Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Wattpad  Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku

Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 19


Mùng hai hôm ấy, tôi đã gặp được vị đạo trưởng trong lời đồn.

Đạo trưởng khoác trên mình một bộ đạo bào màu lam xám, trông đã là đồ cũ, bạc phếch đi vì giặt nhiều.

Tóc sau đầu búi lỏng, chỉ cài một cây trâm gỗ mộc mạc, tay cầm một cây phất trần trụi lơ thơ vài sợi.

Sắc mặt đạo trưởng trắng bệch, mày nhạt môi mỏng, là một dung mạo rất khó để người ta ghi nhớ, nhưng đôi mắt lại sáng tựa lưu ly giữa trời quang.

Nếu không phải vì dáng vẻ con buôn đang cố chào hàng tấm thẻ gỗ trong tay thì rõ ràng cũng là bậc cao nhân ngoại thế [1] mang cốt cách tiên phong đạo cốt [2].[1] Chỉ những bậc cao nhân tài giỏi, sống ẩn dật, không màng đến thế sự, danh lợi trần tục.[2] Miêu tả một người có phong thái, cốt cách phiêu diêu, thoát tục như tiên nhân, đạo sĩ.

Đám người vây quanh đạo trưởng, cầu đạo trưởng ban cho lời chúc, xin giáng phúc khí.

Bất kể là tôi tớ tỳ nữ, ai ai cũng muốn xin một mối nhân duyên tốt, đây có lẽ là thứ mà người đời cầu xin nhiều nhất.

Tôi cụp mắt, không khỏi mỉm cười, nếu là trước đây, chắc chắn tôi cũng sẽ đến cầu vị đạo trưởng này một quẻ nhân duyên, để thỏa mãn ước nguyện nhỏ nhoi trong lòng.

Nhưng bây giờ đã khác rồi.

Tôi đứng một hồi rồi quay người định rời khỏi chốn đông vui ấy, nào ngờ phía sau có kẻ cất giọng gấp gáp gọi với theo: "Vị cư sĩ phía trước, xin dừng bước."

Tôi ngạc nhiên quay đầu lại, dùng ánh mắt hỏi xem có phải đạo trưởng đang gọi mình không, nhưng đạo trưởng đã vượt qua đám đông mà đi thẳng về phía tôi.

"Bần đạo Linh Ngộ," Linh Ngộ chắp tay hành lễ với tôi, phất trần quét sang một bên, mày mắt mang theo ý cười nhàn nhạt, "Tâm hữu linh tê giả, khả ngộ bất khả cầu [3]."[3] Câu này có nguồn gốc từ thơ cổ, ý chỉ những người tâm đầu ý hợp, thấu hiểu nhau sâu sắc mà không cần dùng lời nói là những cuộc gặp gỡ tình cờ do duyên số đưa đẩy, chứ không phải là thứ có thể dùng công sức để tìm kiếm mà được, nhấn mạnh sự quý giá và ngẫu nhiên của một mối duyên kỳ ngộ.

Tôi đực mặt trong giây lát, trông đám người kinh ngạc phía sau Linh Ngộ, bật cười bảo: "Đạo trưởng đừng nói là muốn chào bán cho ta tấm thẻ gỗ hợp hoan đó nhé, nhưng ta không cầu nhân duyên, đạo trưởng vẫn nên bán cho những người cần thì hơn."

Linh Ngộ khẽ nheo mắt, không nói gì, chỉ đi vòng quanh quan sát tôi từ trên xuống dưới, khiến tôi cảm thấy không được tự nhiên cho lắm.

Ánh mắt ấy như muốn dòm thấu cả thân xác lẫn linh hồn của tôi vậy.

Tôi bất giác lùi lại mấy bước, chắp tay hành lễ: "Đạo trưởng cứ nhìn ta như vậy thật khiến người ta bất an, chẳng lẽ trên người ta có dính tà ma gì sao?"

Linh Ngộ dừng bước, thân hơi ngả về sau, đối diện với ánh mắt của tôi rồi gật đầu: "Bần đạo thấy vận khí quanh thân cư sĩ hư ảo mờ mịt, gần đây lại gặp nhiều chuyện xui xẻo đeo bám, chi bằng mua tấm thẻ gỗ của bần đạo, cũng có thể bảo đảm bình an vô sự."

Nói đoạn, Linh Ngộ xòe lòng bàn tay chìa về phía tôi, nơi đó là một tấm thẻ hợp hoan, giống hệt tấm mà Trương Bình Nhi tặng cho Đào Đào.

Tôi nghẹn lời, lại loáng thoáng không vui, gạt tay Linh Ngộ ra: "Ai cũng nói thứ này của đạo trưởng có thể bảo hộ nhân duyên, sao bây giờ lại kiêm luôn cả việc làm bùa bình an thế này?

Tiếc là trên người ta chẳng có đồng nào, đạo trưởng vẫn nên bán cho người khác đi!"

Linh Ngộ quay đầu ngó đám người phía sau, lắc lắc đầu rồi dòm tôi, nói: "Gỗ hợp hoan, chủ tương tư, thông âm dương, bọn họ bây giờ vẫn chưa cần dùng đến."

Khoảnh khắc ấy, đôi mắt Linh Ngộ như lóe lên tia sáng xanh, thần sắc cũng biến mơ hồ khó đoán, xen lẫn ý cười.

Lo lắng, kinh ngạc, mệt mỏi, khiến tôi trong phút chốc dường như thấy được bóng hình của rất nhiều người.

Tuy tôi mượn xác hoàn hồn, nhưng xưa nay luôn không muốn dính dáng đến chuyện ma quỷ thần thánh, giờ thấy Linh Ngộ như vậy, lòng tôi lại dấy lên bất an.

Linh Ngộ không giống như đang nói dối, có điều tại sao lại cứ nhất quyết phải bán cho tôi?

"Hầy!

Phiền chết đi được!"

Đang lúc nghi hoặc, Linh Ngộ bỗng phất tay áo, thị giác hướng sang một bên, không dưng lẩm bẩm một mình, "Nhìn nó đã biết là con ma nghèo rồi, ngươi còn phí lời với nó làm gì, nhét cho nó là xong, thiếu một hai lạng bạc của nó thì có làm sao?"

Tôi ngẩn người nhìn Linh Ngộ, rồi lại thấy đối phương quay mặt về phía tôi, trở lại dáng vẻ cười nhạt ban đầu: "Cư sĩ thứ lỗi, bần đạo không phải người ép mua ép bán, chỉ là có duyên với cư sĩ, nhưng phải biết rằng mọi việc trên đời đều có nhân quả, nếu cư sĩ nhận không tấm thẻ của ta, sau này tất phải hoàn trả, chi bằng dùng tiền bạc trao đổi, mới là thuận theo lẽ trời."

Chỉ trong một thoáng, Linh Ngộ lại đổi giọng, gật đầu lia lịa: "Đúng đúng!

Chuyện cát hung [4] đều do mình mà ra, bọn ta là đang giúp ngươi đó!"[4] Chuyện may rủi.

"Bọn ta?"

Tôi ngơ ngác dòm đối phương, "Đạo trưởng, người..."

Linh Ngộ vội che miệng, nửa phần tiên phong đạo cốt ban nãy cũng bay sạch: "Ta!

Ý ta là..."

"Bần đạo," như tự ngắt lời chính mình, Linh Ngộ khẽ cau mày, một lần nữa đưa tấm thẻ trong tay ra, "Bần đạo nhận lời ủy thác của người ta, tuy kết cục không được như ý, nhưng nghĩ đến nỗi khổ trong lòng người ấy, không nỡ thấy người ấy lại tự hủy hoại thân mình, cư sĩ vẫn nên mua thì hơn."

Ánh mắt Linh Ngộ gần như van nài, đây là cái gì, ép mua ép bán sao?

Thật là một đạo trưởng quái lạ.

Nhưng cuối cùng tôi vẫn dùng ba lạng bạc để mua nó.

Khoảnh khắc nhận lấy tấm thẻ gỗ, chạm vào lòng bàn tay Linh Ngộ, tôi chợt nhận ra ngón tay ấy lạnh như băng suối, khiến người ta bất giác rùng mình.

Nếu không phải Linh Ngộ đang đứng nói chuyện với tôi ngay trước mặt, tôi gần như đã nghĩ mình đang đối diện với một cỗ thi thể.

Nhận lấy tấm thẻ, định cất vào trong áo, Linh Ngộ lại nói: "Thẻ không thể rời thân."

Tôi ngờ vực quan sát Linh Ngộ, đối phương lại đổi một bộ mặt khác: "Bảo ngươi đeo thì cứ đeo đi, đã nói là có lợi cho hạng người như ngươi mà!"

Tôi không hiểu ý, cái gì gọi là "hạng người như tôi," nhưng có lẽ vì vị đạo trưởng này quá quái lạ, khiến tôi không thể không làm theo lời.

Sau khi đeo thẻ bên hông, tôi ngẩng đầu lên thì thấy đạo trưởng Linh Ngộ kia đã lại hòa vào dòng người, rao bán món hàng của mình.

Tôi bất chợt phỉ cười, cúi đầu nhìn tấm thẻ hợp hoan bên hông, thầm nghĩ, quả nhiên là bị lừa rồi.Một chuyện khác cũng khiến người ta khó hiểu không kém, là hôm qua Công chúa bỗng dưng sai người ra chợ mua thật nhiều son phấn, khiến cả kinh thành đổ xô học theo, nhất thời giá cả tăng vọt.

Giữa tiết Đoan Ngọ thế này mà lại tạo nên cảnh tượng chẳng khác nào hội Khất Xảo [5]. [5] Khất Xảo là một trong những phong tục quan trọng trong lễ Thất Tịch, do đó lễ Thất Tịch còn được gọi là lễ Khất Xảo.

Khất Xảo có nghĩa là "cầu xin sự khéo léo", vào ngày này các cô gái trẻ sẽ cầu nguyện Chức Nữ ban cho mình đôi tay khéo léo trong việc may vá, thêu thùa và có được một cuộc hôn nhân tốt đẹp.

Do là ngày lễ về tình yêu nên vào ngày này các cô gái sẽ nô nức đi mua sắm phấn son, đồ trang sức, vải vóc để làm đẹp.

Tôi vô cùng kinh ngạc, chẳng biết từ khi nào Công chúa lại có hứng thú với việc trang điểm đến vậy.

Kể cả sau khi mượn xác hoàn hồn, tôi cũng rất hiếm khi thấy nàng động đến hộp trang điểm, càng đừng nói đến trước đây, tôi chỉ thấy nàng cực kỳ yêu hoa.

Tôi khẽ cười, có lẽ vẫn là tôi không hiểu nàng, hoặc là cho rằng, Công chúa dù mặc gì, trang điểm ra sao, chỉ cần đứng dưới gốc hoa thôi, cũng đã đủ làm người ta rung động rồi.

Đi được một đoạn, lại gặp Đinh Lan đến tìm tôi, sắc mặt không tốt, tôi thầm nghĩ chả biết mình lại làm gì khiến cô ấy không vui.

Cô ấy nói: "Nương tử đi đâu vậy, Quý chủ tìm người không thấy, lại không vui rồi."

Tôi nghệch mặt, thật ra tôi không thường ở bên cạnh Công chúa.

Dịp Đoan Ngọ, lấy cớ đến thăm nên đám quan lại quyền quý cũng nhiều hơn, hẳn là có chuyện quan trọng trong triều cần bàn bạc, Công chúa không cho tôi tham gia, chỉ có Đinh Lan, Uy Nhuy và vài nội thần tâm phúc.

Tôi không nằm trong số đó.

Điều này làm tôi nhớ lại chuyện nàng lệnh Đinh Lan báo cho tôi biết việc An Viễn Hầu bị giáng chức.

Có gì khác biệt chứ, tôi chẳng tài nào hiểu nổi, tại sao cứ một mực chỉ là chuyện đó, cứ một mực phải cho tôi biết.

"Dù sao ta làm gì, nàng ấy cũng không vui mà."

Giữa lúc vô tình, tôi đã thốt ra một câu như vậy.

Đinh Lan kinh ngạc, tôi cũng giật mình, lời này thật ra giống như lời hờn dỗi của tôi, trước kia không dám nói, chỉ giữ trong lòng.

Nhưng có lẽ vì đêm đó Công chúa gọi tên tôi, khiến lòng tôi xao động, mới sinh ra những cảm xúc không cần thiết.

Đây không phải chuyện tốt, tôi nhanh chóng thu lại cảm xúc, giải thích: "Ban nãy chỉ là tình cờ gặp vị đạo trưởng trong phủ, đạo trưởng cứ nhất quyết muốn bán cho nô tỳ một tấm thẻ gỗ hợp hoan, nô tỳ không muốn nên mới chậm trễ một lúc, sau này nhất định sẽ chú ý."

Đinh Lan cau mày, có lẽ vẫn không hài lòng với thoái thác này của tôi: "Nương tử nên chú ý, là Quý chủ muốn gì.

Quý chủ đã chiều theo nương tử như vậy, nương tử không thể để tâm đến Quý chủ nhiều hơn sao?"

Đây lại là lời trách móc tôi, song có lẽ vì tôi không chịu thừa nhận, Đinh Lan cũng không kể thẳng ra.

Hoặc có lẽ cô ấy thấy được thái độ ban ơn của Công chúa đối với tôi, nên cho rằng tôi cũng phải cảm kích mà đón nhận.

Nhưng tôi và Công chúa, đâu phải chỉ chút ân huệ nhỏ nhoi này là có thể cho qua được.

"Đa tạ Đinh Lan nương tử nhắc nhở," tôi hành lễ với Đinh Lan, "Trương Bình Nhi sẽ luôn ghi nhớ ơn này, một lòng hướng về Công chúa."

Không muốn tranh cãi với Đinh Lan, nhưng lời tôi vừa nói ra, Đinh Lan lại càng không vui hơn, xem ra về khoản chọc người khác tức giận, tôi cũng rất có thiên phú.

#

Mang theo nỗi khó chịu bất chợt bị Đinh Lan khơi lên, tôi đi gặp Công chúa.

Nàng đang trong phòng ngủ, hôm nay dường như chỉ vội vàng gặp vài vị khách rồi cho họ về cả.

Tôi bước vào trong phòng, hành lễ với nàng: "Nô tỳ bái kiến Đại chủ."

Công chúa đứng trước bức bình phong thêu cò trắng lượn bay trên lau sậy, mày mắt khẽ cụp, nghe tôi gọi, nàng quay đầu nhìn tôi, ánh mắt hơi sáng lên, cất tiếng: "Lại đây."

Tôi đứng yên một lúc, bước lên đi theo nàng tới trước bàn trang điểm, trố mắt phát hiện trên đó chất đầy các hộp son phấn, có lẽ là do nàng sai người mua về gần đây.Tôi ngơ ngác nhìn Công chúa thì thấy nàng đưa tay đặt lên một hộp phấn, đầu ngón tay khẽ vuốt, rồi lướt qua má tôi, hỏi: "Ngươi thích chưng diện lắm sao?"

Tôi á khẩu, một lúc sau mới đáp: "Nô tỳ... không thích chưng diện."

Công chúa không bày tỏ ý kiến, chỉ tiện tay cầm một hộp lên mở ra, dùng ngón út quệt một ít, đưa lên trước mắt tôi, hỏi: "Cái này?"

Cái gọi là "cái này," có lẽ là hỏi về màu sắc.

Tôi thành thật đánh giá: "Có phải hơi đỏ quá không?"

Công chúa nhìn ngón út, cụp mắt xuống thoáng nét không vui: "Ta không thấy vậy."

Tôi dĩ nhiên đâu thể phản bác nàng, đành cúi đầu thuận theo ý nàng: "Dung mạo Đại chủ vô song, bất kể là loại son phấn nào cũng đều tôn lên vẻ đẹp rạng ngời."

Ánh mắt nàng lướt qua mặt tôi, khóe môi khẽ cong, mang theo vài phần đắc ý: "Ai nói là ta muốn thoa?"

Tôi cứng người, trở tay không kịp trước lời tốt đẹp đột ngột của nàng, cả thân ngây ra tại chỗ.

Nếu tôi đoán không sai, nàng là muốn tôi thoa những loại son phấn này sao, nhưng tại sao?

"Nếu không phải Đại chủ thoa, vậy thì nên là ai thoa?"

Tim tôi bỗng đập nhanh dữ dội, vừa sợ nàng nói ra câu đó, lại vừa mong mỏi nàng nói ra— "Ngươi thoa."

Lòng bàn tay tôi ướt đẫm mồ hôi, hơi thở cũng dồn dập hơn vào lúc này.

Tôi muốn kiềm chế bản thân, không nên mơ tưởng như vậy, song trong bầu không khí mập mờ nhường này lại thua một cách thảm hại.

"Đại chủ... là muốn thử màu trên mặt nô tỳ sao?"

Cố gắng đè nén sự rung động trong lòng, tôi hỏi nàng như vậy.

Sắc mặt Công chúa điềm nhiên, không nhìn ra được tâm trạng gì, điều này khiến tôi bình tĩnh hơn đôi chút, tôi cụp mi khẽ thở một hơi, tuy nhiên ngay khoảnh khắc tiếp theo, gò má lại cảm nhận được đầu ngón tay ấm áp, khiến tôi một lần nữa mất hết lý trí.

Gương mặt nàng tiến sát đến khoảng cách một gang tay, hàng mi dài nhẹ run, mày cong nét mực, da mịn như ngọc trắng, tôi có thể trông thấy cả những sợi lông tơ nhỏ trên má nàng, cũng thấy được dáng vẻ thảng thốt của mình trong mắt nàng.

Hơi thở bồng bềnh của nàng lướt qua da thịt tôi, đầu ngón tay sượt ngang má tôi, hơi ngứa ngáy, khiến cả cánh tay tôi bủn rủn.

Tôi gần như nghẹt thở, tai ù đi, đầu óc trống không trong khoảnh khắc, gần như chẳng kịp nghĩ suy gì đã đột ngột vươn tay ra giữ lấy cổ tay nàng.

Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi vượt lễ nghĩa quân thần, vứt bỏ lý trí để chạm vào da thịt nàng.

Trong mấy ngàn ngày đêm trước đây, tôi cũng từng có lúc mơ tưởng như vậy, muốn nắm chặt tay nàng, giữa đêm đông giá buốt hà hơi vào lòng bàn tay nàng, để nàng không phải rơi vào nỗi sầu cô quạnh, muốn ôm lấy nàng khi bị Lương Quốc Công chúa sỉ nhục, an ủi nàng rằng dù xảy ra chuyện gì, tôi cũng sẽ ở bên cạnh nàng, muốn làm lương nhân của nàng, nói với nàng...

Ta ngưỡng mộ Công chúa, mong được bầu bạn với Công chúa, một đời một kiếp.Nhưng...

Công chúa đâu phải người quyến luyến, đa tình như vậy.

Tôi không có cơ hội đó, cũng sẽ không có tương lai đó.

Trái tim nàng sẽ ở nơi nào, là chuyện tôi không dám tưởng tượng.

Tôi khẽ buông bàn tay đang ghì lấy nàng, lùi lại mấy bước, đồng thời né tránh sự đụng chạm của nàng, cúi đầu mà thốt: "Nếu Đại chủ muốn thử màu, nô tỳ... tự mình làm..."

Tôi không dám nhìn mặt nàng, một lúc lâu, nghe nàng điềm nhiên nói: "Ngẩng đầu lên."

Kìm nén những cảm xúc trào dâng trong lòng, tôi ngẩng đầu nhìn Công chúa, nàng quay sang ngó những hộp phấn trên bàn, nói: "

Sau này mỗi ngày, thoa cho ta xem."

Tôi ngạc nhiên nhìn nàng: "Nhưng... nô tỳ không biết trang điểm."

Công chúa hoàn toàn phớt lờ lời từ chối: "Chữ của ngươi phải luyện, trang điểm cũng phải học, sách cũng phải đọc."

Tôi còn muốn nói thêm mấy lời, song cặp mắt Công chúa lại tỏ thái độ không cho phép thắc mắc cuối cùng tôi đành chịu thua.

Như nàng mong muốn, ngày hôm sau tôi đã trang điểm cho nàng xem.Nhưng tôi thực sự không rành đường này, đến nỗi sau khi tôi ngắm nghía hồi lâu, Công chúa mới mặt không đổi sắc mà thêm một lần nữa đánh gục sự tự tin của tôi: "Xấu thật, lần sau trang điểm cho đẹp hơn đi."

--- Editor: 1.

Công chúa không báo cho Phạm Bình biết chuyện triều chính nhưng duy nhất chuyện An Viễn Hầu bị giáng chức là luôn cố tình cho Phạm Bình biết, vì trước kia An Viễn Hầu theo Tề Vương, đẩy Phạm gia vào thiên lao, do đó Công chúa là muốn Phạm Bình biết mình đang vì Phạm Bình báo thù.2.

Đoan Ngọ chủ yếu là để tưởng nhớ nhà thơ Khuất Nguyên, và trừ tà ma, nhưng chị don't care, người ta thích trang điểm thì chị cứ triển thành Thất Tịch luôn =))) Đoạn này cũng cho thấy sức ảnh hưởng của Công chúa đã phủ khắp kinh thành.

3.

Còn chi tiết trang điểm để "lấy lòng người trong mộng" thì chắc biết rồi he.
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 20


Mấy ngày sau đó, Công chúa say mê bình phẩm lớp trang điểm của tôi, tôi đành phải tìm đến sự giúp đỡ của Đào Đào, thậm chí cả Triệu nương tử cũng tới để bày mưu tính kế cho tôi, dường như gò má tôi đã trở thành một tờ giấy vẽ.

Cũng nhờ vậy mà tôi biết được, hóa ra trang điểm lại là một việc phức tạp đến thế, chả trách ngày trước Công chúa không thích tô son điểm phấn.

Nhưng điều khổ sở hơn cả là mỗi hôm sau khi tẩy trang, tôi có cảm giác như da mặt mình bị lột toang một lớp.

Và mỗi ngày sau khi tôi trang điểm xong, Công chúa luôn quan sát rất kỹ, như thể đương thưởng thức một bức tranh mới lạ, song phần lớn thời gian nàng đều không hài lòng, hoặc là chỗ này quá đỏ, chỗ kia quá nhạt, lông mày quá đậm, môi quá trắng, vân vân và vân vân.

Tôi thầm nghĩ, đây có lẽ lại là một cách khác để nàng trừng phạt tôi, cho đến một hôm, tôi bắt gặp trong gương đồng một nụ cười thoáng qua của nàng, mang theo ý ranh mãnh và khoái trá, tôi không khỏi ngẩn ngơ, luồng cảm giác kỳ lạ dâng lên trong lòng, lẽ nào là vì...

Tôi không dám nghĩ nhiều, sợ rằng mình sẽ lún sâu vào đó.

Mãi cho đến khi tôi có tí tiến bộ trong việc trang điểm, lại đi mời Công chúa bình phẩm, nàng lướt qua gò má tôi, thờ ơ cất giọng: "Cũng không tệ, ngày mai học kiểu mới đi."

Tôi bất đắc dĩ nhận lời, và sau đấy thay đổi đủ kiểu trang điểm, cũng vì thế mà trở thành thị nữ diêm dúa nhất trong phủ đại trưởng công chúa.

Nguyên do trong đó tôi đã không muốn nghĩ sâu xa nữa, nhưng có thể khiến Công chúa vui, chắc hẳn là ý nghĩa duy nhất còn sót lại của việc tôi sống lại, điều này vừa gieo cho tôi cảm nhận sâu sắc về sự hèn mọn của mình, vừa oán hận bản thân, trước sau vẫn không buông bỏ được Công chúa.

#

Hôm ấy là Tết Đoan Ngọ, Công chúa vào cung dự tiệc, Đinh Lan đi theo hầu, phủ đại trưởng công chúa được một ngày thanh nhàn, mọi người ai nấy đều vui vẻ, rủ nhau cùng trải qua ngày lễ.

Tôi cùng Ngô gia lệnh, Đào Đào và Triệu nương tử cũng ngồi ở một chiếc bàn đá trong nội viện ăn bánh ú, uống rượu hùng hoàng cũng là lệ thường, nhưng tửu lượng của tôi quá kém nên đã từ chối.

Đêm đó trăng rất đẹp, tiết trời dần ấm lên, vào một ngày của tháng này, tôi lại lần nữa cảm nhận đôi chút niềm vui khi được sống trên cõi đời, dường như cảm giác đó đã cách tôi một khoảng thời gian rất dài rồi.

Ngô gia lệnh uống rượu vào, không còn nghiêm nghị như thường lệ.

Bà là người bận rộn nhất trong phủ ngoài Đinh Lan, có thể cùng chúng tôi ăn bánh ú uống rượu, cũng thật hiếm có.

Sau vài chén, bọn họ đều ngấm chút men say, Đào Đào không khỏi cảm thán: "Thật tốt quá, ta còn chưa từng sống những ngày tốt đẹp nhường này."

Triệu nương tử không phải là người nói nhiều, nhưng bấy giờ hình như cũng bị không khí này lây nhiễm, khẽ vuốt chén rượu, cất tiếng: "Ta vốn ngỡ đời mình sẽ phải chôn vùi trong Giáo Phường Ty [1], sống vật vờ qua ngày, cuối cùng chết đi trong thê thảm, may được Quý chủ cứu giúp, mới không đến nỗi lún sâu vào chốn phong trần." [1] Là cơ quan của triều đình thời xưa, chuyên quản lý các nhạc công, vũ công và nghệ sĩ biểu diễn trong cung.

Thành viên của Giáo Phường Ty thường là con cháu của các quan lại bị kết tội, tù binh hoặc những người có xuất thân thấp kém.

Việc bị đưa vào Giáo Phường Ty thường đồng nghĩa với một cuộc sống không có tự do, phải mua vui cho giới quyền quý, chịu đựng sự hành hạ về thể xác và tinh thần, địa vị xã hội cực kỳ thấp.

Đào Đào thở dài một tiếng, vỗ vỗ vai cô ấy: "Đúng!

Đúng!

Ta cũng là được Đại trưởng công chúa mang về phủ, ta đã ăn xin gần nửa cuộc đời rồi, lại bị người ta bắt đi đem ra chợ bán thân, nhưng ngày đó Đại chủ lại xuất hiện như thiên thần giáng thế, xe của người lộng lẫy như vậy, thị vệ bên cạnh vàng son lấp lánh, trên nóc xe phấp phới chiếc lọng hoa đẹp nhường này, ta nhào tới trước xe người, còn tưởng mình sắp chết rồi ấy chứ!"

Tôi ngạc nhiên hỏi: "Cô dám cản xa giá [2] ư?" [2] Là xe ngựa dành riêng cho vua, chúa hoặc các thành viên hoàng tộc cấp cao như công chúa, thái hậu sử dụng.

Thuật ngữ này không chỉ ám chỉ chiếc xe mà còn bao gồm cả đoàn tùy tùng hộ tống.

Đào Đào cười hi hi: "Thì biết làm sao được, ta không có mẹ cũng chẳng có cha, sau khi bị bán đi, cuộc sống chắc chắn càng khó khăn hơn, đằng nào chả chết, biết đâu Đại chủ thấy ta đáng thương, thưởng cho một cái màn thầu ăn!"

"Sau đó thì sao?"

Tôi không khỏi hỏi.

Hai tay Đào Đào bưng chén rượu, ngửa đầu uống cạn: "Lúc đó đáng sợ lắm, mấy thanh đao kề ngay cổ ta, nói ta tông phải Đại trưởng công chúa, là tội chết, nhưng Đại chủ không lấy mạng ta, người cho Đinh Lan nương tử mua ta lại, rồi cho cô ấy hỏi ta có nơi nào để đi không, ta nói không có nơi nào để đi, sau này bị ai bắt đi, kết cục cũng như nhau cả thôi, Đại chủ nghe thấy, liền nói, trên đời, người có can đảm giành lấy sự sống đều đáng được đối xử tử tế, vì vậy hỏi ta có bằng lòng đến phủ của người không, ta đương nhiên bằng lòng rồi, tiếp đó thì vào phủ, trong phủ Đại chủ có nhiều nữ tử lắm, ngay cả Ngô gia lệnh cũng là nữ tử!"

Tôi nhìn sang Ngô gia lệnh, người phụ nữ luôn có phần nghiêm nghị này, thay Công chúa quản lý mọi việc trong phủ, được vô cùng trọng dụng.

Gương mặt Ngô gia lệnh thô ráp, cũng là người đã trải nhiều sương gió, bà nâng tay xoa đầu Đào Đào, khẽ cười: "Ta cũng chỉ mới đến phủ Đại chủ ba năm trước thôi, chồng và hai đứa con trai đều chết trên chiến trường, gia tộc bên chồng chê ta tuổi tác đã lớn, đuổi ta ra ngoài, ta không nơi nương tựa, bèn đến kinh thành tìm việc gì đó làm, song đi hỏi khắp nơi, đều không ai nhận một người như ta, họ cho là xui xẻo.

May sao ta gặp được Đinh Lan nương tử, giữ ta lại trong phủ, có lẽ vì thấy ta có phần khí phách, cũng biết chừng mực, mới đề bạt ta làm gia lệnh, nhưng chỉ là làm vài việc vặt thôi, trong phủ đa phần đều do Đinh Lan nương tử trông coi."

Ánh mắt bà nhìn về phía tôi, nói: "Bình Nhi, ngươi nên ghi nhớ lòng tốt của Đại chủ, lòng tốt của người đối với nữ tử, trên đời hiếm có, đặc biệt là ngươi đang hầu hạ bên cạnh Quý chủ, càng phải cẩn thận, dè dặt, nhớ đừng để lỡ bước sai đường.

Đại chủ tuy có lòng nhân từ, nhưng suy cho cùng vẫn là bậc hoàng thân quốc thích, không thể lơ là.'" Tôi lẳng lặng vâng lời, dường như chuyện tôi làm Công chúa không vui trong phủ đã lan truyền khắp nơi.

Đào Đào choàng lấy cánh tay Ngô gia lệnh, men rượu đã ngấm làm cô ấy hoàn toàn vứt hết những tôn ti trật tự ra sau đầu: "Ngô gia lệnh, Ngô gia lệnh, hay là người làm mẹ của ta đi, người tốt với ta, sau này ta cũng sẽ hiếu kính với người!"

Ánh mắt Ngô gia lệnh chan chứa tình thương, song lại đẩy cô ấy nhích ra một chút: "Ngươi cũng nên cẩn thận đấy, Đại chủ giao cho ngươi nuôi vẹt, đó là Phạm Phò mã tặng, nếu bay mất rồi, ai mà bảo vệ được ngươi!"

Đào Đào gật đầu lia lịa: "Ta đương nhiên nhớ!

Ta coi con vẹt đó như Đại chủ mà kính trọng mà!"

Ngô gia lệnh vỗ đầu cô ấy một cái: "Nói bậy bạ, sao có thể ví vẹt như Đại chủ được!"

Lòng tôi chợt thấy xót xa, Ngô gia lệnh lại rằng: "Thời thế gian nan, nữ tử lại càng khó khăn hơn, như Uy Nhuy nương tử làm thị vệ như vậy, có đất dụng võ, Đinh Lan nương tử biết chữ nghĩa, thay Đại chủ quản lý mọi việc, nơi này, nói là thế ngoại đào viên [3] cũng không ngoa." [3] Cụm từ này xuất phát một điển cố nổi tiếng, bắt nguồn từ tác phẩm "Đào hoa nguyên ký" của Đào Tiềm, kể về một làng chài biệt lập, yên bình và hạnh phúc, không bị ảnh hưởng bởi chiến tranh và loạn lạc bên ngoài.

Về sau, cụm từ này được dùng để chỉ một nơi chốn yên bình, tươi đẹp, một chốn nương náu lý tưởng tách biệt khỏi những phiền muộn của thế giới thực.

Triệu nương tử cúi đầu, khẽ "ha" một tiếng: "Thời thế là vậy, khó nói công bằng, như hạng người phạm tội như ta, có một nơi để đi là tốt rồi, sao dám vọng tưởng nhiều, may được Quý chủ coi trọng, khiến ta cảm thấy mình cũng có tí hữu dụng."

Bọn họ hẳn là rất hiếm có lúc say sưa tâm sự thế này, tôi im lặng, chẳng làm phiền, chỉ từ lời của họ, lại biết thêm hút chuyện của Công chúa, khiến tôi cũng vui lòng.

Tôi lờ mờ nhớ lại, trước khi Công chúa hạ giá, tôi và mẹ cũng ngồi trong sân thế này, ăn bánh ú, tâm sự với bà, sự náo nhiệt của Phạm phủ phần lớn không liên quan đến chúng tôi, chỉ có ở bên bà, mới cảm thấy vui vẻ.

Khi đó mẹ thích ăn nhất chính là bánh ú thịt mỡ táo đỏ của Quan nương tử trên phố Nam An.

Bánh ú của tiệm đó luôn không đủ bán, tôi buộc phải dậy từ sớm, đi xếp hàng nửa ngày để mua về cho mẹ.

Thịt mỡ thực ra có hơi ngấy, nhưng tôi và mẹ đều từng sống trong cảnh nghèo khó, vì vậy lần đầu tiên ăn, chỉ cảm giác thơm ngon khó quên, sau này Công chúa hạ giá, tôi phải cùng người vào cung dự tiệc, nhưng khi trở về, mẹ luôn đợi trong sân, tôi cũng để bụng đói, cùng mẹ qua Tết Đoan Ngọ.

Có một lần bị Công chúa trông thấy, nàng cũng muốn đến ngồi một hồi, nếm thử một miếng, song có lẽ là quá ngấy, Công chúa nhíu mày, nàng đã quen với đồ ăn trong cung, những thứ này chẳng hợp khẩu vị của nàng.

Tôi và mẹ đều hoảng loạn, vội vàng đi pha trà cho nàng, tạ lỗi với nàng: "Công chúa ngày thường dùng bữa đều là sơn hào hải vị, thứ này ăn vô quá ngấy, uống chút trà đắng cho dịu lại vậy."

Công chúa lúc đó mới nuốt xuống, đôi mắt lại rơi vào chén rượu hùng hoàng [4] trong tay mẹ, tôi không khỏi bật cười, cũng rót cho nàng một chén. [4] Là loại rượu pha với bột hùng hoàng, thường được uống vào dịp Tết Đoan Ngọ theo phong tục xưa để trừ tà, diệt sâu bọ và phòng bệnh.

Khi đó vẻ mặt Công chúa vẫn điềm nhiên, không rõ là vui hay gì khác, nhưng tôi nghĩ, có lẽ là vui, vì sau này mỗi dịp Đoan Ngọ, nàng cũng sẽ cùng tôi, ở trong sân của mẹ ăn bánh ú uống rượu, và cũng như vậy, nàng vẫn cần trà đắng để át đi vị béo ngậy của thịt mỡ táo đỏ.

Công chúa lúc đó đang nghĩ gì, tôi đã không thể hỏi lại được nữa, nhưng nếu thời gian chỉ dừng ở khoảnh khắc đó, mẹ còn đó, Công chúa còn đó, tôi vẫn là Phạm Bình, đó hẳn là niềm hạnh phúc trần gian mà tôi cầu mong.

Mãi cho đến sau này mẹ qua đời, lại một năm Đoan Ngọ, tôi và Công chúa từ cung yến trở về, vốn tưởng nàng sẽ đi nghỉ ngơi, nào ngờ nàng lại nói: "Phạm Bình, ta muốn ăn bánh ú thịt mỡ táo đỏ."

Tôi chực trào nước mắt, nàng có lẽ là nhớ mẹ của tôi, nhưng tôi đã không đi mua, chỉ pha trà cho nàng, mời nàng uống rượu hùng hoàng.

Công chúa cũng không từ chối, chỉ hỏi tôi: "Phạm Bình, Tết Đoan Ngọ năm sau, ngươi còn mua bánh ú thịt mỡ táo đỏ cho ta không?"

Trái tim tôi dâng trào cảm xúc, trong chén trà đắng chát đó lại nếm ra được chút vị mặn ngọt ấm áp, tôi nói với nàng: "Nếu Công chúa muốn ăn, Phạm Bình mỗi năm đều sẽ đi mua cho Công chúa."

Nàng khẽ cúi mi, không thấy rõ cảm xúc, chỉ bưng trà, nhẹ nhàng đáp: "Được."

Công chúa bây giờ, có còn nhớ lúc đó không?

Giữa lúc mơ màng, tôi nghe thấy Đào Đào ngạc nhiên hỏi: "Triệu nương tử, đây là cái gì?"

Tôi nhìn theo tiếng, hóa ra là túi thơm bên hông Triệu nương tử, đường thêu vụng về, chả nhìn ra là thêu cái gì.

Cô ấy cúi đầu vuốt ve túi thơm, cười khẽ khàng: "Là quà người thương tặng."

Đào Đào "ồ" một tiếng, đột nhiên hỏi tôi: "Bình Nhi, cô có người vương vấn trong lòng không?"

Ánh mắt ấy long lanh.

Tôi không khỏi cười: "Có."

Đào Đào hứng thú: "Là ai là ai?"

Tôi nhẹ vuốt lên ngực, cười: "Không nói cho cô biết."

Đào Đào bĩu môi, vô cùng bất mãn, tuy vậy lại lập tức nhoẻn cười: "Cô không muốn đi gặp sao?

Để Ngô gia lệnh cho cô nghỉ phép.

Ngô gia lệnh, người nói có được không~" Đào Đào lay lay cánh tay Ngô gia lệnh, y hệt như đứa trẻ, Ngô gia lệnh bất lực dòm tôi một cái, song không nói gì, tôi nghĩ đó có lẽ là ngầm cho phép.

Tôi lại lắc đầu: "Vẫn là đừng gặp, gặp rồi sợ không nỡ, cũng sợ người ấy chẳng hề nhớ mong mình."

Men say của Đào Đào dâng lên, tựa vào vai Ngô gia lệnh, khóe mắt hình như rơi một giọt lệ, khẽ thở dài: "Tốt thật đấy, các người đều có người để vương vấn..."

Tôi khao khát Công chúa nhớ mong mình, nhưng nghĩ lại, tôi vốn không thể thành người xứng đôi với nàng.

Sau khi mẹ qua đời, tôi mong Công chúa có thể đặt tôi vào một góc nào đó trong lòng, thế là trong cơn bốc đồng, tôi đã nói với nàng những lời như vậy—— "Nếu Công chúa không ngại, hay là gọi ta một tiếng ca ca đi, ta lớn hơn người nhiều tuổi như vậy, gọi một tiếng ca ca cũng không có gì..."

Nhưng vẻ mặt lạnh lùng của Công chúa từ chối tôi: "Ngươi không phải ca ca của ta."

Trái tim tôi chừng như bị hy vọng mơ hồ nào đó chiếm đầy, vội vàng hỏi nàng: "Vậy ta là gì của Công chúa?"

"Chất Nô," nàng quay đầu nhìn lại, cặp mắt trong veo, "

Sau này ngươi chính là Chất Nô của ta."

Mẹ mất rồi, tôi đã ngỡ rằng mình không còn là Chất Nô nữa, cảm giác sâu sắc rằng trên đời này có lẽ không còn ai nhớ đến mình nữa, nhưng một câu nói của Công chúa đã khiến tôi hoàn toàn suy sụp, một lần nữa rơi lệ trước mặt nàng.

Công chúa khẽ nhíu mày, hỏi: "Phạm Bình, tại sao ngươi cứ luôn khóc, ta làm ngươi không vui sao?"

Tôi lắc đầu, dầu vậy chẳng đáp lời nàng.

Người ta không phải chỉ khóc khi không vui, khi vui vẻ cảm động cũng sẽ khóc.

Có thể ở bên Công chúa, là một việc khiến tôi vô cùng vui vẻ, cũng khiến tôi vô cùng đau khổ.

#

Đến đêm khuya, Đào Đào say mèm, cùng Ngô gia lệnh dắt dìu nhau đi, Triệu nương tử cũng bảo rằng phải nghỉ ngơi, chỉ còn mình tôi ở lại trong sân, ngồi thêm một lúc lâu, trăng đã xế về tây, tính ra, cũng đến lúc Công chúa hồi phủ.

Tôi thầm nghĩ liệu đêm nay có nên tiếp tục đi gác đêm cho nàng không, nhưng ngay sau đó Đinh Lan từ dưới mái hiên chạy tới, bảo tôi rằng: "Nương tử, Quý chủ mời đến biệt viện Phò mã."

---

Tác giả: Chương này không có logic, toàn là tình cảm QAQ
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 21


Biệt viện Phò mã không thắp đèn, cũng chẳng có ai canh giữ.

Tôi một lần nữa bước vào, ngỡ như đang đi ngược về một khoảng thời gian đã qua.

Khác với đêm đó trông thấy Công chúa say rượu, người tôi muốn gặp hôm nay là một nàng tỉnh táo và đã nhuốm màu thời gian.

Tôi tìm thấy nàng bên cây bào đồng ở Thanh Vân Đình.

Nghĩ bụng, chắc là sau cung yến, nàng đã đến đây rồi.

Bộ cung phục lộng lẫy càng tôn dáng hình có phần mảnh mai của nàng, giữa tiết trời cuối xuân thế này trông lại hơi chút đìu hiu.

Tôi bỗng thấy đau lòng, rồi tự giễu, đến tận bây giờ vẫn còn lo lắng cho nàng.

Gió thổi qua, những cánh hoa tim tím trắng muốt xào xạc rơi, tựa như một trận tuyết tháng năm, đáp xuống vai nàng.

Nàng dường như cảm nhận được điều gì, nghiêng đầu nhìn sang, ánh mắt có vẻ sáng lên, rồi nàng gọi tôi: "Lại đây."

Tôi bị cảnh tượng này mê hoặc, chưa kịp suy nghĩ đã bước đến bên cạnh nàng, cùng nàng ngắm những cánh hoa bào đồng đang rơi.

Điều đó khiến tôi bàng hoàng, dường như nhớ lại một ngày xuân nào đó, có bóng hình mông lung của Công chúa.

Thật ra tôi không thích hoa bào đồng, năm ấy trồng cây bào đồng trong viện cũng chỉ để học đòi văn nhân làm sang, tùy tiện chọn bừa mà thôi.

Nhưng sau này lại chìm đắm trong ảo ảnh do nó tạo nên, không thể thoát ra, từ đấy đối với nó nảy sinh nhiều yêu thích.

Tôi nghĩ có lẽ Công chúa đã quên mất khoảng thời gian ấy, còn tôi cũng chẳng có cơ hội nào để nhắc với nàng về những tơ vương mà hoa bào đồng và nàng đã khắc sâu trong tim tôi ở Thanh Vân Đình.

"Nguyệt hạ hà sở hữu, nhất thụ tử đồng hoa, đồng hoa bán lạc thời, phục đạo chính tương tư [1]."[1] Đây là câu thơ của Bạch Cư Dị.

Tạm dịch nghĩa: Dưới trăng có gì đâu, Một cây bào đồng tím.

Hoa bào đồng rụng nửa, Lại trào nỗi tương tư.Công chúa bên cạnh bỗng dưng cất tiếng, giọng điệu nhẹ nhàng, chẳng có cảm xúc gì, nhưng tôi lại thấy hơi thở tắc nghẹn, gần như không thở nổi.

Nàng quay đầu nhìn tôi, chậm rãi hỏi: "Ngươi đã đọc bài thơ này chưa?"

Cơ thể tôi hơi cứng lại, gượng cười, rồi lắc đầu đáp: "Nô tỳ chưa từng đọc."

Sao lại chưa từng đọc được chứ, Công chúa còn từng hỏi tôi tại sao mà thích bào đồng đến vậy, câu trả lời của tôi chính là bài thơ này.

Lúc đó nàng còn hỏi tôi: "Phạm Bình, ngươi có người tương tư sao?"

Tôi không dám nói cho nàng biết, thế nên chỉ đáp: "Có Công chúa ở đây, Phạm Bình sao dám có người tương tư nào khác."

Công chúa không tỏ ý kiến, tôi nghĩ nàng thực ra chỉ tùy tiện hỏi vậy thôi, nên cũng chẳng màng người tôi nhớ mong là ai.

Mà lúc này Công chúa lại dùng câu ấy để hỏi, khiến tôi hoàn toàn không gượng đỡ nổi, càng không dám trả lời, không dám thừa nhận mình chính là Phạm Bình.

Công chúa im lặng một lát, lại giục tôi vào Thanh Vân Đình, trên bàn đá đặt một hộp thức ăn, nàng ra hiệu cho tôi mở ra, nhấc nắp hộp lên mới phát hiện chỉ có hai chiếc bánh ú.

Nàng cất tiếng: "Trong cung ban thưởng, cho ngươi đó."

Ánh mắt nàng nhìn tôi, dường như đang mong chờ phản ứng của tôi, tôi hơi đừ ra, cúi đầu đáp: "Nô tỳ vô cùng hoảng sợ, không dám nhận."

Công chúa ngồi xuống ghế đá, có vẻ hơi mệt, tay chống trán, mắt cụp xuống che đi cảm xúc, chẳng để tâm đến lời từ chối của tôi: "Bóc ra đi."

Tôi đứng yên một chốc, rồi vẫn làm theo lời nàng, bóc bánh ú đặt trước mặt nàng, bánh vẫn còn bốc hơi nóng, từ trong cung đến phủ Đại công chúa, không biết tại sao nàng lại mang theo hai chiếc bánh này, cũng không biết nàng làm cách nào để giữ ấm.

Có lẽ do tôi không động đũa, nàng dùng đũa gắp một miếng đưa đến trước mặt tôi, nhưng không đưa tới nữa mà chỉ im lặng nhìn tôi chằm chằm, như thể chỉ cần tôi không ăn thì chúng tôi sẽ cứ giằng co thế này cả đêm.

Tôi đành chịu thua, gắp miếng khác bỏ vào miệng, song chả nếm được vị gì cả, lồng ngực chỉ có đầy nghi vấn, ấm ức, cùng với nỗi tủi thân không tên do hành động này của nàng mang lại.

Công chúa thấy tôi tự ăn một miếng, có vẻ không hài lòng, tuy vậy cũng không ép buộc, chỉ đặt đũa xuống rồi hỏi tôi: "Thế nào?"

Tôi cúi người hành lễ với nàng: "Vật Đại trưởng công chúa ban thưởng, tất nhiên là mỹ vị vô cùng, nô tỳ chưa từng được nếm món ngon như vậy."

"Ồ," nàng lười biếng đáp một tiếng, chẳng biết có ý gì, rồi nói, "Nhưng ta lại thấy không ngon."

Tôi không dám trả lời, nàng lại tiếp: "Không ngon bằng bánh Chất Nô mua ở phố Nam An."

Tim tôi thít lại, suýt nữa thì bật khóc, nàng vẫn nhớ, nàng rõ ràng vẫn nhớ, nhưng tại sao bây giờ lại dùng những lời này để dày vò tôi, nỗi cay đắng gần như chực trào từ tim lên tận cổ họng, khiến tôi chìm nghỉm ngay lúc đó.

Sau một khoảng im lặng thật lâu, nàng lại hỏi tôi: "Đêm nay ngươi đã làm gì?"

Tôi thật thà trả lời: "Nô tỳ cùng Ngô gia lệnh, Đào Đào và Triệu nương tử ăn bánh ú uống rượu ở trong viện, nói chuyện một lúc."

"Nói gì thế?"

Công chúa hỏi dồn.

Tôi không biết rốt cuộc nàng muốn biết điều gì, đành đáp: "Nói về lòng nhân từ và rộng lượng của Đại trưởng công chúa, Ngô gia lệnh dặn nô tỳ phải luôn ghi lòng tạc dạ."

Công chúa lặng thinh, gẩy gẩy hai chiếc bánh ú trong hộp, trông bộ dạng đó, nàng thật ra không muốn ăn, mà sự từ chối của tôi khiến chiếc bánh ú kia càng thêm trớ trêu.

Nàng bẵng tiếng hồi lâu, khi lưng tôi đã dần cứng đờ thì mới hỏi: "Ngươi thà ở cùng Đào Đào hơn sao?"

Tôi giật mình, ngạc nhiên nhìn nàng.

Công chúa không nhìn tôi, chỉ có vẻ uể oải và lạnh lùng.

Rốt cuộc là ý gì?

Tôi suy nghĩ một lúc rồi thưa với nàng: "Nô tỳ được Đào Đào chăm sóc, hiển nhiên cũng nên đối tốt với cô ấy."

Bàn tay cầm đũa của nàng khựng lại giữa không trung, hồi sau nhẹ nhàng đặt xuống, tiếp đến đứng dậy đi đến bên cạnh, thân hình hơi loạng choạng, càng toát lên vẻ mảnh mai hơn cả.

Nàng quay lưng về phía tôi, giọng điệu đầy băng giá: "Không ăn thì vứt đi."

Tôi cúi đầu thật sâu: "Vật Đại trưởng công chúa ban thưởng, nô tỳ không dám vứt."

Công chúa hơi chau mày, phất tay áo đi ngang qua tôi, một lát sau, nàng dừng lại giữa sân, từng câu chữ rét buốt sượt qua cây bào đồng bay vào tai tôi: "Ta muốn ăn bánh ú thịt mỡ táo đỏ trên phố Nam An."

Tôi ngẩn ngơ, quay lại nhìn nàng, Công chúa nghiêng đầu, hàng mi dài che đi mọi cảm xúc trong mắt, chỉ hơi ra lệnh một cách cứng rắn: "Ngươi đi mua cho ta."

Sau đó, nàng ngoảnh mặt bỏ đi, không hề ngoái lại.

Những cánh hoa bào đồng rơi tả tơi đầy đất, lý trí của tôi hoàn toàn bị nàng đánh gục, cả thân hình đột nhiên mất sức mà khuỵu xuống, chỉ có thể vịn vào bàn đá bên cạnh để giảm bớt cảm giác chới với.

Từ đầu đến cuối, mọi thứ tôi khao khát và vui mừng, nàng dường như đều nhớ, nhưng trong hoàn cảnh này, lại khiến tôi một lần nữa rơi vào đau đớn.

Tôi không hiểu rốt cuộc nàng muốn gì, là muốn tôi thừa nhận mình là Phạm Bình rồi lại xử tôi tội chết, hay là sau khi tôi thừa nhận sẽ chế giễu mong ước hão huyền của tôi?

Vùi đầu vào giữa hai gối, tôi ôm chặt lấy mình, toàn thân như bị cái lạnh bao bọc, chỉ có trên đùi là còn vương hơi ấm ẩm ướt.

Trái tim chân thành của tôi, sớm đã trao cho nàng, nhưng khi tôi thú nhận thân phận nữ nhi của mình, nói với nàng hy vọng nàng được bình an nên dâng lên đơn hòa ly [2], thứ nàng ban lại cho tôi, lại là gương mặt lạnh lùng trong thiên lao cùng một ly rượu độc.

Ngoài oán hận và phẫn nộ đối với tôi, tôi không nghĩ ra được lý do nào khác. [2] Là một loại văn bản thỏa thuận ly hôn trong xã hội xưa, mang tính chất đồng thuận, khác với việc người chồng ruồng bỏ vợ (hưu thê).

Việc "hòa ly" giúp người phụ nữ giữ được thể diện, có thể tái giá và thường không bị xem là một điều ô nhục.

Những chuyện đã qua, đáng lẽ nên theo cái chết của tôi mà chôn vùi, lẽ ra tôi nên đi qua sông Tam Đồ, uống canh Mạnh Bà, quên hết tất cả, bắt đầu một kiếp người mới, hoặc làm một cái cây, một ngọn cỏ, chứ không phải trong tình cảnh này, vẫn cam tâm tình nguyện, không nỡ từ chối nàng.

Tôi ở lại Thanh Vân Đình cho đến rạng sáng, thậm chí không xin phép Ngô gia lệnh, chỉ nói với người gác cổng rằng tôi vâng lệnh Công chúa ra ngoài một chuyến.

Hắn không ngăn tôi, có lẽ địa vị của tôi trong phủ, qua lời truyền miệng, đã chẳng khác gì Đinh Lan.

---

Tác giả: Chương này hơi ngắn một chút, cứ coi như là một chương chuyển tiếp nha.
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 22


Phố Nam An là một con ngõ nhỏ tít tận phía nam kinh thành, một chốn phức tạp đủ mọi hạng người, rồng rắn lẫn lộn.

Ấy là nơi mà giới quyền quý chẳng bao giờ đặt chân tới, cũng là nơi bị gọi là khu trú ngụ của những kẻ hạ đẳng.

Thuở xưa, khi mới vào kinh thành, tôi và mẹ đã nương náu ở đây, với hy vọng có thể đoàn tụ cùng cha.

Năm tôi lên năm tuổi, quê nhà gặp nạn châu chấu, mùa màng thất bát, vô số bá tánh lầm than.

Lương thực cứu tế triều đình phát xuống, đến tay mỗi người cũng chỉ còn là một chiếc bánh gạo bé bằng lòng bàn tay, mỗi ngày chỉ được một bữa như thế.

Viên nha lại [1] phát chẩn [2] thấy tôi tuổi còn nhỏ, lấy cớ tôi không ăn được nhiều mà đến cả miếng bánh gạo cỏn con ấy cũng chẳng muốn cho.

Mẹ bèn bẻ vụn bánh ra, nấu nhừ với cỏ dại rễ cây rồi đút cho tôi.

Mùi vị ấy thật khó tả, nhưng tôi không dám nôn ra, chỉ sợ ăn xong bữa này rồi chẳng biết đến bao giờ mới có bữa sau.[1] Chức quan lại cấp thấp, nhân viên làm việc trong các công sở thời xưa.[2] Phân phát tiền, gạo, v.v.

để cứu giúp người nghèo đói, gặp khó khăn hoạn nạn.

Nửa tháng sau, chiếc bánh gạo bằng bàn tay đã biến thành bát cháo loãng thấy cả đáy.

Khi ấy tôi vẫn chưa hiểu, tại sao triều đình rõ ràng đã phát lương cứu tế mà ngày nào cũng có người chết đói.

Quê hương tôi năm đó đã hóa thành địa ngục trần gian, thi thể hôi thối vương vãi khắp nơi.

Nửa đêm, có người lén lút kéo xác đi, tôi hỏi mẹ, họ mang đi chôn cất phải không.

Mẹ ôm tôi vào lòng, nghẹn ngào đáp: "Phải đó Chất Nô, họ mang đi chôn cất."

Nhưng chẳng bao lâu sau tôi phát hiện, không chỉ có thi thể biến mất, mà cả những đứa trẻ cùng tuổi quanh tôi cũng chẳng còn.

Nửa đêm, mùi thịt lẩn khuất đâu đây, tiếng khóc than ai oán lọt vào tai, khiến tôi bắt đầu gặp ác mộng.

Tam Nương thích cài hoa bên tai, Cẩu Oa lúc nào cũng nước mũi thò lò dắt theo em trai, rồi cả Tiểu Lục hay lảng vảng trước cửa nhà tôi rủ đi bắt dế, tất cả đều biến mất.

Tôi sợ hãi vô cùng, hỏi mẹ họ đã đi đâu.

Mẹ ôm lấy gương mặt tôi, quả quyết: "Chất Nô đừng sợ, mẹ sẽ không làm chuyện đó, mẹ sẽ bảo vệ con..."

Kể từ đó, mẹ luôn giữ tôi trong vòng tay, không rời nửa bước.

Thân thể tôi ngày một gầy rộc, gần như chỉ còn da bọc xương.

Tôi đói đến mức, khi thấy gã đàn ông đối diện cũng gầy trơ xương, mắt long lên như sói đói đang cầm một miếng bánh gạo, tôi như bị mê hoặc, bất giác tiến về phía hắn.

Mãi khi hoàn hồn, tôi thấy mẹ đang còng lưng, dùng gậy gỗ điên dại xua đuổi gã: "Cút đi!

Đừng hòng động đến Chất Nô của ta, ta có chết cũng không để ngươi được toại nguyện, lũ súc sinh!

Súc sinh!"

Gã ma đói kia bị mẹ tôi dọa cho khiếp sợ, hoảng hốt bò lùi về sau, nhưng vẫn không ngừng ngoái lại nhìn tôi, đôi mắt ánh lên vẻ tham lam hung tợn của loài lang sói.

Tôi vừa sợ hãi, vừa thèm khát miếng bánh gạo rơi trên đất.

Mặc cho mẹ gọi, tôi lao tới, vơ lấy miếng bánh dính đầy bùn đất.

Gã đàn ông thấy vậy liền muốn xông lên, tôi sợ đến mức ngã ngồi bệt xuống đất, chân tay bủn rủn.

May thay, mẹ đã chạy đến bên tôi, ôm chặt lấy tôi, lảo đảo chạy về nhà.

Lúc ấy mẹ kinh hoàng tột độ, dường như tử thần đang bóp nghẹt cổ họng bà, mặt mẹ trắng bệch không còn giọt máu, đôi mắt lồi ra, bàn tay khô quắt liên tục sờ nắn mặt tôi, như thể để kiểm tra xem tôi có an toàn không.

Mẹ hỏi tới tấp: "Chất Nô, Chất Nô, con có sao không?

Có bị thương không?"

Tôi lắc đầu, đưa miếng bánh gạo giấu trong lòng ra, bàn tay bám đầy bùn khiến miếng bánh không còn ra hình ra dạng nữa, tôi khản giọng nói: "Mẹ, con nhặt được... không phải cướp, là của hắn làm rơi..."

Mẹ sững sờ một thoáng, rồi bật khóc nức nở.

Tôi luống cuống, chỉ biết ôm lấy mẹ, vỗ về lưng mẹ: "Mẹ ơi, Chất Nô không sao, Chất Nô không sao..."

Khoảnh khắc ấy, tôi ngỡ như mình đã trưởng thành, không còn là một đứa trẻ ngây thơ.

Trong lòng chỉ có một suy nghĩ duy nhất, nếu tôi sống sót, nhất định phải đưa mẹ đi ăn những chiếc bánh gạo ngon nhất trên đời.Tình hình tai ương mãi không được xử lý, trong thành bắt đầu xảy ra náo loạn, vô số nạn dân tràn vào phủ nha [3] cướp lương, nhưng đều bị xử tử với tội danh ác dân loạn đảng.

Ngay sau đó, quan phủ ban lệnh, nếu nhà nào có ruộng đất, có thể dùng khế đất để đổi lấy lương thực.[3] Công sở, cơ quan cai trị của một phủ thời xưa.

Một mẫu đất chỉ đổi được mười cân gạo, ngay cả tôi cũng hiểu, đây rõ ràng là thừa nước đục thả câu, nhưng không còn cách nào khác, không đổi lương thực thì chỉ có nước chết đói.

Nhiều năm sau nghĩ lại, tôi mới vỡ lẽ, cái gọi là cứu tế chẳng qua chỉ là thủ đoạn vơ vét của cải của kẻ bề trên, bá tánh chết đầy đường cũng chẳng liên quan đến họ, việc dễ dàng thu hồi ruộng đất đối với họ là một điều hả hê biết mấy.

Tôi và mẹ không có được may mắn đó, dù mẹ đã quyết định dùng ruộng để đổi lương thực, song khế đất mà ông bà nội để lại đã bị hơn chục tên côn đồ du đãng xông vào cướp mất.

Chúng cướp đi tất cả mọi thứ, tôi và mẹ chỉ dám trốn sau đống củi, bịt miệng chẳng dám hé răng.

Khoảnh khắc ấy, tôi nhận ra khoảng cách giữa chúng tôi và cái chết gần đến nhường nào.

Nhưng may mắn thay, mẹ nghe được tin tức của cha, nói rằng ông đang làm quan ở Lại bộ [4] trên kinh thành, rất được trọng dụng.

Tuy vậy trước khi biết thêm được gì nữa thì mẹ đã bị đuổi đi như một kẻ bạo dân [5], không thể hỏi thêm.[4] Một trong Lục Bộ của triều đình phong kiến, chịu trách nhiệm về việc tuyển dụng, bổ nhiệm, thăng giáng và quản lý quan lại.[5] Từ mà quan phủ dùng để gọi những người dân nổi dậy làm loạn, chống đối triều đình.

Đêm đó, mẹ dùng những đồng bạc cuối cùng đổi lấy lụa, may vào lớp áo trong của tôi, đó vốn là tiền cứu mạng của bà.

Mẹ vuốt ve ngực tôi, nở một nụ cười hiếm hoi: "Chất Nô, con không phải vẫn luôn muốn biết cha là ai sao, chúng ta đi tìm ông ấy, được chứ?"

Tôi ngây ngô nằm trong lòng mẹ, hỏi: "Cha ở đâu ạ?"

Mẹ nói: "Cha đang làm quan lớn ở kinh thành, chúng ta sắp đi tìm ông ấy, chúng ta phải đi tìm ông ấy."

Tôi đã lâu không thấy nụ cười vui vẻ như vậy trên gương mặt mẹ.

Khi đấy tôi đâu hiểu điều đó có ý nghĩa gì, dù thế tôi vốn chưa bao giờ từ chối mẹ, liền ôm lấy mẹ gật đầu: "Vâng, Chất Nô sẽ đi cùng mẹ."

Bấy giờ cũng có những lưu dân [6] rời thành đi nương nhờ họ hàng, chúng tôi liền theo đoàn người đó, dọc đường phải hành khất.

Tôi và mẹ không có tiền bạc nên bị đối xử lạnh nhạt, nhưng may là không có chuyện cướp bóc, lúc này tôi mới hiểu tại sao mẹ lại đổi bạc ra lụa, là vì sợ bị cướp mà chúng tôi không thể tự bảo vệ.[6] Dân lưu lạc, dân tị nạn.Đi bộ ròng rã hai tháng, cuối cùng cũng vào được kinh thành.

Các quán trọ bình thường đến cả phòng chứa củi cũng không cho chúng tôi ở nhờ, có điều chủ quán bảo chúng tôi có thể đến phố Nam An, nơi đó toàn là những người như chúng tôi.

Tôi hỏi mẹ sao không đi tìm cha, mẹ ái ngại nhìn bộ quần áo rách rưới và bẩn của mình, an ủi tôi: "Đợi hai ngày nữa, hai ngày nữa chúng ta sẽ đi tìm ông ấy."

Lúc đó tôi không hiểu được vẻ bối rối ngại ngùng trên mặt mẹ, cứ ngỡ chỉ là mẹ không biết cha ở đâu.

Dầu vậy trong lòng tôi vẫn tràn đầy mong đợi và phấn khích, tôi hỏi mẹ: "Mẹ ơi, cha là người thế nào, ông ấy có thích con không ạ?"

Mẹ không nói gì, hiếm khi bà lờ đi câu hỏi của tôi, chỉ im lặng dẫn tôi bước vào phố Nam An.

Con phố nhỏ ấy không bao giờ ngủ, là nơi mà ngay cả quan kinh triệu doãn [7] cũng không muốn quản.

Người ta gọi nó là phố Quỷ, nói rằng ở đó có đủ loại ma quỷ, chỉ không có người.[7] Chức quan đứng đầu, cai quản kinh thành, có quyền hạn quản lý các vấn đề hành chính, trị an và tư pháp.

Ở cái nơi quỷ quái ấy, tôi và mẹ đều bị xua đuổi, chỉ đành co ro trong một góc hẻm.

Tôi có chút không vui, hỏi mẹ: "Sao người kinh thành cũng vô tình thế ạ?"

Mẹ ôm chặt tôi: "Người ta đối với những người có hoàn cảnh kém hơn mình, luôn luôn vô tình."

Tôi không hiểu câu nói này, nhíu mày nói: "Con thì không, con đối xử rất tốt với Tiểu Lục, Cẩu Oa, Tam Nương mà."

Mẹ cười cười, xoa đầu tôi, dịu dàng khen ngợi: "Chất Nô là một đứa trẻ ngoan."

Tôi thích được mẹ khen, bèn dụi dụi vào tay áo mẹ, nói: "Chất Nô mãi mãi là đứa trẻ ngoan của mẹ."

Đó là một đêm dài vô cùng khắc nghiệt, nhưng may mà có mẹ ở bên, tôi không cảm thấy buồn.

Dần dần, phố Quỷ cũng yên tĩnh trở lại, chỉ còn tiếng gió rít gào, tiếng ai oán thê lương.

Tôi liên tục rúc vào lòng mẹ, cố tìm chút hơi ấm.

Vậy mà khi tôi ngẩng đầu lên, lại thấy mẹ đã nhắm mắt, mặt không biểu cảm, giống hệt những lưu dân chết dọc đường.

Tôi sợ hãi, không ngừng lay tay mẹ, nhưng mẹ không tỉnh.

Nỗi sợ hãi bao trùm lấy tôi, tôi muốn hét lên, rồi lại sợ làm ồn người khác, bị chửi mắng.

Giữa lúc bàng hoàng, một giọng nói trong trẻo vang bên tai: "Muội sao vậy?"

Đó là một thiếu nữ khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, xách một chiếc giỏ tre, cúi xuống nhìn tôi.

Tôi bị cô ấy dọa cho giật mình, một lát sau mới lao tới nắm lấy tay cô ấy, dắt đến chỗ mẹ tôi: "Mẹ muội không nói gì, muội lay thế nào mẹ cũng không tỉnh.

Tỷ... tỷ cứu mẹ muội với!"

Thiếu nữ ấy kinh ngạc chạy đến bên mẹ tôi, nâng tay thăm dò cổ mẹ, rồi vạch mí mắt mẹ ra xem, một lúc sau mới thở phào nhẹ nhõm, cười với tôi: "Không sao đâu, bà ấy chỉ ngủ thiếp đi thôi."

Tôi không tin, nhào tới ôm chặt lấy mẹ.

Gò má mẹ vẫn còn ấm, điều này khiến tôi yên tâm phần nào, có điều mẹ không tỉnh, lại làm tôi vô cùng sợ hãi.

Cùng lúc đó, từ bụng mẹ phát ra một tiếng động —— "Ọc."

Tôi ngạc nhiên nhìn thiếu nữ kia, hỏi cô ấy đó là gì.

Thiếu nữ đấy bỗng phì cười, xoa đầu tôi, nói: "Mẹ muội chắc là đói rồi, hai mẹ con không có chỗ ở à?"

Tôi lắc đầu: "Muội đến tìm cha, mẹ nói ông ấy ở kinh thành."

Thiếu nữ cúi đầu, trong mắt có phần thương cảm.

Chợt nghĩ ra điều gì, cô ấy bèn lấy từ trong giỏ tre ra hai chiếc bánh ú đưa cho tôi, hơi ái ngại mà rằng: "Xin lỗi nhé, nhà ta cũng không có chỗ cho hai mẹ con ở, hai chiếc bánh ú này cho hai mẹ con nhé, mong muội sớm tìm được cha."

Nói đoạn, cô ấy đứng dậy rời khỏi góc hẻm.

Tôi thẫn thờ nhớ ra mình chưa cảm ơn, liền loạng choạng chạy ra đuổi theo cô ấy hỏi: "Tỷ tên gì, sau này muội có tiền nhất định sẽ báo đáp tỷ!"

Cô ấy quay đầu mỉm cười, mắt cong như vầng trăng khuyết: "Ta họ Quan, bán đồ ăn ở phố Nam An, sau này muội có tiền thì đến ủng hộ chỗ ta nhé, bánh ú thịt mỡ táo đỏ của nhà ta là ngon nhất đấy!"

Sau đó, mẹ tỉnh lại, hai mẹ con vừa khóc vừa ăn bánh ú, cảm thấy trên đời này quả thực chỉ có bánh ú của Quan nương tử là ngon nhất.

Quan nương tử bây giờ đã ngoài bốn mươi, đã lấy chồng, sinh được một cô con gái, cũng đã gả đi rồi.

Quan nương tử vẫn bán bánh ú thịt mỡ táo đỏ, gương mặt luôn hằn nụ cười hiền hậu, nếp nhăn nơi khóe mắt chỉ làm tăng thêm tuổi tác, và vẫn nói vài câu tốt lành, hàn huyên chuyện nhà với những người đến mua hàng.

Tôi mua mười sáu chiếc bánh, định về phủ cho Đào Đào và Triệu nương tử họ cùng nếm thử.

Quan nương tử gói bánh cho tôi, rồi nhìn tôi vài lần, cười bảo: "Nương tử ăn mặc thế này, chắc là người trong phủ đại trưởng công chúa nhỉ?

Có phải Đinh Lan nương tử bảo cô đến không?"

Tôi ngạc nhiên nhìn Quan nương tử: "Bà quen Đinh Lan nương tử ạ?"

Quan nương tử gật đầu, nụ cười rạng rỡ: "Năm nào Đinh Lan nương tử cũng đích thân đến mua bánh của ta, nói là Đại trưởng công chúa thích ăn, bởi vậy mà cứ đến Tết Đoan Ngọ, quán ta lại càng đông khách."

Sống mũi tôi cay xè, không kìm được hỏi: "Cô ấy bắt đầu đến mua từ khi nào ạ?"

Quan nương tử nghĩ ngợi rồi đáp: "Chắc cũng bốn năm rồi, ta không nhớ rõ nữa."

Năm tôi chết...

Lòng tôi dâng lên một nỗi chua xót, nhưng không có cách nào xua tan đi được.

Công chúa vẫn giữ thói quen này, rốt cuộc là vì sao...

Tôi mơ màng xách bánh đi về, lòng càng lúc càng không tỏ tường thái độ của Công chúa, nàng tưởng nhớ tôi, hay chỉ vì thấy bánh ngon?Đi được một lúc, tôi đã ra khỏi phố Nam An, đến một nơi thưa thớt bóng người.

Do mải mê suy đoán tâm tư Công chúa nên tôi không hề hay biết có hai gã đàn ông vẫn luôn bám theo mình.

Đến khi hoàn hồn, đầu tôi đã bị một cái bao tải trùm kín.

Chưa kịp kêu lên, sau gáy lại bị một gậy đập mạnh, rồi ngất lịm.

--- Editor: Đột nhiên phát hiện cái age gap của Phạm Bình - Công chúa cũng hấp dẫn, kiếp trước kiếp này age gap cũng y vậy, chỉ là nghịch đảo đối tượng 😂
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 23 [Ngoại truyện]


Ngoại truyện: Chương Địa Phủ
Năm Thừa An thứ hai mươi hai, mùa đông, tôi thắt cổ tự vẫn nơi thiên lao.

Khi từ chốn ngục tù bước vào địa phủ, tôi biết mình đã thành một hồn ma.

Điều này khiến nỗi sầu muộn trong tôi vơi đi đôi chút, thay vào đó là cảm giác ngỡ ngàng.

Hóa ra những chuyện ma quỷ thần thánh trong sách vở đều là thật.

Vì thế, tôi không khỏi đưa mắt nhìn quanh.

Nơi ấy có một cây cầu đá, dưới cầu là mười tám cổng vòm.

Nghe các hồn ma khác nói, chúng tượng trưng cho mười tám tầng địa ngục.

Bên dưới là một dòng sông dài, có lẽ chính là sông Tam Đồ trong truyền thuyết.

Đôi bờ sông mọc đầy những cây hợp hoan.

Dường như mỗi hồn ma đều có người thương nhớ khôn nguôi, họ không muốn đầu thai nên cứ quanh quẩn trên cầu đợi chờ.

Mạnh Bà bèn tặng cho họ một hạt giống hợp hoan, họ gieo xuống ven sông, rồi từng cây, từng cây hợp hoan cứ thế mọc lên.

Tôi đứng trên cầu, cũng như bao hồn ma khác, đi từ đầu cầu đến cuối cầu.

Nhưng cũng có nhiều hồn ma không chịu đi tiếp, có lẽ vì còn vướng bận điều gì chưa thể buông bỏ.

Trong những ngày ở địa phủ, tôi thấy những cây hợp hoan ấy lớn dần, hoa nở rộ chưa từng tàn lụi.

Có lẽ vì nỗi nhớ chưa bao giờ dứt, khiến lòng tôi không khỏi trĩu nặng.

Mạnh Bà là một cụ bà tóc trắng phơ, ngồi ở cuối cầu đưa canh cho những linh hồn đi qua.

Bà không ép buộc, chỉ lặng lẽ nhìn những hồn ma qua lại trên cầu.

Tôi may mắn được trò chuyện với bà vài câu, nhưng phần lớn thời gian cũng chỉ đứng trên cầu chờ đợi.

Địa phủ không thấy được cảnh sắc nhân gian, cũng chẳng phân ngày đêm.

Tôi đếm thời gian trôi qua, thầm nghĩ không biết dòng chảy thời gian ở địa phủ có giống với ở trần thế không.

Cũng đứng trên cầu chờ đợi như tôi, còn có một người phụ nữ với gương mặt hốc hác, tiều tụy.

Nhưng bà ấy thì ngóng về phía cuối cầu, còn tôi lại trông về phía đầu cầu.

Tôi khao khát được gặp lại Công chúa một lần nữa, bởi khi ấy tôi đã có phần hối hận vì chưa kịp hỏi nàng, tại sao lại muốn giết tôi.

Tôi nghĩ rằng, đợi đến khi Công chúa trút hơi thở cuối cùng, nàng sẽ giải đáp những khúc mắc và tiếc nuối trong lòng tôi.

Ở địa phủ lâu ngày cũng thấy nhàm chán, tôi thường trò chuyện vài câu với những hồn ma qua lại.

So với khi còn ở nhân gian, mọi người cởi mở hơn nhiều, vì ai cũng đã chết rồi nên chẳng còn gì phải e dè.

Người tôi hay trò chuyện nhất vẫn là người phụ nữ kia.

Bà họ Quách, là trưởng nữ trong nhà, còn tên thì bà cũng không nhớ nữa.

Tôi từng hỏi: "Sao bà không đi?"

Bà ấy cười, có chút bẽn lẽn: "Ta đợi con gái thành thân, mang thai, rồi sinh ta ra.

Ta với nó đã hẹn ước rồi."

Tôi vô cùng ngạc nhiên, không hiểu nổi mối duyên tình này là thế nào.

Bà ấy thấy tôi ngơ ngác, bèn giải thích: "Thân thể ta yếu ớt, lúc mang thai sinh nó đã chịu bao nhiêu khổ cực.

Bà mụ bảo, chưa thấy đứa trẻ sơ sinh nào to như vậy, mãi mà không sinh ra được.

Ta đau đớn suốt một ngày một đêm, kiệt sức, máu chảy ra phải dùng chậu mà hứng.

May mà cả hai mẹ con đều bình an, nhưng ta cũng vì thế mà mang bệnh trong người."

Bà cúi mày, vẻ mặt khổ sở, dường như cơn đau ngày ấy vẫn còn dai dẳng đến tận bây giờ.

Tôi thấy mà không khỏi xót xa, tại sao việc sinh nở của nữ tử lại gian nan đến thế, mà chẳng được người đời coi trọng.

Quách nương tử thở dài một hơi, nét mặt giãn ra đôi chút, bà cười nói: "Nhưng may là con bé nhà ta ngoan ngoãn lắm.

Tuy ăn nhiều hơn người khác, nhưng lại khỏe mạnh hơn cả đàn ông, giúp ta được rất nhiều việc.

Chỉ tiếc là nó ít nói, ta đôi lúc thấy nó trầm tính quá, sau này lấy chồng không khỏi bị bắt nạt.

Vậy mà nó lại bảo không muốn lấy chồng, muốn ở với ta cả đời.

Cô nói xem có buồn cười không, lúc đó nó mới bảy tuổi thì hiểu sao được, phận nữ tử rồi cũng phải lấy chồng thôi."

Tôi chỉ im lặng mỉm cười, không đáp lời.

Bà lại nói: "Về sau ta đổ bệnh, thầy thuốc bảo mạng chẳng còn dài.

Con bé không biết nghe ai nói là vì sinh nó nên ta mới mang bệnh, nó cứ khóc mãi trước mặt ta.

Ta chưa bao giờ thấy nó nói nhiều như thế, nó cầu xin ta hãy khỏe lại, còn nói nếu ngày nào đó ta xuống địa phủ thì đừng vội đầu thai, cứ đợi nó, đợi nó thành thân mang thai rồi hãy vào bụng nó.

Cô nói xem, con bé ngốc nghếch làm sao."

Tôi không khỏi xúc động: "Con gái bà chắc hẳn muốn bà làm con của cô ấy, để có thể che chở, chăm sóc cho bà."

Nơi khóe mắt Quách nương tử rịn ra vài giọt lệ, bà nâng tay áo lau đi: "Ta cũng không biết có nên đợi không nữa, nó lại chẳng muốn thành thân, hà tất phải vậy."

Nhưng bà vẫn đợi.

Tôi não nề thở dài: "Mẹ sinh ta trong chuồng lừa, cũng chẳng có ai hay biết, một mình mẹ đã sinh ta ra.

Tiếc là ta bất hiếu, đối xử với bà chưa đủ tốt.

Ta chỉ mong bà được đầu thai vào một gia đình tốt, kiếp sau đừng gặp phải đứa con vô dụng như ta nữa."

Quách nương tử nhìn tôi với ánh mắt thương cảm, hỏi: "Cô cũng là người đáng thương, sao còn trẻ vậy đã mất rồi?"

Tôi ngẩn người, cười khổ: "Chuyện dài lắm."

Quách nương tử nhìn tôi đầy ân cần, có lẽ thấy tôi có nỗi niềm khó nói nên cũng không hỏi thêm, chỉ bảo: "Kiếp sau chưa chắc đã tốt hơn kiếp này, tiếc rằng qua cây cầu này rồi, chuyện cũ người xưa đều sẽ quên hết.

Ta cũng không nghĩ sau này thực sự đầu thai vào bụng con gái mình thì có gì khác kiếp này, chỉ là nó nhớ ta, ta cũng thương nó, thành thử không nỡ buông tay."

"Có những chuyện, thật khó mà buông bỏ," tôi gượng cười, "Nhưng lòng không thông, thì biết làm sao."

Quách nương tử lắc đầu, xoa đầu tôi: "Ta thấy cô cũng là một đứa trẻ ngoan, kiếp sau chắc chắn sẽ giống như mẹ của cô, đầu thai vào một gia đình tốt, sống một đời vui vẻ."

Tôi mỉm cười đón nhận sự quan tâm của bà.

Sau đó, tôi cũng thường kể cho bà nghe nhiều chuyện xưa, nhưng hầu hết đều lược bỏ phần về Công chúa, còn bà cũng không bao giờ hỏi đến, chỉ kể cho tôi nghe về cô con gái của bà, nói cô bé ấy đáng yêu ra sao, trầm lặng mà mạnh mẽ thế nào.

Mỗi khi nhắc tới, nét mặt bà lại rạng ngời ý cười.

Tôi không khỏi chạnh lòng, chưa từng hỏi mẹ xem mẹ nghĩ về tôi như thế nào.

Mẹ luôn lo lắng cho tôi đủ điều, khiến tôi vừa cảm động lại vừa đau lòng.

Dường như những người làm mẹ luôn lo sợ cho con mình như vậy, liệu họ có bao giờ sống cho chính mình không?

Ngày lại ngày cứ thế trôi qua, bà ấy vẫn chưa đầu thai, còn tôi cũng quên mất mình đã đợi bao lâu.

Khi tôi gần như sắp lãng quên thì lại bất ngờ gặp được Công chúa.

Khi đấy, những cây hợp hoan ven sông rung động, hoa không gió mà lay.

Công chúa đứng ở đầu cầu, thân hình gầy gò, gương mặt tiều tụy, song dung mạo không hề già nua.

Đôi mắt nàng sưng đỏ, giăng đầy tơ máu, trông như đã mấy ngày không ngủ.Tôi có chút ngẩn ngơ, cứ ngỡ mình chỉ mới ở chốn địa phủ này một khắc ngắn ngủi, ánh mắt tôi chẳng thể nào dời đi, ngỡ rằng đó là ảo giác, nhưng vẫn bước về phía nàng như bị bỏ bùa.

Cùng lúc ấy, tôi thấy Công chúa loạng choạng chạy về phía mình.

Tôi chưa bao giờ thấy nàng hoảng hốt, bối rối đến thế, dường như sợ rằng tôi sẽ tan biến ngay tức khắc, sợ rằng tôi sẽ rời đi.Đó là lần đầu tiên trong đời, nàng lao đến ôm chầm lấy eo tôi, vùi mặt vào lòng tôi, siết ngày một chặt, như muốn khảm tôi vào thân thể nàng.

Tôi sững sờ đứng yên tại chỗ, đầu óc trống rỗng.

Tôi không biết hồn ma có còn cảm giác không, nhưng khoảnh khắc ấy, tôi thực sự cảm nhận chỗ trái tim đau như muốn vỡ ra.

Giọng nàng khản đặc, khiến tôi hoảng hốt, lời nói không rõ ràng nhưng từng câu từng chữ lại rơi vào tai tôi, gõ vào tim tôi, đánh sập mọi phòng tuyến trong lòng— "Phạm Bình, đừng đi."

Trong phút chốc, tôi bỗng thấy mọi thứ đều không còn quan trọng nữa.

Nàng muốn tôi chết, vậy thì tôi chết vậy.

---

Tác giả: Thiết lập là, Phạm Bình sau khi sống lại ở phần chính văn vì nhập hồn vào thân xác của Bình Nhi nên không nhớ những chuyện đã xảy ra ở phần ngoại truyện Địa Phủ, cho nên... (╥╯^╰╥)
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 24


Khi tôi tỉnh lại lần nữa, một cú giáng trời giáng vào ngực khiến tôi phải thét lên đau đớn.

Mở mắt ra, tôi mới phát hiện hai tay mình đã bị trói chặt rồi treo lên xà nhà, chỉ có mũi chân là còn miễn cưỡng chạm được mặt đất.

Xung quanh trống không, có vẻ như đây là một mật thất.

Ánh lửa leo lét nhảy múa, và tôi còn chưa kịp nhìn rõ mọi thứ, thêm một gậy nữa đã nện thẳng vào mạng sườn tôi.

Cú này quá hiểm, làm tôi bất giác muốn co người lại, nhưng hai tay bị trói nên đành bất lực chịu đựng cơn đau lan khắp toàn thân.

Dù vậy, nó cũng đủ khiến tôi tỉnh táo hơn để nhìn rõ gã đàn ông trước mặt.

Hắn trạc chừng hai mươi, mình vận gấm vóc lụa là.

Thấy ánh mắt tôi cuối cùng cũng dừng trên người hắn, hắn tỏ ra phấn khích lạ thường, sáp lại gần rồi cười khà khà hai tiếng: "Rốt cuộc tỉnh rồi, Trương Bình Nhi, ngươi tưởng trốn trong phủ đại trưởng công chúa thì ta không làm gì được ngươi sao?

Đến nước này rồi vẫn rơi vào tay ta thôi!"

Tôi chẳng còn sức lực để phân biệt dung mạo của hắn, chắc cũng chẳng khác lũ ác quỷ là bao.

Một ngụm máu tanh bất chợt trào lên cổ họng, chẳng kịp nghĩ nhiều, tôi liền phun thẳng vào mặt hắn.

Hắn sững người, rồi ngay lập tức nổi trận lôi đình, vung gậy nện thẳng vào má tôi, vậy mà tôi lại không kìm được tiếng cười bật thành tiếng.

Mới làm Trương Bình Nhi được vài tháng ngắn ngủi mà đã ăn hai trận đòn, nghĩ cũng thật chua chát.

Hắn siết lấy cằm tôi, gằn giọng hỏi: "Ngươi cười cái gì?

Ngươi còn tưởng mình đang ở phủ đại trưởng công chúa chắc?

Dù ta có giết ngươi ở đây cũng sẽ không một ai hay biết!"

Tôi gắng sức liếc hắn một cái: "Vậy sao không giết ta đi, không dám à?

À, ngươi không dám đến phủ đại trưởng công chúa đòi người, chỉ dám thừa dịp ta ra ngoài để bắt cóc.

Bị một kẻ như ngươi giết, thật mất mặt quá.

Ta cười ngươi đúng là phế vật, đến mức bị một tỳ nữ quèn như ta đây chế nhạo."

Hắn cứng người, gương mặt càng lúc càng méo mó, rồi lại giáng xuống thêm vài gậy nữa.

Cơn đau qua đi là cảm giác tê dại, ngụm máu trong cổ họng lại bị tôi nuốt ngược vào trong.

Với loại người này, nếu để hắn thấy tôi yếu thế, e rằng sẽ càng làm tới.

Trong mật thất chỉ còn lại tiếng gậy vun vút và tiếng gào thét tức tối của hắn.

Kỳ thực tôi cũng chẳng làm được gì, nhưng chút khí phách còn sót lại không cho phép tôi cầu xin hắn.

Hồi lâu sau, hắn cũng dừng tay, có vẻ như biểu hiện của tôi khiến hắn không hài lòng, bèn đổi sang cách khác.

Hắn cười khẩy với tôi: "Ngươi không muốn biết là ai đã đưa ngươi đến đây sao?"

Tôi mệt mỏi ngước lên liếc xéo hắn: "Tay sai à?"

Hắn phá lên cười, sáp lại gần nói: "Là cha và anh ngươi đấy, thế nào?

Người cha và người anh mà ngươi hết mực mong nhớ, chính họ đã đưa ngươi đến đây."

Đây hẳn là đòn tâm lý giết người diệt tâm, nhưng tôi vốn đâu phải Trương Bình Nhi, nên chỉ khẽ "ờ" một tiếng tỏ vẻ đã biết.

Hắn càng thêm tức tối, túm lấy tóc tôi giật ngửa ra sau, buộc tôi phải nhìn thẳng vào hắn.

Gương mặt đó thật đáng ghét làm sao.

"Rượu mời không uống lại muốn uống rượu phạt, ta tử tế thấy ngươi khốn khổ nên thu ngươi làm thiếp mà ngươi không chịu.

Sao nào, bị cha anh đưa tới đây rồi biết là không thể lấy lòng ta được nữa, nên lại bày trò lạt mềm buộc chặt phải không?!"

Khó trách, kẻ có thể ảo tưởng đến mức này, lòng dạ ắt hẳn vô cùng hẹp hòi.

Sự im lặng của tôi khiến hắn thêm phần xấu hổ và tức giận, bèn tuôn ra những lời lẽ lăng mạ mạt sát tôi.

Tất cả những từ ngữ hạ tiện nhất trên đời dùng để miệt thị nữ tử cứ thế tuôn ra, hòng khiến tôi nảy sinh chút tự ti và sợ hãi.

Nhưng tôi đã là người chết đi một lần, những thứ này có đáng là bao.

Huống hồ, cái bộ dạng bị từ chối thì muốn trả thù, hủy hoại người khác của hắn vừa chẳng có gì mới lạ, vừa khiến người ta không khỏi buồn cười.

Tôi chỉ có chút tiếc nuối, đã hứa với Công chúa sẽ mang bánh ú về cho nàng.

Giờ thì bánh mất, người cũng sắp toi, chưa nói đến việc nàng có vì thế mà nổi giận hay không, riêng tôi đã thấy có chút buồn rồi.

Nhưng nghĩ lại, nếu tôi có thể sống sót trở về, liệu nàng có quan tâm đến tôi không?

Điều này khiến tôi trong lúc thân xác bị hành hạ lại le lói một tia mong chờ, đến nỗi sau mấy lần bị đánh ngất đi rồi tỉnh lại, cứ lại thấy có phần tiếc nuối.

Hắn hẳn cũng đã thấm mệt, ném gậy gỗ xuống rồi vội vã rời khỏi mật thất.

Nhưng sự tra tấn vẫn chưa dừng lại, hắn cho người cưỡng ép tôi uống thuốc thang để tôi không chết ngay tại chỗ.

Trong mật thất đâu thể phân biệt ngày đêm, sau một hồi tĩnh lặng kéo dài, tôi có hơi mơ màng, dường như rất lâu về trước tôi cũng từng trải qua những ngày tháng như thế này, chờ đợi một ai đó, song tôi không thể nhớ ra.

Đồng thời, tôi cũng thấy thương cho Trương Bình Nhi, gặp phải gã đàn ông thích dùng gậy gộc này, lại thêm đôi cha con kia, quả thực nhảy giếng kết liễu là lựa chọn tốt.

Dù rằng tôi cũng chẳng khá hơn cô ấy là bao.

Không biết đã qua bao lâu, tôi lại thấy hắn, khó kìm câu châm chọc: "Xin hỏi túc hạ hôm nay lại định đánh bao nhiêu gậy nữa đây?"

Nhưng bộ dạng của hắn lại hơi hơi khác lạ, mặt mày lo lắng hoảng hốt, trong mắt giăng đầy hơi nước, người ta thấy mà thương.

Thế nhưng cảnh tượng này lại khiến tôi sợ hãi tột độ, bất giác lùi về sau.

Rồi điều khiến tôi kinh ngạc hơn nữa là hắn vừa khóc nấc khe khẽ, vừa cởi trói cho tôi.

Lúc tôi sắp ngã quỵ, hắn còn đỡ lấy tôi, hỏi: "Nương tử, cô không sao chứ?"

Tôi ngờ vực nhìn hắn: "Túc hạ lại định làm gì đây?

Vừa đấm vừa xoa à?"

Hắn khóc đương khi lắc đầu quầy quậy, nói: "Ta!

Ta là Trương Bình Nhi!"

Tôi hoảng hốt nhìn hắn, một là tôi đã ngất đi và đang nằm mơ, hai là đầu hắn bị úng nước.

Tôi thoát khỏi vòng tay của hắn, lùi sang một bên vài bước: "Túc hạ... cũng biết đùa thật."

Hắn lại tiến lên đỡ tôi, dậm chân nói: "Ta thật sự là Trương Bình Nhi!"

Tôi gật đầu, chỉ vào mình: "Vậy ta là ai?"

Hắn ngẩn ra, có lẽ bất mãn vì tôi vẫn còn tâm trạng đùa cợt trong hoàn cảnh này: "Lúc nào rồi mà còn đùa, ta biết cô không phải là ta, không đúng, ta là Trương Bình Nhi, ta không biết cô là ai, thân xác của cô là của ta, là của Trương Bình Nhi, nhưng linh hồn của cô thì không, cô hiểu không?"

Tôi bừng tỉnh, hỏi cô ấy: "Trương nương tử, cô mượn xác hoàn hồn để cứu tôi à?"

Cô ấy bật cười: "Ta tìm mãi mới thấy cô, nhưng mật thất này ngoài hắn ra không ai được đến gần.

Mãi mới đợi được hắn uống say ngất đi, ta liền chiếm được thân xác của hắn để tới đây."

Cô ấy kể vắn tắt lại sự tình, tôi rốt cuộc cũng hiểu ra, không ngờ người cứu tôi lại là một hồn ma.

Có điều tôi thực sự không còn sức để đôi co với cô ấy nữa, đành để cô ấy dìu mình ra khỏi mật thất.

Phía xa vẫn có lính canh, nhưng Trương Bình Nhi hẳn đã dò xét địa hình từ trước, chẳng mấy chốc chúng tôi chạy ra khỏi tòa nhà đó, bấy giờ mới biết đấy là một sòng bạc.

Đi được hai con phố, cô ấy đột nhiên ngã khuỵu xuống đất, tôi giật mình, còn chưa kịp phản ứng, cơ thể dường như bị một luồng khí mạnh mẽ xông vào, suýt chút nữa thì té nhào.

Cùng lúc đó, trong cơ thể tôi lại vang lên tiếng của Trương Bình Nhi: "Ta không thể ở trong thân xác hắn quá lâu, giờ ta đang ở trong thân xác của cô.

Cả kinh thành đang tìm cô, đi hết con phố này thêm trăm bước nữa, hẳn là sẽ gặp được đội cấm quân Nam Nha đang tuần tra."

Cảnh tượng tự nói chuyện một mình này làm tôi nhớ đến vị đạo trưởng Linh Ngộ kia, chẳng lẽ Linh Ngộ cũng là một thân hai hồn?

Tôi thoáng kinh ngạc, đồng thời thân xác cũng bất giác cử động.

Kỳ thực tôi đã chẳng còn sức lực nào, lúc này lại giống như một con rối gỗ, được cô ấy điều khiển từng bước chân.

Tuy vậy, cô ấy đi cũng loạng choạng, tôi nghĩ hay là cứ trả lại thân xác này cho cô ấy, song lại bị cô ấy từ chối, và yêu cầu tôi tuyệt đối không được ngủ thiếp đi, nếu không sẽ không còn cơ hội nhập vào thân xác này nữa.

Tôi không khỏi hỏi: "Như vậy không tốt sao, cô lấy lại thân xác của mình, làm một người sống."

Thân hình cô ấy khựng lại, cười khổ: "Ta đã từng nghĩ đến việc giành lại thân xác."

Tôi gật đầu tỏ vẻ tán thành, dẫu sao thì người thật sự muốn tìm đến cái chết cũng chỉ là số ít.

Nhưng cô ấy lại tiếp: "Ban đầu ta không chịu rời đi là vì không nỡ xa Đào Đào.

Tấm thẻ gỗ đó, ta luôn muốn khắc tên của cô ấy lên, nhưng lại không đủ dũng khí.

Sau này biết nương tử nhập vào thân xác ta, ta lại lo cha anh sẽ hãm hại cô, nghĩ rằng nếu họ làm vậy, ta vẫn nên quay về, không thể để người khác thay mình chịu tội."

"Nhưng cô đã quyết đoán bán thân, tránh được sự ép buộc của cha anh ta.

Ta nghĩ vậy cũng tốt, nương tử là một người dũng cảm, không giống ta."

Cô ấy chậm rãi kể, như thể có rất nhiều tâm sự đè nặng trong lòng không thể giải tỏa, giọng nói cũng pha lẫn tiếng nấc: "Mẹ ta mất sớm, ta được cha anh một tay nuôi lớn, nghĩ rằng họ có công ơn dưỡng dục với mình, ta nên đặt họ lên đầu trong mọi việc.

Nhưng không biết từ lúc nào, họ lại dính vào cờ bạc, trước kia còn dịu dàng hỏi han ta có khỏe không, sau này thì chỉ biết vòi vĩnh, hoặc là khóc lóc quỳ lạy, hoặc là chửi mắng ép buộc, lấy hết số tiền trong tay ta."

"Lần nào họ cũng hứa sẽ không cờ bạc nữa, và lần nào ta cũng tin, nghĩ rằng bọn ta vẫn là một gia đình, nên chăm sóc lẫn nhau.

Nhưng sau này lại càng quá đáng hơn, công việc làm ăn trước đây của họ đều thua sạch ở sòng bạc, chính là nơi vừa giam giữ cô đó."

Tôi nhíu mày hỏi: "Gã đó là chủ sòng bạc?"

Trương Bình Nhi gật rồi lại lắc đầu: "Không chỉ vậy, hắn còn là con trai của Hộ bộ viên ngoại lang [1].

Trước khi ta tìm đến cái chết, họ đã đuổi đến tận nhà cha anh ta, lúc đấy ta cũng ở đó, hắn liền muốn ta vào phủ làm thị thiếp cho hắn, nhưng ta đã dò hỏi, những người bị hắn để mắt đều bị đưa đến sòng bạc, sau đó thì bặt vô âm tín.

Những người thân thiếu nợ cờ bạc cũng không dám hỏi han, cứ coi như các nương tử đó đã chết rồi.

Ta giả vờ ưng thuận, sau thừa lúc họ không để ý, trốn về phủ đại trưởng công chúa, thế nhưng gã đó không chịu buông tha, xúi giục cha anh ta liên tục đến phủ quấy rối.

Ta... ta không còn cách nào khác, nếu chết ở một nơi như vậy, thà nhảy giếng cho xong." [1] Chức quan phụ tá trong các bộ thời xưa.

Quan viên kinh thành mở sòng bạc là tội lớn, vậy mà lại có thể để sòng bạc này lộng hành như thế.

Tôi chỉ mới bị đánh một trận, còn không biết những nương tử bị đưa vào đó đã phải chịu đựng những cực hình nào.

Trương Bình Nhi vừa nói vừa rơi lệ, rồi đưa tay lau đi, sau cố nặn ra một nụ cười, bảo với tôi: "Nương tử, ta ghen tị với cô biết bao."

Tôi khẽ thừ ra, hỏi lại cô ấy: "Ghen tị với ta điều gì?"

Trong lồng ngực bỗng dâng lên một nỗi chua xót và đau đớn, đó không phải là cảm xúc của tôi, mà là từ Trương Bình Nhi.

Cô ấy nói: "Ta ghen tị vì họ đều rất quan tâm cô, bảo vệ cô, Đào Đào hay Ngô gia lệnh cũng vậy, ngay cả các nương tử trong nội viện cũng đối đãi với cô rất mực ưu ái.

Ta cũng từng nghĩ, hay là cứ cướp lại thân xác này, hưởng thụ sự tử tế và quan tâm của họ, ta tự tin có thể sắm vai cô một cách hoàn hảo.

Thế nhưng nghĩ đi nghĩ lại, lại thấy buồn vô cớ, người họ quan tâm, người họ để ý, không phải là ta.

Cả đời tự lừa dối mình, là một chuyện bi thảm bực nào."

Tôi lặng im không nói, đến lúc này, cô ấy vẫn giữ được sự lương thiện của mình, khiến tôi không khỏi cảm thấy hổ thẹn.

Phía cuối con phố dài, cấm quân tuần tra nghiêm ngặt.

Tôi nhìn thấy một bóng hình quen thuộc, là Uy Nhuy.

Cô ấy dường như cảm nhận được điều gì, quay đầu trông lại, ánh mắt đầy kinh ngạc, rồi tức tốc chạy về phía tôi.

"Nương tử, mau đi đi."

Một câu nói vang lên trong cơ thể, rồi tôi đột nhiên mất hết sức lực, toàn thân như bị rút cạn, lúc sắp sửa ngã xuống, Uy Nhuy đã đỡ lấy và bế thốc tôi lên.

Tôi nằm trong vòng tay cô ấy, cơn đau lan tỏa khắp người, hai mắt như bị một lớp sương mờ che phủ, cảnh vật xung quanh xám xịt, người qua kẻ lại đều trở nên mờ nhòe.

Trong thoáng chốc, tôi dường như thấy linh hồn của Trương Bình Nhi lơ lửng giữa không trung, bên tai như còn văng vẳng giọng nói của cô ấy: "Cái chết đối với một người như ta, có lẽ lại là điều may mắn.

Nương tử, cô nên trân trọng cuộc sống này.

Ta phải đi rồi, cảm ơn cô đã cho ta biết được tâm ý của Đào Đào, cũng xin chúc ta kiếp sau có thể làm một người vui vẻ..."

Thân hình Trương Bình Nhi dần trở nên trong suốt, tôi há miệng muốn gọi cô ấy, nhưng lại chẳng thể phát ra thành tiếng, chỉ đành nhìn cô ấy tan biến vào đất trời.

Lòng tôi bỗng cuộn lên một nỗi bi thương, nước mắt gần như chực trào.

Nhưng trong nháy mắt, tôi lại phát hiện ra trên con phố xám xịt còn có một hồn phách khác đang lơ lửng, tôi không thể nhận ra, song trái tim cứ đập rộn lên, gần như cho rằng đó là ảo giác.

Đó là bóng hình của Công chúa.
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 25


Tôi được Uy Nhuy bế lên xe ngựa, một mạch phóng nhanh về phủ đại trưởng công chúa.

Nơi chân trời, sấm rền ì ầm vang dội, rồi một trận mưa rào trút xuống nóc xe, từng giọt nặng trĩu gõ vào lòng tôi.

Uy Nhuy không giỏi ăn nói, cô ấy chỉ để tôi tựa vào lòng, để những vết thương không va phải thành xe cứng ngắc mà thêm đau đớn.

Cô ấy là một cô gái vô cùng chu đáo, còn lau đi máu và mồ hôi trên trán tôi.

Đôi mày Uy Nhuy nhíu chặt, ánh mắt lo lắng không yên mà nhìn tôi.Những lúc thế này, tôi lại thấy vui hơn nhiều.

Tôi nhớ ra ngày trước Uy Nhuy thực chất cũng là một người trầm tính, chẳng mấy khi hé răng, rất đỗi thật thà.Cô ấy và Đinh Lan đều vào Phạm phủ năm mười một, mười hai tuổi.

Đinh Lan thì hoạt bát, còn Uy Nhuy lại trầm mặc, hai người lúc nào cũng kè kè bên nhau, bị mắng cũng cùng chịu, lúc rảnh rỗi cũng nô đùa cùng nhau.Nhưng họ là do chủ mẫu mua về, tôi và mẹ chẳng mấy khi gặp được.

Lần duy nhất tôi tình cờ trông thấy là khi Đinh Lan đang dùng cành cây nguệch ngoạc vẽ gì đó trên một bãi cát trong sân, còn Uy Nhuy thì đứng bên cạnh canh chừng, chăm chú nhìn cô ấy.

Mãi đến khi tôi tới gần, Đinh Lan vẫn chìm đắm trong thế giới của mình, trái lại là Uy Nhuy phát hiện ra tôi.

Sắc mặt cô ấy thoáng hoảng hốt nhưng vẫn lặng lẽ dời bước, chắn Đinh Lan ở phía sau rồi cúi đầu, tựa như đang nhận lỗi với tôi.

Tôi khẽ cười, dùng khẩu hình nói với cô ấy: "Không sao, ta chỉ đi ngang qua thôi."

Uy Nhuy lúc này mới yên tâm, liếc nhìn Đinh Lan sau lưng nhưng vẫn không hề nhúc nhích, có lẽ là sợ người khác ngang qua rồi mách lẻo.

Tôi cũng không nói gì, chỉ vờ như không thấy và rời đi.

Lúc đó tôi không biết Đinh Lan đang làm gì, cũng chẳng hiểu tại sao Uy Nhuy lại phải che chắn cho cô ấy.

Mãi cho đến sau này, khi Đinh Lan lấy ra quyển sổ làm từ lá chuối, tôi mới vỡ lẽ, có lẽ cô ấy đang tập viết chữ.

Việc này khiến tôi vừa cảm thấy mừng cho cô ấy, lại vừa thấy có chút xót xa.

Thực ra khi đó cha tôi rất mong người trong phủ ai cũng biết chữ, song suy cho cùng, ông đâu có thời gian để tâm đến chuyện hậu viện nội trạch.

Thị nữ tôi tớ có biết chữ hay không, đối với ông cũng chỉ là việc tô điểm thêm cho vẻ ngoài, chẳng quan trọng gì.

Huống hồ, Đinh Lan và Uy Nhuy cũng chỉ là thị nữ hạ đẳng, lại bất hòa với tổng quản trong phủ nên luôn bị ông ta nhắm vào chèn ép.

Lâu dần, những tôi tớ khác cũng cố tình tố giác họ để lấy lòng tổng quản, cuộc sống của hai người vì thế mà càng thêm khó khăn.

Những chuyện bên trong này, phần lớn là sau khi họ được Công chúa thu nhận vào các của mình, tôi mới nghe kể lại.

Khi tôi giảng bài cho Công chúa, dù họ có hiểu hay không cũng đều đứng một bên lắng nghe.

Công chúa cũng không hề kiêng kị, thỉnh thoảng còn hỏi bài họ.

Nếu họ trả lời sai, nàng cũng không quở trách mà chỉ nhìn tôi rồi nói: "Phạm Bình, xem ra tài giảng bài của ngươi cần phải trau dồi thêm rồi."

Những lúc như vậy, Đinh Lan đều vô cùng hoảng sợ, Uy Nhuy cũng đâm ra bất an.

Nhưng tôi đã quen rồi, những lời nói chẳng mặn chẳng nhạt của Công chúa không hề khiến tôi khó chịu.

Lúc đó, chỉ cần được bình yên bên cạnh Công chúa như vậy đã đủ khiến tôi vui rồi.

"Là do Phạm Bình học nghệ không tinh," tôi đáp lại nàng, "may mà Công chúa lòng dạ rộng rãi, chỉ nhắc nhở chứ không trách tội."

Công chúa hơi rũ mi, nhìn Đinh Lan và Uy Nhuy, tựa như đang nói: "Thấy chưa, ta bảo không sai mà."

Đinh Lan và Uy Nhuy lúc này mới yên tâm.

Tuy nhiên cũng vì thế mà dần dần, tôi hoàn toàn mất đi cái gọi là địa vị phò mã tôn quý trước mặt hai vị thị nữ này.

Khuôn mặt Uy Nhuy bây giờ khác xưa rất nhiều, trông càng thêm kiên nghị, nghiêm nghị.

Cô ấy vốn dĩ đã cao lớn, làm thị vệ cũng không có gì lạ, chỉ hơi tiếc nuối là tôi đã không được chứng kiến quá trình thay đổi của họ.

Tôi vui khi thấy nữ tử làm những việc không theo lẽ thường, có lẽ vì tôi không làm được, cũng không có cơ hội như vậy.

Tôi luôn tò mò, nữ tử sinh ra trên đời có thể làm được những việc kinh thiên động địa nào.

Chính vì thế mà trong ba năm du ngoạn, tôi luôn thích nghe ngóng những câu chuyện kỳ lạ về nữ tử, say sưa không biết mệt, dường như làm vậy có thể giúp tôi có thêm dũng khí để sống trên cõi đời này.Nhưng trong những năm tháng sau này, người mang lại cho tôi niềm vui và sự kinh ngạc, luôn là Công chúa.

#

Ngay lúc tôi sắp thiếp đi, cuối cùng cũng về đến phủ.

Uy Nhuy bế tôi xuống xe ngựa, Đinh Lan và Đào Đào đều đang đứng ở cổng trông ngóng, chắc là người báo tin lúc nãy đã cho họ biết.

Đào Đào vừa thấy bộ dạng của tôi, đầu tiên là hoảng hốt kêu lên, sau đó vành mắt liền hoe đỏ: "Bình Nhi, cô đã đi đâu vậy, bao nhiêu ngày không thấy tăm hơi, làm bọn ta lo chết đi được!"

Tôi mấp máy môi, cử động một chút cũng làm vết thương trên ngực đau nhói, mồ hôi lạnh túa ra, song vẫn cố gắng an ủi cô ấy: "Bất cẩn bị kẻ xấu bắt đi, bị đánh một trận, không sao đâu."

Đào Đào giơ tay ra định chạm vào tôi kiểm tra, nhưng có lẽ sợ đụng phải vết thương nên rụt tay về, chỉ đứng một bên lo lắng thấp thỏm.

Đinh Lan ở bên cạnh kéo cô ấy ra, giục Uy Nhuy mau đưa tôi vào phòng.

Tôi khó nhọc nằm xuống giường, chỉ cần khẽ động là lại đau buốt đến tận xương tủy.

Nhi tử của Hộ bộ viên ngoại lang đó ra tay vừa hiểm vừa ác, có điều lại cố tình không đánh chết người, xem ra rất thành thạo việc này.

Bất luận thế nào, chuyện đấy cũng cần phải tra rõ.

Nghĩ vậy, tôi cất lời: "Đinh Lan nương tử, kẻ bắt nô tỳ là nhi tử của Hộ bộ viên ngoại lang, hắn tư thông mở sòng bạc, bắt cóc dân nữ, e rằng không chỉ có một mình nô tỳ gặp nạn."

Đinh Lan vốn đang lo lắng nhìn ra ngoài cửa, nghe tôi nói vậy, nghi hoặc hỏi: "Chuyện này mà nương tử cũng biết sao?"

Tôi gật đầu: "Lúc bị đánh, nô tỳ giả vờ ngất đi nên nghe được."

Tôi bịa một lời nói dối, chuyện gặp được hồn phách của Trương Bình Nhi, tốt nhất là không nên kể.

Đinh Lan cũng không hỏi dồn, chỉ đáp: "Nương tử yên tâm, việc này sẽ có người điều tra, bây giờ vết thương của nương tử là quan trọng nhất.

Ta đã cho người đi mời Giang y nữ, sẽ đến ngay thôi."

Tôi gượng cười: "Ồ, là vị y nữ đó sao, lại làm phiền người ta rồi, lần nào đến phủ cũng là để chữa thương cho nô tỳ."

Đinh Lan trừng mắt với tôi: "Lúc nào rồi mà còn đùa cợt nữa, không sợ Quý chủ đau lòng sao!"

Tôi á khẩu, bỗng cảm thấy có chút chua xót.

Nếu tôi không ra ngoài, sẽ không bị bắt cóc, cũng là vì nghe lời Công chúa đến phố Nam An.

Nhưng nghĩ lại, cho dù lần này tôi không đi, lần sau khi tôi rời khỏi, có lẽ sẽ không còn cơ hội quay về nữa.

Nghĩ vậy, nỗi bất bình tích tụ trong lòng tôi cũng tan biến.

Suy tư một lúc, tôi lại hỏi Đinh Lan: "Công chúa... người đang làm gì?"

Đinh Lan khựng lại, quay đi không nhìn tôi, tựa hồ đây là một điều khó kể.

Cô ấy ngập ngừng một lúc mới trả lời: "Quý chủ có việc quan trọng, dặn nương tử cứ yên tâm dưỡng thương."

Tôi rũ mi che giấu nỗi thất vọng, khẽ "ừ" một tiếng, chẳng hiểu cơn tức giận từ đâu ập đến, bèn nói: "Thương thế của nô tỳ, không cần nói cho Đại chủ biết đâu."

Đinh Lan nhíu mày nhìn tôi, vô cùng khó hiểu: "Tại sao?"

Tôi tránh ánh mắt ấy, lại bịa ra một lý do: "Là do nô tỳ không cẩn thận, rơi vào tay kẻ xấu, nói ra thật mất mặt.

Nô tỳ lại có chút tự trọng vặt, thật sự không muốn để Đại chủ thấy nô tỳ... trong bộ dạng thảm hại này."

Đinh Lan bỗng nhiên tức giận: "Nương tử nói gì vậy!

Nương tử mất tích, người có biết Quý chủ đã lo lắng đến nhường nào không, thậm chí còn đi tìm đạo trưởng..."

Cô ấy chợt nhận ra mình lỡ lời, vội giơ tay che miệng.

Tôi nhìn thấy sự hoảng loạn và bất an trong mắt kia, và những lời lẽ này nhẽ ra không nên nói với tôi.

Có điều cô ấy nói Công chúa đi tìm vị Linh Ngộ đạo trưởng đó, là có ý gì?

Đinh Lan thấy tôi cứ nhìn chằm chằm, không khỏi lùi hai bước: "Nương tử cứ lo cho mình trước đi!"

Nói đoạn, bèn bước ra ngoài cửa.

Đào Đào ở bên cạnh bị cô ấy dọa sợ, không dám lên tiếng.

Nhưng tôi cứ mãi bận tâm về câu nói của Đinh Lan, "đi tìm đạo trưởng", dường như đã nắm bắt được điều gì đó trong cơn mơ màng.

Đầu tôi đau buốt, tựa hồ lại thấy một con đường xám xịt, một cây cầu đá tấp nập người qua lại, và cả những đóa hoa vô danh đang nở rộ.

Tiếp đó, là những hình bóng mờ ảo chồng chéo lên nhau, lay động, vừa tan đi lại vừa tụ lại thành một dáng hình quen thuộc.

Tôi bất giác vươn tay ra muốn nắm lấy, nhưng hình bóng ấy càng lúc càng xa.

Tôi không màng đến vết thương đau nhức trên người, gắng gượng ngồi dậy.

Chả hiểu vì sao, cảm giác vừa thân quen vừa vui sướng chợt dâng lên lồng ngực, hệt như từ rất lâu rất lâu về trước, tôi đã từng trải qua cảnh tượng này rồi.

Cùng với cử động của tôi, một vật gì đó ở bên hông rơi xuống đất.

Tôi thuận thế nhìn xuống thì phát hiện, đó là tấm thẻ gỗ mà Linh Ngộ đạo trưởng đã đưa tôi, vật chủ tương tư, thông âm dương.[Chuyện cát hung đều do mình mà ra, bọn ta là đang giúp ngươi đó!] Câu nói kia lại vang bên tai tôi.

Linh Ngộ đã lường trước được rằng tôi sẽ gặp nạn, nên mới tặng tôi tấm thẻ ấy.

Bộ dạng nói năng trước sau bất nhất của Linh Ngộ, giống hệt lúc tôi và Trương Bình Nhi cùng tồn tại trong một thân xác.

Nếu tôi có thể nhìn thấy Trương Bình Nhi, phải chăng lúc đó trên phố, tôi trông thấy không phải là ảo giác, mà thực sự là Công chúa.

Đạo trưởng, thẻ gỗ, những lời nói đầy ẩn ý, sự trách móc và né tránh của Đinh Lan, từng chuyện từng chuyện một xâu chuỗi lại với nhau, khiến tôi nảy ra một phỏng đoán mới: cuộc đời thứ hai này của tôi, phải chăng là do Công chúa sắp đặt?

Nếu là thật, Công chúa đã cứu tôi quay về bằng cách nào?

Lúc này, tôi vô cùng muốn biết Công chúa đã làm những gì.

"Công chúa ở đâu?"

Tôi nhìn Đinh Lan, dồn dập hỏi, "Công chúa thật sự có việc quan trọng sao?"

Đinh Lan im bặt, không chịu trả lời.

Tôi vùng dậy, cơn đau nhói lập tức ập đến toàn thân, suýt nữa thì quỵ xuống đất, may mà được Đinh Lan và Đào Đào đỡ lấy.

Tôi nhân cơ hội nắm chặt cánh tay Đinh Lan, chất vấn: "Đinh Lan nương tử không phải đã hỏi ta có phải là người vô tâm hay không sao, bây giờ ta có tâm rồi đây, ngươi nói cho ta biết, Công chúa rốt cuộc đang làm gì?"

Ánh mắt Đào Đào hết nhìn tôi lại nhìn Đinh Lan, có lẽ cô ấy cũng đã nhận ra việc tôi gọi "Công chúa" thay vì "Đại trưởng công chúa", nhất thời chẳng dám xen vào.

Đinh Lan vẫn do dự, tôi liền hất tay cô ấy ra, tự mình đi về phía cửa.

Bấy lâu nay, tôi vẫn cho rằng việc mình mượn xác hoàn hồn là một tai nạn, cho rằng vận may của mình xưa nay vẫn kém, nên mới đầu thai vào thân xác một thị nữ trong phủ của Công chúa, mới không thể thoát khỏi nàng.

Nhưng nếu đây là do nàng sắp đặt, là nàng muốn tôi sống lại lần nữa, vậy thì tại sao ban đầu lại bắt tôi chết.

Tôi muốn hỏi cho rõ, tôi không muốn kiếp trước chết trong oan khuất, kiếp này lại sống một cách mơ hồ.

Ngoài trời mưa như trút nước, tôi vịn vào khung cửa, chịu đựng cơn đau nhức toàn thân, từng bước đi về phía sân của Công chúa.

Xem ra Đinh Lan quả thật có chuyện giấu tôi, vốn dĩ nơi ở của tôi ngay cạnh Công chúa, vậy mà nơi này lại cách rất xa.

Tôi loạng choạng chạy dưới mái hiên, Đinh Lan và Đào Đào mấy lần định đến kéo tôi đều bị tôi từ chối.

Lúc này, chân tướng còn quan trọng hơn bất cứ điều gì.

Mãi cho tới khi tôi vịn vào một cây cột đỏ để thở dốc, chỗ khúc quanh, một bóng người cũng đang chậm rãi bước tới.Dưới cơn mưa rào tầm tã, thân hình mỏng manh của nàng trông thật hiu hắt cô liêu, như chực ngã quỵ.

Sắc mặt nàng trắng bệch tựa như xác chết, dường như so với tôi, nàng mới là người phải chịu sự dày vò cùng cực.Lồng ngực tôi nghẹn lại, không phân định nổi đây là cảm xúc gì.

Tôi hé môi, cổ họng ngập tràn vị tanh của máu, một cảm giác bi thương trào dâng từ tận đáy lòng.

Tất cả sự phẫn nộ và bất bình, nghi hoặc và do dự, mong chờ và hoảng hốt, tất cả đều bùng nổ vào khoảnh khắc này.

Tôi khàn giọng hỏi nàng: "Trong mắt Công chúa, sự sống chết của ta, rốt cuộc là cái gì?"
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 26


Tôi gắng sức trấn tĩnh bản thân, để không trông như một kẻ điên loạn.

Trong suốt những năm tháng đã qua, tôi chưa một lần nổi giận với nàng, bởi tôi luôn cảm thấy mình mắc nợ nàng, và còn cảm thấy, tất cả những gì tôi có thể làm, đều chẳng đủ để xoa dịu trái tim nàng.

Nhưng lúc này đây, tôi lại vô cùng căm phẫn và bi thương.

Nếu việc sống lại này thật sự do nàng sắp đặt, vậy thì nàng muốn tôi chết, tôi liền phải chết, nàng muốn tôi sống, cũng chẳng thèm hỏi suy nghĩ của tôi, cứ thế ngang ngược kéo tôi về lại nhân gian.

Trên đời này làm gì có chuyện vô lý như vậy?

Sinh mệnh của tôi, lẽ nào lại như một trò đùa, mặc cho nàng hứng lên thì sắp đặt?

Bàn tay vịn vào cột son của tôi run lên bần bật, cơn đau buốt toàn thân cũng không thể nào làm dịu nỗi bi phẫn đang đan xen trong lòng.

Tôi là một con người, mà người thì có trái tim, cớ sao nàng lại đối xử với tôi như thế?

Tôi đăm đăm nhìn vào gương mặt nàng, dẫu cho lúc này nàng trông yếu ớt như sắp ngã quỵ, tôi vẫn phải đè nén sự quan tâm dành cho nàng, cứng rắn muốn tìm cho ra một câu trả lời ngay tại đây, ngay lúc này.

Công chúa, nàng ấy rốt cuộc xem tôi là thứ gì?

Hai người phía sau cũng đã đuổi kịp tới nơi.

Đào Đào kinh hoảng hành lễ với Công chúa, rồi lại chạy đến đỡ tôi, nhưng bị tôi hất tay ra.

Đinh Lan thì bối rối chắn trước người tôi, lắc đầu ra hiệu bảo tôi đừng nói nữa.

Tôi vượt qua thân hình Đinh Lan, chỉ nhìn chằm chặp vào Công chúa, thê tử trên danh nghĩa suốt bảy năm của tôi, người mà tôi giấu kín trong lòng, cả đời không dám cho nàng biết tâm tư ái mộ của mình.

Đinh Lan thấy khuyên tôi không được, bèn quay người chạy đến trước mặt Công chúa, cúi đầu nhận tội rằng mình đã không cản được tôi, cũng tự nhận mình đã lỡ lời.

Công chúa ngăn lời cô ấy, tiến về phía trước một bước.

Tôi bất giác lùi lại một bước, nàng khựng người, rồi không bước tới nữa.

Mưa rơi mỗi lúc một nặng hạt, bị gió cuốn tạt vào hành lang, mang theo hơi ẩm lạnh lẽo.

Gương mặt Công chúa càng thêm trắng bệch, nàng mấp máy đôi môi, cất lời hỏi ngược lại tôi: "Bây giờ ngươi là ai, là Trương Bình Nhi?

Phạm Bình?

Hay là Chất Nô?"

Tôi sững sờ, rồi buông một tiếng cười khẩy: "Công chúa muốn ta là ai?"

Là Phạm Bình hay Chất Nô, đối với nàng thì có gì khác biệt?

Công chúa khẽ chau mày: "Đừng càn quấy nữa, ngươi đang bị thương..."

"Không quan trọng," tôi ngắt lời nàng, "Công chúa quên rồi sao, lần đầu gặp mặt ở ngoại viện, Công chúa đã cho đánh ta hai mươi trượng.

So với lúc ấy, chút thương tích này có đáng là gì."

Đây là tôi đang giận chó mắng mèo.

Vết thương trên người tôi lúc này nặng hơn khi đó rất nhiều, nhưng nỗi đau trong lòng lại vượt xa gấp bội.

Nàng chau mày chặt hơn, giọng điệu cũng trở nên cứng cỏi: "Phạm Bình, đừng hồ đồ."

Đào Đào nghe thấy vậy, hoảng hốt nhìn tôi, miệng lắp bắp: "Bình Nhi... cô..."

Đào Đào không nói hết câu, sắc mặt Đinh Lan cũng trở nên nghiêm trọng, nhưng không có chút kinh ngạc nào, còn Công chúa, chỉ lạnh lùng nhìn tôi như mọi khi.

Quả nhiên, từ đầu đến cuối nàng đều biết đó là tôi.

Từ khi tôi nhập vào thân xác Trương Bình Nhi, nàng đã biết.

Hai mươi trượng ngày đó, là hình phạt cho việc tôi không sớm cho nàng biết thân phận, hay là lời răn đe vì tôi không còn ngoan ngoãn nghe lời nàng nữa?

Tôi chẳng thể nào biết được, đành hỏi lại nàng: "Công chúa có năng lực thông thiên [1], ngay cả chuyện mượn xác hoàn hồn cũng làm được, vậy nên năm xưa ở thiên lao, có thể thẳng tay ban cho ta cái chết mà không chút e dè, là muốn ta sau khi sống lại sẽ phải đội ơn đội nghĩa với Công chúa sao?" [1] Thông thiên, nghĩa đen là "thông lên tận trời".

Trong ngữ cảnh này mang ý nghĩa là có quyền năng vô cùng to lớn, gần như không gì là không thể làm được.

Tôi chưa từng thốt với nàng những lời nặng nề như vậy, cũng thấy rõ sắc mặt Công chúa đột ngột thay đổi.

Trong mắt nàng ánh lên sự kinh ngạc, khó hiểu, và cả những cảm xúc khó tả, nhưng rồi, tất cả những cảm xúc đó đều tan biến.

Ánh mắt nàng sâu thẳm tựa vực sâu không đáy, đôi môi tím tái khẽ run lên, mang theo oán trách dành cho tôi, nàng nói: "Phạm Bình, ngươi không tin ta."

Trái tim tôi như bị một nhát kiếm đâm xuyên.

Tôi phải tin nàng điều gì, tin rằng nàng không cố ý giết tôi, tin rằng nàng cứu tôi sống lại là vì...

Phải, tôi không tin nàng.

Ngay từ khoảnh khắc tôi chết đi, tôi đã không còn tin nàng nữa.

"Ta phải tin Công chúa điều gì?" tôi chất vấn, "Công chúa chưa bao giờ chịu nói với ta một lời thật lòng, chuyện gì cũng bắt ta phải đoán, nếu không hợp ý người, thì tất phải chịu đựng sự lạnh nhạt suốt nhiều ngày.

Ta chịu đủ rồi, Công chúa...

Công chúa không thể có chút lòng thương hại nào cho ta sao?"

Thân hình nàng khẽ chao đảo, suýt nữa thì ngã quỵ, may mà có Đinh Lan bên cạnh đỡ lấy.

Ngay sau đó, Đinh Lan giận dữ quát tôi: "Nương tử đừng nói nữa!"

Công chúa giơ tay ngăn cô ấy lại, ánh mắt lạnh như băng rơi trên người tôi, nặng nề tựa cơn mưa đang trút xuống, như muốn dìm chết tôi trong trận mưa tầm tã này.

Nàng mấp máy đôi môi, dường như muốn nói điều gì đó, nhưng cuối cùng lại phất tay áo quay đi, không một lần ngoảnh lại.

Đinh Lan vội vàng xoay người, cuối cùng vẫn vội vã đuổi theo Công chúa, còn không quên trừng tôi một cái thật sắc, như thể tôi đã phạm phải một tội lỗi tày trời.

Tôi lạnh lùng nhìn lại, nuốt ngược ngụm máu tanh trong cổ họng, quyết không để lộ thêm chút ấm áp nào cho họ thấy nữa.

Cuối cùng, bóng dáng họ hoàn toàn biến mất khỏi tầm mắt tôi, còn tôi cũng không thể gắng gượng được nổi, trượt ngồi xuống nền đất cứng lạnh.

Đào Đào dìu tôi, trong mắt đầy vẻ lo lắng, muốn hỏi cái gì nhưng cuối cùng lại thôi, chỉ gọi: "Bình..."

Cô ấy ngập ngừng, cuối cùng vẫn gọi tôi bằng cái tên Bình Nhi.

Sau khi tôi nghỉ một lát, cô ấy dìu tôi về phòng.

Giờ phút này, nỗi chua xót trong lòng và cơn đau đớn khắp thân quyện vào nhau, khiến tôi có cảm giác như đang trôi nổi trên mây, không tìm thấy bất kỳ điểm tựa nào.

Tôi dường như lại lên cơn sốt.

Đào Đào lo lắng lau mồ hôi cho tôi, rồi nắm cổ tay tôi, khuyên nhủ rằng dù có chuyện gì xảy ra, bây giờ trị thương là quan trọng nhất, phải giữ cho lòng bình tâm, khí hòa.

Tôi đã không còn sức để nói thêm gì nữa.

Đến khi Giang y nữ tới, hơi thở của tôi đã trở nên khó nhọc.

Giang y nữ kiểm tra vết thương cho tôi, cho người đi đun nước nóng, cởi bỏ y phục của tôi.

Những vết bầm tím, đỏ ửng chi chít trên thân, đến chính tôi nhìn cũng thấy kinh hãi.

Giang y nữ hít một hơi lạnh: "Bị thương nặng thế này, sao còn dám chạy lung tung?"

Tôi nhắm mắt không nói, mặc cho họ xoay sở.

Cuối cùng, tôi không thể gắng gượng được nữa, nỗi bất mãn suốt bao năm, sự day dứt cả tháng nay, và sự tra tấn mấy ngày qua khiến tôi tâm sức cạn kiệt, tôi đổ gục xuống giường, lịm đi.

Mà những chuyện xưa cũ ấy, vẫn hằn sâu trong tâm trí tôi, rõ ràng đến đáng sợ, không tài nào xua đi được.

#

Tôi chẳng phải kẻ tài năng trị quốc gì, vì thân phận phò mã nên cũng không thể đảm nhận bất cứ chức quan thực thụ nào.

Tôi đã từng nghĩ cả đời này cứ như vậy, sau khi mẹ mất, sẽ ở bên Công chúa sống cuộc đời bình phàm.Nhưng có lẽ là do cái tên của tôi đặt không hay, chữ "Bình" (评), lại đồng âm với "bình" (萍), nên đã định sẵn cả đời này của tôi thân như cánh bèo, trôi dạt theo dòng [2].[2] Chữ "Bình" (评) trong Phạm Bình (范评) đồng âm với chữ "bình" (萍) trong từ "phù bình" (浮萍), nghĩa là bèo tấm (hoặc có thể hiểu rộng ra là lục bình), một loài cây trôi nổi trên mặt nước.

Đây là đang chơi chữ với tên của mình để nói về số phận lênh đênh, vô định.

Năm Thừa An thứ hai mươi hai, Tiên hoàng bệnh nặng, tinh thần cũng có vấn đề, trở nên đa nghi, tàn bạo, bất kể là ai, chỉ cần chọc giận ngài là tai họa ập đầu.

Năm đó, cuộc tranh đấu giữa Thái tử và Tề Vương đã được bày ra ánh sáng, dù biết rõ Thái tử là chính thống, nhưng bá quan trong triều lại ngấm ngầm như cỏ đầu tường, gió chiều nào che chiều ấy.

Thái tử bất an, Tề Vương kiêu ngạo, đến cả cha tôi, trên mặt cũng thường xuyên u ám.

Khi đó tôi đã biết được mối liên hệ tinh vi giữa Công chúa và Thái tử, biết rằng việc nàng hạ giá là để lôi kéo cha tôi, vị Lại bộ Thượng thư này.

Và Công chúa, là mật thám có thân phận cao quý.

Tôi không bình luận gì, nơi kinh thành này vốn dĩ quan hệ đã chằng chịt phức tạp, còn tôi thì cam tâm tình nguyện chui vào lưới.

Tháng sáu, Tương Châu xảy ra động đất, lại là một trận đại tai ương, bá tánh chết vô số, nhà cửa tan hoang, lầm than khôn xiết.

Triều đình muốn cử người đi cứu tế, người được chọn dẫn đầu là Công bộ Tiền Thị lang thuộc phe Thái tử, đi cùng còn có mấy vị viên ngoại lang của bốn ty [3] thuộc Công bộ.[3] Ty là đơn vị hành chính nhỏ hơn bộ.

Đây là một việc khổ cực, nhưng cũng là cơ hội để kiếm chác.

Tề Vương cũng tiến cử thêm vài người đi cùng, để phòng các quan tham ô, làm tổn hại lòng dân.

Tiên hoàng lúc đó đã có vẻ bực bội, ra lệnh cho Ngự Sử Đài cử vài người đi theo.

Nhưng tôi không ngờ rằng, Thái tử lại tiến cử tôi.

Thái tử lấy lý do tôi chưa từng qua lại với bá quan, có thể xử lý công minh, cộng thêm thân phận phò mã tôn quý, tất sẽ không nhận hối lộ, liền để tôi làm giám sát ngự sử [4].[4] Là một chức quan trong Ngự Sử Đài, có nhiệm vụ thanh tra, giám sát hoạt động của quan lại các cấp và có quyền đàn hặc họ trước triều đình.

Tuy nhiên, trong ngữ cảnh này, đây chỉ là một chức vụ đặc phái, tạm thời được ban cho để thực hiện nhiệm vụ đi cứu tế.Bấy giờ tôi vô cùng khó hiểu, khoan hẵng bàn đến việc tôi không có chút năng lực nào, lại mang tiếng là được cất nhắc vì thân quen, nếu lỡ phạm sai lầm, người cuối cùng bị liên lụy, vẫn là Thái tử.

Nhưng Tiên hoàng đã đồng ý, và Thái tử, lần đầu tiên, đã mời tôi đến nói chuyện.

Thái tử nói: "Phạm Bình, ta và Nhu Gia Công chúa tuy không cùng một mẹ sinh ra, nhưng ta đối với Công chúa cũng xem như muội muội ruột.

Nếu ngươi chuyến này lập được công, đối với Công chúa mà nói, cũng là một niềm vinh dự.

Đừng để chúng ta phải thất vọng."

Tôi cúi đầu trả lời: "Phạm Bình bất tài, được Thái tử Điện hạ trọng dụng, thực sự vô cùng lo sợ."

Thái tử tỏ ra hòa nhã: "Đều là người một nhà cả, nếu luận vai vế, ngươi cũng nên gọi ta một tiếng huynh.

Phụ thân của ngươi vừa là ái thần của ta, cũng là cánh tay đắc lực của ta, mất đi ông ấy ta sẽ rất đau lòng."

Lời lẽ này quá thân mật, tôi mơ hồ cảm nhận sự bất an nhưng không cách nào từ chối.

Trước khi lên đường, tôi đến từ biệt Công chúa.

Nàng dường như có chút tức giận, dặn dò tôi: "Phạm Bình, đừng dính vào quá sâu, biết giữ mình mới là thượng sách."

Tôi thoáng thừ ra, thầm nghĩ có lẽ nàng sợ tôi bị cuốn vào chuyện triều chính, liền trịnh trọng hứa với nàng: "Phạm Bình ghi nhớ trong lòng."

Sau đó, tôi cùng mấy vị quan viên lên đường đến Tương Châu, gặp gỡ thứ sử [5] của châu phủ [6], truyền đạt quyết sách của triều đình.

Nhưng tôi chỉ là người giám sát, những việc cụ thể vẫn do Tiền Thị lang quyết định.[5] Chức quan đứng đầu một châu vào thời xưa, có quyền lực cai quản toàn bộ các mặt hành chính, quân sự tại địa phương đó.[6] Cơ quan hành chính đứng đầu một châu (đơn vị tương đương cấp tỉnh thời xưa).

Tuổi thơ tôi từng nếm trải cơ cực của nạn châu chấu, nên đối với các bá tánh gặp nạn cũng cảm thông sâu sắc.

Lâu dần, tôi không khỏi bất mãn với một số chính sách làm tổn hại đến dân chúng.

Và cũng chính lúc đó, tôi mới biết được các khuất tất của việc cứu tế.

Tình hình thiên tai do thứ sử tổng hợp, sau khi báo lên triều đình, sẽ được bá quan bàn bạc mức độ khẩn cấp, cách thức tái thiết, sắp xếp chỗ ở cho dân chúng, đảm bảo lương thực, rồi cả vấn đề dịch bệnh sau thiên tai, xử lý thi thể, từng việc từng việc một, đều phải lập một danh sách chi tiết với các khoản chi dao động, sau đó do Hộ bộ tra cứu quốc khố, cân nhắc các khoản chi tiêu của đất nước trong tương lai rồi mới cấp phát.

Nhưng giữa quá trình này, qua nhiều tầng lớp cắt xén, dù là số liệu báo cáo lên hay số tiền cuối cùng được cấp xuống, đều có sự chênh lệch rất lớn.

Tôi đã từng nếm trải cái đói, nên vô cùng bất mãn với khẩu phần lương thực của dân bị nạn do họ quyết định, nhiều lần yêu cầu phải đảm bảo không ai bị chết đói trước rồi mới tính đến chuyện khác.

Song điều khiến tôi không thể ngờ tới là, trong tình hình như vậy, họ vẫn ngày ngày yến tiệc vui chơi, cấu kết với các phú thương địa phương.

Và tất cả các quan lại, hễ ai không có mặt, đều bị xem là bất mãn với khâm sai của thiên tử.

Tôi thực sự không thể chịu đựng được nữa, đã tranh cãi với họ và bị họ cô lập.

Chức trách ngự sử này, chỉ còn là hư danh.

Khi tôi muốn cùng quan lại đi thị sát, thường bị họ lấy cớ thân phận phò mã tôn quý, sợ dân đen thấp hèn làm tổn hại đến tính mạng mà ngăn cản, hoặc cho người đi theo tôi, bất kể tôi làm gì, nói gì, đều báo lại cho Tiền Thị lang.

Cuối cùng, ngày hôm đó tôi đã chất vấn Tiền Thị lang: "Làm quan, chẳng lẽ không nên đặt dân sinh [7] lên hàng đầu sao?" [7] Sinh kế, sinh hoạt của nhân dân.

Tiền Thị lang mặt mày trông sương gió, đôi mày chau lại, nếp nhăn hằn sâu.

Ông ta thực ra mới ngoài bốn mươi, nhưng trông còn già hơn người khác.

Ông ta khuyên tôi: "Phạm Phò mã, chuyện cứu tế này, từ xưa đến nay không phải là chuyện mà ngài và ta có thể kiểm soát.

Ngoài lợi ích ở kinh thành ra, còn có sự dính líu của châu phủ và đám thân hào [8] địa phương.

Cứ làm như thường lệ, đừng gây thêm chuyện nữa." [8] Người có địa vị và thế lực trong xã hội cũ.

Tôi thấy ông ta cũng có phần bất mãn, muốn lôi kéo ông ta về phe mình, nhưng ông ta lại xua tay từ chối, nói với tôi: "Quan trường như chiến trường, Phạm Phò mã chưa từng đặt chân vào, tốt nhất đừng nhúng tay vô vũng nước đục này."

Những lời đấy sau đó không biết bị ai nghe được, vài ngày sau, lại có yến tiệc mời tôi.

Tôi quyết không đi, sau nhiều lần từ chối, một đêm nọ, khi tôi từ ngoài trở về, vào phòng thắp nến, đột nhiên phát hiện trên giường mình có một nữ tử không mảnh vải che thân.

Tôi kinh hãi, đoán chắc là do bọn họ cố tình sắp đặt.

Trước kia đã có lời đồn rằng Phạm Phò mã bị Công chúa kìm kẹp mọi bề, không gần nữ sắc, đến cả nhìn một cô nương trên phố cũng không dám, nên họ cho rằng tôi chắc chắn cũng như những đàn ông khác, đang kìm nén đến phát điên.

Vừa tức vừa buồn cười, nửa ngày không nói nên lời, tôi chỉ quát ra lệnh cho cô ấy mặc lại quần áo rồi nhanh chóng rời đi.

Sắc mặt cô ta kiên quyết, không chịu đi.

Điều này chẳng giống một nữ tử được phái đến để chiều lòng tôi.Giữa lúc nghi hoặc, cô ta đột nhiên quỳ phục dưới chân tôi, rồi từ trong lòng lấy ra một bức huyết thư, cầu xin tôi: "Xin Phò mã hãy vì bá tánh chúng tôi mà làm chủ!"

---

Tác giả: Chương sau chắc là viết xong được nguyên nhân cái chết của Phạn Bình rồi, tranh giành đảng phái chết tiệt! (╥╯^╰╥) Editor: Rất ít khi đọc quyền mưu nên ấn tượng với bộ này ở chỗ miêu tả khá chi tiết, nhất là chương này và chương sau.
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 27


Hành động quỳ xuống đột ngột của cô ấy khiến tôi luống cuống, chỉ đành đỡ dậy, nhưng cô ấy lại cúi gằm đầu không chấp nhận.

Tôi không khỏi thở dài: "Nương tử, xin hãy đứng lên.

Nếu việc này nằm trong khả năng, ta nhất định sẽ minh oan cho cô".

Bấy giờ cô ấy mới ngẩng đầu nhìn tôi, đôi mắt vừa kiên nghị lại chan chứa bi thương và oán hận.

Tôi mời cô ấy ngồi, đối phương lại đưa huyết thư cho tôi, mong tôi xem qua.

Tôi đã không nhận lấy.

Tôi chẳng phải thánh nhân, cũng không muốn dính dáng đến quá nhiều thị phi, bởi tôi biết rõ mình không có năng lực đó.

Tôi chỉ mời cô ấy kể lại sự tình.

Cô ấy tên Tề Tư, người huyện Cừ Dư, Tương Châu.

Phụ thân là tiến sĩ [1] năm Thừa An thứ chín, giữ chức tư thương tham quân [2] ở Tương Châu, quản lý các việc như thuế má, kho lương, giao thương.

Vì cần chính yêu dân nên ông ấy rất có tiếng tăm, sau đó nhận chiếu chỉ vào kinh, vốn dĩ tiền đồ rộng mở, nhưng vì đắc tội với người trong kinh nên lại bị giáng chức về Tương Châu, vẫn làm tư thương tham quân.

Ba năm trước, ông ấy qua đời vì bệnh tật, trong nhà không có của cải dư thừa, quả là một vị quan thanh liêm hiếm có.[1] Đây là học vị cao nhất trong hệ thống khoa cử thời phong kiến.

Người đỗ tiến sĩ đã vượt qua kỳ thi Đình, kỳ thi cao cấp nhất do nhà vua trực tiếp tổ chức, và được xem là những người có tài năng xuất chúng, đủ tiêu chuẩn để được bổ nhiệm vào các chức quan cao trong triều đình, khác với bác sĩ - một chức quan tại các cơ quan như Quốc Tử Giám.[2] Đây là một chức quan võ cấp thấp, phụ trách việc quản lý kho lương, thuế khóa và các vấn đề giao thương trong một châu hoặc phủ.

"Tư thương" có nghĩa là quản lý kho thóc, còn "tham quân" là một chức quan phụ tá trong quân đội hoặc chính quyền địa phương.

Tề Tư kể: "Phụ thân tiểu nữ một lòng vì dân, không dám nhận bất kỳ tặng vật nào của bá tánh, cũng chưa từng đàn đúm rượu chè với quan lại Tương Châu.

Nhưng thuế má ở Tương Châu năm nào cũng tăng, kho lương không đầy, bá tánh đến phủ nha kêu oan thì bị thứ sử ém nhẹm, những người đi kêu oan còn bị xem là điêu dân [3] mà giam cầm, hành hạ.

Phụ thân tiểu nữ không đành lòng, mấy lần tranh cãi với thứ sử đều bị dẹp yên, tấu chương dâng lên cũng bị chặn lại, không cách nào đến được kinh thành".[3] Một từ miệt thị mà quan lại xưa dùng để chỉ những người dân thường bị cho là ngoan cố, hay gây rối, chống đối lại chính quyền.

Tôi không khỏi thắc mắc: "Vậy tại sao bây giờ lại tìm đến ta?".

Tề Tư đáp: "Sau khi phụ thân mất, tiểu nữ và mẫu thân nương tựa vào nhau.

Mẫu thân dặn tiểu nữ rằng đã mất đi sự che chở của phụ thân, cuộc sống của chúng ta vốn đã khó khăn, đừng nhúng tay vào chuyện này nữa.

Nhưng lần này Tương Châu động đất, đại nạn ập đến, bá tánh không thể kêu oan ở cửa quan, chỉ đành tìm đến tiểu nữ.

Vì phụ thân tiểu nữ yêu dân như con, họ cho rằng tiểu nữ cũng có tấm lòng ấy.

Song sức tiểu nữ có hạn, đây không phải là chuyện của một châu, mà là do có kẻ trong kinh chống lưng, những lời đó, vốn không có bất kỳ cơ hội nào để đến được kinh thành".

Cô ấy dừng lại một chút rồi nhìn tôi: "Mấy ngày nay, tiểu nữ thấy Phò mã tuần tra mấy lần, lại tranh cãi với các quan viên trong phủ, nghĩ rằng có lẽ Phò mã là người yêu dân, nên mới đến cầu xin ngài".

Tôi lặng thinh, đôi mắt kia cứ nhìn tôi chằm chằm, dường như nếu tôi không đồng ý, cô ấy sẽ lại phủ phục xuống đất mà không đứng lên.

Tôi khẽ thở dài, hỏi: "Cô muốn kiện cáo điều gì?".

Tề Tư thoáng vui mừng, cúi người bái tôi rồi nói: "Tiểu nữ muốn tố cáo quan lại Tương Châu cấu kết với đám phú thương, thân hào, chiếm đất lừa dân, cưỡng ép thu thuế.

Trong kinh cũng có kẻ bao che, dung túng cho hành vi của chúng, xin Phò mã hãy tra xét rõ ràng cho bá tánh chúng tôi".

Hai chữ "tra xét" này thực sự quá nặng nề, tôi không có quyền lực đó.

Tề Tư thấy tôi im lặng, lại vội vàng kể tiếp: "Phạm Phò mã có biết tại sao trận động đất lần này rõ ràng không mạnh, mà vẫn có nhiều bá tánh gặp nạn như vậy không?

Những kẻ đó chiếm đất, còn ngang ngược nói nhà sập là làm hư hại nhà cửa của chúng, bắt bá tánh phải bồi thường.

Họ không trả nổi, chỉ có thể bán con bán cái, nhưng vẫn không đủ, thế là bị cưỡng ép đi tu sửa cho chúng, nhưng không được trả một đồng công nào, người chết đói, chết vì kiệt sức, nhiều không kể xiết".

Tôi nhíu mày hỏi: "Quan phủ có chính sách lấy công thay cứu tế [4], chẳng lẽ tiền công và lương thực cũng bị chiếm đoạt sao?".[4] Đây là một chính sách thay vì phát chẩn trực tiếp lương thực, tiền bạc cho dân bị nạn, triều đình sẽ tổ chức các công trình công ích để dân làm việc và nhận thù lao (công xá, lương thực), giúp dân tự nuôi sống bản thân.

Tề Tư phẫn nộ: "Đúng vậy!

Ngay cả những nơi do quan phủ xây dựng cũng có đám phú thương thân hào đứng sau, chúng vốn dĩ cùng một phe lợi ích, lại không cho bá tánh lên tiếng, ép buộc họ phải làm việc".

Tôi dừng một chút, đứng dậy đi qua đi lại trong phòng rồi hỏi: "Những chuyện này, làm sao cô biết được?".

Tề Tư cười khổ: "Phạm Phò mã, ngài ở trên cao không thấy, nhưng tiếng khóc của bá tánh, chỉ có cái chết mới có thể tỏ bày".

Tề Tư lại giơ tờ huyết thư lên, đưa đến trước mặt tôi.

Tôi thoáng do dự, hồi sau cũng nhận lấy và mở ra.

Tờ huyết thư trải ra đất còn dài hơn cả người, trên đó toàn là những lời tố cáo sự mục nát, tăm tối của Tương Châu.

Hàng nghìn chữ, chữ nào cũng là lời lẽ bi phẫn, trên đó còn có tên các quan viên trong phủ, là những người tôi đã gặp khi đến đây.

Tiếp theo là tên của bá tánh kéo dài đến sáu thước, có chữ viết sai, có chỗ chỉ là dấu tay điểm chỉ.

Lòng tôi dâng lên một nỗi bi thương và hoảng loạn.

Những gì tôi thoáng thấy chỉ là sự bớt xén của quan phủ, nhưng ẩn đằng sau đó lại là một thế sự thảm khốc hơn nhiều.

Tôi cuộn huyết thư lại, cúi người mà bái: "Xin Tề nương tử hãy đợi ở đây, ta sẽ đem việc này báo cho Tiền Thị lang".

Nói đoạn, tôi định ra ngoài, nhưng cô ấy đột ngột níu cánh tay tôi, mắt ánh lên vẻ thảng thốt: "Phò mã!

Chẳng lẽ ngài không biết quan lại cấu kết với nhau, sao có thể nói cho họ biết được?".

Tôi khựng lại, quay người cười khổ: "Cô có biết tôi chỉ là một Phò mã hữu danh vô thực, những chuyện này nếu do tôi bẩm báo, ấy là vượt quyền hạn, huống hồ người có thể minh oan cho cô, cũng phải là một vị quan có thực quyền.

Không thể phớt lờ họ được".Cô ấy túm cánh tay tôi, càng lúc càng siết chặt, cơn đau từ cánh tay truyền đến đủ để thấy sóng lòng của đối phương đang cuộn trào.

Thời gian chừng nửa nén hương, chúng tôi cứ giằng co như vậy.

Thấy cô ấy vẫn không chịu buông tay, tôi khẽ thở dài, khó khăn rút tay mình ra, rồi trang trọng cúi đầu bái lễ: "Tiền Thị lang dẫu sao cũng là quan kinh thành, lương tâm chưa mất hẳn.

Nếu có ngài ấy giúp đỡ, việc này ắt sẽ dễ dàng hơn.

Xin nương tử hãy tạm tin ta một lần, cứ ở đây chờ đợi.

Bất luận kết quả ra sao, ta cũng sẽ không lừa gạt nương tử.

Nếu thực sự không còn cách nào khác, ta nguyện về kinh, thay nương tử kêu oan."

Vẻ mặt Tề Tư khẽ lay động, giằng co một hồi lâu, cuối cùng cũng đồng ý để tôi đi tìm Tiền Thị lang.

Trước khi ra khỏi cửa, cô ấy đột nhiên nói: "Phạm Phò mã, tiểu nữ nguyện tin ngài".

Tôi chết sững tại chỗ, tự dưng thấy lòng mình chột dạ.

Cả cuộc đời ngắn ngủi này, tôi chưa từng nghĩ mình sẽ được giao phó một việc trọng đại như vậy, cảm giác như có một tảng đá lớn đè nặng lên tim, chỉ sợ mình sẽ khiến cô ấy thất vọng, không dám hứa hẹn gì thêm, vội vã rời đi.

#

Tiền Thị lang vừa từ tiệc rượu trở về, đang giải rượu trong phòng.

Tôi thông báo rồi bước vào, ông ta thoáng hoảng, sau bình tĩnh trở lại.

Tôi đoán, chuyện dâng nữ tử tối nay cũng có phần của ông ta, nhưng tôi nghĩ, nếu sự thật bày ra trước mắt, có lẽ sẽ thuyết phục được ông ấy.

Khi tôi lấy tờ huyết thư ra cho ông ta xem, ông ta thất kinh, ra lệnh cho người đóng chặt cửa sổ, rồi kéo tôi vào phòng trong.

Rượu đã tỉnh được ba phần, nhưng ông ta lại quát lên: "Phò mã sao dám làm chuyện này?".

Tôi không hiểu: "Tiền Thị lang, chuyện này là sao?

Huyết thư của bá tánh rành rành trước mắt, sau là những gì ta đã thấy, chẳng lẽ không nên tra xét rõ ràng ư?".

Tiền Thị lang "suỵt" một tiếng, ôm đầu đi đi lại lại trong phòng, càng đi càng vội, một lúc sau ông ta nhìn chằm chằm vào tôi: "Phò mã thật sự không biết hay giả vờ không biết?".

Tôi ngơ ngác nhìn ông ta: "Xin Tiền Thị lang cứ nói thẳng".

Ông ta đập mạnh vào đùi, run rẩy chỉ vào tôi, muốn nói lại thôi, hồi lâu mới than một tiếng: "Chuyện ở Tương Châu, từ lúc vị Tề Tham quân kia vào kinh đã ai cũng biết cả rồi.

Ngài tưởng tại sao bao nhiêu năm qua không ai xử lý, tự nhiên là có người không muốn quản.

Ngài còn cầm tờ huyết thư này đến, chẳng phải là tự tìm đường chết sao?".

Tôi không khỏi tức giận: "Đã là chuyện ai cũng biết, càng phải quản.

Thiên tử ngồi trên triều, há có thể để quan kinh thành ngang ngược làm càn!".

Tiền Thị lang trông như giận vì tôi không chịu hiểu, lại có vẻ mệt mỏi, mời tôi ngồi xuống rồi nói: "Ngài có biết người hưởng lợi nhiều nhất từ chuyện Tương Châu là ai không?".

Tôi đáp: "Dù là ai, cũng không thể coi thường luật pháp.

Tiền Thị lang làm quan, chẳng lẽ còn không hiểu rõ hơn kẻ nửa đường nhậm chức như ta sao?".

Ông ta tức đến phát cáu, gắt lên: "Là Thái tử Điện hạ!".

Tôi trố mắt nhìn ông ta, hồi lâu không nói được lời nào.

Thấy tôi ngây người, ông ta nói tiếp: "Phò mã có biết tại sao lại phái ngài đến giám sát không?

Tề Vương đã sớm biết Tương Châu có chuyện mờ ám, nếu phong huyết thư này không rơi vào tay ngài mà vào tay người của ngài ấy, hậu quả sẽ ra sao?".

Tôi trầm ngâm một lát, rồi chậm rãi nói: "Dù là Thái tử cũng không nên làm chuyện này.

Thái tử vô đức thì đất nước cũng chẳng được lợi gì, tự khắc phải chịu phạt..."

"Ha..."

Tiền Thị lang cười khẩy, "Phò mã thật sự cho rằng quốc pháp dễ dùng như vậy sao?

Dẫu biết rõ là Thái tử, cũng tự nhiên có thể tìm người chịu tội thay.

Phò mã nghĩ người này là ai?

Phò mã xin hãy nghĩ kỹ lại, tại sao, lại là ngài, tại sao, không ai dám bẩm báo?".

Trong đầu tôi như sấm vang chớp giật, bổ thẳng xuống khiến tôi không động đậy nổi.

Tôi mấp máy môi, một cảm giác chẳng lành dâng lên, và khi nghe thấy cái tên ông ta nói ra, tôi gần như muốn ngã quỵ tại chỗ.

Ông ta nói: "Tề Tham quân năm đó vào kinh đã bẩm báo chuyện này, nhưng cuối cùng lại bị điều đi nơi khác.

Trong kinh đều nói ông ta đắc tội với người, đắc tội với ai?

Người có thể nắm giữ việc thăng giáng của ông ta?".

Tiền Thị lang ép sát từng bước, không cho tôi đường lui: "Là phụ thân của Phò mã, Lại bộ Thượng thư Phạm Trạch Dân.

Phò mã muốn tống phụ thân mình vào tử lao sao?".

Tai tôi ù đi, đầu óc trống rỗng, cả người run lên bần bật.

Nếu tôi thật sự bẩm báo, ấy là tố cáo cha ruột, cuối cùng phải đón nhận tai họa ngập đầu, sẽ là Phạm phủ, là tôi, có lẽ còn... liên lụy đến Công chúa.

Lời của Tiền Thị lang vẫn văng vẳng bên tai, tôi không biết mình đã trở về bằng cách nào, chỉ ngây ngốc đứng trong sân, nhìn ánh nến vẫn còn sáng trong phòng, một trái tim như chìm xuống vực sâu không đáy.

Tôi muốn cứ thế trốn chạy, vứt bỏ lời tố cáo không thể chịu đựng này.

Tờ huyết thư bị tôi nắm chặt trong tay, nhàu nhĩ chẳng ra hình ra dạng.

Tôi giằng co giữa việc xé bỏ và vứt đi, không thể bước nổi một bước.

Nhưng cuối cùng, tôi vẫn phải đối diện với ánh mắt tràn đầy hy vọng của Tề Tư.

Tôi yếu ớt ngồi xuống một bên, cô ấy liên tục hỏi tôi có tin tốt gì không, tôi không trả lời, chỉ chậm rãi trả tờ huyết thư cho cô ấy, có thể tưởng tượng được vẻ mặt của tôi lúc đó.

Sự thất vọng và phẫn nộ khiến cả người Tề Tư chết lặng, hai tay siết mạnh, dường như có thể bóp ra máu, đôi môi mím chặt.

Tôi đoán cô ấy muốn mắng tôi, tôi không có lời nào để biện giải, chỉ khẽ thốt, bằng cái cách dập tắt tất cả hy vọng của cô ấy: "Xin lỗi, ta không giúp được cô".

Tề Tư không đáp gì, ngoài việc mãi đứng đó, hồi lâu sau mới hít một hơi thật sâu, nhắm mắt lại, nhưng vẫn giữ lễ với tôi, song từng chữ cất ra lại không khác gì mỉa mai: "Quả đúng như lời phụ thân tiểu nữ nói, người trong kinh, đều là một phường cá mè một lứa, chẳng thể trông mong được chút hy vọng nào."

Đoạn, Tề Tư đẩy cửa phòng, cơn gió nóng tháng sáu ùa vào mặt, lại mang theo hơi thở tang tóc bi ai.

Cô ấy nói: "Tiểu nữ không trách Phạm Phò mã, tiểu nữ chỉ trách bản thân mình vẫn quá ngây thơ, lại muốn giao việc này vào tay người khác".

Tề Tư nhanh chân bước ra, bóng đêm nuốt chửng thân hình.

Tôi cứng đờ quay đầu lại, phát hiện tấm huyết thư bị bỏ rơi trên bàn.

Cô ấy không mang đi, có lẽ, chính bản thân cô ấy đã là một tấm huyết thư rồi.

Tôi đứng dậy đóng cửa, dường như muốn chặn hết những lời cô ấy nói đêm nay ở ngoài.

Quay người lại, tôi ngây ngốc ngồi trong phòng, nhìn dầu đèn cháy cạn, lòng ngổn ngang trăm mối.

Trái tim tôi bẩn thỉu đến thế, không nỡ bỏ Công chúa, cũng không thể đại nghĩa diệt thân [5], đẩy cha mình, đẩy cả gia tộc Phạm thị vào cảnh diệt môn.[5] Một thành ngữ chỉ việc vì chính nghĩa, vì lợi ích chung mà không nề hà tình thân, sẵn sàng vạch tội hoặc trừng trị người thân của mình.Tôi nghĩ Tề Tư có lẽ sẽ tự mình vào kinh, tìm kiếm một tia hy vọng, nhưng tôi không ngờ, cô ấy lại chết một cách thê thảm như vậy, ngay trước mắt tôi.

---

Tác giả: Cảm giác chương này Phò mã sẽ bị mắng mất, nên tôi phải rào trước một câu đây.

Phò mã không phải thánh nhân, Công chúa cũng vậy, lòng tốt cũng có giới hạn thôi.

Vì vậy nếu mọi người không thích thì cũng làm ơn đừng chửi bới, xin luôn (╥╯^╰╥) Chương này vẫn chưa viết xong nguyên nhân cái chết của Phò mã, tức ghê!

Editor: Tôi đọc quyền mưu không nhiều nên những gì tôi đọc thì quyền mưu đa số chỉ xoay quanh tranh đấu trong triều, nhưng bộ này hơi khác biệt với tôi một tí vì miêu tả cả ảnh hưởng của chính trường lên quan lại địa phương và đời sống dân chúng, các trình tự, thủ tục hành chính thời xưa cũng miêu tả khá kỹ nữa, tạo cảm giác tác giả có bỏ tâm sức ra để tìm hiểu kiến thức rất nhiều👍
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 28


Suốt hai ngày sau, tôi không muốn ra khỏi cửa, lòng rối như tơ vò.

Bức huyết thư được tôi cất kỹ, không nỡ xé đi mà cũng chẳng biết phải xử trí thế nào.

Lần nữa nghe được tin về Tề Tư, là vì Thứ sử Tương Châu rêu rao đã bắt được một nữ tử dùng lời lẽ yêu ma mê hoặc chúng dân, định xử hỏa hình, mà viên Thứ sử còn đặc biệt mời tôi đến xem buổi hành quyết.

Lúc ấy tôi vốn không biết người đó là ai, cũng chẳng hề muốn đi.

Nhưng khi vừa bước ra khỏi phòng, tôi ngạc nhiên nhận ra trong sân bỗng có thêm không ít lính canh.

Tôi ngờ vực, bèn hỏi là ai sắp xếp, mới hay Tiền Thị lang biết dạo này tâm trạng tôi không tốt nên dặn tôi không cần ra ngoài.

Việc ông ta cố tình giữ tôi trong phòng khiến tôi càng thêm bất an, bèn đi tìm Tiền Thị lang hỏi cho ra lẽ: "Có phải quan viên Tương Châu muốn ngài giám sát ta không?"

Tiền Thị lang chau mày thở dài, phất tay áo nói: "Phạm Phò mã, ta cũng là vì muốn tốt cho ngài thôi, chuyện đã tỏ tường rồi, ngài đừng nhúng tay vào nữa."

Tôi không chịu bỏ cuộc: "Xin Tiền Thị lang cứ nói thẳng, Phạm Bình ta không phải người không gánh nổi việc."

Ông ta quát lên: "Phạm Phò mã muốn quản thế nào?

Chỉ bằng chút chức quyền Ngự sử cỏn con của ngài mà đòi xoay chuyển càn khôn sao?

Bây giờ mới chỉ có một mình Tề Tư, nếu ngài còn làm ầm lên, người gặp nạn sẽ không chỉ riêng mình cô ta đâu!"

Tôi thất đảm vô cùng: "Lời này của ngài có ý gì?"

Ông ta không chịu nói thêm, tôi sực nhớ ra chuyện Thứ sử Tương Châu mời tôi xem hành hình, bèn chất vấn: "Bọn họ muốn thiêu chết Tề Tư sao?"

Tiền Thị lang lại thở dài: "Há chỉ từng đó?

Nếu Phạm Phò mã đi, ngài sẽ không còn trong sạch được nữa.

Nghe tôi khuyên một câu, cứ ở yên trong viện, đợi ngày về kinh, Phò mã vẫn là phò mã, thân phận hiển hách, cớ gì phải lội vũng nước đục này."

Tôi không nghe khuyên, phất tay áo chạy nhanh đến pháp trường.

Tiền Thị lang vội gọi theo, vừa đấm thùm thụp vào chân vừa đuổi theo.

Khi ấy gần đến giờ Ngọ, mặt trời chói chang trên cao.

Lúc tôi đến pháp trường đã thấy người vây kín mít.

Trên đài hành hình chất đầy củi khô, Tề Tư bị nhét giẻ vào miệng, trói chặt trên giá gỗ hình chữ thập.

Dưới đài là hơn chục nha lại tay cầm đuốc.

Trên đài giám sát phía bắc, Thứ sử Tương Châu ngồi ngay ngắn.

Thấy tôi trong đám đông, ông ta nhếch mép cười.

Cơn giận bốc lên đỉnh đầu, tôi toan xông lên đài cứu Tề Tư nhưng bị nha lại chặn lại, không tài nào đến gần được.

Bách tính xung quanh ai nấy đều rầu rĩ, ánh mắt họ nhìn tôi lại chứa đầy oán hận.

Tôi đối mặt với cái nhìn của Tề Tư trên đài, chỉ nhận lại một đôi mắt lạnh lẽo tựa gươm đao.

Cô ấy "ư ư" không nói thành lời, hai tay siết chặt, ra sức giãy giụa, dường như muốn xé nát tôi và cả đám quan lại kia thành từng mảnh.

Hết cách, tôi đành vòng qua đám đông, xông lên đài giám sát, chất vấn Thứ sử: "Ông làm gì vậy, coi mạng người như cỏ rác, luật pháp nào cho phép thế hả!"

Thứ sử cúi người vái tôi một lạy, nói: "Phò mã thân thể ngàn vàng, là hoàng thân quốc thích.

Bọn hạ quan làm quan, phải kính sợ Thiên tử thì mới mong vận nước trường tồn."

Tôi càng chau mày, không hiểu ý của hắn, chỉ gắt: "Cô ấy rốt cuộc đã phạm tội gì mà phải dùng đến hỏa hình?"

Thứ sử cười, xoay người về phía đài hành hình, chắp tay về một hướng tỏ lòng tôn kính, rồi mới nói với đám đông dưới đài: "Thiên tử khoan hậu, sai trọng thần đến cứu tế bách tính, là coi vạn dân như con.

Ngờ đâu ả đàn bà này lại dám dùng lời lẽ yêu ma mê hoặc Thánh sứ [1], đêm hôm cởi bỏ xiêm y, quyến rũ Phò mã.

Phò mã là con rể Thiên tử, là phu quân của Công chúa, sao có thể để một con đàn bà vô sỉ như vậy làm vấy bẩn?" [1] Sứ giả của Thiên tử.

Tôi thất kinh nhìn ông ấy, định lên tiếng ngăn ông ấy nói năng xằng bậy thì đã bị Tiền Thị lang không biết từ lúc nào đi theo tóm chặt cổ tay, kéo tôi sang một bên, ra hiệu đừng nói thêm.

Đang định phản bác tiếp thì Thứ sử bỗng cao giọng: "Phạm Phò mã!

Ả ta có vào phòng ngài trong đêm không?"

Tôi giận dữ quát: "Không có!"

Thứ sử cười, cho gọi hơn chục tên tôi tớ, tỳ nữ lên, cũng hỏi họ câu tương tự, rằng Tề Tư có hành vi hiến thân hay không.

Mười mấy người đó đều gật đầu thừa nhận, một người còn nói: "Phò mã không cho chúng tôi nói, sợ làm hỏng thanh danh của vị nương tử kia."

Thứ sử quay lại, vái tôi một lạy: "Phạm Phò mã quả là nhân đức, ngay cả ả đàn bà vô sỉ thế này cũng bao dung, quả là phúc lớn của Thiên tử!"

Ông ta ra sức tâng bốc tôi, khiến tôi không thể biện giải.

Tề Tư rốt cuộc có vào phòng tôi hay không đã không còn quan trọng, quan trọng là ông ấy muốn mượn Thiên tử, mượn cái gọi là tôn nghiêm hoàng thất để định tội cho Tề Tư.

Tôi không khỏi lên tiếng: "Dù vậy, cô ta cũng tội không đáng chết.

Nếu Thứ sử đã nói ta nhân đức, tha cho cô ta thì có làm sao?"

Thứ sử lắc đầu, ra vẻ khó xử: "Tuy Phò mã không so đo, nhưng ả đàn bà này nếu để lại trên đời, lỡ có kẻ noi theo thì phải làm sao?

Huống hồ, theo điều tra của hạ quan, ả ta còn cấu kết với đám điêu dân, toan phá hoại kế hoạch tái thiết Tương Châu.

Dùng lời lẽ yêu ma xúi giục nạn dân, vì tư lợi cá nhân mà tống tiền quan viên phụ trách, nếu không cho đủ khẩu phần tiền nong thì liền đình công, làm chậm trễ đại sự cứu tế tái thiết, sao có thể dễ dàng bỏ qua?"

Tôi tức đến sôi máu, phẫn nộ trước hành vi đổi trắng thay đen của hắn, quát: "Xằng bậy!

Nếu không phải quan lại bớt xén, phú thương cấu kết, sao có chuyện đình công!"

"Phò mã thừa nhận có chuyện này rồi sao?"

Thứ sử ung dung nhìn tôi.

Tôi chết lặng, không nói nên lời.

Ông ta đã đào sẵn cái hố này, cố tình đợi đến bây giờ để tôi nhảy vào.

Tôi không khỏi liếc nhìn Tề Tư, thấy cô ấy cũng đang trừng mắt hằm hằm nhìn Thứ sử, ánh mắt sắc lẹm đó càng làm tôi kinh hãi.

Chẳng trách tin tức không thể lọt ra ngoài, chẳng trách nhiều năm không ai dám quản.

Hóa ra ông ta sớm đã biết Tề Tư sẽ tìm tôi, cũng đã chuẩn bị sẵn để kéo tôi xuống vũng bùn này.

Tôi trừng mắt nhìn Thứ sử, nói: "Nếu ta cứ nhất quyết dùng địa vị Phò mã để yêu cầu ông thả người thì sao?"

Thứ sử ra vẻ hoảng sợ, vái tôi một lạy: "Phò mã tôn quý, nhưng chung quy không có thực quyền.

Nếu muốn bao che, e rằng sau này trước mặt Thiên tử sẽ khó ăn nói lắm."

Ông ta đang uy hiếp tôi.

Tôi không khỏi siết chặt nắm đấm, cơ thể dần cứng đờ.

Tôi quay sang nhìn Tiền Thị lang, nhưng ông ấy lại lảng tránh ánh mắt tôi.

Tôi hiểu ra, dù tôi có nói lên sự thật đi chăng nữa cũng sẽ không có ai đứng dậy làm chứng cho mình.

Im lặng một lát, tôi nén lòng mình lại, cúi người vái lạy Thứ sử.

Ông ta hoảng hốt không dám nhận, nhưng mặt lại chẳng có chút kính trọng nào.

Tôi nói: "Xin Thứ sử tha cho cô ấy một mạng."

"Không được tha cho nó!"

Giữa đám đông dưới đài hành hình, bỗng có người quát lên, ngay sau đấy, tiếng hô hưởng ứng trỗi dậy tới tấp.

"Nó nói lời yêu ma mê hoặc, không được tha cho nó."

"Phải đó, đều tại nó cả, hại chúng ta đường hoàng làm lụng đến miếng cơm cũng không có mà ăn, không thể tha cho nó được!"

"Thiêu chết nó đi!"

"Thiêu chết nó đi!"

Những tiếng gào thét ấy nhiều không kể xiết, vang dội khắp pháp trường.

Nhưng nhìn kỹ lại, những kẻ đó hoàn toàn không phải là nạn dân đang làm công, còn những người mặt mày hốc hác, áo quần rách rưới thì đều cúi gằm đầu, chẳng dám hé răng.

Thủ đoạn thật độc địa làm sao, giăng ra tầng tầng lớp lớp, đâu chỉ để thiêu chết một Tề Tư?

Không, không phải, ông ta muốn bẻ gãy xương sống của bá tánh Tương Châu, muốn dùng uy danh của Thiên tử để đè bẹp họ, khiến họ vĩnh viễn không dám nhen nhóm ý định kêu oan.

Ta đã từng thấy những thủ đoạn thế này, trước dùng lợi lộc để dụ dỗ, sau lấy đại nghĩa ra thuyết phục, rồi lại dùng áp bức để trói buộc.

Hệt như cách Thái tử năm đó khuyên giải tôi từ bỏ việc kêu oan tìm công lý.

Và một lần nữa, tôi lại rơi vào cảnh bất lực.

Im lặng hồi lâu, tôi nghiến răng cúi mình cầu xin: "Thiên tử nhân đức, sai ta đến giám sát, nay giữa lúc đại nạn, lẽ ra phải khoan hồng hình phạt.

Phạm Bình ta khẩn xin Thứ sử tha cho cô ấy một mạng, mọi tội lỗi, một mình Phạm Bình này xin gánh."

Thứ sử im lặng không nói, hồi lâu mới khẽ thở dài: "Phò mã quả là người tốt, được rồi, nếu Phò mã đã cầu xin, hiển nhiên cũng nên nể mặt."

Tôi thầm thở phào, ngẩng đầu nhìn ông ấy.

Thứ sử trưng nét hiền lành, tiến lên đỡ hai tay tôi, khẽ nắm lấy: "Phò mã đừng để trong lòng.

Tương Châu dù sao cũng không bằng kinh thành, loại điêu dân này, tốt nhất nên răn đe một phen.

Khiến Phò mã phải bận tâm rồi."

Tôi rụt tay về, lùi lại nửa bước, suy nghĩ một chốc, vẫn nói với ông ấy: "Xin Thứ sử cởi trói cho cô ấy."

Ông ta cười một tiếng, nói: "Hay là Phò mã tự mình đi đi, cũng để lại ấn tượng tốt trong lòng bách tính Tương Châu."

Tôi thoáng sững người, gương mặt ông ấy chất chứa nụ cười, ý tứ trong mắt không rõ.

Tôi liếc sang Tề Tư bị trói trên đài hành hình, ngập ngừng một lúc, sau khi cảm tạ Thứ sử liền lập tức đi xuống đài.

Nhưng ngay khi tôi vừa xoay thân, liền nghe dưới đài có tiếng hét dài: "Đừng—" Tiếng hét bi thương, tôi kinh hoàng quay đầu lại, thì cảm nhận hơi nóng ập vào mặt.

Mười mấy ngọn đuốc trên đài hành hình đồng loạt ném về phía Tề Tư.

Chỉ trong nháy mắt, ngọn lửa bùng lên ngút trời, hoàn toàn nuốt chửng lấy cô ấy.

Mùi dầu hỏa và mùi thịt cháy khét lẹt xộc vào mũi, khiến tôi gần như nôn ọe.

Cùng lúc đó, một phu nhân trong đám đông vùng vẫy lao về phía đài hành hình, xông thẳng vào lửa lớn, tiếng kêu la đau đớn vang vọng khắp trời đất.

Vạn người thất đảm, cơ thể tôi không tài nào cử động, chết trân tại một bên đài giám sát.

Dù cách một khoảng xa như vậy, tôi lại thấy như mình cũng đang bị ngọn lửa thiêu đốt đến lẩy bẩy.

Vị phu nhân kia lao vào người Tề Tư, ôm chặt lấy cô ấy, dường như muốn thay cô ấy chống chọi cơn đau thiêu thân này.

Tôi không biết bà ấy là ai, tôi chỉ biết, có lẽ chính tôi đã tự tay giết chết họ.

Khi hoàn hồn, tôi định lao xuống đài giám sát, nhưng lại bị tiếng gầm giận dữ của Tề Tư giữa biển lửa làm cho trơ đá.

Miếng giẻ trong miệng cô ấy đã bị lửa thiêu rụi, tiếng hét tuy không rõ ràng song từng chữ từng chữ lại xoáy sâu vào tai tôi— "Phạm Phò mã có còn nhớ ta từng nói, bằng lòng tin ngài không!"

Tiếng gầm ấy, mang theo cả máu và nước mắt, đau thương và ai oán.

Sau đó, cô ấy hoàn toàn bị lửa lớn nuốt chửng.

Vang vọng bên tai tôi chỉ còn lại tiếng khóc than và tiếng kêu thảm thiết kéo dài.

Tôi gần như đứng không vững, suýt nữa ngã nhào khỏi đài giám sát, may mà có Tiền Thị lang níu chặt lấy mới không khiến tôi ngã tan xương nát thịt.

Tôi quay lại lăm lăm nhìn Thứ sử Tương Châu, liền thấy ông ta cũng đang dùng cặp mắt lạnh lẽo nhìn tôi.

Ông ta chưa từng có ý định tha cho Tề Tư, ông ta thề phải kéo tôi xuống vực sâu này.

Từ nay về sau, người mà bách tính Tương Châu căm hận, còn có cả Phò mã Phạm Bình.

Mà tôi chỉ có thể trơ mắt trông hai thi thể cháy đen trên đài hành hình, chìm sâu vào hối hận và đau khổ.

Không biết qua bao lâu, tôi nghe thấy tiếng Tiền Thị lang gọi bên cạnh.

Tôi cứng đờ quay đầu.

Vẻ mặt ông ta loáng thoáng quan tâm và không nỡ, lại cẩn thận dò hỏi: "Phạm Phò mã, ta nghe nói trước đây nữ tử kia có đưa cho ngài một bức huyết thư, không biết..."

Tôi lắp bắp môi, khó nhọc nặn ra một nụ cười thê lương: "...Xé rồi."
 
Back
Top Bottom