Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp

[BOT] Mê Truyện Dịch

Active member
Quản Trị Viên
Tham gia
7/9/25
Bài viết
420,166
Điểm cảm xúc
0
Điểm thành tích
36
AP1GczNo8UTwYNtIt6pUfU5HnqDrkim-TC3piBjZgHiB_YVocvTeKU03FZCwUNhxfUPoMyG3yIGJQ8VoO6KOcooPKoYWBaGBUOqmidFBne82g5tgN-OAQ2iH-SgfrnTs8r3KELholB2lL0wkKzfaKhaAJacj=w215-h322-s-no-gm

Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Tác giả: Phạn Tạp
Thể loại: Ngôn Tình, Trinh Thám, Hài Hước, Cổ Đại, Sủng
Trạng thái: Đang ra


Giới thiệu truyện:

Thể loại: Nguyên sang, Ngôn tình, Cổ đại , HE , Tình cảm , Phá án , Hoan hỉ oan gia , Giang hồ ân oán , 1v1 , Thị giác nữ chủ

Văn án

Vào thời Đại Đường phồn hoa rực rỡ, Vạn Thọ công chúa là cành vàng lá ngọc được cưng chiều nhất chốn hậu cung. Nhưng vào năm mười bảy tuổi, nàng qua đời vì bệnh, xuân sắc chưa kịp tàn.

Thế nhưng, khi một kẻ trộm mộ vô danh lén lút mở ra địa cung sâu thẳm, lại phát hiện sự thật kinh hoàng — công chúa không hề chết vì bệnh, mà bị chôn sống trong cỗ quan tài lạnh lẽo. Trên khuôn mặt nàng là một chiếc mặt nạ quái dị, dữ tợn đến rợn người.

Triều chính đổi thay, giang hồ nổi sóng, phong vân cuồn cuộn… nhưng tất cả những biến động đó, dường như chẳng mấy liên can đến hai con người nhỏ bé ấy.

Một người cưỡi lừa, một kẻ nắm dây, tạo thành một tổ hợp kỳ quái như đi thỉnh kinh chốn xa xôi, để tìm chốn thân thích nương nhờ qua ngày.

Họ không màng danh lợi, cũng chẳng dính dáng đến phong ba ngoài kia, mà thứ khiến họ đau đầu nhất lại là… lộ phí. Ăn uống, nghỉ ngơi, đi lại — ba bữa một ngày chẳng khi nào đủ đầy. Trên đường đi, cứ mỗi khi đặt chân đến đâu, nơi đó lại xảy ra đại án kỳ dị. Mà trớ trêu thay, họ luôn bị xem là kẻ tình nghi đầu tiên.​
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 1: [Quyển 1 : Ký Sự Trộm Ngọc]


Tháng Năm, hung hiểm. Lúc này âm dương giao tranh, sinh tử rối ren, khí độc lan tràn bốn bề, là tháng đại hung trong năm.

Thành Trường An mắc kẹt trong hơi nóng oi nồng và những kiêng kỵ của tháng xấu, lòng người đâu đâu cũng bức bối bất an. Ngay lúc ấy, từ trong Đại Minh Cung bỗng truyền ra một hung tin khiến thiên hạ chấn động: Vạn Thọ Công chúa bỗng ngã bệnh qua đời, xuân xanh chưa tròn mười bảy.

Công chúa là con gái duy nhất của Thánh thượng và Quý phi Tiết thị người được sủng ái nhất hậu cung. Tuy thân phận là phi, nhưng Tiết thị được hưởng lễ ngộ ngang hàng chính thất. Ngày công chúa chào đời, thánh ân chan hòa, người người đều hay. Vừa lọt lòng đã được phong thực ấp đến một ngàn năm trăm hộ, đến tuổi cập kê lại được gia phong lên đến ba ngàn hộ bỏ xa mọi công chúa khác trong triều.

Vài năm trước, Quý phi khó sinh mà qua đời, Thánh thượng vì đau lòng nên càng thêm thương tiếc đứa con gái này. Cái tên “Vạn Thọ” chính là lời cầu chúc tha thiết: mong con sống thọ trăm tuổi, sống lâu trọn kiếp. Nào ngờ người con ấy luôn khoẻ mạnh sáng sủa, lại đột ngột lâm bệnh chỉ đôi ngày rồi qua đời, đúng ngay khi sắp được chọn chồng gả cưới, thật khiến ai nghe cũng chấn động trong lòng.

Hoàng đế đau đớn không kìm được, mặc kệ lời can gián của triều thần, sắc phong nàng làm Trưởng công chúa, ban thụy hiệu “Tư”, ngưng triều bảy ngày để lo tang sự, sai cả Hồng Lư và Thái Thường phụ trách mọi nghi lễ, truyền lệnh khắp thiên hạ trong nửa năm không được mở tiệc đàn ca, trăm họ trong vòng trăm ngày không ai được cưới hỏi. Riêng dân Trường An phải mặc đồ trắng, ăn chay giữ mình suốt một tháng.

Quan tài chỉ quàn* trong cung ba ngày rồi nhập liệm, đưa về chôn tại một khu đất lành dưới chân núi Chung Nam.

Quàn: để thi hài người chết tạm thời ở một nơi nào đó (thường là nhà quàn, nhà tang lễ, hoặc tại tư gia) trước khi đem chôn cất hoặc hỏa táng.

Đấy vốn là mộ phần do một lão thân vương chọn sẵn từ trước, nhưng về sau bị tội, giáng xuống thường dân, không còn tư cách sử dụng. Công chúa mất lúc tuổi đời còn xanh, gấp rút chẳng kịp chuẩn bị chi, nên đành dùng mảnh đất kia thay chốn yên nghỉ.

Những của hồi môn được chuẩn bị kỹ lưỡng từ bao năm nay, nay đành trở thành vật chôn theo, đưa linh cữu ngày hôm ấy, người tiễn vượt quá vạn, cấm quân dọn đường, quan viên theo hầu, lọng vàng cờ thêu che khuất cả trời, hương đốt dày như bụi rậm, từng xe từng xe chở báu vật quý hiếm nối dài không dứt. Đội dẫn đầu đến núi từ sớm, mà nhóm khiêng quan tài còn chưa ra khỏi thành. Người dân Trường An đứng chen vai xem tiễn biệt, mồ hôi ướt đẫm, chẳng ai dám ho khan một tiếng.

Từ nơi chôn cất đến nghi lễ đưa tang, đều do Thánh thượng tự quyết, các quan dâng lời khuyên can đến khô miệng cũng không ai dám nhắc thêm, ngược lại còn có vài kẻ bị đày đi xa vì lời nói chạm đến thiên cơ.

Trăng mờ u ám, bóng Chung Nam sơn đổ dài như dải lụa đen, trùm phủ lên cả khu mộ địa hoàng tộc. Ánh đèn le lói chỉ đủ soi sáng lối mòn dưới chân. Trời oi nồng đến khó chịu, không khí ẩm, đặc quánh tưởng chừng có thể vắt ra nước, dù là giữa đêm khuya cũng khiến người ta nghẹt thở.

Địa cung đã bị phong kín, ba lớp cửa mộ dùng nước tích lại mà lấp đầy. Lớp đất đắp bên trên còn chưa kịp vun xong, hoàng đế đã hạ lệnh san phẳng phần nghĩa trang, dựng từ đường để sau này làm nơi tế lễ. Từ kinh thành đến vùng lân cận, thợ thuyền từ các nơi lần lượt kéo đến, cuộc tang lễ quy mô lớn này vẫn còn dang dở, chưa có hồi kết.

Trong đêm oi bức, hai tên lính Kim Ngô Vệ ngồi nghỉ bên gốc cây mới chặt, thân thể mệt nhoài. Đêm tuần tra liên tục khiến cả người đẫm mồ hôi, lớp áo trong dưới bộ giáp nặng ướt sũng. Họ vốn là thiếu gia nhà phú quý, chưa từng phải chịu vất vả như thế.

“Mọi việc quá gấp gáp, quá vội vàng dù không để trong cũng thì cũng nên gửi đến chùa lớn để tụng niệm vừa chuẩn bị mộ phần cẩn thận. Bình thường hoàng tộc phát tang cũng phải nửa năm, ngay cả dân thường cũng phải có vài ngày để kính viếng. Mà như hôm nay…chẳng phải muốn ép người mệt lả sao?”, một người oán thán.

Người kia khẽ đáp: “Nghe nói các đạo sĩ trong cung đã xem ngày, nhất định phải đúng ngày, đúng giờ mới hợp mệnh.”

“Tháng xấu thì có ngày nào tốt?” Người A hạ giọng nói, “Việc này càng nghĩ càng kỳ lạ. Công chúa xưa nay khỏe mạnh, lại thích cưỡi ngựa, săn bắn. Cho dù bị phong hàn thì sao có thể chết trong hai ngày như vậy. Mà chết rồi, còn vội vã an táng như bị ma thúc giục…”

Người B ngó nghiêng xung quanh, thấy không có ai, mới ghé sát tai đồng đội, hạ giọng:
“Nghe đồn… công chúa không phải chết vì bệnh, mà bị hạ độc.”

Người A lập tức hiểu ý, ghé đầu lại nghe người kia kể.

“Quý phi mất rồi, tình cảnh của những đứa con cũng khó nói. Thiều Vương vốn là người tài đức, được thánh hượng kỳ vọng, ai ngờ năm ngoái lại bị điều làm Thứ sử U Châu. Giờ đến muội muội cùng mẹ cũng mất đột ngột… chẳng lẽ chỉ là ngẫu nhiên?”

Người A nhíu mày: “Chuyện này ai mà chưa nghe. Nhưng cũng chỉ là lời đồn ngoài cung. Người đời cứ tưởng mẫu quý nhờ con, ai ngờ là con sủng nhờ mẫu. Sủng ái đã phai, thì vinh hoa cũng chẳng giữ được.”

Năm ấy loạn đảng nổi dậy, chính là Lương vương đương kim hoàng đế bấy giờ bối rối chạy về đất Thục, vợ cả Vương thị bị giết, chỉ còn Tiết phu nhân theo bên, đồng cam cộng khổ. Thiều vương chào đời trên đường lưu vong. Lương vương từng thề rằng nếu sau này lên ngôi, nhất định không phụ người đã cùng mình vượt nạn.

Sau khi đăng cơ, hoàng đế không quên ân tình xưa, phong Tiết thị làm Quý phi, thịnh sủng suốt hai mươi năm trời, cả nhà một bước lên mây. Người ta nhắc đến quý phi không cần nói họ, bởi trong cung chỉ có một quý phi ấy. Chuyện này đã thành giai thoại lưu truyền khắp nơi.

“Còn nữa, công chúa lúc sinh thời được sủng ái như vậy, đáng lẽ phải an táng ở phía bắc hoàng lăng, bên cạnh tổ tiên và mẫu thân. Cớ sao lại vội vàng chôn nơi rừng núi hoang vắng, một mình nằm lạnh lẽo? Không lẽ không kỳ quặc?”

“Ngươi nhỏ giọng thôi, việc trong cung, biết nhiều chẳng phải phúc.” Người A che miệng nói, “Nghe nói, trước khi lối vào mộ khép lại, có một đội Long Vũ Vệ đi vào kiểm tra, chưa đến nửa canh giờ đã đi ra. Mà trên giáp và giày… đều dính máu.”

Người B nghi ngờ hỏi: “Không phải nói chôn theo vài con ngựa quý mà công chúa yêu thích nhất để tuẫn táng cùng sao?”

Người A hừ nhẹ: “Giết ngựa, cần gì đến cấm quân đích thân ra tay? Việc này rõ ràng có khuất tất.”

Hai lính canh đã tỉnh táo, càng nói càng thấy bất an. Lúc này, trời đã về canh tư, bốn bề lặng ngắt. Giữa đêm tối mịt, bất chợt vang lên tiếng xào xạc trong bụi cây, tựa như có vật gì đang len lỏi. Cả hai giật mình, một người vội đặt tay lên chuôi đao, tay kia đưa ra chặn ngang trước ngực đồng đội, trầm giọng quát: “Ai đó? Kẻ nào lén lút giữa đêm khuya?”

Người B vội đưa đầu thương nâng cao đèn lồng, chiếu về hướng phát ra tiếng động. Dưới ánh sáng lờ mờ, một bóng dáng nhỏ bé từ từ bước ra khỏi lùm cây. Là một chú tiểu đầu trọc, chừng mười một, mười hai tuổi, áo cà sa cũ kỹ pha lẫn vài chỗ mới.

Cậu ta chưa kịp lên tiếng, cả hai tên Kim Ngô Vệ đã thở phào nhẹ nhõm, bàn tay nắm chuôi đao cũng dần buông lỏng.

Khi ấy, dưới chân núi Chung Nam đang làm lễ cầu siêu cho công chúa, tăng đạo khắp Trường An đều được điều đến, con số lên tới cả ngàn. Cảnh tăng lữ qua lại vốn đã quen. Một chú tiểu xuất hiện, cũng chẳng lạ lùng gì.

“Xin hai vị quân gia chớ nổi giận! Tiểu tăng ban ngày vì tham ăn nên trót ăn quá hai bát cơm chay, đêm đến bụng đau không chịu nổi, sư phụ bực mình liền đuổi ra ngoài…”

Cậu ôm bụng, lưng khom, giọng nhỏ như muỗi kêu, mồ hôi từ trán lăn dài xuống mặt, dáng vẻ nhếch nhác tội nghiệp.

“Thôi được rồi! Tránh xa ra một chút, đừng làm ô uế chốn thiêng của công chúa!”

Sau vài câu tra hỏi chiếu lệ, hai tên Kim Ngô Vệ như trút được gánh nặng, quát khẽ đuổi đi tiểu sa di. Thấy không có quan trên đến kiểm tra, cả hai lập tức rời đi, đổi sang một khu vực khác để tiếp tục tuần tra, vừa đi vừa tiếp tục câu chuyện đang dang dở lúc nãy.

Cảnh tượng ấy, suy cho cùng, cũng chỉ là một đoạn nhạc nền vụn vặt chen vào đêm túc trực linh cữu công chúa, một chi tiết vụn vặt trong đêm dài.

Chú tiểu chờ đến khi ánh đèn lồng của đội tuần tra khuất hẳn nơi cuối con dốc mới dám từ từ đứng dậy, lấy tay áo lau mồ hôi trên trán. Chọn đúng đêm trăng mờ để ra tay, ánh sáng yếu vừa vặn che khuất bóng hình, chỉ khổ nỗi ngay chính bản thân cũng chẳng thấy rõ đường đi gập ghềnh dưới chân. Nếu sư phụ còn sống, nhìn thấy hắn đạp phải cành khô, làm quan binh cảnh giác, việc xong nhất định sẽ dùng roi quật cho một trận nên thân.

Lần này có kinh mà không gặp hiểm, hắn càng thêm dè chừng, lặng lẽ lần bước đi sâu vào rặng cây. Ước chừng qua được một dặm, hắn sờ đến ngôi nhà nhỏ chuyên trồng rau của một người dân quê, len qua hàng rào tre để vào sân sau. Vì có tang, người quanh đây đều bị buộc dọn đi nơi khác, trong nhà tối om, không đèn không lửa.

Hắn không vào nhà mà nép mình trong sân, im thinh thít chờ một lát, xác định khắp bốn bề không một bóng người mới mò tới góc tường dương vòng, gõ lên mặt tảng đá mấy cái. Một chốc sau, từ dưới tảng đá vọng lên mấy tiếng gõ đáp lại, tiết tấu y hệt. Chú tiểu vén tay áo, dịch tảng đá sang một bên, để lộ thảm cỏ bên dưới. Gạt bỏ lớp cỏ, lộ ra một cửa động nhỏ hẹp đến mức chỉ đủ một đứa trẻ chui lọt, đường xuống lại nghiêng nghiêng, không biết thông tới đâu dưới lòng đất.

Cậu khom người, thấp giọng gọi vào trong hầm: “Đại sư huynh, lên đi!”

Từ trong động trước tiên đưa lên mấy bao đất, chú tiểu đón lấy rồi đặt gọn sang một bên. Kế đó có người cựa mình bò lên, đầu ra trước, rồi vai, chờ đến khi cả hai cánh tay rút được ra ngoài thì vang lên một tiếng răng rắc nơi khớp xương, hắn xoay vai thẳng lưng, chậm rãi trồi khỏi cửa động một nam nhân trẻ tuổi vận áo màu xanh nhạt.

Dù nhìn bao nhiêu lần, chú tiểu vẫn không khỏi líu lưỡi cảm thán trước vẫn khiến tài nghệ thu nhỏ của đại sư huynh.

Nam nhân ấy vóc dáng mảnh khảnh, gương mặt thanh tú dài hẹp, nước da còn tái hơn cả ánh trăng, dưới mắt có vệt xanh nhàn nhạt, trông chẳng có vẻ gì là khoẻ mạnh. Từ dưới đất chui lên, chẳng nói chẳng rằng, chàng ngồi xếp bằng ngay tại chỗ, hai tay bắt quyết, nhắm mắt điều khí.

Trong giếng, không khí vô cùng ngột ngạt, dù nội lực chàng đã luyện đến mức cao thâm, sau mấy canh giờ đào đất cũng phải trồi lên hít thở một chút. Chú tiểu vừa trông chừng vừa dọn đất đổ đi quanh sân. Gần đây mọi nơi đều đang xây dựng vì chuyện tang lễ của công chúa, mấy bao đất đổ lẫn vào chẳng ai nhận ra.

Chờ chú tiểu làm xong, chàng trai kia cũng đã điều khí xong. Chú tiểu liền lôi từ trong áo ra một túi đồ, lấy rượu và thức ăn dâng lên. Người kia nhận lấy, chậm rãi ăn uống, động tác ung dung, từ tốn.

Nhìn sư huynh ăn uống, chú nghĩ thầm, dù cho đại sư huynh tư chất hơn người, nắm trong tay không ít tuyệt kỹ, nhưng cái giá phải trả cho những điều đó… chẳng ai dám mơ tưởng. Làn da kia còn lạnh hơn cả phiến gạch xanh dưới mộ đạo; nếu nằm im nhắm mắt nín thở, mười người nhìn qua thì chín kẻ tưởng là xác chết.

“Đào đến địa cung rồi sao?”

“Khoảng ba khắc nữa là là tới nơi.” Thiếu niên uống cạn rượu trong bình, phủi bụi trên khăn vấn đầu, rồi lại buộc gọn lên trán.

“Đại sư huynh… lần này thật sự… thật sự là lần cuối cùng sao?” Chú tiểu ngập ngừng hỏi xác nhận.

Thiếu niên mỉm cười rạng rỡ, lộ ra hàm răng trắng nhỏ: ““Phải. Dù có tìm không thấy, từ sau cũng không làm nữa. Gác kiếm rửa tay.”

Chú tiểu không khỏi thở dài: “Tiếc thật, sư huynh mang một thân bản lĩnh, mà hai ta lại vẫn chưa phát tài lần nào.”

“Thập Tam Lang là, nếu muốn phát tài, sao không đi theo lão Nhị, theo ta, Vệ Huấn, thì kiếm được gì đâu.”

Chú tiểu tên Thập Tam Lang nghiêm túc đáp: “Nếu đệ theo nhị sư huynh, thì ai ở lại canh chừng đại sư huynh?”

Một người xuất gia, một người phàm tục, hai người đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng bật cười.

Trước kia, trong giới trộm mộ, Trung lang tướng Trần lão đầu danh chấn thiên hạ, là bậc kỳ tài mà không ai không kính nể. Trước khi qua đời, ông quyết định truyền nghề cho người đệ tử thứ hai. Vi Huấn là đại sư huynh lại chẳng mảy may quan tâm. Lão đầu vừa mất, hắn liền rời đi một mình, chỉ mang theo thanh dao găm giắt bên lưng, bỏ lại tất cả phía sau. Không ngờ rằng, cậu nhóc Thập Tam Lang người kém hắn đến mười tuổi lại lẳng lặng đuổi theo, không rời một bước, quyết một lòng đi theo.

Vi Huấn đứng dậy, định quay lại địa đạo, bất giác ngẩng nhìn ánh trăng mờ sau tầng mây mỏng. Trăng lạnh lặng lẽ, quầng sáng yếu ớt như lòng người. Xưa nay không tin vào quỷ thần, nhưng lần này, hắn vẫn lặng lẽ thề trong tâm:

Lần này chính là lần cuối cùng đào mộ rồi.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 2


Lúc ấy, dưới chân núi Chung Nam, từ tam tỉnh lục bộ, cửu ty ngũ giám, quan viên triều đình, cấm quân túc trực tuần tra, thợ khắc đá, dựng gạch xây mộ, đến tăng đạo tụng kinh siêu độ, hoạn quan tỳ nữ, tổng cộng hơn hai ba vạn người tụ hội. Thế nhưng chẳng ai hay biết, ngay dưới lòng bàn chân mình lại có một đường hầm âm thầm khoét xuyên lòng đất, trời không biết, đất không hay, dẫn thẳng đến nơi an táng của công chúa.

Phía trên, cấm quân canh gác nghiêm ngặt, phía dưới là địa cung âm u vắng lặng. Ba lớp cửa đá to nặng, khóa bằng cơ quan thép ròng, trên đỉnh khắc linh thú trấn mộ, có rãnh nước để điều hòa khí ẩm, tưởng như không cách nào phá nổi. Nhưng Vi Huấn không chọn đường thẳng, chàng lặng lẽ trà trộn vào nhóm thợ xây, âm thầm dò được cấu trúc mộ thất và vị trí chuẩn xác. Sau đó từ xa tránh khỏi tai mắt mọi người, tự đào một đường ngầm nghiêng thẳng xuống lòng đất, từ dưới đế nền mà dần chui ngược lên. Không nói đến tốc độ đào đất thần tốc, chỉ riêng phần tính toán tỉ mỉ đến không sai một ly một tấc kia, đã là tuyệt kỹ mà những kẻ trộm mộ tầm thường trăm đời cũng không với tới nổi.

Từ nhỏ, khi bị Trần lão đầu mua về, Vi Huấn đã bị ép theo học nghề. Mười lăm tuổi, tay nghề đã vượt thầy. Song bản thân chàng lại chẳng mảy may để tâm đến vàng bạc, vận số lại xui xẻo, đào bao lần mà vẫn trắng tay. Bao người từng kỳ vọng vào chàng để ngoi lên, cuối cùng cũng chán nản mà rời đi. Sau khi Trần lão chết, các sư huynh đệ mỗi người mỗi ngả, ai nấy ôm đoàn mà đi, chỉ còn Vi Huấn một thân một dao, tự mình lầm lũi dưới lòng đất.

Trong động ngầm dưới mặt đất, Vi Huấn lần mò hành động, nhẩm tính khoảng cách không sai biệt mấy. Một lúc sau, trong tay hắn vang lên âm thanh rào rào như kim ngọc va nhau xúc cảm mát lạnh, ấy chính là loại “gạch vàng” do lò quan chuyên chế cho hoàng gia.

Gạch vàng không phải là vàng thật, mà được nung từ một thứ đất sét lọc kỹ chuyên dùng cho tế tự, kết cấu cứng và mịn, thường được dùng trong cung điện. Chúng không chỉ quý ở công phu chế tác mà cả cách pha trộn cũng bị giữ kín. Gạch lát mộ thường chồng lên nhau thành chín tầng, thợ thuyền chẳng dám làm ẩu, từng viên khít khao đến mức một tờ giấy cũng chẳng lọt qua. Nhưng chỉ cần không đổ xi măng, thì chẳng thể làm khó được Vi Huấn.

Vi Huấn móc từ ngực áo ra một con dao găm, lần theo khe hở chọn đúng chỗ mối nối rồi nhẹ nhàng lách mũi dao vào. Một tay giữ chuôi, tay kia gõ nhẹ bốn góc xung quanh, viên gạch đã rời ra, được hắn nhẹ nhàng nhấc xuống. Đã nhấc được viên đầu tiên thì phần sau trở nên dễ dàng hơn nhiều. Một góc địa cung vốn bằng phẳng, lúc này đã lộ ra một lỗ hổng nhỏ.

Bên trong địa cung âm u giá lạnh, không có chút gió nào mà khí lạnh vẫn ngấm vào tận xương, so với cái nóng như thiêu ngoài kia quả thật như hai thế giới đối nghịch. Mộ phần vừa mới niêm phong chưa đến hai ngày, không khí vẫn còn trong, chỉ lờ mờ thoảng qua một mùi tanh lạnh nhàn nhạt. Vi Huấn dò dẫm bám vào vách tường mà chui vào, bàn tay chạm phải thứ gì đó ướt dính. Hắn thầm nghĩ, chắc hẳn đám tang làm quá gấp, đến cả bích hoạ còn chưa vẽ xong đã vội phong mộ.

Hắn không vội đánh lửa soi đường, mà trước hết lặng lẽ lắng nghe bóng tối. Ở nơi đất âm không ánh mặt trời thế này, nếu có nguy hiểm hay cơ quan cạm bẫy, phản ứng thân thể sẽ linh hơn đôi mắt. Vi Huấn mò từ trong động vài hòn đá nhỏ, ném ra bốn phía dò xét.

Bỗng, một luồng gió lạnh sượt ngang mặt. Hắn lập tức né tránh, một mũi tên từ cơ quan bí mật phóng ra, cắm phập vào tường gạch. Tiếng vang vọng lan xa, nhờ đó hắn đã xác định được bố cục địa cung, biết vị trí bản thân đang đứng.

Dù mộ công chúa được xây xa hoa lộng lẫy, nhưng việc hạ táng lại vô cùng gấp gáp. Cơ quan tinh vi chưa kịp bố trí, chỉ mới đặt sáu bệ nỏ dọc theo hành lang. Vi Huấn vừa khéo phá giải một, xem như vượt qua cửa đầu tiên. Nếu có mùi thi thể hay khói độc như thủy ngân, thì thời gian cũng chưa đủ để phát tán. Ngoài mùi tanh thoang thoảng quanh chóp mũi, thì chưa phát hiện điều gì bất thường.

Vi Huấn lấy ra hỏa chiết thắp lên. Dù ánh lửa yếu ớt, cũng đủ soi sáng một góc mộ thất.

Xét theo thân phận của công chúa, thì tòa huyệt thất này quả vượt xa quy cách thông thường, gần như lễ lăng tẩm của hoàng thất. Trên có giếng trời, hai bên là kham phòng, vách mộ đạo vẽ kín bích họa thị nữ kẻ cầm quạt, người nâng hồ rượu dáng điệu mềm mại, như đang hầu hạ lúc sinh thời. Nhưng do gấp gáp, nhiều bức còn chưa tô màu. Đồ tùy táng chất chồng lộn xộn, chẳng theo trật tự.

Vi Huấn cầm nến đi từng bước, ánh mắt lướt qua từng món châu báu mà người trần chẳng bao giờ tưởng tượng nổi. Lụa là tơ lụa từng rương, chén ngọc bồn vàng, son phấn ốc mỹ, tượng đất, lư hương, đủ màu bánh trái. Tất cả không được sắp xếp, dường như bị đổ đống vội vã.

Càng đi sâu vào trong, Vi Huấn càng cảm thấy lạ. Đồ bày biện như thể vừa có người lục lọi lớn, xáo trộn cả nghi thức. Trên tường không còn vẽ tranh mà treo đầy lụa gấm, nhiều chỗ trang trí còn dang dở. Hậu sự công chúa nhìn thì hoa lệ, song lại vội vàng đến khó tin.

Ly thủy tinh còn đọng nước, mâm vàng đựng sữa đông, cảnh vật như thể còn đang chờ người sống tới dùng bữa sáng. Những món đồ vốn chỉ dành cho cõi dương gian, giờ bị đưa vào phần mộ lạnh lẽo, khiến khung cảnh toát ra một vẻ quái dị khó tả.

Đi qua những ngà voi, sừng tê, san hô, rèm châu, châu báu vô giá muôn màu, Vi Huấn chẳng hề động lòng. Những thứ ấy đều không phải thứ hắn đang tìm. Dừng chân trước một chiếc lư lớn tạc bằng ngọc mỹ tạo hình bốn chân, hắn xem xét một hồi, thấy chỉ là lò đốt hương liền lập tức vứt lại sau lưng.

Mùi tanh trong không khí ngày càng nồng.

Dưới ánh nến yếu ớt lay động, Vi Huấn chợt nhìn thấy phía trước có một bức tượng thiếu nữ lớn gần bằng người thật. Nàng vận váy lụa màu xanh lá nhạt, quỳ trên mặt đất, hai tay chắp lại, đầu cúi hướng về phía huyệt thất sâu bên trong với dáng vẻ cung kính, thần thái sống động như người thật.

Nhưng… đó không phải tượng.

Chân Vi Huấn giẫm trúng một vũng máu đã đông. Đó là thi thể bị chém đứt đầu bằng lưỡi dao sắc, búi tóc nghiêng lệch, đầu chỉ còn vương chút da thịt níu với cổ, máu đã lạnh ngắt, đông sệt lại. Nữ thi mặc y phục cung nữ, tay chân bị trói chặt trong thế quỳ, xác chết cứng đờ vẫn còn giữ nguyên tư thế lúc sinh thời.

Một luồng lạnh lẽo dâng lên trong lòng Vi Huấn. Từ sau thời Tần Thủy Hoàng, tục chôn người theo đã mai một, sang thời Hán Đường chỉ dùng tượng gỗ thay thế. Dù là lăng tẩm vua chúa cũng hiếm thấy chuyện giết người để táng. Trong lòng hắn đầy rẫy nghi hoặc: rốt cuộc, Vạn Thọ Công Chúa có gì đặc biệt mà phải bố trí đến thế?

Khi hắn bước vào gian mộ thất lớn nhất ở trung tâm, cảnh tượng đẫm máu rợn người lập tức hiện ra: Hàng chục thị nữ và hoạn quan bị trói cả tay chân, quỳ rạp đầu chạm đất, hướng về phía linh sàng công chúa mà dập đầu. Máu me văng vãi khắp phòng, trông đến phát sợ.

Vi Huấn đi từng bước quanh các thi thể, phát hiện không chỉ chết thảm, mà khi còn sống họ còn bị tra tấn đủ điều: gân đoạn, xương gãy, da thịt rách nát, nhìn không đành lòng.

Chẳng lẽ do công chúa lâm bệnh qua đời đột ngột, khiến hoàng đế giận dữ trút lên đám kẻ hầu người hạ vì thất trách?

Vi Huấn nhíu mày, trong lòng vừa ghê tởm lại tức giận, chỉ muốn một mồi lửa thiêu sạch tất cả cảnh tượng này. Nhưng bản tính thận trọng khiến hắn chưa vội manh động. Hắn cầm đuốc soi tỉ mỉ quanh phòng, đi vòng quanh gian mộ thất hai lượt, mới phát hiện các thi thể nô tỳ không hề bị vứt bừa bãi, mà được sắp xếp theo trận thế nào đó dựa trên thiên can địa chi.

Vàng mã còn chưa kịp sắp xếp, mà lại có thời gian xếp xác theo trận đồ?

Rồi hắn nhìn tới chiếc quan tài lớn giữa phòng có lẽ là của công chúa Vạn Thọ. Quan tài này e là vốn chuẩn bị cho một thân vương, bên ngoài chạm trổ thành dáng dấp cung điện mái cong chạm rồng, ở bốn góc còn khắc lính canh cầm kích đứng hầu.

Vi Huấn đưa tay khẽ chạm, phát hiện khe nắp quan tài không được bịt kín bằng sáp ong như thường lệ, những sơ hở như vậy trong mộ công chúa này đâu đâu cũng thấy, kể ra chẳng lạ nữa.

Đã bước chân vào đây, sao có thể không mở nắp tìm bảo vật? Vi Huấn liếc nhìn đám xác quanh mình, trong lòng dâng lên một tia giận dữ khó gọi thành lời như muốn báo thù thay những kẻ đã chết oan.

Hắn lấy một thanh thép mỏng, nạy vào khe nắp quan tài, lấy sức nhẹ nhấc nặng mà cạy. Vài lần dồn lực, nắp quan tài hình cung điện nặng nề bật ra, rơi xuống nền đá kêu rầm một tiếng, vỡ tan thành từng mảng lớn.

Trước mắt hắn, là một lớp lụa tơ quý sắc vàng nhạt phủ lấy bên trên. Trên quan tài, một mảnh lụa rộng chừng hai thước, dài bảy tám thước, màu vàng mơ như cờ pháp. Vi Huấn từng thấy những bức lụa như thế trong quan tài bậc quyền quý, thường vẽ cảnh người chết thăng tiên hay tranh cát tường. Nhưng tấm lụa này lại kín đặc những dòng chữ cổ, thoạt liếc đã nhận ra là các loại phù chú trấn hồn, đuổi tà.

Chẳng lẽ… sau khi chết, công chúa hóa thành cương thi?
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 3


Trên quan tài, phủ một tấm lụa mỏng màu vàng hạnh, rộng chừng hai thước, dài đến bảy tám thước. Vi Huấn từng thấy không ít mộ phần của quan lại quý tộc, trên lớp lụa phủ quan tài thông thường thì trên lớp lụa phủ quan tài sẽ thêu những cảnh tượng cát tường như linh hồn về trời, đắc đạo thành tiên. Nhưng tấm lụa này phủ đầy chú ngữ kỳ quái, nhìn qua toàn là bùa trấn hồn, trấn yểm, phù trừ lệ quỷ.

Chẳng lẽ sau khi chết, công chúa đã hóa thành cương thi?

Lại nhìn quanh xác các cung nữ bị sắp đặt bên cạnh, có thể nhận ra dụng ý trấn yểm ẩn tàng trong đó.

Tình thế đã đến nước này, người thường ắt hồn siêu phách lạc, chưa nói đến khai quan, e rằng chỉ dám đứng xa mà run rẩy. Nhưng Vi Huấn tính tình trái ngược, trời sinh cứng đầu, người ta càng kiêng kỵ, chàng lại càng muốn thử. Chàng nhếch môi cười lạnh, giơ tay nắm tấm kinh lụa vò thành nắm, ném sang một bên.

Sau đó, chàng gỡ nắp quan tài, không chút kiêng dè phơi bày thi thể mộ chủ dưới ánh sáng leo lắt.

Bên trong quan sáng rực bảo quang, trân châu rải đầy, từng hộc một làm lớp lót bên dưới, vây lấy thi thể như sóng vây thuyền. Trên mặt người chết đeo một chiếc mặt nạ dữ tợn, nét điêu khắc sinh động, ánh nến lay động hắt lên càng thêm âm trầm kỳ dị. Đó là loại mặt nạ “bốn mắt”, dân gian gọi là “kỳ đầu”, thường dùng trong các cuộc trừ tà, trấn hồn.

Xưa nay thiên hạ vẫn có lệ: người chết, bất luận sang hèn, khi nhập quan cũng nên dành đôi phần kính trọng. Mặt y thường là tấm vải trắng mỏng che lên mặt người đã khuất. Ấy vậy mà nơi đây không có mặt y, lại còn đeo lên kỳ đầu dữ dằn. Rõ ràng là muốn trấn hồn phách không cho ra ngoài, nhốt mãi trong thân xác thối rữa, không cho đầu thai, chẳng khác gì ngục tù đời đời.

Vi Huấn vốn chẳng tin ma quỷ, nhưng cũng kinh ngạc trước thủ đoạn độc ác ấy. So với chuyện đào mồ quất xác còn ác độc gấp bội. Vị công chúa này rốt cuộc mang mối thù hận thế nào, mới bị người đời sau đối đãi như vậy?

Nhưng mặc kệ trong cung đình ẩn giấu thù hận hay bí mật gì đi nữa, mọi chuyện ấy đều chẳng liên quan gì đến hắn.

Vi Huấn lục lọi trong đống trân châu, tuy không rõ món đồ mình tìm ra hình dạng thế nào, nhưng chắc chắn không phải trâm ngọc, cũng chẳng giống vòng tai, lại càng không là tơ thêu. Bỏ qua bao nhiêu châu báu đắt giá, chàng vẫn chưa tìm được vật trong tưởng tượng. Nghĩ đi nghĩ lại, những gì để gần bên mộ chủ thường là thứ trân quý nhất, hẳn là vật nàng yêu thích lúc sống, hắn liền quyết định thử sờ vào xác chết.

Thi thể bị bao phủ bởi tầng tầng lớp lớp gấm vóc, dùng dây lụa buộc chặt như kén tằm, bên trên còn đeo mặt nạ “Kỳ Đầu” dữ tợn. Vi Huấn cẩn thận tháo dây, từng lớp từng lớp gỡ bỏ, cuối cùng để lộ thân thể mềm mại vận trường bào tay rộng, sắc vàng nhạt, vóc dáng nhỏ nhắn mềm mại như nữ nhân vừa độ xuân thì.

Một mùi hương nhè nhẹ, ngọt ngào mà lạ lẫm lan tỏa ra, khác hẳn bất kỳ loại hương liệu nào hắn từng ngửi qua.

Vi Huấn khẽ sững người, theo quy củ dân trộm mộ, liền chắp tay, khẽ nói: “Đắc tội rồi.”

Rồi ngậm một mảnh giấy trắng, xoay người trèo vào trong quan tài, cúi mình quỳ gối lên thi thể công chúa, bắt đầu s* s**ng từ trên xuống dưới. Càng sờ, lòng hắn càng thêm nghi hoặc: làn da dưới tay mềm mại, còn mang theo hơi ấm, tuyệt không giống thi thể đã cứng đờ lạnh băng. Dù cho địa cung so với mặt đất lạnh hơn nhiều, nhưng tính từ ngày công chúa băng hà đến nay cũng đã bảy tám ngày, làm sao lại không có dấu hiệu thối rữa hay sình trướng?

Trong lòng lóe lên một ý nghĩ, Vi Huấn lập tức đưa tay gỡ mặt nạ.

Dưới lớp mặt nạ ghê người là gương mặt tròn đầy, trắng mịn như ngọc của một thiếu nữ xinh đẹp. Mái tóc dài búi cao, cắm mười hai chiếc trâm hoa óng ánh, khuôn mặt trang điểm kỹ càng, lá vàng điểm trán, môi son hồng thắm, chẳng chút dấu hiệu nào của oán khí hay hóa lệ quỷ.

Vi Huấn vốn là kẻ lang bạt, chưa từng diện kiến phong mạo bậc quyền quý, nhưng nghe Trường An đồn rằng Thiều Vương giống mẹ, công chúa giống cha, đặc biệt có đôi tai phúc hậu nét tướng quý của nhà trời. Mà xác trong quan tài quả thực vành tai nở nang đầy đặn.

Hắn thử khẽ xoay mặt nàng, đầu ngón tay chạm vào làn da vẫn có độ đàn hồi mềm mại, dường như còn chút ấm áp chưa tan.

Hắn khẽ xoay gương mặt công chúa, cảm thấy làn da mềm mại đàn hồi, không khỏi nảy sinh nghi ngờ. Bèn đưa tay luồn vào tóc nàng, sờ tìm đến huyệt Thần Đình, dùng lực ấn mạnh, rồi không ngừng véo nhẹ má nàng, miệng gọi lớn: “Tỉnh dậy nào! Trời đã sáng, mộng dài đã đoạn!”

Lặp đi lặp lại động tác ấy, chẳng bao lâu sau, cổ họng thiếu nữ khẽ động, nhả ra một viên ngọc nhỏ như hạt châu sáng trong. Đó là ngọc đặt trong miệng để niêm miệng người chết. Mà giờ đây bị chủ nhân nhả ra, rõ ràng nàng chưa thực sự chết hẳn.

Lúc này, nhìn lại gương mặt nàng, dù vẫn chưa tỉnh hẳn, nhưng hàng mi dài đã khẽ rung, lồng ng.ực nhẹ nhàng phập phồng. So với thân thể trắng bệch, lạnh như băng của hắn, vị công chúa này còn giống người sống hơn cả người sống.

Trong lòng Vi Huấn đã sáng tỏ: những điều quái dị trong mộ, mấu chốt đều nằm ở chỗ Vạn Thọ Công Chúa vốn chưa từng chết mà bị chôn sống!

Ý nghĩ lướt qua trong khoảnh khắc, hắn cũng như quyết định điều gì đó. Không còn bận tâm tới món bảo vật thần bí nào kia nữa, Vi Huấn nhảy vọt khỏi quan tài, thân hình rơi xuống đất nhẹ tựa lông hồng. Theo quy chế, hoàng thân quý tộc lúc hạ táng, thường bồi táng vô số trân mỹ linh thực. Vi Huấn đảo mắt nhìn quanh, nào rượu ngon, tương ngọt, sữa đặc chất thành từng đống như núi, nếu chẳng có ngàn món thì cũng phải trăm thứ.

Vi Huấn chọn một vò, xé niêm phong, lập tức mùi rượu thơm ngào ngạt lan khắp, ngọt lịm lạ lùng. Nhìn nhãn đề: “Ngưng Lộ Tương”. Vi Huấn ngửa cổ uống một hơi dài, cảm thấy khí lực trào dâng, sức mạnh như tăng gấp bội. Liền ném vò rượu sang một bên, trở lại bên quan tài, một tay đỡ cổ sau, một tay luồn dưới đầu gối, nhẹ nhàng ôm công chúa bất tỉnh ra ngoài.

Thập Tam Lang ngồi xổm trông chừng bên cửa động, giờ đã gần canh năm, chân trời mờ mờ hiện sắc trắng như bụng cá, lòng hắn bồn chồn lo lắng. Khi trời vừa rạng, với thân phận chú tiểu hiện giờ, hắn sao có thể quanh quẩn nơi này nữa chứ?

Bỗng nghe dưới chân vọng lên âm thanh trầm đục, hắn mừng rỡ, lập tức dọn sạch lớp đá vụn, lật đám cỏ khô sang một bên. Mấy bao đất được chuyền lên.

Chẳng phải đã đào thông rồi sao? Sao còn tiếp tục đào nữa? Đại sư huynh trước nay chưa từng tính sai bao giờ.

Mang theo một bụng nghi ngờ, Thập Tam Lang vẫn tiếp tục kéo bao đất, đặt gọn sang bên. Cửa động vốn nhỏ hẹp bỗng mở rộng gấp bội, rồi hai cái đầu từ từ lộ ra. Chỉ thấy Vi Huấn đang cõng một thiếu nữ, đầu cài châu ngọc lộng lẫy, tay chân buông thõng, theo lối động chui ra.

Thập Tam Lang sắc mặt đại biến, kêu thất thanh: “Đại sư huynh! Tuyệt đối không được! Dù thi thể còn mới nguyên… huynh cũng không được học theo tứ ca!”

Vi Huấn suýt nữa bật cười, khẽ quát: “Đừng nói nhảm, đây là người sống.”

Thập Tam Lang chưa kịp hỏi vì sao trong phần mộ lại có người sống, đã vội vàng thấp giọng truy vấn: “Thế… món đồ đó tìm được chưa?”

Vi Huấn lắc đầu, không nói một lời. Sư đệ lập tức để lộ vẻ thất vọng.

Tính ra, hắn đã vùi đầu vất vả suốt hơn hai mươi canh giờ không ngủ, lúc này toàn thân rã rời, mặt không còn chút huyết sắc, chỉ cần dừng chân thở mạnh e cũng ngã xuống tại chỗ. Hắn không còn sức quay lại tìm kiếm một lần nữa. Có lẽ… đây là ý trời. Vi Huấn thầm nghĩ, dứt khoát nên coi như đã tận sức, người cũng đã cứu được, mạng mình cũng xem là đã dùng đúng chỗ.

“Chuyện còn lại, giao đệ lo liệu. Sau gặp tại Thúy Vi Tự.”

Ném lại một câu dặn dò, hắn liền cõng công chúa rảo bước rời đi.

Lên đến mặt đất, hắn mới duỗi xương cốt một lượt, đem toàn thân công phu tung ra sử dụng. Dù đang cõng người, từng bước của hắn vẫn nhẹ nhàng như lông chim, nhanh như bóng chớp, thoắt cái đã biến mất trong màn đêm chưa tan, chẳng để lại chút dấu vết.

Thập Tam Lang nhìn theo bóng lưng sư huynh, trong lòng đầy ngưỡng mộ. Hắn hiểu, mình có liều mạng thế nào cũng chẳng đuổi kịp người ấy. Tài nghệ kinh người bậc ấy, đâu phải chỉ có thầy giỏi truyền dạy, hay chăm chỉ luyện tập là được, phần nhiều… là thiên tư hơn người.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 4


Chùa Thúy Vi nằm ở phía nam thành Trường An vốn là ly cung tránh nóng do Thái Tông Hoàng đế xây dựng, trước đây được gọi là Thanh Sầm Cung. Năm Trinh Quán thứ hai mươi ba, vào tháng Năm, Thái Tông dưỡng bệnh ở Hàm Phong điện trong ly cung ấy, đột ngột băng hà. Từ đó, ly cung này trở thành nơi kiêng kỵ, các đời hoàng đế sau không ai đến đây. Cũng bởi cái chết của vị đế vương huyền thoại, tháng Năm từ đấy bị coi là tháng đại hung, càng thêm kiêng sợ.

Thượng cực tất suy, Thanh Sầm Cung theo dòng năm tháng dần dần hoang phế. Về sau cải tạo làm chùa Thúy Vi, song hương lửa lưa thưa, khách hành hương vắng bóng, đến chư tăng trụ trì cũng lâm cảnh thiếu thốn, phải tảo tần xoay xở đủ bề. Qua loạn An Sử, nơi này chỉ còn lại gò hoang vách đổ, tường vôi loang lở, cỏ dại um tùm, chẳng còn chút dáng cung điện thuở xưa.

Vi Huấn đưa công chúa an trí trong một gian phòng phía sau chính điện. Nàng tuy chưa chết, nhưng ở trong quan tài nhiều ngày, không hạt cơm giọt nước nào vào bụng, thân tuy sống mà thần trí mơ hồ. Rũ bỏ lớp son phấn dày cộp trên mặt, mới lộ ra dung nhan tiều tụy, hơi thở mong manh như tơ. Nếu không nhờ cao nhân như Vi Huấn độ khí, chỉ e Biển Thước hay Hoa Đà có sống lại cũng khó lòng cứu nổi.

Vi Huấn dốc lòng chăm sóc. Ngày đầu tiên chỉ có thể dùng ống cỏ thấm chút canh loãng truyền vào, ngày thứ hai mới uống được chút nước cháo, đến ngày thứ ba mới có thể nuốt một ít cháo lỏng.

Lúc đầu, Thập Tam Lang đối với vị kim chi ngọc diệp từ trong chỗ chết kéo về có hơi khó chịu, cảm thấy nàng đã làm chậm trễ đại sự của sư huynh, nhưng cũng chẳng nỡ thấy một cô gái vô tội chết oan, đành phải cùng góp sức nấu cháo bưng nước.

Thuở còn trong cung, từng nghe bọn thái giám truyền miệng rằng Vạn Thọ Công Chúa được phụ hoàng sủng ái hết mực, dung mạo nghiêng nước nghiêng thành, là đệ nhất mỹ nhân đất Trường An. Nay thấy tận mặt, tuy có nét thanh nhã đáng yêu, nhưng nói đến tuyệt sắc bậc nhất thì e hơi quá lời.

Chỉ là nước da nàng mịn màng như ngọc, không tì vết, tóc đen huyền rủ xuống vai, mềm mại như gấm, óng mượt đến độ có thể soi bóng người. Da tóc như vậy, hẳn là lớn lên trong cung vàng điện ngọc, được nâng niu chăm chút từng li từng tí mới thành. Phàm là người thế tục, dù có dung mạo trời cho, cũng khó bì kịp.

Đến ngày thứ ba, công chúa khẽ rên một tiếng, mí mắt run run hé mở, thần trí dần tỉnh lại.

Đập vào mắt nàng là một gian thiền phòng tiêu điều xơ xác, cửa gỗ từ lâu đã mục nát, vòm cửa rộng mở, tường vỡ trổ lỗ, góc nhà để vài chậu sành hứng nước mưa. Dưới thân là chiếc sạp hẹp cũ nát, sập một bên, dùng gạch chống tạm. Trên sạp chẳng có lấy một tấm chăn gối, nàng nằm dựa hoàn toàn vào chiếc áo khoác bám đầy đất cát trên người mình.

Nàng cố gắng một hồi mới gượng dậy ngồi lên, cổ họng khô rát, tay chân tê dại, cảm giác như thân thể này chẳng còn thuộc về mình nữa.

“Ta… còn sống sao…”

Dưới hành lang có hai người đang đứng. Một là chú tiểu đầu trọc, một là nam tử trẻ tuổi, da trắng, thân hình mảnh khảnh, mặc áo vải xanh, cổ trúc bâu, trong miệng ngậm một thanh kẹo mạch nha. Hai bên bốn mắt nhìn nhau, khoảnh khắc ấy như đông cứng.

Thập Tam Lang khẽ hỏi Vi Huấn: “Sư huynh, huynh nói nàng có báo quan bắt chúng ta không?”

Vi Huấn khẽ cười, đáp: “Quan phủ chưa chắc đã tin.”

Vạn Thọ Công Chúa vẫn tưởng mình còn trong mộng, bối rối lên tiếng: “Các ngươi… là ai? Đây là đâu? Các ngươi… các ngươi bắt cóc ta sao? Là đạo tặc ư?”

Thập Tam nhún vai: “Đạo tặc thì đúng là có, nhưng bắt cóc thì không. Nói nghiêm túc, đại sư huynh chính là ân nhân cứu mạng của công chúa đấy.”

Vi Huấn thong thả bước vào thiền phòng, tựa lưng vào cột, ngồi xuống đất, dáng vẻ ung dung khoan thai. Sau đó, y kể lại chuyện công chúa phát bệnh bất ngờ, bị xem là đã chết mà nhập quan, chôn sống dưới địa cung. May sao y trộm mộ đi ngang, tình cờ cứu được nàng. Chuyện được y nói gọn, bỏ qua phần về những xác chết tuẫn táng kinh tâm nhất.

Sự việc quá sức ly kỳ, khiến công chúa nhất thời không sao tiếp nhận nổi. Huống hồ nàng vừa mới khỏi bệnh nặng, đầu óc vẫn còn hỗn loạn. Chính mình đang mặc lễ y chỉ dùng khi tế tự đại điển, không phải y phục thường nhật sao lại mặc trên người? Lại còn bị đưa ra khỏi cung, chuyện gì nàng cũng không nhớ rõ.

Nàng ngơ ngác nhìn Vi Huấn cất tiếng hỏi: “Ngươi… rốt cuộc là ai?”

Vi Huấn lúc này mới nhả que kẹo, đang ngồi liền đứng dậy, không kiêu ngạo cũng chẳng khúm núm, chắp tay nói: “Kẻ hèn họ Vi, tên Huấn. Vị này là sư đệ tại hạ, tên gọi Thập Tam Lang.”

Công chúa liếc mắt đánh giá, nghiêng đầu hỏi:

“Là Kinh Triệu Vi thị, hay Ngô Hưng Vi thị?”

Hai nhà họ Vi ấy đều là thế gia vọng tộc. Lời vừa buông, Vi Huấn không nhịn được bật cười sang sảng, đến mức mái ngói cũ kỹ cũng rào rạt bụi rơi:

“Ha ha ha ha ha… Ngài nhìn bộ áo vải tại hạ đang mặc, giống người nhà nào trong hai họ đó sao?”

Công chúa mặt thoáng hồng, biết mình thất ngôn. Sau cơn tai biến, trí óc như bị phủ sương, tư duy hỗn độn chẳng khác trẻ sơ sinh. Người trước mặt trạc hai mươi, áo vải thô sơ, song ánh mắt tinh anh, khí độ không phàm, tuyệt chẳng phải hạng hạ lưu tầm thường.

Vi Huấn đặt một túi tay nải nặng trịch lên mép sập, nói:

“Nghỉ ngơi ít hôm rồi hẵng liệu tính. Đây là những món đồ trang sức tìm được trên người ngươi khi khai quật, đã thu đủ, không thiếu món nào.”

Chiếc tay nải kia chính là mảnh vải đầy bùa chú lúc trước, được buộc lại thành túi. Nói xong, hắn kéo Thập Tam Lang rời khỏi phòng.

Hai ngày kế tiếp, Vi Huấn không hề lộ diện. Mỗi ngày chỉ có chú tiểu mang cháo nhạt, canh loãng đến, trong bát không có lấy một miếng thịt. Quả thật đúng như câu thơ của Bạch Nhạc Thiên: “Đói nghe ma cháo thơm, khát ngỡ canh mây ngọt.” Công chúa bị bỏ đói nhiều ngày, giờ đây nào còn chọn lựa, có gì ăn nấy.

Từ nhỏ đã sống trong nhung lụa, quanh người luôn có cung nữ hầu hạ, đến cả khi ngủ cũng phải có vài người chầu bên giường. Giờ đây cô đơn trong một ngôi chùa hoang, yếu ớt đến mức đi đứng cũng khó, trước mắt chỉ thấy hai kẻ xa lạ thân phận mập mờ. Trong lòng nàng sợ hãi, lại thêm mù mờ, như thể chưa thoát khỏi cơn ác mộng.

Khi thân thể dần khá hơn, có thể miễn cưỡng bước đi, công chúa mới phát hiện y phục rộng thùng thình, thân thể gầy đi không ít. May mà ngày thường nàng vóc dáng cao ráo, lại thích cưỡi ngựa đánh cầu, thân thể vững chãi mới chịu đựng nổi mấy ngày trời không hạt cơm giọt nước. Đổi lại là người yếu đuối thì sớm đã chết trong quan tài.

Suốt mấy ngày không thấy ai đến, chùa hoang chỉ có chim sẻ kiến bò ra vào, người lạ mặt không thấy, bạn quen càng không. Công chúa đành phải bảo Thập Tam Lang đi gọi Vi Huấn, sửa sang lại y phục, ngồi ngay ngắn, trịnh trọng nói: “Thúy Vi Tự vốn là ly cung tổ tiên ta, lại gần Trường An. Hai người các ngươi nếu có thể đưa ta bình an hồi cung, bản công chúa tất sẽ hậu tạ.”

Vi Huấn bật cười hỏi: “Hậu tạ ra sao?”

Vạn Thọ Công Chúa thân kim chi ngọc diệp, từ nhỏ đến lớn chưa từng giao dịch mua bán điều gì. Ngoài trừ lúc đánh bài bằng ngà lá cây, có khi dùng kim chất thông bảo làm tiền đặt cược, còn lại chưa từng chạm vào đồng tiền. Với nàng, tiền tài là khái niệm mờ mịt. Lúc này chỉ nhớ mang máng từng nghe một vị thư sinh nói, trong thành Trường An, mua một căn nhà thường cũng cần ba mươi vạn tiền. Nghĩ một lát, nàng dè dặt nói: “Thưởng… một ngàn quan tiền.”

Vi Huấn khẽ lắc đầu.

“Vậy… năm ngàn quan?”

Thập Tam Lang trong lòng đã lay động, thần sắc rối bời, gấp đến mức cứ liên tục liếc mắt thúc giục Vi Huấn. Trường An đất rộng người đông, mưu sinh chẳng dễ, huống hồ lời hứa hẹn của công chúa là một khoản tiền lớn, đủ để dựng một tòa biệt viện xa hoa nơi phường Bình Khang, có dư giả mà ăn sung mặc sướng cả đời. Thế nhưng Vi Huấn vẫn lắc đầu dứt khoát.

Công chúa thoáng bối rối, thấy tiền tài không thể lay động lòng người, liền đổi cách nói: “Vậy để ta tấu xin a gia ban cho ngươi một chức quan?”

Vi Huấn vẫn bình thản, như cũ không gợn sóng. “Tại hạ là kẻ lưu dân không cửa không nhà, lấy đâu ra thân phận mà vào làm quan?”

Công chúa lấy làm lạ, nghiêng đầu hỏi: “Thế ngươi muốn gì?”

Vi Huấn mỉm cười, thong dong đáp: “Tội đào mộ hoàng thất là trọng tội tru di cửu tộc, cái đầu này tuy không đáng bao tiền, lại không nỡ đem bán.”

Công chúa nghe vậy mới chợt hiểu, giật mình tỉnh ngộ: “Thì ra ngươi sợ bị trị tội? Chuyện ấy không khó, chỉ cần ta mở miệng cầu a gia, ắt có thể hóa giải.”

Vi Huấn thu lại ý cười, ánh mắt nghiêm nghị: “Việc ấy… cũng chưa chắc đâu. Người đã muốn chôn sống công chúa, tất không hy vọng người có ngày siêu sinh. Những gì ta thấy dưới địa cung, quỷ dị khôn lường, không phải nói mấy lời là qua chuyện được.”

Nói rồi, hắn đem chuyện mình thấy dưới mộ thất, từ những thi thể sắp đặt theo trận thế, bức bích họa còn dang dở, cho đến cảnh đáng sợ trong mộ thất trung tâm… tất cả lần lượt thuật lại. Đoạn hắn lấy ra chiếc mặt nạ gỗ từng che trên mặt nàng, chính là chứng cứ sống động nhất.

Công chúa vừa nhìn thấy mặt nạ ấy, liền rùng mình. Mặt nạ dữ tợn dị thường, điêu khắc bốn con mắt, hình dạng quái đản đến mức trên sân khấu hí kịch cũng chưa từng xuất hiện. Chỉ cần nhìn kỹ vài giây cũng khiến người toàn thân lạnh ngắt.

Nàng cau mày hỏi: “Thứ này là gì?”

Vi Huấn đáp: “Là ‘kỳ đầu’ thứ mặt nạ dân gian thường dùng khi làm pháp sự trừ tà trấn hồn. Khi ta khai quan, nó chính là vật che trên mặt ngươi.”

Công chúa bán tín bán nghi. Từ xưa đến nay, chuyện vu cổ tà pháp là điều cấm kỵ sâu sắc trong cung đình. Kẻ nào bị dính líu, nhẹ thì bị đày lãnh cung, nặng có khi tru di tam tộc, không hề nương tay. Nàng cẩn thận đón lấy chiếc mặt nạ nặng nề bằng gỗ, lật xem mặt trong, quả nhiên còn lưu lại vệt phấn và dấu son phấn mờ nhạt. Nàng dùng ngón tay khẽ quệt, rồi đưa lên xem xét, quả đúng là loại phấn mình từng dùng. Trong lòng nàng, không khỏi dấy lên nỗi ngờ vực và cả… dao động.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 5


Các loại tà thuật kỳ môn từ xưa đến nay đều là đại kỵ trong cung cấm. Kẻ nào dây vào, nhẹ thì biếm lãnh cung, nặng thì tru di tam tộc, tuyệt không có chuyện khoan thứ. Công chúa nhận lấy chiếc mặt nạ gỗ nặng trịch, thấy mặt trong còn lấm tấm vết phấn trắng và son nhòe nhoẹt. Nàng dùng ngón tay nhẹ vê thử một chút, sắc phấn và chất phấn ấy đúng là thứ nàng từng quen dùng ngày trước, trong lòng bất giác khẽ chấn động.

Thập Tam Lang , tuổi nhỏ lòng còn non nớt, thấy thế liền nói với công chúa: “Có người bệnh mà hơi thở mỏng, tay chân lạnh ngắt như xác chết, bị người nhà lầm tưởng là đã mất, vội vàng nhập liệm mai táng gấp rút, chuyện như thế… xưa nay không phải chưa từng có. Có lẽ… công chúa cũng bởi vậy mà bị chôn nhầm.”

Thiếu nữ không đáp, chỉ lặng lẽ xoay xoay chiếc mặt nạ dữ tợn trong tay. Nàng tuy chưa từng tự mình chủ trì tang lễ, nhưng cũng đã dự phần không ít quốc tang trong hoàng thất. Từ lễ sơ chung, chiêu hồn,… đều vô cùng rườm rà. Thật khó mà tưởng tượng, đường đường một công chúa như nàng lại có thể vì bệnh mà chết bất giác, không một ai phát hiện.

Hơn nữa, dù có trăm ngàn lần trùng hợp như thế, thì cũng tuyệt không ai dám cả gan phạm vào điều bất kính tày trời, mà âm thầm đặt thứ tà vật trấn hồn như chiếc mặt nạ ấy vào trong kim quan của công chúa.

Vi Huấn cất giọng chậm rãi: “Theo lệ, người mất đều được phủ mặt bằng tấm lụa trắng mỏng, một là để giữ lễ, hai là có thể phát hiện hô hấp mong manh nếu chẳng may chưa tắt thở. Nhưng trên mặt ngươi lại đè một chiếc mặt nạ gỗ nặng nề như thế này, dù có hô hấp đi nữa, ai mà phát hiện cho nổi?”

Công chúa vẫn chưa chịu tin. Nàng đưa tay nâng chiếc kỳ đầu lên, thử áp vào mặt. Nhưng vừa cảm nhận sức nặng đè xuống, cộng thêm mùi gỗ ẩm mốc xộc vào mũi, lập tức toàn thân rùng mình, ném phắt chiếc mặt nạ ra xa.

Không sai. Mặt nạ kia dữ tợn với bốn con mắt, giống hệt như trong cơn ác mộng từng vây hãm nàng. Khi ấy nàng bị giam trong bóng tối vô biên, ánh sáng mơ hồ xuyên qua khe hở cũng chính là từ đôi mắt mặt nạ. Rồi sau đó, tất cả rơi vào tĩnh mịch như mộ phần bị phong kín. Nàng gào thét, vùng vẫy, nhưng thân thể cứng đờ, tựa như bị quỷ đè, không sao động đậy được.

Dù khi ấy chẳng rõ ràng, nhưng cái cảm giác bị chôn sống thấu xương ấy, cho đến nay vẫn còn khiến nàng run rẩy tận cốt tủy. Môi anh đào tái nhợt, sắc mặt trắng bệch như tờ giấy.

Thập Tam Lang nhìn mà không khỏi sinh lòng thương cảm. Vi Huấn cúi người nhặt lại chiếc kỳ đầu, dùng vải gói kín, giao cho sư đệ đem giấu nơi phía hành lang, khuất khỏi tầm mắt công chúa.

Chờ cho nàng lấy lại được một chút bình tĩnh, Vi Huấn mới mở lời, hỏi vào chuyện cốt lõi: “Cái ngày ‘trước khi chết’ ấy… rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”

Công chúa vẫn chưa hoàn hồn, lẩm bẩm nhớ lại: “Ta cũng chẳng thấy gì lạ… Ngày hôm trước còn chuẩn bị đi săn, buổi sáng thức dậy soi gương trang điểm, phát hiện váy lụa định mặc còn chưa được ủi phẳng, ta bèn sai cung nữ đi lấy chiếc khác. Kết quả, con nha đầu ấy lại mang đến một chiếc váy thạch lựu… khiến ta giận đến suýt ngất.”

Thấy hai người trước mặt còn ngơ ngác, công chúa chậm rãi giải thích: “Mẫu phi ta khi còn sống rất yêu mặc váy thạch lựu. Người là đệ nhất mỹ nhân của cả thiên hạ, ai cũng không dám mặc đồ đỏ trước mặt người, sợ bị xem là tục. Sau khi mẫu phi qua đời, phụ hoàng mỗi lần trông thấy váy thạch lựu lại sầu thảm không thôi, có khi khóc không thành tiếng, có khi nổi trận lôi đình. Từ đó về sau, trong cung tuyệt không ai dám chạm đến váy đỏ.”

Huynh đệ Vi Huấn đối với chuyện y phục hậu cung vốn chẳng tường, chỉ thấy hậu cung quả thật rối rắm khó dò.

Vi Huấn hơi khinh thường, cười nhạt bảo: “Chuyện nhỏ nhặt như thế mà cũng khiến một đấng quân vương biến sắc, há chẳng phải tính khí thất thường hay sao?”

Công chúa giận dữ: “Ngươi là kẻ to gan, lại dám vọng luận thiên tử!”

Vi Huấn chỉ nhún vai cười cười, vẻ không chút để tâm: “Dù sao tội đào mộ đã là trọng tội, đầu này của tại hạ vốn đã không còn giá trị, lại chẳng có người thân cha mẹ gì để bị liên lụy, chẳng lẽ hắn còn có thể xử ta thêm một lần nữa?”

Công chúa nghẹn lời, trong lòng cũng thoáng sinh kinh ngạc. Người này tuy xưng là Vi Huấn, nhưng chẳng có chút nào giống với tên gọi “Huấn” chẳng cung kính, chẳng nhún nhường, ngược lại toàn thân tỏa ra khí chất cuồng ngạo bất tuân, không sợ trời đất. Oái oăm là, nàng hiện giờ thân cô thế cô, thực sự chẳng làm gì được hắn, chỉ đành gắng nhẫn nhịn, nuốt giận vào trong.

Thấy thế, công chúa dịu giọng mà nói: “Chuyện đó… chỉ là do mấy tên phương sĩ tà đạo quấy nhiễu, phụ hoàng vốn dĩ tính tình ôn hòa, gần đây bị lừa dùng mấy loại đan dược không rõ nguồn gốc, nên mới trở nên thất thường như vậy…”

Nàng dừng lại, thầm nhủ trong lòng: mình quả là hồ đồ đến ngây dại, sao lại đem hết chuyện trong cung kể lể với hai kẻ lạ mặt này? Xét từ tình cảm mà nói, phụ hoàng đối với ái phi đã mất tình thâm nghĩa trọng, sớm chiều tưởng nhớ, hễ trông thấy váy thạch lựu liền thương tâm rơi lệ, hoặc nổi giận đùng đùng, hoặc sụt sùi không thôi. Làm con gái, nàng chỉ thấy xót xa cảm động, nào dám có lời trách móc? Chỉ là, đối với bọn phương sĩ miệng đầy tà môn, trong lòng nàng vẫn có phần bất mãn.

Bèn quay lại câu chuyện ban nãy: “Lúc đó, ta nghĩ nha đầu kia theo hầu chưa lâu, lại còn nhỏ tuổi, có lẽ chưa quen thuộc với những điều kiêng kỵ trong cung, nên cũng chỉ mắng qua loa mấy câu rồi sai người khác lấy váy lụa khác. Mặc y phục xong, ta lập tức lên ngựa xuất cung đi săn. Hôm đó gió thu dịu nhẹ, ta săn được hai con hươu, một con hoàng dương, thêm vài món thú nhỏ.”

Vi Huấn và Thập Tam Lang đưa mắt nhìn nhau, trong lòng có chút hồ nghi. Bọn họ khó tin một vị công chúa cao quý thật sự giỏi săn bắn đến thế. Nhưng lại nghĩ đến chuyện trong hoàng tộc, các quý nhân thường ưa thích săn bắn, mà đám thị vệ thì lại khéo bày sẵn bẫy lưới, dồn con mồi đến sát chân ngựa, để chủ nhân dễ dàng vung tay bắn vài mũi là có chiến tích đem về.

“Vậy trong lúc đi săn, có xảy ra chuyện gì khác thường chăng?”

Công chúa lắc đầu: “Mọi chuyện đều rất suôn sẻ. Đến khi từ Đại Hưng Uyển trở về đã qua giờ Thân, ta cảm thấy nóng nực khó chịu, bèn sai người chuẩn bị nước tắm gội. Vì buổi tối còn phải tham dự dạ yến, e rằng phải thức suốt đêm, nên ta chỉ ăn qua loa vài món rồi đi nghỉ.”

Vi Huấn lập tức truy vấn: “Người đã ăn những gì?”

Công chúa ngẫm nghĩ rồi đáp: “Ta uống nước quả thạch lựu, ăn ít lê ướp lạnh.”

“Có thấy hương vị gì khác lạ không?”

Công chúa lắc đầu: “Ta biết ngươi nghi ngờ gì. Nhưng từ trước đến nay, mọi món ăn đưa tới đều do Thượng Thực Cục chuẩn bị. Mỗi món đều có người nếm trước, dùng để thử độc, không thể sơ suất.”

“Sau đó thì sao?”

“Ta chỉ nhớ sắc trời dần tối, đèn trong cung lần lượt được thắp sáng. Bỗng dưng bụng quặn đau dữ dội, tiếp đó nôn mửa không ngừng. Bọn cung nữ sợ hãi, hô hoán: ‘Công chúa thổ huyết!’ rồi cuống quýt chạy đi. Đệ đệ ta là Lý Nguyên Ức khi ấy đang nghe giảng, nghe tin hoảng hốt trở về, vừa trông thấy liền sợ đến đờ người. Ta lo hắn kinh hãi mà sinh bệnh, liền sai nữ quan đưa hắn đến chỗ Tống Thái phi tạm nghỉ.”

“Lúc ấy có mời ngự y, dùng thuốc gì không?”

Công chúa thoáng cau mày, tựa hồ cảm thấy câu hỏi có phần dư thừa, đáp: “Đương nhiên là có. Chẳng bao lâu sau ngự y liền đến, kê đơn bốc thuốc, lại thêm châm cứu trị liệu. Thế nhưng ta vẫn đau bụng không ngừng, uống thuốc xong lại nôn, chẳng mấy chốc trước mắt liền tối sầm, rồi cứ thế mơ mơ hồ hồ không biết gì nữa. Sau đó… thì bị các ngươi mang tới Thúy Vi Tự rồi.”

Thập Tam Lang chen vào: “Đau bụng thổ huyết đột ngột, nếu không phải trọng thương nội tạng, thì đều là bệnh cũ của người già. Nhưng người trẻ tuổi như công chúa mà nôn ra máu thì nghe rất giống trúng độc.”

Vi Huấn cũng nói tiếp: “Hôm ấy tại hạ từng thử độc trong miệng công chúa, quả thực không phát hiện gì.”

Công chúa cả kinh, đưa tay che ngực, thất thanh: “Ngươi… lại dám thử độc trên người ta?!”

Vi Huấn thản nhiên đáp: “Người khi ấy đã mê man, tại hạ lại rảnh tay. Mà có độc hay không, cũng chưa chắc là điều an toàn. Có thể là thứ độc đã ngấm từ nhiều ngày trước rồi.”

“Nhưng nếu thực có người hạ độc, thì sao có thể qua mắt được Thượng Thực Cục? Là ai dám cả gan như thế? Ta nhớ… sau khi đi săn về, không còn thấy nha đầu buổi sáng mang váy tới. Lúc ấy ta chỉ mắng nàng vài câu, chưa hề trách phạt. Có lẽ bị nữ quan khác xử lý rồi. Chẳng lẽ nàng sinh oán mà hạ độc? Nhưng nàng làm sao dám…”

Công chúa tiếp tục trầm tư, hồi tưởng lại cảnh tượng hỗn loạn lúc hoàng hôn. Đúng là đêm đó có một vài chi tiết bất thường. Thường ngày, người đến Tê Phượng Điện chẩn mạch cho nàng là hai vị ngự y Trần Nguyên Các và Thẩm Nhạc Hiền, nhưng đêm ấy, trong ba người tới chỉ có hai người nàng từng thấy mặt, lại không thân quen. Người còn lại là một ngự y trẻ tuổi, nàng hoàn toàn xa lạ.

Vi Huấn trầm giọng: “Bất kể là bệnh phát đột ngột hay ngấm độc từ trước, điều đáng ngờ nhất vẫn là: công chúa đột tử trong cung, hoàng đế chẳng những không truy tra kỹ càng, lại vội vã mai táng, thậm chí còn sử dụng đủ loại pháp thuật trấn hồn, như thể sợ công chúa chết oan sẽ thành lệ quỷ báo thù vậy.”

Lời hắn vừa dứt, Vạn Thọ Công Chúa đã sắc mặt tái nhợt như giấy, muốn quát lên trách mắng hắn vọng ngôn, nhưng lại chẳng nói nên lời. Năm ngoái, huynh trưởng nàng là Thiều Vương Lý Nguyên Anh người từng được thánh ân sủng ái bị biếm đi U Châu, khiến lòng nàng sớm đã sinh nghi. Giờ nghe Vi Huấn nói thẳng ra, chỉ thấy nỗi nghi hoặc trong lòng như cỏ dại mọc lan, không sao nhổ sạch.

Trăm mối tơ vò không lần ra manh mối. Thiếu nữ xiêu xiêu đứng dậy, đôi mắt đỏ hoe, giọng run run nói: “Ngươi không chịu đưa ta đi, vậy thì ta tự trở về Trường An.”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 6


Vạn Thọ Công Chúa nghiêng ngả đứng dậy, vành mắt hoe đỏ, giọng nói run rẩy: “Ngươi không chịu đưa, ta tự mình trở về Trường An vậy.”

Thập Tam Lang định bước tới đỡ nàng, lại bị Vi Huấn ngăn lại.

Việc này quả thực khó xử. Theo lẽ thường, ái nữ của thiên tử nếu sống lại, trở lại hoàng cung ắt sẽ là đại hỷ, cả triều trên dưới đều mừng rỡ khôn cùng. Thế nhưng, quanh cái chết của nàng lại có quá nhiều điều khả nghi, khiến người ta khó lòng tin rằng mọi chuyện chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên. Những gì đã phơi bày đủ để khiến nàng tự hiểu, mà Vi Huấn cũng chẳng còn lý do gì ngăn cản.

Y phục lấm lem bụi đất địa cung, nàng đành thay tạm áo lót mỏng bên trong,, xiêm y ngay ngắn mà lên đường.

Tục ngữ có câu: “Mọi ngả đều dẫn về Trường An.” Lối về vốn chẳng khó tìm. Vượt khỏi cửa Thúy Vi Tự chẳng bao xa đã trông thấy đại lộ nối thẳng vào thành. Nhưng từ nhỏ đến lớn, nàng chưa từng rời cung một mình, không thị nữ, không xe ngựa, mọi thứ đều lạ lẫm. Đôi hài gấm nạm ngọc chuyên dùng cho lễ khánh thọ, cứng nhắc và không vừa chân, đi chưa nổi ba dặm đã rướm máu, phải lê từng bước một cách nhọc nhằn.

Gió xuân phơi phới, một ngày có thể du ngoạn khắp Trường An. Ba mươi dặm, nếu cưỡi ô truy yêu dấu, chỉ mấy khắc là đến; ngồi xe nhẹ thưởng hoa cũng là thú vui. Nhưng nếu chỉ dựa vào hai chân trần, thì chặng đường ấy bỗng trở nên vô xa xôi.

Nỗi đau thể xác vẫn chưa là gì, điều nàng không thể chịu nổi là bức màn sương dày đặc đang che phủ chân tướng sau lưng. Vì sao phụ hoàng lại đối xử với nàng như vậy? Nàng chết quỷ dị như thế, mà không người truy xét? Vì sao lại vội vã hạ táng, lại còn đặt chiếc mặt nạ trấn hồn kia vào kim quan? Nàng rùng mình, không dám nghĩ tiếp, chỉ cắn răng lau nước mắt, lặng lẽ cắm cúi đi tiếp.

Vi Huấn cùng Thập Tam Lang lặng lẽ theo sau, thấy nàng ngồi bên vệ đường tháo giày, chỉ còn mang mỗi lớp tất mà bước đi. Người đi đường thấy thiếu nữ dung mạo xinh đẹp, mà thất hồn lạc phách, chân không đi giữa cát bụi, ai nấy đều ngoái nhìn không thôi.

Thập Tam Lang nhỏ giọng than: “Vị công chúa này thật cứng cỏi.”

Vi Huấn không đáp.

Lát sau, Thập Tam Lang lại hỏi: “Nếu chuyến này chẳng ra tung tích vật kia, huynh định làm sao?”

Vi Huấn khẽ thở dài, ngẩng cằm, chỉ về phía bóng dáng thiếu nữ phía trước: “Biết sao được? Gặp thời thì hưởng, vận xui thì chờ chết thôi.”

Thập Tam Lang ảm đạm cúi đầu: “Cũng chưa chắc là chết đâu.”

“Giờ quay về vẫn kịp đấy. Lão Nhị tính khí không tệ, Thất Lang tuy có chút nóng nảy nhưng theo huynh, e là chẳng có tiền đồ gì đâu.”

Thập Tam Lang lắc đầu: “Ít nhất đại sư huynh không đánh người.”

Hắn ngừng một lát, nhỏ giọng: “Đại sư huynh vì cứu người mà bỏ lỡ cơ hội tìm vật kia. Đó là tích đức, không nên vì thế mà ‘rửa tay gác kiếm’.”

Vi Huấn lại không đồng tình, khẽ lắc đầu: “Toàn là hoa ngôn xảo ngữ.”

Thập Tam Lang hỏi: “Không phải vì tiền, người cũng cứu rồi, vậy huynh còn theo làm gì?”

Vi Huấn thở dài: “Ai, lòng hiếu kỳ hại chết mèo, đệ cũng biết huynh, dính vào mấy chuyện ly kỳ kỳ quặc rồi thì không yên được, không lần ra đầu mối thì ngứa ngáy cả người.”

Cứ câu được câu chăng, hai người vừa trò chuyện vừa lẳng lặng theo sau Vạn Thọ Công Chúa, tới cửa An Hóa ngoài thành Trường An về hướng tây nam. Ngoài cổng, người tấp nập chen chân: kẻ sĩ đi thi, thương nhân gánh gồng, hòa thượng đạo sĩ tha phương, nô tỳ tạp dịch… chen chúc như cá mắc cạn. Trâu ngựa xe hàng, đoàn thương nhân người Hồ cùng lạc đà tạo thành một mùi hôi hám đặc mùi động vật.

Chợt, Thập Tam Lang như nhớ ra điều gì quan trọng: “Công chúa… nàng có mang theo giấy thông hành không?”

Vi Huấn ngẫm nghĩ: “Ít nhất là không thấy trên người.”

Thập Tam Lang liếc trộm Vi Huấn, như có lời muốn nói lại thôi.

Sư huynh hắn từ trước đến giờ chẳng mấy mặn mà chuyện nam nữ, lúc mang công chúa về Thúy Vi Tự để cứu trị thì khi bắt mạch, khi xoa bóp, đều thản nhiên bình đạm, chẳng hề tránh né thẹn thùng gì, như thể đang xử lý một vật phẩm. Rõ ràng nàng đẹp như vậy.

Lúc này trong đám đông, Vạn Thọ Công Chúa luống cuống tay chân. Ngày trước nàng ra vào cửa thành, thị vệ đã dẹp đường sẵn, dân chúng tránh xa ba trượng, nàng thì cưỡi ngựa uy nghi, tỳ nữ nội thị vây quanh, chẳng cần dừng chân một khắc.

Giờ đây, quan giữ thành kiểm tra từng người một. Khi đến lượt nàng liền cau mày nhìn kỹ.

Thiếu nữ ấy không son phấn, nhưng dung mạo lại tươi tắn đáng yêu. Dù tóc tai rối bời, chân trần lấm bùn, y phục che thân rõ ràng là hàng cực phẩm, song vừa không vừa người, vừa đầy bụi đất nhàu nhĩ.

Là nô tỳ chạy trốn? Hay thiếu nữ nhà lành bị bắt cóc?

Quan giữ cổng lập tức yêu cầu nàng ra khỏi hàng thẩm vấn: “Cô nương từ đâu đến? Họ tên là gì? Vì sao chỉ đi một mình?”

Vạn Thọ Công Chúa lắp bắp đáp: “Ta… là người trong cung, tên là… Châu Nhi.”

“Có mang theo giấy thông hành không?”

“Không cẩn thận đánh mất rồi…”

“Là người trong cung, hẳn phải rõ xuất thân? Nhập cung khi nào? Hầu hạ ai? Ai dẫn ra ngoài? Vì sao một thân một mình trở về?”

Công chúa vốn định bịa ra một câu chuyện, nhưng nàng từ nhỏ sống trong cung, chẳng tường chuyện thế gian. Còn quan giữ cổng An Hóa bao nhiêu năm, ánh mắt sớm đã luyện thành tinh tường, liếc qua là biết lời nàng có sơ hở. Hỏi vài câu là khiến nàng lúng túng, câu trước câu sau không nối được với nhau.

Nhìn thấy nàng cứng họng không đáp, quan giữ cổng càng nghi ngờ, cho rằng nàng là nô tỳ xinh đẹp nhà quyền quý trốn ra, liền cười lạnh một tiếng, cao giọng gọi mấy tên Kim Ngô vệ đến bắt, định giải nàng về huyện nha tra xét.

Công chúa vốn định cúi đầu nhẫn nhịn, chờ sau khi vào huyện nha sẽ nghĩ cách cầu kiến Kinh Triệu Doãn. Nào ngờ mấy gã hán tử mặc giáp phục Kim Ngô, mặt mày thô kệch, vừa xông đến liền thô lỗ kéo giằng thân thể nàng. Mùa hạ tiết trời oi bức, xiêm y vốn mỏng nhẹ, từng đường nét mềm mại hiện ra. Một gã trong số đó còn không biết xấu hổ, lấy tay vuốt nhẹ qua ngực nàng, miệng còn cười nói: “Cô nương thơm quá đi mất!”

Vạn Thọ Công Chúa từ nhỏ sống nơi cung cấm, vàng ngọc nâng niu, chưa từng nghe qua một lời th* t*c, càng đừng nói đến việc bị người động chạm thân thể như vậy. Cả người nàng run rẩy, khuôn mặt tái xanh vì tức giận, thất thanh kêu lên:

“Không được đụng vào ta! Các ngươi có biết ta là ai không?!”

“Là ai thì nói thử xem?”

“Ta là công chúa đấy! Không được đụng vào ta!”

Quan giữ cổng và đám Kim Ngô Vệ liếc mắt nhìn nhau, ai nấy đều do dự. Không ai muốn rước họa vào thân, nhưng cũng chẳng dám làm lơ một nữ tử miệng xưng công chúa, lại thất tha thất thểu nơi cửa thành, ăn mặc lôi thôi, lời lẽ hồ đồ. Một tên Kim Ngô Vệ bực dọc tiến lên, bịt miệng nàng, mạnh tay xô ngã xuống đất.

Công chúa vùng vẫy điên cuồng, búi tóc tung tóe, liền bị một kẻ thô lỗ giơ chân đá mạnh một phát, cả người lăn tròn như cuộn vải, vô tình đụng phải góc chuồng trâu . Chỉ chốc lát, thân thể cao quý phủ đầy phân trâu phân ngựa, mùi hôi xộc thẳng vào mũi, đến nỗi cả bọn Kim Ngô Vệ cũng nhíu mày né tránh, chẳng ai còn muốn động đến nàng nữa.

Đúng lúc ấy, giữa đám đông chen chúc, Vi Huấn ung dung bước ra, thần sắc điềm đạm, liên tục khom lưng thi lễ: “Vị cô nương này là chủ nhân nhà ta, đầu óc có chút không ổn, hôm nay người nhà sơ ý để nàng chạy mất, vô tình quấy rối các vị quân gia, mong lượng thứ.”

Nói đoạn, hắn ghé sát tai quan giữ cổng lại, hạ thấp giọng như nói điều bí mật: “Bị người từ hôn, cho nên phát điên.”

Viên môn lại cau mày đánh giá nàng một lượt, thấy đầu tóc rối bù, thân thể nhơ nhác, tinh thần mơ màng, quả có vài phần điên dại. Trong lòng vốn muốn tra rõ lai lịch, nhưng nghĩ đến phía nam thành Trường An toàn là nhà quyền quý phú hào, trước mặt dân chúng mà hỏi han, vạn nhất đụng trúng người không nên đụng, e rằng rước họa vào thân.

Lập tức quát khẽ: “Dẫn nàng về đi. Nhốt kỹ, đừng để tái phạm.!”

Theo luật triều đình, nếu bị điên mà phạm luật cũng được xử nhẹ, ở đây ai cũng ngại dây vào. Nay đã có gia nhân đến nhận, bọn họ đương nhiên thả người.

Vi Huấn liền cúi người đỡ lấy thiếu nữ chật vật, không để nàng kịp cất thêm lời, lặng lẽ kéo nàng rời khỏi cửa thành, men theo đường cũ mà quay về Thúy Vi Tự.

Dọc đường, nàng chẳng nói một lời, bước chân xiêu vẹo như kẻ hồn siêu phách lạc. Lạ lùng thay, vậy mà không rơi một giọt lệ.

Thập Tam Lang dùng khuỷu tay chọc Vi Huấn, khẽ giọng hỏi: “Không lĩnh được thưởng, cũng chẳng bị chém đầu, vậy giữ nàng lại làm gì?”

Vi Huấn chỉ lắc đầu, không buồn trả lời.

Về đến Thúy Vi Tự, trời đã xế bóng. Chân trời quang đãng, từng dải mây đỏ rực như vệt máu loang, khiến lòng người bất giác sinh mối phiền muộn khó tỏ. Vừa bước qua sơn môn, Thập Tam liền vươn vai một cái, thấp giọng than thở: “Cả ngày chạy đông chạy tây, chẳng kiếm nổi một đồng tiền, lại như tự dẫn xác tới cửa thành cho người ta đánh một trận.”

Vạn Thọ Công Chúa một thân dơ bẩn, quần áo khô khốc vì gió lồng. Khi lướt qua ao phóng sinh trước chùa, nàng vô thức liếc nhìn, chỉ thấy cỏ hoang mọc đầy bờ, nước ao đã cạn từ lâu, đáy bùn khô nứt từng mảnh.

Chợt nàng hạ giọng ra lệnh: “Đi múc nước.”

Lời chẳng lớn, nhưng giọng điệu lại mang theo khí chất uy nghiêm của kẻ đứng trên cao. Hai huynh đệ chẳng nói một lời, liền rảo bước đi lấy thùng gỗ, men hành lang, lần ra giếng sau điện múc nước.

Công chúa không về thiền phòng, mà quỳ gối ngay trước đình viện, tay tự múc nước rửa mình giữa trời đất. Nước giếng trong vắt mà lạnh buốt, không có tỳ nữ hầu hạ, chẳng ai đun nước nóng hay chuẩn bị khăn thơm. Nàng chỉ lặng lẽ cúi đầu, múc từng gáo nước lạnh dội lên người. Nước chạm da thịt tái nhợt, rét buốt khiến thân thể nàng run lẩy bẩy.

Vi Huấn thờ ơ quan sát, thấy nàng cử chỉ trầm tĩnh, thần sắc u uẩn, trong mắt lại ánh lên chút tuyệt vọng mơ hồ, trong lòng chợt sinh cảnh giác: Không ổn.

Quả nhiên, vừa rửa sạch xong, công chúa liền xoay người quỳ hướng tòa Phật, dập đầu một cái, rồi lặng lẽ trở vào thiền phòng. Nàng muốn tìm lấy sợi dây kết liễu đời mình. Nhưng lục lọi khắp nơi cũng chẳng tìm ra được gì. Mấy dải lụa tơ tằm thì mỏng nhẹ như mây, nào chịu nổi trọng lượng thân thể? Nếu dùng thắt lưng làm dây thì váy lại tuột thì chết cũng thể diện.

Còn đang ngẫm nghĩ lưỡng lự, đã thấy Vi Huấn chẳng rõ đứng đó từ bao giờ, thần sắc yên tĩnh mà sâu xa. Công chúa ngẩng đầu nhìn, hỏi thẳng: “Có dao không?”

Vi Huấn khẽ gật, rút từ ngực áo ra một dao găm lưỡi xám, cắm nhẹ lên cột gỗ trước mặt nàng. Mũi dao lạnh lẽo, phản chiếu khuôn mặt nàng tái nhợt, tiều tụy, như hoa héo sau mưa.

Thập Tam Lang thấy thế thì giật mình, gấp gáp hô lên: “Nàng muốn dao, huynh thật sự đưa à?!”

Vi Huấn cười nhạt: “Người ta tự tử, theo luật không liên can gì đến chúng ta. Đợi nàng chết rồi, xác không ai nhận, chúng ta lau sạch máu, đem bán làm minh hôn. Mười mấy quán tiền, dễ như trở bàn tay. Tha hồ vào thành uống rượu, cắt thịt, chẳng phải là chuyện vui sao?”

Thập Tam Lang há hốc mồm kinh hãi, trừng mắt nhìn sư huynh. Nhưng thấy Vi Huấn nháy mắt tinh ranh, hắn lập tức hiểu ý, liền phụ họa theo: “Sư huynh chê rẻ rồi. Thi thể thiếu nữ chưa chồng, lại nhan sắc thế kia, còn tươi mới, đem ra chợ đen có giá đến hai mươi quan! Lắm lão già còn tranh nhau đặt cọc!”

Hắn thao thao bất tuyệt, nào là giá hồn thi cháy tro bao nhiêu, xương khô bao nhiêu, bà lão mục xương tính thế nào… rốt lại một câu: càng trẻ, càng đẹp, càng quý.

Hai kẻ trộm mộ cứ thế đứng trước mặt nàng, bình luận thản nhiên về cái xác của nàng sau khi chết, thậm chí còn bàn chuyện gả nàng làm vợ ma cho lão quỷ nào đó.

Vạn Thọ Công Chúa vừa phẫn uất, vừa kinh hãi, vừa tủi hổ, vừa khiếp sợ, tâm can tựa hồ bị trăm mũi kim châm. Bao nỗi nhục nhằn bị dồn nén, nàng chợt bật khóc nức nở, nước mắt như chuỗi ngọc đứt dây, hạt này nối hạt kia tuôn trào không dứt.

Tiếng khóc vang lên như xé gan xé ruột, nước mắt hòa cùng nỗi căm giận, tiếng nức nở bật thành tiếng khóc tê tâm liệt phế. Bao khuất nhục, kinh hoàng, đau đớn tích tụ bấy lâu như dòng thác vỡ bờ, chẳng còn kìm giữ nổi.

Dẫu cho có thể vào thành gặp được Kinh Triệu Doãn, thì đã sao? Dẫu ông ta có thượng tấu lên triều đình, có thể diện thánh, thì đã sao?

Trên giấy trắng mực đen, Vạn Thọ Công Chúa đã là người chết. Nàng chết bất minh giữa lúc được vua yêu sủng, chết một cách quỷ dị, không lời giải. Giờ đây tuy thân còn ấm, hơi còn thở, nhưng giữa bốn bể, còn ai dám tin nàng vẫn sống? Kỳ thực từ khi rời khỏi địa cung, nàng đã lờ mờ cảm thấy. Chỉ là quá sợ hãi, không dám nghĩ đến.

Giữa hoàng hôn đỏ rực như máu, giữa bao nỗi nhục nhằn, nàng bỗng hiểu ra: nếu muốn giữ lại chút thể diện cuối cùng cho hoàng gia, có lẽ chỉ còn cách tự kết liễu.

Vi Huấn nghe nàng khóc một hồi lâu, cuối cùng mới cất giọng bình tĩnh: “Ta mang công chúa trở lại nhân gian, công chúa có từng hối hận?”

Công chúa vừa khóc vừa mắng: “Bọn đạo tặc khốn nạn! Dám tính đến xác thân ta sau khi chết! Dù ta có hóa thành lệ quỷ cũng không tha cho các ngươi!”

Vi Huấn thầm thở ra một hơi nhẹ nhõm. Người thật sự quyết chết, thường lặng lẽ không lời. Còn có thể khóc, có thể chửi, nghĩa là trong lòng vẫn còn vướng bận, còn đường để sống.

Khóc chán, cổ họng nàng khô rát, vô thức nhìn vào lưỡi dao phản chiếu khuôn mặt nàng: tóc tai bù xù, mắt sưng đỏ, dung nhan tiều tụy chẳng khác u linh. Nếu thật sự bị đem bán làm minh hôn, chí ít trước khi chết cũng nên phá hủy dung nhan, không để đám trộm mộ được lợi. Nhưng vừa nghĩ đến, lại thấy mất thể diện hơn.

Cứ giằng co mãi, Thập Tam mang đến một gáo nước lạnh đưa nàng súc miệng. Nàng nhận lấy, uống cạn.

Rồi lại khóc thêm một hồi nữa. Đêm đã buông, bóng tối đặc quánh. Nàng ngẩng đầu chẳng thấy hai kẻ trộm mộ đâu cả, bước ra khỏi thiền phòng thì thấy hai huynh đệ ngồi xổm dưới hành lang, miệng nhai bánh canh.

Không nhìn thì thôi, vừa nhìn liền nổi cơn đói cồn cào.

Công chúa lúc này đã bình tâm đôi chút, đầu óc cũng tỉnh táo. Nghĩ tới nghĩ lui, nếu Vi Huấn thực sự tham tài, thì ngay trong địa cung đã đủ vét sạch. Cả người nàng đeo đầy trân bảo, chỉ cần cởi xuống cũng đủ đổi lấy nửa đời an nhàn. Hà cớ gì còn phải đem thi thể về chùa, chờ bán làm minh hôn?

Tự nhiên, nàng thấy hai tên trộm mộ này không đến nỗi chướng mắt như trước.

Cả ngày đi đường hơn sáu mươi dặm, chưa được hột cơm vào bụng, giờ đã gần kiệt sức.

Nàng trừng mắt nói: “Tiểu tử, múc cho ta một bát!”

Thập Tam Lang vâng lời, vội vàng nuốt nốt miếng bánh còn lại trong chén, tổng cộng cũng chỉ có hai chiếc, không dư ra cái nào, thành ra công chúa chẳng có phần. Vốn dĩ hắn còn đang bực bội vì chuyện của đại sư huynh mà nặng mặt với cô gái kia, ai ngờ nàng như thể sinh ra đã khéo sai khiến người khác chỉ cần nhíu mày, hơi nâng cằm lên, hắn còn chưa kịp hiểu ra, đã tự động đứng dậy đi làm chân chạy cho nàng.

Thập Tam Lang đem chén đũa rửa sạch bằng nước giếng, rồi cẩn thận bưng bát canh bánh lên dâng.

Và thế là:
Vạn Thọ Công Chúa, thân mang huyết mạch thiên gia, một đời kim chi ngọc diệp, giai nhân nổi danh nhất kinh kỳ, nay lại vén tay áo, chân đất đầu trần, ngồi xổm dưới hiên chùa, ôm chén sứ mẻ, húp canh nấu bằng nước giếng, bên cạnh là hai tên trộm mộ từng định bán xác mình đi đổi rượu thịt.

Vi Huấn nửa cười nửa trêu, giọng đầy giảo hoạt: “Đói rồi à?”

Nữ hài đỏ mặt, lấy tay quệt nước mắt còn vương trên má: “Hừ, dù có chết, ta cũng phải làm một con ma no bụng.”

Vi Huấn cười to: “Công chúa tiêu sái thật đấy. Nói vậy mới là người có đại trí tuệ!”

No bụng xong, Vạn Thọ Công Chúa chỉ thấy cả người rã rời, mí mắt sụp xuống, chẳng muốn nghĩ thêm điều gì nữa. Nàng lặng lẽ ngã người xuống giường, ngủ say đến tận khi mặt trời lên cao. Khi tỉnh lại, nắng đã chiếu vào tận giường, ánh sáng vàng rực trải khắp căn phòng gỗ cũ. Nàng nhìn về cây cột nơi dao găm vẫn còn cắm nguyên đó bỗng nhiên, không còn muốn chết nữa.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 7


Nàng nhẹ nhàng vu.ốt ve cánh tay mình, mắt nhìn mạch máu xanh nhạt ẩn dưới lớp da nhợt, nghĩ thầm dù chẳng còn phong hào công chúa, nhưng trong thân thể này, vẫn chảy huyết mạch Cao Tổ, Thái Tông. Xưa kia, Đại Thánh Hoàng đế Võ Tắc Thiên cũng từng bị đẩy vào Cảm Nghiệp Tự, cô độc không nơi nương tựa, vậy mà Đông Sơn tái khởi. Nay bản thân bị giam giữa Thúy Vi Tự, thử hỏi đời sau của Võ hoàng mấy ai còn giữ được mái tóc đen tới cuối đời?

Nàng mang trong mình huyết thống cao quý của hoàng tộc Lý Đường, cũng thừa hưởng dòng máu kiên cường của Võ Chu. Lẽ nào chỉ vì một lần lỡ vận mà đành cam lòng chờ chết?

Lại ngẫm nghĩ kỹ càng, chuyện này e là nhằm vào Thiều Vương. Trữ quân chưa lập, huynh trưởng đã bị giáng chức đày tới U Châu, song trong triều vẫn còn vài vị đại thần âm thầm ủng hộ. Ngôi vị thái tử vẫn còn treo nơi ấy, chưa hẳn không thể xoay chuyển.

Nàng lấy ra một chiếc trâm ngọc từ bọc quần áo, thong thả chải tóc. Khi xưa từng tự hào về mái tóc dày óng mượt, dù kiểu búi cao, phức tạp thế nào cũng chẳng cần dùng đến tóc giả.

Nay không có tỳ nữ bên cạnh, tự tay búi tóc chẳng dễ gì. Gom được bên trái, bên phải đã rối tung; giữ được bên phải, bên trái lại rơi ra. Cuối cùng, đành phải quấn thành hai búi nhỏ, phần tóc dài phía sau tết thành một bím.

Chân trái hôm qua bị Kim Ngô Vệ đá mạnh, lúc ấy vì uất ức nên không cảm thấy đau đớn, giờ chải đầu mới thấy sườn bên âm ỉ đau. Nàng khẽ cởi vạt váy lụa, chỉ thấy mảng da bầm tím xanh xao, chạm khẽ đã khiến nàng hít hơi lạnh.

Thập Tam Lang từ cửa ló đầu vào, vui vẻ nói: “Người cuối cùng cũng tỉnh rồi. Tại hạ nửa đêm còn ghé qua vài lượt, sợ người nghĩ quẩn.”

“Tên nhóc nhiều chuyện,” Công chúa oán trách một tiếng, chẳng mảy may nhớ hôm qua chính mình khóc lóc đòi sống đòi chết, kinh động trời đất.

“Này, đại sư huynh đêm qua vào thành một chuyến, mua cho người ít cao dán. Tại hạ hơ nóng rồi, người tự dán vào nhé.” Dứt lời, hắn dùng kẹp sắt gắp một hòn đá đã nung đen như than đến, rồi đưa thêm một miếng giấy dầu bọc cao thuốc.

Từ nhỏ, Vạn Thọ Công Chúa đã hiếu động, từng cưỡi ngựa, đánh cầu bị thương cũng chẳng ít. Nhưng khi ấy luôn có thái y túc trực, người thân chăm nom, nào từng tự mình hong thuốc, bôi cao.

Nay chẳng thể so với thuở trước. Có thuốc dùng đã là may rồi. Sống mũi cay cay, mắt nàng bỗng nóng lên. Vội xua đi ý nghĩ vừa rồi, nàng nhận miếng cao, cẩn thận hong mềm trên hòn đá. Vừa hong, vừa nghĩ tên họ Vi kia, ngoài lạnh trong nóng, ánh mắt cũng thật tinh tế. Hôm qua nàng bị đá đến mức bản thân còn không nhận ra, vậy mà hắn lại thấy rõ giữa đám đông.

Thuốc dán lên, váy lụa chỉnh lại. Công chúa liếc sang thấy thanh dao găm Vi Huấn để lại vẫn còn cắm trên cột, thuận tay rút xuống.

Lưỡi đao dài độ tám tấc, chuôi làm bằng sừng tê giác, nhìn qua đã cũ. Thân đao chẳng rõ rèn từ loại nào, hiện sắc tro đen kỳ lạ, ban đầu nhìn qua chỉ thấy xám xịt, không chút bắt mắt. Nhưng đem soi dưới ánh mặt trời, lại thấy hoa văn uốn lượn như nước chảy, ánh kim loại và hoa văn hòa vào nhau. Vuốt nhẹ, thân đao trơn nhẵn như đồ cổ lâu dòi.

Nàng nhìn sát chuôi đao, thấy khắc hai chữ kim văn nhỏ. Tuy am hiểu thư pháp, nhưng đối với thuật khắc chữ xưa thì không thông thạo, chỉ lờ mờ nhận ra một chữ “Ngư”.

Vi Huấn hôm qua cắm dao găm vào cột gỗ dường như chẳng phí chút sức lực nào. Công chúa thử vung vài đường, chưa kịp trúng thứ gì, Thập Tam đã vội hô lớn: “Cẩn thận! Dao găm này sắc lắm! Không kịp nhận ra thì vài món trên người cũng rơi mất rồi!”

“Ngươi thật khoa trương,” nàng gắt nhẹ, nghĩ hắn không muốn nàng chạm vào vật của sư huynh, bèn dồn sức cắm lại chủy thủ vào cột. Nào ngờ đâm xuống không một tiếng động, lưỡi đao đã lút sâu đến tận chuôi. Lúc này nàng mới hiểu, lời Thập Tam Lang quả thực không sai.

Thập Tam Lang không vội bỏ đi, vẫn ngồi trước hành lang cùng nàng trò chuyện: “Sư huynh ngươi có ngựa sao? Sao đi đến Trường An nhanh như vậy?”

Thập Tam Lang bật cười: “Chúng ta nghèo rớt mồng tơi, đến mái ngói che đầu cũng chẳng có, lấy đâu ra ngựa? Đại sư huynh thân pháp nhanh nhẹn, chân đi như bay, nói đi là đi, nói về là về.”

Công chúa chợt nhớ lại cảnh bị sỉ nhục trước cửa An Hóa hôm qua, lòng càng nghĩ càng thấy quái lạ, lập tức bao điều nghi hoặc dâng lên.

Nàng nghiêm giọng hỏi: “Hắn tự xưng là lưu dân, vậy vượt quan vào thành bằng cách nào? Huống hồ đêm kinh thành cấm đi lại, cổ mộ lại ngoài phường môn, cửa thành đóng, đường phố có Kim Ngô Vệ tuần tra. Hắn làm sao vào thành? Lại mua được thuốc ra sao?”

Thập Tam Lang ngập ngừng nói: “Ừm… mèo có lối mèo đi, chuột có ngõ chuột chui.”

Câu đáp lấp lửng, rõ là che giấu. Công chúa nào dễ bỏ qua? Nàng tức giận túm tay áo hắn, lớn tiếng: “Gọi sư huynh ngươi đến đây!”

“Công chúa có điều gì phân phó?”

Vi Huấn chẳng biết đã đứng sau lưng từ lúc nào. Nàng bị bất ngờ, giật thót tim, vội ổn định thần sắc, trầm giọng: “Ngươi biết cách vào thành không cần giấy thông hành, vậy mà để mặc ta bị quan trông thành làm khó, là có ý gì?”

Vi Huấn vẻ mặt vô tội: “Tại hạ làm được, nhưng công chúa thì không.”

“Sao ta không làm được?” nàng không phục.

“Giữa đêm, chờ lính gác thay ca, tay không leo tường mà vào. Hoặc phiền hơn, c** s*ch y phục, nín thở lặn theo dòng Vĩnh An Cừ.”

Vạn Thọ Công Chúa tròn mắt, môi mấp máy không nói thành lời. Hai cách ấy đều quá đỗi hoang đường, nhưng hắn nói ra với vẻ cực kỳ nghiêm túc.

Nàng tức tối quay sang hỏi Thập Tam: “Ngươi cũng có thể leo tường, lặn nước sao?”

Thập Tam Lang vội xua tay như quạt: “Tiểu tăng không dám! Tiểu tăng pháp hiệu Thiện Duyên, thân mang tăng tịch, quải đơn* trong thành, được phép tự do vân du trong Kinh Triệu phủ.” Dứt lời liền chắp tay niệm Phật, dáng vẻ đoan chính như nước chảy mây trôi.

Vạn Thọ Công Chúa chợt bừng tỉnh ngộ: thì ra “mèo có lối mèo đi, chuột có ngõ chuột chui”! Hóa ra kẻ phàm tục dắt theo chú tiểu, hai người xưng huynh gọi đệ, chính là để dùng tăng tịch làm lớp áo hợp pháp.

Vi Huấn thấy nàng tức giận quá độ, lúc này mới thu lại vẻ trêu chọc, chậm rãi lên tiếng: “Tại hạ thực sự không biết công chúa không vào được thành, cũng chẳng cố tình khoanh tay đứng nhìn. Nếu trong cung còn người đáng tin, Vi mỗ nguyện một phen truyền tin.”

Ánh mắt công chúa khựng lại, chìm vào trầm tư.

Nàng có người để tín nhiệm chăng? Tất nhiên là có.

Đầu tiên là huynh trưởng cùng mẹ Thiều Vương Lý Nguyên Anh. Ngày trước vâng chỉ rời Trường An đi trấn giữ U Châu, thân đang ở xa. Kế đến là ấu đệ Lý Nguyên Ức thuở nhỏ mẫu thân qua đời sớm, từ khi còn đỏ hỏn đã được nàng nuôi nấng trong Tê Phượng điện. Tình thâm nghĩa trọng là vậy, nhưng dẫu đã được phong làm An Bình Quận Vương, thì cũng chỉ mới bảy tuổi đầu, chẳng thể gánh nổi trọng trách.

Cữu phụ Tiết Văn Diệu từng làm đến Tể tướng, nhưng vốn là người nhát gan tham lợi, từ sau khi Quý phi tỷ tỷ ruột của ông mất, liền sinh lòng sợ hãi, quanh năm cáo bệnh nhàn cư, không hỏi chính sự. Ông e rằng bước chân vào triều sẽ gặp kết cục như Dương Quốc Trung. Còn đám biểu huynh biểu đệ tuy thân cư quyền quý, nhưng ngày ngày chỉ lo ăn chơi yến tiệc, giao vào tay bọn họ, nàng càng không yên lòng.

Nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng chỉ còn hai người có thể trông cậy là hai nữ quan theo hầu bên người.

Nàng liền nói với Vi Huấn: “Trong cung, ta có hai nữ quan thân tín, một người tên Tiên Dật Tĩnh, một người là Hạ Phương giữ chức Điển Chính. Chỉ là, hai người họ hiện ở sâu trong cung cấm, không tiện truyền tin trực tiếp. Phiền ngươi đưa một bức thư đến Trường An, tới nhà của Hạ Điển Chính ở phường Vĩnh Cùng, nhờ người nhà nàng chuyển lại. À, nơi này có giấy bút không? Chỉ cần thấy nét chữ ta, nàng ắt hiểu.”

Vi Huấn không đáp, cũng không nhúc nhích, chỉ nhìn nàng bằng ánh mắt sâu thẳm phức tạp. Trong ánh nhìn ấy, thấp thoáng chút thương xót.

Công chúa bất giác chột dạ: chẳng lẽ hắn đổi ý, không muốn giúp nữa?

Vi Huấn bỗng hỏi: “Hai nữ quan theo hầu công chúa sao đó có đặc điểm nào dễ nhận diện không?”

Công chúa thoáng ngẩn người. Nghĩ thầm dẫu ngươi có biết dung mạo, cũng chẳng thể trực tiếp vào cung tìm gặp, nhưng vẫn cẩn trọng mô tả: “Hai người đều có nhan sắc . Tiên Dật Tĩnh lớn hơn ta hai tuổi, da trắng như tuyết, dưới mắt có một nốt ruồi son, thường mặc lục y, búi tóc kiểu ngã mã. Hạ Điển Chính thì đã ngoài ba mươi, dáng người đầy đặn, sau gáy có một vết sẹo hình đồng tiền, rất dễ nhận ra.”

Vi Huấn cúi đầu trầm mặc hồi lâu, như đang hồi tưởng điều gì. Cuối cùng thần sắc sa sầm, giọng khẽ buông một câu: “E rằng tin ấy chẳng thể gửi đi được. Tạm thời, tại hạ không thể trở lại mộ phủ.”

Nghe đến đó, công chúa bỗng giật thót, bật dậy như bị điện giật: “Ngươi nói vậy là có ý gì?!”

Vi Huấn vốn không định nói cho nàng biết chuyện những người trong mộ đều bị xử tử tuẫn táng, nhưng đến nước này, cũng chẳng thể giấu mãi.

“Trong địa cung, người còn sống chỉ có mình công chúa. Còn lại… đều đã chết. Tổng cộng bốn mươi hai người. Xét theo xiêm y, phần lớn là cung nữ, hoạn quan bên cạnh công chúa. Hai người mà người nhắc đến hôm qua nữ tử có nốt ruồi dưới mắt và người có vết sẹo sau gáy cũng nằm trong số ấy.”

Công chúa há miệng, muốn bật khóc, nhưng cổ họng như bị vật gì chặn ngang, chỉ thấy trời đất đảo lộn, đầu váng mắt hoa, chầm chậm khuỵu người ngồi phịch xuống đất.

Đã chết cả rồi sao? Tất cả… đều đã chết?

Tê Phượng điện có hơn ba trăm cung nhân ghi tên trong sổ sách, nhưng số được phép trực tiếp hầu cận nàng và Lý Nguyên Ức chẳng quá năm mươi. Còn lại chỉ là tầng lớp tạp dịch, không được bén mảng đến điện chính. Mà theo lời Vi Huấn, những người bên cạnh nàng nay đã bị giết sạch không còn một ai.

Nàng từng đọc sử sách, từng nghe chuyện tru di tam tộc, bức tử cả nhà vì liên lụy trọng tội. Nhưng khi bản thân thật sự rơi vào tuyệt cảnh ấy, khi chính những người thân cận nhất, giọng nói nụ cười còn phảng phất bên tai, phút chốc hóa thành u hồn nơi hoàng tuyền mới hiểu bóng tối ấy sâu đến nhường nào. Nàng từng ôm hy vọng mỗi ngày sẽ được trở về cung, trở lại nếp sống năm xưa. Nay mới hay, tất cả chỉ là giấc mộng ngây thơ.

Nước mắt long lanh đọng trên hàng mi, từng giọt trong suốt như châu, lặng lẽ rơi xuống. Các nàng, lúc chết, có giống mẫu thân năm xưa cũng bị rút cạn máu tươi?

Vi Huấn nhẹ đứng dậy, khẽ vẫy tay gọi sư đệ, định để mặc nàng ở lại khóc một lát cho nhẹ lòng.

Nhưng thiếu nữ lại vùng dậy, đưa tay lau vội nước mắt, nức nở bật tiếng: “Đừng đi… ta sẽ không quay lại hoàng cung nữa!”

Vi Huấn khựng bước, kinh ngạc ngoái đầu: “Sao vậy?”

Công chúa cắn chặt môi, trong mắt ánh lên sự quyết liệt. Sau hồi giằng co nội tâm, nàng như tráng sĩ tự chặt tay, trịnh trọng nhìn hai người trước mặt: “Ta muốn đi U Châu, tìm huynh trưởng nương nhờ. Hai người các ngươi hộ tống ta, nếu sự thành, ta nguyện ban cho các ngươi cả đời phú quý.”

Vi Huấn liền nghiêm nghị hỏi: “Từ Trường An tới U Châu, đường dài hai ngàn dặm. Nay thiên hạ không còn thái bình như thuở Thiên Bảo, khắp nơi cướp bóc dậy lên, thế đạo bất ổn, đường sá nguy hiểm. Công chúa muốn đi sao?”

Nước mắt vẫn đọng nơi khóe mắt, nhưng ánh nhìn kiên định: “Ta còn một đệ đệ cùng mẹ, năm nay vừa tròn bảy tuổi. Âm mưu này hại ta sâu như biển. Ta tuyệt đối không để nó bị liên lụy.”

Nhớ đến Lý Nguyên Ức, nàng khẽ cắn môi, ánh mắt se sắt lại vì nỗi đau dồn nén: “Mẫu thân mất vì khó sinh, đệ đệ ta chào đời đúng ngày giỗ mẫu phi, cả đời chưa từng được vui vẻ trọn vẹn một ngày. Từ nhỏ nó lớn lên bên cạnh ta, năm nào sinh nhật cũng là ta tự tay chuẩn bị cho nó. Nay ta cũng chẳng còn bên cạnh, nó sẽ rất buồn.”

Vi Huấn chợt hỏi: “Nói như vậy, mấy ngày trước chính là giỗ của Quý phi?”

Công chúa gật đầu: “Mười chín tháng Năm.”

Vi Huấn “à” lên một tiếng, thần sắc trầm ngâm.

Công chúa khẽ vuốt trang sức trong bọc, lấy ra một món châu báu tinh xảo, nâng lên tay ngắm nghía, chậm rãi nói: “Chiếc trâm thoa mười hai điền này vốn là vật mẫu thân ta từng dùng lúc sinh thời, chẳng hiểu sao khi hạ táng lại được cài lên tóc ta. Thật kỳ lạ.”

Chiếc trâm thoa được tạo tác từ vàng, đúc thành hình đóa sen nở rộ, mười hai nhánh tủa như cành hoa um tùm, mỗi nhánh đính hàng trăm phiến vàng mỏng, nhụy làm bằng trân châu, đế thoa là phiến tơ vàng dẹt mịn, gò tinh xảo như dệt ánh sáng. Hoa có nụ e ấp, có nụ chớm hé, có nụ vươn nở rực rỡ, tựa như cả cây kim hoa đón gió giữa hoàng cung thịnh thế. Gió khẽ thoảng qua, từng tua vàng rung lên lấp lánh, như cảnh mộng trong thơ cổ.

Không chỉ là tuyệt phẩm từ tay thợ bậc nhất thiên hạ, nó còn là vật thể hiện sự cao quý của phi tần nơi cung cấm. Năm xưa Quý phi từng đội trâm thoa này, dung nhan khuynh thành, gió lay lững lờ tà áo, khiến thi nhân Trường An cảm hứng trào dâng, thơ vịnh ngút ngàn, danh chấn một thời.

Thập Tam Lang ngạc nhiên hỏi: “Trong cung thường để vật của thân mẫu chôn cùng với nữ nhi sao?”

Thiếu nữ lắc đầu: “Đâu thể thế được. Theo quy chế, chỉ Hoàng hậu mới có thể dùng mười hai điền, ta thân là công chúa, nhiều lắm cũng chỉ được chín điền. Mẫu thân lúc sống được đãi ngộ ngang trung cung, sau khi mất được truy phong Hoàng hậu, nên có thể cài trâm thoa này. Còn ta mang vật ấy xuống mộ, là làm trái quy chế.”

Dù đã bảy năm, cảnh tượng ngày đó vẫn in sâu trong tâm trí.

Trẻ thơ oa oa cất tiếng khóc, Quý phi nằm trong vũng máu đỏ thẫm, tóc đen rối loạn, ngọc thoa rơi vãi, tay chân nhuốm máu. Bà muốn vươn tay chạm vào má đứa bé nhưng đã yếu đến mức không nhấc nổi cánh tay. Khắp phòng vang lên tiếng nức nở, phụ hoàng cũng khóc đến nghẹn ngào, ngồi bên giường hỏi lời trăn trối, mà bà chỉ có thể nhìn ông, không thốt nổi nửa lời.

Lý Nguyên Ức… là đứa trẻ cuối cùng được mẫu thân nàng ôm trong lòng. Là sinh mệnh bà yêu nhất.

Thơ có câu: “Đế vương vô tình”, nhưng nay nàng lưu lạc đến bước đường này, chẳng lẽ tình thâm năm ấy, nay đã phai nhạt cả rồi sao?

Thập Tam Lang niệm vài câu Kinh Bồn Máu, lời tụng an ủi người chết vì khó sinh (
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 8


Vạn Thọ Công Chúa đem toàn bộ số trâm cài tùy thân giao cho Vi Huấn, nhưng hắn không nhận, chỉ từ tốn nói: “Không dám. Mấy món này vừa nhìn đã biết là vật hoàng gia chế tác, nếu tùy tiện cầm ra tiệm vàng bán, e rằng lão bản quay đầu đã báo quan, ta còn chưa kịp giải thích đã bị áp giải đi tra khảo rồi.”

Công chúa vốn tưởng chủ ý của mình là thỏa đáng, nào ngờ mới mở lời đã vấp phải trở ngại, nhất thời cũng thấy có phần xấu hổ.

Thập Tam Lang tốt bụng góp lời: “Chi bằng đem mấy món trang sức ấy nung chảy thành thỏi vàng thì dễ hơn rồi.”

Công chúa hơi chần chừ: “Trang sức châu báu quý là ở chỗ thợ khéo, một khi nung chảy rồi, cũng chỉ còn lại vàng mà thôi.”

Vi Huấn nghe thế, liền tấm tắc than rằng: “Không hổ là thiên chi kiều nữ, lời nói ra khiến người ta kinh ngạc: ‘Chỉ là vàng mà thôi’!”

Công chúa nghe ra trong lời hắn có ý trêu chọc, giận dỗi trợn mắt: “Vậy ngươi cầm đi nung đi!”

“Một khi nung rồi, sợ rằng không làm lại được. Người không hối hận chứ?”

Thiếu nữ thầm nghĩ, tình cảnh hiện giờ của mình chẳng phải cũng thế sao? Gương vỡ khó lành, nước đổ khó hốt. Một khi đã rời cung, thì không còn đường quay lại nữa.

Nghĩ vậy, nàng liền cắn răng, ánh mắt kiên định: “Không hối hận!”

Thấy nàng quả quyết, Vi Huấn mới đưa tay nhận lấy tay nải, lần lượt lấy ra từng món trang sức quý, trước mặt nàng, dùng dao găm cẩn thận nạy từng viên trân châu, đá quý, thuỷ tinh, lưu ly… gỡ xuống riêng, chỉ giữ lại vàng.

Sau đó, hắn lấy ra một chiếc bếp lò nhỏ vừa trong lòng bàn tay và một chiếc nồi nấu quặng bằng đồng, đem vàng bỏ vào trong, nhóm lửa lên. Không rõ hắn dùng thứ than gì mà ngọn lửa cháy lên ánh lam rực rỡ, nóng đến rát cả mặt.

Công chúa đứng bên xem, lúc đầu chỉ thấy tiếc ngẩn ngơ, nhưng dần dần, lại say mê như đang ngắm một nghi lễ cổ xưa. Cảnh lửa cháy, tay đúc, hơi nóng phả vào mặt, giống như một buổi trà đạo mà nước pha lại là vàng.

Đợi đến khi vàng chảy lỏng, Vi Huấn dùng kềm nhấc nồi, đổ lên phiến gạch xanh. Tay hắn điêu luyện như vẽ, múc từng giọt đúc thành viên, xếp hàng ngay ngắn như đậu tròn óng ánh. Một canh giờ chầm chậm trôi qua. Những món trang sức từng chói lọi, từng là minh chứng cho thân phận cao quý, nay chỉ còn là những hạt đậu vàng lấp lánh, bên cạnh là một túi đá quý không còn nguyên vẹn.

Công chúa xem xong vẫn thấy chưa thoả mãn, một lát sau dư vị mới tan, liền khẽ hừ một tiếng, lạnh nhạt nói: “Vậy ra đây là cách các ngươi tiêu hủy tang vật.”

Vi Huấn bĩu môi: “Công chúa nói thế thật oan cho ta. Chẳng phải chính tay người trao cho ta sao? Vậy mà lại nói ‘tiêu hủy tang vật’

“Hừ, dẫu nói vậy, thì những thứ này cũng có thể đem đổi lấy ngân lượng.” Nàng nâng cằm, tiếp lời, “Nhớ kỹ, hãy mua cho ta một con ngựa không cần quá đẹp, nhưng tốt nhất là giống Đại Uyển hoặc Đột Quyết; lại thêm bộ yên cương gọn nhẹ, giày phải là da sơn dương thật mềm, trên đầu cần chiếc mũ có rèm che nắng. Phấn má trắng trên phố phẩm chất đa phần tệ lắm, chỉ cần một khối đá thạch vẽ mi là được…”

Nàng nói một hơi rành rọt như đã chuẩn bị sẵn, giọng điệu ung dung như đang ở phủ công chúa sai gia nhân đi chợ.

“Được được được, hay hay hay, cứ theo ý công chúa.”

Vi Huấn đáp lấy lệ, như chẳng để tâm mấy, cho tới khi nghe nàng dặn đến ‘cung khảm sừng, túi tên thêu’, ánh mắt mới hiện chút quan tâm.

Hắn ngẩng đầu hỏi với vẻ hơi lấy làm lạ: “Người thật sự biết dùng cung?”

Công chúa ngẩng đầu kiêu hãnh: “Tài bắn cung của ta đứng đầu trong cung đấy.”

Vi Huấn liếc nàng từ đầu đến chân: “Thật không nhìn ra. Tay người không có vết chai.”

“Tất nhiên rồi, ta vẫn mang nhẫn hộ thủ chuyên dụng, chẳng lẽ lại để lại vết chai?”

Vi Huấn gật gù, bắt đầu hỏi kỹ nàng về kích thước cung, chất liệu, độ nặng nhẹ.

Thiếu nữ đều trả lời rõ ràng, trong bụng lại âm thầm nghi hoặc: Hắn làm sao biết tay ta có hay không có chai? Lẽ nào từng âm thầm quan sát?

Không rõ hắn có nhớ hết hay không, nhưng đến khi mặt trời lặn sau núi, Vi Huấn mới cất gọn bao kim đậu vào lòng áo, nhấc chân lười nhác rảo bước ra phía cổng chùa.

Thập Tam Lang phía sau còn tranh thủ gọi theo: “Nhớ mua thêm bánh hồ ma! Tốt nhất là cửa tiệm cũ ở Phụ Hưng phường ấy! Phải rắc thật nhiều mè vào đấy!”

Công chúa trừng mắt liếc hắn một cái. Nhưng trong khoảnh khắc quay đầu lại, Vi Huấn đã sớm biến mất không để lại bóng.

Đêm hôm ấy, nàng ngủ chẳng yên, trong lòng đầy lo nghĩ. Lỡ đâu Vi Huấn đem vàng ra phố mà bị quan quân nghi ngờ bắt giữ, hoặc mang theo tiền bạc rồi một đi không trở lại vậy nàng chẳng phải sẽ tay trắng, bị bỏ mặc nơi ngôi chùa hoang này chờ chết sao?

Sáng hôm sau, Vi Huấn vẫn chưa trở về. Nhìn nàng đứng ngồi không yên, nét mặt đầy căng thẳng, Thập Tam Lang lên tiếng an ủi: “Phố mở lúc chính ngọ. Có gì phải vội?”

Công chúa khẽ cau mày: “Tỷ chỉ lo đàn ông mua đồ… khó coi.”

“Còn những món khác, nói ra dài dòng, chứ bánh hồ ma ở Phụ Hưng Phường thì tuyệt đối không khiến người thất vọng. Bánh vừa ra lò, vỏ ngoài giòn tan thơm nức, cắn một miếng mà hương dậy đầy miệng. Trường Hưng Phường có bánh tất la nhân anh đào của Hàn gia, vỏ mỏng trong suốt, vừa mềm vừa dẻo, thậm chí có thể nhìn thấy sắc hồng của nhân anh đào bên trong. Còn như Bình Khang Phường Bắc Khúc có tiệm Trịnh gia làm bảy lớp bánh, lớp bột tráng bơ bảy lần, trước chưng sau nướng, khi ăn từng tầng có thể tách rời rõ rệt, tay nghề quả thực tinh xảo. Sư huynh đề thì chẳng bao giờ ngại chạy đi chạy lại mấy chỗ ấy cả…”

Hôm ấy, nhà bếp trong chùa hết sạch gạo, chẳng có cơm mà nấu. Bữa sáng mỗi người chỉ có một gáo nước lạnh, bụng đều lép xẹp, song không ai lên tiếng than đói. Thập Tam thì cứ thao thao bất tuyệt, kể lể những món ngon từng được nếm qua, khiến công chúa chỉ hận không thể tìm ngay một mảnh vải mà nhét chặt vào miệng hắn cho đỡ chọc giận.

Trong cung, ngày ngày tiệc yến không dứt, ngự thiện phòng món nào cũng là cao lương mỹ vị, từ sơn hào hải vị cho đến đặc sản tứ phương. Gan rồng tủy phượng, gân báo thai lân, thứ nào cũng từng bị nàng nhìn qua đã không buồn ăn? Các bà vú thậm chí còn phải dỗ dành đủ cách chỉ để nàng chịu ăn thêm một miếng.

Hiện tại thì khác. Giờ mới thực sự nếm được cái đói, mới hiểu rằng có cái để ăn, đôi khi đã là ân phước. Thập Tam Lang cứ thế liệt kê từng món ăn vặt bán trong phố. Trước đây nàng còn chê là bẩn, giờ chỉ nghe thôi cũng đã nuốt nước miếng ừng ực.

Thập Tam Lang luyên thuyên một hồi, thấy nét mặt nàng giận dữ, bèn biết điều mà câm miệng. Hắn phủi tay áo tăng, cầm lấy chiếc bát gỗ bên mình:

“Ai nha, tiểu tăng xin phép ra ngoài hóa duyên một chuyến. Công chúa cứ tự nhiên ở lại.”

Dứt lời, hắn xoay người rời đi, bóng dáng cũng chẳng buồn lưu lại.

Vạn Thọ Công Chúa không nơi nương tựa, một mình bị bỏ lại trong ngôi chùa hoang, tuy là ban ngày nhưng vẫn cảm thấy âm khí, bất giác sinh lòng sợ hãi. Lại thêm đói cồn cào, trong lòng loạn như tơ vò, nàng vừa lẩm bẩm tự trấn an: “Đây là ly cung tổ tiên để lại”, vừa lang thang khắp nơi dò xét.

Thúy Vi Tự hoang phế đã mấy chục năm, các điện thờ, phòng thiền đều xiêu vẹo sụp đổ, đồ đạc bài trí bên trong đã bị người ta lấy đi sạch sẽ, chỉ còn sót lại đôi ba bức tường loang lổ nét bút của các vị sư và văn nhân từng đề thơ.

Công chúa nhìn một hồi, chỉ thấy có câu “Râu rồng không thể động, ngai ngọc sinh tro bụi” còn tạm được. Ngoài ra toàn là những câu cú vần điệu kỳ quái, khó hiểu như “Anh em ba người, mỹ nhân về, mặt mộc đoạt sắc xuân thì”… đọc lên cũng chẳng rõ ý tứ ra sao.

Nàng rẽ vào một sân nhỏ, thấy phòng ốc nơi đây tuy tàn hoang, nhưng nền đất lại bằng phẳng sạch sẽ, thoạt nhìn như có người ở. Quả nhiên, nàng thấy trên giá áo trong sân có treo một chiếc áo xanh cổ trúc đã cũ, cổ áo bạc màu vì sờn. Hóa ra là chỗ ở của Vi Huấn.

Công chúa nhất thời mặt đỏ bừng, vốn định quay đầu rời đi, nhưng lòng hiếu kỳ đã áp chế lễ giáo, bèn bước thêm nhìn kỹ hơn. Không xem thì thôi, chứ khi đã liếc vào thì quả thật giật mình. Bên trong thiền phòng, cửa mở rộng, nhưng chiếm nửa gian nhà là những cuốn sách thẻ tre xếp chất cao ngất như núi nhỏ, ước chừng ngàn cân trở lên, không rõ được mang từ nơi nào tới.

Từ sau thời Ngụy Tấn, giấy dần thay thế thẻ tre, trở thành đồ dùng chủ yếu trong thế gian. Ngày nay còn ai lại dùng thứ sách cồng kềnh như thế này nữa?

Công chúa nhặt lên một quyển, nhẹ tay lật ra đọc, chẳng ngờ sợi dây thừng buộc sách đã mục nát từ lâu, vừa động đến thì cả cuốn sách rời rạc, từng mảnh thẻ tre loảng xoảng rơi vãi xuống nền.

Không phải sách mới, cũng chẳng phải bản chép lại – đều là thư tịch do cổ nhân để lại?

Trong lòng chợt lóe lên linh quang, nàng lập tức hiểu ra: những thứ này, tám phần là được đào ra từ cổ mộ tiền triều.

“Đạo tặc này chẳng lấy vàng bạc châu báu, lại lặn lội trộm sách thẻ… là để làm gì đây?”

Chồng sách ấy không dính bùn đất, không vương mạng nhện, có thể thấy thường xuyên được lấy ra đọc. Bên hành lang còn đặt mấy chậu sành lớn, trong đó ngâm mấy đoạn thẻ tre mục nát chữ nghĩa mơ hồ, hiển nhiên đang cố phục hồi lại các phần hư hại chẳng rõ dụng ý để làm gì.

Hiếu kỳ nổi lên, công chúa ngồi dưới mái hiên mà đọc. Ai ngờ càng đọc càng thất vọng. Nội dung phần lớn là đạo tạng và kinh văn Đạo giáo, đầy những thuật luyện đan hoang đường, những câu từ thần bí huyễn hoặc, khó lòng tin tưởng. Trong cung từng có không ít đạo sĩ tà môn ngoại đạo, nàng đã nghe quá nhiều, nhìn thấy cũng nhiều, thật sự phiền chán đến cực điểm.

Trầm mê luyện đan, theo đuổi trường sinh vốn là thói quen chung của vương tôn quý tộc, nhưng cũng chỉ là lẽ thường đối với người tuổi xế bóng chiều tà. Khi tuổi già sức yếu, lòng người mới bắt đầu lo sợ thiên mệnh, từ đó sinh lòng cầu tiên luyện đan mong thoát khỏi sinh tử luân hồi. Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế đều chẳng khác gì. Ngay đến Thái Tông hoàng đế anh minh thần võ một đời, đến cuối cùng cũng tin theo phương sĩ Thiên Trúc, nghe lời ma quỷ của La Nhĩ Sa Bà, tự rước họa vào thân.

Thế nhưng Vi Huấn tuổi còn trẻ, nhìn chừng mới hai mươi, một thiếu niên chưa tới nhược quán, sao lại nhọc công sưu tập những thứ vô dụng này? Nghĩ thế, công chúa hậm hực ném sách xuống, chẳng buồn đọc tiếp.

Tới khi đêm xuống, sư huynh đệ hai người mới lục tục trở về.

Vi Huấn cánh tay quấn vải bố trắng, trên mặt nở nụ cười bỡn cợt như thường lệ.

Công chúa thoạt nhìn thần sắc hắn đã cảm thấy không thuận mắt, liền hỏi: “Ngươi lại làm gì thế kia?”

Vi Huấn cười hì hì đáp: “Thiên tử hạ chỉ, toàn Trường An đều để tang công chúa đấy.”

Nghe xong, công chúa xấu hổ đến đỏ bừng mặt, chỉ muốn tìm chỗ chui xuống đất. Mặt nàng vốn trắng như tuyết, nay vì thẹn hóa hồng, càng khiến gò má ửng lên như phấn đào vừa nở.

Gã này rõ ràng có thể tháo mảnh vải xuống từ khi rời thành Trường An, thế nhưng lại cố ý mang về nguyên vẹn, đưa thẳng đến trước mặt nàng, quả thật đáng ghét!

Vi Huấn lại thản nhiên nói: “Giờ trong thành kiểm soát nghiêm ngặt, đồ đạc đều bị tra xét kỹ càng. Trên đường muốn mua cái cánh gà cũng không có, món nướng càng khỏi nghĩ. Giờ đến cả mấy quán lớn cũng phải cúng trai một tháng.”

Công chúa giận đến mức không thèm đáp lời, chỉ hừ nhẹ một tiếng rồi quay mặt đi.

Ngược lại Thập Tam Lang thì tỏ ra vô cùng hoan hỉ, reo lên vui sướng: “Là bánh của Phụ Hưng Phường đấy!”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 9


Vi Huấn quả nhiên mang về một chồng bánh hồ ma thơm ngào ngạt, Thập Tam Lang thì không biết từ đâu hái được hai quả lê lớn bằng nắm tay. Ba người ngồi vây quanh bếp lò, vừa làm nóng bánh, vừa nướng lê. Bữa ăn tuy đạm bạc, chẳng có chút thịt cá nào, song đều vì tình cảnh của nàng mà ra, công chúa dẫu đói đến mức cồn cào cũng chẳng thể mở miệng trách móc nửa lời.

Thập Tam Lang hăng hái tán dương: “Một chồng bánh hồ ma ngoài chợ chỉ hai văn một cái, riêng cửa tiệm lâu đời ở Phụ Hưng Phường bán ba văn một chiếc, năm văn hai cái, ấy vậy mà vẫn cung không đủ cầu. Đúng là tay nghề hơn người! Công chúa xem này, mặt bánh rắc đầy mè trắng, trong nhân thì thấm đẫm dầu thơm!”

Công chúa mệt mỏi liếc mắt nhìn hắn, môi cong khẽ nói: “Bánh ngon đến vậy cũng chẳng ngăn nổi cái miệng đệ huyên thuyên, đã hiểu rõ đến mức ấy, sao không làm chức ‘Thượng thực cục phụng ngự’, chuyên lo ngự thiện trong Điện Trung Tỉnh cho xong?”

Thập Tam Lang không lấy làm giận, lại tò mò hỏi: “Đệ từng nghe công chúa trong cung cũng ăn như mọi người, chẳng hay so với dân gian chúng ta có gì khác biệt chăng?”

Công chúa khẽ thở dài, đáp: “Ngày thường dưa ban thưởng cho quan viên hay cung nhân đều cùng một loại, nhưng khác ở chỗ là được ăn cùng đá lạnh.”

Thập Tam Lang mắt sáng như sao: “Mùa hạ mà có băng dùng, còn quý hơn dưa cả trăm ngàn lần! Xem ra khác biệt chẳng nằm ở thứ ăn, mà là ở cách ăn.”

Lê nướng đã chín, Vi Huấn dùng dao găm chẻ ra từng múi, chia đều cho ba người. Bánh hồ ma giòn rụm, lê nướng mọng nước, trong cơn đói khát, món ăn thô sơ ấy lại trở nên ngon đến lạ.

Ăn no 7 phần, Vi Huấn lấy ra một miếng khăn vải dày cộm, mở ra bên trong là mấy quả hồng đỏ au cùng vài quả quýt vàng tươi.

Vạn Thọ Công Chúa từ nhỏ ăn khắp các loại sản vật tiến cống bốn phương, liếc một cái đã nhận ra: đây là quả hồng Hỏa Tinh Lâm Đồng và quýt Động Đình trứ danh. Trong lòng không khỏi giật mình kinh ngạc.

Lâm Đồng cách Trường An chẳng xa, hồng Hỏa Tinh mùa thu từng xe từng vạn chở ra chợ bán, vốn chẳng hiếm lạ gì. Nhưng giờ mới tháng Sáu, chưa đến mùa, có được loại quả chín sớm thế này tất là phải trồng riêng trong nhà ấm, ủ lửa, tốn kém vô cùng. Thường chỉ tiến cống riêng cho hoàng thất.

Mà quýt Động Đình thì càng lạ. Đó là đặc sản phương Nam đất Ngô, đường sá xa xôi, chuyên dành tiến cống. Dù là thương nhân phú hộ trong kinh cũng chưa chắc thấy nổi, chứ đừng nói dân thường. Thường ngày chỉ khi hoàng đế ban thưởng cho trọng thần mới có dịp nếm thử.

Chỉ là vài trái cây đem ra ăn lót miệng, vậy mà đều là trân phẩm khó cầu, lấy tiền cũng không mua được. Một kẻ áo vải như hắn, rốt cuộc lấy từ đâu ra?

Công chúa nghi hoặc không thôi, cất giọng hỏi: “Những quả này… ngươi lấy từ đâu tới?”

Vi Huấn chỉ cười, không đáp.

Thập Tam Lang lấy một quả quýt, thong thả lột vỏ, vừa nhấm nháp vừa cười nói: “Đại sư huynh bản lĩnh như thế, vào hoàng thành lấy vài quả cống phẩm cũng chẳng phải việc gì khó. Ngày trước công chúa không mất đồng nào mà được ăn, thì giờ chẳng phải vẫn là thứ ấy sao? Hay là… công chúa định vì mấy quả trái cây này mà dẫn chúng ta đi gặp quan phủ?”

Công chúa nhất thời nghẹn lời, chẳng nghĩ ra được cách nào phản bác.

Hoàng thành trùng trùng lớp lớp canh gác, một hòn đá nhỏ cũng khó lọt, thế mà hắn đi vào lại như chốn không người, lấy trái cây ra dễ như trở bàn tay. Đã vậy, hắn không lấy ngọc ngà vàng bạc, chỉ lặng lẽ mang ra ít quả, càng khiến người ta hoài nghi. Vì vậy, công chúa mới chắc: Vi Huấn không phải đạo tặc tầm thường, trên người phải mang bí ẩn gì đó.

Ăn xong trái cây, công chúa lại mở mang thêm một điều: Thập Tam đem lớp vỏ quýt vừa bóc, cẩn thận đặt bên lò hong khô, nói rằng: “Vỏ quýt sắc nước uống thanh phổi tiêu đờm, hiệu thuốc trong thành bán không rẻ, có thể thay cho trần bì, tuyệt đối không nên phung phí bỏ đi.”

Cơm nước xong xuôi, mọi người bày ra vật dụng mà Vi Huấn vừa mua về, công chúa xem qua một lượt, lòng tràn đầy thất vọng.

Trong thành không có hàng quán nào chuyên bán y phục may sẵn. Kẻ có tiền muốn mặc bộ đồ mới, hoặc phải mua vải từ tiệm tơ lụa rồi giao cho người nhà tự tay may đo, hoặc thuê thợ may gấp. Dẫu có chịu trả gấp ba tiền, cũng phải chờ ít nhất hai ngày mới xong.

Việc này, nàng cũng đành bỏ qua, không nói đến.

Vi Huấn tiện tay nhặt hai cục than còn âm ỉ dưới bếp, nói rằng: “Than này vẫn còn hơi ấm, dùng được, chẳng tốn đồng nào.”

Chuyện ấy, cũng đành bỏ qua, không nói đến.

Nhưng điều khiến công chúa giận nhất là: hắn không mua ngựa, lại dắt về một con lừa gầy trơ xương, dáng vẻ xấu xí. Lông đốm lốm đốm, chân ngắn tũn như cụt, miệng thì kêu nghe thảm thiết, chói tai vô cùng.

Vạn Thọ Công Chúa vốn rành về ngựa, năm xưa trong Cấm Uyển từng tự tay nuôi dạy hơn chục con ngựa thuần giống, con nào con nấy đều quý hiếm, vó giẫm tuyết không để lại dấu. Tuy nay lưu lạc, cũng không dám mong tuấn mã trời ban, chỉ cầu có vật để cưỡi. Nào ngờ Vi Huấn lại dắt về thứ đầu khuyết, đuôi tật.

Nàng tức giận đến nỗi hai má đỏ bừng, lời bật ra không chút nể nang: “Ngươi mà làm việc trong cung, đã sớm bị cách chức trị tội, đuổi khỏi Thượng cục rồi!”

Vi Huấn tháo hàm thiếc và dây cương khỏi lừa gầy, mặc nó thong thả đi lại trong sân, gặm vài cụm cỏ dại mọc giữa gạch vụn. Hắn hờ hững nói: “Vì thế ta mới không làm quan.”

Công chúa hỏi: “Chẳng lẽ vì tiền không đủ mua ngựa?”

Vi Huấn đáp: “Tiền thì có. Phía tây chợ có con ngựa thường, giá hai mươi lăm quan là có thể dắt về.”

“Còn con lừa xấu xí kia?”

“Ba trăm quan.”

Công chúa nghẹn lời. Tuy nàng khéo ăn nói, nhưng lúc ấy cũng không nghĩ ra câu nào để phản bác. Một con lừa gầy trơ xương, răng lởm chởm, chân ngắn mà kêu như khóc, lại mua về giá gấp mười con ngựa thường, thật là lẽ đời khó hiểu.

Mặc cho nàng dậm chân kêu trời, Vi Huấn vẫn chỉ nhàn nhạt nói một câu: “Đây là thú cưỡi tốt nhất ở chợ đen. Ta mua nó, tự có lý do.”

Trong bao nhiêu món đã mua, chỉ có một thứ khiến công chúa vừa lòng: một bộ cung bằng sừng trâu. Hình dáng giản dị, lực cung vừa tay, kèm theo ba mươi mũi tên, vòng hộ ngón, bao đựng cung, đầy đủ không thiếu gì. Nhờ vậy, nàng mới tạm yên tâm, bằng không thật nghi rằng Vi Huấn cố ý trêu chọc, khiến nàng chẳng thể lên đường.

Lại hai ngày trôi qua, Vi Huấn từ tiệm may trở về, mang theo y phục đã cắt xong.

Đó là một bộ đồ màu ngà, điểm hoa văn chìm bằng chỉ vàng thành đóa sen đơn giản. Hoa văn xem cũng được, chất vải không rõ là tơ hay sợi, song đường kim mũi chỉ khéo léo, vai áo, cổ áo, eo áo đều vừa khít thân hình, mặc vào như nước ôm lấy người, rất hợp để cưỡi ngựa đường xa.

Bán đi trang sức ngọc quý, cởi bỏ cung phục hoa lệ, đổi lấy thân thường y đơn giản, nàng nay chỉ còn lại chiếc túi thơm từng dùng trong cung là còn mang vết tích hoàng gia những thứ khác đều chẳng còn chút dây dưa với hoàng tộc.

Thiếu nữ vuốt cánh tay gầy guộc, thịt da đã chẳng còn sức sống như trước. Tương lai phiêu bạt đó đây, bữa đói bữa no chưa biết, nghĩ đến tháng ngày không đủ ba bữa, nàng biết sẽ chẳng còn cơ hội dưỡng nhan như xưa. Không rõ đến bao giờ mới lấy lại được dung nhan khi trước, nghĩ thế rồi lại thương mình, khẽ thở dài một tiếng thật sâu.

Thay y phục bước ra sân, thấy hai vị huynh đệ đang buộc dây cương, chất hành lý, chuẩn bị lên đường.

Nàng nhấc tà áo, nói: “May thay, mặc vào lại vừa vặn. Tay nghề tiệm này không tệ, không đo vẫn cắt được khéo đến thế.”

Vi Huấn chẳng đáp, cũng chẳng nhìn nàng, cứ làm như không nghe thấy. Thập Tam vốn hay nói, giờ lại lặng thinh lạ thường, chỉ lén liếc nhìn Vi Huấn, trong mắt lộ ra điều khó nói.

Công chúa thấy vậy thì lấy làm lạ, hỏi: “Còn dư bao nhiêu tiền? Dọc đường có đủ dùng không?”

Vi Huấn đáp: “Đá quý, ngọc ngà đều bán đi hết. Còn lại một túi đậu vàng, ta đã đổi lấy bảy tám quan tiền lẻ, đủ dùng việc nhỏ nhặt.”

Một quan tiền là một nghìn văn, sáu quan nặng chừng sáu cân. Cái túi kia đựng đầy tiền, ước có năm chục cân. Vi Huấn đặt nó lên lưng lừa, lừa gầy không vừa ý, rống lên hai tiếng khàn khàn như người lâu ngày đau họng.

Vật dụng cần mua đã đầy đủ. Vi Huấn đem từng món kể lại rõ ràng: giá gốc, bớt được bao nhiêu, tặng thêm thứ gì. Công chúa tuy không rành giá cả dân gian, nhưng cũng nhận ra hắn quản tiền rất khéo, bèn giao nốt số vàng còn lại cho hắn giữ. Chỉ nghe nói còn lại chẳng là bao, trong lòng không khỏi lo: sợ chưa đi được mấy ngày, tiền đã cạn, đến lúc đó lấy gì đi tiếp đường xa?

Chỉ còn việc cáo biệt.

Nàng sớm sai Vi Huấn nhấc tảng đá giữa điện, đào một huyệt nhỏ. Sau đó đem chiếc trâm cài của mẹ, cùng áo quần, ngọc ngà, những thứ từng dùng nơi cung cấm, trang trọng chôn ở đó. Còn mặt nạ xấu xí kia thì lấy một mảnh vải cờ rách bọc lại, nhét tạm lên xà gác.

Lấp đất xong, nàng quỳ xuống, cúi đầu vái lạy, nước mắt rưng rưng: “Nhi nữ nay lên đường, mong mẫu thân trên cao linh thiêng, phù hộ nhi nữ mọi việc bình an.”

Nói rồi, nàng phủ lên đầu chiếc mũ có rèm che. Trước mắt cảnh vật mờ ảo như khói sương, nửa thực nửa mơ. Nàng cưỡi lên lừa, Vi Huấn đi trước dắt dây, Thập Tam Lang theo sau.

Vi Huấn hai tay trống không, bởi dọc đường chỉ mang theo một túi hành lý nhỏ. Bên hông thắt đai da, từ đó buông xuống một dải dây tế nhỏ. Dải dây ấy khảm vòng kim loại ở các chốt, treo theo dao găm, khăn vải, túi đá lửa cùng vài món lặt vặt thường dùng, tiện tay là rút được, vô cùng gọn gàng thuận tiện.

Dây lưng quấn quanh, từ phía sau trông lại, càng lộ rõ thân hình eo thon lưng thẳng, dáng vóc thanh mảnh nhưng cứng cáp, bước đi dẻo dai nhẹ nhàng như báo săn. So với những kẻ thị vệ từng theo hầu nàng trước kia cao lớn, vạm vỡ, dáng đi nặng nề thì hắn lại hoàn toàn khác biệt.

Công chúa hỏi: “Ngươi bỏ lại cả chồng sách kia rồi sao?”

Vi Huấn gật đầu, khẽ thở ra một hơi dài, như trút được một gánh nặng vô hình: “Vốn chỉ là mớ đồ vô dụng, sớm nên bỏ đi.”

Gần đến cổng chùa, hắn bất ngờ ngửa mặt lên trời, cất một tiếng huýt dài vang dội. Âm thanh cao và trong, vang vọng khắp núi rừng. Trong chốc lát, chim chóc quanh vùng xao động bay loạn, bụi đá từ mái chùa rơi xuống lả tả.

Công chúa trong lòng rung động, chỉ thấy tim đập mạnh, tai ù đi. Trước giờ chỉ thấy hắn nói năng nhẹ nhàng, chưa từng cao giọng, không ngờ trong thân hình mảnh khảnh kia lại phát ra tiếng huýt, khiến nàng vừa kinh vừa phục. Trong tiếng huýt dài ấy như ẩn chứa khí thế lẫn ưu buồn, tuổi trẻ mà như đã nếm hết tang thương nhân thế.

Kỳ lạ thay, con lừa gầy kia không hề động đậy, đứng im như tượng, mặc cho âm thanh dội tới. Đợi khi Vi Huấn dứt tiếng huýt, lừa mới lắc đuôi, thở dài một tiếng khàn đặc, rồi cũng cất lên tiếng rống nghe như tiếng than vọng lại ngàn năm.

Vi Huấn quay đầu, trên mặt đã là vẻ cười nhàn nhạt như thường ngày. Hắn khẽ vỗ đầu lừa, nói: “Ai kêu ngươi đáp theo tiếng ta? Đúng là hiểu lòng người.”

Ba người một lừa, rời khỏi Thúy Vi Tự, chầm chậm đi về phía U Châu.

Trời cao cung rộng, xưa từng là nơi nàng yến tiệc rực rỡ, nay đã hóa mây bay khói phủ. Ngàn vạn quan lại, mũ ngọc áo gấm, vàng son lộng lẫy, tất cả như giấc mộng đã qua.
 
Back
Top Bottom