"Ta như voi giữa trậnHứng chịu rừng cung tênTa nhận điều phỉ bángĐời kẻ xấu rất nhiều."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 320)"Voi giỏi dự lễ hộiNgựa giỏi được vua dùngNgười giỏi chính là ngườiChịu được lời phỉ báng."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 321)"Ngựa voi dòng tốt nhấtChiến sỹ dòng giỏi nhấtChẳng bằng người chiến thắngTự chính bản thân mình."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 322)Tích Pháp Cú: Ngược thời gian khoảng 10 năm trước khi Phật nói Pháp Cú này.
Khi đó Phật đến xứ Cô-dăm-bi có vua trị vì nước đó là U-đê-na.
Ta biết Phật hay quan sát duyên chúng sinh trên thế gian.
Khi Phật thấy ai đến duyên hóa độ thì Người hay đi một mình đến đó giáo hóa.
Giống lần Phật hóa độ cho tên cướp An-gu-li-ma-la ở rừng sâu vậy.
Phật cũng đi 1 mình đến đó và dùng thần thông khuất phục tên cướp giết 999 mạng người đó.Ở Cô-dăm-bi có vợ chồng Bà-la-môn đến duyên đắc đạo.
Vợ chồng đó giàu có, thuộc kinh Vệ Đà, có khả năng xem tướng linh nghiệm.
Họ có 1 cô con gái "sắc nước hương trời" tên là Ma-gan-bi-da.
Vợ chồng đó xem tướng con gái thấy tương lai nó là hoàng hậu hay quý phi phu nhân.
Thế nên 2 ông bà chủ động đi tìm người "xứng lứa vừa đôi" để gả con gái họ.Lần đó ông chồng nhìn thấy Đức Phật cao lớn, mình tỏa hào quang.
Ông quan sát kỹ thì thấy Phật hiện đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.
Mà Kinh Vệ Đà nói rằng: "Ai hội đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp sẽ là Chuyển luân thánh vương - Vua của các vị vua trên thế gian này".Ông ta sung sướng la hét lên trong đầu: "Đây chính là con rể của ta".
Ông vội chạy đến bên Phật đề nghị Phật ở yên đó rồi ông về nhà dắt vợ con đến gặp Phật.
Phật biết duyên hóa độ đã tới nên đồng ý với ông.Ông Bà-la-môn đó cắm đầu chạy về nhà dắt vợ và con đến gặp Phật.
Vừa đi ông vừa kể về thân tướng tốt đẹp của Phật với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp cho vợ con nghe.
Cả vợ và con gái đều mong muốn được gặp Phật.
Đặc biệt là cô con gái vì nghe thấy bảo "đã tìm được người chồng vừa ý cho cô" thì cô háo hức.Khi đến nơi hẹn thì ông chồng không thấy Phật đâu.
Ông nhìn xuống đất thấy dấu chân in hằn trên đất dẫn ra xa.
Dấu chân đó bằng phẳng ở giữa có hình bánh xe Pháp luân in rõ.
Nhìn thấy dấu chân đó thì tâm ông chợt trùng xuống.
Bởi Kinh Vệ Đà còn nói thêm một ý nữa rằng:"Một vị 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp đó hoặc sẽ là Chuyển luân thánh vương hoặc sẽ là bậc Đại Thánh Chánh Đẳng Chánh Giác, Đức Phật, Đức Thế Tôn, Thầy của trời người.
Vị thánh đó đã vượt thoát thế gian này".Ông mới nói với vợ rằng:- Bà ạ!
Với dấu chân này rất có thể đây là vị Đại thánh giải thoát thế gian mà Kinh Vệ Đà miêu tả.Rồi ông dẫn vợ con đi theo dấu chân thì thấy Phật đang ngồi ở mỏm đá dưới gốc cây.
Ông dẫn vợ và con gái đến giới thiệu với Phật và tán thán sắc đẹp của con gái: "Thiên kim tiểu thư, cành vàng lá ngọc, chim sa cá lặn, sắc nước hương trời..." và ông muốn gả cô gái đó cho Phật lấy làm vợ.Đức Phật bèn nói bài pháp là một đoạn Quán Thân Bất Tịnh trong Kinh Thân Hành Niệm:- Thế gian này là vô thường.
Thế gian không phải chỗ có thể ở lâu.
Cái thân người con gái mà ông bà gọi là xinh đẹp thật ra chỉ là vẻ ngoài.
Là cái túi da bên trong chứa đựng những ruột rà, thịt xương, gân cơ, máu mủ, đờm rãi, phủ tạng, lòng mề và cả những thứ đồ tiêu tiểu chưa bài tiết.
Ta không bao giờ muốn đụng đến dù chỉ bằng ngón chân.Vợ chồng Bà-la-môn đó nghe xong Phật nói pháp thì vỡ òa chân lý mà chứng đạo Sơ quả Dự Lưu ngay tại đó.
Họ quỳ xuống xin quy y Phật và xin xuất gia tu hành.
Họ trao toàn bộ gia tài cho con gái Ma-gan-bi-da.
Về sau cô con gái ở với chú và được chú tiến dâng lên vua U-đê-na làm Hoàng hậu.Sau khi cô gái nghe Phật nói: "Cô ta chỉ là thứ đồ tiêu tiểu chưa bài tiết.
Phật không thèm đụng đến dù chỉ là ngón chân" thì cô ta căm thù Phật đến tận xương tủy.
Khi làm hoàng hậu có quyền lực trong tay thì bà hoàng hậu đó bắt đầu lên kế hoạch tổ chức "Đại lễ hội chửi Phật".
Bà ta mua chuộc những kẻ không biết đạo, và bày cách cho họ chửi.
Bà còn nghiên cứu "nghệ thuật chửi" sao cho thâm độc, lời chửi như dao cắt khắc sâu vào tâm người...Lần đó Đức Phật có duyên đi giáo hóa qua xứ Cô-dăm-bi.
Bà hoàng hậu được thám báo cho biết tin thì tổ chức cho toàn bộ mọi người đứng 2 bên đường nơi tăng đoàn Đức Phật đi qua để chửi Phật.
Đức Phật thì bình thản đón nhận lời chửi đó.
Nhưng Ngài A-nan chưa chứng A-la-hán đi bên Phật thì khổ không chịu nổi.
Ngài mới thỉnh Phật rằng:- Bạch Thế Tôn, dân chúng ở đây không có duyên và họ phỉ báng ta quá.
Hay ta đi nơi khác?- Này A-nan, nếu qua nơi khác họ cũng chửi vậy thì ta đi đâu?- Bạch Thế Tôn, nếu vậy ta lại đi nơi khác nữa.- Này A-nan, nếu qua nơi khác họ cũng chửi vậy thì ta đi đâu?Ngài A-nan bí không biết trả lời sao thì Phật hỏi:- Này A-nan, nếu có kẻ tặng con một món quà và con không nhận thì món quà đó nằm ở tay ai?- Bạch Thế Tôn, quà đó vẫn ở tay người tặng.- Này A-nan đúng vậy, những lời phỉ báng đó không đúng sự thật, không phải là của ta.
Những kẻ đó cố tình tặng ta và ta không nhận.
Vậy thì món quà đó vẫn ở tay kẻ tặng.Nhưng vì Ngài A-nan chưa chứng thánh nên Phật nói lý thuyết rất đúng, rất thuyết phục nhưng khi bị nghe chửi thì Ngài A-nan vẫn khổ.
Đoàn người vẫn cứ đi trong tiếng chửi và đau khổ chỉ trừ Phật và các vị A-la-hán hoàn toàn tự tại không hề khổ.Ngài A-nan đi bên Phật khổ đến mức không thể chịu nổi tưởng như gục ngã thì lúc đó Phật mới dùng thần thông đọc bài kệ Pháp Cú.
Bài kệ đó Phật đọc tưởng như nhỏ chỉ cho Ngài A-nan nghe.
Thế nhưng mọi người trong kinh thành đó đều nghe thấy rõ ràng từng lời từng chữ:"Ta như voi giữa trậnHứng chịu rừng cung tênTa nhận điều phỉ bángĐời kẻ xấu rất nhiều."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 320)"Voi giỏi dự lễ hộiNgựa giỏi được vua dùngNgười giỏi chính là ngườiChịu được lời phỉ báng."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 321)"Ngựa voi dòng tốt nhấtChiến sỹ dòng giỏi nhấtChẳng bằng người chiến thắngTự chính bản thân mình."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 322)Sau khi nghe xong bài kệ của Phật thì toàn bộ kẻ đứng chửi đó bừng tỉnh, hối hận, ăn năn.
Một số kẻ đã quỳ xuống sám hối Đức Phật.
Một số kẻ thì ngượng bỏ đi.
Bởi qua bài kệ Pháp Cú thì ai ai cũng nhận ra Đức Phật là vị Địa thánh vĩ đại giữa đời.Nhưng tội của Hoàng hậu và những kẻ ăn tiền chửi Phật đó không thể thoát kiếp nạn bị nghiệp quật.
Về sau Hoàng hậu có hiềm khích với Ái phi của vua là Hoàng phi Sa-ma-va-ti.
Nhân 1 lần vua U-đê-na đi săn thì Ma-gan-bi-da đã nhốt toàn bộ Hoàng phi và cung nữ vào cung điện gỗ rồi dùng lửa đốt cháy hết sạch.
Pháp Cú 21 thì Phật nói rằng: "Sa-ma-va-ti và cung nữ đó kiếp xưa đã cố tình đốt cháy 1 vị Độc giác Phật nên nay bị quả báo như vậy".Vua U-đê-na được thám báo báo tin mà quay về hoàng cung.
Vua đứng trước cung điện gỗ bị cháy cùng toàn bộ cung nữ và Hoàng phi.
Mặt vua không biết sắc mà nói:- Sa-ma-va-ti đã làm phiền lòng ta rất nhiều.
Ta đã có ý muốn diệt trừ mà chưa có cơ hội.
Nay phải là một ai đó rất hiểu ý ta và yêu ta nên đã giúp ta tháo bỏ "cái gai trong mắt".Hoàng hậu Ma-gan-bi-da hốt nhiên chạy lại quỳ xuống nhận công.
Vua U-đê-na tán dương khen tặng Hoàng hậu.
Vua còn ban lệnh sẽ khen tặng cho toàn bộ họ hàng và người thân của Hoàng hậu.
Lệnh vua được ban ra thì những kẻ thân quen với Hoàng hậu.
Những kẻ đã từng tham dự "Đại lễ chửi Phật" thì nô nức kéo đến nhận thưởng của vua.Khi mọi người kéo vào hoàng cung thì vua cho bắt hết toàn bộ.
Rồi vua cho đào những cái lỗ bằng thân người ở ruộng và chôn những kẻ đó xuống chỉ thò cái đầu lên.
Sau đó vua cho trâu cày chạy qua cánh đồng đó.
Còn hoàng hậu Ma-gan-bi-da thì bị vua cho thiêu sống ở pháp trường để mọi người chứng kiến.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Sao bị nghe chửi lại khổ và sân?
Làm người thì ai cũng có "sĩ diện hay thể diện".
Sĩ diện nằm trong kiết sử Thân Kiến: tham lam, ích kỉ, thích tiếng tăm, thích được mọi người nể trọng, thích vinh danh và vinh quang, thích lợi ích vật chất tiếng tăm.
Từ sự tham lam thích vật chất, tiếng tăm đó mà con người tranh cướp, giành dật, trộm cắp, lừa đảo, thích nổi tiếng, thích được tán dương, được nghe khen...
Tất cả chỉ để phục vụ cái Thân, tôn vinh cái Thân.
Phật gọi đó là Thân Kiến.Ai tính "sĩ diện" lớn mà bị chê sẽ buồn khổ và tức giận.
Ai "sĩ diện" bé mà bị chê thì ít khổ.
Giống cô gái xinh đẹp, sắc nước hương trời mà bị nói là "đồ tiêu tiểu, ta không thèm đụng đến bằng ngón chân" thì tức giận thôi rồi.
Đó là bởi "sĩ diện, thể diện" của cô đó lớn.
Còn kẻ ăn xin nghèo khổ, đói rách, hôi hám bẩn thỉu nằm ở vỉa hè.
Rồi kẻ đó bị ai đó bảo "đồ thối tha" thì kẻ đó không giận bởi "sĩ diện" kẻ đó thấp.Nguyên tắc là ai càng vinh quang, càng vĩ đại thì "sĩ diện, thể diện" sẽ càng lớn.
Nhưng một vị thánh đã diệt mọi Kiết sử trong đó có Thân kiến, Sân hận, Kiêu mạn.
Vị đó bị chửi mà không hề tức giận bởi lời chửi đó không đúng sự thật.
Kẻ ác cố tình gán ghép điều xấu xa cho vị thánh nhưng vị đó không nhận.
Vì không nhận nên "món quà" đó vẫn ở tay người gửi.
Vị thánh đó bằng lý trí thấy vậy mà không bị cảm tính chi phối nên không giận, không sân.Bài học 2: Ngài A-nan có đủ lý luận để chứng minh nghe chửi không khổ.
Nhưng khi bị chửi vẫn khổ Ngài A-nan 43 năm tu theo Phật từng bước chân mà chỉ chứng Sơ quả Dự Lưu.
Một vị thánh Dự Lưu thì diệt 3 Kiết sử: 1-Thân kiến, 2-Giới cấm thủ, 3-Nghi. (1) Vị đó không còn tham lam ích kỉ. (2) Vị đó không bị bó cứng vào giới luật mà căn cứ theo đạo đức hành xử. (3) Vị đó tuyệt đối tin sâu kiên cố vào Chánh pháp của Phật.Mãi sau khi Phật nhập Niết Bàn 7 ngày thì Ngài A-nan mới chứng A-la-hán.
Bởi Ngài làm thị giả quá nhiều việc nên không có đủ 7 ngày nhập Mật Thất chuyên tâm tu thiền định để chứng đạo.
Nhưng sau khi Phật nhập Niết Bàn thì Ngài đã có đủ 7 ngày chuyên tâm thiền định.
Ngài đắc đạo A-la-hán vào sáng tinh mơ ngày thứ 8 cũng là ngày khai mạc Đại lễ kết tập Kinh Phật lần thứ nhất.Vậy nên một vị thánh trí tuệ thông hiểu đạo lý Chánh pháp như Ngài A-nan mà tâm chưa diệt được Sân hận, Kiêu mạn thì ai chửi ngài vẫn sân, ai khen ngài vẫn vui.
Dù rằng lời chửi đó chỉ là gán ghép xuyên tạc, chẳng đúng sự thật.
Hoặc lời khen đó bị cường điệu hóa, hoặc bị khen quá lời.Thế nên dù đạo lý Ngài A-nan quá hiểu, Phật cũng đã khuyên răn giải thích, lý luận thuyết phục: "Kẻ chửi Như Lai là những kẻ xấu ác bôi nhọ và gán ghép điều xấu xa cho Như Lai.
Đó là điều không có thật và Như Lai không nhận.
Vì không nhận nên món quà đó vẫn ở tay kẻ tặng".
Nhưng tâm Ngài A-nan khổ thì vẫn cứ khổ.
Khổ đến mức Ngài không thể chịu nổi gần như gục ngã thì Phật mới hóa giải.Bài học 3: Nhẫn nhục hay Ươn hènThật ra tâm lý Ngài A-nan thế là hoàn toàn đúng Chánh Pháp.
Bởi nếu ai chửi trực tiếp Ngài A-nan thì Ngài có thể chịu được.
Nhưng đây mọi người lại chửi Đức Phật một vị thầy vĩ đại mà Ngài tôn kính thì Ngài không thể chịu nổi.Ta đây cũng nên giống vậy.
Nếu bản thân ta, cá nhân ta bị chửi mà ta chịu được để vượt qua thì đó là "Nhẫn nhục Ba-la-mật".
Còn thầy tổ ta, Đức Phật của ta, cha mẹ ta, vợ con ta hay những người thân yêu của ta bị chửi, bị hành hạ, bị làm ô nhục... mà ta chịu đựng đứng nhìn thì đó là "Ươn hèn Ba-la-mật".Vậy nên Đức Phật bị chửi hay Pháp Cú trước thì Phật bị ngoại đạo vu oan giá họa làm cô gái có bầu rồi giết cô vùi xác ở vườn sau Tinh xá...
Phật hoàn toàn chịu được thì đó là Phật "Nhẫn nhục Ba-la-mật".
Còn ta là đệ tử Phật mà thấy Bậc đạo sư vị thầy mà ta tôn kính bị chửi, bị vu oan giá họa mà ta bình thản chịu đựng thì ta là "Ươn hèn Ba-la-mật".Do đó 3000 vị Tỳ kheo ở Đại học Na-lan-da bị 100 tên lính Hồi giáo người Turk mang gươm vào giết hại năm 1193.
Các vị đã "Ươn hèn Ba-la-mật" ngồi đó để chúng chém giết.
Sau đó đạo Phật ở Ấn Độ diệt vong.
Tội của 3000 vị đó vô cùng nặng.Rồi vào năm 1285 thì ở nước Đại Việt nhỏ bé có họa diệt vong bởi Đại Đế Quốc Mông Cổ.
Khi đó Mông Cổ đã xâm lược toàn bộ Trung Quốc, Cao Ly, Nga, Tây Á, Trung Đông và Đông Âu.
Diện tích Đại Đế Quốc đó rộng tới 35 triệu km2 gấp 2 lần nước Nga ngày nay.
Đế Quốc đó có diện tích đất liền mạch và rộng lớn nhất trong lịch sử nhân loại (tính đến nay).Vậy mà Đế Quốc vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó đánh nước Đại Việt nhỏ bé diện tích khoảng 100.000 km2 (Tức lớn gấp 350 lần nước ta) mà bị ta đánh bại.
Không chỉ bại 1 lần mà bại tới 3 lần.
Lần 1: Mông Cổ coi thường cho 5 vạn quân đánh ta bị thua.
Lần 2: điều 50 vạn quân đánh ta cũng thua.
Lần 3: điều tiếp 50 vạn quân đánh ta lại bị thua.Vị lãnh đạo cao nhất của toàn dân Đại Việt là vua Trần Nhân Tông.
Ta hay gọi là Phật Hoàng Trần Nhân Tông vì sau khi đánh giặc xong đất nước bình yên thì Ngài xuất gia tu hành ở Phù Vân Yên tử mà đắc đạo.
Khi viên tịch hỏa thiêu thu được 3000 viên ngọc Xá Lợi Ngũ Sắc.
Đánh xong Nguyên Mông thì vua Trần Nhân Tông lại cho xứ giả sang Trung Hoa xin cầu hòa và cúng tặng vật phẩm.
Đó mới thật là "Nhẫn nhục Ba-la-mật" đúng cách.Nên Ngài A-nan khổ khi Phật bị chửi là rất đúng.Bài học 4: Phỉ báng - tán dương và Tâm ma Kinh Hàng Ma (Trung Bộ Kinh) kể về Đức Mục Kiền Liên thời Phật Câu Lưu Tôn là Đại Ác Ma Du-si.
Du-si đã phá tăng đoàn Phật Câu Lưu Tôn bằng cách nhập vào tâm Phật tử đến chửi mắng Tỳ kheo để các vị sân hận.
Khi Tỳ kheo sân hận thì tâm đó tương ưng tâm ma thì Du-si sẽ nhập vào quậy phá.
Phật dạy Tỳ kheo thiền quán "Xả ly An trú Chánh Niệm tỉnh giác" thì không giận không sân."
Thua keo này thì bày keo khác" Du-si đổi võ.
Ác Ma lại nhập vào tâm Phật tử đến tán dương khen tặng Tỳ kheo để các vị kiêu mạn.
Tâm kiêu mạn sẽ tương ưng tâm ma thì Du-si sẽ nhập vào quậy phá.
Phật Câu Lưu Tôn lại dạy Tỳ kheo thiền quán "Vô thường Vô ngã" thì không kiêu mạn.
Ác Ma chỉ có 2 món võ đó nên thua đành bó tay.Hắn bèn dùng trò hèn hạ là nhập vào tâm đứa trẻ ven đường cầm đá ném vỡ đầu vị A-la-hán đi bên Phật.
Phật Câu Lưu Tôn khi đó mới nhìn quanh với cái nhìn của voi chúa.
Phật nói: "Này Ác Ma ngươi không biết thế nào là sự vừa phải".
Phật vừa nói xong thì Du-si bị đọa địa ngục 1 vạn năm.Đến đời này Du-si đủ phúc duyên làm người được gặp Phật Thích Ca tu hành chứng đạo.
Đó là Ngài Mục Kiền Liên Thần Thông Đệ Nhất.
Nhưng ác nghiệp kiếp xưa chưa trả nợ xong.
Thế nên thân ngài là thân người mà đầu ngài là đầu cá.
Điều này ghi rõ trong Kinh nhưng 2500 năm bị thất lạc nên họa sĩ vẽ Đức Mục Kiền Liên đẹp long lanh.
Hình tướng hiện nơi đầu cá của Tôn giả Mục Kiền Liên là báo trước 1 quả báo ác nghiệp đau khổ đang chờ Ngài.Qua Kinh Hàng Ma ta thấy: "Kẻ nào có tâm sân hận và kiêu mạn thì kẻ đó tâm tương ưng với tâm ma.
Hành động của kẻ đó sẽ giống như Ác Ma".
Và bà hoàng hậu Ma-gan-bi-da bày mưu kế cho cả kinh thành đứng lên chửi Phật là một hành động của Ác Ma.
Quả báo của hành động đó vô cùng thảm khốc.Nên ai tự xét thấy tâm ta có sân hận và kiêu mạn thì lập tức phải tu thiền quán: "Xả ly an trú Chánh niệm tỉnh giác không giận không sân".
Và thiền quán "Vô thường vô ngã để không kiêu mạn".
Nếu không khi ác nghiệp tạo thành rồi thì hối không kịp.Bài học 5: Người giỏi là người chịu được lời phỉ báng và tự thắng chính mình"Cây cao thì gió càng layCàng cao danh vọng càng dầy gian nan" Đời là vậy.
Kẻ phàm phu trên đời thì luôn ghen tị, tị nạnh, ghen ăn tức ở, đố kị, tật đố, kèn cựa, hơn thua, con gà ghét nhau tiếng gáy...
Thường những người ngang bằng họ thì họ không ghen tị cho lắm bởi họ thấy không đáng ghen tị.
Nên kẻ phàm phu đó sẽ ghen tị với người thành công hơn họ, cao sang hơn họ, vĩ đại hơn họ.Và những cây cao bóng cả, những vị đạo đức sáng ngời, những tỷ phú giàu có, những vị uy tín tiếng tăm, những vị thánh vang danh dân tộc... là những vị sẽ bị những kẻ phàm phu đố kị mang ra bôi nhọ, nói xấu.
Các vị đó sẽ làm bia tập bắn của kẻ xấu ác.Thế nên khi tôi nghe nói chuyện mà thấy kẻ hận đời, thù ghét xã hội, nói xấu lãnh đạo đất nước, coi thường tỷ phú... thì là đồ bỏ đi.
Kẻ đó chỉ nên để đời dạy họ chứ không thể có ai dạy họ được.
Kẻ đó sẽ thất bại, đói rách, ngửa tay xin ăn... là đời dạy họ.Còn nếu ta khi được nổi tiếng, được thành công, được vinh quang ngời sáng... thì cũng nên biết ta chính là "bia tập bắn" của những kẻ ghen tị và đố kị trong xã hội.
Người giỏi là người phải chịu đựng được sự phỉ báng của đời.
Kẻ đó phải chiến thắng những tập khí kiết sử trong tâm để bị chửi mà không giận, được khen mà không kiêu.
Vị đó phải diệt được Kiết sử: Thân kiến, Sân hận, Kiêu mạn.
Đó là "Tự thắng chính bản thân mình".
Vị đó là một vị thánh.Bài học 6: Vợ chồng Bà-la-môn giác ngộVợ chồng Bà-la-môn đó phúc lớn và trí tuệ.
Nhưng tâm họ bám chặt vào tâm ý chấp thân là khen ngợi con gái "sắc nước hương trời" của họ.
Rồi Phật nói về Chánh pháp bản chất của thân là "thân bất tịnh".
Nhưng Phật phải nói mạnh để đánh vỡ tâm chấp đó thì họ mới bừng tỉnh giác ngộ.
Nên Phật đã nói: "... thân đó bên chứa đựng thứ đồ tiêu tiểu mà ta không thèm đụng đến dù là một ngón chân".Chính thủ thật đó đánh vỡ tâm chấp của vợ chồng cũng khiến cô con gái họ bị sốc mà thù Phật đến tận xương tủy.
Vậy nên điều gì có hiệu quả mạnh mẽ thì cũng hay có tác dụng phụ nguy hiểm.
Ví như thuốc tây hiệu quả mạnh mẽ dừng bệnh ngay thì tác dụng phụ của thuốc tây cũng nhiều.
Thuốc nam thì hiệu quả chậm nhưng ít tác dụng phụ gây bất lợi.Bài học 7: Ý nghĩa "Bánh xe pháp" dưới chân PhậtNói về Nhân Tướng học thì những vị trí nào càng khuất kín, khó thấy (âm) thì nơi đó càng ẩn chứa điều thần bí.
Trên cơ thể con người có 2 vị trí huyệt đạo quan trọng là Thái Dương (ở 2 bên trán) và Thái Âm ở giữa 2 lòng bàn chân.
Thái Dương thì lúc nào cũng bị nắng chiếu dù nắng bên phải, nắng bên trái đều chiếu vào nó.
Còn huyệt Thái Âm thì đi, đứng, ngồi nó luôn tiếp xúc với đất.
Chỉ khi người đó nằm thì huyệt đó mới không tiếp xúc đất.Chính vì huyệt Thái Âm rất khuất kín, âm, khó thấy nên nó ẩn chứa những bí ẩn quan trọng trong Nhân Tướng.
Nhưng tại vị trí Thái Âm của người phàm luôn bị hổng.
Tức vị trí giữa lòng bàn chân luôn lõm và Thái Âm không tiếp xúc mặt đất.
Còn huyệt Thái Âm của Phật thì không những bằng phẳng chạm đất còn để lại hình bánh xe pháp.
Đó là biểu tượng rằng "Phật là một vị Thánh Chuyển Pháp Luân đưa Chánh Pháp vào đời".Ta biết Đức Phật thì có nhiều.
Nhưng vị Phật Chuyển Pháp Luân đưa Chánh pháp vào đời giúp nhiều vị tu chứng A-la-hán thì 91 Đại kiếp là 91 lần thế gian sinh diệt chỉ có 7 vị (theo Kinh Đại Bổn).Còn 99,99% các vị Phật đều vì Đại Duyên giác ngộ chứng A-la-hán chứ không phải tìm ra Chân lý Chánh pháp.
Các vị đó gọi là Duyên Giác Phật, Độc Giác Phật hay Bích Chi Phật.
Các vị đó chứng A-la-hán duy nhất 1 mình rồi nhập Niết Bàn.Vậy nên Hiện Tướng đặc biệt hình bánh xe pháp ở huyệt Thái Âm của Phật là "Biểu tượng của một vị Phật Chuyển Pháp Luân vĩ đại.
Mà trong 91 lần thế gian sinh diệt chỉ có 7 vị Phật như vậy ra đời".Bài học 8: Trai chấp tài, gái chấp sắc"Trai tài gái sắc" Con trai thi đua, hơn thua, kèn cựa nhau ở "Cái tài".
Cái tài biểu hiện bằng tài sản, tiền bạc, quyền lực...
Còn những tài ăn nói, đánh đàn, ca hát chỉ là tài lẻ.
Con trai hấp dẫn con gái là ở cái tài.
Còn con gái thi đua, hơn thua, kèn cựa nhau là bởi "Nhan sắc".
Thế nên 99,99% các cuộc thi hoa hậu là dành cho con gái.
Mọi người gọi con gái là "Phái đẹp".
Con gái luôn hấp dẫn con trai bởi nhan sắc.Vậy nên lời chê bai đau khổ nhất dành cho con trai là: "Đồ ngu, đồ hèn, đồ mạt hạng, đồ nghèo hèn mạt hạng, đồ đần độn".
Còn lời chê bai đau khổ nhất dành cho con gái là: "Thứ con gái xấu như ma".
Điều đặc biệt là không có ai thấy ma mặt mũi thế nào, xấu đẹp ra sao.
Đặc biệt là một cô gái kiêu ngạo tự hào về nhan sắc "chim sa cá lặn" mà bị chê "cô là thứ đồ tiêu tiểu, ta không thèm chạm vào dù là ngón chân".
Thì cô ta sẽ vô cùng đau khổ, tức giận, căm thù...Kinh Hàng Ma ta đã nghiên cứu ở trên.
Một kẻ bị sân hận hay kiêu mạn ngút trời thì tâm kẻ đó là tâm ma, hành động của kẻ đó là hành động của Ác ma.
Sự thật đúng vậy.
Bà hoàng hậu Ma-gan-bi-da đã chính thức biến thành Đại ác ma có hành động của quỷ.
Quả báo cuối cùng của Đại ác ma đó là thảm khốc.Bài học 9: Quyền lực rơi vào tay kẻ nguNếu bà Hoàng hậu Ma-gan-bi-da đó căm thù Đức Phật nhưng bà chỉ là thường dân thì tâm đó cũng là tội nhưng không nặng.
Không may cho bà là bà có quyền lực của vị hoàng hậu "mẹ của muôn dân".
Với quyền lực to lớn trong tay thì bà đã tổ chức "Đại lễ trả thù Phật" thành công vĩ đại mà nhận về quả báo kinh hoàng.Khổng Tử có nói rằng: "Bại thành từ lực chí".
Thất bại hay thành công là bởi "Chí và Lực".
CHÍ là mong muốn, ước vọng, tham vọng, lý chí, lý tưởng, hoài bão, ước mơ...
Còn LỰC gồm nội lực: tài năng, tiền vốn, kinh nghiệm, công nghệ, kiến thức... của bản thân.
Và ngoại lực: cha mẹ hay người thân yêu giúp đỡ, thời cơ tới, điều kiện môi trường thích hợp.Vậy nên việc quan trọng đầu tiên để một người thành công là có ý chí, ý muốn, lý tưởng, ước mơ, khát khao... khởi trong tâm họ.
Rồi họ rèn luyện Nội lực, tận dụng Ngoại lực thì thành công.
Hoàng hậu Ma-gan-bi-da đó có lòng căm thù Phật sâu sắc tức có "Ý chí".
Nếu không có Lực thì chẳng thể làm lên chuyện.
Nhưng bà ta lại có đầy đủ quyền lực trong tay, được vua U-đê-na yêu mến trao quyền.
Thế nên bà đã thành công và đọa địa ngục.Bài học 10: Nghiệp Duyên đã tớiTa thấy Ngài A-nan xin Phật đi nơi khác nhưng Phật nói rằng: "Đây là duyên nghiệp nên đi nơi khác thì vẫn bị phỉ báng như vậy".Nên ta thấy: "Nếu nghiệp duyên đã hội đủ thì quả báo ắt thành đến Phật cũng không thể thoát khỏi quả báo".
Phật bình thản đón nhật quả báo vì dù bỏ đi nơi khác thì nơi đó Phật cũng bị phỉ báng mà thôi.Do vậy, Bồ Tát thấy rõ Nhân Quả, hiểu Nhân Quả nên trước quả báo khổ kéo đến thì Bồ Tát luôn "Nhẫn nhục Ba-la-mật" đón nhận để trả nợ ác nghiệp quá khứ.
Nhưng ta cần cẩn thận nếu không lại hóa thành "Ươn hèn Ba-la-mật" như phân tích ở trên.
Nếu ta khổ mà ta chịu được và bình thản đi qua thì là "Nhẫn nhục".
Nếu người khác khổ mà ta bình thản nhìn họ khổ thì là "Ươn hèn".Ngoài ra, ta cũng nên học Đức Mục Kiền Liên.
Lúc đó ngoại đạo mang gươm đao vào trong hang động và Tôn giả cũng thấy duyên nhập Niết Bàn đã đến.
Nhưng Tôn giả đã 6 lần biến mất vì duyên chưa viên mãn.
Đến lần thứ 7 thì Ngài mới "Nhẫn nhục" chịu bị chém bị giết.
Vậy nên khổ đến thì ta cứ phải cố gắng hết sức bình sinh để thoát.
Khi cố hết sức rồi mà khổ vẫn tới thì ta bình thản đón nhận.