Tâm Linh 14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (PC01-PC60)

14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 50: Truyện kẻ hay xét lỗi người


"Chẳng nên xét nét ngườiLỗi lầm nhiều hay ítChỉ nên xét chính mìnhLầm lỗi đã hết chưa"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 50)Tích Pháp Cú: Có một phụ nữ theo làm đệ tử một ẩn sỹ lõa thể tên là Ta-chi-ka.

Bà cúng dường cung phụng vị đó rất chu đáo.

Trong khi bà hết lòng cúng dường ẩn sỹ đó thì bà nghe danh Đức Phật.

Bà đến thưa với vị đó và rằng:- Xin phép thầy cho con đến nghe Đức Sa Môn Gô-ta-ma giảng pháp.Ta-chi-ka không đồng ý.

Bà vâng lời thầy không đi.

Thế nhưng duyên xưa thúc đẩy khiến lòng bà day dứt bất an.

Bà bảo con trai:- Bây giờ sư phụ không cho mẹ đi nghe Sa Môn Gô-ta-ma giảng pháp.

Vậy con hãy mời Ngài đến đây để mẹ cúng dường và được nghe pháp.Con trai vâng lời thì ẩn sỹ Ta-chi-ka gặp cậu nói:- Con đi mời thì nên chỉ đường sai để phần đồ ăn đó ngày mai ta với con cùng ăn.Cậu bé vâng lời ẩn sĩ.

Cậu đến gặp Đức Phật và mời Đức Phật đến nhà thọ thực.

Đức Phật đồng ý.

Thế nhưng dù cậu chỉ sai đường mà Phật vẫn đến đúng nhà.

Lõa thể Ta-chi-ka biết chuyện.

Ông tức giận đứng ở cửa gọi bà ra nói thậm tệ rồi bỏ đi.

Bà vào nhà tiếp tục nghe Phật giảng pháp mà tâm tức tối không nguôi.

Bà buộc miệng nói với Phật:"Con được ngồi bên Thế Tôn như được ngồi bên ánh mặt trời sáng tỏ, như được ngồi bên dòng nước mát vô tận, như giữa trưa hè nắng gắt con được ngồi dưới bóng cây Tha-na.

Những lời dạy của Thế Tôn khiến tâm con khai mở thoát mê mờ u tối.

Con biết từ đây con đã có chân sư.

Còn người kia con nuôi bao năm mà vẫn tham lam, ghen tị, sân hận, si mê, không biết phép lịch sự, thật là người lố bịch...."

Bà ngồi và chê vị ẩn sỹ kia không ngớt thì Phật ngăn lại bằng bài kệ:"Chẳng nên xét nét ngườiLỗi lầm nhiều hay ítChỉ nên xét chính mìnhLầm lỗi đã hết chưa"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 50)Bà hiểu ra đạo lý nên vâng lời Đức Phật.Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Chê người dù là chê đúng vẫn là ác ngữ, ác khẩu, tạo khẩu nghiệpBà Phật tử đã chê trách ông thầy cũ quá nhiều.

Bà lôi các tính xấu của thầy đó ra trách móc đào ngoáy.

Đó là phạm giới ác ngữ.

Phật lập tức ngăn bà lại để bà không tạo tội.

"Ghét của nào trời trao của nấy".

Nếu bà cứ tiếp tục thù ghét chê bai thầy cũ thì đạo đức của bà sẽ đi xuống theo lời chê bai đó.Phật khuyên không nên xét lỗi người mà hãy xét lỗi bản thân để sửa nội tâm của ta.

Điều đó mới đúng chánh pháp, khiến đạo đức ta tăng trưởng.

Đó là bài học cho tất cả mọi người.Trên mạng tôi thấy mọi người tự khen và chê đời nhiều quá.

Các bài đăng MXH khen người, ca ngợi đời thì ít mà toàn thấy cướp, hiếp, giết, chê bai, trách móc, tham nhũng, ác độc, lừa đảo, bới lông tìm vết thì nhiều.

Đây chính là căn bệnh của kẻ tiểu nhân hèn kém với Thân kiến nặng nề.

Kẻ đó luôn ghen ăn tức ở (GATO), đố kị, ghen tị, khinh người, chê đời.

Và họ luôn thấy bản thân là người tốt, tài giỏi, xinh đẹp.

Chẳng kẻ tiểu nhân nào tự thấy xấu xa bao giờ.

Vì mặt họ luôn cắm xuống đất nên tâm họ đi xuống.Bài học 2: Tâm lý khen mình chê ngườiTâm lý của con người là: "Chê người tự dưng tâm ta thấy sung sướng, hả hê, hãnh diện.

Ta thật là oai, là oách, là to lớn vĩ đại...

Còn khen người tự dưng tâm ta cảm thấy hèn kém, nhỏ bé, khó chịu".Chính vì tâm lý này nên mọi người thích chê bai, bới lông tìm vết, đào xới lỗi sai của người.

Thế nên xã hội có nhiều kẻ oai, kẻ oách, kẻ khệnh khạng, kẻ bố đời mẹ thiên hạ.

Xã hội đó toàn thấy lời chê bai chửi bới và điều xấu xa bỉ ổi.

Kẻ tiểu nhân luôn tự thấy mình to lớn vĩ đại nên họ chê người, tự khen mình.

Hoặc chị em bà tám, buôn chuyện cuối cùng sẽ nói xấu người thứ 3.Nguồn gốc của tâm lý khen mình chê người là kiết sử Thân kiến.

Kẻ thân kiến nặng thì cái tôi lớn.

Vì cái tôi lớn nên họ tự khen.

Vì cái tôi lớn nên họ thấy người là nhỏ bé kém cỏi nên hay chê người.Người biết tu thì Thân kiến giảm, cái tôi nhỏ nên họ hay khen người và tự chê bản thân.

Họ luôn xét lỗi bản thân để sửa còn lỗi người thì bỏ qua.

Xã hội nhiều người biết tu luôn thấy bản thân nhỏ bé, kém cỏi, cần phải học nhiều, sửa nhiều thì xã hội đó nhiều lời khen.

Nhưng xã hội thì tiểu nhân luôn nhiều hơn người quân tử thế mới chán.Bài học 3: Thiền lõa thểThời Đức Phật có thiền khổ hạnh Ni Kiền Tử (Ni-gan-tha).

Họ sống ẩn cư trên núi và thực hành khổ hạnh khốc liệt.

Đức Phật cũng mất 6 năm tu thiền khổ hạnh cực đoan rồi thấy đây là con đường sai.Còn phái thiền Lõa thể là một nhánh của khổ hạnh Ni Kiền Tử.

Các vị thiền khổ hạnh vẫn mặc quần áo tuy có thể bị rách nát.

Còn các vị phái Lõa thể thì không mặc gì, càng tu cao càng ít vải.

Khi chứng đắc theo tiêu chuẩn phái đó thì tu sỹ Lõa thể hoàn toàn không mảnh vải che thân.Lý thuyết về thiền Phật dạy thì một vị chứng sơ thiền sẽ ly Dục, ly Ác pháp.

Kể từ đây vị đó hoàn toàn chấm dứt Dục được gọi là ly Dục.Theo tôi rất có thể chứng đắc của phái Lõa thể là Sơ thiền Ly dục.

Các vị lõa thể để chứng tỏ "Ta đây đã đắc đạo ly Dục" bằng cách cho mọi người thấy bộ phận sinh dục.

Còn trong đạo Phật thì sơ thiền là tầng thứ nhất trong 4 tầng thiền định.

Thái tử Tất Đạt Đa năm 12 tuổi đã chứng Sơ thiền khi ngồi thiền dưới bóng cây Diêm Phù Nề.

Do vậy năm 18 tuổi Ngài cưới vợ là Da-Du-Đà-La thì vợ chồng thanh tịnh dục nên 10 năm không có con.

Vậy sao Phật có con?

Sao con Phật là "Mật hạnh đệ nhất?"

Bài học 4: Thân kiến là kiết sử thô nhất thấp nhấtTa thấy ẩn sĩ kia vì muốn giữ đệ tử để hưởng sự cúng dường nên bày mưu ngăn cản bà.

Vậy mục đích tu hành của vị đó là gì?

Mục đích tu hành của vị đó không phải tìm chánh pháp mà tìm sự cúng dường.Đó là kiết sử Thân kiến: ích kỷ, tham lam, đố đị, tật đố, ghen tị, GATO, muốn nhiều cho mình, hám lợi...

Nó ngược với lòng vị tha, hi sinh vì người.

Thân kiến là kiết sử thô nhất, thấp nhất trong 10 Kiết sử và là bản tính của Tiểu nhân.Tâm lý này trong giới tu sĩ ngày nay có nhiều.

Sư này thích nói xấu sư kia để hạ bệ.

Họ không bao giờ cho đệ tử đến thầy khác để nghe pháp.

Họ bao bọc, kìm kẹp, giữ khư khư đệ tử...

để hưởng sự cúng dường.

Còn chánh pháp thì họ luôn thấy họ đúng còn các vị khác là sai, là tà sư giảng tà pháp.Bài học 5: Phật biết rõ mọi con đườngCậu bé con bà cư sỹ chỉ sai đường nhưng Phật vẫn đi đến đúng nhà.

Đó là vì Phật có Thiên nhãn minh thấy vô lượng chiều không gian, vô lượng chiều thời gian.

Phật hướng tâm đến chúng sinh nào là thấy quá khứ, hiện tại, tương lai vô số kiếp kẻ đó.

Phật cũng thấy luôn kẻ đó đang ở đâu trong Luân hồi.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 51, 52: Truyện 2 vợ của vua Ba Tư Nặc


"Như bông hoa tươi đẹpCó sắc mà không hươngCũng vậy lời khéo nóiKhông làm, không ích gì"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 51)"Như bông hoa tươi đẹpCó sắc lại có hươngCũng vậy lời khéo nóiCó làm, có an vui"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 52)Tích Pháp Cú: Một lần vua Ba Tư Nặc mời Phật vào cung giảng pháp cho hoàng hậu và cung nữ.

Vua có 2 bà vợ là hoàng hậu Mạc Lợi (Ma-li-ca) và vương phi Va-sa-ba-ca-ti-a (mẹ của vua Lưu Ly).

Phật đến giảng lần đầu sau Phật giao cho Ngài A-Nan giảng.Ngài A-Nan có đặc điểm là chưa đắc A-la-hán nhưng lại là Đại đệ tử đa văn đệ nhất của Phật.

Ngài thuyết pháp chân lý rõ ràng, thậm chí có người nghe pháp của Ngài thì chứng đạo mà Ngài vẫn không chứng.

Mãi đến khi Phật nhập Niết Bàn 7 ngày sau đó Ngài mới đắc A-la-hán.

Đó là điều bí mật quan trọng, vĩ đại và thú vị.

Ta sẽ bàn ở phần bài học.Khi Ngài A-Nan vào cung giảng thì hoàng hậu và vương phi có 2 thái độ khác nhau.

Hoàng hậu Mạc Lợi siêng năng học và hiểu sâu đạo lý.

Bà ứng dụng được các đạo lý đó vào đời sống.

Bà thường khuyên vua cũng như khuyên cung nữ làm lành tích thiện tạo phúc.

Dần dần nhờ hoàng hậu Mạc Lợi khuyên mà vua Ba Tư Nặc thay đổi tâm tính, thương dân như con.

Ngài lãnh đạo đất nước được thái bình.Còn vương phi Va-sa-ba-ca-ti-a không mến đạo, không thích học, vì vua bắt học thì cũng tham dự.

Bà học và trình bày đạo lý theo sách vở mà không hiểu sâu, không ứng dụng tu tâm.

Chính vì vương phi không hiểu đạo lý nên hoàng tử Lưu Ly ôm mối hận căm thù dòng họ Thích Ca mà bà không khuyên.

Kết quả là thảm kịch dòng họ Thích Ca bị diệt vong và toàn bộ quân đội và cả vua Lưu Ly bị lũ cuốn chết.Khi về Tinh xá Ngài A-Nan kể lại cho Phật về truyện vương phi và hoàng hậu có 2 cách tiếp nhận chánh pháp như vậy.

Đức Phật bèn đọc bài kệ:"Như bông hoa tươi đẹpCó sắc mà không hươngCũng vậy lời khéo nóiKhông làm, không ích gì"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 51)"Như bông hoa tươi đẹpCó sắc lại có hươngCũng vậy lời khéo nóiCó làm, có an vui"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 52)Nhân duyên khiến vua Ba Tư Nặc thỉnh Phật vào hoàng cung giảng pháp là do một cư sỹ khuyên Ngài.

Vị đó tên là Sa-ta-pa-li chứng Nhị quả nhất lai.Lần đó, ông ngồi hầu Phật thì vua Ba Tư Nặc đến thăm Phật.

Do Sa-ta-pa-li đang hầu Phật nên không chào vua theo nghi thức triều đình.

Vua Ba Tư Nặc khá bực mình.

Khi đó Phật biết rõ vì sao Sa-ta-pa-li không chào vua theo nghi thức và Phật cũng biết vua Ba Tư Nặc bực mình.

Sau khi vua Ba Tư Nặc an tọa thì Phật giới thiệu Sa-ta-pa-li và Phật khen vị cư sỹ đó để vua giảm tức giận.

Vua thấy Đức Phật khen người đó thì tâm có chút vị nể nên không giận nữa.Lần khác Sa-ta-pa-li có dịp gặp vua Ba Tư Nặc thì ông bỏ mũ, bỏ giày, quỳ lạy đầu chạm đất và tung hô chào vua đúng nghi thức.

Vua Ba Tư Nặc mới hỏi:- Này ngươi, vì sao lần trước ngươi thấy ta tại nơi Thế Tôn thì ngươi chỉ cúi đầu chào còn lần này thì ngươi quỳ lạy?- Thưa đại vương, trước mặt Thế Tôn bậc đại thánh giác ngộ, thầy của trời người, tôi đã dành trọn lòng tôn kính lên Đức Thế Tôn nên không thể dành tiếp sự cung kính đó cho bất kỳ ai.

Nay ở đây gặp đại vương thì tôi phải hành đúng theo nghi thức của một dân thường dành cho vua đáng kính của họ.Sau đó, vua hỏi Sa-ta-pa-li về đạo lý vì vua nghe Phật khen ngợi ông ta.

Sa-ta-pa-li trả lời rõ ràng, khúc triết, minh bạch khiến vua thỏa mãn.

Vua bèn mời Sa-ta-pa-li vào giảng đạo lý cho vương phi và hoàng hậu.

Sa-ta-pa-li bèn đáp:- Thưa đại vương, hiện thành Xá Vệ của ta đang có diễm phúc là có Đức Thế Tôn và tăng đoàn đang ngự tại Tinh xá Kỳ Viên vườn ông Cấp Cô Độc.

Tôi nếu so với các thánh tăng A-la-hán giống như giọt nước so với đại dương.

Đây là một cơ duyên vĩ đại vậy Đại vương nên mời Thế Tôn và các vị A-la-hán đến giảng pháp trong cung sẽ có nhiều lợi ích.Vua Ba Tư Nặc hiểu ra vấn đề.

Vua theo lời khuyên của Sa-ta-pa-li mời Phật và các Tỳ kheo vào cung giảng pháp cho hoàng hậu, vương phi và cung nữ.

Thật tiếc vì vua Ba Tư Nặc lại không tham dự nghe Đức Phật thuyết pháp.

Với phúc vĩ đại của vua mà nghe Chánh pháp của Phật thì dễ đắc thánh quả.Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Lý thuyết và thực hànhKệ Pháp cú Phật ví người chỉ học lý thuyết mà không thực hành như bông hoa có sắc mà không hương, chẳng lợi ích gì.

Còn người có học lý thuyết và có thực hành như bông hoa có sắc và có hương, được nhiều an vui.

Điều đó rất đúng.Vậy nên, trong Bát Chánh Đạo mà Phật dạy thì đầu tiên là học lý thuyết về những điều thiện, gọi là Chánh kiến.

Sau đó Phật dạy chúng ta phải tư duy, suy luận, phản biện, chiêm nghiệm lý thuyết đó trong đời sống, gọi là Chánh tư duy.

Sau khi học Chánh kiến và Chánh tư duy ta phải bắt tay vào thực hành bằng lời nói thiện lành, gọi là Chánh ngữ.

Và ta phải hành động thiện, gọi là Chánh nghiệp.Vậy nên chỉ dừng lại ở lý thuyết mà không tư duy, không nói lời thiện, làm việc thiện thì ta như bông hoa nhựa.

Còn hương thơm của bông hoa là cái hồn, cái thần hay cái lợi ích thiết thực thì ta không có.Bài học 2: Đức A-Nan tu 42 năm không đắc đạoTôn giả A-Nan tu 7 ngày đắc Sơ quả Dự Lưu.

Thế nhưng sau đó Ngài tu tiếp 42 năm đến khi Phật nhập diệt mà không thể đắc A-la-hán.

Sao lạ vậy?Đức A-Nan quy Y Phật cùng Đề-bà-đạt-đa và 4 vị hoàng thân 3 năm sau khi Phật thành đạo.

Tích Pháp cú 17 ta đã nghe rồi.

Sau 7 ngày thì 4 vị hoàng thân đắc A-la-hán, Tôn giả A-Nan đắc Sơ quả, còn Đề Bà không đắc đạo mà lại đắc thần thông.Vậy Tôn giả A-Nan tu 42 năm không đắc đạo là vì sao?

Kinh Tứ Niệm Xứ thuộc Trung Bộ Kinh là kinh đầy đủ nhất Phật dạy về Thiền.

Cuối kinh đó Phật ấn chứng: "Ai tu theo kinh này nghiêm mật thì sẽ đắc đạo A-la-hán nhanh nhất trong 7 ngày".

Tôn giả Maha Ca Diếp tu đúng 7 ngày đắc A-la-hán.

Thế nên Tôn giả có danh vị "Phạm hạnh đệ nhất" tức đệ tử đắc chứng A-la-hán nhanh nhất.Nhưng đức A-Nan làm thị giả cho Phật chiếm hết toàn bộ thời gian.

Ngài phải lo cho Phật chỗ ngủ, nghỉ, giảng pháp, rồi thu xếp lịch cho Phật tử ai được gặp Phật, rồi thu xếp hội chúng nghe pháp, còn phải học thuộc lòng 8 vạn 4 ngàn kinh Phật...

Vậy nên Ngài không có đủ 7 ngày không làm gì chỉ ngồi thiền nghiêm mật.

Thế nên Ngài không thể đắc A-la-hán.Đúng như tôi suy đoán.

Sau khi Phật nhập Niết Bàn thì Tôn giả A-Nan đã có đủ 7 ngày thiền định nghiêm mật.

Ngài đắc đạo đúng vào sáng ngày thứ 7 sau khi Phật nhập Niết Bàn cũng là sáng khai mạc kỳ Kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất.

Chúng hội viên mãn 500 vị A-la-hán.

Trong đó có vị chủ trì đọc tụng Kinh Phật là một A-la-hán tuổi đắc đạo trẻ nhất.

Ngài mới đắc A-la-hán vài phút trước đó.Xin bàn thêm một chút về Đức A-Nan (605 TCN - 485 TCN).

Ngài sống thọ 11*11=121 tuổi (cả tuổi mụ).

Khi Ngài chuẩn bị viên tịch thì 2 đại quốc Ma Kiệt Đà và Ko-sa-la đều muốn thỉnh Ngài nhập diệt ở nước họ để có Ngọc Xá Lợi thờ tự.

Ngài đã chọn cách viên mãn vẹn toàn cho cả 2.

Ngài dùng thần thông bay lên giữa hư không giữa sông Hằng rồi dùng lửa Tam Muội tự thiêu hóa thân thành Ngọc Xá Lợi chia đều sang 2 bờ sông cho 2 nước.Về sau Kinh Pháp Hoa thọ ký các đại đệ tử Phật tương lai đều thành Phật thọ 12 tiểu kiếp, Chánh pháp trụ thế 20 tiểu kiếp.

Chỉ riêng Đức A-Nan thành Phật thì Kinh Pháp Hoa nói rằng:"Đức Phật Phật hiệu là Sơn-Hải-Tuệ Tự-Tại Thông-Vương Như-Lai đó thọ mạng vô lượng nghìn muôn ức vô lượng a-tăng-kỳ kiếp tính đếm số kể chẳng có thể biết được, chánh pháp trụ đời gấp bội thọ mạng, tượng pháp lại gấp bội chánh pháp."

Thế mới hay công đức gìn giữ Chánh Pháp của Tôn giả A-nan phúc báu vĩ đại biết chừng nào.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 53: Truyện tín nữ Vi-sa-ka


"Như từ một đống hoaKết thành nhiều tràng hoaCũng vậy thân sinh tửLàm được nhiều việc thiện"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 53)Tích Pháp Cú: Kệ Pháp Cú trên là Phật khen tặng nữ tín chủ vĩ đại nhất thời Đức Phật.

Bà Vi-sa-ca xứ An-ga là một tiểu quốc thuộc đại quốc Ma Kiệt Đà.Thời Đức Phật, Ấn Độ có 2 đại quốc lớn.

Phía bắc là đại quốc Ko-sa-la của vua Ba Tư Nặc.

Vua sinh cùng năm, mất cùng năm với Phật.

Năm Phật 29 tuổi Người từ bỏ hoàng cung xuất gia làm Sa Môn thì vua Ba Tư Nặc lên ngôi.

Cuối đời vua Ba Tư Nặc bị con trai là hoàng tử Lưu Ly cướp ngôi mà buồn rầu chết ngoài thành.

Mời bạn tìm đọc Tích Pháp Cú 47.Phía nam là đại quốc Ma Kiệt Đà của vua Bình Sa.

Về sau vua Bình Sa bị hoàng tử A Xà Thế dưới sự kích động của Đề Bà Đạt Đa đã giết cha cướp ngôi.

Sau đó vua A Xà Thế trao nhiều đặc quyền cho Đề Bà Đạt Đa.

Kể từ đó Đề Bà Đạt Đa nổi lên chống phá Phật và tăng đoàn.

Cuối cùng là cái chết đau khổ của Đề Bà.

Mời bạn tìm đọc Tích Pháp Cú 17.Hai đại quốc đó ngăn nhau bởi con sông Hằng nổi tiếng.

Thành ngữ: "Hằng hà sa số" tức "Nhiều như cát sông Hằng" là câu thành ngữ cổ của người Ấn Độ.Vua Bình Sa và vua Ba Tư Nặc là 2 anh em rể và họ coi nhau như anh em một nhà.

Nên dân chúng 2 nước qua lại buôn bán hoàn toàn tự do.

Hai đại quốc đó có các tiểu quốc lệ thuộc ở xung quanh.

Các tiểu quốc có phân chia ranh giới chính trị quản lý còn dân tự do qua lại buôn bán.

Các tiểu quốc giống như các tỉnh hay bang nằm trong một nước vậy.Bà Vi-sa-ka sinh ra ở nước An-ga phía đông Ma Kiệt Đà.

Năm bà 7 tuổi thì Phật qua xứ đó thuyết pháp và gia đình bà đi nghe.

Bà nghe pháp xong chứng Sơ quả Dự Lưu ngay tức thì dù chỉ mới 7 tuổi.Ta nên biết Sơ quả Dự Lưu tức "Bắt đầu bước vào dòng thánh".

Vị thánh du diệt trừ được 3 Kiết sử đầu thì đắc Sơ quả Dự Lưu.

Kể từ đây vị đó vĩnh viễn không bị đọa vào 3 ác đạo, tương lai chắc chắn được giải thoát Niết Bàn.

Thiên chủ Đế Thích mới chỉ chứng Sơ quả mà thôi.Ông nội bà Vi-sa-ka là chủ ngân hàng.

Cha bà thừa kế tài sản cũng là chủ ngân hàng.

Cha có nhiều vợ và bà là con vợ cả.

Gia đình Vi-sa-ka là một trong 7 đại phú gia giàu nhất Ma Kiệt Đà và các tiểu quốc.Vua Ba Tư Nặc thường hay đi thăm vua Bình Sa và bàn chuyện chính trị.

Vua Ba Tư Nặc phát hiện nước Ma Kiệt Đà có nhiều đại phú gia tiền nhiều ngang vua.

Thành Vương Xá là nơi đặt Tinh xá Trúc Lâm do vua Bình Sa tặng Phật.

Nên Phật và chư tăng hay giảng pháp cho dân chúng.

Do vậy các đại phú gia đều biết Phật pháp và đạo đức lương thiện.

Chính họ đã thúc đẩy nền kinh tế nước Ma Kiệt Đà.Vua Ba Tư Nặc đã đề nghị vua Bình Sa cho một đại phú gia mang toàn bộ tài sản chuyển đến sống ở Xá Vệ để thúc đẩy kinh tế Ko-sa-la.

Vua Bình Sa đồng ý và ra lệnh cho gia đình bà Vi-sa-ka phải di chuyển đến thành Xá Vệ.Một đoàn hàng ngàn, hàng vạn những con người gồm họ hàng thân quyến, người hầu kẻ hạ, tôi tớ, gia nô, quản gia, địa chủ... kéo theo tài sản, tiền vàng lũ lượt đi về thành Xá Vệ nước Ko-sa-la.

Khi đi đến gần Xá Vệ thì cha bà Vi-sa-ka thấy mảnh đất đẹp thanh bình, trù phú, thuận tiện phát triển nên ông xin vua Ba Tư Nặc dựng cơ nghiệp tại đây.Trong thành Xá Vệ có con trai chủ ngân hàng giàu có tên là Mi-ga-ra không chịu lấy vợ.

Chàng bị gia đình ép buộc lấy vợ thì từ đặt ra tiêu chuẩn cho cô vợ tương lai phải: Công dung ngôn hạnh, sắc nước hương trời... và gia thế nhà đó phải có tài sản lớn hơn tài sản gia đình chàng.Cha chàng bèn đề nghị 5 vị Bà-la-môn đi khắp nước tìm bằng được người con gái đáp ứng yêu cầu của cậu con trai.

5 Bà-la-môn đi khắp nước tìm rất lâu mà không được.Một lần họ đến vùng đất phía nam Xá Vệ thì thấy vùng này dân chúng đông vui giàu có.

Bất chợt trời đổ trận mưa to và mọi người cắm đầu chạy trú mưa.

Duy chỉ có một cô gái đẹp vẫn từ tốn đi trong mưa thong thả không chút vội vã.

Đó chính là Vi-sa-ka. (Vì sao vậy?

Vì bà đã đắc đạo làm thánh từ năm 7 tuổi nên mọi hành động đều giữ chánh niệm tỉnh giác).5 Bà-la-môn đến hỏi cô gái:- Thưa cô, sao trời mưa mọi người hối hả tìm chỗ trú thì cô lại đi thong thả.- Thưa các vị, có 4 trường hợp không nên chạy bừa bãi: (1) Một con voi đi giữa trận sẽ không bao giờ được chạy. (2) Một vị vua đang hành lễ sẽ không bao giờ được chạy. (3) Một vị Sa Môn sẽ không bao giờ được chạy. (4) Một người con gái đoan trang sẽ không bao giờ được chạy.5 Bà-la-môn thấy cô gái trẻ đối đáp khúc triết vậy thì nể phục.

Sau đó họ dò hỏi thì biết đó là con gái Đại phú gia giàu nhất Ma Kiệt Đà.

Họ được vua Ba Tư Nặc mời về xây dựng cơ nghiệp tại đó.

5 vị mừng rỡ vì đã tìm được người con gái trong mơ theo đúng yêu cầu cậu chủ.

Họ về báo tin và gia đình chàng trai đến xin cầu hôn Vi-sa-ka.Thuận theo ý cha mẹ, Vi-sa-ka nhận lời cầu hôn và đám cưới diễn ra linh đình.

Sau đó cha cô cho 8 gia đình đại gia chuyển nhà đến ở gần gia đình Mi-ga-ra để bảo vệ con gái.Về nhà chồng, cô phát hiện ra gia đình đó tu theo ngoại đạo Lõa thể.

Gia đình đó không theo Chánh pháp của Phật và không hiểu Nhân Quả.

Cô rất buồn.Một lần cô đứng hầu cạnh cha chồng là ông Mi-ga-ra đang ăn cháo sơn hào hải vị loại thượng hạng.

Khi đó có vị Tỳ kheo đi đến cửa đứng lại chờ được cúng thí thực rồi đi.

Cha chồng theo ngoại đạo Lõa thể nên không thích Tỳ kheo nên giả vờ không nhìn thấy.

Ông vẫn ngồi vô tư ăn cháo.

Cô Vi-sa-ka thấy cảnh đó lấy làm khó chịu.

Cô bèn đi đến Tỳ kheo và nói:- Thưa Tôn giả, người cha chồng của con đang ăn cháo cũ nên không tiện cúng dường.

Vậy mời Ngài đi sang nhà khác.Cha chồng cô nổi giận lôi đình.

Ông giàu thế này mà con dâu lại nói "ông ăn cháo cũ không đủ tiêu chuẩn cúng cho Tỳ kheo".

Ông đuổi cô ra khỏi nhà.

Cô bèn mời 8 đại gia đình giám hộ đến nói chuyện phải trái rồi cô mới đi.

8 đại gia đình kéo đến nghe chuyện đúng sai.

Cha chồng cô bắt đầu kết tội cô:- Nó là con dâu hỗn láo dám xúc phạm phẩm giá tôi.

Tôi giàu thế này mà nó bảo tôi ăn cháo cũ là sao?8 gia đình mời cô giải thích.

Cô đáp:- Thưa cha, con thấy cha không chịu cúng dường Tỳ kheo khất thực.

Mà vị Tỳ kheo đó cứ đứng chờ.

Nên con phải có lời nói đúng sự thật để vị Tỳ kheo đó vui lòng qua nhà khác.

Do đó con đã nói: "Cháo cũ không tiện cúng dường" và vị Tỳ kheo đó đã đi.

Còn ẩn ý "Cháo cũ" nghĩa là cha đang hưởng phúc quá khứ chứ không tạo được phúc mới.

Đó cũng là sự thật.- Thế sao có hôm nửa đêm cô bỏ ra chuồng ngựa?

Có phải cô hẹn ai ngoài đó?- Thưa cha, con ngựa Hồng Mao quý hiếm con mang từ Ma Kiệt Đà đêm đó nó đẻ.

Những người ở đây có thể không biết cách chăm sóc.

Nên con phải đích thân đến xem xét công việc.- Thế cô nói: "Không mang lửa ngoài nhà vào, không mang lửa trong nhà ra" là sao?- Thưa cha, con nói vậy ý là: Không mang chuyện thị phi ngoài xã hội vào nói trong gia đình.

Không mang chuyện gia đình kể cho hàng xóm.Cha chồng cô cứ kết tội thì cô lại giải thích thấu đáo, khúc triết, hợp tình, hợp lý và cô hoàn toàn đúng.

Lúc đó 8 gia đình mới nói với ông Mi-ga-ra: - Vậy chủ nhân của chúng tôi hoàn toàn vô tội.

Tiểu nữ chủ của chúng tôi sống hoàn toàn trong sạch.

Tiểu nữ chủ của chúng tôi không chút lầm lỗi.

Ông có công nhận không.Ông Mi-ga-ra im lặng đồng ý.

Cô Vi-sa-ka nói:- Thưa cha, trước cha và 8 gia đình con đã chứng minh không có tội.

Bây giờ con xin phép ra đi.Ông Mi-ga-ra hoảng sợ vì đã đuổi con dâu không có tội là con của Đại Phú Gia chính vua Ba Tư Nặc mời về thì tội của ông rất nặng.

Ông bèn nói:- Xin con ở lại và từ đây con được quyền quyết định cúng dường Phật và chư tăng.- Vâng thưa cha, vậy con xin phép ngày mai con sẽ thỉnh Phật và chư tăng về cúng dường.Hôm sau, Phật cùng chư Tỳ kheo đến thọ trai và thuyết pháp ở nhà ông Mi-ga-ra.

Khi đó ông ngồi sau bức màn nghe pháp.

Nghe xong Đức Phật giảng pháp thì ông chứng Sơ quả Dự Lưu.

Ông bước khỏi màn đến trước Phật quỳ xuống đảnh lễ Phật và xin quy y Phật.

Sau đó ông tuyên bố trước mọi người:- Thưa mọi người, người con dâu Vi-sa-ka này mới thực sự là mẹ của tôi.

Người đã sinh ra tôi một lần nữa.

Người đã làm cho tôi khai ngộ đạo pháp của Thế Tôn Gô-ta-ma.

Nếu không có người con dâu này tôi sẽ mãi mãi trong mê mờ u tối và không bao giờ có được niềm an lạc của đạo pháp nơi Đức Thế Tôn.

Nên hôm nay trước tất cả mọi người tôi xin nhận Vi-sa-ka là Người mẹ tinh thần của tôi.Chính vì vậy khi ta đọc Kinh nguyên thủy Nikaya đôi khi ta gặp đoạn kinh nói rằng: "Có tín nữ Vi-sa-ka mẹ của Mi-ga-ra đang đi đến thăm Thế Tôn".

Ta tưởng bà có con tên là Mi-ga-ra, nhưng thực sự Mi-ga-ra là tên của cha chồng bà.Sau khi nghe xong ông Mi-ga-ra tuyên bố vậy thì Phật đọc bài kệ khen tín nữ Vi-sa-ka:"Như từ một đống hoaKết thành nhiều tràng hoaCũng vậy thân sinh tửLàm được nhiều việc thiện"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 53)Ngày nay trong đạo Phật Vi-sa-ka là một thành ngữ dùng để ngợi khen những tín chủ chu đáo cúng dường chư tăng.

Đó là do tín nữ Vi-sa-ka nổi tiếng bởi hạnh nguyện cúng dường chu đáo, cẩn trọng, vẹn toàn tăng đoàn thời Đức Phật.Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Thân sinh tử và làm thiệnBài Pháp cú Phật ví các việc thiện như những cánh hoa.

Người thiện như tràng hoa được kết bởi nhiều cánh hoa.

Đời người có sinh có tử.

Thân sinh tử này ngắn ngủi.

Nếu đời này ta làm thiện ắt có phúc để hưởng ở tương lai.

Nếu đời này ta tạo tội ắt sẽ đọa 3 ác đạo khó quay lại.Ta có được thân người là đại duyên để làm thiện.

Trong 6 cõi Luân hồi, duy nhất cõi người là cõi có điều kiện tạo phúc.

Tam ác đạo là 3 cõi khổ để chúng sinh trả nợ ác nghiệp mà không có điều kiện tạo phúc.

Cõi thần, trời thì các vị trên đó hạnh phúc đủ đầy chẳng ai khổ nên chẳng ai cần giúp.

Chính vì không có điều kiện giúp đỡ nhau nên cõi thần, trời không có điều kiện tạo phúc.

Nên ta có duyên được sinh cõi người, có thân sinh tử ngắn ngủi này thì hãy ra sức làm thiện để tương lai tươi sáng.Bài học 2: Oai nghi tế hạnhCô bé Vi-sa-ka mới 7 tuổi mà nghe Phật giảng pháp lập tức chứng Sơ quả Dự Lưu.

Kể từ khi đắc đạo thì cô bắt đầu làm thánh.

Khi đó mọi hành động cử chỉ của Vi-sa-ka đều khác người phàm.

Cụ thể: "trong khi mọi người cắm đầu chạy tìm chỗ trú mưa thì cô vẫn điềm đạm thư thả".Do vậy, "Oai nghi tế hạnh" mà Phật dạy Tỳ kheo nếu ai đắc đạo thì mọi cử chỉ sẽ đat.

Còn ai chưa đắc đạo vẫn là phàm phu, tham, sân, si, kiêu mạn, ghen tị, ích kỷ... thì tự hiện tướng ở hành động của kẻ phàm phu "cắm đầu chạy".

Kẻ phàm phu có muốn học theo oai nghi tế hạnh cũng chẳng thể học nổi.

Muốn học được oai nghi tế hạnh phải sửa cái tâm.

Khi đạo đức tăng trưởng thì mọi hành động tự chuẩn.Bài học 3: Phúc lớn là điều kiện đầu tiênNhững vị phúc lớn đa phần là giàu có hoặc sinh ở giai cấp cao quý.

Họ có duyên được nghe Phật giảng pháp và có tâm tín thành thì lập tức đắc đạo.

Ta thấy nàng Vi-sa-ka có cha là chủ ngân hàng và là 1 trong 7 gia đình giàu nhất Ma Kiệt Đà.

Cha chồng cô là ông Mi-ga-ra cũng là chủ ngân hàng ở thành Xá Vệ.Rồi sao?

Nàng Vi-sa-ka mới 7 tuổi nghe Phật giảng pháp thì đắc Sơ quả.

Ông Mi-ga-ra trước đó chưa 1 lần nghe pháp.

Nhưng chỉ một lần ông được nghe Phật giảng pháp cũng đắc Sơ quả.

Ta biết vĩ đại như vua trời Đế Thích mới chỉ đắc Sơ quả mà thôi.

Thế mới thấy Phúc lớn nếu có duyên được nghe Phật giảng pháp, có tâm tín thành thì đắc đạo tức thì.Bài học 4: Trụ cột kinh tế quốc giaTa thấy vua Ba Tư Nặc đã phát hiện ra nguyên tắc kinh tế thị trường mãi đến thế kỷ 19 con người ta mới biết.

Tức một dòng tộc hay một gia đình giàu có, đạo đức sẽ làm trụ cột, xương sống kéo toàn bộ nền kinh tế nước đó đi lên.

Còn nếu họ giàu mà bòn rút, mafia, phạm pháp, tham nhũng, cho vay cắt cổ... thì là con sâu, con mọt to lớn đục khoét gốc rễ đất nước.Vậy nên những nước tư bản hùng mạnh luôn có những đế chế là các công ty giàu có.

Sản phẩm của họ chất lượng, uy tín là niềm tự hào của nước đó.

Nhật bản có Sony, Panasonic, Toyota, Honda...

Hàn Quốc có Sumsung, Huyndai, Kia, Lotte...

Mỹ có Apple, Microsoft, Google, Boing...

Chính những Đại Phú Gia này tạo công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn con người.

Họ làm ra sản phẩm chất lượng và bán khắp Thế giới.

Những công ty đó đã kéo nền kinh tế đất nước đó đi lên.

Thế nhưng vua Ba Tư Nặc đã nhận ra điều này từ cách đây 2500 năm.

Chứng tỏ trí tuệ vua Ba-Tư-Nặc siêu phàm.Bài học 5: Sơ quả vẫn có gia đình và có conTheo Kinh Nguyên Thuỷ Nikaya thì có 3 cấp độ đắc đạo: Sơ quả Dự Lưu, Nhị quả Nhất lai và Thánh quả giải thoát A-la-hán.Đắc Quả Dự Lưu thì vị đó diệt xong tham ái.

Khi đó tâm vị thánh sẽ thanh tịnh và không động dục.

Nhưng vì trách nhiệm phải có gia đình và có con thì họ vẫn thực hiện.

Ta chú ý: Vua trời Đế Thích đã chứng Sơ quả mà Ngài vẫn có vợ là Thiện Sanh.

Vậy nên tín nữ Vi-sa-ka vẫn có chồng, có con và gia đình nhưng tâm bà thanh tịnh dục.Từ Quả Nhất Lai thì vị đó Ly dục.

Kể từ đây vị đó chính thức không còn dục.

So sánh giữa thánh quả và Tứ thiền ta thấy: Sơ quả tương đương với Chánh niệm tỉnh giác diệt xong 5 Triền cái: Tham ái, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi.

Quả Nhất Lai tương đương với Thiền thứ nhất: Ly dục Ly ác pháp.Bài học 6: Bát cháo cũHình ảnh "Bát cháo cũ" là một hình đẹp đầy ý vị.

Cháo phải mới, nóng hổi ăn mới ngon.

Cháo cũ thì vữa, nguội ăn không ngon.

Thời xưa chưa có tủ lạnh nên cháo cũ dễ xuất hiện vi khuẩn thành bị thiu.

Nên chỉ có cháo mới mới có thể ăn ngon được.Ông Mi-ga-ra ăn cháo cũ ý là chỉ hưởng phúc quá khứ, còn phúc hiện đời ông không có.

Phúc quá khứ càng hưởng thì càng vơi do không có phúc mới bù đắp.

Ngược lại phúc hiện đời càng hưởng lại càng to lớn.

Vì người biết tạo phúc hiện đời mà có thêm năng lực: thêm tài sản, thêm quyền lực.

Họ sẽ dùng năng lực đó giúp đời nên phúc càng vĩ đại.Bài học 7: Mẹ của Mi-ga-raÔng Mi-ga-ra là một người không biết tạo phúc mà còn theo tà pháp.

Ông được con dâu Vi-sa-ka cảm hoá được gặp Phật, được nghe pháp đắc Sơ quả Dự Lưu làm một vị thánh.

Người con dâu đó giống như đã sinh ra ông lần thứ 2.

Do vậy ông gọi bà là "Mẹ" là chính xác.Ta còn thấy, khi đắc Sơ quả thì diệt xong 3 kiết sử 1-Thân kiến, 2-Tham ái, 3-Giới cấm thủ.

Vị thánh đó không còn ích kỷ, ghen tị, tham ái dục và không chấp vào giới.

Theo tôn ti trật tự gia đình thì con dâu luôn thuộc hàng bé nhỏ, hạng con cháu.

Vậy mà ông nhận bà làm mẹ chứng tỏ ông đã diệt xong kiết sử Giới cấm thủ.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 54, 55: Truyện hương người đức hạnh


"Hương các loại hoa thơmKhông ngược bay chiều gióNhưng hương người đức hạnhNgược gió khắp tung bayChỉ có bậc chân nhânTỏa khắp mọi phương trời."(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 54)"Hoa chiên đàn, già laHoa sen, hoa vũ quýGiữa những hương hoa ấyGiới hương là vô thượng."(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 55)Tích Pháp Cú: Tôn giả A-Nan là thị giả của Phật nên Ngài lúc nào cũng bên cạnh Phật.

Khi Phật vào hương phòng thì Ngài ở ngoài canh trừng.

Nếu có người đến gặp Phật thì Ngài đón tiếp hỏi han và thu xếp gặp Phật.

Khi Phật đi đâu thì Ngài xắp xếp đồ đạc, mang theo hành lý đi với Phật.Ngài làm thị giả vĩ đại, chu đáo, cẩn trọng, tôn kính Phật vô thượng...

đặc biệt Ngài có một hạnh nguyện vĩ đại, một tài năng thiên bẩm trong lịch sử loài người không ai có.

Đó là mọi lời nói hay lời dạy của Phật đều được Ngài khắc ghi trong tâm.

Sau khi Phật nhập Niết Bàn 7 ngày là Đại Kết Tập Kinh Điển Phật Pháp lần 1.

Ngài A-Nan đã chủ trì đọc tụng kinh điển Phật.

Ngài đã ghi nhớ toàn bộ kinh điển Phật thuyết giảng trong suốt 45 năm giáo hóa trong đầu.

Kỳ đại hội kết tập kinh điển đó diễn ra trong 3 tháng.

Thời đó chưa có chữ viết nên toàn bộ kinh phải ghi nhớ nên tụng kinh có công đức lớn vì lưu giữ Chánh pháp.Do lúc nào cũng ở bên Phật nên Ngài phát hiện một điều.

Đó là cơ thể của Phật luôn tỏa hương thơm tự nhiên.

Có thể Phật đi từ nơi này qua nơi khác nhiều ngày không tắm mà cơ thể Phật vẫn cứ tỏa hương thơm.

Mùi hương đó giống mùi "hoa chiên đàn, già la, hoa sen, hoa vũ quý".Do vậy, vào một buổi chiều Ngài A-Nan ngồi và chiêm nghiệm so sánh mùi hương nơi cơ thể Phật giống mùi gỗ chiên đàn hay gỗ già la hay hoa sen, hoa vũ quý...

Rồi Ngài thấy khi Phật đi đầu gió thì mùi hương rõ ràng.

Khi Phật đi cuối hướng gió thì Ngài không ngửi thấy.

Và Ngài nghĩ rằng:"Ngay cả hương thơm của Đức Phật cũng không thể bay ngược chiều gió.

Vậy có loại hương gì có thể bay ngược chiều gió được không".Ngài đến hỏi Phật thì Phật trả lời:"Hương các loại hoa thơmKhông ngược bay chiều gióNhưng hương người đức hạnhNgược gió khắp tung bayChỉ có bậc chân nhânTỏa khắp mọi phương trời."(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 54)"Hoa chiên đàn, già laHoa sen, hoa vũ quýGiữa những hương hoa ấyGiới hương là vô thượng."(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 55)Phật nói rằng: "Giới thương, đức hương, định hương, tuệ hương...

Những loại hương thơm đó tỏa khắp nhân gian mà không lệ thuộc chiều gió.

Đó là những hương thơm cao quý nhất".

Và thế là có bài cúng hương mỗi khi ta dâng hương lễ Phật như sau:"Giới hương, định hương, giữ tuệ hươngGiải thoát, giải thoát chi kiến hươngQuang minh, Vân đài biến pháp giớiCúng dường Thập phương Tam Bảo tiền"Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Giới hương vô thượngKệ Pháp cú 54 là câu trả lời của Phật khi Đức A-Nan hỏi.

Phật nói rằng: "Hương thơm, hay tiếng thơm của bậc thánh nhân sẽ lan tỏa khắp nhân gian.

Hương đó có thể ngược chiều gió tung bay khắp nơi".Kệ pháp cú 55 Phật khẳng định tiếp: "Trong tất cả các loại hương tự nhiên của hoa lá cây cỏ thì Giới hương của người đức hạnh là cao quý nhất".Chính vì vậy, khi cúng hương dâng lên Phật thì ta hay tụng bài kệ "Cúng hương".

Bài "Cúng hương" đó không nói đến hương hoa sen, hương chiên đàn, già la hay vũ quý cấu tạo nên nén hương cúng Phật.

Mà bài "Cúng hương" lại nói: "Hương của tu giới hạnh, hương của tu thiền định, hương của tu trí tuệ chánh pháp, hương của đắc đạo giải thoát là chi kiến hương, tức hương thơm đúng đắn nhất"."

Quang minh, vân đài biến pháp giới" là hạnh nguyện Bồ Tát nguyện độ khắp pháp giới chúng sinh đắc đạo Quang minh, diệt trừ Vô minh, thành tựu Phật quả (ngồi đài mây).

Câu cuối là lời khẳng định: "Đó là những loại hương tối thượng cúng dường Mười phương Tam Bảo".

Bài học 2: Nhân tướng học"Ma Y thần tướng" là một trường phái tướng pháp nổi tiếng có từ thời Nam Tống thế kỷ thứ X.

Phái Ma Y đã xây dựng lên lý thuyết căn bản của tướng pháp Trung Hoa.

Về sau các trường phái tướng pháp khác căn cứ vào nền tảng Ma Y để phát triển hệ thống lý luận của riêng họ.Mở đầu sách Ma Y nói rằng:"Nhất thanh thần hương sắc.Nhị cốt cách tác phong.Tam bộ vị cơ thể".Đứng cao nhất (Thượng thừa) có tướng thần thái, khí sắc, thanh hương.

Cao thứ 2 (Trung thừa) có tướng xương cốt và tác phong: đi đứng nằm ngồi, ăn uống nói cười.

Đứng thấp nhất (Hạ thừa) có tướng bộ phận vị trí cơ thể: mặt mũi chân tay.Vậy nên hương thơm cơ thể Đức Phật là thượng thừa tướng pháp.

Trong Trung Bộ Kinh có 1 bản "Kinh Tướng" nói chi tiết nhân duyên quá khứ thế nào mà nay Phật có đầy đủ viên mãn 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.Vậy nên tướng pháp, tướng thuật, nhân tướng học đều từ Nhân Quả mà thành.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 56: Truyện Đế thích cúng dường A-la-hán


"Ít giá trị là hươngGià la hay chiên đànTối thượng hương đức hạnhTỏa khắp cả thiên giới."(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 56)Tích Pháp Cú: Tại Tinh xá Trúc lâm thành Vương Xá nước Ma Kiệt Đà thì Ngài Maha Ca Diếp nhập Diệt tận định 7 ngày.

Rồi Ngài xuất định và đi khất thực.

Ngài biết rằng sau khi Ngài nhập Diệt tận định mà ai cúng cho Ngài bữa ăn đầu tiên thì người đó có phúc lớn.

Vì hạnh nguyện "Khổ hạnh đệ nhất" nên Ngài muốn tìm ai đó nghèo, hiền lành để nhận đồ ăn cúng dường của họ.Việc Tôn giả Maha Ca Diếp nhập định thì loài người không ai biết mà Thiên giới thì biết.

Vua trời Đế Thích cùng 500 cung nữ chờ đợi giây phút Ngài xuất định để đi cúng dường.

Khi Ngài Ca Diếp xuất định đi khất thực thì 500 tiên nữ đứng hàng dài cúng dường Ngài.

Tôn giả nói:- Ta dành công đức này cho người nghèo.

Các ngươi đã có phúc thù thắng viên mãn nơi cõi trời thì không nên tranh giành.

Các ngươi hãy đi đi.Nhưng 500 tiên nữ không chịu đi.

Họ cố mời Tôn giả nhận đồ ăn cõi trời thơm phức ngon tuyệt mà họ dâng cúng.

500 tiên nữ đó vẫn muốn có thêm phúc để được thêm xinh đẹp.

Đức Maha Ca Diếp thấy các tiên nữ không vâng lời thì Ngài búng ngón tay, các tiên nữ biến mất.Không biết thần thông này của Đức Ma-ha Ca Diếp có phải được Holywood dùng cho nhân vật Thanos trong phim bom tấn "Avenge End Games" không?

Trong phim đó Thanos búng ngón tay thì 1/2 sinh mạng trong vũ trụ biến mất.Tiên nữ đó bị thần thông của Đức Maha Ca Diếp ép phải biến mất cõi người mà hiện ra cõi trời.

Họ thuật lại câu chuyện cho vua trời Đế Thích.

Đế Thích nói:- Làm như các nàng thì làm sao mà Tôn giả nhận.

Hãy xem ta biểu diễn.Đế Thích mang theo vợ là Thiện Sanh hiện hình làm vợ chồng già nghèo quần áo rách làm nghề thợ rèn.

Họ đang lao động vất vả thì Đức Maha Ca Diếp đi qua.

Vợ gọi chồng đi ra vì có vị Sa Môn đi khất thực.

Hai vợ chồng thợ rèn mang thức ăn ra cửa cúng dường vị Sa Môn nọ.

Đức Maha Ca Diếp thấy vợ chồng nghèo lại hòa thuận đầm ấm nên Ngài đưa bát cho vợ chồng đó cúng đồ ăn.Khi vợ chồng thợ rèn xới đồ ăn cho vào bát Tôn giả thì mùi đồ ăn thơm phức bay khắp nơi.

Tôn giả định thần nhìn lại thì thấy đó là vua trời Đế Thích và vợ Thiện Sanh.

Tôn giả bèn nói:- Này Thiên chủ, sao Thiên Chủ muốn giành phần phúc này của người nghèo.

Phúc của Thiên chủ thù thắng khắp thiên giới nên ta muốn dành phần phúc này cho người nghèo.- Tôn giả thương xót con.

Dù con là vua trời nhưng trên các tầng trời còn có nhiều vị phúc lớn uy lực thù thắng hơn con gấp bội.

Chúng con biết rằng phúc không bao giờ là đủ.

Hễ lúc nào có dịp làm phúc thì chúng con đều cố gắng.

Nên Tôn giả hãy từ bi nhận phần cúng dường này để chúng con tăng phúc và có thêm uy lực để hộ trì chánh pháp.Đức Maha Ca Diếp thấy vua trời Đế Thích nói hợp lý bèn đồng ý.

Sau khi cúng dường được cho Tôn giả Maha Ca Diếp thì Thiên chủ Đế Thích và vợ Thiện Sanh bay về trời hát vang trên hư không.Lúc đó Đức Phật ở Tinh xá biết truyện Thiên chủ cúng dường được cho Tôn giả Đại Ca Diếp thì sung sướng hát vang trên hư không.

Phật kể lại truyện đó cho các Tỳ kheo.

Sau đó Phật tán thán Tôn giả Maha Ca Diếp rằng:"Tỳ kheo sống bằng khất thựcTự mình nương tựa chính mìnhTĩnh lặng chú tâm hằng giácChư thiên tôn kính hoan nghênh".Và Phật đọc bài kệ:"Ít giá trị là hươngGià la hay chiên đànTối thượng hương đức hạnhTỏa khắp cả thiên giới."(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 56)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Hương đức hạnh bay khắp thiên giớiBài Pháp cú Phật ca ngợi Đức Maha Ca Diếp có hương đức hạnh vượt xa các loại hương già la, chiên đàn.

Hương đó tỏa khắp cả thiên giới.Tục ngữ cổ có câu: "Đức trọng quỷ thần kinh".

Đức hạnh của thánh nhân bay khắp các cõi tâm thức gồm cả thiên giới và quỷ thần.

Chư thiên là những vị đạo đức khi thấy hương đức hạnh thì quý kính ngợi khen gần gũi.

Còn quỷ thần tâm bất thiện không tương ưng với đạo đức thánh nhân.

Chính vì dị biệt, không tương ưng, thậm chí còn đối nghịch nên quỷ thần thấy vị thánh đức trọng thì kinh hãi bỏ chạy.Các tranh tôn giáo do không thể vẽ được mùi hương đức hạnh nên họa sỹ chỉ có thể miêu tả các vị thánh có vầng hào quang quanh đầu.

Sự thật thánh nhân luôn có cả 2: Hào quang và hương thơm đức hạnh.

Chúng sinh cõi tâm linh nhìn thấy rõ hào quang và ngửi thấy rõ hương thơm đó.

Còn người trần mắt thịt, lục căn không sáng tỏ nên khó thấy 2 hiện tướng đó của thánh nhân.Bài học 2: Vô sắc giới xứ địnhĐức Phật dạy rằng "Luân hồi có Lục đạo và Tam giới".

Lục đạo còn gọi là 6 ngả Luân hồi gồm: 1- Địa ngục, 2- Súc sinh, 3- Ngã quỷ, 4- Người, 5- Thần, 6- Trời.

Tam giới gồm: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

Gần như toàn bộ Lục đạo đều nằm trong Dục giới.

Đó là Địa ngục, Súc sinh, Ngã quỷ, Người, Thần, Trời dục giới.Dục giới thì chúng sinh còn ái dục, còn giới tính và còn tham.

Cõi càng thấp thì tham dục càng lớn, đau khổ càng nhiều.

Cao nhất trong Dục giới là Trời dục giới có 8 tầng.

Ở đó có các chư thiên đạo đức, ít lòng tham, ít dục tính, có thân hình nam hoặc nữ.

Cõi Tam thập tam thiên của vua trời Đế Thích và vợ Thiện Sanh là 1 tầng trời trong 8 tầng Trời dục giới.Sắc giới là cõi Trời sắc giới.

Kinh Phật liệt kê có 13 tầng Trời sắc giới.

Cõi đó các thiên tử không còn thân người nam/nữ, không có vợ chồng con cái.

Các vị chỉ là hào quang, tâm hỉ lạc, trí tuệ...

Cõi Trời Phạm Thiên hay xuất hiện trong Kinh Nikaya là Trời sắc giới.

Kinh Ba-lê thuộc Trường Bộ Kinh thì Phật miêu tả các vị trời Sắc giới như sau: "Vị đó ở tại đó, do ý sinh, nuôi sống bằng hỉ, tự chiếu hào quang, vi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh, sống như vậy một thời gian rất dài".Vô Sắc Giới là cõi định Vô Sắc Giới gồm 5 tầng xứ định.

Đây là cõi mà các vị Thánh tu thiền nhập định để lại thân trên trần gian còn tâm an trú trong định.

Vô Sắc Giới Xứ Định không còn thân nam, nữ, không còn hào quang, chỉ có tâm thức phủ khắp vũ trụ.

Đức Maha Ca Diếp trong Tích Pháp Cú 56 này đã nhập Diệt Tận Định vào Vô sắc giới xứ định tầng thứ 5 cao nhất chỉ dành riêng cho các A-la-hán và Đức Phật.Bài học 3: Một miếng khi đói bằng một gói khi noTa thấy Tôn giả Maha Ca Diếp là vị A-la-hán vĩ đại, phúc vĩ đại trong hàng Đại đệ tử Đức Phật.

Ngài nhập Diệt Tận Định 7 ngày.

Tôn giả vẫn còn thân người nên nhu cầu ăn uống nuôi thân vẫn còn.

Nên sau 7 ngày không ăn uống thì Ngài xuất định và đói.

Tuy nhiên tâm Ngài hoàn toàn tự tại với cơn đói trong khi cơ thể thì "gần chết".

Nên ta thấy trước đồ ăn cõi trời hấp dẫn mà Ngài khước từ vì muốn nhận đồ ăn cúng dường của người nghèo.

"Một miếng khi đói bằng một gói khi no".

Ai có duyên cúng bữa ăn đúng lúc Tôn giả đang đói sẽ có công đức lớn.

Các tiên nữ cõi trời hiểu rõ điều này nên họ nhao nhao tìm mọi cách cúng bằng được.Sao chư thiên phúc vĩ đại rồi còn tranh cướp thêm phúc?

Có 2 lý do: Thứ nhất: Phúc báu đó phải vĩ đại đến mức chư thiên cũng thèm thuồng.

Thứ hai: Các thiên tử chưa diệt tham dục nên tâm vẫn còn tham.

Nếu thiếu 1 trong 2 điều kiện trên thì Chư thiên không thèm tranh cướp món phúc báu đó.Bài học 4: Ban phúc cho người nghèo lương thiệnĐức Maha Ca Diếp có hạnh nguyện là luôn nhận bố thí của người nghèo có tâm hướng thiện.

Mà đồ ăn người nghèo toàn "cơm hẩm cháo thiu".

Trong một truyện tích kể rằng Tôn giả xin đồ ăn của người bệnh hủi và họ rớt ngón tay vào bát của Ngài.

Tôn giả vẫn nhận đồ ăn đó.

Đến nơi vắng Ngài bỏ ngón tay ra và ăn cơm đó như bình thường.Kẻ nghèo là ít phúc vì quá khứ họ không biết tạo phúc.

Vậy bản chất kẻ nghèo là không biết đạo, không biết làm thiện tạo phúc nên nay bị quả báo nghèo.

Vậy nên Tôn giả tìm được người nghèo biết đạo, biết cúng dường chư tăng là rất khó.

Chính vì khó nên kết quả thu về lớn.

Vậy vì sao lớn?Bởi vì ta thấy phúc cúng dường Tôn giả Maha Ca Diếp lớn đến mức chư thiên còn tranh cướp.

Vậy mà phúc đó được Ngài tặng cho kẻ nghèo thì lập tức số mệnh họ thay đổi.

Thế nhưng người nghèo "cơm không có để mà ăn.

Sao có thừa để cúng dường?"

Đó là bài toán khó mà kẻ nghèo nào giải được sẽ có phần thưởng lớn.Bài học 5: Nước chảy chỗ trũngTa thấy đức Maha Ca Diếp muốn tìm kẻ nghèo biết đạo để tặng họ công đức cúng dường thánh tăng.

Nhưng vì thiếu duyên nên Ngài không thể thực hiện ý muốn đó.

Vậy nên năng lực vĩ đại, phúc vĩ đại, A-la-hán vĩ đại mà chỉ một mong ước bé nhỏ nếu không đủ duyên cũng chẳng thể làm nổi.Cuối cùng Tôn giả buộc phải tặng công đức đó cho người "giàu nhất thế gian" là Ông vua trời.

Đúng là "nước chảy chỗ trũng".

Nghèo thì ít phúc vì kẻ đó không biết làm phúc nên thành nghèo.

Giàu thì nhiều phúc vì kẻ đó biết làm phúc nên thành giàu.

Thế nên kẻ đã nghèo lại càng nghèo, kẻ đã giàu lại càng giàu.

Thiên chủ Đế Thích là kẻ có phúc vĩ đại.

Đế Thích phúc lớn là do bản tính thích làm phúc.

Đế Thích lại còn thông minh khéo léo, thần thông biến hóa, hiểu tâm lý thánh tăng...

Nên Đế Thích cúng dường được cho Đại A-la-hán bữa ăn quan trọng.

Thế nên Đế Thích được tăng thêm phúc lớn.Bài học 6: Chư thiên khó biến hóa mùi hươngChư thiên có thể biến ra hình tướng, quang cảnh, nhà cửa, quần áo, âm thanh...

Thế nhưng hương thơm của đồ ăn cõi trời thì Đế Thích không thể biến thành mùi cơm hẩm của kẻ nghèo.

Cho nên hương thuộc về Thần còn vẻ ngoài thuộc về Sắc.

Sắc có thể biến hóa dễ dàng còn Thần thì rất khó biến hóa.

Bài học 7: Năng lực A-la-hán so với PhậtTôn giả Maha Ca Diếp năng lực vĩ đại, trí tuệ vĩ đại, thiền định vĩ đại.

Vậy mà Ngài vẫn bị Thiên chủ Đế Thích biến hóa lừa gạt ngay trước mắt.

Còn Phật thì ngồi ở Tinh xá mà Phật biết hết mọi chuyện trong Tam thế Luân hồi và kể lại cho Tỳ kheo nghe thành bộ Tích Pháp Cú này.

Đó chính là sự khác biệt giữa năng lực A-la-hán với năng lực Đức Phật.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 57: Truyện vị nhập định bỏ thân


"Giữa ai có giới hạnhAn trú không phóng dậtChánh trí chân giải thoátÁc ma không tìm ra"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 57)Tích Pháp Cú: Có Tỳ kheo tên là Gô-đi-ca tinh tấn hành thiền.

Qua nhiều năm tháng tu hành vất vả thì Ngài có 6 lần nhập định chuẩn bị đắc đạo nhưng lại bị Trạo hối ngăn cản.

Khi đó tâm Ngài bị loạn động mà thoát định.

Đến lần thứ 7 Ngài ngồi thiền nhập định thì Ngài quyết bỏ thân và an trú trong cõi định.Sự thật là có một tên Ác Ma là kẻ đã phá Tỳ kheo Gô-đi-ca 6 lần không cho Ngài đắc đạo.

Lần này, ý chí Ngài mãnh liệt quyết bỏ thân thì Ác Ma không thể cản.

Ác Ma bèn hiện hình thành người đến đảnh lễ Phật.

Ác Ma trình bày sự việc Tỳ kheo Gô-đi-ca muốn tự tử.

Phật thấy hết sự việc.

Phật thấy Ác Ma biến hóa thành người.

Người thấy Gô-đi-ca nhập định và có ước nguyện bỏ thân không quay về.

Phật đồng ý với ý nguyện của Tỳ kheo Gô-đi-ca.Sáng hôm sau Phật dẫn đoàn Tỳ kheo đi đến hang núi nơi Gô-đi-ca nhập định.

Đoàn người thấy Gô-đi-ca đang ngồi thiền nhập định mà thân không còn hơi thở.

Và có một luồng khí đen cứ chạy lòng vòng quanh cái thân.

Phật mới chỉ cho Tỳ kheo:- Luồng khí đen đó chính là Ác Ma đang đi tìm thần thức của Gô-đi-ca nhưng không thấy được.Sau đó Phật đọc bài Pháp Cú:"Giữa ai có giới hạnhAn trú không phóng dậtChánh trí chân giải thoátÁc ma không tìm ra"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 57)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Cõi thiền định Vô Sắc GiớiBài Pháp cú Phật ca ngợi người có giới hạnh, sống không phóng dật tức không tham đắm hưởng thụ vật chất thế gian.

Vị đó đạt trí tuệ giải thoát chân chính.

Nơi vị đó đến là cõi định Vô Sắc Giới thì Ác Ma không tìm ra.Trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam có ghi nhận 3 trường hợp thiền sư nhập định bỏ thân để lại thân xá lợi bất hoại hàng trăm năm.

Điều này rất giống trường hợp Tỳ kheo Gô-đi-ca nhập định bỏ thân.Trường hợp 1: thiền sư Từ Đạo Hạnh (Đức Thánh Láng).

Ngài sinh 1072 và mất năm 1116.

Ngài là đời thứ 12 dòng thiền Tì-na-đa-lưu-chi.

Ngài ngồi thiền ở chùa Thiên Phúc tại chân núi Phật Tích (nay là Chùa Thầy, xã Sài Sơn, huyện Thạch Thất, Hà Nội) viên tịch để lại hoá thân từ năm 1116.

Đến năm 1407 giặc Minh phá nước ta.

Những điểm linh thiêng trong tâm linh dân Việt đều bị chúng đốt phá.

Chúng phá chùa Thầy đập vỡ tượng thiền sư thấy bên trong vẫn còn phủ tạng như người sống.

Chúng hoảng sợ bỏ chạy.

Sau các sư về lại chùa làm lễ hoả thiêu.Trường hợp 2, 3: Đó là 2 vị thiền Sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở Chùa Đậu (Pháp Vũ Tự) huyện Thường Tín, Hà Nội.

2 vị thiền sư ngồi thiền mà hoá từ thế kỷ 17 thời Hậu Lê.

Năm 1993 các nhà khoa học thuộc Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam và bệnh viện Bạch Mai đến nghiên cứu khoa học.

Các nhà khoa học chụp X-Quang thấy bên trong vẫn còn phủ tạng não bộ xương khớp.

Hoàn toàn không có hiện tượng hút mổ phủ tạng nhồi thuốc ướp xác theo cách thông thường.

Đến nay toàn thân xá lợi 2 vị vẫn được bảo quản và thờ cúng trong chùa.Vậy nên hiện tượng thiền sư ngồi thiền nhập Định Vô Sắc Giới mà bỏ thân không quay về có từ thời Đức Phật.

Đến thời nay vẫn có nhiều vị tu chứng cảnh giới đó.Bài học 2: Ác Ma ở cõi tâm linh sao không thể thấy thiền sư trong định?Ta biết luân hồi có 6 cõi gọi là Lục đạo Luân hồi: 1-Địa ngục, 2-Súc sinh, 3-Ngã quỷ, 4-Người, 5-Thần, 6-Trời.

Ác Ma là chúng sinh trong cõi thần Atula.

Đó là một vị có phúc lớn, thần thông mạnh mẽ nhưng tâm luôn sân hận và luôn kiêu mạn.Kinh Hàng Ma thuộc Trung Bộ Kinh kể về kiếp quá khứ của Tôn giả Mục Kiền Liên là Đại Ác Ma Dusi.

Dusi đã đả phá tăng đoàn Phật quá khứ bằng cách kích động tâm sân hận và tâm kiêu mạn của Tỳ kheo.

Khi Tỳ kheo sân hận hoặc kiêu mạn thì tâm đó tương ưng với tâm ma và Dusi khống chế họ.

Nhưng Dusi thất bại vì Phật quá khứ dạy Tỳ kheo: "Thiền quán xả ly an trú chánh niệm tỉnh giác sẽ không giận không sân.

Thiền quán vô thường vỗ ngã sẽ không kiêu mạn".

Ta hãy nhớ 2 liều thuốc giải khắc chế tâm Ác Ma này mà Đức Phật dạy trong Kinh Hàng Ma.Còn thiền sư ngồi thiền nhập vào cõi Định Vô Sắc Giới.

Đó là cõi nào?

Định Vô Sắc Giới là cõi trời cao nhất trong Luân hồi gần đạt cảnh giới Niết Bàn.Ta biết Địa ngục là cõi thấp nhất, đau khổ nhất được chia làm 18 tầng trong đó ngục A-Tỳ là đau khổ nhất.

4 cõi giữa: Súc sinh, Ngã quỷ, Người, Thần chỉ có duy nhất 1 tầng.

Chúng sinh cùng cõi với nhau đều có thể nhìn thấy nhau.Cao nhất là cõi Trời được chia thành Tam giới: Trời Dục giới có 8 tầng trong đó có cõi Tam Thập Tam Thiên của vua Đế Thích.

Chư thiên Dục giới còn tham và còn dục.

Các vị vẫn có thân người nam/nữ nhưng thanh tịnh.

Trời Sắc Giới có 13 tầng trong đó có cõi Phạm Thiên.

Các vị Phạm Thiên trong Kinh Ba-lê Phật miêu tả như sau: "Các vị ở tại đó, do ý sinh, nuôi sống bằng hỉ, thân phát hào quang, vi hành trên hư không, sống trong sự vinh quang, sống như vậy một thời gian rất dài".

Chư thiên Sắc Giới chỉ có hào quang mà không có thân người hay giới tính.Cao nhất là Trời Vô Sắc Giới.

Đó là nơi an trú của các vị thánh trong định.

Các thiền sư cõi người an trú trong định sẽ vào đó.

Các vị Bồ Tát cõi trời an trú trong định cũng vào đó.

Vô Sắc Giới không hình, không tướng, không hào quang.

Vô Sắc Giới chỉ có tâm thức phủ trùm vũ trụ và các vị vô cùng hỉ lạc.

Vô Sắc Giới Xứ Định có 5 tầng và tầng cao nhất Diệt Tận Định dành cho các vị A-la-hán giải thoát nhập định.Chính vì vậy Ác Ma cõi Atula muốn lên cõi Trời Dục Giới gặp vua Đế Thích còn khó chứ đừng mơ được vào cõi Định Vô Sắc Giới của các thiền sư.Bài học 3: Đại Ác Ma là ai?Đại ác ma là một vị thần phúc vĩ đại nhưng tâm vô cùng sân hận và kiêu mạn.

Ở trên ta đã bàn về Đại Ác Ma Dusi phá tăng đoàn Đức Phật quá khứ.

Còn Phật Thích Ca thì Đại Ác Ma phá Phật là ai?

Đó chính là Đề Bà Đạt Đa.

Mời bạn đọc truyện Pháp cú 17 sẽ rõ.Đề Bà là Hoàng tử em họ của Phật nên phúc rất lớn.

Chính vì phúc lớn nên Đề Bà tu theo Phật 7 ngày là đắc thần thông vi diệu.

Nhưng kiết sử đầu tiên trong 10 kiết sử là Thân Kiến thì Đề Bà chưa diệt.

Chính vì Thân kiến nặng nên Đề Bà ghen tị với Phật và tìm mọi cách phá Phật.Cái kết cuối đời của Đề Bà là mất hết thần thông, cơ thể bệnh tật không thể đi đứng.

Hắn phải nằm cáng và nhờ người khiêng đến xin lỗi Phật.

Đến cổng Tinh xá, Đề Bà chân vừa chạm đất thì đất nứt ra làm 2 nuốt Đề Bà chui vào đó.Đó là kết quả cuối cùng của mọi Đại Ác Ma kể cả Dusi thời Phật quá khứ.

Hắn cũng bị đọa ngục A-tỳ nhiều vạn năm.

Mời bạn tìm đọc Kinh Hàng Ma sẽ rõ.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 58, 59: Truyện hoa sen mọc lên từ lửa


"Như giữa đống rác nhơBị quăng bỏ bên đườngChỗ ấy hoa sen nởThơm ngát khiến người vui"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 58)"Cũng vậy giữa quần sinhÔ nhiễm và tầm thườngCó nhiều đệ tử PhậtTuệ giác như ánh dương"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 59)Tích Pháp Cú: Có 2 người bạn sống trong thời Đức Phật.

Một người Quy Y theo Phật tên là Si-ri-pu-ta.

Một người tên là Ga-ra-ha-đi-na tu theo ngoại đạo loã thể Ni Kiền Tử.

Ni Kiền Tử chủ trương tu khổ hạnh và không mặc quần áo.

Ni Kiền Tử có nhiều vị tu khổ hạnh đắc thần thông, ngồi thiền nhập được vào định.

Đặc biệt các vị tu càng cao thì càng ăn mặc "thiếu vải".

Ta chỉ cần nhìn phong cách thiếu vải là biết mức độ đắc đạo thấp cao của các thầy tu lõa thể.Vị thầy Ni Kiền Tử nói với Ga-ra-ha-đi-na rằng:- Con có người bạn thân gia đình khá giả sao không khuyên theo ta mà lại theo Sa Môn Gô-ta-ma?Ga-ra-ha-đi-na về gặp Si-ri-pu-ta khuyên tu theo lõa thể thì hai bên tranh cãi.

Rồi Si-ri-pu-ta nói:- Anh bảo bên anh các thầy Thần thông cao siêu.

Vậy anh để tôi làm bữa trai tăng và anh mời các vị đó đến dự.Ga-ra-ha-đi-na về gặp các thầy Ni Kiền Tử trình bày và mời thầy đến dự.

Ở nhà Si-ri-pu-ta chế ra các loại bẫy: Đồ ăn chỉ có 1 lớp mỏng ở trên còn dưới toàn đất.

Ghế thì cưa chân xong gá lại cho đứng hờ...Sáng hôm sau các thầy Ni Kiền Tử đến theo hẹn và Si-ri-pu-ta ra đón ở cửa.

Khi đứng ở cửa thì tâm anh nói thầm: "Thưa các vị, trong này đồ ăn không có và các thứ đều rất nguy hiểm.

Mong các vị đừng vào".

Nhưng các thầy Ni Kiền Tử không đọc được tâm chàng ta nên họ vẫn đi qua cửa vào nhà.Khi mọi người đã an tọa thì Si-ri-pu-ta giật dây khiến toàn bộ ghế gãy rời và đồ ăn đổ ra chỉ thấy toàn là đất.

Các Ni Kiền Tử giận dữ ra về.

Còn Ga-ra-ha-đi-na căm thù cậu bạn vì đã chơi khăm.

Nhưng Ga-ra-ha-đi-na giả vờ không giận.

Thời gian sau anh đến nói với Si-ri-pu-ta rằng:- Này bạn, tôi thấy phái Ni Kiền Tử rất tầm thường chẳng có gì hay ho.

Nay tôi muốn Quy Y theo Sa Môn Gô-ta-ma vì tiếng tăm uy tín của Ngài.

Vậy anh có thể mời Người đến nhà tôi dự trai tăng để tôi cúng dường và xin được quy y không?Si-ri-pu-ta đồng ý và thỉnh Phật đến nhà Ga-ra-ha-đi-na dự trai tăng.

Ở nhà thì Ga-ra-ha-đi-na làm những cái bẫy chết người.

Toàn bộ nền nhà anh làm thành hầm lửa than hồng.

Phía trên anh che chắn xếp đặt bàn ghế đồ ăn như bình thường.Khi Phật và tăng đoàn tới thì Ga-ra-ha-đi-na đứng ở cửa nói thầm trong tâm: "Nếu Ngài có thần thông thì Ngài không nên vào vì bên trong là bẫy chết người".

Nhưng Đức Phật vẫn bước qua cửa vào nhà.Khi Phật bước lên nền nhà thì toàn bộ nền nhà sụp xuống lộ rõ hầm lửa bên dưới.

Phật không dừng lại.

Người vẫn bình thản bước tiếp.

Mỗi bước đi của Phật hiện ra một đóa hoa sen đỡ bước chân Đức Phật.

Rồi lửa tự động tắt.

Phật và chư tăng ngồi an tọa.

Ga-ra-ha-đi-na bèn quỳ xuống sám hối và nói:- Bạch Thế Tôn, con không hề chuẩn bị thức ăn và đây chỉ là sự trả thù.- Không, thức ăn đã có đầy đủ.

Đây là cơm, đây là cháo...Phật chỉ đến đâu thì thức ăn hiện ra theo đúng lời nói của người.

Sau khi mọi người thọ trai xong thì Phật thuyết pháp.

Thuyết pháp xong Phật đọc bài kệ Pháp cú:"Như giữa đống rác nhơBị quăng bỏ bên đườngChỗ ấy hoa sen nởThơm ngát khiến người vui"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 58)"Cũng vậy giữa quần sinhÔ nhiễm và tầm thườngCó nhiều đệ tử PhậtTuệ giác như ánh dương"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 59)Phật đọc xong bài kệ thì Ga-ra-ha-đi-na chứng Sơ quả Dự Lưu vì tâm chàng quá xúc động, quá tôn kính Phật và quá hối hận.

Cũng trong buổi thuyết pháp đó có rất nhiều người đắc đạo vì hình ảnh Đức Phật bước trên hầm lửa cháy.

Mỗi bước chân của Phật là một bông hoa sen hiện ra nâng đỡ bước chân người.

Hình ảnh đó thật đẹp, thật diệu kỳ gây xúc động mạnh mẽ và lòng tôn kính Phật trào dâng.Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Hoa sen biểu tượng Phật Giáo "Trong đầm gì đẹp bằng senLá xanh bông trắng lại chen nhị vàngNhị vàng bông trắng lá xanhGần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".

Hoa sen mọc lên giữa bùn dơ tanh hôi bẩn thỉu.

Thế nhưng hoa sen lại có hương thơm thanh tịnh "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".

Bài kệ Pháp Cú ta thấy Phật sử dụng hình ảnh hoa sen để ví đệ tử Phật đạo đức trí tuệ sáng ngời.

Nhưng những vị thánh đạo đức đệ tử Phật đó lại sinh ra trong xã hội đầy nhiễm ô, tham sân si, ác độc.

Về sau hình ảnh hoa sen được dùng làm biểu tượng của đạo Phật.

Tôi nghĩ có thể xuất phát điểm của biểu tượng Hoa Sen chính từ Tích Pháp Cú này.Bài học 2: Khổ hạnh cực đoan và Trung đạoSau 6 năm tu khổ hạnh cực đoan sai lầm thì Sa môn Cồ Đàm ăn uống trở lại bình thường.

Rồi Người ngồi thiền dưới gốc cây Bồ Đề bên bờ sông Ni Liên Thiền 49 ngày thì đắc đạo thành Phật.

Sau đó bài Pháp đầu tiên mà Phật giảng cho 5 anh em Kiều Trần Như ở Vườn Lộc Uyển là Kinh Chuyển Pháp Luân.

Kinh đó nói về con đường Trung đạo: "Khổ hạnh quá là sai lầm, hưởng thụ vật chất quá cũng sai lầm.

Ta phải sống với một cơ thể khoẻ mạnh và tinh thần minh mẫn nhưng không quá quá hưởng thụ dục lạc thế gian.

Chỉ có con đường Trung đạo cân bằng ở giữa mới đúng Chánh pháp, mới có thể đắc đạo".Ta còn nhớ "Pháp Cú 35: Người đọc được tâm" kể về mẹ của Ma-ti-ca chứng Nhị quả.

Rồi Bà nhập định quan sát thấy 60 vị Tỳ kheo thấy không ai đắc đạo.

Bà tiếp tục quan sát xem các vị có duyên đắc đạo không thì thấy có.

Rồi bà quan sát tìm nguyên nhân sao không đắc đạo thì thấy vì ăn uống thiếu thốn.Thế nên ai tu khổ hạnh cực đoan đày đoạ cơ thể sẽ không thể đắc đạo.

Nhưng ai ăn uống quá mức, hưởng thụ sơn hào hải vị (Phật gọi là "Ăn uống thiếu tiết độ") cũng chẳng thể tu hành.

Vì sao?Bởi vì "ăn no rửng mỡ".

Bản năng con người cũng như mọi loài vật cứ ăn no thì nhu cầu tình dục kéo đến nên chẳng thể tu.

Phật khuyến khích "ăn uống có tiết độ" là ăn uống vừa đủ để nuôi cơ thể khỏe mạnh để tu hành.

Đó chính là "Con đường trung đạo".Trong Tiểu Kinh Khổ Uẩn thuộc Trung Bộ Kinh Nikaya thì Đức Phật có nói rõ triết lý và lỗi sai của trường phái thiền khổ hạnh Ni Kiền Tử như sau: Thiền khổ hạnh Ni Kiền Tử chủ trương: "Chúng ta không đắc đạo là vì còn ác nghiệp ngăn cản.

Nếu chờ ác nghiệp đến sẽ mất nhiều kiếp.

Vậy ta nên chủ động dùng Khổ hạnh cực đoan để trả nợ ác nghiệp.

Khi ác nghiệp trả nợ xong chính là lúc ta đắc đạo".Nghe rất Logic và hợp lý.

Bất kỳ ai hiểu Nhân Quả cũng thấy lý thuyết này rất đúng.

Nhưng Phật đã chỉ cho Ni Kiền Tử cái sai cơ bản của lý thuyết đó.

Lý thuyết đó chỉ sai duy nhất một chữ "Duyên".Phật dạy rằng "Vạn hữu do duyên sinh".

Không có duyên thì không thể có kết quả.

Năng lực như Phật cũng không thể cưỡng lại duyên nên "Định nghiệp Phật không thể cứu".

Định nghiệp là quả báo tới khi duyên hội đủ thì Đức Phật không thể cứu.

Phật luôn thấy rõ duyên, lợi dụng duyên để hóa độ chúng sinh mà đạt kết quả vĩ đại.

Cho nên Tiểu Kinh Khổ Uẩn thì Đức Phật đã dạy Ni Kiền Tử cái sai trong giáo lý Khổ hạnh cực đoan của họ là:"Khổ do ác nghiệp theo duyên sẽ đến ở tương lai.

Nay ta chủ động dùng Khổ hạnh này ở hiện tại để hi vọng trả nợ ác nghiệp trong hiện tại là không được.

Ác nghiệp ta đã gây ra là khẩu nghiệp hay ý nghiệp.

Nay ta dùng cái khổ ở thân thể để trả nợ cho khẩu nghiệp hay ý nghiệp là không được".Bài học 3: Khổ hạnh đúng chánh pháp trong thiềnThế vì sao Tu thiền khổ hạnh Ni Kiền Tử sai lầm lại có thần thông, còn nhập được vào định?

Sự thật rằng Khổ hạnh có kết quả nhưng chỉ kết quả nhỏ bé.Ta biết vì Khổ hạnh có kết quả rõ ràng nên Sa-môn Cồ Đàm khi chưa thành Phật đã tu theo mất 6 năm sai lầm.

Ta thấy trí tuệ của Sa môn Cồ Đàm đắc cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng là tầng thứ 4 trong 5 tầng xứ định không phải tầm thường.

Trước khi Sa môn Cồ Đàm thành Phật thì đây là kết quả vĩ đại nhất của giới tu sỹ.

Và Đức Phật là vị tu sỹ đầu tiên trên thế giới đắc tầng xứ định thứ 5 A-la-hán viên mãn mà thành Phật.

Sau đó Phật dạy lại con đường tu đó cho đệ tử khiến nhiều vị đắc A-la-hán.Thế nhưng tu Khổ hạnh dù sai lầm vẫn đắc đạo có thần thông là một điều bí mật.

Bí mật tới mức Sa môn Cồ Đàm mất sáu năm tu theo mới phát hiện ra bị sai.

Sau đây là bí mật được ghi ở đoạn cuối Tiểu Kinh Khổ Uẩn: "Khổ hạnh trong thiền giúp tu sĩ ly dục, ly ác pháp chứ không đắc A-la-hán":"Khi ngồi thiền và chịu cái đau khổ hạnh thì hành giả thấy Tham dục không khởi.

Khi xả thiền thì Tham dục lại hiện ra.

Vậy nên hành giả hãy dùng Khổ hạnh trong thiền để diệt trừ Tham dục.Khi ngồi thiền và chịu cái đau khổ hạnh thì hành giả thấy Ác pháp không khởi.

Khi xả thiền thì Ác pháp lại hiện ra.

Vậy nên hành giả hãy dùng Khổ hạnh trong thiền để diệt trừ Ác Pháp.Sau một thời gian tu thiền Khổ hạnh vị hành giả đó chứng ly dục, ly ác pháp.

Tại đó vị đó chứng và an trú thiền Thiền thứ nhất, một trạng thái hỉ lạc do ly dục sinh còn tầm còn tứ.Kể từ đó, vị đó ngồi thiền không còn thấy đau khổ nữa.

Vì cái Khổ trong thiền do bản ngã Tham dục và Ác pháp tạo ra để ngăn vị đó tu hành.

Hay diệt xong Tham dục và Ác pháp thì vị đó ngồi thiền không còn khổ.

Tâm vị đó chỉ còn hỉ lạc do ly dục sinh".Chính vì Ni Kiền Tử dùng khổ hạnh để tu đã vô tình ly dục, ly ác pháp chứng Thiền thứ nhất.

Vị đắc đạo trong Ni Kiền Tử có thần thông, nhập được định sơ thiền.Đặc biệt, có phái Lõa thể của Ni Kiền Tử còn dùng ngay cơ thể để chứng minh sự đắc đạo.

Vị đắc đạo phái đó không mặc quần áo đi ngoài đường gặp các cô gái xinh đẹp mà không động dục vì các vị đã ly dục.

Cho nên phái thiền Lõa thể thời Đức Phật thu hút được nhiều tín đồ bởi họ dùng bộ phận sinh dục để chứng minh "Ta đây đã đắc đạo làm thánh".Còn các vị thánh trong đạo Phật không dùng mục đích đắc đạo Ly dục.

Các vị tu với mục đích trí tuệ giác ngộ thấy được chân lý chánh pháp.

Còn khi cần chứng minh thể hiện thì các vị dùng thần thông như Đức Phật dùng thần thông trong truyện này vậy.Bài học 4: Sự cố chấp của Ga-ra-ha-đi-naSi-ri-pu-ta chơi khăm các thầy Ni Kiền Tử là để chứng minh cho Ga-ra-ha-đi-na thấy rằng các vị đó chưa ai đắc đạo.

Còn Ga-ra-ha-đi-na cố chấp và trả thù nặng hơn gấp nhiều lần.

Các thầy Ni Kiền Tử bị chơi khăm ngã ngửa bổ nhào thì anh trả thù khiến Sa Môn Gô-ta-ma chết trong lửa.Đó là tâm lý thường tình của phàm phu tục tử.

Đa phần ta không thấy ta sai.

Khi một kẻ nói ta sai thì ta không nhìn lại bản thân để sửa.

Ta lại tìm cách trả thù thâm độc gấp nhiều lần để hả giận.

Đặc biệt kẻ đó xúc phạm đến điều ta tôn kính, điều ta yêu quý hay điều ta trân trọng.Ví như bà hoàng hậu Ma-gan-bi-da tự hào vì sắc nước hương trời.

Rồi bà gặp Phật thì Phật bảo: "Cơ thể đó coi vẻ ngoài vậy mà bên trong chứa đầy đồ tiêu tiểu.

Ta không thèm đụng đến dù chỉ là ngón chân".

Đó là sự thật 100%.

Ai mà chẳng có thân thể vẻ ngoài là da bọc bên trong là mớ hỗn độn: xương, thịt, gân, cơ, phủ, tạng, đờm, rãi, máu, mủ và tiêu tiểu chưa bài tiết.

Nhưng cô gái Ma-gan-bi-da không thấy nó là chân lý.

Bà lại căm thù Phật và trả thù.Bài học 5: Thần thông và đắc đạoTa thấy trước quang cảnh hầm lửa cháy mà Phật bình an bước lên hư không.

Mỗi bước chân Phật có một đóa sen hiện ra đón lấy.

Rồi đồ ăn hiện ra theo đúng lời Phật...

Thế nhưng không ai vì thần thông đó mà đắc đạo.

Chỉ khi Phật giảng pháp và đọc bài Pháp Cú thì mọi người mới vỡ òa đắc đạo.Vậy nên thần thông không làm cho con người ta đắc đạo.

Nó chỉ làm mềm tâm người quan sát, khiến tâm họ xúc động, tôn kính vị thánh đó mãnh liệt.

Và chỉ đến lúc Chánh pháp được nói ra thì mọi người mới tìm được chân lý mới giác ngộ đắc đạo.Có Thần thông mà thiếu Chánh pháp không thể đắc đạo.

Có Chánh pháp mà không có Thần thông để khuất phục tâm người nghe cũng khó đắc đạo.

Vậy nên hai thứ đó Thần thông và Chánh pháp phải song hành phối hợp mới hay.

Cho nên Đức Phật mới có 2 vị Đại đệ tử thống lĩnh tăng đoàn là Tôn giả Xá Lợi Phất trí tuệ Chánh pháp đệ nhất và Tôn giả Mục Kiền Liên Thần thông đệ nhất.

Hai vị phối hợp với nhau đã giáo hóa được rất nhiều người chứng A-la-hán.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Chương 5: PHẨM NGU - Pháp cú 60: Truyện tiếng sét ái tình


"Kẻ thức thấy đêm dàiNgười mệt thấy đường xaCòn ai thiếu Phật PhápLuân hồi khó ngày ra."(V-Phẩm Ngu, Pháp Cú 60)Truyện tích kể rằng: Lần đó vua Ba Tư Nặc tổ chức lễ diễu hành để dân chúng biết sức mạnh quân đội và sự giàu có của nước Ko-sa-la.

Vua ngồi trên lưng voi diễu hành cùng binh lính, cung nữ, hoàng tộc...

để dân chúng biết mặt vua.Vua ngồi trên lưng voi rất cao nhìn xuyên vào nhà cửa dân chúng.

Bất thình lình vua thấy một thiếu phụ và Ngài bị "Tiếng sét ái tình" đánh ngang lưng trời.

Từ đó vua thẫn thờ đến khi về cung điện.

Ta biết vua đã có hoàng hậu Mạc Lợi và vương phi Va-sa-ba-ca-ti-a vô cùng xinh đẹp.

Bên cạnh đó vua còn rất nhiều thê thiếp cung nữ.Về hoàng cung vua cho cận vệ dò hỏi xem nhà đó là ai?

Gia đình ra sao?

Thiếu phụ đó thế nào?

Cận vệ điều tra thì biết nhà đó gia đình khá giả có cô vợ thuộc hàng "tuyệt sắc giai nhân".Cả đêm hôm đó vua thức suốt không ngủ.

Vua cứ trằn trọc lăn qua lăn lại mà hình bóng thiếu phụ cứ ở trong đầu.

Đó là một đêm dài nhất trong đời vua Ba Tư Nặc.Sáng hôm sau vua nghĩ ra một kế.

Vua ra lệnh tất cả đàn ông trên dãy phố đó đi đắp đê.

Lính đến từng nhà gõ cửa và đọc lệnh của vua.

Đến nhà đó thì người chồng đề nghị:- Thưa đại nhân, nhà tôi đơn chiếc nên tôi không thể đi được.

Tôi có thể đóng tiền thay thế được không?- Không được!

Trong lệnh của vua có ghi rõ "Không đóng tiền thay thế".Gia đình đó khá giả không quen lao động nên người chồng bê từng viên đá, đội từng rổ đất đi trên con đường mệt mỏi.

Ông thấy con đường đó mọi ngày vẫn đi qua thấy ngắn nhưng nay sao nó dài như vô tận.Rồi vua Ba Tư Nặc chuẩn bị một cái bẫy khiến toàn bộ dân công đắp đê rơi xuống mà chết.

Nhưng vua Ba Tư Nặc còn thiện căn nên đêm hôm đó vua gặp ác mộng.

Một quang cảnh địa ngục quỷ sứ đánh đập, lửa ngục bừng bừng hiện ra... còn tù nhân thì kêu la thảm thiết.

Vua hoảng sợ không dám ngủ suốt đêm đó.

Sáng hôm sau vua gọi thầy chiêm tinh vu thuật tới đoán điềm giải mộng:- Đêm qua ta mơ thấy cảnh địa ngục lửa cháy, dầu sôi, quỷ dữ tra tấn phạm nhân, còn phạm nhân thì la hét vang trời... nghĩa là sao?Thầy chiêm tinh là tà đạo nên nói:- Cung vua đang bị quỷ ám.

Vua phải làm một đại tế đàn gồm: 100 con gà, 100 con ngựa, 100 con dê...

100 đồng nam, 100 đồng nữ... giết để tế thần.Vua nghe theo và ra lệnh kiếm đủ số lượng đó.

Hoàng hậu Mạc Lợi trong cung sáng hôm đó nghe thấy tiếng kêu than, tiếng la hét, tiếng gà, tiếng ngựa, tiếng dê...

Hoàng hậu chạy ra xem và hỏi vua Ba Tư Nặc chuyện gì?

Vua kể lại sự tình.

Hoàng hậu Mạc Lợi hoảng sợ nói với vua:- Thưa Đại vương, vì sao Đại vương mơ thấy ác nghiệp hiện về cảnh báo mà Đại vương lại làm điều ác cho quả báo hiện ra đúng theo giấc mộng vậy?

Sao Đại vương không đến hỏi Thế tôn?Lúc đó vua Ba Tư Nặc bừng tỉnh.

Đó là vì vua bị "tiếng sét ái tình" khiến vua u mê lú lẫn quên mất cả Đức Phật.

Vua bèn đến Tinh xá Kỳ Viên hỏi Phật:- Bạch Thế Tôn, hôm trước con mơ thấy ác mộng.

Sau đó con nhờ quan chiêm tinh vu đoán điềm giải mộng thì được biết phải làm một đại tế lễ.

Nay con xin nhờ Thế Tôn giảng giúp con và chỉ cho con cách thức hóa giải.- Này Đại vương, Đại vương hãy sai lính đến bờ đê gọi người có tên đó về đây ta sẽ giải cho Đại vương.Vua Ba Tư Nặc đỏ mặt tía tai vì biết Phật đã thấy hết.

Vua cho lính đến khúc đê gọi người chồng đến Tinh xá Kỳ Viên gặp Phật.

Người chồng nấm nem bùn đất không kịp sửa soạn đến quỳ lạy Phật.Phật khuyên vua về ái dục, tà dâm, tham dục...

đã biến cho con người ta thành kẻ ác độc.

Thoáng xúc động trên lưng voi mà vua thấy đó chỉ là ý nghiệp tà hạnh kiếp xưa mà thôi....

Phật giảng nhiều và sâu về đạo lý tham dục tà dâm khiến vua Ba Tư Nặc bừng tỉnh.

Vua Ba Tư Nặc bèn nói:- Bạch Thế Tôn, đêm thật là dài khi con trằn trọc không ngủ.Người chồng bên cạnh vua cũng nói:- Bạch Thế Tôn, đường rất là xa khi con lê từng bước chân mệt mỏi.Và Phật dẫn 2 ý đó thành đạo lý:- Cũng vậy, Luân hồi là vô tận nếu các ông không thông đạt Chánh pháp và tu hành.Sau đó Phật đọc bài kệ:"Kẻ thức thấy đêm dàiNgười mệt thấy đường xaCòn ai thiếu Phật PhápLuân hồi khó ngày ra."(V-Phẩm Ngu, Pháp Cú 60)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Luân hồi khó ngày raTục ngữ Việt Nam có câu rằng:"Thức đêm mới biết đêm dàiỞ lâu mới rõ lòng người có nhân".

Vậy sự thật hiển nhiên là thức đêm sẽ thấy đêm dài, người mệt vì lao khổ lê lết trên đường sẽ thấy đường xa.

Từ đó dẫn đến một sự thật hiển nhiên khác quan trọng.

Đức Phật thì nói: "Cũng vậy, ai thiếu Phật Pháp thì luân hồi khó có thể thoát ra".

Còn dân gian Việt Nam ta thì nói: "Cũng vậy, lòng người muốn rõ tốt xấu phải ở lâu bên cạnh kẻ đó mới thấy rõ bản chất nhân tâm họ".Các bạn có thắc mắc vì sao Phật lại giảng về đạo lý giải thoát Luân hồi cho vua Ba Tư Nặc và người chồng không?

Phật muốn nhân một sự thật mà chính 2 người đó đã trải nghiệm thấy đúng đắn để dẫn đến một đạo lý tu hành giải thoát.

Bởi vì phúc 2 vị đó không phải hạng tầm thường.

Một vị là vua của đại quốc Ko-sa-la.

Còn một vị đại phú gia và có diễm phúc lấy vợ đẹp "sắc nước hương trời chim sa cá lặn".

Nếu 2 vị đó mà tu hành giải thoát Luân hồi thì dễ đạt.Bài học 2: Tiếng sét ái tình"Tiếng sét ái tình" có thể là do duyên kiếp xưa hội tụ.

Ví như nàng Thiện Sanh đầu thai làm con vua Atula tổ chức lễ kén rể.

Trong hàng trăm thanh niên Atula đẹp trai ngời ngời mà nàng không chọn.

Nàng lại bị "Tiếng sét ái tình" với ông già xấu xí đứng giữa các thanh niên Atula.

Nàng đến đó cầm tay ông già và chọn ông làm chồng.

Ông già cầm tay công chúa lập tức biến thành vua trời Đế Thích bay lên giữa hư không hào quang rạng ngời.

Đó là một trường hợp "Tiếng sét ái tình" vì duyên kiếp xưa hội tụ.Còn trường hợp 2 là "Tiếng sét ái tình" bởi dục tính bộc phát khi gặp một tuyệt sắc giai nhân.

Đó là bản năng tình dục có trong muôn loài động vật trong đó có loài người.

Đó là tâm động dục và tham muốn chiếm đoạt sở hữu một nhan sắc "nghiêng nước nghiên thành".

Và đây là trường hợp của vua Ba Tư Nặc khi thấy "tuyệt sắc giai nhân" qua ô cửa sổ.Người thường thì luôn bị "tiếng sét ái tình" dạng này đánh cho suốt ngày.

Thế nhưng vì quyền hèn, lực kém nên ta cứ phải nhẫn nhịn mà bỏ qua.

Còn vua Ba Tư Nặc trí tuệ vĩ đại, quyền lực vĩ đại nên "thèm là phải có".

Chính vì "thèm là phải có" nên vua đã bày kế thâm hiểm hại hạnh phúc gia đình đó để độc chiếm giai nhân.

Cũng may ác nghiệp đang chuẩn bị thực hiện thì vua bị thiện căn ngăn cản và Đức Phật hóa giải.Nên coi vậy quyền hèn lực yếu như ta đây lại hóa may.

Quyền lực lớn "thèm là phải có" thì ta ắt sẽ tạo ác nghiệp.

Bởi vì do thời nay chẳng còn Đức Phật ngăn cản nữa.

Quả báo sẽ giống như cơn ác mộng.Bài học 3: Vụng trộm luôn hấp dẫnTâm lý con người luôn là vậy.

Vụng trộm thì luôn thấy ngon.

Còn ê chề đầy ặc lại thấy chán.

Vua có tam cung lục viện, cung tần mỹ nữ chẳng thiếu ai.

Rồi vua có 2 bà hoàng hậu đẹp tuyệt sắc giai nhân lại không thèm.

Thế mà vụng trộm nhìn xuyên cửa sổ nhà dân thấy cô gái đẹp thấp thoáng thì lại thèm khát.Bài học 4: Tình yêu là mù quángCó anh chàng than rằng: "Tôi cưới cô ta bởi những đức tính tốt đẹp mà cô ta không có.

Và rồi tôi ly dị cô ấy bởi những tính xấu mà cô ấy cũng không có".Vậy nên khi bị tiếng sét ái tình đánh thì Thị Nở cũng thành nàng tiên.

Còn khi đã chán ghét rồi dù có đẹp như tiên cũng thấy như Phù Thủy.

Thế nên có câu rằng: "Tình yêu và hận thù là 2 thái cực của tình cảm.

Tại 2 nơi đó lý trí bị đánh mất".

Tóm lại: "Yêu và ghét đều là đồ mất trí".Quay lại chuyện vua Ba Tư Nặc bị tình yêu làm cho mù quáng.

Chính vì mù quáng nên vua làm sai, làm ác hại dân mà vẫn cứ làm dù bản chất vua rất thương dân.

Chính vì mù quáng mà vua trí tuệ rạng ngời lại đi nghe thầy vu thuật tà ác.

Chính vì mù quáng mà vua quên luôn Đức Phật.Bài học 5: Điềm báoVăn hoa thần bí phương đông có các môn bói toán, tử vi, lý số, nhân tướng, chiêm tinh, vu thuật, đoán điềm, giải mộng...

Đa phần là suy luận điềm báo diễn ra trong hiện tại hay quá khứ để tiên đoán một kết quả ở tương lai.Nhân tướng học dựa trên dữ liệu về tướng trạng con người: mặt mũi, chân tay, dáng vẻ, thần thái, khí sắc, thanh hương, nốt ruồi...

để luận ra số mệnh người đó.

Ví dụ: Đức Phật sinh ra đã có đầy đủ viên mãn 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.

Đó là điềm báo của một tương lai tươi sáng.Còn Tử vi thì lấy dữ liệu đầu vào là ngày giờ, năm tháng sinh đẻ.

Sau đó thầy tử vi áp dụng các thuật toán thần bí cổ xưa như Lý thuyết Kinh Dịch để đoán số mệnh trọn đời kẻ đó.

Đó gọi là "Bốc lá số tử vi trọn đời".Còn Bói nghĩa là thầy bói sẽ cúng lễ các vị thần linh phù hộ cho thầy rồi thầy gieo quẻ, rút xăm.

Thầy dựa vào điều xăm nói, quẻ nói mà dự đoán tương lai.

Quẻ dịch có 8*8=64 quẻ.

Quẻ Quan Âm có bách xăm 10*10=100 lá xăm.

Thế nhưng phải có thần linh phù hộ thì quẻ hay xăm mới linh.

Còn không có thần linh phù hộ thì Rút Xăm chỉ là sự ngẫu nhiên mà thôi.Ta còn nhớ trước khi Phật từ bỏ khổ hạnh cực đoan quay về với con đường thiền.

Khi đó Phật thả cái bát xuống dòng sông Ni Liên Thiền và chú nguyện: "Nếu con đường thiền là đúng thì xin chiếc bát trôi ngược dòng nước".

Và sự thật chiếc bát đã trôi ngược dòng nước.

Đó chính là một hình thức Bói với tỷ lệ thành công vô cùng nhỏ bé.

Còn bói Bách xăm thì tỷ lệ thành công là 1%.Còn Chiêm tinh thì dùng dữ liệu đầu vào là vị trí, độ sáng tối, sự dịch chuyển của các vì sao để luận đoán số mệnh cho vua hay quốc gia.

Đoán điềm giải mộng hay vu thuật là dùng dữ liệu đầu vào là giấc mơ để luận đoán điều gì sẽ xảy ra ở tương lai.Điềm báo dùng để dự báo một kết quả ở tương lai.

Giống như trước mỗi cơn mưa thì bầu trời luôn mây mù vần vũ.

Người thường nhìn đám mây thì đoán biết sẽ có mưa.

Còn ta thấy điều nhỏ đến trước gọi là "Điềm báo" thì sẽ đoán ra cái lớn như số mệnh, cát hung, buồn vui sướng khổ ở tương lai.Và ở đây ta còn thấy một điều mới: "Một điềm báo không nhất thiết là báo trước quả báo sẽ tới ở tương lai mà còn là sự cảnh tỉnh trước một hành động ác".

Vua Ba Tư Nặc trước hành động ác là sẽ giết toàn bộ dân chúng bị bắt đi đắp đê với mục tiêu chiếm hữu thiếu phụ xinh đẹp.

Đó là một đại tội vì vua âm mưu giết con dân của vua để phục vụ lòng tham thì vua đó sẽ đau khổ nơi địa ngục.

Điềm báo chính là lương tâm thức tỉnh đã cảnh giác cho vua ngăn vua không làm sai.Ngoài ra ta còn thấy, cũng là điềm báo nhưng gặp phải thầy tà ma ngoại đạo, thầy bói rởm, thầy vô đạo đức phi nhân quả... thì sẽ luận sai khuyên tầm bậy.

Thầy bói đó lại khuyên vua giết thêm 100 đồng nam, 100 đồng nữ, 100 voi, 100 ngựa, gà, dê, chó...

để làm lễ tế thần.

Nếu vua nghe theo thì tội chồng tội.Bài học 6: Thời gian nhanh chậm, không gian gần xa do tâm ta cảm nhậnKhi ta đau khổ vì thức đêm không ngủ được thì ta thấy thời gian thật là chậm.

Khi ta bị đày ải lao động khổ sai bước lê trên đường mỏi thì ta thấy con đường thật xa.

Sao vậy?Thời gian nếu đo bằng phút giây đồng hồ thì ai cũng giống ai.

Quãng đường nếu đo bằng mét thì ai cũng giống ai.

Nhưng khi tâm ta đau khổ thao thức không ngủ thì cảm nhận 8 tiếng ngủ đó thật là dài.

Rồi khi ta đau khổ bước lê thì ta thấy quãng đường đó thật là xa.

Ngược lại, nếu ta có một giấc ngủ bình an hạnh phúc thì 8 tiếng đó như chớp mắt.

Hoặc ta hạnh phúc đi trên đường sẽ như vừa bước chân đã tới đích.Do vậy thời gian nhanh chậm, quãng đường gần xa là do tâm ta cảm nhận.

Nếu ta khổ thì thời gian như bị kéo chậm lại và quãng đường như dài ra.

Nếu ta sung sướng hạnh phúc thì thời gian trôi qua nhanh và quãng đường cảm giác như ngắn lại.Cũng vậy, một cô gái chờ bạn trai tới để cùng xem phim ở rạp.

Bạn trai đến muộn 15 phút mà cô chờ cảm thấy lâu như thế kỷ.

Sau đó cả 2 vào xem phim "Avenge End Game" 180 phút.

Họ thì vừa xem đã thấy hết phim.Hết tập 1Mời bạn đón đọc tập 2!
 
Back
Top Bottom