Tâm Linh 19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (PC301-PC360)

19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 326: Truyện chú Sa-di dậy thì


"Trước tâm này buông lungChạy theo đời mây dụcNay ta đã chế ngựNhư quản tượng giữ voi."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 326)Tích Pháp Cú: Có chú Sa-di tên là Sa-lu thời nhỏ rất ngoan tu hành nghiêm túc đến mức Chư thiên và Phúc thần đều kính trọng.

Nhưng khi chú lớn 14-15 tuổi là độ tuổi dậy thì, thì chú bắt đầu động dục.

Thế là chú ta chán tu muốn được hoàn tục lấy vợ.Khi đó có 2 người mẹ.

1 người mẹ hiện tại và 1 người mẹ kiếp trước.

Người mẹ kiếp trước nay là một vị Phúc thần.

Rồi 2 bà mẹ đó cùng đến khuyên bảo chú Sa-di Sa-lu chuyên tâm tu hành.

Chú vượt qua giai đoạn dậy thì đó thì lại tu tốt chứng A-la-hán và sống tới 120 tuổi.Sau đó Tôn giả Sa-lu đó nói ra bài kệ này và được Ngài A-nan kết tập trong Kinh Pháp Cú:"Trước tâm này buông lungChạy theo đời mây dụcNay ta đã chế ngựNhư quản tượng giữ voi."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 326)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Tuổi dậy thì "nóng máy"Nhu cầu tình dục của con người thuộc về "Bản năng duy trì nòi giống".

Bản năng tình dục có ở mọi loài vật cho đến loài người.

Vì nó là "Bản năng duy trì nòi giống" nên nếu loài vật nào mà bản năng này yếu kém thì giống loài đó sẽ tuyệt chủng.Các loài vật cứ đến thời gian động dục là quan hệ tình dục bừa bãi để thụ tinh, có thai và sinh con.

Còn con người vì có đạo đức, thuần phong mỹ tục, gia giáo lễ nghi và pháp luật ràng buộc nên bắt buộc phải là vợ chồng mới được quan hệ tình dục mà thụ tinh sinh con.

Nếu không phải vợ chồng thì sẽ bị cấm và bị gọi là tội "ngoại tình".Nhưng khi đạo đức xuy đồi, thuần phong mỹ tục bị xem nhẹ, pháp luật lỏng lẻo thì con người ta cũng thác loạn, bừa bãi như các con vật mà thôi.Và tuổi dậy thì "nóng máy" giống gian đoạn động dục của loài vật.

Khi đó bản năng và ham muốn tình dục thôi thúc mãnh liệt.

Đây cũng là giai đoạn khó khăn nhất của các chú tiểu phải vượt qua.

Khi đó tâm chú tiểu cứ bị thôi thúc hoàn tục về cưới vợ.Bài học 2: Quản tượng giữ voiHình ảnh một thanh niên tuổi dậy thì bị động dục thì bản năng tình dục của chú lồng lộn vùng vẫy mạnh như những con voi.

Và sự chế ngự kiềm chế trong tâm chú phải khéo léo tài giỏi như người quản tượng.

Người quản tượng chế ngự các con voi hung mãn có sức mạnh phi thường bằng những thủ thuật khéo léo thiện xảo khiến voi quy phục.Cũng vậy, một thanh niên tuổi dậy thì phải chế ngự tâm tham dục đang loạn động và vùng vẫy mạnh như một con voi.

Bắt buộc thanh niên đó phải khéo léo tài giỏi như người quản tượng mới thành công.

Nếu không sẽ thất bại và bị con voi đó quật lại.Do vậy giai đoạn tuổi dậy thì cha mẹ cần thường xuyên răn đe nhắc nhở chú về đạo đức để chú giữ vững đạo đức mà vượt qua.

Nếu không rất có thể chú "phá rào" gây hậu quả nghiêm trọng.Bài học 3: Tu thiền giúp Ly dụcTiểu Kinh Khổ Uẩn (Trung Bộ Kinh) thì Phật giải thích vì sao khi ngồi thiền đúng tư thế, đúng cách thức, đúng phương pháp sẽ xuất hiện "Cơn đau khổ" trong tâm.

"Cơn đau khổ" đó thật ra là Tự Ngã (Bản Năng) của chính chúng ta.

Khi ta ngồi thiền là ta học làm thánh vượt thoát khỏi loài người.

Mà để làm thánh thì tâm ta phải "Ly dục – Ly ác pháp" tức tâm sẽ thanh tịnh dục và không còn khởi tâm ác hại người.

Mà Ái Dục và Ác Pháp chính là bản năng trong tâm mọi con người phàm tục.

Thế nên bản năng (Tự Ngã) tự tạo ra "Cơn đau khổ" để kháng cự, chống lại người tu thiền đúng pháp:Sau đây ta nghiên cứu đoạn Kinh Khổ Uẩn này🙁1) "Vị ấy biết như sau: Trong khi ta tinh cần thiền định chống lại nguyên nhân đau khổ này, do chống lại nguyên nhân đau khổ, ta không có tham dục.

Nhưng trong khi ta xả thiền đối với nguyên nhân đau khổ này, sau khi tu tập xả, ta có tham dục". (2) "Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo lại suy nghĩ như sau: "Khi ta trú vào lạc, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp giảm thiểu.

Nhưng khi ta tinh cần thiền định dùng đau khổ chống với tự ngã, các bất thiện pháp giảm thiểu, các thiện pháp tăng trưởng.

Vậy ta hãy tinh cần thiền định dùng đau khổ chống với tự ngã (ác pháp)". (3) "Vị ấy sau một thời gian, không tinh cần dùng đau khổ chống với tự ngã (ác pháp).

Vì sao vậy?

Vì mục đích vị Tỷ-kheo ấy tinh cần dùng đau khổ chống với tự ngã đã thành tựu.

Do vậy, sau một thời gian vị ấy không tinh cần dùng đau khổ chống với tự ngã".Đoạn 1: Phật dạy rằng đau khổ trong thiền có tác dụng diệt tham dục.

Khi xả thiền thì tham dục lại tới.Đoạn 2: Phật dạy rằng tu thiền dùng đau khổ chống lại tự ngã khiến tâm thiện tăng, tâm ác giảm.

Khi xả thiền thì tâm thiện giảm, tâm ác tăng.

Vậy sư không tu thiền dễ bị nhiễm tham dục và ác pháp.Đoạn 3: Khi chứng Sơ thiền thì tâm thiền sư chỉ còn "Hỉ lạc do ly dục sinh" hoàn toàn hạnh phúc không còn khổ.

Bởi vì mục đích của cái khổ trong thiền để "ly dục ly ác pháp".

Nay chứng Sơ thiền thì mục tiêu đó thành tựu nên cái khổ biến mất.

Chính vì vậy các vị Sơ Thiền có thể ngồi thiền nhiều ngày tháng không khổ mà chỉ thấy hạnh phúc.Bài học 4: Người mẹ kiếp này và kiếp xưa Chúng sinh đi trong luân hồi vô tận nên luôn có nhiều cha mẹ kiếp này và các kiếp quá khứ.

Thế nên Đại lễ Vu Lan báo hiếu là báo hiếu cha mẹ của kiếp này và các kiếp quá khứ có duyên với ta.

Chứ không phải chỉ báo hiếu duy nhất cha mẹ kiếp hiện tại.Nhưng nếu mẹ kiếp xưa của ta đã đầu thai thì cũng khó biết ta là ai mà giúp đỡ ta.

Ở đây chú Sa-di Sa-lu có người mẹ kiếp xưa là một vị thần.

Thế nên vị đó vẫn nhớ tình cảm mẹ con với chú và thường theo dõi giúp đỡ chú.Cũng vậy, các vị Bồ Tát khi đầu thai cõi người cứu giúp chúng sinh cũng không phải chỉ duy nhất vị đó ra tay cứu.

Sự thật rằng ở cõi Bồ Tát có rất nhiều các vị là bạn bè, bạn đồng tu, đồng đạo...

âm thầm giúp đỡ vị đó.

Nhưng vì các vị giúp trong âm thầm nên thì chẳng ai biết, chẳng ai hay.

Còn truyện tích này lại nói ra cho chúng ta hay bởi Đức Phật có "Thiên Nhãn Thuần Tịnh Siêu Nhiên" nên Phật thấy rõ toàn bộ.Bài học 5: Chư thiên và Phúc thần Tôi xin luận bàn đôi chút về cõi Thiên và cõi Thần.

Cõi thiên thì các Chư Thiên đạo đức, thiện lương và tạo phúc bằng cách dạy dân chúng đạo đức hành thiện.

Khi dân chúng lành thiện yêu thích giúp đời tích phúc thì Chư Thiên đó có phúc lớn mà sinh vào cõi Thiên.

Các cõi Thiên ở trên cao bởi các vị Thiên tử đạo đức thiện lương và Bản Ngã nhẹ.Cõi Thần thì các vị cũng có phúc lớn nhưng không phải vì dạy đạo đức cho dân.

Các vị Phúc Thần vì giết giặc cứu nước, đánh đuổi quân xâm lược.

Các vị trừng trị cái ác hay răn đe kẻ xấu để điều xấu ác không phát triển.

Vì giúp dân lành thoát khổ bởi giặc ngoại xâm, trừng trị kẻ xấu ác bảo vệ dân lành vô tội nên các thần có phúc lớn mà sinh cõi thần.

Cõi Thần thì ở thấp trong các đền thờ, miếu phủ mà dân chúng thờ cúng.

Bởi các vị Thần tham sân si còn nhiều cho nên Bản Ngã nặng.Ta cứ hình dung trong Phật Điện luôn có Ông Thiện và Ông Ác.

Ông thiện thì đạo đức thiện lương, khuyến khích điều thiện, dạy đạo đức cho dân.

Ông Ác thì trừng trị kẻ ác với các hình phạt khủng khiếp kể ác hoảng sợ mà không dám làm ác.Ông Thiện đó chính là Chư Thiên.

Ông Ác đó chính là Phúc Thần.

Hai vị có tên đầy đủ là Hộ Pháp Thưởng Thiện Phạt Ác hay Khuyến Thiện Trừng Ác.Bài học 6: 120 tuổi trọn vẹn kiếp người Trong lịch sử Phật Giáo có Ngài Ma-ha Ca Diếp và Ngài A-nan thọ 11*11=121 tuổi (cả tuổi mụ).

Đức Phật thì thọ 9*9=81 tuổi (cả tuổi mụ).

Đạo Đức Kinh của Lão Tử có 9*9=81 chương.

Trong văn hóa Trung Hoa thì năm có 10 Thiên Can hợp với 12 Địa Chi tạo thành vòng Lục Thập Hoa Giáp (60 năm).

Ai chết trước 60 tuổi gọi là hưởng dương.

Sai chết sau 60 tuổi gọi là hưởng thọ.

Ai sống trọn vẹn hết 2*60=120 tuổi là viên mãn kiếp người.

Năm 120 tuổi vị đó chết trùng với năm vị đó sinh ra tính theo Can-Chi.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 327: Truyện voi thoát bãi lầy


"Hãy gắng công tinh tấnPhòng hộ tâm ý mìnhTự thoát bùn ác đạoNhư voi thoát bãi lầy."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 327)Tích Pháp Cú: Vua Ba Tư Nặc có con voi quý rất dũng mãnh.

Khi ra trận vua hay ngồi trên lưng voi để đánh trận và điều khiển binh tướng.

Khi nó về già và yếu thì nó không đánh trận nữa.

Nó được vua yêu quý và chăm sóc.

Một lần nó đi ra ngoài thành Xá Vệ thì bị sa vào bãi lầy mà không tự thoát được.Vua Ba Tư Nặc nghe lính báo bèn chạy ra đó.

Vua ra lệnh cho quản tượng bằng mọi giá phải giải cứu con voi đó khỏi bãi lầy nếu không nó sẽ bị chết.

Thời đó quản tượng không phải là 1 người mà là cả đội ngũ nhiều người và có vị Tổng quản tài giỏi nhiều kinh nghiệm.Vị Tổng quản đó mới nghĩ ra 1 cách là "Gợi lại hùng khí của con voi đó ở giữa ba quân chiến đấu".

Khi tinh thần khí phách khôi phục thì nó sẽ tự thoát khỏi bãi lầy.

Ông mới đề nghị vua Ba Tư Nặc bày quang cảnh giống như ở giữa chiến trận.

Vua điều ngựa, xe và đoàn quân voi đến, rồi binh lính cờ quạt giáo mác, rồi tiếng chiêng tiếng trống và tiếng người la hét... giống như giữa chiến trường.Thế rồi con voi già đó hưng phấn, tăng sỹ khí như thời trẻ đánh trận cùng vua Ba Tư Nặc.

Nên nó gia tăng sức mạnh mà tự thoát được bãi lầy.

Mọi người đứng xem vỗ tay hoan hô chú voi đã tự cứu mình thoát khỏi bãi lầy.

Xong xuôi mọi người ra về.Lần đó các Tỳ kheo cũng tò mò đứng xem cảnh đó và cũng khen ngợi con voi.

Chiều hôm đó các vị về Tinh xá gặp Phật thì các vị kể lại cho Phật nghe chuyện đó.

Nghe xong chuyện thì Phật nương theo sự kiện đó mà khuyên các Tỳ kheo tu hành bằng bài kệ Pháp Cú:"Hãy gắng công tinh tấnPhòng hộ tâm ý mìnhTự thoát bùn ác đạoNhư voi thoát bãi lầy."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 327)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Bùn ác đạoChúng sinh trong Luân Hồi đều bị nhiễm "Bùn ác đạo" là nhiễm ô, cấu uế, tập khí, kiết sử trong tâm.

Phật gọi đó là "Lậu".

Việt Nam ta vẫn dùng từ này trong các từ ghép: Buôn lậu, lương lậu, hủ lậu, bệnh lậu, đầu lậu, hàng lậu, lậu thuế...

Túm lại "Lậu nghĩa là thối tha, bẩn thỉu, phạm pháp, đồi bại".

Tu trong đạo Phật là mục tiêu chứng "Lậu Tận Minh" diệt sạch mọi nhiễm ô, tập khí, kiết sử trong tâm.

Vị thánh chứng Lậu Tận Minh được gọi là vị Thánh Vô Lậu.

Một vị tu hành theo lời Phật dạy là diệt trừ mọi tâm cấu uế, nhiễm ô, thối tha, bẩn thỉu, tập khí, kiết sử.

Các tâm xấu xa đó chính là "Bùn ác đạo".

Chính vì chúng sinh chìm đắm trong "Bùn ác đạo" nên không thoát khỏi Luân hồi đau khổ.

Chỉ có vị Thánh Vô Lậu tâm không còn "Bùn ác đạo" mới giải thoát khỏi Luân hồi đau khổ.

Vị đó vào nơi không còn khổ gọi là "Đoạn tận diệt khổ".

Đó chính là Niết Bàn.Bài học 2: Gắng công tinh tấn"Gắng công tinh tấn" là Phật khuyên ta cố gắng tu hành thiền định.

Bởi chỉ có thiền định mới làm tâm ta trong suốt như nước hồ trên núi cao (THANH).

Chỉ có thiền định mới làm tâm ta phẳng lặng yên tĩnh như mặt nước hồ trên núi cao (TỊNH).

Tâm một vị thiền sư đạt đến sự thanh tịnh sẽ tự tìm ra các tật xấu, nhiễm ô, tập khí, kiết sử trong tâm mà diệt.

Điều đó giống như một người đứng trên vách núi nhìn xuống hồ nước thanh tịnh.

Vị đó nhìn thấy rõ con cá đang bơi qua bơi lại, những cành lá cây, những rong rêu, hòn đá...Một người không tu thiền thì tâm đục ngầu và loạn động.

Tâm đó ví như nước hồ đục ngầu còn sóng lớn mặt nước nhiễu loạn.

Khi đó ta không thể thấy gì diễn ra trong hồ nước.

Ví dụ về hồ nước thanh tịnh miêu tả tâm vị thiền sư được lấy từ Kinh Sa Môn Quả (Trường Bộ Kinh).

Nguyên gốc đoạn kinh đó như sau:"98.

Này Đại vương, ví như tại dãy núi lớn có một hồ nước, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm.

Một người có mắt, đứng trên bờ sẽ thấy con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi qua lại hay đứng một chỗ.Vị ấy nghĩ: "Đây là hồ nước thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm.

Đây là những con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá đang bơi qua lại hay đứng yên một chỗ".Cũng vậy, này Đại vương, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy."

Bài học 3: Phòng hộ tâm ý"Ý dẫn đầu các pháp - Ý làm chủ tạo tác - Ai nói hay hành động - Với tâm ý thanh tịnh - Hạnh phúc sẽ theo sau - Như xe theo ngựa kéo" (Pháp Cú 01)."

Ý dẫn đầu các pháp - Ý làm chủ tạo tác - Ai nói hay hành động - Với tâm ý nhiễm ô - Khổ não sẽ theo sau - Như bóng không rời hình" (Pháp Cú 02).Vậy nên tu phòng hộ tâm ý không để điều ác khởi trong tâm là đầu tiên và quan trọng nhất.

Vì "ý làm chủ tạo tác" nên tâm thiện sẽ có lời nói và hành động thiện tạo phúc.

Quả báo là hạnh phúc tới.

Vì "ý làm chủ tạo tác" nên tâm ác sẽ có lời nói và hành động ác tạo tội.

Quả báo là đau khổ tới.Bài học 4: Ba yếu tố cần để chứng đạoBa yếu tố cần và đủ để chứng đạo là: 1- Ý chí.

2- Phúc.

3- Duyên.

Sau đây tôi sẽ chứng minh bằng cuộc đời Đức Phật: Đức Phật sinh ra với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.

Người là Thái Tử nước Thích Ca và tương lai sẽ làm vua.

Vua cha Tịnh Phạm và hoàng hậu yêu mến Thái Tử nên xây riêng cho chàng 3 cung điện: Xuân, Thu, Đông để chàng hưởng thụ.

Đó chính là "Phúc lớn".Nhưng tâm Thái Tử lại muốn đi tìm đạo thoát khổ.

Sống trong cung vàng điện ngọc mà Ngài lại thấy đời là: Sinh - Già - Bệnh - Chết là đau khổ.

Ngài đã bỏ ngôi vị Thái Tử, bỏ vợ, bỏ con, bỏ đất nước đi tìm "Con đường thoát khổ".

Đó chính là: "Ý chí tìm đạo".Nhưng với phúc vĩ đại vậy, ý chí mãnh liệt vậy mà Ngài tu chẳng chứng.

Thậm chí Ngài tu khổ hạnh khốc liệt 6 năm trường "từ trước đến nay và cả mai sau sẽ mãi mãi không ai có thể tu khổ hạnh được như Ngài" mà chẳng thấy chứng đạo.

Sao thế?

Đó là thiếu "Duyên có được Chánh pháp".

Còn khi đã có duyên tìm được Chánh pháp rồi thì Ngài tu 49 ngày ngồi thiền dưới gốc cây Bồ Đề là đắc đạo thành Phật.Sau đó Phật dạy Chánh pháp cho đời và nhiều vị tu theo Phật đắc đạo viên mãn "Vô thượng Bồ Đề" A-la-hán.

Thời Đức Phật thì pháp Phật nói ra 100% là Chánh Pháp nên chỉ cần có phúc lớn và tinh tấn là 100% đắc đạo.

Thời đó Tỳ kheo tu theo Phật khoảng 84.000 vị thì có tới 1200 vị A-la-hán.Thời nay tín đồ Phật Giáo khoảng 500 triệu người.

Tu sỹ chiếm khoảng 4/1000 tức khoảng 2 triệu người.

Trong số đó không ít vị có phúc lớn, có ý chí quyết tâm nghị lực tu hành... mà không thấy ai chứng đạo.

Bởi vì thời nay là thời Mạt Pháp.

Chánh Pháp của Phật không còn đúng chuẩn 100% như lời Phật dạy khi xưa.

Đó chính là vì "Ta thiếu Duyên".Bài học 5: Cổ vũ tinh thầnCon voi của vua Ba Tư Nặc sa xuống vũng bùn mà không thể tự thoát.

Khi vua bày lại cảnh trí chiến trường khi xưa nó là con voi chúa thống lĩnh bầy voi đánh đông dẹp bắc.

Nó đã lấy lại được sỹ khí hào hùng thì sức mạnh tăng lên mà tự thoát khỏi vũng bùn.

Đây là bài học vô cùng đắt giá cho chúng ta.Nếu một người không có sỹ khí, không có quyết tâm nghị lực thì tinh thần yếu đuối và sức mạnh giảm.

Nhưng khi họ được đứng trên sân khấu, đứng giữa sân bóng đá, trong tiếng reo hò, tiếng trống cổ vũ, cờ quạt rợp trời... thì sức mạnh họ tăng lên.Nên trong bóng đá khi đá ở sân nhà, được sự cổ vũ của cổ động viên, được nghe tiếng quốc ca, cờ đỏ sao vàng rợp trời, cả một khán đài đỏ rực với tiếng trống, "Tiếng quân ca"... thì sức mạnh cầu thủ Việt Nam tăng lên 200%.Cũng vậy cha mẹ dạy con cũng nên khuyến khích động viên, khen thưởng, vỗ tay hay hành động gì đó tán dương con thì con sẽ tăng sức mạnh.

Đừng suốt ngày chê bai vì nghĩ rằng "Chê để nó cố gắng".
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 328,329,330: Truyện Đức Phật sống 1 mình


"Nếu được bạn hiền tríCùng sống tu hạnh lànhYên tâm vì tin cậyChánh niệm dễ vun bồi."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 328)"Nếu không bạn hiền tríĐể cùng sống chân tuThà là sống một mìnhNhư vua sống lưu vongNhư voi rừng một cõi."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 329)"Thà rằng sống một mìnhKhông kết bạn kẻ nguThanh thản và hiền lànhNhư voi rừng một cõi."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 330)Tích Pháp Cú: Thời Đức Phật có nhiều vị Tỳ kheo tu theo các chuyên môn khác nhau.

Có vị chuyên về giáo thọ là giảng đạo lý.

Những vị đó gọi là Pháp sư và quản lý hội chúng chuyên tu học giáo lý.

Có vị chuyên hành trì giới luật.

Những vị đó gọi là Luật sư và quản lý hội chúng chuyên tu học giới luật.Một mùa hạ Đức Phật đến xứ Gô-si-ta nước Cô-xăm-bi.

Người ở Tinh xá với nhóm Tỳ kheo pháp sư và luật sư.

Hôm đó, một vị pháp sư có sơ hở về giới luật.

Vị đó tắm xong còn dư ít nước trong chậu.Sau đó có một vị luật sư vào tắm.

Vị ấy thấy pháp sư tắm trước để ngửa chậu dư ít nước.

Đây là phạm giới luật: "Khi tắm phải dùng hết nước, đặt nghiêng chậu để chậu khô".

Vị luận sư quay ra hỏi vị pháp sư:- Thưa hiền giả, có phải hiền giả vừa tắm xong chăng?- Thưa phải, tôi vừa tắm xong.- Có phải hiền giả để ngửa chậu còn chút nước chăng?- Thưa phải, tôi có để ngửa chậu còn chút nước.- Vậy hiền giả có biết đó là lỗi chăng?- Dạ vâng, bây giờ tôi mới biết là lỗi.

Nhưng lúc để tôi không biết là lỗi.

Nay tôi xin xám hối.- Không sao, nếu hiền giả biết lỗi và đã xám hối thì tội đã diệt sạch.Hai vị chào nhau.

Chuyện tưởng như xong, nhưng đoạn sau mới thành vấn đề.Pháp sư, luật sư đó đều là các vị tăng uy đức có 500-600 đệ tử theo học.

Khi vị luật sư đi ra thì nói với đệ tử mình rằng:- Vị pháp sư đó coi như vậy mà phạm giới luật Phật.

Nhưng lại còn không biết đó là lỗi.Sự thật đúng như vậy: Lúc phạm giới luật vị pháp sư kia không biết đó là lỗi vì lỗi đó quá bé.

Đoạn sau đó, vị pháp sư đã biết lỗi và đã xám hối.

Vị luật sư đã chứng nhận là pháp sư sạch tội thì vị luật sư không nói cho đệ tử.Các đệ tử sau đó đi nói lại với người khác:- Vị pháp sư đó phạm lỗi mà không nhận lỗi!Tin đó nhanh chóng lan rộng ra trong tăng chúng chuyền đến tai pháp sư.

Vị ấy ngạc nhiên nghĩ: "Lần đó mình đã nhận lỗi, xin lỗi, xám hối, vị luật sư đó cũng nói là sạch tội rồi.

Sao có truyện này xảy ra?"

Vị pháp sư đó bèn nói với đệ tử mình rằng:- Vị luật sư kia nói dối.

Thầy có nhận lỗi và xám hối, vị luật sư còn xác nhận là sạch tội.

Vậy giờ sao lại nói như vậy?

Ông ấy là luật sư mà nói dối.Rồi hai bên cãi nhau.

Trong Tinh xá giới tăng sĩ chia làm hai phe tranh cãi nhau quyết liệt.

Cư sĩ đến thấy truyện lạ, sau khi nghe xong sự tình cũng chia hai phe cãi nhau bên đúng bên sai.

Chư Thiên trên trời thấy dưới hạ giới cãi nhau thì động tâm dò xét sự việc.

Sau khi biết sự việc thì Chư Thiên cũng chia làm hai phe cãi nhau.

Các Tỳ kheo đắc đạo đến thưa với Phật.

Chuyện ban đầu rất nhỏ nhưng bây giờ đã gây chia rẽ toàn bộ tăng đoàn, cư sĩ, đến tận các tầng trời.

Phật đến và nói với họ:- Này các Tỳ kheo hãy hòa hợp, hãy đoàn kết, hãy ngừng sự tranh cãi ở đây.Đức Phật nói lần thứ nhất họ vẫn cãi nhau.Đức Phật nói lần thứ hai họ quay ra nói với Phật:- Bạch Thế tôn, Thế tôn đã già rồi cứ lo tu, việc này để tụi con xử.Đức Phật khuyên họ:- Này các ông, các ông là những người mang ánh sáng đạo lý chiếu soi thế gian.

Nhưng chuyện rất nhỏ mà không thể đoàn kết được sao dạy ai được?

Sao làm chỗ nương tựa cho trời và người được?Phật nói gì thì nói nhưng các vị vẫn khăng khăng:- Bạch thế tôn, Thế tôn già rồi cứ lo tu, việc này để tụi con xử cho ra nhẽ, không thể thế này được.Hôm sau, Đức Phật đi khất thực.

Người đi và không quay về Tinh xá.

Phật đi thăm Trưởng lão Paru và giảng một bài pháp cho Trưởng lão.

Sau đó Phật đi đến khu rừng Sừng Bò gặp ba vị Tôn giả A-la-hán.

Người nói bài kinh "Sống hòa hợp hay Tiểu kinh rừng Sừng Bò".

Sau đó Đức Phật thọ kí rằng: "Từ đây cho đến vĩnh kiếp về sau, ai nghe tới tên ba vị Tôn giả Kim-bi-la, A-lu-ru-đa, Nan-đi-a thì sẽ được nhiều điều may mắn trong cuộc sống và có được sự hòa hợp".Do vậy, nếu gia đình ta có bất hòa nếu ta nhớ mà niệm danh hiệu ba vị Tôn giả đó sẽ được hòa hợp.

Đó là lời Đức Phật ấn chứng trong kinh.Sau đó, Phật từ giã ba vị Tôn giả đi đến khu rừng nguyên sinh Pa-ri-lây-gia-ca.

Phật ở một mình trong rừng suốt mùa hè.

Tuy Phật sống độc cư trong rừng nhưng phúc của Phật sẽ không bao giờ người ở một mình mà không được sự hầu hạ.Khi đó một con voi chúa tuệ giác hơn người đi đến hầu Đức Phật.

Von chúa với tâm linh minh mẫn đã hầu Phật như một người đầy tớ trung thành cẩn thận trong ba tháng hè.Và một con khỉ chúa tâm linh cảm ứng thấy được sự vĩ đại của Phật.

Nó cũng đến xin hầu Phật.

Sau khi được Phật đồng ý thì nó sung sướng nhảy nhót và một cái cây gãy đâm vào đầu rồi chết.

Sau khi chết khỉ được sinh cõi trời.

Đó là do nó có đủ phúc lành vì tâm cung kính Phật.

Đức Phật sống trong rừng Pa-ri-lây-gia-ca suốt ba tháng hạ.Khi đó ở Tinh xá Gô-si-ta các cư sĩ Phật tử phát hiện Đức Phật ra đi mà không từ giã một lời.

Các cư sĩ mới hỏi:- Thế Tôn đã đi rồi, vì sao?Các Tỳ kheo trả lời:- Thế Tôn bảo chúng tôi hãy ngừng tranh cãi và hãy sống hòa hợp.

Nhưng chúng tôi không làm được.

Nên Thế Tôn đã ra đi.Cư sĩ tức giận:- Các Ngài đã hứa xuất gia theo Thế Tôn là đem thân mạng mình thờ Thế Tôn.

Vậy mà một lời dạy của Thế Tôn các Ngài không nghe.

Các Ngài không xứng đáng được hưởng sự cúng dường của chúng tôi.

Đừng bao giờ đến gặp chúng tôi nữa.Từ đó Phật tử không mang đồ tới cúng.

Tỳ kheo bị nói mà chẳng thể đi khất thực.

Suốt ba tháng hạ các Tỳ kheo chỉ ở trong tăng xá đói gần chết.

Lúc đó các vị mới hối hận.

Từ một việc vô cùng nhỏ dẫn đến cãi nhau.

Phật khuyên can cũng không được nên Phật bỏ đi.

Cư sĩ tức giận không cúng cho ăn.

Bây giờ thì đói gần chết.Ta chú ý: Giới luật quy định trong ba tháng hạ tăng đoàn không ai được đi khỏi Tinh xá hay chuyển đến nơi khác.

Nên các vị không thể đi tìm Phật hay rời đi nơi khác ở.Hết ba tháng hạ.

Tỳ kheo rời Tinh xá đi tìm Phật.

Ngài A-Nan dẫn các Tỳ kheo ở Gô-si-ta đi đến chỗ Đức Phật trong rừng nguyên sinh Pa-ri-lây-gia-ca.

Vì các vị thánh chứng đạo đều có tâm cảm ứng và biết rõ vị trí nhau.Đến bờ rừng.

Đức A-Nan bảo các vị đứng ngoài.

Ngài đi vào đảnh lễ Phật xin Phật tha lỗi cho Tỳ kheo ở Gô-si-ta.

Các vị đó đã biết lỗi và bị bỏ đói suốt ba tháng hạ.

Xin Đức Phật cho các vị được xám hối.Đức Phật đồng ý bảo Tôn giả A-nan cho các Tỳ kheo vào.

Rồi Đức Phật dạy họ bằng bài Pháp Cú:"Hơn thua nhau bởi vìQuên rằng ai cũng chếtNếu biết chết đang chờCòn tranh cãi làm chi!"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 06)Bài Pháp Cú là Phật trách móc và nhắc nhở các Tỳ kheo rất chính xác, đúng thực tế, đúng hoàn cảnh các vị suýt chết đói.

Bản năng hơn thua hiếu thắng sẽ chịu thua bản năng sinh tồn.

Khi chết đói rồi thì hết cãi nhau hơn thua đúng sai.

Cũng một phần lúc đó tâm Tỳ kheo đã xuống cấp trầm trọng.

Nên Phật chỉ nói một bài kệ đơn giản dễ hiểu với đạo lý cơ bản: Vô thường và cái chết.Rồi sau đó thì Ngài A-nan mới hỏi Phật rằng:- Bạch Thế Tôn, suốt 3 tháng hạ Thế Tôn sống trong rừng có an ổn không, có được khinh an không?Đức Phật mới đọc 3 bài kệ:"Nếu được bạn hiền tríCùng sống tu hạnh lànhYên tâm vì tin cậyChánh niệm dễ vun bồi."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 328)"Nếu không bạn hiền tríĐể cùng sống chân tuThà là sống một mìnhNhư vua sống lưu vongNhư voi rừng một cõi."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 329)"Thà rằng sống một mìnhKhông kết bạn kẻ nguThanh thản và hiền lànhNhư voi rừng một cõi."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 330)Ý của Phật là thà sống 1 mình trong rừng còn hơn sống với kẻ ngu tranh cãi nhau chẳng ích gì.

Sống 1 mình trong rừng cho tâm thanh thản hiền lành như voi rừng 1 cõi.

Chỉ khi nào ta gặp được bạn hiền trí mới nên sống cùng thì sẽ được Chánh niệm bình an.

Khi Đức Phật ra khỏi rừng thì voi chúa muốn đi theo Phật và Phật nói:- Không, con phải ở lại.

Con không thể sống với con người được.

Đây là lần cuối ta gặp con.

Trong kiếp này con không thể gặp ta nữa.

Và trong kiếp này con không thể chứng được thiền định nào hay bất kì một thánh quả nào.Voi chúa quỳ xuống lạy Phật từ biệt Phật.

Đoàn Tỳ kheo ôm bình bát ra đi.

Voi đứng nhìn Phật đi khuất rồi vỡ tim mà chết vì quá đau buồn.

Voi chúa được sinh cõi trời vì công đức nó đã làm và lòng tôn kính Phật của nó.Khi Đức Phật dẫn đoàn Tỳ kheo về.

Đoàn người đi vào sứ Kô-sa-la của vua Ba Tư Nặc.

Vua Ba Tư Nặc nghe tin có đoàn Tỳ kheo Gô-si-ta tới.

Vua kéo quân đến chặn cấm không cho các Tỳ kheo bước vào quốc gia mình.

Khi vua gặp Phật thì vua quỳ lạy Phật:- Bạch Thế Tôn, đây có phải những Tỳ kheo mà ba tháng hạ đã tranh cãi nhau dữ dội hay không?Đức Phật nói:- Phải.- Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn cho phép con cấm không cho những vị này vào lãnh thổ của con.Đức Phật mới nói:- Này Đại Vương, các vị đó đã biết lỗi, đã sám hối và đã hòa hợp.

Nay Đại Vương hãy tha lỗi cho họ.Lúc đó vua Ba Tư Nặc mới rút quân về mà cho đoàn Tỳ kheo Gô-si-ta đi vào lãnh thổ Kô-sa-la.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Hiếu thắng, Bảo thủ, Sân hậnPhật nói có 10 Kiết sử nhưng thật ra các Kiết sử này đều liên thông ràng buộc với nhau.

Từ cái này sinh ra cái kia chứ không phải các kiết sử tách rời.

Thấp nhất trong 10 Kiết sử là Thân kiến là chấp thân, quý cái thân, lấy ta làm trung tâm.

Từ Thân kiến sẽ sinh các tật xấu: háo danh, hám lợi, tham lam, ích kỷ, ghen tị, đố kị, tật đố, ghen ăn tức ở, hiếu thắng.

Bản chất của Thân kiến là "Tự yêu bản thân, đề cao bản thân và không yêu người".Truyện tích ta thấy, lỗi đầu tiên rất nhỏ chỉ là vị Pháp Sư không rành về luật tắm xong để ngửa chậu còn ít nước.

Vị đó đã sám hối xong thì tội đó đã bị xóa.

Nhưng vị Luật Sư đó bắt được lỗi của Pháp Sư thì cảm thấy hả hê "Ta đây giỏi giang rành về Luật nên mới bắt lỗi được người".

Sau đó vị đó đi khoe với đệ tử nhưng không nói đoạn vị Pháp Sư đã sám hối đúng pháp.

Bản chất là tâm vị Luật Sư đó thân kiến mà không yêu thương gì vị Pháp Sư.Rồi chuyện đó lan rộng thành sự cãi cọ hơn thua bản chất là tâm hiếu thắng, cố chấp không muốn thua cuộc.

Dù nếu thua cuộc thì hậu quả chẳng đáng gì.

Nhưng khi đã cãi nhau chia bè kết phái thì những cái xấu xa trước đó đã được bỏ qua, đã lãng quên thì nay đều bị bới móc ra làm cho thối um lên.

Và rồi họ chửi nhau, cãi nhau và sân hận.Bài học 2: Sân hận là tâm ma tác động cả Chư thiênKinh Hàng Ma (Trung Bộ Kinh) nói rằng: "Khi ta sân hận thì mặt đỏ tía tai, điên tiết, hăng tiết, sôi máu...

đó là tâm Ác Ma đã nhập vào ta.

Khi đó những hành động, lời nói của ta sẽ mất kiểm soát bởi lý trí.

Ta chỉ muốn làm đau khổ hay làm nhục đối thủ để hả giận".

Và sự thật như vậy.

Hai nhóm Pháp Sư và Luật Sư đó cãi nhau sân hận đến Phật cũng bó tay.Ta chú ý: Chư Thiên cũng cãi nhau đúng sai, cũng bảo thủ, cũng hiếu thắng và sân hận như người phàm.

Bởi Chư thiên sinh lên trời vì phúc lớn chứ không phải vì tu diệt Kiết sử chứng thánh.

Đến vua Trời Đế Thích cũng mới chứng Sơ thánh quả Dự lưu và diệt được 3 Kiết sử: Thân kiến - Giới cấm thủ - Nghi.

Còn các kiết sử cao cấp hơn như Tham ái, Sân hận thì Thiên Chủ vẫn còn.

Còn các vị Thiên tử khác năng lực thấp hơn vua trời và đa phần chưa ai diệt được kiết sử gì.Bài học 3: Hai vị thầy Lý thuyết chưa chứng thánhHai thầy giáo thọ dạy Pháp và dạy Luật là thầy mà chỉ chuyên lý thuyết.

Thầy chưa tu chứng diệt được bất kì Kiết sử nào.

Tham, sân, si, mạn, nghi, ái, dục... vẫn còn nguyên.

Thế nên đụng chuyện là tham lam, háo danh, hiếu thắng, cố chấp, bảo thủ, sân hận... trong tâm các vị có đủ món chẳng thiếu món nào.Thế nên lý thuyết xuông là không đủ.

Lý thuyết thì ai giỏi bằng 2 ông thầy về Pháp và về Luật đó.

Nhưng không thực hành thiền định diệt Kiết sử chứng thánh thì vẫn là 2 kẻ phàm phu tục tử mà thôi.

Thậm chí 2 kẻ đó đến Đức Phật còn bó tay mà bỏ đi sống 1 mình ở giữa rừng.

Phật nói rằng: "Thà rằng sống một mình – Không làm bạn kẻ ngu".Bài học 4: Dân chúng là Hộ PhápDân chúng là "Thí chủ cúng dường Tỳ kheo".

Khi Tỳ kheo làm sai thì dân phải có trách nhiệm làm "Hộ pháp phạt ác".

Khi Tỳ kheo làm đúng thì dân phải có trách nhiệm làm "Hộ pháp thưởng thiện"."

Cúng dường và Hộ pháp" là trách nhiệm và quyền lực của dân.

Còn trách nhiệm của Tỳ kheo có 7 món: (1) Tinh tấn tu hành. (2) Giữ giới hạnh cụ túc. (3) Sống hộ trì các căn. (4) Ăn uống có tiết độ. (4) Tinh tấn tu thiền định. (5) Tu học và gìn giữ Chánh pháp trong kinh. (6) Dạy đạo lý Chánh pháp cho đời. (7) Làm thiện tích phúc giúp đời.Ta còn thấy "Có thực mới vực được Đạo".

Đạo là điều đúng sai, thiện ác, chánh tà phải xếp sau Cơm.

Cãi nhau tranh luận đúng sai mà đói thì hết cãi.Bài học 5: Thà sống 1 mình hơn sống với kẻ nguĐây là lời khuyên của Phật dành cho ta.

Nếu đạo tâm ta không kiên cố mà ta sống cùng kẻ tham, sân, si, mạn, nghi, ái, dục... thì ta sẽ bị nhiễm thói hư tật xấu của họ.

Các thói xấu ác nằm trong bản năng của mọi loài vật trong đó có ta.

Vì nó là bản năng nên nó luôn ẩn chứa trong tâm ta.

Dù lúc này ta là thiện lương biết đạo mà chưa chứng thánh thì thói xấu ác đó vẫn tồn tại âm thầm.

Khi ta sống với kẻ xấu ác thì bản năng đó sẽ lộ biến ta thành xấu ác.Còn đạo đức, thiện lương là đặc tính của thánh phải tu khổ sở mới có.

Bởi đạo đức thiện lương là ta phải từ bỏ tham, sân, si là bản năng gốc trong tâm ta.

Ta tham thì ta có bao nhiêu cái lợi về danh dự, vật chất.

Ta đạo đức thì ta bị thiệt đơn thiệt kép vì mất đi nhiều lợi ích.

Thế nên để làm kẻ đạo đức là khó.

Nếu ta đạo đức mà ta sống với kẻ xấu ác thì 100% ta sẽ xấu ác.

Trừ phi ta là vị thánh diệt trừ tận gốc mọi tham, sân, si thì ta mới cảm hóa được kẻ xấu ác.Bài học 6: Voi chúa sinh thiênNguyên tắc là mọi chúng sinh trong Luân Hồi đều có thể sinh Thiên Giới nếu có đủ phúc và có tâm thiện lành, tham sân si nhẹ.

Nếu phúc lớn mà tham sân si nặng thì sẽ sinh cõi Thần.Nên một số loài vật có năng lực tâm linh mạnh mẽ (Đó là biểu hiện của phúc lớn) thường được sinh cõi Thần như rùa thần, mãng sà tinh, khỉ chúa, hổ chúa...

Nhưng ở đây voi chúa tích phúc lớn vì đã hầu hạ Đức Phật trong 3 tháng hạ.

Và tâm voi thuần thiện hiền lành tham, sân, si nhẹ.

Nên sau khi chết thì voi được sinh lên Thiên Giới.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 331,332,333: Truyện hạnh phúc đích thực


"Vui thay bạn lúc cầnVui thay sống biết đủVui thay chết có đứcVui thay mọi khổ đoạn."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 331)"Vui thay hiếu kính mẹVui thay hiếu kính chaVui thay kính Sa mônVui thay kính Hiền Thánh."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 332)"Vui thay già có giớiVui thay tín an trúVui thay được trí tuệVui thay ác không làm."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 333)Tích Pháp Cú: Kiếp xưa khi Phật còn là một vị Bồ Tát ẩn tu trên núi Tuyết Sơn.

Bồ Tát tu trên núi nhập được định có thần thông.

Bồ Tát đã quan sát thế gian thấy thời đó dân chúng khổ sở vì vua chúa cai trị ác độc tàn bạo.

Thế rồi Bồ Tát mới khởi niềm ước nguyện: "Cầu mong sao cho thế gian này dân chúng được an vui hạnh phúc, bậc vua chúa lãnh đạo đất nước yêu thương dân như con".

Ước mơ đó cứ bám chặt vào tâm Bồ Tát trong đời đó.Không ngờ ý niệm đó của Bồ Tát thì Ma Vương thấy và Ma Vương nhớ.

Đến ngày nay vị Bồ Tát đó đã đắc đạo thành Đức Phật Thích Ca thì Ma Vương đến thăm Phật.

Ma Vương mới bạch với Phật rằng:- Bạch Thế Tôn, thế gian này hiếm khi được cai trị bởi những vị vua đức độ yêu thương dân như con.

Thế gian thường xuyên bị cai trị bởi các bạo chúa ác độc.

Nay con thỉnh Thế Tôn bước ra đời làm một vị vua.

Thế Tôn mà làm vua sẽ là một vị vua anh minh thương yêu dân chúng.

Khi đó muôn dân sẽ được hưởng thái bình hạnh phúc và toàn thế gian sẽ là Quốc độ.Phật mới đáp rằng:- Này Ma-ra, ngươi không hiểu ta.

Khi chúng sinh lòng tham chưa diệt thì núi vàng cũng chẳng đầy túi tham.

Khi chúng sinh còn sân sẽ không thể dừng chiến tranh.

Khi chúng sinh còn si sẽ không bao giờ thấy được hạnh phúc đích thực."

Khi lòng tham vô tậnNúi vàng chẳng thể đủ.Vì thế người có tríTìm về đường giác ngộ.Người đã thuyết chân lýNguyên nhân của khổ đauThì lẽ nào không rõĐau khổ đến từ đâu?Ma-ra ngươi cần biếtNguyên nhân của Luân hồiTu hành thoát lưới áiVượt sinh tử vô minh".Sau đó Phật đọc bài kệ Pháp Cú nói về hạnh phúc thế gian đích thực:"Vui thay bạn lúc cầnVui thay sống biết đủVui thay chết có đứcVui thay mọi khổ đoạn."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 331)"Vui thay hiếu kính mẹVui thay hiếu kính chaVui thay kính Sa mônVui thay kính Hiền Thánh."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 332)"Vui thay già có giớiVui thay tín an trúVui thay được trí tuệVui thay ác không làm."(XXIII-Phẩm Voi, Pháp Cú 333)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Bồ Tát trong Phật giáo Nguyên Thủy và trong Phật giáo Phát TriểnTheo Kinh Pháp Hoa thì Bồ Tát là một vị A-la-hán nhưng không nhập Niết Bàn.

Mà các vị đi tiếp trên con đường Bát Nhã vô lượng vô biên cho đến khi thành Phật.

Trong các Phẩm Thọ Ký thì Phật đã thọ ký cho toàn bộ đệ tử A-la-hán của Phật sẽ tu tiếp vô lượng kiếp sau sẽ thành Phật gì, nước gì, thọ mạng bao lâu, chánh pháp trụ thế bao lâu, tượng pháp tồn tại bao lâu.

Kinh Pháp Hoa là bộ kinh đầu tiên nói về các vị Đại Bồ Tát như: Bồ Tát Quan Âm (ở phẩm Phổ Môn), Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Thường Bất Kinh, Bồ Tát Đà Na Ni...Còn theo Đức Phật Thích Ca thì các vị Bồ Tát là các vị chứng Nhị Quả Nhất Lai (Ta chú ý: Kinh Nikaya không có Tam Quả Bất Lai.

Sau Nhất Lai là Quả giải thoát A-la-hán luôn).

Các vị thánh Nhất Lai sẽ sinh về cõi Bồ Tát Tịnh Độ Đâu Suất Đà Thiên.

Bồ Tát vẫn thường âm thầm cứu độ chúng sinh và các Ngài tu hành thiền định có Thần thông.

Đến khi đủ duyên tức có một Đức Phật ra đời thì Bồ Tát nguyện sinh về cõi người tu hành mà đắc đạo A-la-hán giải thoát.Trong hệ thống Kinh Nguyên Thủy Nikaya thì có Kinh Đại Bổn (Trường Bộ Kinh) nói về 6 vị Bồ Tát ở Đâu Suất Đà Thiên đã sinh vào cõi người làm Thế Tôn Phật.

Kinh Bổn Sanh (Tiểu Bộ Kinh) nói về Bồ Tát Thiện Tuệ là kiếp quá khứ của Phật Thích Ca.

Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống (Trường Bộ Kinh) nói về Bồ Tát Di Lặc tương lai sẽ hóa sinh cõi người làm Đức Thế Tôn Phật.Thật ra trí tuệ tôi nhỏ bé nên 2 con đường Bồ Tát đó tôi không thể biết đúng sai.

Nhưng tôi tin vào Đức Phật Thích Ca hơn.Nên truyện tích này nói về kiếp quá khứ của Đức Phật là vị Bồ Tát tu trên núi Tuyết Sơn.

Bồ Tát đó có tấm lòng thương xót chúng sinh và ước ao muốn thế gian có một vị Đại Đế Vương đức độ yêu dân như con mà giúp dân thoát khổ.

Đây chính là tâm lý chung của các vị Bồ Tát luôn từ bi yêu thương cứu độ chúng sinh vô lượng vô biên.

Con đường Vô lượng vô biên đó gọi là "Con Đường Bát Nhã".Bài học 2: Bảy kiếp xưa Phật là 7 vị Chuyển Luân Thánh VươngKinh Đại Thiện Kiến Vương (Trường Bộ Kinh) thì Phật kể về 7 kiếp quá khứ của Phật là 7 vị Chuyển Luân Thánh Vương đã thu phục khắp thiên hạ với: 84000 tướng quân báu, 84000 xe báu, 84000 ngựa báu, 84000 voi báu, 84000 ngọc nữ báu, 84000 ngọc ngà châu báu và có 84000 Quốc độ.Khi vị Chuyển Luân Thánh Vương đó thu phục các quốc gia thì vị đó dạy dân chúng Ngũ Giới: Không sát sinh, không tà dâm, không ác ngữ, không trộm cắp, không rượu bia mà biến các quốc gia đó thành Quốc Độ.

Trước đó thì dân chúng trộm cắp, tà dâm, giết hại, rượu bia và nói dối nên dân loạn nước loạn.Vô cùng ngạc nhiên là các nước Hồi Giáo ngày nay lại thực hiện Ngũ Giới nghiêm túc: Trộm cắp chặt tay, rượu bia cấm tiệt dù WorldCup Qatar cũng cấm, cấm nói ác ngữ, tà dâm ngoại tình sẽ bị ném đá chết, có tháng ăn chay Ramadan tuyệt đối không sát sinh.7 vị Chuyển Luân Thánh Vương đó đã thực hiện ước mơ của vị Bồ Tát tu trên núi Tuyết Sơn rồi.

Nhưng con người vẫn khổ vì đó không phải là Chân lý đưa đến giải thoát mọi đau khổ.

Chân lý đưa đến giải thoát mọi đau khổ là tu hành diệt trừ Tham, Sân, Si, diệt Vô Minh chứng A-la-hán mới thoát mọi nỗi khổ.

Phật gọi là "Đoạn tận diệt khổ".Bài học 3: Vì sao Ma Vương lại thỉnh Phật làm vuaĐức Phật khi còn là Thái Tử Tất Đạt Đa được 7 ngày tuổi thì vua Tịnh Phạm mời 7 vị tu sỹ đến đoán tướng cho Thái Tử.

Trong đó có tu sỹ A-tư-đà chứng cao nhất đạt cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định (Tương đương Tam Thiền).

Vị đó nói rằng: "Với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Thái Tử thì Thái Tử chỉ có 2 con đường: Hoặc làm một vị Chuyển Luân Thánh Vương vua của các vị vua.

Hoặc làm một vị Đại Thánh Giác Ngộ thầy của trời người".

Tức là tùy theo Lý tưởng trong tâm Thái Tử mà quả báo ứng hiện thành vậy.

Nếu Thái Tử có tham vọng "Bá chủ thiên hạ" thì Thái Tử sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương như 7 đời sống trước đây.

Nếu Thái Tử có lý tưởng "Tu hành tìm đạo" thì sẽ làm Đại Thánh thầy của trời người.

Cuối cùng Đức Phật đã chọn con đường "Tu hành tìm đạo".Ma Vương thì không biết điều này nên mới thỉnh Phật làm Chuyển Luân Thánh Vương có quyền lực "Bá chủ thiên hạ" mang hạnh phúc cho dân.

Nhưng đó không phải con đường thoát khổ.

Nếu dân vẫn còn tham, sân, si thì ắt sẽ có tranh cướp, chiến tranh, lừa đảo, mê muội, tà dâm... mà bị đọa.

Con đường thoát khổ chỉ có thể là diệt tâm xấu ác mà thôi.Bài học 4: Còn tham, sân, si không bao giờ có hạnh phúcĐức Phật đã nói rằng: "Này Ma-ra, ngươi không hiểu ta.

Khi chúng sinh lòng tham chưa diệt thì núi vàng mà chẳng đầy túi tham.

Khi chúng sinh còn sân sẽ không thể dừng chiến tranh.

Khi chúng sinh còn si sẽ không bao giờ thấy được hạnh phúc đích thực."

Vậy nên thời nay "Chủ nghĩa tiêu dùng và hưởng thụ" lên ngôi.

Thời nay nền sản xuất bùng nổ mang đến cho con người ta biết bao nhiêu tiện ích: Nhà lầu, xe hơi, quần áo thời trang, điện thoại xịn xò, tivi, tủ lạnh, bay bằng máy bay du lịch khám phá khắp thế giới...

Nhưng đã có hạnh phúc chưa?

Chưa!

Bởi tâm kẻ đó đang mong cầu thứ cao sang hơn thế.Rồi các quốc gia luôn sân hận thù ghét lẫn nhau.

Khi chưa có điều kiện giết nhau thì họ cấm vận kinh tế cho dân chết đói.

Như Mỹ cấm vận Cuba hay Triều Tiên vậy.

Còn khi thấy đủ điều kiện giết được thì họ cho quân đội và vũ khí vào giết luôn như Mỹ đánh Việt Nam vậy.

Mỹ đánh Việt Nam xong thua mà vẫn còn thù hận nên Mỹ lại cấm vận kinh tế Việt nam thêm 20 năm.Còn ngu si thì không bao giờ thấy được "Hạnh phúc ở trong từng điều nhỏ bé".Bài học 5: Bạn lúc cần, sống biết đủ, chết có đứcTa rất cần người bạn trung thành và chân thật.

Đó là người bạn có thể xẻ chia và giúp đỡ nhau lúc cần.

Vậy nên bạn thân được gọi là "Tri Kỷ" tức họ hiểu rõ tâm tư tình cảm của ta, cùng ý chí lý tưởng với ta và họ biết ta cần gì.

Có bạn tốt lúc cần thì hạnh phúc."

Biết đủ là giàu - Lòng tham vô đáy".

Ta nên biết giới hạn lòng tham lại mà sống biết đủ thì sẽ thấy hạnh phúc.

Nhưng lý tưởng giúp đời thì không nên có giới hạn.

Ta làm mãi, giúp đời mãi mà không thấy đó là nhiều là vĩ đại thì ta là Vĩ đại.

Chứ không phải ta ở ngôi nhà vĩ đại, đi cái xe vĩ đại thì gọi là vĩ đại.Giây phút ta chết đi là giây phút quan trọng quyết định ta sẽ sinh về cõi nào.

Khi chết mà ta sân thì tâm đó tương ưng tâm địa ngục và ta đọa địa ngục.

Khi chết mà ta mê mờ quên hết mọi người thân thì tâm đó đưa ta đọa súc sinh.

Khi chết mà ta vẫn còn tham ăn hay thèm khát cái gì thì ta sẽ đọa ngã quỷ.

Khi chết tâm ta đạo đức sẽ sinh cõi trời là hạnh phúc.Bài học 6: Kính cha mẹ, kính Sa môn và hiền thánhTôn kính cha mẹ là Hiếu Nghĩa và đó là đạo đức con người.

Con vật thì không hề biết yêu quý cha mẹ mà chỉ có cha mẹ yêu con mà thôi.

"Nước mắt chảy xuôi chứ chẳng bao giờ chảy ngược" tức bản năng trong mọi con người là cha mẹ yêu con còn con hiếm khi yêu thương cha mẹ.

Chữ Hiếu Nghĩa là khó và phải tu đạo đức mới có.

Nên có Hiếu là hạnh phúc."

Kính thầy mới được làm thầy".

Ta muốn được làm thánh, có đạo đức của một vị thánh thì việc đầu tiên trước khi tu sửa diệt tâm xấu ác thì ta phải biết tôn kính các vị thánh hay các vị chân tu.Bài học 7: Già có giới, ác không làm, tâm có trí tín"Già sinh tật như đất sinh cỏ" Khi ta già thì tâm ta tự xuất hiện kiêu ngạo của một vị "Cây cao bóng cả".

Khi tâm kiêu ngạo thì ta phạm lỗi mà không coi đó là lỗi.

Rồi các tật xấu xuất hiện đầy mà ta không sửa.

Thế nên "Già mà có giới" là hạnh phúc cho bản thân và cho con cháu trong gia đình.Ác không làm vì ác mà làm thì quả báo khổ sẽ tới.Ta chưa chứng thánh, chưa diệt Vô Minh, chưa thể có trí tuệ thấy được Chánh Pháp.

Vậy nên ở giai đoạn đầu ta phải có trí tuệ và có niềm tin vào Chánh Pháp.

"Có trí tuệ và có niềm tin vào Chánh Pháp" chứ không phải niềm tin mù quáng.

Ví dụ: "Chỉ niệm một câu niệm Phật này là vô lượng vô biên công đức" là sai Nhân Quả.

Ta phải biết vậy mới có hạnh phúc.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Chương 24: PHẨM THAM ÁI - Pháp Cú 334,335,336,337: Truyện con cá vàng miệng thối


"Người sống đời phóng dậtDây tham ái leo quanhĐời này đến đời sauNhư vượn tham quả rừng."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 334)"Ai sống trong đời nàyBị ái dục buộc ràngSầu khổ sẽ tăng trưởngNhư cỏ dại gặp mưa."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 335)"Ai sống trong đời nàyHàng phục được ái dụcSầu rơi khỏi người ấyNhư nước đổ lá sen."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 336)"Đây điều lành Ta dạyCho những ai theo taHãy khổ tận gốc áiNhư nhổ gốc cỏ dạiChớ để ma phá hoạiNhư nước cuốn cỏ lau."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 337)Tích Pháp Cú: Có người ngư dân bắt được một con cá to.

Vẩy của nó vàng óng ánh như vàng ròng.

Thế nhưng khi nó mở miệng thì mùi thối bay khắp làng không ai chịu nổi.

Người dân thấy con cá lạ bèn mang dâng vua Ba Tư Nặc.Vua Ba Tư Nặc thấy con cá đẹp bèn thả nó vào hồ để nó bơi và ngắm.

Nhưng khi con cá đó ngoi lên mặt nước ngáp ngáp một cái là thối inh cả cung điện.

Vua bèn mang con cá đó đến gặp Phật.

Và đây là một chuyện lạ chưa từng thấy.

Đó là Đức Phật dùng thần thông cho con cá đó nói tiếng người.

Ta hay gọi là phép "Khai khẩu".Đức Phật mới hỏi con cá rằng:- Này cá vàng, thế người anh Sô-đa-la của ngươi đang ở đâu?Con cá trả lời:- Bạch Thế Tôn, anh Sô-đa-la của con đã nhập Niết Bàn.- Này cá vàng, thế mẹ và em gái của ngươi đang ở đâu?- Bạch Thế Tôn, mẹ và em gái con vẫn đang đọa Địa ngục.Nói xong câu đó thì con cá vùng vẫy lao lên mặt nước đập đầu vào thành bồn mà chết.

Nó bị đọa trở lại vào Địa Ngục.

Mọi người vô cùng ngạc nhiên bèn hỏi Phật về sự tình.

Đức Phật mới kể lại câu chuyện:Thời Đức Phật Ca Diếp thì con cá vàng này là một Tỳ kheo tên là Ca-pa-si-la.

Tỳ kheo đó giỏi giáo lý, giỏi thuyết pháp.

Thế rồi ông kiêu mạn hay chê người này, phỉ báng người kia.

Thậm chí đến chính Phật Ca Diếp thuyết pháp mà vẫn bị ông ta chê.

Người anh trai cùng tu với ông tên là Sô-đa-la thì chăm chú tu hành chứng A-la-hán rồi nhập Niết Bàn.Tỳ kheo Ca-pa-si-la đó giỏi mà kiêu mạn.

Ông hay chê người này phỉ báng kẻ khác nên bị mọi người ghét.

Nhưng có bà mẹ và em gái ông thì bênh ông.

Họ hùa theo ông.

Họ cho rằng Ca-pa-si-la luôn đúng.

Ông ta chửi ai, chê ai, phỉ báng ai đều là đúng cả.Sau đó 3 người chết đọa Địa ngục.

Đến thời Phật Thích Ca vì duyên khiến ông được gặp Phật và để lại truyện tích này cho thế gian.

Ông sinh làm con cá vàng óng ánh mà miệng thì hôi thối.

Sau khi nhiệm vụ hoàn thành thì nó chết đọa tiếp vào Địa ngục.Kể xong chuyện đó thì Phật đọc bài kệ:"Người sống đời phóng dậtDây tham ái leo quanhĐời này đến đời sauNhư vượn tham quả rừng."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 334)"Ai sống trong đời nàyBị ái dục buộc ràngSầu khổ sẽ tăng trưởngNhư cỏ dại gặp mưa."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 335)"Ai sống trong đời nàyHàng phục được ái dụcSầu rơi khỏi người ấyNhư nước đổ lá sen."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 336)"Đây điều lành Ta dạyCho những ai theo taHãy khổ tận gốc áiNhư nhổ gốc cỏ dạiChớ để ma phá hoạiNhư nước cuốn cỏ lau."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 337)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Con cá vàng óng ánh mà miệng thối Tỳ kheo Ca-pa-si-la giỏi giáo lý, thuyết pháp hay nhưng lại có tham vọng.

Ông ta thuyết pháp dù có hay cũng chẳng thể bằng các vị A-la-hán: Thuyết Pháp đệ nhất, Trí Tuệ đệ nhất, Nghị Luận đệ nhất, Đa Văn đệ nhất của Phật Ca Diếp.

Huống chi thời đó còn có Phật Ca Diếp ngời sáng như mặt trời.Vì tham vọng ông ta dùng mưu hèn kế bẩn là bôi nhọ, chê bai, phỉ báng người.

Nhưng thời đó những vị giỏi hơn Ca-pa-si-la thì toàn là A-la-hán và Phật Ca Diếp.

Thế nên Tỳ kheo đó tạo tội nặng.

Thời nay thì không có ai là thánh mà toàn là phàm tục nên dù chê bai, phỉ báng thì tội cũng nhẹ.

Bởi chê bai chí ít cũng đúng 1%, thậm chí đúng 100%.Ca-pa-si-la đọa Địa Ngục từ thời Phật Ca Diếp đến thời Phật Thích Ca mà chưa trả nợ hết tội.

Nhưng vì ông có trách nhiệm sinh lên dương thế để kể lại câu chuyện đó cho mọi người.

Nên ông sinh vào cõi súc sinh làm con cá vàng óng ánh.

Đó là bởi vẻ ngoài đạo đức giả và khả năng thuyết pháp hay ho của Ca-pa-si-la.

Còn cái miệng nó thối inh cả cung điện chính là tâm ác độc, chuyên cùng cái miệng bôi nhọ, chê bai, đả kích các vị thánh A-la-hán và Đức Phật.Bài học 2: Tội đồng lõaTỳ kheo Ca-pa-si-la bởi nghiệp chê bai, đả kích các vị A-la-hán và Đức Phật.

Ông bị đọa Địa ngục từ thời Phật Ca Diếp đến nay chưa thoát.

Nhưng thật ngạc nhiên là mẹ và em gái ông ta chỉ đứng ra bênh vực con trai hay anh trai.

Mà họ cũng đọa Địa ngục từ đó đến nay chưa thoát.

Liệu thế có hợp lý không?Thật ra khi kẻ ác bị mọi người ngăn cản, trừng phạt thì kẻ đó không dám làm ác nữa.

Những vị đứng ra đấu tranh với cái ác ta gọi là Hộ Pháp Trừng Ác.

Vị đó có phúc lớn chết thì làm Phúc Thần.Nhưng kẻ ác tạo tội lại có người đứng ra bênh vực, hỗ trợ, động viên, khuyến khích thì thay vì làm ác 1 nay kẻ đó làm ác gấp 10 lần.

Nên tội kẻ ủng hộ động viên cái ác là vô cùng nặng.Tôi còn thấy, con gái sống bằng cảm tính, không có lý trí rất dễ tạo ác nghiệp vì đồng lõa.

Nếu kẻ có lý trí thì biết đâu là đúng, đâu là sai, biết phân biệt thiện ác chánh tà.

Kẻ đó thấy sai thì không đồng lõa.

Nếu họ có đủ duyên, đủ sức mạnh thì đứng ra ngăn cản cái sai.Nhưng đàn bà con gái tình cảm lớn, sống bằng tình cảm.

Nên bà mẹ yêu con trai hay cô em gái yêu anh một cách mù quáng chẳng biết đúng sai tránh tà.

Họ đã vô tình tạo ác nghiệp.

Cái tội đó nặng đến mức họ bị đọa địa ngục từ thời Phật Ca Diếp đến nay chưa thoát.

Mà mẹ nào mà chẳng yêu con nên rất nguy.Bài học 3: Ca-pa-si-la và Sô-đa-la Người anh trai Sô-đa-la đó chuyên tâm tu hành đắc đạo A-la-hán rồi nhập Niết Bàn thoát khổ riêng mình.

Còn em trai Ca-pa-si-la thì trí tuệ, tài giỏi, thuyết pháp hay nhưng lại quá tham vọng mà tạo tội.

Nếu ta kết hợp 2 vị đó lại bỏ đi khuyết điểm để lại ưu điểm sẽ thành Đức Phật.

Bởi Đức Thế Tôn Phật, Chánh Đẳng Chánh Giác, Bậc Thánh Thế Gian Giải, Thầy của Trời Người... là một vị A-la-hán đắc đạo giải thoát.

Nhưng vị đó lại đưa Chánh pháp vào đời và dạy Chánh pháp cứu chúng sinh thoát khổ.Vị chứng A-la-hán không có duyên hóa độ chúng sinh, không dạy chánh pháp cho đời thì nhiều lắm.

Thời Đức Phật có 1200 vị A-la-hán như vậy.

Sau thời Phật 500 năm là thời Chánh Pháp còn có thêm nhiều vị A-la-hán như vậy.

Trong lịch sử còn có thêm nhiều vị Duyên Giác Phật vì cơ duyên đắc đạo A-la-hán chứ không phải vì tìm ra Chánh pháp.

Vị Duyên Giác Phật chỉ đắc đạo 1 mình rồi nhập Niết Bàn chứ không để lại Chánh pháp cho đời giúp người tu đắc A-la-hán.

Duyên Giác Phật còn được gọi là Độc Giác Phật là một vị Phật chỉ giác ngộ chứng A-la-hán 1 mình.Vậy nên phải vừa phải tu chứng A-la-hán vừa dạy chánh pháp cho đời mới thực là viên mãn vĩ đại.Bài học 4: "Tham - Ái - Dục" là gì?

Thật ra 3 từ đó đồng nghĩa với nhau."

Dục" hay còn gọi là "Dục Vọng" tức là lòng tham.

Lòng tham của "Dục" thiên về bản năng cầm thú.

Mà tham tình dục là một sự ham muốn của bản năng thú tính rõ ràng nhất.

Thế nên ta hay đánh đồng giữa tham tình dục chính là "Dục".

Còn ý nghĩa đầy đủ thì "Dục là lòng tham xuất phát từ bản năng cầm thú".

Vậy nên "Chứng Sơ Thiền là ly dục - ly ác pháp" là vị thánh đó diệt sạch lòng tham của bản năng cầm thú và không còn tâm ác muốn làm ai đau khổ."

Ái" là yêu thương, thèm khát.

Từ yêu thương thèm khát dẫn đến muốn nắm giữ sở hữu mà thành lòng tham.

Ta sẽ bàn kỹ về "Ái" ở Bài học 6.Bài học 5: Phóng dật dẫn đến tham ái "Phóng dật" là sống buông thả theo tham dục, để cho bản năng thú tính làm chủ mà đi theo nó.

Phóng dật là: Đói thì tranh cướp đồ ăn để ăn.

Khát thì cướp nước của người để uống.

Ngủ thì bạ đâu ngủ đó.

Tình dục thì bừa bãi loạn luân.

Vệ sinh lung tung bẩn thỉu.

Phóng dật sẽ biến ta thành con vật.

Phóng dật khiến ta bị tâm tham ái.

Bài học 6: Nhổ tận gốc ÁI thoát lưới maTrong Lý Thuyết Duyên Khởi (12 nhân duyên) thì:"Lục Căn sinh Lục Xúc.

Lục Xúc sinh Thọ.

Thọ sinh Ái.

Ái sinh Thủ.

Thủ sinh Hữu.

Hữu sinh Sinh.

Sinh sinh Lão Tử thành ra Luân Hồi."

Nghĩa là: Chúng ta có 6 CĂN: Tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý nghĩ.

6 căn đó tiếp XÚC với 6 ngoại vi: Tai nghe âm thanh.

Mắt thấy hình ảnh.

Mũi ngửi hương.

Lưỡi nếm vị.

Thân tiếp xúc với môi trường nóng lạnh, mềm cứng.

Ý nghĩ các pháp đúng sai.Từ 6 căn tiếp xúc 6 ngoại vi đó thì tâm ta khởi THỌ: buồn, vui, sướng, khổ.

Từ đó sinh ra tâm ÁI là yêu cái làm ta vui sướng.

Từ tâm Ái mà thành ý muốn nắm giữ, sở hữu gọi là HỮU.

Hữu chính là lòng tham.

Vì có Hữu mà ta chết rồi lại tái SINH bởi tâm ham muốn hay muốn sở hữu còn tồn tại.

Mà đã có sinh thì sẽ có GIÀ CHẾT tạo thành Luân Hồi.Nên Đức Phật dạy "Nhổ tận gốc Ái" sẽ "Thoát khỏi lưới ma" chính là thoát khỏi Luân Hồi đau khổ.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 338,229,340,341,342,343: Truyện con gà, con heo nái và A-la-hán


"Như cây bị chặt đốnGốc lại sẽ đâm trồiÁi tùy miên chưa nhổKhổ tiếp tục khởi sinh."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 338)"Ba mươi sáu dòng áiNhững lạc thú thế gianNhững tâm niệm tham lamCuốn người theo tà kiến."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 339)"Dòng ái dục chạy khắpNhư dây leo cuốn trànNếu thấy dây tham áiHãy dùng Tuệ bứng gốc."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 340)"Người đời mê ái dụcTheo đuổi các lạc thúTuy mong cầu an lạcHọ vẫn phải sinh già."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 341)"Như thỏ bị sa lướiVùng vẫy và hoảng sợChúng sinh bị lưới áiDằn vặt trong khổ đau."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 342)"Hỡi các vị Tỳ kheoHãy nhiếp phục ái dụcLìa bỏ những tham lamĐể mong cầu giải thoát."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 343)Tích Pháp Cú: Truyện tích này bắt đầu từ thời Phật Câu Lưu Tôn (Kra-ku-chan-đa) trước thời Đức Phật Thích Ca rất lâu.

Đi qua thời Đức Phật.

Tới sau thời Đức Phật 300 trăm năm mới kết thúc.Lần đó Đức Phật đi khất thực vào thành Vương Xá.

Ngay lúc đó thì Phật mỉm cười.

Ngài A-nan đi bên Phật thấy Phật mỉm cười biết có chuyện gì đó bởi không bao giờ khi không mà Phật lại mỉm cười.Ngài A-nan mới hỏi Phật:- Bạch Thế Tôn, không bao giờ vô cớ mà Thế Tôn cười.

Vậy ắt hẳn có chuyện gì đó đã khiến Thế Tôn cười?- Này A-nan, con có thấy con heo nái kia không?

- Bạch Thế Tôn, con có thấy con heo nái đó.- Này A-nan vào thời Đức Phật Câu Lưu Tôn (Kra-ku-chan-đa) thì con heo nái đó là một con gà.

Nó ở sát một thiền đường.

Ngày nào nó cũng nghe các Tỳ kheo tụng bài kệ tu thiền.

Vì nó nghe nhiều quá nên bằng trực giác tâm nó hiểu ra ý nghĩa của bài kệ.

Sau đó thì nó chết.- Nó chết thì nó tái sinh vào cung vua làm một vị công chúa.

Một lần công chúa đó đi vệ sinh và nhìn thấy các con giòi, con bọ thì ngộ ra bản chất chúng sinh trong Luân hồi mà chứng Sơ thiền.

Chứng xong Sơ thiền thì bà sinh lên cõi Trời Sắc Giới rất lâu.- Sau khi ở trên cõi trời rất lâu thì phúc giảm.

Bà sinh lại về cõi người làm con trưởng giả Bà La Môn.

Trong đời đó thì bà tạo ác nghiệp nên đời này sinh làm con heo nái.Sau đó đức Phật đọc bài kệ:"Như cây bị chặt đốnGốc lại sẽ đâm trồiÁi tùy miên chưa nhổKhổ tiếp tục khởi sinh."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 338)Đoạn sau là chuyện tích diễn ra sau thời Đức Phật.

Chuyện được chính "con heo nái" đó về sau tu chứng A-la-hán kể lại.

Con heo nái đó sau khi chết thì tái sinh vào trong cung vua ở miền nam Ấn Độ làm công chúa.

Sau khi công chúa chết thì tái sinh vào thành Ba La Nại làm con gái nhà buôn ngựa ở gần cảng sông Su-ba-ra-ca.

Rồi cô ta chết sinh làm con nhà thủy thủ ở cảng biển.

Rồi cô chết tái sinh vào nhà quý tộc.

Rồi lại tái sinh vào làm con gái ông Su-ma-la và được vị tể tướng cưới làm vợ.

Đến đời này tức đã sau thời Đức Phật khoảng 300 trăm năm.

Đây vẫn là thời Chánh Pháp nên có rất nhiều vị tu chứng A-la-hán.Lần đó có vị Trưởng lão A-la-hán tên là A-lu-la.

Ngài đi khất thực ngang qua nhà ông tể tướng.

Ngài nhìn thấy cô vợ ông tể tướng thì Ngài cũng cười.

Các đệ tử Tỳ kheo đi theo mới hỏi:- Thưa Trưởng Lão, không bao giờ vô cớ mà Trưởng Lão cười.

Vậy vì nguyên cớ gì mà Ngài cười?Trưởng lão A-lu-la bèn kể lại các tiền kiếp của cô gái vợ của tể tướng.

Cô gái đó đứng nghe thì bất chợt nhớ lại toàn bộ tiền kiếp của mình.

Cô thấy cuộc đời Luân hồi đáng chán nên cô xin chồng đi xuất gia.

Rồi ở vùng đó có chiến tranh nên dân chúng chạy nạn và Ni Sư về làng quê sinh sống và tu hành.

Tại làng quê đó thì Ni Sư tu chứng A-la-hán.

Rồi Trưởng Lão Ni đó mới kể lại các tiền kiếp của mình cho đệ tử nghe và được lưu trong Kinh Pháp Cú này.

Truyện của Trưởng Lão Ni kể chi tiết hơn truyện mà Phật kể cho Ngài A-nan.Kiếp bà là con gà mái nghe đề mục thiền quán thấm vào tâm thì có con diều hâu bay qua mổ chết.

Chết rồi thì con gà mái sinh vào cung vua làm công chúa và xuất gia làm Tỳ kheo ni.Thế ta mới thấy cái chết không có gì đáng sợ.

Khi ta có phúc lớn cõi trời nhưng lại có thân người.

Có thể ta bị chết đột tử để sinh lên cõi trời.

Giống con gà mái khi ngộ ra đạo lý trong kinh Phật thì phúc nó lớn đủ để sinh vào cung vua.

Thế là nó bị con diều hâu mổ chết tái sinh làm công chúa.Tỳ kheo ni đó tu chứng Sơ Thiền (Bà không kể như Đức Phật là đi vào nhà xí thấy giòi bọ thì giác ngộ chứng Sơ Thiền).

Sau đó bà sinh cõi trời và ở trên đó từ thời Phật Câu Lưu Tôn đến gần thời Phật Thích Ca.Vì ở cõi trời lâu nên phúc giảm mà bà tái sinh vào nhà con trưởng giả Bà La Môn.

Vì làm con nhà giàu nên bà hống hách làm bậy tạo ác nghiệp.

Rồi chết đọa làm con heo nái.

Nên thời Đức Phật tại thế thì bà là con heo nái nên không tu học được gì.Rồi các kiếp sau từ thời con heo nái cho đến đời này làm vợ tể tướng rồi xuất gia tu chứng A-la-hán chính là đoạn truyện trên ta đã tường thuật.Kể xong hết chuyện thì Trưởng Lão đọc bài kệ:"Ba mươi sáu dòng áiNhững lạc thú thế gianNhững tâm niệm tham lamCuốn người theo tà kiến."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 339)"Dòng ái dục chạy khắpNhư dây leo cuốn trànNếu thấy dây tham áiHãy dùng Tuệ bứng gốc."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 340)"Người đời mê ái dụcTheo đuổi các lạc thúTuy mong cầu an lạcHọ vẫn phải sinh già."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 341)"Như thỏ bị sa lướiVùng vẫy và hoảng sợChúng sinh bị lưới áiDằn vặt trong khổ đau."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 342)"Hỡi các vị Tỳ kheoHãy nhiếp phục ái dụcLìa bỏ những tham lamĐể mong cầu giải thoát."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 343)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Con gà và con heo náiTruyện này có 2 điều đặc biệt.Điều đặc biệt thứ nhất: Con gà nghe kinh nhiều mà cảm ứng tâm thấy được chánh pháp trong kinh.

Khi thấy được chánh pháp thì phúc nó lớn đủ sinh vào cung vua.

Thế là nó bị con diều hâu mổ chết rồi tái sinh làm công chúa.

Vậy nên dù là loài súc sinh có duyên tạo được phúc lớn thì sinh cõi lành.

Ví dụ các con vật cưỡi của Bồ Tát Phổ Hiền hay Bồ Tát Văn Phù là voi và sư tử đều là các vị thần.

Nên chúng sinh trong Luân Hồi đều vì phúc duyên mà lên lên xuống xuống trầm luân mãi mãi.Điều đặc biệt thứ hai: Con heo nái là một vị trời Phạm Thiên hết phúc sinh làm con trưởng giả Bà La Môn.

Rồi kiếp làm người nó tạo tội thì đọa làm heo 1 kiếp để trả nợ ác nghiệp.

Sau đó nó lại sinh cõi người.

Khi có duyên gặp 1 vị A-la-hán khai ngộ thì bà tu chứng quả A-la-hán.

Thế ta mới thấy hoảng sợ bởi súc sinh coi vậy nếu quyết đi theo đường ánh sáng diệt trừ tham ái cuối cùng vẫn có thể đắc đạo "Vô Thượng Bồ Đề" A-la-hán.

Nên Kinh Pháp Hoa có vị Bồ Tát Thường Bất Khinh.

Vị đó luôn nói rằng: "Tôi không dám khinh các vị vì về sau các vị sẽ thành Phật".

Ai nấy nghe vậy đều hoảng sợ.

Vì họ tự thấy bản thân nghèo hèn, khổ sở... thế mà có ông thầy bảo họ thành Phật nên họ hoảng sợ.

Nhưng Bồ Tát Thường Bất Khinh nói là sự thật.Ta còn thấy, đây là trường hợp tái sinh vô cùng đặc biệt.

Khi vị đó tái sinh lên cao thì lên cao đến tận cùng sinh làm trời Sắc Giới hưởng phúc vạn năm hay chứng A-la-hán Vô Thượng Bồ Đề.

Còn lúc bị đọa xuống thì xuống làm con heo nái hay con gà mái.

Chính chiều đó khiến các vị thánh có Thiên Nhãn nhìn thấy thì ngạc nhiên mỉm cười.

Rồi các vị kể lại cho đời tạo thành bài học trong Tích Pháp Cú này.

Rồi đến nay sau Phật 2500 năm ta lại được nghe.Theo Kinh Hiền Ngu (Trung Bộ Kinh) mà Đức Phật dạy thì một chúng sinh muốn sinh làm người vô cùng khó khăn.

"Ví như giữa đại dương có 1 tấm gỗ có cái lỗ trên đó.

Lòng đại dương có con rùa mù 100 năm mới ngoi lên mặt nước thở 1 lần.

Và lần đó nó ngoi lên thì thò đầu vào cái lỗ trên tấm gỗ.

Sự thật rằng cơ hội để chúng sinh tái sinh làm người còn khó hơn vậy.

Bởi vì chúng sinh không có an An tịnh hành, Thanh tịnh hành, Phúc hành.

Chúng sinh chỉ ăn lẫn nhau và ăn thịt kẻ yếu mà thôi".

Thế nên khi Phật nhìn thấy con gà hóa thành công chúa rồi sinh cõi trời Sắc Giới rồi lại làm người mà đọa làm con heo thì Phật mỉn cười.

Tôn giả A-la-hán A-lu-la sau thời Phật 300 năm nhìn thấy cô gái đó là con gà rồi sinh thiên giới lại đọa làm heo rồi nay là vợ của tể tướng thì cũng ngạc nhiên mà mỉm cười.

Bởi vì trường hợp này quá hiếm gặp.Bài học 2: Sơ Thiền là ly dục, ly ác phápĐức Phật nói trong Kinh Sa Môn Quả (Trường Bộ Kinh) rằng: Một vị chứng Sơ Thiền thì "Ly dục - Ly ác pháp - còn tầm còn tứ".

Tức tâm vị đó hoàn toàn từ bỏ dục vọng, từ bỏ tâm ác muốn hại người đau khổ.

Nhưng tâm vị đó vẫn còn "tầm cầu mong ước" và "ý tứ tư duy".

Đức Phật năm 12 tuổi khi ngồi thiền dưới gốc cây Diêm Phù Nề chờ vua cha Tịnh Phạm đang làm lễ Tịnh Điền.

Thì Thái Tử đã chứng Sơ Thiền và đã "Ly dục - Ly ác pháp".Từ trước tới nay tôi cứ nghĩ: "Khi đã chứng Sơ Thiền Ly dục - Ly ác pháp rồi thì mãi mãi vĩnh viễn không còn dục và ác pháp nữa".

Nhưng qua truyện tích này thì tôi đã sai.

Cô công chúa đó chứng Sơ Thiền thì sinh cõi trời Sắc Giới hưởng phúc vạn năm.

Khi phúc vơi thì sinh làm con vị trưởng giả Bà La Môn.

Cô ta vẫn còn dục và còn ác pháp nên đã tạo tội.

Tội đó nặng khiến cô bị đọa làm con heo nái.Vậy nên chứng Sơ Thiền "Ly dục - Ly ác pháp" thì chưa diệt tận gốc giống chứng Sơ quả Dự Lưu là diệt tận gốc 3 Kiết sử: Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi.

Vậy nên Phật mới dùng từ "Ly" tức là chia tay, tạm biệt mà tương lai vẫn có thể gặp mặt.

Còn "Diệt" tức chấm dứt hoàn toàn, cắt đứt tận gốc rễ.Bài học 3: Trời Sắc Giới tuổi thọ rất lâu nhưng vẫn trong Luân HồiLuân hồi thì có Lục đạo và Tam giới.

Lục đạo là cõi mà chúng sinh còn tham dục: Địa ngục, Súc sinh, Ngã quỷ, Người, Thần, Trời dục giới.

Tam Giới là Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới.Trong đó thì Dục giới là cõi mà chúng sinh còn dục bao gồm gần như toàn bộ Lục Đạo.

Thậm chí cõi của vua Trời Đế Thích là Tam Thập Tam Thiên mà các vị vẫn có thân nam nữ, vẫn có tâm ham muốn thì vẫn còn dục.

Nên Tam Thập Tam Thiên vẫn nằm trong Dục giới.Khi các v1ị thánh chứng Sơ Thiền "Ly dục" thì mới sinh lên Trời Sắc Giới.

Cõi đó các vị không còn thân nam nữ mà chỉ còn là hào quang, tuổi thọ các vị Trời Sắc Giới thì hàng vạn năm.

Nhưng cõi đó vẫn còn trong Luân Hồi.

Tức sau hàng vạn năm hưởng phúc trên đó thì phúc vơi và các vị lại phải tái sinh cõi thấp.

Và cõi Phạm Thiên ta hay nghe thấy trong Kinh Phật là cõi trời Sắc Giới.Trong Kinh Đại Thiện Kiến Vương (Trường Bộ Kinh) Phật kể về 7 kiếp quá khứ của Phật là 7 vị Chuyển Luân Thánh Vương.

Sau khi từ giã cõi người thì các vị đều sinh lên cõi Phạm Thiên.Còn Kinh Ba-lê (Trường Bộ Kinh) thì Phật miêu tả về vị Trời Phạm Thiên rất chi tiết rõ ràng như sau:"1- Vị đó ở tại đó, 2- do ý sinh, 3- sống bằng hỉ, 4- tự chiếu hào quang, 5- vi hành trên hư không, 6- sống trong sự quang vinh và 7- 1sống như vậy một thời gian rất dài".

Ta ghi nhớ 7 tính chất của vị Trời Phạm Thiên này nhé.Đặc biệt trong Kinh Ba-lê đó thì Phật kể về một vị Đại Phạm Thiên là Thiên Chủ cõi Trời Phạm Thiên.

Vị đó có tuổi bằng tuổi thế gian này.

Vị đó sinh ra ngay sau khi thế gian này mới sinh và vị đó sẽ chết đi khi thế gian hoại diệt.

Vị đó "Chúa tể mọi định mạng, Tổ phụ mọi chúng sinh đã sinh và sẽ sinh".

Ta hãy nghe đoạn kinh Ba-lê đó nhé:"Vị đó là 1- Phạm Thiên, 2- Đại Phạm Thiên, 3- Tối thắng, 4- Toàn năng, 5- Biến nhãn, 6- Thượng đế, 7- Thượng tôn, 8- Sáng tạo chủ, 9- Hóa sinh chủ, 10- Đại tôn, 11- Chúa tể mọi định mạng, 12- Đấng tự tại, 13- Tổ phụ của chúng sinh đã sinh và sẽ sinh."

Ta hãy ghi nhớ 13 năng lực của vị Đại Phạm Thiên đó.Còn Vô Sắc Giới là cõi thuần tâm thức của một vị thánh nhập thiền định.

Cõi đó có 5 tầng: 1- Không vô biên xứ định.

2- Thức vô biên xứ định.

3- Vô sở hữu xứ định.

4- Phi tưởng phi phi tưởng xứ định.

5- Diệt thọ tưởng xứ định (Ta hay gọi tắt là Diệt Tận Định).

Theo tôi thì 5 tầng xứ định này tương ưng với 5 tầng thiền định của một vị thánh tu thiền: 1- Chánh niệm tỉnh giác.

2- Sơ thiền.

3- Nhị thiền.

4- Tam thiền.

5- Tứ thiền.Bài học 4: Túc mạng minh và Thiên nhãn minhMột vị thánh chứng Tứ Thiền thì lúc đầu sẽ có 3 loại thần thông: 1- Thiên nhĩ thông (Tai nghe được tiếng nói của quỷ thần).

2- Tha tâm thông (Tâm cảm ứng tâm với chúng sinh ở xa).

3- Thân như ý túc thông (Thân cảm ứng biến hóa theo ý nghĩ).Vị đó tu thâm sâu thêm đến giai đoạn cuối cùng thì chứng Tam Minh.

Đức Phật trong đêm cuối cùng của ngày thứ 49 thiền định dưới gốc Bồ Đề đã mất 3 canh giờ để chứng Tam Minh.

Đến hết canh 3 thì Người chứng Minh cuối cùng mà đắc đạo thành Phật.Tam Minh đó là:1- Thiên Nhãn Minh: Vị đó thấy rõ các kiếp sống tái sinh của chúng sinh trong Luân Hồi quá khứ, hiện tại, tương lai.

Chúng sinh đó sinh về đâu, tên họ là gì, cha mẹ là ai, tạo nghiệp gì rồi chết tái sinh về đâu.2- Túc Mạng Minh: Vị đó thấy rõ các kiếp sống tái sinh của bản thân trong Luân Hồi quá khứ, hiện tại, tương lai.

Ta đã sinh về đâu, tên họ là gì, cha mẹ là ai, tạo nghiệp gì rồi chết tái sinh về đâu.3- Lậu Tận Minh: Tâm hoàn toàn diệt tận hết mọi tật xấu, nhiễm ô, cấu uế, tập khí, kiết sử, Vô Minh.

Vị đó chứng Vô Thượng Bồ Đề A-la-hán.Vậy ta đã hiểu vì sao Đức Phật hay Tôn giả A-la-hán A-lu-la đã thấy rõ các kiếp sống tái sinh con gà rồi cô gái.

Đó là nhờ Thiên Nhãn Minh.

Còn Trưởng Lão Ni A-la-hán thấy rõ ràng các kiếp sống tái sinh của bản thân và kể lại là nhờ Lậu Tận Minh.Bài học 5: Câu chuyện trong Luân Hồi mà 3 vị thánh đều thấy giống nhauTa đặc biệt chú ý: Câu truyện trong Luân Hồi mà 3 vị thánh đều thấy giống hệt nhau.

Đầu tiên là Đức Phật thấy và kể lại cho Ngài A-nan nghe chép vào Pháp Cú.

Sau đó 300 năm thì Tôn giả A-la-hán A-lu-la thấy thì kể lại cho đệ tử và cô vợ của tể tướng.

Cô gái nghe xong thì chợt bừng tỉnh nhớ lại các kiếp xưa của mình đúng như vậy.

Rồi thời gian sau cô đi tu thì chứng A-la-hán.

Trưởng Lão A-la-hán đó kể lại đầy đủ, chi tiết, cặn kẽ từ đầu đến cuối cho đệ tử để chép tiếp vào Pháp Cú.Do vậy Luân hồi các kiếp sống tái sinh là Chân lý không có sai lệch.

Dù Đức Phật thấy cũng vậy.

300 năm sau có vị A-la-hán thấy cũng như vậy.

Rồi cuối cùng nhân vật chính trong câu chuyện đã chứng A-la-hán thì bằng Túc Mạng Minh kể lại chi tiết, cặn kẽ, rõ ràng nhất.

Và mọi sự thật đều trùng khớp không hề có sai lệch.Riêng đoạn truyện "Công chúa chứng Sơ thiền vì thấy con giòi trong hầm cầu lúc đi vệ sinh" có thể do Trưởng Lão Ni tế nhị không nói đến vì sẽ mất tính chất tôn nghiêm của bản thân trước mặt đệ tử.

Thế sao Đức Phật lại nói cho Ngài A-nan tình tiết không mấy tốt đẹp đó?

Bởi khi đó nhân vật chính là con heo nái chứ không phải là một vị Tôn giả A-la-hán.Bài học 6: Ái tùy miên chưa nhổTa biết Sơ thiền là "Ly dục - Ly ác pháp".

Nên công chúa chứng Sơ Thiền sinh vào cõi không còn dục là Trời Sắc Giới.

Cô hưởng phúc trên đó nhiều vạn năm từ thời Phật Câu Lưu Tôn đi qua 2 đời Đức Phật là Phật Câu Na Hàm Mâu Ni và Phật Ca Diếp.

Đến thời Phật Thích Ca thì mới đầu thai làm con trưởng giả Bà-la-môn.

Rồi cô tạo ác nghiệp đọa làm con heo nái.Vậy ý nghĩa của chữ LY trong "Ly dục, Ly ác pháp" là tạm thời chia tay tương lai có thể gặp lại.

Nó khác với "Diệt Kiết Sử" chứng thánh là diệt tận gốc mãi mãi không còn trở lại.

Vậy nên "Ly dục, Ly ác pháp" của Sơ Thiền chỉ là "Ái tùy miên chưa nhổ thì Khổ tiếp tục khởi sinh".

Sau nhiều vạn năm hưởng phúc ở Trời Sắc Giới đến khi tái sinh làm người thì vị đó lại tạo tội mà đọa làm súc sinh.

Thật là đau khổ.Bài học 7: Ái cuốn người theo tà kiến và khổ đauTrong Lý Thuyết Duyên Khởi (12 nhân duyên) thì:"Lục Căn sinh Lục Xúc.

Lục Xúc sinh Thọ.

Thọ sinh Ái.

Ái sinh Thủ.

Thủ sinh Hữu.

Hữu sinh Sinh.

Sinh sinh Lão Tử thành ra Luân Hồi."

Thân ta có 6 căn tiếp xúc với 6 yếu tố môi trường: Tai nghe âm thanh, mắt thấy hình ảnh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc với môi trường, ý nghĩ pháp đúng sai.

Vì thân có 6 căn và 6 tiếp xúc mà tâm ta cảm thấy buồn, vui, sướng, khổ.

Gọi là THỌ.

Sau đó ta sẽ yêu thứ làm ta vui sướng.

Gọi là ÁI.

Từ yêu tâm ta muốn nắm giữ sở hữu nó.

Gọi là HỮU.

Vì có Hữu nên khi chết đi ta sẽ tái sinh bởi có ý muốn sở hữu.

Gọi là SINH.

Vì có sinh mà có GIÀ CHẾT.6 căn, 6 xúc là cơ thể ta và môi trường tự nhiên ta không thể diệt.

Cảm xúc buồn vui sướng khổ cũng là tự nhiên khi 6 căn tiếp xúc môi trường.

Ta chẳng thể diệt.

Điều có thể diệt ở đây chính là Tâm Tham Ái.Một vị thánh diệt tâm Tham Ái thì vị đó vẫn có 6 căn minh mẫn, 6 tiếp xúc môi trường đầy đủ.

Vị đó vẫn cảm thọ.

Nhưng tâm vị đó tĩnh lặng không khởi tâm Tham Ái.

Vì không Tham Ái nên không khởi ý muốn sở hữu nên chấm dứt tái sinh đau khổ.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 344: Truyện Tỳ kheo thành tướng cướp


"Đã ra lại quay vàoRừng Vô Minh mê đắmKẻ đã thoát buộc ràngLại quay vào ràng buộc."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 344)Tích Pháp Cú: Có Tỳ kheo là đệ tử của Tôn giả Ma-ha Ca Diếp.

Vị này tu thiền có thần thông mà chưa đắc được quả thánh nào.

Rất giống trường hợp Đề Bà Đạt Đa tu thiền có Thần thông mà không chứng thánh.Lần đó ông đến nhà người chú làm thợ kim hoàn.

Ông thấy vàng bạc đá quý nhiều thì động lòng tham.

Rồi ông xin hoàn tục và xin làm thuê cho ông chú đó.

Vì ông làm thầy tu chỉ khất thực rồi ngồi thiền mà chẳng làm việc gì nên tay nghề không có.

Mà khi học làm thợ cũng không chăm học nghề nên không làm được việc.

Thế là ông chú đuổi đi không cho làm.Ông ta đi lang thang thì nhập hội vào băng cướp.

Thời gian sau thì ông lên làm tướng cướp vì còn ít năng lực thần thông.

Sau đó bọn cướp bị quan binh bắt.

Rồi lính bắt trói ông mang đi tử hình.

Khi đó tên tướng cướp đã mất toàn bộ thần thông.Trên đường ra pháp trường thì Tôn giả Ma-ha Ca Diếp đứng bên đường.

Ngài dùng thần thông làm dây trói lỏng ra để đệ tử được thư giãn.

Rồi Ngài dùng tâm truyền tâm nói với đệ tử: "Con nãy quán lại đề mục thiền quán".

Rồi trên đường đi thì vị đó nhiếp tâm trong đề mục thiền quán và có lại thần thông.

Tên cướp bị hình phạt nằm lên bàn chông và đặt đá cho các cây chông xuyên qua cơ thể.Khi lính mang tên cướp đặt lên bàn chông thì mặt mũi hắn bình thản.

Khi đặt đá lên người tên cướp mà cơ thể không bị chông xuyên thủng.

Lính mới ngạc nhiên báo cho vua Bình Sa.

Vua đi ra xem cũng không hiểu chuyện gì xảy ra.Tôn giả Ma-ha Ca Diếp chỉ giúp được đệ tử có thần thông thoát chết chứ không thể thoát tội.

Vị đó trên bàn chông đá đè mà không chết cũng không thể tự thoát ra ngoài.

Tình cảnh rất khó giải quyết đến vua Bình Sa cũng phải đứng nhìn.

Lúc đó thì Đức Phật mới hiện hình ra giữa hư không đọc bài kệ:"Đã ra lại quay vàoRừng Vô Minh mê đắmKẻ đã thoát buộc ràngLại quay vào ràng buộc."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 344)Ngay lúc đó thì vị đó chứng Sơ quả Dự Lưu và khôi phục thần thông đầy đủ.

Vị đó bay lên giữa hư không quỳ đảnh lễ Đức Phật và xin quy y trở lại làm Tỳ kheo.

Đức Phật đồng ý thì lập tức râu tóc vị đó rụng còn thân mình hiện áo Casa.

Ngay lúc đó thì Tỳ kheo chứng A-la-hán.

Vua Bình Sa thấy cảnh tượng đó thì tha tội cho Tỳ kheo.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Thiền là con dao 2 lưỡiTu thiền cũng giống như tích phúc.

Phúc lớn cũng là con dao 2 lưỡi.

Nếu vị đó có phúc lớn mà có tâm tham vọng muốn làm "Bá chủ thiên hạ" thì sẽ thành Ma Vương.

Nếu phúc lớn mà có lòng từ bi muốn cứu chúng sinh thì sẽ thành Đức Phật hay Đức Bồ Tát.Vậy nên Đức Phật luôn khuyên rằng "Tích phúc mà tâm không mong cầu đời này và đời sau".

Bởi tích phúc mà có tâm mong cầu tức là tham vọng.

Khi phúc đầy đủ viên mãn thì kẻ đó thành Ma Vương.Và tu thiền cũng là con dao 2 lưỡi:Con dao 2 lưỡi thứ nhất: Nếu tu thiền đúng cách thì sẽ khai mở tâm linh.

Nếu tu thiền sai cách thì bị "Tẩu hỏa nhập ma" tức bị điên vì ảo tưởng, ảo giác hay sẽ bị kiêu mạn phá tan tâm vị đó.Con dao 2 lưỡi thứ hai: Tu thiền đúng sẽ khai mở tâm linh.

Khi đó tâm ta sẽ Thanh Tịnh.

Phật ví tâm thiền sư như nước hồ trên núi cao trong vắt (Gọi là Thanh) và mặt nước tĩnh lặng (Gọi là Tịnh).

Khi đó vị đó dễ dàng thấy những con cá đang bơi, những hòn đá và rong rêu dưới đáy khồ.

Cũng vậy tâm vị thiền sư trong vắt, tĩnh lặng, sáng tỏ, nhu nhuyễn và dễ điều khiển.

Phật gọi đó là Tâm Định.Tâm Định có 5 tầng Xứ Định: (1) Không vô biên xứ định. (2) Thức vô biên xứ định. (3) Vô sở hữu xứ định. (4) Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. (5) Diệt thọ tưởng xứ định hay còn gọi là Diệt Tận Định.Và đây chính là con dao 2 lưỡi: Nếu vị đó điều khiển Tâm Định để tìm ra các Kiết sử trong tâm mà diệt thì vị đó sẽ là vị Thánh đạo đức.

Nếu vị đó hướng Tâm Định vào thần thông hay năng lực tâm linh với tham vọng thì sẽ có thần thông và trở thành Ma Vương.

Bởi kẻ có tâm tham vọng có năng lực thần thông vĩ đại thì chính là Ma Vương.Nên Ma Vương có thần thông và uy lực mạnh mẽ không kém Đức Phật mà tâm tham vọng điên cuồng.

Nhưng Ma Vương không hề diệt một Kiết Sử nào.

Trong Kinh Hàng Ma thì Đại Ác Ma Du-si phá hoại tăng đoàn Đức Phật Câu Lưu Tôn tạo ác nghiệp bị đọa Địa ngục vạn năm.

Hay Đề Bà Đạt Đa tu thiền có thần thông và tham vọng lớn.

Hắn phá hoại tăng đoàn Đức Phật Thích Ca rồi đọa Địa ngục.Vậy nên tu thiền mà tu sai thì "Tẩy hỏa nhập ma".

Tu thiền phải tu đúng mới khai mở tâm linh và tâm có Định.

Sau đó Tâm Định sáng tỏ thì dùng vào việc gì?

Nếu hướng Tâm Định theo tham vọng có năng lực thần thông thì thành Ma Vương.

Nếu hướng Tâm Định tìm diệt Kiết Sử thì chứng Thánh thành Bồ Tát hay A-la-hán.Nếu vị A-la-hán đó là người đầu tiên tìm lại Chánh pháp của Đức Phật quá khứ bị thất lạc.

Vị đó dạy Chánh pháp cho đời thì thành Đức Thế Tôn Phật.

Nếu vị đó có Tâm Định và diệt Kiết sử mà không diệt hết toàn bộ thì sẽ là Bồ Tát.

Bồ Tát vẫn phải tu tiếp.Bài học 2: Con đường thiền định chân chínhKinh Sa Môn Quả (Trường Bộ Kinh) thì Phật dạy con đường thiền định chân chính. (1) Đầu tiên vị đó cần phải có phúc lớn làm nền tảng tu hành. (2) Vị đó xuất gia từ bỏ phúc báu thế gian hướng phúc đó vào chứng quả giải thoát. (3) Vị đó tu giữ giới hạnh cụ túc là 250 Tỳ kheo tăng giới, 348 Tỳ kheo ni giới. (4) Vị đó tu hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có niềm tin vào Chánh pháp của Đức Phật.(5) Vị đó tu thiền định chứng Chánh niệm tỉnh giác diệt trừ 5 Triền cái: Tham ái, Sân, Hôn trầm thụy miên, Trạo cử hối tiếc, Nghi.

Trong 5 Triền cái đó thì có 4 Kiết sử.

Vậy tức vị đó đã chứng Sơ quả Dự Lưu.

Vậy một vị tu thiền có thần thông thì chưa diệt được 5 Triền cái này.

Vị đó là một ngoại lệ.(6) Vị đó chứng Sơ thiền "Ly dục - Ly ác pháp - Còn tầm còn tứ".

Tức vị đó đã từ bỏ lòng tham dục vọng, không còn tâm ác muốn hại người.

Vậy một vị chứng thần thông cũng không "Ly dục - Ly ác pháp".

Ví như Đề Bà Đạt Đa chứng thần thông mà tham lam dục vọng vẫn đầy.

Còn tâm ác của Đề Bà thì khỏi nói.(7) Vị đó chứng Nhị thiền: "Tâm đạt hỉ lạc do Định sinh không tầm không tứ".

Tức vị đó tâm có Định thâm sâu, tâm gạt bỏ các ý niệm tư duy.(8) Vị đó chứng Tam thiền: "Thân cảm sự lạc thọ không hỉ, xả niệm lạc trú".

Tâm vị đó có Lạc thọ là hạnh phúc cõi trời Sắc giới.

Không còn hỉ là hạnh phúc thế tục và không còn niệm là tư duy thế tục.(9) Vị đó chứng Tứ thiền: "Thân tâm thuần tịnh trong sáng, không lạc không hỉ, xả niệm thanh tịnh".

Vị đó tâm hoàn toàn thanh tịnh như nước hồ trong vắt trên núi cao với mặt nước phẳng lặng như gương soi.

Tại đây vị đó có thần thông vĩ đại.

Nhưng vị đó phải từ bỏ Thần Thông mà tu tiếp lên cao để chứng Tam Minh mà diệt Vô Minh chứng A-la-hán.

Nếu tại đây vị đó ôm giữ thần thông sẽ không thể chứng Tam Minh.Song song với Chánh niệm, Tứ thiền thì có 5 cõi Định vô sắc giới mà một vị thiền sư sẽ an trú trong 5 cõi đó.

Tôi không thấy kinh nào Phật nói sự tương quan giữa Chánh niệm, Tứ thiền với 5 Xứ Định.

Vậy ta tạm thời coi chúng có cấp độ tương đương nhau để dễ hình dung.(1) Chánh niệm tương đương "Không vô biên xứ định". (2) Sơ thiền tương đương "Thức vô biên xứ định". (3) Nhị thiền tương đương "Vô sở hữu xứ định". (4) Tam thiền tương đương "Phi tưởng phi phi tưởng xứ định". (5) Tứ thiền tương đương "Diệt tận định".

Vậy tương ứng với mỗi tầng bậc thiền định thì vị thiền sư sẽ có 1 cõi Vô sắc giới để an trú.Trên đây chỉ hoàn toàn là lý thuyết ghi trong Kinh Sa Môn Quả và tôi theo câu chữ nói lại.

Tôi chưa chứng bất cứ tầng bậc thiền định nào dù là nhỏ nhất nên không có bàn luận hay phân tích mở rộng.Vậy một vị chứng thiền có Thần thông mà không chứng Thánh rất có thể 5 Triền Cái vị đó không diệt, "Ly dục - Ly ác" vị đó cũng không.

Mà vị đó chứng lên tận Tứ thiền có thần thông và giữ thần thông đó không buông bởi Thần thông là đích đến của tham vọng và quyền lực.

Vị đó dễ thành Ma Vương.Bài học 3: Ngài Ma-ha Ca Diếp đệ nhất tổ sư thiềnNgài Ma-ha Ca Diếp là đệ nhất sơ tổ thiền tông Phật Giáo.

Ngài có danh vị là Phạm Hạnh Đệ Nhất vì ngài tu thiền chứng A-la-hán đắc thành Phạm Hạnh nhanh nhất là 7 ngày thiền định.Chính vì Ngài Ma-ha Ca Diếp giỏi về thiền nên ngài độ cho đệ tử chứng thiền tâm có Định.

Sau khi tâm có Định thì đệ tử lại không hướng tâm đó để tìm diệt Kiết sử mà chứng thánh.

Đệ tử ngài lại hướng tâm Định vào thần thông phép thuật và không chứng bất kỳ thánh quả nào.

Nên đệ tử nhìn thấy vàng bạc kim cương thì tâm khởi lòng tham.Từ khi tâm vị đệ tử đó khởi lòng tham thì kéo theo các hệ quả sai lầm: Hoàn tục, làm nghề kim hoàn để được gần vàng bạc trang sức, thất nghiệp đi làm trộm cướp, rồi thành tướng cướp.

Đó là một chuỗi dài những sai lầm mà xuất phát điểm là lòng tham khi nhìn thấy vàng bạc kim cương.Sau khi bị đưa ra pháp trường tử hình thì Ngài Ma-ha Ca Diếp cũng chỉ cứu được đệ tử lấy lại thần thông mà không bị chết.

Chứ không cứu cho đệ tử thoát án tử hay chứng thánh quả.Bài học 3: Đức Phật độ chứng thánh quảChứng thánh là tâm giác ngộ thấy ra lỗi sai Kiết sử và diệt.

Muốn thấy được lỗi sai thì tâm phải thanh tịnh.

Muốn tâm thanh tịnh thì phải tu thiền.

Có nhiều Tỳ kheo quán đề mục thiền quán thì chứng thiền, tâm thanh tịnh, diệt kiết sử xong thì chứng thánh.

Riêng ông này thì lại không chứng thánh chỉ chứng thiền rồi có thần thông.Phải đến khi Đức Phật nói chính xác cái sai trong tâm thì ông mới bừng bừng giác ngộ chứng Sơ quả Dự Lưu.

Sau khi ông quỳ lạy xin quy y Đức Phật trở lại thì lập tức ông biến thành Tỳ kheo: Tóc rụng, thân mình hiện áo Ca-sa và lập tức chứng A-la-hán.

Kỳ lạ sao nhanh vậy?Bởi như phần trước ta đã nghiên cứu: Tứ thiền thì Tâm có Định và thanh tịnh sau đó chứng Thần thông.

Vị đó phải bỏ thần thông mới chứng Tam minh diệt Vô minh đắc A-la-hán.

Nếu vẫn bám giữ thần thông thì không thể đắc đạo.

Nên sau khi vị đó giác ngộ từ bỏ thần thông lập tức có Tam Minh, diệt Vô Minh mà chứng A-la-hán ngay tức thì.

Bởi mức định của vị đó đã là Tứ Thiền rồi.Ta thấy 2 cách dạy học trò của Ngài Ma-ha Ca Diếp và Phật hoàn toàn khác nhau.

Đó là sự khác biệt giữa A-la-hán và Đức Phật.

Các vị A-la-hán là tu theo lời Phật dạy chứng A-la-hán "Vô thượng bồ đề" (giác ngộ cao nhất).

Nhưng để giảng Chánh pháp cho người một cách khéo léo, đúng nghiệp duyên để vị đó giác ngộ chứng thánh chỉ có Đức Phật.

A-la-hán không làm nổi.

A-la-hán chỉ làm theo lời Phật dạy trong Kinh mà thôi.Mà lời Phật dạy trong Kinh thì sao?

Ta nhớ lại lời Phật dạy Đức A-nan trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ Kinh): "Này A-nan, Chánh pháp ta chứng thì nhiều như lá trong rừng.

Nhưng Chánh pháp ta nói ra chỉ như lá trong lòng bàn tay mà thôi".Bài học 4: Đã ra lại quay vàoĐây là lời Phật trách mắng vị đó: "Đã xuất gia từ bỏ gia đình, từ bỏ thế tục mà tu hành giải thoát rồi lại quay trở vào thế tục đời Vô Minh mê đắm.

Ông đã thoát buộc ràng rồi lại quay trở lại ràng buộc".

Ông tướng cướp đó vỡ òa ra giác ngộ Chánh pháp Phật dạy thì chứng Sơ quả Dự Lưu.

Sau đó ông xin quy y trở lại làm Tỳ kheo thì chứng A-la-hán tức thì.

Vậy nên "ai đã đi thoát thế gian rồi thì đừng quay trở vào kẻo lại đi làm tướng cướp".
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 345,346: Truyện trói buộc cuộc đời


"Dây thừng hay dây sắtChưa phải là buộc chặtDanh lợi và vợ conMấy người có thể cắt."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 345)"Người trí biết như vậyÁi luyến kéo chúng sinhXuống bùn sâu khó thoátNên gắng công cắt đứtBỏ dục lạc tầm thườngLìa lợi danh nhỏ bé."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 346)Tích Pháp Cú: Lần đó ở thành Xá Vệ thì vua Ba Tư Nặc bắt được 30 tên cướp của giết người.

Vì 30 tên cướp này võ nghệ cao siêu nên dây trói thường không thể trói buộc được chúng.

Vua Ba Tư Nặc phải dùng dây sắt và kỹ thuật trói tinh vi để trói cứng bọn chúng lại.Khi 30 tên cướp đó bị giải đi trên phố thì các Tỳ kheo mới thấy cách trói kỹ thuật cao của vua Ba Tư Nặc.

30 tên đó bị trói cứng, đan chéo bằng dây sắt mà nhìn là thấy không thể nào thoát được.

Các Tỳ kheo mới trầm trồ khen: "Trói thế này thì chẳng thể gỡ, chẳng thể cắt và chẳng thể thoát".Đến chiều sau khi thọ thực xong, nghỉ trưa, ngồi thiền thì các Tỳ kheo tụ hội với nhau tại pháp đường.

Ở Tinh Xá Kỳ Viên có 1 pháp đường rất lớn.

Tới chiều là các Tỳ kheo tụ hội tại đó có cả gia chủ cư sỹ đến đó.

Rồi Đức Phật sẽ tùy theo duyên và tâm ý mọi người mà nói pháp.

Có khi Phật giảng một bài pháp dài thì ghi vào kinh.

Có khi Phật chỉ giảng bài pháp ngắn hay chỉ đọc bài kệ.Rồi các Tỳ kheo mới buôn chuyện về 30 tên cướp bị dây sắt trói bằng kỹ thuật cao không thể gỡ, không thể cắt, không thể thoát.

Đức Phật nhân cơ hội tâm Tỳ kheo đang nhập tâm đến các phương pháp trói buộc thì Phật nói:- Này Tỳ kheo, sợi dây trói buộc đó không thể dai trắc bằng sợi dây trói buộc cuộc đời.Rồi Phật kể câu chuyện:Kiếp xưa có chàng trai có vợ và muốn xuất gia tu theo các tu sỹ trên núi Tuyết Sơn.

Anh ta bèn xin phép vợ thì vợ nói: "Em đã có mang được 2 tháng.

Anh hãy chờ em sinh con xong ổn định thì đi tu".

Chàng trai vì trách nhiệm gia đình nên đồng ý.Khi đứa con sinh ra biết đi thì anh lại xin vợ đi tu.

Vợ lại nói rằng: "Em đã có mang được 2 tháng.

Anh hãy chờ em sinh con xong ổn định thì đi tu".

Rồi chàng ta nghĩ: "Nếu có đứa thứ 2 thì sẽ có đứa thứ 3, rồi 1 mình vợ không nuôi được 3 đứa và ta sẽ phải ở lại".

Thế là chàng ta bỏ trốn vợ đi tu.Vì anh đó đã quyết tâm cắt đứt sợi dây trói buộc cuộc đời nên mới tu hành chứng đạo.Sau đó Phật đọc bài kệ:"Dây thừng hay dây sắtChưa phải là buộc chặtDanh lợi và vợ conMấy người có thể cắt."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 345)"Người trí biết như vậyÁi luyến kéo chúng sinhXuống bùn sâu khó thoátNên gắng công cắt đứtBỏ dục lạc tầm thườngLìa lợi danh nhỏ bé."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 346)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Xuất gia từ bỏ trói buộc cuộc đờiBất kỳ một công việc nào dẫn đến thành công thì đầu tiên phải xuất phát từ "Tâm Ý".

Sau đó mới đến các điều kiện nội lực bản thân và các yếu tố môi trường.

Khổng Tử nói rằng: "Bại thành từ Lực Chí".

Tức thành công hay thất bại là ở Ý chí và Năng lực.Ta xét ví dụ:Ta muốn mua Mỳ tôm về ăn.

Đầu tiên là tâm ta phải khởi ý muốn mua Mỳ tôm.

Nếu tâm ta không khởi ý muốn ăn Mỳ tôm thì sẽ không đi mua.

Vậy yếu tố đầu tiên chính là "Ý muốn".

Nói theo cách triết học là: Ý chí, lý tưởng, tham vọng, ước mơ, hoài bão, khát khao, khát vọng...Sau đó mới xét đến LỰC gồm: nội và ngoại, trong và ngoài, bản thân và môi trường.

Tức là: Ta có tiền không? có đủ sức khỏe đi mua mì tôm không?...

Đó là nội lực bản thân.

Rồi ta phải xét tiếp: Gần nhà ta có cửa hàng bán không?

Có bán đúng loại ta thèm không?

Giờ này họ mở cửa chưa?...

Đó là ngoại lực môi trường.

Khi Ý muốn và Năng lực có đủ thì sẽ thành công.

Nếu thiếu 1 trong 2 thì thất bại.Vậy để xuất gia tu hành thì đầu tiên trong tâm phải khởi "Ý muốn tu hành mãnh liệt".

Giống Thái Tử Tất Đạt Đa trong cung vàng điện ngọc, chuẩn bị lên làm vua, có vợ đẹp con thơ... vậy mà Ngài bỏ hết để xuất gia đi tu bởi "Ý muốn xuất gia tu hành mãnh liệt có trong tâm Ngài".Sau đó thì môi trường đó có nhiều người tu hành không?

Hay như ở Tây Âu thời Đức Phật chẳng ai biết tu hành là gì, thiền định là gì?

Và thật may mắn là môi trường xã hội Ấn Độ thời đó thì các pháp tu hành thiền như "Trăm hoa đua nở".

Đó là Ngoại Lực.

Rồi năng lực tự thân Thái Tử thế nào?

Phúc ra sao?

Duyên số thế nào?

Đó là Nội Lực.Cũng vậy, chàng trai trong chuyện Phật kể có ý muốn xuất gia tu hành mãnh liệt.

Môi trường là ở núi Tuyết Sơn có nhiều tu sỹ.

Vì có đủ 2 yếu tố đó nên chàng quyết tâm dứt bỏ gia đình đi tu.

Còn chứng đạo hay không phải xét thêm phúc duyên của chàng.

Nếu phúc chàng lớn và có duyên gặp được Chánh pháp thì tu đắc đạo.

Nếu phúc bé hoặc không có duyên gặp Chánh pháp thì không chứng.Bài học 2: Danh lợi và vợ con cột chặt ta với đờiMọi loài vật trong đó có con người đều có bản năng sinh tồn và duy trì nòi giống.

Bản năng duy trì nòi giống ở loài vật là tình dục và sinh con nuôi con.

Đến khi con non trưởng thành thì rời bỏ cha mẹ tự lập.

Con người ta vì đạo đức, vì gia giáo lễ nghi, vì pháp luật đã không cho phép tình dục bừa bãi.

Vậy nên bản năng duy trì nòi giống của con người chính là có gia đình vợ con.Bản năng sinh tồn của loài vật là: ăn, ngủ, bài tiết.

Con người thì là ăn, ở, mặc quần áo và sở hữu các món đồ vật lợi ích cuộc sống.

Con vật thì có bản năng muốn thống lĩnh vùng đất làm chúa tể bầy đàn.

Còn con người có bản năng ham muốn danh tiếng, quyền lực, được trọng vọng.

Đó là bản năng sinh tồn.Vậy tức là con người ta đam mê danh lợi và vợ con bản chất là bản năng sinh tồn và duy trì nòi giống của loài vật.

Mà những gì thuộc về bản năng thì vô cùng bền chặt, kiên cố, khó dứt.

Vậy nếu ai trong tâm tự khởi Ý muốn tu hành, từ bỏ thế tục, từ bỏ danh lợi vợ con để đi tu thì đó là tâm Thánh.

Tâm đó hoàn toàn thoát khỏi bản năng sinh tồn và duy trì nòi giống ở các loài động vật và con người.Thế nên từ bỏ thế tục, danh lợi, vợ con đi xuất gia tu hành làm Thánh là khó.

Bởi vì sao?

Bởi đó là cưỡng lại bản năng của muôn loài vật và con người.Đó là vị có Lý tưởng tu hành chân chính.

Tu để đắc đạo giải thoát.

Còn ngày nay có nhiều kẻ "Mượn đạo tạo đời".

Tu để nhận về lợi ích cúng dường.

Tu để có quyền lực lớn và thu hút nhiều tín đồ.

Tu bởi vì ngoài đời bị nghèo khổ đói rách, mồ côi, không nơi nương tựa...

Tu bởi bị thất tình, thất bại, thất bát, thất vọng, thất điên bát đảo...

Những kẻ đó không phải tu hành đúng nghĩa mà Đức Phật dạy.Trường hợp "Tu không đúng nghĩa" ngày nay thì nhiều bởi "Lý tưởng tu hành đắc đạo giải thoát Luân hồi đau khổ chứng đạt Niết Bàn" đã không còn.

Thậm chí người tu mà không biết Niết Bàn là gì?

Thiền định là gì?

Không biết kinh của Đức Phật Thích Ca là gì?

Thậm chí ông Phật mà họ thờ phụng cũng là Phật nào đó chứ không phải Phật Thích Ca.Thời Mạt Pháp nên thành ra như vậy!Bài học 3: Người trí quyết từ bỏ danh lợi ái dụcPhật Thích Ca nói ở Pháp Cú là nói thời mà Chánh Pháp của Đức Phật tồn tại.

Còn thời nay từ bỏ danh lợi ái dục vào đi tu không có thiền định.

Tu chỉ có tụng kinh của vị nào đó chế ra.

Tu là niệm duy nhất 1 danh hiệu Phật nào đó, hay niệm chú bắt ấn.

Tu lập phủ nhẩy đồng.

Tu là làm nghi thức cúng đám ma...

Đó là hành nghề tu sỹ theo nhu cầu thị trường để nhận về bổng lộc danh lợi.

Chứ nào còn mục tiêu tu chứng thánh quả giải thoát.

Vậy nên tu ngày nay có khi không phải từ bỏ danh lợi ái dục, mà ngược lại.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 347: Truyện hoàng hậu Khê Ma


"Người đắm say ái dụcNhư ruồi sa lưới nhệnNgười trí cắt trừ nóThoát đau khổ buộc ràng."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 347)Tích Pháp Cú: Vua Bình Sa có 5 người vợ trong đó có hoàng hậu tên là Khê Ma.

Bà vô cùng đẹp.

Vua Bình Sa đã chứng Sơ quả Dự Lưu nên ông tin hiểu Chánh pháp của Phật.

Ông khuyến khích vợ con ông đều quy y theo Phật và nghe Phật giảng pháp.Hoàng hậu Khê Ma cũng quy y Phật nhưng bà không mấy thích Phật.

Bởi Đức Phật hay giảng pháp: "Thân này là bất tịnh, chỉ là túi da bên trong chứa đựng thịt xương, gân cơ, máu mủ, đờm rãi, phủ tạng, ruột rà... và cả đồ tiêu tiểu chưa kịp bài tiết.

Rồi thân này là vô thường.

Lúc này có thể xinh đẹp và rồi nó rẽ già nua xấu xí.

Tóc sẽ rụng.

Da sẽ nhăn.

Lưng sẽ còng.

Mắt sẽ mờ.

Răng chẳng còn cái nào.

Tai thì điếc.

Đi thì không vững...".Nhưng hoàng hậu vô cùng yêu quý tấm thân nhan sắc xinh đẹp của bà.

Bà rất sợ ai nói về tương lai sẽ già xấu.

Nên bà không thích nghe pháp của Phật.Vua Bình Sa mới thấy lạ.

Hoàng hậu mà vua yêu quý mỗi khi bảo đi cùng vua đến thăm Phật thì lại lấy lý do này lý do khác không đi.

Còn 4 bà khác thì nhiệt tình đi cùng vua.

Rồi vua nghĩ ra một kế.

Vua đặt hàng nhạc sỹ sáng tác bài hát ca ngợi khu rừng Trúc linh liêng huyền ảo và xinh đẹp, ánh chiều tà chiếu qua lá cây, màn sương ẩn hiện kỳ vỹ...Hoàng hậu Khê Ma nghe thấy bài hát đó rất hay mà không biết đó là khu rừng trúc nào.

Bà mới hỏi vua.

Vua biết Hoàng hậu đã mắc mưu bèn bí ẩn nói rằng:- Này hoàng hậu, mai ta sẽ đưa hậu đến đó.Hôm sau vua Bình Sa cùng hoàng hậu Khê Ma lên xe ngựa đến Trúc Lâm Tinh Xá.

Khi đến cổng Tinh Xá thì bà mới biết đó là Tinh Xá của Thế Tôn.

Bà đành đi cùng vua vào đảnh lễ Phật.

Sau đó Phật thuyết pháp cho vua và mọi người nghe.Khi mọi người chăm chú nghe Phật giảng pháp thì tự dưng bên cạnh Phật có cô gái đẹp gấp bội lần bà Khê Ma đứng hầu.

Cô đó do thần thông của Phật hiện ra nên chỉ có bà Khê Ma nhìn thấy.

Hoàng hậu không nghe pháp mà chỉ chăm chăm ngắm cô gái đẹp như tiên nữ đó.

Bởi con gái đẹp mà thấy ai đẹp hơn mình thì vẫn thích ngắm.

Đó là bản năng.Và rồi từ từ cô gái đẹp như tiên nữ đó bắt đầu già dần, già dần, da nhăn nheo dần dần, tóc bạc, mắt mờ, răng rụng, lưng còng như cái mái nhà...

Rồi cô đó gục xuống chết.

Thân từ từ mục rũa chỉ còn bộ xương trắng.

Sau thì bộ xương cũng mục thành bụi gió thổi bay đi.

Hoàng hậu Khê Ma chăm chú nhìn mà bừng tỉnh.

Lúc đó thì Phật quay về phía bà Khê Ma nói:"Này Khê Ma thấy chăngThân tứ đại giã tạmĐầy bệnh hoạn khổ đauĐồ bất tịnh dơ xấuTừng phút giây bài tiếtNhững cặn bã tanh hôiChỉ những kẻ ngu siMới đắm say thứ ấy."

Ngay lúc đó hoàng hậu Khê Ma chứng Sơ quả Dự Lưu.

Sau đó Phật giảng cho bà bài pháp về ái dục, sắc thân, tham đắm thế gian.

Sau đó Phật đọc bài kệ:"Người đắm say ái dụcNhư ruồi sa lưới nhệnNgười trí cắt trừ nóThoát đau khổ buộc ràng."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 347)Ngay khi Phật nói xong bài kệ thì hoàng hậu Khê Ma chứng A-la-hán.

Sau đó Đức Phật quay sang nói với vua Bình Sa:- Này Đại Vương, hoàng hậu Khê Ma đã chứng A-la-hán và chỉ có 2 con đường lựa chọn.

Hoặc sẽ nhập Niết Bàn ngay tại đây.

Hoặc sẽ xuất gia sống trong Ni Chúng.Vua Bình Sa thấy bảo vợ yêu có 2 lựa chọn: "Hoặc là chết hoặc là đi tu".

Vua lập tức chọn đi tu.

Và từ đây trong Ni Chúng có vị Trưởng lão A-la-hán vĩ đại.

Ta biết Đệ Nhất Sơ tổ Ni đoàn là bà Kiều Đàm Di là dì mẫu của Phật.

Sau khi bà nhập Niết Bàn thì Đệ Nhị Sơ Tổ Ni đoàn là Trưởng lão Khê Ma này.

"Vị Trưởng lão ni đắc đạo A-la-hán chỉ 1 lần nghe pháp của Phật mà không giây phút ngồi thiền".

Đó là 2 vị sơ tổ vĩ đại của Ni đoàn Phật giáo.Các Tỳ kheo mới ngạc nhiên hỏi Phật:- Bạch Thế Tôn, vì nhân duyên gì mà hoàng hậu Khê Ma lại đắc đạo dù không ngồi thiền?Đức Phật mới kể lại kiếp xưa thời Đức Phật Pa-đu-pu-ta-ra (Trước cả Phật Tỳ Bà Thi cách đây 91 đại kiếp).

Khi đó bà đã phụng sự cúng dường Đức Phật và hộ trì Chánh pháp của Phật tạo công đức vĩ đại.

Nhưng thời đó bà không có duyên đắc đạo nên không chứng đắc.Sau đó thời gian đã trải qua rất lâu (hơn 91 lần thế gian này sinh diệt) và đi qua rất nhiều đời Đức Phật.

Ở kiếp sống nào thì bà cũng vô cùng xinh đẹp và tham đắm ái luyến sắc đẹp đó nên không thể giải thoát.

Đến nay chỉ sau 1 bài pháp của Như Lai thì bà bừng tỉnh giác ngộ mà đắc quả Vô thượng Bồ đề trong tích tắc.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Tâm chấp thân và ái luyến thânHoàng hậu Khê Ma vô cùng xinh đẹp và quyền uy.

Rồi bà chấp cái thân xinh đẹp của bà.

Bà yêu quý nó, tôn thờ nó, tự hào về nó.

Bà rất sợ nghe ai nói về "già xấu".

Nên nhiều lần bà nghe Phật vào cung giảng pháp nói về bản chất thân: Sinh - Già - Bệnh - Chết thì bà không dám nghe vì sợ.

Nên bà hay tìm cách né tránh Đức Phật vì sợ nghe pháp đó.Đức Phật biết rõ tâm đó của bà nên Phật không giảng pháp bằng lời.

Bởi nếu nói pháp thì bà sẽ không nghe.

Nên Đức Phật bèn hiện thần thông một cô gái đẹp như tiên nữ, đẹp gấp bội lần hoàng hậu đứng hầu bên Phật.

Vì bản tính chấp thân và yêu sắc đẹp nên khi thấy cô gái đẹp hơn mình thì bà ngắm nghía mê mệt.Chính ngay trong lúc tâm bà đang mê mệt ngắm cô gái thì cô ta từ từ già đi và xấu xí rồi chết gục.

Thân chỉ còn bộ xương rồi xương cũng mục tan bay theo gió.

Bà hoàng hậu bừng tỉnh.

Rồi Phật mới nói bài kệ về đạo lý thì bà chứng Sơ quả Dựu Lưu.

Đến khi Phật giảng sâu thêm về pháp sắc thân, tâm luyến ái và đọc bài kệ Pháp Cú thì bà chứng A-la-hán.Và đây là một thủ thuật "Đốn ngộ".

Khi ai chấp cái gì, yêu cái gì, mê mệt cái gì thì đầu tiên là phải tùy thuận theo tâm lý đó để dẫn dụ họ.

Sau đó ta sẽ dẫn người đó đến cái khổ ở tương lai do tâm lý sai lầm đó mang đến.

Khi họ thấy ra sự thật chân lý thì bừng tỉnh mà giác ngộ.

Lý thuyết thì là vậy.Bài học 2: Bản Kinh quán thân chứng A-la-hánCác vị tu thiền trong đạo Phật hay đề cao kinh Tứ Niệm Xứ là 4 nơi an trú của niệm trong thiền: Quán thân - Quán thọ - Quán tâm - Quán pháp.

Cụ thể là: "Quán thân Vô thường - Quán thọ Khổ - Quán tâm tham, sân, si - Quán pháp Vô ngã".

Trong đó Vô thường - Khổ - Vô ngã là Tam Pháp Ấn Phật giáo.

Còn tham sân si là bản chất tâm của mọi chúng sinh trong Luân hồi cần phải diệt trừ để chứng thánh.Tứ Niệm Xứ là một bản kinh vĩ đại mà cuối kinh thì Phật ấn chứng: "Vị nào tu theo Tứ Niệm xứ mà đủ phúc thì chứng A-la-hán trong 7 ngày thiền định".Nhưng có 1 bản kinh thấp hơn Tứ Niệm Xứ mà mọi người ít để ý.

Đó là Kinh Thân Hành Niệm.

Cuối kinh đó thì Phật ấn chứng ai tu theo sẽ chứng được 10 món báu: "1- Luôn hạnh phúc.

2- Không sợ hãi.

3- Luôn kham nhẫn.

4- Chứng Tứ Thiền.

5- Chứng Thần túc thông.

6- Chứng Tha tâm thông.

7- Chứng Thiên nhĩ thông.

8- Chứng Thiên nhãn minh.

9- Chứng Túc mạng minh.

10- Chứng Lậu tận minh."

Vậy không cần tu Tứ Niệm Xứ cao siêu.

Ta chỉ cần tu quán thân trong "Thân hành niệm" là đủ chứng Lục thông A-la-hán.

Vậy Kinh này thì Phật dạy gì?Đầu tiên là quán 3 hơi thở.

Sau đó là quán Chánh niệm mọi lúc mọi nơi: Đi đứng nằm ngồi, ăn uống nói cười đều phải giữ Chánh niệm trong tâm biết mọi ý nghĩ, hành động và lời nói của ta.Sau đó là quán thân bất tịnh: "Thân là túi da, bên trong chứa đựng ruột rà, thịt xương, gân cơ, máu mủ, đờm rãi, phủ tạng... và các đồ tiêu tiểu chưa bài tiết".Kế đó là quán thân Tứ Đại: "Thân này được hợp lại từ Đất, Nước, Gió, Lửa.

Xương, móng, lông, da này là đất.

Thịt, gân, máu mủ, đờm rãi, phủ trạng này là nước.

Hơi thở này là gió, Hơi nóng này là lửa".Cuối cùng là quán tử thi: "Thân này sẽ già đi xấu xí, ốm yếu và chết thảm thương.

Thân sẽ trương sình, thối rữa, mục rã, tan biến, chỉ còn bộ xương.

Lâu rồi thì xương cũng mục mà tan biến thành cát bụi".Cứ quán như vậy thì Tỳ kheo sẽ chứng thiền định cao dần.

Đích cuối cùng là đạt Lục Thông A-la-hán.

Và các lời pháp mà Phật giảng cho hoàng hậu Khê Ma đó chính là Kinh Thân Hành Niệm rút gọn.Bài học 3: Hai vị phúc lớn đi qua nhiều đời Đức Phật mà không đắc đạoTa còn nhớ Pháp Cú 142 có viên quan của vua Ba Tư Nặc tên là San-ta-ti.

Ông ta đó có cô người yêu mà ông vô cùng yêu quý bị chết.

Ông mang cô đó đến xin Phật cứu thì Đức Phật nói:- Này ông, bao nhiêu kiếp sống đã qua ông đã khóc cho người con gái này nước mắt nhiều như nước Đại Dương.Ông ta mới ngạc nhiên tột độ.

Đức Phật bèn đọc bài kệ thì ông chứng A-la-hán ngay tức thì.

Ông bèn xin phép Phật nhập Niết Bàn ngay tại đó.

Phật bèn bảo ông hãy nói pháp cho dân chúng nghe.Ông dùng thần thông bay lên giữa hư không kể về quá khứ: "91 đại kiếp xưa thời Phật Tỳ Bà Thi thì ông là một vị Pháp Sư thuyết giảng chánh pháp của Phật.

Ông giảng pháp suốt 80.000 năm tới mức miệng của ông tỏa hương sen, thân của ông tỏa mùi trầm.Sau kiếp đó thì ông chết mà không chứng A-la-hán.

Từ đó đến nay thế gian đã trải qua 91 lần sinh diệt và ông ái dục yêu mến cô gái.

Nước mắt ông đã khóc cho cô nhiều như nước đại dương.

Đến nay được Phật Thích Ca giáo hóa thì bừng tỉnh giác ngộ đắc A-la-hán tức thì mà không giây phút ngồi thiền".Kể xong thì ông nhập Niết Bàn ngay giữa không trung.

Thân ông biến thành Xá Lợi rơi xuống trắng như hoa Lài.

Và ở đây ta lại thấy trường hợp hoàng hậu Khê Ma vì chấp thân và nhan sắc của bà.

Nên dù phúc lớn mà qua rất nhiều đời Đức Phật không đắc đạo.

Đến khi gặp Phật thì Phật thuyết pháp chứng A-la-hán tức thì mà không giây phút ngồi thiền.Thế ta mới thấy tâm tham ái dục, luyến ái yêu thương ai đó, hoặc yêu thương chính bản thân họ sẽ kéo họ mãi mãi trong Luân hồi.

Cho dù vị đó có đủ phúc lớn vĩ đại, có đủ duyên được gặp Chánh pháp của Phật.

Mà vẫn còn ái dục luyến ái thì chẳng tu.

Nếu vị đó dứt ái dục thì chứng thánh tức thì.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 348: Truyện nghệ sĩ xiếc U-đa-rê-la


"Bỏ hết dòng thời gianĐến bờ bến bên kiaTâm giải thoát tất cảChẳng vướng bởi sinh già."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 348)Tích Pháp Cú: Có chàng tên là U-đa-rê-la, con của chủ ngân hàng thành Vương Xá.

Anh cũng biết đến đạo Phật và hay cúng dường các Tỳ kheo.

Nhưng vì gia đình không quy y Đức Phật mà chỉ thấy vua Bình Sa theo thì cũng chú ý nên biết đạo Phật mà thôi.Hàng năm đến thời gian thích hợp hoặc theo lịch sẽ có 1 đoàn xiếc đi đến thành Vương Xá biểu diển cho vua xem.

Đoàn xiếc đó biểu diễn rất tài hoa nghệ thuật.

Trong đoàn có một cô gái biểu diễn xiếc xinh đẹp.

Và chàng U-đa-rê-la đi xem xiếc thì si mê cô gái.

Rồi chàng đó về nhà ốm tương tư.

Cha mẹ gặng hỏi mãi mới hay là do mê cô gái gánh xiếc.Cha mẹ chiều lòng con trai bèn chạy đến bàn chuyện hỏi cưới cô gái đó cho con trai dù không "môn đăng hộ đối" lắm.

Nhưng đoàn xiếc đó có truyền thống là nếu ai đó trong đoàn lấy chồng hoặc vợ thì phải dẫn chồng hoặc vợ đi theo đoàn đó lưu diễn.

Gia đình ông chủ ngân hàng không đồng ý.

Thế là đến đêm U-đa-rê-la bỏ nhà đi theo cô gái và đoàn xiếc sang vùng khác.Rồi thời gian trôi qua cô vợ là "nghệ sỹ chủ chốt" trong đoàn.

Cô vừa xinh đẹp dễ mến, vừa đa tài biểu diễn giỏi.

Còn chồng đi theo thì làm các việc vặt giống như người hầu hay tôi tớ cho đoàn xiếc.

Thế là cô vợ bắt đầu có tâm khinh thường anh chồng.

Khi cô ta ôm con nựng con thì hay nói: "Con là đứa con của người dắt ngựa.

Con là đứa con của người nấu cơm giặt đồ, con của người vô tích sự..."

Ông chồng nghe vợ nói vậy thì tự ái dâng cao.

Anh bảo anh cũng có thể tập làm xiếc được.

Thế là anh quyết tâm tập.

Thật ngạc nhiên là anh biểu diễn tài giỏi hơn vợ.

Thường thì nghệ sĩ biểu diễn xiếc bắt buộc phải có năng khiếu và học từ rất nhỏ.

Vậy mà anh đã lớn tuổi, có con mà tập vẫn thành tài.Mấy năm sau đến lịch thì đoàn xiếc của U-đa-rê-la đi về Vương Xá biểu diễn cho vua.

Gia đình chủ ngân hàng đó biết có đoàn xiếc của con trai đến biểu diễn thì đến xem.

Khi biểu diễn đến tiết mục hấp dẫn nhất, hay nhất chính là tiết mục của U-đa-rê-la.

Chàng nhào lộn bay vút lên cao đứng im trên đỉnh ngọn tre cao vút cứ lơ lửng trên đó mà không rơi.

Khán giả đang hoan hô khen ngợi thì bỗng dưng Đức Phật xuất hiện.Ngay khi Phật xuất hiện thì mọi người bỏ tiết mục của U-đa-rê-la không xem mà quay sang lễ Phật.

U-đa-rê-la đang lúc hứng khởi vì đây là tiết mục hay nhất mà anh tâm đắc thì không ai xem.

Tâm anh trùng xuống và thoáng ghen tị với Phật.

Đức Phật biết vậy bèn bảo Tôn giả Mục Kiền Liên đến nói với U-đa-rê-la:- Này U-đa-rê-la, hãy biểu diễn cho Thế Tôn xem.U-đa-rê-la đang có tâm lý thất vọng vì không ai thèm xem chàng biểu diễn.

Thì nay chính Đức Phật lại muốn xem anh biểu diễn, rồi mọi người đều quay lại mọi ánh mắt đều đổ dồn vào anh thì tâm anh vỡ òa hạnh phúc.

Ngay trong lúc tâm anh vỡ òa ra đó thì Phật đọc bài kệ:"Bỏ hết dòng thời gianĐến bờ bến bên kiaTâm giải thoát tất cảChẳng vướng bởi sinh già."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 348)Ngay lúc Phật đọc xong bài kệ thì U-đa-rê-la chứng A-la-hán.

Anh bèn dùng thần thông bay từ ngọn tre xuống trước mặt Đức Phật quỳ lạy xin quy y Phật và xin xuất gia.

Sau đó các Tỳ kheo mới thắc mắc hỏi Phật:- Bạch Thế Tôn, vì sao U-đa-rê-la bỏ nhà theo cô gái diễn viên xiếc, có con, tự học nghề xiếc, biểu diễn đứng trên ngọn tre, nghe 4 câu kệ của Thế Tôn thì lập tức chứng A-la-hán dù không ngồi thiền?Đức Phật mới kể lại chuyện kiếp xưa.

Vào thời Phật Ca Diếp thì 2 người này cũng là 2 vợ chồng.

Vợ chồng đó đã cúng dường Phật và Chư tăng viên mãn.

Đến khi Phật nhập Niết Bàn thì mọi người góp công sức để xây tháp thờ Xá Lợi Phật.

Vợ chồng cũng góp rất nhiều tài sản và công sức để cùng xây tháp.

Sau khi tháp xây xong thì 2 người đứng ngắm cái tháp.Bất chợt có một vị A-la-hán đi qua.

Hai vợ chồng đó bèn quỳ xuống cúng dường vị A-la-hán tấm vải đẹp làm y phục.

Vị đó chấp nhận sự cúng dường.

Vợ chồng đó mới phát nguyện: "Chúng con xin nguyện tham dự vào quả vị của ngài".

Vợ chồng đó phát nguyện vậy vì thấy uy đức thần thái tác phong vị thầy tu đó đẹp quá.

Vợ chồng đó không biết đó là một vị A-la-hán.Vị A-la-hán đó thấy vợ chồng phát nguyện vậy bèn Định Tâm nhìn vào tương lai xem 2 người có thành đạo quả hay không.

Vị đó thấy đạo quả sẽ thành ở một đời Đức Phật kế tiếp.

Vị A-la-hán đó mỉm cười hoan hỉ.Không ngờ nụ cười của vị đó đẹp rạng ngời khiến cô vợ động tâm nói rằng: "Trời ngài đẹp như minh tinh tài tử".

Ông chồng cũng hùa theo vợ: "Đúng thật, ngài đẹp như một diễn viên".

Chỉ vì giây phút động tâm đó nên nhiều kiếp sau thì 2 vợ chồng cứ theo nghiệp biểu diễn xiếc để cho khán giả hâm mộ hoan hô khen tặng.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Tình yêu duyên nợCon trai một chủ ngân hàng ở thành Vương Xá với sự giàu có mà mê một cô gái gánh xiếc đi lang thang kiếm sống.

Chàng mê đến mức ốm tương tư nàng.

Rồi lấy vợ xong thì chồng phải đi theo gánh xiếc phiêu bạt thì chàng cũng đồng ý.

Chàng bỏ tất cả gia tài và sự giàu có để đi theo "Tiếng gọi trái tim".Đó chính là tình yêu luyến ái và duyên nợ.

Thậm chí hi sinh như vậy để lấy được người yêu sau đó phải làm các việc vặt như nuôi ngựa, chăm con, nấu cơm, giặt quần áo... chàng cũng làm.

Đó đúng thật là hi sinh vì tình yêu: "Bỏ tất cả tài sản và sự giàu có để đi theo tiếng gọi trái tim chấp nhận làm những việc của một người hầu".Oái ăm thay, cô vợ lại tỏ ý khinh chồng rồi.

Cô dạy con kiểu "khích bác đá xoáy".

Bực mình chàng lao vào thử sức bộ môn nghệ thuật khó khăn là "biểu diễn xiếc".

Nhưng bằng sự thần kỳ nào đó chàng lại thành tài và thiện xảo.

Đó là nhờ nghị lực, tài năng, phúc báu hội tụ đầy đủ trong chàng.Tôi hay nói rằng "Tình yêu nam nữ vợ chồng có 2 thứ tình đan xen: Bản năng tình dục để sinh con duy trì nòi giống và Tình yêu của sự hi sinh".

Nếu vợ chồng đến với nhau bởi tình dục thì qua 1 đêm là bắt đầu chán, qua nhiều đêm là ngấy, cứ tiếp vậy qua 1 năm là bỏ nhau.

Bởi những kẻ đến với nhau bởi tình dục thì trong mắt họ mọi cô gái đều "mỡ màng ngọt thịt thơm da".

Nay họ bị bắt phải ăn 1 món ngày này qua tháng khác, năm này qua năm khác sẽ không ai chịu nổi.

Dù món ăn đó có ngon như "Phở Việt Nam".Vợ chồng gắn bó với nhau, hi sinh vì nhau, từ bỏ tài sản và sự giàu có để đến với nhau, chấp nhận làm những việc của người hầu...

Đó chỉ có thể là Tình yêu của sự hi sinh đích thực vì duyên nợ tạo thành.Bài học 2: Tâm lý khinh chồngChồng hi sinh nhiều như vậy mà cô vợ vẫn khinh chồng.

Đó là tâm lý bình thường.

Tình yêu trong lòng cô vẫn còn nhưng chồng bất tài vô dụng là một sự thật.

Cô là người có tình cảm và lý tính đầy đủ.Nếu cô bỏ qua lý tính chỉ có tình cảm thì chồng vô dụng, hèn hạ mà cô vẫn thấy chồng tài giỏi, cao sang.

Nếu cô sống bằng lý tính bỏ qua tình cảm thì cô sẽ chửi mắng chồng hay đối xử tệ bạc với chồng.

Đây cô vợ vẫn yêu chồng nhưng vẫn thấy chồng là vô dụng.Cô không chửi mắng hành hạ hay đối xử tệ bạc với chồng mà chỉ hát vu vơ, nựng con kiểu "nói bóng nói gió đá xéo chồng".

Chính cách đó đã đánh động vào lòng tự ái của chàng.

Chàng ta quyết chí luyện tập thành tài nghề diễn xiếc.Vậy ta hãy nên làm như cô vợ đó.

Nếu ta yêu chồng mà thấy chồng kém tài, lười biếng, thiếu ý chí.

Ta không nên chửi mắng thậm tệ hay hành hạ chồng.

Ta cứ "nói bóng nói gió" hát câu hát vu vơ mang nhiều hàm ý để chồng tự hiểu ra mà thay đổi.

Đó mới là yêu chồng một cách có trí tuệ.

Còn yêu chồng mà thấy chồng bất tài, lười biếng, thiếu ý chí vẫn khen chồng đó là đang hại chồng.Bài học 3: Cú sốc tinh thần dẫn đến chứng đạo Ta nghiên cứu đến Pháp Cú này đã thấy rất nhiều ví dụ về "Cú sốc tinh thần dẫn đến chứng đạo".Ví dụ: Tên cướp An-gu-li-ma-la ngạc nhiên tột độ vì với võ nghệ của hắn thì con hươu, con nai đang chạy mà hắn chỉ búng chân là bắt được.

Thế mà hắn mở hết tốc lực cũng không thể đuổi kịp vị Sa Môn đang đi từ từ trước mặt.Hắn mệt quá thì dừng lại mà hét lên: "Sa Môn hãy dừng lại".

Nhưng vị đó vẫn đi mà nói: "Ta dừng từ lâu rồi, sau ngươi chưa dừng?"

Hắn lại ngạc nhiên và khởi khắc mắc khó hiểu.

Bởi Sa Môn thì không bao giờ nói dối.

Vậy sao khi hắn dừng mà vị đó bảo "Sao chưa dừng?".

Còn vị đó đang đi thì lại nói: "Ta dừng lại từ lâu rồi".Hắn bèn hỏi vị đó và vị đó nói rằng: "Ta đã dừng lại việc sát sinh từ rất lâu rồi mà sao ngươi chưa dừng lại đôi bàn tay đẫm máu".

Hắn ta bừng tỉnh mà giác ngộ.

Hắn quỳ xuống xin quy y Phật.Đó là ví dụ ở Pháp Cú 173: Truyện tên cướp An-gu-li-ma-la.Còn Pháp Cú này thì chàng U-đa-rê-la đang lúc hứng khởi muốn biểu diễn tiết mục tâm đắc cho cả thành Vương Xá quê hương chàng xem thì tự dưng Phật xuất hiện.

Thế là mọi người không xem mà quay sang lễ Phật.

Tâm chàng hụt hẫng, thất vọng, buồn rầu.

Thì Phật lại bảo "Hãy biểu diễn cho Thế Tôn xem".

Và mọi người lại hướng mọi ánh mắt về chàng để chờ đợi.Chàng ta quá hạnh phúc bởi Đức Thế Tôn là người mà chàng tôn kính, cùng toàn dân thành Vương Xá quê hương đều đang chờ đợi tiết mục của chàng.

Tâm lý đó chính là cú sốc tinh thần khi chuyển từ trạng thái hụt hẫng thất vọng sang hạnh phúc tột độ.

Ngay lúc đó Phật đọc bài kệ thì chàng chứng A-la-hán ngay và luôn.Nhưng thủ pháp về "Cú sốc tinh thần" chỉ là Duyên mà thôi.

Nguyên nhân sâu xa là từ thời Phật Ca Diếp thì chàng đã cúng dường Đức Phật công đức viên mãn.

Rồi chàng góp tiền của sức lực vào xây tháp thờ Xá Lợi Phật cũng là công đức vĩ đại.Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là "Khi vợ chồng chàng cúng dường y áo cho vị A-la-hán đã phát nguyện được dự vào quả vị mà vị đó chứng".

Đó là Nguyên Nhân quan trọng nhất.

Đến nay Nhân hội tụ với Duyên mà thành quả báo.

Chàng chứng A-la-hán trong tích tắc mà không giây phút ngồi thiền.Bài học 4: Lời phát nguyện Khi vợ chồng cúng dường vị A-la-hán y áo thì đã phát nguyện: "Xin cho con được dự vào quả vị mà Ngài đã chứng".

Chính "Lời phát nguyện" này tạo thành một Ý Chí xác định đích đến ở tương lai.

Ta biết để một việc thành công thì cần 3 yếu tố: Ý chí - Phúc - Duyên."

Lời phát nguyện" đó chính là ý chí đích đến là quan trọng nhất.

Nhưng đích đến đó thành công thì cần có phúc và duyên.

Phúc của chàng rất lớn vì đã cúng dường Phật Ca Diếp và Chư tăng viên mãn.

Rồi chàng còn xây tháp thờ Xá Lợi Phật.

Đến đời này thì phúc vẫn rất lớn khiến chàng sinh ra ở gia đình chủ ngân hàng.

Rồi cũng vì phúc lớn nên vợ khích bác thì chàng tập luyện là thành tài môn diễn xiếc.Nhưng "Vạn hữu do duyên sinh".

Dù ý chí mạnh mẽ mãnh liệt, phúc to lớn vĩ đại mà không có duyên thì quả báo không tới.

Ví như Thái Tử Tất Đạt Đa có ý chí tu hành đắc đạo mãnh liệt.

Phúc của Thái Tử là vĩ đại.

Mà không có duyên tìm được Chánh pháp thì Ngài tu vẫn thất bại.

Còn khi có duyên là tìm đúng con đường Chánh pháp thì Ngài tu 49 ngày là thành Phật Thích Ca.Và "Cú sốc tinh thần cùng bài kệ Pháp Cú" của Phật đó chính là Duyên.

Khi có đủ duyên thì chàng chứng A-la-hán tức mà không cần ngồi thiền.

Vậy ta hãy ghi nhớ: Để thành công thì cần 3 yếu tố: "Ý chí - Phúc - Duyên".

Và duyên lớn nhất là "Duyên Thiên Thời".Văn hóa Trung Hoa thường hay ca ngợi: Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa.

Nhân Hòa là kẻ đó có ý chí, nghị lực, quyết tâm làm điều lành thiện.

Thiên Thời là thời cơ tới, cơ hội tới hay Duyên đúng lúc đến thời kéo tới.

Địa lợi là Phúc lành tích tụ: Vị đó sinh ra đã là Thái tử hay con chủ ngân hàng, tài giỏi, trí tuệ, thông minh, cha mẹ, họ hàng hỗ trợ.

Vậy ta thấy triết học Trung Hoa hay Triết học Phật giáo Ấn Độ có sự tương đồng rất lớn.Bài học 5: Khen chê vị thánh Ta khen chê người thường thì cũng tạo nghiệp nhưng nhỏ bé.

Bởi người thường thì phúc ít nên nghiệp ta gây ra là nhỏ.

Tuy nhiên kẻ cả đời khen chê thì quả báo cuối đời cũng là phúc lớn hay khổ lớn.Còn nếu là Thiện nghiệp như vợ chồng tán thán một vị A-la-hán: "Ngài thật là đẹp như diễn viên tài tử".

Thế là nghiệp kéo họ đi trong vô số kiếp từ thời Phật Ca Diếp đến thời Phật Thích Ca đều làm nghề "Tài tử nghệ sĩ biểu diễn làm dân chúng hâm mộ".
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 349,350: Truyện Tỳ kheo "say nắng"


"Niệm xấu làm láo loạnLạc thú làm say mêDây tham ái bền chắcCàng thít càng buộc sâu."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 349)"Người an tịnh nội tâmThường niệm quán bất tịnh Người ấy sẽ diệt áiCắt dây Ma trói buộc."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 350)Tích Pháp Cú: Có vị Tỳ kheo đi khất thực.

Lần đó vị đó đến khất thực nhà một cô gái.

Cô đó cúng đồ ăn cho Tỳ kheo xong thì nói rằng:- Thôi lần sau Thầy không phải đi đâu.

Thầy cứ đi thẳng từ Tinh xá đến đây.

Thầy cần gì con sẽ cúng.Tỳ kheo đó nghe vậy thấy hợp lý.

Mọi lần toàn phải đi từng nhà khất thực vất vả.

Nay cứ đi thẳng từ Tinh xá đến nhà cô gái đó là có đồ ăn.

Nhận đồ ăn xong thì Tỳ kheo ngồi ở đó nói chuyện với cô một lúc mới về.

Bởi các Tỳ kheo khác đi khất thực lòng vòng mất nhiều thời gian.

Nên ông ta có nhiều thời gian rảnh khi đợi mọi người cùng về."

Lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy".

Tuy nhiên lúc này thì chưa "cháy" mà chỉ chuẩn bị cháy.

Ông Tỳ kheo đó khi về Tinh xá thì như bị thất thần, ngẩn ngơ, không ngồi thiền, tụng kinh, nghe pháp được.

Các Tỳ kheo khác mới hỏi sự tình:- Huynh đệ sao dạo này cứ ngẩn ngơ như người mất hồn vậy?Vị đó mới nói sự thật.

Bởi Tỳ kheo thì không nói dối.

Vị đó nói là nhớ cô nữ thí chủ hay cúng dường.

Thế là các Tỳ kheo khác hoảng sợ chạy lên báo cho vị Trưởng lão bổn sư của họ.

Rồi Trưởng lão đó mới dắt Tỳ kheo đó lên gặp Phật và trình bày sự tình.

Phật mới nói với Tỳ kheo trẻ đó rằng:- Này Tỳ kheo, cô gái cúng thí thực cho con đó là người vợ phản bội con ở kiếp trước.

Khi đó con là một cung thủ siêu đẳng.

Rồi nước đó có bọn cướp lộng hành vua mới phái con đi đánh cướp vào hang ổ của chúng.

Lần đó vợ con cũng đi theo làm phụ tá.- Khi con dùng cung tên bắn hết toàn bộ bọn cướp thì đến tên thủ lĩnh cuối cùng lại hết tên.

Thế là con và tên thủ lĩnh lao vào đánh nhau.

Hai người ôm ghì nhau rồi thanh gươm văng ra xa.

Con nhờ vợ con lấy thanh gươm đó cho con.- Nhưng trước lúc đó thì vợ con thấy tên tướng cướp đó đẹp trai, nam tính hơn, thì cô "say nắng" mà đem lòng si mê.

Khi vợ con mang thanh gươm đến thì lại đưa vào tay tên cướp.

Tên cướp đó giết chết con và kéo vợ con ra bờ sông.

Hắn lấy hết trang sức trên người vợ con rồi giết vứt xác xuống sông.- Kiếp này 2 người gặp mặt thì lại động tâm luyến ái với nhau bởi khi xưa vẫn còn duyên nợ.Nói xong thì Phật đọc bài kệ:"Niệm xấu làm láo loạnLạc thú làm say mêDây tham ái bền chắcCàng thít càng buộc sâu."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 349)"Người an tịnh nội tâmThường niệm quán bất tịnh Người ấy sẽ diệt áiCắt dây Ma trói buộc."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 350)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Tu hộ trì các căn ngăn ái dụcTrước khi tu hành chứng đạo thì người tu phải tu (1) Giữ giới hạnh cụ túc là giữ 250 giới Tỳ kheo tăng hay 348 giới Tỳ kheo ni. (2) Khéo hộ trì các căn. (3) Ăn uống có tiết độ. (4) Có niềm tin vào Chánh pháp Đức Phật. (5) Tinh cần tu thiền định.(1) Giới luật Phật thì nhiều và chi tiết nhưng không thể bao quát toàn bộ. (2) Tu khéo hộ trì các căn để giữ Lục căn thanh tịnh. (3) Ngoài ra phải tu ăn uống có tiết độ, không ăn sau Ngọ, không ăn quá nhiều thừa chất thành "Ăn no rửng mỡ".(4) Thêm nữa, Tỳ kheo phải có niềm tin vào Chánh Pháp của Phật.

Thời xưa mọi lời Phật nói đều là Chánh Pháp.

Thời nay gọi là Kinh Phật nhưng chẳng phải do Phật thuyết mà ai đó nói ra rồi gán là Kinh Phật.

Nên thời nay tin sâu Kinh Phật tu mãi mà càng tu càng sai bởi Kinh đó không phải Chánh Pháp.(5) Cuối cùng là phải tu thiền.

Cũng giống Chánh Pháp tức là các pháp tu thiền thời nay cũng bị sai nhiều.

Tu mà chẳng có kết quả gì thậm chí tu sai thành bị điên ảo giác.

Có Sư dạy tu thiền: "Hãy tưởng tượng con đang ngồi trên đỉnh núi cao, đang bay trên tầng mây nhìn xuống thế gian..."

Tu thiền ảo vọng này một thời gian là bị ảo giác thành điên.

Thời Mạt Pháp nguy hiểm là vậy.Liên quan mật thiết đến Ái dục của Tỳ kheo là tu "Khéo hộ trì các căn".

Tức là tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý đều thanh tịnh, tránh xa người khác giới.

Trong truyện thì ông Tỳ kheo: Tai nghe tiếng con gái thủ thỉ.

Mắt thấy hình ảnh nữ nhân một mình.

Mũi ngửi hương người khác giới.

Thân thì gần gũi người khác giới.

Ý nghĩ những điều động dục không thanh tịnh.

Từ đó vị đó bị động tâm "say nắng" cô gái.Bài học 2: Người nữ phản bội tình yêuNam giới thì lý trí mạnh nên dù có tình cảm với người khác mà tâm vẫn hướng về gia đình vợ con.

Nên con trai ngoại tình thì gia đình vợ con vẫn quan trọng nhất với ông ta.

Nữ giới thì lý trí yếu nên khi có tình cảm với người khác là họ hành động theo tình cảm không nghĩ về hậu quả.Thế nên cô vợ bị "Say nắng" tên tướng cướp thì phản bội chồng đưa gươm cho tên cướp.

Cô không nghĩ về hậu quả bởi không có lý trí tư duy.

Kết quả là cô bị tên cướp đó giết hại.

Không có não là vậy.Thời nay cũng thế.

Con trai ngoại tình thì lý trí vẫn còn có gia đình vợ con.

Con gái ngoại tình thì người tình là tất cả.

Tâm cô vợ sẽ không còn có chồng con.

Vậy nên con trai ngoại tình còn cứu được.

Con gái đã ngoại tình thì gia đình sẽ tan vỡ.Bài học 3: Niệm xấu, lạc thú, tham áiTỳ kheo đó đầu tiên là có Niệm xấu: "Được cô gái đó cúng dường đỡ phải đi khất thực vất vả".

Sau đó thì xuất hiện Lạc thú: "Có đồ ăn ngon như ý, được tán gái, buôn chuyện".

Rồi sau đó Tham ái xuất hiện là ông tương tư cô gái.

Đó là một chuỗi phản ứng dây truyền của tâm lý.

Nếu đầu tiên Tỳ kheo đó không khởi niệm xấu thích sự lười biếng.

Ông từ chối lời đề nghị của cô gái thì sẽ không bị Lạc thú rồi Tham ái.Bài học 4: Thường niệm quán bất tịnh "Người an tịnh nội tâmThường niệm quán bất tịnh Người ấy sẽ diệt áiCắt dây Ma trói buộc."

Phật dạy rằng muốn diệt ái dục thì phải thường niệm Quán bất tịnh: "Thân này là túi da, bên trong chứa đựng những ruột rà, thịt xương, máu mủ, đờm rãi, não bộ, tin gan, phủ tạng, gân cơ... và cả các thứ đồ tiêu tiểu chưa kịp bài tiết".Đây là một pháp tu để Tỳ kheo diệt ái dục.

Vị đó sẽ cắt đứt dây Ma Tham Ái trói buộc.

Vị đó sẽ tu hành yên ổn mà không bị tâm tham ái, tương tư, "say nắng", thất tình... kéo đến phá tan đời tu hành của Tỳ kheo.

Tỳ kheo nên "Thường niệm quán bất tịnh"
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 351,352: Truyện Ngài La Hầu La


"Tới đích rồi hết sợLy ái hết nhiễm ôNhổ mũi tên sinh tửThân này thân cuối cùng."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 351)"Ly ái chẳng chấp thủKhéo biện tài Pháp CúThấu suốt mọi Vô NgạiĐúng trình tự trước sauThân này thân cuối cùngVị như vậy được gọiBậc Đại trí Thánh nhân."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 352)Tích Pháp Cú: Trong lịch sử Đức Phật thì đầu tiên là vua Bình Sa cúng Phật Tinh xá Trúc Lâm.

Sau đó có 2 bạn thân là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở gần thành Vương Xá đi tu đắc A-la-hán.

Rồi Đức Phật giao 2 Ngài trọng trách làm thượng thủ tăng đoàn Phật giáo.Sau đó thì ông Cấp Cô Độc cúng Phật Tinh xá Kỳ Viên ở Xá Vệ.

Phật giao trách nhiệm trông coi xây dựng cho Ngài Xá Lợi Phất.

Sau khi xây xong Tinh xá Kỳ Viên thì Phật giao Ngài Xá Lợi Phất ở đó luôn để quản lý chúng hội Tỳ Kheo.

Kể từ đây là 2 vị Thượng thủ tăng đoàn Phật giáo quản lý 2 thánh địa Phật giáo đầu tiên ở thành Vương Xá và Xá Vệ.Nên đến Pháp Cú thứ 350 này rồi mà ai tinh ý thì sẽ thấy: "Cứ hễ có chuyện xảy ra ở Xá Vệ là có Ngài Xá Lợi Phất xử lý.

Hễ có chuyện xảy ra ở Vương Xá là có Ngài Mục Kiền Liên xử lý".

Xá Vệ cách Vương Xá tới ngàn dặm nên 2 người bạn thân thiết đó cũng ít khi được gặp nhau.Thời gian đầu thì Phật hay ở Tinh xá Trúc Lâm.

Nhưng thời gian sau thì Phật hay ở Tinh xá Kỳ Viên.

Vương Xá và Xá Vệ là kinh đô của 2 đại quốc Ma Kiệt Đà và Ko-sa-la.

Nên thành Vương Xá và thành Xá Vệ rất đông dân chúng.

Khi dân chúng Vương Xá đã thuần thành quy y Phật nhiều thì Phật hay về Xá Vệ để hóa độ cho dân ở đó nhiều hơn.Lần đó ở Kỳ Viên đột nhiên có các vị Tăng khách ở đâu kéo về rất đông để gặp Phật nghe pháp.

Thế là Kỳ Viên không còn chỗ ở.

Ngài La Hầu La bèn nhường chỗ ở của Ngài cho các vị Tăng khách.

Ngài mang tấm tọa cụ đến mái hiên trước cửa hương thất của Phật và trải ra đó nằm nghỉ ở đó luôn.

Còn các vị A-la-hán khác dù rất thân với Phật và tôn kính Phật nhưng không ai dám làm vậy.

Đó là vì tình nghĩa cha con giữa Phật và Ngài La Hầu La vẫn còn.

Nên Ngài La Hầu La ngoài lòng tôn kính Đức Thế Tôn thì cũng thương yêu Phật như người cha đúng nghĩa.Ta biết từ khi Phật ngồi thiền 49 ngày dưới gốc Bồ Đề thì Ma Vương đã tìm mọi cách để phá Phật.

Đến khi Phật đắc đạo thành Phật thì Ma Vương vẫn ngày đêm bám theo Phật để tìm cách hại Phật.

Ma Vương hại Phật bằng cách tìm ra sơ hở trong tâm Phật là sân hận, kiêu mạn.

Khi Phật có sơ hở trong tâm là Ma nhập vào tâm Phật để quậy phá.Lần này Ma Vương chợt nảy ra một ý tưởng.

Hắn nghĩ rằng nếu hắn làm hại con đẻ của Phật là Tôn giả La Hầu La (lúc này đã chứng A-la-hán) thì với tình cha con Phật sẽ tức giận.

Thế là Ma Vương hiện hình thành con voi to lớn vĩ đại ầm ầm chạy từ xa lao đến chỗ Ngài La Hầu La đang nằm.Đức Phật ở trong hương phòng nhưng biết hết mọi chuyện thế gian.

Phật thấy Ma Vương dở trò thì Phật nói:- Này Ma-ra, dù có 8 vạn 4 ngàn con voi to lớn như vậy lao đến cũng không thể làm kinh sợ La Hầu La.

Một vị Đại thánh giác ngộ, Đại hùng, Đại trí tuệ:"Tới đích rồi hết sợLy ái hết nhiễm ôNhổ mũi tên sinh tửThân này thân cuối cùng."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 351)"Ly ái chẳng chấp thủKhéo biện tài Pháp CúThấu suốt mọi Vô NgạiĐúng trình tự trước sauThân này thân cuối cùngVị như vậy được gọiBậc Đại trí Thánh nhân."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 352)Ma Vương nghe thấy vậy mới hiểu ra là Ngài La Hầu La con của Phật đã chứng A-la-hán giải thoát.

Một vị A-la-hán thì Vô Ngã nên không thể làm gì cho vị đó sợ hãi.

Ma Vương bèn biến mất.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Mật hạnh đệ nhất La Hầu LaĐã hơn 2500 năm đã qua mà các nhà nghiên cứu Phật học đều không hiểu được: "Mật hạnh đệ nhất La Hầu La" là gì?

Sư phụ tôi thì giải thích rằng: "Ngài La Hầu La đã thống lĩnh binh đoàn thám tử âm thầm hỗ trợ Đức Phật trong suốt cuộc đời giáo hóa".

Nhưng tôi không đồng ý với Sư Phụ của tôi.Bởi vì nước Thích Ca là 1 nước nhỏ bé binh lực yếu.

Đức Phật thì giáo hóa ở 2 đại quốc Ma Kiệt Đà và Ko-sa-la sao có thể mang đội quân thám báo từ tiểu quốc nhỏ hoạt động ở 2 Đại quốc lớn?Phật có 2 đệ tử quyền lực vĩ đại là vua Ba Tư Nặc thân thiết đến mức Phật gọi vua là: "Béo như con heo tròn quay".

Còn vua Bình Sa đã chứng Sơ quả Dự Lưu nên lòng tôn kính Phật là vô lượng vô biên.

Với sự hỗ trợ và bảo vệ của 2 vị đó sao cần phải có thám tử hay mật vụ?Ngoài ra, tôn chỉ của người xuất gia theo Phật là: "Từ bỏ gia đình sống không gia đình, từ bỏ các dục lạc thế gian, từ bỏ các niệm thế tục".

Thì làm sao mà Ngài La Hầu La còn quản lý đạo quân mật vụ thám báo bày mưu sâu kế hiểm để bảo vệ Phật?Còn nữa, "Bồ Tát sợ nhân chúng sinh sợ quả".

Phật sao lại phải sợ quả báo mà phải phòng ngừa quả báo bằng mật vụ thám tử?

Nên có rất nhiều điều sơ hở trong lý luận của Sư Phụ tôi.Sau đây là Lý Luận của tôi.

Mà thật ra cũng không phải là của tôi.

Vị Bồ Tát nào đó nói Kinh Pháp Hoa cũng đã nói rõ trong kinh đó rồi.

Nhưng vì Bồ Tát chỉ nói thoáng qua nên không ai để ý mà thôi.Kinh Pháp Hoa là bộ kinh vĩ đại của Đại Thừa Phật Giáo.

Kinh đó là nơi xuất phát hình tượng Bồ Tát Quan Thế Âm ở Phẩm Phổ Môn.

Kinh đó cũng là nơi xuất phát đầu tiên của các vị Bồ Tát Đại Thừa như: Phổ Hiền Bồ Tát, Diệu Âm Bồ Tát, Thường Bất Khinh Bồ Tát, Đà Na Li Bồ Tát...Ta chú ý đến Kinh Pháp Hoa ở Phẩm Thọ Ký.

Sau khi Đức Phật thọ ký xong cho các vị đệ tử A-la-hán thì Phật bắt đầu thọ ký cho các vị đệ tử chưa chứng A-la-hán.

Trong đó có đoạn Đức Phật thọ ký cho Ngài A-nan:"Bấy giờ, đức Phật bảo A-nan: Ông ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu là Sơn-Hải-Tuệ Tự-Tại Thông-Vương Như-Lai; ông sẽ cúng dường sáu mươi hai ức đức Phật, hộ trì tạng pháp vậy sau chứng được đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, giáo hóa hai mươi nghìn muôn ức hằng-hà-sa các chúng Bồ-Tát vv... làm cho thành đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.Nước tên là Thường-Lập-Thắng-Phan, cõi đó thanh tịnh, đất bằng chất lưu ly, kiếp tên Diệu-Âm Biến-Mãn.

Đức Phật đó thọ mạng vô lượng nghìn muôn ức vô lượng a-tăng-kỳ kiếp tính đếm số kể chẳng có thể biết được, chánh pháp trụ đời gấp bội thọ mạng, tượng pháp lại gấp bội chánh pháp."

Ta sẽ vô cùng ngạc nhiên vì sao Tôn giả Ma-ha Ca Diếp vĩ đại thì Phật thọ ký trước đó chỉ là:"Ông Ma-Ha Ca-Diếp, đệ tử của Ta, ở đời vị lai sẽ phụng thờ ba trăm muôn ức các đức Thế Tôn, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, rộng nói vô lượng đại pháp của các đức Phật, ở nơi thân rốt sau được thành Phật hiệu là Quang-Minh Như -Lai.Nước tên là Quang Đức, kiếp tên là Đại-Trang-Nghiêm-Phật thọ 12 tiểu kiếp.

Chánh pháp trụ thế 20 tiểu kiếp."

Tức là Đức Phật tương lai của Ngài Ma-ha Ca Diếp thọ 12 tiểu kiếp và Chánh pháp trụ thế 20 tiểu kiếp.

Còn Đức Phật tương lai của Ngài A-nan thì thọ vô lượng nghìn muôn ức vô lượng a-tăng-kỳ kiếp.

Còn Chánh pháp trụ thế gấp bội thọ mạng.Đó là bởi công đức giữ gìn Chánh pháp Kinh Phật của Đức A-nan là vĩ đại.

Ngài đã ghi nhớ toàn bộ Kinh Phật trong đầu vì thời đó không có chữ viết.

Rồi Ngài kết tập lại toàn bộ hệ thống Kinh điển Phật Giáo và lưu truyền cho đến ngày nay.Nhưng có điều ngạc nhiên hơn nữa đó là Đức Phật tương lai của Ngài La Hầu La vĩ đại bằng sự vĩ đại của Ngài A-nan.

Nếu ai có thể giải thích được vì sao có sự vĩ đại này thì sẽ hiểu "Mật hạnh đệ nhất":"Bấy giờ, Phật bảo ông La-Hầu-La: Ông ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu: Đạo-Thất-Bảo-Hoa, Như-Lai Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật, Thế-Tôn.

Ông sẽ cúng dường các đức Như-Lai như số vi trần trong mười phương thế giới.

Thường vì các đức Phật mà làm trưởng tử, cũng như hiện nay.Đức Phật Đạo-Thất-Bảo-Hoa đó, cõi nước trang nghiêm, kiếp số thọ mạng, giáo hóa đệ tử, chánh pháp và tượng pháp cũng đồng như đức Sơn-Hải-Tuệ-Tự-Tại-Thông-Vương Như Lai không khác.

Ông cũng làm trưởng tử cho Phật này, qua sau đây rồi sẽ được đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác."

Trong đoạn kinh Phật thọ ký cho Ngài La Hầu La ta chú ý câu nói: "Ông cũng làm trưởng tử cho Phật này".

Tức là công đức bí mật của Ngài La Hầu La chính là làm Trưởng tử cho các Đức Phật.

Vậy vì sao làm con của các Đức Phật thì lại công đức vô lượng vô biên như vậy?Ta hãy xét ngược lại lịch sử Đức Phật.

Năm Thái Tử Tất Đạt Đa 12 tuổi (cả tuổi mụ là 13 tuổi).

Trong lúc vua cha Tịnh Phạm đang làm lễ Tịch Điền thì Thái Tử ngồi thiền dưới gốc cây Diêm Phù Nề đã chứng Sơ Thiền "Ly dục - Ly ác pháp".

Kể từ đây Thái Tử đã "Ly dục".Nhưng vua cha vẫn bắt chàng phải lấy vợ.

Chàng đành phải đồng ý với cha mà cưới Công nương Gia-Du-Đà-La khi chàng 18 tuổi.

Vì chàng đã ly dục nên 10 năm sau vợ chồng vẫn không có con.

Nhưng tâm chàng luôn mong ước khát khao được xuất gia tìm "Đạo thoát khổ".

Vua Tịnh Phạm biết tâm con vậy nên đã có lần nói rằng: "Nếu con để lại cho ta một đứa cháu trai thì con mới được phép đi tu".Chính trong tình huống khó giải quyết đó thì có một vị Bồ Tát ở Đâu Suất Đà Thiên đã phát nguyện nhập thai vào bụng Công nương Gia-Du-Đà-La mà không qua thụ tinh.

Vị Bồ Tát đó chính là Ngài La Hầu La.

Nhờ có công đức đó mà Thái Tử đã có thể yên tâm xuất gia mà lòng không lo lắng.Vậy "Mật hạnh La Hầu La" chính là vị có công đầu tiên giúp Thái Tử Tất Đạt Đa từ bỏ thế tục xuất gia.

Vị đó âm thầm giúp Đạo Phật hình thành trên thế gian này.

Công đức giúp hình thành nên đạo Phật đó lớn bằng công đức gìn giữ Chánh pháp Kinh Phật của Ngài A-nan.

Đó là lời khẳng định trong Kinh Pháp Hoa.

Còn tôi chỉ nói lại ý Kinh Pháp Hoa mà thôi.Bài học 2: Ma Vương là ai?Ta muốn biết Ma Vương Ma-ra là ai thì ta phải tìm đọc Kinh Hàng Ma (Trung Bộ Kinh).

Kinh đó Ma-ra đã nhập vào bụng Tôn giả Mục Kiền Liên khiến Ngài đau bụng.

Ngài bèn ngồi thiền nhập định để tìm xem vì sao bị đau bụng thì thấy Ma-ra đang ở trong đó.

Rồi Tôn giả nói với Ma-ra rằng:- Này Ma-ra, ngươi đừng nghĩ rằng vị đó không biết ta.

Ta biết rõ ngươi.

Ngươi mà Ác Ma Ma-ra.

Còn ta thời Đức Thế Tôn Câu Lưu Tôn cũng là Ác Ma tên là Du-si.

Chị gái ta tên là Ka-li.

Ngươi là con chị gái ta nên ngươi là cháu của ta...Vậy là ta đã rõ Ma Vương Ma-ra này là ai.

Đó là con bà Ka-li.

Bà Ka-li là chị gái Ma Vương Du-si thời Phật Câu Lưu Tôn.

Vậy tuổi thọ của Ma-ra này đã trải qua qua 3 đời Đức Phật: Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp và cho đến thời Đức Phật Thích Ca ngày nay.Ta biết 91 đại kiếp tức 91 lần Thế gian này sinh diệt rồi Thế gian lại tái sinh chỉ có 7 vị Thế Tôn Phật ra đời (theo Kinh Đại Bổn - Trường Bộ Kinh).

Vậy Ma Vương Ma-ra đó sống qua 3 đời Đức Phật tức sống qua rất nhiều lần thế gian này sinh diệt?

Chính vì tuổi thọ Ma Vương lâu như vậy nên Ma Vương chính là vị thần cai quản cõi tử trong Luân Hồi.Trong Ấn Độ Giáo thì vị Ma Vương Ma-ra này chính là vị thần Shiva tức là thần Hủy Diệt.

Còn vị thần Brahama là vị thần Sáng Tạo trong Ấn Độ giáo chính là vị Đại Phạm Thiên trong Kinh Ba-lê (Trường Bộ Kinh).

Kinh Ba-lê miêu tả vị Đại Phạm Thiên đó là "Chúa tể mọi định mạng - Tổ phụ của mọi chúng sinh đã sinh và sẽ sinh".

Trong Ấn Độ giáo còn có vị thần bảo hộ Vishnu là vị thần Bảo Vệ điều Thiện trước cái Ác.

Người Ấn Độ luôn nghĩ rằng: "Đức Phật Thích Ca chính là hóa thân của vị thần Bảo Hộ Vishnu trong Tôn giáo họ".

Ba vị thần trên là Tam thần Ấn giáo là 3 vị thần tối cao của Ấn Độ Giáo.Ai thoát khỏi Luân Hồi tức là thoát khỏi lưới Ma, thoát tầm mắt Tử thần.

Thế nên Ma Vương không bao giờ muốn ai tu đắc đạo giải thoát Luân Hồi chứng Niết Bàn là vậy.

Khi Đức Phật thành đạo thì rất chiều vị tu chứng A-la-hán sẽ vượt thoát tầm kiểm soát của Ma Vương.

Do vậy Ma Vương mới điên cuồng chống phá Đức Phật.Còn theo tôi thì Ma Vương chính là Ác Nghiệp của chúng sinh tích tụ tạo thành.

Vì chúng sinh có Ác Nghiệp nên sẽ phải chịu quả báo khổ đau trong Luân hồi.

Chỉ có vị thánh A-la-hán diệt trừ mọi Ác Nghiệp quá khứ, hiện tại, tương lai thì sẽ không còn quả báo khổ.

Vị đó sẽ từ bỏ Luân hồi đau khổ mà vào nơi không còn khổ.

Đó là Niết Bàn "đoạn tận diệt khổ".

Bài học 3: Tới đích rồi hết sợ...Tới đích rồi hết sợLy ái hết nhiễm ôNhổ mũi tên sinh tửThân này thân cuối cùng.Ly ái chẳng chấp thủKhéo biện tài Pháp CúThấu suốt mọi Vô NgạiĐúng trình tự trước sauThân này thân cuối cùngVị như vậy được gọiBậc Đại trí Thánh nhân.Bài Pháp Cú này thì Phật nêu ra một số đặc điểm của một vị A-la-hán.

Vị đó là một vị: "Đã đi đến đích, hết nhiễm ô, đã ly ái, thoát sinh tử, không chấp thủ, không còn trướng ngại và thân này là thân cuối cùng trong Luân hồi.

Sau đó vị đó sẽ vào Niết Bàn".
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 353: Truyện Phật tuyên bố Thắng trí


"Ta hàng phục tất cảTa thấu rõ tất cảTa từ bỏ tất cảChẳng vướng bận điều gì.Ái diệt tâm giải thoátThắng trí như hư khôngTự ta tìm thấy đượcBiết gọi ai thầy ta?"(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 353)Tích Pháp Cú: Đây có thể là bài Pháp đầu tiên mà Đức Phật thuyết cho chúng sinh ngay sau khi Phật thành đạo.

Lúc đó là sau khi Đức Phật thành đạo.

Phật đi về Rừng Lộc Uyển (Vườn Nai) để tìm 5 anh em Kiều Trần Như.

Trên đường đi thì Phật gặp vị tu sỹ khổ hạnh Ni Kiền Tử tên là U-pa-ca.Khi Đức Phật đang đi trên đường thì U-pa-ca đi ngược chiều và thấy Phật từ xa.

Vị đó bèn đứng lại ngắm Đức Phật vì thấy Phật đẹp quá.

Khi Phật đi đến gần thì ông ta nói:- Này huynh đệ, các căn Ngài tịnh lặng, làn da Ngài sáng chói, Ngài xuất gia theo ai, Ngài thờ ai làm thầy?

Và Ngài học giáo lý của ai?Đức Phật bèn đọc bài kệ:"Ta hàng phục tất cảTa thấu rõ tất cảTa từ bỏ tất cảChẳng vướng bận điều gì.Ái diệt tâm giải thoátThắng trí như hư khôngTự ta tìm thấy đượcBiết gọi ai thầy ta?"(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 353)Thế rồi tu sỹ U-pa-ca đó chép miệng, không nói là tin hay không tin.

Ông chỉ xá Phật 1 xá rồi bỏ đi.Bài học kinh nghiệmBài học 1: Ta tự tìm thấy đượcĐức Phật đã tự mình tìm ra con đường Chánh pháp tu hành đắc "Đạo giải thoát mọi đau khổ".

Trước đó khi còn là Thái Tử thì Ngài có nhiều vị thầy dạy võ, dạy thiền, dạy quản trị đất nước, dạy binh pháp...

Khi tu hành thì Sa Môn Cồ Đàm cũng tham khảo nhiều vị thầy nhưng các thầy đó đều không chỉ ra con đường thoát khổ.Cuối cùng Phật tự tu khổ hạnh 6 năm cũng không tìm ra Chánh pháp.

Cuối cùng thì Phật quay lại con đường thiền như năm 12 tuổi khi ngồi thiền dưới gốc cây Diêm Phù Nề, Thái Tử đã chứng Sơ thiền.

Và đó là con đường Chánh pháp đúng đắn.

49 ngày sau khi ngồi thiền dưới gốc Bồ Đề thì Phật đắc đạo.Vậy nên tu sỹ U-pa-ca hỏi "Ai là thầy Ngài?

Ngài học giáo lý của ai?"

Thì Phật trả lời đúng sự thật: "Ta tự tìm thấy được - Biết gọi ai thầy ta?"

Nhưng U-pa-ca không tin mà bỏ đi.Bài học 2: Phật tự tu tự chứng A-la-hánA-la-hán chứng quả "Vô Thượng Bồ Đề" là quả tối thượng.

Đức Phật cũng chứng tới "Vô Thượng Bồ Đề" mà thôi.

Nhưng các vị A-la-hán thì có thầy dạy Chánh pháp là Đức Phật.

Còn Đức Thế Tôn Phật là vị tự tìm ra con đường Chánh Pháp và giảng dạy Chánh pháp vào đời giúp nhiều vị tu theo chứng A-la-hán.Trong 91 đại kiếp tức 91 lần thế gian sinh diệt chỉ có 7 vị Thế Tôn Phật ra đời mà giảng Chánh pháp.

Ngoài ra cũng có rất nhiều các vị Độc Giác Phật, Bích Chi Phật, Duyên Giác Phật là vì đại cơ duyên đắc đạo A-la-hán chứ không phải tìm ra Chánh pháp mà tu hành chứng đắc.

Nên vị đó chỉ chứng A-la-hán duy nhất 1 mình nên gọi là Độc Giác Phật (vị Phật tự giác ngộ duy nhất 1 mình) hay Duyên Giác Phật (vị Phật vì đại cơ duyên mà giác ngộ).Bài học 3: Phật độ người có duyênĐức Phật có tam bất năng: (1) Chúng sinh vô duyên Phật không thể độ. (2) Chúng sinh vô số Phật không biết hết. (3) Định nghiệp đã tới Phật không thể chuyển.Dĩ nhiên duyên của Đức Phật là vĩ đại nên Phật đã độ được cho rất nhiều vị quy y rồi chứng thánh.

Thậm chí có 1200 vị chứng quả thánh tối thượng A-la-hán.

Nhưng cũng có nhiều vị nghe Pháp của Phật xong thì tâm dửng dưng, không tin, chép miệng, thở dài rồi bỏ đi.

Đó nằm trong số những chúng sinh không có duyên với Phật vậy.Mà số lượng vô duyên với Phật thì nhiều.

Ví như ngày nay dân số Thế giới là 8 tỷ người.

Số người quy y đạo Phật chỉ có 500 triệu.

Nếu tính cả những người biết về đạo Phật mà không quy y thì khoảng 1,5 tỷ người.

Còn Kito giáo là 2,5 tỷ tín đồ, Hồi giáo là 1,8 tỷ.

Vậy nên số lượng người vô duyên với Phật nhiều nhiều lắm.Và tu sỹ U-pa-ca là một ví dụ điển hình.

Vị đó được gặp Phật đầu tiên ngay sau khi Phật thành đạo.

Nhưng vì vị đó tu theo tôn giáo khác và không có duyên với Phật.

Nên vị đó nghe Phật nói pháp xong thì chép miệng thở dài, xá Phật rồi bỏ đi.Bài học 4: Linh cảm và Cố chấpTu sỹ U-pa-ca có linh cảm minh mẫn.

Ngay khi nhìn thấy Phật từ xa ông ta đã đứng lại ngắm Phật.

Ông thấy thân tướng Phật đẹp quá và hào quang tỏa sáng.

Linh cảm thì nói rằng: "Đây là một vị thánh vĩ đại".

Thế nhưng khi Phật nói pháp xong thì ông ta cố chấp mà bỏ đi.

Vậy cố chấp điều gì?Cố chấp thứ nhất: tâm U-pa-ca ấn định một thành kiến: "Tu phải có thầy và có pháp của thầy dạy".

Nay Phật khẳng định là "Ta không có thầy, pháp ta tự tìm thấy" thì vị đó không tin.Cố chấp thứ hai: theo tôi đoán là tuổi Phật khi đó là 35.

Mà các tu sỹ uy đức thời đó toàn râu tóc bạc phơ tu khổ hạnh trên núi cao.

Rất có thể U-pa-ca đã chấp tuổi tác và chấp pháp tu khổ hạnh.

Vị đó không tin trẻ vậy, đẹp đẽ vậy, chẳng chút khổ hạnh nào mà tự tìm ra đạo, tự tu chứng đạo.Linh cảm thì báo cho U-pa-ca biết đây là vị thánh đắc đạo vĩ đại.

Còn tâm Cố chấp thì nói rằng: "Bắt buộc phải có thầy, có pháp" chứ không thể tự tìm ra pháp hay không có thầy dạy mà lại chứng thánh.Bài học 5: Ta hàng phục tất cả..."

Ta hàng phục tất cảTa thấu rõ tất cảTa từ bỏ tất cảChẳng vướng bận điều gìÁi diệt tâm giải thoátThắng trí như hư khôngTự ta tìm thấy đượcBiết gọi ai thầy ta?"

Đức Phật khẳng định những năng lực và thành tựu của một vị thánh Thắng trí giải thoát như sau🙁1) "Ta hàng phục tất cả" tức vị đó diệt tận hết mọi Tập khí Kiết sử trong tâm và chiến thắng chúng.(2) "Ta thấu rõ tất cả" tức vị đó chứng đạt Quang Minh mà từ bỏ Vô Minh tăm tối để thấy rõ tất cả.(3) "Ta từ bỏ tất cả" tức vị đó từ bỏ mọi nhiễm ô, cấu uế trong tâm gọi là "Lậu Tận" (từ bỏ hết mọi "Lậu").

"Lậu" là xấu xa, ô uế, mờ ám, thối tha... ngày nay ta vẫn dùng trong các từ ghép: buôn lậu, bệnh lậu, hủ lậu, hàng lậu, lậu thuế, lương lậu, đầu lậu...(4) "Chẳng vướng bận điều gì" tức vị đó không còn bị Luân hồi ràng buộc hay làm cho vướng bận.(5) "Ái diệt tâm giải thoát" tức là vị đó đã diệt ái dục tâm hoàn toàn giải thoát khỏi Luân hồi đau khổ.

"Thắng trí" tức là trí tuệ này thắng mọi trí tuệ khác.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 354: Truyện Chánh pháp là tối thượng


"Pháp thí thắng mọi thíPháp vị thắng mọi vịPháp hỉ thắng mọi hỉÁi diệt dứt mọi khổ."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 354)Tích Pháp Cú: Lúc đó trên trời các vị Chư thiên ngồi lại với nhau bàn luận đạo lý.

Các vị mới thắc mắc và hỏi nhau rằng: "Không biết bố thí cái gì là quý giá nhất?"

Rồi các vị tùy theo kinh nghiệm bản thân mà đưa ra ý kiến cá nhân.

Vị thì bố thí đồ ăn thí thực cho người nghèo khổ và Chư tăng là quý nhất.

Vị thì làm đường cho dân đi lại hay đắp đê ngăn nước là quý nhất.

Vị thì dạy dân cách trồng cây lúa gạo để mùa màng bội thu là quý nhất....

Rồi các vị để lại những tranh luận đó mà chuyển sang chủ đề khác.Các vị lại khởi thắc mắc: "Cái gì có giá trị nhất trên đời?"

Sau đó các vị lại mỗi người mỗi ý.

Các vị tạm thời để đó chuyển sang thắc mắc khác: "Cái gì là hạnh phúc nhất trên đời?"

Rồi cũng mỗi người mỗi ý.

Các vị lại chuyển sang thắc mắc tiếp là: "Làm thế nào vượt thoát mọi loại khổ?"

Cũng lại mỗi người mỗi ý.Rồi các vị rủ nhau đi hỏi Thiên chủ Tứ Thiên Vương.

Tứ Thiên Vương cũng không biết cái gì là nhất bèn chỉ lên hỏi Thiên chủ Đế Thích.

Thiên chủ Đế Thích cũng không rõ chân lý nằm ở đâu.

Thế rồi Thiên chủ Đế Thích chỉ mọi người đến gặp thầy của Ngài là Đức Phật.Rồi các vị đó cùng nhau bay xuống cõi người hỏi Đức Phật.

Đức Phật nghe xong các câu hỏi và thắc mắc của Chư thiên bèn đọc bài kệ giải đáp:"Pháp thí thắng mọi thíPháp vị thắng mọi vịPháp hỉ thắng mọi hỉÁi diệt dứt mọi khổ."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 354)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Chư thiên chưa có Chánh kiếnCác vị phúc lớn sẽ sinh về 2 cõi hạnh phúc hơn cõi người là Thần và Trời.

Vị nào phúc lớn nhưng chấp ngã nặng, tham sân si nhiều thì sẽ sinh cõi Thần.

Vị nào phúc lớn mà chấp ngã nhẹ, tham sân si ít thì sinh cõi Trời.Chư thiên bản chất là tâm hiền thiện, đạo đức, thực hành Tam Nghiệp lành thiện thì sinh lên cõi Trời.

Các vị không tu Giới - Định - Tuệ.

Tức các vị không xuất gia tu giữ giới, không tu thiền định, không chứng đạt Tuệ giác ngộ Chánh pháp.

Thế nên Chư thiên vẫn không hề có Chánh kiến.Ta nhớ Pháp Cú 06 khi đó tăng đoàn vùng Gô-si-ta nước Cô-dăm-bi tranh cãi nhau bên đúng bên sai giữa các vị Luật sư và Pháp sư.

Thế rồi động tâm lên đến cõi trời và các Chư thiên cũng cãi nhau ai đúng, ai sai.

Bởi vì Chư thiên chưa có Chánh kiến nên chẳng thể biết rõ đúng sai.Vậy khi nào thì biết rõ đúng sai tuyệt đối?

Mọi chúng sinh trong Luân hồi này đền Vô Minh.

Chúng sinh không thể thấy rõ Chân lý Chánh pháp ví như người đi trong đêm tối không chút ánh sáng.

Vị đó chẳng thể nhìn rõ các đồ vật hay đường đi.

Một vị diệt Vô Minh thì tâm sáng tỏ thấy rõ Chánh pháp.

Giống một người có mắt thấy rõ mọi đồ vật trong ánh sáng ban ngày.

Nghĩa là khi nào vị thánh diệt tận Vô Minh thì vị đó sẽ thấy rõ Chân lý Chánh pháp.Bài học 2: Pháp thí thắng mọi thíBố thí Pháp tức dạy Chánh pháp cho đời là vĩ đại nhất.

Vì sao vĩ đại nhất?

Bởi vì ta giúp người cho họ tiền rồi họ cũng tiêu hết, cho họ cơm gạo thì họ cũng ăn hết.

Thậm chí dạy họ cách kiếm tiền hay dạy họ cách trồng lúa cũng không bền.

Bởi vì khi phúc thiếu, tội nhiều thì tự dưng thiên tai, bão lũ, chiến tranh, thảm họa, dịch bệnh... kéo đến.

Hoặc đơn giản là cá nhân họ bị gặp tai nạn, bị thương tật hay bị phá sản.

Vậy nên thiếu phúc và tội nặng thì ắt sẽ khổ.Nhưng khi ta dạy họ Chánh pháp là Luật Nhân Quả thì họ tự làm thiện tích phúc.

Khi phúc họ lớn thì tự sung sướng hạnh phúc bền lâu kéo đến mà không cần quá vất vả.Nhưng tích phúc báu vĩ đại được làm vua Trời sung sướng hưởng phúc rồi phúc cũng hết thì lại khổ.

Mà sinh cõi trời thì không có điều kiện giúp ai thoát khổ nên khó tích phúc.

Vậy nên Đức Phật dạy Chánh Pháp tu hành Giới - Định - Tuệ giải thoát khỏi Luân hồi đau khổ nhập vào Niết bàn diệt khổ.Thế nên Bố thí Chánh pháp là vĩ đại nhất.

Nhưng thời Đức Phật thì lời Phật dạy là Chánh pháp.

Thời Mạt Pháp khó có được Chánh pháp.

Nên có người tưởng đã tìm ra Chánh pháp mà nhiệt tâm truyền bá thì lại mang tội vì truyền bá nhầm Tà pháp.Bài học 3: Pháp vị thắng mọi vị"Thứ gì quý giá nhất trên đời?"

Đầy tiên ta cần phải hiểu thứ gì mang đến hạnh phúc và giúp ta thoát khổ là thứ quý giá nhất.

Đầu tiên ta phải xem: Cái gì khiến ta khổ?

Cái gì khiến ta hạnh phúc?Khổ có 7 món: 4 món về thể xác, 3 món về tâm hồn.

4 món khổ về thể xác là: Sinh - Già - Bệnh - Chết.

3 món khổ về tinh thần là: Cầu bất đắc khổ - Oán tấn hội khổ - Ái biệt ly khổ.Vậy "Cầu được ước thấy" là hạnh phúc.

"Yêu mà được gần gũi sở hữu" là hạnh phúc.

"Ghét mà được giải thoát chạy xa khỏi nó" là hạnh phúc.

Làm sao được như vậy?

Muốn được vậy phải có phúc lớn.

Khi ta có phúc lớn thì cầu được ước thấy, yêu cái gì có cái đó, ghét cái gì thì thoát khỏi nó, thì hạnh phúc.Còn làm sao để không Sinh - Già - Bệnh - Chết.

Khi và chỉ khi ta thoát khỏi Luân hồi.

Còn vẫn ở trong Luân hồi làm tới chức vua trời thì vẫn phải chết.Thứ quý giá nhất trên đời là thứ giúp ta thoát khổ và có hạnh phúc là Chánh pháp Luật Nhân Quả khuyên ta làm phúc.

Thứ đó là Chánh pháp dạy tu hành để giải thoát Luân hồi đau khổ.Bài học 4: Pháp hỉ thắng mọi hỉ"Điều gì là hạnh phúc vĩ đại nhất?"

Điều hạnh phúc nhất là khi ta có phúc lớn và ta hưởng thụ phúc đó trong cuộc sống.

Ví dụ: một tỷ phú có phúc lớn tài sản lớn thì "thích gì cũng có".

Đó là hạnh phúc.

Một Đại Đế Vương cai trị cõi nước rộng lớn vô số chúng dân.

Vị đó muốn gì là có.

Đó là hạnh phúc.

Tuy nhiên tỷ phú hay Đại đế vương thì vẫn bị: già, bệnh, chết.

Thậm chí hưởng tình dục thái quá còn chết sớm.Một vị Chư thiên hưởng thụ hạnh phúc trên thiên giới ngàn vạn năm sung sướng, không già, không bệnh thì là hạnh phúc.

Nhưng sau ngàn vạn năm thì vị đó vẫn bị chết đọa vào cõi khổ.

Vậy nên hiện tại Chư thiên hạnh phúc nhưng tương lai vẫn có khổ.Vậy muốn có hạnh phúc thì phải làm thiện, giúp đời để tích phúc.

Khi phúc lớn thì ta giàu có, quyền lực, sinh thiên giới thì sẽ hạnh phúc.

Và Luật Nhân Quả dạy rằng: "Ta mang hạnh phúc đến cho ai thì ta sẽ được quả báo hạnh phúc".

Luật Nhân Quả là Chánh pháp của đạo Phật và là gốc tạo thành hạnh phúc.Bài học 5: Ái diệt dứt mọi khổĐạo Phật không lấy mục tiêu tu hành để hưởng hạnh phúc.

Bởi nếu tu để có hạnh phúc vĩ đại sinh cõi trời ngàn vạn năm sau đó cũng sẽ bị đọa vào cõi khổ.

Đạo Phật lấy mục tiêu tu hành để diệt khổ.

Nên đạo Phật có giai đoạn 1: "Tu Tam Nghiệp lành thiện" tích phúc to lớn để làm đòn bẩy cho giai đoạn 2: "Tu giải thoát khỏi Luân hồi đau khổ".Giai đoạn 2 là tu: "Giới - Định - Tuệ" để thoát khỏi Luân hồi đau khổ mà vào nơi "đoạn tật diệt khổ" Niết Bàn.

Vị có phúc lớn ở giai đoạn 1 đó phải từ bỏ phúc thế gian, xuất gia sống không gia đình, từ bỏ dục lạc thế tục, từ bỏ các niệm thế tục, tu giữ giới luật Phật, tài sản có 3 bộ đồ 1 cái bát đi khất thực xin ăn.

Ngày ăn 1 bữa sau Ngọ không ăn... và Tu Thiền Định.

Nhờ có Phúc lớn làm đòn bẩy thì vị đó tu đắc đạo A-la-hán.

Hết đời sống này vị đó sẽ nhập Niết Bàn.Phật dạy rằng "Ái diệt dứt mọi khổ".

Tâm ta có "Ái" tức yêu thứ làm ta hạnh phúc nên ta muốn nắm giữ gọi là "Thủ".

Vì muốn nắm giữ nên ta muốn sở hữu gọi là "Hữu".

Vì muốn sở hữu nên ta sẽ tái sinh gọi là "Sinh".

Vì có sinh nên sẽ có già chết gọi là "Lão Tử".

Thành Luân hồi bất tận trầm luân trong đau khổ.Vậy nên người tu đạo Phật chỉ cần "Ái diệt thì chấm dứt mọi khổ đau".

Nói thì dễ làm mới khó.

Ái cõi người thì dễ diệt mà "Tham sắc ái, Tham vô sắc ái" tức Tham và Yêu cõi trời Sắc giới và cõi định Vô sắc giới thì vô cùng khó diệt.Muốn diệt được "Ái" cõi trời đó thì phải tu Thiền chứng Tứ Thiền có Tam Minh thì diệt Vô Minh.

Khi tâm ta hoàn toàn Sáng tỏ không còn u tối nữa thì mới diệt được "Tham sắc ái, Tham vô sắc ái".
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 355: Truyện ông trưởng khố hà tiện


"Tài sản khiến kẻ nguQuên đường về giác ngộKẻ ngu thì tham giàuGây biết bao tội ác."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 355)Tích Pháp Cú: Ở thành Xá Vệ có ông Trưởng khố.

Ngày nay ta gọi là chủ ngân hàng.

Tính cách ông ta hoàn toàn ngược với ông Cấp Cô Độc.

Ông ta không tin Nhân Quả, không bao giờ bố thí cho ai dù chỉ 1 xu.

Ông ta không bao giờ cúng dường Chư tăng hay Đức Phật.

Ông ta vô cùng keo kiệt và hà tiện.Nếu nấu cơm mới mà nồi cơm cũ còn là ông ăn hết sạch cơm cũ để dành cơm mới ăn sau.

Mà thời xưa không có tủ lạnh nên cơm cũ tức là đã thiu.

Quần áo mới thì ông không dám mặc vì sợ lãng phí.

Ông chọn đồ bắt đầu rách rồi mặc sau đó rách quá thì vứt.

Ông ta khắc khổ với bản thân nên người làm thuê cho ông cũng đều khổ sở thiếu thốn.Rồi ông ta chết mà không có con để thừa kế tài sản.

Vua Ba Tư Nặc mới hỏi quần thần rằng:- Này các quan, theo luật thì trường hợp này xử lý thế nào?Vua dĩ nhiên là hiểu rõ luật.

Nhưng vua phải hỏi vậy cho được sự công bằng và đồng thuận của triều thần.

Các quan khi đó mới nói rằng:- Thưa Đại Vương, theo luật thì người có tài sản mà chết không có con thừa kế thì sẽ sung công quỹ tài sản đó.Thế rồi vua Ba Tư Nặc mới cho người đến kiểm kê tài sản và chuyển vào ngân khố quốc gia.

Số tiền vàng tài sản của ông ta vận chuyển bằng xe bò 7 ngày mới hết.

Sau đó vua Ba Tư Nặc có duyên sự đến Tinh xá gặp Phật.

Vua bèn kể cho Phật nghe về việc ông Trưởng ngân khố giàu có tài sản tiền vàng vận chuyển bằng xe bò 7 ngày mới hết.

Nhưng ông ta lại không có con thừa kế, cuộc sống thì khắc khổ "cơm không dám ăn, áo không dám mặc".Vua Ba Tư Nặc đi theo Phật lâu thì biết về Luật Nhân Quả "Bố thí cúng dường thì quả báo giàu có".

Giống như ông Cấp Cô Độc bố thí cúng dường rộng rãi quảng đại thì quả báo giàu có.

Ấy thế nhưng ông Trưởng khố này vô cùng giàu nhưng lại vô cùng ki bo, keo kiệt và hà tiện.

Vua mới thắc mắc hỏi Phật vì nhân duyên gì mà ông ta bị vậy?Đức Phật mới kể về nhân duyên kiếp xưa.

Vào kiếp xa xưa thì ông Trưởng khố đó cũng khá giả.

Lần đó có một vị Độc Giác Phật đi ngang qua nhà ông khất thực.

Ông bèn sai người ở mang đồ ăn cúng dường tu sỹ đó.

Nhưng người ở thấy vị tu sỹ oai nghi, đĩnh đạc, thân tỏa hào quang thì tôn kính vị đó.

Người ở bèn lấy đồ ăn ngon nhất "thượng hảo hạng" có trong nhà cúng dường tu sỹ.

Vị tu sỹ đó nhận đồ ăn rồi ra đi.

Sau đó ông nhà giàu mới nhìn lại đồ ăn thấy đã cúng đồ ngon nhất thuộc hàng thượng phẩm cho tu sỹ.

Ông ta khởi tâm tiếc của.Ở một kiếp khác ông cũng giàu có và làm chung với người anh.

Người anh có cậu con trai và nếu ông anh chết sẽ chia tài sản cho con.

Thế là ông đó âm mưu dẫn đứa cháu vào rừng rồi bóp cổ chết.Các đời sau thì ông sống mà không tạo phúc gì thêm.

Đến đời này thì quả báo của 2 nghiệp đó tới cùng lúc.

Ông ta được giàu có khủng khiếp vì đã cúng dường vị Độc Giác Phật một bữa ăn ngon.

Nhưng vì cúng xong thì tâm ông tiếc của nên ông giàu mà không hưởng chút ít gì từ khối tài sản đó.

Ông hại anh ông không có con nên quả báo ông không có con.

Và phúc báu tạo thành sự giàu có ông đã hưởng hết ở kiếp này.

Sau khi chết thì quả báo giết đứa cháu khiến ông đọa địa ngục.

Còn rất lâu nữa ông mới được làm người vì thiếu phúc.Sau đó Phật đọc bài kệ:"Tài sản khiến kẻ nguQuên đường về giác ngộKẻ ngu thì tham giàuGây biết bao tội ác."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 355)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Bốn điều cần có khi Bố thíKinh Tệ Túc (Pàyàsi sutta) thuộc Trường Bộ Kinh có đoạn nói về hạnh Bố Thí như sau:"Bạch Tôn giả, thanh niên Uttàra bị bỏ qua trong cuộc bố thì này, vì đã bố thí một cách hoàn bị (1), vì đã bố thí tự tay mình làm (2), vì đã bố thí có suy tư (3), vì đã bố thí các đồ không phế thải (4), sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên.Còn con, vì đã bố thí không tự tay mình làm, vì đã bố thí không có suy tư, vì đã bố thí các đồ phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Đại Thiên vương, trong cung điện trống không của Serasaka.Vậy để Bố Thí có công đức lớn ta cần chú ý🙁1) Bố thí một cách chu đáo, cẩn trọng, hoàn mỹ.

Không bố thí một cách hời hợt với tâm khinh thường.

Nên ta mới thấy khi cúng dường Chư Tăng thì gia chủ đều phải quỳ xuống dâng đồ ăn cho các vị.

Hay ông nhà giàu cúng dường vị Độc Giác Phật mà tâm thờ ơ không để ý cúng cái gì.

Thậm chí cúng xong thì thấy là đồ ăn ngon lại còn tiết rẻ.(2) Bố thí phải tự tay mình làm.

Không nên nhờ ai làm giúp như ông nhà giàu bố thí cho vị Độc Giác Phật lại nhờ người ở làm thì phúc ít.(3) Bố thí có tư duy đến lợi ích thiết thực của đồ bố thí.

Ví dụ: Giúp cần câu và dạy cách câu cá thì tốt hơn cho con cá.

Có thể chi phí 2 PA đó là như nhau.(4) Bố thí đồ chất lượng, hữu dụng, lợi ích.

Không nên bố thí đồ phế thải, rát rưởi, không lợi ích.Nếu Bố thí được 4 điều trên thì quả báo phúc lớn vĩ đại.

Còn bố thí không có 4 điều đó thì cũng có phúc nhưng phúc chỉ ở cái vỏ bên ngoài.

Bên trong chẳng có gì.

Ví như "Cung điện trống không".Nên ông nhà giàu cúng Độc Giác Phật mà sai người ở cúng, rồi cúng xong thì tiếc.

Nên quả báo chỉ ở cái vỏ.

Ông vô cùng giàu mà không được hưởng.Bài học 2: Phúc và ĐứcLàm lợi cho người như bố thí, cúng dường thì có phúc.

Nhưng tâm tiếc của lại là tham lam, ích kỉ và kém đạo đức.

Thế nên quả báo là ông Trưởng khố đó cực giàu mà chỉ ở vỏ ngoài.

Bản thân ông không hưởng một chút hạnh phúc gì từ sự giàu sang đó.Thế nên ta hay có từ Phúc Đức đi kèm nhau.

Phúc là hành động của ta làm lợi cho người.

Còn Đức là tâm hồn bên trong của ta.

Có người vì lòng từ bi yêu người làm thiện giúp đời.

Đó là kẻ có đầy đủ Phúc và Đức.

Quả báo là được sinh cõi trời, nơi đó Chư thiên hạnh phúc viên mãn và tâm hỉ lạc bình an.Có kẻ bị tù đày vì phạm tội ác.

Hắn bị cai ngục bắt đi đập đá xẻ núi mở đường.

Tâm kẻ đó thì ác độc, không hề muốn làm nhưng bị ép làm.

Vậy Phúc kẻ đó vẫn có mà Đức không có.

Về sau kẻ đó vô cùng già có quyền lực mà tâm thì ác độc phá hoại cuộc đời.

Bản chất sâu bên trong tâm hồn kẻ đó là đau khổ.Có những vị tướng giết giặc cứu nước, cứu dân thoát họa ngoại bang xâm lược.

Vị đó tích phúc lớn vì đã cứu dân lành vô tội.

Nhưng lúc vị đó tạo phúc là lúc tay cầm gươm đao giết giặc thì tâm vị đó sân.

Nên kiếp sau vị đó sinh vào cõi Thần phúc lớn nhưng tâm thì sân hận, hung tợn, mặt đỏ như lửa.Bài học 3: Công đức cúng thí thực cho PhậtKhi Phật giáo hóa cho dân chúng được khoảng 30-40 năm thì Ngài Mục Kiền Liên lên cõi trời thấy trên đó toàn là Phật tử.

Ngài mới về kể lại "Truyện Thiên Cung" được ghi trong Tiểu Bộ Kinh.

Ngài nói rằng: "Chư thiên toàn là Phật tử" và Đức Phật cũng xác nhận là đúng sự thật.

Bởi vì sao?Bởi vì như ông Trưởng khố chỉ cúng 1 bữa ăn cho vị Độc Giác Phật thì phúc được giàu sang cả đời tài sản tiền vàng chuyển bằng xe bò 7 ngày mới hết.

Thế nên 45 năm Phật và Chư tăng đi khất thực thì bao nhiêu dân chúng cúng dường các vị.

Rồi Chư tăng có nhiều vị A-la-hán thì Phúc bằng với vị Độc Giác Phật.

Thế nên chỉ cần cúng dường thức ăn cho Phật và Chư tăng là có đủ phúc lớn được sinh thiên.Hay ta còn nhớ truyện Tôn giả Ma-ha Ca Diếp thiền định 7 ngày và khi xuất định thì Ngài đói.

Khi đó 500 Chư thiên và Tiên nữ hiện ra đứng xếp hàng cúng Ngài đồ ăn mà Ngài không nhận.

Ngài đi đến nhà nghèo có vợ chồng hòa thuận để xin đồ ăn.

Lúc nhận đồ ăn thì thấy hương thơm bốc lên cả một vùng.

Tôn giả mới định tâm nhìn lại thì ra là Thiên chủ Đế Thích và vợ Thiện Sanh hóa thành.

Ta thấy cúng đồ ăn cho một vị thánh khi vị đó đang đói thì phúc lớn đến mức Chư thiên còn phải tranh cướp, lừa đảo, biến hóa, mưu mô, quỷ kế để chiếm đoạt.Bài học 4: Kẻ giàu đa phần chủ quan và kiêu ngạoTa thấy ông Trưởng khố nọ ngược hoàn toàn với ông Cấp Cô Độc.

Ông Cấp Cô Độc thì bố thí không tiếc tiền, cúng dường Chư tăng và Đức Phật cả Tinh xá Kỳ Viên.

Chỉ riêng tiền mua miếng đất ông đã dùng tiền vàng phủ kín mặt đất.Còn ông Trưởng khố thì cúng vị Độc Giác Phật đồ ăn xong thì tiếc.

Đời này giàu có mà keo kiệt, hà tiện và không bao giờ cúng Chư tăng hay cho ai 1 đồng.

Ông hoàn toàn không tin Nhân quả, chẳng biết đạo và chủ quan tự cho mình tài giỏi nên giàu.Vậy nên thế gian có 2 loại kẻ: Kẻ loại 1: cứng đầu, kiêu ngạo, chủ quan, tự cho mình là tài giỏi mà thành công.

Họ tin vào sức mạnh đồng tiền, tin vào quyền lực, tin vào mưu kế thủ đoạn thì giàu có.

Kẻ loại 2: Khiên tốn, hiền lành, thiện tâm, tin vào lẽ phải và Nhân Quả, tin vào Chánh pháp Đức Phật.Ngày nay Luật Nhân Quả ít người tin, Chánh pháp của Phật ít người giảng.

Thế nên những kẻ giàu có bởi kiếp xưa gieo Nhân giàu nay được giàu thì không tin Nhân Quả.

Ngày nay đa phần người giàu sẽ giống ông Trưởng khố đó: cứng đầu, tin vào sức mạnh đồng tiền, tin vào sức mạnh quyền lực, tin vào mưu kế tài giỏi mà giàu.

Chẳng bao giờ họ tin là vì Nhân quả tạo thành quả báo khiến được giàu có.Họ biết đâu rằng: "Thành công là Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa".

Sức mạnh tiền bạc, quyền lực, sự tài giỏi thông minh trí tuệ, mưu kế... là "Nhân" chỉ chiếm 1/3.

Còn "Thiên thời, Địa lợi" tức là cơ hội ngàn năm có 1 kéo tới và môi trường xã hội thuận lợi không phải do ta cố gắng mà có.

Thiên thời, Địa lợi là quả báo lành hội tụ đủ duyên tạo thành.Bài học 5: Quả báo chỉ đến khi đủ duyênÔng trưởng khố kiếp xa xưa từ thời vị Độc Giác Phật đã cúng Phật bữa ăn ngon.

Rồi kiếp sau thì ông giết đứa cháu con anh trai để chiếm tài sản thừa kế của cậu.

Nhưng quả báo không đến ngay và luôn.

Quả báo cũng không đến ở các kiếp sau gần đó.

Quả báo chờ đợi rất nhiều kiếp nay mới đến.

Mà nó đến gần như đồng loạt cùng lúc trong 1 kiếp này.

Và mức độ to lớn thì gấp bội.Ta nên nhớ nguyên tắc của Luật Nhân Quả là Quả báo càng đến muộn thì càng lớn bởi "Lãi xuất bậc thang".

Giống như Đức Phật Thích Ca thời Nhiên Đăng Cổ Phật thì là thanh niên Thiện Tuệ.

Ngài đã vì tôn kính Phật mà nằm ra đống bùn để Phật bước qua.

Sau đó Phật thọ ký Ngài sẽ thành Phật ở tương lai.

Nay trải qua 4 A-tăng-tỳ kiếp thì quả báo mới tới vĩ đại.

Đức Thiện Tuệ thành Đức Phật Thích Ca.Ông trưởng khố giàu có tiền vàng chuyển bằng xe bò 7 ngày không hết là quả báo ông cúng vị Độc Giác Phật bữa ăn ngon.

Nhưng ông hà tiện không hưởng chút gì từ tài sản đó là quả báo ông cúng xong mà tiếc của.

Ông hại anh trai không có con thừa kế nên quả báo không có con.

Ông giết đứa cháu để cướp tài sản thì quả báo chết đọa Địa ngục.Bài học 6: Tài sản khiến kẻ ngu quên đường về giác ngộVì tham lam tài sản mà "Kẻ ngu" ông Trưởng khố đó cúng đồ ăn xong thì tiếc rẻ.

Vì tham lam tài sản mà "Kẻ ngu" ông Trưởng khố đó giết đứa cháu trai để cướp tài sản thừa kế của cháu.

Thế nên Khổng Tử nói rằng: "Tham tiền thì cuồng điên – Tham quyền thì ác độc".Kẻ tham tiền và tài sản thì như hóa điên, lao vào kiếm tiền như con thiêu thân, cạnh tranh, mánh lới, hơn thua, cướp đoạt.

Còn kẻ tham quyền thì mưu mô quỷ kế hại người để "Chiếm cái ghế" bởi "Ghế thì ít mà đít thì nhiều".
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Pháp Cú 356,357,358,359: Truyện phúc báu bố thí


"Cỏ làm hại ruộng vườnTham làm hại con ngườiBố thí giúp hết thamNên được quả báo lớn."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 356)"Cỏ làm hại ruộng vườnSân làm hại con ngườiBố thí giúp hết sânNên được quả báo lớn."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 357)"Cỏ làm hại ruộng vườnSi làm hại con ngườiBố thí giúp hết siNên được quả báo lớn."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 358)"Cỏ làm hại ruộng vườnDục làm hại con ngườiBố thí giúp hết dụcNên được quả báo lớn."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 359)Tích Pháp Cú: Lần đó Đức Phật lên cõi trời Đao Lợi để thuyết pháp cho thân mẫu Ma-gia.

Khi Phật đến đó thì Chư thiên hội tụ đông nghẹt cõi trời Đao Lợi.

Trong số các Chư thiên đó có 2 vị Phi Thiên Dạ Xoa cõi thần Asura.

Một vị tên là In-đa-ca, một vị tên là An-cu-ra.Hai vị đó đến sớm trước tiên và hầu hạ Phật.

Khi Chư thiên khác kéo về đông nghẹt thì In-đa-ca vẫn ngồi yên cạnh tòa sen của Phật.

Còn An-cu-ra thì lùi dần về sau để nhường chỗ cho các Thiên tử khác.Các Chư thiên hào quang sáng chói nên An-cu-ra cứ lùi về sau để nhường chỗ hoài cuối cùng ông cách Phật mấy giao tuần.

Đến khi Chư thiên hội tụ ổn định chỗ ngồi xong thì An-cu-ra thấy mình đã cách Phật quá xa.

Thế rồi ông hơi buồn mà nghĩ rằng:"In-đa-ca khi mới đến hầu Phật thì cũng giống ta.

Thế nhưng khi Chư thiên đến thì ông ta vẫn ngồi đó cạnh đài sen của Phật.

Còn ta thì bị động tâm cứ phải lùi về sau nhường chỗ.

Nay ta đã cách Đức Thế Tôn quá xa mất rồi".Đức Phật ngồi trên đài sen ở xa xa nhưng biết tâm của An-cu-ra buồn rầu.

Thế nên Phật dùng thần thông truyền âm nói riêng cho An-cu-ra nghe:- Này An-cu-ra, ông đừng buồn phiền vì sự chênh lệch này.

Bởi vì phúc của ông và In-đa-ca là hoàn toàn sai biệt.

Khi ở trần gian lúc Ngài A Lậu Lâu Đà (A-lu-ru-đa) chứng Thiên nhãn thì In-đa-ca đã thường xuyên cúng dường Tôn giả.

Còn An-cu-ra lại không quan tâm lắm đến việc cúng dường A-la-hán mà ông thích giúp ích lợi cho đông đảo nhiều người.- Phúc đó đến nay tạo thành quả báo khác nhau.

Phúc giúp lợi ích cho số đông mọi người không bằng phúc cúng dường bậc A-la-hán.

Tuy vậy cũng nhờ hạnh bố thí đó nên nay An-cu-ra được sinh cõi trời.Sau đó Phật đọc bài kệ:"Cỏ làm hại ruộng vườnTham làm hại con ngườiBố thí giúp hết thamNên được quả báo lớn."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 356)"Cỏ làm hại ruộng vườnSân làm hại con ngườiBố thí giúp hết sânNên được quả báo lớn."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 357)"Cỏ làm hại ruộng vườnSi làm hại con ngườiBố thí giúp hết siNên được quả báo lớn."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 358)"Cỏ làm hại ruộng vườnDục làm hại con ngườiBố thí giúp hết dụcNên được quả báo lớn."(XXIV-Phẩm Tham Ái, Pháp Cú 359)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Chọn nơi đất tốt mà gieo hạtTa thấy cùng là bố thí cúng dường giúp đời, nhưng In-đa-ca thì cúng dường bậc thánh A-la-hán còn An-cu-ra thì chọn làm lợi ích số đông như đắp đường, đắp đê, làm cầu.Nếu trong thời không có ai chứng A-la-hán thì việc lợi ích số đông như xây dựng: Điện - Đường - Trường - Trạm là ích lợi lớn nhất.

Bởi chỉ cần làm 1 con đường thôi thì bao nhiêu người được đi lại thuận tiện.

Đến như Thiên Chủ Đế Thích được làm Thiên Chủ cũng là nhờ khi còn là ông hoàng Xác Ca thì ông đã làm đường cho dân.

Thế nên làm đường là có phúc lớn.Nhưng khi có các vị A-la-hán trên đời thì phúc cúng dường bữa ăn cho A-la-hán lớn đến mức 500 Thiên tử đứng hàng dài mong được cúng cho Tôn giả Ma-ha Ca Diếp.

Nhưng Tôn giả "khổ hạnh đệ nhất" đó không nhận đồ ăn cõi trời.

Ngài đi đến nhà vợ chồng nghèo khổ ven đường xin đồ thí thực.

Đến khi vợ chồng đó xới cơm vào bát cho Tôn giả thì mùi hương bay khắp trời đất.

Tôn giả định tâm nhìn lại hóa ra Thiên Chủ Đế Thích và vợ Thiện Sanh hóa ra.Vậy vì sao phúc báu giúp đỡ số đông mọi người lại không bằng phúc cúng dường A-la-hán?Bởi vì một vị A-la-hán có phúc vĩ đại, đạo đức tuyệt đối, tâm không nhiễm ô, tập khí, kiết sử.

Một vị A-la-hán xuất hiện làm thay đổi vận khí quốc gia đó.Ví như Phật Hoàng Trần Nhân Tông lãnh đạo dân Đại Việt đánh bại quân Nguyên Mông xâm lược nước ta lần 2, 3.

Mỗi lần quân Nguyên Mông kéo sang nước ta 50 vạn quân.

Tổng 2 lần là hơn 1 triệu quân.

Thế nên mới có thành ngữ "Đông như quân Nguyên".

Thời đó diện tích Đại Đế Quốc Mông Cổ là 35 triệu km2 còn Đại Việt là 100.000 km2.

Tức Đại Đế Quốc đó rộng gấp 350 lần Đại Việt.

Phật Hoàng Trần Nhân Tông khi viên tịch hỏa thiêu có 3000 viên Ngọc Xá Lợi Ngũ Sắc là minh chứng cho sự đắc đạo.Vậy nên khi một vị A-la-hán xuất thế thì một vùng, một đất nước, một dân tộc đều được hưởng thái bình hạnh phúc.

Phúc Đức của A-la-hán vô cùng lớn.

Ngoài ra các vị A-la-hán còn dạy Chánh pháp và đạo đức cho đời.

Hoặc các Ngài âm thầm cảm hóa tâm dân chúng khiến muôn dân đều đạo đức lương thiện.

Khi dân chúng có đức thì tự làm thiện tích phúc mà có được quả báo hạnh phúc.

Giúp cho dân biết đạo đức và hiểu Chánh pháp chính là giúp dân được hạnh phúc từ gốc rễ.Còn ta làm đường, làm cầu, xây trường học cho dân chỉ là ngọn.

Nếu dân không có phúc để hưởng thì ta làm mà dân không không có số để hưởng.

Ví dụ ta làm xong thì thiên tai, lũ lụt phá tan thành quả của ta.

Hoặc chiến tranh, dịch bệnh, mất mùa đói kém khiến dân bỏ xứ đi nơi khác.Thêm nữa, nếu xã hội mà thiếu đạo đức, kẻ ác nhiều mà ta giúp đỡ người ta lại mang tội.

Giống như kẻ làm đường bắc cầu cho đạo quân Phát Xít đi xâm lược thế giới thì đâu có phúc.

Kẻ đó là đồng lõa tiếp tay cho tội diệt chủng nhân loại đó chứ?Bài học 2: Làm phúc vị tha và tùy duyênCó câu rằng "Làm phúc quá tay ăn mày chẳng kịp"Đầu tiên ta cần biết rằng Ta và Người đều là những chúng sinh trong Luân hồi.

Ta giúp người thì có phúc nếu người là thiện lương đạo đức.

Ta giúp nhầm kẻ ác độc phạm tội thì ta mang tội.

Nếu ta là người đạo đức.

Ta giúp ta được bình an có sức khỏe có điều kiện làm thiện nghiệp thì cũng tích phúc.Ta hi sinh hết tất cả tài sản sức khỏe của ta để giúp đời là sai lầm.

Hoặc ta quá tham lam ích kỷ bòn rút, tranh cướp tài sản của thế gian về cho ta cũng sai lầm.

"Thái quá bất cập" là vậy.

Ta hãy hài hòa, phù hợp giữa ta và người mà tùy duyên làm phúc.Đặc biệt làm phúc phải hướng đến giải quyết tận gốc nỗi khổ chúng sinh.

"Chúng sinh bị khổ bởi tâm có tham, sân, si và không biết Nhân Quả".

Vậy làm phúc lợi ích nhất, vĩ đại nhất là mang đạo đức, Luật Nhân Quả dạy đời.

Nếu ta không có đủ Chánh kiến, không có điều kiện nói pháp thì ta tìm cách hỗ trợ các thầy dạy đạo đức hay các giảng sư chân chính.

Đó là làm phúc tận gốc nỗi khổ của chúng sinh.Bài học 3: Làm phúc không mong cầu quả báo đời này và đời sauNếu ta làm phúc mà cân đong đo đếm, tính toán nhiều ít để hi vọng quả báo lành đến cho ta hưởng là sai lầm nguy hiểm.

Vì sao lại nguy hiểm?Bởi làm phúc mà mong cầu quả báo lành tới để hưởng là Tham Vọng.

Khi phúc tới thì "Cầu được ước thấy".

Ta sẽ hưởng phúc báu đó trong dục lạc thế gian và dừng không làm phúc nữa.

Bởi mục tiêu của làm phúc là giàu có quyền lực.

Nay đã giàu có quyền lực rồi là ta toại nguyện mà dừng lại.

Khi đó phúc sẽ không tạo thêm mà tiêu phúc vào dục lạc thế gian thì càng ngày càng nhiều.

Đến khi phúc hết ta bị đọa vào cõi Súc sinh.

Nếu trong thời gian hưởng thụ ta còn tạo tội thì đọa Địa ngục.Chỉ có làm phúc hướng đến mục tiêu "Cứu giúp chúng sinh thoát khổ" thì mục tiêu đó sẽ mãi mãi không bao giờ đạt.

Và ta sẽ đi mãi trên con đường làm thiện tích phúc không dừng lại.

Đó mới là vĩ đại.Bài học 4: Kém phúc tự dưng bị hèn, thần vía yếuAn-cu-ra kém phúc nên thần vía yếu.

Nếu là người thì gọi là "Hèn".

Vị đó bị những vị phúc lớn, quyền uy và có thần lực mạnh át mất hồn vía.

Thế nên vị đó cứ phải lùi lại nhường chỗ cho Chư thiên phúc lớn đến sau.Giống như kẻ nghèo hèn mà đứng cạnh kẻ giàu sang quyền quý thì tự dưng khúm lúm, rụt rè, sợ hãi.

Dù rằng tâm họ không cố tình làm vậy nhưng vì kém phúc sẽ bị kẻ phúc lớn "lấn át mất thần vía".Nên "Giàu" luôn đi đôi với "Sang trọng quý phái".

Dù không cố gắng thì sự sang trọng quý phái đó do phúc của kẻ giàu tự hiện ra.

"Nghèo" thì luôn đi đôi với "Hèn hạ yếu mềm".

Dù không cố gắng thì sự hèn hạ yếu mềm đó là do thiếu phúc của kẻ nghèo tự xuất hiện.

Ma Y Tướng Pháp gọi đó là: "Thần thái" và là Thượng Thừa Tướng Pháp.Bài học 5: Bố thí diệt tham, sân, si, dụcBởi tâm ta có tham, sân, si, dục nên lời nói và hạnh động của ta tạo Ác nghiệp.

Đến khi đủ duyên thì Ác nghiệp tạo thành quả báo khổ hại đời ta tan nát.

Giống như cỏ dại mọc ở vườn không cho các loại cây trồng lương thực phát triển.

Cuối cùng khi các cây lương thực chết thì ta cũng chết.Bố thí tích phúc báu để tương lai có quả báo hạnh phúc là lợi ích 1.

Lợi ích 2 là: "Hành động bố thí giúp ta diệt tham, sân, si, dục".

Tham là thèm khát vật chất.

Sân là thèm khát danh vọng.

Si là ngu si vì tâm có tham danh lợi.

Dục là bản chất cõi Dục giới.Ta bố thí cho người vật chất thì diệt Tham.

Ta bố thí cho đi để danh vọng ta bé lại thì diệt Sân.

Ta bố thí giảm tham danh lợi thì diệt Si.

Ta bố thí đi lên làm thánh nên vượt thoát cõi Dục Giới và giảm ham muốn tình dục thì diệt Dục.
 
19-Tích Pháp Cú - Tập 6 (Pc301-Pc360)
Chương 25: PHẨM TỲ KHEO- Pháp Cú 360,361: Truyện Tỳ kheo phòng hộ 6 căn 3 nghiệp


"Lành thay phòng hộ mắtLành thay phòng hộ taiLành thay phòng hộ mũiLành thay phòng hộ lưỡi."(XXV-Phẩm Tỳ Kheo, Pháp Cú 360) "Lành thay phòng hộ thânLành thay phòng hộ lờiLành thay phòng hộ ýLành thay phòng tất cảTỳ kheo phòng tất cảThoát được mọi khổ đau."(XXV-Phẩm Tỳ Kheo, Pháp Cú 361)Tích Pháp Cú: Có 5 vị Tỳ kheo thì mỗi vị lại có suy nghĩ khác nhau về 5 giác quan.

Có ông nói rằng: "Trong phòng hộ các căn thì sợ nhất là phòng hộ con mắt.

Mắt thì lúc nào cũng nhìn thấy mọi vật, thấy người đẹp thì mê, thấy giàu thì ham.

Vậy ta nên phòng hộ con mắt".Có ông thì nói: "Trong phòng hộ các căn thì sợ nhất là phòng hộ cái tai.

Tai nghe âm thanh của tình cảm thì tâm bị rung động.

Tai nghe tiếng nhạc tình ai oán thì tình ý khởi, tai nghe tiếng chửi nhau thì tâm sân hận, điều tai nghe sẽ đánh mạnh vào tâm ta.

Vậy ta nên phòng hộ tai".Có ông thì nói rằng: "Trong phòng hộ các căn thì sợ nhất là phòng hộ lưỡi.

Bởi khi được ăn đồ ăn ngon là tâm cứ nhớ nó và thèm nó không thể dứt.

Vậy ta nên phòng hộ lưỡi".Rồi có ông thì nói là "Phòng hộ cái mũi là đáng sợ nhất".

Còn ông thì nói là "Phòng hộ thân thể xúc chạm là đáng sợ nhất".

Rồi 5 ông đó không ai chịu ai bèn kéo nhau đến gặp Phật.

Đức Phật nói rằng:"Căn nào cũng đáng sợ.

Ngoài 5 căn cảm thọ môi trường ta còn cần phải phòng hộ cả lời nói của mình tạo khẩu nghiệp, hành động của mình tạo thân nghiệp.

Nhưng đáng sợ nhất là phòng hộ ý căn".Rồi Phật kể chuyện:Vào kiếp xưa lúc đó Phật làm vua.

Rồi đất nước lân bang bị tan hoang vì lý do gì đó.

Thế là vua mang quân sang tiếp quản nước đó.

Trên đường đi thì quan binh bị dụ dỗ bởi mắt thấy hình ảnh, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị mà gục ngã giữa đường không thể đi đến đích.

Chỉ có vị vua đó và một số cận thần biết phòng hộ các căn không bị nhiễm ô thì tới đích.Sau đó Phật đọc bài kệ:"Lành thay phòng hộ mắtLành thay phòng hộ taiLành thay phòng hộ mũiLành thay phòng hộ lưỡi."(XXV-Phẩm Tỳ Kheo, Pháp Cú 360) "Lành thay phòng hộ thânLành thay phòng hộ lờiLành thay phòng hộ ýLành thay phòng tất cảTỳ kheo phòng tất cảThoát được mọi khổ đau."(XXV-Phẩm Tỳ Kheo, Pháp Cú 361)Bài học kinh nghiệmBài học 1: Phòng hộ 6 cănPhòng hộ là đề phòng và bảo vệ.

Từ phòng hộ ngày nay ta hay dùng là "Phòng hộ đê điều", "Phòng hộ cháy rừng", tức là đề phòng và bảo vệ đê không bị vỡ, đề phòng bảo vệ rừng không bị cháy.Vậy phòng hộ 6 căn là thế nào?Phòng hộ ở đây không phải giống như con khỉ Tam Không: Bịt tai không cho nghe, bịt mắt không cho nhìn, bịt miệng không cho ăn.

Nếu phòng hộ kiểu đó thì ta thành người khuyết tật: Bị mù, bị điếc, và bị cắt lưỡi.Phòng hộ ở đây là phân biệt cái gì có ích lợi và cái gì có hại.

Sau đó ta lựa chọn cái có ích mà làm và hạn chế cái có hại.

Ví dụ: Mắt được phép nhìn cảnh trí đẹp đẽ, thanh tịnh khiến tâm an vui yên tĩnh.

Mắt không được nhìn cô gái khỏa thân, hở hang, thiếu vải, hay mắt không được xem phim 18+.Tai được phép nghe tiếng kinh, nghe đạo lý Chánh pháp, nghe nhạc đạo, nhạc thiền giúp tâm được thanh tịnh và hiểu thêm đạo lý Chánh pháp.

Tai không được nghe tiếng chửi bậy, chửi thề, tranh cãi, hò hét, kích động hay tiếng nhạc vũ trường bốc lửa hay nhạc tình sến sẩm.

Lưỡi nếm vị đồ ăn thanh tịnh giúp có đủ dưỡng chất nuôi cơ thể.

Lưỡi không nếm vị của rượu bia, không tham món ăn sơn hào hải vị, không ăn món ăn thịt động vật sắp tuyệt chủng hay đồ ăn kích dục.Mũi ngửi hương thanh tịnh, mùi trầm, mùi sen, mùi nhài.

Không ngửi mùi xú uế hoặc mùi hương kích dục của nước hoa, hương người khác giới.Thân được hưởng cảm giác của nệm êm, chăn ấm khi trời rét, quạt mát khi trời nóng.

Thân không xúc chạm người khác giới, sờ mó thứ không đáng sờ, sờ mó thứ kích thích tình dục.Ý nên nghĩ các pháp phân biệt thiện ác, đúng sai, phải trái, chánh tà.

Sau đó chọn điều chánh thiện để làm.

Ý không được sân hận, kiêu mạn, tham lam, ái dục hay ý ác độc muốn hại người đau khổ.Đó chính là phòng hộ 6 căn.

Chứ không phải bịt tai, bịt mắt, bịt miệng thì là phòng hộ.Bài học 2: Phòng hộ 3 nghiệpTrong Kinh Sa Môn quả thì Đức Phật chỉ nói một vị Sa Môn cần phòng hộ 6 căn.

Nhưng Pháp Cú này thì Phật mở rộng thêm phòng hộ Tam Nghiệp.

Phòng hộ 6 căn là đề phòng bảo vệ yếu tố ngoại vi từ môi trường tác động vào tâm qua 6 căn.

Phòng hộ 6 căn khiến tâm thanh tịnh giúp ích cho việc tu hành.Còn Tam Nghiệp là ta tác động vào môi trường bằng Ý nghiệp, Thân nghiệp, Khẩu nghiệp là thiện hay ác.

Nghiệp thiện sẽ có quả báo hạnh phúc, nghiệp ác sẽ có quả báo đau khổ ở tương lai.Phòng hộ 6 căn rất quan trọng cho người tu.

Bởi nếu không phòng hộ thì tâm sẽ loạn động, tham, sân, si khởi lên chẳng thể tu.

Nhưng đối với người tại gia thì không quan trọng lắm bởi người phàm tâm hơi loạn tí không sao.

Người phàm quan trọng là phải có phúc để thoát 3 Ác đạo sinh cõi Phúc lànhTam Nghiệp thiện lành là tích phúc.

Mà Phúc thì người tu rất cần vì thiếu phúc chẳng thể tu.

Tuy nhiên khi làm Sa Môn thì lìa xa thế tục, cắt đứt duyên thế tục, từ bỏ thế gian và bỏ các niệm thế tục.

Thế nên Sa Môn khó tạo phúc.

Vậy nên Tam Nghiệp tích Phúc là giai đoạn trước khi xuất gia.Tam Nghiệp lành thiện tích phúc báu to lớn vĩ đại có thể sinh ra làm vua, làm tỷ phú, hay sinh cõi Thần và Trời.

Vị đó phải từ bỏ phúc thế gian mà hướng phúc báu đó vào tu hành thì sẽ đắc đạo.

Còn khi đã xuất gia rồi thì khó tạo phúc so với người tại gia.Nhưng khi Sa Môn đó đắc đạo có Chánh pháp và đưa Chánh pháp vào đời thì phúc vô lượng vô biên.Bài học 3: Phòng hộ ý căn là quan trọng nhất5 căn là 5 giác quan tiếp xúc với thực thể bên ngoài truyền đến não bộ xử lý.

Từ đó sinh ra THỌ là cảm xúc buồn vui sướng khổ.

Từ Thọ sẽ sinh ra ÁI là yêu thích thứ làm ta vui sướng.

Từ Ái sẽ sinh ra THỦ là tâm muốn nắm giữ thứ làm ta vui sướng.

Từ Thủ sẽ sinh ra HỮU là tâm muốn sở hữu thứ làm ta vui sướng.

Vì có Hữu nên mới có SINH và tái sinh.

Vì có Sinh nên sẽ có LÃO TỬ (già chết) tạo thành Luân hồi trầm luân bất tận.

Đó là lý thuyết Duyên Khởi.Vậy nếu 5 giác quan tiếp xúc môi trường mà tâm tĩnh lặng không vui sướng thèm khát hay ham muốn thì không có hại.

Ví dụ: Đức Phật vẫn nhận đồ ăn cúng dường ngon bổ từ các gia chủ.

Nhưng Phật ăn đồ ăn đó mà tâm tĩnh lặng, biết ngon mà tâm không thèm khát.

Nên Ý căn là quan trọng nhất.Hoặc khi 5 giác quan không tiếp xúc với môi trường nhưng tâm nhớ nghĩ, tưởng tượng ra hình ảnh, hương, vị, âm thanh, cảm xúc qua thân... mà tự thấy thích thú thèm khát thì vẫn dẫn đến đau khổ.Nên phòng hộ 5 căn là điều cần có trước tiên.

Nhưng phòng hộ ý căn là quan trọng nhất và thường xuyên liên tục 24/7.

Phòng hộ 5 căn thì khi có điều kiện tiếp xúc ta mới cần phòng hộ.

Còn tâm ý thì liên tục cần đề phòng không phút giây nghỉ ngơi."

Ý dẫn đầu các pháp - Ý làm chủ tạo tác" từ tâm ý sẽ dẫn đến hành động và lời nói tạo nghiệp.

Do vậy phòng hộ Tam Nghiệp thì Ý Nghiệp là quan trọng nhất.

Ý thanh tịnh thì tự khắc lời nói và hành động sẽ thanh tịnh.Bài học 4: Ngược với phòng hộ là buông thả"Buông thả" trong kinh Phật hay dùng từ "Phóng dật".

Kẻ sống phóng dật thì không hề phòng hộ các căn.

Thậm chí kẻ đó còn cố tình tìm hình ảnh đồi trụy, sexy, lõa lồ để xem.

Cố tình tìm đến vũ trường để nghe nhạc kích động.

Cố tình tìm đồ ăn kích dục, uống thuốc kích dục để khoái lạc.

Cố tình ngửi hương từ cơ thể khác giới để phấn khích.

Còn thân thể thì họ gần gũi, nắn bóp, xúc chạm người khác giới... gọi là "Phóng dật" hay "Buông thả".Tuy nhiên người phàm còn cuộc sống tại gia thì không phòng hộ cũng không sao.

Miễn là đừng thái quá.

Ví dụ suốt ngày xem phim Sex thì bị bệnh "Nghiện tình dục".

Suốt ngày ăn đồ ăn kích dục hay uống thuốc Viagra để hưởng thụ tình dục thì dễ chết.Kẻ sống phóng dật thì tâm ý loạn động, thèm khát, bất an.

Kẻ đó thích thể hiện đẳng cấp, sang chảnh, cá tính, bố đời.

Từ đó kích động tham, sân, si tạo thành hành động và lời nói ác nghiệp.

Ác nghiệp sẽ tạo thành quả khổ ở tương lai.Hết tập 6Mời bạn đón đọc tập 7Xin trân trọng cảm ơn!
 
Back
Top Bottom