Tâm Linh 20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (PC361-PC423)

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
25/9/25
169,564
0
36
353665611-256-k611619.jpg

20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Tác giả: nikayavoxbox
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Hoàn thành


Giới thiệu truyện:

20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (PC361-PC423) Tags: lvt​
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Bìa


Kinh Pháp Cú: HT Thích Minh Châu dịch ViệtTruyện kể bởi: Thượng tọa Thích Chân QuangViết lời bài học: Cư sỹ, thiền sinh Lương Vinh TriTích Pháp Cú(Tập 7: Pháp cú 361 đến 423)Dự thảo 2023 - Lấy ý kiến chỉnh sửa
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Giới thiệu


Tôi là Cư sỹ, Thiền sinh, Lương Vinh Tri (tên thật là: N.M.D sinh 7/1/1978).

Tôi là một Cư sỹ Phật tử tại gia yêu thích và đam mê Phật Pháp.

Thời gian qua tôi đã nghiên cứu và hoàn thiện một số tác phẩm chủ đề Phật giáo, lịch sử, nhân tướng, ca dao tục ngữ...Tôi đặc biệt yêu thích Kinh Nguyên Thủy Nikaya do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch.

Tác phẩm "Lá trong lòng bàn tay" (Trọn bộ 3 tập dày khoảng 1800 trang) là kiến thức tổng hợp của tôi sau thời gian nghiên cứu 2 bộ kinh: Trung Bộ Kinh Nikaya và Trường Bộ Kinh Nikaya.Bộ sách này tôi xin giới thiệu Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh Nikaya (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka).

Kinh Pháp Cú là các bài thi kệ 4 câu, 5 câu hoặc 6 câu.

Mỗi đoạn nói một đại ý nào đó, cô đọng dễ hiểu.

Vậy nên Kinh Pháp Cú được truyền bá rộng rãi trên thế giới.

Đây là quyển Kinh Phật giáo phổ thông nhất được dịch sang nhiều ngôn ngữ nhất trên Thế giới.Kinh Pháp Cú rất dễ hiểu.

Tôi xin lấy ví dụ:"Ai mặc áo cà sa,tâm chưa rời uế trược,không tự chế, không thực,không xứng áo cà sa."

Kệ Pháp Cú trên Phật dạy: "người tu hành mà tâm vẫn còn tham đắm, không chế ngự được tâm, thực không xứng đáng là người tu".Thường các bộ Kinh Phật đa phần có nghĩa lý sâu xa khó hiểu, nhưng riêng Kinh Pháp Cú lại rất đơn sơ dễ hiểu nên ai cũng thích.

Tuy nhiên tùy theo sức triển khai mà ta có thể thấy được vấn đề sâu bên trong của lời kệ Pháp Cú."

Dhamma" nghĩa là "pháp, đạo lý, chân lý", nhưng ở đây có nghĩa chính là "Lời Phật dạy"; "Pada" là "lời nói, câu nói, câu kệ, câu cú".

"Dhammapada" nghĩa là: "Các câu nói Phật dạy" hay dịch ngắn là "Pháp Cú".Ngoài ra còn nghĩa thứ hai.

Trong ngữ văn Pali "Pada" còn có nghĩa là "Bước chân đi", "Dhamma" nghĩa là "Chân lý" .

Do đó, "Dhammapada" được dịch là "Bước về Chân lý".Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là tập hợp 423 bài kệ.

Đức Phật đã nói ra trong nhiều dịp khác nhau suốt 45 năm giáo hóa.

Các bài kệ được sắp xếp trong 26 phẩm, được kết tập trong Đại hội Kết tập Kinh lần thứ nhất diễn ra sau khi Phật nhập diệt 7 ngày.Những lời dạy trong Kinh Pháp Cú của Đức Phật ngắn gọn.

Nhưng phải nhân một sự kiện gì đó, một nhân duyên nào đó, đến lúc, đúng thời thì Phật mới nói Pháp Cú.

Ví dụ: Nhân thắc mắc của một số Tỳ kheo vì chuyện gì đó mà đến hỏi Phật.

Phật giải thích rõ ràng thỏa đáng về câu chuyện đó... cuối cùng Phật kết luận bằng bài kệ Pháp Cú.

Đó chính là "Tích Pháp Cú" và "Kệ Pháp Cú".Do vậy, mỗi "Tích Pháp Cú" đều có 3 phần: Phần I - Kệ Pháp Cú, Phần II - Truyện tích hình thành Pháp Cú, Phần III - Bài học kinh nghiệm.Phần I - Kệ Pháp Cú: được dịch từ tiếng Pali sang Tiếng Việt bởi Hòa Thượng Thích Minh Châu tại Chùa Vạn Hạnh (1969).

Ngài đã dịch sát nghĩa nhất vì muốn giữ nguyên nghĩa gốc của kinh.Phần II - Tích Pháp Cú: do Thượng tọa Thích Chân Quang giảng trong hệ thống bài giảng Kinh Pháp Cú (từ năm 2006 đến 2016).

Tôi nghe Thượng tọa giảng mà chép lại thành văn.Phần III – Bài học kinh nghiệm: Công đức lớn nhất là của Hòa Thượng Thích Minh Châu và Thượng Tọa Thích Chân Quang.

Tôi chỉ có công ghi chép lại lời 2 vị và thêm lời: "Bài học kinh nghiệm" chia sẻ những suy nghĩ cá nhân tôi mà thôi.Thường ta đọc Kinh Phật ta thấy khô khan, khó nhớ, khó thuộc và không hấp dẫn.

Bởi vì 100% lời kinh là lý thuyết triết học với những triết lý thâm sâu khó hiểu.

Lý thuyết cần phải có thực tiễn làm sáng tỏ.

Nhưng sao ta có thể thấy được thực tiễn của lý thuyết Kinh Phật áp dụng vào đời.Xin ví dụ về Luật nhân quả.

Nhân đời này đến nhiều đời nhiều kiếp sau mới hiện thành quả báo.

Ta không thể thấy được nhân quả trong Tam thế nhiều kiếp sống nếu không có Thiên Nhãn Minh.Thật vi diệu thay "Tích Pháp Cú" là những sự kiện cuộc sống xã hội thời Đức Phật thực tế tồn tại.

Các vị Tỳ kheo chưa chứng A-la-hán thấy sự kiện đó và họ thắc mắc.

Họ mang những thắc mắc đó đến hỏi Đức Phật.

Bằng Thiên Nhãn Minh vĩ đại của một vị Phật, bằng trí tuệ vĩ đại của Đức Phật thì Phật đã giải thích thấu tỏ mọi chuyện vượt giới hạn không gian, vượt giới hạn thời gian.Vậy nên "Tích Pháp Cú" theo tôi là "Tác phẩm thực hành Chánh pháp Đức Phật vĩ đại nhất mọi thời đại".

Đây là một tác phẩm bổ trợ không thể thiếu của Đại Tạng Kinh Phật.

Tác phẩm này đã làm sáng tỏ mọi chân lý Chánh Pháp Đức Phật.Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Chương 26: PHẨM BÀ-LA-MÔN - Pháp Cú 383: Truyện khen Tỳ kheo là A-la-hán


"Hỡi này Bà-la-mônHãy tinh tấn đoạn dứtDòng chảy của dục lạcBiết các pháp Vô thườngNgười là bậc Vô vi."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 383)Tích Pháp Cú: Có vị Bà-la-môn nghe Phật thuyết pháp thì kính tin Tam Bảo và xin quy y Đức Phật.

Sau đó ngày nào ông cũng thỉnh 15 vị Tỳ kheo về nhà thọ trai để ông được cúng dường.

Vì kinh tế gia đình ông không giàu để cúng nhiều hơn.Nhưng có điều rất khổ là ai đến nhà ông đó thì ông đều gọi là A-la-hán.

Thế là suốt ngày ông nói: "Con thỉnh A-la-hán ngồi.

Con thỉnh A-la-hán rửa tay, Con thỉnh A-la-hán thọ trai.

Con thỉnh A-la-hán vào nhà.

Con thỉnh A-la-hán..."

Một thời gian sau thì không ai dám đến thọ trai nhà ông Bà-la-môn đó.

Bởi các vị đó chưa chứng thánh mà cứ bị gọi là A-la-hán thì hoảng sợ không dám đến.Thế là ông không thấy ai đến thọ trai nữa mà không rõ nguyên nhân.

Ông bèn đến hỏi Phật.

- Bạch Thế Tôn, con thỉnh mỗi ngày 15 vị đến dự trai tăng nhà con để con được cúng dường.

Nhưng không hiểu vì lý do gì mà mấy hôm nay không có vị nào tới?Đức Phật mới sai Ngài Xá Lợi Phất đi hỏi nguyên nhân.

Các Tỳ kheo đó mới nói với Tôn giả rằng:- Thưa Tôn giả, tụi con lúc đầu có đi ăn.

Nhưng ông Bà-la-môn đó cứ gọi tụi con là A-la-hán nên tụi con sợ quá không dám đi.Ngài Xá Lợi Phất báo lại với Phật thì Phật gọi các Tỳ kheo đó lên nói rằng:- Này Tỳ kheo, người ta khen là tấm lòng của người ta.

Lòng mình nên thanh tịnh và biết quý trọng lời khen của người.

Nhưng do đó không phải sự thật thì tâm mình không nhận sẽ không có tội.

Hãy coi đó là lời nhắc nhở và mình quyết tu để chứng A-la-hán.Sau đó Phật đọc bài kệ:"Hỡi này Bà-la-mônHãy tinh tấn đoạn dứtDòng chảy của dục lạcBiết các pháp Vô thườngNgười là bậc Vô vi."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 383)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Phản ứng trước "Lời khen"Trong giao tiếng Tiếng Anh khi có ai đó khen bạn thì bạn sẽ trả lời: "Thank you, you're very kind".

Nghĩa là: "Cảm ơn bạn, bạn thật là tốt".

Nghĩa là vì họ là người tốt nên họ khen ta.

Chứ ta chưa được tốt đẹp như lời khen đó.Còn Tiếng Việt khi được người khác khen thì ta hay trả lời: "Thôi mà, anh khách sáo quá", "Thôi anh đừng quá lời", "Thôi mà, tôi có vậy đâu mà anh khen".

Cách ứng xử trong Tiếng Việt trước lời khen là từ chối thẳng thừng.

Nó không tế nhị bằng ngôn ngữ Tiếng Anh vì khiến người khen bị chạnh lòng bởi bị phản đối.Lời khen là tốt đẹp cho xã hội vì cái đẹp được tuyên dương, được đề cao.

Lời khen có lợi cho người nói vì người nói lời khen tâm có sự khiên tốn mới thấy người khác tài giỏi.

Nhưng lời khen có hại cho người nghe vì nó khiến tâm người nghe "giàu trí tưởng bở" mà kiêu ngạo rồi đổ vỡ.Có 3 cách phản ứng trước lời khen:Cách 1: Nhận hết lời khen đó vào mình.Cách 2: Từ chối lời khen và bỏ chạy.Cách 3: Cảm ơn người đã khen vì chỉ người tốt mới khen ta.

Còn bản thân ta cố giữ tâm thanh tịnh và không nhận lời khen nếu nó sai.Cách 1: Khi ta được khen quá đà và ta nhận hết đó vào mình thì tâm ta sẽ kiêu ngạo, khệnh khạng, bố đời, giàu trí tưởng bở, mắc bệnh ngôi sao.

Từ đó ta sẽ thấy ta to lớn vĩ đại, đỉnh của top và khinh thường người khác.

Sau đó ta sẽ đi xuống đều đều.

Đây là "Căn bệnh trầm kha của các ngôi sao" khiến họ không thể tiến lên cao mãi mãi vươn tầm thế giới.Cách 2: Hoảng sợ bỏ chạy không dám nghe lời khen nếu nó quá sự thật.

Đó là những con người đạo đức biết rằng bản thân không xứng được khen như vậy.

Giống các Tỳ kheo đó biết chưa chứng thánh gì.

Tâm vẫn là phàm tục đầy tham sân si.

Thế mà ông Bà-la-môn đó cứ gọi là A-la-hán thì hoảng sợ bỏ chạy không dám tới.Cách 3: là cách chuẩn nhất và khó thực hành nhất.

Bởi hiếm có ai nghe lời khen mà giữ được tâm thanh tịnh.

Vì không thể giữ được tâm thanh tịnh nên đa phần các vị đó không dám nghe khen mà bỏ chạy.Thế nên Phật đã khuyên: "Người ta khen đó là tâm tốt của người ta.

Ta nên biết quý trọng tâm tốt đó của người.

Còn khi tâm ta thanh tịnh thì tự biết ta có tốt đẹp như lời khen hay không.

Nếu lời khen đó quá sự thật thì ta không nhận sẽ không có tội.

Ta nên đặt mục tiêu trở nên tốt đẹp như lời khen đó để phấn đấu".

Đó là cách hành xử đúng đắn nhất và khó nhất.Bài học 2: Tâm lý kẻ hay khen ngườiNgười hay khen người khác có 3 loại:Loại 1: Họ là người tốt nên tâm khiêm tốn.

Vì khiêm tốn nên họ thấy được điều tốt đẹp của người khác.

Từ đó họ khen một cách thật lòng, tán thán, ca ngợi một cách thật lòng.Loại 2: Họ khen với mục tiêu phá hoại, kích động tâm kiêu mạn của kẻ nghe khen, hay khen đểu, khen kiểu mỉa mai, chọn cái xấu xí của người rồi khen thành tốt đẹp để mỉa mai.

Loại 3: Họ khen nịnh bợ muốn chiếm tình cảm của người nghe khen để làm gì đó.Đối với người thứ nhất thì ta trả lời: "Thank you, you're very kind".

Cảm ơn anh, anh thật tốt bụng.

Vì anh là người tốt thì mới khen chứ tôi chưa được vậy.Đối với kẻ thứ hai thì ta cần kiểm soát tâm ta xem có bị kích động hay không?

Ta cầm kiềm chế sự kích động nếu không sẽ mắc mưu kẻ đó.

Chú ý: Lời khen mỉa mai rất dễ làm ta "sôi máu".Đối với kẻ thứ ba thì ta cần đề phòng bởi nếu ta nhận lời khen của một kẻ nịnh thần rồi ta thích nghe lời khen đó.

Sau đó ta sẽ thích giữ kẻ đó ở bên để nghe "rót mật vào tai".

Rồi chết.

Tuy nhiên cũng xin chúc mừng bạn.

Bởi chỉ khi bạn khi làm vua, hay làm chức vụ cao mới có kẻ nịnh thần.Bài học 3: Cảnh giác với lời khen, bình tâm nghe lời tráchĐây là lời dạy của Khổng Tử: "Đối với lời khen ta cần cảnh giác bởi sau lời khen đó có thể là một tai họa.

Đối với lời trách mắng ta nên bình tâm phân tích đúng sai, tìm ra lỗi lầm mà sửa lỗi".Kinh Hàng Ma (Trung Bộ Kinh) kể về Đại Ác Ma Ma-ra muốn phá hoại tăng đoàn của Phật Câu Lưu Tôn thì nó dùng 2 món võ🙁1) Ma Vương nhập vào tâm gia chủ đến chửi mắng Tỳ kheo để Tỳ kheo sân hận.

Tâm sân hận của Tỳ kheo tương ưng với tâm ma thì Ma vương sẽ nhập vào đó quậy quá.

Phật mới dạy Tỳ kheo thiền quán: "Từ - Bi - Hỉ - Xả - Chánh niệm tỉnh giác" thì không giận không sân.

Ma Vương thua hiệp 1.(2) Ma Vương nhập vào tâm gia chủ đến khen tặng, tán dương, nịnh bợ Tỳ kheo để Tỳ kheo kiêu mạn.

Tâm kiêu mạn đó tương ưng tâm ma thì Ma vương sẽ nhập vào đó quậy phá.

Phật dạy Tỳ kheo tu thiền quán: "Vô thường, Vô ngã, Thân này sẽ già bệnh chết, thân sẽ tan thành cát bụi" thì không kiêu mạn.

Ma Vương thua hiệp 2.Thế là Ma Vương thua 2 hiệp thì hết võ.

Nó tức tối nhập vào tâm đứa trẻ ven đường lấy đá ném vỡ đầu một vị A-la-hán.

Sau đó nó đọa địa ngục 1 vạn năm.Vậy nên: "Cảnh giác với lời khen, bình tâm nghe lời trách".

Muốn cảnh giác được, muốn bình tâm được thì ta cần thiền quán: "Từ, Bi, Hỉ, Xả, Chánh niệm tỉnh giác" và "Vô thường Vô ngã, Quán thân sinh, già, bệnh, chết rồi thân tan biến".Bài học 4: Đạo lý Vô Vi"Biết các pháp Vô thường - Người là Bậc Vô Vi".

Vậy Vô Vi mà Phật dạy ở đây là bậc thánh A-la-hán giải thoát Luân hồi, chứng đạt Niết bàn.Nhưng trên con đường đi đến Vô Vi đó thì vị đó phải làm vô lượng vô biên công đức, đạo đức tuyệt đối, diệt sạch mọi tâm xấu.

Ví như Đức Phật thành Phật rồi mà sau đó Phật dành toàn bộ thời gian 45 năm còn lại của cuộc đời để giáo hóa chúng sinh không nghỉ ngơi.

Đó là "đạo lý Vô Vi đích thực".
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 384: Truyện thiền định và trí tuệ


"Nhờ thường trú 2 phápĐến được bờ bên kiaBà-la-môn có tríMọi kiết sử dứt sạch."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 384)Tích Pháp Cú: Có 30 vị Tỳ kheo đi về Kỳ Viên thăm Phật.

Tôn giả Xá Lợi Phất biết căn cơ của các vị và biết vướng mắc trong tâm các vị nên giả vờ hỏi Đức Phật:- Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn giảng cho con về 2 trạng thái?Đức Phật hiểu ý Ngài Xá Lợi Phất bèn giảng về 2 trạng thái.- Này Xá Lợi Phất, có 2 trạng thái là Thiền định và Trí tuệ."

Nhờ thường trú 2 phápĐến được bờ bên kiaBà-la-môn có tríMọi kiết sử dứt sạch."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 384)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Thiền giúp tâm thanh tịnh sáng tỏThường Đức Phật hay ca ngợi 3 pháp là: Giới - Định - Tuệ.

Một vị có phúc lớn sau khi từ bỏ thế gian xuất gia tu hành thì đầu tiên phải tu giữ "Giới hạnh cụ túc" gồm 250 Tăng giới hay 348 Ni giới.

Các Giới đó thì chi tiết, tỷ mỉ, cặn kẽ bó cứng thân tâm ta không cho sai phạm.

Ai tu giới giỏi thì từng ý nghĩ, lời nói, hành động đều được giám sát chặt chẽ không cho phạm giới.

Tu giới là giai đoạn hỗ trợ cho thiền định giúp khai mở trí tuệ.Sau đó vị đó tu thiền.

Tác dụng của tu thiền là giúp tâm thanh tịnh sáng tỏ và lặng im.

Nhờ tâm thanh tịnh mà vị đó thấy lỗi của bản thân mà diệt giúp trí tuệ khai mở.

Kinh Sa Môn Quả (Trường Bộ Kinh) đoạn số 98 Phật nói về thiền khiến tâm thanh tịnh:"98.

Này Đại vương, ví như tại dãy núi lớn có một hồ nước, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm.

Một người có mắt, đứng trên bờ sẽ thấy con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi qua lại hay đứng một chỗ.

Vị ấy nghĩ: "Đây là hồ nước thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm.

Đây là những con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá đang bơi qua lại hay đứng yên một chỗ".Cũng vậy, này Đại vương, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy."

Từ "Thanh tịnh" mà các sư hay dùng là xuất phát từ đoạn Kinh này: "Thanh" là trong vắt.

"Tịnh" là tĩnh lặng.

Đó là hình ảnh hồ nước trong vắt tĩnh lặng trên đỉnh núi cao mà Phật lấy làm ví dụ về tâm một vị Sa-môn tu thiền trong kinh Sa-môn quả.Ta có thể hiểu đoạn kinh đó như sau:"Tâm ta loạn động như một cái hồ nước đục ngầu mà không thể thấy gì trong đó.

Thiền giúp ta lắng đọng và thanh tịnh nội tâm khiến cho nước hồ trong vắt (thanh) và mặt nước hồ yên tĩnh (tịnh).

Khi đó ta sẽ thấy những loài thủy sinh, những con cá bơi lội bơi qua bơi lại, những hòn đá, mô đất, cành cây, cái lá...".Chính nội tâm được thanh tịnh nên mọi lỗi lầm trong tâm đều hiện rõ ràng như con cá, con sò, hòn đá, cành cây, rong rêu trong lòng hồ.Còn tâm không thiền thì cấu uế, nhiễm ô và loạn động.

Nó giống nước hồ đục ngầu và mặt nước sao động nhiễu loạn.

Ta chẳng thể thấy gì diễn ra trong tâm ta.

Khi đó ý nghĩ, lời nói, hành động của ta sai lầm mà không thấy đó là sai.Bài học 2: Trí tuệ là thấy lỗi bản thânTrí tuệ trong đạo Phật là thấy lỗi bản thân để diệt.

Nó khác với trí tuệ ở thế gian là: Tài năng, tài giỏi, khéo léo, thiện xảo, chuyên nghiệp.

Hiểu đơn giản như sau: "Vì ta ngu si nên ta cứ phạm lỗi này lỗi khác.

Còn khi ta khôn ra, thông minh hơn thì ta sẽ không phạm các lỗi đó nữa".Ví dụ: Trẻ con thì trí tuệ kém nên thích chơi game điện tử.

Rồi chúng ảo tưởng hòa nhập vào các nhân vật trong game mà thấy như tài giỏi.

Người lớn thì có trí tuệ nên thấy game là vô bổ, chẳng mang lại lợi ích gì, chỉ là thứ ảo tưởng, sức mạnh ảo tưởng, quyền lực ảo tưởng, tài sản ảo tưởng...

Thế nên người lớn không thích game điện tử.Lỗi lầm bản thân của người thì nhiều vô số.

Khi ta thấy ra được lỗi lầm thì sẽ tìm cách từ bỏ.

Chỉ khi ta không thấy đó là lỗi.

Ta vẫn thấy nó là hay ho hữu ích thì mãi mãi ta chẳng từ bỏ.Thấy lỗi bản thân mà diệt thì trí tuệ tăng trưởng.

Nhưng thấy lỗi người rồi chê bai, khinh bỉ lại là vô đạo đức.

Tu thiền là tâm thanh tịnh để thấy tâm ta.

Nhưng tu thiền lại hướng tâm ra ngoài soi tật xấu của người là thiền sai.

Thiền sai khiến tâm càng ngày càng loạn động có thể "tẩu hỏa nhập ma" là bị điên.Bài học 3: Chỉ quan sát lỗi thì lỗi tự diệtKhó khăn nhất là thấy được lỗi.

Còn khi thấy lỗi rồi thì ta thiền quán và quan sát lỗi một thời gian lỗi sẽ hết.

Giống ta có tật xấu ngoáy mũi lấy "cứt mũi" cho vào mồm.

Thường thì ta không để ý và không thấy nó bẩn, nó sai và xấu xí.

Đến khi ta thấy nó là lỗi sai cần sửa thì chỉ cần quan sát cái tay.

Khi tay thò lên chuẩn bị ngoáy mũi là ta thấy thì nó tự rụt lại.

Một thời gian lỗi đó sẽ hết.Cũng vậy ta có tật tham lam, ki bo, keo kiệt.

Ta thấy nó và quyết tâm diệt.

Mà diệt tâm tham chỉ có phương pháp bố thí "Đồng tiền liền khúc ruột".

Lúc đầu ta thò tay vào ví lấy tiền ra cho vào hòm công đức mà tâm đau nhói, bụng xót xa.

Nhưng ta quyết tâm làm và quan sát cái tâm đau khổ đó.

Ta bố thí thuần thục 1 thời gian thì tâm tham biết mất.Nhưng bố thí để diệt tâm tham là 1 khía cạnh.

Khía cạnh khác là từng đồng tiền ta cho đi phải mang lại lợi ích mới có phúc.

Do vậy ta cần tính toán nếu không cho tiền nhầm kẻ ác thì ta sẽ mang tội.Bài học 4: Mọi Kiết sử dứt sạchTu hành trong đạo Phật: Giới - Định - Tuệ.

Mà trí tuệ trong đạo Phật là thấy Kiết sử để mà diệt.Vậy Kiết sử là gì?

"Kiết" hay "Kết" nghĩa là trói buộc, bám dính, kết chặt với thân tâm chúng sinh.

"Sử" là theo đuổi, sai sử, sai khiến chúng sinh.

Sau đây là định nghĩa:"Kiết Sử là các tật xấu tham, sân, si, dục, ái, mạn, nghi... bám dính chặt vào tâm chúng sinh mãi mãi trong Luân hồi.

Nó sai khiến, chỉ đạo, ép buộc chúng sinh đó hành động trong sai lầm tạo tội.Tỳ kheo tu hành sẽ diệt 10 Kiết sử: Ai diệt được 3 Kiết sử đầu thì chứng Sơ quả Dự Lưu.

Ai diệt thêm 3 Kiết sử tiếp thì chứng Nhị quả Nhất Lai.

Ai diệt toàn bộ 5 Hạ phần Kiết sử cuối thì chứng A-la-hán.

Và trong Kinh Nikaya không có Tam quả Bất Lai"Thập Kiết Sử đó là:1- Thân kiến (tham lam ích kỷ), 2- Giới cấm thủ (bảo thủ cố chấp), 3- Nghi (Nghi ngờ Chánh pháp đúng sai), 4- Tham ái dục (Tham tình dục), 5- Sân hận (căm thù tức giận), 6- Trạo cử hối tiếc (Ngồi thiền bị loạn tâm), 7- Kiêu mạn (kiêu căng ngạo mạn), 8- Tham sắc ái (tham và yêu cõi trời Sắc giới), 9- Tham vô sắc ái (tham và yêu cõi định Vô sắc giới).

10- Vô minh (Không có Tam Minh: Thiên nhãn minh, Túc mạng minh, Lậu tận minh).
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 385: Truyện "bờ biên kia"


"Không bờ này bờ kiaCả hai bờ chẳng cóLìa bỏ hết buộc ràngTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 385)Tích Pháp Cú: Lúc đó Ma Vương hiện thành hình người đi đến hỏi Đức Phật.- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hay nói là "qua bờ bên kia... qua bờ bên kia..." nghĩa là gì?Đức Phật biết rõ đó là Ma Vương và cũng biết thâm ý của Ma Vương muốn bắt bẻ Chánh pháp của Phật.

Phật mới nói:- Này Ma-ra,"Không bờ này bờ kiaCả hai bờ chẳng cóLìa bỏ hết buộc ràngTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 385)Phật nói xong thì Ma Vương biến mất.Bài học kinh nghiệmBài học 1: "Ba la mật" hay "Bờ bên kia""Bờ bên kia" tức là "Ba la mật" mà Kinh Phật hay dùng.

Đó là thành ngữ ám chỉ sự thành công viên mãn.

Ta biết sông Hằng ở Ấn Độ rộng lớn và hung dữ.

Thời đó để vượt qua bờ bên kia sông Hằng thì khó khăn vất vả thậm chí có thể bị chết mất xác hay bị đắm thuyền.

Nên đi từ bờ bên này sang bờ bên kia mà thành công là niềm hạnh phúc to lớn.Giống Việt Nam ta có thành ngữ: "Thập toàn Thập mỹ" tức là "đủ 10 phần là đẹp nhất".

Ở Việt Nam ta hay có thói quen chia mọi thứ làm 10 phần.

Ai có đủ 10 phần là hạnh phúc nhất.Hay từ "Viên mãn" tức là "tròn đầy".

Hình tròn và hình vuông là 2 hình biểu tượng cho sự tốt đẹp nhất.

Nên mới nói "Trời tròn đất vuông, mẹ tròn con vuông" tức là "trời đất thuận lợi tốt đẹp, mẹ con bình an tốt đẹp".

Vậy nên hình tròn phải tròn căng, hình vuông phải đầy đặn mới tốt.Bài học 2: Vì sao Phật hay nói "Bờ bên kia" mà khi Ma Vương hỏi thì Phật lại phủ định?Như trên ta đã phân tích thì "Bờ bên kia" chỉ là thành ngữ ám chỉ thành tựu viên mãn.

Giống như tiếng Việt thì nói rằng: "Thập toàn thập mỹ, mỹ mãn, hoàn mỹ, viên mãn..."

Vậy nên ngôn ngữ chỉ là công cụ mô tả Ý niệm.

Nếu ta gắn chặt ngôn ngữ với Ý niệm thì ta sẽ không thể dịch Kinh Phật sang tiếng Việt được.

Thế nên Đức Phật mới nói:"Không bờ này bờ kiaCả hai bờ chẳng cóLìa bỏ hết buộc ràngTa gọi Bà-la-môn."

Tức là "Bờ này bờ kia" chỉ là ngôn ngữ miêu tả Pháp thôi.

Còn sự thật thì "Pháp là lìa bỏ hết buộc ràng đó mới là bậc Trí Thiện".Bài học 3: Ma Vương là ai?Ta muốn biết Ma Vương Ma-ra là ai thì ta phải tìm đọc Kinh Hàng Ma (Trung Bộ Kinh).

Kinh đó Ma-ra nhập vào bụng Tôn giả Mục Kiền Liên khiến Ngài đau bụng.

Ngài bèn ngồi thiền nhập định thì thấy Ma-ra trong đó.

Rồi Tôn giả nói với Ma-ra rằng:- Này Ma-ra, ngươi đừng nghĩ rằng vị đó không biết ta.

Ta biết rõ ngươi.

Ngươi mà Ác Ma Ma-ra.

Còn ta thời Đức Thế Tôn Câu Lưu Tôn cũng là Ác Ma tên là Du-si.

Chị gái ta tên là Ka-li.

Ngươi là con chị gái ta nên ngươi là cháu của ta...Vậy là ta đã rõ Ma Vương Ma-ra này là ai.

Đó là con bà Ka-li.

Bà Ka-li là chị gái Ma Vương Du-si thời Phật Câu Lưu Tôn.

Vậy tuổi thọ của Ma-ra này đã trải qua qua 3 đời Đức Phật: Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp và cho đến thời Đức Phật Thích Ca ngày nay.Ma Vương chính là vị thần cai quản cõi tử trong Luân Hồi.

Ai thoát khỏi Luân Hồi tức là thoát khỏi lưới Ma, thoát tầm mắt Tử thần.

Thế nên Ma Vương không bao giờ muốn ai tu đắc đạo giải thoát Luân Hồi chứng Niết Bàn.

Khi Đức Phật thành đạo thì rất nhiều vị tu chứng A-la-hán sẽ vượt thoát tầm kiểm soát của Ma Vương.

Do vậy Ma Vương mới điên cuồng chống phá Phật.Còn theo tôi thì Ma Vương chính là Ác Nghiệp của chúng sinh tích tụ tạo thành.

Vì chúng sinh có Ác Nghiệp nên sẽ phải chịu quả báo khổ đau trong Luân hồi.

Ma Vương chính là hiện thân của Ác Nghiệp chúng sinh.

Khi nào chúng sinh ác nhiều thiện ích thì cõi đất này Ma quỷ lộng hành, cõi đất khổ như địa ngục.

Khi nào chúng sinh hiền thiện đạo đức thì cõi đất sẽ như thiên đường và mỗi người là một vị thánh.

Nên thời Đức Phật thì Ma Vương bị mất quyền lực nên nó chỉ mong cho Phật nhập Niết Bàn.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 386: Truyện Bà-la-môn là ai?


"Tu thiền, xa trần laoViệc đã xong, vô lậuĐạt đến đích tối thượngTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 386)Tích Pháp Cú: Có một ông Bà-la-môn nọ luôn tự hào về giai cấp Bà-la-môn của mình.

Đó là giai cấp được sinh ta từ miệng Phạm Thiên.

Người đó phải được sinh trong giai cấp Bà-la-môn, thờ Phạm Thiên, tụng kinh Vệ Đà thì mới được gọi là Bà-la-môn.Nhưng đôi khi ông ta vẫn hay nghe thấy Phật khen đệ tử của Phật là Bà-la-môn.

Mà các Tỳ kheo đó thì chẳng được sinh ra từ giai cấp Bà-la-môn, không tụng kinh Vệ Đà, không thờ Phạm Thiên.Ông ta mới đến hỏi Đức Phật:- Thưa Sa Môn Gô-ta-ma, vì sao có những vị không sinh ra từ giai cấp Bà-la-môn, không thờ Phạm Thiên, không tụng kinh Vệ Đà mà Ngài lại gọi họ là Bà-la-môn?Đức Phật mới đọc bài Kệ Pháp Cú:"Tu thiền, xa trần laoViệc đã xong, vô lậuĐạt đến đích tối thượngTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 386)Tức là một vị: Có tu thiền, đã xa rời trần lao đau khổ, việc đã xong vô lậu (chứng A-la-hán), đạt đến đích tối thượng (chứng A-la-hán) thì Phật gọi là Bà-la-môn.

Đây là cách định nghĩa hoàn toàn khác biệt so với suy nghĩ của ông Bà-la-môn nọ.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Bà là môn là ai?Bà-la-môn là giai cấp trên cùng của 5 phân tầng giai cấp xã hội Ấn Độ.

Đạo Bà-la-môn còn có tên gọi khác là: Ấn Độ giáo, Hindu giáo, Vệ Đà giáo.

Đạo đó thờ Tam Thần Ấn Giáo: (1) Thần Shiva tức là thần Hủy Diệt. (2) Thần Brahama (Phạm Thiên) là vị thần Sáng Tạo. (3) Thần bảo hộ Vishnu là vị thần Bảo Vệ điều Thiện trước cái Ác.Giai cấp Bà-la-môn là giai cấp cao quý nhất được sinh ra từ miệng Phạm Thiên.

Dưới đó mới là giai cấp Sát Đế Lỵ là vua quan hoàng tộc được sinh ra từ vai Phạm Thiên.

Kinh họ đọc tụng tu hành là Kinh Vệ Đà.

Đạo đó ra đời khoảng năm 800 trước Công nguyên, tức trước đạo Phật khoảng 200 năm.Bài học 2: Bà là môn theo định nghĩa của PhậtBà-la-môn theo định nghĩa của Phật lại hoàn toàn khác biệt.

Phật bỏ qua toàn bộ giai cấp, thần thánh thờ phụng, kinh điển đọc tụng.

Đức Phật chỉ xét về đạo đức tu hành.Đầu tiên là vị đó phải biết "(1) Tu thiền".

Sau đó vị đó phải "(2) Từ bỏ trần lao" tức thoát khỏi Luân hồi đau khổ.

"(3) Việc đã xong" tức mọi duyên nợ thế gian đã chấm dứt.

Ta bị Luân hồi kéo vào trong sinh tử khổ đau bởi ta còn Ác nghiệp chưa trả nợ xong.

Một vị thánh A-la-hán đã chấm dứt Ác nghiệp nên vị đó đã trả nợ xong, tức là "Việc đã xong".

Vị đó sẽ thoát Luân hồi đau khổ mà vào Niết Bàn."(4) Vô Lậu" Vị đó chứng Lậu Tận Minh cao nhất trong Tam Minh.

"Lậu" là cấu uế, nhiễm ổ, tập khí, kiết sử trong tâm.

Ta vẫn hay dùng từ "Lậu" ở các từ ghép: Buôn lậu, bệnh lậu, lương lậu, lậu thuế, hàng lậu... có nghĩa là xấu xa, bẩn thỉu, đen tối.

Vậy Vô Lậu tức là vị thánh đó đã diệt sạch mọi tật xấu trong tâm nên chấm dứt làm sai tạo Ác nghiệp."(5) Đích tối thượng" đó là Niết Bàn là đích đến tối thượng của đạo Phật.

Nơi đến của các vị thánh Tu thiền, giải thoát Luân hồi, chấm dứt hết duyên nợ, không còn nhiễm ô, tập khí, kiết sử trong tâm.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 387: Truyện hào quang Đức Phật


"Mặt trời sáng ban ngàyMặt trăng sáng ban đêmKhí giới sáng Sát lỵThiền định sáng Phạm ChíCòn hào quang Đức PhậtChói sáng cả ngày đêm."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 387)Tích Pháp Cú: Ta còn nhớ Tích Pháp Cú 53 kể về tín nữa Vi-sa-ka ở xứ An-ga.

Năm 7 tuổi bà được nghe Phật thuyết pháp thì chứng Sơ quả Dự Lưu.Xứ An-ga là một tiểu quốc nằm trong đại quốc Ma Kiệt Đà.

Rồi vua Ba Tư Nặc đến gặp anh rể là vua Bình Sa xin cho 1 gia đình giàu có ở Ma Kiệt Đà về sống ở thành Xá Vệ để kích thích kinh tế.

Rồi bà cùng gia đình chuyển về Xá Vệ sống được gần Phật.Cha chồng là ông Mi-ga-ra theo ngoại đạo nên không bao giờ cúng dường Tỳ kheo hay nghe Phật thuyết pháp.

Rồi bà Vi-sa-ka độ cho ông chứng Sơ quả Dự Lưu sau 1 lần nghe pháp của Phật.

Sau đó ông Mi-ga-ra tuyên bố: "Vi-sa-ka chính là mẹ của tôi".

Từ đó ta thường hay nghe trong Kinh chép rằng: "Có tín nữ Vi-sa-ka mẹ của Mi-ga-ra vào thăm Đức Phật".Từ đó toàn bộ quyền lực tài sản gia đình chồng đều nằm trong tay bà.

Sự thật gia tài cha mẹ đẻ của bà còn lớn gấp nhiều lần tài sản nhà chồng bởi đó là 1 trong 7 gia đình giàu nhất Ma Kiệt Đà được vua Ba Tư Nặc đích thân mời về Xá Vệ.Bà Vi-sa-ka đã xây 1 Tinh xá khác ở Xá Vệ cúng dường Phật và Chư tăng tên là Pu-ba-ra-ma.

Tinh xá này xây vào nửa cuối đời Đức Phật.

Tinh xá này to đẹp và rút kinh nghiệm từ các tinh xá trước.Một buổi chiều trời bắt đầu tối thì vua Ba Tư Nặc đến thăm Phật.

Khi đó trời tối mà quần áo mũ, giáp trụ, hoàng bào, gươm đao của vua sáng lấp lánh lấp lánh.

Đi sau vua là các quan thân cận và vệ binh oai nghi với giáp trụ binh khí lấp lánh.

Khi đến gần Phật vua mới cởi hoàng bào, vương miệng, gươm đao giao cho thân cận và vua đi chân đất lễ Phật.Ngài A-nan quan sát hết cảnh tượng đó.

Và Ngài nhìn ra xa có Tôn giả Ka-lu-đa-di ngồi thiền nhập định hào quang tỏa 1 góc rừng.

Ngài quay sang nhìn Phật thì thấy hào quang Phật tỏa sáng huyền ảo rộng khắp trời đất.

Ngài A-nan thấy vậy thì cảm thán.

Đến khi Ngài gặp Đức Phật 1 mình thì Ngài hỏi Phật:- Thưa Thế Tôn, chiều tối nay con nhìn thấy vua Ba Tư Nặc sáng lấp lánh bởi gươm đao, hoàng bào vương miệng.

Con cũng nhìn thấy Tôn giả Ka-lu-đa-di ngồi thiền nhập định tỏa sáng hào quang.

Con nhìn sang Thế Tôn thì thấy hào quang Thế Tôn sáng khắp trời đất.Đức Phật thuận theo tâm Ngài A-nan đọc bài kệ:"Mặt trời sáng ban ngàyMặt trăng sáng ban đêmKhí giới sáng Sát lỵThiền định sáng Phạm ChíCòn hào quang Đức PhậtChói sáng cả ngày đêm."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 387)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Hào quang Đức PhậtNhững vị thánh luôn tỏa hào quang bởi đức hạnh và trí tuệ.

Các vị thánh trong Kito giáo ta thấy họa sĩ luôn vẽ có vầng hào quang quanh đầu.

Các vị thánh trong Tôn giáo khác khi không ngồi thiền đều tỏa hào quang ở đầu.

Còn vị thánh trong đạo Phật ngồi thiền thì hào quang tỏa ra toàn thân.Thường thì ta thấy hình vẽ các vị thánh diễn tả hào quang.

Ta cứ tưởng đó chỉ là biểu tượng của trí tuệ và đạo đức của bậc thánh.

Nhưng không phải.

Sự thật là các vị thánh có tỏa hào quang sáng rỏ và điều này được miêu tả trong Kinh Thánh hay Kinh Phật.

Về sau các họa sĩ họ vẽ theo lời Kinh miêu tả.Pháp Cú này cho ta thấy "Hào quang của Đức Phật sáng chói cả trời đất cả ban ngày và ban đêm".

Đó là sự thật chứ không phải tưởng tượng hay biểu trưng gì cả.

Đó là sự thật 100%.

Nếu thời nay có Đức Phật xuất thiện thì ta cũng sẽ thấy Phật tỏa hào quang chiếu sáng trời đất cả ngày và đêmBài học 2: Uy quyền của vua là ở khí giớiUy quyền của vua thể hiện ra ngoài là khí giới.

Nếu tháo bỏ khí giới thì vua cũng giống người thường chẳng khác gì.Bài học 3: Năng lực của Phạm Chí là thiền địnhNăng lực của vị Phạm Chí (bậc đạo đức lớn) là nhờ thiền định.

Nếu vị đó không có thiền định thì không thể có đạo đức đầy đủ.

Sao lại vậy?Bởi không có thiền định thì tâm sẽ u mê, tăm tối, mờ đục và loạn động.

Vị đó sẽ chẳng thể thấy lỗi trong tâm mà diệt.

Thiền giúp tâm thanh tịnh, sáng tỏ và tĩnh lặng.

Từ đó vị đó thấy ra lỗi lầm để diệt mà tăng trưởng đạo đức thành bậc Phạm Chí.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 388: Truyện Phạm chí, Sa môn, Tỳ kheo


"Dứt ác gọi Phạm ChíTịnh hạnh gọi Sa MônTự mình lìa cấu uếĐáng gọi bậc Tỳ kheo."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 388)Tích Pháp Cú: Có ông Bà-la-môn xuất gia ở giáo phái khác làm Sa Môn.

Vị đó cũng đắp y, ôm bình bát đi khất thực.

Nhưng vị đó không tu Giới hạnh Phật, không tu thiền Định, không tu diệt trừ Kiết sử.

Một lần ông đó đến gặp Phật và nói rằng:- Thưa Sa Môn Gô-ta-ma, tôi cũng là Sa Môn, tôi cũng đi khất thực, vậy tôi có được gọi là Tỳ kheo như Ngài gọi đệ tử của Ngài không?Đức Phật liền bác bỏ bằng bài kệ:"Dứt ác gọi Phạm ChíTịnh hạnh gọi Sa MônTự mình lìa cấu uếĐáng gọi bậc Tỳ kheo."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 388)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Phẩm hạnh xác định các vị tu hànhĐức Phật khẳng định rằng: "Để xác định các vị tu hành phải dựa theo phẩm hạnh chứ không nhìn vẻ ngoài ở quần áo hay lối sống".Và Đức Phật đưa ra định nghĩa rõ ràng: "Một vị mà tâm lìa xa ác pháp, không còn muốn hại ai thì gọi là Bậc thánh đạo đức (Phạm Chí).

Một vị tâm thanh tịnh có định thì gọi là Sa Môn.

Một vị tâm lìa xa mọi cấu uế, nhiễm ô, tham, sân, si thì được gọi là Tỳ kheo".Vậy nên ông Bà-la-môn đó vẻ ngoài đắp y ôm bình bát đi khất thực mà tâm không diệt trừ cấu uế, tham sân si thì không được gọi là Tỳ kheo.Bài học 2: Y áo không làm lên thầy tuThời Đức Phật thì Phật gọi tu sỹ đạo Phật là Tỳ kheo tức Khất sỹ là kẻ ăn xin.

Nhưng thời nay thì không còn đi ăn xin kiếm sống.

Các tu sỹ được gọi là Thầy Tu (Sư).

Gốc nền tảng của Sư là tu hành diệt trừ các Tập khí Kiết sử trong tâm mà Phật gọi là cấu uế, nhiễm ô.Ai tu không giữ cái gốc này mà chạy theo hình thức: Đầu tròn áo vuông, hành lễ, trừ tà, cầu phúc cầu lộc, dâng sao giải hạn, gõ mõ tụng kinh... mà tâm không diệt trừ cấu uế tham sân si thì không được gọi là Thầy Tu (Sư).
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 389,390: Truyện Ngài Xá Lợi Phất bị đánh


"Chớ có đập Phạm ChíPhạm Chí cớ đập lạiXấu thay đập Phạm ChíĐập trả lại xấu hơn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 389)"Đối với Bà-la-mônKhông còn tâm ái luyếnChẳng còn ý hại aiNên chẳng còn đau khổ."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 390)Tích Pháp Cú: Có ông Bà-la-môn ở thành Xá Vệ.

Ông ta giao tiếp với bạn bè quanh ông thì ông thấy dần dần mọi người đều quy y đạo Phật hết.Ta biết ở Kỳ Viên thì Đức Phật thỉnh thoảng mới tới.

Đặc biệt nửa đầu cuộc đời giáo hóa thì Phật hay ở Trúc Lâm nhiều hơn.

Quản lý hội chúng ở Kỳ Viên 24/7 là Ngài Xá Lợi Phất.

Ngài vô cùng trí tuệ và đạo hạnh.

Thế nên mọi người quy y Phật và hay tới lui Tinh xá Kỳ Viên đều vô cùng kính trọng Tôn giả.Khi mọi người về nhà hay gặp bạn bè buôn chuyện thường hay ca ngợi Tôn giả Xá Lợi Phất là một vị thánh đạo đức, đạo hạnh, trí tuệ.Ông Bà-la-môn này nghe mọi người khen Ngài Xá Lợi Phất nhiều thì khởi tâm tự ái.

Ông ta nói rằng: "Tôi không tin có vị Xá Lợi Phất vĩ đại như vậy.

Để khi nào tôi thử kiểm tra xem".

Mọi người đồng ý cho ông thử kiểm tra.Một lần Ngài Xá Lợi Phất đi khất thực thì ông Bà-la-môn đó nén đánh mạnh 1 cái thật là đau vào lưng Ngài.

Tôn giả bèn quay lại hỏi ông: "Có chuyện gì vậy?"

Rồi Ngài đi tiếp.

Lúc đó ông Bà-la-môn mới hối hận.

Bởi người thường, nếu ai bị đánh đau vậy sẽ nổi sân.

Còn vị này bị đánh mạnh vào lưng mà tâm bất động.

Đây đúng là một vị thánh như lời đồn.Thế là ông Bà-la-môn chạy đến trước mặt Ngài Xá Lợi Phất quỳ xuống xin lỗi.

Rồi ông thỉnh Ngài về nhà để ông được cúng dường thể hiện sự ăn năn sám hối của ông.Khi ông đánh Ngài Xá Lợi Phất thì nhiều người thấy.

Mọi người mới bất mãn mà kéo nhau đến nhà ông Bà-la-môn đó để hỏi tội: "Vì sao đánh thầy họ?".

Mọi người kéo đến rất đông.

Họ kêu ông đó ra hỏi tội.

Ông đó cùng Ngài Xá Lợi Phất từ trong bước ra.

Tôn giả hỏi:- Này mọi người, ông Bà-la-môn này đánh tôi hay đánh mọi người?Mọi người đáp.- Ông đó đánh Ngài!- Ông đó đã sám hối và tôi đã tha thứ rồi.

Vậy nên mọi người đừng giận.Mọi người thấy Ngài Xá Lợi Phất nói vậy thì không giận nữa mà bỏ về.

Sau đó ông Bà-la-môn xin quy y Tôn giả.

Rồi chuyện đó có vị Tỳ kheo kể lại cho Phật.

Phật mới nói bài kệ:"Chớ có đập Phạm ChíPhạm Chí cớ đập lạiXấu thay đập Phạm ChíĐập trả lại xấu hơn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 389)"Đối với Bà-la-mônKhông còn tâm ái luyếnChẳng còn ý hại aiNên chẳng còn đau khổ."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 390)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Quả báo khi đánh vị A-la-hánKinh Pháp Cú kể về Ác Ma Du-si nhập vào tâm đứa trẻ ven đường cầm đá ném vỡ đầu vị A-la-hán đi bên Phật Câu Lưu Tôn.

Trước đó thì Ác Ma đã phá hoại tăng đoàn của Phật nhiều lần nhưng đều thất bại.

Lần này Ác ma quá tức giận mà làm bậy và thành công.

Vị A-la-hán đó tay ôm đầu bị chảy máu vẫn bình thản đi bên Phật.

Phật mới nhìn quanh với cái nhìn của con voi chúa mà nói: "Này Ác ma, ngươi không biết sự vừa phải".

Ngay sau câu nói đó thì Ác Ma bị đọa Địa ngục 1 vạn năm.Vậy nên quả báo đánh một vị A-la-hán là không hề nhẹ.

Tuy nhiên ông Bà-la-môn này đánh Ngài Xá Lợi Phất với tâm thử lòng Tôn giả chứ không sân hận thù ghét.

Đánh xong thì ông lập tức quỳ lạy xin lỗi và sám hối.

Rồi sau đó ông quy y Tôn giả.

Thế nên quả báo không quá nặng.

Nếu không thì nhẹ nhất là ông đã bị dân chúng kéo đến "tẩn cho 1 trận".Bài học 2: Quả báo khi cúng dường A-la-hánLần đó Tôn giả Ma-ha Ca Diếp ngồi thiền nhập định 7 ngày xong thì Ngài xả thiền đi khất thực.

Vì 7 ngày ông ăn uống nên cơ thể ngài đói.

Và 500 Chư thiên cõi trời bay xuống trần gian đứng xếp hàng mong được cúng đồ ăn cho Ngài.

Nhưng Ngài không nhận mà đi đến khất thực nhà vợ chồng nghèo bên đường.

Hóa ra vợ chồng đó là Thiên chủ Đế Thích và vợ Thiện Sanh hóa thành.Thế ta mới thấy phúc cúng dường A-la-hán lớn chừng nào.

Nó lớn đến mức các Chư thiên cõi trời phúc báu vĩ đại còn thèm khát bày mưu sâu kế hiểm chiếm đoạt.

Thế nên đoạn cuối đời Đức Phật thì Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông đi lên cõi trời.

Ngài thấy trên đó toàn là Phật tử.

Ngài mới về kể lại thành "Thiên cung sự kinh" được Phật xác định là đúng.

Rồi kinh đó ghi trong Tiểu Bộ Kinh.Hễ mỗi khi Đức Phật xuất hiện và thế gian này có nhiều A-la-hán.

Thế gian sẽ tách làm 2 ngả: Kẻ tức giận, thù ghét, đánh đập A-la-hán thì đọa địa ngục.

Kẻ tin kính cúng dường A-la-hán thì sinh cõi trời.Bài học 3: Phản ứng khi bị đánh đậpBị đánh đập thì tâm lý ai ai cũng sẽ có phản ứng là đánh trả nếu kẻ địch yếu.

Hoặc bỏ chạy nếu kẻ địch mạnh.

Ví dụ: ta đi trên đường có con vịt chạy ra mổ ta thì ta đánh nó.

Còn có con rắn hổ mang chúa mổ ta thì ta bỏ chạy.

Đó là phản xạ được ghi trong bản năng sinh tồn của mọi loài vật trong đó có con người.

Thế nên Phật nói:"Chớ có đập Phạm ChíPhạm Chí cớ đập lạiXấu thay đập Phạm ChíĐập trả lại xấu hơn."

Tức là không nên đánh Bậc thánh đạo đức (Phạm Chí) và Phạm Chí không được đập lại.

Kẻ đánh Phạm Chí là kẻ xấu xa, ngu si, vô minh đời này có nhiều không có gì là lạ.

Nhưng Phạm Chí là bậc đạo đức cao mà lại quay ra đánh trả thì xấu xí vô cùng.

Đức Phật nói thêm:"Đối với Bà-la-mônKhông còn tâm ái luyếnChẳng còn ý hại aiNên chẳng còn đau khổ."

Bậc đạo đức cao cả thì không còn tâm luyến ái yêu mến cái thân, yêu mến cái danh và tâm chẳng muốn hại ai.

Thế nên vị đó bị đánh mà không đau khổ.

Còn kẻ phàm phu thì tâm còn luyến ái là yêu cái thân, yêu cái danh, tâm thường hay ghét bỏ mọi người.

Kẻ phàm phu bị đánh thì đau khổ, phản kháng, đánh trả nếu có thể.

Còn nếu kẻ thù mạnh thì sẽ bỏ chạy.Và Tôn giả Xá Lợi Phất thật sự là một vị thánh chân chính.

Ngài bị đánh mà không sân, không đánh trả, không bỏ chạy.

Tâm ngài tĩnh lặng không chút xao động luôn giữ được Tứ Oai Nghi: Đi, đứng, nằm, ngồi.

Ngài chỉ hỏi: "Có chuyện gì vậy?" rồi bình thản đi tiếp.

Đó chính là vị thánh đích thực.

Ông Bà-la-môn đó ngộ ra bèn chạy đến quỳ lạy xin lỗi Ngài.Bài học 4: Khi người tốt làm saiÔng Bà-la-môn đó là người tốt.

Nhưng ông không tin trên đời này có người đẹp đẽ thánh thiện như vậy.

Thế nên ông ta chỉ muốn thử bằng cánh đánh thật mạnh vào lưng Tôn giả.

Chứ tâm ông không hề muốn hại Tôn giả.

Khi đánh xong thì ông nhận ra: "Đây quả thật là một vị thánh" tâm ông lập tức sám hối ăn năn và quỳ xuống xin lỗi.

Đó là sám hối bằng Khẩu Nghiệp.

Rồi ông mời Ngài về nhà để cúng dường trai tăng là sám hối bằng Thân Nghiệp.

Vậy tức Tam Nghiệp của ông đã sám hối xong.Thế nên quả báo đáng lẽ ông sẽ bị dân chúng kéo đến đánh đập vì dám đánh thầy họ.

Nhưng rồi mọi người lại tha tội cho ông và bỏ về.Bài học 5: Phản ứng người thấy sư phụ bị đánhAi cũng vậy mà thôi.

Khi ta yêu ai, tôn kính ai, tôn thờ ai mà có kẻ đánh người ta yêu, đánh thầy ta tôn thờ thì kẻ đó sẽ không được yên.

Thế nên chiến tranh Tôn giáo là tàn khốc.

Bởi đó là những kẻ vì tình yêu với Chúa, tình yêu với Thánh Ala là những vị thần mà họ yêu thương tôn thờ.

Họ sẵn sàng hi sinh mạng sống để bảo vệ vị thần đó.

Còn kẻ nào đứng trơ mắt ếch nhìn người yêu bị đánh mà không phản ứng thì là đồ nhu nhược, hèn kém.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 391: Truyện Bà Kiều Đàm xuất gia


"Với người thân miệng ýKhông làm các ác hạnhTự phòng hộ chính mìnhTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 391)Tích Pháp Cú: Lúc đó Ni đoàn mới thành lập và Bà Kiều Đàm lãnh đạo Ni chúng.

Khi đó có một "Thuyết âm mưu" nói rằng:"Khi Bà xuất gia thì ai là người cạo tóc cho Bà.

Đức Phật thì không cạo rồi vì Phật không xúc chạm người khác giới.

Mà Bà tự cạo tóc cho mình thì không phải là người truyền thừa Chánh pháp của Phật.

Nếu Bà không được truyền thừa Chánh pháp thì ai sẽ đi tu theo Bà?"

"Thuyến âm mưu" đó đồn lan rộng đến tai Phật thì Phật mới khẳng định trước đại chúng rằng: "Chính Phật đã đích thân làm tế độ sư cho Bà Kiều Đàm.

Sau đó Phật ca ngợi đức hạnh của Bà Kiều Đàm là vĩ đại".Sau đó Phật đọc bài kệ để tán thán Bà Kiều Đàm:"Với người thân miệng ýKhông làm các ác hạnhTự phòng hộ chính mìnhTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 391)Sau đó thì lời bàn tán đó chấm dứt.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Được làm thân quyến với Phật thì phúc vô lượngBà Kiều Đàm là em ruột của hoàng hậu Ma-gia.

Hoàng hậu Ma-gia là thân mẫu của Phật.

Vậy nghĩa là vua Tịnh Phạm lấy cả 2 chị em làm vợ.

Sau khi hoàng hậu Ma-gia đản sinh Đức Phật xong thì 7 ngày sau Bà mất.

Cô em gái là Bà Kiều Đàm khi đó cũng hạ sinh ra hoàng tử Nan Đà.

Thái tử Tất Đạt Đa và Hoàng tử Nan Đà đều được Bà Kiều Đàm nuôi bằng sữa của mình.

Thế nên ta hay gọi Bà Kiều Đàm là Kiều Đàm Di Mẫu.

Tức Bà vừa là mẹ vừa là dì của Phật.Những người thân quyến của Phật đều có Đại Phúc và Đại Duyên.

Tất cả đều được Phật độ đắc đạo A-la-hán: Bà Kiều Đàm thì đắc đạo A-la-hán và lãnh đạo Ni chúng.

Vợ là Gia Du Đà La cũng đắc đạo A-la-hán.

Em là Nan-Đà đắc đạo A-la-hán trong Tích Pháp Cú 13,14.

Em gái Vô Thắng Sắc đắc đạo A-la-hán trong Tích Pháp Cú 150.

Vua cha Tịnh Phạm trước khi mất thì Phật đến tắm rửa cho vua và độ cho vua chứng A-la-hán.

Trước đó trong lần đầu tiên về thăm Ca Tỳ La Vệ thì Phật đã độ cho vua chứng Sơ quả Dự Lưu.

Còn thân mẫu Ma-gia thì Phật lên cõi trời Đao Lợi và thuyết pháp hóa độ cho mẹ tại đây.Bài học 2: Sao không được chạm vào người nữ khi đó là mẹ ta?Mọi người cứ căn theo giới luật: "Xuất gia là Tỳ kheo tăng thì không được xúc chạm vào thân người nữ".

Từ đó suy luận rằng Phật sẽ không cạo tóc cho Bà Kiều Đàm để truyền thừa Chánh Pháp.

Đó gọi là "Giới cấm thủ" là Kiết sử thứ 2 rất thô thiển chỉ thua tham lam, ích kỷ (Thân kiến).Sao ta lại có thể không xúc chạm người nữ khi đó mẹ ta?

Cả thời thơ ấu mẹ đã ôm ấp yêu thương ta và cho ta những dòng sữa mát lành?Và sự thật thì Phật đã không bị Giới cấm thủ.

Chính Đức Phật khẳng định rằng Phật đã xuống tóc cho Bà Kiều Đàm và làm Tế độ sư cho Bà.

Thế là mọi lời bàn tán mới chấm dứt.Bài học 3: Bà-la-môn tu Tam nghiệp lành thiệnTa còn nhớ Pháp Cú 01 và 02 Phật nói như sau:"Tâm dẫn đầu các phápTâm làm chủ tạo tác;Nếu nói hay hành độngVới tâm ý ô nhiễmKhổ não sẽ theo taNhư xe theo ngựa kéo."(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 01)"Tâm dẫn đầu các pháp, Tâm là chủ tạo tác, Nếu nói hay hành động, Với tâm hồn thanh tịnh, Hạnh phúc sẽ theo ta, Như bóng không rời hình."(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 02)Trong Tam Nghiệp thì tâm ý là đầu tiên và quan trọng nhất.

Từ tâm ý mới dẫn đến lời nói và hành động.

Ai có Tam Nghiệp lành thiện thì sẽ được hạnh phúc như bóng chẳng rời hình.

Ai có Tam Nghiệp ác độc thì khổ não sẽ theo ta như xe theo ngựa kéo.Tam nghiệp lành thiện sẽ sinh cõi Người, Thần, Trời.

Cao nhất là cõi trời Phạm Thiên trong Sắc Giới.

Phạm Thiên tiếng Pali là Brahmaloka dịch ra Tiếng Việt là Bà-la-môn.

Vậy ta đã hiểu vì sao Đức Phật gọi vị thánh tu Tam Nghiệp viên mãn là Bà-la-môn rồi.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 392: Truyện Ngài Xá Lợi Phất biết ơn Tôn giả A-sa-di


"Nhớ ơn người đầu tiênGiúp ta biết Phật đạoHãy kính lễ vị ấyNhư Phạm Chí thờ lửa."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 392)Tích Pháp Cú: Ngài Xá Lợi Phất buổi đầu đi tìm đạo thì gặp Tôn giả A-sa-di khi đó đã chứng A-la-hán.

Tôn gia là một trong 5 vị nhóm Kiều Trần Như.

Lần đó Ngài Xá Lợi Phất thấy một vị Sa Môn có thân tướng oai nghi đĩnh đạc, các căn đều sáng rực rỡ.

Xá Lợi Phất bèn đến và hỏi:- Thưa Tôn giả, Ngài tu theo pháp môn gì, thầy Ngài là ai mà sao các căn của Ngài rực rỡ như vậy?Ngài A-sa-di đáp rằng:"Các Pháp do duyên sinhRồi cũng do duyên diệtThầy ta Gô-ta-maĐã dạy ta như thế"Tôn giả vừa nói dứt câu thì Ngài Xá Lợi Phất hốt nhiên giác ngộ chứng Sơ quả Dự Lưu.

Từ đó Tôn giả Xá Lợi Phất mang ơn Ngài A-sa-di suốt cuộc đời.

Hễ mỗi khi nghe tin Ngài A-sa-di đang đi về hướng đó thì Tôn giả Xá Lợi Phất quỳ xuống hướng về đó mà lạy.

Sau đó thì Ngài làm việc bình thường.

Lâu lâu sau đó khi nghe ai nói Ngài A-sa-di đang du hành ở vùng nào thì Tôn giả Xá Lợi Phất lại hướng về vùng đó mà lạy.Rồi mọi người mới ngạc nhiên bàn tán: "Không hiểu Ngài Xá Lợi Phất bị làm sao, hay tu theo đạo gì là lạ lắm.

Cứ thỉnh thoảng đang yên đang lành tự dưng quỳ lạy rồi thôi".Thế là Tỳ kheo mách Phật:- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Xá Lợi Phất có biểu hiện rất bất thường không giống tu theo đạo Phật.

Ngài lâu lâu lại quỳ lạy mà không hướng vào đâu cụ thể.

Có khi nào Tôn giả tu theo ngoại đạo chăng?Phật mới cho gọi Ngài Xá Lợi Phất lên hỏi:- Này Xá Lợi Phất, ta nghe Tỳ kheo nói là ông hay lạy đủ các hướng có đúng không?

Có phải ông quy y theo ngoại đạo không?- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn biết rõ tâm con là sao.

Con không hề theo ngoại đạo.Đức Phật nghe vậy thì không hỏi nữa.

Mà Phật đọc bài kệ để nói lý do Ngài Xá Lợi Phất lạy các hướng:"Nhớ ơn người đầu tiênGiúp ta biết Phật đạoHãy kính lễ vị ấyNhư Phạm Chí thờ lửa."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 392)Thế là các Tỳ kheo mới vỡ lẽ: "Hóa ra Tôn giả lạy là lạy Ngài A-sa-di người đầu tiên giúp Tôn giả biết đạo Phật".Bài học kinh nghiệmBài học 1: A-la-hán thì lòng biết ơn vĩ đạiCó một tà kiến cho rằng: "Tu hành chứng đạo thì sẽ Vô tâm, Vô khẩu, Vô hành.

Vị đó chứng đạo Vô Vi là không nghĩ gì, không làm gì và không nói gì."

Đó là sai lầm nghiêm trọng.Ta thấy Đức Phật sau khi chứng đạo thì Phật có Vô Vi kiểu đó không?

Hay Phật dùng toàn bộ cuộc đời 45 năm đi giáo hóa mang Chánh pháp dạy cho thế gian.

Rồi Tôn giả Xá Lợi Phất biết ơn Ngài A-sa-di thì có "không nghĩ gì" không?

Hay Tôn giả biết ơn Ngài A-sa-di như "Phạm Chí thờ lửa".

Còn Đức Phật thì chứng đạo thành Phật thì có phải không nói gì không?

Hay Phật nói 8 vạn 4 ngàn Pháp môn cho đến nay ta học điên cái đầu mà chỉ được góc nhỏ.Thế rồi "Tu là bước vào Cửa Không, Tu hành là vô vi hư ảo, đi trên mây trắng, ngắm núi non hùng vĩ tâm thanh tịnh hư vô..."

Tu thế thì thành đồ thừa của xã hội, sống mà chẳng có lợi ích gì cho cuộc đời.

Tu thế một thời gian xài hết phúc thì đọa làm súc sinh bởi tâm ngu si đó tương ưng với súc sinh.Bài học 2: Đạo Lương đạo của lòng biết ơnĐạo gốc của người Việt ta là đạo "Lương".

"Lương" tức là "Thiện" ta hay nói ghép là "Lương Thiện".

Rồi "Lương Tâm" tức tâm hồn lương thiện.

Đạo đó không có kinh sách để lại nhưng văn hóa lối sống đã dạy ta một đạo lý vĩ đại.

Đó là "Lòng biết ơn".Ta hay nói rằng: "Truyền thống văn hóa ngàn đời của Việt Nam ta là Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ kẻ trồng cây".

Đó chính là đạo Nghĩa hay Lòng biết ơn vậy.

Sau đây tôi xin phân tích chút ít nhé:Đạo Lương dạy ta thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ là những người đã khuất.

Những vị đó phải đạo đức, đạo hạnh, có công ơn với gia tộc, sinh nhiều con cháu và con cháu thành đạt có đức.

Nếu con cháu không có đạo đức thì chúng coi tổ tiên chẳng ra gì.

Nếu con cháu nghèo khổ thì chúng cũng quên tổ tiên luôn.

Thế nên chỉ có con cháu có đạo đức và thành đạt mới giữ lễ tổ tiên mà thờ cúng hương khói.Vì có sự biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ bằng nghi thức thờ cúng đã dạy cho con cháu đời sau noi theo học tập.

Từ đó con cháu biết đến đạo lễ gia đình, biết sống có đạo đức, giúp đỡ người thân, nuôi dạy thế hệ sau.

Mục tiêu là được làm vị thần bảo hộ gia đình, chết vào cõi vĩnh hằng thì con cháu biết ơn.Cao hơn tổ tiên là các vị thần mà đạo Lương tôn thờ.

Đó không phải các vị thần biểu tượng cho sức mạnh như: Thần sáng tạo, thần hủy diệt, thần bảo hộ, thần mặt trời...

Mà các vị thần là người thật có công ơn to lớn với dân.

Sau khi chết thì được dân lập đền thờ để thờ cúng.

Ví dụ các vị Thành Hoàng Làng.

Đó là Tổ của làng, Tổ nghề đã khai địa lập ấp kêu gọi dân về sinh sống và truyền nghề cho trong làng.Cao hơn là các vị thánh có công ơn đánh giặc cứu nước: Đức Thánh Gióng, Đức Thánh Trần Hưng Đạo Đại Vương, Hai Bà Trưng...

Các vị tướng quân đánh giặc đều trở thành các vị thần bảo hộ cho dân.

Hoặc các vị Thánh xây dựng giúp đỡ dân như Tản Viên Sơn Thánh dạy dân chống lũ lụt, Thánh Mẫu Liễu Hạnh Phạm Tiên Nga xây dựng đê Ba Sát ở phủ Thiên Trường mở ra vựa lúa miền bắc.

Hoặc Tổ Chử Đồng Tử đã dạy dân ta đạo Bụt (đạo Phật)."

Đạo Lương chính là đạo của Lòng biết ơn vậy"
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 393,396: Truyện Giai cấp Bà-la-môn


"Được gọi Bà-la-mônKhông vì đầu bện tócKhông chủng tộc thọ sanhAi thật chân chánh tịnhMới gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 393)"Ta không gọi Phạm ChíVì chỗ sanh, mẹ sanhChỉ được gọi tên suông Nếu tâm còn phiền nãoKhông phiền não chấp trước Ta gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 396)Tích Pháp Cú: Có ông Bà-la-môn tự hào về dòng dõi cao quý Bà-la-môn của ông hơn cả vua chúa triều đình ở giai cấp Sát Đế Lỵ.

Ông đọc kinh Vệ Đà và thờ Phạm Thiên.Thế nhưng ông thường nghe Đức Phật gọi đệ tử của Phật dù không sinh ra trong dòng dõi Bà-la-môn cao quý, không đọc tụng kinh Vệ Đà, không thờ Phạm Thiên.

Mà vẫn được Phật gọi là Bà-la-môn.

Ông ta mới bất mãn đến hạch họe Đức Phật:- Thưa Sa Môn Gô-ta-ma, Bà-la-môn phải người được sinh ra trong dòng dõi Bà-la-môn.

Tóc phải bện, uốn, cuốn đúng quy cách Bà-la-môn.

Thì đó mới được gọi là Bà-la-môn.

Vậy nhưng Ngài vẫn hay khen người này, người kia là Bà-la-môn.

Nhưng họ thì không sinh ra trong dòng dõi Bà-la-môn, không bện tóc kiểu Bà-la-môn.

Và tôi không đồng ý với cách gọi đó của Ngài.Đức Phật mới đọc bài kệ:"Được gọi Bà-la-mônKhông vì đầu bện tócKhông chủng tộc thọ sanhAi thật chân chánh tịnhMới gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 393)"Ta không gọi Phạm ChíVì chỗ sanh, mẹ sanhChỉ được gọi tên suông Nếu tâm còn phiền nãoKhông phiền não chấp trước Ta gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 396)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Phân biệt giai cấp ở Ấn Độ bằng thời trang đầu tócHóa ra các giai cấp Ấn Độ phân biệt đẳng cấp bằng cách bện tóc cuốn tóc chứ không phải bằng y phục.

Thế nên khi Đức Phật thành lập tăng đoàn Phật Giáo thì Phật quyết định là tu sỹ Phật giáo sẽ cạo trọc đầu.

Thời đó tu sỹ các tôn giáo khác rất nhiều nhưng chỉ các vị Sa Môn đạo Phật mới cạo trọc đầu.Hóa ra Đức Phật cũng sử dụng thủ pháp dùng kiểu tóc để phân biệt giai cấp xã hội với tu sỹ Phật giáo.

Thế nên ta mới thấy ngày nay Sư của Việt Nam ăn mặc khác, Sư Nam Tông ăn mặc khác, Sư Trung Hoa ăn mặc khác, Sư Nhật Bản ăn mặc khác và Sư Tây Tạng cũng mặc khác.

Nhưng tất cả các vị đều có thể nhận biết qua đặc điểm chung là "Cái đầu cạo trọc".Đó là thời xưa khi các quy định khắt khe.

Nếu ai ở giai cấp này mà bện tóc, uốn tóc giống giai cấp khác thì bị lên án có thể bị bắt phạt.

Còn thời nay thì đầu cạo trọc là Model thời thượng.

Ví như tôi chẳng làm Sư mà đầu trọc 99%.

Tôi cắt tóc chỉ để lại 3mm chân tóc mà chẳng thấy ai lên án gì.Dấu hiệu nhận biết bằng thời trang tóc dễ thấy nhất là tộc Mãn Thanh (Trung Hoa).

Ai ai cũng cạo trắng trước trán, còn sau thì tết đuôi sam rất dài.Bài học 2: Phật gọi Bà-la-môn để đả kích lạn phân biệt giai cấp ở xứ Ấn ĐộHuyết thống, dòng dõi, giai cấp ăn sâu vào xã hội Ấn Độ tạo thành 5 giai tầng xã hội.

Khi đó một kẻ được sinh ra ở giai cấp nào thì đến chết vẫn ở giai cấp đó.

Năm 2022 Ấn Độ có nền kinh tế đứng thứ 5 Thế giới.

Nhưng dân số 1,4 tỷ người mà có 800 triệu người sống nhờ trợ cấp lương thực của chính phủ.

Tỷ lệ người biết chữ ở Ấn Độ là 61% (trong khi đó ở Việt Nam ta là 97,85%).Ở Việt Nam ta từ xưa thì xuất thân quê nghèo mà đỗ Trạng Nguyên là "Vinh quy bái tổ trên kiệu 8 người khiêng".

Văn hóa Á Đông nho giáo không đề cao giai cấp chỉ đề cao tài năng.

Tuy nhiên vẫn có vua được phép "Cha truyền Con nối" bởi thời đó nếu không làm vậy mà cứ 4 năm tranh cử chức vua 1 lần như nước Mỹ thì nước loạn.

Nhưng các quan cứ tài giỏi là được phong quan tiến chức.

Cứ tài giỏi thi đỗ Trạng Nguyên là được trọng dụng dù người đó ở quê nghèo hay xuất thân nghèo khổ.Ta hãy nhớ: Chử Đồng Tử nhà nghèo 2 cha con có duy nhất 1 cái quần.

Cha chết thì mặc cho cha còn chàng thì không mặc gì.

Thế mà chàng vẫn cưới được Công chúa Tiên Dung con vua Hùng.

Về sau nhờ sự tài giỏi của chàng mà cả vùng Khoái Châu Hưng Yên trở lên giàu có hùng mạnh.

Vua Hùng mới mang quân đi dẹp loạn vì sợ tạo phản.

Rồi vùng đó sau 1 đêm thì bay lên trời tạo thành cái đầm sâu gọi là Đầm Dạ Trạch (đầm 1 đêm).

Mà thời đó thì văn hóa Nho giáo Trung Hoa chưa xâm nhập vào Việt Nam.

Đó chính là sự nhân văn trong văn hóa tâm linh người Việt không phân biệt giai cấp.Bài học 3: Tiêu chuẩn Bà-la-môn của Đức PhậtĐược gọi Bà-la-mônKhông vì đầu bện tócKhông chủng tộc thọ sanh.Ta không gọi Phạm ChíVì chỗ sanh, mẹ sanhChỉ được gọi tên suông Nếu tâm còn phiền não.Nghĩa là Bà-la-môn không phải vì cái đầu bện tóc, không phải vì chủng tộc sinh ra, không phải do cha mẹ sinh ra.

Đó chỉ là tên gọi suông không có ý nghĩa gì.

Mà để được gọi là Bà-la-môn thì cần phải:Ai thật chân chánh tịnhMới gọi Bà-la-môn.Không phiền não chấp trước Ta gọi Bà-la-môn.Tức phải làm người chân thật, chánh thiện, nội tâm an tịnh, tâm không phiền não, không chấp trước thù hận thì Phật mới gọi Bà-la-môn.Qua đây ta cũng thấy Đức Phật đã đứng lên đả kích hủ tục phân biệt giai cấp ở Ấn Độ.

Thủ thuật của Phật rất đơn giản: "Cái mà giai cấp Bà-la-môn tự hào nhất, kiêu ngạo nhất là dòng dõi, thọ sinh, cha mẹ sinh ra ở giai cấp cao quý Bà-la-môn.

Thì chính tên gọi Bà-la-môn mà họ tự hào đó thì Phật dùng để gọi các vị Tu hành chân chính trong đạo Phật.

Đến khi các Bà-la-môn dị nghị, khiếu nại thì Phật mới giải thích: Tiêu chuẩn xét Bà-la-môn không phải ở cái đầu tóc hay dòng dõi.

Xét Bà-la-môn phải là phẩm hạnh đạo đức mới đúng".

Đức Phật quá dũng cảm, quá trí tuệ!Bài học 4: Phạm Chí và Bà-la-môn là một vịKệ Pháp Cú có 2 từ "Phạm chí" và "Bà-la-môn" thật ra là giống nhau.

Gốc xuất phát là "Phạm Thiên" theo tiếng Trung hoặc tiếng Pali là "Brahmaloka".

Đến khi dịch sang tiếng Việt từ tiếng Trung (Bắc Truyền) thì thành "Phạm Chí".

Còn dịch từ tiếng Pali (Nam Truyền) thì thành "Bà-la-môn".Nên Kệ Pháp Cú ta thấy Hòa Thượng Thích Minh Châu lúc thì gọi là Phạm Chí, lúc thì gọi là Bà-la-môn bởi khổ thơ 5 chữ cần chọn từ thích hợp.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 394: Truyện khổ hạnh xin tiền


"Kẻ ngu có ích gìTóc bệnh áo da dêNội tâm toàn phiền nãoMặt làm bộ nghiêm trang."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 394)Tích Pháp Cú: Thành Tỳ Xá Ly ở phía đông Ma Kiệt Đà tiếp giáp với nước Thích Ca.

Ở đó có người biểu diễn khổ hạnh.

Ông ta đến cái cây to rồi móc ngược chân treo lên cành cây cứ lủng lẳng như vậy cả ngày.

Bên dưới có cái mũ rách để xin tiền.Ông đó còn có nghề thứ 2 là xem bói.

Khi không làm khổ hạnh xin tiền thì ông đi xem bói.

Nhưng ông toàn hù dọa người để moi tiền: "Ông này sắp bị tai nạn, nhà này sắp bị cháy, cô đó sắp bị chồng bỏ ..."

Rồi ông ta bắt đưa tiền để trừ tà đuổi ma giúp họ.

Mọi người vì sợ nên cúng tiền cho ông đó.Thế vẫn chưa đủ.

Ông đó còn hăm dọa toàn bộ thành Tỳ Xá Ly.

Khi treo ngược người trên cây thì ông nói: "Nếu không cúng dường cho Ta thì toàn bộ thành này sẽ gặp tai họa".

Mọi người vô cùng tức giận bởi lời nói của ông khổ hạnh này toàn mang đến điều xui xẻo.Các Tỳ kheo đi khất thực ở thành Tỳ Xá Ly thấy truyện đó bèn về Tinh xá kể cho Phật nghe.

Đức Phật nghe xong thì đọc bài kệ:"Kẻ ngu có ích gìTóc bệnh áo da dêNội tâm toàn phiền nãoMặt làm bộ nghiêm trang."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 394)Phật kể rằng nhiều kiếp trước thì ông đó cũng là đạo sỹ, cũng hù dọa mọi người để lấy tiền cúng dường.

Sau đó ông bị đọa vào cõi dữ.

Đến đời này được làm người mà vẫn chưa bỏ tật xấu đó.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Biểu diễn khổ hạnh và hù dọaKẻ ăn xin luôn hóa trang thành khốn khổ để đánh vào lòng thương của dân chúng.

Cũng có thể họ khổ thật, tật nguyền thật, mất khả năng lao động thật.

Nhưng họ khổ 1 thì phải hóa trang thành khổ 10 để dễ bề xin tiền.

Không ai khổ mà hóa trang thành sướng để ăn xin cả.Ông khổ hạnh này lại trù ẻo, nói điềm gở để mọi người sợ mà cúng tiền là nguy cho ông.

Bởi quả báo của Khẩu Nghiệp tương lai sẽ ứng vào ông giống lời ông nói.Không phải ở kiếp này ông ta mắc tật đó.

Nhiều kiếp trước ông cũng là đạo sỹ hù dọa mọi người để xin tiền.

Quả báo bị đọa cõi dữ chịu đau khổ đúng như lời nói nhưng không chừa.

Đến đời này thoát cõi dữ được sinh làm người lại tiếp tục "bệnh cũ kiếp xưa" tái phát.Thời nay kẻ "Biểu diễn khổ hạnh xin tiền" đó được gọi là "Kẻ ăn xin hóa trang khốn khổ".

Xã hội này nhiều lắm.

Còn kẻ hù dọa kiếm tiền bằng nghề thầy bói cũng nhiều.

Nhưng ngày nay họ dọa có nghề hơn, nghe tâm linh thần bí hơn:"Nhà này có vong theo phải làm lễ trừ tà đuổi ma.

Cô đó bị ma kết duyên đeo bám phải cắt đứt tiền duyên.

Nhà này có người thân đọa địa ngục phải cúng siêu độ.

Rồi năm hạn tháng hạn, sao hung chiếu mệnh phải làm lễ dâng sao giải hạn..."

Dù thời nay con người ta văn minh hơn, hiểu biết hơn mà vẫn nhiều người tin sái cổ.

Tuy nhiên..."

Tiền không tự nhiên sinh ra, cũng không tự nhiên mất đi.

Nó chỉ chuyển từ túi người ngu sang túi người khôn mà thôi".Bài học 2: Bồ Tát sợ nhân chúng sinh sợ quảChúng sinh luôn sợ quả báo đau khổ.

Bởi chúng sinh chẳng biết về Nhân quả nên cứ thấy khổ tới là kêu gào, than khóc, cầu Trời, khấn Phật, phong thủy, bùa chú, dâng sao giải hạn...

để thoát quả báo khổ.

Nhưng làm sao thoát được.

Đến Ông Phật còn bị khổ thì làm sao người thoát được.Bồ Tát thì hiểu Nhân quả và biết rằng: "Mọi quả báo buồn vui sướng khổ đến với ta lúc này là do Nghiệp quá khứ đủ Duyên tạo thành Quả báo".

Quá khứ đã qua chẳng thể thay đổi nên quả báo tới là không thể thoát.

Bồ Tát "Nhẫn nhục Ba-la-mật" chịu đựng quả khổ để trả nợ Ác Nghiệp.

Bồ Tát "Tinh tấn Ba-la-mật" đón nhận quả báo phúc mà không hưởng thụ dục lạc Thế gian.

Bồ Tát hướng quả báo phúc đó vào tu hành giác ngộ.Nhưng Bồ Tát lại sợ làm sai tạo tội.

Bởi nếu làm sai thì tương lai 100% sẽ có quả khổ.

Nên Bồ Tát sợ Nhân.

Còn chúng sinh thấy quả khổ tới là lo sợ khóc than.

Quả phúc tới thì hưởng hết vào dục lạc.

Còn chúng sinh thoải mái làm sai tạo tội mà không sợ.Nếu ta hiểu tính chất của Bồ Tát vậy, hiểu Luật nhân quả vậy thì không ai có thể hù dọa ta được.

Bởi ta chính là Bồ Tát "chỉ sợ nhân, không sợ quả".Bài học 3: Tập khí kiết sử nhiều đời khó đổiÔng biểu diễn khổ hạnh xin tiền đó thì kiếp xưa cũng vậy rồi đọa cõi dữ.

Nay thoát cõi dữ làm người vẫn "ngựa quen đường cũ".

Phật gọi đó Tập khí Kiết sử.

"Kiết" hay là "Kết" tức là nó bám keo két, kết dính chặt vào tâm chúng sinh nhiều đời nhiều kiếp.

"Sử" là nó sai sử mọi hành động và lời nói của chúng sinh.

"Kiết" chính là Ý nghiệp sai lầm, ác độc.

"Sử" chính là Khẩu nghiệp và Thân nghiệp do Ý sinh ra.

Chỉ có vị thánh tu hành chứng đạo mới diệt trừ được Kiết sử.

Còn chưa chứng thánh thì Kiết sử vẫn còn.Đức Phật dạy có 10 Kiết sử.

Vị diệt được 3 Kiết sử đầu sẽ chứng Sơ quả Dự Lưu.

Vị diệt thêm 3 Kiết sử sau sẽ chứng Nhị quả Nhất Lai.

Vị diệt hết toàn bộ 5 Hạ phần Kiết sử cuối cùng thì chứng A-la-hán.

Trong kinh Nikaya thì không có Tam quả Bất Lai.Vị thánh Sơ quả Dự Lưu thì tương lai chắc chắn được đắc đạo giải thoát.

Còn từ lúc này cho đến vĩnh viễn về sau sẽ không bị đọa vào 3 ác đạo: Địa ngục, Súc sinh, Ngã quỷ.

Vị thánh Nhị quả Nhất Lai sẽ quay trở lại Luân hồi này 1 kiếp sống rồi đắc đạo giải thoát.

Đa phần các vị sẽ sinh về cõi Đâu Suất Đà Thiên của Bồ Tát Di Lặc.

Còn vị A-la-hán sẽ sống 1 đời sống cuối cùng này sau đó nhập Niết Bàn.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 395: Truyện vị khổ hạnh đệ nhất ni chúng


"Người mặc áo đống rácGầy ốm trơ gân xươngĐộc cư thiền trong rừngTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 395)Tích Pháp Cú: Ở Ma Kiệt Đà có ngọn núi linh thiêng tên là núi Linh Thứu.

Núi đó còn có tên khác là núi Kỳ Xà Quật.

Lần đó Phật lên núi thuyết pháp cho Chư thiên.

Lúc Phật đang thuyết pháp cho Chư thiên thì có Trưởng lão ni Ki-sa-gô-ta-mi tu độc cư trong rừng bay đến.Có thể bạn còn nhớ Tích Pháp Cú 114 kể về cô gái có đứa con trai yêu mến bị chết.

Cô mang xác con đến xin Phật cứu.

Phật bảo cô đó đi xin nắm hạt cải ở nhà không có người chết về để Phật làm thuốc.

Cô ta lao đi trong hi vọng như cả ngày không tìm được nhà nào không có người chết.

Cô ta mới ngộ được một sự thật: "Ai rồi cũng phải chết, gia đình nào cũng có người chết".

Cô buồn rầu về xin lại xác con thì Phật đọc bài kệ cô hốt nhiên chứng Sơ quả Dự Lưu.

Cô xuất gia tu một thời gian thì chứng A-la-hán.

Cô làm vị Trưởng lão uy đức trong Ni chúng.

Đó chính là Trưởng lão ni Ki-sa-gô-ta-mi này.Lần đó bà dùng thần thông bay từ khu rừng của bà lên núi Linh Thứu để đảnh lễ Phật.

Khi bà bay trên hư không nhìn xuống thấy Chư thiên đứng kín núi Linh Thứu.

Thế là bà đứng giữa hư không đảnh lễ Phật rồi bay đi vì không muốn làm gián đoạn buổi thuyết pháp của Phật.Thiên chủ Đế Thích mới hỏi Phật:- Bạch Thế Tôn, người nữ vừa bay đến rồi lại bay đi đó là ai?- Này Thiên Chủ, đó là Trưởng lão Ki-sa-gô-ta-mi.

Vị đó đã chứng A-la-hán.

Vị đó là Khổ hạnh đầu đà đệ nhất trong Ni giới.Sau đó Phật đọc bài kệ tán thán Trưởng lão:"Người mặc áo đống rácGầy ốm trơ gân xươngĐộc cư thiền trong rừngTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 395)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Núi Linh Thứu, núi Kinh Đại ThừaNúi Linh Thứu còn gọi là núi Kỳ Xà Quật, đỉnh núi dài phía đông tây, hẹp ở nam bắc.

Vườn rừng trong núi thanh tịnh, cũng là trụ xứ của chư Phật Thánh tăng từ xưa tới nay.

Có lần Đức Phật Thích Ca an trú nơi đây trong 3 tháng cùng đại chúng Tỳ kheo và A-la-hán.

Phật đã thuyết giáo pháp cho Chư thiên.Các kinh Đại thừa như "Đại Bát Nhã Ba-la-mật-đa", "Kinh Diệu Pháp Liên Hoa", "Kinh Vô Lượng Nghĩa", "Kinh Phật Thuyết Pháp Hoa Tam Muội" v.v...

đều do đức Phật tuyên thuyết trên núi đó.

Cho nên trong Kinh Đại Thừa ta hay nghe thấy câu "Linh Sơn hội thượng Phật Bồ tát", "Linh Sơn Thắng Hội", chính là nhắc đến núi Linh Thứu nơi tổ chức đại lễ thuyết pháp của Đức Phật Như Lai vậy.Bài học 2: Chư thiên hội tụ nghe phápTheo kinh Phật thì Thế gian này có 2 cõi tồn tại Chánh pháp của Đức Phật.

Đó là cõi người khi Đức Phật Thích Ca tại thế.

Thời Chánh Pháp của Phật Thích Ca tồn tại sau khi Phật nhập Niết Bàn 500 năm.

Sau đó Chánh Pháp bị sai lệch, biến đổi, không đúng chuẩn và rất hiếm vị tu chứng A-la-hán.

Thế nên trong 2000 năm lịch sử Phật Giáo Trung Hoa mà số lượng các vị tổ vĩ đại, chứng đạo vĩ đại có thể đạt quả vị A-la-hán chỉ đếm trên đầu ngón tay.Còn trong thời Phật Thích Ca thì có 1200 vị A-la-hán.

Sau thời Phật 500 còn vô số các vị A-la-hán.Cõi thứ 2 có Chánh pháp là Đâu Suất Đà Thiên của Bồ Tát Di Lặc.

Nhưng Đâu Suất Đà Thiên là cõi trời rất cao nên các Chư thiên năng lực thấp không đủ phúc hóa thân lên đó.

Thế nên cõi người khi có Đức Phật Thích Ca trụ thế thì Chư thiên đều hội tụ về để nghe Phật thuyết pháp.Bài học 3: Độc cư tu hành chứng đạoTa hay thấy Phật khen vị tu độc cư.

Thật ra tu độc cư thiền định là giai đoạn quan trọng quyết liệt để khai mở tâm linh chứng đạo.

Phật mất 6 năm tu khổ hạnh cực đoan độc cư trong rừng cùng 5 anh em Kiều Trần Như mà không chứng đạo.

Sau đó Phật tu độc cư 49 ngày theo phương pháp thiền khi 12 tuổi thì chứng đạo.

Sau khi chứng đạo rồi thì Phật không độc cư nữa.

Phật dành 45 năm giảng pháp và xây dựng đạo Phật phát triển rộng khắp Ấn Độ.Ta nhớ Ngài A-nan 43 năm tu theo Phật làm thị giả.

Ngài quá bận rộn với công việc.

Ngài không có thời gian tu độc cư nên không thể chứng đạo.

Sau khi Phật nhập Niết Bàn thì Ngài có thời gian tu độc cư 7 ngày sau chứng A-la-hán.

Vậy nên tu độc cư chỉ là giai đoạn quan trọng, quyết liệt để khai mở tâm linh chứng đạo.

Còn trước đó khi chưa đủ duyên hay sau khi chứng đạo thì không cần độc cư nữa.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 397: Truyện "ta không còn sợ gì nữa"


"Đoạn hết các kiết sửKhông còn lo sợ gìKhông đắm trước buộc ràngTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 397)Tích Pháp Cú: Chắc các bạn còn nhớ Pháp Cú 348 có nghệ sỹ xiếc U-đa-rê-na.

Chàng là con nhà giàu có ở thành Vương Xá.

Chàng yêu cô gái đoàn xiếc mà bỏ hết tài sản gia đình theo cô gái.

Rồi chàng bị vợ khích bác thì tức khí tập xiếc trở thành nghệ sĩ tài danh nhất đoàn.Lần đó đoàn xiếc quay về thành Vương Xá biểu diễn.

Khi đến tiết mục của chàng trước toàn bộ các con mắt của người thân yêu trong gia đình và bạn bè xưa cũ.

Chàng hăm ở biểu diễn thì Đức Phật xuất hiện.

Thế là mọi người quên luôn chàng quay ra đảnh lễ Phật.

Chàng đứng trên sân khấu mà tẽn tò, hụt hẫng, lòng thất vọng tràn trề.Phật biết tâm U-đa-rê-na buồn nên Phật bảo:- Này U-đa-rê-na, hãy biểu diễn tiết mục tâm huyết đó cho Như Lai xem.Rồi toàn bộ dân chúng Vương Xá và cả gia đình chàng đều quay ra ngóng đợi xem tiết mục tâm huyết đó.

U-đa-rê-na tâm đang thất vọng tràn trề thì bừng bừng xúc động hạnh phúc dâng trào.

Ngay lúc đó thì Phật đọc kệ Pháp Cú 348 chàng lập tức chứng A-la-hán.

Rồi chàng xin quy y Đức Phật và xin xuất gia.

Đó là truyện tích Pháp Cú 348.Tôn giả U-đa-rê-na những lúc nói chuyện với đồng đạo Ngài thường thốt lên câu: "Ta không còn sợ gì nữa".

Các Tỳ kheo khác mới thấy ông đó cứ kỳ kỳ.

Thế là họ mang chuyện đó lên hỏi Đức Phật.

Phật mới xác nhận rằng U-đa-rê-na đã chứng A-la-hán.

Rồi Phật đọc bài kệ để khen ngợi U-đa-rê-na:"Đoạn hết các kiết sửKhông còn lo sợ gìKhông đắm trước buộc ràngTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 397)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Từ đâu có tâm lý sợ?Con người ta luôn có tâm THAM và tâm ÁI.

Ta luôn tham lam thèm khát cái mà ta chưa có và muốn có nó.

Khi ta có cái ta muốn thì ta yêu mến nó (gọi là Ái).

Ta bám chấp vào nó và giữ chặt nó.

Nếu nó có nguy cơ bị mất thì ta lo sợ.

Càng yêu nhiều thì càng sợ nhiều.

Nên khi cô gái yêu chàng trai si mê cũng là lúc cô ta sợ mất chàng ta nhất.

Còn nếu cô không yêu thì không hề lo sợ.Liệt kê cái THAM và ÁI thì nhiều lắm lắm.

Nhưng túm lại có 2 loại là Vật chất và Tinh thần.

Phân theo đạo đức cũng có 2 loại là Ích kỷ và Vị tha.Vật chất cơ bản nhất là sinh mạng ta, sức khỏe, đồ ăn, dưỡng khí, như cầu ngủ, tình dục, bài tiết.

Những thứ đó loài vật cũng cần vì nó là bản năng.

Thiếu nó là chết hoặc giống loài tuyệt chủng.Nhưng vật chất con người cao cấp hơn con vật nên có thêm: ăn ngon, hợp vệ sinh, có nghệ thuật ẩm thực, đặc sản địa phương.

Mặc đồ đẹp.

Ngủ giường êm nệm ấm, khách sạn 5 sao view đẹp.

Rồi đi xe hơi, ở nhà lầu, phòng điều hòa, âm thanh, tivi, điện thoại.

Và Tiền là vật chất quy đổi của mọi loại vật chất.Về tinh thần thì con vật cần ít nhưng con người cần nhiều.

Nhu cầu tinh thần quan trọng nhất của con người là học tập, tri thức, trí tuệ, triết học, đạo lý, chính trị, kinh tế, kinh doanh, tài chính, công nghệ... rồi 7 môn nghệ thuật, thể thao, chơi game vận động, game điện tử...

Và thèm khát nhất của tinh thần là Danh tiếng và Quyền lực.

Cao cả nhất của tinh thần là Văn hóa và Đạo đức.Nếu Vật chất và Tinh thần đó phục vụ cho bản thân ta thì là Ích kỷ.

Nếu vật chất và tinh thần đó phục vụ cho người, cho xã hội thì là Vị tha.

Ví dụ:"Tôi có một ước mơ là độc lập tự do cho dân tộc.

Đất nước ta hùng cường sánh vang với cường quốc 5 châu.

Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, văn minh, đạo đức" thì đó là ước mơ Vị tha.Còn "Tôi muốn làm Tỷ phú giàu nhất thế giới.

Tôi muốn mua được máy bay riêng, du thuyền riêng, có biệt thử ở Dubai" thì đó là tham vọng Ích kỷ.Nếu ta thèm khát vật chất và tinh thần mà chưa có nó thì sinh lòng THAM.

Khi đã có vật chất và tinh thần rồi thì tâm sinh ÁI.

Khi yêu nó và có nó thì ta sẽ lo sợ bị mất nó.

Và tâm lý lo sợ xuất phát từ đây.

Vậy một vị A-la-hán đã diệt từ hết Kiết sử: Tham, sân, si, mạn, nghi, ái, dục... thì sẽ không còn tham, không còn ái và không còn lo sợ bị mất cái gì.Tuy nhiên sợ cũng có mặt tốt.

Ví dụ: Ta sợ chết nên ta phải "an toàn lao động".

Ta sợ học dốt nên ta phải cố gắng.

Vì sợ mất nước mà các chiến sỹ dám hi sinh mạng sống, cầm súng chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 398: Truyện con bò bỏ đai, bỏ cương


"Bỏ đai da, bỏ cươngBỏ roi, bỏ xà íchBỏ chốt, lòng nhẹ nhàngTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 398)Tích Pháp Cú: Có 2 ông chủ bò là Bà-la-môn.

Mỗi ông có 1 con bò đực mạnh mẽ.

Rồi 2 ông đó khoe về sức mạnh con bò đực của mình.

Khoe một hồi rồi thành ganh đua.

Thế là 2 ông mang bò ra thi đấu.

Hai ông mang bò ra cột vào xe và đai cương.

Rồi 2 ông chất lên xe gạch đá cho thật nặng.

Rồi các ông đánh bò bắt kéo xe để thử sức.

Đến lúc con bò không thể chịu nổi thì nó giằng đứt đai cương bỏ chạy mất.Cuộc thi đó có nhiều dân chúng đứng xem và có các Tỳ kheo.

Sau khi xem xong thì Tỳ kheo mang chuyện đó về kể lại cho Phật.

Phật nghe xong thì lái chuyện đó sang chuyện tu hành:- Này Tỳ kheo, con bò đó bỏ hết đai, cương, roi, càng, xích và sự ràng buộc để nhẹ nhàng.

Cũng vậy, Tỳ kheo hãy bỏ hết buộc ràng, chấp trước, tham ái, sân hận, nhiễm ô, kiết sử để được giải thoát.Nói xong thì Phật đọc bài kệ:"Bỏ đai dai, bỏ cươngBỏ roi, bỏ xà íchBỏ chốt, lòng nhẹ nhàngTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 398)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Kiếp trâu bòNgày xưa ở các phim cổ tôi hay thấy câu nói: "Kiếp này tôi không trả nợ được cho anh.

Kiếp sau tôi nguyện làm trâu bò để trả nợ".

Và sự thật đúng vậy.

Một kẻ mắc nợ người mà không trả được.

Nếu có phúc thì kiếp sau làm người hầu, kẻ hạ hay làm nô lệ để trả nợ.

Nếu không có phúc thì kiếp sau sinh làm trâu bò để kéo cày trả nợ.Nhưng 2 con bò ở đây bị ngược đãi.

Nó thì có sức khỏe nhưng không phải vô tận.

Nếu nó kéo cày ở ruộng thì đơn giản.

Nhưng ông chủ bắt nó kéo xe thật nặng rồi đánh nó thật đau để thi thố.

Nên nghiệp nhanh hết và nợ nhanh tan.

Nó giằng đứt đai cương mà bỏ chạy coi như được giải thoát.Nên người biết Nhân Quả vô cùng sợ mắc nợ.

Mắc nợ người tốt thì họ đối xử tốt với ta bắt ta làm việc tốt.

Mắc nợ kẻ xấu thì khi trả nợ họ sẽ ngược đãi đánh đập ta.

Còn mắc nợ kẻ ác thì nó đưa con dao khẩu súng vào tay ta bắt ta làm việc ác.

Mà khi đã mắc nợ rồi, đến duyên phải trả rồi thì ta không thể thoát.

Ta cứ phải kéo cày trả nợ thôi.Bài học 2: Tỳ kheo "bà tám" bị Phật kéo vào đạoBây giờ các Sư tu trong chùa ít ra ngoài đi sâu vào quần chúng.

Thế nên chuyện đời thế tục có thể Sư không thấy.

Tuy nhiên mạng xã hội, youtube ngày nay nở rộ nên chuyện đời cũng được Sư cập nhập sát thực tế.

Nhưng nếu Sư thích chuyện đạo, tìm hiểu về đạo thì trên internet cũng đầy.

Còn thích chuyện đời thì sẽ nhiều hơn gấp bội.

Và sở thích người dùng thế nào Internet sẽ đáp ứng.

Internet có lợi và có hại.

Quan trọng ta thích điều thiện hay điều ác mà thôi.Còn thời xưa Tỳ kheo ôm bát đi khất thực.

Họ đi trên đường, vào nhà dân xin ăn thì chuyện đời họ thấy suốt.

Mà chuyện đời thời đó là duyên tự nhiên hiện ra chứ không phải thích thế nào có thế đó.

Và Tỳ kheo cũng "bà tám, buôn dưa lê" ác.

Thế là Đức Phật lại đến hỏi có chuyện gì?

Các vị kể lại xong thì Phật lại kéo từ chuyện đời sang đạo lý tu hành.

Phật thật là khéo léo.Và cũng nhờ Tỳ kheo "bà tám" nên ta có Truyện Tích Pháp Cú đầy đủ chi tiết hết cuộc đời Đức Phật.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 399: Truyện 3 tấm gương nhẫn nhục


"Nhẫn nhục không ác ýDù bị chửi bị đánhLấy nhẫn làm sức mạnhTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 399)Tích Pháp Cú: Có bà vợ ông nọ đi nghe Phật thuyết pháp thì chứng Sơ quả Dự Lưu.

Từ đó lòng kính tin Tam Bảo của bà vô lượng vô biên.

Rồi bà hay cúng dường Đức Phật và Chư tăng.

Nhưng ông chồng thì không tin Tam Bảo nên hay chửi mắng và chèn ép, áp đặt bà.

Nhưng với tính cách của một vị thánh Sơ quả Dự Lưu tuy hiền lành nhưng không bao giờ khuất phục.

Bà không bao giờ để ai có thể xúc phạm Tam Bảo.

Rồi bà nói rằng:- Nếu ông gặp Thế Tôn thì ông sẽ phải quy y theo Thế Tôn giống như tôi mà thôi.Bị vợ thách đố thế là ông chồng đồng ý đến gặp Phật.

Ông quyết cãi nhau tay đôi với Phật.Lúc đi thì ông hung hăng quyết cãi nhau với Phật.

Nhưng khi gặp Phật thì thần uy của Phật khiến ông phải cúi đầu kính lễ và nghiêm túc.

Ông đó mới hỏi Đức Phật rằng:- Thưa Thế Tôn, làm sao biết một người là thánh hay là phàm?Bởi khi cãi nhau bà vợ ông hay ca ngợi Đức Phật là vị thánh vĩ đại, Chánh đẳng Chánh giác, được thế gian tôn kính.

Còn các đệ tử Phật đều là các vị thánh.

Ông không tin.

Ông cho rằng ai cũng giống ai đều là phàm phu cả.

Thế nên gặp Phật ông hỏi câu đó.Phật mới trả lời:"Nhẫn nhục, không ác ýDù bị chửi bị đánhLấy nhẫn làm sức mạnhTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 399)Tức là Nhẫn nhục là sức mạnh của một vị thánh và vị thánh thì không có ác ý hại ai.

Còn phàm phu thì bộc phát, làm theo ý thích và có tâm ác ý hại người hoặc muốn chiến thắng người.Điều Phật nói đánh đúng tim đen của ông.

Bởi chính ông là người bộc phát, thích làm theo ý mình, thích chiến thắng khuất phục vợ.

Ông chợt nhận ra chính ông là kẻ phàm phu còn vợ ông thì hiền từ nhẫn nhục như một vị thánh.

Ông ta bèn quỳ xuống nói rằng:- Bạch Thế Tôn, nay con đã hiểu rằng con đã sai.

Nhưng con về nhà thì không biết ăn nói thế nào với vợ.

Vậy xin Thế Tôn cho con được xuất gia tu hành.Tin ông chồng đến gặp Phật rồi xin ở lại xuất gia đồn lan về nhà.

Gia đình đó có 3 em trai và họ không mộ đạo Phật.

Nghe tin anh trai đã xuất gia thì họ quyết đến kéo anh về.

Họ đến nơi thì thấy ông anh đã cạo đầu đắp y Tỳ kheo.

Thế là 3 người đó đứng chửi ông giống y như lúc ông chửi vợ.

Ông đó chứng kiến cảnh đó thì ngộ ra "Nhân quả thật chẳng sai".Thế là ông đó nhẫn nhục nghe chửi rồi từ từ khuyên bảo 3 em trai đi gặp Thế Tôn.

Cũng giống hệt vợ ông đã khuyên ông.

Rồi 3 em trai đồng ý, quyết đến cãi nhau với Đức Phật để lôi anh về.

Rồi 3 ông đó lại đến gặp Phật hỏi đúng câu hỏi anh trai đã hỏi.

Phật trả lời đúng vậy rồi 3 ông đó lại ngượng với gia đình mà không muốn về.

Họ xin xuất gia luôn.Sau đó các Tỳ kheo mới ngạc nhiên: "Vì sao 4 anh em khi đến gặp Phật thì hùng hổ quyết ăn thua.

Nhưng sau đó cả 4 người đều xin xuất gia ngay tức thì?".

Họ bèn hỏi Đức Phật về nguyên nhân gì mà như vậy?

Phật không trả lời về nhân quả, kiếp trước, kiếp sau.

Phật đọc lại bài kệ Pháp Cú:"Nhẫn nhục, không ác ýDù bị chửi bị đánhLấy nhẫn làm sức mạnhTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 399)Tức Phật nói là nhờ Nhẫn nhục, không ác ý, dù bị chửi bị đánh mà vẫn giữ được Nhẫn nhục.

Chính vì vậy nên cảm hóa được 4 người đó.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Nhẫn nhục Ba-la-mậtĐịnh nghĩa về Nhẫn nhục là:"Kẻ nào đó bằng hành động hay lời nói đánh vào bản ngã của ta mà ta chịu đựng được bởi chịu đựng có lợi ích lớn hơn là phản kháng.

Trong khi năng lực của ta, sức mạnh của ta hoàn toàn có thể phản kháng nhưng ta không làm.

Thêm nữa là tâm ta phải hoàn toàn bình an tự tại trước sự đánh đập hay xúc phạm đó.

Bản ngã ở đây là thân tâm ta, vật chất hay hay tinh thần của ta."

Nếu năng lực ta yếu, sức ta kém và ta không phản kháng thì gọi là "Nhịn nhục chờ cơ hội trả thù".

Thế mới có câu: "Mèo tha miếng thịt thì đòi.

Hùm tha con lợn thi coi chừng chừng".

Con mèo nó yếu đuối tha miếng thịt thì ta đánh, ta đòi.

Con hổ nó tha nguyên con lợn ta chỉ đứng nhìn chẳng ai dám đòi.Nếu năng lực ta có thể đánh lại, chửi lại nhưng ta nhớ lời Phật dạy nên ta kìm nén mà mặt đỏ tía tai, tim đập thình thịch, máu trong người sôi lên.

Đó không gọi là Nhẫn nhục và gọi là Kìm nén.

Bởi tâm ta không bình an tự tại.

Tâm ta đang kìm nén trong sự tức giận đến khi vượt giới hạn thì nó vỡ tan.

Khi đó hành động trả thù của ta vô cùng thảm khốc.Bài học 2: Nhẫn nhục sai lầmTa xét 3 ví dụ sau:Ví dụ 1: Vào năm 1193 ở đại học Phật Giáo Na-lan-đa Ấn Độ có 100 tên lính Hồi Giáo người Turk mang gươm xông vào.

Tại đó có 3000 vị Tỳ kheo tu hành.

Các vị đó đã thực hành "Nhẫn nhục Ba-la-mật" để mặc cho bọn chúng giết rồi đốt phá.

Đại học đó cháy trong 3 tháng mới hết.

Toàn bộ Đại tạng Kinh Phật đều bị thiêu sạch.

Sau lần đó thì xứ Ấn Độ đạo Phật biến mất.Ví dụ 2: Khi đó Đại Đế Quốc Mông Cổ đã xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, Cao Ly, Trung Á, Tây Á, Đông Âu và một số vùng Trung Đông.

Diện tích lãnh thổ rộng tới 35 triệu km2.

Chúng 2 lần mang đại quân tiến đánh Đại Việt.

Mỗi lần 50 vạn đại quân vào các năm 1285 và 1287.

Trước đó vào năm 1258 chúng khinh thường chỉ mang 5 vạn quân nên đã thua.

Lần này chúng quyết phục thù với quân số đông gấp 10 lần để giết sạch dân ta cho hả giận.Còn Đại Việt ta khi đó thì nhỏ bé.

Diện tích toàn bộ đất nước chỉ khoảng 100.000 km2.

Tức Đại Đế Quốc Mông Cổ rộng gấp 350 lần nước ta.

Thế nhưng vua tôi nhà Trần đã đánh bại cả 2 lần đó.

Đất nước ta bình an lại mang lễ vật cầu hòa với nhà Nguyên.

Ví dụ 3: Năm 1965-1973 nước ta đánh nhau với Siêu cường số 1 Thế giới thời hiện đại là Mỹ.

Số lượng bom Mỹ thả xuống Việt Nam là 7,85 triệu tấn gấp 3 lần toàn bộ số bom đạn sử dụng trong Thế chiến II, bằng 250 lần sức công phá của bom Nguyên tử Mỹ thả xuống Hiroshima.

Đó là chưa kể 7,5 triệu tấn đạn được dùng cho súng bộ binh, pháo binh, tên lửa và 75 triệu lít chất độc hóa học mầu da cam.

Nhưng cuối cùng thì dân ta vẫn đánh đuổi Mỹ khỏi Việt nam với "Điện Biên Phủ trên không 1972".Hết chiến tranh đến nay 2023 là tròn 50 năm.

Việt Nam ta và Mỹ lại là bạn bè thân thiết.

Ta và Mỹ là Đối tác quan hệ Chiến lược - Toàn diện, mức quan hệ ngoại giao cao nhất giữa 2 quốc gia.Vậy đâu mới là Nhẫn nhục Ba-la-mật thực sự?Bạn hãy chú ý cụm từ "Bản Ngã của ta" tức kẻ đó đánh vào thân tâm ta, vật chất và tinh thần của ta mà ta Nhẫn nhục được thì là đúng pháp.Còn 3000 Tỳ kheo đó thấy giặc đe dọa đạo Phật, đe dọa kinh tạng Chánh pháp của Phật, đe dọa sự tồn vong của đạo... mà ngồi đó chịu chết thì không đúng pháp bởi đó không phải "Bản Ngã của ta".

Đạo Phật và Chánh Pháp Đức Phật là điều linh thiêng ta cần bảo vệ cho nhân loại chứ không phải là "Bản Ngã".Còn Việt Nam ta thời Trần hay thời đánh Mỹ thì vì dân tộc, vì quê hương đất nước, vì tổ tiên mà chúng ta quyết đánh đuổi giặc ngoại xâm.

Dù giặc có sức mạnh gấp 350 lần ta hay "Siêu cường số 1 Thế giới" thì ta vẫn đánh.

Mà đã đánh thì phải thắng đủ 3 lần.

Hoặc buộc Mỹ phải ký vào hiệp định với đầy đủ yêu cầu của Việt Nam.

Đó mới thực sự là Nhẫn nhục.Khi ai xâm phạm vào "Bản ngã của ta" mà ta không giận, không sân, ta bình thản đón nhận thì là Nhẫn nhục đúng pháp.

Còn khi ai xâm phạm vào người thân yêu của ta, vợ con ta, cha mẹ ta, thầy tổ ta, tổ quốc ta, dân tộc ta... thì đó không phải là "Bản ngã của ta".

Nếu ta bình thản đứng nhìn thì không gọi là Nhẫn nhục mà gọi là "Nhu nhược hèn yếu".
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 400: Truyện mẹ Ngài Xá Lợi Phất chửi con


"Không sân, xong bổn phậnTrì giới, không tham áiNhiếp phục, thân cuối cùngTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 400)Tích Pháp Cú: Ta biết Đức Phật phân công Ngài Xá Lợi Phất quản lý hội chúng Chư tăng ở Tinh xá Kỳ Viên, thành Xá Vệ, nước Ko-sa-la.

Ngài Mục Kiền Liên quản lý hội chúng Chư tăng ở Tinh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà.

Tuy nhiên thỉnh thoảng thì 2 Ngài vẫn đi đến Tinh xá của nhau để thăm hỏi giao lưu.Lần đó Ngài Xá Lợi Phất về thăm lại thành Vương Xá và đến làng Na-lan-đa để thăm mẹ (về sau Na-lan-đa được xây dựng thành Đại Học Phật Giáo vĩ đại nhất Ấn Độ.

Đến năm 1193 bị Hồi giáo đốt phá).

Ngài đi cùng rất đông Tỳ kheo về nhà cũ để khất thực.Thế nhưng khi mẹ Ngài nhìn thấy Ngài thì bắt đầu chửi.

Bởi Ngài đi tu đã lôi kéo theo toàn bộ các anh em đều đi tu.

Gia đình Ngài thì giàu có nay không có ai thừa kế thì tài sản gia đình sẽ bị vua sung công quỹ hoặc bị chia cho họ hàng.

Thế nên mẹ Ngài giận Ngài.

Thấy mặt Ngài là bà bắt đầu "bài ca hàng tôm hàng cá".Dù Ngài có mang theo rất nhiều Tỳ kheo đi cùng thì bà cũng chửi chẳng nể mặt.

Chửi thì chửi nhưng dù sao mẹ vẫn thương con.

Bà sai giai nhân nấu ăn cho mọi người.

Khi làm cơm thì bà vẫn tiếp tục chửi Ngài.

Cơm xong rồi và mọi người bắt đầu thọ thực thì bà vẫn tiếp tục "bài ca không quên".Mọi người thấy Ngài Xá Lợi Phất vẫn bình thản đón nhận mặt mũi tươi tỉnh không phản ứng.

Thê nên các vị cũng chịu khó ngồi nghe và thọ thực.

Ngài La Hầu La khi đó mang theo 2 cái bát.

1 cái để nhận đồ ăn cho mình còn 1 cái thì Ngài mang về cho Phật.Ngài La Hầu La mang bát cơm đó về dâng lên Phật rồi Ngài kể lại chuyện cho Phật nghe.

Phật nghe xong thì khen Ngài Xá Lợi Phất bằng bài kệ:"Không sân, xong bổn phậnTrì giới, không tham áiNhiếp phục, thân cuối cùngTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 400)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Vì sao mẹ lại giận Ngài Xá Lợi Phất?Pháp Cú 98 kể về cậu em út Rê-va-ta của Ngài Xá Lợi Phất.

Vì Ngài Xá Lợi Phất đã dụ hết toàn bộ anh em đi tu.

Gia đình còn mỗi cậu út ở lại thừa kế tài sản gia đình.

Cha mẹ Ngài sợ cậu út theo anh đi tu nốt nên ép cậu cưới vợ sớm.

Trong lễ thành hôn thì vị chủ hôn mới chúc:- Cầu chúc cô dâu chú rể sống với nhau tới đầu bạc răng long giống cụ cố này.Rồi ông ta chỉ vào bà cụ 102 tuổi.

Chú Rê-va-ta nhìn bà cụ thì hoảng sợ bởi cô dâu xinh đẹp trẻ trung vậy mà tương lai sẽ giống bà cụ đó.

Chú ta hoảng sợ bỏ chạy khỏi đám cưới thì Ngài Xá Lợi Phất đã biết trước.

Ngài bố chí Tỳ kheo đón đường.

Khi chú chạy đến thấy Tỳ kheo thì quỳ lạy xin xuất gia.

Lập tức Tỳ kheo dấu chú mang đi.

Rồi chú tu trong rừng keo gai góc vì sợ cha mẹ bắt về.

Bởi gia đình Ngài Xá Lợi Phất là đại phú gia giàu có quyền lực nhất vùng.

Thế ta đã biết vì sao đến khi gặp mặt Ngài Xá Lợi Phất là mẹ Ngài chửi con như "hát hay".Tại khu rừng keo Tỳ kheo Ri-va-ta chứng A-la-hán.

Đức Phật và Tôn giả Xá Lợi Phất cùng Chư tăng đến thăm.

Chú bèn dùng thần thông biến rừng gai thành Tinh xá nguy nghi đẹp đẽ có lầu các cung điện.

Chú đón tiếp Phật và Chư tăng trong nhiều tháng.Bài học 2: Sao Ngài Xá Lợi Phất lại mang rất đông Chư tăng cùng đi để nghe mẹ chửi?Ta sẽ tự hỏi: "Vì sao Ngài Xá Lợi Phất biết mình về nhà sẽ bị mẹ chửi.

Sao Ngài còn mang theo rất đông các Tỳ kheo đi cùng để làm gì?"

Thường thì con người ta ai cũng có tính sỹ diện và muốn giữ thể diện.

Nên nếu bị chửi hay bị làm nhục mà chỉ duy nhất 1 mình sẽ đỡ ngượng.

Đây bị mẹ chửi trước mặt rất đông người chứng kiến.

Trong đó còn có cả đệ tử ví như Ngài La Hầu La nữa.

Nhưng Ngài Xá Lợi Phất vẫn kéo theo đông thật là đông mọi người đi cùng.

Sao kỳ lạ vậy?Theo tôi có 2 lý do sau:Lý do thứ 1: Ngài muốn tạo công đức cúng dường trai tăng cho mẹ.

Mẹ Ngài không hề thích đạo Phật.

Bởi đạo Phật mà toàn bộ con bà đều đi tu hết.

Nên gần như cả đời bà không bao giờ cúng dường Chư tăng tích phúc cả.

Và đây là cơ hội để mẹ có thể cúng dường trai tăng số lượng rất đông Tỳ kheo.

Trong đó còn có nhiều vị chứng A-la-hán.Ta biết công đức cúng dường A-la-hán vĩ đại tới mức 500 Chư thiên xếp hàng dài cầu mong được cúng dường cho Ngài Ma-ha Ca Diếp.

Thế nên nếu mẹ Ngài Xá Lợi Phất cúng dường trai tăng cho số lượng lớn Tỳ kheo và A-la-hán thì phúc báu lớn.Lý do thứ 2: Mẹ Ngài thù hận và bực tức Ngài rất lớn.

Nếu tâm thù hận đó bị nuôi trong lòng thì đến lúc bà chết sẽ đọa Địa ngục.

Nay là cơ hội để bà xả cơn giận.

Nếu bà chửi 1 mình Ngài nghe có thể phải chửi vài năm mới xả hết giận.

Nhưng khi có đông người thậm chí tới hàng trăm vị cùng nghe thì chỉ 1 buổi chửi là xả hết toàn bộ cơn giận.Các Tỳ kheo đi theo Ngài thì dĩ nhiên là không bị mẹ Ngài chửi rồi.

Nhưng khi bà tức giận chửi mắng Ngài thì sẽ đả kích cả đạo Phật.

Thế nên mọi người cũng bị chịu trận cùng Ngài.

Nên cơn giận của bà mau nguội.Tuy nhiên ta chú ý: Chửi thì chửi mà làm cơm ngon cho mọi người ăn thì bà vẫn làm.

Vậy tức là lời nói và hành động không đi đôi với nhau.

Vậy khi lời nói và hành động ngược nhau như vậy thì tâm bà thế nào?Theo tôi đoán: Thật ra sâu trong tâm bà vẫn rất yêu con.

Thế nên lời chửi phát ra miệng mà tâm thì lại thương yêu con và hành động là ân cần chăm sóc.

Thế bảo sao Ngài Xá Lợi Phất nghe mẹ chửi mà tâm thấy hạnh phúc, bình an, sung sướng.Bài học 3: Mẹ Tôn giả chửi Tôn giả có tạo Ác Nghiệp không?Nếu xét theo Nhân Quả thì là có.

Nhưng nếu có tạo Ác Nghiệp mà Ngài Xá Lợi Phất lại cố ý tạo điều kiện để mẹ tạo Ác Nghiệp thì đó không phải là Trí tuệ đệ nhất.

Vậy nên sự thật là không tạo Ác nghiệp.

Vì sao lại là không?Thứ nhất: công đức cúng dường trai tăng cho đông đảo Tỳ kheo lớn hơn tội mẹ chửi con.Thứ hai: Theo giới luật Sa-di xuất gia phải được cha mẹ cho phép.

Thế nhưng Ngài Xá Lợi Phất đưa toàn bộ anh em bỏ cha mẹ, bỏ gia đình tài sản đi xuất gia không được cha mẹ đồng ý.

Vậy sự thật là Ngài có tội.

Thế nên cái tội đó được mẹ trả bằng sự chửi mắng nên mẹ Ngài không mang tội.Ta ví dụ Ngài An-gu-li-ma-la giết hại 999 mạng người.

Rồi người thân những người bị giết đó tìm đến Ngài trả thù.

Dù khi đó Ngài đã chứng A-la-hán.

Nhưng người thân gia đình đó không tạo tội bởi đó là sự trả nợ nỗi khổ mà Ngài đã gây ra cho họ.Thứ ba: Mẹ Ngài chửi Ngài mà tâm vẫn yêu con, hành động vẫn làm cơm cho con ăn để chăm sóc con.

Vậy bà chửi mà tâm không ác ý thì không có tội.Bài học 4: Phân tích Pháp Cú"Không sân, xong bổn phậnTrì giới, không tham áiNhiếp phục, thân cuối cùngTa gọi Bà-la-môn."

"Không sân" là Phật khen Ngài Xá Lợi Phất nghe mẹ chửi như "tát nước vào mặt" mà không sân, không khổ.

"Không sân khi bị nghe chửi" là một đặc điểm của một vị A-la-hán.

Tích Pháp Cú 320 khi Phật ở xứ Cô-dăm-bi thì dân chúng do hoàng hậu Ma-gan-bi-da xúi giục mua chuộc đã đứng lên chửi Phật.

Phật và các vị A-la-hán thì bình an nghe chửi.

Còn Ngài A-nan chưa chứng A-la-hán đi bên Phật thì thống khổ, không thể nào chịu nổi, tưởng như gục ngã."

Xong bổn phận" tức Ngài Xá Lợi Phất có nợ ơn nghĩa với mẹ.

Nay Ngài cố tình "vác bản mặt đến" để cho mẹ xả cơn giận.

Đó là xong bổn phận trừ bỏ tâm hiềm hận trong lòng mẹ.

Các vị A-la-hán "mọi việc cần làm đã làm xong" thì mới từ bỏ thế gian được."

Trì giới, không tham ái" Tức Ngài Xá Lợi Phất luôn giữ giới hạnh, tâm không tham lam, ái dục."

Nhiếp phục, thân cuối cùng" Ngài Xá Lợi Phất nhiếp phục tâm theo lý trí.

Đây là thân cuối cùng của Ngài trên thế gian này.

Sau đó sẽ được giải thoát.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 401: Truyện Tỳ kheo Liên Hoa Sắc


"Như nước trên lá senNhư hạt cải, đầu kimNgười không nhiễm ái dụcTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 401)Tích Pháp Cú: Có Tỳ kheo ni nổi tiếng tên là Liên Hoa Sắc.

Bà vô cùng xinh đẹp và là con gia đình giàu sang thế lực.

Thời trẻ khi bà đến tuổi lấy chồng thì toàn bộ các vương tôn công tử đều đến xin hỏi cưới.

Nào là con của đại gia phú hào, con của các quan lớn...

đều mong ước được lấy bà làm vợ.Cha bà là người làm ăn quan hệ rộng nên không thể làm mất lòng một ai.

Ông thấy nếu ông gả con gái cho bất kỳ người nào thì ông sẽ thành kẻ thù các gia đình còn lại.

Thế rồi ông gọi con gái tới khuyên con đi tu để tránh tai họa cho gia đình.Rồi bà đi tu theo Đức Phật.

Một lần có một tên cũng là họ hàng bà con với bà đã lẻn vào phòng bà.

Trong sử ghi: nó đã cưỡng hiếp bà.

Thời gian sau thì bà chứng A-la-hán và nổi tiếng về thần thông.

Nhưng vết nhơ trong quá khứ cứ râm ran bàn tán trong chúng Tỳ kheo tăng.

Các vị này cũng lắm chuyện.Một lần có 2 ông Tỳ kheo buôn chuyện.

Họ buôn hết chuyện đông tây kim cổ thì đến chuyện bà Liên Hoa Sắc.

Họ nói rằng: "Bà đó khi đó chưa chứng A-la-hán.

Vậy khi bị cưỡng hiếp thì là người chứ đâu phải gỗ đá mà không có cảm xúc".Rồi câu chuyện "bà tám không tế nhị" đó bị các Tỳ kheo khác mách Phật.

Đức Phật bèn gọi 2 ông Tỳ kheo "nhảm nhí" đó lên và khẳng định về đức hạnh của bà Liên Hoa Sắc bằng bài kệ:"Như nước trên lá senNhư hạt cải, đầu kimNgười không nhiễm ái dụcTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 392)Cũng vì việc diễn ra với bà Liên Hoa Sắc thời trẻ đó nên Phật không cho phép Tỳ kheo ni ở một mình.

Phật bắt buộc Ni phải tu trong hội chúng.

Và Ni chúng phải ở gần Tăng chúng để được sự bảo vệ.

Đó là Bát Kỉnh Pháp thứ 7 của Ni giới.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Quá xinh đẹp cũng là cái tội"Thái quá bất cập" đó là chân lý.

Và nhan sắc người con gái cũng vậy.

Quá xinh đẹp cũng bất cập.Ở Việt Nam ta có Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn.

Nhưng "Làn thu thủy nét xuân sơn - Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh - Một mai nghiêng nước nghiêng thành".

Quả thật là "nghiêng nước nghiêng thành".

Vẻ đẹp đó khiến Từ Hải bị chết đứng.

Vẻ đẹp đó là món hàng vô cùng giá trị cho bọn Hoạn Thư, Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh... tranh nhau khai thác.

Thế nên "hồng nhan bạc mệnh" là vậy.Ở Trung Hoa thì có Tứ Đại Mỹ Nhân: (1) Đắc Kỷ hại Trụ Vương và nhà Ân Thương diệt vong. (2) Tây Thi hại Ngô Vương Phù Sai mất nước. (3) Điêu Thuyền khiến cha con Đổng Trác và Lã Bố giết nhau. (4) Dương Quý Phi làm nhà Đường xụp đổ.

Tứ Đại Mỹ Nhân đã gián tiếp hoặc trực tiếp hại những triều đại huy hoàng của Trung Hoa xụp đổ.Giải thích theo Nhân Quả thì sao?Ta biết Phúc sẽ sinh thành 7 món báu (Tiểu Kinh nghiệp phân biệt - Trung Bộ Kinh): 1- Nhan sắc.

2- Sức khỏe.

3- Giai cấp (dòng tộc).

4- Tuổi thọ.

5- Trí tuệ.

6- Tài sản.

7- Quyền lực.

Thường thì phúc tổng hòa là đẹp.

Nhưng ai đó hưởng một nhan sắc xinh đẹp gấp bội bội lần thì 6 món báu còn lại sẽ hao kiệt.

Vậy nên vua hưởng mỹ nhân "tuyệt thế giai nhân" thì quyền lực và ngai vàng của vua có thể bị mất.Bài học 2: Nhan sắc người con gáiNhan sắc người con gái luôn khiến con trai động dục.

Nhan sắc đó không giống vẻ đẹp của 1 bông hoa hay 1 cánh bướm.

Hoa tuy rất đẹp, bướm cũng rất đẹp nhưng ta ngắm nó ta không động dục.Nhưng vẻ đẹp của người con gái thì con trai ngắm là bị động dục.

Đó là bản năng tình dục để duy trì nòi giống ăn sâu vào tâm con người.

Con trai luôn bị hấp dẫn bởi sắc đẹp cô gái.

Cô gái luôn bị hấp dẫn bởi tài năng của con trai.

Khi 2 yếu tố đó kết hợp "trai tài - gái sắc" sẽ sinh ra những đứa con khỏe mạnh, xinh đẹp, tài giỏi.

Chính bản năng duy trì nòi giống và chọn lọc tự nhiên quyết định đến tâm lý con người.Nên con gái xinh đẹp là một mối nguy cho cô ta.

Nhất là trong xã hội Ấn Độ phân biệt giai cấp nặng nề.

Ngày nay ở Ấn Độ nạn hiếp dâm diễn ra thường xuyên mà pháp luật không bảo vệ người con gái.

Con gái xinh đẹp không có sự bảo vệ là sự mời gọi những "Quỷ râu xanh".

Giống như nhà giàu nọ.

Nhà đầy tiền vàng mà không có tường rào bảo vệ là sự mời gọi của trộm cướp vậy.

Tâm tham và ái dục thì con người ai ai cũng có.

Nên ai lỡ có sắc đẹp "chim sa cá lặn", tiền vàng tính bằng Kg thì hãy giữ gìn cẩn thận không tai họa sẽ tới.Bài học 3: Nghiệp "Bà tám, buôn chuyện"Kinh Saleyyaka Sutta (Trung Bộ Kinh) thì Phật nói về Khẩu Nghiệp buôn chuyện bà tám như sau:"Người ấy nói những lời phù phiếm, nói phi thời, nói những lời phi chơn, nói những lời không lợi ích, nói những lời phi pháp, nói những lời phi luật, nói những lời không đáng gìn giữ.

Vì nói phi thời, nên lời nói không có thuận lý, không có mạch lạc, hệ thống, không có lợi ích.

Như vậy, này các Gia chủ, có bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chánh đạo"Những người mắc Khẩu Nghiệp "buôn chuyện bà tám vậy" thì chết đọa ác đạo.

Nếu tội nhẹ thì đọa làm người hèn hạ rồi bị cả xã hội khinh thường.Bài học 4: Thân nhiễm bẩn, tâm thanh tịnh"Như nước trên lá senNhư hạt cải, đầu kimNgười không nhiễm ái dụcTa gọi Bà-la-môn."

Tâm thanh tịnh giống như lá sen hay đầu kim.

Thân nhiễm bẩn giống như giọt nước hay hạt cải.

Nước không thể làm ô uế lá sen, hạt cải không thể đứng trên đầu kim.

Người có tâm thanh tịnh, không nhiễm ái dục thì thân không làm ô uế tâm hồn họ.
 
Back
Top Bottom