Tâm Linh 19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (PC301-PC360)

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
353612768-256-k561562.jpg

19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Tác giả: nikayavoxbox
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Hoàn thành


Giới thiệu truyện:

19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (PC301-PC360) Tags: lvt​
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Bìa


Kinh Pháp Cú: HT Thích Minh Châu dịch ViệtTruyện kể bởi: Thượng tọa Thích Chân QuangViết lời bài học: Cư sỹ, thiền sinh Lương Vinh TriTích Pháp Cú(Tập 6: Pháp cú 301 đến 360)Dự thảo 2023 - Lấy ý kiến chỉnh sửa
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Giới thiệu


Tôi là Cư sỹ, Thiền sinh, Lương Vinh Tri (tên thật là: N.M.D sinh 7/1/1978).

Tôi là một Cư sỹ Phật tử tại gia yêu thích và đam mê Phật Pháp.

Thời gian qua tôi đã nghiên cứu và hoàn thiện một số tác phẩm chủ đề Phật giáo, lịch sử, nhân tướng, ca dao tục ngữ...Tôi đặc biệt yêu thích Kinh Nguyên Thủy Nikaya do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch.

Tác phẩm "Lá trong lòng bàn tay" (Trọn bộ 3 tập dày khoảng 1800 trang) là kiến thức tổng hợp của tôi sau thời gian nghiên cứu 2 bộ kinh: Trung Bộ Kinh Nikaya và Trường Bộ Kinh Nikaya.Bộ sách này tôi xin giới thiệu Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh Nikaya (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka).

Kinh Pháp Cú là các bài thi kệ 4 câu, 5 câu hoặc 6 câu.

Mỗi đoạn nói một đại ý nào đó, cô đọng dễ hiểu.

Vậy nên Kinh Pháp Cú được truyền bá rộng rãi trên thế giới.

Đây là quyển Kinh Phật giáo phổ thông nhất được dịch sang nhiều ngôn ngữ nhất trên Thế giới.Kinh Pháp Cú rất dễ hiểu.

Tôi xin lấy ví dụ:"Ai mặc áo cà sa,tâm chưa rời uế trược,không tự chế, không thực,không xứng áo cà sa."

Kệ Pháp Cú trên Phật dạy: "người tu hành mà tâm vẫn còn tham đắm, không chế ngự được tâm, thực không xứng đáng là người tu".Thường các bộ Kinh Phật đa phần có nghĩa lý sâu xa khó hiểu, nhưng riêng Kinh Pháp Cú lại rất đơn sơ dễ hiểu nên ai cũng thích.

Tuy nhiên tùy theo sức triển khai mà ta có thể thấy được vấn đề sâu bên trong của lời kệ Pháp Cú."

Dhamma" nghĩa là "pháp, đạo lý, chân lý", nhưng ở đây có nghĩa chính là "Lời Phật dạy"; "Pada" là "lời nói, câu nói, câu kệ, câu cú".

"Dhammapada" nghĩa là: "Các câu nói Phật dạy" hay dịch ngắn là "Pháp Cú".Ngoài ra còn nghĩa thứ hai.

Trong ngữ văn Pali "Pada" còn có nghĩa là "Bước chân đi", "Dhamma" nghĩa là "Chân lý" .

Do đó, "Dhammapada" được dịch là "Bước về Chân lý".Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là tập hợp 423 bài kệ.

Đức Phật đã nói ra trong nhiều dịp khác nhau suốt 45 năm giáo hóa.

Các bài kệ được sắp xếp trong 26 phẩm, được kết tập trong Đại hội Kết tập Kinh lần thứ nhất diễn ra sau khi Phật nhập diệt 7 ngày.Những lời dạy trong Kinh Pháp Cú của Đức Phật ngắn gọn.

Nhưng phải nhân một sự kiện gì đó, một nhân duyên nào đó, đến lúc, đúng thời thì Phật mới nói Pháp Cú.

Ví dụ: Nhân thắc mắc của một số Tỳ kheo vì chuyện gì đó mà đến hỏi Phật.

Phật giải thích rõ ràng thỏa đáng về câu chuyện đó... cuối cùng Phật kết luận bằng bài kệ Pháp Cú.

Đó chính là "Tích Pháp Cú" và "Kệ Pháp Cú".Do vậy, mỗi "Tích Pháp Cú" đều có 3 phần: Phần I - Kệ Pháp Cú, Phần II - Truyện tích hình thành Pháp Cú, Phần III - Bài học kinh nghiệm.Phần I - Kệ Pháp Cú: được dịch từ tiếng Pali sang Tiếng Việt bởi Hòa Thượng Thích Minh Châu tại Chùa Vạn Hạnh (1969).

Ngài đã dịch sát nghĩa nhất vì muốn giữ nguyên nghĩa gốc của kinh.Phần II - Tích Pháp Cú: do Thượng tọa Thích Chân Quang giảng trong hệ thống bài giảng Kinh Pháp Cú (từ năm 2006 đến 2016).

Tôi nghe Thượng tọa giảng mà chép lại thành văn.Phần III – Bài học kinh nghiệm: Công đức lớn nhất là của Hòa Thượng Thích Minh Châu và Thượng Tọa Thích Chân Quang.

Tôi chỉ có công ghi chép lại lời 2 vị và thêm lời: "Bài học kinh nghiệm" chia sẻ những suy nghĩ cá nhân tôi mà thôi.Thường ta đọc Kinh Phật ta thấy khô khan, khó nhớ, khó thuộc và không hấp dẫn.

Bởi vì 100% lời kinh là lý thuyết triết học với những triết lý thâm sâu khó hiểu.

Lý thuyết cần phải có thực tiễn làm sáng tỏ.

Nhưng sao ta có thể thấy được thực tiễn của lý thuyết Kinh Phật áp dụng vào đời.Xin ví dụ về Luật nhân quả.

Nhân đời này đến nhiều đời nhiều kiếp sau mới hiện thành quả báo.

Ta không thể thấy được nhân quả trong Tam thế nhiều kiếp sống nếu không có Thiên Nhãn Minh.Thật vi diệu thay "Tích Pháp Cú" là những sự kiện cuộc sống xã hội thời Đức Phật thực tế tồn tại.

Các vị Tỳ kheo chưa chứng A-la-hán thấy sự kiện đó và họ thắc mắc.

Họ mang những thắc mắc đó đến hỏi Đức Phật.

Bằng Thiên Nhãn Minh vĩ đại của một vị Phật, bằng trí tuệ vĩ đại của Đức Phật thì Phật đã giải thích thấu tỏ mọi chuyện vượt giới hạn không gian, vượt giới hạn thời gian.Vậy nên "Tích Pháp Cú" theo tôi là "Tác phẩm thực hành Chánh pháp Đức Phật vĩ đại nhất mọi thời đại".

Đây là một tác phẩm bổ trợ không thể thiếu của Đại Tạng Kinh Phật.

Tác phẩm này đã làm sáng tỏ mọi chân lý Chánh Pháp Đức Phật.Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 302: Truyện Tỳ kheo muốn đời tại gia


"Không dễ sống an vuiĐời xuất gia đạo hạnhCũng chẳng sung sướng gìĐời tại gia phiền toáiNhững ràng buộc bất đồngTrôi lăn trong sinh tửĐừng là kẻ lang thangĐừng đuổi theo đau khổ."(XXI-Phẩm Tạp, Pháp Cú 302)Tích Pháp Cú: Xứ Vê-sa-li (Tỳ Xá Ly) lần thứ nhất Phật qua đó giáo hóa thì không có ai tiếp đón và chẳng ai màng đạo pháp.

Chỉ có vị hoàng tử Ma-ha-li là bạn học của vua Ba Tư Nặc ở Đại học Ta-ka-si-la vùng Hoa Thị Thành theo quy y Phật.

Rồi Ngài tu chứng Sơ quả Dự Lưu.

Sau đó xứ Vê-sa-li bị thiên tai, hạn hán, đói khát, dịch bệnh và ma quỷ lộng hành.

Chính hoàng tử Ma-ha-li đã đi qua nước Ma Kiệt Đà thỉnh Phật về cứu dân chúng.Sau đó thì dân xứ đó theo quy y Phật rất đông.

Hoàng tử Ma-ha-li đã cho xây "Tinh xá, giảng đường có nóc nhọn" rất lớn ở rừng Đại Lâm xứ Vê-sa-li.

Và Đức Phật cũng hay đến đó an cư và thuyết pháp.Vê-sa-li còn có một hoàng tử khác xuất gia tu theo Phật ở trong rừng.

Lần đó ngôi làng vìa rừng có lễ hội.

Rồi dân chúng tổ chức múa hát ca nhạc suốt đêm.

Trong đêm thanh vắng thì tiếng hát, tiếng nhạc, tiếng lễ hội vang vọng đến tai vị Tỳ kheo trong rừng.

Vị đó động tâm, buồn rầu nhớ nhà, nhớ đời sống thế tục.

Khi đó có một vị thần ở trong rừng hiện ra nói rằng:- Ngài đừng động tâm buồn rầu.

Ngài có biết rằng có bao nhiêu người mơ ước được sống giống như Ngài.

Điều đó giống như chúng sinh dưới Địa ngục thèm khát được sinh lên Thiên đường vậy.Vị Tỳ kheo hoàng tử đó bừng tỉnh.

Sáng hôm sau vị đó đến thăm Đức Phật ở "Tinh xá, giảng đường có nóc nhọn".

Rồi Ngài kể cho Phật nghe sự việc đêm qua.

Ngài nghe tiếng nhạc, tiếng lễ hội thì động tâm nhớ đời sống thế tục.

Sau đó có vị thần hiện ra nhắc rằng: "Cuộc sống của Ngài có nhiều người mơ ước được vậy.

Nó ví như chúng sinh địa ngục thèm khát được sinh thiên đàng".Đức Phật nghe xong thì đọc bài kệ:"Không dễ sống an vuiĐời xuất gia đạo hạnhCũng chẳng sung sướng gìĐời tại gia phiền toáiNhững ràng buộc bất đồngTrôi lăn trong sinh tửĐừng là kẻ lang thangĐừng đuổi theo đau khổ."(XXI-Phẩm Tạp, Pháp Cú 302)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Bắt đầu thọ giới Sa-di thì không được nghe nhạc đờiKhi quy y Phật thì Cư sỹ thọ 5 giới: (1) Không sát sinh, (2) không nói dối, (3) không trộm cắp, (4) không tà dâm, (5) không rượu bia.

Tuy vậy nếu ta phạm giới thì không ai xử mà Phật để cho Nhân Quả xử nên Cư sỹ nam vẫn hay uống rượu và ăn nhậu.Có điều đặc biệt là Hồi Giáo lại đề cao và khắt khe với Ngũ Giới.

Ví dụ: Uống rượu bia là bị cấm.

Thậm chí World Cup 2022 ở Qatar cổ động viên nước ngoài cũng bị cấm uống rượu.

Ngoại tình sẽ bị dân chúng lấy đá ném chết, World Cup ở Qatar cũng cấm mại dâm luôn.

Trộm cắp là bị chặt tay.

Sát sinh thì họ có 1 tháng ăn chay Ramadan tuyệt đối không giết hại.

Nói dối cũng bị cấm chặt.

Nên đạo Phật đề ra luật nhưng thực hiện luật nghiêm lại là đạo Hồi.Bắt đầu thọ giới Sa-di thì chú tiểu có 10 giới: Ngoài Ngũ Giới Cư sỹ ở trên thì chú tiểu phải giữ thêm 5 giới: (1) Không trang điểm phấn son, không dùng nước hoa. (2) Không nghe xem hay biểu diễn múa hát. (3) Không ăn sau ngọ. (4) Không dùng đồ xa xỉ phẩm. (5) Không giữ vàng bạc bảo vật.Và ở đây ta thấy Tỳ kheo hoàng tử nọ ở giữa rừng thanh vắng nghe tiếng nhạc, tiếng múa hát thì tâm động niệm thế tục.

Ngài buồn chán nhớ nhà và thèm đời sống tại gia.

Tuy nhiên đó là nhạc đời, nhạc tình yêu đôi lứa, câu hát giao duyên.

Còn nhạc trí tuệ như giao hưởng hay nhạc thiền, nhạc đạo giúp tâm ta yên ổn vững tâm với đạo thì Phật không cấm.Bài học 2: Nhu cầu đời sống văn hóaNhu cầu con người thấp nhất là bản năng sinh tồn và duy trì nòi giống.

Bản năng sinh tồn thì cần hít thở dưỡng khí, cần ăn để cung cấp dưỡng chất, cần ngủ để phục hồi sức khỏe và cần bài tiết.

Còn bản năng duy trì nòi giống là tình dục.

Bản năng đó có ở mọi loài động vật gồm cả con người.Sau khi các nhu cầu bản năng sinh tồn và duy trì nòi giống đáp ứng thì con vật không đòi hỏi gì thêm.

Nhưng con người vì trí tuệ và thông minh nên đã nâng cao sự thưởng thức thành nghệ thuật: Ăn thì có nghệ thuật Ẩm thực.

Ngủ và ở thì có nghệ thuật Kiến trúc.

Tình dục không bừa bãi, phải theo văn hóa, đạo đức và luật phát.

Nhà vệ sinh phải sạch đẹp thơm tho.

Quần áo thì phải nghệ thuật thời trang đẹp đẽ.Khi đời sống kinh tế phát triển, nhu cầu cơ bản đáp ứng thì con người sẽ có nhu cầu thưởng thức nghệ thuật.

Có 7 môn nghệ thuật sau: Âm nhạc, điêu khắc, kiến trúc, thơ văn, hội họa, vũ kịch, điện ảnh.Ngoài ra con người còn chế ra nhiều trò chơi, lễ hội và các nhu cầu thưởng thức khác: Thể thao, bóng đá, lễ hội hóa trang, xem thủy cung, lễ hội băng tuyết, du lịch khám phá vùng miền...

Mới đây có Game điện tử khiến trẻ em và người lớn đều mê mệt.Nếu là người tại gia thì những sở thích, thú vui đó được luật pháp cho phép và rất văn minh.

Nhưng nếu là người xuất gia đã thề nguyện từ bỏ đời sống thế tục và các niệm thế tục lại thích những thú vui đó thì không hợp.Khi mới tu các tu sỹ phải thực hành theo Giới luật.

Tức là Phật cấm cái này, cấm cái kia... trong khi tâm họ vẫn thèm muốn nên rất đau khổ.

Nhưng khi chứng đạo diệt Kiết sử thì tâm tu sỹ tự dưng từ bỏ các niệm thế tục và thú vui trần thế một cách tự nhiên mà không cần Phật phải cấm.Bài học 3: Thần rừng thèm khát đời sống Tỳ kheoTa chú ý: Tu hành giải thoát Luân hồi chứng Niết Bàn chỉ có ở cõi người.

Các vị thần và Chư thiên phúc vĩ đại chỉ hưởng phúc rồi hết phúc lại đọa vào cõi khổ.

Thậm chí các vị Bồ Tát ở Đâu Suất Đà Thiên muốn tu đắc đạo A-la-hán phải nguyện sinh vào cõi người và xuất gia tu diệt Kiết sử mới chứng A-la-hán.Do vậy, vị thần ở trong khu rừng đó thèm khát đời sống xuất gia của Tỳ kheo như "Chúng sinh địa ngục thèm được sinh thiên đường" là đúng sự thật.Bài học 4: Xuất gia hay tại gia đều không phải đích đến"Không dễ sống an vui - Đời xuất gia đạo hạnh - Cũng chẳng sung sướng gì - Đời tại gia phiền toái - Những ràng buộc bất đồng - Trôi lăn trong sinh tử - Đừng là kẻ lang thang - Đừng đuổi theo đau khổ."

Đức Phật nói rằng: "Đời sống xuất gia đạo hạnh hay đời tại gia đều có sự phiền toái, ràng buộc, bất đồng và trôi lăn trong sinh tử.

Xuất gia hay tại gia đều không phải là mục đích hướng đến để thoát khổ.

Tuy nhiên đời xuất gia là môi trường để tu hành chứng đạo giải thoát đau khổ.

Vậy ta đừng lang thang theo đau khổ.

Ta hãy tinh tấn tu hành".
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 303: Truyện cư sỹ được trọng vọng


"Sống giới hạnh thành tínCó tài sản uy tínĐến bất cứ nơi nàoCũng đều được trọng vọng."(XXI-Phẩm Tạp, Pháp Cú 303)Tích Pháp Cú: Có cư sỹ tên là Tuýt-sa.

Hễ mỗi khi ông đến hầu Phật thì tự nhiên Chư tăng đều quý trọng ông.

Tâm quý trọng đó rất rõ ràng mà ai cũng nhận thấy.

Rồi các Tỳ kheo mới mang chuyện đó hỏi Đức Phật:- Bạch Thế Tôn, vì sao hễ mỗi khi ông Tuýt-sa đó đến thì chúng con đều tự cảm thấy quý trọng?

Vậy nếu ông đó đến chỗ khác thì có được vậy không?Đức Phật nói:- Này Tỳ kheo, Tuýt-sa là người sống mẫu mực, đạo hạnh và có phúc lớn, uy tín cao.

Nên Tuýt-sa đến chỗ nào thì nơi đó ai cũng quý trọng ông.Rồi Phật đọc bài kệ:"Sống giới hạnh thành tínCó tài sản uy tínĐến bất cứ nơi nàoCũng đều được trọng vọng."(XXI-Phẩm Tạp, Pháp Cú abc)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Phúc mang đến sự trọng vọngTrung Bộ Kinh Nikaya có "Tiểu Kinh Nghiệp phân biệt" (Cùlakammavibhanga sutta) thì Đức Phật nói về người tạo 7 loại nghiệp lành sẽ được 7 món báu🙁1) Sống tôn trọng người, quả báo được Cao sang. (2) Sống yêu thương, không thù ghét người, quả báo được Xinh đẹp. (3) Sống không đánh đập hành hạ người và vật, quả báo được Ít bệnh. (4) Sống không sát sinh hại người và vật, quả báo được Sống lâu. (5) Sống bố thí cho người đáng được bố thí, quả báo được Giàu có (Ta chú ý: "Người đáng được bố thí" chứ không phải ai ta cũng bố thí). (6) Sống thật tâm tán dương khen tặng người thành công, quả báo được Quyền lực lớn. (7) Sống biết phân biệt thiện ác đúng sai, quả báo được Trí tuệ.Vậy người phúc lớn phải có đầy đủ 7 món báu: Cao sang, xinh đẹp, ít bệnh, sống lâu, giàu có, quyền lực lớn, trí tuệ.

Thiếu 1 trong 7 món báu đó đều phúc không viên mãn.

Ví dụ: Ta thấy người thân hình chỉ cao 1,1m thì ta khó có thể kính nể.

Người mà mặt quá xấu xí ta khó nhìn mặt chứ đừng nói kính trọng.

Người bệnh tật liệt giường chiếu ta chỉ thương xót chứ không thể kính trọng.

Kẻ nghèo đói ta khó kính trọng.

Kẻ ngu si ta khó kính trọng.Bài kệ Pháp Cú trên thì Phật cũng nói rằng: "Vị đó sống theo Giới hạnh của các vị thánh tức là đạo đức viên mãn.

Vị đó tâm thành tín là tôn trọng yêu thương mọi người và tin vào các vị thánh.

Quả báo là vị đó giàu có và có uy tín quyền lực.

Vị đó đi đâu cũng đều được kính trọng".

Tức vị đó sống có đạo đức và tâm thành tín.

Quả báo vị đó được giàu có và quyền lực.

Đó là 2 trong 7 món báu Đức Phật nói trong Kinh.Bài học 2: Thiếu phúc mang đến sự hèn kémCũng trong "Tiểu kinh nghiệp phân biệt" đó thì Phật nói về 7 hạng người hèn kém vì thiếu phúc mà còn nhiều tội.

Và 7 loại ác nghiệp mà họ đã gieo🙁1) Sống kiêu mạn thì quả báo Hạ liệt. (2) Sống sân hận thù ghét người thì quả báo Xấu xí. (3) Sống đánh đập người và vật thì quả báo Bệnh tật. (4) Sống sát sinh người và vật thì quả báo Chết sớm. (5) Sống keo kiệt không bố thí cho người đáng bố thí thì quả báo Nghèo khổ (Chú ý là: "Không bố thí cho người đáng bố thí"). (6) Sống thường hay đố kị thì quả báo Quyền lực nhỏ. (7) Sống không phân biệt thiện ác đúng sai thì quả báo Ngu si.Bài học 3: Giàu sang, quyền lực và trọng vọngVị Cư sỹ Tuýt-sa đó sống giới hạnh, đạo đức, thành tâm, có đức tin vào các vị thánh thì quả báo được giàu sang (tài sản nhiều) và quyền lực (có uy tín).

Chính vì vị đó giàu sang và quyền lực nên ai tiếp xúc với vị đó đều khởi tâm tôn trọng.Nhưng chính sự giàu sang và quyền lực này cũng là thứ mà mọi người ai ai cũng thèm khát.

Khổng Tử nói rằng:"Tham tiền thì cuồng điênTham quyền thì ác độc"Kẻ có tham vọng muốn được giàu có mà không biết Nhân Quả thì họ điên cuồng lao vào kiếm tiền, kinh doanh triệt hạ đối thủ, bon chen, tranh cướp khách hàng, mánh lới, điêu ngoa...

để được giàu có.

Làm vậy nào có được đâu vì sai Nhân Quả.Kẻ có tham vọng muốn có được uy tín, quyền lực, ở ngôi cao sang mà không biết Nhân Quả thì họ ác độc, mưu sâu kế hiểm để hạ bệ đối thủ, hại cho đối thủ đau khổ, vướng vòng lao lý...

để họ "Ngồi vào cái ghế đó".

Nhưng nào có được đâu vì sai Nhân Quả.Sự thật chỉ có giới hạnh, đạo đức, thành tín mới được giàu có quyền lực.

Và cái được đó sẽ bền lâu.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 304: Truyện con gái ông Cấp Cô Độc


"Người lành dù ở xaSáng tỏ như núi TuyếtNgười ác dù ở gầnNhư tên bắn đêm đen."(XXI-Phẩm Tạp, Pháp Cú 304)Tích Pháp Cú: Ông Cấp Cô Độc là vị cư sỹ giàu có đã cúng Phật Tinh xá Kỳ Viên.

Ông đã chứng Sơ quả Dự Lưu.

Ông có nhiều con và có cô con gái đã chứng Sơ quả Dự Lưu.

Cô đã hứa hôn từ nhỏ nên đến tuổi thì cô đi lấy chồng.

Gia đình nhà chồng cô giàu có và quy y ngoại đạo Lõa thể Ni Kiền Tử.

Nhà chồng cô cách nhà ông Cấp Cô Độc 120 dặm.Cô lấy chồng và giữ đạo làm dâu rất tốt không ai nói gì cô.

Đến một hôm bố chồng cô mời các tu sỹ Lõa thể Ni Kiền Tử về nhà cúng dường.

Phái này khi mới tu thì vẫn mặc quần áo bình thường.

Nhưng càng tu cao siêu thì càng bớt quần bớt áo.

Và các tu sỹ đạo cao đức trọng thì hoàn toàn không quần áo.Cô con dâu đó thấy các tu sỹ "Tồng ngồng" đi vào nhà thì thất kinh hoảng sợ bỏ chạy mất.

Bố chồng cô sau khi đảnh lễ các tu sỹ Lõa thể rồi gọi con dâu ra chào các thầy mà tìm không thấy đâu.Sau khi gia đình làm lễ cúng dường và mời các vị thọ thực xong thì các vị đó về.

Khi đó mới thấy mặt cô con dâu mò về.

Ông bố chồng cô tức tối chửi mắng cô thậm tệ.

Cô mới lễ phép đáp lời cha chồng rằng:- Thưa cha, con đã quy y đạo Giác ngộ.

Nơi đó có các vị tu sỹ oai nghi tề chỉnh ăn mặc kín đáo.

Trong mọi lúc đi đứng nằm ngồi đều không chút sơ xuất.

Trong mọi lời nói nói ra đều không chút sơ xuất.

Vị giáo chủ là Đức Thế Tôn, Bậc Đại thánh Chánh Đẳng, Chánh Giác, Đức Phật, Bậc thánh thế gian giải, Bậc thánh thần uy trùm ba cõi, thầy của trời người...Cô ta nói rất thuyết phục.

Rồi bố chồng cô bảo:- Vậy con hãy mời các thầy con đến đây.Cô con dâu vâng lời cha chồng.

Cô đứng ngay tại đó quay về hướng thành Xá Vệ chắp tay nói lời mời thỉnh cầu Đức Phật và Chư tăng sáng mai đến nhà cô dự Trai tăng.

Trong tâm cô có niềm tin sắt đá vào uy lực của Phật và cô tin rằng Đức Phật nghe được lời cô nói.

Sau đó cô chuẩn bị cho lễ trai tăng: đồ ăn, vật thực, chỗ ngồi, tọa cụ....Sáng hôm sau Đức Phật đắp y mang bình bát đi ra cửa Tinh xá.

Mọi người tưởng Đức Phật đi vào thành như bình thường.

Nhưng Phật cùng các vị A-la-hán bay trên hư không đến gần nhà con gái ông Cấp Cô Độc.

Rồi các vị hạ xuống xa xa và đi bộ đến nhà cô.Sau khi đảnh lễ Đức Phật và Chư tăng thì cô mời cả nhà ra đảnh lễ Phật.

Cô cúng dường Trai tăng xong thì Phật thuyết pháp.

Sau đó đoàn người về lại Tinh xá Kỳ viên.

Hôm sau các Tỳ kheo mới ngạc nhiên hỏi Phật rằng:- Bạch Thế Tôn, con không thấy ai thỉnh Thế Tôn đến dự trai tăng sao Thế Tôn lại biết điều đó?Đức Phật mới nói bài kệ:"Người lành dù ở xaSáng tỏ như núi TuyếtNgười ác dù ở gầnNhư tên bắn đêm đen."(XXI-Phẩm Tạp, Pháp Cú 304)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Lõa thể Ni Kiền TửĐạo Ni Kiền Tử có từ trước thời Đức Phật một thời gian.

Đạo này chủ trương tu khổ hạnh cực đoan nên còn gọi là Khổ hạnh Ni Kiền Tử.

Đức Phật mất 6 năm tu khổ hạnh cực đoan là tu theo phương pháp của phái này.

Các ty sỹ đó tu trên núi cao, nhịn ăn, nhịn uống, quần áo rách rưới và chịu đựng cái đau thống khổ ở thân xác.

Và có 1 nhánh Ni Kiền Tử tu Lõa thể tức tu đắc đạo thì không mặc quần áo.Tiểu Kinh Khổ Uẩn (Satipatthàna sutta) thuộc Trung Bộ Kinh thì đức Phật đã gặp giáo chủ của Khổ hạnh Ni Kiền Tử tên là Nataputta và phân tích về cái sai của pháp tu đó.

Nhưng tôi đoán ông ta không nghe.

Đức Phật đã nói rằng (dịch ý):"Vị ấy (Thủy Tổ Nigantha) nói như sau: Này các Nigantha ta không giải thoát được vì ta còn Ác Nghiệp quá khứ.

Ta muốn hóa giải những Ác Nghiệp đó theo tự nhiên ta cần nhiều kiếp sống chịu đau khổ.

Để đốt cháy giai đoạn thì ta chủ động chịu khổ để trả nợ Ác Nghiệp.

Khi Ác Nghiệp chấm dứt thì ta không còn khổ và được giải thoát khỏi Luân Hồi".Vậy tức là Ni Kiền Tử tu khổ hạnh cực đoan để trả nợ ác nghiệp quá khứ.

Nhưng Đức Phật đã phân tích cái sai của lập luận logic và nhân quả của Khổ hạnh cực đoan đó như sau:"Từ nhân tới quả thì phải có Duyên mới thành.

Vậy nên ta khổ hạnh cực đoan để mong quả báo tới sớm hay muộn, trước hay sau, nhiều hay ít, quả khổ biến thành quả sướng, quả sướng biến thành quả khổ... khi không đủ Duyên là không thể thành công.Ngoài ra, các Ni Kiền Tử đó không biết kiếp trước mình tạo nghiệp gì?

Ác hay thiện?

Thân hay khẩu hay ý?

Mà lại dùng một kiểu duy nhất là Khổ hạnh cực đoan để tiêu trừ là không thể thành công".Tạm thời ta hiểu sơ qua về Khổ hạnh Ni Kiền Tử là thế.

Còn triết lý của phái tu Lõa thể là thế nào?

Thật ra các tu sỹ Ni Kiền Tử đó tu thiền định đúng phương pháp của Đức Phật.

Vì tu đúng phương pháp nên các vị đó cũng chứng Sơ Thiền.

Cảnh giới Sơ thiền mà Phật miêu tả trong Kinh Sa Môn Quả là:"Vị đó dùng cái khổ trong thiền để ly dục ly ác pháp.

Vị đó chứng Sơ thiền là trạng thái tâm hỉ lạc do ly dục sinh còn tầm còn tứ".Nghĩa là tu sỹ Ni Kiền Tử tu thiền chứng Sơ thiền thì "Ly dục" giống thiền sư.

Nhưng Thiền sư thì không lấy mục đích ly dục làm đích đến mà tu tiếp để chứng cao hơn: Nhị thiền, tam thiền, tứ thiền có thần thông và có tam minh.Còn tu sỹ Ni Kiền Tử lấy đích đến là "Ly dục" nên khi chứng đạo thì các vị khoe điều đó ra cho mọi người thấy bằng cách không mặc quần áo.

Vị đó "Tồng ngồng" thấy thiếu nữ nóng bỏng đi lại trước mặt mà tâm không động dục là đã đắc đạo Lõa thể.

Vậy các vị Lõa thể dùng "của quý" để khoe đắc đạo.Bài học 2: Sơ quả Dự Lưu thì diệt kiết sử NGHICô con gái ông Cấp Cô Độc đã chứng Sơ quả Dự Lưu.

Vị chứng sơ quả Dự Lưu đã diệt được 3 kiết sử: (1) Thân kiến, (2) Giới cấm thủ, (3) Nghi. (1) Vị đó không còn keo kiệt ví như ông Cấp Cô Độc bố thí cúng dường mà không tiếc của. (2) Vị đó không còn cố chấp.

Vị đó thấy sai lập tức nhận sai chứ không cãi chầy, cãi cối hay cãi cùn. (3) Vị đó chấm dứt nghi ngờ vào Chánh pháp Đức Phật.

Vị đó tin sâu vào Phật.Thế nên cô gái đứng ngay tại chỗ đó khấn niệm và thỉnh Phật cùng Chư tăng đến thọ trai sáng hôm sau ở nhà chồng cô.

Nơi đó cách Tinh xá Kỳ Viên 120 dặm.

1 dặm thời xưa tính bằng 1000 bước chạy tức khoảng 1400m.

Nếu đi ngựa có thể đi trong ngày còn đi bộ sẽ mất nhiều ngày mới tới.

Vậy mà cô tin lời thỉnh cầu của cô Đức Phật nghe được.

Và Phật sẽ dùng thần thông bay đến.

Bởi chắc chắn rằng Phật và Chư tăng sẽ không đi ngựa.Ta mới thấy mức độ tin sâu vào Đức Phật của cô gái đó mãnh liệt biết chừng nào.Bài học 3: Định Thọ Mạng của PhậtMột vị chứng A-la-hán sẽ có 6 loại thần thông.

Trong đó có Tha Tâm Thông tức tâm cảm ứng tâm với người ở xa.

Thế nhưng vị đó phải ngồi thiền nhập định Tứ thiền mới có Lục thông.

Còn khi đã xả thiền rồi thì vĩ đại như Ngài Ma-ha Ca Diếp còn bị vua trời Đế Thích và vợ Thiện Sanh hóa làm người nghèo lừa cúng đồ ăn cho Ngài.Còn Đức Phật thì luôn trong định 24/7 bởi Phật có Định Thọ Mạng.

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ Kinh) kể về lúc Ác ma thỉnh Phật nhập Niết Bàn và Phật đồng ý.

Sau đó Phật xả Định Thọ Mạng thì 10 ngàn thế giới rúng động.

Trong cuộc đời Đức Phật có 6 Đại sự kiện khiến 10 ngàn thế giới rúng động: (1) Phật nhập thai, (2) Phật đản sanh, (3) Phật đắc đạo, (4) Phật chuyển pháp luân, (5) Phật xả Định Thọ Mạng, (6) Phật nhập Niết Bàn.Vậy nên Định Thọ Mạng của Phật là vĩ đại.

Và đó là sự khác biệt lớn nhất giữa Phật và A-la-hán.

Phật ở Kỳ Viên cách nơi cô gái đó đứng 120 dặm mà cô ta khấn niệm thỉnh cầu Phật thì Phật lập tức biết.Với khoảng cách 120 dặm đó sẽ bao phủ hết toàn bộ thành Xá Vệ và các vùng phụ cận có thể lên đến hàng triệu con người.

Vậy mà Phật biết rõ chính xác lời thỉnh cầu của cô gái đó.

Tuy nhiên cũng bởi tâm cô trong sáng như núi Tuyết nên Phật mới hay.

Còn người thường thì tâm tối om Phật khó thấy.Bài học 4: Tâm người lành sáng tỏ như núi tuyếtThế nên khi hành nghi thức cầu "Quốc thái dân an" lên ông Trời thì vị chủ lễ phải là một vị cao tăng chân tu.

Nếu vị đó còn đắc đạo nữa thì tuyệt vời nhưng nay khó kiếm lắm.

Còn thời Đức Phật thì cô gái con trưởng giả Cấp Cô Độc cũng chứng thánh Sơ quả Dự Lưu.

Đạo hạnh và tâm sáng tỏ của cô còn gấp nhiều lần cao tăng chân tu ngày nay.

Mà cao tăng còn cầu lên được cõi Trời để Chư thiên biết thì cô gái cầu Phật cách đó có 120 dặm bõ bèn gì.

Năng lực của Phật thì hơn Chư thiên.

Đạo đức cô gái thì hơn cao tăng chân tu ngày nay.

Khoảng cách cũng gần hơn.

Thế nên ứng nghiệm là không thể nào sai.Bài học 5: Tâm kẻ ác mờ mịt như đêm đenTâm người lành thiện thì thanh tịnh.

THANH ví như hồ nước trong vắt trên núi cao.

TỊNH ví như mặt nước hồ đó im phăng phắc.

Khi đó tâm vị đó sáng tỏ rõ ràng như ta thấy rõ con cá, cành lá, hòn sỏi, rong rêu trong hồ nước.Còn tâm kẻ ác thì mờ mịt đục ngầu vào loạn động.

Tâm kẻ ác ví như nước sông Tô Lịch ở Hà Nội, đen ngòm thối um.

Còn loạn động thì mặt nước sao sộng sóng gió.

Với cái tâm đó thì Phật cũng không thể thấy gì ở trong chứ đừng nói đến thần thánh ở đâu.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 305: Truyện Tu sỹ độc cư


"Ai ngồi nằm một mìnhĐộc hành không buồn chánTự điều phục chính mìnhSống thoải mái rừng sâu."(XXI-Phẩm Tạp, Pháp Cú 305)Tích Pháp Cú: Có Tỳ kheo cứ thích sống một mình trong rừng.

Các Tỳ kheo khác mới thấy lạ bèn hỏi Đức Phật thì Phật lại khen vị đó: "Vị đó đang tự điều phục chính mình, giữ tâm trong thiền định.

Nên vị đó độc hành không buồn chán, sống thoải mái rừng sâu".

Đức Phật nói điều đó bằng bài kệ:"Ai ngồi nằm một mìnhĐộc hành không buồn chánTự điều phục chính mìnhSống thoải mái rừng sâu."(XXI-Phẩm Tạp, Pháp Cú 305)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Tu trong đại chúngBát Chánh Đạo Phật dạy chia làm 2 giai đoạn.

Năm chánh đạo đầu tiên là tu phúc bằng Thân - Khẩu - Ý. (1) Chánh Kiến và (2) Chánh Tư Duy là tu Ý.Vị đó phải tìm học Chánh pháp, ghi nhớ chánh pháp trong kinh.

Sau đó vị đó phải tư duy lý luận phân tích pháp đó đúng sai, chánh tà.

Thời Đức Phật không có bước này vì 100% lời Phật dạy là đúng chánh pháp.Còn thời nay là thời Mạt Pháp.

Gọi là Kinh Phật lại không phải Phật nói ra mà ai đó nói ra rồi gán ghép cho là Phật nói.

Hay dù là Kinh Phật mà trong đó cũng có những điều sai sai lệch lệch chứ không chuẩn.

Vì không chuẩn Chánh pháp nên ngày nay chẳng ai tu đắc đạo dù người tu vẫn nhiều và các vị vẫn có phúc lớn.

Do vậy ta cần Chánh tư duy là phải phân tích đúng sai bằng lý thuyết Nhân Quả.Ví dụ: "Niệm 1 câu niệm Phật này vô lượng vô biên công đức" là sai vì không làm gì giúp đời thì không có phúc.

Nếu chỉ đơn thuần niệm Phật mà có công đức lớn thì cái đài niệm Phật phúc cực lớn.Ví dụ khác: "Tâm ta có Phật thì không phải tìm Phật ở đâu" cũng sai.

Tâm ta đầy tham sân si, cấu uế, nhiễm ô thì làm gì có Phật trong đó.

Nên ta phải đi tìm Chánh pháp của Phật trong kinh.

"Không thầy đố mày làm nên" không có Phật thì đố mày tu.Sau khi tìm được Chân lý chánh pháp rồi thì ta xét tâm ta có sai ở đâu, đúng ở đâu.

Nếu ta thấy sai thì phải sửa.

Sau đó ta tu (3)Chánh Ngữ (tu Khẩu): nói lời lành thiện, mang điều tốt đẹp cho đời, không nói ác ngữ gây mâu thuẫn thù oán, không nói dối lừa đảo xảo trá, không đe dọa hay chửi bậy, không nói điều vô bổ nhảm nhí mất thời gian người nghe.Sau đó ta tu (4) Chánh Nghiệp (tu Thân) là làm các việc lợi ích cho đời để tích phúc báu to lớn.

Và tu (5) Chánh Mạng là cả đời ta tu Thân - Khẩu - Ý lành thiện để phúc viên mãn.

Đích cuối cùng là ta đủ phúc sinh Thiên giới cõi trời hưởng phúc ngàn năm.

Nếu ta có duyên sinh cõi người thì sẽ làm người lành thiện giàu có, quyền lực.Ở giai đoạn này ta bắt buộc phải sống trong đại chúng thì mới tìm được thầy, học được đạo, sửa tâm ý, sửa lời nói, sửa hành động.

Phải sống trong đại chúng thì ta mới có thể làm thiện giúp đời bằng Thân, Khẩu, Ý mà tích phúc.

Ta sống 1 mình ở núi rừng thì không thể tu phúc hay tìm được đạo.Bài học 2: Tu độc cư đắc đạoSau đó ta phải xuất gia sống không gia đình, xa lìa thế tục và từ bỏ các niệm thế tục.

Đây là bước tiến quan trọng và vô cùng khó nên gọi là (6) Chánh Tinh Tiến (hay Chánh Tinh Tấn).Sao lại khó?

Bởi nếu ta tu vẹn toàn 5 chánh đạo đầu thì ta có phúc lớn, tài sản lớn, quyền lực lớn.

Ta phải từ bỏ các món báu vật trần gian đó để xuất gia tu hành.

Rồi tài sản ta có 1 cái bát, 3 bộ quần áo, đi xin ăn và ngày ăn 1 bữa sau ngọ không ăn...

Nó quá khó.

Còn nếu ta đang nghèo đói, rách nát, vô gia cư.

Rồi ta được vào chùa to đẹp ở, có quần áo sạch sẽ, có đồ ăn ngon thì tu quá có lợi, quá sướng, chẳng khó.Vị tu sỹ phải tu giữ Giới hạnh cụ túc 250 Tỳ kheo giới, 348 Tỳ kheo ni giới vô cùng khổ (tu Giới).

Vị đó phải tu thiền định chiến đấu với nội tâm loạn động (tu Định).

Kết quả là vị đó chứng Trí tuệ Vô thượng Bồ đề A-la-hán (Tuệ giải thoát).

Đó là tu Giới - Định - Tuệ.

Trong thiền định vị đó sẽ chứng (7) Chánh niệm tỉnh giác và (8) Chánh Định là 4 tầng thiền định: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền.Đặc biệt quan trọng: Trong giai đoạn này phải tu độc cư tránh duyên ít tiếp xúc với người khác.

Nên Ngài A-nan tu theo Phật làm thị giả "trăm công ngàn việc" thành ra Ngài tu 43 năm theo Phật mà chẳng đắc đạo.

Nhưng sau khi Phật nhập Niết Bàn thì Ngài chuyên tâm thiền định đúng 7 ngày sau là đắc A-la-hán.

Đó là sáng tinh mơ ngày thứ 8 cũng là sáng khai mạc Đại lễ kết tập kinh điển đạo Phật lần thứ nhất.Bài học 3: Sau khi đắc đạo rồi thì vị đó lại sống bình thường và hòa đồngChính vì không biết điều này nên các vị tu "Lý Không, Cửa Không" luôn nghĩ rằng: "Tu là phải bước vào cửa không, tu là phải thâm sơn cùng cốc, tu là phải từ bỏ thế tục xa lìa trần thế".

Có phải thế đâu.Trong Kinh Đại Thiện Kiến Vương (Trường Bộ Kinh) thì 7 đời sống quá khứ của Phật đã tu viên mãn 5 Chánh đạo đầu rồi.

Khi đó Phật làm Đại Thiện Kiến Vương có 8 vạn 4 ngàn kinh thành, 8 vạn 4 ngàn quốc độ, 8 vạn 4 ngàn tướng quân báu, 8 vạn 4 ngàn xe báu, ngọc nữ báo, voi báu... phúc vĩ đại mà các kiếp sống đó Phật chẳng tu Giới Định Tuệ.Đến đời này thì Phật mới xuất gia tu thiền.

Nếu thuận duyên thì chỉ 49 ngày ngồi thiền dưới gốc Bồ Đề là Phật đắc đạo.

Nhưng vì lúc đầu không thuận duyên nên Phật tu mất 6 năm sai lầm.

Rồi sau khi Phật đắc đạo thì Phật chẳng độc cư nữa.

Phật dành 45 năm thuyết pháp đưa chánh pháp vào đời và có hàng triệu đệ tử cùng 1200 vị A-la-hán.Từ đó ta thấy giai đoạn "thâm sơn cùng cốc, độc cư 1 mình, xa lìa thế gian của Phật" là 49 ngày.

Còn thời gian Phật sống hòa đồng giúp đời là 7 lần làm Chuyển luân thánh vương và nguyên 1 đời này.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Chương 22: PHẨM ĐỊA NGỤC - Pháp Cú 306: Truyện phá đạo Phật


"Nói dối để hại ngườiHoặc làm ác gán tộiCả hai chết giống nhauĐịa ngục và khổ đau."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 306)Tích Pháp Cú: Ta còn nhớ truyện "Pháp Cú 176: Bụng vầu vu khống Phật".

Có cô gái xinh đẹp quy y ngoại đạo.

Rồi cô bị ngoại đạo dụ dỗ.

Họ bày mưu cho cô có bầu giả rồi vu khống cho Phật.

Khi cô đứng lên kết tội Phật là chủ nhân cái thai trong bụng thì Thiên chủ Đế Thích sai thuộc hạ hóa thành đàn chuột đến cắn cô.

Cô ta nhảy nhót chạy thoát lũ chuột thì rớt cái bụng bầu giả xuống.

Cô ta hốt hoảng bỏ chạy.

Từ đó mọi người mới biết "Đạo Phật bị ngoại đạo âm mưu hãm hại rất thâm hiểm".Và truyện tích Pháp Cú 306 này là một sự nâng cấp của âm mưu đó lên tầm cao mới, ác độc hơn, khó đỡ hơn...Thời Đức Phật tại thế thì Đức Phật khuất phục được những vị Đại Vương lớn uy quyền và kiêu mạn ở các nước xứ Ấn Độ.

Ví dụ: vua Ba Tư Nặc của đại quốc Ko-sa-la, vua Bình Sa của đại quốc Ma Kiệt Đà.

Đó là 2 đại quốc lớn nhất.

Còn nhiều vua của các nước nhỏ lân bang đều quy y Phật.Khi vua đã quy y Phật rồi thì các quan thần đều theo vua quy y Phật.

Dân chúng thấy vua quan quy y Phật thì họ cũng quy y theo.

Do vậy ảnh hưởng của đạo Phật càng ngày càng lớn.Trước thời Đức Phật thì Ấn Độ đã có nhiều tôn giáo.

Lớn nhất là đạo Bà La Môn.

Những tu sỹ Bà-la-môn là giai cấp xếp hàng cao nhất trong xã hội Ấn Độ bấy giờ.

Dưới giai cấp Bà-la-môn mới đến giai cấp Sát Đế Lỵ là vua quan hoàng tộc.Ngoài ra còn có nhiều các đạo khác như đạo Ni Kiền Tử gồm: Khổ hạnh Ni Kiền Tử và Lõa thể Ni Kiền Tử, rồi đạo thờ lửa, đạo thờ bò...

Vậy nên khi đạo Phật ảnh hưởng mạnh mẽ thu hút quần chúng thì các tôn giáo ngoại đạo mất nhiều tín đồ.

Thế nên ngoại đạo ra sức chống phá đạo Phật.Sự chống đối trong Tôn giáo không khác gì âm mưu quỷ kế trong Chính trị.

Đơn cử ta thấy Thiên chúa giáo và Hồi giáo đánh nhau suốt hơn 300 năm với 9 cuộc Thập Tự Chinh để chiếm vùng đất thánh Jerusalem.

Còn đánh nhau giữa các Hệ tư tưởng Chính trị: Chủ nghĩa Tư Bản, Chủ nghĩa Phát Xít, Chủ nghĩa Xã Hội... cũng tàn khốc chẳng kém.

Thế nên con người chúng ta luôn: "Cứ gì khác ta là ta ghét.

Không cần biết đúng sai, thiện ác, tránh tà..."

Thời Đức Phật thì các tôn giáo cùng tồn tại trong xã hội, cùng tranh giành ảnh hưởng và thu hút tín đồ.

Họ cứ âm thầm nói xấu nhau, bôi nhọ nhau, hạ bệ nhau để cạnh tranh nhau.Phương pháp chân chính mà họ dùng để cạnh tranh là: Họ tìm trong hàng ngũ đệ tử của họ có ai giỏi về nghị luận đạo pháp thì họ cho vị đó đi thách đấu giáo lý.

Khi chiến thắng giáo lý bằng các trận Hùng Biện thì dân chúng sẽ theo đạo đó.

Tuy nhiên cách này không ổn.

Các tín đồ tài giỏi của họ sau khi thánh đấu với các vị A-la-hán thì đều quay sang quy y đạo Phật hết.Rồi họ dùng phương pháp hiểm độc để vu khống bôi nhọ và hạ thấp uy tín của Phật.

Họ tìm trong đệ tử một cô gái vô cùng xinh đẹp.

Họ thuyết phục cô đó thực hiện âm mưu của họ đã chuẩn bị trước.Mọi người sau mỗi buổi chiều nghe Phật thuyết pháp xong thì ra về.

Từ hôm đó khi về mọi người đều thấy có 1 cô gái vô cùng xinh đẹp đi ngược chiều từ ngoài vào tinh xá.

Sáng sớm hôm sau khi một số cư sỹ đến sớm để quét dọn phụ giúp Chư tăng.

Họ lại thấy cô gái đẹp đó đi từ trong tinh xá ra.

Sự thật là cô gái đó buổi chiều đi ngược với mọi người vào tinh xá.

Khi hết đoàn người thì cô cũng đi ra và ở ngôi nhà sát cạnh Tinh xá.

Sáng hôm sau cô dậy thật sớm đứng ở cửa Tinh xá.

Khi thấy thấy mọi người đi vào thì cô giả bộ từ trong đi ra.Sự việc đó diễn đi diễn lại một thời gian dài và mọi người bắt đầu xì xầm bàn tán.

Rồi cô gái đó có bầu và cái bụng lớn dần lớn dần ai cũng thấy.

Một hôm mọi người không thấy cô đó đâu nữa.

Rồi gia đình cô gái đó đến Tinh xá tìm con.

Họ miêu tả thì đúng cô gái có bầu đó.

Rồi sự việc cô gái bị mất tích được làm trầm trọng và rất đông "họ hàng gia đình" cô đi tìm.

Họ điều tra dò hỏi khắp mọi người gia chủ cư sỹ hay đến Tinh xá Phật.Sau đó có thuyết âm mưu lan rộng trong dân: "Cô gái đó chiều nào cũng vào tinh xá và sáng sớm thì đi ra.

Ai ai cũng thấy điều đó.

Rồi cô ta có bầu và bụng lớn dần thì mất tích.

Rất có thể cô ta có bầu với chư tăng trong tinh xá rồi bị giết để bịt đầu mối".

Đó là thuyết âm mưu do ngoại đạo bịa đặt nhưng nhiều người tin vì chính mắt họ thấy vậy.Rồi mọi người tìm ra xác cô gái bị giết chết chôn ở vườn sau Tinh Xá.

Gia đình cô gái đó rất đông người lũ lượt kéo đến khóc than và kết tội Tỳ kheo.

Rồi vua Ba Tư Nặc đã đứng ra nhận việc điều tra chân tướng sự thật.

Vua khuyên "Gia đình cô gái" cứ bình tĩnh mang xác cô về làm lễ an táng để vua điều tra.Chuyện đó lớn đến mức làm toàn dân thành Xá Vệ hoang mang.

Nếu ai chưa chứng Sơ quả Dự Lưu thì tâm đều bị lay động và nghi ngờ Tỳ kheo làm ác.

Còn các vị chứng Sơ quả Dự Lưu thì chấm dứt kiết sử Nghi.

Nên các vị tin tưởng tuyệt đối vào Đức Phật.Có điều đặc biệt là toàn bộ các vị A-la-hán có thần thông và cả Đức Phật thần thông vĩ đại mà không phản ứng chuyện này.

Với mưu mô hiểm độc đó thì chỉ lần đầu tiên cô gái bước vào Tinh xá thì Phật đã thấy tâm địa và âm mưu của cô.

Sao Đức Phật cứ để vậy đến mức cô ta có bầu rồi bị giết xác vùi ở vườn sau Tinh xá.

Cái đó ta sẽ bàn sau.Đức Phật và Chư tăng vẫn bình thản ôm bát đi khất thực trong thành mà không phân bua giải thích với ai.

Các gia chủ cư sỹ với tâm lung lay nghi ngờ thấy các vị thì đóng cửa không cúng dường.

Chỉ có những vị có tâm kiên cố với chánh pháp thì vẫn cúng dường Phật và Chư tăng."

Pháp Cú 176" thì cô gái có cái bụng bầu giả khi đang kết tội Phật thì bị đàn chuột do Thiên chủ Đế Thích phái xuống bu kín vào cô.

Cô ta la hét nhảy nhót thì rớt cái bụng bầu giả ra.

Ta thấy rõ rằng: "Phật và các vị A-la-hán có thể Nhẫn nhục Ba-la-mật chịu đựng như đang trả nợ ác nghiệp.

Còn các vị đệ tử của Phật sẽ làm Hộ pháp bảo vệ Chánh pháp, bảo vệ Đức Phật và bảo vệ lẽ phải."

Lần này không phải vua trời Đế Thích ra tay mà vua Ba Tư Nặc ra tay.

"Tích Pháp Cú 47: Truyện vua Ba Tư Nặc và dòng họ Thích Ca diệt vong".

Ta biết vua Ba Tư Nặc vô cùng âm mưu thủ đoạn.

Vua đầu tiên đến với Phật không phải vì mến đạo mà vì vua thấy vua Bình Sa quy y Phật.

Rồi ông nhà giàu nhất nước Ko-sa-la là Cấp Cô Độc thì quỳ lạy Phật từ xa khi Phật đến nhà ông thọ thực.

Thế nên vua Ba Tư Nặc lật đật chạy đến quy y Phật là để lấy lòng vua Bình Sa và ông Cấp Cô Độc.Khi làm đệ tử Phật rồi thì vua còn muốn kết tình thâm giao họ hàng với Phật.

Thế là vua Ba Tư Nặc mới xin được cưới một nàng công chúa nước Thích Ca về làm vợ.

Chính vì mưu mô đó đã sinh ra Hoàng tử Lưu Ly.

Chuyện còn dài nhưng ta chỉ cần biết đến đây để hiểu vua Ba Tư Nặc là người thế nào.

Nói về độ mưu mô xảo quyệt mà vua Ba Tư Nặc đứng thứ 2 thì không ai dám nhận đứng thứ 1.Nên khi chuyện xảy ra với Tinh xá Phật vua đã biết là một âm mưu.

Bởi không ai giết người rồi lại mang cái xác vùi ở vườn sau lộ liễu thế cả.

Vua là đệ tử thuần thành của Phật nên quá hiểu rằng không bao giờ Phật làm vậy hay Chư tăng làm vậy.Thế là vua Ba Tư Nặc tung thám báo đi khắp nơi hang cùng ngõ hẻm điều tra.

Sau khi điều tra rõ ràng chân tướng và thủ phạm thì vua cho bắt hết toàn bộ.

Sau đó vua mang ra pháp trường kết tội trước toàn dân để giải nỗi oan cho Phật.

Rồi vua cho chặt đầu bộ.

Lần đó số kẻ tội phạm bị chặt đầu cũng lên đến vài trăm tên.Các Tỳ kheo chưa chứng đạo trước đó thì uất ức chứ không thể bình an nhẫn nhục như các vị A-la-hán hay Phật.

Đến khi vua Ba Tư Nặc giải oan ức cho đạo Phật xong thì các Tỳ kheo đó hả hê sung sướng.

Rồi các vị đó hỏi Đức Phật rằng kẻ ác chết xong sẽ đi về đâu?

Đức Phật mới đọc bài kệ:"Nói dối để hại ngườiHoặc làm ác gán tộiCả hai chết giống nhauĐịa ngục và khổ đau."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 306)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Tâm đố kị Bản chất con người luôn có Tâm đố kị.

Tâm đố kị nằm trong kiết sử Thân Kiến.

Bởi ta muốn ta được vinh quang, được vĩ đại, được trọng vọng, được vẻ vang... thế nên ai hơn ta, vinh quang hơn ta thì ta sẽ đố kị, ghen ghét, thù hằn, muốn hại kẻ đó.

Khi đó ta không bao giờ nghĩ rằng: "Vị đó vinh quang hơn ta do vị đó giỏi hơn ta, đạo đức hơn ta hoặc giàu có trí tuệ hơn ta..."

Cái đó ta không quan tâm.

Cứ ai vinh quang được trọng vọng hơn ta là ta thù ghét.Thế nên kẻ chuyên nói xấu đời, thù ghét xã hội, thù ghét chế độ, chê bai lãnh đạo đất nước... bản chất là những kẻ có tâm đố kị và mắc bệnh đố kị trầm trọng.

Và con gái thì mắc bệnh đố kị nhiều hơn con trai.

Con gái buôn chuyện 1 hồi kiểu gì cũng nói xấu người thứ 3.

Con trai buôn chuyện 1 hồi kiểu gì cũng khoe khoang, chém gió, thùng rỗng kêu to.Kiết sử Thân Kiến là kiết sử thấp kém nhất trong 10 Kiết sử mà Phật dạy.

Kẻ bị Thân kiến thì đố kị, ghen ăn tức ở, tham lam, keo kiệt, hà tiện, bủn xỉn...

Một vị chứng Sơ quả Dự Lưu sẽ diệt 3 kiết sử 1-Thân Kiến, 2-Giới cấm thủ: là tâm cố chấp, bảo thủ, trì trệ và 3-Nghi: là tâm kiên cố vào Chánh pháp.Vậy tức khi nào ta làm thánh thì ta sẽ không còn đố kị.

Nếu ta chưa chứng thánh thì ta vẫn đố kị.

Thế cho nên ta đừng chủ quan.

Đã làm người thì đều có tâm đố kị.

Khi nào làm thánh mới hết đố kị.Bài học 2: Quả báo của tâm đố kị Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt (Trung Bộ Kinh) thì Đức Phật nói về quả báo của nghiệp đố kị như sau:"Ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, tật đố (ghen tị) đối với người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường.

Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải bị quyền lực nhỏ".Vậy tức vì quyền lực, vì danh vọng, vì vẻ vang mà một người khởi tâm đố kị với người khác được tôn trọng, cung kính, tôn sùng.

Nhưng quả báo của nghiệp đố kị khiến kẻ đó sinh vào cõi dữ: Địa ngục, súc sinh, ngã quỷ.

Nếu kẻ đó còn phúc duyên sinh trong cõi người thì người đó sẽ có quyền lực là hèn hạ.

Kẻ hèn hạ thì sẽ bị người khác khinh thường, dè bủi, chê bai.

Luật Nhân Quả của đố kị là vậy.Bài học 3: Quả báo của tội vu oan giá họa"Nói dối để hại ngườiHoặc làm ác gán tộiCả hai chết giống nhauĐịa ngục và khổ đau."

Tâm đố kị là nói về tâm lý.

Rồi từ tâm lý đó kẻ đó sẽ không dừng lại.

Kẻ đó sẽ nâng cấp lên cao thành lời nói, hành động.

Lời nói kẻ đó là nói xấu, vu khống, vu oan, giá họa.

Hành động là kẻ đó giết người rồi đổ tội cho người khác.

Hoặc kẻ đó làm điều xấu ác rồi tìm cách đổ tội cho người.

Quả báo khổ lúc này là viên mãn.

Kẻ đó sẽ đọa Địa ngục chứ chẳng thể thoát hay có cơ hội sinh làm người.Bài học 4: Sao Phật không phản ứng gì?Ta thấy Đức Phật với thần thông vĩ đại thì chắc chắn Phật biết trước tương lai.

Hoặc khi cô gái đó bước vào Tinh xá thì Phật sẽ lập tức biết rõ tâm địa xấu ác mưu mô hiểm độc trong lòng cô.

Thế sao Phật không phản ứng gì?Để trả lời câu hỏi đó thì ta phải trả lời câu hỏi sau: "Kết quả cuối cùng kết thúc câu chuyện là thế nào?"

Đó là vua Ba Tư Nặc đã tìm ra thủ phạm và minh oan cho Phật.

Đạo Phật được phục hồi danh dự và các gia chủ cư sỹ trước đây nghi ngờ Đức Phật thì nay hối hận mà nguyện tin tưởng vào Phật sâu sắc.

Rồi những kẻ theo ngoại đạo có đạo đức thì từ bỏ ngoại đạo quy y theo Phật.

Rồi những kẻ có tâm ác nhìn thấy cảnh hàng trăm người tham gia âm mưu hại Phật bị chặt đầu thì hoảng sợ không bao giờ dám bày mưu hại Phật nữa.Đó là kết quả cuối cùng mà Đức Phật đã nhìn ra từ trước.

Thế nên Phật để tự nhiên duyên tạo thành quả báo.

Phật không ngăn cản, không phân trần cãi nhau với ngoại đạo.

Quan trọng ta hãy nhìn vào kết quả cuối cùng chứ đừng nhìn vào 1 chốc 1 lát ở giữa dòng sự kiện.Còn 3000 vị Tỳ kheo học theo Phật tu "hạnh nhẫn nhục Ba-la-mật" ở đại học Na-lan-đa.

Năm 1193 khi 3000 vị thấy 100 tên lính Hồi Giáo người Turk mang gươm vào tu viện thì các vị ngồi đó để cho chúng chém giết.

Kết quả cuối cùng là đạo Phật ở xứ Ấn Độ sau sự kiện đó thì hoàn toàn biến mất.Mãi gần đây Phật Giáo Ấn Độ mới được phục hồi.

Rất tự hào là Việt Nam ta cũng góp công phục hồi Phật Giáo Ấn Độ.

Gần Bồ Đề Đạo Tràng đến nay đã xuất hiện 4 ngôi chùa Việt Nam: (1) Việt Nam Phật Quốc Tự, (2) chùa Độ Sanh, (3) chùa Viên Giác, (4) tinh xá Kỳ Hoàn.Và tôi mơ ước những Truyện tích Pháp Cú này được dịch ra tiếng Ấn Độ mà truyền bá ngược vào xứ Ấn Độ.

Bởi vì sao?

Bởi truyện tích này chính là Lịch sử Ấn Độ thời cổ đại khi đạo Phật ra đời.

Chính người Ấn Độ cũng chưa chắc đã biết được nguồn sử liệu quan trọng này.

Nhưng vì sử liệu có gắn với Truyện tích Kinh Pháp Cú nên kinh lưu giữ đến nay thì Sử cũng được lưu giữ theo.Nếu được vậy thì dân Ấn Độ sẽ theo quy y đạo Phật rất đông vì niềm tự hào dân tộc họ.Bài học 5: Hộ pháp trong đạo PhậtHộ Pháp trong đạo Phật có 2 vị tượng trưng cho 2 phẩm cách đạo đức.

Đó là Thưởng Thiện - Phạt Ác, hay Khuyến Thiện - Trừng Ác.

Vị thứ nhất thì hỗ trợ người thiện, khuyến khích người thiện, tán dương, sách tấn... giúp người thiện tinh tấn đi trên con đường thiện mãi mãi.

Vị thứ hai thì trừng phạt kẻ ác, ngăn chặn điều ác.

Vị đó khiến kẻ ác sợ hãi mà chùn bước không dám tiến tới.

Ở truyện tích này thì vị hộ pháp Trừng Ác chính là vua Ba Tư Nặc.Thật ra 2 vị đó chính là Luật Nhân Quả: "Kẻ thiện sẽ được quả báo lành ban thưởng cho hạnh phúc.

Kẻ ác sẽ bị quả báo dữ trừng trị trong đau khổ".
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 307: Truyện Tỳ kheo không trừ ác hạnh


"Nhiều người khoác Cà-saNhưng không trừ ác hạnhKhông làm đúng bổn phậnChết đọa vào Địa ngục."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 307)Tích Pháp Cú: Ta biết Kinh Hàng Ma (Trung Bộ Kinh) kể về Đức Mục Kiền Liên thời Đức Phật Câu Lưu Tôn là Đại Ác ma Du-si.

Ác ma đã phá hoại tăng đoàn Đức Phật thời đó rồi bị quả báo đọa Địa ngục 1 vạn năm.

Đến đời này Ngài đủ phúc duyên nên được gặp Phật Thích Ca tu hành đắc đạo là Đại thánh thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử Phật.Chính vì kiếp xưa Ngài là Đại Ma Vương nên năng lực cảm ứng tâm linh của ngài tới cõi quỷ thần mạnh mẽ.

Ngài thường thấy được chúng sinh trong cõi quỷ thần.

Lần đó Ngài thấy nhiều con quỷ chỉ còn bộ xương khô đi lang thang khổ sở.

Rồi Ngài kể lại cho các Tỳ kheo nghe.

Các Tỳ kheo đó bèn mang chuyện đó đi hỏi Đức Phật.

Phật khẳng định rằng đúng.

Phật còn nói thêm rằng:- Này Tỳ kheo, những con quỷ chỉ còn bộ xương khô đi lang thang khổ sở đó là các Tỳ kheo thời Phật Ca Diếp.

Các vị đó tu không chân chính, tâm còn ác hạnh.

Các vị nhận sự cúng dường của gia chủ nhưng không làm tròn bổn phận người tu nên quả báo nặng hơn người thường.

Các vị đó chết đọa Địa ngục nhiều ngàn năm.

Đến đời này thoát Địa ngục thì sinh vào cõi Ngã quỷ với thân hình là bộ xương khô đi lang thang khổ sở.Nói xong Phật đọc bài kệ:"Nhiều người khoác Cà-saNhưng không trừ ác hạnhKhông làm đúng bổn phậnChết đọa vào Địa ngục."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 307)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Phá hoại đạo PhậtĐạo Phật là đạo duy nhất mang đến Chân lý Chánh pháp cho đời.

Các đạo khác dù là Chánh đạo cũng chỉ dạy tu đắc đạo sinh cõi trời là viên mãn tột cùng.

Cõi trời tuy cũng là đích đến đạo đức tốt đẹp nhưng không phải là Chân lý tuyệt đối.

Bởi các vị trời sung sướng hạnh phúc ngàn vạn năm là tiêu phúc.

Khi phúc hết thì các vị lại đọa xuống cõi thấp.

Nếu tội vị trời đó nặng thậm chí vẫn đọa vào ác đạo.Chỉ duy nhất đạo Phật dạy tu thiền định, diệt Kiết sử, diệt Vô minh, chứng Tam minh, đắc đạo Vô thượng Bồ Đề.

Sau khi từ giã cõi người thì vị thánh Vô Thượng Bồ Đề đó sẽ vào một nơi nằm ngoài Luân hồi đau khổ.

Nơi đó tịnh diệt, không sinh không tử, không khổ, Ngũ Uẩn là không (Vô Ngã hoàn toàn).

Nơi đó là Niết Bàn.

Và Niết Bàn là Chân lý tuyệt đối của Chánh pháp đạo Phật.Nên ai phá hoại đạo Phật thì quả báo là đọa Địa Ngục chứ không phải bàn cãi.

Có 3 cách phá đạo:Cách 1 - Phá hoại từ ngoài vào: Giống Tích Pháp Cú trước ta thấy ngoại đạo âm mưu vu khống Đức Phật "Làm cô gái có bầu rồi giết hại cô ta chôn xác ở vườn sau".

Rồi vua Ba Tư Nặc điều ta ra hung thủ thì vua cho chém đầu hết sạch để minh oan cho Đức Phật.

Sau lần đó thì đạo Phật lại tăng uy tín mạnh mẽ hơn trước.Cách 2 - Phá hoại từ trong ra: Tức bên ngoài không có ai vu khống hay âm mưu hãm hại Đức Phật.

Nhưng chính các tu sỹ đạo Phật lại có tâm ác độc và làm ác.

Họ phóng túng buông thả, tà dâm, cướp, hiếp, giết, đạo đức ô uế, giao phối loạn luân, "thầy ông nội"...

Chính sự phá hoại từ bên trong ra đó mới phá tan đạo Phật.Cách 3 - Phá hoại trực tiếp vào Chánh pháp: Đây là cách phá hoại thâm hiểm nhất, khó đỡ nhất.

Họ đã cài cắm triết lý sai lầm, đạo học sai lầm lẫn vào trong Chánh pháp Kinh Phật.Cách phá hoại thứ 3 này tôi không đủ trí tuệ để phân tích.

Muốn phân tích được đúng sai trong các kinh Phật Giáo phát triển thì tôi phải chứng đạo cao hơn các Tổ nói ra kinh, có thiền định thâm sâu hơn các Tổ và Tuệ giác ngộ cao hơn các Tổ.

Nhưng điều đó là không thể.Ai phá hoại đạo Phật đều đọa Địa Ngục hết thảy.

Tội đó là tội vô cùng nặng tới mức từ thời Phật Ca Diếp đến nay kẻ đó vẫn chưa thoát Ác đạo.Bài học 2: Tỳ kheo mà ác hạnhNgười tu mang hình tướng là đạo đức thánh thiện lại làm ác thì quả báo nặng gấp nhiều lần kẻ phàm phu làm ác.

Ta tạm gọi họ là "Ác Tăng" cho ngắn gọn dễ hiểu.

Vì sao Ác tăng lại bị quả báo nặng vậy?

Quả báo nặng nề đến với Ác tăng là bởi:1.

Ác Tăng đã phá hoại đạo Phật từ trong ra.

Họ làm thối tâm người tin vào Đức Phật và Chánh pháp.2.

Người dạy đạo đức cho đời, biểu tượng của đạo đức mà làm ác thì phá tan đạo đức cuộc đời.3.

Ác Tăng mang hình tướng thầy tu là đạo đức mà lại làm ác thì mắc thêm tội lừa đảo dối trá.4.

Ác Tăng nhận cúng dường của người thì phải ban phúc cho người.

Vì ban phúc nên họ không còn phúc để ngăn tội.

Mà người cúng dường cho Ác Tăng thì mắc tội tiếp tay cho kẻ ác, hỗ trợ cái ác.5.

Ác Tăng nhận sự cung kính lễ lạy của người đời.

Đó là vinh quang của các vị thánh.

Mà họ lại làm ác thì quả báo thê thảm hơn bình thường.Bài học 3: Tỳ kheo không làm đúng bổn phận"Nhiều người khoác Cà-saNhưng không trừ ác hạnhKhông làm đúng bổn phậnChết đọa vào Địa ngục."

Pháp Cú ta thấy Đức Phật nói rằng: "Ác Tăng bị tội đọa Địa Ngục là điều dễ hiểu.

Nhưng người tu không làm đúng bổn phận cũng bị tội đọa Địa Ngục."

Bổn phận của Sư là: (1) Tinh tấn tu hành. (2) Giữ giới hạnh cụ túc. (3) Sống hộ trì các căn. (4) Ăn uống có tiết độ. (4) Tinh tấn tu thiền định. (5) Tu học Chánh pháp trong kinh. (6) Dạy đạo lý Chánh pháp cho đời. (7) Làm thiện tích phúc giúp đời.Nếu người thường không làm 7 điều trên thì không bị tội.

Còn người tu không làm thì tội nặng.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 308: Truyện Quảng cáo láo


"Tốt hơn nuốt sắt nóngCháy đỏ như lửa hừngCòn hơn là nói dốiĐể được người cúng dường."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 308)Tích Pháp Cú: Ở xứ Vê Sa Li (Tỳ Xá Ly) là đất nước mà Đức Phật đã có lần cứu giúp dân chúng thoát khỏi nạn hạn hán, đói khát, dịch bệnh và bị ma quỷ lộng hành.

Sau đó dân chúng xứ đó quy y theo Phật rất đông.

Số lượng Tỳ kheo xuất gia tu hành theo Phật cũng rất đông.Hoàng tử Ma-ha-li người đã chứng Sơ quả Dự Lưu là người có công mời Phật về cứu đất nước.

Hoàng tử đã xây cúng dường Đức Phật và Chư tăng Tinh xá Đại Lâm "Giảng đường có nóc nhọn".Khi quần chúng quá hâm mộ đạo Phật và ai ai cũng phát tâm cúng dường Tỳ kheo thì xuất hiện hệ quả xấu.

Đó là "Có nhiều kẻ tham lam thấy làm Tỳ kheo có nhiều lợi ích thì họ xin xuất gia với mục đích thu lợi tức cúng dường".

Ta tạm gọi họ là "Phàm Tăng" vì họ tu với mục tiêu phàm tục là nhận đồ cúng dường.

Thời nay thì lý tưởng giải thoát giác ngộ Niết Bàn không còn nên tu sỹ tu với mục đích "Có cuộc sống vật chất no ấm" rất nhiều.

Nhưng thời Đức Phật, Tỳ kheo tu với mục đích này rất hiếm.Rồi các Phàm Tăng này có độc chiêu vô cùng thâm hiểm "hiếm có khó tìm".

Thường các Tỳ kheo tham lam muốn được cúng nhiều sẽ đi chê bai lẫn nhau để dân cúng họ mà không cúng vị khác.

Còn Phàm Tăng ở Vê-sa-li lại âm thầm thỏa thuận với nhau là sẽ khen ngợi tán dương lẫn nhau để dân chúng cúng người trong bọn họ.Thế rồi ông A thường khen ông B là: "Vị Tỳ kheo B đó là thánh nhân đắc đạo".

Rồi ông B lại khen ông A: "Vị Tỳ kheo A đó đắc thiền định thâm sâu có thần thông".

Dân chúng mắc mưu nên cứ nhằm các ông đó cúng dường.

Chuyện đó đến tai Đức Phật và Phật gọi các vị Tỳ kheo "Phàm tăng" lên hỏi:- Này Tỳ kheo, vì sao dân chúng hay cúng dường các ông vậy?Các ông đó bị Phật xét hỏi thì câm nín nhìn nhau rồi nhìn Phật.

Họ thấy Đức Phật nghiêm quá nên phải nói thật:- Bạch Thế Tôn, huynh đệ chúng con xuất gia tu hành cùng nhau mà lại nói xấu nhau là điều không tốt.

Thế nên chúng con thường chỉ hay nói tốt cho nhau mà thôi.

Còn dân chúng họ cúng dường cho chúng con nhiều hơn mọi người chắc là vì duyên.Đức Phật biết rõ các Tỳ kheo đó nói dối.

Họ khen ngợi lẫn nhau không đúng thực tế để được cúng dường nhiều, nay gọi là "Quảng cáo láo".

Đức Phật bèn đọc bài kệ để răn dạy Tỳ kheo:"Tốt hơn nuốt sắt nóngCháy đỏ như lửa hừngCòn hơn là nói dốiĐể được người cúng dường."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 308)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Xã hội quá đông người tu là không tốt Thời Đức Phật thì Tỳ kheo tu với mục tiêu giác ngộ, đắc đạo giải thoát Luân hồi.

Thế nên số lượng người tu càng đông thì càng nhiều vị đắc đạo chứng thánh.

Thời nay là thời Mạt Pháp tức Chánh pháp đã bị sai lệch nên chẳng còn ai tu đắc đạo làm thánh nữa.

Thời nay Chư tăng có mục tiêu khác là gìn giữ Chánh pháp của Phật và dạy dân chúng đạo đức.

Vậy nên ta gọi là "Sư" tức là "Thầy" và đó là "Vị thầy dạy đạo đức cho dân".Mà thầy thì không cần quá nhiều.

Thời Đức Phật nhiều người tu thì nhiều người đắc đạo làm thánh.

Thời nay nhiều người tu thì nhiều thầy mà thánh thì chẳng có ai.

Rồi các thầy cạnh tranh nhau kêu gọi cúng dường thành gánh nặng kinh tế xã hội.

Mà phúc Sư không đủ giúp dân phát triển thịnh vượng.Nên các nước Phật Giáo là Quốc giáo lại là các nước nghèo: Srilanka, Lào, Campuchia, Myanmal...

Có Thái Lan là nước Phật giáo giàu nhất cũng chỉ có nền kinh thế trung bình.

Nhật Bản là nước Phật giáo trong lý thuyết.

Dân Nhật Bản gần như không biết đến đạo Phật.

Các Sư ở Nhật Bản chỉ làm nghi thức cúng đám ma chứ không dạy đạo đức.

Sư Nhật Bản lấy vợ sinh con cha truyền con nối giữ ngôi chùa.Ở Myanmar có truyền thống dân chúng mua vàng 9999 lát mỏng rồi dát lên chùa cúng Phật.

Ở đó có ngôi chùa Shwedagon mà dân chúng dát vàng lên đến 90 tấn.

Ngoài ra chùa còn có 5448 viên kim cương, 2317 viên hồng ngọc, đỉnh tháp có viên kim cương 76 carat (15 g).

Đó là 1 trong hàng ngàn ngôi chùa dát vàng thật ở Myanmar (Riêng Bagan đã có 2200 ngôi chùa).

Trong khi người dân Myanmar rất nghèo.

GPD đầu người 2022 là 1096 USD/ng là một trong 25 nước nghèo nhất Thế giới.Thời Lý theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì số lượng Chư tăng chiếm 1/3 dân số.

Thời Lý xây dựng hơn 1500 ngôi chùa.

Riêng Quốc Sư Nguyễn Minh Không đã cho xây dựng hơn 500 ngôi chùa.

Hoàng Hậu Nguyên Phi Ỷ Lan cho xây hơn 150 chùa.

Không rõ thời Lý tỷ lệ chân tu là bao nhiêu?

Giả tu để kiếm lợi là bao nhiêu?

Chỉ biết Sử gia Lê Văn Hưu phê bình xã hội thời Lý mộ đạo Phật thái quá.Truyện Pháp Cú này thì ta thấy: "Khi xã hội mà dân chúng quá hâm mộ đạo Phật.

Dân cúng dường Tỳ kheo đầy đủ và nhiều vật chất.

Khi đó tự nhiên sẽ xuất hiện những kẻ cơ hội và lợi dụng.

Họ cũng xuất gia làm Tỳ kheo nhưng không có mục đích tu hành.

Họ xuất gia với mục đích lợi ích.

Thậm chí họ còn bày mưu tính kế để thỏa mãn lòng tham".Còn Việt Nam ta thời Phật giáo bị đàn áp bởi Ngô Đình Diệm lại xuất hiện nhiều vị cao tăng uy đức: Hòa Thượng Thích Minh Châu đã dịch toàn bộ Đại Tạng Kinh Nikaya từ tiếng Pali sang Tiếng Việt.

Hòa Thượng Thích Thanh Từ khôi phục thiền tông Việt Nam xây mới 78 thiền viện thiền tự (18 ở Hải ngoại), 100 đạo tràng tu thiền, quy y cho 84.860 Phật tử.

Ngài viết 15 tác phẩm lý luận phân tích về Phật Giáo.

Rồi Thiền sư Thích Nhất Hạnh ở Làng Mai (Pháp).Bài học 2: Âm mưu phá hoại đạo Phật Ta đã phân tích có 3 loại hình âm mưu phá hoại đạo Phật ở bài trước🙁1) Nói xấu, vu khống, vu oan giá họa cho Phật.

Như lần ngoại đạo vu khống Đức Phật làm cô gái mang bầu rồi giết cô chôn xác ở vườn sau Tinh xá.(2) Các Tỳ kheo là Ác Tăng làm điều ác hành, ác hạnh, ô uế, xấu xa, bỉ ổi, tà dâm, loạn luân...

Như các Ác Tăng thời Phật Ca Diếp đến nay vẫn là những con quỷ bộ xương khô lang thang đói khát đau khổ.

Rồi Đức Mục Kiền Liên nhìn thấy trong cõi Ngã quỷ.(3) Lồng ghép các tà kiến vào trong Kinh Phật khiến Kinh Phật không còn đúng Chân lý Chánh pháp nữa.

Nên từ khi đạo Phật bước sang thời Mạt Pháp thì các pháp ghi trong kinh bị sai lệch, không còn chuẩn đúng Chân lý Chánh pháp... nên không ai tu chứng A-la-hán nữa.Và Tích Pháp Cú này cho ta thêm 1 phương pháp phá hoại đạo Phật nữa.(4) Ngoại đạo dựng lên 1 thứ đạo tương tự đạo Phật, cũng thờ Đức Phật, cũng nói về đạo đức từ bi...

Rồi họ tung tiền thuê người khen tặng vị đó là: Vô Thượng Sư, Bồ Tát tái sinh, sánh ngang bằng Đức Phật.

Thế là nhiều người thấy có vị đó được khen tặng thì tin rồi quy y vị đó.

Sau đó họ mang hết tiền bạc của cải tài sản ra cúng dường vị "Vô Thượng Sư".Ở Việt Nam thì "Ngụy đạo Phật" khó phát triển bởi có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Nhưng ở các nước Phật Giáo chưa có Giáo Hội thì "Ngụy đạo Phật" phát triển.

Quả báo đến với kẻ "Ngụy đạo Phật" thì khổ hơn nhiều so với đọa địa ngục.

Dù bị nuốt hòn sắt nóng đỏ với toàn thân bùng cháy không khổ bằng.Bài học 3: Tội quảng cáo láoĐây là bài học sâu sắc dành cho ai "Quảng cáo láo" sản phẩm của họ.

Đa phần sản phẩm tốt 1 thì họ quảng cáo thành tốt 10.

Không bao giờ sản phẩm tốt 1 mà họ nói tốt 1 cả.

Đã quảng cáo là phải cường điệu hóa.

Tuy nhiên người phàm quảng cáo cường điệu hóa tội không nặng bằng các Tỳ kheo "Quảng cáo láo" cho nhau.

Các vị cũng nói cường điệu hóa để thu lợi giống hệt quảng cáo sản phẩm bây giờ.

Thế sao Tỳ kheo lại bị tội nặng vậy?Bởi Tỳ kheo tu làm thánh đòi hỏi đạo đức cao cấp hơn người thường.

Ví dụ: Cư sỹ chỉ thọ 5 giới còn Tỳ kheo phải thọ 250 giới.

Vậy mà giới "Cấm nói dối" của Cư sỹ mà Tỳ kheo vẫn phạm thì tội sẽ nặng hơn Cư sỹ nói dối.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 309,310: Truyện ông đào hoa háo sắc


"Bốn nạn chờ đợi kẻPhóng túng theo vợ ngườiMắc họa ngủ không yênÔ danh đọa Địa ngục."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 309)"Vướng họa đọa ác thúLòng lo sợ bất anBị luật pháp trừng phạtVậy chớ theo vợ người."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 310)Tích Pháp Cú: Ông Cấp Cô Độc có người cháu trai tên là Khê-ma rất háo sắc và đào hoa.

Anh ta là cháu ông Cấp Cô Độc lên rất giàu và có nhiều gái theo đuổi.

Nếu con gái không tử tế hoặc gái bán hoa theo đuổi thì không ai chê vì thời đó lầu xanh có nhiều.

Nhưng "Khẩu vị" của anh ta lại là gái nhà lành và gái đã có chồng.

Vì anh có số đào hoa nên nhiều cô có chồng rồi vẫn dâng hiến tất cả cho anh.Nên anh nhiều lần bị đánh ghen, bị chồng các cô tố giác và bị ô nhục, thậm chí còn bị giải lên quan xét xử.

Nhưng quan ở đó biết anh là cháu ông Cấp Cô Độc nên xử nhẹ phạt tiền rồi cho về.Ông Cấp Cô Độc khốn khổ vì "ông cháu".

Rồi ông thuyết phục được "ông cháu" đi lên gặp Đức Phật.

Ông Cấp Cô Độc trình bày với Phật sự tình và nhờ Phật dạy bảo đứa cháu.

Phật mới dạy Khê-ma bằng bài pháp cảnh báo sự nguy hiểm của tà dâm: "Bốn nạn chờ đợi kẻPhóng túng theo vợ ngườiMắc họa ngủ không yênÔ danh đọa Địa ngục."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 309)"Vướng họa đọa ác thúLòng lo sợ bất anBị luật pháp trừng phạtVậy chớ theo vợ người."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 310)Tuy nhiên cũng không phải tự dưng Khê-ma bị tật tà dâm vậy.

Nguyên nhân từ kiếp quá khứ thời Đức Phật Ca Diếp.

Lúc đó Phật đã nhập Niết Bàn và chùa tháp được xây dựng khắp nơi để thờ tự.

Khê-ma thời đó cũng làm phúc xây chùa dựng tháp cúng Phật.

Nhưng người khác thì cầu những thứ cao đẹp.

Còn anh chàng đó vì vô duyên ế vợ nên cầu "Xin Phật cho con được nhiều con gái theo đuổi.

Cô gái nào thấy con cũng thương yêu con".

Quả báo là nhiều đời sau đó anh tái sinh đều đào hoa rồi bị đánh ghen, bị quan tòa xét xử.

Và đời này cũng vậy.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Kinh Phật nói về tội tà dâmKinh Saleyyaka Sutta (Trung Bộ Kinh) thì Phật nói về tội "Tà dâm" như sau:"Người ấy sống tà hạnh đối với các dục lạc, giao cấu với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở. (Tức là: hiếp dâm trẻ vị thành niên, hiếp dâm con gái nhà lành, án phạt nặng nhất ngày nay cho tội này là tử hình), hạng nữ nhân đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ (Tức là: Ngoại tình với vợ người), cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa (Tức là: "Gái bán hoa" hay gái mại dâm)".Vậy "Tà dâm" là ngoại tình với vợ người, hiếp dâm trẻ vị thành niên, hiếp dâm con gái nhà lành và mua bán mại dâm.

Ngày nay pháp luật cũng quy định đó là tội và có mức án phạt cho các tội đó.

Tội hiếp dân trẻ vị thành niên án nặng nhất là Tử hình.

Tội hiếp dâm con gái nhà lành thì án tù lên đến 15 năm.Bài học 2: Tà dâm và Thú tínhTình dục như tôi đã nói nhiều thì đó là "Bản năng duy trì nòi giống".

Con người hay con vật trước tiên đều là các loài sinh vật nên cùng có 2 loại bản năng: (1) Sinh tồn và (2) Duy trì nòi giống.

Bản năng sinh tồn là: Hít thở, ăn, ngủ, bài tiết.

Còn bản năng duy trì nòi giống là Tình dục.Loài vật nào bản năng duy trì nòi giống kém thì thế hệ con cháu lụi tàn, giống loài đó bị tuyệt chủng.

Còn khi điều kiện môi trường thuận lợi, nguồn thức ăn phong phú thì loài vật đó quan hệ tình dục nhiều sinh con đẻ cái nhiều.

Và con người cũng "Ăn no thì rửng mỡ" vậy thôi.

Đó là quy luật tự nhiên.Nhưng con người khác con vật là Tình dục phải tuân theo luật pháp, văn hóa, đạo đức, phong tục chứ không được tình dục bừa bãi.

Con vật cứ đến kỳ động dục thì chúng quan hệ tình dục bừa bãi để thụ tinh mà sinh con.

Còn con người thì luật pháp văn hóa đạo đức quy định là: "Chỉ vợ chồng mới được phép quan hệ tình dục để sinh con".Nếu ông nào cứ thấy gái đẹp non tơ là lao vào cưỡng bức làm tình, hay gái đã có chồng thì các ông dụ dỗ "lên giường" thì kẻ đó thú tính nặng nề.

Hệ quả cho xã hội là cô gái bị hiếp dâm sẽ bị tổn thương tâm lý nặng có thể mắc bệnh tâm thần.

Đặc biệt trẻ vị thành niên mà bị hiếp dâm thì 100% sẽ bị ám ảnh tâm lý cả đời.

Rồi gia đình có vợ ngoại tình thì gia đình đó sẽ tan nát.Cho nên đó là hành động tội lỗi.

Và luật pháp xử tội này rất nặng: "Hiếp dâm trẻ vị thành niên nặng nhất là Tử hình.

Hiếp dâm con gái nhà lành là tù tới 15 năm.

Còn ngoại tình với gái có chồng thì gia đình sẽ xử còn pháp luật hình như không xử".Mại dâm thì không hại đời cô gái mà hại chính gia đình các ông.

Gia đình ông đó sẽ tan nát, vợ sẽ hành ông đó ra bã, con sẽ khinh thường bố nên đó là tội.Bài học 3: Tình yêu và Tình dụcTình yêu nam nữ là "Tình yêu + Tình dục".Nếu vợ chồng nào đến với nhau chỉ bởi tình dục thì qua 1 đêm là chán, qua nhiều đêm là ngấy.

Giống doanh nhân M. ký hợp đồng thuê cô hoa hậu N. làm vợ là vì tình dục.

Cô hoa hậu N. nhận lời là vì.

Họ không đến với nhau bởi tình yêu.

Nên họ sống với nhau thời gian ngắn là tan vì tình dục "khi thèm thì khát" khi chán "như ngồi trong nhà vệ sinh và đã bài tiết xong".

Rồi 2 kẻ đó mang nhau ra tòa kiện inh ỏi một thời gian khiến báo đài tốn giấy mực.Nếu vợ chồng đến với nhau chỉ bởi Tình yêu không có tình dục thì "Thiếu thốn".

Nếu họ không có con chung với nhau thì "Buồn khổ"."

Tình yêu" là sự hi sinh cho đi không để nhận về, giúp đỡ mà không đòi hỏi.

Bản chất tình yêu là duyên nợ.

Ví dụ: tình anh em, tình cha mẹ với con cái, tình cảm người thân trong gia đình hay tình bạn bè.

Khi đã có tình yêu thì họ giúp nhau vô tư không tính thiệt hơn, không mong cầu danh lợi, không đòi sự đền đáp.

Tình yêu là đặc sản của loài người mà loài vật không có.

Loài vật chỉ sống theo bản năng."

Tình dục" là bản năng duy trì nòi giống của loài vật và ở loài người.

Thế nên tình dục nó thú tính, tham lam, đòi hỏi và ích kỷ.Vì tình yêu nam nữ có 2 chữ TÌNH nên nó sâu sắc, mạnh mẽ, mãnh liệt.

90% các bài nhạc tình là tình yêu đôi lứa.

Chỉ khoảng 10% là tình yêu quê hương đất nước, yêu cha mẹ thầy cô.Tuy nhiên, cũng có một thứ tình mãnh liệt không kém tình yêu nam nữ là Tình mẹ con.

Tình mẹ dành cho con là "Tình yêu + Tình mẫu tử".

Trong đó "Tình mẫu tử" cũng là bản năng duy trì nòi giống.

Các con vật thì con mẹ luôn biết yêu thương nuôi dưỡng con non của nó.

Nên tình mẹ con rất sâu đậm.Bài học 4: Có phúc thì "Cầu được ước thấy"Đức Phật dạy có 3 nỗi khổ của tâm: "Ái biệt ly khổ - Oán tấn hội khổ - Cầu bất đắc khổ".

Nhưng kẻ thiếu phúc thì mới khổ.

Kẻ có phúc thì luôn sung sướng hạnh phúc.

Nên kẻ có phúc thì: "Yêu mà được ở gần nhau - Ghét thì không gặp mặt - Cầu được ước thấy".Tuy nhiên, cũng tùy vào phúc lớn bé mà điều cầu mong có được đáp ứng hay không.

Ví dụ: Ta có phúc và có tài sản 100 tỷ.

Ta thích cái xe hơi 5 tỷ là mua, thích cái nhà 20 tỷ cũng mua...

Nhưng cái máy bay tư nhân 200 tỷ hay du thuyền 1000 tỷ thì ta không mua được.

Mà tâm ta vẫn mong cầu cái máy bay, cái du thiền thì ta "Cầu bất đắc khổ".Chính vì vậy phúc lớn làm vua trời Đế Thích mà vẫn muốn có phúc nhiều hơn nữa nữa.

Chư thiên thấy Tôn giả Ma-ha Ca Diếp thiền định 7 ngày nhập Diệt Tận Định.

Khi Tôn giả xả thiền thì Ngài đói.

Thế là Chư thiên giành phúc báu cúng đồ ăn cho Tôn giả.500 thiên tử và tiên nữ đứng kín trên đường Tôn giả đi qua dâng Ngài thức ăn.

Ngài không nhận mà đi đến ngôi nhà nghèo bên đường có 2 vợ chồng nghèo khổ để khất thực.

Khi ông chồng "Nghèo" đó xới cơm vào bát của Tôn giả thì mùi thơm bay khắp nơi.

Tôn giả định tâm nhìn lại hóa ra là Thiên chủ Đế Thích và vợ Thiện Sanh.

Nhưng cơm đã trong bát rồi nên Tôn giả chỉ trách khéo vợ chồng vua trời chứ Ngài vẫn nhận.

Vợ chồng ông vua trời mưu kế giành được phúc báu thì bay lên trời hát vang và Đức Phật biết chuyện đó bèn kể lại cho Tỳ kheo nghe.Nên đủ phúc thì "Cầu được ước thấy", thiếu phúc thì "Cầu bất đắc khổ".

Kiếp xưa chàng Khê-ma này xây tháp cúng dường Phật Ca Diếp thì có phúc lớn.

Nhưng chàng lại mơ ước thứ tầm thường, nhỏ bé và thú tính...

đó là "ước có nhiều gái mê".

Vì điều cầu mong đó quá tầm thường nên phúc chàng có thừa.Nên nhiều đời nhiều kiếp sinh ra chàng luôn có số đào hoa.

Đến đời này phúc vẫn lớn được làm cháu ông Cấp Cô Độc giàu có mà vẫn đào hoa.

Đến khi nào hết phúc thì quả báo khổ sẽ tới theo đúng lời Phật dạy trong Pháp cú: "mất danh dự, tâm bất an ngủ không yên, bị luật pháp trừng phạt, sinh vào cõi súc sinh địa ngục".

Còn nếu vẫn có phúc lớn thì vẫn cứ sướng còn tội tính sau.Nhưng nếu chàng ta phúc lớn thì không bị khổ.

Mà lúc này chàng bị gia đình chồng cô gái làm inh ỏi nhục nhã rồi bị báo quan xét tội thì cũng là phúc cạn tội đến rồi.

Nên nguy cơ địa ngục, súc sinh ở kiếp sau của chàng Khê-ma này là hiện hữu.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 311,312,313: Truyện Sa môn nhổ cỏ


"Nắm cỏ gai không khéoTất sẽ bị đứt tayHạnh Sa môn tà vạyTất bị đọa Địa ngục."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 311)"Sống phóng đãng buông lungNhiễm ô không giữ giớiPhạm hạnh chẳng đáng tinSao chứng được quả lớn?"(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 312)"Phải hết sức nỗ lựcLàm những việc nên làmSa môn chớ phóng đãngTheo bụi đời loạn động."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 313)Tích Pháp Cú: Có Tỳ kheo dọn dẹp sân vườn nhưng vô tình làm gẫy vài cọng cỏ sát tường nhà.

Vị đó lo sợ bị tội nên gặp một vị Trưởng lão A-la-hán thì vị đó hỏi:- Thưa Tôn giả, con quét dọn sân vườn nhưng vô tình làm gẫy mấy cọng cỏ sát vách.

Vậy con có bị tội không?Trưởng lão đó thấy Tỳ kheo có vẻ sợ bị tội nên đã an ủi anh ta:- Này Tỳ kheo, đó chỉ là mấy cọng cỏ thôi không phải tội nhiều nhặn gì.Thế là Tỳ kheo đó được thể làm tới bạt hết sạch cỏ sát tường nhà.

Nhưng theo giới luật của Phật thì từng cành cây, cọng cỏ đều đáng quý, đáng trân trọng.

Mà Tỳ kheo đó bạt hết sạch cây cỏ làm các vị khác bất bình đi mách Phật.Đức Phật bèn gọi Tỳ kheo đó lên khiển trách.

Vị đó có tâm coi thường tội lỗi nhỏ không đáng gì nên thoải mái tạo tội.

Đó là hiểm họa cho đời sống tu hành.

Tội nhỏ mà coi là không sẽ thoải mái tạo tội lớn dần lên mãi.

Phật khiển trách vị đó bằng bài kệ:"Nắm cỏ gai không khéoTất sẽ bị đứt tayHạnh Sa môn tà vạyTất bị đọa Địa ngục."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 311)"Sống phóng đãng buông lungNhiễm ô không giữ giớiPhạm hạnh chẳng đáng tinSao chứng được quả lớn?"(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 312)"Phải hết sức nỗ lựcLàm những việc nên làmSa môn chớ phóng đãngTheo bụi đời loạn động."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 313)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Sa môn là dấn thân vào hiểm nguyĐức Phật ví: "Sa môn là người nắm cỏ gai, không khéo sẽ bị đứt tay".

Phật nói thêm "Cái đứt tay đó sẽ đưa Sa môn vào Địa ngục".

Còn người thường thì "không lắm cỏ gai" nên lỡ tay thì không bị đứt tay.

Nên làm Sa môn là dấn thân vào hiểm nguy bởi vì:Lý do thứ nhất: Sư là "Thầy dạy đạo".

Sư mà sai thì dạy những đạo sai làm toàn dân chúng đọa.Bạn còn nhớ chuyện "Ông già chồn" không?

Ông là vị cao tăng uy đức có đông hội chúng.

Rồi ông nói: "Đắc đạo thì không bị nhân quả chi phối" thế là ông bị đọa 500 kiếp thân chồn.

Nếu ông không phải là Sư mà chỉ là người thường thì 99% người thường chẳng biết gì về Nhân Quả mà có có sao đâu?

Nhưng vì là "Sư là thầy dạy đạo" nên nói sai đạo hại đời ngàn con người mà thành tội nặng.Lý do thứ 2: Trách nhiệm của Sư là gìn giữ Chánh pháp.

Vậy mà Sư lại làm sai Chánh pháp nên tội sẽ nặng.

Người thường chẳng có trách nhiệm gìn giữ Chánh pháp cũng chẳng hiểu Chánh pháp.

Nên họ làm sai pháp thì tội nhẹ ví như "Vô tình tạo tội".Lý do thứ 3: Sư tu là đi trên đường làm thánh tức ở đẳng cấp đạo đức hơn người.

Nếu Sư làm ác thì tội sẽ nặng hơn người thường.

Sư giống như đang đi máy bay còn người thì đang đi trên đất.

Sư mà ngã khỏi máy bay thì Sư chết còn người đi trên đất nếu ngã chỉ xước chân xước tay.Bài học 2: Nhỏ trộm gà, già trộm trâu, lâu thành giặc Có chuyện kể rằng:"Có kẻ bị tòa án kết tội tử hình.

Tòa án mới hỏi anh xem anh có nguyện vọng cuối cùng gì không?

Anh ta bảo anh có nguyện vọng được ôm mẹ.

Tòa án đồng ý và mời mẹ anh đến gặp mặt con.Khi anh chuẩn bị ôm mẹ và bà mẹ đi đến gần, bất ngờ anh ta tát bà mẹ 1 cái như trời giáng.

Mọi người sững sờ không kịp cản.

Anh ta khóc mà nói rằng: "Chính người đàn bà này khi tôi còn đi học lấy được cái bút của bạn mang về thì bà khen tôi: "Thằng này khôn.

Mày làm thế là giỏi" đến nay tôi bị tử hình".Tục ngữ Việt Nam dạy rằng: "Trẻ trộm gà.

Già trộm trâu.

Lâu thành giặc".

Đầu tiên những tội nhỏ mà không kịp thời ngăn cản thì tội đó sẽ lớn dần, lớn dần cho đến khi thành "Tội ác tày đình".Đứa trẻ trộm gà nếu không kịp ngăn cản, răn đe, trừng phạt ngay mà cứ mặc kệ nó.

Tương lai thì nó sẽ đi trộm trâu là tài sản lớn.

Lâu nữa thì nó đi cướp của giết người thành giặc.Cậu bé khi còn đi học trộm bút của bạn về mà mẹ không răn dạy.

Đã thế bà còn khuyến khích con: "Thằng này khôn.

Mày làm thế là giỏi".

Điều đó biến thành triết lý cuộc đời cậu.

Đến lớn thì cậu là giặc cướp và bị tử hình.

Nhưng tội đầu tiên chính là "Lời dạy bất lương vô đạo đức của bà mẹ".Và truyện này thì Phật không trách Tỳ kheo tội nhổ cỏ.

Mà Phật khiển trách nặng nề để dừng tội đó lại.

Nếu Tỳ kheo vẫn nghĩ "Tội nhỏ ấy mà chẳng đáng gì" thì tương lai sẽ giống cậu bé trộm bút của bạn.Bài học 3: Đạo đức vĩ đại của đạo Phật Ta thấy từ 2500 năm trước khi Trái đất toàn rừng là rừng mà Đức Phật đã dạy Tỳ kheo biết "Yêu quý thiên nhiên đến từng cọng cỏ".

Đó chính là đạo đức vĩ đại của đạo Phật và trí tuệ vĩ đại của Đức Phật vậy.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 314: Truyện đánh ghen rạch mặt


"Ác hạnh không nên làmLàm xong chịu khổ lụyThiện hạnh phải gắng làmLàm xong lòng an vui."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 314)Tích Pháp Cú: Có bà vợ ghen ông chồng gian díu ngoại tình với cô hầu gái.

Nhân khi ông chồng đi vắng thì bà vợ lấy dao rạch mặt cô hầu và trói nhốt cô ta xuống hầm.Khi ông chồng về thì bà vợ giả vờ không có chuyện gì.

Bà còn vui vẻ rủ chồng đến Tinh xá Đức Phật nghe pháp.

Ông chồng là người mến đạo nên đồng ý.

Còn bà vợ đi bên chồng thì vẻ mặt cố tỏ vẻ tự nhiên vui vẻ mà lòng thì lo lắng bất an.

Cô hầu gái ở dưới hầm thế nào xoay qua xoay lại thì tự cởi trói được mà thoát ra ngoài.Cô hầu gái đó hỏi mọi người thì biết ông chồng và và vợ vào Tinh xá nên cô cũng chạy vào Tinh xá Phật.

Rồi trước mặt Đức Phật thì cô hầu gái kể tội bà vợ.

Sau đó cô chỉ cái mặt mình bị rạch máu me làm bằng chứng.

Còn bà vợ thì cúi đầu nhận lỗi.

Không rõ ông chồng xử lý thế nào thì chuyện không kể đoạn đó.

Trước sự việc đó thì Đức Phật đọc bài kệ để răn dạy mọi người: "Ác hạnh không nên làmLàm xong chịu khổ lụyThiện hạnh phải gắng làmLàm xong lòng an vui."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 314)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Vì sao có tâm lý ghen?Ta biết tình yêu nam nữ vợ chồng là: "Tình dục + Tình yêu".

Tình dục là bản năng thú tính giao phối sinh con để duy trì nòi giống.Còn tình yêu là sự hi sinh mà không đòi hỏi, giúp đỡ mà không cầu lợi ích.

Tình yêu chỉ có ở loài người còn loài vật chỉ sống theo bản năng.

Tình yêu xuất hiện giữa con người với nhau và sâu nặng nhất là trong tình cảm gia đình quyến thuộc, anh chị em, cha mẹ con cái, bạn bè... và đặc biệt là tình vợ chồng.Tình dục là thú tính thuộc về bản năng duy trì nòi giống có ở mọi loài vật và cả con người.

Tình dục thì tham lam, đòi hỏi, ích kỷ, ghen tuông, ghen tị, thú tính, biến người mình yêu thành vật sở hữu cá nhân không muốn chia sẻ cho ai.Vậy "Vì sao xuất hiện tâm lý GHEN?"

GHEN là từ "Tình dục" tạo thành.

Còn tình yêu trong gia đình, tình mẹ con, anh chị em, bạn bè... thì không có ghen.

Nếu có ghen thì tình yêu đó ẩn chứa lòng tham, lòng ghen tị, tư lợi.

Đó không phải tình yêu đúng nghĩa.Chính vì ghen xuất phát từ "tình dục" nên bà vợ thấy ông chồng ngoại tình mới ghen.

Còn nếu ông thấy cô gái chỉ tít mắt tức "tâm có xuất hiện tình cảm với gái đẹp" thì bà không ghen.

Bà chỉ lườm quýt hoặc cấu véo ông chồng là hết chuyện.Còn khi bà phát hiện ông chồng ngoại tình thì bà rạch mặt, tạt axit cô bồ nếu bà phụ thuộc chồng về kinh tế.

Nếu bà làm chủ kinh tế mà ông chồng đã ăn bám vào bà còn ngoại tình thì bà cắt "của quý" của chồng vứt cho chó nó ăn.

Vậy nên ta thấy có 2 cách đánh ghen tùy thuộc vào "Ai làm chủ kinh tế"."

Sao bà vợ lại ác vậy?..."

Bởi vì tâm lý ghen chính là bản năng thú tính.

Bà vợ đánh ghen ác vậy giống các con thú xé xác đối thủ để tranh cướp bạn tình.

Thứ nữa là khi đã sân hận thì tâm bà vợ là Ác quỷ.

Kinh Hàng Ma Phật đã dạy rồi "Tâm sân hận sẽ biến kẻ đó thành ác quỷ"."

Nhưng bà ta ghen vậy là bà ta dại...."

Bởi vì tình cảm vợ chồng gồm: "Tình yêu và tình dục".

Nay ông chồng thiếu thốn tình dục thì ông tìm "đối tác bên ngoài".

Còn tình yêu ông dành cho vợ con và gia đình thì vẫn còn nguyên.

Dẫn chứng là ông vẫn đưa lương tháng đủ cho vợ không thiếu 1 đồng.

Ông vẫn hi sinh lợi ích của ông để giúp đỡ vợ con mà không hề đòi hỏi.

Đó chính là "tình yêu đích thực".

Còn ông thiếu thốn tình dục mà đi cặp bồ cũng chỉ trong giai đoạn ngắn.

Về lâu dài thì ông sẽ quay về với vợ con mà thôi.Nếu bà biết ông ngoại tình mà "hành xử cao thượng" không đánh ghen.

Bà vẫn giữ bổn phận người vợ là chăm sóc cho chồng, dạy bảo con cái thì ông chồng sẽ nể sợ.

Ông sẽ quay về sớm với gia đình.Nhưng sau khi bà vợ đánh ghen thì bà sẽ bị mất toàn bộ tình yêu của chồng.

Còn gia đình sẽ tan nát.

Con cái vừa khinh bố vừa khinh mẹ.

Con cái sẽ không còn chỗ dựa tinh thần nên dễ hư hỏng.Bài học 2: Làm ác xong tâm bất an hoảng sợĐa phần khi ta làm ác vì tâm ta bị sân.

Khi tâm ta bị sân thì "đánh mất lý trí" giống như bị Ma nhập.

Kinh Hàng Ma (Trung Bộ Kinh) thì Phật đã nói rằng: "Khi tâm sân hay kiêu mạn thì Ác Ma sẽ nhập vào tâm ta.

Khi đó hành động của ta như kẻ mất trí, mất kiểm soát".

Đến khi bình tĩnh lại, không còn sân thì ta mới thấy sợ hãi phát hoảng.

Ca dao có câu rằng:"Chưa đánh thì mặt đỏ như rang.Đánh xong thì mặt vàng như nghệ".Kẻ đang sân hận mà chưa đánh được người thì mặt mũi tức giận đỏ như rang.

Tâm nóng hừng hực, lộn tiết, lộn mề... chỉ muốn lao vào ăn tươi nuốt sống kẻ thù.

Còn đánh người xong rồi, xả cơn giận rồi thì kẻ đó bình tâm nhìn lại hậu quả.

Lúc này thì mặt kẻ đó vàng như nghệ vì hoảng sợ.

Các cụ ngày xưa quá giỏi về tâm lý và thơ ca, nói không sai tẹo nào.Thế nên bà vợ sau khi sân hận trừng trị "tình địch" bằng phương pháp Hoạn Thư: "Rạch mặt và trói nhét xuống hầm quyết tâm hại chết tình địch".

Khi chuyện xong rồi thì bà đi bên chồng mà tâm lo lắng sợ hãi bất an chẳng thể yên.Nên làm ác sẽ chịu quả báo ở tương lai khi duyên tới.

Nhưng ngay sau khi làm ác thì tâm kẻ đó đã bị khổ bởi tâm lý bất an hoảng loạn.

Nên Phật nói:"Ác hạnh không nên làmLàm xong chịu khổ lụy"Phật không nói đến quả báo ở tương lai.

Phật chỉ nói tâm kẻ đó sẽ khổ ngay sau khi làm ác.Bài học 3: Làm thiện xong tâm an vuiLàm thiện xong thì tâm ta tự xuất hiện một niềm vui dâng trào và bình an.

Đó chưa phải là quả báo của việc làm lành thiện.

Vì quả báo sẽ đến ở tương lai xa khi đủ duyên.

Còn tâm an vui xuất hiện ngay sau khi làm thiện là tâm lý tự diễn biến như vậy.Thế nên: "Đức trọng quỷ thần kinh".

Một vị đạo đức lớn cả đời làm thiện, nói thiện, ý thiện thì tâm vị đó an vui mãnh liệt.

Vị đó sẽ có tinh thần mạnh mẽ không hề sợ hãi trước thế lực quỷ thần nào.

Ngược lại quỷ thần thấy vị "Đức trọng" đó từ xa là hoảng sợ bỏ chạy hoặc cúi đầu khuất phục.

Nên một vị có uy đức thì có thần lực lớn, tinh thần mạnh là vậy.Do đó trong các Đại lễ cầu "Quốc Thái dân an" thì chủ lễ phải là một vị Cao Tăng Uy Đức.

Bởi một lời vị đó nói ra thì quỷ thần phải vâng lời.

Thậm chí Chư thiên ở trên trời cũng phải vâng lời làm mưa xuống cứu dân thoát khỏi hạn hán.Còn những kẻ làm ác, dối trá, điêu ngoa, xảo quyệt, mưu kế hại người... dần dần sẽ thành hèn hạ và tinh thần yếu đuối.

Bởi kẻ đó làm ác xong thì tâm hoảng loạn.

Khi tâm hoảng loạn tích tụ lâu ngày thì thành tinh thần yếu.

Kẻ đó sẽ bị yếu bóng vía và sợ ma.

Nên ta thấy kẻ ác luôn có ánh mắt hốt hoảng.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 315: Truyện Tỳ kheo trong chiến tranh


"Như thành ở biên thùyTrong ngoài đều phòng hộHãy phòng hộ chính mìnhKỹ lưỡng từng phút giâyQuên phòng hộ chính mìnhDễ đọa vào Địa ngục."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 315)Tích Pháp Cú: Khi đó các Tỳ kheo ở trong thành phía tây nước Ko-sa-la.

Thành đó bị giặc bao vây thì dân không cúng dường các vị.

Các Tỳ kheo ở đó bị đói.

Sau đó giặc tan và thành trì bình an rồi dân lại cúng dường các Tỳ kheo đó.Thời gian sau khi Tỳ kheo có dịp về Tinh xá Kỳ Viên gặp Đức Phật.

Họ kể lại chuyện đó cho Phật:- Bạch Thế Tôn, trong suốt thời gian xảy ra chiến tranh chúng con rất ít được cúng dường vì dân họ còn phải lo cho thân họ.Đức Phật nhân tiện tâm tỳ kheo đang trải lòng về tình tình giặc bao vây và thành trì phòng hộ.

Phật bèn hướng chuyện đó sang đạo lý tu hành:"Như thành ở biên thùyTrong ngoài đều phòng hộHãy phòng hộ chính mìnhKỹ lưỡng từng phút giâyQuên phòng hộ chính mìnhDễ đọa vào Địa ngục."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 315)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Không giặc nào đáng sợ bằng chính taChiến tranh, giặc giã, dịch bệnh, thiên tai, hạn hán, lũ lụt, mất mùa, đói kém... tất cả đều do Nhân Quả.

Khi đó tội chung của dân chúng xứ đó có đủ duyên tức là đủ các điều kiện cần thiết thì tai họa ập đến.Cũng vậy, Kinh tế phát triển, đời sống đi lên, giàu sang, hạnh phúc, tươi sáng, vinh quang, vẻ vang... tất cả cũng đều do Nhân Quả.

Khi đó phúc chung của dân chúng xứ đó có đủ duyên tức là đủ các điều kiện cần thiết thì phúc lành đơm hoa kết trái.Vậy có phải giặc giã, chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai, hạn hán, lũ lụt, mất mùa, đói kém... là đáng sợ hay chính ta tạo tội là đáng sợ?

Nên "Không giặc nào đáng sợ bằng chính ta".

Kệ Pháp Cú trên thì Phật cũng nói: "Nếu ta quên phòng hộ chính mình về ý nghĩ, lời nói, hành động thì sẽ khiến ta đọa Địa Ngục.

Chính ta làm cho ta khổ chứ không phải giặc".Bài học 2: Phòng hộ Tam Nghiệp từng phút giây Ta chú ý vào từ "Từng phút giây".

Nếu vậy thì liệu có căng thẳng quá không?

Phật dạy: "Không lúc nào ngơi nghỉ, không lúc nào buông thả hay thư giãn.

Ta bắt buộc phải phòng hộ chính mình trong từng phút giây 24/7".

Phật dạy phòng hộ vậy liệu có căng thẳng quá hay không?Xin thưa không hề căng thẳng.

Vì sao vậy?Nếu một người bình thường không tu thiền mà phải giữ chặt tâm ý, đề phòng từng lời nói, đề phòng từng hành động cử chỉ thì sẽ vô cùng căng thẳng.

Có thể họ sẽ mắc bệnh Stress (căng thẳng tâm lý).Nhưng một vị tu thiền chứng "Chánh Niệm tỉnh giác" thì tự dưng mọi hành động cử chỉ, mọi lời nói nói ra, mọi ý nghĩ của họ đều "Oai nghi tế hạnh" tức chuẩn chỉnh đúng pháp.

Mà các vị có Chánh niệm trong thiền định không bao giờ căng thẳng.Khi chứng Chánh Niệm thì mọi ý nghĩ trong tâm các vị đều biết rõ, mọi lời nói nói ra đều thấy rõ, mọi hành động đều biết rõ.

Đó là năng lực của một vị thánh Chánh Niệm chứ không hề cố gắng căng thẳng.

Tâm có Chánh Niệm thì các vị tự đạt được cảnh giới "Phòng họ chính mình trong từng phút giây".Thế nên Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chứng Chánh niệm nên Ngài ca ngợi Chánh niệm.

Ngài viết rất nhiều tác phẩm nói về tâm thiền sư có Chánh Niệm thì vĩ đại hạnh phúc ra sao.Trong Kinh Sa Môn Quả thì Phật miêu tả 5 điều hạnh phúc của một vị tu thiền có Chánh Niệm như sau: "1- Như người nợ ngập đầu ngập cổ nay trả xong hết nợ.

2- Như người bệnh tật lâu ngày nay khỏi bệnh.

3- Như người bị nhốt trong ngục tối lâu ngày nay thoát ngục.

4- Như người nô lệ bị đày đọa lao khổ nay thoát kiếp nô lệ.

5- Như tỷ phú lạc giữa xa mạc lâu ngày nay thoát xa mạc đi vào thành phố phồn hoa".Chánh Niệm tỉnh giác là thành tựu đầu tiên của một vị thiền sư tu thiền mà chưa bước vào Chánh Định.

Khi tu thiền thâm sâu thì các vị sẽ chứng cao hơn trong Chánh Định: Sơ thiền - Nhị thiền- Tam thiền - Tứ thiền.

Chánh Định này vĩ đại hơn so với Chánh Niệm rất nhiều.

Một vị thánh nhập định thì thân ngồi đó mà tâm phủ trùm khắp vũ trụ tam thiên đại thiên thế giới, lên cõi trời chào hỏi Chư thiên, xuống Địa ngục tìm mẹ như Đức Mục Kiền Liên vậy.Bài học 3: Bồ Tát sợ nhân chúng sinh sợ quả Như ta đã phân tích ở trên "Không giặc nào đáng sợ bằng chính ta".

Bởi vì mọi tai ương tật ách đến với ta đều do Nhân Quả quá khứ ta đã tạo ác nghiệp mà thành.

Nay đủ duyên thì ác nghiệp tạo thành quả báo khiến ta đau khổ.Bồ Tát vì hiểu rõ Nhân Quả nên Bồ Tát tự tại bình an trước mọi quả báo.

Quả báo khổ tới thì Bồ Tát nhẫn nhục Ba-la-mật đón nhận mà trả nợ.

Quả báo lành tới thì Bồ Tát tinh tấn Ba-la-mật từ chối phúc thế gian hướng phúc báu đó vào tu hành giải thoát và cứu độ chúng sinh.Nhưng Bồ Tát lại vô cùng sợ từng ý nghĩ, từng lời nói, từng hành động trong giây phút hiện tại bị sai tạo tội.

Bởi nếu đã làm sai tạo tội thì tương lai ắt sẽ có quả báo khổ tới chẳng thể thoát.

Thế nên Bồ Tát "Phòng hộ chính mình kỹ lưỡng từng phút giây" để không làm sai tạo tội.

Vậy nên ai làm được theo lời Phật dạy trong Pháp Cú trên ta chính là Bồ Tát.Bài học 4: Lo thân trước khi lo cho chư tăng Có sự thật phũ phàng rằng: "Chư Tăng sống nhờ sự cúng dường của dân chúng.

Nhưng khi dân chúng khổ thì dân lo thân họ trước khi lo cho Sư".

Thế nên khi thành trì bị giặc đánh phá thì dân họ lo cái bụng của họ, lo giữ gia tài của họ mà quên mất Sư.

Nên các Sư bị bỏ đói.

Sau đó mọi sự trôi qua bình yên thì dân mới ngó đến Sư.Và đó chính là giai đoạn thử thách đạo hạnh của người tu.

Bởi khi kinh tế phát triển thì "Phú quý sinh lễ nghĩa".

Dân chúng có ăn no đủ sung sướng mới chú ý đến Sư và cúng dường nhiều.

Nhưng chính lúc dân chúng cúng dường nhiều sẽ xuất hiện nhiều Giả Sư xuất gia chỉ để nhận lợi ích cúng dường.Giống ngày nay dân chúng xây chùa ngàn tỷ đồng.

Chùa ở Hà Nam thậm chí còn 2 tỷ USD tức 45 ngàn tỷ đồng.

Còn Sư thì Sư nào cũng có xe hơi 4 bánh, nhà ở của Sư thuộc tầm biệt thự lâu đài vườn cây ao cá đẹp đẽ thanh tịnh.

Tháng sư làm việc mỗi 2 ngày còn nghỉ cả tháng.

Chính những lợi ích vật chất và sung sướng đó phá tan đạo hạnh của Sư.

Tôi cũng thường hay được tiếp xúc với Sư nhiều nên tôi biết.Vậy nên rất cần những lúc khó khăn, đói kém để thanh lọc đội ngũ Tu sỹ.

Khi đó vị nào "tu để nhận lợi ích vật chất" mà bị bỏ đói thì sẽ lập tức bỏ đạo.

Còn những vị ở lại trong đạo là những vị Chân tu.Thế nên thời Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo thì Sư vô cùng khổ sở.

Chính giai đoạn khổ đó đã tạo nên 1 thế hệ tu sỹ Việt Nam vĩ đại: Ngài Thích Minh Châu, Ngài Thích Thanh Từ, Ngài Thích Nhất Hạnh...

Còn thời nay xây chùa 2 tỷ USD mà chẳng thấy vị chân tu nào nổi bật.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 316,317: Truyện lõa thể đọa ác thú


"Không đáng thẹn lại thẹnViệc đáng thẹn lại khôngVì đi theo tà kiếnChúng sinh đọa ác thú."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 316)"Không đáng sợ lại sợViệc đáng sợ lại khôngVì đi theo tà kiếnChúng sinh đọa ác thú."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 317)Tích Pháp Cú: Một lần các Tỳ kheo khi ngồi cùng nhau thì bàn luận về các tu sỹ Lõa thể Ni Kiền Tử.

Các vị không thể hiểu nổi vì sao các tu sỹ Lõa thể lại không mặc quần áo.

Rồi họ "tồng ngồng, trần truồng" đi ngoài đường mà không biết ngượng?

Rồi đệ tử tại gia của họ cả nam và nữ đều quỳ lạy các tu sỹ không mặc quần áo đó.

Các Tỳ kheo bàn tán xôn xao thì Phật đi qua.

Đức Phật thấy các vị bàn luận vậy nên đưa ra lời nhận xét cảnh tỉnh mọi người:"Không đáng thẹn lại thẹnViệc đáng thẹn lại khôngVì đi theo tà kiếnRồi đọa vào ác thú."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 316)"Không đáng sợ lại sợViệc đáng sợ lại khôngVì đi theo tà kiếnRồi đọa vào ác thú."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 317)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Con người phải biết hổ thẹn khi lõa thể Con người khi còn là con thú thì không mặc quần áo.

Dần dần họ văn minh hơn thì dùng da con vật quấn lên người làm quần áo.

Ở những nơi khí hậu nóng thì họ mặc khố để che bộ phận sinh dục.

Bởi vì khi con người phát triển lên cao đồng nghĩa là đạo đức hơn, văn minh hơn.

Tự trong tâm của loài người thấy việc để người khác nhìn thấy bộ phận sinh dục là xấu hổ là ngượng.

Về sau con gái còn phải che ngực vì để cho con trai nhìn thấy ngực cô gái cũng bị kích dục nên các cô hổ thẹn.Đó chính là biểu hiện của đạo đức văn minh loài người.

Nên ngày nay khi chúng ta tìm thấy các bộ tộc nguyên thủy ở rừng sâu.

Ta muốn xét họ văn minh hay không thì xét xem họ ăn mặc kín đáo hay hở hang, có che kín bộ phận sinh dục hay để lộ bộ phận sinh dục, con gái có mặc áo ngực hay để ngực trần...

Cứ nhìn thế mà xuy luận xem bộ tộc đó văn minh hay không.

Đơn giản là thế.

Còn về sau ta mới nghiên cứu xem họ có chữ viết, ngôn ngữ, văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo... gì đó không.Dần dần đạo đức và văn minh loài người phát triển thì trang phục quần áo của con người rất kín đáo, sang trọng.

Ví dụ: Phương Tây con trai mặc Vest hở chút da cổ cũng thắt cái Cavat cho kín luôn.

Con gái phương tây (thời xưa) thì mặc váy dài tầng tầng lớp lớp vải.

Phương Đông thì các bộ quần áo trang phục truyền thống của Nhật Bản, Hàn Quốc cũng tầng tầng vải.

Các Hoàng đế phương đông thì hoàng bào uy nghi, oai phong kín mít cơ thể.Nhưng đến thời nay khi khoa học kỹ thuật phát triển thì tự dưng văn minh đạo đức trong cách ăn mặc của con người lại đi xuống.

Ngày xưa vì không muốn kích dục nên họ phải che đậy da thịt, che kín bộ phận sinh dục.

Ngày nay thì các cô gái lại ăn mặc khêu khêu gợi gợi và kích dục con trai bằng sự hở hang sexy.

Có cô người mẫu Việt Nam N.T nổi tiếng đi dự liên hoan phim Cannes 2019 mặc nguyên cái lưới đánh cá mà bên trong không thấy mặc thêm gì.Cái đáng hổ thẹn thì họ không biết hổ thẹn đó là kích dục người khác giới.

Cái đáng sợ mà họ không biết sợ.

Vậy cái đáng sợ là gì?

Đó chính là Quả báo mà Đức Phật dạy rằng: "Vì đi theo tà kiến rồi đọa vào ác thú".

Vậy "Đọa ác thú" chính là cái đáng sợ.Bài học 2: Bản năng của loài thúTục ngữ thời hiện đại có câu:"Khi lồng mở lên thì chim bay raKhi váy mở lên thì chim bay vào".Thế là thế nào?

Tức khi con gái ăn mặc hở hang, sexy, khêu khêu, gợi gợi, váy ngắn hở mông, cổ áo hở nguyên "trái bưởi"... là gợi dục và kích dục con trai.

Các ông con trai thích ngắm con gái mặc sexy vậy là bởi kích dục chứ chẳng bởi đẹp đẽ gì cả.

Vậy nên sâu bên trong tâm của người có sinh lý bình thường luôn có bản năng của loài thú là Tình dục.Tình dục là "Bản năng duy trì nòi giống" có ở các loài vật và ở loài người.

Nếu loài nào bản năng này yếu kém thì loài đó sẽ tuyệt chủng.

Còn khi điều kiện thuận lợi, nguồn thức ăn phong phú thì loài vật đó giao phối nhiều và phát triển số lượng.

Con người cũng vậy, cứ hễ "Ăn no thì sẽ rửng mỡ".

Tức là khi kinh tế khá giả mà kém đạo đức thì sẽ "rửng mỡ".Sự thật rằng, con gái bị đạo đức thuần phong mỹ tục bó buộc chặt hơn so với con trai.

Nhưng con gái khi nhìn hình thể cơ bắp, bụng 6 múi của con trai... cũng bị đốn tim.

Đặc biệt là các "mợ" tuổi hồi xuân kinh tế rủng rỉnh.

Nên cách đây không lâu công an có bắt vụ "Cave nam" là thanh niên thầy dạy thể hình.

Còn kẻ mua dâm là các "mợ" tuổi hồi xuân kinh tế no đủ "ăn no rửng mỡ".Thế nên thời nay khi kinh tế no đủ, vật chất thừa mứa và đạo đức thì bị coi thường.

Thầy cô trong trường chỉ dạy kiến thức mà không dạy đạo đức.

Thế nên đạo đức xã hội xuy đồi.

Kết hợp với "ăn no rửng mỡ" thành ra con gái thích ăn mặc hở hang để kích dục con trai.

Rồi con trai suốt ngày nhìn thấy cảnh lõa thể ngay trước mắt thì loạn động dục tính.

Thành ra cả xã hội loạn.

Quả báo thì Phật đã cảnh báo rồi.

Nó vô cùng đáng sợ là "Đọa ác thú" hết cả.Tiện ta đang bàn về bản năng khác của loài thú.

Ngoài bản năng tình dục thì loài thú còn có bản năng khác mà con người cũng có.

Đó là: Tham - Sân - Si.

Và con người chúng ta cũng phải biết kiềm chế bản năng: Tham - Sân - Si mới là người đạo đức văn minh.

Kẻ nào quá Tham - Sân - Si thì kẻ đó cũng đang đi theo loài thú.

Quả báo cũng là "Đọa ác thú".Bài học 3: Đáng sợ và không đáng sợPhật nói: "Không đáng thẹn lại thẹn, Việc đáng thẹn lại không".

Vậy điều gì là không đáng thẹn và điều gì là đáng thẹn?Điều đáng hổ thẹn là tồng ngồng, trần truồng như những con heo lại không thấy hổ thẹn.

Còn điều không đáng hổ thẹn là làm việc lợi ích giúp đời có thể việc đó không vinh quang cho lắm: Quét vệ sinh môi trường, thợ hồ, giao hàng, shipper, công nhân, nông dân...

đó là những nghề không cao quý bằng kỹ sư, bác sỹ nhưng rất quan trọng cho xã hội.

Nhưng có nhiều kẻ lại cảm thấy hổ thẹn với nghề đó.Phật nói: "Không đáng sợ lại sợ, Việc đáng sợ lại không".

Vậy điều gì không đáng sợ, điều gì đáng sợ?Điều đáng sợ là trần truồng như ngoại đạo lõa thể ắt sẽ đọa ác thú mà họ chẳng sợ.

Rồi các cô gái mặc sexy để kích dục con trai cũng sẽ bị đọa.

Nhưng các cô không sợ mà thấy con trai nhìn cô lại thích.

Điều không đáng sợ là làm phúc giúp đời.

Dĩ nhiên làm phúc sẽ bị hao tổn tiền bạc, sức lực, thời gian.

Nhưng quả báo của việc làm thiện là được giàu sang, phú quý, quyền lực nếu ở cõi người.

Hoặc sinh vào cõi Thần, cõi Trời thì hạnh phúc vĩ đại.

Đó là điều không đáng sợ nhưng lại có nhiều kẻ sợ.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 318,319: Truyện có lỗi và không lỗi


"Không lỗi, lại thấy lỗiCó lỗi, lại thấy khôngVì đi theo tà kiếnChúng sinh đọa ác thú."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 318) "Có lỗi, biết có lỗiKhông lỗi, biết là khôngDo chấp nhận Chánh kiếnChúng sinh đi cõi lành."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 319)Tích Pháp Cú: Về già thì Đức Phật hay về Tinh xá Kỳ Viên, thành Xá Vệ để an cư.

Thời gian đầu thì Phật hay ở Tinh xá Trúc Lâm thành Vương Xá nước Ma Kiệt Đà.

Ở thành Xá Vệ có rất nhiều đạo cùng thu hút tín đồ.

Rồi mấy đứa con nhà ngoại đạo chơi cùng con cư sỹ đạo Phật.

Bố mẹ chúng thấy vậy thì kéo về nhà trách mắng và cấm bọn chúng chơi với lũ trẻ con đạo Phật.Mấy đứa trẻ con ngoại đạo lúc đầu nghe theo lời bố mẹ không chơi nữa.

Nhưng sau đó chúng lại rủ nhau đi chơi vì tâm hồn trẻ con ngây thơ không có chính trị và tôn giáo.Lũ trẻ đó chạy ra khu đất rộng gần Tinh xá Kỳ Viên chơi đùa.

Khi bọn chúng khát nước thì mấy đứa trẻ con đạo Phật chạy vào Tinh xá xin nước Tỳ kheo uống.

Đức Phật thấy vậy bèn gọi hết lũ trẻ lại và Phật giảng pháp cho nghe.

Những đạo lý Phật giảng rất ngây thơ, dễ hiểu, phù hợp tâm lý trẻ con.Do vậy giảng sư phải tùy tâm, tùy căn cơ chúng sinh mà chọn cách nói pháp phù hợp.

Giảng pháp cho trẻ con mà nói những pháp cao siêu triết học trẻ con ngủ hết.

Hay giảng cho giáo sư tiến sỹ mà nói pháp quá nông cạn thiếu logic, thiếu khoa học thì không thể thuyết phục các bộ óc cao siêu.Sau khi tụi trẻ con nghe Phật nói pháp xong thì chúng vỡ òa ra sung sướng mà quy y Đức Phật hết thảy.

Rồi tụi trẻ đó về nói lại với cha mẹ thì cha mẹ chúng theo ngoại đạo nên hoảng sợ, nổi giận, trách mắng chúng.

Cha mẹ mấy đứa nhỏ mắng con to tiếng lan sang nhà hàng xóm.

Hàng xóm chạy sang khuyên bảo những vị đó.

Rồi họ bày cách cha mẹ đứa nhỏ dẫn con vào Tinh xá Phật nghe xem Phật nói gì mà tụi trẻ theo quy y hết như thế?Các gia đình đó thấy hợp lý nên dẫn con vào Tinh xá nghe Phật thuyết pháp.

Phật nói pháp cho mọi người nghe và một số hiểu ra Chánh pháp một số thì không.

Sau đó có một số người xin quy y Đức Phật còn một số thì không.

Rồi Phật đọc bài kệ Pháp Cú để nhắc nhở 2 hạng người đó:"Không lỗi, lại thấy lỗiCó lỗi, lại thấy khôngVì đi theo tà kiếnChúng sinh đọa ác thú."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 318) "Có lỗi, biết có lỗiKhông lỗi, biết là khôngDo chấp nhận Chánh kiếnChúng sinh đi cõi lành."(XXII-Phẩm Địa Ngục, Pháp Cú 319)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Lý thuyết tôn giáo Ta biết vũ trụ được vận hành bởi các quy luật vật lý tự nhiên: Lực hấp dẫn, Lực ly tâm, Lực điện từ giữa cát hạt mang điện tích tạo thành hạt nhân và nguyên tử... từ đó hình thành toàn bộ vũ trụ chúng ta đang sống.

Vậy Tôn giáo cũng phải tuân theo một quy luật tâm linh tự nhiên của vũ trụ.

Nếu tôn giáo nào nói sai quy luật đó là Tà đạo.

Nếu tôn giáo nào nói đúng quy luật đó là Chánh đạo.Quy luật tâm linh tự nhiên của Vũ trụ chính là Luật Nhân Quả.

Sau khi ta khẳng định được Chân lý đó thì ta dùng nó để áp vào các học thuyết tôn giáo:Ví dụ 1: có pháp môn Phật giáo dạy rằng: "Chỉ cần niệm một câu niệm Phật abc là được vô lượng vô biên công đức" là sai Nhân Quả.

Bởi nếu chỉ niệm Phật mà không làm điều lợi ích giúp đời thì không có phúc.

Nếu vậy ta huấn luyện một con vẹt và ta dạy nó niệm Phật rồi nó niệm Phật ngày đêm thì nó sẽ có vô lượng vô biên công đức.

Hoặc cái đài niệm Phật cắm điện bật 24/7 thì có phúc cực lớn.Ví dụ 2: Kito giáo dạy rằng: "Ngươi hãy làm theo lời Đức Chúa dạy trong Kinh Thánh thì khi chết sẽ sinh về nước Chúa".

Nếu những lời dạy đó là đạo đức giúp đời thì có phúc là đúng Nhân Quả.

Nhưng tôi chỉ sợ những lời dạy đó bị thế lực nào đó diễn giải sai nhằm mục đích gì đó.

Rồi tín đồ không hiểu Nhân Quả cứ tin mà làm theo mà tạo tội thì quả báo khổ.Ví dụ 3: Hồi giáo dạy rằng: "Hãy làm điều thiện tránh xa điều ác.

Ai làm thiện thì có phúc, ai làm ác thì có tội.

Đến Ngày phán xét cuối cùng (cái chết) sẽ có một vị thần xét tội phúc.

Kẻ đó phúc nhiều hơn tội thì sinh thiên đàng, tội nhiều hơn phúc thì đọa địa ngục".

Điều đó rất đúng Nhân Quả.Ví dụ 4: Hồi Giáo cực đoan thì nói rằng: "Hãy mang bom đi giết hại kẻ ngoại đạo.

Giết họ không có tội mà chỉ có phúc".

Điều đó là sai Nhân Quả vì giết người vô tội là có tội chứ không thể có phúc.Ví dụ 5: Khổng Tử dạy rằng: "Những điều mình muốn hãy làm cho người.

Điều mình không muốn đừng làm cho ai" rất đúng Nhân Quả.

Bởi điều gì ta làm cho người thì quả báo sẽ đến với ta đúng vậy.Vậy nên không phải đạo Phật là đúng, Kito giáo là sai hay Hồi giáo là đúng.

Cái đúng sai trong Lý thuyết Tôn giáo phải xét từng lời kinh mà vị Giáo chủ tôn giáo đó dạy trong Kinh Thánh, Kinh Phật.

Ta còn phải xét từng lời dạy của từng vị Linh mục, từng vị thủ lĩnh tôn giáo, từng vị thầy dạy đạo hay từng vị giảng sư...

Nếu từng lời dạy đó đúng Luật Nhân Quả thì là Chánh đạo.

Sai Luật Nhân Quả thì là Tà đạo.Bài học 2: Chiến tranh tôn giáoTa thấy cha mẹ lũ trẻ dạy con rằng: "Không được chơi với lũ trẻ con của đạo Phật".

Đó chính là biểu hiện của sự chia rẽ và cạnh tranh giữa các tôn giáo.

Tôn giáo nào cũng cạnh tranh tín đồ vì càng nhiều tín đồ thì càng nhiều sự cúng dường và quyền lực.

Mà tiền bạc và quyền lực luôn là mục tiêu của mọi con người, mọi tôn giáo, mọi đảng phái chính trị.Để bảo vệ tôn giáo họ thì họ còn đề ra những luật cực đoan: Luật Hồi Giáo nếu đã theo Hồi Giáo rồi mà chuyển đạo khác có thể bị giết.

Người Kito giáo lấy vợ hoặc lấy chồng thì vợ hoặc chồng đó phải cải đạo sang Kito giáo.Còn đạo Phật chẳng ai ép buộc làm bất cứ điều gì.

Đạo Phật là đạo của Lương Tâm Nhân Quả.

Ai làm sai thì Lương Tâm và Nhân Quả xử.

Ngoài ra, đạo Phật không có cơ quan quyền lực tập trung như Vantican.

Và không có quyền lực chính trị như các quốc gia hồi giáo.

Ở đó lãnh đạo tôn giáo cũng là lãnh đạo quốc gia đó.

Vậy nên đạo Phật khá giống với tín ngưỡng dân gian tức "Ai tin thì theo, ai thích thì rằm mồng 1 đi chùa lễ Phật.

Không thì thôi chẳng ai ép"."

Tôn giáo nào cũng dạy đạo đức cho đời" đó chỉ là câu cửa miệng.

Còn sự thật thì Tôn giáo nào cũng dạy yêu thương người trong đạo họ.

Còn kẻ ngoại đạo đôi khi bị coi là giặc.

Thế nên phiến quân Hồi Giáo cực đoan đánh bom ở các ga tàu điện ngầm giết hàng trăm người vô tội.

Nhưng kẻ bị chết là ngoại đạo nên kẻ đánh bom "Sẽ được phúc lớn, được sinh về thiên đàng nơi có thánh Ala".Trong lịch sử thì các cuộc Thánh Chiến Thập Tự Chinh kéo dài từ 1095-1291 của đạo quân Kito Giáo đánh nhau với Hồi Giáo giết chết không biết bao nhiêu triệu mạng người.

Nguyên nhân chỉ là: "Hãy yêu thương giúp đỡ người trong đạo.

Còn kẻ ngoại đạo là giặc, là ác quỷ và ta phải tiêu diệt".Còn đạo Phật thì dạy "Yêu thương chúng sinh khắp trong pháp giới".

Tức toàn bộ chúng sinh từ Địa ngục, súc sinh, ngã quỷ, người, thần, trời.

Ta hãy yêu thương hết cả không từ một chúng sinh nào.

Trên đây là một số sự thật về bức tranh Tôn giáo.Bài học 3: Có lỗi lại thấy không, có lỗi biết là lỗi Trẻ con vui đùa với nhau vô tư mà cha mẹ bắp chúng không được phép chơi với trẻ con đạo Phật là "không lỗi lại thấy lỗi".

Trẻ con ngoại đạo nghe Đức Phật giảng pháp thấy đúng mà xin quy y Phật thì bố mẹ la mắng là "không lỗi lại thấy lỗi".

Bố mẹ chúng đến gặp Phật và Phật giảng pháp mà họ không hiểu hoặc cố tình không hiểu là "có lỗi lại thấy không".

Những kẻ đó "Vì đi theo tà kiến, chúng sinh đọa ác thú".

Ta biết: Cõi thú là cõi thuần ngu si.

Những kẻ ngu si thì nghiệp duyên tương ưng với thú.Các bố mẹ bọn trẻ dắt con đến nghe pháp của Phật mà hiểu ra rồi xin quy y Đức Phật.

Đó là "Có lỗi biết có lỗi, không lỗi biết là không".

Những kẻ đó "do chấp nhận Chánh kiến, chúng sinh đi cõi lành".

Cõi lành là: Người, Thần, Trời là cõi mà chúng sinh có trí tuệ và phúc lớn.

Các vị chấp nhận Chánh kiến "thấy đúng biết là đúng, thấy sai biết là sai" tức là có trí tuệ.

Kẻ trí tuệ thì nghiệp duyên tương ưng cõi lành.Bài học 4: Khi nào ta thấy được tận cùng của lỗi.Mọi chúng sinh trong Luân Hồi đều Vô Minh.

Vô Minh giống như "đi trong đêm đen không đèn".

Ta dù trí tuệ đạo đức thiện lương mà còn Vô Minh thì vẫn có nguy cơ "Vô tình tạo tội".

Giống người đi trong đêm tối không chút ánh sáng dù cố tình không vướng vào khổ mà vẫn có nguy cơ bị khổ.Những vị có tâm hướng hiện, mong cầu điều thiện thì vô tình tạo tội rồi "rút kinh nghiệm sâu sắc" quyết không tái phạm.

Nên họ ít tội mà nhiều phúc.

Vì phúc lớn hơn tội nên họ sinh cõi lành: Người, Thần, Trời.Kẻ ngu si không biết đúng sai, phải trái, tội hay không tội.

Kẻ đó mải miết tạo tội mà không hay nên sẽ đọa cõi thú thuần ngu si.

Kẻ cố tình tạo tội để đày đọa người đau khổ thì sẽ đọa Địa ngục đau khổ.

Kẻ tham lam cướp đoạt của người bị đọa Quỷ đói.Vậy muốn thấy được tận cùng của đúng sai, lỗi hay không phải diệt Vô Minh chứng Vô thượng bồ đề A-la-hán.

Tới đó mới giác ngộ tận cùng của đúng sai.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Chương 23: PHẨM VOI - Pháp Cú 320,321,322: Truyện như voi giữa trận


"Ta như voi giữa trậnHứng chịu rừng cung tênTa nhận điều phỉ bángĐời kẻ xấu rất nhiều."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 320)"Voi giỏi dự lễ hộiNgựa giỏi được vua dùngNgười giỏi chính là ngườiChịu được lời phỉ báng."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 321)"Ngựa voi dòng tốt nhấtChiến sỹ dòng giỏi nhấtChẳng bằng người chiến thắngTự chính bản thân mình."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 322)Tích Pháp Cú: Ngược thời gian khoảng 10 năm trước khi Phật nói Pháp Cú này.

Khi đó Phật đến xứ Cô-dăm-bi có vua trị vì nước đó là U-đê-na.

Ta biết Phật hay quan sát duyên chúng sinh trên thế gian.

Khi Phật thấy ai đến duyên hóa độ thì Người hay đi một mình đến đó giáo hóa.

Giống lần Phật hóa độ cho tên cướp An-gu-li-ma-la ở rừng sâu vậy.

Phật cũng đi 1 mình đến đó và dùng thần thông khuất phục tên cướp giết 999 mạng người đó.Ở Cô-dăm-bi có vợ chồng Bà-la-môn đến duyên đắc đạo.

Vợ chồng đó giàu có, thuộc kinh Vệ Đà, có khả năng xem tướng linh nghiệm.

Họ có 1 cô con gái "sắc nước hương trời" tên là Ma-gan-bi-da.

Vợ chồng đó xem tướng con gái thấy tương lai nó là hoàng hậu hay quý phi phu nhân.

Thế nên 2 ông bà chủ động đi tìm người "xứng lứa vừa đôi" để gả con gái họ.Lần đó ông chồng nhìn thấy Đức Phật cao lớn, mình tỏa hào quang.

Ông quan sát kỹ thì thấy Phật hiện đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.

Mà Kinh Vệ Đà nói rằng: "Ai hội đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp sẽ là Chuyển luân thánh vương - Vua của các vị vua trên thế gian này".Ông ta sung sướng la hét lên trong đầu: "Đây chính là con rể của ta".

Ông vội chạy đến bên Phật đề nghị Phật ở yên đó rồi ông về nhà dắt vợ con đến gặp Phật.

Phật biết duyên hóa độ đã tới nên đồng ý với ông.Ông Bà-la-môn đó cắm đầu chạy về nhà dắt vợ và con đến gặp Phật.

Vừa đi ông vừa kể về thân tướng tốt đẹp của Phật với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp cho vợ con nghe.

Cả vợ và con gái đều mong muốn được gặp Phật.

Đặc biệt là cô con gái vì nghe thấy bảo "đã tìm được người chồng vừa ý cho cô" thì cô háo hức.Khi đến nơi hẹn thì ông chồng không thấy Phật đâu.

Ông nhìn xuống đất thấy dấu chân in hằn trên đất dẫn ra xa.

Dấu chân đó bằng phẳng ở giữa có hình bánh xe Pháp luân in rõ.

Nhìn thấy dấu chân đó thì tâm ông chợt trùng xuống.

Bởi Kinh Vệ Đà còn nói thêm một ý nữa rằng:"Một vị 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp đó hoặc sẽ là Chuyển luân thánh vương hoặc sẽ là bậc Đại Thánh Chánh Đẳng Chánh Giác, Đức Phật, Đức Thế Tôn, Thầy của trời người.

Vị thánh đó đã vượt thoát thế gian này".Ông mới nói với vợ rằng:- Bà ạ!

Với dấu chân này rất có thể đây là vị Đại thánh giải thoát thế gian mà Kinh Vệ Đà miêu tả.Rồi ông dẫn vợ con đi theo dấu chân thì thấy Phật đang ngồi ở mỏm đá dưới gốc cây.

Ông dẫn vợ và con gái đến giới thiệu với Phật và tán thán sắc đẹp của con gái: "Thiên kim tiểu thư, cành vàng lá ngọc, chim sa cá lặn, sắc nước hương trời..." và ông muốn gả cô gái đó cho Phật lấy làm vợ.Đức Phật bèn nói bài pháp là một đoạn Quán Thân Bất Tịnh trong Kinh Thân Hành Niệm:- Thế gian này là vô thường.

Thế gian không phải chỗ có thể ở lâu.

Cái thân người con gái mà ông bà gọi là xinh đẹp thật ra chỉ là vẻ ngoài.

Là cái túi da bên trong chứa đựng những ruột rà, thịt xương, gân cơ, máu mủ, đờm rãi, phủ tạng, lòng mề và cả những thứ đồ tiêu tiểu chưa bài tiết.

Ta không bao giờ muốn đụng đến dù chỉ bằng ngón chân.Vợ chồng Bà-la-môn đó nghe xong Phật nói pháp thì vỡ òa chân lý mà chứng đạo Sơ quả Dự Lưu ngay tại đó.

Họ quỳ xuống xin quy y Phật và xin xuất gia tu hành.

Họ trao toàn bộ gia tài cho con gái Ma-gan-bi-da.

Về sau cô con gái ở với chú và được chú tiến dâng lên vua U-đê-na làm Hoàng hậu.Sau khi cô gái nghe Phật nói: "Cô ta chỉ là thứ đồ tiêu tiểu chưa bài tiết.

Phật không thèm đụng đến dù chỉ là ngón chân" thì cô ta căm thù Phật đến tận xương tủy.

Khi làm hoàng hậu có quyền lực trong tay thì bà hoàng hậu đó bắt đầu lên kế hoạch tổ chức "Đại lễ hội chửi Phật".

Bà ta mua chuộc những kẻ không biết đạo, và bày cách cho họ chửi.

Bà còn nghiên cứu "nghệ thuật chửi" sao cho thâm độc, lời chửi như dao cắt khắc sâu vào tâm người...Lần đó Đức Phật có duyên đi giáo hóa qua xứ Cô-dăm-bi.

Bà hoàng hậu được thám báo cho biết tin thì tổ chức cho toàn bộ mọi người đứng 2 bên đường nơi tăng đoàn Đức Phật đi qua để chửi Phật.

Đức Phật thì bình thản đón nhận lời chửi đó.

Nhưng Ngài A-nan chưa chứng A-la-hán đi bên Phật thì khổ không chịu nổi.

Ngài mới thỉnh Phật rằng:- Bạch Thế Tôn, dân chúng ở đây không có duyên và họ phỉ báng ta quá.

Hay ta đi nơi khác?- Này A-nan, nếu qua nơi khác họ cũng chửi vậy thì ta đi đâu?- Bạch Thế Tôn, nếu vậy ta lại đi nơi khác nữa.- Này A-nan, nếu qua nơi khác họ cũng chửi vậy thì ta đi đâu?Ngài A-nan bí không biết trả lời sao thì Phật hỏi:- Này A-nan, nếu có kẻ tặng con một món quà và con không nhận thì món quà đó nằm ở tay ai?- Bạch Thế Tôn, quà đó vẫn ở tay người tặng.- Này A-nan đúng vậy, những lời phỉ báng đó không đúng sự thật, không phải là của ta.

Những kẻ đó cố tình tặng ta và ta không nhận.

Vậy thì món quà đó vẫn ở tay kẻ tặng.Nhưng vì Ngài A-nan chưa chứng thánh nên Phật nói lý thuyết rất đúng, rất thuyết phục nhưng khi bị nghe chửi thì Ngài A-nan vẫn khổ.

Đoàn người vẫn cứ đi trong tiếng chửi và đau khổ chỉ trừ Phật và các vị A-la-hán hoàn toàn tự tại không hề khổ.Ngài A-nan đi bên Phật khổ đến mức không thể chịu nổi tưởng như gục ngã thì lúc đó Phật mới dùng thần thông đọc bài kệ Pháp Cú.

Bài kệ đó Phật đọc tưởng như nhỏ chỉ cho Ngài A-nan nghe.

Thế nhưng mọi người trong kinh thành đó đều nghe thấy rõ ràng từng lời từng chữ:"Ta như voi giữa trậnHứng chịu rừng cung tênTa nhận điều phỉ bángĐời kẻ xấu rất nhiều."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 320)"Voi giỏi dự lễ hộiNgựa giỏi được vua dùngNgười giỏi chính là ngườiChịu được lời phỉ báng."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 321)"Ngựa voi dòng tốt nhấtChiến sỹ dòng giỏi nhấtChẳng bằng người chiến thắngTự chính bản thân mình."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 322)Sau khi nghe xong bài kệ của Phật thì toàn bộ kẻ đứng chửi đó bừng tỉnh, hối hận, ăn năn.

Một số kẻ đã quỳ xuống sám hối Đức Phật.

Một số kẻ thì ngượng bỏ đi.

Bởi qua bài kệ Pháp Cú thì ai ai cũng nhận ra Đức Phật là vị Địa thánh vĩ đại giữa đời.Nhưng tội của Hoàng hậu và những kẻ ăn tiền chửi Phật đó không thể thoát kiếp nạn bị nghiệp quật.

Về sau Hoàng hậu có hiềm khích với Ái phi của vua là Hoàng phi Sa-ma-va-ti.

Nhân 1 lần vua U-đê-na đi săn thì Ma-gan-bi-da đã nhốt toàn bộ Hoàng phi và cung nữ vào cung điện gỗ rồi dùng lửa đốt cháy hết sạch.

Pháp Cú 21 thì Phật nói rằng: "Sa-ma-va-ti và cung nữ đó kiếp xưa đã cố tình đốt cháy 1 vị Độc giác Phật nên nay bị quả báo như vậy".Vua U-đê-na được thám báo báo tin mà quay về hoàng cung.

Vua đứng trước cung điện gỗ bị cháy cùng toàn bộ cung nữ và Hoàng phi.

Mặt vua không biết sắc mà nói:- Sa-ma-va-ti đã làm phiền lòng ta rất nhiều.

Ta đã có ý muốn diệt trừ mà chưa có cơ hội.

Nay phải là một ai đó rất hiểu ý ta và yêu ta nên đã giúp ta tháo bỏ "cái gai trong mắt".Hoàng hậu Ma-gan-bi-da hốt nhiên chạy lại quỳ xuống nhận công.

Vua U-đê-na tán dương khen tặng Hoàng hậu.

Vua còn ban lệnh sẽ khen tặng cho toàn bộ họ hàng và người thân của Hoàng hậu.

Lệnh vua được ban ra thì những kẻ thân quen với Hoàng hậu.

Những kẻ đã từng tham dự "Đại lễ chửi Phật" thì nô nức kéo đến nhận thưởng của vua.Khi mọi người kéo vào hoàng cung thì vua cho bắt hết toàn bộ.

Rồi vua cho đào những cái lỗ bằng thân người ở ruộng và chôn những kẻ đó xuống chỉ thò cái đầu lên.

Sau đó vua cho trâu cày chạy qua cánh đồng đó.

Còn hoàng hậu Ma-gan-bi-da thì bị vua cho thiêu sống ở pháp trường để mọi người chứng kiến.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Sao bị nghe chửi lại khổ và sân?

Làm người thì ai cũng có "sĩ diện hay thể diện".

Sĩ diện nằm trong kiết sử Thân Kiến: tham lam, ích kỉ, thích tiếng tăm, thích được mọi người nể trọng, thích vinh danh và vinh quang, thích lợi ích vật chất tiếng tăm.

Từ sự tham lam thích vật chất, tiếng tăm đó mà con người tranh cướp, giành dật, trộm cắp, lừa đảo, thích nổi tiếng, thích được tán dương, được nghe khen...

Tất cả chỉ để phục vụ cái Thân, tôn vinh cái Thân.

Phật gọi đó là Thân Kiến.Ai tính "sĩ diện" lớn mà bị chê sẽ buồn khổ và tức giận.

Ai "sĩ diện" bé mà bị chê thì ít khổ.

Giống cô gái xinh đẹp, sắc nước hương trời mà bị nói là "đồ tiêu tiểu, ta không thèm đụng đến bằng ngón chân" thì tức giận thôi rồi.

Đó là bởi "sĩ diện, thể diện" của cô đó lớn.

Còn kẻ ăn xin nghèo khổ, đói rách, hôi hám bẩn thỉu nằm ở vỉa hè.

Rồi kẻ đó bị ai đó bảo "đồ thối tha" thì kẻ đó không giận bởi "sĩ diện" kẻ đó thấp.Nguyên tắc là ai càng vinh quang, càng vĩ đại thì "sĩ diện, thể diện" sẽ càng lớn.

Nhưng một vị thánh đã diệt mọi Kiết sử trong đó có Thân kiến, Sân hận, Kiêu mạn.

Vị đó bị chửi mà không hề tức giận bởi lời chửi đó không đúng sự thật.

Kẻ ác cố tình gán ghép điều xấu xa cho vị thánh nhưng vị đó không nhận.

Vì không nhận nên "món quà" đó vẫn ở tay người gửi.

Vị thánh đó bằng lý trí thấy vậy mà không bị cảm tính chi phối nên không giận, không sân.Bài học 2: Ngài A-nan có đủ lý luận để chứng minh nghe chửi không khổ.

Nhưng khi bị chửi vẫn khổ Ngài A-nan 43 năm tu theo Phật từng bước chân mà chỉ chứng Sơ quả Dự Lưu.

Một vị thánh Dự Lưu thì diệt 3 Kiết sử: 1-Thân kiến, 2-Giới cấm thủ, 3-Nghi. (1) Vị đó không còn tham lam ích kỉ. (2) Vị đó không bị bó cứng vào giới luật mà căn cứ theo đạo đức hành xử. (3) Vị đó tuyệt đối tin sâu kiên cố vào Chánh pháp của Phật.Mãi sau khi Phật nhập Niết Bàn 7 ngày thì Ngài A-nan mới chứng A-la-hán.

Bởi Ngài làm thị giả quá nhiều việc nên không có đủ 7 ngày nhập Mật Thất chuyên tâm tu thiền định để chứng đạo.

Nhưng sau khi Phật nhập Niết Bàn thì Ngài đã có đủ 7 ngày chuyên tâm thiền định.

Ngài đắc đạo A-la-hán vào sáng tinh mơ ngày thứ 8 cũng là ngày khai mạc Đại lễ kết tập Kinh Phật lần thứ nhất.Vậy nên một vị thánh trí tuệ thông hiểu đạo lý Chánh pháp như Ngài A-nan mà tâm chưa diệt được Sân hận, Kiêu mạn thì ai chửi ngài vẫn sân, ai khen ngài vẫn vui.

Dù rằng lời chửi đó chỉ là gán ghép xuyên tạc, chẳng đúng sự thật.

Hoặc lời khen đó bị cường điệu hóa, hoặc bị khen quá lời.Thế nên dù đạo lý Ngài A-nan quá hiểu, Phật cũng đã khuyên răn giải thích, lý luận thuyết phục: "Kẻ chửi Như Lai là những kẻ xấu ác bôi nhọ và gán ghép điều xấu xa cho Như Lai.

Đó là điều không có thật và Như Lai không nhận.

Vì không nhận nên món quà đó vẫn ở tay kẻ tặng".

Nhưng tâm Ngài A-nan khổ thì vẫn cứ khổ.

Khổ đến mức Ngài không thể chịu nổi gần như gục ngã thì Phật mới hóa giải.Bài học 3: Nhẫn nhục hay Ươn hènThật ra tâm lý Ngài A-nan thế là hoàn toàn đúng Chánh Pháp.

Bởi nếu ai chửi trực tiếp Ngài A-nan thì Ngài có thể chịu được.

Nhưng đây mọi người lại chửi Đức Phật một vị thầy vĩ đại mà Ngài tôn kính thì Ngài không thể chịu nổi.Ta đây cũng nên giống vậy.

Nếu bản thân ta, cá nhân ta bị chửi mà ta chịu được để vượt qua thì đó là "Nhẫn nhục Ba-la-mật".

Còn thầy tổ ta, Đức Phật của ta, cha mẹ ta, vợ con ta hay những người thân yêu của ta bị chửi, bị hành hạ, bị làm ô nhục... mà ta chịu đựng đứng nhìn thì đó là "Ươn hèn Ba-la-mật".Vậy nên Đức Phật bị chửi hay Pháp Cú trước thì Phật bị ngoại đạo vu oan giá họa làm cô gái có bầu rồi giết cô vùi xác ở vườn sau Tinh xá...

Phật hoàn toàn chịu được thì đó là Phật "Nhẫn nhục Ba-la-mật".

Còn ta là đệ tử Phật mà thấy Bậc đạo sư vị thầy mà ta tôn kính bị chửi, bị vu oan giá họa mà ta bình thản chịu đựng thì ta là "Ươn hèn Ba-la-mật".Do đó 3000 vị Tỳ kheo ở Đại học Na-lan-da bị 100 tên lính Hồi giáo người Turk mang gươm vào giết hại năm 1193.

Các vị đã "Ươn hèn Ba-la-mật" ngồi đó để chúng chém giết.

Sau đó đạo Phật ở Ấn Độ diệt vong.

Tội của 3000 vị đó vô cùng nặng.Rồi vào năm 1285 thì ở nước Đại Việt nhỏ bé có họa diệt vong bởi Đại Đế Quốc Mông Cổ.

Khi đó Mông Cổ đã xâm lược toàn bộ Trung Quốc, Cao Ly, Nga, Tây Á, Trung Đông và Đông Âu.

Diện tích Đại Đế Quốc đó rộng tới 35 triệu km2 gấp 2 lần nước Nga ngày nay.

Đế Quốc đó có diện tích đất liền mạch và rộng lớn nhất trong lịch sử nhân loại (tính đến nay).Vậy mà Đế Quốc vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó đánh nước Đại Việt nhỏ bé diện tích khoảng 100.000 km2 (Tức lớn gấp 350 lần nước ta) mà bị ta đánh bại.

Không chỉ bại 1 lần mà bại tới 3 lần.

Lần 1: Mông Cổ coi thường cho 5 vạn quân đánh ta bị thua.

Lần 2: điều 50 vạn quân đánh ta cũng thua.

Lần 3: điều tiếp 50 vạn quân đánh ta lại bị thua.Vị lãnh đạo cao nhất của toàn dân Đại Việt là vua Trần Nhân Tông.

Ta hay gọi là Phật Hoàng Trần Nhân Tông vì sau khi đánh giặc xong đất nước bình yên thì Ngài xuất gia tu hành ở Phù Vân Yên tử mà đắc đạo.

Khi viên tịch hỏa thiêu thu được 3000 viên ngọc Xá Lợi Ngũ Sắc.

Đánh xong Nguyên Mông thì vua Trần Nhân Tông lại cho xứ giả sang Trung Hoa xin cầu hòa và cúng tặng vật phẩm.

Đó mới thật là "Nhẫn nhục Ba-la-mật" đúng cách.Nên Ngài A-nan khổ khi Phật bị chửi là rất đúng.Bài học 4: Phỉ báng - tán dương và Tâm ma Kinh Hàng Ma (Trung Bộ Kinh) kể về Đức Mục Kiền Liên thời Phật Câu Lưu Tôn là Đại Ác Ma Du-si.

Du-si đã phá tăng đoàn Phật Câu Lưu Tôn bằng cách nhập vào tâm Phật tử đến chửi mắng Tỳ kheo để các vị sân hận.

Khi Tỳ kheo sân hận thì tâm đó tương ưng tâm ma thì Du-si sẽ nhập vào quậy phá.

Phật dạy Tỳ kheo thiền quán "Xả ly An trú Chánh Niệm tỉnh giác" thì không giận không sân."

Thua keo này thì bày keo khác" Du-si đổi võ.

Ác Ma lại nhập vào tâm Phật tử đến tán dương khen tặng Tỳ kheo để các vị kiêu mạn.

Tâm kiêu mạn sẽ tương ưng tâm ma thì Du-si sẽ nhập vào quậy phá.

Phật Câu Lưu Tôn lại dạy Tỳ kheo thiền quán "Vô thường Vô ngã" thì không kiêu mạn.

Ác Ma chỉ có 2 món võ đó nên thua đành bó tay.Hắn bèn dùng trò hèn hạ là nhập vào tâm đứa trẻ ven đường cầm đá ném vỡ đầu vị A-la-hán đi bên Phật.

Phật Câu Lưu Tôn khi đó mới nhìn quanh với cái nhìn của voi chúa.

Phật nói: "Này Ác Ma ngươi không biết thế nào là sự vừa phải".

Phật vừa nói xong thì Du-si bị đọa địa ngục 1 vạn năm.Đến đời này Du-si đủ phúc duyên làm người được gặp Phật Thích Ca tu hành chứng đạo.

Đó là Ngài Mục Kiền Liên Thần Thông Đệ Nhất.

Nhưng ác nghiệp kiếp xưa chưa trả nợ xong.

Thế nên thân ngài là thân người mà đầu ngài là đầu cá.

Điều này ghi rõ trong Kinh nhưng 2500 năm bị thất lạc nên họa sĩ vẽ Đức Mục Kiền Liên đẹp long lanh.

Hình tướng hiện nơi đầu cá của Tôn giả Mục Kiền Liên là báo trước 1 quả báo ác nghiệp đau khổ đang chờ Ngài.Qua Kinh Hàng Ma ta thấy: "Kẻ nào có tâm sân hận và kiêu mạn thì kẻ đó tâm tương ưng với tâm ma.

Hành động của kẻ đó sẽ giống như Ác Ma".

Và bà hoàng hậu Ma-gan-bi-da bày mưu kế cho cả kinh thành đứng lên chửi Phật là một hành động của Ác Ma.

Quả báo của hành động đó vô cùng thảm khốc.Nên ai tự xét thấy tâm ta có sân hận và kiêu mạn thì lập tức phải tu thiền quán: "Xả ly an trú Chánh niệm tỉnh giác không giận không sân".

Và thiền quán "Vô thường vô ngã để không kiêu mạn".

Nếu không khi ác nghiệp tạo thành rồi thì hối không kịp.Bài học 5: Người giỏi là người chịu được lời phỉ báng và tự thắng chính mình"Cây cao thì gió càng layCàng cao danh vọng càng dầy gian nan" Đời là vậy.

Kẻ phàm phu trên đời thì luôn ghen tị, tị nạnh, ghen ăn tức ở, đố kị, tật đố, kèn cựa, hơn thua, con gà ghét nhau tiếng gáy...

Thường những người ngang bằng họ thì họ không ghen tị cho lắm bởi họ thấy không đáng ghen tị.

Nên kẻ phàm phu đó sẽ ghen tị với người thành công hơn họ, cao sang hơn họ, vĩ đại hơn họ.Và những cây cao bóng cả, những vị đạo đức sáng ngời, những tỷ phú giàu có, những vị uy tín tiếng tăm, những vị thánh vang danh dân tộc... là những vị sẽ bị những kẻ phàm phu đố kị mang ra bôi nhọ, nói xấu.

Các vị đó sẽ làm bia tập bắn của kẻ xấu ác.Thế nên khi tôi nghe nói chuyện mà thấy kẻ hận đời, thù ghét xã hội, nói xấu lãnh đạo đất nước, coi thường tỷ phú... thì là đồ bỏ đi.

Kẻ đó chỉ nên để đời dạy họ chứ không thể có ai dạy họ được.

Kẻ đó sẽ thất bại, đói rách, ngửa tay xin ăn... là đời dạy họ.Còn nếu ta khi được nổi tiếng, được thành công, được vinh quang ngời sáng... thì cũng nên biết ta chính là "bia tập bắn" của những kẻ ghen tị và đố kị trong xã hội.

Người giỏi là người phải chịu đựng được sự phỉ báng của đời.

Kẻ đó phải chiến thắng những tập khí kiết sử trong tâm để bị chửi mà không giận, được khen mà không kiêu.

Vị đó phải diệt được Kiết sử: Thân kiến, Sân hận, Kiêu mạn.

Đó là "Tự thắng chính bản thân mình".

Vị đó là một vị thánh.Bài học 6: Vợ chồng Bà-la-môn giác ngộVợ chồng Bà-la-môn đó phúc lớn và trí tuệ.

Nhưng tâm họ bám chặt vào tâm ý chấp thân là khen ngợi con gái "sắc nước hương trời" của họ.

Rồi Phật nói về Chánh pháp bản chất của thân là "thân bất tịnh".

Nhưng Phật phải nói mạnh để đánh vỡ tâm chấp đó thì họ mới bừng tỉnh giác ngộ.

Nên Phật đã nói: "... thân đó bên chứa đựng thứ đồ tiêu tiểu mà ta không thèm đụng đến dù là một ngón chân".Chính thủ thật đó đánh vỡ tâm chấp của vợ chồng cũng khiến cô con gái họ bị sốc mà thù Phật đến tận xương tủy.

Vậy nên điều gì có hiệu quả mạnh mẽ thì cũng hay có tác dụng phụ nguy hiểm.

Ví như thuốc tây hiệu quả mạnh mẽ dừng bệnh ngay thì tác dụng phụ của thuốc tây cũng nhiều.

Thuốc nam thì hiệu quả chậm nhưng ít tác dụng phụ gây bất lợi.Bài học 7: Ý nghĩa "Bánh xe pháp" dưới chân PhậtNói về Nhân Tướng học thì những vị trí nào càng khuất kín, khó thấy (âm) thì nơi đó càng ẩn chứa điều thần bí.

Trên cơ thể con người có 2 vị trí huyệt đạo quan trọng là Thái Dương (ở 2 bên trán) và Thái Âm ở giữa 2 lòng bàn chân.

Thái Dương thì lúc nào cũng bị nắng chiếu dù nắng bên phải, nắng bên trái đều chiếu vào nó.

Còn huyệt Thái Âm thì đi, đứng, ngồi nó luôn tiếp xúc với đất.

Chỉ khi người đó nằm thì huyệt đó mới không tiếp xúc đất.Chính vì huyệt Thái Âm rất khuất kín, âm, khó thấy nên nó ẩn chứa những bí ẩn quan trọng trong Nhân Tướng.

Nhưng tại vị trí Thái Âm của người phàm luôn bị hổng.

Tức vị trí giữa lòng bàn chân luôn lõm và Thái Âm không tiếp xúc mặt đất.

Còn huyệt Thái Âm của Phật thì không những bằng phẳng chạm đất còn để lại hình bánh xe pháp.

Đó là biểu tượng rằng "Phật là một vị Thánh Chuyển Pháp Luân đưa Chánh Pháp vào đời".Ta biết Đức Phật thì có nhiều.

Nhưng vị Phật Chuyển Pháp Luân đưa Chánh pháp vào đời giúp nhiều vị tu chứng A-la-hán thì 91 Đại kiếp là 91 lần thế gian sinh diệt chỉ có 7 vị (theo Kinh Đại Bổn).Còn 99,99% các vị Phật đều vì Đại Duyên giác ngộ chứng A-la-hán chứ không phải tìm ra Chân lý Chánh pháp.

Các vị đó gọi là Duyên Giác Phật, Độc Giác Phật hay Bích Chi Phật.

Các vị đó chứng A-la-hán duy nhất 1 mình rồi nhập Niết Bàn.Vậy nên Hiện Tướng đặc biệt hình bánh xe pháp ở huyệt Thái Âm của Phật là "Biểu tượng của một vị Phật Chuyển Pháp Luân vĩ đại.

Mà trong 91 lần thế gian sinh diệt chỉ có 7 vị Phật như vậy ra đời".Bài học 8: Trai chấp tài, gái chấp sắc"Trai tài gái sắc" Con trai thi đua, hơn thua, kèn cựa nhau ở "Cái tài".

Cái tài biểu hiện bằng tài sản, tiền bạc, quyền lực...

Còn những tài ăn nói, đánh đàn, ca hát chỉ là tài lẻ.

Con trai hấp dẫn con gái là ở cái tài.

Còn con gái thi đua, hơn thua, kèn cựa nhau là bởi "Nhan sắc".

Thế nên 99,99% các cuộc thi hoa hậu là dành cho con gái.

Mọi người gọi con gái là "Phái đẹp".

Con gái luôn hấp dẫn con trai bởi nhan sắc.Vậy nên lời chê bai đau khổ nhất dành cho con trai là: "Đồ ngu, đồ hèn, đồ mạt hạng, đồ nghèo hèn mạt hạng, đồ đần độn".

Còn lời chê bai đau khổ nhất dành cho con gái là: "Thứ con gái xấu như ma".

Điều đặc biệt là không có ai thấy ma mặt mũi thế nào, xấu đẹp ra sao.

Đặc biệt là một cô gái kiêu ngạo tự hào về nhan sắc "chim sa cá lặn" mà bị chê "cô là thứ đồ tiêu tiểu, ta không thèm chạm vào dù là ngón chân".

Thì cô ta sẽ vô cùng đau khổ, tức giận, căm thù...Kinh Hàng Ma ta đã nghiên cứu ở trên.

Một kẻ bị sân hận hay kiêu mạn ngút trời thì tâm kẻ đó là tâm ma, hành động của kẻ đó là hành động của Ác ma.

Sự thật đúng vậy.

Bà hoàng hậu Ma-gan-bi-da đã chính thức biến thành Đại ác ma có hành động của quỷ.

Quả báo cuối cùng của Đại ác ma đó là thảm khốc.Bài học 9: Quyền lực rơi vào tay kẻ nguNếu bà Hoàng hậu Ma-gan-bi-da đó căm thù Đức Phật nhưng bà chỉ là thường dân thì tâm đó cũng là tội nhưng không nặng.

Không may cho bà là bà có quyền lực của vị hoàng hậu "mẹ của muôn dân".

Với quyền lực to lớn trong tay thì bà đã tổ chức "Đại lễ trả thù Phật" thành công vĩ đại mà nhận về quả báo kinh hoàng.Khổng Tử có nói rằng: "Bại thành từ lực chí".

Thất bại hay thành công là bởi "Chí và Lực".

CHÍ là mong muốn, ước vọng, tham vọng, lý chí, lý tưởng, hoài bão, ước mơ...

Còn LỰC gồm nội lực: tài năng, tiền vốn, kinh nghiệm, công nghệ, kiến thức... của bản thân.

Và ngoại lực: cha mẹ hay người thân yêu giúp đỡ, thời cơ tới, điều kiện môi trường thích hợp.Vậy nên việc quan trọng đầu tiên để một người thành công là có ý chí, ý muốn, lý tưởng, ước mơ, khát khao... khởi trong tâm họ.

Rồi họ rèn luyện Nội lực, tận dụng Ngoại lực thì thành công.

Hoàng hậu Ma-gan-bi-da đó có lòng căm thù Phật sâu sắc tức có "Ý chí".

Nếu không có Lực thì chẳng thể làm lên chuyện.

Nhưng bà ta lại có đầy đủ quyền lực trong tay, được vua U-đê-na yêu mến trao quyền.

Thế nên bà đã thành công và đọa địa ngục.Bài học 10: Nghiệp Duyên đã tớiTa thấy Ngài A-nan xin Phật đi nơi khác nhưng Phật nói rằng: "Đây là duyên nghiệp nên đi nơi khác thì vẫn bị phỉ báng như vậy".Nên ta thấy: "Nếu nghiệp duyên đã hội đủ thì quả báo ắt thành đến Phật cũng không thể thoát khỏi quả báo".

Phật bình thản đón nhật quả báo vì dù bỏ đi nơi khác thì nơi đó Phật cũng bị phỉ báng mà thôi.Do vậy, Bồ Tát thấy rõ Nhân Quả, hiểu Nhân Quả nên trước quả báo khổ kéo đến thì Bồ Tát luôn "Nhẫn nhục Ba-la-mật" đón nhận để trả nợ ác nghiệp quá khứ.

Nhưng ta cần cẩn thận nếu không lại hóa thành "Ươn hèn Ba-la-mật" như phân tích ở trên.

Nếu ta khổ mà ta chịu được và bình thản đi qua thì là "Nhẫn nhục".

Nếu người khác khổ mà ta bình thản nhìn họ khổ thì là "Ươn hèn".Ngoài ra, ta cũng nên học Đức Mục Kiền Liên.

Lúc đó ngoại đạo mang gươm đao vào trong hang động và Tôn giả cũng thấy duyên nhập Niết Bàn đã đến.

Nhưng Tôn giả đã 6 lần biến mất vì duyên chưa viên mãn.

Đến lần thứ 7 thì Ngài mới "Nhẫn nhục" chịu bị chém bị giết.

Vậy nên khổ đến thì ta cứ phải cố gắng hết sức bình sinh để thoát.

Khi cố hết sức rồi mà khổ vẫn tới thì ta bình thản đón nhận.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 323: Truyện Tỳ kheo "ngứa nghề"


"Chẳng phải nhờ voi ấyĐưa người đến Niết BànChỉ người tự điều phụcMới đến được Niết Bàn."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 323)Tích Pháp Cú: Có ông Tỳ kheo trước khi xuất gia thì làm nghề nuôi dạy voi.

Ta tạm gọi là Tỳ kheo Quản tượng.

Rồi sau đó ông xuất gia làm Tỳ kheo.

Một lần ông đi cùng các Tỳ kheo khác qua chỗ có người đang dạy voi.

Người dạy voi đó tay nghề kém nên dạy voi lóng ngóng và con voi không nghe lời.Tỳ kheo đó thấy "ngứa mắt" và "ngứa nghề".

Thế là ông ta đứng gần người dạy voi quay ra nói lớn với các Tỳ kheo khác.- Móc dưới miệng nó thì nó quỳ chứ gì?

Móc dưới cổ thì nó sẽ dơ vòi lên chứ gì?...Người dạy voi nghe mách nước vậy làm theo.

Quả đúng thật con voi làm theo y như vậy.

Các Tỳ kheo bạn thấy tâm ông Tỳ kheo Quản tượng vậy thì về mách Phật.

Đức Phật mới kêu ông Tỳ kheo Quản tượng đó lên khiển trách bằng bài kệ:"Chẳng phải nhờ voi ấyĐưa người đến Niết BànChỉ người tự điều phụcMới đến được Niết Bàn."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 323)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Kỹ năng và Nghề nghiệpLàm người cần có một nghề "Thiện xảo" để kiếm tiền nuôi thân.

Nếu nghề đó không "Thiện xảo" sẽ bị đào thải hoặc khó sống vì lương thấp do khó cạnh tranh.

Khi người có tay "Thiện xảo" hơn thì dân thuê người đó làm ra sản phẩm chất lượng.

Khi việc quá nhiều thì "ông thiện xảo" sẽ tăng giá để tăng lợi nhuận đồng nghĩa là giảm khách hàng.Sau đó vì giá cao nên dân bắt đầu thuê người giá rẻ hơn, kém "thiện xảo" hơn.

Vậy nếu ta kém "thiện xảo" thì ta phải chấp nhận lương thấp.

Muốn lương cao bắt buộc phải nâng cao tay nghề trình độ.Nghề nuôi thân chỉ nên có 1 mà đào xâu phát triển nghề đó sao cho "thiện xảo, tinh xảo".

Khi đó sản phẩm ta làm ra chất lượng cao bán giá cao mà vẫn nhiều người mua.

Ví như của hàng Châu Âu, Nhật Bản vậy.

"Thiện xảo" ngày nay gồm: tay nghề trình độ, khoa học kỹ thuật, quản trị kinh doanh, tài chính kế toán...

Thời nay "Thiện xảo" không có nghĩa chỉ làm ra Sản phẩm tốt là có người tự tìm đến mua.Còn kỹ năng thì ta cần rất nhiều: lái xe, nấu cơm, làm bếp, sửa điện, bơi lội, đi rừng, trồng cây, chèo thuyền, cấp cứu, cứu hộ cứu nạn...

Đa phần kỹ năng không phải là nghề kiếm tiền.

Nhưng ta nên biết để chủ động trong công việc.

Hoặc ta chủ động xử lý trong trường hợp cần thiết, cấp cứu, hoặc tự làm.Tôi thấy người Phương Tây kỹ năng tốt nên sửa nhà, sơn nhà, đóng bàn ghế... là họ tự làm.

Khi nào xây cả 1 cái nhà thì họ mới thuê thợ.

Còn người Việt ta thì kỹ năng yếu nên nước chẩy, điện chập, bóng đèn cháy... là gọi thợ.

Hoặc cái bàn cái ghế bị long cái ốc vít cũng không biết vặn lại cho cứng cáp.Bài học 2: Nghề của sưNgười đời có nhiều các loại nghề để kiếm tiền.

Nhưng Tỳ kheo chỉ có 1 nghề là tu hành.

Cụ thể Sư có 7 bổn phận gắn với 7 trách nhiệm sau🙁1) Tinh tấn tu hành. (2) Giữ giới hạnh cụ túc. (3) Sống hộ trì các căn. (4) Ăn uống có tiết độ. (4) Tinh tấn tu thiền định. (5) Tu học và giữ gìn Chánh pháp trong kinh. (6) Dạy đạo lý Chánh pháp cho đời. (7) Làm thiện tích phúc giúp đời.Ngoài ra Sư còn cần thêm các kỹ năng: nhận cúng dường, lái xe hơi, lái xe máy, bơi lội, may vá, làm món ăn, chỉnh âm thanh giảng đường, ghi âm ghi hình, tổ chức lễ hội, nghi thức đám tang, đám lễ...

Nhưng các kỹ năng đó chỉ là phụ.

Quan trọng nhất vẫn là Nghề chính 7 món của Sư để tu hành.Bài học 3: Ngứa nghề là kiêu mạn"Bệnh ngứa nghề" thì ai cũng mắc phải.

Bởi "Thói quen thì khó chừa - Kẻ say sưa khó tỉnh".

Khi ta thiện xảo một nghề thì nó ăn sâu vào trong tâm ta và hành động của ta.

Nó tạo thành thói quen.

Khi gặp môi trường thể hiện thì ta bị "Ngứa nghề" muốn lôi ra sử dụng để thể hiện.Ví dụ: Một người nhẩy đẹp cứ hễ có tiếng nhạc nhẩy vang lên là kẻ đó đứng nhún nhẩy.

Kẻ có giọng hát khá hay hễ đi hát Karaoke cùng bạn là giành Mic để hát.

Hoặc trong đám cưới có tiết mục hát họ sẽ đăng ký ngay và luôn.

Bởi họ thích thể hiện.Cũng vậy, ông Tỳ kheo quản tượng thấy ông quản tượng tay nghề kém dạy voi lóng ngóng thì ngứa nghề, ngứa mắt.

Ông ta đứng đó nói lớn cố ý để người dạy voi nghe thấy làm theo cho đúng.

Đó cũng là tật xấu "Thích thể hiện bản thân".

Bản chất là kiêu mạn thấy ta giỏi hơn người và chấp cái tài của ta.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 324: Truyện con voi Tài Hộ


"Con voi tên Tài HộVùng vẫy khó điều phụcVì voi nhớ cha mẹỞ khu rừng ngày xưa."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 324)Tích Pháp Cú: Thời Đức Phật có câu chuyện dân gian kể về con voi tên là Tài Hộ.

Nó bị bắt vào cung để thuần phục và phục vụ vua.

Con voi đó rất khó điều phục bởi nó nhớ cha nhớ mẹ ở trong rừng.Đức Phật nói bài kệ này liên quan đến chuyện dân gian đó bởi sự kiện sau.

Gia đình nọ có 4 người con trai và bà mẹ chết sớm.

4 người con trai đó đều có gia đình.

Rồi lần đó chúng đến gặp cha và nói:- Thưa cha, trước sau gì cha cũng chết.

Vậy cha hãy chia gia tài của cha cho bọn con để ổn định.

Rồi tụi con sẽ có trách nhiệm nuôi cha cho đến khi cha chết.

Nếu cha chưa chia gia tài lỡ cha chết thì 4 anh em chúng con tự quyết sợ lại tranh cãi mất tình đoàn kết anh em.Người cha nghe thấy có lý bèn chia hết sạch toàn bộ gia tài cho 4 con không xót cái gì.

Thậm chí còn cái giường cha đang nằm chưa kịp chia thì 4 đứa con cũng bắt cha chia.

Sau khi chia xong hết thì 4 con trai trở mặt và 4 đứa con dâu thành 4 con ác quỷ.Ông cha đụng vào cái gì cũng bị bọn chúng bảo là của chúng.

Thậm chí ông ngồi lên cái giường cũng bị đứa con dâu vào nhận là của nó.

Thế rồi ông bỏ nhà đi ăn xin.Ông đi ăn xin một thời gian thì nghe thấy có một Đức Phật, Đức Thế Tôn hiện thân giữa đời.

Vị đó là bậc Đại Thánh giác ngộ, Thầy của trời người.

Ông bèn tìm đến gặp Phật và quỳ lạy Phật.

Rồi ông kể hết sự việc cuộc đời ông cho Phật nghe.Sau đó Đức Phật dạy ông một bài "Luận tội về đạo đức các con" và bảo ông học thuộc.

Đến khi gia tộc nhà ông họp họ thì ông đến đó đọc bài "Luận tội đạo đức các con" nói về tội của 4 đứa con.

Gia tộc đó sau khi thấy sự bất hiếu của những đứa con.

Họ bèn gọi bọn chúng lên khiển trách và bắt chúng trả hết tài sản cho ông.

Những đứa con trước sức ép của gia tộc thì cúi đầu nhận tội và đưa cha về nhà cũ.Sau khi ông lấy lại tài sản thì ông khuyên 4 người con đi đến nghe Phật thuyết pháp.

Khi gia đình đó đến gặp Phật thì Phật kể về chuyện con voi Tài Hộ.

Nó bị bắt đưa vào hoàng cung sống sung sướng trong nhung lụa.

Nhưng không ai có thể thuần phục được nó bởi nó nhớ bố mẹ nó trong rừng.

Vậy mà bọn con là con người lại phụ bạc bố mẹ lấy hết tài sản của cha.

Sau đó Đức Phật đọc bài kệ:"Con voi tên Tài HộVùng vẫy khó điều phụcVì voi nhớ cha mẹỞ khu rừng ngày xưa."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 324)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Nước mắt chảy xuôi Loài thú luôn có bản năng "Sinh tồn" và "Duy trì nòi giống".

Vì bản năng sinh tồn nên chúng tranh cướp của nhau, giành giật với nhau, đánh giết nhau để cướp đồ ăn.Ví như 2 con chó bạn thân với nhau hay anh em với nhau đang vui đùa.

Ta vứt cho chúng khúc xương thì chúng lập tức quay vào cắn nhau để tranh cướp.

Chúng chẳng biết nhường nhịn, giúp đỡ, sẻ chia.

Hay 2 con gà là vợ chồng đang đi giữa sân.

Một con mổ được con giun là cắm đầu chạy sợ bị cướp mất.Và con người thú tính nặng sẽ giống con vật.

Đó là chúng tranh cướp tài sản, giành giật tài sản với nhau không biết sẻ chia, thương yêu, nhường nhịn.Còn bản năng "Duy trì nòi giống": các con vật luôn có nhu cầu tình dục để giao phối và sinh con.

Chúng loạn luân, thác loạn, đến ngày đến tháng động dục là bừa bãi không biết ngượng.

Con người cũng có bản năng tình dục nhưng phải theo đạo đức, thuần phong mỹ tục, lễ nghi gia giáo và luật pháp quy định.

Thế nên ở con người chỉ vợ chồng mới được phép quan hệ tình dục và sinh con.

Nếu không phải vợ chồng mà quan hệ tình dục là Ngoại tình và bị cấm.Bản năng "Duy trì nòi giống" còn thể hiện ở "Tình mẫu tử" (một số ít loài là "Tình phụ tử" như chim cánh cụt).

Cha mẹ luôn yêu thương con cái và chăm sóc con non của nó.

Nếu loài nào cha mẹ không biết chăm sóc đùm bọc con thì loài đó có thể bị tuyệt chủng.

Chỉ những loài động vật bậc thấp đẻ hàng triệu con mới không biết chăm sóc con.

Những loài thú thì cha mẹ nào cũng biết chăm sóc con.Nhưng bản năng không quy định là con non phải chăm sóc lại cha mẹ chúng.

Làm con biết yêu thương cha mẹ là thứ tình cảm chỉ có ở loài người.

Nếu ai thú tính nặng thì kẻ đó chỉ biết chăm sóc con nó.

Còn cha mẹ nó thì nó bỏ mặc.

Thậm chí nó còn tranh cướp hết tài sản của cha mẹ rồi bỏ cha mẹ đi ăn xin ngoài đường.

Nên 4 đứa con ông đó là Thú vật.Tuy nhiên "Cha làm sao thì con hao hao là vậy.

Chứng rồng lại nở ra rồng, le le lại nở ra dòng le le".

Con cái bất hiếu với cha mẹ cũng phải xem cha mẹ đối xử với ông bà ra sao.

Nhân Quả ấy mà.Bài học 2: Có những loài vật có tình cảm, có lòng biết ơn và có linh cảm.Loài voi, cá heo, cá voi là 3 loài vật có tình cảm và lòng biết ơn.

Có thể có thêm loài khác nhưng 3 loài đó là điển hình.

Cá voi thường giúp đỡ ngư dân.

Khi ngư dân gặp nạn mà cầu cứu thì hay thấy được cá voi cứu.

Nên ngư dân Việt Nam thể hiện lòng biết ơn bằng cách thờ cá voi.

Họ gọi cá voi là "Cá Ông".

Khi có xác cá voi vào bờ thì họ lập đền thờ tại đó.Còn loài voi có rất nhiều video trên mạng nói về lòng biết ơn của nó.

Thậm chí loài voi còn có linh cảm rất tốt.

Có người cứu voi xong thì nó thường hay đến thăm người đó khi lâm bệnh.

Đến khi người đó chết thì voi cũng xuất hiện để tiễn đưa.Còn Pháp Cú này thì ta thấy con voi Tài Hộ được ở cung vua, được yêu quý chăm sóc ăn uống đầy đủ.

Nhưng không ai thuần phục được nó bởi nó nhớ cha mẹ nó trong rừng.

Ta thấy con voi Tài Hộ đã trưởng thành khôn lớn.

Nếu là là con vật khác thì sẽ bỏ mặc cha mẹ.

Nhưng đây nó có lòng hiếu thảo.Bài học 4: Bàn về chữ Hiếu Hiếu với cha mẹ là tấm lòng người con yêu thương chăm sóc đỡ đần cha mẹ.

Nhưng chỉ có tấm lòng thôi thì chưa đủ.

Nếu người con đó quá nghèo mà thương yêu cha mẹ.

Họ giúp cha mẹ 1 bữa ăn thì hôm đó họ nhịn đói.

Tôi đảm bảo sẽ chẳng cha mẹ nào dám ăn đồ ăn đó.Vậy nên Hiếu cần phải có đầy đủ: Tinh thần và Vật chất.

Con cái yêu thương cha mẹ nhớ đến cha mẹ, gặp mặt trò chuyện giúp cha mẹ vui là cần trước tiên.

Nhưng con cái cũng cần có kinh tế mua tặng những món ăn mà cha mẹ thích.

Khi cha mẹ bệnh thì có tiền chăm sóc y tế và thuốc thang.

Nhà ở cha mẹ quá tồi tàn phải có tiền xây cho cha mẹ căn nhà khang trang...

Nếu chỉ có tinh thần thôi là chưa đủ.

Con cái cần phải giàu có đủ năng lực vật chất để giúp đỡ cha mẹ mới là Hiếu Thảo viên mãn.Thật ra cha mẹ già cũng không cần vật chất cao sang nhiều lắm.

Nhưng ít nhất cũng phải no ấm, đủ tiền mua thuốc hay trả viện phí, nhà cửa không nên quá tồi tàn.

Ngoài ra con cái có tiền cho cha mẹ cũng để chứng minh cho cha mẹ thấy "con là đứa con thành đạt và hiếu thảo".

Chính điều chứng minh này giúp cha mẹ ấm lòng và hạnh phúc.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 325: Truyện vua Ba Tư Nặc béo như heo


"Người thích ăn thích ngủBéo phì nằm tròn quayKhác gì loài lợn béoNgu si tái sinh hoài."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 325)Tích Pháp Cú: Bài kệ này Đức Phật nói cho vua Ba Tư Nặc.

Đức Phật trách mắng vua vì ham ăn ham ngủ nên béo như con lợn chứng tỏ Phật và vua Ba Tư Nặc vô cùng thân thiết.

Thân đến mức Phật mắng vua "béo như heo" mà vua không giận.Nên ta thấy Pháp Cú 306 khi đó ngoại đạo hãm hại Phật.

Họ cho cô gái vô cùng xinh đẹp cứ liên tục đến tinh xá Phật khi chiều tối và sáng sớm thì đi từ tinh xá ra.

Sau đó cô ta có bầu rồi bị ngoại đạo giết vùi xác ở vườn sau Tinh xá.

Rồi ngoại đạo vu oan giá họa rằng "Chính các Tỳ kheo trong Tinh xá đã hại đời con gái và giết người diệt khẩu".Chuyện đó đồn lan ầm ầm toàn thành Xá Vệ và nhiều người tin thật.

Bởi mắt họ thực tế thấy rõ ràng có cô gái xinh đẹp chiều tối vào Tinh xá, sáng sớm mới ra về.

Rồi vua Ba Tư Nặc đứng lên nhận điều tra chân tướng sự việc.

Vua cho thám tử điều tra ra hung thủ thì bắt hết toàn bộ bọn chúng hàng trăm tên tu sỹ ngoại đạo.

Vua xét xử theo pháp luật để minh oan cho Phật rồi cho chém đầu toàn bộ.Ta thấy thời đó Tôn giáo có thế lực mạnh hơn vua.

Trong xã hội Ấn Độ thì giai cấp tu sỹ Bà-la-môn cao hơn giai cấp Sát Đế Lị là vua chúa.

Thế mà vua cho bắt hết tu sỹ ngoại đạo xét xử rồi chém đầu.

Chẳng lẽ vua không sợ bị ngoại đạo hại?Sự thật lần đó vua Ba Tư Nặc cũng liều.

Thứ nhất là vì vua quá tôn kính Đức Phật vị thầy vĩ đại của vua.

Vua quyết tâm làm lớn mang sinh mạng chính trị ra thách thức với tôn giáo để minh oan cho Phật.

Cũng là để trả thù mối hận trong lòng vì kẻ đó dám bôi nhọ Đức Thế Tôn đáng kính của vua.Ta quay lại câu chuyện...Phật nói bài kệ đó là vì lần đó vua đến gặp Phật cùng vị hoàng tử Út-ta-ra.

Nhưng lần đó không biết vì sao, ăn uống ngủ nghỉ thế nào mà vua Ba Tư Nặc béo tròn quay.

Thấy vua như vậy thì Phật trách mắng vua bằng bài kệ:"Người thích ăn thích ngủBéo phì nằm tròn quayKhác gì loài lợn béoNgu si tái sinh hoài."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 325)Rồi Phật nói với hoàng tử Út-ta-ra rằng: "Hễ mỗi khi phụ vương con dùng bữa thì con đứng bên đọc bài kệ đó cho phụ vương nghe".Sau đó thì hoàng tử Út-ta-ra vâng lời Phật.

Cứ hễ mỗi khi vua Ba Tư Nặc chuẩn bị dùng bữa là hoàng tử đứng bên đọc bài kệ của Phật.

Nhờ đó mà vua kìm chế trong ăn uống nên thân hình trở lại cân đối như xưa.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Thuận hạnh và Nghịch hạnhMột vị thầy giỏi dạy đệ tử luôn có 2 phương pháp: "Thuận hạnh và Nghịch hạnh".Học trò mới chân ướt chân ráo vào tu thì thầy phải khen tặng học trò, xách tấn, khuyến khích, động viên học trò.

Giống trẻ con mới tập đi bố mẹ phải vỗ tay khuyến khích để nó bước đi từng bước.

Bởi giai đoạn này nếu đánh mắng, chê trách thì lập tức cậu học trò bỏ tu hoàn tục.

Giống đứa trẻ mới tập đi mà cha mẹ la hét thì nó khỏi đi luôn.

Đây gọi là "Thuận hạnh".

Nó mát mẻ như dòng nước, mềm mại như áng mây, ngọt ngào như cơn gió.

Đến giai đoạn học trò tu có tiến bộ, tâm kiên cố thì để học trò từ bỏ các tật xấu thì thầy phải bắt phạt, bắt quỳ nhan, bắt chép kinh... hoặc bắt cậu ta gánh nước, quét sân, làm bếp, cọ nhà vệ sinh...

để tích phúc vì giúp đỡ Chư tăng.Đây là giai đoạn khổ cực mà bắt buộc phải trải qua thì học trò mới lớn.

Nếu chỉ khen tặng tán dương thì những tật xấu không thể diệt, không lao động khổ cực không thể có phúc để phát triển.

Giai đoạn này gọi là "Nghịch hạnh".

Nó vô cùng khổ cực, hà khắc, cương như sắt và rắn như đá.Tuy nhiên cái gì cũng có giới hạn của nó.

Đây là lần duy nhất ta thấy Phật trách mắng vua Ba Tư Nặc nặng nề vậy.

Còn chưa bao giờ ta thấy Phật làm vậy.

Đa phần ta thấy Phật an ủi vua, mềm mỏng khuyên nhủ vua.Vậy nên theo lý thuyết âm dương thì Âm 2 phần, Dương 1 phần.

Tức ta phải mềm mỏng khuyên bảo 2 lần thì mới được phép 1 lần trách mắng.

Ta cứ liên tục trách mắng hà khắc nghiệt ngã thì học trò đổ gục.

Mà ta cứ mềm mỏng mãi thì học trò nhờn.Vì sao tôi có tỷ lệ: Âm 2 / dương 1.

Bởi Luân hồi 6 cõi thì có 4 cõi âm chúng sinh tồn tại ở thể tâm linh.

Chỉ có 2 cõi dương là chúng sinh tồn tại vật chất.Bài học 2: Khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độỞ giai đoạn đầu tu hành chưa diệt được 1 Kiết sử nào nên Sư vẫn 100% là phàm tục.

Chỉ khi chứng Chánh Niệm tỉnh giác diệt 5 Triền cái: Tham ái, Sân hận, Hôn trầm thụy miên, Trạo cử hối tiếc, Nghi (trong đó có 4 Kiết sử) thì Sư mới chứng Sơ quả Dự Lưu.

Lúc đó Sư mới bước vào dòng thánh mà không còn là phàm phu tục tử nữa.Nên khi tâm chưa diệt được 1 Kiết sử nào thì Sư phải tu theo Kinh Sa Môn Quả mà Phật dạy là: 1- Giữ giới hạnh cụ túc (250 Tăng giới, 348 Ni giới), 2- Khéo hộ trì các căn, 3- Ăn uống có tiết độ, 4- Có niềm tin và tinh cần thiền định."

1- Tu giữ giới hạnh cụ túc" tôi không bàn vì tôi đang cố lắm mới giữ được 5 giới.

Còn Sư thì giới luật cao siêu hà khắc và nghiệt ngã.

Nên chỉ có Chư tăng mới có thể chứng được A-la-hán chết hỏa thiêu có Ngọc Xá Lợi ngũ sắc 3000 viên.

Cư sỹ tu cao siêu chỉ chứng được Nhị quả Nhất Lai là tối đa."

2- Tu khéo hộ trì các căn" là: Tai nghe điều thanh tịnh.

Mắt thấy hình ảnh thanh tịnh.

Mũi ngửi hương thanh tịnh.

Lưỡi nếm vị thanh tịnh.

Thân tránh tiếp xúc người khác giới.

Tâm nghĩ pháp thanh tịnh."

3- Tu ăn uống có tiết độ" là ăn uống phải đúng lúc đúng thời, ăn đồ ăn thanh tịnh không liên quan đến sự giết hại (nên sữa và trứng gà không trống là ăn được).

Và không ăn sau Ngọ.Ngày nay Thế Giới đang đổ xô nhau học cách ăn 8 tiếng nghỉ 16 tiếng để cơ thể tiêu hóa hết toàn bộ thức ăn.

Họ gọi là phương pháp ăn "Cân bằng âm dương" đúng như tôi nói ở trên "2 âm 1 dương" tức nhịn 16 tiếng và ăn trong 8 tiếng.Thật ra đó chính là phương pháp "Không ăn sau Ngọ" của Đức Phật đề ra 2500 năm trước.

Tức là ta sẽ tuyệt đối không ăn bất cứ thứ gì sau 12h trưa đến 4h sáng hôm sau mà chỉ uống nước lọc.

Rồi từ 4h sáng đến 12h trưa là ta được phép ăn.Với phương pháp "Cân bằng âm dương, 2 âm 1 dương" này thì ta không cần phải giảm số thức ăn.

Một bữa ta có thể ăn 5-6 bát cơm mà không béo.

Bởi 16 tiếng nghỉ là đủ thời gian tiêu hóa hết số thức ăn đó.

Vì cơ thể tiêu hóa hết nên không bị mỡ thừa."

4- Tu có niềm tin và tinh cần Thiền định" Ai tu thiền đều phải chịu sự đau khổ nơi thân.

Còn tâm thì loạn động, trạo cử, hôn trầm, thụy miên, ái dục...

đánh phá.

Mà kẻ đó không có niềm tin vào kết quả của thiền định sẽ không thể tu thiền.Thời Đức Phật thì mọi người đều tuyệt đối tin vào Thiền định vì họ thấy quá nhiều vị Lục Thông A-la-hán vĩ đại.

Thời nay chẳng ai tu chứng cái gì nên khó có niềm tin vào Thiền định.

Cũng bởi các pháp tu thiền ngày nay đều bị sai nên cố cũng không được.Tôi có viết tác phẩm Tu thiền 7 buổi 100% căn cứ theo Kinh Nikaya: "Không thêm 1 ý, không bớt 1 niệm".

Mời bạn download theo đường link bên dưới Tác phẩm thứ 13 của tôi.Bài học 3: Ăn no rửng mỡHễ mỗi khi môi trường của loài vật đó được thuận lợi và nguồn thức ăn phong phú thì loài đó giao phối nhiều và sinh con nhiều phát triển số lượng.

Nên cứ vào các mùa, các thời điểm thích hợp trong năm thì nạn châu chấu, muỗi vằn, sâu bọ...

ùn ùn phát triển phá hoại mùa màng, gây bệnh cho người.

Còn mùa khác thì thời tiết không thích hợp, thức ăn không phong phú nên loài đó không phát triển.Con người ta cũng vậy.

Hễ mỗi khi kinh tế rủng rỉnh, ăn uống đủ chất thì tâm sinh lý thèm khát tình dục lại trỗi dậy.

Các cụ gọi là "Ăn no rửng mỡ".

Nên các mợ tuổi hồi xuân kinh tế khá giả, ăn uống thừa đạm đặc biệt là thiếu đạo đức thì sẽ động dục mà kiếm Cave nam.

Còn các ông doanh nhân thành đạt mà thiếu đạo đức thì "em út" nhiều hơn các mợ nhiều.

Đó là sự thật bởi kẻ kém đạo đức sẽ giống như thú vật.

Họ đi theo bản năng thú tính mà không có đạo đức kìm chế nên 100% bị vậy.Bài học 4: Vì bản năng mà tái sinh hoàiBản năng trong tâm chúng sinh là Tham - Sân - Si.

Bản năng trong hành động của chúng sinh là: Ăn - Ngủ - Tình dục - Bài tiết.

Chính vì chúng sinh đi theo bản năng nên chúng sinh bị tái sinh hoài.Một thầy tu là tu diệt trừ các bản năng: Tham - Sân - Si.

Ăn uống có tiết độ.

Ngủ nghỉ có tiết độ.

Tình dục là bị cấm.

Bài tiết sạch sẽ.

Một vị tu diệt trừ hết mọi bản năng đó sẽ chứng A-la-hán không còn tái sinh.

Và bản năng Tham ăn là một trong các nguyên nhân kiến chúng sinh bị tái sinh hoài.Bài học 5: Phép quán diệt thói quen xấuHoàng tử cứ thấy vua cha dùng bữa thì đọc bài kệ của Phật dạy để nhắc vua.

Thời gian sau thì vua giảm cân.

Đây chính là phép quán liên tục nhắc nhở tâm ta về cái ta sai lầm.

Khi ta thấy đó là sai thì ta sẽ quyết tâm sửa.

Chỉ vì ta không nhắc nhở thường xuyên nên "thói quen thì khó chừa, kẻ say sưa khó tình" rồi ta lại "ngựa quen đường cũ" tiếp tục làm sai.
 
Back
Top Bottom