Ngôn Tình Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 140: Lệ quỷ


Làn khói đen ấy như có sinh mệnh, không ngừng len lỏi vào trái tim của thiếu nữ, từng chút từng chút một gặm nhấm trái tim trong suốt như lưu ly của nàng. Hận thù và oán khí xâm chiếm, khiến đôi mắt vốn dịu dàng kia giờ chỉ còn lại sự phẫn nộ.

Nàng lặng nhìn bóng dáng A Sử Na Ngột Đoá trong bộ y phục đỏ rực, roi gai trong tay ả vun vút quất xuống, từng nhát nặng nề giáng lên thân thể lang quân mà nàng yêu thương nhất. Một giọt máu bắn lên, thấm vào đôi mắt nàng. Đồng tử nàng co rút lại, sắc đỏ như máu lan rộng khắp tầm mắt, nuốt chửng tia lý trí cuối cùng.

Đột nhiên, chiếc roi trong tay A Sử Na Ngột Đóa bị một lực vô hình giữ lại, lơ lửng giữa không trung. A Sử Na Ngột Đóa kinh ngạc quay đầu lại, chỉ thấy Lý Doanh chậm rãi đứng lên từ trung tâm phù trận. Búi tóc song hoàn vọng tiên bung ra, suối tóc đen tuyền xõa xuống, che khuất gương mặt trắng bệch như tuyết. Máu tươi từ mắt nàng chảy ra, theo gò má trượt xuống, tựa như những dòng huyết lệ.

Đám Kim Ngô Vệ đứng đó đều sởn hết tóc gáy. Dù đã uống máu chó mực để nhìn thấy nàng, nhưng đối diện với quỷ hồn, chúng vẫn không khỏi khiếp đảm. Cảnh tượng qủy dị trước mắt càng khiến chúng run lẩy bẩy.

A Sử Na Ngột Đoá quát lớn: “Lũ vô dụng! Ả đã bị phù chú giam cầm, các ngươi còn sợ cái gì?”, rồi chỉ tay về phía Lý Doanh: “Các ngươi, giết ả cho ta!”

Những Kim Ngô Vệ chỉ còn cách tuân lệnh, tay cầm đao run rẩy tiến lại gần Lý Doanh. Thế nhưng còn chưa kịp bước thêm, tầng khói đen quanh người Lý Doanh bỗng tản ra, tựa như những sợi dây thừng thít chặt lấy cổ họng chúng, nâng chúng lên giữa không trung.

Đám Kim Ngô Vệ điên cuồng vung tay, vùng vẫy trong vô vọng. Về phần Thôi Tuần, dù đã bị đánh đến nửa sống nửa chết nhưng vẫn cố gượng dậy. Hắn kinh hoảng nhìn những Kim Ngô Vệ đang dần nghẹt thở trên không, kinh hãi lẩm bẩm: “Dừng tay! Minh Nguyệt Châu! Mau dừng tay!”

Nếu còn không dừng lại, nàng sẽ hóa thành lệ quỷ mất!

Nhưng Lý Doanh đã bước qua đạo bùa vàng đang giam giữ nàng, tựa như đạp lên một chiếc lá khô vô nghĩa. Nàng từ từ tiến về phía A Sử Na Ngột Đóa. Mặt đối phương tái mét vì kinh hoàng, cuống cuồng chạy ra khỏi phòng giam, nhưng lại tầng khói đen chắn lối.

Lý Doanh đưa tay, cây roi với những chiếc gai móc ngược tựa như có mắt, rơi vào tay nàng. Nàng nắm chặt cây roi, gằn từng chữ hỏi A Sử Na Ngột Đóa: “Ngươi rất thích hành hạ người khác, đúng không?”

A Sử Na Ngột Đoá lùi lại một bước, nhưng cây roi như một con rắn luồn lách, vút thẳng vào mặt nàng ta. A Sử Na Ngột Đoá đau đớn ngã nhào xuống đất, Lý Doanh lạnh lùng hỏi: “Đau không?”

Trên gương mặt A Sử Na Ngột Đoá, một vết máu dữ tợn hiện lên. Nụ cười tàn nhẫn thoáng nở trên môi Lý Doanh, đó là một nụ cười mà trước nay nàng chưa từng có. Nàng đứng từ trên cao nhìn xuống A Sử Na Ngột Đóa đang cuộn tròn dưới đất, lại hỏi: “Khi roi quất lên người ngươi, ngươi có đau không?”

A Sử Na Ngột Đoá nghiến răng chịu đựng. Cơn đau thấu xương khiến thân thể nàng ta run lên từng hồi, nhưng vẫn cố trừng mắt, dùng cái nhìn khiêu khích đối diện với Lý Doanh: “Vì Thôi Tuần mà ngươi hóa thành lệ quỷ rồi sao? Ha ha ha, lệ quỷ giết người, thần Phật đều sẽ không tha cho ngươi!”

Những lời đó càng châm ngòi ngọn lửa giận trong lòng Lý Doanh. Cây roi vung xuống nặng nề, từng nhát càng thêm tàn độc. Thôi Tuần bấu lấy song sắt của chiếc lồng sắt, cố gắng đứng lên, nhưng cơ thể hắn lại khuỵu xuống trong vô lực. A Sử Na Ngột Đoá giãy giụa, Kim Ngô Vệ bị siết cổ treo lơ lửng trên không cũng giãy giụa. Thôi Tuần bất chấp cơn đau, ra sức bò về phía trước. Hắn nhất định phải ngăn cản Lý Doanh. Nếu nàng thực sự giết người, thì không còn cách gì vãn hồi được nữa.

A Sử Na Ngột Đoá bị roi đánh đến nỗi máu thịt tung tóe, dù có trốn thế nào cũng không thể thoát khỏi những cú đánh ác nghiệt. Thân thể nàng đầy rẫy thương tích, lớp này chồng lên lớp khác, cuối cùng nàng ta chọn buông xuôi, không buồn giãy giụa nữa, chỉ khóc nhọc ngẩng đầu, nhìn về thanh niên tuấn mỹ đang ngồi bên cạnh lồng sắt. Nhưng trong mắt hắn, trong lòng hắn chỉ có Lý Doanh đang bị oán khí cắn nuốt, đến một cái liếc mắt cũng chẳng hề hướng về phía nàng ta.

Khi cái chết gần kề, A Sử Na Ngột Đoá bật cười. Giờ đây, nàng ta mới nhận ra rằng, hóa ra nàng ta không thực sự cố chấp trong việc thuần phục hắn. Điều nàng ta cố chấp nhất, chính là một lần được hắn nhìn lại mình.

Và nàng ta cũng không thực sự thích gọi hắn là “Liên Hoa Nô”. Nếu có thể, nàng ta càng muốn gọi hắn một tiếng: “Thôi lang.”

Chỉ tiếc rằng, nàng ta đã nhận ra điều ấy quá muộn.



Thôi Tuần dùng chút sức lực cuối cùng bò về phía Lý Doanh, cố gắng ngăn nàng lại. Nhưng khi hắn vừa chạm đến mép váy của nàng, một luồng khói đen đặc tràn ra, bao phủ lấy hắn. Rõ ràng chỉ đang cách nhau gần trong gang tấc, nhưng hắn lại không tài nào chạm được vào nàng. Hắn chỉ có thể tuyệt vọng nhìn nàng siết cổ Kim Ngô Vệ, đánh chết A Sử Na Ngột Đoá. Trong phòng giam, xác chết nằm la liệt, mùi máu tanh nồng đậm đến ngột ngạt. Lý Doanh đờ đẫn nhấc chân, chậm rãi bước ra khỏi nhà lao.

Lúc này nàng đã hóa thành lệ quỷ, lý trí hoàn toàn tan biến. Nếu để nàng thoát ra ngoài, không biết bao nhiêu người vô tội sẽ bị sát hại.

Thôi Tuần không biết lấy đâu ra sức mạnh, hắn chịu đựng đau đớn, lảo đảo đứng dậy, nhặt lấy thanh trường kiếm rơi trên đất của Kim Ngô Vệ, rồi hét lớn: “Minh Nguyệt Châu!”

Lý Doanh quay đầu lại, nhưng ánh mắt nàng vẫn trống rỗng, như thể người đứng trước mặt không phải là lang quân nàng thương yêu nhất, mà chỉ là một kẻ xa lạ.

Thôi Tuần nắm chặt chuôi kiếm, đặt ngang trước cổ mình: “Minh Nguyệt Châu, nàng không thể để oán khí khống chế mình nữa! Nếu không, nàng sẽ rơi vào cảnh vạn kiếp bất phục!”

Lý Doanh nghiêng đầu, ánh mắt có vẻ ngờ vực. Thôi Tuần nhấn mạnh lưỡi kiếm thêm một chút, giọng hắn khản đặc: “Nếu nàng không tỉnh lại, ta sẽ tự kết liễu ngay trước mặt nàng!”

Thanh kiếm cắt sâu vào cổ hắn, máu tươi nhỏ giọt xuống mũi kiếm, từng giọt, từng giọt rơi trên nền đá xanh lạnh lẽo. Lý Doanh nhìn theo dòng máu đó, rồi ngẩng lên, ánh mắt khôi phục chút tỉnh táo: “Thập Thất lang?”

Thôi Tuần mỉm cười yếu ớt, cuối cùng hắn không còn sức lực để gắng gượng, ngã khuỵu xuống, một gối quỳ trên mặt đất. Lý Doanh giật mình, lao tới đỡ lấy hắn: “Thập Thất lang…”

Nàng nhìn quanh, đôi mắt tràn đầy hoang mang khi thấy những thi thể nằm rải rác khắp nơi: “Ta… là do ta sao?”

Thôi Tuần nắm chặt lấy bàn tay lạnh buốt của nàng, liên tục trấn an: “Không sao rồi… Nàng đã trở về rồi, sẽ không sao nữa…”

Làn khói đen bao quanh Lý Doanh nhanh chóng tiêu tan, nhưng đồng thời, ánh sáng trắng của niệm lực trên người nàng cũng theo đó tách rời, nhanh chóng tan biến. Trong nhà lao lát đá xanh, âm thanh của chú Phạn âm từ rõ ràng dần trở nên mơ hồ. Lý Doanh vốn là quỷ hồn, nhờ vào sự phụng thờ của bốn vạn ngôi chùa trên cả nước nên mới có thể tự do đi lại ở cõi trần như người sống. Nay nàng hóa thành lệ quỷ, sát hại không ít người, Phật pháp phản phệ khiến nàng sắp sửa hồn phi phách tán.

Thân hình Lý Doanh mềm nhũn, ngã vào lòng Thôi Tuần. Niệm lực nhanh chóng rút khỏi cơ thể nàng. Nàng cong môi, cười yếu ớt: “Ta… ta không hối hận vì đã giết bọn chúng… Thập Thất lang, chàng bình an… là tốt rồi…”

Niệm lực và chú Phạn âm hoàn toàn biến mất. Thân thể Lý Doanh mỗi lúc một suy kiệt. Từng giọt lệ như chuỗi trân châu bị đứt dây trào ra khỏi khóe mắt Thôi Tuần, rơi xuống mu bàn tay nàng. Lý Doanh gắng sức nâng tay, muốn lau đi dòng lệ ấy, nhưng tay vừa nhấc lên liền vô lực rũ xuống. Nàng tựa vào lòng hắn, khép dần đôi mắt.



Khi Ngư Phù Nguy bị lão bộc câm kéo đến phủ đệ của Thôi Tuần, hắn giật nảy người, thầm nghĩ hình như dạo gần đây hắn cũng đâu có đắc tội gì với Thôi Tuần. Mang theo tâm trạng bồn chồn, vừa đẩy cửa ra, đập vào mắt hắn chính là một Thôi Tuần toàn thân đầy máu và một Lý Doanh nằm rạp trên sạp thấp bằng gỗ hoa nam, sắc mặt trắng bệch như giấy.

Ngư Phù Nguy sợ đến mức suýt ngã nhào, ba bước nhập thành hai bước lao đến trước sạp thấp, quỳ sụp xuống: “Chuyện gì thế này?”

Thôi Tuần túm lấy ống tay áo hắn: “Ngư Phù Nguy! Hãy cứu nàng!”

“Công chúa đã xảy ra chuyện gì?”

Thôi Tuần hít sâu một hơi, cố gắng thuật lại mọi chuyện xảy ra trong nhà lao cho Ngư Phù Nguy nghe. Càng nghe lông mày Ngư Phù Nguy càng cau chặt: “Công chúa giết người… Không, sao nàng ấy có thể giết người được!”

Hắn căm tức nhìn Thôi Tuần. Lý Doanh sắp hồn phi phách tán, cảm giác máu dồn lên đầu khiến hắn không kiềm chế được nữa. Mặc kệ thân phận quan dân, hắn chỉ muốn đánh chết Thôi Tuần cho hả giận. Nếu không phải vì món nợ đào hoa của Thôi Tuần thì Lý Doanh đã chẳng phải nhúng tay vào sát nghiệp, chỉ để bảo vệ hắn.

Ngư Phù Nguy hết nắm tay, rồi lại buông lỏng. Hắn không phải hạng hồ đồ, không phân rõ phải trái. Món nợ đào hoa ấy cũng chẳng phải Thôi Tuần muốn gây ra, suy cho cùng, hắn cũng là kẻ bị hại.

Vì vậy, Ngư Phù Nguy chỉ có thể thở dài, nói: “Ta sẽ nghĩ cách cứu công chúa. Nhưng thương thế của ngươi cũng cần phải xử lý.”

Thôi Tuần thần trí đã hoang mang, mọi lời đều không lọt tai. Hắn chỉ nắm chặt lấy tay Lý Doanh, không dám buông lơi dù chỉ một khắc. Ngư Phù Nguy đành khuyên nhủ: “Ngươi không chữa trị vết thương cũng được, nhưng buông tay ra để ta bắt mạch cho công chúa.”

Lúc này Thôi Tuần mới định thần, chậm rãi thả tay. Ngư Phù Nguy đặt ba ngón tay lên cổ tay Lý Doanh, sắc mặt nặng nề. Thôi Tuần nhìn hắn cầu khẩn: “Thế nào?”

Ngư Phù Nguy trầm mặc một lúc lâu, sau đó mới nhẹ nhàng đặt cổ tay Lý Doanh vào lớp chăn gấm, giọng đầy vẻ nghi hoặc: “Lạ thật, tâm mạch của công chúa vẫn chưa đứt.”

“Ngươi nói tâm mạch chưa đứt là sao?”

“Theo lý, công chúa bị Phật pháp phản phệ, lẽ ra tâm mạch phải đứt đoạn, hồn phách phải lập tức tan biến. Nhưng dường như có một sức mạnh nào đó đã giữ lại một tia tâm mạch, đồng thời bảo vệ hồn phách của công chúa.”

Nghe vậy, lòng Thôi Tuần thoáng buông lỏng: “Vậy, vẫn cứu được Minh Nguyệt Châu, đúng không?”

“Có thể nói là có, nhưng cũng có thể là không.” Ngư Phù Nguy trầm ngâm: “Trước đây, công chúa cũng từng bị Phật pháp phản phệ một lần rồi, đúng chứ?”

Thôi Tuần sửng sốt: “Phải.”

Chính là lần Lý Doanh cưỡng ép hiện thân trước mặt Vương Nhiên Tê. Lý Doanh vốn là quỷ hồn, trừ phi người sống tự thấy được nàng, nếu không nàng cũng không thể dùng niệm lực tụ thành hình trước mặt người sống, bởi nếu làm thế sẽ làm rối loạn trật tự nhân gian.

Ngư Phù Nguy tiếp lời: “Lần đó, công chúa cũng chỉ còn lại một tia tâm mạch, nhưng tình trạng này giống như một ngọn đèn, trước khi dầu cạn thì đèn chưa tắt, nhưng nếu dầu đã cháy hết, thì đèn cũng sẽ lụi tàn.”

“Ý ngươi là, phải tìm ra cách cứu Minh Nguyệt Châu trước khi tâm mạch dứt hẳn, đúng không?”

Ngư Phù Nguy gật đầu: “Đúng vậy.”

“Lần trước, chính quả tần bà đã cứu Minh Nguyệt Châu.” Thôi Tuần thì thầm, rồi bất chợt nắm chặt cánh tay Ngư Phù Nguy, khẩn cầu: “Ngư Phù Nguy, ngươi hãy tìm thêm một quả tần bà nữa! Bao nhiêu vàng bạc ta cũng sẽ trả cho ngươi!”

Ngư Phù Nguy hất tay hắn ra: “Đây không phải chuyện tiền bạc! Tiền bạc ta muốn bao nhiêu cũng có, đâu cần ngươi đưa! Nhưng ta từng nói rồi, quả tần bà chỉ mọc bên bờ sông Nại Hà dưới âm ti, có thể chữa trị hồn phách, nhưng năm mươi năm mới kết một quả một lần. Lần trước, ta đã mua được một quả để cứu công chúa, nhưng lần này, công chúa nào đợi nổi những năm mươi năm?”

Thôi Tuần gần như tuyệt vọng. Đột nhiên, hắn chợt nghĩ đến điều gì đó: “Xá lợi Phật! Chuyện miêu quỷ lần trước, Tưởng Lương cũng suýt chút nữa hồn phi phách tán. Chính Minh Nguyệt Châu đã dùng Phật xá lợi để tu bổ hồn phách ông ta, khiến ông ta không bị hồn phi phách tán. Nếu có thể tìm được xá lợi Phật, nhất định sẽ cứu được Minh Nguyệt Châu!”

Nghe vậy, Ngư Phù Nguy mừng rỡ nói: “Đúng vậy, xá lợi Phật!”

Nhưng rồi hắn lắc đầu, nói: “Không được. Chưa nói đến chuyện xá lợi Phật ở tận Tây Vực, căn bản không kịp mang về để cứu công chúa, mà ngay cả khi có, cũng chưa chắc hữu dụng. Tưởng Lương bị Bắc Đẩu Phá Tà Phù đánh đến mức hồn phi phách tán, nên xá lợi Phật mới cứu được ông ta. Nhưng công chúa thì khác, nàng bị Phật pháp phản phệ. Xá lợi Phật thông thường sẽ không thể cứu được nàng.”

Thôi Tuần cắn răng: “Lẽ nào thật sự không còn cách nào để cứu Minh Nguyệt Châu sao?”

“Không hẳn. Tuy những xá lợi khác đều ở Tây Vực, nhưng ngay tại Trường An, vừa hay lại có một viên.”

Thôi Tuần sững người. Trong Phật tháp ở chùa Pháp Môn Trường An, có một viên xá lợi do Thái Tổ hoàng đế đích thân thỉnh về từ nước Ma Kiệt Đà. Năm Lý Doanh lên năm tuổi, Thái Xương Đế cùng Trịnh Hoàng hậu đã từng vào Phật tháp để dâng tóc, cúng dường viên xá lợi ấy.

Ngư Phù Nguy tiếp tục: “Trời cao phù hộ công chúa. Viên xá lợi trong Phật tháp ở chùa Pháp Môn vừa khéo lại chính là xá lợi Phật đỉnh.”

Xá lợi Phật đỉnh là phần xương đỉnh đầu của Phật Đà hóa thành, là thánh vật chí cao vô thượng trong thiên hạ. Ai dâng cúng xá lợi Phật đỉnh, sau khi qua đời sẽ không sa vào địa ngục, nhận được phúc báo vô biên.

Nếu có thể lấy được xá lợi Phật đỉnh, nhất định có thể cứu được Lý Doanh.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 141: Xá lợi Phật đỉnh


Xá lợi Phật đỉnh không chỉ là chí bảo thiên hạ, mà còn là chí bảo của Đại Chu.

Xá lợi Phật đỉnh đã an vị tại chùa Pháp Môn suốt một trăm năm. Từ năm Thái Xương thứ chín, khi Thái Xương Đế cùng Trịnh Hoàng hậu mở tháp, dâng tóc cúng dường xá lợi Phật đỉnh, đã bốn mươi mốt năm trôi qua nhưng Phật tháp ở chùa Pháp Môn chưa từng được mở lại lần nào. Ngư Phù Nguy không nghĩ ra được lý do nào, đủ để khiến chùa Pháp Môn mở tháp, tình nguyện dâng xá lợi Phật đỉnh cho Lý Doanh.

Trừ phi lão trụ trì của chùa Pháp Môn đã hóa điên.

Trong đầu Ngư Phù Nguy chợt lóe lên một ý nghĩ, liệu có thể nhờ Thôi Tuần cầu xin Thái hậu, thưa rằng con gái bà đang nguy kịch, cần gấp xá lợi Phật đỉnh để cứu mạng hay không? Nhưng rất nhanh, hắn liền gạt bỏ ý nghĩ này. Xá lợi Phật đỉnh là thánh vật bậc nào, còn chuyện quỷ hồn lại hoang đường bậc nào, Thái hậu chưa chắc đã dễ dàng tin tưởng. Chỉ e Thôi Tuần còn chưa kịp mở miệng, những kẻ muốn hại hắn đã nhân cơ hội này, đẩy hắn vào chỗ chết trước rồi.

Cách này không được, cách kia cũng không xong, Ngư Phù Nguy bắt đầu nóng ruột. Nhìn tình trạng của Lý Doanh, e rằng nàng không thể chờ đợi lâu hơn nữa. Nếu trong ba ngày vẫn không có được xá lợi Phật đỉnh, chỉ sợ tâm mạch nàng sẽ đứt đoạn hoàn toàn.

Ngược lại, Thôi Tuần chợt trấn tĩnh hơn nhiều: “Ngư Phù Nguy, ta sẽ đến chùa Pháp Môn. Ngươi hãy chăm sóc Minh Nguyệt Châu thật tốt.”

Ngư Phù Nguy sững sờ: “Ngươi có cách ư?”

“Có.”

Thôi Tuần chỉ để lại câu ấy rồi mang theo cơ thể chồng chất vết roi, lật mình lên ngựa, phi nhanh về phía chùa Pháp Môn ngay giữa đêm.



Ngư Phù Nguy vạn lần cũng không ngờ, cái gọi là “cách” của Thôi Tuần lại là xông thẳng vào chùa Pháp Môn, ép buộc trụ trì phải mở tháp.

Trước Phật tháp, trụ trì chùa Pháp Môn cùng một đám tăng nhân nhìn nhau, vẻ mặt bối rối. Lão trụ trì đành bước lên một bước, chắp tay niệm Phật: “A Di Đà Phật. Thôi Thiếu khanh, xá lợi Phật đỉnh là chí bảo của Đại Chu, nếu không có thánh chỉ, lão nạp không dám tùy tiện mở tháp.”

Toàn thân Thôi Tuần như tắm máu, hắn chỉ chống đỡ bằng một hơi tàn, miễn cưỡng đứng vững nhờ thanh kiếm trong tay. Đôi mắt hắn rực lên như lửa, hung hăng nhìn chằm chằm vào lão trụ trì: “Sát Sự Thính phá án, ngươi dám không mở?”

Lão trụ trì khổ không nói nên lời, thầm than không biết vị La Sát khét tiếng này lại lên cơn điên gì nữa đây, sao lại đến chùa Pháp Môn quấy rối giờ này? Lão có ý sai tăng nhân đuổi hắn đi, nhưng lại không dám. Dù sao Thôi Tuần cũng là cận thần bên cạnh Thái hậu, đặc biệt sau vụ án Thiên Uy quân, Thánh nhân gần như trở thành con rối, quyền thế của hắn lại càng như mặt trời giữa trưa. Nghe nói bề ngoài hắn dâng tấu xin từ quan, nhưng thực chất lại đang nhắm đến vị trí Thượng thư Tả bộc xạ. Chẳng qua Thái hậu vẫn còn đang cân nhắc, chưa vội ban chức mà thôi.

Bằng sự sủng ái mà Thái hậu dành cho hắn, sớm muộn gì chiếc ghế Thượng thư Tả bộc xạ cũng sẽ thuộc về hắn, có thể nói là quyền khuynh triều dã.

Thế nên, lão trụ trì nào dám đắc tội với Thôi Tuần? Lão vừa kéo dài thời gian, vừa sai tăng lữ âm thầm phóng ngựa, thỉnh Kinh Triệu Doãn tới. Lão cẩn trọng hỏi: “Không biết Thôi Thiếu khanh muốn xá lợi Phật đỉnh để làm gì?”

“Ngươi quản ta làm gì?” Thôi Tuần siết chặt chuôi kiếm, lưỡi kiếm lạnh lẽo kề sát yết hầu trụ trì: “Còn dám dông dài nữa, ta liền gi.ết ch.ết ngươi ngay!”

Trụ trì kinh hãi, không dám nhúc nhích, một tiểu tăng trẻ tuổi nóng nảy bốc đồng đứng bên cạnh không nhịn được, quát lớn: “Thôi Thiếu khanh, đây là pháp tự, không phải Sát Sự Thính, sao ngươi dám tác oai tác quái?”

Ánh mắt Thôi Tuần băng giá, chỉ thoáng nhìn qua một cái, khí thế sắc bén khiến tiểu tăng kia sợ hãi, lùi tận mấy bước: “Các ngươi còn lắm lời nữa, ta sẽ thiêu rụi chùa Pháp Môn này!”

Trụ trì biến sắc, kêu lên thất thanh: “Thôi Thiếu khanh, chùa Pháp Môn là chùa của hoàng gia, ngươi dám?”

Thôi Tuần chỉ cười lạnh: “Trụ trì đại sư, ác danh của Thôi Tuần ta, chẳng lẽ ngươi mới nghe lần đầu? Ta nói dám đốt, thì nhất định sẽ đốt. Ngươi muốn thử ngay không?”

Trụ trì nào dám thử, đầu kiếm của Thôi Tuần đã đâm vào yết hầu của lão, sắc mặt hắn càng thêm hung dữ, trong giọng nói đã không còn chút kính nể nào: “Lão trọc, rốt cuộc ngươi mở hay không mở?”

Trụ trì mặt mày tái nhợt, biết Thôi Tuần thực sự dám giết mình, cắn răng hạ lệnh: “Người đâu! Mở Phật tháp!”



Cánh cửa gỗ nặng nề mở ra. Thôi Tuần nắm chặt kiếm, từng bước khập khiễng tiến vào trong tháp, sau lưng, cửa lớn chầm chậm đóng lại. Trước mắt trụ trì tối sầm, suýt nữa ngã quỵ xuống đất, các tăng nhân vội vàng đỡ lấy lão. Lão hỏi: “Tiết Triệu Doãn đến chưa?”

“Đã sai người đi mời.”

Pháp môn tự cách thành Trường An hơn hai trăm dặm, dù có phi ngựa nhanh nhất, đi đi về về cũng phải mất hai canh giờ. Trụ trì thở gấp, lẩm bẩm nói: “Lúc này, chỉ mong Phật Đà hiển linh, đừng để tên La Sát ấy cướp được xá lợi Phật đỉnh.”



Phật tháp cao mười ba tầng, tượng trưng cho mười ba vị Phật, xây dựng từ gạch đá, tổng cộng có hai trăm linh một bậc thang. Xá lợi Phật đỉnh được thờ phụng tại tầng thứ mười ba.

Thôi Tuần nhịn đau, chậm rãi tiến vào địa cung. Hắn đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy trên tường khắc một trăm lẻ tám vị La Hán, mỗi vị có thần thái khác nhau, nhưng tất cả đều trợn mắt giận dữ như Kim Cang. [1] Hắn nhìn trái, nhìn phải, nhìn trước, đều có cảm giác bị những đôi mắt ấy bao vây. Đầu óc hắn choáng váng, chỉ có thể chống kiếm xuống đất để gắng gượng đứng vững.

<i>[1] Mình không quá am hiểu về Phật pháp, nhưng sau một hồi tìm hiểu thì mình đoán “Kim Cang” ở đây là Bồ Tát Kim Cang. Bồ Tát Kim Cang thường được mô tả với hình tượng tay cầm chày Kim Cang, biểu trưng cho quyền năng vượt trội có thể phá tan mọi chướng ngại trên con đường giác ngộ. Ngài thường được tạc tượng với dáng vẻ uy nghiêm, cầm các vũ khí như chùy, kiếm để biểu trưng cho sức mạnh bảo vệ Phật Pháp.</i>

Dường như một trăm lẻ tám vị La Hán ấy đang chất vấn hắn: Một kẻ tay vấy đầy máu tanh như hắn, sao dám khuấy động sự thanh tịnh trong Phật tháp?

Thôi Tuần cúi mắt, không nhìn những pho tượng La Hán nữa, mím môi, dùng kiếm làm trụ, từng bước từng bước đi sâu vào địa cung.

Nơi sâu nhất của địa cung có một cánh cửa đá. Thôi Tuần đẩy cửa ra, trước mắt là bậc thang đá xanh dẫn lên trên. Hắn di chuyển đến bậc thang, đặt chân lên bậc đầu tiên. Nhưng ngay khi chuẩn bị bước lên bậc thứ hai, một luồng sức mạnh vô hình đột nhiên ập đến, hất hắn văng khỏi bậc thang!

Hắn ngã mạnh xuống nền đá xanh, những vết thương do roi quất lập tức nứt toạc, máu tươi trào ra, thấm vào từng viên gạch, loang lổ như suối đỏ.

Cơn đau dữ dội khiến thân thể Thôi Tuần run rẩy, nhưng hắn vẫn nghiến răng, từ từ bò dậy, cố gắng bước lên bậc thang lần nữa…

Nhưng dù cố gắng thế nào, mỗi khi bước lên bậc thang thứ hai, hắn vẫn bị một luồng sức mạnh vô hình ấy hất văng xuống. Lần thứ ba, thứ tư, thứ năm… tất cả đều như vậy.

Thôi Tuần gục trên nền đá, mồ hôi lạnh túa ra, đau đớn đến mức không thể kìm nén. Hắn bỗng ngộ ra: Hắn làm chức Thiếu khanh Sát Sự Thính ba năm, là con chó săn trung thành của triều đình, bài trừ chống đối, tay hắn nhuốm đầy máu tanh. Một kẻ như hắn, sao có thể bước lên Phật tháp, giành lấy xá lợi Phật đỉnh?

Nhưng nếu hắn không thể lên tháp, không thể lấy được xá lợi Phật đỉnh, Lý Doanh chắc chắn sẽ tuyệt mệnh, hồn phi phách tán.

Đôi mắt hắn đỏ ngầu, cười khổ một tiếng, lẩm bẩm: “Phật Đà chứng giám, Thôi Tuần ta tội ác chồng chất, nhưng Minh Nguyệt Châu thanh khiết vô tì vết, nàng không đáng phải chịu cảnh hồn bay phách lạc. Cầu xin Phật Đà đừng vì ta mà giáng tội lên nàng. Ta nguyện mỗi bước một lạy, thành tâm bước lên Phật tháp.”

Nói rồi, hắn thực sự quỳ xuống dưới bậc thang, nặng nề cúi đầu dập lạy, sau đó loạng choạng đứng dậy, bước lên bậc thang thứ nhất. Hắn lại quỳ xuống, dập đầu.

Khi hắn gắng gượng bước lên bậc thứ hai, lần này, không còn bị hất xuống nữa.

Trong lòng Thôi Tuần khấp khởi vui mừng, hắn quỳ xuống, dập đầu, giọng nghẹn ngào: “Tạ ơn Phật Đà.”



Mỗi bậc thang, hắn đều quỳ xuống, dập đầu. Chưa qua hai mươi bậc, đầu gối đã trầy trụa rướm máu, chỉ cần cử động nhẹ cũng đau đến thấu xương. Trán hắn đã vỡ toạc, nhưng hắn dường như không hề hay biết, vẫn lảo đảo đứng lên, quỳ xuống, dập đầu.

Tiếng trán va vào nền đá vang vọng trong tháp, giữa bậc thang giờ đây là một vệt máu dài.

Hơi thở Thôi Tuần ngày càng nặng nề, mắt hắn hoa đi, cơn choáng váng dữ dội ập đến. Hắn bấu chặt móng tay vào lòng bàn tay, cưỡng ép bản thân giữ vững thần trí. Ngẩng đầu nhìn bậc thang dài dằng dặc không thấy điểm cuối, ánh mắt hắn lại càng thêm kiên định.

Lý Doanh vì hắn đã làm bao nhiêu điều, đã cứu hắn bao nhiêu lần, kéo hắn ra khỏi vực sâu địa ngục. Hắn chỉ dập đầu trăm lần, thì có đáng gì?

Nếu ngay cả điều này cũng không làm được, hắn đâu xứng để nói yêu nàng?



Bên ngoài Phật tháp, trụ trì và một nhóm tăng nhân lo lắng chờ đội quân của Kinh Triệu Doãn. Không ít tăng nhân trong lòng không ngừng rủa xả Thôi Tuần, mắng hắn vô pháp vô thiên, mắng hắn kiêu ngạo càn rỡ.

Nhưng trong tháp, vị Thiếu khanh Sát Sự Thính bị gọi là “càn rỡ” kia lại đang kéo theo tấm thân tàn tạ, quỳ suốt hai trăm linh một bậc thang, dập đầu hai trăm linh một lần, gần như hấp hối bò lên đến tầng thứ mười ba.

Hắn đã không còn chút sức lực nào nữa, nằm rạp xuống nền đá, mê man bất tỉnh.

Trên trán hắn, vết thương to bằng miệng bát không ngừng rỉ máu, từng giọt đỏ tươi thấm vào khe nứt của phiến đá. Máu hòa cùng bụi đất, loang lổ đỏ đen. Hắn chìm trong cơn mê man rất lâu, đầu ngón tay rốt cuộc hơi động đậy.

Chậm rãi mở mắt, hắn dùng khuỷu tay chống người, từng chút từng chút lê bước về phía thạch thất trên đỉnh tháp.

Chính giữa thạch thất, một bàn thờ sơn đen được đặt trang nghiêm, phía trên bày một bảo tháp bằng vàng ròng, mái đơn, bốn cửa mở ra bốn hướng. Trong tháp, một viên ngọc phát ra ánh sáng lung linh rực rỡ, hẳn chính là xá lợi Phật đỉnh.

Thôi Tuần mừng rỡ khôn xiết, hắn gần như vừa lăn vừa bò, tiến đến bàn thờ. Vịn chặt mép bàn, hắn gian nan đứng dậy, cẩn trọng đưa tay chạm vào tháp vàng, muốn lấy xá lợi Phật đỉnh ở bên trong.

Nhưng ngay khoảnh khắc đầu ngón tay chạm vào cạnh tháp, một cơn đau bỏng rát như lửa thiêu lập tức bùng lên, đau đến tận tủy. Hắn tái mặt, ngón tay run rẩy buông thõng. Không dấu vết tổn thương nào lưu lại trên da thịt, nhưng cơn đau lại chân thực đến khó tin.

Hắn không cam lòng, thử vươn tay, chạm vào xá lợi Phật đỉnh thêm lần nữa. Nhưng giống hệt lúc ở bậc thềm, dù cố gắng bao nhiêu lần, ngay khi đầu ngón tay hắn vừa chạm vào, nỗi đau như lửa đốt lại khiến hắn phải lùi bước, hắn không cách nào chạm vào được.

Thôi Tuần nhìn chằm chằm vào viên xá lợi gần trong gang tấc, bỗng cười thê lương, quỳ sụp xuống trước bảo tháp. Ba năm qua, từng cảnh tượng cứ thế hiển hiện trước mắt hắn, mà rõ ràng nhất chính là khoảnh khắc hắn lừa Lý Doanh vào Địa phủ chịu chết. Trong đầu hắn cứ mãi quẩn quanh hình ảnh trong mộng cảnh của đèn mượn mệnh, Lý Doanh bị Ba Nhân Tượng nuốt chửng, máu nhuộm đỏ cả dòng Nại Hà. Vì lời dối trá của hắn mà nàng suýt nữa đã bỏ mạng ở Địa phủ. Tất cả đều là tội nghiệt của hắn, là nghiệp chướng của hắn, hắn không cách nào biện bạch.

Ngũ nghịch thập ác, kết thành nghiệp chướng.

Hắn chưa tiêu trừ được nghiệp chướng, tất nhiên không thể lấy được xá lợi Phật đỉnh.

Thôi Tuần mím môi, cúi đầu dập mạnh một cái, rồi ngẩng lên. Trong khoảnh khắc ấy, đôi mắt hắn lại tĩnh lặng đến lạ thường. Hắn chậm rãi thốt lên từng chữ: “Phật Đà chứng giám, ta, Thôi Tuần tội nghiệt sâu dày, ác giả ác báo. Nguyện sau khi chết, không vào luân hồi, hồn phi phách tán, tan thành tro bụi, lấy đó để chuộc lại tội nghiệt một đời. Đổi lại, cầu cho những người đã bị ta làm hại, sớm đăng cực lạc, vãng sinh tịnh thổ.”

Thần hồn tiêu tán, hồn phi phách tán.

Hồn phi phách tán. Dù là kẻ đại gian đại ác, chí ít vẫn còn hi vọng được giải thoát sau khi trả xong tội nghiệt, chịu đủ cực hình dưới Địa phủ. Còn hồn phi phách tán, đồng nghĩa với vĩnh viễn không còn tồn tại, không có hi vọng, không có tương lai.

Một khi hồn phi phách tán, hồn phách sẽ không nhập Địa phủ, cũng không có kiếp sau. Từ đây, Lý Doanh sẽ không bao giờ tìm thấy hắn được nữa. Đó chính là sự trừng phạt lớn nhất dành cho hắn.

Dùng hình phạt này để chuộc lại tất cả tội nghiệt, để gột rửa máu tanh trên tay, để đổi lấy vãng sinh cho những kẻ đã chết oan dưới lưỡi đao của hắn.

Như vậy, liệu có đủ để hắn giành được xá lợi Phật đỉnh, cứu Lý Doanh chưa?

Nói xong, Thôi Tuần lại dập mạnh đầu xuống đất ba lần nữa, chậm rãi đứng dậy. Hắn vươn tay, thử lấy xá lợi Phật đỉnh thêm lần nữa. Lần này, nỗi đau rát bỏng như lửa thiêu đã hoàn toàn biến mất. Hắn thuận lợi đưa tay vào tháp vàng, lấy ra xá lợi Phật đỉnh.

Thôi Tuần nắm chặt xá lợi Phật đỉnh trong tay, ánh mắt vừa bi thương lại vừa vui sướng, nước mắt rơi xuống như mưa.

Minh Nguyệt Châu, được cứu rồi.

Mà hắn, cũng không còn kiếp sau nữa.

Hắn lặng người đứng đó hồi lâu, vốn định gắng gượng rời đi, nhưng ánh mắt lại vô tình rơi vào hai hộp gỗ mở sẵn trên bàn thờ.

Bên trong mỗi hộp đặt một lọn tóc, có lẽ là tóc của Thái Xương Đế và Trịnh hoàng hậu, dùng tóc thay đầu, cúng dường xá lợi Phật đỉnh.

Thế nhưng, Thôi Tuần lại nhìn chằm chằm vào chiếc hộp đựng tóc của Thái Xương Đế. Trong đó, ngoài một lọn tóc, còn có một tờ giấy gai vàng được gấp ngay ngắn, bên trên viết rõ ngày tháng năm sinh.

Hắn mở tờ giấy ra, dòng chữ hiện lên trước mắt: “Ngày hai mươi bảy, tháng Giêng, năm Tân Tỵ.”

Đây là sinh thần bát tự của Lý Doanh, không phải của Thái Xương Đế.

Vậy nên lọn tóc trong hộp cũng không phải của Thái Xương Đế, mà là của Lý Doanh.

Ánh mắt Thôi Tuần dừng lại trên tháp vàng. Thì ra, mạch tâm của Lý Doanh vẫn chưa dứt là bởi năm Thái Xương thứ chín, Thái Xương Đế đã xuống địa cung, dùng tóc của Lý Doanh, lấy tóc thay đầu, cúng dường xá lợi Phật đỉnh.

Ai dâng cúng xá lợi Phật đỉnh, sau khi qua đời sẽ không sa vào địa ngục, nhận được phúc báo vô biên. Không ngờ rằng, Thái Xương Đế lại đem cơ duyên hưởng phúc báo này, nhường lại ái nữ mà ông yêu thương nhất.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 142: Con đường Thôi Tuần sắp đi, là con đường chết chắc


Bên ngoài Phật tháp, trụ trì cùng các tăng nhân vẫn đang sốt ruột chờ đợi, nhưng người đến không phải là Kinh Triệu Doãn, mà là Thôi Tuần vừa lấy được xá lợi Phật đỉnh, khập khiễng bước ra từ cửa gỗ sơn son đang mở rộng.

Tóc hắn rối bời, mấy lọn tóc đen rối loạn bết trên khuôn mặt, hắn tựa như vừa bò ra từ vũng huyết, toàn thân đẫm máu, thê thảm không nỡ nhìn. Bộ y phục đỏ sậm đã chẳng còn nhận ra màu sắc ban đầu, vầng trán như ngọc có thêm một vết thương lớn bằng miệng bát, máu tươi không ngừng rỉ ra, trượt qua mi tâm, trượt xuống sống mũi. Đầu gối hắn cũng bê bết máu, mỗi bước đi đều cực kỳ khó nhọc, nếu không có trường kiếm làm trụ, e rằng hắn đã sớm gục ngã.

Tất cả mọi người đều không khỏi hít sâu một hơi khí lạnh. Thôi Tuần lúc này, chẳng khác nào La Sát bước ra từ Địa ngục, đáng sợ đến mức khiến họ không tự chủ nổi, phải lùi về sau mấy bước.

Nhưng hắn đã chẳng còn sức để bận tâm đến những người đó, chỉ chống kiếm, từng bước xiêu vẹo rời khỏi chùa Pháp Môn.

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, trụ trì muốn mở miệng hỏi nhưng lại không dám, chỉ có thể lặng lẽ theo sau hắn. Mãi đến khi Thôi Tuần chống đỡ được thân mình ra khỏi chùa Pháp Môn, leo lên lưng bạch mã cột sẵn ngoài cổng, trụ trì không nhịn được nữa, vội níu lại dây cương: “Thôi Thiếu khanh, xá lợi Phật đỉnh là chí bảo của Đại Chu, ngươi không thể mang đi!”

Thôi Tuần chỉ lạnh nhạt liếc nhìn lão ta, rồi giơ roi ngựa lên, dồn hết sức lực quất thẳng vào mặt trụ trì.

Trụ trì kêu thảm một tiếng, ngã nhào xuống đất.

Thôi Tuần chẳng hề để tâm, giương roi thúc ngựa, phi nhanh về Trường An.

Chúng tăng lúc này mới bừng tỉnh, luống cuống nâng trụ trì dậy. Lão run rẩy cả người, trong màn đêm, một vết roi dài đỏ thẫm chạy ngang nửa gương mặt.

Trụ trì lẩm bẩm: “Ngông cuồng… Ngông cuồng đến thế này! Thật không còn vương pháp nữa rồi! Không còn vương pháp nữa rồi!”



Bên trong Thôi phủ, tâm mạch của Lý Doanh ngày càng yếu ớt. Ngư Phù Nguy bắt mạch cho nàng, sắc mặt đại biến, nếu tình trạng này tiếp diễn, đừng nói là ba ngày, e rằng ngay trong đêm nay nàng sẽ hồn bay phách lạc.

Nàng đã giết hơn mười người, lần này bị phản phệ bởi Phật pháp, xem ra nghiêm trọng hơn rất nhiều so với lần nàng hiện thân bức ép Vương Nhiên Tê trước đó.

Ngư Phù Nguy nóng lòng đến mức đi đi lại lại, không biết Thôi Tuần có lấy được xá lợi Phật đỉnh hay không. Nếu còn không có được, Lý Doanh thật sự sẽ không qua khỏi.

Đúng lúc hắn không thể chờ thêm nữa, định tự mình đến Pháp Môn Tự cầu xá lợi, cửa bỗng nhiên “rầm” một tiếng bật mở.

Thôi Tuần, toàn thân đẫm máu, loạng choạng đẩy cửa bước vào. Ngư Phù Nguy quay đầu lại, sững sờ: “Thôi Thiếu khanh? Ngươi làm sao thế này?”

Thôi Tuần gạt tay Ngư Phù Nguy, người đang định đỡ hắn, tập tễnh bước tới trước chiếc sạp thấp bằng gỗ hoa nam. Hắn cẩn thận lấy xá lợi Phật đỉnh từ trong ngực, đặt vào tay Lý Doanh.

Xá lợi Phật đỉnh là vốn là di cốt trên đỉnh đầu của Phật Đà, tượng trưng cho trí tuệ và lòng từ bi của ngài. Viên xá lợi tròn trịa như ngọc, trong suốt lấp lánh. Vừa chạm vào tay Lý Doanh, nó liền tỏa ra ánh sáng nhu hòa, ấm áp, bao phủ toàn thân nàng.

Ngư Phù Nguy lập tức nhào tới, bắt mạch cho Lý Doanh. Chỉ thấy tâm mạch nàng tuy vẫn yếu, nhưng đã không còn dấu hiệu đứt đoạn như trước, trái lại đang dần hồi phục những nhịp đập.

Ngư Phù Nguy mừng rỡ kêu lên: “Xá lợi Phật đỉnh có tác dụng! Công chúa được cứu rồi!”

Thôi Tuần vô lực quỳ ngã xuống đất, nhìn Lý Doanh trên giường, khóe môi cuối cùng cũng hé ra một nụ cười nhẹ nhõm. Lệ nóng từ trong mắt hắn chảy xuống, hòa vào vệt máu trên mặt, như thể nước mắt và máu đan xen. Hắn vừa khóc vừa cười: “Minh Nguyệt Châu… Minh Nguyệt Châu…”

Ngư Phù Nguy phấn khởi nói: “Tuy công chúa trọng thương nhưng với xá lợi Phật đỉnh này, chắc chắn nàng sẽ tỉnh lại!”

Thôi Tuần dần trầm tĩnh hơn, ánh mắt lưu luyến muốn chạm vào gương mặt Lý Doanh. Nhưng khi nhìn xuống bàn tay dính đầy máu của mình, hắn khựng lại, cầm lấy một tấm lụa bên cạnh, cẩn thận lau sạch, rồi mới đưa tay chạm nhẹ lên khuôn mặt nàng.

Cơ thể nàng lạnh như băng, bàn tay hắn khẽ miết lên từng đường nét, ánh mắt tràn đầy quyến luyến. Một lúc lâu sau, hắn mới thu tay, quay sang nhìn Ngư Phù Nguy, người vẫn còn đang vui mừng. Hắn hơi cụp mắt, bỗng gắng sức chống người dậy, trịnh trọng quỳ xuống trước mặt Ngư Phù Nguy.

Ngư Phù Nguy giật mình hoảng hốt: “Thôi Thiếu khanh, ngươi làm gì đấy?”

Hắn vội vàng cúi người đỡ Thôi Tuần, nhưng Thôi Tuần không đứng dậy. Ngư Phù Nguy bất đắc dĩ, đành quỳ đối diện hắn, nói: “Ngươi là quan viên tứ phẩm, lại quỳ trước một dân thường như ta, ta không nhận nổi.”

Thôi Tuần lắc đầu: “Ta quỳ trước mặt tiên sinh là để cầu tiên sinh đồng ý với ta một chuyện.”

“Chuyện gì?”

Thôi Tuần nhắm mắt, che giấu nỗi đau vô tận trong đáy mắt. Khi mở mắt ra, hắn chậm rãi nói từng chữ một: “Cầu xin tiên sinh, đưa Minh Nguyệt Châu đến Vong Tử Thành.”

Ngư Phù Nguy sững sờ: “Ngươi nói cái gì?”

“Ta nói, xin tiên sinh hãy đưa Minh Nguyệt Châu đến Vong Tử Thành.”

Một thoáng im lặng bao trùm, Ngư Phù Nguy tức giận đến nhảy dựng lên, bất chấp thân phận quan dân, túm chặt lấy vạt áo Thôi Tuần mà quát: “Ngươi bị điên hay bị ngu rồi? Ngươi muốn đưa công chúa đến Vong Tử Thành? Ngươi có biết một khi nàng vào đó thì không thể ra ngoài nữa không?”

“Không thể ra ngoài trong mười năm, nhưng hai mươi năm sau, nhất định nàng sẽ ra được. Đợi đến khi những kẻ muốn giết nàng đều chết sạch, nàng tự khắc có thể ra ngoài.”

Ngư Phù Nguy giận dữ gầm lên: “Ta không quan tâm mười năm hay hai mươi năm, nhưng Vong Tử Thành là nơi nào chứ? Dù chỉ một ngày, ta cũng không nỡ để nàng ở đó! Ngươi nói yêu ngươi công chúa, đây chính là cách ngươi yêu nàng sao? Công chúa có mắt như mù nên mới động lòng với một kẻ khốn nạn như ngươi!”

Hắn phẫn nộ đến mức chỉ muốn tung một quyền nhắm thẳng vào mặt Thôi Tuần, nhưng nhìn bộ dạng y lúc này, toàn thân đẫm máu, chỉ e một đấm của hắn có thể đoạt đi nửa mạng của y. Nếu Lý Doanh tỉnh lại, nhất định sẽ trách mắng hắn. Ngư Phù Nguy kiềm chế cơn giận bằng chút lý trí còn sót lại, nghiến răng nói: “Nghe cho rõ đây, chỉ cần ta còn sống một ngày, ta tuyệt đối không để ngươi đưa công chúa vào Vong Tử Thành!”

“Nhất định phải đến Vong Tử Thành!”

Thôi Tuần đột nhiên nâng giọng, quát lớn.

Ngư Phù Nguy sững người.

Thôi Tuần nhếch môi cười khổ: “Ta đã cướp xá lợi Phật đỉnh từ chùa Pháp Môn, quan binh truy bắt ta có lẽ đã lên đường rồi cũng nên. Chẳng bao lâu nữa ta sẽ vào ngục, không thể bảo vệ Minh Nguyệt Châu được nữa. Vì vậy, tiên sinh hãy đưa nàng đi, mang theo cả xá lợi Phật đỉnh, rời khỏi đây ngay lập tức!”

Ngư Phù Nguy trừng lớn mắt, giọng lắp bắp: “Ngươi nói cái gì? Xá lợi Phật đỉnh được ngươi cướp về từ chùa Pháp Môn? Ngươi không muốn sống nữa sao? Ngươi dám cướp xá lợi Phật đỉnh?”

“Minh Nguyệt Châu không thể đợi lâu hơn nữa.” Thôi Tuần nhìn Lý Doanh đang hôn mê bất tỉnh trên sạp gỗ hoa nam. Hắn thì thào: “Đây là cách nhanh nhất.”

“Ngươi… Ngươi…” Ngư Phù Nguy hoàn toàn cứng họng, buông tay khỏi vạt áo Thôi Tuần, trong lòng hỗn loạn. Một lát sau, hắn chợt nói: “Vẫn còn kịp! Ta sẽ đưa các ngươi rời khỏi Trường An, cùng lắm thì đến Tây Vực, thiên hạ rộng lớn thế này, tất sẽ có chốn dung thân.”

Thôi Tuần lắc đầu: “Ta không rời khỏi Trường An, cũng sẽ không đi Tây Vực.”

Ngư Phù Nguy kinh ngạc: “Ngươi không rời khỏi Trường An, cũng không đi Tây Vực, chẳng lẽ định ở lại đây chờ chết sao?”

Thôi Tuần vẫn cố chấp nói: “Ta sẽ không rời Trường An.”

Ngư Phù Nguy gần như muốn nhảy dựng lên: “Vì sao ngươi không chịu rời khỏi Trường An? Chẳng lẽ ngươi vẫn còn tiếc nuối chức quan này?”

Thôi Tuần bình thản đáp: “Ta chưa từng để tâm đến chức quan này, nhưng còn một chuyện ta chưa làm xong, ta không thể rời khỏi Trường An.”

“Chuyện gì?” Ngư Phù Nguy cười lạnh: “Ngươi nói xem, rốt cuộc là chuyện gì?”

“Sự thật về cuộc thảm án Thiên Uy quân.” Thôi Tuần gằn từng chữ: “Nếu ta không đưa hung thủ ra trước công lý, ta sẽ không rời khỏi Trường An!”

“Hung thủ?” Ngư Phù Nguy sững sờ: “Không phải là đám Lư Dụ Dân sao? Chẳng phải chúng đều phải bị trừng trị cả rồi sao? Còn hung thủ nào nữa?”

Thôi Tuần lắc đầu: “Vẫn còn một kẻ.”

Hắn mím chặt môi, lưu luyến nắm lấy bàn tay lạnh băng của Lý Doanh trên giường, ngón tay đan vào nhau, tựa như lần đầu gặp gỡ: “Ta đã trộm xá lợi Phật đỉnh, tất nhiên sẽ bị tống vào ngục, nhưng nếu có thể may mắn giữ được mạng, ta nhất định phải bắt kẻ thủ ác đền tội. Nhưng kẻ đó… không phải người ta có thể đối phó… cũng không phải người Minh Nguyệt Châu có thể đối phó…”

Hắn nhẹ nhàng siết lấy tay nàng, từng giọt lệ từ hốc mắt hắn rơi xuống, thấm vào mu bàn tay nàng. Trong cơn mê man, hàng mi dài của Lý Doanh bỗng run lên, tựa như cảm nhận được điều gì. Giọng hắn trầm thấp: “Nếu Minh Nguyệt Châu ở lại đây, nàng ấy sẽ đau lòng, sẽ khó xử… Nhưng dù có đau lòng, có khó xử, nhất định nàng vẫn sẽ bất chấp tính mạng để giúp ta. Ta không biết khi ấy sẽ xảy ra chuyện gì, lại càng không dám nghĩ đến. Ngư tiên sinh, ta cầu xin người, hãy đưa nàng đi đi. Chỉ khi đến Vong Tử Thành, nàng mới không thể quay về tìm ta nữa…”

Ngư Phù Nguy đờ đẫn. Hắn không biết kẻ thủ ác trong miệng Thôi Tuần là ai, nhưng trực giác mách bảo, kẻ đó nhất định là người có quyền thế ngập trời, lại có mối quan hệ sâu xa với Lý Doanh. Mà ở Đại Chu này, ai là người vừa có quyền thế vượt xa cả Lư Dụ Dân lẫn Bùi Quan Nhạc, lại vừa có mối quan hệ sâu xa với Lý Doanh?

Nghĩ đến đây, lòng hắn lạnh toát, không dám đào sâu thêm nữa.

Hắn lầm bầm: “Nếu đã biết không thể đối phó được, vì sao còn cố chấp chống lại người đó?”

Thôi Tuần nghe vậy, chỉ nhếch môi cười nhạt, giọng điệu tự giễu: “Ta biết vụ án Thiên Uy quân đến đây đã là kết cục viên mãn nhất rồi. Kẻ cầm đầu đã bị trừng phạt, các tướng sĩ được minh oan, gia quyến cũng được an bài ổn thỏa. Nếu ta cứ truy đuổi mãi, chẳng khác nào gây rối không đúng lúc, khiến người đời chán ghét không thôi. Nhưng mỗi khi nhắm mắt, ta lại thấy cảnh Tào Ngũ và những người khác ngã xuống trong vũng máu. Ta không thể vượt qua được nỗi day dứt này… Trừ khi ta chết, bằng không, ta nhất định sẽ chống lại đến cùng.”

Dẫu con đường phía trước gập ghềnh trắc trở, nhưng lòng này vững như bàn thạch, dù chín lần chết vẫn không hối hận.

Ngư Phù Nguy dùng thần sắc nghiêm nghị, nhìn chằm chằm vào một kẻ mang đầy tai tiếng, Thiếu khanh Sát Sự Thính, Thôi Tuần. Trong lòng hắn, đây là lần đầu tiên dâng lên một tia kính trọng đối với người này.

Hắn trầm mặc giây lát, không tiếp tục khuyên can mà chỉ nói: “Nhưng ngươi không có tư cách quyết định thay công chúa. Ngươi dựa vào đâu để đưa công chúa đến Vong Tử Thành, trong khi chưa nhận được sự đồng ý của nàng?”

Thôi Tuần chỉ lặng lẽ nắm lấy tay Lý Doanh, nhìn nàng, bật cười thê lương: “Ai bảo Thôi Tuần ta là một kẻ đê tiện, tội ác chồng chất kia chứ?”

Kẻ đê tiện, chỉ có thể làm những chuyện đê tiện.

Nàng không nên yêu một kẻ như hắn.

Hắn nói: “Ngư Phù Nguy, người của Kinh Triệu Doãn sắp đến rồi, rốt cuộc ngươi có đưa nàng đi không? Nếu không, ta sẽ tìm Quỷ thương khác đưa đi.”

Ngư Phù Nguy nghiến răng. Con đường phía trước của Thôi Tuần là con đường chết chắc, nếu Lý Doanh ở lại, nàng sẽ cùng hắn bước lên con đường đó. So với việc để nàng hóa thành lệ quỷ, suýt nữa hồn phi phách tán, chi bằng đưa nàng đến Vong Tử thành, chí ít còn giữ được tính mạng.

Ngư Phù Nguy gật đầu: “Được, ta đưa nàng đi!”

Thôi Tuần như trút được gánh nặng, quỳ xuống dập đầu trước Ngư Phù Nguy: “Đa tạ.”

Nhưng đúng lúc này, từ khóe mắt của Lý Doanh đang hôn mê bất tỉnh bỗng chảy xuống một giọt lệ. Trái tim Thôi Tuần quặn thắt, đau đớn tột cùng. Hắn siết chặt bàn tay nàng, đặt xá lợi Phật đỉnh vào lòng bàn tay nhỏ bé, để ánh sáng trắng dịu nhẹ như dòng suối thấm vào thân thể nàng. Khi hắn định rút tay về, nàng như có chút ý thức, bất giác nắm chặt lấy đầu ngón tay hắn, từng giọt lệ lặng lẽ tuôn rơi, càng lúc càng nhiều.

Thôi Tuần lòng đau như cắt, hắn nhẫn tâm bẻ từng ngón tay nàng ra, rút tay về, cất giọng trầm khàn: “Đưa nàng đi đi.”

Ngư Phù Nguy mím môi, ánh mắt ảm đạm, bế Lý Doanh đang nằm trên sạp gỗ, không quay đầu lại, lao thẳng ra ngoài.

Trên chiếc sạp thấp bằng gỗ hoa nam, hơi ấm vẫn còn vương lại. Ngọn nến trong phòng lay động, ánh sáng chập chờn.

Chỉ còn lại một mình Thôi Tuần.

Hắn khoanh chân ngồi dưới đất, tà áo vấy đầy máu, mệt mỏi nhắm mắt lại, bình thản chờ đợi khoảnh khắc Kinh Triệu Doãn phá cửa xông vào.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 143: Vết thương trên người hắn đã quá nhiều rồi


<i>* Chương này có rất nhiều phần độc thoại nội tâm của Lư Hoài, trong các phần độc thoại nội tâm đó, mình sẽ chiếu theo góc nhìn của Lư Hoài, gọi Thôi Tuần là “y” hoặc “hắn” tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể.</i>

Nửa đêm, Thôi Tuần đột nhập vào chùa Pháp Môn, cưỡng đoạt xá lợi Phật đỉnh, còn quất roi làm trọng thương trụ trì ngôi chùa. Tin tức truyền đến cung Đại Minh, khắp cung đều chấn động.

Trụ trì chùa Pháp Môn dẫn theo hàng ngàn tăng lữ, khóc lóc cầu xin Thái hậu và Thánh nhân làm chủ. Chứng cứ rành rành, ngay cả Thái hậu cũng không thể bao che, đành hạ lệnh giam Thôi Tuần vào ngục thất của Đại Lý Tự.

Đêm đó, Đại Lý Tự khanh* Lư Hoài vội vã vào cung, yết kiến Thái hậu và Thánh nhân. Trong điện Bồng Lai, Lư Hoài bẩm báo: “Sau khi Thôi Tuần bị giam, bất luận tra hỏi thế nào, hắn cũng không chịu hé răng nửa lời. Nếu cứ tiếp tục thế này thì chỉ còn cách dùng hình.”

<i>*Gốc là Đại Lý Tự khanh, mình cũng không rõ tác giác viết nhầm hay Lư Hoài được thăng chức. Tự khanh là người đứng đầu Đại Lý Tự, còn Thiếu khanh là cấp phó.</i>

Long Hưng Đế phẫn nộ: “Dùng hình thì dùng hình! Đại Lý Tự các khanh có bao nhiêu hình phạt, cứ mang ra dùng hết đi! Trẫm không tin hắn không chịu khai nhận!”

Lư Hoài mím môi, không lên tiếng. Sau bức rèm châu, giọng Thái hậu chậm rãi vang lên: “Lư khanh, khanh nghĩ sao?”

Lư Hoài cúi đầu đáp: “Tình trạng của Thôi Tuần không ổn lắm. Trên người có mấy chục vết thương do roi gai gây ra, da thịt rách nát. Trán và đầu gối đều bị thương nghiêm trọng. Nếu tiếp tục dùng hình, thần e rằng hắn không chịu nổi, vì vậy thần đã tự ý tìm đại phu, trị thương cho hắn.”

Long Hưng Đế cười lạnh: “Hắn vào ngục Đại Lý Tự của ngươi, chẳng lẽ là để dưỡng thương?”

Lư Hoài không dám trả lời. Thái hậu lại hỏi: “Hắn đi cướp xá lợi Phật đỉnh thì sao lại bị thương đến mức này? Ai đã đả thương hắn?”

“Thần không rõ. Hỏi Thôi Tuần, hắn cũng không đáp.”

Thực ra, từ khi bị giam vào ngục, Thôi Tuần chưa từng mở miệng. Lư Hoài hỏi hắn xá lợi Phật đỉnh đang ở đâu, hắn không nói. Hỏi vì sao phải cướp xá lợi Phật đỉnh, hắn không nói. Hỏi ai đã đánh hắn, hắn cũng không nói. Ngay cả khi hỏi có tìm thấy Vương Huyên chưa, hắn cũng chẳng thèm trả lời.

Chỉ đến khi Lư Hoài mời đại phu trị thương, hắn mới có chút phản ứng, cố chấp giữ chặt áo, không cho đại phu cởi ra. Lư Hoài tức giận quát: “Ngươi bị thương đến mức này còn không chịu cởi áo, chẳng lẽ muốn chết hay sao?”

Thế nhưng Thôi Tuần vẫn không chịu buông tay. Lư Hoài mất kiên nhẫn, ra lệnh cho ngục tốt ghìm chặt hắn, mạnh tay lột áo ra. Vừa trông thấy cảnh tượng trước mắt, Lư Hoài lập tức sững sờ. Hắn đã chuẩn bị tinh thần cho những vết roi, nhưng những vết thương cũ trên người Thôi Tuần lại khiến hắn kinh hãi.

Ngục tốt vẫn giữ chặt Thôi Tuần, nhưng lần này hắn không hề giãy giụa. Lư Hoài ngỡ mình nhìn lầm, liền cầm một ngọn đèn dầu, soi kỹ từng vết sẹo. Hắn chạm vào vết thương lõm xuống trên xương bả vai của Thôi Tuần, đó có vẻ là dấu tích khi bị gai sắt đâm xuyên qua để lại.

Lư Hoài biết năm đó, Thôi Tuần từng chịu cực hình suốt một năm ở Đại Lý Tự. Nhưng Đại Lý Tự không có dạng hình cụ này.

Những vết thương này, hẳn không phải do Đại Lý Tự tra tấn.

Dưới ánh đèn, vết sẹo nhạt màu, tiệp với da thịt, bề mặt nhẵn nhụi, có lẽ đã qua nhiều năm. Nhưng không quá mười năm, bởi mười năm trước, Thôi Tuần chỉ mới mười ba tuổi, vẫn còn sống tại phủ Thôi gia.

Khi đó, Lư Hoài từng gặp hắn vài lần trong những yến hội của thế gia Trường An, trông hắn hoàn toàn bình thường, không hề giống người từng chịu qua cực hình.

Vậy thì, những vết thương này hẳn là sau khi hắn tòng quân thì mới có.

Nhưng Quách Cần Uy của Thiên Uy quân yêu thương binh sĩ như con ruột, bởi vậy những vết thương này tuyệt đối không thể do thời gian ở Thiên Uy quân mà thành. Sau Thiên Uy quân, chính là hai năm ở Đột Quyết.

Lư Hoài trầm giọng hỏi: “Những vết thương cũ này, rốt cuộc là do đâu mà có? Là người Đột Quyết làm sao?”

Thôi Tuần chỉ nhắm mắt, không đáp. Lư Hoài lại nói: “Chẳng phải ngươi đã đầu hàng Đột Quyết rồi sao? Chẳng phải còn làm Hữu Hiền vương của Đột Quyết sao? Vì sao lại ra nông nỗi này?”

Tin đồn nói rằng Thôi Tuần vừa đến Đột Quyết liền trở thành khách trong màn của công chúa Đột Quyết, hưởng hết vinh hoa phú quý. Nhưng bộ dáng này của y lại hoàn toàn trái ngược.

Thôi Tuần không trả lời, mắt khép chặt, nhưng hàng mi run rẩy đã để lộ nỗi nhục nhã và thống khổ trong lòng hắn.

Lư Hoài nâng giọng: “Thôi Vọng Thư, rốt cuộc người Đột Quyết đã làm gì ngươi?”

Bàn tay cầm đèn dầu của Lư Hoài cũng hơi run rẩy, hắn không thể không lấy làm sợ hãi.

Kể từ khi Thôi Tuần dùng mạng, thúc đẩy việc phơi bày sự thật về vụ án Thiên Uy quân, Lư Hoài đã thay đổi cách nhìn đối với y. Thậm chí hắn còn có phần nghi ngờ về việc Thôi Tuần từng đầu hàng Đột Quyết. Một kẻ tham sống sợ chết thì sao dám buông bỏ tính mạng, đứng ra kêu oan cho Thiên Uy quân đã chết từ cách đây sáu năm?

Nhìn thấy những vết thương cũ trên người Thôi Tuần, nghi hoặc trong lòng Lư Hoài dường như đã có đáp án. Hắn chợt nghĩ đến suốt sáu năm qua, mình đã nhục mạ Thôi Tuần thế nào, đã dùng những lời lẽ cay nghiệt ra sao. Thậm chí hắn còn cố ý sai người gửi đến một bình rượu hoa sen, chỉ để châm chọc Thôi Tuần. Nếu… nếu Thôi Tuần thực sự chưa từng đầu hàng Đột Quyết, vậy thì những lời lẽ miệt thị, những sỉ nhục mà hắn dành cho y… rốt cuộc là gì đây?

Lư Hoài siết chặt ngọn đèn dầu trong tay: “Thôi Vọng Thư, có phải người Đột Quyết đã tra tấn ngươi không?”

Thôi Tuần cuối cùng cũng mở mắt. Ánh mắt hắn tràn ngập vẻ chế giễu, không rõ là cười nhạo Lư Hoài hay đang tự cười nhạo chính mình. Hắn mở miệng, giọng điệu lạnh lẽo vang lên trong phòng giam u tối: “Đúng vậy, không chỉ tra tấn, mà còn có lễ hiến tù binh, còn có l*t s*ch quần áo, nhốt vào lồng chó như súc vật để người ta mặc sức dòm ngó. Giờ ngươi hài lòng rồi chứ?”

Đồng tử Lư Hoài co rút, bàn tay run bắn khiến ngọn đèn dầu rơi xuống đất, lăn lóc sang một bên.

Thôi Tuần là đệ tử thế gia, hắn cũng vậy. Hắn hiểu rõ hơn ai hết một kẻ sinh ra trong dòng dõi ấy, từ nhỏ đã được dạy dỗ theo quy tắc “sĩ khả sát bất khả nhục”, thì khi phải đối mặt với sự sỉ nhục này, sẽ có cảm giác ra sao.

Huống hồ, Bác Lăng Thôi thị, chính là đệ nhất vọng tộc trong thiên hạ, đứng đầu hàng ngũ thế gia. Một đích tử của Thôi thị lại bị dày vò đến mức này, nỗi nhục ấy càng không thể tưởng tượng nổi.

Nói xong, Thôi Tuần dường như đã dùng hết toàn bộ khí lực. Hắn khép mắt, chẳng buồn nhìn sắc mặt của Lư Hoài, cũng chẳng muốn nhìn đám ngục tốt. Dù là đồng tình hay chấn động, đối với hắn mà nói, tất thảy đều là sự sỉ nhục thêm lần nữa.

Nắm tay Lư Hoài dần co lại. Hắn nhìn thân thể chằng chịt vết sẹo của Thôi Tuần, trong đầu lại hiện lên hình ảnh năm đó khi hắn gặp y ở Trường An, trước khi y gia nhập Thiên Uy quân. Đó là một thiếu niên như minh châu mỹ ngọc, kiêu ngạo không ai sánh bằng, phảng phất như trong mắt y, trời đất này không ai đáng để bận tâm. Nhưng ai có thể ngờ, một thiếu niên kiêu hãnh như thế, lại có ngày rơi vào tay Đột Quyết, chịu cảnh sống không bằng chết?

Ngực hắn như có một ngọn lửa thiêu đốt, không rõ là tức giận bản thân, hay phẫn nộ vì Thôi Tuần, hoặc oán hận đám người Đột Quyết. Hắn túm lấy đại phu đang lẩy bẩy bên cạnh, gầm lên: “Dùng thuốc tốt nhất! Chữa khỏi cho hắn! Không được để hắn chết trong nhà lao của Đại Lý Tự ta!”

Sau đó, hắn buông đại phu ra, lại quay sang bọn ngục tốt: “Chăm sóc hắn cho cẩn thận, cần thay y phục thì thay y phục! Nếu hắn còn giãy giụa không chịu, thì trói lại rồi thay! Còn nữa, bất luận là kẻ nào cũng không được phép động hình với hắn!”



Lư Hoài rời khỏi ngục thất, lật tìm lại hồ sơ vụ án cũ khi Đại Lý Tự thẩm vấn Thôi Tuần. Trong hồ sơ ghi chép, dù chịu đủ mọi cực hình nhưng vẫn y một mực khẳng định rằng mình chưa từng đầu hàng Đột Quyết. Hẳn người trực tiếp hành hình năm ấy cũng đã nhìn thấy những vết sẹo khủng khiếp trên người y, nếu chịu khó điều tra kỹ hơn, chắc chắn sẽ có thể tìm ra chân tướng. Thế nhưng, chẳng những Đại Lý Tự không điều tra mà ngược lại chỉ lo ép cung bằng cực hình. Nếu không phải cuối cùng Thái hậu ra tay cứu giúp, Thôi Tuần e rằng đã bỏ mạng trong ngục Đại Lý Tự từ lâu rồi.

Lư Hoài siết chặt hồ sơ, lòng hắn rối bời. Vì sao Đại Lý Tự lại ngoan cố không nghe, không nhìn, chỉ chăm chăm tra tấn y? Liên hệ với chân tướng vụ án Thiên Uy quân bị diệt toàn quân, rồi lại nghĩ đến việc Thôi Tuần lấy mạng ra để lật lại bản án, hắn đã có câu trả lời. Có kẻ không muốn Thôi Tuần còn sống, bước ra khỏi Đại Lý Tự.

Thôi Tuần chịu nhục ở Đột Quyết, khó khăn lắm mới trở về Đại Chu thì lại một lần nữa rơi vào địa ngục ở Đại Lý Tự, chịu đủ cực hình ngoan độc. Không ai thấu hiểu nỗi oan của y, cũng không ai muốn cứu y. Nếu y không chọn làm tay sai cho Thái hậu, liệu y còn có thể sống sót không?

Những chuyện xảy ra tại Sát Sự Thính sau này… từ cổ chí kim, tranh đấu quyền lực vốn luôn là cuộc chiến đẫm máu tàn khốc. Nếu dùng tiêu chuẩn của một kẻ thuần khiết vô tì vết để phán xét y, đúng, y không phải là người tốt. Nhưng sau những gì đã trải qua, liệu y còn có thể làm một người tốt nữa hay không?

Lư Hoài tự vấn lòng mình, nếu đổi lại là hắn, liệu hắn còn có thể làm một người tốt, làm một quân tử nữa không?

Không… Chỉ e rằng vào ngày bị đem ra hiến tù binh, vì không chịu nổi nỗi nhục này mà hắn đã tự sát từ lâu rồi.

Hắn, không làm được.



Trong điện Bồng Lai, khi đối diện với sự kiên quyết của Long Hưng Đế trong việc dụng hình, Lư Hoài trầm giọng đáp: “Bẩm Thánh nhân, Đại Chu có ba trường hợp được miễn thụ hình: một là trên bảy mươi tuổi, hai là dưới mười bốn tuổi, ba là người tàn tật hoặc mang bệnh. Ba trường hợp này, khi thẩm tra không thể sử dụng đại hình. Thôi Tuần thuộc diện có bệnh, thần cho rằng không nên dụng hình.”

Hắn viện dẫn luật lệnh Đại Chu, Long Hưng Đế cười nhạt: “Trường hợp đặc biệt, tất dùng pháp đặc biệt. Xá lợi Phật đỉnh là quốc bảo chí tôn, vậy mà Thôi Tuần dám ngang nhiên cướp đoạt, chẳng lẽ chỉ vì hắn có bệnh mà ngay cả thẩm vấn cũng không được hay sao? Nếu như hắn cướp xá lợi Phật đỉnh để thông đồng với Đột Quyết, chẳng lẽ cũng không bị thẩm vấn? Lư khanh, chẳng lẽ khanh cũng đang bao che cho Thôi Tuần?”

Lư Hoài mím chặt môi, nếu là trước kia, nhất định hắn sẽ cảm thấy hai chữ “bao che” này là sỉ nhục lớn đối với mình, nhưng lần này, hắn chỉ rũ mắt, kiên định đáp: “Thôi Tuần đã thương tích đầy mình, nếu tiếp tục dụng hình, e rằng khó giữ được tính mạng. Thần cho rằng làm vậy là không thỏa đáng.”

“Nếu không dụng hình, ngươi có thể ép hắn khai ra tung tích xá lợi Phật đỉnh không?”

“Đủ rồi!” Thái hậu nãy giờ vẫn lặng im cuối cùng cũng lên tiếng, dập tắt cuộc tranh luận giữa quân thần: “Lư khanh, khanh muốn xử trí thế nào?”

Lư Hoài chắp tay: “Bẩm Thái hậu, Thôi Tuần không chịu mở miệng. Với tính cách của hắn, dù có dùng hình, hắn cũng quyết không khai. Điểm này, hẳn Thái hậu còn hiểu rõ hơn thần. Thôi Tuần cả gan đoạt mất xá lợi Phật đỉnh, Thái hậu và Thánh nhân có thể chiếu theo quốc pháp, hạ lệnh xử tử hắn, nhưng…” Yết hầu hắn bỗng nghẹn lại, “Nhưng vết thương trên người hắn đã quá nhiều rồi. Thần khẩn cầu Thái hậu và Thánh nhân, xin đừng tiếp tục tra tấn hắn thêm nữa.”

Nhớ đến những vết thương cũ chồng chất trên người Thôi Tuần, hốc mắt Lư Hoài đã đỏ hoe, nói không nên lời. Thái hậu trầm mặc hồi lâu rồi mới khẽ thở dài: “Được, cứ theo lời Lư khanh mà làm. Trước tiên trị thương cho hắn, chuyện xá lợi Phật đỉnh, sau này sẽ xét hỏi sau.”



Ở cung Đại Minh, Lư Hoài giành được một đường sống mong manh cho Thôi Tuần. Khi hắn đến phòng giam, Thôi Tuần đã được thay bộ y phục sạch sẽ, vết thương cũng đã được băng bó, nằm cuộn mình trên sập đá xám lạnh, ngủ li bì. Chỉ có điều, hai tay hắn bị trói ngược ra sau. Lư Hoài nhíu mày, hỏi ngục tốt: “Ta chỉ nói vậy thôi mà các ngươi trói hắn thật ư?”

Ngục tốt tỏ vẻ khó xử: “Lúc cởi y phục, hắn cũng không giãy giụa gì mấy. Nhưng khi chúng thuộc hạ mang bộ đồ cũ của hắn đi vứt, hắn bỗng trở nên kích động, đè thế nào cũng không được. Nhìn thấy vết thương trên người hắn lại sắp nứt ra, thuộc hạ cũng hết cách.”

“Chỉ là vứt đi một bộ y phục cũ, hắn làm ầm lên làm gì chứ?”

“Hình như hắn muốn liều mạng để giữ lại hai thứ này.”

Ngục tốt xòe tay ra, để lộ một quả cầu hương bằng bạc mạ vàng đã bị giẫm nát cùng một túi hương làm gấm ngũ sắc thêu hoa mẫu đơn.

Lư Hoài cầm lấy hai món đồ. Quả cầu hương đã vỡ thành từng mảnh, hương phấn và dược liệu bên trong đều bị nghiền nát, lẫn vào vụn bạc. Hắn liếc mắt nhìn ngục tốt, đối phương lúng túng nói: “Đại phu chỉ vô tình giẫm phải.”

Túi hương thêu mẫu đơn lấm tấm vết máu, lớp gấm có chỗ bị sờn rách, vài sợi chỉ bung ra, trông như từng bị roi quất trúng. Nhưng vết rách lại không mấy nghiêm trọng, hẳn là lúc đó Thôi Tuần đã liều mạng che chở trước ngực, nên túi hương này mới không bị đánh đến nát bươm.

Từ chỗ túi hương bị rách, Lư Hoài có thể nhìn thấy một sợi dây đỏ lộ ra, trên đó buộc một lọn tóc. Đây rõ ràng là tín vật định tình, nhưng không biết, đó là của vị nương tử nào?

Thôi, không nghĩ nữa. Lư Hoài khép tay lại: “Quả cầu hương này không thể sửa được nữa, nhưng túi hương thì vẫn có thể mang đi vá lại.”

Hắn ngập ngừng một lúc, rồi lại dặn dò ngục tốt: “Nói với hắn, quả cầu hương và túi hương ta đều đã mang đi sửa, bảo hắn đừng lo, nhất định ta sẽ trả lại cho hắn.”

Ngục tốt vâng dạ, Lư Hoài lại nói: “Còn nữa, cởi trói cho hắn, đừng trói tay lại nữa.”

Ngục tốt tiếp tục vâng lệnh. Lư Hoài không nói gì thêm, chỉ lặng lẽ nhìn thân ảnh gầy guộc đang ngủ mê man trên sập đá xám lạnh.

Gương mặt y trắng nhợt như tuyết, thân thể gầy yếu đến gần như khẳng khiu. Lư Hoài hoảng hốt, ký ức bỗng đưa hắn trở về những năm tháng khi mới mười mấy tuổi, khi lần đầu gặp gỡ chàng thiếu niên của Thôi thị ở Bác Lăng. Chàng ta cao ngạo, hiên ngang, rực rỡ tựa như ánh mặt trời.

Nhưng có lẽ vì gần đây xảy ra quá nhiều chuyện… Thúc phụ hắn chết rồi, Vương Huyên cũng mất tích, những điều ấy hắn lung lay, rồi dần hoài nghi về những điều mà trước đây hắn vẫn luôn hết lòng tin tưởng.

Hắn nghĩ, không biết Thôi Tuần đã tìm được Vương Huyên chưa? Nếu chưa tìm được, thì cứ nói là chưa tìm được, nếu đã tìm thấy, thì cứ nói là đã tìm thấy. Cớ sao lại không nói gì nhưng bây giờ?

Nếu là trước kia, có lẽ Lư Hoài sẽ ngờ vực Thôi Tuần có toan tính gì khác, nhưng lúc này đây, hắn lại vô thức nghiêng về suy nghĩ tốt đẹp hơn. Hắn nghĩ, có khi nào Thôi Tuần phát hiện điều gì đó, nhưng vì sợ liên lụy đến hắn nên mới không dám nói ra?

Thôi Tuần ngang nhiên cướp đoạt xá lợi Phật đỉnh, chiếu theo quốc pháp, y ắt phải chịu tội chết. Phải chăng y cảm thấy bản thân chẳng còn sống được bao lâu nữa, nên không muốn kéo theo hắn xuống nước?

Tâm trí Lư Hoài rối bời, ánh mắt hắn dừng trên thân ảnh gầy guộc của người thanh niên gầy gò như hạc đang nằm trên sập đá, khẽ thở dài. Có lẽ, hắn nên cẩn thận xem xét lại một lần tất cả những tội danh đang đè nặng lên người Thôi Tuần.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 144: Nàng muốn quay về


Đêm khuya, một cỗ xe bò chầm chậm rời khỏi Trường An.

Ở Đại Chu, thương nhân không được phép cưỡi ngựa hay ngồi xe ngựa, vì thế Ngư Phù Nguy chỉ có thể đi xe bò. Thế nhưng dù sao hắn cũng là phú thương, nội thất bên trong xe được bày trí vô cùng thoải mái.

Lý Doanh vẫn đang mê man, nàng nằm trên chiếc giường phủ gấm lụa êm, sắc mặt đã khá hơn nhiều so với lúc vừa mới bị phản phệ. Ngư Phù Nguy ngồi bên cạnh, mày nhíu chặt, không nói một lời.

Giờ phút này, hẳn Thôi Tuần đã bị giam vào đại lao. Cướp đoạt xá lợi Phật đỉnh, chính là tội chết. Không biết hắn có thể nhờ vào sự sủng tín của Thái hậu mà bảo toàn được tính mạng hay không.

Nhưng dù có giữ được mạng, hắn vẫn muốn báo thù cho Thiên Uy quân, vẫn sẽ bước vào con đường vạn kiếp bất phục.

Ngón tay Ngư Phù Nguy dần siết chặt. Trước kia hắn luôn khinh thường Thôi Tuần, càng không hiểu vì sao Lý Doanh lại có thể để mắt đến y. Nhưng đến giờ phút này, hắn mới nhận ra rằng, ánh mắt của Lý Doanh chưa bao giờ sai.

Sự can đảm dù chín chết cũng không hối tiếc, sự kiên cường dù bao lần trắc trở vẫn không gục ngã, đó là điều không phải ai cũng có được.

Thôi Tuần… quả thực xứng đáng với tình yêu sâu nặng của Lý Doanh.



Xe bò di chuyển chậm rãi để tránh gây ảnh hưởng đến thương thế của Lý Doanh. Mãi đến bảy ngày sau, họ mới đến chân núi Bàn Trủng.

Ngư Phù Nguy bế nàng xuống xe, đi về phía lối vào U Đô. Câu hồn sứ giả đã chờ sẵn bên cánh cửa đá khổng lồ, gã nói: “Ngư lang quân, giao tiểu nương tử cho mỗ đi. Mỗ sẽ đưa nàng đến Vong Tử Thành an toàn.”

Ngư Phù Nguy cúi nhìn người trong lòng, thiếu nữ vẫn nhắm chặt đôi mắt, trên gương mặt còn vương vết lệ, thân hình nhẹ tựa cánh chim, như thể chỉ cần một cơn gió thoảng qua cũng có thể cuốn nàng đi. Hắn chần chừ giây lát rồi nói: “Ta không yên tâm, hãy để ta được tự mình đưa nàng đến Vong Tử Thành.”

Câu hồn sứ giả sửng sốt: “Ngư lang quân, Sinh Tử Đạo là con đường một đi không trở lại. Mỗ là câu hồn sứ giả, có thể tự do qua lại giữa hai giới âm dương, nhưng ngài là phàm nhân, nếu bước vào Địa phủ thì sẽ không còn đường quay về nữa.”

“Không phải vẫn còn xá lợi Phật đỉnh đó sao?” Ngư Phù Nguy vuốt nhẹ viên xá lợi Phật đỉnh đặt trong tay áo Lý Doanh. Thánh quang ấm áp tỏa ra từ viên xá lợi khiến câu hồn sứ giả cũng phải kinh sợ mà lùi lại hai bước. Ngư Phù Nguy thản nhiên nói: “Xá lợi Phật đỉnh là chí bảo thế gian, công hiệu của nó không phải thứ những viên xá lợi khác có thể sánh bằng. Ta đã ở bên nó suốt bảy ngày, ít nhiều cũng nhiễm được chút thánh quang, đủ để đưa ta ra khỏi Sinh Tử Đạo.”

Câu hồn sứ giả vẫn cảm thấy quá nguy hiểm: “Ngư lang quân, không bàn đến việc chút thánh quang ấy có đủ giúp ngài thoát khỏi Sinh Tử Đạo hay không, chỉ nói đến con đường khoa cử của ngài thôi đã nhé. Ngài khổ công học tập nhiều năm, vất vả lắm mới có thể tham gia khoa cử, hà tất vì một tiểu nương tử mà tự chặt đứt con đường sinh mệnh của mình dưới Địa phủ?”

Ngư Phù Nguy lặng nhìn Lý Doanh trong lòng, khẽ thì thầm: “Đúng, ước mơ lớn nhất của ta là thi đỗ tiến sĩ. Nhưng có người vì nàng mà ngay cả xá lợi Phật đỉnh cũng dám cướp, nếu ngay cả Địa phủ mà ta cũng không dám vào, chẳng phải sẽ bị hắn vượt mặt hay sao…”

Câu hồn sứ giả không biết người mà hắn nói đến là ai, thậm chí còn không rõ tiểu nương tử trong lòng hắn là ai. Gã chỉ là người thường xuyên giao dịch với Ngư Phù Nguy ở thương hội âm dương, nên mới chịu mạo hiểm giúp y. Sau một hồi trầm mặc, câu hồn sứ giả thở dài nói: “Được rồi, nếu Ngư lang quân đã kiên quyết như vậy, mỗ cũng không khuyên nữa.”

Gã biết không thể lay chuyển được Ngư Phù Nguy, đành dẫn theo hắn và Lý Doanh bước qua cửa đá, chậm rãi tiến vào Sinh Tử Đạo.



Đây là lần đầu tiên Ngư Phù Nguy bước vào Sinh Tử Đạo. Hắn ôm chặt Lý Doanh, lảo đảo theo bước chân câu hồn sứ giả, dò dẫm tiến về phía trước dưới ánh sáng mờ mịt từ ngọn quỷ đăng màu xanh lục.

Cuối cùng, khi băng qua Sinh Tử Đạo, trước mắt họ bỗng nhiên trở nên quang đãng. Câu hồn sứ giả tiếp tục dẫn đường, hướng về Vong Tử Thành.

Vong Tử Thành nằm sát bên sông Nại Hà và Huyết Bồn Khổ Giới. Tương truyền, Huyết Bồn Khổ Giới là nơi trừng phạt những kẻ bất hiếu, làm ác, diệt Phật. Sau khi chết, chúng sẽ bị ném vào đó, chịu khổ hình.

Ngư Phù Nguy theo câu hồn sứ giả bước lên một cây cầu gỗ cũ kỹ, chòng chành giữa không trung. Hắn liếc nhìn về phía sông Nại Hà ở đằng xa, chỉ thấy giữa dòng nước có một người lái đò đang chống mái chèo, cũng ngoảnh lại nhìn về phía này.

Sợ bị phát hiện, hắn vội cúi đầu, ánh mắt rơi xuống mặt nước đen sâu thẳm dưới chân cầu.

Vừa cúi xuống nhìn, hắn suýt nữa đã hồn phi phách tán. Thì ra ngay dưới cây cầu này chính là Huyết Bồn Khổ Giới, trong Địa Ngục Huyết Trì, vô số oan hồn giãy giụa giữa dòng huyết thủy sôi sục. Nhưng dù có vùng vẫy thế nào, chúng cũng chẳng thể thoát khỏi mùi tanh tưởi cùng bóng tối vô tận.

Câu hồn sứ giả thấp giọng nhắc nhở: “Đừng nhìn nữa, mau đi thôi.”

Ngư Phù Nguy lập tức bế theo Lý Doanh, rảo bước nhanh hơn, nhưng lại không phát giác được phía sau có một con quỷ thú Ba Nhân Tượng lặng lẽ bò lên cầu. Nó âm thầm phục kích, chực chờ thời cơ, há ra cái mõm máu tanh hôi, nhằm vào cổ hắn táp xuống.

Ngay khi đôi nanh sắc bén sắp ghim sâu vào da thịt, từ trong tay áo Lý Doanh, xá lợi Phật đỉnh bất ngờ bừng lên một luồng bạch quang tinh khiết, chiếu thẳng vào Ba Nhân Tượng.

Con quỷ thú gào lên thảm thiết, cái đuôi điên cuồng vẫy quét, thân hình to lớn rơi thẳng xuống Địa Ngục Huyết Trì. Nhưng ngay trước khi mất hút vào huyết thủy, cái đuôi của nó quét ngang qua bắp chân Ngư Phù Nguy, khiến hắn mất thăng bằng, cả hắn lẫn Lý Doanh cùng ngã xuống mặt cầu.

May thay, trong khoảnh khắc chao đảo, hắn đã kịp ôm chặt lấy Lý Doanh, không để nàng rơi vào biển máu tanh hôi bên dưới.

Ngư Phù Nguy còn chưa kịp trấn tĩnh, câu hồn sứ giả đi trước đã quay đầu lại, thúc giục: “Ngài là người sống, đặc biệt thu hút quỷ thú, mau đi thôi!”

Hắn lập tức gật đầu, vội vàng bế Lý Doanh lên, định lao nhanh khỏi cây cầu gỗ. Nhưng bước chân vừa động, lại phát hiện không thể đi tiếp.

Hắn cúi xuống nhìn, thì ra Lý Doanh đã tỉnh lại từ khi nào chẳng hay. Ngón tay nàng bám chặt vào dây thừng của cây cầu, dù thế nào cũng không chịu buông tay, nước mắt ồ ạt chảy ra, trong miệng không ngừng lẩm bẩm: “Thập Thất lang… Thập Thất lang…”



Lý Doanh chỉ cảm thấy mình vừa trải qua một giấc mộng dài đằng đẵng. Trong mộng, nàng hóa thành lệ quỷ, gi.ết ch.ết A Sử Na Ngột Đoá. Nhưng ngay sau đó, niệm lực trong người nàng nhanh chóng bị rút cạn, cả người như chịu cảnh lăng trì. Rồi nàng rơi vào một vùng bóng tối bất tận, trong bóng tối ấy, nỗi đau bám riết lấy nàng như hình với bóng, khiến nàng không cách nào trốn thoát.

Dường như có một giọng Phạn âm trang nghiêm vang lên, hỏi nàng có hối hận không.

Gương mặt nàng tái nhợt, thân thể run rẩy, nhưng vẫn cố chấp đáp: “Không hối hận.”

Nếu có thể chọn lại lần nữa, nàng vẫn sẽ hóa thành lệ quỷ để giết A Sử Na Ngột Đóa.

Phạn âm liền thở dài, ngay lập tức, cơn đau lại như lưỡi dao sắc bén, lướt qua từng tấc xương tủy nàng. Nàng đau đến mức bật ra tiếng rên khe khẽ, nhưng vẫn không ngừng thì thào: “Ta không hối hận…”

Làm sao có thể hối hận chứ?

Nàng chỉ hối hận vì không giết A Sử Na Ngột Đóa sớm hơn, để ả không còn cơ hội làm tổn thương Thôi Tuần thêm một lần nào nữa.

Chính vì nàng chấp mê bất ngộ [1], nên mới bị Phật pháp phản phệ. Cơn đau như róc da róc thịt không ngừng hành hạ, khiến mồ hôi túa đầy trên trán, giữa ranh giới mơ màng và tỉnh táo, bỗng nhiên, một luồng sáng trắng dịu dàng bao trùm lấy nàng.

<i>[1] chấp mê bất ngộ: cứ giữ sự mê muội mà không hiểu ra, biết sai nhưng không chịu sửa.</i>

Nỗi đau dần dần tan biến, niệm lực bị rút đi cũng từ từ trở về.

Nàng thở hổn hển, cuối cùng gom góp chút sức lực, chậm rãi mở mắt.

Nàng ngơ ngẩn.

Ai đã cứu nàng?

Phạn âm đã giảm bớt vẻ uy nghiêm, thêm vào chút không đành lòng, cất giọng hỏi: “Ngươi có muốn biết không?”

Nàng gật đầu.

Ngay sau đó, trước mắt nàng hiện lên một cảnh tượng mà nàng không hề muốn nhìn thấy.

Nàng thấy Thôi Tuần từng bước quỳ lạy, dập đầu trên từng bậc đá, hết thảy hai trăm linh một bậc, cúi đầu hai trăm linh một lần, chỉ để có thể lên đến tầng mười ba của Phật tháp, cầu xin xá lợi Phật đỉnh thay nàng.

Nàng thấy Thôi Tuần đứng trước Phật Đà, nguyện sau khi chết không vào luân hồi, thần hồn tiêu tán, chuộc lại tội nghiệt một đời, chỉ vì mong được chạm vào xá lợi Phật đỉnh.

Nàng thấy cuối cùng, người thanh niên gần như chưa bao giờ rơi lệ ấy, giờ đây toàn thân đẫm máu, mái tóc rối bời, nắm chặt xá lợi Phật đỉnh vừa giành được, nước mắt lã chã như mưa.

Nàng còn thấy hắn vì sự an toàn của nàng, nhẫn tâm để Ngư Phù Nguy đưa nàng đến Vong Tử Thành, còn bản thân thì lưu lại Trường An, điềm nhiên đối diện với cái chết.

Nước mắt chảy dài trên mặt Lý Doanh, nàng muốn rời khỏi nơi này, nhưng thân thể suy nhược đến mức không thể nhấc nổi dù chỉ một ngón tay, nàng chỉ có thể nhỏ giọng thều thào: “Để ta đi… để ta đi… ta không muốn ở đây…”

Nàng phải quay về.

Nàng phải quay về để cứu Thôi Tuần.

Ý niệm ấy lặp đi lặp lại hàng nghìn vạn lần, trong bóng tối mịt mùng cuối cùng cũng hiện lên một tia sáng. Ngón tay nàng khẽ động, theo bản năng nắm lấy vật ở gần nhất, đó chính là sợi dây thừng trên cây cầu gỗ bắc qua Huyết Bồn Khổ Giới. Nàng nắm chặt lấy sợi dây đó, không chịu buông tay, đôi mắt cũng dần dần hé mở.



Trong ngục thất của Đại Lý Tự, Thôi Tuần vẫn trầm mặc không nói một lời.

Lư Hoài tức muốn hộc máu: “Đã bảy ngày rồi! Bảy ngày qua, ngươi vẫn không chịu nói gì, cứ tiếp tục thế này, ta cũng không bảo vệ được ngươi đâu!”

Thôi Tuần chỉ khép mắt, lặng lẽ không đáp. Lư Hoài giận đến mức đi đi lại lại trong phòng giam chật hẹp, giọng điệu gắt gỏng: “Xá lợi Phật đỉnh là gì hả? Mà ngươi dám ngang nhiên cướp đi? Cướp thì cũng đã cướp rồi, ngươi vẫn nhất quyết không chịu nói xá lợi hiện đang ở đâu? Thôi Tuần, ta hỏi ngươi lần cuối cùng, rốt cuộc ngươi đã đem Phật đỉnh xá lợi giấu đi đâu?”

Hắn hỏi đi hỏi lại suốt bảy ngày, nhưng Thôi Tuần vẫn giữ im lặng, không một lời giải thích.

Suốt bảy ngày qua, Lư Hoài vẫn giữ nguyên dáng vẻ ấy, chỉ ở mãi trong phòng giam, không hề tra tấn Thôi Tuần, cũng không dùng xiềng xích trói buộc trên người hắn. Đã thế còn cung phụng cơm ngon nước ngọt, phát hiện Thôi Tuần mắc phải chứng hàn, liền đặc biệt sai người đốt thêm chậu than, định kỳ mời đại phu đến thay thuốc. Quả thật giống như lời Long Hưng Đế từng mắng, cứ như Thôi Tuần bị bắt vào ngục là để điều dưỡng vậy.

Nếu không phải vì Lư Hoài kiên trì thẩm vấn, thì đây chẳng khác nào một kỳ nghỉ dưỡng.

Nhưng dù mỗi ngày Lư Hoài đều nói đến khô cả họng, dùng tình cảm để đả động, dùng lý lẽ để thuyết phục, bất kể là xá lợi Phật đỉnh hay tung tích của Vương Huyên, Thôi Tuần đều không nói một lời, đúng là đã khiến Lư Hoài tức đến phát điên.

Lư Hoài nói: “Ngươi có biết mấy ngày nay, trong triều có bao nhiêu tấu chương đòi xử tử ngươi không? Bọn họ đều nói ngươi coi trời bằng vung, càn rỡ ngông cuồng, nếu không giết thì khó có thể làm dịu lòng dân. Nếu không phải Thái hậu chưa lên tiếng, lại thêm Thôi tướng công giữa thái độ lập lờ, thì ngươi đã mất mạng từ lâu rồi!”

Việc Thái hậu giữ im lặng, Lư Hoài cũng đã đoán trước được. Xem ra, bà vẫn đang giữ thái độ quan sát. Còn về Thôi Tụng Thanh, nếu chiếu theo thái độ trước kia của ông ta đối với Thôi Tuần, chắc chắn sẽ không để tâm đến sống chết của y. Nhưng lần trước, Thôi Tuần bất chấp tính mạng để lật lại bản án oan của Thiên Uy quân, điều này khiến Thôi Tụng Thanh ít nhiều đã thay đổi cách nhìn về y.

Hơn nữa, gần đây trong Thôi gia xảy ra một chuyện lớn. Nhị đệ của Thôi Tụng Thanh, cũng chính là phụ thân của Thôi Tuần. Chỉ trong một đêm, cả bốn người con trai của ông ta đều bị thích khách đột nhập vào nhà giết hại, đã vậy đầu họ còn bị lấy đi.

Thôi phụ vì quá phẫn uất mà ngã bệnh liệt giường, không bao lâu nữa ông ta có lẽ sẽ tuyệt hậu. Đến lúc này, ông ta mới chợt nhớ ra rằng mình vẫn còn một đứa con trai.

Trớ trêu thay, đứa con trai duy nhất còn lại này lại đang bị giam trong ngục thất Đại Lý Tự, hơn nữa còn là tử tù. Thôi phụ đành hạ mình cầu xin huynh trưởng Thôi Tụng Thanh, thậm chí còn dùng đến cả cái chết để ép buộc. Thôi Tụng Thanh bất đắc dĩ, nhưng cũng không tiện trực tiếp cầu xin Thái hậu tha tội cho Thôi Tuần, đành phải giữ thái độ lấp lửng.

Thái hậu và Tể tướng đều có ý bảo vệ hắn, dù là Long Hưng Đế muốn nghiêm trị Thôi Tuần cũng không thể làm gì hơn. Nhờ vậy mà suốt bảy ngày qua, hắn mới có thể an ổn dưỡng thương trong ngục thất của Đại Lý Tự.

Lư Hoài đi đi lại lại trong phòng giam, giọng đầy nôn nóng: “Thôi Tuần, ngươi nghe cho kỹ, hiện tại vẫn còn đường xoay chuyển. Nếu ngươi giao nộp xá lợi Phật đỉnh, có lẽ còn một tia hy vọng. Nếu cứ chần chừ, nhẹ thì đại hình, nặng thì mất mạng.”

Thôi Tuần vẫn làm như không nghe thấy. Lư Hoài tức đến đỏ mặt: “Ta thật không hiểu nổi, xá lợi Phật đỉnh dù quý nhưng không thể đổi lấy quyền thế. Ngươi đoạt bằng được nó rốt cuộc là vì mục đích gì?”

Thân hình đơn bạc của Thôi Tuần tựa vào vách đá lạnh lẽo, sắc mặt tái nhợt như tuyết, hàng mi cụp xuống. Đúng vậy, xá lợi Phật đỉnh không thể đổi lấy quyền thế, nhưng có thể đổi lấy mạng của Lý Doanh.

Chỉ cần nàng còn sống, hắn chịu hình phạt hay mất mạng, thì đã làm sao?

Lư Hoài nói đến khô cả cổ, nhưng Thôi Tuần vẫn chẳng buồn đáp lời. Đúng lúc Lư Hoài định nổi cơn thịnh nộ thì ngục tốt bước vào bẩm báo: “Thái hậu muốn triệu kiến Thôi Tuần, người sẽ thân thẩm vấn về chuyện xá lợi Phật đỉnh.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 145: Lấy mạng đền mạng, lấy máu trả máu, vậy mới đủ!


Thôi Tuần nghe vậy, chậm rãi ngước mắt. Lư Hoài thoáng ngẩn người, rồi chần chừ giây lát, phất tay lệnh chụp cùm sắt lên người hắn. Trước khi áp giải vào cung Đại Minh, hắn vẫn không nhịn được, dặn dò: “Đây là cơ hội cuối cùng của ngươi. Sống hay chết, tất cả đều phụ thuộc vào lần này. Ta, Lư Hoài, đã nói hết những gì cần nói.”

Nhưng Thôi Tuần chỉ khép dài mi mắt, im lặng không đáp. Hắn để mặc đám ngục tốt của Đại Lý Tự khóa chặt gông cùm lạnh lẽo, áp giải hắn vào cung Đại Minh.

Trong điện Bồng Lai, Thái hậu ngồi sau rèm ngọc, lặng lẽ quan sát người thanh niên phong thái đoan chính, đang quỳ đằng trước bức rèm. So với lần trước gặp hắn, hắn lại gầy đi mấy phần, giữa chân mày càng nặng vẻ u uất, tay chân đều bị xiềng xích trói chặt.

Bà nhớ tới lần hắn dâng biểu từ quan, khi đó hắn đã nói rằng muốn đến Dương Châu, muốn tới Ngô Quận. Hắn bảo rằng bên cạnh hắn đã có một nữ tử tâm tựa lưu ly, người như minh nguyệt. Khi đó, trong đôi mắt hắn là thần sắc rạng rỡ, ánh mắt đầy sự ôn nhu khó tả, tràn ngập mong chờ về tương lai.

Nhưng hiện tại, đôi mắt đen láy kia chẳng khác nào một vũng nước đọng, như thể chủ nhân đã đánh mất tất cả khát vọng sống.

Sự thay đổi này khiến Thái hậu cũng không khỏi kinh ngạc. Bà không kìm được mà suy đoán rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra với hắn. Hít một hơi thật sâu, bà dịu giọng hỏi: “Vọng Thư, vì sao ngươi phải cướp xá lợi Phật đỉnh?”

Lư Hoài đã nói, đây là cơ hội cuối cùng để quyết định sống chết. Nhưng dường như Thôi Tuần chẳng hề để tâm đến điều đó. Hắn như một cái xác mất đi linh hồn, chết lặng quỳ đó, chẳng chút phản ứng trước câu hỏi của Thái hậu.

Thái hậu kiên nhẫn hỏi lại lần nữa: “Vọng Thư, vì sao ngươi phải cướp xá lợi Phật đỉnh?”

Vẫn không có câu trả lời.

Cơn giận dần dâng lên trong lòng Thái hậu, bà mím môi, nhắm mắt, siết chặt chiếc túi hương nang chạm rỗng hoa điểu bồ đào trong tay, rồi chậm rãi mở mắt ra.

“Ngươi không nói thì ngô không làm gì được ngươi sao? Nhưng những biện pháp đó, ngô không muốn dùng đến. Những ngày qua, trụ trì Pháp Môn Tự mỗi ngày đều vào cung khóc lóc, cầu xin ngô làm chủ. Còn có bá quan, sĩ tử, bách tính trong triều, ai nấy đều phẫn nộ với ngươi. Ngươi có biết, để ngươi được nguyên vẹn quỳ tại điện Bồng Lai như hôm nay, ngô đã phải hao tổn bao nhiêu tâm sức không?”

Thái hậu dùng cả ân uy để ép buộc, rốt cuộc cũng khiến Thôi Tuần ngẩng mắt, mở miệng nhàn nhạt: “Tạ ơn Thái hậu, nhưng xá lợi Phật đỉnh, thần tuyệt đối không hoàn trả lại cho Pháp Môn Tự.”

Hắn nói cảm tạ, nhưng giọng điệu không có lấy nửa phần cảm kích, thậm chí còn ngang nhiên tuyên bố sẽ không giao trả xá lợi Phật đỉnh. Thái hậu nghe vậy, vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ: “Ngươi! Thôi Tuần! Ngươi ăn gan hùm mật gấu rồi đúng không! Ngươi không muốn sống nữa đúng không?”

Thôi Tuần lặng im, một lát sau mới lên tiếng: “Thần đoạt xá lợi Phật đỉnh, biết rõ tội đáng muôn chết, nhưng trước khi mất mạng, có một chuyện thần muốn thỉnh cầu Thái hậu.”

Thái hậu nghĩ rằng hắn đã suy nghĩ thông suốt, sắp nói ra tung tích của xá lợi Phật đỉnh, nên cố nén giận, trầm giọng: “Nói!”

Hàng mi dài tựa cánh quạ của Thôi Tuần rũ xuống. Đột nhiên, hắn nghiêm cẩn dập đầu một cái, rồi ngẩng lên, trong đôi mắt tĩnh mịch tựa đáy vực bỗng lóe lên một tia mong đợi rất khẽ. Hắn nói: “Vừa rồi Thái hậu hỏi thần vì sao đoạt xá lợi Phật đỉnh, nguyên nhân sâu xa của chuyện này, thần không thể nói rõ, chỉ có thể bẩm báo Thái hậu rằng, tất cả đều vì một người mà ra.”

Thái hậu cau mày: “Là ai?”

“Huệ phi.”

“Huệ phi?” Thái hậu sững sờ.

Thôi Tuần gật đầu: “Huệ phi rời cung, ngoài mặt là vào đạo quán tu hành, nhưng thực chất là ngấm ngầm bày mưu tính kế. Bảy ngày trước, thần không may rơi vào tay Huệ phi, suýt nữa đã chết dưới tay nàng ta.”

Huệ phi? Bị Huệ phi bắt giữ? Suýt nữa mất mạng vì nàng ta?

Bấy lâu nay, Huệ phi vẫn luôn bị tai mắt của Thái hậu giám sát chặt chẽ. Nhưng sau khi bị Long Hưng Đế trục xuất khỏi cung, Thái hậu vì muốn hòa hoãn quan hệ với Long Hưng Đế, cũng như lo ngại Long Hưng Đế sẽ không vui lòng nếu phát hiện bà vẫn còn theo dõi Huệ phi, do đó đã thu lại tai mắt. Bà cho rằng Huệ phi chỉ là một nữ tử người Hồ đơn độc, thân cô thế cô, dù có ở lại Trường An cũng chẳng thể làm nên sóng gió gì. Nào ngờ, bà đã quá xem nhẹ nữ nhân này rồi.

Trong lòng Thái hậu dâng lên một tia hối hận mơ hồ, hối hận vì đã thả lỏng đề phòng đối với Huệ phi. Bà nhíu mày, hỏi Thôi Tuần: “Huệ phi bắt giữ ngươi để làm gì?”

Thôi Tuần gằn từng chữ: “Bởi vì Huệ phi không muốn thần còn sống mà quay lại Trường An.”

Hắn dừng lại một chút, rồi nói tiếp: “Còn lý do vì sao Huệ phi không muốn thần sống sót trở về Trường An, nguyên nhân sâu xa có liên quan đến vụ án Thiên Uy quân.”

Hắn vừa nhắc đến Thiên Uy quân, Thái hậu liền sững người. Thôi Tuần tiếp tục nói: “Có người e sợ thần, sợ rằng thần sẽ tra ra chân tướng ẩn giấu sau vụ án Thiên Uy quân, nên đã sai Huệ phi giam cầm thần, toan khiến thần vĩnh viễn không thể mở miệng…”

Hắn chưa kịp nói hết câu, Thái hậu bỗng nghiến răng quát lớn: “Câm miệng!”

Bà hiểu rõ người mà Thôi Tuần ám chỉ là ai. Nhưng Thôi Tuần lại chẳng hề có ý định im lặng, trái lại còn ngang nhiên đối chọi: “Vì sao Thái hậu không để thần nói tiếp? Chẳng lẽ Thái hậu không muốn biết ai đã sai khiến Huệ phi bắt giữ thần? Là ai không muốn thần điều tra chân tướng vụ án Thiên Uy quân? Hay là… trong lòng Thái hậu đã sớm có đáp án?”

Thái hậu giận dữ quát lớn: “Câm miệng! Ngô bảo ngươi câm miệng!”

Thôi Tuần vẫn tiếp tục: “Thái hậu không muốn nói ra đáp án này, vậy thần xin thay Thái hậu nói rõ! Trong Đại Chu này, ai có thể sai khiến được Huệ phi? Ai không muốn thần được sống? Ai là kẻ sợ hãi nhất khi thần điều tra chân tướng vụ án Thiên Uy quân? Ai đến nay vẫn tiêu dao ngoài vòng pháp luật, bình an vô sự?”

Hắn nghiến răng, từng chữ như đâm vào tâm khảm: “Chính là nhi tử của Thái hậu, đương kim Thánh nhân!”

Thái hậu phẫn nộ đến mức bật dậy, vung tay vén màn châu, gương mặt giận dữ hiện rõ trước mặt Thôi Tuần: “Thôi Tuần! Ngươi thật to gan!”

Hắn dần bình tĩnh lại: “Hôm nay thần bước vào điện Bồng Lai, vốn không nghĩ sẽ còn mạng để rời đi.”

Thái hậu nhìn gương mặt gầy guộc tái nhợt của hắn, tay siết chặt túi hương bằng vàng chạm rỗng khắc hoa, móng tay cắm sâu vào lòng bàn tay. Ngực bà phập phồng vài lượt, cố nén cơn giận, chậm rãi nói: “Thôi Tuần, chỉ dựa vào mấy câu nói của nữ nhân Hồ tộc mà ngươi sinh lòng nghi kỵ với Thánh nhân? Nếu ả cố tình ly gián thì sao? Vụ án Thiên Uy quân đã khép lại từ lâu, mọi chuyện cũng đã qua, ngươi đừng gợi thêm phong ba nào nữa. Những lời hôm nay, ngô sẽ coi như chưa từng nghe thấy.”

Thôi Tuần ngước lên: “Nếu thần không chỉ dựa vào lời nói của một nữ nhân Hồ tộc thì sao? Nếu thần có chứng cứ xác thực, Thái hậu có bằng lòng tái thẩm vụ án Thiên Uy quân không?”

Thái hậu sững sờ.

Thôi Tuần nhìn thẳng vào gương mặt ấy, dung mạo có vài phần tương tự Lý Doanh. Trong đôi mắt đen sâu thẳm, le lói một tia mong đợi yếu ớt, tựa như chút ánh sáng nhỏ nhoi giữa màn đêm vô tận. Đột nhiên, bà không dám đối diện với hắn, chỉ vội dời mắt, miễn cưỡng đáp: “Ngô đã nói rồi, vụ án Thiên Uy quân đã kết thúc.”

Điện Bồng Lai chìm trong tĩnh lặng đến nghẹt thở.

Tia sáng mong manh kia, cuối cùng cũng hoàn toàn lụi tắt.

Đôi mắt Thôi Tuần dần trở nên trầm lặng, lạnh lẽo như tro tàn. Hắn bật cười khẽ, nhưng trong tiếng cười ấy, chỉ toàn là phẫn uất và tuyệt vọng. Không rõ hắn cười chính mình quá ngây thơ, hay cười lòng người bạc bẽo, cười thế gian lạnh lùng.

Trước khi đến đây, hắn đã sớm lường trước kết cục này, nhưng vẫn nuôi một tia hy vọng, mong rằng nữ nhân quyền lực mà hắn từng tôn kính sẽ đứng ra đòi lại công bằng cho năm vạn trung hồn chết oan. Nay hy vọng ấy tan biến, thất vọng tột cùng, hắn lẩm bẩm: “Quả nhiên là vậy.”

Thái hậu quay ngoắt lại, vẻ mặt gần như luống cuống: “Ngươi nói gì?”

Toàn thân Thôi Tuần bị gông cùm đè xuống, quỳ trên nền gỗ mun, nhưng sống lưng vẫn thẳng tắp như thân trúc. Hắn nhếch môi cười nhạt, giọng điệu đầy sự chế giễu: “Thần nói, Thái hậu quả nhiên là mẫu tử tình thâm.”

Thái hậu nghe rõ ý châm biếm trong lời hắn, cơn giận bùng lên: “Ngươi…”

“Thái hậu có một trai một gái, và giờ chỉ còn lại Thánh nhân. Thánh nhân là đứa con duy nhất của Thái hậu, hai mươi ba năm phụng dưỡng bên gối. Một người mẹ như Thái hậu, tất nhiên muốn bảo vệ đứa con duy nhất của mình, vậy nên dù có chứng cứ, người cũng sẽ không đồng ý điều tra lại vụ án Thiên Uy quân.” Thôi Tuần cười nhạt: “Từ xưa đến nay, quân vương nào cũng luôn miệng nói câu “yêu dân như con”, nhưng ai sẽ yêu thương con ruột của người khác như con ruột của mình? Ai sẽ vì con ruột của người khác mà nỡ lòng làm hại con ruột mình? Chẳng lẽ tự xưng một tiếng Thánh nhân, liền xem mình là Thánh nhân thật sao? Trên đời này, làm gì tồn tại Thánh nhân.”

Hắn thốt ra toàn những lời đại nghịch bất đạo, Thái hậu sững sờ, sau khoảnh khắc chấn động chính là cơn giận vô biên. Bà muốn quở trách, nhưng nhất thời lại không biết nên phản bác thế nào. Từng câu từng chữ của Thôi Tuần, lẽ nào không phải là sự thật? Vì bảo vệ con mình mà bà nhắm mắt làm ngơ trước những nghi vấn hắn nêu ra, nhất quyết khép lại vụ án Thiên Uy quân, những gì hắn nói cũng đâu có sai.

Đúng, bà chỉ có một trai một gái, Minh Nguyệt Châu đã chết, Bồ Tát Bảo chính là đứa con duy nhất còn lại của bà. Làm sao bà có thể nhẫn tâm.

Đây là lòng riêng của bà, cũng là lòng riêng của một người mẹ.

Thái hậu cắn chặt răng, cuối cùng mới nói với Thôi Tuần: “Được! Cứ cho là ngươi nói đúng đi. Thánh nhân có dính líu đến chuyện này, nhưng hắn đã mất hết quyền lực, chẳng khác nào con rối. Với một hoàng đế, sự trừng phạt như vậy vẫn chưa đủ hay sao?”

Lời này của bà đã có phần xuống nước, thế nhưng Thôi Tuần vẫn quả quyết đáp: “Không đủ!”

Thái hậu kinh ngạc, giây lát sau, bà giận dữ quát: “Vậy ngươi muốn thế nào?”

“Mất đi quyền lực vẫn chưa đủ! Phải lấy mạng đền mạng, lấy máu trả máu, vậy mới đủ!”

Trong điện Bồng Lai, bầu không khí lặng ngắt như tờ.

Sau một thoáng tĩnh mịch, Thái hậu cuối cùng cũng mở lời, giọng trầm hẳn: “Ngươi muốn Bồ Tát Bảo chết? Nằm mơ!”

Bà lạnh lùng nói: “Chỉ cần ngô còn sống một ngày, ai cũng đừng mong làm hại con ngô!”



Thôi Tuần lại bị áp giải về ngục Đại Lý Tự. Chuyện tra xét lại vụ án Thiên Uy quân còn chưa bắt đầu đã tuyên bố kết thúc. Kết cục này, hắn chẳng hề ngạc nhiên.

Thái hậu dù sát phạt quyết đoán, là một thế hệ minh chủ, nhưng bà cũng là một người mẹ, hơn thế nữa, còn là một người mẹ đã từng mất con. Mười tháng hoài thai, máu thịt nuôi dưỡng, rồi một sớm một chiều phải chịu cảnh sinh ly tử biệt. Chỉ những ai từng làm mẹ mới hiểu được nỗi đau ấy. Đứa con còn lại, dù có phải dốc hết toàn lực bà cũng nhất quyết bảo vệ.

Chỉ là, Thái hậu không lập tức giết hắn, điều này lại khiến hắn có đôi chút bất ngờ.

Hắn vẫn còn nhớ, khi hắn nói ra tám chữ “lấy mạng đền mạng, lấy máu trả máu”, Thái hậu giận dữ đến mức nào. Cơn thịnh nộ như sấm sét giáng xuống, bà lạnh lùng tuyên bố rằng chỉ cần bà còn sống một ngày, ai cũng đừng mong làm hại con bà. Thế nhưng hắn lại nói: “Chỉ cần thần còn sống một ngày, nhất định phải bắt hung thủ đền mạng!”

Cơn giận của Thái hậu bùng lên dữ dội, bà lập tức triệu gọi Thiên Ngưu Vệ, ra lệnh đánh hắn chết ngay tại chỗ. Roi gậy giáng xuống, một nhát quật mạnh vào lưng, một nhát giáng nặng lên chân, từng đòn trút xuống liên tiếp. Nhưng đúng lúc đó, Thái hậu đột nhiên quát ngừng.

Bà nhìn hắn nằm rạp trên nền gỗ mun, mồ hôi lạnh túa ra vì đau đớn, bàn tay nắm chặt túi hương chạm khắc hoa điểu bằng vàng ròng. Cắn chặt răng, bà nói: “Ngô thực sự muốn giết ngươi, nhưng… ngô đã hứa… Ngô không thể giết ngươi! Nếu ngươi còn ngoan cố, vậy thì, sẽ chẳng ai cứu được ngươi nữa đâu!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 146: Con đường gió tuyết một đi không trở lại


Địa phủ, Huyết Bồn Khổ Giới.

Lý Doanh nắm chặt sợi dây trên cây cầu gỗ, quyết không buông tay.

Ngư Phù Nguy đưa tay gỡ từng ngón tay nàng ra. Nàng rơi lệ cầu xin: “Ngư Phù Nguy, thả ta về đi, ta cầu xin ngươi, xin ngươi…”

Ngư Phù Nguy cắn răng, lạnh giọng đáp: “Không được! Mỗ đã hứa với Thôi Tuần, nhất định phải đưa cô đến Vong Tử Thành.”

“Ta không vào Vong Tử Thành, ta không đi… Ta phải quay về cứu Thôi Tuần, cầu xin ngươi, thả ta về cứu chàng…”

Nàng khẩn khoản van nài, lòng Ngư Phù Nguy nào có dễ chịu? Nhưng Thôi Tuần đã quyết liều chết, sao hắn có thể để Lý Doanh chịu chết chung với y?

Ngư Phù Nguy lắc đầu: “Không được, Thôi Tuần đã không còn đường sống nữa rồi. Công chúa, hãy đến Vong Tử Thành đi. Mười năm, hai mươi năm, chờ tới khi cô rời khỏi đó, uống xong bát canh Mạnh Bà, đầu thai chuyển thế, cô sẽ quên hắn thôi. Khi ấy, cô sẽ có một tình lang khác, bắt đầu một kiếp nhân sinh mới.”

“Ta không cần! Ta không cần tình lang khác, ta chỉ muốn Thập Thất lang…”

Thân thể bị phản phệ của nàng vẫn chưa hồi phục, trên người chẳng còn chút khí lực, nhưng hai tay vẫn gắt gao níu lấy dây cầu, không chịu buông. Nàng vẫn tha thiết cầu xin Ngư Phù Nguy: “Thả ta về đi, Ngư Phù Nguy, ta cầu xin ngươi…”

Nàng đang khẩn cầu, phía trước, câu hồn sứ giả đã có phần sốt ruột: “Ngư lang quân, mau dẫn tiểu nương tử này đi đi, đừng kinh động đến các quỷ sai khác!”

Ngư Phù Nguy nghiến răng, không đáp nữa, chỉ lạnh lùng gỡ từng ngón tay của Lý Doanh ra. Nàng yếu hơn hắn, chỉ có thể tuyệt vọng nhìn từng ngón tay bị tách ra, sau đó bị Ngư Phù Nguy ôm lấy, sải những bước nhanh về phía Vong Tử Thành.

Lý Doanh đã không còn chút sức lực để giãy giụa, nàng trông thấy tòa thành mỗi lúc một gần hơn, giữa màn sương đen dày đặc, lòng nàng chìm xuống vực sâu vô vọng: “Ngư Phù Nguy, ta hận ngươi cả đời.”

Bước chân Ngư Phù Nguy thoáng khựng lại, nhưng rồi hắn càng bước nhanh hơn: “Mỗ thà để công chúa hận cả đời, còn hơn trơ mắt nhìn công chúa hồn phi phách tán thêm lần nữa!”



Khi Lý Doanh bị nhốt vào Huyết Bồn Khổ Giới, phán quyết dành cho Thôi Tuần cũng đã được đưa ra.

Trong lao ngục của Đại Lý Tự, một y sư tóc bạc đang thay thuốc cho Thôi Tuần lần cuối. Lão nhìn vết bầm tím mới chồng chất trên thắt lưng hắn, thở dài. Thuốc vừa đắp lên, đau đớn tựa kim châm, nhưng Thôi Tuần chỉ nằm úp trên sập đá, đôi mày nhíu chặt, không rên một tiếng.

Y sư đã quen với sự trầm mặc của hắn. Đợi thay thuốc xong, thu dọn hòm dược, lão vẫn không nhịn được mà để lại một lọ thuốc mỡ bằng sứ trắng. Thanh niên này tuổi tác cũng xấp xỉ cháu trai lão, dù xuất thân từ Bác Lăng Thôi thị, nhưng những vết thương chằng chịt trên người hắn lại khiến một dân thường như lão cũng không đành lòng nhìn thẳng.

Y sư mở miệng: “Thôi Thiếu khanh, nghe nói ngài bị lưu đày đến Thích Tây, đường xa gian khổ, lọ thuốc mỡ này, ngài hãy giữ lại đi.”

Lưu đày Thích Tây? Hàng mi Thôi Tuần bỗng rung động.

Hắn phạm tội đại nghịch bất đạo nhưng Thái hậu không giết hắn, chỉ giáng tội lưu đày?

Y sư vẫn thao thao bất tuyệt: “Không ít đại thần dâng sớ xin xử tử Thiếu khanh, nhưng đều bị Thái hậu áp xuống, đổi thành lưu đày. Thôi Thiếu khanh, lần này ngài đại nạn không chết thì nên biết quý trọng tính mạng, đừng tiếp tục tự hủy hoại thân thể mình nữa nhé.”

Lão nói rất nhiều, khuyên hắn nên trân trọng mạng sống khó khăn lắm mới giữ được này, nhưng Thôi Tuần chỉ giữ thần sắc hoảng hốt, lặng lẽ không đáp.

Y sư vừa rời đi, Lư Hoài liền nốt gót, nhưng cũng chỉ lặp lại những lời khuyên như giữ gìn tính mạng, nhân tiện dò hỏi tung tích của Vương Huyên. Thôi Tuần vẫn không hé môi, Lư Hoài đành tức giận bỏ đi.

Từ đó, Thôi Tuần chỉ im lặng chờ ngày lưu đày. Trong thời gian ấy, Thôi Tụng Thanh, phụ thân hắn và cả A Man đều muốn gặp mặt, nhưng hắn kiên quyết từ chối. Vậy mà, khi có một người muốn vào thăm, hắn lại đồng ý.

Người đó chính là lão bộc câm.



Hắn ngồi tựa lưng vào vách đá thô ráp, bình thản nhìn lão bộc câm mắt đỏ hoe đang đứng ngoài song sắt. Hắn nói: “Những năm qua, đa tạ ngươi đã chăm sóc ta.”

Lão bộc câm quỳ sụp xuống đất, không ngừng lắc đầu, khuôn mặt già nua giàn giụa nước mắt. Thôi Tuần nói tiếp: “E rằng ta không vượt qua được ải này. Nhân lúc Thái hậu còn chưa tịch thu gia sản của ta, ngươi hãy tìm người bán đi căn nhà ấy. Số bạc thu được, đủ để ngươi về quê dưỡng già.”

Lão bộc câm nghẹn ngào, như muốn nói gì đó, nhưng ông là một người câm, không nói nên lời, chỉ có thể cuống cuồng ra hiệu. Thôi Tuần lặng nhìn đôi tay múa may ấy, nhếch môi cười nhạt: “Sau khi lưu đày sẽ được về ư? Không, ta không về được nữa.”

Lão bộc câm nghe vậy, siết chặt song sắt nhà lao, lệ rơi không thành tiếng. Ngược lại, sắc mặt Thôi Tuần cực kỳ bình tĩnh: “Khóc gì chứ? Ngược lại, ta còn cảm thấy nhẹ nhõm.”

Hắn nói: “Cuối cùng, còn phải làm phiền ngươi giúp ta một chuyện.”



Chuyện mà Thôi Tuần nhờ lão bộc câm chính là đến chùa Tây Minh, xem thử Vương Huyên có để lại thứ gì không.

Ngày đó, Vương Huyên bị A Sử Na Ngột Đoá bắt giữ tại địa lao của Trường Xuân Quán, chịu cực hình suốt chín ngày trời mà vẫn không hé môi nửa lời. Khi được Thôi Tuần cứu ra, y cố gắng níu giữ hơi thở cuối cùng, run rẩy viết lên lòng bàn tay hắn bốn chữ “Đế sát lục châu” cùng ba chữ “Tây Minh Tự”, sau đó trút hơi thở cuối cùng.

Chính nhờ dòng chữ “Đế sát lục châu” đó, Thôi Tuần càng thêm chắc chắn rằng Long Hưng Đế có liên quan đến vụ án Thiên Uy quân. Còn việc Vương Huyền nhắc đến Tây Minh trước khi chết, liệu có phải bằng chứng mà y phát hiện hiện được đang ở đó không?

Hắn sai lão bộc câm đi điều tra. Rất nhanh sau đó, người kia mang về một vật được Vương Huyên ký thác cho chùa Tây Minh.

Đó là một trang được xé ra từ Khởi cư chú.

Thôi Tuần nhìn chằm chằm vào trang Khởi cư chú ấy, những nghi hoặc trong lòng hắn rốt cuộc cũng có lời giải.

Trong mắt hắn thoáng qua nét cười thê lương, khẽ lẩm bẩm: “Thì ra là vậy… thì ra là vậy…”



Long Hưng năm thứ hai mươi, ngày mùng một tháng Mười, giữa tiết cuối thu.

Trên núi Chung Nam, rừng phong nhuộm sắc, thung lũng Thúy Hoa rợp bóng cam vàng, thiền viện Quan Âm, ngân hạnh xanh um. Trên đại lộ Chu Tước, Hồ thương rộn ràng tấp nập, khung cảnh phồn hoa thịnh thế.

Tại tửu quán Trường An, thực khách túm năm tụm ba, chuyện trò rôm rả. Người bàn tán chuyện Đông gia cưới vợ, Tây gia gả con, chuyện Quan Trung được mùa, giá gạo rẻ bèo. Kẻ lại nói về thời cuộc xoay vần, phúc họa khó lường: Như Lư Dụ Dân thanh liêm chính trực nay lại thân bại danh liệt, Bùi Quan Nhạc quyền biến linh hoạt giờ lại thảm bại tan tác. Đến cả Thôi Vọng Thư từng quyền khuynh triều dã, chỉ sau một đêm liền mất đi ân sủng, bị đày đến vùng đất cằn cỗi là Thích Tây, e rằng cả đời cũng chẳng thể quay về Trường An được nữa.

Đám thực khách cảm thán một hồi, rồi lại luận bàn: quả nhiên thiện giả thiện báo, ác giả ác báo. Lư Dụ Dân giả nhân giả nghĩa, bày mưu hãm hại trung lương, kết cục hôm nay coi như đáng đời. Còn Thôi Tuần, hắn đầu hàng Đột Quyết, tội trạng khó dung, bị lưu đày đến tận Thích Tây, cũng là quả báo phải gánh lấy.

Tiếng bàn tán râm ran trong quán rượu, bỗng bị lấn át bởi âm điệu réo rắt của Hồ cầm. Một vũ cơ người Hồ dung mạo mỹ miều, đội khăn che mặt, uyển chuyển nhảy múa. Tiếng vỗ tay, reo hò rộ lên trong tửu quán, cảnh sắc náo nhiệt tưng bừng, khói lửa nhân gian rực rỡ như pháo hoa.



Đối lập với cảnh tượng ấy, trước đại lao Đại Lý Tự chỉ có một màu tiêu điều, hiu quạnh.

Thôi Tuần khoác trên mình lớp áo tù bạc phếch, tay chân đều bị gông xiềng nặng trịch, quãng đường từ trong ngục ra cổng Đại Lý Tự chỉ vỏn vẹn mấy bước, vậy mà những gông cùm xích sắt đã cắt vào cổ tay, cổ chân hắn, rỉ ra vệt máu đỏ thẫm.

Nhưng lúc này đây, đã chẳng còn bóng dáng người thiếu nữ vội vã xé mảnh lụa mềm, cẩn thận quấn quanh vết thương cho hắn nữa.

Lư Hoài mím môi, gương mặt tuấn tú thấp thoáng vẻ thương xót, hắn thở dài một hơi, nói: “Đi thôi.”

Từ đây đến Thích Tây, non cao nước xa, hắn chỉ có thể dặn dò sai dịch lưu tâm chăm sóc, còn lại, dù muốn cũng chẳng thể làm gì hơn.

Chỉ tiếc rằng, những nghi hoặc trong lòng hắn, e rằng cả đời cũng không có lời giải.

Ngay khi Lư Hoài phất tay, hiệu cho sai dịch áp giải Thôi Tuần lên đường, Thịnh A Man siết chặt một chiếc túi gấm, cắn môi, xuất hiện trước ngục thất Đại Lý Tự.

Nàng dè dặt ngước nhìn Lư Hoài, ánh mắt tràn đầy van nài. Lư Hoài im lặng hồi lâu, rồi xoay người sang hướng khác, xem như ngầm đồng ý. Thịnh A Man cúi đầu, bước đến trước mặt Thôi Tuần, cổ họng nghẹn ứ, muốn nói lại thôi, chỉ đưa mỗi túi gấm ra: “Đây là số bạc ta tích cóp được mấy ngày qua, ta đưa cả cho huynh, trên đường đi cũng đỡ khổ sở hơn.”

Thôi Tuần không nhận.

Thịnh A Man cười khổ: “A huynh ta được giải oan, tất cả đều nhờ có huynh. Huynh là đại ân nhân của ta, cứ để ta báo đáp một chút đi.”

Thôi Tuần vẫn chẳng đưa tay, chỉ lặng lẽ quan sát nàng.

Thịnh A Man cùng các tỷ muội ở giáo phường hùn vốn, mở một cửa tiệm nhỏ, làm ăn khấm khá, khí sắc nàng cũng tốt hơn trước rất nhiều. Hắn chậm rãi hỏi: “Gần đây cô sống tốt chứ? Còn Hà Thập Tam và những người khác, bọn họ thế nào?”

Thịnh A Man sững sờ, rồi đáp: “Mọi người đều rất ổn.”

Nói xong câu đó, nàng liền im lặng, bởi lẽ tất cả mọi người đều ổn, chỉ có Thôi Tuần là không.

Nàng thực sự không hiểu, vì cớ gì một người vốn có thể ung dung hưởng vinh hoa phú quý như hắn, lại phải liều mình tranh đoạt xá lợi Phật đỉnh, để rồi tự đẩy bản thân rơi vào kết cục này? Khi nàng nói ra thắc mắc ấy, hắn không trả lời mà chỉ hỏi ngược lại: “Mọi người có hài lòng với cuộc sống hiện giờ không?”

Hắn cứ hỏi mãi về việc bọn họ có ổn hay không, có hài lòng không.

Thịnh A Man không hiểu lắm, nhưng vẫn nghiêm túc suy nghĩ trước khi đáp: “Hiện giờ ta đã có cửa tiệm, không lo cơm áo, hơn nữa nhờ có a huynh, ta được mọi người kính trọng, trong thành Trường An không còn ai dám bắt nạt ta nữa, thế nên ta rất vừa lòng. Không chỉ ta, mà Hà Thập Tam cùng các gia quyến khác, ai nấy đều rất hài lòng.”

Thôi Tuần nghe vậy, đáy mắt bỗng ánh lên một tia cay đắng. Hắn gật đầu: “Có phải mọi người đều rất cảm kích với cách xử lý của vụ án Thiên Uy quân?”

Thịnh A Man không chút do dự, đáp ngay: “Ừm, chúng ta đều rất cảm kích Thái hậu và Thánh nhân. Nếu không nhờ hai người phân rõ thị phi, thì Lư Dụ Dân cùng đồng đảng sao có thể bị trừng trị nhanh như vậy, mà a huynh cũng không thể được minh oan sớm thế này.”

Nói đến đây, nàng ngừng lại, ánh mắt dừng trên cặp gông cùm trói buộc cổ tay Thôi Tuần, rồi cuối cùng, nàng không nhịn được mà hỏi: “Vọng Thư a huynh, vậy còn huynh thì sao? Vì sao huynh… lại ra nông nỗi này?”

Nghe câu ấy, ngay cả Lư Hoài cũng không khỏi quay đầu nhìn về phía Thôi Tuần, nhưng hắn chỉ thất thần, thì thào một câu: “Ta… dù sao cũng luôn là kẻ không hợp thời.”

Thịnh A Man nghe không hiểu, nhưng lòng lại trào dâng một nỗi buồn vô cớ. Nàng cắn môi, nhẹ giọng nói: “Vọng Thư a huynh, giữ được mạng đã là may mắn trong bất hạnh rồi. Sau này, huynh hãy sửa đổi đi, mạng người, chỉ có một mà thôi.”

Hàng mi đen như cánh quạ của Thôi Tuần cụp xuống, hắn cười khổ: “A Man, cô không cần đến tiễn ta. Trước kia cả cô và Hà Thập Tam đều rất hận ta, ta hy vọng về sau, các người vẫn sẽ hận ta.”

Thịnh A Man không hiểu, liền hỏi: “Vì sao?”

Đôi mắt Thôi Tuần phủ một tầng sương mờ, khiến người ta khó lòng nhìn thấu tâm tư hắn. Hắn im lặng chốc lát, rồi cất giọng trầm thấp: “Bởi vì lòng ta không thể vượt qua được, cho nên, dù các người có hận ta đi chăng nữa, có một chuyện, ta vẫn nhất định phải làm.”

Hắn xoay người, nhìn về phía Lư Hoài: “Hoài Tín huynh.”

Lời vừa dứt, Lư Hoài liền sững sờ.

Thôi Tuần chắp tay, nghiêm cẩn hành lễ với Lư Hoài: “Những ngày qua, đa tạ Hoài Tín huynh chiếu cố, ân tình này, Thôi Tuần khắc ghi trong lòng.”

Lư Hoài trợn mắt há mồm: “Ta… Này…”

Thôi Tuần đứng thẳng dậy, nói: “Hoài Tín huynh vẫn luôn hỏi ta về tung tích của Vương Huyên, ta chưa từng trả lời. Nhưng hôm nay, ta nguyện nói cho huynh biết, chỉ là, ta cần huynh giúp ta một việc.”

“Việc gì?”

“Ta cần Hoài Tín huynh đưa ta đến cung Đại Minh.”



Ngoài cổng Huyền Vũ, trước phế thạch màu đỏ thẫm, chiếc trống Đăng Văn to lớn vẫn đứng đó sừng sững.

Gió lạnh từng cơn quét qua, vốn là tiết thu trời cao khí sảng, nhưng mặt trời trên cao lại bị mây đen che phủ. Đột nhiên, một tiếng sấm nổ vang, người đi đường ngước lên nhìn tầng mây dày đặc, thấp giọng nói: “Sắp mưa rồi.”

Thế nhưng, không có cơn mưa nào rơi xuống, ngược lại, trên bầu trời, tuyết bắt đầu rơi lả tả.

Lúc đầu, tuyết rơi rất nhỏ, chỉ là vài hạt bông li ti, vừa chạm đất liền tan, tựa hồ chẳng thể cảm nhận sự tồn tại của chúng. Nhưng dần dà, tuyết mỗi lúc một dày, từng bông trắng muốt như lông ngỗng, lặng lẽ rơi xuống đất.

Giữa màn tuyết lớn, một người thân đeo xiềng xích, lê đôi chân thương tích, từng bước khập khiễng tiến về phiến đá đỏ.

Xung quanh dần có người vây lại, bàn tán xôn xao: “Người đó là ai?”

“Chẳng phải là Thôi Tuần sao?”

“Chẳng phải hắn đã bị lưu đày đến Thích Tây rồi sao? Sao lại có mặt ở đây?”

“Chẳng lẽ hắn còn muốn cầu kiến Thái hậu, cầu xin ân điển?”

“Thái hậu sẽ không bị hắn mê hoặc nữa đâu.”

Giữa những tiếng xì xầm to nhỏ, Thôi Tuần chỉ chậm rãi lê từng bước, kéo theo đôi chân thương tích vì bị gậy gộc đánh đập. Tiếng xiềng xích quét mạnh trên nền đất khô khốc, mỗi bước đi đều khó nhọc, nhưng hắn vẫn kiên định, tiến từng bước đến trước tảng phế thạch đỏ, chật vật trèo lên, cầm chặt dùi trống, rồi dốc toàn bộ sức lực, từng nhịp, từng nhịp nện xuống chiếc trống Đăng Văn.

Thịnh A Man đứng phía sau hắn, ngây người.

Lư Hoài cũng theo đó, chết lặng.

Vừa rồi, Thôi Tuần nói với hắn, Vương Huyên đã chết, thi thể được chôn trong rừng hoang bên ngoài Trường Xuân Quán. Lư Hoài vừa bi thương, vừa phẫn nộ, vốn định lập tức lao đến đó, nhưng bước chân lại chần chừ dừng lại.

Hắn kinh ngạc nhìn bóng người vận áo tù, mang xiềng xích, kiên quyết gõ vang trống Đăng Văn. Thôi Tuần, rốt cuộc muốn làm gì?

Tả hữu Giám Môn Vệ cũng vội vàng chạy đến, khi nhìn thấy Thôi Tuần, họ thoáng kinh hãi, rồi quát lớn: “Thôi Tuần, vì sao ngươi gõ trống Đăng Văn?”

Thôi Tuần chậm rãi buông dùi trống, gương mặt tuấn mỹ như đóa sen trong gió tuyết, lúc này lại tĩnh lặng đến lạ thường. Giữa không trung đầy mưa tuyết, hắn nói rõ từng chữ: “Ta muốn cáo trạng.”

Tả hữu Giám Môn Vệ liếc mắt nhìn nhau: “Ngươi muốn cáo ai?”

“Một, cáo Thánh nhân câu kết với Đột Quyết, hãm hại trung lương, bán rẻ bách tính! Hai, cáo Thái hậu dung túng con ruột, che giấu nghịch tặc, vấy bẩn quốc pháp, thiên vị tư tình!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 147: Ta, Thôi Tuần, chưa từng đầu hàng Đột Quyết


Bên ngoài cung Đại Minh, quần thần hoặc cưỡi ngựa, hoặc ngồi xe, gấp rút tiến về điện Tử Thần.

Việc Thôi Tuần gõ trống Đăng Văn, tố cáo Thái hậu cùng Thánh nhân đã truyền khắp các hang cùng ngõ hẻm ở Đại Chu. Ai nấy đều chỉ có chung một ý nghĩ:

Thôi Tuần điên rồi.

Từ khi Đại Chu khai quốc đến nay đã hơn một trăm năm, chưa từng có ai dám ngang nhiên cáo trạng hoàng đế. Ngay cả tiền triều kéo dài hai trăm năm, hay những triều đại trước đó, cũng chưa từng có kẻ nào dám làm điều nghịch thiên như vậy.

Hành vi này quả thực nghịch loạn càn khôn, báng bổ luân lý, trời đất khó dung!

Chúng thần ào ào kéo đến điện Tử Thần, chỉ mong được tận mắt chứng kiến rồi mắng chửi tên nghịch thần tặc tử, bất trung bất hiếu ấy.

Trên đại điện, văn võ bá quan tề tựu đông đủ, Long Hưng Đế ngồi ngay ngắn trên ngự tọa, Thái hậu ẩn phía sau bức rèm châu. Giờ phút này, sắc mặt cặp mẫu tử chí tôn của Đại Chu đều khó coi đến cực điểm.

Long Hưng Đế nghiến răng nghiến lợi nhìn Thôi Tuần đang quỳ dưới điện, gương mặt thanh tú vặn vẹo vì căm phẫn. Hắn hận không thể lập tức sai người lôi Thôi Tuần xuống lăng trì xử tử, nhưng hắn không thể làm vậy. Giờ đây, cả thành Trường An đều xôn xao bàn tán, hắn buộc phải ép Thôi Tuần nhận tội vu khống ngay khi Thôi Tuần còn sống.

Hắn giận dữ quát: “Thôi Tuần, rốt cuộc ngươi có ý đồ gì mà dám bôi nhọ trẫm và Thái hậu như thế?”

Thôi Tuần ngẩng đầu, nhìn đế vương Đại Chu cao cao tại thượng. Trên điện Tử Thần, chúng thần ăn vận chỉnh tề, mão cao đai rộng, chỉ riêng hắn mặc áo tù rách nát, mái tóc tán loạn, tay chân bị xiềng xích, chật vật vô cùng. Nhưng dù cảnh ngộ có thảm hại đến thế nào, hắn vẫn ngồi thẳng lưng, như trúc xanh đắm mình trong gió bão. Dù bị cuồng phong vùi dập đến xiêu vẹo, chỉ cần còn một cơ hội, hắn vẫn sẽ gượng dậy, không khuất phục, không lùi bước.

Đối diện với cơn thịnh nộ của đế vương, trong mắt Thôi Tuần không hề có lấy một tia sợ hãi. Hắn trầm giọng nói: “Nếu Thánh nhân cảm thấy thần đang vu cáo, vậy liệu người có dám đối chất từng điều một với thần ngay tại điện Tử Thần này không?”

Long Hưng Đế sửng sốt, giận dữ tột cùng, quần thần cũng tức tối không kém. Một vị đại thần lớn tiếng chỉ trích: “Thôi Tuần, ngươi là thứ gì mà dám đòi Thánh nhân đối chất với ngươi?”

Thôi Tuần cười nhạt: “Ta chẳng là gì cả, cũng không có tư cách để khiến Thánh nhân phải đối chất với ta. Nhưng không biết, năm vạn Thiên Uy quân vùi thây ở Lạc Nhạn Lĩnh, bách tính sáu châu vùng vẫy dưới vó ngựa Đột Quyết, liệu có đủ tư cách để đối chất với Thánh nhân không?”

Vị đại thần kia sững sờ, ấp úng nói: “Từ xưa đến nay… từ xưa đến nay… chưa từng có tiền lệ bắt quân phụ phải đối chất…”

Thôi Tuần nghiêng đầu nhìn hắn, ánh mắt lạnh lùng khiến đối phương chột dạ. Chợt hắn bật cười: “Phùng thị lang, ông có nghe thấy không? Có người đang khóc.”

Phùng thị lang thảng thốt, đảo mắt nhìn quanh: “Đâu… Đâu có ai khóc? Thôi Tuần, đừng có nói nhảm hù dọa người khác!”

“Ông thật sự không nghe thấy sao?” Thôi Tuần thản nhiên nói: “Phùng thị lang, ông thật sự không nghe thấy tiếng khóc sao? Ông không nghe thấy tiếng khóc ai oán của năm vạn anh linh đã một lòng tận trung báo quốc, cuối cùng lại bị vu hãm? Ông không nghe thấy tiếng gào thét bi thương của bách tính sáu châu chăm chỉ làm lụng, một lòng kính ngưỡng quân phụ, cuối cùng lại bị bán rẻ? Tiếng khóc ấy chấn động cả trời đất, vang vọng khắp điện Tử Thần!”

Phùng thị lang trợn mắt, trán lấm tấm mồ hôi, miệng mấp máy nhưng chẳng thốt nổi một lời.

Thôi Tuần quét mắt nhìn khắp quần thần, nói tiếp: “Xin hỏi chư vị, xương trắng của năm vạn Thiên Uy quân, huyết lệ của bách tính sáu châu, liệu có đủ tư cách để mời quân phụ ra đối chất hay không?”

Quần thần nghiến răng im lặng, không ai dám nói có, cũng không ai dám nói không. Trong bầu không khí tĩnh lặng đến ngột ngạt, Long Hưng Đế bỗng cười lạnh: “Giỏi lắm, Thôi Tuần! Ngươi lấy tướng sĩ và bách tính ra ép trẫm? Nếu trẫm không đối chất với ngươi, chẳng phải sẽ bị mang tiếng là hạng dối trá, lừa gạt bách tính hay sao? Trẫm sẽ không để ngươi được như ý, trẫm sẽ đối chất với ngươi!”

Lời này vừa thốt ra, mấy vị lão thần đã nước mắt lưng tròng, quỳ rạp xuống đất, khẩn thiết cầu xin: “Thánh nhân, không thể!”

Long Hưng Đế phất tay, ánh mắt giận dữ quét về phía Thôi Tuần: “Thanh giả tự thanh, trẫm việc gì phải sợ? Ngươi muốn hỏi gì, cứ hỏi đi!”

Sau rèm châu, Thái hậu nắm chặt tà áo xanh đậm, sắc mặt ngày càng căng thẳng, nhưng vì tấm rèm ngăn trở nên không ai nhìn rõ thần sắc của bà.

Thôi Tuần cất giọng trầm ổn, từng lời từng chữ đều vang dội: “Xin hỏi Thánh nhân, năm Long Hưng thứ mười bốn, Đột Quyết xâm phạm Phong Châu, sáu châu báo nguy. Chủ soái Thiên Uy quân Quách Cần Uy nhận thư cầu viện của Thứ sử Phong Châu Bùi Quan Nhạc, liền suất lĩnh năm vạn Thiên Uy quân lên đường tiếp viện. Khi đến Phong Châu, Quách Cần Uy vốn muốn cố thủ không xuất quân, nhưng lại nhận được một đạo sắc lệnh ép buộc phải xuất binh. Không còn cách nào khác, Quách Cần Uy đành bàn bạc với Bùi Quan Nhạc, quyết định dẫn Thiên Uy quân vòng ra sau lưng quân địch. Nào ngờ đại quân vừa đến Lạc Nhạn Lĩnh, lại bị thiết kỵ Đột Quyết mai phục, giao tranh suốt hai mươi ngày, cuối cùng toàn quân bị diệt. Sau khi Thiên Uy quân đại bại, Đột Quyết lập tức phá thành Phong Châu, thẳng tiến vào sáu châu Quan Nội. Xin hỏi Thánh nhân, chuyện này, người có biết chăng?”

Long Hưng Đế nhíu mày, mất kiên nhẫn đáp: “Chuyện này Tam Ty đã thẩm định rõ ràng. Lư Dụ Dân chủ mưu, Bùi Quan Nhạc và Thẩm Khuyết đồng lõa, ba người cấu kết với Đột Quyết, hại chết trung lương, tội nghiệt bất dung! Hành tỷ của trẫm cũng bị Lư Dụ Dân đánh cắp, đóng dấu lên chiếu lệnh giả mạo rồi đưa đến Phong Châu và Đột Quyết. Mọi hành vi của bọn chúng, trẫm hoàn toàn không hay biết.”

“Thánh nhân không biết thật ư?”

“Dĩ nhiên!” Long Hưng Đế cao giọng đáp: “Nếu trẫm biết thì đã gi.ết ch.ết ba kẻ đó ngay lập tức! Chẳng nhẽ lại để bọn chúng vì tư lợi mà phản quốc cầu vinh?”

“Nhưng sau khi ba người đó phản quốc, Thái hậu, người từng trọng dụng Thiên Uy quân, lại trở thành cái gai trong mắt quần thần, buộc phải quy ẩn trong điện Bồng Lai. Còn Thánh nhân nhờ đó mà nắm trọn quyền hành, dựa vào bè phái của Lư Dụ Dân, đối đầu ngang hàng với Thái hậu. Phải biết rằng, trước khi chuyện này xảy ra, đến cả việc bổ nhiệm quan viên, Thánh nhân cũng phải xin ý kiến của Thái hậu. Thế nhưng sau sự kiện ấy, Thánh nhân cuối cùng cũng thoát khỏi sự kìm kẹp của người. Không nghi ngờ gì nữa, kẻ được hưởng lợi nhiều nhất từ vụ án Thiên Uy quân, không phải Lư Dụ Dân, không phải Bùi Quan Nhạc, cũng không phải Thẩm Khuyết, mà chính là Thánh nhân!”

Thôi Tuần vừa dứt lời, sắc mặt quần thần đồng loạt biến đổi. Chẳng phải vì câu “kẻ được lợi nhiều nhất”, mà chính là đoạn phía trước.

Đại Chu lấy đạo hiếu làm gốc, đề cao “mẫu từ tử hiếu”, Thánh nhân và Thái hậu đương nhiên phải làm gương cho thiên hạ. Nhưng ở cung Đại Minh, mối quan hệ tranh quyền đoạt lợi, mưu tính lẫn nhau giữa hai mẫu tử tôn quý bậc nhất ấy, nay lại bị Thôi Tuần vạch trần không chút kiêng dè. Dù ai nấy đều hiểu rõ, nhưng chưa từng có người nào dám nói thẳng trước mặt hai người họ.

Sau rèm châu, Thái hậu giận đến mức siết chặt tay, Long Hưng Đế cũng đỏ bừng mặt. Thái hậu nghiến răng, từng chữ bật ra từ kẽ răng: “Nghịch tử! Hỗn xược!”

Long Hưng Đế cũng phẫn nộ quát lớn: “Thôi Tuần! Ngươi thật là… đại nghịch bất đạo!”

Thôi Tuần cười nhạt: “Nói ra sự thật chính là đại nghịch bất đạo sao? Án Thiên Uy quân đã qua sáu năm, sáu năm qua, chẳng lẽ không phải Thánh nhân vẫn đang tranh đấu gay gắt với Thái hậu đó sao? Nếu không, Lư đảng từ đâu mà có? Thôi đảng từ đâu mà sinh? Vì sao Tân chính Thái Xương lại gặp phải trắc trở đủ đường? Thương nhân không được phép khoa cử, bài thi không được phép che tên? Chẳng lẽ bịt mắt, bưng tai, lớn tiếng ca tụng rằng Thánh nhân và Thái hậu mẫu từ tử hiếu, thì chuyện ấy liền hóa thành sự thật? Thánh nhân có thể móc mắt thần, có thể dùng dược khiến thần điếc tai, nhưng chẳng thể móc mắt thiên hạ, cũng không thể khiến thiên hạ điếc tai!”

Lời lẽ như chém đinh chặt sắt, khiến Thái hậu và Long Hưng Đế nhất thời á khẩu. Bởi lẽ, chuyện “mẫu từ tử hiếu” kia là thật hay ảo, tự họ rõ hơn ai khác.

Long Hưng Đế giận đến phát run, miễn cưỡng lên tiếng: “Tình cảm mẹ con giữa trẫm và Thái hậu, không đến lượt ngươi bình phẩm. Nhưng ngươi nói trẫm là kẻ được lợi lớn nhất từ vụ án Thiên Uy quân là có ý gì? Chẳng lẽ chỉ vì trẫm bị Lư Dụ Dân cùng bọn gian nịnh che mắt, tin lầm kẻ gian, ngươi liền quy cả vụ án lên đầu trẫm? Nực cười!”

Long Hưng Đế cực lực phủ nhận, song Thôi Tuần chẳng vội. Hắn nhàn nhạt hỏi: “Thánh nhân bị che mắt thật sao? Không hề hay biết gì về hành vi của Lư Dụ Dân thật sao?”

“Trẫm đương nhiên không biết!”

Thôi Tuần lấy từ trong tay áo ra một tờ giấy gai trắng được bảo tồn nguyên vẹn, giơ lên cho quần thần nhìn: “Đây là tờ ký lục, xé ra từ quyển Khởi cư chú, được viết vào ngày mùng hai tháng chín năm Long Hưng thứ mười bốn, do Hoàng môn Thị lang Vương Huyên bất chấp nguy hiểm lấy ra từ Sử quán. Trong đó có ghi chép thế này: “Thánh nhân đại hôn, thiên hạ đại xá, miễn giảm thuế má. Bách tính cảm niệm ơn đức của Thánh nhân, dân chúng Thanh Châu tự nguyện lên đỉ.nh Thánh Tuyết Phong, hái tuyết liên mọc bên vách đá, ủ thành một vò rượu tuyết liên, tiến cống chúc mừng đại hôn. Thánh nhân nhận được rượu, long tâm đại duyệt, uống liền ba chén thì hơi say, bèn than rằng: “Rượu ngon cỡ này, đáng tiếc sau này không còn được uống nữa.”

Vẻ mặt Long Hưng Đế dần trở thành kinh hoàng. Thôi Tuần tiếp tục: “Lời nói ngẫu hứng này của Thánh nhân đã được Khởi cư lang ghi lại, nhưng ngài ấy cũng chẳng để tâm. Chuyện này nhỏ nhặt, sau khi tỉnh rượu, Thánh nhân hẳn cũng quên mất. Khởi cư chú của Đại Chu, ngay cả quân vương cũng không thể tùy ý tra xét, huống hồ sách vở chất đầy như núi, một người cẩn trọng như Lư Dụ Dân cũng không để ý đến đoạn ghi chép này, vì vậy, tờ ký lục này vẫn lặng lẽ nằm trong Sử quán. Mãi đến khi Hoàng môn Thị lang Vương Huyên phụng chỉ tu sửa quốc sử tình cờ nhìn thấy, Vương Huyên tinh tế tỉ mỉ, đọc được đoạn này, liền sinh nghi. Thanh Châu thất thủ là chuyện xảy ra vào tháng mười một, xin hỏi Thánh nhân, vì cớ gì lại có thể tiên đoán trước rằng từ nay về sau sẽ không còn được uống mỹ tửu Thanh Châu nữa?”

Long Hưng Đế biến sắc, đại điện im phăng phắc.

Thôi Tuần thong thả nói: “Trừ phi, Thánh nhân đã sớm biết Thanh Châu sẽ rơi vào tay Đột Quyết, nên không thể đặt chân lên ngọn Thánh Tuyết Phong của Thanh Châu, cũng chẳng thể hái được tuyết liên ở đó nữa. Chỉ đáng thương cho dân chúng Thanh Châu, trong lòng tràn ngập vui mừng, không quản hiểm nguy, cam tâm tình nguyện trèo lên đỉ.nh núi hái tuyết liên, chỉ để chúc mừng đại hôn của quân phụ, nhưng bọn họ trăm vạn lần không ngờ được rằng, quân phụ của họ lại đang toan tính đem họ dâng cho Đột Quyết, để vó sắt Đột Quyết giày xéo mảnh đất của họ, đồ sát con cháu của họ, dùng tính mạng của chính họ để tranh đoạt quyền lực thân chính! Một vò tuyết liên ấy nào chỉ là rượu, mà còn là máu và nước mắt của dân chúng Thanh Châu!”

Điện Tử Thần lặng ngắt như tờ, quần thần đều đồng loạt dõi mắt về phía Long Hưng Đế ngồi trên ngự tọa. Ngay cả những lão thần vừa rồi còn quỳ xuống khóc lóc van xin, thay đế vương giãi bày nỗi oan khuất cũng đều run rẩy đôi môi, ánh mắt nhìn về phía người đầy sự hoảng hốt.

Long Hưng Đế siết chặt tay, móng tay bấm sâu vào lòng bàn tay, cơn đau buốt bất thình lình kéo hắn ra khỏi cơn mộng mị: “Thôi Tuần! Chỉ dựa vào một trang Khởi cư chú mà ngươi đã vội kết tội trẫm? Ha! Một câu nói hết sức bình thường thì có thể chứng minh được gì? Ngươi nào biết rằng trẫm vẫn luôn muốn dừng việc cống nạp từ Thanh Châu để bớt hao tổn sức dân, nên mới thốt ra câu đó. Trẫm thấy ngươi điên thật rồi!”

“Nếu Thánh nhân cho rằng một trang Khởi cư chú không đủ để chứng minh điều gì, vậy còn Vương Huyên, người đã xé đi trang Khởi cư chú đó thì sao? Hắn bị Huệ phi bắt giữ, tra tấn đến chết, thi thể chôn ngay trong rừng hoang bên ngoài Trường Xuân Quán! Trước khi chết, hắn đã dùng máu viết lên tay thần bốn chữ “Đế sát lục châu”. Huệ phi cũng đã thừa nhận, việc tra tấn hắn không phải do một mình nàng ta chủ mưu. Đám Kim Ngô Vệ giúp sức cho Huệ Phi, chẳng phải đều là thân tín của Thánh nhân đó sao? Nếu Thánh nhân thực sự bị hàm oan, vậy cứ để Tam Ty điều tra xem ai là kẻ sai Huệ phi bắt cóc Vương Huyên? Ai đã hạ lệnh tra tấn hắn đến chết? Nếu thật sự không phải Thánh nhân, vậy thì vừa hay có thể trả lại sự trong sạch cho Thánh nhân.”

Gân xanh trên trán Long Hưng Đế giật lên liên hồi, hắn tức giận quát: “Nực cười! Chưa nói đến việc Huệ phi giết Vương Huyên chỉ là lời nói một phía của ngươi, cho dù đúng là nàng ta làm, thì có liên quan gì đến trẫm? Trẫm thấy Huệ phi nhu mì, sủng ái nàng ta, nhưng vì nàng ta mang huyết thống Đột Quyết nên đành đau lòng trục xuất khỏi cung. Dẫu sao cũng từng ân ái một thời, trẫm ban cho nàng ta một đội Kim Ngô Vệ để phòng thân, vậy có gì sai?”

“Huệ phi nhu mì?” Thôi Tuần cười lạnh. “A Sử Na Gia quả xứng với hai chữ “nhu mì”, nhưng Huệ phi thì đâu dính dáng gì đến hai chữ ấy.”

Sắc mặt Long Hưng Đế lập tức biến đổi, hắn cố trấn tĩnh: “Trẫm không hiểu ngươi đang nói gì. Chẳng phải Huệ phi chính là A Sử Na Gia sao?”

Thôi Tuần bật cười: “Chẳng lẽ Thánh nhân không biết, Huệ phi vốn không phải là A Sử Na Gia, con gái của Tô Thái, mà là A Sử Na Ngột Đoá, con gái của Ni Đô?”

Long Hưng Đế trợn mắt, miệng lắp bắp: “Trẫm… không biết…”

“Nhưng Kim Di đã từng khai nhận, từ lâu Thánh nhân đã biết rõ Huệ phi không phải A Sử Na Gia. Giấy trắng mực đen vẫn còn trong Sát Sự Thính.” Thôi Tuần lắc đầu, “Thánh nhân nói toàn những lời dối trá, vậy còn ý nghĩa gì nữa?”

Long Hưng Đế chết lặng tại chỗ. Đến lúc này hắn mới nhận ra mình đã hoàn toàn rơi vào bẫy của Thôi Tuần. Những lời biện giải ban nãy bỗng trở nên yếu ớt vô cùng. Nhưng rốt cuộc Thôi Tuần còn biết những gì? Trong tay hắn, rốt cuộc còn bao nhiêu chứng cứ?

Hắn không dám nói thêm một lời nào nữa, bởi lẽ hắn nhận ra, càng nói nhiều, lại càng sai nhiều.

Hắn trừng mắt nhìn Thôi Tuần, từng giọt mồ hôi chảy dài trên trán. Đám triều thần nín lặng như tờ. Long Hưng Đế tuyệt vọng, quét mắt qua chúng quần thần, trong lòng thầm mong có ai đó có thể đứng ra phản bác Thôi Tuần thay mình.

Dường như mong ước ấy của hắn đã được đáp lại. Một vị đại thần chuyên xu nịnh bước ra, lớn tiếng quát mắng Thôi Tuần: “Thôi Tuần, ngươi đầu hàng Đột Quyết, b.án n.ước cầu vinh, vậy mà dám bôi nhọ quân phụ, rốt cuộc là có ý đồ gì? Có phải ngươi đã cấu kết với Hồ Lỗ, muốn gây rối Đại Chu ta không?”

Một câu nói liền chuyển hướng mọi nghi vấn. Quần thần thoáng do dự. Đúng vậy, lời của Thôi Tuần rốt cuộc có đáng tin không? Lẽ nào họ lại vì một kẻ b.án n.ước mà hoài nghi quân phụ?

Quần thần đàm luận sôi nổi, Thôi Tuần cắn răng. Hắn chậm rãi cởi áo ngoài, để lộ nửa thân trên. Những vết thương chằng chịt lập tức hiện ra trước mắt mọi người.

Triều đường chấn động. Hắn gằn từng chữ: “Ta, Thôi Tuần, chưa từng đầu hàng Đột Quyết, càng không vì danh lợi mà thông đồng với Hồ Lỗ, trở thành một kẻ b.án n.ước tiếng xấu truyền đời!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 148: Lão bộc câm


Những ánh mắt hãi hùng quét qua thân trên tr.ần tr.ụi của Thôi Tuần.

Những vết sẹo dữ tợn mà hắn không muốn ai nhìn thấy nhất, những dấu tích đáng sợ đại diện cho quá khứ nhục nhã của hắn, hôm nay đều bị chính hắn vạch trần trước bàn dân thiên hạ. Đám triều thần thì thầm bàn tán, chẳng ai ngờ vị Thiếu khanh Sát Sự Thính xưa nay luôn ngạo nghễ lạnh nhạt, thủ đoạn độc ác, lại mang trên mình những vết thương kinh hoàng đến vậy.

Trên thân hắn, ngoài những vết thương đỏ tấy do roi vọt và gậy gộc mới đây, còn có vô số vết sẹo cũ. Có vết bị nung bằng sắt nóng, có vết do roi mây quất nát da, nhưng phần lớn đều không phải thương tích mà các đại thần ngồi trên triều từng chứng kiến. Tuy nhiên, vài vị đại thần từng có giao thiệp với Đột Quyết thì lại hít sâu một hơi. Đây… đây rõ ràng là dấu vết của hình cụ Đột Quyết!

Nổi bật nhất trên thân hắn là những vết roi cũ, mỗi vết dài cả thước, giữa từng đường roi còn có ba dấu lõm sâu hoắm. Đây chính là vết tích do roi thuần nô của Đột Quyết gây ra.

Roi thuần nô của Đột Quyết được bện từ chín mảnh da trâu sống, không gọt mịn cạnh, giữa thân roi có ba nút thắt lớn, vừa nặng vừa thô. Mỗi nhát roi quất xuống, ba nút thắt sẽ xé rách da thịt, đau đớn đến tận xương tủy. Nó vốn là công cụ thuần nô của quý tộc Đột Quyết, vậy cớ gì lại xuất hiện trên người Thôi Tuần?

Tiếng xì xào vẫn không ngừng vang lên bên tai hắn, có người chấn kinh, có kẻ thương cảm, mỗi ánh mắt đều hướng về những vết thương loang lổ khắp cơ thể hắn. Cả triều đường bỗng hóa thành pháp trường, còn hắn thì đang bị l*t tr*n giữa muôn trùng ánh mắt.

Nhục nhã dâng lên, hắn nhắm mắt lại. Hàng mi đen dài như lông quạ khẽ run rẩy. Những ký ức nhơ nhuốc tại vương đình Đột Quyết cuồn cuộn tràn về như nước lũ.

Trong cơn mơ hồ, hắn như thấy lại cảnh A Sử Na Ngột Đoá cầm roi đứng trước mặt hắn, kiểm tra cơ thể hắn như kiểm tra một con súc vật. Hắn bị bóp chặt cằm, bị cưỡng ép há miệng để người ta xem răng, từng ngày từng ngày trôi qua giữa bạo hành và nhục mạ. Mỗi lần mở mắt, đều là một vòng tra tấn mới, một trận nhục hình mới. Mỗi giọt nước mắt vì đau đớn bật ra, đều trở thành niềm hứng khởi cho kẻ hành hạ hắn. Ở vương đình Đột Quyết, hắn không có tên, tất cả mọi người chỉ gọi hắn là “Liên Hoa Nô”. Hắn không phải con người, mà chỉ là một con súc vật bị A Sử Na Ngột Đoá quyết tâm thuần phục. Những kẻ đứng sau nàng ta đều thi nhau bày ra đủ mọi biện pháp, chỉ để uốn nắn con người hắn.

Từng là quý tử của dòng họ Thôi thị ở Bác Lăng, từng vinh hoa rực rỡ như châu ngọc ngời sáng, thế nhưng tại nơi đó, hắn còn không bằng một con chó, hoàn toàn không có chút tôn nghiêm nào đáng kể.

Thương tích sâu kín nhất, ký ức cay đắng nhất, tất cả đều bị phơi bày trước mặt người đời. Giây phút này, hắn chỉ cảm thấy toàn bộ lòng tự tôn và kiêu hãnh của mình một lần nữa vỡ nát thành tro bụi. Cả người khẽ run rẩy, cảm giác ê chề tột cùng khiến hắn thậm chí không dám mở mắt, càng không dám ngẩng đầu lên nhìn phản ứng của mọi người xung quanh.

Giữa cơn mông lung, dường như hắn nghe thấy giọng nói của Lý Doanh.

Giọng nàng dịu dàng, như v.uốt ve từng vết thương trong lòng hắn. Nàng nói: “Ta không cho rằng đó là nỗi nhục, ngược lại, ta cho rằng đó là niềm tự hào sánh ngang với Tô Vũ chăn dê.”

Nàng lại nói: “Nếu có một ngày thiên hạ biết tất cả những gì chàng đã làm, ta nghĩ sẽ không ai cho rằng đó là điều đáng xấu hổ.”

Cuối cùng, nàng nói: “Vậy nên, Thôi Tuần, khi ở Đột Quyết, chàng không phải súc vật, chàng là một anh hùng.”

Anh hùng sao…

Giữa những lời thì thầm êm dịu của nàng, đôi mắt nhắm chặt của Thôi Tuần dần mở ra. Hắn ngẩng đầu lên, đưa mắt nhìn khắp quần thần với những sắc mặt khác nhau, rồi chỉ vào vết sẹo hằn sâu quanh cổ mình, khó nhọc lên tiếng: “Vết sẹo này là do người Đột Quyết l*t s*ch y phục ta, dùng xích chó khóa cổ, nhốt vào cũi trước vương trướng suốt một tháng.”

Hắn lại chỉ vào những dấu roi vằn vện trên người mình: “Những vết thương này là do ta bị bắt lại sau lần thứ tư bỏ trốn. Khi đó, bọn chúng dùng roi thuần nô quất hai trăm roi.”

Hắn giơ khuỷu tay, nơi có một mảng thịt bị khoét mất: “Vết này là khi Đột Quyết trói ta bằng dây thừng, khoác lên người một tấm da cừu, bắt ta tr*n tr**ng bò giữ phố như một con cừu. Ta không chịu, liền bị chúng cột vào đuôi ngựa, kéo đi.”

Hắn dần lấy lại bình tĩnh, giọng nói cũng không còn vẻ ngượng ngùng ban đầu, mà càng lúc càng rõ ràng hơn: “Trên người ta, mỗi vết sẹo đều có một nguyên do. Nếu chư vị muốn nghe, ta có thể kể lại từng chuyện một.”

Bầu không khí rơi vào tĩnh lặng, không biết ai thấp giọng lầm bầm: “Sĩ khả sát, bất khả nhục. Bị làm nhục đến mức này, mà vẫn tham sống lay lắt…”

Thôi Tuần nhìn về phía người đó. Đối phương bị ánh mắt bi thương tuyệt vọng của hắn làm cho sửng sốt. Hắn cười chua chát: “Sống lay lắt? Nếu có thể, ta đã chết từ lâu. Nhưng nếu ta chết rồi, ai sẽ rửa oan cho năm vạn binh sĩ Thiên Uy quân?”

Thôi Tụng Thanh trước nay vẫn im lặng, lúc này bỗng giật mình. Ông nhớ lại lời Thôi Tuần từng nói với mình: Khi ở Đột Quyết, hắn có cả nghìn, cả vạn cơ hội để kết liễu bản thân. Nhưng hắn vẫn còn con đường của hắn phải đi, hắn không thể chết. Khi ấy, ông đã nghiêm giọng trách cứ, nói rằng con đường của hắn chẳng qua chỉ là đầu hàng Đột Quyết, quỳ gối trước nữ nhân Hồ mà thôi. Hóa ra, con đường Thôi Tuần nói chính là liều mạng để rửa oan cho cố nhân.

Trong khoảnh khắc, tâm tình Thôi Tụng Thanh liền trở nên phức tạp vô cùng.

Vị đại thần vừa lầm bầm ban nãy không còn dám hé răng nữa, quần thần đều im lặng không một tiếng động. Trên ngựa tọa, sắc mặt Long Hưng Đế dần sa sầm, ngón tay siết chặt lại. Đương nhiên hắn biết rõ những vết thương trên người Thôi Tuần là do ai gây ra, càng biết vì sao kẻ đó lại làm vậy. Nhưng nhìn thấy những dấu vết bị ngược đãi khắp người Thôi Tuần, lòng hắn chỉ càng thấy đố kỵ và phẫn nộ. Hắn quát lên: “Thôi Tuần, chỉ dựa vào những vết thương trên người ngươi, chẳng lẽ có thể chứng minh rằng ngươi chưa từng đầu hàng Đột Quyết sao?”

“Đương nhiên.” Thôi Tuần cuối cùng cũng không còn sự e dè khi để lộ vết thương trước mắt người khác. Hắn ngẩng cao đầu, giọng dứt khoát: “Những hình phạt thần phải chịu, từ lúc bị bắt đến khi thoát khỏi vương đình, kéo dài suốt hai năm ròng rã. Mỗi một vết sẹo trên người thần đều là bằng chứng sắt đá chứng minh thần trong sạch. Từ đầu đến cuối, thần chưa từng quy hàng Đột Quyết.”

Long Hưng Đế cười lạnh: “Lời nói một phía, có gì đáng tin?”

Sau rèm châu, Thái hậu ho nhẹ một tiếng, giọng điệu không vui: “Thánh nhân.”

Người sáng suốt đều hiểu rằng nếu Thôi Tuần quy hàng Đột Quyết thì sao phải mang trên mình những vết thương ghê rợn ấy? Rõ ràng Long Hưng Đế đã mất sạch lý trí, nên mới cố chấp phủ nhận điều hiển nhiên này.

Đầu óc Long Hưng Đế đã bị oán hận làm cho mụ mị, hắn gằn giọng nói: “Ngươi nói vết thương này là do Đột Quyết gây ra thì đó nhất định là do Đột Quyết gây ra? Hừ, trẫm thấy ngươi bắt tay với Đột Quyết, ý đồ dao động lòng dân mới cố tình vẽ nên bộ dáng nhẫn nhục chịu đựng để thành anh hùng. Hừm, anh hùng? Thôi Tuần, ngươi chẳng qua chỉ là thứ lấy sắc hầu người, vậy mà cũng dám tự xưng là anh hùng?”



Trong điện Tử Thần, tranh cãi vẫn chưa dứt. Bên ngoài cổng Đan Phượng, một ông lão mặc áo giáp màu vàng sáng, chậm rãi bước đến trước hàng Kim Ngô Vệ đang gác cửa. Lão há miệng, nhưng không thể phát ra bất kỳ thanh âm nào, chỉ có thể liên tục dùng tay ra hiệu.

Kim Ngô Vệ quan sát y phục của ông lão, thầm nghĩ chẳng lẽ là một lão binh từng trấn thủ biên ải tới tận đây quấy nhiễu? Gã cau mày, mất kiên nhẫn khoát tay xua đuổi: “Đây là cung Đại Minh, tránh xa ra.”

Ông lão vẫn đứng yên không nhúc nhích. Một tên lính nổi giận, giơ tay đẩy lão ra, nhưng không ngờ lại không lay chuyển nổi. Gã ngạc nhiên nhìn kỹ đối phương, không chừng lão câm này còn biết chút võ nghệ cũng nên, thế là gã đành nghiến răng, mạnh tay đẩy thêm lần nữa: “To gan, dám tận đến cung Đại Minh gây chuyện? Biến ngay!”

Ông lão bất ngờ nắm lấy cánh tay gã, cổ họng khàn khàn cuối cùng cũng bật ra những âm thanh đứt quãng, không tròn tiếng: “Mỗ… mỗ nhất định phải vào cung Đại Minh.”

Lính gác ngây người, tạm thời không vùng ra được. Vài tên lính khác thấy vậy cũng xông lên, lớn tiếng quát: “Một tên áo vải, có tư cách gì mà đòi vào cung Đại Minh?”

Ông lão chật vật thốt ra một câu, thanh âm vẫn khàn đục nhưng đã rõ ràng hơn phần nào: “Mỗ không phải hạng áo vải.”

Ông nói: “Mỗ là chính Chiết Xung Đô úy phủ ngũ phẩm, Đinh Tĩnh.”



Đinh Tĩnh, Chiết Xung Đô úy phủ, đóng quân tại huyện Cửu Nguyên. Sáu năm trước, khi Đột Quyết xâm phạm biên cương, ông dẫn hai vạn quân cố thủ, thề chết không lui, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Triều đình cảm kích sự trung dũng của ông, truy phong ông làm Đại đô đốc Ích Châu, đồng thời ban chức quan cho con trai ông.

Một người đã chết từ sáu năm trước, vì sao lại xuất hiện trước cổng cung Đại Minh, đã vậy còn khăng khăng muốn cầu kiến Thánh nhân, nói rằng có chuyện trọng đại muốn bẩm báo?

Hơn nữa, chuyện này còn có liên quan đến vụ án đang được xét xử ngay trong điện Tử Thần.

Kim Ngô Vệ nhìn nhau, vội vã chạy vào điện Tử Thần bẩm báo. Quần thần nghe tin đều choáng váng, đồng loạt thỉnh cầu triệu kiến Đinh Tĩnh ngay lập tức để tra rõ thực hư. Long Hưng Đế cũng mơ hồ khó hiểu, bèn lệnh Kim Ngô Vệ đưa Đinh Tĩnh vào điện.

Rất nhanh sau đó, hắn đã hối hận vì quyết định này của mình.

Khi Đinh Tĩnh khoác bộ giáp vàng sáng từ sáu năm trước bước vào điện Tử Thần, một số đại thần từng quen biết ông chăm chú quan sát hồi lâu, cuối cùng mới dám khẳng định, đây đúng là Đinh Tĩnh.

Đinh Tĩnh mím môi, liếc nhìn Thôi Tuần đang quỳ giữa điện, y phục xốc xếch, vết thương cũ mới chồng chất. Ánh mắt ông trầm xuống, rồi quỳ một gối hành đại lễ trước Long Hưng Đế và Thái hậu, sau đó mới đứng dậy.

Thôi Tuần quỳ bên cạnh nâng nhẹ cổ tay, tiếng xích sắt va vào nhau vang lên. Hắn thở dài: “Hà tất phải vậy?”

Là Đinh Tĩnh, cũng là lão bộc câm nọ.

Mọi người nhao nhao lên tiếng, không ngừng chất vấn Đinh Tĩnh vì sao đã chết lại còn có thể sống lại.

Khuôn mặt già nua đầy nếp nhăn của Đinh Tĩnh hiện rõ sự bẽ bàng. Dù trên người vẫn khoác bộ giáp sáu năm trước, nhưng từ đầu đến chân, ông đã không còn là vị Đô úy uy vũ oai hùng của Cửu Nguyên năm đó, mà chỉ giống như một ông lão gù lưng thường thấy trên đường phố Trường An. Dẫu là cố nhân, nhất thời cũng khó lòng nhận ra.

Ông ta dập đầu, giọng khàn khàn cất lên: “Thần có tội.”

“Sáu năm trước, Đột Quyết xâm phạm biên giới, thần dẫn quân chống địch, chẳng may đại bại. Chiến báo truyền về Trường An nói thần đã tử trận trong loạn quân. Nhưng thực ra, thần chưa chết, mà bị Đột Quyết bắt giữ.” Khuôn mặt Đinh Tĩnh càng lộ rõ vẻ tủi hổ. “Lúc ấy, đáng lẽ thần phải tuẫn quốc, nhưng thần… tham sống sợ chết, nên đã mạo danh Giáo úy Trương Vân, đầu hàng Đột Quyết. Sau đó, dưới sự sắp đặt của Khả hãn Ni Đô, thần còn cưới một nữ tử Đột Quyết làm thê thất…”

Quần thần ồ lên, Long Hưng Đế cùng Thái hậu cũng không khỏi chấn động. Đinh Tĩnh cúi gằm đầu xuống, không dám ngẩng lên: “Thần phụ Thánh ân, tội đáng muôn chết! Thần, cam nguyện chịu phạt!”

Dứt lời, cổ họng ông ta nghẹn lại, mạnh mẽ dập đầu một cái. Sau bức rèm châu, Thái hậu giận đến mức quát lên: “Khốn kiếp!”

Ông ta lấy gì để đối mặt với hai vạn tướng sĩ đã cùng ông ta vào sinh ra tử? Lấy gì để xứng đáng với sự tín nhiệm của bách tính Cửu Nguyên? Và, lấy gì để xứng đáng với bộ giáp Minh Quang vàng rực đang khoác trên người ông ta?

Đinh Tĩnh cúi gằm mặt, hổ thẹn đến đỏ bừng. Ông ta lẩm bẩm: “Thần biết tội đáng chết, nhưng trước khi chết, thần muốn rửa oan cho một người.”

Ông ta chậm rãi ngẩng đầu, từng lời từng chữ vang vọng: “Thiếu khanh Sát Sự Thính Thôi Tuần chưa từng đầu hàng Đột Quyết. Thần chính là nhân chứng!”



Từ lời khai chi tiết của Đinh Tĩnh, mọi người mới hay, sau khi ông ta bị Đột Quyết bắt giữ liền bị giam lỏng trong vương đình Đột Quyết. Vì không muốn chết, ông ta giả danh quy hàng. Vài tháng sau, vương đình ấy lại nghênh đón một tù binh đặc biệt khác.

Người ấy là một thành viên của Thiên Uy quân, hơn thế nữa lại còn là đích tử của họ Thôi ở Bác Lăng, tên gọi Thôi Tuần.

Đinh Tĩnh từng nghĩ rằng, một công tử xuất thân danh môn, lớn lên trong gấm vóc lụa là như hắn, hẳn cũng sẽ như mình, sợ chết đầu hàng. Nhưng ông ta đã lầm.

Ông ta tận mắt chứng kiến thiếu niên thế gia ấy trải qua lễ hiến tù binh, trải qua tầng tầng tra tấn, chịu đủ mọi sự sỉ nhục, nhưng vẫn cắn chặt răng, chưa từng nhắc đến chuyện đầu hàng. Roi thuần nô của Đột Quyết có thể rạch nát da thịt hắn, nhưng không thể ép hắn khuất phục, càng không thể bẻ gãy cốt cách cứng cỏi trong người hắn.

Thực ra, tất cả mọi người trong vương đình đều nhận ra công chúa Ngột Đóa của Đột Quyết yêu thích hắn đến nhường nào. Chỉ cần hắn nguyện ý đầu hàng, nguyện ý khuất phục, hắn sẽ có được đệ nhất mỹ nhân Tây Vực, có thể hưởng vinh hoa phú quý nhiều không kể xiết, cũng sẽ không phải chịu đựng những trận đòn khốc liệt kia nữa.

Thế nhưng, hắn không chịu.

Nhưng hắn thà chết chứ không chịu nhún mình, càng không chịu quy phục.

Ngày qua ngày, tháng nối tháng, mãi đến khi Đinh Tĩnh cùng thê tử người Đột Quyết đứng ngoài vương trướng, trông thấy Thôi Tuần bị xích cổ bằng dây xích chó, nhốt trong lồng sắt, ông ta mới thực sự kinh hãi.

Thê tử người Đột Quyết của ông ta chăm chú quan sát thiếu niên tuyệt đẹp, người đầy thương tích trong lồng và nói: “Liên Hoa Nô của công chúa đẹp thật đấy.”

Nàng ta lại hỏi Đinh Tĩnh: “Nhưng tại sao hắn không chịu đầu hàng? chẳng những không phải chịu khổ, mà còn có thể cưới công chúa Ngột Đóa làm thê tử. Chẳng lẽ người Hán các chàng đều thích tự chuốc khổ vì cái gọi là khí tiết đó sao? Nhưng chàng cũng là người Hán, lại không tự chuốc khổ giống họ.”

Những gì nàng ta nói sau đó, Đinh Tĩnh đã không còn nhớ rõ. Ông ta chỉ ngây người nhìn thiếu niên trong lồng, trong khoảnh khắc ấy, nỗi nhục như ngọn sóng ập đến, cuốn lấy ông ta.

Bất chấp sự phản đối của thê tử, ông ta cởi áo choàng, đắp lên người thiếu niên kia, rồi hoảng hốt bỏ chạy.

Từ đó về sau, ông ta ngày càng trở nên mơ màng, nhưng cũng dõi theo người thiếu niên của Thiên Uy quân kia một cách sát sao hơn. Ông ta chứng kiến hắn hết lần này đến lần khác tìm cách bỏ trốn, hết lần này đến lần khác bị bắt trở lại. Ông ta thấy trên người hắn ngày càng nhiều vết thương, vóc dáng càng lúc càng gầy gò. Cuối cùng, đến lần chạy trốn cuối cùng, hắn đã thành công, thậm chí còn lấy đi tính mạng của Khả hãn Ni Đô cùng vô số quý tộc Đột Quyết đi theo bồi táng.

Thôi Tuần rời khỏi Đột Quyết, cũng là lúc Đinh Tĩnh hoàn toàn khinh miệt chính mình. Ông ta hiểu rằng nếu ở lại Đột Quyết, ông ta có thể sống; nhưng nếu rời khỏi, ắt sẽ chết. Thế nhưng một thiếu niên chưa tròn hai mươi kia vẫn có thể nhẫn nhịn chịu đựng những ngón đòn mất nhân tính, thà chết chứ không chịu khuất phục, lẽ nào ông ta, một Đô úy từng xông pha chiến trận, lại không làm được hay sao?

Thế là Đinh Tĩnh âm thầm chuẩn bị suốt một thời gian dài, cuối cùng cũng trốn thoát khỏi Đột Quyết. Trước khi đi, ông ta chỉ mang theo bộ giáp Minh Quang màu vàng rực của mình.

Trở về Đại Chu, ông ta định ra đầu thú, nhưng rồi phát hiện ra mình đã “chết”. Triều đình đã truy phong ông ta làm Đại đô đốc Ích Châu, con trai ông ta cũng được ra làm quan. Nếu ông ta thú tội, không chỉ bản thân ông ta thân bại danh liệt, mà ngay cả gia tộc cũng chịu liên lụy.

Một lần nữa, Đinh Tĩnh chọn cách hèn nhát. Sống không được, chết cũng không xong, ông ta đến Trường An, tìm gặp Thôi Tuần, khi ấy đã là Thiếu khanh của Sát Sự Thính, cầu xin hắn hãy giết mình.

Ông ta vẫn nhớ rõ, khi đó Thôi Tuần vừa ra khỏi ngục thất của Đại Lý Tự, thân thể suy nhược, hắn ho dữ dội, nhưng chỉ nhàn nhạt đáp: “Vì sao ta phải giết ngươi?”

Đinh Tĩnh quỳ dưới chân hắn, nước mắt đầm đìa: “Bởi vì chính là Thôi lang quân khiến mỗ nhớ ra, mỗ vẫn là một tướng quân.”

Ông giơ cao đao, dâng đến trước mặt Thôi Tuần. Hắn chỉ liếc qua lưỡi đao, thản nhiên nói: “Ta không muốn giết ngươi, đi đi.”

Mãi sau này, Đinh Tĩnh mới biết, lúc ấy, Thôi Tuần đang bị vây trong lời đồn do A Sử Na Ngột Đóa tung ra. Người Đại Chu đều tin rằng hắn đã đầu hàng Đột Quyết. Hắn bị nhốt trong ngục thất của Đại Lý Tự suốt một năm, chịu đủ cực hình. Dù liên tục khẳng định mình chưa từng đầu hàng Đột Quyết, liên tục thỉnh cầu quan lại Đại Lý Tự đến Đột Quyết điều tra, nhưng chẳng một ai tin hắn.

Cuối cùng, hắn hoàn toàn tuyệt vọng, tuyệt vọng với lòng người, tuyệt vọng với quân phụ. Sau cùng, hắn chấp nhận vứt bỏ tất cả lương tri, cam tâm làm chó săn trong tay Thái hậu, đổi lấy mạng sống, bước ra khỏi ngục thất Đại Lý Tự.

Thiếu niên từng thề chết không khuất phục tại Đột Quyết, rốt cuộc đã trở thành một Thiếu khanh của Sát Sự Thính, âm trầm nham hiểm, tàn độc vô tình trong thành Trường An.

Thế nhưng dù có từ bỏ lương tri, dù có lạnh lùng tàn nhẫn đến đâu, hắn vẫn không giết Đinh Tĩnh.

Bởi vì hắn vẫn nhớ, ngày đó tại vương đình Đột Quyết, Đinh Tĩnh đã đắp lên người hắn một chiếc áo choàng.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 149: Phụ làm quân phụ


Đinh Tĩnh không chết, nhưng cũng không thể tiếp tục sống dưới thân phận “Đinh Tĩnh” nữa. Thiên hạ rộng lớn, ông ta đã không còn nơi để đi.

Cuối cùng, Thôi Tuần nói với ông ta: “Đã chết rồi thì đừng để người chết sống lại làm gì. Ta đang thiếu một người làm việc nặng, ngươi có thể làm gia nô của ta.”

Khi nói câu này, giọng điệu hắn hờ hững, cao cao tại thượng, như thể đang bố thí. Nhưng Đinh Tĩnh hiểu đây không phải bố thí, mà là cứu rỗi.

Hắn đang cho ông ta một chốn dung thân.

Đinh Tĩnh xấu hổ, nhục nhã nhưng vẫn gật đầu chấp nhận. Ông ta ở lại Thôi phủ, song không thể nào quên được cảnh bản thân quỳ gối ở vương đình Đột Quyết, cúi đầu trước Khả hãn Ni Đô, nói ra lời thề: “Nguyện quy phục Đột Quyết, đời này kiếp này không còn trung thành với Đại Chu nữa.”

Thôi Tuần đã thức tỉnh lòng tự tôn trong ông ta. Ông ta hổ thẹn với chính những lời hàng phục mình từng nói, nên tự trừng phạt bản thân, không mở miệng thêm lần nào nữa. Từ đó, Đinh Tĩnh biến mất khỏi thế gian, chỉ còn lại một lão nô bộc câm lặng, vô danh trong Thôi phủ.



Sau khi trở thành người câm, Đinh Tĩnh bắt đầu giúp Thôi Tuần bán đi gia sản, dùng tiền bạc chu cấp cho thân quyến của Thiên Uy quân. Thôi Tuần bảo ông làm gì, ông sẽ làm nấy; Thôi Tuần không cho phép, ông cũng tuyệt đối không làm. Dù mơ hồ cảm thấy Thôi Tuần đang âm thầm thực hiện một chuyện gì đó, nhưng Thôi Tuần không nói, ông cũng không hỏi, chỉ một lòng tận tụy làm gia nô của hắn.

Mãi đến gần đây, ông mới biết được Thôi Tuần đã âm thầm làm gì suốt bấy lâu nay.

Trên điện Tử Thần, bộ giáp Minh Quang vàng rực trên người Đinh Tĩnh đã sờn cũ, không còn vẻ chói lọi như ngày trước. Gương mặt ông chằng chịt những vết nhăn sâu không tương xứng với tuổi tác. Ông lẩm bẩm: “Thôi Thiếu khanh bảo thần bán đi phủ đệ của ngài ấy, cầm bạc tìm một nơi dưỡng già. Thần có thể làm như vậy, có thể tiếp tục sống sót qua ngày. Nhưng chính Thôi Thiếu khanh đã khiến thần nhớ lại, thần là tướng quân của Đại Chu, sao có thể bỏ mặc ngài ấy chỉ để cầu một con đường sống cho riêng mình? Thần biết rõ hôm nay đến đây, tất sẽ thân bại danh liệt, vạn kiếp bất phục, đây là sự trừng phạt thần đáng phải nhận, thần không oán hận. Nhưng trước khi chết, thần muốn làm chứng cho Thôi Thiếu khanh.”

Ông từ từ kể lại: “Thôi Thiếu khanh chưa từng đầu hàng Đột Quyết. Tin đồn các vị nghe được chỉ là lời bịa đặt mà công chúa Ngột Đóa tung ra vì muốn có được ngài ấy. Sự thật là, ngài ấy chưa từng trở thành khách trong màn của công chúa, càng chưa từng cúi đầu trước nàng ta. Dù phải chịu bao hình phạt tàn khốc, ngài ấy vẫn chưa từng khuất phục, chưa từng phản bội Đại Chu. Nếu người như thế không đáng được gọi là anh hùng, vậy ai mới xứng được gọi là anh hùng?”

Ông quét mắt nhìn quần thần trong điện: “Chư vị tướng công, lòng người như cán cân, hãy tự vấn lương tâm mình, nếu đổi lại là các vị, liệu có chịu đựng được những cực hình và sỉ nhục đó hay không? Vì sao một vị anh hùng bất khuất như thế lại phải mang tiếng hàng giặc suốt sáu năm qua? Ngài ấy đã từng cố gắng giãi bày, từng kêu oan ở Đại Lý Tự, nhưng đổi lại chỉ là khổ hình bức cung… Ngài ấy đã không còn đường lui! Có thể ngài ấy không phải bậc quân tử trong sạch vô tỳ trong mắt các vị, nhưng lẽ ra ngài ấy đã có thể sống một cuộc đời thanh bạch, không tì vết! Đại Chu đã phụ ngài ấy! Nếu các vị còn một chút lương tri, xin hãy truyền lời nói hôm nay của mỗ đến tai bách tính, đến tai thiên hạ. Hãy để tất cả mọi người đều được biết rằng: Thôi Tuần, ngài ấy chưa từng đầu hàng Đột Quyết! Ngài ấy không phải kẻ tham sống sợ chết, mà là một anh hùng chân chính!”

Lời cung khai của Đinh Tĩnh như một viên đá ném xuống mặt hồ tĩnh lặng, khuấy động ngàn cơn sóng dữ. Long Hưng Đế giận đến nghiến răng nghiến lợi. Điều khiến hắn căm tức không chỉ là chuyện Đinh Tĩnh đứng ra làm chứng, khẳng định Thôi Tuần chưa từng đầu hàng Đột Quyết, mà còn là chuyện Đinh Tĩnh đứng ngay trước mặt quần thần, vạch trần chuyện Huệ phi, sủng phi của hắn dùng trăm phương ngàn kế chỉ để chiếm đoạt một nam nhân khác. Bí mật ô nhục ấy lại bị nói toạc ra giữa triều đường, với bậc đế vương chí cao vô thượng như hắn mà nói, chính là sự sỉ nhục tột cùng.

Long Hưng Đế giận đến mức gân xanh trên trán giật liên hồi, hắn quát lớn: “Người đâu, áp giải tên phản nghịch này xuống, giao cho Đại Lý Tự luận tội!”

Vì lén thả Thôi Tuần đến cung Đại Minh nên Đại Lý Tự Thiếu khanh Lư Hoài bị ép hồi phủ, đợi xét xử. Đại Lý Tự thừa đành phải bước ra, thay mặt hắn đáp: “Tuân lệnh.” Kim Ngô Vệ thô bạo trói Đinh Tĩnh lại kéo đi. Trước khi rời đi, ông quay đầu nhìn Thôi Tuần, khóe môi nở nụ cười nhẹ nhõm. Khuôn mặt già nua khắc khổ ấy cuối cùng cũng ánh lên chút thần sắc năm xưa. Sáu năm qua, ông luôn bị dày vò bởi tội lỗi, đến hôm nay, rốt cuộc cũng đã được giải thoát.

Thôi Tuần dõi theo bóng Đinh Tĩnh bị áp giải đi xa, hắn biết, có lẽ từ nay về sau hắn sẽ không còn gặp lại lão bộc câm ấy nữa. Nhưng hắn cũng biết, lão bộc câm năm nào đã hoàn thành sự chuộc tội của riêng mình. Từ nay về sau, lão sẽ không còn là lão bộc vô danh vô tính, mà chính là Đinh Tĩnh – Chiết Xung Đô úy phủ dù lầm đường lạc lối, nhưng cuối cùng vẫn biết quay đầu.



Thôi Tuần mím môi, hắn ngẩng đầu, nhìn thẳng vị đế vương đang gần như phát điên trên ngự tọa, trầm giọng nói: “Lời khai của Đinh Tĩnh cùng những vết thương trên người thần đều có thể chứng minh thần chưa từng đầu hàng Đột Quyết. Nếu thần không phải phản tặc b.án n.ước, vậy Thánh nhân, chẳng hay người có thể hạ lệnh tra xét về cái chết của Vương Huyên, cũng như đoạn ghi chép trong Khởi cư chú kia không?”

Long Hưng Đế sững người, gần như lộ vẻ luống cuống, giận dữ nói: “Hỗn xược! Trẫm đã nói rõ, cái chết của Vương Huyên không liên quan gì đến trẫm, đoạn ghi chép trên Khởi cư chú càng không liên quan gì đến vụ án Thiên Uy quân! Trẫm là Hoàng đế, nhất ngôn cửu đỉnh, chẳng nhẽ chỉ vì ngươi không tin mà trẫm phải hạ lệnh điều tra? Nực cười!”

Thôi Tuần cười khẽ: “Phải trái đúng sai, tự có công luận. Nếu Thánh nhân không thể giải thích được đoạn chép trong Khởi cư chú, cũng không dám tra rõ cái chết của Vương Huyên, vậy thì trước mắt bao người, chân tướng đã quá rõ ràng. Nay Thánh nhân dùng thân phận Hoàng đế để đè ép thần, trong mắt thần, ngược lại càng chứng thực rằng người từng câu kết với Đột Quyết, hãm hại trung lương, bán rẻ bách tính.”

Long Hưng Đế tái mặt. Sau rèm châu, Thái hậu cuối cùng cũng lên tiếng, giọng bà trầm xuống: “Đủ rồi!”

Bà chậm rãi nói: “Thôi Tuần, ngô biết, ngươi đã chịu nhiều oan ức ở Đột Quyết, sau khi hồi triều lại bị Đại Lý Tự xét xử oan sai. Đây là sơ suất của ngô và Thánh nhân. Ngô sẽ hạ chiếu chiêu cáo thiên hạ, trả lại sự trong sạch cho ngươi. Còn những lời nghịch loạn hôm nay, ngô sẽ xem như vì quá đau buồn nên ngươi mới nhất thời hồ đồ. Ngươi hãy lui xuống đi, chuyện này đến đây là kết thúc.”

Bà đang cho Thôi Tuần một cơ hội cuối cùng. Chỉ cần hắn chấp nhận, hắn sẽ giữ được quyền thế địa vị, vinh hoa phú quý, thậm chí còn có thể lưu lại danh tiếng lẫy lừng. Long Hưng Đế cũng không hiểu vì sao Thái hậu lại bao dung Thôi Tuần đến vậy. Hắn quay đầu, vừa định mở miệng thì đã bị Thái hậu trừng mắt cảnh cáo. Qua kẽ hở của rèm châu lay động, Long Hưng Đế thấy rõ trong mắt Thái hậu tràn đầy sự thất vọng cùng phẫn nộ.

Nhưng dù thất vọng hay phẫn nộ đến đâu, hắn vẫn là con trai bà. Bà không muốn mất đi đứa con này, nên buộc phải tiếp tục bảo vệ hắn.

Bà hứa với Thôi Tuần sẽ xóa bỏ mọi chuyện trong quá khứ, mong đổi lấy một bước lùi của cả hai bên. Nhưng Thôi Tuần lại không hề cảm kích, hắn chỉ nhếch môi cười mỉa: “Khi thần đánh trống Đăng Văn, thần không chỉ tố giác Thánh nhân, mà còn tố giác cả Thái hậu. Thần buộc tội người dung túng con ruột, bao che nghịch tặc, vấy bẩn quốc pháp. Nay xem ra, những lời tố cáo ấy quả không sai.”

Thái hậu khựng lại, Thôi Tuần tiếp tục: “Thần có thể hiểu một người mẹ sẵn sàng làm mọi cách để bảo vệ con trai mình, nhưng không thể hiểu nổi một vị Thái hậu lại bất chấp tất cả để bảo vệ một Hoàng đế cấu kết với ngoại bang.”

Lời vừa thốt ra, những người có mặt đều líu lưỡi.

Phải biết rằng, hiện nay ở Đại Chu, Long Hưng Đế chẳng khác nào một con rối, Thái hậu mới là người nắm quyền sinh sát trong tay. Thôi Tuần không chỉ công khai chỉ trích Hoàng đế mà còn chỉ trích cả Thái hậu.

Quả nhiên, Thái hậu giận đến mức đánh rơi phong thái, nổi giận quát: “Thôi Tuần, ngươi không muốn sống nữa phải không?”

Bấy giờ, Thôi Tụng Thanh, người vẫn giữ im lặng từ đầu đến giờ, cũng không ngồi yên được nữa, ông ta nói: “Thôi Tuần, vụ án Thiên Uy quân đã kết thúc, thiên hạ không có quân phụ sai trái, ngươi đừng làm càn nữa.”

Một số đại thần cũng bắt đầu phụ họa. Tư tưởng trung quân hiếu nghĩa là thứ tư tưởng thâm căn cố đế trong lòng những người đọc sách, dù họ nhận ra có lẽ quân phụ đúng như những gì Thôi Tuần đã nói – hãm hại trung lương, bán rẻ bách tính – nhưng họ vẫn cố chấp không muốn tin. Một số người hùa theo lại có một suy tính khác: nếu chuyện quân phụ b.án n.ước bị truyền ra ngoài, đây sẽ là một vết nhơ lớn. Vậy sau này bá tánh còn dám tin tưởng triều đình nữa không? Phiên bang còn dám ngưỡng vọng Đại Chu nữa không?

Vì thế, bằng mọi giá, chuyện này phải dừng lại tại đây.

Giữa những lời trách móc dồn dập, Thôi Tuần bỗng bật cười, tiếng xích sắt leng keng vang vọng. Hắn chậm rãi đứng lên, bình tĩnh nhìn Thôi Tụng Thanh, vị bá phụ mà hắn từng tôn kính, trầm giọng nói:

“Hôm ấy, thi thể của Thịnh Vân Đình bị đào lên giữa quan đạo. Rõ ràng Thôi tướng công biết cái chết của Thịnh Vân Đình tất có nội tình, vậy mà lại lựa chọn làm ngơ, nhắm mắt cho qua. Vì sao? Vì Thôi tướng công còn có Tân chính Thái Xương phải thúc đẩy, còn có Lư đảng phải đối phó, làm sao có thể vì một Thịnh Vân Đình mà bỏ qua đại cục? Nay, Thôi tướng công vẫn vì đại cục mà không đếm xỉa đến nỗi oan khuất của Thiên Uy quân, không quan tâm đến sinh tử của bách tính sáu châu. Đây chính là đạo của Thôi tướng công. Nhưng ta khinh thường đạo của Thôi tướng công, càng lấy làm sỉ nhục vì nó. Một thứ đạo mà ngay cả oan khuất của tướng sĩ chết vì nước cũng không quan tâm, ngay cả tính mạng của dân lành vô tội cũng không đếm xỉa, thì thứ đạo ấy, có cũng vô dụng!”

Thôi Tuần không còn gọi ông ta “bá phụ” nữa mà đổi sang “Thôi tướng công”, đủ để thấy sự khinh miệt trong lòng hắn đã lớn đến mức nào. Thôi Tụng Thanh trợn tròn mắt, nhưng còn chưa kịp phản ứng, Thôi Tuần đã lại quét mắt nhìn đám đại thần chọn cách đồng tình kia: “Năm xưa, Thế Tông của tiền triều từng sai Tể tướng Tiền Minh Uyên giết oan đại tướng Hàn Dụ. Thiên hạ chấn động, người người nối tiếp nhau kêu oan cho Hàn Dụ. Nhưng lúc đó, tất cả mũi dùi đều chỉ nhắm vào Tiền Minh Uyên, chứ không ai nhắm đến Thế Tông. Đến khi Hàn Dụ được minh oan, thiên hạ vẫn chỉ nói Thế Tông bị hạng tiểu nhân lừa bịp. Từ cổ chí kim, chỉ có quân phụ bị che mắt, chứ không có quân phụ làm sai. Chư vị cũng nghĩ như vậy, đúng không? Nhưng trước khi làm thần tử của quân phụ, lẽ nào chư vị không nên là một con người trước đã? Đã là con người, ắt phải biết thế nào là đúng, thế nào là sai. Cấu kết Hồ Lỗ là đúng ư? Hãm hại trung lương là đúng ư? Bán đứng bách tính là đúng ư? Ta tin rằng, không ai trong chư vị dám nói đó là đúng cả. Vậy lẽ nào, các vị đọc sách Thánh hiền, dốc lòng dùi mài kinh sử, chỉ để đi theo cái sai đó?”



Chúng nhân đều sững sờ, trong ánh mắt lộ ra vẻ mơ hồ khó tả. Thế nhưng, dưới tư tưởng trung quân đã ăn sâu bén rễ, không một ai dám lên tiếng hưởng ứng lời nói của Thôi Tuần. Hắn cũng chẳng hề ngạc nhiên trước kết cục này, ngược lại, trong lòng càng thêm thản nhiên. Những điều hắn muốn nói, đều đã nói hết.

Câu cuối cùng, hắn hướng về phía Long Hưng Đế và Thái hậu: “Thánh nhân vì tư dục mà vứt bỏ tướng sĩ, bách tính, không xứng làm quân. Thái hậu chỉ biết nghĩ cho con mình, không đoái hoài gì đến con của tướng sĩ, con của bách tính, cũng chẳng xứng làm Thái hậu!”

Thái hậu tức giận đến toàn thân phát run, ngón tay bà run rẩy chỉ vào Thôi Tuần: “Người đâu! Áp giải hắn xuống!”

Bà không giống như Long Hưng Đế, vì muốn bịt miệng bá tánh mà mang tâm tư tranh luận với Thôi Tuần, để rồi biến triều đường thành một vở hài kịch. Bà nắm quyền sinh quyền sát trong tay, sao phải tranh luận? Bà muốn hắn sống, hắn liền sống; muốn hắn chết, hắn liền phải chết.



Huyết Bồn Khổ Giới.

Ngư Phù Nguy ôm chặt Lý Doanh, chỉ còn một chút nữa là có thể rời khỏi cây cầu gỗ. Lý Doanh hoảng loạn đến cùng cực, nàng tựa đầu vào cánh tay hắn, đột nhiên há miệng, dùng toàn bộ sức lực cắn mạnh lên cánh tay đó.

Lực cắn quá lớn khiến Ngư Phù Nguy đau điếng người, theo phản xạ buông tay, Lý Doanh lập tức rơi xuống cây cầu gỗ. Không biết lấy đâu ra khí lực, nàng liều mạng bò về phía mép cầu, nàng phải đi vào Địa Ngục Huyết Trì!

Chỉ cần nàng vào đó, Ngư Phù Nguy sẽ không thể đuổi theo. Trên người nàng có xá lợi Phật đỉnh, quỷ thú trong Địa Ngục Huyết Trì sẽ không thể làm hại nàng được.

Nàng gắng sức bò về phía bờ cầu, nửa người đã rơi xuống dưới. Ngư Phù Nguy kinh hãi, vội nhào tới ôm chặt lấy eo nàng, ngăn cản nàng rơi xuống. Nhưng ngay lúc ấy, một con Ba Nhân Tượng lặng lẽ nhảy vọt lên từ huyết trì, hàm răng sắc nhọn cắn lấy vạt áo của Ngư Phù Nguy, kéo hắn rơi thẳng vào Địa Ngục Huyết Trì.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 150: Ngư Phù Nguy, ngươi sao thế?


Nước bắn tung tóe, Ngư Phù Nguy chìm vào Địa Ngục Huyết Trì. Nước trong hồ đỏ sẫm bỏng rát tựa như lửa thiêu, khiến hắn đau đớn đến tận xương tủy, cơn thống khổ không phải người thường có thể chịu đựng được làm hắn lập tức ngất lịm. Dưới đáy hồ, quỷ thú nhanh chóng lao tới, há cái miệng đầy răng nanh sắc nhọn, định nuốt chửng hắn.

Đã vạn năm nay Địa Ngục Huyết Trì chưa từng thấy bóng dáng người sống, trong khi máu thịt của người sống lại có sức hấp dẫn đặc biệt với quỷ thú. Một con quỷ giống Ba Nhân Tượng cắn vào bắp chân Ngư Phù Nguy, máu tươi trào ra làm lũ quỷ thú trong hồ trở nên cuồng loạn, chỉ chực xé xác hắn ra thành từng mảnh.

Lý Doanh không hề suy nghĩ, chỉ ôm chặt xá lợi Phật đỉnh, dốc sức bò về phía trước rồi lao thẳng xuống huyết trì.

Nàng muốn cứu Ngư Phù Nguy.

Nàng hoàn toàn có thể bỏ mặc hắn, chỉ cần mang theo xá lợi Phật đỉnh rời khỏi Huyết Bồn Khổ Giới, thoát ra Sinh Tử Đạo để trở lại nhân gian. Như vậy, nàng sẽ có thể cứu được lang quân của mình. Phải biết rằng lang quân của nàng lúc này đang lâm vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc, không biết đang phải chịu giày vò ra sao. Nếu chậm trễ, e rằng nàng sẽ vĩnh viễn không còn cơ hội gặp lại chàng.

Thế nhưng, nàng không hề đắn do dù chỉ một khắc, cũng chẳng màng đến tính mạng của bản thân. Dồn hết sức lực, nàng rời khỏi cầu gỗ, lao xuống huyết trì, chỉ để cứu một người đã từng muốn đưa nàng tới Vong Tử Thành.

Đây chính là Lý Doanh.

Khoảnh khắc rơi xuống huyết trì, nàng cũng giống như Ngư Phù Nguy, lập tức bị làn nước sôi bỏng rát nhấn chìm, cơn đau xuyên thấu tận cốt tủy. Nhưng ngay lúc đó, xá lợi Phật đỉnh bừng lên ánh sáng trắng chói lòa, như lưỡi kiếm sắc bén chém vào lũ quỷ thú đang lao vào cắn xé Ngư Phù Nguy. Bị ánh sáng Phật pháp giáng xuống, bầy quỷ thú đau đớn gào rú, quằn quại lùi lại, rồi nhanh chóng quay đầu tháo chạy.

Những ác hồn chịu hình phạt trong huyết trì cũng bị ánh sáng Phật pháp chấn nhiếp. Có kẻ giơ bàn tay xương trắng, mong được xá lợi Phật đỉnh độ hóa, nhưng chỉ vừa chạm tới ánh sáng, chúng đã bị ánh sáng thiêu cháy, thân thể bốc lên làn khói trắng, liền sợ hãi mà rụt tay lại. Không còn ai dám tới gần xá lợi Phật đỉnh, cũng không ai dám chạm vào Lý Doanh và Ngư Phù Nguy.

Ngư Phù Nguy đã hôn mê bất tỉnh. Lý Doanh bị nước hồ nóng bỏng làm thương tích chồng chất, thần trí cũng dần trở nên mơ hồ. Trước khi chìm sâu vào cơn mê, nàng gom góp chút sức lực cuối cùng, nắm lấy cánh tay Ngư Phù Nguy, nhét xá lợi Phật đỉnh vào lòng bàn tay hắn. Ý thức nàng dần mờ đi, đôi mắt chậm rãi khép lại.

Giữa huyết trì đỏ ngầu, ánh sáng Phật pháp từ tay Ngư Phù Nguy lan tỏa ra bốn phía, như những nhánh dây leo mọc vươn lên từ đáy hồ. Cuối cùng, ánh sáng kết thành một đóa Phật đài khổng lồ, nâng Lý Doanh và Ngư Phù Nguy lên khỏi mặt nước, bảo vệ bọn họ không còn chịu sự thiêu đốt của huyết trì.

Trên cầu gỗ, câu hồn sứ giả trợn tròn mắt nhìn cảnh tượng trước mặt. Gã đảo mắt nhìn quanh, chấn động này chắc chắn sẽ kinh động đến quỷ lại. Đợi quỷ lại đến nơi, cả Lý Doanh lẫn Ngư Phù Nguy ắt đều không thể thoát thân.

Gã nghiến răng, đạp chân xuống đất một cái, rồi quay đầu chạy thẳng.

Trong Địa Ngục Huyết Trì, chỉ còn lại đóa Phật đài trắng tinh thuần khiết, lơ lửng giữa không trung, cùng với lũ ác hồn, quỷ thú bao quanh mà không dám đến gần.

Nếu không có gì bất ngờ, quỷ lại trong Huyết Bồn Khổ Giới sẽ lần theo động tĩnh tìm đến, bắt giữ cả Lý Doanh lẫn Ngư Phù Nguy để tra xét. Nhưng đúng vào lúc này, một con đò nhỏ đơn độc từ Nại Hà, theo dòng nước lặng lẽ trôi dạt đến Địa Ngục Huyết Trì.

Người lái đò đội nón trúc, chống nhẹ mái chèo, đưa con đò nhỏ trôi đến bên đóa Phật đài. Lão thu lại cây sào trúc, cúi người xuống, nhẹ nhàng v.uốt ve mái tóc Lý Doanh. Nhìn sắc mặt tái nhợt của nàng giữa cơn hôn mê, lão khẽ thở dài, ánh mắt dời sang Ngư Phù Nguy, một người cũng đang bất tỉnh. Thần sắc lão trở nên phức tạp, khẽ lắc đầu, thấp giọng lẩm bẩm: “Chỉ mong lần này ngươi đừng phụ nàng thêm nữa.”

Lão đứng thẳng dậy, nâng tay lên, một ngọn quỷ hỏa xanh lục bừng cháy trong lòng bàn tay, hóa thành luồng sáng dịu dàng, đẩy đóa Phật đài lững lờ trôi ra khỏi huyết trì.



Trong cung Hàn Lương, Long Hưng Đế ngồi tựa trên chiếc sạp thấp, đầu ngón tay lướt nhẹ qua bộ giáp nữ tướng trước mặt. Là hoàng đế một cõi, nhưng hắn có một người mẹ cường thế, si mê quyền lực đến mức dù hắn đã trưởng thành vẫn không chịu buông tay.

Từ khi còn bé, hắn đã hiểu rõ một điều, ở hoàng thất không có thứ gọi là tình thân. Vì thế, hắn sống trong nỗi sợ bị phế truất suốt từng giây từng phút, kể cả khi mẹ hắn chưa từng biểu lộ ý định đó, thì hắn vẫn luôn phải dè chừng.

Chính vì thế, hắn căm ghét tất cả những phi tần mà mẹ hắn đã chọn cho hắn. Dù những người đó có dung mạo đoan trang, tính tình dịu dàng, tri thư đạt lễ, không có lấy một khuyết điểm nào để bắt bẻ, thì hắn vẫn ghét cay ghét đắng. Đơn giản chỉ vì họ là người do mẹ hắn chọn cho hắn.

Mãi đến khi Huệ phi, một nữ nhân đến từ thảo nguyên xuất hiện. Khác xa với đám phi tần trong cung cấm, nàng ta có vết sẹo bỏng lớn bên má phải, để che giấu nó, nàng đã xăm lên mặt một hoa sen đỏ rực. Tính tình nàng ích kỷ, tàn nhẫn, chẳng biết được mấy chữ. Nàng không giống những nữ nhân khác, chưa từng lấy lòng hắn, càng không hề ngoan ngoãn thuận theo. Nhìn từ góc độ nào đi nữa, nàng cũng chẳng phải một nữ tử thích hợp làm phi tần.

Vậy mà hắn lại yêu nàng.

Hắn sủng ái Huệ phi muôn phần, dù biết rõ trong lòng nàng còn vương vấn một người đàn ông khác, hắn vẫn yêu chiều nàng, thậm chí chẳng màng đến thân phận Hồ nữ, hắn vẫn ban kiếm cho nàng. Hắn cũng cho nàng mặc áo giáp, ngày đêm kề cận. Khi ngủ, chỉ cần có nàng cầm kiếm hộ giá bên cạnh, hắn liền yên giấc vô cùng.

Nhưng nữ nhân từng khiến hắn yên lòng ấy, nay đã không còn nữa.

Hắn mơ hồ nhớ lại ngày trục xuất nàng khỏi cung, rốt cuộc vẫn không kiềm được mà hỏi: “Trẫm đối xử với nàng chưa đủ tốt đúng không? Vì sao cứ nhớ mãi về hắn?”

Nàng thoáng chần chừ, rồi đáp: “Thánh nhân đối xử rất tốt với Ngột Đóa, nhưng thứ gì dễ dàng có được, Ngột Đóa sẽ không trân trọng.”

Nàng chính là người như vậy đấy: cố chấp, tàn nhẫn, hoang đường, không từ thủ đoạn. Tất cả những phẩm tính mà một nữ nhân không nên có, nàng đều có cả. Không sao, hắn cũng thế, những gì một bậc đế vương không nên có, hắn đều có đủ.

Thái hậu từng hoài nghi hỏi hắn, rốt cuộc hắn thích Huệ phi ở điểm nào. Đây chính là đáp án.

Long Hưng Đế v.uốt ve bộ khôi giáp của Huệ phi, hai hàng lệ cuối cùng cũng lặng lẽ lăn xuống trên gương mặt tuấn tú. Vị quân vương vốn được bách tính ca tụng như thần tiên trên trời, lúc này đây, ánh mắt lại chỉ toàn nỗi oán hận khắc cốt ghi tâm. Hắn hỏi nội thị: “Thái hậu vẫn chưa xử trí Thôi Tuần à?”

Nội thị dè dặt đáp: “Chưa ạ.”

“Chuẩn bị bộ liễn, trẫm muốn đến điện Bồng Lai.”

Nội thị thoáng ngập ngừng, khuyên nhủ: “Hiện nay Thánh nhân ở tình thế khó xử, hà tất phải đến điện Bồng Lai? Thôi Tuần gây chuyện động trời, dù Thái hậu có sủng ái hắn thế nào đi nữa, e rằng cũng không thể dung thứ. Thánh nhân chỉ cần an tĩnh chờ tin lành là được rồi ạ.”

Long Hưng Đế cười lạnh: “Ngươi thì biết gì?”

Hắn hỏi nội thị: “Thái hậu có mấy nhi tử?”

“Chỉ… chỉ có mình Thánh nhân.”

“Hậu duệ thì sao?”

“Vẫn… vẫn chưa có.”

Long Hưng Đế gằn từng chữ: “Vậy nên, giữa Thôi Tuần và trẫm, bất kể công hay tư, bà ấy chỉ có thể chọn trẫm.”



Về việc vì sao đến nay Long Hưng Đế vẫn chưa có con, chỉ có hắn là người hiểu rõ nhất.

Trước khi nắm giữ quyền lực tuyệt đối, hắn sẽ không để bản thân có hoàng tử.

Mẫu tử ruột thịt mà còn toan tính đến mức này. Bách quan luôn cho rằng hắn quá mức nhân nghĩa, chẳng giống con trai của một Thái Xương Đế mưu sâu tính kỹ chút nào. Nhưng không ai biết, trong số các huynh đệ của hắn, hắn mới chính là người giống Thái Xương Đế nhất.

Trong điện Bồng Lai, Long Hưng Đế quỳ trước mặt Thái hậu. Chỉ qua một đêm, dường như bà đã già đi rất nhiều. Bà nằm nghiêng trên giường, nhắm mắt chẳng muốn nhìn mặt hắn. Một lúc lâu sau, bà mới chậm rãi hỏi: “Những gì Thôi Tuần cáo buộc con có đúng không?”

Long Hưng Đế đáp một cách dứt khoát: “Không.”

Thái hậu từ tốn mở mắt, nhìn chằm chằm vào hắn. Nhưng trên gương mặt Long Hưng Đế không hề có lấy một tia hổ thẹn. Nửa ngày sau, bà mới thở dài một hơi, giọng nói tràn ngập đau đớn: “Được, con nói không phải, vậy a nương sẽ tin con.”

Bách quan vì hai chữ “trung quân” mà tự dối lòng, còn bà thì sao, chẳng phải cũng vì yêu con mà tự dối lòng đó sao?

Long Hưng Đế không hề lộ vẻ vui mừng, hắn điềm tĩnh nói từng câu từng chữ: “A nương, giờ đây, giữa nhi tử và Thôi Tuần chỉ có một người được sống sót. A nương hãy chọn đi.”

Thế nhưng, Thái hậu lại do dự. Thôi Tuần gióng trống Đăng Văn, tố giác bà cùng Long Hưng Đế, tội này đáng tru di cả vạn lần, vậy mà bà vẫn còn lưỡng lự. Long Hưng Đế cúi đầu, âm thầm siết chặt nắm tay, móng tay đâm sâu vào da thịt, đau thấu tận tim.

Nhưng dù hận đến đâu, ngoài mặt cũng không thể để lộ. Hắn cũng chẳng nói thêm lời nào, yên lặng chờ Thái hậu đưa ra lựa chọn.

Mãi đến khi hương bạch đàn trong lư hương Bác Sơn hình đầu phượng cháy hết, Thái hậu bất chợt lên tiếng. Bà nắm chặt túi hương bằng bạc chạm rỗng hoa điểu bồ đào trong tay, nghiêng người, quay lưng về phía Long Hưng Đế, giọng nói mơ màng như đang mộng du, chẳng rõ đang nói với ai: “A nương… không giữ nổi Thôi Tuần nữa rồi…”

Long Hưng Đế ngước mắt nhìn lên, sau một hồi im lặng, cuối cùng Thái hậu cũng nhắm mắt, thấp giọng nói: “Bồ Tát Bảo… xử trí Thôi Tuần ra sao, tùy con định đoạt.”



Thái hậu không còn che chở cho Thôi Tuần nữa, Long Hưng Đế lập tức hạ lệnh: giao cho Tam Ty gồm Ngự Sử Đài, Đại Lý Tự và Hình Bộ cùng thẩm tra, nhất định phải khiến Thôi Tuần thừa nhận rằng hắn đã vu khống quân phụ, có ý đồ lật đổ Đại Chu.

Lư Hoài bị đuổi về phủ chờ xử lý. Long Hưng Đế cố ý chọn một Ngự sử vừa trung thành vừa bảo thủ làm chủ thẩm. Vị ngự sử này cả đời chỉ biết đến đạo lý: “Chưa có quân thần, đã sẵn đạo quân thần.” Ông ta xin thỉnh thị của Long Hưng Đế, hỏi nếu Thôi Tuần không chịu nhận tội, liệu có thể dụng hình hay không.

Long Hưng Đế khẽ gật đầu. Trong tâm trí hắn hiện lên dung nhan rực rỡ như một đóa sen của Huệ phi. Trong cơn ghen ghét, móng tay lại càng bấu chặt vào lòng bàn tay, hắn cười lạnh: “Thôi Tuần chẳng qua chỉ là thứ yêu nghiệt lấy sắc hầu người, quyến rũ quân chủ, một kẻ như hắn mà cũng xứng dùng đến hình cụ của nam nhân sao? Dùng hình cụ của nữ nhân đi! Truyền đạt nguyên văn lời này của trẫm cho hắn!”

Ngự sử tuân lệnh. Dưới sự thẩm tra của Tam Ty, Thôi Tuần kiên quyết không nhận tội vu cáo. Tam Ty ra lệnh dùng hình, nhưng chỉ dùng hình cụ của nữ nhân để làm nhục hắn. Trước tiên là châm hình, những cây kim sắt xuyên qua kẽ móng tay. Sau đó là trát hình, dùng những thanh trúc kẹp lấy ngón tay, mười ngón liền tâm, đau đớn đến thấu xương. Trong ba ngày, Thôi Tuần đau đến ngất đi tám lần, bị dội nước lạnh tỉnh lại rồi tiếp tục chịu hình. Dưới cực hình tra tấn, mười ngón tay của hắn gãy nát, máu thịt bầy nhầy, thê thảm không nỡ nhìn.

Nhưng dẫu bị làm nhục thế nào, chịu những hình phạt tàn khốc ra sao, Thôi Tuần vẫn không nhận tội. Hắn chỉ lặp đi lặp lại một câu duy nhất: “Quân phụ b.án n.ước, chẳng bằng cầm thú, chẳng bằng súc sinh!”



Lý Doanh tỉnh lại giữa một rừng hoa Mạn Châu Sa.

Nàng cố gắng mở mắt, cơ thể vẫn mềm nhũn, yếu ớt vô lực. Bên cạnh nàng, Ngư Phù Nguy vẫn đang hôn mê bất tỉnh. Lý Doanh lê người đến gần, đưa tay đẩy hắn: “Ngư Phù Nguy? Ngư Phù Nguy?”

Cuối cùng, hắn cũng chậm rãi tỉnh lại. Trong tay hắn vẫn nắm chặt một viên xá lợi Phật đỉnh, vết thương do quỷ thú cắn xé trên thân đã hoàn toàn lành lặn. Theo lý mà nói, hắn lẽ ra phải khỏe lại, thế nhưng trong ánh mắt hắn chỉ có sự mờ mịt đáng sợ.

Hắn nhìn chằm chằm vào Lý Doanh: “Ngươi… vừa gọi ta là gì?”

Lý Doanh tê rần cả da đầu: “Ngư Phù Nguy, ngươi sao thế?”

Ngư Phù Nguy không đáp, tựa như đang chìm trong hồi ức nào đó, vẻ mặt thống khổ giằng xé. Lý Doanh không hiểu, nàng vừa định mở miệng thì chợt thấy một toán quỷ lại áo lục, tay cầm xiềng xích, đang tiến về phía này. Nàng vội vàng rạp mình xuống rừng Mạn Châu Sa, không dám cử động. Nhớ đến chuyện Ngư Phù Nguy muốn đưa nàng đến Vong Tử Thành, nàng nhỏ giọng cầu xin: “Ngư Phù Nguy, quỷ lại của Vong Tử Thành đến bắt ta rồi, nhưng ta không thể đi, ta phải cứu Thôi Tuần… Ta xin ngươi, đừng lên tiếng, ngươi muốn gì ta cũng đáp ứng ngươi…”

Ánh mắt Ngư Phù Nguy khẽ động, hắn nhìn về phía quỷ lại áo lục, lẩm bẩm: “Quỷ lại… của Vong Tử Thành?”

Lý Doanh tim đập thình thịch, nhưng Ngư Phù Nguy lại bỗng im lặng, chỉ nằm im cùng nàng giữa biển hoa đỏ thẫm. Đám quỷ lại dừng bước, nhìn quanh rừng Mạn Châu Sa rợp trời, có lẽ không thấy gì khác nên lại kéo xiềng xích rời đi tìm kiếm nơi khác.

Lý Doanh cuối cùng cũng thở phào nhẹ nhõm. Nàng chống người ngồi dậy, vừa định cảm tạ Ngư Phù Nguy thì lại bắt gặp trong mắt hắn lóe lên một tia độc ác chưa từng thấy. Nàng không khỏi run lên: “Ngư Phù Nguy… ngươi… ngươi sao thế?”

Ngư Phù Nguy trừng mắt nhìn nàng đầy oán độc. Giây tiếp theo, hắn đột nhiên nhào đến, bóp chặt cổ nàng, sức lực mạnh đến mức khiến nàng gần như nghẹt thở: “Ta là Ngư Phù Nguy, ta cũng là Trịnh Quân!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 151: Giết nàng, hay cứu nàng?


“Trịnh Quân?”

Chẳng phải Trịnh Quân đã chết rồi sao? Chẳng phải hắn cũng giống nàng, đã chết suốt ba mươi năm nay rồi sao?

Lý Doanh trừng lớn mắt, kinh hoàng nhìn gương mặt chẳng giống Trịnh Quân một chút nào kia. Ngư Phù Nguy… sao có thể là Trịnh Quân được?

Dường như nhìn thấu suy nghĩ trong lòng nàng, ngón tay Ngư Phù Nguy càng bóp chặt hơn: “Ngư Phù Nguy chính là kiếp sau của Trịnh Quân!”

Ngư Phù Nguy là kiếp sau của Trịnh Quân? Ngư Phù Nguy là chuyển thế của Trịnh Quân?

Linh hồn chuyển thế, uống xong bát canh Mạnh Bà thì những chuyện của tiền kiếp đều sẽ quên sạch.

Nếu không rơi xuống Địa Ngục Huyết Trì, không bị nước trong hồ nhấn chìm, Ngư Phù Nguy cũng sẽ không nhớ lại kiếp trước.

Mà một khi đã nhớ ra thì đồng thời cũng nhớ đến cảnh cả gia tộc bị tàn sát.

Hận ý khắc sâu tận xương trỗi dậy, những ngón tay siết trên cổ Lý Doanh càng lúc càng chặt. Nàng bị bóp đến khó thở, ra sức giãy giụa, nâng tay đập mạnh vào cánh tay Ngư Phù Nguy, muốn hắn buông ra. Nhưng cơ thể nàng vốn đã suy nhược, sức lực ấy chẳng thấm vào đâu so với hắn. Ngư Phù Nguy hận chết nàng, hắn muốn b.óp ch.ết nàng. Khuôn mặt hắn vặn vẹo: “Ngươi hại cả nhà họ Trịnh ta! Người như ngươi mà cũng xứng với hai chữ “lương thiện” ư?”

Ngư Phù Nguy trừng mắt nhìn nàng, ánh mắt tràn đầy đau đớn và cuồng nộ: “Ngươi đáng chết! Ngươi thật sự đáng chết!”

Lý Doanh bị bóp đến nghẹt thở, khuôn mặt đỏ bừng, trong mắt dâng lên hơi nước. Một giọt lệ từ khóe mắt nàng lặng lẽ lăn xuống. Nhìn thấy giọt nước mắt ấy, toàn thân Ngư Phù Nguy bỗng run lên, như bị điều gì đó làm chấn động, cả người hắn sững sờ.

Trong lòng hắn tựa như có hai giọng nói đang giằng xé. Hắn không ngừng nhắc nhở mình rằng hắn là Trịnh Quân, mà Trịnh Quân thì nên giết Lý Doanh, nên xé nát linh hồn nàng để báo thù cho cả nhà họ Trịnh. Nhưng… ngoài là Trịnh Quân, hắn còn là Ngư Phù Nguy. Mà Ngư Phù Nguy… thì sẽ không đời nào xuống tay với Lý Doanh.

Những ký ức xưa lần lượt hiện về, có quá khứ của Trịnh Quân, nhưng càng nhiều hơn là những hồi ức thuộc về Ngư Phù Nguy. Hắn nhớ đến từng khoảnh khắc ở bên nàng, nhớ rằng nàng chưa từng xem thường hắn chỉ vì hắn là một thương nhân, trái lại, nàng vẫn đối đãi với hắn bằng lễ nghĩa chu toàn, để rồi từ đó rễ tình đâm sâu, khiến hắn dần đem lòng yêu nàng. Ngư Phù Nguy đã yêu Lý Doanh đến nhường ấy… làm sao hắn có thể làm tổn thương nàng được?

Nội tâm hắn giằng co mãnh liệt, cuối cùng, bàn tay đang siết chặt cổ nàng dần nới lỏng.

Không khí ào vào mũi, vào miệng, Lý Doanh như vừa thoát khỏi Quỷ Môn Quan, ho sặc sụa từng hồi. Ngư Phù Nguy đứng thẳng dậy, nhìn xuống đôi bàn tay mình, lẩm bẩm: “Ta không giết được ngươi… Ta không giết được ngươi…”

Nhưng trên mặt hắn vẫn là vẻ đau đớn đến tột cùng: “Nhưng ngươi đã hại ta, hại cha mẹ ta, hại cả gia tộc ta… ta nhất định phải giết ngươi…”

Hắn cúi người nhặt xá lợi Phật đỉnh rơi dưới đất, rồi siết chặt trong tay, hàm răng nghiến lại. Bỗng, hắn xoay người bước đi, không hề ngoảnh lại, từng bước chìm vào biển hoa Mạn Châu Sa.

Cứ thế, hắn tàn nhẫn bỏ mặc Lý Doanh trên Sinh Tử Đạo.

Không có xá lợi Phật đỉnh, Lý Doanh chỉ có thể mắc kẹt trong Sinh Tử Đạo, không thể ra ngoài, cũng chẳng thể quay lại. Nàng sẽ vĩnh viễn bị giam cầm trong bóng tối hư vô, chẳng còn cơ hội nhìn thấy ánh mặt trời.



Ngư Phù Nguy nắm chặt xá lợi Phật đỉnh trong tay, loạng choạng bước ra khỏi Sinh Tử Đạo, rời khỏi Địa phủ.

Hắn từ núi Bàn Trủng quay về Trường An.

Trong đại trạch Ngư phủ, tiếng sáo trúc bắt đầu ngân vang.

Ngư Phù Nguy uống đến say mèm, một tay vỗ mạnh lên trống Hạt [1] một tay nâng chén rượu, ánh mắt lướt qua vòng eo mảnh mai của vũ cơ người Hồ. Nàng vận váy lụa đỏ thắm thêu hoa thạch lựu, mái tóc dài buông rũ, điểm xuyết những chiếc chuông vàng li ti. Theo từng nhịp trống dồn dập, Hồ cơ kiễng chân, xoay tròn trên tấm thảm dệt hoa văn liên châu hình bầu dục. Lúc nàng xoay người, chuông vàng vang lên lanh lảnh, tà váy đỏ như mẫu đơn đúng kỳ nở rộ, chói mắt rực rỡ.

Một khúc vừa dứt, váy mẫu đơn dần thu mình lại. Ngư Phù Nguy vỗ trống, cười trong men say: “Tà áo xoay bay tựa trời tuyết, lưỡi kiếm vung lên nổi cuồng phong. Hay! Hay lắm!”

[1] Trống Hạt/Yết cổ (trống phong yêu) (gốc: 羯鼓): trống có dạng đồng hồ cát; phần giữa nhỏ thắt lại, hai đầu là mặt trống tròn, căng và phần được gõ bằng dùi trống làm bằng thanh tre vót mỏng. Nó cũng được du nhập vào Triều Tiên là Janggu và Kakko ở Nhật Bản. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 152: Túi hương này từ đâu mà có?


rên đường trở về Trường An, hai người đều im lặng.

Cuối cùng, Lý Doanh là người lên tiếng trước. Nàng hỏi vì sao trước đây hắn đưa nàng đến Vong Tử thành, nhưng nay lại đồng ý đưa nàng về Trường An. Ngư Phù Nguy không đáp, chỉ nói: “Sau khi chết, Trịnh Quân rơi vào ác đạo, bị giam trong Vong Tử thành.”

Lý Doanh khựng lại, Ngư Phù Nguy tiếp tục: “Hắn đối diện với những người đã chết vì hắn, trong lòng day dứt khôn nguôi. Ngày qua tháng lại, oán khí càng tích tụ. Vì muốn độ hóa Trịnh Quân, Thập điện Diêm Vương bèn để hắn luân hồi, chuyển sinh thành một Ngư Phù Nguy hoàn toàn đối lập.”

Kiếp trước, Trịnh Quân không chút công lao, chỉ nhờ xuất thân mà được hưởng bổng lộc dồi dào, địa vị cao sang. Đây chính là loại người mà Ngư Phù Nguy của kiếp này căm ghét nhất. Thập điện Diêm Vương muốn hắn từ bỏ thân phận thế gia quyền quý, trở thành hạng người dưới đáy xã hội, để những kẻ giống như hắn của kiếp trước khinh rẻ, chà đạp hắn; để lý tưởng tan vỡ, báo quốc vô môn; để trắng kiếp trước hóa thành đen kiếp này, đen kiếp trước hóa thành trắng kiếp này.

Ngư Phù Nguy bỗng lẩm bẩm: “Một giấc mộng dài, mới hiểu đúng sai vốn chẳng thể phân rõ. Đã không thể tranh luận thị phi, chi bằng dùng cái chết hôm qua đổi lấy sự sống hôm nay.”

Hắn nói: “Trước đây, vì yêu mến công chúa, lo lắng cho an nguy của nàng, ta mới đưa nàng đến Vong Tử Thành, ngăn nàng cùng Thôi Tuần chịu chết. Nhưng giờ đây, ta đã nghĩ thông suốt. Cái chết của một người, có kẻ nặng tựa Thái Sơn, có kẻ nhẹ như lông hồng. Tình yêu, sinh mệnh, thù hận của cá nhân, so với thứ nặng tựa Thái Sơn kia, cũng chỉ như lông hồng mà thôi.”

Hắn nhìn Lý Doanh chăm chú, trong mắt có chút đắng chát, chút chân thành, lại pha lẫn vài phần phức tạp chẳng thể gọi tên: “Thôi Tuần đáng để công chúa cứu hắn và công chúa cũng xứng đáng được hắn yêu sâu đậm. Thôi Tuần là nhi lang Đại Chu, công chúa càng là công chúa Đại Chu.”

Tiếng bánh xe lăn vang vọng từng hồi, Lý Doanh cắn chặt môi, đôi mắt ngấn lệ. Nàng không dám hỏi, nhưng cuối cùng vẫn lên tiếng: “Thôi Tuần… chàng thế nào rồi?”

Ngư Phù Nguy cúi đầu, khẽ thở dài: “Không ổn. Hắn bị giam trong lao ngục, chịu hình phạt tàn khốc, mười ngón tay đã bị gãy nát. Trên đời này, người có thể cứu hắn, chỉ có công chúa mà thôi.”



Trong Đại Lý Tự, Tam Ty ngày đêm thẩm vấn, nơi này đã hóa thành lò luyện ngục của nhân gian. Nhưng bên ngoài Đại Lý Tự, người đang cố gắng không chỉ có mỗi mình Lý Doanh.

Trước cổng Huyền Vũ, Hà Thập Tam cùng đám thiếu niên đứng nhìn chiếc trống Đăng Văn cao quá đầu người. Một thiếu niên nuốt nước bọt, dè dặt hỏi Hà Thập Tam: “Chúng ta phải làm thật hả?”

Hà Thập Tam mặt mày vô cảm: “Ngươi nghĩ xem, tiền thuốc men chữa bệnh cho a nương ngươi từ đâu mà có? Khi a gia ngươi qua đời, là ai đã giúp ngươi mua được quan tài?”

Thiếu niên đó nghe vậy, đôi mắt nóng lên, cúi đầu thật thấp.

Hà Thập Tam nói: “Ta không quan tâm lúc còn là Thiếu khanh Sát Sự Thính, huynh ấy đã làm những gì, dù sao cũng là chuyện tranh quyền đoạt lợi, ta không hiểu nổi. Ta chỉ biết rằng, nếu không có huynh ấy, mấy năm vừa rồi chúng ta ai cũng không sống nổi, càng không thể có được những ngày tháng tốt đẹp như hôm nay. Ngay cả súc sinh còn biết báo ân, chẳng lẽ con người lại không biết?”

Lời nói của cậu khiến đám thiếu niên sục sôi nhiệt huyết: “Được, làm thôi!”

Hà Thập Tam là người đầu tiên sải bước đến trống Đăng Văn, cầm dùi lên gõ mạnh xuống: “Oan quá! Oan quá!”

Hai Kim Ngô Vệ canh giữ trống Đăng Văn nhìn nhau, vội vàng chạy đi bẩm báo Giám Môn Vệ. Chẳng bao lâu, khi dân chúng tụ tập ngày càng đông ngoài cổng Huyền Vũ, vị Tả Giám Môn Vệ nhận được tin cũng đã đến nơi. Hắn trách mắng: “Làm gì đó?”

Hà Thập Tam lớn tiếng đáp: “Oan quá! Ta muốn kêu oan!”

“Ngươi đã cáo lên huyện, châu, hay Đại Lý Tự chưa? Nếu chưa, thì đây là hành vi vượt cấp tố cáo! Nể tình các ngươi còn nhỏ, mau quay về đi!”

“Cái gì mà vượt cấp tố cáo? Ngoài gõ trống Đăng Văn thì có huyện hay châu nào dám nhận đơn tố cáo của ta đâu?”

“Rốt cuộc ngươi muốn tố cáo ai?”

“Tố cáo các ngươi, vu oan cho a huynh của ta!”

“A huynh của ngươi là ai?”

Hà Thập Tam ưỡn ngực ngẩng cao đầu, hô vang cái tên mà trước đây cậu từng khinh thường nhất: “Thôi Tuần! Các ngươi đã vu oan cho huynh ấy!”

Tả Giám Môn Vệ sững sờ, Hà Thập Tam càng cao giọng hơn: “Huynh ấy gõ trống Đăng Văn nhưng tại sao các ngươi không điều tra mà lại giam thẳng vào Đại Lý Tự? Danh nghĩa là Tam Ty hội thẩm, nhưng thực chất chỉ là dùng cực hình để ép cung! Nếu Thánh nhân không câu kết với Đột Quyết, nếu Thái hậu không dung túng con ruột, thì sao lại sợ điều tra? Dựa vào đâu mà các ngươi không xét hỏi bị cáo, lại đi tra tấn nguyên cáo?”

Tả Giám Môn Vệ kinh hãi đến phát run, hắn chỉ tay vào Hà Thập Tam, quát: “Phản rồi! Phản rồi!”

Kim Ngô Vệ lập tức xông lên, dùng vỏ đao quất thẳng vào người Hà Thập Tam. Cậu bị đá ngã xuống đất, nhưng vẫn gào to với bách tính vây quanh: “Chẳng phải trống Đăng Văn được dùng để kêu oan hay sao? Hay là chỉ vì liên quan đến Thái hậu và Thánh nhân nên không thể gõ vào đó? “Vương tử phạm pháp, đồng tội như thứ dân”, ha, chẳng nhẽ chỉ để lừa gạt chúng ta thôi sao?”

Bách tính ngơ ngác nhìn nhau. Những thiếu niên của Thiên Uy quân khác cũng đồng loạt ùa lên, vừa không ngừng kêu oan vừa cầm dùi trống đánh xuống. Một người bị đánh gục, lại có người khác nhặt dùi trống lên tiếp tục gõ xuống. Trước trống Đăng Văn, máu nóng loang lổ, những thiếu niên bất chấp sống chết, người trước ngã xuống, người sau tiếp bước, giống như những huynh trưởng của họ, sáu năm trước trên Lạc Nhạn Lĩnh, dù biết chắc sẽ bỏ mạng, nhưng vẫn giơ cao đao kiếm, thúc ngựa xông thẳng vào vó sắt Đột Quyết.



Trong điện Bồng Lai, Thái hậu ngồi ngay ngắn sau rèm châu, lặng thinh lắng nghe tiếng trống vang lên dồn dập. Tả Giám Môn Vệ run rẩy bẩm báo: “Chỉ là đám nhóc con mười hai, mười ba tuổi, đánh không chạy, dọa không sợ. Thần đã cho bắt giam toàn bộ bọn chúng, nhưng vẫn có những đứa nghe tin kéo đến, tiếp tục gõ trống Đăng Văn. Thần cho rằng, chúng dám vọng nghị quân thượng, không bằng giết một nhóm, để răn đe kẻ khác.”

Thái hậu lạnh nhạt hỏi: “Ngươi bảo ngô giết lũ trẻ mới mười hai, mười ba tuổi?”

“Nhưng chúng phạm thượng tác loạn, đại nghịch bất đạo…”

“Trước hết cứ giam lại đi đã.” Thái hậu mệt mỏi nói: “Đứa nào tới thì giam đứa đó, đến khi nào không còn ai tới nữa thì thôi.”

Tả Giám Môn Vệ vội đáp: “Tuân lệnh.” Sau đó lại nói: “Chúng tự tiện gõ trống Đăng Văn, làm ô danh Thái hậu và Thánh nhân. Thần cho rằng, nên phái Kim Ngô Vệ canh giữ trống Đăng Văn, cấm không cho dân chúng gõ nữa. Đợi khi mọi chuyện lắng xuống rồi hẵng xử lý tiếp.”

Thái hậu không tỏ rõ thái độ, Tả Giám Môn Vệ lĩnh mệnh rời đi. Khi ra ngoài cung, hắn bắt gặp Lư Hoài khoác quan phục đỏ thẫm đang chờ bên ngoài. Đợi Thái hậu triệu kiến, Lư Hoài quỳ xuống hành lễ, sau đó đứng dậy, châm chọc nói: “Từ xưa đến nay, chưa từng có triều đại nào cấm dân chúng gõ trống Đăng Văn. Đại Chu quả nhiên đã tiên phong mở lối.”

Thái hậu ngẩng mắt nhìn hắn, Lư Hoài gầy đi trông thấy. Hắn đã lặn lội đến khu rừng hoang ngoài Trường Xuân Quán, đào thi thể của Vương Huyên lên. Thi thể Vương Huyên đã bắt đầu thối rữa, dẫu vậy, hắn vẫn có thể nhận ra, trước khi chết, vị thư sinh yếu đuối này đã chịu cảnh tra tấn thảm khốc đến nhường nào.

Đôi tay Lư Hoài run rẩy chạm vào thi thể của người bạn thân, rồi ngã quỵ trước thi thể của Vương Huyên, khóc đến ngất lịm nhiều lần.

Sau khi đưa di hài Vương Huyên về nhà họ Vương, vợ con của hắn khóc đến đứt gan đứt ruột. Lư Hoài hết lần này đến lần khác hứa hẹn sẽ chăm lo cho họ, nhưng vẫn không thể xoa dịu nỗi đau mất chồng, mất cha.

Chỉ có mẹ già của Vương Huyên vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Bà nói với Lư Hoài: “Con ta chết vì nghĩa, tiếng thơm muôn đời, một đời tiêu diêu tự tại, sao phải bi ai?”

Lư Hoài không khỏi chấn động, hắn đắn đo giây lát rồi hỏi bà, người từng là tỳ nữ của Vương thị đất Lang Gia: “Giữa nghĩa và trung, nên chọn bên nào?”

Mẹ của Vương Huyên đáp: “Nghĩa là đại nghĩa, trung là ngu trung.”

Nên chọn gì, chẳng cần nói cũng rõ.



Thời gian gần đây, Thái hậu như đã mất hết nhuệ khí. Mái tóc đen nhánh ngày nào giờ đây lấm tấm vài sợi bạc. Đôi mắt từng sắc bén kiên nghị nay cũng nhuốm vẻ mỏi mệt, ánh nhìn thiếu đi sự sắc sảo thường thấy. Mà trước những lời nói lộ vẻ châm biếm của Lư Hoài, bà cũng chỉ giữ im lặng. Cuối cùng, bà mới lên tiếng: “Lư khanh, trước đây ngô lệnh cho khanh quay về phủ chờ xử lý, không cho tham gia Tam Ty hội thẩm, quả thật là đã lạnh nhạt với khanh. Nhưng khanh tự ý thả Thôi Tuần ra, ngô cũng phải cho Thánh nhân và triều thần một lời giải thích. Đợi mọi chuyện qua đi, khanh hãy trở về Đại Lý Tự đi.”

Lư Hoài lắc đầu: “Thần sẽ không trở về Đại Lý Tự nữa.”

Thái hậu có phần sửng sốt. Lư Hoài tiếp lời: “Thúc phụ của thần do chính tay thần bắt giữ. Ông ấy đã uống thuốc độc tự vẫn trong phủ. Trước khi qua đời, ông ấy muốn thần hứa với ông ấy một điều, đó là phải trung quân, phụng chủ, không được để tiểu nhân làm hại Thánh nhân.”

Lư Hoài chậm rãi nói: “Trung quân, phụng chủ: bốn chữ ấy luôn là nguyên tắc làm quan của thúc phụ, cũng là nguyên tắc làm quan của thần. Nhưng trong suốt những ngày qua, thần không ngừng tự hỏi: thân làm bề tôi thì ắt phải trung quân, ắt phải vì chủ. Nhưng nếu quân sai lầm thì sao? Chủ sai lầm thì sao? Khi ấy, có nên tiếp tục trung quân, phụng chủ nữa không? Thần là thần tử của Đại Chu, nhưng thần cũng là một con người. Đã là con người, thì nên trung thành với quân hay trung thành với lẽ phải đây?”

Ánh mắt hắn kiên định, hẳn đã có đáp án. Sau rèm châu, Thái hậu chỉ lặng im. Ngoài điện, tiếng trống Đăng Văn lại rền vang từng hồi. Lư Hoài nghiêng tai lắng nghe, rồi nói: “Thúc phụ nuôi nấng thần trưởng thành. Những gì ông ấy răn dạy, thần vẫn luôn nhất nhất làm theo. Chỉ riêng lần này, e rằng thần phải làm trái ý ông ấy. Thần, với tư cách là một con người, muốn truy cầu đạo lý của riêng mình. Có lẽ trên con đường ấy, thần sẽ đánh mất cả tính mạng, nhưng dù vậy, thần cũng không hối tiếc.”

Những lời ấy khiến sắc mặt Thái hậu thoáng hiện vẻ hoang mang. Trung thần, bá tánh. Vì tình thương dành cho con trai, bà đã đứng về phía đối lập với những người ấy. Còn nhớ hay không, ở thời điểm bắt đầu ấy, bà từng không có nổi một đôi giày để mang. Mỗi khi ngước nhìn cung Đại Minh cao rộng uy nghi, trong lòng bà đã từng lóe lên một ý nghĩ táo bạo:

Giấc mộng của ta, thật sự chỉ là làm thiếp của người quyền thế nhất thiên hạ thôi sao?

Chẳng lẽ ta không thể khiến bách tính Đại Chu ai ai cũng có giày để mang sao?

Dù ta là nữ nhân, chẳng lẽ không thể có mộng tưởng ấy sao?

Những gì nam nhân làm được, ta cũng có thể làm được!

Thần sắc Thái hậu bàng hoàng, Lư Hoài lại nói: “Thần không làm quan nữa, cũng sẽ không quay lại Đại Lý Tự. Hình cụ của Đại Lý Tự, vốn không nên dùng để tra khảo một kẻ có tấm lòng son sắt.”

Ánh mắt hắn xuyên qua bức rèm châu lay động, mang theo chút chờ mong. Hắn mong sao có thể giành được một câu khoan dung từ Thái hậu, mở ra lối thoát cho người đã bị dập nát mười ngón tay ở trong ngục. Nhưng hắn chờ, chờ mãi, cũng chẳng đợi được điều gì. Trong lòng hắn, rốt cuộc đã trở nên nguội lạnh.

Hắn quỳ xuống, dập mạnh đầu một cái, rồi lấy từ trong tay áo ra một chiếc túi gấm ngũ sắc thêu mẫu đơn đã sờn rách: “Thần phải đi rồi. Con đường phía trước mờ mịt, nhưng con đường thần chọn, tất là con đường phải chết. Nhưng trước khi chết, thần vẫn muốn dâng vật này lên Thái hậu.”

Nội thị nhận lấy túi gấm, dâng lên Thái hậu. Ngón tay bà run lên dữ dội ngay khi vừa chạm vào nó. Bà thậm chí không giữ nổi phong thái cao quý của mình, vội vã đứng dậy, vén rèm châu, sải bước nhanh đến trước mặt Lư Hoài: “Túi gấm này, khanh lấy từ đâu ra?”

Lư Hoài đáp: “Đây là vật tùy thân của Thôi Tuần, khi hắn bị giam vào ngục, túi gấm rơi vào tay thần.Vì đã hư tổn, thần định mang đi sửa lại, nhưng tìm khắp Trường An cũng không ai có thể vá lại được. Sau cùng, một cung nữ tóc bạc nhận ra đây là túi gấm của công chúa Vĩnh An từ ba mươi năm trước.”

Phần túi bị rách lộ ra hai nhánh tóc được buộc lại bằng sợi dây đỏ.

Lư Hoài chậm rãi cất giọng: “Còn vì sao Thôi Tuần lại có túi gấm của công chúa Vĩnh An, điều đó thần không rõ. Có lẽ, thái hậu nên tự hỏi Thôi Tuần. Chỉ là, nếu Tam Ty tiếp tục tra tấn, e rằng Thôi Tuần sẽ không thể mở miệng được nữa.”

Thái hậu sững người, bà nhìn chằm chằm vào lọn tóc trong túi, gần như lắp bắp, rồi đanh giọng lệnh cho nội thị: “Truyền lệnh! Bảo Tam Ty dừng hình ngay lập tức! Đi hỏi hắn! Hỏi hắn vì sao lại có chiếc túi này!”



Thế nhưng, nội thị do Thái hậu phái đến lại không thể moi được nửa câu từ Thôi Tuần.

Ngay cả khi Thái hậu đích thân đến, hắn cũng chẳng hề hé môi.

Đây là lần thứ hai trong đời bà đặt chân đến Đại Lý Tự. Lần trước là cách đây ba năm, bà bất chấp mọi áp lực, tự mình xuống tận ngục cứu hắn ra. Còn lần này, bà lại một lần nữa khiến mọi người kinh ngạc, bước vào nơi bẩn thỉu đẫm máu ấy, siết chặt túi gấm trong tay, nhìn Thôi Tuần hỏi: “Túi gấm này, rốt cuộc từ đâu mà có?”

Ba năm trước, khát vọng cầu sinh của Thôi Tuần vô cùng mãnh liệt. Hắn biết Thái hậu là người duy nhất có thể cứu mình, vì vậy dù mình đầy thương tích, hắn vẫn cố sức bò đến dưới chân bà, níu lấy vạt váy, hạ mình cầu xin, hứa sẽ trở thành thanh đao trong tay bà, chỉ mong được bà đưa ra khỏi đại lao. Nhưng lần này, hắn gần như không còn chút khát vọng sống nào nữa, chỉ nhắm mắt làm ngơ trước những câu hỏi của bà.

Hắn đã hoàn toàn thất vọng về bà.

Thái hậu lặp lại câu hỏi: “Thôi Tuần, túi gấm này từ đâu mà có? Búi tóc bên trong là của ai?”

Hắn vẫn chỉ nhắm mắt, im lặng không đáp. Giọng Thái hậu dần lộ vẻ gấp gáp: “Thôi Tuần, ngô đang hỏi ngươi đấy!”

Cuối cùng Thôi Tuần cũng chậm rãi mở mắt. Khuôn mặt vốn đã tái nhợt vì chịu cực hình liên tục giờ đây lại càng trắng bệch đến đáng sợ. Hắn ho khan hai tiếng, mỗi cơn ho đều khiến vết thương trên người co rúm lại. Hắn cười nhạt: “Thần không muốn nói.”

Thái hậu trừng mắt: “Ngươi…”

“Thái hậu cứ việc dùng hình.” Thôi Tuần cười lạnh, đôi bàn tay vốn thon dài sạch sẽ giờ đây máu thịt be bét, chẳng còn nhận ra hình dáng ban đầu: “Dùng hình cụ dành cho nữ nhân, đúng như Thánh nhân đã truyền dạy.”

Thái hậu mím chặt môi, ánh mắt dừng lại nơi những ngón tay đẫm máu của Thôi Tuần. Kẻ sĩ có thể chết, nhưng không thể chịu nhục. Lòng bà dậy lên nỗi bi ai cùng cực.

Đứa con trai mà bà dốc sức bảo vệ, đúng là chẳng ra gì.

Bà cắn răng, quay người rời khỏi phòng giam. Trước khi đi, bà nắm chặt túi gấm, nghiêm giọng truyền lệnh: “Dù Thánh nhân có đích thân tới đây, cũng không được phép tra tấn hắn thêm nữa!”



Thái hậu rời đi, Thôi Tuần không thể chống đỡ thêm nữa, hắn mơ màng ngã xuống nền đất lạnh lẽo, khắp người đầy thương tích, đau đớn đến tột cùng. Giữa những cơn đau dồn dập, thần trí hắn dần rơi vào mê loạn.

Chỉ là, trong cơn mê man ấy, bóng hình trong trẻo như vầng trăng sáng kia lại càng thêm rõ ràng.

Hẳn nàng… đã ở Vong Tử Thành rồi.

Tốt lắm.

Đợi kẻ hại nàng chết đi, nàng sẽ chuyển kiếp đầu thai.

Không cần ở lại đây, không cần cùng hắn nhìn thấy hết thảy sự nhơ nhuốc nơi trần thế, để rồi làm vấy bẩn linh hồn thuần khiết như lưu ly của nàng.

Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, hắn không hề nhận ra đám ngục tốt đã lặng lẽ ra vào, thu dọn hết thảy những vật trừ tà cùng những lá bùa Minh Hoàng trấn quỷ trong lao ngục của Đại Lý Tự từ khi nào chẳng hay.

Một đôi nhu đề mềm mại, chạm nhẹ lên những ngón tay rướm máu của hắn.

Không rõ ai đang khóc, lại còn khóc rất thương tâm. Một giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống, chạm vào đầu ngón tay hắn.

Nước mắt mặn chát, rơi trúng vết thương, khiến hắn đau đến giật mình. Hắn chậm rãi mở mắt, nhưng ánh nhìn đột nhiên cứng đờ: “Minh Nguyệt… Châu?”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 153: Bây giờ, ta đã có tư cách hôn nàng chưa?


Lý Doanh và Ngư Phù Nguy vội vã lên đường, nhanh chóng trở lại Trường An. Lòng Lý Doanh nóng như lửa đốt, chỉ muốn đến Đại Lý Tự gặp Thôi Tuần, nhưng vì có quá nhiều người chết nên ngục thất của Đại Lý Tự giăng kín những bùa chú trừ tà, trong khi hồn phách nàng hiện giờ đã suy yếu đến cực điểm, căn bản không thể bước vào. Nàng nói với Ngư Phù Nguy: “Có lẽ người này sẽ giúp được.”

Đó là một người có lòng dạ ngay thẳng, chính trực: Đại Lý Tự Thiếu khanh, Lư Hoài.

Lư Hoài hiện đang bị cách chức ở nhà. Ngư Phù Nguy tìm đến hắn, Lư Hoài nhìn Ngư Phù Nguy, hỏi hắn là ai. Ngư Phù Nguy ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp: “Mỗ là bằng hữu của Thôi Tuần.”

Trước kia, hắn từng khinh miệt Thôi Tuần, không ít lần khuyên Lý Doanh tránh xa người ấy. Thế nhưng bây giờ, chính hắn lại chủ động đưa Lý Doanh trở về Trường An để cứu Thôi Tuần, thậm chí còn tự nhận mình là bạn của Thôi Tuần.

Hắn nói: “Khi Thôi Tuần bị vướng vào vụ án Kim Di, hắn từng nhờ mỗ đến trạm dịch Phi Vân để phá tan âm mưu của Bùi Quan Nhạc, cũng từng gửi gắm mỗ chăm sóc gia quyến của những binh sĩ Thiên Uy quân như Hà Thập Tam. Mỗ từng có cơ hội tận mắt chứng kiến hắn bất chấp hiểm nguy, một thân một mình tiến bước trên con đường rửa sạch oan khuất cho Thiên Uy quân. Con người Thôi Tuần thoạt nhìn gian trá, nhưng kỳ thực lại vô cùng cao ngạo. Có lẽ hắn sẽ không coi mỗ là bằng hữu, nhưng mỗ thì cho rằng, hắn chính là bằng hữu của mỗ.”

Lư Hoài gật đầu: “Ngươi muốn ta làm gì?”

“Nếu được thì liệu Thiếu khanh có thể cho dẹp hết những chướng vật trừ tà trong ngục Đại Lý Tự không?”

Lư Hoài chẳng hề đắn đo, dứt khoát đồng ý, khiến Ngư Phù Nguy cũng phải sửng sốt: “Lư Thiếu khanh không định hỏi lý do sao?”

Hắn vốn còn do dự, nếu Lư Hoài hỏi nguyên do, hắn nên trả lời thế nào đây? Nếu nói là có một hồn ma muốn đến gặp Thôi Tuần, liệu Lư Hoài có cho rằng hắn bị điên rồi tống thẳng ra ngoài không?

Nhưng Lư Hoài không hỏi han gì, chỉ nói: “Sao lại phải hỏi nguyên do? Ngươi là bằng hữu của Thôi Tuần, thế là đủ rồi.”

Có lẽ vì nhớ lại những lần từng chế giễu Thôi Tuần trước đây, trên mặt Lư Hoài lộ ra chút xấu hổ: “Ngươi tự nhận là bằng hữu của Thôi Tuần, nhưng ta thì không dám. Trước nay ta vẫn xem thường hắn, nhưng đến giờ ta mới hiểu, ta không bằng hắn.”

Lời vừa dứt, vẻ xấu hổ trên gương mặt hắn dần tan biến, thay vào đó là quyết tâm thấy chết không sờn: “Nhưng dù không bằng hắn, ta cũng sẽ không vì thế mà chán nản. Người có tâm tính kiên nghị như hắn trên đời này quả thực hiếm có. Những điều hắn làm được, ta không làm được, nhưng thế gian rộng lớn, vẫn có những việc ta có thể làm. Ta, Lư Hoài, tuy không thể làm bạn với Thôi Tuần, nhưng vẫn có thể làm thần tử của Đại Chu.”



Lư Hoài dù đang chịu phạt ở nhà, nhưng từ khi nhậm chức Thiếu khanh Đại Lý Tự, hắn dùng người đúng chỗ, thưởng phạt công minh, hơn hẳn những người tiền nhiệm. Vì vậy, quan lại trong Đại Lý Tự đều tâm phục khẩu phục. Hắn lệnh cho họ dỡ bỏ những vật trừ tà trong đại lao của Đại Lý Tự, không ai hỏi han nửa lời, chỉ lặng lẽ thu dọn hết bùa chú, đào mộc.

Nhờ vậy, Lý Doanh thuận lợi bước vào ngục thất của Đại Lý Tự. Nàng vội vã đi dọc hành lang sáng rực ánh lửa được đốt từ chậu than, nhưng khi đến trước buồng giam của Thôi Tuần, bước chân nàng bỗng chậm dần.

Nàng sợ.

Ngư Phù Nguy đã nói với nàng rằng, mười ngón tay của Thôi Tuần đều bị bẻ gãy. Giây phút nghe thấy điều đó, tim nàng đau như bị dao cắt. Nàng hiểu rõ, kẻ ra tay chính là a đệ cùng chung huyết mạch với nàng.

Nàng từng rất biết ơn a đệ, bởi vì y ra đời, a nương mới dần nguôi ngoai nỗi đau mất con gái. Nàng cũng đã vô số lần tưởng tượng dáng vẻ của a đệ trông thế nào. Có lẽ y sẽ giống a nương nàng hơn, dù sao đi nữa, dân gian vẫn có lời truyền tụng rằng nhìn y thanh nhã như ngọc, khí chất thần tiên, trong khi a gia lại mang nét cương nghị anh vũ. Hoặc cũng có thể, y có vài điểm tương tự với nàng.

Cứ thế, Lý Doanh dần nảy sinh thứ tình cảm máu mủ đối với người em trai nàng chưa từng gặp mặt. Trên đời này, a đệ cũng như a nương, họ đều là ruột thịt của nàng, là người thân cận nhất với nàng. Thế nên, khi Thôi Tuần nghi ngờ a đệ, nàng đã ra mặt biện hộ, nàng nói y sẽ không phản bội giang sơn xã tắc. Nhưng ai ngờ, đứa em trai mà nàng một mực tin tưởng lại làm ra những chuyện còn không bằng súc sinh.

Không chỉ vậy, y còn cố tình sai Tam Ty dùng hình cụ dành cho nữ nhân để làm nhục Thôi Tuần. Y là Hoàng đế, y có thể g.iết ch.ết Thôi Tuần, nhưng không thể đối xử với hắn bằng cách ấy! Y làm thế có xứng làm Hoàng đế không? Thậm chí, ngay cả tư cách làm người y cũng không xứng!

Lý Doanh cắn môi, trong lòng vừa đau thương vừa phẫn nộ, bước chân mỗi lúc một chậm lại. Nàng không dám đi gặp Thôi Tuần. Một phần là sợ nhìn thấy vết thương của hắn, một phần là vì xấu hổ trước tội ác mà em trai ruột cùng một mẹ với nàng đã gây ra.

Nàng chần chừ, nhưng khi đến trước cửa nhà lao của Thôi Tuần, nàng lại vô thức tăng tốc, chạy ào tới, thân mình lách qua khe cửa sắt, bước vào trong phòng giam.

Vừa bước vào, cảnh tượng bên trong khiến mắt nàng tối sầm lại. Chỉ thấy Thôi Tuần co quắp trên nền đất lạnh lẽo, hôn mê bất tỉnh. Bộ quần áo tù nhân đã không còn nhận ra màu sắc nguyên bản, loang lổ đầy máu. Mười đầu ngón tay rách nát, máu thịt lẫn lộn, lờ mờ lộ ra những đốt xương trắng dập gãy.

Trái tim Lý Doanh đau như thể bị dao cứa. Nàng gắng gượng, lê bước đến trước mặt hắn, nhưng cuối cùng cũng chẳng còn sức mà đứng vững, quỳ sụp xuống.

Nước mắt trào dâng như mưa, nàng run rẩy đưa tay chạm vào những ngón tay đẫm máu của Thôi Tuần . Nàng từng thích nhất là nằm trên đùi hắn, kéo tay hắn lại, mân mê từng ngón tay một. Khi ấy, hắn từng hỏi nàng: “Ngón tay thì có gì mà nghịch?”

Nàng cười đáp: “Bởi vì ngón tay chàng rất đẹp.”

Thế nhưng, những ngón tay đẹp đẽ ấy, những ngón tay có thể viết ra những dòng hành thảo tuyệt mỹ, có thể thổi lên những khúc tiêu du dương, có thể gấp những con châu chấu bằng cỏ… giờ đã bị hủy hoại, bị chính a đệ của nàng hủy hoại.

Nàng đau đến không nói nên lời, cổ họng nghẹn lại, nước mắt như chuỗi hạt châu bị đứt dây, từng giọt rơi xuống không ngừng. Một giọt nước mắt vô tình rớt vào vết thương của hắn, khiến hắn đau đến tỉnh lại.

Thôi Tuần mê man, khó nhọc mở mắt: “Minh… Nguyệt Châu?”

Lý Doanh càng khóc dữ dội hơn: “Là ta… là ta đây…”

Nhìn nàng khóc đến mức này, hắn vô thức muốn đưa tay lau đi những giọt nước mắt trên má nàng. Nhưng khi cánh tay vừa nhấc lên, cơn đau thấu xương đã ập tới, mặc cho hắn nghiến răng chịu đựng, mồ hôi chảy ròng trên trán vẫn tố cáo nỗi thống khổ vô cùng.

Lý Doanh nghẹn ngào: “Chàng đừng cử động…”

Thôi Tuần chăm chú nhìn nàng, bỗng thở dài một hơi, giọng khàn khàn: “Minh Nguyệt Châu, vì sao… nàng còn quay về?”

Lý Doanh vừa khóc vừa hỏi: “Tại sao ta không thể trở về? Ta còn muốn hỏi chàng, vì sao lại đưa ta đến Vong Tử Thành?”

Vì sao lại đưa nàng đến Vong Tử Thành?

Bởi vì hắn không muốn có ngày hôm nay.

Hắn không nỡ nhìn thấy nàng rơi lệ.

Hắn không trả lời mà gắng gượng chống người ngồi dậy. Nhưng chỉ vừa cử động, vết thương đã đau nhói, khiến hắn không khỏi chau mày. Lý Doanh thấy vậy liền vội đỡ hắn, giúp hắn dựa vào tường. Thôi Tuần th* d*c, nhắm mắt nói: “Minh Nguyệt Châu, nàng đi đi, đi đâu cũng được… chỉ cần không ở lại đây…”

Lý Doanh cắn môi, giọng mang theo tiếng nức nở: “Thôi Tuần, đến lúc này rồi mà chàng vẫn muốn đuổi ta đi sao?”

Thương thế của hắn quá nặng, nàng muốn ôm lấy hắn nhưng lại không dám, chỉ có thể vừa đau lòng vừa tủi thân, khóc tức tưởi: “Ta không đi, dù chàng có đuổi thế nào, ta cũng không đi.”

Có lẽ vì nàng khóc quá thương tâm, mắt Thôi Tuần cũng dần ươn ướt. Hắn thì thào: “Minh Nguyệt Châu, sao nàng lại ngốc thế này… Ta đã đánh trống Đăng Văn, tố cáo cả Thánh nhân lẫn Thái hậu, số mệnh đã định ta không thể sống sót, nàng hà tất phải ở lại cùng một kẻ chắc chắn sẽ phải chết như ta?”

Lý Doanh chỉ lắc đầu, nước mắt rơi lã chã: “Ai nói chàng phải chết? Ta về rồi, ta sẽ không để chàng chết.”

Thôi Tuần cười khổ, giọng nói yếu ớt: “Minh Nguyệt Châu, không có vị Hoàng đế nào dung thứ cho thần tử muốn tố giác tội trạng của mình, cũng không có người mẹ nào bỏ qua cho một người ngoài muốn giết con trai bà ấy. Ta vừa là thần tử, vừa là người ngoài, số mệnh đã định không thể thoát chết… Nàng đừng phí công vô ích nữa, hãy đi đi, đến Vong Tử Thành, đầu thai chuyển kiếp, đừng nhớ đến ta nữa…”

Lý Doanh cắn môi, ra sức lắc đầu: “Ta không muốn quên chàng…”

Nàng rơi lệ nói: “Nếu chàng đã biết mình là thần tử, là người ngoài, đã biết bản thân chắc chắn phải chết, vậy vì sao còn đánh trống Đăng Văn? Vì sao còn tố giác a nương và a đệ?”

Ánh mắt Thôi Tuần thoáng chút mơ màng: “Có những việc… luôn phải có người thực hiện.”

Không thể vì biết là chết mà sẽ không làm.

Lý Doanh lặng nhìn gương mặt gầy gò, tái nhợt của hắn, dung mạo như hoa sen ngày nào giờ đầy rẫy những vết thương nhỏ vụn. Kể từ khoảnh khắc Vương Huyên viết lên lòng bàn tay hắn bốn chữ “Đế sát lục châu”, hắn đã hiểu rõ kết cục của bản thân.

Đại Chu lấy hiếu trị quốc, lần này người hắn phải đối đầu không phải là những thần tử như Lư Dụ Dân hay Bùi Quan Nhạc, mà là quân phụ của Đại Chu.

Thần cáo quân, tử cáo phụ, hắn sẽ không được văn thần ủng hộ, cũng chẳng thể nhận được lòng dân. Khi quân phụ trút hết ghen ghét và phẫn nộ lên người hắn, kết cục của hắn sẽ là bị nhét hạch đào vào miệng, bị trói đưa ra pháp trường, chịu tội lăng trì. Hắn sẽ giống như Kim Di, bị dân chúng chia nhau máu thịt, xương cốt cũng không thể giữ.

Nhưng dù đã biết trước con đường phía trước chính là tử lộ, hắn vẫn chưa từng chùn bước.

Lý Doanh nhếch nhẹ khóe môi, nở một nụ cười chua xót. Nàng đưa tay, chậm rãi v.uốt ve đường chân mày của hắn: xương mày cao, đuôi mày hơi nhếch, kiểu xương mày này luôn đi cùng với tính khí bướng bỉnh. Nàng khẽ nói: “Ngư Phù Nguy bảo rằng, đêm chàng đi lấy xá lợi Phật đỉnh, hắn từng đề nghị đưa chúng ta rời khỏi Trường An, sang Tây Vực, nhưng chàng đã từ chối. Chàng nói, chàng còn chuyện chưa làm xong, vậy nên không thể rời khỏi Trường An.”

Nàng nhìn thẳng vào mắt Thôi Tuần, nhẹ giọng nói: “Ta còn chuyện chưa làm xong, nên ta sẽ không đến Vong Tử Thành.”

Nàng nói: “Chuyện chàng chưa làm xong chính là một mình bước lên con đường tất tử. Còn chuyện ta chưa làm xong chính là nghịch thiên cải mệnh, biến con đường tất tử của chàng, hóa thành con đường tất sinh.”

Đôi mắt nàng ngập tràn nước mắt: “Chàng đừng xem thường ta. Chàng dám làm chuyện không ai dám tán đồng, tố cáo quân phụ, thì ta cũng dám làm trái lẽ trời, xoay chuyển càn khôn.”

Hốc mắt Thôi Tuần nóng lên, hắn lẩm bẩm: “Hà tất phải vậy?”

Hà tất phải vì hắn mà đánh đổi sinh mệnh, từ bỏ tình thân?

Hắn có tài đức gì để khiến nàng cố gắng đến mức này?

Đôi mắt Lý Doanh đỏ hoe, nàng cúi đầu nhìn những ngón tay chỉ còn da bọc xương của hắn, lòng nàng đau đến tột cùng. Nàng cắn môi, khẽ nói: “Ta biết lần này, người chàng muốn đưa ra trước công lý chính là a đệ. Chàng biết ta nhất định sẽ chọn chàng, chàng không muốn khiến ta đau lòng. Nhưng Thập Thất lang, lần này ta không chọn chàng vì đó là chàng, không phải ta chọn tình yêu. Thứ ta chọn là đạo lý và đại nghĩa. A đệ đã phản bội công lý, ruồng bỏ đạo nghĩa, nó nào xứng làm a đệ của ta.”

Trước mắt nàng, dường như hiện lên hai trăm hai mươi vong hồn của thôn Ngưu Gia. Khi ấy, nàng từng nói với bọn họ rằng, hy vọng kiếp sau, họ vẫn nguyện làm con dân Đại Chu. Nhưng nàng không biết liệu kiếp sau, những linh hồn ấy có trở thành dân chúng của sáu châu đang nằm dưới vó ngựa Đột Quyết hay không? Liệu họ có thất vọng hay không?

Nén nỗi đau như bị xé toạc trong lòng, nàng nói từng chữ, từng chữ một: “Đại Chu không phải của riêng a đệ, cũng không phải của sĩ tộc, không phải của hàn tộc, mà là của bách tính Đại Chu. Một Hoàng đế đã phản bội bách tính thì không xứng làm quân phụ của Đại Chu.”

Cuối cùng, nàng nói: “Thập Thất lang, chàng đừng khuyên ta rời đi nữa. Người ta muốn cứu, không chỉ có chàng, mà còn là cả Đại Chu.”



Thôi Tuần không khuyên nàng nữa.

Hắn chẳng thể lay động được công chúa Đại Chu.

Lý Doanh quỳ ngồi bên cạnh hắn, ngẩng đầu lên, dùng khăn tay nhẹ nhàng lau sạch vết máu trên mặt hắn. Lau xong, nàng tiếp tục lau vết thương trên cổ hắn. Những vết thương này so với những chỗ khác đã là nhẹ nhất rồi. Mắt nàng đỏ hoe, nhỏ giọng nói: “Bây giờ chàng thế này, ta không dám ôm chàng. Đợi khi chàng lành lại, ta sẽ lại ôm chàng. Đến lúc đó, chàng không được trốn nữa đấy.”

Thôi Tuần lắc đầu, ánh mắt trầm tĩnh nhìn nàng, hắn nói: “Sẽ không trốn nữa.”

Rồi hắn lại nói: “Hôm đó ở chùa Pháp Môn, ta đã lập một lời thề trước xá lợi Phật đỉnh.”

Lý Doanh ngẩng đầu nhìn hắn.

Không cần hắn nói rõ lời thề ấy là gì, thì nàng cũng đã hiểu ra rồi.

Hắn nguyện rằng sau khi chết, không vào luân hồi, hồn tiêu phách tán, tan thành tro bụi. Hắn dùng điều đó để đổi lấy sự siêu thoát cho những kẻ đã bại dưới tay hắn trong cuộc tranh đoạt quyền lực, để họ sớm đăng cực lạc, vãng sinh tịnh thổ.

Từ đó, nghiệp đã sạch, tội đã tiêu, thân này chỉ còn lại một bầu nhiệt huyết, một tấm lòng son.

Nước mắt Thôi Tuần trượt dài từ đôi mắt đen nhánh. Nỗi tự ti khi đối diện với nàng bấy lâu nay bỗng hóa thành hư không. Nước mắt chảy qua gương mặt tái nhợt, từng giọt rơi xuống đất như những viên ngọc châu trong suốt. Hắn nhìn nàng, như khóc mà cũng chẳng phải khóc: “Minh Nguyệt Châu, bây giờ, ta có tư cách hôn nàng chưa?”

Lý Doanh cắn môi, nước mắt rơi xuống như mưa. Nàng cười qua làn lệ, gật đầu: “Chàng có, chàng luôn luôn có.”

Thôi Tuần cong nhẹ khóe môi, vị đắng lan tràn chua xót. Hắn lặng lẽ ngắm gương mặt thanh khiết của nàng, rồi gần như thành kính cúi xuống, dùng đôi môi nứt nẻ đầy vết thương của mình chạm nhẹ lên đôi môi mềm mại của nàng.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 154: Đó là Minh Nguyệt Châu, con gái bà


Nụ hôn dịu dàng vô hạn, như thể nâng niu báu vật trân quý nhất thế gian, thận trọng, chậm rãi, rơi xuống bờ môi Lý Doanh. Nàng không nhắm mắt, tròng mắt ngấn lệ mở to không chớp, chăm chú khắc ghi từng đường nét trên khuôn mặt trắng bệch nhưng tuấn mỹ của Thôi Tuần, như thể muốn khắc sâu bóng hình hắn vào tim, dù chỉ một chi tiết nhỏ nhoi cũng không muốn bỏ sót.

Trong buồng giam tối tăm, kẻ mang tiếng xấu khắp Đại Chu – Liên Hoa Lang – dựa vào vách đá lạnh ẩm. Máu tươi nhuốm đỏ những kẽ móng tay, mười đầu ngón tay phủ đầy vết thương do kim thép nung đỏ đâm vào, máu thịt be bét. Dù thân thể hư nhược đầy thương tích nhưng hắn vẫn nâng niu nàng trong vòng tay, thành kính hôn lên vầng thánh nguyệt sáng ngời trong lòng hắn.

Nụ hôn của hắn, không hề nhuốm màu d.ục v.ọng. Đó là nụ hôn thuần túy của một kẻ buông bỏ tất cả mọi khúc mắc trong lòng, một nụ hôn nhẹ nhõm khi cuối cùng, hắn có thể ôm nàng như một người đàn ông bình thường được ôm người mình yêu, không còn khinh rẻ chính mình, cũng không còn sợ làm vấy bẩn nàng nữa.

Hắn rời khỏi môi Lý Doanh, đôi mắt sâu thẳm tựa hồ nước tĩnh lặng, ánh lên lệ quang lấp lánh: “Minh Nguyệt Châu, ta… ta đã xứng đáng với tình yêu của nàng rồi, đúng không?”

Hơi ấm của hắn dường như vẫn còn vương trên môi nàng. Nước mắt Lý Doanh không ngừng tuôn rơi. Nàng nghẹn ngào nói: “Chàng luôn xứng đáng. Trước đây xứng đáng, sau này cũng thế. Đời này kiếp này, mãi mãi về sau, ta sẽ không bao giờ gặp được ai xứng đáng hơn chàng.”

Đôi mắt nhòe lệ, nàng chủ động ngẩng mặt, hôn lên vết thương do roi quất trên mặt Thôi Tuần: “Thập Thất lang, cả thiên hạ này không còn ai tốt hơn chàng nữa đâu. Trong lòng ta, chàng là lang quân tốt nhất thế gian. Trên đời này, không một ai có thể sánh bằng chàng.”

Nàng không dám ôm Thôi Tuần, chỉ có thể dùng đôi môi mềm mại hôn lên từng vết thương trên gương mặt hắn, hôn lên sống mũi, hôn lên cằm. Nàng muốn dùng cách này để nói với hắn rằng nàng thích hắn biết bao, và hắn đáng để nàng yêu thích đến nhường nào.

Cuối cùng, nàng nâng nhẹ bàn tay xương thịt rời rạc của hắn lên, nước mắt lã chã rơi xuống: “Đau không?”

Đôi mắt long lanh của Thôi Tuần phản chiếu bóng hình nàng. Giọng hắn khàn đặc, yếu ớt đến cực điểm, ánh mắt không rời nàng, chỉ khẽ lắc đầu: “Nàng đến rồi… thì không còn đau nữa.”

Lý Doanh cắn môi, nước mắt rơi mỗi lúc một nhiều. Nàng cúi người, hôn lên phần xương trắng lộ ra từ vết thương. Rõ ràng Thôi Tuần đã rụt lại, nhưng không còn né tránh như lần đầu tiên nàng chạm vào hắn, cũng không còn sự tự ti khi tự nói rằng chính mình dơ bẩn. Hắn chỉ nhìn nàng, đôi mắt mờ sương chất chứa sự không đành và cả sự đau xót. Lý Doanh ngẩn lên, nước mắt rưng rưng, chợt mỉm cười nói: “Thập Thất lang, ta rất vui.”

Nàng nói: “Ta rất vui, vì cuối cùng chàng đã hiểu, chàng không hề bẩn, chàng và các huynh đệ Thiên Uy quân của chàng đều là những nam nhi trung trinh nhất của Đại Chu.”

Sau cùng, nàng nói: “Thập Thất lang, đợi ta.”

“Đợi ta cứu được chàng.”



May mắn thay, trên đời này, người muốn cứu Thôi Tuần không chỉ có mỗi mình Lý Doanh.

Những thiếu niên như Hà Thập Tam đều đã bị bắt, song thân quyến còn lại của Thiên Uy quân vẫn đang ở đó. Những người già tóc bạc, những quả phụ thủ tiết bên bài vị của chồng, những đứa trẻ non nớt còn chưa cao bằng bánh xe… Dẫu cuộc sống hiện tại đã bớt phần cơ cực, họ vẫn không từ bỏ ý định cứu Thôi Tuần. Dưới sự dẫn dắt của A Man, họ nối tiếp nhau tiến về cổng Huyền Vũ, quyết tâm gõ vang chiếc trống Đăng Văn giờ đây họ đã bị cấm chạm vào.

Bởi vì họ vẫn còn nhớ, khi họ lâm vào tuyệt vọng, ai là người không ngừng gửi đến thuốc men, tiền bạc, giúp họ thắp lên một tia hy vọng. Bởi họ cũng không quên, khi bị quan phủ và ác bá chèn ép, ai là người nhẫn nhục chịu đựng để đổi lấy quyền thế, âm thầm dang tay giúp đỡ.

Những người con, người chồng, người cha của họ từng bao lần đổ máu ở biên quan, thề chết không lùi bước. Khi đối mặt với kỵ binh Đột Quyết đông gấp bội ở Lạc Nhạn Lĩnh, không một ai quay đầu bỏ chạy. Thiện Uy quân chưa từng sợ chết, thân là gia quyến của họ, những người ở lại cũng sẽ không sợ chết.

Người đem củi sưởi ấm cho thế gian, đâu thể để y chết cóng trong gió tuyết.

Trước cổng Huyền Vũ, máu nóng không ngừng đổ xuống. A Man bị đánh trọng thương, những người già cũng bị đánh trọng thương, quả phụ cũng bị đánh trọng thương, từng người một trong số gia quyến Thiên Uy quân đều bị tống giam, ngay cả trẻ nhỏ cũng không phải ngoại lệ. Dân chúng đứng xem, ban đầu còn bàn tán chỉ trỏ, về sau chỉ còn lại sự trầm lắng, thổn thức.

Quách Húc, con trai duy nhất của Quách Cần Uy cũng từ quê nhà vội vàng chạy đến. Vì Lục Mai, thê tử của hắn đã nói với hắn rằng năm đó khi hắn bị lưu đày đến Thích Tây, chính Thôi Tuần đã phái nàng vượt đường xa đến nơi ấy, túc trực bên cạnh chăm sóc. Sau khi hắn được minh oan, cũng chính Thôi Tuần ra mặt, nói nàng không cần trở về Sát Sự Thính nữa mà hãy cùng Quách Húc hồi hương, sống những tháng ngày yên ổn.

Quách Húc sững sờ. Lúc hoàn hồn, hắn nói hắn muốn đến Trường An, hắn muốn cứu Thôi Tuần.

Khi ấy Lục Mai đang mang thai, nhưng nàng không hề ngăn cản Quách Húc. Mẹ già của Quách Húc cũng không ngăn cản hắn mà cùng con trai lên xe, hướng thẳng đến Trường An.

Dù biết rõ, chuyến đi này có lẽ sẽ khiến đứa trẻ chưa kịp ra đời cũng không còn đường sống, nhưng “tích thủy chi ân, dũng tuyền tương báo” [1]. Họ là người nhà của Quách Cần Uy, họ không thể làm kẻ vong ân bội nghĩa.

<i>[1] tích thủy chi ân, dũng tuyền tương báo: Nhận một giọt nước, trả một dòng suối.</i>

Khi thai nhi trong bụng Lục Mai bị đánh đến sinh non giữa làn gậy gộc, máu tươi từ váy nàng chảy dài ra ngoài cổng Huyền Vũ, nhuộm đỏ cả mặt đất. Bách tính đứng xem ngây ngẩn cả người, dõi theo dòng huyết sắc đỏ tươi ấy, mãi đến khi có người đầu tiên gào lên: “Sao các người dám làm thế!”

“Quách soái tận trung vì nước, ngay cả thủ cấp cũng bị quân Đột Quyết chặt xuống làm nhục, vậy mà cả huyết mạch chưa kịp chào đời của ông ấy các người cũng không buông tha. Các ngươi khác gì quân Đột Quyết?”

“Đại Chu ta, không nên là một Đại Chu thế này!”



Trong phủ Lư Hoài, hắn khép lại quyển sách trong tay, nhìn đám học trò đến từ Quốc Tử Giám, bình tĩnh nói: “Ta không có gì để bàn luận cùng các trò. Các trò đều là những học trò xuất sắc nhất của Quốc Tử Giám, đương kim Thái hậu lại là bậc minh chủ. Nếu các trò thực tâm muốn báo quốc, chớ nên như thúc phụ ta, cứ khư khư bám víu vào quan niệm nam tôn nữ ti. Đây chính là bài học cuối cùng ta để lại cho các trò.”

Đám học trò đưa mắt nhìn nhau. Lư Hoài từng đảm nhiệm chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám suốt năm năm, môn sinh trải dài khắp thiên hạ, được sĩ tử Đại Chu tôn kính. Một người trong số họ không nhịn được, lên tiếng hỏi: “Thưa Tư nghiệp, người định không quay về Đại Lý Tự thật sao?”

“Không.” Lư Hoài đáp: “Đại Lý Tự là nơi chấp pháp, xét xử oan sai, chứ không phải công cụ để bức hại những trung thần ngay thẳng. Nó không phải là Đại Lý Tự trong lòng ta.”

“Vậy người có trở về Quốc Tử Giám không?”

“Cũng không.”

“Thế Tư nghiệp định đi đâu?”

“Tới cổng Đan Phượng, tĩnh tọa.”

Cổng Đan Phượng là chính môn của cung Đại Minh. Đám học trò nghe vậy, ai nấy đều biến sắc. Họ đương nhiên hiểu rõ vì sao Lư Hoài muốn đến đó. Lúc này cả Trường An đang xôn xao dậy sóng, ngoài cổng Huyền Vũ, những viên đá xanh nơi bậc thềm đã bị nhuộm đỏ bởi huyết lệ. Một học trò không kìm được, hỏi: “Thưa Tư nghiệp, thời Xuân Thu, Tấn Hiến Công trúng quỷ kế của Ly Cơ, phát binh tấn công con trai mình là Trùng Nhĩ. Khi ấy, Trùng Nhĩ nói: “Quân phụ chi mệnh bất hiệu, hiệu giả, ngô cừu dã.”<i> (Mệnh lệnh của quân phụ không thể chống lại, ai chống lại chính là kẻ thù của ta) </i>Ngay cả khi bị truy sát, Trùng Nhĩ cũng không dám phản kháng, thậm chí còn hạ lệnh rằng ai chống lại thì chính là kẻ địch của y. Từ đó, Trùng Nhĩ bắt đầu mười chín năm lưu lạc, mãi đến khi Tấn Hiến Công băng hà, y mới thoát cảnh lưu vong. Xin hỏi Tư nghiệp, người thấy lời này thế nào?”

Lư Hoài đáp: “Trải qua bao triều đại, lời này vẫn luôn được ca tụng. Đại Chu lấy hiếu trị quốc, lời ấy lại càng được xem là Thánh ngôn. Quân phụ vừa là vua của thiên hạ, vừa là phụ thân của muôn dân. Trái mệnh quân phụ là bất trung bất hiếu, mà bất trung bất hiếu là tội nghiệt lớn nhất.”

Học trò lặng lẽ cúi đầu. Hai chữ “trung” và “hiếu” đã khắc sâu trong lòng họ từ khi mới tập tành học chữ. Bởi vậy, dù họ xót thương cho những dòng máu xanh rơi trước trống Đăng Văn, nhưng vì sự trói buộc của hai chữ ấy, họ vẫn không dám tiến thêm nửa bước.

Thế nhưng Lư Hoài lại nói: “Nhưng ngoài trung hiếu, vẫn còn một chữ lớn hơn trung, trọng hơn hiếu.”

Một học trò liền bất giác hỏi: “Là chữ gì ạ?”

“Chữ chính.” Lư Hoài chậm rãi thốt từng lời: “Chính giả, chính dã. [2] Thế nào là chính? Trung, hiếu, nhân, nghĩa, đây là chính. Thân bất chính, làm sao chính nhân? Không phải chính nhân, làm sao chấp chính? Không thể chấp chính, lấy gì làm quân, lấy gì làm phụ?”

<i>[2] Câu gốc ở đây là: “Chính giả, chính dã”(政者,正也) xuất phát từ tư tưởng Nho gia. Câu này gồm 02 chữ “Chính”. Chữ “Chính” thứ nhất (政) nghĩa là “chính sự”, tức việc cai trị, quản lý đất nước. Chữ “Chính” thứ hai (正) nghĩa là “chính trực, ngay thẳng”, tức sự công chính, đúng đắn về đạo đức và hành vi.</i>

Hắn nói một cách rành rọt, từng lời từng chữ đều vang vọng khí khái. Đám học trò nghe vậy, không khỏi cúi đầu trầm tư, nét mặt dần hiện vẻ hoang mang và nghiền ngẫm. Lư Hoài nói tiếp: “Mệnh quân phụ không thể không nghe. Nhưng ta đến cổng Đan Phượng không phải bất trung, cũng chẳng phải bất hiếu. Ta trung với Đại Chu, hiếu với năm vạn anh linh liệt sĩ.”

Hắn nhớ đến cố hữu Vương Hiên đã khuất, vành mắt không khỏi nóng lên: “Còn cả những vị tôn trưởng đã bỏ mạng trên con đường này nữa.”



Lư Hoài nói được làm được. Hắn c.ởi quan phục, khoác lên mình một bộ y phục trắng tinh, tĩnh tọa trước cổng Đan Phượng. Dòng người qua lại trên quan đạo không khỏi ngoái nhìn, thấy vị cựu Tư nghiệp Quốc Tử Giám, cựu Thiếu khanh Đại Lý Tự, nay vì rửa oan cho kẻ từng là đối thủ chính trị của mình chấp nhận buông bỏ cả tính mạng, lặng lẽ ngồi trước cổng cung.

Ban đầu, hắn chỉ có một thân một mình. Nhưng chẳng bao lâu sau, các học trò của hắn cũng khoác bạch y, lần lượt ngồi xuống bên cạnh. Càng lúc càng có nhiều học trò gia nhập, số người nhanh chóng vượt qua con số hàng trăm, tất cả đồng lòng yêu cầu xét lại vụ án Thiên Uy quân.

Cơn thịnh nộ của Long Hưng Đế lập tức bùng phát, Lư Hoài bị khép tội phạm thượng tác loạn, bị trừng phạt nghiêm khắc ngay trước cổng Đan Phượng, sau đó bị tống giam vào ngục. Các học sĩ khác cũng chịu cảnh bị Kim Ngô Vệ đánh đòn ngay trước cửa cung. Thế nhưng, văn nhân vốn dĩ ngay thẳng, cứng cỏi, huống hồ Lư Hoài là bậc tôn sư của ba nghìn hai trăm học sĩ tại Quốc Tử Giám, địa vị trong lòng họ vô cùng cao quý. Hình phạt tàn khốc không những không khiến họ khiếp sợ mà ngược lại, càng có nhiều người tiếp bước, kiên trì tĩnh tọa trước cổng Đan Phượng. Dù bị đánh đập, họ vẫn không hề nao núng, ngược lại còn lấy đó làm vinh dự.

Một người là Quách Húc, một người là Lư Hoài, đủ để khiến những người dân chất phác nhất Đại Chu bắt đầu nghi ngờ Long Hưng Đế, cũng đủ để khiến những bậc sĩ tử tinh anh nhất Đại Chu dần dao động niềm tin vào thiên tử. Chỉ có Thái hậu, người nắm quyền sinh sát cao nhất trong triều, trước sau vẫn giữ im lặng.



Giữa lúc gia quyến của Thiên Uy quân cùng sĩ tử náo động khắp kinh thành, Ngư Phù Nguy cũng không hề nhàn rỗi. Hắn vung hết gia tài, hối lộ ngục tốt của Đại Lý Tự, thuê y sư đến chữa trị vết thương cho Thôi Tuần. Không dừng lại ở đó, bất chấp hiểm nguy, hắn còn ngầm mua chuộc khất cái, người kể chuyện rong, sáng tác những bài đồng dao lan truyền khắp thành Trường An. Lý Doanh nhìn hắn, nhẹ giọng nói: “Nếu bị phát giác, không thi cử được đã đành, chỉ sợ còn mất cả tính mạng.”

Ngư Phù Nguy căn bản không để tâm đến sống chết: “Mỗ có thể đồng hành cùng trung lương và sĩ tử đã là may mắn ba đời, hà tất phải sợ?”

Lý Doanh không khỏi xúc động: “Ta thay mặt Thập Thất lang, cảm tạ ngài.”

Ngư Phù Nguy khẽ lắc đầu, rồi nói: “Bá phụ của Thôi Tuần, Thôi tướng công, cùng Kinh Triệu Doãn Tiết Vạn Triệt, dạo gần đây đều cáo bệnh không thượng triều.”

Việc Tiết Vạn Triệt không thượng triều nằm trong dự liệu của Lý Doanh, bởi ông vốn là lão thần chính trực, chính khí lẫm liệt. Nhưng chuyện Thôi Tụng Thanh cũng không thượng triều thật khiến nàng phải bất ngờ. Thôi Tụng Thanh là người có thể hy sinh tất cả vì tân chính, sao phải bận tâm đến sinh tử của Thôi Tuần?

Nghĩ lại, con người đâu phải cỏ cây, ai có thể thực sự vô tình? Có lẽ, chính những lời Thôi Tuần nói trên trên triều đường đã khiến Thôi Tụng Thanh thức tỉnh. Hắn xem thường con đường mà Thôi Tụng Thanh theo đuổi, khiến ông ta buộc lòng phải nhìn nhận lại những gì mình đã làm.

Như lời Thôi Tuần từng nói: “Một thứ đạo mà ngay cả oan khuất của tướng sĩ chết vì nước cũng không quan tâm, ngay cả tính mạng của dân lành vô tội cũng không đếm xỉa, thì thứ đạo ấy, có cũng vô dụng!”

Lý Doanh siết chặt xá lợi Phật đỉnh trong tay: “Nhưng chỉ a nương ta không mở miệng, những gì Lư Hoài và những người khác đang làm đều sẽ thành công cốc.”

Ngư Phù Nguy lặng thinh.

Phải, bọn họ đều là những kẻ mang hoài bão, nhưng nhiệt huyết rồi cũng sẽ có ngày cạn kiệt. Hiện tại, Thái hậu chưa thực sự ra tay, nhưng một khi bà hạ quyết tâm, Lư Hoài sẽ chết, Quách Húc sẽ chết, hắn cũng sẽ chết, tất cả bọn họ đều sẽ mất mạng. Trước những thủ cấp bị chém rơi, dù dân chúng có phẫn uất đến đâu cũng chỉ có thể nén giận vào lòng, không dám có nửa lời dị nghị.

Chờ đến ba năm, năm năm sau, ngay cả sự phẫn nộ trong lòng, e rằng cũng chẳng còn mấy ai nhớ đến.

Đó chính là bi kịch của chính đạo trước quyền lực tuyệt đối.

Lý Doanh nói: “Để ta đi, ta muốn gặp a nương.”

“Không được.” Ngư Phù Nguy lập tức lắc đầu: “Lần trước công chúa bị Phật pháp phản phệ, suýt nữa hồn phi phách tán, nay thần hồn đã suy yếu vô cùng. Nếu lại ép buộc hiện thân, cho dù có xá lợi Phật đỉnh trong tay, sau này e rằng cũng chỉ có thể miễn cưỡng giữ được thần hồn không diệt, chẳng thể được như trước kia nữa.”

“Nhưng ngài cũng đâu có biện pháp nào tốt hơn, đúng không?”

Ngư Phù Nguy sững người.

Phải, hắn không còn cách nào tốt hơn.

Ban nãy, hắn đã nghĩ liệu có thể thuyết phục Thái hậu, dùng thuật pháp để khiến bà nhìn thấy Lý Doanh hay không? Chẳng hạn như thuyết phục Thái hậu uống máu chó mực? Nhưng ngay sau đó, hắn liền gạt bỏ ý nghĩ này. Người sống uống máu chó đen để trông thấy hồn ma, đây vốn là tà thuật, trái nghịch thiên đạo, tổn hại căn cơ, nếu không, vì sao từ xưa đến nay, số người dám sử dụng tà thuật này lại ít đến như thế?

Rốt cuộc, thế gian này có mấy ai giống như A Sử Na Ngột Đóa, vì yêu mà điên cuồng, chẳng màng đến tính mạng của bản thân?

Vậy nên, chỉ cần đề xuất cách này, hắn chắc chắn sẽ bị quy tội mưu hại Thái hậu, rồi bị tống vào ngục, chờ ngày xử tử.

Ngư Phù Nguy im lặng không đáp, Lý Doanh chỉ nói: “Để ta đi. Trên đời này, chỉ có ta mới cứu được Thôi Tuần.”



Bên trong cung điện, hương trầm quyện tỏa. Thái hậu nghiêng người, tựa vào trường kỷ, ánh mắt thẫn thờ dán chặt vào túi gấm ngũ sắc trong tay, suy nghĩ miên man.

Sao Thôi Tuần lại có túi gấm của Minh Nguyệt Châu?

Nhưng mặc cho bà hỏi thế nào, hắn cũng không chịu nói.

Thái hậu khép mắt, vẻ mặt thoáng hiện nét mệt mỏi. Tóc mai của bà đã bạc đi nhiều, chỉ trong vòng vài chục ngày ngắn ngủi mà trông như đã già đi cả chục tuổi. Lại có nội thị đến báo, nói rằng Thánh nhân cầu kiến.

Thái hậu ho khẽ hai tiếng, phất tay: “Không gặp.”

Bà biết rõ Bồ Tát Bảo đến vì chuyện gì, chẳng qua là muốn bà đồng ý giết Lư Hoài, giết Quách Húc. Nhưng bà đã từng nhượng bộ, cho phép hắn tự ý xử trí Thôi Tuần rồi. Hắn có thể giết, có thể hành hạ, thậm chí có thể dùng cực hình với Thôi Tuần, nhưng không thể vì một Hồ nữ mà sai Tam Ty dùng hình cụ nữ nhân để sỉ nhục Thôi Tuần! Kẻ sĩ có thể bị giết, nhưng không thể chịu nhục. Hắn làm vậy, có khác gì ả nữ nhân người Hồ độc ác điên cuồng kia không?

Bà không muốn gặp hắn.

Nội thị đáp một tiếng “Tuân lệnh”, rồi lui xuống bẩm báo với Long Hưng Đế. Ngoài điện dần dần trở nên yên ắng. Thái hậu lặng lẽ nhìn chiếc túi gấm trong tay, nước mắt cuối cùng cũng trào ra.

Bà thì thầm: “Minh Nguyệt Châu, nếu con còn ở bên cạnh a nương thì tốt biết bao.”

Bà tự nói với chính mình: “A nương biết, a đệ con đã sai, nhưng a nương không nỡ… A nương đã mất con rồi, không thể mất thêm a đệ con nữa. Con nói cho a nương biết đi, a nương nên làm thế nào đây?”

Bà không mong nhận được hồi đáp, bởi lẽ bà hiểu rằng, con gái của bà đã mất từ ba mươi năm trước, bà không bao giờ gặp được nàng nữa.

Vĩnh viễn không thể gặp lại Minh Nguyệt Châu của bà.

Nhưng bỗng nhiên, một giọng nói vang lên: “A nương, người muốn Minh Nguyệt Châu nói cho người biết nên làm gì thật sao?”

Thái hậu bàng hoàng ngẩng đầu.

Vẫn kiểu vấn tóc song hoàn vọng tiên, váy lụa trắng đỏ xen kẽ, trên vai phủ một tấm sa mỏng, bóng dáng quen thuộc ấy hiện ra trước mắt bà. Đó chính là con gái của bà, Minh Nguyệt Châu!

Nàng vẫn xinh đẹp thanh tao như thuở mười sáu, đoan trang nhã nhặn, thanh lệ tuyệt trần. Thái hậu bật dậy khỏi giường, bà kinh ngạc chớp mắt liên tục, bàn tay run rẩy đưa lên dụi mắt, rồi lại dụi nữa. Đến khi khóe mắt đỏ hoe, bà mới run rẩy mở mắt ra, ánh mắt hướng về thiếu nữ, nhưng thân ảnh kiều diễm ấy không hề biến mất, trái lại còn càng lúc càng rõ ràng.

Bà thậm chí quên cả xỏ hài, cứ thế chân trần vội vàng lao xuống giường, chạy về phía ái nữ. Nhưng vừa bước đi một bước, vì quá vội vã mà loạng choạng ngã mạnh xuống đất. Người cầm quyền chí cao vô thượng của Đại Chu lúc này chẳng khác nào một người mẹ bình thường nhất, cắn răng chịu đau, gắng sức bò dậy, nước mắt lưng tròng nhìn nữ nhi, nức nở nói: “Minh Nguyệt Châu… Minh Nguyệt Châu của ta…”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 155: Hồ sen có lạnh lắm, có tối lắm không con?


Cùng lúc đó, Lý Doanh cũng vội vã tiến vào.

Trước điện Bồng Lai có dán tranh thần môn, Lý Doanh là hồn ma, vốn dĩ không thể bước vào, nhưng nhờ có xá lợi Phật đỉnh treo trên cổ, nàng đã miễn cưỡng xông vào được. Dù vậy, chuyến đi này cũng khiến nàng tổn hao nguyên khí. Lý Doanh cố nén vị tanh ngọt trào lên nơi cổ họng, nhanh chóng quỳ xuống bên cạnh Thái hậu, đỡ bà dậy.

Thái hậu chộp lấy tay áo nàng, run giọng hỏi: “Minh Nguyệt Châu… là Minh Nguyệt Châu sao?”

Lý Doanh nghẹn ngào, lệ tuôn như suối: “A nương, là Minh Nguyệt Châu đây ạ.”

Thái hậu vẫn không dám tin. Bà run rẩy đưa tay, chạm vào gương mặt của nàng: “A nương đang mơ sao? Minh Nguyệt Châu của ta, con đã không còn nữa, sao lại quay về kia chứ? A nương… lại mơ thấy con rồi…”

Lý Doanh cắn chặt môi, hai mắt đẫm lệ. Những năm qua, hẳn a nương đã mơ thấy nàng vô số lần, đến mức bây giờ vẫn cho rằng đây chỉ là một giấc mộng.

Thái hậu v.uốt ve gương mặt nàng, làn da thiếu nữ tuy không còn hơi ấm như người sống, trái lại còn lạnh buốt như băng, nhưng xúc cảm trên lòng bàn tay lại chân thực đến mức không thể ngờ vực. Môi bà run run, tầm mắt đã nhòe đi vì lệ. Bà lập tức ôm chầm lấy Lý Doanh: “Nếu đây là một giấc mơ, vậy hãy để a nương mơ mãi không tỉnh… Con gái của a nương… Minh Nguyệt Châu của a nương…”

Lý Doanh tựa vào lòng bà, bên tai là tiếng khóc nghẹn đến tột cùng của Thái hậu. Nước mắt nàng tuôn trào như dòng thác, nàng khẽ thì thầm: “A nương, đây không phải mộng. Minh Nguyệt Châu… đã trở về. Nhưng Minh Nguyệt Châu cũng đã chết rồi.”

Thái hậu sững sờ, vòng tay ôm nàng hơi cứng lại.

Lý Doanh chậm rãi tách khỏi bà, khẽ nói: “A nương, Minh Nguyệt Châu… đã thành một hồn ma.”

Để chứng minh với a nương rằng nàng không phải là ảo ảnh trong mơ mà là một hồn ma thực sự, đầu ngón tay Lý Doanh vươn ra, giữa lòng bàn tay bùng lên một đốm quỷ hỏa màu xanh biếc.

Trong ánh sáng lập lòe, cảnh tượng bên ngoài điện dần hiện rõ: các Thiên Ngưu Vệ đặt tay lên kiếm bảo vệ điện Bồng Lai, những tiểu cung nữ tóc búi quả đào cúi đầu quét dọn sân viện, nội thị thận trọng hồi bẩm với Long Hưng Đế, từng tốp từng tốp gia quyến của Thiên Uy quân, kéo nhau đến trước trống Đăng Văn, gióng trống kêu oan và cả những sĩ tử Quốc Tử Giám bất chấp hiểm nguy, quỳ ngồi lặng lẽ bên ngoài cổng Đan Phượng.

Từng cảnh tượng vừa rồi như lướt qua trước mắt Thái hậu, đến khi ánh lửa từ ngọn quỷ hỏa phụt tắt, điện Bồng Lai lại trở về với vẻ tĩnh mịch thâm sâu.

Thái hậu chết lặng nhìn nàng, Lý Doanh rơi lệ nói: “A nương… hồn phách của Minh Nguyệt Châu đã trở về gặp a nương rồi…”

“Hồn phách của Minh Nguyệt Châu… đã trở về gặp a nương rồi…”

Thái hậu lẩm bẩm, lặp lại câu ấy, bà giơ tay chạm vào cây trâm hoa vàng cài trên tóc nàng.

Đầu trâm sắc nhọn đâm vào đầu ngón tay bà, cơn đau thấu xương rốt cuộc cũng khiến bà tin vào sự thực. Con gái bà đã mất từ ba mươi năm qua đời từ ba mươi năm trước, và giờ hồn phách của nàng… đã trở về thật rồi sao?

“Hồn phách của Minh Nguyệt Châu… đã trở về gặp a nương rồi…”

Nước mắt lăn dài trên gò má Thái hậu. Bỗng nhiên, bà dang tay ôm chặt lấy Lý Doanh, như sợ chỉ cần buông lỏng, nàng sẽ lập tức biến mất. Một Thái hậu đương triều, kẻ đứng trên đỉnh quyền lực ở Đại Chu, người luôn được nhắc đến với sự nhẫn tâm tàn độc, lúc này đang gào khóc thảm thiết: “Minh Nguyệt Châu, ba mươi năm rồi, ba mươi năm rồi… A nương đã mất con ba mươi năm, hồn phách con… cuối cùng cũng trở về thăm a nương rồi…”

Khoảnh khắc này, bà không còn là vị Thái hậu nắm quyền sinh quyền sát trong tay, mà chỉ là một người mẹ vì mất con mà đau đến đứt từng khúc ruột.

Bà ôm chặt Lý Doanh, khóc rống từng hồi. Một lúc lâu sau, như bỗng ý thức được điều gì, bà kêu lên thất thanh: “Không… Minh Nguyệt Châu, con không nên ở đây! Con phải đi đầu thai, phải chuyển thế mới đúng! Vì sao hồn phách con vẫn còn ở lại dương gian?”

Lý Doanh vừa khóc vừa thì thào: “Vì chưa tìm ra kẻ đã giết con… nên con không thể đầu thai…”

“Kẻ giết con ư?” Thái hậu thầm thì, ánh mắt lóe lên tia căm hận: “Kẻ giết con… chính là a gia của con!”

“Không…”

Lý Doanh vừa định phủ nhận, nhưng lời còn chưa kịp thốt ra, cánh cửa gỗ long não vốn đóng chặt bỗng vang lên hai tiếng gõ nhẹ. Ngoài cửa, nội thị cao giọng bẩm báo: “Bẩm Thái hậu, Ngự sử Âu Dương cầu kiến.”

Giờ này còn đến cầu kiến? Thái hậu không khỏi bực bội, bà mím môi, giọng nghiêm khắc: “Có chuyện gì?”

Nội thị bị dọa đến giật bắn, vội đáp: “Ngự sử Âu Dương nói rằng, Thánh nhân lệnh cho ngài ấy thẩm vấn Thôi Tuần, nhưng Thái hậu đã có chỉ không được phép động hình. Ngài ấy muốn cầu kiến Thái hậu để xin chỉ thị, xem nên thẩm vấn thế nào.”

Giờ phút này Thái hậu nào có tâm tư để gặp ông ta. Bà cả giận quát: “Nên làm thế nào, cứ để ông ta tự quyết, còn đến hỏi ngô làm gì?”

Nội thị không dám nhiều lời, liền dập đầu lĩnh mệnh: “Tuân lệnh”, rồi nhanh chóng lui ra ngoài, đi truyền lời với Ngự sử Âu Dương.

Lúc nói chuyện với nội thị, Thái hậu vẫn nắm chặt lấy tay áo Lý Doanh, chỉ sợ mình vừa buông tay, nàng sẽ biến ngay tức khắc. Biết là chuyện liên quan đến Thôi Tuần, lòng Lý Doanh nóng như lửa đốt, nhưng bất chợt, ánh mắt nàng dừng lại trên vật nằm dưới đất. Đó là túi gấm ngũ sắc thêu hoa mẫu đơn mà Thái hậu vô tình làm rơi khi vội bước xuống giường. Nhưng, đó chẳng phải là túi hương của nàng sao?

Nàng hoảng hốt bò tới, vươn tay nhặt lên. Túi hương đã rách, trên đó còn vương vết máu khô của Thôi Tuần. Tựa như đang nâng niu bảo vật quý giá nhất, Lý Doanh cầm túi hương trong lòng bàn tay. Nàng mở ra, ngón tay run run chạm vào sợi dây đỏ cùng búi tóc vẫn còn nguyên vẹn bên trong, là tín vật mà Thôi Tuần đã dùng mạng mình để giữ lại.

Nàng quay lại nhìn Thái hậu, cắn môi, nước mắt tuôn rơi: “A nương, xin người cứu Thôi Tuần, con cầu xin người… hãy cứu chàng ấy…”



Thái hậu hoàn toàn sửng sốt: “Thôi Tuần? Con và Thôi Tuần có quan hệ gì?”

Lý Doanh lấy sợi dây đỏ ra khỏi túi hương, nước mắt nhòe mi, đưa đến trước mặt Thái hậu: “A nương, đây là tóc của Minh Nguyệt Châu… và của Thôi Tuần.”

Một nam một nữ, mỗi người cắt một lọn tóc, buộc chung bằng sợi tơ hồng. Dù là ai đi nữa, chỉ cần nhìn qua cũng đủ hiểu mối quan hệ giữa hai người họ là gì.

Vậy ra, hồn phách con gái bà lưu lạc nhân gian, rồi đem lòng yêu một kẻ như Thôi Tuần?

Chuyện này quá đỗi hoang đường, Thái hậu kinh ngạc đến trợn tròn mắt, không sao phản ứng kịp.

Như hiểu rõ sự nghi hoặc trong lòng bà, Lý Doanh gật đầu: “A nương, Thôi Tuần… chính là người con yêu. Lúc này chàng đang lâm nguy, con cầu xin người, xin người hãy cứu chàng ấy…”

Thái hậu ngây ngẩn nhìn Lý Doanh, lời nói của nàng dường như đã khơi dậy một ký ức xa xăm đã bị chôn vùi trong lòng bà suốt bao năm. Bà đờ đẫn hồi lâu, rồi bỗng như đã hiểu ra điều gì, sắc mặt bà dần tái nhợt, thân thể run rẩy, đến cả đầu ngón tay run lên bần bật. Mãi đến khi hương trầm trong lò đã đốt hết, đôi môi trắng bệch của bà mới mấp máy, cất giọng khàn khàn: “Minh Nguyệt Châu, con… rốt cuộc con đã chết thế nào?”

“Con…”

Chưa kịp mở miệng, Lý Doanh đã bị Thái hậu dồn toàn bộ sức lực nắm chặt tay: “Không phải a gia con giết con, có đúng không?”

Lý Doanh ngây người, lắc đầu: “Không phải đâu ạ. A gia muốn giết con, nhưng đến phút cuối, người đã dừng tay…”

“Đúng vậy, không phải ông ấy… không phải ông ấy…” Thái hậu lẩm bẩm, sau cùng bỗng bật cười: “Không phải ông ấy… không phải ông ấy…”

Lý Doanh lo lắng hỏi: “A nương, người sao vậy…”

Thái hậu cười trong khi hốc mắt đã ngập nước, trên gương mặt lộ rõ vẻ đau thương. Bà chợt ngẩn ra như vừa tỉnh mộng: “Thì ra là vậy… thì ra là vậy…”

Lý Doanh không hiểu, nhưng trực giác mách bảo nàng rằng điều này có liên quan đến cái chết của mình. Nàng dè dặt hỏi: “A nương, thì ra là thế nào ạ?”

Thái hậu không trả lời, chỉ âu yếm xoa nhẹ gương mặt nàng, vừa khóc vừa cười: “Minh Nguyệt Châu, suốt ba mươi năm nay, hồn phách con đã ở đâu? Là dưới Địa phủ sao?”

Lý Doanh cúi mắt, cố nén nước mắt: “Không ạ, là… ở hồ sen trong cung.”

“Hồ sen?”

Lý Doanh gật đầu: “Sau khi con chết, hồn phách vẫn luôn bị giam cầm trong hồ sen. Mãi đến khi gặp Thôi Tuần, con mới có thể thoát ra được. Con đã nhờ chàng điều tra chân tướng cái chết của mình, suốt quá trình đó… con đã yêu chàng, không thể rời xa chàng nữa…”

Nàng vốn định nhân cơ hội này thuyết phục Thái hậu cứu Thôi Tuần, nhưng bà dường như không hề nghe thấy những lời phía sau. Ánh mắt bà đau đớn đến tột cùng: “Minh Nguyệt Châu, trong hồ sen, có lạnh lắm, có tối lắm không con?”

Một câu nói đơn giản lại khiến nước mắt Lý Doanh trào ra như suối. Trên đời này, người đau lòng vì con cái nhất vẫn luôn là người mẹ từng mang nặng đẻ đau.

Nàng nức nở không thành tiếng: “Không lạnh… không tối lắm đâu ạ…”

“Sao lại không lạnh chứ? Sao lại không tối chứ?” Thái hậu đau đến bất lực: “Lỗi của a nương, a nương đã không phát hiện ra con, a nương thật có lỗi với con…”

Lý Doanh cắn chặt môi, dùng tay áo cố sức lau đi những giọt nước mắt. Nàng rất muốn nói với Thái hậu rằng người không sai, cũng không có lỗi với nàng, người là người mẹ tốt nhất trên đời này. Nhưng thời gian của nàng đã không còn nhiều nữa, cơn đau thiêu đốt trong lồng ng.ực ngày một dữ dội, nàng không thể duy trì hình hài này quá lâu. Nàng phải tranh thủ thời gian, phải nhanh chóng thuyết phục a nương cứu Thôi Tuần.

Nàng nắm lấy tay Thái hậu: “A nương, người đã khuất thì cũng đã khuất rồi. Ban đầu con không định đến gặp người, bởi gặp gỡ sẽ chỉ khiến lòng người thêm đau đớn. Nhưng con không còn cách nào khác, Thôi Tuần vẫn bị giam trong ngục Đại Lý Tự. A nương, cầu xin người, hãy cứu chàng đi…”

Đáy mắt Thái hậu ánh lên lệ quang. Cuối cùng, bà cũng nghe rõ hai chữ “cứu chàng”: “Minh Nguyệt Châu, con nói… cứu Thôi Tuần?”

“Phải.” Lý Doanh quả quyết gật đầu: “Cứu Thôi Tuần, cứu Thập Thất lang của con.”

Thôi Tuần đứng hàng thứ mười bảy trong tộc, nàng gọi hắn thật mật đến mức khiến Thái hậu đơ cứng cả người. Lý Doanh cắn môi, tha thiết van nài: “A nương, nếu Thập Thất lang có mệnh hệ gì, con… dù đã chết một lần, nhưng e rằng… sẽ phải chết thêm lần nữa…”

Câu nói ấy tựa như sấm nổ giữa trời quang, khiến Thái hậu kinh tâm động phách. Bà hoài nghi nhìn nàng, mãi lâu sau mới khó tin bật thốt: “Minh Nguyệt Châu, con… thật lòng yêu hắn đến vậy sao?”

Lý Doanh gật đầu, giọng nàng nghẹn lại vì những giọt lệ chưa khô, nhưng từng lời thốt ra vẫn kiên định vô cùng: “Rất thích, rất yêu chàng. Con không dám tưởng tượng nếu mất chàng, con sẽ ra sao…”

Nàng kéo chuỗi hạt châu trên cổ ra, để lộ viên xá lợi Phật đỉnh ngời sáng: “A nương, để cứu con, chàng đã phải liều mạng, đoạt về xá lợi Phật đỉnh, chàng đã không còn đường lui nào cho kiếp sau nữa. Bởi vậy, kiếp này, con nhất định phải cứu chàng… A nương, Minh Nguyệt Châu chưa từng cầu xin người điều gì, hôm nay con chỉ cầu xin người lần này, xin người… hãy tha cho chàng đi.”

Thái hậu thẫn thờ nhìn viên xá lợi Phật đỉnh tỏa ánh sáng nhu hòa. Thì ra, vì con gái bà nên dù mạo hiểm, Thôi Tuần cũng phải đoạt bằng được báu vật này. Nhưng tha cho hắn thì dễ, chỉ sợ hắn sẽ không từ bỏ chuyện tra án Thiên Uy Quân…

Thái hậu mím môi, đôi mắt đầy đau khổ rũ xuống: “Minh Nguyệt Châu, nhưng Thôi Tuần… hắn muốn giết a đệ của con!”

“Ta biết chàng muốn giết a đệ.”

“Con biết?” Thái hậu không thể tin nổi: “Con biết, vậy mà vẫn muốn cứu hắn ư? Đó là a đệ của con! Là người cùng một mẹ sinh ra với con đấy!”

“Không! Nó không phải a đệ của con!” Lý Doanh nghiến răng: “Con không có một a đệ nào phản bội tướng sĩ trấn thủ biên cương! Càng không có một a đệ nào bán đứng chính con dân của mình!”

Thái hậu chết lặng.

“Nó không xứng làm a đệ của con.” Lý Doanh cố nén cơn đau nghẹn ứ trong lồng ng.ực: “A nương, không phải vì muốn cứu Thập Thất lang nên nói ra những lời này, càng không phải vì tình cảm riêng tư mà buông bỏ a đệ. Nhưng a nương, rõ ràng người biết đệ ấy đã làm những chuyện gì cơ mà? Một kẻ như thế mà vẫn xứng làm Hoàng đế Đại Chu ta sao? Còn xứng để được thiên hạ kính ngưỡng, để bá tánh tôn xưng hai chữ “Thánh nhân” sao?”

Thái hậu không thể phản bác, chỉ có thể thều thào: “Nhưng con chỉ có một đứa em trai, a nương cũng chỉ có một người con trai, a nương không thể bỏ rơi nó được…”

Thần sắc Thái hậu càng thêm thống khổ. Bà vốn luôn giữ được dung mạo trẻ trung như mỹ phụ mới ngoài bốn mươi, nhưng những ngày qua, sắc mặt dần trở nên tiều tụy, gương mặt đã hằn những nếp nhăn sâu: “Minh Nguyệt Châu, sau khi con rời đi, bảy năm sau a nương mới có a đệ của con. A nương lo sợ tượng Bồ Tát Từ Thị sẽ cướp đi nó như đã cướp con, nên mới đặt cho nó nhũ danh là Bồ Tát Bảo. Khi còn nhỏ, Bồ Tát Bảo cũng ngoan ngoãn, hiểu chuyện như con vậy, giúp a nương vơi đi nỗi đau mất con. Nó cứ thế bầu bạn bên a nương suốt hai mươi ba năm qua. Nó luôn nghĩ a nương không yêu nó, nhưng không phải vậy… Cũng như con là cốt nhục của a nương, nó cũng vậy. Trên đời này, có người mẹ nào lại không yêu thương con mình? Minh Nguyệt Châu, tim của a nương… đã tan nát một lần rồi, a nương không muốn nó bị vỡ thêm lần thứ hai nữa…”

Lý Doanh nước mắt giàn giụa: “A nương, a đệ là cốt nhục của người, người không muốn trái tim mình lại vỡ vụn lần nữa. Nhưng a nương, năm vạn binh sĩ Thiên Uy quân, bách tính sáu châu, họ cũng có a nương! Họ cũng là cốt nhục mà a nương họ dứt ruột sinh ra! A nương của họ đã làm gì sai mà phải chịu nỗi đau xé ruột xé gan khi mất con hả người?”

Thái hậu giật mình, đứng lặng tại chỗ.

Lý Doanh lau nước mắt, lại nói: “A nương ơi, trong Thiên Uy quân, có một thiếu niên tên là Tào Ngũ lang, cậu ấy là bằng hữu thân thiết nhất của Thập Thất lang. Cậu ấy vốn là con một trong nhà, nhưng vì muốn báo đáp Đại Chu nên đã mang theo một tấm lòng son, lên đường nhập ngũ. Tào Ngũ lang đã xông pha chiến trường nơi biên ải, huyết chiến không lùi. Nhưng cậu ấy nào có ngờ, người quân phụ mà cậu ấy thề chết bảo vệ lại tự tay đưa cậu ấy vào tử địa Lạc Nhạn Lĩnh! Vị quân phụ ấy… chỉ vì mục đích riêng của bản thân mà đã dồn cậu ấy vào bước đường cùng! Hài cốt cậu ấy đến nay vẫn còn lưu lại ở Lạc Nhạn Lĩnh, chưa được ai thu nhặt, còn a nương của cậu ấy, vì quá đau lòng nên đã treo cổ tự vẫn. A nương ơi, trong Thiên Uy quân, trong sáu châu thuộc Quan Nội Đạo, có bao nhiêu Tào Ngũ Lang vô tội đã bỏ mạng? Lại có bao nhiêu bà mẹ vì mất con mà đau thắt ruột gan…”

Nàng chậm rãi tiếp: “A nương, trước đây người luôn dạy con rằng, công chúa hưởng sự cung phụng của muôn dân thì cũng phải biết báo đáp muôn dân. Con đã làm được điều đó, nhưng còn a đệ thì sao? Đệ ấy là Hoàng đế, được muôn dân kính ngưỡng, phục tùng, nhưng đệ ấy đã đền đáp lại gì cho họ chưa? Chưa từng! Ngược lại, đệ ấy còn đẩy muôn dân của mình đến dưới vó sắt của Đột Quyết, chịu sự giày xéo! A nương, người nói cho con biết, một a đệ như vậy, dựa vào đâu mà đòi xứng làm a đệ của con?”

Vẻ mặt Thái hậu rối rắm, bà vừa khóc vừa nói: “Minh Nguyệt Châu, con đừng nói nữa!”

“A nương…” Lý Doanh nén nỗi bi thương, nàng tiếp tục: “Người là Thái hậu của Đại Chu, không chỉ là mẫu thân của a đệ, mà còn là mẫu thân của thiên hạ! Các binh sĩ Thiên Uy quân, bách tính sáu châu… bọn họ, đều là con của người! Sao người có thể dung túng một người con này của người đi làm hại những người con khác? A nương, người không thể làm thế được…”

Những lời của nàng khiến Thái hậu như bừng tỉnh, đúng vậy, mọi thứ… không nên diễn ra thế này!

Cơn đau như lửa đốt dội lên lồng ng.ực Lý Doanh. Nàng chỉ cảm thấy đầu óc ngày một choáng váng. Nàng nắm chặt vạt áo, cố gắng điều hòa hơi thở, nhìn Thái hậu nói: “A nương, Minh Nguyệt Châu phải đi rồi, sau này… cũng sẽ không quay về nữa… A nương là Thái hậu của Đại Chu, từ nay về sau, người phải làm mẫu thân của thiên hạ……”

Bóng dáng nàng dần nhạt đi, Thái hậu hoảng loạn lao đến ôm nàng: “Minh Nguyệt Châu, đừng đi! Con đừng rời xa a nương nữa!”

Nhưng thân ảnh đứa con gái yêu dấu đã dần tan biến trong vòng tay bà, để lại lời nhắn nhủ vang vọng khắp không gian:

“A nương… bảo trọng…”

“Kiếp sau… Minh Nguyệt Châu vẫn muốn làm con gái của a nương…”

Vòng tay Thái hậu trống rỗng, cơ thể người ấy đã trở thành hư không. Bà biết, con gái của mình đã vĩnh viễn đi mất.

Nàng sẽ không bao giờ quay về nữa.

Thái hậu Đại Chu phủ phục trên nền đất, khóc rống lên.



Khi tia sáng đầu tiên của buổi sớm mai len qua song cửa, rọi vào tẩm điện, những cung nữ chờ đợi suốt một đêm bên ngoài điện đều thấp thỏm lo âu. Cuối cùng, một người không kìm được, gõ nhẹ lên cánh cửa gỗ trầm hương vẫn đóng chặt. Thế nhưng, bên trong điện vẫn là một khoảng lặng đến rùng mình.

Các cung nữ đưa mắt nhìn nhau, ai nấy đều lấy làm bất an. Chẳng lẽ… Thái hậu đã xảy ra chuyện gì rồi?

Một cung nữ hoảng sợ đẩy cửa xông vào, chỉ thấy Thái hậu ngồi lặng lẽ trên nền gỗ mun, tay siết chặt một túi gấm thêu hoa mẫu đơn ngũ sắc. Đôi mắt bà sưng đỏ, hiển nhiên cả đêm qua bà chưa từng chợp mắt.

Đám cung nữ nhất loạt quỳ sụp xuống: “Thái hậu thứ tội, nô tỳ không cố ý quấy rầy người…”

Nhưng giọng điệu của Thái hậu lại bình thản lạ lùng: “Đứng dậy đi.”

Các cung nữ rón rén đứng lên, một người gan dạ len lén ngước nhìn, suýt nữa kinh hãi kêu lên.

Chỉ sau một đêm, mái tóc đen dài tựa suối chảy của Thái hậu đã hoàn toàn bạc trắng.

Thái hậu Đại Chu, lại có thể… một đêm bạc đầu.

Cả đám cung nữ đều hoảng sợ quỳ rạp xuống, run rẩy như cành liễu trong gió.

Thái hậu siết chặt túi gấm trong tay, chậm rãi đứng dậy. Dù đôi mắt vẫn nhuốm nét đau thương khó tả, nhưng rõ ràng, bà đã hạ quyết tâm nào đó.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 156: A nương, người muốn giết trẫm sao?


Bên trong điện Thần Long, Long Hưng Đế cũng thức trắng cả đêm.

Không rõ vì sao, tối qua hắn cứ thấy đặc biệt bồn chồn, dù có khôi giáp của Huệ phi bầu bạn những vẫn không sao chợp mắt nổi. Khi trời rạng sáng, hắn quyết định hủy buổi triều hôm nay. Dù sao hắn cũng chỉ là một con rối, có lên triều hay không cũng đâu khác gì nhau.

Hoàng hậu nghe tin hắn thấy không khoẻ, vội vàng chạy đến thăm hắn. Nàng là một thê tử hiền thục đoan trang, thực lòng quan tâm đến hắn, còn tự tay hầm một chén canh hậu phác nhân sâm mang tới. Thế nhưng, Long Hưng Đế vừa trông thấy nàng liền cảm thấy khó chịu. Hắn liếc mắt nhìn chén canh, lạnh nhạt nói: “Đây không phải việc một Hoàng hậu nên làm.”

Hoàng hậu thoáng tủi thân, nhưng vẫn nén xuống, dịu giọng khuyên hắn giữ gìn Thánh thể. Dù hắn là một Hoàng đế thất thế bị thao túng hay từng nắm giữ quyền hành trong tay, nàng vẫn luôn đối với hắn chân thành, trước sau như một.

Ánh mắt Thái hậu chưa từng sai. Người sai chính là hắn.

Cả đời này, hắn không thể nào yêu người do Thái hậu lựa chọn.

Hoàng hậu còn đang khuyên nhủ, bỗng cung nhân vào báo Thái hậu ghé qua.

Từ trước đến nay, mỗi lần mẫu tử gặp mặt, Long Hưng Đế vẫn luôn là người đích thân tới điện Bồng Lai. Về phần Thái hậu, chưa khi nào bà chủ động bước chân vào điện Thần Long.

Cả Hoàng đế và Hoàng hậu đều có vẻ sửng sốt, ngay lúc đó, Thái hậu với mái đầu bạc trắng, dưới sự dìu đỡ của cung nhân, chậm rãi tiến vào.

Hoàng hậu kinh ngạc che miệng, nhưng Thái hậu không giải thích với nàng, chỉ khoát tay bảo cung nhân đưa Hoàng hậu lui xuống.

Điện Thần Long rộng lớn, chỉ còn lại hai người: Thái hậu và Long Hưng Đế.

Mây giông ùn ùn kéo đến, gió lộng đầy lầu.



Long Hưng Đế nhạy bén nhận ra có điều không ổn, ánh mắt đảo qua bốn phía, sắc mặt tái nhợt, sau đó mới đỡ lấy Thái hậu: “A nương, tóc người… sao lại thế này?”

Thái hậu hất tay hắn ra, ánh mắt dán chặt vào hắn, như khóc mà cũng như không: “Bồ Tát Bảo, rốt cuộc con có nhúng tay vào chuyện của Thiên Uy quân không?”

Long Hưng Đế khựng lại, nhưng ngay sau đó, hắn quả quyết đáp: “Không!”

“Không thật sao?”

“Không!”

Long Hưng Đế chợt kích động, hắn đi qua đi lại: “A nương, ai đã đặt điều trước mặt người? Thôi Tụng Thanh? Tiết Vạn Triệt? Hừ! Vì muốn cứu Thôi Tuần nên chúng dám bịa đặt bôi nhọ trẫm!”

“Không ai đặt điều cả!” Thái hậu cao giọng: “Là vì chính con cũng không thể giải thích rõ ràng về ký lục sinh hoạt hằng ngày của mình, cũng không thể giải thích rõ về cái chết của Vương Huyên!”

“Còn chưa đủ rõ sao ạ? Trẫm đã nói rồi, trẫm nói câu đó là vì muốn dừng việc cống phẩm từ Thanh Châu! Cái chết của Vương Huyên là do Huệ phi gây ra, chuyện này đâu có liên quan gì đến trẫm?”

Thái hậu nhìn hắn đầy bi thương: “Bồ Tát Bảo, con coi a nương là đồ ngốc sao? Coi những tiến sĩ tam giáp kia là đồ ngốc sao? Coi thiên hạ này đều là đồ ngốc sao?”

“Trẫm chưa từng coi ai là kẻ ngốc, trẫm không làm thì chính là không làm!”

Long Hưng Đế sống chết không nhận. Thái hậu cười khổ hai tiếng, chống tay lên bức bích hoạ vẽ hai màu đỏ trắng, lảo đảo ngồi xuống bên bàn gỗ tử đàn. Một lọn tóc bạc bung khỏi búi tóc cài ngay ngắn, khiến bà càng thêm phần già nua, tiều tụy. Bà chậm rãi nói: “Người không thừa nhận cũng không sao. Cứ để Tam Ty điều tra, tra lại từng câu từng chữ trong Khởi cư chú của người trong khoảng thời gian đó, đồng thời triệu tập hết đám cung nhân hầu hạ người khi ấy tới, thẩm vấn từng người một, kiểu gì cũng tìm được manh mối thôi.”

Sắc mặt Long Hưng Đế lập tức tái mét: “A nương, người nói gì cơ?”

“Người nói mình không làm, vậy sao phải sợ? Trừ phi, người quả thực đã làm!”

Long Hưng Đế cắn răng, bỗng chốc quỳ rạp xuống, bò tới trước mặt Thái hậu, khẩn cầu: “A nương, người không thể làm vậy! Trẫm là Hoàng đế! Người để người ta điều tra Hoàng đế sao? Người không định chừa cho trẫm chút thể diện nào sao?”

“Ngô không chừa lại thể diện cho người, hay chính người không tự chừa lại thể diện cho mình?” Thái hậu nghiêm giọng: “Ngô hỏi người lần cuối, người có tham dự vào án Thiên Uy quân không?”

Bà trừng mắt nhìn Long Hưng Đế, ánh mắt không còn một sự do dự hay mềm lòng. Long Hưng Đế biết bà đã hạ quyết tâm, hắn không dám tiếp tục chối cãi, chỉ quỳ trước mặt Thái hậu, run rẩy không nói nên lời. Cõi lòng Thái hậu lạnh thấu, bà giơ tay, một bạt tai giáng thẳng xuống mặt hắn.

Năm dấu tay đỏ rực hằn trên gương mặt tuấn tú của Long Hưng Đế, Thái hậu đau lòng gào lên: “Sao ngươi dám làm thế? Đó là những tướng sĩ giữ biên cương vì ngươi! Đó là những bách tính kính ngươi, tôn ngươi!”

“A nương…” Long Hưng Đế bật khóc, hắn nắm chặt vạt áo Thái hậu, cầu xin: “Trẫm cũng bị Lư Dụ Dân lừa gạt thôi mà! Ông ta nói, chỉ cần để Thiên Uy quân bại một lần là được, nhưng ông ta không nói hậu quả sẽ nghiêm trọng đến thế này! Trẫm cũng không ngờ sẽ ra nông nỗi này!”

“Có đúng là ngươi bị Lư Dụ Dân lừa gạt?”

Long Hưng Đế gật đầu lia lịa, nước mắt nước mũi tèm lem: “A nương, người biết mà, nhi tử vốn nhát gan, nếu không phải bị ông ta lừa gạt, sao nhi tử dám làm chuyện này chứ? A nương, xin hãy tha cho nhi tử, nhi tử không dám nữa đâu…”

Hắn khóc đến mặt mày lem luốc, trông vô cùng đáng thương. Thái hậu nhìn hắn, chợt nhớ lại khi hắn còn nhỏ, mỗi lần ham chơi bị phạt quỳ cũng khóc lóc thảm thiết như thế. Khi đó, bà cứng rắn nói: “A gia người vẫn còn con trai, vẫn còn cháu trai, nếu người không lo làm Hoàng đế thì vẫn còn rất nhiều người khác muốn làm! Nếu người không chịu tiến bộ, ngô sẽ phế người.”

Phải đến khi Lư Dụ Dân ra mặt cầu xin cho Long Hưng Đế, khi ấy mới chỉ năm tuổi rồi bế hắn ra ngoài, bà mới chịu bỏ qua. Kể từ đó, hắn sợ bà như sợ cọp, không bao giờ dám trái ý bà nữa.

Nước mắt lặng lẽ trượt xuống gò má của Thái hậu, giọng bà khẽ run lên: “Bồ Tát Bảo, sai lầm lần này của con, không phải là một lần ham chơi, một trận giận dỗi trốn không chịu thượng triều, mà là một tội lỗi ngập trời…”

“A nương, con biết con sai rồi! Nhưng con sẽ sửa, con thề, từ nay về sau, con sẽ không làm những chuyện hồ đồ như vậy nữa…”

“Không còn lần sau nữa.” Thái hậu cất giọng ai oán: “A nương là Thái hậu Đại Chu, a nương phải cho năm vạn Thiên Uy quân, cho bách tính sáu châu, một lời giải thích.”

Long Hưng Đế kinh hãi trừng mắt nhìn bà: “A nương, người muốn phế trẫm?”

“Không.” Thái hậu đưa đôi tay run rẩy lên, chạm vào gương mặt hắn như khi còn bé: “Bồ Tát Bảo, từ nhỏ a nương đã dạy con, sai thì phải chịu trách nhiệm. Trên Lạc Nhạn Lĩnh xác chết chất đầy như núi, bách tính sáu châu nhà tan cửa nát. Con… phải chịu trách nhiệm cho sai lầm của mình…”

Long Hưng Đế ngây dại, răng va vào nhau lập cập: “A nương, người… người muốn giết trẫm sao?”

Nước mắt Thái hậu rơi như suối, bà đau đớn đến mức gần như không thể đứng vững: “Bồ Tát Bảo, từ nay a nương sẽ ăn chay trường, sẽ dùng quãng đời còn lại chấn chỉnh giang sơn này, sẽ tạo phúc cho lê dân… chuộc tội thay con.”

Sắc mặt Long Hưng Đế càng lúc càng trắng bệch, hắn bỗng đẩy mạnh bà ra: “A nương, người điên rồi sao? Vì đám con sâu cái kiến thấp hèn kia, mà người muốn giết con ruột của mình?”

Nhưng ngay sau đó, hắn lại nhận thêm một bạt tai đầy tuyệt vọng của Thái hậu: “Bọn họ không phải con sâu cái kiến, không phải cỏ rác, mà là con dân của con! Con là quân phụ của họ!”

Cái tát này khiến Long Hưng Đế lập tức tỉnh táo lại, hắn đột nhiên bò đến dưới chân Thái hậu, khẩn thiết cầu xin: “A nương, trẫm biết lỗi thật rồi mà, người không thể giết trẫm! Trẫm là đứa con duy nhất của người, sao người có thể làm vậy?”

Hắn liên tục cầu xin, nhưng nào phải chỉ riêng hắn đau đớn? Thái hậu buộc mình phải trấn tĩnh, dập tắt nỗi bi thương và sự không đành lòng. Bà nói: “Bồ Tát Bảo, a nương cũng không muốn giết con. Nhưng đêm qua, a nương đã gặp a tỷ của con.”

Long Hưng Đế kinh hãi ngẩng phắt đầu lên, Thái hậu lẩm bẩm: “Mười sáu tuổi, tuổi xuân tươi đẹp biết bao. Nhưng dưới hồ sen, lạnh lẽo biết bao, tối tăm biết bao… Trong khi bên ngoài hồ sen, quốc lực ngày càng cường thịnh, quốc khố ngày càng dồi dào, quân đội ngày càng hùng mạnh… Những điều ấy, đều được lát bằng sinh mệnh của a tỷ con. Nếu không phải a gia con vẫn luôn day dứt vì cái chết của a tỷ, thì đế vị của con, quyền nhiếp chính của a nương, có thể thuận lợi đến thế sao? Bồ Tát Bảo, con có lỗi với a tỷ con. A nương, lại càng có lỗi với a tỷ con. A tỷ con dùng mạng sống để đổi lấy tất cả những điều này. Những gì a tỷ con dùng mạng đổi lấy, không thể là một Thái hậu dung túng con trai mình, lại càng không thể là một Hoàng đế bán rẻ chính con dân của mình.”

Nước mắt Thái hậu tuôn như mưa: “Bồ Tát Bảo, con sai rồi, a nương cũng sai rồi. Vì a tỷ con, a nương không thể để sai lầm này tiếp diễn nữa. Nếu không, a tỷ con sẽ rất thất vọng về a nương…”

Thái hậu nhắc đến Lý Doanh, Long Hưng Đế liền hiểu, lần này hắn đã không còn đường sống. Hắn nghiến răng ken két, bỗng bật cười ha hả: “Cái gì mà gặp a tỷ? Người sống có thể gặp ma sao? Toàn là cái cớ! Đều là cái cớ cả! Nói trắng ra, chẳng qua a nương chỉ muốn mượn cơ hội này để giết trẫm, một mình độc chiếm đại quyền mà thôi! A nương, đừng quên, người còn chưa có cháu trai! Nếu người giết trẫm, người định làm Thái hậu kiểu gì đây?”

Lời hắn nói khiến Thái hậu càng thêm đau lòng, giọng bà trầm xuống: “Bồ Tát Bảo, lẽ nào con cho rằng vì ngôi vị Thái hậu nên a nương mới bao che cho con suốt bao năm qua? Không phải như vậy. Từ sau huyết án Thái Xương, a nương đã bắt đầu tham dự triều chính, đến nay đã ba mươi năm rồi. Con dựa vào đâu để cho rằng ba mươi năm vẫn chưa đủ để a nương củng cố ngôi vị Thái hậu?”

Long Hưng Đế cố chấp không tin: “Nếu không phải vì ngai vị Thái hậu, lẽ nào là vì tình mẫu tử? Hừ, người có tình nghĩa với a tỷ, nhưng có từng dành chút gì cho trẫm không? Trẫm chẳng qua chỉ là công cụ để người thắt chặt quyền lực mà thôi, người chưa từng thực lòng thương yêu trẫm!”

Nói đến đây, hắn đã không còn cố kỵ điều gì nữa, bật cười điên dại: “A nương, dù sao trẫm cũng phải chết rồi, chi bằng nói thẳng cho người biết. Đứa con mà người vẫn tưởng là nhu nhược ngoan ngoãn kia, không chỉ tham dự vào vụ án Thiên Uy quân, mà còn chính là kẻ chủ mưu!”

Hắn cười càng lúc càng cuồng loạn, ánh mắt lóe lên vẻ tàn nhẫn: “Cái gì mà bị Lư Hoài mê hoặc? Là trẫm ép ông ta tham dự! Là trẫm ra lệnh cho ông ta đi tìm Bùi Quan Nhạc và Thẩm Khuyết! Là trẫm tự tay đẩy năm vạn Thiên Uy quân vào chỗ chết!”



Sáu năm trước, trong điện Thần Long, Lư Dụ Dân thất kinh, vội quỳ rạp xuống đất, không dám tin nhìn người học trò mà mình đã dốc hết tâm huyết dạy dỗ: “Thánh nhân không thể làm vậy! Nếu muốn đoạt quyền từ tay Thái hậu, vẫn còn nhiều cách khác, cớ gì lại hy sinh tướng sĩ Đại Chu?”

“Trẫm không thể đợi được nữa! Trẫm đã mười bảy tuổi rồi! Vậy mà bà ta vẫn chưa chịu buông quyền! Sức khỏe bà ta vẫn rất cường kiện, ít nhất có thể sống thêm tám năm, mười năm nữa, trẫm còn phải chờ tới khi nào?” Long Hưng Đế bực bội đi lòng vòng, giọng lạnh lẽo: “Trẫm không thể đợi thêm dù chỉ một ngày! Quách Cần Uy là tướng lĩnh do Thái hậu đích thân đề bạt, Thiên Uy quân là chiến tích hiển hách nhất của bà ta. Nếu Thiên Uy quân đại bại, sáu châu Quan Nội Đạo thất thủ, thì chẳng khác nào tuyên cáo với thiên hạ rằng Thái hậu không biết cách dùng người. Khi đó, bà ta còn mặt mũi nào để thao túng triều chính? Lấy tư cách gì để hiệu triệu quần thần? Đến lúc đó, dù trẫm có nhịn được, thiên hạ cũng không nhịn được!”

“Nhưng Thiên Uy quân cũng là bách tính của Thánh nhân! Sáu châu Quan Nội Đạo vẫn luôn là lãnh thổ Đại Chu, sao Thánh nhân có thể dâng đất đai, để bách tính rơi vào móng vuốt Đột Quyết? Như vậy… chẳng phải sẽ để lại tiếng xấu muôn đời sao?”

“Người làm đại sự, không thể câu nệ tiểu tiết! Trẫm không nói, thầy không nói thì ai biết? Thế nhân chỉ biết rằng Quách Cần Uy tham công liều lĩnh, khiến Thiên Uy quân thảm bại, sáu châu Quan Nội Đạo bị đánh mất. Đến lúc đó, Quách Cần Uy và Thiên Uy quân sẽ trở thành nỗi nhục của Đại Chu, ai, ai sẽ đứng ra, rửa sạch nỗi nhục này? Hơn nữa, một khi trẫm giành lại quyền lực, trẫm nhất định đoạt lại sáu châu từ tay Đột Quyết, tuyệt đối không để bách tính phải chịu cảnh lầm than mãi mãi.”

Dù Long Hưng Đế khẳng định chắc nịch, nhưng Lư Dụ Dân vẫn mặt xám như tro, liên tục lắc đầu: “Thánh nhân, xin hãy suy xét thấu đáo! Đây tuyệt đối không phải việc đấng nhân quân nên làm?”

“Nhân quân, thế nào là nhân quân? Một kẻ chỉ có lòng nhân từ mà chẳng có chút quyền hành nào, cũng có thể gọi là nhân quân sao? Nhân quân, không chỉ cần nhân, mà còn phải là quân! Thầy xem, ngay cả việc bổ nhiệm thầy làm Tả bộc xạ, trẫm cũng chẳng làm được, nhìn trẫm có còn giống một quân chủ hay không?”

Lư Dụ Dân lệ già tuôn trào: “Thái hậu nắm quyền nhiếp chính, quả thật đáng hận, nhưng Thánh nhân không thể vì hận Thái hậu mà vứt bỏ tướng sĩ, vứt bỏ bách tính…”

“Tướng sĩ? Đó là tướng sĩ trung thành với a nương! Còn bách tính, trẫm chỉ để họ chịu khổ nhất thời, chứ không phải cả đời.”

Lư Dụ Dân lặng người, nhìn người học trò của mình, chợt thấy xa lạ đến câm nín.

Long Hưng Đế càng thêm sốt ruột, giọng nói đanh lại: “Thầy, trẫm không thể đợi nữa. Trẫm đã suy tính địa đồ rất lâu, cân nhắc vô số lần mới nghĩ ra cách này. Tuy có phần máu lạnh, nhưng chắc chắn sẽ giáng một đòn chí mạng. Thầy, hãy tin trẫm.”

Cả người Lư Dụ Dân phát run, không nói không rằng. Long Hưng Đế thở dài: “Thầy là người trẫm tin tưởng nhất, nên trẫm mới bàn bạc với thầy. Nhưng nếu thầy không muốn, vậy thì trẫm sẽ tự mình liên lạc với Đột Quyết.”

“Không!” Lư Dụ Dân hoảng hốt ngẩng đầu lên ngăn cản, thần sắc vô cùng thống khổ. Hồi lâu sau, ông ta mới khó nhọc cất lời: “Thánh nhân không thể tự nhúng tay vào chuyện này. Nếu đã vậy… hãy để thần làm thay. Sau này nếu có bại lộ, toàn bộ tội danh cứ để thần gánh chịu.”

Cuối cùng, ông ta cũng đồng ý. Khóe môi Long Hưng Đế khẽ cong lên, nở một nụ cười vừa ngây thơ vừa tàn nhẫn. Thiếu niên mười bảy tuổi ấy cẩn thận dặn dò: “Thầy, Thứ sử Phong Châu là Bùi Quan Nhạc, ông ta tâm cao khí ngạo, có thể lợi dụng đươc. Còn Trung lang tướng Thẩm Khuyết, biểu huynh của trẫm, hắn vốn luôn bất mãn với a nương, cũng có thể lợi dụng. Thầy hãy tìm bọn họ thuyết phục họ giúp một tay, chắc chắn họ sẽ đồng ý.”

Long Hưng Đế đã tính toán sẵn những quân cờ của mình, đem toàn bộ kế hoạch bày ra trước mặt Lư Dụ Dân. Cõi lòng Lư Dụ Dân càng lúc càng rét lạnh, ông ta dè dặt hỏi: “Nếu Đột Quyết lòng tham không đáy, sau khi chiếm sáu châu Quan Nội Đạo vẫn không chịu lui binh, mà lại liên kết với Bùi Quan Nhạc, xuôi nam đánh thẳng vào Trường An, vậy phải làm sao?”

“Không thể.” Long Hưng Đế dứt khoát phủ nhận: “Đối với Khả hãn Ni Đô, Đại Chu quá lớn, ông ta nuốt không trôi, dù có nuốt được, cũng phải hao tổn gấp trăm lần sức lực để giao chiến với tàn quân của Đại Chu, cuộc mua bán này không đáng. Chi bằng tuân theo minh ước, chỉ chiếm sáu châu thuộc Quan Nội Đạo. Sáu châu ấy có đến cả triệu dân, đủ để ông ta dùng rồi. Còn về Bùi Quan Nhạc, tạm không nhắc đến việc vợ con ông ta đều ở Trường An, chỉ xét riêng bản thân ông ta, tuy dã tâm bừng bừng, thủ đoạn bất chấp, nhưng ông ta không phải hạng ngu dốt. Nếu ông ta quy thuận Đột Quyết, sẽ bị cả thiên hạ đồng lòng tru diệt. Chi bằng giả bộ cố thủ Ninh Sóc, kháng cự Đột Quyết, trở thành anh hùng của Đại Chu, như thế chẳng những hưởng vinh hoa phú quý, quan cao lộc hậu, mà còn có thể lưu danh thiên cổ.”

Long Hưng Đế đã suy tính kế hoạch này không biết bao nhiêu lần, cho nên hắn vô cùng chắc chắn rằng Khả hãn Ni Đô sẽ không xuôi nam, Bùi Quan Nhạc cũng không phản bội. Thế nhưng, hắn vẫn chậm rãi nói tiếp: “Tất nhiên, nếu Bùi Quan Nhạc thực sự phản bội trẫm, khiến Đột Quyết áp sát Trường An, vậy cũng chỉ có thể trách trẫm vận số không may, cược thua ván này. Nhưng vận mệnh, nếu không đánh cược một phen, làm sao biết được kết quả? Trẫm thà làm một con bạc thua sạch, còn hơn là làm một con rối vô năng.”



Long Hưng Đế bày ra mọi toan tính, khiến Thái hậu kinh hoàng đến nỗi ngây người. Mãi sau, bà mới hoàn hồn, đôi môi run rẩy, nước mắt ầng ậc trào ra, từng cái bạt tai liên tục giáng mạnh xuống gương mặt tuấn tú như ngọc của con trai mình: “Ngươi còn là người sao? Ngươi thậm chí còn không bằng súc sinh!”

Máu rịn ra từ khóe miệng Long Hưng Đế, hắn bật cười khoái trá: “Phải, trẫm chính là súc sinh. Về phần vụ án miêu quỷ, Thẩm Khuyết muốn hại a nương, nhưng bộ địch y bị lấy cắp kia là do trẫm đưa cho hắn. Chính trẫm muốn lấy mạng a nương!”

“Ngươi… ngươi…” Thái hậu đau đớn đến nghiến răng nghiến lợi: “Sao ngươi lại thành ra thế này!”

So với sự phẫn nộ của Thái hậu, Long Hưng Đế lại tỏ ra hết sức bình thản. Hắn cười khanh khách: “A nương, trẫm trước nay vẫn thế, chưa từng thay đổi. Trẫm là con của người, trên đường trở thành Thái hậu, người đã giẫm lên bao nhiêu thi cốt? Trẫm là con của a gia. A gia là người thế nào? Giả dại chờ thời, bức tử dưỡng mẫu. Trẫm là cốt nhục của hai người cơ mà, cả hai người, có ai là người lương thiện không? Ồ, có lẽ a tỷ là người lương thiện đấy, nhưng tỷ ấy đã chết rồi, ngay cả cái chết của tỷ ấy cũng bị hai người lợi dụng để thúc đẩy tân chính. Ha, tỷ ấy nào giống con gái của hai người chút nào?”

Thái hậu bi phẫn đến mức toàn thân run rẩy: “Ngươi… đến cả cầm thú ngươi cũng không bằng! Dù ngô và a gia ngươi có mất nhân tính thế nào, thì cũng chưa từng làm chuyện b.án n.ước! Ngươi xứng làm Hoàng đế sao? Ngươi xứng để bách tính tôn xưng một tiếng “Thánh nhân” sao?”

“Sao lại không xứng? A gia biết rõ Trịnh Quân không giết a tỷ, nhưng vẫn khơi mào huyết án Thái Xương, giết hàng vạn người. Chẳng lẽ những người đó không phải bách tính của ông ta? Ông ta vẫn được xưng là Thánh nhân đấy thôi, tại sao trẫm lại không thể?” Long Hưng Đế cười phá lên: “Từ xưa đến nay, thắng làm vua, thua làm giặc. B.án n.ước ấy à? Nếu trẫm thành công, tương lai sử sách sẽ chép rằng trẫm là Thánh chủ Trung Hưng, khôi phục đại cục! Biết đâu được, có khi còn ca tụng trẫm nhẫn nhục chịu đựng, một chiêu đoạt quyền cũng nên!”

Thái hậu giận đến phát run, bà vơ lấy công văn trên bàn ném thẳng vào Long Hưng Đế: “Đến giờ mà ngươi vẫn không chịu hối cải! Ngươi xứng làm Thánh nhân? Ngay cả làm người ngươi cũng không xứng!”

Bị đánh đến rách trán, máu đỏ tuôn ra, chảy xuống đôi mắt, khiến khuôn mặt Long Hưng Đế thoáng chốc tựa như ma quỷ. Hắn cười nhạt: “A nương, vì sao trẫm cấu kết với Đột Quyết, vì sao trẫm giết hại mẫu thân, tất cả đều là nhờ ơn người cả đấy!”

Thái hậu khựng lại, Long Hưng Đế chậm rãi nói: “Từ nhỏ, người đã dạy trẫm phải làm một Thánh nhân. Trẫm không thể có hỉ nộ, không thể có ai lạc, trẫm chỉ là một công cụ để người thực hiện hoài bão của mình. Người và a gia, ai cũng độc ác như ai, vậy mà lại mong trẫm trở thành một bậc minh quân nhân đức? Người tự vấn lòng đi, người có phải Thánh nhân không? Ngay cả người còn không làm được, dựa vào đâu bắt trẫm làm được? Từ nhỏ đến lớn, những gì trẫm nhận được từ người chỉ là quỳ phạt, trách mắng, uy h**p. Rõ ràng người là mẹ ruột của trẫm, vậy mà trẫm chẳng cảm nhận được chút yêu thương nào, dựa vào đâu để trẫm tin rằng người sẽ trao trả quyền hành hay tin rằng người sẽ không phế bỏ trẫm? Để bảo vệ chính mình, trẫm mới phải cấu kết Đột Quyết, mới phải giết hại mẹ ruột. Suy cho cùng, đó chẳng phải đều do người ban tặng sao?”

Thái hậu phẫn uất đến mức bật khóc: “Ngươi nói tất cả là do a nương? Ngươi nói a nương không thương yêu ngươi? Khi ngươi bốn tuổi bệnh nặng, là ai thức trắng đêm chăm sóc ngươi? Khi ngươi mười tuổi bị thích khách của Giang Châu vương ám sát, là ai đẩy ngươi ra, dùng thân che chắn cho ngươi? Là a nương đây, người mà ngươi luôn miệng nói rằng không yêu thương gì ngươi đấy! Vì sao ta bắt ngươi làm Thánh nhân? Là bởi vì ta và cha ngươi sát nghiệt quá nặng, mai sau hậu thế ắt sẽ khen chê lẫn lộn. Ta muốn ngươi làm một minh quân được người đời ca tụng, ngàn năm vạn năm sau, khi nhắc đến chỉ toàn những lời tán dương. Chẳng lẽ là sai sao?”

“Đương nhiên là sai!”

Long Hưng Đế phản bác: “Đó là suy nghĩ của người! Người đã từng hỏi trẫm chưa? Người luôn muốn trẫm trở thành một a tỷ khác, nhưng trẫm không phải a tỷ! Giống như a nương và a gia, trẫm cũng là một kẻ ích kỷ, quyết tuyệt, bạo ngược! Trẫm không thể biến thành a tỷ!”

Thái hậu nghiến răng, trừng mắt nhìn Long Hưng Đế, nhưng trên mặt hắn không hề có chút ăn năn. Đến tận khoảnh khắc này, rốt cuộc bà cũng đã lạnh lòng, gật nhẹ đầu: “Được, không dạy dỗ ngươi đến nơi đến chốn là lỗi của a nương ngươi. Mẹ con ta không còn lời nào để nói thêm nữa, cứ để tất cả kết thúc tại đây đi.”

Long Hưng Đế bật cười khinh bỉ, hắn loạng choạng đứng lên, lấy bộ khôi giáp của Huệ phi ra, rồi ngồi xuống đất, đặt nó lên đầu gối. Giờ phút này, hắn thà để đoạn tình cảm méo mó này bầu bạn với mình, còn hơn mở miệng cầu xin Thái hậu lấy một câu.

Hắn chỉnh lại y quan, bình tĩnh nói: “Rượu độc hay lụa trắng, a nương cứ mang vào đi. Dù sao, trẫm cũng không hối hận.”

Lời sau cuối của hắn chính là: “A nương, người cũng không cần phải ăn chay cả đời để chuộc tội thay trẫm, trẫm không thèm.”

Thái hậu dường như già đi mười tuổi, bà vịn tay lên bức tường vẽ bích họa, chậm rãi đứng dậy, giọng nói như đã hao mòn tận cùng: “Ngươi không cần, nhưng a nương ta vẫn sẽ làm vậy.”

Bà vịn tường, lê từng bước một rời khỏi điện Thần Long. Mãi đến khi ra đến cửa, thân thể mới mềm nhũn, suýt nữa ngã xuống đất, nội thị vội vã đỡ lấy bà. Ánh mắt bà lướt nhanh qua chén rượu vàng trong tay nội thị, chậm rãi nhắm mắt lại, giọng nói đượm vẻ thê lương: “Đưa vào… cho Thánh nhân đi.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 157: Chắc không lâu nữa, a nương sẽ đăng cơ


Long Hưng Đế bất ngờ bạo tử, triều đình liệt kê mười tội lớn của hắn, trong đó có bất hiếu, bội nghịch, phế bỏ đế hiệu, giáng làm thứ nhân. Thái hậu hạ tội kỷ chiếu, nhận lỗi vì giáo dưỡng không chu toàn. Trong bản chiếu thư ấy cũng như danh sách mười tội danh, vì cân nhắc đến sự ổn định của Đại Chu nên triều đình không đề cập đến tội trạng b.án n.ước của Long Hưng Đế. Thế nhưng, gia quyến của Thiên Uy quân đều được thả ra, các sĩ tử từng tĩnh tọa cũng được phóng thích, chưa kể còn được ban thưởng. Chỉ riêng Long Hưng Đế, người mà họ phản đối phải chết. Công tội ra sao, sự vụ đã rõ như ban ngày.

Chính sử không ghi chép, nhưng trong dã sử và thơ phú vẫn có những ám chỉ mơ hồ, xem như đã công khai tội nghiệt của Long Hưng Đế trước bàn dân thiên hạ. Ngàn năm vạn năm sau, hắn vẫn sẽ bị người đời phỉ nhổ.

Long Hưng Đế không có con nối dõi, ngôi vị trống không, chư vương dòm ngó rục rịch. Có kẻ thậm chí còn lớn tiếng chỉ trích Thái hậu dạy con không nghiêm, không xứng ngồi ở vị trí đó. May mắn thay, Thượng thư Hữu bộc xạ Thôi Tụng Thanh và Đại Lý Tự Thiếu khanh Lư Hoài đều tiên phong đứng về phía Thái hậu. Thái hậu cũng dùng thủ đoạn lôi đình, nhanh chóng phù trợ một ấu tử trong tông thất lên ngôi, sử gọi là Thiếu Đế. Cục diện lập tức ổn định, thiên hạ đã có chủ, chư vương chỉ có thể trơ mắt nhìn cơ hội vụt khỏi tầm tay.

Bách tính phẫn nộ trước hành vi của Long Hưng Đế, nhưng lại cảm thán trước đại nghĩa diệt thân của Thái hậu. Hơn nữa, bà chấp chính đã nhiều năm, thiên hạ dần khởi sắc, dân sinh an ổn, nông phu có thể thông qua khoa cử để ra làm quan. Đổi một vị Hoàng đế khác, chưa biết sẽ ra sao, vì thế dân chúng cũng không có quá nhiều dị nghị, thành Trường An cũng tạm thời khôi phục sự bình yên.

Mọi thứ dường như đã quay trở lại quỹ đạo, bao gồm cả Thôi Tuần, người từng bị giam cầm trong ngục thất Đại Lý Tự.

Cơn lao ngục lần này đã gần như hủy hoại toàn bộ sức khỏe hắn. Sau khi được thả, thân thể hắn gầy rộc, hốc hác tiều tụy, bệnh tật quấn thân, khó bề hồi phục.

Về phần lão bộc câm, tuy đã quy hàng Đột Quyết, nhưng cuối cùng đã biết hối cải, vào điện giãi bày chân tướng cho Thôi Tuần, được xem như trung nghĩa. Sau khi nghị tội, Tam Ty phán lão chịu tội thắt cổ, gia quyến được miễn liên lụy. Đối với lão bộc câm, cái chết có lẽ chính là sự giải thoát.

Sau khi lão mất, Thôi phủ quạnh quẽ, không người chăm nom. Ngư Phù Nguy liền phái hai nô bộc Côn Luân kín miệng đến hầu hạ sinh hoạt cho Thôi Tuần. Thôi Tụng Thanh cũng từng ghé thăm hắn một lần. Ông cố chấp với tân chính suốt bao năm, từng chọn cách làm lơ trước oan khuất của người chết thảm, nay bắt đầu nhìn lại những việc mà bản thân đã làm. Trước đây, ông từng nói với Thái hậu rằng tâm nguyện duy nhất trong đời chính là quốc thái dân an, trời yên biển lặng. Nhưng nếu ngay cả nỗi oan khuất của tướng sĩ và bách tính cũng không thể rửa sạch, vậy Đại Chu định dựa vào đâu để đạt đến cảnh giới thiên hạ thái bình, biển lặng nước trong.

Ông đứng trước giường bệnh Thôi Tuần, trầm mặc hồi lâu, sau cùng mở miệng: “Tên của ngươi đã được thêm vào gia phả Thôi thị rồi.”

Thuở thiếu niên, Thôi Tuần từng rất lấy làm kiêu hãnh về bốn chữ “Bác Lăng Thôi thị”. Nhưng sau khi trải qua bao sóng gió, chàng thanh niên Thôi Tuần của hôm nay đã sớm xem nhẹ điều đó rồi. Hắn chỉ lắc đầu, lạnh nhạt đáp: “Có hay không cũng vậy, ta vẫn là ta.”

Cốt cách của một người không nằm ở xuất thân, mà nằm ở lựa chọn của hắn.

Thôi Tụng Thanh im lặng hồi lâu, rồi nói: “Phụ thân ngươi muốn gặp ngươi.”

Thôi Tuần vẫn chỉ lắc đầu: “Không muốn gặp.”

“Bốn người huynh đệ của ngươi đều đã bị giết. Ông ấy đang rất suy sụp.”

Thôi Tuần đương nhiên biết rõ kẻ đã giết huynh đệ mình. Thôi Tụng Thanh kể rằng phụ thân và kế mẫu hắn mỗi ngày đều lấy nước mắt rửa mặt. Ông dừng lại giây lát, rồi nói tiếp: “Năm xưa mẫu thân ngươi bệnh nặng, phụ thân ngươi từng thề trước mặt bà ấy rằng, dù có tục huyền cũng sẽ đối xử tử tế với ngươi, nếu không ắt gặp báo ứng. Nay xem ra, báo ứng đã đến rồi. Phụ thân ngươi hối hận vô cùng, hy vọng ngươi có thể tha thứ cho ông ấy, quay về nhà cũ sinh sống.”

Thôi Tuần ho khan hai tiếng, gương mặt trắng bệch, không chút huyết sắc. Hắn ngước mắt, nhìn về phía Thôi Tụng Thanh, chậm rãi nở một nụ cười: “Ta sẽ không tha thứ.”

“Vọng Thư…”

“Ta, Thôi Tuần, vốn là kẻ có ân tất báo, có thù tất trả.” Thôi Tuần nói: “Không phải bậc quân tử rộng lượng, quên đi thù xưa.”

Thôi Tụng Thanh khựng lại, nở một nụ cười cay đắng: “Nếu không phải năm xưa ta từng bảo bọc ngươi, e rằng hôm nay ngay cả gặp ta, ngươi cũng không muốn.”

Thôi Tuần nhìn ông, gật đầu.

Khoảnh khắc ấy, Thôi Tụng Thanh cảm thấy vừa hổ thẹn vừa chua xót. Ông trầm mặc hồi lâu, cuối cùng chỉ có thể thở dài: “Chuyện ngày trước, bá phụ sai rồi, bá phụ có lỗi với ngươi.”

Có lẽ ông ta đã nhớ lại những lần khinh miệt và nhục mạ Thôi Tuần khi xưa, cũng như nhớ đến việc làm ngơ trước cảnh khốn cùng của Thịnh Vân Đình và Thiên Uy quân vì phải theo đuổi cải cách tân chính. Ông ta và Lư Du Dân tự cho rằng hành động của mình là vì bách tính, nhưng rốt cuộc, kẻ buông bỏ bách tính trước lại chính là cả hai. Ngược lại, kẻ luôn bị bọn họ khinh miệt, luôn bị coi là gian nịnh như Thôi Tuần, mới chính là người dám người đứng ra, đòi lại công lý cho dân chúng sáu châu.

Giờ đây, trước mặt người cháu trai mà mình luôn lấy làm khinh rẻ, Thôi Tụng Thanh cuối cùng cũng phải thừa nhận lỗi lầm của bản thân. Ông ảo não nói: “Vọng Thư, ngươi là hậu duệ của Bác Lăng Thôi thị, bá phụ không bằng ngươi.”

Hai bác cháu đối diện nhau, không ai nói thêm lời nào. Thôi Tụng Thanh chỉ đành cô quạnh rời đi. Vừa bước qua cửa, chợt nghe Thôi Tuần gọi giật lại. Hắn thản nhiên nói: “Bá phụ, sau này tân chính cùng bách tính, vẫn phải nhờ vào bá phụ dốc lòng lo liệu.”

Tâm tình Thôi Tụng Thanh trở nên ngổn ngang. Ông nhìn Thôi Tuần thật lâu, đoạn chậm rãi gật đầu, xoay người rời đi.



Sau khi Thôi Tụng Thanh đi khỏi, Lý Doanh, người vẫn lặng lẽ ngồi bên song cửa nãy giờ, mới tiến lên, ngồi xuống mép giường của Thôi Tuần.

Lần này, nàng miễn cưỡng hiện thân trước mặt Thái hậu, vết thương để lại còn nặng hơn lần cưỡng ép hiện hình trước mặt Vương Nhiên Tê. Nếu không nhờ xá lợi Phật đỉnh bảo vệ tâm mạch, chỉ e nàng đã hồn phi phách tán.

Dẫu vậy, nguyên khí của nàng vẫn bị tổn hao nghiêm trọng, không còn khả năng đi lại dưới ánh mặt trời. Giờ đây, nàng chỉ có thể xuất hiện vào ban đêm, hoặc ẩn mình trong phòng kín. Lý Doanh nâng nhẹ bàn tay Thôi Tuần lên, ngón tay hắn được quấn chặt trong lớp lụa mỏng, giọng nói dịu dàng: “Ta giúp chàng thay thuốc nhé.”

Thôi Tuần gật nhẹ đầu. Lý Doanh cẩn thận gỡ lớp lụa ra. Đôi tay vốn thon dài tuyệt đẹp năm nào, giờ đây các đốt ngón đều biến dạng, vặn vẹo thành dáng vẻ vô cùng khó coi. Đôi tay này, vĩnh viễn chẳng thể trở lại như trước nữa.

Thôi Tuần nhìn chằm chằm những ngón tay mình, bỗng cười nhạt: “Không còn đẹp nữa rồi.”

“Không, vẫn rất đẹp.” Lý Doanh tỉ mỉ bôi thuốc lên những ngón tay sưng tấy của hắn: “Trong lòng ta, đây vẫn luôn là đôi tay đẹp nhất.”

Bôi thuốc xong, nàng lại cẩn thận dùng lụa sạch băng bó vết thương, lần này băng dày hơn trước, đến nỗi các ngón tay cũng chẳng thể cử động. Thôi Tuần không biết phải làm sao, hắn chợt lên tiếng: “Thế này thì làm sao ta bưng chén thuốc lên được đây?”

“Ta đút cho chàng mà.” Lý Doanh đáp rất tự nhiên, “Từ khi chàng rời khỏi Đại Lý Tự, chẳng phải ta vẫn luôn đút thuốc cho chàng sao?”

Thôi Tuần bật cười, chủ động ôm lấy nàng. Lý Doanh nép sát vào hắn, bàn tay vuốt dọc theo tấm lưng gầy gò: “Lại gầy đi rồi.”

Hắn đã gầy đến mức hai bả vai nhô ra, như một con hạc bệnh sắp tàn lụi. Sắc mặt hắn nhợt nhạt một cách bệnh trạng, dù uống cả chục thang thuốc mỗi ngày, thân thể vẫn chẳng có chuyển biến tốt. Trước kia, Linh Hư Sơn Nhân từng nói, hắn chỉ còn thọ mệnh mười năm, nếu dùng dược hổ lang, tối đa chỉ còn năm năm. Và giờ, sau trận cực hình tàn khốc này, Lý Doanh không dám nghĩ, liệu hắn còn có thể sống được bao lâu nữa.

Nàng ngước lên nhìn hắn, đôi con ngươi đẫm nước, rồi nhẹ nhàng đặt lên môi hắn một nụ hôn. Thôi Tuần đáp lại nụ hôn ấy. Môi hai người chỉ chạm khẽ vào nhau, không vội vã, không gấp gáp, cũng chẳng có sự chiếm đoạt mãnh liệt nào. Ở đó, chỉ tồn tại sự vỗ về và lưu luyến thuần túy nhất, quấn quýt triền miên.

Kết thúc nụ hôn, Thôi Tuần lại đặt một cái hôn lên mắt nàng, rồi nói: “Thái hậu đã trả lại túi hương cho ta.”

Túi hương được Lư Hoài đích thân mang tới, điều này cũng đồng nghĩa với việc, Thái hậu đã chấp nhận hắn.

Ngoài ra, Thái hậu còn sai ngự y đến chẩn trị, ban thưởng vô số dược liệu quý hiếm. Lý Doanh mân mê một lọn tóc đen của hắn quanh ngón tay, rồi nép vào lòng hắn, khẽ nói: “Trước kia, a nương ta không thích chàng. Nhưng bây giờ, có khi bà đã thay đổi suy nghĩ rồi cũng nên.”

“Bà ấy nhờ Lư Hoài chuyển lời, bảo ta phải chăm sóc chủ nhân của chiếc túi hương này thật tốt.”

Lý Doanh bất đắc dĩ, nàng chạm nhẹ vào lớp lụa trắng bọc khắp người hắn: “Nay chàng thế này, thì còn chăm sóc được ai?”

Thôi Tuần ho khẽ hai tiếng, mỉm cười: “Người làm mẹ lúc nào chẳng thiên vị con gái mình.”

Thái hậu xưa nay không tin vào thuật Hoàng Lão, [1] cũng không nuôi đạo sĩ hay phương sĩ trong cung. Nay lại hạ lệnh khắp thiên hạ tìm kiếm cao nhân, có lẽ bà vẫn ôm lòng muốn gặp lại Lý Doanh.

<i>[1] thuật Hoàng Lão theo mình hiểu là tu luyện để trường sinh bất lão, luyện đan dược, tìm kiếm phương pháp kéo dài tuổi thọ. Trong lịch sự, có hai vị hoàng đế là Tần Thủy Hoàng và Hán Vũ Đế, đều đam mê theo đuổi đạo thuật này.</i>

Lý Doanh nhẹ giọng đáp: “Sau này, dù muốn thì ta cũng không thể gặp lại a nương.”

Ngay cả việc ẩn thân giống như lần ở trước Phật tháp trong chùa Pháp Môn, cũng không thể.

Thôi Tuần hỏi: “Vì sao?”

“A nương có long khí.”

Long khí là thứ chỉ đế vương mới có, long khí hộ thể, quỷ hồn không thể tới gần.

Đây cũng chính là lý do khiến lần này nàng bị thương nặng hơn bao giờ hết.

Sắc mặt Lý Doanh tái nhợt đến đáng sợ, nàng yếu ớt tựa vào lồng ng.ực Thôi Tuần, nhỏ nhẹ nói: “Có lẽ chẳng bao lâu nữa, a nương sẽ bức tiểu Hoàng đế nhường ngôi, tự mình đăng cơ.”

Qua biến cố này, có lẽ Thái hậu đã nhận ra rằng, để ngai vị trong tay kẻ khác chung quy vẫn không đáng tin bằng tự mình nắm giữ. Bà không muốn lặp lại bi kịch của Long Hưng Đế, kẻ vì muốn tranh quyền với bà mà không ngần ngại lấy giang sơn và lê dân làm vật hi sinh, để rồi máu chảy thành sông, thây chất đầy đồng, triều đình rối ren, chướng khí mù mịt.

Long Hưng Đế có thể tranh quyền với bà, có thể khiến Lư Dụ Dân cùng bao người khác một mực đi theo, chẳng qua chỉ vì hắn có danh nghĩa “Hoàng đế”. Trong mắt thế nhân, Hoàng đế hiển nhiên phải nắm đại quyền, còn Thái hậu thì phải rút về hậu cung, nếu không sẽ bị xem là “gà mái gáy sáng”, vượt quá bổn phận.

Nếu danh nghĩa “Hoàng đế” là bệ đỡ tốt đến vậy, thì chi bằng tự mình làm Hoàng đế, mượn danh thiên mệnh, dựng nên một thời đại cho riêng mình.

Có điều, từ khi Đại Chu khai quốc đến nay, chưa từng có Nữ đế. Con đường lên ngôi của bà, ắt hẳn trùng trùng hiểm trở.

Thôi Tuần thoáng kinh ngạc, nhưng rất nhanh đã khôi phục lại vẻ bình thản, hắn nói: “A nương nàng sẽ làm được.”

Từ một nữ tử thương hộ nghèo đến mức không có giày để mang, bà đã từng bước lên tới địa vị tối cao, khiến quần thần răm rắp nghe theo. Cũng chính bà, có thể nhẫn tâm gi.ết ch.ết đứa con trai phản quốc. Mưu lược, thủ đoạn, tâm kế, đại nghĩa – bà đều có đủ. Vậy thì tất nhiên, bà cũng có thể từ Thái hậu trở thành Nữ đế đầu tiên trong lịch sử.

Nhưng trước khi có thể xưng đế, bà cần tích lũy công trạng vô tiền khoáng hậu, khiến bá tánh thiên hạ phải ngả mũ dập đầu, khiến đám hủ nho không thể bắt bẻ.

Công trạng vô tiền khoáng hậu đó là gì?

Thi hành tân chính tất nhiên là một công trạng vĩ đại, nhưng có lẽ phải ba mươi năm, năm mươi năm sau mới có thể thấy rõ thành quả. Cách nhanh nhất để khiến công lao ấy in sâu vào lòng dân chính là thu phục bờ cõi, chấn hưng quốc uy Đại Chu, đẩy lùi bọn Hồ Lỗ ra khỏi Âm Sơn, khiến chúng vĩnh viễn chẳng còn sức nam hạ xâm lược, bảo vệ Trung Nguyên trăm năm thái bình.

Cơn ho dữ dội kéo đến, Thôi Tuần hơi nghiêng đầu, sắc mặt ửng lên chút đỏ vì bệnh tật. Hắn thì thào: “Minh Nguyệt Châu, A nương nàng… sắp khởi binh đánh Đột Quyết rồi.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 158: Chờ một người mãi chẳng thể chờ được


Đúng như Thôi Tuần dự liệu, quả thực Đại Chu sắp khởi binh, tiến đánh Đột Quyết.

Sáu năm trước, Thiên Uy quân bị diệt toàn quân, sáu châu thuộc Quan Nội Đạo thất thủ. Sau sáu năm rèn binh mài giáo, Đại Chu sớm đã đủ sức đối đầu với Đột Quyết, chỉ là trước đây triều đình nội đấu gay gắt, không ai dám tùy tiện dụng binh. Nay đại quyền nằm cả trong tay Thái hậu, rốt cuộc bà có thể yên tâm điều binh khiển tướng, đoạt lại sáu châu đã mất.

Cũng xem như bù đắp lỗi lầm thay cho con trai mình.

Từ khi nghe tin Đại Chu sắp khởi binh, Thôi Tuần ngày đêm canh cánh trong lòng. Lý Doanh thu hết vào mắt, nhưng chỉ giả như không biết.

Mười lăm tháng mười là sinh thần hai mươi ba tuổi của Thôi Tuần.

Lý Doanh dậy sớm, tự tay nấu cho hắn một bát mì trường thọ, nàng đẩy bát mỳ đựng trong bát sứ men trắng đến trước mặt Thôi Tuần, giọng điệu có chút ngượng ngùng: “Ta chưa làm mì trường thọ bao giờ, chàng nếm thử xem?”

Vết thương của Thôi Tuần đã dần hồi phục, băng vải quấn trên tay cũng được gỡ bỏ, chỉ là các khớp xương đã biến dạng, không còn linh hoạt như trước. Hắn phải thử vài lần mới có thể miễn cưỡng cầm đũa bạc, gắp một sợi mì lên nếm thử.

Lý Doanh chăm chú nhìn hắn, ánh mắt lộ vẻ mong chờ.

Thôi Tuần nói: “Ngon lắm.”

Lý Doanh không tin nổi, tự mình nếm thử một miếng, rồi lại nhíu mày hỏi hắn: “Thế này mà cũng gọi là ngon sao?”

Sợi mì nhạt nhẽo vô vị, như thể đang nhai sáp nến, đâu dính dáng gì đến hai chữ “ngon miệng”.

Thôi Tuần gật đầu, thậm chí còn ăn hết sạch cả một bát mì: “Thật sự rất ngon.”

Hắn vốn không cầu kỳ trong chuyện ăn uống. Khi còn nhỏ, hắn cũng có đôi chút kén chọn, nhưng những năm tháng ở Đột Quyết đã khiến hắn ngộ ra rằng, chỉ cần còn sống đã là may mắn lắm rồi, nào còn hơi sức để bận tâm đến chuyện thức ăn ngon hay dở.

Lý Doanh chống cằm, khẽ nói: “Khi làm mì trường thọ, ta đã thầm ước một điều.”

Thôi Tuần đặt đũa bạc xuống, cười hỏi: “Ước ta sống lâu trăm tuổi, đúng không?”

“Không phải.” Lý Doanh lắc đầu, nghiêm túc đáp: “Ta ước chàng có thể đạt được tâm nguyện của mình.”

Thôi Tuần thoáng sững lại. Lý Doanh mỉm cười: “Ta muốn chơi cờ, chàng chơi cùng ta nhé, được không?”

Thôi Tuần hoàn hồn, gật đầu: “Được.”



Cả ngày hôm ấy, hắn đều bầu bạn với Lý Doanh, cùng nàng đánh cờ, thưởng trà. Mãi đến khi trời vừa chập tối, Lý Doanh mới nói: “Thập Thất lang, hôm nay là ngày mười lăm, ta muốn ra ngoài thả hoa đăng.”

Từ khi Thái hậu gặp lại Lý Doanh, bà mới hay rằng hương hồn con gái mình vẫn còn lưu lạc chốn nhân gian. Vì vậy, bà hạ lệnh cứ đến ngày rằm mỗi tháng, các chùa lớn trong thành Trường An đều phải cử hành pháp hội, cầu phúc siêu độ cho công chúa. Thành thử, dân chúng Trường An cũng quen với việc thả hoa đăng trên Khúc Giang vào đêm rằm để trừ tà tránh họa, tiễn đưa linh hồn của những người đã khuất.

Thôi Tuần gật đầu, khoác lên mình chiếc áo choàng lông hạc màu đen tuyền, cùng Lý Doanh rời khỏi Thôi phủ.

Xa phu là một nô lệ người Côn Luân, hắn đưa hai người đến bên bờ Khúc Giang rồi quay về. Lúc này đã sắp đến giờ giới nghiêm, các tiểu thương bán hoa đăng đều vội vã dọn hàng trước khi trở về nhà. Thôi Tuần cúi đầu chọn một chiếc hoa đăng, cất giọng hỏi: “Nàng thích cái nào?”

Hắn đang hỏi Lý Doanh, nhưng người bán lại tưởng hắn đang hỏi mình, vội chỉ vào một chiếc đèn hình hoa sen, nói: “Loại này được nhiều người mua nhất, cũng là loại đẹp nhất ở đây.”

Quả nhiên, trong muôn vàn những chiếc đèn hoa đăng, chiếc hình hoa sen này là tinh xảo hơn cả. Nó được cắt tỉa từ lớp giấy mỏng như cánh ve, tạo hình thành một đóa sen nở rộ, từng lớp cánh xếp chồng lên nhau, chính giữa đặt một cây nến đỏ. Vừa nhìn thấy chiếc hoa đăng đó, Lý Doanh đã vô thức lắc đầu, nhưng Thôi Tuần lại nói: “Lấy cái này đi.”

Hắn trả bạc, tiểu thương nhận tiền, vội vàng cảm tạ rồi nhanh chóng thu dọn số hoa đăng còn lại, hối hả trở về nhà. Chẳng bao lâu, bờ sông Khúc Giang đã vắng tanh, chỉ còn đội Kim Ngô Vệ giơ cao đuốc, tuần tra theo hàng ngũ. Nhận ra Thôi Tuần, họ không dám thúc giục hắn rời đi mà chỉ chắp tay hành lễ, rảo bước về nơi khác, để mặc hắn đứng yên bên bờ nước Khúc Giang.

Gió đêm nổi lên, Thôi Tuần ho khan mấy tiếng. Lý Doanh vươn tay kéo chặt áo khoác lông hạc màu đen tuyền cho hắn. Chính nàng cũng khoác lên người một tấm áo lông hồ trắng muốt, gương mặt trắng nõn càng thêm phần tái nhợt. Thôi Tuần nhìn nàng, dịu giọng nói: “Nếu thấy lạnh thì nàng cứ về trước đi.”

“Không lạnh.” Lý Doanh nhẹ nhàng đáp: “Hôm nay là sinh thần của chàng, cũng là ngày rằm pháp hội, quả thực hiếm có. Ta cũng không muốn về sớm.”

Thôi Tuần bất đắc dĩ, đành đưa đèn hoa sen cho nàng. Lý Doanh đón lấy, mỉm cười nói: “Ta cứ tưởng chàng sẽ không chọn chiếc đèn này.”

Thôi Tuần liếc nhìn đèn hoa sen: “Trước kia ta rất ghét danh xưng “Liên Hoa Lang”, nhưng giờ đây, ta đã không còn bận tâm nữa.”

Hắn đã gầy yếu hơn nhiều so với lần đầu mới gặp, cả người gầy guộc như thể sẽ biến mất vào bất cứ lúc nào. Một ý nghĩ bất giác len lỏi trong lòng nàng, phải chăng hắn tự biết bản thân chẳng còn sống được bao lâu, nên những điều từng bận lòng trước kia, giờ đều sẵn sàng buông bỏ. Lý Doanh cố kìm nén cảm giác chua xót trong lòng, dùng hỏa chiết thắp sáng ngọn nến trên đèn, rồi bước đến bờ Khúc Giang.

Dưới lòng sông, vô số hoa đăng đã được thả trôi, có những chiếc mang hình thú, có những chiếc tạo hình hoa cỏ, nhưng nhiều nhất vẫn là đèn hoa sen. Ánh nến lập lòe trên mặt nước, lung linh tựa muôn ngàn tinh tú giữa trời đêm, rọi sáng bầu trời đêm tĩnh mịch. Cây cối ven sông phản chiếu xuống dòng nước, bóng lá giao hòa cùng ánh đèn, tạo nên khung cảnh đẹp đến nao lòng. Lý Doanh cúi xuống nhìn, thấy trên những hoa đăng dưới chân nàng đều có viết điều ước: có người cầu nguyện cùng tình lang bạc đầu giai lão, có người mong năm sau có thể đỗ đạt khoa cử, có người hy vọng con cái thuận lợi, bình an.

Thôi Tuần hỏi nàng: “Nàng có muốn viết điều ước lên đèn không?”

Lý Doanh lắc đầu: “Không cần, ta tự nguyện cầu là được.”

Nàng lặng lẽ nhắm mắt lại, âm thầm cầu nguyện, sau đó ngồi xuống, thả đèn hoa sen, dõi theo ánh đèn dập dềnh trôi xa, nương nhờ theo dòng nước lượn lờ.

Nàng đứng dậy, hướng mắt về phía Thôi Tuần, nhoẻn cười hỏi: “Chàng có đoán được điều ước của ta là gì không?”

“Hửm?”

Lý Doanh nhìn hắn, khẽ cười: “Ta mong rằng lần này chàng ra quân, có thể đánh đuổi người Hồ chỉ trong một trận, thu phục giang sơn.”

Thôi Tuần ngẩn người, hồi lâu không đáp. Lý Doanh vờ như không có gì, khẽ nói: “Chẳng phải chàng muốn thỉnh mệnh a nương, xuất chinh Bắc phạt hay sao?”

Thôi Tuần mím môi, hốc mắt hoe đỏ: “Minh Nguyệt Châu…”

“Ta biết chàng vẫn chưa thể buông tay.” Lý Doanh nhẹ giọng: “Chàng cảm thấy sáu châu rơi vào tay địch là do Thiên Uy quân để mất, nên nhất định phải đích thân thu hồi. Chàng muốn khôi phục lại niềm kiêu hãnh của Thiên Uy quân, cũng là tìm lại lòng kiêu hãnh cho riêng mình, có đúng không?”

Thôi Tuần lặng thinh thật lâu, cuối cùng mới khó nhọc thốt lên: “Minh Nguyệt Châu, xin lỗi nàng, ta biết ta rất ích kỷ…”

Còn chưa dứt lời, Lý Doanh đã ngắt lời hắn: “Chàng ích kỷ chỗ nào? Chàng muốn thu phục cố thổ, giải cứu lê dân sáu châu, thay Thiên Uy quân và chính bản thân chàng hoàn thành sứ mệnh cuối cùng. Đây là một việc tốt đến nhường nào, ta mừng còn chẳng kịp, sao chàng lại nói lời xin lỗi?”

Nàng nói vậy, nhưng trong đôi mắt lại ngập tràn lệ quang. Thôi Tuần sắp ra trận nhưng ngay cả bước ra đường giữa ban ngày, nàng cũng chẳng thể làm được. Thần hồn suy kiệt khiến nàng không thể cùng hắn xuất chinh. Nàng chỉ có thể ở lại Trường An, mòn mỏi chờ hắn trở về.

Nỗi áy náy trong lòng Thôi Tuần càng thêm sâu sắc. Kỳ thực, cả hai đều hiểu rõ, chuyến Bắc phạt này chính là con đường chuộc tội của hắn, nhưng cũng là con đường không lối về. Với thân thể bệnh tật hiện tại, hắn không thể trở lại Trường An. Lý Doanh nhất định sẽ phải chờ một người mãi chẳng thể chờ được.

Thôi Tuần cúi đầu, hắn lẩm bẩm: “Không, Minh Nguyệt Châu, ta sẽ dốc hết sức mình để trở về gặp nàng.”

Dù có là thuốc đắng chát cỡ nào, hắn cũng sẽ không ngần ngại. Hắn vẫn còn mong ước, mong ước có thể trở về, để cùng nàng bên nhau dài lâu.

Lý Doanh vừa khóc vừa cười, nhào vào lòng hắn, siết chặt lấy vòng eo gầy guộc. Giọt lệ nóng hổi rơi xuống áo choàng lông hạc màu đen, thấm vào lớp vải dày, tan biến không chút dấu vết. Giọng nàng nghẹn ngào: “Được, ta sẽ đợi chàng trở về.”



Ngày rời khỏi Trường An, Thôi Tuần chẳng mang theo thứ gì, chỉ đem theo túi gấm chứa nút tóc của hai người.

Trước lúc chia xa, Lý Doanh giúp hắn chỉnh lại áo choàng lông hạc màu đen, ngàn lời muốn nói cuối cùng chỉ hóa thành một câu: “Đi đường cẩn thận.”

Thôi Tuần lặng lẽ nhìn nàng, cúi đầu đặt một nụ hôn lên trán, rồi lại nhẹ nhàng hôn lên môi nàng. Hắn ngước mắt, nói với Lý Doanh: “Minh Nguyệt Châu, đời này có thể gặp được nàng, ta… không còn gì phải hối tiếc.”

Lý Doanh ngước lên nhìn hắn, tròng mắt ngấn lệ: “Có thể gặp được chàng, ta cũng không còn gì hối tiếc.”

Hắn và nàng, quả thực may mắn biết bao. Hắn gặp được nữ tử đã cứu mình khỏi cõi Tu La, nàng thì gặp được một linh hồn kiên cường, bất khuất.

Thôi Tuần nén nỗi đau trong lòng, khẽ nói: “Minh Nguyệt Châu, đừng tiễn ta. Ta sợ nếu nàng đi, ta sẽ không nỡ rời xa nàng.”

Lý Doanh thì thầm: “Chàng lại dỗ ta, dù ta có đi, chàng vẫn sẽ không lùi bước đâu mà, đúng không?”

Bởi vì trong lòng hắn, có những điều còn quan trọng hơn cả tình yêu.

Trong lòng nàng cũng vậy.

Dẫu cho tim gan như bị xé nát, nàng vẫn sẽ không ngăn cản hắn lao vào chiến trường sinh tử ấy, chỉ bởi nàng là công chúa Đại Chu, trên chiến trường đó, còn có hàng triệu bách tính Đại Chu đang mong đợi vương sư đến cứu.

Nàng nói: “Nhưng ta sẽ không tiễn chàng, vì ta sợ nếu đi rồi, ta sẽ không nỡ để chàng rời xa nữa.”

Thôi Tuần nhìn khuôn mặt trắng trong như ngọc của nàng, lòng đau như dao cắt. Hắn sao nỡ rời xa nàng đây? Thế là hắn lại cúi đầu, hôn lên môi nàng, chỉ có thể không ngừng lặp lại lời hứa, mong có thể xoa dịu nỗi đau trong lòng nàng: “Minh Nguyệt Châu, ta sẽ trở về.”

Đôi mắt Lý Doanh rưng rưng: “Chàng đã hứa rồi đấy, không được lừa ta, nếu không, ta sẽ không thèm để ý đến chàng nữa.”

Thôi Tuần gật đầu, cuối cùng cắn răng, xoay người rời khỏi Thôi phủ, không dám quay đầu nhìn lại dù chỉ một lần.



Trong thành có kẻ đau đớn đến đứt đoạn ruột gan, có kẻ lại hoan hô nhảy nhót. Bách tính Trường An đều ôm ấp niềm mong mỏi lớn lao đối với cuộc Bắc chinh lần này. Nỗi nhục suốt sáu năm ròng, rốt cuộc cũng đợi được đến ngày để rửa sạch.

Khi các tướng sĩ khoác giáp Minh Quang, cưỡi bạch mã, rời khỏi Đại Minh cung, dân chúng đứng dọc hai bên quan đạo hò reo vang dội. Các tiểu nương tử bẽn lẽn bẻ nhành mai, tung về phía những thiếu niên anh dũng, khí vũ hiên ngang. Mọi người đều kỳ vọng đoàn quân này sẽ sớm thu phục phần đất đai đã mất.

Giữa hàng quân hùng tráng, khi xe ngựa của Thôi Tuần tiến đến, có kẻ tinh mắt lập tức nhận ra cờ xí phía sau xe: “Thiên… Uy?”

Thiên Uy quân?

Thái hậu đã đặt tên cho đội quân tinh nhuệ này là Thiên Uy quân?

Thiên Uy quân… sắp được tái lập ư?

Dân chúng sững sờ, chỉ biết dõi mắt trông theo đội hình mới của Thiên Uy quân chầm chậm tiến về cổng thành. Sáu năm trước, Thiên Uy quân đã bị diệt toàn quân ở Lạc Nhạn lĩnh, máu nhuộm non sông, khiến sáu châu thuộc Quan Nội Đạo rơi vào tay giặc. Sáu năm sau, Thiên Uy quân phải giành lại sáu châu đã mất từ tay Đột Quyết.

Đây chính là sự cố chấp của Thôi Tuần. Bắt đầu từ Thiên Uy quân, thì cũng phải kết thúc bằng Thiên Uy quân.

Khi đội quân đi đến cửa Thông Hóa, một nhóm thiếu niên do Hà Thập Tam dẫn đầu bất chợt lao ra, chặn trước xe ngựa của Thôi Tuần.

Thôi Tuần vén màn xe, Hà Thập Tam ưỡn ngực ngẩng cao đầu: “Chúng ta cũng muốn gia nhập Thiên Uy quân!”

Thôi Tuần cất giọng trầm ổn: “Ra trận đánh giặc không phải trò đùa. Huynh trưởng các ngươi đã hy sinh vì nước, phần lớn các nhà chỉ còn lại mỗi một người con. Các ngươi vẫn nên trở về đi.”

“Chính vì a huynh đã hy sinh vì nước, nên chúng ta càng không thể làm kẻ hèn nhát.” Hà Thập Tam dõng dạc nói: “Chúng ta phải đánh đuổi Đột Quyết, báo thù cho a huynh!”

Thôi Tuần vẫn lắc đầu: “Chưa đủ mười bốn tuổi, không thể nhập ngũ.”

“Ta đủ tuổi, cậu ta cũng đủ tuổi.” Hà Thập Tam chỉ từng người bên cạnh, lần lượt đếm: “Hôm qua cậu ta vừa tròn mười bốn, chúng ta đều đủ cả rồi!”

Nói xong, cậu dứt khoát túm lấy dây cương xe ngựa, cùng đám thiếu niên quỳ rạp xuống, khẩn thiết cầu xin: “Chúng ta biết đánh giặc không phải trò đùa, cũng biết lần này đi có thể sẽ bỏ mạng nơi sa trường. Nhưng chúng ta không sợ! A huynh chúng ta là hảo hán, chúng ta cũng không phải kẻ hèn nhát!”

Thôi Tuần nhìn chằm chằm bọn họ, trước mắt chợt hiện lên từng khuôn mặt thanh xuân, rực cháy nhiệt huyết. Hắn trầm mặc giây lát, cuối cùng khẽ gật đầu: “Được, theo ta đi.”

Đám thiếu niên vỡ òa vui sướng, lập tức theo sát xe ngựa của Thôi Tuần. Từ giây phút này, bọn họ cũng giống như huynh trưởng của mình, đều là những thành viên của Thiên Uy quân.

Ánh bình minh vừa ló dạng, thái dương từ từ nhô lên.

Bên trong xe ngựa, vị Liên Hoa Lang lặng lẽ ngồi đó, mang theo những tướng sĩ Thiên Uy quân vừa được tái lập, băng qua cửa Thông Hóa từng là nơi chôn cất Thịnh Vân Đình, thẳng tiến về dãy núi Âm Sơn xa xôi.



Thái hậu điều động binh lực toàn quốc, dốc toàn bộ ba mươi vạn đại quân, giao cho Thôi Tuần thống lĩnh. Hắn dẫn quân xuất phát từ Ninh Sóc, một đường tiến thẳng lên phương Bắc.

Ngày hai mươi tháng mười một – thu phục Diêm Châu.

Mùng một tháng mười hai – thu phục Hựu Châu.

Mười bốn tháng mười hai – thu phục Thắng Châu.

Mùng hai tháng giêng – thu phục Hạ Châu.

Hai mươi sáu tháng giêng – thu phục Thanh Châu.

Mười ba tháng hai – thu phục Phong Châu.

Đại quân thế như chẻ tre, từ Phong Châu áp sát vương đình Đột Quyết. Tuyết lớn phủ kín đao cung, Thiền Vu hoảng sợ, bỏ trốn ngay trong đêm.

Sau trận chiến này, Đột Quyết bị quét sạch khỏi dãy Âm Sơn, buộc phải rút lui đến ngàn dặm. Diệp Hộ Đột Quyết tử trận dưới cung nỏ của Thôi Tuần, thi thể bị đám binh mã do Hà Thập Tam dẫn đầu giẫm nát thành bùn. Kẻ sỉ nhục người, ắt phải chịu nhục.

Khả hãn Đột Quyết, Tô Thái, bị sát hại trong lúc rút quân, từ đó Đột Quyết rơi vào nội loạn, không còn đủ sức chống lại Đại Chu.

Trận Bắc chinh kéo dài suốt bốn tháng kết thúc bằng một chiến thắng huy hoàng.

Mùng một tháng ba, Thôi Tuần dẫn quân khải hoàn hồi triều.

Mùng mười tháng ba, hắn bệnh mất trên đường hồi kinh.

Cùng lúc đó, tại Thôi phủ ở Trường An, một chiếc hòm gỗ được đưa tới. Bên trong, là một ngàn con châu chấu bằng cỏ.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 159: Thập Thất lang, ta đến thăm chàng đây


Thôi Tuần được chôn cất tại Lạc Nhạn Lĩnh, đúng như tâm nguyện khi còn sống.

Hắn không phải bậc quân tử hoàn mỹ theo quan niệm thế tục. Mai này sử sách chép lại, hẳn sẽ có nhiều tranh luận. Một mặt, hắn là người có công lao hiển hách, đẩy lùi Đột Quyết, thu phục giang sơn. Sáu năm lẻ bóng khổ sở giành lại thanh danh, cốt cách cứng cỏi sáng ngời. Mặt khác, hắn từng là con chó săn của triều đình, quá khứ chìm nổi trong vòng xoáy quyền mưu. Công hay tội, cứ để hậu thế phán xét.

Tại Trường An, Lý Doanh ôm đầu gối, ngồi trong phòng của Thôi Tuần, tay nắm chặt một con châu chấu đan bằng cỏ.

Bên trong rương gỗ, có đủ một nghìn con châu chấu cỏ.

Khi xưa, hắn từng nói, nếu hắn chọc nàng giận, chỉ cần bện đủ một nghìn con châu chấu, nàng sẽ tha thứ cho hắn. Hắn đã làm nàng giận thật rồi. Rõ ràng hắn đã hứa với nàng, nhất định hắn sẽ trở về. Nhưng cuối cùng, hắn lại thất hứa. Sao nàng không giận cho được?

Nàng ôm gối, nước mắt lặng lẽ chảy ra: “Ta sẽ không tha thứ cho chàng… vĩnh viễn cũng không.”

Nàng giận dữ ném con châu chấu trong tay đi thật xa, nhưng chỉ chớp mắt sau đó, nàng lại vội vàng bò tới nhặt lên, cẩn thận phủi sạch bụi bẩn bám trên nó. Ngón tay Thôi Tuần đã bị thương, những con châu chấu này đâu còn tinh xảo như trước, thậm chí có thể nói là thô vụng. Lý Doanh tưởng tượng ra cảnh hắn ngồi trong quân trướng, tranh thủ thời gian rảnh hiếm hoi, dùng đôi tay không còn linh hoạt, từng chút, từng chút một, vụng về gấp nên một nghìn con châu chấu cỏ này.

Nàng ép chặt con châu chấu xanh biếc vào lòng, rốt cuộc không kìm được, bật khóc nức nở.



Tin Thôi Tuần qua đời truyền đến tai Ngư Phù Nguy, hắn kinh ngạc vô cùng, sau đó lập tức đến Thôi phủ, ở bên Lý Doanh.

Lý Doanh giam mình trong phòng, hắn ngồi bên ngoài. Nàng đau buồn ba ngày, hắn cũng kiên trì đợi suốt ba ngày. Đến đêm ngày thứ ba, cánh cửa chạm trổ hoa văn cuối cùng cũng mở ra.

Mắt nàng sưng đỏ, trên người khoác một bộ y phục trắng tinh, trông hệt như đang để tang Thôi Tuần. Nàng không nói một lời, chỉ ngồi dưới, ánh mắt trống rỗng nhìn về cây hải đường trơ trọi trước sân. Đêm qua, Trường An vừa đón một trận tuyết rơi, trong viện phủ đầy sắc trắng tinh khôi. Lý Doanh thất thần nhớ lại, mùa xuân năm ngoái, cây hải đường kia từng nở rộ. Khi ấy, nàng và Thôi Tuần cũng từng ngồi dưới tán cây này, ngắm nhìn cơn gió nhẹ lướt qua, cuốn theo những cánh hoa phấn trắng rơi lả tả, tựa như tuyết bay. Cảnh sắc ấy vẽ nên một bức tranh “Hải đường thổi tuyết” tuyệt đẹp.

Hôm ấy, hắn đã nói, nàng là vầng minh nguyệt trên cao. Nàng cười hỏi hắn: “Vậy ngài là gì?”

Hắn nói, hắn chỉ là bùn đất dưới chân. Nàng bảo không phải, nàng nói, hắn là Vọng Thư Sứ trên chín tầng trời.

Thế nhưng, Vọng Thư Sứ của nàng đã không còn nữa. Dẫu có tìm khắp chốn bích lạc hay hoàng tuyền, nàng cũng chẳng thể nào tìm lại hắn được nữa.

Nàng ngồi dưới hành lang rất lâu, những ký ức về nàng và Thôi Tuần lần lượt hiện lên trước mắt. Chúng khắc sâu đến mức khiến nàng không thể nào quên được.

Mãi sau, nàng mới lên tiếng với Ngư Phù Nguy vẫn luôn im lặng bầu bạn bên mình: “Ngư Phù Nguy, ta phải đi rồi.”

“Hửm… đi đâu?”

“Lạc Nhạn Lĩnh.”

“Gặp Thôi Tuần sao?”

Lý Doanh gật đầu.

Ngư Phù Nguy chần chừ một lúc rồi đáp: “Thật ra, nàng không cần đến Lạc Nhạn Lĩnh. Mỗ có rất nhiều bằng hữu ở Địa phủ, có thể nhờ họ dò la xem hồn phách của Thôi Tuần đã về đâu.”

Lý Doanh lắc đầu: “Chàng không còn hồn phách nữa rồi.”

Ngư Phù Nguy ngây người.

Nàng chầm chậm mở bàn tay ra, để lộ một viên xá lợi Phật đỉnh trong suốt lấp lánh, tròn trịa như ngọc. Nàng nói: “Cái giá chàng phải trả để lấy được Phật đỉnh chính là chịu sự hồn phi phách tán.”

Ngư Phù Nguy trừng mắt kinh ngạc. Hắn vẫn nhớ rõ cảnh tượng thê thảm ngày Thôi Tuần đoạt xá lợi Phật đỉnh từ chùa Pháp Môn, toàn thân đầm đìa máu, trên trán là một vết thương to bằng miệng bát. Lý Doanh hạ giọng: “Chàng đã quỳ suốt hai trăm linh một bậc đá, dập đầu đủ hai trăm linh một lần mới có thể lên được Phật tháp. Nhưng khi đã lên tháp, chàng lại chẳng thể chạm vào xá lợi Phật đỉnh, thế nên chàng thề nguyện rằng, sau khi chết sẽ hồn phi phách tán, tan thành tro bụi để chuộc lại tội nghiệt cả đời. Chỉ khi ấy, chàng mới có được viên xá lợi này.”

Thì ra xá lợi Phật đỉnh đã đến tay Thôi Tuần bằng cách đó.

Khoảnh khắc ấy, lòng Ngư Phù Nguy ngũ vị tạp trần.

Không biết có phải vì nhớ đến Trịnh Quân của kiếp trước hay không, nhưng khi so sánh hai người, Ngư Phù Nguy chỉ có thể lặng thinh hồi lâu rồi cay đắng nói: “Thôi Tuần… quả thực xứng đáng với tình yêu của công chúa.”

Lý Doanh đưa viên xá lợi Phật đỉnh cho Ngư Phù Nguy: “Cả đời này, chàng đã tự mình trả hết tội nghiệt, chỉ duy nhất chuyện cướp đoạt xá lợi Phật đỉnh và đánh thương trụ trì chùa Pháp Môn, chàng vẫn chưa thể chuộc tội. Ta không muốn chùa Pháp Môn ghi hận chàng sau khi chàng đã khuất, nên phiền Ngư tiên sinh giúp ta hoàn trả viên xá lợi Phật đỉnh này cho chùa Pháp Môn. Ngoài ra, ta muốn lấy danh nghĩa của Thôi Tuần, quyên tặng một vạn lượng vàng để đúc lại tượng Phật, mong đổi lấy sự tha thứ của chùa Pháp Môn. Việc này, lại phải nhờ tiên sinh rồi.”

Ngư Phù Nguy siết chặt viên xá lợi Phật đỉnh, sững sờ không thốt nên lời: “Nhưng nếu trả lại xá lợi Phật đỉnh cho chùa Pháp Môn thì nàng phải làm sao? Giờ nàng không thể rời xa nó mà.”

Hồn phách của nàng đã bị phản phệ hai lần. Nếu không nhờ xá lợi Phật đỉnh duy trì một tia thần hồn, chỉ e nàng đã sớm tan biến.

Lý Doanh lắc đầu: “Sau này, ta cũng không cần đến xá lợi Phật đỉnh nữa.”

Ngư Phù Nguy cuối cùng cũng hiểu ra ý định của nàng. Hốc mắt hắn đỏ lên, vội quay mặt đi.

Người ta vẫn bảo, nam nhi có nước mắt nhưng không dễ để rơi. Mãi đến lúc này, hắn mới thấm thía rằng, chẳng qua là vì chưa đến lúc phải đau lòng tột độ mà thôi.

Những giọt nước mắt lớn như hạt đậu lăn dài trên gò má hắn. Hồi lâu sau, hắn mới nghẹn giọng hỏi: “Công chúa, nàng thực sự muốn làm vậy sao?”

“Ừm.” Lý Doanh khẽ đáp, ánh mắt dõi theo cây hải đường trụi lá trước sân: “Trước đây, ta không muốn một mình cô đơn, thế nên mới ra sức truy tìm chân tướng, muốn đầu thai chuyển thế. Nhưng giờ đây, ta đã không còn một mình nữa rồi.”

Trước mắt nàng, dường như lại hiện lên gương mặt thanh nhã, mỹ miều như đóa hoa sen: “Thập Thất lang kiếp này sống quá khổ sở. Sau này, chàng sẽ không còn phải chịu khổ nữa, bởi vì ta sẽ luôn ở bên chàng.”

Ngư Phù Nguy siết chặt viên xá lợi trong tay, cúi đầu thật lâu, sau đó cắn răng nói: “Được, ta sẽ thay nàng mang xá lợi Phật đỉnh trả lại chùa Pháp Môn.”

“Đa tạ, đêm nay ta sẽ sai chỉ tỳ <i>(nô tỳ bằng giấy)</i> mang mười một nghìn lượng âm đĩnh đến phủ của tiên sinh.”

Ngư Phù Nguy gật đầu, Lý Doanh lại nói: “Ngư tiên sinh, nếu đã quyết định trở thành Ngư Phù Nguy, thì quá khứ nên để lại phía sau. Ngư Phù Nguy mà ta quen biết, chưa từng để tâm đến việc một nữ tử xuất thân từ thương hộ chấp chính. Mong rằng từ nay về sau, tiên sinh có thể đạt được sở nguyện, nhập triều làm quan, phù nguy trợ thế.”

Ngư Phù Nguy cười giữa làn nước mắt, cúi đầu đáp: “Cầu cho công chúa chuyến này thuận buồm xuôi gió.”

Hắn đứng dậy, chắp tay hành lễ với Lý Doanh, sau đó vội vã rời đi. Hắn không thể ở lại đây thêm nữa, bởi vì hắn sợ nếu tiếp tục lưu lại, hắn sẽ ngăn cản nàng đến Lạc Nhạn Lĩnh.

Nhưng vừa bước được hai bước, hắn chợt ngập ngừng, rồi vẫn quay đầu lại gọi: “Công chúa.”

Lý Doanh ngẩng lên.

Ngư Phù Nguy khựng lại giây lát, rồi nói: “Quỷ lại ở Vong Tử Thành, đều mặc áo đỏ.”



Sau khi Ngư Phù Nguy rời đi, Kế Thanh Dương cũng đến. Y nghe tin Thôi Tuần qua đời, vì lo lắng cho nàng nên đã vội vã chạy đến Trường An bất kể ngày đêm. Giống như Ngư Phù Nguy, khi biết nàng muốn đến Lạc Nhạn Lĩnh, thoạt đầu y sửng sốt, nhưng sau đó chỉ còn lại sự thương cảm và trầm mặc. Trước khi rời đi, y cũng để lại một câu nói kỳ lạ.

Y nói rằng, nguyên nhân khiến y từ một con chó dữ của Bách Kỵ Tư trở thành hiệp khách hành hiệp trượng nghĩa, thực ra là vì một câu nói của nàng.

Lý Doanh nghĩ rất lâu cũng không nhớ ra mình từng nói gì. Khi nàng hỏi, Kế Thanh Dương lại không chịu nói, chỉ bảo: “Năm đó sau khi công chúa mất, vì muốn báo thù cho công chúa nên mỗ đã ám sát Tiên đế.”

Lý Doanh ngẩn người, Kế Thanh Dương tiếp tục: “Tiên đế canh phòng nghiêm ngặt, dù cố đến mấy thì mỗ bị bắt. Thế nhưng sau khi thẩm vấn, Tiên đế lại không giết mỗ, trái lại còn thả mỗ đi. Ngược lại, chính người, vì nỗi day dứt trong lòng nên chưa đến mười năm đã băng hà sớm.”

Y không giải thích Tiên đế đã hỏi y điều gì, cũng không nói rõ vì sao người lại mang lòng hổ thẹn đến mức lìa trần từ sớm. Cuối cùng, cũng giống như Ngư Phù Nguy, y chỉ chúc Lý Doanh lên đường bình an.



Lời của Ngư Phù Nguy và Kế Thanh Dương khiến Lý Doanh thoáng nghi hoặc, nhưng lúc này, trong lòng nàng chỉ ngập tràn nỗi đau mất đi Thôi Tuần, chẳng còn tâm trí suy ngẫm những lời ấy. Nàng khoác lên mình bộ y phục trắng tinh, mang theo hòm gỗ đựng châu chấu cỏ, ngồi trên bộ liễn, hướng về Lạc Nhạn Lĩnh.

Những kiệu phu bằng giấy chỉ có thể di chuyển vào ban đêm. Suốt hành trình, nàng cứ ngẩn ngơ nhìn hòm gỗ đựng châu chấu cỏ trong tay. Đường xa dằng dặc, tinh thần nàng ngày càng hư nhược. Đến khi đặt chân tới Lạc Nhạn Lĩnh, nàng quấn chặt áo lông hồ trắng như tuyết, cố gượng đứng dậy, bước xuống bộ liễn.

Đây là lần đầu tiên nàng trông thấy Lạc Nhạn Lĩnh, nơi đã thay đổi số mệnh cả đời của Thôi Tuần. Mùa đông phương Bắc tiêu điều lạnh lẽo, cỏ cây trong núi đều bị một tầng sương tuyết mỏng bao phủ, cành khô thưa thớt lác đác mấy chiếc lá vàng úa còn sót lại. Lý Doanh bước trên nền tuyết lạnh, đi thẳng về phía trước, liền thấy những phần mộ san sát của Thiên Uy quân.

Sau khi Thôi Tuần hạ được Phong Châu, Lạc Nhạn Lĩnh cũng trở về dưới quyền Đại Chu. Hài cốt của Thiên Uy quân lưu lạc suốt sáu năm, cuối cùng cũng có thể nhập thổ an giấc, chỉ là sau ngần ấy năm, tất cả đã hóa thành xương trắng, chẳng còn phân biệt được ai với ai. Hà Thập Tam dẫn người nhặt từng mảnh hài cốt, gom lại chôn chung một chỗ. Hài cốt của Hà Cửu, a huynh của cậu, người đã chết dưới loạn tiễn, cũng được cậu tìm thấy, di táng về Lạc Nhạn Lĩnh.

Trước từng nấm mồ nối tiếp nhau là vô số bia đá khắc tên những người đã khuất. Giữa tiếng quạ kêu văng vẳng, Lý Doanh quỳ xuống với lòng thành kính, lấy thân phận công chúa Đại Chu trịnh trọng dập đầu, cảm tạ năm vạn trung liệt đã không tiếc mạng sống để bảo vệ bờ cõi.

Nàng đứng dậy, bước qua những tấm bia mộ, cuối cùng đến trước một phần mộ mới đắp.

Gò đất vàng mới dựng chưa bao lâu, trước mộ chỉ có một bia đá khắc đơn giản hai chữ “Thôi Tuần”. Kiệu phu bằng giấy khiêng hòm gỗ đựng đựng châu chấu cỏ đến đặt trước phần mộ, sau đó chắp tay hành lễ rồi lui đi. Trước ngôi mộ hiu quạnh, chỉ còn lại một mình Lý Doanh.

Ánh trăng như dòng nước, rắc bạc trên nền tuyết. Trên bầu trời đêm, những bông tuyết lấp lánh lại bắt đầu rơi. Một cánh tuyết lững lờ đáp xuống mi mắt Lý Doanh, tan thành những giọt nước li ti. Nàng nhẹ nhàng quỳ xuống trước bia mộ, hai tay v.uốt ve mặt đá khắc tên Thôi Tuần, tựa như đang chạm vào gương mặt băng lạnh của hắn. Đôi mắt nàng ươn ướt, rồi nàng cúi đầu, đặt một nụ hôn lên cái tên trên bia mộ.

Nàng nói: “Thập Thất lang, ta đến thăm chàng đây.”

Mi mắt nàng phủ một tầng sương óng ánh, giọng nàng nhỏ dần: “Chàng đúng là một tên lừa đảo. Rõ ràng chàng đã nói rằng sẽ tìm mọi cách để trở về Trường An, vậy mà đến giây phút cuối, ta còn chẳng kịp nhìn chàng một lần… Thực lòng ta giận chàng lắm đấy.”

“Nhưng mà, trước đây ta từng hứa với chàng, chỉ cần chàng bện đủ một nghìn con châu chấu cỏ, ta sẽ không giận chàng nữa. Ta không ngờ chàng thực sự làm được. Vậy nên, ta cũng đành thôi không giận chàng nữa vậy.”

Nắp hòm gỗ bật mở, ánh lân quang xanh biếc tỏa ra như ánh lửa ma trơi, phủ lên những con châu chấu cỏ. Một nghìn con châu chấu cỏ như được tiếp thêm sinh khí, vỗ cánh bay lên, rồi từng con từng con bừng cháy thành những đốm lửa đỏ rực, giống như sao băng, cùng muôn vàn bông tuyết xoay tròn rơi xuống mặt đất.

Giữa biển sao băng rực cháy, Lý Doanh khe khẽ ôm lấy bia mộ, áp mặt vào tảng đá xanh lạnh lẽo, giống như tựa vào lòng Thôi Tuần năm nào. Nàng chậm rãi nhắm mắt, thân ảnh giữa ngọn lửa đỏ càng lúc càng nhạt dần, đến cuối cùng hoàn toàn biến mất.

Ở bốn vạn ngôi chùa thờ Phật trên khắp Đại Chu, hàng vạn ngọn đèn trường minh cầu phúc cho Vĩnh An công chúa trong cùng một đêm đồng loạt tắt lịm, từ đó chẳng thể thắp sáng thêm lần nữa.

Bên trong cung Bồng Lai, Thái hậu dường như cảm nhận được điều gì, tay run nhẹ, túi hương bằng vàng chạm rỗng trong lòng bàn tay “phịch” một tiếng, rơi xuống đất.

Mà ba mươi năm trước, tại Phượng Dương Các, công chúa Vĩnh An, Lý Doanh, khi ấy đang tựa mình trên trường kỷ chợp mắt, bỗng nhiên mở mắt ra.
 

Thành viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Thống kê diễn đàn

Chủ đề
39,938
Bài viết
1,075,527
Thành viên
9
Mới tham gia
Jony fang
Back
Top Bottom