Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Wattpad  Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku

Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 69 [Ngoại truyện]


Ngoại truyện: Công chúa (Phần tám)
Trong tiệc, nàng được mọi người yêu mến, khen rằng tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã điềm tĩnh, nhã nhặn, rất ra dáng người hoàng thất.

Nàng chỉ khẽ cười, nhắc đến lời dạy của Đế Hậu mà không dám không cẩn trọng học hỏi, tu tâm dưỡng tính.

Thái tử cũng không khỏi ngạc nhiên trước sự khéo léo của nàng, bảo rằng trước đây có lẽ mình đã không để mắt tới, quả là một thiếu sót.

Nàng chẳng coi đó là lời khen, cũng thừa hiểu nếu lúc này không thể hiện chút bản lĩnh, mình sẽ nhanh chóng bị vứt bỏ.

Nàng buộc phải học cách kết giao với người khác, học cách trở nên khôn khéo, tinh tế.

Nhưng suy cho cùng, đây là một chuyện tra tấn, và khi đột nhiên thấy Phạm Bình rời tiệc trong sự gièm pha và khinh thường của kẻ khác, nàng bỗng thấy hụt hẫng.

Sau khi trò chuyện với Thái tử một lát, nàng bèn thong thả đi theo hướng Phạm Bình vừa rời khỏi.

Dường như nàng đang tìm kiếm Phạm Bình, vậy mà ngay cả bản thân cũng không rõ, rốt cuộc vì sao lại phải bận tâm đến tung tích của người ấy.

Phía sau những tảng đá xanh rì lấp ló, bên cạnh đình nhỏ ven hồ, nàng bắt gặp bóng hình người nữ tử vận áo bào xanh cải nam trang.

Cùng ở bên đình còn có một thị nữ, trông chừng mười sáu, mười bảy tuổi, đang bế một bé trai khoảng hai tuổi.

Đứa bé khóc không ngớt, giãy giụa trong lòng thị nữ, miệng ú ớ gọi mẹ.

Trên má cô thị nữ có vài vệt đỏ, dường như bị đứa bé cào phải.

Cô ta trông đầy bất lực, chắc hẳn vì còn quá trẻ nên không biết phải ứng phó ra sao, cũng chẳng biết ai lại giao một đứa bé hai tuổi cho mình.

Thấy thị nữ kia khổ sở chực trào lệ, Phạm Bình liền đưa tay ra, ấm giọng nói: "Nếu không chê, hãy để ta thử xem."

Thị nữ chớp mắt, hai hàng lệ lăn dài, dù mặt vẫn còn nét sợ sệt nhưng đã vội vàng đặt đứa bé vào vòng tay Phạm Bình.

Đứa bé vừa vào lòng Phạm Bình thì ra sức chống cự, miệng liên tục la hét: "Đừng chạm vào ta... ta đánh ngươi đó... không được bế ta, ta muốn mẹ, mẹ ơi..."

Vừa khóc, đứa bé vừa quơ tay cào cấu mặt Phạm Bình, như muốn trút giận cho hả hê.

Thị nữ đứng bên cạnh lo lắng không yên, hỏi: "Ngài... ngài biết dỗ trẻ con không?"

Phạm Bình mỉm cười, bắt lấy bàn tay nhỏ của đứa bé rồi huơ huơ trước mặt, cặp mắt mở to, giọng điệu vừa ôn hòa vừa tinh nghịch: "Con không được đánh ta, đánh ta là hư đó.

Mẹ con chẳng lẽ lại thích một đứa trẻ hư sao?"

Đứa bé ngẩn ngơ, song vẫn tiếp tục khóc.

Phạm Bình nhân cơ hội ôm lấy, nhẹ nhàng vỗ về lưng nó, cười bảo: "Ta biết con chắc chắn là đứa trẻ ngoan, cũng biết con nhớ mẹ.

Nhớ mẹ không phải là chuyện xấu, mẹ con biết được chắc chắn cũng vui lắm."

Đứa bé bĩu môi, vẫn không chịu nín, còn đấm thùm thụp vào vai Phạm Bình mà gào lên: "Ta không muốn!

Ta muốn mẹ!

Ta muốn mẹ!

Ngươi đi đi – không được bế ta!"

Thị nữ đứng bên sợ đến run người, định đưa tay bế lại nhưng Phạm Bình lắc đầu, ra hiệu không cần lo lắng.

Phạm Bình vẫn ôm nó, vỗ về lưng nó trong tiếng nức nở, dùng một thứ giọng cực kỳ dịu dàng để dỗ dành: "Mẹ còn có việc, lát nữa sẽ về thôi.

Chúng ta ở đây ngoan ngoãn đợi mẹ có được không nào, bé ngoan, bé ngoan."

Dù đứa bé ra sức giãy giụa muốn thoát ra, Phạm Bình vẫn không ngơi tay, khi thì đung đưa, lúc lại nhẹ nhàng vỗ về đỉnh đầu và lưng nó.

Dần dần, nó cũng yên tĩnh lại, nín khóc, ngoan ngoãn nép vào lòng Phạm Bình, tuy vẫn còn hờn dỗi song giọng đã dịu đi nhiều.

Phạm Bình nhân đó rủ nó cùng chơi đùa, lại gọi cả thị nữ kia vào chung.

Cả hai đều không từ chối, qua những trò chơi có phần ngô nghê, họ đã trở nên thân thiết hơn.

Khung cảnh hòa thuận đến vậy khiến người ta không khỏi thắc mắc, rốt cục Phạm Bình đã học được tài dỗ trẻ này từ đâu.

Thị nữ nhân lúc nghỉ, thở phào một hơi, rồi lại tủi thân mà rằng: "Vương ma ma bảo có việc quan trọng cần xử lý nên giao Tam lang quân cho nô tỳ, nhưng... nhưng nô tỳ cũng chẳng biết chăm trẻ thế nào, Tam lang quân vừa khóc thì nô tỳ cũng muốn khóc theo, may mà có ngài."

Giọng Phạm Bình ôn hòa: "Ta cũng chỉ là học theo mẫu thân ta thôi.

Trẻ con mà, tuổi nhỏ thì giấu được tâm sự gì đâu, hễ không vui là lại khóc lóc om sòm, cứ chiều theo chúng là được, càng cấm cản lại càng khiến chúng ghét mình."

Thị nữ bất giác sờ lên má, vết đỏ trên đó vẫn chưa phai.

Phạm Bình thấy vậy, liền an ủi: "May mà không cào ra máu, ấm ức cho cô rồi."

Thị nữ kia ngẩn ra, hai tai ửng đỏ.

Thấy Phạm Bình áo mũ chỉnh tề, phong thái đĩnh đạc, đoán là khách quý đến phủ hôm nay, lòng không khỏi lo lắng, bèn cúi mình hành lễ, ngượng ngùng nói: "Thân phận chủ tớ khác biệt, nô tỳ đâu có ấm ức gì.

Vừa rồi chưa kịp hỏi, không biết lang quân là người phương nào, ban nãy có nhiều điều thất lễ, mong lang quân bỏ qua cho."

Phạm Bình cười nhoẻn, lắc đầu: "Ta họ Phạm, là con trưởng trong nhà, cũng không phải người quyền quý gì, không có gì là thất lễ cả.

Nhưng như cô nói, ta là khách của phủ, chỉ vì trong tiệc có chút không vui nên mới dạo bước đến đây, ta còn thấy mình đường đột ấy chứ, nương tử đừng trách mới phải."

Thị nữ hơi ngạc nhiên, hiếm thấy người nào khiêm tốn đến vậy, lòng lo lắng cũng vơi đi phần nào, bèn nói: "Đa tạ Phạm đại lang quân.

Xin lang quân cho biết quý phủ ở đâu, để sau này nô tỳ bẩm báo lại với Phùng Lương đệ [1], để người cho người đến phủ tạ ơn."[1] Một danh vị của phi tần trong cung của Thái tử, địa vị chỉ dưới Thái tử phi.

Phạm Bình hơi bất ngờ, nhìn đứa bé: "Đây là con của Thái tử điện hạ?"

Thị nữ đáp phải, rồi tha thiết xin nơi ở của Phạm Bình.

Phạm Bình nhất thời bối rối, hôm nay các nữ quyến đến dự tiệc cũng có dắt theo con nhỏ, do đó nàng ấy không ngờ đây lại là con trai của Thái tử.Nàng ấy và Thái tử có khúc mắc sâu xa như vậy, ít nhiều khiến lòng mình không vui.

Vì thế, sau một hồi im lặng, Phạm Bình toan từ chối trả lời câu hỏi của thị nữ kia thì bất ngờ từ phía không xa vọng lại một giọng nói, âm thanh trong trẻo như suối nguồn, vậy mà mang phần lãnh đạm: "Đó là Phò mã của Nhu Gia Công chúa, Phạm Bình.

Nếu Phùng Lương đệ có lòng muốn tạ ơn, có thể cho người đến Phạm phủ của Lại bộ Thượng thư."

Phạm Bình giật bắn, quay đầu nhìn về hướng phát ra tiếng nói, nhất thời cứng đơ như phỗng.

Sau hồi hoàn hồn, nàng ấy cúi mình hành lễ: "Bái kiến Công chúa."

Thị nữ cũng vội vàng quỳ xuống, miệng hô Công chúa kim an.

Nàng gật đầu, ra hiệu cho thị nữ đứng dậy, ánh mắt liền đánh sang Phạm Bình, thần sắc lãnh đạm.

Phạm Bình trông hơi lúng túng, lặng lẽ dời con ngươi đi, hệt như không dám trông thẳng vào nàng.

Thái độ này quá khác biệt so với khi người ấy đối đãi với thị nữ ban nãy, khiến nàng không dưng dấy lên bực dọc, ngữ khí rét căm hơn mấy phần: "Phạm Bình, ngươi định khi nào mới quay lại tiệc?"

Bầu không khí trở nên kỳ quặc, thị nữ bên cạnh nín thở.

Phạm Bình nghệt mặt ra, mày khẽ nhíu lại, suy tư một chốc thì lại giãn ra, nở nụ cười ôn hòa như thường lệ, nhẹ nhàng đáp: "Sẽ quay lại ngay, để Công chúa phải đi tìm, là lỗi lớn của Phạm Bình."

Nàng im lặng, ngón tay run run.

Vốn dĩ nàng không có ý trách tội Phạm Bình, chỉ là chẳng hiểu sao khi thấy nàng ấy dỗ dành đứa trẻ, lại còn nói chuyện dịu dàng với thị nữ, nàng bất giác nhớ về cảnh tượng ấm áp, hòa thuận của Đế Hậu và Tạ Nhu Viễn năm xưa.Thật ra nàng có chút ngưỡng mộ, nhưng có lẽ vì thân phận công chúa mà chưa một ai đối với nàng thân thiết đến vậy.

Thế nhưng Phạm Bình thì có thể hết lòng dỗ dành một đứa trẻ xa lạ, nàng vừa tò mò, lại vừa phiền muộn.

Phạm Bình đối với nàng, có phần xa cách.Mặc cho nàng trăm chiều gây khó dễ, Phạm Bình vẫn cứ không một thoáng ngần ngại mà ôm hết tội lỗi vào mình.

Nếu chẳng phải đã từng chứng kiến nàng ấy bình phẩm thư họa tại yến tiệc, có lẽ nàng thật sự đã ngỡ Phạm Bình là người hoàn toàn không có chủ kiến.

Im lặng một lúc, nàng lãnh đạm nói: "Tiệc sắp tàn rồi, Phạm Bình, về phủ thôi."

Phạm Bình cúi đầu, cung kính và hòa nhã đáp lời.

Nàng "ừ" một tiếng, liếc nhìn thị nữ đang dắt tay đứa bé bên cạnh, sắc mặt không đổi, chỉ mím môi rồi định xoay người đi.

Phạm Bình khẽ gật đầu với thị nữ, rồi đến bên cạnh Tạ Lam.

Hai người bước được vài bước thì bắt gặp phía trước bên trái có người đi tới, là một đôi nam nữ trẻ tuổi.

Khi thấy họ, hai người kia chợt biến sắc, bất giác mỗi người lùi về hai bên nửa bước, như để tránh hiềm nghi.

Nàng nhận ra người nam tử đó là Sở Vương, còn người nữ tử, qua tiếng gọi đầy phấn khích của đứa bé phía sau, nàng cũng đoán ra thân phận của cô ta – Thái tử trắc phi Phùng Lương đệ.

Không khí bỗng trở nên khó xử, may mà Sở Vương đã lên tiếng phá vỡ sự im lặng, chắp tay nói với nàng: "Nhu Gia Công chúa, Phạm Phò mã, hạnh ngộ rồi."

Phạm Bình không tham gia vào chính sự, không nhận ra vị Sở Vương này, nào ngờ đối phương lại biết mình, thoáng chốc ngẩn ngơ.

Tạ Lam đứng bên cạnh đã đáp lễ: "Bái kiến Sở Vương, Phùng Lương đệ."

Phùng Lương đệ ôm con vào lòng, nhỏ giọng dỗ dành một câu, sắc mặt hơi tái nhợt.

Cô ta liếc nhìn Sở Vương bên cạnh, thấy đối phương thần tình tự nhiên, bèn cúi đầu che đi vẻ căng thẳng rồi mới đáp lễ hai người Tạ Lam.Bốn người vốn không có giao tình gì sâu đậm, vì thế cùng lắm hàn huyên vài câu.

Trái lại, đứa bé kia thì nép mình vào lòng mẹ, đôi mắt sáng long lanh, ngước lên hỏi: "Mẹ, người đi đâu vậy?

Ma ma không có ở đây, chỉ có A Thủy chơi với con, còn có cả người này nữa."

Đứa bé chỉ tay về phía Phạm Bình, như đang mách tội: "Hắn lừa con, bảo mẹ sẽ về nhanh thôi, nhưng con đợi mãi mà không thấy mẹ đâu, hắn lừa đảo."

Phùng Lương đệ tỏ vẻ áy náy, nói với Phạm Bình: "Trẻ con không biết ăn nói, mong Phạm Phò mã đừng chấp."

Phạm Bình cười, lắc đầu mà rằng: "Vừa nãy thấy tiểu lang quân khóc không thôi, Phạm Bình đã mạo muội dỗ dành vài câu, có lẽ đã khiến tiểu lang quân không vui, là Phạm Bình lỡ lời.

Nhưng bây giờ Lương đệ đã ở đây, Phạm Bình cũng không làm lừa đảo được rồi."

Cách nói chuyện của Phạm Bình vừa dí dỏm vừa ôn hòa, ngay cả Phùng Lương đệ cũng phải bật cười, xong liếc nhìn Sở Vương rồi lại nói với Tạ Lam: "Trước đây Nhu Gia Công chúa hạ giá, ta chưa kịp gửi lời mừng, lòng vẫn canh cánh.

Nay được thấy Phạm Phò mã ôn hòa, đĩnh đạc, quả thật xứng là lương duyên của Công chúa, ta mừng lắm.

Hôm nay chúng ta gặp nhau cũng coi là hữu duyên, ngày khác nhất định sẽ mang lễ vật đến phủ, mong Công chúa và Phò mã đừng từ chối."

Phạm Bình liền nói không dám, Tạ Lam cũng hiếm khi nở nụ cười, cùng Phùng Lương đệ trò chuyện vài câu.

Sở Vương đứng bên cạnh thì có phần im lặng, không mấy tham gia vào câu chuyện.

Chẳng lâu sau, hai người cáo từ.

Trước khi đi, Phạm Bình dường như nhớ ra điều gì, bèn hành lễ với Phùng Lương đệ, nói rằng thị nữ chăm sóc tiểu lang quân đã rất dốc lòng, nhưng vì tuổi còn nhỏ nên có chỗ chưa chu toàn, mong Phùng Lương đệ đừng quá trách phạt.

Phùng Lương đệ không khỏi trêu vài câu, bảo nàng ấy quá nhân từ.

Phạm Bình thoáng ngượng ngùng, tuy vậy vẫn xin Phùng Lương đệ đồng ý.

Phùng Lương đệ cũng không nói gì thêm.

Thế là hai người rời đi.

Lúc này tiệc cũng tàn, Tạ Lam lại hàn huyên vài câu với mấy vị nương tử trong tiệc, nói lời từ biệt, xong xuôi thì cùng Phạm Bình lên xe ngựa.

Trong xe, Phạm Bình vẫn giữ vẻ căng thẳng, lảng tránh, chẳng hó hé một lời.

Nàng chợt cảm thấy nhàm chán, dường như Phạm Bình chỉ đối xử như vậy với một mình nàng.

Lặng thinh một lúc, nàng lên tiếng gọi: "Phạm Bình."

Phạm Bình giật mình, quay đầu nhìn: "Vâng."

Vẻ mặt nàng ấy hiền hòa, chừng như vĩnh viễn không biết nổi giận.

Tạ Lam suy nghĩ một hồi thì thản nhiên nói: "Có một chuyện cười, ngươi có muốn nghe không?"

Phạm Bình ngớ ra, rồi phì cười: "Nếu là chuyện cười Công chúa kể, Phạm Bình tất nhiên là muốn nghe."

Nàng "ừ" một tiếng, hồi sau dùng giọng điệu cực kỳ bình thản và lạnh tanh kể lại chuyện cười đó: "Vừa rồi ta và Thái tử ở ngoài hành lang, có một văn sĩ mang tranh đến cho mọi người bình phẩm.

Trong tiệc, đa số đều khen ngợi hắn, khiến hắn vô cùng đắc ý.

Nhưng không ngờ có một ông lão chỉ liếc qua một cái thì thở dài bỏ đi.

Ta hỏi Thái tử đó là ai, Thái tử nói đó là La lão tiên sinh mới được mời đến Quốc Tử Giám giảng dạy, danh tiếng lẫy lừng.

Đợi vị tiên sinh đó đi rồi, trong tiệc bỗng im phăng phắc, những lời khen ngợi văn sĩ lúc nãy cũng không còn nữa.

Ta bèn hỏi Thái tử, sao họ không khen nữa, Thái tử đáp: 'Chắc là thấy mất mặt quá.'" Phạm Bình ngây người nhìn nàng, thân hình khẽ lắc lư theo nhịp xe.

Sắc mặt ôn hòa ban nãy bỗng tan trong phút chốc, cặp mắt như phủ một lớp sương mù, tâm tình không rõ ràng.

Tạ Lam vẫn giữ vẻ mặt như thường, hệt như không hề nhận ra sự thay đổi của Phạm Bình, chỉ nghiêm túc hỏi: "Ngươi nói xem, chuyện cười này có hay không?"

Thật ra chẳng có gì buồn cười cả, Nhu Gia Công chúa rõ ràng không có tí năng khiếu kể chuyện cười nào.

Phạm Bình ngồi trong xe, nhìn người nữ tử với sắc mặt lặng tờ như nước, đôi tay khẽ siết chặt, khóe môi nhếch lên, trông như lời nói này đã mang lại cho nàng ấy sự phấn khích và mãn nguyện tột cùng.

Ánh mắt nàng ấy dần lộ ra nét khoái trá chưa từng có, rũ mi, cong mày, chất giọng trầm thấp nhưng không giấu được niềm nở: "Quả thật rất buồn cười."

Tạ Lam mím môi, hạ mắt, hờ hững đáp: "Ừm."

---Editor: Dỗ chí mạng cỡ này hỏi sao Phạm Bình không sống chết vì cổ 🤣
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 70 [Ngoại truyện]


Ngoại truyện: Công chúa (Phần chín)
Sự chú ý nàng dành cho Phạm Bình cứ thế âm thầm và chậm rãi khắc sâu.

Đối với việc Phạm Bình mỗi ngày đến thỉnh an, nàng không còn phớt lờ như trước, mà ngược lại sẽ dùng khoảng thời gian ngắn ngủi ấy để quan sát và đánh giá nàng ấy.

May thay, Phạm Bình luôn có phần lảng tránh nàng nên chưa từng phát giác ra những tâm tư này.

Mẫu thân của Phạm Bình, Lý nương tử, là thiếp của Phạm Thượng thư.

Hai mẹ con họ tuy là chủ nhân trong phủ nhưng lại chẳng có ai thân cận.

Nàng thầm nghĩ, có lẽ tài dỗ trẻ con của Phạm Bình là học từ mẹ mình mà ra.

Nàng bắt đầu tò mò về con người của vị Lý nương tử này , nhưng tiếc là nàng không có nhiều cơ hội để gặp mặt.

Một chuyến viếng thăm đường đột có lẽ sẽ khiến Phạm Bình thêm bất an.

Ở trong phủ này, Phạm Bình dường như chỉ là một vị khách, nhận được sự kính trọng lạ thường.

Ngay cả chủ mẫu Phạm phủ là Lâm phu nhân cũng chẳng ra dáng trưởng bối, thay vào đó là hết mực khách sáo, thật khiến người ta kinh ngạc.

Em trai nàng ấy, Phạm Khiêm, là bậc tuổi trẻ tài cao nổi danh khắp kinh thành, nhưng trước mặt Phạm Bình lại luôn có phần rụt rè, pha chút lấy lòng.

Phạm Bình thì vẫn thản nhiên như không, miệng tươi như hoa, thậm chí có lúc còn ngay tại chỗ đòi tiền Phạm Khiêm.

Chỉ là sau này không hiểu sao lại ít thấy Phạm Bình hỏi xin tiền Phạm Khiêm nữa, chả biết có phải vì đã rủng rỉnh hơn rồi không.

Nàng cứ thế quan sát Phạm Bình, dường như đã thành một thói quen thường nhật.

Những tin tức hạ nhân báo lên, nàng nhắm mắt lắng nghe, có tin nghe rồi liền quên, nhưng cũng có tin lại lặng lẽ ghi tạc vô lòng.

Phạm Bình ăn nói rất duyên dáng, ngày thường hễ gặp chuyện gì thú vị sẽ luôn nhân lúc hàn huyên mà kể cho nàng nghe.

Cảnh này lọt vào mắt người ngoài hẳn sẽ là bầu không khí cầm sắt hòa minh.Nàng không biết suy nghĩ của Phạm Bình ra sao, thực chất dù nàng ấy không đến kể những chuyện này, nàng cũng chẳng thấy mất mát hay cô đơn.

Tuy nhiên Phạm Bình lại cứ làm vậy, khiến nàng bất giác nảy sinh chút mong đợi vào những ngày tháng mai sau của nàng ấy.

"Hôm qua ta ra phố, tình cờ thấy phố Đông mới mở một tiệm đồ cổ nên ghé vào xem một chút.

Ông chủ tiệm quả thật lanh mồm lanh miệng, khéo ăn khéo nói, nếu không phải trong người ta chẳng có mấy đồng, chắc cũng bị miệng lưỡi ông ta thuyết phục mà rinh về một món đồ chơi rồi."

Người ngồi dưới, Phạm Bình, vận bộ lam y, nhoẻn cười nâng chén trà trước mặt.

Tiết trời đã vào đông, hơi nước bốc lên từ chén trà che khuất dung mạo nàng ấy, trông có phần mông lung.

Nàng tựa mình trên sập nhỏ, khoác áo lông chồn, tay vuốt ve lò sưởi, lặng lẽ ngắm nhìn Phạm Bình mà không nói một lời.

Phạm Bình dường như đã quen với sự im lặng này.

Sau khi uống vài ngụm trà nóng, nàng ấy liền lấy từ trong lòng ra một chiếc hộp nhỏ đưa tới, tiếng nói vương hơi ấm giữa tiết trời đông giá lạnh: "Tuy ta không mua nổi món đồ cổ kia, nhưng lại tìm được thứ này cho Công chúa.

Sắp đến Tết rồi, cũng không biết nên tặng Công chúa món quà gì, ta đành tự ý dâng lên vật mọn này, mong Công chúa đừng chê."

Nàng chớp mắt, thần sắc thản nhiên chừng như không hề lay động.

Trầm mặc một lúc, mãi cho đến khi thấy vẻ bất an trên mặt Phạm Bình, nàng mới nhận lấy chiếc hộp.

Cúi đầu mở ra, nàng lại thấy bên trong là một dải tua rua tím kết bằng chuỗi bạch ngọc châu.

Nàng đâm ra ngẩn ngơ, nhìn sang Phạm Bình hỏi: "Tại sao lại tặng ta thứ này?"

Tầm mắt Phạm Bình dừng trên cổ nàng, ở đó thấp thoáng một đoạn chỉ màu, nhưng nàng ấy chỉ đáp: "Chả là ta thấy dải tua rua này tinh xảo, ngọc châu lại trong và nhuận sắc, rất hợp với Công chúa nên mới nghĩ đến việc mang tặng."

Nàng cúi đầu, bàn tay vô thức tìm đến miếng ngọc bội kim thiền ngọc diệp giấu kín nơi ngực áo, thoáng cộm lên, hơi ấm của nó dường như vẫn có thể xuyên qua lớp vải mà lan tỏa.

Vốn dĩ, đó đâu phải là thứ ngọc bội để đeo nơi cổ.

Lặng đi một lúc, nàng đóng nắp hộp, ra lệnh cho thị nữ cất đi, rồi ngồi thẳng dậy một chút, hỏi Phạm Bình: "Vật này ta nhận, đã gần Tết rồi, ngươi cũng có thể đòi ta một món quà, ngươi muốn gì?"

Phạm Bình cười khẽ, lắc đầu: "Ta không muốn gì cả."

Nàng không khỏi nhíu mày: "Phạm Bình, ngươi phải muốn."

Phạm Bình đờ mặt ra, sau cúi đầu đăm chiêu, tiếp theo nở nụ cười ấm và dịu, nói: "Nếu Công chúa ở đây có thể bình an vui vẻ, đó chính là món quà quý giá nhất dành cho Phạm Bình rồi."

Nàng đờ đẫn tựa vào chiếc sập nhỏ, nhất thời để lộ chút bối rối.

Những lời lẽ khéo léo này nàng không phải chưa từng nghe, nhưng trước nay chưa bao giờ để trong lòng.

Vậy mà khi Phạm Bình thốt ra, lại chân thành đến lạ.

Một cảm giác ấm áp bất chợt loang khắp tim nàng.

Nàng có phần không quen với sự thay đổi cảm xúc này, bất giác quay mặt đi, cố dùng giọng điệu lạnh lùng để át hết cảm giác kỳ lạ ấy: "Phạm Bình, nếu ngươi không muốn gì, vậy thì về đi, ta mệt rồi."

Phạm Bình đứng ngây ra đó, con ngươi nhuốm sắc hoang mang, nhưng rồi lập tức đứng dậy hành lễ cáo lui, tựa hồ những lời tuyệt tình kia không khiến nàng ấy cảm thấy thất vọng vậy.

Đợi đến khi bóng dáng Phạm Bình khuất sau khung cảnh trắng xóa ngoài cửa, nàng chợt nhoi nhói chút ân hận nhỏ nhoi, có điều chưa hiểu cảm xúc vô cớ này từ đâu mà đến.

Phạm Bình kính nàng, lo cho nàng, nàng vốn không cần phải lạnh nhạt với tấm lòng ấy, vậy mà chẳng tài nào ghìm giữ được.

Nàng cho người mang chiếc hộp đựng dải tua rua đến, ngẩn ngơ trông vào bên trong.

Thoáng chốc, tâm trí nàng bời bời, hình ảnh của Đế Hậu, của Tạ Nhu Viễn, của mẫu thân, và cả Nguyên Sương – người đã quay lưng với nàng – cứ lần lượt hiện về, không sao xua đi được.

Hơi thở nàng cũng trở nên dồn dập, khiến bản thân gần như choáng váng.

"Rầm!"

Chiếc hộp bị đóng sầm lại một cách mạnh bạo.

Nàng nhắm tịt mắt, hít một hơi thật sâu, một vị đắng chát sôi trong lồng ngực.

Nàng không nên nghĩ về những chuyện này.

Dẫu sao cũng đã chuẩn bị sẵn sàng hòa ly với Phạm Bình, người đó là nam hay nữ cũng chẳng có gì khác biệt, là tốt hay xấu cũng sẽ không để lại bất kỳ dấu vết nào trong cuộc đời nàng.Trên thế gian này, chỉ có bản thân mới là chỗ dựa vững chắc nhất, nàng đáng lẽ phải hiểu điều đó từ lâu.

Thế nhưng, dẫu tâm niệm là vậy, nàng vẫn không tránh khỏi việc để tâm đến Phạm Bình.

Huống hồ con người này, trông thì hiền lành dễ tính, nhưng thực chất lại có phần bướng bỉnh, dù nàng tuyệt tình thế nào, chỉ qua hai ba ngày lại thấy con người ấy mỉm cười xuất hiện trước mặt.

Đúng là mặt dày mày dạn.

Nhưng rất nhanh, nàng nhận ra mình đã sai.

Phạm Bình không phải là người như vậy, cũng như cái danh bất tài của nàng ấy, sự bất mãn thầm kín bộc lộ trong bữa tiệc của Thái tử hôm đó, Phạm Bình chỉ là quen nhẫn nhịn mà thôi.

Tuyết vừa tạnh, đất trời trắng xóa một màu.

Nàng dẫn theo hai thị nữ, dạo bước trên con đường nhỏ trong Phạm phủ.

Nàng khá thích những ngày tuyết rơi, mặc cho mắt có đỏ hoe cũng có thể viện cớ là do thời tiết quá lạnh, khiến người ta muốn khóc.

Nàng gặp Phạm Bình bên ngoài một đình viện.

Đôi lúc nàng chợt nghĩ, mình luôn tình cờ bắt gặp những khoảnh khắc lúng túng và chân thật nhất của Phạm Bình, liệu trong cõi mịt mờ kia, có phải điều đó cho thấy giữa họ thực sự có duyên phận hay không.

Trong những tháng ngày sau đó, nàng không ngừng tự an ủi mình bằng suy nghĩ này, rằng một ngày nào đó Phạm Bình sẽ trở về bên cạnh, để xoa dịu nỗi đau và cay đắng khi mất đi người ấy.

Bên kia, Phạm Khiêm vội vã chạy đến, đưa cho nàng ấy hai cuộn tranh, chóp mũi đỏ ửng, hơi thở trong chốc lát đã hóa thành sương trắng.

Trông hắn rất vui, cười nói với Phạm Bình, giọng điệu phấn chấn: "A huynh, hai bức thư pháp này đệ đã phải tốn rất nhiều công sức mới tìm được đó, huynh xem thử xem, có thích không?"

Phạm Bình trông ôn hòa, làm theo lời hắn mở cuộn tranh ra, ánh mắt dần bị nét bút trên giấy thu hút, không giấu được kích động và rạng rỡ, rồi ngạc nhiên xen lẫn vui mừng: "Quả là chữ đẹp, A Khiêm, tặng ta thế này... có phải quá lãng phí không."

Phạm Khiêm lập tức lắc đầu: "A huynh nói gì vậy, đây vốn là quà đệ tặng huynh mà, huynh đừng từ chối!"

Phạm Bình thoáng do dự, nhưng vẫn liên tục vuốt hai cuộn thư pháp, điệu bộ lưu luyến vô ngần, cuối cùng thẹn thùng ôm vào lòng, nụ cười bẽn lẽn: "Vậy được rồi, ta nhận, đa tạ A Khiêm nhé."

Phạm Khiêm không khỏi mỉm cười thật sâu, lại hàn huyên đôi câu rồi rời đi.

Ánh mắt Phạm Bình vẫn đong đầy vui sướng, mãi đến khi bóng dáng Phạm Khiêm hoàn toàn khuất dạng, bờ vai căng cứng của nàng ấy mới thả lỏng, hai cuộn tranh trong lòng cũng được nới lỏng.

Nàng ấy khẽ nghiêng người, mệt mỏi cúi đầu, mi mắt khép hờ.

Nụ cười hiền hòa khi nãy đã tan biến hết, cả đất trời dường như trong khoảnh khắc bị bao phủ bởi sự cô liêu và hiu quạnh.

Đôi tay Phạm Bình run run, hai cuộn thư pháp bị siết đến nát nhàu.

Một lúc lâu sau, Phạm Bình ngẩng đầu nhìn về phía trước, nở một nụ cười khổ, trong mắt phút chốc trở nên rét buốt rồi quay người sải bước đi.

Lớp tuyết dày ngập cả đôi chân, những cú nhấc gót cứ nặng nề như thế.

Từ sau một gốc cây khô cách đó không xa, nàng chậm rãi bước ra, ngẩn ngơ dõi theo bóng lưng cô độc của Phạm Bình.

Phạm Bình, là một kẻ đạo đức giả.

Sau đó, trong kinh thành có lời đồn rằng, nhị công tử của Lại bộ Thượng thư, Phạm Khiêm, đã bỏ ra không ít tâm sức để tìm thư pháp cho huynh trưởng, cho thấy tình cảm huynh đệ đậm sâu.

Chỉ tiếc rằng vị Phạm đại lang quân này, thân là Phò mã mà học vấn lại chung quy kém cỏi.

Đôi khi nàng tự hỏi, những lời đồn đại không hay về Phạm Bình rốt cuộc là từ đâu mà ra , nàng ấy rõ ràng không phải người như vậy.

Nàng dần dần để tâm đến Phạm Bình, cũng dần dần phát hiện ra sự khó xử của nàng ấy mỗi khi gặp Phạm Khiêm, và cả niềm vui xen lẫn tiếc nuối khi trông vào những bức thư họa.

Nàng bắt đầu thường xuyên triệu kiến Phạm Bình, để giữ nàng ấy lại, hỏi về quá khứ của nàng ấy, biết được nàng ấy từng có cơ hội nhận chức ở Thư viện Bạch Lộc, nhưng vì phải thành thân với nàng mà không thể rời đi.

Phạm Bình và nàng đều giống nhau, thân bất do kỷ.

Trải nghiệm tương đồng này một lần nữa kéo gần khoảng cách giữa họ.

Nàng đột nhiên đề nghị, mời Phạm Bình dạy nàng thi văn sách luận.

Phạm Bình đứng ngây như trời trồng, có hơi lúng túng, dường như chả hiểu vì sao nàng lại đưa ra yêu cầu như vậy.

Nhưng thực chất chính nàng cũng không biết, có lẽ vì cô đơn, có lẽ vì không nỡ nhìn Phạm Bình bị xem thường, hoặc cũng có lẽ, nàng chỉ đơn giản là muốn có nhiều thời gian ở bên Phạm Bình hơn một chút.

Phạm Thượng thư yêu thích văn chương chữ nghĩa, thường mời văn nhân nhã sĩ đến phủ tụ họp, chẳng qua là Phạm Bình chưa bao giờ tham dự, duy chỉ có Phạm Khiêm mới nhiệt tình với những buổi tiệc này và rất được coi trọng.

Nàng nhận ra sự ngăn cách tinh tế giữa Phạm Bình và Phạm Thượng thư.

Những món đồ mà Phạm Khiêm thắng được thường sẽ được gửi đến tay Phạm Bình.

Phạm Bình luôn mỉm cười nhận lấy, chưa bao giờ từ chối, nhưng sau đó đều cho người bán đi, cũng không quan tâm bán được bao nhiêu, chỉ âm thầm cất tiền vào một chiếc hộp nhỏ.

Và hai bức thư pháp mà Phạm Khiêm tặng hôm đó, cũng bị nàng ấy bán đi như vậy.

Có một lần nàng tò mò hỏi: "Sao cứ luôn bán đi vậy?"

Hai mắt Phạm Bình đượm buồn, song rất nhanh đã giấu nhẹm, trêu nàng: "Phạm Bình là kẻ phàm tục, bất cứ báu vật nào cũng không quan trọng bằng bạc."

Nhưng Phạm Bình lại một lần nữa nói dối.

Người đời thường dùng vẻ ngoài giả tạo để mưu cầu lợi ích, tuy nhiên sự giả tạo của Phạm Bình lại là để che đậy nỗi đau trong lòng.

Vào một ngày xuân, nàng chợt nổi hứng ghé qua nội viện của Phạm Bình.

Giữa những đóa hoa bào đồng bay lất phất, nàng trông thấy khắp sân đều đang phơi thư họa.

Phạm Bình cúi mặt ngắm nghía, sóng mắt gợn lưu luyến, hệt như chực rơi lệ tới nơi.

Đúng lúc đó, một ngọn gió thổi qua, cuốn mấy tờ giấy bay đến chân nàng.

Nàng nhặt lên xem, đương khi đối phương còn luýnh quýnh, liền thình lình hỏi lai lịch của nét chữ, sau mới biết đó là do Phạm Bình viết.

Nàng cảm thấy có chút xót xa, như thể nhìn thấy được chính mình, vì Tạ Nhu Viễn mà từ bỏ việc vẽ tranh.

Nàng cứ ngỡ chỉ có mình phải chịu ấm ức, hóa ra Phạm Bình cũng vậy.Một tiếng thở dài phả nhẹ trong lòng.

Nếu như đời này không ai biết đến tài văn chương của Phạm Bình, nàng hy vọng chí ít lời khen của mình có thể khiến nàng ấy cảm nhận được khuây khỏa và nhẹ nhõm hơn— "Phạm Bình, xuân đã về, vạn vật hân hoan, ngươi cũng nên vui lên đi."

---Editor:▪️Tầm mắt Phạm Bình dừng trên cổ nàng, ở đó thấp thoáng một đoạn chỉ màu, nhưng nàng ấy chỉ đáp: "Chả là ta thấy dải tua rua này tinh xảo, ngọc châu lại trong và nhuận sắc, rất hợp với Công chúa nên mới nghĩ đến việc mang tặng": Ý là cổ không thấy miếng ngọc bội nhưng cổ đoán Công chúa đang đeo thứ quan trọng, do đó khi thấy sợi chỉ màu đơn sơ thì cổ mới tặng cái dải tua rua đáng giá hơn để dành riêng cho thứ quan trọng đó, nhưng cổ không biết thứ đó là miếng ngọc bội không dùng để đeo ở cổ.
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 71 [Ngoại truyện]


Ngoại truyện: Công chúa (Phần mười)
Kể từ đó, Phạm Bình dường như đã thay đổi ít nhiều.

Nàng ấy luôn e thẹn mỗi khi gặp nàng.

Điều này khiến nàng thấy khó hiểu, nhưng đồng thời cũng cảm thấy vui sướng khôn nguôi, bởi lẽ Phạm Bình đối xử với nàng tốt hơn, không còn lảng tránh như trước, dường như cũng đã nảy sinh ý muốn gần gũi.

Đối với nàng, Phạm Bình hiển nhiên đã trở thành một quân cờ hữu dụng.

Nàng tự lý giải cho việc không từ chối sự thân mật của Phạm Bình bằng lý do đó.

Những ngày sau, nàng bắt đầu dò hỏi Phạm Bình về chuyện của các vị quan viên trong bữa tiệc.

Ban đầu, Phạm Bình tỏ ra không cam tâm tình nguyện, còn khá do dự, vì nàng ấy vốn không rành đường quan lộ.

Nhưng cuối cùng, nàng ấy vẫn không từ chối, điều này có lẽ càng khẳng định ý đồ lợi dụng của Tạ Lam.

Cùng lúc đó, trong phủ Thái tử cũng xảy ra một chuyện bê bối không ai hay biết.

Sở Vương và Phùng Lương đệ tư thông, còn có với nhau một đứa con.

Chuyện này đến tai Tề Vương, Tề Vương bèn nhen nhóm ý định cho người đàn hặc Sở Vương.

Nhưng tấu chương chưa kịp dâng lên đã có người báo rằng Thái tử nói Phùng Lương đệ và tam lang quân khi đến đạo quán dâng hương đã bị hổ đói vồ giết, thi cốt không còn, chỉ sót lại xiêm y.

Thái tử buồn đau khôn xiết, đến nỗi ngã bệnh.

Sở Vương đêm ngày không ngủ, túc trực bên cạnh, thậm chí còn tự mình thử thuốc, tình nghĩa huynh đệ sâu nặng, nhất thời được người đời ca tụng.

Tấu chương của Tề Vương đành phải xếp lại.

Tề Vương không khỏi bật cười, nhìn nữ tử trước mặt: "Vị Thái tử điện hạ của chúng ta quả là nhân hậu vô song.

Vì huynh đệ mà ngay cả trắc phi của mình cũng có thể ra tay, chỉ e Sở Vương phen này càng thêm vào sinh ra tử, không từ nan."

Ý định ban đầu của nàng và Tề Vương là để Sở Vương và Thái tử bất hòa, nào ngờ Thái tử lại nhẫn tâm từ bỏ Phùng Lương đệ.

Tề Vương thấy nàng im lặng, trầm ngâm giây lát rồi hỏi: "Vị Phùng Lương đệ đó thật sự đã chết rồi sao?"

Nàng ngước mắt nhìn đối phương, bình thản đáp: "Ngươi không tin ta?"

Tề Vương nheo mắt: "Ta sao lại không tin Công chúa được chứ, chả qua là hắn lại giao một việc quan trọng như vậy cho Công chúa, không khỏi khiến tiểu vương thắc mắc, Công chúa đã làm cách nào để lấy được lòng tin của Thái tử điện hạ?"

Nàng vẫn giữ vẻ mặt điềm nhiên, bình tĩnh nói: "Sao ngươi lại cho rằng hắn tin ta, chứ không phải lợi dụng ta?

Nếu ta không hoàn thành nhiệm vụ, với cái danh tình sâu nghĩa nặng mà thiên hạ đều biết của hắn, lỡ như mẹ con Phùng Lương đệ thật sự còn sống, ra mặt tố cáo, Thái tử điện hạ đương nhiên có thể đổ hết mọi tội lỗi lên đầu ta, hoặc gán cho ta tội danh đồng lõa."

Tề Vương nhất thời thinh lặng, lại quan sát nàng thêm một lúc, nhíu mày bảo: "Chẳng lẽ hắn đã phát hiện ra điều gì rồi sao?"

Nàng liếc nhìn Tề Vương một cái, nói: "Nếu ngươi có thể bớt đến gặp ta, hắn chưa chắc đã phát hiện ra."

Tề Vương ngẩn ra, thoáng chốc bật cười, lập tức đứng dậy cáo lỗi: "Công chúa nói vậy thì nghiêm trọng quá rồi, triều ta vốn sùng đạo, đạo quán này sao chỉ có Công chúa đến được mà tiểu vương lại không?

Đã đến, đã gặp, lại còn cố tình tránh né, e rằng mới càng khiến người ta nghi ngờ."

Nàng không phản bác, lẳng lặng ngước mắt nhìn Tề Vương: "Ngươi nên biết, ta không có lựa chọn."

Sắc mặt Tề Vương bỗng lạnh dần, chực bày ra sự thâm hiểm.

Hồi lâu sau, hắn ta thở dài, mở chiếc quạt trong tay ra phe phẩy: "Thôi được, nếu Công chúa đã không muốn gặp ta, ta không gặp là được, tiểu vương xin cáo từ."

Nói đoạn, hắn ta liền đi vòng ra một cánh cửa nhỏ phía sau, một tiểu đồng của đạo quán cúi chào hắn ta, sau đó mới đến mời nàng, nói rằng hôm nay quán chủ không tiếp khách.

Nàng gật đầu đồng ý, rồi rời khỏi phòng chờ, đi sang một thiên điện khác, nơi Phạm Bình đang đợi ở sảnh bên.

Im lặng giây lát, nàng tiến đến nói với nàng ấy: "Về thôi."

Phạm Bình tỏ vẻ ngạc nhiên, nhìn ra sau lưng nàng hỏi: "Công chúa không phải nói hôm nay có hẹn với quán chủ sao, sao nhanh vậy?"

Nàng không trả lời, chỉ bảo: "Không hợp chuyện, không muốn nói nữa."

Phạm Bình chẳng chút nghi ngờ, chỉ đáp một tiếng "vâng" rồi cùng nàng xuống núi.

Kể từ đó, cũng không nghe nói Công chúa muốn đến đạo quán này nữa, có lẽ nàng thật sự cảm thấy không hợp chuyện với vị quán chủ đó.

#

Vào mùa xuân năm ấy, Tạ Nhu Viễn hạ giá lấy Chu tam lang, việc này khiến nàng lần đầu tiên sau một thời gian dài cảm giác được sự chấn động chưa từng có.

Giữa lúc đánh cờ với Phạm Bình, nàng lơ đễnh đến mức để đối phương hiếm hoi thắng được một ván.

Nàng theo bản năng biết mình nên tới chúc mừng một tiếng, nhưng lại không khỏi thấy mất mát.

Nàng và Tạ Nhu Viễn vốn chưa tới mức bạn bè thân thiết, cũng chẳng có tình tỷ muội đậm sâu, nếu đường đột đến thăm, thế thì không hay.

Phạm Bình dường như nhận ra vẻ không vui của nàng, bèn hỏi nàng có muốn ra ngoài đi dạo không, cứ mãi ở trong phòng chắc cũng không thoải mái gì.

Nàng im lặng một lúc, rồi vẫn từ chối.

Phạm Bình đâm ra ngơ ngác, tuy vậy đã nhanh chóng thu về cảm xúc, gom hết quân cờ vào hộp rồi hành lễ cáo lui.

Mãi cho đến yến tiệc Đoan Ngọ, nàng vẫn vương nét ủ rũ, huống hồ Tạ Nhu Viễn lại đột ngột gây sự ngay trong bữa tiệc.

Nàng thấy áy náy, sâu sắc nhận ra không nên để Phạm Bình vì mình mà rơi vào tình thế khó xử, bởi vậy khi biết Tạ Nhu Viễn cố tình gây khó dễ, yêu cầu các phò mã làm thơ, nàng đã khuyên Phạm Bình không cần để tâm.

Chuyện này vốn chẳng có gì to tát, nàng và Phạm Bình cũng chỉ là phu thê hờ, dù Phạm Bình không muốn cũng chẳng sao, huống chi Phạm Bình đã phải chịu đủ điều tiếng.

Nhưng Phạm Bình đã không làm vậy.

Đó là lần đầu tiên nàng nhìn thấy một tia sáng rực rỡ đến thế ở người nữ tử ôn hòa này, khác hẳn với vẻ chiều chuộng, nịnh nọt thường ngày, dường như nàng ấy muốn cho nàng thấy, Phạm Bình cũng có thể mang lại vinh quang cho nàng.

Thái độ tranh thắng không lý do đó, chả hiểu sao lại khiến tim nàng rung động.

Bấy lâu nay, dưới sự dạy dỗ của Hoàng hậu, nàng đã che giấu đi sự sắc sảo của mình, cũng chưa từng nghĩ đến việc thể hiện tài năng trước mặt người đời, có lẽ là do thói quen, hoặc là do bất an, nàng đã không còn tâm tư đó nữa.

Thế nhưng Phạm Bình lại một lần nữa tìm lại cho nàng dũng khí đã mất ấy, nàng thực ra không cần phải luôn ẩn mình phía sau, sẽ luôn có một người quan tâm đến nàng, cũng như nàng ngưỡng mộ tài văn chương của Phạm Bình, Phạm Bình cũng coi trọng thể diện của nàng.Cõi lòng nàng không gàn được những vui sướng, thế nên khi Phạm Bình mang về viên Kê Huyết Thạch mà nàng ấy đã thắng được cho nàng, nàng vui đến nỗi như một đứa trẻ, gần như chẳng thể che giấu được phấn khích và kích động của mình.

Nàng muốn nói với Phạm Bình một lời cảm ơn.

Dưới ánh nhìn dịu dàng của nàng ấy, nàng cũng có thể thoải mái kể hết mọi suy tư trong lòng, nhưng rồi cuối cùng nàng vẫn lảng tránh những lời ấm áp ấy.

Nàng đã lùi bước.

Những ngày sau đó, nàng cũng sẽ nghĩ đến việc Phạm Bình đang làm gì, nhưng nàng chẳng biết phải thể hiện ra sao, cũng sợ rằng sau khi trao đi tấm chân tình, người bị tổn thương sẽ là chính mình, dẫu nàng muốn khen ngợi Phạm Bình, rốt cục cũng chỉ đành giả vờ kiêu kỳ, chê bai nàng ấy.

Nàng bất giác đã trở thành Tạ Nhu Viễn, nhưng chính nàng lại không hay biết, cứ cho rằng đó là điều hiển nhiên, cũng không hề phát hiện, mình đang ngày một lún sâu.

Trước mặt Phạm Bình, nàng có thể không vui, có thể tùy hứng, có thể vô lý, có thể nói năng lung tung, Phạm Bình sẽ chẳng bao giờ trách nàng, cũng chẳng coi thường nàng, chỉ dùng thái độ cưng chiều, dung túng để nàng an lòng.

Càng ở bên nhau như vậy, nàng càng cảm thấy sợ hãi.

Phạm Bình, Phạm Bình, chỉ cần nhẹ nhàng gọi tên nàng ấy, cũng đủ để nàng cảm thấy mãn nguyện và hạnh phúc.

Nàng có phải đã bệnh rồi không?

Nếu như những năm tháng tuổi trẻ được ở bên Phạm Bình, liệu nàng có thể cứ mãi vui vẻ như thế không?

Nàng không khỏi suy tư về những câu hỏi đó, một mặt lo lắng, một mặt lại chẳng chịu mở lòng với Phạm Bình.

Cũng vì lẽ đấy, nàng chẳng dằn được tâm tư muốn thử thách giới hạn của Phạm Bình, lo sợ rằng nàng ấy rồi cũng sẽ điên tiết mà bỏ đi.

Nếu quả thật có ngày đó, chi bằng cứ để nó đến sớm hơn một chút.

Thế mà, Phạm Bình chưa từng ruồng bỏ nàng.

Điều này khiến nàng phần nào yên tâm, song mỗi lúc nàng ấy không ở bên, nỗi nhớ nhung cứ trào ra, để rồi cõi lòng tự nhiên dấy lên bao nhiêu hờn giận.

Đó là một lần nàng hiếm khi gây sự vô cớ, trách móc Phạm Bình không thể mọi lúc mọi nơi ở bên cạnh nàng, dù nàng biết, điều đó hoàn toàn vô lý.

Sau khi Phạm Bình nhậm chức Giám chính Quốc Tử Giám, nàng thường đến thăm Lý nương tử.

Nàng thích ở cùng Lý nương tử, dường như có thể cảm nhận được một chút hơi ấm của tình mẫu tử, điều đó đối với nàng là một sự xa xỉ.

Có lúc, nàng sẽ giả vờ vô tình hỏi về chuyện của Phạm Bình: "Sao lại gọi hắn là Chất Nô?"

Lý nương tử tay nghề khéo léo, thường làm những món đồ chơi trẻ con yêu thích, trong sân lúc nào cũng chất đống những thanh tre, khúc gỗ, hoặc là đan những con cá, con tôm, hay những chú chim nhỏ.

Lần đầu gặp Tạ Lam, Lý nương tử còn câu nệ, nhưng dần dần bà coi nàng như một đứa trẻ, cũng bắt đầu nói những lời bông đùa: "Vậy lẽ nào lại gọi là Lư Nô [1]." [1] Lư nghĩa là con lừa.

Còn Chất nghĩa là ngựa đực, được coi là loài vật cao quý, nhưng cũng có nghĩa là ổn định, ghép với chữ Bình trong Phạm Bình thì thành "bình chất", nghĩa là bình phẩm, đánh giá.

Phạm Bình sinh ra trong chuồng lừa, đó vốn là một chuyện đau khổ, nhưng qua lời kể của Lý nương tử lại không còn mấy bi thương.

Nàng khẽ cười.

Phạm Bình cũng luôn như vậy, hay nói những lời bông đùa, nàng cảm thấy rất vui.Có lẽ nguyên do qua lại quá thân cận với Lý nương tử khiến cho chủ mẫu trong phủ mất hết thể diện, vậy nên kể từ đó vị Lâm phu nhân kia cũng thường xuyên đến bái yết [2].

Nàng vốn không mấy yêu thích Lâm phu nhân, mặc dù vị phu nhân ấy là người thông thư đạt lễ [3], đối nhân xử thế đoan trang đúng mực.

Thế nhưng người nọ và Tạ Nhu Viễn lại quá đỗi tương đồng, khiến nàng bất an.

Dẫu vậy, nàng tuyệt nhiên không biểu lộ ra ngoài, chỉ một mực lấy lễ mà đối đãi, không để vị phu nhân kia phải khó xử.[2] Yết kiến theo lễ nghi.[3] Biết thi thư, hiểu lễ nghĩa.

Nhưng nàng cũng không thể ở bên Lý nương tử quá lâu, những năm tháng lao lực, đau thương và phiền muộn tích tụ trong lòng đã khiến Lý nương tử ngã bệnh, Nàng vô cùng lo lắng, thường xuyên đến thăm Lý nương tử, mãi cho đến khi một trận tuyết lớn vào mùa đông, bệnh tình mới có chút khởi sắc.

Khoảng thời gian đó, Phạm Bình lo lắng khôn nguôi, lúc nào cũng túc trực bên mẹ, cũng chẳng có tâm trí đến gặp nàng, tựa hồ lúc này, họ lại trở nên xa lạ, khiến nàng thoáng hụt hẫng.

Một đêm nọ, nàng đương ngắm hoa mai trong các, suy tư miên man, bỗng dưng Đinh Lan bên cạnh khẽ kêu lên: "Công chúa, người xem, là Phò mã."

Nàng hoàn hồn, lắng nghe tiếng bước chân từ xa vọng lại.

Quay đầu nhìn tới, nàng liền thấy một bóng người cao dong dỏng đang bước đến trong đêm đen mịt mùng.

Giữa cơn gió lạnh, Phạm Bình khoác một chiếc áo choàng lông cáo, bước chân vì tuyết dày mà có phần chậm chạp, trong ngực ôm một vật gì đó khiến nàng ấy loạng choạng suýt ngã, tuy nhiên trên mặt lại tưởng chừng như nở hoa, chắc hẳn vì mẹ đã khỏi bệnh nên nàng ấy mới yên lòng.

Phạm Bình đi đến dưới gốc cây mai trong sân, ngẩng đầu là có thể trông thấy nàng bên cửa sổ của gác lầu, ánh mắt sáng ngời, từ trong lòng lấy ra một hộp thức ăn giơ lên, cười nói: "Công chúa, ta muốn xin một cành mai hồng trong sân của Công chúa, để cầu phúc cho mẹ ta, dùng canh gà này để đổi có được không?"

Nàng hơi ngẩn ngơ, đã hơn mười ngày nàng không thấy nụ cười của Phạm Bình, dù cho nàng biết không nên trách nàng ấy, nhưng cuối cùng vẫn trống rỗng và sầu muộn, vậy mà lúc này Phạm Bình lại đến tìm nàng.

Hộp canh gà đó, rõ ràng không phải do Lý nương tử làm.

Nàng cúi đầu che đi xúc động nơi sâu thẳm, nói với nàng ấy: "Nếu là để cầu phúc cho Lý nương tử thì muốn mấy cành cũng được."

Phạm Bình cười tươi rói, không đi vào các, nàng bèn sai người mang hộp canh gà đó lên, Phạm Bình cẩn thận chọn hai cành mai trong gió, bẻ xuống, nắm trong tay, sau lại cúi người chào nàng: "Trời lạnh gió lớn, Công chúa vẫn không nên ngồi lâu bên cửa sổ, nhỡ lại đổ bệnh, Phạm Bình thật không còn mặt mũi nào mà xin nghỉ ở Quốc Tử Giám nữa."

Nàng quay mặt đi, mím môi, tưởng chừng để che giấu một chút e thẹn, một lúc sau, nàng thản nhiên nói: "...

Biết rồi."

Phạm Bình không ở lại thêm nữa, nắm chặt cành mai trong lòng, bước rời đi, dần dần biến mất trong đêm tối dày đặc.

Trời đất phút chốc hóa tĩnh lặng, nàng dời mắt nhìn xa xăm, thần sắc điềm nhiên, nhưng lại phảng phất luyến tiếc do vô tình lộ tẩy, Đinh Lan đứng bên cạnh trông thấy, khẽ cười hỏi nàng: "Công chúa có vẻ rất vui khi gặp Phò mã?"

Nàng chẳng quay đầu lại, khóe môi hơi nhếch thành vòng cung nhàn nhạt, giọng điệu vẫn chẳng gợn chút sóng: "Ừ, ta rất vui."

--- Editor: Còn nhớ ở chương 5 sau khi Phạm Bình bị đánh thì hỏi canh gà mình hầm đâu, Đinh Lan nói là bị đạo trưởng uống hết không?

Khả năng đạo trưởng đó là bà nhỏ đó 🤣
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 72 [Ngoại truyện]


Ngoại truyện: Công chúa (Phần mười một)
Nhưng sự đời trái ngang, cành mai hồng ấy đã chẳng thể giữ chân Lý nương tử được bao lâu.

Bệnh tình của bà ngày một trở nặng, liên tục ho ra máu.

Sau khi chẩn đoán, thầy thuốc cho hay tim phổi của Lý nương tử đã tổn thương, lao lực thành bệnh, e rằng chẳng còn nhiều thời gian.

Phạm Bình như sét đánh ngang tai, không dám tin vào những lời này, nàng ấy hết lời van nài thầy thuốc cứu mẹ mình.

Thế nhưng thầy thuốc cũng đành lực bất tòng tâm.

Vỏn vẹn nửa tháng sau, Lý nương tử qua đời.

Phạm Bình có một thời gian tiều tụy đến gầy trơ xương, chẳng còn vẻ rạng rỡ ngày nào.

Nàng không biết phải an ủi Phạm Bình ra sao.

Dù cái chết của Lý nương tử cũng khiến nàng buồn bã, tuy nhiên suy cho cùng đó không phải mẫu thân của mình, huống hồ, ngay cả khi mẫu thân Miêu Quý phi qua đời, nàng cũng chẳng hề tỏ ra quá đau thương.

Đôi lúc, nàng thoáng thấy mình thật máu lạnh.

Người thường sẽ thế nào, nàng hoàn toàn không biết, bởi vậy mà đối diện với những giọt nước mắt và lời chất vấn của Phạm Bình, nàng thấy mình thật lúng túng.

Phạm Bình ít khi nổi giận.

Nếu có ai đối xử bất kính, nàng ấy sẽ chỉ lặng lẽ rời đi, không bao giờ qua lại nữa, tựa như cây tùng trên đỉnh non cao, mặc cho sương gió vùi dập, vẫn điềm nhiên đối mặt.

Và rõ ràng, nàng không thể nào trói buộc được Phạm Bình.

Nàng không tài nào biết được Phạm Bình xem mình là gì, nhưng nàng có thể cảm nhận được, sở dĩ nàng ấy còn nán lại Phạm phủ lâu như vậy là vì không nỡ rời xa mẹ mình.

Suốt những năm tháng ấy, nàng luôn dõi theo Phạm Bình, biết rằng nàng ấy tuy đối xử với mọi người hòa nhã, lịch sự song trong mắt lại có một nét xa cách lạ thường.

Chỉ khi gặp Lý nương tử, nàng ấy mới bộc lộ vài phần vui vẻ thoải mái, tựa hồ đối với nàng cũng chẳng có gì khác biệt.

Nàng trầm ngâm hồi lâu, cố nói vài câu an ủi, vậy mà cuối cùng vẫn không dám bộc bạch lòng mình.

Nàng sợ rằng một khi Lý nương tử ra đi, Phạm Bình sẽ không bao giờ đối xử với nàng như trước nữa.May mắn thay, Phạm Bình đã ở lại.

#

Tháng tư năm ấy, nàng hẹn gặp Lễ bộ Ngô Thị lang, song lại viện cớ có hẹn với phu nhân của ông ta để ra ngoại thành đến Huyền Diệu Quán cầu phúc.

Khi đó Phạm Bình đang nghỉ phép, liền ngỏ ý muốn đi cùng.

Từ sau khi mẹ mất, Phạm Bình có phần quyến luyến nàng hơn.

Mỗi khi nàng định làm gì, nàng ấy đều hỏi một tiếng.

Điều này khiến nàng vừa mãn nguyện vừa vui vẻ, tuy nhiên cũng cảm thấy có lẽ Phạm Bình đang rất cô đơn, dù cho người Phạm phủ máu mủ ruột rà, nhưng rốt cuộc đó không phải là chốn nương thân của nàng ấy.

Nàng bất giác nghĩ, giá như có một ngày, mọi chuyện đều lắng xuống, nàng hy vọng có thể giữ Phạm Bình ở bên, ngày ngày ngắm nhìn, bất kể tâm tư nàng ấy ra sao, chỉ cần nàng ấy ở cạnh là đủ.

Tâm tư này khiến một người vốn chẳng tin vào quỷ thần như nàng cũng khó kìm được mà dâng hương trước thần linh, cầu một quẻ xăm.

Nhưng lời xăm lại chẳng được như ý.

Vị đạo trưởng nhìn nàng thở dài: "Điều cư sĩ mong cầu, e rằng thiên đạo khó lòng chấp thuận, chỉ chuốc thêm thương tình mà thôi."

Sau đó, hai vị nương tử thấy nàng ra khỏi phòng, thần sắc thất thần, không khỏi lo lắng.

Nàng lắc đầu không đáp, chỉ dặn dò chuyện hôm nay bàn bạc, tuyệt đối không được để người khác biết.

Hai vị nương tử đâm ra nghiêm túc, nhận lời rồi cáo lui.

Khi rời phòng, nàng gặp lại Phạm Bình, trong lòng bỗng cồn cào một nỗi bất an, không nén được ý nghĩ muốn giữ nàng ấy lại trong đạo quán, rồi lại đến trước tượng thần thắp một nén hương.

Lúc đó nàng ngẫm bụng, nếu mình có thể đi hết chặng đường núi này, liệu có thể giữ Phạm Bình ở bên dài lâu không.

Nàng chẳng cầu Phạm Bình thật lòng, chỉ cần nàng ấy ở lại.Nàng đã từng cho rằng, cái gọi là "thương tình" kia là do trời cao không chấp thuận tình ý của mình, những suy nghĩ xáo động nảy sinh với Phạm Bình sẽ khiến nàng ấy sợ hãi và rời đi, nhưng chưa từng nghĩ rằng, mình và Phạm Bình sẽ phải đôi ngả âm dương.

#

Mùa đông năm Thừa An thứ hai mươi mốt, Hoàng hậu hoăng thệ.

Tin tức này khiến vị Hoàng đế vốn đã mang bệnh nặng càng thêm đau khổ, nằm liệt giường nửa tháng trời.

Dân gian thường hay bàn tán, Đế Hậu là cặp phu thê thanh mai trúc mã, ân ái sâu đậm.

Khó khăn lắm mới lật đổ được Miêu thị, thế mà Hoàng hậu lại buông xuôi thế gian, há chẳng phải đáng tiếc lắm sao.

Nàng chẳng có mấy cảm xúc, dẫu Hoàng hậu từng chăm sóc mình, nhưng cũng không thể khuấy động lòng nàng quá nhiều gợn sóng.

Chỉ có Tạ Nhu Viễn trách nàng vô ơn.

Nàng chẳng biết nói sao, thứ duy nhất nàng cảm nhận được rằng, mình và Tạ Nhu Viễn, quả thực cả đời này cũng không thể thấu hiểu cho nhau.

Đến tháng hai năm Thừa An thứ hai mươi hai, kinh thành vẫn bao trùm một tầng mây u ám, là vì có người trong triều xin lập Hoàng hậu.

Lúc này, cách ngày Tiên hoàng hậu hoăng thệ chỉ mới một năm ngắn ngủi, đây vốn là điều bất kính, vậy mà Hoàng đế lại không tỏ ra bao nhiêu tức giận, thậm chí còn mang vẻ do dự.

Bấy giờ, mọi người trong cung đều biết mẫu thân của Tề Vương, Trương Quý phi, ngày ngày ở bên chăm sóc Hoàng đế, việc gì cũng tự tay làm, đêm đến còn lặng lẽ khóc thương Tiên hoàng hậu, nói rằng trước đây mình chịu nhiều ơn chiếu cố của người đó, vì nhớ tình xưa nên không dám lơ là với Hoàng đế.

Trong đó có bao nhiêu phần thật lòng, người ngoài không biết được, nhưng giữa bối cảnh Thái tử đã đủ lông đủ cánh, còn Hoàng đế thì già yếu bệnh tật, lại có một nữ tử như vậy, mọi sự đều lấy mình làm trọng, thì dẫu thân là đế vương, cũng khó lòng không cảm động, để rồi đưa ra bao quyết định không hợp thời thế.

Lúc ấy, có rất nhiều tấu chương đàn hặc Tề Vương, đều nói Tề Vương bất kính với Đông Cung, nhen nhóm ý đồ thâu tóm quyền lực.

Tề Vương lại dùng kế lùi làm tiến, từ bỏ mọi chức vụ trong triều, chỉ làm một vị vương gia nhàn tản, và thường xuyên vào cung thăm nom Hoàng đế, nói rằng bây giờ không còn vướng bận chuyện triều chính, có thể ở bên cạnh phụ hoàng mới là phúc phận của kẻ làm con.

Lời ấy gây ra một làn sóng không hề nhỏ trong triều, ai nấy đều khen Tề Vương hiếu thảo, chiến tích lẫy lừng, đã làm tròn bổn phận bề tôi, vậy mà lại bị vu oan, thật không đáng.

Hoàng đế bị kẹt giữa, không khỏi sinh lòng thương cảm với Tề Vương, vì thế chẳng lâu sau đã phục chức cho hắn, còn ban thêm nhiều của cải.

Tề Vương từ chối không nhận, sau vài lần mới miễn cưỡng chấp thuận.

Thái tử lại càng thêm bất an, và cũng vào lúc này, hắn ta nhận ra rằng, mặc dù Tề Vương âm thầm chịu đựng, tuy nhiên nền tảng trong triều của hắn đã ngấm ngầm sâu rộng hơn.

Hắn ta không thể không nghi ngờ những người xung quanh, và tương tự, Nhu Gia Công chúa trở thành đối tượng nghi ngờ đầu tiên của hắn ta.

Sáu năm ròng nàng mượn danh Thái tử để giao du rộng rãi với gia quyến bá quan, đã len lỏi vào tận hàng ngũ quan viên.

Một số quyết sách của Thái tử đã mang hình bóng của nàng phía sau, và ngay cả Thái tử cũng chẳng thể xác định được, rốt cục những quan viên mà nàng giao thiệp, ai là địch, ai là bạn.

Một khi Tề Vương mượn tay nàng để lật đổ mình, Thái tử khó lòng lường được.Điều này khiến Thái tử vô cùng lo sợ và bất an.

Thiên gia vô phụ tử [1], nếu Hoàng hậu còn tại thế, hắn ta đã không phải sợ hãi đến vậy.

Nhưng hiện này, Trương Quý phi đang có xu hướng thay thế, trong cơn kinh hoảng, hắn ta không thể không có những toan tính khác.
[1] Trong gia đình đế vương không tồn tại tình phụ tử.

Cơ hội này đã đến rất nhanh.

Tháng sáu năm đó, Tương Châu xảy ra đại nạn, Thái tử tấu xin để Phò mã Phạm Bình đi giám sát.

Đây là một phép thử của hắn ta, hắn ta muốn biết liệu Tạ Lam có thực sự phản bội mình không.

Suy cho cùng, hắn ta không phải kẻ ngốc, đối với Tạ Lam cũng có nhiều phòng bị, và cũng có thể nhận ra, Nhu Gia Công chúa đối với vị phò mã này có thái độ khá khác thường.

Nếu Phạm Bình thực sự dính líu đến chuyện ở Tương Châu, hắn ta cũng có thể dùng điều này để uy hiếp ngược lại.

Nhưng hắn ta đâu ngờ rằng, Phạm Bình lại đi cầu cứu Tề Vương, đẩy cả huynh đệ phụ thân mình vào vòng lao lý.

Chuyện này cũng khiến Tạ Lam vô cùng bất ngờ.

Tề Vương mượn đà ra tay, vị thân vương ẩn nhẫn suốt bao năm qua đã dùng thủ đoạn độc như sét bổ, ngụy tạo tội danh mưu phản cho Thái tử, nhân lúc Hoàng đế bệnh nặng, ý thức không còn minh mẫn mà nổi giận, nhanh chóng tống Thái tử và một loạt quan viên vào thiên lao.

Nàng xoay xở giữa vòng xoáy đó, hầu như không còn đường lui.

Thủ đoạn của Tề Vương quá tàn nhẫn, ép nàng đến nghẹt thở.

Nàng càng không thể trở mặt với Tề Vương vào lúc này, vì thế đã đồng ý với đề nghị của hắn, xin Hoàng đế ban chết cho Phạm Bình, dùng chén rượu độc giả để cứu nàng ấy ra khỏi ngục.

Điểm yếu của nàng đã bị Tề Vương phát hiện và nắm giữ, khiến nàng mất đi cơ hội đàm phán.

Vốn dĩ không nên như vậy, nhưng Tề Vương giống như một con rắn độc, một khi đã bị cắn và quấn lấy thì mất đường thoát thân.Gã nam tử đó trưng vẻ mặt thản nhiên, từ trong tay áo lấy ra một chiếc bình nhỏ, hệt như lần đầu họ lập giao ước, hắn cười nói: "Năm xưa Công chúa cầu xin tiểu vương thuốc này là để không phải viên phòng với Phạm Bình, ai ngờ bây giờ Công chúa lại động lòng với hắn, phải cầu xin tiểu vương thuốc để cứu hắn.

Thế mới biết thế sự vô thường, Công chúa cũng không thoát khỏi ái tình trần tục."

Nàng lạnh lùng nhìn đối phương, không nhận lấy, chỉ đưa tay ra làm một động tác "mời".

Tề Vương thoáng sững sờ, rồi cười nói: "Công chúa có ý gì đây?"

Nàng thực ra đã có chút tức giận, nhưng biết rõ lúc này vẫn cần đến thế lực của Tề Vương, nếu không thì đại cục sẽ sụp đổ, không ai có thể chống đỡ nổi.

Sau khi hít một hơi thật sâu, nàng nói: "Ngươi nói không sai, ta khó thoát khỏi ái tình trần tục, bởi vậy hiệu quả của thuốc này ra sao, ta phải xác nhận qua mới dám cho hắn uống.

Nếu hắn vì thế mà chết, ngươi nên biết ta tuyệt đối sẽ không bỏ qua."

Tề Vương nhếch môi, trong mắt hiện lên vẻ tàn nhẫn, rồi lại nhanh chóng tan đi.

Hắn gọi một tên tôi tớ đến, ban cho y một nửa số thuốc trong tay mình.

Chỉ chốc lát, tên tôi tớ đó đã thiếp đi, cơ thể dần trở nên lạnh ngắt, mạch cũng không còn đập nữa.

Lòng bàn tay nàng khẽ rịn mồ hôi lạnh, sống lưng cứng trơ.

Nàng cùng Tề Vương đợi đến đêm khuya, khoảng bốn canh giờ sau, tên tôi tớ đó mới tỉnh lại.

Lúc này nàng mới thở phào nhẹ nhõm, nhận lấy lọ thuốc cất vào lòng.

Tề Vương nói: "Thuốc này tác dụng rất nhanh, Công chúa chỉ cần nắm bắt đúng thời cơ là có thể cứu được Phò mã."

Nàng không nói gì thêm, chỉ lạnh lùng liếc hắn một cái rồi lập tức cáo từ.

Khi tin tức Phạm Bình bị ban chết lan truyền khắp triều đình và dân gian, không ai có mấy phần chấn động.

Chỉ có Ngự Sử Đài Thị ngự sử Trần Hâm là tỏ ra khá bất bình, cho rằng Phò mã Phạm Bình đã vì đại nghĩa diệt thân, có lòng yêu dân, sao có thể xử tử hình.Nhưng lời này không được chấp thuận, vì Phạm Bình là phận con, thời bấy giờ thiên hạ trọng đạo hiếu, phàm kẻ nào tố cáo phụ mẫu có thể bị phạt từ ba năm tù khổ sai đến xử tử bêu đầu mà không được tha nhẹ.

Tề Vương chính là dựa vào điều này để xin ban chết cho Phạm Bình.

Thánh chỉ của Hoàng đế được ban xuống rất nhanh, trong bối cảnh Thái tử mưu phản, việc ban chết cho Phạm Bình dường như trở thành một biện pháp "giết gà dọa khỉ" của vị phụ hoàng này, hòng trút bỏ nỗi đau và sự tức giận của mình.Thế nhưng khi ông ta thẩm vấn Thái tử, người con trai này lại không khỏi lộ vẻ bi thương và oán hận, chỉ trích ông ta làm bộ làm tịch, giả vờ thâm tình, khiến Hoàng hậu u sầu không vui.

Trước là Miêu Quý phi, sau lại là Trương Quý phi, thân là Thái tử, hắn ta luôn phải cẩn trọng, sợ sơ suất một bước nào.

Thái tử nói đến đây, dường như có chút điên loạn, mắng chửi vua cha là Hoàng đế, lúc Miêu thị còn tại thế đã để mình và Miêu thị tranh giành, đến khi Miêu thị suy yếu lại có thế lực của Tề Vương nổi lên, liên tục chèn ép mình.

Lời đấy đã hoàn toàn vạch trần bộ mặt giả tạo của Hoàng đế, phơi bày ra một vị đế vương vô tình nhơ nhớp nhưng lại tự cho là có tình.

Hoàng đế bị hắn ta chọc giận, ho sù sụ.

Thái tử thì lại cười phá lên.

Hắn ta vốn được người đời ca tụng là một vị thái tử nhân hậu, nhưng sự nhân hậu này chỉ dành cho bậc đế vương, trở thành công cụ thống trị thiên hạ, chứ không thuộc về Đông Cung.

Từ đó, hai cha con trở nên bất hòa.

Tề Vương cũng nhân cơ hội này để lôi kéo các triều thần, ra sức đàn áp Thái tử, cuối cùng khiến Hoàng đế trong cơn thịnh nộ đã ban cho Thái tử án mãn môn sao trảm [2].[2] Hình phạt giết hết cả nhà, tịch thu gia sản.

Lúc đó, đã qua ba tháng kể từ ngày Phạm Bình qua đời.

Nàng sững sờ nghe tin này, không nửa phần xúc động, nhưng tay cầm bút lại siết chặt, bắt chước nét chữ của Phạm Bình, viết nên bức thư nhận tội đó.

Thái tử đã chết, thế lực của Tề Vương không thể ngăn cản, nhưng không phải là không có cơ hội.

Nàng lấy ra chiếc ngọc bội kim thiền ngọc diệp trong hộp, trên đó có treo một chùm tua rua ngọc châu màu tím, là món quà Phạm Bình tặng năm nào.

Nàng thay bộ cung trang, cài ngọc bội vào thắt lưng, theo bước chân nàng ra khỏi phủ, mọi người đều có thể thấy rõ miếng ngọc bội đó.

Sau khi vào cung, nàng đến tẩm điện của Hoàng đế.

Lúc này Tiết Cô đang giữ chức vụ quan trọng trong cung, Hoàng đế bệnh nặng, cũng có Tiết Cô ở bên chăm sóc.

Đó là sau khi nàng cầu xin cho Tiết Cô, nàng đã giả truyền lời của Thái tử, mượn tay Hoàng hậu để cất nhắc người này.

Hoàng hậu chả chút nghi ngờ.

Trong mấy năm sau đó, Tiết Cô quả không phụ sự phó thác của nàng, phấn đấu hết mình trong thâm cung, được lòng các vị cung quyến, ngay cả Trương Quý phi cũng rất mực tin tưởng.Không cần nghi ngờ gì nữa, nó đã là một trợ lực cực lớn giúp nàng có thể dùng thân phận hoàng nữ tránh mặt Trương Quý phi, túc trực bên giường của Hoàng đế.

Hoàng đế thực ra đã không còn mấy ấn tượng về nàng, người con gái sớm đã hạ giá này đối với ông ta chỉ như người xa lạ, mãi cho đến khi ông ta nhìn thấy chiếc ngọc bội trên thắt lưng nàng, bấy giờ mới sực nhớ ra, đây là con gái của Miêu Quý phi năm nào.

Ông ta nhất thời không biết nói gì.

Vị Hoàng đế già nua dường như lúc gần đất xa trời mới nhận thấy mình chưa từng đối xử tốt với người con gái này.

Ông ta buột miệng hỏi: "Sao lại nghĩ đến thăm ta?"

Nàng ngồi trước giường, cúi đầu nhìn ông ta với vẻ e lệ: "Bệ hạ... không muốn con đến sao?"

Hoàng đế thoáng sững lại, nhíu mày suy tư rồi nói: "Không phải, chỉ là con đã xuất giá, sao lại đột nhiên vào cung?"

Vừa dứt lời, nàng bỗng cúi đầu, khóc nức nở.

Hoàng đế không khỏi ngồi thẳng dậy, nhíu mày hỏi: "Sao lại khóc, ai bắt nạt con à?"

Nàng ra sức lắc đầu, ngẩng lên nhìn vị phụ hoàng trước mặt, khóe mắt ngấn lệ, cổ họng nghẹn ngào, trông vô cùng đáng thương: "Trước đây con vì Phò mã mà đau lòng, có phần oán trách Bệ hạ, nhưng bây giờ đã hiểu ra nhiều điều, nên mới thấy thương cho Bệ hạ."

Hoàng đế hồi tưởng lại, người con gái trước mặt mình không lâu trước đây vừa mới xin ban rượu độc, tự tay giết phu quân mình, nhất thời cảm khái, vươn tay vỗ nhẹ lên đầu nàng: "Ta nghe nói con và Phạm Bình tình sâu nghĩa nặng, việc ban chết cho hắn chắc hẳn khiến con rất đau lòng, ta không trách con.

Nhưng con nói thương ta, là vì chuyện gì?"

Nàng lau đi giọt lệ, nhẹ giọng nói: "Con giết Phò mã, cũng như Bệ hạ giết Thái tử, tuy quốc pháp là trên hết, không thể không làm, nhưng nỗi đau trong lòng, sao có thể để người ngoài biết được.

Vì thế mà con lại nhớ đến chuyện năm xưa Bệ hạ xét nhà diệt tộc đại tướng quân Miêu thị.

Tuy đó là ngoại tổ phụ của con, nhưng con còn nhỏ, không hiểu chuyện nhiều, lại bị người ngoài xúi giục, cũng từng vì chuyện này mà nghi ngờ oán hận.

Nhưng đến tận hôm nay, nếm trải đủ mùi đời ấm lạnh, mới biết Bệ hạ cũng có nỗi khổ riêng.

Bệ hạ không thích con, cũng là điều dễ hiểu.

Mà nay Bệ hạ bệnh nặng, thân là con cái, sao có thể còn mang lòng oán hận Bệ hạ.

Làm vua làm cha cũng thật khó.

Con chỉ mong, nếu Bệ hạ cho phép, có thể ở bên cạnh Bệ hạ để làm tròn đạo hiếu.

Bệ hạ, con có thể... gọi người một tiếng 'cha' được không?"

Tiếng nói nàng tha thiết, dường như mỗi lời đều xuất phát từ tận đáy lòng.

Hoàng đế không khỏi nhớ lại những lần mình nổi giận và ghét bỏ nàng trước đây.

Mười mấy năm trôi qua, đâu ngờ nàng cũng có thể thông suốt, thấu hiểu được nỗi khổ của ông ta.

Không khỏi cảm khái mà mềm lòng, ông ta dịu dàng vuốt ve gáy nàng, nói: "Ta vốn là cha của con, đương nhiên mong con có thể gọi ta như vậy."

Nàng lập tức nở nụ cười, lại có phần rụt rè, khẽ gọi: "...

Cha."

Hoàng đế thở dài, nhìn chiếc ngọc bội trên thắt lưng nàng, nói: "Thật hiếm khi con còn giữ vật này."

Nàng hơi ngẩn ra, nhìn ngọc bội rồi ngạc nhiên hỏi: "Bệ hạ biết lai lịch của vật này sao?"

Hoàng đế hỏi lại: "Con không biết sao?"

Nàng vừa lắc đầu vừa gật đầu, trong ánh mắt khó hiểu của Hoàng đế, nàng chậm rãi giải thích: "Vật này là do Hoàng hậu ban cho khi con hạ giá.

Hoàng hậu nói, đây là vật của mẫu thân con, nên con luôn đeo trên cổ, không chỉ để nhớ mẫu thân, mà còn để biết ơn sự chăm sóc của Hoàng hậu bao năm qua."

Nghe nàng đột nhiên nhắc đến Hoàng hậu, Hoàng đế liền lộ vẻ đau buồn, trong tiếng ho khan, giọng nói phảng phất bi thương: "Thật hiếm khi con có lòng như vậy, còn nhớ ơn của Hoàng hậu.

Ngọc bội này, là vật ta tặng cho sinh mẫu con khi bà ấy gả cho ta.

Sau này bà ấy mất, vật này bị cất đi, nào ngờ Hoàng hậu lại nhớ đến, tặng lại cho con.

Có thể thấy Hoàng hậu lòng dạ từ bi, con được bà ấy nuôi nấng, ta rất yên tâm.

Con không giống sinh mẫu, không có vẻ kiêu căng, ngang ngược như vậy, ta rất an lòng."

Nàng cúi đầu nhìn Hoàng đế, trông hoàn toàn đồng tình, nói: "Lời dạy của Hoàng hậu con luôn ghi nhớ trong lòng, không dám quên.

Trước đây Thái tử điện hạ cầu mối lương duyên ấy cho con, con còn có chút hờn trách, bây giờ xem ra, Thái tử điện hạ cũng giống như Hoàng hậu, đều vì muốn tốt cho con."

Tiếng nói vừa dứt, sắc mặt nàng bỗng tái nhợt, vội vàng lùi lại quỳ trước mặt Hoàng đế: "Tạ Lam lỡ lời, kính xin Bệ hạ thứ tội!"

Thái tử điện hạ không lâu trước đó vừa bị Hoàng đế ban chết, lúc này nhắc đến, rõ ràng là chạm vào vảy ngược.

Sắc mặt Hoàng đế sa sầm, nhưng thấy nàng hoảng sợ thì có phần không nỡ, liền ra lệnh nàng đứng dậy, nói: "Đứng lên đi, hắn phạm lỗi, liên quan gì đến con.

Hắn có ơn với con, con đương nhiên có thể nhớ đến hắn, ta sao có thể vì thế mà trách tội con."

Nàng hoảng sợ bái lạy thêm lần nữa, cho đến khi Hoàng đế giả vờ nổi giận mới lại đến bên cạnh ông ta.

Chần chừ một lát, nàng lại nói: "Bệ hạ, không phải con nói xằng nói bậy, chỉ là Thái tử điện hạ vốn nhân hậu, con thực sự không tin Thái tử điện hạ sẽ làm ra chuyện như vậy..."

Hoàng đế nhíu mày, ánh mắt lạnh đi.

Nàng giật mình, cúi đầu chả dám nói thêm.

Im lặng hồi lâu, Hoàng đế xua tay cho nàng lui.

Nàng đứng dậy hành lễ với Hoàng đế, đi được vài bước thì không kìm được mà quay đầu lại, bộ dạng phục tùng như thể cầu xin: "Cha... con còn có thể đến thăm người nữa không?"

Lòng Hoàng đế ấm đi, nở một nụ cười: "Con là con gái của ta, nếu muốn thăm cha mình thì có gì mà không được?"

Nàng thoáng do dự, hai tay đan vào nhau, rụt rè nói: "Con chỉ sợ vào cung bị cản trở, không thể thường xuyên gặp được cha, hầu hạ cha."

Hoàng đế trầm ngâm, nghĩ đến việc trước đây mình đã quá lạnh nhạt với người con gái này, mới khiến cho đường đường một vị công chúa vào cung mà cũng e dè nhút nhát đến thế.

Không khỏi áy náy trong lòng, Hoàng đế liền gọi nội thị đến, lệnh ban cho Nhu Gia Công chúa quyền được ra vào cung bất cứ lúc nào, không cần thông báo.

Nàng nhất thời vui mừng, nụ cười tươi rói, lại cúi đầu bái lạy Hoàng đế: "Tạ ơn cha!"

Cho đến khi ra khỏi tẩm điện đó, mọi cảm xúc trên mặt nàng đều tan biến, ánh mắt sắt lạnh, hệt như dáng vẻ hiếu thảo vừa rồi chỉ là ảo giác, chưa từng xuất hiện trên khuôn mặt nàng.

Đến một nơi kín đáo, Tiết Cô đã đợi sẵn, gọi nàng: "Công chúa."

Nàng khẽ gật đầu, chiếc ngọc bội trên thắt lưng rung rung, chói mắt dưới ánh sáng trời.

Nàng nói: "Bệ hạ tinh thần không tốt, cần ngươi chú ý nhiều hơn.

Sau này ta sẽ thường xuyên vào cung, chỗ của Trương Quý phi, nếu có tin tức gì truyền ra, ngươi phải xem qua hết, đặc biệt là tình cảm của Bệ hạ đối với Thái tử, không được để Tề Vương biết."

Tiết Cô nhận lệnh, ngần ngừ một lát rồi hỏi: "Công chúa định khi nào sẽ minh oan cho Phò mã?"

"Cứ từ từ đã," nàng nói, "Bây giờ vẫn chưa phải lúc."

Đồng tử nàng đen thẳm, mơ hồ nhìn về một phương nào đó, hai tay giấu trong tay áo, như sắp bị bấm đến bật máu.

Nàng sẽ không quên chuyện đã thẩm vấn ngày hôm đó, lời khai của tên cai ngục trong cơn kinh hoảng— "Ti chức, ti chức chỉ làm theo lệnh.

Phạm Phò mã tuy tự vẫn, nhưng song cửa sổ gỗ trên cao đột nhiên gãy nên vẫn còn thoi thóp.

Là Tề Vương đã ra lệnh siết cổ Phạm Phò mã, muốn tạo hiện trường giả Phạm Phò mã tự treo cổ..."
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 73 [Ngoại truyện]


Ngoại truyện: Công chúa (Phần mười hai)
Tin tức nàng thường xuyên vào cung hầu bệnh được giấu kín một cách cẩn thận.

Ngoại trừ cung nhân, ngoài triều khó lòng biết được vị Công chúa thuở sớm không được sủng ái này, trong lúc giúp Hoàng đế tuổi xế chiều vơi đi sầu muộn, cũng dần dà ảnh hưởng đến phán đoán của ông ta về ngôi vị thái tử tương lai.

Lúc này Tề Vương bận rộn vô cùng.

Thái tử đã qua đời, đám triều thần thấy thời tới liền lũ lượt tìm đến tỏ lòng thành, thậm chí Lễ bộ Ngô Thị lang còn chủ động dâng lời, tấu xin hoàng đế cho Tề Vương vào Đông Cung.

Sau nhiều năm im hơi lặng tiếng, vị thân vương đầy tham vọng này khó tránh khỏi nảy sinh tâm lý kiêu ngạo tự mãn.

Miêu thị tuy đã mất, nhưng Nhu Gia Công chúa dẫu sao cũng là máu mủ của vị lão thần ấy, chưa chắc đã vô dụng.

Hắn có ý gả vị Công chúa này cho một trong những tướng lĩnh từng theo chân Miêu thị năm xưa.

Đối với hắn, hôn sự của Nhu Gia Công chúa chả qua chỉ là công cụ để lôi kéo kẻ khác mà thôi.

Vì thế, hắn chưa từng nghĩ rằng vị Công chúa kia lại để tâm đến cái chết của một Phò mã đến vậy , hay nói đúng hơn, hắn căn bản không bận tâm đến sự phẫn nộ và oán hận của nàng dành cho hắn.

Tương tự, đối với vị Ngô Thị lang thuở sớm từng thân thiết với Thái tử, hắn cũng không mấy sinh nghi.

Bị thắng lợi trong tầm tay làm cho mờ mắt, Tề Vương sau một thoáng suy nghĩ liền đồng ý với lời khuyên của Ngô Thị lang , có điều ít nhất hắn vẫn còn nhớ dặn dò Lễ bộ lời lẽ đừng quá gay gắt.

Ngô Thị lang tuy là nhận lời, nhưng trong tấu chương dâng lên Hoàng đế, lại thẳng thừng và táo bạo đề nghị lập Tề Vương làm thái tử.

Khi Hoàng đế đọc được tấu chương này, ông ta không khỏi khó chịu trước thái độ nóng vội của Tề Vương, từ đó lại nảy sinh đôi chút ác cảm.

Trương Quý phi thấy vậy, rõ ràng không thể tiếp tục nói tốt cho Tề Vương nữa.

Lòng dạ nhất thời cồn cào bất an, bèn cho mời Tiết Cô đến hỏi: "Theo ý ngươi thì nên làm thế nào?"

Bà tin tưởng sâu sắc vào sự trầm ổn và thông tuệ của Tiết Cô, vì vậy có nhiều chuyện cũng hỏi ý kiến Tiết Cô.

Trước đây khi hầu bệnh trước giường vua, việc khóc thương cho Hoàng hậu cũng là do nữ tử này chỉ điểm.

Tiết Cô dâng trà cho bà ấy, vẻ mặt điềm tĩnh, khẽ khom người nói: "Thái tử vừa hoăng thệ, Bệ hạ đau buồn là lẽ thường tình.

Chỉ là hiện nay tiền triều dường như rất đề cao Tề Vương, đây cũng là chuyện có thể đoán trước.

Triều thần xu lợi, tự nhiên muốn tranh công, theo thiếp thấy, tiền triều đã như vậy, Tề Vương tốt nhất không nên lui tới trước giường vua quá nhiều, nếu không Bệ hạ nghi kỵ, ngược lại chẳng hay."

Trương Quý phi thấy sắc mặt Tiết Cô vẫn như thường, suy nghĩ một lát, cũng không nghi ngờ nhiều, bèn sai người đưa thư cho Tề Vương, báo rằng Bệ hạ đã có phần không vui, bảo hắn ít vào cung thì hơn.

Nhận được lời của sinh mẫu, Tề Vương tuy ngờ vực nhưng cũng thấy có lý, liền đồng ý.

#

Lúc nàng được nội thị thông báo vào điện, vừa hay thấy Hoàng đế đột ngột gạt phắt chén trà bên tay xuống đất, mặt mày hung hãn.

Đám cung nhân xung quanh sợ hãi lạy rạp xuống đất, không dám hó hé nửa lời.

Tiết Cô đứng bên khẽ liếc nhìn nàng, ánh mắt dừng trên mấy tập tấu chương trước bàn, tựa hồ đang ra hiệu điều gì.

Nàng thu tầm mắt lại, sau khi thỉnh an Hoàng đế bèn nhẹ giọng ra lệnh cho người dọn dẹp mảnh sứ vỡ.

Hoàng đế thấy nàng, cơn giận vơi đi đôi chút nhưng sắc mặt vẫn khó coi.

Nàng tiến lại gần vài bước, giọng đầy quan tâm: "Cha vì chuyện gì mà phiền lòng ạ?"

Hoàng đế chau mày: "Còn có thể là chuyện gì nữa, chẳng phải lại là chuyện lập thái tử sao.

Đám quan lại này không lo cho dân chúng, suốt ngày chỉ chăm chăm xem ai sẽ kế vị, chỉ sợ trẫm một ngày kia băng hà, chúng không kịp nghênh đón tân chủ để mưu lợi cho mình!"

Nàng im lặng giây lát rồi nói: "Triều chính con không hiểu nhiều, nhưng con nghĩ, cha giận dữ như vậy, có phải là đang nhớ cố Thái tử không?"

Hoàng đế khựng lại, gương mặt già nua hiện rõ, khẽ thở dài một tiếng: "Ta chỉ là không hiểu nổi, tại sao nó lại làm chuyện như vậy.

Nó đã là thái tử, lẽ nào ta có thể trường sinh bất lão sao, tại sao nó lại không chờ được."

Nàng không đáp lời, chỉ tiến lên, nhẹ nhàng xoa trán cho Hoàng đế, một lúc lâu sau mới chậm rãi lên tiếng: "Con từng may mắn được cố Thái tử chiếu cố, cố Thái tử vốn nhân đức khoan dung, cũng từng cảm thán rằng sinh trong hoàng gia, mà vẫn có được tình phụ tử bình thường như bao người với cha.

Con... thật sự không tin cố Thái tử sẽ làm chuyện như vậy."

Hoàng đế im lặng, nghiêng đầu ra hiệu cho nàng tiến lại gần, đối diện với ánh mắt nàng, ông dò hỏi: "Con cũng cảm thấy có điều đáng ngờ sao?"

Nàng thu ánh mắt, tránh đi cái nhìn của Hoàng đế, lí nhí: "Nữ nhi không dám luận bừa triều chính.

Ngày Tề Vương khám xét Phạm phủ, con cũng không tài nào tin nổi, vì vậy mới xin Tề Vương cho đi cùng.

Giờ nghĩ lại, nếu con có thể suy nghĩ thêm một chút, có lẽ Phò mã đã không..."

Việc nàng nhắc đến chuyện tự vẫn của Phạm Bình khiến Hoàng đế chấn động, dường như có một sự đồng cảm, ông ta không nén được thở dài một hơi, những nếp nhăn trên mặt như bị dao búa khắc sâu thêm vạn lần, càng trở nên trĩu nặng.

Trong điện nhất thời tĩnh lặng, cả hai gương mặt đều lồ lộ bi thương.

Đúng lúc này, một nội thị thông báo, Ngự Sử Đài Thị ngự sử Trần Hâm có việc gấp cầu kiến Bệ hạ.

Nàng lập tức cúi người hành lễ cáo lui.

Quốc sự khẩn cấp, Hoàng đế cũng không giữ lại.

Khi bước ra khỏi cung điện, nàng khẽ nghiêng đầu, ánh mắt thoáng giao nhau với vị Thị ngự sử trẻ tuổi cung kính kia, sau quay đi chẳng một lần ngoảnh lại.

Theo lời cung nhân, hôm đó sau khi Hoàng đế tiếp kiến Trần Ngự sử thì vô cùng tức giận, long thể vốn đã khá hơn cũng vì thế mà suy sụp.

Điều này làm cho một số triều thần thầm lo lắng, sợ rằng Hoàng đế sẽ băng hà, bởi vậy họ ra sức dâng tấu xin vua lập thái tử.

Tuy không nhắc đến việc để Tề Vương kế vị, nhưng lời lẽ đều ám chỉ rằng 'chủ thiếu quốc nghi [1]', vẫn nên chọn bậc hiền tài đức độ để lên ngôi.[1] Một thành ngữ mang ý nghĩa nước có vua nhỏ tuổi lòng dân ắt sinh nghi kỵ.

Ngữ cảnh ở đây không phải để chỉ về một người cụ thể mà là một lời cảnh báo về tương lai, nếu không có người kế vị trưởng thành thì người nối ngôi (nếu có) sẽ còn non trẻ, hoặc tệ hơn là không có ai, dẫn đến tranh giành, hỗn loạn.

Khoảng bốn năm ngày sau, nàng lại vào cung, xin được ra khỏi thành đến đạo quán để cầu phúc tế tự cho Hoàng đế.

Hoàng đế cảm kích lòng hiếu thảo của nàng nên không ngăn cản.

Nàng lấy tay áo che mặt, giọng đầy bi thương: "Cha nay đang bệnh, con vốn không nên rời đi, chỉ là con không phải thái y, có ở lại bên giường cha cũng chỉ thêm lo, e rằng sẽ khiến cha thêm phiền lòng.

Lần này đến đạo quán cầu phúc cho cha, chỉ mong trời cao rủ lòng thương, để cha khỏe lại."

Hoàng đế cảm thấy an ủi bội phần, người ta thường nói máu mủ tình thâm, ông ấy hiển nhiên cũng không hề nghi ngờ tấm lòng của vị Nhu Gia công chúa này.

Trái lại, ông tự thấy hối hận vì trước đây đã giận cá chém thớt với nàng.

Nhưng dẫu sao ông vẫn là Hoàng đế, không hề để lộ cảm xúc đó ra ngoài, chỉ khá xa cách dặn dò vài câu đi đường cẩn thận.Nàng tỏ vẻ cảm động, giọng đầy xúc động, gọi: "Cha bảo trọng..."

#

Người chờ đợi ở đạo quán là vị Lương đệ của cố Thái tử, Phùng đại gia.

Nàng hỏi người trước mặt: "Đại gia thật sự không trở về sao?"

Phùng đại gia mỉm cười: "Năm xưa nhờ Công chúa cứu giúp mới giữ được mạng, hoàng thành kia quỷ quyệt, ta thật không muốn quay lại nữa."

Nàng cũng không khuyên nữa, chỉ nhờ vả: "Xin đại gia chỉ dạy cho Giang nương tử."

Phùng đại gia gật đầu, nụ cười trên mặt không thuyên giảm, tận cho đến khi nàng quay gót đi được vài bước, Phùng đại gia bỗng gọi nàng lại: "Công chúa."

Nàng dừng chân, quay lại nhìn đối phương, hỏi: "Chuyện gì?"

Nụ cười trong mắt Phùng đại gia vơi đi đôi chút: "Ta không trách Công chúa, ngược lại, chính Công chúa đã cho ta thấy rõ bộ mặt thật của hắn.

Tấm chân tình trước lợi ích chẳng đáng một xu.

Ban đầu hắn dụ dỗ ta, nhưng lại không muốn chịu trách nhiệm, không chịu tranh giành.

Đến khi ta bị ép làm lương đệ của thái tử, hắn lại đến lừa gạt ta, khiến ta tưởng rằng có thể có cơ hội bên nhau.

Mấy năm nay, được Công chúa chiếu cố, ta vô cùng cảm kích.

Trong mắt Công chúa, mối quan hệ giữa ta và hắn có thể là một con bài lợi dụng, ân oán giữa chúng ta, đến đây là hết."

Nàng đứng trơ như phỗng, hiếm khi lộ vẻ bối rối.

Chuyện của Phùng đại gia và Sở Vương, quả thực có nàng đứng sau giật dây.

Nàng không cảm thấy mình sai, lợi dụng mọi thứ có thể lợi dụng, đó là điều Tề Vương đã cảnh báo nàng từ lúc đầu khi họ lập giao ước.

Chỉ là nhìn người phụ nữ trước mặt đã được trần thế gột rửa trở nên thông suốt, nàng đột nhiên cảm thấy mình thật hèn hạ, rốt cục nàng là người như thế nào?

Phùng đại gia thấy nàng im lặng, cụp mắt, khẽ thở dài một tiếng, nói: "Công chúa yên tâm, những lời này, những chuyện này, ta sẽ mãi mãi chôn chặt trong lòng, tuyệt đối không để ai biết."

Nàng chau mày, hỏi: "Chuyện ta muốn làm, có khiến cô khó xử không?"

Phùng đại gia cười cười: "Có gì khó xử đâu, đó là đứa trẻ bị họ ruồng bỏ, không ai mong nó sống.

Nếu nó có thể đường đường chính chính xuất hiện trước mặt họ, khiến họ khó chịu, thì coi như là sự trả thù của ta vậy.

Dù sao trên đời này, chẳng có người đàn ông nào trân trọng tấm chân tình của một người phụ nữ.

Cái gọi là giang sơn thiên hạ, trung nghĩa hiếu đễ, nhưng trong gia đình ấy, lại chẳng hề có bóng dáng của nữ tử, ta hà cớ gì phải làm mẫu thân của một người như vậy."

Nàng im lặng không nói, tâm tư của Phùng đại gia, nàng không tài nào biết được, nàng chỉ chợt nghĩ, có lẽ Miêu Quý phi không muốn gặp nàng cũng là vì lẽ đó.

Nàng lặng lẽ rời đi, đến một khoảng sân khác thì thấy cậu bé kia mặt mày giận dữ, đẩy người nữ tử bên cạnh ra, quát: "Ngươi không phải mẹ ta, ta muốn gặp mẹ ta!"

Nàng đứng lại một lát, khẽ gọi: "Tam lang."

Cậu bé quay đầu lại, ánh mắt đầy xúc động, chạy đến ôm lấy chân nàng, ngửng mặt cầu xin: "Cô mẫu, con muốn gặp mẫu thân, người cho con gặp mẫu thân đi."

Nàng xoa đầu cậu bé, bất giác nhớ lại cảnh tượng ở phủ thái tử, ở Phạm phủ khi dỗ dành nó, trái tim chợt nhói vị chua xót tận cùng, cổ họng run run: "Tam lang, từ nay về sau, người này chính là mẫu thân của con."

Nàng dời mắt về phía nữ tử đứng sau cậu bé, dung mạo người này rất giống Phùng đại gia, đó là người thay thế mà nàng đã sai người tìm kiếm từ dân gian sau khi Phùng đại gia từ chối về kinh, tên là Giang Cửu Chương.

Có lẽ do số phận, vị Giang nương tử này lại vừa hay là một linh nhân, rất giỏi diễn kịch.

Lúc này Giang Cửu Chương đứng nghiêm trang tại chỗ, thoáng nhìn qua khó mà phân biệt được người này với Phùng đại gia, điều đấy làm nàng có chút hài lòng.

Trong khoảng thời gian ngắn ngủi kia, vị Giang Cửu Chương đã bắt chước được thần thái của Phùng đại gia đến mức này, thật đáng kinh ngạc.

Cậu bé tức giận, đẩy mạnh nàng một cái, gắt lên: "Cô ta không phải mẫu thân con!

Cô mẫu, con nhận ra mẫu thân mà, tại sao người lại lừa con!?"

Nàng cúi mắt nhìn cậu bé, bình tĩnh nói: "Tam lang, ta không lừa con, từ nay về sau, con phải xem cô ta như mẫu thân của mình, tuyệt đối không được nói những lời như vậy nữa."

Cậu bé vẫn không chịu, vừa khóc vừa giận dỗi chạy đi, nàng hơi ngửng mắt, ý bảo cho Giang Cửu Chương đuổi theo.

Giang Cửu Chương khẽ khom lưng rồi lập tức bám sát bóng dáng đứa trẻ, giọng hô Tam lang cũng rất giống với Phùng đại gia.

Nàng lại đứng thêm một lúc lâu, hướng về phía kinh thành, sóng mắt lạnh như băng.

Một tháng sau, Tiết Cô gửi thư đến, Hoàng đế ít ngủ hay mơ, rất nhớ Hoàng hậu, Trần Ngự sử cảm thấy án mưu nghịch của Thái tử có nhiều điểm đáng ngờ, Hoàng đế tỏ rõ vẻ hối hận.

Nàng đốt hết thư từ, tại trong một đêm mưa, đưa Giang Cửu Chương và Tam lang về kinh, yết kiến Hoàng đế.

Hoàng đế trông còn già nua hơn lúc nàng rời đi, đôi mắt đục ngầu ẩn hiện tia máu, thần sắc không giấu được sầu muộn: "Xem ra việc cầu phúc của con cũng không giúp ta được trời cao đoái thương, lại khiến bệnh tình của ta nặng thêm."

Nàng lắc đầu lia lịa, bày nét sầu bi, xúc động nhìn Hoàng đế, ngập ngừng lên tiếng: "Cha, có một chuyện, con không biết có nên làm không, có nên nói không, đã do dự hơn nửa tháng mà không dám thưa với cha.

Đến khi về kinh, thật sự trong lòng không đành, đã tự ý quyết định, nay đặc biệt đến xin cha phán quyết."

Hoàng đế hỏi: "Con có chuyện gì?"

Nàng thoáng do dự, lẳng lặng lại gần, thì thầm: "Lúc con cầu phúc, đã gặp được Phùng Lương đệ và con trai Phùng Lương đệ, người mà được cho rằng đã bị hổ tha đi."

Hoàng đế kinh ngạc: "Chuyện này có thật không, con đã điều tra chưa, có phải là Phùng Lương đệ không?"

Nàng chau mày tỏ vẻ khó xử: "Con tuy không thân thiết với Phùng Lương đệ lắm, nhưng vẫn còn nhớ cô ấy.

Hơn nữa qua hỏi han điều tra, cô ấy quả thực là Phùng Lương đệ không sai.

Đứa trẻ kia, hiện nay khoảng chín tuổi, con thoáng nhìn qua, quả thực có vài phần giống cố Thái tử..."

Hoàng đế im lặng một lúc lâu, trong mắt chất chứa tia sáng, nhưng rồi lại dập tắt, than nhẹ: "Chuyện này, tạm thời đừng làm lớn.

Trước tiên hãy mời vài người trước đây có qua lại với Phùng Lương đệ đến hỏi thăm, nếu xác nhận không sai thì tìm một lý do, nuôi dưỡng dưới gối của con, làm con nuôi của con vậy."

Nàng cúi đầu đáp: "Vâng."

Sau khi lui ra khỏi điện, nàng gọi Tiết Cô đến, dặn dò: "Đi báo cho Trương Quý phi, con trai của cố Thái tử vẫn còn sống, Bệ hạ đã cho người bí mật tìm về, có ý định phục hồi thân phận hoàng tôn cho nó."

Tiết Cô đâm ra do dự, hỏi: "Một khi báo cho Trương Quý phi, cũng đồng nghĩa với việc báo cho Tề Vương biết Công chúa năm xưa không giết Phùng Lương đệ, Tề Vương tất sẽ biết Công chúa phản bội mà đề phòng.

Công chúa, có phải là quá sớm rồi không?"

Nàng lắc đầu: "Ta mượn cớ rời kinh, e rằng hắn đã nghi ngờ.

Trước đây chẳng qua là do hắn quá tự mãn, ngỡ rằng ngôi vị thái tử trong tầm tay mà xem nhẹ ta.

Đợi đến khi hắn nghĩ thông suốt, sẽ biết ta không toàn tâm với hắn, tất sẽ phản công, lúc này đưa hoàng tôn ra, tự nhiên sẽ có kẻ khác để hắn đối phó."

Tiết Cô ngẫm ngợi một lát thì bật hỏi: "Ý người là...

Sở Vương?"

Nàng không trả lời, nhưng chắc chắn rằng người quen thuộc nhất với Phùng Lương đệ hiện nay, chính là vị Sở Vương đó.
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 74 [Ngoại truyện]


Ngoại truyện: Công chúa (Phần mười ba)
Thực ra nàng không tài nào hiểu nổi con người của Sở Vương.

Hắn phong lưu, có thể dễ dàng chiếm được trái tim của một nữ tử, nhưng lại xem nữ tử như xiêm y, tùy ý vứt bỏ.

Ấy vậy mà đối với huynh đệ bằng hữu, hắn lại hết lòng hết dạ.

Khi Thái tử bị kết tội, chỉ có một mình Sở Vương vì đó mà khổ sở cầu xin, dù bị phạt cũng vẫn thẳng thắn can gián.

Dẫu không thể hiểu được tâm tư của hắn, nhưng may mắn là đối với đứa con mồ côi của Thái tử, vị Sở Vương này lại vô cùng lo lắng, đến mức chẳng giấu được khí thế sẵn sàng vào sinh ra tử.

Có lẽ đàn ông trên đời này luôn có những kỳ vọng khó tả đối với phụ thân, và sự xuất hiện của Sở Vương vừa hay đã xoa dịu được trái tim của vị hoàng tôn nhỏ tuổi, để rồi trong tương lai, trở thành vốn liếng và chỗ dựa cho nó chống lại chính người cô mẫu của mình.

May mắn là đối với Giang Cửu Chương, Sở Vương không dám lại gần quá nhiều.

Điều này có lẽ xuất phát từ sự áy náy, hoặc cũng có thể là hổ thẹn, nhưng dù sao đi nữa, chính nhờ sự tồn tại của Sở Vương mà thân phận hoàng tôn của đứa trẻ đã được xác nhận.

Điều đấy chả khác nào khiến Trương Quý phi muôn phần căng thẳng.

Khi một lần nữa hỏi Tiết Cô về phương cách giải quyết, bà ta đã nghe theo lời đối phương, hỏi dò liệu có thể để hoàng tôn cho mình hoặc Tề Vương nuôi dưỡng hay không.

Giang Cửu Chương và con trai Thái tử trở về kinh thành trong bí mật.

Hoàng đế thực ra không có ý định phục hồi thân phận cho đứa trẻ , vậy mà lúc này Trương Quý phi lại đường hoàng đề xuất, khiến Hoàng đế vô cùng tức giận, cho rằng bà ta có ý cài nội gián bên cạnh mình, bèn hạ lệnh cấm túc, thậm chí còn gieo rắc sự nghi ngờ này lên cả người Tề Vương, dần dà tỏ thái độ bất mãn với hắn trong triều.

Không lâu sau, bức thư nhận tội mà Phò mã Phạm Bình để lại đột nhiên xuất hiện, được trình lên Ngự Sử Đài.

Thư rằng đại nạn ở Tương Châu có Tề Vương đứng sau giật dây, khiến người ấy lầm tưởng Thái tử cấu kết với phụ thân mình, nhất thời hồ đồ mà phạm phải sai lầm lớn, vì muốn bảo toàn cho Phạm phủ mà dâng lên huyết thư, mong được khoan hồng cho tội của phụ thân.

Nào ngờ Tề Vương lại nhân cơ hội này hãm hại Thái tử.

Người ấy biết mình khó thoát tội, nhưng lại đẩy Thái tử vào cảnh bất trung bất hiếu, bởi vậy đã tự vẫn để lại thư mong Bệ hạ minh xét.

Lời lẽ này vừa tung ra, lập tức khiến cả triều và dân gian chấn động.

Hai cha con Phạm thị trong ngục vì một mực khẳng định không tham gia mưu nghịch cùng Thái tử nên bị giam đến tận bây giờ, tới khi bức thư này xuất hiện, mọi mũi nhọn lập tức chĩa về phía Tề Vương, thêm vào đó là vô số tội chứng cũng dần dần lộ ra.

Hoàng đế ở Sùng Minh Điện nức nở không ngớt, mắng nhiếc Tề Vương lòng lang dạ sói, lập tức hạ lệnh bắt giam hắn.

Có lẽ vì vết xe đổ của Thái tử, cuộc điều tra về Tề Vương càng sâu càng tỉ mỉ, nhưng dù điều tra thế nào, tội chứng vẫn rành rành, nhân chứng cũng vô cùng đầy đủ.

Tuy nhiên, bản thân Tề Vương lại một mực không nhận tội, và còn chỉ ra rằng đây là âm mưu hãm hại của Nhu Gia Công chúa.

Hoàng đế vì thế mà nổi trận lôi đình, cho rằng một thân vương đường đường lại đổ tội cho một Công chúa không có quyền thế, thật đáng căm hận.

Sau một tháng điều tra, Hoàng đế ban cho Tề Vương cái chết, và đày Trương Quý phi đến hoàng lăng.

Tội mưu nghịch của Phạm phủ được rửa sạch, nhưng tội tham ô vẫn còn đó.

Dưới sự dàn xếp của Lâm tướng, họ bị phán lưu đày.

Sau biến cố này, Hoàng đế đổ bệnh nặng, trong nỗi ân hận và đau khổ, đã hạ chỉ phục hồi thân phận hoàng tôn cho đứa con mồ côi của cố Thái tử, và lập cậu bé làm trữ quân.

Vào một đêm đông nọ, trong tẩm điện, trước giường Hoàng đế đặt một chậu than.

Lúc này, Hoàng đế nói năng đã không rõ ràng, trong miệng lẩm nhẩm những cái tên mà một cung nhân già nua nhận ra, đó là tên của Hoàng hậu và Thái tử.

Vị Hoàng đế già nua hồ đồ này, cho đến lúc lâm chung, người mà ông ta canh cánh trong lòng vẫn là thê tử và đứa con trai thời niên thiếu của mình, nhưng oái oăm thay, tất cả đều vì ông ta mà chết.

Nàng mang theo cả gió tuyết mà đến.

Sau khi cho các cung nhân lui ra, nàng ngồi trước giường của Hoàng đế, lặng lẽ nhìn ông ta.

Ánh mắt nàng vô cùng sắt lạnh, chừng như trước mặt lúc này đã là linh đường, và Hoàng đế đã được an táng.

Hoàng đế mở đôi mắt đục ngầu, bỗng thấy một luồng khí rét từ đỉnh đầu tràn xuống khắp người, không khỏi cất tiếng: "Trời lạnh thế này, còn đến làm gì."

Nàng hờ hững liếc ông ta một cái, nói: "Chỉ là muốn đến thăm Bệ hạ một chút thôi."

Nàng lại gọi ông ta là Bệ hạ, không còn mảy may thân thiết hay e dè nào.

Dáng vẻ khao khát tình phụ thân mà nàng tạo ra trước đây đã tan biến hoàn toàn, viên hương gây cay mắt giấu trong tay áo cũng bị nàng vứt bỏ.

Nàng không cần phải đóng vai một nữ nhi hiếu thảo nữa.

Hoàng đế không khỏi căng thẳng, cố gượng dậy khỏi giường, nhưng cuối cùng chỉ có thể bất lực nằm lại, hơi thở gấp gáp.

Lần đầu tiên, ông ta cảm thấy một tia hoảng sợ.

Qua hình bóng của nữ tử trước mắt, ông ta chừng như lại thấy được Miêu đại tướng quân năm xưa từng bước ép mình, khiến ông ta phải rùng mình một cái, run rẩy gọi cung nhân: "Người đâu!

Người đâu!"

"Suỵt," nàng đặt ngón tay lên môi, khẽ lắc đầu, "Bệ hạ, gió tuyết lớn như vậy, dù là âm thanh gì cũng không thể truyền ra ngoài đâu."

Hoàng đế giận dữ quát: "Hỗn xược!

Ngươi muốn làm gì!?"

Thần sắc nàng vẫn bình thản, không mảy may dao động: "Nghe thái y nói, bệnh nan y của Bệ hạ khó chữa, e rằng không qua khỏi được dạo này rồi.

Ta chỉ muốn trước khi Bệ hạ băng hà, làm tròn trách nhiệm của một người con, ai dám nói không phải phép chứ?"

Sự kiêu ngạo của một hoàng đế, cũng là của một người cha, một người đàn ông, đã khiến ông ta chưa bao giờ nhìn thẳng vào người con gái này.

Khi đột nhiên nghe nàng trả lời như vậy, điều ông ta thể hiện đầu tiên không phải là sợ hãi, mà là sự tức giận vô biên, tức giận vì một công chúa nhỏ nhoi lại dám thách thức uy quyền của mình: "Nghiệt súc, ngươi muốn tạo phản sao!

Trẫm cho ngươi một cơ hội cuối cùng, lập tức cút ra ngoài, gọi cung nhân trở lại, nếu không trẫm nhất định sẽ trừng phạt ngươi thật nặng!"

Nàng im lặng, hàng mi nhẹ đổ bóng xuống gò má.

Chậu than trước giường cháy rực, loại than củi hoàng thất dùng dù cháy cũng tỏa ra mùi thơm thoang thoảng.

Hai mắt nàng dõi theo một mẩu tro tàn rơi xuống, rồi trở nên u tối vô cùng.

Nàng từ tốn nói: "Bệ hạ, Bệ hạ đã từng nếm trải cảm giác không thể làm chủ vận mệnh của mình chưa?"

Hoàng đế bỗng giật mình, hỏi: "Ngươi muốn nói gì?"

Giọng điệu nàng đều đều, như thể đang nói một chuyện không quan trọng: "Thực ra ta không muốn tranh giành gì cả.

Dù là dưới gối mẫu thân, hay được Hoàng hậu nuôi dưỡng, đối với ta cũng không có gì khác biệt.

Ta chỉ hy vọng được trân trọng, được đối xử như một con người độc lập, nhưng các người đều không cho ta cơ hội đó."

Hoàng đế hờ hững: "Là một công chúa, cẩm y ngọc thực [1], ngươi còn có gì không hài lòng?"[1] Ăn ngon mặc đẹp.

Nàng lặng một lúc, rồi nói: "Đúng vậy, là một công chúa, đủ để hưởng hết vinh hoa phú quý.

Nhưng những thứ đó đều đến từ Bệ hạ.

Bệ hạ có quên không, khi ta còn nhỏ, vì chuyện của mẫu thân mà bị Bệ hạ ghét bỏ, cung nhân phần lớn không muốn đến bên cạnh ta hầu hạ.

Dù ta có hết lòng đối tốt với họ, thứ ta nhận lại cũng chỉ là sự phản bội không được thấu hiểu."

Hoàng đế nói: "Một đám cung nhân, đáng để ngươi ghi hận đến tận bây giờ, làm ra chuyện đại nghịch bất đạo như vậy sao?

Dù trẫm có không thích ngươi, nhưng Hoàng hậu thì sao, Hoàng hậu chưa bao giờ bạc đãi ngươi!"

"Hạt giống của sự nghi ngờ và oán hận một khi đã gieo xuống thì rất khó xóa bỏ," nàng nói, "Bệ hạ không hiểu sao?

Thái tử, Tề Vương, họ chết đều là do sự nghi ngờ của người.

Còn sự oán hận của Hoàng hậu đối với ta, là xuất phát từ quá khứ giữa người và mẫu thân ta.

Bệ hạ còn dám nói, không liên quan đến người sao?"

"Nói bậy!" hoàng đế quát, "Mẫu thân ngươi kiêu căng càn rỡ, ngoại tổ phụ ngươi ngông cuồng ngang ngược, trẫm chẳng lẽ không khổ sở, không vì thế mà căm phẫn sao?

Còn về Thái tử và Tề Vương, trẫm biết mình có chút đa nghi, nhưng suy cho cùng vẫn là chúng tự chuốc lấy.

Trẫm là quân phụ của chúng, chẳng lẽ là trẫm muốn chúng tạo phản hay sao!?"

Nàng đột nhiên bật cười, đầy mỉa mai: "Chả trách Hoàng hậu u uất không vui, có lẽ bà ấy đã nhìn thấu Bệ hạ, cho nên mới thất vọng.

Bệ hạ cho rằng mọi việc mình làm đều có lý, chưa bao giờ có nửa phần sai sót.

Họ không thể hiểu được Bệ hạ, là do họ không biết điều, phải không?"

Hoàng đế lạnh mặt như băng, môi mím chặt, dường như bị nói trúng tim đen nhưng lại không muốn thừa nhận.

Nàng cầm cái kẹp đồng bên cạnh, khều cho lửa than cháy to hơn một chút, chậm rãi nói: "Bệ hạ chưa từng nghĩ, vì sao mẫu thân ta lại nhảy hồ sao?"

Hoàng đế im lặng một lúc, rồi nói: "Ngươi bây giờ là đang vì mẫu thân ngươi mà trách trẫm sao, trẫm nói cho ngươi biết, trẫm chưa bao giờ có ý định giết bà ta!"

"Đúng vậy," nàng tiếp, ánh mắt vẫn dán vào chậu than, "Khi Miêu thị chưa suy, mẫu thân ta được sủng ái một thời, chỉ tiếc là không giữ được đứa con nào.

Mãi đến khi Miêu thị suy tàn, tẩm cung của mẫu thân vô tình bị cháy rồi xây lại, ta mới có thể ra đời ở một cung điện khác, sống đến tận bây giờ.

Những chuyện này, e rằng mẫu thân biết rõ hơn ta [2]."[2] Giải thích ở bình luận 👉Long nhan Hoàng đế trắng bệch, đã trở nên vô cùng khó coi.

Những chuyện thâm cung bí sử, những cái giá lạnh âm u dưới màn gió tuyết, tất cả đang bị ngọn lửa than này thiêu đốt, hiện ra một vết sẹo quỷ dị, vừa thê lương lại vừa nhạt nhòa.Đối với Hoàng đế, đây có lẽ là một vết nhơ, nhưng tuyệt không thể khuấy động được chút sóng lòng nào của ông ta.

Tương tự, trong lòng vị Công chúa này, mẫu thân và huynh trưởng đều quá xa vời, nên nàng chẳng tài nào cảm nhận được nỗi đau mất mát của họ.

"Làm sao ngươi biết được những chuyện này?"

Hoàng đế hỏi bằng giọng khàn đặc.Nàng quay lại nhìn ông ta: "Bệ hạ quên lời ta nói rồi sao, trận bão tuyết này lớn quá, những người mà Bệ hạ tin dùng đều bị bão tuyết cản trở, không thể hầu hạ Bệ hạ được nữa rồi [3]."[3] Tức "cơn bão chính trị" mà Công chúa tạo nên đã loại hết phe phái khác, chỉ còn người của Công chúa nên không ai giúp được Hoàng đế nữa.

Hoàng đế tức tối, đến nỗi sặc sụa một chập.

Tóc ông ta rối bù, cặp mắt đỏ ngầu, hỏi: "Ngươi... ngươi cũng muốn giết trẫm sao?

Trẫm là phụ thân của ngươi...

Trên người ngươi, chảy dòng máu của trẫm, chẳng lẽ điều đó cũng không thể ngăn ngươi lại sao?"

Nàng im lặng, sau nói: "Bệ hạ, khi Bệ hạ giết Thái tử và Tề Vương, Bệ hạ nghĩ họ là con trai của mình, hay chỉ là những kẻ phản nghịch muốn cướp đoạt quyền lực của Bệ hạ?

Hoàng đế chết sững, nhất thời không trả lời được.

Nàng chầm chậm nói: "Bệ hạ ngồi trên ngai vàng quá lâu, đã quên mất làm cha là như thế nào.

Nhưng ta không trách Bệ hạ.

Chỉ là đối với ta, Bệ hạ không phải là Hoàng đế, cũng không phải là một người cha."

"Trong mắt ngươi... trẫm là gì?"

Nàng hờ hững đáp: "Bệ hạ là chướng ngại cản trở ta giành lấy tự do.

Chỉ cần Bệ hạ... không, chỉ cần có những người như Bệ hạ tồn tại, ta sẽ không thể nào nắm giữ được vận mệnh của mình.

Thái tử cũng vậy, Tề Vương cũng thế, bọn họ đều giống như Bệ hạ, chưa bao giờ xem ta là một con người."

Hoàng đế kinh ngạc, bỗng nhớ ra điều gì, sửng sốt nói: "Đứa bé đó..."

Nàng khẽ nhếch môi, như đang an ủi ông ta: "Bệ hạ yên tâm, nó đúng là cháu của Bệ hạ, là huyết mạch của thiên gia."

Hoàng đế uể oải nằm trên giường, dường như toàn thân vô lực.

Hơi thở ông ta yếu dần, bằng một giọng điệu thê lương khó tả, ông ta hỏi: "...Ngươi là vì hận trẫm, nên mới làm ra chuyện này sao?"

Nàng lắc đầu, mặt không biểu cảm: "Ta chỉ là không quan tâm đến Bệ hạ mà thôi.

Bệ hạ là người như thế nào, đều không liên quan đến ta.

Hầu hạ Bệ hạ, cũng chỉ vì quyền lực nằm trong tay Bệ hạ."

Hoàng đế bị sự bình tĩnh lạ kỳ của nàng làm cho sửng sốt, cơn tức giận trước đó có vẻ tan biến hết.

Ông ta bỗng dưng cười phá lên, càng cười càng dữ tợn, càng cười càng đáng sợ.

Cổ họng ông ta phát ra những tiếng gầm gừ khàn đục, như một con sư tử già nua: "Sớm biết như vậy, trẫm nên giết cả ngươi một thể.

Quả nhiên là hậu duệ của Miêu thị, cùng một loại âm hiểm độc ác, không biết điều!"

Nàng chả biết phải diễn tả cảm xúc lúc này ra sao.

Hoàng đế không quan tâm đến việc vì sao nàng lại trở thành như bây giờ, có lẽ trong mắt ông ta, cái gọi là huyết thống đã quyết định mọi lựa chọn và tính cách của thế hệ sau.

Nàng trầm mặc, đứng dậy chuẩn bị rời đi, nào ngờ Hoàng đế đột nhiên lao tới.

Kinh ngạc, nàng lùi lại phía sau, đôi tay gầy guộc kia giật lấy chiếc ngọc bội kim thiền ngọc diệp trên eo nàng, vị Hoàng đế già nua với cặp mắt độc địa, giơ tay ném mạnh ngọc bội vào chậu than.

"Đừng!" nàng kêu hoảng một tiếng, vươn tay định lấy lại di vật của người ấy từ trong lửa, nhưng đã bị Hoàng đế níu lại.Con ve sầu bằng vàng trong lửa bị đốt sang màu đỏ rực, dải tua rua treo lủng lẳng trong chốc lát bị than hồng nuốt chửng, bùng lên một ngọn nhỏ.

Nàng chợt thấy một cơn nhói trong tim, nét mặt bình thản lập tức biến thành phẫn nộ, sắc lẻm nhìn Hoàng đế.

Hoàng đế chế nhạo một tiếng: "Ngươi cũng biết tức giận sao.

Ngọc bội này là trẫm tặng cho mẫu thân ngươi, dù là bà ta, e rằng cũng không thể dung thứ cho hành động của ngươi.

Nếu ngọn lửa này có thể thiêu rụi nó, e cũng là một chuyện tốt."

Ngay cả đến lúc này, ông ta vẫn tự cho mình là đúng.

Nàng nhíu mày, trong mắt hiện lên một tia ghê tởm, dùng sức giật tay về rồi thu vào tay áo, hít một hơi thật sâu, chậm rãi nói: "Bệ hạ đã thích nó như vậy, vậy thì cứ giữ lại cho Bệ hạ, ta chưa bao giờ lưu luyến nó."

Nói đoạn, nàng cầm cái kẹp đồng, lấy ra viên ngọc châu còn sót lại sau khi dải tua rua đã cháy hết, nắm chặt trong tay như một vật báu.

Nàng lạnh lùng liếc nhìn Hoàng đế một cái, rồi rời khỏi tẩm điện trong sự kinh ngạc của ông ta.

Sau đó, trong cung truyền ra tin, Hoàng đế bệnh nặng, ngoài Nhu Gia Công chúa ra thì không gặp ai khác.

Mọi việc quốc sự đều qua tay Nhu Gia Công chúa.

Trong phút chốc, vị Công chúa chưa từng được sủng ái này đã trở thành người gần gũi nhất với trung tâm quyền lực.

Triều đình và dân gian bàn tán xôn xao, nhưng điều kỳ lạ là, Ngự Sử Đài và Lễ bộ, những nơi thường xuyên dâng sớ can gián nhất, lại hoàn toàn im ắng, không hề cảm thấy hành động này có điều gì bất ổn.
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 75 [Ngoại truyện]


Ngoại truyện: Công chúa (Phần mười bốn)
Tháng hai năm Thừa An thứ hai mươi tư, Hoàng đế băng hà.

Thái tôn kế vị, đổi niên hiệu thành Thái Hanh.

Nhu Gia Công chúa được tấn phong làm Tấn Dương Đại trưởng công chúa, đồng thời được ban thưởng một phủ đệ riêng.

Cùng lúc đó, tân đế lại hết lòng tiến cử Sở Vương làm Nhiếp Chính Vương.

Triều đình tranh luận suốt nửa tháng, rốt cuộc mới định đoạt sau khi được Thái hậu chấp thuận.

Triều đại mới thay thế triều cũ một cách tương đối bình ổn, nhưng trong đại lễ đăng cơ của Hoàng đế, người ta lại không hề thấy bóng dáng của vị Tấn Dương Đại trưởng công chúa trong truyền thuyết.

Dù bấy giờ nhiều quần thần đều vô cùng tò mò về vị Công chúa tôn quý đột nhiên xuất hiện ở trung tâm quyền lực, nhưng Tấn Dương Đại trưởng công chúa đã hạ lệnh từ chối tiếp khách, nên cũng chẳng ai dám nhòm ngó hành tung của nàng.

Trái lại, tân Lễ bộ Thượng thư Ngô đại nhân thì mặt mày hớn hở, còn Hàn Lâm Học sĩ Trần Hâm thì ngày ngày kề cận tân đế, vô cùng được trọng dụng.

Lúc bấy giờ, Lâm tướng đã cáo lão về quê, kinh thành vẫn chưa nhận thức rõ ai mới là kẻ thực sự nắm quyền trong triều nên mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía Sở Vương, người được Hoàng đế xem như nghĩa phụ [1], kẻ đến bái yết nườm nượp không ngớt.[1] Cha nuôi.

Đến đầu tháng năm, phủ Tấn Dương Đại trưởng công chúa được xây xong.

Những kẻ thức thời ngửi thấy mùi không tầm thường bèn lẳng lặng dâng bái thiếp [2].

Lần này, Đại trưởng công chúa không từ chối.

Những vị quan được nàng tiếp kiến sau đó đều được thăng chức, từ đấy các quần thần mới nhận ra, vị Công chúa ẩn mình sau màn này, có lẽ không hề an phận như người ta vẫn tưởng.[2] Thiếp mời gặp mặt.

#

Trong thạch thất âm u, Đinh Lan và Uy Nhuy men theo bậc thang xuống đến tận cùng gian phòng tối, khi trông thấy hai thân thể nằm trong quan tài băng, cả hai hồn xiêu phách tán, Đinh Lan vội giục Uy Nhuy bế một người ra ngoài.

Môi Tạ Lam tím tái, toàn thân lẩy bẩy vì lạnh, ánh mắt nàng rã rời, miệng lẩm bẩm gọi tên một người.

Lòng Đinh Lan đau như cắt, vội vã khoác chiếc áo choàng rơi bên cạnh lên người Tạ Lam, một giọt lệ chực trào nơi khóe mắt.

Cô ấy ra hiệu cho Uy Nhuy đưa Tạ Lam ra khỏi thạch thất, liếc mắt nhìn thi thể trong quan tài mà không khỏi thở dài một tiếng.

Khi Tạ Lam được đưa về phòng ngủ, Đinh Lan cho người đốt một chậu than, Tạ Lam mới dần hồi sức lại, chỉ là nàng nằm trong vòng tay Uy Nhuy, lặng im không nói.

Đinh Lan do dự nửa ngày, rồi quỳ xuống trước mặt nàng, nắm lấy tay Tạ Lam, giọng nghẹn ngào: "...

Quý chủ, người hà tất phải làm vậy, Phò mã đã..."

Câu nói kia cô ấy không dám thốt ra trọn vẹn.

Hơn một năm qua, người trước mặt chưa từng để lộ nửa phần đau thương, cũng chưa từng rơi một giọt lệ.

Nếu không phải từ sau khi tân đế đăng cơ, ngày nào nàng cũng đến thạch thất thăm Phò mã, có lẽ sẽ chẳng ai nghĩ rằng, nàng vì Phò mã mà đau thương hủy hoại thân mình đến mức này.

Lần đầu tiên thấy nàng nằm trong quan tài băng, kề bên Phò mã, Đinh Lan đã sợ chết khiếp, những tưởng Tạ Lam định đi theo người ấy, hoảng hốt gọi Uy Nhuy đến bế nàng ra ngoài, cho uống canh gừng, đốt chậu than.

Thân thể lạnh băng dần ấm lại, trái tim Đinh Lan mới tạm yên.

Khi đó, Đinh Lan nghe Tạ Lam thất thần nói: "Ta vẫn không tin nàng ấy đã chết."

Đinh Lan không biết trả lời ra sao, thậm chí chả thốt lên nổi một lời an ủi, chỉ đành cúi đầu khóc nấc.

Sắc mặt Tạ Lam vương buồn bã: "Ngươi cũng vì nàng ấy mà khóc, nhưng sao ta lại chẳng thể khóc nổi."

Đinh Lan vội lắc đầu: "Nô tỳ không khóc vì Phò mã, nô tỳ khóc vì Quý chủ."

Tạ Lam hỏi: "Ta còn sống, sao ngươi phải khóc?"

Đinh Lan đáp: "Nhưng nô tỳ thấy Quý chủ dường như muốn đi theo Phò mã."

Tạ Lam "ồ" một tiếng, suy nghĩ chốc lát rồi nói: "Không đâu.

Dù ta có chết, nàng ấy cũng không trở về.

Ta chỉ là có chút nhớ nàng ấy thôi."

Những lời càng bình tĩnh, lãnh đạm bao nhiêu, lại càng khiến Đinh Lan đau lòng bấy nhiêu, càng làm cô ấy cảm thấy, Tạ Lam sẽ có những hành động điên rồ.

Và mọi chuyện đúng như cô ấy dự liệu.

Khi vị đạo trưởng được Diệu Chân tiến cử đến phủ, cô ấy gần như đã buột miệng đuổi người đi, nhưng Tạ Lam chỉ khẽ cười: "Không ngờ Diệu Chân lại thật sự tìm được ngươi rồi."

Linh Ngộ đạo trưởng thần sắc ôn hòa, thản nhiên nói: "Cư sĩ muốn tìm người có thể khiến kẻ chết sống lại, xem ra là điều viển vông."

Tạ Lam hỏi: "Ngươi có năng lực đó không?".

Linh Ngộ không đáp, chỉ bói cho Tạ Lam một quẻ rồi nói: "Vạn sự đều có cái giá của nó.

Cư sĩ muốn cầu điều gì, ắt cũng phải trả một cái giá tương ứng.

Chỉ là bần đạo đã bói cho cư sĩ, nếu không cầu xin việc này, cư sĩ sẽ có một tương lai vô cùng xán lạn, huống hồ chính duyên [3] của cư sĩ, không phải ở hiện tại."[3] Mối duyên phận đích thực do trời định.

Tạ Lam lại hỏi: "Ý của đạo trưởng là, ta và nàng ấy không phải chính duyên?"

Linh Ngộ không trả lời, chỉ nói: "Trên đời có chuyện luân hồi, dẫu không còn ký ức tiền kiếp, nhưng biết đâu người kia mới là người mà cư sĩ mong cầu."

Tạ Lam nghe ra ý trong lời này, ngẫm ngợi rồi nói: "Nhưng ta không muốn một kiếp luân hồi mà chẳng còn ký ức."

Linh Ngộ thở dài, quay sang Đinh Lan nói: "Xin các hạ thối lui, việc này không thể để người ngoài biết."

Đinh Lan bỗng ngập tràn hoảng hốt, vội vã nói: "Không được!

Đạo trưởng nói Quý chủ phải trả giá rất nhiều, Quý chủ thân phận thế nào, sao có thể bị lời nói bừa của đạo trưởng chi phối.

Nếu phải hy sinh, cứ để ta."

Linh Ngộ cười khẽ: "Người mà cư sĩ cầu xin, chưa chắc đã theo cư sĩ trở về."

Đinh Lan chết lặng.

Cô ấy đoán được người Tạ Lam muốn tìm là ai, và cũng biết rõ người đó sẽ không nghe lời mình, nhưng...

Vậy nhưng, cô ấy làm sao ngăn cản được Tạ Lam, chẳng chốc đã bị nàng hạ lệnh đuổi ra ngoài, lòng dạ cứ rối bời.

Khi trong phòng chỉ còn lại hai người, Tạ Lam hỏi: "Cái giá mà đạo trưởng nói là gì?"

Linh Ngộ bình thản hỏi lại: "Cư sĩ nghĩ người ấy có muốn trở về không?"

Tạ Lam thoáng sững người, nàng không thể chắc chắn.

Hồi lâu sau, nàng trầm giọng buông tiếng: "Dù nàng ấy muốn hay không, ta đều muốn nàng ấy trở về."

Linh Ngộ thở dài não nề: "Vậy là cư sĩ đang cưỡng cầu rồi."

Tạ Lam bất giác siết chặt tay, như đang giằng xé, song vẫn không chịu từ bỏ: "Vậy cứ coi như ta cưỡng cầu đi."

Linh Ngộ im ắng một khoảng, tiếp theo rút từ trong tay áo ra một tấm thẻ gỗ hợp hoan đưa qua, nói: "Gỗ hợp hoan có thể thông âm dương, mang nó theo bên mình sẽ giúp cư sĩ không bị lạc lối ở cõi âm.

Nhưng cõi âm có ba nghìn thế giới, cư sĩ e rằng phải tìm rất lâu mới thấy được người mình cần."

Tạ Lam nhận lấy tấm thẻ gỗ, nắm chặt trong tay, nói: "Dù bao lâu, ta cũng phải tìm được nàng ấy trở về."

"Trên đời vẫn còn kẻ si tình giống ta," Linh Ngộ buông tiếng thở dài, "Bây giờ, về cái giá phải trả, xin cư sĩ hãy nghe cho kỹ.

Người mà cư sĩ muốn tìm đã chết, theo ghi chép của cõi âm, dương thọ của người ấy đã tận, không thể ở lại nhân gian, chỉ có thể dựa vào việc kết nối với tuổi thọ của cư sĩ để kéo dài mạng sống.

Nói đơn giản, nếu dương thọ của cư sĩ là tám mươi, hai người cùng chia sẻ, thì mỗi người cũng chỉ còn lại bốn mươi năm."

Thần sắc Tạ Lam vẫn như thường: "Không sao cả.".

Linh Ngộ hơi nhíu mày, phân vân cả buổi mới tiếp: "Nhưng bần đạo cũng có điều cầu xin."

Tạ Lam thấy Linh Ngộ không còn bình thản như trước, sau một khoảng im lặng mới cất tiếng: "Dù đạo trưởng yêu cầu gì, ta đều có thể cho."

Trầm tư, rồi Linh Ngộ nói: "Bần đạo muốn ba mươi năm dương thọ của cư sĩ [4]."[4] Giải thích ở bình luận 👉 Tạ Lam bỗng giật mình, buột miệng: "Cái gì?"

Linh Ngộ cười khổ: "Cư sĩ đừng nhìn bần đạo như vậy, thực ra bần đạo đã sống mấy trăm năm, cũng giống như cư sĩ, trong lòng có người không thể buông, vậy nên mới làm cái nghề mua bán tuổi thọ này.

Nhưng nếu cư sĩ không đồng ý, bần đạo cũng không ép, cưỡng đoạt tuổi thọ của người khác ắt sẽ bị trời phạt, bần đạo không thể làm chuyện đó..."

"Cho ngươi."

"Cái gì?"

Lần này đến lượt Linh Ngộ kinh ngạc, "Cư sĩ..."

Ánh mắt Tạ Lam trầm tĩnh, không một chút do dự hay tiếc nuối: "Nếu đạo trưởng thật sự có thể để ta gặp lại nàng ấy, ba mươi năm dương thọ này, có thể cho đạo trưởng."

Linh Ngộ ngớ ra, nửa buổi mới cất tiếng cười lớn: "Cư sĩ thật là... kẻ si tình!".

Tạ Lam không đáp.

Thế nào mới là kẻ si tình, nàng không hiểu, cũng không muốn hiểu.

Nàng chỉ biết, nàng muốn gặp Phạm Bình, muốn Phạm Bình ở bên cạnh mình.

Linh Ngộ cười đủ rồi, liền lau lệ nơi khóe mắt, ôn tồn nói: "Cư sĩ, cư sĩ còn nhớ ghi chép của cõi âm mà bần đạođã nói chứ?"

Tạ Lam gật đầu.

Linh Ngộ tiếp: "Chuyện này, đa số mọi người đều không muốn.

Dương thọ của cư sĩ chưa tận, nếu chết sớm mà dung mạo không đổi, ắt sẽ khiến cõi âm nghi ngờ điều tra.

Bởi vậy, trong những năm tháng còn lại, cư sĩ sẽ già đi rất nhanh.

Ban đầu, có thể một năm già đi hai tuổi, nhưng càng về sau, tốc độ sẽ là một năm mười tuổi, mười lăm tuổi.

Khi qua đời, dung mạo của cư sĩ sẽ tương ứng với tuổi tác được ghi chép ở cõi âm, đó là để che mắt trời.

Hơn nữa, người được cư sĩ tìm về không thể rời xa cư sĩ quá xa, nếu không cũng sẽ làm cư sĩ già đi nhanh hơn.

Những điều này, cư sĩ cũng có thể chấp nhận sao?"

Bất cứ ai cũng không thể không để tâm đến việc già đi nhanh chóng, Tạ Lam cũng vậy.

Nàng cúi đầu trầm tư khoảng nửa nén nhang, hồi sau mới chầm chậm lên tiếng: "...

Vậy cũng đành chịu thôi."

Linh Ngộ ngẩn người: "Cái gì?"

Ánh mắt Tạ Lam đen kịt: "Nàng ấy sẽ nghĩ thế nào, ta không biết.

Nhưng lúc này, ta chỉ muốn nàng ấy trở về.

Những chuyện đấy, đợi nàng ấy về rồi tính sau, cũng vậy cả thôi."

Nàng đã quyết tâm nhường này, Linh Ngộ cũng không khuyên nữa.

Vốn dĩ Linh Ngộ cũng chẳng phải người lương thiện gì, trao đổi tuổi thọ của người khác để nuôi dưỡng linh hồn không thể siêu thoát trong cơ thể mình, đã là chuyện bất đắc dĩ.

Ai cũng có điều cầu mong, ai cũng là kẻ si tình.

Việc thông hành âm dương hao tổn thân thể rất lớn, một tháng chỉ có thể đi một lần, nhưng Tạ Lam lại dựa vào dược liệu của hoàng thất mà bức bách mình nửa tháng đi một lần.

Linh Ngộ khuyên can nhiều lần không được, đành mặc kệ.Điều duy nhất nàng có thể chắc chắn là vị Phạm Bình kia vẫn chưa chuyển thế, chỉ bấy nhiêu thôi đã đủ khiến Tạ Lam kỳ vọng khôn nguôi.

Thái Hanh năm thứ ba, vị Tấn Dương Đại trưởng công chúa có phần điên rồ ấy, cuối cùng cũng đã tìm thấy người mà nàng ngày đêm mong nhớ ở nơi chốn địa phủ Tam Đồ.

---Editor: Kết thúc phần ngoại truyện cổ đại rồi nhé, chương sau là ngoại truyện hiện đại và cũng là chương cuối.
 
Bhtt • Edit Hoàn • Sách Tự Bạch Của Phò Mã - Kokaku
CHƯƠNG 76 [Ngoại truyện] [KẾT]


Ngoại truyện: Chương hiện đại
Ngày gặp Lan Thư là một ngày mưa.Có một thời gian dài, hễ trời mưa là tôi lại đến viện bảo tàng đó, hy vọng có thể gặp lại Lan Thư.

Dù tôi chẳng hiểu vì sao, nhưng dường như tôi đã gặp cô ấy từ rất lâu về trước vậy.Lâm Đào bảo tôi độc thân hai mươi bảy năm cuối cùng lòng xuân cũng rung rinh rồi, chỉ hận không thể ngày nào cũng đưa tôi đi.

Tôi dở khóc dở cười, đành khuyên nó hay là đi làm bà mối cho rồi.

Thế nhưng Lâm Đào hừ một tiếng, nói: "Lạy chị, em chỉ quan tâm đến duyên phận của chị em thôi, người khác em mặc kệ!"

Nó vừa lắc tay bạn gái mình, vừa rỉ tai: "Cậu xem, chị tớ hướng nội gần cả cuộc đời, khó khăn lắm mới thích một người mà đến cả cách liên lạc cũng không có."

Bạn gái nó ái ngại dòm tôi, có chút ngượng ngùng nói: "Lâm Đào tính vậy đấy, chị đừng để bụng nhé."

Thật ra tôi có để bụng đấy chứ, tôi thật sự rất muốn gặp lại Lan Thư.

Tôi muốn biết, liệu tình yêu sét đánh và duyên phận trời định có thật sự tồn tại trên đời không.

#

Đó là ngày hai mươi lăm tháng ba, một ngày mưa.Lâm Đào kéo tôi đi xem triển lãm văn vật khai quật từ lăng mộ Tấn Dương Đại trưởng công chúa.

Giới sử học nghiên cứu về vị Đại trưởng công chúa này rất ít.

Sử sách ghi lại bà là một vị công chúa ngang ngược, khuynh đảo triều chính, kết bè kết phái với triều thần, hãm hại trung lương, gây họa cho thiên hạ.Nhưng qua những văn vật được khai quật, mọi người lại biết đến một vị Đại trưởng công chúa hoàn toàn khác.

Trong lăng mộ, ngoài những vật tùy táng theo quy chế hoàng gia, phần lớn là bộ "Nữ sử" được khắc trên vách đá ở tầng dưới của hầm mộ, ghi lại sự tích của vô số nữ tử kiệt xuất qua các triều đại, điều mà sử sách không hề có.Người được hợp táng cùng vốn dĩ phải là Phò mã Phạm Bình của bà.

Nhưng theo các nhà khảo cổ học, cả hai thi thể đều là nữ.

Đồng thời, trên tấm bia đá dưới thân Công chúa tiết lộ rằng vị phò mã này thực chất là một nữ tử cải nam trang.Phát hiện ấy gần như làm chấn động toàn bộ giới sử học, khiến người ta nghi ngờ tính xác thực của sử sách.

Sao lại phải biến một người phụ nữ thành một người con trai hiếu thảo gánh tội thay cha?

Các nhà sử học tranh luận không ngớt nhưng vẫn chưa có kết luận.Phần lớn các nhà sử học nam cho rằng đây là sự độc đoán của Đại trưởng công chúa, rằng bà ham mê nữ sắc, cố tình vứt bỏ thi thể Phò mã Phạm Bình để hợp táng cùng sủng cơ của mình.

Nhưng luận điểm này không vững, bởi không lâu sau đó, khi lăng mộ của Phò mã Phạm Bình được mở ra, bên trong vẫn là một người phụ nữ.Tôi nghĩ có lẽ Tấn Dương Đại trưởng công chúa đã sớm biết mình và vị Phò mã Phạm Bình kia sẽ bị hậu thế xuyên tạc, vậy nên mới để lại bằng chứng.

Chỉ tiếc rằng, cuối cùng họ vẫn không thể được ghi vào sử sách.Cùng với những di vật của Tấn Dương, còn có bộ thư họa của một nữ thư họa gia tên Lý Chất Nô được bảo quản đặc biệt, bà ấy cũng là người biên soạn "Nữ sử".

Đáng tiếc thay, kể từ khi biên soạn bộ sử, dường như bà ấy chỉ sống được vỏn vẹn mười lăm năm, bằng đúng khoảng thời gian Tấn Dương nắm quyền trong triều.

Có lẽ họ là bạn bè, nhưng điều này cũng không thể khảo chứng được.Tôi đã đứng rất lâu trước những tác phẩm thư họa của Lý Chất Nô.

Tranh và chữ của bà ấy vô cùng xuất sắc, phần lớn là tranh sơn thủy với ý cảnh rộng lớn, khoáng đạt, lại kết hợp hài hòa giữa bút pháp tả thực và tả ý, giúp người xem cảm nhận được phong thái của thời đại đó.

Lòng tôi bất giác nhộn nhạo những nỗi buồn man mác, lịch sử ngàn năm trước sẽ không ghi lại sự tích của họ, ngay cả sự thật cũng bị che giấu.

Nếu những tác phẩm này tồn tại ở thời đó, liệu chúng có bị gán cho một người đàn ông vô danh nào đó không?

Trong số những vật phẩm mà Tấn Dương trân quý, còn có một con dấu khắc bốn chữ – Tạ Cầu Bình Ấn.

Tôi nhớ đến vị nữ phò mã của bà ấy tên là Phạm Bình, không biết có liên quan gì không, nhưng các nhà sử học đều nhất trí cho rằng đó là cái tên mà phụ hoàng của Tấn Dương, Mục Hoàng đế, đặt cho bà, với ý nghĩa mong cầu những lời bình công minh, chính trực.Họ nói rằng ngài chắc hẳn rất sủng ái người con gái này, nếu không thì không thể giải thích được việc Tấn Dương sau này khuynh đảo triều chính.

Giữa lúc thất thần, tôi chợt cảm thấy có ai đó vỗ nhẹ vai mình.

Tôi tưởng là Lâm Đào, nhưng khi quay đầu lại, tôi bất ngờ bắt gặp một người phụ nữ đang đưa cho tôi một chiếc khăn tay.

Thời buổi này, rất ít người còn dùng khăn tay.

Người đó mặc một chiếc sơ mi lụa, cổ đeo một sợi dây chuyền bạc, mái tóc dài qua vai, điểm trang nhẹ nhàng, đường nét gương mặt thanh tú, mang theo một nụ cười nhẹ.

Tôi ngẩn ngơ nhìn chiếc khăn tay, không vội nhận ngay.

Người ấy hơi cong mày, giọng như đùa: "Cảm động đến thế sao?"

Tôi giật mình: "Gì cơ?".

Cô ấy chỉ vào mắt tôi: "Xem triển lãm mà cảm động đến phát khóc luôn à."

Lúc này tôi mới hoàn hồn, đưa tay lau khóe mắt mới nhận ra mình đã khóc tự lúc nào.

Chính tôi cũng không hề hay biết.

Trong không khí ẩm ướt của ngày mưa, nước mắt dường như khó mà nhận ra.

Tôi đứng đó mang chút bối rối, nhất thời chẳng biết phải trả lời thế nào.

Cô ấy lại đưa chiếc khăn tay lên một chút, ý như thể nếu tôi không nhận, cô ấy sẽ không rút tay về.

Như có ma xui quỷ khiến, tôi nhận lấy chiếc khăn lau đi nước mắt.

Chiếc khăn tay có chất liệu mềm mại, chạm vào má không hề cảm thấy thô ráp.

Tôi đương do dự có nên trả lại cho hay không thì cô ấy đã thu tay về, cười mà rằng: "Cứ giữ đi, biết đâu chúng ta còn gặp lại."

Chắc đây cũng chỉ là một câu nói đùa thôi.

Tôi ngập ngừng giây lát rồi hỏi một câu vô cùng ngớ ngẩn: "Cô cũng đến xem triển lãm à?"

Vừa nói ra tôi đã hối hận.

Cô ấy phì cười thành tiếng, hồi sau như nhớ ra đây là viện bảo tàng, vội vàng nén giọng xuống, song đôi vai vẫn khẽ run lên.

Tôi lập tức xấu hổ vô cùng, lí nhí nói một câu: "Xin lỗi."

Cô ấy quay đầu nhìn tôi: "Tại sao lại xin lỗi?"

Lúc này tôi mới nhận ra tròng mắt cô ấy đen tuyền.

Mắt người thường đều có chút sắc nâu, nhưng cô ấy thì khác, đen đến mức khiến người ta không thể rời mắt.

Phải nói sao nhỉ, có một sức hút kỳ lạ, cũng có thể là vì cô ấy quá xinh đẹp.

Chúng tôi nhìn nhau khoảng hai phút, sau thì cô ấy hỏi: "Sao cô lại khóc?"

Tôi ngẩn ngơ, nhíu mày suy nghĩ rất lâu cũng không nghĩ ra được lý do gì.

Cuối cùng, tôi đành nói: "Chắc là vì thấy những tác phẩm này quá xuất sắc, tôi cảm thấy mình không thể nào sánh bằng."

Cô ấy lại cười, hỏi tôi: "Ồ, cô là người khắc ấn triện à?"

Tôi vội vàng lắc đầu: "Không phải..."

"Ừm?"

Giọng cô ấy mang theo một sự vui vẻ vút cao, "Vậy thì là gì?"

Tôi nói: "Tôi tạm được xem là một nhà thư pháp."

Mắt cô ấy sáng lên: "Nhà thư pháp ư?

Giỏi thật đấy."

Tôi không đoán được ý nghĩa của câu nói này, là trêu chọc hay là thật lòng khen ngợi.

Nhưng tôi chẳng đào sâu thêm, chỉ nói: "Trong giới thư pháp... tôi cũng có chút danh tiếng."

"Tôi biết," cô ấy nói, vẫn với nụ cười trên môi, "Lâm Tri, tôi từng thấy trên tin tức."

"Thật sao?"

Tôi cảm thấy vui mừng đang len lỏi, nhưng nhanh chóng kìm nén lại.

Dẫu sao thì việc tự khoe khoang cũng là một điều đáng xấu hổ.

Ngay khi cô ấy gật đầu, tôi vội vàng chuyển chủ đề: "Tôi vẫn chưa hỏi tên cô, cô tên là..."

"Lan Thư," cô ấy nói, "Lan trong Lan Đình [1], Thư trong thư pháp."[1] Một địa danh lịch sử và văn hóa cực kỳ nổi tiếng của Trung Quốc, gắn liền với kiệt tác thư pháp "Lan Đình Tập Tự" của Vương Hi Chi.

Một cái tên rất hay, nhưng tôi không dám nói ra, chỉ nói: "Lan Thư, chiếc khăn này, tôi giặt sạch rồi sẽ trả lại cô, hay là chúng ta trao đổi phương thức liên lạc nhé..."

"Tôi phải đi rồi," cô ấy ngắt lời tôi, nhìn ra ngoài cửa, nơi dường như có người đang đợi.

Cô ấy lấy làm ái ngại chỉ vào chiếc đồng hồ nữ trên cổ tay, nói: "Tôi còn có việc, chỉ là tiện đường ghé qua thôi, lần sau gặp lại nhé."

Dứt câu, cô ấy liền đi vội trên đôi cao gót thấp, người ở ngoài cửa dường như tỏ vẻ không vui với cô ấy.

Cô ấy có lẽ đang xin lỗi rồi nhanh chóng cùng người đó biến mất ở cổng viện bảo tàng.

Lúc Lâm Đào tìm thấy tôi, tôi vẫn còn cầm chiếc khăn tay.

Nó dòm tôi, rồi lại dòm ra ngoài cửa, đưa tay huơ huơ trước mặt tôi: "Chị?

Nhìn gì thế?"

Tôi hoàn hồn, cảm nhận được tai mình nóng bừng, nhét chiếc khăn vào túi, lắc đầu: "Không có gì..."

Lâm Đào không tin, trong nhiều ngày sau đó nó cứ lựa lời dò hỏi chuyện xảy ra hôm ấy.

Cuối cùng, tôi không chịu nổi sự dai dẳng của nó, đành phải kể hết.

Nó che miệng, ôm lấy bạn gái mình xoay vòng: "A a a a a a, chị tôi yêu rồi!"

Tôi: "..."

Tôi chắc chắn không thể thừa nhận cuộc gặp gỡ mười mấy phút đó là yêu đương.

Nhưng Lâm Đào đã mặc định cô Lan Thư kia là bạn gái của tôi, hễ gặp ai cũng khoe một câu.

Tôi sợ chết khiếp, đành nhờ bạn gái nó khuyên can, cô bé lại nghiêm túc nhìn tôi nói: "Chị ơi, em nghĩ đã đến lúc chị nên yêu đương rồi đấy."

Tôi: "..."

Cá mè một lứa.

Nhưng dù tôi không thừa nhận, ấn tượng của tôi về Lan Thư lại không hề phai nhạt.

Thế là tôi bắt đầu viện cớ để đến viện bảo tàng, một phần vì tôi rất thích thư họa của Lý Chất Nô, một phần, tôi thực sự có chút muốn gặp lại cô ấy.

Internet khó mà giấu được một người, nhưng tôi không muốn tìm cô ấy bằng cách này.

Nếu cô ấy không chút ấn tượng nào về tôi, thì những hành động ấy của tôi chính là làm phiền người ta rồi.

Tôi bất giác cảm thấy mình chắc chắn sẽ gặp lại cô ấy, vì cô ấy đã nói, lần sau gặp lại nhé.

Cái "lần sau" đó là một tháng sau, tại viện bảo tàng, vào một ngày mưa, trước con dấu Tạ Cầu Bình Ấn.

Cô ấy đổi sang một chiếc sơ mi màu xanh lam, tóc buộc đuôi ngựa, trông thật đáng yêu.

Bước đến bên cạnh tôi một cách tự nhiên như thể đã quen biết từ lâu, cô ấy hỏi tôi: "Đợi tôi à?"

Tôi lần nữa chìm trong bối rối, không biết phải nói gì với nữa, chỉ đành đưa chiếc khăn tay đã giặt sạch qua: "Không có, chỉ là đến để học hỏi thôi."

Cô ấy "ồ" một tiếng, không nhận lấy, cặp mắt đen láy chằm chằm vào tôi: "Nếu tôi nói tôi đến để gặp cô thì sao?"

Trái tim tôi như bị thứ gì đó lấp đầy một cách vô cớ, cảm giác chừng như không thể kìm nén được nụ cười chỗ khóe môi, tôi cố lắm để tỏ ra bình thản: "Cô nghĩ tôi sẽ tin sao?"

Cô ấy không bày thái độ gì, tựa hồ không vui, tôi đột nhiên cảm giác hoang mang, nhưng lúc này mà hỏi xin số liên lạc thì quá đường đột.

Không khí nhất thời trở nên căng thẳng, tôi gần như muốn bỏ chạy thì lúc này cô ấy lại lấy điện thoại ra, cúi đầu gõ vài cái, hỏi tôi: "Số điện thoại bao nhiêu?"

"Cái... cái gì?" tôi ngơ ngác hỏi một câu.Cô ấy ngửng mặt nhìn tôi: "Số điện thoại, của cô."

Dù mừng thầm khôn xiết, tôi vẫn bình tĩnh đọc số của mình.

Nhìn cô ấy chăm chú nhập số, tôi bỗng dưng rất muốn mời cô ấy cùng đi ăn trưa, hoặc ăn tối cũng được.

"Cô đói chưa?" cô ấy lại hỏi.

Tôi theo bản năng muốn lắc đầu, nhưng rồi nắm chặt tay, gật đầu: "Cũng hơi đói."

Cô ấy "ừm" một tiếng: "Vậy cùng đi ăn trưa nhé, sẽ không làm phiền việc... học hỏi của cô chứ?"

Giọng điệu này đầy tinh nghịch, như thể đã nhìn thấu lời nói dối vụng về của tôi.

Tôi chẳng còn lý do gì để từ chối: "Không sao, tôi đã đến đây nhiều lần rồi."

Cô ấy gật đầu: "Được, lần sau đến thì gọi tôi."

Tôi ngạc nhiên hỏi: "Cô cũng muốn đến học hỏi à?"

Cô ấy bật cười: "Không phải, tôi chỉ muốn đến gặp cô thôi."

Nhất thời, tôi chả biết phải hó hé ra sao, cô ấy lại tiến sát gần hơn một chút, chớp chớp mắt, trời ạ, người này đáng yêu quá.

Cô ấy nói: "Sao cô không lên mạng tìm tôi, tôi cũng nổi tiếng lắm đấy."

Đầu tôi rối bời bời, suy nghĩ một lát thì trả lời: "Như vậy không hay cho lắm..."

Cô ấy gật đầu: "Ừm, sự dè dặt đặc trưng của les."

Tôi lập tức nóng bừng hai má: "Tôi không phải...".

"Hửm?"

Cô ấy cứ chằm chặp vào tôi như vậy, "Không phải gì?"

Tôi nhìn quanh, lí nhí thốt ra: "...les..."

"Ồ," cô ấy trông có vẻ hơi thất vọng, nói, "Nhưng tôi thì có đấy."

Lần này thì tôi thật sự phải cứng họng.

Chuyện xu hướng tính dục, có ai lại nói với một người mới gặp một lần không?

Cô ấy đứng im một lát, tiếp theo bước ra ngoài hai bước.

Tim tôi đập thót một cái, định ngăn lại thì cô ấy dừng bước, quay đầu hỏi tôi: "Không đi sao?"

Tôi ngơ ngác: "Gì cơ?"

"Ăn cơm chứ sao," cô ấy cười, "Vừa nãy cô đồng ý rồi mà."

Ờ....

Bữa trưa có hơi gượng gạo, chúng tôi không nói chuyện với nhau câu nào.

Tôi cảm thấy hơi căng thẳng, thế nhưng cô ấy lại chẳng mảy may tỏ ra không tự nhiên, cứ như thể... chúng tôi đã quen nhau từ rất lâu rồi.

Sau đó, cô ấy lại đề nghị đưa tôi về nhà.

Tôi nghĩ chúng tôi vẫn chưa thân đến mức đó, tuy vậy tôi biết mình không muốn từ chối.

Ngồi ở ghế lái, ánh mắt cô ấy luôn hướng về phía trước, trong xe vang lên giai điệu piano nhẹ nhàng.

Chúng tôi lại chìm vào tĩnh lặng, mãi cho đến khi chỉ còn cách nhà tôi mười mấy phút, cô ấy đột nhiên cất tiếng hỏi tôi: "Lâm Tri, cô có tin vào tình yêu sét đánh không?"

Tôi đăm chiêu một lát, nhìn vào gò má nghiêng của cô ấy, tim bỗng đập nhanh hơn, khẽ nói: "Tin."

Khóe môi cô ấy cong lên, không quay đầu nhìn tôi, còn giọng nhuốm vui vẻ: "Vậy thì, tôi đã yêu cô ngay từ cái nhìn đầu tiên rồi."

Tôi ngạc nhiên hỏi lại: "Tại sao?"

Cô ấy nói: "Chắc là vì nhìn cô khóc, tôi cảm thấy rất buồn." ...Mất mặt quá đi mất.

Nhưng cũng hơi bực dọc: "Tôi cũng đâu có cố ý khóc đâu."

Tiếng cười cô ấy hòa cùng giai điệu piano, nghe thật du dương.

Cô ấy bảo: "Ừm, cho nên tôi muốn trở thành người có thể an ủi cô."

Rốt cuộc thì có mối quan hệ nhân quả nào ở đây chứ....

Tôi không trả lời, cô ấy lại hỏi tôi: "Có muốn thử hẹn hò không?".

Chắc chắn là đùa thôi, có điều tôi phát hiện ra mình lại hơi tin là thật.

Nghĩ một lát, tôi nói: "Nếu tôi nói tôi không thích phụ nữ thì sao?"

Xe đột ngột xóc nảy một cái, cô ấy giảm tốc, nhân lúc phía trước không có xe bèn quay đầu nhìn tôi một cái, hệt như đang chất vấn.

Thế là tôi đành chịu thua: "Được thôi, tôi đúng là thích phụ nữ, nhưng sao cô lại chắc chắn tôi sẽ thích cô?"

Giọng cô ấy mừng rơn, ngỡ như là một người rất kiên định: "Tôi cũng đâu có nói nhất định phải bắt cô thích tôi, nhưng nếu cô độc thân, tại sao tôi lại không thể thử theo đuổi cô?" ...Được thôi.

Nhưng hôm đó tôi đã không đồng ý, và cô ấy cũng không hỏi lại nữa.

Khi về đến nhà, Lâm Đào từ trong phòng chạy ra reo lên: "Trời ạ, chị tìm được một tổng tài hệ ngọt ngào thẳng thắn rồi à?"

Tôi lặng người: "...Đây là từ lóng mới trên mạng à?"

Nó thản nhiên: "Ờ, người hiện đại dán nhãn cho dễ giao tiếp hơn thôi."

Tôi hiếm khi thấy hứng thú: "Vậy chị là gì?"

Lâm Đào nhíu mày, nghĩ nghĩ ngợi ngợi, sau chỉ vào tôi: "Một nhà thư pháp 'chị đại' hướng nội?"

"...Chị không hướng nội."

Dĩ nhiên câu này chính tôi cũng không tin.

Lâm Đào lại hỏi: "Chị có thích cô ấy không?"

Tôi hơi mệt mỏi, chả biết phải giải thích thế nào: "Mới gặp hai lần thôi mà."

Lâm Đào hỏi dồn: "Lần sau khi nào gặp?"

Tôi: "Chưa biết, xem cô ấy khi nào rảnh."

Lâm Đào lập tức phấn khích: "Chị thấy chưa!

Chị có ý với người ta mà không thừa nhận, em khuyên chị nên ra tay sớm đi, bằng không với cái tính hướng nội của chị thì phải mấy trăm năm nữa mới tìm được bạn gái đấy!"

Lâm Đào thực sự rất quan tâm đến chuyện tình cảm của tôi.

Nó ôm xiết cánh tay tôi, nũng nịu như hồi nhỏ: "Chị sao không yêu đi, không phải có rất nhiều em khóa dưới thích chị sao?"

Nó hỏi có vẻ nghiêm túc, nhưng tôi thực sự không thể cho nó một câu trả lời chắc chắn.

Suy nghĩ một lát, tôi nói: "Không biết nữa, có lẽ chị cảm thấy một mình cũng tốt."

Lâm Đào cười gian xảo: "Hoặc là, người chị chờ chính là cô tổng tài ngọt ngào thẳng thắn kia."

Nó vừa nói vừa lắc lắc chiếc điện thoại trong tay, chỉ cho tôi xem những tin tức về Lan Thư, thổi phồng cô ấy lên tận mây xanh, nào là nữ doanh nhân trẻ tuổi nhất, vân vân.

Lan Thư nói đúng, chỉ cần tìm kiếm một chút là có thể thấy thông tin về cô ấy rồi.

Nhưng tôi không biết, điều duy nhất tôi có thể chắc chắn là, gặp được cô ấy là một chuyện cực kỳ vui vẻ, và trái tim tôi mách bảo rằng, tôi hy vọng sẽ được gặp lại cô ấy.

Đêm đó trời lại mưa, chiếc khăn tay kia tôi vẫn chưa trả lại cho Lan Thư.

Ngơ ngẩn nhìn trần nhà, lòng tôi cứ xoắn tít những mối tơ vò.

Lần sau gặp lại....

Hay là thử hẹn hò nhỉ.

Ý nghĩ đó nhanh chóng bị tôi gạt đi.

Lần sau, rồi lần sau nữa, tôi vẫn không hề nhắc đến chuyện đấy với Lan Thư, và cô ấy cũng chẳng nói gì thêm.

Chúng tôi qua lại với nhau bằng một mối quan hệ mờ nhạt, không giống bạn bè.

Mãi cho đến ba tháng sau, tôi hẹn cô ấy đến viện bảo tàng, trước con dấu kia, tôi hỏi Lan Thư: "Chúng ta... là mối quan hệ gì?"

Cô ấy trầm ngâm một cách nghiêm túc: "Quan hệ mập mờ."

"...Ý cô là sao?"

Cô ấy không trả lời, chỉ hỏi tôi: "Cô thích tôi à?"

Đối với câu hỏi này, tôi không kể cho cô ấy biết rằng thực ra tôi đã suy nghĩ rất lâu, lâu đến mức chỉ cần cô ấy hỏi, tôi có thể trả lời không chút do dự: "Thích."

Cô ấy tỏ vẻ ngạc nhiên, sau đó nhanh chóng đổi sang vẻ mặt tinh nghịch: "Tại sao?"

Tôi trông về cô ấy, cực kỳ nghiêm túc: "Ở bên cạnh cô, dường như trái tim trống rỗng của tôi cuối cùng cũng được lấp đầy, có lẽ tôi đã chờ đợi cô, nên mới không chấp nhận lời tỏ tình của bất kỳ ai."

Dứt câu, tôi chợt thấy khóe mắt mình ươn ướt.

Tôi không hề có ý định khóc, nhưng nước mắt lại cứ thế tuôn rơi.

Từng lời nói của cô ấy dường như lúc nào cũng chạm đến trái tim tôi, khiến tôi chìm đắm.

Cô ấy ôm lấy hai má tôi, từng chữ từng chữ, vô cùng thâm tình và nghiêm túc nói: "Chúng ta hẹn hò đi."

---[HẾT]---

Editor: ▪️Lam trong Tạ Lam đồng âm với Lan trong Lan Thư.▪️Lâm trong Lâm Tri nghĩa là rừng cây.

Đối lập với kiếp người trôi nổi như lục bình của Phạm Bình, rừng cây mang ý nghĩa của vững chãi, ổn định, có gốc rễ.▪️Tri trong Lâm Tri có nghĩa là "biết", "thấu hiểu", "tri kỷ".

Cái tên này tượng trưng cho điều mà Phạm Bình khao khát nhất nhưng chưa bao giờ có được một cách trọn vẹn ở kiếp trước: sự thấu hiểu.

Ở kiếp này, Lâm Tri được biết đến với tư cách là một nhà thư pháp tài năng, và đã tìm được Lan Thư, người thực sự thấu hiểu và yêu thương mình.▪️Còn một chi tiết cài cắm mình đã bình luận ngay trong truyện rồi.After credit tới đây kết thúc rồi, cảm ơn bà con đã đồng hành cùng tôi tới tận đây 🫶 chứ tưởng tăng xông quá gãy hết luôn rồi á 🤣
 
Back
Top Bottom