bồ Tát Từ Thị ban tặng cho thiếp và chàng, vì vậy hãy gọi con là Minh Nguyệt Châu nhé.”

Hoàng đế mím môi, trở tay nắm chặt tay nàng, ôn tồn nói: “Được, vậy từ nay về sau, hãy gọi con là Minh Nguyệt Châu.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 179: Ngoại truyện Đế Hậu (7): Hết Ngoại truyện Đế Hậu


Đứa trẻ có nhũ danh Minh Nguyệt Châu ấy được Hoàng đế ban tên là Lý Doanh, phong hiệu công chúa Vĩnh An, nhận đất phong tại quận Quảng Lăng, sủng ái vô ngần.

Trước kia, Khương Linh Diệp vẫn cho rằng mình không phải người thích trẻ con. Nàng không giống a tỷ của mình, mỗi khi nhìn thấy những đứa bé đáng yêu đều không nhịn được mà trêu đùa đôi chút. Nàng không thích như vậy. Nàng mong muốn có một đứa con vì điều đó có thể giúp ích cho con đường thăng tiến của nàng, ngoài ra không còn ý niệm nào khác.

Thế nhưng, mọi thứ đã thay đổi từ khi nàng hoài thai Lý Doanh, đến lúc hạ sinh con bé, tâm tư nàng lại càng đổi khác. Lý Doanh vô cùng ngoan ngoãn, hiểu chuyện, ban đêm rất ít quấy khóc, để nàng có thể ngủ một giấc trọn vẹn. Mỗi khi trông thấy Khương Linh Diệp và Hoàng đế, cô bé đều nhoẻn miệng cười, còn biết giơ đôi tay bé xíu đòi bế, như thể từ trong tiềm thức đã biết bọn họ chính là a nương, a gia của mình, thông minh đến lạ thường.

Bởi vậy, làm sao Khương Linh Diệp có thể không thương yêu Lý Doanh đến tận xương tủy? Giờ đây, dù có phải dùng mạng mình để đổi lấy mạng con bé, nàng cũng chẳng hề do dự.

Sự cưng chiều Hoàng đế dành cho Lý Doanh cũng vượt xa tất thảy những hoàng tử, công chúa khác. Năm Lý Doanh tròn ba tuổi, trong cung có lần tổ chức xem Na Hí. [1] Nhạc sư mang mặt nạ quỷ quái nhảy múa trước mặt Hoàng đế. Ban đầu, Lý Doanh vẫn ngồi trong lòng Hoàng đế chăm chú xem, nào ngờ đột nhiên bị dọa đến bật khóc nức nở. Hoàng đế định dỗ dành cô bé, thế nhưng Lý Doanh chỉ lau nước mắt, bặm môi nhảy xuống từ lòng Hoàng đế, dù còn thút thít, dù vẫn sợ hãi, nhưng vẫn dũng cảm dang hai cánh tay bé nhỏ, chắn trước mặt nhạc sư, òa khóc mà nói:

“Muốn ăn thì ăn ta, đừng ăn a gia của ta!”[1]

Chúng thần trong điện nghe vậy đều cười vang vì lời trẻ thơ ngây ngô, chỉ riêng Hoàng đế, nụ cười trên môi hắn đã giấu đi cặp mắt đỏ hoe.

Có lẽ hắn chợt nhớ đến chuyện cũ thuở nhỏ, khi mẫu thân bị sát hại, hắn bị cướp đi, Tiết Thái hậu chưa từng thật lòng yêu thương hắn. Tất cả mọi người đều kính sợ hắn, lấy lòng hắn, nhưng chưa từng có ai, trong lúc hắn gặp nguy hiểm, nguyện đứng ra che chở, thậm chí chết vì hắn.

Vậy mà đứa trẻ ba tuổi này lại làm được.

Bé nguyện chết vì hắn, chỉ bởi vì hắn là a gia của bé, chứ không phải vì hắn là Hoàng đế Đại Chu.

Từ đó, Hoàng đế càng thêm thương yêu Lý Doanh, trong khi Lý Doanh cũng vô cùng hiếu thuận. A nương nàng mắc bệnh đau đầu, nàng liền chuyên tâm đọc y thư, học cách làm túi hương để giúp người giảm bớt cơn đau. A gia phiền muộn vì chuyện triều chính, nàng bèn lặng lẽ ở bên, cùng ông đánh cờ giải khuây. Nhờ có Lý Doanh, Hoàng đế và Khương Linh Diệp cũng dần trút bỏ khúc mắc, thử toàn tâm toàn ý tin tưởng lẫn nhau.

Nhưng ai có thể ngờ rằng, cũng chính vì Lý Doanh, hai người họ càng lúc càng xa cách, cuối cùng trở mặt thành thù.

Trong thần điện Thần Long, Nữ đế đã tuổi già sức yếu tựa người trên trường kỷ, hồi tưởng những chuyện cũ. Bà nhớ khi vừa vào cung, mình đã hao tâm tổn trí thế nào để quyến rũ ông, nhớ những ngày hai người dò xét lẫn nhau, vừa nghi kỵ vừa rung động. Nhớ đến khoảnh khắc bộc bạch lòng mình, cả hai hết mực tin tưởng đối phương. Suốt mười sáu năm sóng gió, bà và ông kề vai sát cánh, cùng nhau trừ bỏ Tiết Thái hậu, cùng nhau hoạch định tân chính, trấn áp thế gia, nâng đỡ hàn môn, đẩy hoàng quyền l*n đ*nh cao chưa từng có.

Bà cũng nhớ đến khoảng thời gian sau khi Lý Doanh qua đời, hai người bất hòa từ đây, đến cuối cùng, bà không còn gọi ông là “Tam lang”, ông cũng không gọi bà là “Linh Diệp” nữa, mà chỉ xưng hô với nhau bằng “Thánh nhân” và “Hoàng hậu”. Suốt mười năm ấy, bà đề phòng ông, mà ông cũng đề phòng bà, vợ chồng một thuở, đồng sàng dị mộng.

Có lẽ, chỉ khi gần đất xa trời con người mới hồi tưởng lại những chuyện xưa mà bản thân không muốn nghĩ đến nhất.

Quần thần cùng Hoàng thái tôn Lý Trưng đang xin ý kiến về chuyện hậu sự của Nữ đế. Khi bàn đến nơi an táng, Thượng thư Bộ Lễ Lương Bình cẩn trọng hỏi: “Bệ hạ, người có muốn hợp táng với Minh Hoàng Đế ở lăng Tây Định hay không?”

Từ khi lên ngôi, Nữ đế chưa từng nhắc đến chuyện hợp táng cùng Minh Hoàng Đế, nhưng cũng không cho xây dựng lăng mộ riêng, quần thần không đoán được tâm tư của bà, nhưng nay đại hạn đã gần kề, bọn họ buộc phải hỏi cho rõ.

Nữ đế không đáp, chỉ thất thần thật lâu, sau đó mới thốt lên: “Minh Hoàng Đế, ông ấy còn muốn gặp trẫm sao?”

Vấn đề này, ngay cả Lương Bình cũng không biết phải trả lời thế nào. Nếu xét về công, Nữ đế đã dốc hết tâm sức, củng cố thành quả của tân chính, đưa Đại Chu bước vào thời thịnh thế. Nhưng nếu xét về tư, bà là ngoại tộc, ngồi lên hoàng vị nhà Lý, đại sát các hoàng tử của Minh Hoàng Đế. Vậy nên, Lương Bình cũng không rõ, Minh Hoàng Đế có thực sự muốn gặp Nữ đế hay không.

Có lẽ chính sự im lặng của Lương Bình đã khiến Nữ đế cười khổ, nụ cười ấy chất chứa bao cay đắng. Thấy bà như vậy, Lương Bình càng không dám lên tiếng. Ngược lại, Lý Trưng bỗng mở lời: “Tôn nhi nghĩ, Minh Hoàng Đế hẳn là muốn gặp bệ hạ.”

Nữ đế nhìn sang hắn, Lý Trưng chầm chậm nói: “Minh Hoàng Đế đăng cơ khi còn niên thiếu, tru diệt gian thần, chấp chưởng quyền binh, thúc đẩy tân chính. Mỗi bước đi đều vô cùng gian nan, nhưng mỗi bước đi ấy đều thấy ánh sáng nơi cuối đường. Có thể nói, Minh Hoàng Đế chính là vị quân vương có công trạng lớn nhất kể từ khi Đại Chu khai quốc đến nay.”

Từ trước đến nay, người mà Lý Trưng kính phục nhất chính là ông nội mình. Hắn tiếp tục: “Minh Hoàng Đế trời sinh thông tuệ, lẽ nào người lại không đoán trước được những chuyện sẽ xảy ra sau khi băng hà? Nhưng dù thế, người vẫn chọn giao phó Đại Chu cho bệ hạ, vì người tin rằng bệ hạ chính là người thích hợp nhất. Bệ hạ có thể tiếp nối lý tưởng trị quốc của người. Nay đã ba mươi sáu năm trôi qua kể từ khi Minh Hoàng Đế băng hà, Đại Chu thanh bình thịnh trị, vạn quốc triều bái, man di không dám xâm phạm. Điều đó đủ để chứng minh rằng sự phó thác của Minh Hoàng Đế là chính xác.”

Tân chính Thái Xương, đó là tâm huyết cả đời của Thái Xương Đế, kết tinh tất cả lý tưởng và hoài bão của người. Về phần Nữ đế, bà đã kế thừa và phát huy tâm huyết ấy. Cuối cùng, Lý Trưng nói: “Nếu Minh Hoàng Đế có thể thấy Đại Chu hôm nay, sao người lại không muốn gặp bệ hạ chứ?”

Nghe vậy, Nữ đế không nói gì thêm, chỉ từ từ khép mắt lại: “Thôi vậy, bất kể ông ấy có muốn gặp trẫm hay không, trẫm cũng sẽ đến lăng Tây Định, hợp táng cùng ông ấy.”

“Năm mười lăm tuổi trẫm tiến cung, mười sáu tuổi trở thành phi tần của ông ấy. Giờ đây, trẫm đã tám mươi tuổi, còn ông ấy, đã rời xa trẫm ba mươi sáu năm rồi. Từng ấy năm trôi qua, tóc xanh hóa bạc, nhưng trẫm vẫn nhớ như in lần đầu tiên nhìn thấy ông ấy…” Giọng Nữ đế càng lúc càng nhỏ, như đang chìm trong ký ức xa xăm, dường như đang nhớ lại thiếu nữ tuyệt sắc từng quỳ phục dưới đất trong Tê Phượng các, len lén ngước mắt nhìn vị thiếu niên đế vương năm nào. Bà lẩm bẩm: “Dưới hoàng tuyền, trẫm và ông ấy, phu thê một đời, ân ân oán oán, cứ để đó rồi cùng thanh toán cho rõ ràng…”



Bên bờ sông Nại, người lái đò đội nón trúc nằm trên bãi cát vàng. Vành nón che khuất gương mặt ông, khiến người ta chẳng thể nhìn rõ biểu cảm.

Không ai biết giờ phút này ông đang nghĩ gì, là về đế quốc hùng mạnh từng được mình cai trị, về người thê tử từng tâm đầu ý hợp, hay về đứa con gái suýt nữa đã chết dưới tay mình?

Người chèo đò kéo nón xuống thấp hơn một chút, sau đó nhắm mắt lại. Trong cơn mơ hồ, ông dường như quay về năm Thái Xương thứ ba mươi, ngày mùng sáu tháng Mười.

Khi trông thấy thi thể Lý Doanh được vớt lên từ hồ sen, nỗi đau đớn đến tột cùng khiến ông không thể đứng vững. Trước tiếng khóc xé gan xé ruột của Khương Linh Diệp, trong đầu ông chỉ có một câu hỏi:

Vì sao lại thế này?

Rõ ràng ông đã sai Kim Di ngăn cản Kế Thanh Dương, tại sao Lý Doanh vẫn rơi xuống nước chết đuối?

Rốt cuộc là đã sai ở đâu?

Khương Linh Diệp vì mất con mà đổ bệnh chỉ sau một đêm, nhưng ông nào có khá hơn? Trong thời gian dưỡng bệnh tại điện Thần Long, ông cứ hết lần này đến lần khác nhớ lại quãng thời gian từ nhỏ đến lớn của Lý Doanh. Nhớ khi nàng ba tuổi, từng đứng chắn trước mặt nhạc sư đeo mặt nạ quỷ, non nớt kêu lên: “Muốn ăn thì ăn ta, đừng ăn a gia của ta!”

Trong lòng ông vừa hối hận, vừa đau đớn đến mức chẳng thể nuốt nổi một ngụm thuốc. Khi ông còn đang cố tìm hiểu nguyên do cái chết của Lý Doanh, Kế Thanh Dương đã ám sát ông.

Điện Thần Long canh phòng nghiêm ngặt, Kế Thanh Dương nào phải đối thủ của đám Kim Ngô Vệ? Y bị bắt giữ, đôi mắt đỏ ngầu, phẫn nộ trừng ông: “Thánh nhân muốn biết vì sao công chúa chết đúng không? Công chúa… là do Thánh nhân hại chết!”

“Ngươi nói bậy!” Thái Xương Đế không chịu đối diện với sự thật, kịch liệt ho khan, lưỡi kiếm trong tay đặt sát cổ Kế Thanh Dương: “Rõ ràng trẫm đã sai Kim Di ngăn ngươi lại, không đời nào Minh Nguyệt Châu là do trẫm hại chết?!”

Kế Thanh Dương cận kề cái chết, thế nhưng chẳng chút sợ hãi, chỉ cười lạnh: “Đúng là Thánh nhân đã sai Kim Di báo tin cho ta, thế nhưng công chúa vẫn chết chìm dưới nước. Thánh nhân có muốn biết vì sao không?”

Kế Thanh Dương gằn từng câu từng chữ: “Bởi vì công chúa… nàng tự nguyện tìm đến cái chết!”

Thái Xương Đế sững sờ, Kế Thanh Dương tiếp tục: “Công chúa đã biết Thánh nhân muốn giết nàng. Vì tân chính nên Thánh nhân định hy sinh chính con gái ruột của mình, còn công chúa, nàng đã thành toàn cho Thánh nhân!”

Một chữ “thành toàn“ khiến sắc mặt Thái Xương Đế tái nhợt, nửa lời cũng chẳng thốt nên nổi.

Kế Thanh Dương vẫn chưa dừng lại: “Công chúa không muốn Thánh nhân mang tiếng giết con nên nàng mới tự vẫn! Ha ha… ngay cả khi chết, nàng vẫn nghĩ cho Thánh nhân, nhưng Thánh nhân thì sao, người lại muốn giết nàng! Rốt cuộc công chúa đã làm sai điều gì? Nếu Thánh nhân đã muốn lấy mạng nàng, vậy thì vì sao ban đầu lại sinh ra nàng? Vì sao phải đợi đến khi nàng trở thành viên minh châu rực rỡ nhất Đại Chu mới đoạt lại mạng sống của nàng? Chẳng lẽ sự yêu thương mà Thánh nhân dành cho nàng bấy lâu nay chỉ là giả dối? Chẳng lẽ mười sáu năm nuông chiều như trân bảo, chỉ để nàng bước lên bữa tiệc tử vong này hay sao?”

Nói đến đây, Kế Thanh Dương bật khóc tức tưởi: “Nhưng ngay cả khi Thánh nhân bắt nàng đến dự bữa tiệc ấy, công chúa vẫn cam tâm tình nguyện rời đi. Nàng còn dặn thần, đừng ngăn cản nàng… Đây là con đường mà chính nàng đã chọn… Nàng bình thản đối mặt với cái chết, dùng chính sinh mạng của mình để thành toàn cho tân chính của Thánh nhân… Thánh nhân, người không xứng đáng có một nữ nhi như công chúa!”

Thái Xương Đế phun ra một ngụm máu tươi, loang lổ trên mặt đất.

Ông nắm chặt chuôi kiếm, ngón tay run rẩy. Kế Thanh Dương nhắm mắt lại, nếu Thái Xương Đế muốn giết y, vậy thì đúng ý y rồi, nếu thế, y sẽ xuống hoàng tuyền bầu bạn với Lý Doanh.

Thế nhưng, Thái Xương Đế lại cắt đứt dây trói, quát lớn: “Người đâu!”

Kim Ngô Vệ bị lui ra ngoài đồng loạt ùa vào. Một nhóm người vội vàng đỡ lấy Thái Xương Đế, một nhóm khác áp chế Kế Thanh Dương. Nhưng Thái Xương Đế chỉ mệt mỏi phất tay: “Thả hắn ra.”

“Thánh nhân…”

“Trẫm nói, thả hắn ra!”

Kim Ngô Vệ không hiểu nổi, Kế Thanh Dương cũng không hiểu nổi. Thái Xương Đế nhắm mắt, giọng điệu chậm rãi: “Kế Thanh Dương, ngươi đi đi, ngươi không giết được trẫm đâu.”

Ông nói: “Nhưng sự nhẫn nại của trẫm có giới hạn, đừng thử thách giới hạn đó thêm lần nào nữa.”

Ông mở mắt, lạnh lùng ra lệnh: “Áp giải xuống! Nếu còn dám hành thích lần nữa, giết không tha!”



Kế Thanh Dương bị trục xuất khỏi hoàng cung, lòng đầy căm phẫn, luôn muốn tìm cơ hội để lẻn vào cung hành thích, thế nhưng, cung Đại Minh phòng vệ nghiêm ngặt, y không sao đột nhập được.

Một năm trời lang thang ngoài cung, một ngày kia, trong cơn say túy lúy, y bỗng nhớ lại lời Lý Doanh từng nói. Trước khi chết, nàng đã dặn y hãy trở thành một người chính trực, được người đời tôn kính

Chứ đừng phung phí thời gian và sinh mạng chỉ để ám sát phụ thân nàng.

Kế Thanh Dương chợt ngộ ra. Từ đó, một mình một ngựa, cầm kiếm hành tẩu khắp nhân gian.

Ba mươi năm sau, trong đại lao của Sát Sự Thính, Kim Di cung khai với Thôi Tuần rằng chính Kế Thanh Dương đã giết Lý Doanh, còn ông ta thì giết Kế Thanh Dương. Nhưng lời khai ấy chỉ là bịa đặt, chẳng qua muốn kéo Thôi Tuần xuống nước trước lúc chết mà thôi.

Kế Thanh Dương đã rời đi tận chân trời góc bể nhưng bên trong cung Đại Minh, Thái Xương Đế vì hai chữ “thành toàn” của y mà đau đớn khôn nguôi. Ngày qua ngày chìm trong giày vò và hối hận, thân thể ông mỗi lúc một suy nhược, cuối cùng, mười năm sau, băng hà trong điện Thần Long.

Hồn ông trở về Địa phủ, qua lời kể của Thập Điện Diêm La, ông mới hay, vì gây ra huyết án Thái Xương nên linh hồn Lý Doanh đã bị giam cầm vĩnh viễn trong vòng lặp luân hồi. Để cứu con gái thoát khỏi bể khổ, ông từ bỏ cơ hội thành tán tiên, cam nguyện trở thành người lái đò bên bờ sông Nại Hà, dùng chính mình để chuộc tội thay nàng.

Nhớ đến cảnh Lý Doanh cô độc dưới hồ sen, Thái Xương Đế cầu xin Thập Điện Diêm Vương cho ông trở về nhân gian một lần.

Khi ấy, Lý Doanh đã bị giam cầm dưới hồ suốt mười năm. Ngày qua ngày, nàng chịu đựng bóng tối vô biên và sự tĩnh lặng vĩnh hằng. Ông cố ý đổi giọng, khẽ gọi tên nàng.

Dưới đáy hồ, Lý Doanh mừng rỡ vô cùng: “Ai đó?”

“Ta là… quỷ sai của Địa phủ.”

“Nếu ngài là quỷ sai, liệu có thể đưa ta đi cùng không?” Lý Doanh khẩn cầu, giọng nói tràn đầy tuyệt vọng: “Ta không muốn ở lại đây nữa… Nơi này tối quá… Ta muốn đi đầu thai.”

Ông ngập ngừng giây lát, rồi nói: “Cô không thể đầu thai.”

“Vì sao ta không thể đầu thai?”

Giọng Lý Doanh đã nghẹn lại, có lẽ vì đã khóc quá nhiều. Hiển nhiên, nàng đã chẳng còn chịu nổi sự tăm tối và cô tịch dưới đáy hồ này nữa.

Thái Xương Đế lặng im hồi lâu, cuối cùng thốt ra lời đã được chuẩn bị từ trước: “Cô bị chết oan, trước khi tìm được hung thủ, cô sẽ không thể đầu thai.”

“Ta chết oan… Phải tìm ra hung thủ thì mới được đầu thai, đúng không?”

“Đúng vậy. Sẽ có một ngày, cô sẽ rời khỏi hồ sen này. Khi đó, nếu tìm ra kẻ đã giết mình, cô đương nhiên có thể đầu thai chuyển thế.”

Lời nói của ông khiến cõi lòng Lý Doanh le lói chút hy vọng. Chỉ cần tìm được kẻ đã giết nàng, nàng sẽ được đầu thai chuyển thế.

Lý do Thái Xương Đế quay lại nơi này chính là để gieo cho nàng một niềm hy vọng. Chỉ khi có hy vọng, nàng mới có thể tiếp tục chống chọi.

Ông hiểu rõ con gái của mình, cũng đặt trọn niềm tin ở nàng.

Quả nhiên, Lý Doanh đã không còn tuyệt vọng như trước nữa. Nàng khẽ bảo: “Vậy ngài có thể ở lại trò chuyện với ta một lúc không? Ta cô độc lắm.”

“Được.”

Thái Xương Đế ngồi bên hồ, cùng Lý Doanh trò chuyện hồi lâu.

Nàng nhắc đến a nương, nhắc đến a gia, về tình yêu sâu đậm nàng dành cho cha mẹ. Trong từng lời nói, tràn ngập sự lưu luyến và nhớ thương đối với hai người.

Bên bờ hồ, Thái Xương Đế nước mắt tuôn trào.

Ông gắng sức kiềm nén cảm xúc, kể cho nàng nghe thật nhiều điều: về Vong Tử Thành, về hình dáng Địa phủ, về núi Bàn Trủng, cửa ngõ vào Địa phủ.

Đến khi trời gần sáng, ông vẫn không thể không rời đi.

Lý Doanh ngóng trông hỏi ông: “Vậy sau này liệu ta có thể gặp lại ngài không?”

Thái Xương Đế trầm mặc một lát, đáp: “Có lẽ vậy.”

Ông khẽ gọi: “Minh Nguyệt Châu.”

Lý Doanh sững người.

Ông dừng lại một chút, rồi nói: “Cô là đứa con gái tốt nhất của a nương và a gia cô. Một ngày nào đó, cô sẽ đạt được điều cô mong muốn.”



Rời khỏi hồ sen, Thái Xương Đế lại đến điện Thần Long. Khương Linh Diệp cùng Bồ Tát Bảo đang ở đó, dường như bà đang chuẩn bị đưa Bồ Tát Bảo lên triều. Điện Thần Long đã được thắp sáng, cửa điện dán tranh thần môn. Hai vị thần môn trên cửa chợt hiện ra. Khi trông thấy Thái Xương Đế, hai vị thần lưỡng lự một thoáng, nhưng vẫn không dám ngăn cản.

Ấy vậy mà Thái Xương Đế lại không bước vào, chỉ đứng từ xa nhìn ngọn đèn rực sáng trong điện Thần Long, sau đó xoay người rời đi.

Từ đó, là hai mươi năm đưa đò qua sông.

Ông cũng lại gặp nữ nhi của mình. Minh Nguyệt Châu đã thoát khỏi luân hồi, cùng lang quân nàng yêu chuyển sinh sang kiếp khác. Còn ông thì vẫn ở bên bờ sông Nại Hà, chống sào đưa đò. Chuyến đò ấy, lại kéo dài thêm mười sáu năm.

Thái Xương Đế chợt nghe thấy một tràng bước chân khẽ vọng đến. Ông bỏ nón trúc che mặt xuống, đứng lên.



Chuông tang ở cung Đại Minh vang lên, bên bờ sông Nại Hà, mái tóc bạc hóa thành suối tơ xanh. Khương Linh Diệp từng bước từng bước đi về phía người lái đò bên bờ sông Nại Hà, mắt ánh lệ nhưng lại nở nụ cười: “Tam lang.”

Thái Xương Đế lặng lẽ nhìn bà, yết hầu khẽ động, rồi cũng mỉm cười: “Linh Diệp.”

Chỉ bốn chữ, đã thắng vạn lời.

Sáu mươi năm ân oán tình thù, trong khoảnh khắc nhìn nhau, hóa thành hư không.

Bên bờ sông, chỉ còn tiếng thì thầm, khe khẽ:

“Tam lang, Bồ Tát Bảo ở đâu?”

“Ở… Huyết Bồn Khổ Giới.”

Sau một tiếng thở dài, Khương Linh Diệp vươn tay cầm lấy cây sào trúc: “Ở đây… có thiếu một bà lão chèo đò không?”

“Thiếu.”

“Là chèo thế này sao?”

“Phải.”

“Vậy còn chờ gì nữa?” Khương Linh Diệp cười tinh nghịch, như khi bà đốt tấu chương trong điện Thần Long năm xưa: “Ông lão chèo đò và bà lão chèo đò, cùng đi đón vong linh qua sông thôi.”
 

Thành viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Thống kê diễn đàn

Chủ đề
39,938
Bài viết
1,075,527
Thành viên
9
Mới tham gia
Jony fang
Back
Top Bottom