Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp

Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 20


Hai hôm trước, phủ nha huyện Hạ Khuê.

Trong phủ quan huyện Ngô Trí Viễn, đang chuẩn bị mở một buổi tiệc lớn khoản đãi khách quý.

Ngô Trí Viễn xuất thân nhà nghèo, thi đỗ bằng khoa cử, cả đời lận đận chốn quan trường, đến năm mươi mới được bổ làm huyện lệnh bậc thấp. Bởi vậy lần này có dịp kết giao với kẻ quyền quý trong triều, ông ta nhất quyết không thể bỏ lỡ. Riêng phần món ăn dọn tiệc, ông cùng phu nhân đã bàn đi tính lại suốt hai ngày trời.

Trời đã tối hẳn, Ngô Trí Viễn đứng ngóng ngoài nha môn, trong bụng nóng như lửa đốt. Khách quý chậm trễ không đến, mãi đến giờ Tuất canh hai, một người trai trẻ vận võ phục, cưỡi ngựa giữa vòng vây của mấy tên quân sĩ, mới khoan thai bước vào. Ngô Trí Viễn suýt chút nữa muốn đích thân nắm cương dắt ngựa, nhưng nghĩ đến xung quanh có huyện thừa, chủ bộ, huyện úy cùng thuộc hạ đều đứng chờ bên cạnh, đành cố nén vẻ sốt ruột, giữ phong độ của bậc trưởng quan.

Người kia tên là Bảo Lãng, quê ở Từ Châu, là tâm phúc của Thôi tiết độ sứ là viên võ tướng trấn giữ Uy quân. Bảo Lãng là Đô ngu hầu, khoảng hai mươi bảy, hai mươi tám, mày rậm mũi cao, mắt sáng lạnh như sao, dáng dấp hiên ngang, khí chất nổi bật. Lần này hắn được giao hộ tống một viên ngọc quý, mang từ Từ Châu vào Trường An dâng tặng hoàng đế. Trên đường ngang qua Hạ Khuê huyện, ghé nghỉ tại trạm dịch.

Sau vài lời chào hỏi, Ngô Trí Viễn mời Bảo Lãng vào chính đường trong phủ, an trí hắn ở ngôi đầu yến tiệc. Người trẻ tuổi kia cũng không khách sáo nhiều, nhã nhặn từ chối vài câu rồi ngồi xuống. Quan huyện lần lượt giới thiệu từng viên chức trong nha môn, mọi người tùy theo phẩm cấp mà vào chỗ ngồi. Ngoài quan lại địa phương, yến tiệc đêm nay còn có một khách đặc biệt là trụ trì chùa Liên Hoa, hiệu là Như Hòa hòa thượng.

Trong vườn phủ có suối chảy đá mài, đình đài lầu gác, tất cả đều đủ đầy. Đuốc tre cắm khắp nơi tỏa sáng rực rỡ. Hai kỹ nữ được mời đến, một người ngồi bên ao thổi sáo, người kia gảy tỳ bà. Lại có hai người nữa ngâm nga ca khúc, tiếng đàn hát rì rầm chẳng dứt, quả là phong nhã vô cùng.

Dẫu yến tiệc có sự hiện diện của sư tăng ăn chay, song bàn tiệc lại đầy món thịt: dê, bò, gà, vịt đủ cả, rượu thịt ê hề, không chút nào kiêng dè. Như Hòa hòa thượng cũng chẳng lấy làm ngại, nét mặt hoan hỉ, chuyện trò tự nhiên.

Khi người hầu bưng lên món bê non hấp nước gọi là “Nghé chưng nước” cùng món lưỡi nai lưỡi dê nướng chung gọi là “Thái bình nướng”, Bảo Lãng khẽ mỉm cười, nói: “Minh phủ có lòng chuẩn bị.”

Ngô Trí Viễn liền đáp: “Đầu bếp chốn nhỏ quê mùa, món ăn chẳng có gì quý báu. Hôm nay chỉ theo thực đơn Trường An mà làm sơ lược, mong ngài đừng chê cười.”

Rượu ngon đồ quý bày khắp bàn, khách khứa dần dần nói sang chuyện thời tiết, gió mây. Uống được vài tuần rượu, Bảo Lãng nghiêm mặt đứng dậy, bắt đầu nói đến việc chính:

“Chư vị đã rõ, đại soái Thôi gia cử ta hộ tống một viên Bảo Châu, mang vào Trường An dâng lên Thiên tử. Chuyện vốn là việc lành. Ai ngờ vừa rời Từ Châu, đã nghe tin công chúa Vạn Thọ băng hà. Mà công chúa ấy… tên đệm lại có chữ ‘Châu’.”

Tức thì, cả bàn khách đứng bật dậy, cúi đầu khoanh tay, giống như linh vị của công chúa đang đặt trước mặt, ai nấy đều ra dáng buồn thương mà vái.

Ngô Trí Viễn đỏ hoe mắt, rưng rưng nước mắt nói: “Thánh thượng buồn đau khôn xiết, thân thể cũng vì thế mà yếu nhược. Nghe nói đã nhiều ngày không ra chầu. Hạ quan có đứa con gái mười lăm tuổi, chưa kịp gả chồng. Nghĩ đến cảnh mất con, chẳng khác nào cắt thịt, lòng đau như dao cắt. Chỉ mong Thánh thượng chóng khỏe lại, nguôi ngoai phần nào nỗi đau.”

Bảo Lãng nghe mà thầm nghĩ: Tên huyện lệnh này thật biết cách hành xử, khóc cũng kịp lúc như đào kép trên sân khấu, diễn còn giỏi hơn cả hát tuồng.

Chẳng tiếp lời, hắn chỉ ngừng một chút rồi nói tiếp: “Đại soái từ Trường An hay tin công chúa mới mất, mà nay lại dâng châu báu, e rằng trùng tên húy, khiến hoàng thượng càng thêm đau lòng. Vậy nên sai ta mượn cớ trên đường trì hoãn ít ngày, đợi cho người nguôi ngoai rồi mới dâng ngọc.”

Nói xong, hắn ngồi xuống. Mọi người cũng lần lượt an tọa. Thực ra, việc này hai người đã sớm bàn bạc từ trước, nay tiệc rượu chỉ là nơi ngầm chốt lại kế sách. Ngô Trí Viễn tối nay mới hay tên húy công chúa, lòng thầm kinh hãi: Tâm phúc của Thôi đại nhân mà còn dò được việc thâm cung như vậy, tay chân cũng dài lắm rồi.

Ngô Trí Viễn lau nước mắt, cung kính nói: “Thôi đại nhân suy tính sâu xa, hạ quan vô cùng khâm phục. Nay ngài ghé qua Hạ Khuê, cũng là mối duyên hiếm gặp. Hạ quan có một ý kiến nhỏ mong được bày tỏ.”

Bảo Lãng nói: “Minh phủ cứ nói.”

Ngô Trí Viễn đưa tay chỉ sang hòa thượng Như: “Vài hôm nữa là ngày Quan Âm đắc đạo, ngài có thể lấy danh nghĩa này, đem viên Bảo Châu tạm thờ tại chùa Liên Hoa. Vừa là cầu phúc, vừa là làm lễ siêu độ, lưu lại mươi hôm nửa tháng, đợi Trường An yên ổn rồi hẵng đi tiếp cũng chưa muộn.”

Ngay từ khi nhìn thấy vị hòa thượng kia, Bảo Lãng đã đoán được Ngô huyện lệnh có dụng ý này. Nghĩ lại thấy cũng là kế hay. Thánh thượng vốn tín Phật, xưa nay ưa chuộng pháp sự, nay dùng lý do lễ nghi đưa Bảo Châu thờ trong chùa, chẳng những hợp lễ mà còn khiến vật báu này nhuốm thêm phần linh thiêng, tăng giá trị trong mắt đế vương.

Hắn hiểu rõ, ngọc quý không chỉ nằm ở hình dáng, mà còn ở những chuyện huyền kỳ quanh nó. Giống như Hòa Thị Bích, Tùy Hầu Châu đều phải có chuyện xưa kỳ lạ đi kèm, mới đủ thành chí bảo trong mắt bậc quân vương. Nếu chỉ là viên ngọc không nguồn không tích, cùng lắm cũng chỉ để vào kho bụi bám theo năm tháng. Có thêm một câu chuyện, mới có thể đi vào lòng người.

Hắn quay sang hỏi hòa thượng: “Viên Bảo Châu này là báu vật hiếm có. Chùa Liên Hoa có chỗ nào thật an toàn để an trí hay không?”

Như Hòa hòa thượng đã được dặn từ trước, liền đáp ngay, giọng cung kính: “Thưa đại nhân, chùa có một tòa tháp gọi là ‘Tháp Đa Bảo’, do cao tăng tiền triều xây dựng, vốn dùng để thờ trân phẩm Phật môn. Tháp cao hai mươi trượng, bảy tầng, chỉ có một cửa lớn dưới chân tháp, tuyệt đối vững chãi.”

Bảo Lãng hỏi tiếp: “Tháp chỉ có một cửa vào, vậy còn cửa sổ thì sao?”

Như hòa thượng đáp: “Thưa không có cửa sổ thật. Xung quanh chỉ đục lỗ chạm hình hoa sen, dùng để lấy sáng và thông gió, chứ không thể ra vào. Nếu đặc sứ không yên tâm, có thể đích thân đến xem xét.”

Ngô Trí Viễn đệm theo: “Thực ra, đứng trong vườn phủ ta cũng có thể thấy được mấy tầng phía trên của tháp ấy.”

Nghe vậy, Bảo Lãng liền đứng dậy, bưng chén rượu bước ra hoa viên, ngước mắt nhìn xa. Trăng đêm nay không sáng, chỉ lờ mờ thấy bóng tháp cao, song lại nghe rõ tiếng ngàn chiếc chuông đồng treo trên tháp kêu khe khẽ theo gió, ngân nga như mộng.

Trở vào chỗ ngồi, Bảo Lãng mỉm cười nói: “Những chuông đồng ấy cũng coi như một tầng phòng vệ. Bên ta chỉ có hai mươi thân binh, còn lại toàn là thợ thủ công chẳng dùng được. Nếu viên Bảo Châu để vào tháp, không biết Ngô minh phủ có thể giúp sắp xếp người canh phòng?”

Nghe khẩu khí ấy, Ngô Trí Viễn đoán chừng việc này đã thành được sáu phần, liền vội đáp: “Tất nhiên là được. Các vị đây đều sẽ tận tâm giúp sức, góp công cùng đại nhân hoàn thành việc lớn.”

Dứt lời, ông đưa mắt ra hiệu cho huyện úy Hách Tấn. Hách Tấn liền đứng dậy, chắp tay thưa:

“Hạ chức có một thuộc hạ rất giỏi, là kẻ đứng đầu đội bắt trộm, tên là La Thành Nghiệp, biệt danh ‘Sư tử yết’. Y vốn là tuần bộ nổi tiếng nhất Hoa Châu, phá được vô số vụ án, võ nghệ cao cường, đầu óc linh hoạt, có thể giao phó việc này cho y, đảm bảo yên ổn không chút sơ hở.”

Bảo Lãng vờ kinh ngạc: “Hắn có cả ngoại hiệu, chẳng lẽ từng là người trong giang hồ?”

Ở nha môn quan phủ, chuyện dùng kẻ từng có tiền án để đi bắt gian vốn chẳng hiếm. Những kẻ ấy được gọi là “bất lương”, bởi vốn quen thuộc với đủ thứ nghề ngỗng mờ ám chốn đầu đường xó chợ, thủ đoạn cũng tàn nhẫn hiểm ác, lấy độc trị độc, lại trở thành cánh tay đắc lực cho quan trên. Người cầm đầu bọn bất lương ấy, thì gọi là “bất lương soái”.

Hách Tấn vội đáp: “Đại nhân sáng suốt. La Thành Nghiệp đúng là từng một thời hành tẩu chốn giang hồ, vang danh bằng thanh thép ròng bốn phương. Sau này hoàn lương, đầu quân vào phủ nha Hạ Khuê.”

Bảo Lãng cười nhàn nhạt: “Như thế lại hay. Đã từng làm đạo tặc, át hẳn hiểu rõ mánh khóe của đạo tặc. Có người như vậy trông giữ, mới càng yên tâm.”

Rồi lại hỏi: “Vì sao không mời hắn cùng ngồi uống rượu?”

Hách Tấn hơi lúng túng, quay nhìn về phía cấp trên, như thể có điều khó nói.

Ngô Trí Viễn liền tiếp lời: “La Thành Nghiệp vốn xuất thân giang hồ, lời lẽ th* t*c, chẳng biết lễ nghĩa. Ngoại hiệu gọi là ‘Sư tử yết’, chữ yết vốn là con chó dữ, cho dù có đắc dụng, cũng chỉ là con chó giữ cửa, chẳng dám để kẻ ấy ngồi cùng bàn, làm bẩn mắt đại nhân.”

Bảo Lãng cười khẽ: “Thế thì cũng chẳng sao. Ta vốn cũng là kẻ quen bùn đất chốn quân doanh, không coi là người sang trọng gì.”

Mọi người liền thi nhau nói: “Đại nhân là bậc mang rồng trong người, đâu thể đem so với hạng người thấp kém kia.”

Họ nâng ly, lời khen bay lên tận mây xanh.

Ngô Trí Viễn lại quay sang hỏi: “Chẳng hay những thợ thủ công đại nhân dẫn theo, có phải cũng là để tiến cống dâng lên Thánh Thượng?”

Bảo Lãng đáp: “Vừa phải, mà cũng chẳng phải. Công chúa Vạn Thọ qua đời đột ngột, hậu sự chưa được chu toàn, nhóm thợ ấy là thợ lành nghề vùng Thường Châu, vâng mệnh điều đến để gấp rút dựng mộ phần cho công chúa. Vốn cũng thuộc về đội ngũ dưới trướng đại soái, nên ngài mới sai ta dẫn bọn họ cùng đi Trường An cho tiện.”

Ngô Trí Viễn gật đầu: “Đã vậy, để ta cho người theo sát, trước đưa họ đi Trường An, kẻo có kẻ lợi dụng đường xa mà bỏ trốn.”

Bảo Lãng nói: “Minh phủ nghĩ thế cũng phải. Nhưng mai ta vẫn muốn tới xem kỹ tòa bảo tháp, rồi hẵng quyết định có nên lưu lại Hạ Khuê hay không.”

Ngô Trí Viễn luôn miệng vâng dạ, không ngớt mời rượu. Bảo Lãng uống cạn từng ly, hào sảng như nước chảy mây trôi.

Ngô Trí Viễn thầm nghĩ: Người này được tiết độ sứ tin tưởng hết lòng, lần này tiến kinh dâng ngọc, nếu được hoàng gia để mắt, chưa chừng sẽ một bước lên mây, tiền đồ sáng như ban ngày. Lại thêm vẻ ngoài tuấn tú uy vũ, tuổi còn trẻ, thật xứng mặt làm rể hiền.

Chờ khi tiệc rượu đã ngà ngà, kẻ cạn trước, người cạn sau, hắn bèn nhân lúc mời rượu, ghé tai khẽ hỏi nhỏ: “Không hay đại nhân trong nhà đã có thê thiếp gì chưa?”

Bảo Lãng chỉ cười mà không đáp, nhất quyết không hé miệng.

Ngô Trí Viễn thấy vậy, trong lòng không khỏi tiếc rẻ.

Một ngày trước.

Sáng tinh sương, Bảo Lãng mang theo mấy thân binh tiến vào hậu viện chùa Liên Hoa. Huyện lệnh Ngô Trí Viễn, huyện úy Hách Tấn, bất lương soái La Thành Nghiệp cùng trụ trì Như Hòa hòa thượng đã chờ sẵn từ lâu.

Vừa trông thấy người đàn ông tuổi trạc bốn mươi, chắp tay khom mình hành lễ, Bảo Lãng liền hiểu vì sao hắn có biệt hiệu là “Sư tử yết”.

La Thành Nghiệp vóc người không cao lớn, mặt mày rậm rạp, tóc vấn gọn trong khăn đầu, râu ria rối bời phủ khắp cằm, nhìn qua chẳng khác gì một con chó xồm lông cuộn. Dáng vẻ không có gì nổi bật, nhưng bước chân chắc khỏe, hai bên thái dương nổi rõ, trông cũng là người có chút công phu thật sự. Chỉ có điều bộ công phục mặc trên người lại quá chật, ôm chặt lấy thân hình, trông có phần buồn cười.

Thấy bên hông y có cắm một cây thiết giản, Bảo Lãng hỏi: “Đây là thanh thiết giản bằng thép ròng nổi danh khắp bốn phương của ngươi đấy ư?”

La Thành Nghiệp vội vã đáp lời, tháo binh khí bên hông xuống, hai tay cung kính dâng lên cho quan trên xem.

Bảo Lãng đón lấy, cảm thấy vật ấy nặng vô cùng. Hình dáng như cây roi thép đầu tù, thân giản vuông vức, không lưỡi không mũi, các cạnh không mài sắc, cầm trên tay chẳng khác nào khúc sắt thô. Chắc hẳn không dùng để ra chiêu hoa mỹ như đao kiếm, mà chỉ dựa sức mạnh mà vụt, đánh một đòn là đứt gân gãy xương.

Bảo Lãng vốn là tay giỏi dùng hoành đao, cũng tự thấy mình khó lòng vung nổi món binh khí kỳ dị này. Trả lại giản cho La Thành Nghiệp, hắn mỉm cười nói: “La soái sức lực khiến người khác kinh ngạc.”

Rồi hỏi han tình hình đám thủ hạ bất lương, nếu bố trí giữ tháp ở chùa, thì phải an bài ra sao cho ổn.

La Thành Nghiệp đối đáp trôi chảy, ăn nói lanh lẹ, hoàn toàn không giống như lời Ngô huyện lệnh hôm qua chê bai rằng “thô lỗ vô lễ, không biết tiến lui”. Bảo Lãng đoán chừng là quan trên cố ý dè chừng, không muốn để hắn nổi bật.

Lúc ấy, trụ trì Như Hòa hòa thượng dẫn theo các sư trong viện, mở cổng tháp Đa Bảo, mời đoàn người vào xem.

Theo lời hòa thượng, tháp được xây bằng đá liền khối, kết cấu vững chãi, từng tầng từng tầng rõ ràng rành rẽ, không có chỗ nào khuất có thể giấu người. Trên tầng cao nhất thờ tượng Vi Đà Bồ Tát tay cầm xử Hàng Ma, đắp bằng đất sơn son, trước mặt đặt một lư hương bằng đồng, ngoài ra chỉ có mấy vật dụng quét dọn thường ngày.

Ngẩng đầu trông lên, thấy mái tháp như tán dù, từng phiến đá đua ra tạo thành khe hở, đủ lấy sáng và thông gió mà vẫn tránh được mưa. Khoảng cách giữa các kẽ cũng vừa đủ một bàn tay xòe, tuyệt không có khả năng để người chui lọt.

Bảo Lãng vừa quan sát vừa kiểm tra kỹ lưỡng. Hắn còn tự tay gõ thử vào tượng đất, lục lọi khắp nơi, nhưng không phát hiện điều gì bất thường. Trong lòng rất hài lòng. Lập tức định rằng Bảo Châu sẽ được cung phụng tại tầng cao nhất của bảo tháp. Việc tuần tra, canh giữ giao cho thân binh của hắn cùng người của La Thành Nghiệp chia nhóm phối hợp, chia làm ba ca, thay phiên gác ngày đêm không ngớt.

Để tránh sinh nghi, chính Bảo Lãng đề nghị: hắn, Ngô Trí Viễn và Như Hòa hòa thượng mỗi người giữ một chìa khóa lớn. Sau khi đặt Bảo Châu vào trong, ba khóa cùng khóa một lượt, mỗi người giữ riêng một chìa. Cách này chu toàn không kẽ hở, khiến ai cũng yên tâm.

Ngô Trí Viễn thầm nghĩ: Tên quan trẻ này quả là cẩn trọng lại đa nghi, chẳng trách còn trẻ mà đã được giao trọng trách lớn.

Đám thân binh dưới trướng Bảo Lãng cũng vô cùng kính sợ chủ tướng, ai nấy im thin thít như ve đông, một lời cũng không dám nói. Hắn bảo nhìn đông, chẳng ai dám quay đầu nhìn tây. Nhìn qua cũng đủ thấy uy nghiêm của người thường ngày.

Khi mọi sự đã sắp đặt đâu vào đấy, Bảo Lãng mới cho người khiêng ra món báu vật từ trong quán dịch. Mọi người đã nghe danh trân châu này đã lâu, ai nấy đều mở to mắt chăm chú nhìn.

Từ trong một chiếc rương gỗ đàn sơn then, hắn lấy ra chiếc hộp sơn đỏ, dài chừng một gang tay, vừa mở nắp, bên trong hiện ra một viên ngọc trai lớn như quả trứng vịt, trắng muốt tròn đầy, trên mặt phủ một lớp sa mỏng ngăn bụi.

Mọi người đồng loạt trầm trồ, quả thực viên châu này to lớn khác thường, hiếm thấy trong đời. Bảo Lãng khẽ mỉm cười, nét mặt thoáng lộ vẻ kiêu hãnh: “Chỉ tiếc bây giờ là ban ngày, chứ đến tối, viên châu này còn tỏa ra ánh sáng dìu dịu. Chính là một viên dạ minh châu thực thụ, hiếm có trên đời.”

Dường như sợ ánh mắt người khác làm viên châu bị nhiễm trần, hắn chỉ khoe qua một chút, rồi liền đậy nắp hộp lại. Hai tay nâng hộp, tự mình đem lên tầng cao nhất tháp, đặt ngay bàn thờ trước tượng Vi Đà Bồ Tát.

Cửa tháp được đóng kín. Ba chiếc khóa lớn lần lượt móc vào vòng sắt nơi cửa. Vì sắp diễn pháp hội, kẻ ra người vào lộn xộn, Như Hòa hòa thượng bèn tuyên bố: trong thời gian cung phụng Bảo Châu, hậu viện chùa Liên Hoa sẽ bị phong tỏa, bất kể tăng ni hay người ngoài đều không được tùy tiện ra vào.

Nhà La Thành Nghiệp ở sát vách tăng viện, thuận tiện điều hành việc canh gác và chỉ huy.

Tất cả đều ổn thỏa, đâu vào đấy.

Mọi sự vẹn toàn, không còn điều khiếm khuyết.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 21


Đoàn người đến trọ tại một nhà trọ bình dân trong huyện Hạ Khuê là cửa hàng nhà họ Tôn. Bảo Châu, thân là chủ nhân và cũng là tiểu thư nhà thuê phòng, dĩ nhiên ở gian thượng phòng; Vi Huấn làm tùy tùng đi theo, ở gian phòng kế bên.

Thập Tam Lang vẫn chưa quen với việc ba người bọn họ lại thuê đến hai gian phòng rộng rãi như thế. Ban đầu y đề nghị để Bảo Châu ngủ trên giường, còn huynh đệ bọn họ ngủ dưới đất. Ai ngờ bị nàng nghiêm mặt từ chối thẳng thừng.

Sau lại khuyên cả hai người bọn họ đến chùa Liên Hoa tá túc, như vậy chỉ cần thuê một gian cho Bảo Châu là đủ. Dù gì chùa cũng chỉ thu vài đồng tiền tượng trưng, vốn là nơi trú ngụ quen thuộc của bọn học trò nghèo, người bán hàng rong hay khách bộ hành túi rỗng.

Bảo Châu nghe vậy thì nổi giận: “Các người định để ta một thân một mình ở lại khách đ**m? Vậy ta thuê hộ vệ để làm gì chứ?”

Thập Tam Lang bị nàng quát một câu, rụt cổ nói nhỏ: “Dù sao cũng là trong thành, đâu phải nơi hoang vu vắng vẻ… Với lại đệ đã treo chuông ở chùa Liên Hoa, theo lệ chùa, trong ba ngày được miễn phí ăn ở. Nếu phải chi thêm tiền trọ, thật sự quá tiếc.”

Bảo Châu hất tay áo, dõng dạc nói: “Đã mướn các ngươi, chẳng lẽ còn tiếc nổi một miếng cơm?” Thầm nghĩ dưới trướng mình chỉ có hai người, nay còn muốn cắt xén tiền thuê, nếu xảy ra binh biến nhỏ, chẳng phải sẽ thành trò cười cho thiên hạ?

Đến cả Vi Huấn, người vốn keo kiệt, nay cũng đứng về phía nàng, nói với Thập Tam Lang : “Ít ra hai chúng ta cũng phải có một người ở bên cạnh nàng.”

Thập Tam Lang ngạc nhiên: “Không lẽ lại sợ có kẻ buôn người?”

Vi Huấn lắc đầu, nghĩ ngợi một hồi rồi dặn: “Ngươi đi dạo một vòng, xem thử trong huyện kẻ nắm quyền có phải vẫn là Mã Tam, tra luôn xem còn ai có bản lĩnh vượt vòng trông nom ấy.”

Bảo Châu mù tịt, liền hỏi: “Các ngươi đang nói gì vậy? Lại là cái gì ‘chim sáo cay’?”

Thập Tam Lang giải thích: “‘Chim sáo cay’ là bức vẽ trên tường, nói thật ra là chỉ ‘xuân điển’*… tức là luật giang hồ.”
Đến đây, y liếc thấy ánh mắt Vi Huấn đang nghiêm lại, bèn lập tức ngậm miệng.

Bảo Châu thúc giục: “Giảng tiếp đi chứ?”

Thập Tam Lang đáp nhỏ nhẹ: “Trên đường thường có câu: ‘Thà bỏ một thỏi vàng, còn hơn hé một chữ xuân’, nên tỷ tốt hơn là không biết thì an toàn hơn.”

Bảo Châu phừng mặt: “Các ngươi chê ta nghèo không học được thứ tiếng giang hồ ấy à?”

Vi Huấn điềm đạm nói: “Không phải không muốn dạy, chỉ là biết mà biết chưa tới nơi tới chốn, lại càng nguy. Giống như tay cầm đèn, tò mò soi xuống đáy sông ngầm có thể nhìn thấy đôi ba vật vụn, nhưng những thứ sống trong dòng nước âm u kia, lại thấy rõ ánh sáng mà rình rập.”

Lời hắn nghiêm nghị, ví dụ lại vừa rùng rợn vừa sinh động, khiến Bảo Châu thoáng rùng mình. Trong bụng lại thầm nghĩ mấy ngày nay Vi Huấn có vẻ thay đổi khác thường. Trước đây mỗi lần nàng hỏi điều gì, hắn đều kiên nhẫn giải thích, sao hôm nay lại lạnh nhạt, kín tiếng đến thế?

Nàng hừ một tiếng, mắng: “Ra vẻ ta đây! Ta chẳng tin vào mấy chuyện âm hồn quỷ quái đó đâu!”
Rồi bĩu môi, phụng phịu đi vòng ra sau bình phong, tự giận dỗi một mình.

Vi Huấn lại dặn Thập Tam Lang mấy điều, sai y ra ngoài lo liệu. Trước khi đi, Thập Tam Lang quay đầu hỏi lớn: “Đệ tiện đường mua mấy cái bánh chưng mang về, hai người có muốn ăn gì không?”

Bảo Châu tất nhiên hiểu rõ câu này, liền lên tiếng: “Đừng mua toàn bánh chay, nhớ mang mấy cái nhân thịt dê cho tỷ!”

Thập Tam Lang lập tức nhăn mặt: “Sai một chú tiểu đi mua bánh thịt, Cửu Nương cũng thật là làm khó người!”

Bảo Châu gắt: “Làm gì ép đệ ăn? Mỗi ngày ăn chay uống nước lã, không có chút thịt tỷ không đủ sức kéo cung!”

Thập Tam Lang cười khổ, gật đầu nhận lời. Sau lại hỏi: “Còn đại sư huynh muốn gì?”

Vi Huấn trầm ngâm giây lát, rồi ghé tai y nói khẽ điều gì đó.

“A!…”
Thập Tam Lang thoáng sững người, trừng mắt nhìn Vi Huấn, song không gặng hỏi thêm, chỉ rút tiền rồi rảo bước đi ngay.

Bảo Châu trong bụng sinh nghi, không rõ hai huynh đệ kia to nhỏ chuyện gì, lại cố giữ thể diện không hỏi ra miệng. Nàng ngẫm tới ngẫm lui, đoán không ra đầu mối, thậm chí còn lén lo: Không lẽ họ nói tiếng lóng là để lập mưu đem ta bán đi?

Hai canh giờ sau, Thập Tam Lang quay về, mang theo cả mớ bánh còn nóng và ít tin tức: Mã Tam đã bị cách chức từ ba năm trước, giờ kẻ nắm quyền trong bóng tối là Lưu Mậu anh em vợ y.

Thập Tam Lang nói: “Người nắm quyền ở huyện này là kẻ hoàn lương nửa mùa, trên phố ai nấy vừa sợ vừa ghét, chẳng ai muốn dây vào. Đệ cũng chẳng đủ mặt mũi để chen chân tới gần.”

Vi Huấn mặt mày u ám, thần sắc khó đoán, bỗng đứng dậy nói: “Đệ không đủ cân lượng, để huynh đi một vòng vậy.”
Dứt lời, hắn liếc mắt ra hiệu cho Thập Tam Lang : “Nhìn cho kỹ, đừng để nàng rời tầm mắt.”

Thập Tam Lang khẽ gật đầu. Vi Huấn không đi bằng cửa chính mà nhẹ nhàng phóng ra ngoài qua khung cửa sổ phía sau.

Bảo Châu ngẫm nghĩ rồi hỏi: “Đệ không thấy đại sư huynh của đệ hai hôm nay có gì đó khác thường sao?”

Thập Tam Lang cười gượng: “Có lẽ là do thời tiết thay đổi, khí trời không hợp, nên khó ở.”
Rồi lập tức đánh trống lảng: “Cửu Nương vẫn chưa ăn bánh chưng sao? Đây là hàng nổi tiếng khắp vùng đấy, đề đã phải xếp hàng rất lâu. Hôm qua đòi mua nhân thịt dê, đề còn bị người ta cười suốt một hồi.”

Vi Huấn đi biệt suốt cả đêm, qua đến ngày hôm sau vẫn chưa về. Đến sáng, khách trọ trong đ**m đều tụ lại nơi sảnh lớn, râm ran bàn tán: bất kể có giấy thông hành hay công văn gì, nay không ai được phép vượt qua Đồng Quan toàn huyện Hạ Khuê đã bị phong tỏa nghiêm ngặt.

Ngoài lý do truyền tin, bất kể là người đi thăm thân, buôn bán, làm công hay lên kinh ứng thí, tất cả đều không được ra vào. Trên đầu thành, binh lính mặc giáp đi lại dày đặc, ai nấy sắc mặt lạnh tanh, thủ thế sẵn sàng như sắp có đại quân kéo đến.

Thập Tam Lang ra ngoài dò hỏi một vòng, khi trở lại thì vẻ mặt đầy bất an: “Thật kỳ lạ, hai năm nay đâu nghe nói có giặc bên ngoài gì? Huống hồ đây là Hạ Khuê, phía tây là kinh sư, phía đông là Đồng Quan hiểm yếu, cho dù có loạn lạc cũng không thể đánh tới đây được chứ?”

Bảo Châu chau mày: “Nếu chẳng phải họa ngoại xâm, chẳng lẽ là tai vạ trong cung?”

Thập Tam Lang nắm chặt tay: “Nếu nói vậy thì lại giống như triều đình đang truy lùng trọng phạm.”

Nghe đến đây, tim Bảo Châu khẽ nhói, trong lòng thoáng hốt hoảng. Nàng tự hỏi bản thân chẳng phải tội phạm, càng không phải phản nghịch, vì sao trong lòng lại thấy bất an đến vậy? Nghĩ tới nghĩ lui vẫn không thể yên tâm, liền cùng Thập Tam Lang ngồi nơi sảnh lớn thăm dò động tĩnh.

Trong sảnh, người nói kẻ bàn, có kẻ đoán là mật thám phiên bang bị bắt, người thì nói trong thành có dịch bệnh lan truyền, nhưng ai nấy đều mù mờ không rõ thực hư.

Một người buôn hoa quả mặt mày ủ rũ: “Số không may rồi, phen này e là hàng hóa cũng hỏng cả trong tay rồi.”

Một người khác phụ họa: “Mất của còn đỡ, chỉ sợ vướng vào đại án, vậy thì đúng là cửa nát nhà tan!”

Đến giờ Dậu, khách đi.ếm đã rục rịch nghỉ ngơi, bỗng có thân thích của chủ quán đến chơi, bảo rằng ở gần nha môn nghe thấy tiếng tù nhân bị giải vào nhà lao, người nào cũng khóc kêu oan uổng thảm thiết. Lại có tin đồn rằng những người ấy đều bị bắt từ chùa Liên Hoa.

Tin vừa lan ra, không khác gì dầu sôi đổ chảo, cả khách điế.m tức thì xôn xao, không ai buồn ngủ nữa.

“Trời ơi, tiếng kêu ấy nghe mà rợn cả người! Không biết là lột da hay rút gân, mà đêm nóng như vậy vẫn phải đóng cửa. Nghe âm thanh, không phải chỉ một hai người, mà có vẻ rất đông.”

Lời kể sống động như thật khiến ai nấy run rẩy. Một người đàn ông trung niên, đầu quấn khăn đen, áo mũ chỉnh tề, dáng điệu nghiêm trang, lên tiếng: “Tại hạ đi Trường An chờ tuyển chức tán quan, tuy là cửu phẩm cũng xem như người trong quan phủ. Nghĩ nơi này gần kinh thành, hẳn là có người triều đình ghé qua, cho dù không mở cổng thành thì cũng phải có ai đó biết việc sự việc. Ta sẽ đến huyện nha dò hỏi.”

Thấy có người có thân phận đứng ra, chủ quán và khách trọ đều vây quanh, người rót trà, kẻ mượn ngựa, đưa tiễn người nọ ra cổng.

Bảo Châu ngồi một bên nghe lỏm, chờ cho người ấy đi rồi mới ghé tai Thập Tam Lang mỉa mai: “Ra cái vẻ oai phong thật đấy. Quan thì nhỏ, mà bày đặt lên mặt như thể lớn lắm.”

Thập Tam Lang thì thầm đáp: “Cửu Nương chưa nghe câu ‘phá gia là huyện lệnh, diệt môn là thứ sử’ sao? Quan nhỏ thì nhỏ, vẫn hơn người áo vải.”

Bảo Châu bĩu môi, vẻ mặt khinh thường. Nàng nhớ lại những bữa yến tiệc trong cung, nơi hàng đầu còn thấy rõ mặt các thân vương, công hầu. Ra khỏi Trường An, đám quan dưới tam phẩm lại lớn lối hợm hĩnh, đến cả mèo chó cũng đua nhau ra oai.

Huyện thành nhỏ hẹp, chưa tới nửa canh giờ sau, vị cửu phẩm tán quan nọ đã cụp đuôi quay về, lặng lẽ rút vào phòng nằm ngủ. Tuy nhiên, lời y đoán không sai: trong thành có kẻ quyền thế đã nghe phong thanh chuyện lớn.

Những mẩu tin rò rỉ từ miệng bọn gia nhân, rồi theo chân người hầu len lỏi đến từng góc phố. Tin tức lan đi như gió, trời còn chưa sáng hẳn, mà quá nửa thành đã hay biết: món báu vật hiếm thấy mà Võ Uy quân tiết độ sứ Thôi Khắc chuẩn bị kính dâng Thiên tử viên dạ minh châu hiếm có đã bị đánh cắp ngay trong chùa Liên Hoa, giữa thanh thiên bạch nhật, dưới sự canh giữ của bao người.

Chưa dừng ở đó, người chịu trách nhiệm trông coi báu vật là bất lương soái La Thành Nghiệp cũng bị sát hại trong chính nhà mình. Thi thể bị mổ bụng, ruột gan lòi cả ra ngoài, chết vô cùng thảm.

*Xuân điển (hay thần điểm) tức là tiếng lóng của giang hồ.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 22


Cả phố đều đổ dồn ánh mắt về tòa tháp Phật cuối phố.

Ai có mắt đều trông thấy rõ: Tháp Đa Bảo cao chừng hai mươi trượng, trừ đại môn tầng trệt ra, các tầng đều không có một ô cửa sổ. Mỗi tầng chỉ có một gò mái hẹp như vòng eo, không có chỗ đặt chân, hơn nữa trên mỗi gò mái đều treo một dãy chuông đồng, tầng tầng lớp lớp, sắc vàng rực rỡ. Nếu có ai trèo lên, ắt không thể không chạm vào chuông. Đã vậy, cửa tháp dưới khóa kín, bốn bề quân lính canh phòng nghiêm ngặt, trừ phi là loài chim biết bay, bằng không không thể nào vô thanh vô tức mà lên được đỉnh tháp.

Thế nhưng, chuyện không tưởng lại thật sự đã xảy ra.

Trong tiệm nhà họ Tôn, khách trọ bàn tán sôi nổi.

Một người từ Biện Lương ngờ vực nói: “Thôi đại soái bên chỗ chúng tôi được tôn là Vương đất Từ Châu, làm gì có kẻ nào gan to bằng trời, dám chạm vào của quý của ông ta? Huống hồ món bảo bối ấy còn định tiến cống cho Hoàng thượng!”

Một lão nhân vuốt râu, đắc ý nói: “Chắc chắn là tay đạo tặc nào đó thân thủ cao siêu, bản lĩnh trời phú. Nếu không, làm sao có thể lẻn qua tầng tầng lớp lớp canh phòng, nhẹ bước lên tận đỉnh tháp, lấy được bảo vật?”

Nghe lão nhân nói tới đây, thiếu nữ vẫn im lặng nãy giờ liền bị sặc nước trà, ho khẽ một tiếng. Nàng vội che ly, giả vờ như không có gì, cố nén ánh mắt dao động.

Một vị khách trẻ tuổi thắc mắc: “Nếu là bảo vật định dâng lên Thiên tử, sao không để quan trực tiếp tiến về Trường An, lại dừng chân ở Hạ Khuê, đưa vào chùa Liên Hoa thờ phụng?”

Trong quán, một bà lão chuyên quét dọn ho khan mấy tiếng, kéo dài giọng nói: “Ta có một muội muội làm vú nuôi trong phủ Ngô huyện lệnh, vì thế nghe được ít nhiều chuyện trong nhà họ.”

Lập tức, mọi con mắt đổ dồn về phía bà, tinh thần bà lão sáng bừng, dáng vẻ như trẻ lại cả chục tuổi. Bà hắng giọng, ra chiều bí mật nói: “Ngô huyện lệnh nổi tiếng là người có hiếu, trong thành ai ai cũng biết. Mẫu thân ông ấy ăn chay niệm Phật từ sớm, ngày ngày thắp hương tụng kinh. Ông ta là con, dĩ nhiên phải tận hiếu, theo hầu chu đáo…”

Chàng khách trẻ nôn nóng chen lời: “Lão bà à , chuyện ấy thì liên quan gì đến vụ mất bảo vật?”

Bà lão trừng mắt: “Đồ thô lỗ! Không nghe đầu đuôi, sao hiểu được chuyện sau?”
Mọi người cũng hùa theo, nhao nhao trách chàng trẻ tuổi, nài bà kể tiếp.

Bà lão nâng giọng nói: “Lúc người dưới trướng của Thôi đại soái mang bảo vật đến Hạ Khuê, Ngô huyện lệnh vốn muốn mở tiệc đãi khách. Mẫu thân ông ta vừa nghe có của quý sắp dâng lên vua, liền một mực nằng nặc muốn được thấy tận mắt. Ngô huyện lệnh là người con chí hiếu, há có thể từ chối? Thế là nghĩ cách đưa bảo vật vào chùa, lấy danh nghĩa ‘bái Phật cầu phúc’ để mẹ mình được ngắm một lần cho thỏa. Người đó vì nể mặt cũng đồng ý. Nghe đâu Thánh thượng cũng kính ngưỡng đạo Phật, chùa Liên Hoa lại là danh tự gần xa, để mấy hôm cũng chẳng tổn hại gì.”

Bà lão nói đến đây, khẽ lắc đầu thở dài: “Nào ngờ, ngay tại nơi này lại xảy ra chuyện! Sáng sớm hôm qua, khi mở tháp kiểm tra, bảo vật đã không cánh mà bay. Ngô huyện lệnh tức đến tóc bạc nửa đầu, vội vã bắt giữ toàn bộ quân canh tháp, cả sư sãi trong chùa cũng không tha, ai nấy bị tra khảo cực hình, chỉ mong tìm lại được báu vật, vớt vát chút thể diện.”

Nghe tới đây, mọi người xôn xao hẳn lên, lời bàn tán nổi như sóng gió. Kẻ nói mẫu thân Ngô huyện lệnh to gan, kẻ lại mắng ông ta ngu hiếu mà rước họa.

Chỉ có chàng tiểu quan bị giật mất món bảo vật là không vui, lớn giọng quát: “Việc nước, đâu thể để một người đàn bà chen chân?”

Uống ngụm trà, thanh giọng hắng cổ, thấy mọi người đã chú mục về phía mình, y mới thong thả nói tiếp: “Vạn Thọ Công chúa chẳng phải vừa qua đời sao? Chuyện này thiên hạ đều biết. Thánh thượng thương tâm thành bệnh, mấy ngày liền không lâm triều. Giờ mà đem bảo vật vào cung, chẳng khác nào tự tìm rắc rối. Ta nghĩ, Thôi đại soái hẳn đã sai người đó tìm cớ dừng lại đây, chờ đến khi Hoàng thượng nguôi ngoai rồi mới tiến dâng, như thế mới mong được phong thưởng.”

Y lắc đầu, ánh mắt lạnh tanh: “Võ Uy quân tiết độ sứ là một phương bá chủ, một tên huyện lệnh nhỏ nhoi sao dám để việc nhà chen ngang chính sự? Nói mẫu thân Ngô huyện lệnh đòi xem bảo vật, e là lời đồn không căn cứ mà thôi!”

Nghe y nhắc đến Công chúa mất, Hoàng thượng đổ bệnh, thiếu nữ khẽ c*n m** d***, đôi mắt khẽ cụp xuống.

Một bên là bà lão kể chuyện đầu đường xó chợ, một bên là viên tiểu quan đưa ra suy đoán từ người trong cuộc. Lời mỗi bên một kiểu, nghe vào đều có lý.

Chủ tiệm nói: “Nhà ta là hạng dân thường, chẳng thân quen với huyện lệnh hay tiết độ sứ mấy bậc nhân vật như sao trên trời kia. Nhưng nhắc đến La Thành Nghiệp tên bất lương soái ấy thì ta lại biết khá rõ. Người này là tay danh tiếng nhất vùng Hạ Khuê. Trước từng là người trong giang hồ, danh ‘Sư tử yết’ nghe đâu vì chiếc mũi hắn linh mẫn khác thường, ngửi được cả hơi kẻ gian trong gió, mắt thấy bốn ngả, tai nghe tám phương. Ba năm về nhận chức nơi đây, phá án như chơi, khiến kẻ trộm cướp trong thành khiếp đảm, đành ngoan ngoãn quy ẩn. Bởi thế mới được gọi là ‘Hoa Châu đệ nhất Danh bộ’. Tuy vậy, người này cũng không phải thánh hiền, có chút ham tiền, thi thoảng lại bóng gió đòi chút ‘hiếu kính’.”

Một vị khách trẻ chen lời: “Vậy thì hẳn là đạo tặc trộm bảo sợ cái mũi chó của ‘Sư tử yết’, nên mới ra tay trước, giết quách đi, tránh hậu hoạ sau này!”

Chủ tiệm lắc đầu: “Cậu còn non lắm. La Thành Nghiệp võ nghệ cao cường, tay cầm thiết giản, múa lên như một khối sắt đúc khiến nước đổ không lọt, đao kiếm khó xuyên. Bốn năm kẻ khỏe mạnh cũng chưa chắc địch nổi hắn. Vậy mà lại bị một tên trộm giết dễ dàng thế sao?”

Mọi người nghe kể đều hào hứng, bàn luận rôm rả. Chủ đề lại quay về món bảo vật kia rốt cuộc là thứ gì.

Là răng Phật? Là ngọc quý? Là ngọc tỷ? Hay là tấm thiếp của Thư Thánh Vương Hi Chi? Hoặc chăng là tiên đan trường sinh từ Bồng Lai đảo?

Sự tò mò nổi lên, ai nấy trong lòng đều như bà lão nhà họ Ngô, ngứa ngáy không chịu nổi, chỉ mong được tận mắt trông thấy của quý một lần cho thoả nguyện. Chủ tiệm nhân cơ hội bày ra một đấu hạt dưa khô, rao bán hai văn một bao, nước trà cũng châm thêm dồn dập, cung kính phục vụ khách trọ. Thấy Thập Tam Lang còn nhỏ tuổi, còn tự tay đưa hắn một nắm đầy.

Bấy giờ, vị thương nhân từ Biện Lương mới chậm rãi lên tiếng: “Tại hạ có nghe kể một truyền kỳ xứ Từ Châu, nay xin đem ra cùng các vị chia sẻ. Tuy không dám chắc đó chính là món bảo vật bị mất, nhưng chuyện thì thật trăm phần trăm.”

Mọi người nhao nhao: “Nói mau! Nói mau!”

Thương nhân kể: “Năm trước, trong quân Võ Uy có một người lính thường ngày không nổi bật, một hôm uống rượu say, trên đường từ thôn trở về doanh trại, bỗng bị một con bạch xà dài hơn ba trượng chặn ngang lối. Thân nó to bằng thùng nước, mắt phát sáng đỏ như đèn lồng. Gã lính sợ đến tỉnh rượu, vội tuốt đao giao chiến. Cuộc vật lộn kéo dài, cuối cùng hắn cũng chém được xà chết. Trên trán bạch xà khảm một viên minh châu to cỡ một tấc, ban đêm tỏa sáng như đuốc. Sau khi đào lấy châu, thân xà hoá thành dòng nước tan biến. Người lính không dám giấu của riêng, đem dâng bảo châu lên tiết độ sứ Thôi đại soái. Thôi đại soái được bảo quý như bắt được vàng, liền phong gã ấy làm tâm phúc. Chuyện này ở Từ Châu ai ai cũng biết. Nghe đâu đến nay, người lính đó vẫn theo hầu bên đại soái, tận trung phục vụ.”

Mọi người đang chìm đắm trong câu chuyện kỳ lạ ấy thì tiểu quan nọ vỗ hai tay đánh bốp một tiếng, vẻ mặt như vừa ngộ ra điều lớn lao, miệng khẽ kêu: “Phải rồi! Phải rồi!”

Y không dám nói lớn, bèn ghé miệng thì thầm: “Chuyện Lưu Bang chém bạch xà khởi nghĩa, nhà nhà đều thuộc, đàn bà con nít cũng từng nghe qua. Bạch xà châu là vật ứng mệnh hoàng thiên chỉ người mang chân mạng đế vương mới xứng giữ. Thôi Khắc Dung dù quyền cao thế trọng nơi Từ Châu thì cũng chỉ là một trấn giữ một cõi. Nếu không có tâm tạo phản, sao dám ôm bảo châu tự giữ? Một khi lan xa, hắn tất nhiên phải chủ động kính dâng bảo châu lên Thiên tử, tỏ lòng trung nghĩa. Đây chẳng phải để mong được ban thưởng, mà chính là giữ mình trong sạch, phòng ngừa tai vạ về sau.”

Mọi người đồng thanh khen phải: “Thì ra là thế!”

“Vị quan gia này đúng là Gia Cát tái thế!”

Ai nấy gật đầu tán thưởng, cho rằng món bảo vật bị trộm kia chính là viên bạch xà châu không còn nghi ngờ gì nữa.

Bảo Châu từ đầu đến cuối lặng lẽ ngồi nghe, thần sắc nghiêm trang, lòng không khỏi trĩu nặng. Nàng không lo đến việc Ngô huyện lệnh bị mất chức hay mang họa, mà chỉ có một mối lo trong lòng: Vi Huấn đã biệt tích gần hai ngày, đến giờ vẫn chưa thấy bóng dáng.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 23


Bảo Châu trở về phòng, mở hé cửa sổ, lặng lẽ nhìn ra ngoài.

Trời chiều ngả bóng, tháp báu sừng sững soi mình trong ánh tà dương vàng rực. Hơn ngàn quả chuông đồng treo trên các tầng mái nghiêng khẽ lay động theo gió, phản chiếu ánh nắng thành từng vệt sắc như ráng chiều, khiến cả toà tháp ánh lên sắc vàng óng, mơ hồ như ảo ảnh.

Xảy ra đại án long trời lở đất như vậy, hẳn khu vực quanh tháp đã bị quân lính canh phòng nghiêm ngặt, khách hành hương bình thường e rằng cũng khó bén mảng lại gần. Mới hôm qua thôi, ba người họ còn cùng nhau ghé thăm chùa Liên Hoa, khung cảnh náo nhiệt khi ấy dường như vẫn còn in đậm trong mắt. Lúc ấy, Vi Huấn trầm mặc khác thường, cứ đứng lặng trước cửa sổ ngó mãi về phía toà bảo tháp, ánh mắt đăm chiêu như đang tính toán điều gì.

Hắn rốt cuộc đang nhìn gì? Thay ca canh gác? Lộ tuyến tuần phòng? Hay đơn giản chỉ là ngẩn ngơ ngắm cảnh?

Thập Tam Lang thấy nàng không còn nhiệt tình như mọi ngày, nét mặt lạnh tanh như chìm trong suy tưởng, lòng chột dạ, không dám buông lời bông đùa, chỉ dè dặt góp chuyện: “Chỉ là vụ trộm thôi mà, cần chi phải đóng cổng thành? Cái lão Ngô huyện lệnh kia cũng hồ đồ rồi!”

Bảo Châu lại khẽ lắc đầu, giọng đều đều: “Người vữa nãy nói đúng. Chuyện kho bị trộm dù có canh gác nghiêm ngặt đến mấy, tám chín phần mười là có tay trong tiếp tay. Ngô huyện lệnh lập tức bắt giữ kẻ liên quan, lại hạ lệnh đóng cổng thành, chặn đường thoát thân của đạo tặc mang tang vật trốn đi hành động tuy nhanh gọn, quyết đoán. Chỉ tiếc, chuyện dùng hình tra khảo thì chưa chắc.”

Thập Tam Lang hỏi: “Nói vậy là sao?”

Bảo Châu đáp: “Nếu là án mưu phản, chỉ cần người bị bắt khai nhận có tâm phản loạn, không cần vật chứng gì, quan phủ cũng đủ lý do kết tội. Có lời khai là có công trạng. Nhưng với án trộm cắp thì lại khác. Dù người bị bắt có nhận là thủ phạm đi nữa, nếu không tìm ra tang vật thì cũng chẳng thể khép án. Bị oan uổng thì lấy đâu ra thứ đã mất để chứng minh mình vô tội? Lúc ấy tra khảo đến chết thì cuối cùng càng làm sai càng thêm sai.”

Thập Tam Lang nghe nàng phân tích mạch lạc, trong bụng dâng lên một tia ngờ vực. Hắn nhớ rõ trước đây nàng ngơ ngác như đứa trẻ, ra phố mua gì cũng phải người kèm, ăn món gì cũng phân biệt chẳng nổi. Sao bây giờ bỗng đâu lại nói năng thông tuệ, lý lẽ rõ ràng như thế?

Hắn đâu biết rằng, Vạn Thọ Công Chúa từ nhỏ sống trong thâm cung, chuyện chợ búa phố phường đúng là mù tịt, nhưng những trò lươn lẹo nơi miếu đường, quan lại mưu sâu kế độc, vu cáo mưu hại nhau nàng đã quen tai từ thuở lọt lòng. Mỗi lần Thiều Vương trở về cung sau buổi thiết triều, đều kể cho nàng nghe mấy vụ án thú vị trong triều. Các bậc danh thần xử án từ thời xưa, những câu chuyện thật lẫn dã sử, hai huynh muội đều xem như truyện ngắn đọc chơi. Ác quan giả danh phá án hằng ngày đều có thể nhìn thấy, cần gì tìm đâu xa.

Bởi vậy, nàng đoán bước tiếp theo của quan phủ cũng không sai lệch nhiều.

Quả nhiên, đến chiều hôm đó, tin truyền khắp đường phố: bọn nha dịch toàn thành đi lùng bắt kẻ trộm từng nhà từng ngõ, khí thế như muốn lật tung cả thành tìm tang vật. Không chỉ truy bắt hung thủ, mà những kẻ khả nghi không giấy tờ thân phận từ nhà sư vân du, thầy bói dạo, nghệ nhân biểu diễn, kỹ nữ, cờ bạc, cho đến ăn xin đầu đường đều bị kiểm tra nghiêm ngặt.

Đám người thuộc phố này hấp tấp kéo vào cửa hiệu nhà họ Tôn, vội vã bảo chủ tiệm chuẩn bị sổ sách đăng ký tên khách trọ, phòng khi quan binh ghé tới khám xét. Chủ tiệm cuống cuồng gõ cửa từng phòng, loan báo tin tức cho các khách nhân biết mà ứng phó.

Thập Tam Lang vừa nghe đã như ngồi trên chảo lửa. Từ nhỏ lăn lộn đầu đường, mánh khoé ba đồng ba cắc hắn biết không ít, nhưng chưa từng dính vào án lớn liên quan quyền quý như thế này. Huống chi tuổi hắn hãy còn nhỏ, Vi Huấn lại biệt tích hai ngày, nhất thời tay chân luống cuống, mắt tròn mắt dẹt.

Hắn hoảng hốt kêu lên: “Giờ tính sao? Án này to quá, sơ sẩy một bước là liên luỵ cả nhà! Có tiền cũng chưa chắc trơn tru được đâu!”

Lúc này, cửa thành đã đóng kín, tình thế chẳng khác nào bắt rùa trong vại, dù là người hay quỷ cũng khó lòng thoát thân. Bảo Châu trong lòng lo lắng trăm bề, khẽ thở dài: “Hạ Khuê huyện chẳng rộng lớn bao nhiêu, sổ hộ tịch ghi chép cũng chừng năm sáu vạn dân, quan binh sẽ khó tìm tới đây ngay trong ngày, chỉ mong sư huynh đề sớm quay trở lại, may ra còn có đường xoay chuyển. Nhưng đã hai ngày trôi qua rồi, tên tiểu tử chết tiệt ấy rốt cuộc đang làm cái trò gì vậy chứ?!”

Thập Tam Lang cắn môi, cúi đầu im lặng.

Bảo Châu thấy hắn đến chuyện hệ trọng như vậy cũng còn giấu giếm, trong lòng giận dữ, chỉ hận không có ngay trong tay thẻ trúc để quất một cái vào bàn tay hắn cho hả dạ. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, đứa nhỏ này dù sao không phải đệ đệ ruột của mình, tay giơ lên cũng không nỡ hạ xuống. Đành phải nén giận, dịu giọng hỏi vòng vo: “Trước lúc đi, sư huynh đệ có sai đệ mang gì không? Nói thật ra, hắn cần thứ gì?”

Thập Tam Lang nghĩ bụng, nếu để lộ ra dù chỉ một chút, e là khó mà tránh khỏi hoạ sát thân. Cuối cùng chỉ ấp úng đáp: “Huynh ấy bảo đệ mang một ít than…”

Bảo Châu sửng sốt: “Muốn nói ta thiếu đá viết cũng chỉ cần 1 viên, nhưng trời nóng thế này lấy than làm gì chứ?”

Thập Tam Lang lại hóa thành cái vại không đáy, câm như hến, không hé nửa lời.

Bỗng, trong đầu Bảo Châu loé lên hình ảnh một lần trước, khi nàng và Vi Huấn lánh nạn trú tại chùa Thúy Vi ở Trường An. Khi ấy, Vi Huấn từng dùng lửa nung chảy châu báu thành dòng kim loại nếu muốn tiêu hủy dấu tích, thay hình đổi dạng vật lấy trộm, thì đây chính là cách hữu hiệu nhất.

Sau khi mặt trời lặn, Vi Huấn vẫn chưa trở về. Ngược lại, có một ông lão xa lạ dẫn theo bốn người hầu bước vào cửa hàng nhà họ Tôn.

Lão ấy ngoài sáu mươi, mặc áo bào vải thô màu xám tro, dáng người thấp lùn, nét mặt bình thường, đôi mắt nheo tít như không thấy rõ, bước đi cũng hơi lảo đảo, mang dáng dấp của một kẻ tuổi xế chiều. Nhưng bốn tên người hầu theo sau thì khác hẳn: vai u thịt bắp, mình xăm vằn vện, khí thế bặm trợn, rõ ràng chẳng phải hạng người lương thiện.

Vừa thấy lão bước vào, chủ tiệm lập tức hoảng hốt, vội vã chạy ra đón tiếp, giọng nói run rẩy: “Ngài… ngài sao lại đến đây? Tiểu đ**m… tiểu đ**m… mời ngài dùng trà đã!”

Hắn cuống cuồng quay đầu gọi vợ: “Bà nó mau ra đây! Lưu lão tới rồi!”

Rồi vừa lau tay vừa cúi người cung kính, hạ giọng giải thích: “Chuyện hiếu kính tháng này… chúng tôi đã dâng đủ cả rồi… không biết ngài còn điều dạy bảo…”

Lão ông xua tay, quát nhẹ: “Câm miệng! Hôm trước, có một người trẻ tuổi mặc áo vải xanh, dắt theo một chú tiểu và một cô gái, một con lừa, đến trọ nơi đây. Ngươi đi báo một tiếng, nói Lưu Mậu ở Hạ Khuê tới thăm, mời hắn xuống gặp mặt. Nhớ rõ, phải kính cẩn chu đáo. Ngoài ra, bảo bếp dưới chuẩn bị một bàn rượu thịt thịnh soạn, rượu thì chọn loại ngon nhất!”

Chủ tiệm đâu dám chậm trễ, vội vã vâng lời, sai vợ sửa soạn yến tiệc, còn mình thì hấp tấp lên lầu gọi người. Trong lòng hắn càng nghĩ càng rối. Rõ ràng là một khuê nữ dẫn theo một người làm trẻ tuổi tới trọ, sao qua miệng Lưu Mậu lại thành ra người khác? Mà nghĩ đến tên Lưu Mậu kia, nếu như khách trọ lỡ làm phật ý, khiến lão động sát tâm ngay trong tiệm, máu chảy đầy sân, thì cửa hiệu nhà họ Tôn chẳng còn ngày làm ăn nữa rồi.

Bảo Châu nghe xong lời chủ tiệm báo lại, lòng càng thêm nghi hoặc. Giữa lúc thành bị phong toả gắt gao, vậy mà người này lại nghênh ngang bước vào khách đ**m, chỉ đích danh muốn gặp Vi Huấn là người quen cũ, hay là kẻ thù truyền kiếp?

Thập Tam Lang đuổi chủ tiệm ra ngoài, hấp tấp nói: “Để đệ xuống báo với hắn, rằng sư huynh không có ở đây.”

Bảo Châu giơ tay ngăn lại: “Chớ vội. Ai biết được hắn lúc nào mới quay về? Để tỷ xuống gặp lão già ấy một chuyến, biết đâu lại moi được chút tin tức gì.”

Thập Tam Lang giật mình, vội nói: “Người đó chính là đầu sỏ hắc đạo ở đây, Cửu Nương… tỷ…”

Bảo Châu nhịn nỗi sợ, khẽ cười lạnh: “Tỷ từng là trưởng công chúa Đại Đường, đến cái chết cũng từng trải qua rồi. Tỷ sợ quỷ, nhưng không sợ người nhất là một lão già chân đã gần đất. Với lại, nếu hắn thực là người trong hắc đạo, thật sự có ý đồ với chúng ta, thì đệ tưởng trốn tránh là xong chuyện? Huống hồ Vi Huấn chẳng có mặt, chúng ta không đối đáp thì lại càng khiến hắn nghi ngờ hơn.”

Thập Tam Lang thở dài, đành thừa nhận nàng nói có lý: “Phải, Cửu Nương nói chí phải.”

Bảo Châu vốn là con gái đế vương, từ nhỏ bướng bỉnh, thích xông pha hơn là an phận. Mỗi ngày cưỡi ngựa, bắn cung, đánh cầu, ít việc nào nàng không từng thử qua. Sau cơn trọng bệnh, thân thể suy nhược, dũng khí cũng lụi dần, gặp chuyện thường dễ sợ hãi. Nhưng nay đã bình phục, dũng khí khi xưa cũng dần có lại.

Từng dự yến tiếp sứ, từng đối mặt trăm quan, từ nhỏ đã theo cha mẹ, huynh đệ dạo khắp nơi chốn nghiêm trang, thế nên tuy thân phận đổi dời, nhưng khí thế vẫn còn nguyên vẹn. Nàng gỡ búi tóc, sửa lại xiêm y, dẫn theo Thập Tam Lang, chậm rãi bước xuống lầu…
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 24


Lưu Mậu vừa hay tin Vi Huấn không chịu ra gặp, chỉ sai một thiếu nữ mười sáu tuổi, trong lòng đã thấy không vui. Lại càng bất mãn hơn khi thấy thiếu nữ kia tuy tuổi còn nhỏ, nhưng dáng đứng ngay ngắn, mắt nhìn thẳng, lời lẽ dứt khoát, khí chất toát ra một vẻ nghiêm trang, quyết đoán. Bên mình chỉ có một chú tiểu theo hầu, mà lại khiến người ta có cảm giác như đang mang theo một đoàn tuỳ tùng. Chính lão mang theo bốn tên hầu to con lực lưỡng, mà vẫn bị khí thế của một thiếu nữ áp chế.

Nói là nữ hiệp, thì da lại quá mịn màng trắng trẻo, đôi bàn tay cũng mảnh mai, tuyệt không giống người quen dùng đao kiếm. Nếu là con hát thì khí chất lại cao quý đến mức chẳng thể nào là người trong chốn bụi trần.

Lưu Mậu mấy chục năm lăn lộn chốn giang hồ, đôi mắt đã nhìn thấu bao nhiêu kẻ, vậy mà trước thiếu nữ này lại chẳng thể nhìn rõ lai lịch thật sự, trong lòng không khỏi thầm kinh sợ. Bất giác, ông ta đứng dậy, chắp tay thi lễ, tự xưng thân phận: “Lão thân họ Lưu, gọi là Lưu Mậu, là người trông coi việc ở Hạ Khuê huyện này.”

Bảo Châu lạnh nhạt đáp: “Ta là Cửu Nương họ Lý, không hiểu mấy lời lề luật giang hồ của các người. Có gì thì lão trượng cứ nói cho rõ.”

Lưu Mậu khựng lại, bụng thầm khó chịu. Tuy ông ta không phải hạng người chính đạo, song trong giới hắc đạo, thân phận và địa vị cũng chẳng phải hạng xoàng. Bao nhiêu người trong giới giang hồ đi qua đất này cũng phải nể mặt ông vài phần, thế mà hôm nay lại bị một thiếu nữ nói năng sỗ sàng như thế.

Trong giới giang hồ xưa nay có bốn điều kiêng kỵ, gọi là “bốn hạng người chớ động vào”: một là sư sãi, hai là đàn bà, ba là trẻ nhỏ, bốn là kẻ ăn mày. Sư sãi vốn là người ngoài thế tục, đàn bà và trẻ nhỏ là kẻ yếu, đã một thân một mình mà còn dám đi lại giang hồ, ắt hẳn hoặc là có bản lĩnh phi thường, hoặc là có chỗ dựa không tầm thường. Thiếu nữ này mang theo một chú tiểu, vậy là hai người trong ba điều trong “tứ bất phạm”, Lưu Mậu dù có giận cũng không dám khinh suất.

Gần đây trên giang hồ còn truyền tai một chuyện: người được gọi là “Thanh Sam Khách” vốn không phải du hiệp tự do, mà là bị một nữ cao thủ còn đáng sợ hơn cả hắn người ta gọi là “Kỵ Lư Nương Tử” bắt về làm tôi tớ. Lưu Mậu thì chẳng tin mấy lời đồn vô căn cứ ấy. Một thiếu niên tài cao hiếm thấy trong thiên hạ, sao lại còn có kẻ tài cao hơn cả hắn?

Huống hồ, hôm nay ông tới đây là để nhờ vả người ta, bất luận bên kia ra vẻ thế nào, ông cũng chỉ có thể nén giận mà nhún mình.

Ý nghĩ xoay vần chốc lát, Lưu Mậu liền đổi giọng khách sáo, mời Bảo Châu ngồi, ra hiệu cho người hầu rót rượu đầy chén: “Nói cho rõ, huyện Hạ Khuê này, người nắm quyền là Ngô Trí Viễn, tức là huyện lệnh chính là quan lớn một phương. Còn về phần việc ở dưới, thì do lão thân này gánh vác.”

Bảo Châu chỉ “À” một tiếng, không tỏ ra sợ hãi, cũng chẳng lấy gì làm kính phục.

Nàng hỏi thẳng: “Sao ngươi biết chúng ta trọ ở đây?”

Lưu Mậu mỉm cười, chỉ tay về bức tường trong tiệm, nơi có một bức vẽ con mèo lam đang rúc trong góc. Bảo Châu liếc nhìn, thoáng cau mày không biết Vi Huấn vẽ thứ đó từ bao giờ. Trong lòng nàng vừa giận vừa tức. Nghĩ lại, cho dù hắn không vẽ, thì lúc họ lần đầu bước vào thành, đi qua cầu đá, đã có người theo dõi. Một kẻ như Lưu Mậu làm gì không có tai mắt khắp nơi. Vi Huấn có thể ẩn thân, nhưng ba người với một con lừa, lại là thiếu nữ, trẻ con và sư tiểu, thì làm sao không bị người ta chú ý?

Nàng hỏi tiếp: “Lão đến tìm Vi huynh, rốt cuộc là có việc gì?”

Lưu Mậu liếc quanh một vòng. Chủ tiệm vốn lanh trí, đã sớm dời khách trọ đi nơi khác, quanh đây chỉ còn bốn tên người hầu của lão. Lưu Mậu hạ thấp giọng: “Cửu Nương đây chắc cũng đoán được đại khái. Lão thân chẳng phải muốn làm phiền, chỉ là vì bất đắc dĩ. Nay đến cầu người, chỉ mong Thanh Sam Khách nể chút tình giang hồ, buông tha cho một con đường sống.”

Bảo Châu càng nghe càng mơ hồ, nhíu mày nói: “Ta thực tình không biết hắn đã gây ra chuyện gì. Vẫn xin lão trượng nói cho rõ.”

Lưu Mậu nghĩ nàng giả vờ, bèn thở dài một hơi, buộc lòng phải nói thẳng: “Giới giang hồ có quy củ, tuyệt không được đụng vào vật của triều đình. Vậy mà giờ Thanh Sam Khách lại đánh cắp viên bảo châu trên tháp Phật trong chùa Liên Hoa, khiến quan phủ đóng thành truy xét khắp nơi. Lão thân ở đây làm ăn giờ khó bề xoay xở.”

Bảo Châu kinh hãi, lập tức hỏi lại: “Ngươi làm sao dám chắc chính là Vi Huấn trộm ngọc? Ngươi tận mắt nhìn thấy sao?”

Lưu Mậu mỉm cười, giọng chậm rãi:
“Không cần tận mắt. Cả thành này ai chẳng biết tháp Phật kia cao vút chín tầng, muốn lên được đã khó, huống gì là lấy ngọc quý mang đi. Người có bản lĩnh ấy, trừ Thanh Sam Khách thì còn ai nữa? Chưa kể, hắn chỉ dùng một đòn đã giết được La Thành Nghiệp người mà thiên hạ xưng là ‘Sư Tử Yết’, võ nghệ lừng danh một phương. Trong vòng tám trăm dặm quanh Quan Trung, có mấy ai địch nổi La Thành Nghiệp? Mà lại còn chặt đầu mang đi, y như cách vẽ con mèo xanh lam trên tường kia, chính là thủ đoạn thành danh của hắn. ‘Một nhát đoạt mạng, lấy đầu làm tín vật; không trúng thì lui nhanh như gió.’
Cửu Nương đây chắc cũng từng nghe qua rồi chứ?”

“Hoàn toàn chưa từng nghe qua!”

Bảo Châu thất thần, giật mình quay phắt sang nhìn Thập Tam Lang . Chú tiểu cúi gằm đầu, không buông lời phản bác, cũng chẳng dám ngẩng lên, dáng vẻ kia rõ ràng là thừa nhận.

Nàng đã từng thấy Vi Huấn cầm dao nhỏ xử lý thỏ rừng, cá đồng, động tác gọn gàng, thậm chí gọt trái cây, bỏ hạt cũng mau lẹ sạch sẽ. Nhưng… đầu người? Hắn chẳng phải là kẻ đào mộ hay sao? Nếu thực sự là kẻ cắt đầu người, hắn đã dùng thứ gì để làm? Có phải chính là con dao ăn hằng ngày, thanh dao găm lén giấu trong tay áo kia chăng?

Nghĩ tới bao lần dọc đường, bản thân ăn đồ ăn hắn nấu, dùng dao hắn rửa… Bảo Châu bất giác buồn nôn, ruột gan cuộn lên từng cơn. Nhìn bàn tiệc trước mặt đầy rượu thịt, nàng chợt cảm thấy chẳng muốn động đến lấy một đũa.

Lưu Mậu thấy nàng thần sắc do dự, lại tưởng nàng đã nghe qua truyền thuyết kia, bèn nâng chén rượu đứng dậy, nói với giọng đầy xúc động: “Lão th*n d*** trướng tuy chỉ quản mấy phường xướng ca, đầu trâu mặt ngựa, bọn làm nghề tấp kém, nhưng cũng nuôi sống mấy ngàn miệng ăn. Nay quan phủ tra xét, mọi ngả đều đình trệ, người vô can cũng bị bắt tra khảo, thật sự không chịu nổi cảnh này. Cầu xin Cửu Nương chuyển lời, bảo Thanh Sam Khách trả lại viên ngọc cho quan phủ. Lão thân sẽ chuẩn bị hậu lễ chu đáo, đưa tiễn tử tế.”

Dừng một chốc, ông ta đổi giọng trầm xuống: “Còn như cái chết của La Thành Nghiệp… Kẻ đó từng mang danh nghĩa quan lại, giết cháu ta là Mã Tam, mượn danh công vụ để giết người. Chúng ta chẳng thể công khai báo thù. Nay có người giúp ta đòi lại món nợ máu ấy, chẳng khác gì ơn cứu mạng. Ai làm chuyện đó, chính là ân nhân của ta. Chỉ cần còn sống, người ấy có lời gì cần ta làm, ta nhất định không từ.”

Nói đoạn, Lưu Mậu ngửa đầu cạn chén. Người hầu lập tức tiến tới rót đầy, ông ta lại uống tiếp, ba chén rượu hợp thành một lời thề. Sau cùng, ông móc từ trong áo ra một thỏi vàng đặt lên bàn, chắp tay chào rồi dứt áo ra đi.

Bảo Châu ngồi lặng bên bàn, tâm trí hỗn loạn, nghĩ mãi chẳng thông.

Nàng ngẩng đầu nhìn sang Thập Tam Lang , chỉ thấy chú tiểu đứng bên cạnh, mặt cắm xuống đất, chẳng dám động đũa. Nàng cười lạnh một tiếng: “Ăn đi chứ, người cũng đi rồi. Bỏ thì uổng.”

Thập Tam Lang cúi gằm, đầu như cái trống bỏi bị đập: “Đệ… đệ chưa đói.”

Rồi lại lẩm bẩm: “Nghe thì đáng thương, chứ ông lão ấy quản kỹ viện, sòng bạc, dưới tay toàn là bọn trộm cướp, đâu có phải người tử tế gì.”

Bảo Châu hừ nhẹ, giọng đanh lại: “Thế còn sư huynh đệ, đào mộ của tỷ, lại đi cắt đầu người ta là kẻ tốt lành à?”

Thập Tam Lang há miệng, không nói nên lời.

Bảo Châu nói tiếp, giọng trầm hơn, mắt nhìn xa xăm: “Lão già đó nếu đã khẳng định thứ bị lấy là một viên ngọc, lại còn rõ ràng việc La Thành Nghiệp bị hạ thủ chỉ bằng một nhát… Từng ấy chuyện, không phải hạng làm ăn lương thiện mà biết được. Trong nha môn chắc chắn có người truyền tin cho ông ta.”

Vừa nói, nàng vừa đứng dậy, quay người bước về phía cầu thang. Chủ tiệm nãy giờ lấp ló từ xa, bỗng vội kêu lên: “Tiểu nương tử! Ngài… ngài rơi vàng rồi ạ!”

Bảo Châu quay lại, mặt lạnh như nước: “Đó là tiền tiệc của Lưu Mậu, không phải của ta.”

Chủ tiệm giật mình, cuống quýt xua tay: “Lưu gia đến đây ăn uống, một văn cũng không phải trả. Tiểu nhân tôi dù có tám trăm lá gan cũng không dám cầm thỏi vàng của ông ấy. Cái này… cái này nhất định là tiền phấn son của tiểu nương tử!”

Nói đoạn, ông ta hai tay dâng thỏi vàng, thấy nàng không nhận, bèn quay sang dúi vào tay Thập Tam Lang .

Ông vừa đưa vừa khúm núm nói nhỏ: “Thật không biết tiểu nương tử đây là gì trong giang hồ… Lưu gia kia oai phong một cõi, gặp người còn phải kính rượu, không dám ngẩng đầu. Nô tài này trước mắt không tròng, có gì thất lễ xin tha tội. Về sau nếu cần gì, cứ việc dặn dò, kể cả phải nói với bà nhà tôi, tiểu nhân cũng không chối từ.”

Bảo Châu không buồn đáp, chỉ gật nhè nhẹ rồi quay gót bước về phòng.

Nàng chưa đi hết bậc thang, đã cất tiếng hỏi: “Sư huynh đệ và cái gã La Thành Nghiệp kia có thù oán gì sao?”

Thập Tam Lang giật mình, lắp bắp: “Đệ không biết… Gã kia trước kia là kẻ cướp, cũng đâu có cùng đường với bọn đệ.”

Bảo Châu chau mày nghĩ ngợi: Chẳng lẽ từng tranh chấp khi còn ở chốn rừng núi? Nhưng nghe đâu La Thành Nghiệp đã hoàn lương nhiều năm, mà năm đó Vi Huấn chẳng qua mới mười mấy tuổi, thì lấy đâu ra thâm thù? Huống hồ họ chỉ đi ngang qua Hạ Khuê vì đường xa bắt buộc, chứ có phải chủ ý đến đây gây sự đâu? Nếu là báo thù, chẳng phải quá trùng hợp sao?

Ngẫm lại, quan phủ xử án thì dựa vào “chứng cứ, nhân chứng, tang vật và khẩu cung”, còn người trong giang hồ thì nhìn vào tài nghệ và thủ pháp ra tay. Không thể nói ai cao tay hơn ai, nhưng riêng chuyện này Vi Huấn, kẻ đáng nghi giờ lại càng đáng nghi thêm.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 25


“Lũ vô dụng! Toàn là lũ vô dụng!!”

Trên tầng cao nhất của tháp báu chùa Liên Hoa, Bảo Lãng người chịu trách nhiệm vận chuyển bảo vật giận dữ gầm lên như sấm.

Hắn rút hoành đao ra, chém mạnh lên bàn thờ, khiến ván gỗ vỡ toang thành hai nửa, mảnh vụn bay tung tóe, lư hương đổ nghiêng, tro bụi vung vãi khắp nền đá. Ngô Trí Viễn vị huyện lệnh đứng bên vội vàng tránh né, mồ hôi đẫm lưng áo.

Vừa rồi, một thuộc hạ chạy từ ngục thất lên báo: lại có kẻ nghi phạm chết trong lúc chịu hình. Mặt Bảo Lãng biến sắc, rút đao trút giận, hai mắt ánh lên tia hồng sắc lạnh như máu, trông chẳng khác dã thú bị thương. Nhà sư già đứng bên run rẩy, chẳng dám lên tiếng nửa lời.

Ngô Trí Viễn cuống quýt khuyên: “Đại nhân bớt giận… xin đại nhân bớt giận…”

“Bớt giận?! Ngươi tưởng một câu ‘bớt giận’ là xong chuyện? Ngươi bình ổn được cơn giận của Thôi Đại soái thì hãy đến nói với ta!”

Bảo Lãng quát lớn, ánh mắt đầy hung ác nhìn thẳng về phía vị huyện lệnh, rồi quay đầu ra cửa, rống lên với tên sai nha đang vội vã chạy đến: “Tiếp tục tra! Thẩm lại từ đầu!”

Gã sai nha toàn thân dính máu, chưa kịp lau sạch đã quỳ rạp xuống đất, dập đầu như giã tỏi, vừa bò vừa lết khỏi điện thờ.

Rốt cuộc là ai? Ai có thể trong tháp báu canh phòng nghiêm ngặt mà đánh cắp được bảo vật của tiết độ sứ?

Ngô Trí Viễn giấu tay vào trong tay áo, mặt mày ủ rũ, miên man suy nghĩ cũng chẳng lần ra đầu mối. Vì muốn tiến thân mà tận sức chạy chọt, chẳng ngờ cuối cùng lại chuốc lấy tai họa ngập đầu. Mới chỉ mấy hôm, tóc hắn đã bạc trắng. Trước kia từng ngưỡng mộ Bảo Lãng khí độ hiên ngang, thậm chí còn có ý gả con gái cho y. Nào ngờ bây giờ, người ấy chẳng khác nào mãnh thú điên cuồng, chẳng nương tay cả với thân binh dưới quyền.

Năm ngày trước, Bảo Lãng dẫn đoàn vận chuyển bảo vật đến Hạ Khuê, cùng với huyện lệnh và chủ trì chùa Liên Hoa ba người, tự tay đặt chiếc hộp sơn đựng viên châu lên tầng cao nhất của tháp, thờ trước tượng Vi Đà Bồ Tát. Ba người cùng giám định hộp báu, sau đó tự tay khóa tháp, mỗi người giữ một chìa. Nếu thiếu một ai, cũng không thể mở cửa tháp.

Vì đây là báu vật mà tiết độ sứ định tiến cống lên hoàng đế, ai nấy đều vô cùng cẩn trọng. Bảo Lãng thậm chí tự mình tra xét trong ngoài mấy lần. Hằng ngày đều đích thân dẫn thân binh, cùng người của Hạ Khuê và nha sai bất lương canh gác, ba người giữ khóa tháp mỗi sáng đều cùng nhau mở khóa, kiểm tra kỹ lưỡng.

Vậy mà, bảo châu vẫn không cánh mà bay.

Hai hôm trước, lúc ba người mở tháp như thường lệ, chỉ thấy hộp sơn trống rỗng, bên trong chỉ còn gấm vóc đệm mềm, thừa lại đôi hạt châu rời. Không ai tin nổi vào mắt mình. Bảo Lãng lật tung gấm lên, chỉ thấy dưới lớp đệm có một tờ giấy, trên đó là vài dòng chữ ngắn ngủi.

Điều kỳ lạ hơn nữa: trên tay tượng Vi Đà Bồ Tát, lúc ấy có một con bạch xà cuốn quanh, thân thể trơn bóng như ngọc, hai mắt đỏ rực như bảo thạch, lặng lẽ nhìn chằm chằm vào ba người.

Hòa thượng giật mình thốt lên: “Bảo châu bị xà yêu lấy mất!”

Bảo Lãng tức giận đến đỏ bừng mặt, suýt nữa chém chết chủ trì chùa tại chỗ, nếu không nhờ Ngô Trí Viễn kịp thời ngăn cản. Trong lúc hỗn loạn, bạch xà đã biến mất không tung tích.

Nha sai vội vã đi báo cho cấp trên, nhưng khi đến nơi, lại phát hiện bất lương soái La Thành Nghiệp đã chết trong nhà mình. Xác không đầu, bụng bị đâm xuyên, gậy sắt vũ khí quen thuộc của y cắm thẳng vào giữa bụng, máu chảy đầm đìa. Lục phủ ngũ tạng bị lôi ra, treo lủng lẳng trên xà nhà, cả gian phòng chẳng khác gì lò sát sinh.

Cây gậy kia vốn không đầu nhọn, chẳng sắc bén, thế mà hung thủ lại dùng chính nó đâm thẳng vào bụng, trong khi La Thành Nghiệp võ nghệ cao cường không hề phản kháng được một chiêu. Đó bản lĩnh như thế nào?

Xác còn bị phá tàn nhẫn, rõ ràng hung thủ oán hận chồng chất, không tiếc mổ bụng, moi ruột, giày xéo từng khúc nội tạng.

Người canh tháp và các tăng nhân bị bắt tất cả hai mươi người, trong đêm tra khảo đã chết ba. Bảy người khác dù chịu cực hình cũng chỉ nhận tội ăn trộm, không ai biết viên châu hiện ở đâu.

Ngô Trí Viễn tuyệt vọng cầu xin: “Đại nhân! Toàn thành Hạ Khuê đã huy động hết nhân lực lùng bắt kẻ gian. Nhưng vụ trộm này… đã vượt ngoài sức người. Dù có phải chịu tội thay, hạ quan cũng cam lòng!”

Bảo Lãng hừ lạnh, cười khẩy một tiếng: “Vượt ngoài sức người? Chẳng lẽ là ý trời?”

Y ngẩng đầu nhìn l*n đ*nh tháp. Tòa tháp báu này do thợ giỏi Nam – Bắc triều xây dựng, đỉnh như hình tán lọng, khe hở giữa các cột sáng hắt xuống từng vệt, tỏa ra bốn phía như hào quang của Phật tổ. Trong đầu Bảo Lãng hiện lên hình ảnh con bạch xà, mắt đỏ như máu, thân trắng như tuyết…

“Nếu không phải người thì là ai? Là chim? Là khỉ? Là yêu? Kẻ nào dám trộm bảo vật của ta, dù phải moi gan móc ruột cũng phải bắt về!”

Gầm lên một tiếng, hắn vung đao chém mạnh lên bàn thờ lần nữa, sắc mặt dữ tợn, thần thái hung tàn khiến Ngô Trí Viễn dù từng trải sóng gió cũng thấy lạnh sống lưng.

Còn về cái chết của La Thành Nghiệp, Bảo Lãng chẳng buồn để ý. Hắn giữ chức quan vận chuyển, chỉ quan tâm đến viên châu bị mất. Bảo vật thất lạc, kẻ chịu trách nhiệm đương nhiên phải chết, chẳng cần ai phải giết thay.

Hai ngày trôi qua không thu được manh mối, đến nay, Bảo Lãng mới nhớ ra một chuyện: “Xác La Thành Nghiệp hiện ở đâu?”

Giọng hắn bỗng trầm xuống, âm lãnh như nước lạnh mùa đông.

Ngô Trí Viễn run rẩy đáp: “Dạ… do thời tiết oi nóng, thi thể đã chuyển về huyện nha, đặt trong ngục thất ngầm để làm chậm thời gian phân hủy.”

“Ngỗ tác báo ra sao?”

“Trên thi thể chỉ có một vết thương chí mạng ở bụng. Phần đầu bị chặt sau khi đã tử vong.”

“Hung khí là cây gậy sắt của hắn?”

“Vâng…”

“Dẫn đường. Ta muốn xem nhà hắn.”

Bên ngoài, mây mù dày đặc, tượng Vi Đà Bồ Tát tay cầm xử kim cương, ánh nhìn uy nghi trầm mặc, lặng lẽ dõi theo trần thế hỗn loạn phía dưới.

Một luồng vui mừng chợt dâng lên trong lòng, Bảo Châu không nén được khẽ buột miệng: “Ngươi đã trở lại?!”

Cửa sổ quả nhiên có để mở một khe nhỏ, nhưng người kia không bước qua cột chống. Một bóng đen nhẹ nhàng đẩy cửa ra, ngồi thụp xuống trên bậu cửa, nghịch ánh trăng, lặng lẽ nhìn nàng chằm chằm.

Bảo Châu vừa nhìn liền cảm thấy khác lạ dáng người kia cao lớn hơn thường, vai rộng chân dài, trên mình vận y phục bó sát màu đen, khuôn mặt che bằng khăn bịt kín như thích khách.

Người áo đen từ cửa sổ nhẹ nhàng nhảy xuống, thong thả tiến lại gần.

“Ngươi là ai?!”

Bảo Châu trầm giọng quát hỏi. Như lời Vi Huấn từng dặn, khi khoảng cách quá gần, không thể kịp giương cung, nàng liền lập tức rút mũi tên trong bao, dùng đầu nhọn đặt trước ngực để phòng thân.

Người kia dừng chân lại một thoáng.

Thập Tam Lang cũng bị động tĩnh đánh thức, vội chộp lấy gậy gỗ, lao ra chắn trước người nàng.

Có cậu bé che chắn, Bảo Châu tranh thủ lùi lại, rút cung lắp tên. Vừa lúc buộc được dây cung lên, thì Thập Tam Lang chợt kêu lên: “Thất sư huynh?!”
Rồi lập tức thả gậy xuống đất, hớt hải đi thắp nến.

Người áo đen cũng dừng lại, cười một tiếng: “Tiểu nương tử xinh đẹp thật đấy!”

Giọng nói thanh thoát trong trẻo, rõ ràng là một nữ nhân.

Chờ Thập Tam Lang châm sáng nến, ánh lửa hắt lên, Bảo Châu mới nhìn rõ: người này vóc người cao ráo, vai rộng eo thon, thân hình uyển chuyển lại toát ra sức mạnh. Là một nữ tử!

Nàng đưa tay kéo khăn che mặt xuống, lộ ra gương mặt vừa sắc sảo vừa dữ tợn. Dường như từng là một dung mạo thanh tú, nhưng từ trán bên trái đến gò má phải là một vết sẹo sâu, da thịt lồi lõm, dù đã liền lại nhưng vẫn khiến người nhìn không khỏi rùng mình.

“Gã béo bốn mắt nói Vi đại bị một cô gái cưỡi lừa bắt sống, ta còn không tin, giờ tận mắt trông thấy nương tử thế này, lại thấy đúng là có đến bốn phần đáng tin.”
Nàng đưa mắt đầy thú vị nhìn Bảo Châu từ đầu đến chân.

Bảo Châu bất giác đỏ bừng mặt. Người kia tuy là nữ nhân, nhưng phong thái mạnh mẽ, khí khái oai hùng, mỗi cử chỉ đều như có ma lực khiến thiếu nữ phải bối rối, xao xuyến.

“Kẻ tiện danh Hoắc Thất Lang, sư đệ của Vi Huấn. Xin chào tiểu nương tử.”

Nàng chắp tay, ung dung hành lễ theo lối đàn ông, rồi nhảy ngược trở lại bậu cửa, ngồi vắt vẻo như cũ.

Bảo Châu tuy hết hồn chưa yên, nhưng trong lòng lại có phần ngờ vực. Người này rõ ràng là nữ tử, từ giọng nói đến dáng hình, lại được Thập Tam Lang gọi là sư huynh, thật khiến người khó hiểu.

Hoắc Thất Lang thấy nàng nhìn mình không chớp mắt, cười hỏi: “Vi đại không có ở đây sao? Ta còn định tìm hắn bàn một vụ làm ăn.”

Bảo Châu cau mày, hỏi cảnh giác: “Làm ăn gì?”

“Hắn chẳng phải vừa mới trộm một viên minh châu lớn như cái tấc ở Phật tháp đó sao? Hạt châu kia chẳng thể dùng làm đèn, sớm muộn gì cũng phải bán đi. Ta muốn đứng giữa giới thiệu, lấy chút tiền hoa hồng mua rượu uống thôi.”

Bảo Châu nghe vậy, tim đập mạnh một nhịp, liền hỏi gặng: “Sao ngươi chắc là hắn trộm?”

Hoắc Thất Lang cười đáp: “Tuy ta không thấy tận mắt, nhưng chỉ có hắn mới có bản lĩnh đó. Thất Hoắc này dù có thể trèo tháp, cũng không dám đảm bảo không động phải lục lạc. Dù có may mắn không thất thủ, thì cũng không có thuật thu nhỏ thân hình mà chui vào đỉnh tháp. Khắp thiên hạ, kẻ có thể ra vào như chốn không người, chỉ có đại sư huynh.”

Đến cả đồng môn cũng cho rằng Vi Huấn ra tay trộm báu vật!

Bảo Châu lòng đầy mâu thuẫn. Tuy Thập Tam Lang đã gọi thẳng tên đối phương, nàng vẫn không buông cung. Thấy nàng cảnh giác không buông lỏng, Hoắc Thất Lang cũng chỉ biết nhún vai sờ mũi, cười gượng. Đã được diện kiến người trong lời đồn, lại chẳng tìm ra sư đệ, nàng đành chào một tiếng “quấy rầy” rồi tung mình qua cửa sổ mà đi.

Khi Hoắc Thất Lang đã rời đi, Bảo Châu vẫn còn hoảng hốt. Nàng lập tức đóng cửa sổ, cài then thật chặt. Rồi lại kiểm tra thêm một lần, mới quay lại, túm cổ áo Thập Tam Lang , gắt lên: “Người của y đều lần lượt tìm đến đây rồi, đệ còn định giấu tỷ tới bao giờ?! Vi Huấn rốt cuộc đang ở đâu?!”

Thập Tam Lang vội vã lắc đầu như trống bỏi, dựng ba ngón tay thề sống thề chết: “Thiện Duyên hướng Phật Tổ thề! Thật sự không biết đại sư huynh đi đâu! Nếu đệ nói dối, xin trời đánh thánh phạt!”

Bảo Châu hoảng hốt vội bịt miệng cậu, khẽ mắng: “Đừng ăn nói linh tinh! Nhỡ thành thật thì sao?”

Nàng nhớ thuở bé từng làm nũng với cha, nắm vạt áo mà thề rằng: “Nếu có ngày rời xa a gia, thì cứ để đạo tặc tới trộm mất con!”
Nào ngờ giờ đây bơ vơ nơi đất khách, nàng quả thực bị một tên “đạo tặc” trộm đi mất không chỉ trộm, còn bỏ mặc nàng giữa hiểm cảnh, không một lời từ biệt.

Nàng ngồi bệt xuống giường, chán nản thở dài: “Người này… rốt cuộc đã đi đâu rồi…”

Thập Tam Lang cũng ngồi xuống bên cạnh, ỉu xìu hỏi: “Thiên hạ đều đồn là đại sư huynh trộm bảo vật, Cửu Nương cũng tin vậy sao? Tỷ có nghĩ… huynh ấy trộm rồi bỏ trốn không?”

Bảo Châu thở dài thật sâu, lắc đầu: “Ta thì lại không nghĩ thế. Dù mọi dấu vết đều hướng về hắn… ta cũng chẳng có bằng cớ gì cả…”

Thập Tam Lang đôi mắt sáng lên, chăm chú chờ nàng nói tiếp.

Bảo Châu khẽ nói: “Chỉ là lẽ thường mà suy đoán thôi. Hắn nếu đủ bản lĩnh vào tận kho báu trong hoàng cung để trộm quả quýt, thì trong đó đâu thiếu gì thứ quý giá hơn? Cần gì phải đợi đến nơi này mới động lòng? Chắc chắn là có ẩn tình. Lại nữa, tính hắn làm việc tuy quái đản, nhưng chưa từng giấu ta điều gì. Dù có hứng lên mà đi trộm thật, cũng không đến mức lén lút bỏ đi một mình.”

Nàng thở dài, chán nản nhìn lên trần nhà: “Còn về gã ‘sư tử yết’ kia… tỷ thật chẳng đoán nổi là chuyện gì đang xảy ra.”

Trên người Vi Huấn cất giấu quá nhiều bí mật, toàn là những điều nàng chưa từng biết, mà có khi hắn cũng không muốn nàng biết.

Lúc nàng cầm đèn soi xuống dòng sông ngầm dưới lòng đất, phải chăng hắn chính là con quái vật lặng lẽ ẩn mình trong bóng tối kia?
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 26


Hai người cầm đuốc trò chuyện, lời còn chưa dứt thì từ dưới chuồng ngựa chợt vang lên tiếng hí dài ai oán của con lừa, phá tan màn đêm yên tĩnh.

Thường ngày, vẫn là Vi Huấn trông nom con lừa gầy kia. Từ khi hắn mất tích, hai ngày qua chẳng ai còn tâm trí chăm sóc, cỏ khô cũng bữa đói bữa no. Nó đã sớm nảy lòng bất mãn. Tiếng lừa ré inh tai, kế tiếp là tiếng k** r*n đau đớn của một người đàn ông vọng lên từ dưới chuồng.

Bảo Châu lập tức ngưng lời với Thập Tam Lang , giương cung bước tới cửa sổ, tra tên vào dây, nheo mắt nhắm xuống dưới sân. Người nọ bị con lừa đá thốc một cước vào sườn, loạng choạng bỏ chạy khỏi chuồng, chưa kịp định thần thì trên đầu chợt có luồng gió lạnh vụt qua một mũi tên lao đến xuyên thủng khăn vấn tóc, cắm thẳng như một chiếc trâm lớn vào búi tóc.

Người kia hoảng hốt, sờ l*n đ*nh đầu sờ được cán tên, ngước nhìn lên, thấy một nữ tử đứng sau cửa sổ tầng hai đang giương cung trừng mắt nhìn hắn. Nếu mũi tên kia hạ thấp thêm hai tấc, e là đã mất nửa con mắt. Ý tứ “giơ cao đánh khẽ” lúc này hiểu ra thật rõ ràng.

Người lạ ôm sườn, đau đớn rên một tiếng, thấp giọng nói: “Xin người nương tay! Là công tử Tiểu Hồ phái ta đến thăm hỏi Châu nhi cô nương có an ổn hay không!”

Một câu ấy vừa thốt ra, tim Bảo Châu như nổi trống, đập dồn dập đến mức hỗn loạn cả hơi thở huynh trưởng của nàng, tên là Lý Nguyên Anh, nhũ danh chính là Tiểu Hồ, mà tên cúng cơm “Châu nhi” của nàng, ngoài cung không ai biết tới.

Từng ấy thời gian trôi qua, gần một tháng trời, nàng đâu ngờ giữa cảnh tượng rối ren thế này lại được nghe mấy lời thân thuộc tưởng như đã quên.

Bảo Châu cố nén cơn xúc động cuộn trào, giọng khẽ run nhưng kiên quyết phân phó: “Đi! Mở cửa, đưa hắn lên đây!”

Thập Tam Lang giật mình: “Người lạ đó! Đệ… đệ chưa chắc ứng phó nổi…”

“Giờ đây, ai đối với tỷ mà chẳng là người lạ! Cũng đâu thiếu một kẻ!”

Bảo Châu gắt lên, thúc giục. Thập Tam Lang chẳng còn cách nào, đành xách gậy đi xuống dưới.

Đêm nay sao mà sóng gió không ngớt Thất Hoắc vừa đi, lại đến thêm một kẻ thân dính đầy phân lừa, người ngợm lấm lem, dáng vẻ thật là chật vật. Thập Tam Lang bất đắc dĩ đưa hắn lên lầu hai, soi đuốc nhìn kỹ mới thấy là một người trung niên, tầm tuổi bốn mươi, ăn mặc theo kiểu tiểu thương, dáng vẻ nhã nhặn, mặt trắng, để ba chòm râu mảnh dài. Vì bị lừa đá vào sườn, hắn phải chống tay mà bò từng bậc cầu thang, mặt mày nhăn nhó vì đau.

Lúc ấy, chủ tiệm cũng bước ra, Thập Tam Lang vội chống chế, nói là mình bị lừa đá khi cho nó ăn thêm cỏ ban đêm, mới làm ầm ĩ. Chủ tiệm nghe vậy, lắc đầu cười khổ rồi quay vào.

Vào đến phòng, Bảo Châu vẫn chưa hạ cung, lạnh giọng hỏi: “Lời vừa rồi, lặp lại một lần nữa!”

Người kia liếc nhìn Thập Tam Lang một cái, không nói gì, chỉ lấy từ ngực ra một quyển sổ nhỏ gấp vuông và một chiếc túi bạc, hai tay cung kính đưa tới trước mặt Bảo Châu.

Nàng cơ hồ không còn sức giữ dây cung. Túi bạc kia là tín vật đeo hông của quan viên triều đình, trong đựng Ngư Phù vật để chứng minh thân phận. Nàng vội treo cung vào khuỷu tay, tay run run đón lấy quyển sổ, mở ra xem.

Đó là giấy thông dụng của triều đình, mực đen nét rõ, trên có dấu quan ấn của Lại Bộ, ghi tên người là Dương Hành Giản, phụ tá cho thân vương phủ, thuộc hàng quan lục phẩm. Còn túi bạc là vật phẩm dành cho quan từ ngũ phẩm trở lên, được ban vượt cấp là biểu trưng cho sự tín nhiệm đặc biệt.

Người nọ quỳ xuống hành đại lễ, thở nhẹ nói: “Châu nhi cô nương vạn an! Là công tử Tiểu Hồ phái ta tới.”

Nghe đến đây, nước mắt Bảo Châu bỗng trào ra, nghẹn ngào hỏi: “Ngươi là ai? Huynh ta… huynh đã biết ta chưa chết sao?”

Dương Hành Giản vẫn còn dè chừng nhìn Thập Tam Lang , không trả lời ngay, dáng ngồi ngay ngắn, hai tay đặt lên đầu gối, thần sắc đoan trang, nho nhã như bậc văn sĩ, trái ngược hẳn với thân phục lấm lem bụi đất.

Bảo Châu liền trấn an: “Chú tiểu này đã sớm biết thân phận ta, ngươi cứ nói, không ngại gì đâu.”

Nghe vậy, người kia mới khẽ gật đầu, nghiêm giọng đáp: “Thần là Dương Hành Giản, chủ bộ dưới trướng Thiều vương. Khi điện hạ còn ở U Châu, nghe tin công chúa hoăng thệ liền đau lòng tột độ, suốt ngày chẳng màng cơm nước. Người trước sau đều không tin công chúa đột tử vì bệnh, liền ban tín vật này lệnh cho thần bí mật vào Trường An điều tra chân tướng.”

Bảo Châu oà khóc, Dương Hành Giản cũng rơi lệ vì xúc động. Hai người đối diện mà khóc rống, cảm xúc dâng trào đến cực điểm.

Nàng nức nở hỏi: “Sao giờ ngươi mới đến? Đã điều tra được gì về chuyện ta ‘chết’ chưa?”

Dương Hành Giản nức nở thưa: “Thần thật sự thẹn với lòng, người Thiều vương điện hạ sắp đặt bên cạnh công chúa, toàn bộ đều bị giết rồi.”

“Huynh ấy cũng xếp người theo dõi bên cạnh ta sao?”

Dương Hành Giản lau nước mắt, giọng nhỏ nhẹ: “Điện hạ khi bị vu oan phải lui về U Châu, lòng canh cánh không yên, chỉ sợ công chúa cũng bị kẻ khác hãm hại, vì thế mới âm thầm bố trí tai mắt mong sao có thể nắm bắt tin tức bình an của người từng ngày từng giờ.”

Bảo Châu rơi nước mắt, cười khổ: “A huynh xưa nay thận trọng là vậy, đáng tiếc ta vẫn không thoát được họa sát thân. Thế… khi nào ngươi biết ta còn sống?”

Dương Hành Giản lấy trong ngực ra một mảnh vải được gói cẩn thận. Khi mở ra, bên trong là một chiếc giày nhỏ, dính đầy bùn đất, đầu mũi khảm ngọc nạm vàng, đế cong cong nhọn chính là đôi hài mà nàng từng mang lúc nhập táng.

“Ở Trường An, thần không lần ra được manh mối gì, chỉ tình cờ nghe được lời đồn ngoài cổng An Hóa, có một người điên xưng là Châu nhi công chúa, muốn vào thành nhưng bị gia nhân áp giải đi.”

Bảo Châu đỏ mặt, nhẹ giọng: “Là ta.”

Dương Hành Giản kể tiếp: “Không còn đầu mối nào khác, thần đành lần theo lời đồn, ai ngờ lại gặp chiếc giày này bị vùi trong bùn bên vệ đường. Chiếc hài này dùng vân cẩm quý hiếm dệt thành, hoa văn sắc sảo, màu nhuận rực rỡ, tuyệt chẳng phải thứ dân gian có thể có được, thần vì vậy mới nghi ngờ.”

Bảo Châu nhớ lại đoạn đường khi ấy, từ chùa Thúy Vi lầm lũi đi bộ về Trường An, lòng rối bời, thân thể rã rời. Vì giày chật khó đi, nàng đã tháo ra ném bừa. Không ngờ kẻ trước mắt lại có thể để tâm đến mức đó, nhặt được một chiếc giày nát giữa đồng mà lần ra dấu vết nàng.

Giày dép là đồ riêng tư của nữ nhi, chẳng nên để người ngoài giữ lấy, Dương Hành Giản sau khi cáo lỗi, cung kính trao trả lại cho nàng.

“Thần cải trang làm tiểu thương, đi lại dò xét quanh vùng, mất mấy hôm mới tìm được tung tích công chúa. Khi ấy, linh cữu đã được nhập thổ, thần giật mình trong lòng nghi ngờ, không dám tùy tiện ra mặt, đành âm thầm dõi theo. Mãi đến khi tận mắt chứng kiến công chúa giương cung, thần mới dám chắc là người thật, chứ chẳng phải ai giả dạng.”

Bảo Châu gặng hỏi: “Chủ bộ nếu đã sớm nhận ra ta, vì sao đợi mãi đến hôm nay mới đến gặp, lại còn vào lúc nửa đêm thế này, suýt nữa bị con lừa đá chết?”

Dương Hành Giản mặt bỗng sa sầm, lén nhìn Thập Tam Lang mấy lần, lưỡng lự muốn nói mà không dám, vẻ mặt hết sức kỳ quái: “Thần vốn định sớm ra mặt, nào ngờ… nào ngờ công chúa bị kẻ gian bắt cóc. Thần chỉ là thư sinh yếu đuối, chẳng có sức địch lại, đành theo dõi từ xa, chờ thời cơ.”

Nói tới đây, cuối cùng nhịn không được, ông nghẹn ngào cúi sụp xuống đất, nức nở khóc rống.

“Kẻ kia theo sát công chúa từng bước, thần chẳng dám lại gần. Mắt thấy công chúa chịu nhiều gian khổ, thần tự biết tội lớn muôn phần!”

Bảo Châu đang ngấn lệ, nghe xong mà sửng sốt. Nàng và Thập Tam Lang nhìn nhau, chú tiểu kia cũng chẳng biết nên khóc hay nên cười, mặt mũi lúng túng hết sức.

“Kẻ gian nào? Ai bắt cóc ai?” – nàng hỏi.

Dương Hành Giản giọng nghẹn ngào: “Chính là tên áo xanh dắt lừa ấy! Hắn từng mấy lần giữa đêm đập cửa sổ, ép thần phải khai ra thân phận. Thần cắn răng không chịu, liền bị hắn dùng đủ loại tra tấn, thậm chí còn treo lên cột cờ phơi suốt một đêm. Có lần thần muốn viết thư về cầu cứu Thiều Vương, may mắn nuốt tờ giấy vào bụng mới giữ được bí mật. Xin công chúa xem…”

Ông lật cổ áo, để lộ dấu tay thâm tím hằn ở cổ, hệt như từng bị người ta bóp đến ngạt thở, vết bầm vẫn chưa tan.

“Hai hôm trước, tên kia đột nhiên mất dạng, thần dõi theo mới dám đến nhận người trong đêm. Công chúa, xin mau rời khỏi nơi hiểm ác này cùng thần!”

Bảo Châu chột dạ nhìn sang Thập Tam Lang , hắn cũng co ro bất an, lặng lẽ buông gậy gộc xuống đất.

Hiểu lầm này khiến người ta thật kinh ngạc.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 27


Bảo Châu lúng túng, khẽ liếc sang Thập Tam Lang . Chú tiểu cũng co người lại, vẻ mặt lấm lét, lặng lẽ buông cây gậy dùng để phòng thân xuống đất.

Hiểu lầm này quả là to chuyện.

Thập Tam Lang ấp úng giải thích: “Sư huynh… sư huynh tưởng ngươi là người xấu… Ai bảo ngươi cứ len lén bám theo Cửu Nương! Hỏi cũng không chịu nói, dọa cũng không đi, cứ dai như keo, càng nhìn càng thấy khả nghi. Sư huynh chỉ còn cách ngày đêm canh chừng, sợ ngươi làm điều bất lợi với tỷ.”

Dương Hành Giản tức đến tím mặt, chỉ vào vết bầm trên cổ, lớn tiếng mắng: “Tiểu hòa thượng chớ có ăn nói bừa bãi! Rốt cuộc ai là kẻ ác?! Hắn mấy phen định lấy mạng ta cho hả giận đó!”

Thập Tam Lang thở dài: “Đại sư huynh nếu muốn giết ngươi thì một trăm cái đầu cũng chẳng còn. Hắn chẳng qua thấy ngươi chưa thật sự làm điều gì mờ ám nên mới nương tay mà tha thôi.”

Dương Hành Giản run người vì giận, giọng đầy phẫn uất: “Công chúa ngày ngày âu sầu, khóc không ngớt, đó chẳng phải là vì bị áp chế sao?! Thử hỏi người bình thường có thể sống như vậy ư? Các ngươi sao lại dám trắng đen đảo lộn, nói ngược thành xuôi?!”

Thập Tam Lang bị mắng đến tròn mắt, lắp bắp: “Chẳng qua là tỷ ấy ăn phải trái có sâu thì khóc, không phải tụi ta cố ý khi dễ tỷ ấy đâu…”

Bảo Châu xấu hổ đến đỏ mặt, ho nhẹ hai tiếng che giấu, giọng nhỏ như muỗi kêu: “Chuyện này thật sự là hiểu lầm… Vi Huấn là người ta thuê làm hộ vệ, hoàn toàn không phải là kẻ gian gì cả, chủ bộ không cần quá lo. Hắn tuy thích trêu chọc người, bề ngoài cũng hơi… hơi khả nghi, nhưng chưa từng có hành vi nào thực sự… tệ bạc với ta.”

Nói đến đây, giọng nàng nhỏ dần, có chút không vững vàng. Thật ra, Vi Huấn nhìn qua đúng là dễ khiến người ta sinh lòng nghi ngại. Một kẻ phiêu bạt không nơi nương tựa, mặt lúc nào cũng nở nụ cười giễu cợt, ai hắn cũng chẳng kính, lời ăn tiếng nói lại thô lỗ. Khi xưa ở chùa Thúy Vi mới gặp, nàng cũng chỉ vì không còn ai để trông cậy mới phải miễn cưỡng nhờ hắn làm hộ vệ. Dọc đường, hắn khiến nàng tức đến phát khóc không dưới vài lần.

Khác hẳn những kẻ giang hồ cục mịch như Lưu Mậu, Hoắc Thất Lang, nàng và Dương Hành Giản vốn xuất thân từ nhà thế tộc, từ nhỏ đã nghe kể bao chuyện về “tôi tớ gian tà át quyền chủ nhân”. Sau loạn Thiên Bảo, thiên hạ đại loạn, lễ nhạc suy vi, nhiều chuyện tỳ nữ soán vị, nô tài bức hại chủ nhân đã chẳng còn là điều hiếm lạ, thậm chí ngay cả hoàng đế cũng từng bị nội giám nắm thóp. Thế nên khi thấy Vi Huấn vô lễ, thái độ bất kính, Dương Hành Giản đoán hắn là hạng nô tài phản chủ, cũng là chuyện dễ hiểu. Huống hồ, công chúa nay thân thế cô độc, tuổi còn trẻ, nhan sắc khuynh thành chẳng phải là đích ngắm dễ bị lạm dụng hay sao?

“Tóm lại, ở đây không hề có chuyện ép buộc hay áp chế gì hết, chủ bộ không cần lo nghĩ quá xa.” – Bảo Châu lên tiếng đính chính.

Dương Hành Giản tuy ngoài mặt kính cẩn vâng lời, song trong lòng vẫn dậy sóng ngờ vực. Trong mắt ông, công chúa vốn ngây thơ lớn lên nơi thâm cung kín cổng cao tường, nay lại rơi vào tay kẻ thô bạo tàn độc, tất phải chịu đủ đòn roi và đe dọa. Chẳng qua nàng sợ hãi, không dám nói thật mà thôi.

Ông nghĩ: “Công chúa là báu vật của hoàng tộc, vậy mà giờ lưu lạc vào tay kẻ gian, chịu đựng khổ nhục không ai hay biết, lại còn phải giả vờ an ổn. Làm thần tử, há có thể không đau lòng? Ta càng phải cẩn trọng, hết lòng bảo vệ, giữ gìn thanh danh và phẩm giá cho trọn vẹn.”

Thiều vương ngày đêm tưởng nhớ muội muội, thương nàng đến phát điên. Giờ đây biết nàng còn sống đã là kỳ tích giữa trần thế. Cho dù thân này có tan xương nát thịt, vượt nước băng rừng, ông cũng quyết phải đưa nàng an toàn trở về U Châu.

Lòng đã rõ ràng, Dương Hành Giản không nói thêm lời nào, chỉ dùng ánh mắt đầy xót xa mà lặng lẽ dõi theo nàng.

Bảo Châu trông thấy ông áo quần tả tơi, thương tích đầy người, nghĩ đến những ngày qua chắc hẳn bị Vi Huấn dằn vặt chẳng ít. Tuy chỉ là hiểu lầm, nhưng một kẻ văn nhược, đến lừa còn không đánh nổi, vậy mà vẫn cắn răng chịu đựng, nhất quyết không khai thân phận nàng, một lòng tìm cách cứu viện như thế chẳng phải là bậc trung thần gan dạ, xứng đáng được huynh trưởng nàng tin tưởng sao?

Nàng cũng thầm thương xót nhìn ông, ánh mắt chan chứa ân tình.

Hai người lặng lẽ nhìn nhau, trong lòng cùng một niềm đồng cảm.

Bỗng Bảo Châu khẽ “à” lên một tiếng, như sực nhớ điều gì. Thì ra mấy ngày gần đây Vi Huấn hay thất thần, sinh hoạt cũng khác thường thì ra là bởi luôn dè chừng người lạ bám theo. Hắn tưởng Dương Hành Giản là kẻ địch, lại không rõ thân phận, thấy bị theo mãi không dứt, muốn thoát cũng không dễ, trừ phi ra tay ác độc. Hắn rõ ràng không làm, chỉ ngồi rình rập canh chừng, chẳng phải là đang cố nhẫn nại hay sao?

Nghĩ vậy, nàng càng thêm bối rối, cảm thấy mọi việc xung quanh người kia, càng lúc càng trở nên khó đoán.

Giữa lúc trầm tư, bên ngoài chợt vọng tới tiếng nha dịch điều tra. Tiếng bước chân rậm rịch, tiếng quát tháo mỗi lúc một gần…

Dương Hành Giản ngập ngừng rồi hỏi: “Thần có một điều nghĩ mãi không thông, xin hỏi công chúa, người làm sao có thể thoát ra được từ địa cung?”

Bảo Châu thở dài nặng nề:
“Chuyện đó lại là một chuyện kỳ quái, nếu nói ra thì chẳng ai tin. Có dịp rảnh rỗi, ta sẽ kể rõ cho ngươi nghe. Bây giờ, điều phải lo lắng là ta không có giấy tờ chứng minh thân phận. Ngô Trí Viễn vừa ban lệnh đóng thành bắt giặc, nếu tra xét tới nơi này, sợ rằng ta sẽ bị nghi ngờ, phiền toái không nhỏ.”

Dương Hành Giản mỉm cười: “Công chúa không cần lo, thần đến đây là để giải quyết chuyện đó.”

Vừa nói, ông vừa lấy ra một quyển hộ tịch thật, trong đó ghi rõ tên họ, tuổi tác, thân phận của sáu người trong một hộ gia đình.

Ông chỉ tay vào một dòng: “Nữ – Dương Phương Hiết – mười lăm tuổi, con gái”, rồi nói: “Xin công chúa chịu chút thiệt thòi, tạm thời mượn danh nghĩa là nữ nhi của thần.”

Bảo Châu nhận lấy hộ tịch, chăm chú xem kỹ, vui mừng nói: “Ngươi làm việc quả thật chu toàn.” Rồi nàng lại hỏi: “Nhưng Phương Hiết thật sự là nữ nhi của ngươi sao? Hiện giờ người ấy ở đâu?”

Dương Hành Giản đáp, giọng đều đều: “Là trưởng nữ của thần. Năm nọ lâm bệnh nặng rồi mất, nội tử trong nhà vì thương tiếc mà dặn thần giữ nguyên hộ tịch, chưa từng gạch bỏ.”

Bảo Châu nghe xong, không khỏi lặng người. Nhìn Dương Hành Giản thần sắc bình thản, nàng thấy trong lòng dậy lên một nỗi cảm khái khó tả.

Có được tờ hộ tịch này, nàng liền trở thành người dân có danh phận hợp pháp, không còn sợ bị nha lại tra xét. Sau này đi đường, qua trạm kiểm cũng thuận tiện hơn rất nhiều. Chỉ tiếc, giờ phút này Vi Huấn vẫn chưa trở về, khiến lòng nàng không khỏi canh cánh.

Dương Hành Giản hỏi tiếp: “Vậy… tên hộ vệ áo xanh kia hiện giờ đang ở đâu?”

Bảo Châu chau mày, lắc đầu: “Ta cũng không rõ. Hắn chỉ nói ra ngoài giải quyết một việc, rồi mãi không trở lại. Sau đó chẳng bao lâu thì có lệnh đóng cổng thành.”

Dương Hành Giản trầm ngâm. Trong lòng ngờ vực: “Tên áo xanh kia biến mất ngay lúc thành bị đóng, e rằng hắn chính là trọng phạm đang bị truy nã, sợ bị tra xét thân phận nên trốn đi mất. Nếu vậy, việc đóng thành lại vô tình cứu được công chúa.”

Ông vốn là người mưu lược trong phủ thân vương, nghĩ ngợi một lát đã sắp xếp được kế sách, liền nói: “Không cần gấp gáp rời đi trong đêm. Thần sẽ chuyển sang ở tại tiệm nhà họ Tôn, vừa tiện gần gũi để chăm sóc, vừa dễ ứng biến. Chỉ là, tiểu sư phụ đây e phải tạm rời đi nơi khác.”

Thập Tam Lang sửng sốt: “Sao lại thế? Đại sư huynh bảo ta ở lại để chăm sóc Cửu Nương.”

Dương Hành Giản nghiêm nghị nói: “Tiểu sư phụ chưa rõ tình hình, hiện trong thành đang nghiêm tra những tăng nhân từ nơi khác tới. Nếu ở đây, ngươi sẽ khiến công chúa gặp nguy.”

Thập Tam Lang cãi lại: “Ta có giấy tăng tịch, đã đăng ký ở chùa Liên Hoa, không phải là tăng nhân lang thang.”

Dương Hành Giản vờ ngạc nhiên: “Gì cơ? Đã đăng ký tại chùa Liên Hoa mà ngươi không trở về? Giờ quan phủ đã giam lỏng toàn bộ tăng nhân trong chùa, nếu ngươi còn lang thang bên ngoài, sẽ bị xem là lẩn trốn rồi liên lụy đến công chúa!”

Bảo Châu giật mình: “Sao lại như vậy? Ngươi mau nói rõ ràng.”

Dương Hành Giản gật đầu giải thích: “Chùa Liên Hoa chính là nơi xảy ra vụ mất trộm bảo châu. Tăng nhân trong chùa đều bị nghi ngờ. Những người như ngươi dù là tăng tạm đăng ký cũng bị xem như người trong chùa. Hiện phần lớn đều bị giữ lại trong chùa, không được ra ngoài, chờ kết quả điều tra.”

Bảo Châu lo lắng, biến sắc: “Hắn đã ghi danh, có chữ lưu tại tăng đường. Nếu bị bắt ngoài chùa, chắc chắn sẽ bị quy là bỏ trốn, tội trạng càng nặng!”

Dương Hành Giản gật đầu: “Phải lập tức trở về chùa điểm danh. Cứ nói ở nhà thí chủ nghỉ nhờ vài hôm, ngươi còn nhỏ tuổi, chắc sẽ không bị nghi ngờ.”

Thập Tam Lang vẫn chần chừ: “Ta đi rồi, Cửu Nương phải làm sao?”

Bảo Châu gắt: “Đệ hiểu gì chứ! Bị bắt làm tội nhân sẽ bị tra khảo đòn roi, không phải chuyện chơi!”

Thập Tam Lang điềm nhiên: “Đệ từ nhỏ đã bị đánh quen rồi, không sợ.”

“Đệ nói bậy! Tra khảo không phải là đánh đòn bình thường! Đó là cực hình! Đệ muốn chết sao!”

Bảo Châu quýnh quáng, vội vàng lôi một chiếc tay nải ra, đem đồ đạc cần dùng và một ít lương khô gói gọn, nhét vào tay Thập Tam Lang : “Xem kỹ còn thiếu gì không. Trời vừa sáng, lập tức đến chùa Liên Hoa điểm danh. Nhớ phải tỏ ra ngây thơ, nói mấy hôm nay ra ngoài hóa duyên, vừa nghe tin nha dịch sắp tra xét thì vội chạy về.”

Thập Tam Lang còn lưỡng lự: “Đệ đi rồi, ai chăm sóc Cửu Nương?”

Dương Hành Giản bước tới, dịu giọng khuyên nhủ: “Ngươi đi, công chúa mới được an toàn. Nếu bị bắt tại khách đ**m, tất nhiên sẽ bị giải về nha môn tra xét thân phận, lúc ấy mọi người sẽ bị liên lụy. Dù tiểu sư phụ có cứng đầu gan dạ, nhưng công chúa là người cao quý, sao có thể bị mang gông xiềng, chịu nhục giữa phố chợ?”

Thập Tam Lang nhất thời sững người, không biết nên làm sao.

Vi Huấn không có mặt, một mình hắn tuổi còn nhỏ, đầu óc đơn giản sao có thể địch nổi một người cáo già mưu lược như Dương Hành Giản. Vị tham mưu này chỉ vài lời đã nhìn thấu lòng hắn, biết rõ hắn quan tâm đến Bảo Châu, liền mượn cớ mà sắp đặt đâu vào đó.

Khi trời vừa sáng, dưới sự thúc giục của Bảo Châu, Thập Tam Lang rời khỏi khách đ**m, quay lại chùa Liên Hoa điểm danh.

Dương Hành Giản thì cho gọi một tiểu đồng, chuyển hành lý từ quán trọ khác về, lấy danh nghĩa là phụ thân Phương Hiết, chính thức dọn vào tiệm nhà họ Tôn, trở thành người giám hộ mới của nàng.

Ông đã bỏ công dò xét, đối phó trăm mối hiểm nguy, cuối cùng cũng đưa được công chúa thoát khỏi tay “kẻ gian”, cắt đuôi bọn theo dõi, che chở nàng dưới cánh mình. Trong lòng hân hoan nhẹ nhõm, bao nhiêu vết thương bị đánh, bị lừa đá lúc này cũng thấy không còn đau nữa.

Chỉ có một điều khiến ông thấp thỏm là chuyện phải giả làm phụ thân của công chúa. Dù biết là tình thế bắt buộc, nhưng trong lòng vẫn thấy như phạm phải điều bất kính, chẳng khác nào tự rút ngắn thọ mệnh của mình.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 28


Nhà của La Thành Nghiệp nằm sát vách hậu viện chùa Liên Hoa, hai khu đại viện liền kề nhau, ngăn cách bởi một ngõ hẹp. Cuối ngõ hẹp ấy, chen giữa là một sân nhỏ xíu, chỉ đủ dựng một nửa gian nhà chính, còn gian bên là sương phòng chỉ rộng độ ba bước chân, chật hẹp không thể ở người, nên cho hàng xóm thuê làm phòng chứa đồ. La Thành Nghiệp chết ngay trong gian nhà chính nhỏ hẹp kia.

Huyện úy Hách Tấn đích thân bóc giấy niêm phong có đóng ấn của nha môn, mời Bảo Lãng cùng huyện lệnh Ngô Trí Viễn bước vào xem xét hiện trường.

Xác La Thành Nghiệp cùng đoạn ruột đổ tràn đã được mang về huyện nha làm bằng chứng, chỉ còn lại những vệt máu khô loang lổ khắp sàn. Ruồi nhặng vo ve từng đàn, tanh hôi bốc lên như mùi thịt ôi ngập nước bẩn. Ngô Trí Viễn không chịu nổi, lập tức đưa tay che mũi miệng bằng khăn gấm, suýt nôn ra tại chỗ.

Bảo Lãng thì vẫn điềm nhiên, không lộ vẻ ghê tởm, ngược lại còn chăm chú quan sát bốn phía. Gian phòng này vốn rất nhỏ, đứng giữa nhà đã có thể nhìn rõ cả bốn bức tường. Trần nhà cao hơn chiều rộng, cho thấy căn phòng từng là một gian lớn, sau mới bị đập phá, ngăn lại thành phòng nhỏ.

La Thành Nghiệp đường đường là một tên cầm đầu bất lương, dưới tay có đến ba bốn mươi tên thuộc hạ, vậy mà nhà ở chẳng khác gì bốn bức tường trống trơn. Trong phòng chỉ có một chiếc giường thấp nhỏ kê sát vách, trên mặt giường đến cả tấm chiếu cũng không trải.

Bảo Lãng hỏi: “Sao vắng vẻ đến vậy? Gia sản đều được đưa về huyện nha rồi sao?”

Hách Tấn cung kính đáp: “Bẩm, không có. Nhà hắn vốn dĩ đã trống không như vậy.”

Bảo Lãng cười nhạt: “Đừng nói với ta là tên cẩu này sống thanh liêm đến nỗi nghèo rớt mồng tơi.”

Hách Tấn hạ giọng: “La Thành Nghiệp có tật mê cờ bạc…”

“Đánh bạc đến mức sạch trơn cả nhà, không còn lấy một bộ quần áo lành lặn để mặc? Ngày đầu tiên gặp ta, trên người hắn mặc bộ công phục chẳng vừa người. Không phải hắn không chịu vào, mà là chẳng có bộ đồ nào tử tế để mặc, các ngươi còn phải chạy đôn đáo tìm cho hắn một bộ mới, đúng không? Ha! Các ngươi miệng thì nói không thể sơ suất, nhưng lại đưa cho ta một con bạc đi làm hộ vệ bảo châu.”

Giọng Bảo Lãng lạnh như băng, từng chữ đều mang theo gai nhọn. Giữa trưa oi ả mà mồ hôi trên trán Hách Tấn vẫn chảy ròng ròng như tắm. Gã chỉ dám cúi đầu, không dám nhìn thẳng, nước mắt theo khóe mắt cũng trào ra theo mồ hôi.

La Thành Nghiệp vốn xảo quyệt, ra tay tàn độc, là cánh tay đắc lực của Hạ Khuê huyện, từng khiến đám hắc đạo trong vùng ngoan ngoãn cúi đầu. Quan trên ở phủ Hoa Châu cũng nhiều lần mượn hắn đi phá án. Nếu không vì xuất thân giang hồ, hắn sớm đã được đề cử lên trên. Có lẽ vì biết đường thăng tiến đã hết, lại thêm bị người xúi giục, mà trong năm qua sinh ra tật mê cờ bạc, chẳng mấy chốc đốt sạch tài sản. Hắn còn dùng danh nghĩa bất lương soái đi vay mượn các nhà giàu trong thành để tiếp tục đánh bạc.

Những phú hộ bị hắn moi tiền từng nhiều lần đến nha môn kêu oan. Hách Tấn trong lòng đã sớm căm phẫn, chửi rủa không dưới trăm lần, nhưng cũng đành bó tay. Nếu không vì Ngô Trí Viễn muốn mượn tiếng “Danh bộ số một Hoa Châu” để lấy lòng tiết độ sứ, thì y đã chẳng dám để tên con bạc ấy dính vào vụ trọng án. Nhưng làm quan thì cũng có cái khổ: thành công không được ghi công, thất bại lại một mình gánh hết.

Ngô Trí Viễn chịu không nổi cái cảnh máu tanh trong phòng, che mũi bằng khăn, nói: “Trong phòng chẳng còn gì, vừa nhìn đã biết. Hay là chúng ta ra sân bàn tiếp.”

Ba người cùng bước ra sân. Nơi đó, có một kẻ bất lương trẻ tuổi đang quỳ dưới đất, chờ bị thẩm vấn.

Hách Tấn giới thiệu: “Tên này là Vương Lương Tài, thuộc hạ của La Thành Nghiệp. Chính hắn là người đầu tiên phát hiện xác chết trong nhà.”

Bảo Lãng điềm đạm hỏi: “Kể lại đầu đuôi tình hình lúc đó.”

Vương Lương Tài nuốt khan một cái, giọng khẩn trương: “Bẩm đại nhân, sáng hôm ấy đến ca trực, tiểu nhân có ghé hậu viện chùa Liên Hoa điểm danh. Nghe tin mất châu, tiểu nhân tức tốc chạy về nhà La soái, bảo hắn mau tới hiện trường. Gõ cửa một lúc, La soái mới uể oải ra mở cửa, còn ngáp ngắn ngáp dài. Vừa nghe tin châu bị trộm, hắn cũng giật mình đứng đó…”

Bảo Lãng chau mày, ngắt lời: “Khoan đã, ý ngươi nói khi ấy hắn còn sống? Không phải ngươi mở cửa ra liền thấy xác chết sao?”

Vương Lương Tài hốt hoảng đáp: “Không… không có! Lúc ấy La soái vẫn còn sống. Thường ngày ban đêm trực ca, sáng ngủ bù, hôm đó cũng thế, trên người chỉ mặc áo lót. Nghe tin xong, hắn bảo sẽ thay đồ ngay, rồi kêu tiểu nhân đi trước đến chùa đợi.”

“Sau đó thì sao?”

“Tiểu nhân lại chạy đến gọi Mã Hoành Tráng, rồi hai người cùng nhau đến chùa Liên Hoa. Nhưng đợi mãi mà La soái vẫn không đến. Khi ấy ngài… khụ… ngài tức giận lắm. Tiểu nhân sợ La soái bị trách phạt nên vội quay về giục hắn.”

“Lúc trở lại, đã thấy xác chết rồi?”

Vương Lương Tài gật đầu: “Dạ phải. Tiểu nhân gõ cửa hồi lâu không có ai đáp, chờ mãi không được, đành dùng sức đẩy mạnh, ai ngờ cửa không cài then, chỉ khẽ đẩy đã bật mở…”

Bảo Lãng nói tiếp: “Rồi ngươi thấy thi thể không đầu, ruột gan bị moi ra, nằm giữa nhà, đúng không?”

“Phải, đúng vậy! Đại nhân, tiểu nhân thấy tận mắt tất cả những điều ấy. Mã Hoành Tráng có thể làm chứng.”

Bảo Lãng nheo mắt nhìn, giọng nghi ngờ: “Không có đầu, vậy sao ngươi biết đó là La Thành Nghiệp?”

Vương Lương Tài khựng lại, có vẻ chưa từng nghĩ đến điều ấy, ấp úng đáp: “Người chết ở trong nhà La soái… quần áo cũng là của hắn…”

Hách Tấn thấy Bảo Lãng quá mức tinh tường, trong bụng vừa phục vừa sợ, vội xen vào giải thích: “Bẩm đại nhâm, ngỗ tác đã kiểm tra. Thi thể tuy mất đầu nhưng vóc dáng khớp với La Thành Nghiệp. Hơn nữa, hắn từng trong giang hồ, cánh tay trái có xăm hình một con mãng xà lớn, từ bắp tay chạy dài xuống tận mu bàn tay. Hình xăm ấy không thể giả mạo.”

Sắc mặt Bảo Lãng chợt trầm xuống, giọng trầm như tiếng chuông đồng: “Lại là rắn…”

Vương Lương Tài ngơ ngác, đôi mắt như mơ hồ: “Ruột hắn treo lòng thòng trên xà nhà… nhìn cũng giống một con rắn…”

Hách Tấn sau lưng toát mồ hôi lạnh, gắt lên: “Chuyện không liên quan thì chớ có nói nhảm trước mặt đại nhân!”

Bảo Lãng chẳng buồn để tâm, chỉ thong thả hỏi tiếp: “Từ lúc ngươi thấy La Thành Nghiệp lần cuối đến khi quay lại phát hiện xác, cách nhau bao lâu?”

Vương Lương Tài cúi đầu đáp: “Không đến một nén nhang, bẩm đại nhân. Từ đây sang chùa Liên Hoa đi mất chưa đầy mấy bước chân.”

Bảo Lãng khẽ lẩm bẩm: “Không đến một nén nhang…”

Hắn tính nhẩm thời gian bản thân chạy hết tốc lực từ bảo tháp về nơi này, rồi hỏi tiếp: “Còn gì khác mà ngươi chưa kể?”

Vương Lương Tài đáp: “Tiểu nhân đã kể đi kể lại với huyện úy Hách không dưới mấy chục lượt, không còn gì để giấu.”

Bảo Lãng mỉm cười, giọng nhẹ như gió: “Không cần gấp. Ngươi cứ nghĩ kỹ xem có bỏ sót điều gì không.”

Vương Lương Tài đập đầu xuống đất, khẩn thiết nói: “Đại nhân, quả thật là không có. Tiểu nhân đã ký tên, điểm chỉ rõ ràng trong lời khai.”

Ra khỏi căn phòng nồng nặc mùi máu, Ngô Trí Viễn mãi mới trấn tĩnh lại được, đưa tay lau trán ướt mồ hôi, thấp giọng nói: “Chẳng lẽ thật sự có yêu quái gì đó? Một nén nhang mà chém đầu, moi ruột, treo lên xà thì chẳng phải chuyện người làm được.”

Bảo Lãng bật cười khẽ, vỗ nhẹ lên vai quan huyện, ôn tồn nói: “Minh phủ vốn là xuất thân quan văn, không hiểu cũng không trách được. Kỳ thực, chém đầu không tốn bao nhiêu thời gian đâu… chỉ trong chớp mắt là xong rồi.”

Nói rồi hắn khẽ đưa tay về chuôi đao bên hông. Chẳng ai kịp thấy hắn rút đao ra thế nào, chỉ thấy hoa mắt, tiếp đó là một luồng huyết quang chói lòa, máu văng tung tóe.

Đầu của Vương Lương Tài lăn xuống đất, mặt cắt gọn ghẽ, sạch trơn như lưỡi dao bổ chuối. Bảo Lãng thong thả rút khăn lau máu trên đao, rồi lại chậm rãi tra vào vỏ, động tác nhẹ nhàng như chưa hề có chuyện gì xảy ra.

Hắn nghiêng đầu, mỉm cười hỏi: “Thấy chưa, có phải là nhanh lắm không?”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 29


Trời vừa hửng sáng, những quán cơm sáng nơi đầu đường xó chợ đã bắt đầu nổi lửa nhóm bếp. Tuy cửa thành chưa mở, nhưng người trong thành vẫn cần ăn uống, sinh sống như thường. Chỉ là, từ ngày phong thành, ai nấy đều sợ vạ lây, tiểu quán thưa thớt, cảnh tượng đâu còn được nửa phần náo nhiệt như trước.

Thấy quán bán bánh bột lá liễu thường ngày mình yêu thích không mở cửa, Bảo Châu đành thất vọng mà ghé tạm một hàng rong, mua khối bánh táo lót dạ. Nhưng vừa nếm một miếng đã phải bỏ xuống vị nhạt thếch, chẳng khác nào đất khô trộn bã.

Nàng ngồi tạm vào hàng, vừa hóng gió sớm vừa nghe thực khách chung quanh chuyện trò rì rầm, cũng nhờ vậy mà biết được đôi điều về những vụ án mới.

Đợt lùng soát cả thành lần này quả thật đã khuấy lên không ít sóng gió, ngoài dự đoán lại lần ra nhiều án cũ: kẻ giết người bỏ trốn nhiều năm bị bắt, ba tên tiểu lại nhận hối lộ cũng sa lưới, thậm chí lộ ra cả chuyện gian dâm vụng trộm giữa mấy đôi nam nữ trong dân gian. Nhưng cốt lõi nhất vụ trộm ngọc giết người trong tháp Phật thì vẫn cứ mù mịt chưa tìm ra manh mối.

Tiếng người thì thào khắp quán, ai nấy hạ giọng thì thầm, nhắc chuyện người này bị bắt, kẻ kia bị tra đến sống dở chết dở, da thịt không còn chỗ nào lành lặn. Lại có cả chuyện nha dịch lấy thù riêng làm cớ, bịa đặt lý do để bắt người vô tội bỏ tù. Huyện nha quá tải, tù nhân chen chúc, thậm chí còn phải dựng thêm mấy gian lều tạm để nhốt người.

Người kể, kẻ nghe, ai cũng rùng mình ớn lạnh, trong lòng hoảng hốt, sợ bị vạ lây. Giữa lúc ấy, không biết từ đâu dấy lên những lời đồn rùng rợn, chuyện ma quỷ quái đản lại lan khắp đầu đường cuối ngõ.

“Viên ngọc bạch xà kia rõ ràng không phải vật thường ở trần gian, có khi là oan hồn xà yêu sống lại, quay về cướp linh châu!”

“Phật tháp trấn giữ bao năm, yêu ma nào dám bén mảng? Duy chỉ có xà yêu mới có thể luồn mình vào trong tháp được.”

“Thi thể La Thành Nghiệp bị mổ xẻ, có kẻ bảo là bị rắn nuốt nửa người rồi!”

“Tội lỗi quá, Bồ Tát trấn giữ ngôi tháp ấy, ngài vốn ghét điều ác như thù, yêu tà nào dám hoành hành dưới mắt ngài chứ?”

“Chỉ cần án này chưa phá, ắt hẳn thù xưa chưa nguôi, cả thành Hạ Khuê này e rằng chưa yên được đâu!”

Lời đồn thêu dệt mỗi lúc một ly kỳ, bởi vụ án vẫn còn bị giữ kín, dân gian không rõ thật hư. Nếu gom góp hết lại, e rằng đủ viết thành một quyển truyện truyền kỳ rùng rợn.

Dương Hành Giản đứng bên cạnh, khẽ nghiêng mình nói nhỏ: “Chúng ta về thôi. Vụ án này rồi có phá hay không cũng không liên quan đến ta. Chờ cửa thành vừa mở, thần sẽ lập tức đưa công chúa rời khỏi Hạ Khuê, theo hướng Đông mà đi.”

Bảo Châu không đáp, nhưng ánh mắt đượm sầu, tâm trí vẫn mãi quẩn quanh hai vị sư huynh đệ. Vi Huấn rốt cuộc đang ở đâu? Hắn có dính líu gì đến vụ này không? Nếu vô can, sao mãi không xuất hiện? Nếu quả thật gặp nguy, chí ít cũng nên để lại cho nàng một lời, một dấu vết. Vậy mà hắn đi không từ biệt, quả thật khiến người giận thấu ruột gan.

May mà nhờ tay thật do Dương Hành Giản mang tới, nàng mới có thể dễ dàng qua được vòng tra xét ban đầu của quan phủ mà không bị làm khó dễ. Sau đó, cả hai cùng trở về khách đ**m, đóng cửa lại mới kể hết cho nhau nghe những chuyện xảy ra dưới lòng đất. Bảo Châu từ tốn kể lại cảnh bị chôn sống và được Vi Huấn đào lên cứu thoát thế nào. Dương Hành Giản nghe mà rợn tóc gáy, cảm thán không thôi: “Công chúa đúng là phúc lớn mạng lớn, thoát khỏi cửa tử, tương lai ắt có hậu phúc.”

Trong lòng hắn lại càng thêm phức tạp. Kẻ dám trộm mộ hoàng tộc, đúng là to gan tới mức không thể tưởng tượng nổi. Nếu không vì trong lòng không có ác ý với công chúa, thì nhất định là nhân vật có tài có chí, biết đâu ngày sau có thể vì Thiều Vương mà ra sức. Nghĩ đến đó, vừa sợ, lại vừa tiếc, chẳng biết nên giận hay nên quý.

Bảo Châu hỏi: “Chuyện ta bị chôn sống oan uổng, chủ bộ thấy thế nào?”

Dương Hành Giản không dám nói thẳng hoàng gia sai trái, đành dè dặt đáp: “Thần cho rằng, chuyện này vốn nhắm vào Thiều Vương mà ra tay. Tranh đoạt ngôi vị, vốn là sống còn. Công chúa tuy là nữ nhi, nhưng được thiên tử yêu quý, lại cùng Thiều Vương hợp lực, tất nhiên sẽ trở thành cái gai trong mắt kẻ đối nghịch. Việc này chỉ có thể là do kẻ thù Thiều Vương bày mưu, ra tay độc ác, chứ không phải người ngoài.”

Nói đoạn, hắn đưa tay lên đếm ngón tay, ngón cái vừa bẻ, đã nói: “Đầu tiên phải kể đến Lý Thừa Nguyên.”

Bảo Châu giật mình: “Hắn? Mặt mày đã bị thú cào nát bét, người tàn tật đến thế, còn có thể vùng vẫy gì sao?”

Dương Hành Giản thở dài: “Phế Thái tử từ xưa đã làm càn, hà khắc với dân, dung túng kẻ gian. Dù không bị hủy dung, sớm muộn gì cũng bị phế. Sau khi hắn mất thế, người có thực lực nhất chính là Thiều Vương. Nếu Quý phi còn sống, với sự sủng ái của ngài, những hoàng tử khác vốn chẳng có cửa chen chân. Đáng tiếc thay, mỹ nhân bạc mệnh…”

Nhắc đến mẫu thân, Bảo Châu không khỏi đỏ hoe đôi mắt. Đúng vậy, nếu Quý phi còn sống, thì bao bão tố trong chốn hậu cung nàng cũng chẳng cần bận tâm. Mẫu thân sẽ dang đôi cánh bảo hộ cho nàng như vẫn từng làm thuở nhỏ.

Hoàng đế đối với Quý phi xưa nay thâm tình, nếu không vì giữ vững thế cân bằng triều chính, bà đã sớm danh chính ngôn thuận làm Hoàng hậu. Trên thực tế, sau khi phế bỏ Lý Thừa Nguyên, việc lập hậu đã được bàn đến, mọi thứ đều đã chuẩn bị, chỉ còn chờ ngày lành tháng tốt. Nào ngờ đâu, Quý phi chưa đợi được ngày ấy thì đã mất máu mà chết. Sách phong cùng ngọc tỷ đành phải đặt lên linh đường mà thờ.

Bảo Châu lặng lẽ lau nước mắt. Dương Hành Giản thì khẽ khàng an ủi: “Đợi cửa thành mở, thần sẽ lập tức gửi thư về U Châu, báo cho điện hạ biết công chúa bình an. Điện hạ nhất định sẽ mừng rỡ khôn xiết. Chờ người an ổn đến nơi, chúng ta lại bàn bạc tính toán món nợ này cho rõ ràng.”

Hai người đang bàn bạc chuyện cơ mật, lòng còn chưa kịp thả lỏng thì bất chợt bên ngoài khách điế.m ầm ầm tiếng động, kèm theo tiếng người la hét hỗn loạn. Cửa bị xô bật mở, một đám người tràn vào. Cả hai không hẹn mà cùng giật thót.

Dương Hành Giản vội hé cửa sổ, ghé mắt nhìn ra ngoài. Chỉ thấy một toán nha dịch mang đao gươm xông vào, đá tung quầy tiệm, lớn tiếng quát tháo, đòi lùng bắt phạm nhân trốn tránh. Chủ tiệm chỉ khựng lại một chút, đã bị túm cổ áo lôi ra, lĩnh mấy bạt tai trời giáng đến bật máu mũi máu miệng. Hắn run rẩy chỉ tay về hướng gian phòng nơi Bảo Châu đang ở.

Dương Hành Giản cả kinh, mặt cắt không còn giọt máu, vội vã đóng sập cửa lại.

Nhưng then cửa gỗ sao có thể ngăn được bọn người như hổ như sói ấy? Một cước tung ra, cánh cửa bật mở, toán nha dịch ào ạt tràn vào. Dương Hành Giản liền như con gà mái xù lông, dang hai tay chắn ngang trước mặt công chúa, lấy thân mình mà che chở.

Bảo Châu nhanh tay rút mũi tên giấu trong tay nải, nhưng ngoài cửa đã có năm sáu tên ào vào, dưới lầu lại nghe tiếng chân dồn dập, rõ ràng người kéo đến không ít. Thậm chí còn có người leo lên nóc, bố trí vòng vây bốn phía, giăng lưới, dựng mác, vũ khí trong tay đều là thứ chuyên dùng để săn thú dữ.

Dương Hành Giản lập tức nghĩ rằng hành tung công chúa đã bại lộ, kẻ địch đến đây là để nhổ cỏ tận gốc. Lòng ông lạnh buốt như tro tàn, thân thể cũng theo đó cứng đờ.

Nhưng rồi bọn nha dịch vừa vào đã quát: “Tên nô tài áo xanh trốn ở đâu?”

Nghe vậy, Dương Hành Giản như người chết sống lại, đầu óc xoay chuyển thật nhanh, liền lớn tiếng đáp: “Chúng ta chỉ là hai cha con đi đường, chẳng hay các người bắt ai?”

Một tên cầm đầu rít lên: “Có kẻ mật báo tên đạo tặc áo xanh trốn trong cửa hàng này. Hắn là nghi phạm trộm châu, giết người! Nếu các ngươi là chủ nhà, thì tức là chứa chấp tội phạm, phải bắt cả hai về tra hỏi!”

Nói rồi sai người mang gông sắt, xiềng xích trói hai người lại.

Dương Hành Giản lập tức phản bác: “Cha con ta thân thế trong sạch, không hề hay biết chuyện nô bộc kia phạm tội gì. Tuyệt đối không phải cố tình bao che!”

Nha dịch liếc thấy sau lưng ông là một thiếu nữ tuổi xuân thì, liền cười khẩy: “Phạm hay không phạm, còn phải vào nha môn thẩm vấn mới biết được. Đánh mấy chục roi, xé da róc thịt, xem ai còn dám giấu lời. Nếu dám chống lại, ta sẽ chém tại chỗ!”

Nói rồi bước lên xô đẩy Dương Hành Giản.

Tình thế cấp bách, Dương Hành Giản hiểu rằng nếu không cản kịp, công chúa sẽ bị lôi đi mang gông chịu hình, e là không còn cơ hội cứu vãn. Ông nghiến răng, dậm mạnh chân một cái, cất giọng như chuông đồng: “To gan! Các ngươi dám ra tay với mệnh quan triều đình sao?”

Cả toán nha dịch sững lại.

Nhân lúc ấy, ông rút trong lòng ra một chiếc túi bạc thêu vảy cá, giơ cao lên trước mặt: “Ta là quan lục phẩm do thiên tử đích thân sắc phong, hiện đang có công vụ trong người, vì thành đóng mà kẹt lại nơi này đã nhiều ngày. Các ngươi còn dám đòi chém ta? Ta sẽ dâng sớ kiện các ngươi đến tận kinh thành!”

Chiếc túi bạc kia được thêu vảy cá tinh xảo, ánh bạc lấp lánh như sóng nước, rõ ràng là vật chứng thân phận chỉ dành cho quan viên phẩm cấp cao. Bên trong đựng nửa miếng Ngư Phù, có khắc rãnh và then móc để khớp với miếng còn lại do nội đình giữ, không thể làm giả.

Bọn nha dịch trước nay chưa từng tận mắt nhìn thấy vật này, nhưng đều từng nghe danh. Cầm lấy soi kỹ một hồi, chẳng phân biệt nổi thật giả, nhưng không ai dám khinh suất ra tay.

Tên cầm đầu liền làm bộ cười nhạt hỏi: “Lão gia sao không mặc quan phục, lại ở trọ trong tiệm dân?”

Dương Hành Giản hừ lạnh, cất túi cá vào ngực, dõng dạc đáp: “Ta ở lại quán dịch thì được, còn nữ nhi thì không. Một ngày hai ngày còn đỡ, nay thành đóng đã lâu, chẳng lẽ để con gái chưa gả phải lăn lộn ngoài đường quán xá? Ăn mặc công phục ở nơi như thế, là mất mặt ta, hay là mất mặt cả thiên tử?”

Bảo Châu hiểu ý, nhẹ nhàng buông mũi tên, xoay mặt vào vách, giả vờ làm cô gái yếu đuối ngượng ngùng.

Dương Hành Giản biết rõ tên nô áo xanh từng ở trọ nơi này, khó lòng giấu được. Ông bèn chuyển hướng, nói: “Đúng là trước kia có thuê một người áo xanh sai vặt, nhưng mới mấy hôm đã bỏ trốn từ trước khi thành đóng. Chúng ta đâu thể ngày ngày canh hắn từng bước? Nếu các ngươi còn muốn gây sự, ta sẽ đến huyện nha gặp Ngô Trí Viễn, tự mình phân trần rõ ràng!”

Người xưa có câu: “Quan cao một bậc, đè chết người”. Dương Hành Giản tuy ở Trường An không có quyền thế gì, nhưng vẫn là quan lục phẩm, cao hơn Ngô huyện lệnh một bậc. Nay thân phận lộ rõ, ông liền tỏ vẻ uy nghi, từng lời từng bước đều mang khí thế quan lớn đè đầu. Thậm chí còn dọa sẽ trở về kinh dâng sớ kiện Ngô Trí Viễn.

Bọn nha dịch vốn tưởng tới đây bắt kẻ áo xanh, nào ngờ lại đụng phải quan kinh thành. Mất công một buổi, không thu được gì, cũng chẳng thể về tay không. Tên dẫn đầu đành phải đưa mắt ra hiệu cho thủ hạ, vội vã chạy ra ngoài, mang chuyện “quan viên lục phẩm cải trang trọ ở cửa hàng nhà họ Tôn” báo lại cho huyện úy Hách Tấn người đang chỉ huy truy bắt từ bên ngoài.
 
Back
Top Bottom