"Như từ một đống hoaKết thành nhiều tràng hoaCũng vậy thân sinh tửLàm được nhiều việc thiện"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 53)Tích Pháp Cú: Kệ Pháp Cú trên là Phật khen tặng nữ tín chủ vĩ đại nhất thời Đức Phật.
Bà Vi-sa-ca xứ An-ga là một tiểu quốc thuộc đại quốc Ma Kiệt Đà.Thời Đức Phật, Ấn Độ có 2 đại quốc lớn.
Phía bắc là đại quốc Ko-sa-la của vua Ba Tư Nặc.
Vua sinh cùng năm, mất cùng năm với Phật.
Năm Phật 29 tuổi Người từ bỏ hoàng cung xuất gia làm Sa Môn thì vua Ba Tư Nặc lên ngôi.
Cuối đời vua Ba Tư Nặc bị con trai là hoàng tử Lưu Ly cướp ngôi mà buồn rầu chết ngoài thành.
Mời bạn tìm đọc Tích Pháp Cú 47.Phía nam là đại quốc Ma Kiệt Đà của vua Bình Sa.
Về sau vua Bình Sa bị hoàng tử A Xà Thế dưới sự kích động của Đề Bà Đạt Đa đã giết cha cướp ngôi.
Sau đó vua A Xà Thế trao nhiều đặc quyền cho Đề Bà Đạt Đa.
Kể từ đó Đề Bà Đạt Đa nổi lên chống phá Phật và tăng đoàn.
Cuối cùng là cái chết đau khổ của Đề Bà.
Mời bạn tìm đọc Tích Pháp Cú 17.Hai đại quốc đó ngăn nhau bởi con sông Hằng nổi tiếng.
Thành ngữ: "Hằng hà sa số" tức "Nhiều như cát sông Hằng" là câu thành ngữ cổ của người Ấn Độ.Vua Bình Sa và vua Ba Tư Nặc là 2 anh em rể và họ coi nhau như anh em một nhà.
Nên dân chúng 2 nước qua lại buôn bán hoàn toàn tự do.
Hai đại quốc đó có các tiểu quốc lệ thuộc ở xung quanh.
Các tiểu quốc có phân chia ranh giới chính trị quản lý còn dân tự do qua lại buôn bán.
Các tiểu quốc giống như các tỉnh hay bang nằm trong một nước vậy.Bà Vi-sa-ka sinh ra ở nước An-ga phía đông Ma Kiệt Đà.
Năm bà 7 tuổi thì Phật qua xứ đó thuyết pháp và gia đình bà đi nghe.
Bà nghe pháp xong chứng Sơ quả Dự Lưu ngay tức thì dù chỉ mới 7 tuổi.Ta nên biết Sơ quả Dự Lưu tức "Bắt đầu bước vào dòng thánh".
Vị thánh du diệt trừ được 3 Kiết sử đầu thì đắc Sơ quả Dự Lưu.
Kể từ đây vị đó vĩnh viễn không bị đọa vào 3 ác đạo, tương lai chắc chắn được giải thoát Niết Bàn.
Thiên chủ Đế Thích mới chỉ chứng Sơ quả mà thôi.Ông nội bà Vi-sa-ka là chủ ngân hàng.
Cha bà thừa kế tài sản cũng là chủ ngân hàng.
Cha có nhiều vợ và bà là con vợ cả.
Gia đình Vi-sa-ka là một trong 7 đại phú gia giàu nhất Ma Kiệt Đà và các tiểu quốc.Vua Ba Tư Nặc thường hay đi thăm vua Bình Sa và bàn chuyện chính trị.
Vua Ba Tư Nặc phát hiện nước Ma Kiệt Đà có nhiều đại phú gia tiền nhiều ngang vua.
Thành Vương Xá là nơi đặt Tinh xá Trúc Lâm do vua Bình Sa tặng Phật.
Nên Phật và chư tăng hay giảng pháp cho dân chúng.
Do vậy các đại phú gia đều biết Phật pháp và đạo đức lương thiện.
Chính họ đã thúc đẩy nền kinh tế nước Ma Kiệt Đà.Vua Ba Tư Nặc đã đề nghị vua Bình Sa cho một đại phú gia mang toàn bộ tài sản chuyển đến sống ở Xá Vệ để thúc đẩy kinh tế Ko-sa-la.
Vua Bình Sa đồng ý và ra lệnh cho gia đình bà Vi-sa-ka phải di chuyển đến thành Xá Vệ.Một đoàn hàng ngàn, hàng vạn những con người gồm họ hàng thân quyến, người hầu kẻ hạ, tôi tớ, gia nô, quản gia, địa chủ... kéo theo tài sản, tiền vàng lũ lượt đi về thành Xá Vệ nước Ko-sa-la.
Khi đi đến gần Xá Vệ thì cha bà Vi-sa-ka thấy mảnh đất đẹp thanh bình, trù phú, thuận tiện phát triển nên ông xin vua Ba Tư Nặc dựng cơ nghiệp tại đây.Trong thành Xá Vệ có con trai chủ ngân hàng giàu có tên là Mi-ga-ra không chịu lấy vợ.
Chàng bị gia đình ép buộc lấy vợ thì từ đặt ra tiêu chuẩn cho cô vợ tương lai phải: Công dung ngôn hạnh, sắc nước hương trời... và gia thế nhà đó phải có tài sản lớn hơn tài sản gia đình chàng.Cha chàng bèn đề nghị 5 vị Bà-la-môn đi khắp nước tìm bằng được người con gái đáp ứng yêu cầu của cậu con trai.
5 Bà-la-môn đi khắp nước tìm rất lâu mà không được.Một lần họ đến vùng đất phía nam Xá Vệ thì thấy vùng này dân chúng đông vui giàu có.
Bất chợt trời đổ trận mưa to và mọi người cắm đầu chạy trú mưa.
Duy chỉ có một cô gái đẹp vẫn từ tốn đi trong mưa thong thả không chút vội vã.
Đó chính là Vi-sa-ka. (Vì sao vậy?
Vì bà đã đắc đạo làm thánh từ năm 7 tuổi nên mọi hành động đều giữ chánh niệm tỉnh giác).5 Bà-la-môn đến hỏi cô gái:- Thưa cô, sao trời mưa mọi người hối hả tìm chỗ trú thì cô lại đi thong thả.- Thưa các vị, có 4 trường hợp không nên chạy bừa bãi: (1) Một con voi đi giữa trận sẽ không bao giờ được chạy. (2) Một vị vua đang hành lễ sẽ không bao giờ được chạy. (3) Một vị Sa Môn sẽ không bao giờ được chạy. (4) Một người con gái đoan trang sẽ không bao giờ được chạy.5 Bà-la-môn thấy cô gái trẻ đối đáp khúc triết vậy thì nể phục.
Sau đó họ dò hỏi thì biết đó là con gái Đại phú gia giàu nhất Ma Kiệt Đà.
Họ được vua Ba Tư Nặc mời về xây dựng cơ nghiệp tại đó.
5 vị mừng rỡ vì đã tìm được người con gái trong mơ theo đúng yêu cầu cậu chủ.
Họ về báo tin và gia đình chàng trai đến xin cầu hôn Vi-sa-ka.Thuận theo ý cha mẹ, Vi-sa-ka nhận lời cầu hôn và đám cưới diễn ra linh đình.
Sau đó cha cô cho 8 gia đình đại gia chuyển nhà đến ở gần gia đình Mi-ga-ra để bảo vệ con gái.Về nhà chồng, cô phát hiện ra gia đình đó tu theo ngoại đạo Lõa thể.
Gia đình đó không theo Chánh pháp của Phật và không hiểu Nhân Quả.
Cô rất buồn.Một lần cô đứng hầu cạnh cha chồng là ông Mi-ga-ra đang ăn cháo sơn hào hải vị loại thượng hạng.
Khi đó có vị Tỳ kheo đi đến cửa đứng lại chờ được cúng thí thực rồi đi.
Cha chồng theo ngoại đạo Lõa thể nên không thích Tỳ kheo nên giả vờ không nhìn thấy.
Ông vẫn ngồi vô tư ăn cháo.
Cô Vi-sa-ka thấy cảnh đó lấy làm khó chịu.
Cô bèn đi đến Tỳ kheo và nói:- Thưa Tôn giả, người cha chồng của con đang ăn cháo cũ nên không tiện cúng dường.
Vậy mời Ngài đi sang nhà khác.Cha chồng cô nổi giận lôi đình.
Ông giàu thế này mà con dâu lại nói "ông ăn cháo cũ không đủ tiêu chuẩn cúng cho Tỳ kheo".
Ông đuổi cô ra khỏi nhà.
Cô bèn mời 8 đại gia đình giám hộ đến nói chuyện phải trái rồi cô mới đi.
8 đại gia đình kéo đến nghe chuyện đúng sai.
Cha chồng cô bắt đầu kết tội cô:- Nó là con dâu hỗn láo dám xúc phạm phẩm giá tôi.
Tôi giàu thế này mà nó bảo tôi ăn cháo cũ là sao?8 gia đình mời cô giải thích.
Cô đáp:- Thưa cha, con thấy cha không chịu cúng dường Tỳ kheo khất thực.
Mà vị Tỳ kheo đó cứ đứng chờ.
Nên con phải có lời nói đúng sự thật để vị Tỳ kheo đó vui lòng qua nhà khác.
Do đó con đã nói: "Cháo cũ không tiện cúng dường" và vị Tỳ kheo đó đã đi.
Còn ẩn ý "Cháo cũ" nghĩa là cha đang hưởng phúc quá khứ chứ không tạo được phúc mới.
Đó cũng là sự thật.- Thế sao có hôm nửa đêm cô bỏ ra chuồng ngựa?
Có phải cô hẹn ai ngoài đó?- Thưa cha, con ngựa Hồng Mao quý hiếm con mang từ Ma Kiệt Đà đêm đó nó đẻ.
Những người ở đây có thể không biết cách chăm sóc.
Nên con phải đích thân đến xem xét công việc.- Thế cô nói: "Không mang lửa ngoài nhà vào, không mang lửa trong nhà ra" là sao?- Thưa cha, con nói vậy ý là: Không mang chuyện thị phi ngoài xã hội vào nói trong gia đình.
Không mang chuyện gia đình kể cho hàng xóm.Cha chồng cô cứ kết tội thì cô lại giải thích thấu đáo, khúc triết, hợp tình, hợp lý và cô hoàn toàn đúng.
Lúc đó 8 gia đình mới nói với ông Mi-ga-ra: - Vậy chủ nhân của chúng tôi hoàn toàn vô tội.
Tiểu nữ chủ của chúng tôi sống hoàn toàn trong sạch.
Tiểu nữ chủ của chúng tôi không chút lầm lỗi.
Ông có công nhận không.Ông Mi-ga-ra im lặng đồng ý.
Cô Vi-sa-ka nói:- Thưa cha, trước cha và 8 gia đình con đã chứng minh không có tội.
Bây giờ con xin phép ra đi.Ông Mi-ga-ra hoảng sợ vì đã đuổi con dâu không có tội là con của Đại Phú Gia chính vua Ba Tư Nặc mời về thì tội của ông rất nặng.
Ông bèn nói:- Xin con ở lại và từ đây con được quyền quyết định cúng dường Phật và chư tăng.- Vâng thưa cha, vậy con xin phép ngày mai con sẽ thỉnh Phật và chư tăng về cúng dường.Hôm sau, Phật cùng chư Tỳ kheo đến thọ trai và thuyết pháp ở nhà ông Mi-ga-ra.
Khi đó ông ngồi sau bức màn nghe pháp.
Nghe xong Đức Phật giảng pháp thì ông chứng Sơ quả Dự Lưu.
Ông bước khỏi màn đến trước Phật quỳ xuống đảnh lễ Phật và xin quy y Phật.
Sau đó ông tuyên bố trước mọi người:- Thưa mọi người, người con dâu Vi-sa-ka này mới thực sự là mẹ của tôi.
Người đã sinh ra tôi một lần nữa.
Người đã làm cho tôi khai ngộ đạo pháp của Thế Tôn Gô-ta-ma.
Nếu không có người con dâu này tôi sẽ mãi mãi trong mê mờ u tối và không bao giờ có được niềm an lạc của đạo pháp nơi Đức Thế Tôn.
Nên hôm nay trước tất cả mọi người tôi xin nhận Vi-sa-ka là Người mẹ tinh thần của tôi.Chính vì vậy khi ta đọc Kinh nguyên thủy Nikaya đôi khi ta gặp đoạn kinh nói rằng: "Có tín nữ Vi-sa-ka mẹ của Mi-ga-ra đang đi đến thăm Thế Tôn".
Ta tưởng bà có con tên là Mi-ga-ra, nhưng thực sự Mi-ga-ra là tên của cha chồng bà.Sau khi nghe xong ông Mi-ga-ra tuyên bố vậy thì Phật đọc bài kệ khen tín nữ Vi-sa-ka:"Như từ một đống hoaKết thành nhiều tràng hoaCũng vậy thân sinh tửLàm được nhiều việc thiện"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 53)Ngày nay trong đạo Phật Vi-sa-ka là một thành ngữ dùng để ngợi khen những tín chủ chu đáo cúng dường chư tăng.
Đó là do tín nữ Vi-sa-ka nổi tiếng bởi hạnh nguyện cúng dường chu đáo, cẩn trọng, vẹn toàn tăng đoàn thời Đức Phật.Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Thân sinh tử và làm thiệnBài Pháp cú Phật ví các việc thiện như những cánh hoa.
Người thiện như tràng hoa được kết bởi nhiều cánh hoa.
Đời người có sinh có tử.
Thân sinh tử này ngắn ngủi.
Nếu đời này ta làm thiện ắt có phúc để hưởng ở tương lai.
Nếu đời này ta tạo tội ắt sẽ đọa 3 ác đạo khó quay lại.Ta có được thân người là đại duyên để làm thiện.
Trong 6 cõi Luân hồi, duy nhất cõi người là cõi có điều kiện tạo phúc.
Tam ác đạo là 3 cõi khổ để chúng sinh trả nợ ác nghiệp mà không có điều kiện tạo phúc.
Cõi thần, trời thì các vị trên đó hạnh phúc đủ đầy chẳng ai khổ nên chẳng ai cần giúp.
Chính vì không có điều kiện giúp đỡ nhau nên cõi thần, trời không có điều kiện tạo phúc.
Nên ta có duyên được sinh cõi người, có thân sinh tử ngắn ngủi này thì hãy ra sức làm thiện để tương lai tươi sáng.Bài học 2: Oai nghi tế hạnhCô bé Vi-sa-ka mới 7 tuổi mà nghe Phật giảng pháp lập tức chứng Sơ quả Dự Lưu.
Kể từ khi đắc đạo thì cô bắt đầu làm thánh.
Khi đó mọi hành động cử chỉ của Vi-sa-ka đều khác người phàm.
Cụ thể: "trong khi mọi người cắm đầu chạy tìm chỗ trú mưa thì cô vẫn điềm đạm thư thả".Do vậy, "Oai nghi tế hạnh" mà Phật dạy Tỳ kheo nếu ai đắc đạo thì mọi cử chỉ sẽ đat.
Còn ai chưa đắc đạo vẫn là phàm phu, tham, sân, si, kiêu mạn, ghen tị, ích kỷ... thì tự hiện tướng ở hành động của kẻ phàm phu "cắm đầu chạy".
Kẻ phàm phu có muốn học theo oai nghi tế hạnh cũng chẳng thể học nổi.
Muốn học được oai nghi tế hạnh phải sửa cái tâm.
Khi đạo đức tăng trưởng thì mọi hành động tự chuẩn.Bài học 3: Phúc lớn là điều kiện đầu tiênNhững vị phúc lớn đa phần là giàu có hoặc sinh ở giai cấp cao quý.
Họ có duyên được nghe Phật giảng pháp và có tâm tín thành thì lập tức đắc đạo.
Ta thấy nàng Vi-sa-ka có cha là chủ ngân hàng và là 1 trong 7 gia đình giàu nhất Ma Kiệt Đà.
Cha chồng cô là ông Mi-ga-ra cũng là chủ ngân hàng ở thành Xá Vệ.Rồi sao?
Nàng Vi-sa-ka mới 7 tuổi nghe Phật giảng pháp thì đắc Sơ quả.
Ông Mi-ga-ra trước đó chưa 1 lần nghe pháp.
Nhưng chỉ một lần ông được nghe Phật giảng pháp cũng đắc Sơ quả.
Ta biết vĩ đại như vua trời Đế Thích mới chỉ đắc Sơ quả mà thôi.
Thế mới thấy Phúc lớn nếu có duyên được nghe Phật giảng pháp, có tâm tín thành thì đắc đạo tức thì.Bài học 4: Trụ cột kinh tế quốc giaTa thấy vua Ba Tư Nặc đã phát hiện ra nguyên tắc kinh tế thị trường mãi đến thế kỷ 19 con người ta mới biết.
Tức một dòng tộc hay một gia đình giàu có, đạo đức sẽ làm trụ cột, xương sống kéo toàn bộ nền kinh tế nước đó đi lên.
Còn nếu họ giàu mà bòn rút, mafia, phạm pháp, tham nhũng, cho vay cắt cổ... thì là con sâu, con mọt to lớn đục khoét gốc rễ đất nước.Vậy nên những nước tư bản hùng mạnh luôn có những đế chế là các công ty giàu có.
Sản phẩm của họ chất lượng, uy tín là niềm tự hào của nước đó.
Nhật bản có Sony, Panasonic, Toyota, Honda...
Hàn Quốc có Sumsung, Huyndai, Kia, Lotte...
Mỹ có Apple, Microsoft, Google, Boing...
Chính những Đại Phú Gia này tạo công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn con người.
Họ làm ra sản phẩm chất lượng và bán khắp Thế giới.
Những công ty đó đã kéo nền kinh tế đất nước đó đi lên.
Thế nhưng vua Ba Tư Nặc đã nhận ra điều này từ cách đây 2500 năm.
Chứng tỏ trí tuệ vua Ba-Tư-Nặc siêu phàm.Bài học 5: Sơ quả vẫn có gia đình và có conTheo Kinh Nguyên Thuỷ Nikaya thì có 3 cấp độ đắc đạo: Sơ quả Dự Lưu, Nhị quả Nhất lai và Thánh quả giải thoát A-la-hán.Đắc Quả Dự Lưu thì vị đó diệt xong tham ái.
Khi đó tâm vị thánh sẽ thanh tịnh và không động dục.
Nhưng vì trách nhiệm phải có gia đình và có con thì họ vẫn thực hiện.
Ta chú ý: Vua trời Đế Thích đã chứng Sơ quả mà Ngài vẫn có vợ là Thiện Sanh.
Vậy nên tín nữ Vi-sa-ka vẫn có chồng, có con và gia đình nhưng tâm bà thanh tịnh dục.Từ Quả Nhất Lai thì vị đó Ly dục.
Kể từ đây vị đó chính thức không còn dục.
So sánh giữa thánh quả và Tứ thiền ta thấy: Sơ quả tương đương với Chánh niệm tỉnh giác diệt xong 5 Triền cái: Tham ái, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi.
Quả Nhất Lai tương đương với Thiền thứ nhất: Ly dục Ly ác pháp.Bài học 6: Bát cháo cũHình ảnh "Bát cháo cũ" là một hình đẹp đầy ý vị.
Cháo phải mới, nóng hổi ăn mới ngon.
Cháo cũ thì vữa, nguội ăn không ngon.
Thời xưa chưa có tủ lạnh nên cháo cũ dễ xuất hiện vi khuẩn thành bị thiu.
Nên chỉ có cháo mới mới có thể ăn ngon được.Ông Mi-ga-ra ăn cháo cũ ý là chỉ hưởng phúc quá khứ, còn phúc hiện đời ông không có.
Phúc quá khứ càng hưởng thì càng vơi do không có phúc mới bù đắp.
Ngược lại phúc hiện đời càng hưởng lại càng to lớn.
Vì người biết tạo phúc hiện đời mà có thêm năng lực: thêm tài sản, thêm quyền lực.
Họ sẽ dùng năng lực đó giúp đời nên phúc càng vĩ đại.Bài học 7: Mẹ của Mi-ga-raÔng Mi-ga-ra là một người không biết tạo phúc mà còn theo tà pháp.
Ông được con dâu Vi-sa-ka cảm hoá được gặp Phật, được nghe pháp đắc Sơ quả Dự Lưu làm một vị thánh.
Người con dâu đó giống như đã sinh ra ông lần thứ 2.
Do vậy ông gọi bà là "Mẹ" là chính xác.Ta còn thấy, khi đắc Sơ quả thì diệt xong 3 kiết sử 1-Thân kiến, 2-Tham ái, 3-Giới cấm thủ.
Vị thánh đó không còn ích kỷ, ghen tị, tham ái dục và không chấp vào giới.
Theo tôn ti trật tự gia đình thì con dâu luôn thuộc hàng bé nhỏ, hạng con cháu.
Vậy mà ông nhận bà làm mẹ chứng tỏ ông đã diệt xong kiết sử Giới cấm thủ.