Tâm Linh BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
384930856-256-k615722.jpg

Bạch Thoại Phật Pháp
Tác giả: ThanhDong223
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm.

Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày.

Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí.

Khởi dậy Phật tánh của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta.

Mời quý vị đón đọc bài giảng Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư.

Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:
"Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử (họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Con xin cảm tạ Bồ Tát".

Sách Bạch Thoại Phật Pháp Phật hữu in ra đọc dùng bìa đỏ hoặc vàng, tuyệt đối không được đánh dấu vào sách, nếu câu từ nào cần nhớ thì ghi vào điện thoại hoặc ghi ra vở riêng, không được gạch hay đánh dấu trong quyển đã in.

Ghi vào điện thoại hay ghi ra sổ cũng là 1 cách để rèn tâm và ghi nhớ lời khai thị.

Khuyến khích các phật hữu phát tâm in ấn Bạch Thoại Phật Pháp gieo duyên cho người tu, công đức vô lượng, làm đúng lý đúng pháp, cầu Bồ Tát gia trì trước khi in ấn, và in bìa đỏ hoặc vàng, nội dung không được phép thêm bớt.​
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 31. GIỮ VỮNG CHÁNH NIỆM RỜI XA LỪA DỐI 1/4/2020


Tập 31.

GIỮ VỮNG CHÁNH NIỆM RỜI XA LỪA DỐI 1/4/2020

Quý vị quá chấp vào những gì bản thân mình đang có và những gì mình đã làm nên, một khi mất đi, quý vị sẽ trở nên rất yếu đuối.

Quý vị quá chấp vào những gì mình đã làm sai, "Tại sao cho đến hôm nay tôi vẫn chưa sửa được tật xấu của mình", một khi quý vị đã không sửa đổi tốt, thì sẽ làm tăng năng lượng tiêu cực của bản thân và khiến cho nội tâm của quý vị trở nên rất yếu đuối.

Hy vọng rằng tất cả mọi người có thể tiêu trừ nghiệp chướng, tăng Phước Huệ, và học Phật bất kể thuận cảnh hay nghịch cảnh.

Quý vị là người quang minh, trong tâm quý vị là cả một bầu trời, cho dù đó là phiền não trong xã hội, nhân gian, gia đình, hay bị người khác phỉ báng, bị đối xử tệ, bị đố kị với quý vị đi chăng nữa, thì những điều đó cũng giống như một ngọn lửa bùng cháy trong không trung mà thôi, ngọn lửa rất nhanh đã lụi tàn rồi.Ở nhân gian muốn có nhân duyên, có phước, có quý nhân, thì phải quảng kết thiện duyên.

Muốn tu tâm tu đạo, tu thoát lục đạo thì phải giữ vững Chánh niệm.

Chánh niệm là gì?

Chánh niệm là Bồ-đề tâm và từ bi tâm của quý vị.

Vì vậy, phải tuân theo lời dạy của Đức Phật, tôn trọng lòng từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, tích phước tích đức, quảng kết thiện duyên và cứu độ tất cả chúng sinh ở nhân gian.

Như vậy quý vị mới có thể 1 kiếp tu thành, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi.Một người ở nhân gian, thiện căn là quan trọng nhất, phước đức là gốc rễ của sự tu tâm, nhân duyên và phước đức là mối liên hệ gắn kết với nhau.

Nếu quý vị có phước đức thì quý vị mới có được thiện duyên.

Nếu quý vị có ác niệm và ác ý trong đời trước vậy thì quý vị sẽ có ác duyên trong đời này.

Nếu chúng ta muốn về thế giới Tây Phương Cực Lạc thì phải tu thoát Lục Đạo, trong "Kinh A Di Đà" có nói "không thể thiếu thiện căn, phước đức, nhân duyên", chúng ta phải có thiện căn thì mới có được phước đức, nhân duyên, và trước hết phải trở thành một người có phước ở nhân gian.

Hiện nay có rất nhiều đệ tử được nghe thấy Phật Pháp, người nào cũng tu tâm niệm kinh, quý vị là những người có phước.

Người có phước thì ít bệnh tật, ít phiền não, cộng thêm sự từ bi phù hộ độ trì của Quán Thế Âm Bồ Tát, thì quý vị mới có thể tu thành - nhân thành tức Phật thành.

Mọi người hãy nhớ, làm sao có được phước duyên, làm sao có được Phật duyên, tất cả đều là duyên phận.

Nguyện lực càng mạnh, thì thiện duyên của quý vị tự nhiên quy tụ.

Người có thể giữ giới thì thân tâm an định, không sợ hãi,

nhờ giữ giới mà được định, nhờ định mà mở được tuệ, thì tâm mới có thể chứa đựng hư không (Tâm bao thái hư).Thầy kể cho mọi người nghe một câu chuyện Phật giáo, từ đó có thể nhận được rất nhiều sự giác ngộ của đạo Phật rằng "Nhân thành tức Phật thành".

Ngày xửa ngày xưa, tại thành Ba-la-nại thuộc đất nước Kashi (伽尸Jiā shī), có một vị Bà-la-môn tên là Phất-Lô-Hê (弗卢醯Fú lú xī) (Bà-la-môn là bậc quý tộc), dưới quyền của ông có 500 đệ tử và là một quốc sư được mọi người kính trọng.

Một ngày nọ, một người hầu trong gia đình Phất-Lô-Hê sinh được một cậu con trai tên là Ca-La-Ha (迦罗呵Jiā luō hē).

Ca-La-Ha từ nhỏ đã có thiên phú, thông minh lanh lợi, trí nhớ đặc biệt tốt, phàm là nghe qua được những gì cũng đều ghi nhớ.

Cậu ta ở trong nhà Quốc sư làm người hầu cho con cái của các bậc quý tộc.

Năm này qua năm khác, ngày này qua ngày khác, cho đến một hôm, đứa trẻ này mâu thuẫn với một trong những đứa con của các bậc quý tộc khác trong nhà, trong cơn tức giận đã bỏ trốn khỏi thành Ba-la-nại và đi đến các nước khác.Khi Ca-La-Ha đến nước láng giềng, cậu ta nghĩ: "Mình phải làm sao đây?

Mình là thân phận gì đây?"

Vì vậy, cậu ta nói dối rằng mình là Da-Nhược-Đạt-Đa (耶若达多Yé ruò dá duō/Yajn~adatta) - con trai của người Bà-la-môn, cậu là người đã rời xa quê hương và đặc biệt đến đây để học Pháp Bà-la-môn từ vị quốc sư này.

Quốc sư nước láng giềng vô cùng cảm động, nghĩ "con nhà quyền quý như vậy đến để học hỏi mình", nên ông đồng ý ngay lập tức.

Không ngờ chàng Ca-La-Ha thông minh lanh lợi đã từng nghe pháp Bà La Môn khi còn ở Ba-la-nại, nay còn được nhận thêm sự dạy dỗ của Quốc sư, tất nhiên cậu ta đã hiểu hết và biểu hiện rất xuất sắc.

Thành tích của cậu ta đều tốt, cậu nhỏ hiểu chuyện lại rất thông minh, quốc sư rất vui mừng, không chỉ giao cho cậu ta dạy dỗ 500 đệ tử, mà còn hứa gả đứa con gái duy nhất của ông cho cậu ta.

Kể từ đó, cuộc sống của Ca-La-Ha dần trở nên sung túc, đủ đầy và hạnh phúc.

Nhưng Ca-La-Ha, người đang ở trong phúc, nhưng không những không biết đủ mà còn thường xuyên chê bai những bữa ăn do vợ nấu không hợp khẩu vị của mình.

Người vợ tốt bụng không một lời phàn nàn, thậm chí còn sẵn sàng học hỏi chế độ ăn uống ở quê hương Ba-la-nại của cậu ta, để làm hài lòng chồng.Sau đó, Phất-Lô-Hê biết được tung tích người hầu Ca-La-Ha của mình, nên đã lên kế hoạch ra nước ngoài để bắt cậu ta.

Vào ngày này, Ca-La-Ha tình cờ đang đi du lịch cùng các đệ tử của mình thì từ xa nhìn thấy Phất-Lô-Hê và nhóm của ông ta đang tiến về phía mình, "Ai da, còn gì tệ hơn nữa" cậu ta hớt hãi không

thôi, vội vàng xua đuổi các đệ tử đi cùng: "Tất cả mọi người mau rời đi, nhanh chóng rời đi".

Ngay sau đó, chính cậu ta đã đến trước mặt Phất-Lô-Hê, đảnh lễ cúi lạy và van xin một cách cay đắng: "Tôi đến đây nói dối rằng ông là cha tôi, để tôi dựa vào quốc sư của đất nước này để học kinh điển, tôi đã cưới con gái của ông ấy, xin đừng tiết lộ bí mật của tôi, tôi nhất định sẽ phụng dưỡng ông trong tương lai".

Phất-Lô-Hê là người chính nghĩa, ông ta cho rằng Ca-La-Ha đã ăn năn nên sẽ không truy xét nữa và còn nói an ủi cậu ta: "Con đúng là con trai của ta!" rồi cùng Ca-La-Ha về nhà.

Ngay khi bước vào nhà, Ca-La-Ha đã nói với gia đình rằng họ hàng của cậu đã đến thăm mọi người.

Vợ của Ca-La-Ha vui mừng khôn xiết và chuẩn bị đủ loại cao lương mỹ vị để chiêu đãi Phất-Lô-Hê.Sau bữa ăn, nhân lúc Ca-La-Ha đi vắng, vợ Ca-La-Ha đợi đúng thời điểm, hỏi riêng Phất-Lô-Hê rằng: "Con lo cơm nước ba bữa, phục vụ chồng nhưng anh ấy không hài lòng, mong lão nhân có thể chỉ bảo cho con.

Trước đây Da-Nhược-Đạt-Đa thích ăn món gì ở nhà, con sẵn sàng học và nấu cho anh ấy ăn".

Phất-Lô-Hê nhìn thấy tấm lòng chân thành của vợ Ca-La-Ha, khổ sở vì Ca-La-Ha quá kén chọn - ông nghĩ, làm sao một người hầu có thể đối xử với người khác như vậy?

Ông ta rất tức giận nên nói với vợ của Ca-La-Ha: "Ta dạy con một phương pháp, nếu như cậu ta còn chê bai thức ăn không ngon, con có thể ở bên cạnh cậu ta thì thầm bài kệ này, con hãy nghe cho rõ:Vô thân du tha phương Khi cuống thiên hạ nhân Thô thực thị thường thực Tế thực phục hà hiềm Bài kệ này rất đơn giản:Một đứa trẻ không có người thân đi đến một nơi khác (nước khác) và lừa dối người trong thiên hạ, nói rằng nó là con của ai, là quý tộc, và ngũ cốc thô anh ăn cũng là thức ăn, vậy thức ăn tinh thì có làm sao?

Thức ăn tinh và thức ăn thô có gì khác nhau?

Chúng đều là thức ăn cho anh dùng".Sau khi tiễn Phất-Lô-Hê, Ca-La-Ha vẫn chứng nào tật nấy và nói với vợ: "Anh không muốn ăn món này, không ngon...".

Cậu ta vẫn kén ăn và tức giận khi dùng bữa.

Người vợ không còn lựa chọn nào khác, vì vậy cô ấy đã đọc bài kệ

này một cách bình tĩnh theo phương pháp Phất-Lô-Hê đã dạy.

Ngay khi đọc bài kệ, Ca-La-Ha nhận ra rằng vợ đã biết lai lịch của mình, và khuôn mặt cậu ta đầy tức giận, nhưng cậu ta không dám nói nhiều hơn, vì cậu ta sợ vợ sẽ vạch trần danh tính của mình.

Kể từ đó, Ca-La-Ha ăn nói khép nép tùy thuận trăm chiều theo vợ mình, không bao giờ dám nổi giận hay chê bai.

Câu chuyện này được trích từ "Pháp Uyển Châu Lâm".Câu chuyện này muốn nói với mọi người rằng, dùng cách lừa dối để tìm kiếm phú quý tiền đồ cho bản thân, kết quả là lời nói dối bị vạch trần và họ bị những lời nói dối đó kìm hãm suốt đời.

Có tin thời sự báo rằng có người đã từng giết người, và ông ta đã xuất gia, để che giấu thân phận của mình, đến khi làm trụ trì rồi, cuối cùng ông ta vẫn không thoát khỏi lưới pháp luật và bị bắt.

Trong mấy mươi năm, ông ta bị sự gian dối và những lời nói dối trá kìm hãm lại tâm mình, và không nhận được thanh thản.Tại sao chúng ta phải học theo Quán Thế Âm Bồ Tát?

Quán Thế Âm Bồ Tát có tự tại không?

Tự tại, rất an nhàn.

Tại sao chúng ta làm người lại phải nói dối lừa gạt người khác, để rồi luôn bị sự dối trá ấy kìm hãm chính bản thân mình?

Ngược lại, người vợ của Ca-La-Ha, cô ấy không màng đến sự đối xử vô lý của chồng mà sẵn sàng học hỏi, thay đổi và tiến bộ.

Người thứ nhất, Ca-La-Ha tự cho mình là trung tâm, "tôi" muốn đạt được một mục đích nào đó, lừa dối và tạo nghiệp, không biết nhìn lại bản thân và hay chỉ trích vợ mình.

Người thứ hai là vợ của Ca-La-Ha bắt đầu từ việc thay đổi bản thân và chân thành với người khác.

Xét về bề mặt, Ca-La-Ha, người nói dối về việc sinh ra trong một gia đình quý tộc, dường như đã thành công trong mọi việc, cuối cùng, Phất-Lô-Hê đã tha thứ cho cậu ta và nhận cậu ta là con ruột của mình, cậu ta còn được quốc sư tôn trọng cùng người vợ biết vâng lời, kỳ thật sau lưng cái giá phải trả chính là vĩnh viễn không thể tự do quyết định, không có cái tâm tự tại, bởi vì cậu ta là một người giả dối.Vì sao Bồ Tát bảo chúng ta học Phật tu tâm đối đãi với người một cách chân thành, những lời chúng ta nói ra đều là chân thật, phải xứng đáng với trời đất.

Nếu quý vị giấu những điều dối trá bẩn thỉu, vọng ngữ, đố kỵ và những điều xấu xa khác trong lòng, quý vị sẽ trở thành kẻ tạo ra những lời dối trá bên trong, làm nô lệ cho sự tức giận và sự dối trá suốt đời.

Tại sao Sư phụ bảo quý vị học Phật phải chân thành, người học Phật không giống những người khác, người học Phật là phải biết thay đổi chính mình.

Bất kể nghịch cảnh hay thuận cảnh, thì

chúng ta phải bình tâm, cho dù làm người hay làm việc gì cũng phải thực sự cầu thị (biết lắng nghe góp ý và thay đổi).

Cuộc đời là một quá trình, khi chúng ta kết thúc quá trình này, những người tu thành sẽ gặp nhau ở trên trời, những người không tu thành có thể vẫn ở trong nhân gian, và những người không tu tốt nữa có thể bị đọa xuống làm ngạ quỷ, súc sinh.

Hy vọng mọi Phật tử trong thế giới hư vô này - ở giữa cái thế giới mà ý niệm quyết định sau này quý vị là Phật, là Ma hay Tịnh Thổ - tìm được điểm đến tốt nhất cho tương lai, đồng thời đạt đến cảnh giới chinh phục đỉnh cao của Tứ Thánh Đạo.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 32. QUÁN NIỆM, TỊNH NIỆM, VÔ NIỆM 04/04/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 32🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".---------------Tập 32

QUÁN NIỆM, TỊNH NIỆM, VÔ NIỆM

04/04/2020Hôm nay sẽ tiếp tục giảng về Bạch Thoại Phật Pháp với đại chúngĐiều quan trọng nhất của người học Phật là học buông xả.

Nhiều khi nhìn vẻ bề ngoài tưởng như thân buông mà tâm chưa buông, còn nhiều chướng ngại, vì tâm chưa lìa phàm phu, ngũ dục, lục trần.

Muốn tâm thanh tịnh, yên tĩnh thì phải có tấm lòng trong sáng.

Sau khi hiểu được điều này, thì sẽ hiểu được hữu vi mà vô bất vi, như thế sẽ bước vào không tịch {rỗng không lặng lẽ} và diệu sát trí, điều này tương đương với việc để cho một số: cảnh giác, cảm giác, tập trung, trải nghiệm, thư giãn trên thế gian, và để: hành, trụ, tọa, ngoạ(đi, ở, ngồi, nằm) trong cuộc sống của mình, đều hòa nhập vào ánh sáng của Giác tánh(tánh giác ngộ).

Để cả cuộc đời chìm đắm trong ánh sáng của trạng thái giác ngộ, thì quý vị sẽ thoát khỏi đau khổ và đạt được hạnh phúc.Ở đây, Sư phụ sẽ giải thích ngắn gọn cho quý vị hiểu: "hữu vi mà vô bất vi" là muốn nói với chúng ta rằng làm việc gì đi chăng nữa dù là làm việc thiện, đã học Phật thì không nên để tâm ở chỗ "Tôi đã học Phật, tôi đã làm việc thiện" làm thì xem như chưa từng làm, trong lòng sẽ từ từ buông xuống những gì mà bản thân quý vị đã làm .

Lấy một ví dụ đơn giản, nếu quý vị đã từng đối xử tốt với người khác, thì không cần phải giữ điều đó trong lòng, bởi vì người khác sẽ biết ơn quý vị.

Nếu ghi nhớ những điều quý vị đã làm cho người khác, thì sẽ chờ người khác báo đáp, nếu không thể nhận được sự báo đáp từ họ, thì trong lòng quý vị sẽ rất đau khổ.

Cho nên đừng tập trung vào nó, mà hãy thoải mái khi có thể, mỗi ngày làm việc gì cũng phải hòa vào ánh sáng của Giác tánh, và nghĩ rằng: "việc này, chúng ta nên làm".

Bổn giác là tâm sáng của giác ngộ, chẳng hạn khi một người giác ngộ làm điều gì tốt cho người khác: "Đó là việc nên làm.

Giúp đỡ người khác chứng tỏ mình vẫn còn có khả năng."

Đó chính là Giác tánh, không có nghĩa là mình giúp người thì phải đợi người báo đáp.

Suốt ngày đợi báo đáp thì quý vị không thể thoát khỏi đau khổ để đạt được hạnh phúc.

Vì vậy, chúng ta phải thường quán chiếu ý niệm của mình, đó là "Quan niệm".

Ở đời thường nói "Quan niệm có tốt không, quan niệm có đúng không", đây chính là sự quan tâm chú ý đến suy nghĩ của mình.

Sau đó,quý vị sản sinh ra Chánh niệm và đây chính là những quan niệm đúng đắn về cách đối nhân xử thế của quý vị.Sự khác biệt giữa người tu hành và người thường là ở chỗ tâm niệm của họ khác nhau.

Người học Phật luôn vì người khác, luôn nghĩ làm sao để cứu độ tất cả chúng sinh, làm thế nào để làm việc thiện mà không để lại danh tiếng, làm sao có được lòng từ bi với tất cả chúng sinh, vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, thay vì suốt ngày làm một việc tốt nhỏ sợ người khác không biết, lại thích khoe khoang.

Trên thực tế, đây chính là Minh giác và Minh sát của quý vị.

Khi tự mình làm điều gì tốt, thì lập tức giác ngộ "Tôi nên làm điều đó"; trong tâm biết rất rõ, và khi làm điều gì tốt, thì lập tức nhận ra "Tôi không được kiêu ngạo, lẽ ra tôi nên làm điều đó cho người khác", được gọi là Minh giác Minh sát.

Người thường có Minh sát Minh giác, thì Chánh niệm sẽ hiện tiền, sẽ nổ lực quán chiếu bản thân.

Quán chiếu bản thân có nghĩa là thường xuyên chú ý đến hành vi của chính mình, điều chỉnh các quan niệm bên trong và bên ngoài của mình.

Quan niệm bên trong là gì?

Đó là những gì nghĩ trong lòng, những gì người khác không biết, là "quán" ở nội tại - nghĩa là tự nhìn thấy ở bên trong và sản sinh ra ý niệm .

Ví dụ, nghĩ trong lòng: "Tại sao tôi phải tốt với anh ta?" suy nghĩ như vậy là trong lòng có Quán rồi đúng không?

Và tiếp đó thì liền sinh ra ý nghĩ: "Tôi không cần thiết phải như vậy" đó được gọi là quan niệm bên trong.

Còn quan niệm bên ngoài thì sao?

Thấy người này rất đáng thương, rất muốn giúp đỡ họ.

Khái niệm bên ngoài lẫn bên trong đều phải được sửa đổi và đúng đắn.Phàm phu không quan tâm đến cái tâm của họ, và họ không thể kiểm soát được cái tâm của mình.

Nhìn bên ngoài thì thấy nên giúp người này, nhưng trong lòng lại nghĩ: "Bản thân mình còn chưa giúp được cho mình tốt nữa", ý niệm bên trong thay ý niệm bên ngoài, nên việc tốt này không làm được.

Vì vậy phải hiểu rằng chúng ta không thể chạy theo những quan niệm thế gian mà gặp sao hay vậy, giống như những con sóng trên biển, thực ra chúng đều ở trong tâm quý vị.

Chư Phật Bồ Tát bảo tâm chúng ta phải chú ý mấy điểm chính yếu, và nhớ cách điều phục tâm mình: Luôn tự hỏi mình có tham lam không?

Mình đã làm sai bao nhiêu việc?

Hôm nay đã làm bao nhiêu việc mà mình không nên làm?

Đã hận qua bao nhiêu người không đáng hận?

Tâm trí có bị phân tán không?

Hôm nay tâm có rộng rãi không?

Hôm nay tâm có tinh tấn không?

Hôm nay đã bao nhiêu lần tạp niệm ảnh hưởng đến Chánh niệm của mình, và quý vị có dùng nội niệm (suy nghĩ bên trong) của mình để giải quyết nó và giải thoát bản thân khỏi những quan niệm sai lầm của mình không?

Vì vậy, Bồ Tát bảo chúng ta phải luôn quan sát nội tâm của mình.Người tu hành vừa có ý niệm thì phải quan sát ý niệm này, bởi vì ý niệm của mỗi người sẽ phát ra bất cứ lúc nào.

Tham, sân, si, suy nghĩ hỗn loạn, hẹp hòi xuất hiện trong lòng, rồi trở nên bất ổn và không được giải thoát, sự nhận biết phân biệt cũng trở nên hỗn loạn - không phân biệt được đâu là thiện đâu là ác.

Nếu một người lúc bình thường có lương tâm tốt, nhưng một khi đã có lòng ích kỷ, hẹp hòi, phóng dật hay tham, sân, si, thì lập tức không phân biệt được việc này là thiện hay ác.

Rõ ràng là có thể làm việc tốt và nên làm các việc thiện, nhưng lại nói: "Bây giờ tôi đang tu sửa cho bản thân mình, bản thân tôi chưa tu tốt thì làm sao tôi có thể giúp đỡ người khác?"

Ngay lập tức, đã dập tắt thiện niệm của mình và không thể kiểm soát được tà niệm của mình, sau một thời gian dài, thì những suy nghĩ xấu sẽ theo bên mình.

Vì vậy, chúng ta phải loại bỏ những suy nghĩ ô uế và biến chúng thành những suy nghĩ trong sáng - những suy nghĩ trong sạch.

Chúng ta phải ngăn chặn bất kỳ tâm thức bất thiện nào - nhận thức trong lòng.

Nếu nhìn thấy một cụ già đi xin ăn trên đường, hoặc xin vài xu, hay bạc cắc, nếu là người tốt, thì người đó sẽ nghĩ "Ôi, thật đáng thương", đó chẳng phải là một việc làm tốt hay sao?

Nhưng có người không kiểm soát được ý niệm của mình, nảy sinh ý thức bất thiện trong lòng: "Người này chắc chắn là không chăm chỉ làm việc, bằng không thì uống rượu, hay hút chích nên mới như ngày hôm nay.

Mình cho họ làm chi?

Mình cho họ rồi nói không chừng xin được ít tiền này lại đi làm điều xấu" Tâm thức đã thay đổi, nên hành vi lương thiện sẽ theo đó mà biến mất.Việc dừng lại và quán chiếu mỗi ngày chính là tu hành.

Một hành động, một quan niệm, hay nhìn thấy một sự việc nào đó đây cũng chính là đang tu hành .

Suy nghĩ theo chiều hướng tốt thì quý vị chính là người tốt ; suy nghĩ theo chiều hướng xấu thì quý vị chính là người xấu.

Vì vậy phải tịnh hóa tâm linh, có nghĩa là thanh lọc tâm hồn bên trong của mình, suy nghĩ và tâm thức của bản thân.

Con người chúng ta có khi trong một niệm, một (ý) thức, hay một khoảnh khắc thôi thì trong đầu óc chúng ta có muôn ngàn thay đổi, vừa muốn làm một việc tốt thì liền nghĩ:"Không, không, thêm một việc không bằng bớt một việc, lỡ có người vu khống mình thì sao?"

Loại suy nghĩ này trong phút chốc có thể khởi lên hàng vạn tạp niệm, tạp niệm hoạnh phi (tạp niệm phân phi), ngàn vạn biến hóa, và quý vị sẽ mất đi thái độ và quan niệm bình thường của mình về mọi thứ, vì vậy nó được gọi là "mất đi trạng thái bình thường".

Một người bình thường không cãi nhau, tại sao khi cãi nhau lại mất bình tĩnh và mắng chửi người khác?

Bởi vì họ đã mất đi trạng thái bình thường.

Trạng thái bình thường là gì ?

Một tâm thái bình thường.

Do đó, nhiều người không có tâm thái bình thường thì tạp niệm sẽ hoạnh phi.

Khởi tâm động niệm sinh sinh diệt diệt trong "tam thiên đại thiên thế giới", một niệm thiện khởi lên trong chốc lát thì một niệm diệt lại tiêu rụi, một tạp niệm khởi lên trong chốc lát thì một niệm diệt lại tiêu rụi...Trong sự sinh diệt không ngừng.

Tại sao đạo Phật nói rằng con người chúng ta nhất niệm là Phật, nhất niệm là ma?

Chính là nó luân hồi trong sinh diệt không ngừng, cho nên khởi tâm động niệm không dứt.

Nếu quý vị kết bạn với một người, người đó đang ngẩn ngơ, quý vị hỏi "Cậu đang nghĩ gì vậy?"

Chỉ cần người kia nói với quý vị "Tôi không nghĩ gì cả" thì người đó đang nói dối, bởi vì suy nghĩ của con người là thay đổi trong vô lượng sinh diệt.

Đức Phật đã dạy chúng ta từ xa xưa rằng tâm niệm sinh diệt của con người rất hay thay đổi, chúng ta phải dùng tâm để điều khiển động, nghĩa là khi ý niệm, tạp niệm từ trong tâm của quý vị nảy sinh, quý vị cũng nên dùng tâm để ngăn chặn những suy nghĩ này.

Lấy một ví dụ đơn giản, quý vị vừa muốn cãi nhau ở nhà, nhưng quý vị lại nghĩ: "Không được cãi nhau, bây giờ không được cãi nhau, nếu mình cãi nhau lúc này, thì trông mình không giống một người học Phật.

Trước đây có thể cãi nhau, bởi vì mình chưa học Phật, và cảnh giới của mình không cao; bây giờ mình đã học Phật rồi, thì mình không thể cãi nhau nữa, và mình phải tôn trọng người khác."

Có phải ý nghĩ xấu xa về "cãi nhau" của quý vị đã được sinh ra trong tâm quý vị không?

Vậy thì tâm "không tranh cãi" của quý vị không phải là cũng được sinh ra từ trong tâm quý vị sao?

Năng lượng tích cực trong tâm là dùng để trấn áp năng lượng tiêu cực sinh ra trong tâm, chẳng phải là dùng tâm để điều khiển "động" của quý vị sao?

Vì vậy gặp bất cứ sự việc gì tâm cũng phải tịnh, thì mới điều khiển được nhiễm (yếu tố bên ngoài xâm nhập vào).

Trị nhiễm bằng tâm thanh tịnh có nghĩa là làm cho tâm tĩnh lặng và trong sạch thì tạp nhiễm sẽ bớt đi.

Một người không tham lam, tâm của họ rất tĩnh lặng trong sạch, thì tạp nhiễm của họ ở đâu ra?

Người khác nói bên ngoài rất tốt, "Tôi mặc kệ", thứ này tốt, ai cũng mua, "Không sao, tôi đủ rồi, tôi chỉ thế này thôi", người như vậy là người không bị ô nhiễm, vì vậy "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn" là cái đạo lý này.Trên thế gian nhiều người thường tham, sân, si.

Văn hóa truyền thống Trung Hoa nói rằng "Mệnh lý hữu thì chung tu hữu, mệnh lý vô thì mạc cưỡng cầu".

Mặc dù một số người không học Phật, nhưng họ biết rằng "Ngày hôm nay mình có rồi, và những gì của mình thì nhất định là của mình, cái gì không phải của mình có cương quyết cầu cho bằng được đi chăng nữa thì cuối cùng cũng sẽ mất đi."

Vì vậy, đừng cưỡng cầu những thứ không thuộc về mình.

Những thứ không thuộc về mình thì không phải là của mình, nhất định phải học cách từ bỏ đúng lúc.

Có rất nhiều thứ phải học cách từ bỏ, từ bỏ là một loại trí tuệ, không tham lam là một loại trí tuệ.Đôi khi chúng ta lo lắng hết sức, chúng ta sẽ đạt được những gì chúng ta đã từng muốn, nhưng không đạt được.

Quý vị dùng bộ não của mình: Tôi phải có được nó, tôi chắc chắn rằng tôi thích nó..., tôi chỉ thích ngôi nhà này, chiếc xe này, hay bất kỳ vật chất hay con người nào trên thế gian...

Nếu không có được nó, thì quý vị muốn có cho bằng được; nếu từ bỏ nó, không cần nữa, thì ngược lại quý vị lại có được nó.

Quý vị cố gắng hết sức để có được nó, nhưng cuối cùng cũng sẽ mất đi.

Đây chính là điều mà trên thế gian này những gì thuộc về mình thì sẽ là của mình, vì vậy chúng ta phải học cách từ bỏ, đó là một loại trí tuệ.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 33 HÀNH THIỆN NHƯỢC THỦY, HÀNH NGUYỆN NHƯỢC SƠN 4/4/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 33🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".---------------

BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP.

Tập 33HÀNH THIỆN NHƯỢC THỦY, HÀNH NGUYỆN NHƯỢC SƠN

4/4/2020Thử nghĩ xem, từ nhỏ đến bây giờ quý vị đã từ bỏ bao nhiêu thứ rồi?

Buông bỏ rồi thì quý vị sẽ nhẹ nhõm, không muốn nữa thì tâm quý vị sẽ yên định, nếu vẫn còn nghĩ đến, vậy thì quý vị vẫn chưa buông bỏ được.

Có thể buông bỏ ngay lập tức, thì loại trí tuệ này có thể khiến quý vị càng tỉnh táo hơn và gia tăng tiềm năng quan sát nội tâm của bản thân.

Sau khi buông bỏ, nội tâm của quý vị sẽ có năng lượng, để có thể đối mặt với nhân tố bên ngoài.

Lấy một ví dụ đơn giản: Mọi người đều đang tranh chức vị đó, còn quý vị lại nói "Tôi không sao hết, tôi không tranh chức vị đó đâu", khi mà quý vị không tranh thì quý vị sẽ có một loại năng lượng, bởi vì quý vị không cùng người khác tranh, quý vị sẽ không buồn, cũng không sợ hãi, và cũng sẽ không cảm thấy người khác đang tạo ra càng nhiều sự cản trở cho quý vị, hoặc là người khác đang đố kị với quý vị, như vậy là quý vị đã buông bỏ.

Sau khi buông bỏ thì chính là tùy duyên, tâm vô quái ngại (không vướng mắc), đối với nhân tố ngoại cảnh, cũng có thể có đủ tự nhiên để cảm nhận thấy sự bình yên ở trong tâm, đôi khi có thể khiến thân tâm mệt mỏi của quý vị trong phút chốc được điều chỉnh, để có thể trở thành một người vui vẻ và có trí tuệ sáng suốt.

Có rất nhiều người rời xa phiền não, thì liền biến thành người có trí tuệ sáng suốt, có một số người vẫn còn trong phiền não không thoát ra được, thì mãi mãi không có được trí tuệ sáng suốt.Chúng ta có lúc kiên trì trong mù quáng, không được lý trí trong việc buông bỏ, rõ ràng là nên bỏ những thứ đó đi, nhưng chúng ta lại không có lý trí, không thể buông bỏ được, ngày ngày đau khổ, khó chịu.

Khổ cực để giữ lại người và sự việc trong quá khứ, đó chính là một người ngốc.

Người trong quá khứ đã đi rồi thì không còn nữa, những đồ vật mà quý vị đã từng sở hữu, khi đã qua rồi thì cũng sẽ không còn nữa.

Tất cả rồi cũng sẽ qua đi, giống như hôm nay có một chiếc xe ôtô, quý vị xem chiếc xe này là xe ôtô cũ đã qua sử dụng và bán nó đi, khi mà quý vị đi trên đường nhìn thấy có người lái chiếc xe ôtô cũ này, quý vị còn luyến tiếc "đây là xe ôtô của tôi " nữa không?

Đã bán đi rồi thì cũng đã bán đi rồi, đã không còn nữa thì cũng không còn nữa, thế giới này chính là như vậy.

Trong một khoảng thời gian dài nếu như bản thân quý vị vẫn còn cảm xúc tổn thương về người, sự việc và những khoảng thời gian đẹp đẽ mà quý vị đã từng có được, thì người này chính là người ngu xuẩn, ngu si chính là do như vậy đó.

Người mà mỗi ngày đều ở trước mặt quý vị nói rằng:" Tôi của quá khứ tốt như thế này, tôi của quá khứ tốt như thế kia."

Vậy thì người này vẫn chưa buông bỏ được, khi nhắc đến quá khứ mà còn khóc lóc, còn lưu luyến không nỡ, thực sự ra họ là người còn chưa buông bỏ được.

Người mà không nỡ buông bỏ, chỉ có tăng thêm sự đau thương và vì vậy sẽ thường dễ mất đi những thứ quý giá ở hiện tại.

Cho nên, tùy duyên chính là cho bản thân cơ hội tốt nhất.

Hôm nay không sao cả, tuỳ duyên rồi thì sẽ có cơ hội.

Học cách buông bỏ là một loại trí tuệ, học cách buông bỏ mới có thể đạt được càng nhiều sự thành công.Có rất nhiều người vì lợi ích trước mắt, theo đuổi danh lợi ở thế gian "cái danh này tôi muốn, cái lợi này tôi cũng muốn " dần dần sẽ bị cái xã hội này làm cho quý vị biến thành nông nổi, biến thành vô cùng tham lam và khiến con người quý vị trở nên ngày càng ích kỉ, dần dần biến thành người khác mà ngay chính bản thân mình cũng không nhận ra mình - "Tại sao tôi lại có thể tham lam như vậy?"

"Thượng thiện nhược thủy", lương thiện chính là cao thượng, từ bi vô lượng có thể tạo ra năng lượng vô tận, lương thiện có thể khiến cho quý vị sản sinh ra năng lượng vô tận.

Vì vậy người đi giúp đỡ người khác thì họ đối với toàn xã hội, đối với lương tâm của chính mình, đối với người khác đều sẽ sản sinh ra một loại hy vọng.

"Thượng thiện nhược thủy", sự lương thiện lớn nhất chính là trong tâm mình tạo ra.

Sự tồn tại trong tự nhiên mà ngoan cường nhất, có trí huệ nhất là cái gì?

Đó chính là nước.

Có người nói: "Khoái đao trảm thủy thủy chiếu lưu", "Tôi có thể đem sự dịu dàng thanh tịnh của dòng nước để lau sạch linh hồn ưu phiền đau thương của bạn", "Tôi có thể dùng sự thuần khiết của cam lộ để tưới lên những đau khổ bi thương của bạn".

Bình nước cam lộ trong tay Đức Quán Thế Âm Bồ Tát vẩy một chút ít cho chúng ta, tiêu trừ ngàn điều ưu phiền vạn điều đau khổ của chúng ta, để cho chúng ta thoát khỏi phiền não, khiến cho chúng ta học được cách lìa khổ được vui.

Một người có trạng thái tốt nhất là họ nên học cách tùy duyên giống như nước.

Quý vị nhìn nước xem, đem đặt nó ở đâu thì nó ở đó, nó đều tùy duyên.Trong xã hội này có nhiều thứ rất khó thay đổi, nhưng mà chúng ta có thể thay đổi bản thân, để thích nghi cái xã hội này, nhưng năng lượng tích cực trong nội tâm của chúng ta phải giữ sao cho không bị xã hội này bào mòn.

Thái độ của chúng ta đối với ngũ dục lục trần trên thế gian này, vì trong tâm chúng ta có 1 cái cân, biết cái nào là thiện, cái nào là ác, bởi vậy nếu có thể dùng sự bao dung để đi thấu hiểu người khác nhưng không phải dung túng bao che cho người khác làm chuyện xấu.

Chúng ta không ép buộc bất kì ai phải hiểu chúng ta, bởi vì bản thân chúng ta là người hiểu rõ nhất chúng ta đang làm cái gì.

Chúng ta có lý trí, có trí tuệ của Bồ Tát, vì vậy hỷ nộ ái lạc (buồn vui hờn giận) không thể ở trong tâm chúng ta được, cái xã hội trong thế gian này, biến đổi rất nhanh, nó không thể đứng yên lại.

Sư phụ nói với các con, trí huệ là căn nguyên của cuộc sống, nhưng cao hơn cuộc sống; Phật pháp là căn nguyên của chúng sinh, nhưng lại cao hơn chúng sinh.

Hy vọng mọi người có thể học phật cho thật tốt, có thể hiểu được, ở trên xã hội này, gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy.

Chúng ta gieo nhân gì, thì sẽ nhận lấy quả báo như vậy.

Có rất nhiều người hỏi sư phụ "nhiều người có danh lợi là họ đã gieo nhân gì mới có được?", sư phụ nói đơn giản cho quý vị hiểu là, gieo nhân bố thí tài, thì sẽ nhận được quả báo là giàu sang.

Đặt ví dụ đơn giản: Quý vị đối xử tốt với họ, có phải là họ cũng sẽ giúp đỡ lại quý vị không?

Đã từng ở trong hoàn cảnh khi mà người khác đang khó khăn, quý vị bố thí tài, quý vị đi giúp họ, đợi đến khi họ tốt lên rồi, người đầu tiên họ sẽ nghĩ đến chính là quý vị.

Có rất nhiều câu chuyện không hiếm gặp như thế này ở trong xã hội.Nếu như quý vị gieo nhân bố thí pháp, đi giúp người khác, đi cứu độ chúng sinh, thì sẽ nhận được quả báo là thông minh, trí tuệ.

Có rất nhiều người hỏi: "Tại sao bạn thông minh đến như vậy?

Tại sao bạn lại có trí huệ đến như vậy?"

Bởi vì tôi đã bố thí pháp.

Quý vị thử nghĩ xem, khi mà quý vị bố thí pháp giúp đỡ người khác, quả báo trí tuệ chẳng phải là đã trổ ra rồi sao?

Một người có thể giúp được người khác như vậy họ có trí tuệ không?

Họ không trí tuệ, thì làm sao mà họ có thể giúp người khác?

Vậy trí tuệ của người đó từ đâu mà có ?

Chính là không ngừng đi giúp cái này, đi giúp cái kia, trong quá trình giúp người khác, bản thân có được sự trải nghiệm nhiều hơn, khiến bản thân được ích lợi, từ đó sản sinh ra rất nhiều trí tuệ để có thể đi giúp nhiều người hơn.

Gieo nhân bố thí vô úy sẽ nhận được quả báo là sức khỏe tốt, sống lâu.

Có rất nhiều phụng sự viên (các đồng tu làm công quả ở Quan Âm Đường, ở Pháp hội của thầy ...) họ suốt ngày thích giúp đỡ người khác, giúp nấu cơm, mua thức ăn, lặt rau củ quả chạy tới chạy lui giúp đỡ mọi người, họ trồng loại nhân này thì họ được sống thọ.

Làm việc gì họ cũng vui vẻ, họ mạnh khỏe.

Niệm Phật là nhân, họ gieo trồng nhân học Phật - niệm kinh, niệm Phật, vì vậy thành Phật chính là quả của họ.

Vì vậy muốn thành phật thì phải gieo nhân Phật, gieo nhân nào thì sẽ gặt quả đó.

Đây chính là chân lí của người học Phật.Chúng ta học Phật làm người, phải dùng tâm bình thường để sống: "Sao cũng được, đây đều là bình thường", người này không vui, "không sao, chúng ta đối xử tốt với người đó một chút "người này có ý kiến gì đó, "không sao, chúng ta có thể tùy duyên".

Dùng tâm hổ thẹn để đối xử với người khác: "tôi rất hổ thẹn khi không thể giúp gì được cho người đó.

Tôi làm còn chưa tốt, người đó đối với tôi rất tốt, mà tôi chưa có gì báo đáp lại cho họ cả" đối xử tốt với người ta, thì người ta nhất định sẽ rất mến quý vị, dùng tâm hổ thẹn để mà làm người.

Dùng tâm Bồ Đề để xử thế: Ở trên thế giới này, tại sao người ta lại mến quý vị?

Bởi vì quý vị có tâm Bồ Đề.Chỉ suy nghĩ cho người khác, rất ít khi suy nghĩ cho bản thân, chỉ suy nghĩ tới giúp đỡ người khác, làm sao để giúp cho người khác thoát khỏi khổ nạn, người như vậy chính là có tâm Bồ Đề, vì vậy ở trên thế giới này biết cách đối nhân xử thế, người khác làm sao mà không mến quý vị cho được?

Mỗi ngày đều nhìn thấy chỗ sai, thị phi, khuyết điểm của chúng sanh - Một số người đều nhắm vào khuyết điểm của người khác, nói người này rất đáng ghét, nói người kia rất ích kỉ, vậy thì người này cơ bản là chưa tu tốt.....mỗi ngày đều nghĩ tới chỗ sai và thị phi của người khác, vậy thì quý vị phải nhanh chóng sám hối, bởi vì quý vị đã đi sai hướng và sự tu hành của quý vị chưa đủ.

Khi trong tâm quý vị còn có những phiền não, sai lầm, thị phi và đố kị người khác, thực ra là quý vị đang gánh nghiệp cho họ rồi, bởi vì ở sâu trong tâm quý vị, thực ra đã chứa những thứ đố kị, thị phi và những ý niệm dơ bẩn.

Cho nên đừng nhìn người khác theo chiều hướng xấu thì như vậy mới chứng tỏ quý vị là trong sạch.

Hôm nay, nếu như quý vị sống nhưng quý vị chỉ nghĩ tới ưu điểm của người khác, chỉ muốn đi giúp đỡ người khác thì quý vị làm sao có thể ghét và hoài nghi người khác được?

Đây chính là một niệm thành ma, một niệm thành phật.Trên cơ thể con người có 3 loại bệnh, Phật Bồ Tát chính là "Đại Y Vương" Bác sĩ đến giúp chúng ta, giải quyết phiền não tinh thần của chúng ta, trị tâm bệnh cho chúng ta.

Bệnh cơ thể đa phần đều là tâm bệnh.

Có nhiều bệnh rất quan trọng, bệnh nặng đều là do tâm mà ra.

Người mà trong tâm nghĩ thông, không dễ mắc bệnh ung thư; người mà tâm buông bỏ không được, rất dễ bị tổn thương bên trong.

Bởi vì có liên quan tới kiếp trước, đôi khi bệnh do túc nghiệp tạo thành sẽ rất khó trị.

Ví dụ: Kiếp trước quý vị đã hại qua người khác, thì trong kiếp này quý vị không ngừng bị tai nạn giao thông, tai nạn, bệnh truyền nhiễm, có rất nhiều người từ nhỏ đã mắc bệnh di truyền rồi, những bệnh đó thực tế là do túc nghiệp mà ra.

Vì vậy tại sao lại kêu mọi người nhanh chóng niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn?

Ngày ngày niệm, ngày ngày sám hối, lúc nào cũng niệm, lúc nào cũng sám hối, thì sẽ giúp cho nghiệp của quý vị từ nghiệp lớn thành nghiệp nhỏ, nhỏ thành không, tai nạn sẽ dần dần biến mất.

Còn có một việc quan trọng, một người muốn tiêu trừ bệnh túc nghiệp do kiếp trước, không muốn bản thân bây giờ chịu báo ứng thì nhất thiết phải phát rộng tâm Đại Từ Bi.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 34 TỰ TÁNH BẤT MÊ, CHÚNG THIỆN PHỤNG HÀNH 04/04/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 34🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".---------------Tập 34

TỰ TÁNH BẤT MÊ, CHÚNG THIỆN PHỤNG HÀNH

04/04/2020Quán Thế Âm Bồ Tát hằng ngày làm gương cho chúng ta, mong rằng chúng ta hiểu và có được tâm đại từ bi.

Ở thế gian này, không những chúng ta nên phát tâm đại bi, đại nguyện ngay bây giờ mà còn phải siêu độ những ân oán từ kiếp trước.

Bất luận chuyện gì, cho dù không muốn siêu độ, thì cũng phải học cách siêu độ, đồng thời cũng phải học cách biết ơn.

Bởi vì họ cho chúng ta biết, nghiệp chướng của một người không phải chỉ trong một kiếp này là có thể tiêu trừ hết được.

Họ đã cho chúng ta biết, trong kiếp này chúng ta không nên tạo nghiệp nữa, bởi vì nghiệp chướng trong kiếp trước còn chưa trả hết được.

Cho dù gặp bất cứ điều gì, chúng ta đều phải học cách có lòng biết ơn.Con người còn có một loại bệnh, đó là nội thương.

Tình cảm của chúng ta rất dễ bị tổn thương, bởi vì người khác không hiểu mình và chính mình cũng không hiểu người khác, cho nên cả hai việc này nó đều sẽ làm tổn thương chính chúng ta.

Nhiều bệnh tật như: đố kị, sân hận, tham ái, si mê đều có thể gây cho chúng ta những nội thương.

Người có lòng đố kị càng lâu ngày thì trong lòng họ càng thêm đau khổ, nếu thường hận người thì mắt càng khô, lòng càng nát.

Tất cả điều này đều liên quan đến thân thể của quý vị.

Bồ Tát nói với chúng ta rằng nếu một người muốn thoát khỏi nội thương trong cơ thể, thì tốt nhất là không làm các điều ác.

Sư phụ nói với mọi người rằng chúng ta không chỉ không làm mọi điều ác (chư ác mạc tác), mà chúng ta còn phải không nên nghĩ về mọi điều ác (chư ác mạc tưởng) và sau đó thực hiện mọi việc thiện (chúng thiện phụng hành).

Thân có bệnh thì uống thuốc, nhưng bệnh nội thương thì phải học đừng nghĩ điều ác, mà phải hành mọi điều thiện.Còn một loại bệnh ở con người, đó là ngoại cảm(ngoài cảm).

Bị phong hàn, ẩm ướt, nóng nực mùa hè từ bên ngoài - tức là bệnh cảm lạnh, bệnh nhiệt, phong hàn.

Những căn bệnh này là ảnh hưởng của thế giới bên ngoài đối với quý vị.

Thực ra những bệnh này có thể xử lý được, bởi vì trời lạnh thì mặc thêm quần áo, nóng thì mặc ít và chú ý nhiệt độ cơ thể - duy trì nhiệt độ nhất định.

Nhưng khó khăn nhất là những cảm nhận từ bên ngoài, những lời nói bên ngoài, những chuyện buồn phiền do bên ngoài mang đến cho quý vị mà khiến cho hệ miễn dịch của quý vị bị suy yếu .

Bởi vì quý vị tức giận, vì quý vị chấp nhận những thứ sắc dục xấu xa đó, ăn chơi cờ bạc, học thói quen xấu và có những suy nghĩ xấu xa chính vì vậy khiến khả năng miễn dịch của quý vị sẽ bắt đầu suy giảm, suy nghĩ của quý vị sẽ bắt đầu sai lầm và mắt quý vị sẽ không dám nhìn người, từ một đứa trẻ ngoan bị trở thành suy đồi.

Đây chính là ngoại cảm(ngoài cảm).Những bệnh này nên điều trị như thế nào?

Trước hết, hãy chăm sóc sáu căn của mình thật tốt, kiểm soát đối phó với sáu căn cho tốt, dần dần học ăn chay, niệm kinh, phát nguyện và phóng sinh.

Quyển "Hoàng Đế Nội Kinh" nói rằng, bất cứ ai bị bệnh nên chấm dứt tà dục.

Nếu sắp bị bệnh nặng, hoặc đã bị bệnh, thì không được tà dâm, và còn phải không được sát sinh.

Nhất định phải giữ giới, bởi vì không đụng chạm đến những thứ đó là đang gieo trồng căn lành.

Nhiều người không hiểu, nghĩ rằng nếu mình giữ giới và không ăn thịt, thì mình chẳng được gì và cũng chẳng mất gì.

Trên thực tế, thì quý vị đã mất đi những thứ gì?

Đã mất đi cơ hội hình thành các mối nhân duyên xấu với người khác.

Quý vị đã nhận được những gì?

Nhận được công đức của việc hình thành các mối nhân duyên thiện.

Do đó, quý vị đã gieo trồng những căn lành trong trường thức thứ tám của mình.

Chúng ta phải hiểu rằng trong khi niệm Phật mà còn làm điều ác vậy thì sẽ tạo nghiệp lớn.

Nếu hôm nay quý vị đã niệm Phật rồi mà vẫn còn làm ác thì đó là đang tạo nghiệp lớn đấy.

Để tránh tai họa và tiêu trừ nghiệp chướng, đây là điều quan trọng nhất.

Khi con người có tâm trạng không tốt, họ luôn muốn trò chuyện với người khác.

Người học Phật thì trì tụng kinh, trò chuyện với những người bạn Phật tử, hoặc xem một số vở hài kịch để điều chỉnh tâm hồn và thay đổi cảm xúc.

Có người thì họ hy vọng có thể giao tiếp nhiều hơn với một số người có năng lượng tích cực, để điều chỉnh cảm xúc và thoát khỏi nỗi buồn trong tâm của mình.

Trong tâm lý học cũng đề cập đến, con người có một số Pháp hỷ bắt nguồn từ trái tim của họ.

Ví dụ, quý vị nghĩ đến những việc mà quý vị sẽ giúp đỡ người khác trong tương lai, hoặc việc gì đó mà quý vị đã từng được người khác giúp đỡ, sau đó quý vị cảm thấy vui cười và khi ấy các dây thần kinh trên cơ mặt của quý vị sẽ đưa loại sóng não đó đến não của quý vị - những thông tin vui vẻ đó, khiến tâm trạng của quý vị sẽ có cảm giác đặc biệt tốt.

Cho nên người học Phật là như vậy, khi giúp đỡ người khác thì quên đi phiền não của mình và cảm nhận được sự Pháp hỷ từ người khác.

Sự tôn trọng của người khác dành cho quý vị sẽ gây nên sự phấn khích dây thần kinh đại não của quý vị.

Khi quý vị có thể giúp đỡ người khác, khi người khác biết ơn quý vị, quý vị rất dễ bị lây nhiễm và ảnh hưởng bởi lòng biết ơn của người khác, khiến cho bản thân rất hạnh phúc.

Vì vậy, người mà thường có thể đi giúp đỡ người khác thì trong lòng rất hạnh phúc.

Đức Phật Di Lặc đã giúp đỡ người khác và khiến họ tràn đầy Pháp hỷ.

Lòng từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, sự kế thừa giáo pháp vĩ đại của Đức Phật và giới luật khi được hòa nhập với nhau sẽ trở thành một loại năng lượng tích cực sâu thẳm trong nội tâm của chúng ta.Sư phụ hy vọng quý vị phải nổ lực học Phật và tu tâm để thay đổi bản thân và sự vô minh trong tâm.

Hy vọng mọi người cố gắng chăm chỉ.

Khi học Phật, chúng ta phải dụng tâm, xa lìa điên đảo mộng tưởng, thực thực tại tại sống trong giây phút hiện tại, xả bỏ tham, sân, si, mạn, nghi, quá mức của bản thân, có như thế chúng ta mới có thể như một đóa hoa, có thể tạo ra năng lượng tích cực giống như hoa sen trong trái tim của chúng ta, chỉ bằng cách loại bỏ năng lượng tiêu cực, chúng ta mới có thể thoát ra khỏi thung lũng và mở ra một tương lai tốt đẹp hơn.Dưới đây thầy sẽ kể một câu chuyện cho mọi người nghe.

Một lần, Đức Phật trở về quê hương thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) để du hành cứu độ chúng sinh và tạm trú tại vườn cây Ni Câu Đà (Nyagrodha) ở phía nam kinh thành.

Cư sĩ Ma Ha Nam (Mahanama), em họ của Đức Phật, vào ngày này đến đảnh lễ Đức Phật, bạch Đức Thế Tôn rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, nay kinh thành Ca Tỳ La Vệ của chúng con sản vật phong phú, dân đông, phồn vinh.

Con ra vào đây mỗi ngày, thường có voi ngựa phi nước đại, người và xe chạy rầm rập qua lại, con thường nghĩ rằng một ngày nào đó, con sẽ bị những con vật chạy như điên hay xe cộ đang chạy này tông chết, trước khi chết con đã vội quên đi niệm Phật tổ, niệm Chánh pháp, niệm Tăng già.

Nên con lo lắng, nếu chết như thế này thì không biết kiếp sau con sẽ đọa vào cõi nào và sinh về đâu?"

Đức Phật bảo ông: "Này Ma Ha Nam, con không cần sợ hãi, sau khi chết con sẽ sinh vào chỗ tốt lành, sẽ không bị đọa vào ba đường ác, cũng không bị quả báo xấu, điều này cũng giống như một cây đại thụ, nếu nó mọc về hướng đông khi còn non, thì khi lớn lên nó cũng sẽ mọc về hướng đông.

Nếu ai đó dùng rìu chặt cây này, thì con nghĩ nó sẽ đổ về hướng nào?"

"Bạch Đức Thế Tôn, tất nhiên nó sẽ đổ về hướng đông.

"Này Ma Ha Nam, và con cũng vậy.

Điều đó giống như ai đó ném một cái chai đầy bơ xuống hồ nước sâu.

Tất nhiên cái chai sẽ chìm xuống đáy nước, nhưng bơ trong cái chai đó cuối cùng sẽ nổi lên.

Ma Ha Nam, trong một thời gian dài, con đã niệm Phật tổ, niệm Chánh Pháp, niệm Tăng già, dù thân thể của con sau khi chết có bị hỏa táng, hay bỏ nơi nghĩa địa, mặc cho quạ, đại bàng, chó hoang, linh cẩu ăn thịt, mưa gió nắng, theo thời gian, thân con có thể thành cát bụi, nhưng tâm hồn con đã xây dựng vững chắc sự tín ngưỡng giới hạnh, văn tư (Nghe, suy nghiệm và thực hành), bố thí và trí tuệ sau thời gian dài gây dựng, sẽ đưa tâm hồn con thăng hoa và bay đến một nơi bình yên và tươi đẹp."

Đừng dính mắc vào kết quả, chỉ khi đó mới thực sự hiểu được ý nghĩa thực sự của đạo Phật.

Đức Phật đã nói với chúng ta rằng đó là một hiện tượng.

Chúng ta cần hiểu rằng vũ trụ là một tổng thể, rất phong phú và chứa đựng sức sống vô hạn.

Xác thân con người cuối cùng sẽ bị hủy hoại, nhưng trạng thái tinh thần sẽ không bị hủy hoại.

Chúng ta từ nhỏ đã làm người tốt việc tốt, cuối cùng nhất định sẽ đi đến nơi tốt đẹp.

Cũng giống như một cái cây, từ nhỏ mọc hướng đông, dù có đổ thì cũng sẽ đổ về đông.

Sự tu tập của chúng ta là nghiêm khắc trau dồi tâm Bồ đề của chính mình, nghĩa là tìm thấy Phật tánh trong thức thứ chín của chúng ta, Amala Thức, và để phù hợp với những suy nghĩ khác nhau trong trường thức thứ tám có như vậy chúng ta mới có thể hợp nhất với Phật, mới có thể đạt được trí tuệ của Bồ Tát, vĩnh viễn không lìa Phật đạo của Bồ Tát.Qua câu chuyện này mong mọi người hiểu rằng chỉ cần chúng ta hết lòng và nỗ lực thì sẽ có ngày được siêu thoát.

Phật không xa người là người xa Phật: Phật không có rời xa chúng ta, chỉ có chúng ta rời xa Phật.

Chư Phật, Bồ Tát hàng ngày đều nói với chúng ta rằng tức tâm tức Phật: tâm quý vị như Phật, thì Phật ở trong tâm quý vị, hành vi của quý vị như Phật, thì Phật ở trên thân quý vị, ngôn ngữ của quý vị như Phật, thì Phật ở trong miệng quý vị.

Vì con người đánh mất tự tánh, đánh mất phương hướng, không biết nên "là người xa Phật", nhiều người không tìm được Phật.

Học Phật phải thấy tánh, người không thấy tánh thì không tin vào Phật tổ.

Nếu thấy được tánh thì coi là Phật: sau khi chúng ta hiểu biết Phật pháp thì mới có thể tin nhập, mới thoát ra khỏi nơi hồng trần phàm tục, đi vào con đường đạo vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của đức Phật.Được rồi, hôm nay 《Bạch thoại Phật pháp》giảng cho đại chúng xin tạm dừng tại đây, và chúng ta sẽ gặp lại vào tiết mục lần sau.

Cảm ơn đại chúng.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 35 BẤT NHẬP DANH TƯỚNG NHƯỢC KIẾN TÁNH GIẢ 8/4/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 35🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".---------------

Tập 35

BẤT NHẬP DANH TƯỚNG

NHƯỢC KIẾN TÁNH GIẢ

8/4/2020Hôm nay tiếp tục giảng về《Bạch Thoại Phật Pháp》cho đại chúng.

Phật tử khi học Phật niệm kinh, đầu tiên là phải dùng tâm, tâm là quan trọng nhất, niệm mà không dùng tâm thì rất khó có được cảm ứng.

Có rất nhiều người niệm kinh, khi ngậm miệng lại thì "nua nua nua ...".

Họ không dùng tâm để niệm, thì lực cảm ứng sẽ không đủ.

Mỗi khi niệm một biến kinh, tâm của quý vị sẽ nhận được sự cảm ứng của Bồ Tát, vì vậy niệm kinh chính là niệm tâm, trong cuộc sống hàng ngày chúng ta làm người cũng vậy, phải dùng tâm.

Niệm kinh mà không dùng tâm cũng giống như đặt sách kinh bên cạnh, như vậy quý vị rất khó để có được cảm ứng, bởi vì sách kinh không dùng tới, quý vị cũng không mở nó ra đọc; Khi quý vị niệm kinh phải dùng tâm để niệm thì mới có được cảm ứng.

Người trì kinh dùng tâm, tức là khi ý niệm "tôi muốn niệm kinh" khởi lên, thì tâm của quý vị đã bắt đầu chuyển động, và cái chuyển động này chính là động tâm Phật, ý niệm Phật.

Động tâm Phật là tâm gì?

Là tâm Vô Tướng Vô Danh.

Bởi vì khi đang niệm kinh thì người ta không chấp tướng, trong tâm không có bất kì nhu cầu nào, tâm vô cùng tĩnh lặng, vì vậy niệm kinh chính là niệm tâm.

Nếu như mắt nhìn ngó xung quanh trong khi miệng đang niệm kinh, thì biến kinh mà quý vị vừa niệm ra sẽ có hiệu quả kém xa.

Hy vọng mọi người nhất định phải hiểu, không chấp trước vào danh tướng.

Khi quý vị không còn chấp trước vào danh tướng nữa, thì sẽ vô cùng thanh tịnh.

Chúng ta không vì danh mà cũng không vì lợi, không còn chấp trước về danh tướng nữa thì có phải chúng ta rất cao thượng không?

Rất sạch sẽ, giống như một đóa hoa sen đang trong quá trình trưởng thành và nó phát triển rất tốt; nhưng sau khi tạp niệm xuất hiện trong tâm của chúng ta, chúng ta niệm kinh mà có tướng, niệm kinh một cách có mục đích thì cũng giống như bên cạnh hoa sen có sinh ra rất nhiều cành hoa khác, hơn nữa các cành hoa đó nếu như không có người cắt tỉa, thì nhất định sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển của hoa sen.

Vì vậy việc niệm kinh thực sự phải vô tướng vô danh.Ngày nay, có rất nhiều người làm việc gì cũng đều chấp tướng và muốn phải có danh, bởi vì muốn cầu xin - cầu xin cái này, cầu xin cái kia, đều là làm những việc mà trong lòng đã có sẵn mục đích.

Trong xã hội này, dù con người tự sinh tự diệt cũng được, tự chuốc lấy sinh diệt cũng được, vì một số lợi ích hay vì một số lợi ích viễn vông vô hình, thực tế thì Chánh Trí (trí tuệ đúng đắn) của con người đang dần bị chôn vùi.

Lúc này, nếu quý vị không có một trí tuệ đúng đắn thì rất khó phân biệt ra đâu là phiền não, đâu là dục vọng, cái nào là cần phải phòng tránh, dần dần bản thân quý vị sẽ rời xa Bát Nhã.

Vì sao nhiều người suốt ngày bị phiền não bao vây?

Là vì họ đã rời xa trí tuệ Bát Nhã từ lâu.

Người không có kiến tánh, không tin Đức Phật.

Nếu một người không nhìn thấy được bổn tánh, không nhìn thấy được cốt lõi cơ bản đúng đắn của sự việc, cũng giống như khi làm một việc nào đó thì mục đích thực sự của quý vị là gì?

Có rất nhiều người nói "Tôi đi làm công quả (phụng sự viên ở Pháp hội hay Quan Âm Đường), chỉ vì cái lợi ích của việc làm công quả mà đi làm công quả, bởi vì trong nhà tôi có một người thân đang nằm viện, tôi muốn người đó hồi phục sức khỏe, vì vậy tôi đi làm công quả", đây không phải là nhìn thấy căn bản.

Nhìn thấy căn bản là gì?

Căn bản là tìm thấy kiến tánh, "Hôm nay vì tôi muốn cứu độ chúng sinh, vì tôi xem những người thân trong gia đình tôi, bất kể là họ đang nằm viện thì tôi đều xem như chúng sinh.

Hôm nay tôi học Phật, là đang đi cứu độ chúng sinh, tôi luôn tin tưởng Đức Phật, tin tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát, tôi cũng đang học theo Bồ Tát đi cứu độ chúng sinh", như vậy quý vị chính là người kiến tánh.

Kiến tánh thành Phật.

Nếu như quý vị thấy được bổn tánh, thì quý vị chính là Phật.

Nếu quý vị làm điều gì đó và nghĩ rằng đó là vì lợi ích của tất cả chúng sinh, để cứu độ nhiều chúng sinh hơn nữa, để họ lìa khổ được vui, vậy thì quý vị chính là Bồ Tát, chính là Phật.

Người mà biết Phật thì mới có lòng tin nơi Phật.

Một người lạy Phật, nếu như chỉ là vì muốn kinh tế gia đình tốt hơn một chút, chỉ vì bản thân mà cầu, vậy thì người đó còn chưa có lòng tin, chưa hoàn toàn tín Phật, chỉ là vì muốn có được một số phước đức mà đem lòng cầu xin."

Phật không xa người, là người xa Phật".

Có nghĩa là Phật mãi mãi ở bên cạnh chúng ta, chỉ cần chúng ta nhớ tới Phật, thì Phật sẽ đến, nhưng vấn đề của con người chúng ta là không nghĩ đến Phật.

Hiện nay chúng ta có rất nhiều Phật hữu, ban ngày niệm kinh niệm Phật, khi ban đêm gặp ác mộng, liền tự nhiên kêu lên "Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát" rồi tỉnh dậy, tránh xa ác mộng; nhưng có rất nhiều người ngày thường trong đầu họ cơ bản là không nhớ đến Bồ Tát, vì vậy đợi đến khi người đó gặp khó khăn thì cũng quên mất việc quan trọng là cầu xin Bồ Tát, và đợi đến khi người đó gặp ác mộng thì cũng quên mất việc quan trọng nhất là phải cầu xin Quán Thế Âm Bồ Tát."

Tức tâm tức Phật", tâm của quý vị chính là Phật, hôm nay quý vị có tâm Phật thì quý vị chính là Phật.

Hôm nay được giải thoát, là vì chưa rời xa Phật.

Phật không xa người, chính là muốn nói với chúng ta rằng, vì con người chúng ta đã lạc mất tự tâm và tự tánh của mình, nhưng bản thân lại không biết, rời xa Bồ Tát mà bản thân lại không biết, cho nên con người lìa xa Phật Pháp.

Giống như cùng là một người, lẽ ra phải hiểu chuyện này, nhưng tại sao họ không làm được?

Là vì họ không hiểu, họ không làm được là vì do họ bị lạc mất phương hướng.

Ví dụ hôm nay quý vị uống rượu mà còn lái xe, biết rõ phải đi đường này mới đúng, nhưng bản thân lại lái sai đường, lúc người khác chặn lại, quý vị nói: "Vốn dĩ tôi lái hướng này nhưng không biết tại sao lại lái sang hướng kia?" là do quý vị đã rời bỏ con đường ban đầu, chứ không phải con đường rời xa ý niệm lái xe của quý vị."

Phật do tâm tạo".

Có rất nhiều người hỏi sư phụ: "Thưa Sư phụ, Phật ở đâu?"

Phật ở xa tận chân trời, gần ngay trước mắt chính là trong tâm, chỉ cần cúi đầu nhìn xuống thì sẽ thấy được Phật tánh của mình.

Người mê muội thì luôn muốn phải tìm Phật trong sách vở, rất nhiều người nói "Phật ở đâu?

Tôi đọc sách liền biết rồi".

Vậy thì Phật được viết ra trong sách là để đáp ứng nhu cầu của quý vị mà thôi, còn Phật tánh thực sự là nằm ở trong tâm của quý vị, do tâm tạo ra.

Một số người mê muội, họ thường cầu Phật bằng đủ loại hình thức, giống như trên thế gian này có rất nhiều người có thể nhìn thấy Phật, nên có rất nhiều người ngưỡng mộ họ, "Ôi, cậu nhìn thấy được Phật".

Vậy thầy hỏi quý vị, quý vị có nhìn thấy được Phật không?

Phật ở trong tâm quý vị, tại sao tự bản thân quý vị lại không cố gắng xem vị Phật ở trong tâm của mình chứ?

Khi quý vị có Chánh tri Chánh kiến, khi quý vị có minh tâm kiến tánh, khi mà bản thân quý vị đã giác ngộ, thì lúc đó Phật đã ở trong tâm quý vị, để chỉ dạy cho quý vị rồi."

Giác Nhân Hướng Tâm Nhi Giác, Mê Nhân Tu Nhân Trì Quả" (người giác ngộ thì sự giác ngộ của họ là hướng vào tâm mà giác ngộ, người mê muội thì tu nhân đợi quả).

Người mê muội thì họ luôn tu dưỡng, và luôn nghĩ: "Tôi phải tu đến lúc gặp được Phật, tôi phải tu đến lúc lìa khổ được vui".

Trên thực tế khi quý vị đang tu tâm, nhân thiện đã được gieo, thì quý vị không cần đợi quả, quả sẽ tự đến.

Khi quý vị làm việc ác, nhân ác đã được gieo, thì khi quả báo đến nhất định phải tự mình gánh chịu.

Người giác ngộ chỉ cần hỏi lương tâm của chính mình "Việc này bản thân có nên làm không?"

Nếu lương tâm cho rằng việc xấu này không thể làm được, thì tâm của quý vị đang trong trạng thái giác ngộ.

Người giác ngộ chính là Phật, khi mà trong tâm quý vị đã hiểu rõ, "Tôi nghĩ thông rồi, tôi giác ngộ rồi", vậy thì quý vị đã có Phật trong tâm.

Sư phụ hy vọng mọi người có thể "Người giác ngộ vô tâm tướng", người giác ngộ căn bản không cần đi đến chân trời gốc bể nào để tìm Phật cả, vì Phật là ở trong tâm.

Vì vậy chúng ta thường nên tu Nhân và hiểu Quả, chứ không phải là đợi Quả, không nên để bản thân tạo nhân gì cũng không biết, rồi ngày ngày đợi quả báo nhãn tiền.

Có rất nhiều người nói "Năm ngoái tôi có cầu xin Bồ Tát, nhưng tại sao tới bây giờ Bồ Tát vẫn chưa cho tôi cảm ứng gì hết vậy?"

"Mê Nhân Chấp Vật, Thủ Ngã Vi Dĩ".

Một người mê muội sẽ cho rằng "món đồ này là của tôi", ở trên thế gian này, nếu "cái này là của tôi, cái kia cũng là của tôi", thì người đó không biết mọi thứ vốn dĩ là vô ngã.

Quý vị từ đâu đến?

Trước khi sinh ra quý vị ở đâu?

Quý vị xem gia đình, người thân, danh lợi, phiền não, sinh tử của bản thân, đều xem nó là thật, "Ôi, đây là của tôi", vậy thì quý vị dần dần sẽ chấp mê, sẽ cố chấp, quý vị sẽ không sẵn lòng từ bỏ những danh lợi này, thì sẽ không thể buông bỏ được.

Thử nghĩ xem, quý vị đến thế gian này, quý vị mang theo những gì?

Người giác ngộ sẽ không bị mê hoặc, vì họ biết rằng tất cả mọi thứ trên đời này đều là tạm thời sở hữu và mượn tạm, sẽ không thuộc về mình mãi mãi, cho nên dù họ có tiếp xúc nhưng cũng không bị nhiễm bẩn và không bị ô uế.

"Vô Xử Bất Thị Phật Tánh" (không nơi nào là không có Phật tánh).

Chúng ta đang sống ở thế giới này, có ngày nào, có sự việc nào, có thời điểm nào mà không có Phật tánh?

Vì vậy không có nơi nào là không ở Tây Phương - Thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Chúng ta phải hiểu, một người mà nghĩ không thông thì cả ngày đều cố chấp: "cái này là của tôi, sau này nó sẽ mất đi thì tôi phải làm sao đây?

Tôi sẽ rất đau khổ".

Người mà thật sự hiểu được Không Tánh, thì họ sẽ không cố chấp vào những thứ này, bởi vì họ biết những gì có trong hôm nay, có thể sau một thời gian cũng sẽ không còn nữa.

Vì vậy Không tánh đích thực chính là buông bỏ hoàn toàn, nhìn thấy được bổn tánh rồi, hiểu được Phật tánh rồi, thì tự nhiên sẽ có được Không Tánh.

Một người chỉ cần hiểu được, không "chấp không", cũng không "chấp có" - Trung Quán; nếu không bám chấp vào tánh Không và chấp Không, và cũng không bám chấp vào những gì ngày hôm nay quý vị có được, thì sẽ không có hai mặt.

Nếu không có hai mặt thì đó là Tâm Không, mà Tâm Không thì sẽ không có, trong tâm sẽ không bám chấp Không và cũng không bám chấp Có.

Lấy một ví dụ, hôm nay quý vị có gia đình, trăm năm sau gia đình này không còn nữa, "Tôi không chấp trước về việc đã có một gia đình, và tôi cũng không chấp trước việc mà về sau gia đình này không còn nữa, để rồi chưa gì đã nóng vội đem cái gia đình này đi phá hỏng", đây chính là "Trung Quán".

Vì vậy chúng ta không thể "tâm không tương diệt".

Có cái Có này không? có.

Có cái Không này không?

Cũng có cái Không này.

Hai loại đều có, hai loại đều không thể "diệt độ", chỉ có thể "duy hữu trung tính" (duy trì sự trung hoà, trung tính).

Người có trí tuệ là người có thể nhìn thấy bổn tánh của mình, bởi vì bổn tánh là không, nhìn thấy đều là "hư không" - cũng là 1 chữ "Không", nhưng nó là "Hư Không".

Vì vậy chúng ta không thể chấp trước 4 tướng này - chấp trước về Nhân Tướng, Ngã Tướng, Thọ Nhân Tướng, Chúng Sinh Tướng, có thể khiến quý vị dần dần bị hủy hoại bổn linh trí tuệ và Bát nhã ở trong tâm của mình.

Theo cách nói của người thường, mọi thứ trên thế gian này đều có thể khiến quý vị vui vẻ và khiến quý vị đau buồn...

Mọi tình yêu trên thế gian đều trống rỗng và cuối cùng sẽ biến mất.

Đôi khi nó giống như một tấm lưới, và chúng ta dùng những chấp trước - chấp Không và chấp Có của mình, để từ từ dệt nên tấm lưới này, để nó thống trị những nỗi buồn vui thường ngày của chúng ta - đó là những cảm nhận của bản thân chúng ta.

Tình yêu, tình bạn, tình huynh đệ, tình phụ tử, tình mẫu tử và tình cảm bạn bè, khiến cho chúng ta cảm thấy rằng "Tôi có tất cả mọi thứ này là điều dĩ nhiên", để rồi mỗi một ngày đều cố chấp trong lòng, đây chính là Ngã chấp.

Cho nên một khi mất đi sẽ vô cùng đau khổ.

Chỉ cần có nhân duyên, nhất định sẽ gặp nhau.

Nhưng gặp nhau cũng là nhân duyên, bởi vì nhân duyên cũng có thể mất đi, vì vậy khi duyên phận hết rồi thì sẽ dần dần sẽ không còn nữa.

Nhưng trước khi biến mất, nó còn có sự chiêu cảm của nghiệp lực, có nghĩa là khi quý vị đang hành duyên (đang còn duyên), quý vị đã gieo rất nhiều nhân nghiệp và quả nghiệp.

Tại sao lại có nghiệp duyên?

Là do sự tích lũy của kiếp trước.

Vì vậy, kiếp này của chúng ta như là đang diễn lại câu chuyện của kiếp trước và kiếp trước nữa, thật đặc sắc.

Rất nhiều người một khi gặp sự việc này, nhất thời sẽ cảm thấy rất đau lòng, kỳ thực người đó đã chạm phải "quả" của kiếp trước trong tiềm thức thứ 8 của mình.

Giống như xem phim, chúng ta không ngừng thay đổi nhân vật, cuộc sống kiếp trước và kiếp này của chúng ta không giống nhau, nhân vật của kiếp trước và kiếp này tất cả đều không giống nhau, thực ra đều là đang trong vòng lặp, chính là đang luân hồi.

Kiếp này, có khi chúng ta gặp nhau, nhìn thấy mặt nhau "tự thị nhi phi" (như đúng mà lại sai), tưởng chừng đã quen biết nhau nhưng dường như lại là hai người xa lạ nên không cần phải lưu luyến, bởi vì tất cả những điều đó đều do duyên phận tạo thành.Bồ Tát đã từng dạy chúng ta: là Không, là Vô Tướng, là Vô Tác.

Chính là để nói với chúng ta rằng trên thế gian này tất cả đều là rỗng Không, làm bất cứ việc gì trên thế gian này, đến cuối cùng đừng chấp tướng, không có tướng, sẽ không có tác, sẽ không làm ra bất cứ điều gì.

Không chính là Vô Tướng, Vô Tướng lại là Vô Tác, vì vậy nếu có Không, Vô Tướng, Vô Tác thì tâm của quý vị sẽ không tồn tại ý thức, cũng giống như 3 cánh cửa giải thoát này quy về một cánh cửa giải thoát, 3 cửa Không - Vô Tướng - Vô Tác này sẽ trở thành một cửa giải thoát, đây chính là "Tam Giải Thoát Môn"Hôm nay bài giảng tương đối sâu hơn, nên sư phụ sẽ giải thích một chút.

Bồ Tát muốn nói với chúng ta rằng, trên thế gian này tất cả đều là "Tánh Không và Vô Thường".

Bởi vì nó vô thường, nên nó sẽ kết thúc và sau khi kết thúc, có phải tất cả những gì quý vị có được trong quá khứ đều trở thành hư vô không?

Vậy thì đây chính là vô tướng, là không còn gì nữa rồi.

Lấy một ví dụ đơn giản, khi còn nhỏ chúng ta đã chụp rất nhiều ảnh, có nhiều kỷ niệm đẹp cũng như có nhiều kỷ niệm rất buồn, đây thuộc về tướng, vậy thì hôm nay chúng ta đã biết về "Không", một ngày nào đó nó sẽ trống rỗng, và sau khi trống rỗng thì nó thuộc về vô tướng.

Thế nên, nó trống rỗng và không có hình tướng; bởi vì trống rỗng rồi, không có hình tướng và không có ký ức này nữa, thì quý vị đã Vô Tướng rồi.

Hồi nhỏ có phải quý vị đã từng làm qua rất nhiều việc không?

Đã từng làm qua.

Đã từng làm qua vậy thì bây giờ nó ở đâu?

Vô Tác (không làm qua điều gì).

Quý vị đã làm những việc đầy hứa hẹn nào rồi?

Đã từng làm qua những việc gì?

Vô tác (không làm qua điều gì).

Vì vậy đây chính là Tam giải thoát môn (Ba cửa giải thoát).

Làm thế nào để giải thoát bản thân ra khỏi sự ràng buộc của nội tâm và hiểu được rằng quá khứ bất khả đắc, vị lai bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc.

Chính là muốn nói với quý vị rằng, có 3 cửa giải thoát đó là Không - Vô Tướng - Vô Tác - nếu như trên thế gian này tất cả đều là trống rỗng, là không có hình tướng, hơn nữa chưa từng làm gì cả, chưa từng làm qua việc này, thì ý thức trong tâm quý vị từ đâu đến?
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 36 TRUNG QUÁN TRUNG ĐẠO TAM GIẢI THOÁT MÔN 08/04/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 36🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".---------------

Tập 36

TRUNG QUÁN TRUNG ĐẠO

TAM GIẢI THOÁT MÔN

08/04/2020Bồ Tát dạy chúng ta học cách “Tam bất khả đắc”, chính là để chúng ta hiểu rằng mọi thứ trên đời đều là giả dối.

Để chúng ta loại bỏ ý thức trong tâm của mình, đó là nương tựa vào “Tam Giải Thoát Môn” này.

Bồ Tát nói với chúng ta, khi một người sắp rời khỏi thế gian thì sẽ biết được thế giới này là trống rỗng, đúng không?

Mọi thứ chúng ta đã làm có phải là trống rỗng không?

Quý vị hãy nghĩ xem những sự việc khi mà quý vị còn nhỏ như trường mẫu giáo, giáo viên tiểu học, bạn học tiểu học và bạn học cấp hai khi nhỏ và đến bây giờ thì ai nấy đều không còn gặp nhau nữa, khi mọi thứ đã kết thúc, có phải là trống rỗng không?

Đúng vậy.

Sau khi đã rỗng không, phải chăng trong đó không có ký ức, không có hình tướng và không có suy nghĩ?

Cái mà quý vị không thể nhớ được là "vô sở tác"?

Có phải giống như không làm gì không?

Khi quý vị nghĩ như vậy, tâm trí quý vị sẽ trong sáng, sẽ không có ý thức.

Bồ Tát sợ nhất là chúng ta có ý thức, bởi vì có ý thức trong não sẽ còn sót lại trong điền thức thứ 8, A-lại-da thức (thức Aliya) sẽ lưu giữ nhiều điều đau đớn buồn phiền trong quá khứ cũng như nhiều điều không đúng lý, không đúng pháp mà chúng ta đã từng làm, và nó sẽ được lưu trữ mãi mãi trong ý thức, khiến quý vị luân hồi vô tận trong lục đạo .Tam Giải Thoát Môn là Không-Vô Tướng-Vô Tác.

Kinh điển của Bồ Tát rất triết lý, bảo chúng ta phải giải thoát, và cửa giải thoát ở đâu?

Để cho quý vị phải nghĩ đến Không-Vô Tướng-Vô Tác.

Trong kinh Phật, Vô Tác từng được dịch là Vô Nguyện.

Nhiều người nghĩ rằng, chẳng phải những người tu hành theo đạo Phật như chúng ta phải phát nguyện thường xuyên sao?

Chẳng phải có rất nhiều chư vị Bồ Tát lớn, Phật lớn đều có nguyện lực sao?

Vô Nguyện, điều này thật kỳ lạ, chẳng phải người học Phật đều phải phát nguyện sao?

Vô Nguyện thực ra chính là Vô Tác.

Tại sao lại vậy?

Lời nguyện đã hứa qua cũng chỉ là một lời nguyện, nếu không thực hành nó — thì là Vô Tác; Cho dù lời nguyện này đã được thực hành và quý vị đã hoàn thành, thì cảnh giới cao nhất là hôm nay quý vị đã thực hành lời nguyện đó, như thể quý vị chưa từng làm điều đó, cho nên có làm như không làm, làm rồi giống như chưa làm, đây là cảnh giới cao nhất của đạo Phật.Chúng ta nên nắm bắt ba cánh cửa giải thoát này và coi mọi thứ là Không-Vô Tướng-Vô Tác.

Sư phụ lấy một ví dụ đơn giản cho quý vị nghe thử.

Hôm nay quý vị sắp tổ chức một buổi lễ lớn ở cơ quan làm việc, quý vị bận rộn đã lâu và cuối cùng buổi lễ cũng kết thúc, lúc đó quý vị trên sân khấu cảm thấy rất vinh dự, nhưng cuối cùng thì chuyện này cũng kết thúc và rỗng không.

Một ví dụ khác, nhóm truyền thông của chúng tôi từng tổ chức lễ kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Đài truyền thông, tại Nhà hát Opera Sydney rất đông đúc và bận rộn, rất tuyệt vời.

Kết quả là, sau khi hoàn thành công việc, trên đường lái xe về, một trong những người dẫn chương trình của chúng tôi đã nói: “Bận rộn bấy lâu nay, như thế là kết thúc rồi.”

Đây là trống rỗng, đã kết thúc, bận rộn xong, và cuối cùng thì cũng trống rỗng; sau khi trống rỗng quý vị không còn nhớ đến nữa.

Bây giờ khi nghĩ lại hoạt động này cách đây vài năm, quý vị không có cảm giác và không có ấn tượng gì trong đầu, hiếm khi hoài niệm hay nhớ về nó và nó đã Vô Tướng.

Nếu quý vị không có ấn tượng này trong đầu thì đó có phải là “Vô Tác” không?

Chỉ thỉnh thoảng mới xem qua một số buổi biểu diễn trên trang web của chúng tôi và nghĩ về nó mà thôi.

Bồ Tát cho chúng ta hiểu rõ ba cánh cửa giải thoát này — thế nào là Không, thế nào là Vô Tướng, thế nào là Vô Tác, rồi quý vị sẽ dần nắm bắt được ba cửa giải thoát này, và quý vị sẽ hiểu được hết thảy đạo lý của Phật giáo.Nhiều người không hiểu tại sao, dường như học Phật pháp rồi giống như chưa học.

Học chưa?

Chưa học à?

Đã học nó.

Quý vị đã từng tham dự các tiết học ở trường tiểu học chưa?

Đã từng học qua.

Quý vị đã học được rất nhiều chữ, bây giờ vẫn đang vận dụng chúng phải không?

Đang vận dụng.

Tại sao lại đang vận dụng nó?

Bởi vì đã từng học nó và đã khắc ghi trong lòng.

Bây giờ nghĩ lại, có vẻ như quý vị chưa từng học nó, vì quý vị đã quên hết những gì đã học ở trường tiểu học.

Nhưng thật sự đã quên rồi sao?

Chưa quên, nó đã ở trong lòng và áp dụng nó vào thực tế.

Đây là chỗ thâm sâu của Bồ Tát, là Không, là Vô Tướng, là Vô Tác.

Nó có thực sự trống rỗng không?

Nó không trống rỗng.

Nó có phải là không có hình tướng không?

Cũng không Vô Tướng.

Nó có phải là không có hành động không?

Cũng chẳng phải là Vô Tác.

Cho nên Tam Giải Thoát Môn là để cho chúng ta biết buông xả, học cách buông bỏ mọi thứ trên đời…dù đó là Pháp Môn hay những kiến thức mà chúng ta đã học được, hết thảy đều trống rỗng.

Khi một vật trống rỗng đã từng được sử dụng, đã từng học qua và sau khi trống rỗng, thì hình tướng này của nó sẽ biến mất.

Nếu quý vị không dính mắc vào hình tướng thì trong tâm không có hình tướng này, không dính mắc vào hình tướng này thì quý vị sẽ quên mất.

Cũng giống như khi còn trẻ, có rất nhiều chuyện buồn hay lịch sử tình yêu, nếu bây giờ không nhắc đến thì chắc chắn quý vị không có hình ảnh này.

Trong đó có cả việc tụng kinh, cho dù là trước đây quý vị đã từng học qua bao nhiêu kinh điển, Pháp Môn, kinh Phật và cũng học được hết tất cả các Pháp, rốt cuộc quý vị sẽ được gì?

Tại sao trong《Tâm Kinh》lại nói rằng “chư pháp không tướng”?

Mọi thứ đều là không tướng.

Cho nên《Kinh Kim Cang》có nói: “Nhất thiết hữu vi pháp.

Như mộng huyễn bào ảnh.

Như lộ diệc như điện” giống như điện, nó tan biến ngay lập tức; giống như sương, nó tan biến và khô đi khi mặt trời ló dạng; nó giống như mộng huyễn, như giấc mơ.

Trong giấc mơ nó rất chân thực, có những đứa trẻ sau khi thức dậy vẫn còn khóc, vẫn đang suy nghĩ về những điều trong mơ, liệu quý vị có bị dính mắc vào những giấc mơ này không?

Đã qua rồi thì cứ để cho nó trôi qua, vì vậy “Như mộng huyễn bào ảnh.

Như lộ diệc như điện”.

Vậy thì quý vị nên nhìn những điều này một cách thực tế, đó gọi là “Ưng tác như thị quán”.

Sau khi chúng ta học Phật, học càng về sau, khó là khó ở chỗ làm thế nào để chuyển những gì đã học thành Không Tánh và làm thế nào để hiểu nó.

Đây không phải là cái Không thực tế, không phải là cái Không cố chấp, mà là một loại vừa có thể thực sự giúp ích cho quý vị, lại không nhìn thấy được Không — bản chất của sự trống rỗng.Chánh kiến về Trung Quán là rất quan trọng.

Khi nhìn cái gì thì phải Trung Quán, có thể thấy người này có một số khuyết điểm, nhưng nói chung là có đức tính tốt và đạo đức tốt, đây gọi là “Trung Quán Chánh Kiến”.

Người này có chút tật xấu, khi tật xấu nổi lên thì rất đáng ghét, nhưng bản chất của cậu ta vẫn rất tốt, hơn nữa cậu ta học Phật thì nên giữ lại Huệ mệnh cho cậu ta - Trung Quán Chánh Kiến.

Vậy trí tuệ căn bản khi nhìn thấy Đạo là gì?

Trí tuệ căn bản nhất của Phật giáo là Trung Quán.

Ở thế gian này, nếu chúng ta dùng Trung Quán để quán chiếu tất cả vạn vật, thì tâm của chúng ta sẽ có thái độ rất tốt.

Tại sao vậy?

Tâm thái bình thường.

Đối với một người thật đáng ghét, nhưng chúng ta vẫn có thể nói “người này thật đáng thương”, vậy thì lòng đại từ đại bi đã xuất hiện rồi đấy; và người này đã làm rất tốt nhưng chúng ta cũng nên cân nhắc rằng người đó vẫn còn khuyết điểm, hy vọng họ có thể thay đổi tốt hơn, có phải là có một loại nghị lực tinh tấn nào đó trỗi dậy không?

Bất cứ điều gì đều coi nó là Trung Quán, không trống rỗng cũng không tồn tại.

Không trống rỗng — mặc dù trong lòng quý vị nói “người này rất tốt”, nhưng quý vị không giữ người ấy trong lòng và cũng không nói rằng người ấy hoàn toàn tốt, chúng ta nói “không trống rỗng nhưng cũng không phải là có”, nhưng nó cũng không phải là không có gì.

Hôm nay tôi nhìn lại vấn đề này, trong Trung Quán Trung Đạo luôn có một cái gì đó, và tôi coi nó hoàn toàn là cái gì đó có tồn tại, nhưng nó lại không tồn tại.

Vì thế nó có vẻ trống rỗng, nhưng thực ra nó dường như ở đó, đây chính là tức không tức có.Điều kiện trước tiên để đạt được Chánh kiến về Trung Quán là gì?

Một người muốn thực sự đắc đạo... người học Phật thường nói "Tôi muốn đắc đạo", thế nào là đắc đạo?

Khi nhìn người, đừng coi thường người khác, nếu có cái nhìn đúng đắn cũng như có Chánh kiến về Trung Quán thì quý vị sẽ đắc được đạo.

Nếu mọi người đều nói người này không tốt, còn quý vị lại nói: “người này cũng có ưu điểm của họ, tuy rằng họ có khuyết điểm” thì quý vị có phải là người đã đắc được đạo không?

Dù làm gì đi nữa, chúng ta cũng phải nhìn thấy tánh Không và tách rời khỏi hình tướng.

Ví dụ, bây giờ quý vị đang rất phiền não về một sự việc, gia đình ngày nào cũng cãi vã và đang đối mặt với sự suy sụp, thì quý vị nên “Nhìn thấy sự trống rỗng trước tiên” – “Trên thế gian này là vậy, vợ chồng về sau nhất định sẽ có cãi nhau, đây là điều xảy ra trong mỗi gia đình", trước tiên, quý vị nên nhìn thấy sự trống rỗng của nó: "vì vậy chúng ta đừng quá đặt nặng vấn đề ".

Chỉ một việc nhỏ nhặt, một lời nói, một cái nhìn hay một hành động nào đó thôi, quý vị đừng quá xem trọng và tưởng như nó là thật thì quý vị đã nhìn thấy được sự trống rỗng của nó, và sự trống rỗng của hôn nhân đã lộ ra rồi phải không?

Sau khi nhìn thấy sự trống rỗng, quý vị trở thành người ngoài cuộc, không còn là người bị ám ảnh bởi những cuộc cãi vã trong hôn nhân, cho rằng “hôn nhân là thế đó, vợ chồng nào cũng sẽ có cãi vã, vợ chồng nào cũng sẽ có cảnh này”, có phải quý vị đã thoát khỏi vai trò của mình trong vụ việc này rồi không?

Một khi quý vị đã rời khỏi và trở thành người ngoài cuộc, thì quý vị có thể nhìn thấy chân tánh và bản chất của vấn đề này, và bản chất của nó là trống rỗng.

Cũng giống như hai đứa trẻ cãi nhau, bố mẹ ở bên cạnh luôn nói “đừng cãi nhau, đừng cãi nhau”, họ biết rất rõ rằng khi hai đứa trẻ cãi nhau, luôn có nhiều thứ nhiều việc không thể giải quyết được như đố kị, khó chịu và những chuyện không vui từ bên ngoài v.v...Không Tánh là gì?

Không Tánh nghĩa là biết rằng sẽ luôn có những cuộc cãi vã.

Bố mẹ nói "Bố mẹ biết, nên bố mẹ không tham gia vào cuộc cãi vã", và người bố cũng không giúp con trai, người mẹ cũng không giúp con gái ...

Bằng cách này, sẽ nhìn thấy được “Tánh Không”, nó vốn trống rỗng và từ đó quý vị đã thoát ly khỏi nó.

Khi quý vị hiểu được Tánh Không, quý vị không ở trong đó, thì quý vị sẽ rất rõ ràng cảm nhận được tư duy của bản thân về mọi mặt, cảm nhận được bổn tánh là rỗng Không.

Bởi vì, sau một thời gian chuyện đó dường như chưa từng xảy ra, hai đứa trẻ sẽ vui vẻ trở lại, ăn uống, chơi đùa cùng nhau, hết thảy rỗng Không.Theo giới đạo Phật mà nói, tự tánh vốn dĩ là trống rỗng, và bản chất của mỗi người vốn dĩ là trống rỗng.

Trên thế gian: “Bổn lai vô nhất vật.

Hà xứ nhạ trần ai” Tâm con người giống như một tấm gương, nếu không chiếu những thứ dơ bẩn đó thì làm sao có những thứ dơ bẩn đó ở trong tâm mình?

Bước đầu tiên khi học Phật là để cho bản thân mình hiểu được mọi thứ trên thế gian này và đừng xem nó quá chân thật, thay vào đó, hãy nhìn thấy Không-Vô Tướng-Vô Tác.

Bằng cách này, quý vị đang bước bước đầu tiên trên con đường học Phật.

Quý vị không chỉ hiểu về mặt lý thuyết mà còn phải rời xa cái tâm của mình, tức là hiểu được bổn tánh là trống rỗng, “Tôi không ở trong đó, và dần dần sẽ hiểu được ý nghĩa thực sự của nó”.

Cho nên khi một người tham gia vào cuộc cãi vã, họ không biết ai sai ai đúng; khi quý vị đang ở trong một cuộc tranh cãi, quý vị chắc chắn cảm thấy mình đúng, thì đây chính là quý vị đã bị cuốn vào trong đó rồi.

Tánh Không là để cho chúng ta biết cách hiểu Phật giáo bằng cách học Phật.

Nhiều người nói “Tôi hiểu rồi, tôi đã học Phật, tôi học rất tốt, tôi có thể áp dụng nó trong cuộc sống và tôi có thể kiềm chế được tính khí của mình”, nhưng tại sao cuối cùng lại không thể kiềm chế được?

Có bao nhiêu người có thể kiểm soát được tính khí khi nổi lên?

Có bao nhiêu người có thể kiểm soát được phiền não khi nó đến?

Học Phật là để thoát khỏi sinh tử.

Học Phật cả buổi, đừng nói đến là giải thoát sinh tử, hôm nay đau lưng cũng không giải quyết được chứ đừng nói đến sinh tử?

Hôm nay phiền não ập đến cũng hóa giải không xong, thì làm sao giải thoát sinh tử đây?Ngộ đạo là gì?

Chứng đạo là gì? có nghĩa là toàn bộ thân tâm của quý vị đã hoàn toàn thâm nhập vào ngộ tánh và đã bước vào Phật đạo.

Cũng giống như tách trà, nếu pha lá trà bằng nước đun sôi để nguội thì trà sẽ có vị, quý vị chỉ nói những lời sáo rỗng, dù lời nói của quý vị có thơm hay đậm đến đâu thì nước đun sôi để nguội vẫn là nước nước đun sôi để nguội, cho nên dù quý vị nói Phật Pháp có tốt đến mấy nhưng nếu không thực hành, thì nước quý vị uống vẫn là nước đun sôi để nguội, dù quý vị có nói về nó tốt, đậm, thơm đến đâu, suy cho cùng thì đó cũng không phải là thực hành.

Vì vậy, để đạt được Chánh đạo, quý vị phải chứng thực sự tồn tại của Phật giáo và xác minh cơ sở cho sự tồn tại của Phật giáo để nó có thể mang lại lợi ích cho quý vị, chỉ bằng cách này mới có thể thực sự khai ngộ.Vì thế, Tánh Không tùy thuộc vào sự kiểm chứng, người hiểu được Tánh Không thì có ý thức kiểm nghiệm, chứng đắc được Tánh Không thì không coi là thành công trọn vẹn trong việc học Phật.

Quý vị đã chứng ngộ và nói: “Tôi hiểu rồi, Phật Pháp thực sự là trống rỗng.

Bạn thấy đấy, khi trong nhà chúng ta thật không dễ dàng gì dành dụm được một ít tiền, và đã tiêu hết khi bị bệnh, chẳng phải nó trống rỗng sao?

Biến thành phải bắt đầu làm việc trở lại để kiếm tiền.

Lúc này tôi cảm thấy đây là trống rỗng", đây vẫn chưa đủ và chưa được tính là trống rỗng.

Bởi vì mỗi sự hiểu biết và lý giải chỉ là bước khởi đầu đối với việc hướng tới sự trống rỗng mà thôi.

Khi bản tánh trống rỗng, chúng ta vẫn cần biết tại sao nó trống rỗng và duyên khởi là gì.

Tánh Không là gì?

Duyên khởi là gì?

Quý vị phải hiểu tại sao mọi thứ trên thế gian này đều trống rỗng thì quý vị mới thực sự trống rỗng, quý vị hiểu rằng thế giới này thực sự trống rỗng, và quý vị đã buông xả, giống như một pháp sư, họ biết gia đình đó cuối cùng sẽ không có nữa, và mọi thứ của con người sẽ mất đi, “Tôi muốn tìm một con đường đạo Phật có thể dẫn đến chứng ngộ.”

- để chứng đạo, nên họ hiểu rằng trong lòng mình có diệu pháp, và đã từ bỏ tất cả danh lợi, địa vị v.v.

ở nhân gian, và họ sẽ diệu dụng Phật pháp, để bản thân được ở trong một môi trường yên tĩnh, không tham, sân, si, mạn, nghi, để giáo pháp của họ có thể tiến thêm một bước nữa.Nói đến đây, rất nhiều người nói đây được coi là thành công không?

Đây vẫn chưa được tính là thành công, “yếu Không phi Không, Có phi Có, tức Không tức Có”.

Có nghĩa là quý vị muốn trống rỗng, chứ không phải nó trống rỗng.

Trong lòng quý vị muốn trống rỗng không?

Hy vọng trống rỗng nhưng không hoàn toàn trống rỗng.

Có phi Có, trong lòng quý vị nghĩ: “Tôi có Pháp này, nhưng tôi lại không có nó”, thực ra, Pháp này đã đi vào A-lại-da thức của quý vị rồi, và đã đi vào cuộc sống của quý vị, và cuộc sống của quý vị nằm trong Lục Ba-la-mật.

Cho nên tức Không tức Có, nó dường như là không và nó dường như có, nó dường như có và nó dường như là không, thực ra quý vị đã áp dụng nó vào việc thực hành Không Tánh rồi.

Bí ẩn của đạo Phật là chúng ta phải nghĩ thông, nghĩ minh bạch, nghĩ trống rỗng và nhìn thấu suốt.

Phi Không phi Có, nó dường như trống rỗng và dường như không tồn tại.

Cũng giống như ngày nay quý vị sống trên thế gian này, ai cũng có một gia đình, nhưng gia đình này dường như có, và dường như lại không.

Cũng giống như pháp sư, họ từng có nhà nhưng họ đã xuất gia, ngày xưa họ có nhà không?

Dường như có nhưng không phải có, không phải Không cũng không phải Có.

Chỉ khi đó quý vị mới có thể thực sự hiểu được duyên khởi của Tánh Không trong Bát nhã, tức là thực sự hiểu được rằng duyên phận này vốn dĩ là rỗng Không trong thế giới này: “Tôi hoàn toàn hiểu rõ, bây giờ tôi đã hiểu ra, vì bổn tánh của tôi hiểu Phật pháp, con người cuối cùng chẳng có gì cả, mọi thứ đều vô thường, nó là trống rỗng”, khi quý vị hiểu được cái duyên của đạo lý này, thì đó là "Tánh Không Duyên Khởi".Những gì nói với mọi người hôm nay quả thực có phần sâu sắc, nhưng Sư phụ cố gắng giải thích cho quý vị bằng bạch thoại.

Phật Pháp dù sâu xa đến mấy cũng không thể tách rời khỏi sự hiểu biết và ngộ tánh trong tâm thức của tất cả chúng sinh.

Tánh Không của chúng ta có phải là tối thượng không?

Không Tánh rốt cuộc là có trống rỗng hay không?

Là trống rỗng ở mức độ nào?

Nó có hoàn toàn trống rỗng không?

Tánh Không là tối thượng tuyệt đối, nghĩa là dù cái trống rỗng này có tồn tại trong đời sống thực tế hay trong những giáo lý Phật giáo được hiểu khi nghiên cứu về đạo Phật thì nó là cái tối thượng, nó là cái tối hậu.

Bởi vì mọi thứ trên thế gian này đều là trống rỗng, Phật Tổ Phật pháp từ lâu đã dạy chúng ta rằng: “ Thành, Trụ, Hoại, Không”
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 37 CHÚ TRỌNG KHÔNG TÁNH, BÁT NHÃ DIỆC NHIÊN. 8/4/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 37.🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".-------------Tập 37

CHÚ TRỌNG KHÔNG TÁNH, BÁT NHÃ DIỆC NHIÊN.

8/4/2020Để có cái nhìn đúng đắn về Trung Quán, về sự trống rỗng của thế giới này, không thể suốt ngày nói "Dù sao thì nó cũng trống rỗng, dù sao cũng không có nhà, đồ gia dụng cũng không cần nữa, cái gì tôi cũng không cần, tôi sao cũng được", thế thì người này đã bị thiên chấp(Cố chấp nghiêng về một mặt nào đó mà không thấy rõ được mặt khác).

Vì vậy, nếu không bị thiên chấp thì phải có chánh kiến về Trung Quán, mượn giả tu thật.

Ở nhân gian, là trống rỗng sao ?

Là trống rỗng, nhưng nó không hoàn toàn trống rỗng, mà cái trống rỗng này là cái trống rỗng giả tạo, là cái thân thể giả, và vật chất giả tạm mà chúng ta tạm thời mượn dùng, nó không phải là vật sở hữu hoàn toàn, cũng không thể mang đi và nó sẽ không vĩnh cữu, nên loại hư không này không thể ảnh hưởng đến sự trống rỗng của bổn tánh.Suy cho cùng, Bát nhã là tánh Không, khi quý vị hoàn toàn hiểu được trí tuệ của thế giới này và hiểu được trí tuệ của Đức Phật, thì quý vị sẽ hiểu được tánh Không thực sự là gì.

Làm thế nào có thể đạt được sự trống rỗng này trong tâm mình?

Ví dụ, một số người thích thiền, và ngồi ở đó để: "trống rỗng, trống rỗng, trống rỗng..." họ muốn đầu óc trống rỗng: "Tôi muốn trống rỗng, tôi muốn trống rỗng..

"Nhưng đầu óc họ có thể trống rỗng được không?

Tạp niệm phân phi: Nước sôi chưa?

Lát nữa phải đi đón con; Tối nay còn thứ gì chưa mua... có rất nhiều người khi đang niệm kinh, thì sẽ nghĩ đến nhiều việc chưa hoàn thành, lúc bận rộn không nghĩ ra được, nhưng vừa ngồi xuống niệm kinh lại nhớ ra tất cả: "Tôi đã quên mất điều này, tôi đã quên mất điều kia..."

Thực ra, cũng giống như lá trà lắng xuống, một khi một người đã lắng xuống, thì sẽ có rất nhiều suy nghĩ xuất hiện.

Bởi vì quý vị bận tìm kiếm sự trống rỗng mỗi ngày, nên quý vị "bận rộn trong sự trống rỗng".

Sự trống rỗng đích thực là gì?

Sự trống rỗng này không thể tìm kiếm được.

Quý vị đã bận rộn trong một thời gian dài cố gắng tìm kiếm sự trống rỗng, nhưng sự trống rỗng này không phải là thứ mà quý vị tìm kiếm là có được, mà là một tính chất vốn có tự thân.

Chính "Tánh Không" làm cho quý vị trống rỗng, chứ không phải quý vị làm trống rỗng nó.

Cũng có nghĩa là, nếu một người muốn buông bỏ hoàn toàn, thì sẽ buông bỏ một cách tự nhiên, nó dần dần sẽ trở nên trống rỗng, và sự trống rỗng sẽ đến; không có tạp niệm trong đầu, không có đủ thứ vọng tưởng hư ảo và vọng niệm trong đó, thì lúc này sự trống rỗng sẽ đến với quý vị; thay vì khi tâm quý vị chứa đầy tạp niệm, suy nghĩ, vọng tưởng tán loạn thì "Con xin, con xin, con xin Bồ Tát cho con được trống rỗng, trống rỗng, không có tạp niệm."

Vậy thì quý vị bận rộn đến cuối cùng sẽ "bận vô ích".

Quý vị phải hiểu sự thật này, khi quý vị hiểu được sự thật "Tôi không thể tìm kiếm tánh Không", mà phải buông bỏ mọi tạp niệm và làm cho tâm mình trở nên tự nhiên, tức là sự trống rỗng tự nhiên.

Hiện tại mọi người đang nghe sư phụ giảng, có người rất nghiêm túc, đầu óc của một số người vẫn chưa trống rỗng và họ vẫn đang lắng nghe những gì sư phụ giảng; Có người thì tự nhiên trống rỗng, khi nghe Sư phụ giảng pháp vi diệu này sẽ nghĩ: "Thật hay, Sư phụ giảng đạo lý Phật pháp bằng bạch thoại dễ hiểu và rất hay".

Khi không nghĩ gì đến việc khác thì sẽ "tự nhiên trống rỗng".

Trong khi đó, thì nhiều người đang có suy nghĩ: "

Sau này trong cuộc sống tôi cần phải trống rỗng, tôi phải vâng lời, tôi phải tiêu trừ những tạp niệm", như thế thì quý vị vẫn đang còn ở trong những tạp niệm và vọng niệm.

Quý vị cầu xin sự trống rỗng như thế này, thì làm sao có thể trống rỗng được đây?Chúng ta phải hiểu rằng, tâm chúng ta không trống rỗng là điều bình thường, và tâm chúng ta trống rỗng cũng là điều bình thường.

Bởi vì khi quý vị cảm nhận được sự trống rỗng, thì quý vị đã ở giữa sự không trống rỗng; khi quý vị không cảm thấy trống rỗng mà trống rỗng một cách tự nhiên, thì thực ra, những suy nghĩ bên ngoài xâm nhập vào quý vị đã tan biến.

Người học Phật đã học được rằng, sau này khi trí tuệ khởi lên, chẳng hạn, nếu người có tạp niệm phân phi nói với quý vị về một số vấn đề tầm thường trong cuộc sống, người đó sẽ khiến quý vị vô cùng buồn bực và chán nản giống như họ, lúc này thì quý vị đã làm theo ý nghĩ của họ rồi, tức là không trống rỗng.

Khi đó, quý vị sẽ nghĩ trong đầu: "Tôi không muốn nghe lời anh ấy, tôi muốn trống rỗng, tôi muốn trống rỗng, tôi không muốn theo..."

Điều đó có nghĩa là quý vị đang xua đuổi sự trống rỗng của chính mình.

Khi quý vị hoàn toàn quên lãng và đã buông bỏ, trong lòng không còn chuyện này nữa, thì tự nhiên quý vị sẽ không có cảm giác như thế.

Cho nên sư phụ nói với mọi người, không phải là quý vị làm trống rỗng nó, mà là nó tự nhiên làm cho quý vị rỗng không hoàn toàn, biến thành một loại Không Vô hoàn toàn hiện hữu màu nhiệm trong tâm quý vị.Nhiều người đã đi ngược đường trong quá trình tìm kiếm sự trống rỗng.

Ngược đường là gì, có nghĩa là đi theo hướng ngược lại, lẽ ra họ phải đi con đường này, nhưng họ lại không đi.

Nhiều người đã học thiên lệch và nói rằng: "Phật giáo đều nói về tánh Không.

Dù sao thì cuối cùng cũng sẽ trống rỗng.

Bây giờ tôi cũng trống rỗng".

Làm sao trống rỗng đây?

"Tôi không quan tâm đến bất cứ điều gì, tôi không muốn bất cứ điều gì nữa."

Đó là thiên lệch, không phải trống rỗng.

Chỉ bằng cách hiểu được tánh Không nguyên sơ, thì quý vị mới có thể thực sự được giải thoát.

"Tánh Không nguyên sơ" nghĩa là gì?

Khi chúng ta sống ở thế giới này, chúng ta muốn dừng lại tư duy và ý niệm của mình.

Thực ra, sư phụ nói cho mọi người biết là không thể dừng lại được.

Chỉ bằng cách loại bỏ tất cả những điều này, không suy nghĩ về nó, vô quái ngại, thì quý vị mới có thể tìm thấy được sự trống rỗng ban đầu trong trường thức thứ chín.

Khi quý vị nghĩ không thông, thì quý vị đã bị cảm giác nghĩ không thông này giữ lại; khi quý vị phiền não, thì quý vị đã đem cái cảm giác phiền não này giữ lại trong lòng; khi quý vị đau khổ, thì sự trống rỗng này sẽ không thể rỗng không được, bởi vì thức thứ bảy và thức thứ tám của quý vị đã che đậy sự trống rỗng ban đầu của quý vị mất rồi.Làm thế nào chúng ta có thể tiếp xúc được với tánh Không nguyên sơ?

Trên thực tế cảm giác đau khổ và phiền não là đã bị "thụ âm" (tiếp thụ âm khí) đó là gốc rễ của nghiệp lực.

Bởi vì quý vị đang gặp phiền não và đã tiếp nhận một số năng lượng tiêu cực nào đó, mà những năng lượng tiêu cực này có nghiệp chướng và nghiệp chướng của chúng rất nặng nề, quý vị sẽ bị đau khổ trói buộc và bị sức mạnh của năng lượng tiêu cực này trói buộc, nếu không thoát ra được thì quý vị sẽ có nghiệp chướng.

Vì thế những người nghĩ không thông sẽ gặp rắc rối bởi những nghiệp này.Đôi khi nhiều người nói "Tôi muốn trống rỗng" và dựa vào việc ngồi thiền, điều đó khiến họ cảm thấy thiền rất yên tĩnh.

Ngồi thiền quả thực sẽ khiến quý vị trống rỗng, nhưng nhiều người khi ngồi thiền vẫn nghĩ trong đầu rằng: "Tôi muốn có cảnh giới tĩnh lặng.

Dù hôm nay tôi có thiền, tôi cũng muốn được tĩnh lặng và trống rỗng".

Vậy thì quý vị vẫn đang tìm kiếm Không Tánh và vẫn còn "thụ âm"Nếu quý vị ngồi thiền mà không hề nghĩ đến điều gì thì quý vị đang thiền, lúc này quý vị không suy nghĩ về bất cứ điều gì, thậm chí không có ý nghĩ đang thiền, thậm chí đến ý nghĩ "Tôi muốn trống rỗng và yên tĩnh" cũng không có.

Có phải quý vị đã bước vào trạng thái Không tánh rồi không?

Khi quý vị nghĩ về những điều này, trên thực tế quý vị đã bị tạp niệm phân phi.

Khi thiền, nếu quý vị nghĩ: "Hôm nay mình thiền để tiêu trừ rất nhiều phiền não của tuần trước" thì quý vị sẽ không thể giải thoát được.

Hãy thiền cho đến khi quý vị cảm thấy trống rỗng, "Tôi không muốn nghĩ về nó bây giờ, tôi đang thiền và cảm thấy rỗng không."

Thì quý vị lại bị chấp trước bởi hình tướng, bởi vì quý vị bị vướng mắc bởi hình tướng của sự trống rỗng.

Cho nên, học Phật niệm kinh khó vô cùng, nếu hôm nay quý vị nói: "Tôi đã hoàn thành thiền, tôi không còn bị tạp niệm làm ảnh hưởng nữa", thực ra những tạp niệm đó vẫn còn trong tâm quý vị, bởi vì khi miệng quý vị nói và nghĩ trong tâm rằng: "Tôi không còn bị tạp niệm nữa".

Và "Khi quý vị nghĩ về những tạp niệm này, vậy thì nó có ở trong tâm quý vị không?

Một trăm phần trăm nó ở trong tâm quý vị.

Giống như khi nhiều bạn trẻ yêu nhau và nói: "Tôi không cần anh ấy nữa.

Thôi, anh ấy không cần tôi và tôi cũng không cần anh ấy nữa.

Tôi đã quên anh ấy từ lâu rồi" Vậy thì đã quên chưa?

Một thời gian sau, có người khuyên cô ấy: "Bạn đừng đau khổ nữa, hãy quên anh ấy đi."

Cô ấy trả lời: "Tôi thậm chí còn chưa nghĩ đến anh ấy".

Vậy thì nói xem trong lòng cô ấy có người bạn trai này không?

Vậy, giải pháp thực sự cho "tánh Không" là không có ý thức gì cả.

Sự trống rỗng thực sự là vô thức, không có ý thức nào buộc bản thân phải đạt đến hình tướng trống rỗng.

Ngay cả hình tướng trống rỗng này cũng phải được làm rỗng không.

Không có sự trống rỗng này.

Quý vị nói quý vị trống rỗng và cảm thấy thanh tịnh, nhưng trong tâm, vì vẫn còn ý nghĩ của sự "thanh tịnh" này, nên quý vị không còn trống rỗng nữa.

Nếu trong lòng quý vị nói: "Tôi đã quên chuyện này rồi", thì chuyện này vẫn còn trong tâm trí quý vị.

Có người hỏi quý vị: "Bạn quên chuyện này rồi à?"

Quý vị đáp: "Là chuyện gì vậy?"

Nếu quý vị thực sự không thể nhớ được thì đó mới thực sự gọi là "Không Tánh".Phật pháp thật sự là vi diệu, 2500 năm trước Đức Phật đã lấp đầy trí tuệ trong tâm mỗi chúng ta, khiến chúng ta được giải thoát và hiểu được thế giới này là khổ-không-vô thường, để cho chúng ta sớm thoát khỏi phiền não, tức là để chúng ta sớm ngày được thoát ly khỏi sáu cõi luân hồi và cùng nhau leo lên Tứ Thánh đạo (cộng phán Tứ Thánh).Kể cho mọi người nghe một câu chuyện.

Tại đất nước Câu Lưu có 1 vị Bà-la-môn tên gọi là Ma Ha Mật là 1 nhà phú quý, đến quốc vương của nước Câu Lưu đều bái ông làm sư.

Ma Ha Mật tuy là 1 người giàu có nhưng bản tánh của ông vô cùng tham lam keo kiệt bủn xỉn và tham tiền vô cùng, không tin đạo Phật, nghe thấy thứ gì đó có lợi nhuận là bất chấp lao vào tranh lấy.

Ma Ha Mật có 7 cô con gái, 7 cô con gái này đều rất xinh đẹp, ai nấy đều là "hoa dung liễu yêu", khuôn mặt xinh đẹp không ai sánh bằng, y phục của 7 cô con gái đều được trang trí bằng những chuỗi ngọc vàng bạc rất trang nghiêm (cũng có nghĩa là họ đều ăn mặc rất trang trọng và vô cùng xinh đẹp.

Trang nghiêm nghĩa là gì?

Quần áo họ mặc rất trang trọng, nên trông rất đẹp).

Vị Bà la môn vô cùng tự hào về 7 cô con gái của mình.

Có người nói với ông: "Này vị Bà-la-môn, hãy để con gái ông trang điểm rồi sau đó đi ra đường, nếu ai cũng khen con gái ông đẹp, tôi sẽ cho ông năm trăm lượng vàng; nếu có ai phê bình con gái ông không đẹp, thì ông sẽ cho tôi lại năm trăm lượng vàng."

Vị Bà-la-môn rất tự tin vào sắc đẹp của con gái mình.

Ông cảm thấy việc đánh cược này rất có lợi cho mình nên đã nói với 7 cô con gái rằng: "Các con, hãy trang điểm nhiều vào cho ta, và chúng ta cùng ra đường đi dạo nhé."

Kết quả là trong 90 ngày, ông đưa 7 cô con gái này đi du lịch khắp đất nước, và ai cũng khen ngợi vẻ đẹp của con gái ông.

Vị Bà-la-môn không vì thế mà hài lòng, sau khi nhận được năm trăm lượng vàng, nghe tin có một vị Phật tổ (khi đó Đức Phật ở xứ khác), liền dẫn 7 cô con gái về Tinh Xá Kì Viên, mong Đức Phật khen ngợi con ông, để nâng giá trị 7 cô con gái của ông lên.Khi nhìn thấy Đức Phật, ông thưa với Đức Phật: "Thưa Đức Phật, Ngài đã du hành khắp các nước, Ngài có bao giờ thấy cô nàng nào xinh đẹp như vậy không?"

Ông nghĩ rằng Đức Phật nhất định sẽ khen ngợi, nhưng đâu ngờ rằng Đức Phật lại nói: "Bảy cô gái này, ngoại hình không có gì để nói là xinh đẹp cả."

Vị Bà-la-môn rất không vui: "Trong nước Câu Lưu không ai nói con gái tôi xấu.

Khi tôi đến nước Xá Vệ, tại sao Ngài lại cho là con gái tôi xấu chăng?"

Đức Phật đáp: "Con người trên thế gian đều đánh giá vẻ đẹp của khuôn mặt là trên hết, nhưng ta nghĩ vẻ đẹp thực sự là khi thân không tham lam, miệng không nói lời ác và ý không khởi tà niệm, đây mới là vẻ đẹp đích thực."

Vị Bà-la-môn lúc này không nói nên lời.Sau khi kể câu chuyện này, sư phụ muốn nói với mọi người rằng từ góc độ tâm lý học, sự hiểu biết của con người chúng ta về sự vật và sự hiểu biết tinh thần về vật chất có hai khía cạnh thâm nhập, hạn chế lẫn nhau và hàm ý lẫn nhau, đó là sự hiểu biết về các thực thể.

Khi chúng ta nhìn vào một thứ gì đó, vật thật mà chúng ta nhìn thấy bằng mắt, sự hiểu biết về thực thể và sự hiểu biết về giá trị nội tại thực sự của nó, thì đó mới thực sự là một phán đoán đúng đắn.

Nếu một người bề ngoài trông có vẻ xinh đẹp, quý vị phải xem họ có tấm lòng lương thiện hay không.

Trong thực hành, chúng ta học tập Phật pháp để hình thành cảm xúc chân thực và cảm xúc đạo đức.

Người Phật tử chúng ta nên hiểu thế nào là vẻ đẹp chân chính: những người có thể học Phật, những người không tham, không sân, không hận là những người đẹp thật sự; những người không còn tham, sân, si, mạn, nghi là đẹp.

Quá trình trân trọng cái đẹp thực chất là sự theo đuổi cái đẹp trong tâm hồn, đòi hỏi sự dung hòa giữa cái đẹp và cái thiện, đạt được sự thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện.

Bề ngoài của một sự vật không thể chứng minh được nội dung bên trong của nó.Sự tồn tại của con người chúng ta trên thế giới này thực ra rất phức tạp, bởi vì những thứ chúng ta nhìn thấy bằng mắt rất phức tạp và lộn xộn, chúng ta không thể phân biệt được thiện ác và có nhiều thứ không phân biệt được tốt xấu.

Một số vấn đề khái niệm mà cha mẹ dạy chúng ta từ nhỏ, chưa chắc đã đúng nên đôi khi chúng ta không thể phân biệt được trắng đen trên thế gian này.

Thực ra, khi quý vị hiểu được bản chất bên trong của mình, và quý vị nên biết rằng bản chất thuần khiết của nội tâm quý vị sẽ không bao giờ thay đổi.

Khi còn bé, chúng ta rất hiền lành, chủ động đền bù khi làm hư hỏng đồ vật của người khác, nhưng bố mẹ có thể thấy con mình làm hỏng đồ gì đó và kéo đứa con đi, khi không có ai ở xung quanh, thậm chí đứa trẻ kéo tay bố mẹ và nói: "Bố ơi, con đã làm vỡ đồ của họ và con muốn đền bù cho họ."

Khi đi sâu vào bản chất của mình, thực ra không có thiện hay ác.

Giống như một tờ giấy trắng, quý vị đã vẽ ra nhiều hoa văn khác nhau, dù vẽ hoa văn gì, cuối cùng quý vị chỉ cần rửa nó bằng loại mực dễ phai, thì nó sẽ giống như tranh sơn dầu, hoa văn có thể được rửa sạch và độ trắng ban đầu của nó sẽ được khôi phục trở lại.

Bản chất của mỗi người đều trong sáng, đó là lý do tại sao chúng ta nên học hỏi những nguyên lý của Phật giáo.

Bổn tánh chúng ta đều là thiện, chỉ có thể hiểu Phật tánh bằng tự tánh của mình, nếu không sẽ bị ngũ dục lục trần làm ô nhiễm và sẽ không bao giờ tìm được Phật tánh - chân tánh thanh tịnh của bổn tánh.Vì vậy, sư phụ muốn mọi người "thức tâm diệc nhiên" - nhận biết được tâm mình là như vậy.

Chúng ta phải dùng nước trí tuệ để rửa sạch bụi bẩn trong lòng và rửa sạch những vết nhơ trong lòng chúng ta trong quá khứ.

Nội tâm chúng ta thanh tịnh trong sáng, đây chính là vì sao cần học Phật - để khôi phục lại bản chất chân thật mà chúng ta vốn có.

Đức Phật đã nói với tất cả chúng sinh cách đây 2500 năm: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.

Chỉ bằng cách tu dưỡng Phật tánh của chính mình, tu dưỡng Phật tánh thuần khiết và thiện lành nhất trong bổn tánh của chúng ta, thì chúng ta mới có thể tìm được ngôi nhà thực sự của mình và mới hiểu được ý nghĩa thực sự của Phật pháp.Được rồi, hôm nay bài giảng về "Bạch Thoại Phật Pháp" với đại chúng đến đây tạm dừng, chúng tôi sẽ tiếp tục thuyết giảng với đại chúng vào lần phát sóng tiếp theo.

Cảm ơn đại chúng.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 38 GIẢI THOÁT LÀ TRÍ, SINH QUANG SINH HUỆ 11/4/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 38🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".---------------

Tập 38

GIẢI THOÁT LÀ TRÍ, SINH QUANG SINH HUỆ

11/4/2020Muốn tu tâm thì ai cũng phải tinh tấn, khi tinh tấn phải hoàn toàn buông xả, trong lòng không được có chướng ngại.

Hôm nay khi quý vị tụng kinh, mà trong lòng còn suy nghĩ, muốn làm rất nhiều việc, và nếu quý vị nói: “Để tôi tu tâm”, thì trong lòng quý vị nhất định sẽ không buông bỏ được.

Để tu tâm, mỗi ngày quý vị nên dành ít nhất một đến hai giờ, và dùng sự bền chí của chính mình để kiên trì: “Một hai giờ này là thời gian để tôi niệm kinh mỗi ngày”.

Khi một người gặp chướng ngại, thì họ sẽ liền bị đi vào Thân trung ấm, bởi vì Thân trung ấm sẽ ở trong tâm chướng ngại của họ.

Khi linh hồn của một người mất đi sự kiểm soát, thì người đó sẽ lập tức sản sinh điên đảo mộng tưởng, người không có chướng ngại sẽ không sợ hãi, và khi không có chướng ngại, thì bản thân họ sẽ không sản sinh ra điên đảo mộng tưởng.

Người tu tâm phải kiểm soát ý niệm của mình và đừng để những tư tưởng chướng ngại khởi lên trong Thân trung ấm.

Vì vậy, Sư phụ bảo mọi người hãy tĩnh tâm và ngừng suy nghĩ.

Khi một người ngừng suy nghĩ, thì tâm trí sẽ không suy nghĩ tán loạn, khi niệm vừa khởi thì các ý nghĩ sẽ tăng lên, tiếp theo đó sẽ có tạp niệm hoạnh phi, vì vậy phải ngừng suy nghĩ.Chư Bồ Tát thường dạy chúng ta phải học cách sử dụng sức mạnh hộ trì của Pháp Giới.

Sức mạnh hộ trì của Pháp Giới là gì?

Đó chính là chúng ta cần phải biết cách cầu xin Bồ Tát gia trì cho chúng ta hôm nay tụng kinh được tốt, xin Bồ Tát gia trì cho chúng ta hôm nay tu tâm được tốt.

Cầu xin Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi cho chúng con có được sức mạnh giải thoát trong tâm, để chúng con hoàn thiện bản thân mình, để tâm không khởi lên chướng ngại.

Một số bạn Phật tử thường hỏi: “Thưa Thầy, chúng con có thể cầu xin Quán Thế Âm Bồ Tát cho con tụng kinh được tốt trong ngày hôm nay không?”

Tất nhiên là được, phàm là hướng lên thì Bồ Tát sẽ gia trì cho các con bất cứ điều gì.

Ví dụ như trong tâm quý vị có nảy sinh dục vọng, quý vị cầu xin Bồ Tát gia trì để thoát khỏi dục vọng, Bồ Tát vẫn sẽ giúp đỡ quý vị.

Nếu trong tâm quý vị có chướng ngại khó vượt qua, quý vị có thể nói với Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: “Xin Bồ Tát ban cho con sức mạnh để con vượt qua những chướng ngại tâm lý này”.

Thực ra khi quý vị đang cầu xin, thì trong tâm quý vị đã sản sinh ra một loại năng lực tích cực.

Bởi vì quý vị cầu xin Bồ Tát giúp quý vị tiêu trừ nghiệp chướng này, tiêu trừ chướng ngại này, điều đó có nghĩa là quý vị đang tiến bộ và muốn cầu xin Bồ Tát giải quyết những rắc rối của mình.

Điều này, vốn là một loại năng lượng tích cực.

Bất kỳ năng lượng tích cực nào cũng sẽ loại bỏ được năng lượng tiêu cực trong tâm quý vị, điều này rất quan trọng.

Con người chúng ta khi có bệnh.

Nếu quý vị xin bác sĩ rằng: "Xin hãy giúp tôi chữa khỏi bệnh của tôi."

Bác sĩ nói: "Tôi nhất định sẽ giúp bạn."

Khi đó sự tự tin của quý vị có phải đã được tăng lên không?

Có phải là quý vị sẽ nghĩ rằng: "Tôi có thể vượt qua được căn bệnh này.

Tôi có thể loại bỏ căn bệnh này trong cơ thể tôi" Vì vậy, sự xuất hiện của niềm tin thực ra đó chính là khởi đầu cho phước lành của quý vị.

Nhiều người không hiểu điều này.

Chúng ta phải tận tâm tận lực trong mọi việc chúng ta làm.

Tận tâm tận lực nghĩa là gì?

Hôm nay niệm kinh tận tâm tận lực, nếu có tạp niệm, con xin Bồ Tát gia trì.

Hôm nay học được điều gì đó bằng cả tấm lòng và cố gắng hết sức.

Nếu có chướng ngại, con xin Bồ Tát gia trì cho con.

Có phải là quý vị đang tận tâm tận lực rồi không?

Nếu luôn cố gắng hết sức mình như vậy thì dần dần quý vị sẽ tinh tấn tu tập khi gặp vấn đề, quý vị sẽ buông bỏ và giải thoát khỏi những rắc rối khi gặp phải chúng.Không đặt bất kỳ phiền não nào trong tâm, không đặt bất kỳ chướng ngại hay vướng mắc nào trong tâm là đạt được Trung đạo của Trung quán.

Có phiền não gì không?

Có đấy.

Loại bỏ chúng sau khi chúng đến, chẳng phải đó là con đường Trung đạo của Trung quán sao?

Điều đó không có nghĩa là quý vị có thể ngừng suy nghĩ hoàn toàn, bởi vì quý vị không thể ngăn chặn được suy nghĩ của mình.

Việc dừng suy nghĩ chỉ là kết quả được tạo ra sau khi quý vị dần dần đạt đến con đường trung đạo của Trung quán và kết quả là một ngày nào đó quý vị có thể sẽ dùng sự tu tập tạo tác của mình để ngăn chặn suy nghĩ của chính mình, nhưng điều đó không có nghĩa là quý vị có thể ngăn chặn được nó ngay bây giờ.Người tu biết hết mọi thăng trầm của thế gian con người: ở nhân gian, khi gặp nhân duyên này thì rắc rối này sẽ phát sinh; khi gặp nhân duyên kia thì rắc rối kia sẽ phát sinh – tức là sống trong nhân duyên và sống trong quả báo.

Ai trong chúng ta lại không phải đang sống trong quả báo?

Có phải hôm nay quý vị đang phải chịu quả báo của quá khứ không?

Hôm nay dạ dày khó chịu.

Có phải vì trước đây không chăm sóc tốt cho dạ dày của mình không?

Hôm nay, phải thoát khỏi những phiền não và phiền toái của bản thân mình, có đau khổ không?

Đôi khi nó đau như bong ra một lớp da.

Quý vị có muốn thay đổi nó không?

Muốn thay đổi.

Nếu quý vị chọn đạo Phật và chọn con đường thành Phật, thành Bồ Tát thì quý vị phải thay đổi chính mình.

Người học Phật không được để xã hội làm lây nhiễm.

"Người khác nghĩ gì không quan trọng.

Tôi chỉ cần tu tập chăm chỉ và cố gắng nổ lực như vậy.

Dù tôi sống ở thế gian này, nhưng tôi chỉ muốn trở thành một vị Bồ Tát.

Những người khác đang sống với tham, sân, si, mạn, nghi và họ cho rằng mình đúng; còn tôi thì chỉ muốn sống với lòng từ bi hỷ xả của Bồ Tát.

Người ta mắng tôi là kẻ ngu ngốc cũng không sao cả.

Tôi sẵn sàng làm kẻ ngốc để phục vụ tất cả chúng sinh".

Đây là cách quý vị dùng loại nghị lực và niềm tin mạnh mẽ này để vượt qua những trở ngại của chính mình.Khi chúng ta học chư Phật, Bồ Tát, chúng ta phải học cách truyền bá ánh sáng của Phật, sức nóng của Quán Thế Âm Bồ Tát, tình thương của chư vị hộ pháp đối với chúng ta, và trí tuệ trong trường thức thứ 9 mà chúng ta vốn dĩ đáng nên sở hữu tưới khắp thế gian, để cứu độ tất cả chúng sinh và giúp đỡ người khác một kiếp tu thành.

Mọi người thử nghĩ xem, nếu một người có thể giúp đỡ người khác một kiếp tu thành, thì bản thân người đó có thể một kiếp tu thành không?

Đây chính là lợi nhân lợi kỷ (làm ích cho người làm lợi cho mình).Chúng ta phải làm cho mọi chúng sinh được sống trong hạnh phúc và thoát khỏi đau khổ; chúng ta phải biến trái tim mình thành trái tim quang minh.

Quý vị có biết quang minh là gì không?

Quang là năng lượng.

Minh là gì?

Là Nhật Nguyệt (Mặt trời và mặt trăng) ban ngày cũng rất rõ ràng, ban đêm cũng rất minh bạch, vậy thì đó chính là "Minh" của Quang minh.

Một người phải hiểu, hôm nay dù làm gì thì mình cũng đã hiểu được tâm mình và hiểu được sứ mệnh của mình ở thế gian là cứu độ tất cả chúng sinh học Phật và thay đổi bản thân, không thể giống như những người bình thường, ở chốn hồng trần kết duyên với điều gì thì làm điều đó và làm những việc bên ngoài thế gian khi gặp phải.

Nhất định phải hiểu rằng khi nhìn thấy nhiều thứ trên đời, mắt đừng mở quá to, khi quý vị nhìn quá rõ hoặc mắt mở quá to, thì quý vị sẽ coi mọi ảo ảnh trên thế gian là có thật, rồi sẽ có những rắc rối và trở ngại trong tâm trí.Quý vị có tin mình có thể thay đổi không?

Nếu có thể thay đổi thì quý vị là đứa con ngoan, nếu không thể thay đổi thì quý vị là đứa con hư.

Chỉ cần quý vị tin rằng mọi thứ trên thế giới này sẽ thay đổi, đừng coi bất cứ điều gì và bất cứ ai trên thế giới này hiện đang tạm thời gây rắc rối cho quý vị là có thật, cần hiểu rằng đây chỉ là những rắc rối và trở ngại nhất thời, thì cuộc đời quý vị sẽ có một bước ngoặt, sẽ có một sự thay đổi, và quý vị sẽ có một ngày mai tốt đẹp hơn.

Vì vậy, học Phật có nghĩa là dùng tâm để đạt được giải thoát.

Rốt cuộc tâm quý vị muốn giải thoát điều gì?

Quý vị còn đang làm gì?

Tâm quý vị có sáng suốt không?

Tâm quý vị có còn bị ô nhiễm bởi một số ngũ dục lục trần của thế gian con người không?

Có phải nó bị ô nhiễm rất nhiều bụi bẩn không?

Vậy nên, phải tiêu trừ phiền não trong tâm, để trí tuệ của Bồ Tát phóng chiếu ánh sáng Bát nhã vô tận, quên đi chính mình và biến mình thành hư vô thì quý vị sẽ thành tựu được Bồ đề.

Người đạt được trí tuệ Bồ Đề trên thực tế họ có được tất cả trí tuệ của thế gian.

Cho nên người có thể giải quyết được nhiều phiền não ở đời thì họ có được trí tuệ Bồ Đề, người có trí tuệ Bồ Đề thì có thể giải quyết được mọi phiền não.

Nhiều người tụng kinh, họ suy nghĩ thông suốt và buông xả hoàn toàn, biết tu tập đúng lý đúng pháp, biết thực hành theo đạo Phật đúng lý đúng pháp, như thế mới có thể đạt được giải thoát và nhập vào cảnh giới viên mãn.

Tại sao Đức Phật gọi nhiều người là “thiện nam”, “thiện nữ”?

Bởi vì một thiện giải trăm nạn, có thiện thì sẽ không có ác, đã là thiện nam thì không được làm ác.

Sự kế thừa Phật pháp có thể mang lại công đức lớn lao và trí tuệ vĩ đại của 84.000 pháp môn, chỉ cần mọi người đắc được giáo pháp của đạo Phật là đã đắc và nhập vào đại công đức và trí tuệ vĩ đại của 84.000 pháp môn.Người học Phật trước hết phải tĩnh tâm, người không tĩnh tâm được thì sẽ học Phật không tốt, nên tâm thanh tịnh là điều hết sức quan trọng.

Quý vị có trong sạch không?

Tâm của quý vị có trong sạch không?

Thường nói người này có lương tâm rất xấu, tức là tâm họ không trong sạch.

Nếu không mong cầu, “vô dục tự nhiên tâm như thủy”, nghĩa là tâm sẽ trong sạch giống như nước.

Tâm không bẩn - Tâm không dơ bẩn thì sẽ trong sáng.

Nếu mọi người còn có chút tâm niệm vì danh vì lợi, ăn uống, phiêu đổ, thì trong lòng làm sao mà không gặp phiền não?

Bởi vì tâm niệm dơ bẩn nên chắc chắn sẽ khởi tâm phiền não.

“Tịch định vu tâm” có nghĩa là gì, người an tĩnh mới có thể định lại được, tâm có thể an tĩnh được thì tâm mới định lại được.Con người sống trên đời có rất nhiều vô minh - nghĩa là không hiểu, không biết.

Bao nhiêu người đã bị lừa, bao nhiêu người đã bị gạt gẫm, cuối cùng họ đều nói: “Tôi không biết, nếu tôi biết thì tôi đã không như thế này”.

Tại sao một người lại vô minh?

Bởi vì họ có tâm trí bẩn thỉu, bởi vì họ có tâm trí ích kỷ.

Nếu như tâm đủ sự an tĩnh, thì nhất định sẽ biết được sự thật về sự vô minh của chính bản thân mình.

Người không tham thì nhìn thấy mọi việc trên đời, người suốt ngày tham danh, văn, lợi, dưỡng ở nhân gian ắt phải có tâm không trong sạch.Vô minh tập, vô minh diệt - tức là sự khởi đầu của vô minh và sự chấm dứt vô minh, thực chất là một quá trình tu dưỡng tâm thức.

Nhiều người vô minh, không hiểu rồi làm nhiều điều sai trái, nghiệp chướng dần dần tích tụ, gây ra rất nhiều “nhân”, chúng tập hợp lại rồi đúng không?

Sự diệt trừ của vô minh cũng nằm ở nhân quả, sau khi nhận quả báo, vô minh sẽ từ từ biến mất.

Lần sau nữa sẽ có vô minh khởi - tức là khi vô minh được tích tụ, vậy thì làm sao để ngăn cản bản thân lần sau khỏi bị vô minh thêm một lần nữa đây ! tức là khi vô minh diệt thì phải biết cách diệt trừ hoàn toàn vô minh, là đã hiểu và đã minh bạch, khi minh bạch được đạo lý, tức là diệt trừ vô minh, vậy thì sẽ đạt được nó.

Tôi hiểu rồi, lần sau tôi sẽ không gây ra nhân này nữa, và tôi cũng sẽ không phải chịu quả báo này.

Tôi nghĩ lại khi bản thân tôi chịu đau đớn, đó là vì chính cái nhân mà tôi đã gây ra nên mới tạo thành cái quả của nỗi đau hiện tại.

Bồ Tát dạy chúng ta phải hiểu những nguyên lý này.

Tâm con người sẽ sinh ra vô minh và phiền não cũng như sẽ sinh ra rất nhiều tham, sân, si, mạn, nghi, nhưng đừng quên rằng tâm cũng có thể sinh quang minh, ánh sáng và trí tuệ.

Tâm sẽ sinh ra phiền não nhưng cũng sẽ sinh ra quang minh, sinh ra ánh sáng của Phật.

Tâm của minh tâm kiến tánh của mình cũng có thể tạo ra trí tuệ.

Vậy rốt cuộc quý vị muốn sinh ra trí tuệ hay muốn sinh ra phiền não?

Đây chính là sự lựa chọn của quý vị.

Cũng cùng là “nhất tâm”, tại sao trong giới đạo Phật thường nói “nhất tâm là Phật, nhất tâm là ma”?

Điều đó tùy thuộc vào việc tâm quý vị suy nghĩ như thế nào.Muốn diệt trừ vô minh, trước tiên phải hiểu vô minh phát sinh như thế nào.

Sư phụ nói cho mọi người biết, vô minh là những phiền não vô thủy trong quá khứ (những phiền não từ vô thủy kiếp) khiến cho chúng ta vẫn chưa thể hình dung hay hiểu biết mọi chuyện trên thế gian này.

Vì chúng ta đã làm nhiều điều sai trái, vì đã tạo nhiều nghiệp vô minh, nên trong đời này chúng ta đã thấu hiểu, Vô minh phát sinh từ sự kết hợp của những phiền não vô thủy của chúng ta và những ảo tưởng ngu xuẩn từ quá khứ.

Kiếp trước đã làm sai bao nhiêu điều ngu xuẩn, kiếp này đã làm bao nhiêu điều ngu si, nếu hành động thiếu hiểu biết, một người không hiểu thì sẽ nói “Tôi sẽ làm, không sao đâu”, nếu làm bừa thì sẽ xảy ra chuyện.

Nếu quý vị hiểu rằng vấn đề này không dễ dàng, nó có nhiều hạn chế và quy tắc, thì quý vị sẽ không hành động một cách mù quáng.

Mọi người thấy đấy, những người gặp rắc rối đều do vô minh mà ra, nên giới đạo Phật nói, vô minh mù quáng thực ra nó đã là một loại ngu si rồi.

Nếu quý vị không hiểu, vẫn cố gắng làm bừa và hành động, cho rằng điều đó là đúng, thì cuối cùng càng trở nên ngu dốt hơn, đây là gốc rễ của luân hồi.

Cho nên vô minh sinh ra ngu si và cuối cùng đi vào luân hồi.

Căn nguyên luân hồi là căn nguyên của sự sống và cái chết trong thế gian này.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 39 CHỨNG NGỘ TÁNH KHÔNG, CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN 11/04/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 39🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".---------------

Tập 39

CHỨNG NGỘ TÁNH KHÔNG, CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN

11/04/2020Nhớ lần trước sư phụ đã dạy mọi người về Không và Tánh Không, nhiều bạn Phật tử phản hồi hơi sâu nhưng vẫn có thể hiểu được và rất thích nghe, nên hôm nay sư phụ sẽ giới thiệu sơ qua cho mọi người hiểu.Rỗng Không là gì?

Không thể rỗng Không được đâu!

Nếu để cho tâm trí của quý vị trống rỗng, thì quý vị có thể làm cho nó trống rỗng được không?

Bởi vì trong trường thức thứ tám, trường thức thứ bảy và trường thức thứ sáu của quý vị có rất nhiều ý niệm và tạp niệm, quý vị hoàn toàn không thể trống rỗng được chút nào.

Vậy làm sao để làm cho nó trống rỗng đây?

Có nghĩa là từ từ, từng bước, từng chút một, tẩy sạch mọi thói quen vô minh, phiền não vô minh, chướng ngại vô minh và nghiệp chướng trong các kiếp quá khứ ở thức A-lại-da, là trường thức thứ tám, rồi từ từ trút bỏ mọi thứ, giống như chuyển nhà, giải quyết từng việc một, và dọn ra từng thứ một.

Một khi đã dọn sạch, thì quý vị sẽ hoàn toàn vô tướng và đã nghĩ thông ra.

Sẽ không còn có khả năng nghĩ không thông về những điều này và sẽ không còn hình tướng nữa.Sư Phụ đã nói với mọi người rằng, con người không chấp tướng về bất cứ điều gì, nghĩa là họ không bao giờ nghĩ: "Đây là việc tốt, tôi cần làm."

Thậm chí đi cứu người mà không hề suy nghĩ, và chưa bao giờ nghĩ rằng: "Tôi muốn cứu người" cứu người thì cứ như vậy mà đi cứu thôi.

Cứu người vốn dĩ là việc người Phật tử nên làm; một người tốt là làm việc tốt, rồi làm như không có gì xảy ra, và trong tâm có nguyện lực thì cũng giống như không có nguyện lực.

Lấy một ví dụ đơn giản, mỗi người trong chúng ta đều đã phát nguyện với Bồ Tát rằng: "Con đã ăn chay".

Mỗi người chúng ta đã từng phát nguyện qua chưa?

Đã từng phát nguyện qua rồi.

Sau khi ăn chay, trong lòng đã nghĩ thông suốt: "Tôi ăn chay rồi và tôi sẽ ăn chay hàng ngày".

Khi quý vị đã ăn chay mỗi ngày, quý vị có nghĩ rằng: "Hôm nay tôi lại ăn chay rồi và hôm nay tôi lại thực hiện được lời nguyện của mình không"?

Quý vị không nghĩ đến điều đó, vì quý vị cho rằng ăn chay đã là chuyện bình thường rồi, nó in sâu vào trường thức thứ tám, đó là loại từ bi mà người học Phật nên có, đây chính là Vô tướng.

Sau khi không có tướng mạo nhất định thì sẽ Vô tác và Vô nguyện. (Tức là không mong cầu, không ham muốn)Đây là điều sư phụ nói với mọi người, Tánh Không tự nhiên là cảnh giới cao nhất.

Tánh Không tự nhiên - tức là chúng ta không thể mong có được sự trống rỗng trong lòng mình, nếu quý vị nghĩ: "Tôi muốn trống rỗng, tôi muốn trống rỗng", thì sẽ không thể trống rỗng được.

Làm việc thiện một cách tự nhiên, đó chính là thực sự làm việc tốt; giúp đỡ người khác một cách tự nhiên, đó chính là thực sự giúp đỡ người khác.

Nếu quý vị tự ép buộc bản thân mình và nói "Tôi muốn làm điều tốt, tôi muốn giúp đỡ người khác", vậy thì quý vị vẫn đang "làm" và vẫn còn "có hành động" ("vô tác" chính là tự nhiên), và không thể phản ánh lên được tánh Không.

Quý vị nói: "Tôi muốn làm trống rỗng hoàn toàn tâm mình."

Nếu quý vị có tâm niệm muốn "làm trống rỗng chính mình", thì quý vị vẫn còn có tâm muốn làm trống rỗng này; nhiều người nói: "Tôi muốn trở thành Bồ Tát", thì quý vị vẫn còn có cái tâm "Muốn trở thành Bồ Tát" này.

Nhiều người hàng ngày đã làm việc Bồ Tát rồi và họ chưa bao giờ nghĩ rằng: "Tôi muốn thành Bồ Tát."

Nhưng họ đang làm việc Bồ Tát mỗi ngày.

Đây chính là diệu dụng của Tánh Không, để quý vị có thể có được công đức lớn hơn.Vì vậy, cảnh giới của quang minh là Vô tác.

Khi cảnh giới của một người đạt đến một mức độ quang minh nhất định thì cũng giống như một người, khi người khác nhìn thấy anh ta bước vào thì anh ta chính là người tốt, khi một người bạn cùng lớp bước vào, mọi người nhìn người bạn này và nghĩ: người này có thành tích tốt, bởi vì người bạn học này cho đến bây giờ đều có thành tích tốt mỗi ngày.

Điều này chính là đã "Vô tác", hôm nay khi bước vào lớp cũng không cần phải nói với mọi người rằng: "Hãy nhìn xem thành tích của tôi tốt đến mức nào".

Nếu chúng ta trong tu hành mà có hành động thì đã có tu và có chứng (đắc), thực ra đó vẫn là một loại tu tập tạo tác có hành động.

Nếu quý vị nghĩ: "Tôi đang tu tập, tôi chăm chỉ, tôi có chứng ngộ", thì quý vị vẫn đang trong quá trình chứng ngộ.

Sự chứng ngộ của Phật là không cần phải được "chứng"; Mà sự chứng ngộ của tánh Không vẫn đang trong tiến trình chứng ngộ.

Tánh Không của Bồ Tát không cần phải chứng ngộ, nó nhất định là Bát nhã của tánh Không, nên Vô tác tức là không tu và không chứng ngộ.

Người đắc Đạo thì ngồi như thế nào, đứng ra sao và cho dù có nhảy thót lên thì họ cũng đắc đạo; ngồi xuống họ cũng là người đắc đạo; bước đi họ cũng là người đắc đạo; khi nhục thân đã kết thúc, pháp thân của họ bất sinh bất diệt và họ vẫn đang trong quá trình đắc đạo.Nếu mọi người hiểu được những đạo lý này, thì sẽ biết tánh Không đích thực là gì.

Sư phụ đang dạy cho mọi người cách đạt được tánh Không, Vô tướng và Vô tác.

Việc này ngày nào tôi cũng làm, khi quen rồi thì coi như chưa từng làm qua, ngày nào tôi cũng trả lời điện thoại để giúp đỡ người khác, bỗng nhiên có người nói: "Bạn trả lời điện thoại, bạn đang giúp đỡ người khác, bạn đang độ người khác".

Nhưng người trả lời điện thoại lại không cảm thấy rằng: "Tôi trả lời điện thoại hàng ngày và tôi giúp đỡ người khác mỗi ngày."

Nếu Vô tác và Vô tướng, thì ý thức của quý vị tự nhiên sẽ trống rỗng, bởi vì ý thức của quý vị hoàn toàn trong sự trống rỗng, vì hàng ngày quý vị làm việc thiện và giúp đỡ người khác nên ý thức của quý vị sẽ được giải thoát và nhập vào tánh Không.

Quý vị sẽ nhập vào đạo một cách tự nhiên- đó chính là nhập vào Phật đạo.

Người này trong 365 ngày mỗi ngày đều làm việc tốt, mỗi ngày làm một việc tốt một ít, hai việc tốt một ít, ba việc tốt một ít ...

Sau một năm, người đó đương nhiên sẽ trở thành "người tốt".

Một người bạn cùng lớp mỗi ngày đều làm việc thiện, sau một năm bạn ấy được đánh giá là "học sinh gương mẫu" thì đương nhiên bạn ấy sẽ trở thành "học sinh gương mẫu" và đã "nhập đạo" rồi.

Bạn ấy trở thành "học sinh gương mẫu" chính vì sự thay đổi từng ngày của bạn ấy.Khi chúng ta học Phật, bất kể là Đại thừa hay Tiểu thừa (ngày xưa nói "Thừa" thì thực chất có nghĩa là thuyền, Đại thừa và Tiểu thừa có nghĩa là một chiếc thuyền Pháp lớn để cứu độ chúng sinh, và một chiếc thuyền Pháp nhỏ để cứu độ chính mình), bất kể tôn giáo hay môn phái nào, mục tiêu cuối cùng là tìm kiếm sự giải thoát.

Có pháp môn hay tông phái nào mà cuối cùng không nhằm vào mục đích tìm kiếm sự giải thoát đúng không?

Mục đích học Phật đến cuối cùng là gì, đó là để thoát khỏi phiền não, đau khổ và tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình.

Vậy giải thoát là gì?

Nhiều người nghĩ: "Tôi muốn giải thoát, tôi phải nổ lực", nhưng nổ lực không phải là giải thoát, nhiều người nghĩ: "Tôi muốn giải thoát, tôi tin vào Bồ Tát", nhưng tín ngưỡng không phải là giải thoát.

Vậy giải thoát là gì?

Giải thoát là sử dụng Phật tánh trong trường thức thứ chín của quý vị để tạo ra một loại trí tuệ và Bát nhã của tánh Không, tác động đến A-lại-da thức (là thức thứ tám) và Mạt-na thức (là thức thứ bảy) của quý vị, và từ từ di chuyển vào thức thứ sáu của quý vị, đó là thức của ý thức giác quan.

Dần dần, quý vị sẽ hiểu rằng mọi thứ đều là khổ-không-vô thường, và mọi thứ này vốn dĩ đều là trống rỗng và hư ảo.

Khi quý vị hiểu được tất cả những điều này, thì quý vị sẽ bắt đầu đạt được những thành tựu to lớn trong việc học Phật, bởi vì quý vị đã bước vào cảnh giới của Phật.

Vì vậy, chỉ khi một người có thể bước vào cảnh giới của Phật, thì người đó chính là Phật ở thế gian.Học Phật không phải là thờ lạy Phật, mê tín, hay cầu xin Bồ Tát phù hộ cho gia đình tốt, hay một loại phúc báo, mà là giải thoát.

Nó không phải là mê tín, đó là sự giải thoát của trí tuệ và giúp con người hoàn toàn buông bỏ những lo lắng.

Nếu hôm nay vẫn không buông bỏ được thì sẽ không thể tinh tấn hay chịu đựng được nhẫn nhục; nếu hôm nay không buông bỏ được thì sẽ không thể thoát khỏi lục đạo luân hồi của cõi người, vì vậy cảnh giới của quý vị sẽ không bao giờ có thể nâng cao đến mức độ chánh tín và chánh niệm.

Sự khác biệt giữa chánh tín chánh niệm và trí tuệ là gì?

Người có chánh tín chánh niệm sao lại không có được trí tuệ?

"Tôi tin chắc rằng đây là chánh đạo."

Nếu thậm chí không có được chánh niệm và ý nghĩ đúng đắn như vậy thì làm sao đạt được trí tuệ Bát nhã của Bồ Tát?

Phải hiểu được cái đạo lý này.

Phải rời khỏi tâm, ý và thức để lĩnh hội Phật.

Điều sư phụ đang nói với mọi người là hãy buông bỏ cái tâm bên ngoài của chính mình.

Rời khỏi tâm là rời khỏi một số tạp niệm, tạp tâm, phàm tâm, tâm phiền não, tâm đố kỵ và một số tâm thái xấu để lĩnh hội Phật pháp, gọi là "ly tâm ý thức tham"(rời khỏi tâm, ý và thức để lĩnh hội).

Khi tu đến cuối cùng, ngay cả ý thức của nội tâm cũng mất đi, để lĩnh hội Phật pháp thì quý vị sẽ có được tánh Không và tham ngộ.

Đây chính là những diệu dụng của đạo Phật.Chúng ta cần hiểu những điều này và dần dần chúng ta sẽ biết cách kiểm soát sáu căn của mình.

Phật học chia cuộc sống của chúng ta thành sáu công cụ: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

Đối với ngoại trần (lục trần của bên ngoài) mà nói, thì sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.

Phật pháp lại chia chúng ta thành năm uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành và thức.

Sư phụ giảng cho quý vị hiểu, hàng ngày sáu căn của chúng ta sẽ tiếp xúc với các vật thể bên ngoài: mắt chúng ta sẽ tiếp xúc với sắc (nhìn thấy), tai chúng ta sẽ tiếp xúc với âm thanh, mũi chúng ta sẽ ngửi thấy hương thơm, lưỡi chúng ta sẽ có cơ quan vị giác và cơ thể chúng ta sẽ có sự tiếp xúc.

Khi sáu căn bên ngoài của con người được so sánh với sáu trần bên ngoài (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), nếu quý vị phát chánh niệm trong khi tiếp xúc, thì quý vị có chánh tín; Nếu quý vị tiếp xúc với cõi trần bên ngoài và phát sinh tà niệm, thì quý vị sẽ có tà tín - tức là không có chánh tín.

Làm sao để phân biệt được những loại này, để mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp của chúng ta; dù có tiếp xúc với nó, chúng ta cũng có thể khắc phục được nó và biết cái nào là đúng, cái nào là sai, thì chúng ta cần sử dụng năm uẩn của mình.

Để hiểu được năm uẩn, phải hoàn toàn nhận thức thấu đáo về năm uẩn và hiểu được đạo lý của chúng thì mới có thể đạt được ngộ đạo.

Trong "Tâm Kinh" có câu "Chiếu kiến ngũ uẩn giai không".Từ đây mọi người sẽ biết "ngũ uẩn" quan trọng thế nào đối với cảnh giới của người học Phật.Duy Thức Tông chủ trương vạn pháp đều là duy thức, tức là bất kể thế giới này xảy ra chuyện gì, đều là do ý thức gây ra biến hóa.

Khi thế giới vật chất và đời sống tinh thần kết hợp lại với nhau, chúng được chia thành 8 loại "thức", đây là một hệ thống khác nên thế giới Phật giáo nói đến "bát thức điền".

Trong tám thức của quý vị, thức thứ sáu là tư duy ý thức và là thức đầu tiên tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thực tế người ta thường nói đến thức thứ sáu, thức thứ bảy và thức thứ tám, nói chung là thông thường chúng ta không nói đến thức thứ chín.

Thức thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, theo thuyết về thức, thì đều phát sinh từ tâm.

Ví dụ, cái cảm giác của thức thứ sáu có phải là được phát sinh từ tâm không?

"Cái này rất nóng", "rất tốt", "bây giờ trời lạnh" - đây là thức của tâm có phải không?

Thức thứ bảy, "người này là người tốt, tôi rất thích họ" "người kia là người xấu, tôi rất ghét họ" - Nhận dạng ý thức có phải cũng là duy tâm không?

Ý thức này không thể xóa nhòa, sâu thẳm trong tâm và đã tồn tại trong thức thứ tám trong tâm của quý vị, vậy thì có phải là tâm thức của quý vị đã tồn tại không?

Nếu tâm thức của quý vị không tồn tại, thì thức thứ tám không thể tồn tại, vì vậy đó chính là chủ nghĩa duy tâm.

Thuyết duy thức có nghĩa là vạn vật chỉ có ý thức - tức là ý thức của quý vị.Bát thức (tức là thức thứ tám) là vua của tâm.

Vua của tâm là cái gì?

Một khi tiến vào thức thứ tám của quý vị thì khó có thể thay đổi, tốt hay xấu đều ở trong tâm quý vị.

Ý thức thứ tám của quý vị cho rằng thứ này xấu, nhưng nó có khả năng tốt trong xã hội thực tế, nhưng quý vị không biết nó tốt; ý thức thứ tám của quý vị cho rằng thứ này có mùi khó chịu, nhưng người khác ăn rồi đều thấy nó ngon, nhưng quý vị vẫn cho rằng nó có mùi hôi, vì nó đã được định sẵn trong thức thứ tám, nên quý vị sẽ không nghĩ nó có mùi thơm.

Đây là sự khác biệt giữa các khái niệm của mỗi người.

Khi quý vị thường xuyên phạm sai lầm và sau khi ý thức thứ sáu của người khác bị kích thích, việc nhận dạng của ý thức thứ bảy sẽ dần dần được biết đến, khi đó sẽ bước vào ý thức thứ tám và sẽ khó thay đổi được quan điểm của người khác về quý vị.

Vì vậy, chúng ta không thể thường xuyên làm điều sai trái trong vòng luân hồi, và chúng ta không thể thường xuyên phát nguyện trong luân hồi: "Con phát nguyện, và con sẽ không bao giờ làm điều đó nữa ..." làm người phải có khí phách.

Có bao nhiêu người trong số chúng ta đã quỳ trước Bồ Tát phát nguyện và đã sửa đổi được chưa?

Quý vị thấy trong "Phật Tử Thiên Địa Du Kí", có nhiều người bị lôi xuống, nói rằng họ đã từng học Phật và đã từng muốn sửa đổi, nhưng cuối cùng họ không sửa đổi.

Tại sao vậy?

Đó chính là liệt căn tính.Sư Phụ nói với mọi người rằng vua của tâm là thức thứ tám và đừng bao giờ bước vào thức thứ tám.

Bởi vì tâm của quý vị chính là ý của quý vị nên mọi người hỏi: "Bạn nghĩ gì về vấn đề này?"

"Bạn đã nghĩ gì về nó chưa?

Ý nghĩ cuối cùng của bạn là gì?"

Ý thức này thực ra là thức thứ tám được đề cập đến.

Phân loại và so sánh ba cấp độ ý thức của tâm: Tâm của quý vị là biển rộng, thì ý niệm của quý vị giống như những cơn sóng trên biển.

Ý niệm này được kết nối với ý niệm khác.

Suy nghĩ của quý vị không ngừng nghỉ, và ý niệm của quý vị cũng không ngừng nghỉ.

Trong "đại dương", từng lớp sóng khuấy động trong lòng quý vị, cũng giống như sóng trên biển.

Vì thế Bồ Tát dạy chúng ta phải hiểu rằng tất cả các pháp đều dựa vào tâm và tất cả các pháp đều dựa vào thức.

Dù thế nào đi nữa, hãy bảo vệ tâm của mình.

Bồ Tát đã nhiều lần dạy chúng ta phải tu tâm, vừa mở miệng là phải tu tâm; tu tức là tu chứng, nếu quý vị có thể tu chứng được tâm của mình thì quý vị đã tu tâm thành công.Do đó, có một mối liên hệ tự nhiên giữa tánh Không, Vô tướng, Vô tác với tâm, ý, thức của quý vị.

Quý vị thử nghĩ xem, nếu quý vị đã trống rỗng thì tâm của quý vị cũng phải trống rỗng; Vô tướng nghĩa là ý thức và ý niệm của quý vị phải không có hình tướng; Vô tác có nghĩa là "Tôi chưa làm qua điều đó" trong ý thức của tôi.

Sư phụ sẽ lấy một ví dụ, ví dụ như quý vị muốn lợi dụng người khác, trong đầu quý vị đang nghĩ: "Việc này rất bình thường, mình lợi dụng anh ta thì có sao đâu?

Anh ta cũng lợi dụng mình."

Sau đó, ý thức của quý vị sẽ bắt đầu sản sinh ra một loại hành vi đó là "Tôi sẽ làm điều đó, và tôi sẽ làm điều gì đó với anh ta."

Vậy thì cái "thức" này đã thành công.

Tâm, ý, thức có liên quan gì đến tánh Không, Vô tướng và Vô tác?

Nếu quý vị không có ý kiến gì về người này và không muốn lợi dụng người đó thì trong suy nghĩ của quý vị sẽ nghĩ rằng đều bình đẳng và không nên làm điều đó - tức là đã trống rỗng.

Sau khi trống rỗng, quý vị nghĩ "Anh ấy giống như anh chị em của mình nên mình không thể coi anh ấy là người xấu mà trừng phạt và đối xử tệ bạc với anh ấy" - tức là quý vị đã không có hình tướng nữa.

Đã không có hình tướng, thì làm sao quý vị có thể làm điều gì đó với anh ta, làm sao quý vị có thể đối xử tệ với anh ta?

Chính là mối liên quan này.

Đây chính là điều mà sư phụ đang giảng với mọi người, "Vô tác" - tức là không có làm, vì tâm quý vị không muốn làm nên quý vị sẽ không làm; tâm quý vị đã trống rỗng, thì quý vị sẽ không muốn làm nữa.

Nhưng nhiều người tâm của họ chưa trống rỗng và sẽ làm nhiều điều xấu.

Ngay cả khi tâm quý vị vẫn còn đang nghĩ đến thiện và nói: "Tôi muốn giúp đỡ anh ấy vì anh ấy đã bị người khác kiện hoặc vì anh ấy đã bị đối xử bất công."

Nếu quý vị có ý định muốn đi giúp đỡ anh ấy, thì chắc chắn quý vị sẽ có hành động về điều đó, nhưng rồi có thể quý vị sẽ bị lạc lối.

Bởi vì người bị kiện này cũng không phải là người tốt, người này đã ức hiếp, xúc phạm người khác trong một thời gian dài, cuối cùng mới bị người ta kiện.

Nếu quý vị giúp đỡ anh ta, trên thực tế quý vị đã bước vào nhân quả của anh ta, vì vậy tâm thức của quý vị vẫn sẽ bị lạc lối.Làm sao trống rỗng đây?

Về sau Phật giáo yêu cầu chúng ta không nên nghĩ đến thiện hay ác, bởi vì thiện ác ở thế gian này chúng ta không thể đo lường được, đó là một loại nhân quả.

Làm sao để có thể hiểu được những đạo lý này đây?

Phải sản sinh ra vô lượng trí tuệ.

Bồ Tát dạy chúng ta rằng chỉ có giải thoát mới có thể nhập vào "Bất Nhị Pháp Môn".

Nếu hôm nay quý vị nhập vào "Tam Giải Thoát Môn" thì sẽ nhập vào "Bất Nhị Pháp Môn".

Tánh Không, Vô tướng và Vô tác có thể được chứng nhập bằng bất cứ pháp môn nào, chỉ cần nhất môn thâm nhập, thì trí tuệ của quý vị sẽ tăng trưởng và khai ngộ minh tánh.

Tại sao lại nói như vậy?

Tánh Không, Vô tướng và Vô tác đây là "Tam Giải Thoát Môn": nếu quý vị có thể trống rỗng thì sẽ có Vô tướng và Vô tác; nếu hôm nay quý vị có thể Vô tướng thì nhất định sẽ trống rỗng và sẽ không làm gì cả - tức là sẽ không có hành vi.

"Nếu hôm nay quý vị không có hành vi gì, chắc chắn quý vị đã suy nghĩ thấu đáo và trở nên trống rỗng, nhất định là Vô tướng, và khi đó việc bố thí Vô tướng sẽ được bắt đầu.Đôi khi người ta khó hiểu Phật pháp, trong đạo Phật có câu "vọng tưởng chính là Bát nhã".

Nhiều người hoàn toàn không thể hiểu được "vọng tưởng chính là Bát nhã" nghĩa là gì.

Chẳng lẽ vọng tưởng có thể trở thành Bát nhã sao?

Thực ra, nếu biết rằng vọng tưởng là trống Không thì vọng tưởng là Bát nhã.

Bởi vì sau khi có vọng tưởng, quý vị biết rằng đây là vọng tưởng, thì quý vị đã đạt được tánh Không, và quý vị đã có được Bát nhã.

Nếu quý vị cho rằng Bát nhã là có và quý vị nghĩ "Tôi có trí tuệ, tôi có trí tuệ của Đức Phật", và quý vị cố chấp bởi "Bát nhã là có", vậy thì Bát nhã chính là vọng tưởng.

Hy vọng mọi người sẽ hiểu được những lý luận thâm sâu này của Phật giáo.

Sư phụ sẽ giải thích ngắn gọn.

"Biết rằng vọng tưởng là trống rỗng": Quý vị biết việc này không tốt nên không thể làm được, "Trống rỗng" có nghĩa là quý vị hiểu rõ nó và biết việc này không tốt, rồi quý vị cho rằng việc đó không tốt, không thể làm được.

Vậy thì có phải quý vị đã có được trí tuệ Bát nhã không?

Đã có.

Khi đó "chấp Bát nhã là có": "Tôi là người có thể hiểu được việc gì có thể làm được, việc gì không thể làm được".

Quý vị biết được việc gì có thể làm và việc gì không thể làm?

Nếu quý vị dính mắc vào Bát nhã thì Bát nhã chính là vọng tưởng.

Cái trí tuệ này của quý vị cũng do vọng tưởng mà ra, không phải là sự giải thoát thực sự.

Vì vậy, sự cao siêu của đạo Phật nằm ở việc nâng cao cảnh giới, hơn nữa cảnh giới này sẽ không ngừng thăng tiến và đạt đến vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 40 TRÁNH XA SỰ ĐỐ KỴ, VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH 11/04/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 40🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".---------------Tập 40

TRÁNH XA SỰ ĐỐ KỴ, VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH

11/04/2020Hôm nay Đài trưởng sẽ kể cho đại chúng nghe một câu chuyện.

Từ xa xưa, con người đã có một vấn đề lớn, đó là tính đố kỵ.

Tại sao con người đều có tính đố kỵ?

Bởi vì đố kỵ là để tranh giành những quyền và lợi ích nhất định, mọi người đều tranh giành một số quyền và lợi ích nào đó, do đó sẽ tạo ra một số người may mắn (một số người may mắn trong cuộc cạnh tranh, họ thắng được và họ đã sở hữu) hoặc người may mắn tiềm ẩn (tức là người này có khả năng sẽ thắng được) sẽ có trạng thái tâm lý thờ ơ, bị hạ thấp hoặc bài xích, thậm chí là thù địch, tất cả được gọi là đố kỵ.

Vì thế đố kỵ là một vấn đề sâu thẳm trong tâm hồn chúng ta, khó có thể dứt bỏ được.

Mọi người đều có khả năng sẽ có đố kỵ với người khác, hầu hết mọi người khi thấy người khác có thành tích thì ghen tị và cảm thấy rất buồn, khi thấy người khác được khen ngợi, thì cảm thấy khó chịu và thường tự nghĩ: “Tại sao người được khen ngợi lại không phải là mình, mà lại là anh ta?"

Thậm chí có người còn tự đề cao bản thân mình và chê bai người khác.

Để tôn vinh bản thân, họ sẵn sàng hạ thấp người khác để thể hiện sự kiêu ngạo của mình.

Đố kỵ là căn nguyên của bệnh tật nên từ xa xưa, chỉ cần ở nơi có người thì ở đó sẽ có sự đố kỵ.

Đố kỵ có nghĩa là khi người khác sắp thành công thì người này sẽ tạo ra trở ngại cho họ.

Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài liên tục quảng bá Phật giáo khắp nơi.

Vị trưởng lão Cấp Cô Độc mong Đức Phật có thể ở lại nước Xá Vệ (Sravasti - Savatthi) của mình để hoằng pháp và cứu độ tất cả chúng sinh, ông không tiếc tiền mà dát vàng khắp vùng đất và mua một mảnh đất của hoàng tử Jeta (Bởi vì đối phương nói nếu ông ấy rải vàng ra khắp mặt đất thì sẽ cho ông mảnh đất này, kết quả trưởng lão Cấp Cô Độc thực sự đã kéo rất nhiều xe vàng tới và rải trên mặt đất).

Khi ngài đang xây dựng Tinh Xá Kì Viên, những tín đồ ngoại giáo ở nước Xá Vệ khi nghe điều này đã rất sốc và nghĩ: “Đó là lãnh thổ của chúng tôi, nếu Sa môn Cù Đàm đến đây (Danh hiệu được đặt cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vào thời đó) đức tin của những tín đồ của chúng tôi sẽ bị ảnh hưởng, và số người cúng dường cho chúng tôi sẽ giảm đi."

Vào thời điểm này, những tín đồ ngoại giáo đã nghĩ ra mọi cách để cản trở việc xây dựng công trình này.Hành động đầu tiên của họ là phản đối trưởng lão Cấp Cô Độc và nói: "Ông biết Cù Đàm đã có nơi ở ổn định rồi, vậy tại sao ông lại mời ông ấy đến đây?

Rốt cuộc là ông ấy có khả năng gì?"

Những tín đồ ngoại giáo thảo luận xôn xao: “Đúng đấy!

Tại sao lại mời ông ta đến đây?

Chúng ta ở đây rất vui vẻ."

Nhưng việc cung kính mời Đức Phật đến đây hoằng pháp là tâm nguyện của vị trưởng lão Cấp Cô Độc nên dù người khác có nói gì thì ông cũng không bị ảnh hưởng bởi các ý kiến.Sự phản đối của các tín đồ ngoại giáo không có hiệu quả nên họ lại phản ánh với nhà vua.

Vua đã nghe nói đến Đức Phật từ lâu, hơn nữa lại hảo lạc Phật Pháp (rất thích Phật Pháp) nên không nghe theo lời nói của các tín đồ ngoại giáo.

Những tín đồ ngoại giáo không còn cách nào khác đành quay lại gặp trưởng lão Cấp Cô Độc và nói: "Nếu muốn mời đoàn thể của Sa Môn Cù Đàm đến đây thì phải đồng ý với chúng tôi một điều kiện, nếu không chúng tôi sẽ không tín phục."

Trưởng giả hỏi: “Các ngài có điều kiện gì?

Chỉ cần sau này mọi người có thể sống hòa thuận, cho dù các ngài đưa ra điều kiện gì, thì tôi cũng sẽ cố gắng tìm cách làm theo.”

Chúng đệ tử của ngoại đạo nói: “Có một vị Xá Lợi Phất dưới quyền Sa Môn Cù Đàm.

Nghe nói trí tuệ của ông ấy là số một.

Chúng tôi muốn mời ông ấy đến so tài với chúng tôi xem ai giỏi hơn”.Trưởng lão nhận thấy việc này không khó nên đi đến thành Vương Xá để trình bày sự việc với Đức Phật.

Đức Phật tin rằng đây là nơi tốt nhất để bắt đầu và là cơ hội tốt để giáo hóa đất nước Xá Vệ.

Vì thế Ngài cử Xá Lợi Phất đến đó.

Đức Phật nói: “Công trình địa phương đang được xây dựng, tốt nhất ông nên đi xoa dịu lòng người dân địa phương trước đã.”

Xá Lợi Phất vui vẻ nhận lời: “Tạ ơn Đức Phật” rồi rời đi.Trưởng lão Cấp Cô Độc thỉnh giáo Xá Lợi Phất, nói: “Khi nào Tôn giả mới có thể cùng với các tín đồ ngoại giáo biện luận đọ sức vậy?”

Xá Lợi Phất trả lời: “Sau bảy ngày nhé, cho họ bảy ngày để chuẩn bị”.Trưởng lão liền liên lạc với các tín đồ ngoại giáo.

Có một vị lãnh đạo được kính trọng nhất trong giới ngoại giáo, ông cho rằng đây là một sự kiện lớn, thắng bại đều phụ thuộc vào cuộc tranh tài này, nếu ngoại giáo thua và Tăng đoàn của Sa Môn vào thành, thì lợi dưỡng ban đầu của ngoại giáo và địa vị của họ sẽ bị ảnh hưởng rất lớn nên cuộc biện luận này phải hết sức thận trọng.

Trong bảy ngày, họ đã tìm kiếm những người giỏi nhất để chuẩn bị cho cuộc biện luận, đồng thời cũng tập hợp nhiều người để giúp đỡ trong ngày.Trưởng lão Cấp Cô Độc cũng rất thận trọng trong vấn đề này, ông bày biện một cái bục lớn và cẩn thận sắp xếp chỗ ngồi cho Xá Lợi Phất và những tín đồ ngoại giáo.

Ngày thi đấu cuối cùng cũng đã đến, và vì tổ chức tại địa phương nên các tín đồ ngoại giáo hùng mạnh xếp hàng hiên ngang bước vào.

Có rất nhiều người, kể cả những người cưỡi ngựa và đi bộ, tất cả đều đến tham dự.

Xá Lợi Phất ra trận một mình, và một mình ngồi đó.Xá Lợi Phất nói với mọi người: “Được rồi, thời gian đã đến, các ngươi lựa chọn biện luận hay so sánh thần thông?Những tín đồ ngoại giáo nói: "Đạo lý này chúng ta nên bắt đầu biện luận từ đâu?

Nếu không có lý lẽ gì để biện luận thì chúng ta hãy đọ thần thông đi."

"Đúng vậy, đọ thần thông đi..."

"Đọ thần thông!

Đọ thần thông!"

Mọi người đều hùa theo.Những tín đồ ngoại giáo lập tức huyễn hóa ra một khu vườn rất đẹp, với hoa nở rộ và hương thơm tràn ngập.

Xá Lợi Phất ngay khi nhìn thấy họ huyễn hóa ra một khu vườn, liền hóa thành một cơn gió mát.

Hoa trong vườn đung đưa, như chốn bồng lai tiên cảnh, tiếc thay, chẳng bao lâu sau, cánh hoa và chiếc lá lần lượt rơi xuống.

Lần này ngoại giáo đã bị thua.Sau đó, những tín đồ ngoại giáo đã hóa ra một cái ao trong vắt với nước trong vắt nhìn thấy tận đáy.

Khi Xá Lợi Phất thấy vậy, ngài lập tức hóa thành một con voi và tắm trong ao nước sạch này.

Ngay khi con voi lăn qua, nước trong ao trở nên đục ngầu.

Tất nhiên, ngoại giáo lại thua ở lần thách đấu này.Khi đó, các tín đồ ngoại giáo rất tức giận, hóa ra một con rồng chín đầu hung dữ lao về phía Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất vừa nhìn thấy liền biến thành một con chim phượng hoàng, một con chim có cánh vàng, nó bay lượn tự tại rồi ngồi vững trên đầu con rồng chín đầu.

Lúc này, những tín đồ ngoại giáo rất hoảng sợ và bỏ cuộc.

Một số người lập tức cầu xin quy y, nhưng có một số người cứng đầu không phục và bỏ đi.Những người không phục đó vẫn muốn cản trở tiến độ của công trình và giả làm công nhân xây dựng, yêu cầu trưởng giả cho họ làm việc.

Trưởng giả biết rõ rằng những tín đồ ngoại giáo có thể trà trộn vào đám công nhân nên ông nói với Xá Lợi Phất và Xá Lợi Phất nói: "Thưa trưởng giả, nếu ngài muốn đẩy nhanh tiến độ công trình thì phải kêu gọi thêm công nhân.

Thôi, hãy để họ đến."

Xá Lợi Phất đích thân ở lại đó để giám sát công việc.Một ngày nọ, Xá Lợi Phất nhìn thấy một nhóm công nhân đến dưới một gốc cây lớn, những người công nhân này rất kỳ lạ, tay cầm gậy, cuốc, xẻng và các dụng cụ khác, tiến về phía Xá Lợi Phất với vẻ đe dọa.

Nhưng không biết vì lý do gì, mọi người đột nhiên cảm thấy mệt mỏi đến mức giống như đang ngủ say, không thể nhấc mí mắt lên, cố gắng tiến về phía trước, nhưng bước chân lại càng nặng nề hơn, không thể tự chủ được.

Họ mệt đến mức ngồi bệt xuống đất và cầu cứu Xá Lợi Phất giúp đỡ.

Và họ biết Xá Lợi Phất đã dùng pháp lực.Xá Lợi Phất lập tức tiến tới và thuyết giảng "Pháp Tứ Đế" cho bọn họ.

Những người công nhân sau khi nghe xong đã tỉnh mộng, mọi người đều bị Xá Lợi Phất khuất phục.

Từ đó trở đi, công trình đã hoàn thành một cách suôn sẻ và đúng tiến độ, và Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên bắt đầu từ đó.

Chính vì quá trình xây dựng này mà chúng ta thường thấy những câu kinh trong kinh Phật “Như thị ngã văn.

Có một thời, khi Đức Phật ở Vương quốc Xá Vệ Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên…”.Vì vậy, người Phật tử không nên có tâm đố kỵ.

Nếu gặp chướng ngại hay sự đố kỵ của người khác, quý vị phải bất động, thì ma quỷ trong tâm sẽ không bao giờ đánh bại được Chánh pháp Chánh đạo trong tâm quý vị.

Mong rằng mọi người sẽ học Phật và tu tâm cho tốt, chiến thắng được ma quỷ trong tâm mình, đừng để ngũ dục lục trần thế gian làm ô nhiễm, bảo vệ thân mình bằng chánh khí của Phật và dám đảm đương trách nhiệm.

Trên đời, sóng biển dù có dữ dội đến mấy thì chúng có thể làm gì được tôi?

Vậy nên, thân bị chìm đắm thực ra là một chúng sinh vô minh, những điều tốt hay xấu mà người khác nghĩ về quý vị và tất cả những lời dạy họ nói với quý vị, thực ra đều là những chúng sinh vô minh, một khi họ hiểu được thì họ là những người có đạo hạnh.

Vì vậy, hy vọng rằng mọi người có thể vượt qua những trở ngại trong lòng mình và đừng để sự đố kỵ của người khác, một số rắc rối mà họ gây ra làm cản trở quý vị trong chính nội tâm của mình.

Phải hiểu rằng họ chỉ mê muội nhất thời, và họ cũng là những chúng sinh vô minh đáng thương; một khi họ đã hiểu được Phật pháp thì họ nhất định sẽ chính khí chính trực và nhất định họ cũng sẽ ngay thẳng và chính trực như chúng ta, đã nhận được nhiều điều đáng quý và Phật Pháp quý giá nhất.Được rồi, đó là tất cả nội dung “Bạch Thoại Phật Pháp” của ngày hôm nay.

Hẹn gặp lại quý vị trong chương trình tiếp theo.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 41 TÂM TỊNH TRÍ HUỆ, RỜI XA CHƯỚNG NGẠI 15/04/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 41🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".---------------Tập 41

TÂM TỊNH TRÍ HUỆ, RỜI XA CHƯỚNG NGẠI

15/04/2020Hôm nay chúng ta tiếp tục nói về "Bạch Thoại Phật Pháp".Người học Phật phải nói lời của Phật, thực hành đường đạo của Phật và nghiên cứu giáo lí của Phật.

Đức Phật đã để lại rất nhiều kho báu vô giá, và dạy chúng ta rằng điều quan trọng nhất cần phải tu tập là khắc phục những ác hạnh trước tiên: người học Phật trước hết phải chế ngự được bản chất xấu xa của mình và những thứ ô nhiễm trong ngũ dục lục trần.

Luôn có tâm ăn năn và luôn có ý nghĩ sám hối trong lòng như: "Trước đây con đã làm rất nhiều điều sai trái, con có lỗi với bố mẹ, các bạn và thầy cô đã từng giúp đỡ con".

Quý vị hãy giữ thiện tâm và thiện niệm nhiều hơn, bởi vì thiện tâm và thiện niệm là cơ sở hướng dẫn lời nói và hành động của bản thân để làm những điều tốt lành.

Sau khi thực hành nhiều thiện niệm và thiện tâm hơn, thì quý vị sẽ phát ra thiện nguyện.

Người có thiện nguyện sẽ nghiêm khắc với chính bản thân họ, nghĩa là họ có thể giữ giới luật.

Nếu người có nguyện lực nói: "Hôm nay tôi muốn làm người con ngoan" thì người đó sẽ không hành động liều lĩnh; nếu "Hôm nay tôi muốn làm người tử tế" thì người đó sẽ không ghen tị với người khác hay tham, sân, si, mạn, nghi.

Chỉ khi đó trí tuệ trong tâm quý vị mới có thể tỏa sáng rực rỡ - chỉ khi tâm trí quý vị trong sáng thì tương lai quý vị mới tươi sáng và suôn sẻ.Nếu hành giả chỉ quan tâm đến bản thân, đi theo con đường riêng của mình và mạn vô tha nhân (nghĩa là họ kiêu ngạo, không có người khác trong tâm và trong mắt của họ), cống cao ngã mạn, thì họ sẽ không thể hiểu được minh Pháp chính thân - tức là sẽ không biết năng lượng tích cực và Chánh Pháp trong tâm họ là gì, cũng không thể có được một thân thể đúng đắn về hành vi, vì vậy đời này có thể sẽ làm hủy hoại Huệ mệnh của chính mình.

Làm sao có thể đi đến được nước Phật?

Nhiều người không có Huệ mệnh, không biết làm cách nào để đi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, vì khi họ muốn tu tâm sẽ có nhiều ma chướng, nên phải có một trái tim mạnh mẽ và ý chí kiên cường, học cách có đủ dũng khí để gánh chịu và có thể đảm nhận những trách nhiệm nặng nề - để cứu độ tất cả chúng sinh, để hoằng dương giáo Pháp và làm lợi lạc chúng sinh.Đừng để ngũ trọc ác thế của nhân gian quấy rối, bởi vì quý vị rất dễ bị ô nhiễm bởi ngũ trọc ác thế ở thế gian này.

Ngày xưa người ta nói "nhiễm trần sở trần", nghĩa là loại bụi này sẽ khiến quý vị bị vấy bẩn.

Vậy làm thế nào để bản thân có thể tránh cho mình khỏi bị ô nhiễm bởi ngũ dục lục trần này, tức là bảo vệ thân thể của mình bằng chính khí của đức Phật, phải sử dụng chính khí và chánh năng lượng của lời Phật dạy, đừng bao giờ có những tư tưởng hay ý nghĩ làm hại người khác, và đừng bao giờ có ý niệm hay tư duy ghen tị với người khác, người như thế mới dám đảm đương trách nhiệm và có khí tiết chính trực lẫm liệt.

Dù sóng gió có dữ dội đến đâu, chúng có thể làm gì được tôi?

Tại sao nhiều người có thể tiếp tục học tốt Phật pháp trong môi trường rất khắc nghiệt?

Từ xa xưa đã có rất nhiều Cao Tăng Đại Đức có được minh tâm kiến tánh.

Cho dù xung quanh họ có xảy ra chuyện gì đi chăng nữa, cho dù trong lòng họ có bao nhiêu ma chướng phát sinh, họ đều có khả năng vượt qua nó, vì vậy họ sẽ không trở thành chúng sinh vô minh, nếu không sẽ trở thành chúng sinh vô minh.

Vì vậy, điều khó khắc phục nhất trong việc tu tâm là các ma chướng trong tâm, các ma chướng trong tâm là các chướng ngại trong tâm, đó là tâm quái ngại được nhắc đến trong Tâm Kinh.

Nếu có tâm chướng ngại, thì không thể buông bỏ bất cứ điều gì và mọi thứ đều nằm ở trong tâm.

Vì vậy, một người phải có chính khí, chính pháp, chánh tín, chánh niệm, thì mới có thể vượt qua được tất cả những điều này.

Quý vị phải học Phật cho tốt và cứu độ tất cả chúng sinh; cốt lõi của sự tu hành là kinh điển của sự tu hành.

Hy vọng mọi người có thể hiểu rằng Quán Thế Âm Bồ Tát truyền thụ Chánh pháp này cho chúng ta là để chuyển hóa tâm linh của chúng ta, trên đến trời, trung đến trần gian, dưới đến địa phủ và có thể cứu thân khỏi đau khổ trong hàng nghìn kiếp.Vì vậy, quý vị không nên suy nghĩ quá nhiều và cũng không nên bám víu vào nó.

Người học Phật phải có tâm sâu như biển, bình tĩnh mà chánh pháp.

Thế nào là "Chánh" Có thể dùng chánh pháp của chư Bồ Tát để đối chiếu bản thân, trong Pháp Giới có thể nhận được sự uy nghiêm đáng kinh ngạc của trời đất ở trần gian, để quảng độ hữu duyên và bi mẫn đối với tất cả chúng sinh vô minh, hết thảy đều có thể cảm hóa đến vô số chúng sinh có duyên bằng tình yêu sâu sắc của chúng ta dành cho họ.

Chúng ta phải chân thành giúp đỡ chúng sinh, để làm thay đổi họ, thương xót họ, cảm động họ, chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể thực sự biểu hiện được Phật tánh của mình, vượt lên chính mình và có được tình yêu thương vô bờ bến.Đôi khi chúng ta gặp phải rất nhiều chúng sinh vô minh khó có thể độ hoá được họ, thì chúng ta phải "động chi dĩ tình, thi chi dĩ lễ", và "biểu pháp" là quan trọng nhất.

Tam bảo của Phật, Pháp, Tăng.

Tại sao lại gọi "pháp sư" là "bảo"?

Đó là sự biểu thị của Pháp.

Bởi vì tất cả chúng sinh đều ở trong nhân gian và là người có cảm xúc nên họ không biết rằng họ không thể bị lây nhiễm bởi tình cảm của con người, nếu không họ sẽ nhập vào trong cảm xúc của thế gian.

Chúng ta học Phật pháp phải có niềm tin, phải thanh tịnh và từ bi, dùng thân đại ái của Bồ Tát rộng như trời đất, để đối đãi với tha nhân một cách rộng lượng, lấy lòng từ làm nền tảng và quy y trong tâm, chỉ bằng cách này chúng ta mới có thể cứu được nhiều chúng sinh khổ nạn hơn.Khi học Phật, chúng ta không chỉ mong muốn được giải thoát cho bản thân mà còn giúp đỡ nhiều chúng sinh đang đau khổ được giải thoát.

Thân xác chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay đã có rất nhiều nghiệp chướng và vong linh, khiến cho việc tu tâm của chúng ta gặp khó khăn, những khó khăn này đã khiến nhiều người trở nên lười biếng, thiếu hiểu biết và tham lam.

Lòng tham làm cho nhiều người dần dần chuyển từ tham sang sân, từ sân sang ngu si, tất cả đều do một tâm tạo ra, mỗi tham, mỗi niệm, thiện, ác đều là Tâm.

Vì vậy, thiện niệm, thiện nguyện phải tồn tại mãi mãi, ở trong tâm mình mãi mãi và phải đoạn trừ ngũ dục lục trần ở thế gian.Đức Phật từng dạy chúng ta rằng dục vọng của mỗi người giống như chất độc của nước và lửa đốt cháy cuộc đời chúng ta.

Ý của Đức Phật là muốn nói với chúng ta rằng chúng ta đều sống ở cõi người, dục vọng của chúng ta cũng như nước và lửa, nó có thể đốt cháy và có thể thiêu rụi cuộc đời chúng ta cho đến cuối đời, nước có thể nhấn chìm chúng ta, lửa có thể thiêu chết chúng ta vì chúng ta không thể thoát ra khỏi dục vọng.

Vì thế, người tu tâm phải phân minh thiện ác và luôn nghĩ đến lỗi lầm của bản thân.

Một niệm thiện bay lên trời, một niệm ác rơi vào chín suối, vọng niệm, ham muốn, dục niệm, tham niệm, cũng như các niệm ái và hận...

Chúng ta nhất định phải vượt qua mọi chướng ngại và tội lỗi - Đức Phật dạy rằng chỉ bằng cách này chúng ta mới có thể đến gần được Phật quốc.Người tu phải thực hành một cách chân chính và cao thượng.

Đức Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, cùng tất cả Long Thiên Hộ Pháp sẽ bảo vệ chúng ta là những hành giả tinh tấn.

Đức Phật coi chúng ta như báu vật trong nhà Phật, bởi vì người tu hành, chư Bồ Tát, chư Phật luôn luôn quán chiếu và luôn luôn theo dõi chúng ta, các Ngài đang bảo vệ chúng ta bằng ánh sáng Phật pháp.

Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi đối với tất cả những đứa con như chúng ta và luôn luôn chăm sóc chúng ta.

Tuy những người học Phật chúng ta, có nhân duyên khác nhau, sơ lược về cơ quan cảm giác hơi khác nhau, có người có cảm ứng được, có người có cảm ứng kém hơn, nhưng chúng ta phải biết, luôn biết ơn những việc làm tốt của mình và giúp đỡ tất cả chúng sinh, nghĩa là chúng ta phải luôn biết ơn những gì mình và người đã làm, mọi việc làm, hành vi tốt đều phải bao dung, hài hòa với tất cả chúng sinh, mới có thể trở về con đường quang minh của Phật, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.Vì kiếp trước chúng ta đã gieo nhân vô minh nên đầu thai làm người, người học Phật sau khi học sẽ phải tu trở về cội nguồn.

Chúng ta phải thoát nợ và không có nghiệp, thì mới có thể nhẹ nhàng hơn và bắt kịp con thuyền pháp.

Khi nói đến việc tu tâm, nhiều người chú trọng đến việc tu theo Pháp môn nào, bất luận tu theo pháp môn nào, bất luận theo vị Bồ Tát hay vị Phật nào, miễn là quý vị có thể hòa nhập vào Pháp của các Ngài, miễn là quý vị có thể nếm được hương vị của Pháp, cải thiện và tịnh hóa tâm linh của mình, thì quý vị sẽ từ từ tiến về phía trước và từng bước một đến gần căn nguyên của quý vị hơn.

Con đường giải thoát đích thực của chúng ta là sử dụng định lực và trí tuệ của chính mình.

Phàm là nếu một người có thể định lại được thì người đó sẽ sở hữu trí tuệ của Phật Pháp, nên định có thể sinh ra trí tuệ.Quý vị phải luôn đóng kín "lục tặc" gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý của mình và tu sửa hết thảy "năm uẩn" gồm sắc, thụ, tưởng, hành, thức; tham, sân, si, mạn, nghi của mình.

Tu tâm có nghĩa là sửa hết tất cả mọi tham, sân, si, mạn, nghi của bản thân và tẩy sạch những tạp niệm trong lòng chúng ta, giữ trong lòng những niệm thanh tịnh (tư tưởng trong sạch) thì tinh-khí-thần mới có thể hợp nhất, thiên-địa-nhân mới có thể hợp nhất trong tâm chúng ta.

Chỉ khi hợp nhất mới có thể kích hoạt nguyên thần (nguyên thần là nguồn gốc của Phật), sống trên thế gian này, nếu có được thần thanh khí sảng và tu tập có mục đích, thì nhất định quý vị sẽ thoát khỏi những phiền não của thế gian này và bước vào con đường tươi sáng của Phật.Kinh Phật có câu: "Can tuệ biện giả khẩu bì, đại trí thể liễu tâm thái" Thực ra, trong kinh Phật, "Can tuệ" là một loại tư duy và niệm đầu, là một loại kiến giải.

"Can tuệ biện giả khẩu bì", nghĩa là làm người thì phải có cách nhìn và tư duy đúng đắn, đừng giở trò, đừng cho rằng ý kiến của mình là đúng, đừng đùa giỡn với lời nói thị phi.

Có rất nhiều người thường hay thích nói đạo lý "oai lý thập bát điều".

Lời nói khéo thì Đạo sẽ hưng thịnh, con đường của Phật sẽ thịnh vượng, lời nói không khéo thì gọi là "ngôn ngữ đạo đoạn", nếu ngôn ngữ đạo đoạn thì "Tâm hành xử diệt", tức là Pháp và Đạo tốt của Phật giáo sẽ bị phá hủy bởi hành động trong tâm.

Bản thân quý vị phải tự chứng ngộ, phải lĩnh ngộ cho đúng, dù quý vị có suy nghĩ, tranh luận hay nói năng hùng biện như thế nào đi nữa, nếu trong lòng quý vị không đúng thì những gì quý vị nói chắc chắn sẽ không phải là chân đạo.

Vì vậy, người có trí tuệ lớn "thể liễu tâm thái", tức là người có trí tuệ lớn có thể hiểu được bản thân mình và tâm thái của người khác.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 42 TAM GIỚI DUY TÂM, VẠN PHÁP DUY THỨC 15/04/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 42🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".---------------Tập 42

TAM GIỚI DUY TÂM, VẠN PHÁP DUY THỨC

15/04/2020Người có đại trí tuệ có thể hiểu được tâm của mình và tâm của người khác, có thể cứu độ được tất cả chúng sinh.

Họ biết mình đang nói gì và họ cũng biết người khác nghĩ gì, đây gọi là "đại trí tuệ".Bồ Tát hiểu rằng tam giới đều do tâm và vạn pháp đều do thức.

Bất kể học pháp nào hay làm việc gì, trên thực tế đều là ý thức đang hoạt động.

Nếu quý vị nghĩ việc này có thể làm được, thì quý vị hãy làm nó; nếu quý vị nghĩ "Tôi muốn học Phật, tôi có thể vận dụng học Phật để thay đổi thể trạng của mình", nếu ý thức này đã ở trong tâm quý vị, vậy thì quý vị nên cố gắng làm.

Vạn pháp đều dựa trên ý thức, vì vậy đừng nhầm lẫn bởi một số thứ vật chất.

Trong cuộc đời của nhiều người, cái này tốt thì vứt cái kia, cái kia tốt thì sau một thời gian họ vứt cái này đi.

Con người là thế đấy "Tâm viên ý mã" (sớm nắng chiều mưa) tâm con người giống như loài vượn (vượn chính là khỉ).

Quý vị thấy đấy, loài khỉ đều là những nhà leo núi, chúng leo từ cây này sang cây kia, luôn lấy cái này, ném cái kia, lấy cái kia, ném cái nọ.

Vì thế Bồ Tát khuyên chúng ta đừng bị vật chất ở thế gian làm mê hoặc và đừng bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh.

Hoàn cảnh thay đổi, quý vị cũng thay đổi theo, mọi người đều như vậy và quý vị cũng như vậy, thì quý vị hoàn toàn đã bị hoàn cảnh kiểm soát.Một người cho dù đối với vấn đề gì đi chăng nữa thì nên hiểu rằng "Bồ Tát xúc vật tư chiếu" Nghĩa là, khi Bồ Tát chạm vào vạn vật, thì có thể chiếu kiến ngay ngũ uẩn giai không của Ngài, và có thể hiểu ngay vấn đề này.

"Thanh Văn phạ cảnh muội tâm", cũng có nghĩa là người có căn trí tương đối nhỏ trong Thanh Văn Thừa, họ không biết rằng tâm và Pháp đều trống rỗng.

Thực ra tâm cuối cùng cũng là trống rỗng, và pháp cuối cùng cũng là trống rỗng, nên cả tâm và pháp đều trống rỗng.Sư phụ sẽ giảng kỹ hơn với mọi người về vấn đề này.

Tâm, quý vị hãy nghĩ xem, cho đến thời điểm hiện tại, từ nhỏ quý vị đã nghĩ đến bao nhiêu điều, bao nhiêu điều quý vị đã nghĩ đến đều là hư không, đều là rỗng tuếch, đều là vọng tưởng.

Khi còn nhỏ, chúng ta đã nghĩ đến nhiều điều, "Khi lớn lên, tôi muốn trở thành v.v.."

- dù có nghĩ đến bao nhiêu đi chăng nữa thì tất cả chỉ là ảo tưởng.

Khi còn nhỏ, dù chúng ta có bao nhiêu vật chất đi chăng nữa, "Nếu tôi có được tấm bằng khen này thì tốt quá, nếu tôi có được tấm bằng khen kia thì tốt quá", tất cả đều trống rỗng.

Vì vậy, tâm cảnh - tức là tâm và hoàn cảnh, thực ra luôn đối lập nhau.

Bởi vì dù trong tâm quý vị đang nghĩ gì, thì hoàn cảnh không nhất thiết sẽ thuận theo quý vị, vì vậy tâm cảnh sẽ đối lập.

Quý vị muốn cầu mong gì, nó cũng không thuận theo quý vị, quý vị muốn làm gì, nó cũng không thể hiểu được quý vị.

Ngay cả khi quý vị tiếp xúc với một người và muốn thuyết phục họ, thì chính họ vẫn không hiểu được quý vị.Đối với hoàn cảnh bên ngoài, làm thế nào chúng ta có thể kiềm chế được nỗi sợ hãi, nỗi lo lắng, niềm vui của bản thân do những mâu thuẫn mà tâm cảnh gây ra đây?

Chúng ta sẽ cảm thấy phẫn nộ với những người không hiểu mình, và đôi khi chúng ta sẽ phát sinh tâm ngu muội.

Bởi vì chúng ta nghĩ rằng "điều này là không thể và đây là điều không thể làm tốt được", cho nên chúng ta không thể tìm ra những điểm mấu chốt về cách cứu độ chúng sinh, bởi vì cảnh vật chung quanh và tâm của chúng ta đã trở nên đối lập nhau.Vì vậy, chân không có nghĩa là sự trống rỗng của cả tâm lẫn pháp, cả tâm lẫn cảnh, quý vị phải thực sự buông bỏ mọi thứ.

Đạo Phật dạy chúng ta rằng "Ngộ giả nhật dụng vô sinh, mê nhân hiện tiền cách Phật", nghĩa là người giác ngộ mỗi ngày đều có trí tuệ, còn "Nhật dụng vô sinh" nghĩa là người đó sống với trí tuệ mỗi ngày, và sẽ không phát sinh phiền não; Người không có trí tuệ sẽ bị phiền não bao vây mỗi ngày.

Ý nghĩa của "Mê nhân hiện tiền cách Phật" là gì?

Người mê muội cũng không thể nhìn thấy Bồ Tát khi họ ở trước mặt Bồ Tát.

Nghĩa là cho dù Phật pháp ở trước mặt, họ cũng không biết đây là Phật pháp, giống như tách ra khỏi Phật.

Nhiều người rõ ràng đã tìm được một pháp môn tốt như vậy và đã tìm được Phật pháp tốt như vậy, nhưng họ lại không nổ lực tu tập thì họ sẽ xa rời Phật pháp.Hãy hiểu rằng vạn pháp đều là trống rỗng, hết thảy đều là sự biến hóa hiện tiền của Phật tánh, khi quý vị biết được điều này, thì tâm của quý vị sẽ vô quái ngại, và chỉ khi đó tâm quý vị mới thoát khỏi được những mê ngộ và sự tồn đọng của sự vật trong tâm mình, có như thế tâm của quý vị sẽ dần dần vô tứ tướng.

Nếu quý vị có thể rời xa được tứ tướng ấy thì quý vị sẽ xa lìa được những cản trở và vướng ngại, mới thấy được chân Phật - Phật trong bản chất bên trong của quý vị, mới từ từ hiển hiện trong sự tu tập của mình, và chỉ khi đó quý vị mới có thể dùng trái tim con người của mình để tu đạt được cảnh giới giống như Phật, đó là "sự hợp nhất giữa tâm và Phật" thường được nói đến trong giới Phật giáo.Hôm nay thầy sẽ giảng sâu hơn một chút, vì Phật pháp cần được ứng dụng trong đời sống hằng ngày, nếu dùng Phật pháp để giải quyết những phiền muộn trong lòng thì quý vị sẽ bắt đầu nhập vào trong trí tuệ Bát nhã.

Nếu học Phật lâu ngày mà ngày ngày vẫn mê hoặc điên đảo, không thể suy nghĩ sáng suốt, buồn bã vì không biết được chân tướng thì đã xa rời trí tuệ Bát nhã.Trong Phật giáo có thiền định, cần phải nhập vào thiền định mà tâm không bị xao lãng.

Vậy thiền định là gì?

Là tập trung suy nghĩ vào một điểm nào đó nhất định.

Mọi người thấy đấy, khi ăn cơm sư phụ rất vui vẻ, làm một việc gì đó, sư phụ cũng rất vui vẻ, lúc đó sư phụ có thể quên đi việc khác.

Nhưng hiện tại mọi người tu tâm, khi tụng kinh thì nghĩ đến ăn ngủ, khi ngủ thì nghĩ rằng hôm nay mình chưa tụng kinh, tâm luôn xao lãng.

Một hành giả thực sự giải thoát phải hiểu và giác thức - tức là giác ngộ và thức tỉnh.

Bồ Tát cho rằng nhiều tư tưởng ở cõi người của chúng ta là đang "ngủ" - có nghĩa là không giác ngộ, không thức tỉnh.

Sư phụ từng nói với mọi người rằng: Sư phụ giống như một chiếc đồng hồ báo thức, đánh thức các con dậy sớm mỗi ngày và yêu cầu các con tụng kinh cho tốt, đánh thức Phật tánh trong tâm các con, mong rằng các con sẽ ngày càng từ bi hơn và có khả năng suy nghĩ cho người khác nhiều hơn.

Đừng suốt ngày ở trong vòng vây nhỏ bé của mình không thể giải thoát được và đều nghĩ về việc của bản thân, có như thế các con mới có thể tăng cường khả năng thiền định.Làm thế nào chúng ta có thể thiền định?

Để tập trung vào sự thống nhất tinh thần mà không bị xao lãng, cần dựa vào một hình thức thiền định tâm.

Loại thiền định tâm này xuất hiện như thế nào trong Thiền tông?

Trước hết chúng ta phải diệt trừ vọng niệm, cũng có nghĩa là chúng ta phải tập trung sức mạnh vào trái tim mình.

"Hôm nay tôi sẽ bắt đầu tụng kinh, tôi sẽ bắt đầu thiền định, tôi sẽ quên đi tất cả những tạp niệm khác, loại bỏ chúng và sau đó tập trung tâm lực của tôi."

Bởi vì trong tâm có sức mạnh, khi quý vị phát ra nguyện lực, hoặc khi phát ra một loại tâm lực, lúc đó tâm thức sẽ chuyển hóa thành một loại sức mạnh (tâm thức tức là ý thức trong tâm).

Lấy một ví dụ đơn giản, có chuyện gì đó đã xảy ra với gia đình quý vị, và trong tâm quý vị nghĩ: "Hôm nay con cầu xin Bồ Tát ban phước cho con.

Con sẽ dùng hết tâm lực để cầu xin Bồ Tát, và Bồ Tát nhất định sẽ gia trì cho mình thôi".

Khi quý vị tập trung tâm lực cầu xin Bồ Tát với ý niệm rất tập trung, thì ý thức trong tâm của quý vị nghĩ rằng: "Chư Phật và Bồ Tát nhất định sẽ cứu độ những người trong gia đình chúng ta".

Lúc này, tâm của quý vị sẽ sinh ra một loại sức mạnh to lớn, để quý vị có thể thoát khỏi những phiền não trên thế gian, và một loại thánh quả sẽ sinh ra trong tâm quý vị.

Nhiều người ngồi thiền nói rằng: "Tôi thiền tu và thiền định", nhưng họ không có sức lực hay năng lực, thì ngồi đó chỉ có thể ngủ gật và đã "nhập định" - cái mà họ nhập vào gọi là "hôn mê đại định".

Khi vừa ngồi xuống là muốn ngủ, nhiều người khi vừa tụng kinh là muốn ngủ.

Tất nhiên có người hỏi: "Thưa Thầy, khi con vừa tụng kinh là đã ngủ rồi, vậy có tốt không?"

Đài trưởng nói: "Còn hơn là có tạp niệm phân phi trong đầu."

Nhưng nếu quý vị có thể chuyên tâm chăm chỉ niệm kinh, thì sức mạnh và tâm lực của quý vị sẽ không bị phân tán.

Nếu quý vị tập trung tâm trí và có thể hoàn toàn giải thoát bản thân khỏi những phiền não của thế gian, nó sẽ khơi dậy đại năng và trí tuệ bên trong.

Nếu một người tập trung tâm lực và ngồi đó cầu xin một sự việc, năng lượng của người đó là vô hạn, đó là loại trí tuệ và khối năng lượng to lớn - năng lượng tích cực, toàn bộ đều sẽ xuất hiện.

Theo thuật ngữ hiện đại mà nói, đó là "sự tập trung".

Mọi người thử nghĩ xem, một người chỉ tập trung vào một việc thì có thể thành công hay không?

Nếu một người không tập trung vào vấn đề này thì không thể thành công.

Vì vậy, việc tiêu trừ được vọng niệm phụ thuộc vào sự tập trung và khả năng tỉnh thức của chính mình.

Theo định nghĩa của Phật giáo, nếu có thể tiêu trừ được vọng niệm, có khả năng tiêu trừ được vọng niệm và có thể giác tỉnh thì quý vị chính là "Định giác chi" theo định nghĩa của Phật giáo.

Chỉ khi nào con người có thể định lại được thì họ mới có được giác ngộ, chỉ khi nào họ có thể thiền định, thiền toạ thì họ mới có được định lực và trí tuệ.Là một người học Phật, muốn trở thành một người giải thoát, phải học cách giác tỉnh và tăng cường khả năng chịu đựng bên trong trước những kích động bên ngoài.

Bởi vì mỗi ngày nội tâm của chúng ta bị kích động bởi ngoại duyên, hôm nay tình cảm của chúng ta bị tổn thương, hôm nay lời nói của chúng ta bị tổn thương, và hôm nay một hành vi của người khác kích động nội tâm của chúng ta, khiến chúng ta đau khổ không chịu đựng nổi và phiền não.

Điều được phản ánh là một loại mất tập trung và mất tâm thức do vọng niệm khởi khắp mọi nơi.

"Anh ta hận mình như vậy, mình phải làm sao?

Mình nên đánh trả?

Mình nên đối đầu trực diện hay gây sự sau lưng anh ta?"

Lúc này tâm trí của quý vị sẽ tán loạn, thì sẽ khởi lên đau khổ, hơn nữa trong suy nghĩ sẽ muốn trả thù, muốn làm điều gì đó, miễn là nó trở thành trọng tâm trong ý thức của quý vị, quý vị sẽ nhanh chóng mất đi lý trí vì sợ hãi.Vì vậy, chúng ta phải hiểu lời Bồ Tát đã dạy: "Chư hành vô thường".

Cho dù chúng ta làm gì đi chăng nữa, chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, tứ đại giai không.

Hôm nay suy nghĩ cả buổi nhưng không làm được, vậy thì sự việc này có nghĩ đến cũng vô ích, tại sao quý vị lại nghĩ đến nó làm gì?

Nghĩ đến thì chỉ thêm rắc rối và trở ngại cho trường ý thức thứ tám của quý vị mà thôi.

Hôm nay làm như vậy, sau này sẽ có quả báo, sau đó quý vị lại sợ hãi, sau khi sợ hãi, cuối cùng sẽ không có gì.

Tại sao vậy?

Quý vị bị người khác trả báo, oan oan tương báo, cuối cùng đã kết thúc, hoặc để người khác trả thù quý vị hoặc quý vị trả thù người khác như một cách giải thoát..

Sự giải thoát này là hư ảo.

Đó là một loại hạnh phúc nhất thời, giống như "Tôi đã đánh bại hắn", nhưng thực ra đó là một loại phiền não của con người, hoàn cảnh lúc đó cho phép quý vị có được một loại an ủi nội tâm tạm thời.Mọi vật chất trên thế gian, dù là hiện tượng vật chất hay hiện tượng tinh thần, mọi phương pháp mà quý vị sử dụng, trong hiện tượng vật chất, Phật giáo gọi chúng là "sắc pháp"; nếu trong hiện tượng tinh thần, quý vị hận người khác, tranh đấu với người khác, thực ra đây chính là "tâm pháp" - đều không thể giữ lại.

Ý niệm của quý vị sẽ không được giữ lại, và sự tranh chấp của quý vị với người khác cũng sẽ qua đi.

Dù người khác tốt với quý vị hay không tốt với quý vị, đều sẽ đánh mất nó, bởi vì khi thời gian trôi qua, mọi thứ không phải là vĩnh viễn hay thường trụ, bởi vì mọi hiện tượng sách pháp và tâm pháp vốn là trống rỗng, chúng đều rỗng tuếch.

Những gì quý vị nghĩ trong đầu đều trống rỗng, những gì được làm về mặt vật chất cuối cùng cũng đều trống rỗng, nên gọi là "tứ đại giai không".

Vì vậy, Bồ Tát dạy chúng ta rằng "Chư pháp vô ngã, chư hành vô thường."

Mọi người phải hiểu rõ những đạo lý này và đừng bám chấp vào nhiều thứ giả dối trên thế gian mà ngay từ đầu quý vị không thể có được và là những thứ hư vọng.

Ngay cả khi ai đó làm tổn thương quý vị, nếu quý vị trả thù họ, sẽ chỉ tự gây thêm đau khổ và khó khăn cho chính mình, khiến quý vị ở trong thế giới phàm trần, chìm đắm trong những phiền não nóng bỏng và làm tổn thương trái tim quý vị hết lần này đến lần khác.

Chúng ta phải hiểu rõ những vật chất hư vọng không thực tế, tức là đối với những gì đã xảy ra, chúng ta không nên có bất kỳ động thái nào để nhớ lại, khó xả bỏ, sân hận, ghen tị hoặc không thể buông bỏ .

Bồ Tát cho phép chúng ta được giải thoát, tại sao chúng ta lại lo lắng về những điều chưa xảy ra, khiến bản thân phải gặp nhiều phiền toái, rắc rối và phiền muộn?Sau khi học Phật, chúng ta phải sử dụng trí tuệ của chính mình - trí tuệ của thức thứ chín trong bổn tánh của chúng ta - để cải thiện những điều có thể cải thiện được.

Vấn đề này vẫn có thể được cải thiện, vì vậy chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để cải thiện nó.

Đối với những điều không thể cải thiện được và đã xảy ra, chúng ta phải học cách dũng cảm đối mặt với nó bằng thiền định và định trụ bản thân, "Chuyện đã xảy ra, chuyện đã như vậy rồi, tôi không muốn nghĩ đến nó nữa, và tôi không muốn tự tạo thêm rắc rối cho mình về vấn đề này.

Người hiện đại "Duy nhân tự triệu", nếu ai đó mắng quý vị một câu, về nhà nghĩ không thông.

Họ mắng quý vị một câu, khi về nhà quý vị có thể nghĩ về điều đó hàng trăm lần và tự làm tổn thương mình cả trăm lần.

Điều này chính là ngu si.Bồ Tát khuyên chúng ta hãy bình tĩnh và chấp nhận một số thực tế, không có chút hỷ nộ ai lạc hay phấn khích nào về bất cứ điều gì trên thế gian, đừng hành động hay có suy nghĩ hào hứng về bất cứ điều gì, và giữ thái độ như như bất động trước bất kỳ sự kích thích nào do thế giới bên ngoài mang đến cho chúng ta, để chúng ta không tự chuốc thêm rắc rối cho mình.

Mọi người phải ghi nhớ, vì tất cả những điều này rồi sẽ trôi qua, những phiền muộn sẽ trôi qua, pháp hỷ cũng sẽ trôi qua, ai vướng vào những niềm vui và phiền não ở thế gian thì họ sẽ chỉ không còn hy vọng giải thoát mà còn tăng thêm nỗi đau cho chính mình ở nhân gian hơn nữa.

Vì vậy, chúng ta phải đối mặt với ngoại duyên (kích động bên ngoài), bản thân sử dụng thiền định cho tốt, tránh khởi đau khổ, phản ứng chậm rãi chứ không nhanh chóng.

Đối với bất cứ điều gì, đừng để khi người ta mắng mình liền mắng trả lại ngay; ai đối xử tốt với mình liền đáp trả ngay; ai đối xử với mình thế nào liền lập tức đối xử như thế đó - không nên như vậy, quý vị phải như như bất động, vì những điều này rồi cũng sẽ qua nhanh thôi.

Chỉ cần quý vị suy nghĩ cách thực hiện trong từng bước ra sao, thì quý vị sẽ nảy sinh ra trí tuệ, điều này được gọi là "Hành xả giác chi" trong giới Phật giáo.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 43 VÔ TƯỚNG CHÍNH LÀ KHÔNG DÍNH MẮC VÀO HÌNH TƯỚNG 15/04/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 43🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".---------------Tập 43

VÔ TƯỚNG CHÍNH LÀ KHÔNG DÍNH MẮC VÀO HÌNH TƯỚNG

15/04/2020Là con người, tại sao không nên để tâm mình trụ trong phiền não,?

Chuyện đã xảy ra rồi, nếu cứ nhất quyết giữ tâm mình trong phiền não thì càng ngày sẽ càng phiền não.Bồ Tát "không trụ vô vi".

Đạo lý của "không trụ vô vi" là gì?

Nghĩa là tâm của Bồ Tát là "Hôm nay tôi làm việc này thì chắc chắn là vô vi", nghĩa là làm việc không mục đích, làm việc không mục đích, và hoàn toàn không đặt những việc vô vi này ở trong tâm chút nào.

Hôm nay Bồ Tát đi giúp đỡ người khác, họ rất biết ơn Ngài và nói: "Những gì Ngài đang làm là con đường của Bồ Tát.

Ngài đang giúp đỡ người khác và cứu độ chúng sinh".

Ngài trả lời: "Không có, tôi cũng giống như mọi người thôi, tôi chỉ mong mọi người cũng như tôi"--Bồ Tát suy nghĩ, đây chính là "không trụ vô vi".

Ngay cả khi quý vị làm việc thiện, quý vị cũng không nghĩ rằng bản thân làm việc thiện, thì quý vị đã đắc đạo và đã chứng đắc Niết bàn.

Nhiều người không hiểu "Niết bàn" là gì, nếu quý vị không trụ trong cảnh giới mình đang có thì đã vượt qua được cảnh giới này, chính là Niết bàn.Cho nên phải hiểu rằng, hôm nay mình làm được điều gì tốt thì mình sẽ rời khỏi cảnh giới làm việc tốt; nếu hôm nay mình gặp phiền não thì hãy rời khỏi cõi phiền não; nếu hôm nay mình có được rồi thì hãy rời khỏi "có được".

Bởi vì mọi thứ đều là hư huyễn nên chúng ta phải học "Tánh không".

Giới Phật giáo nói: "Tu để học tánh Không, đừng lấy tánh Không làm chứng đắc, tu để học Vô tướng-Vô tác, không lấy Vô tướng-Vô tác làm chứng đắc.

Tu để học Vô khởi, không lấy Vô khởi làm chứng đắc".

Tu để học tánh Không là gì?

Chúng ta phải tìm hiểu Không tướng và Không tánh.

Nói ví dụ, hôm nay bất luận làm việc gì thì nó cũng sẽ trôi qua đúng không?

Trôi qua rồi có phải là trống rỗng không?

Chuyện này một năm trước đã xảy ra, có không?

Có.

Hôm nay chuyện này đã qua rồi, có phải là trống rỗng không?

Giống như bao đứa trẻ của chúng ta, chúng đã từng trải qua giai đoạn đi học.

Học xong bây giờ có phải là sắp bước vào giai đoạn trưởng thành không?

Lúc đó giai đoạn đi học của bọn trẻ được gọi là "tánh Không".

Đó là lý do Đài trưởng nói quý vị phải học cách xem tất cả mọi thứ đều là trống rỗng.

Bởi vì nó đã trôi qua rồi thì sẽ không còn hình tướng nữa, quý vị cũng không còn những hành động đó nữa rồi.

Bởi vì quý vị đã không còn đi học nữa, cho nên quý vị cũng không cần tiếp tục đến trường để làm bất cứ hành động gì nữa rồi.

Đây cũng chính là "Tam giải thoát" mà sư phụ đã giảng cho mọi người ở tập trướcSự trống rỗng có nghĩa là mọi thứ về cơ bản là trống rỗng.

Khi chúng ta học Phật và làm người, chúng ta phải hiểu rằng thế giới này khi chúng ta đến là trống rỗng, khi chúng ta đi cũng trống rỗng, khi chúng ta đến, chúng ta không mang theo thứ gì cho thế giới này, khi chúng ta ra đi, chúng ta cũng không mang theo gì cả, cho nên khi chúng ta đến và đi, nó trống rỗng, mọi thứ đều trống rỗng.

Mọi thứ trên đời này đều là cho quý vị mượn tạm, là do quý vị mượn về, có cái gì thực sự thuộc về quý vị không?

Vì vậy, các bậc pháp sư đều có tâm thanh bạch (lưỡng tụ thanh phong), họ hiểu rằng "vì ở thế gian là một quá trình nên mình sẽ không ở thế gian mãi mãi".

Ở nhân gian là tôi đang mượn một môi trường giả để tu thật, nên tôi không bám víu vào mọi thứ trên thế gian, vì tôi biết chúng đều trống rỗng."

Đây là điều mà Sư phụ đang nói với mọi người, nếu quý vị đi du lịch đến một hòn đảo rất đẹp, được cấp cho một căn phòng rộng, và quý vị cho rằng trong phòng thiếu cái này thiếu cái kia, nếu quý vị có tất cả đồ đạc trang trí trong phòng, cho dù quý vị có mua cái này, mua cái kia đi chăng nữa, thì sau vài ngày quý vị cũng phải rời khỏi hòn đảo này, vì đây không phải là ngôi nhà thực sự của quý vị.

Khi chúng ta đến nhân gian, hàng chục năm trôi qua trong chớp mắt, đây không phải là quê hương thực sự của chúng ta, mà quê hương thật sự của chúng ta là ở thiên thượng.

Bằng cách này, chúng ta sẽ hiểu được rằng mọi thứ trên thế gian này vốn là trống rỗng, nên gọi là học không - tức là học tập tánh không.

Học Phật phải dựa trên tánh Không làm cơ bản.

Học Phật hôm nay quý vị đã học được chưa?

Học rồi.

Đừng kiêu ngạo hay tự hào sau khi quý vị đã học nó, bởi vì sau khi quý vị học nó, nó sẽ trống rỗng sau khi đi vào trường thức thứ tám, sau khi quý vị học nó, nó biến mất, nó kết thúc, nó đã đi vào ý thức của quý vị, và sau đó ý thức của quý vị sẽ có trong cuộc sống của quý vị, nên mọi thứ đều trống rỗng.Vô tướng có nghĩa là không dính mắc vào hình tướng.

Hôm nay cho dù quý vị là tiến sĩ hay giáo sư, nếu đến tuổi già, mắc chứng mất trí nhớ và không thể nhớ được bất cứ điều gì thì quý vị còn được xem là giáo sư gì nữa không?

Quý vị đã quên hết mọi thứ.

Vì vậy, đừng vướng mắc hôm nay quý vị là ai, bởi vì mọi thứ của hôm nay đều trống rỗng.

Hy vọng mọi người sẽ hiểu và chúng ta không nên bị những hiện tượng này lừa dối.

Người ham sĩ diện là đang ở trong hiện tượng, thế giới con người mà quý vị nhìn thấy tưởng rằng đây là thật, đó cũng là thật, thực ra quý vị đã bị nó lừa dối, bởi vì thực sự sống trong thế giới này là Không tánh, là trống rỗng.Bồ Tát dạy chúng ta Vô tác, làm mà như không làm, tưởng chừng như quý vị đã làm nhưng thực chất lại như chưa từng làm qua.

Hãy thử nghĩ xem, khi còn nhỏ có phải chúng ta đã làm rất nhiều việc không?

Bây giờ có nhớ lại được không?

Đã từng làm qua chưa?

Đã làm qua rồi!

Nhưng giống như chưa từng làm qua vậy.

Hồi nhỏ có từng tức giận qua không?

Có.

Đã có lúc rất tức giận, nhưng bây giờ có cảm giác như chưa bao giờ tức giận chút nào.

Khi mọi người còn nhỏ, tổ chức tiệc gặp mặt hoặc đã từng tổ chức buổi tiệc sinh nhật, bố mẹ giúp con mời rất nhiều người đến, hôm đó quý vị ăn mặc thật đẹp, mọi người đều vỗ tay và ăn bánh kem, vui mừng khôn xiết.

Trải qua chưa?

Làm mà như không làm, bây giờ quý vị nghĩ lại, như chưa từng làm qua bao giờ.

Đây chính là "Bổn" mà Bồ Tát cho chúng ta nhìn thấy, theo ngôn ngữ hiện đại mà nói, mọi hành vi đều là "qua rồi thì thôi, qua rồi là hết".

Cũng chính là dạy chúng ta hiểu rằng Vô nguyện, là không mang đến ước muốn gì, cũng không mang đi được bất kỳ ước muốn nào, bởi vì mọi thứ đều là Không-Vô tướng-Vô tác, đó chính là ba cửa giải thoát của Phật giáo Đại thừa.Sư Phụ dạy mọi người rằng khi cầu xin Bồ Tát, quý vị cũng phải biết cách giải thoát.

Chúng ta thường nói với Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: "Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài hữu cầu tất ứng" có phải là đã nói như vậy không?

Nhưng hãy nhớ rằng, quý vị có "hữu cầu" thì Bồ Tát có thể "tất ứng", nhưng vấn đề ở chỗ là năng lượng, công đức của quý vị có được bao nhiêu và Bồ Tát có nghe thấy không?

Và điều quan trọng nhất là nếu cầu xin Bồ Tát mà có thể đạt được hữu cầu tất ứng thì phải có thêm một điều kiện nữa, đó chính là tâm thành tắc linh.

Nếu hôm nay quý vị không thành tâm, không chân thành, mà học Phật với tư tưởng đầu cơ thì nhất định quý vị sẽ không nhận được hồi báo thực sự.

Nếu quý vị chỉ vì cầu xin một việc nào đó mà hoàn toàn nương nhờ vào Bồ Tát, thay vì dùng tâm học Phật thật sự của mình để phối hợp, thì tuyệt đối sẽ không thể linh nghiệm được.

Có rất nhiều người không thành tâm.

Chúng ta hiểu Bồ Tát là điều không dễ, bởi vì chúng ta cầu này, cầu kia, rồi công đức của chúng ta không đủ, nguyện lực của chúng ta không đủ mạnh, chúng ta chỉ vì một điều gì đó mà cầu xin, trong khi nghiệp chướng của bản thân thì quá nặng nề, khi đó lời cầu xin sẽ không linh ứng, quý vị lại trách Bồ Tát, quý vị ngày ngày hứa nguyện, mong muốn đạt được nguyện vọng cho bản thân, cầu đến sau cùng thì lại biến thành "oán" rồi - chính là oán trách " Bồ Tát, tại sao Người lại không hiển linh vậy"?Dù có làm gì đi nữa, chúng ta cũng phải học cách hiểu rõ tánh Không, hiểu rõ Không-Vô tướng-Vô tác thì mới buông bỏ được tất cả.

"Hôm nay tôi cầu xin điều gì?

Tôi biết điều đó là trống rỗng nhưng tôi đã cầu xin và dùng tâm của mình để cầu xin.

Những gì tôi nhận được chỉ là một giải pháp tạm thời cho những vấn đề của thế gian, vì cuối cùng tôi vẫn rời bỏ thế giới này".

Vì vậy, đây không phải là thứ quý vị thực sự cần và nó cũng là sự trống rỗng.

Dần dần, Đức Phật dạy chúng ta phải "tu học tánh Không, không lấy tánh Không làm chứng đắc".

Có nghĩa là gì?

Nếu một người nói với quý vị rằng "Tôi trống rỗng rồi, tôi đã nghĩ thông rồi, tôi hoàn toàn muốn trống rỗng", thì quý vị không nên tin anh ta, bởi vì anh ta vướng mắc bởi sự trống rỗng này và nghĩ rằng "Tôi đã đạt được Không Tánh rồi".

Như thế thì không có trống rỗng.

Những người đã thực sự chứng ngộ được tánh Không thì thậm chí không còn có sự trống rỗng này nữa.

Đây là điều mà Sư phụ thường nói với mọi người, nếu một người nói: "Tôi không muốn tranh dành với bạn chút nào, những thứ này các bạn cứ tranh nhau đi, tôi không muốn chút nào, thậm chí tôi cũng không nghĩ tới nó."

Nói xem, người này có đang nghĩ về nó không?

Trong lòng họ đang suy nghĩ về chuyện này, mọi người đều tranh nhau, người này còn nói: "Tôi không cần, tôi không muốn điều này chút nào", nhưng trong lòng họ có nghĩ đến chuyện này không?

Trong lòng họ không trống rỗng thực sự.Thầy muốn mọi người tu học Vô tướng và Vô tác, tức là không dính mắc vào hình tướng, không tập trung vào sự việc này và việc gì cũng đều buông bỏ được, đây mới là tánh Không thực sự, bởi vì biết nó là trống rỗng như vậy rồi.

Khi học Phật, chúng ta tuyệt đối không được nhập vào tánh Không: "Tôi biết sự việc này là trống rỗng, nên tôi sẽ không bước vào tánh Không."

Nghĩa là: "Tôi biết thế gian này là vô thường, nhưng tôi sẽ không bước vào trong sự vô thường này".

Có rất nhiều người nói rằng: "Không sao cả.

Cuộc đời rất ngắn ngủi nên đối với tôi nó không quan trọng chút nào.

Dù bạn có cho tôi hay không cũng không quan trọng".

Bởi vì quý vị vẫn cảm thấy rằng "Tôi không bước vào sự trống rỗng", nhưng thực ra quý vị đang ở trong sự trống rỗng này rồi.

Đây chính là triết lý Phật giáo mà Sư Phụ giảng dạy, và ý thức của quý vị vẫn còn ở bên trong.

Giống như Sư Phụ thường tư vấn tâm lý và nói với một số bệnh nhân, cô ta nói: "Tôi đã buông tay từ lâu rồi.

Tôi không cần quan tâm nữa.

Nếu anh ấy bỏ tôi thì thôi, tôi không việc gì phải đau khổ.

Tôi thực sự là...

Tôi không trả lời tin nhắn của anh ấy, tôi cũng không nhớ anh ấy, và mỗi ngày tôi sẽ..."

Cô ấy nói đến tận bây giờ, vẫn luôn nói về chàng trai này, thì quý vị có nghĩ rằng cô ấy đã có được sự trống rỗng không?

Mặc dù miệng thì nói không bước vào sự trống rỗng, nhưng thực ra trong lòng tràn ngập vướng mắc về tánh Không.Nếu đã trống rỗng thì chúng ta lại không thể trống rỗng hoàn toàn, cũng không thể "ngoan không"("ngoan không" có nghĩa là Cái "Không" sai lầm mà những người cuồng thiền thường hay chấp vào).

Bởi vì sau khi hoàn toàn trống rỗng, thì ai sẽ cứu thế giới này và ai sẽ độ chúng sinh?

Nếu chúng ta không mượn giả để tu thật, thì làm sao Bồ Tát Đại thừa có thể trải nghiệm được nhập thế và làm việc thiện?

Những vị Bồ Tát trên thiên xuống thế gian ai nấy đều phải nhập thế để làm việc thiện và cứu độ tất cả chúng sinh.

Dù chúng ta muốn trống rỗng nhưng chúng ta vẫn phải nhập thế để làm những việc thiện.Phải tu học Vô khởi.

Vô khởi là gì?

"Đừng lấy Vô khởi làm chứng đắc."

Vô khởi có nghĩa là tuy chúng ta ở trong tánh Không, mặc dù có đôi lúc nhập vào thế gian để làm việc thiện nhưng chúng ta vẫn phải ở trong tánh Không để làm việc thiện và phải cứu độ chúng sinh.

Trên thực tế vẫn là đang ở trong tánh Không, nhưng không nhập vào tánh Không, cũng không rời khỏi tánh Không hoàn toàn.

Đây chính là triết học.

Vô khởi chính là tâm không động.

Chúng ta không lấy việc vô khởi làm chứng đắc, nếu tâm không lay động thì hãy thôi nghĩ đến những điều làm cho tâm lay động.

"Tôi phải đi cứu người.

Hôm nay tôi đến thế gian này và tôi đã phát nguyện rồi.

Thì tôi nhất định phải cứu độ những chúng sinh hữu duyên" - Như thế thì quý vị vẫn có khởi tâm, vì quý vị đã khởi động tâm niệm của mình.

Vì vậy, học Phật càng về sau, tốt nhất là có thể không để cho tâm lạy động.

Tích cực làm việc thiện và tìm thật nhiều việc tốt để làm công đức mỗi ngày, nhưng không thể động cái tâm này làm mục tiêu cuối cùng.

Cũng chính là nói, quý vị không được hành thiện hay làm bất cứ chuyện gì vì mục đích của bản thân.

Quý vị không được xem cái kết quả đạt được đó là thành quả.

Vì vậy, Phật giáo khi giảng dạy càng về sau thì thực sự khó vô cùng, tức là "Khởi tâm động niệm đều là nghiệp".

Hôm nay nếu có niệm thiện thì quý vị sẽ được thăng thiên, nếu có niệm ác thì sẽ xuống địa ngục.

Nhiều người hỏi: "Tại sao Thầy bảo chúng con không được khởi tâm động niệm tùy ý?"

Đó là phải nghĩ đến tánh Không.

Khi quý vị nghĩ đến sau khi làm mọi việc rồi, cuối cùng nó sẽ trở về trống rỗng, thì quý vị sẽ không còn cảm thấy "Tôi đang bố thí, tôi đang cho đi".

Quý vị "có thể phân biệt hình tướng của vạn pháp".

Bởi vì Không tánh có nghĩa là đã rời khỏi.

Ví dụ như hai người đang cãi nhau, sau khi quý vị rời khỏi hai người đó, thì tất cả các pháp đều không có hình tướng, mọi hành vi, suy nghĩ và lời nói mà quý vị nhìn thấy của hai người này, quý vị đều biết được là trống rỗng và sẽ biến mất sau một thời gian.

Chỉ bằng cách này, quý vị mới có thể biết được trên thế giới này, việc hai người cãi nhau là do nhân quả.

Quý vị không bị dính mắc vào nhân quả, nhưng họ đã bị dính mắc vào nhân quả.

Nếu quý vị nói ai đúng ai sai là quý vị đã đi vào nhân quả của đúng sai này ở thế gian.

Nếu quý vị nói người này là "thị" thì người kia là "phi" (tức là sai); nếu trong lòng quý vị cảm thấy "điều này đúng" và có cái "thị" này rồi thì trong tâm quý vị nhất định sẽ có cái "phi".

Cho nên, không bước vào nhân quả, đó mới là nghĩa thứ nhất.Nếu chúng ta muốn chứng đắc con đường và quả vị của một vị Bồ Tát, thì chúng ta phải học cách trì giới và tu định.

Quý vị phải hiểu rằng muốn thành Phật, trước tiên phải không vọng niệm, không lo âu, hơn nữa phải Không tánh, nhưng cũng không được dính mắc vào Không tánh.

Người đã thành Phật họ có còn động ý nghĩ nữa không?

Họ không có ý nghĩ gì nữa cả, và họ đã là Phật rồi, bất luận họ làm gì đều là Phật ngôn Phật ngữ, họ làm bất cứ điều gì cũng đều là hành vi và trí tuệ của Phật, hoàn toàn

không nghĩ đến chuyện "Tôi là Phật" hay "Tôi không phải là Phật", hay "Tôi phải làm những việc của Phật vì tôi là Phật".

Cũng giống như một người nói: "Tôi là người tốt và tôi muốn làm những điều tốt.

Hôm nay tôi là một người công nhân gương mẫu và tôi phải làm những việc gương mẫu".

Khi đó quý vị vẫn đang ở trong sự "gương mẫu" này và bị ràng buộc vào điều này", vẫn chưa hoàn toàn trống rỗng.

Quý vị phải thực sự buông bỏ, biết mình là tấm gương cho mọi người noi theo, mà bản thân quý vị quên mất mình là tấm gương này, tóm lại là nhìn thấy những việc mà người gương mẫu đáng lẽ nên làm và nên giúp đỡ người khác thì quý vị sẽ làm."

Năng thiện phân biệt."

Nếu quý cảm thấy điều này là tốt hay xấu và quý vị có thể phân biệt được, thì thực ra trong tâm quý vị vẫn có sự phân biệt.

Chỉ khi không phân biệt, mới có thể giỏi phân biệt mọi pháp tướng.

Chỉ khi quý vị thoát ra khỏi những cuộc cãi vã của người khác, quý vị mới nhận ra rằng những cuộc cãi vã của họ thực chất là đều nằm trong nhân quả.

Cho nên chúng ta phải rời khỏi, rời khỏi có nghĩa là nương vào tánh không, không nương vào hình tướng.

Sư phụ nói với mọi người đến tận bây giờ, mong quý vị hiểu rằng dù làm việc gì thì cũng nên làm như "Vô tác" và không chấp tướng.

Hãy dùng tâm thiền định để nhìn thấu thế giới này, nó hoàn toàn là hình tướng ảo ảnh do thiền định tạo ra, dần dần quý vị sẽ hiểu tánh "Không" là gì.Mong rằng mọi người sẽ học Phật thật tốt, hiểu tường tận tư tưởng của Phật giáo trên thế gian này và những nguyên lý đầu tiên của Phật giáo, có thể hoàn toàn thoát khỏ "tướng Không" này - tức là không những quý vị là trống rỗng mà còn phải thoát ra khỏi hình tướng trống rỗng đó - khi đó quý vị có thể chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 44 THÍNH VĂN PHẬT PHÁP, TÔN TRỌNG CÚNG DƯỜNG 15/4/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 44🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".--------------Tập 44

THÍNH VĂN PHẬT PHÁP, TÔN TRỌNG CÚNG DƯỜNG

15/4/2020Hôm nay Đài trưởng sẽ kể cho đại chúng nghe một câu chuyện về thời Đức Phật còn tại thế.Năm ấy Đức Phật thường xuyên đi hoằng pháp khắp nơi, khi Ngài hoằng pháp tại vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Ðộc nước Xá Vệ, có một trưởng lão rất giàu có ở thành phố này, ông cưới con gái của một nhà quý tộc danh môn làm vợ.

Ông đặc biệt thuê những nhạc công giỏi nhất trong thành hàng ngày chơi đủ loại nhạc hay để làm vợ ông vui lòng.Vợ trưởng lão sinh ra một bé trai kháu khỉnh sau mười tháng mang thai.

Đứa trẻ này sau khi sinh ra, tự nhiên được quấn trong một bộ quần áo dệt từ hoa Tu Mạn, không những mềm mại, nhiều màu sắc mà còn tỏa ra một loại hương thơm hiếm có trên thế gian, mang lại cho người ta cảm giác sảng khoái khi ngửi.

Vì lý do này, vị trưởng lão đã đặc biệt mời thầy bói địa phương đến xem tướng cho con trai mình.

Khi các thầy bói nhìn thấy vẻ ngoài trang nghiêm và độc đáo của đứa bé, họ thốt lên: “Đứa trẻ này thật không thể tin được!”

Họ hết lời tán tụng và lần lượt hỏi vị trưởng lão: “Có điềm tướng lành gì trong quá trình sinh đứa trẻ không?”

Cặp vợ chồng trưởng lão đáp: “Đứa bé được sinh ra với bộ quần áo hoa Tu Mạn đầy màu sắc trên thân..”

Các thầy bói thấy khó tin nên đặt tên cho đứa bé là “Tu Mạn Na” (Tu Mạn Na chính là tên của loài hoa).Tu Mạn Na lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, tính cách của cậu bé rất khiêm tốn, luôn dịu dàng và nhã nhặn với người khác, càng ngày càng hiếu thảo với cha mẹ, mọi người đều thích đến gần đứa trẻ này.

Điều đáng kinh ngạc hơn nữa là bộ quần áo hoa Tu Mạn trên người cũng lớn lên theo cơ thể của cậu bé, đứa trẻ lớn đến đâu thì quần áo cũng sẽ lớn đến đó, luôn vừa vặn và hoàn hảo.Cặp vợ chồng trưởng lão biết rằng Tu Mạn Na có thể mặc được bộ áo hoa Tu Mạn trang trọng này trên người chắc hẳn phải có lý do đặc biệt nào đó nên họ đã yêu cầu Tu Mạn Na đến vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Ðộc nước Xá Vệ để xuất gia tu hành (ngày xưa muốn xuất gia không hề dễ dàng, đó là bước vào một loại cảnh giới của hoàng thân quý tộc, rất cao quý), đồng thời theo Tôn giả A Na Luật học tọa thiền và các pháp môn khác.Sau khi xuất gia, Sa di Tu Mạn Na đã rất siêng năng học tập, dưới sự giảng dạy của Tôn giả A Na Luật, không bao lâu đã sớm chứng đắc quả A-la-hán, tiếp đó cậu đã có được tam minh lục thông và có đủ tám giải thoát.

Tam minh là thiên nhãn minh, túc mệnh minh, lậu tận minh.

Lục thông đó là: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mệnh thông, lậu tận thông, và còn có thần túc thông.

Nói cách khác, đứa trẻ này có công năng đặc biệt và có thể chạy nhảy khắp nơi.

Có lẽ mọi người đều biết về những sức mạnh thần thông khác, nhưng lại không biết về lậu tận thông.

“Lậu” thực ra có nghĩa là phiền não, nếu giải quyết hết phiền não thì sẽ không còn phiền não nữa.

Đứa trẻ này được chư thiên thế nhân ngưỡng mộ và mọi người đều kính trọng nó.Một hôm, Tôn giả A Na Luật bảo Tu Mạn Na đi đến sông Bạt Đề ở phía xa để múc nước tinh khiết cúng dường Đức Phật, nên Tu Mạn Na đã đến sông Bạt Đề.

Sau khi đổ đầy nước vào bình thanh lọc, cậu ta ném nó lên không trung, không ngờ bình thanh lọc đó bay theo cậu ta trong không trung, rồi đi theo Tu Mạn Na và bay về phía Tinh Xá Trúc Lâm.

Các vị Tỳ kheo đang ở trong Vườn Cấp Cô Độc lúc bấy giờ ai nấy đều rất ngạc nhiên khi nhìn thấy chiếc bình chứa đầy nước bay qua, sau khi biết rằng Tu Mạn Na chỉ là một Sa di, đã xuất gia không được bao lâu, họ rất ngạc nhiên khi Tu Mạn Na có thể có được thần thông kỳ diệu như vậy và không thể tin được: “Cậu ta mới xuất gia, sao lại có thần thông to lớn đến như vậy?”.

Sau đó tất cả chư Tăng kính cẩn đến gặp Đức Phật và xin Ngài chỉ dẫn: “Bạch Thế Tôn, Sa di Tu Mạn Na rốt cuộc trước đây đã tu loại phước báo gì, mà không những ở đời này, cậu ta còn được sinh ra trong một gia đình giàu có, hơn nữa lại được sinh ra với bộ quần áo hoa Tu Mạn trên thân và sau khi cậu ta xuất gia không bao lâu, lại có thể chứng đắc quả vị A-la-hán và có được thần thông như vậy?”

Khi ấy Đức Phật từ bi tiết lộ nhân duyên cho tất cả các vị Tỳ-kheo nghe.

Đức Phật rất từ bi, chỉ cần ai hỏi Ngài điều gì, thì Ngài sẽ nói cho họ biết về nhân quả đó.Cách đây chín mươi mốt kiếp, khi Đức Phật Tỳ Bà Thi còn tại thế, lúc bấy giờ Ngài đã hoằng dương Phật giáo ở nước Ba La Nại và giáo hóa cho dân chúng, sau khi công đức viên mãn, Ngài nhập Niết-bàn, tức là Ngài đã hoàn toàn chứng đắc vô thượng Không tánh, chứng đắc vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lúc bấy giờ, vua Phạm-ma-đạt-đa còn là đệ tử của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhập niết bàn, Ngài phát tâm xây dựng Tứ Bảo Tháp để cúng dường xá lợi của Đức Phật.

Lúc này có một cậu bé chạy đến trước tháp, ngước mắt lên đảnh lễ bảo tháp: “Thật uy nghi, thật tốt lành, thật là một bảo tháp thù thắng và trang nghiêm!”

Cậu cảm thấy hoan hỷ trong lòng, nhìn thấy ngôi bảo tháp này, nên cậu đã phát nguyện sẽ xuất gia, nhưng cậu không bao giờ khai ngộ từ khi còn nhỏ cho đến khi về già. (Cho nên đối với mỗi đứa trẻ, đi tu không nhất thiết là đã khai ngộ, và học Phật cũng không nhất thiết là đã có trí huệ.) Cậu tự trách mình và sám hối rất nhiều trong suốt cuộc đời: “Tại sao mình tu cả cuộc đời mà vẫn chưa khai ngộ?”

Một hôm, vị Tỳ kheo tự trách này đã dùng hết tiền tiết kiệm của mình để mua hoa Tu Mạn, đích thân dùng chỉ mỏng khâu từng bông hoa Tu Mạn thành chiếc áo hoa Tu Mạn có thể che phủ toàn bộ bảo tháp và cúng dường Phật tháp xá lợi (Trải hoa khắp chùa, quý vị có thể thấy được nguyện lực này mạnh mẽ đến nhường nào), và phát nguyện: "Tôi phải được sinh vào thế giới của Đức Phật (nghĩa là sau này có tái sinh, nhất định phải được sinh ra trong thế giới của Đức Phật), theo Phật xuất gia và chứng ngộ đạo quả.”

Trong những câu chuyện về các vị Phật này được Sư Phụ kể, nguyện lực của nhiều người là “Tôi phải được sinh vào thế giới mà nơi Đức Phật trụ thế.”

Đây chính là đại nguyện lực.Sau đó, Đức Phật bảo với mọi người rằng, vị Tỳ kheo Tu Mạn đã tạo công đức cúng dường này nên không bao giờ bị đọa vào địa ngục, súc sinh hay ngạ quỷ trong chín mươi mốt kiếp.

Bất kể là thiên nhân ở cõi trời hay ở cõi nhân gian, vị Tỳ kheo này luôn mang theo y áo hoa Tu Mạn (tức là dù có là thiên nhân cũng có y áo hoa này, và ở cõi người cũng có y áo hoa này), và hưởng thụ phước báo của thiên nhân.

Hơn nữa, nhờ công đức sám hối và phát nguyện, trong đời này, cậu ta đã có thể gặp được Đức Phật, theo Đức Phật xuất gia và chứng đạo quả.

Vì vậy, mọi người phải hiểu thế nào là “sám hối và phát nguyện”, là sám hối sự ngu si, chưa khai ngộ của mình và “Con phát nguyện nhất định phải tăng trưởng trí tuệ của Phật”.

Bởi vì khi quý vị phát nguyện sau khi sám hối, sức mạnh của lời nguyện đó đặc biệt mạnh mẽ và đặc biệt linh ứng.

Vì vậy, Sư Phụ bảo quý vị hãy niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn trước khi phát nguyện.

Khi Đức Phật giảng đến đây, mọi người đều nghe lời Đức Phật dạy, tuân theo lời dạy của Ngài và vui vẻ làm theo.Điều này muốn nói với mọi người rằng một người có thể không khai ngộ, nhưng không thể không có tâm sám hối, một người có thể phạm sai lầm, nhưng không thể không có tâm sửa đổi.

Trong 《Kinh Đại Bát Niết Bàn》 có nói: “Nếu thấy Xá Lợi của Như Lai thời là thấy Phật” Điều này chính là nói với chúng ta rằng, khi quý vị nhìn thấy kinh Phật và thấy xá-lợi Như Lai của Phật, thực ra cũng giống như nhìn thấy Phật vậy.

Vị Tu Mạn Na này đã phát tâm xuất gia khi còn trẻ ở kiếp trước, nhưng ông vẫn chưa khai ngộ ngay cả khi về già.

Ông không vì thế mà đánh mất đi Bồ-đề tâm, ngược lại có thể nhìn lại và quán chiếu về chính mình ”Tại sao cả đời tôi đều không khai ngộ?” và cảm thấy ăn năn.

Khi trong lòng ông ta khởi lên sám hối, cùng lúc phát đại tâm nguyện, và cố gắng toàn tâm toàn ý nguyện cúng dường, cũng là lúc ông đã tạo ra được công đức cúng dường.

Vì thế ông cảm được bộ quần áo hoa Tu Mạn trên thân mình khi vừa chào đời, còn được gặp Đức Phật tại thế và xuất gia tu hành, đó là quả báo thù thắng của chứng đạo Phật Quả.Hôm nay chúng ta đang học Phật và đã được nghe Phật Pháp, chúng ta chính là những người rất may mắn.

Tại sao suốt ngày chúng ta vẫn không trân trọng và hài lòng với nhiều thứ?

Chúng ta có trí tuệ, nhưng trí tuệ này là trí tuệ của thế gian.

Chúng ta phải biến nó thành trí tuệ và công đức của Phật.

Và phải sám hối quá khứ của mình.

“Sinh vào cõi Phật khó, gặp được chánh pháp thật khó.”

Tuy ngày nay chúng ta không thể “tái sinh vào cõi Phật” (có nghĩa là Đức Phật còn sống ở thế gian này) nhưng chúng ta thật may mắn vì có được Chánh Pháp của Đức Phật vẫn còn ở trên thế gian, chúng ta vẫn có thể học tốt, và chúng ta càng nên nắm bắt các nhân duyên khác nhau, và khéo nghe Phật Pháp, kính trọng cúng dường và tinh tấn không giải đãi.Nếu hôm nay quý vị trông thanh tú thì kiếp trước chắc chắn đã cúng hoa; nếu mắt tốt thì chắc chắn đã cúng dầu; nếu có tài hùng biện chắc chắn đã từng miệng phun hoa sen(tức là nói lời ái ngữ); nếu tâm quý vị thanh tịnh và không có tai kiếp thì chắc chắn kiếp trước quý vị đã từng tu hành.

Vì vậy, mọi thứ đều “do tâm tạo ra” ở kiếp trước và kiếp này.

Hôm nay quý vị muốn có tín giải hành chứng (tức là quý vị muốn giải thoát thì phải tin, phải tu và chứng đắc Phật quả), quý vị phải tin vào nó, phải “đạt được tâm ấn của cổ Phật”, và phải nắm chắc năng lượng tích cực của Bồ Tát, đặt nó vào trong tâm mình và để Phật tánh trong trường thức thứ tám gặp Phật tánh nguyên thủy của thức A-ma-la trong trường thức thứ chín.

Đây chính là Phật tánh nguyên thủy của thức A-ma-la.

“Khế hợp tâm Phật hợp nhất”, chỉ bằng cách này quý vị mới có thể một kiếp tu thành và vĩnh đoạn luân hồi.Cảm ơn đại chúng, bài giảng hôm nay đến đây kết thúc.

Chúng ta hẹn gặp lại vào lần sau.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 45 TỨ DIỆU ĐẾ CHÍNH LÀ GIẢI THOÁT ĐẾ 18/4/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 45🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".---------------Tập 45

TỨ DIỆU ĐẾ CHÍNH LÀ GIẢI THOÁT ĐẾ

18/4/2020

Hôm nay chúng tôi sẽ tiếp tục giảng cho đại chúng nghe về "Bạch Thoại Phật Pháp"

Học Phật là phải được giải thoát.

Trong suốt cuộc đời, khi đến tuổi trung niên, con người sẽ bắt đầu hồi tưởng về cuộc đời và tuổi trẻ của mình.

Người ta thường thắc mắc: Tại sao trong đời tôi lại mất mát nhiều đến thế?

Tại sao những thứ chúng ta có được khi còn trẻ, kể cả bạn bè, gia đình, giờ lại không còn nữa?

Chúng ta đến nhân gian rốt cuộc là để làm gì?

Nhiều người nói, chẳng lẽ chúng ta đến thế giới này cũng chỉ để theo đuổi một nếp sống như bao người khác sao?

Bước qua cuộc đời như vậy, thậm chí chúng ta không biết mục đích mình đến thế giới này là gì, chỉ khi hoàn thành quá trình đó chúng ta mới nhận ra rằng thì ra ở trong thế giới này nên học Phật, hiểu được mình nên đi đâu sau khi rời khỏi thế giới này.

Nhưng chưa có ai nghĩ tới điều này, bởi vì họ sẽ không nghĩ đến việc học Phật khi còn ở nhân gian.

Trước hết, họ không có được duyên phận này, vì suốt ngày chỉ chăm chăm vào ngôi nhà nhỏ riêng của mình mà quên mất rằng còn có một "ngôi nhà" của Huệ mệnh.

Mỗi người đều có Huệ mệnh của riêng mình, thân thể là một ngôi nhà, nhưng trí tuệ lại sở hữu một "ngôi nhà" khác, và "ngôi nhà" trí tuệ này sẽ giải thoát quý vị khỏi những phiền não và đau khổ trong cuộc đời.

Nhiều người suốt đời chịu khổ đau trong xã hội này vì chưa tìm được một "ngôi nhà" trí tuệ.

Nhiều người cái thân họ sở hữu nhà cửa, ô tô, sở hữu những dinh thự sang trọng và một số bạn bè, nhưng những thứ này chỉ là phù du (như quá nhãn vân yên) và sẽ sớm biến mất.

Không ai nghĩ về những gì nên làm cho tương lai của mình - rốt cuộc là chuẩn bị đi đến nơi nào - chuẩn bị một số thứ gì.

Tại sao cuộc đời tôi lại đau khổ đến vậy, tại sao ở tuổi trung niên của tôi lại xảy ra nhiều chuyện như vậy?

Bởi vì quý vị không tìm được một sinh mệnh khác, đó chính là Huệ mệnh.

Vì vậy, Sư phụ mong rằng mọi người sẽ thoát khỏi đau khổ, thoát khỏi phiền não và có được Huệ mệnh cho riêng mình.

Con người chúng ta thật đáng thương, nhiều người trong chúng ta mới học Phật, mới tìm được "ngôi nhà" cho riêng mình, nhưng do vô minh nên có nhiều liệt căn tính (thói hư tật xấu) và nghiệp chướng, nên sau đó lười biếng.

Đã tìm được Phật Pháp, nhưng dần dần lại mất Pháp, bởi vì không thể khắc phục được những phiền não khi học Phật và không kiềm chế được bản thân, không thể nhẫn nại, không thể quên đi những oán kết của người khác đối với mình từ nhiều kiếp, không thể tha thứ và không thể bao dung cho người khác, ngày ngày sống trong đau khổ và phiền não, Huệ mệnh vì thế lại bị đánh mất một lần nữa.

Bởi vì nhìn thấy môi trường bên ngoài của xã hội này đầy rẫy "nhĩ tranh ngã đoạt" (sự tranh đoạt giữa bạn và tôi), suốt ngày gặp phiền não vì sự đố kỵ giữa bạn bè với nhau, nên họ cũng gia nhập vào hàng ngũ này và xa rời Huệ mệnh của chính mình.

Người học Phật cần hiểu, điều gì mang đến cho mình nỗi đau lớn nhất trong cuộc đời?

Đó chính là thân thể của mình.

Thân thể của quý vị cảm thấy dễ chịu trong chốc lát, hoặc cảm thấy khó chịu trong chốc lát, cảm thấy đau hoặc không đau trong chốc lát.

Trong cuộc sống, quý vị phải dùng thân xác của mình để tận hưởng những thứ vinh hoa phú quý vô hình và sẽ nhanh chóng mất đi, khi một ngày quý vị phát hiện mình mắc bệnh nan y, tất cả những thứ đó sẽ tan biến như mây.

Vì thế chúng ta tiếp tục sống trong vòng luân hồi này, không thể buông bỏ được, cho nên chúng ta không thể thoát khỏi nó.

Nhiều người khi phát hiện mình mắc bệnh hiểm nghèo họ sẽ rời bỏ thế gian này với sự tiếc nuối cả đời, đây chính là họ chỉ có thân xác vật chất và không giữ lại được Huệ mệnh cho mình.

Vì vậy Sư Phụ bảo mọi người hãy học, Phật pháp chính là dạy chúng ta cách thoát khỏi những phiền não trong cuộc sống.

Trong đạo Phật có một điều vĩ đại nhất đó là "Tứ Diệu Đế", cho mọi người biết rằng có một chân đế, ở đời này chỉ cần quý vị nắm vững được chân đế này và hiểu cách vận hành của thế giới, thì quý vị sẽ khắc phục được những phiền não của chính mình và biết cách thoát ra khỏi vực sâu của cuộc đời.

Hôm nay Sư Phụ sẽ nói vắn tắt với mọi người về "Tứ Diệu Đế".

Đức Phật dạy chúng ta rằng, đạo lý đơn giản nhất của Phật giáo thực ra là "Tứ Diệu Đế", lý luận cơ bản của Phật giáo chính là Tứ Diệu Đế, cho chúng ta biết ý nghĩa thực sự trong xã hội này là gì và làm thế nào để hiểu được ý nghĩa thực sự đó.

Trước hết, "Đế" trong Tứ Diệu Đế có nghĩa là gì?

"Đế" là chân lý tuyệt đối, chân đế chính là chân lý, không ai khác có thể bác bỏ được.

"Tứ Đế" là Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế, theo quan điểm của Phật giáo mà nói thì đó là Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

Vậy tại sao đây lại là một chân lý vĩnh cửu?

Chính là để nói với mọi người rằng cuộc sống diễn ra như thế đấy, nếu quý vị không hiểu thì đó cũng là một sự thật mà quý vị phải trải nghiệm.

Chẳng hạn, về "Khổ đế", mọi người hãy nghĩ xem, khổ đau của con người là sinh, lão, bệnh, tử và không ai có thể thoát khỏi nó.

Ngày nay, dù giàu có hay danh lợi đến đâu đi chăng nữa, cũng không thể thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử, không ai có thể thoát khỏi nó.

Điều này có phải là chân đế không?

Quý vị có nghĩ rằng người giàu sẽ không bao giờ chết không?

Đây chính là điều Phật pháp dạy chúng ta đó là khổ, vì khi chết sẽ rất đau khổ.

Về già không thể làm được điều gì mình muốn, rất đau khổ.

Sinh ra rất khổ, khi sinh ra đứa bé muốn ăn gì cũng không được, không có răng, lạnh nóng thất thường, lại không thể nói được, chỉ biết khóc.

Quý vị thấy con người khổ biết bao, nên Bồ Tát dạy cho chúng ta chân lý thứ nhất đó là khổ, vì không ai có thể thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử.

Điều thứ hai nói về "Tập Đế", "Tập Đế" tức là tập hợp các nguyên nhân gây ra đau khổ.

Vì sao có khổ nạn?

Bởi vì tất cả chúng sinh từ vô thỉ kiếp đã có phiền não tham, sân, si, đời trước tham, sân, si sẽ tiếp nối đến đời sau.

"Tập Đế" là tập hợp "nhị thập ngũ hữu" (25 cõi trong tam giới) của nguyên nhân gây ra quả khổ.

"nhị thập ngũ hữu" là hình ảnh cuộc sống với 25 cõi luân hồi sinh tử.

Nhiều người đến từ sáu cõi - địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, cõi người và cõi trời.

Thiên giới cũng bao gồm lục thiên gồm có cõi trời Dục giới, cõi trời Sắc giới và cõi trời Vô sắc giới.

Bồ Tát dạy chúng ta rằng tất cả những thứ này đều tồn tại trên thế gian, nên muốn mọi người hiểu nó, tổng cộng được phân thành 25 cõi nên gọi là "nhị thập ngũ hữu".

Tức là dù có lay chuyển mạnh thế nào cũng không thể thoát ra được, đây là sự thật, bởi vì luân hồi sinh tử chính là nằm trong đó luân đi luân lại.

Bồ Tát dạy chúng ta rằng, Khổ tập - chính là do sự luân hồi quả khổ của "nhị thập ngũ hữu" này mà khiến cho tham, sân, si của quý vị tích lũy ngày càng nhiều ở các kiếp, và những khổ nạn này mới phát sinh ra quả khổ của sinh tử trong ba cõi.

"Tập" này là tập hợp những nguyên nhân gây ra khổ nạn, quý vị phải tự mình tìm ra lý do tại sao quý vị lại đau khổ.

Một số tôn giáo nói về nguyên tội luận (là luận bàn về nguồn gốc tội lỗi), cho rằng con người sinh ra là đã có tội, theo giới Phật giáo mà nói đó chính là Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

"Tập" ám chỉ nhân quả mà chúng ta đã mang lại ở kiếp trước, kiếp này chúng ta phải tiếp tục nhận lấy hậu quả và báo ơn của chúng, thiện có thiện báo, ác có ác báo.

Kiếp trước chưa báo hết thì kiếp này sẽ tiếp tục hoàn trả.

Thứ ba là "Diệt đế".

"Diệt đế" nhằm nói với mọi người rằng dù là người hay đồ vật trên thế gian này thì cuối cùng cũng sẽ có một ngày kết thúc và một ngày nào đó sẽ diệt vong, có sinh sẽ có diệt.

Ví dụ, nếu nơi này bị cháy, cuối cùng nó sẽ được dập tắt, nếu người này thích nói chuyện điện thoại cỡ nào đi chăng nữa, thích nói chuyện điện thoại thật lâu thì dù có nói bao lâu, cho dù là một tiếng đồng hồ thì cuối cùng cũng sẽ cúp máy.

Trong cuộc sống cũng vậy, dù quý vị sinh ra có sức khỏe tốt đến đâu và cảm thấy mình đang sống tốt thì một ngày nào đó cũng sẽ ra đi.

Dù chúng ta mua căn nhà tốt đến đâu và sống trong đó bao lâu, quý vị có thể sống ở đó hàng trăm năm không?

Cuối cùng một ngày nào đó cũng sẽ diệt độ đúng không?

Kỳ thực, "Diệt đế" chính là Niết Bàn mà Bồ Tát nói với chúng ta.

Nhiều người cho rằng Niết Bàn có nghĩa là biến mất, là chết rồi, thực ra Niết Bàn là một loại giải thoát.

Khi quý vị hiểu được điều này, khi biết rằng con người sẽ không chết, thì quý vị sẽ được giải thoát.

Vì vậy, "Diệt đế" thuộc về sự tương tục của sinh tử, bởi vì trong Phật giáo không nói rằng cái chết giống như một ngọn đèn dập tắt, bởi vì sau khi chết, con người hoàn toàn biết mình sẽ đi về đâu trong tương lai, và sẽ không thực sự chết.

Con người sẽ tái sinh lần nữa, hoặc lên cõi trời hoặc xuống địa phủ.

Vì vậy, sự tương tục sinh tử này chính là "Diệt đế", có nghĩa là để cho con người biết được chân đế của thế giới này chính là: dù quý vị có bị mê hoặc hay hiểu rõ đi chăng nữa thì sự mê hoặc cuối cùng sẽ chấm dứt; nếu quý vị có trí tuệ hay thông minh, dù có đạt được gì thì cuối cùng nó cũng sẽ bị diệt độ.

Vì vậy, chúng ta phải hiểu rằng vì thế giới này trong một ngày nào đó sẽ chấm dứt khổ nạn hay hạnh phúc của quý vị, vậy thì tại sao quý vị không thể sớm khai ngộ để tránh xa những phiền não của thế gian và tránh xa đau khổ của sinh tử?

Thứ tư là "Đạo đế", "Đạo đế" là đã tìm ra con đường này.

Nếu chúng ta đang lái xe mà đi lạc đường, không biết đi đâu, thì chúng ta cứ đi lòng vòng mãi cho đến khi tìm được đường về nhà, tất cả những gì chúng ta phải làm là tiếp tục lái xe trên con đường chính này.

Khi quý vị tìm thấy con đường này, thì quý vị đã tìm thấy chân đế, bởi vì quý vị sẽ tiếp tục dũng cảm tiến về phía trước, và quý vị sẽ được giải thoát cho đến khi hoàn toàn hiểu được đạo lý của cuộc sống, đó là sự chứng đạo của cảnh giới Niết Bàn.

Như quý vị đã hiểu, biết rằng thế giới này chẳng qua là Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

Đây là lý luận uyên thâm mà Phật giáo dạy cho chúng ta hiểu được, cho chúng ta biết rằng dù con người có làm gì thì sự sống và cái chết đều vô thường.

Cuối cùng sẽ có sinh, lão, bệnh, tử và tất cả đều sẽ bị diệt độ.

Vì vậy, bảo quý vị đừng tranh đấu với người khác, đừng cướp đoạt với người khác ở nhân gian, bởi vì tất cả những điều này đều sẽ qua đi, đó là Diệt đế, đây chính là chân lý.

Trong xã hội này, chúng ta phải học cách bình tĩnh, hạ thấp tâm thái một chút, đừng hở ra thứ gì cũng tranh giành, ít nhìn vào ưu điểm của mình mà nhìn vào ưu điểm của người khác nhiều hơn, và làm cho sự kiêu ngạo của chúng ta dần trở nên khiêm tốn và tôn trọng.

Quý vị nhìn xem, bất kì một người nào tôn trọng người khác thì người khác chắc chắn sẽ tôn trọng họ.

Khi quý vị tôn trọng tất cả mọi người, quý vị sẽ tự nhiên cảm thấy môi trường xung quanh mình rất hòa hợp, sự hòa hợp này diễn ra như thế nào?

Là do chính quý vị tạo ra.

Vì vậy, tử tế với người khác sẽ thu hút người khác tử tế với quý vị; ghen tị và tức giận với người khác sẽ thu hút người khác ghen tị và sân hận với quý vị.

Sư Phụ nói cho mọi người biết nhiều mâu thuẫn giữa con người với nhau đều bắt nguồn từ chính bản thân mà ra.

Quý vị không thể hiểu rằng thế giới này không còn thời gian dài đối với quý vị nữa, bởi vì mọi thứ sẽ qua đi.

Nghĩ lại tuổi trẻ của chúng ta trôi qua rất nhanh, tuổi thiếu niên, tuổi trẻ, tuổi trung niên, mọi thứ đều như mộng huyễn bào ảnh.

Sư phụ muốn mọi người hiểu rằng, đừng bao giờ kiêu ngạo, bởi vì mọi người đều giống nhau và không thể sống mà không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

Luôn cảm thấy mình thông minh hơn người, mở mang kiến thức nhiều hơn người, hiểu biết hơn người và dần dần những xung đột sẽ nảy sinh trong cuộc sống của quý vị.

Mâu thuẫn gia đình bắt nguồn từ đâu?

Đó chính là không thể hạ thấp bản thân mình.

Tại sao lại có mâu thuẫn với vợ và chồng, chính là không thể hạ thấp bản thân và luôn cho rằng mình đúng, đây là tâm ngạo mạn.

Cũng có người học Phật học không tốt, suốt ngày than vãn và hình thành thói quen luôn nói xấu người khác, phàn nàn về người khác, khi đó tâm trí của họ sẽ giống như một xiềng xích không thời khắc nào có thể thoát ra được.

Khi trong tâm linh của quý vị bị khóa, quý vị không có cách nào giải thoát mình khỏi thế giới nội tâm, quý vị sẽ phải chịu đau khổ và phiền não.

Chúng ta phải thực sự hiểu hạnh phúc là gì trên thế giới này.

Sư phụ nói cho mọi người biết hạnh phúc không phải là có được nhiều hơn mà là ít phàn nàn hơn.

Càng ít phàn nàn thì cuộc sống của quý vị sẽ càng hạnh phúc;

nếu ngày nào cũng phàn nàn, ngày nào cũng phiền não, thì cuộc sống và số phận của quý vị chắc chắn sẽ không hạnh phúc.

Vì vậy, học Phật học càng về sau, đừng quá khắt khe với người khác và đừng phàn nàn khi có chuyện xảy ra.

Sau khi học Phật, phải biết kiềm chế cảm xúc và tâm thái của mình, nếu biết hôm nay tâm trạng không tốt, phải học cách kiềm chế nó thì mới có được sự yên bình của nội tâm.

Ở thế gian này, thường nghe người khác nói: "Đạo Phật dạy rằng nhân sinh là vô thường và không có gì tồn tại mãi mãi."

Khi quý vị nghe "Nhân sinh là vô thường", và nghĩ: "Ai da, điều này thật nhàm chán", và một tí ti hoang vắng thường thoáng qua trong lòng, "Không có gì tồn tại lâu dài, thật khó chịu làm sao."

Cảm thấy rằng mọi thứ trên thế gian này cuối cùng sẽ trở nên tồi tệ, rằng mọi nỗ lực đều vô nghĩa, rằng những nỗ lực cuối cùng sẽ thay đổi, rằng sẽ không có gì sau khi chết, và rằng sinh mệnh không có giá trị nữa.

Họ sẽ đau khổ, thế là không có trọng điểm hay trọng tâm nào trong tâm trí - rốt cuộc là bản thân cần làm gì, rốt cuộc là cần làm gì trên thế gian này, và ngày tháng cứ như thế trôi qua, ngày này qua ngày khác, không có mục đích.

Một số người nghe Phật giáo nói về vô thường lại ôm giữ một tâm thái khác: vì mọi thứ đều vô thường và không tồn tại lâu dài nên mình nên nhanh chóng hưởng thụ, tận hưởng thời gian, ngày ngày tửu sắc tài khí, tham sân si, sống trong tài sắc danh thực thùy.

Trong ngũ dục, dùng niềm vui giả tạo đó để làm bản thân mê hoặc, làm lấp đầy sự trống trải và bất an trong lòng.

Tuy nhiên, khi niềm vui qua đi, nó lại mang đến cho bản thân nhiều nỗi đau, sự trống trải, cô đơn và bất an, giống như khi một người gặp phiền não họ uống một chút rượu, người đó có thể tạm thời giải tỏa được phiền muộn, nhưng sau một thời gian họ sẽ lại gặp phải phiền não.

Cho nên Sư phụ muốn mọi người hiểu rằng nếu quý vị là phàm nhân không học Phật thì sẽ hiểu thế giới vô thường một cách phiến diện - cho rằng "chán lắm, dẫu sao cũng vô thường", nên nhiều người hiểu sai về vô thường.

Vô thường là chân tướng của cuộc sống.

Quý vị hiểu được mọi thứ trên đời này đều là vô thường.

Tuy nhiên, nếu quý vị không nhận thức đúng về vô thường thì quý vị sẽ không có niềm hy vọng đúng đắn về cuộc sống.

Trong tâm quý vị và trong sự tiếp xúc thực tế với người khác, sử dụng chủ nghĩa duy tâm gây ra nhiều mâu thuẫn với người khác.

Lấy một ví dụ đơn giản, khi người khác nói "Tôi phải chăm chỉ", thì người này sẽ nói "chăm chỉ để làm gì?

Là vô thường và sẽ không còn tồn tại trong tương lai".

Trên thực tế, loại chướng ngại này tạo ra vô số phiền não trong lòng mỗi người, thế nên hiện thực và lý tưởng sẽ khác nhau và dần dần sẽ bắt đầu suy nghĩ: "Tại sao sinh ra tôi, lại khiến tôi phải đau khổ đến thế?", nhiều đứa con thường có suy nghĩ: "Tại sao cha mẹ sinh ra tôi để tôi phải chịu khổ?

Sẽ không có sự hiểu biết bình thường về cuộc sống và họ sẽ không hiểu được đâu là khởi đầu của một cuộc sống trọn vẹn.-------------------------☘️ Trong kinh Đại Bát Niết Bàn đức Phật nói đến Nhị thập ngũ hữu tức là 25 cõi trong tam giới.Tứ vức, tứ ác thú,Lục dục, tin phạm thiên,Tứ thiền, tứ vô sắc,Vô tưởng, cập bất quờn.1- Tứ vức cõi gồm có: - Đông thắng thần châu, - Tây ngưu hóa châu, - Nam thiện bộ châu, - Bắc câu lâu châu.2- Tứ ác thú cõi gồm có: - Địa ngục, - Ngạ quỷ,- Súc sanh, - A tu la.3- Lục dục cõi gồm có: - Tứ thiên vương thiên, - Đao lợi thiên, - Da ma thiên, - Đâu xuất đà thiên, - Hóa lạc thiên, - Tha hóa tự tại thiên.4- Trời Phạm thiên cõi.5- Tứ thiền cõi gồm có: - Sơ thiền, - Nhị thiền, - Tam thiền, - Tứ thiền.6- Tứ vô sắc cõi gồm có: - Không vô biên xứ, - Thức vô biên xứ, - Vô sở hữu xứ, - Phi tưởng phi phi tưởng xứ.7- Vô tưởng cõi (trời vô tưởng): Là tu thiền định thấy mình không còn gì nữa, không còn tư tưởng, tất cả rỗng không (diệt tận định).8- Cập bất quờn cõi: 5 lối tu thiền định để không còn vô minh (nếu tu đúng thì từ đây được quả nhập lưu).
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 46 QUÁN PHÁP VÔ NGÃ, THƯỜNG HẰNG BẤT BIẾN 18/4/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 46🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".---------------Tập 46

QUÁN PHÁP VÔ NGÃ, THƯỜNG HẰNG BẤT BIẾN

18/4/2020Sư phụ muốn nói với mọi người rằng giữa vô thường có một dòng sinh mệnh thường hằng bất biến, chúng ta cần tìm ra dòng sinh mệnh thường hằng bất biến của mỗi người.

Khi chúng ta ở thế gian này dù mọi thứ sẽ thay đổi, nhưng điều thay đổi đó chính là một loại vật chất và tư duy của chúng ta.

Nếu có thể tìm thấy tâm niệm của mình và tìm thấy được Phật tánh của thức thứ chín, như quý vị đã biết sinh, trụ, dị, diệt.

Con người có sinh, lão, bệnh, tử.

Thế giới có thành, trụ, hoại, không, và hết thảy vạn vật trên thế gian được tạo ra bởi sự kết hợp của các mối nhân duyên với nhau, quý vị sẽ rõ một khi ý niệm này đã được định hình thì nó cũng sẽ thay đổi, bởi vì các mối nhân duyên đang thay đổi.

Giống như nếu trước đây quý vị rất ghét ai đó mà người đó vẫn đối xử tốt với quý vị, thì thời gian lâu dần, quý vị sẽ thay đổi quan điểm của mình.Chúng ta ở nhân gian rất khổ, tại sao có người lại tìm thấy được niềm vui trong đau khổ?

Có người đặt hy vọng lớn vào một số hành chính sự nghiệp với kỳ vọng cao, rồi cuối cùng lại thất vọng, nhưng họ không thực sự thất vọng vì họ đã tìm thấy chân lý thường hằng bất biến trong trái tim mình.

Họ biết thế gian này là do nhân duyên tạo thành, chỉ cần nỗ lực và đợi đến khi nhân duyên hội tụ, thì nhất định sẽ thành công.

Đây là lý do tại sao có nhiều nhà khoa học, giống như hai anh em người Mỹ chế tạo máy bay, sau vô số thất bại mới tạo nên thành công của họ.

Ở nhân gian, sau vô số vấp ngã, chúng ta mới có thể đứng dậy và dũng cảm tiến về phía trước, chỉ sau vô số phiền não, chúng ta mới có thể xây dựng được cái thân kim cang bất hoại của mình.Khi học Phật, môi trường xung quanh đang thay đổi, nhưng cái tâm học Phật của quý vị thì không thể thay đổi.

Chúng ta có thể lựa chọn trốn chạy và buông lung khi gặp phiền não, nhưng chúng ta phải hiểu rằng những điều này không thể giải quyết được vấn đề, đây không phải là bản chất con người của chúng ta, cũng không phải là lý niệm mà trí tuệ con người chúng ta nên có.

Chúng ta nhất định phải tích cực trong cõi vô thường đầy sự biến hoá huyền ảo này, chúng ta mượn đạo lý của vô thường để vận dụng Nhân Duyên Pháp và tích cực tạo dựng cũng như thiết lập nên Duyên Khởi của cái thiện (sự thiện lương).Lấy một ví dụ đơn giản, nếu cho quý vị ba ngày để làm một việc gì đó, quý vị sẽ biết rằng sau ba ngày việc đó sẽ không phải mình làm nữa, nếu quý vị nắm bắt thời gian trong ba ngày này, có niềm tin và dành ba ngày này phát huy hết tác dụng, có nghĩa quý vị đã nắm bắt được nhân duyên trong ba ngày này, người khác sẽ khen ngợi quý vị và sẽ không nói quý vị đã không nắm bắt thời gian và không làm những việc quý vị nên làm, đây chính là chúng ta nắm bắt từng chút một thời gian của cuộc đời mình.

Ví dụ như hôm nay quý vị thật không dễ dàng để có được một ngày nghỉ,

thời gian của ngày nghỉ này, ngủ thì cũng ngủ hết rồi, bình thường mỗi ngày đi làm rất khổ cực, rốt cuộc cuối cùng cũng có được một ngày ở nhà lau chùi dọn dẹp.

Nếu quý vị dậy từ sáng sớm và dọn dẹp đến tối, dù rất mệt nhưng quý vị có thể dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, lúc này, cảm giác hạnh phúc của quý vị bắt đầu có rồi, vì quý vị đã hoàn thành được điều mình mong muốn và vì quý vị đã dùng sự vô thường và đã kết thúc sự việc này trong vô thường.Cuộc đời của những người học Phật chúng ta cũng rất vô thường, nhưng chúng ta dùng cuộc đời vô thường ngắn ngủi này để cứu độ chúng sinh và giúp đỡ tha nhân khắp nơi, chúng ta tự tạo công đức cho mình và học cách chạy đua với vô thường trong vô thường, khi chúng ta thay đổi người khác, thì chúng ta cũng đang thay đổi chính mình và chúng ta đã tạo ra vô số kì tích để giúp đỡ chúng sinh trong kiếp sống ngắn ngủi của họ.

Đây là điều mà Phật pháp đòi hỏi chúng ta phải hiểu, làm thế nào để sử dụng cuộc đời hữu hạn của mình để cống hiến không giới hạn vì chúng sinh và cứu độ tất cả chúng sinh, nhằm hoàn thành việc thay đổi vận mệnh của chính mình.Vì vậy, trong kiếp sống ngắn ngủi của chúng ta, đừng để người khác mắng mình là người ích kỷ, là người đố kỵ hay người rất bẩn thỉu.

Trong kiếp sống ngắn ngủi này, chúng ta phải làm những việc thiện, tránh làm những việc ác, tự lợi lợi tha, phải giúp đỡ người, và phải giác ngộ hữu tình, nói cách khác là phải làm cho người khác hiểu được, khơi dậy được tình cảm của người khác, khơi dậy thiện căn của tất cả chúng sinh, khiến cho nhiều người có tấm lòng nhân hậu, nói những lời thiện lương, khơi dậy trí tuệ lương thiện, thì sẽ giúp được họ thoát khỏi đau khổ, phù phiếm và phiền não.

Một người hằng ngày sống một cuộc sống viên mãn trên thế gian, học cách giúp đỡ người khác và cứu độ chúng sinh, người đó không sống trong ảo tưởng mỗi ngày mà sống trên con đường Phật pháp, thực thực tại tại tìm kiếm tương lai của chính mình.

Đây chính là "Đạo" của Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

Chúng ta cần tìm ra nó và phải hiểu được con đường Phật giáo chân chính của đạo Phật, bởi vì đạo Phật cho chúng ta hiểu rằng có một trái tim Phật sống mãi trong lòng chúng ta, thì đó mới chính là bản chất và lương tâm chân thật của chúng ta.Nhiều người học Phật nói rằng chúng ta đang chạy đua với vô thường vì sinh mệnh của chúng ta có hạn, nhưng chúng ta phải làm nhiều việc thiện và giúp đỡ nhiều người trong sinh mệnh hữu hạn này, và chúng ta không thể nhìn nhận vô thường một cách khác biệt được nữa.

Nếu không hiểu được vô thường, có thể sẽ mất phương hướng.

Cũng giống như đi máy bay, khi thông báo cho quý vị biết phải mất bao nhiêu giờ mới đến nơi, thì quý vị sẽ sắp xếp ổn thoả bốn giờ đồng hồ này của mình, và bốn tiếng sẽ trôi qua trong chốc lát; nếu không thông báo cho quý vị biết là bao nhiêu giờ và chỉ nói với quý vị là thời gian rất ngắn, thì khi đó quý vị sẽ bồn chồn, sẽ thắc mắc tại sao vẫn chưa đến, tại sao vẫn chưa đến.

Trong cuộc sống của chúng ta cũng vậy, nhiều người sống trên đời này thắc mắc tại sao thời gian trôi qua chậm quá nên họ mới chơi mạt chược và làm những việc nhàm chán đó khiến họ lãng phí cuộc đời mình.

Khi quý vị biết rằng cuộc sống là quý giá và thời gian là quý báu, thì quý vị sẽ ra sức ôm lấy hy vọng và dũng cảm tiến về phía trước, thay vì nghĩ rằng cuộc đời sẽ chẳng có gì khi sinh mệnh kết thúc và từ đó sẽ trở nên suy đồi.

Chúng ta biết rằng tất cả những công đức chúng ta đã và đang làm hôm nay, sẽ giúp nhiều người hơn nữa lìa khổ được vui và sẽ giúp cho bản thân chúng ta bước đi trên con đường của Phật sau khi chúng ta rời khỏi thế giới này, bởi vì chúng ta có ánh sáng trong tâm và biết mình nên đi về đâu.

Cuộc sống tươi sáng thực tế của chúng ta mang lại cho chúng ta một tâm thái tích cực trong xã hội, đồng thời cũng tạo ra một thế giới tương lai hoàn hảo sâu thẳm trong trái tim mình.Kinh Phật nói rằng, kẻ ngu trở nên mất tinh thần giữa vô thường, tức là người ngu si trong cuộc đời vô thường, mỗi ngày như đang chết dần chết mòn, lười biếng và nhàn rỗi, sống không có mục tiêu, chỉ biết sống qua ngày.

Người trí dù trong vô thường vẫn có thể vận dụng vô thường để thay đổi hoàn cảnh khó khăn trước mắt.

Lấy một ví dụ đơn giản, hôm nay gặp phiền não hay khó khăn, nếu quý vị nghĩ: "Điều này là vô thường, mình có thể thay đổi nó, thời gian có thể thay đổi nó, tụng kinh có thể thay đổi nó", thì quý vị sẽ tạo ra một điều kỳ diệu khác của cuộc sống, chỉ bằng cách này quý vị mới có thể tạo ra nguồn sống tốt hơn.Hiểu được sự thay đổi của vô thường, quý vị sẽ quán tâm phản chiếu, sẽ có được từ bi tâm và lương tâm.

Khi một người đang lo lắng, họ sẽ nghĩ: "Tại sao tôi phải lo lắng?

Tôi vẫn chưa hài lòng sao?

Tôi cần phải hiểu rằng, tôi tốt hơn những người khác rất nhiều.

Khi hôm nay mắt tôi vẫn có thể nhìn thấy được, tôi cần phải biết rằng, trên thế giới có hàng chục triệu người mù; hôm nay tôi còn có thể nói được, tôi cần phải cảm nhận được trên thế giới này có bao nhiêu người câm điếc; khi tôi vẫn còn có thể đi được, tôi cần phải nghĩ rằng biết bao nhiêu người đã mất cả hai chân hoặc mất mạng do tai nạn ô tô."

Đây là lý niệm của quý vị, được gọi là quán tâm phản chiếu.

Hãy suy nghĩ xem, chúng ta chưa đền đáp được ơn đức của cha mẹ đã ban cho, vậy tại sao chúng ta vẫn còn ghét thế gian, bản thân chúng ta chưa mang lại nhiều công đức và đóng góp cho xã hội, vậy tại sao chúng ta vẫn phàn nàn về thế giới và xã hội này?

Thế nên phải quán chiếu suy nghĩ này của mình, đừng sinh khởi những suy nghĩ ô uế mà hãy dập tắt đi những lý niệm ô uế đó.

Hãy luôn sống đúng với trái tim mình và thấu hiểu thế giới này.

Dù có làm gì đi nữa, nó vẫn bất sinh bất diệt.

Bởi vì chúng ta có một trái tim vĩnh cửu và một trái tim luôn giúp đỡ người khác.

Chúng ta không có một trái tim làm hại người khác.

Trái tim tích cực này sẽ thường trụ tại thế.

Chỉ bằng cách tiến về phía trước theo trái tim này, chúng ta mới thực sự làm chủ được trái tim mình và tạo ra một tương lai tốt đẹp hơn.Sư phụ nói với mọi người rằng mọi thứ trên thế giới đều là hư vọng, đều là giả.

Quý vị thấy đấy, người không tranh cãi người khác là người có trí tuệ, người không làm ầm ĩ với người khác là người có Bát nhã.

Một người có thể hiểu được điều này bởi vì người đó hiểu 《Kinh Kim Cang》 nói: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng", tức là từ ngày sinh mệnh bắt đầu cho đến ngày ra đi, mọi tướng mà quý vị nhìn thấy đều là hư huyễn.

Bởi vì chúng ta không thể mang nó đi được, thân xác của chúng ta cũng vậy.

Nghĩ mà xem, từ khi còn nhỏ chúng ta đã có bao nhiêu ý nghĩ, có rồi, diệt độ, có rồi, diệt độ...

Lúc thì nghĩ về điều này, lúc thì nghĩ về điều kia, nghĩ không có được gây chuyện, nghĩ có được rồi còn muốn nhiều hơn.

Vì vậy những suy nghĩ này của chúng ta đang trong quá trình sinh diệt.

Nếu quý vị thật sự hiểu được nó là hư huyễn thì quý vị mới có thể hiểu được một câu trong 《Kinh Kim Cang》 - "Nhất thiết hữu vi pháp.

Như mộng, huyễn, bào, ảnh.

Như lộ diệc như điện."

Tức là tất cả những gì bản thân cho rằng cần phải làm hôm nay thì giống như điện vậy, đi qua rồi, cũng giống như sương, khi được mặt trời chiếu sáng sẽ biến mất; quý vị nên coi nó như thị quán, nó là rất bình thường, nó không ảnh hưởng gì đến quý vị, nó là hư ảo, mọi thứ đều chỉ là ảo ảnh mà thôi.Ở nhân gian, chúng ta phải học nhận biết tình yêu chân thật, đó là một loại tình yêu vĩ đại, là một loại trí tuệ tạo ra điều tốt đẹp nhất cho người khác, biết nghĩ đến người khác, là loại tình yêu vĩ đại vượt trên cả tình yêu người phàm trần để giúp đỡ người khác.

Chúng ta không nên theo đuổi nữa, chúng ta đã tốn rất nhiều thời gian trong quá khứ, và những cái kết từng khiến trái tim chúng ta tan vỡ đã là những thăng trầm trong lòng bấy lâu nay, làm tổn thương linh hồn của chúng ta.

Vì vậy, trong cuộc sống, con người không thể bám víu vào mọi thứ vật chất, danh lợi thế gian, bởi vì những danh tiếng này sẽ không còn, lợi ích cũng mất đi nên quý vị sẽ không bị danh lợi vật chất chi phối.

Sư phụ từng nói với mọi người rằng khi quý vị thích một thứ gì đó, quý vị sẽ bị thứ mình thích điều khiển: quý vị thích một đứa con thì quý vị sẽ bị đứa trẻ này điều khiển; quý vị thích một ngôi nhà thì quý vị sẽ bị ngôi nhà này điều khiển, bởi vì quý vị muốn mua căn nhà này, nên để có được lợi ích này, quý vị đã bạt mạng làm ba, bốn, năm công việc để rồi tự làm tổn thương lấy chính mình.

Bởi vì con người vốn cố chấp, vì vậy đừng bị khống chế bởi những danh lợi đó.Chúng ta không thể theo đuổi những thứ cảm quan đó trên thế gian - là những thứ mà quý vị cảm thấy rất tốt và cho là tốt, một khi chúng bị mất đi, tiếp theo đó quý vị sẽ trở nên không vui vẻ và không hạnh phúc, bởi vì tất cả đều sẽ mất đi.

Sư Phụ đưa ra một ví dụ đơn giản: một sinh viên quốc tế đã làm việc bán thời gian trong nhiều năm, tiết kiệm tiền và ăn mì gói mỗi ngày chỉ để mua một chiếc xe mới tốt.

Khi mua chiếc xe mới này, anh ấy đã nhìn nó hàng ngày và đánh bóng nó hàng ngày.

Anh ấy rất thích nó.

Đề nghị anh ấy mua bảo hiểm nhưng anh miễn cưỡng vì không có tiền.

Một tháng rưỡi sau, chiếc xe mới bị đánh cắp.

Đây là mộng huyễn bào ảnh và thứ mà cậu ta nhận được chỉ là hư ảo.

Đây chính là điều mà Sư phụ đang nói với mọi người, con người không thể theo đuổi những thú vui nhục dục đó.Con người có một nỗi đau, là quan tâm quá nhiều đến cảm giác và cảm xúc của chính mình.

Chúng ta không được nghĩ rằng chúng ta đau khổ chỉ vì chúng ta đang trong hoàn cảnh khốn cùng, vì có nhiều người còn đau khổ hơn mình.

Đừng nghĩ rằng quý vị là người vô tội nhất trên thế gian.

Thực ra, có nhiều người vô tội hơn quý vị.

Phật giáo dạy chúng ta rằng mọi thứ đều là hư ảo.

Hôm nay quý vị có thể giàu có, thì cũng có thể bị phá sản, hôm nay quý vị có sức khỏe tốt, các cơ quan nội tạng như tim, gan và mọi thứ khác đều ở tình trạng tốt.

Quý vị cảm thấy không có vấn đề gì đúng không?

Cuối cùng, một ngày nọ, bị một chiếc xe cán qua người rồi tử vong.

Tất cả điều này giống như mộng huyễn bào ảnh.

Vì thế sư phụ nói cho mọi người biết "Nhân sinh như mộng tùy phong tản, tụ tản hỷ ưu giai thị duyên" (cuộc đời như giấc mộng tan theo gió, vui buồn tụ hội đều do duyên phận gây ra).

Hoan hỷ và chia ly là một loại duyên phận, người hiểu được duyên phận sẽ dần dần hiểu được cách thay đổi bản thân.

Vì vậy, Sư Phụ hy vọng rằng quý vị sẽ hiểu được ý nghĩa thực sự của việc học Phật ở khía cạnh này.Tiếp theo Thầy sẽ nói với mọi người về việc "khả năng phân biệt thiện", nghĩa là người này có khả năng phân biệt được điều tốt và điều xấu, điều gì có thể làm và điều gì không thể làm, có thể phân biệt đây là điều tốt hay điều xấu, điều này nói lên rằng người này vẫn đang còn trong tâm trí phân biệt.

Để thực sự học Phật, người ta phải như như bất động và phải học cách quên đi.

Hôm nay quý vị nói: "Tôi biết đây là việc tốt và tôi muốn làm", nhưng quý vị vẫn có tướng và vẫn còn phân biệt, không phải là không có phân biệt.

Đức Phật có năng lực phân biệt các pháp tướng, nhưng phàm phu lại càng theo đuổi các pháp tướng khác nhau đó, nói cách khác, Bồ Tát biết điều này là tốt hay xấu, nhưng có một số người không biết, họ truy tìm và nghiên cứu xem nó là tốt hay xấu và bám chấp lấy nó, khi đó họ sẽ rơi vào ác niệm thay vì thiện niệm, bởi vì mãi đuổi theo khiến tâm người đó trở nên hoặc là tốt hoặc là xấu.

Trong vấn đề này, khi quý vị hiểu rõ chân tướng và nói "đây là điều tốt" hay "đây là điều xấu", thực tế là quý vị sẽ rơi vào hoặc là thiện, hoặc là ác, hoặc là rơi vào trạng thái vô kí niệm không thiện cũng không ác.

Vô kí niệm là điều mà kinh Phật nói đến, "vô" có nghĩa là không có, "kí" có nghĩa là "kí" của kí lục(ghi chép), và "niệm" có nghĩa là niệm đầu(suy nghĩ).

Bởi vì chỉ cần quý vị dính líu vào trong việc này, nhất định sẽ có ba loại kết quả này, hoặc rơi vào ác, hoặc rơi vào thiện, hoặc trở thành không thiện không ác.Chỉ những người đã thành Phật và chỉ những người có cảnh giới mới có thể phân biệt rõ ràng hết thảy các pháp tướng.

Trong kinh nói là ý nghĩa gì?

Khi ai đó nói với quý vị rằng hai vợ chồng này đang cãi nhau, người bình thường sẽ nói: "Để tôi hỏi thăm xem sao" và cuối cùng, "Ồ, là do người chồng không tốt".

Hoặc là có người điều tra ra và nói: "Ồ, là vợ anh không tốt."; Hoặc người này nói: "Khi hai người cãi nhau thì cả hai đều không tốt".

Vậy thì có phải quý vị đã bị rơi vào trong tình trạng có tướng không?

Nếu quý vị ở cảnh giới cao hơn, là Phật, là Bồ Tát, là người đã khai ngộ chứng đạo hoặc người đã thành Phật, nếu hôm nay họ nhìn thấy hai vợ chồng cãi nhau, họ sẽ mỉm cười, bởi vì sau khi cãi nhau rồi thì sẽ không còn nữa.

Đây là duyên phận của họ, bởi vì họ đã nhìn ra chân đế - hễ có chia ly thì sẽ có sum họp, và hễ có sum họp thì sẽ có chia ly.

Sự tranh cãi hôm nay sẽ dẫn đến sự hòa giải của ngày mai, và sự hòa giải hôm nay sẽ dẫn đến sự tranh cãi của ngày mai, đây chính là duyên, đây chính là quả.

Thế nên không cố thuyết phục họ, sẽ không bị dính mắc vào và nói "Anh là người tốt", cũng không dính mắc vào và nói "Anh là người xấu", không nói người chồng tốt, cũng không nói người vợ tốt, và cũng không nói chuyện này tất cả mọi người đều không tốt, bởi vì không rơi vào nhân quả.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 47 NẾU CÓ THỂ BỐ THÍ TÂM MỚI CÓ THỂ HÀNH THÂM TRÍ TUỆ 18/4/2020


⭐ BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP ⭐ TẬP 47🌈Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm

🔹Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày

🔹Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí

🔹Khởi dậy Phật tính của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta

☘️Mời quý vị đón đọc Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư 🙏Lời cầu nguyện trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp: "Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường.

Cảm tạ Bồ Tát".---------------Tập 47

NẾU CÓ THỂ BỐ THÍ TÂM

MỚI CÓ THỂ HÀNH THÂM TRÍ TUỆ

18/4/2020Kinh Phật là kiệt tác như thế đó.

Một người đã chứng ngộ thành đạo có khả năng khéo phân biệt mọi pháp tướng.

Tuy trong lòng họ biết, chuyện này đã có cãi vã, dù tốt hay xấu, thì họ cũng có ý niệm này, dù họ có nghĩ đến nhưng không bị dính mắc vào nó, nghĩa là tuy có ý tưởng này nhưng họ vẫn chưa bước vào trong giai đoạn hình tướng bị dính mắc, nên được cho là tánh “Không”.

Sư phụ đã giảng cho mọi người trong mấy tập trước về Tánh Không - Vô tướng - Vô tác.

Khi tâm của quý vị đã trống rỗng và biết được mọi thứ đều là nhân duyên, thì quý vị sẽ không tham gia vào những cuộc cãi vã ở nhà người khác, quý vị sẽ trống rỗng.

Nếu quý vị đã trống rỗng thì có phải là Vô tướng không?

Quý vị nghĩ người vợ tốt hay người chồng của người ta tốt hơn?

Vô tướng, thì sẽ không chấp vào tướng nữa, không vì mình là bạn của chị vợ mà nói người vợ tốt hay vì mình là bạn của anh chồng mà nói người chồng tốt.

Nếu không chấp trước vào hình tướng thì tiếp theo đó sẽ không có hành động tạo tác và sẽ không nói xấu người khác, cũng sẽ không đi khuyên ngăn, chỉ có thể mỉm cười, đây là đạo lý mà quý vị hiểu rất rõ, và đó chính là “Tam Giải Thoát Môn” được nhắc đến trong kinh Phật.Nếu người khéo phân biệt sẽ biết dùng sự phân biệt như như bất động tốt đẹp này, vì bổn tánh của bản thân hiện tại là trống rỗng, nên sẽ không còn dính mắc vào mọi thứ trên thế gian, đây là nghĩa thứ nhất, chính là nghĩa đế thứ nhất của Phật học, tức là: Chân đế.

Chân đế chính là “Tam Giải Thoát Môn” mà chúng ta nói đến, vì bản thân nó là trống rỗng, nên nó Vô tướng và Vô sinh.

Trong “Tâm Kinh” chính là nói về Vô sinh và Vô tướng, vậy nên chân đế của Phật học hoàn toàn không phải là hình thức hay hình tướng của người tu đạo, tức là không phải là thể hiện hình thức của Đạo Phật, mà là thể hiện trí tuệ của nội tâm chân chính.

Theo những lý giải của triết học hiện đại, người học Phật thường nói về bản thể là gì, thực ra bản thể là chân đế, chính là điều mà trong lòng quý vị nghĩ rằng rốt cuộc sự việc này đang xảy ra chuyện gì, là chân đế trong bổn tánh của quý vị và là chân đế không ai có thể thay đổi được, chân lý chính là như thế.

Trước đây thường hay có câu: Nói 18 câu đạo lý chỉ có 1 câu là chân lý (nói nhiều điều hay nhưng chỉ có 1 câu là thật) chính là đạo lý này.

Bời vì trong lòng quý vị đã rõ ràng hiện hữu một chân lý chân thật không hư vọng rồi, cho nên “nếu người khéo phân biệt, đệ nhất nghĩa bất động".

Nếu quý vị có thể phân biệt và giải thích rõ ràng mọi pháp tướng (tất cả hiện tượng) trên thế gian ngày nay thì đây chính là “đệ nhất nghĩa bất động” trong tâm quý vị, nghĩa là quý vị có bổn tánh như như bất động, quý vị biết được chân đế nên sẽ không thay đổi dù thế nào đi nữa, chính là ý đế đầu tiên.Cảnh giới tâm ý thức của phàm phu thay đổi theo hoàn cảnh bên ngoài, người khác nói người này tốt, quý vị cũng nói người này tốt, người khác nói người này xấu, quý vị cũng có thể nói họ xấu, nhưng người có trí tuệ họ có tâm thanh tịnh và sau khi tâm thanh tịnh lại được thì mới có thể đạt tới tất cả các trạng thái Thiền, nghĩa là "tâm tịnh dĩ độ chư Thiền”.

Khi tâm quý vị hiểu được chân đế thì sẽ có Thiền định trong tâm quý vị, và tất cả thiền định sẽ hiện ra.

Vì vậy, “Dĩ vu chư pháp đắc tự tại” (Đã đạt được tự tại trong mọi pháp), với tất cả pháp tướng trong thế gian, nếu quý vị có thể nhìn thấu, nhìn rõ tất cả các tướng và có thể giác ngộ, tất nhiên quý vị sẽ cảm thấy vô cùng tự tại.

Ví dụ như hai người cãi nhau đã lâu, quý vị mỉm cười cho rằng đây là nhân quả, ngày mai họ sẽ ổn.

Vài ngày sau quý vị đến gặp lại, đảm bảo họ sẽ rất tốt với nhau.

Khi quý vị biết được nghĩa đế này, thì làm sao lại bị vướng vào cuộc mâu thuẫn này?“Có khả năng khéo phân biệt mọi pháp tướng” có nghĩa là hành vi và hành động tạo tác của quý vị “đệ nhất nghĩa bất động” (dù là câu mang ý nghĩa đệ nhất cũng không động lòng).

Tại sao đạo Phật dạy chúng ta phải như như bất động?

Đừng thay đổi quan điểm của mình vì những gì người khác nói; đừng thay đổi ý định ban đầu của mình vì những gì người khác đang làm; đừng để trái tim mình thăng trầm vì những gì người khác đang nghĩ.

Đây là lời Sư Phụ nói với mọi người, có khả năng quý vị nghe được người khác nói gì về mình, nên nghĩ “Tôi phải kiềm chế”, điều này là đúng.

Nếu quý vị nói người khác đang làm điều gì thì có nghĩa là quý vị đã thấy và đã nghe, đây là một sự thật.

Nhưng những gì người khác đang nghĩ, quý vị cho rằng: "Tôi không nhìn thấy, cũng không nghe thấy, tôi cũng không thấy anh ấy có hành động gì và cũng không nghe thấy anh ấy nói gì, nhưng tại sao tôi lại tức giận và khó chịu đến như vậy?".

Vì suy nghĩ của người khác sẽ ảnh hưởng đến quý vị, trong cách thể hiện nội tâm rất tinh tế của cuộc sống, họ sẽ dùng những biểu hiện và hành vi tế nhị để khiến quý vị cảm thấy họ ghen tị, căm ghét hoặc khen ngợi quý vị.

Đây là ngôn ngữ cơ thể trong tâm lý học (body language).

Vì vậy, giữa người và người với nhau “Tâm hữu linh tê nhất điểm thông” (trong lòng có điểm sừng tê để cảm thông) “Linh tê” này thực chất ám chỉ ý thức thứ sáu của chúng ta.

Mắt, tai, mũi, lưỡi và thân là năm loại ý thức, là ý thức đơn nhất, còn ý thức thứ sáu là ý thức toàn diện.

Cảm xúc của quý vị, ngay khi tiếp xúc với người này, quý vị sẽ biết người này có thiện ý hay ác ý.

Đối phương chưa nói lời nào nhưng quý vị biết hôm nay người đó không phải là người tử tế, đây chính là “linh tê” của con người và là giác quan thứ sáu.Sau khi hiểu được điều này, chúng ta phải như như bất động trong thế gian này, chúng ta hiểu rằng mọi thứ trên thế gian này tất cả đều là hư ảo.

Chỉ khi tìm được cảnh giới của Phật, thì chúng ta mới có thể tự tại mà không bị chấp trước, và chúng ta mới có thể biết rằng tất cả những điều này sẽ trôi qua.

Cho dù hôm nay khó khăn có lớn đến đâu, ngày mai vẫn sẽ là một ngày tươi đẹp; cho dù những phiền não hôm nay có lớn đến đâu, chúng cũng sẽ qua đi vào ngày mai, bởi vì chúng là vô thường.

Điều này là để dùng sự vô thường của năng lượng tích cực để lý giải cuộc sống của quý vị, thay vì hằng ngày chỉ dần dà cho qua ngày tháng và nghĩ “dù sao thì nó cũng vô thường, tôi không quan tâm”.

Cho nên “đây là pháp khể thủ”, có nghĩa là người nào hiểu được Tứ Diệu Đế đều phải cúi đầu đúng mực.

Chúng ta nói "Khể thủ quy y tô tất đế", khể thủ có nghĩa là khấu đầu.

Trong “Tâm Kinh” nói về việc “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, ngũ uẩn chính là sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

Làm thế nào chúng ta có thể soi sáng được tánh Không của ý thức mình?

Là chúng ta phải có sức mạnh của Bát nhã, sức mạnh của Bát nhã chính là trí tuệ.Cuối cùng, Sư phụ muốn kể cho đại chúng nghe một câu chuyện.

Một việc thiện có thể hóa giải trăm tai họa trên thế gian, vì vậy đừng nghĩ rằng làm một việc tốt nhỏ là không có công đức gì.Trong kinh điển Tây Tạng, có một người Ấn Độ hái một bông hoa trong vườn hoa bên đường, ông chưa bao giờ thấy một bông hoa nào đẹp đến thế, bông hoa có màu vàng kim và rất trang nghiêm, ông muốn cắm nó lên đầu trước để làm trang nghiêm cho chính mình.

Sau đó ông nghĩ: “Cái đầu của tôi là vô thường,” và rồi ông lại nghĩ: “Nếu tôi chết, cái đầu này sẽ bị chó, cáo, hoặc các loài động vật khác ăn thịt.

Uhm, tôi không đáng để cắm bông hoa này lên đầu.”

Thế là ông ta không cắm bông hoa lên đầu mình nữa.Ông ấy nâng niu bông hoa đẹp như thế trên tay và bước vào chùa, khi nhìn thấy tượng Phật Thích Ca Mâu Ni rất trang nghiêm, ông liền niệm Phật: “Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật…”

Vì công đức niệm Phật, mà thân thể ông bỗng nhiên nóng bừng, các lỗ chân lông đều mở ra, nóng vô cùng và rất dễ chịu. (Giống như những người học Phật chúng ta bây giờ tụng kinh, nếu tụng tốt thì sẽ cảm thấy ấm áp khắp người.) Khi vừa dâng hoa, ông vừa nghĩ: “Đức Phật là đại từ đại bi, đức Phật rất có trí tuệ, đức Phật là đấng có đầy đủ hai điều Phước Huệ.” (Vừa có Phước và vừa có trí tuệ), nếu tôi cúng dường hoa với tấm lòng như vậy, Đức Phật chắc chắn sẽ gia trì cho tôi.”

Cúng dường xong, ông đặt bông hoa trước mặt Đức Phật và nói: “Con cúng dường bông hoa đó thì có được bao nhiêu công đức?”

Trong lòng ông so đo công đức của việc cúng dường bông hoa.

Không biết mình có được bao nhiêu công đức nên đã tìm một vị Tỳ kheo và hỏi: “Thưa đại đức, vừa rồi con với tâm trạng như vầy: mọi lỗ chân lông trên cơ thể của con lập tức phản ứng với sức nóng, khi con dâng một bông hoa như vậy cúng dường lên Đức Phật, Ngài xem thử công đức lớn đến mức nào ạ?”.

Vị Tỳ kheo này nói: “Tôi mới xuất gia và thọ giới cách đây không lâu, tôi chỉ biết nỗi đau khi rời khỏi thế gian, ngoài ra tôi không biết gì khác.

Và tôi cũng không có đạo đức gì, cũng chưa bao giờ đọc bất kỳ kinh sách nào, cũng không có học hành gì, nếu ông hỏi tôi điều này, tôi không thể trả lời ông, ông đi tìm một vị pháp sư đã từng đọc kinh mà hỏi xem sau khi ông cúng dường bông hoa này sẽ có được bao nhiêu phước đức.

Ông ta lại đi đến gặp một vị pháp sư đang đọc kinh và hỏi: “Thưa sư phụ, con cúng dường bông hoa này thì có công đức gì?”

Vị pháp sư này trả lời ông: “Tôi không biết ông có bao nhiêu công đức khi cúng dường bông hoa này và tôi cũng không có thần thông, tôi chỉ tụng kinh và cầu phước đức cho mình mà thôi.

Kinh nói cúng hoa có công đức, còn cúng hoa này có bao nhiêu công đức thì tôi không biết.

Bên kia có một vị A La Hán đang ngồi thiền, ông hãy đi hỏi xem, vị ấy có thần thông và đã chứng đắc quả vị A-la-hán."

Việc này xảy ra không lâu sau khi Đức Phật nhập niết bàn, có rất nhiều người đắc đạo đã đạt được quả vị A-la-hán.

Vì vậy, người cúng dường hoa bước tới và hỏi vị A-la-hán đã đắc sáu năng lực: “Thưa đại đức, Ngài đã đắc quả vị A-la-hán.

Xin Ngài cho biết tôi sẽ nhận được bao nhiêu lợi ích từ việc cúng hoa?”

Vị A-la-hán này đã nhập định, khi nhập định hồn phách sẽ đi ra ngoài quan sát, sau khi quan sát xong, Ngài nói: “Ta đã thấy ngươi cúng dường bông hoa này.

Sau khi ngươi từ bỏ Báo thân của mình, ngươi sẽ được hưởng phước ở trời, cuộc đời của ngươi kéo dài hàng ngàn tỷ kiếp, đó là một đại kiếp.Từ một đại kiếp đến tám vạn đại kiếp, chỉ vì ngươi cúng bông hoa này mà phước của ngươi vẫn chưa dùng hết, về tương lai thì ta không biết.

“Ông ấy có công đức đấy”. (Thần thông của A-la-hán có thể thấy được tám vạn đại kiếp.

Tại sao ở nhân gian có người chỉ thấy được âm phủ mà không thấy được thiên thượng?

Có người chỉ thấy được ma quỷ mà không thấy được Bồ Tát?

Có người chỉ thấy được Bồ Tát, nhưng không nhất thiết thấy được ma?

Tất cả điều này tùy thuộc vào mức độ công đức tu tâm lớn nhỏ của vị ấy.) Bởi vì thần thông của vị A-la-hán chỉ đạt đến tám vạn đại kiếp, và cao hơn nữa thì họ không biết được.

Dân chúng tụ tập chung vui quanh đó hỏi vị A-la-hán: "Thưa sư phụ, thưa sư phụ, Thầy có thần thông, nếu thầy không trả lời được thì thầy có thể lên trời hỏi Di Lặc Bồ Tát được không?".

Để vị A-la-hán này có thể lên nơi cao hơn nữa hỏi Bồ Tát.Thế là, vị A-la-hán ngồi đó và nhập định, linh hồn và thần thức của ông đi đến Đâu Suất Thiên để cầu hỏi Di Lặc Bồ Tát.

Di Lặc Bồ Tát nói: “Người này chỉ thọ phúc thế (tức là người này chỉ hưởng phước báo của thế gian) khi quả báo thiện chưa tận (tức là vì công đức cúng dường hoa của ông lớn đến mức, đã hưởng phước thế gian đến tận bây giờ mà vẫn còn phước phần và quả báo thiện chưa dùng hết).

Chuyện các ngươi muốn hỏi thì chỉ có Phật và Phật nải năng cứu cánh (tức là chỉ có Phật mới có được kết quả, mới có thể khám phá ra được rốt cuộc có bao nhiêu phước phần khi cúng dường bông hoa này), còn các vị Bồ Tát bổ ngoại đều không thể biết được kết quả (Bổ ngoại có nghĩa là vị trí dự bị, chưa đạt đến vị trí của Phật)."

Ý của Di Lặc Bồ Tát là chỉ có Đức Phật mới có thể biết được điều tối thượng về những sự việc này, và ngay cả các vị Bồ Tát dự bị cũng không thể biết được điều đó, tất cả đều không biết và không thể nhìn thấy được tận cùng.

Di Lặc Bồ Tát mỉm cười và nói: “Đợi khi ta hạ thế và thành Phật rồi ta sẽ nói cho ngươi biết.”

Nghĩa là: “Đợi sau khi ta xuống nhân gian cứu nhân và thành Phật rồi, ta sẽ nói cho ngươi biết.”

Câu chuyện này dạy cho chúng ta rằng, ông chỉ dâng một bông hoa với tâm tình cúng dường Đức Phật, mà ngay cả Di Lặc Bồ Tát cũng không thể diễn tả được phước đức của ông.

Cúng dường một bông hoa sẽ có được công đức như vậy.

Công đức của việc bố thí sẽ giúp quý vị được theo ý muốn, ngày hôm nay sau khi quý vị dâng tặng một bông hoa, thì có nhiều việc sẽ diễn ra suôn sẻ.

Trong mắt chúng ta, vẫn còn quá chú trọng vật chất, ông nói: “Tôi muốn cúng dường hoa, thì tôi có được gì …”

Nhưng trong mắt Bồ Tát, không coi bông hoa này đó là điều quan trọng lắm, vì Bồ Tát nghĩ rằng cúng hoa là chuyện bình thường và vật chất là tùy duyên.Câu chuyện này dạy chúng ta rằng dù có cúng dường gì đi nữa, cũng giống như vị cư sĩ vừa rồi, chúng ta phải cúng dường bằng cả tấm lòng của mình.

Cảm thấy mình chưa đủ xứng đáng, ông muốn dâng bông hoa vàng kim mà ông cho là rất đẹp này lên Đức Phật vĩ đại.

Đó không chỉ là cúng dường bông hoa này mà còn phải có pháp cúng dường, ý nghĩa của pháp cúng dường là dùng tâm để đối xử tử tế với người khác và cúng dường người khác bằng tâm của mình, bởi vì với cách cúng dường này, quý vị sẽ không còn tham lam những phước đức ở thế gian, thậm chí cả trí tuệ cũng không tham nữa.

Nhưng nếu quý vị không tham thì quả báo thiện này có tồn tại không?

Câu chuyện này dạy mọi người rằng chỉ cần không tham thì sẽ có được công đức vô lượng vô biên, phước đức và trí tuệ vô lượng vô biên.

Nếu quý vị cúng dường mọi thứ một cách cẩn thận và tận tâm, chắc chắn sẽ thành tựu được Phật quả, nên không có cách nào để nói ra công đức này.

Dâng một bông hoa nho nhỏ lên cúng dường Đức Phật vĩ đại mà chỉ có Phật và Phật với nhau mới biết được kết quả cuối cùng, hay nói cách khác chỉ có Đức Phật mới biết được việc cúng dường bông hoa này có được bao nhiêu công đức, còn con người chúng ta không thể biết được có bao nhiêu công đức khi cúng dường bông hoa này.Những người học Phật chúng ta, phải biết dùng tâm của mình, làm việc gì phải sâu sắc, phải làm bằng tâm (đó là nội tâm).

Đây chính là “hành thâm” được nhắc tới trong “Tâm Kinh” – hành phải sâu, “Hành thâm Bát nhã ba La mật đa thời”.

Khi quý vị làm điều này, Quán Thế Âm Bồ Tát nói: mới có thể “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”.

Nói cách khác, quý vị càng học Phật một cách nghiêm túc thì càng có thể chiếu kiến ngũ uẩn giai không.

Mong rằng mọi người hãy học Phật cho tốt và nếu có thể chiếu kiến ngũ uẩn giai không thì quý vị sẽ có khả năng đạt được Chánh đẳng Chánh giác và sau này còn có thể thành Phật - tức là vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.Được rồi, bài giảng hôm nay xin tạm dừng tại đây.

Hy vọng có thể giảng cho đại chúng cách "chiếu kiến ngũ uẩn giai không" vào lần tới.

Cảm ơn đại chúng.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 48 : CỐ CHẤP LÀ SAI LẦM , GIẢI THOÁT LÀ TRÍ TUỆ - 22/4/2020


Tập 48 : CỐ CHẤP LÀ SAI LẦM , GIẢI THOÁT LÀ TRÍ TUỆ - 22/4/2020Hôm nay Đài trưởng sẽ tiếp tục giảng cho đại chúng về “Bạch Thoại Phật Pháp”.Người học Phật phải hiểu rằng “Vi thiện tất xương”, chỉ cần một người làm việc thiện thì nhất định sẽ thịnh vượng, nhất định sẽ phồn vinh hưng thịnh.

Nếu “Vi thiện bất xương” có nghĩa là đã làm rất nhiều việc tốt nhưng chưa nhận được kết quả tốt, là do họa cũ (nghiệp cũ) vẫn chưa dứt và vẫn còn những điều đã từng làm sai trong quá khứ.

“Ương tận tất xương”, tức là khi nghiệp cũ đã tiêu cạn, tất sẽ thịnh và chắc chắn sẽ ngày càng tốt đẹp hơn.

“Vi ác tất ương”.

Nghĩa là làm điều ác chắc chắn sẽ bị trừng phạt và chắc chắn sẽ không tốt.

“Vi ác bất ương, tất hữu dư xương”.

Có nghĩa là người này đã làm rất nhiều điều ác nhưng vẫn còn được hưởng phước báo ở đời, là do vượng cũ chưa dứt, tức là những việc tốt đã làm trong quá khứ hay những việc tốt đã làm ở kiếp trước vẫn còn, chưa dùng hết, tiền dành dụm vẫn chưa dùng hết.

“Xương tận tất ương” tức là khi mọi phước báo đã cạn kiệt, thì tai họa chắc chắn sẽ theo sau.

Đây là lý do tại sao về sau nhiều người bắt đầu gặp xui xẻo vì họ liên tục làm điều ác và sẽ bị báo ứng khi phúc đã cạn kiệt.

Người học Phật nên hiểu những nguyên lý này và khi cầu xin Bồ Tát thì đừng nóng vội, vì Bồ Tát đều nhìn thấy tất cả.Để học Phật và làm người là phải biết luôn cảm thấy hổ thẹn, cảm thấy có lỗi: “Tôi có lỗi với người ta, tôi có lỗi với cha mẹ tôi, tôi có lỗi với phật hữu.

Mọi người đều rất tốt với tôi, tại sao tôi còn như vậy?”

Nếu luôn cảm thấy hổ thẹn thì sẽ không sân oán trong lòng và sẽ không hận người khác.

Nếu luôn cảm thấy bản thân không tốt thì sẽ không hận người khác.

Nếu thường xuyên cảm thấy người khác sai thì sẽ sinh tâm hận họ.

Vì vậy, điều rất quan trọng đối với người học Phật là luôn khởi tâm hổ thẹn, điều này quan trọng vô cùng.

Sau khi thường khởi tâm hổ thẹn sẽ luôn cảm thấy hoan hỷ, hơn nữa sẽ nảy sinh lòng từ bi.

Bởi vì khi cảm thấy hạnh phúc, người này sẽ trở nên từ bi.

Trong cuộc sống cũng vậy, một khi vui vẻ thì sẽ “không sao đâu, tôi làm giúp bạn”, “không sao, chuyện này để tôi làm”.

Họ sẽ không so đo tính toán với người khác.

Hễ có tâm sân oán, hay vừa khởi tâm sân thì rừng công đức sẽ bị đốt cháy, trong giới Phật giáo thường nói “một niệm sân tâm khởi, trăm vạn cửa chướng mở”.

Quý vị nhìn một người mất bình tĩnh, chắc chắn người đó sẽ không thuận lợi.

Nếu mọi chuyện suôn sẻ thì tại sao họ lại nổi giận chứ?

Người vui vẻ thì nổi giận làm gì?

Người nổi giận ắt có chướng ngại.Đôi khi, người học Phật là phải khác biệt hơn so với những người khác: “Cho dù người khác có nổi giận thì tôi cũng không tức giận, vì tức giận thì sẽ sinh bệnh, không ai bệnh thay cho tôi được”.

"Người ta tham nhưng với tôi thì tôi không tham”.

Thì những gì quý vị nhận được sẽ khác với người khác.

Khi nói đến việc học Phật và làm người, đôi khi người ở thế gian nói rằng: “Bạn học Phật thì ăn không được những món sơn hào hải vị và còn phải chịu biết bao đau khổ.

Trên thực tế, rốt cuộc thì ai mới chính là người đang chịu đau khổ?

Người học Phật là người đi ngược dòng, bề ngoài trông rất khốn khổ.

Thực ra, chúng ta đang kiên trì và không bao giờ lùi bước; chúng ta biết rằng bằng cách tìm kiếm chân lý, chúng ta mới có thể giải thoát bản thân khỏi những phiền não của chính mình, và bằng cách sử dụng Bát nhã của Đức Phật, chúng ta nhất định sẽ đánh bại được chính mình.

Con người khó chiến thắng nhất chính là bản thân mình, phiền não là do chính mình gây ra, nếu có thể đánh bại được nó thì mới thành công.“Tùy duyên tiêu nghiệp cũ”, Bồ Tát dạy chúng ta thuận theo duyên phận mà diệt trừ nghiệp cũ.

“Thận mạc tạo tân ương“, tức là cẩn thận đừng tạo thêm tai họa mới.

Đừng che đậy khuyết điểm của mình, đừng hở ra là che giấu hay che đậy cái sai của mình, còn phải biện minh và giải thích.

Nhiều người hở ra là nói đạo lý với người khác, khi người khác nói, "Chỗ này bạn sai rồi," còn đáp trả "Không phải đâu, bởi vì ・・・・・・, cho nên ・・・・・・ không chỉ・・・・・・ mà còn.. ”.

Chẳng phải loại người này đang “che đậy lỗi lầm” của mình sao?

Hiểu được những điều tưởng chừng như đơn giản này, thực ra lại dạy cho quý vị hiểu được niệm niệm vô thường.

Mọi thứ trên thế gian này đều là vô thường và chẳng có gì đáng phải lo lắng trong đó cả, bởi vì mọi thứ sẽ qua đi, mọi thứ đều vô thường, còn thế giới thì vốn dĩ vô thường và vô ngã - có quý vị trong đó không?

Không có, dường như có và dường như không.

Nó tồn tại khi con người còn sống nhưng biến mất khi con người đã chết.

Nhiều người khi còn tồn tại thì nơi này có họ, một khi tôi rời khỏi nơi này, từ nay trở đi tôi sẽ "vô ngã" - tức là không có tôi nữa.Phải học cách không cố chấp, người học Phật không cố chấp là trí tuệ.

Người học Phật nên giữ pháp thân như như bất động.

Pháp thân ở thế gian là gì?

Là cái thân để học Phật.

Ví dụ, quý vị có thân thể như bao người khác, quý vị có thể ăn, có thể ngủ và có thể làm những việc khác trong cuộc sống như người thường, nhưng trong tâm quý vị có Pháp, có pháp của Phật.

Khi quý vị tiếp xúc với người khác, Phật tánh sẽ hiện ra; khi quý vị nói chuyện với người khác, lời Phật sẽ hiện ra; khi quý vị suy nghĩ, người khác đang nghĩ đến ngũ dục lục trần, còn quý vị đang nghĩ đến Phật pháp.

Vì vậy, khi một người rất trong sạch và như như bất động chính là Pháp Thân.

Ngoài mặt thì tôi như như bất động, nhưng thực ra tôi có được nhiều tự do hơn, chính là “như đến như đi, có qua có lại”.

Sư Phụ đưa ra một ví dụ đơn giản, bề ngoài thì quý vị đang dừng xe khi có đèn đỏ và không lái xe qua để vượt đèn đỏ , thực ra quý vị có được sự tự do hơn, vì khi chuyển qua đèn xanh quý vị có thể lái xe qua ngay lập tức.

Nếu khi dừng đèn đỏ mà quý vị cương quyết vượt qua và bị xe của người khác tông phải, thì tiếp theo đó sẽ không còn tự do nữa, thế nên phải biết giữ giới.Không có gì đến, cũng không có gì đi.

Đôi khi làm người giống như “Tôi đã từng đến nhân gian nhưng dường như chưa đến nhân gian bao giờ”.

“Tôi đã học Phật nhưng dường như chưa học Phật pháp bao giờ” vậy.

Mọi thứ đều yên bình.

Hết thảy không có gì đi, bởi vì không có gì đến từ nó cả, có rồi cũng như không có, nếu không có thì lại coi như đã xảy ra.

“Vô lai vô khứ” mới có thể làm nên “nhất thiết như như”.

Lấy một ví dụ đơn giản, ở nhà giữa hai vợ chồng, đã nói với nhau những câu khó nghe và luôn giữ câu nói ấy trong lòng, đó chính là có “qua” vì quý vị đã ghi nhớ câu nói này nên quý vị luôn không vui.

Dù quý vị có làm gì đó nữa, chỉ cần giữ câu nói này trong lòng, quý vị sẽ không thể sống hòa bình và thân thiện với người đó được.

Đích thực của “vô lai vô khứ, nhất thiết như như” là đừng giữ mọi thứ vô thường ở trong tâm, mọi thứ sẽ qua và mọi thứ đều vô thường.

“Hằng tại thường trụ bất biến dị ”, cũng có nghĩa là thường trụ vĩnh hằng – luôn giữ Phật tánh trong tâm, không thay đổi, đó chính là như như bất động.

Người hiểu được đạo lý, họ sẽ không nói cho quý vị biết điều này đúng hay điều kia sai, bởi vì trên đời mỗi người đều có lý do đúng sai của riêng mình.

Khi bước vào đúng sai, tức là đã bước vào thị phi, và dần dần sẽ bị mê hoặc vào trong đúng sai mà không thể giải thoát được.

Cho nên Sư Phụ muốn q mọi người phải có được Pháp Thân “Bổn tự như như” của Phật, nếu trong lòng có Pháp Thân của Phật, thì sẽ như như bất động và có được trí đức viên mãn.

Mỗi người đều có loại trí tuệ này, mọi người ở khắp nơi trong Pháp giới, trí tuệ của mỗi người đều rất vĩ đại, không cần phải tìm kiếm đâu cả, điều chúng ta cần tìm là cái tâm bị ngũ dục lục trần làm ô nhiễm.

Nó làm cho quý vị mất đi trí đức và khiến quý vị không thể viên mãn được.“Vô thỉ vô chung, phi tu phi chứng” (Không có khởi đầu và cũng không có kết thúc, không có sự tu tập cũng không có sự chứng ngộ).

Người tu tốt thì coi như chưa từng tu qua, ví như cũng là 1 đứa trẻ được sinh ra vô cùng ngây thơ chất phác, nó sẽ không có tính toán thiệt hơn, nó sẽ không khôn lỏi, đứa trẻ này “Phi tu phi chứng”, và nó sống trong thế giới “Vô thỉ vô chung" Bởi vì nó biết rằng "Tôi là như thế đó" - Như như, chân như.

Cái tâm chúng ta thật ra không có biểu hiện gì, Sư phụ thường nói với mọi người: Tâm con người giống như một tấm gương, chiếu kiến được thứ gì thì trong tâm có được thứ đó.

Hôm nay cái tâm này thấy ác thì trong tâm có ác; hôm nay cái tâm này thấy thiện thì trong tâm có thiện.

Nói một cách đơn giản hơn, cái tâm này là một nhà kho, là một đạo tràng, nếu đạo tràng này chứa đầy Phật Pháp, chứa đầy lòng từ bi và chứa đựng những điều con người nên làm thì cái tâm đó chính là thiện, giống như một nhà kho trống rỗng, nó chứa đầy những điều tốt đẹp, thì đồ trong kho rất tốt, nếu trong tâm chứa đựng những thứ xấu như chất độc.v.v. thì tâm sẽ tràn đầy tà ác.Sư phụ muốn mọi người hiểu rằng trái tim của quý vị phải rộng lớn bao la như vũ trụ, phải mênh mông như đại dương.

Trong tâm con người không nên có sự phân biệt vì nó đã rộng lớn như vũ trụ rồi.

Tại sao quý vị lại ghen tị với người khác, bởi vì tâm quý vị nhỏ nhen.

Nếu tâm quý vị rộng lớn như vũ trụ — lấy một ví dụ đơn giản, nếu nhà của quý vị cực kỳ lớn và có ai đó hỏi: “Tôi sẽ ở nhà bạn hai ngày” khi đó quý vị sẽ trả lời “Được rồi, được rồi, chúng tôi có một ngôi nhà cách đây một km, cậu đến đấy mà ở", quý vị nhất định sẽ không quan tâm rằng người này có ở trong nhà mình hay không.

Nhưng nếu nhà quý vị chỉ có hai mươi mét vuông và có ai đó hỏi: “Tôi ở nhà bạn một đêm được không?”

Thì chắc chắn rằng quý vị sẽ không cho họ ở đó, vì không gian lớn nhỏ khác nhau.

Cho nên Sư Phụ bảo quý vị phải hiểu Minh Không, trong tâm phải quang minh thì mới có khả năng biểu lộ ra được tánh Không của mình.

Nếu một người có cái tâm không sáng thì sẽ không có tánh Không.

Chỉ khi có được tánh Không thì quý vị mới có thể thanh tịnh - tức là không có tâm phân biệt.

“Minh Không” đó chính là có được trái tim bao la của vũ trụ.

Tâm vốn dĩ không có nhân cũng không có quả mà là do chính quý vị tạo ra - vạn pháp đều dựa vào tâm.

Vì vậy, Sư Phụ mong rằng quý vị có thể dùng tâm nhẫn nhục để đoạn tận tâm phiền não của mình, để trái tim mình có thể rộng lớn như vũ trụ, chuyện gì cũng đều không có tăng giảm.

Dù người khác có đối xử với quý vị như thế nào, cũng đừng làm tăng thêm sự căm hận của mình; cho dù người khác làm tổn thương quý vị ra sao, cũng đừng làm giảm đi tình yêu Phật tánh của quý vị dành cho họ.

Đây là tấm lòng đại ái của Bồ Tát, đây chính là không tăng cũng không giảm, có như thế trong tâm quý vị mới có được tâm bình đẳng trọn vẹn của Bồ Tát.Tâm vô hữu khởi, trong tâm không có ý niệm xấu khởi lên, trong tâm không có ác niệm nào khởi lên, mọi nhân duyên đều bị tiêu diệt.

Quý vị luôn đối xử với người khác như thế, vì quý vị không hề tạo ra nhân ác nào, nên quý vị cũng không gặp phải bất kỳ ác duyên hay ác quả nào, quý vị sống cuộc sống như như bất động của mình.

Sư Phụ nói với mọi người, thực ra cuộc đời chỉ là một hiện tượng, kinh Phật thường nói con người là hiện tượng hư ảo.

Hư ảo là gì?

Hư ảo chính là chân tướng về nhân quả luân hồi.

Chính vì tâm con người giả tạo nên mới khởi vọng niệm, mới có hành vi, đây gọi là “vọng động”, nếu tâm không tạo ác niệm và không làm hại người khác thì tâm chúng ta sẽ không vọng động.

Điên đảo, vọng tưởng, cố chấp, phiền não, những điều này đều do tâm sinh ra.

Lấy một ví dụ đơn giản, chuyện của người khác không liên quan gì đến quý vị, tại sao quý vị lại ghen tị với người khác khi họ làm tốt?

Trên đời này có rất nhiều điều tốt đẹp, vậy quý vị đều đi ghen tị sao?

Đó là vì quý vị tiếp xúc với lục trần nên quý vị mới có ghen tị, vì nó ở gần quý vị.

Tại sao phải “viễn ly điên đảo mộng tưởng”?

Trong Tâm Kinh nói đến, nếu quý vị không xa lìa nó thì nó sẽ làm ô nhiễm quý vị.

Cũng giống như nhiều loại virus, nếu quý vị tránh xa nó thì quý vị sẽ tự bảo vệ được bản thân mình, nếu quý vị tiếp xúc quá gần và tiếp cận với điên đảo thì tâm quý vị sẽ có vọng tưởng, vọng niệm.

Chỉ cần tâm quý vị còn tiếp xúc với sự cố chấp, thì quý vị dần dần sẽ nảy sinh những phiền não không ngừng và cuối cùng phát triển những quan điểm sai lầm trong việc học Phật cũng như trong cuộc sống.

Cho nên Bồ Tát dạy chúng ta “tâm bất vọng niệm, tánh tự bổn vô.”

Cũng có nghĩa là trong tâm không có vọng niệm, những điều không đáng nghĩ thì chúng ta không nên suy nghĩ, “Tánh tự bổn vô” - bổn tánh của quý vị vốn dĩ chưa bao giờ tồn tại.

Một đứa trẻ làm sao có thể học được những điều xấu nếu không có ai dạy nó những điều xấu?

Nếu nó chưa từng tiếp xúc với thuốc lá từ khi còn nhỏ, thì ta tin rằng nó sẽ không bao giờ hút thuốc lá trong đời.Tại sao vô minh không thể giải thoát?

Vì không hiểu biết nhiều điều nên sẽ gây ra nhân quả của luân hồi và gây ra những tai họa lớn.

Trong giới Phật giáo có câu “Kỷ sự kỷ minh”, việc mà mình đang làm phải hiểu rõ bản thân mình đang làm gì.

Tất cả các bạn Phật tử hiện nay đều biết mình đã và đang đi trên con đường tu học Phật pháp, bản thân nên hiểu rõ cách đi trên con đường này, có như thế mới được giải thoát một cách tự nhiên.

Nhiều người không thể đạt được giải thoát trong suốt cuộc đời, bởi vì bản thân họ không hiểu mình đang làm gì.

Không tin thì quý vị vào trại giam mà hỏi.

Nhiều người đã phạm tội và không biết mình đã làm gì sai.

Cũng giống như con trẻ của chúng ta làm sai mà không biết “mình sai ở chỗ nào”, điều đó còn nguy hiểm hơn.

Nếu biết mình sai và “Kỷ sự kỷ minh” thì tự nhiên sẽ được giải thoát.

"Chỗ này tôi đã làm sai rồi, tôi không được làm như vậy nữa."

Thì quý vị đã buông xả và lần sau sẽ cẩn thận hơn.

Cũng giống như khi chúng ta lái xe, nếu không biết đường, chúng ta sẽ lái sai đường, thậm chí tông vào tường, hoặc đi sai hướng – lái xe trong một thời gian dài “Ồ, sai hướng rồi”.

Đài trưởng tin rằng tất cả mọi người đều đã có trải nghiệm này.

Nếu quý vị biết thì sẽ không phạm sai lầm, khi quý vị không biết thì sẽ còn tiếp tục lái theo hướng mà bản thân mình không rõ ràng.Làm thế nào để hóa giải, làm sao để những chuyện của mình có thể tự mình làm sáng tỏ?

Là người thì phải biết cách thấu hiểu được chúng sinh.

Chỉ bằng cách hiểu được tất cả chúng sinh, chúng ta mới có thể hóa giải được những phiền não trong tâm mình.

Giới Phật giáo dạy rằng: “Sở ngôn nhân dã, vị chúng sinh tâm”(Con người mà chúng ta đang nói tới chính là tâm của tất cả chúng sinh).

Bồ Tát bảo tại sao gọi chúng ta là con người, vì con người thuộc về tâm của chúng sinh.

Con người hoàn toàn có thể trở thành Bồ Tát, khi có cảnh giới cao chính là Bồ Tát.

Trong suốt cuộc đời, “Nhược tâm vô sinh, nhân vô chúng sinh”.

Tâm không sinh phiền não thì phiền não con người từ đâu ra?

Tâm con người không sinh ác niệm thì ác niệm từ đâu ra?

Thậm chí còn không biết ai đã đặt tên cho mình.

Thực ra, nhân quả là do tự làm tự chịu, và mọi thiện niệm hay ác niệm của thân, khẩu, ý cũng đều trở thành nghiệp lực của chúng ta.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 49 : TRÍ TUỆ BÁT NHÃ CỦA PHẬT VƯỢT QUA MỌI RÀNG BUỘC 22/4/2020


⭐ BTPP Tập 49 : TRÍ TUỆ BÁT NHÃ CỦA PHẬT VƯỢT QUA MỌI RÀNG BUỘC

22/4/2020Nghiệp lực giống như một quả bom, sớm muộn gì cũng sẽ nổ.

Thiện nghiệp sẽ không nổ, thiện nghiệp như một bông hoa, còn ác nghiệp như một quả bom, nó có thể nổ bất cứ lúc nào.

Vì thế, nghiệp lực sẽ dần dần hình thành nghiệp duyên của sáu cõi luân hồi: làm việc thiện thì vào đường thiện; làm việc ác thì vào đường ác, và phải trả báo nghiệp ở kiếp sau - ở nhân gian, chỉ cần làm điều thiện hay điều ác thì sẽ phải luân hồi trả báo.

Tại sao pháp sư lại không muốn nhận quá nhiều đồ cúng dường của người khác, bởi vì phải trả nợ cho người, nếu tiếp nhận quá nhiều, có thể kiếp sau không thể tu thành mà vẫn phải trả lại cho người ta.

Cho nên Sư phụ bảo với mọi người, nếu người khác đối xử tốt với quý vị, cho quý vị quá nhiều, đối xử tốt với quý vị, nấu ăn cho quý vị...

Nếu quý vị không có công đức và nhận quá nhiều cúng dường (kể cả phụng sự viên cũng vậy) thì chắc chắn sẽ gánh nghiệp, nó chỉ tùy theo đó là nghiệp thiện hay nghiệp ác mà quý vị phải hoàn trả mà thôi.Kinh Phật dạy cho chúng ta "đoạn hoặc chứng chân" tức là cắt đứt mê lầm để chứng minh cuộc đời chân thật của mình.

Khi sự mê lầm không còn nữa, con người mới có thể sống trong thế giới thực của mình.

Người suốt ngày nói dối thậm chí không thể phân biệt được điều mình nói cuối cùng là thật hay giả, loại mê lầm này khiến người ta không thể tìm thấy vị Phật chân thật trong tâm mình.Người tu tâm là báu vật vô giá.

Tu tâm là vô giá.

Tại sao vậy?

Bởi vì thứ mà họ đang tu dưỡng chính là trái tim, và trái tim này là báu vật vô giá - kho báu trong tim - hay còn gọi là kho báu trong tâm.

Một khi tâm được tu dưỡng tốt, mọi thứ đều đủ đầy, không có nợ nần, bất sinh bất diệt thì trái tim này sẽ trong sạch, trái tim này sẽ có thể dùng nó một cách tự tại.

Vì vậy, tu tâm càng về sau là tu trái tim của loài người này.

Bất kì ai không tu tâm mà dùng tấm lòng nhân hậu của mình để lừa gạt hay làm tổn thương người khác thì sẽ chuyển thế ngàn lần và vẫn sẽ còn mang đến cho họ ngàn lần sai lầm.Sư phụ sẽ dạy cho mọi người đơn giản hơn một chút, chuyện tốt cần phải ghi nhớ cho tốt, chuyện xấu hãy quên nó đi, sau khi cảnh giới nâng cao, thì thiện ác đều không nghĩ đến, cũng có nghĩa là khi cảnh giới của quý vị đã được nâng cao, khi làm việc thiện, đừng xem đó là việc thiện, càng không nghĩ đó là việc ác.

Đôi khi lòng từ bi có nghĩa là giúp đỡ người khác, đôi khi nó có nghĩa là tỏ lòng thương xót tất cả chúng sinh và thấy người khác đáng thương, đôi khi nó có nghĩa là bố thí, và đôi khi nó có nghĩa là nói những điều tốt đẹp đến người khác cũng là một loại từ bi.Đối với người học Phật, tâm con người là quan trọng nhất, tâm là sản vật của sự tác động hoàn cảnh bên ngoài.

Vì tâm tiếp xúc với những tình huống khác nhau nên sẽ nảy sinh ra những ý tưởng, khái niệm khác nhau nên tâm trí sẽ thay đổi theo những chuyển đổi của hoàn cảnh bên ngoài.

Khi nhìn thấy mọi người như vậy, tâm quý vị cũng sẽ lay động; ai cũng tham, nên quý vị cũng tham; ai cũng ghét người này, nên quý vị cũng ghét họ; ai cũng làm những điều ngu xuẩn, nên quý vị cũng làm như vậy.

Nhiều tên côn đồ đang làm những việc tục tĩu, khi quý vị nhìn thấy mười người xung quanh quý vị làm điều đó, quý vị cũng làm theo, bởi vì họ đều đang làm điều đó.

Vì thế, tâm chúng ta phải biết tránh xa môi trường bên ngoài của nhân gian và tìm kiếm sự tốt lành của bản chất từ nội tâm chúng ta, đó chính là tìm thấy Phật tánh trong tâm mình.

Chỉ cần trái tim bên ngoài cộng với bản chất bên trong của quý vị (tức là bổn tánh) thì nghiệp chướng của quý vị mới có thể được cải sửa và mới có thể hợp hai thành một.

Nếu quý vị có nhân cách tốt thì cầu xin việc gì cũng linh ứng.

Hôm nay, cái tâm bên ngoài của quý vị đang cầu xin cho gia đình quý vị, nhưng cái tâm bên trong quý vị có lòng từ bi - bản chất của Bồ Tát, khi quý vị quỳ xuống là quý vị đã hợp nhất với Bồ Tát.

Nếu cầu xin không được linh ứng thì có nghĩa là tâm đang cầu nhưng bổn tánh không phát ra hào quang của Phật, Bồ Tát.

Chúng ta nên cầu xin với lòng tôn kính, lòng từ bi của chư Bồ Tát và lòng biết ơn của chư Phật, tâm thành tắc linh.

Sư Phụ dùng bạch thoại Phật pháp để nói rằng chỉ khi nào quý vị thành tâm thì quý vị mới có thể cầu xin linh ứng được.

Vì thế, nhiều người tùy tùy tiện tiện cầu Phật rằng: "Để thử xem, không chừng có thể toại nguyện."

Với loại tâm nguyện này, chắc chắn sẽ không thành công.

Tại sao tâm là tiêu chuẩn duy nhất để tu tâm và là điều quan trọng nhất?

Tại sao Sư phụ lại nói với mọi người rằng "niệm kinh tức là niệm tâm"?

Kinh văn là những thứ trong tâm quý vị - những thứ thuộc về bản chất của quý vị.

Hãy dùng trái tim của quý vị để lộ ra sự thiện lương của bản chất bên trong.

Vì vậy, Tâm Kinh là thánh bảo (là bảo bối) trong kinh điển.Giảng đến đây Sư Phụ muốn giảng giải ngắn gọn về Tâm Kinh cho quý vị hiểu.

"Tâm Kinh", mỗi người chúng ta đều tụng hàng ngày, trong "Tâm Kinh" có một câu "chiếu kiến ngũ uẩn giai không", dường như ai cũng hiểu được câu này.

Đầu tiên, chúng ta cần hiểu năm uẩn là gì - sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

Vậy làm thế nào để chiếu được tánh Không của nó đây?

Trước hết chúng ta phải hiểu rằng muốn thâm nhập và chiếu được nó thì trước hết chúng ta phải có một loại sức mạnh nào đó, loại sức mạnh này là năng lượng sức mạnh vô cùng vĩ đại, để chúng ta mới có thể "chiếu kiến ngũ uẩn giai không."

Sức mạnh này được gọi là "Lực Bát nhã", bởi vì chỉ có trí tuệ chúng ta mới có thể "chiếu kiến ngũ uẩn giai không".

Bát nhã không phải là thứ quý vị tìm kiếm từ bên ngoài.

Nhiều người nói: "Tôi đi học một ít trí tuệ."

Đó là điều quý vị không thể học được; mà trí tuệ đến từ bên trong, còn người khác chỉ có thể truyền cảm hứng cho nội tâm của quý vị mà thôi.

Lấy một ví dụ đơn giản, nếu trình độ văn hóa của quý vị không cao thì dù giáo sư có nói với quý vị bao nhiêu đi chăng nữa, cũng không thể truyền cảm hứng cho Bát nhã bên trong của quý vị, quý vị phải có hạt giống Bát nhã và chỉ khi người khác truyền cảm hứng cho quý vị thì quý vị mới có thể hiểu được.

Vì vậy, Bát nhã không phải được tìm kiếm từ bên ngoài mà được khám phá từ bên trong, đây là điều mà Đức Phật đã nói cách đây 2500 năm "tất cả chúng sinh đều có Phật tánh".Bản thân quý vị có năm uẩn, và con người chính là năm uẩn, chỉ khi năm uẩn trống rỗng, mới có thể độ nhứt thiết khổ ách.

Năm uẩn giống như năm chướng ngại, giống như những trở ngại không thể vượt qua trong cuộc sống, nếu nhìn thấu được chúng thì có thể "độ nhất thiết khổ ách", nếu hôm nay quý vị bị năm uẩn vướng mắc và bị chúng bám chặt thì quý vị sẽ không thể nhận biết được chính mình.

Ví dụ: "Sắc, thọ, tưởng, hành, thức", nếu hôm nay quý vị nhìn thấy một điều gì đó tốt đẹp và trái tim quý vị bị thu hút bởi nó, thì có phải quý vị đã bị mất đi cơ hội để "độ nhứt thiết khổ ách" rồi không?

Nếu hôm nay quý vị cảm thấy đau khổ, thì có phải quý vị cảm thấy bực bội bất bình không?

Nếu quý vị cho rằng, hôm nay người này có điểm xấu trong ý thức của quý vị, có phải là quý vị sẽ luôn đối xử tệ với họ không?

Kỳ thực, nếu quý vị luôn đối xử tệ với họ, chính là trong lòng quý vị có hận thù, vậy thì làm sao quý vị có thể vượt qua được khó khăn của chính mình đây?

Bởi vì nếu quý vị hận họ, người khổ nhất là chính quý vị.

Vì vậy Sư phụ muốn mọi người hiểu rằng để nhận biết được chính mình thì phải vượt qua nó.Lấy một ví dụ đơn giản, người này rất tốt bụng và sống với quý vị đã lâu, nhưng vì họ làm sai điều gì nên ý thức của quý vị cảm thấy "cậu ta thật đáng ghét", tuy nhiên, quý vị không thể vượt qua năm uẩn này và không thể nhìn thấu được năm uẩn này, nếu quý vị ghét cậu ta thì cuối cùng quý vị sẽ không vượt qua nổi thời khắc quan trọng này, không vượt qua nổi khổ ách này, nếu quý vị ly hôn hay rời xa họ, thì có phải sẽ mang lại cho quý vị nhiều đau khổ hơn không?Người người niệm Phật nhưng có thể cũng không biết được Phật; người người đều tụng Tâm Kinh nhưng không hiểu những nguyên lý trong Tâm Kinh; người người đều biết Phật là ai, nhưng có bao nhiêu người thật sự hiểu được Phật?

Vì chúng ta đã bị ngũ uẩn vây quanh và có thể dựa vào đâu để thúc đẩy bản thân "chiếu kiến ngũ uẩn giai không".

Đó là nương vào sức mạnh Bát nhã sâu thẳm trong tâm.

Chỉ bằng cách "hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời", thì mới có thể "chiếu kiến ngũ uẩn giai không".

Điều này muốn nói với quý vị rằng chỉ khi quý vị thực hành con đường Bồ Tát thật sâu sắc và hiểu sâu sắc lời dạy của đạo Phật, thì tâm của quý vị mới có thể nhìn thấy được miền cực lạc, hiểu được ý nghĩa thực sự và phương hướng học Phật, khi cảnh giới của quý vị cao thì mới có thể "chiếu kiến ngũ uẩn giai không".Chữ "thâm" trong "Hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời" rất quan trọng, thực ra chữ "thâm" có nghĩa là càng học sâu thì cảnh giới của người này càng cao.

Đại thừa được gọi là "thâm Bát nhã" và Phật giáo Tiểu thừa được gọi là "tiểu Bát nhã".

Bát nhã thâm sâu là hiểu được trí tuệ lớn lao; Bát nhã nhỏ là hiểu được trí tuệ của Bồ Tát ở mức độ nhỏ.

Bát nhã, nếu quý vị có thể hành thâm, tức là quý vị có thể tu tập đến mức độ rất thâm sâu, quý vị sẽ hiểu được lời niệm Phật: Phật từ đâu đến, tại sao Phật sống ở thế gian này, và thế giới này tại sao lại tồn tại chân đế?

Quý vị nhìn Phật đọc kinh sẽ thấy càng ngày càng sâu hơn.

Khi quý vị "hành thâm" thì không dễ nhìn thấy được tận cùng.

Cũng giống như biển, nếu nó rất sâu, thì quý vị không thể nhìn thấy được thế giới dưới đáy biển.

Quý vị không biết nó sâu đến mức nào, nếu đi "hành thâm" quý vị sẽ dần dần hiểu được lời kinh Phật dạy: "vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ" (chẳng từ đâu đến, lại cũng chẳng đi về đâu).

Bởi vì thâm sâu quá, ta không biết biển từ đâu đến, cũng không biết nó đi về đâu, hình như ở đó, nhưng dường như không có ở đó, bởi vì nó sâu quá, ta không biết được mực nước biển sâu bao nhiêu mét.Cho nên "cố danh Như Lai"(gọi là Như Lai).

Khi chúng ta niệm Phật, dù niệm vị Phật nào, chúng ta đều hiểu rõ trong lòng rằng ""Chẳng đến cũng chẳng đi", tức là "các pháp đều không có nguồn gốc".

Chư Phật Bồ Tát dạy chúng ta hiểu rằng mọi pháp trên thế gian đều "không có nguồn gốc", vì nó quá thâm sâu nên chúng ta không thể thấy rõ, không thể thấy được nó đến từ đâu, thì chúng ta mới hiểu được đây là kinh Phật, pháp Phật rất thâm sâu, nếu nó có nguồn gốc thì Như Lai không còn "vô sở tòng lai" nữa rồi.

Nếu chúng ta hiểu điều gì đó một cách nhanh chóng, thì chúng ta không thể hiểu nó một cách sâu sắc.

Thử nghĩ xem, tâm con người có phải như vậy không?

Có nhiều người bây giờ yêu nhau rất nhanh mà không hề biết đến thế giới nội tâm của đối phương.

Tại sao có nhiều người yêu nhau, lấy nhau rồi lại bị lừa?

Tại sao có người yêu nhau mấy chục năm, tương thân tương ái nhưng cuối cùng mới hiểu được đối phương?

Bởi vì tình yêu đã đạt đến mức sâu thẳm.

Vì vậy, danh hiệu của Đức Phật cũng vậy, chẳng từ đâu đến, lại cũng chẳng đi về đâu.

Thâm là gì?

Chúng ta cần phải học trí tuệ thâm sâu vô tận của Bát nhã, khi hiểu được trí tuệ vô tận của đạo Phật là quý vị đã hoàn toàn nhập vào Tánh Không rồi.
 
Back
Top Bottom