Tâm Linh 14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (PC01-PC60)

14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 26, 27: Truyện lễ hội chửi tục


"Những kẻ không trí tuệSống bừa bãi điên cuồngLàm những điều xấu ácRồi chìm đắm khổ đau" (II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 26)Người trí sống siêng năngKhông buông tuồng bừa bãiThường tinh cần tọa thiềnNên tìm về an lạc"(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 27)Tích Pháp Cú: Thời Đức Phật ở nước Cô-Xa-La tại kinh thành Sa-va-ti (Xá Vệ) có một lễ hội gọi là "Ngày của kẻ điên".

Lễ hội đó kéo dài 2-3 ngày.

Trong những ngày đó mọi người dù không điên cũng giả vờ điên lấy mực nhọ nồi phết vào mặt, lấy quần áo cũ rách mặc, có khi đeo sừng hóa trang...

Họ gặp ai cũng chửi tục tĩu, bắt phải cho tiền mới tha.

Sau đó họ lại tiếp tục chửi người khác để xin tiền nên còn gọi là "Lễ hội chửi tục".Những ngày đó, gia đình tử tế rất sợ.

Họ phải đóng kín cửa, không dám ra đường.

Có khi "Kẻ điên" vẫn đứng dưới cửa mà chửi cho đến khi trên lầu quăng ít tiền ra họ mới đi.

Và năm nay ngày đó sắp đến.

Các cư sĩ đến Tinh xá Phật bạch với Phật:- Bạch Thế Tôn, ở Xá Vệ mấy ngày tới có lễ hội của những kẻ điên.

Họ chửi tục để xin tiền không từ bất kì ai.

Con đến thỉnh Thế Tôn và chư tăng đừng vào thành mấy ngày này.

Chúng con sẽ mang thực phẩm đến Tinh xá cúng dường.Mấy ngày sau khi lễ hội hết, họ mới thỉnh Phật vào thành thọ trai bình thường.

Họ than phiền với Phật.

Nhân đó Phật đọc bài kệ:"Những kể không trí tuệSống bừa bãi điên cuồngLàm những điều xấu ácRồi chìm đắm khổ đau"(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 26)Người trí sống siêng năngKhông buông tuồng bừa bãiThường tinh cần tọa thiềnNên tìm về an lạc"(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 27)Sau sự kiện đó Đức Phật nhắc nhở vua Ba Tư Nặc:- Đất nước mà tồn tại lễ hội như vậy là điều bất hạnh.

Nước đó sẽ có nhiều người đi vào đọa xứ.Vua Ba Tư Nặc liền ra lệnh cấm ngặt.

Nếu ai cố tình vi phạm thì bắt phạt bỏ tù.

Sau đó Lễ hội chửi tục chấm dứt.Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Kẻ ngu người tríPháp Cú Phật nói: "Kẻ ngu si thì sống bừa bãi điên cuồng làm điều xấu ác.

Rồi sau đó họ sẽ chìm vào đau khổ bởi nhân quả.

Người trí tuệ thì sống chăm chỉ, ý tứ, không làm điều bừa bãi buông thả.

Đặc biệt người trí thì tinh cần tọa thiền.

Sau đó họ sẽ được hạnh phúc an lạc".Nhân quả thật là dễ hiểu, dễ thấy nhưng kẻ ngu thì không bao giờ tin nhân quả.

Họ chỉ thấy cái lợi trước mắt hay niềm vui trước mắt mà làm thôi.

Vậy nên kẻ ngu thì sống theo bản năng Tham, Sân, Si.

Còn người trí thì sợ cái bản năng Tham, Sân, Si mà tìm cách diệt trừ.Bài học 2: Chửi bậyChửi bậy là nói lời ô uế, không đúng sự thật, gán ghép, nói xấu, bêu rếu, làm nhục người khác.

Thậm chí họ còn làm nhục họ hàng tổ tiên đấng bề trên người khác để tăng phần đau khổ cho người.

Đây là tâm ác quỷ với lòng sân hận, thù ghét, căm.

Họ muốn hành hạ người và làm người đau khổ bằng lời nói.

Đây là Khẩu nghiệp ác độc.

Kẻ thực hành ác khẩu sẽ đi vào đọa xứ: Địa ngục, súc sinh, ngã quỷ.

"Ghét của nào trời trao của đó".

Ai chửi bậy nói lời bậy không đúng sự thật thì đời họ sẽ dần đi theo câu chửi.

Họ nói lời thô tục bẩn thỉu thì đời họ sẽ dần thô tục bẩn thỉu.

Họ gán ghép cho người tính xấu, hạ thấp phẩm giá người thì phẩm giá họ hay tính cánh họ dần xuống cấp giống câu chửi.Khi chửi thì họ sân hận, thù ghét người.

Quả báo về sau hễ ai nhìn thấy mặt họ đều ghét.

Còn người lành thiện nói ái ngữ thương yêu về sau ai nhìn mặt đều thấy yêu.

Cái đó ta hay gọi là Thần thái.Bài học 3: Luật vua thua lệ làngViệt Nam ta có hủ tục bị xã hội lên án mà vẫn không bỏ.

Ví dụ: Thói quen ăn thịt chó mèo là những con vật nuôi gần gũi, tình cảm, đáng yêu với ta.

Tục chép lợn làng Ném Thượng (Bắc Ninh).

Lễ hội giết bò tót ở Tây Ban Nha.

Lễ hội giết cá voi ở Nhật Bản...

Các lễ hội đó ác độc, nhẫn tâm, máu me, đồ tể, thấy con vật chết đau đớn mà tâm thấy vui thì thật ác độc.

Thế nhưng "Luật vua thua lệ làng".

Các hủ tục được cả làng đồng thuận thì chính quyền nói, vua khuyên nhưng dân chúng không bỏ.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 28: Truyện Tôn giả Ma-ha Ca Diếp


"Người trí không buông lungRất tinh cần tu tậpBước lên đỉnh núi caoNhìn thế gian xao động" (II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 28)Tích Pháp Cú: Đức Ma-ha Ca Diếp ở gần thành Vương Xá.

Ngài vào hang Bip-pha-ly nhập định.

Tại đó Ngài dùng thiên nhãn quan sát thế gian xem nhân quả quá khứ, hiện tại, tương lai của mọi chúng sinh.

Khi đó Đức Phật ở Kì Viên cách 4000 dặm cũng đang nhập định.

Phật thấy Ma-ha Ca Diếp trong định.

Đức Phật gửi đến Ngài lời nhắn:- Chỉ có Phật mới thấu suốt được nhân quả nghiệp duyên của chúng sinh.

Còn A-la-hán tuy có thiên nhãn nhưng không thể thấy được tận cùng.

Đây là sự khác nhau giữa A-la-hán và Phật.Phật muốn nhắn Đức Ma-ha Ca Diếp rằng: "Những gì mà A-la-hán thấy không phải là tất cả.

Phải đến vô lượng thời gian tu hành tiếp sau thì một A-la-hán mới hội đủ đại nhân duyên thành Phật.

Khi đó thiên nhãn Phật mới linh cảm thấy được tận cùng của chân lý, nghiệp duyên, nhân quả".Sau khi xuất định, Phật kể lại cho Ngài A-Nan nghe truyện Ngài Ma-ha Ca Diếp trong định và Phật đọc bài kệ tán thán vị A-la-hán đã vượt lên thế gian:"Người trí không buông lungRất tinh cần tu tậpBước lên đỉnh núi caoNhìn thế gian xao động"(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 28)Truyện kể thêm về Đức Ma-ha Ca DiếpĐức Ma-ha Ca Diếp sinh ra trong gia đình giàu có thuộc dòng dõi Bà-la-môn.

Dung mạo Ngài rất đẹp.

Ngài kém Phật 8 tuổi.

Ngài sinh năm 616 TCN còn Phật sinh năm 624 TCN.Thủa nhỏ đức hạnh Tôn giả đã siêu phàm.

Khi lớn lên là thanh niên thì Ngài tự cạo tóc xuất gia tự tu hành.

Đến khi gặp Phật và được Phật dạy thiền sau 7 ngày chứng A-la-hán.

Trong bản kinh nổi tiếng Phật dạy về thiền Nikaya là Tứ Niệm Xứ thì Phật ấn chứng một vị thánh có đại căn duyên tu theo Kinh này sẽ đắc đạo sớm nhất sau 7 ngày.

Đó chính là Phật nói về trường hợp Tôn giả Ma-ha Ca Diếp vậy.Chính vì căn duyên của Tôn giả vĩ đại nên Ngài đắc đạo thời gian nhanh nhất trong hàng Đại đệ tử Phật.

Do đó Ngài có danh vị "Phạm hạnh đệ nhất" bởi Ngài đắc thành Phạm hạnh viên mãn A-la-hán nhanh nhất.Có người nói danh vị đó Ngài có được là vì Đạo đức Ngài cao nhất là không đúng.

Bởi vì sao?

Vì toàn bộ A-la-hán là diệt tận Kiết sử không chút lỗi sai thì đều Đạo đức vô ngã tuyệt đối giống nhau.Ngài có hạnh nguyện là khổ hạnh, nghiêm trang và hơi khó tính.

Ngài đề cao giới luật và rất có uy tín trong tăng chúng.

Chính Ngài căn theo giới luật nên không đồng ý thành lập Ni đoàn.

Về sau nhờ Đức A-Nan thuyết phục rất lâu thì Ngài và Phật mới đồng ý thành lập Ni đoàn.Khi Đức Phật nhập diệt thì Tôn giả Ma-ha Ca Diếp đã lãnh đạo đại chúng kết tập kinh điển lần 1 và Tôn giả A-Nan chủ trì đọc tụng.

Đại hội kết tập kinh điển Phật Giáo lần 1 diễn ra ngay sau khi Phật nhập diệt 7 ngày có viên mãn 500 vị A-la-hán tham dự.

Đại hội đó không có ai không chứng A-la-hán.

Nên ta hay gọi là "Ngũ Bách Kết Tập".Tôn giả Ma-ha Ca Diếp có huyền thoại nổi tiếng lấy vợ suốt 10 năm vẫn trong sạch.

Khi cha mẹ lớn tuổi thì bắt Ngài phải lấy vợ.

Ngài không muốn lấy vợ chỉ muốn đi tu.

Ngài ra điều kiện là sẽ vẽ hình một người con gái xinh đẹp (do Ngài tưởng tượng ra) nếu cha mẹ tìm được người con gái như tranh vẽ đó thì Ngài lấy làm vợ.Thật kỳ lạ là có người con gái đẹp giống như tranh mà Ngài vẽ.

Người nhà tìm được cô gái đó.

Tin báo về Ngài vô cùng ngạc nhiên.

Ngài viết thư nói với cô gái là Ngài xin lỗi do vì không muốn lấy vợ nên Ngài tưởng tượng vẽ ra hình để làm khó cha mẹ.

Ngài mong cô tha thứ và đừng nhận lời cầu hôn.Giữa đường gia nhân bóc thư ra xem và viết lại thư khác rằng: "Anh yêu em tha thiết..."

Gia đình cô gái nhận lời cầu hôn.

Hóa ra cô gái cũng muốn được đi tu nhưng bị cha mẹ ép cưới nên trong đêm tân hôn cô nhất quyết không cho Ngài đụng đến.

Ngài cũng muốn đi tu nên không có ý xâm phạm.

Rồi hai "vợ chồng" đó sống với nhau suốt 10 năm nhưng hoàn toàn trong sạch.

Sau đó 2 bên cha mẹ đều mất sớm.

Hai người cạo tóc đi tu khi chưa gặp Đức Phật.

"Chồng" ôm bình bát xin ăn và "Vợ" đi sau cũng ôm bình bát xin ăn.

Sau khi gặp Phật Ngài ra nhập tăng chúng và "Vợ" nhập vào ni chúng.Đức Phật rất đề cao Tôn giả Ma-ha Ca Diếp.

Có lần Đức Phật khen Ngài rằng: "Nếu không gặp Như Lai thì Ma-ha Ca Diếp tự tu cũng chứng A-la-hán".Thế ta mới thấy duyên đắc đạo thời Đức Phật lớn chừng nào.

Nếu Tôn giả Ma-ha Ca Diếp tự tu tự chứng A-la-hán trước Phật thì Ngài chính thức là một vị Phật tự tu, tự giác ngộ, tự chứng đạo vì không căn theo Chánh pháp của một vị Phật để lại.

Nếu Phật đó giáo hóa thế gian thì sẽ là Thế Tôn Phật.

Nếu Phật đó không có duyên giáo hóa chúng sinh mà chỉ đắc đạo riêng mình rồi nhập Niết Bàn sẽ là Độc Giác Phật, Bích Chi Phật hay Duyên Giác Phật.Tôn giả Ma-ha Ca Diếp thân tướng siêu phàm mình phát hào quang giống Phật.

Một lần có một Bà-la-môn phương xa chưa được gặp Phật bao giờ đến Tinh xá đảnh lễ Phật.

Vị đó thấy Tôn giả Ma-ha Ca Diếp thân tướng siêu phàm tưởng là Phật bèn đến đảnh lễ Ngài.

Tôn giả Ma-ha Ca Diếp biết vị đó tưởng nhầm bèn đứng dậy đến bên Phật và quỳ xuống đảnh lễ Phật.

Ngài muốn chỉ cho vị Bà-la-môn phương xa rằng: "Đây mới là Đức Phật thật sự".Tôn giả Ma-ha Ca Diếp là Sơ Tổ đời thứ nhất của Thiền Tông Phật Giáo.

Ngài sinh năm 616 TCN tại Ma Kiệt Đà và mất năm 496 TCN tại Gurupada giri.

Ngài hưởng thọ 11*11=121 tuổi (cả tuổi mụ).

Đây là số tuổi viên mãn của một thánh nhân.

Tuổi dương thế của Phật cũng là số viên mãn của một thánh nhân 9*9=81 tuổi (cả tuổi mụ).

Tuổi đắc đạo của Phật cũng là số viên mãn 6*6=36 tuổi (cả tuổi mụ).Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Bước lên đỉnh núi cao nhìn thế gian xao độngPhật dạy trong bài Pháp Cú rằng: "Người trí tuệ thì chăm chỉ (tinh cần) tu tập, diệt tật xấu Kiết sử.

Diệt xong Kiết sử thì vị đó chứng Tam minh diệt Vô minh.

Vị đó như một người sáng mắt nhìn thấy nhân quả quá khứ hiện tại tương lai rõ như lòng bàn tay.

Còn chúng sinh thì vô minh không thấy được nhân quả như không thấy ánh sáng.

Vị thánh diệt Vô minh như người bước lên đỉnh núi cao nhìn thế gian xao động".Bài học 2: Sao Phật chỉ nhắn A-la-hán trong định?

Sao Phật không nói bí mật đó cho mọi người?Khi Đức Ma-ha Ca Diếp nhập Diệt Tận Định quan sát khắp tam thế thì Phật hiện ra nhắc nhở: "Chỉ có Phật mới thấu suốt được nhân quả nghiệp duyên của chúng sinh.

Còn A-la-hán tuy có thiên nhãn nhưng không thể thấu được tận cùng chân lý như Phật.

Các A-la-hán còn phải tu tiếp để tiến lên nữa".

Nhưng khi nói truyện với đại chúng thì Phật chỉ khen ngợi Tôn giả Ma-ha Ca Diếp mà không kể về tình tiết nhắc nhở về mức định A-la-hán còn thấp.Ta nên biết Tôn giả Ma-ha Ca Diếp tu thiền 7 ngày đắc A-la-hán và có danh vị "Phạm Hạnh Đệ Nhất".

Ngài là một A-la-hán vĩ đại nhất trong hàng Đại đệ tử Phật.

Nếu Phật nhắn Ngài tức Phật gián tiếp nhắn toàn bộ các A-la-hán chứ không chỉ riêng đức Ma-ha Ca Diếp.Rồi toàn bộ Kinh Nguyên Thủy Nikaya thì đích đến cao tột cùng là "Tối thắng Niết Bàn".

Vậy vì sao đã là "Tối thắng Niết Bàn" rồi mà Phật lại bảo còn thấp?

Có khi nào có đích đến cao hơn A-la-hán mà Phật cố tình giữ bí mật không nói ra?

Nếu có sao Phật lại cố tình giữ bí mật?

Ta hãy tìm hiểu nhé...Ta thấy, trong Kinh Đại Bổn, kinh số 14 thuộc Trường Bộ Kinh Nikaya thì Phật nói đến 6 vị Phật quá khứ trong 91 Đại Kiếp mà Phật thấy đều là Bồ Tát cõi Đâu Suất Đà Thiên hóa sinh cõi người thành Phật.

Trong tương lai sẽ có Bồ Tát Di Lặc cũng từ Đâu Suất Đà Thiên hóa sinh cõi người thành Phật (Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống, số 26 thuộc Trường Bộ Kinh).Trong kinh Bổn Sanh thuộc Tiểu Bộ Kinh Nikaya nói về quá khứ 4 A Tăng Tỳ kiếp vào thời Phật Nhiên Đăng.

Khi đó có Bồ Tát Thiện Tuệ vì tôn kính Phật Nhiên Đăng đã nằm ra vũng bùn để Phật bước qua.

Sau đó Phật Nhiên Đăng đã thọ ký tương lai Bồ Tát Thiện Tuệ sẽ thành Phật Thích Ca.Vậy Quá khứ, Hiện tại, Tương lai luôn có Bồ Tát hóa sinh cõi người thành Phật.

Thế sao trong toàn bộ giáo lý Nguyên Thủy không hề thấy Phật Thích Ca nói gì về con đường tu của Bồ Tát thành Phật?

Có ai thắc mắc điều này không?Sự thật rằng có một con đường tu cao hơn quả vị A-la-hán.

Đó chính là con đường Bát Nhã Ba-la-mật.

Các vị A-la-hán đắc đạo khi đứng trước ngưỡng cửa Niết Bàn.

Vì trí tuệ vĩ đại của các vị, vì tình yêu với chúng sinh nên một số vị đã không bước vào.Ngay ngưỡng cửa Niết Bàn đó thì A-la-hán phát đại nguyện ở lại Luân Hồi từ bi cứu độ chúng sinh cho tới vô lượng vô biên.

Vị đó hóa thân làm Đại Bồ Tát.

Đích đến cuối cùng của Đại Bồ Tát là thành Phật.

Điều này được ghi trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (Kinh Pháp Hoa) ở các phẩm Thọ Ký chứ không phải quan điểm cá nhân tôi.Đây chính là một bí mật vĩ đại của Phật Thích Ca.

Nếu bí mật này được nói ra thì mọi người sẽ bỏ con đường "Tối thắng Niết Bàn" mà tu theo con đường vĩ đại hơn là "Bát nhã Ba-la-mật".

Sự thật đúng vậy.

Từ khi Đại Thừa Bát Nhã được phổ biến sau thời Đức Phật Thích Ca 500 năm lại có rất ít các vị đắc đạo A-la-hán.

Bởi vì các vị tu sĩ đã từ bỏ con đường thấp "Tối thắng Niết Bàn" mà vội vã đi theo con đường cao siêu "Bát nhã Ba-la-mật".

Đó giống như chưa học hết lớp 1, lớp 2 đã mơ tưởng làm giáo sư tiến sỹ cứu giúp nhân loại.Bài học 3: Vô sắc giới xứ địnhKinh Phật nói về Tam giới:Thứ nhất Dục Giới: Đây là cõi còn dục và chúng sinh tồn tại có giới tính (nam hoặc nữ).

Cõi này trải rộng gần hết Lục đạo Luân hồi: Địa ngục, Súc sinh, Ngã quỷ, Người, Thần và Trời dục giới.

Địa ngục lại chia thành 18 tầng tách biệt với nhau dành cho chúng sinh từ tội nặng tới nhẹ.

Các cõi Súc sinh, Ngã quỷ, Người, Thần chỉ có 1 tầng và chúng sinh trong cõi đó nhìn thấy nhau.

Trời dục giới lại chia thành 8 tầng dành cho các vị phúc từ bé tới lớn trong đó có Tam thập tam thiên của vua trời Đế Thích.Thứ hai Sắc Giới: Đây là cõi trời rất cao.

Ở đó các vị không còn giới tính mà chỉ là hào quang.

Kinh Ba-lê, số 24 Trường Bộ Kinh miêu tả các vị Trời sắc giới như sau: "Ở tại đây, những loài hữu tình này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh và sống như vậy trong thời gian khá dài."

Vậy các vị Trời sắc giới do ý sinh ra tức đó là cõi tâm linh.

Tâm các vị luôn hỉ lạc.

Thân chiếu hào quang.

Các vị di chuyển trong hư không và sống trong ánh sáng quang vinh.

Tuổi thọ các vị khá dài.

Tôi thấy các vị Trời sắc giới giống các vì sao, tinh tú hay mặt trời...

Trời sắc giới có 13 tầng trong đó có cõi Phạm Thiên của vua trời Phạm Thiên.Thứ ba Vô Sắc Giới: Đây là cõi mà các vị thánh nhập định không còn thân, không hào quang, không hỉ, không lạc...

Các vị chỉ còn tâm linh phủ trùm khắp vũ trụ hư không.

Vô Sắc Giới có 5 tầng mà cao nhất là Diệt Tận Định: cõi của các A-la-hán nhập định.Tôn giả Ma-ha Ca Diếp và Đức Phật nhập Diệt Tận Định tâm phủ trùm khắp hư không và thấy rõ nhau.

Phật và Tôn giả Ca Diếp dùng truyền tâm trong định để trao đổi vượt giới hạn không gian 4000 dặm.Còn giới hạn về thời gian trong định thì các A-la-hán thấy Tam thế: quá khứ, hiện tại, tương lai.

Nhưng các vị không thể tác động vào nó.

Vậy theo lý thuyết Phật Giáo có thể thấy được quá khứ và tương lai mà không thể tác động.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 29: Truyện tuấn mã và ngựa hèn


"Tinh cần giữa phóng dậtTỉnh thức giữa lầm mêNgười trí như tuấn mãBỏ sau con ngựa hèn" (II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 29)Tích Pháp Cú: Có hai người huynh đệ cùng xuất gia.

Họ đến gặp Phật để nhận pháp tu.

Sau khi nhận được đề mục và phương pháp thì họ về trú xứ là khu rừng vắng để tu hành.

Ở trong rừng, điều kiện ăn ở khó khăn và hàng ngày phải đi khất thực xa.

Nhưng một người tinh cần.

Ngoài thời gian khất thực, làm các nghi lễ cần thiết thì vị đó dành trọn thời gian tu hành tọa thiền nhập định.Người còn lại thì phí thời gian vào la cà, ăn uống, nói truyện phiếm.

Đêm tối vị đó đốt củi sưởi ấm và rủ thêm người đến nói truyện.

Lúc đầu là truyện đạo sau dần chuyển thành truyện thế gian nhảm nhí.

Sáng lạnh vị tu sĩ chăm chỉ dậy ngồi thiền từ sớm.

Vị lười biếng thì cuốn chăn ngủ nướng.Thời gian dần qua, vị chăm chỉ tiến lên đạt được các mức định và ngồi thiền được lâu.

Vị lười nhác không thấy vui còn ghen tức mỉa mai.

Một lần, Đức Phật ghé thăm khu rừng nơi hai vị ẩn cư.

Hai vị đảnh lễ Phật và trình bày kết quả đạt được.

Đức Phật hỏi:- Ở đây các ông tu hành ra sao?Vị lười nhác nhanh nhẹn cướp lời:- Ở đây con tu tinh cần, còn người này lười nhác.Đức Phật nghiêm mặt nói:- Ông là người lười nhác lại không biết quý người bạn tinh cần chăm chỉ.Và Phật đọc bài kệ ngắn để khen vị tu sĩ chăm chỉ:"Tinh cần giữa phóng dậtTỉnh thức giữa lầm mêNgười trí như tuấn mãBỏ sau con ngựa hèn"(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 29)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Người trí như tuấn mã"Tinh cần" là chăm chỉ, cần mẫn làm điều tốt, đúng đạo lý chánh pháp.

Ta hay nhầm tinh cần với "Tinh tấn".

"Chánh tinh tấn" là giai đoạn 6 của Bát Chánh Đạo.

Một người phúc lớn từ bỏ phúc thế gian.

Vị đó từ bỏ gia đình cùng tài sản lớn bé.

Vị đó cạo tóc xuất gia tu hành giới hạnh Phật được gọi là "Chánh Tinh Tấn".

"Chánh tinh tấn" dịch chính xác là "Bước tiến quan trọng theo con đường chánh đạo"."

Phóng dật" là lười biếng, tham đắm thế gian, hưởng thụ, thác loạn.

"Tỉnh thức" là tỉnh táo, trí tuệ, sáng suốt, thông minh.

"Lầm mê" là mê mờ, lầm lạc, sai lầm, làm điều không đúng đạo lý.Người trí tài giỏi thì tu hành tiến lên phía trước như một con tuấn mã.

Con ngựa đẹp đẽ khỏe mạnh đó sẽ bỏ càng ngày càng xa con ngựa hèn yếu ở phía sau.Bài học 2: Xuất phát điểm là như nhau nhưng người "tỉnh thức tinh cần" càng tu càng bỏ xa kẻ "phóng dật lầm mê"Ta thấy xuất phát điểm 2 vị là như nhau.

Cùng đến với Phật, cùng xin pháp môn tu hành, cùng bắt đầu tu học theo lời Phật dạy.

Thế nhưng kẻ lầm mê thì sống phóng dật, lười biếng, ngủ nướng, chuyện phiếm, nhảm nhí, vô bổ... ví như con ngựa hèn.Còn vị tỉnh thức thì chăm chỉ, siêng năng, tinh cần tu tập.

Vị đó tiến nhanh và mạnh mẽ lên phía trước như con tuấn mã.

Kết quả cuối cùng là vị "tinh tấn tỉnh thức" càng ngày càng bỏ xa kẻ "phóng dật lầm mê" ở phía sau.

Tương lai một vị đi về cõi trời hay cõi Phật.

Còn một vị cứ mãi mãi ở cõi thấp kém.Bài học 3: Kẻ xấu thì hay nói xấu người tốt.

Người tốt ít khi nhận cái tốt về mình và không bao giờ nói xấu bạn bèVậy nên ta thấy khi Phật hỏi thì người tốt không bao giờ tự nhận mình tốt hoặc nói xấu anh bạn lười biếng.

Nhưng kẻ xấu thì lập tức tự nhận mình là người tốt và vu oan giá họa cho người tốt là xấu xa.

Đó là tâm lý của phàm và thánh.

Muôn đời như vậy chẳng thể nào khác.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 30: Truyện thiên chủ Đế Thích


"Đế Thích không phóng dậtĐạt ngôi vị Thiên ChủKhông phóng dật được khenPhóng dật thường bị trách"(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 30)Tích Pháp Cú: Một lần Phật ngồi thiền nhập định trong hang núi một mình.

Cùng dịp đó Thiên chủ Đế Thích có việc đi qua cõi đất muốn đảnh lễ Phật.

Đế Thích thấy Phật đang nhập định nên không dám đánh động.

Ngài đứng trên hư không trước cửa hang cùng tùy tùng đông đảo mà không biết làm sao.

Đế Thích bèn sai thần âm nhạc Càn Thác Bà đến tấu một nhạc khúc để Phật xả thiền.Càn Thác Bà quỳ trước cửa hang đánh một khúc nhạc tình có câu hát: "Anh yêu em như A-la-hán yêu thiền định".

Phật từ đầu đã biết có Thiên Chủ và tùy tùng đến nhưng duyên chưa đủ nên Phật vẫn trong định.

Sau nghe xong câu hát đó của thần Càn Thác Bà thì Phật mỉm cười hỏi:- Do đâu mà anh có bài hát lạ lùng này?- Dạ con có yêu con gái của Vua Trời Đế Thích.

Nhưng mà nàng không để ý đến con.

Con theo đuổi mãi đến một hôm con biết nàng rất quý kính Tam Bảo.

Nên con soạn bài nhạc nói về Tam Bảo, Phật Pháp, A-la-hán và Thiền định để nàng siêu lòng.

Quả nhiên hiệu quả.

Khi con hát đến câu: "Anh yêu em như A-la-hán yêu thiền định" thì nàng yêu con.

Con được làm rể của vua Đế Thích.Ngay lúc đó Vua Trời hiện ra đảnh lễ Phật.

Trời Đế Thích hỏi Đức Phật về chánh pháp:- Con vì công việc cõi trời quá nhiều và con quá bận rộn nên không có dịp đến hầu Thế Tôn thường xuyên.

Hôm nay có duyên, con đi qua cõi đất này và con xin hỏi Thế Tôn đôi điều.Kinh: "Đế-Thích sơ vấn, kinh số 21 thuộc Trường Bộ Kinh Nikaya" nghĩa là: "Những câu hỏi của Đế Thích" ghi rõ các câu hỏi đáp của Đế Thích và Phật.

Đại ý Đức Phật có xác định các căn bản của Phật Pháp như sau:"Cái gì cũng có hai mặt tốt và xấu.

Ta phải biết chọn mặt tốt và từ bỏ mặt xấu.

Ví như ước muốn cũng có hai mặt xấu và tốt.

Ta phải biết chọn lọc giữ lại ước muốn tốt và bỏ thói hư tật xấu.

Tư tưởng cũng có tốt và xấu.

Ta phải biết chọn lọc giữ lại ý nghĩ tốt và bỏ đi ý nghĩ xấu.Nhưng để phân biệt được tốt hay xấu là rất khó vì bản chất chúng sinh là Vô Minh.

Vô Minh giống như người mù không thể thấy ánh sáng.

Chỉ khi đắc đạo A-la-hán diệt tận Vô Minh thì vị đó mới sáng tỏ tận cùng của chân lý tốt hay xấu.

Chứng Quang Minh như một người sáng mắt nhìn thấy rõ ràng chi tiết mọi đồ vật ở trước mặt trong ánh sáng ban ngày".Sau lần gặp Vua Trời Đế Thích thì Phật xuống núi về lại Tinh xá.

Phật kể lại cảnh trí cõi trời huy hoàng, uy nghi, vinh quang rõ ràng chi tiết.

Lời kể của Phật được chép trong "Kinh Đế-Thích sơ vấn bản số 21 Trường Bộ Kinh Nikaya" mời bạn tìm đọc.Khi đó có một ông hoàng tên là Ma-ha-li ở xứ Y-xa-ly nghe vậy bèn hỏi Phật:- Bạch Thế Tôn!

Sao Thế Tôn biết rõ truyện của Đế Thích vậy?

Thế Tôn có phải bạn của Đế Thích chăng?Đức Phật không trả lời trực tiếp vào câu hỏi đó.

Phật chỉ kể lại quá khứ kiếp xưa của Đế Thích Thần Quân.

Nguyên nhân vì sao Đế Thích được sinh lên trời.

Vì sao Đế Thích được làm Thiên Chủ.

Sau đây là tóm lược câu chuyện của Phật kể về kiếp xưa của trời Đế Thích:Đế Thích là phát âm theo Tiếng Việt.

Tiếng Pali gọi Đế Thích là Xác-ca.

Đời sống nào Ngài cũng nghiêm mật thực hành 7 điều nguyện: 1 - Phụng dưỡng cha mẹ (Hiếu).

2 - Lễ kính các bậc trưởng thượng (Nghĩa).

3 - Nói lời hòa nhã (Khiêm).

4 - Không nói xấu sau lưng (bỏ Ác).

5 - Rộng rãi bố thí (Sảng).

6 - Luôn nói lời chân thật (Thật).

7 - Không bao giờ nổi nóng (bỏ Sân).Túm lại Ngài tu mỗi 7 chữ: Hiếu - Nghĩa - Khiêm - Sảng - Thật - bỏ Ác - bỏ Sân.

Ta thấy khá dễ để thực hành.

Ai thực hành nghiêm mật 7 chữ này sẽ được sinh cõi trời.

Đó là lời khẳng định của Phật.Thời xưa cõi đất ít người ở.

Đế Thích tên là Xác-ca khi đó là con một gia đình khá giả.

Lần đó có hội chợ đông người đến tham dự chen chúc nhau.

Ngày thường thì khu chợ vắng nên nó không rộng.

Hôm đó hội trợ đông người thành ra chật chội chen chúc.Khu chợ đó đất đai gập ghềnh sỏi đá chứ không bằng phẳng.

Mọi người chen chúc chân thấp chân cao khổ sở.

Xác-ca đã lấy củi san phẳng vị trí đứng của mình thì bị mọi người chiếm mất.

Chàng qua vị trí khác san ủi mọi người lại chiếm.

Chàng không hề buồn bã tức giận.

Chàng thấy việc làm này có lợi cho người.

Mọi người vui chàng tự nhiên cũng thấy vui.Chàng bèn chạy về nhà mang dụng cụ đến mở rộng khu chợ làm đất đai bằng phẳng.

Chàng làm đến đâu mọi người chạy đến chiếm chỗ đó để buôn bán.

Cuối ngày hội trợ tan chàng Xác-ca nghĩ:"Sống ở đời làm được điều có ích giúp người.

Mọi người vui tự nhiên tâm ta cũng vui lạ kỳ".Sau đó Chàng tiếp tục làm những điều lợi ích khác giúp người.

Chàng thấy con đường đi từ làng của mình đến làng bên rất xa.

Đường đó xấu xí sình lầy gai góc đá sỏi đi lại khó khăn.

Thời đó người giàu cưỡi ngựa cưỡi voi nên đường xấu không ảnh hưởng đến họ nên họ không làm.

Chỉ có người nghèo phải đi bộ thì vất vả mà không có tiền để sửa.Thanh niên Xác-ca bèn mang dụng cụ đến san phẳng con đường chặt cây dẹp bỏ gai góc để mọi người đi lại thuận tiện.

Thấy Ngài làm vậy thì dân chúng 2 làng rất thích nhưng không tham gia.Rất giống dân gian Việt Nam có câu thành ngữ "Dỗi hơi thừa cơm", "Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng", "Ăn cơm nhà vác ngà voi".

Chính vì bản chất tâm dân chúng là như vậy nên chẳng ai giúp chàng.

Ngoại trừ có 32 thanh niên.Vậy tổng cộng có tất cả 33 người đi làm đường mở lối khang trang to đẹp cho dân chúng 2 làng hưởng.

Nhiều người bàn tán khiến tiếng lành đồn xa đến tai quan huyện.

Ông thấy mình có quyền uy mà dân không nhắc tới lại ca ngợi mấy đứa "vô công dồi nghề thừa cơm cuốc đất ngoài đường".

Ông ghen tị.Ông đến ngăn cản việc làm của 33 thanh niên.

33 thanh niên đó đều có gia đình khá giả nên không lo cơm áo gạo tiền.

Họ lại ý thức được việc làm lợi ích cho nhiều người nên không thèm nghe.

Quan huyện bèn thưa lên vua và bóp méo sự thật:"Có 33 tên phản loạn đang xây dựng căn cứ mở đường lôi kéo quần chúng để chống lại vua".Vua nghe tin báo thì tin ngay không điều tra đúng sai.

Vua đem quân bắt 33 thanh niên về hành hình cho voi dẵm chết.

Trước pháp trường 33 thanh niên bị trói cứng và đàn voi ầm ầm lao đến.

Thanh niên Xác-ca bèn nói với 32 người bạn:- Tình hình này chúng ta không thể thoát nạn dù hành động của chúng ta vì lòng thương yêu mọi người.

Vậy các bạn hãy nhắm mắt lại tưởng đến tình thương yêu và niềm hạnh phúc của dân chúng với những ích lợi chúng ta làm được.Ta biết voi rất linh cảm.

Cho nên khi đàn voi đến gần 33 thanh niên nó nhận ra tâm của 33 chàng là hiền thiện bác ái.

Voi dừng lại không bước tới dù quản tượng ngồi trên đầu chúng thúc ép ra lệnh.Vua nghe lính báo cáo chạy ra xem cảnh tượng đàn voi nhất quyết không nghe lời quản tượng mà dẵm chết 33 kẻ phản đồ.

Lúc đó vua mới điều tra sự tình.

Qua lời kể của dân làng vua biết các chàng bị vu oan.

Ông tức giận bèn cấp huyện đó cho 33 chàng trai quan cai quản.

Rồi vua đày quan huyện làm nô lệ.

33 chàng trai thoát nạn bèn nói với nhau:- Chúng ta nhờ quán từ bi thương yêu nên chúng ta thoát nạn.

Vậy nay chúng ta phát nguyện cả cuộc đời còn lại sẽ làm điều tốt đẹp giúp người.Do có quyền lực, tiền bạc và cai quản vùng đất rộng lớn nên họ làm vô số điều lợi ích cho dân.Ông hoàng Xác-ca có 4 vợ.

3 người vợ siêng năng giúp chồng làm phúc.

Duy có cô vợ tên là Thiện Sanh xinh đẹp và ỷ mình được chồng yêu nên không hề làm phúc.

Tối ngày cô chỉ lo trang điểm làm đẹp.Sau khi thân hoại mạng chung theo duyên nghiệp Xác-ca và 32 người bạn được sinh Thiên Giới làm Đế Thích và 32 vị thiên tử.

Do vậy cõi đó mới có tên là cõi Tam thập tam thiên.

Mọi người hay nghĩ đó là cõi trời thứ 33 là không đúng.

Sự thật cõi trời đó có 32 vị Thiên tử và một Đế Thích Thần Quân.Thời đó cõi trời vắng vẻ vì người biết làm phúc giúp đời ít ỏi.

Thời đó đạo lý chánh pháp của Phật quá khứ không còn mà Phật hiện tại chưa xuất thế.

Nhưng thời đó chiến tranh nhiều.

Các vị anh hùng bảo vệ nhân dân đất nước khỏi giặc giã giết hại đều có phúc lớn.

Nhưng các vị tướng giết giặc cứu nhân dân đó thì sân hận và ít từ bi thương xót chúng sinh.

Các tướng quân đó chết đi sinh vào cõi Thần A-tu-la.Văn hóa tâm linh Việt Nam hay nói ghép là cõi Thần Tiên.

Thật ra đó là 2 cõi khác nhau.

Cõi Thần A-tu-la là cõi đi về của các vị tướng quân hung dữ mà phúc lớn.

Cõi Tiên hay cõi Trời của các vị đạo đức, dạy đạo lý, khuyên dân làm lành tích thiện tạo phúc.Khi đó 33 vị Thiên Tử sinh lên cõi trời.

3 người vợ của Xác-ca cũng sinh lên trời còn người vợ thứ 4 Thiện Sanh bị đọa làm con hạc.

Con hạc đó rất đẹp lông trắng muốt dáng yêu kiều suốt nhưng ngày "ngắm vuốt".Cõi Tam Thập Tam Thiên ứng biến theo phúc của các thiên tử mà lâu đài cung điện cảnh trí đẹp đẽ hương thơm thanh bình hiện ra.

Nhưng gần sát với cõi Trời 33 đó là cõi thần A-tu-la hung dữ sân si, thô lỗ, thường xuyên đánh mắng nhau.Vua Đế Thích và 32 Thiên Tử bản chất hiền từ đạo đức không chịu nổi cảnh cãi nhau sân si của các A-tu-la.

Các Thiên tử quyết định đánh đuổi các A-tu-la đi xa khỏi cõi của họ.

Nhưng 33 vị thiên tử bị thua phải bỏ chạy bay lên cao và xa đến vị trí mới.

Tại đó theo tâm và phúc các vị lại ứng hiện cảnh sắc thần tiên thanh tịnh cung điện lâu đài nguy nga.Sau khi đến chỗ mới yên ổn thanh bình cách rất cao và xa cõi Thần A-tu-la.

Đế Thính nhìn xuống thế gian tìm vợ Thiện Sanh.

Ngài thấy vợ bị đọa thành con hạc trắng tại ao nước đang ăn cá sống.

Duyên vợ chồng sâu nặng nên thấy vợ bị đọa như vậy Ngài vô cùng thương xót.

Đế Thích bèn hiện xuống trần gian làm người đứng trên bờ ao dùng tâm nói với hạc:- Xưa nàng là vợ ta không chịu làm thiện chỉ lo trang điểm.

Nay nàng bị đọa vào thân súc sinh mà súc sinh thì không thể làm phúc.

Vậy nên nàng hãy giữ giới để tạo công đức thoát kiếp súc sinh.- Theo chàng giữ giới bằng cách nào?

Hạc hỏi.- Khi nào có cá chết thì ăn và không ăn cá sống để giữ giới không sát sinh.Đế Thích khuyên vậy và hạc nghe lời.Sau đó hạc chỉ chọn cá chết để ăn.

Nhưng số lượng cá chết thì ít nên hạc ốm yếu mà chết.

Hạc chết tái sinh làm con gái người thợ gốm giàu có.

Cô gái có sự quyết tâm giữ giới rất mạnh.

Lần này Đế Thích hóa làm khách buôn phương xa đến nhà thợ gốm ở nhờ.Sáng hôm sau khách buôn từ giã và quên cái túi.

Cô gái con thợ gốm thấy cái túi mở ra thấy trong toàn tiền vàng.

Cô gái bèn giấu không cho gia đình biết vì sợ gia đình nổi lòng tham chiếm đoạt.

Cô đợi người khách buôn quay trở lại để cô trả cái túi tiền vàng.

Ông khách nhận được tiền vàng bèn mừng rỡ và cho cô tiền nói rằng:- Đáng lẽ tôi đã bị mất toàn bộ tài sản.

May nhờ cô trung thực nên tôi không mất.

Vậy cô hãy cầm số tiền này.

Nếu thấy ai nghèo thì bố thí tạo phúc sẽ thay đổi cuộc đời cô.Thế là cô gái giữ số tiền vàng đó để làm phúc.

Đến cuối đời cô hóa mà sinh làm con gái vua A-tu-la.Một hôm vua A-tu-la tổ chức kén chồng cho con gái.

Các thanh niên A-tu-la chen chân đứng xếp hàng để công chúa chọn.

Đế Thích hiện làm ông già gầy gò ốm yếu đứng trong hàng ngũ thanh niên A-tu-la.

Công chúa đi kén chồng đến vị trí ông già gầy gò thì đứng lại chọn ông làm chồng.Các thanh niên A-tu-la nhao nhao phản đối.

Ông già nắm tay công chúa A-tu-la bay lên cao hiện thành vua trời Đế Thích uy nghi.

Vua trời dắt tay vợ Thiện Sanh bay về trời.Kể xong truyện về Vua Trời Đế Thích, Đức Phật đọc bài kệ để khen ngợi Đế Thích:"Đế Thích không phóng dậtĐạt ngôi vị Thiên ChủKhông phóng dật được khenPhóng dật thường bị trách"(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 30)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Không phóng dật được làm vua trờiKệ Pháp Cú nói rằng: "Vua trời Đế Thích chăm chỉ làm lành tích thiện tạo phúc.

Đế Thích không phóng dật.

Tức Đế Thích không làm sai, không lười biếng, không làm việc nhảm nhí vô tích sự thì được làm Thiên Chủ.

Ai không phóng dật như vậy thì được khen.

Ai phóng dật thì bị chê trách.

Triết lý rất đơn giản, dễ hiểu ai làm theo được sẽ là Thiên Chủ".Ấy vậy mà đa phần chúng ta đều thấy hay, đơn giản, dễ hiểu... xong bỏ qua.

Sau đó chúng ta lại lao vào ăn chơi, hưởng lạc, phóng dật, tranh cướp, mưu kế lừa đảo, trục lợi... nên chẳng bao giờ chúng ta được làm Thiên Chủ.Cũng giống như người dân làng thấy thanh niên Xac-ca làm đường đi lại thuận tiện dễ dàng.

Họ cũng thấy hay rồi bỏ qua chẳng ai làm cùng.

Chỉ có 32 thanh niên thấy hay ho ích lợi và hỗ trợ cùng Xác-ca.

Về sau toàn bộ 33 vị đều sinh thiên giới.

Còn toàn bộ dân làng chẳng ai được sinh thiên cả.

Tâm lý chúng ta đa phần giống những người dân làng đó.Bài học 2: Cách tu làm vua trờiTa thấy Phật dạy: "Không phóng dật thì được làm vua trời".

Phần truyện tích Phật liệt kê cụ thể 7 chữ nói về "Không phóng dật": Hiếu - Nghĩa - Khiêm - Sảng - Thật - bỏ Ác - bỏ Sân.

Đơn giản vậy thôi.Chứ Vua Trời không cần tu giới hạnh Phật là: xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình, sống thanh tịnh dục, ngày ăn 1 bữa, sau ngọ không ăn, chỉ có 3 bộ quần áo và 1 cái bát xin ăn, không tích giữ của cải tiền bạc, sống hộ trì các căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không tiếp xúc trần tục...

Và vua trời không cần tu thiền định.Vậy ta đã thấy cách tu để thành vua trời chỉ cần chăm chỉ làm thiện tích phúc là đạt.

Sự thật đúng như vậy.

Các tôn giáo có mục tiêu sinh: cõi trời, thiên đàng, nước chúa, cõi thần tiên...

đều không có xuất gia sống không gia đình, tu giới hạnh và tu thiền.Thiên chúa giáo dạy tín đồ làm theo lời dạy của Đức Chúa sẽ được sinh về Thiên Đàng nước Chúa.Hồi giáo dạy làm theo lời Thánh Ala tích phúc.

Đến "ngày phán xét của Chúa" sẽ có một vị thần xét tội và phúc.

Ai tội nhiều hơn phúc thì xuống địa ngục.

Ai phúc nhiều hơn tội thì sinh thiên đàng.Đạo Giáo dạy tu theo Đạo Đức Kinh Lão Tử thực hành theo Đạo và tích Đức.

Thánh nhân đó làm điều vĩ đại mà không thấy ta làm gì (vô vi).

Danh tiếng Thánh nhân vang lừng thiên hạ mà không thấy ta là ai (vô danh).

Thánh nhân không tham đắm vật chất mà sống giản dị (vô dục)... thì đắc thành Thần Tiên.Còn Đạo Phật dạy 2 giai đoạn tu hành: Giai đoạn 1 tu Tam Nghiệp (thân - khẩu - ý) tích phúc báu to lớn có thể sinh cõi thần, cõi trời mà hưởng hạnh phúc vĩ đại.

Trong Bát Chánh Đạo thì giai đoạn 1 là 5 Chánh đạo đầu tiên: Chánh kiến – Chánh tư duy – Chánh ngữ - Chánh nghiệp – Chánh mạng.

Ai thực hành viên mãn 5 Chánh đạo này sẽ sinh cõi lành: Người, Thần, Trời.

Ai hành Tam Nghiệp ác độc thì sinh vào đọa xứ: Địa ngục, Súc sinh, Ngã quỷ.Giai đoạn 2: vị thánh phúc lớn do thành tựu Giai đoạn 1 không dừng lại mà sẽ đi tiếp.

Vị đó từ bỏ phúc báu thế gian, xuất gia sống không gia đình, thực hành giới hạnh Phật và tu hành thiền định.

Đích đến là đạt Tuệ giải thoát Luân hồi.

Giai đoạn 2 là tu: Giới - Định - Tuệ.

Bát Chánh Đạo thì là: Chánh tinh tấn – Chánh Niệm – Chánh Định.Vậy ai muốn sinh cõi trời làm Vua trời chỉ cần tu Giai đoạn 1: Tam nghiệp (Thân, Khẩu, Ý) tích phúc báu to lớn là đủ.

Hoặc chúng ta làm theo lời dạy đạo đức của Chúa trong Kito giáo, Thánh trong Hồi Giáo, Đạo Đức Kinh Lão Tử... ta đều có phúc sinh cõi Trời, cõi Thánh, cõi Thiên Đàng nước Chúa, cõi Thần Tiên.

Còn ta muốn giác ngộ giải thoát khỏi Luân hồi, nhập Niết Bàn mãi mãi, vĩnh viễn không còn khổ đau (độ nhất thiết khổ ách) thì xong Giai đoạn 1 phải nâng cấp sang tu Giai đoạn 2: Giới - Định - Tuệ.Bài học 3: Lợi ích số đôngTrên ta thấy thanh niên Xác-ca chọn những việc làm mang đến lợi ích số đông.

Ví dụ: làm đất ở chợ, làm đường nối 2 làng cho toàn bộ dân chúng hưởng.

Chính lợi ích số đông đó khiến phúc tự động tăng lên gấp bội theo số người được hưởng từ lợi ích việc làm đó.Tôi thấy Chính Phủ Việt Nam đã và đang tích cực xây dựng hạ tầng: Điện – Đường – Trường – Trạm – Nông thôn mới – Xóa đói giảm nghèo...

để mang đến lợi ích cho toàn bộ dân chúng.

Đó chính là việc làm mang đến lợi ích số đông khiến phúc tăng gấp bội.

Khi phúc tăng thì toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần người dân và Chính Phủ đều tăng trưởng.Nên ai trí tuệ làm việc mang tới lợi ích số đông như thanh niên Xác-ca sẽ được làm Thiên Chủ.

Nhưng sao ít người làm được vậy?Bởi vì làm lợi ích cho đời trước mắt chúng ta bị thiệt thòi.

Thanh niên Xác-ca "ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng" khổ cực chẳng thấy phúc tới ngay và luôn.

Hay ta bỏ tiền làm lợi ích xã hội chỉ thấy thiệt đơn thiệt kép mà chẳng thấy phúc đâu...

Chính vì Vô minh và Tham lam hám cái lợi trước mắt nên chúng ta chẳng bao giờ làm điều đó.Bài học 4: Lòng ghen tị đố kỵ của tiểu nhânQuan huyện thấy 33 thanh niên làm việc tốt giúp người thì ghen tị, đố kị, tức giận.

Trước đó con đường bẩn thỉu đi lại khó khăn bao năm không ai làm.

Nay có người làm giúp miễn phí lại "ghen ăn tức ở" âm mưu hạ độc thủ tiêu diệt người tốt.

Tiểu nhân luôn là vậy dù trong quá khứ hay trong hiện tại.Vậy nên tôi khuyên bạn rằng: "Nếu ta làm điều ích lợi thì hãy vô cùng giữ bí mật và kín tiếng.

Bởi vì xã hội này người tốt thì ít mà tiểu nhân thì nhiều.

Nếu ta làm lợi ích lớn mà cứ oang oang dễ chết lắm".

Bài học 5: Giữ giới và Làm phúcCon Hạc là súc sinh không thể làm phúc.

Nhưng nó nghe lời ông hoàng Xác-ca giữ giới không sát sinh thì sinh cõi người.

Vậy giữ giới có tác dụng gì?Giữ giới là không làm điều sai tạo tội.

Giữ giới giúp kẻ đó không tạo thêm tội chứ không tăng phúc.

Chỉ có làm lành tích thiện tạo lợi ích cho chúng sinh mới tăng Phúc.

Hạc trắng giữ giới để không tạo tội mà trước đó còn phúc nên được sinh làm người.Hạc trắng kiếp trước là Thiện Sanh vợ ông hoàng Xác-ca nên phúc lớn.

Nhưng kiếp sau bị đọa súc sinh vì nàng có tội.

Tâm nàng muốn được xinh đẹp nên đầu thai làm súc sinh vẫn là con Hạc trắng tuyệt đẹp.

Nay không sát sinh khiến tội giảm thì phúc tới nên được sinh làm con gái chủ lò gốm giàu có.Thế nhưng Thiện Sanh muốn được sinh thiên thì giữ giới không sát sinh là không đủ.

Nàng phải tạo thêm phúc bằng cách giúp đỡ người.

Nay Thiện Sanh đã làm người nên có điều kiện tạo Phúc lớn.

Đế Thích hiểu rõ nhân quả nên đã tạo cơ hội cho nàng.

Đế Thích thử đạo đức của nàng và gửi nàng tiền vàng xúi nàng dùng nó để tạo phúc.

Khi phúc đủ lớn thì nàng hóa thân làm con gái vua A-tu-la.Bài học 6: Đừng cầu xin Thượng Đế cứu taTa thấy, ông vua trời dân gian gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế có năng lực vĩ đại.

Vậy mà vợ yêu của Thượng Đế bị tội đày dưới trần gian làm súc sinh, rồi làm người mà Ngài không thể bắt đưa về thiên cung.

Nên chỉ có Nhân quả mới cứu giúp được chúng sinh thoát khổ sinh về cõi lành.

Thần thông phép thuật hay quyền năng vĩ đại đến như Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng chẳng thể cứu nổi vợ.Vậy nên đừng có cầu xin Thượng Đế cứu ta.

Ta hãy tự cứu ta bằng Nhân Quả là đúng nhất.

Phật dạy "Hãy tự thắp đuốc lên mà đi" là vì vậy.Bài học 7: Duyên vợ chồngCon gái vua A-tu-la chọn chồng.

Trong hàng ngàn thanh niên A-tu-la đẹp trai 6 múi mà nàng không chọn.

Nàng lại "ăn phải bùa yêu" của ông già xấu xí yếu đuối.

Đó chính là tình duyên vợ chồng.

Nêu yêu chỉ vì trai đẹp, gái xinh, non tơ, 6 múi thì là tình dục.

Yêu mà không kể ngoại hình tuổi tác mới là duyên.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 31: Truyện vị đốn ngộ diệt kiết sử


"Vui thích không phóng dật,Tỳ kheo sợ phóng dật,Bước tới như lửa hừng,Thiêu kiết sử lớn nhỏ."(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 31)Tích Pháp Cú: Thời Đức Phật, các Tỳ kheo sau khi học giáo lý cơ bản xong sẽ đến xin Phật phương pháp tu hành.

Phật quan sát căn duyên và năng khiếu của từng vị mà hướng dẫn một phương pháp thích hợp phát huy tối đa sở trường.

Sau đó, Tỳ kheo cứ theo lời dạy của Phật mà tu hành thuận duyên đến khi đắc đạo.Có một vị được Phật cho một pháp môn tu hành.

Sau đó Ngài cáo từ Phật đi đến một nơi thanh vắng khá xa Tinh xá để chuyên tâm tu hành.

Ngài tu mãi mà không thấy kết quả gì.

Ngài nghĩ rằng pháp môn Phật dạy không thích hợp.

Ngài bèn quay về gặp Phật để trình bày và xin một pháp môn khác.Giữa đường đi, bất chợt có một trận cháy rừng.

Ngài tránh ngọn lửa mà trèo lên ngọn đồi trọc.

Ngài đứng giữa đồi trơ trọi nhìn xuống thấy lửa bao bốn bề.

Chợt tâm Ngài động niệm thấy rằng lầm lỗi kiết sử, ác nghiệp quá khứ... trong tâm Ngài dày đặc như khu rừng bên dưới.

Ngài khởi niệm mong ước sao cho toàn bộ kiết sử trong tâm bị thiêu đốt hết như trận cháy rừng.

Ngài nhập định lúc nào không hay.Trong định Ngài thấy Phật hiện ra trước mặt.

Phật đọc bài kệ:"Vui thích không phóng dật,Tỷ kheo sợ phóng dật,Bước tới như lửa hừng,Thiêu kiết sử lớn nhỏ."(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 31)Nghe xong bài kệ Ngài liền đắc đạo A-la-hán.Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Tỳ kheo sợ phóng dật "Phóng dật" là sống buông thả, lười biếng, tham đắm thế gian.

"Tỳ kheo sợ phóng dật" tức Tỳ kheo chuyên tâm tu hành Giới hạnh, Thiền định, Tuệ giác (Giới-Định-Tuệ).

Vị đó như ngọn lửa hừng hực bốc cháy thiêu đốt mọi Kiết sử lớn bé.

Sau khi diệt tận Kiết sử thì vị đó đắc đạo A-la-hán.Phật dạy rằng: "Tu hành là diệt trừ kiết sử gồm 10 tật xấu trong tâm bằng cách Không phóng dật".Bài học 2: Kiết sử là gì?Phật liệt kê 10 Kiết sử mà một vị tu hành cần diệt trừ.

"Kiết" hay "Kết" tức là thứ bám keo két trong tâm mọi chúng sinh từ đời này sang đời khác và có thể là mãi mãi trong luân hồi.

"Sử" là nó sai sử mọi hành động của chúng sinh.

Kiết sử hay Tật xấu, ta hay gọi tắt là: Tham Sân Si gồm 10 món sau🙁1) Thân kiến: là tính xấu tham lam, ích kỷ, thu vén lợi ích cá nhân.

Thân kiến sẽ dẫn đến các tội: lừa đảo, trộm cướp, giả dối, man trá, tật đố, đố kị, ghen ăn tức ở, phản bội, muốn hơn người.(2) Giới cấm thủ: là tính xấu cố chấp, bám chặt vào cái sai, ai khuyên cũng không nghe, kiên trì với cái sai, ngoan cố, cố thủ, định kiến, thành kiến, bảo thủ, trì trệ.(3) Nghi: là cái đúng chánh pháp thì không tin, không giữ, lại nghi ngờ chánh pháp, từ bỏ chánh pháp chạy theo tà pháp.

Nghi là: hoang mang, bồng bột, nông nổi, lung lạc tinh thần, không chính kiến, dễ mất quan điểm, dễ bị tác động, dễ lung lay, thiếu chính kiến, mù quáng.(4) Tham dục: là tính xấu tâm thường nghĩ đến dục, ham muốn tình dục, thường động dục, dâm dê, mê gái, mê trai, thích phim con heo 18+, thích hình ảnh đồi truỵ.

Kẻ đó luôn có lời nói ý tứ kích dục, gợi dục, quấy rối tình dục.

Kẻ đó rất dễ ngoại tình, mại dâm, cưỡng dâm, hiếp dâm...(5) Sân hận: là kẻ có tâm tức giận muốn gây đau khổ cho người để hả cơn giận.

Kẻ đó bày mưu tính kế hại người, hạ độc thủ làm người đau khổ.

Kẻ đó có lời lẽ quát mắng, chửi bới, xỉ nhục người.

Kẻ đó có hành động đánh đập hành hạ người.

Trên đây là 5 Thượng phần Kiết sử của chúng sinh cõi phàm trần Dục giới thô kệch dễ thấy.

Ai cũng thấy đó là tội là tật xấu.

Sau đây là 5 Hạ phần Kiết sử vi tế, khó thấy của cõi thánh.

Các tật xấu này cõi phàm trần Dục giới không có.

Hoặc nếu có thì ta đôi khi không coi đó là tội.(6) Trạo hối: là tật xấu trạo cử hối tiếc khi ngồi thiền.

Khi ngồi thiền thân hành giả lay động, tâm hành giả xuất hiện tâm lý hối tiếc, bồn chồn, bất an, loạn tâm, loạn động khiến vị đó không thể thiền định.

Đây là tật xấu khiến hành giả khó tu thiền.

Còn người thường lại thích những nơi náo nhiệt để thêm hưng phấn.

Thế nên họ vào vũ trường, karaoke, sân bóng đá...

để hò hét, nhảy nhót, gào thét...

để tâm thêm loạn.

Tức họ đang muốn có trạo hối.(7) Kiêu mạn: Kiêu mạn là tật xấu thấy ta hơn người.

Hệ quả là kẻ đó sẽ khinh bỉ, khinh thường người.

Người thường thì yêu thích sự kiêu mạn gọi nó là "tự hào".

Kẻ tự hào thái quá sẽ thành không khiêm tốn.

Kẻ đó sẽ thành tự phụ, kiêu ngạo, kiêu căng ngạo mạn, khinh bỉ người.(8) Tham Sắc ái: Vị đó chứng thiền nhập định đi vào cõi Trời Sắc Giới.

Tại đó cảnh trí vĩ đại huy hoàng khiến vị đó ham thích gọi là Tham sắc ái.(9) Tham Vô Sắc ái: Vị đó chứng thiền nhập định đi vào cõi Trời Vô Sắc Giới.

Tại đó cảnh trí vĩ đại huy hoàng khiến vị đó ham thích gọi là Tham vô sắc ái.(10) Vô Minh: Vị đó chưa đắc Tam Minh nên không thấy Nhân Quả Tam thế Luân hồi hay Chân lý vũ trụ.

Phật gọi là Vô Minh.

Ví như một người không thấy ánh sáng nên không thấy vạn vật.

Vị đó được người sáng mắt miêu tả vạn vật rồi vị đó tưởng tượng ra vạn vật mà thôi.

Cũng vậy, ta chưa đắc đạo A-la-hán thì vẫn Vô minh.

Ta chỉ có thể suy luận nhân quả chứ không thể thấy nhân quả luân hồi.Bài học 3: Năng khiếuPhật bằng Thiên nhãn minh vĩ đại của một vị Phật nên Người biết rõ căn duyên của chúng sinh.

Chỉ một lời dạy của Phật dành cho ai thì đó là lời dạy vĩ đại.

Bởi vì lời dạy đó đúng sở trường, đúng năng khiếu, đúng thế mạnh kẻ đó.Năng khiếu hay thế mạnh sở trường của một con người không phải đời này mới có.

Nó hình thành từ quá khứ nhiều đời nhiều kiếp người đó đã từng làm việc trong lĩnh vực đó.

Đời này người đó được làm đúng năng khiếu sở trường tức là làm lại những cái đã làm trong quá khứ.Vậy nên vào thời Đức Phật, các Tỳ kheo xin Phật chỉ dạy đúng pháp môn thích hợp, đúng năng khiếu sở trường nên dễ đắc đạo.

Sau thời Đức Phật rất ít người tu thành chính quả vì không có Đức Phật khéo léo chỉ bảo đúng năng khiếu sở trường nữa.Bài học 4: Đốn Ngộ và Công ÁnHiện tượng đốn ngộ hay hiện tượng "Giọt nước tràn ly" là một hiện tượng mà một vị tu hành rất lâu không thấy kết quả gì.

Nhưng trong một thời điểm, một giây phút ngắn ngủi đột nhiên vị đó bừng ngộ.

Nó giống như ly nước có bao nhiêu giọt nước rơi vào trước đó không thấy chuyển biến gì.

Chỉ đến giọt nước cuối cùng rơi vào ly nước khiến nước trong ly tràn túa ra ngoài.

Đó là hiện tượng Đốn Ngộ.Các điều kiện hay sự kiện dẫn đến Đốn Ngộ được gọi là Công Án.

Công Án có thể là một câu kinh, một bài kệ, một hiện tượng, một cảnh trí khiếm tâm vị đó vỡ oà.

Như vị Tỳ kheo tu hoài tu mãi chẳng thấy đắc đạo.

Thế nhưng chỉ trong giây phút đứng giữa ngọn đồi nhìn lửa cháy thì tâm nhập định.

Rồi Phật hiện ra đọc bài kệ thì vị đó đắc đạo A-la-hán ngay tức thì.Văn hóa phương đông rất đề cao Thiên thời.

Thiên thời là thời cơ, cơ hội, mọi điều kiện đã chín muồi, mọi sự cố gắng đến lúc hái quả ngọt.

Đúng lúc đó, thời cơ đó, cơ hội đó thì quả báo hiện ra rực rỡ.

Vậy nên trong lý thuyết Tam Tài thì yếu tố Nhân hòa là sự cố gắng của ta phải liên tục bền lâu.

Yếu tố Địa lợi là những điều kiện thuận lợi về môi trường xã hội bên ngoài cũng liên tục bền lâu.

Chỉ riêng yếu tố Thiên thời lại chỉ xảy ra bất chợt trong tíc tắc.Đơn giản bạn hình dung cây hoa hồng.

Cây đó xuất phát từ mầm non hay hạt giống và phải liên tục sống.

Gọi là Nhân hòa.

Cây đó phải có điều kiện môi trường, đất đai, khí hậu, nắng, gió, mưa... thuận lợi.

Gọi là Địa lợi.

Thế nhưng hoa hồng chỉ nở trong thời gian ngắn.

Nó "Bung lụa" rồi tàn úa rất nhanh.

Và giá trị của cây hoa hồng chính là vẻ đẹp của bông hoa.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 32: Truyện tu sỹ sống biết đủ


"Vui thích không phóng dậtTỷ kheo sợ phóng dậtKhông thể bị thối đọaNhất định gần Niết Bàn"(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 32)Tích Pháp Cú: Có một Tỳ kheo tên là Ni-ga-ma-va-si-ti-sa.

Gia đình Ngài giàu có sống gần kinh đô Xá Vệ.

Ngài xuất gia nhưng không sống trong Tinh xá Đức Phật.

Ngài sống cùng nhóm tu sỹ gần nhà của Ngài ngoài thành.

Hàng ngày Ngài khất thực nhưng chỉ đi được vài bước thì họ hàng giàu có đã cho Ngài đầy đồ ăn và Ngài về.Có nhiều Tỳ kheo nghĩ xấu về Ngài: "Người đó xuất gia rồi mà vẫn luyến ái bà con họ hàng.

Người đó không dám đi xa mà chỉ thích gần nhà để họ hàng cúng đồ ăn cho ngon".

Và họ đi mách Phật:- Bạch Thế Tôn, Tỳ kheo Ni-ga-ma-va-si-ti-sa ỷ mình là con nhà giàu.

Vị đó xuất gia rồi không sống hạnh viễn ly từ bỏ gia đình.

Vị đó vẫn sống gần gia đình để hưởng đồ ăn vật thực do gia đình cung tiến.

Vị đó không theo chúng con vào thành Xá Vệ khất thực như mọi người.Phật bèn cho mời Tỳ kheo Ni-ga-ma-va-si-ti-sa đến trước mặt đại chúng giải thích.

Phật hỏi:- Như Lai nghe rằng, ông là người xuất gia mà không sống hạnh viễn ly vẫn còn luyến ái bà con.

Ông không chịu đi vào thành Xá Vệ mà cứ mãi ở trong thị trấn gần nhà để được đồ ăn ngon.

Điều này có đúng chăng?Tỳ kheo Ni-ga-ma-va-si-ti-sa thưa rằng:- Bạch Thế Tôn, con sống đơn giản thanh đạm.

Con không mong cầu vật chất.

Theo giới luật khi khất thực bát đầy thì phải đi về nơi an trú.

Mà con khất thực chỉ đi vài bước đã đầy bát nên con phải quay về.

Con cảm thấy vậy là đủ chứ không mong cầu gì thêm.Đức Phật khen:- Ni-ga-ma-va-si-ti-sa thật là đệ tử của ta và cũng giống như ta...Sau đó Phật kể lại câu chuyện tiền thân của Phật:"Vào thủa xa xưa Như Lai là một con vẹt đậu trên cành cây và sống thanh đạm.

Khi đó vua Trời Đế Thích biết con vẹt này không phải là vẹt thường.

Đế Thích thử thách Vẹt.

Đế Thích dùng sét đánh cháy cành cây mà vẹt đậu.

Vẹt bước sang cành bên cạnh và đứng yên ổn không sợ hãi, không lo lắng, không lựa chọn tìm cành khác đâu xa."

Và Phật nói:Tỳ kheo Ni-ga-ma-va-si-ti-sa đã đi theo con đường của ta và có cuộc sống không ham muốn nhiều.

Ai sống được vậy sẽ không bị đọa Tam ác đạo và chắc chắn sẽ đắc đạo Niết Bàn.

Sau đó Phật đọc bài kệ chấm dứt lời rèm pha nói xấu:"Vui thích không phóng dật, Tỷ kheo sợ phóng dật, Không thể bị thối đọa, Nhất định gần Niết Bàn."(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 32)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Không phóng dật sẽ gần Niết Bàn "Phóng dật" là sống buông thả, lười biếng, tham đắm thế gian, vui thích hưởng thụ dục lạc thế gian.

"Tỳ kheo sợ phóng dật, vui thích không phóng dật" Tức vị Tỳ kheo từ bỏ vật chất thế gian, sống hạnh viễn ly, chuyên tâm tu hành Giới hạnh, Thiền định, Tuệ giác (Giới-Định-Tuệ).

Vị đó được Phật ấn chứng là sẽ mãi mãi không thể bị đọa vào 3 ác đạo và tương lai nhất định đạt tối thượng Niết Bàn.Bài học 2: Tâm lý suy bụng ta ra bụng ngườiĐây là tâm lý thường tình của mọi con người.

Tâm ta thế nào thì ta nghĩ tâm người khác cũng giống vậy.

Do đó người cả tin, thật thà bản chất là lương thiện.

Do họ lương thiện nên họ nghĩ rằng ai ai cũng lương thiện giống họ.

Người quá cẩn thận đề phòng trộm cắp lừa đảo bản chất là bất lương.

Do họ bất lương nên họ nghĩ rằng ai cũng bất lương như họ.

Đó là tâm lý chung của mọi con người.Tục ngữ có câu: "Dùng bụng tiểu nhân để đo lòng quân tử".

Bản chất kẻ tiểu nhân là luôn nghĩ ai ai cũng tiểu nhân như họ.

Rồi họ kết tội người, nghĩ xấu về người.

Xã hội loạn chỉ bởi xã hội nhiều tiểu nhân.

Xã hội đó luôn kết tội người gây chia rẽ thù hận thành ra loạn.

Trong nghệ thuật giao tiếp.

Khi bạn thấy một kẻ suốt ngày nói xấu người khác hay nói xấu xã hội thì 100% đó là kẻ xấu.Bài học 3: Thanh đạm là cần đủ không cần nhiềuNgày nay xã hội đề cao "Chủ nghĩa tiêu dùng".

Nó kích thích mọi người mua sắm của cải vật chất nhiều quá nhu cầu thật của họ.

Có người có tủ quần áo 200 bộ mà sự thật chỉ mặc có 10 bộ.

Có người có hầm rượu hàng ngàn chai các loại các kiểu chỉ để khoe.

Sự thật họ đi công tác suốt chẳng khi nào ở nhà uống rượu.

Rồi có người có 5-6 cái nhà, 3-4 cái ôtô, một kho giầy dép, một phòng chứa đầy quần áo...Chính vì vậy đời sống hiện đại ngày nay không thanh đạm, không bình an.

Mọi người lao vào kiếm tiền, lừa đảo, mánh lới, thủ đoạn, nói điêu, nói dối, quảng cáo sai sự thật... cốt kiếm thật nhiều tiền mua thật nhiều đồ.

Còn thực tế họ chỉ sử dụng 1/10 các cái họ có.Đạo Phật gọi đây là "Ngã Sở Hữu" hay "Ngã Sở".

Đạo Phật dạy tu là để buông bỏ, giảm bớt, biết đủ thì dừng, hướng đến "Vô ngã".

Thời Đức Phật, một vị Tỳ kheo tài sản chỉ có 3 bộ đồ và 1 cái bát xin ăn.

Vị đó sẽ tu "Vô ngã, Thanh tịnh".

Tức là giảm tối ta sở hữu và tu tâm hồn trong vắt (thanh) tĩnh lặng như mặt nước hồ thu trên đỉnh núi cao (tịnh).Vậy tu sỹ "Vô ngã, Thanh tịnh" đó có ham muốn gì không?

Nếu ai nói rằng "Không" là sai lầm nghiêm trọng.

Vị đó có ham muốn cháy bỏng là giúp loài người có đạo đức, tin sâu nhân quả, có lòng bi yêu thương giúp đỡ nhau.

Mọi người biết làm lành tích thiện để tích phúc.

Khi phúc to lớn sẽ sinh cõi Thần Tiên sung sướng tột cùng.

Rồi vị phúc lớn đó từ bỏ phúc thế gian đi xuất gia.

Vị đó hướng phúc báu vào tu hành đắc đạo giải thoát khỏi Luân Hồi đau khổ.Đó là ham muốn cháy bỏng của Tỳ kheo chân chính.

Ai làm được vậy sẽ được gọi là Đại Bồ Tát.Bài học 4: Tâm lý luôn ủng hộ người thânNgài Ni-ga-ma-va-si-ti-sa xuất gia tu hành.

Vậy tức Ngài từ bỏ gia đình sống không gia đình.

Nhưng Ngài đi khất thực lúc nào người thân cũng ưu tiên cúng dường Ngài.

Đó là tâm lý thường tình.

Đối với người trong gia đình thì Ngài vẫn là người thân yêu và là thành viên gia đình.

Đó là tình cảm đáng quý, đáng trân trọng.

Phật gọi là duyên quyến thuộc họ hàng.Một người sinh ra trong gia đình là có duyên với nhau từ nhiều đời.

Nếu duyên sâu đậm thì tình cảm gắn bó bền chặt yêu thương khăng khít "đầu bạc răng long".

Nếu duyên nhạt thì tình cảm cũng nhạt.Cũng có trường vì thù hận và muốn trả thù, vì nợ và muốn đòi nợ... mà kẻ đó nguyện sinh vào gia đình đó.

Đây là nỗi bất hạnh cho gia đình đó vì họ sẽ đối xử với nhau như kẻ thù.

Con thiêu sống mẹ, mẹ giết con, bố đóng đinh vào đầu con...

Vậy nên xin đừng thù hận mà thành "oan oan tương báo" khổ lắm.Bài học 5: Sao tiền thân Đức Phật lại là con Vẹt?Ta biết Phật ấn chứng một vị thánh đắc đạo Sơ Quả Dự Lưu sẽ vĩnh viễn không đọa 3 ác đạo: địa ngục, súc sinh, ngã quỷ.

Vậy sao tiền thân của Phật lại là con vẹt?

Đơn giản là kiếp xưa đó Phật chưa đắc đạo gì dù là Sơ quả Dự lưu.Vậy nên trong triết lý Phật Giáo thì mọi chúng sinh trong Luân hồi dù là địa ngục, súc sinh, ngã quỷ hay người, thần, trời đều có thể tu thành Phật.

Quan trọng là: "Chúng sinh đó đang đi về nơi ánh sáng hay đang đi về nơi bóng tối".Nếu chúng sinh đó đã và đang "đi về nơi ánh sáng", giữ giới, tu đạo đức, làm lành tích thiện, tăng phúc giảm tội... thì tương lai chắc chắn thành Phật.

Còn dù vị đó đang quyền lực vĩ đại làm vua trời mà ăn chơi hưởng lạc tiêu phúc.

Hoặc vị đó làm điều tội lỗi ác độc tích tụ ác nghiệp sâu dày là "đang đi về nơi bóng tối".

Đích đến cuối cùng chính là ngục A-Tỳ.Nên trong các truyện về tiền thân Đức Phật ta hay thấy nhiều kiếp Phật là các con vật.

Thế nhưng các con vật đó luôn biết tu hành hướng thiện tích phúc, cứu giúp đồng loại như Khỉ chúa, Voi chúa...

Đó chính là "Chúng sinh đang đi về nơi ánh sáng".Ở đây con vẹt tiền thân Đức Phật tu hạnh "sống biết đủ và tự tại bình an".
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Chương 3: PHẨM TÂM - Pháp cú 33, 34: Truyện Ngài thị giả không vâng lời Phật


"Tâm hoảng hốt lăng xăngKhó hộ trì nhiếp phụcNhư con cá vùng vẫyKhi bị quăng lên bờ".(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 33)"Hãy xem người thợ khéoTruốt mũi tên thật ngayCũng vậy người có tríGiữ tâm thật yên lành."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 34)Tích Pháp Cú: Thời gian Ngài A-Nan chưa làm thị giả cho Đức Phật.

Đó là 20 năm đầu Phật giáo hình thành.

Thời gian đó Phật đi nơi này nơi khác giáo hóa luôn có một Tỳ kheo bên cạnh Phật để chuẩn bị và thu xếp công việc giúp Phật.

Ngày nay một yếu nhân như tổng thống hoặc giáo chủ tôn giáo luôn có rất nhiều trợ lý giúp việc hầu cận.

Nhưng thời Đức Phật thì chỉ có 1 vị mà thôi.

Ta hay gọi vị đó là Thị Giả.

Mãi sau này mới có Đức A-Nan làm thị giả cho Phật và Ngài luôn bên cạnh Phật 24/7.Lần đó Phật lên ngọn núi Ka-ti-ca mang theo vài Tỳ kheo.

Giữa núi có một cái hang và Phật vào trong đó.

Rồi các Tỳ kheo đi khất thực chỉ có 1 Tỳ kheo tên là Mê-gi-da ở lại hầu Phật.

Vị đó ngồi thiền trong hang gần Phật thấy tâm thanh tịnh kỳ lạ.

Vị đó lại nghĩ rằng chỉ cần đến một nơi thanh vắng ngồi thiền thì tâm sẽ nhập định mà đắc đạo.Tỳ kheo Mê-gi-da bèn xin Phật:- Bạch Thế Tôn, xin phép cho con đến một nơi thanh vắng tu hành một mình trong một thời gian và con sẽ quay lại.Phật nói:- Đừng, chưa phải lúc.

Nhất là trách nhiệm của ông chưa xong mà bỏ rơi trách nhiệm hầu hạ thầy.Nhưng Mê-gi-da khăng khăng theo ý mình.

Phật không nói gì thêm.

Mê-gi-da ôm bình bát ra đi.Tỳ kheo Mê-gi-da tìm một nơi thích hợp thanh vắng, có dòng suối gần làng để tiện khất thực.

Vị đó bắt đầu ngồi thiền nhưng càng ngồi tâm càng loạn.

Sau khoảng 1 tháng tu hành thì tâm loạn không thể ngồi thiền.

Mê-gi-da quay về gặp Phật xin xám hối.Phật nói:- Ông nhận lãnh trách nhiệm hầu hạ thầy trong khi mọi người đi vắng.

Nhưng trách nhiệm không xong mà ông bỏ rơi trách nhiệm bỏ rơi thầy làm hao tổn công đức.

Chính vì công đức không đủ nên không thể ngồi thiền.Và Phật phê bình Mê-gi-da bằng bài kệ Pháp Cú."

Tâm hoảng hốt lăng xăngKhó hộ trì nhiếp phụcNhư con cá vùng vẫyKhi bị quăng lên bờ"(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 33)"Hãy xem người thợ khéoTruốt mũi tên thật ngayCũng vậy người có tríGiữ tâm thật yên lành."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 34)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Hộ trì và nhiếp phục tâm "Nhiếp phục được tâm" nghĩa là giữ tâm được thanh tịnh và nhập vào định.

Thanh Tịnh ví như một hồ nước trên núi cao.

Hồ nước đó có nước trong vắt gọi là Thanh.

Mặt nước hồ đó yên tĩnh như mặt gương soi gọi là Tịnh.

Từ đó một người có thể thấy mọi sự vật hiện tượng trong tâm mà tìm ra được Kiết sử để diệt.

Ví như người đứng trên bờ nhìn hồ nước thanh tịnh sẽ thấy con cá đang bơi qua bơi lại, con sò, con hến, hòn đá, lá cây... hiện rõ trong hồ nước đó.

Tâm người không thiền luôn loạn động và đục ngầu.

Kẻ đó sẽ chẳng thể thấy gì trong đó."

Hộ trì tâm" là bảo vệ và cảnh giác trước những tâm ý xấu xa hay tạp niệm.

Hình ảnh con cá bị vứt lên bờ nhảy nhót lung tung "dãy đành đạch".

Tâm người hoảng hốt lăng xăng giống như con cá đó.

Tâm kẻ đó rất khó hộ trì nhiếp phục và khó thiền định.Một người thợ khéo thì truốt mũi tên thật thẳng.

Nếu mũi tên không thẳng sẽ không thể bắn trúng đích.

Một người có trí tuệ tu hành phải biết giữ tâm thật yên lành.

Kế đó tâm được thanh tịnh.

Kế đó tâm nhập vào định và chứng 4 tầng thiền định.

Tại Tứ Thiền thì tâm vị đó xuất hiện Tam Minh mà diệt Vô Minh.

Sau khi diệt Vô Minh thì vị đó đắc A-la-hán.Thế nhưng yếu tố giúp hành giả hộ trì nhiếp phục được tâm mà đắc đạo chính là Công Đức.

Ta hay gọi là Phúc.

Còn trong thời Đức Phật thì pháp mà Phật giảng 100% chuẩn Chánh Pháp.

Thời nay có phúc, có tinh tấn mà chẳng đắc đạo vì toàn Mạt Pháp.Bài học 2: Tôn giả A-nan - Thị giả vĩ đạiĐức Phật giáo hóa 45 năm thì 20 năm đầu chưa có thị giả A-Nan.

Chỉ 25 năm cuối thì Ngài A-Nan mới làm thị giả cho Phật.

Công việc thị giả chủ yếu là lo lắng chu đáo 24/7 toàn bộ sinh hoạt, ăn, ngủ, nghỉ, sàng tọa, thu xếp đại chúng nghe pháp.

Thế nhưng Tôn giả A-Nan còn có công đức vĩ đại là Ngài đã ghi nhớ toàn bộ lời dạy của Phật.

Rồi Ngài truyền thừa lại thành Kinh Điển Phật Giáo Nguyên Thủy Nikaya.Ngoài các kinh Ngài trực tiếp nghe trong 25 năm thì 20 năm đầu khi chưa làm thị giả Ngài phải tự tìm học và ghi nhớ.

Chính vì hầu hạ Phật 24/7 trong suốt 25 năm khiến Ngài không thể thu xếp được thời gian ngồi thiền tối thiểu 7 ngày mà đắc đạo theo lời Phật ấn chứng trong kinh Tứ Niệm Xứ.

Nên Ngài tu theo Phật 42 năm mà không thể đắc A-la-hán.Và sau khi Phật nhập diệt thì Tôn giả A-Nan ngồi thiền 7 ngày là đắc A-la-hán đúng lời Phật nói trong Tứ Niệm Xứ.

Sáng hôm Tôn giả đắc đạo cũng là Đại lễ kết tập kinh điển lần 1 diễn ra.

Và một vị A-la-hán có tuổi đắc đạo trẻ nhất đã đứng lên pháp tòa chủ trì đọc tụng Kinh Phật.

Toàn bộ Kinh Nguyên Thủy Nikaya của Phật Giáo mà ta học hôm nay là nhờ công đầu tiên của Tôn giả A-Nan.Bài học 3: Làm tròn trách nhiệmTa thấy 91 lần vũ trụ sinh diệt mới có 6 vị Thế Tôn Phật ra đời.

Trường Bộ Kinh có Kinh Đại Bổn nói về 6 vị Thế Tôn Phật trong 91 Đại Kiếp.

Và Kinh Ba Lê nói về Đại Kiếp là 1 lần vũ trụ sinh diệt.

Đó là 6 vị Thế Tôn Phật đã chuyển pháp luân và giảng dạy chánh pháp.

Còn Độc Giác Phật tức vị tự tu tự chứng A-la-hán một mình mà không chuyển pháp luân thì có nhiều.

Nên ta theo dõi Tích Pháp Cú sẽ thấy Đức Phật nói rất nhiều về các vị Độc Giác Phật quá khứ.Cho nên cơ hội được sinh vào thời Đức Phật là cơ hội nhiều triệu, nhiều tỷ năm có 1 lần.

Nếu ta sống trong thời có Phật lại được gặp Phật, được làm Tỳ kheo đệ tử Phật, được làm thị giả hầu hạ Phật là diễm phúc vô cùng to lớn.Thế mà có một vị Tỳ kheo đủ Đại duyên.

Vị đó sinh thời có Phật, được làm Tỳ kheo đệ tử Phật, được nhận trách nhiệm hầu hạ Phật.

Vì phúc duyên to lớn đó khiến vị đó ngồi thiền tâm thanh tịnh.Nhưng vì ngu si kém trí tuệ nên vị đó nghĩ rằng: "Do ngồi thiền nơi thanh vắng mà tâm được thanh tịnh".

Vị đó cãi lời bỏ Phật một mình rồi tìm nơi thanh vắng tu hành với hi vọng đắc đạo.

Chính vì ngu si không làm tròn trách nhiệm nên tổn phúc.

Vị đó càng tu thì tâm càng loạn tới mức không thể ngồi thiền.

Thế ta mới hay Công Đức quan trọng chừng nào.

Thiếu phúc thì dù chính Đức Phật giảng dạy mà ta vẫn chẳng thể ngồi thiền.Bài học 4: Phúc và DuyênTỳ kheo Mê-gi-da được hầu hạ Phật thì phúc to lớn và quả báo tới ngay.

Vị đó ngồi thiền lập tức tâm thanh tịnh.

Nhưng vì trí tuệ kém nên vị đó tưởng do hang động yên tĩnh mà tâm thanh tịnh.

Vị đó vô trách nhiệm bỏ Phật trong hang một mình.

Vị đó tìm một nơi thanh vắng ngồi thiền thì tâm loạn.

Nên gốc của tu hành đắc đạo không phải ở ngoại cảnh hay môi trường.

Gốc của tu hành đắc đạo là ở PhúcCòn Duyên là sao?

Duyên là có được chánh pháp.

Phúc vĩ đại như Sa-môn Cồ Đàm mà tu sai chánh pháp mất 6 năm chẳng thể đắc đạo.

Còn khi Ngài tu đúng thì chỉ mất 49 ngày là thành Thế Tôn Phật.Tổng kết bài học này ta hãy nhớ câu nói:"Vì Đại Nhân Duyên mà Đức Phật ra đời".Tức phải có đủ Nhân thiện lành tạo Phúc vĩ đại.

Phải có đủ Đại Duyên là các điều kiện môi trường, xã hội cần thiết thì Sa-môn Cồ Đàm mới tu hành đắc đạo thành Phật.

Thiếu 1 trong 2 là thất bại.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 35: Truyện người đọc được tâm


"Tâm lăng xăng khó giữTheo các dục quay cuồngAi điều phục được tâmĐược vô vàn an lạc."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 35)Tích Pháp Cú: Nước Ko-sa-la là một đại quốc phía tây nước Thích Ca.

Trong cuộc đời giáo hóa của Phật thì Phật giáo hóa được 2 đại quốc Ko-sa-la của vua Ba Tư Nặc và đại quốc Ma Kiệt Đà của vua Bình Sa.

Nước Ko-sa-la có làng gọi là Ma-ti-ca lấy theo tên vị hào tưởng.

Làng ở chân núi có dòng suối tươi mát và cánh đồng ngũ cốc hoa trái tốt tươi.

Dân làng hiền lành sống yêu thương đùm bọc giúp đỡ nhau.

Hào trưởng Ma-ti-ca giàu có và yêu dân.

Ông sống với mẹ, dân gọi là "Mẹ của Ma-ti-ca".

Bà sống đức độ được dân làng yêu mến.

Bà xem mọi người trong làng như con cháu của bà.

Lần đó có 60 vị Tỳ kheo vào làng khất thực.

Mẹ của Ma-ti-ca đi đến hỏi:- Các vị từ đâu đến?

đi về đâu?

đến đây có duyên sự gì? và là đệ tử của ai?- Chúng tôi là đệ tử của Sa Môn Gô-ta-ma bậc Thế tôn, bậc Đại thánh giác ngộ.

Chúng tôi tu hành theo lời dạy của Ngài và đi khất thực qua làng mình.

Chúng tôi thấy cảnh đẹp thanh bình và con người hòa nhã nên có ý muốn ở lại một thời gian để tu hành.- Được, các con hãy ở lại đây.

Mẹ sẽ xây dựng tịnh xá cho các con tu hành.Vì thói quen nói truyện với người dân bà luôn xưng là "Mẹ".

Bà cũng chưa biết về đạo Phật.

Thế nên bà xưng với 60 vị Tỳ kheo là "Mẹ".

Các Tỳ kheo không hề tự ái hay phản kháng gì.

Rồi Mẹ của Ma-ti-ca cho người xây dựng Tinh xá cho 60 vị Tỳ kheo tu hành.

Sau đó mẹ của Ma-ti-ca cũng xin quy y Phật và thọ Tam quy Ngũ giới.

Bà chính thức là một Cư sỹ Phật tử tại gia.Các Tỳ kheo biết cơ duyên đã đến khi có người tốt bụng giúp đỡ nơi ăn chỗ ở yên ổn tu hành.

Các vị quyết tâm tu thiền định.

60 vị đồng thuận lập ra một "Thanh quy".

Ta hay gọi là "Nội quy".

Nhưng "Thanh quy" thiên về đạo lý nhiều hơn là điều luật.

Thanh quy có 6 điểm:1 - Luôn ý thức các ác đạo đang chờ đón nếu không đắc đạo. (Bởi vì Phật dạy phải đắc Sơ quả Dự Lưu mới thoát khỏi bị đoạ vào 3 ác đạo, tương lai chắc chắn chứng Niết Bàn).2 - Luôn ý thức về ơn nghĩa của Phật. (Duyên có Phật hiện tiền dạy chánh pháp là Đại duyên vạn năm có 1 lần.

Vậy nên từ khi Phật nhập diệt đến nay đã hơn 2500 năm nhưng rất ít vị chứng A-la-hán.

Còn trong thời Đức Phật thì A-la-hán vô cùng nhiều.

60 vị Tỳ kheo này tu hành tất cả đều chứng A-la-hán).3 - Mỗi người ở riêng một nơi trong Tinh xá không nói truyện với nhau. (Ta gọi là Tu Tịnh Khẩu.

Khi đó tâm hoàn toàn giữ chánh niệm chứ không bị động bởi các ngôn từ câu chữ).4 - Mỗi ngày họp mặt vào buổi chiều cạnh vị Trưởng lão già trong đoàn để giúp đỡ Trưởng lão việc cá nhân. (Các Tỳ kheo sống rất tình nghĩa).5 - Mỗi ngày họp mặt buổi sáng để cùng nhau vào làng khất thực. (Các vị sống rất đoàn kết)6 - Nếu ai có bệnh thì mang vị đó ra giữa sân và gõ kẻng để mọi người đến chăm sóc. (Các vị sống rất chu đáo cẩn thận)Ta thấy Thanh quy 6 điều đã nói nên toàn bộ tính cách tốt đẹp trí tuệ của 60 vị Tỳ kheo.

Thanh quy lập xong và mọi người đồng ý làm theo.

Một hôm Mẹ của Ma-ti-ca đến Tinh xá mang theo đồ ăn cúng dường thấy Tinh xá vắng ngắt lặng im không tiếng động.Một Tỳ kheo thiền hành bên ngoài thấy Mẹ của Ma-ti-ca bèn hỏi thăm.

Bà nói muốn gặp gỡ hỏi thăm tình hình các Tỳ kheo.

Vị đó khuyên bà nếu muốn gặp thì đến giữa sân gõ kẻng mọi người sẽ hội đủ.Bà làm theo thì bắt đầu thấy các Tỳ kheo kéo đến mỗi người một hướng, không có 2 người đi cùng nhau.

Nhưng Bà lại hiểu lầm các vị cãi nhau bất hòa sống không đồng thuận.

Bà hỏi:- Các vị có bất hòa hay cãi nhau chăng?- Không, chúng tôi chuyên tâm tu thiền tịnh khẩu không nói truyện.- Thưa các vị, tu thiền là thế nào?- Chúng tôi tu thiền định theo lời Thế Tôn dạy.Sau đó các Tỳ kheo kể về phương pháp tu thiền theo "Kinh Thân Hành Niệm thuộc Trung bộ kinh Nikaya".

Đại ý như sau:"Quán hơi thở.

Quán thân vô thường: sinh, già, bệnh, chết.

Thân này là tứ đại: đất, nước, gió, lửa.

Thân này là bất tịnh: thịt, da, gân, cơ, xương, đờm, rãi, tiêu, tiểu, ruột, phủ, tạng, tim, gan, máu, mủ...

Quán tử thi: Thân hoại diệt từ khi chết cho đến khi thành bụi đất và biến mất"...

Đức Phật ấn chứng cuối Kinh rằng: "Ai quán thuần thục theo kinh này sẽ đắc Lục Thông A-la-hán viên mãn".- Thưa các vị, phép tu đó Cư sỹ có tu được không?- Thưa bà, Cư sỹ cũng tu được pháp môn đó.- Vậy các vị hãy dạy tôi phép tu đó.Và các Tỳ kheo dạy cho Mẹ của Ma-ti-ca "Kinh Thân Hành Niệm".

Sau đó bà cáo từ về nhà riêng tu thiền quán thân.

Có điều đặc biệt là Bà tu lập tức chứng Nhị quả thánh Nhất Lai.

Bà đắc được 2 thần thông là Tha Tâm Thông (đọc được tâm) và Thiên Nhãn Thông (thấy tiền kiếp mọi người).Bà hướng tâm về 60 vị Tỳ kheo và phát hiện chưa có vị nào đắc đạo dù là Sơ Quả.

Bà dùng Thiên Nhãn Thông xét nhân quả tiền kiếp xem các vị có duyên đắc đạo không?

Bà thấy rằng có duyên đắc đạo.

Tiếp tục bà quan sát xem nguyên nhân vì sao các vị không đắc đạo...Về điều kiện nhà cửa thì thuận lợi.

Về đời sống thì hòa hợp không cãi cọ sân si.

Bà tiếp tục xét đến đồ ăn dinh dưỡng thì thấy các vị thiếu dinh dưỡng nên không đắc đạo.Bởi vì một ngày các vị chỉ khất thực 1 lần vào buổi sáng.

Dân làng cũng chưa mến đạo nhiều nên có ngày được ăn, có ngày phải nhịn đói.

Vì thiếu dinh dưỡng nên các vị không nhiếp tâm nhập định được.Sau khi tìm được nguyên nhân Bà bèn sai con cháu đứng trước cửa Tinh xá khi các vị khất thực từ làng về thì bỏ thêm đồ ăn vào bát các vị.

Do biết tâm các vị nên bà sai con cháu cúng đúng các món các vị thèm.

Ai động tâm khởi niệm thèm ăn gì hôm trước thì sáng hôm sau được người cúng đúng món đó.Không bao lâu toàn bộ 60 Tỳ kheo đều đắc A-la-hán.

Sau mùa an cư kiết hạ 60 vị A-la-hán về lại Tinh xá gặp Phật.

Phật hỏi:- Các ông tu tập ở đó có đầy đủ không?- Bạch Thế Tôn, chúng con gặp được Mẹ của Ma-ti-ca ở làng Ma-ti-ca dưới chân núi giúp đỡ tận tình đầy đủ: đồ ăn, chỗ ở, chăn màn và tọa cụ.

Với khả năng đọc được tâm chúng con nên chúng con muốn gì lập tức được đáp ứng.

Chúng con đã chuyên tâm tu hành và đã chứng thành Phạm Hạnh giải thoát.Phật tán thán công đức bà Mẹ của Ma-ti-ca.

Chợt có một vị Tỳ kheo đứng trong hội chúng nghe chuyện đó tâm thôi thúc khát khao được đến làng đó tu hành.

Ông xin phép Phật đi đến làng đó an cư tu hành và Phật đồng ý.Tỳ kheo đó đến làng gặp mẹ của Ma-ti-ca và xin bà cho tu hành ở làng.

Bà đồng ý.

Lúc đầu ông vô cùng thích thú.

Ông chỉ cần động tâm khởi niệm muốn được quần áo mới thì sáng có người mang quần áo mới tới cúng.

Ông thấy đường nhiều cây cối mọc cản lối đi thì sáng có người mang dao đến chặt cây.

Ông thích ăn món gì thì sáng có người mang đến cúng.Những ngày đầu ông vô cùng hạnh phúc.

Nhưng đến ngày thứ 7 thì tâm ông bắt đầu hoảng hốt.

Ông thấy rằng ông chưa đắc đạo nên tâm có nhiều ý niệm xấu xa đen tối.

Và nếu các niệm đó bị người khác biết thật là ngượng.

Nghĩ đến điều đó thì ông hoảng sợ mang y bát chạy về Tinh xá Phật.

Ông bạch với Phật:- Bạch Thế Tôn, ở đó đời sống sung sướng, con muốn gì lập tức được đáp ứng ngay.

Nhưng con lại quá sợ vì Bà biết hết tâm con.

Con không thể sống cạnh một người mà tâm con thế nào họ biết hết.Nhưng Phật khuyên Tỳ kheo nên quay lại đó vì chính nỗi sợ hãi người khác biết rõ tâm khiến ta đề phòng mọi tâm ý.

Đó là pháp tu thích hợp với Tỳ kheo.

Sau đó Phật đọc bài kệ: "Tâm lăng xăng khó giữTheo các dục quay cuồngAi điều phục được tâmĐược vô vàn an lạc."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 35)Nghe lời Phật nên Tỳ kheo đó đau khổ mang y bát quay lại làng Ma-ti-ca tu hành.

Từ hôm đó ông lo sợ và giữ gìn từng ý niệm của tâm.

Ông sợ những niệm "tào lao, nhảm nhí" rồi Mẹ của Ma-ti-ca thấy sẽ cười.

Chỉ vì tâm lo sợ giữ gìn từng ý niệm nên thời gian ngắn sau ông đắc đạo.Sau khi đắc đạo thì ý niệm đầu tiên khởi lên là Tỳ kheo biết ơn Mẹ của Ma-ti-ca.

Rồi ông khởi Túc Mạng Minh nhớ lại tiền kiếp quá khứ bản thân.

Đến kiếp thứ 99 thì mẹ của Ma-ti-ca là vợ của ông đã ngoại tình và bà giết chết ông.Tâm ông bị động vì thấy hành động tội ác giết chồng của bà trong kiếp 99 đó.

Khi đó mẹ của Ma-ti-ca cũng đang theo dõi tâm ông và thấy kiếp 99 của ông bị bà giết chết.

Bà gửi tâm truyền tâm nhắn ông hãy quan sát kiếp thứ 100.Ông tiếp tục quan sát kiếp thứ 100 thì kiếp này bà là vợ của ông.

Bà đã hi sinh thân mạng cứu ông thoát chết.

Lúc này tâm ông mới không nghĩ bà ác.

Bằng cảm ứng tâm 2 người tiếp tục trao đổi về quả vị A-la-hán là thế nào vì bà chưa chứng A-la-hán.Sau khi 2 người nói truyện xong thì vị Tỳ kheo đó định nhập bỏ thân đi vào Niết Bàn ngay tại chỗ ngồi.

Còn Mẹ của Ma-ti-ca không thể chứng cao hơn.

Thân hoại mạng chung bà sinh cõi trời. (Các bạn chú ý: Bắt buộc phải là Sa Môn giữ giới hạnh Sa Môn mới chứng A-la-hán là thánh quả giải thoát.

Còn cư sỹ tu Ngũ Giới không thể chứng A-la-hán giải thoát khỏi luân hồi.

Cư sỹ chỉ chứng cao nhất là Sơ quả Dự Lưu hoặc Nhị quả Nhất Lai.

Trong kinh Nguyên Thuỷ không nói về Tam quả Bất lai.

Tác phẩm "Lá trong lòng bàn tay" tôi có dẫn chứng 2 bản Kinh Nikaya để chứng minh điều đó.Theo tôi như phân tích thì Nhị quả Nhất lai trong Nikaya Phật dạy: Vị đó tái sinh vào Luân Hồi 1 kiếp ở cõi lành (người, thần, trời) rồi nhập Niết Bàn.

Còn Tam quả Bất Lai theo tôi hiểu dù Nikaya không thấy Phật nói: Vị đó sẽ sinh về cõi trời mà không sinh về cõi người.

Vậy Tam quả đó còn thấp hơn Nhị quả vì không nói rõ bao nhiêu kiếp sinh cõi trời, sau đó có được vào Niết Bàn hay không?).Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Tâm bình thế giới bìnhKệ Pháp cú Phật nói rất đơn giản dễ hiểu.

Tâm của người lăng xăng theo các tham lam dục vọng quay cuồng loạn động bất an thì đau khổ.

Ai điều phục được tâm khiến tâm trở nên thanh tịnh thì được hưởng an lạc hạnh phúc.

Có câu rằng "Tâm mình thế giới bình".

Tâm ta bình an thì thế giới qua "lăng kính" của tâm sẽ bình an.

Tâm ta loạn động thì thế giới qua "lăng kính" của tâm sẽ loạn động bất an.

Vạn vật trong thế giới này đều phải đi qua lăng kính cảm nhận của tâm mới thành hạnh phúc hay đau khổ.Bài kệ đó Phật khuyên Tỳ kheo: "Đây là một cơ hội hiếm có khó tìm để tu dưỡng nội tâm thanh tịnh, gạt bỏ các niệm lăng xăng, loạn động, nhảm nhí, tào lao.

Nếu giữ tâm thanh tịnh như vậy sẽ đắc đạo."

Quả đúng vậy.

Tỳ kheo đó giữ tâm tránh xa các niệm xấu xa, tào lao, nhảm nhí... thời gian ngắn thì đắc đạo.Bài học 2: Công đức cúng dường thánh tăngTa cần nhớ là "cúng dường thánh tăng" chứ không phải cho tiền ăn xin hay cúng dường phàm tăng.Tích Pháp cú 18 kể về con gái út Su-ma-na của ông Cấp Cô Độc.

Cô chỉ chuyên cúng dường trai tăng tăng đoàn Đức Phật mà chứng Nhị quả Nhất Lai.

Ở truyện này, Mẹ của Ma-ti-ca xây Tinh xá cúng dường 60 vị Tỳ kheo tu hành đắc A-la-hán thì đủ phúc chứng Nhị quả Nhất lai.

Vậy nên công đức cúng dường thánh tăng A-la-hán thật vĩ đại mà ngày nay ta khó có được.Ta cần nhớ rằng: "Để đắc đạo cần 2 yếu tố là PHÚC và DUYÊN".

Cách tích phúc lớn ta vừa bàn xong.

Còn duyên là gặp đúng chánh pháp của Đức Phật Thích Ca dạy bảo tu hành.

Nếu có phúc mà không có duyên như Sa-môn Cồ Đàm phúc lớn mà tu sai 6 năm chẳng đắc đạo.

Cũng là vị Sa-môn Cồ Đàm đó tu đúng thì 49 ngày đắc đạo thành Đức Phật Thích Ca.Do vậy, mẹ của Ma-ti-ca có phúc lớn nhưng chỉ đắc đạo khi Tỳ kheo dạy thiền quán thân.

Nếu bà không tu đúng chánh pháp Phật dạy sẽ không thể đắc đạo dù phúc có vĩ đại gấp bội.Bài học 3: Khi thuận duyên ta nên cố gắng60 vị Tỳ kheo rất trí tuệ.

Sau khi thấy hoàn cảnh được thuận duyên.

Được ở trong làng dân chúng hiền lành tốt bụng.

Cảnh trí thanh bình sông nước và cánh đồng đẹp xinh.

Đặc biệt, họ được Mẹ của Ma-ti-ca ủng hộ giúp đỡ nhiệt tình.

Họ thấy đây là điều kiện thuận duyên nên không mải mê chơi bời hưởng thụ mà chuyên tâm tu hành.Vậy nên trong đường đời khi ta gặp các điều kiện thuận duyên: Tài sản ta đủ đầy không phải lo nghĩ.

Gia cảnh ta an vui yên ổn.

Quyền lực ta "nói có người nghe, đe có người sợ".

Người thân ta biết đạo ủng hộ ta tu hành...

Đặc biệt ta có duyên tìm được chánh pháp của Đức Phật Thích Ca truyền lại đến ngày nay.

Ta nên cố gắng xuất gia tu hành thiền định vì duyên này rất hiếm gặp.Bài học 4: Thiếu dinh dưỡng không thể tuSau khi Phật đắc đạo, bản kinh đầu tiên là Kinh Chuyển Pháp Luân Phật thuyết cho 5 anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển.

Kinh đó Phật khẳng định tầm quan trọng của con đường trung đạo: "Không quá khổ hạnh cực đoan, Không quá hưởng thụ vật chất.

Đó là con đường chân chính tu hành đưa đến sự giải thoát".Đức Phật hay nhấn mạnh trung đạo trong ăn uống.

Không nên ăn quá no hoặc quá đói.

Ta nên ăn vừa đủ dinh dưỡng để có sức khỏe tốt.

Phật gọi là: "Ăn uống có tiết độ".

Chứ không phải ăn uống kham khổ cũng không phải ăn uống phè phỡn no căng.Truyện Pháp cú này cho ta thấy thiếu chất dinh dưỡng không thể ngồi thiền nhập định.Bài học 5: Sao lại sợ biết tâm?

Sao Tỳ kheo nọ lại sợ Mẹ của Ma-ti-ca biết tâm của Ngài?

Trong khi Phật cũng biết tâm mà còn biết rõ hơn bà đó thì vị đó lại không sợ?Bởi vì Phật từ bi yêu thương chúng sinh và Phật đã diệt hết mọi tật xấu kiết sử.

Nên dù Phật biết tâm chúng sinh còn lỗi lầm và nhiều thứ tào lao nhảm nhí nhưng Phật không ghét, không cười chê hay khinh bỉ.

Còn mẹ của Ma-ti-ca chưa diệt hết mọi kiết sử.

Do vậy Tỳ kheo đó sợ bà cười chê, nhạo báng khi thấy những ý niệm tào lao nhảm nhí của Ngài.Chính nỗi sợ những niệm nhảm nhí trong tâm bị Mẹ của Ma-ti-ca cười nên ông ta cố gắng giữ tâm thanh tịnh không vọng tưởng.

Kỳ lạ thay, ông tu vài hôm là đắc A-la-hán.

Sao có hiện tượng kỳ lạ này?Bài học 6: Giữ tâm không loạn động sẽ đắc đạoKinh Sa Môn quả đoạn 98 Phật nói về tâm của vị thánh chứng Tứ thiền đạt được thanh tịnh:"98.

Này Đại vương, ví như tại dãy núi lớn có một hồ nước, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm.

Một người có mắt, đứng trên bờ sẽ thấy con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi qua lại hay đứng một chỗ.Vị ấy nghĩ: "Đây là hồ nước thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm.

Đây là những con hến, con sò, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá đang bơi qua lại hay đứng yên một chỗ".Cũng vậy, này Đại vương, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy."

Từ "Thanh tịnh" mà các sư hay dùng xuất phát điểm là từ đoạn Kinh này: "Thanh" là nước hồ trong vắt không chút vẩn đục.

"Tịnh" là mặt nước tĩnh lặng như gương soi không chút gợn sóng."

Thanh tịnh" còn gọi là "Yên lành" là 2 yếu tố cần và đủ để một vị tu hành đắc đạo.Thứ nhất: Tâm tu sĩ phải trong sạch và gạt bỏ mọi cấu uế, bất thiện pháp trong tâmThứ hai: Tâm tu sĩ phải yên tĩnh không chút xao động hoặc khởi tạp niệm.

Khi đó, tu sĩ đó sẽ thấy được chân lý vũ trụ, thấy rõ luân hồi, thấy rõ tam thế: quá khứ, hiện tại, tương lai như người đứng trên bờ nhìn con hến, con sò, đàn cá...

đang bơi trong hồ nước thanh tịnh trên đỉnh núi cao kia.Do vậy, Tỳ kheo nọ vì sợ mẹ của Ma-ti-ca thấy tâm ông nhảm nhí nên ông quyết giữ tâm yên tĩnh, không loạn động thì Ngài đắc đạo.

Còn yếu tố thứ 2 là tâm Tỳ kheo đã trong sạch, đã gạt bỏ mọi cấu uế bất thiện thì Phật không nói ở truyện tích này.Bài học 7: Sáu loại thần thông trong đạo Phật"Kinh Sa Môn Quả" thuộc Trường Bộ Kinh Nikaya Phật nói: Một vị chứng Tứ thiền thì xuất hiện 3 loại thần thông và 3 minh (Tam minh).

Vị thánh đắc Tam minh thì diệt trừ Vô minh đắc đạo "Vô thượng bồ đề A-la-hán".

Vị có đầy đủ 6 loại thần thông được Phật gọi là: "Lục thông A-la-hán".

Lục thông gồm:Thứ nhất Thiên nhĩ thông: Vị đó trong định có khả năng nghe được tiếng nói của quỷ thần.Thứ hai Tha tâm thông: Vị đó trong định có khả năng cảm ứng được tâm của các chúng sinh mà vị đó hướng đến trong Luân hồi.Thứ ba Thần túc thông: Vị đó trong định tâm khởi ý nghĩ thì thân biến hóa ứng hiện ra như ý.Thứ tư Thiên nhãn minh: Vị đó trong định thấy được tam thế (quá khứ, hiện tại, tương lai) các kiếp sống của chúng sinh trong luân hồi.Thứ năm Túc mạng minh: Vị đó trong định thấy được tam thế (quá khứ, hiện tại, vị lai) các kiếp sống của bản thân trong Luân Hồi.Thứ sáu Lậu tận minh: "Lậu" là cấu uế, nhớp nhơ, bẩn thỉu.

"Buôn lậu" là kẻ buôn hàng phi pháp như rượu, thuốc lá, hàng cấm hoặc trốn thế.

"Lậu tận minh" là tâm vị thánh từ bỏ mọi cấu uế bất thiện trong tâm.

Tâm vị thánh đó trong sạch tuyệt đối.Mẹ của Ma-ti-ca chứng Nhị quả mà có Lục thông siêu việt.

Bằng Thiên nhãn minh bà thấy rõ 100 kiếp quá khứ của tỷ kheo nọ.

Rồi bà xét các kiếp quá khứ của 60 vị Tỳ kheo xem có duyên đắc đạo không.

Bằng Tha tâm thông thì bà thấy rõ tâm Tỳ kheo muốn gì, nghĩ gì, thèm gì thì bà sai người dâng cúng.Năng lực Thiên nhãn của bà vượt xa nhiều vị A-la-hán.

Trong "Đại Kinh nghiệp phân biệt" thuộc Trung bộ kinh có 1 vị A-la-hán đặc biệt.

Vị đó chỉ thấy duy nhất 1 kiếp quá khứ của người.

Vị đó tên là Samiddhi.

Vị đó thấy quá khứ kẻ đó làm ác mà kiếp này được sung sướng.

Vị đó bèn nói "không có nhân quả" rồi bị Phật trách mắng "Này kẻ ngu si kia...".Vì rằng nhân trong kiếp này không nhất thiết kiếp sau tạo quả.

Quả báo chỉ đến khi có đủ các duyên cần thiết.

Quả báo hoặc đến ngay và luôn, hoặc đời sau, hoặc sau nhiều đời khi duyên tới.

Duyên là các điều kiện thuận lợi hay môi trường để quả báo thành.Ta nhớ câu nói: "Vì đại nhân duyên mà Đức Phật ra đời".

Vậy phải có đủ Nhân và đủ Duyên thì quả báo thành.

Yếu tố thời gian chỉ là một duyên quan trọng trong vô vàn các duyên.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 36: Truyện Công tử tu 1 điều duy nhất


"Tâm sâu sa khó thấyTheo các dục quay cuồngNgười trí phòng hộ tâmNên được nhiều an lạc."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 36)Tích Pháp Cú: Sa-va-ti (thành Xá Vệ) là kinh đô nước Ko-sa-la.

Nước Ko-sa-la là một đại quốc phía tây tiểu quốc Thích Ca.

Khi Đức Phật đản sinh thì ở Ko-sa-la vua Ba Tư Nặc ra đời.

Khi Thái Tử Tất Đạt Đa 29 tuổi, Ngài từ bỏ cung điện đi xuất gia thì vua Ba Tư Nặc lên ngôi.

Sau đó vua Ba Tư Nặc quy y Phật và hộ trì Chánh pháp Đức Phật mạnh mẽ.Trong thời Đức Phật thì Phật đã giáo hóa được 2 đại quốc là Ko-sa-la của vua Ba Tư Nặc và Ma Kiệt Đà của vua Bình Sa.

Cũng vì 2 đại quốc hùng mạnh nhất tiểu lục địa Ấn Độ quy y Đức Phật nên gần như toàn bộ các tiểu quốc lân bang đều học theo để lấy lòng Đại Quốc.Ở kinh đô Xá Vệ nước Ko-sa-la, Phật có "Tinh xá Kỳ Viên vườn ông Cấp Cô Độc".

Tinh xá có tên rất dài vì truyện tích ông Cấp Cô Độc mua vườn của Thái tử Kỳ Đà bằng số tiền vàng phủ kín đất vườn.

Chỉ còn một mảnh nhỏ thấy ông trầm tư Thái Tử tưởng ông hết tiền bèn hỏi.

Ông trả lời: "Còn mảnh nhỏ tôi đang tính chuyển vàng từ kho nào đến cho gần".

Thái Tử nghe vậy bèn xin cúng dường Đức Phật diện tích mảnh nhỏ đó.

Thế là Tinh xá có tên ghép của 2 vị là "Tinh xá Kỳ Viên vườn ông Cấp Cô Độc".Ở kinh đô Vương Xá nước Ma Kiệt Đà, Phật được vua Bình Sa cúng dường vườn trúc lâm để xây làm Tinh xá Trúc Lâm.

Ta đã nghe ở Tích Pháp Cú 11, 12.Thành Xá Vệ có Công tử tên là A-lu-cu-ba con quan trưởng quốc khố nước Ko-sa-la.

Công tử có duyên với một vị Trưởng lão đắc đạo.

Một lần Ngài đến hỏi Trưởng lão:- Xin Trưởng lão hãy chỉ dạy cho con cách thức tu hành cần bắt đầu từ đâu?- Đầu tiên con cần tu hạnh bố thí để tăng phúc.

Con nên chia tài sản làm nhiều phần: phần bố thí cho người nghèo, phần cúng dường tam bảo, phần làm điều lợi ích cho người.

Phần tài sản con sử dụng để nuôi gia đình bản thân và làm vốn.Công tử vâng lời Trưởng lão.

Sau một vài năm thực hành hạnh bố thí một cách thuần thục viên mãn.

Công tử đến thăm hỏi Trưởng lão:- Thưa Trưởng lão, con đã thực hành hạnh bố thí theo lời người dạy của người một cách thuần thục viên mãn.

Nay con xin hỏi bước tiếp theo sẽ phải làm gì để tu hành được thăng tiến?- Con hãy Quy Y Tam Bảo và thực hành Ngũ Giới Cư sỹ.- Vâng thưa Trưởng lão.

Xin Trưởng lão hãy Quy Y cho con và con nguyện thực hành đầy đủ Giới hạnh Cư sỹ.Rồi chàng thực hành đầy đủ Tam Quy Ngũ Giới là: Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng, không sát sinh, không rượu và chất kích thích, không tà dâm, không ác ngữ, không trộm cướp.Lần trước Công tử có tài sản lớn nên thực hành bố thí cảm thấy dễ dàng.

Nay Công tử thực hành Ngũ Giới: không được uống rượu tiệc tùng với bạn bè, phải chung thủy một vợ một chồng, không được có 5 thê 10 thiếp, phải làm ăn chân thật không nói dối, lừa đảo.

Ngài thấy khó khăn vất vả hơn.Rồi khó khăn đó cũng qua đi.

Sau vài năm việc thực hành Ngũ Giới và Bố Thí đều thuần thục viên mãn.

Công tử lại đến gặp Trưởng lão và hỏi:- Thưa Trưởng lão, nay con đã thực hành Bố thí được viên mãn.

Con cũng đã Quy Y Tam Bảo và thực hành Ngũ Giới được viên mãn.

Xin Trưởng lão cho con lời khuyên con nên làm gì tiếp theo để công đức được tăng trưởng?- Con hãy xuất gia.- Thưa Trưởng lão con xin vâng lời người.Công tử lập tức về nhà thu xếp công việc, gia tài, phân chia tài sản thừa kế.

Rồi chàng từ giã gia đình vợ con đi xuất gia với Trưởng lão.Trưởng lão gửi đệ tử cho 2 vị Giáo thọ và Luật nghi.

Vị Giáo thọ thì dạy các giáo lý: Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Tứ chánh cần, Ngũ căn, Ngũ lực, Thập nhị nhân duyên và mênh mông các giáo lý khác...

Vị Luật nghi thì dạy giới luật Tỳ kheo 250 giới và giám sát vị Tỳ kheo trẻ nghiêm mật chặt cứng.Tỳ kheo trẻ bắt đầu thoái trí.

Trước kia Chàng là công tử con quan Trưởng khố gia tài nhiều nên Bố thí đơn giản.

Rồi chàng giữ Ngũ Giới không tiệc tùng, không thê thiếp, không nói dối, không trộm cướp, không sát sinh... tuy có khó khăn nhưng rồi cũng có thể vượt qua.

Vậy mà đến khi xuất gia làm Tỳ kheo thì lại cảm thấy quá khổ không thể chịu nổi.Vị Tỳ kheo trẻ đến gặp Trưởng lão và xin hoàn tục.

Trưởng lão bèn dẫn đệ tử đến gặp Phật ở Tinh xá Kỳ viên vườn ông Cấp Cô Độc.

Phật hỏi:- Này Tỳ kheo vì sao con muốn hoàn tục?- Bạch Thế Tôn, trước khi xuất gia thì con ở gia đình.

Con thực hành bố thí thấy dễ dàng và hạnh phúc.

Sau đó con thực thành Tam Quy Ngũ Giới cũng thấy an lạc hạnh phúc.

Nhưng sau khi xuất gia thì con học giáo lý thấy mênh mông như biển khiến con hoang mang.

Con học thực hành giới luật thì thấy nó bó cứng ngắc hễ động chân động tay là phạm giới.

Con không cảm thấy chút an lạc.- Vậy nay ta dạy cho con chỉ một điều duy nhất thì con có ở lại không?- Bạch Thế Tôn, nếu chỉ có một điều duy nhất thì con sẽ chuyên tâm tu hành.- Vậy con hãy giữ tâm của con nghiêm mật.Và Phật đọc bài kệ:"Tâm sâu sa khó thấyTheo các dục quay cuồngNgười trí phòng hộ tâmNên được nhiều an lạc."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 36)Và câu chuyện kết thúc tại đây.

Ta không thấy được đoạn sau kể tiếp về Tỳ kheo Công tử đó tu hành đắc đạo hay không.

Vì sao vậy?

Các bạn đoán nhé?Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Tâm luôn theo các dục quay cuồngBài Pháp Cú rất đơn giản dễ hiểu.

Phật dạy tâm của chúng ta khuất kín khó thấy.

Tâm đó theo các dục vọng tham sân si quay cuồng loạn động và bất an.

Người trí tu hành phòng hộ tâm, đề phòng từng ý niệm sai lầm.

Chỉ cần tu phòng hộ tâm như vậy sẽ đắc đạo và được hưởng niềm an lạc hạnh phúc của thánh vị.

Và đây là lời khẳng định thay cho kết luận: "Người trí phòng hộ tâm nên được nhiều an lạc".Ta thấy, tỳ kheo công tử đó có phúc lớn được giàu có, làm con quan trưởng khố.

Vị đó tu giữ tâm không dục vọng tham, sân, si đúng Chánh pháp Phật dạy.

Vậy chắc chắn 100% vị đó sẽ đắc đạo.

Nên cuối truyện ta không thấy nói Tỳ kheo công tử đó có đắc đạo hay không.

Vì nói ra sẽ là thừa do Phật đã khẳng định ở câu cuối Kệ Pháp Cú rồi.Bài học 2: Bàn về Bố thíBố thí là con đường đầu tiên để kết duyên lành với chúng sinh trong Tứ Nhiếp Pháp của Bồ Tát.

Bố thí sẽ tạo nợ, từ nợ tạo thành duyên.

Khi có duyên nợ thì Bồ Tát nói đạo chúng sinh sẽ nghe.

Sao lại thế?

Vì làm việc thiện trước mắt là bị thiệt thòi.

Nó ngược với bản năng tham lam ích kỉ.

Do vậy nếu không có duyên nợ thì Bồ Tát nói sẽ chẳng ai nghe.

Xin nói thêm về Tứ Nhiếp Pháp của Bồ Tát gồm: Bố thí – Ái ngữ – Lợi hành – Đồng sự.

Tôi có tác phẩm "Đắc nhân tâm Phật giáo" bàn về Tứ Nhiếp Pháp tu phục nhân tâm con người.

Mời bạn tìm đọc.Bố thí Ba-la-mật là con đường tu hành đầu tiên trong Lục Ba-la-mật.

Vì rằng Bố thí để tích phúc.

Khi phúc đủ lớn thì Bồ Tát sẽ tu hành đắc đạo.

Thiếu phúc tu không bao giờ đắc đạo.

Xin nói thêm về con đường Bồ Tát Đạo là Lục Ba-la-mật gồm: Bố thí – Trì giới – Nhẫn nhục – Tinh tấn – Thiền định – Bát nhã.Vậy nên, trong giáo lý Đại Thừa bố thí được đẩy lên đầu tiên quan trọng nhất "Mẹ của các pháp".

Nhưng trong Nguyên Thủy Phật Giáo thì Bố thí là Thân nghiệp đứng sau Ý nghiệp và Khẩu nghiệp.

Còn trong Bát Chánh Đạo thì Bố thí là Chánh nghiệp (4) và Chánh mạng (5) đứng sau Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ.

Ô sao lại thế?

Ta hãy phân tích nhé.Ta thấy Kinh Phật hay nói về Đại Ác Ma thần thông vĩ đại, phúc vĩ đại.

Ô thế sao Đại Ác Ma lại có phúc vĩ đại?

Bởi vì Đại Ác Ma hiểu rõ Luật nhân quả.

Đại Ác Ma cũng bố thí vĩ đại để tích phúc vĩ đại nhưng tâm ác độc.

Đại Ác Ma bố thí gieo duyên với chúng sinh nhưng không dạy đạo đức mà Ác Ma dùng Bố thí để xây dựng binh đoàn ác quỷ.Vậy nên cái gốc không phải là bố thí tích phúc.

Bố thí chỉ là ngọn.

Cái gốc là tu đạo đức: (1) Chánh kiến là học tập đạo lý kiến thức chánh thiện. (2) Chánh tư duy là tư duy suy nghĩ chánh thiện. (3) Chánh ngữ là lời nói lành thiện tạo lợi ích cho chúng sinh.Nên ta thấy, ở chùa đền miếu phủ...

Ai ai cũng bố thí rải tiền cúng dường Phật, Bồ tát, Thánh, Thần.

Thế nhưng tâm họ thì sao?

Tâm họ chỉ cầu: "đắc tài, đắc lộc, nói có người nghe, đe có người sợ, không bệnh không tật, tai qua nạn khỏi, cầu được ước thấy".Bài học 3: Tám vạn bốn ngàn pháp môn, 250 giới luật chỉ hướng đến 1 cái đích là diệt trừ dục vọngĐó là điều Phật ngầm nhấn mạnh qua truyện tích này.

Tỳ kheo Công tử A-lu-cu-ba có thể bỏ qua toàn bộ 84.000 pháp môn, 250 giới luật.

Vị đó chỉ tu duy nhất 1 điều: Tu tâm ý diệt trừ các dục vọng sẽ đắc đạo A-la-hán.

Sao lại thế?Vì 84.000 pháp môn có nền tảng là Bát Chánh Đạo.

Trong Bát Chánh Đạo thì đầu tiên là tu Tâm ý: Chánh kiến - Chánh tư duy.

Nên Ý nghiệp là gốc của 84.000 pháp môn.

"Tâm dẫn đầu các pháp – Tâm làm chủ tạo tác" chắc các bạn còn nhớ 2 câu đầu tiên của bài kệ đầu tiên trong Kinh Pháp Cú.250 Giới luật Tỳ kheo có gốc là Đạo đức.

Mà Đạo đức chính là Tu Tâm Ý không tham-sân-si.

Nên Phật dạy rằng: "Ta có thể bỏ hết mọi pháp môn, bỏ hết mọi giới luật.

Chỉ cần tu 1 điều duy nhất là tu tâm diệt trừ các dục tham sân si sẽ đắc đạo".Bài học 4: Duyên nợ của chúng sinhCông tử A-lu-cu-ba sống ở thành Xá Vệ nơi có Tinh xá Kỳ viên của Phật.

Nhưng chàng không quy y Phật mà lại quy y Trưởng lão.

Rồi công tử không gặp Phật nghe pháp lại chỉ nhất nhất nghe lời Trưởng lão.

Đó là điều kỳ lạ.

Vậy lạ ở đâu?Vì Phật giống như Mặt trời, còn Trưởng lão dù đắc A-la-hán cũng chỉ là đốm lửa nhỏ.

Phật giống như núi Tuyết Sơn Himalaya còn Trưởng lão chỉ là hòn đá ta cầm trên tay.

Vậy mà công tử con quan trưởng khố giàu có sống ở thành Xá Vệ lại nhất tâm quy y Trưởng lão, vâng lời Trưởng lão.

Sao lạ vậy?Đó chính là duyên nợ chúng sinh.

Thế nên có cô gái xinh đẹp, đảm đang, hiền thục nhiều chàng đẹp trai, tài giỏi, giàu có theo đuổi.

Nhưng cô không chọn họ.

Cô lại chọn một chàng xấu trai, nhà nghèo, kém tài làm chồng.

Thế vì sao cô lại quyết định vậy?

Bởi vì đó là tình yêu xuất phát từ duyên nợ kiếp xưa.

Đời này họ gặp nhau thì yêu nhau không cần lý do.

Còn nếu tình yêu xuất phát từ bản năng thì cô sẽ chọn trai đẹp 6 múi, cao to khỏe mạnh, tài giỏi, nhà giàu...Ta còn nhớ truyện "Pháp Cú 30: Truyện về Thiên chủ Đế Thích".

Khi đó vua Atula kén rể cho con gái là nàng Thiện Sanh hóa sinh.

Rồi toàn bộ trai tráng Atula đẹp đẽ rạng ngời xếp hàng mà nàng không chọn.

Nàng lại chọn ông già ốm yếu do vua trời Đế Thích hóa thành.

Đó chính là duyên nợ tình nghĩ sâu nặng giữa nàng Thiện Sanh và vua trời Đế Thích còn thắm thiết.

Thế nên nàng đã bước qua toàn bộ thanh niên Atula với tâm hững hờ.

Chỉ đến khi đứng trước ông già ốm yếu thì "tâm hồn nàng thổn thức".Bạn có nhớ Phật có Tam Bất Năng: 1- Chúng sinh vô lượng Phật không biết hết.

2- Định nghiệp đã tới Phật không thể cứu.

3- Chúng sinh vô duyên Phật không thể độ.

Và đây là trường hợp: "Chúng sinh vô duyên với Phật nhưng có duyên với Trưởng lão".Bài chọ 5: Người giàu dễ bố thí nhưng khó giữ giới.

Người nghèo dễ giữ giới nhưng khó bố thíTâm lý thường tình là: "Khi bạn có cái gì đó thật nhiều thì bạn cho đi dễ.

Bạn có cái gì đó cần thiết mà cực ít thì bạn khó cho đi".

Người giàu chẳng có gì ngoài "điều kiện" nên dễ bố thí.

Người nghèo tiền ăn không có, bố thí xong là nhịn đói nên thành khó.Ví dụ: Tỷ phú có tài sản 100 tỷ.

Họ biết đạo sống biết đủ.

Họ sẵn sàng bố thí 99 tỷ thì họ vẫn là tỷ phú.

Còn người nghèo ngày kiếm 100k, cơm ăn ba bữa hết 90k còn 10k tiết kiệm.

Nay bảo họ bố thí rất khó.Bàn về giới.

Người giàu muốn gì được nấy.

Rượu ngoại cả hầm, quần áo 1 phòng, xe xịn đầy gara, sổ đỏ tính bằng kilogram, có chuyên cơ, phi thuyền, lâu đài, người hầu kẻ hạ... mà bắt họ giữ giới chỉ có 3 bộ quần áo và 1 cái bát, ngày đi xin ăn 1 bữa, chỉ ăn trước ngọ... quá khó để thực hiện.

Hoặc đơn giản là bắt họ không 5 thê 7 thiếp, không uống rượu, không nói dối cũng là rất khó.

Nhưng kẻ phúc lớn đó nếu từ bỏ các dục mà giữ giới thì tu dễ đắc đạo.Còn người nghèo đói rách không nhà cửa...

Nay xuất gia có quần áo sạch đẹp 3 bộ, sáng đi khất thực dân quỳ xuống 2 bên đường cúng dường, được ở trong Tinh xá sạch đẹp thơm tho, sống chẳng phải lo nghĩ...

Đối với họ giữ giới như vậy thật quá sướng.

Nhưng những người này tu dù đúng Chánh Pháp của Đức Phật dạy cũng chẳng thể đắc đạo.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 37: Truyện Tăng Hộ Cháu


"Tâm vô hình rong ruổiBí ẩn như bóng maAi điều phục được tâmMa không còn trói buộc"(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 37)Tích Pháp Cú: Ở kinh thành Xá Vệ có Ngài tên là Tăng Hộ (San-ga-ga-ti-ta).Các bạn chú ý: Những vị Trưởng lão nổi tiếng thời Đức Phật thì trong A-Hàm kinh từ thời Ngài Trần Huyền Trang nhà Đường đã nhắc đến nên có tên Việt hóa.

Ví dụ tên gọi theo Pali của Ngài San-ga-ga-ti-ta thì A-Hàm gọi thành ngài Tăng Hộ.

Hoặc tên theo Pali là tôn giả Sa-ri-pu-ta thì A-Hàm gọi là ngài Xá Lợi Phất.

Tôi ưu tiên dùng theo tên A-Hàm vì hơn ngàn năm qua chúng ta đã quen dùng rồi.Vị này rất nổi tiếng vì Ngài gặp Phật xuất gia tu hành 10 ngày sau chứng A-la-hán.

Ngài có em gái út sinh ra cậu con trai.

Em gái thương anh nên lấy tên anh đặt cho con gọi là Tăng Hộ Cháu.Khi cậu bé lớn, mẹ thường hay dắt chú đi thăm bác là Trưởng lão A-la-hán Tăng Hộ.

Khi chú bé lớn Tôn giả Tăng Hộ bảo em cho cháu xuất gia.

Em gái vì tôn kính anh nên đồng ý cho con xuất gia.

Tỳ kheo trẻ Tăng Hộ Cháu rất chuyên tâm tu hành.Vào mùa an cư kiết hạ Tăng Hộ Cháu an cư ở Tinh xá xa bác cậu.

Cậu được tín chủ vùng đó cúng 2 xấp vải đẹp.

Tăng Hộ Cháu nhớ đến bác và muốn tặng bác 1 xấp.

Kết thúc mùa hạ chàng về thăm bác và quỳ xuống cúng dường Tôn giả Tăng Hộ xấp vải đẹp nhưng Tôn giả từ chối:- Ta nay đã có đủ 3 bộ y rồi.

Con nên cất nó đi xem ai thiếu thì tặng.- Thưa Tôn giả trong lòng con tôn kính Người nên con chỉ muốn cúng dường Người.Người cháu nói mãi mà Tôn giả không nhận.

Tôn giả là một A-la-hán nên vật chất thế gian Ngài không màng.

Giới luật quy định mỗi Tỳ kheo chỉ được có 3 bộ quần áo và 1 cái bát (Tam y nhất bát).

Ngài đã đủ nên không nhận.

Còn Tăng Hộ Cháu chưa đắc đạo nên cố chấp.Không tặng được y cho bác thì chàng buồn nghĩ quẩn tưởng bác không thương mình.

Chàng cầm cái quạt quạt mát cho bác còn đầu nghĩ ngợi lung tung:"Có ta và bác ở đây tình thân với nhau vậy mà bác không thương ta.

Hay ta hoàn tục về nhà.

Nhưng không biết về nhà mẹ ta có thương ta không?

Nếu mẹ ta giận ta thì ta lấy 2 xấp vải này bán lấy tiền mua con dê cái.

Con dê cái sẽ đẻ ra dê con.

Ta sẽ nuôi tất cả thành một bầy dê.

Rồi ta bán bầy dê lấy tiền cưới cô vợ đẹp.

Cô vợ sẽ đẻ cho ta một cậu con trai kháu khỉnh.Thế nhưng ta vẫn thương bác, nên lâu lâu ta sẽ mang nó đến thăm bác.

Ta sẽ đóng một cái ghế đẩy rồi cùng vợ đẩy nó đến thăm bác.

Nhưng đàn bà thì hay đuểnh đoảng đẩy xe vấp hòn đá khiến thằng bé rơi xuống đất.

Ta sẽ lấy cái que đập vào đầu vợ ta một cái....

"Nghĩ đến đó thì tâm chàng tức giận.

Còn tay chàng đang cầm cái quạt thì đập mạnh vào đầu Tôn giả.

Ngài Tăng Hộ quay sang nói:- Ngươi không đánh trúng cái mụ đó mà ngươi đánh trúng cái đầu của ta.Chàng Tăng Hộ Cháu sững sờ.

Hóa ra toàn bộ ý nghĩ viển vông vớ vẩn, tào lao nhảm nhí, Sư đi lấy vợ có con... của chàng bị Tôn giả thấy hết.

Quá ngượng mặt chàng mặt đỏ bừng bừng.

Chàng vứt cái quạt lao đầu bỏ chạy.

Các Tỳ kheo ở Tinh xá thấy Tỳ kheo trẻ nọ cắm đầu chạy thì bắt lại mang trình Đức Phật.Tăng Hộ Cháu gặp Phật và kể lại sự việc:"Bạch Thế Tôn, mọi việc bắt đầu từ 2 tấm vải đẹp.

Con tặng Tôn giả 1 tấm mà Tôn giả không nhận...

Rồi một ý nghĩ thầm khín xuất hiện trong đầu con...

Con bán vải mua dê cái, dê cái đẻ đàn dê con.

Rồi con bán đàn dê cưới vợ sinh con, vợ làm rơi đứa con của con, con giận và đánh vợ...

Thế nhưng vì tay con đang cầm cái quạt quạt cho Tôn giả.

Nên con đã đánh trúng vào đầu Tôn giả.

Tôn giả nói: "Ngươi không đánh trúng cái mụ đó mà lại đánh trúng cái đầu của ta".

Con ngượng quá nên bỏ chạy."

Đức Phật trách Tỳ kheo trẻ không biết tu tâm để tâm rong ruổi bằng bài kệ:"Tâm vô hình rong ruổiBí ẩn như bóng maAi điều phục được tâmMa không còn trói buộc"(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 37)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Ma không còn trói buộcTâm không hình không tướng nhưng nó chạy loạn rong ruổi mọi nơi, mọi ngóc ngách.

Tâm bí ẩn như bóng ma vì chính nó làm chủ tâm hồn ta.

Còn ta lại bị nó dẫn dắt đi lung tung.

Ai điều phục được tâm khiến tâm yên bình, tĩnh lặng thì người đó không bị bóng ma đó trói buộc nữa.

Kẻ đó đã làm chủ tâm hồn và tâm hiện ra rõ ràng chân chính chứ không còn "bí ẩn như bóng ma".Bài học 2: Duyên gia đìnhTa thấy, em gái Ngài Tăng Hộ có anh xuất gia từ bỏ gia đình nhưng cô vẫn thường xuyên thăm hỏi.

Cô có con thì đặt tên con theo tên anh.

Anh bảo cô cho con trai yêu quý xuất gia thì cô vâng lời.

Rồi Tăng Hộ Cháu có vải đẹp chỉ mong được tặng bác.

Vậy nên tình thương yêu gắn bó giữa những người trong gia đình là duyên sâu đậm thắm thiết.

Chính duyên này đã tạo thành tình cảm gia đình dù họ đã xuất gia từ bỏ gia đình.Giống trường hợp của Thái tử Tất Đạt Đa.

Sau khi Thái tử tìm được con đường giác ngộ thì Ngài quay về nước Thích Ca độ hết toàn bộ mọi người ở hoàng cung.

Đó là vì duyên gia đình giữa những người thân yêu gắn bó với Đức Phật.

Khi có duyên rồi thì Phật bảo gì mọi người đều tin tưởng nghe theo dù khó khăn vất vả thiệt thòi.Nên có câu "Vô duyên với Phật, Phật không thể độ" tức Đức Phật chỉ độ được người có duyên mà thôi.Bài học 3: Tâm rong ruổiTâm của ta không bao giờ dừng suy nghĩ.

Kể cả lúc ngủ thì tâm ta vẫn suy nghĩ mà tạo thành giấc mơ.

Thế nên Tăng Hộ Cháu tay cầm quạt, quạt cho bác mà tâm chạy rong tưởng tượng.

Chàng đang là sư lại tưởng tượng bán vải, mua dê đẻ ra đàn dê con, đem bán lấy tiền cưới vợ có con, rồi mang cả gia đình đi thăm bác...Nếu ta không biết tu thiền giữ tâm trong thanh tịnh thì 100% ta sẽ giống vậy.

Đôi khi tâm ta còn mờ ám, ô uế, trần tục hơn thế rất nhiều.

Nhưng may mắn thời nay không có ai đắc đạo để có Tha Tâm Thông đọc được tâm sâu kín của ta.Nhưng ta đừng nghĩ rằng tâm ta không ai biết.

Ta hãy nhớ câu rằng: "Tâm ta có ta biết, trời biết, đất biết, quỷ thần đều biết.

Sao lại bảo không ai biết?"

Bài học 4: Tâm tức giận thì hành động vô thứcTa thấy Tăng Hộ Cháu tâm tưởng tượng lung tung mà tay vẫn cầm quạt, quạt cho bác.

Nhưng đến khi tưởng tới đoạn cô vợ đoảng đánh rơi đứa con yêu từ xe xuống đất thì chàng tức giận.

Khi tâm tức giận thì hành động vô thức mất kiểm soát.

Thế nên chàng đã cầm cái quạt đánh mạnh vào đầu bác mình.Dân gian có câu: "Không làm khi giận.

Không nói khi say".

Khi tức giận thì mọi hành động đều mất kiểm soát bởi lý trí.

Ta gọi là hành động vô thức tức tâm mất kiểm soát hành động.

Còn khi say rượu thì mọi lời nói cũng mất kiểm soát bởi lý trí.Kết quả là: Kẻ tức giận luôn có hành động trả thù ác độc để hả cơn giận mà khi hết giận thì hối đã muộn.

Kẻ say thì mọi lời nói đều là "rượu nói".

Họ lải nhải nói nhiều, nói dai, nói đi nói lại, chẳng đầu chẳng cuối, chẳng rõ nội dung ý tứ, chẳng cần biết có ai nghe hay không...

Ta gọi là "Cẩu tửu".

Tức say rồi nói chuyện như chó cắn.

Còn kẻ say rồi biết đã say mà đi ngủ gọi là "Tiên tửu".Bài học 5: Sư mà lại mơ lấy vợ có con?Sư mà lại mơ lấy vợ có con?

Tưởng rằng phi lý nhưng rất đúng tâm lý.

Phàm tâm sinh lý thường tình của mọi loài vật đều hướng về bản năng sinh tồn và duy trì nòi giống.

Bản năng sinh tồn là: Ăn, ngủ, vệ sinh, hít thở.

Bản năng duy trì nòi giống là tình dục để có con.

Dân gian gọi là "Tứ khoái: Ăn, ngủ, tình dục, vệ sinh" tức bỏ xót khoái "hít thở".Sư chưa đắc đạo thì vẫn là người phàm.

Trong tâm sư vẫn có bản năng sinh tồn và duy trì nòi giống.

Sư chỉ khác người thường là có môi trường thuận tiện cho tu hành: Có kinh sách, có chúng hội tu hành, có điều kiện hộ trì các căn tránh xa thế tục.Thế nên sư vẫn tham ăn, tham ngủ, tham chơi... và vẫn tham dục.

Khi tu thiền chứng Chánh niệm tỉnh giác diệt xong 5 Triền cái: Sân, Hôn trầm thụy miên, Tham ái, Trạo hối và Nghi.

Khi đó tâm sư mới không còn Tham ái động dục.

Còn khi chứng Sơ thiền ly dục, ly ác pháp thì tâm sư tịnh dục và thuần thiện.Bài học 6: A-la-hán vĩ đạiThường một vị A-la-hán muốn vận Lục Thông thì phải ngồi thiền nhập định Tứ thiền.

Trong định Tứ thiền thì thần thông mới phát khởi.

Nhưng ở đây ta thấy Tôn giả Tăng Hộ không ngồi thiền nhập định mà lại khởi Tha Tâm Thông thấy rõ tâm của cháu.

Ta biết Tôn giả Tăng Hộ gặp Phật tu thiền 10 ngày thì đắc A-la-hán.

Thế nên Tôn giả là một vị A-la-hán vĩ đại có năng lực vượt hơn các A-la-hán khác.Cũng vậy, trong nhiều Tích Pháp Cú ta thấy ngài Mục Kiền Liên không ngồi thiền nhập định mà phát thần thông siêu việt.

Hoặc có ai hỏi gì Đức Phật, thì Phật lập tức thấy rõ nghiệp duyên chúng sinh vô lượng kiếp bằng Thiên Nhãn Minh vĩ đại.

Vậy nên các vị A-la-hán vĩ đại luôn giữ tâm trong định.

Còn A-la-hán thường phải ngồi thiền mới nhập định.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 38, 39: Truyện kẻ 7 lần xuất gia


"Ai có tâm bất anChẳng hiểu chân diệu phápTính tâm không kiên cốTrí tuệ khó viên thành."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 38)"Tâm không nhiễm ái dụcKhông xao động bởi sânTrừ diệt mọi hơn thuaNgười trí không sợ hãi."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 39)Tích Pháp Cú: Có người nông dân tên là Chi-ta-hat-tha gia đình bình thường sống ngoài thành Xá Vệ nước Ko-sa-la.

Người nông dân đó có nhiều bò.

Một hôm một con bò đi lạc chàng phải đi tìm.

Sau thời gian khá lâu thì thấy và chàng dắt bò về.

Trên đường về vô tình chàng ngang qua Tinh xá Phật.Chàng đói và mệt vì tìm bò vất vả quên cả ăn.

Lúc đó các Tỳ kheo đang thọ trai.

Chàng đứng ngoài nhìn thèm.

Các Tỳ kheo thấy vậy bèn mang phần ăn dự phòng đưa cho chàng.

Theo giới luật thì Tỳ kheo khất thực phải để lại chút phần ăn.

Để đề phòng có Tỳ kheo nào đó không xin được đồ ăn thì họ dùng.Người nông dân dùng bữa ở Tinh xá thấy các thầy tu đời sống đơn giản, dễ mến, đồ ăn cũng ngon.

Chàng bèn hỏi xin đi tu.

Tỳ kheo đồng ý cho chàng xuất gia.

Chàng vội vã dắt bò về rồi quay lại Tinh xá xuất gia.Tỳ kheo trẻ Chi-ta-hat-tha tu được gần 1 tháng thì không thể chịu nổi.

Chàng nhớ vợ, nhớ nhà, nhớ đàn bò, nhớ cánh đồng... rồi chàng lặng lẽ chào thầy và bỏ về nhà.

Chàng nông dân về nhà bị vợ mắng bắt phải ra đồng cày cấy vất vả...

Chàng nhớ lại thời gian xuất gia thấy sướng hơn.

Cuộc sống khi đó đơn giản không lo nghĩ.

Chàng nông dân nén bỏ vợ quay lại Tinh xá mặc y như cũ và xin quý thầy cho tu tiếp.Sự việc diễn ra theo vòng lặp như vậy 6 lần.

Nhưng sâu thẳm trong tâm chàng nông dân có tâm cầu đạo.

Vì nghiệp cũ kiếp xưa che khuất nên nó không hiện ra.

Đến lần thứ 6 về nhà thì tâm chàng thay đổi.

Vào giữa trưa nắng hè chàng quay sang nhìn vợ thấy vợ sồ sề xấu xí, nhìn nhà cửa thấy tuềnh toàng tạm bợ, nhìn đàn bò thấy bẩn thỉu đáng chán, nhìn ruộng đồng thấy vất vả khổ cực...Tâm chàng tự thấy đời sống tại gia thật đáng chán.

Chàng chạy vội vào góc nhà lấy cái y Tỳ kheo và cắm đầu chạy khỏi nhà.

Mẹ vợ ở ngõ thấy chàng bèn gọi lại nhưng chàng vẫn cắm đầu chạy.

Mẹ vợ vào nhà nói với con gái:- Con không biết giữ chồng con sao.- Kệ ông ta, mấy hôm nữa ông lại về đó mẹ.

Mẹ cứ yên tâm.Chi-ta-hat-tha trên đường đi về Tinh xá thì tâm chàng dính chặt vào hình ảnh cô vợ sồ sề xấu xí, nhà cửa siêu vẹo tạm bợ, đàn bò bẩn chỉu, cánh đồng khổ cực vất vả.

Tâm chàng dính chặt vào niệm: "Thế gian là tạm vợ vô thường đáng chán".

Đến cửa Tinh xá chàng chứng Sơ quả Dự lưu.Thấy mặt chàng các thầy chán ngấy hỏi bâng quơ:- Sao lại xin tu tiếp à?

Lần này được mấy bữa?- Thưa Tôn giả lần này con ở luôn không về nữa.Mọi người nửa tin nửa ngờ và cũng không hi vọng nhiều.

Nhưng rồi lần đó Tỳ kheo Chi-ta-hat-tha tu chuyên cần và đắc A-la-hán oai ghi vĩ đại.

Các Tỳ kheo chưa đắc đạo thấy lạ vì Chi-ta-hat-tha không về gia đình nữa.

Họ hỏi chàng nói:- Tôi đây bây giờ tâm ổn định và thấy thế gian vô thường tạm vợ.

Chỉ thấy đạo giải thoát là đáng quý nên tôi tu yên ổn.Thấy Chi-ta-hat-tha trả lời thuận đạo lý.

Các Tỳ kheo bèn đến hỏi Phật.

Phật kể về đời Phật quá khứ thì Chi-ta-hat-tha cũng là Tỳ kheo tu hành.

Khi đó có vị tu sỹ đồng đạo chán đạo đến tâm sự với Chi-ta-hat-tha.

Chi-ta-hat-tha khuyên: "Thôi anh không tu nữa thì anh về nhà đi".Chính vì đồng tình với việc tu sỹ không tu thì hoàn tục.

Nên đời này Ngài tu hành gặp quả báo đi vô đi ra đạo tràng 6 lần.

Phải tới lần thứ 7 mới yên ổn.

Một kiếp nọ thì Chi-ta-hat-tha là một tu sỹ trên núi cao.

Vị tu sỹ đó đang tu thì nhớ nhà da diết lại chạy về nhà sống một thời gian.

Về nhà lại nhớ núi rừng tịnh cốc trên núi thì lại chạy lên núi tu...

Đúng 6 lần lên núi, về nhà tới lần thứ 7 mới yên ổn.Đời Phật quá khứ Chi-ta-hat-tha tu kiên cố nên có nhân đắc đạo.

Đến đời sống này gặp Chánh pháp Như Lai thì Ngài tu đắc Phạm Hạnh viên mãn.Kể đến đây Phật đọc bài kệ:"Ai có tâm bất anChẳng hiểu chân diệu phápTính tâm không kiên cốTrí tuệ khó viên thành."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 38)"Tâm không nhiễm ái dụcKhông xao động bởi sânTrừ diệt mọi hơn thuaNgười trí không sợ hãi."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 39)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Tâm bất an và tâm không tham sân siKệ Pháp Cú thì Phật dạy rằng: "Ai có tâm bất an sẽ chẳng thể hiểu Phật pháp nhiệm màu.

Tâm kẻ đó sẽ không thể tu kiên cố.

Trí tuệ giải thoát sẽ khó viên thành.

Ai có tâm không tham ái (tham), không sân hận (sân), không hơn thua (si) thì kẻ đó sẽ tu hành kiên cố, không sợ hãi mà đắc thành trí tuệ giác ngộ".Các bạn biết: "Tu hành để diệt trừ tham sân si, tâm được bình an hạnh phúc".

Thế nhưng để có thể tu được thì căn cơ người đó phải có tâm bình an và nhẹ tham sân si.

Từ căn cơ đó thì vị đó sẽ tu thăng tiến mà đắc đạo tuệ giác ngộ.

Nếu không có căn cơ đó, tâm quá loạn động bất an, tâm quá tham sân si sẽ chẳng thể tu kiên cố.Như ta muốn thành tỷ phú thì đầu tiên ta phải có vốn làm ăn kinh doanh.

Nếu túi không 1 đồng sẽ chẳng thể đầu tư kinh doanh để thành tỷ phú.Bài học 2: Duyên tu hànhTa thấy người nông dân Chi-ta-hat-tha được ăn bữa cơm do Tỳ kheo cho thì thấy yêu đời sống tu hành mà xin vào tu.

Đó gọi là "Duyên xuất gia".

Khi duyên đã đủ, nhân tu hành kiếp xưa thúc đẩy thì người đó tự nhiên yêu đời sống tu sĩ.

Họ khát khao được đi tu.

Họ sẵn sàng bỏ hết của cải vật chất cùng vợ đẹp con thơ mà đi tu.

Người có duyên xuất gia thì tu ổn định, tinh cần, thăng tiến.Rồi tu thời gian ngắn chàng ta lại yêu đời sống gia đình không thể chịu nổi đời tu.

Chàng bèn tháo y chào thầy chạy về nhà với vợ con.

Đây là tâm lý người đời.

Người đời thì yêu thích cảnh gia đình vợ con, ruộng vườn, con trâu, cái cày, cái cuốc.

Nói đến xuất gia đi tu thì tâm kẻ đó dửng dưng, lạnh nhạt.

Kẻ đó gọi là: "Không có duyên xuất gia".Ở Thái Lan có tập tục.

Người đàn ông trước khi cưới sẽ vào chùa "xuất gia gieo duyên" 7 ngày đến 3 tháng.

Sau đó họ rời chùa cưới vợ.

Nếu họ không làm vậy đôi khi bị gia đình vợ từ chối.

Người Thái cho đó là nét đẹp văn hóa và sự báo hiếu cha mẹ.

Theo bạn có nên không?Theo tôi cách làm này tầm thường hóa đạo Phật.

Đạo Phật là đạo Giác ngộ.

Sư tức là thầy thiên hạ về đạo đức, triết học, lý luận, trí tuệ.

Mục đích của tu hành là đắc đạo A-la-hán làm thánh nhân giữa đời, vượt thoát khỏi Luân Hồi.Ở đây họ coi tu chỉ để trải nghiệm đời sống xuất gia trong 7 ngày.

Nó giống du lịch trải nghiệm vậy.

Sau đó họ về cưới vợ.

Đến khi họ lễ lạy một vị sư tu chân chính mà đầu họ nghĩ "Sư này cũng giống ta thời ta tu 7 ngày.

Có khi tối về sư cũng ôm vợ giống như ta".

Và Sư nơi đó thật sự vô cùng tầm thường vì ai ai cũng có thể làm Sư.Bài học 3: Ác nghiệp ngăn cản quả báo lànhTa thấy khi ác nghiệp kiếp xưa chấm dứt cũng là lúc tâm người nông dân bị thôi thúc tu hành mãnh liệt.

Tâm ông tự dưng ấn sâu vào hình ảnh bà vợ sồ sề xấu xí, căn nhà tạm bợ, đàn bò vô nghĩa, cánh đồng nắng mưa vất vả.

Đi đến cửa Tinh xá thì đắc quả Dự Lưu.

Mà mới trước đó thì Ngài không có lý tưởng tu hành đắc đạo gì.Vậy nên quả báo lành hiện ra chỉ khi ác nghiệp cũ kiếp xưa chấm dứt.

Nếu ác nghiệp cũ vẫn còn thì nó sẽ khiến tâm Ngài mê mờ loạn động, lầm đường lạc lối.

Nên ai biết đạo thì sợ làm ác bởi ác nghiệp sẽ che mất tâm họ.

Họ làm lành tích thiện không mong cầu quả báo.

Bởi vì khi nào trả nợ xong ác nghiệp thì quả báo lành tự đến.Còn nếu ta biết đạo rồi mà làm lành tích thiện mãi không thấy quả báo lành đâu thì là do ác nghiệp ta quá nặng và chưa chấm dứt.

Còn làm thiện mà quả báo lành đến ngay là ác nghiệp mỏng nhẹ.Bài học 4: Con số 7 huyền bíTa thấy Phật ngồi thiền dưới gốc Bồ Đề 7*7=49 ngày thì đắc đạo.

Phật khẳng định trong Kinh Tứ Niệm Xứ: "ai tu theo kinh này sẽ đắc đạo sớm nhất là 7 ngày".

Trong Kinh Đại Bổn (Trường Bộ kinh), Phật nói về 6 vị Phật quá khứ của 91 Đại Kiếp và Phật Thích Ca là vị Phật thứ 7.

Trong Kinh Đại Thiện Kiến Vương (Trường Bộ Kinh) Phật kể về tiền kiếp Phật là 7 vị Chuyển Luân Thánh Vương.

Rồi Đức Mục Kiền Liên 6 lần biến mất trước mặt bọn cướp đến lần thứ 7 thì Ngài ngồi đó để cho bọn cướp chém tan xương nát thịt...

Và truyện tích này là 7 lần xuất gia.Không chỉ riêng đạo Phật mà tôn giáo khác cũng thế.

Ví dụ: Lịch âm hay dương thì 1 tuần đều có 7 ngày.

Đức Chúa Trời tạo ra vũ trụ trong 6 ngày đến ngày thứ 7 mọi việc viên mãn và Chúa nghỉ gọi là Chúa Nhật.

Sau nói chệch là Chủ Nhật.

Trong chiêm tinh học thì 2 chòm sao thiêng nhất trên bầu trời là chòm Đại Hùng có 7 ngôi sao và Tiểu Hùng cũng có 7 ngôi sao.

Rồi "huyền thoại 7 đại dương" của thủy thủ Simba...

Con số 7 là con số huyền bí.Bài học 5: Khẩu nghiệpTa thấy kiếp xưa Ngài Chi-ta-hat-tha chỉ vì Khẩu nghiệp là một câu nói đơn giản mà bị quả báo kéo dài nhiều kiếp từ thời Phật quá khứ tới thời Phật hiện tại.

Nhưng nếu ta đánh gãy tay ai thì ta chỉ bị quả báo là bị đánh gãy tay 1 lần là hết.

Sao khẩu nghiệp đó kéo dài nhiều kiếp vậy?Bởi vì khẩu nghiệp khi nói ra một triết lý sống sai lầm nhiều người học theo thì tội nhân theo cấp số nhân.

Ví dụ: "Thà ta phụ người còn hơn để người phụ ta".

Câu nói đó của Tào Tháo có thể phá tan một dân tộc nếu dân chúng mến vua, học theo lời vua.

Dân nước đó sẽ vô đạo đức, ích kỷ, dẵm đạp lên quyền lợi của người khác để thu lợi cá nhân.

Nước đó sẽ loạn bởi dân chúng ai ai cũng ích kỷ phá hoại là chính.Hoặc câu nói: "Ác giả ác báo, thiện giả thiện báo".

Tức là: "Người ác sẽ nhận quả báo ác, người thiện sẽ nhận quả báo thiện".

Khiến dân tộc đó đạo đức vì họ biết Luật nhân quả mà sợ tội.

Ở đây Ngài Chi-ta-hat-tha vô tình nói ra triết lý sống sai lầm "không tu thì về với vợ con, sao phải khổ".

Rồi có nhiều người học theo nên tội nhân theo cấp số nhân.Bài học 6: Duyên đắc đạo giác ngộĐạo Phật có câu: "Vì đại nhân duyên mà Đức Phật ra đời".

Tức thành công cần 2 yếu tố: Nhân và Duyên.

Ta thấy từ thời Phật quá khứ Ngài Chi-ta-hat-tha đã có nhân tu hành tầm cầu giác ngộ mà chưa đắc đạo.

Từ đó đến nay trải qua thời gian rất lâu Ngài vẫn tiếp tục tu hành.

Nay Ngài được sinh vào thời có Phật Thích Ca là một Đại Duyên thì đắc A-la-hán.

Ta chỉ thấy 1 đời hiện tại nên thấy Ngài tu đơn giản, dễ dàng.

Ta đâu biết rằng Ngài đã tu ngàn đời, ngàn kiếp rồi nay gặp Đại Duyên mới thành Chính quả.Cho nên thời Đức Phật tại thế thì A-la-hán có hàng ngàn vị vì thời đó là Đại Duyên có Chánh pháp Đức Phật chuẩn chỉnh đúng đắn.

Sau thời Đức Phật 500 năm đến nay là thời Mạt Pháp.

Thời mà Chánh pháp không còn đúng chuẩn của Đức Phật nên rất ít vị đắc A-la-hán.

Việt Nam ta trong lịch sử chỉ ghi nhận duy nhất một Phật Hoàng Trần Nhân Tông hỏa thiêu có 3000 Ngọc Xá Lợi Ngũ Sắc (Đức Phật hỏa thiêu có 84.000 Ngọc Xá Lợi Ngũ Sắc).

Và đó là một vị A-la-hán duy nhất trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 40: Truyện Tỳ kheo và khu rừng ma


"Giữ thân như đồ gốmGiữ tâm như thành trìChống ma với gươm tríĐược chiến thắng vô nhiễm."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 40)Tích Pháp Cú: Có 50 Tỳ kheo được Phật dạy đề mục thiền quán: "Thân ta mong manh dễ vỡ như đồ gốm".

Sau khi hiểu rõ đạo lý các vị rủ nhau về một nơi thanh vắng tu hành.

Nơi đó là một khu rừng cây to bóng mát đẹp đẽ gần ngôi làng.

Các vị ngồi thiền dưới gốc cây tu hành chăm chỉ.

Mỗi buổi sáng các vị vào làng khất thực.Không ngờ rừng cây đó có nhiều quỷ thần trú ngụ.

Họ ở rất đông nhiều thế hệ tạo thành một "Làng ma".

Người dân trong làng không ai dám bén mảng bước vào khu rừng.

Rồi một hôm họ thấy có 50 Tỳ kheo vào rừng ma đó ở.

Họ nghĩ các vị có thần thông hay năng lực gì đó át vía quỷ thần.Quỷ thần trong làng ma lúc đầu cũng biết quý kính các sư tu hành.

Họ nghĩ các vị ở đây 1-2 ngày rồi đi.

Nhưng nhiều ngày qua đi cứ thấy sáng các Tỳ kheo vào làng khất thực.

Nhưng chiều tối đến đêm khuya họ ở luôn trong rừng ngủ nghỉ, vệ sinh, sinh hoạt.

Liên tục như vậy nhiều ngày thì quỷ thần không chịu nổi.

Họ nghĩ 50 Tỳ kheo kia muốn chiếm khu khu rừng đẹp đẽ của họ.

Quỷ thần bắt đầu tính kế đuổi 50 Tỳ kheo.50 vị Tỳ kheo những ngày đầu ở trong rừng thấy khá an vui thoải mái.

Nhưng về sau bắt đầu thấy ma áo trắng không đầu đi qua đi lại.

Tiếng ma kê rên ghê rợn trong tiếng gió.

Khi ngủ thì có ai đó kéo chân, thức dậy thấy ma hiện hình máu me kinh dị...

50 Tỳ kheo chịu không nổi nên phải bỏ khu rừng về lại Tinh xá Phật.

Các vị thưa với Phật:- Bạch Thế Tôn, chúng con nhận đề mục thiền quán của Thế Tôn.

Nhưng chúng con đến ở nơi đó không an ổn.

Nơi đó có nhiều quỷ thần quậy phá khiến chúng con không thể ngồi thiền.

Còn ở Tinh xá thì đông người qua lại giảng pháp và thăm hỏi nên chúng con cũng không thể tĩnh tâm tu hành.

Nay con xin Thế Tôn được tìm một nơi khác tu tập.Phật khuyên 50 vị nên quay lại khu rừng đó.

Và Phật dạy cho 50 Tỳ kheo đoạn Kinh Từ Bi để hàng ma.

Đoạn Kinh Từ Bi này nay đã bị thất truyền.

50 vị Tỳ kheo quay lại khu rừng tu tiếp và họ tụng đoạn Kinh Từ Bi mà Phật dạy.

Quỷ thần trong rừng tâm hồn bị lay động và hiền lành trở lại.

Do lời kinh Từ Bi đó có năng lực thần thông mang theo tâm Đại bi của Phật cảm hoá tâm quỷ thần.

Rồi quỷ thần đi đến hầu hạ các Tỳ kheo và hỗ trợ các vị tu hành.Còn Tỳ kheo theo lời Phật dạy sau khi khất thực xong, họ trích đồ ăn cúng thí thực cho quỷ thần rừng cây.

Thế là quỷ thần từ nay có đồ ăn no đủ chứ không bị đói như trước nữa.

"Âm phù dương trợ" và âm dương yêu thương giúp đỡ nhau cùng tu hành.Các Tỳ kheo tinh tấn tu hành tâm yên ổn mà đắc đạo A-la-hán.

Sau khi các vị thành cựu công đức viên mãn thì từ biệt quỷ thần làng ma và từ biệt dân làng để quay về Tinh xá.

Khi toàn thể 50 vị đứng giữa rừng cùng quỷ thần thì Phật hiện ra trong hào quang đọc bài kệ:"Giữ thân như đồ gốmGiữ tâm như thành trìChống ma với gươm tríĐược chiến thắng vô nhiễm."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 40)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Giữ thân như đồ gốm, giữ tâm như thành trìĐồ gốm thì mong manh dễ vỡ và thân ta cũng vậy.

Ta ngã xe là vỡ đầu chảy máu.

Ta té cầu thang là gãy chân gãy tay.

Con Covid-19 bé tí chui vào người khiến ta viêm phổi có thể tử vong.

Con muỗi bé tẹo đốt ta khiến ta sốt xuất huyết.

Ta trúng gió độc có khi liệt giường á khẩu....

Vậy nên thân ta mong manh dễ vỡ.

Ta phải biết vậy và phải giữ thân như giữ đồ gốm kẻo vỡ bất cứ lúc nào.Còn tâm ta luôn loạn động như con ngựa bất kham.

Nếu ta không giữ chặt nó thì nó có thể chạy sang Mỹ hay lên sao hỏa hoặc cung trăng.

Phải có một thành trì kiên cố tạo bởi sự tu hành nhiếp tâm thiền định để giữ tâm trong thanh tịnh.

Phật dạy: "Ai giữ thân như đồ gốm, giữ tâm như thành trì sẽ sẽ đạt chiến thắng vô nhiễm".

Tâm vô nhiễm cấu uế tức tâm trong sạch diệt trừ hết mọi tham sân si và đắc đạo.Bài học 2: Chống ma với gươm tríChống ma dùng gươm đao, bùa chú, trấn ếm, diệt ma, trừ tà, nhốt ma, bắt ma...

đều là kẻ vô trí.

Vì Ma mãi mãi không chết còn ta tương lai sẽ chết.

Nếu năng lực ma yếu hơn năng lực thầy phù thủy thì nó tạm thời chịu khuất phục.

Đến khi thầy yếu thì ma sẽ quật lại thầy."

Thầy khoẻ thì thầy bắt maĐến khi thầy yếu thì ma bắt thầy".Chống ma chỉ có khuyên bảo ma lòng từ bi.

Ta phải chuyên tâm khuyên ma bằng các bản Kinh Từ bi, Kinh Sám hối, Kinh Cầu siêu.

Nhưng cốt yếu ta phải tu dưỡng đạo đức bản thân để: "Đức trọng quỷ thần kinh".

Khi đạo đức ta cao dầy thì quỷ thần sẽ kinh hãi ta, vâng lời ta.Còn miệng ta thì niệm Chú Đại Bi, tụng Kinh Sám hối để khuyên quỷ thần từ bi còn tâm ta thì thất đức, bất lương.

Ma quỷ luôn thấu rõ tâm gan con người thấy vậy sẽ không nghe.

Đó là "Chống ma với gươm trí sẽ được sự chiến thắng".Ngày nay ta có: "Chú Đại Bi" bằng tiếng Phạn cổ (ngôn ngữ pali) là một đoạn Kinh Từ Bi hàng ma mà Phật dạy cho Tỳ kheo ở dịp khác.

Do Thần Chú thì không bao giờ được dịch sang Tiếng Việt.

Nên ta đọc "Chú Đại Bi" giống như đọc tiếng nước ngoài không hiểu ý nghĩa câu từ.

Mà tâm ta không động thì tâm quỷ thần cũng không động.

Do vậy "Chú Đại Bi" chỉ còn là đức tin vào sự linh nghiệm chứ không còn ý nghĩa là một đoạn Kinh Phật dạy về lòng từ bi cảm hóa tâm hồn quỷ thần.Mục đích của Kinh Từ Bi để khuyên bảo, giáo hóa, dạy dỗ làm thay đổi tâm hồn quỷ thần và người.

Chứ nó không phải là gươm đao, chém giết đánh đuổi quỷ thần.

Đối với Phật thì mọi chúng sinh trong 6 ngả Luân Hồi đều đáng thương đáng quý như nhau.Bài học 3: Rừng cây là nơi ở quỷ thần"Thần cây đa – Ma cây gạo".

Thành ngữ trên ám chỉ quỷ thần luôn cư ngụ ở các cây to.

Ta thấy các cây to lâu đời ở Việt Nam thường có thắp hương và đồ cúng thí thực theo văn hóa tâm linh người Việt là đúng.

Trong rừng cũng vậy.

Những cây to bóng mát xanh tốt đều có quỷ thần cư ngụ.Thế còn lâm tặc chặt cây phá rừng?

Khi năng lực bọn chúng còn mạnh, phúc còn dầy thì quỷ thần không làm gì được.

Nhưng khi phúc vơi thì chúng sẽ bị quỷ thần quật: hoặc chúng bị tai nạn nghề nghiệp, cây đổ đè chết, thú dữ ăn thịt, rắn độc cắn, hoặc bị thổ phỉ giết, hoặc phe phái tự nhiên lao vào đánh nhau vì mẫu thuẫn... hoặc công an bắt.Thế nên tục ngữ Việt nam có câu:"Ăn của rừng rưng rưng nước mắt.Ăn của chùa ngọng miệng".Câu nói đó hàm ý "Của công cộng là của chung của mọi người, vạn vật muôn loài.

Ai tham lam biến của công thành của riêng thì sẽ gánh quả báo đau khổ".Bài học 4: Cõi quỷ thầnSáu cõi Luân Hồi mà Phật dạy là: 1- địa ngục, 2- súc sinh, 3- ngã quỷ, 4- người, 5- thần, 6- trời.

Cõi quỷ số 3 và cõi thần số 5 là 2 cõi tâm linh trên và dưới cõi người số 4 một bậc.

Phúc của quỷ thần tương đương với phúc cõi người.

Đây là cõi trung gian của con người chết đi nhưng không đủ phúc sinh Tiên giới cõi trời, cũng không bị tội nặng đọa địa ngục, súc sinh.

Họ sẽ vào cõi quỷ thần ở khi đủ duyên sẽ tái sinh làm người.Theo tín ngưỡng dân gian thì cõi quỷ thần có thời gian chúng sinh tồn tại lâu hơn cõi người.

Thế nên dân gian có câu: "Sống ở thác về".

Tức cõi sống là cõi tạm bợ ngắn ngủi.

Cõi tâm linh quỷ thần sau khi chết mới là "cõi vĩnh hằng" (cõi bền lâu mãi mãi).Cõi thần thì các vị thần sống trong đền, miếu, phủ, điện, bàn thờ tổ tiên, từ đường... bởi phúc các thần lớn nên nơi đó được trang hoàng đẹp đẽ, khang trang, đồ ăn vật thực, hương khói ấm cúng.

Người sống có phúc lớn, có gia đình con cháu đông đảo, nhiều tiền, nhiều quyền... chết đi sẽ vào cõi thần vì khi chết họ vẫn còn phúc lớn.

Vị đó ở cõi thần sẽ có lâu đài, cung điện, kẻ hầu người hạ, vật chất của cải, hương khói ấm cúng... và hưởng hạnh phúc sung sướng bền lâu của một vị thần.

Hết duyên cõi Thần vị đó sẽ đầu thai làm người phúc lớn.Cõi Ngã Quỷ ta hay gọi là ma hoặc nói ghép là ma quỷ.

Cõi này giống cảnh cõi người thiếu phúc nghèo hèn, không nhà không cửa, đầu đường xó chợ, bới thùng rác tìm đồ ăn, cô đơn lạnh lẽo...

Người thiếu phúc đó chết đi thì vào cõi ngã quỷ đói khát, cô đơn lạnh lẽo.

Có câu rằng "Cô hồn các đảng, ma cũ ăn hiếp ma mới".

Ngã quỷ cũng có cảnh xã hội đen, bắt chẹt, ức hiếp, kết bè kết đảng đánh nhau... giống người thiếu phúc thân yếu thế cô không nơi nương tựa bị ức hiếp đánh đập.

Hết duyên ngã quỷ họ sẽ đầu thai làm người thiếu phúc.Quỷ Thần sống hoà lẫn với cõi người ở cạnh người nhưng âm dương cách biệt khó thấy.

Các nhà ngoại cảm xịn xò, các thầy bùa nuôi âm binh, các Thiền sư có định... có thể cảm ứng giao tiếp với quỷ thần.

Rồi hiện tượng nhập đồng cũng là quỷ thần nhập.

Rất khó có địa ngục hay thiên tử cõi trời nhập.Bài học 5: Tục cúng thí thực cho các vong"Vong" là ai?

Vong là một chúng sinh ngã quỷ không nhà không cửa, lạnh lẽo, cô đơn, đói khát.

Dân gian gọi là "Vong linh, vong hồn" gọi tắt là "Vong".Trong 6 phép tu Bồ Tát Đạo là Lục Ba-la-mật thì phép Bố Thí Ba-la-mật xếp hàng đầu tiên.

Cúng thí thực chính là Bố thí đồ ăn vật thực cho chúng sinh cõi ngã quỷ cô đơn đói khát, không nhà không cửa.

Theo Luật Nhân Quả khi ta nhận ơn nghĩa của ai thì tâm ta bị xúc động mạnh, xuất hiện lòng biết ơn vâng lời và mong muốn trả ơn.

"Một miếng khi đói bằng một gói khi no".

Đặc biệt những lúc ta cần, những cái ta thiếu... mà có người giúp ta thì tâm ta càng biết ơn sâu sắc.

Đó là quy luật tâm lý tự nhiên."

Vong" là chúng sinh chịu cảnh đói khát, cô đơn, lạnh lẽo.

Nếu ta cúng cho họ đồ ăn vật thực, quần áo, nhà cửa là đúng cái họ cần thì họ sẽ biết ơn ta mạnh mẽ.

Do vậy 50 Tỳ kheo có duyên với quỷ thần rừng cây.

Các vị sống nhờ vào nơi ở của quỷ thần nên Phật dạy phải cúng thí thực.

Chính vì phép cúng thí thực đó đã tạo thành ơn nghĩ.

Khi đó quỷ thần sẽ hỗ trợ và bảo vệ cho các Tỳ kheo tu hành không trướng ngại.

Tuy nhiên phúc các "Vong" yếu kém nên việc làm đó ta thu được ít phúc.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 41: Truyện Trưởng lão bị thân nghiệp


"Không bao lâu thân nàySẽ nằm dài trên đấtBị vứt bỏ vô thứcNhư khúc cây vô dụng."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 41)Tích Pháp Cú: Có Trưởng lão tên là Pu-chi-ga-ta-ti-sa sau khi xuất gia thọ giới một thời gian thì từ từ toàn thân nổi mụn nhọt.

Ngài chữa mãi không khỏi và nó khiến Ngài đau đớn.

Rồi các mụn đó chín vỡ ra chảy mủ, ruồi bâu, hôi thối, giòi bọ.Bệnh tình ngày càng trầm trọng và đau đớn.

Lúc đầu các huynh đệ còn chăm sóc.

Sau bệnh quá nặng và hôi thối nồng nặc không ai chịu nổi.

Mọi người làm cho Ngài cái xạp tre để Ngài ngoài hiên cho thoáng khí.

Rồi mọi người lánh xa Ngài dần dần.Đến lúc nghiệp của Ngài gần mãn thì Đức Phật đến.

Đức Phật bảo các Tỳ kheo gỡ ngoại Y của Pu-chi-ga-ta-ti-sa mang giặt.

Đức Phật dùng khăn nhúng nước nóng và đích thân Phật trực tiếp lau từng vết thương cho Ngài.

Khi ngoại Y khô thì Phật sai gỡ nội Y giặt phơi và quấn ngoại Y.

Rồi Phật lại tiếp tục lau từng vết thương cho Ngài.

Nội Y khô thì Phật sai mang nội Y mặc lại và choàng ngoại Y bên ngoài.

Sau đó Phật đọc bài kệ Pháp Cú:"Không bao lâu thân nàySẽ nằm dài trên đấtBị vứt bỏ vô thứcNhư khúc cây vô dụng."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 41)Đọc xong bài kệ thì Trưởng lão đắc đạo A-la-hán.

Ngài mỉm cười và nhẹ nhàng bỏ thân nhập Niết Bàn.

Sau đó Phật cho làm lễ Trà tỳ hỏa thiêu theo nghi thức một vị A-la-hán.Các Tỳ kheo chưa đắc đạo ngạc nhiên thấy Trưởng lão Pu-chi-ga-ta-ti-sa trước đó còn đau đớn kêu rên.

Nhưng được Phật chăm sóc đặc biệt và đọc bài kệ thì đắc đạo A-la-hán.

Các Tỳ kheo mới hỏi Phật.

Phật kể lại sự tình...Vào kiếp xưa Trưởng lão Pu-chi-ga-ta-ti-sa sống bằng nghề bẫy chim.

Bắt được con chim nào Ngài bẻ gãy 2 cánh, bẻ gãy 2 chân bỏ và vào giỏ để nó không bay không chạy.

Đời sống đó Ngài gặp một vị Độc Giác Phật vẻ ngoài là tu sỹ đi khất thực.

Chợt lòng người thợ săn động tâm bèn mang thức ăn ngon ra cúng dường vị tu sỹ.

Ngài quỳ cúng dường và xin:- Xin cho con được dự vào quả vị của Ngài.Câu nói đó là vô tình chứ người thợ săn không hề biết tu sỹ kia là Độc Giác Phật.

Phật mỉm cười đồng ý và nói:- Lành thay, lành thay.Và Phật nhận đồ ăn cúng dường.

Sau khi thọ thực xong thì vị Độc Giác Phật ra đi.Đến đời sống này Trưởng lão Pu-chi-ga-ta-ti-sa hội đủ nhân duyên thì quả báo tới dồn dập.

Ngài có duyên gặp Phật Thích Ca xuất gia tu hành đắc đạo A-la-hán.

Rồi quả báo của tội sát sinh chim từ kiếp xưa cũng đến đòi nợ.

Cuối cùng Ngài nhập Niết Bàn dự vào quả vị Phật đúng như lời ước nguyện kiếp xưa.Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Quán tử thiTrong các bản Kinh Nikaya Phật dạy về thiền nổi tiếng có 3 bản kinh: (1) "Kinh Giáo giới La Hầu La" Phật dạy về quán 16 hơi thở kết quả là đạt Thất giác tri.

Và Chánh niệm tỉnh giác là Giác tri thứ nhất. (2) "Kinh Thân Hành Niệm" là Phật dạy về thiền quán thân kết quả là đắc Lục Thông A-la-hán. (3) "Kinh Tứ Niệm Xứ" là đầy đủ viên mãn nhất về thiền.

Tứ niệm xứ gồm: 1- quán hơi thở, 2- quán tứ oai nghi, 3- quán thân, 4- quán tâm, 5- quán thọ, 6- quán pháp.

Trong đó quán thân, tâm, thọ, pháp là 4 phần chính nên gọi là Tứ Niệm Xứ.

Phật ấn chứng ai tu theo kinh Tứ Niệm Xứ có thể đắc đạo A-la-hán chỉ trong 7 ngày nếu đủ phúc và đủ tâm mong cầu giác ngộ.Còn "Kinh Thân Hành Niệm" Phật dạy quán thân là vô thường: sinh - già - bệnh - chết.

Bản chất của thân là bất tịnh: xương, thị, cơ, phủ, tạng, ruột, đờm, rãi, máu mủ, tiêu, tiểu, móng, lông...

Bản chất của thân là Tứ đại: xương, lông, móng, răng là Đất (Thổ Đại).

Thịt da, gân, cơ, máu, mủ... là Nước (Thủy Đại).

Trong thân có hơi thở là Gió (Phong Đại).

Hơi nóng là Lửa (Hỏa Đại)... và Quán bản chất kết thúc của thân là Tử thi: thân này chết vứt lăn lóc như khúc cây, trương sình, giòi bọ rúc rỉa rữa ra thành nước... chỉ còn xương... lâu ngày xương cũng tan thành bụi...Và đoạn kệ Pháp Cú 41 này chính là kinh "Thân hành niệm" phần Quán Tử Thi.

Trưởng lão Pu-chi-ga-ta-ti-sa nghe bài kệ liền đắc đạo A-la-hán đúng như Phật ấn chứng cuối kinh "Thân hành niệm".Bài học 2: Quả báo có thể rất lâu mới tớiTa thấy từ thời vị Độc Giác Phật quá khứ đến thời Phật Thích Ca là rất lâu mà quả báo không tới.

Đến đời sống này thì quả báo tới dồn dập.

Vậy nên Đại Kinh Nghiệp Phân Biệt thuộc Trung Bộ Kinh Nikaya thì Phật nói: "Không phải gieo nhân thì quả tới luôn, cũng không phải quả báo sẽ tới ở kiếp sau.

Mà quả báo chỉ tới khi đủ duyên".Đối với quả báo cần duyên dễ như đủ tiền tiêu xài, mua nhà, mua xe thì dễ dàng nên có thể đến sớm.

Còn quả báo cần Đại duyên như đắc A-la-hán thì cần thời gian rất lâu.

Đại duyên đó là phải đúng thời có Chánh pháp Đức Phật tồn tại trên thế gian.

Còn nếu trong thời Mạt Pháp tức là khi Chánh pháp bị sai lệch thì phúc lớn vĩ đại cũng chẳng thể đắc đạo.Thế nên Sa-môn Cồ Đàm phúc vĩ đại mà tu khổ hạnh cực đoạn 6 năm sai lầm mà chẳng thể đắc đạo.

Còn khi đủ duyên tìm được Chánh pháp thì Sa-môn Cồ Đàm tu 49 ngày là đắc đạo thành Đức Phật vĩ đại.Bài học 3: Nguyên tắc để nhập Niết Bàn là tất cả ác nghiệp quá khứ phải trả nợ xong và chấm dứtTa thấy trước khi Phật nhập Niết Bàn thì Phật trải qua cơn bạo bệnh do nấm độc của người thợ rèn Chun Đa vô tình làm món ăn dâng Phật.

Rồi Tôn giả Mục Kiền Liên trước khi nhập Niết Bàn thì tội cũ kiếp xưa Ngài là Đại Ác Ma Du Si phá tăng đoàn Phật quá khứ tới đòi.

Khi đó bọn cướp được ngoại đạo thuê giết Tôn giả kéo đến.

6 lần Ngài biến mất trước mặt bọn cướp.

Đến lần thứ 7 thì duyên đã mãn và Ngài ngồi đó để bọn cướp chém giết.

Sau khi bọn chúng bỏ đi thì Ngài dùng thần thông thu gom thân xác biến mất hiện ra trước Phật đảnh lễ thầy lần cuối.

Sau đó Ngài ngồi thiền nhập Niết Bàn.Nghĩa là: "Nguyên tắc để nhập Niết Bàn là tội cũ kiếp xưa phải tất toán hết sạch".

Và Trưởng lão Pu-chi-ga-ta-ti-sa cũng có duyên nhập Niết Bàn nên phải trả nợ hết ác nghiệp quá khứ.

Thế là quả báo khổ đến dồn dập bắt Trưởng lão phải trả nợ.

Sau khi trả xong thì Ngài đắc A-la-hán và nhập Niết Bàn.Bài học 4: Nghiệp quật thì mọi người xa lánhTa thấy Trưởng lão lớn tuổi đức cao vọng trọng nhưng bị bệnh.

Lúc đầu mọi người còn giúp đỡ.

Sau thì mọi người xa lánh dần dần.

Đó là tâm lý thường tình dù là các Tỳ kheo đạo đức hơn người vẫn vậy.Thế nên, để phục vụ người bệnh được tận tình chu đáo mà hi vọng vào bác sỹ, y tá, hộ lý, điều dưỡng viên là điều không thể.

Họ chỉ vì trách nhiệm nghề nghiệp vì chuyên môn mà làm theo thói quen được đào tạo.

Còn chăm sóc người bệnh bằng cái tâm thương yêu sẻ chia chỉ có người trong gia đình, ơn nghĩa thân tình mà thôi.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 42: Truyện cái chết định nghiệp


"Kẻ thù hại kẻ thùOan gia hại oan giaKhông bằng tâm hướng tàGây ác cho chính ta."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 42)Tích Pháp Cú: Có người tên là Nan-đà là trưởng ngành gia súc cho ông Cấp Cô Độc.

Ông thu tiền hoa lợi từ buôn bán gia súc.

Ông cũng có những xưởng sản xuất từ chế phẩm gia súc như thịt, sữa, trứng...

Hàng tháng ông về gặp ông Cấp Cô Độc để báo cáo tài chính và nộp tiền lợi tức.

Nhà ông Cấp Cô Độc thường xuyên tổ chức trai tăng cúng dường tăng đoàn Đức Phật.

Ông Nan-đà cũng được gặp Phật và nghe Phật giảng pháp.

Rồi từ từ ông hiểu đạo và tôn kính Đức Phật.Một lần Đức Phật và tăng đoàn có việc đi gần nông trại của Nan-đà.

Ông vội chạy ra nghênh đón:- Vì nhân duyên nên Đức Thế Tôn đi qua vùng đất của con.

Con kính mời Thế Tôn và Chư Tăng thọ trai trong 7 ngày ở gia đình con.Đức Phật nhận lời.

Nan-đà liền ra lệnh cho gia nhân chuẩn bị đồ ăn cúng dường trai tăng trong 7 ngày.

Đến này thứ 7 Phật thuyết pháp thì Nan-đà chứng Sơ quả Dự Lưu.

Kể từ đó ông nhìn cuộc đời thanh thản không còn tham, sân, si như trước.

Lòng ông tôn kính Đức Phật tuyệt đối.Sau khi mọi việc viên thành thì Phật từ biệt.

Nan-đà xin được tiễn Phật một đoạn đường.

Ông đi sau Phật tay ôm bình bát của Phật với trọn lòng tôn kính Đức Thế Tôn như voi con đi sau voi chúa.

Đến giữa đường Phật dừng lại và nói:- Này Nan-đà, ông đưa Như Lai đến đây đã đủ.

Hãy quay về và làm các bổn phận của mình.Nan-đà quỳ xuống dâng bát cho Phật.

Ông lễ Phật 3 lễ rồi đứng nhìn Phật và tăng đoàn đi khuất mới quay lưng đi về.

Đi được một đoạn thì ông bất ngờ bị kẻ thù bắn cung tên giết chết.

Ông Cấp Cô Độc cho người làm lễ an táng long trọng.

Sau đó các Tỳ kheo chưa đắc đạo đến hỏi Phật:- Bạch Thế Tôn, nếu Nan-đà không đưa tiễn Thế Tôn thì Nan-đà sẽ không bị chết.

Vậy có phải vì đưa tiễn Thế Tôn nên ông bị kẻ thù bắn chết?- Này các Tỳ kheo, nếu Nan-đà không đưa tiễn Như Lai thì Nan-đà vẫn bị bắn chết vì đó là định nghiệp phải trả.Rồi Phật đọc bài kệ:"Kẻ thù hại kẻ thùOan gia hại oan giaKhông bằng tâm hướng tàGây ác cho chính ta."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 42)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Ta hại ta mới thảm khốcPhật muốn nói rằng: "Kẻ thù hại ta chết, oan gia giết ta chết... cái đó không đáng sợ.

Chỉ sợ tâm của ta hướng tà tạo ác nghiệp.

Tương lai ác nghiệp thành quả báo mới hại ta khủng khiếp".Có câu rằng: "Bồ tát sợ nhân chúng sinh sợ quả".

Chúng sinh cứ thấy quả báo khổ thì sợ hãi, cầu khấn, kêu than hay trốn chạy.

Biết đâu rằng ác nghiệp đã gieo trong quá khứ thì quả báo 100% sẽ tới.

Dù có chui vào hầm sâu hay sống trên núi cao cũng chẳng thể thoát.

Cho nên "Quả báo ăn cháo gãy răng".

Phật gọi đó là Định Nghiệp 100% sẽ tới không thể nào thoát.

"Định nghiệp Phật không thể cứu" là 1 trong Tam bất năng của Phật.Còn chúng sinh thì thoải mái làm ác, tạo ác nghiệp.

Vì chúng sinh không biết có Luật nhân quả.

Bồ Tát thì biết rõ nhân đã gieo trong quá khứ khi đủ duyên quả báo ắt sẽ tới.

Khi quả báo tới thì Bồ Tát không hề sợ hãi.

Bồ Tát Nhẫn nhục Ba-la-mật trả nợ ác nghiệp vượt qua khổ.

Nhưng Bồ Tát luôn sợ hãi với tâm ác, lời nói ác và hành động ác (Tam ác nghiệp) ở hiện tại.

Bởi vì cái khổ ở tương lai sẽ mãi mãi không chấm dứt nếu hiện tại vẫn đang tạo ác nghiệp.Bài học 2: Tâm ác hại ta nhiều đời nhiều kiếpTrong triết học Phật Giáo thì tâm ác được Phật liệt kê cụ thể có 10 món gọi là "Thập kiết sử".

"Kiết" (hay Kết) là chúng bám keo két trong tâm ta nhiều đời nhiều kiếp không thể dứt.

"Sử" là nó sai sử mọi hành động của ta.

Thập kiết sử là: 1-Thân kiến, 2- Giới cấm thủ, 3- Nghi, 4- Tham ái dục, 5- Sân hận, 6- Trạo hối, 7- Kiêu mạn, 8- Tham sắc ái, 9- Tham vô sắc ái, 10- Vô minh.

Ai diệt xong hết 10 kiết sử thì đắc A-la-hán được Phật gọi là vị "Thánh lậu tận".

Tức vị thánh không còn chút nhiễm ô, cấu uế, kiết sử nào trong tâm.

Ta hay gọi tắt Kiết sử là "Tham, Sân, Si".

Và tu hành là diệt trừ mọi "Tham, sân, si".Vì còn kiết sử trong tâm nên mọi lời nói việc làm của ta liên tục tạo Ác nghiệp mới.

Chính vì tồn tại Ác nghiệp nên quả báo khổ đeo bám ta mãi mãi trong Luân hồi cho đến khi ta trả xong hết nợ.Khi diệt xong hết 10 kiết sử thì vị "Thánh lậu tận" vĩnh viễn, mãi mãi không còn quả báo đau khổ.

Vị đó sẽ đến một nơi không còn đau khổ.

Mà bản chất Luân hồi luôn có sinh tử nên luôn có đau khổ.

Vậy cõi không còn đau khổ đó sẽ chấm dứt sinh tử và nằm ngoài Luân hồi.

Cõi đó là Niết Bàn tịnh diệt.Bài học 3: Duyên đắc đạo thời Đức PhậtTa thấy thời Đức Phật tại thế chỉ cần được gặp Phật, cúng dường trai tăng, nghe Phật giảng pháp dù cư sỹ cũng đắc Sơ quả Dự Lưu.

Vị đó vĩnh viễn không đoạ 3 ác đạo và chắc chắn chứng Niết Bàn ở tương lai.

Bạn nên biết Thiên chủ Đế Thích ta hay gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế mới chỉ chứng Sơ quả Dự Lưu (theo kinh Đế Thích sơ vấn thuộc Trường Bộ).Còn nay ta hiểu đạo Phật, ngồi thiền tu dài dài, tụng kinh niệm Phật mãi mãi nhưng duyên hẩm vì quá xa thời Đức Phật nên chẳng thấy ai đắc đạo.

Vậy nên Phật nói: "Vạn hữu do duyên sinh" là chính xác.

Ngày nay nhân đắc đạo thì nhiều mà duyên không có nên chẳng thể đắc.

Còn thời Đức Phật những vị có nhân đắc đạo từ ngàn đời trước đã tái sinh gặp Đại duyên Chánh pháp của Phật thì đắc đạo hàng loạt.Vậy nên, có một thời các sư đọc kinh Phật thấy A-la-hán có hàng ngàn hàng vạn thì coi thường A-la-hán là sai lầm.

Sự thật A-la-hán là vô cùng vĩ đại.

Phật gọi vị đó là "Vô thượng bồ đề" tức không ai có thể chứng cao hơn kể cả Phật.Đức Phật là một vị A-la-hán đầu tiên tìm được Chánh Pháp.

Trong khi trước đó thế gian này không có Chánh Pháp.

Nếu Đức Phật đó không có duyên giáo hóa dạy bảo Chánh Pháp cho đời thì gọi là Độc Giác Phật tức vị Phật chỉ giác ngộ 1 mình.

Nếu Đức Phật đó chuyển pháp luân đưa Chánh Pháp giáo hóa thế gian thì gọi là Thế Tôn Phật.

Những vị tu theo Chánh pháp của Phật đắc đạo viên mãn A-la-hán thì không được gọi là Phật.

Chỉ được gọi là A-la-hán.Bài học 4: Tôn kính Phật tuyệt đốiNgày nay, ta tôn kính Phật chỉ ở vỏ ngoài bằng nghi thức lễ bái, thờ cúng và niềm tin tôn giáo.

Thế nhưng để tôn kính Phật tuyệt đối thì phải thấy được trí tuệ Phật.

Muốn thấy được trí tuệ Phật thì phải tu đắc đạo ít nhất chứng Sơ quả dự lưu.

Các vị thánh trí tuệ càng cao, càng thấy sự vĩ đại của Phật nên các vị có lòng tôn kính Phật mãnh liệt.

Nên đắc đạo vĩ đại như Đức Phổ Hiền Bồ Tát thì trong Thập hạnh Phổ Hiền có công hạnh 1 và 2 là: "Nhất dạ đảnh lễ Chư Phật, Nhị dạ Tôn Kính Như Lai".Còn ai tu mà thấy: "Ta đây cũng là Phật.

Phật ở tâm ta.

Không phải tìm Phật ở bên ngoài" là sai.

Trí tuệ ta thế nào mà dám thấy tâm ta là Phật?

Tâm ta chứa đầy tham, sân, si, dục, ái, hỉ, lộ, mạn, nghi...

Thập Kiết Sử còn nguyên đã diệt được món nào đâu mà thấy tâm ta là Phật?

Tâm Phật nào mà tham, sân, si, ái, dục, cấu uế, nhiễm ô... như tâm ta vậy?Thế nên ông Nan-đà sau khi đắc Sơ quả dự lưu thì lòng tôn kính Phật của ông tuyệt đối.

Trước đó dù ông có tôn kính Phật nhưng chưa đủ trí tuệ để thấy sự vĩ đại của Phật nên tâm tôn kính còn sơ sài.Bài học 5: Định nghiệpĐức Phật có tam bất năng: (1) Định nghiệp đã tới, Phật không thể cứu. (2) Chúng sinh vô duyên, Phật không thể độ. (3) Chúng sinh vô lượng, Phật không biết hết.

Định nghiệp là nghiệp đã gieo trong quá khứ, nay duyên đã đủ thì quả báo tới.

Phật không thể thay đổi Định nghiệp.Ta chú ý: Trong Tiểu Kinh Nghiệp phân biệt (thuộc Trung Bộ Kinh) Phật nói: "Nghiệp là thai tạng tạo ra chúng sinh.

Nghiệp là quyến thuộc đeo bám chúng sinh.

Nghiệp chia chúng sinh đi 2 đường cõi lành và cõi dữ bởi Nghiệp có liệt và có ưu (xấu và tốt)".

Vậy Nghiệp có tốt có xấu, bởi Nhân có thiện có ác, cho nên Quả báo tới có lành có dữ.Do vậy, Nan Đà bị Định nghiệp phải chết thì dù không tiễn Phật ông vẫn bị bắn chết.

Vậy sao biết đó là Định nghiệp hay không phải Định nghiệp?

Ta hãy xét trường hợp cái chết của Đức Mục Kiền Liên."

Khi đó Tôn giả ngồi thiền trong hang động Ka-la-si-la nước Ma Kiệt Đà.

Bọn cướp được ngoại đạo thuê giết Tôn giả tay cầm gươm đao đi vào động.

Sáu lần Tôn giả đều dùng thần thông biến mất.

Đến lần thứ 7 thì duyên đã mãn quả báo chắc thành là Định nghiệp.

Tôn giả không biến mất.

Ngài ngồi đó để bọn cướp chém thành ngàn mảnh nhỏ.

Sau khi bọn cướp bỏ đi Tôn giả dùng thần thông thu gom thân xác biến mất hiện ra trước Phật đảnh lễ từ biệt thầy.

Sau đó Tôn giả ngồi thiền nhập Niết Bàn."

Vậy tức, quả báo khổ đến ta phải cố gắng hết sức để thoát quả báo.

Sau khi cố hết sức rồi mà quả báo vẫn đến thì là Định nghiệp.

Khi đó ta nên Nhẫn nhục Ba-la-mật đón nhận quả báo một cách bình an.

Chứ không phải buông xuông trước mọi quả khổ.

Theo tôi đó là Nhẫn nhục sai lầm như năm 1197.

Khi đó hơn 3000 vị Tỳ kheo ở học viện Nalanda bị gần 100 tên Hồi giáo chém giết mà không hề phản kháng.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 43: Truyện chàng trai hóa thành cô gái


"Điều cha mẹ thân thíchKhông làm được cho mìnhNhưng chính tâm hướng đạo Giúp mình được nhiều hơn"(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 43)Tích Pháp Cú: Một thanh niên tên là So-li-a con vị trưởng khố thành Ta-ca-si-la (xưa gọi là Trưởng khố, nay gọi là Chủ ngân hàng).

Chàng có nhiều bạn bè, có vợ và 2 con.

Một hôm chàng rủ bạn bè đi tắm sông.

Khi đang tắm thì Tôn giả Ca Chiên Diên ôm bình bát đi qua.

Tôn giả là một trong 10 đại đệ tử của Đức Phật có danh vị Nghị luận đệ nhất.

Ngài đẹp rực rỡ toàn thân như tỏa hào quang.Khi Tôn giả đi ngang qua bờ sông, So-li-a nhìn thấy Ngài đẹp quá nên đầu khởi ý nghĩ: "Nếu vị Sa Môn này mà là con gái thì ta sẽ cưới làm vợ liền".

So-li-a vừa khởi ý nghĩ đó thì lập tức chàng biến thành con gái.

So-li-a hoảng sợ.

Chàng quấn vội cái áo vào người và cắm đầu chạy mất.Cô gái So-li-a chạy một hồi đến chỗ vắng thì có xe ngựa chạy qua.

Cô xin đi nhờ về thành phố khác.

Người trên xe thấy cô gái xinh đẹp nên giới thiệu cho con của người trưởng khố ở thành phố mới.

Họ thành vợ chồng và cô gái So-li-a sinh được 2 người con.

So-li-a sống đoan trang tiết hạnh đảm đang giúp chồng nuôi dạy 2 con khôn lớn.Về phần gia đình thanh niên So-li-a sau thời gian tìm không thấy chàng nên tưởng chàng đã chết.

Họ lập bàn thờ và thờ cúng.Năm tháng trôi qua, một hôm cô gái So-li-a ngồi trên lầu nhìn xuống thấy người bạn thân năm xưa đi qua.

Cô đi xuống hỏi thăm tên họ nơi ở thấy đúng là bạn cũ ở thành Ta-ca-si-la.

Cô mời bạn vào nhà và trước mặt chồng cô hỏi bạn:- Anh có nhớ một người bạn thời trẻ của anh tên là So-li-a không?Người kia thấy cô gái có nét giống So-li-a thì tưởng cô là em gái chàng.

Thế nhưng cô gái nói:- Tôi chính là thanh niên So-li-a.Người bạn cũ không tin.

So-li-a bèn kể lại sự tình."

Khi đó tôi đang tắm sông cùng bạn thì tôi gặp Tôn giả Ca Chiên Diên vô cùng đẹp đẽ đi ngang qua.

Tôi đã khởi ý nghĩ rằng: "Nếu Tôn giả là con gái thì tôi sẽ cưới Tôn giả làm vợ".

Lập tức tôi bị biến thành thân con gái.

Tôi hoảng sợ bỏ chạy đến đây và được người chồng này cưới rồi sinh ra 2 đứa con".Người bạn cũ ngạc nhiên và chợt có ý tưởng:- Tôi biết Tôn giả Ca Chiên Diên đang ở gần đây.

Ngày mai chúng ta hãy mời Ngài đến để bạn sám hối.Người bạn đó đến gặp Tôn giả đảnh lễ và mời Ngài đến thọ trai tại nhà trưởng khố.

Tôn giả đồng ý.

Sáng hôm sau Ngài đến như đã hẹn.

So-li-a quỳ xuống đảnh lễ Ngài và nói:- Bạch Tôn giả, vào thời gian đó tại thành phố Ta-ca-si-la.

Chúng con tắm sông thì thấy Tôn giả đi ngang.

Con đã động niệm sai lầm lập tức bị quả báo biến thành thân nữ.

Con hoảng sợ bỏ chạy đến đây được người chồng hiện tại của con cưới làm vợ.

Con biết đó là cái tội.

Nay Tôn giả xin cho con được sám hối ngăn ngừa tội này và mãi mãi về sau.

Xin Tôn giả hãy chấp nhận lời sám hối của con.Tôn giả Ca Chiên Diên nói:- Được, ta chấp nhận lời sám hối của cô.Tôn giả vừa dứt lời thì So-li-a lập tức biến thành người nam.

Thanh niên So-li-a quỳ xuống đảnh lễ Tôn giả Ca Chiên Diên.

Sau đó người chồng nói:- Này bạn, bây giờ chúng ta cũng đã có 2 đứa con.

Dù chúng ta không thể làm vợ chồng được nữa nhưng tôi xin bạn hãy ở lại cùng tôi chăm sóc 2 con.- Thưa bạn, tôi đã quá chán cảnh Luân hồi và cuộc sống.

Mọi thứ mong manh tạm bợ và dễ phạm tội.

Chỉ chút ý nghĩ sai lầm mà quả báo khốc liệt.

Không biết trong cuộc sống này ta đã phạm bao nhiêu sai lầm mà ta không thấy.

Vậy nay tôi sẽ xin Tôn giả được xuất gia tu hành.Sau đó Tôn giả đưa thanh niên So-li-a về thành Sá Vệ trình Đức Phật.

Việc đó trấn động cả kinh thành.

Có người tìm gặp Tỳ kheo So-li-a và hỏi:- Thưa Ngài, Ngài có phải là So-li-a không?

Trước đây Ngài biến thành nữ rồi mới đây Ngài lại biến thành nam và xuất gia đúng không?- Phải tôi là So-li-a.- Vậy trong 4 đứa con thì 2 đứa Ngài làm cha và 2 đứa Ngài làm mẹ Ngài thương đứa nào nhiều hơn?- Tôi thương 2 đứa tôi làm mẹ nhiều hơn.Rồi vì hiếu kỳ mọi người cứ kéo đến Tinh xá rất đông chỉ mong nhìn mặt So-li-a nhằm thoả trí tò mò.

Thế nên Ngài đóng cửa không gặp ai.

Ngài tinh tấn tu hành một thời gian thì đắc đạo.

Một lần có người gặp được Ngài lại hỏi câu hỏi cũ rằng:- Ngài thương đứa con khi làm cha hay đứa con khi làm mẹ nhiều hơn?Ngài đáp:- Nay ta không thương con nào hơn con nào.

Mọi chúng sinh đều đáng thương đáng quý như nhau.Rồi Ngài kín đáo không lộ diện.

Mọi người chưa thỏa trí tò mò còn mang truyện đó hỏi Phật:- Bạch Phật, vì sao So-li-a lại thương 2 đứa con khi làm mẹ nhiều hơn.

Rồi sau đó được hỏi lại thì Ngài lại nói không thương đứa nào hơn đứa nào?Phật trả lời:- Nay So-li-a đã chứng đạo nên So-li-a chỉ còn lòng từ bi cho mọi chúng sinh.Rồi Phật đọc bài kệ:"Điều cha mẹ thân thíchKhông làm được cho mìnhNhưng chính tâm hướng đạo Giúp mình được nhiều hơn."(III-Phẩm Tâm, Pháp Cú 43)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Tự ta giúp ta được nhiều hơnBài Pháp Cú Phật nói rằng: "Cha mẹ hay những người thân thích không thể giúp ta được nhiều.

Chính tâm hướng đạo biết tu hành của bản thân sẽ giúp cuộc đời ta nhiều hơn".

Phật khẳng định: Tự ta tu, tự ta tạo phúc, tự ta hưởng quả báo lành sẽ lợi ích hơn mong chờ vào người khác dù người đó là cha mẹ hay họ hàng thân thích của ta.Ở Tích Pháp Cú 47 ta sẽ học về sau có truyện về dòng họ Thích Ca bị diệt vong bởi vua Lưu Ly, con trai của vua Ba Tư Nặc.

Khi đó Đức Phật đã 2 lần hiện ra giữa đường ngăn cản đạo quân vua Lưu Ly.

Đến lần thứ 3 thì Đức Phật không ngăn cản nữa và toàn bộ dòng họ Thích Ca bị thảm sát diệt vong.Nói về quyền năng, uy đức và sự vĩ đại thì không thể có ai bằng Đức Phật.

Ấy vậy mà "Định nghiệp đã tới Phật không thể cản".

Đức Phật chấp nhận đứng nhìn thảm cảnh dòng họ Thích Ca diệt vong bởi ác nghiệp đã gieo nay quả báo đủ duyên kéo tới.Vậy ta đừng trông chờ vào cha mẹ hay người thân giúp ta.

Ta chỉ nên mong chờ vào quả báo của tâm hướng thiện biết tu của ta cứu giúp ta mà thôi.Bài học 2: Cha mẹ họ hàng không giúp được nhiềuBài Kệ Pháp cú Phật dạy rằng: "Cha mẹ họ hàng không giúp ta được nhiều.

Đa phần ta sống là nhờ phúc duyên của ta".Cụ thể là trường hợp của chàng So-li-a.

Chàng là con trai vị trưởng khố giàu có thành Ta-ca-si-la.

Ta tưởng cha mẹ chàng giàu sinh ra chàng và chàng thật may mắn vì được sinh ra ở gia đình giàu có.Nhưng...

KHÔNG!Khi chàng biến thành con gái chạy sang thành phố bên cũng được làm vợ con quan trưởng khố thành phố mới.

Vậy nên cái phúc giàu có của chàng không phải do cha mẹ giúp.

Đó hoàn toàn là phúc duyên của chính bản thân chàng tạo thành.

Thế nên dù trong hoàn cảnh nào, nam hay nữ, sống ở thành phố A hay thành phố B chàng So-li-a cũng bị "tiền đè chết người - chạy đâu cho thoát".Bài học 3: Niệm xấu với A-la-hán quả báo lớnTa thấy So-li-a khởi niệm xấu đến vị A-la-hán thì lập tức bị quả báo nặng nề.

Chàng So-li-a biến thành nàng So-li-a xinh đẹp.

Cuộc đời chàng sang trang và đảo lộn.

Thời xưa truyện này quá sức tưởng tượng.

Thời nay bay sang Thái Lan cầm theo đủ số tiền cần thiết sẽ được vậy.

Thế nên thời nay mọi thứ đảo lộn.

Xã hội loạn động bất an.

Đặc biệt là ở Thái Lan.Thế nên tạo tội với A-la-hán dù chỉ trong ý nghĩ thì quả báo nặng nề.

Ý Nghiệp quả báo cũng nặng không khác so với Thân nghiệp và Khẩu nghiệp.Tích Pháp Cú 25: "Truyện về Ngài Châu Lợi Bàn Đặc".

Ngài Châu Lợi Bàn Đặc là tu sỹ thời Đức Phật quá khứ.

Ngài thông minh trí tuệ nhưng chưa đắc đạo nên còn Kiết sử Thân Kiến.

Ngài thấy chúng bạn kém trí tuệ thì khởi tâm khinh thường.

Nhưng chúng bạn đồng tu với Ngài thời Phật quá khứ có nhiều vị chứng A-la-hán mà Ngài không biết.

Quả báo nhiều đời Ngài bị kém trí tuệ 1 câu kệ cũng không thể thuộc.

Quả báo đó kéo từ thời Phật quá khứ đến thời Phật Thích Ca.Và đây, chỉ một niệm nhảm nhí của So-li-a khởi lên đối với vị thánh A-la-hán thì bị quả báo đảo lộn cuộc đời.

Thế nên Đại Thừa có nhiều bộ kinh coi thường A-la-hán vô cùng nguy hiểm.

Cụ thể, trong các "Phẩm công đức" của Kinh Pháp Hoa có đoạn nói rằng: "Chỉ một niệm tín giải một câu kinh Pháp Hoa thì công đức bằng muôn ngàn ức độ chúng sinh thành A-la-hán".

Ai đọc đến đây mà khởi ý niệm coi thường A-la-hán thì đổ nghiệp.Vậy nên, Kinh Đại Thừa không phải dành cho người phúc bé mới tu học.

Kinh Đại Thừa dành cho hàng Bồ Tát đã chứng Thánh quả học.

Ta đặc biệt lưu ý câu đầu tiên của Kinh Pháp Hoa nói rằng:"Nay thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ hôm nay đức Phật Như-Lai sẽ nói kinh Đại-thừa tên: "Diệu-Pháp Liên-Hoa" là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm".Ta đặc biệt chú ý câu này.

Đây là chìa khóa mở ra Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.

Kinh Đại Thừa là thuốc bị bệnh cho Bồ Tát mà ta lại cố tình uống thì khổ.Bài học 4: Phúc của So-li-a rất lớnTa thấy So-li-a khi làm trai thì là con vị trưởng khố thành Ta-ca-si-la.

Chàng đẹp trai có vợ và 2 con.

Khi chàng là gái cũng là cô gái xinh đẹp có chồng là con trưởng khố và có 2 con.

Ta thấy phúc So-li-a rất lớn nên có: Thân tướng đẹp, cuộc sống giàu sang, tài sản lớn, quyền lực nhiều, hạnh phúc gia đình viên mãn.

Dù So-li-a sống ở đâu, thành phố nào, nam hay nữ, thì vẫn đủ các món báu thế gian đó để hưởng.Phúc So-li-a lớn và có duyên được sinh vào thời Đức Phật.

Chàng tu hành thời gian ngắn là đắc A-la-hán.

Còn thiếu phúc thì trong thời Đức Phật có tồn tại Chánh pháp mà nhiều vị tu chẳng đắc đạo.

Hoặc thiếu duyên không có được Chánh pháp thì phúc vĩ đại như Sa-môn Cồ Đàm tu sai lầm 6 năm chẳng đắc đạo.

Còn Ngài Sa-môn Cồ Đàm tu đúng thì 49 ngày là đắc đạo thành Đức Phật Thích Ca vĩ đại.Bài học 5: Tình yêu và lòng Từ biTa thấy So-li-a khi chưa đắc đạo thì yêu những đứa con khi chàng làm mẹ nhiều hơn.

Đó 100% đúng sự thật.

Bản năng của mọi loài vật luôn là con mẹ yêu thương chăm sóc con non của nó.

Ta gọi là Tình Mẫu Tử.

Con bố đôi khi còn muốn giết các con non để con cái vào kỳ động dục như loài Hổ.

Đó là bản năng duy trì nòi giống của vạn vật muôn loài.

Loài nào con mẹ không yêu thương chăm sóc con non thì loài đó sẽ bị tuyệt chủng chẳng thể tồn tại phát triển.Duy chỉ có loài người mới có đạo đức cao cả: Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín (Ngũ thường).

"Nhân" là tình yêu mọi con người hay tình yêu nhân loại.

"Nghĩa" là yêu thương và đền ơn đáp nghĩa những người có ơn nghĩa với ta.

"Lễ" là phép tắc trên kính dưới nhường.

"Trí" là hành động trí tuệ, hợp đạo lý.

"Tín" là nói phải đi đôi với làm.Còn một vị thánh đắc đạo có tâm Từ bi vĩ đại thì vị đó yêu thương mọi chúng sinh trong Luân Hồi: Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh, Người, Thần, Trời.

Lòng Từ Bi Bồ Tát trong Đạo Phật này cao cấp hơn lòng "Nhân" tức yêu thương mọi con người.Bài học 6: Trí tò mò của loài ngườiTa thấy người dân thời đó rất tò mò.

Họ thấy sự việc lạ lùng chưa bao giờ thấy thì phải "nhìn tận mắt, bắt tận tay, day tận trán".

Họ tìm Ngài So-li-a chỉ để hỏi lung tung những điều nhảm nhí liên quan đến đời tư để thỏa mãn trí tò mò.

Vẫn không thỏa mãn họ còn mang chuyện nhảm nhí đó hỏi Đức Phật.Thời nay trí tò mò của dân còn gấp ngàn vạn lần thời xưa vì có Facebook và mạng xã hội Youtube, Tiktok....

Mỗi khi có khám phá mới lạ, địa điểm mới lạ, đẹp đẽ, gây sốc, đáng ngạc nhiên... thì họ thi nhau đến để quay phim, chụp ảnh khoe lên mạng xã hội.

Ai chưa đến thì phải đến để trải nghiệm.

Họ bị trí tò mò kích động.Ta xét một ví dụ vui: Trên bức tường có 1 cái lỗ nhìn xuyên qua bên kia chẳng ai thèm nhòm ngó.

Một hôm có một dòng chữ "Cấm nhìn vào cái lỗ này" và một mũi tên chỉ vào cái lỗ.

Kết quả điều tra là 99% mọi người đi qua đó đền ghé mắt nhìn vào cái lỗ đó xem trong có cái gì.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Chương 4: PHẨM HOA - Pháp cú 44, 45: Truyện mảnh đất tâm


"Ai chinh phục cõi đấtCùng với nhiều tầng trờiAi khéo giảng kinh tậpNhư người khéo hái hoa"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 44)"Người dọn sạch đất tâmSẽ chinh phục các cõiVà khéo giảng kinh tậpNhư người khéo hái hoa"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 45)Tích Pháp Cú: Sau khi đi qua nhiều lãnh thổ với nhiều vùng đất, các Tỳ kheo về lại Tinh xá gặp mặt nhau kể cho nhau nghe về những mảnh đất mà họ nhìn thấy.

Những cánh rừng, sa mạc, núi tuyết, rồi vách đá vực sâu hay thung lũng có dòng sông uốn lượn, hay thảo nguyên đồng cỏ ngút tầm...Khi đó, Phật thấy mọi người đang thả hồn vào cảnh thiên nhiên các mảnh đất nơi các vị đi qua.

Nhân cơ hội đó Phật đọc bài kệ liên quan đến đất nhưng lại là đạo lý tu hành."

Ai chinh phục cõi đấtCùng với nhiều tầng trời?Ai khéo giảng kinh tập Như người khéo hái hoa?"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 44)"Người dọn sạch đất tâmSẽ chinh phục các cõiVà khéo giảng kinh tập Như người khéo hái hoa"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 45)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Dọn sạch đất tâmPháp Cú 44 là hàng loạt các câu hỏi mà Phật đặt ra cho Tỳ kheo: "Ai là người chinh phục cõi đất trời?

Ai là người khéo giảng kinh như người khéo hái hoa?"

Sau đó Phật trả lời bằng Pháp Cú 45: "Người dọn sạch đất tâm là người có thể chinh phục được cõi đất trời.

Người đó cũng khéo giảng kinh tập như người khéo hái hoa".Đại ý rằng: Nhân cơ hội Tỳ kheo đang thả hồn bàn về các mảnh đất đẹp xấu, hùng vĩ, nhiều sắc màu và thú vị mà họ đã trải nghiệm.

Phật đến và lái câu chuyện từ mảnh đất trên thực địa thành mảnh đất tâm.

Mảnh đất tâm đó đầy những cấu uế, rác rưởi, khúc cây, rễ cây, sỏi đá...

Nó nhổn nhổn, bừa bãi, lộn xộn.

Ai khéo dọn dẹp sạch sẽ, đẹp đẽ, phẳng nhẵn thì người đó có thể chinh phục mọi cõi đất trời.

Người đó chính là bậc đạo sư khéo giảng kinh tập như người héo hái hoa.Bài học 2: Sư là người mang đạo lý đến cho đời và dấn thân trên mọi nẻo đườngTa thấy Tỳ kheo thời Đức Phật được Phật hướng dẫn đi mọi miền lục địa Ấn Độ với nhiều quốc gia, lân bang.

Mục đích là mang đạo lý giác ngộ giải thoát cao quý đến cho mọi người.

Họ đi để tìm người hữu duyên và gieo duyên Phật pháp khắp muôn nơi.Thời nay công nghệ 4.0.

Sư không cần phải đi khất thực mặt đối mặt để giảng pháp cho dân nghe.

Sư có thể viết sách, làm các kênh Youtube, lập Facebook, chia sẻ đạo lý chánh pháp qua các phương tiện truyền thông hiện đại... mục đích chính yếu là mang đạo lý đến cho đời.Vậy nên tu mà trốn tránh cuộc đời, nhập thất, tịnh khẩu, tu giống như 3 con khỉ Tam Không, hay 4 con khỉ Tứ Không: bịt mồm để không nói, bịt tai để không nghe, bịt mắt để không thấy, giữ óc để không nghĩ là tu sai lầm.Bài học 3: Mảnh đất tâmTâm ta như một mảnh đất đầy những rác rưởi, xú uế, sỏi đá, rễ cây, khúc gỗ, gai góc, bụi rậm, lồi lõm, chỗ ướt chỗ khô...

Đúng vậy tâm ta đầy những tham, sân, si, đố tỵ, ghen tức, hận thù, hờn dỗi, kiêu mạn, tự ái, tham dục...

Ai có thể dọn dẹp mảnh đất tâm sạch sẽ, phẳng nhẵn, không chút rác rưởi, sỏi đá tức họ diệt sạch tham sân si, kiết sử.

Kẻ đó sẽ chinh phục đất trời và là bậc đạo sư mang ánh sáng chánh pháp đến cho đời.

Kẻ đó có thể là Tu sĩ Phật Giáo hoặc Tu sĩ tôn giáo bạn.

Nếu tâm các vị trong sạch, thuần thiện, không chút cấu uế, mảnh đất tâm đẹp đẽ... thì vẫn là Thánh nhân giữa đời.

Không nhất thiết chỉ là Tu sĩ Phật Giáo.Bài học 4: Người khéo hái hoaThời Đức Phật rất có thể hoa mọc tự nhiên chen giữa bụi rậm gai góc.

Vậy nên để hái được bông hoa đẹp thì cần khéo léo.

Hái được bông hoa đẹp cần giữ cho các hoa khác không hỏng, không tàn phá cả bụi hoa để thu hoạch 1 bông.Còn thời nay hoa trồng kỹ thuật nông nghiệp hiện đại.

Tất cả các bông hoa đều cao bằng nhau, đều nở đẹp cùng lúc.

Người nông dân chỉ cần ôm 1 bó cắt gốc là xong, chẳng cần khéo, chẳng vất vả.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 46: Truyện quán thân như bọt nước


"Biết thân như bọt nướcNhư ảo ảnh sa mạcBẻ tên hoa của maThoát tầm mắt tử thần"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 46)Tích Pháp Cú: Một Tỳ kheo sau khi xin Phật đề tài thiền quán thì vị đó vào rừng để tu.

Nhưng tu lâu mà không có kết quả nên ông quyết định quay về thành Xá Vệ để xin Phật một đề tài khác.

Ông đi qua cánh rừng có con suối và thác nước.Lúc đó đã thấm mệt nên ông đi xuống suối rửa chân tay và ngồi nghỉ trên tảng đá.

Ở giữa con suối ông nhìn lên thác nước thấy bọt tung trắng xóa tiếng động ầm ầm.

Ông nhìn ngắm thác nước thấy đời này như bọt nước.

Con người chúng ta sinh ra, ganh đua đoạt lợi, thất bại thành công, rồi tất cả đều sẽ chết và tan biến mất vào hư vô.

Ông thấy cuộc đời như những bọt nước kia xuất hiện trắng xóa trôi theo dòng nước rồi tan biến.

Ông thấy đời là vô nghĩa và nhập định lúc nào không hay.Phật ở thành Xá Vệ biết truyện đó và cũng biết phép quán của Tỳ kheo nọ bị một lỗi sai hệ trọng.

Phật bèn dùng Tha Tâm Thông (tâm truyền tâm) gửi đến Tỳ kheo bài kệ để chỉnh lại phép quán đó:"Biết thân như bọt nướcNhư ảo ảnh sa mạcBẻ tên hoa của maThoát tầm mắt tử thần"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 46)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Thân ta vô thường ngắn ngủiBài Pháp Cú Phật dạy: "Biết thân ta như bọt nước.

Thân ta như ảo ảnh sa mạc thì người đó đã bẻ tên hoa của ma và thoát lưỡi hái tử thần".

Pháp Cú này có một số hình ảnh ví von rất hay và thơ mộng.Hình ảnh bọt nước tung trắng xóa ầm ầm nhưng vài giây sau đã tan biến.

Thân ta cũng vậy.

Thân ta cũng xuất hiện trên đời này ồn ào, ầm ầm rồi cũng tan biến.

Chỉ khác là thời gian tồn tại của thân khoảng dưới 100 năm lâu hơn bọt nước."

Ảo ảnh sa mạc" là trên sa mạc có kẻ khát nước trầm trọng thì hệ thần kinh bị ức chế.

Tâm họ tự hiện ra những ảo ảnh hồ nước, cây xanh giữa sa mạc.

Kẻ đó vội vã chạy đến thì ảo ảnh biến mất và họ chết giữa sa mạc vì kiệt sức.

"Ảo ảnh sa mạc" hư ảo không có thật và thân ta cũng hư ảo không có thật.

Ảo ảnh chỉ tồn tại thời gian ngắn rồi biến mất thì thân ta cũng tồn tại một thời gian rồi biến mất."

Tên hoa của ma" là tích khi Đức Phật ngồi thiền đêm thứ 49 dưới gốc Bồ Đề.

Trước giây phút đắc đạo thì đạo quân Ma Vương hiện ra bắn tên ầm ầm vào Phật.

Trong định Phật thấy rõ cảnh đó nhưng người bình thản đón nhận.

Các mũi tên ma bay đến trước mặt Phật thì hóa thành các bông hoa rơi xuống.

"Bẻ tên hoa của ma" là Phật ám chỉ thành tựu đạo pháp."

Thoát tầm mắt tử thần".

Ai thấy thân ta như bọt nước, thân ta như ảo ảnh sa mạc thì sẽ không sợ chết nữa.

Chỉ có ai yêu mến tấm thân, quý trọng tấm thân, cung phụng tấm thân, hầu hạ tấm thân thì kẻ đó mới sợ chết.

Kẻ không sợ chết, bình an tự tại với cái chết sẽ thoát tầm mắt tử thần.Bài học 2: Quán đời là hư ảo là sai lầm hệ trọngTa thấy Tỳ kheo ngồi giữa dòng suối nhìn lên thác nước cuộn đổ ầm ầm thì thấy đời này như bọt nước vô nghĩa.

Vậy Tỳ kheo sai ở đâu?Tỳ kheo sai ở điểm tối quan trọng là thấy "Đời như bọt nước" tức thấy "Thế gian này vô thường, hư ảo, vô nghĩa".

Phật lập tức truyền tâm chỉnh lại thành: "Thân này như bọt nước, thân này là hư ảo vô nghĩa".

Vậy "Quán thân vô thường" mà Phật dạy khác "Quán thế gian vô thường" ở điểm gì?

Sao Phật bảo đó là sai lầm hệ trọng?Tôi xin lấy ví dụ để bạn dễ hình dung: Hittle giết 6 triệu người Do Thái trong tổng số 14 triệu người Do Thái trên toàn Thế giới.

PolPot giết 3 triệu người Campuchia trong tổng số 8 triệu người dân nước họ.

Vì sao 2 Đại ác nhân này ác đến vậy?Đó là vì Đại ác nhân thấy mạng người như cỏ rác.

Để phục vụ tham vọng cá nhân chúng sẵn sàng giết hại hàng triệu con người mà không hề động tâm.

Vì mạng người đối với chúng rẻ rúng và vô nghĩa.

Đó chính là "Quán thế gian này như cỏ rác hư ảo.

Còn Quán bản thân họ thật là vĩ đại".Phật lập tức chỉnh lại giúp Tỳ kheo quán đúng chánh pháp: "Thân này là vô thường, sinh, già, bệnh, chết, rồi tan biến.

Thân này bản chất là tứ đại, thịt, xương, cơ, máu, mủ, ruột, phủ, tạng... tạo thành".

Thân này tồn tại lâu cũng chỉ 100 năm.

Còn Thế gian này là có thật.

Luân hồi là vô tận.

Chúng sinh là vô lượng vô biên.

Thời gian tồn tại của Thế gian hàng triệu hàng tỷ năm và vô tận.

Đó mới là quán đúng.

Đó mới là chân lý chánh pháp.Vậy ai coi Thế gian là hư ảo, chúng sinh như cỏ rác là sai với chân lý Phật dạy.

Kẻ đó chính là Đại Ác Ma giết hại hàng triệu mạng người mà không động tâm.

Đạo lý Vô thường mà Phật dạy chính là "Quán thân ta vô thường".

Cụ thể, Kinh Thân Hành Niệm Phật dạy quán vô thường như sau: Quán thân này sinh, già, bệnh, chết.

Quán thân này là tứ đại: Đất, nước, gió, lửa hợp thành.

Quán thân này là bất tịnh tạo bởi: thịt, xương, gân, cơ, máu, mủ, ruột, phủ, tạng, tim, gan, phổi, não bộ, ruột già, ruột non và những đồ tiêu tiểu xú uế.

Cuối cùng là quán tử thi thấy thân chết rồi sẽ tan biến vào hư vô.Đó chính là phép Quán thân ta Vô thường, hư ảo, như bọt nước, như ảo ảnh.

Từ đó hành giả "bẻ gãy tên hoa của ma, thoát tầm mắt tử thần".

Chứ không phải quán Thế gian này vô thường, hư ảo, như bọt nước, như ảo ảnh sa mạc...

Quán vậy sẽ biến kẻ đó thành Đại Ác Ma vì đi ngược với Chánh pháp Phật dạy.Qua Pháp cú và truyện tích ta thấy: "Sự khác nhau giữa Đức Phật và Đại Ác Ma là Phật thì thấy thân ta vô thường, hư ảo và thân ta như cỏ rác.

Còn Đại Ác Ma thì thấy Thế gian là vô thường hư ảo và chúng sinh như cỏ rác".

Đúng là sai 1 ly đi cả Vũ trụ.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 47: Truyện vua Ba Tư Nặc và dòng họ Thích Ca diệt vong


"Người nhặt các loại hoaÝ đắm say tham nhiễmBị thần chết mang điNhư lũ cuốn binh lính"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 47)Tích Pháp Cú: Nước Thích Ca là quê hương của Đức Phật với kinh thành Ca Tỳ La Vệ, với hoàng tộc dòng họ Thích Ca.

Điều đó ai cũng biết.

Nhưng điều đáng nói là dòng họ Thích Ca da trắng.

Hoàng tộc Thích Ca da trắng sống giữa thiên hạ da đen nên họ phân biệt chủng tộc nặng nề.

Họ tự coi mình là "Chủng tộc da trắng thượng đẳng cao quý".

Đó là sự khởi đầu của một câu chuyện và mối họa diệt vong.Phía tây nước Thích Ca là đại quốc Ko-sa-la rộng lớn do vua Ma-ha-Ko-sa-la trị vì.

Do là một tiểu quốc nhỏ cạnh một đại quốc to lớn nên nước Thích Ca chịu cúi đầu khuất phục Ko-sa-la.

Nước Thích Ca thường xuyên bị đồn ép và buộc phải cống nộp các vùng đất màu mỡ.

Họ di chuyển dần về phía đông nơi đất đai khô cằn sỏi đá.

Trong tâm dòng họ Thích Ca thù hận Ko-sa-la.

Đồng thời họ cũng coi thường Ko-sa-la vì hoàng tộc nước đó da đen.Vua Ma-ha-Ko-sa-la có con trai là Ba Tư Nặc (Ba-sê-la-đi).

Hoàng tử Ba Tư Nặc đi về trung tâm Ấn Độ vùng Hoa Vị Thành.

Ngài nghe tin ở đó có một cao nhân dạy học (cũng có thể là một trường học uy tín chuyên dạy vua chúa).Tới Hoa Vị Thành Ba Tư Nặc gặp 2 hoàng tử ở 2 xứ khác và họ làm bạn học của nhau.

Đó là hoàng tử Ma-ha-li xứ Ku-xi-la-ra (kinh A-Hàm gọi là Câu Thi Na, chính xứ đó về sau Phật nhập Niết Bàn).

Và một hoàng tử khác tên là Ban-đu-ra xứ Ma-la phía nam nước Thích Ca.Sau khi học xong 3 người chia tay và thề sẽ giữ trọn tình bạn mãi mãi.

Do học chung nên 3 người hiểu rõ tài nghệ và sở trường của nhau.Hoàng tử Ba Tư Nặc quay về Ko-sa-la.

Vua cha hỏi "Con học được gì?"

Hoàng tử trình bày cho cha về văn thao võ thuật và sách lược trị quốc an dân bình thiên hạ.

Cha ưng ý bèn truyền ngôi cho Hoàng tử.

Vua Ba Tư Nặc cùng tuổi Đức Phật.

Khi Phật 29 tuổi thì rời hoàng cung làm Sa môn còn vua Ba Tư Nặc lên ngôi vua.

Vua Ba Tư Nặc cũng mất cùng năm với Phật.

Ngài thọ 9*9=81 tuổi (cả tuổi mụ).

Do vậy 2 vị có duyên gắn bó.

Ta hay thấy vua Ba Tư Nặc xuất hiện trong Tích Pháp Cú là vậy.Còn hoàng tử Ma-ha-li sau khi về Câu Thi Na đã truyền dạy hết kiến thức cho các hoàng thân xứ đó.

Sau đó chàng bị mù nhưng kinh không nói rõ nguyên nhân.

Chàng được các vị vương công hoàng tộc yêu quý kính trọng như một vị thầy vĩ đại của nước Câu Thi Na.Còn hoàng tử Ban-đu-ra có võ nghệ cao thâm.

Các hoàng tử khác xứ Ma-la muốn thử thách và muốn hạ thấp uy tín chàng nên họ đề nghị Ban-đu-ra trổ tài.

Ban-đu-ra nói rằng: "Một nhát gươm của ta chặt đứt một bó tre to 1 người ôm".Mọi người mang các bó tre đến cho Ban-đu-ra trổ tài.

Chàng rút gươm chặt các bó tre đều đứt đôi nhưng có một bó không đứt.

Đó là vì lõi các ống tre bó đó bị nhét sắt.

Ban-đu-ra bị thua bèn tức giận bỏ xứ Ma-la qua xứ Ko-sa-la.

Ban-đu-ra gặp vua Ba Tư Nặc kể sự tình và được vua Ba Tư Nặc phong làm đại tướng quân quản lý quân đội nước Ko-sa-la.Vua Ba Tư Nặc lên ngôi được 6 năm cũng là lúc Đức Phật đắc đạo.

Thời gian sau vua được thám báo báo tin cho biết có một vị Sa Môn tu hành đắc đạo thành Phật là bậc Thế Tôn thầy của trời người.

Hiện vị đó đang trong thành Xá Vệ tại Tinh xá Kỳ Viên vườn ông Cấp Cô Độc.

Ông Cấp Cô Độc là một đại phú gia tiền bạc quyền lực mạnh nhất nước Ko-sa-la.

Đến mức vua Ba Tư Nặc cũng phải nể sợ ông.Ngày hôm đó, vua Ba Tư Nặc chủ động đứng trên lầu cao quan sát tăng đoàn Đức Phật.

Tăng đoàn đó uy nghi trang nghiêm thanh tịnh dẫn đầu là một vị Sa Môn cao lớn da trắng thân như tỏa hào quang.

Đoàn người đang đi đến nhà ông Cấp Cô Độc.

Vua thấy ông Cấp Cô Độc quỳ từ ngoài ngõ đón rước.

Vua Ba Tư Nặc ngạc nhiên tột độ.

Một vị đại phú gia quyền lực tiền bạc nhất nước đến vua phải nể sợ mà lại quỳ lạy tôn kính vị Sa Môn đó như vậy.Vua cho điều tra thêm thì biết rằng: "Không chỉ ông Cấp Cô Độc mà toàn bộ vương quan và giới Bà-la-môn cao quý ở thành Xá Vệ đã Quy Y Phật.

Họ đều nhận vị Sa Môn đó làm thầy.

Chưa dừng lại tại đó mà toàn bộ thành Vương Sá của đại quốc Ma Kiệt Đà lân bang và cả vua Bình Sa cũng quy y Phật".

Ngạc nhiên hơn nữa khi vua Ba Tư Nặc biết rằng vị Sa Môn đó là Thái tử nước Thích Ca phía đông Ko-sa-la.

Thái Tử Thích Ca đã bỏ ngôi vua xuất gia tu hành và đắc đạo thành Phật.Vua nghĩ: "Một vị làm thầy toàn bộ giai cấp quý tộc, phú hào, Bà la môn thành Xá Vệ, còn là thái tử nước Thích Ca, lại là thầy của vua Bình Sa đại quốc Ma Kiệt Đà.

Vậy nếu ta không làm theo họ thì họ sẽ chống lại ta".

Thế là vua Ba Tư Nặc quy y Phật.Sau đó vua Ba Tư Nặc làm theo ông Cấp Cô Độc là thỉnh tăng đoàn đến dự trai tăng.

Vì vua không thật tâm cầu đạo nên Phật không đến, chỉ có chư tăng đến.

Việc đón tiếp cũng không chu đáo.

Vua không tham dự mà sai người hầu trong cung dự.

Nên các lễ trai tăng càng ngày càng nhạt nhẽo và các Tỳ kheo ít dần.

Cuối cùng chỉ còn duy nhất một mình Ngài A-Nan tham dự.Vua phát hiện lễ trai tăng chỉ có 1 vị đến dự bèn đến Tinh xá Kỳ Viên vườn ông Cấp Cô Độc hỏi Phật:- Bạch Thế Tôn, vì sao con thỉnh các Tỳ kheo đến dự trai tăng mà chỉ có 1 vị đến dự?- Này Đại vương, các Tỳ kheo không bao giờ đến một nơi mà bị người khác xem thường.Việc vua Ba Tư Nặc mời Phật và tăng đoàn đến dự trai tăng.

Nhưng vì tâm vua xem thường nên Phật và tăng đoàn không đến đã lan truyền trong thành Xá Vệ.Vua nghe tin thám báo báo vậy thì sợ hãi.

Vua bèn tính kế để lấy lòng Phật.

Vua biết Phật là Thái Tử nước Thích Ca.

Vậy muốn lấy lòng Phật thì kế thượng sách là làm thông gia với Phật.

Vua Ba Tư Nặc bèn cử xứ giả qua kinh thành Ca Tỳ La Vệ xin cầu hôn công chúa nước Thích Ca.Thời gian đó vua Tịnh Phạn đã qua đời.

Vua mới là Ma-ha-na-ma, là em cùng cha khác mẹ với Phật.

Vua Ma-ha-na-ma là con bà Kiều Đàm Di, em ruột của Nan Đà (Ta chú ý: hoàng tử Nan-đà kém Phật 7 ngày tuổi.

Bà Kiều Đàm Di đã dùng sữa của mình để nuôi 2 anh em khôn lớn.

Sau Nan-đà theo Phật đi tu).Khi đó toàn bộ triều đình nước Thích Ca bối rối vì không thể gả công chúa dòng họ Thích Ca da trắng cao quý cho "cái thằng mọi da đen hạ đẳng" dù nó là vua đại quốc Ko-sa-la.

Chính tâm phân biệt chủng tộc màu da này đã mang đến cái hoạ diệt vong của dòng họ Thích Ca ở tương lai.Vua Ma-ha-na-ma ngoại tình với người hầu gái và có con gái.

Cô gái đó da trắng và xinh đẹp.

Vua quyết định gả con gái của người hầu đó cho vua Ba Tư Nặc và nói dối là công chúa nước Thích Ca.Hôn lễ được tổ chức và vua Ba Tư Nặc rất yêu vương phi mới vì xinh đẹp trắng trẻo.

Vua không biết đó là con gái người hầu không thuộc hoàng tộc Thích Ca.

Vua Ba Tư Nặc có con trai với "Công chúa nước Thích Ca" là hoàng tử Lưu Ly.Ngày hoàng tử Lưu Ly ra đời thì bầu trời u ám mây đen vần vũ.

Đây là điềm báo cho một tương lai đen tối của cả 2 Thích Ca và Ko-sa-la.

Lớn lên hoàng tử Lưu Ly tài giỏi văn võ song toàn.

Nhưng đặc biệt hoàng tử không bao giờ thấy người bên ngoại sang thăm.

Chàng hỏi mẹ nhiều mà mẹ không nói.

Chàng muốn cùng mẹ về thăm ông ngoại mà mẹ không cho.Khi hoàng tử Lưu Ly 16 tuổi là tuổi trưởng thành.

Chàng báo với cha rằng chàng sẽ về thăm quê ngoại.

Vua Ba Tư Nặc đồng ý và sai tuỳ tùng hộ tống.Bước vào hoàng cung nước Thích Ca thì hoàng tử Lưu Ly ngạc nhiên vì tin đã báo trước đó rất lâu mà không ai đón tiếp.

Chàng gặp ông ngoại là vua Ma-ha-na-ma thì thấy ông ngoại lạnh nhạt hờ hững.

Điều đó đánh mạnh vào lòng tự ái của một vị hoàng tử đại quốc Ko-sa-la.

Người mà từ khi sinh ra đã được đại vương Ba Tư Nặc yêu quý và bá quan văn võ đều nể trọng.Mọi người cứ xa lánh và lạnh nhạt với chàng.

Khi ăn cơm với ông ngoại thì chàng không được ngồi chung bàn với ông.

Hoàng tử Lưu Ly đã 16 tuổi.

Chàng đã trưởng thành và hiểu sự đời.

Chàng thấy rất lạ nhưng không thể giải thích.

Rồi hoàng tử và tùy tùng cáo từ ông ngoại ra về.Trên đường về thì một người lính trong đoàn để quên cây gươm.

Anh ta hoảng sợ vì theo quân pháp mất vũ khí sẽ bị xử tội rất nặng.

Anh cắm đầu chạy trở lại hoàng cung lấy lại cây gươm một cách bí mật.Khi đó có 2 người hầu đang bị bắt phải cọ rửa cái ghế mà hoàng tử Lưu Ly ngồi bằng loại sữa đặc biệt cho thật sạch.

Họ vừa làm vừa buôn truyện với nhau Người lính đã nghe được câu chuyện động trời là: "Công chúa nước Thích Ca cưới vua Ba Tư Nặc thật ra là con một người hầu gái không thuộc đẳng cấp Thích Ca".Người lính này cấp tốc về báo lại cho hoàng tử Lưu Ly.

Hoàng tử Lưu Ly nghe vậy thì sân hận sục sôi và thề rằng: "Hôm nay bọn chúng rửa cái ghế ta ngồi bằng sữa.

Ngày mai ta sẽ rửa lưỡi gươm của ta bằng máu của bọn chúng".Hoàng tử về thành Xá Vệ thì tin đồn đã tới trước.

Vua Ba Tư Nặc chặn không cho hoàng tử Lưu Ly vào cung.

Vua đuổi 2 mẹ con khỏi hoàng cung giáng làm thường dân.

Khi đó Đức Phật đã đến gặp vua Ba Tư Nặc và Phật hỏi vua:- Này đại vương, vai trò của người cha hay của người mẹ là quan trọng?- Bạch Thế Tôn, vai trò của cha là quan trọng.- Đúng vậy đại vương.

Và này đại vương người con sẽ kế thừa tính cách của cha hay của mẹ?- Bạch Thế Tôn, người con sẽ kế thừa tính cách cha.- Đúng vậy đại vương.

Và này đại vương trong hôn nhân thì vai trò người chồng là quan trọng hay người vợ là quan trọng?- Bạch Thế Tôn, vai trò của người chồng là quan trọng.- Đúng vậy đại vương.

Vương phi là con ruột của vua Ma-ha-na-ma tức là hoàng tộc chứ không thể là người hầu.

Vương phi lấy Đại vương sinh ra hoàng tử Lưu Ly thì hoàng tử theo vua và thừa kế vai trò của vua chứ không thể theo mẹ.Vua Ba Tư Nặc hiểu ra bèn phục chức cho vương phi và hoàng tử.

Hoàng tử Lưu Ly mang ơn Phật nhưng lòng thù hận với dòng thọ Thích Ca thì không nguôi.

Chuyện về hoàng tử Lưu Ly tạm dừng ở đây.Ta tiếp tục kể về tướng quân Ban-đu-ra thống lĩnh quân đội nước Ko-sa-la.

Tướng quân lấy vợ và vô cùng thương yêu vợ.

Thế nhưng vợ Ngài nhiều lần xảy thai.

Một lần vợ Ban-đu-ra được gặp Phật và Phật chúc phúc.

Sau đó bà có thai.

Khi mang thai thì bà có tâm lý kỳ lạ là mong ước được tắm trong hồ sen ở hoàng cung xứ Câu Thi Na.

Thời nhỏ có lần bà đi qua hồ sen đó và ao ước được tắm trong đó.

Nay có thai tự dưng tâm đó hiện ra mãnh liệt.Tướng quân Ban-đu-ra yêu vợ tha thiết.

Ông quyết tâm thực hiện mong ước của vợ.

Ông mang theo một cây cung, một thanh gươm, đánh một cỗ xe ngựa trở vợ đến kinh thành Câu Thi Na.

Ông đi vào hoàng cung như chỗ không người.

Ông cho vợ tắm trong hồ sen còn mình đứng gác.Các hoàng tử và lính cận vệ hoàng cung muốn lao vào đánh.

Nhưng thầy giáo mù Ma-ha-li đã ngăn cản:- Ta với tư cách là giáo thọ của hoàng cung cấm không ai được động thủ.Các hoàng tử lúc đầu vâng lời thầy.

Nhưng khi Ban-đu-ra cho vợ tắm xong lên xe ngựa rời hoàng cung thì các hoàng tử đuổi theo.

Vợ Ban-đu-ra thấy đằng sau binh lính đuổi theo bèn nói với chồng:- Anh ơi, đằng sau có binh lính đuổi theo.- Em yêu, khi nào em thấy đoàn người đó đi vào đoạn đường thẳng và họ nối nhau thành một hàng thì báo anh biết.Trước khi các hoàng tử đuổi theo thì thầy giáo mù Ma-ha-li đã căn dặn họ rằng:"Các con không nên đuổi theo.

Nếu đã đuổi rồi thì đến đoạn đường thẳng phải quay về.

Nếu không quay về mà thấy xe ngựa của tướng quân Ban-đu-ra chạy chậm rồi nghiêng một bên thì lập tức bỏ chạy".Tất cả các lời dạy của thầy giáo mù Ma-ha-li bị các hoàng tử bỏ ngoài tai và quên sạch.Khi đoàn người đi vào một đoạn đường thẳng thì xe ngựa tướng quân Ban-đu-ra chạy chậm lại, nghiêng một bên.

Cây đại cung nặng trăm ký đã được kéo.

Một mũi tên xé gió bay đi xuyên qua toàn bộ đoàn người rồi chui vào lòng đất.Xe ngựa Ban-đu-ra dừng lại và đoàn người vẫn đuổi theo.

Tướng quân Ban-đu-ra nói:- Ta không đánh nhau với các ngươi vì các ngươi là những người đã chết.- Chúng tôi chưa chết.- Các ngươi hãy tháo đai bụng ra xem.Các hoàng tử tháo đai bụng thì thấy thủng lỗ to.

Họ quấn chặt đai lại chạy về hoàng cung Câu Thi Na thì chết hết không ai sống sót.Vợ tướng quân Ban-đu-ra sinh đôi được 2 con trai.

Sau đó đều đặn mỗi năm bà lại hạ sinh 1 lần mỗi lần được 2 con trai.

Sau 16 năm thì tướng quân Ban-đu-ra có 32 người con trai.

Các con trai tướng quân Ban-đu-ra đều tinh thông võ nghệ.

Họ cùng cha nắm trọn quyền lực quân đội nước Ko-sa-la.Lần đó ở thành Xá Vệ có vụ án giết người.

Vụ án được các quan tòa xét xử nhưng vì họ ăn đút lót nên xử không công minh.

Người bị oan liên tục kêu oan lên vua Ba Tư Nặc.

Vua bèn giao cho tướng quân Ban-đu-ra xét xử.Ban-đu-ra văn võ toàn tài.

Ông xét xử công minh điêu luyện và tìm ra thủ phạm.

Thủ phạm cúi đầu nhận tội và kẻ oan được giải thoát.

Từ đó tin đồn tướng quân Ban-đu-ra tài giỏi, quang minh, chính trực lan toả khắp thành Xá Vệ.

Còn các quan tòa là đồ tham nhũng ăn đút lót.

Các quan tòa xấu hổ tức giận nên bày mưu kế hãm hại Ban-đu-ra.Họ thêu dệt tin tức giả rằng: "Tướng quân Ban-đu-ra cùng 32 người con có kế hoạch cướp ngôi".

Ta biết điều mà vua sợ nhất là bị cướp ngôi.

Mà kẻ dễ cướp ngôi nhất chính là kẻ nắm giữ quân đội trong tay.

Tin đồn đó lan rộng toàn thành Xá Vệ. vua Ba Tư Nặc ban đầu không tin nhưng sau thì tin.

Vua Ba Tư Nặc bèn lên kế hoạch tiêu diệt 33 cha con Ban-đu-ra.Ta nhớ vua Ba Tư Nặc là bạn học với Ban-đu-ra nên biết rõ sở trường của tướng quân.

Về võ công vua thua tướng quân, nhưng về mưu kế thì vua hơn tướng quân một bậc.Vua âm thầm sai một toán người thân cận ra biên giới nổi loạn.

Vua gọi tướng quân Ban-đu-ra lên và giao trọng trách cùng các con đi dẹp loạn biên ải.

Rồi 33 cha con bị trúng độc chết hết ở đó.Vợ của Ban-đu-ra sau khi được gặp Phật chú nguyện giúp bà hạ sinh.

Bà đã quy Y Phật và tu đắc đạo Sơ quả Dự Lưu.

Bà nghe tin báo chồng và các con đều chết.

Bà vẫn bình thản cúng dường trai tăng.Khi đó, Phật nói với bà rằng đây là quả báo của các ác nghiệp quá khứ, nặng nhất là tội giết toàn bộ hoàng thân xứ Câu Thi Na.

Phật còn nói tướng quân và các con bị chết vì bị nghi oan cướp ngôi.

Nhưng thực tế Ban-đu-ra hoàn toàn trong sạch.

Cho nên bà bình thản nhận xác chồng và các con rồi cử hành tang lễ hỏa táng theo nghi thức.Thám tử về báo với vua Ba Tư Nặc rằng vợ Ban-đu-ra nghe tin chồng con chết thì bình thản không gào khóc.

Đức Phật ở tại đó cũng đã xác thực rằng tướng quân Ban-đu-ra trong sạch không có ý tạo phản.

Vua Ba Tư Nặc nghe vậy buồn bã hối hận.

Kể từ đó tâm vua bất ổn không sáng suốt.

Nên vua có một quyết định nguy hiểm.

Để hối lỗi vua phong cho cháu ruột của Ban-đu-ra tên là Đi-a-ca-ga-ra-ga làm quan thân cận bên vua.Lần đó vua nghe Phật ở gần Câu Thi Na.

Vua có duyên sự ở gần đó nên xin vào đảnh lễ Phật.

Phật ở trong căn nhà bạt dựng tạm.

Theo nghi thức thời đó thì vua đảnh lễ Phật sẽ không được mang theo 5 món tượng trưng cho vương quyền: Thanh gươm, ấn chiện, áo choàng, vương miệng và đôi giày.Vua giao cho Đi-a-ca-ga-ra-ga giữ 5 món đó và đứng chờ ngoài cửa.

Đi-a-ca-ga-ra-ga trong lòng mang mối thù vua Ba Tư Nặc giết chú ruột.

Cơ hội trả thù đến, ông ra lệnh rút quân về thành Xá Vệ.

Ông chỉ để lại 1 con ngựa già và 1 người hầu cho vua.Vào thành Xá Vệ, Đi-a-ca-ga-ra-ga mang 5 món báu dâng hoàng tử Lưu Ly và tôn hoàng tử làm vua.

Toàn bộ hoàng cung sau khi thấy hoàng tử Lưu Ly có đủ 5 món báu tượng trưng cho vương quyền thì nhất loạt tôn hoàng tử làm vua nước Ko-sa-la.Vua Ba Tư Nặc thăm hỏi Phật xong bước ra cửa chỉ thấy con ngựa già và người hầu.

Vua lập tức biết chuyện gì xảy ra.

Vua bèn nhảy lên ngựa già phi về thành Xá Vệ nhưng không thể nhanh nổi.

Đến cửa thành vua thấy quân lính đóng cửa không cho vào.

Vua biết đã có biến cố bèn hét lên:- Ta là đại vương Ba Tư Nặc.- Thưa Ngài, nay đại vương chúng con là vua Lưu Ly.

Chúng con được lệnh đóng cửa thành không cho ai vào.

Vậy nên mời Ngài tìm chỗ nghỉ bên ngoài.Vua Ba Tư Nặc buồn rầu tìm nhà trọ ngoài thành để nghỉ.

Đêm hôm đó vua Ba Tư Nặc băng hà thọ 9*9=81 tuổi (cả tuổi mụ).

Và lúc này đây Đức Phật cũng đã 81 tuổi (cả tuổi mụ).Vua Lưu Ly cử hành tang lễ cho cha theo nghi thức.

Chưa mãn tang thì vua Lưu Ly đã chuẩn bị binh mã nhằm hướng đông thẳng tiến đến nước Thích Ca.

Đoàn quân vừa rời thành Xá Vệ thì thấy Đức Phật ngồi thiền giữa đường ngăn cản.

Vua Lưu Ly vô cùng tôn kính Đức Phật và mang ơn Phật đã cứu giúp khi xưa nên không dám vô lễ.

Vua xuống ngựa đến bên Phật đảnh lễ và nói:- Bạch Thế Tôn, nơi kia có bóng mát cây già.

Con mời Thế Tôn vào đó ngồi nghỉ cho dễ chịu.- Này Đại Vương, chỉ có bóng mát của thân tộc mới làm ta cảm thấy dễ chịu.Vua Lưu Ly bị tâm của Phật gửi cùng lời huấn thị làm cảm hóa nên ra lệnh rút quân về.

Về thành Xá Vệ thời gian ngắn thì lòng vua Lưu Ly lại sục sôi căm thù.

Vua Lưu Ly lại quyết định hành quân thẳng tiến đến nước Thích Ca.

Một lần nữa vua lại thấy Đức Phật ngồi thiền giữa đường hành quân.

Một lần nữa Phật lại dùng lời giáo huấn cảm hóa tâm vua.

Vua Lưu Ly lại rút quân về.Đến lần thứ 3 vua Lưu Ly quyết tâm hành quân tiến đánh nước Thích Ca thì Phật không hiện ra ngăn cản.

Vua Lưu Ly cùng đạo quân hùng mạnh đánh tan kinh thành Ca Tỳ La Vệ máu chảy thành sông.

Âu cũng vì binh sĩ và hoàng thân trong thành Ca Tỳ La Vệ quy Y Phật lâu năm nên biết đây là ác nghiệp kiếp xưa.

Tâm họ không muốn sát sinh nên thua dễ dàng.Vua Lưu Ly ra lệnh bắt sống toàn bộ hoàng tộc Thích Ca.

Còn toàn bộ người trong thành Ca Tỳ La Vệ thì giết sạch.

Sau khi chiếm xong kinh thành vua ngồi lên ngai vàng.

Vua sai mang ông ngoại là vua Ma-ha-na-ma tới và nói:- Hôm nay ông ngoại ngồi ăn cơm chung với con.- Ta không thể ngồi ăn cơm cùng con của một người hầu.Nói xong vua Ma-ha-na-ma lao mình qua cửa sổ nhảy xuống ao sâu tự tử.

Vua Lưu Ly cho vớt xác ông ngoại lên chôn cất và ra lệnh giết hết tù binh rồi kéo quân về.Trên đường về đoàn quân đi qua vùng đất rộng rãi, quang đãng, không cây cối.

Vua ra lệnh cắm trại nghỉ ngơi dưỡng sức.

Không ngờ đó là lòng một con sông lớn bị khô hạn thành bãi đất rộng mênh mông.

Đêm hôm đó ở thượng nguồn có trận mưa to kỳ lạ.

Nước cuồn cuộn đổ về hạ lưu như Đại hồng thuỷ.

Toàn bộ đoàn quân cả vua Lưu Ly đều bị nước lũ cuốn trôi chết mất xác.Kể từ đó nước Thích Ca xuy tàn vì kinh thành Ca Tỳ La Vệ bị diệt vong.

Nước Ko-sa-la cũng xuy tàn vì toàn bộ quân đội mạnh đều chết hết.

Rồi nước Ma Kiệt Đà của vua A Xà Thế nhân cơ hội đó nổi lên chiếm trọn vẹn đại quốc Ko-sa-la và nước Thích Ca.Nước Ma Kiệt Đà sau thời Đức Phật 200 năm là thời vua A Dục (Ashoka).

Vua đã lãnh đạo quân đội đánh bại Alexander đại đế và thành lập Đại Đế Quốc Khổng Tước – Maurya (từ 321 đến 185 TCN).

Đế Quốc Khổng Tước mộ Đạo Phật và có lãnh thổ bao trọn tiểu lục địa Ấn Độ rộng tới 5.000.000 km2 dân số khoảng 50-60 triệu.

Đế Quốc Khổng Tước là đế quốc rộng lớn nhất và đông dân nhất Thế giới trong cùng giai đoạn lịch sử.

Chính vua A Dục đã tổ chức Đại Hội Kết Tập Kinh Điển Phật Giáo lần thứ 3.

Lần này thì Kinh được ghi chép cẩn thành thành Tam Tạng Kinh và truyền bá sang Đông Nam Á, Sri-lanka, Tây Á, Trung Đông, Tây Tạng, Địa Trung Hải.Khi đó Tỳ kheo mới hỏi Phật:- Bạch Thế Tôn, do nguyên nhân gì mà dòng họ Thích Ca quy y theo Thế Tôn lại chết thảm như vậy?Phật kể lại kiếp xưa khi đó dòng họ Thích Ca đánh giặc.

Lần đó để có được chiến thắng thì họ đã đổ thuốc độc xuống dòng sông.

Tác hại của hành động đó vô cùng nghiêm trọng.

Không những toàn bộ quân địch bị chết mà toàn bộ dân chúng sống 2 bờ sông hạ nguồn cũng chết.

Rồi toàn bộ các loài động vật, chim, cá trên sông cũng chết.

Ngày hôm nay quả báo đến khiến toàn bộ dòng tộc Thích Ca bị diệt vong.

Nghe đến đây tôi chợt nhớ đến chất độc màu da cam mà quân đội Mỹ thả xuống Việt Nam đã gây hậu quả thảm khốc.Sau đó Phật đọc bài kệ Pháp Cú để chuyển sang vấn đề khác vì câu chuyện đó quá đau lòng:"Người nhặt các loại hoaÝ đắm say tham nhiễmBị thần chết mang điNhư lũ cuốn binh lính".(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 47)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Ý đắm say tham nhiễm cuộc đờiPháp Cú Phật nói rằng: "Ai là người sống trong đời mà tham đắm đời sẽ bị thần chết mang đi như lũ cuốn binh lính của vua Lưu Ly".

Phật khuyên Tỳ kheo rằng: Thôi lo tu đi, đừng chấp thế gian với những truyện thị phi đau lòng đó nữa, nếu không cái khổ sẽ đến với ta bất cứ lúc nào như lũ cuốn binh lính đó.Bài học 2: Nhân quả chi phối thế gianTruyện Tích Pháp Cú là một bản trường ca hào hùng tráng lệ bi ai.

Truyện diễn ra trong một trường đoạn lịch sử thời Đức Phật.

Truyện bắt đầu từ khi vua Ba Tư Nặc ra đời cũng là năm Đức Phật ra đời.

Cho đến khi vua Ba Tư Nặc chết cũng là năm Phật 81 tuổi.

Và ta thấy nhân quả hiện đời diễn ra rõ ràng rành mạch vì 80 năm đó đủ lâu để quả báo thành.Không như các Tích Pháp Cú khác chỉ kể về một thời gian ngắn.

Cuối các truyện đó Đức Phật đa phần giải thích quả báo là do nhân kiếp xưa đến nay tạo quả báo.

Nhưng khi thời gian kéo dài 80 năm nên ta thấy nhân đã gieo thì quả báo sẽ đến.

Bởi vì 80 năm là quãng thời gian đủ dài để duyên hội tụ khiến nhân tạo thành quả báo.

Tuy nhiên quả báo hiện đời chỉ là "phần nổi của tảng băng chìm" mà thôi.

Phần lớn của quả báo vẫn là kiếp sau khi duyên đủ đầy vẹn toàn.Các tình tiết nhân quả hiện đời trong truyện là:1.

Vua Ba Tư Nặc nghi oan mà giết 33 cha con tướng quân Ban-đu-ra bằng thuốc độc nơi sa trường.

Cuối đời vua bị chết cô đơn trong căn nhà trọ ngoài thành.2.

Dòng họ Thích Ca phân biệt chủng tộc nặng nề.

Họ coi thường người da đen dù người da đen là vua của đại quốc Ko-sa-la.

Quả báo là toàn bộ dòng họ Thích Ca diệt vong.3.

Các hoàng tử xứ Câu Thi Na vì kiêu ngạo tin tưởng vào võ công của họ không nghe lời thầy.

Quả báo họ bị chết vì một mũi tên của tướng quân Ban-đu-ra.4.

Tướng quân Ban-đu-ra giết toàn bộ các hoàng tử xứ Câu Thi Na.

Quả báo là toàn bộ 33 cha con bị ngộ độc chết cùng lúc nơi sa trường.5.

Vua Lưu Ly vì lửa hận trong lòng mà tận diệt toàn bộ thành Ca Tỳ La Vệ và quả báo đến ngay và luôn.

Toàn bộ đạo quân gồm cả vua Lưu Ly bị lũ cuốn trôi chết mất xác.6.

Kiếp quá khứ dòng họ Thích Ca chiến đấu với giặc đổ thuốc độc xuống dòng sông.

Thuốc độc đã giết quân giặc đồng thời giết toàn bộ dân chúng hạ nguồn cùng các loài động vật tôm cá.

Quả báo đến với họ thật thê thảm.Vậy nên: "Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả".

Mọi ý nghĩ, lời nói, hành động của Bồ Tát là nhân trong hiện tại Bồ Tát vô cùng sợ hãi làm sai tạo tội.

Bồ Tát biết rằng nếu gây ác nghiệp ở hiện tại thì quả báo sẽ đến ở tương lai không thể thoát.

Còn ác nghiệp quá khứ đã gieo nay đủ duyên thì quả báo đến.

Quá khứ chẳng thể thay đổi hay làm lại.

Thế nên Bồ Tát nhẫn nhục Ba-la-mật bình an đón nhận quả báo, trả nợ quả báo.

Bồ Tát biết trả nợ nhân quả xong thì hết khổ nên Bồ Tát không hề sợ hãi trước cảnh khổ.Còn chúng sinh thì ngược lại.

Hiện tại thì họ vô tư thoải mái tham, sân, si, ác độc, lừa đảo, điêu toa...

Họ không hề sợ vì không tin nhân quả.

Chỉ đến khi quả báo đến thì chúng sinh sợ hãi, kêu gào, cầu xin, lễ bái, cầu trời, khấn Phật, phong thủy, bùa chú, trấn ếm... nhưng làm sao thoát được tội.Truyện tích này nếu ai đó có thể dựng thành phim dã sử kể về lịch sử thời Đức Phật thì tuyệt.

Đặc biệt nhấn mạnh yếu tố nhân quả để đưa đạo lý nhân quả đến cho đời sẽ có công đức lớn.

Ngoài ra các tình tiết trong truyện rất chân thật, hấp dẫn và logic.Bài học 3: Hộ pháp vĩ đạiTheo bạn Hộ pháp vĩ đại thời Đức Phật là ai?

Xin thưa đó không phải là Đức Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất, cũng không phải các A-la-hán có đủ 6 loại thần thông.

Hộ pháp vĩ đại thời Đức Phật là vua Ba Tư Nặc của đại quốc Ko-sa-la.

Vua cha Tịnh Phạn của nước Thích Ca.

Vua Bình Sa của đại quốc Ma Kiệt Đà.

Ông Cấp Cô Độc lấy vàng phủ kín vườn thái tử Kỳ Đà mua để cúng Phật.

Đó chính là những Hộ pháp vĩ đại.

Đây gọi là "Có thực mới vực được Đạo".

Muốn xây dựng được đạo dù đó là Chánh đạo thì đầu tiên vẫn là "Tiền đâu".

"Vật chất có trước tinh thần có sau".

Để xây dựng được tinh thần thì đầu tiên ta cần phải có vật chất hùng mạnh.

Hộ Pháp Đạo Phật chính là những tín chủ vĩ đại, quyền lực vĩ đại, tài sản vĩ đại.Thời nay cũng vậy.

Đạo Phật tổ chức lỏng lẻo yếu kém không như Thiên Chúa Giáo hay Hồi Giáo.

Phật giáo là thoát đời, thoát tục, không dính vào chính trị, không có quân đội, không đảng phái, phe cánh hay ý thức hệ.

Thế nên Phật ở Ko-sa-la cũng là thầy vua, ở Ma Kiệt Đà cũng là thầy vua, ở nước Thích Ca cũng là thầy vua.

Cho dù các nước đó đang đánh nhau chí choé.

Vua Lưu Ly mang quân đi giết dòng họ Thích Ca mà gặp Phật Thích Ca vẫn quỳ lạy vâng lời Phật.Còn Thiên Chúa Giáo thì Vatican chỉ nói một câu, một sắc lệnh ban ra là toàn bộ giáo dân vùng hẻo lánh xa xôi ở Việt Nam phải vâng lời.

Còn Hồi Giáo là nhà nước Hồi giáo.

Nước đó xây dựng luật pháp dựa trên luật Hồi giáo.

Hồi giáo tổ chức như một Đế Chế với nhiều quốc gia.

Ở một số nước thủ lĩnh Hồi Giáo cũng là lãnh đạo tối cao như Ả rập, Iran.Còn Đạo Phật giới luật thì có hàng trăm hàng ngàn mà khâu xử phạt bằng "0".

Chẳng bao giờ giới luật Phật lại ghi: "Phạm giới này sẽ bị phạt 10 triệu hoặc bị tù 10 năm" cả.

Phật để nhân quả giám sát, xử phạt.

Vậy nên đạo Phật phải dựa vào Hộ pháp là nhà nước, chính phủ hay các tỷ phú đại gia mến đạo.

Nếu chính phủ, nhà nước đó không mộ đạo Phật, không tin nhân quả, không làm chức năng Hộ pháp thì đạo Phật nơi đó xuy tàn.Nền Phật Giáo Việt Nam ta cũng vậy.

Vua Lý Thái Tổ mồ côi được thiền sư Lý Khánh Vân nuôi dạy từ nhỏ.

Vua lên 8 tuổi làm đệ tử của Vạn Hạnh Thiền Sư.

Vua Lý Thái Tổ uy đức đã xây dựng Nhà Lý tồn tại 216 năm qua 8 đời vua.Tới thời Nhà Trần thì 3 đời vua đầu đều xuất gia tu hành sau khi rời ngôi báu.

Vua Trần Thái Tông tu ở am Thúy Vi (Hoa Lư, Ninh Bình).

Vua Trần Thánh Tông tu ở chùa Tư Phúc (Thăng Long).

Vua Trần Nhân Tông tu ở Trúc Lâm Yên Tử và là Điều Ngự Giác Hoàng Tổ Sư Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam.

Giác Hoàng Tổ Sư viên tịch hỏa thiêu có Xá Lợi Ngũ Sắc hơn 3000 viên.

Vua Trần Nhân Tông được dân gọi là Phật Hoàng.Phật Giáo thời Lý, thời Trần ở Việt Nam phát triển rực rỡ.

Thời này cũng là thời hùng mạnh nhất của Việt Nam với 3 lần đánh bại Nguyên Mông, đánh bại 32 vạn quân Tống, 5 lần đánh bại Đế Quốc Khơ Me.Bài học 4: Phân biệt chủng tộc hay giai cấp"Tiểu Kinh Nghiệp phân biệt" thuộc Trung Bộ Kinh Nikaya, Phật nói rằng: "Ai đời này kiêu mạn thì quả báo đời sau sẽ sinh vào giai cấp hạ liệt".

Do vậy đời này ai phân biệt chủng tộc, kiêu ngạo, tự phụ vì ở giai cấp thượng đẳng.

Đời sau kẻ đó sẽ sinh vào chủng tộc hạ đẳng hay giai cấp thấp kém.Tục ngữ Việt Nam có câu: "Ghét của nào trời trao của đó".

Ta ghét ai, coi thường ai, khinh bỉ ai thì "ông trời" sẽ cho ta thành cái mà ta khinh bỉ hay ghét bỏ đó.

"Ông trời" trong tục ngữ trên là Luật nhân quả.Xã hội nào phân biệt giai cấp hay phân biệt chủng tộc nặng nề thì xã hội đó không phát triển.

Vì sao?

Vì đời này một kẻ giàu có, quyền lực ở giai cấp thượng đẳng phân biệt giai cấp thì đời sau kẻ đó là kẻ hạ liệt.

Nên xã hội đó không thể cùng nhau phát triển.

Đời này họ bước lên 1 bước thì đời sau họ lại lùi 1 bước.Tích Pháp Cú cho ta thấy: "Chỉ vì phân biệt chủng tộc mà dòng họ Thích Ca bị diệt vong".

Đây cũng là lời cảnh báo cho các nước có nạn phân biệt chủng tộc sâu sắc.

Phân biệt chủng tộc là tạo ra kẻ thù và kích động sự thù hận.

Kết quả cuối cùng chính kẻ thù đó, sự thù hận đó sẽ đưa họ đến họa diệt vong.Theo tôi phân biệt chủng tộc là sai.

Giống vua Ba Tư Nặc là vua của đại quốc Ko-sa-la.

Ngài thông minh, trí tuệ, tài giỏi, giàu có, quyền lực, làm vua tới 80 tuổi...

Phúc của Ngài hơn gấp bội so với vua tiểu quốc Thích Ca.

Nhưng vua Ba Tư Nặc da đen và dòng họ Thích Ca da trắng.

Vậy có phải chủng tộc Thích Ca da trắng thượng đẳng hơn không?Bài học 5: Sân hận và kiêu mạn là tâm Ác MaHoàng tử Lưu Ly kiêu mạn vì là con vua Ba Tư Nặc đại quốc Ko-sa-la vĩ đại.

Khi hoàng tử nghe người lính nói: "Dòng họ Thích Ca cho lau cái ghế chàng ngồi bằng sữa vì chàng là con người hầu không thuộc chủng tộc thượng đẳng".

Chàng đã sân hận sục sôi.

Kết quả cuối cùng thì ai cũng thấy.Kinh Hàng Ma thuộc Trung Bộ Kinh Nikaya kể rằng: Đại Ác Ma Du-si muốn chiếm tâm Tỳ kheo thì có 2 môn võ.

Đó là nhập vào tâm Phật tử đến chửi rủa để Tỳ kheo sân hận nhưng không thành.

Hắn lại nhập vào tâm Phật tử đến khen tặng nịnh bợ để Tỳ kheo kiêu mạn cũng thất bại.

Ta thấy: "Tâm sân hận hoặc tâm kiêu mạn là tâm ma.

Kẻ sân hận hoặc kiêu mạn sẽ bị đại ác ma Dusi chiếm tâm".Ta thấy: Hoàng tử Lưu Ly có tâm kiêu mạn và sân hận ngút trời.

Hoàng tử Lưu Ly chính thức biến thành một Đại Ác Ma Dusi thảm sát toàn bộ dòng họ Thích Ca của ông ngoại.

Rồi quả báo tới ngay và luôn.Bài học 6: Tiểu nhân luôn hại người quân tửTa thấy Ban-đu-ra xét xử công minh mang lại lẽ phải cho đời nhưng lại thành kẻ thù của lũ tiểu nhân tham nhũng.

Đời là vậy: "Ta là người tốt.

Ta là người quân tử thì ta sẽ là kẻ thù của lũ tiểu nhân".

Ta phải xác định vậy để khi ta bắt tay làm điều tốt rồi bị lũ tiểu nhân chống phá hại ta.

Ta sẽ không nao lòng nản trí hoặc than trời oán đất cho rằng "Đời bất công".Vì sao lại xuất hiện tâm lý này?

Tâm lý này nằm trong Kiết sử Thân kiến mà Phật dạy.

Kẻ tiểu nhân có tật xấu Thân kiến sẽ luôn: ích kỷ, nhỏ nhen, hám lợi, tham lam, ghen tị, GATO (ghen ăn tức ở), con gà ghét nhau tiếng gáy, không muốn ai hơn mình...

Những người tốt được nhiều người ca ngợi khiến tâm họ bực bội muốn tiêu diệt.

Thân kiến là tật xấu thô thiển nhất, thấp nhất trong 10 Kiết sử.

Thân kiến là bản chất của kẻ tiểu nhân.

"Giàu có thì nó ghét, đói rét thì nó khinh, thông minh thì nó tiêu diệt".

Vậy nên ta làm điều tốt muốn giữ mình thì càng bí mật càng tốt, càng ít người biết ta là ai càng tốt.

Còn làm điều tốt mà lại muốn nổi tiếng dễ chết lắm.

Bởi khi đó ta sẽ làm bia tập bắn cho lũ tiểu nhân đầy nhung nhúc trong xã hội.Bài học 7: Định nghiệp Phật không thể cứuTa thấy năng lực vĩ đại như Phật mà trước quả báo dòng họ Thích Ca bị diệt vong Phật cũng không thể cứu.

Phật chỉ 2 lần cố gắng ngăn cản vua Lưu Ly.

Đến lần thứ 3 thì duyên đã mãn quả báo ắt thành và Phật không ngăn nữa.Nếu có ai hỏi: "Thế sao Phật không báo động về hoàng cung Ca Tỳ La Vệ về thảm cảnh diệt vong để họ chuẩn bị chiến đấu chống lại vua Lưu Ly?"

Bạn còn nhớ truyện ông Nan Đà trưởng ngành gia súc của ông Cấp Cô Độc bị tên bắn chết khi tiễn Phật không?

Có người hỏi Phật: "Nếu ông không đưa tiễn Phật thì có thể không chết được không?"

Phật trả lời: "Nếu không tiễn ta thì Nan Đà vẫn bị bắn chết vì đó là Định nghiệp".Vậy nếu Phật cố gắng cản vua Lưu Ly lần 3,4,5... hay thông báo về kinh thành Ca Tỳ La Vệ để họ luyện binh thì họ vẫn diệt vong mà thôi.

Bởi vì đó là Định nghiệp, và: "Định nghiệp Phật không thể cứu".Ta không có Thiên nhãn như Phật thì biết đâu là Định nghiệp?

đâu không là Định nghiệp?

Nếu vậy ta hãy học Đức Mục Kiền Liên.

Bọn cướp mang vũ khí lao vào hang Ka-la-si-la, 6 lần Tôn giả dùng thần thông biến mất.

Đến lần thứ 7 thì Tôn giả để mặc cho bọn chúng chém giết mà không biến mất.

Vậy khi quả báo đến ta hãy cố gắng hết sức.

Nếu đã cố hết sức rồi quả báo vẫn tới thì là Định Nghiệp.

Chứ đừng buông xuôi chấp nhận số mệnh.

Ta không có Thiên nhãn sao biết đó là Tận số?Ta tuyệt đối không nên làm như 3000 vị Tỳ kheo ở Đại Học Nalanda năm 1197.

Khi đó chỉ gần 100 tên lính Hồi Giáo mang gươm đi vào.

Thế nhưng các Tỳ kheo không hề kháng cự.

Các vị thực hành Nhẫn nhục Ba-la-mật chịu chém giết.

Sau sự kiện đó thì toàn bộ Phật Giáo Ấn Độ bị xóa sổ.

Đến nay Ấn Độ không còn Phật Giáo nữa.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 48: Truyện người tôn vinh chồng


"Người nhặt các loại hoaÝ đắm say tham nhiễmCác dục chưa thỏa mãnThần chết đã mang đi"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 48)Tích Pháp Cú: Ở cõi trời có vị thiên tử Ma-la-ba-ri đang dạo chơi cùng các phu nhân tiên nữ.

Phúc thiên tử lớn nên cảnh trí ứng hiện theo ý muốn.

Các vị vui chơi hưởng thụ muốn gì được nấy, cần gì khởi niệm mọi vật hiện ra như ý.

Các vị vô cùng hạnh phúc.Cõi trời khó có thể làm gì giúp ai thoát khổ để tạo phúc.

Vì thiên tử thì ai cũng sướng chẳng có ai khổ mà cần cứu giúp.

Các vị chỉ hưởng phúc cho đến khi hết phúc mà thôi.

Khi hết phúc các thiên tử sẽ đọa vào cõi thấp hơn.

Nếu chưa chứng Quả Dự Lưu còn có thể bị vào 3 ác đạo nếu còn ác nghiệp nặng.Khi đó có một tiên nữ bay lên cành cây hái những cành hoa thì bất ngờ chết đi tan biến.Ta chú ý: Cõi trời là cõi tâm thức nên các vị sinh do ý sinh giống như ngọn đèn được thắp sáng.

Các vị chết do ý diệt và tan biến như ngọn đèn phụt tắt.

Tuy nhiên cũng có sự báo trước và các vị cũng chia tay họ hàng quyến thuộc vợ con chứ không bất ngờ như cô tiên nữ này.

Cõi tâm linh không có thân tứ đại: Đất, nước, gió, lửa như trần gian.

Chúng sinh cõi trần khi chết sẽ để lại thân xác vật chất phân hủy theo thời gian.

Còn cõi tâm linh chết tức tâm linh biến mất.

Vị đó tan biến như ngọn đèn phụt tắt mà thôi.Cô tiên nữ sinh đó xuống cõi người vào gia đình giàu có trong thành Xá Vệ thời Đức Phật.

Khi sinh ra cô vẫn nhớ về tiền kiếp của cô.

Cô nhớ cô là tiên nữ cõi trời có chồng là thiên tử Ma-la-ba-ri và cô rất yêu chồng.

Kinh không nói tên cô gái đó là gì.Cô thường nói với cha mẹ và mọi người rằng cô là tiên nữ cõi trời có chồng là thiên tử Ma-la-ba-ri người mà cô kính mến.

Do cô kể về chồng và ca ngợi nhiều nên mọi người hay gọi cô với cái tên là: "Người tôn vinh chồng".Cô có duyên được gặp Phật, quy Y Phật.

Cô chuyên tâm vào việc cúng dường chư tăng.

Gia đình cô giàu có nên cô không phải làm việc kiếm tiền.

Họ cho cô làm việc theo ý thích là chuyên tâm cúng dường trai tăng cho tăng đoàn Đức Phật.

Nhưng không phải cô cúng dường để mong tu hành đắc đạo cao siêu gì.

Sâu trong tâm cô luôn mong ước được sinh về cõi trời nơi có chồng cô là thiên tử Ma-la-ba-ri.Vào ngày cô tròn 20 tuổi.

Sáng hôm đó cô làm lễ cúng dường chư tăng thì chiều cô bất ngờ chết.

Lập tức cô hiện lại thành tiên nữ cõi trời ở vườn tiên giới.

Thế nhưng cuộc vui của thiên tử Ma-la-ba-ri cùng các tiên nữ chưa tàn.

Thiên tử thấy tiên nữ xuất hiện bèn hỏi:- Lúc nãy nàng đi đâu ta không thấy?Tiên nữ bèn kể lại câu chuyện: "Nàng bị chết ra sao ở cõi trời, đầu thai làm người, được gặp Đức Phật và cúng dường chư tăng, rồi tròn 20 tuổi thì nàng chết đi ở cõi người hiện hình trở lại nơi đây".

Thiên tử Ma-la-ba-ri nghe xong than rằng:- Cuộc sống loài người thật ngắn ngủi.Ở thành Xá Vệ mọi người thương tiếc làm đám tang cho "cô gái xấu số bị chết trẻ".

Các Tỳ kheo chưa đắc đạo cũng tiếc thương đến hỏi Phật:- Bạch Thế Tôn, cô cư sỹ Phật tử, người mà hay đến Tinh xá cúng dường chư tăng đã bị chết đột tử.

Ai nấy đều tiếc thương.

Bạch Thế Tôn, vì sao người tốt như vậy lại bị chết trẻ?- Này Tỳ kheo, cô gái đó đã sinh lại cõi trời và đang hạnh phúc bên cạnh người chồng mà cô yêu mến.Sau đó Phật đọc bài kệ:"Người nhặt các loại hoaÝ đắm say tham nhiễmCác dục chưa thỏa mãnThần chết đã mang đi"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 48)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Các dục chưa thỏa mãn thì đã chếtCô tiên nữ đó đang nhặt các loại hoa ở tiên giới rồi chết bất thình lình khi "ý đắm say tham nhiễn, các dục chưa thỏa mãn".

Chính vì ý tham nhiễm, dục chưa thỏa mãn nên sinh vào cõi người cô vẫn nhớ về đời sống trước.

Khi đó cô là tiên nữ có chồng là Thiên tử Ma-la-ba-ri và cô rất yêu chồng.Điều này giống với người trần gian bị chết đột tử bất thình lình bởi tai nạn giao thông, bom rơi, đạn lạc...

Kẻ đó sang đời sống tâm linh mà vẫn nhớ như in đời sống cõi người nên khó siêu thoát.

Một số clip do các nhà ngoại cảm tìm mộ liệt sỹ miêu tả.

Có nhiều chiến sỹ chết rồi mà vẫn cầm súng chiến đấu.

Trong khi đó cõi người đã hòa bình 50 năm.

Đó là vì: "Ý đắm say tham nhiễm, các dục chưa thỏa mãn, thần chết đã mang đi".Vì vậy dân gian ta có tục ngữ: "Chết trẻ khỏe ma, chết già ma nhược".

Kẻ chết trẻ khi các dục chưa thỏa mãn, ý đắm say tham nhiễm thì khó siêu thoát.

Họ thành ma rồi mà hay quậy phá, hoặc về báo mộng, hoặc tác động vào cõi dương.Dân gian gọi kẻ chết trẻ khó siêu đó là "bà cô, ông mãnh".

Đôi khi gia đình có Bà Cô Tổ linh thiêng lại thấy thích là sai.

Vì họ giúp người dương thì ít mà làm người dương khổ thì nhiều.

Họ không siêu thoát cứ bị giam ở cõi âm với "ý đắm say tham nhiễm, các dục chưa thỏa mãn" sẽ tác động vào tâm người dương.

Từ đó tâm người dương sẽ buồn khổ, uất hận, thèm khát, ham muốn... như tâm vị cõi âm đó.Còn người chết già ý chẳng tiếc nuối cuộc đời, các dục đã thỏa mãn, thân thể đã hao mòn đau nhức, răng chẳng còn cái nào, tóc còn vài sợi, mắt mờ chẳng thấy ai, tai thì gần điếc, tay chân thì Parkinson, ăn phải có người đút...

Vị đó đã chán ngấy cuộc đời, chán ngấy cái thân, chẳng còn chút ham muốn gì.

Thế nên vị đó chết dễ siêu.Chính vì dân gian họ chỉ thấy ma người trẻ hiện về và chẳng bao giờ thấy ma ông già 80-90 tuổi hiện về cả.

Thế nên họ nói: "Chết trẻ khỏe ma, chết già ma nhược".Bài học 2: Cõi trời và cõi ngườiTrong triết học Phật Giáo thì cõi Trời là cõi cao nhất trong 6 ngả Luân Hồi.

Cõi này tuy gọi là cõi Trời nhưng sự thật nó bao gồm toàn bộ tam giới: Trời dục giới, Trời sắc giới, Trời vô sắc giới.

Trong khi đó toàn bộ: Địa ngục, súc sinh, ngã quỷ, người, thần đều nằm gọn trong Dục giới.Trời dục giới: Cõi này các vị thiên tử vẫn còn dục và có giới tính nam/nữ.

Nhưng các vị vô cùng thanh tịnh và không động dục.

Trời dục giới trong Kinh Phật có 8 tầng.

Ví dụ: cõi Tam thập tam thiên của vua trời Đế Thích hay cõi trời của thiên tử Ma-la-ba-ri trong truyện trên thuộc Trời dục giới.Trời sắc giới: Cõi trời mà các thiên tử chỉ còn hào quang, tâm hỉ lạc và tuổi thọ rất lâu.

Các vị không còn giới tính nam/nữ.

Ví dụ: cõi Trời Phạm Thiên hay xuất hiện trong Kinh Phật thuộc Trời sắc giới.

Kinh Phật liệt kê có 13 tầng Trời sắc giới.Kinh Ba-lê thuộc Trường Bộ Kinh thì Phật có miêu tả về các vị Trời sắc giới như sau: "Vị đó ở tại đó, do ý sinh, nuôi sống bằng hỉ, tự chiếu hào quang, vi hành trên hư không, sống trong sự vinh quang, sống như vậy một thời gian rất dài".

Tôi cảm giác các vị là một tinh tú trên bầu trời giống như Mặt trời vậy.Trời vô sắc giới: Đây là cõi cao nhất trong Luân hồi.

Cõi này là nơi mà các vị thánh nhập định an trú.

Cõi này không còn giới tính nam/nữ, không còn hào quang, chỉ còn tâm hỉ lạc phủ trùm.

Các vị Thánh trong thiền định nhập vào Vô sắc giới sẽ cảm ứng tâm với bất kỳ cõi nào trong Luân hồi.

Khi vị đó khởi niệm thì hiện hình trong cõi đó vô cùng tự tại.

Chính vì vậy ta thấy truyện tích Đức Phật bay lên trời gặp các Thiên Tử hoặc Đức Mục Kiền Liên hiện vào Địa ngục cứu mẹ là bà Thanh Đề.Cõi trời là cõi thuần hưởng phúc và tiêu phúc.

Các vị trời thì ai ai cũng đều hạnh phúc, không ai khổ.

Nên ở cõi trời các vị không có điều kiện giúp ai thoát khổ để tạo thêm phúc.

Sau khi tiêu xài hết phúc thì các vị đọa xuống tầng thấp trong Luân hồi.

Nếu chưa đắc đạo từ Sơ quả còn có thể bị đọa vào 3 ác đạo.Trong Luân hồi chỉ ở cõi người mới có thiện ác cùng tồn tại khiến buồn vui, sướng khổ đan xen.

Còn 3 ác đạo: Địa ngục, súc sinh, ngã quỷ là thuần ngục hình, thuần ngu si, thuần đói khát cô đơn lạnh lẽo để trả nợ ác nghiệp.

Cõi thần tiên (Thần, Trời) thì các vị thuần sung sướng để hưởng phúc đang có.Nên chỉ ở cõi người mới là cõi để tu hành tách biệt chúng sinh đi về 2 hướng: Sướng hoặc Khổ.

Ai biết tu sẽ đi trên con đường thiện tích phúc mà sinh vào cõi thần tiên hưởng phúc.

Ai không tu thì có tâm ác sẽ tạo ác nghiệp mà tích tội đọa 3 ác đạo.Bài học 3: Mục tiêu "tu để sinh Thiên đàng"Đây là mục tiêu cao nhất của 100% các tôn giáo Chánh đạo trừ Đạo Phật.

Đạo Giáo Lão Tử dạy tu theo "Đạo đức kinh" tích phúc, khi sống thì làm thánh nhân, khi chết thì làm thần tiên.

Thiên Chúa Giáo dạy con chiên ngoan đạo vâng lời dạy của Chúa trong "Kinh Thánh" tích phúc sẽ được sinh Thiên đàng nước Chúa.

Hồi giáo khuyên tín đồ làm thiện bỏ ác, học theo "Kinh Quara".

Đến ngày phán xử nếu ai phúc nhiều hơn tội thì được sinh Thiên đàng.

Ai tội nhiều hơn phúc thì đọa Địa ngục.Còn Phật Giáo Nguyên Thủy thì Đức Phật Thích ca dạy tu Tam Nghiệp: Thân-Khẩu-Ý tích phúc to lớn sẽ sinh cõi Trời hoặc làm người giàu có, quyền lực.

Không dừng lại tại đó, các vị phúc lớn sẽ từ bỏ gia đình sống không gia đình, thực hành giới luật Phật, từ bỏ phúc thế gian hướng phúc báu vào tu hành đắc đạo A-la-hán.

Cuối đời các vị A-la-hán sẽ rời khỏi Luân hồi vào một nơi không còn khổ là Niết Bàn.Phật Giáo Đại Thừa phát triển sau thời Phật Thích Ca đề thêm con đường Bát Nhã ba-la-mật.

Các vị A-la-hán đắc đạo sẽ không vào Niết Bàn.

Các vị phát Đại nguyện ở lại Luân hồi cứu độ chúng sinh (gọi là Bồ Tát) cho đến khi thành Phật mới nhập Niết Bàn.Bài học 4: Công đức cúng dường thánh tăngTa thấy cô tiên nữ đầu thai làm cô gái và chăm chỉ cúng dường chư tăng thời Đức Phật.

Tới năm 20 tuổi thì cô đủ phúc sinh trở lại cõi Trời.

Vậy nên cúng dường Thánh tăng đặc biệt có các vị A-la-hán trong tăng đoàn Đức Phật thì phúc lớn.Còn ai giúp nhầm kẻ ác nhân tạo tội thì sẽ được chia tội cùng họ.

Ai cúng nhầm tà tăng truyền dạy mê tín dị đoan cũng chia tội cùng họ.

Pháp luật gọi tội này là "Tội đồng lõa với tội phạm".Bài học 5: Đầu thai thì quên hết kiếp trướcÐại Kinh Ðoạn Tận Ái (Mahātanhāsankhaya Sutta) Kinh 38 trong Trung Bộ Kinh có đoạn Phật dạy: "Này các Tỷ-kheo, khi nào cha mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, và Hương ấm (Gandhabba) có hiện tiền; có ba sự hòa hợp như vậy, thì bào thai mới thành hình".

Vậy có 3 yếu tố để một chúng sinh ra đời: 1- Mẹ trong thời kỳ có thể mang thai.

2- Có sự giao hợp của cha mẹ và tinh cha huyết mẹ hòa hợp.

3- Có Hương ấm chờ đợi để nhập thai.Chính vì vậy, trong văn hóa tâm linh người Việt nếu cha mẹ hiếm muộn thì hay đi cầu, đi lễ để xin có con.

Đó chính là: "Xin cho Hương ấm nào đó hợp duyên với cha mẹ được sinh vào gia đình".

Hương ấm dân gian còn gọi là Hương linh hay Linh hồn.Triết học Phật giáo nói về 5 thành phần cấu tạo của chúng sinh trong Luân hồi gọi là Ngũ Ấm (hoặc Ngũ Uẩn): 1- Sắc ấm là thân thể vật chất.

2- Thọ ấm là cảm thọ buồn vui sướng khổ.

3- Tưởng ấm là trí nhớ, tưởng tượng, tư duy.

4- Hành ấm là hành động tạo nghiệp thiện ác.

5- Thức ấm chính là Hương ấm, Linh hồn còn gọi là tiềm thức, tàng thức, hồn, vía.

Thức ấm cũng là nơi ghi nhớ Nhân quả của một chúng sinh trong Luân Hồi.Khi ta chết đi thì thân thể tiêu tan là Sắc ấm biến mất.

Ta vào cõi âm thì Thọ ấm buồn vui sướng khổ vẫn còn, Tưởng ấm là trí nhớ suy tư vẫn còn, Hành ấm tạo nghiệp vẫn còn, Thức ấm vẫn còn.

Nhưng khi đầu thai chỉ có duy nhất Thức ấm (hương ấm) nhập thai.

Còn Tưởng ấm, Thọ ấm, Hành ấm biến mất.

Chính vì đầu thai Tưởng ấm biến mất nên kiếp sau ta không nhớ gì.

Ai đầu thai mà vẫn nhớ kiếp trước là Tưởng ấm đã đi cùng Hương ấm khi thụ thai.

Đây là trường hợp hi hữu hiếm gặp.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 49: Truyện Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông giáo hóa


"Như ong đến với hoaKhéo léo lấy chút mậtKhông làm hại hương sắcCũng vậy thánh vào làng"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 49)Tích Pháp Cú: Đức Phật khi đó ở Kỳ Viên thành Xá Vệ nước Ko-sa-la.

Buổi sáng sớm Phật dùng Thiên nhãn và nhìn khắp thế gian xem ai đến duyên hóa độ.

Phật nhìn vào thành Vương Xá thủ đô đại quốc Ma Kiệt Đà cách đó cả ngàn dặm.

Ở đó có ông trưởng khố tên là Ko-si-a giàu có nhưng hà tiện đến duyên hóa độ.

Ông Ko-si-a hà tiện đó không bao giờ bố thí cho ai một đồng còn keo kiệt cả với vợ con.Chính do ông hà tiện vậy nên vua Bình Sa tin dùng giao trọng trách giữ Quốc khố.

Kinh lấy ví dụ để miêu tả sự hà tiện của ông: "Ví như hồ nước đầy bị ma ám.

Không một ai có thể dùng một giọt nước trong hồ.

Cũng vậy, tài sản của Ko-si-a vĩ đại nhưng không một ai có thể lấy được một đồng trong đó".Một lần ông vào cung vua gặp vua có duyên sự.

Trên đường về ông đi bộ vì sợ đi xe ngựa tốn tiền.

Ông nhìn xuống chân thấy đôi dép thì sợ dép hỏng.

Ông bỏ dép ra cắp nách đi chân đất.

Ông đi qua khu chợ thấy bà bán bánh rán.

Ông nhìn những cái bánh đó mà thèm.

Cũng là duyên nghiệp kéo đến nên cơn thèm bánh rán của ông khủng khiếp.

Nhưng ông quyết trí quay đầu không nhìn bánh rán nữa mà đi thẳng về nhà vì sợ tốn tiền.Về đến nhà ông phát bệnh.

Ông leo cầu thang lên lầu vào giường chùm chăn run lên bần bật.

Vợ hỏi ông bị bệnh gì?

Ông không nói.

Hỏi lúc lâu thì ông mới nói là ông thấy bà bán bánh rán ở chợ thèm quá nên sinh bệnh.Vợ mới à...

ồ... té ngửa người ra và bảo:- Nếu ông thèm thì tôi làm một thùng cả nhà ăn.- Ê... sao phải làm cả thùng?Biết ý ông keo kiệt sợ tốn tiền nên bà nói:- Thôi tôi làm bánh cho ông và tôi cùng ăn nhé.- Bà không bệnh sao phải ăn?Vợ lắc đầu ngao ngán.

Nhưng bà sống với ông lâu biết tính ông keo kiệt nên không chấp.

Bà chuẩn bị nguyên vật liệu và bí mật mang lên lầu cạnh giường rán bánh cho ông ăn.Khi đó Phật sai Tôn giả Mục Kiền Liên đến hóa độ cho Ko-si-a.

Tôn giả hiện ra giữa hư không ngay cửa sổ trên lầu.

Ông nhìn thấy Tỳ kheo hiện ra ngoài cửa sổ thì biết Tỳ kheo khất thực.

Ông cố tình quay lưng lại cửa sổ để không thấy Tỳ kheo.Đức Mục Kiền Liên biến mất tại cửa sổ hiện ra trước mặt ông.

Ông lại quay lưng về phía Ngài vẫn thấy Đức Mục Kiền Liên hiện trước mặt.

Ông bảo:- Ngài có hiện hình khắp phòng này tôi cũng không cho.Đức Mục Kiền Liên hiện hình khắp phòng.

Ông lại bảo:- Ngài có làm khói bay khắp phòng này tôi cũng không cho.Đức Mục Kiền Liên làm khói bay mù mịt khắp nhà.

Ông bắt đầu thấy sợ bèn bảo vợ:- Thôi bà lấy 1 cái cho Tỳ kheo để ông ấy đi.Vợ lấy 1 cái bánh đưa Tỳ kheo thì toàn bộ bánh khác đều dính với nhau thành chùm dài.

Đức Mục Kiền Liên nhận cái bánh cúng dường rồi bước đi kéo theo toàn bộ bánh của ông.

Ông chạy theo chụp bánh kéo lại mà không được.

Ông toát mồ hôi thì hết bệnh cũng hết cơn thèm bánh mà chợt bừng ngộ.Ông mời Tôn giả vào nhà nói chuyện.

Đức Mục Kiền Liên nhận lời.

Ông cúng dường Tôn giả toàn bộ số bánh.

Đức Mục Kiền Liên bảo:- Ông hãy mang số bánh này cúng dường Phật và chư tăng ở thành Xá Vệ.Ông ngạc nhiên hỏi:- Bạch Tôn giả, từ thành Vương Xá đến thành Xá Vệ xa ngàn dặm, sao làm được vậy?- Không sao, ông hãy đi với ta.Ông đi theo Tôn giả bước đến cầu thang đi xuống.

Đầu cầu thang là nhà của ông ở thành Vương Xá.

Khi tới chân cầu thang đã thấy ở thành Xá Vệ.

Ông đến đảnh lễ Phật và cúng dường số bánh lên Đức Phật.

Phật dùng thần thông biến ra thành vô số bánh cho toàn bộ chư tăng và cư sỹ ở Tinh xá Kỳ Viên thọ thực.

Số bánh thừa thì mang đổ vào một cái hang mà ngày nay ta vẫn gọi là Hang Bánh.Sau đó Phật thuyết pháp cho ông bà và cả 2 đều chứng Sơ quả Dự Lưu.

Vợ chồng từ biệt Phật ra về.

Họ bước lên cầu thang leo lên lầu thì về lại nhà họ ở thành Vương Xá.

Sau đó ông trưởng khố Ko-si-a mang hết toàn bộ tài sản của mình làm phúc cúng dường chư tăng.Sau đó Đức Phật đọc bài kệ để khen ngợi Tôn giả Mục Kiền Liên đã khéo léo dùng thần thông hóa độ ông trưởng khố Ko-si-a:"Như ong đến với hoaKhéo léo lấy chút mậtKhông làm hại hương sắcCũng vậy thánh vào làng"(IV-Phẩm Hoa, Pháp Cú 49)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Như ong lấy mậtTa biết ong lấy mật hoa không bao giờ làm hư hỏng hoa.

Chân ong có lông tơ.

Khi ong đậu vào hoa hút mật thì lông tơ ở chân giữ phấn hoa và truyền phấn đó cho các bông hoa khác.

Vậy nên hoa nhờ ong mà thụ phấn, ong nhờ hoa mà có mật.

Hai loài sống lương tựa vào nhau là một hình ảnh đẹp đáng để chúng ta học tập.

Kệ Pháp Cú Phật khen ngợi Tôn giả Mục Kiền Liên khéo léo dùng thần thông hóa độ ông trưởng khố như ong lấy mật.Bài học 2: Hà tiện sao lại giàu?"

Tiểu kinh Nghiệp phân biệt" thuộc Trung Bộ Kinh Nikaya thì Phật ấn chứng: "Ai có nghiệp ki bo keo kiệt thì quả báo đời sau nghèo".

Vậy sao ông trưởng khố Ko-si-a đại keo kiệt mà lại giàu?

Ta chú ý: Nghiệp là ý nghĩ, lời nói, hành động (tam nghiệp) tạo các nhân giống nhau theo năm tháng.

Quả báo của nghiệp hay Nghiệp báo là tập hợp của vô số các quả báo nhỏ do nhân tạo thành.

Do vậy nghiệp quả thì khủng khiếp.

Nên người có nghiệp ki bo keo kiệt thì nghiệp quả đời sau nghèo cả đời.Nhưng ông trưởng khố không hà tiện cả đời.

Ông chỉ hà tiện đến lúc gặp Phật hóa giải nghiệp.

Sau đó ông lấy lại tâm hào phóng cố hữu.

Ông mang toàn bộ tài sản của mình làm phúc, cúng dường chư tăng.Do vậy bản tính của ông không keo kiệt.

Có thể bản tính của ông là hào phóng thích làm phúc nên đời này giàu.

Cũng trong kiếp xưa hào phóng đó thì ông có tâm khinh thường những ai keo kiệt.

"Ghét của nào trời trao của ấy" nên đời này ông giàu nhưng mắc tính keo kiệt.

Nên nhân quả rất khó đoán.

Chỉ khi nào ta chứng A-la-hán, ta có Thiên nhãn minh nhìn thấu suốt luân hồi các kiếp sống mới thấy chính xác nhân nào sinh ra quả nào.Bài học 3: Thần thông của Đức Mục Kiền LiênKinh Hàng Ma thuộc Trung Bộ Kinh Nikaya kể về kiếp xưa của Tôn giả Mục Kiền Liên.

Thời Đức Phật quá khứ thì Tôn giả là Đại ác ma Du-si.

Đại ác ma đã phá hoại tăng đoàn của Phật rồi bị đọa địa ngục nhiều vạn năm.

Đến đời sống này thì tâm Ngài "cải tà quy chính".

Rồi nhờ phúc lớn, duyên lớn nên Ngài được gặp Phật Thích Ca tu hành đắc đạo A-la-hán.Chính vì Đại ác ma Du-si kiếp xưa thần thông vĩ đại làm khuynh đảo tăng đoàn Phật quá khứ.

Thế nên đời này Ngài chứng Thần thông đệ nhất.

Vậy nên năng khiếu của một con người đa phần là năng lực thế mạnh có từ kiếp quá khứ.

Nếu đời sống này họ gặp đúng môi trường thuận lợi thì năng khiếu phát huy tác dụng.

Họ trở thành thần đồng hay thiên tài trong những lĩnh vực thế mạnh kiếp xưa đó.Bài học 4: Thần thông đệ nhất và Trí tuệ đệ nhấtTa chú ý tình tiết cuối của truyện: "Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông chỉ làm ông trưởng khố toát mồ hôi, phục tùng chứ không đắc đạo.

Chỉ đến khi Đức Phật thuyết pháp thì vợ chồng ông mới chứng Sơ quả Dự Lưu.

Sau khi chứng Sơ quả thì vợ chồng dùng toàn bộ gia tài làm phúc cúng dường".Vậy sự thật thần thông chỉ làm chúng sinh hoảng sợ, quy thuận, phục tùng.

Còn để sửa tâm, bỏ lỗi lầm, diệt kiết sử thì bắt buộc phải bằng Đạo lý Chánh pháp khai mở tâm linh...

Khi đắc đạo Sơ quả rồi thì kiết sử thân kiến (ích kỷ) thấp nhất trong 10 Kiết sử bị diệt.

Vị đó khi đó sẽ hết tham mà từ bỏ gia tài.Ta thấy trong chùa luôn có 2 vị hộ pháp là Ông thiện và Ông ác.

Ông ác thì gươm đao, hung tợn, chém giết để chúng sinh hoảng sợ quy thuận.

Sau khi tâm chúng sinh mềm ra thì họ biết lắng nghe.

Khi đó Ông thiện sẽ giảng đạo đức, từ bi, chánh pháp.

Sau khi hiểu đạo lý kẻ đó mới thấy lỗi lầm và sửa lỗi.Thượng thủ tăng toàn Đức Phật cũng là 2 vị Thần thông đệ nhất và Trí tuệ đệ nhất.

Vị Thần thông đệ nhất chuyên giáo hóa những kẻ cứng đầu, bướng bỉnh, không chịu nghe đạo lý.

Kẻ đó bị thần thông làm khiếp sợ mà biết lắng nghe.

Sau đó vị Trí tuệ đệ nhất sẽ dùng đạo lý chánh pháp phân tích cho họ hiểu.

Sau khi họ diệt xong tật xấu kiết sử thì đắc đạo.Bài học 5: Phúc lớn tu đúng là đắc đạo tức thìTa thấy vợ chồng ông trưởng khố Ko-si-a giàu có tức phúc lớn.

Rồi họ có duyên được nghe chánh pháp Đức Phật với tâm tôn kính Phật.

Họ chỉ nghe 1 bài pháp duy nhất của Phật trong đời mà đắc Sơ quả Dự Lưu.

Ta biết vua trời Đế Thích chỉ mới đắc Sơ quả Dự Lưu mà thôi.

Vậy nên phúc lớn, có tâm mong cầu giác ngộ, tìm được chánh pháp thì đắc đạo chỉ sau 1 bài pháp.

Ta hãy nhớ 3 điều này.
 
Back
Top Bottom