Tâm Linh BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP

Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 50 : NGŨ UẨN GIAI KHÔNG ,HÀNH THÂM BÁT NHÃ 22/4/2020


⭐BTPP - Tập 50 : NGŨ UẨN GIAI KHÔNG ,HÀNH THÂM BÁT NHÃ

22/4/2020Khi hiểu được trí tuệ vô tận của đạo Phật là quý vị đã hoàn toàn nhập vào tánh Không.

Nếu không biết chuyện gì, thì quý vị sẽ trống rỗng; nếu quý vị biết rồi, quý vị sẽ gặp phiền não.

Lấy một ví dụ đơn giản, khi quý vị biết một điều gì đó, quý vị sẽ rất phiền não, còn khi quý vị không biết, thì quý vị sẽ không quan tâm đến nó nữa: "Tôi cũng không thể hiểu được điều này", thì quý vị sẽ không còn lo lắng nữa rồi đúng không?

"Chuyện này, đúng, tôi đã hiểu rõ rồi, là do anh ấy không tốt, là bạn đúng."

Một lúc sau lại: "Tôi không rõ nữa, chính bạn là người sai, và anh ấy đúng".

Quý vị rơi vào giữa đúng sai mà không thực sự hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến cãi vã của hai người họ.

Đài trưởng thường kể cho mọi người nghe về "cảnh giới Không tánh", tức là thực chất đang bước vào một thế giới khác - một thế giới rời xa với thế giới ngũ trược ác thế.Bất cứ điều gì quý vị nhìn thấy, dù tụng kinh, bái Phật hay xem "sinh từ đâu đến, tử đi về đâu?", thực ra đều là một khái niệm, bởi vì "vô sinh diệc vô tử, dĩ vô sở đắc cố."

Hết thảy các pháp đều "không từ đâu đến", quý vị không biết pháp này đến từ đâu, và quý vị cũng không biết pháp này đi như thế nào.

Điều sâu sắc nhất mà quý vị biết là kinh Phật và pháp Phật đều đến từ Phật Bồ Tát, nhưng trí tuệ của Bồ Tát lại từ đâu đến?

Thâm sâu khó thể đo lường, đó mới gọi là "hành thâm", đó mới gọi là "Bát nhã ba la mật đa thời".

Muốn sang bờ bên kia phải hiểu sâu sắc trí tuệ của đạo Phật nên Bát nhã gọi là "Thâm Bát nhã".

Người có thiện căn đôi khi ngồi thiền cảm thấy thân thể trống rỗng và hạnh phúc.

Có thật là trống rỗng rồi không?

Thân thể trống rỗng rồi, nhưng trong lòng không trống rỗng, trong lòng tạp niệm phân phi.

Khi thân thể trống rỗng, thì tâm niệm bắt đầu trỗi dậy.

Có rất nhiều người ngồi bên dưới nghe pháp không để tâm.

Rất nhiều người nói chuyện với sư phụ, tâm không đặt nơi đây, hết nhìn bên trái rồi nhìn bên phải, họ chỉ nghĩ đến việc riêng của bản thân, rồi làm việc riêng.

Vậy thì người này có thể tập trung được sao?

Trong tâm mỗi người chúng ta có vô số vọng niệm, theo ngôn ngữ hiện đại mà nói thì tâm vọng tưởng nhiều vô kể.

Vọng tưởng vô vàn như vậy thì phải làm sao để chúng không khởi ra?

Chỉ có thể dùng trí tuệ và trong tâm tràn đầy trí tuệ Bát nhã, thì tự nhiên tâm vọng tưởng sẽ không khởi lên được, khi đó tâm Niết bàn và tâm trí tuệ sẽ hiển lộ.

Cho nên, trong thâm sâu Bát nhã, Quán Thế Âm Bồ Tát đã nói: "Chiếu kiến ngũ uẩn giai không"Ngũ uẩn chính là chúng sinh và ngũ uẩn cũng có thể nói là chính mình, bởi vì mỗi chúng sinh đều có sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Nếu muốn nhận biết chính mình, quý vị phải hiểu rằng bản thân chính là một người có thân ngũ uẩn.

"Uẩn" có nghĩa là che đậy, một nghĩa khác là nó có thể che đậy bản chất bên trong như mây hay sương mù."

Uẩn" này có năm loại sắc mây, năm loại mây mù, nó có thể che lấp được bổn tánh nên phải xuyên thấu qua nó.

Nó tựa như ánh mặt trời bị che lấp bởi đám mây đen.

Nếu như có thể xuyên qua đám mây ấy thì sẽ thấy được mặt trời, thấy được ánh sáng của cầu vồng chiếu rọi, cũng giống như tâm Bồ-đề không còn bị che phủ bởi ngũ uẩn nữa.

Chỉ bằng cách hiểu rõ ngũ uẩn thì Bồ-đề tâm mới có thể xuất hiện.

Vậy hiện nay chúng ta đang có loại tâm nào?

Tâm hiện tại của chúng ta được gọi là "tâm vọng tưởng".

Nếu không khắc phục được ngũ uẩn của chính mình thì quý vị sẽ có tâm vọng tưởng.

Nếu xa rời Bồ-đề tâm thì không thể gọi đó là tâm chân đế.

Vì không hiểu "chân đế" là gì, nên sẽ có "Ngã thị phi tâm."

Mỗi người đều có tâm thị phi sai đúng và tâm tham chấp danh lợi.

Ngũ uẩn chỉ có thể thấy được Bồ đề tâm tự tánh khi chúng trống rỗng, vì vậy việc tu tâm phải bắt đầu từ tu Bồ-đề tâm và tiếp tục tu cho đến khi thành Phật.

Nhiều người nói rằng nếu muốn sanh về thế giới Cực Lạc thì hiểu ngũ uẩn như thế nào?

Nếu muốn đến được thế giới Cực Lạc, cần phải bước vào được thế giới của Tánh không và tu thành ngũ uẩn giai không.Kiếp trược chính là sắc uẩn, phiền não trược chính là tưởng uẩn.

Kiếp trược, kiếp là kiếp nạn, kiếp nạn trược là nhìn thấy được tai họa bên trong và tai họa bên ngoài, là sắc uẩn.

Phiền não trược chính là tưởng uẩn.

Khi quý vị buồn phiền, có phải trong đầu đang suy nghĩ không?

Kiến trược là thọ uẩn.

Chúng sinh trược, mọi sự tiếp xúc với tất cả chúng sinh đều là hành uẩn.

Mệnh trược có nghĩa là ý thức của quý vị tạo ra phương hướng của sự sống.

Vậy nên, chỉ khi ngũ uẩn đều trống rỗng mới có thể thoát khỏi được sự quấy rầy của ngũ trược ác thế, mới có thể đến Tây Phương Cực Lạc và chiếu kiến được ngũ uẩn giai không.

Khi đó, tâm quý vị mới có thể biến thành cõi nhân gian tịnh độ hiện hữu trong tâm thức của quý vị.Tất cả kinh do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết, thực ra đều bảo chúng ta phải làm rỗng không ngũ uẩn và phải chiếu kiến được hết thảy ngũ uẩn giai không.

Tuy nhiên "Tâm Kinh", cũng như "Kinh A Di Đà" cũng dạy chúng ta rời bỏ ngũ trược và ngũ uẩn để có thể làm trống rỗng ngũ uẩn.

Có một cuốn kinh trong giới Phật giáo là "Giải Thâm Mật Kinh", quyển kinh này nói về ý thức của hạt giống và thức A-đà-na, thực ra là cách chuyển đến thức thứ tám về tánh Không.

Sư phụ có rất nhiều lời Phật dạy cần nói với quý vị, về sau sẽ giảng cho quý vị về tứ trí, chuyển thức thành trí - tức là trở thành trí huệ, chuyển hóa thức thứ tám thành tứ trí.Mọi người đều biết thức thứ tám, phải không?

Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý (sáu thức), thức thứ bảy là thức Mạt-na thức, và thức thứ tám là A-lại-da-thức.

Làm thế nào để chuyển hóa thức thứ tám?

Thức thứ tám chính là ngũ uẩn - tức là quý vị có năm uẩn này và chúng ở trong thức thứ tám.

Nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức và thân thức (năm thức đầu) chính là thọ uẩn, và năm trần tương ứng là sắc uẩn; thức thứ sáu là tưởng uẩn, tức là trong tư duy; thức thứ bảy là thực ra ý thức của quý vị đang vận hành, tư duy của quý vị đang hoạt động và ý thức phân biệt của quý vị đang quyết định, đó là hành uẩn; thức thứ tám, A-lại-da thức là ý thức uẩn của hình thành suy nghĩ, được gọi là "thức uẩn".

Mọi người phải hiểu rằng những thứ trong thức thứ tám này đều đến từ ngũ uẩn.Thuyết duy thức dạy chúng ta chuyển hóa thức thứ tám thành Tứ trí (4 loại trí tuệ): Đại Viên Cảnh Trí, Bình Đẳng Tánh Trí, Diệu Quan Sát Trí và Thành Sở Tác Trí.

Thuyết duy thức đòi hỏi chúng ta phải chuyển hóa thức thứ tám, cũng có nghĩa là dù chúng ta có hình dáng bên ngoài như thế nào ở nhân gian, chỉ cần chuyển hóa được thức thứ tám, là chúng ta có thể làm trống rỗng năm uẩn.

Chỉ cần có một sự việc chuyển hóa được thì sự việc này sẽ trở thành trí tuệ.

Ý nghĩa này có thể nhiều người không hiểu, Sư phụ sẽ cho quý vị một ví dụ đơn giản.

Thử nghĩ xem, khi vợ chồng cãi nhau mà người chồng rất hận người vợ mình, khi đó chỉ cần người chồng biết nghĩ đến việc cô vợ phải khổ sở thế nào khi ở bên mình, khi ý thức này chuyển hóa thì người chồng sẽ cảm thấy cô vợ thật đáng thương, người chồng sẽ có sự thương xót trong lòng và sẽ không đối xử với cô vợ bằng những hành động và lời nói làm tổn thương cô ấy.

Ví dụ như đứa trẻ này quá phiền phức, mặc dù chính bản thân mình sinh ra nó, nhưng nó thực sự rất đáng ghét, nếu lúc này, quý vị nghĩ, nó đầu thai đến nhân gian chịu đựng nhiều đau khổ như vậy cũng không dễ dàng, nó cũng đã từng mang đến hạnh phúc cho gia đình - khi quý vị nghĩ được như vậy, có phải quý vị đã chuyển hóa được ý thức của mình thành trí tuệ rồi không?

Có phải trí tuệ đã xuất hiện rồi không?

Tại sao nên chuyển hóa thành Đại Viên Cảnh Trí và Bình Đẳng Tánh Trí?

Đó là những điều Sư phụ sẽ nói với mọi người tiếp theo vào lần sau: Nên làm thế nào để có được trí tuệ vĩ đại, dùng trí tuệ vĩ đại để bao dung và giải quyết những phiền não trên thế gian.

Tứ Trí - Trí tuệ này là bốn loại trí tuệ, xuất phát từ Phật tánh, vậy nếu quý vị có thể chuyển hóa được thức thứ tám - tức là nếu quý vị có thể chuyển hóa mọi phiền não trên thế gian thành trí tuệ, chẳng phải là quý vị đã có được Bồ-đề tâm ở chốn nhân gian rồi sao?Mỗi lần như vậy, sau cùng Sư phụ sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện.

Điều mà Sư phụ muốn nói với mọi người hôm nay chính là một trong những đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vĩ đại, ông là một người đáng kính tên là Tôn giả Châu Lợi Bàn Đà Già (Suddhipanthaka), nhiều người đã nghe nói đến và Sư phụ dường như đã kể sơ về câu chuyện này qua rồi.

Câu chuyện hôm nay thú vị hơn và được kể dưới hình thức mở rộng.

Mọi người đều quen thuộc với câu chuyện này, chúng ta đều biết Đức Phật có một đệ tử như vậy, người đệ tử này sau này được gọi là Tôn Giả, hay còn gọi là Bàn Đặc.

Vị Tôn Giả này thực ra từ nhỏ đã tương đối ngu ngốc, cha vị Tôn giả này là một nô lệ mù chữ, nhưng điều kỳ lạ là mẹ của Tôn giả lại là con gái của một trưởng lão giàu có quyền lực và lại được giáo dục tốt.Khi mẹ Tôn giả sắp sinh, bà nhớ mẹ bà đến nỗi bất chấp tất cả để trở về quê hương xa xôi.

Khi sắp về đến nhà mẹ, không ngờ đột nhiên chợt cảm thấy đau bụng không chịu được, vội vàng tấp vào bên vệ đường.

Không lâu sau, một bé trai da trắng và mập mạp ra đời, Bàn Đặc đã đến thế giới này trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy.

Đáng tiếc đứa bé này từ nhỏ đã là một đứa trẻ đần độn ngu ngốc, rất nhiều chuyện cơ bản trên đời nó chẳng hiểu chút nào cả.

Nhưng sau này, ông may mắn được gặp Đức Phật và xuất gia học Đạo.

Bởi vì bản tính của ông tương đối đần độn, Đức Phật rất từ bi và dạy bốn câu kệ cho ông, nhưng thậm chí ông không thể niệm thuộc được bốn câu kệ đó.Để giáo hóa người đệ tử đặc biệt này, nên Đức Phật đã mở rộng phương tiện cho ông.

Thấy Bàn Đặc đang quét nhà, Đức Phật chỉ vào cây chổi và nói: "Này Bàn Đặc, từ nay về sau, khi ngươi quét nhà, hãy niệm từ "quét bụi" trong khi quét nhé.

Nếu ngươi có thể nhất tâm chuyên niệm thì tự nhiên sẽ niệm được lợi ích thôi."

Lúc đầu, khi Bàn Đặc niệm từ "quét bụi", ông ấy thường niệm "quét" mà quên "bụi", và khi niệm "bụi" ông ấy lại quên niệm "quét".

Đối với người hoàn toàn không có trí nhớ gì như Bàn Đặc, tất cả những ai nhìn thấy ông đều thì thầm, cười nhạo và lắc đầu.Một ngày nọ, hoàng tử Kỳ Vực mời Đức Phật và các đệ tử của Ngài vào cung để nhận cúng dường (ngày xưa, nhiều quý tộc hoàng gia đã mời pháp sư vào cung để cúng dường họ, đó là một điều rất cao quý), họ đã cố tình từ chối Bàn Đặc tham dự và không cho ông đi.

Khi Đức Phật và các đệ tử của Ngài đến nhà vua Kỳ Vực để nhận cúng dường, chủ nhà theo phong tục của vùng nhiệt đới Ấn Độ, mang ra một chậu nước để khách rửa chân trước khi mời khách.

Nghi thức này được gọi là "hành thanh tịnh thủy" (tức là mọi người rửa chân sạch sẽ.

Trong hệ thống tu viện cũ, sau khi rửa chân đi ngủ, nên rửa chân sạch sẽ và loại bỏ hết bụi bẩn).

Hoàng tử Kỳ Vực đem nước đến dâng Đức Phật nhưng Đức Phật từ chối.

Hoàng tử Kỳ Vực rất ngạc nhiên và hỏi: "Thưa Đức Phật, tại sao ngài không nhận nước tinh khiết?"

Đức Phật nói: "Trong số những người đến nhận cúng dường, Tỳ kheo Bàn Đặc có mặt ở đây không?"

Hoàng tử Kỳ Vực trả lời: "Thưa Đức Phật, Tỳ kheo Bàn Đặc thậm chí không thể phát âm hai từ "quét bụi".

Ông ta còn tệ hơn cả một người chăn cừu, nên chúng tôi đã không mời ông ấy đến."

Đức Phật dạy: "Không, Phật giáo là bình đẳng, là không có cao thấp hay khác biệt.

Nếu Ngài không mời Bàn Đặc, thì ta cũng không nhận nước".

Đức Phật cũng từ chối chấp nhận nghi thức này.Hoàng tử Kỳ Vực biết rằng không được phép làm trái ý Đức Phật và ra lệnh: "Nào, đi, nhanh lên, nhanh lên, đi mời Tôn giả Bàn Đặc đến cho ta."

Hoàng tử liền sai cấp dưới đi mời.

Chẳng lâu sau, Đức Phật rất vui mừng khi thấy Bàn Đặc đến và yêu cầu Tôn giả A-nan đưa cho ông thụ bát (tức là đưa cho ông một cái bát khất thực để ăn và nhận cúng dường).

Bàn Đặc rất thật thà và trong sáng nên vui vẻ nhanh chóng đứng dậy (như thể rất tôn trọng, khi có người đưa đồ cho mình thì ông ấy sẽ đứng lên cảm ơn).

Nhưng Đức Phật nhìn thấy ông và nói: "Ông hãy ngồi xuống, không cần phải đứng lên, ngồi xuống là được rồi."

Đức Phật có mục đích riêng của Ngài, bởi vì Bàn Đặc đã xuất gia sớm hơn A-nan.Đức Phật biết chỗ ngồi của Bàn Đặc rất xa với mình (tức là rất xa phía sau), và việc trả lại bát cho Đức Phật sau khi ăn thực sự không dễ dàng nên Đức Phật bắt đầu giúp ông (thực ra Đức Phật chỉ muốn mọi người tôn trọng Châu Lợi Bàn Đà Già).

Khi đó Bàn Đặc đã dựa vào năng lượng mà Đức Phật ban cho mình lúc đó là năng lực uy thần của Đức Phật (vì vậy đôi khi đứa trẻ ngốc hơn một chút thì có thể dễ dàng tiếp nhận được khối năng lượng, đứa trẻ có tâm hồn trong sáng, đứa trẻ có đầu óc thẳng thắn, ít khôn vặt, rất dễ tu thành.

Khi ông tiếp nhận lấy, liền cảm nhận được năng lượng của Bồ Tát).

Trước khi người khác chú ý, thì "vù", chiếc bát đã được trao đến tay Đức Phật (nghĩa là cái bát ông đã ăn xong, khi Đức Phật vừa đưa tay ra thì nó bay đến và được trao qua tay).

Hiện tượng kỳ lạ này khiến tất cả mọi người phải quay lại nhìn, đặc biệt là Hoàng tử Kỳ Vực, ông vội vàng tiến tới, khi nhìn thấy Bàn Đặc có thần thông này, ông quỳ xuống trước mặt Tôn giả Bàn Đặc và sám hối, sau đó phong làm khách quý.Bàn Đặc tuy ban đầu ngu ngốc nhưng lại có tính kiên cường và kiên trì, sau sáu năm, ông không chỉ đọc thuộc lòng nhiều chữ mà còn không nản lòng khi bị người khác cười nhạo, ông coi việc chế nhạo là tiêu trừ nghiệp chướng cho mình: "Các người cười nhạo tôi là các người đang tiêu trừ nghiệp chướng cho tôi".

Tâm trí ông thay đổi, ông dần dần tỉnh táo, tu hành ngày càng tốt hơn, không còn bị tán loạn nữa, cho đến một ngày ông khai ngộ và chứng được thánh quả.

Từ đó, tâm linh trí tuệ được khai mở, ông có thể hiểu được những giáo lý đạo Phật vi tế và sâu sắc, ông có thể hiểu được những lời dạy Pháp thâm sâu của Đức Phật.

Những người trước đây coi thường ông dần bắt đầu tôn trọng ông và không còn cười nhạo ông nữa.Tôn giả Bàn Đặc có lần theo Đức Phật và bốn trăm chín mươi chín vị đệ tử của Ngài đến nhận cúng dường từ vua A-nậu-đạt.

Đi đến ao A-nậu-đạt, Đức Phật căn dặn các đệ tử: "Mỗi người uống một ít nước tám công đức trong ao, vì sau khi uống nước tám công đức các ngươi có thể biết được ngay cảnh tượng kiếp trước của mình".

Lúc này, Đức Phật để các đệ tử lần lượt kể lại cho đại chúng nghe những gì họ đã thấy ở kiếp trước sau khi uống nước.Khi đến lượt Bàn Đặc, ông tuân lời và giải thích lý do tại sao mình lại ngu dốt đến như vậy.

Ông nói: "Thưa đại chúng, nhiều kiếp trước, tôi là một người chăn nuôi lợn.

Một ngày nọ, tôi đang lùa một đàn lợn ra chợ bán.

Đi được nửa đường, bị một con sông cản trở.

Để bắt kịp phiên chợ buổi sáng, tôi Không thể dừng lại, tôi dùng dây thừng trói từng con lợn lại, nhưng sợ chúng hét ầm ĩ trên sông nên tôi dùng vải bông bịt chặt miệng từng con lợn một.

Tôi dùng tay siết chặt sợi dây rồi từ từ qua sông, khi tôi đã tới bờ và kéo đàn lợn lên, vì miệng lũ lợn này bị tôi dốt nát bịt chặt bằng vải bông nên chúng không thở được, khi qua được giữa sông, một đàn lợn sống sờ sờ đã bị chết ngạt, lợn chết ra chợ bán rất khó, nên tôi mất hết toàn bộ vốn liếng, từ đó cuộc sống của tôi rất khốn đốn, tôi thường xuyên đứng thẩn thờ bên bờ sông, ngơ ngác nhìn dòng nước, không nghĩ ra được lối thoát cho bản thân mình.

Một ngày nọ, có một vị cao tăng đến đó, thấy tôi rất đáng thương, thuyết phục tôi xuất gia và dạy tôi cách tu hành.

Khi chết tôi được sinh lên cõi trời, hưởng hết mọi phúc lành ở cõi trời, tiếp đó tái sinh vào cõi người, vì tôi bịt miệng heo, do nghiệp lực làm tổn thương nhiều sinh mệnh nên kiếp này tôi phải gánh chịu quả báo ngu dốt.

Vì nhân duyên kiếp trước làm tu sĩ, nên kiếp này được gặp Phật tổ và cho đến hôm nay chứng đắc quả A La Hán."

Câu chuyện này dạy cho chúng ta biết rằng, trong đạo Phật, ngu dốt cũng được, nhưng chúng ta phải chân thành, tử tế, giản dị và biết giữ giới.

Chỉ cần chúng ta dùng những nhân duyên tốt lành trong tâm mình để tinh tấn tu Phật pháp và giữ chặt thân, khẩu, ý của mình cho tốt thì chắc chắn Bồ Tát sẽ đến cứu độ chúng ta.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 51 :TỪ BỎ VỌNG TƯỞNG, PHI TƯỞNG, PHI PHI TƯỞNG 25/4/2020


⭐ BTPP - Tập 51 :TỪ BỎ VỌNG TƯỞNG, PHI TƯỞNG, PHI PHI TƯỞNG

25/4/2020Thực ra, cuộc sống là một loại cân bằng, khi chúng ta sống trên thế giới này, trên thực tế là muốn đạt được một loại cân bằng nào đó, nếu có được cái này thì chắc chắn sẽ mất hoặc bỏ lỡ cái kia, nên đôi khi quý vị muốn có được tất cả mọi thứ trên thế gian này, nhưng cuối cùng quý vị lại mất đi nhiều hơn, bởi vì tâm quý vị không cân bằng.

Thế nên Sư phụ bảo mọi người, đôi khi đừng mong đợi sự công bằng tuyệt đối trong cuộc sống hay muốn sự việc này nhất định phải có được sự công bằng.

Thực ra, chữ "công bằng" giống như hai đầu của một chiếc cân, đầu này cho đi càng nhiều thì đầu kia càng có hy vọng.

Cũng giống như giữa bạn bè, giữa vợ chồng, giữa con cái với nhau, thực ra, chỉ cần một người chịu đựng nhiều hơn thì sẽ có thêm hy vọng.Khi chúng ta đang ở giữa muôn vàn mâu thuẫn của thế giới này hay khi cuộc đời đang đi đến bờ vực thẳm, đừng quá bi quan, bởi cuối cùng chúng ta sẽ lần lượt vượt qua được những trở ngại và tiến về phía trước.

Khi quý vị ở dưới đáy vực thẳm, đừng thất vọng; khi quý vị đang ở đỉnh cao của cuộc đời, hãy nhớ rằng đây chỉ là tạm thời và đừng để bị nó cuốn đi.

Khi một số người đạt đến đỉnh cao hoặc đạt được vị trí rất cao trong đơn vị công tác của mình, nên nghĩ rằng cuối cùng có khả năng chính mình cũng sẽ bị xuống chức.

Trong cuộc sống đừng quá cố chấp, một tâm lý quân bình sẽ giúp quý vị học Phật tốt.

Đôi khi quý vị đưa ra lựa chọn, bản thân chỉ cần nỗ lực, kiên trì và bước đi trên con đường này với lương tâm trong sáng là được.

Cuộc đời của mỗi người không gì khác hơn là đang bước đi trong quá trình sống của chính mình.

Mỗi chúng ta đều đang bước đi trong quá trình sống: "Vinh hoa hoa gian lộ, phú quý thảo thượng sương" (vinh hoa như sương giữa hoa, phú quý như sương trên cỏ).

Hết thảy đều là hư ảo, sở hữu nhiều hơn sẽ mang lại cho quý vị nhiều áp lực hơn và khiến quý vị gặp thêm nhiều phiền não.

Vì vậy, sinh không mang đến, chết không mang theo, chúng ta nên để tự nhiên diễn ra theo quy luật của nó và chúng ta nên hiểu ý nghĩa của việc hài lòng với mọi thứ khi chúng đến."

Bạch Thoại Phật Pháp" nói với mọi người rằng, ở nhân gian có rất nhiều việc không nên nhìn quá rõ ràng, đôi khi nhìn thấu tự mình sẽ cảm thấy đau lòng, đôi khi gặp một số phiền não thì hãy tùy duyên là được.

Trong kinh Phật thường có câu "không thể nói ra được", trên đời có nhiều chuyện chỉ có thể hiểu, nhưng không thể diễn đạt bằng lời, nói cách khác những điều có thể cảm nhận được trong lòng, không nhất thiết là điều đó có thể viết hay nói ra thành lời.

Loại cảm nhận bên trong và nhiều trạng thái bên trong đó chẳng phải muốn viết là có thể viết ra được.

Cũng giống như trải nghiệm học Phật của mỗi người đều khác nhau, đôi khi đó là một loại ngộ tánh, một loại giác, một loại thụ, cho nên tu tâm là để giác ngộ cái tâm này của mình.Đức Phật giáo hóa chúng sinh để chúng ta nên từ bỏ những vọng niệm và chấp trước, chúng ta không nên cố chấp và không được có vọng niệm, nên Đức Phật yêu cầu chúng ta nhập vào trạng thái phi tưởng phi phi tưởng.

"Phi" có nghĩa là không, không phải.

Ví dụ, nói không làm điều gì đó - tức là phi dã; không làm, đừng làm như thế - tức là phi.

"Phi tưởng" có nghĩa là đừng nghĩ về nó.

"Phi phi tưởng" có nghĩa là không phải không nghĩ về nó.

"Phi tưởng phi phi tưởng", cũng có nghĩa là đừng nghĩ về nó, nhưng không có nghĩa là đã bước vào trạng thái hoàn toàn không nghĩ về nó, điều này dựa vào sự giác ngộ của quý vị.

Trên đời có rất nhiều việc, quý vị làm cũng được, không làm cũng được, có những việc được làm, nhưng có những việc không được làm, thực ra vừa có thể được làm mà cũng vừa không được làm, vừa muốn làm mà cũng vừa không được muốn làm.

Đây chính là cuộc sống, cần dựa vào sự hiểu biết và ngộ tánh.Tại sao con người chúng ta có nhiều điều không thể nói được?

Bởi vì khi muốn nói điều gì đó, quý vị sẽ có tâm ích kỷ trong đó và quý vị sẽ có vọng niệm về điều mình muốn nói.

Vì thế, bất kì ai khi nói ra, ngoài mục đích nói chuyện ra chắc chắn vẫn còn có nhiều tạp niệm ích kỷ, trong đó có cái tôi muốn biểu hiện, câu nói này tôi nói ra đều có chút tâm ghen tị, tâm tham, tâm ngu si trong đó, mỗi câu nói khi thốt ra luôn mang một ít vọng niệm, hoặc nói: "Tôi có thể cảm nhận được gì trong cái tâm tư lợi này?"

Vì vậy, khi một người không thể diễn đạt được ý mình, nếu họ nhất quyết nói ra, chắc chắn sẽ xảy ra chuyện.

Kinh Phật thường dạy chúng ta "Bất khả thuyết"(không thể nói ra được), Đức Phật đã khai thị rất nhiều trong kinh sách và Phật ngôn Phật ngữ nhằm giáo hóa tất cả chúng sinh và cho chúng ta biết cách làm như là phương sách cuối cùng.

Khi thực sự không thể kiềm chế được về mặt tinh thần, thì chúng ta phải hiểu rõ, tức là thông qua học tập hàng ngày và cuối cùng nó có thể đi vào lòng mình để cảm nhận và hiểu nó.

Đây chính là đạo lý mà Thiền tông nói về việc "không dính mắc vào văn tự".

Khi một người học Phật càng về sau mà suốt ngày nói chuyện với người khác về ngôn từ, thì người đó đã bị dính mắc vào ngôn từ.

Sự thực hành chân chính của đạo Phật là dùng trí tuệ để giải thoát tư tưởng của chính mình.

Kinh điển Phật giáo có câu: "Có những điều có thể nói mà không thể làm được, có những điều có thể làm nhưng không thể nói và có những điều không thể nói cũng không thể làm".

Đây là khả năng hiểu biết của mỗi người.

Khi học được tinh hoa sâu sắc của Kinh Phật, sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự giác ngộ của mỗi người và nó hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất của thức Amala (tức là thức thứ chín) bên trong quý vị để phù hợp với thức Alaya (tức là thức thứ tám) của quý vị, để chúng có thể được hòa hợp với nhau.

Sư phụ sẽ giải thích cho mọi người biết việc gì nói được mà không làm được, ví dụ đơn giản là khi người khác làm sai thì mình phải nói họ, bằng không nếu không nói thì lại không được.

Nhưng nếu nói với họ rồi mà bản thân mình lại không thể làm việc đó được, vì thế mới nảy ra một câu: "Nếu tôi như bạn thì sao?

Nếu tôi đối xử với bạn như vậy thì sao?"

Cho nên có những điều có thể nói được, nhưng quý vị có thể đối xử với họ như vậy không?

Quý vị có thể làm được như thế này không?

Đây chính là kinh điển, kinh điển của Phật giáo.

Sư phụ lại đưa ra một ví dụ khác, việc gì có thể làm mà không thể nói?

Đó chính là hãy hành động như Phật, làm tốt những việc của Bồ Tát, mỗi ngày làm công đức.

Nhưng đối với những chúng sinh không có duyên, một khi quý vị đã "nói" với họ rồi, ví dụ như quý vị nói với họ "phải ăn chay trường."

Kết quả là dẫn đến họ tạo khẩu nghiệp và nói: "Sơn hào Hải vị cũng không ăn thì bạn đến nhân gian để làm gì?

Thậm chí đến hưởng thụ cũng không biết hưởng nữa".

Và còn nói: "Thịt và rượu thông qua ruột v.v..."

Họ tạo khẩu nghiệp và tiếp đó quý vị đã giúp họ gánh nghiệp rồi.

Vì vậy, có một số việc nếu quý vị tự mình làm, chính là quý vị đang thực hành con đường của Bồ Tát, nhưng nếu gặp một người không có duyên, không nhất thiết phải nói với họ.

Có những điều đã không thể nói, lại không thể làm, điều gì không thể nói và không thể làm, đó chính là suy nghĩ bẩn thỉu trong lòng mình.

Vừa không thể nói ra, lại không thể làm nó.

Nếu làm thì sẽ có nhân quả, nếu không làm thì sẽ không có nhân quả.

Cho nên kinh điển trong kinh Phật đều xuyên suốt trí tuệ học Phật, học càng về sau, trí tuệ của con người sẽ ngày càng khai ngộ, con người sẽ khác đi, giống như trong "Tâm Kinh" có câu: "Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc".《Bát nhã ba la mật đa tâm kinh》do Hòa thượng Huyền Trang dịch vào thời nhà Đường, thực ra nó là tinh hoa của Thiền tông.

"Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, thị tưởng hành thức, diệc phục như thị".

"Sắc" mà Phật gia nói đến ám chỉ vạn vật và con người có thể nhìn thấy bằng mắt, thực ra câu này nói với chúng ta rằng, chúng ta phải hiểu Sắc chính là Không, và đó là khái niệm Thiền học về bản tánh Không trong vạn vật.

Mọi người nghĩ mà xem, mọi thứ trên thế gian này từ có được đến cuối cùng rồi cũng sẽ mất đi, dù nó mất đi một cách tự nhiên hay do quý vị rời khỏi thế gian này mà mất đi, hết thảy đến cuối cùng đều trống rỗng.

Chúng ta đã từng có nó nhưng cuối cùng lại đánh mất nó.

Chúng ta từng sở hữu nhiều ngôi nhà nhưng cuối cùng lại mất hết; chúng ta sở hữu rất nhiều trong đời nhưng cuối cùng lại mất hết.

Cái lý niệm này chính là để cho chúng ta cần phải biết khai ngộ.Bồ Tát cho chúng ta hiểu rằng "Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc" chính là để cho chúng ta không nên "chấp tình" với vạn vật - bám víu vào cảm xúc này, "Ngôi nhà này tôi rất quý nó, tôi thực sự rất thích" "Tôi yêu anh ấy rất nhiều, tôi không thể buông anh ấy được" ...

Kinh Phật dạy chúng ta đừng dính mắc vào cảm xúc này, bởi vì cảm xúc này là trống rỗng.

"Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc".

Chỉ cần quý vị còn dính mắc vào những thứ trống rỗng này thì tiếp theo đó trong lòng quý vị sẽ không được tự tại và không được thoải mái, quý vị đang bàn về tánh Không, luận về tánh Không nhưng lại đi lưu luyến tánh Không.

Rành rành quý vị biết rõ người này sẽ rời xa mình, nhưng quý vị vẫn lưu luyến họ và cuối cùng điều mà quý vị nhận được chính là sự trống rỗng.

Khách sạn này thật tuyệt khi ở lại nửa năm, thậm chí một tháng, thật tuyệt và dịch vụ rất tốt, nhưng quý vị nên biết rằng cuối cùng quý vị cũng sẽ rời xa nó.

Như cơ thể của quý vị, biết rằng cha mẹ đã cho mình mượn cơ thể này, cũng chỉ bảy tám mươi năm, nhưng quý vị đã chấp vào cái thân này, mỗi ngày dành bốn năm giờ trang điểm, thẩm mỹ cho nó, cuối cùng thân xác này rời bỏ quý vị khiến quý vị đau buồn, cho nên đây chính là "Sắc tức thị Không".

Bởi vì những thứ quý vị nhìn thấy chính là sự trống rỗng, nhưng quý vị lại luyến nó, cảm thấy sự trống rỗng này là có thật, quý vị hoài niệm nó và bám chấp vào những phức cảm trống rỗng này, vậy thì quý vị sẽ không hiểu "Không tức thị Sắc" nghĩa là gì.

Điều đó chính là bởi vì quý vị luyến Không tánh, nên quý vị đã không chú ý đến việc trong Không này còn có Sắc - là những vật thể và mọi thứ mà quý vị nhìn thấy được.

Vậy nên, phải nhìn thấu nó, phải chiếu kiến ngũ uẩn giai không và phải thấy được bản chất của nó.

"Tâm Kinh" trong kinh Phật dạy chúng ta rằng nếu muốn trong lòng tự tại, hoàn toàn không bị những thứ Không và Sắc làm vướng bận, nếu muốn có được sự tự tại lớn lao trong tâm, chúng ta không chỉ phải hiểu cái gì là "Không", mà còn trong tánh "Không" biết sử dụng cái "Sắc" của thế gian (tức là hình tướng) để hoàn thành Tánh Không trong tâm mình, nên đừng Luyến Không.

Thọ, tưởng, hành, thức đều là cảm xúc của quý vị.

"Tâm Kinh" nói rất rõ ràng rằng "thọ" là cảm giác, "tưởng" là tư duy, và "hành" là ý thức do hành vi bên trong hình thành.

"Diệc phục như thị"- tức là cũng như thế này, tất cả đều như vậy, cuối cùng nó là "Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc".

Lấy một ví dụ đơn giản, hôm nay quý vị nghĩ: "Thật tuyệt vời.

Trong vòng một năm tôi có thể nhận được một ngôi nhà tốt do công ty sẽ tặng nó cho tôi hay gì đó.

Tôi rất hạnh phúc".

Nhưng cuối cùng ngôi nhà này cũng trả lại cho công ty và nó chỉ để cho quý vị ở tạm, đó có phải là "diệc phục như thị" không?

Quý vị có hài lòng với trí tưởng tượng và cảm xúc của mình lúc đó không?

Chính phủ Úc đặc biệt phân bổ rất nhiều nhà cho người già ở suốt đời nhưng ngôi nhà này không phải của họ, khi họ qua đời, chính phủ sẽ lấy lại ngôi nhà này.

Chẳng phải đây chỉ là "diệc phục như thị" thôi sao?

Lúc đó quý vị cảm thấy "Tôi có một ngôi nhà và tôi có thể sống ở đó mãi mãi", nhưng cuối cùng ngôi nhà này có phải là của quý vị không?

Nó đã sớm nói với quý vị là "diệc phục như thị" - tức là như thế đó, nó không phải của quý vị và cuối cùng nó cũng không phải của quý vị, quý vị không thể có được nó.Trong "Tâm Kinh", cho rằng luyến lưu thế sự (luyến có nghĩa là hoài niệm, "Tôi yêu thứ này để chiếm đoạt nó") thực chất là tình yêu trống rỗng.

"Hôm nay tôi hoài niệm, nơi này đẹp quá".

Tuy nhiên yêu càng về sau, mọi thứ đều là trống rỗng, gọi là "Luyến Không", thực ra không có gì khác biệt.

Chúng ta nhớ lại những tiếng cười hồn nhiên, niềm hạnh phúc như trẻ thơ, sự trưởng thành vô tư, cuộc sống không có áp lực của tuổi thơ, hoài niệm về nó, chúng ta nhớ về tuổi thơ của mình, thực ra thứ chúng ta nhớ chính là Luyến Không, vì cuối cùng chẳng có gì cả.

Nếu quý vị chấp vào nó, không buông nó thì cuối cùng sẽ đánh mất nó, đó chính là "Sắc tức thị Không", cuối cùng sẽ gây ra rất nhiều phiền não trong tâm mình, vì quý vị không thể có được nó.

Vì vậy, kinh Phật nói rằng mọi sự vật, hiện tượng có thể nhìn thấy được hoặc không thể nhìn thấy được, thực chất chỉ là ảo ảnh do sự phù phiếm của cuộc sống chúng ta gây ra.

Nói cách khác, thứ quý vị thích hôm nay chính là ảo ảnh của quý vị và thứ mà quý vị hoài niệm hôm nay cũng chính là ảo ảnh của quý vị, bởi vì nó chỉ là tạm thời được sở hữu, tạm thời hiển thị cho quý vị nhìn thấy và tạm thời cho quý vị nghe được những bản nhạc tuyệt vời.

Giống như một người đang tham dự một buổi hòa nhạc, người này đặc biệt bị cuốn hút bởi âm nhạc hoặc ca sĩ, sau khi buổi hòa nhạc kết thúc ra về, mọi thứ đều trống rỗng, sân bãi đã rỗng không, các diễn viên cũng không còn, tất cả người hâm mộ đều đi hết.

Họ vẫn còn nán lại ở đó, không muốn rời đi, cuối cùng nó được gọi là Chấp Không, gọi là Luyến Không.

Tâm Kinh nói rằng "Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc".

Mọi tưởng tượng và mọi nhận biết của quý vị cuối cùng sẽ "diệc phục như thị" - tức là đều là như thế đó, và cuối cùng tất cả sẽ trống rỗng.

Tâm Kinh thật tuyệt vời.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 52 : KIẾN - TU - HÀNH LÀ CHÌA KHÓA CỦA SỰ CHỨNG NGỘ 25/04/2020


⭐ BTPP - Tập 52 : KIẾN - TU - HÀNH LÀ CHÌA KHÓA CỦA SỰ CHỨNG NGỘ

25/04/2020Thầy dạy mọi người rằng chúng ta không nên để đầu óc thường xuyên có những suy nghĩ viển vông, ảo giác, bởi vì những thứ đó là trống rỗng, nếu nghĩ đến chúng thì cuối cùng chúng cũng sẽ trống rỗng mà thôi.

Khi quý vị tưởng tượng, thì không gian tưởng tượng này tạo ra một loại Sắc - có thể nhìn thấy và tưởng tượng ra được đó chính là một loại Sắc, và cuối cùng loại Sắc này là trống rỗng.

Thực ra, “Sắc tức thị Không” cho chúng ta biết rằng mọi hiện tượng mà chúng ta thấy và nhận biết, cũng như nhiều đau khổ và phiền não trên thế gian này, thực ra đều do ảo tưởng gây ra.

Kinh Phật dạy chúng ta rằng: Đau khổ là tạm thời và sẽ quên theo thời gian; hạnh phúc cũng là tạm thời và sau nhiều năm, nó là ảo ảnh và cũng không còn nữa.

Hết thảy “Sắc tức thị Không”, Không càng về sau sẽ xuất hiện một đời sống huyễn ảo, đây là điểm chung.

Điểm chung là từ hiện hữu đến hư vô, từ hư vô đến hiện hữu, tức là “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”.

Thực ra, ở đây chính là mối quan hệ giữa nhân duyên và quả báo, điều này cho chúng ta hiểu rằng mọi thứ trên thế gian này đều là do duyên phận mà tồn tại, nhân quả nhất định sẽ có báo ứng, thiện ác đều có tính tuần hoàn.

Nhiều người thường hỏi: “Kiếp trước tôi đã làm gì?”

Đừng hỏi Thầy, kinh Phật xưa kia đã dạy: Yếu tri tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị (Muốn biết cái nhân về kiếp trước của ai thế nào?

Cứ nhìn vào sự hưởng thụ kiếp này của người ấy khắc biết).

Hôm nay quý vị có cuộc sống rất tốt, vô lo vô nghĩ, không đau khổ nhiều, chắc chắn kiếp trước quý vị đã tích phúc tích đức.

Nhiều người đến hỏi Thầy: "Thưa Sư phụ, kiếp sau con sẽ gặp quả báo gì?

Con có thể lên trời được không?

Con có thể tái sinh vào gia đình khá giả không?

Con sẽ không trở thành ngạ quỷ phải không?"

Kinh Phật nói: Yếu tri hậu thế quả, kim sinh tác giả thị (Muốn biết cái quả kiếp sau của ai thế nào?

Cứ xem ngay việc làm ở kiếp này của người ấy khắc biết).

Đời này quý vị đang làm việc thiện chắc chắn sẽ được thiện báo - ba cõi thiện: cõi trời, cõi A-tu-la, cõi người đều thuộc về ba cõi thiện, nếu đời này quý vị không chăm chỉ làm việc thiện, mà làm điều ác, vậy thì địa ngục đang chờ đón quý vị, cõi ngạ quỷ đang chờ đón quý vị, cõi súc sinh đang chờ đón quý vị.

Vậy quý vị có còn muốn hỏi người khác nữa không?

Hãy tự hỏi chính bản thân mình là đã rõ.“Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc” là cơ sở để thuyết phục con người làm điều thiện.

“Đừng cố chấp nữa.

Không sao cả.

Bạn phải buông bỏ nó.

Nếu bạn có được thứ này, sau này nó cũng sẽ không còn nữa" - Thuyết phục người ta hướng thiện phải vậy không?

Nhiều người khi quý vị khuyên, họ không nghe đâu: “Nhà tôi rất giàu có, tôi khấu đầu để làm gì?

Tôi có tiền, tôi nổi tiếng, tôi có danh, tôi có lợi, tôi không thiếu thốn gì nên tôi không cần phải lạy”.

Khi đó quý vị hãy nói với họ: “Nó là vô thường, mọi thứ trên thế gian này cuối cùng đều trống rỗng, Sắc tức thị Không.”

Khi đó, họ biết rằng cuối cùng một ngày nào đó sẽ không có gì và mất đi tất cả, vì vậy họ sẽ có đủ kiên nhẫn để tinh tấn học Phật.Điều tiếp theo sẽ nói với mọi người đó là từ kinh điển Phật giáo.

Học Phật đòi hỏi phải kiến giải, tu chứng và hành nguyện, cương lĩnh của việc học Phật đã được đưa ra là một thể ba ngôi “Kiến-Tu-Hành”.

“Kiến” là cái thấy, kiến giải của quý vị; “Tu” là tu chứng, chứng được sau khi trau dồi tâm thức, là đã minh bạch rồi; “Hành” là thực hành những lời nguyện, là hành vi của quý vị.

Nếu quý vị đọc tất cả kinh điển theo ba nguyên tắc chỉ đạo này, thì quý vị sẽ dần dần hiểu được ý nghĩa và nội hàm chân lý của kinh điển.Học Phật cần phải có công phu, công phu có nghĩa là nổ lực chăm chỉ và tinh tấn.

Học phải dụng công và dụng công phải đúng cách, nếu dụng công không đúng cách vậy thì đã dụng sai công rồi.

Nhiều người học không có thầy, tự mình tu tập một cách mù quáng, cuối cùng kiến giải lại không đúng — Những quan điểm, hiểu biết về học Phật và cuộc sống đều sai lầm.

Cái thấy của họ sai thì cái lý sẽ sai và không phải là lý luận đúng rồi.

Nhiều người học Phật học càng về sau dồn ép người khác: “Học Phật không được như vậy, phải làm như vầy…”

Quan điểm của họ là sai lầm.

Những quan điểm sai lầm sẽ dẫn đến những sai lệch về sự vật và con người.Nếu quan điểm đã sai, thì hành nguyện sẽ không thực hiện được và sẽ không hành nguyện nữa.

Hành nguyện là gì?

Là có nguyện lực phải thực hành, phải làm nó.

Không hành nguyện thì làm sao công đức viên mãn được đây?

Chúng ta thường nói với mọi người rằng “công đức viên mãn”, công đức phải viên mãn và đầy đủ, phải hiểu được viên mãn.

Tại sao có lúc sự kiến giải của quý vị không đến nơi đến chốn?

Tại sao sự kiến giải đó lại có sai lệch, không trọn vẹn?

Bởi vì quý vị chưa thể tu đến chứng đắc, cũng chưa thể tu tâm đến chứng đạo.

Chưa thể chứng đạo nghĩa là gì?

Tu tâm không đến nơi đến chốn.

Ví dụ, hôm nay trong năm giới quý vị giữ hai giới, thì có được xem là đến nơi đến chốn không?

Quý vị nói: "Tôi không sát sinh, tôi không trộm cắp".

Quý vị đã giữ hai trong năm giới, điều đó là tốt.

Nhưng quý vị lại nói dối, uống rượu và lại tà dâm, vậy nói xem quý vị có phải là người tốt không?

Nếu quý vị giữ không đến nơi đến chốn, thì có thể đạt được sự viên mãn không?

Nếu trí tuệ của quý vị không đủ viên mãn, thì thực hành nguyện lực của quý vị sẽ không đủ viên mãn, và nguyện lực vĩnh viễn sẽ không bao giờ viên mãn.

Khi quý vị hành nguyện với Bồ Tát và nói: “Bồ Tát, con nhất định như thế này”, điều đó không viên mãn.

Năm giới là năm giới, tám giới là tám giới, hôm nay tôi có thể giữ được bao nhiêu giới, cần giữ như thế nào thì phải giữ như thế nấy.

Nếu tôi có nguyện lực làm người không nói dối thì tôi không thể nói dối thêm lần nào nữa, đó gọi là giữ giới.

Nếu nguyện lực không viên mãn và hành nguyện không đến nơi đến chốn thì công đức chắc chắn sẽ không viên mãn; nếu công đức không đủ viên mãn thì sẽ có vấn đề về kiến giải và tu chứng.

Có phải kiến giải của những người có công đức không viên mãn là sai lầm chăng?

Năng lực hiểu biết về Phật Pháp trong quá trình tu tâm chứng đắc nhất định sẽ xuất hiện vấn đề, bởi vì cả 3 điều trên là 1 thể đồng nhất của nhau.

Vì vậy, nếu hành vi và nguyện lực không đến nơi đến chốn thì sẽ có vấn đề về kiến giải và tu tập.

Sư Phụ đưa ra một ví dụ đơn giản, hôm nay quý vị làm phụng sự viên, “Ồ, tôi làm phụng sự viên rồi, tôi làm một chút việc tốt rồi thấy không.”

Quý vị có nghĩ rằng mình có thể đạt được công đức viên mãn không?

Hôm nay quý vị làm phụng sự viên, thì phải vì chúng sinh một cách chân thật, trực ở đó phải đứng ra tướng đứng, ngồi ra tướng ngồi đàng hoàng thì chúng ta mới bảo vệ được Phật Pháp vĩ đại của mình như một vị thần Hộ Pháp.

Đây là điều mà Sư phụ muốn dặn dò mọi người, hãy đặc biệt cẩn thận với “tam vị nhất thể”.Thực ra, điều khó nhất trong việc học Phật là tâm từ bi, vì không phải ai cũng dễ có tâm từ bi, ai cũng đã từng nói “Tôi phải từ bi với bạn”, khi cãi nhau rồi, thì có tâm tư bi nữa không?

Không sẵn lòng giúp đỡ người khác thì quý vị có tâm từ bi không?

Khi nguyện lực chưa đủ viên mãn thì có được tâm từ bi không?

Do đó, quý vị phải thực sự phát khởi tâm thực hành nguyện lực, thì quý vị sẽ có được tâm từ bi.

“Tôi có nguyện lực này, tôi phải thực hiện, tôi muốn làm người tốt, từ nay trở đi tôi sẽ học Chánh đẳng Chánh giác của Bồ Tát, về sau tôi mới có thể trở thành Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”

Quý vị nhất định phải có nguyện lực này.

Nếu quý vị cứ nói: “Tôi muốn giúp đỡ người khác, tôi muốn từ bi với người khác, và tôi muốn cứu độ người khác,” quý vị cứ nói như vậy, trong khi ngày nào cũng ngủ nướng không muốn thức dậy tụng kinh.

Một ngày quý vị có thể tụng bao nhiêu tờ Ngôi Nhà Nhỏ?

Một ngày quý vị có thể tụng bao nhiêu biến kinh?

Chớ đừng nói đến việc giúp đỡ người khác.

Để giúp được người khác phải hy sinh tất cả, phải hy sinh thời gian quý báu của mình, phải như vậy không?

Phải cho đi tâm từ bi của mình, phải như vậy không?

Phải hy sinh rất nhiều thời gian nghỉ ngơi, thời gian vui chơi của mình, hay cuộc sống thoải mái mà bản thân có được, tất cả những thứ đó phải bị phá vỡ thì mới có được nguyện lực.

Vì vậy, đôi khi nói thì dễ nhưng làm lại khó.

Nếu đơn thuần chỉ nói đến việc tu tập thì cũng vô ích, phải có cái tâm công đức và lập tâm công đức trong lời nguyện của mình, “Hôm nay tôi thực hành điều nguyện điều này, thì tôi nhất định phải làm công đức và phải đối xử với chúng sinh tốt.”

Bằng không, quý vị sẽ không có cách nào hoàn thành được lời nguyện này, khi đó không có cái Công này, cũng không có cái Đức này.Phật giáo tại thế gian, trên thực tế là để dạy cho chúng ta: con người cần phải kiến giải.

Thế nào là kiến giải?

Là nhìn thấy sự thật và hiểu sự thật của thế giới này, chính là đang hành nguyện.

Khi quý vị có thể hiểu được mọi điều thiện và điều ác trên thế gian này, là quý vị đang thực hành thệ nguyện của mình.

Thế giới này là thế giới ngũ trược ác thế, ngũ trược gồm có phiền não trược, kiến trược, mệnh trược .v.v… rất khó vượt qua.

Trong thế giới ngũ trược ác thế này quý vị hành bố thí như thế nào?

Nếu quý vị làm điều thiện trong thời Mạt Pháp thì mọi người sẽ cười nhạo quý vị: "Sao bạn ngốc thế?

Cậu ấy không tự mình làm được việc đó sao?

Tại sao bạn lại đi giúp cậu ta?"

Có rất nhiều sự phản kháng.

"Tại sao bạn phải đối xử tốt với cậu ta?

Cậu ấy không thân không thích gì với bạn tại sao bạn lại như vậy?

Bạn không phải là đại ngốc chứ?"

Đây chính là ngũ trược ác thế, bởi vì lý niệm của con người đều trái ngược.

Thời bây giờ ai mà sẵn sàng giúp đỡ người khác?

Nếu không có lợi ích, sẽ không giúp đỡ người khác, nếu chưa nhận được lợi ích, sẽ càng không mở lòng giúp đỡ người khác.

Điều đó còn phụ thuộc vào việc nhận được bao nhiêu lợi ích.

Nếu nhận được nhiều hơn, thì giúp đỡ; nếu nhận được ít hơn, nhận được rồi cũng có thể sẽ không giúp.

Đây là lý niệm thời bây giờ.

Vì thế chúng ta cần mọi người cúng dường công đức và lòng từ bi của mình.

Trong ngũ trược ác thế này, giới luật khó mà giữ được, ai cũng sống trong tham, sân, si, mạn, nghi.

Ở thế giới này, chúng ta muốn truyền bá Phật pháp thật là thống khổ, mọi người đều dùng mánh khóe và sống vì tư lợi, làm sao chúng ta có thể tự độ mình, còn phải độ người ở thế gian này đây?

Thế nên phải có công đức viên mãn.Kỳ thực, đây là “Đệ nhị nghĩa” trong kinh Phật, xét từ góc độ siêu hình, tức là xét từ quan điểm hình thức, không có sự phân biệt giữa thế gian và phi thế gian.

Nhiều người nói, dù quý vị tu pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, cũng có nghĩa là, dù quý vị đang tu nhân thiên phúc báo hay quý vị đang tu con đường lên thiên trong tương lai, thì thực tế đều giống nhau.

Hôm nay ở nhân gian quý vị làm việc thiện thì nhất định sẽ được lên thiên giới, cũng sẽ có được nhân thiên phúc báo.

Nếu hôm nay ở nhân gian quý vị không làm việc thiện và quý vị nói: “Tôi nhất định sẽ lên thiên thượng khi tôi rời khỏi thế gian này”, vậy quý vị lên thiên thượng bằng cách nào?

Nếu quý vị không muốn làm điều tốt ở nhân gian, thì làm sao quý vị có thể lên được thiên thượng để trở thành Bồ Tát hay Phật?

Thậm chí quý vị cũng không thể lên được đến cõi A-tu-la.Trong “Kinh Lục Tổ Đàn” nói: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”, chính là để dạy cho chúng ta rằng Phật pháp luôn ở quanh ta, nó không rời khỏi chúng ta, ta phải giác ngộ ngay trong thế gian này và không thể tìm kiếm sự giác ngộ nếu chúng ta rời khỏi thế gian này được.

Chỉ khi đau khổ mới muốn xuất ly; khi một người đang rất an nhàn, làm sao người đó có thể nghĩ đến việc tìm kiếm sự giải thoát?

Nếu hôm nay không bị xiềng xích trói buộc, thì làm sao có thể nghĩ đến việc cởi xiềng xích?

Vậy nếu không có nỗi đau, quý vị không biết hạnh phúc là gì và ý nghĩa của nó ra sao.

Nếu không có phiền não, làm sao quý vị biết thế nào là thanh tịnh và thế nào là bình yên?

Ngày xưa chúng ta có biết bao phiền não, bây giờ yên tĩnh hơn một chút rồi đúng không?

Bởi vì quý vị biết phiền não là gì, nên mới biết tạo nên yên tĩnh.

Tâm quý vị tĩnh lặng và bình an, tuy trước đây quý vị gặp phiền não nhưng bây giờ quý vị đã trở nên bình yên và tĩnh lặng, điều này có nghĩa là “Phiền não tức Bồ-đề” rồi, bởi vì bây giờ quý vị đã có được Bồ-đề tâm nên quý vị đã tịnh lại được."

Ly thế mịch Bồ Đề."

Nếu quý vị thực sự muốn thoát ra khỏi thế gian này để tìm trí tuệ Bồ Tát, quý vị phải biết rằng đó là đã thoát ra khỏi Tam giới và không còn trong Ngũ hành.

Bản thân đã ở trong cõi Phật, cõi Bồ Tát, cõi Thanh Văn, và cõi Duyên Giác, đều đã giác ngộ ở thiên thượng, thân đã ở trong Bồ-đề, không cầu Bồ-đề, vì đã là Bồ-đề.

Và chính vì chúng ta còn ở trong nhân gian, vì vậy chúng ta phải biết cách đạt được sự giác ngộ mà không cần thoát khỏi thế gian này.

Rời khỏi thế gian này để tìm Bồ-đề thì làm sao quý vị có thể đạt được sự giác ngộ?

Phật giáo Đại thừa nói rằng “Phật pháp tại thế gian”, nhưng thực ra nó ám chỉ đến “Hành Môn”.

Dù chúng ta thiền định, tu tâm, tụng kinh hay phóng sinh, đó cũng chỉ là một trong những cửa thực hành - một phần vạn hay một nghìn phần trăm, hãy thực hành và tu sửa.

Thực ra, nếu lấy đạo Phật để làm người, làm việc là đang thực hành “cửa” của đạo Phật.

Hiện nay chúng ta có “Pháp Môn Tâm Linh”, cái “Pháp” này là pháp của Phật, trong tâm linh có pháp của Phật, “Cánh cửa” này chưa rời khỏi thế gian, là để giảng dạy Phật pháp ở nhân gian để mở ra cánh cửa này và để mọi người bước vào con đường Phật môn tốt nhất của Phật giáo.

Nhất thiết không được nghĩ rằng sau khi chúng ta xuất thế và rời khỏi thế giới này mới có được Phật pháp, thực ra chúng ta ở thế gian này là đã không thể rời khỏi được Phật pháp của thế gian này rồi, bởi vì chỉ có ở thế gian này chúng ta mới có thể tìm được Phật pháp chân chính.Hy vọng rằng một mặt quý vị có thể tu Đạo, mặt khác quý vị nên ngẫm nghĩ về tất cả những công danh phú quý, tửu sắc tài khí, quý vị có được chúng thì có ích gì?

Quý vị đã từng sở hữu nó thì có ích gì?

Nếu hôm nay quý vị vẫn không buông bỏ được thì quý vị đang mắc một sai lầm lớn.

Vì thế Sư Phụ nói với mọi người rằng hãy cố gắng khi bản thân có được Phật Pháp ở cõi nhân gian này, nếu muốn sau này tu Pháp xuất thế và có thể thành công sau khi rời khỏi thế gian này thì quý vị phải bắt đầu từ chính bản thân mình và từ bây giờ trở đi, ở nhân gian, ở trong thế giới hiện tại này quý vị hãy cố gắng mà “Hành Môn” — nghĩa là hãy thực hành Phật pháp, thực hành tốt Phật môn vĩ đại này.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 53. TĨNH ĐỊNH LÀ CHIẾU KIẾN 25/04/2020


Tập 53.

TĨNH ĐỊNH LÀ CHIẾU KIẾN 25/04/2020

“Hành nguyện” chữ “Hành” thực chất chỉ cái thấy chân chính, nói cách khác cái thấy chân chính để lý giải Phật Pháp chính là kiến giải.

Nếu quý vị không làm được thì kiến giải của quý vị sẽ trở nên vô dụng.

Nếu ngày nay quý vị hiểu được đạo Phật, thì phải thực sự thực hành.

Một người rất có tài hùng biện và hiểu biết Phật Pháp, nhưng lại không hành động như một vị Phật và không làm những việc Phật Pháp.

Vì vậy, chúng ta phải đạt được “hành” mới có thể nói đến tâm từ bi chân chính.

Từ bi có nghĩa là vô ngã, khi quý vị có thể từ bi với người khác, cảm thấy người khác đáng thương, cảm thấy người khác đang rất cần sự giúp đỡ của quý vị, thì quý vị chính là vô ngã rồi, vì quý vị đã nghĩ đến người khác rồi.Khi chúng ta nói về lòng từ bi, đó không phải là một cái “tình” mà là một loại trí tuệ.

Sở dĩ hôm nay quý vị có thể từ bi với người khác không phải là để nói: “Anh ấy có mối quan hệ tốt với tôi, tôi muốn giúp đỡ anh ấy”, mà bởi vì quý vị có trí tuệ: “Anh ấy là chúng sinh, tôi có công đức, tôi muốn hoàn thành tâm nguyện của mình và giúp anh ta được giải thoát”.

Vì vậy, từ bi của Phật giáo Đại thừa là trí tuệ, Bát nhã cũng là từ bi, Trí tuệ Bát nhã của Quán Thế Âm Bồ Tát – đại trí đại tuệ chính là đại từ đại bi.

Vì từ bi, nên sẽ có vô ngã và quý vị mới có thể có được lòng từ bi thực sự.

Hơn nữa có một số người ở nhân gian thường nói “Tôi muốn từ bi bạn”, chỉ cần quý vị nghĩ đến “Tôi muốn thương xót bạn” thì quý vị liền rơi vào hạ thừa, tức là Tiểu thừa.

Không phải quý vị từ bi với người khác mà là bổn nguyện của chính quý vị, là thực hành nguyện lực của chính mình, là Tâm Bồ-đề của Bồ Tát xuất phát từ trái tim của quý vị khiến quý vị có thể từ bi với người khác, điều này thật cao quý.

Cũng như cha mẹ yêu thương con cái, đó không gọi là từ bi mà gọi là lòng nhân từ.

Tình mẫu tử là vô giá, tình thương của mẹ đối với con mình là vô giá.

Nhưng tình thương yêu này đến từ bậc làm cha mẹ mà chúng ta có thể cảm nhận được, chất chứa tình cảm trong đó.

Khi có tình, thì sẽ mang theo ngã tướng, nên người ta gọi là “Tôi tình, tôi nguyện”, “tình nguyện, tôi tình nguyện”, nhiều người nói “Tôi tình nguyện làm gì đó”.

Quý vị có tình rồi, nguyện lực quý vị tạo ra là tình cảm cùng nguyện lực của nhân gian, xuất phát từ “Tôi yêu” mà ra.

Lòng từ bi của Bồ Tát không phải là “Tôi tình nguyện”, mà là một loại trí tuệ, đó là một tình yêu thương vô ngã vô biên, một tình yêu thương vô bờ bến - nó vừa giống như có cái tôi, nhưng lại không phải có cái tôi; quý vị nói hoàn toàn không phải là tình yêu quý vị trao cho, nhưng nó lại xuất phát ra từ trái tim của quý vị.

Nếu quý vị nói nó ở trong tim quý vị, thì tình yêu của Bồ Tát Thức A Ma La, thức thứ chín, có thuộcvề quý vị không?

Nó không phải của quý vị.

Vậy thì phi ái phi phi ái, phi ngã phi phi ngã (Không yêu nhưng cũng không phải không yêu.

Vô ngã nhưng cũng không phải vô ngã).

Đây là lý do tại sao việc thực hành Phật Pháp ngày càng trở nên nghiêm khắc hơn đối với cảnh giới riêng của mình.

Cả hành nguyện và hành môn đều rất quan trọng.

Hành môn có nghĩa là chúng ta tìm được hướng đi để thực hiện thệ nguyện của mình.Nếu một người lúc nào cũng ở trạng thái tĩnh định - ở trạng thái an tĩnh và an định, thì phải luôn luôn kiểm điểm bản thân, phải biết người tu hành là gì và muốn trở thành loại người tu hành như thế nào, phải là người luôn nghiêm túc kiểm tra bản thân và là người luôn quán chiếu bản thân.

Dựa vào người khác để mắt tới mình không phải là “Quán tự tại”, chỉ khi tự mình quan sát hành vi của chính mình xem nó có đúng hay không và quan sát xem hành vi của mình có phù hợp với bản chất của chính mình hay không thì quý vị mới có thể “Quán tự tại” được.

Chỉ những người bất cứ lúc nào cũng có thể kiểm tra hành vi tâm lý và tư duy của mình, không ngừng điều chỉnh suy nghĩ và kiểm tra hành vi của mình, thì người đó mới là người tu hành.

Trong tâm họ thường xuyên suy nghĩ: “Tôi làm như vậy có vi phạm lời dạy của Bồ Tát không?

Tôi như vầy có giống Bồ Tát không?”

Đừng nghĩ rằng trên đời này có một cách để tu tâm, “Tôi nên dùng phương pháp nào, nên thiền bao nhiêu ngày?”…

Nhiều người thường hỏi Sư phụ: “Thưa Thầy, con nên niệm bao nhiêu biến kinh thì bệnh này của con sẽ khỏi?”

Sư phụ nói thật với quý vị, nếu quý vị niệm đến mức vô ngã thì sự việc này sẽ ổn thôi; một khi quý vị đã niệm nó một cách tự nhiên thì sự việc này sẽ ổn.

Không thể nói sau khi uống bao nhiêu thuốc thì bệnh này sẽ khỏi, không có như thế, bởi vì thể chất của mỗi người là khác nhau, tố chất cơ thể của mỗi người là khác nhau, và khả năng chịu đựng năng lượng của bất cứ sự vật gì trên đời cũng khác nhau.

Một số người nói: “Tôi thiền thì sẽ tốt thôi.

Tôi thiền được ba năm, mười năm”.

Dù quý vị thiền bao nhiêu năm, mở thông kinh lạc nào, hay trì tụng thần chú nào, thì quý vị vẫn chưa hành môn, chưa hiểu thế giới này, chưa thực sự buông xuống Phật Pháp, thì làm sao quý vị có thể giải thoát, làm sao trở nên vô ngã?

Nhiều người thường nói: “Hãy nhìn người này, anh ấy đã tu tập rất tốt, tôi cũng muốn làm như vậy”, rồi dần dần tập thiền, dần dần “Tôi muốn mở thông kinh lạc”.

Dần dần: “Tôi đã học được rất nhiều pháp của Phật”, rồi lấy đó đi ra ngoài nói chuyện này chuyện nọ, dần dần trở nên loạn thần kinh, một lát thì nói: “Ồ, Bồ Tát đến rồi”, một lát sau liền nói “Ồ, chuyện này như thế nào, như thế nào, rồi tôi có linh cảm”.

Tại sao nhiều người học Phật học càng về sau lại bị rối loạntâm thần?

Vì suốt ngày họ luôn tưởng mình là Bồ Tát, suốt ngày muốn làm Bồ Tát, trong khi đó họ không có căn cơ này, lại không thực hành tốt Pháp Môn này và không có chứng ngộ, nên cuối cùng họ bị vong linh nhập thân.

Bởi vì vong linh sẽ cho họ bất cứ thứ gì họ thích và sau đó họ sẽ chấp nhận nó, ngay khi chấp nhận nó rồi, thì sẽ giống như nó.

Lấy một ví dụ đơn giản, tại sao những kẻ lừa đảo luôn thành công?

Bởi vì kẻ lừa đảo biết quý vị muốn làm gì và chúng sẽ nói với quý vị rằng: “Chỉ cần bạn làm được điều này, tôi bảo đảm rằng yêu cầu của bạn sẽ được đáp ứng”.

Cho nên quý vị mới bị lừa.

Nếu quý vị muốn kiếm tiền, bọn chúng sẽ nói với quý vị: “Sau khi bạn đưa ra số vốn này, tôi có thể giúp bạn kiếm nhiều tiền hơn”.

Cuối cùng, số tiền này của quý vị sẽ bị mất, vì vậy quý vị sẽ bị ô nhiễm, thời gian lâu dần sẽ không bình thường, và tâm trí của quý vị sẽ không còn được tỉnh táo.Nhiều người bị loạn thần kinh và suốt ngày nói người khác là “bạn bị bệnh” hay “người đó bị bệnh”.

Quý vị đi mà xem, người hay nói người khác bị bệnh chắc chắn họ có vấn đề gì đó.

Khi Sư phụ khai thị thường bảo, quý vị bây giờ cộng tu nên nói nhiều hơn về tật xấu của chính mình và đừng nói về tật xấu của người khác, bởi vì quý vị còn chưa tự độ được mình thì làm sao có thể độ được người khác?

Khi quý vị nói về tật xấu của người khác thì chắc chắn bản thân quý vị có tật xấu, bằng không thì làm sao quý vị có thể nói ra được vấn đề của người khác?

Chính là vấn đề của quý vị.Cho nên phải nghiêm khắc tự mình tu hành, nghiêm khắc phản tỉnh chính mình, kiểm tra chính mình, quán chiếu tu vi (tu tập tạo tác) của chính mình, thì quý vị mới có thể thoát ly.

Quý vị cho rằng ngồi ở đó đả đả tọa, niệm niệm kinh, phóng phóng sinh là có thể thành công sao?

Không thể.

Phải có ngộ tánh, phải giác ngộ, cho nên chữ “Phật” trong tiếng Phạn chính là giác giả.

Chúng ta cũng không phải dựa vào thiền tọa, cũng không phải dựa vào phóng sinh, phát nguyện, niệm kinh, mà đó là toàn bộ hợp lại một, sau đó căn cứ vào bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ Bát Nhã, sáu Ba-la-mật của mình, tất cả tập trung lại với nhau, thì mới có thể thành công.

Giống như năm giác quan của một người, chỉ có mắt quý vị có thể sống được không?

Mũi không ngửi được mùi, miệng không nói được thì phải làm sao?

Chỉ đơn thuần biết nói, mắt không nhìn thấy được thì có được không?

Sư phụ từng nghe qua một tướng thanh, nói ngũ quan đánh nhau, năm huynh đệ ai nấy đều không nể mặt lẫn nhau.

Tai nói: Ta không nghe được, các ngươi có thể làm được gì?

Mắt nói: Mắt ta làm cho các ngươi không thấy, các ngươi nghe được cũng vô ích.

Miệng nói: Ta không ăn, các ngươi sẽ chết đói; ta không nói, không ai hiểu các ngươi.

Cãinhau dữ dội, chỉ có mũi là không nói.

Bốn anh em liền hỏi cái mũi: “Tại sao anh không nói chuyện, anh nói vài câu cho chúng em nghe được không?” cái mũi liền nói: “Kỳ thực các em nói nhiều như vậy đều vô dụng, là ta quan trọng nhất, bởi vì mũi ta không thông khí, tất cả các em đều chết”.

Một người tu hành cũng như vậy, dựa vào nỗ lực của mọi người, dựa vào tất cả Phật tánh, nhân tố, nền tảng học Phật trên thân quý vị v.v., mới có thể thành tựu công đức Bảo Sơn của mình.

Rất nhiều người niệm cả buổi, học cả buổi, nhưng công đức không trở thành “Bảo Sơn”.

Chúng ta phải có một loại tâm từ bi, hơn nữa loại từ bi này tu đến một mức độ nhất định, phải thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ.

“Tam đồ khổ” mọi người đều biết rồi, “thượng báo tứ trọng ân” chính là nhắc nhở chúng ta mỗi ngày phải làm công đức.

Người học Phật chúng ta tùy thời tùy chỗ đều phải kiểm tra chính mình, hôm nay có từ bi chưa?

Thượng báo tứ trọng ân chưa?

Tứ trọng ân, ân của Phật mọi người đã báo chưa?

Ân của cha mẹ, sư trưởng mọi người đã báo chưa?

Ân tổ quốc mọi người đã báo chưa?

Ân tình của chúng sinh mọi người đã báo chưa?

Khi quý vị sinh ra, bác sĩ đỡ sinh cho quý vị chính là ân chúng sinh.

Rất nhiều người nói: “Chúng sinh đối với chúng ta có ân gì?”

Quý vị sống trên thế giới này, không thể nào một người có thể trưởng thành được, dựa vào sự giúp đỡ của chúng sinh đối với chúng ta thì mới có thể trưởng thành.

Cho dù một mình quý vị lập nên thành tích, thì cũng là mọi người cùng nhau.

Cho nên tại sao mỗi vị Bồ Tát, mỗi vị Phật thành công đều dựa vào rất nhiều rất nhiều chúng sinh, trong đó còn có cả Thần Hộ Pháp và Long Thiên Hộ Pháp, chính là cái đạo lý này.

Cho nên chúng ta phải hiểu được, sống một ngày, phải tri ân người khác một ngày, bởi vì phải làm phiền rất nhiều người cung cấp sinh mệnh, sự vật cùng rất nhiều trợ giúp cho chúng ta.Kinh Phật Tam Tạng mười hai bộ đều đang giảng hành nguyện.

Một người không “hành”, có được không?

Một người không có nguyện lực, có được không?

Sáu độ vạn hành, ba mươi bảy đạo phẩm (thầy đã từng dạy cho pháp sư), học Phật cơ bản đều ở trong đó.

Hiểu rõ nhân quả ba đời, hiểu được sáu cõi luân hồi, chính là cái đạo lý này.

Từ từ hoàn thiện bản thân về mặt tinh thần và hành vi, dần dần quý vị sẽ nhìn nhận mọi việc một cách tự nhiên, tức là lý giải của quý vị đối với sự vật, lý giải đối với Phật Pháp sẽ càng ngày càng tiến bộ.

Chúng ta nhất định phải chứng ngộ mới có thể chứng quả.

Hành vi tâm lý của mỗi người phải thay đổi, sau khi học Phật, nhiều người đã thay đổi như ngồi thiền, niệm kinh, phóng sinh, phát nguyện, chỉ cần điều chỉnh tâm hành một ngày thì định lực sẽ theo đó tiến bộ một ngày.

Chỉ cần quý vị có nguyện lực “Tôi muốn thay đổi”, thì quý vị sẽ thay đổi được mỗi ngày.Làm sao có thể định lại được?

Làm sao chúng ta có thể theo đuổi và tu tập tâm mình từ góc độ tâm thức?

Nếu như quý vị chỉ đả đả tọa, niệm niệm kinh, phóng phóng sinh, đi phóng sinh suốt đoạn đường cười nói hả hê, không tranh thủ niệm kinh, hôm nay có khả năng phóng sinh cả xe chỉ là hình thức, mà không thay đổi được bản thân mình.

Nhiều người ngồi thiền lâu đến tê chân, trí tuệ vẫn chưa khai mở, thiên linh cũng chưa mở ra được.

Vì vậy phải kiểm tra lại linh hồn và tinh thần của chính mình, so với bất kỳ sự hiểu biết nào (ví dụ như hôm nay làm một việc gì đó muốn khai ngộ), thì đó là cảnh giới khác.Sư phụ hôm nay nói với mọi người trọng điểm chính là ba đại cương yếu “Kiến địa-Tu chứng-Hành nguyện”.

Cái “cương” này, hành nguyện là quan trọng nhất.

Hôm nay nguyện lực đến rồi, quý vị phải thực hiện được.

Sư phụ tin rằng tất cả các vị đang ngồi đây đều có nguyện lực đúng không?

Các vị đã từng quỳ trước Bồ Tát phát nguyện rồi đúng không?

Vậy đã “thực hành” chưa?

Phải thực hành thệ nguyện.

Chỉ khi quý vị thực hành rồi, thì cái thấy của quý vị mới có thể viên mãn.

Bởi vì quý vị thực hành nó, quý vị sẽ hiểu được cái thấy chân thực (tức là kiến giải), Tu chứng của quý vị mới có thể đắc đạo chứng quả.

Thời xưa người chứng quả rất nhiều, có thể đắc đạo chứng quả toàn bộ đều là do họ hành nguyện.

Vì vậy, hy vọng rằng tất cả mọi người, những người học Phật, hãy thực hành cho tốt nguyện lực của mình, khi thực hành phải hạ công phu, thì cách thoát khỏi sáu cõi càng ngày càng gần.Cuối cùng Đài trưởng kể cho mọi người nghe một câu chuyện.

Ở nước Xá Vệ Ấn Độ cổ đại, có một người cha vô cùng vất vả, một mình nuôi dưỡng hai đứa con trai.

Không ngờ tình cảm của hai anh em này vô cùng tồi tệ, từ nhỏ đã cãi nhau ầm ĩ, ai cũng không nhường nhau, mối oán kết vẫn luôn sâu đậm.

Phụ thân nhắc nhở người anh phải yêu thương em trai của mình, người anh trai cãi lại và nói: “Cha xem cha thật thiên vị, cha chỉ yêu thương em ấy, cha không yêu thương con”.

Phụ thân đành phải chuyển sang giáo dục người em: “Này con, con phải tôn trọng anh trai mình”.

Không ngờ người em trai này nổi giận, nói với cha mình rằng: “Cha không rõ đúng sai, là anh trai bá đạo, làm sai trước”.

Cứ như vậy, anh trách em không hiểu chuyện, em oán anh không nói đạo lý, hai anh em đều làm cho cha mình đau đầu và tổn thương thấu tim.Từng ngày trôi qua, hai anh em này từng ngày lớn lên, mỗi ngày tranh giành đồ chơi, tranh đúng sai, sau khi lớn lên tranh điền sản, phân gia nghiệp.

Phụ thân tuổi cao tự mình không khuyên răng được, dù biết cũng khuyên không được, quản không được, chỉ biết ở bên cạnh lặng lẽ rơi lệ, khẩn cầu kỳ tích có thể xuấthiện, có thể có một thiện tri thức đến giáo hóa hai đứa con ngoan cố không thay đổi này.Một ngày nọ, một người hàng xóm tốt bụng khuyên: “Hai anh em các anh cứ cãi nhau như vậy cũng không phải là biện pháp, chi cho bằng đến tìm quốc vương và xin quốc vương phân xử cho các anh”.

Thế là hai anh em với vẻ mặt đầy oán giận, vì không muốn đối phương lớn tiếng dọa người (kẻ ác thường cáo trạng trước), bất chấp cái nắng như thiêu đốt, họ vẫn cố hết sức chạy đến hoàng cung, thậm chí vừa đi vừa chạy.

Hai anh em dọc đường vì ai đúng ai sai, vừa đi về phía hoàng cung, vừa đối mắng lẫn nhau, tranh cãi không ngớt.Đúng lúc hai người thở hổn hển, miệng khô và khát thì nhìn thấy Đức Phật tiến về phía bọn họ.

Bọn họ không biết Đức Phật, nhìn thấy Sa Môn diện mạo trang nghiêm, chậm rãi an tường, bỗng nhiên trở nên nghiêm túc, hai người ngừng tranh cãi.

Họ bị thu hút bởi uy đức toát ra từ khuôn mặt của Đức Phật nên xông tới hỏi thăm, đảnh lễ, thậm chí còn hỏi về danh hiệu của Đức Phật. (Pháp sư trang nghiêm được người sùng bái và tôn kính).Đức Phật mỉm cười nhìn hai người có nhân duyên sâu đậm (vì ngay khi Đức Phật nhìn thấy hai anh em, liền biết nhân quả của hai người bọn họ), Ngài dùng giọng nói dịu dàng và ngọt ngào, ẩn dụ thiện xảo (khéo léo), nói ngay với họ những lỗi lầm của sự tức giận, tức là nói hai người các ngươi hận nhau như vậy, thì về sau sẽ có chuyện gì xấu xảy ra.

Đức Phật liền trực tiếp giáo dục bọn họ: “Nếu hai người ôm ấp tâm tham, sân, hận trong lòng thì trong tâm hai người sẽ như hai con rắn độc và thú dữ, trái tim các vị sẽ bị chất độc độc hại ăn mòn.

Không những công đức bên trong của các vị sẽ biến mất mà còn bị nọc độc rắn xâm hại”.

Đức Phật sau đó lại khai triển các loại diệu pháp cho họ. (Hãy nhìn xem Đức Phật vĩ đại biết bao, thấy hai thanh niên trẻ tuổi, Ngài dừng lại khai thị cho họ trên đường.

Cho nên chúng ta phải học tập từ sự vĩ đại của Đức Phật).

Hai anh em lắng nghe lời Đức Phật giảng mãi, bị nói đến ngây ngẩn cả người, “Ồ, có lý”, trí tuệ mở ra, phiền não tiêu trừ, lập tức chứng đắc quả vị A La Hán.Rất nhiều người khi nghe Sư phụ kể chuyện xưa thường nghĩ: Người thời xưa sao lại dễ dàng chứng được quả vị A La Hán, Tu Đà Hoàn như vậy?

Bọn họ làm sao dễ dàng có được quả vị như vậy?

Người thời xưa tương đối đơn giản, đầu óc không phức tạp và xảo quyệt như người hiện đại, cho nên một khi nghĩ thông suốt, rất dễ dàng đạt được quả vị.

Và hãy nhìn con người hiện đại chúng ta, dù quý vị có nói Phật Pháp với họ, họ cũng không tin.

Cho dù quý vị có nói Chánh Pháp với họ, họ cũng không tin.

Quý vị nói gì, họ đều không tin, thì họ có thểđạt được quả vị gì?

Hai anh em này sau khi về đến nhà, thành kính sám hối với phụ thân, hơn nữa còn nói ra nhân duyên đắc đạo của mình (đắc đạo chính là hoàn toàn triệt ngộ rồi, minh bạch rồi).

Người cha già nghe xong vui mừng đến rơi nước mắt, gánh nặng trong lòng cuối cùng cũng được trút bỏ.

Không lâu sau, người cha già mệnh chung xả báo và qua đời.

Sau khi người cha qua đời, ông nghe tin hai người con của mình đều sống rất tốt, ông rất biết ơn Đức Phật, ngay khi ông biết ơn, những thiện niệm về lòng biết ơn và Pháp hỷ của ông đã bay lên trời. (Cho nên khi ra đi, việc trì ân là rất quan trọng, sẽ được sinh lên trời.

Thay vì giống như quý vị bây giờ, người khác dẫn quý vị gặp được Phật Pháp, vẫn còn trái một cái không hài lòng, phải một cái không hài lòng.

Phải biết ơn).

Ông vì thiện niệm nên được sinh lên trời, để tỏ lòng biết ơn ân huệ của Đức Phật, ông đến trước Đức Phật đảnh lễ cúng dường, Đức Phật ở thiên thượng đã thuyết pháp cho ông và ông ngay lập tức chứng đắc quả Tu Đà Hoàn.Câu chuyện này cho chúng ta biết rằng ai cũng có nhân quả, việc không hiểu nhân quả không có nghĩa là không có nhân quả.

Những ồn ào, đố kỵ, phiền não giữa con người với nhau đều là có nhân có quả, chúng sinh kết thiện duyên, ác duyên sâu cạn đều có từ đời trước.

Vì vậy, chúng ta phải đem nó dung nhập vào trong biển rộng của Phật, hải nạp bách xuyên, có được tấm lòng rộng lớn, là có thể thiện hiểu ý người, là có thể hiểu được người khác, buông xuống sân hận trong lòng mình.

Vì vậy, ở nhân gian, bất luận là thông gia hay oan gia, chúng ta đều phải giúp đỡ lẫn nhau, nâng đỡ lẫn nhau, tiếp dẫn lẫn nhau.

Có đôi khi một Phật hữu nhắc nhở quý vị một câu, sẽ khiến quý vị rộng mở trong sáng.

Rất nhiều người học Phật tự mình làm sai, trong u buồn, người khác thiện ý nhắc nhở một câu, có thể chính là Bồ Tát bảo họ đến nhắc nhở quý vị, quý vị sẽ chuyển ác niệm thành thiện niệm, chuyển ác duyên thành thiện duyên, hóa trần duyên thành pháp duyên, đây là chuyện học Phật có ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của chúng ta.

Cho nên, trên con đường tu hành chúng ta phải gieo nhiều thiện duyên, mới có thể một kiếp tu thành.

Quảng kết thiện duyên, đó là một loại trí tuệ.

Chỉ có tình yêu của chúng sinh đối với quý vị, mới có thể tạo ra sức mạnh từ bi vô hạn của quý vị.

Được rồi, đó là tất cả cho buổi thuyết giảng hôm nay về “Bạch Thoại Phật Pháp” với đại chúng.

Cảm ơn đại chúng.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 54. BUÔNG BỎ CỐ CHẤP TÌM KIẾM BỔN TÁNH 29/4/2020


⭐ BTPP - Tập 54.

BUÔNG BỎ CỐ CHẤP TÌM KIẾM BỔN TÁNH 29/4/2020Hôm nay Đài trưởng tiếp tục nói với mọi người về "Bạch Thoại Phật Pháp".Tu tâm, trên thực tế điều quan trọng nhất cần trau dồi ở bản thân là gì?

Chính là cố chấp.

Tật xấu của con người chính là cố chấp, nếu như tu tâm không tu bỏ được chấp trước, vậy thì quý vị tu cái tâm gì?

Cho nên học Phật nhất định phải biết cách tu bỏ cố chấp.

Và khi nói đến việc tu tâm, bất kể là ở nhà hay ở đâu, quý vị cũng phải thực hành nó một cách nghiêm túc trong cuộc sống.

Nhiều người cho rằng tu hành là ở nhà niệm niệm kinh, có người cho rằng đến chùa khấu khấu đầu lạy Phật, trên thực tế điều quan trọng nhất trong tu tâm là sống trong tu hành và tu tâm trong cuộc sống hàng ngày.

Không phải chúng ta cả ngày ngồi thiền, khấu đầu, niệm kinh, lần hạt tràng Phật, rồi tu rất nhiều năm, mà kết quả tính xấu vẫn hoàn tính xấu, điều không thể sửa đổi vẫn không thể sửa đổi, bản thân thường xuyên chấp trước vẫn hoàn chấp trước, phiền não vẫn như cũ, tính cách vẫn như xưa, tâm thái vẫn vậy, quý vị không có bất kỳ thay đổi nào, thì quý vị làm sao có thể tu tâm tốt được đây?

Đây không phải là thực sự tu hành.

Chỉ cần chấp trước của quý vị còn tồn tại, thì quý vị vẫn chưa thực sự tu hành.Người tu hành chân chính bất kể ở nơi nào, đều phải học được cách thay đổi.

Môi trường làm việc hôm nay, quý vị cũng coi nó là một đạo tràng.

Hôm nay quý vị ở nhà, quý vị coi nó như một "đàn thành" (Mandala).

Cho dù quý vị làm nghề gì, cho dù quý vị làm công việc gì đi chăng nữa, thì tu tâm phải hòa nhập vào công việc của quý vị.

Khi đối diện với hoàn cảnh, quý vị phải hiểu được mỗi một sự việc, mỗi một câu nói, đều đã và đang rèn luyện bản tính, tâm tính của mình, là đang rèn luyện bản thân, rèn luyện tâm hồn con người chúng ta và làm sao để chúng ta có thể định, làm thế nào để có thể bình tĩnh.

Bất luận ngoại cảnh biến hóa như thế nào, thì trong lòng ta cũng không thay đổi.

Hãy tận tâm, nghĩa vụ và trách nhiệm của bản thân, tận tâm tận lực làm tốt mọi việc ở nhân gian, gánh vác hết thảy, tập trung vào một chỗ.

Để học Phật tu tâm quý vị phải toàn tâm toàn ý và kiểm soát tâm mình vào một chỗ.

Làm tất cả mọi việc bằng tâm chính là đang tu hành.

Quý vị coi những người bạn làm việc cùng như chúng sinh, như cha mẹ, anh chị em của mình, tất cả đều suy nghĩ vì lợi ích của họ, đối xử với mọi chúng sinh bằng trái tim chân thành, quan tâm đến họ, yêu thương họ, thấu hiểu họ và thông cảm cho họ, như thế quý vị mới có thể làm người thân của tất cả chúng sinh, mới có thể đi đến đâu tu đến đó, bất kể hoàn cảnh thay đổi như thế nào đi nữa, thì quý vị vẫn đang tu hành.Chúng ta cống hiến cho xã hội này mà không đòi hỏi bất cứ sự đền đáp nào; Bất kể tu tâm như thế nào, tâm của chúng ta phải vô cùng vui vẻ.

Tâm thái của người đi cứu người nhất định phải vui vẻ, thì sự nghiệp và công việc của họ sẽ thuận lợi.

Không cần sợ gặp phải chướng ngại trái duyên, có lúc nguyện lực không mạnh, có lúc gặp phải rất nhiều phiền não hay thất nguyện, khi có chướng ngại như vậy sẽ bắt đầu không vui, liền nghĩ: "Ta học Phật tu tâm làm sao có nhiều phiền não như vậy?", trên thực tế bất kỳ một phiền não nào xuất hiện, chính là tạo ra cho quý vị một cơ hội có thể đạt được Bồ-đề, bởi vì quý vị có thể dùng trí tuệ Bồ-đề để loại bỏ chướng ngại trong tâm mình, rèn luyện tâm tính và nâng cao trình độ của bản thân, dùng cảnh giới để tăng trưởng trí tuệ của chính mình.Cuộc sống của chúng ta, trên thực tế quý vị phải xem nó là Tịnh Thổ.

Ngày nay trong xã hội Tịnh Thổ này, môi trường chúng ta đang sống là nơi tĩnh lặng nên chúng ta mới không chấp trước.

Chúng ta phải thanh lọc sạch tâm hồn và môi trường của mình, tựa như thế giới Tịnh Thổ, bố trí thanh tịnh trang nghiêm, không nói lung tung đủ loại chuyện cười, trang nghiêm chính mình, không nói đùa bừa bãi, không nói lời hạ lưu, không nghĩ lung tung những chuyện không tốt khác, thì dần dần sẽ có được sự thanh tịnh và trang nghiêm.Có đôi khi đừng đố kỵ người khác làm được bao nhiêu, mà hãy nhìn xem bản thân mình đã làm được bao nhiêu.

Nhẫn nhục chịu khó trong học Phật trên thực tế chính là một loại tu tâm, chính là một loại nghĩa vụ tinh tấn - giống như phụng sự viên, có đôi khi họ muốn lau đi bụi bặm, chính là muốn lau đi nghiệp chướng của mình.

Rất nhiều người cả đời không biết cần phải lao động, cho nên tại sao ở rất nhiều chùa, khi quý vị đến đó, pháp sư đều bảo quý vị lau nhà cho thật tốt, lau bàn cho thật tốt, hiểu được vì sao phải thanh tịnh, vì sao phải sạch sẽ, bởi vì lau sạch bụi trần gian, đồng thời cũng lau sạch bụi bặm khỏi tâm hồn mình.

Quét rác tức là quét sạch phiền não của quý vị, bởi vì phiền não ở trong tâm quý vị chính là rác rưởi.Quý vị nên đối xử với gia đình và những người thân yêu của mình như chúng sinh.

Quý vị nên đối xử với tất cả cha mẹ của chúng sinh, con cái chúng sinh, bao gồm cả Phật hữu mà quý vị cùng tu tập, như Kim Cương đạo hữu, họ đều là Bồ Tát tương lai.

Quý vị quan tâm đến họ, sẽ nhận được sự gia trì của chư Bồ Tát.

Quý vị chăm sóc họ, sẽ nhận được sự hộ trì của chư Thần Hộ Pháp.

Quý vị tôn trọng họ, quý vị sẽ có được trí tuệ Bát Nhã.

Quý vị không làm tổn thươnghọ, quý vị sẽ nhận được sự tôn trọng của người khác.

Quý vị không oán hận họ, thì quý vị chính là quảng kết thiện duyên.Con người sống trên thế gian này đều có nhân duyên riêng của mình, mỗi người đều có phúc báo của riêng mình, quý vị chấp trước vào điều gì, thì điều đó sẽ làm tổn thương quý vị.

Quý vị chấp trước rằng con mình nhất định phải học tốt, dần dần con học không tốt sẽ làm tổn thương quý vị.

Quý vị chấp vào "Tôi nhất định phải kiếm nhiều tiền một chút", cuối cùng nếu tiền không kiếm được, thì sẽ làm tổn thương tâm mình.

Cho nên, quý vị chấp vào ai, thì người đó sẽ làm tổn thương tâm của quý vị.

Chúng ta ở nhân gian không thể có được nhiều chuyện viên mãn như vậy.

Hết thảy như mộng, huyễn, bọt, bóng.

Như sương, như chớp loé, phải buông xuống tất cả vọng niệm, bởi vì những gì không nên nghĩ mà nghĩ đến, nó sẽ gây tổn thương cho chúng ta.

Hãy buông bỏ, Sư phụ không bảo mọi người từ bỏ, việc nhân gian nên làm vẫn phải làm, không những phải làm, mà còn tận tâm làm cho tốt.Cuộc sống giống như một vở kịch, ngay ngày đầu tiên quý vị sinh ra, vở kịch của quý vị đã bắt đầu mở màn, quý vị phải diễn tiếp, không thể không diễn, chỉ là trong quá trình quý vị diễn xuất, phải minh minh bạch bạch, phải tường tận rõ ràng: "Tôi đang diễn kịch".

Quý vị đã biết rằng cuộc đời mình sẽ kết thúc như một vở kịch, vậy thì quý vị không nên tin trên thế giới này vẫn còn rất nhiều thứ có thể bám víu vào mình.

Quý vị vào vai vợ chồng trên sân khấu, quý vị vào vai con gái, con trai trên sân khấu, chỉ là quý vị đang diễn tốt vai diễn của mình, không được coi vở kịch giả là vở kịch thật mà diễn.

Rất nhiều người cho rằng giả là thật, đến cuối cùng không thể buông tay được.

Kỳ thật nhân gian không phải là quê nhà của chúng ta, nhà thực sự của chúng ta là ở thiên thượng - cùng sống chung với Bồ Tát ở trên trời, chúng ta ở nhân gian chẳng qua là khách qua đường vội vã đi qua, có gì mà cố chấp?

Thử nghĩ xem, cả đời chúng ta cố chấp bao nhiêu sự việc?

Từ nhỏ đến lớn, từ trường học cho đến xã hội, đến gia đình, cái tôi của chúng ta đã khiến chúng ta quan tâm đến mình như một người ích kỷ, giống như một linh tính không thể nhìn thấy ánh mặt trời.Mỗi người chúng ta ít nói một câu, thế giới này sẽ có thêm một phần hòa bình.

Mỗi người chúng ta khiêm nhường thêm một phần, chúng ta sẽ có thêm một phần cảnh giới từ bi.

Mỗi người trong chúng ta như bầu trời rộng lớn, biết rằng đây là hư ảo, nếu quý vị chịu lùi một bước thì sẽ gây hại gì cho mình?

Vì vậy, mọi việc không thể chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân mà còn phải nghĩ đến người khác nhiều hơn.

Quý vị thường chỉ nghĩ cho bản thân, nếu không loại bỏđược tính ích kỷ, tự ái, tự lợi của mình, quý vị sẽ không thể sống trong hiện tại.

Thử nghĩ xem, ai trong chúng ta thích một người rất ích kỷ?

Ai thích một người không có lòng từ bi, không có tâm Bồ-đề, không có lòng khoan dung tha thứ cho người khác?

Cho nên Sư phụ nói với mọi người, tu tâm chính là tu như lý như pháp, chân tâm thành ý mà làm, thì người khác tự nhiên sẽ tôn trọng quý vị, sự trang nghiêm của quý vị sẽ xuất hiện.

Người thích quý vị chính là người có thể hiểu được quý vị.

Có thể tha thứ cho người khác nhiều hơn, người khác sẽ cho quý vị nhiều yêu thương hơn, quý vị đối xử với người khác như thế nào, trên thực tế chính là để người khác đối xử với quý vị như thế nấy.Chúng ta không thể lúc nào cũng oán trời trách đất, không nên lúc nào cũng bới móc tật xấu của người khác, nhìn người khác không vừa mắt, không nên luôn muốn đi thay đổi người khác, phải điều chỉnh tốt tâm thái của mình, sửa tốt tâm của mình.

Tất cả cảnh, nếu như đều tùy theo tâm của quý vị mà thay đổi, vậy thì quý vị có thể khống chế được hoàn cảnh này, cho nên Sư phụ bảo mọi người phải dùng tấm lòng rộng lớn để bao dung tất cả mọi thứ trong xã hội.

Có đôi khi chúng ta sẽ nghĩ không thông, nhìn tất cả mọi người đều không tốt.

Nhưng có lúc chúng ta lại nghĩ thông suốt, thấy tất cả mọi người đều là người tốt, thấy tất cả cảnh giới đều là cảnh giới tốt, như vậy tâm của quý vị liền hướng thiện mà thay đổi.

Nếu như quý vị nhìn thấy trong xã hội mọi thứ đều không vừa mắt, nhìn không quen, thường xuyên đi rà soát khuyết điểm của người khác, mà không nhìn thấy khuyết điểm của mình, thì chắc chắn quý vị không thể loại bỏ được bản ngã và nhất định không buông xuống được chấp trước.Tu hành chính là tu sửa chấp trước - bỏ đi chấp ngã, bằng không thì tu cái gì?

Giữa tu tâm, đời sống và công việc, hết thảy đều không có mâu thuẫn gì với nhau, vì mỗi con người chúng ta đều có Phật tánh.

Bởi chúng ta bước vào thế giới phàm trần với năm dục này, nên mỗi ngày chúng ta bôn ba khắp nơi để tìm kiếm cái tôi bị lãng quên và lạc lối, không biết sống trên thế gian này cái gì là quan trọng nhất, quý giá nhất.

Chúng ta đánh mất và quên đi lương tâm của chính mình, chúng ta đối xử lợi hại với mọi người trong mọi việc mình làm, hoặc khi chúng ta chửi bới, ghen tị với họ, chúng ta mất đi bản chất và lương tâm nguyên thủy vốn có của mình - chúng ta không thể tìm thấy được nữa, hằng ngày chúng ta đi tìm những tham niệm, dục niệm dơ bẩn của ngũ dục lục trần trong xã hội, vị Phật chân chính ở trong tâm chúng ta nhưng chúng ta lại không tìm thấy.

Nhất định phải có lòng tin, nhất định phải tìm kiếm bản chất từ trong tâm của mình - đó là Phật tánh nguyên thủy.

Có được bao nhiêu tín tâm ở nhân gian, quý vị sẽ có được bấy nhiêu thành tựu.

Hãy học Phật cho tốt, kiên trì tu tâm, quý vị sẽ được giải thoát một cách tốt đẹp.

Người có thể thành Phật, trướchết họ có lòng tin, sau đó mới có thể vượt qua được ngã tướng và ngã chấp của mình, dựa vào nỗ lực tinh tấn của mình để biết cách tìm kiếm Phật tánh trong cuộc sống, đó mới là người học Phật chân chính.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 55 :NHỮ TÂM BỔN TÁNH QUÁN TỰ TẠI (QUÁN TỰ TẠI BỔN TÁNH CÓ TRONG TÂM MỖI QUÝ


⭐ BTPP - Tập 55 :NHỮ TÂM BỔN TÁNH QUÁN TỰ TẠI

(QUÁN TỰ TẠI BỔN TÁNH CÓ TRONG TÂM MỖI QUÝ VỊ)

29/4/2020Sư phụ nói với mọi người, con người chúng ta rất đáng thương, người bệnh suốt ngày muốn tìm lại sức khỏe, người thất nghiệp suốt ngày muốn tìm được việc làm, người đau buồn luôn nghĩ "Tôi muốn tìm thấy hạnh phúc", người thất vọng luôn hy vọng có được cơ hội xoay chuyển, để có thể tìm lại được hy vọng cho riêng mình.

Hầu như suốt cuộc đời, chúng ta bận rộn tìm kiếm sự nghiệp, bạn bè, sự giàu sang và danh lợi, thậm chí có thể tìm kiếm cả đời nhưng vẫn không tìm được thứ mình mong muốn.

Kỳ thật tìm tới tìm lui, chúng ta nên tìm ra bổn tánh của chính mình, đó mới là điều quan trọng nhất, đó là gốc rễ trị tâm của chúng ta.

Nếu quý vị không tìm thấy lương tâm của mình, không tìm thấy Phật tánh của mình, quý vị sẽ mất đi sức khỏe, mất đi sự nghiệp, có hạnh phúc nhưng cũng sẽ phải chịu nhiều đau khổ hơn.

Chúng ta phải học cách thành tựu vị Phật chân thật trong tâm mình.

Có một bài kệ:

Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu,

Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.

Nhân nhân hữu cá Linh Sơn tháp,

Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu."

Nghĩa:

"Phật ở Linh Sơn có xa đâu

Linh Sơn ở ngay trên cái đầu

Ai ai cũng có Linh Sơn tháp

Muốn tu nhìn vào đó mà cầu."

Chính là nói cho chúng ta biết, Phật ở nơi đâu?

Ở ngay trong bổn tánh của chúng ta.

Chúng ta đi cầu xin người khác, học hỏi người khác, thật ra ở sâu thẳm trong tâm hồn chúng ta có một tháp Linh Sơn, một khi quý vị cầu xin tháp Linh Sơn này thì sẽ được linh ứng, chỉ cần chăm chỉ tu hành công đức tại tháp Linh Sơn của quý vị, thì quý vị sẽ được viên mãn ở nhân gian."

Nhữ tâm bổn tánh quán tự tại, cửu thức Phật tâm tàng chân đế" (Quán tự tại bổn tánh có trong tâm mỗi quý vị, đạo lý của Phật tâm ẩn náu trong thức thứ chín của quý vị).

Mấy câu kệ này nhằm nói cho chúng ta biết rằng, bản thân con người vốn đã có một vị Phật nguyên thủy, gọi đó là Phật tự tánh, nhưng tại sao chúng ta lại không tìm thấy, mà chúng ta lại trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức truy đuổi những dục vọng "sắc tức thị không, không tức thị sắc", và đã đánh mất đi hy vọng của mình?

Con người chúng ta rất đáng thương, ở ngoại cảnh tìm kiếm hết thảy mọi thứ bên ngoài, nhưng lại xem nhẹ báu vật bản chất bên trong của chính mình, sống trên cõi đời trống rỗng mấy chục năm cũng không tìm thấy được cái "tôi" chân chính của mình ở nơi nào, ngay cả chính mình cũng không biết cái "tôi" đó ở nơi đâu, sống trong cái tôi giả tạo này, mỗi ngày vì thể diện, vì hư vọng, đi đấu với người, đi tranh với người, điều này cho thấy chúng ta không hiểu về đạo Phật.Vì vậy, chúng ta phải là người có trí tuệ và đức năng, người có trí tuệ có thể an bài tốt tâm thái của mình, người có đạo đức có thể an bài tốt mối quan hệ của mình với người khác, phải tìm kiếm Phật tánh thực sự của mình trong tâm, có thể thành tựu được chân Phật trong tâm mình, thì quý vị phải thắp sáng ngọn đèn Phật trong tâm.

Người hiện đại thường xuyên nhấn mạnh thanh lọc môi trường và thanh lọc xã hội, thực ra điều quan trọng nhất là bắt đầu từ thanh lọc bản thân và thanh lọc tâm hồn, cho nên "Pháp Môn Tâm Linh" chính là bắt đầu từ việc thanh lọc Phật tánh của tâm hồn.

Tâm của chúng ta thường bị che mờ bởi ngu si, hắc ám, vô minh, phiền não ở thế gian, trong tự tánh của mỗi người đều có một ngọn đèn tâm, chúng ta phải thắp sáng ngọn đèn tâm này, để nó có thể chiếu ra ánh sáng trí tuệ và ánh sáng quang minh của Bát Nhã, thì mới có thể xua đuổi sự vô minh và phiền não ra khỏi thân mình.

Một người có trí tuệ, làm sao có thể có phiền não?

Một người có trí tuệ nhất định sẽ có Bát Nhã.

Hãy thử nghĩ xem, rất nhiều người khi nghĩ không thông điều gì, liền không chịu buông xuống, muốn giữ thể diện, có đôi khi chỉ cần nói với người khác một câu "Xin lỗi, tôi làm sai rồi", thì chuyện này lập tức sẽ được giải quyết, không cần phải mang gánh nặng, một ngày, hai ngày, ba ngày … hành hạ tâm hồn mình như vậy.

Một lời nói có thể hóa giải được oán kết, một nụ cười có thể giải quyết được những phiền não.

Mọi người luôn chú trọng đến vẻ đẹp thẩm mỹ hay hình thể của mình mà quên làm cho trái tim mình trở nên đẹp đẽ và nhân hậu.

Khi quý vị thắp lên ánh sáng Phật trong tâm, thì quý vị chính là tâm hồn đẹp.Phải chữa lành bệnh trong tâm.

Khi thân thể có bệnh thì cần đi khám bác sĩ, khi có bệnh về tinh thần, có người thì cầu thần, bói toán, có người đi khám bác sĩ tâm lý, thật ra khi quý vị nghĩ không thông, đến tột cùng, thì cởi chuông vẫn phải là người buộc chuông, quý vị phải làm bác sĩ của chính mình, bởi vì bệnh trong tâm quý vị, chỉ có bản thân quý vị hiểu rõ nhất, người khác có mấy ai có thể hiểu được trong lòng quý vị nghĩ gì?

Cho nên Phật nói, tất cả các pháp vì trị tất cả tâm; Nếu không có tất cả tâm thì cần gì có tất cả các pháp?

Trên thực tế Phật pháp chính là vì trị tâm của chúng ta mà đến, Phật Tổ nói chính là muốn trị 84.000 loại bệnh phiền não của chúng sinh, bởi vì chúng ta có 84.000 loại bệnh phiền não, cho nên mới sinh ra 84.000 pháp môn.

Phải cần tu Giới-Định-Tuệ, để diệt trừ ba độc Tham-Sân-Si.

Phải biết dùng giới để trị tham, dùng định lực của bản thân để trị tâm sân hận, dùng trí tuệ để trị ngu si của chính mình, như thế thân tâm của quý vị mới có thể giải thoát, trí tuệ của quý vị mới có thể tràn đầy.Chúng ta phải khai thác kho báu bên trong thân mình.

Tài phú trong xã hội, tài phú của con người là ở bên ngoài và có thể biến mất mọi lúc mọi nơi, do nước, lửa, trộm cắp, một số chuyện bất ngờ xảy ra, hoặc là con cháu bất tài, nên những của cải bên ngoài này không thể giữ lại mãi mãi.

Và sự giàu có bên trong của chúng ta, đó là thứ mà người khác không bao giờ có thể lấy đi được và cũng là sự giàu có quý giá mà chúng ta sẽ không bị mất đi.

Mọi người thử nghĩ xem, nếu như quý vị có lòng tín ngưỡng, gặp phải chuyện gì đều rất vui vẻ, và nói: "Tôi tin Quán Thế Âm Bồ Tát có thể cứu tôi", người khác có thể lấy đi được không? {Cùng gặp phải một sự việc}, khi người khác đang đau khổ, quý vị sẽ đặc biệt vui mừng, bởi vì trong lòng quý vị luôn có niềm tin vào Quán Thế Âm Bồ Tát.

Khi người khác đang đau khổ, thì trí tuệ Bát Nhã của quý vị sẽ giúp cho quý vị nhanh chóng giải quyết mọi vấn đề.

Quý vị có được trí tuệ Bát Nhã, trong khi người khác không có, thì họ có thể lấy đi được trí tuệ Bát Nhã của quý vị không?

Lòng từ bi của quý vị, đạo đức của quý vị, tinh tấn của quý vị, hỷ xả của quý vị, là thứ mà người khác có thể có được không?

Đó là những gì quý vị nên có cho mình.

Tâm từ bi của quý vị sẽ giúp quý vị có được nhiều vật chất ở nhân gian hơn, tâm tinh tấn của quý vị sẽ giúp quý vị có được nhiều nhân duyên hơn, cho nên tất cả đều là do bản thân tạo thành.Những của cải quý giá này còn chứa đựng cảm giác hổ thẹn.

Nếu người có tâm hổ thẹn, thì họ sẽ không cống cao ngã mạn, luôn cảm thấy có lỗi với người khác, luôn cảm thấy "Tôi vô cùng hổ thẹn, tôi làm không đủ tốt, tôi nên học tập người khác", "Hiện tại tôi tiếp nhận cúng dường, cảm thấy rất buồn vì mình chưa đủ tốt", vì tâm hổ thẹn của quý vị sẽ khiến quý vị tinh tấn mà nỗ lực thành Phật.Bồ Tát cho chúng ta hiểu rằng của cải trong tâm chúng ta là “lấy không hết, dùng không cạn”.

Quý vị muốn có bao nhiêu của cải tùy thuộc vào việc quý vị muốn đào sâu nội tâm mình đến mức nào.

Sống trên đời, có người chuyên tâm tìm lối thoát, có người lại thường xuyên bới móc người khác, tìm tới tìm lui, cuối cùng lại tìm phiền phức và đau khổ cho chính mình.

Chỉ khi tìm thấy được kho báu trong tâm mình, thì trong lòng của quý vị mới có thể cởi mở và sống cuộc sống của mình một cách an yên.

Bất luận là cuộc sống như thế nào, chỉ cần có Phật pháp bên cạnh, thì tâm của quý vị mới có thể tĩnh và ý của quý vị mới có thể tự tại.Chúng ta học Phật tu tâm, ai cũng biết mình cần buông xả, rất nhiều người thưa với thầy: "Đi đâu người ta cũng bảo buông bỏ".

Việc buông bỏ này không hề dễ dàng, nghe rất đơn giản, nhưng không ai biết phải buông bỏ điều gì.

Sư phụ nói với mọi người, buông bỏ, đó là một loại cảnh giới.

Trước hết quý vị phải hiểu rõ, đạo Phật rốt cuộc là dạy chúng ta buông bỏ điều gì và quý vị phải biết buông bỏ điều gì.

Có người hỏi: "Tất cả mọi thứ ở nhân gian, nếu như tôi đều buông bỏ hết, vậy thì tôi chẳng còn gì cả.

Tại sao Phật pháp thường bảo chúng ta buông xuống vạn duyên?

Nếu như chúng ta học Phật buông xuống tất cả duyên phận, chúng ta có thể làm được gì?".

Một số người cho rằng Phật giáo dường như luôn khiến con người có khuynh hướng tiêu cực “Bạn buông xuống, đừng đi nữa”.

Luôn luôn có người hiểu sai Phật pháp: Nếu như buông hết mọi thứ, tiền cũng không cần nữa, thức ăn và quần áo cũng không cần nữa, công việc cũng không cần nữa, nhà cũng không cần nữa.

Nếu tôi có thế giới nhỏ bé của riêng mình, chẳng phải thế giới đó sẽ kết thúc sao?

Sư phụ nói với mọi người, đây là một loại thành kiến.

Phải hiểu được ý nghĩa thực sự của việc buông bỏ: Nếu quý vị buông bỏ mọi thứ, nó sẽ kết thúc và chấm dứt; nếu quý vị không thể buông bỏ bất cứ thứ gì, nó cũng sẽ kết thúc và chấm dứt.

Đầu tiên phải hiểu được thế sự vô thường, hết thảy đều là thành trụ hoại không.

Rồi có người hỏi: "Rốt cuộc chúng ta nên buông hay là không nên buông?"

Kinh Phật từng dạy chúng ta rằng, muốn học Phật thì phải biết thay thế sự vật.

Lấy một ví dụ đơn giản, một người ăn xin vừa mới xin được rất nhiều đồng xu từ trên tay của người khác, anh ta đang cầm những đồng tiền trên tay, quý vị nói xem, anh ta có cam lòng sẵn sàng bỏ những đồng xu vừa mới xin được xuống không?

Câu trả lời: Chắc chắn là không.

Chúng ta có phải là những người như thế không?

Khi chúng ta nhận được một chút lợi lạc từ thế gian, dù có nắm trong tay thì chúng ta cũng không buông bỏ.

Quý vị lấy một hòn đá và nói với người ăn xin rằng: "Tôi đổi đồng xu của ông được không?" người ăn xin chắc chắn sẽ nói: "Không được!".

Tại sao vậy?

Đồng xu có giá trị hơn.

Nếu hôm nay quý vị cầm một khối vàng, quý vị đi đổi với người ăn xin, người ăn xin nhất định sẽ đổi với quý vị.

Mọi người nghĩ xem, tại sao lại thế này?

Bởi vì vàng có giá trị hơn.Từ đạo lý này, Sư phụ có thể nói cho mọi người biết, muốn buông bỏ, phương pháp đơn giản nhất chính là thay thế.

Có tất cả những lý do khiến chúng ta không thể buông bỏ thế gian này: Bởi vì con người có tấm lòng ích kỷ, không đạt được điều gì tốt đẹp hơn nên không thể buông bỏ.

Khi quý vị không nhận được những lợi ích tốt hơn, quý vị không thể buông bỏ được những lợi ích trước mắt.

Vậy chúng ta hãy suy nghĩ với năng lượng tích cực, nếu như hiện tại quý vị dùng thức ăn chay để thay thế thức ăn mặn, quý vị hãy nghĩ xem, chẳng phải quý vị vừa đặt con dao đồ tể xuống rồi sao?

Những gì quý vị nhận được là lòng từ bi.

Nếu quý vị thay thế sự đòi hỏi bằng sự bố thí, buông bỏ lòng tham, đồng nghĩa với việc quý vị thay thế tật xấu tham lam bằng niềm tin (tín Phật) của mình.

Nếu quý vị dùng tín ngưỡng Phật để thay thế sự trống rỗng, ví dụ như quý vị thường cảm thấy rất cô độc khi ở nhà, đột nhiên học Phật rồi, thì quý vị sẽ buông bỏ được nỗi cô đơn khi ở nhà đó.

Nếu như hôm nay quý vị gặp phải rất nhiều chuyện phiền não, mà không nghĩ thông được hoặc khi quý vị muốn làm những điều ngu ngốc, thì trí tuệ đột nhiên đến với quý vị, có phải đã thay thế cho sự ngu si của quý vị rồi không?

Quý vị liền buông bỏ cố chấp.

Đây chính là trí tuệ đang không ngừng chuyển đổi tham, sân, si, mạn, nghi trên người quý vị, nếu quý vị dùng Chánh niệm thay thế tạp niệm trong lòng, thì quý vị sẽ buông bỏ được vọng tưởng.

Tại sao quý vị lại nghĩ về những điều không thể nghĩ tới?

Đó là vọng tưởng.

Khi quý vị muốn có được, quý vị dùng Chánh niệm "Việc này tôi làm rồi, nhất định sẽ có thiện báo", vậy thì quý vị sẽ buông bỏ được vọng tưởng.

Rất nhiều người khi dùng tâm tùy hỉ của mình để thay thế sự đố kỵ, họ liền buông bỏ được phiền não.

Khi quý vị dùng nhẫn nhục để thay thế sự trả thù, ví dụ như quý vị hận người khác, quý vị rất muốn trả thù, nhưng cuối cùng quý vị đã chịu đựng và buông bỏ sân hận.

Khi quý vị dùng lòng từ để thay thế tham ái, thì quý vị sẽ buông bỏ được nỗi đau trong lòng.

Nếu quý vị không biết cách nhấc lên, quý vị sẽ không hiểu ý nghĩa của việc buông xuống.

Quý vị muốn buông bỏ điều gì, trước tiên phải hiểu được quý vị đã đề cập đến điều gì ở thế gian.Cho nên Sư phụ nói với mọi người, dù là ăn chay, bố thí, tín ngưỡng hay trí tuệ, trong đó bao gồm Chánh niệm, tùy hỉ, thì tất cả đều là vàng bạc, phải thay thế những "đồng tiền xu" mà quý vị đang nắm chặt không buông ở nhân gian bằng việc đi sâu vào nội tâm.

Dùng những trí tuệ thiện lương này để buông bỏ, biết vận dụng trí tuệ của Phật pháp, dùng trí tuệ Bát nhã thoát khỏi nhân gian để giải quyết hết thảy phiền não của nhân gian, để thay thế những tâm tham lam, sân niệm và ngu si mà quý vị đã từng có, thì đó không phải là trí tuệ Bồ Đề của quý vị sao?
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 56 : TRI - HÀNH HỢP NHẤT LÀ THÀNH ĐẠO - 29/4/2020


⭐ BTPP - Tập 56 : TRI - HÀNH HỢP NHẤT LÀ THÀNH ĐẠO - 29/4/2020Hôm nay Đài trưởng sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện rất có ý nghĩa về phật giáo.Có hai anh em theo Đức Phật xuất gia, họ dần dần phân biệt được sự khác biệt trong việc tu học.

Anh trai tu hành rất tiến bộ, cực kỳ nỗ lực, em trai cũng rất chăm chỉ và cũng đã thức trắng đêm ròng rã mấy năm để nghiên cứu sâu sắc, hai anh em họ đều có thành tựu, anh trai chứng được quả A La Hán và người em trai cũng được đi sâu vào Tam Tạng giáo điển, là hiểu rất rõ về Tam Tạng.Người em trai vì thường học Tam Tạng cảm thấy mình đã học được rất nhiều, lại hay khoe khoang, thích khoe khoang trí thông minh, truyền bá danh tiếng và tự hào về điều đó.

Sau khi anh trai biết chuyện, cậu ta rất lo lắng cho em và cảm thấy bi quan về thành tích của em trai mình.

Có một lần, ông khuyên em trai rằng:

“Nhân thân nan đắc, Phật thế nan trị”

Nghĩa:

Được làm thân người rất khó, gặp đời có Phật khó vô cùng.

Đúng như Đức Phật thường nói:

“Thất nhân thân như đại địa thổ, đắc nhân thân như trảo thượng thổ”

Nghĩa:

Mất thân người nhiều như đất ở đại địa, có được thân người ít như chút đất trên móng tay.

Nhưng bây giờ khi đã có được thân người thì nên coi việc tu hành là trọng tâm, giải học là thứ yếu, em nhất định phải lựa chọn cẩn thận”.

Như chúng ta đều biết, trong giới Phật pháp có một từ “giải”, đó là hiểu cơ sở lý luận của đạo Phật, “hành” là đem nó vào thực hành.

Người em hiểu lý thuyết rất tốt, nhưng không chịu tu hành.Người em nghe được lời này rất không đồng tình, cảm thấy chuyện này như gió thoảng bên tai, không hề khắc ghi trong tâm.

Người em phản đối lại: “Anh ơi, em nghĩ điều anh nói không nhất thiết là đúng, em cảm thấy bây giờ mặc dù em có chút hiểu biết về Phật pháp như giọt nước trong đại dương, nhưng em vẫn chưa nắm được tinh hoa, cái gọi là “Ký đăng kỳ đường, tất nhập kỳ thất”, đợi đến khi em tinh thông Tam Tạng, xứng đáng làm thiên sư cho người khác noi theo, thì lúc đó em tiếp tục tu đạo vẫn chưa muộn.”

Ý của người em là: “Hôm nay tôi đã học được Tam Tạng rồi, tôi nhất định phải hiểu thông nó”.Người anh nói: “Này em, cuộc sống vô thường, sinh mệnh không thể kéo dài mãi mãi, có thể em chưa học xong Tam Tạng, là vô thường đã rơi vào thân em rồi, nên điều quan trọng nhất là phải tu sớm."

Nhưng người em rất cố chấp với ý định ban đầu của mình, cậu ta bướng bỉnh từ chối chấp nhận lời khuyên của anh mình.

Chẳng bao lâu sau, người em quả thực bị nhiễm một căn bệnh lạ, việc chữa trị không có hiệu quả và chắc chắn sẽ chết.

Người em biết mình sắp chết, trong lòng rất sợ hãi, nói với anh trai rằng: “Anh ơi, trước đây em ngu si và mù quáng, không nghe lời dạy của anh, bây giờ đối mặt với tuổi thọ sắp kết thúc, đã quá muộn để tu hành rồi” Sau đó, người em vừa nói trong nước mắt, để sám hối với anh trai mình.

Chẳng bao lâu sau, người em qua đời và rời khỏi thế gian.Người anh vô cùng đau đớn và nghĩ đến tình huynh đệ, vì đã đắc quả A-la-hán nên nhập định quán tha, xem rốt cuộc em mình đã đầu thai theo hướng “thú” nào (“thú” thực ra có nghĩa là đầu thai vào cõi nào rồi).

Khi nhìn thấy em trai mình tái sinh trong nhà một vị trưởng lão, cậu ta thầm nghĩ: “Tuy rằng em trai tái sinh, mình vẫn sẽ cứu em trai mình”.

Cậu ta có tâm niệm này.

May mắn thay, nhà của vị trưởng lão này rất gần chùa, để cứu em trai mình, cậu ta thường đến thăm viếng nhà trưởng lão, kết bạn với họ và nói: “Đứa trẻ này thật đáng yêu”, luôn tìm cơ hội giúp em trai mình.

Khi người em tái sinh này lên ba tuổi, người anh rất lo lắng và nhanh chóng quy y cho em và dạy em niệm Phật hiệu và thánh danh.

Không ngờ đứa bé này cũng rất đáng yêu, thông minh, ngoan ngoãn, vừa học đã biết, còn có thể niệm kinh.Khi đứa trẻ lên bốn tuổi, có lần bà vú đã bế đứa bé lên ngôi chùa trên núi để gặp sư phụ của nó, vì chùa nằm trên núi nên những bậc đá quanh co và gồ ghề, bà vú nuôi đã ôm cậu bé vào lòng.

Nhưng không cẩn thận, vô tình làm nó rơi xuống chân núi, ngay tức khắc vỡ đầu chảy máu, thịt nát xương tan và bị chết thảm như thế.

Khi sắp chết, trong lòng cậu bé chợt nảy sinh ác niệm, oán hận bảo mẫu: “Tại sao bà ấy lại ôm tôi bất cẩn khiến tôi phải chịu tai họa như vậy?”

Bởi vì cậu bé chỉ còn là linh hồn, lại vì khởi lên tâm niệm hận này, không ngờ cuối đời lại đọa vào địa ngục.Sau khi người anh biết được chuyện này, anh cảm thấy thương xót cho sự bất hạnh của em mình và ngay lập tức nhập định để quan tha sinh thú của người em (tức là rốt cuộc em trai đã đi đến cõi nào), (“sinh thú” là chỉ Tứ sinh và Lục thú.

Tứ sinh là noãn (đẻ từ trứng ra), thai (đẻ từ bào thai), thấp (đẻ nơi ẩm ướt) và hoá (tự nhiên sinh ra).

Lục thú (6 nẻo) là trời, người, ngạ quỉ, súc sinh, địa ngục và A tu la).

Đột nhiên, người anh đang thiền định thì nhìn thấy em trai mình đã bị đọa vào địa ngục, anh thở dài: “Sự đau khổ trong địa ngục thật là nặng nề biết bao!

Nghiệp tội ở địa ngục khó độ biết bao!

Nếu chư Phật và Bồ Tát không thể làm gì được thì huống chi là ta?

Ý của người anh là: Địa ngục rất sâu nặng, và nghiệp tội trong địa ngục rất khó để được độ.

Ngay cả Bồ Tát cũng không thể lay động nhân quả và không thể cứu được những người không có duyên, huống chi là tôi với quả vị A La Hán này?

Vì em trai mình trước kia không tu vi và không hành, vẫn còn tâm cố chấp ở kiếp trước, sự cố chấp khiến cậu ta “Phật Pháp khó nghe, thân người khó được, cho dù đã có được thân người, thì lại được mấy năm”.

Nói cách khác, ai không buông bỏ được chắc chắn sẽ chịu đau khổ.

Vì vậy, người học Phật nên nắm bắt thời cơ và tu tập thật tốt để trau dồi tâm mình.Trong kinh Phật, “giải” Đạo là quan trọng, “giải” có nghĩa là hiểu biết về pháp, tuy rất trọng yếu và quan trọng nhưng hành vi tu tập của chúng ta lại càng quan trọng hơn.

Rất nhiều người học Phật tụng kinh bằng miệng rất hay, trong tâm hiểu rất rõ đạo lý Phật giáo và hiểu rất tốt, nhưng những việc họ làm lại không giống con người và họ không “hành” tốt, cuối cùng việc tu tập của họ chỉ là vô ích và uổng công, không có kết quả gì.

Vì vậy, Phật giáo nói về sự hợp nhất giữa tri và hành (nghĩa là tri thức và hành vi của quý vị phải hợp thành giống nhau), hành và giải phải đồng trọng (nghĩa là sự tu hành và khả năng hiểu Phật pháp của quý vị phải giống nhau).

Thật sự hiểu Phật pháp là ở trong tâm, thật sự hiểu và có thể áp dụng được Phật pháp trong cuộc sống, đó mới là giải pháp chân chính cho việc tu hành.Hôm nay bài giảng xin được tạm dừng tại đây, chúng ta sẽ gặp lại nhau trong chương trình lần sau.
 
Bạch Thoại Phật Pháp
Tập 57. LẤY VIỆC HỌC PHẬT THƯỜNG XUYÊN LÀM GỐC 2/5/2020


⭐ BTPP - Tập 57.

LẤY VIỆC HỌC PHẬT THƯỜNG XUYÊN LÀM GỐC 2/5/2020

Hôm nay Đài trưởng sẽ tiếp tục giảng với mọi người về “Bạch Thoại Phật Pháp”.Việc chuyển hóa những tham muốn của bản thân là rất quan trọng, có rất nhiều người trên thế gian này suốt đời không biết cách chuyển hóa những tham muốn của mình.

Lấy một ví dụ đơn giản, vấn đề này không phải của quý vị, quý vị một mực muốn cho bằng được, thì quý vị đã có tham muốn này rồi, nhưng quý vị cần phải chuyển hóa nó, vậy thì chuyển hóa như thế nào?Tức là từ từ dùng một lối suy nghĩ đúng đắn, năng lượng tích cực và minh tâm kiến tánh khác để xem xét vấn đề mà quý vị đang nghĩ đến, khi đó quý vị sẽ nhận được một lời giải thích khác.

Ví dụ: Hôm nay nếu ai đó mời quý vị tham dự một sự kiện, sự kiện này có thể gây hại cho người khác và quý vị tự nhủ với lòng mình rằng: “Tôi là người học Phật, tôi không nên tham gia vào những hoạt động như vậy”.

Nếu quý vị có năng lượng tích cực trong tâm, thì quý vị sẽ chuyển đổi được suy nghĩ, liền đem mong muốn “muốn đi xem thử hay đi tìm hiểu một chút” thành “Chúng ta nên tử tế với người khác và không nên kết oán kết thù với người khác”.

Cũng giống như khi chúng ta còn nhỏ, nhiều bạn cùng lớp nói: “Chúng ta hãy cùng nhau công kích người này”.

Vì quý vị có năng lượng tích cực và suy nghĩ tích cực nên quý vị sẽ không tham gia.

Thế nên, người học Phật phải hiểu được giác chiếu của trí tuệ, người có trí tuệ, họ có giác ngộ, họ có thể chiếu sáng tất cả thế giới nội tâm của mình, họ biết được điều gì có thể làm và điều gì không thể làm, đây chính là người học Phật khác với người không học Phật.Người học Phật có được năng lượng tích cực, thì có được tuệ mệnh và sinh mệnh.

Nếu một người không có năng lượng tích cực, thì họ sẽ có nội tâm cô đơn và trầm cảm.

Có một số người cảm giác như cả đời họ mất đi linh hồn, họ gặp chuyện liền khó chịu, tai nghe không được Phật âm, ánh mắt bị ngũ dục lục trần hư ảo giả tướng che đậy, không cách nào lĩnh ngộ, không thể nhìn thấy ánh sáng của Phật Pháp.

Rất nhiều người cả đời mang theo hy vọng đến thế gian này, họ hy vọng có thể làm được một việc gì đó trên thế gian này, nhưng họ đã quên rằng, mỗi người chúng ta đến thế gian này đều mang theo nghiệp chướng.

Họ đến thế gian này, mặc dù mang theo hy vọng, nhưng nghiệp chướng của họ rất nặng, không thể tách rời bi thương và ưu sầu của bản thân.

Họ rời khỏi thế giới Ta Bà với những giọt nước mắt, với những tham muốn mà họ không thể đạt được, bởi vì họ không tu hành, không minh tâm kiến tánh.

Người mà không tuhành, mỗi ngày đều sống trong ảo tưởng và ảo giác.

Mỗi một ngày đều là tưởng tượng, thường xuyên ảo tưởng.

Tham vọng giống như bọt biển trong biển cả mênh mông mịt mù, đó là những dục vọng của bản thân, bao gồm cả sở hữu và mất mát.

Niềm hạnh phúc hay sự đau khổ mà bản thân đã từng có được, dù đã tan biến trong không khí, nhưng bản thân vẫn phải chịu đựng nỗi đau của sự biến mất đó.Mỗi người chúng ta bây giờ, chỉ cần hồi tưởng lại một số chuyện bi thương trong quá khứ, sẽ luôn phiền muộn vô hạn.

Những điều này tưởng như đã xảy ra trong tâm trí chúng ta, nhưng lại dường như chưa từng xảy ra, đó là vì quý vị đã đánh mất nó, nó không còn nữa, nên trong lòng mới có thể sinh ra phiền muộn hư ảo.

Nếu không học Phật, thì quý vị sẽ luôn sống trong sinh mệnh nhỏ bé dơ bẩn trong tâm mình, cũng chính là quý vị sở hữu một thế giới nhỏ bé, một gia đình nhỏ bé, một con người trong những thị phi nhân ngã nhỏ bé, không bao giờ biết cách giúp đỡ người khác, không bao giờ biết là bản thân có thể thoát ra được khỏi Tam giới.

Chúng ta đang ở trong cõi trần nhỏ bé, mờ mịt đến mức không thể tự cứu mình.

Có một số người khi xảy ra chuyện rồi, không có ai để thổ lộ, không có ai để giãi bày, bởi vì họ không hiểu người khác và cũng sợ người khác không hiểu mình, cho nên họ vĩnh viễn quanh quẩn trong những đau khổ đó, cuối cùng họ cảm thấy thế giới này lạnh lùng như thế là cùng.

Đó là cái vòng tròn nhỏ của chính họ, họ đã mất đi trí tuệ vốn có trong cái mà họ nghĩ là vương quốc sinh mệnh mà bản thân họ sở hữu.

Trong ngu si, nhân sinh như mộng huyễn bọt bóng.Chúng ta bất luận gặp phải chuyện gì phải hiểu được “thọ” – tức là tiếp nhận, chịu đựng.

Chúng ta có bao nhiêu điều hạnh phúc cũng đã trải qua, bao nhiêu điều đau khổ cũng chịu đủ rồi, vĩnh viễn là chữ “thọ” này.

Phật Pháp gọi “thọ” là “đã thành niệm cảnh”, tức là đã trở thành một cảnh giới ý niệm.

Cả đời chúng ta đã đi qua bao nhiêu con đường trần thế, cả đời chúng ta đã làm bao nhiêu chuyện kinh thiên động địa và những chuyện khiến bản thân đau khổ tột cùng, đều là “đã thành niệm cảnh”, niệm cảnh chính là một ý niệm, một ý niệm chính là một cảnh giới.

Trong giới Phật giáo nói “Nhất niệm thăng thiên, nhất niệm xuống địa ngục”, nếu niệm đầu nghĩ không thông sẽ khiến quý vị xuống địa ngục, nếu niệm đầu nghĩ thông suốt sẽ khiến quý vị thăng lên thiên giới.

Giới Phật Pháp từ lâu đã gọi những thế giới nhân sinh hư ảo này là “chuyện cũ không gặp lại”, cũng chính là sự việc trong quá khứ sẽ không lặp lại cho chúng ta xem lần nữa.

Mọi người thử nghĩ xem có phải là như vậy hay không, cảm giác thời tiểu học của chúng ta, bây giờ có còn không?

Những cảm giác thời trung học,hiện tại cũng không còn.

Cảm giác chúng ta từng ở nhà, ở bên cha mẹ, bây giờ cũng không còn nữa, tất cả đã không còn tái hiện.Sư phụ muốn mọi người hiểu rằng, tất cả những gì xuất hiện trong cuộc sống, bất kể cái thiện hay cái ác, điều mà quý vị không thích hay điều mà quý vị thích, tất cả hạnh phúc và nỗi buồn, quý vị không thể chiếm hữu nó mãi mãi, đó chỉ là một ý niệm của quý vị, chỉ là một chữ “thọ”, cho dù tiếp nhận hay chịu đựng qua rồi thì cũng sẽ kết thúc; chỉ có thể trải nghiệm nó, không thể sở hữu nó.

Khi quý vị có được tất cả hạnh phúc trên thế gian này, đó cũng chỉ là “tiếp nhận một chút”.

Khi quý vị đau khổ, thì đó cũng là cắn răng “chịu đựng một chút”.

Bởi vì chúng ta là khách qua đường của thời gian, có bài hát là “Khách qua đường vội vã”, người đến người đi vội vã, khách qua đường vội vã, một ngày nào đó, quý vị sẽ nói lời tạm biệt với những gì quý vị cho là nỗi đau trên thế gian này, hoặc những gì quý vị cho là hạnh phúc trên thế gian này, quý vị cũng sẽ nói lời tạm biệt với chúng.

Cuối cùng, Phật Pháp dạy chúng ta phải từ bỏ mọi thứ, vì trên đời này chẳng có gì để mất cả, chúng ta chỉ là kẻ đi ngang qua mà thôi.

Hy vọng mọi người hiểu rằng, đời người không có gì là được hay mất cả, đó chỉ là sự trải nghiệm mà thôi.

Học Phật chân chính đó là: hãy quý trọng những gì đang ở trước mắt, hãy tùy duyên mà buông bỏ những gì trong quá khứ, những điều sẽ đến trong tương lai, chúng ta phải đối mặt với nó một cách bình thản.

“Chư pháp không tướng, huyễn hóa tồn chân”, thế giới này hết thảy đều là hư không vô tướng.Đôi khi trả lời điện thoại, rất nhiều Phật hữu thường hỏi Sư phụ: “Trên đời này cái gì là mạnh nhất?”.

Con người luôn cảm thấy rằng có một thứ gì đó mạnh mẽ nhất, có thể đánh bại những điều yếu nhất trên đời.

Hãy nhớ rằng, nhân quả báo ứng là mạnh nhất, bởi vì nhân quả báo ứng không sai chút nào; Từ bi hỷ xả là lớn nhất, bởi vì chúng ta không thể sống mà không có từ bi hỷ xả.

Chúng ta phạm sai lầm trong cuộc sống, chỉ có thể chờ đợi sự báo ứng.

Cái gì mạnh nhất trên thế giới?

Cường trung tự có cường trung thủ (Núi cao còn có núi cao hơn).

Người ta nói “thép là mạnh nhất”, nhưng ngọn lửa có thể làm tan chảy nó; lại có người nói “ngọn lửa lớn là mạnh nhất”, nhưng có thể dập tắt nó bằng nước; cũng có người nói “mặt trời là mạnh nhất”, nhưng những đám mây vẫn có thể che phủ nó; “Bão tố là mạnh nhất”, nhưng núi cao có thể chống lại nó; “núi cao là mạnh nhất”, người leo núi có thể chinh phục nó; Cuối cùng, có người nói: “Cái chết là không thể thoát khỏi, đó là mạnh nhất, bởi vì không ai thoát khỏi cái chết”, nhưng đối với chúng ta là những người học Phật tu tâm, tâm hồn chúng ta sẽ không bao giờ chết, chúng ta sẽ tìm kiếm một cuộc sống mới.

Ngườihọc Phật mạnh nhất chính là nghị lực, rất nhiều Phật hữu học càng về sau không thể kiên trì được, vì họ không có được nghị lực giống như Kim Cương Bát Nhã.

Tại sao lại có người bỏ cuộc?

Bởi vì họ không có sự kiên trì, không có niềm tin.

Người học Phật phải tìm ra một con đường giải thoát, cho nên chúng ta không sợ sinh tử, chúng ta có nguyện lực kiên cường, sẽ vượt qua khó khăn, vượt qua phiền não, hướng tới tương lai.Người có chánh tri chánh kiến trong lòng họ có Phật, họ biết điều gì là đúng và họ sẽ kiên cường bước tiếp; Người có chánh kiến sẽ biết thị phi thiện ác, hiểu nhân quả, hiểu báo ứng.

Con người nên biết được thế nào là tốt, xấu, lợi, hại, người khác đối với mình tốt như vậy, sao mình lại làm tổn thương họ?

Nghe thì rất tự nhiên, nhưng ngoài đời có quá nhiều người khi quý vị càng tốt với họ, thì họ càng bắt nạt quý vị nhiều hơn, đây chính là lòng tham của con người gây ra, đây chính là tham muốn của con người gây nên.

Bởi vì quý vị tốt với họ rồi, nên họ sẽ có nhiều tham muốn hơn và sẽ bắt nạt quý vị.

Đôi khi nếu quý vị phớt lờ họ, ngược lại họ sẽ biết kiềm chế bản thân, điều này chính là họ không hiểu được chánh và tà, họ đang ở trong mê hoặc.

Người khác đối xử với quý vị lương thiện như vậy, đối xử với quý vị tốt như vậy, nếu quý vị cho rằng điều đó là lẽ đương nhiên thì quý vị sẽ bị sa chân vào con đường sai lầm.Người có trí tuệ là mạnh nhất.

Nếu một người có trí tuệ, họ sẽ giải quyết được phiền não của mình, vì vậy trí tuệ là một báu vật vô giá, nó chính là báu vật vô giá trong cuộc sống của quý vị.

Hôm nay, khi Sư phụ khai thị với mấy vị Phật hữu, đã đề cập đến báu vật vô giá của con người, trong cuộc sống còn có một điều vô cùng quan trọng, đó là thường xuyên phải có tâm hổ thẹn.

Nếu một người có tâm hổ thẹn, cảm thấy mình làm chưa đủ, chưa đủ hiếu thuận, chưa đủ tốt với người khác, cảm thấy mình làm cho cha mẹ chưa đủ, giúp người khác chưa đủ, đối với sư trưởng của mình, đối với xã hội vẫn chưa đủ, điều đó chứng tỏ người này có tâm hổ thẹn, như thế thì họ mới có thể có được tâm tinh tấn.

Tại sao có rất nhiều người không thể tinh tấn?

Bởi vì họ không có tâm hổ thẹn, họ cảm thấy mọi người trên thế gian đều nợ họ và cảm thấy họ mang lại cho người khác nhiều hơn.Phải hiểu được nhân nghĩa đạo đức, người có thể phân biệt đúng sai mới có thể đưa ra những phán đoán hợp lý.

Một người từ bi, là người đó có thể hàng phục được tất cả, bởi vì họ biết rằng trên thế gian này không ai nợ mình và mình cũng không nợ ai, tất cả đều đầy lòng từ bi và trí tuệ.

Giúp đỡ người khác và người khác giúp mình không phải là lẽ đương nhiên, mà đó là lòng từ bi của ngườikhác dành cho mình.

Khi quý vị có được những ý nghĩ đúng đắn này, thì quý vị sẽ khắc phục được tà niệm trong tâm của mình, khi quý vị bị người khác bắt nạt, khi có oán kết, thì quý vị sẽ có được lòng từ bi trong tâm để hóa giải nó.

Vĩnh viễn phải cảm thông người khác, vĩnh viễn phải hiểu rõ trên thế giới này thật sự lớn nhất, mạnh nhất là cái gì, chúng ta học Phật phải hiểu rõ, thật sự lớn nhất, mạnh nhất chính là từ bi hỷ xả, bởi vì nhân quả báo ứng là mạnh nhất, chỉ có từ bi hỷ xả, mới không động đến nhân quả báo ứng của quý vị.“Tự do đi lại, vô trệ vô ngại, ứng dụng tùy tác, ứng ngữ tùy đáp, phổ kiến hóa thân, bất ly tự tánh, tức đắc tự tại thần thông, du hí tam muội, thị danh kiến tánh”, những lời này là trong “Lục Tổ Đàn Kinh”, chính là nói về một trái tim.

Trong tâm phải có Phật, người mà có Phật trong tâm, thì tâm của họ có thể tự do tự tại.

Bởi vì họ không làm hại người khác, thì họ mới có thể tự do tự tại, giống như khi lái xe trên đường, nếu quý vị không làm tổn thương đến những chiếc xe khác và người đi bộ, thì tất nhiên quý vị đang lái xe một cách tự do tự tại.

“Vô trệ vô ngại”. không gì có thể ngăn cản được quý vị.

Một người có tâm thái năng lượng tích cực, thì họ “ứng dụng tùy tác”, tức là bất luận chuyện gì xảy ra họ sẽ ứng dụng theo đó mà làm, “tùy tâm sở dục, sở tác sở vi” (tùy theo tâm nguyện, ý muốn mà hành động).

“Ứng ngữ tùy đáp” Tức là tùy theo lời nói của người khác mà có thể đáp lại trả lời cho họ.

“Phổ kiến hóa thân”, tâm ở nơi nào cũng đều là hoá thân của Bồ Tát.

“Bất ly tự tánh, tức đắc tự tại thần thông”, chỉ cần có được Phật tánh và bổn tánh trong lòng thì sẽ có được thần thông tự tại, tức là sự tự do.

Một người có lương tâm, đi đâu cũng không bị người khác công kích; một người có trí tuệ, đi đến đâu cũng tự do tự tại.

“Du hí tam muội”, mọi người đều biết “Du hí thần thông Phật”, là vui chơi, thực hư bằng nhau, nghĩa là khi độ một người phải nửa thật nửa giả.

Đôi khi, dùng một câu nói hài hước để truyền cảm hứng cho họ, cũng giống như lúc Tế Công Hoạt Phật ở nhân gian phổ độ chúng sanh, trong tâm Ngài bình tĩnh, bài trừ tạp niệm, lại dùng thái độ “Du hí nhân gian” để đối đãi với hết thảy chúng sinh khổ nạn, bởi vì Ngài coi thế gian này là hư ảo, chỉ là dạo qua nhân gian một vòng, chỉ là ở nhân gian nhìn thấu hồng trần và biết đây là một thế giới hư ảo, “Tam muội” là đại diện cho loại tâm thái trí tuệ này của Ngài.

Vì vậy, “Du hí tam muội” là nửa thật nửa hư.

“Thị danh kiến tánh”.

Nếu nhìn thấy vạn vật trên đời này là hư ảo, tức là thấy được bổn tánh Như Lai chân thật của chính mình.Trong kinh Phật nói tâm phi, si, loạn (“si” chính là ngu si, “loạn” chính là tâm rất bấn loạn, “phi” chính là có thị phi), đều cho rằng ngũ uẩn là tự ngã thường hằng.

Cũng chính là nói với mọi người, bởi vì quý vị có cảm giác về cái bản ngãcủa mình, nên quý vị mới hài lòng về bản thân.

Một số người cảm thấy hài lòng về bản thân và không lắng nghe những gì người khác nói bởi vì họ có tâm đúng sai và ngu si.

Vì vậy, khi một người không lắng nghe người khác, thì họ rơi vào trạng thái ngu si; Hơn nữa, họ còn cho rằng ngũ uẩn là tự ngã thường hằng (“thường hằng” tức là bất biến không thay đổi), cũng chính là nói, họ cho rằng quan điểm và suy nghĩ của họ đều là vĩnh cửu, là đúng đắn mãi mãi.

Giống như rất nhiều những bậc phụ huynh như chúng ta, nhìn vào con của hàng xóm và cho rằng: “đứa trẻ này sẽ không được tốt, đứa trẻ này dù có thế nào cũng sẽ không khá lên được; Đến khi con của người ta lớn lên và có được triển vọng rồi lại cho rằng: “Đó chỉ là một sự tình cờ mà thôi”, bởi vì họ không nghĩ rằng người khác sẽ thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn.

Kết quả của loại tự ngã này thực ra là một loại biểu hiện huyễn ảo của chân tánh.

Vô phi, vô si, vô loạn, tâm chân thật thì phải, không có thị phi, không có ngu si, không có hỗn loạn, nhưng bởi vì cho rằng tự ngã thường hằng tồn tại và dùng một loại ý niệm cá nhân của mình để khống chế bát thức điền (thức thứ tám), nên mới có thể sinh ra đủ loại ý kiến đối với người khác.

Cho nên chúng ta muốn thoát khỏi phiền muộn, thì phải vượt qua sinh tử, chính là phải biết cách nhận thức bổn tánh thật của mình.

Quý vị phải tự mình trải nghiệm, phải nghiêm túc trải nghiệm và hiểu rõ bổn tánh của chính mình, gọi là “thể nhận tự tánh”.

Nếu quý vị biết cách sống với cái thiện trong bổn tánh của chính mình, sống với trí tuệ và lòng từ bi của Bồ Tát, thì quý vị sẽ không còn rơi vào “phi, si, loạn” mà quý vị cho nó là tự ngã thường hằng.

Nói một cách đơn giản, nếu một người không dính mắc vào một sự việc nào đó thì sẽ không nhập vào tự ngã thường hằng; Một người giỏi thay đổi quan điểm của mình, lắng nghe năng lượng tích cực, thì họ sẽ thay đổi những quan điểm về tự ngã thường hằng đó.

Giải thoát là khám phá bản chất tốt đẹp của trái tim mình thông qua việc hiểu biết người khác; Thông qua sự giúp đỡ của người khác và sự hiểu biết của bản thân về Phật tánh, để thay đổi quan niệm, thay đổi bản thân.

Không nên bị tạp nhiễm hay dính mắc vào mọi thứ trên thế gian này.
 
Back
Top Bottom