Tâm Linh 20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (PC361-PC423)

20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 402: Truyện người nô lệ chứng A-la-hán


"Ai tự trên đời nàyHiểu khổ diệt trừ khổBỏ gánh nặng giải thoátTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 402)Tích Pháp Cú: Một người nô lệ trốn chủ đi tu rồi chứng A-la-hán.

Một lần đi khất thực cùng Phật thì gặp ông chủ.

Ông chủ đó túm áo bắt về.

Đức Phật mới nói với ông chủ rằng:- Này gia chủ, người này đã xong bổn phận rồi."

Ai tự trên đời nàyHiểu khổ diệt trừ khổBỏ gánh nặng giải thoátTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 392)Ông chủ đó nghe xong thì hiểu đạo nên buông vị đó ra, không nghĩ đó là nô lệ của mình nữa.

Có thể Phật dùng tâm truyền tâm tác động vào tâm vị chủ nô đó.

Cũng có thể vị chủ nô đó hiểu đạo Phật.

Nên khi Phật nói: "Bỏ gánh nặng giải thoát, Ta gọi Bà-la-môn" thì ông ta biết người nô lệ đó đã chứng đạo giải thoát.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Nô lệ là thiếu phúc sao chứng A-la-hán?Bị làm kiếp nô lệ là thiếu phúc.

Sao người nô lệ đó lại có thể tu chứng A-la-hán?Theo "Tiểu Kinh Nghiệp phân biệt" (Trung Bộ Kinh) thì phúc sẽ tạo thành 7 món báu: (1) Nhan sắc - (2) Sức khỏe - (3) Giai cấp (dòng tộc) - (4) Tuổi thọ - (5) Trí tuệ - (6) Tài sản - (7) Quyền lực.

Nếu phúc viên mãn như Đức Phật thì 7 món báu đó đầy đủ.

Nhưng các vị A-la-hán thì phúc cũng chưa viên mãn nên có thể khuyết 1 hoặc 2 món báu.

Vậy người nô lệ đó bị thiếu món báu: Giai cấp và Quyền lực.Ta chú ý: Vị đó không còn là nô lệ nữa mới Tu chứng A-la-hán.

Vậy giai đoạn đầu đời vị đó làm nô lệ có thể là vị đó trả nợ Ác nghiệp.

Nếu thiếu phúc thì vị đó sẽ làm nô lệ cả đời mà không thể thoát.Tôi không có Thiên nhãn nên không thể biết chính xác vị đó tạo ác nghiệp gì.

Tôi chỉ có thể đoán mò rằng: "Khi xưa vị đó chửi ai là đồ nô lệ thối tha rồi nay bị quả báo.

Hoặc kiếp xưa vị đó nợ ông chủ và thề nếu không trả nợ thì sẽ làm nô lệ cho ông ta.

Thế nên đời này phải làm nô lệ cho ông đó đến khi hết nợ thì chạy thoát được rồi đi tu chứng A-la-hán".Bài học 2: Đạo Phật không giai cấp"Pháp Cú 379-380" có ông nhà nghèo tài sản có cái khố rách, cái cày và đi cày thuê kiếm sống.

Sau đó vị đó tu hành chứng A-la-hán.

Vậy vị đó là giai cấp tiện dân Thủ Đà La chuyên đi làm thuê và hầu hạ."

Pháp Cú 143-144" có người ăn xin quần áo rách được Ngài A-nan thấy có thiện căn tu hành.

Thế là Ngài khuyên người đó đi tu thì chứng A-la-hán.

Vậy vị đó cũng là giai cấp Thủ Đà La ăn xin nghèo khổ.Và Pháp Cú này có người nô lệ là giai cấp thấp kém nhất Chiên Đà La giống như thú vật.

Họ là tài sản cho người giàu mua đi bán lại như con vật.

Vậy mà vị đó tu cũng vẫn chứng A-la-hán."

Đức Phật đã chứng minh cho ta thấy loài người là không có Giai cấp".

Giai cấp dòng họ chỉ là cái cớ để các thế lực trên dao dẵm đạp thế lực yếu thế bên dưới.

Đó là học thuyết mị dân khiến giai cấp nghèo khổ an phận, không phấn đấu vươn lên.Ngày nay xã hội Ấn Độ vẫn thế.

Dân số 1,4 tỷ dân mà 800 triệu con người sống nhờ trợ cấp lương thực.

Đất nước khoa học kỹ thuật phát triển đặc biệt là lập trình máy tính.

Ấn Độ đã phóng tàu vũ trụ thành công lên vùng tối của Mặt Trăng.

Và là nước thứ 4 phóng tàu vũ trụ lên Mặt Trăng thành công sau Mỹ- Nga - Trung.

Nhưng dân Ấn Độ mù chữ khoảng 400 triệu người (34,6%).

Còn Việt Nam ta thì tỷ lệ mù chữ là 1%.

Bởi vì sao?

Bởi trẻ con giai cấp Thủ Đà La và Chiên Đà La không được phép đến trường.

Luật pháp không cấm nhưng đi học sẽ bị con cái gia đình giai cấp trên kỳ thị.

Ngoài ra 2 giai cấp đáy xã hội Ấn Độ không có ý chí phấn đấu vươn lên.Bài học 3: A-la-hán để giải thoát thì phải chấm dứt hết mọi món nợTa thấy ông chủ nô đã không bắt vị đó về tức đã xác nhận vị đó không còn nợ ông, không còn là nô lệ của ông.

Vị A-la-hán đó đã chấm dứt món nợ với ông chủ nô và "đã làm xong bổn phận".Thường thì nguyên tắc để một vị thánh nhập Niết Bàn là "mọi món nợ đều phải trả xong, mọi trách nhiệm và bổn phận phải hoàn thành".

Thế nên Đức Phật trước khi nhập Niết Bàn bị đau bụng bởi nấm độc là để trả nợ Ác nghiệp chưa trả xong.

Ngài Mục Kiền Liên bị đánh chết tan xương để trả nợ ác nghiệp khiếp xưa làm Đại Ác Ma Du-si phá tăng đoàn Phật Câu Lưu Tôn vẫn chưa trả xong.Và vị A-la-hán này phải gặp ông chủ, được ông chủ xóa nợ thì mới "xong bổn phận" để được giải thoát.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 403: Truyện Phật khen Tỳ kheo ni Khê Ma


"Người trí tuệ sâu xaKhéo biết đạo, phi đạoChứng đạt quả Vô thượngTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 403)Tích Pháp Cú: Lần đó Đức Phật lên núi Linh Thứu thuyết pháp cho Chư thiên.

Có Trưởng lão Tỳ kheo ni tên là Khê Ma muốn đến thăm Phật.

Bà dùng thần thông bay từ Tinh xá ni lên núi Linh Thứu thấy Chư thiên tụ hội đầy hết cả hư không.

Thế nên Trưởng lão nghĩ nên nhường thời gian này cho Chư thiên.

Trưởng lão bèn ở trên không lễ Phật rồi bay trở về.Khi đó Thiên chủ Đế Thích mới hỏi Phật:- Bạch Thế Tôn, Tỳ kheo ni vừa bay đến rồi lại bay đi là ai?- Này Thiên chủ, đó là Trưởng lão Khê Ma đệ nhất thần thông Ni chúng."

Người trí tuệ sâu xaKhéo biết đạo, phi đạoChứng đạt quả Vô thượngTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 403)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Bàn về Tỳ kheo ni Khê MaTích Pháp Cú 347 ta đã nghe kể về Tỳ kheo ni Khê Ma.

Bà là hoàng hậu vợ của vua Bình Sa.

Bà vô cùng xinh đẹp và chấp nhan sắc của mình nên không thích Đức Phật.

Bởi cứ gặp Phật là lại thấy Phật bảo: "Thân này rồi sẽ già yếu, xấu xí, răng rụng, tóc bạc còn vài sợ trên sọ, da nhăn như da voi, mắt mờ, tai điếc, lưng còng, đi đứng thì run rẩy lẩy bẩy..." bà ta sợ lắm.

Phàm ai là con gái xinh đẹp mà nghe thấy bảo sẽ già xấu là sợ.

Hoàng hậu Khê Ma cũng thế.Thế rồi một lần vua Bình Sa mới lừa bà lên núi nghe Phật giảng pháp.

Mọi người thì lắng nghe còn bà thì không muốn nghe.

Nhưng chợt bên cạnh Phật có cô gái xinh đẹp tuyệt trần như tiên trên trời.

Nàng đẹp hơn cả bà Khê Ma.

Bà ngạc nhiên nhìn chăm chú cô gái đó tự hỏi: "Sao có người đẹp vậy mà ta không biết?"

Bà cứ nhìn 1 lúc thì thấy cô gái đó già đi, xấu xí, da nhăn, tóc bạc... dần dần rồi gục xuống chết.

Thân từ từ mục tan chỉ còn bộ xương.

Rồi xương cũng mục tan biến bay đi theo gió bụi.

Bà hốt nhiên chứng A-la-hán ngay tức thì.Rồi Phật mới quay sang nói với vua Bình Sa:- Này Đại Vương, hoàng hậu Khê Ma đã chứng A-la-hán và có 2 con đường để đi.

Hoặc hoàng hậu sẽ nhập Niết Bàn ngay tại đây.

Hoặc hoàng hậu sẽ xuất gia sống trong Ni chúng.Vua sững sờ vì vua mới chỉ chứng Sơ quả Dự Lưu nên luyến ái còn.

Vua lập tức chọn phương án 2.

Từ đó trong Ni chúng có 2 bà hoàng hậu A-la-hán.

Đó là bà Kiều Đàm di mẫu của Đức Phật và bà Khê Ma.

Về sau bà Kiều Đàm nhập diệt thì bà Khê Ma lên thay lãnh đạo Ni chúng.Bài học 2: Đạo là gì?

Phi đạo là gì?Đầu tiên ta phải hiểu sao gọi là: đạo Phật, đạo Kito, đạo Hồi, đạo Hindu, đạo Giáo, đạo Lương...?

Vậy chữ "Đạo" đi kèm tên gọi tôn giáo đó nghĩa là gì?"

Đạo" tức là con đường, hệ tư tưởng, chủ nghĩa tôn giáo...

"Đạo" mang tầm "Chiến lược gốc rễ".Dưới đạo là "Pháp" tức là các cách thức, các phương pháp...

"Pháp" mang tầm "Chiến thuật khung thân".Dưới pháp thì có "Kinh" tức là lời dạy cụ thể của vị giáo chủ tôn giáo đó.

"Kinh" giống như cành lá.

Đạo Phật còn gọi "Kinh" là "các Pháp Môn tức là những cánh cửa đi đến Pháp".Tiếng gốc từ "Phật" trong tiếng Pali là Buddha (Bụt) nghĩa là Giác ngộ.

Rồi dịch ra tiếng Trung là "Phật đà, Phật đề", dịch ra tiếng Việt là "Phật".

Vậy "Đạo Phật" nghĩa là "Con đường giác ngộ tìm ra chân lý".

"Giác ngộ" là hiểu rõ tường tận gốc rễ.

"Giác ngộ" còn được gọi với cái tên khác là: "Chứng đạo".Chánh Pháp của đạo Phật thì rất nhiều nhưng có một số nền tảng Chánh Pháp như sau: Luật Nhân Duyên Quả Báo - Vũ trụ quan đạo Phật 7 cõi gồm 6 cõi Luân hồi và 1 cõi Niết bàn - Tứ Thánh Đế - Bát Chánh Đạo - Duyên Khởi...Kinh của đạo Phật thì nhiều nhưng cơ bản phân làm 2 nhóm: Nhóm 1: Dạy tu làm lành tích thiện tạo phúc bằng Thân - Khẩu - Ý.

Kết quả là có phúc lớn được sinh cõi lành hưởng phúc (Gọi là: Tu Tam Nghiệp).

Nhóm 2: Dạy Tỳ kheo tu Giới hạnh - Thiền định - chứng Tuệ Vô thượng (Gọi là: Tu Giới - Định - Tuệ).

Về sau Phật Giáo Đại Thừa có thêm pháp tu Bát Nhã của hàng Bồ Tát, ta tạm gọi là Nhóm 3."

Kinh" thì có Kinh đúng mang lại lợi ích và Kinh sai mang đến đau khổ.

Vậy làm sao biết đúng, làm sao biết sai?

Ta phải căn theo Luật Nhân Quả bởi Nhân Quả là quy luật của Vũ trụ.

Ví dụ: "Mang bom đi đánh bom tự sát ở nơi công cộng giết chết hàng trăm thường dân ngoại đạo thì có phúc được sinh lên thiên đàng" là sai Nhân Quả.Tập hợp nhiều kinh nói về một phương pháp chung, cách thức chung gọi là Pháp.

Kinh sai sẽ tạo thành "Tà Pháp".

Kinh đúng sẽ tạo thành "Chánh Pháp".

Đạo thì tập hợp bởi nhiều Pháp.

Vậy nhiều "Tà Pháp" sẽ tạo thành "Phi Đạo, Tà Đạo".

Nhiều "Chánh Pháp" sẽ tạo thành "Chánh Đạo".

Tạm thời ta bàn luận vậy thôi vì chủ đề này lớn lắm.Bài học 3: Quả Vô thượngQuả vị A-la-hán là quả vị "Vô Thượng Bồ Đề" tức là mức giác ngộ Chánh pháp cao nhất mà không ai có thể hơn kể cả Phật.

Vậy A-la-hán và Phật khác nhau ở điểm nào?

A-la-hán cũng Vô Thượng mà Phật cũng Vô Thượng thì chẳng lẽ các vị bằng nhau.Ta biết Kinh Nikaya nói có 3 tầng Thánh quả: Sơ quả Dự Lưu, Nhị quả Nhất Lai, Quả Vô Thượng A-la-hán (không có Tam quả Bất Lai.

"Lá Trong Lòng Bàn Tay - tập 3" đã phân tích).

Vị chứng Quả Vô Thượng sẽ nhập vào cõi Vô Thượng Niết Bàn.

Trong Niết Bàn cũng có kẻ thấp người cao và Đức Phật là vị Khai mở con đường đi tới Niết Bàn.

Các vị A-la-hán là đi theo con đường Phật dạy để đến Niết Bàn.

Đó là sự khác nhau giữa Phật và A-la-hán.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 404: Truyện Tỳ kheo và thần Dạ Xoa


"Chẳng giao thiệp với aiSống độc cư, thiểu dụcGiới hạnh như gương soiTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 404)Tích Pháp Cú: Có Tỳ kheo tên là Tuýt Sa Pa-ra-va-ti.

Vị đó tự tâm cảm thấy duyên tu hành nghiêm mật đã đến.

Ngài quyết hạ thủ công phu tu tập hi vọng chứng đạo.

Tỳ kheo Tuýt Sa Pa-ra-va-ti bèn đến xin Phật một đề mục thiền quán.

Sau đó Ngài vào rừng ở gần một ngôi làng và ẩn tu.Ngài độc cư tu hành trong một hang núi.

Vì Ngài chưa đắc đạo nên không biết trong hang có một Nữ Thần Dạ Xoa ở đó từ trước với bầy con.

Thế rồi "Đức trọng quỷ thần kinh".

Một Tỳ kheo uy đức quyết tâm tu hành chứng đạo A-la-hán.

Thế nên thần uy vị đó toát ra Quỷ thần không thể ở gần.Nữ thần đó muốn đuổi Ngài đi mà không nghĩ ra cách nào.

Cuối cùng bà nghĩ ra một cách là xem vị đó có lỗi gì không để bắt lỗi.

Rồi nữ thần đi theo Tỳ kheo mãi mà không hề thấy ông ta có lỗi gì dù nhỏ nhất.

Thế là nữ thần quyết định gài bẫy Tỳ kheo.Lần đó Tỳ kheo đến nhà một dân trong làng khất thực.

Nữ thần bèn nhập vào đứa bé trong nhà khiến nó giãy đành đạch, miệng sùi bọt mép.

Cả nhà không biết làm thế nào chợt nghe thấy có tiếng nói bên tai: "Hãy lấy nước rửa chân của Tỳ kheo tưới lên mình đứa bé".

Thế là họ mang nước ra cho Ngài rửa chân rồi xin nước dơ tưới lên mình đứa bé.

Rồi nữ thần xuất khỏi xác đứa bé và đứa bé hết bệnh.

Gia đình đó đội ơn Tỳ kheo và cúng dường Ngài.Khi Ngài về hang thì thần Dạ Xoa đó hiện ra nói:- Hôm nay Ngài đã phạm giới.- Ta phạm giới gì?- Ngài đã làm thầy thuốc.

Mà theo giới luật thì Tỳ kheo không được làm thầy thuốc chữa bệnh.Thế là ngay tại đó Ngài đứng lắng tâm quan sát lại hết tâm tư hành động của mình.

Ngài thấy mình không cố ý làm thầy thuốc chữa bệnh cho đứa bé.

Ngay trong lúc Ngài tập trung quan sát tâm thì Ngài bừng tỉnh giác ngộ chứng A-la-hán.Sau khi chứng A-la-hán thì trí tuệ Tam Minh khai mở.

Ngài thấy người đối diện là nữ thần Dạ Xoa.

Chính kẻ đó đã lập mưu để hại Ngài.

Ngài bèn trách mắng nữ thần Dạ Xoa:- Này Dạ Xoa, ngươi có tâm ác.

Ngươi không ở đây được.

Ngươi hãy đi nơi khác.Và thần Dạ Xoa cùng đàn con phải bỏ hang đó tìm nơi khác để ở.

Hết mùa an cư kiết hạ thì Ngài về Tinh xá kể chuyện đó cho Phật nghe.

Đức Phật mới khen ngợi Ngài bằng bài kệ:"Chẳng giao thiệp với aiSống độc cư, thiểu dụcGiới hạnh như gương soiTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 404)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Duyên tu hành quyết liệtKhi duyên chứng đạo tới tự dưng tâm vị đó bị thôi thúc tu hành quyết liệt và các điều kiện thuận lợi kéo đến, gọi là Thuận Duyên.

Còn khi duyên chưa tới thì các điều kiện bất lợi cứ hiện ra ngăn cản, gọi là Chướng Duyên.Vậy nên khi duyên chưa tới mà ai đó cố cưỡng duyên, cố tu hành mặc kệ Chướng Duyên thì tu không tới đâu.

Sau đó sẽ thất bại thất vọng thập chí hoàn tục.

Bởi vì sao?

Bởi "Vạn hữu do duyên sinh" không có duyên thì quả báo không thể tới.Kẻ tu mong đắc đạo mà không đủ duyên thì sâu trong tâm ắt có Tham vọng.

Chính tâm Tham vọng đó khiến kẻ đó thất bại thì tuyệt vọng.

Còn vị tu thuận duyên tâm không có tham vọng thì duyên tới đâu vị đó đi tới đó, bình an tự tại.

Khi duyên cho đắc đạo thì vị đó đi đến đắc đạo.

Không đủ duyên thì thôi cứ bình tĩnh đi mãi trong Luân Hồi.Thế nên Bồ Tát đi trong Luân Hồi vô lượng vô biên làm việc lợi ích cứu độ chúng sinh chẳng bao giờ cầu đắc đạo.

Nhưng khi duyên tới là có Đức Phật xuất thế thì Bồ Tát nguyện tái sinh làm người tu chứng A-la-hán giải thoát.Bài học 2: Rừng núi hùng vĩ nơi ở của thần linhTỳ kheo Tuýt Sa Pa-ra-va-ti thấy hang núi hoang vu tưởng không có ai, hóa ra trong đó là nhà của nữ thần Dạ Xoa và đàn con.

Vậy nên những nơi có cảnh trí đẹp đẽ, núi non hùng vĩ, "Bồng lai tiên cảnh" thì đó là nơi ở của thần linh.

Kẻ nào đi chặt cây phá rừng, phá hoại thiên nhiên cũng là kẻ đi phá nhà của quỷ thần.

Khi phúc nó lớn thì quỷ thần không làm gì được.

Nhưng khi phúc nó yếu thì quỷ thần sẽ trả thù, gọi là Thánh Vật.

Đó là sự thật.Thế nên "Ăn của rừng rưng rưng nước mắt" đúng cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.

Nghĩa bóng là: "Ai ăn chặn của cải công cộng tập thể thì sẽ đau khổ dài dài".

Nghĩa đen là: "Ai chặt cây phá rừng thì sẽ bị quỷ thần phạt cho đau khổ".Vì sao ăn cắp đồ công cộng tập thể lại khổ dài dài?

Bởi đồ phục vụ công cộng mang lại lợi ích tập thể.

Ai bố thí cúng dường đồ tập thể, mang lại lợi ích tập thể thì phúc lớn.

Còn ai phá hoại lợi ích tập thể, biến đồ tập thể làm của riêng thì tội lớn.Ví dụ: Cái nắp cống bằng sắt để mọi người đi lại an toàn.

Nay có kẻ vì tham nên lấy mang bán được 5000đ.

Sau đó đoạn đường đó xảy ra tai nạn nhiều vì xe cộ lao xuống cống.

Quả báo cho kẻ ăn cắp nắp cống đó là thảm khốc, nhiều đời đọa địa ngục.Cũng vậy, đất nước là của chung của dân tộc hàng triệu người.

Nay có kẻ vì hám lợi cá nhân bán nước cầu vinh.

Nó làm hàng triệu người lâm vào cảnh nước mất nhà tan.

Tội nó nhiều đời đọa địa ngục.Bài học 3: Nữ thần Dạ XoaTa hay gọi là Quỷ Dạ Xoa là sai.

Bởi cõi Ngã Quỷ là cõi quỷ đói khát, xấu xí, cô đơn lạnh lẽo, không nhà không cửa.

Ta hay gọi Quỷ là Vong.

Chúng sinh cõi Ngã Quỷ thì thiếu phúc vì tâm tham lam ích kỷ nên luôn bị đói khát, cô đơn, lạnh lẽo và thèm muốn.Còn cõi Thần thì các vị phúc lớn hơn cõi người, có nhà để ở, đồ ăn vật thực đầy đủ.

Vị đó ở trong hang núi như nữ thần Dạ Xoa kia vậy.

Hoặc vị đó ở trong đền thờ, miếu thờ, điện, phủ, am.

Vị đó có đồ ăn vật thực, hưởng hương khói và nhận sự lễ lạy của người.

Các vị có thần thông biến hóa và có trí tuệ.

Vậy nên Dạ Xoa là một vị thần chứ không phải quỷ đói.Bài học 4: Nhập hồn vào xácVăn hóa tín ngưỡng tâm linh Việt Nam ta không hiểu sao rất tương đồng với đạo Phật.

Từ phong tục thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ... bởi tâm dân Việt tin rằng chết là đi về "nơi chín suối".

Còn Đức Phật nói rằng: "Người chết sẽ chuyển từ cõi người sang cõi tâm linh tùy theo Nghiệp Duyên của họ".Rồi người sống tạo công đức lớn như giúp dân lập làng, lập ấp, dạy nghề cho dân thì được thờ làm Tổ làng, Tổ nghề, Thành hoàng làng.

Các vị có công bảo vệ dân, đánh giặc cứu nước thì chết đều được lập đền thờ, miếu thờ, phủ điện thờ và dân phong các vị làm thần, làm thánh.Còn Đức Phật thì nói rằng: "Những người tạo phúc lớn thì sau khi chết vì phúc duyên sẽ được sinh vào cõi Thần hay cõi Thiên".

Vậy dân Việt thờ cúng những vị có công ơn với dân chúng chính là thờ các vị Thần hay Chư Thiên theo lời Đức Phật.

Các vị đó ở cõi các vị thấy dân chúng biết ơn thờ cúng lễ lạy thì động tâm nên thường dõi theo giúp đỡ.Và hiện tượng gọi hồn, hầu đồng, nhập hồn trong tín ngưỡng tâm linh người Việt thì Truyện Pháp Cú cũng nói rằng có thật.

Chính nữ thần Dạ Xoa đó đã nhập vào thân xác đứa trẻ khiến nó như bị bệnh.

Thế nên khi đạo Phật truyền vào Việt Nam ta thì lập tức được tiếp nhận và hòa chung với tín ngưỡng tâm linh dân tộc.Bài học 5: Sống độc cư thiểu dục, giới hạnh như gương soiĐây là Phật khen Tỳ kheo Tuýt Sa Pa-ra-va-ti.

Vị đó sống độc cư trong rừng và tiết giảm ham muốn vật chất.

"Dục" ở đây là ham muốn vật chất chứ không phải tình dục.

Đức Phật thường khen một vị có thể sống độc cư trong rừng bởi đó là phép tu "Thiểu dục" diệt trừ Thân kiến.

"Thân kiến" là tâm tham lam vật chất và danh tiếng."

Giới hạnh như gương soi" là tâm Tỳ kheo đó trong sáng tuyệt đối, không một vết nhơ trong tâm, tâm không chút lỗi lầm.

Chính vì "Thiểu dục và Giới hạnh trong sáng" nên vị đó định tâm xét lại tâm thì lập tức chứng A-la-hán dù không ngồi thiền.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 405: Truyện vị A-la-hán nhẫn nhục


"Dù đủ sức voi thầnNhưng vẫn đầy nhẫn nhụcKhông giết không bảo giếtTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 405)Tích Pháp Cú: Có vị A-la-hán đi khất thực.

Rồi có người phụ nữ bằng trực giác của mình đã nhận ra vị tu sỹ này là một vị thánh.

Nên bà hay cúng dường và quỳ bên cạnh vị đó để hỏi han.

Không ngờ hành động của bà khiến ông chồng ghen.Ông chồng nghĩ rằng vợ có tình ý và ông Tỳ kheo đó đã dụ dỗ vợ ông ta.

Mắt ông thực tế thấy: "Vợ dành ít thời gian cho gia đình hơn mà thường tới lui ân cần với Tỳ kheo đó.

Tâm hồn của vợ hướng về Tỳ kheo chứ không nghĩ về chồng và gia đình".Thế là ông chồng quyết định đón đường đánh Tỳ kheo.

Thế nhưng vị Tỳ kheo đó đứng yên để ông ta đánh.

Sau đó thì Tỳ kheo về tinh xá với thân hình thương tích, quần áo rách và bình bát bể.

Đức Phật nhìn thấy vậy mới khen Tỳ kheo:"Dù đủ sức voi thầnNhưng vẫn đầy nhẫn nhụcKhông giết không bảo giếtTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 405)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Nhớ lại chuyện Ngài An-gu-li-ma-laNhớ lại chuyện Ngài An-gu-li-ma-la ở Tích Pháp Cú 173.

Lúc chưa xuất gia thì Ngài là tên cướp khét tiếng.

Ngài đã giết 999 mạng người rồi cắt ngón tay đeo ở cổ để luyện "võ công cái thế" theo lời thầy bổn sư âm mưu hại Ngài.Đến lúc chỉ còn 1 người và 1 ngón tay nữa là thành tựu viên mãn ước nguyện thì gặp Phật.

Đức Phật đã độ cho Ngài quy y và xuất gia.

Thời gian sau thì Ngài tu chứng A-la-hán.

Ngay sau khi chứng A-la-hán thì ngài đắp y mang bình bát đi khất thực.

Rồi Ngài bị dân chúng tập kích đón đường đánh trả thù.

Ngài bình thản đón nhận với thân thể trọng thương, quần áo rách, bình bát vỡ đi về Tinh xá.

Đức Phật thấy vậy thì nói:- Hãy kham nhẫn, này Bà-la-môn!

Ông đang gặt hái ngay trong hiện tại quả báo của nghiệp mà đáng lẽ Ông phải chịu nấu sôi ở địa ngục nhiều ngàn năm.Sau đó vì trọng thương nặng nên Ngài ngồi thiền nhập Niết Bàn bỏ thân.

Các Tỳ kheo chưa chứng đạo mới hỏi Phật rằng: "Bạch Thế Tôn, con người đại ác đại tội như An-gu-li-ma-la thì chết đi về đâu?"

Đức Phật nói rằng An-gu-li-ma-la đã nhập Niết Bàn.

Sau đó Phật đọc bài kệ để khen ngợi Ngài:"Ai dùng các hạnh lànhLàm xóa mờ nghiệp ácChói sáng rực đời nàyNhư trăng thoát mây che."(XIII-Phẩm Thế Gian, Pháp Cú 173)Vậy A-la-hán nhẫn nhục để bị đánh bởi vị đó biết đó là Ác Nghiệp tới duyên phải trả.

Vị đó dù có sức voi thần dũng khí như An-gu-li-ma-la nhưng bình thản đón nhận bị đánh, bị chém.

Sau khi trả nợ hết Ác Nghiệp khi xưa thì "việc cần làm đã làm xong" Ngài ngồi thiền nhập Niết Bàn.Ta chú ý câu nói của Phật.

"Nếu quả báo ác nghiệp không đến trong hiện tại mà đến ở tương lai.

Ngài sẽ bị nấu sôi trong Địa ngục nhiều ngàn năm".

Vậy nên Ác nghiệp đã gây ra, đủ duyên tạo thành quả khố đến sớm là điều may mắn.

Bởi nếu quả khổ đến ở tương lai thì khổ nặng gấp ngàn lần.

Còn Ngài thì quá biết, quá hiểu đây là người thân trong gia đình 999 mạng người Ngài đã giết.

Thế nên Ngài bình thản đón nhận quả báo khổ do ác nghiệp Ngài gây ra.Phật có Thiên Nhãn thấy rõ "Ác nghiệp đủ duyên tạo thành quả khổ".

Còn ta là người trần mắt thịt chẳng có Thiên Nhãn sao biết quả báo Ác nghiệp đủ duyên đến hay chưa?Nên ta cứ phải cố gắng hết sức.

Đến lần thứ 7 mà quả khổ vẫn đeo bám thì mới bình thản đón nhận.

Còn ta chưa cố gắng đã buông tay chịu trói rồi bảo là "Khổ tới để trả nợ ác nghiệp" thì chưa chắc.

Có thể khổ này do chính ta tạo ra chứ chẳng có quả báo ác nghiệp nào hết.Đó là bài học của Ngài Mục Kiền Liên sau đây.Bài học 2: Nhớ lại chuyện Ngài Mục Kiền LiênPháp Cú 137 kể về Tôn giả Mục Kiền Liên.

Ngài bị Ác ma Ma-ra đi vào bụng quậy phá khiến Ngài đau bụng.

Ngài mới ngồi thiền nhập định thì thấy Ma-ra đang ở trong đó.

Ngài đã khuyên Ma-ra dừng việc ác lại bằng chính câu chuyện đời Ngài.Kiếp xưa thời Phật Câu Lưu Tôn thì Ngài là Đại Ác Ma Du-si.

Du-si có chị gái là Ka-li.

Ma-ra là con chị gái Ngài.

Vậy Ma-ra phải gọi Ngài là cậu.

Thời đó Du-si cũng âm thầm phá hoại tăng đoàn Đức Phật Câu Lưu Tôn.

Nó phá mãi mà không được thì nó tức giận.

Nó bèn nhập vào tâm đứa bé ven đường cầm đá ném vỡ đầu vị A-la-hán đi bên Phật.Vị A-la-hán đó với cái đầu máu chảy vẫn bình thản đi không hề oán thán.

Đức Phật Câu Lưu Tôn mới dừng lại và nhìn quanh với cái nhìn của voi Chúa.

Phật nói: "Này Du-si, ngươi không biết thế nào là sự vừa phải".

Phật vừa nói xong thì Du-si bị đọa vào Địa ngục chịu ngục hình 1 vạn năm trong đó.Cuối cùng thì Ngài nói với Ma-ra: "Do vậy, này Ma-ra, thân ta là như vậy, thân ta như con người, và đầu ta là như vậy, đầu ta như con cá".

Vậy tức thân tướng của Tôn giả với thân người mà đầu như đầu cá.

Và cái đầu như đầu cá chính là Tướng báo hiệu Ác nghiệp vẫn còn mà kiếp này phải trả nợ.Cuối đời thì Đức Mục Kiền Liên thường bay lên cõi trời nhiều lần.

Ngài đã kể lại các chuyện trên cõi trời thành "Thiên cung sự kinh" được ghi trong Tiểu Bộ Kinh.

Trong kinh đó thì Ngài nói: "Chư thiên trên trời toàn là Phật tử.

Bởi sau một thời gian Đức Phật giáo hóa cùng Chúng tăng A-la-hán thì dân cúng dường tích đủ phúc được sinh thiên rất nhiều".

Các tín đồ tôn giáo ngoại đạo nghe vậy thì tin mà bỏ đạo họ theo quy y đạo Phật rất nhiều.

Ngoại đạo bị mất tín đồ chỉ bởi lời nói của Tôn giả thì chúng căm thù Ngài.

Chúng thuê một lũ cướp và treo thưởng rất cao để lấy mạng Ngài.Sau 6 lần lũ cướp đó mang gươm đao lao vào hang động Ka-la-si-la nước Ma Kiệt Đà thì Ngài đều biến mất.

Tuy Ngài thấy duyên nhập Niết Bàn đã đến mà còn 1 Ác nghiệp phải trả.

Nhưng vì lòng từ bi Ngài không muốn lũ cướp kia tạo Ác nghiệp.

Ngài muốn Ác nghiệp do thiên nhiên trời đất tự tới.

Thế nên Ngài dùng thần thông biến mất 6 lần.Đến lần thứ 7 thì Ngài không biến mất nữa bởi duyên trả nợ Ác nghiệp đã viên mãn.

Và tâm cố chấp của lũ cướp là không thể cứu.

Ngài ngồi im cho bọn cướp chém Ngài thành ngàn mảnh nhỏ.

Sau khi bọn cướp bỏ đi nhận tiền thưởng thì Ngài dùng thần thông thu gom mẩu vụn thân xác lại.

Ngài biến mất tại đó và hiện ra trước Đức Phật.

Ngài quỳ lạy vị thầy vĩ đại tôn kính của Ngài rồi mới nhập Niết Bàn.Ta cũng nên học theo Ngài.

Trước mọi nỗi khổ ta hãy tìm cách cố gắng hết sức mình để thoát.

Chỉ khi nào đã cố hết sức rồi mà vẫn không thể thoát thì bình thản đón nhận.

Đó mới gọi là "Nhẫn nhục Ba-la-mật".

Còn chưa cố đã buông xuôi thì gọi là "Buông xuôi Ba-la-mật".Bài học 3: Nhẫn nhục là gì?Đức Phật nói: "Nhẫn nhục là: Dù đủ sức voi thần, nhưng vẫn đầy nhẫn nhục, không giết không bảo giết".

Sức mạnh của vị A-la-hán chỉ búng tay là anh chồng đó bay lên trời.

Nhưng vị đó không làm vậy mà cứ để cho ông chồng đánh để trả nợ ác nghiệp quá khứ.Điều đó ngược với ta.

Ta thì hành xử kiểu: "Mèo tha miếng thịt thì đòi.

Hùm tha con lợn thì coi chừng chừng".

Tức là kẻ yếu thì ta o ép, chèn ép, thể hiện sức mạnh.

Còn gặp kẻ mạnh thì ta bó tay chịu trận chẳng dám ho he.

Đó gọi là "Hèn yếu Ba-la-mật".Ta chú ý: "Không giết, không bảo giết" Nhẫn nhục là ta không trực tiếp đánh lại, gọi là "Không giết".

Nhưng tâm ta cũng không hề tức giận, không mưu kế âm thầm hại người, không thuê người khác trả thù cho ta, gọi là "Không bảo giết".Còn nếu ngoài mặt thấy giống như Nhẫn nhục.

Nhưng trong tâm ta thì bày mưu sâu, kế hiểm, ác độc hại người.

Hoặc ta âm thầm bỏ tiền thuê người khác trả thù giúp ta.

Đó chẳng là Nhẫn nhục.Ta chú ý: Khi Ác Ma Du-si ném đá vỡ đầu vị A-la-hán đi bên Phật thì vị A-la-hán đó nhẫn nhục bình thản coi như không.

Nhưng Phật Câu Lưu Tôn thì "Nhìn với cái nhìn của voi Chúa rồi nói 1 câu là Ác Ma đọa địa ngục".

Vậy có phải Phật không hề Nhẫn nhục, không hề Từ bi?Đó là bài học lớn cho ta.

Khi ai xâm phạm vào Bản ngã của ta, cơ thể ta, tài sản của ta, danh tiếng của ta... mà ta chịu được thì gọi là Nhẫn nhục.

Còn ai xâm phạm vào người ta yêu mến, đạo pháp của ta, Đức Phật của ta, thầy tổ ta, vợ ta, con ta, cha mẹ ta, dân tộc ta, đất nước ta... mà ta bình thản đứng nhìn thì không gọi là "Nhẫn nhục" mà gọi là "Yếu hèn".Pháp Cú 399 có 3 ví dụ Nhẫn nhục hay Yếu hèn:Ví dụ 1: Năm 1193 có 3000 ông Tỳ kheo tu ở đại học Na-lan-da.

Rồi có 100 tên lính Hồi giáo người Turk mang gươm vào chém giết.

Các Tỳ kheo nhẫn nhục ngồi đó để bọn nó chém giết rồi đốt cháy đại học Na-lan-đa.

Đại học đó cháy cùng toàn bộ Kinh tạng đạo Phật Ấn Độ suốt 3 tháng.

Phật giáo Ấn Độ biến mất từ đây.

3000 Tỳ kheo đó Nhẫn nhục đúng pháp hay là Yếu hèn?Ví dụ 2: Năm 1285 là lần thứ 2 Nguyên Mông mang 50 vạn đại quân đánh Đại Việt rồi bị thua.

Năm 1287 là lần thứ 3 Nguyên Mông mang tiếp 50 vạn đại quân đánh Đại Việt lại thua tiếp.

Sau 3 lần đó thì họ không dám đánh Đại Việt nữa.

Còn vua Trần thì sai mang phẩm vật sang cầu hòa nhà Nguyên.Ta biết thời đó Đế Quốc Mông Cổ đã chiếm toàn bộ: Trung Hoa, Cao Ly, Bắc Á, Tây Á, Trung Á, Trung Đông và Đông Âu.

Diện tích rộng 35 triệu km2 còn Đại Việt chỉ rộng 100.000 km2.

Tức Đế Quốc đó rộng gấp 350 lần Đại Việt.Ví dụ 3: Nước ta vừa trải qua chiến tranh với Pháp 9 năm nên nghèo nàn lạc hậu gần nhất Thế giới.

Rồi lại lao tiếp vào chiến tranh với Mỹ 20 năm.

Mà Mỹ là siêu cường số 1 Thế giới về sức mạnh quân sự, kinh tế, khoa học kỹ thuật và quyền lực trên Thế giới.Nhưng cuối cùng sau 15 triệu tấn bom đạn đổ lên nước Việt Nam (gấp 3 lần toàn bộ số bom đạn dùng trong Thế Chiến II và gấp 250 lần sức mạnh quả bom Nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật bản).

Năm 1973 Mỹ đã phải ký hiệp định Paris với toàn bộ yêu cầu của Việt Nam và rút hết quân về nước.Vậy nên nếu ai đánh vào Bản ngã của ta, thân ta, tâm ta, danh tiếng cá nhân ta, tài sản của ta... mà ta chịu được thì gọi là Nhẫn nhục.

Còn ai đánh vào người thân yêu của ta, quê hương đất nước của ta, dân tộc ta, Đức Phật của ta, mà ta không phản kháng thì là "Hèn hạ" chứ chẳng phải "Nhẫn nhục".Bài học 4: Trái tim dành cho đạoCô vợ dành tình cảm cho đạo sẽ bớt quan tâm đến gia đình chồng con.

Đó là điều tự nhiên.

Đầu tiên là thời gian dành cho gia đình bị giảm bớt.

Tâm chí cô không hướng về chồng con mà hướng theo đạo.

Cô hay ca ngợi Tỳ kheo mà chẳng thấy khen chồng.

Rồi có tiền thì cô mua đồ ăn ngon cúng dường Tỳ kheo...Ông chồng không biết đạo thì 100% sẽ ghen.Bài học 5: Đánh ghenĐầu tiên là từ "Tâm ích kỷ, ghen tị, tị nạnh xuất hiện khi quyền lợi vật chất, tinh thần của ta bị mất đi hay thua thiệt".

Từ tâm đó sẽ thể hiện bằng lời nói là: nói xấu, đả kích, bôi nhọ danh tiếng... kẻ thù của ta.

Cao hơn là hành động đánh đập gây tổn hại đến thân xác và tâm hồn kẻ thù để trả thù.

Hành động đó ta gọi là "Đánh ghen".Khi chồng có bồ nhí thì vợ đánh ghen.

Nhưng có 2 loại đánh ghen "Hoặc đánh bồ nhí, hoặc đánh chồng".

Vậy sao lại đánh bồ nhí, sao lại đánh chồng?Nếu chồng làm chủ kinh tế gia đình thì vợ sẽ đánh bồ nhí.

Nếu vợ làm chủ kinh tế gia đình, chồng đã ăn bám lại còn mang tiền của vợ nuôi bồ thì vợ sẽ đánh chồng.

Quan trọng ai làm chủ kinh tế.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 406: Truyện 4 chú Sa-di A-la-hán


"Thân thiện giữa thù địchÔn hòa giữa hung hăngThanh tịnh giữa nhiễm ôTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 406)Tích Pháp Cú: Có vợ chồng nọ thì ông chồng rất nghe lời vợ.

Hôm đó vợ nói với chồng rằng:- Mai tôi sẽ nấu món ngon để cúng dường Chư tăng.

Nhưng tôi chỉ đủ sức làm đồ ăn cho 4 vị.

Vậy mai ông đến Tinh xá thỉnh 4 vị Thánh tăng về đây.Ông chồng đồng ý đến thỉnh.

Ngài Xá Lợi Phất nhận lời.

Sáng hôm sau Ngài sai 4 chú Sa-di nhỏ đến nhà vợ chồng đó.

Vợ chồng đó để 4 chú đó ngồi ở hiên đợi rất lâu.

Rồi vợ mới hỏi chồng:- 4 vị Thánh tăng đâu sao không thấy tới?

Ông đến mời lại xem?Ông chồng đến mời lại thì Ngài Xá Lợi Phất đến thấy 4 chú Sa-di ngồi đó thì hỏi:- Này gia chủ, 4 vị này ăn chưa?- Thưa Tôn giả, 4 vị này chưa ăn.Thế là Ngài Xá Lợi Phất ôm bát đi mà không ăn.

Lúc sau có mấy vị Thánh tăng khác đến cũng hỏi 4 vị Sa-di này ăn chưa?

Vợ chồng nói rằng chưa ăn thì các Thánh tăng đó lại bỏ đi.Vợ chồng đó mới ngạc nhiên vì Tôn giả Xá Lợi Phất và các vị Thánh tăng đó thấy 4 chú Sa-di không ăn thì đều không ăn.

Họ không biết là vì sao?

Lúc sau thì 4 chú Sa-di đó nói với nhau rằng: "Thôi bây giờ đã quá giờ rồi nên không ăn nữa".

Thế là 4 vị đó cất mình lên hư không bay trở về Tinh xá.

Vợ chồng khi đó mới té ngửa rằng 4 vị đó là 4 vị A-la-hán.

Rồi họ ân hận.

Không biết về sau vợ chồng đó thế nào vì chuyện không nhắc tới.Về sau các Tỳ kheo chưa chứng đạo mới tò mò hỏi 4 vị Sa-di A-la-hán đó: "Khi bị bỏ đói ngồi ở hiên thì các vị có giận không?"

Các vị đó nói rằng: "Không hề giận".

Các Tỳ kheo đó ngạc nhiên vì "Suy bụng ta ra bụng người".

Nếu là Tỳ kheo được mời đến ăn lại không cho ăn.

Rồi bắt ngồi ở hiên nhịn đói thì họ sẽ giận lắm lắm.Rồi các Tỳ kheo mới mang chuyện đó hỏi Phật.

Đức Phật mới đọc bài kệ để khen 4 vị Sa-di A-la-hán:"Thân thiện giữa thù địchÔn hòa giữa hung hăngThanh tịnh giữa nhiễm ôTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 406)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Tác dụng của thần thôngTa thấy vợ chồng mời 4 vị Thánh tăng đến để cúng dường mà lại thấy Ngài Xá Lợi Phất cho 4 chú Sa-di đến.

Vợ chồng cố ý chờ 4 vị Thánh tăng đến thì vào ăn cùng chứ chẳng có cố ý bắt 4 chú Sa-di nhịn đói.

Nhưng chờ mãi chẳng thấy 4 Thánh tăng đâu.

4 chú Sa-di đó thấy quá giờ ăn rồi thì dùng thần thông bay về Tinh xá.Vợ chồng khi đó với té ngửa ra rằng 4 chú Sa-di đó là 4 vị Thánh tăng.

Vậy nên để biết đâu là thánh, đâu là phàm thì có 2 cách:Cách thứ 1: Dùng thiền ngữ, đạo lý thâm sâu, thuyết pháp trí tuệ, triết học để chứng minh đã chứng Thánh...

Nhưng nếu trí tuệ ta kém thì ta không hiểu, không thấy hay, không thấy vĩ đại.

Muốn biết các pháp đó hay ho, vĩ đại thì ta phải có trí tuệ cao hơn vị đó.

Muốn hiểu Thiền ngữ hay thì ta phải chứng thiền cao hơn vị đó.

Nên cách này khó dùng.Cách thứ 2: dùng Thần Thông.

"Thần thông là sự chứng minh chân thật nhất về mức độ chứng đạo".

Thể hiện thần thông thì kẻ phàm phu cũng thấy được sự vĩ đại.

Thế nên thần thông khuất phục kẻ phàm phu cứng đầu là dễ nhất.

Còn trí tuệ chỉ dùng để khuất phục người có trí tuệ và yêu mến đạo lý.Thế nên Đức Phật mới có 2 vị Thượng thủ tăng đoàn là Ngài Xá Lợi Phất trí tuệ đệ nhất và Ngài Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất.

Khi gặp kẻ cứng đầu khó bảo thì Ngài Mục Kiền Liên hiện thần thông khiến kẻ đó tâm phục khẩu phục.

Khi tâm đã mềm ra rồi, chịu lắng nghe đạo lý rồi thì Ngài mới nói đạo khiến kẻ đó giác ngộ.

Còn tâm đã ương bướng bảo thủ thì nói đạo như "nước đổ lá khoai".Còn gặp kẻ có tâm cầu đạo, muốn tìm đạo thì Ngài Xá Lợi Phất đến nói đạo là vị đó hiểu ra mà giác ngộ.

Nhờ sự phối hợp nhịp nhàng của 2 vị đã hóa độ được nhiều người quy y đạo Phật.Bài học 2: Người đời thường chấp tuổi tácChấp tuổi nặng nề nhất chính là Việt Nam ta.

Cụ thể là các cấp bậc xưng hô: "anh, chị, em, cô, dì, chú, bác, cậu, mợ, thím, dượng, ông, bà, cụ, kị, cố..."

Mỗi cách xưng hô lại thiết lập cấp bậc về vai vế tuổi tác.

Còn tiếng Anh chỉ có 3 ngôi: "I, you, he she they".Ở Anh dù con nít nói chuyện với ông già thì vẫn là "I, You".

Còn Việt Nam ta thấy kém tuổi thì gọi là em, hơn tuổi thì gọi là anh chị, hơn nữa thì là cô chú, già hơn bố mẹ mình thì là bác, già nữa thì là ông, rồi cụ.

Mỗi mức độ tuổi sẽ có cách xưng hô phù hợp.Trong đạo Phật thì cũng chấp tuổi đạo khi chưa biết người đối diện chứng cao hay thấp.

Thời nay thì mặc định là không ai chứng thánh.

Nên trong đạo Phật căn cứ duy nhất vào tuổi đạo (tuổi hạ nạp) để thể hiện tôn kính mà thôi.Và Pháp Cú này thì có 4 chú Sa-di nhỏ tuổi đều chứng A-la-hán.

Đó là bài học cho ta.

Có thể ông già rất già mà đạo đức không có.

Có thể đứa trẻ con lại có đạo đức của một vị thánh.

Nếu ta chấp ngặt vào tuổi mà ta khinh thường đứa trẻ có đạo đức rồi tôn kính ông già nhiều tật thì là sai.Nên khi mới gặp mặt chưa biết đạo đức thế nào thì ta theo tuổi mà thể hiện lòng kính trọng.

Nhưng khi đã biết tâm tính, đạo đức của người thì ta nên theo đạo đức mà thể hiện sự kính trọng.

Đó mới là đúng pháp.Bài học 3: Vì sao Ngài Xá Lợi Phất lại cho 4 chú Sa-di A-la-hán tới?Chuyện không kể đoạn sau.

Nhưng tôi nghĩ vợ chồng đó có duyên với đạo Phật.

Vậy nên Ngài Xá Lợi Phất muốn đẩy họ đến tâm lý hối hận vì đã khinh thường 4 vị Thánh tăng Sa-di đó.

Sau đó Ngài dẫn họ đến chứng đạo bằng 1 bài pháp, 1 câu kệ gì đó.

Đấy là cách thức mà Phật hay dùng.

Nhưng đoạn sau đó chuyện lại không kể.Bài học 4: Được mời rồi bị bỏ đói mà không giận"Thân thiện giữa thù địchÔn hòa giữa hung hăngThanh tịnh giữa nhiễm ôTa gọi Bà-la-môn."

Đức Phật nói bài kệ này ý rằng: "Tâm một vị A-la-hán thì luôn thân thiện, ôn hòa, thanh tịnh.

Còn tâm kẻ phàm phu thì luôn thù địch, hung hăng, nhiễm ô".Ta thấy, 4 vị Sa-di A-la-hán đó dù bị bỏ đói, bị bắt ngồi ở ngoài hiên dù chú được mời đến dự tiệc.

Vậy mà tâm 4 vị vẫn thân thiện, ôn hòa, không thù ghét, không hung hăng.

Tâm chú vẫn giữ thanh tịnh mà không khởi tâm nhiễm ô, ác độc.Còn kẻ phàm phu ở đây là Phật nhắc các Tỳ kheo.

Trong hoàn cảnh đó thì các vị đó sẽ sân hận, thù hận, ăm thù, tức tối với tâm lý ác độc.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 407: Truyện 2 anh em Bàn Đặc


"Người bỏ rơi tham sânKhông kiêu căng đố kịNhư hạt cải đầu kimTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 407)Tích Pháp Cú: Pháp Cú 25 ta đã nghe về Ngài Châu Lợi Bàn Đặc chứng A-la-hán.

Nay ta kể qua 1 chút vì chuyện này nối tiếp chuyện Pháp Cú 25 đó.Có 2 anh em Ngài Châu Lợi Bàn Đặc.

Chun-la-pa-ta-ka là em và Ma-ha-pa-ta-ka là anh.

Ta tạm gọi là Bàn Đặc Em và Bàn Đặc Anh.

Người anh đi tu trước chứng A-la-hán nên rủ em đi tu.

Nhưng vì em quá kém trí tuệ 1 câu kinh, 1 lời kệ cũng không thể học.

Anh bèn bảo em về chăm sóc ông ngoại còn có phúc hơn chứ tu thế chẳng ích lợi gì.Thế rồi Bàn Đặc Em ngồi khóc ở cửa Tinh xá vì tâm chàng khát khao, ước ao được tu hành.

Nhưng trí tuệ chàng quá tệ đến mức 1 câu kinh cũng chẳng thể thuộc.

Đến nay thì anh Ngài đuổi về nhà không cho tu nữa.Lúc đó thì Đức Phật đi ra hỏi chuyện.

Sau đó Phật độ cho Bàn Đặc Em chứng A-la-hán ngay trong buổi sáng hôm đó.

Ngài chứng A-la-hán xong thì Tinh xá mọi người đều đi thọ trai hết không có ai.

Thế là Bàn Đặc Em dùng thần thông biến thành 1000 vị Châu Lợi Bàn Đặc đi lại khắp lơi quét dọn lau chùi Tinh xá.

Lúc đó gia chủ thấy Phật bảo còn thiếu 1 vị thì sai người về Tinh xá mời.

Gia nhân đến thì thấy có 1000 vị ai cũng giống ai đi lại khắp nơi.Gia nhân trở về báo thì toàn bộ Chư tăng ngạc nhiên vì biết Bàn Đặc Em đã chứng A-la-hán.

Trong khi mới buổi sáng đây thấy chàng đang ngồi khóc ở cửa Tinh xá.

Sau khi thọ trai xong, theo lệ thì Phật sẽ lên pháp tòa giảng pháp cho gia chủ.

Nhưng lần này Phật bảo Bàn Đặc Em lên giảng pháp.

Ngài lên nói pháp thao thao bất tuyệt những đạo lý vi diệu.Tỳ kheo lại lần nữa ngạc nhiên.

Bởi Tỳ kheo nổi tiếng kém trí tuệ mà khi chứng đạo thì trí tuệ siêu việt.

Mọi người mới hỏi Đức Phật thì Đức Phật nói: "Thời Phật Ca Diếp thì Bàn Đặc Em là một vị tăng thông minh trí tuệ nhưng không chứng đạo.

Vị đó đã kiêu ngạo mà khinh thường bạn đồng tu trong đó có nhiều vị chứng A-la-hán mà Ngài không biết.

Quả báo nhiều đời tái sinh Ngài đều bị kém trí tuệ".Đó là Tích Pháp Cú 25 ta đã đọc ở tập 1.

Và sau đây là Tích Pháp Cú 407 này.Hai anh em Bàn Đặc có ông ngoại giàu sang.

Mẹ là tiểu thư "cành vàng lá ngọc" nhưng bỏ nhà đi theo "tiếng gọi tình yêu" là người làm thuê trong gia đình.

Sau khi trốn nhà theo trai lấy trai làm chồng có 2 cậu con trai thì bà quay lại gặp bố.Ông ngoại thấy con gái có 2 đứa cháu thì cũng tha tội cho con và yêu thương 2 cháu.

Ông là đệ tử thuần thành của Phật.

Ông hay đi nghe Phật thuyết pháp và mang 2 cháu theo.

Không ngờ Bàn Đặc Anh mến đạo xin ông cho xuất gia đi tu.

Chàng tu thời gian thì đắc A-la-hán.

Rồi Bàn Đặc Em cũng muốn xuất gia và được ông đồng ý.Nhưng Bàn Đặc Em bị kém trí tuệ học 1 câu kinh, 1 lời kệ cũng không thể thuộc.

Thế nên các bạn đồng tu khổ lây.

Thường một vị thông minh trí tuệ, giàu có, quyền lực ở đâu thì người xung quanh sướng lây.

Còn một vị kém trí tuệ, thiểu năng trí tuệ mất khả năng lao động thì ở đâu người xung quanh sẽ khổ lây.

Thế nên người anh bảo em về chăm sóc ông ngoại còn có phúc.

Ở đây tu mà ảnh hưởng mọi người có khi còn mang tội.

Rồi đoạn sau là Tích Pháp Cú 25 ta đã kể lại ở trên.Sau khi 2 anh em đều chứng A-la-hán thì các Tỳ kheo rảnh rỗi ngồi buôn chuyện.

Các vị mới bàn tán rằng: "Bàn Đặc Anh nghe nói chứng A-la-hán mà còn sân vì đã đuổi em không cho tu.

Vậy có nghĩa rằng vị đó còn sân hận và không từ bi".Khi các Tỳ kheo xầm xì bàn tán, nói xấu vị A-la-hán Bàn Đặc Anh thì Phật xuất hiện.

Phật hỏi sự tình.

Sau đó Phật xác thực rằng: "Bàn Đặc Anh không còn sân, không còn kêu căng đố kị" bằng bài kệ:"Người bỏ rơi tham sânKhông kiêu căng đố kịNhư hạt cải đầu kimTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 407)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Vì sao Bàn Đặc Anh lại đuổi em?Hai anh em thương yêu nhau thì anh luôn muốn tốt cho em.

Đặc biệt anh còn là một vị A-la-hán đạo đức, trí tuệ viên mãn.

Vậy hành động đuổi em có 2 khả năng xảy ra:Khả năng thứ nhất: Bàn Đặc Em kém trí tuệ tu sẽ ảnh hưởng đến mọi người còn mang tội.

Nếu em về nhà chăm sóc ông ngoại đã già còn có phúc hơn là tu vừa mang tội, vừa chẳng chữ nào vào đầu.

Đây là suy nghĩ của người thường.Khả năng thứ hai: Nhưng trường hợp Bàn Đặc Anh đã chứng A-la-hán nên Ngài vô cùng trí tuệ.

Ngài đuổi em là một hình thức nghịch hạnh hóa độ.

Ngài biết em có ý chí tu hành và tâm khát khao chứng đạo giải thoát.

Nên Ngài đẩy em đến đau khổ cùng cực rồi Phật kéo em lên giảng pháp thì chứng đạo.

Và sự thật chuyện này đã diễn ra theo đúng kịch bản của Ngài.Bài học 2: Thủ thuật dẫn tâm đến thống khổ rồi kéo lên nói pháp thì chứng đạo.Bàn Đặc Anh biết tâm em khát khao được tu hành.

Ngài muốn đẩy em đến đau khổ cùng cực và Phật kéo lên nói pháp làm tâm vỡ òa giác ngộ.

Sau đây là 2 sự kiện mà thủ thuật đó diễn ra hiệu quả.Tích Pháp Cú 114: Bà mẹ Ki-sa-gô-ta-mi bị chết đứa con trai thương yêu.

Bà mang xác con lên gặp Phật và xin Phật cứu.

Phật bảo bà xin nắm hạt cải ở nhà không có người chết về để Phật làm thuốc.

Bà lao đi trong hi vọng mà xin khắp mọi nhà thì nhà nào cũng có người chết.

Bà chạy khắp kinh thành đến chiều thì bà ngộ được 1 điều:"Chết là lẽ tất nhiên của cuộc đời.

Ai ai rồi cũng phải chết.

Không chết già thì chế trẻ.

Và gia đình nào cũng có người chết".

Bà buồn rầu về xin lại xác con thì Phật đọc bài kệ là chứng Sơ quả Dự Lưu.

Bà xin xuất gia theo Phật tu 1 thời gian thì chứng A-la-hán và làm Đệ nhất khổ hạnh đầu đà trong Ni chúng.Tích Pháp Cú 113: Bà mẹ thứ 2 này tên là Pa-ta-cha-ra.

Trong 1 ngày thì chồng yêu của bà bị rắn độc cắn chết.

Đứa con thứ nhất bị cọp tha đi.

Đứa thứ hai bị nước lũ cuốn trôi.

Bà tưởng như điên chạy về nhà cha mẹ ruột thì cha mẹ bị nhà đổ đè chết.

Bà chính thức hóa điên lao vào Tinh xá Phật.

Phật nói 1 câu: "Hãy tỉnh lại đi con" thì bà bừng tỉnh và khóc lạy Phật.

Phật đọc bài kệ là bà chứng Sơ quả Dự Lưu.

Bà xin xuất gia tu thời gian sau chứng A-la-hán.Vậy nên thủ thuật dẫn tâm đến sự thống khổ rồi kéo lên rất dễ làm tâm khai mở giác ngộ.

Ngày nay các Sư vẫn hay dùng thủ thuật này trong các đám tang.

Khi đó tâm toàn bộ gia đình, người thân đều vô cùng đau khổ.

Sư đến làm lễ cầu siêu cho hương linh.

Trong lời kinh tụng của Sư luôn có những đạo lý.

Khi Sư đọc lên và người nhà lắng tâm nghe thì dễ bừng tỉnh giác ngộ.

Giác ngộ ở đây chỉ là xin quy y đạo Phật thôi chứ không chứng Sơ quả Dự Lưu như thời Đức Phật.

Bởi đến Sư đọc kinh đó hàng ngày còn chẳng chứng thì sao người nghe chứng nổi.Bài học 3: Hai anh em đều chứng A-la-hánThường những người thân trong gia đình luôn có phúc duyên tương đồng mới có thể thân thiết gắn bó với nhau.

Nếu phúc duyên khác biệt thì họ không thể sống chung trong gia đình và không thể gắn bó.Ví dụ: Một người có phúc duyên được ở nhà lầu, đi xe hơi, có người hầu hạ.

Một người kém phúc duyên ở nhà rách, đi xe đạp cọc cạch, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời.

Hai kẻ đó vì phúc duyên khác biệt không thể sống chung với nhau hay gắn bó với nhau được.

Đó là phúc duyên lệch ít.

Còn phúc duyên lệch nhiều thì kẻ lên cõi trời, kẻ ở cõi người nghèo khổ.

Hoặc kẻ ở cõi người còn kẻ đọa súc sinh.

Họ còn cách biệt nhau như trời với đất vậy.Vậy nên 2 anh em Bàn Đặc yêu thương gắn bó với nhau rồi đều chứng A-la-hán không có gì lạ.

Toàn bộ anh em Ngài Xá Lợi Phất đều chứng A-la-hán.

5 anh em Kiều Trần Như theo Phật đều chứng A-la-hán.

Đó là chuyện bình thường bởi các vị đều có phúc duyên tương đồng và viên mãn.Bài học 4: Bỏ rơi tham sân, kiêu căng đố kịKiêu căng, đố kị thì là Ngu si.

Chứ không phải Ngu si là 1+1=3.

Vậy câu này tức là "Từ bỏ tham sân si".
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 408: Truyện Tập khí kiếp xưa


"Nói lên lời ôn hòaLợi ích và chân thậtKhông mất lòng một aiTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 408)Tích Pháp Cú: Có Tỳ kheo tên là Pi-đi-na-va-sa.

Ông tu lâu được lên hàng Trưởng lão.

Thế nhưng khi ông nói chuyện với ai thì xưng hô lỗ mãng "đầu đường xó chợ".

Theo tiếng Việt thì xưng hô kiểu như: "Mày, tao, con mụ này, thằng oắt kia, lũ khốn nọ, con đĩ, thằng mọi..."

Còn tiếng Ấn Độ sẽ xưng hô kiểu khác nhưng tinh thần lỗ mãng là giống nhau.Còn các Tỳ kheo khác thì xưng hộ: "Này hiền giả, tại hạ đây, tiểu bối này, này hiền huynh, thưa Tôn giả, này gia chủ..." nghe rất lễ độ và tôn trọng.Tự dưng xuất hiện một ông "lạc loài" bỗ bã, bốp chát, thô lỗ, cộc cằn, lỗ mãng... nghe rất chối tỉ.

Nhưng ông tu lâu nên người ta cũng nể.

Nhưng càng ngày "bệnh tình" của ông càng nặng bởi "Già sinh tật như đất sinh cỏ".

Cho đến lúc mọi người không thể chịu nổi.

Thế là các Tỳ kheo mới lên mách Phật.

Phật mới bảo Tỳ kheo rằng:- Này Tỳ kheo, đừng giận và đừng để tâm.

Pi-đi-na-va-sa có duyên tu hành và bản chất tâm không có ác ý.

Nhưng 500 kiếp qua ông toàn sinh trong gia đình ăn nói lỗ mãng, thô tục kiểu đó nên tạo thành Tập khí.Tuy vậy, Đức Phật cũng khuyên các Tỳ kheo nên nói chuyện cư xử với nhau đoàng hoàng bởi đó là Khẩu Nghiệp:"Nói lên lời ôn hòaLợi ích và chân thậtKhông mất lòng một aiTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 408)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Tập khí đời này sang đời khácTích Pháp Cú 251 có chuyện rằng: Một lần Ngài A-nan nghe Phật giảng pháp thì thấy có 5 người ngồi dưới nghe pháp mà mỗi người 1 vẻ kỳ lạ: 1 người thì ngủ.

1 người lấy tay đào đất thành cái lỗ.

1 người ngồi gần cây cứ lấy tay lay lay cành cây.

1 người thì cứ ngắm nhìn bầu trời.

Còn 1 người chăm chú lắng nghe.

Ngài mới thấy lạ nên sau buổi thuyết pháp thì hỏi Phật.

Phật nói rằng:"5 kẻ đó bị Tập khí kiếp xưa đeo bám.

Kẻ nghe pháp ngủ thì kiếp xưa là con trăn.

Kẻ nghe pháp mà cứ lấy tay đào lỗ thì kiếp xưa là con chồn.

Kẻ nghe pháp mà cứ lấy tay lay lay cành cây thì kiếp xưa là con khỉ.

Kẻ nghe pháp mà cứ nhìn lên bầu trời thì kiếp xưa là nhà chiêm tinh.

Kẻ nghe pháp chăm chú thì kiếp xưa là vị Bà-la-môn".Ta mới thấy Tập khí nhiều đời bám dính vào thân tâm ta rất khó thay đổi.

Đến đời này sinh làm người mà vẫn mang theo thói quen bản chất của loài vật kiếp xưa.Trong đó có Tập khí chăm chú lắng nghe pháp của vị Bà-la-môn là tập khí tốt.

Bởi kiếp xưa vị đó đã từng tư duy pháp trong kinh Vệ Đà.

Nay gặp Đức Phật giảng pháp thì chăm chú lắng nghe và tư duy Pháp.

Vị đó rất dễ đắc đạo nếu đủ phúc.

Bởi duyên Chánh pháp Đức Phật đã có, tâm yêu thích Pháp cũng đã có.

Nếu vị đó có đủ phúc thì ắt đắc đạo.

Vậy nên Tập khí có tốt, có xấu ta nên nhớ điều này.Còn ông Tỳ kheo Pi-đi-na-va-sa này 500 kiếp toàn sinh vào gia đình ăn nói bỗ bã.

Đời này bị Tập khí đó chi phối.

Nên ở trong chúng hội thánh tăng có Đức Phật mà vẫn cứ lỗ mãng.

Và sự thật rằng Đức Phật bó tay với ông trừ khi ông ta chứng A-la-hán.Bài học 2: Sở thích, Đam mê, Năng khiếu chính là Tập khí kiếp xưaThế giới có những vị Thần đồng.

Ví dụ: Mozart (1756-1791) nhà soạn nhạc người Áo có ảnh hưởng nhất trong nền âm nhạc cổ điển Châu Âu.

Ngài sinh ra trong gia đình có cha là nhạc công cho dàn nhạc Công giáo.

Mozart năm 3 tuổi khi cha dạy chị chơi đàn thì cậu ngồi nhìn.

4 tuổi thì cậu chơi đàn dương cầm không chút lỗi.

5 tuổi cậu sáng tác bản nhạc đầu tiên.Thế giới không thể giải thích nổi vì sao lại có Thần đồng vĩ đại vậy?

Họ cho rằng môi trường từ trong bụng mẹ, rồi sinh ra cha làm nhạc công.

Thế nhưng có hàng triệu trẻ em có môi trường như vậy, cha làm nhạc công như vậy trong ngàn năm qua sao không có Thần đồng như thế?Sự thật rằng Mozart là người mang theo Tập khí kiếp xưa đam mê âm nhạc.

Nay sinh vào gia đình có môi trường như thế thì Tập khí đó phát khởi tạo thành Thần đồng âm nhạc.

Thiếu 1 trong 2 yếu tố: Tập khí và Môi trường thì đều không có Mozart.Vậy nên Thần đồng trong bất cứ bộ môn nào đều do Tập khí kiếp xưa.

Dù đó là bóng đá, thể thao, nghệ thuật, kinh doanh, võ thuật...

đều vậy.

Bởi 5 tuổi thì không thể đủ trình độ, kiến thức mà sáng tạo được một bản nhạc của nền âm nhạc cổ điển Châu Âu.Tập khí bộc lộ rõ nét nhất là ở thời thơ ấu.

Khi lớn lên thì môi trường giáo dục rèn luyện, thầy cô dạy bảo, xã hội uốn nắn thì những Tập khí yếu có thể biến mất.

Thay vào đó là những thói theo do giáo dục, rèn luyện, học tập, môi trường hiện đời tạo thành sở thích, thói quen, tính cách mới.Còn những Tập khí sâu bền như 500 kiếp sống trong gia đình ăn nói thô lỗ thì Phật cũng bó tay.

Thế nên Phật mới khuyên Tỳ kheo: "Này Tỳ kheo, thôi chịu khó nghe đi bởi Như Lai đã bó tay".Bài học 3: Tập khí xấu (Kiết sử) đưa ta đọa cõi dữNhư ta đã biết thì Tập khí có tốt có xấu.

Ví dụ Tập khí của Mozart thích âm nhạc là Tập khí tốt.

Còn Tập khí nói năng lỗ mãng như Tỳ kheo Pi-đi-na-va-sa là Khẩu Nghiệp Dữ nên xấu.Còn tập khí thích lay cành cây như con khỉ, lấy tay đào lỗ như con chồn, ngủ như con trăn thì là ngu si của loài súc vật.

Còn tập khí thích thú chăm chú nghe pháp của vị kiếp xưa là Bà-la-môn thì tốt.Phật có liệt kê 10 Tập khí xấu gọi là Thập Kiết Sử sẽ kéo chúng sinh vào ác đạo mà ta cần chú ý.Tỳ kheo tu hành là diệt 10 Kiết sử: Ai diệt được 3 Kiết sử đầu thì chứng Sơ quả Dự Lưu.

Ai diệt thêm 3 Kiết sử tiếp thì chứng Nhị quả Nhất Lai.

Ai diệt toàn bộ 5 Hạ phần Kiết sử cuối thì chứng A-la-hán.

Và trong Kinh Nikaya không có Tam quả Bất Lai.Thập Kiết Sử đó là: 1- Thân kiến (tham lam ích kỷ), 2- Giới cấm thủ (bảo thủ cố chấp), 3- Nghi (Nghi ngờ Chánh pháp đúng sai), 4- Tham ái dục (Tham tình dục), 5- Sân hận (căm thù tức giận), 6- Trạo cử hối tiếc (Ngồi thiền bị loạn tâm), 7- Kiêu mạn (kiêu căng ngạo mạn), 8- Tham sắc ái (tham và yêu cõi trời Sắc giới), 9- Tham vô sắc ái (tham và yêu cõi định Vô sắc giới).

10- Vô minh (Không có Tam Minh: Thiên nhãn minh, Túc mạng minh, Lậu tận minh).Bài học 4: Nói ôn hòa, lợi ích, chân thật, không mất lòng aiKhẩu nghiệp thì quả báo rất nặng.

Nhưng Tỳ kheo Pi-đi-na-va-sa nói lỗ mãng mà tâm không ác nên quả báo cũng nhẹ.

Đức Phật khuyên rằng: "Lời nói thì nên ôn hòa, nhã nhặn, chân thật, mang lại lợi ích, không mất lòng ai.

Đừng nói năng lỗ mãng, cộc cằn, bỉ ổi, lừa đảo, dối trá, xàm bậy, nhảm nhí, gây mất lòng người nghe".

Phật gọi đó là Ái Ngữ.

Ái Ngữ ắt sẽ được người khác cảm mến dù chẳng tốn xu nào.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 409: Truyện không lấy của không cho


"Bất cứ đồ vật gìLớn nhỏ hay đẹp xấuNếu không cho không lấyTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 409)Tích Pháp Cú: Có ông Tỳ kheo đi khất thực thấy tấm vải rơi trên đường.

Ông ta nghĩ chắc ai đó vứt đi nên ông mang về nhộm lại để may y mặc.

Ông ta nhặt lên mang đi được mấy bước thì chủ nhà chạy ra chửi ông thậm tệ và đòi lại tấm vải.Hóa ra tấm vải đó là của ông chủ nhà giặt phơi trên tường rào.

Sau đó gió thổi bay rơi xuống đường.

Tỳ kheo thấy trên đường tưởng ai vứt bỏ.

Còn chủ nhà thì không thấy vải trên bờ tường chạy ra thấy Tỳ kheo đang cầm lại nghĩ Tỳ kheo ăn trộm.

Chuyện đó cũng không có gì hệ trọng.

Chủ nhà trách mắng, Tỳ kheo minh oan rồi cả hai giảng hòa.Tỳ kheo đó mới về kể lại cho Phật nghe câu chuyện.

Phật nghe xong thì khuyên rằng:"Bất cứ đồ vật gìLớn nhỏ hay đẹp xấuNếu không cho không lấyTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 409)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Không cho thì không lấy là không thamTấm vải đó không ai cho ông Tỳ kheo.

Ông ta nhặt được trên đường bởi nó có thể may y áo, tức tâm ông có tham.

Nếu không có lòng tham thì thấy không phải của mình sẽ không lấy.

Còn nếu ai lấy thì kệ họ.

Bởi họ có tham nên thế.

Còn ta không tham thì ta không lấy.

Và ta không nên học theo kẻ tham.

Tâm tham này rất vi tế.

Tuy vậy tác hại của nó cũng nặng nề.

Giống kẻ thấy tiền rơi trên đường thì chạy lại vồ bởi tiền đó vô chủ.

Nếu không vồ kịp thì có kẻ vồ trước là mất.

Từ đó thành nạn hôi của.

Khi ai rơi tiền, rơi đồ, đổ xe hàng là lũ lượt người chạy lại tranh giành.

Đó là hành vi mất đạo đức xuất phát từ tâm "đồ vô chủ ta nhặt được thì là của ta" giống ông Tỳ kheo nhặt tấm vải trên đường.Vậy nên Phật dạy rằng: "Bất cứ đồ vật gì, lớn bé hay đẹp xấu, nếu không cho không lấy.

Dù đồ vật đó là vô chủ cũng không lấy".

Nếu đồ vật đó vô chủ ta không lấy sẽ có kẻ lấy là kẻ đó có lòng tham.

Ta không nên học theo họ.Vậy một người bới rác lượm rác thì thế nào?

Nếu là đồ ở bãi rác tức chủ nhân đã cho.

Vậy ai đó nhặt về dùng hoặc bán thì không có tội.Tôi nghe kể không biết đúng hay sai: "Ở Nhật bản thì thiết bị điện tử vẫn dùng tốt nhưng chủ nhân muốn đổi cái mới.

Thế nên họ muốn vứt cái cũ đi mà để chung với rác thì sẽ hỏng mà lãng phí.

Nếu để ngay ngắn ở cửa thì không ai lấy.

Thế là họ để ở cửa phải ghi biển là "đồ vứt bỏ, còn dùng tốt, biếu tặng ai cần".

Thế mới có người lấy giúp".

Còn Việt Nam ta có cái xe máy để ở cửa khóa cổ, khóa càng cẩn thận.

Vào nhà đi ra thì ai đó đã lấy dùng hộ mất rồi.Bài học 2: Tham của công"Đồ không cho thì không lấy.

Dù nó có giá trị lớn hay bé, đẹp hay xấu ta cũng không lấy".Nếu đồ của ai đó mà ta lấy thì thành trộm cắp và bị lên án.

Thậm chí ta còn bị phạt, bị tù tội, bị đánh đập.

Chính vì Pháp luật bảo vệ quyền sở hữu tài sản cá nhân nên xã hội ít trộm cắp, ít cướp giật.Còn đồ công cộng thì không cá nhân nào đứng ra lên án.

Mà chỉ có cơ quan chức năng mới có trách nhiệm lên án.

Thế nên một số kẻ đã ăn cắp của công, phá hoại của công.Ví dụ: Chặt cây, phá rừng, xe quá tải làm hỏng đường, đào bới đường rồi để đó, vẽ bậy lên công trình công cộng, phá hoại công trình công cộng, vứt rác bừa bãi làm xấu xí cảnh quan công cộng, dắt chó vệ sinh bừa bãi làm mất vệ sinh công cộng...Những tội đó thì cá nhân không lên án bởi không phải trách nhiệm của họ.

Còn cơ quan có trách nhiệm thì ít, mỏng, đôi khi chẳng có.

Vậy kẻ ăn cắp của công, phá hoại của công, mất vệ sinh môi trường đó tội thế nào theo Nhân Quả?

"Ăn của rừng rưng rưng nước mắt""Ăn của chùa ngọng miệng".Ta biết rằng: "Làm gì mang lại lợi ích cho tập thể số đông thì phúc nhân theo cấp số nhân.

Vậy tội gì gây hại cho số đông, tập thể, nhân loại, loài người thì tội cũng nhân theo cấp số nhân".Bài học 3: Khi cho tặng đồ cần có 4 điềuỞ trên ta bàn nhiều về người nhận.

Phần này ta bàn về người cho tặng.

Hành động cho tặng Phật gọi là Bố thí.

Một người Bố thí tài vật thì cần lưu ý 4 điều sau đây để có được công đức lớn.

Kinh Tuệ Túc (Trường Bộ Kinh) có đoạn kinh nói về 4 điều cần có của Bố thí như sau:"Bạch Tôn giả, thanh niên Uttàra bị bỏ qua trong cuộc bố thì này, vì đã bố thí một cách hoàn bị (1), vì đã bố thí tự tay mình làm (2), vì đã bố thí có suy tư (3), vì đã bố thí các đồ không phế thải (4), sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên.Còn con, vì đã bố thí không tự tay mình làm, vì đã bố thí không có suy tư, vì đã bố thí các đồ phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Tứ Đại Thiên vương, trong cung điện trống không của Serasaka."

Vậy tức Bố thí cần 4 điều:1- Hoàn bị, viên mãn, đẹp đẽ, chỉnh chu, cẩn thận.2- Bố thí phải tự tay mình làm không nên nhờ người làm, sai người làm, thuê người làm.3- Bố thí có tư duy đến lợi ích thiết thực.

Ví dụ: bố thí Bánh trưng ăn no, trắc bụng, để lâu không thiu thì tốt hơn bố thí Mỳ Tôm.

Giúp cần câu, dạy cách câu cá thì tốt hơn giúp con cá.4- Bố thí đồ còn dùng tốt, sạch sẽ, thơm tho, chất lượng tốt.

Không bố thí đồ rác rưởi, đồ phế thải vứt đi, đồ kém chất lượng, đồ có hại cho sức khỏe.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 410: Truyện nghi oan Ngài Xá Lợi Phất


"Người không có mong cầuỞ đời này đời sauTâm an lành giải thoátTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 410)Tích Pháp Cú: Lần đó Ngài Xá Lợi Phất trông coi 500 Tỳ kheo an cư kiết hạ ở Tinh xá khác.

Chuẩn bị đến ngày Tụ Tứ mãn hạ và ngài chuẩn bị về Kỳ Viên gặp Phật.

Rồi có thí chủ rất vui khi thấy Chư tăng tinh tấn tu hành.

Nên họ hứa đến ngày Tụ Tứ sẽ cúng cho quý thầy nhiều đồ dùng vật dụng: Vải vóc, tọa cụ và các đồ dùng thiết yếu khác.Đến ngày đó mà họ vẫn chưa mang tới.

Ngài thì bắt buộc phải về Kỳ Viên.

Thế là Ngài Xá Lợi Phất dặn dò chia đồ đó ra thế nào, phần nào cho ai, cho ai chi tiết cặn kẽ.

Rồi Ngài đi về Kỳ Viên.Rồi có mấy vị Tỳ kheo chưa chứng mới đàm tiếu:"Ngài Xá Lợi Phất coi trọng vật chất quá.

Ngài quá chi tiết cẩn thận chia đồ đó thế nào, cho ai cho ai...

Ngài quá trọng vật chất.

Đáng lẽ A-la-hán phải coi vật chất như mây bay gió thoảng mới đúng".Các bạn nghe thấy có thuyết phục không?Thế rồi chuyện đàm tiếu đó đến tai Phật.

Phật kêu các vị đó lên và Phật la rầy:- Này Tỳ kheo, con ta (Phật gọi Ngài Xá Lợi Phất là con) không thể có vật chất nào dính vào tâm được."

Người không có mong cầuỞ đời này đời sauTâm an lành giải thoátTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 410)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tửBụng tiểu nhân thì chứa đầy tham, sân, si.

Rồi họ nghĩ ai ai cũng tham, sân, si giống vậy.

Thế là họ đàm tiếu nói xấu Ngài Xá Lợi Phất.Thật ra, trách nhiệm của Ngài Xá Lợi Phất được Phật giao là phải quản lý chu đáo cẩn thận hội chúng.

Vật chất đó thì Ngài không tham cho mình.

Nhưng vật chất đó cũng là tiền mồ hôi nước mắt của gia chủ cúng dường.

Ngài phải biết trân trọng, sử dụng nó có lợi ích thì gia chủ mới có phúc.

Đây gia chủ cúng dường vật chất cho Ngài thì Ngài vứt đi rồi bảo "Tự tại với vật chất, không cần vật chất" là phụ lòng gia chủ và phá hủy công đức của gia chủ.Ngoài ra, vật chất nếu thái quá, quá cao sang, quá VIP, quá xa xỉ thì mới có tội.

Còn vật chất là những đồ thiết thực cần cho cuộc sống mà ta dùng cẩn thận thì sẽ có ích, giúp cuộc sống thuận tiện.Ví dụ cái áo: Nếu nó là cái áo hàng hiệu, được gắn kim cương, thêu chỉ vàng, giá tiền tỷ thì lãng phí.

Nhưng cái áo bình thường, sạch sẽ, mới đẹp ta mặc vào để tôn nghiêm.

Thì sử dụng vật chất đó là có lợi ích.

Nay ta bảo ta không cần vật chất thì ta không mặc quần áo lại thành phái tu Lõa Thể à?.Hay ví dụ cái bát: Nếu cái bát đó bằng vàng, bằng ngọc, giá tiền tỷ thì là lãng phí.

Còn cái bát sạch sẽ, đẹp đẽ, lành nặn đựng thức ăn cho ta thì có lợi ích.

Nay ta bảo không cần vật chất thì đựng thức ăn bằng gì?

Hay vứt đồ ăn đó xuống đất rồi bốc ăn?Do vậy, vật chất thì không xấu.

Cái xấu là kẻ quá tham thật nhiều vật chất.

Hoặc tham vật chất đó phải sang, xịn, mịn, đỉnh của top... mới là xấu.Bài học 2: Tốt xấu khó phân biệtTỳ kheo đó đại diện cho chính chúng ta.

Ta không có trí tuệ để biết rõ đúng sai nên ta hay nghĩ sai.Tốt thì ta thấy là xấu.

Xấu thì ta nghĩ là tốt.

Khi trí tuệ ta cao hơn thì tốt, xấu ta phân biệt rõ ràng chính xác hơn.

Còn thấy đến tận cùng của Chân lý, tốt xấu, thiện ác, chánh tà, tội phúc thì chỉ có A-la-hán.Bởi chúng sinh trong luân hồi là Vô Minh.

Vô Minh giống như đêm tối không chút ánh sáng mà ta vẫn phải đi.

Vì không thể phân biệt rõ tốt xấu, đúng sai nên ta vô tình làm sai tạo tội.

Vậy nên một vị thánh tâm rất đạo đức, từ bi, thương người nhưng chưa diệt Vô minh thì vẫn vô tình làm sai tạo Ác nghiệp.Chỉ khi một vị thánh diệt Vô Minh thấy mọi sự vật hiện tượng đúng sai, tốt xấu, chánh tà... rõ như thấy đồ vật trong ánh sáng ban ngày.

Thì khi đó vị đó mới không làm sai tạo Ác nghiệp.

Vì không còn Ác nghiệp nên không còn quả báo khổ.

Mà bản chất Luân hồi là đau khổ bởi có sinh tử.

Thế nên vị đó sẽ vào một cõi không đau khổ, không sinh tử, nằm ngoài Luân hồi.Đó chính là Niết Bàn "đoạn tận diệt khổ".Bài học 3: Không mong cầu đời này và đời sauTa chú ý: Ta làm thiện tích phúc mong có phúc lành để hưởng là sai.

Có kẻ biết Nhân Quả chủ yếu đến ở đời sau và làm phúc mong đời sau sướng cũng sai.

Đó là tham lam.

Vậy nên ta làm thiện tích phúc chỉ mong mang hạnh phúc đến cho đời chứ đừng mong phúc lành đến với ta đời này hay đời sau.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 411: Truyện nghi oan Ngài Mục Kiền Liên


"Người không còn tham áiCó trí, không nghi hoặcThể nhập vào bất tửTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 411)Tích Pháp Cú: Lần đó Ngài Mục Kiền Liên đến nhà một người nữ 3 ngày liên tiếp để nhận thức ăn cúng dường theo lời hẹn của cô gái chủ nhà.

Nhà đó có 3 người nữ là bà ngoại, mẹ và đứa con gái.

Bà mẹ mới hẹn Ngài Mục Kiền Liên muốn được cúng dường Ngài trong 3 ngày liên tiếp.Ngày đầu tiên là Bà ngoại cúng.

Ngày thứ 2 là cô cúng.

Ngày thứ 3 là con gái cúng.

Và như vậy nhà có 3 thế hệ đều tạo công đức lớn vì cúng dường bậc A-la-hán.

Ngài Mục Kiền Liên đồng ý.

Nhưng hành động đó của Ngài bị các Tỳ kheo nghi ngờ.

Các vị cho rằng Ngài bị nhiễm ái dục, tâm còn tham ái nên thường tới lui nhà nữ nhân đó.Ngài Mục Kiền Liên thì Vô Ngã nên mọi người nói gì về Ngài, Ngài không quan tâm.

Nhưng Phật sợ mọi người hiểu lầm nghĩ xấu vị A-la-hán thì mang tội.

Nên khi các Tỳ kheo đang xì xầm bàn tán thì Phật đi đến hỏi xem chuyện gì.

Mọi người nói ra thắc mắc trong lòng.

Phật mới khẳng định Tôn giả Mục Kiền Liên đã đắc đạo giải thoát thì không còn tham ái.

Rồi Phật đọc bài kệ Pháp Cú:"Người không còn tham áiCó trí, không nghi hoặcThể nhập vào bất tửTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 411)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Suy bụng ta ra bụng ngườiNgười xấu thì luôn nghĩ ai cũng xấu giống mình.

Người tốt thì luôn nghĩ ai cũng tốt giống mình.

Vậy Tỳ kheo thấy Tôn giả Mục Kiền Liên tới nhà người nữ mà nghĩ Ngài còn tham ái, tức chính tâm các vị đó còn tham ái."

Suy bụng ta ra bụng người" có thể đúng nếu những kẻ đó đạo đức tương đồng, tâm lý tương đồng.

Và chắc chắn là sai nếu kẻ đó lấy bụng phàm phu suy ra bụng vị A-la-hán.Thế nên một kẻ dựng xe là khóa càng, khóa cổ, khóa bánh trước, khóa bánh sau...

Có thể là hợp lý nếu cái xe đó dựng ở xóm bụi đời, nghiện hút.

Nhưng rất không hợp lý khi cái xe đó dựng ở khu văn minh nhà giàu, bảo vệ 24/7, camera giám sát khắp nơi.Rồi kẻ đi giữa đường phố Sài Gòn cầm điện thoại Iphone đời mất nhất giá khoảng 50 triệu hiên ngang gọi điện.

Cái điện thoại đó sẽ bị cướp sau 5 phút gọi điện.

Bởi kẻ gọi điện đó nghĩ ở Sài Gòn toàn người tốt, ai cũng tốt, chẳng có cướp giật.Cũng vậy, suy nghĩ "Vị đó vào nhà người nữ 3 lần liên tiếp thì chắc là tham ái" sẽ đúng nếu vị đó là kẻ tà dâm, sở khanh.

Nhưng nếu vị đó là Ngài Mục Kiền Liên thì 100% là sai.

Và tâm hồn Tỳ kheo đó cũng đã bị ô uế, xấu xa, không tin tưởng vào đạo đức các vị thánh.Quả báo nghĩ xấu một vị thánh thì kẻ đó sẽ bị khổ nhiều đời.

Kẻ đó sẽ đọa súc sinh vào loài súc sinh tham dục và ô uế.

Phật biết sự nguy hiểm đó nên hiện ra ngăn cản không cho Tỳ kheo tạo Ác Nghiệp.Bài học 2: Đoán mò rất dễ saiĐoán mò là ta sử dụng kinh nghiệm của ta, tâm lý của ta, sở thích của ta, góc nhìn của ta để đoán kết quả.

Nhưng 100 người sẽ có 100 góc nhìn khác nhau, tâm lý khác nhau, sở thích khác nhau.

Vậy nên đoán mò rất dễ sai.

Đặc biệt ở đây các Tỳ kheo buôn chuyện bà tám là những kẻ xàm bậy.

Vậy dùng tâm xàm bậy đó để nghĩ rằng tâm vị thánh cũng xàm bậy như họ thì 100% là sai.Vậy nên muốn đoán đúng thì đầu tiên ta phải xét tâm lý người.

Rồi ta đặt tâm ta giống tâm người.

Đặt ta vào địa vị của người, mới hi vọng đúng.

Nhưng rất khó làm được vậy vì kẻ phàm phu sao biết được tâm vị A-la-hán ra sao?Bài học 3: Hai vị thượng thủ tăng đoàn vĩ đại mà vẫn bị nghĩ xấuPháp Cú trước và Pháp Cú này ta thấy: "Hai vị thượng thủ tăng đoàn đạo đức, trí tuệ, giác ngộ vĩ đại mà vẫn bị nghĩ xấu".

Thế nên kẻ xấu thì sẽ nghĩ rằng ai ai cũng xấu.

Xã hội này khi bị mất lòng tin vào đạo đức, mất lòng tin vào các vị thánh vĩ đại, mất lòng tin vào người tốt thì đạo đức xã hội sẽ tan vỡ.Vì sao lại tan vỡ?Bởi vì quan niệm: "Xã hội này ai ai cũng xấu, nên ta tự cho phép ta được xấu xa mà không hề ăn năn hối hận".

Chỉ khi có niềm tin vào các bậc thánh nhân đạo đức thì ta mới tu sửa tâm cho đạo đức hơn, để xứng đáng với vị thánh mà ta tôn kính.

Khi đó đạo đức xã hội mới tăng trưởng.Ta nhìn xã hội bằng con mắt tiêu cực thấy ai cũng xấu xa ác độc, ví như ta đang hướng về bóng tối.

Ta càng tiến về phía trước thì đời càng u tối.

Ta nhìn xã hội bằng con mắt tích cực, thấy được đạo đức các vị thánh, ví như ta đang hướng về ánh sáng.

Ta càng tiến về phía trước thì đời ta càng tươi sáng hạnh phúc.

Chính quan niệm sống tích cực hay tiêu cực quyết định cuộc đời ta.Bài học 4: Không còn tham ái, có trí, không nghi hoặc, thể nhập vào bất tửTham ái là Kiết sử thứ 5 mà một vị thánh Nhị quả Nhất Lai đã diệt.

Tôi xin liệt kê 10 Kiết sử để ôn qua: 1- Thân kiến, 2- Giới cấm thủ, 3- Nghi, 4- Sân hận, 5- Tham ái, 6- Trạo hối, 7- Kiêu mạn, 8- Tham sắc ái, 9- Tham vô sắc ái, 10- Vô minh.Một vị A-la-hán thì diệt Vô Minh nên tâm vị đó biết rõ đúng sai, tội phúc mà không còn Nghi hoặc đúng hay sai.

Diệt Vô Minh thì trí tuệ vị đó sáng tỏ, minh bạch.

Vì diệt Vô Minh nên vị đó sẽ không làm sai tạo Ác Nghiệp.

Vì không còn Ác Nghiệp nên không còn quả khổ.

Mà Luân hồi có sinh tử nên luôn có khổ.

Vậy tức vị đó sẽ vượt thoát Luân hồi, không còn đau khổ, chấm dứt sinh tử.

Đó chính là "Thể nhập vào Bất Tử".
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 412: Truyện Phật khen Ngài Rê-va-ta


"Người sống ở đời nàyKhông nhiễm ô thiện, ácKhông sầu, không bụi bẩnTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 412)Tích Pháp Cú: Ngài Rê-va-ta là em út của Ngài Xá Lợi Phất.

Cậu được 1 tuổi thì Ngài Xá Lợi Phất xuất gia.

"Tích Pháp Cú 98: Tinh xá giữa rừng gai" ta đã nghe câu chuyện về Ngài.

Tôi xin kể tóm tắt:Gia đình Ngài Xá Lợi Phất các anh em bỏ đi tu theo Ngài hết nên cha mẹ quyết giữ cậu út ở lại để thừa kế gia tài.

Cha mẹ cho chú út lấy vợ sớm.

Trong tiệc cưới thì vị chủ hôn cầu chúc:- Chúc cho cô dâu chú rể sống tới đầu bạc răng long như bà cố này.Ông ta chỉ về bà già 102 tuổi đang ngồi ở đó.

Chú Rê-va-ta quay ra nhìn thì hoảng hồn.

Cô dâu trẻ trung xinh đẹp vậy mà tương lai sẽ khủng khiếp như bà lão kia.

Chú sợ quá bỏ chạy khỏi đám cưới.Ngài Xá Lợi Phất biết trước sự việc nên cho Tỳ kheo đón trên đường chú chạy.

Chú thấy Tỳ kheo thì vội quỳ xuống xin xuất gia.

Tỳ kheo vội giấu chú đi mang về Tinh xá.

Chú tu ở giữa rừng keo gai góc vì sợ cha mẹ bắt về.

Tại đó chú chứng A-la-hán.Sau khi chú chứng A-la-hán thì Phật và Chư tăng cùng Ngài Xá Lợi Phất là 500 vị đến thăm.

Mọi người mới bạch với Phật rằng đường đi từ Tinh xá đến rừng keo hàng trăm dặm sẽ đi mất nhiều ngày.

Nhưng trên đường thì dân cư thưa thớt sẽ không có ai cúng đồ ăn cho 500 Chư tăng.Đức Phật mới hỏi rằng: "Có Si-va-li đi theo không?"

Mọi người báo rằng có.

Phật bảo "Nếu vậy thì ta cứ đi".

Và tăng đoàn 500 vị đi đến rừng keo trong nhiều ngày.

Trên đường đi cứ đến giờ trai tăng thì 2 bên đường hiện ra cảnh làng mạc, cư dân đông đúc.

Mọi người thấy Chư tăng thì quỳ xuống cúng đồ ăn cho các vị.

Sau khi thọ thực xong đoàn người rời đi thì toàn bộ nhà cửa, làng mạc biến mất.Khi Tăng đoàn 500 vị đến rừng keo thì chú Rê-va-ta dùng thần thông biến rừng keo thành Tinh xá lâu đài để tiếp đón Tăng đoàn trong 7 ngày.

Đó là Tích Pháp Cú 98 ta đã đọc.Sau khi Chư tăng về lại Tinh xá thì mọi người mới bàn tán.

Chú Rê-va-ta đó còn trẻ đã chứng A-la-hán rồi dùng thần thông biến khu rừng thành lâu đài Tinh xá đón tiếp 500 vị Chư tăng ăn ở.

Rê-va-ta quả thật có phúc lớn vĩ đại, thần thông vĩ đại.

Khi các Tỳ kheo bàn tán thì Đức Phật đi qua mới nói rằng:- Này Tỳ kheo, Rê-va-ta không chấp có phúc hay vô phúc, thần thông lớn hay thần thông bé..."

Người sống ở đời nàyKhông nhiễm ô thiện, ácKhông sầu, không bụi bẩnTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 412)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Không nhiễm ô thiện ácTại sao Phật lại bảo rằng: "Không nhiễm ô thiện ác?"

Không nhiễm ác thì đúng và dễ hiểu.

Nhưng sao lại không nhiễm thiện?Vậy đầu tiên ta phải hiểu từ "Nhiễm ô" là gì?

"Nhiễm ô" là tâm ta bị nhiễm sự đen tối, xấu xa, cấu uế, tập khí, kiết sử.

"Nhiễm ô" này Phật hay gọi là "Lậu".

Còn ta thì hay dùng từ "Lậu" ở từ ghép: buôn lậu, lương lậu, hủ lậu, hàng lậu, bệnh lậu, thuyền lậu, lậu vé, lậu thuế...

"Lậu" nghĩa là xấu xa, bẩn thỉu, đen tối, mờ ám.

Một vị thánh A-la-hán chứng Tam Minh thì cao nhất trong Tam Minh là "Lậu Tận Minh".

Tức tâm vị đó không còn chút nhiễm ô nào.Vậy "Nhiễm ô Thiện, Ác" là gì?

Tức tâm vị đó bị tham lam thích làm thiện hay thích làm ác.

Kẻ tham lam thích làm ác thì tạo ác nghiệp tương lai sẽ bị quả báo khổ ta không bàn.

Điều đó đơn giản.

Nhưng kẻ tham lam thích làm thiện để tương lai hưởng quả báo sướng thì cũng là nhiễm ô, xấu xa.

Bởi tâm họ thích làm thiện tích phúc vĩ đại để hưởng phúc ở tương lai.

Khi phúc lớn đến, có thần thông vĩ đại, quyền lực vĩ đại, tài sản vĩ đại mà tâm nhiễm ô chưa diệt, họ sẽ thành Ma Vương.Thế nên Đức Phật hay nói rằng: "Làm phúc không chấp thủ 2 đời".

Tức là làm thiện tích phúc thì tương lai sẽ có quả phúc lớn.

Nhưng tâm vị đó không được chấp thủ 2 đời tức "Mong đời này hoặc đời sau ta có phúc lớn để hưởng sướng".

Chính tâm chấp thủ, mong cầu, mong ước đó là tâm tham và nhiễm ô.

Tương lai có phúc lớn, có quyền lực, tiền bạc, thần thông vĩ đại... thì sẽ thành Ma Vương.Vậy nên Đức Phật bảo rằng: "Rê-va-ta không chấp thần thông lớn hay thần thông bé, không chấp phúc lớn hay phúc bé đâu.

Bởi Rê-va-ta không nhiễm ô thiện ác".

Nếu Rê-va-ta chấp vào thần thông vĩ đại đó thì lập tức hóa thành Ma Vương.

Chính bởi vì Rê-va-ta không chấp nên mới là A-la-hán.Vậy nên khi các Tỳ kheo buôn chuyện khen ngợi Ngài Rê-va-ta thì tâm các vị khởi tâm tham, nhiễm ô, thèm khát quả phúc và thần thông của Ngài.

Đức Phật biết sự nguy hiểm đó nên mới đến khuyên bảo.Và "Nhiễm ô thiện, làm thiện mà chấp thủ" chính là mặt trái của Nhân quả.

Kẻ làm thiện tích phúc để mong cầu tương lai hưởng thì sẽ thành Ma Vương.Bài học 2: Không sầuĐức Phật còn khen Rê-va-ta là tu hành 1 mình giữa rừng keo gai góc không 1 bóng người, thậm chí sinh vật cũng ít thấy.

Thế nhưng Ngài không hề buồn sầu.

Còn các Tỳ kheo khác tu độc cư trong rừng dù sao vẫn thấy con thú đi tới đi lui, con chim chuyền cành nhảy nhót.

Ở đây rừng keo gai góc này chim thú rất ít nhưng Ngài không hề buồn.

Đây cũng là đặc điểm của một vị A-la-hán.Bài học 3: Không bụi bẩnA-la-hán thì không chấp nhận bẩn.

Đây cũng là đặc điểm của một vị thánh.

Khi chứng thánh thì tâm các vị thanh tịnh.

Lập tức cảnh quan, nhà cửa, chỗ ở, nơi vị đó an trú đều sạch sẽ, không bụi bẩn, không cầu kỳ phức tạp rườm rà (gọi là Thanh).

Và nơi đó yên tĩnh, không ồn ào náo nhiệt (gọi là Tịnh).
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 413: Truyện Tôn giả Nguyệt Quang


"Như mặt trăng đẹp đẽSáng trong và tĩnh lặngAi đoạn tận hữu áiTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 413)Tích Pháp Cú: Trong giới Bà-la-môn có vị tên là Nguyệt Quang (San-da-ba-ha).

Vị đó khi sinh ra thì trước bụng có vầng tròn sáng giống Mặt trăng.

Khi vị đó đứng trong bóng tối thì thấy rõ còn đứng dưới ánh nắng mặt trời thì khó thấy.

Giới Bà-la-môn tôn vị đó lên thành thần rồi đồn lan đi khắp nơi:- Ai chạm được vào thân vị Nguyệt Quang này sẽ có nhiều phúc lành, được may mắn và được cứu độ.Rồi Bà-la-môn đó đi tuyên truyền quảng cáo khắp nơi thì gặp cư sỹ Phật giáo.

Cư sỹ Phật giáo phản đối:- Chỉ có Đức Thế Tôn mới có hào quang phủ trùm cả trời đất.

Thế Tôn mới có thể cứu độ chúng sinh giải thoát khỏi Luân hồi.Rồi 2 bên cãi nhau.

Rồi các vị Bà-la-môn dẫn ông Nguyệt Quang đó đến thì cư sỹ cũng thấy bụng ông có vầng sáng nhẹ như ánh sáng mặt trăng.

Cư sỹ mới nói rằng:- Thế Tôn còn có hào quang toàn thân phủ khắp trời đất chứ không nhỏ bé yếu ớt thế này.Ông Nguyệt Quang đó nghe vậy mới ngạc nhiên "Chẳng lẽ thế gian lại có người có hào quang hơn ta?".

Và ông quyết định đi cùng mọi người đến gặp Đức Phật.

Rồi là 1 đoàn Bà-la-môn, cư sỹ đi vào Tinh xá Đức Phật.Khi ông Nguyệt Quang đó vừa nhìn thấy Phật thì vầng sáng ở bụng ông biến mất.

Ông ta ngạc nhiên bèn đi ngược trở lại khi không còn thấy Phật thì hào quang ở bụng hiện trở lại.

Ông ta lại đi vào Tinh xá thấy Phật thì hào quang đó lại biến mất.Ông Nguyệt Quang đó nghĩ rằng: "Vị Sa Môn này bùa phép giỏi thật, bùa của vị đó linh đến mức làm biến mất hào quang của ta.

Từ khi sinh ra đến giờ ta chưa bao giờ bị biến mất hào quang đó".Ông bèn đến hỏi Phật:- Thưa Sa Môn Gô-ta-ma, Ngài có bùa phép gì mà linh nghiệm làm biến mất hào quang của ta.

Ngài có thể dạy cho ta được không?- Này Bà-la-môn, ta có cái bùa đó nhưng không dạy cho người ngoài được.

Phải là đệ tử xuất gia của ta thì ta mới dạy.Ông Nguyệt Quang đó lập tức đồng ý xuất gia theo Phật.

Các Bà-la-môn khác vội vã cản lại vì Nguyệt Quang là vị thần hộ mệnh của họ.

Mất ông ta là mất đi bao lợi ích cúng dường.

Nhưng Nguyệt Quang hẹn để học xong bùa phép đó thì ông sẽ quay lại với hào quang sáng hơn.

Mọi người đồng ý và họ hẹn 7 ngày sau sẽ đến đón Ngài trở lại.Sau đó ông Nguyệt Quang xin Phật dạy bùa phép.

Đức Phật bảo phải học căn bản xong mới học nâng cao.

Căn bản là ngồi thiền, quán thân vô thường, quán tâm, quán thọ, quán pháp...

Thế là ông Nguyệt Quang nghe theo tu thiền 7 ngày sau chứng A-la-hán.Đến hẹn thì Bà-la-môn mới đến thỉnh Ngài Nguyệt Quang trở lại.

Nhưng Tôn giả nói:- Này Bà-la-môn, ta đã đến một nơi không còn trở lại.

Các ngươi hãy về đi.Các Bà-la-môn đó buồn rầu ra về.

Tỳ kheo chưa chứng đạo không biết Nguyệt Quang đã chứng A-la-hán.

Họ chỉ biết 7 ngày trước thì vị đó hẹn sẽ trở lại.

Nay đến hẹn có người đến đón thì lại nói: "Ta đã đến một nơi không còn trở lại".

Tỳ kheo mới lên hỏi Phật.

Phật nói rằng Nguyệt Quang đã chứng A-la-hán.

Các Tỳ kheo ngạc nhiên vì mới cách đó 7 ngày thì Ngài là vị thần của Bà-la-môn.

Vậy mà 7 ngày sau đã chứng A-la-hán.

Khi đó Đức Phật mới kể rằng:Vào thời Phật Ca Diếp.

Lúc đó Đức Phật đã nhập Niết Bàn và dân chúng xây tháp thờ Xá Lợi Phật.

Ông Nguyệt Quang là người thợ rừng.

Vì tôn kính Phật nên ông đã lấy gỗ đàn hương loại quý nhất, hương thơm cao quý nhất rồi tạc 1 vầng trăng vô cùng tinh xảo đẹp đẽ cúng dường tháp Xá Lợi Phật.Ý của ông muốn tán thán Đức Phật đẹp đẽ, sáng trong như vầng trăng.

Vầng trăng đó được treo lên tháp Xá Lợi Phật.

Nhiều người lễ lạy cũng cảm nhận được niềm Tôn kính Đức Phật.Sau đó ông sinh lên cõi trời và sống trên đó rất lâu.

Đến kiếp này sinh làm người thì bụng hiện ra vầng trăng tỏa sáng.Kể xong thì Phật đọc bài kệ: "Như mặt trăng đẹp đẽSáng trong và tĩnh lặngAi đoạn tận hữu áiTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 413)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Quý tướng và phúc báuKinh Tướng (Trường Bộ Kinh) kể về các nhân duyên kiếp xưa khiến kiếp này Đức Phật Thích Ca có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.

Ở truyện tích này ta thấy Ngài Nguyệt Quang thời Phật Ca Diếp dùng gỗ quý trạm khắc vầng trăng đẹp đẽ tinh xảo cúng dường tháp Xá Lợi Phật.

Quả báo Ngài sinh cõi trời ở đó ngàn vạn năm.

Đến đời này thì sinh cõi người hiện quý tướng ở bụng có vầng trăng sáng.Vậy Nhân Tướng học là gì?

Bản chất Nhân Tướng học chính là Luật Nhân Quả.

Thấy tướng là thấy quả báo.

Nhưng đa phần các thầy tướng không hiểu Nhân Quả.

Các vị chỉ theo sách cổ nói thế thì nói lại thôi.

Còn người viết sách là dùng thống kê để hệ thống hóa Nhân Tướng tạo thành sách.Vì Nhân tướng là Nhân quả nên ta thấy Kinh Phật luôn ca ngợi Đức Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.

Kinh Phật đề cao Nhân Tướng học bởi nó chính là Nhân Quả.

Còn ai không hiểu thì cho là mê tín.Bàn về "Nhân tướng học" tôi thích Thượng Thừa Tướng Pháp của Ma Y Thần Tướng: Thanh - Thần - Hương - Sắc.

Tức là thanh âm giọng nói, Thần thái phong cách, Hương thơm cơ thể, Sắc diện khuôn mặt.

Thế cho nhẹ đầu vì mình không chuyên.Bài học 2: Ba điều kiện để đắc đạoĐể tu đắc đạo thì cần có 3 điều: (1) Ý chí tu hành. (2) Phúc báu lớn. (3) Duyên có được Chánh pháp.Ta xét ví dụ Đức Phật Thích Ca.

Ngài là Thái Tử là vua tương lai của nước Thích Ca.

Ngài được thần dân và vua cha yêu mến.

Vậy Ngài có Phúc lớn.

Ngài có ý chí tu hành mãnh liệt.

Năm 29 tuổi Ngài từ bỏ ngai vàng, bỏ cung điện, bỏ vợ con mà xuất gia tu hành.

Vậy điều kiện 1 và 2 của Ngài là đầy đủ.Nhưng Ngài tu 6 năm khổ hạnh cực đoan "từ trước tới nay cho đến tương lai sẽ không ai có thể tu khổ hạnh được bằng Ngài".

Thế mà Ngài chẳng chứng bởi đó không phải Chánh pháp.

Còn khi tìm ra được Chánh pháp Ngài tu thiền 49 ngày là đắc đạo thành Phật.Ta xét trường hợp Ngài Nguyệt Quang.

Ngài có phúc lớn.

Ngài được Phật dạy cách tu chuẩn Chánh pháp.

Còn ý chí của Ngài là "Tu để có bùa phép".

Ngài tu 7 ngày chứng A-la-hán.

Quả vị A-la-hán chính là bùa phép mà Phật hứa tặng Ngài Nguyệt Quang.Bài học 3: Mục tiêu tu hành đôi khi là mồi câuMục tiêu tu hành đôi khi chỉ là mồi câu, mồi nhử.

Nếu có phúc lớn, có đường đi chuẩn chỉnh Chánh pháp.

Rồi Phật nói rằng hãy đi con đường sẽ có được "Bùa phép".

Ngài Nguyệt Quang nghe theo thì chứng A-la-hán.

Tại đó Ngài hiểu ra "Đó là nơi không còn trở lại, nơi đó là Niết Bàn Bất Tử".

Còn bùa phép A-la-hán thì vĩ đại gấp ngàn vạn lần bùa phép thường.Ta còn nhớ Pháp Cú 13,14 Phật độ cho em Nan Đà.

Nan Đà vô cùng thương nhớ cô vợ xinh đẹp chuẩn bị cưới thì Phật bắt đi tu.

Đầu óc chàng chỉ có hình ảnh cô gái đẹp nên tu khốn khổ.

Đến khi khổ quá thì Phật dắt em bay lên cõi trời chào hỏi Chư thiên và Tiên nữ.Rồi khi bay về Tinh xá thì Phật hỏi em: "Em thấy Tiên nữ đẹp không?"

Nan Đà đáp "Có ạ".

Rồi Phật lại hỏi tiếp: "Bây giờ em thấy vợ chưa cưới của em thế nào?"

Nan Đà đáp: "Em thấy cô đó như con khỉ".

Phật nói: "Vậy em cố gắng tu ta sẽ bảo Thiên chủ Đế Thích cho em 7 cô tiên nữ cưới làm vợ".

Nan Đà sướng quá mà chăm chỉ tu chứng A-la-hán.

Chứng xong thì tâm chàng thanh tịnh chẳng thèm 7 cô tiên nữ nữa.Vậy nên mục tiêu tu hành đôi khi chỉ là mồi nhử mà Phật biến hóa ra.

Nếu có Phúc, có Chánh pháp và đi theo mồi nhử đó sẽ đắc đạo A-la-hán.Bài học 4: Tôn kính Phật là Ý Nghiệp phải thể hiện bằng hành động là Thân NghiệpTôn kính Phật mà ta để trong lòng không làm gì thì quả báo lành không tới.

Hoặc ta làm mà điều sai lầm ác độc thì vẫn khổ.

Ví dụ: "Hồi giáo cực đoan tôn kính Thánh Alla của họ.

Họ nguyện mang bom tự sát ở ga tầu điện ngầm để dâng mạng sống của họ lên Thánh Alla".

Rồi chết xong đọa địa ngục.Còn ở đây người thợ rừng tôn kính Phật Ca Diếp.

Ngài chọn gỗ đẹp nhất, hương thơm sang trọng nhất rồi tạc, đẽo, khắc thành Mặt trăng chi tiết tinh xảo.

Sau đó chàng dâng lên tháp thờ Xá Lợi Phật.

Ai đến lễ nhìn thấy Mặt trăng đó đều cảm thán và thêm Tôn kính Phật.

Quả báo phúc lớn đến với ngài nhiều đời nhiều kiếp về sau.Vậy nên Tôn kính Phật phải thể hiện bằng hành động mang đến ích lợi cho đời.

Đặc biệt hành động đó lại giúp mọi người thêm Tôn kính Phật.

Quả báo lành ở tương lai rất lớn.Bài học 5: Tín ngưỡng thờ ThầnTa thấy Bà-la-môn Nguyệt Quang được phong làm thần.

Vị thần đó được mọi người đến lễ bái là để cầu tài, cầu lộc, cầu danh.

Vậy mục đích của người mê tín thờ Thần là để xin Quả báo phúc.

Đây được gọi là Mê tín bởi vì không đúng Nhân Quả.

Chẳng làm thiện thì sao quả báo lành tới mà xin.Còn đạo Phật thì dạy tu sửa tâm, sửa tính, tăng đạo đức, sửa hành vi và lời nói, diệt bỏ tham sân si...

đó đều là gây tạo nhân lành.

Theo Luật Nhân Quả thì Nhân lành được tạo ra thì Quả báo lành sẽ tới chẳng cần cầu.

Còn nếu cầu thì sẽ hướng quả báo lành đi đúng hướng ta cần.Nếu không cầu thì quả báo sẽ chạy lung tung vô tổ chức.

Giống như tự dưng ta có 7 cô tiên nữ nguyện thề sống chết với ta.

Ta "bỏ thì thương, vương thì tội".

Đó là vì ta có phúc mà không cầu để hướng quả báo vào trí tuệ, thiền định nên nó trổ lung tung.Ai tu theo đạo Phật hiểu Luật Nhân Quả thì không hề mê tín.

Dù kẻ đó cũng cầu xin lễ lạy nhìn ngoài chẳng khác gì kẻ mê tín thờ Thần.Bài học 6: Đoạn tận hữu áiTheo đạo lý Duyên Khởi thì "Ái sinh thủ" - "Thủ sinh hữu" - "Hữu sinh sinh" - "Sinh sinh Lão Tử" tạo thành Luân hồi.

Bởi tâm ta có "Ái" tức là yêu những món phúc báu làm ta sung sướng nên ta muốn nắm giữ gọi là "Thủ".

Vì muốn nắm giữ nên ta muốn sở hữu gọi là "Hữu".

Vì muốn sở hữu nên kiếp sau thân ta được sinh ra gọi là "Sinh".

Vì có sinh nên có già chết "Lão Tử" tạo thành Luân hồi.

Ai "Đoạn tận hữu ái" sẽ chất dứt Luân hồi sinh tử.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 414: Truyện về Ngài Si-va-li


"Vượt đường nguy hiểm nàyThoát luân hồi, vô minhThiền định đến tận cùngHết dục ái, hết nghiKhông chấp trước, tịch tịnhTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 414)Tích Pháp Cú: Bạn còn nhớ Ngài Si-va-li trong Tích Pháp Cú 98 không?

Chuyện kể rằng lần đó Phật và Chư tăng 500 vị đi thăm Ngài Rê-va-ta là em út Ngài Xá Lợi Phất mới chứng A-la-hán.

Ngài tu ở khu rừng gai cách Tinh xá hàng trăm dặm.

Nếu tăng đoàn 500 vị đi bộ đến đó phải mất nhiều ngày.

Mà trên đường nhà cửa thơ thớt không có ai cúng dường đồ ăn cho 500 vị Chư tăng.Đức Phật mới hỏi rằng: "Trong số Chư tăng có Ngài Si-va-li không?"

Tỳ kheo đáp rằng: "Bạch Thế Tôn, có ạ!"

Phật mới bảo: "Có Si-va-li thì không sao".Quả thật khi tăng đoàn đi trên đường, cứ đến giờ trai tăng tự dưng 2 bên đường hiện ra nhà cửa kinh thành đông người qua lại.

Họ thấy tăng đoàn Đức Phật thì quỳ xuống dâng đồ ăn cho các vị.

Chư tăng ăn xong và bắt đầu đi tiếp thì nhà cửa kinh thành lại biến mất.

Sau đó tăng đoàn đến rừng keo gai góc thì Ngài Rê-va-ta dùng thần thông biến rừng keo thành Tinh xá lâu đài tiếp đón tăng đoàn trong 7 ngày.

Pháp Cú này ta sẽ kể về Ngài Si-va-li.Ngài Si-va-li có mẹ là công chúa xứ Câu Lợi (Cun-la-đa-ma-la).

Bà tên là Si-ma-va.

Khi đó đạo Phật đã giáo hóa xứ đó.

Công chúa đó tôn kính Phật.

Bà mang thai Ngài Si-va-li 7 năm, đau đẻ 7 ngày vẫn chưa hạ sinh.

Bà cứ nằm đó mà đau đớn.

Bà nhờ chồng đến xin Phật chú nguyện để hạ sinh được đứa con.Ông chồng đến gặp Đức Phật mà thưa rằng:- Bạch Thế Tôn, vợ con là công chúa sứ Câu Lợi tên là Si-ma-va.

Nàng mang thai 7 năm, đau đẻ 7 ngày mà chưa thể hạ sinh.

Nay con thỉnh Thế Tôn chú chuyện để vợ con hạ sinh được em bé.Đức Phật mới chú nguyện:- Cầu cho công chúa Si-ma-va sinh nở được mẹ tròn con vuông.Đức Phật vừa chú nguyện xong thì công chúa ở nhà sinh ra cậu con trai.

Đứa bé mới sinh ra đã có đủ răng, đủ tóc.

Mấy tiếng sau khi sinh thì đã biết đi.Hôm sau Đức Phật và Chư tăng đến xứ đó để thọ trai tăng do công chúa và chồng tổ chức.

Trong buổi trai tăng đó thì đứa bé đã mặc quần áo và đi đến lễ Phật.

Khi lớn hơn thì chú xuất gia làm Sa-di và chứng A-la-hán.Tôn giả Si-va-li có một đặc điểm là Chư thiên lúc nào cũng quan sát theo dõi Ngài.

Hễ Ngài đi khất thực 1 lúc chưa ai bỏ thức ăn cúng dường thì Chư thiên sẽ bỏ thức ăn vào đó.Còn nhân duyên mẹ Ngài mang thai con 7 năm, đau đẻ 7 ngày là vì kiếp xưa.

Khi đó Ngài là vua đang vây hãm thành trì.

Còn mẹ Ngài làm quân sư.

Mẹ Ngài mới lập mưu vây kín các cửa thành thì trong thành sẽ đói.

Còn nếu công thành sẽ chết nhiều binh sỹ.

Vậy ta hãy vây hãm khi nào họ suy sụp thì đánh.Ngài làm theo và cho vây thành trong 7 năm thì trong thành hết lương thực và đói.

Rồi Ngài mất 7 ngày đánh chiếm là phá xong thành.

Quả báo kiếp này mẹ Ngài phải mang thai 7 năm và đau đẻ mất 7 ngày.

Còn Ngài bị nhốt trong bụng mẹ cũng 7 năm và đau khổ 7 ngày mà không thể ra ngoài.Nhưng nhiều kiếp quá khứ sau đó thì Ngài làm thiện bố thí cúng dường đồ ăn cho mọi người.

Lúc nào Ngài cũng sợ người ta bị đói.

Có thể lần vây thành đó làm chết đói nhiều người nên tâm Ngài ân hận và sám hối.

Tâm ân hận sám hối đó kéo theo nhiều kiếp khiến Ngài luôn lo sợ mọi người bị đói.Có chuyện kể rằng: Khi Ngài đã xuất gia làm Tỳ kheo đi khất thực.

Ngài thọ thực xong thì có con chó đói đi đến.

Con chó đó có thân hình chỉ còn bộ xương với cái bụng trống không.

Ngài nhìn nó thì thương hại.

Nên Ngài vận lực lôn ra hết thức ăn để cho con chó ăn còn mình thì nhịn đói.

Thế nên quả báo là hễ đi khất thực bát chưa có đồ ăn thì lập tức Chư thiên bỏ thức ăn vào đó.Chư Tỳ kheo rất kính trọng Ngài Si-va-li.

Vì thương Ngài nên mọi người mới bàn tán: "Sao vị A-la-hán phúc đức vĩ đại vậy mà phải chịu bị giam trong bụng mẹ 7 năm rồi bị đau đớn khi sinh nở 7 ngày".Lúc đó Đức Phật đi qua hỏi Tỳ kheo đang bàn chuyện gì.

Nghe xong thì Phật đọc bài kệ để khen Ngài Si-va-li đã vượt qua nguy hiểm để chứng đạo:"Vượt đường nguy hiểm nàyThoát luân hồi, vô minhThiền định đến tận cùngHết dục ái, hết nghiKhông chấp trước, tịch tịnhTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 414)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Vị A-la-hán vĩ đại vẫn chịu khổA-la-hán thì đời sống này là đời sống cuối cùng.

Chính vì vậy những món nợ Nhân Quả kiếp xưa vị đó phải trả nợ dứt điểm.

"Việc cần làm đã làm" tức mọi ân oán nợ duyên phải trả nợ dứt điểm hết.

Sau đó thì vị A-la-hán đó mới có thể nhập Niết Bàn.Thế nên Đức Phật và các vị A-la-hán đều phải trả nợ Ác nghiệp đôi khi vô cùng nặng nề.

Ví dụ: Phật bị Đề Bà hại, bị vương quốc hoàng hậu Ma-gan-bi-da chửi, bị thiên đao chém chảy máu chân, bị đói trong 3 tháng phải ăn lúa mạch dành cho ngựa, bị trọng bệnh lúc cuối đời.

Còn Ngài Mục Kiền Liên thì cuối đời bị chết tan xương.Còn Ngài Si-va-li này thì kiếp xưa hại dân chúng trong thành đó bị vây hãm khổ 7 năm, rồi đánh thành giết hại người trong 7 ngày.

Sau đó Ngài sám hối tâm chỉ lo sợ mọi người bị đói.

Thế nên nhiều đời sau đó thì Ngài làm thiện nghiệp giúp đỡ đồ ăn cho mọi người.Đến đời này quả báo diễn ra đúng vậy.

Đầu đời Ngài bị giam trong bụng mẹ 7 năm, bị đau khổ bởi sinh đẻ 7 ngày.

Rồi quả báo từ việc bố thí đồ ăn cho mọi người cũng tới trong đời này của Ngài.

Cứ khi Ngài cầm bát đi khất thực thì Chư thiên bỏ thức ăn vào đó.

Nhân Quả thì tuyệt đối đúng, chẳng hề sai.Bài học 2: Đức Phật chúc phúc thì quả báo tới.

Có đúng với Nhân Quả không?Ta biết từ Nhân tới Quả phải trải qua một thời gian, đến lúc, đúng thời mới thành.

Ta gọi là Thiên Thời.

Và phải hội đủ các điều kiện thuận lợi của môi trường, xã hội.

Ta gọi là Địa Lợi.

Nhân là đầu tiên bắt buộc phải có, gọi là CẦN.

Nhưng Thiên thời, Địa lợi là yếu tố trung gian phải đầy đủ, gọi là ĐỦ.Có được CẦN và ĐỦ thì Quả báo tới.

Có được thiên thời, địa lợi, nhân hòa thì thành công.

Các yếu tố Thiên thời, Địa lợi đạo Phật gọi là Duyên.

Và Đức Phật dạy rằng:Vạn hữu do duyên sinhVà cũng vì duyên diệtThầy ta Gô-ta-maĐã dạy ta như thế!(Ngài A-sa-di nói với Ngài Xá Lợi Phất)Và lời chúc phúc của Phật chính là Đại Duyên.

Khi Phật chúc phúc 1 ai đó thì Đại Duyên sẽ kéo quả báo lành tới át quả báo dữ.

Do vậy một vị Thánh uy đức lớn hay một vị Chân tu chúc phúc cho ai hoặc làm lễ "Cầu quốc thái dân an" thì quả báo lành sẽ tới.Nhưng Quả báo dữ không biến mất.

Mà nó chỉ tạm dừng chờ cơ hội khác thì nó chín ở tương lai.

Nên một vị A-la-hán trước khi nhập Niết Bàn bắt buộc phải trả nợ hết Ác nghiệp.

Và ta thấy Đức Phật trước khi nhập Niết Bàn cũng lâm trọng bệnh.

Ngài Mục Kiền Liên thì chết tan xương.

Đó là bởi Quả dữ không biến mất mà chỉ tạm dừng, cơ hội khác sẽ tới.Bài học 3: Ba nỗi khổ: Đói khát, bệnh tật, ngu siNgài Si-va-li nhiều kiếp làm hạnh cứu đói chúng sinh và quả báo đến với ngài vĩ đại?

Đó là bởi Ngài đã cứu khổ chúng sinh thoát 1 trong 3 nỗi khổ Ác đạo: (1) Nỗi khổ đói khát của Ngã quỷ. (2) Nỗi khổ ngu si của Súc sinh. (3) Nỗi khổ bệnh tật như bị tra tấn của Địa ngục.Nên khi làm thiện thì ta có 2 hướng làm thiện:Hướng 1: Ta mang đến tiện nghi, thoải mái, sự tiện lợi cho những người nhiều phúc.

Ví dụ: ta chế ra ô tô điện xịn xò với chi phí vận hành thấp, giá bán phải chăng.

Ta làm ra những căn nhà đẹp, ở thoải mái và chất lượng.

Ta chế ra cái Iphone, Mac Book xịn xò...

đó là dành cho người có phúc có tiền hưởng thụ sung sướng.Hướng 2: Ta cứu người thoát khỏi 3 nỗi khổ của Địa ngục, Súc sinh, Ngã quỷ.

Đó là: (1) Cứu đói bằng cách gia tăng sản lượng nông nghiệp. (2) Dạy đạo đức, tri thức, trí tuệ. (3) Chăm sóc y tế và chữa bệnh.Trong 2 cách đó thì hướng tạo phúc thứ 2 công đức lớn hơn.

Dẫn chứng là Ngài Si-va-li phúc vĩ đại.

Nếu đi theo hướng thứ 1 thì vị mà ta giúp đó phải là các vị thánh.

Giống ông Cấp Cô Độc cúng Phật Tinh xá Kỳ Viên vậy.

Nếu hướng thứ 2 ta giúp nhằm kẻ tham nhũng, ác độc thì ta còn bị tội.Bài học 4: Sao Chư thiên phải cúng dường NgàiSao Chư thiên lại phải cúng dường Ngài Si-va-li?Sự thật rằng khi ngài Si-va-li cứu đói thì Ngài cũng dạy đạo đức tu hành cho mọi người.

Nên khi người đó thoát đói nghèo thì họ làm thiện mà sinh thiên.

Khi ở cõi Thiên thì họ biết ơn Ngài nên thấy Ngài ôm bình bát đi khất thực là họ cúng để trả ơn.Còn nếu Ngài cứu đói nhằm kẻ ác độc, tham lam, ngu si thì đời sau kẻ đó đọa Địa ngục, Súc sinh, Ngã quỷ.

Và sẽ chẳng bao giờ Ngài được chúng sinh địa ngục, súc sinh, ngã quỷ cúng dường cả.

Bởi thân chúng còn lo chưa xong sao nghĩ đến giúp ai.Đây chính là bài học cho ta.

Giúp ai ta phải nhằm người tốt có đạo đức mà giúp.

Nếu ta làm vua, quan, thủ tướng, bộ trưởng thì giúp dân thoát đói nghèo rồi phải dạy đạo đức cho dân.

Khi đó ta ở đâu cũng có Chư thiên theo ta giúp đỡ ta.Bài học 5: Bẩy đặc điểm của một vị A-la-hánKệ Pháp Cú nêu ra 7 đặc điểm của 1 vị A-la-hán như sau: (1) Thoát luân hồi, (2) Hết vô minh, (3) Thiền định tận cùng, (4) Hết dục ái, (5) Hết nghi, (6) Không chấp trước, (7) Đạt tịch tịnh.

Sau đây la hãy phân tích.1 - Thoát Luân hồi: Đây là thân cuối cùng của vị A-la-hán.

Hết đời sống này thì vị đó vào cõi thứ 7 trong vũ trụ quan đạo Phật.

Cõi đó nằm ngoài 6 cõi Luân hồi và không còn sinh tử.

Đó chính là Niết Bàn.2 - Hết Vô Minh: Chúng sinh trong Luân hồi thì Vô minh.

Vô minh như người đi trong đêm tối không chút ánh sáng.

Dù vị đó có đạo đức thiện lương mà còn Vô minh thì vẫn vô tình tạo tội.

Vì có tội nên sẽ có quả báo khổ chờ ở tương lai.

Vì có khổ nên vị đó bị kéo vào Luân hồi đau khổ.Vị A-la-hán thì hết Vô minh.

Vị đó như người sáng mắt nhìn thấy mọi đồ vật trong ánh sáng ban ngày.

Vị đó sẽ chấm dứt làm sai tạo Ác nghiệp.

Vì không còn Ác nghiệp nên không còn quả báo khổ.

Vị đó sẽ sinh về cõi không còn khổ gọi là "Đoạn tật diệt khổ".

Mà Luân hồi có sinh tử thì luôn có khổ.

Nên vị đó sẽ vượt thoát khỏi Luân hồi vào cõi Niết Bàn bất tử.3 - Thiền tận cùng: Đó là Tứ thiền.

Tại Tứ thiền thì vị thánh có Tam Minh.

Khi có Tam Minh thì Vô minh diệt.

Vị đó chứng A-la-hán.4 - Hết dục ái: theo Duyên Khởi "Ái sinh thủ - Thủ sinh Hữu - Hữu sinh Sinh - Sinh sinh Lão Tử".

Vì có Dục Ái nên kẻ đó muốn nắm giữ (Thủ) và sở hữu (Hữu).

Vì có Ngã sở hữu nên không buông bỏ.

Vì không buông bỏ nên chết rồi sẽ tái sinh (Sinh).

Vì có tái sinh nên có già chết.

Từ đó tạo thành vòng Luân hồi sinh tử bất tận.

Hết dục ái chấm dứt Luân hồi.5 - Hết nghi: Vì chúng sinh còn Vô minh nên chẳng biết đúng sai.

A-la-hán thì hết Vô minh nên không còn nghi ngờ đây là đúng hay sai nữa.6 - Không chấp trước: Tâm hoàn toàn buông xả.7 - Đạt tịch tịnh: Tịch tịnh là Niết Bàn không sinh tử, không tăng giảm và hoàn toàn thanh tịnh.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 415: Truyện Ngài Sa-mu-đa và cô gái


"Ai ở đời đoạn dụcBỏ nhà, hạnh Sa MônDục hữu được đoạn tậnTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 415)Tích Pháp Cú: Có Tỳ kheo tên là Sun-đa-ra Sa-mu-đa.

Ngài vô cùng đẹp là con 1 trong gia đình giàu có.

Ngài được cha mẹ thương yêu muốn gì có đó.

Một lần Ngài cùng bạn bè đi nghe Phật thuyết pháp ở Kỳ Viên.

Ngài nghe xong thì tâm bừng bừng chí nguyện xuất gia.

Nhưng về nhà xin cha mẹ thì cha mẹ không cho.

Bởi gia đình giàu sang tài sản nhiều mà có cậu con trai duy nhất.

Thế nên cha mẹ cương quyết không cho Ngài xuất gia.Ngài xin mãi không được thì Ngài tuyệt thực đến khi nào cha mẹ cho mới thôi.

Thế là cha mẹ thua.

Nhưng đi tu rồi thì cha mẹ cứ suốt ngày bám dính với con trai, thấy con thiếu gì là cúng.Ngài thấy tu thế này không tu được.

Tu mà cha mẹ cứ theo sau thiếu gì gì là cho cái đó sao gọi là từ bỏ thế gian.

Ngài bèn xin Phật đi về Tinh xá Trúc Lâm cách Kỳ Viên ngàn dặm để tu.

Từ đó cha mẹ không thấy mặt con thì buồn.

Rồi cha mẹ mới bày mưu tính kế tìm gặp một cô gái vô cùng xinh đẹp.

Họ ra điều kiện với cô rằng:- Cô làm thế nào dụ thằng con chúng tôi không tu nữa thì chúng tôi sẽ cho cô nửa gia tài.Nhà đó thì giàu nổi tiếng nên nửa gia tài rất lớn.

Cô gái đó đồng ý và lấy ít tiền làm vốn gọi là đặt cọc.

Cô mang tiền đó về thành Vương Xá mua căn nhà mặt tiền có tầng lầu nơi Tỳ kheo hay khất thực qua lại.

Rồi cô đóng giả làm cư sỹ đến Tinh xá nghe pháp và cúng dường Chư tăng.Rồi cô cố tình gặp mặt Tỳ kheo Sa-mu-đa ở Tinh xá vài lần để Ngài quen mặt.

Vậy là xong bước 1.

Rồi một lần Sa-mu-đa đi khất thực gần nhà cô.

Cô đến và quỳ xuống xin Ngài đứng ở sân chờ cô vào lấy đồ ăn cúng Ngài.

Vậy là xong bước 2.Lần khác thì cô cũng thỉnh Ngài đứng ở sân để cô cúng dường.

Nhưng khi Ngài đứng ở sân thì có đoàn buôn ở đâu kéo đến hạ đồ đạc xuống buôn bán cò kè giá cả rất to tiếng.

Thế là cô thỉnh Ngài vào trong nhà cho đỡ ồn để cô cúng dường.

Ngài thấy cũng hợp lý thì vào trong nhà.

Rồi cô mời ngài ăn luôn cho đỡ ra ngoài ồn ào.

Thế là Ngài ngồi trong nhà cô thọ thực rồi cáo từ đi về.

Vậy là xong bước 3.Lần khác thì cô gái lại thỉnh Ngài đến nhà cô để cô cúng dường.

Lần trước Ngài đã vào nhà rồi và thọ thực tại đó bình an.

Nên lần này Ngài đồng ý.

Giống lần trước Ngài ngồi trong nhà thọ thực luôn.

Nhưng lúc đó có lũ trẻ ở đâu chạy đến sân nhà cô la hét cầm cát bụi ném nhau bụi bay mù mịt.

Cô lại thỉnh Ngài lên lầu vì tầng 1 bụi bay vào đồ ăn.

Ngài thấy bụi thật nên nên đồng ý.Nhưng khi lên lầu cao không ai nhìn thấy bì cô gái bắt đầu khêu khêu gợi gợi Tỳ kheo.

Giống cảnh 7 con yêu tinh nhền nhện gạ tình Đường Tăng vậy.

Lúc đó thì Tỳ kheo tâm hoảng loạn, mắt nhắm nghiền, chắp tay niệm Phật.

Bất chợt Đức Phật hiện ra trong hào quang trước mặt Ngài.

Phật đọc bài kệ:"Ai ở đời đoạn dụcBỏ nhà, hạnh Sa MônDục hữu được đoạn tậnTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 415)Ngay lúc đó Ngài chứng A-la-hán.

Ngài lập tức dùng thần thông bay từ Vương Xá về Kỳ viên để đảnh lễ Phật.

Các Tỳ kheo chưa chứng mới thắc mắc hỏi nhau: "Sao Tỳ kheo Sa-mu-đa đang tu ở Trúc Lâm chứng đạo thì lại bay về Kỳ Viên lễ Phật?"

Rồi các Tỳ kheo mới dò hỏi và vỡ lẽ.

Ngài bị cô gái dụ từ sân, rồi vào trong nhà, rồi lên lầu.

Khi lên lầu cao không ai thấy thì cô gái gạ tình để ép Ngài hoàn tục.

Đúng lúc đó Phật hiện ra đọc bài kệ thì Ngài chứng A-la-hán.

Ngài bèn dùng thần thông bay về Kỳ Viên đảnh lễ Phật để tạ ơn Phật.Các Tỳ kheo thấy chuyện kỳ lạ bèn hỏi Phật duyên cớ sao lại vậy.

Phật kể rằng: "Kiếp xưa thì Sa-mu-đa là con linh dương đẹp nhất khu rừng.

Ở kinh thành có ông vua thích nuôi thú trong vườn thượng uyển.

Vua đó bèn sai lính dụ con linh dương đó vào khu vườn của vua.

Rồi có vị quan đại thần thương con linh dương nên âm thầm thả nó về rừng.

Vị quan đại thần đó chính là tiền thân của Như Lai."

Bài học kinh nghiệmBài học 1: Cha mẹ thương con chỉ muốn con hưởng thụ sung sướngCha mẹ nào yêu con mà không biết Nhân Quả thì cũng muốn con hưởng thụ sung sướng.

Nếu chúng có phúc từ quá khứ thì nay sẽ được hưởng.

Còn nếu chúng không có phúc từ quá khứ thì muốn cũng chẳng được.

Hoặc nếu chúng có phúc mà nay không tạo phúc mới thì tương lai sẽ khổ.

Cha mẹ vì không biết Nhân Quả nên cứ muốn con hưởng càng nhiều càng tốt thành ra hết phúc nhanh.

Rồi vì không dạy con làm thiện tích phúc thì phúc không tăng thì tội sẽ tới nhanh.

Con đường trước mặt của con toàn là đau khổ.Còn cha mẹ hiểu Nhân Quả thì muốn con tạo công đức lớn cho đời để tích phúc.

Nhưng rồi thẳm sâu trong tâm cũng muốn con có phúc để hưởng sung sướng ở tương lai.

Đó cũng là sai.Bởi khi có phúc lớn rồi mà tâm vẫn còn tham vọng thì con sẽ dùng phúc đó để quậy tung trời.

Bởi nếu ta giàu nhất nhì thế giới, làm đại đế vương quyền lực nhất nhì thế giới, có thần thông phép thuật vĩ đại... mà tâm còn đầy tham vọng thì ta thành Ma Vương.

Ma Vương sẽ gây tội lớn rồi đọa địa ngục thật sâu.Đức Phật dạy rằng: "Làm phúc không chấp thủ 2 đời".

Tức làm phúc chỉ nên lấy mục tiêu hạnh phúc cho đời.

Ta không nên chấp thủ mong có phúc lớn để hưởng ở đời này và đời sau.

Chỉ có vậy thì ta mới đi mãi trên con đường thánh đạo và không bị đọa.Bài học 2: Gần nhà khó tu"Gần chùa gọi Bụt bằng anh" Thế nên đi tu mà ở gần nhà rồi người thân tới lui cúng dường thiên vị.

Rồi luyến ái cá nhân họ hàng quyến thuộc rất khó tu.

Nên người đã từ bỏ gia đình, sống không gia đình, từ bỏ thế tục, tâm không còn niệm thế tục.

Nếu xuất gia thì tốt nhất nên đi xa khỏi gia đình.

Thế mới có thể để tu được bình an, không luyến ái.

Tu gần nhà nhìn cảnh nhớ lại lần hẹn hò tình cảm khi xưa khó tu.Bài học 3: Mưu kế dụ dỗNgười tốt thì luôn nghĩ ai cũng tốt.

Thế nên người tốt mất cảnh giác.

Còn người luôn đề phòng bị lừa, bị trộm cắp, khóa xe thì khóa 4 cái mới yên tâm... chính kẻ đó lại là kẻ gian xảo.Thế nên Tỳ kheo Sa-mu-đa bị lừa, bị dẫn dụ một cách khá dễ dàng.

Dù tâm chàng không tham vật chất, tham đồ ăn, không tham gái đẹp.

Nhưng vẫn bị lừa bởi mất cảnh giác, không đề phòng.Còn kẻ tham lam vật chất thì dù có cảnh giác nhưng vẫn bị lừa bởi lòng tham che mất tâm.

Kẻ tham gái đẹp dù cảnh giác, tâm đầy mưu kế mà vẫn bị lừa bởi tham ái dục che mất tâm.Nên "Mỹ nhân kế" có từ thời Tôn Tử 2000 năm trước mà cứ khi dùng là kẻ đó mắc bẫy.

Còn trò lừa đảo, bán hàng đa cấp, gửi tiền siêu siêu lãi xuất thì cổ như Trái đất mà vẫn có kẻ bị lừa.Bài học 4: Lúc tâm hoảng loạn (Cú sốc tinh thần) thì dễ chứng đạo nếu có Chánh PhápTỳ kheo Sa-mu-đa trong lúc hoảng loạn bởi bị gái đẹp ỡm ờ gạ tình để phá đời tu của chàng.

Lúc đó tâm chàng bị sốc nặng thì Phật hiện ra trong hào quang đọc bài kệ là chứng A-la-hán tức thì.Vậy nên cú sốc tinh thần: Quá ngạc nhiên, quá buồn khổ, hốt nhiên bừng tỉnh khi thấy Chánh pháp, tâm hoảng sợ vì gái đẹp dụ... nếu có Phật hiện ra khai mở chánh pháp thì dễ chứng đạo.

Thời nay thì cú sốc tinh thần còn đầy mà chẳng có Đức Phật hiện ra nên chẳng ai chứng cái gì.Bài học 5: Sự việc kiếp xưa và kiếp này có tính chất lặp đi lặp lạiSự việc có tính chất lặp đi lặp lại bởi vì duyên.

Thế nên kiếp xưa Phật cứu con hươu đó thoát cảnh giam cầm.

Kiếp này Phật lại cứu Tỳ kheo Sa-mu-đa bị gái đẹp muốn giam cầm chàng trong cõi dục.Nên có vợ chồng nhiều đời nhiều kiếp đều là vợ chồng bởi vì duyên.

Hoặc ta thường thấy cảnh tượng này hay sự kiện này rất quen mà không biết đã gặp ở đâu rồi.

Sự thật cảnh tượng này, sự kiện này đã diễn ra ở kiếp trước.

Kiếp này cảnh tượng đó, sự kiện đó lại lặp lại đúng y hệt như vậy khiến ta cảm giác vô cùng thân quen như đã gặp ở đâu rồi.Bài học 6: Dục hữu được đoạn tận"Ai ở đời đoạn dụcBỏ nhà, hạnh Sa MônDục hữu được đoạn tậnTa gọi Bà-la-môn."

Trong 10 Kiết Sử mà Phật nói: Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi, Sân hận, Tham dục, Trao hối, Kiêu mạn, Tham sắc ái, Tham vô sắc ái, Vô Minh Thì kiết sử Tham dục đứng hàng thứ 5.

Một vị muốn diệt được Tham dục phải chứng Nhị quả Nhất Lai diệt Kiết sử 4,5,6.

Sau khi từ bỏ thân người thì vị đó sinh về cõi Trời Sắc Giới vượt thoát Dục giới.Cõi Trời Sắc Giới là cõi Phạm Thiên, Quang Âm Thiên, Đâu Suất Đà Thiên (Bồ Tát Di Lặc).

Các vị Trời Phạm Thiên tiếng Pali là: Brahmaloka.

Phiên âm tiếng Việt là Bà-la-môn.Vậy nên vị thánh tu hành "Dục hữu được đoạn tật" sẽ sinh vào cõi Phạm Thiên.

Đó chính là Bà-la-môn đúng nghĩa mà Đức Phật tán thán.

Còn danh xưng Bà-la-môn mà giai cấp Bà-la-môn xử dụng chỉ là tên gọi xuông chứ không phải là vị Trời Phạm Thiên thật sự như Phật miêu tả.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 416: Truyện hai ông Trưởng ngân khố


"Ai ở đời đoạn áiBỏ nhà hạnh Sa MônÁi hữu được đoạn tậnTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 416)Tích Pháp Cú: Ở Ma Kiệt Đà có vị trưởng giả giàu có và giỏi quản lý tên là Gia-pi-la.

Vua Bình Sa mới phong ông làm chức quan Trưởng khố.

Tức là người giữ ngân khố quốc gia.

Trưởng khố phải có đủ 3 tính chất: (1) Giàu có, (2) giỏi quản lý, (3) có đạo đức.

Ông Gia-pi-la có đầy đủ 3 tính chất đó nên được vua lựa chọn và giao trọng trách.Vua Bình Sa mộ đạo Phật nên thường hay nghe Phật thuyết pháp.

Ông Gia-pi-la cũng hay đi theo nghe pháp cùng vua thì ông mộ đạo và phát nguyện xuất gia.

Nhưng vì công việc của ông vô cùng quan trọng với quốc gia khó có người thay thế.

Nên ông phải đi tìm khắp nước xem ai giàu có, đạo đức, giỏi quản lý để thay ông.

Rồi ông tìm được vị Giô-ti-ca giàu hơn ông.

Sau đó ông đến thương lượng.Gia-pi-la trình bày sự thật rằng ông có chí nguyện xuất gia, mà chức quản lý ngân khố quốc gia quá quan trọng.

Ông phải tìm người đạo đức, giàu có mới có thể đảm nhận.

Ông đề nghị Giô-ti-ca nhận công việc đó.

Ông Giô-ti-ca đồng ý.Sau đó Gia-pi-la về trình bạy sự thật với vua về chí nguyện được xuất gia theo Phật tu hành.

Và ông đề xuất một người bạn giàu có và đạo đức tên là Giô-ti-ca.

Ông dẫn Giô-ti-ca lên gặp vua Bình Sa.

Vua đồng ý cho Gia-pi-la xuất gia đi tu rồi chứng A-la-hán.Ông Giô-ti-ca làm quan trưởng khố rất lâu đến khi vua Bình Sa già và A Xà Thế cướp ngôi rồi giết cha.

Vua A Xà Thế tham vọng lớn muốn xâm lược hết các nước lân bang mở rộng lãnh thổ.

Nhưng muốn phát động chiến tranh thì cần rất nhiều tiền.

Thế rồi vua ngầm xem ai trong nước Ma Kiệt Đà giàu có thì lập mưu cướp tài sản của họ.

Vua nhìn quanh thì thấy quan trưởng khố Giô-ti-ca là giàu nhất.Trong khi vua A Xà Thế đang lập mưu bày kế thì thám báo báo tin cho Giô-ti-ca.

Bởi Giô-ti-ca cũng có tai mắt ở khắp nơi để nghe ngóng tài chính, kinh tế.

Sau khi Giô-ti-ca biết chuyện thì ông buồn.

Bởi bao năm phụng sự quốc gia mà công chẳng nhận lại còn bị nhận tội.

Thế là ông gọi con cháu đến phân chia tài sản ngầm ông đã giấu ở đâu đó.

Còn toàn bộ tài sản nổi vẫn để ở tư gia cho vua A Xà Thế.

Rồi ông bỏ đi xuất gia theo Phật mà chứng A-la-hán.Vua A Xà Thế chưa thực hiện âm mưu đã có được gia tài của quan trưởng khố Giô-ti-ca.

Sau đó vua đi gây chiến khắp nơi mở rộng đất nước.

Rồi chiếm luôn cả Ko-sa-la sau khi vua Lưu Ly bị chết.Còn 2 ông quan trưởng khố Gia-pi-la và Giô-ti-ca nay là 2 vị A-la-hán ở trong tăng đoàn Đức Phật.

Các Tỳ kheo chưa chứng đạo thì hay xì xầm bàn tán: "2 ông đó là quan trưởng khố của vua Bình Sa trước kia giàu lắm lắm đấy".

Rồi khi đi khất thực qua các nhà giàu thấy ngựa xe, tài sản đầy ụ thì các Tỳ kheo đó mới hỏi 2 vị:- Thưa Trưởng lão, Trưởng lão nhìn cảnh giàu sang đó có nhớ đời sống khi xưa không?- Ta không còn gì để nhớ!Nhưng các Tỳ kheo không tin.

Họ vẫn xì xầm: "Làm gì mà không nhớ, ngày xưa giàu sang sung sướng, người hầu kẻ hạ, cơm bưng tận nơi, nước rót tận miệng.

Nay tự đắp y ôm bình bát đi xin ăn".Đức Phật không muốn các Tỳ kheo đó nghĩ xấu A-la-hán thì mang tội.

Thế nên Đức Phật xuất hiện đi tới hỏi xem các Tỳ kheo bàn chuyện gì.

Tỳ kheo mới nói thật suy nghĩ trong tâm họ.

Phật mới xác nhận rằng 2 vị Trưởng lão đó đã chứng A-la-hán nên không còn yêu hay tham tài sản:"Ai ở đời đoạn áiBỏ nhà hạnh Sa MônÁi hữu được đoạn tậnTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 416)Sau khi Tỳ kheo biết 2 ông đã chứng A-la-hán thì thôi không bàn tán nữa.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Phúc lớn, gặp Chánh pháp, tu lập tức chứng A-la-hánNếu là 1 trường hợp thì ta còn bảo là do may mắn.

Ở đây 2 ông Trưởng khố bỏ tài sản lớn đi tu thì đều chứng A-la-hán Phúc 2 vị là lớn như nhau bởi đều vô cùng giàu có quyền lực.

2 vị đều gặp đúng Chánh Pháp của Phật dạy để tu hành.

Thế nhưng hoàn cảnh xuất gia lại khác nhau.Ông Gia-pi-la thì hiểu đạo và phát tâm từ bỏ hết tài sản và quyến thuộc để tu hành thì chứng A-la-hán.

Còn Ông Giô-ti-ca thì bị buộc phải từ bỏ tài sản nếu không sẽ bị vua giết.

Gia đình buộc phải ly tan chạy nạn.

Còn ông chọn theo Phật xuất gia tu hành thì vua A Xà Thế sẽ không truy cứu trách nhiệm.

Vậy mà ông tu vẫn chứng A-la-hán dù chẳng có lý tưởng cao đẹp gì?

Sao lạ vậy?Bởi vì những điều ta nói ở trên chỉ là hoàn cảnh khiến ông xuất gia.

Sau khi xuất gia rồi gặp Phật thì Phật nói pháp lập tức ông có ý chí, mong ước chứng đạo.

Ngoài ra tâm ông cũng chán cảnh đời giàu sang mà bạc bẽo.

Ông hết lòng phụng sự quốc gia rồi còn bị tội.

Chính vì chán cảnh đời nên ông mới tìm đến đạo Phật tu thời gian sau chứng A-la-hán.Bài học 2: Giàu và đạo đức thì không cần tiền, mà cần cuộc sống có ý nghĩaHai ông Trưởng khố đó giàu có tiền vàng nhiều như núi.

Và 2 ông đó vô cùng đạo hạnh.

Hai ông làm chức quan trưởng khố bởi mong muốn cuộc sống có ý nghĩa, muốn giúp vua, giúp dân, giúp nước.

Chứ với khối tài sản đó, đạo đức đó thì ông không cần thêm tiền nữa.Vậy nên một người giàu tài sản nhiều như núi mà có đạo đức thì họ thích làm điều gì có ích cho đời, giúp đất nước, giúp dân tộc.

Thế nhưng cũng có kẻ giàu mà kém đạo đức thì lại muốn có thêm quyền lực lớn nữa cho "đủ bộ có anh có em".Họ sẽ bỏ tiền ra để mua quyền lực, chạy đua ghế tổng thống.

Bởi tiền nhiều thì họ chỉ nói được cấp dưới mà thôi.

Còn làm Tổng thống 1 lời nói thì nhân dân cả nước phải lắng nghe.

Rồi đi khắp Thế giới bắt tay tổng thống Mỹ, tổng thống Nga, Chủ tịch Trung Quốc... oai như cóc.

Nếu chỉ giàu có, tiền nhiều thì chẳng bao giờ được oai như vậy.

Kẻ tham vọng lớn có tiền ắt sẽ thích có quyền.Bài học 3: Bàn về tham vọng ngai vàngThời Đức Phật có 2 đại vương quốc Ma Kiệt Đà và Ko-sa-la.

Một quốc gia muốn trở thành Đại Quốc thì chắc chắn phải xâm lược các nước nhỏ yếu.

Rồi vương quyền, ngai vàng của Đại Quốc đó lại là mục tiêu tranh giành của các hoàng tử.Thế nên vua Bình Sa thì bị con là Thái tử A Xà Thế cướp ngôi, nhốt vào ngục rồi hại chết.

Vua Ba Tư Nặc thì bị Thái tử Lưu Ly cướp ngôi khi vua đang thăm Phật ở ngoài thành.

Đến khi biết bị cướp ngôi, vua chạy về thành thì thành đã đóng cửa không cho vua vào.

Đêm đó vua nằm ở ngoài thành mà chết.Vua Lưu Ly cướp ngôi xong thì mang quân diệt vong nước Thích Ca.

Giết xong hết toàn bộ dòng họ Thích Ca thì vua về và bị lũ cuốn trôi chết hết toàn bộ cả vua và đạo quân chinh phạt.

Sau đó Ko-sa-la bị vua A Xà Thế chiếm.

Về sau không biết vua A Xà Thế ra sao, thế nào, cuộc sống có yên vui không?Thế nên kẻ có tham vọng thì khi có quyền lực luôn dùng quyền lực đó để thực hiện tham vọng mới mà tạo Ác nghiệp.

Về sau quả báo tới luôn là đau khổ.

Nhưng nào mấy ai hiểu được Nhân Quả.

Nhưng vua Bình Sa chứng sơ quả Dự Lưu hiểu sâu Nhân quả mà vẫn cũng bình an đón nhận quả báo.

Bởi bởi Ác nghiệp vua đã gây trong quá khứ trước khi biết đạo thì không thể không trả nợ.Bài học 4: Tỳ kheo chưa chứng thánh là những kẻ phàm phu, tham lam, ngồi lê mách lẻoTa thấy các Tỳ kheo chưa chứng thánh thì ngồi lê mách lẻo, buôn chuyện, bà tám, rất chi là xàm bậy.

Thế nên ai bảo Quy Y Tam Bảo (quay về nương tựa vào Tam Bảo) là quy y: Phật - Pháp - Tăng là thiếu sót trầm trọng.Phật thì có 500 vị Phật ở "Kinh Ngũ Bách Danh" Đại Thừa.

Nhưng sự thật trong 91 đại kiếp đã qua tức 91 lần Thế gian sinh diệt chỉ có 7 vị Phật ra đời.

Đó là lời dạy của Phật Thích Ca trong Kinh Đại Bổn.

Không biết Tổ nào giỏi và có sức định gấp 72 lần sức định của Phật Thích Ca mà thấy được tới 500 vị Phật.

Xàm bậy thật!Mà trong 7 vị Phật thật ra ta đang học Chánh pháp của duy nhất từ Phật Thích Ca.

Còn 6 vị Phật quá khứ ta chỉ để biết mà thôi.

Thế nên ta nương tựa (quy y) tức là Quy y Phật Thích Ca.Pháp thì có Chánh Pháp và Tà Pháp.

Ta nói Quy y pháp chung chung thì Tà Pháp ta cũng Quy y là sai.Còn Tăng ví như mấy vị tăng ngồi lê mách lẻo, bà tám, xàm bậy kia thì sao ta có thể nương tựa.

Quy y Tăng là Quy y các vị Thánh tăng đắc đạo đã diệt trừ Kiết sử.

Còn các Tăng xàm bậy kia chẳng đáng Quy y.Vậy nên phải chỉnh lại là: Quy y Tam Bảo là: Quy y Phật Thích Ca - Quy y chánh pháp - Quy y hiền thánh tăng.

Và hiền thánh tăng là các vị Bồ tát và A-la-hán.Bài học 5: Ai ở đời đoạn ái, ái hữu được đoạn tận"Ai ở đời đoạn áiBỏ nhà hạnh Sa MônÁi hữu được đoạn tậnTa gọi Bà-la-môn."

Theo đạo lý Duyên Khởi thì "Ái sinh Thủ, Thủ sinh Hữu, Hữu sinh Sinh, Sinh sinh Lão Tử".

Từ yêu nên muốn nắm giữ (Thủ), muốn sở hữu (Hữu) rồi sẽ tái sinh để sở hữu (Sinh) rồi có già chết mà thành Luân hồi.

"Ái hữu được đoạn tận" sẽ chấm dứt Luân hồi.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 417: Truyện Nghệ sỹ kịch chứng A-la-hán


"Bỏ trói buộc cõi ngườiThoát trói buộc cõi trờiGiải thoát mọi trói buộcTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 417)Tích Pháp Cú: Có một diễn viên kịch câm tài giỏi.

Rồi ông từ bỏ đoàn kịch đi xuất gia và chứng A-la-hán.

Lần đó có đoàn kịch câm khác về thành Vương Xá biểu diễn.Ta biết nước Ma Kiệt Đà là đại quốc lớn nhất toàn vùng Ấn Độ thời đó.

Vương Xá thành là kinh đô của Ma Kiệt Đà nên là trung tâm của đạo học, văn học và nghệ thuật.

Thế nên khi Đức Phật tìm đạo cũng lang thang ở thành Vương Xá đi theo các Tu sỹ ở đó để tìm đạo.

Rồi các đoàn xiếc, đoàn hát, đoàn kịch các nơi đều thay phiên nhau đến Vương Xá biểu diễn.Lần đó Trưởng lão A-la-hán, nghệ sỹ kịch câm khi xưa đi khất thực ngang qua đoàn kịch đang dựng rạp biểu diễn.

Có Tỳ kheo đi bên mới hỏi:- Ngài có nhớ khi xưa làm diễn viên kịch không?Ông nói:- Ta chẳng còn gì để nhớ.Nhưng các Tỳ kheo không tin.

Bởi cả đời gắn bó với nghề diễn kịch thì sao chẳng nhớ thời xưa thế nào.

Đức Phật đi đến hỏi Tỳ kheo bàn tán chuyện gì?

Tỳ kheo nói thật những suy nghĩ của họ.

Phật lại xác thực rằng vị đó đã chứng A-la-hán và không còn trói buộc cuộc đời:"Bỏ trói buộc cõi ngườiThoát trói buộc cõi trờiGiải thoát mọi trói buộcTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 417)Vì Phật đã xác thực nên Tỳ kheo không bàn tán thêm nữa.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Hạnh phúc của nghệ sĩ diễn viênNghệ sỹ diễn viên ta hay gọi là "Người của công chúng".

Nghệ sỹ kịch câm tức là chuyên gia trong lĩnh vực Nghệ thuật sân khấu kịch nhưng không dùng ngôn ngữ.

Bởi thời đó không có loa kích âm nên nói khán giả không nghe được.

Thế nên chỉ bằng khả năng biểu diễn, vũ đạo, biểu cảm khuôn mặt, động tác, cử chỉ... mà thể hiện được nội tâm nhân vật, tình tiết câu chuyện.

Nên nó khó hơn kịch nói.Ví dụ: Phim của Vua hề Sác Lô ta chỉ thấy hình ảnh điệu bộ, hành động của Ngài là ta ôm bụng cười.

Dù Ngài chẳng nói 1 câu nào.Phần thưởng của các Nghệ sỹ là những tràng pháo tay tán dương khen thưởng của dân chúng khiến các vị vô cùng hạnh phúc.

Trong Kệ Pháp Cú ta thấy Phật ví hạnh phúc của một Nghệ sỹ được dân chúng tán dương sánh với "Hạnh phúc cõi trời".Ngày nay các Nghệ sỹ biểu diễn vũ kịch, nhạc kịch, hay kịch nói, hài kịch được hàng ngàn, hàng vạn khán giả vỗ tay khen ngợi thì cũng vô cùng hạnh phúc.

Hoặc những tiết mục nổi tiếng như "Táo Quân cuối năm" có hàng chục triệu người xem chăm chú.

Rồi khán giả cười, khóc theo sự biểu diễn của Nghệ sỹ.

Khi đó cảm giác hạnh phúc của Nghệ sỹ giống như "Hạnh phúc cõi trời".Chính hạnh phúc đó lại là điều trói buộc đối với người tu muốn từ bỏ để giải thoát.

Ai có thể từ bỏ "trói buộc cõi trời" đó sẽ giống nghệ sỹ kịch câm nổi tiếng này.

Vị đó đủ phúc tu chứng A-la-hán.Qua Pháp Cú ta cũng thấy "Một vị chứng A-la-hán xong thì tâm hoàn toàn buông bỏ thế gian, chẳng còn dính chút gì với thế gian.

Dù đó là niềm đam mê hay hạnh phúc vĩ đại của một thời thanh xuân".
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 418: Truyện Ca sỹ chứng A-la-hán


"Bỏ điều ưa, điều ghétMát lạnh, diệt ý sinhBậc anh hùng chiến thắngNhiếp phục mọi thế giớiTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 418)Tích Pháp Cú: Có một ca sỹ của đoàn hát xuất gia chứng A-la-hán.

Rồi một lần anh gặp lại đoàn nhạc cũ với những người thân quen, nhạc cụ thân quen.

Các Tỳ kheo mới hỏi anh ta rằng: "Anh có nhớ thời xưa khi làm ca sỹ không?".

Anh đáp rằng: "Không, lòng tôi chẳng còn gì để nhớ".Các Tỳ kheo cũng không tin mà bàn tán thì Phật lại đi đến hỏi chuyện.

Sau đó thì Phật xác thực rằng vị đó đã chứng A-la-hán "nhiếp phục mọi thế giới":"Bỏ điều ưa, điều ghétMát lạnh, diệt ý sinhBậc anh hùng chiến thắngNhiếp phục mọi thế giớiTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 418)Nghe Phật nói vậy thì Tỳ kheo không bàn tán nữa.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Bỏ điều ưa điều ghét, mát lạnh diệt ý sinhVị A-la-hán này trước kia là Ca sỹ hát cho dân chúng nghe để kiếm tiền.

Nhưng niềm đam mê của vị đó chính là âm nhạc và tình cảm của khán giả.Nhưng chứng A-la-hán xong thì tâm vị đó tĩnh lặng, không ưa, không ghét.

Thậm chí những điều trước kia là niềm đam mê của vị đó như: Sân khấu, nhạc cụ, khán giả vị đó cũng không yêu, không ghét.Ta chú ý câu "Mát lạnh diệt ý sinh".

Tâm của một Nghệ sỹ thì luôn nóng hổi, thổn thức, súc động, lúc buồn, lúc vui.

Ta hay gọi là "Tâm hồn nhiệt huyết với nghệ thuật".

Thế nhưng khi chứng A-la-hán thì tâm Mát lạnh chẳng còn chút ý niệm nào sinh ra.

Tâm vị đó hoàn toàn trắng tinh bình thản.Đây là tính chất của một vị chứng A-la-hán.Bài học 2: Nhiếp phục mọi thế giớiTừ "Thế giới" trong kinh Phật chính là "các cõi".

Ví dụ Thế giới loài người tức Cõi người.

"Nhiếp phục mọi Thế giới" Tức vị đó chiến thắng các cõi trong Luân Hồi.

Không còn nơi nào trong Luân hồi khiến vị đó yêu, ghét nữa.

Vị đó đã đạt Tịch tịnh Niết Bàn.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 419,420: Truyện người gõ đầu lâu


"Ai hiểu rõ hoàn toànSinh tử của chúng sinhKhéo vượt qua ô nhiễmĐạt giác ngộ quang minhTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 419)"Với ai loài trời ngườiCùng thần Càn thát bàChẳng thấy chỗ thọ sinhBậc lậu tận La HánTa gọi Bà-la-môn." (XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 420)Tích Pháp Cú: Ở xứ Ấn Độ có nhiều phong tục an táng người chết.

Hoặc hỏa thiêu lấy tro cốt để thờ.

Hoặc chôn cất xây mộ.

Hoặc thả xác trôi sông.

Nhưng có một tập tục an táng rất ghê rợn là vứt xác vào rừng cho chim, thú, kền kền ăn, hoặc xác tự phân hủy người nhà không quan tâm.Khu rừng đó gọi là rừng Thi Lâm.

Ở đó xương người, xác chết cũ mới, xác chết khô tươi, xác chết trương sình đang phân hủy hôi thối... nằm lẫn lộn với nhau.

Rồi khu rừng đó có rất nhiều ma.Sự thật rằng các Tỳ kheo khi thiền quán thân ở giai đoạn cuối cùng theo Kinh Thân Hành Niệm (Trung Bộ Kinh).

Đó là giai đoạn Quán Tử Thi.

Các vị bắt buộc phải vào rừng Thi Lâm để quan sát các xác chết.

Sau đó các vị ghi nhớ hình ảnh đó trong đầu rồi về thất ngồi thiền quán tử thi.

"Thân ta rồi sẽ chết, xác chết sẽ trương sình, giòi bọ rúc rỉa, nước hôi thối chảy ra, rồi xác xẹp xuống... thành bộ xương... xương mục thành bụi tan biến" Đây là giai đoạn cuối cùng của Thiền quán Thân Hành Niệm.Khi đó ở thành Vương Xá có vị Bà-la-môn tên là Va-ri-sa có một biệt tài.

Vị đó lấy cây gỗ gõ vào cái đầu lâu thì biết người đó tái sinh về đâu.

Thế là giới Bà-la-môn tôn ông đó lên làm Pháp sư để thu hút quần chúng.

Rồi họ quảng cáo ông, đưa ông đi khắp nơi để bói theo phương pháp "gõ đầu lâu".

Nhưng những lời ông ta nói không ai kiểm chứng được.

Mọi người chỉ dựa vào đức tin mà thôi.

Tuy nhiên ông ta rất trung thực chứ không hề lừa đảo.Rồi đoàn người hộ tống Bà-la-môn Va-ri-sa đó đi đến Tinh xá Phật.

Họ mới trình bày năng lực của Va-ri-sa cho Phật nghe.

Đức Phật mới bảo người mang cho Phật 5 cái đầu lâu.

Và đặc biệt trong đó có 1 đầu lâu của 1 vị chứng A-la-hán.Chi tiết này thời nay mọi người sẽ nghi ngờ: "Phật lấy đâu ra 5 cái đầu lâu?

Và A-la-hán thường thiêu có Xá Lợi sao lại có đầu lâu của 1 vị A-la-hán vậy?"

Xã hội hiện đại khó có nhưng xã hội thời Đức Phật thì dễ dàng.

Thời đó rừng Thi Lâm đầy xương người và đầu lâu.

Thích lấy vài chiếc về vì chẳng ai quản lý.

Còn A-la-hán nếu hỏa thiêu thì có Xá Lợi.

Nếu A-la-hán mà bỏ vào rừng Thi Lâm hoặc chôn cất thì da thịt mục nát xong vẫn còn bộ xương.

Nếu không hỏa thiêu thì chẳng thể tự dưng xương đó hóa thành Xá Lợi được.Ông Va-ri-sa đó gõ lần lượt từng cái rồi nói: "Vị này sinh lên cõi trời, vị này đọa địa ngục, vị này vào cõi súc sinh, vị này quay lại cõi người".

Từng cái ông gõ thì Đức Phật đều gật đầu xác thực là đúng.Nhưng đến khi ông gõ cái thứ 5 thì ông im lặng.

Ông tìm mãi không thấy nơi vị đó đến.

Thế là ông ta gõ đi gõ lại rồi lắng nghe.

Nghe mãi mà không biết nơi đó là nơi nào.

Ông mới quay ra hỏi Phật:- Thưa Sa Môn Gô-ta-ma, vị này đi về nơi nào mà tôi không thể biết?- Này Bà-la-môn, ông muốn biết thì phải xuất gia tu đạo Giác Ngộ. (Đức Phật nói vậy)Ông Va-ri-sa đó quay lại nói với các Bà-la-môn:- Nay tôi đi xuất gia để học xem bí mật đó là gì.

Học xong tôi sẽ quay trở lại với các vị.Thế là ông ta đi xuất gia.

Phật mới dạy ông tu thiền quán thân, thân vô thường, thân tứ đại, thân bất tịnh, quán tử thi... rồi ông chứng A-la-hán.Khoảng tháng sau thì các Bà-la-môn đúng hẹn đến gặp ông hỏi xem ông đã tìm ra bí mật chưa?

Ông Va-ri-sa đó trả lời:- Nay ta không cần học nữa.

Mọi điều ta đều thấy rõ ràng.

Mọi cõi giới đi về của chúng sinh ta đều thấy rõ ràng.Rồi ông ta khuyên các Bà-la-môn đó xuất gia tu theo Phật.

Các Tỳ kheo đứng ở đó nghe các vị nói chuyện thì không hiểu: "Sao ông Va-ri-sa lại thấy rõ ràng?"

Thế là họ lên hỏi Đức Phật.

Đức Phật mới đọc bài kệ nói rằng Va-ri-sa đã chứng A-la-hán:"Ai hiểu rõ hoàn toànSinh tử của chúng sinhKhéo vượt qua ô nhiễmĐạt giác ngộ quang minhTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 419)"Với ai loài trời ngườiCùng thần Càn thát bàChẳng thấy chỗ thọ sinhBậc lậu tận La HánTa gọi Bà-la-môn." (XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 420)Trong "Trưởng lão Tăng kệ" thì các bài kệ của Trưởng lão Va-ri-sa này là dài nhất nhì.

Dài bằng kệ của Ngài Ma-ha Ca Diếp.

Ta biết "Trưởng lão Tăng kệ" được viết theo dạng thi kệ.

Vậy nên có thể gọi Ngài là một nhà thơ tài giỏi.

Còn các Trưởng lão khác chỉ để lại các bài thi kệ ngắn ngắn nói về cảnh giới tu chứng và những lời khuyên bảo.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Luân hồi tái sinh trong Tôn giáo khácCác cõi giới tái sinh thì có nhiều Tôn giáo nói.

Thế nhưng sau cõi tái sinh đó thì đi đâu?

Chỉ có đạo Phật mới nói.

Đạo Phật nói rất chi tiết về Luân hồi như sau:"Chết tái sinh vào cõi nào là theo Nghiệp Duyên.

Nếu tái sinh vào cõi dữ, đọa xứ để trả nợ Ác nghiệp thì Ác nghiệp trả nợ xong sẽ sinh vào cõi cao hơn tùy theo Nghiệp Duyên.

Tái sinh vào cõi phúc lành thì hưởng hết phúc các vị lại đọa vào cõi khổ tùy theo Nghiệp Duyên.

Luân hồi được tạo bởi Nghiệp Duyên.

Được sinh lên cõi cao là bởi có Phúc.

Bị đọa cõi khổ là bởi có Tội".Các đạo khác không có Luận Nhân Quả, Nghiệp Duyên.

Nên chỉ có thể nói: "Chết sẽ tái sinh vào cõi nào, rồi sau cõi đó thì đi đâu?

Không đạo nào nói".Ví dụ: Đạo Lương là tín ngưỡng tâm linh người Việt thì chết là "xuống suối vàng, đi về nơi 9 suối".

Rồi từ "suối vàng, 9 suối" đó sẽ đi đâu?

Không ai biết!

Các vị có công đức lớn thì chết làm thần thánh hiển linh và dân chúng lập đền thờ, thờ cúng các vị.

Thế rồi hết cõi thần các vị sẽ đi đâu?

Không ai biết!Hoặc Kito giáo thì: "Làm theo lời dạy của Chúa chết sẽ sinh về Thiên đàng nước chúa".

Thế sau đó thì đi đâu?

Không kinh nào nói!

"Nếu làm ác thì đọa Hỏa ngục".

Hỏa ngục xong thì đi đâu?

Kinh không nói!Hồi giáo thì dạy: "Sống thì nên làm thiện tích phúc và tránh xa điều tội.

Đến ngày phán xét cuối cùng sẽ có một vị thần xét tội phúc.

Nếu phúc nhiều hơn tội thì sinh Thiên đàng.

Nếu tội nhiều hơn phúc thì đọa Địa ngục".

Thế sau khi lên Thiên đàng xong hay đọa Địa ngục xong rồi thì đi đâu?

Kinh không nói!Còn trong Tích Pháp Cú này, ông Va-ri-sa đó chỉ biết gõ đầu lâu rồi bói người đó sinh về cõi nào.

Thế nhưng xong cõi đó thì sinh về đâu?

Ông ta không thể biết.

Chỉ đến khi chứng A-la-hán có Tam Minh thì bằng Thiên Nhãn Minh ông mới thấy Nghiệp Duyên của chúng sinh sẽ đưa chúng sinh đó đi đâu, tên họ là gì, cha mẹ là ai, tạo Nghiệp gì.

Hết kiếp đó sinh về đâu, tên họ là gì, cha mẹ là ai, tạo Nghiệp gì.... trong các kiếp quá khứ, hiện tại, vị lai.Thế nên ông mới nói: "Mọi cõi giới đi về của chúng sinh ta đều thấy rõ ràng."

Vậy ta kết luận: Khi và chỉ khi một vị thánh chứng Tam Minh thì với Thiên Nhãn Minh vị đó thấy rõ Nghiệp Duyên của chúng sinh sẽ đưa chúng sinh đó đi đâu trong các kiếp sống Luân hồi.

Với Túc Mạng Minh thì vị đó thấy rõ Nghiệp Duyên của bản thân sẽ đưa ta đi đâu trong các kiếp sống Luân hồi.

Nếu không có Tam Minh thì chỉ đoán mò kiểu "Gõ đầu lâu" rồi bói mà thôi.Bài học 2: Niết Bàn nằm ngoài Luân hồiNiết Bàn nằm ngoài Luân hồi.

Thế nên ông Va-ri-sa gõ đầu lâu mà không thể thấy được cõi mà vị đó sinh về.

Sự thật rằng trước thời Đức Phật không ai biết về Niết Bàn vì không ai chứng A-la-hán.

Đến thời Đức Phật thì khái niệm Niết Bàn rõ ràng vì Phật thấy rõ, các vị A-la-hán thấy rõ.

Đến sau thời Đức Phật 500 năm vẫn là thời Chánh Pháp thì có nhiều vị A-la-hán nên khái niệm Niết Bàn vẫn sáng tỏ.Sau thời Đức Phật 500 đến nay là thời Mạt Pháp.

Thời đó không còn ai chứng A-la-hán nữa nên không còn ai thấy Niết Bàn.

Kinh Phật thì vẫn còn ghi chép rõ ràng nhưng vì không ai thấy nên niềm tin phai mờ.

Thế nên nay Niết Bàn vô cùng mờ nhạt.

Các sư tu hành cũng chẳng còn ai có mục tiêu chứng Niết Bàn nữa.

Bởi 2000 năm rồi chẳng còn ai chứng.Bài học 3: Mục tiêu tu hànhÔng Va-ri-sa này tu hành với mục tiêu khám phá "Bí mật cái đầu lâu thứ 5".

Thế nhưng phúc của ông cũng lớn.

Vì phúc lớn nên có năng lực thần kỳ như vậy.

Kết hợp với Chánh pháp do trực tiếp Đức Phật truyền thừa.

Thế là ông chứng A-la-hán thỏa mãn mục tiêu tìm ra "Bí mật cái đầu lâu thứ 5".

Không những thế thành quả còn vĩ đại gấp tỷ lần mục tiêu ban đầu.

Ông có Tam Minh thấy rõ hết tất cả.Bài học 4: Hiểu rõ sinh tử của chúng sinh"Ai hiểu rõ hoàn toànSinh tử của chúng sinhKhéo vượt qua ô nhiễmĐạt giác ngộ quang minhTa gọi Bà-la-môn."

Phật dạy rằng: "A-la-hán thì có Thiên Nhãn Minh.

Vị đó hiểu rõ hoàn toàn sinh tử của chúng sinh và Nghiệp Duyên đưa chúng sinh đi các cõi giới tái sinh trong Luân hồi".Vị đó "Vượt qua ô nhiễm", tâm hoàn toàn trong sạch không chút cấu uế, nhiễm ô.

Phật gọi là "Lậu Tận Minh".

Từ "Lậu" ta vẫn hay dùng như: Buôn lậu, hàng lậu, bệnh lậu, lương lậu, lậu thuế... tức là xấu xa, đen tối, mờ ám, bẩn thỉu.

Vậy "Lậu tận" tức diệt sạch tận cùng mọi "Lậu"."

Giác ngộ Quang Minh" tức là "Diệt Vô minh".Bài học 5: A-la-hán không có nơi thọ sinh"Với ai loài trời ngườiCùng thần Càn thát bàChẳng thấy chỗ thọ sinhBậc lậu tận La HánTa gọi Bà-la-môn."

Bậc A-la-hán thì không có chỗ thọ sinh ở loài người, thần, trời.

Vị đó vượt thoát khỏi Luân hồi chứng vào cõi thứ 7 nằm ngoài Luân hồi là Niết Bàn.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 421: Truyện không còn nắm giữ sở hữu gì


"Ai chẳng còn nắm giữBất cứ sở hữu gìCả quá hiện vị laiTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 421)Tích Pháp Cú: Có một ông tên là Vi-sa-ca sống ở thành Vương Xá.

Ông đến nghe Phật thuyết pháp xong thì chứng Nhị quả Nhất Lai.Ta biết Sơ quả Dự Lưu thì diệt: (1) Thân kiến là tham lam, ích kỷ. (2) Giới cấm thủ là cố chấp. (3) Nghi là tuyệt đối tin vào Chánh pháp.

Nhị quả Nhất Lai thì diệt: (4) Sân hận là thù hận, ghét bỏ. (5) Tham ái là chấm dứt ái dục. (6) Trạo hối là tâm bất động và không còn hối hận.Khi ông chứng Nhị quả rồi về nhà nói với vợ rằng:- Này bà, nay toàn bộ tài sản là của bà.

Từ nay chúng ta sống như bạn nhé.Bởi ông đã diệt Tham ái chấm dứt ái dục, không còn tình dục.

Vì diệt Ái nên cũng diệt Thủ, diệt Hữu.

Tâm ông không còn nắm giữ hay sở hữu cái gì.

Thế nên ông nhìn tài sản gia tài của mình thì không thấy là của mình, không chấp giữ, không sở hữu.Nhưng bà vợ thấy ông vứt hết tài sản cho bà, rồi coi bà là bạn.

Bà nghĩ: "Thế có khác gì ông ấy bỏ mình".

Thế là bà bảo:- Vậy tôi sẽ đi tu.Ông Vi-sa-ca đồng ý.

Bà vợ tu ở Trúc Lâm Tinh xá ni.

Nhưng bà thấy ở gần nhà không tiện nên bà xin về vùng quê tu cùng một số Tỳ kheo ni.

Bà tu chứng A-la-hán ở đó.

Sau đó bà về Trúc Lâm thì ông đến ông thăm bà.

Ông đến và quỳ lạy bà theo đúng phép tắc cư sỹ đối với người xuất gia.Rồi hai người nói chuyện đạo.

Ông bắt đầu hỏi bà các đạo lý căn bản thì bà trả lời rất vững.

Ông hỏi sâu thêm sâu thêm về đạo lý thì bà trả lời toàn bộ chính xác đúng những gì ông chứng.Rồi bắt đầu ông hỏi sâu về các cảnh giới tu chứng thì bà diễn tả chi tiết điều không có kinh Phật nào diễn tả.

Ông thấy toàn bộ cảnh giới ông chứng thì bà đều diễn tả đúng chính xác.Rồi ông mới nói với bà: "Xin Tôn giả hãy nói cho tôi về cảnh giới A-la-hán".

Đến đây thì bà không nói.

Bà bảo ông đi gặp Đức Phật.

Ông mới đến gặp Phật và trình bày với Phật về vợ ông đi xuất gia.

Nay gặp lại thì ông đã hỏi về các cảnh giới chứng thánh quả.

Nhưng hỏi đến Quả vị A-la-hán thì vị Trưởng lão đó bảo đến gặp Đức Thế Tôn.

Đức Phật nghe xong thì nói rằng bà đã chứng A-la-hán.

Sau đó Phật đọc bài kệ để ca ngợi ông đã không nắm giữ sở hữu tài sản:"Ai chẳng còn nắm giữBất cứ sở hữu gìCả quá hiện vị laiTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 421)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Cư sỹ chứng cao nhất là Nhị quả"Tích Pháp Cú 35: Người đọc được tâm" có Mẹ của hào trưởng Ma-ti-ca xây 1 tinh xá nhỏ cho 60 vị Tỳ kheo tu hành.

Rồi bà cúng dường đầy đủ cho 60 vị đó.

Rồi bà hỏi các vị tu thế nào?

Các vị đó nói với bà tu thiền quán thân.

Bà tu thì chứng Nhị quả Nhất Lai có thần thông đọc được tâm.

Rồi bà đọc tâm 60 vị thấy chẳng vị nào chứng cái gì.

Rồi bà tìm xem nguyên nhân vì sao không chứng?

Hóa ra là vì ăn uống thiếu dinh dưỡng.

Thế là bà bổ sung dinh dưỡng rồi 60 vị đó đều chứng A-la-hán.Đó là một ví dụ về Cư sỹ tu chứng Nhị quả Nhất Lai có thần thông.

Còn nếu chứng A-la-hán thì hoặc vị đó phải là Tỳ kheo.

Hoặc nếu vị đó hốt nhiên đốn ngộ A-la-hán như hoàng hậu Khê Ma thì phải xuất gia.

Chứ A-la-hán không sống được ở thế tục.

Vậy cảnh giới mà Cư sỹ chứng cao nhất là Nhị quả Nhất Lai có thần thông và chẳng thấy gì là của ta.Bạn chú ý: Trong Nikaya không có Tam quả Bất Lai.

Bởi Nhị quả Nhất Lai sẽ quay lại Luân hồi 1 kiếp ở cõi Bồ Tát hay Phạm Thiên rồi sẽ nhập Niết Bàn.

Đó là quả vị cao nhất chỉ sau A-la-hán.

Còn dẫn chứng cụ thể Kinh nào nói thì mời bạn đọc "Lá Trong Lòng Bàn Tay - tập 3" tôi có dẫn chứng 2 bản Kinh Nikaya mà Phật nói về chứng thánh quả.Còn về sau Kinh Đại Thừa nói rằng: Sơ quả Dự Lưu là Thất Lai tức 7 lần sinh lại cõi người rồi sinh về cõi trời.

Nhị quả Nhất Lai là sinh lại cõi người 1 lần rồi sinh về cõi trời.

Tam quả Bất Lai là sinh về cõi trời mà không sinh về cõi người nữa.

Còn Kinh Nikaya thì: Sơ quả Dự Lưu là không đọa ác đạo tương lai chắc chắc chứng A-la-hán.

Nhị quả Nhất Lai là quay lại Luân hồi 1 kiếp rồi chứng A-la-hán.

Quả A-la-hán giải thoát Nikaya hay Đại Thừa giống nhau.

Ta thấy rõ mục tiêu tu hành của Đại Thừa là chứng cõi trời.

Chẳng nói gì về Niết Bàn.

Và đó chính là sự khác biệt giữa Nikaya và Đại Thừa.Bài học 2: Vợ chồng phúc duyên viên mãn"Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã".

Làm vợ chồng chung sống với nhau thì quan trọng nhất là phúc tương đồng và tâm tương đồng.

Nếu phúc không tương đồng, ví như: Người nhiều phúc được sống trong lâu đài, biệt phủ, xe hơi, có người hầu hạ.

Người ít phúc sống trong nhà rách, xe đạp cọc cạch.

2 người đó không thể sống chung.

Còn tâm không tương đồng thì cãi nhau suốt ngày cũng chẳng thể sống chung.Ở đây chồng nghe pháp chứng Nhị quả.

Vợ thấy chồng bỏ hết tài sản cho mình rồi bảo làm bạn có khác gì ly dị.

Thế là bà đi tu chứng A-la-hán.

Đúng thật là "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã".Bài học 3: Yêu thích, Nắm giữ và Sở hữu"Ai chẳng còn nắm giữBất cứ sở hữu gìCả quá hiện vị laiTa gọi Bà-la-môn."

Phật khen ông đã chứng Nhị quả Nhất Lai thì diệt Tham Ái, Thủ, Hữu.

Bởi theo đạo lý Duyên Khởi thì "Ái sinh Thủ, Thủ sinh Hữu".

Nay Tham ái diệt thì Thủ và Hữu diệt.

Ông không còn nắm giữ, không còn sở hữu gì trong quá khứ, hiện tại, tương lai.
 
20-Tích Pháp Cú - Tập 7 (Pc361-Pc423)
Pháp Cú 422: Truyện Ngài An-gu-li-ma-la không sợ hãi


"Bậc trâu chúa, thù thắngBậc anh hùng, đại sĩBậc chiến thắng, vô nhiễmBậc thanh tịnh, giác ngộTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 422)Tích Pháp Cú: Pháp Cú 173 ta đã nghe kể về cuộc đời Ngài An-gu-li-ma-la.

Tích Pháp Cú này kể một sự kiện về Ngài An-gu-li-ma-la và có thêm chi tiết mới đầu đời của Ngài.Ngài An-gu-li-ma-la là con của vị cố vấn tâm linh của vua Ba Tư Nặc.

Đêm mà Ngài sinh ra thì trong cung vũ khí cứ va chạm vào nhau kêu rổn rảng làm vua Ba Tư Nặc không ngủ được.

Sáng hôm sau họp triều đình thì vua kể chuyện đêm qua tự dưng có tiếng vũ khí va chạm vào nhau rổn rảng làm vua mất ngủ.

Cha Ngài An-gu-li-ma-la mới nói:- Thưa Đại Vương, đêm qua con trai của hạ thần được sinh ra.Rồi các vị cố vấn tâm linh của vua mới bấm độn đoán quẻ rồi bói: "Đó là một vị tướng giỏi võ.

Một người chiến thắng ngàn người".

Vua Ba Tư Nặc mới hoan hỉ vì cha nó làm quan thì về sau nó làm tướng giỏi là điềm lành.Nhưng cha cậu thì nghĩ: "Thằng này sinh ra làm vua mất ngủ thật là không tốt".

Thế là ông đặt tên con là Him-sa-ca (Đồ ăn hại).

Khi lớn lên thì cậu bé rất ngoan ngoãn lễ phép.

Vua Ba Tư Nặc mới hỏi cha cậu về cậu bé Him-sa-ca.

Cha bèn dẫn cậu lên cho vua xem.Vua thấy cậu bé ngoan hiền thì bảo nên đổi tên là A-him-sa-ca (không phải đồ ăn hại).

Về sau Ngài thành tướng cướp ở khu rừng thì dân chúng không biết tên là gì.

Thế nên họ đặt tên cho Ngài là An-gu-li-ma-la.

Cái tên đó nổi tiếng và ai cũng biết nên trở thành tên chính thức.Sau đó là câu chuyện Tích Pháp Cú 173 như sau:Ngài đi học ở đại học Ta-ka-si-la về võ thuật.

Vợ ông thầy dạy võ thì thầm yêu trộm nhớ Ngài nên gạ tình mà Ngài không đồng ý.

Thế nên bà đó mới nói xấu Ngài với chồng để nhờ tay chồng giết cho bõ ghét.

"Không ăn được đạp đổ" là như vậy.Nhưng ông chồng bảo: "Thằng đó võ công cao hơn tôi.

Nếu đánh tay đôi thì tôi thua".

Thế là ông thầy mới bày mưu kế nói với An-gu-li-ma-la rằng: "Nay ta có một môn võ công cái thế 1 chiêu giết 1000 người.

Nhưng phải cần hỗ trợ công lực bùa phép của 1000 âm binh".Thế rồi ông dạy Ngài cách phải giết 1000 người có võ công, có sức mạnh để thu phục làm âm binh.

Giết xong thì cắt ngón tay sâu thành chuỗi đeo ở cổ để "Phong ấn".

Rồi Ngài đi về cánh rừng ở đường dẫn vào thành Xá Vệ và bắt đầu tìm người để giết.Ngài chỉ giết kẻ có sức mạnh còn kẻ yếu đuối thì Ngài không giết.

Giết được 999 mạng người thì Ngài gặp Phật và Phật độ cho chứng A-la-hán.

Và đến đây là Tích Pháp Cú 422 này.Khi đó đạo Phật độ được rất nhiều người quy y và dân chúng thường xuyên cúng dường Đức Phật.

Vua Ba Tư Nặc mới bàn với hoàng hậu Mạc Lợi rằng:- Này hậu, ta thấy dân tình cúng dường Đức Thế Tôn và Chư tăng nhiều.

Ta là vua, cũng là đệ tử của Thế Tôn mà không làm lễ cúng cho long trọng thật không phải là hay.Thế rồi vua Ba Tư Nặc làm lễ cúng trai tăng rất long trọng.

Bữa trai tăng đó đẹp đẽ, có lọng che, có người hầu, có binh lính hầu và có cả voi hầu.

Trong số những con voi hầu ở lễ trai tăng có con voi rất hung dữ.Thế nhưng vì duyên nên con voi đó được đặt ngay sau lưng Tôn giả An-gu-li-ma-la ngồi.

Con voi đó cứ hằm hè, dơ vòi lên, dơ chân trước lên như muốn dẵm cho Ngài bẹp dúm.

Còn người quản tượng thì cố ghìm đai nó lại.Sau buổi lễ đó thì Chư tăng ra về.

Mọi người mới hỏi Ngài An-gu-li-ma-la:- Này huynh, khi huynh ngồi đó mà sau lưng là con voi to lớn hung dữ hằm hè thì huynh có sợ không?- Ta không sợ!Thế nhưng các Tỳ kheo đó cứ "suy bụng ta ra bụng A-la-hán".

Rồi các vị bàn tán rằng: "Chắc chắn phải sợ chứ?

Con voi đó to lớn chỉ cái chân của nó đã to bằng cả người ta rồi.

Nó hì hầm như muốn lao lên dẵm huynh đó.

Chẳng có ai là không sợ."

Khi các vị đang xì xầm bàn tán thì Phật xuất hiện.

Phật hỏi các vị đang bàn chuyện gì.

Mọi người mới nói thật và họ kết luận: "Trong trường hợp đó thì chẳng có ai mà không sợ".

Nhưng Đức Phật đã xác nhận rằng Tôn giả An-gu-li-ma-la đã chứng A-la-hán rồi nên không sợ:"Bậc trâu chúa, thù thắngBậc anh hùng, đại sĩBậc chiến thắng, vô nhiễmBậc giác ngộ thanh tịnhTa gọi Bà-la-môn."(XXVI-Phẩm Bà-la-môn, Pháp Cú 422)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Điềm báo khi sinh ra đờiTrong cuộc đời Đức Phật thì có 6 Đại sự kiện khiến 10.000 thế giới rúng động: (1) Phật nhập thai. (2) Phật đản sinh. (3) Phật thành đạo. (4) Phật chuyển pháp luân bằng bài kinh đầu tiên. (5) Phật xả Định Thọ Mạng. (6) Phật nhập Niết Bàn.Ngày nay ta có 4 địa điểm gọi là "Tứ Động Tâm" hay "Tứ Đại Thánh Tích Phật giáo": (1) Vườn Lâm Tỳ Ni nơi Phật đản sinh. (2) Bồ Đề Đạo Tràng nơi Phật thành đạo. (3) Lộc Uyển (Vườn Nai) nơi Phật chuyển pháp luân bằng bài kinh đầu tiên. (4) Câu Thi Na nơi Phật nhập Niết Bàn.

Còn 2 Đại Thánh Tích bị thiếu là Phật nhập thai và Phật xả bỏ Định Thọ Mạng.Vậy nghĩa là "Giây phút ai đó ra đời là một Đại sự kiện cuộc đời vị đó.

Nó báo hiệu sự vinh quang hay đau khổ trong đời này".

Thế nên khi Phật đản sinh thì cảnh trí đẹp đẽ, chư thiên rải hoa cúng dường, Phật đi trên lá sen, hoa Ngưu Đàm 3000 năm mới nở thì bung nở...

Đó là điềm báo về cuộc đời Đức Phật đạt thành tựu vĩ đại ở đời sống này.Theo quan niệm dân gian Việt Nam thì: "Trai mồng 1, Gái ngày rằm là rất dữ.

Tràng hoa cuốn cổ thì cả đời khổ.

Sinh thuận tử an..."

Tức khi sinh ra thế nào, ngày giờ nào, bình an hay đau khổ thì sẽ ứng với cả cuộc đời họ.Có giai thoại lịch sử về vua Lý Công Uẩn.

Trước khi sinh ra thì có Long Thần báo mộng cho Thiền sư Lý Khánh Vân chùa Ứng Tâm rằng "Ngày mai có vua đến".

Sư ra cửa chờ cả ngày chẳng thấy ai.

Gần tối thì có người đàn bà chửa đến xin ở nhờ cổng Tam Quan.

Sư đồng ý.Vào một đêm mưa gió thì Sư thấy cổng chùa ánh sáng rực rỡ.

Sư bảo người ra xem thì thấy người đàn bà đó đã sinh con.

Người làm đưa đứa bé vào cho Sư xem.

Xem xong chạy ra thì người đàn bà đã chết.

Thế là Sư nhận làm con nuôi đặt tên là Lý Công Uẩn.Còn Ngài Tu Bồ Đề thì khi sinh ra tự dưng toàn bộ đồ vật trong nhà biến mất.

Lúc sau mới hiện ra trở lại như cũ.

Đó là điềm báo về vị Đại Đệ Tử Lý Không Đệ Nhất của Đức Phật.Bài học 2: Bàn về loài voi trong Kinh PhậtTrong Kinh Pháp Cú có riêng 1 Phẩm (chương) gọi là Phẩm Voi số 23.

Có rất nhiều bài kệ, thí dụ, dẫn chứng... mà Phật lấy hình tượng và tính chất của voi để diễn đạt.

Ví dụ: khi Phật đi giữa vương quốc Cô-dăm-bi của bà Hoàng hậu Ma-gan-bi-da thì bị dân chúng đướng 2 bên đường chửi.

Phật vẫn bình thản nhưng Ngài A-nan đi bên thì thống khổ.

Đến mức không chịu nổi thì Phật đọc bài kệ ví Phật như voi đi giữa chiến trường sẽ chịu tên bắn giáo dâm...

Bài kệ của Phật nói tưởng cho riêng Ngài A-nan.

Nhưng thanh âm của nó lan đến tai toàn bộ mọi người.

Tự dưng mọi người dừng lại không xúc phạm Phật nữa.Hay một lần Phật ở xứ Gô-xi-ta thì 2 chúng Pháp sư và Luật sư cãi nhau đến mức Phật không thể khuyên.

Thế là Phật bỏ vào rừng ở đó 3 tháng hạ.

Khi đó có Voi Chúa đến hầu Phật suốt 3 tháng.Thời đó ở Ấn Độ thì voi được coi là Linh vật.

Đội Tượng Binh cũng là đội quân hùng mạnh nhất của vua.

Và đứng trước 1 con voi to lớn, hung dữ với chỉ cái chân của nó đã to bằng cơ thể người.

Mà nó hằm hè, dơ chân lên như chuẩn bị dẵm ta thì không một ai có thể bình tĩnh được.

Nhưng Ngài An-gu-li-ma-la lại vô cùng bình thản.

Bởi vì sao?Bởi vì Ngài là "Bậc trâu chúa thù thắng, bậc anh hùng đại sỹ".

Sức mạnh của Ngài chiến thắng mọi kẻ thù dù đó là con voi của vua Ba Tư Nặc.

Ngoài ra một vị A-la-hán thì đã diệt mất tâm sợ hãi.Ta hay nói "Lục Thông A-la-hán" tức một vị A-la-hán phải có đủ 6 loại thần thông.

Nhưng Kinh Thân Hành Niệm (Trung Bộ Kinh) thì Phật nói rằng A-la-hán có 10 năng lực: Ngoài 6 loại thần thông thì có thêm 4 năng lực nữa: (1) Tâm luôn hạnh phúc, (2) Tâm không sợ hãi, (3) Tâm luôn kham nhẫn, (4) Tâm nhập Tứ thiền.Vậy tức A-la-hán thì tâm biến mất sự sợ hãi nên đứng trước con voi khổng lồ mà bình thản.Bài học 3: Phật khen ngài An-gu-li-ma-la"Bậc trâu chúa, thù thắngBậc anh hùng, đại sĩBậc chiến thắng, vô nhiễmBậc giác ngộ thanh tịnhTa gọi Bà-la-môn."

Phật khen Ngài An-gu-li-ma-la là người có sức mạnh của "Trâu chúa" chiến thắng mọi kẻ thù.

Ngài là bậc anh hùng đại sỹ.

Ngài đã chiến thắng chính mình và tâm không bị nhiễm ô, cấu uế.

Ngài đã đạt được sự giác ngộ thanh tịnh, tức chứng A-la-hán.
 
Back
Top Bottom