Tâm Linh 14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (PC01-PC60)

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
353675381-256-k624104.jpg

14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Tác giả: nikayavoxbox
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (PC01-PC60) Tags: lvt​
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Bìa


Kinh Pháp Cú: HT Thích Minh Châu dịch ViệtTruyện kể bởi: Thượng tọa Thích Chân QuangViết lời bài học: Cư sỹ, thiền sinh Lương Vinh TriTích Pháp Cú(Tập 1: Pháp cú 01 đến 60)Dự thảo 2023 - Lấy ý kiến chỉnh sửa
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Giới thiệu


Tôi là Cư sỹ, Thiền sinh, Lương Vinh Tri (tên thật là: N.M.D sinh 7/1/1978).

Tôi là một Cư sỹ Phật tử tại gia yêu thích và đam mê Phật Pháp.

Thời gian qua tôi đã nghiên cứu và hoàn thiện một số tác phẩm chủ đề Phật giáo, lịch sử, nhân tướng, ca dao tục ngữ...Tôi đặc biệt yêu thích Kinh Nguyên Thủy Nikaya do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch.

Tác phẩm "Lá trong lòng bàn tay" (Trọn bộ 3 tập dày khoảng 1800 trang) là kiến thức tổng hợp của tôi sau thời gian nghiên cứu 2 bộ kinh: Trung Bộ Kinh Nikaya và Trường Bộ Kinh Nikaya.Bộ sách này tôi xin giới thiệu Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh Nikaya (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka).

Kinh Pháp Cú là các bài thi kệ 4 câu, 5 câu hoặc 6 câu.

Mỗi đoạn nói một đại ý nào đó, cô đọng dễ hiểu.

Vậy nên Kinh Pháp Cú được truyền bá rộng rãi trên thế giới.

Đây là quyển Kinh Phật giáo phổ thông nhất được dịch sang nhiều ngôn ngữ nhất trên Thế giới.Kinh Pháp Cú rất dễ hiểu.

Tôi xin lấy ví dụ:"Ai mặc áo cà sa,tâm chưa rời uế trược,không tự chế, không thực,không xứng áo cà sa."

Kệ Pháp Cú trên Phật dạy: "người tu hành mà tâm vẫn còn tham đắm, không chế ngự được tâm, thực không xứng đáng là người tu".Thường các bộ Kinh Phật đa phần có nghĩa lý sâu xa khó hiểu, nhưng riêng Kinh Pháp Cú lại rất đơn sơ dễ hiểu nên ai cũng thích.

Tuy nhiên tùy theo sức triển khai mà ta có thể thấy được vấn đề sâu bên trong của lời kệ Pháp Cú."

Dhamma" nghĩa là "pháp, đạo lý, chân lý", nhưng ở đây có nghĩa chính là "Lời Phật dạy"; "Pada" là "lời nói, câu nói, câu kệ, câu cú".

"Dhammapada" nghĩa là: "Các câu nói Phật dạy" hay dịch ngắn là "Pháp Cú".Ngoài ra còn nghĩa thứ hai.

Trong ngữ văn Pali "Pada" còn có nghĩa là "Bước chân đi", "Dhamma" nghĩa là "Chân lý" .

Do đó, "Dhammapada" được dịch là "Bước về Chân lý".Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là tập hợp 423 bài kệ.

Đức Phật đã nói ra trong nhiều dịp khác nhau suốt 45 năm giáo hóa.

Các bài kệ được sắp xếp trong 26 phẩm, được kết tập trong Đại hội Kết tập Kinh lần thứ nhất diễn ra sau khi Phật nhập diệt 7 ngày.Những lời dạy trong Kinh Pháp Cú của Đức Phật ngắn gọn.

Nhưng phải nhân một sự kiện gì đó, một nhân duyên nào đó, đến lúc, đúng thời thì Phật mới nói Pháp Cú.

Ví dụ: Nhân thắc mắc của một số Tỳ kheo vì chuyện gì đó mà đến hỏi Phật.

Phật giải thích rõ ràng thỏa đáng về câu chuyện đó... cuối cùng Phật kết luận bằng bài kệ Pháp Cú.

Đó chính là "Tích Pháp Cú" và "Kệ Pháp Cú".Do vậy, mỗi "Tích Pháp Cú" đều có 3 phần: Phần I - Kệ Pháp Cú, Phần II - Truyện tích hình thành Pháp Cú, Phần III - Bài học kinh nghiệm.Phần I - Kệ Pháp Cú: được dịch từ tiếng Pali sang Tiếng Việt bởi Hòa Thượng Thích Minh Châu tại Chùa Vạn Hạnh (1969).

Ngài đã dịch sát nghĩa nhất vì muốn giữ nguyên nghĩa gốc của kinh.Phần II - Tích Pháp Cú: do Thượng tọa Thích Chân Quang giảng trong hệ thống bài giảng Kinh Pháp Cú (từ năm 2006 đến 2016).

Tôi nghe Thượng tọa giảng mà chép lại thành văn.Phần III – Bài học kinh nghiệm: Công đức lớn nhất là của Hòa Thượng Thích Minh Châu và Thượng Tọa Thích Chân Quang.

Tôi chỉ có công ghi chép lại lời 2 vị và thêm lời: "Bài học kinh nghiệm" chia sẻ những suy nghĩ cá nhân tôi mà thôi.Thường ta đọc Kinh Phật ta thấy khô khan, khó nhớ, khó thuộc và không hấp dẫn.

Bởi vì 100% lời kinh là lý thuyết triết học với những triết lý thâm sâu khó hiểu.

Lý thuyết cần phải có thực tiễn làm sáng tỏ.

Nhưng sao ta có thể thấy được thực tiễn của lý thuyết Kinh Phật áp dụng vào đời.Xin ví dụ về Luật nhân quả.

Nhân đời này đến nhiều đời nhiều kiếp sau mới hiện thành quả báo.

Ta không thể thấy được nhân quả trong Tam thế nhiều kiếp sống nếu không có Thiên Nhãn Minh.Thật vi diệu thay "Tích Pháp Cú" là những sự kiện cuộc sống xã hội thời Đức Phật thực tế tồn tại.

Các vị Tỳ kheo chưa chứng A-la-hán thấy sự kiện đó và họ thắc mắc.

Họ mang những thắc mắc đó đến hỏi Đức Phật.

Bằng Thiên Nhãn Minh vĩ đại của một vị Phật, bằng trí tuệ vĩ đại của Đức Phật thì Phật đã giải thích thấu tỏ mọi chuyện vượt giới hạn không gian, vượt giới hạn thời gian.Vậy nên "Tích Pháp Cú" theo tôi là "Tác phẩm thực hành Chánh pháp Đức Phật vĩ đại nhất mọi thời đại".

Đây là một tác phẩm bổ trợ không thể thiếu của Đại Tạng Kinh Phật.

Tác phẩm này đã làm sáng tỏ mọi chân lý Chánh Pháp Đức Phật.Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Chương 1: PHẨM SONG YẾU - Pháp cú 01: Truyện Trưởng lão mù


"Tâm dẫn đầu các phápTâm làm chủ tạo tác;Nếu nói hay hành độngVới tâm ý ô nhiễmKhổ não sẽ theo taNhư xe theo ngựa kéo."(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 01)Tích Pháp Cú: Vào thời Đức Phật, có gia đình sinh được hai người con.

Gia đình rất giàu nên để lại gia tài lớn cho hai anh em.

Người anh tên là Tra-cu-pa-la sau khi gặp Phật đã phát tâm xuất gia.

Anh để lại toàn bộ tài sản cho em của mình.Sau khi xuất gia Tra-cu-pa-la tinh tấn tu hành.

Một lần chuẩn bị vào mùa An cư Kiết hạ.

Tôn giả Tra-cu-pa-la dẫn một số vị Tỳ kheo xin Phật đi về một ngôi làng để an cư.

Ngài đến làng xin dân chỉ chỗ đất thuận tiện tu hành.

Dân giới thiệu một rừng cây không xa làng để hàng ngày các Sư vào làng khất thực.Trong buổi nói truyện, Tôn giả dặn dò huynh đệ: "Trong ba tháng an cư ta hãy cố gắng tinh tấn tu hành.

Các vị nên phát nguyện một ý nào đó thích hợp và nghiêm túc thực hiện".

Các Tỳ kheo nghe theo mỗi vị phát nguyện một ý như: Giữ thời khóa, tinh tấn tu hành...

Riêng Tôn giả Tra-cu-pa-la phát nguyện:- Bần đạo sẽ giữ 3 oai nghi đi, đứng, ngồi và sẽ không nằm để được tinh tấn.Kể từ đó Ngài không nằm.

Khi ngủ Ngài cũng trong tư thế kiết già để thực hiện ý nguyện.

Thời gian sau mắt Ngài bị bệnh do thiếu ngủ.

Dân làng nghe truyện bèn dắt đến một thầy thuốc chuyên chữa về mắt.

Sau khi khám bệnh thầy thuốc nói:- Bệnh của Ngài có thể chữa được.Thầy thuốc cho Ngài thuốc và bảo:- Ngài trước khi nằm ngủ thì nhỏ thuốc vào mũi để thuốc ngấm lên mắt sẽ khỏi.Tuần sau thầy thuốc quay lại thấy mắt Ngài vẫn không khỏi.

Thầy thuốc hỏi:- Bệnh của Ngài và thuốc của tôi buộc phải khỏi.

Có một cái gì đó mà Ngài đã không tuân thủ.

Thế khi nhỏ thuốc xong thì Ngài có nằm không?Tôn giả im lặng, hỏi hồi lâu mới biết Ngài không nằm.

Thầy thuốc không khuyên được Tôn giả nên bỏ đi.

Và Tôn giả Tra-cu-pa-la mù.Kết thúc mùa hạ.

Các Tỳ kheo đi về gặp Đức Phật và thưa chuyện Tôn giả Tra-cu-pa-la bị mù.

Truyện đến tai người em.

Người em cho con mình đến đưa bác về để chăm sóc trị bệnh.

Người con trai mang theo cái gậy cầm một đầu.

Tôn giả Tra-cu-pa-la cầm một đầu.

Rồi hai người về nhà.

Đến giữa một khu rừng, cậu con trai gặp một cô gái đẹp.

Người con trai vờ nói:- Bác ngồi nghỉ tạm ở đây con đi lấy nước.Rồi người con trai bỏ theo cô gái.

Trời rừng chuyển chiều rồi tối mà không thấy cậu cháu trở lại.

Tôn giả Tra-cu-pa-la vẫn ngồi đợi.Ngay lúc đó, vua Trời Đế Thích bị động tâm khiến ngai vàng rung rinh.

Ngài nhìn xuống thế gian thấy có vị Trưởng lão chân tu đang gặp nạn giữa rừng.

Ngài hiện hình một người đi đường đến dắt Tôn giả về Tinh xá Phật.

Các Tỳ kheo mới tò mò hỏi Phật là: "một Trưởng lão tinh tấn tu hành, phát đại nguyện không nằm thế sao lại bị mù và lạc giữa rừng?"

Đức Phật kể truyện vào đời xưa, có một bà có 3 người con chồng mất sớm.

Bà bị bệnh về mắt.

Khi đó có ông thầy thuốc đến chữa bệnh cho bà.

Bà nói:- Tôi nhà nghèo không có tiền để trả cho ông.

Nếu ông chữa lành mắt cho tôi, thì tôi và 3 người con sẽ theo hầu hạ ông để đền ơn và trả tiền thuốc.Ông thầy thuốc đồng ý, lấy thuốc phết vào mắt bà sau một tuần mắt bà khỏi.

Bệnh khỏi nhưng bà đó cố tình quên lời hứa.

Ông thầy thuốc nổi giận.

Ông cho bà một loại thuốc bảo:- Bà hãy phết vào mắt sẽ sáng thêm và bệnh cũ không tái phát.Bà làm theo bị mù trở lại.

Ông thầy bỏ đi không quay trở lại.

Sau nhiều đời nhiều kiếp, Ông thầy thuốc đó đều bị quả báo mù.

Nay đầu thai làm Trưởng lão Tra-cu-pa-la gặp Phật tu hành nhưng quả báo mù vẫn không hết.

Sau sự kiện đó Phật nói bài Pháp Cú:"Tâm dẫn đầu các phápTâm làm chủ tạo tác;Nếu nói hay hành độngVới tâm ý ô nhiễmKhổ não sẽ theo taNhư xe theo ngựa kéo".(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 01)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Tam nghiệp là nền tảng của khổ vuiTạo nghiệp có 3 thành tố: Thân - Khẩu - Ý.

Trong đó ý nghiệp (tâm) làm chủ các pháp.

Nếu tâm ý ô nhiễm, tức có ý nghiệp ác độc thì lời nói và hành động sẽ là ác khẩu và ác hành.

Kết quả là toàn bộ tam nghiệp ác độc.

Khổ não sẽ theo ta như xe theo ngựa kéo không thể nào thoát được.Bài học 2: Tu làm Trưởng lão vẫn bị quả báoTa thấy Trưởng lão Tra-cu-pa-la uy đức.

Ngài tu hành tinh tấn đắc đạo... vậy mà nhân đã gieo, quả báo đủ duyên kéo tới thì Ngài chẳng thể thoát.

Thế nên Phật nói: "Khổ não sẽ theo ta như xe theo ngựa kéo".

Tức khổ não sẽ bám dai dẳng sau lưng ta mãi mãi.

Ta chẳng thể thoát khổ nếu nhân ác đã gieo.Thậm chí, đắc đạo thành Phật rồi thì quả báo vẫn tới.

Ta còn nhớ 5 đại nạn của Phật: Bị Đề Bà Đạt Đa hãm hại, nạn thiên đao, nạn mã mạch, bị hoàng hậu Ma-gan-bi-da hãm hại.

Cuối đời Đức Phật bị ngộ độc nấm do thợ rèn Chun-đa vô hình dâng Phật.Sao lại thế?

Bởi vì tiêu chuẩn để nhập Niết Bàn là: Phải trả nợ hết 100% ác nghiệp mới được vào Niết Bàn chấm dứt mọi khổ đau.

Vậy nên các vị A-la-hán kiếp xưa tạo ác nghiệp lớn như Đức Mục Kiền Liên làm đại ác ma Dusi.

Đời này Ngài đắc đạo làm thượng thủ tăng đoàn Đức Phật mà chẳng thể thoát luật Nhân Quả.

Cuối đời Ngài bị bọn cướp giết chết bằng cách chém cho tan tát thân thể.Bài học 3: Giới cấm thủTrưởng lão Tra-cu-pa-la tự đặt cho mình một giới luật mà giới này sẽ đưa đến bệnh tật.

Đó không phải giới do Phật đề ra.

Rồi vị đó quyết tâm tu theo giới đó thì bị mù.Ta cũng hay như vậy.

Ta tự đặt cho ta những điều luật mà ta tưởng nó đúng.

Rồi ta quyết tâm thực hiện để đưa đến hậu quả khổ đau.

Ví dụ: Ta thấy cô gái bị tai nạn giao thông ngã ra đường.

Nhưng vì ta nguyện với lòng tuyệt đối không được chạm vào con gái để giữ thanh tịnh.

Ta bỏ mặc cô gái đó nằm giữa đường.Bài học 4: Tâm thánh tương ưng với tâm trờiTrưởng lão ngồi trong rừng sâu nguy hiểm với đôi mắt bị mù.

Tâm vị đó lo âu kinh động cõi trời.

Vua trời Đế Thích nhìn xuống trần gian rồi ra tay cứu giúp vị đó.

Rất giống tích: "Cô tấm bị mẹ con nhà Cám hành hạ thì cô ngồi khóc.

Bụt hiện lên hỏi "Vì sao con khóc?"

Cô thành thật trả lời sau đó Bụt giúp cô".Vị thánh phúc lớn gặp nạn thì tâm lo âu khiến kinh động cõi trời rồi được trời cứu.

Cô Tấm lương thiện hiền lành gặp cảnh khổ thì kinh động đến Bụt khiến Bụt hiện ra cứu giúp.

Còn kẻ ác tâm tương ưng với quỷ nên trong cảnh khổ thì quỷ hiện ra hành hạ kẻ đó cho khổ hơn.Bài học 5: Tạo tội với kẻ xấu vẫn bị quả báo khổThầy thuốc chữa bệnh cho bà mẹ có 3 đứa con.

Bà nghèo không có tiền nên hứa sẽ cùng 3 con theo hầu để trả tiền thuốc.

Chữa khỏi bệnh thì ba thất hứa bèn bị ông trả thù thành mù như cũ.Vậy bà đó thất hứa là bà có tội.

Thầy thuốc đã trả lại nguyên bản mắt mù cho bà như xưa.

Sao ông bị tội?

Tội của ông là ở tâm ác.

"Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ tạo tác" nên là trọng tội.Thứ nhất: ông chữa bệnh cho bà không phải ông mong bà khỏi bệnh mà ông muốn có người hầu.

Khi ông chữa bệnh với tâm muốn có người hầu thì ông không có phúc.

Thứ hai: Khi ông làm bà mù thì tâm ông sân hận mong bà đau khổ.

Tâm sân hận của ông muốn hại người đau khổ là tâm ác.

Chính vì không có phúc mà chỉ có tội nên ông bị quả báo khổ.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 02: Truyện người tôn kính Phật


"Tâm dẫn đầu các pháp, Tâm là chủ tạo tác, Nếu nói hay hành động, Với tâm hồn thanh tịnh, Hạnh phúc sẽ theo ta, Như bóng không rời hình."(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 02)Tích Pháp Cú: Vào thời Đức Phật, có gia đình ông trưởng giả giàu có.

Nhưng ông cực kỳ hà tiện.

Ông giàu vì bóc lột thiên hạ thành giàu.Ông có người con trai duy nhất tên là Ma-ca-du-ca-ly.

Ông rất thương yêu cậu.

Tuy thương vậy nhưng không bao giờ ông muốn tốn tiền.

Ma-ca-du-ca-ly lớn lên thành cậu thanh niên.

Cậu không may bị bệnh nặng.

Vợ bảo ông gọi thầy thuốc.

Ông hà tiện sợ tốn tiền nên nói:- Không sao đâu, ít bữa nữa nó hết bệnh thôi mà.Vợ tức giận khóc lóc than thở mà ông vẫn không gọi thầy.

Đến khi Ma-ca-du-ca-ly gần chết.

Ông bèn cho mang giường con trai đặt ở sân hi vọng có thầy thuốc nào đi qua thấy thương giúp đỡ mà ông không phải trả tiền.Sáng hôm đó Đức Phật dạy sớm ngồi thiền.

Trong định Phật dùng Phật nhãn quan sát thế gian xem duyên nghiệp chúng sinh.

Phật xác định ngày hôm nay đến duyên độ ai hay làm gì.

Phật thấy người con trai của gia chủ bần tiện tới duyên và bệnh gần chết.

Phật ôm bình bát đi về hướng gia đình đó.Thanh niên Ma-ca-du-ca-ly đang tủi thân.

Chàng buồn vì người cha giàu có keo kiệt.

Chàng nằm quay mặt vào trong và ấm ức nên không thấy Phật.

Đức Phật dùng thần thông phát hào quang.

Ma-ca-du-ca-ly chợt thấy một vầng ánh sáng chói lòa sau lưng.Anh rên khe khẽ quay người ra ngoài mở mắt nhìn.

Anh nhìn thấy Đức Phật từ xa đi tới theo sau Phật là các Tỳ kheo oai nghi uy đức.

Đức Phật bước đi như ánh mặt trời rực rỡ, như tòa núi châu báu đẹp đẽ rực sáng, như voi chúa đang đi trên mây.Lòng Ma-ca-du-ca-ly xúc động trào dâng và khởi tâm tôn kính Phật tuyệt đối.

Anh chỉ nói được một câu:- Con xin dâng lên Người lòng tôn kính trọn vẹn.Rồi tắt thở.

Anh lập tức sinh lên trên cõi trời.

Khi người cha trở ra thấy con đã chết.

Ông gào khóc than thở nhưng chợt nhớ đến phải tốn tiền mua quan tài làm ma chay thì ông ngừng khóc.Ma-ca-du-ca-ly trên Thiên giới nhìn xuống thấy cha mình với tâm bần tiện không đổi.

Anh hiện hình xuống trần gian giải thích cho cha và khuyên cha nên khởi tâm lành từ bỏ tính bần tiện.Trưởng giả hỏi con:- Do đâu mà con được sinh lên cõi trời?Con trả lời:- Do con đã khởi tâm tôn kính Đức Phật tuyệt đối.

Sau khi mạng chung con được sinh cõi trời.Câu chuyện đó đồn rầm rầm trong dân.

Các Tỳ kheo chưa đắc đạo nghe câu chuyện đó thì bán tín bán nghi và hỏi Đức Phật.

Phật xác nhận đúng như vậy.

Nhân điều đó Phật nói bài Pháp Cú:"Tâm dẫn đầu các pháp, Tâm là chủ tạo tác, Nếu nói hay hành động, Với tâm hồn thanh tịnh, Hạnh phúc sẽ theo ta, Như bóng không rời hình."(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 02)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Tam nghiệp là gốc của khổ vuiTạo nghiệp là: Ý nghiệp – Khẩu nghiệp – Hành nghiệp.

Trong đó ý nghiệp hay tâm ý sẽ làm chủ các pháp.

Nếu tâm ý lành thiện, ý nghiệp thanh tịnh thì lời nói và hành động sẽ là thiện khẩu và thiện hành.

Kết quả, hạnh phúc sẽ theo ta như bóng không rời hình.

Đó là nguyên tắc của Nhân Quả.Bài học 2: Hà tiện cả với vợ con sao lại giàu?Ta thấy kỳ lạ vì có kẻ hà tiện với mọi người kể cả vợ con.

Thế sao lại giàu?

Theo "Tiểu Kinh Nghiệp phân biệt" thuộc Trung bộ kinh Nikaya, Phật nói rằng: "Ai có nghiệp ki bo, keo kiệt, hà tiệt thì quả báo đời sau nghèo".

Ta đặc biệt chú ý "Đời sau".

Tức nếu hà tiện thì đời sau nghèo chứ không phải hà tiện thì đời này nghèo luôn.

Vậy có thể đời trước ông không hà tiện.

Ông chỉ mới học được tính xấu hà tiện trong đời này mà thôi.Bài học 3: Tôn kính Phật đủ phúc sinh thiênTâm chàng Ma-ca-du-ca-ly tôn kính Phật tuyệt đối thì chàng có đủ phúc sinh thiên giới.

Nên vào thời Đức Phật chỉ cần nhìn thấy Phật và tăng đoàn, rồi khởi tâm tôn kính là được sinh thiên.

Trong Thiên cung sự kinh (Vimanavatthu) tập 6 Tiểu Bộ kinh (Khuddàka Nikàya) kể truyện đức Mục Kiền Liên dùng thần thông vân du cõi trời.

Tôn giả thấy trên đó toàn là Phật Tử.

Còn thời nay tu vất vả, tạo bao nhiêu công đức lành mà chưa chắc đã sinh thiên.

Bởi vì sao?

Bởi vì miệng thì ta niệm Phật như cái máy còn tâm thì lạnh nhạt hờ hững.

Thậm chí một số người còn chẳng biết Phật là ai.

Hoặc nếu có biết cũng chẳng thật sự tôn kính Phật nhiều lắm.

Do ta không hiểu trí tuệ Phật, không nể đạo đức Phật mà thôi.Bài học 4: Phật biết mọi truyệnTrong Kinh Sa Môn Quả thuộc Trường Bộ Kinh Nikaya, Phật ấn chứng một vị A-la-hán sẽ có đủ 6 loại Thần thông: (1) Thân như ý túc thông: Tâm vị đó nghĩ gì thì thân hiện ra như ý. (2) Tha tâm thông: Tâm vị đó biết tâm các chúng sinh trong Luân hồi. (3) Thiên nhĩ thông: Vị đó có thể nghe được tiếng nói của quỷ thần. (4) Thiên Nhãn Minh: Vị đó thấy được tam thế (quá khứ, hiện tại, tương lai) các kiếp sống của chúng sinh. (5) Túc Mạng Minh: Vị đó thấy rõ tam thế các kiếp sống của bản thân. (6) Lậu Tận Minh: Lậu là cấu uế, ô nhiễm.

Lậu Tận Minh là vị đó diệt sạch mọi cấu uế trong tâm tức diệt sạch Kiết sử đắc A-la-hán.Thường để khởi được Lục Thông thì các vị A-la-hán phải nhập vào trong định.

Nếu các vị tâm không nhập định thì Lục Thông không khởi.Do vậy truyện tích Pháp Cú 56 ta sẽ thấy: "Đức Maha Ca Diếp sau khi nhập Diệt Tận Định 7 ngày thì Ngài xả thiền và Ngài đói.

Khi đó các Chư Thiên đã đứng xếp hàng cúng dường đồ ăn cho Tôn giả.

Tôn giả không nhận vì Ngài muốn nhường phúc cúng dường đó cho kẻ nghèo.

Rồi Ngài đi đến căn nhà lá rách nát nhận đồ ăn của vợ chồng nghèo.

Đồ ăn đó vừa được xới vào bình bát thì mùi hương bay ngào ngạt khắp nơi.

Tôn giả định tâm nhìn lại thì hóa ra là Thiên chủ Đế Thích và vợ là Thiện Sanh hóa thành".

Tức A-la-hán nếu không nhập định vẫn bị lừa.Còn Đức Phật thì luôn có Định Thọ Mạng 24/7.

Nên bất kỳ ai hỏi gì thì Phật đều thấu suốt Tam thế và trả lời ngay tức thì chứ không cần nhập định.

Kinh Đại Bát Niết Bàn nói rằng: "3 tháng trước khi nhập Niết Bàn thì Phật đồng ý lời thỉnh cầu của Đại Ác Ma Mara mà bỏ Định Thọ Mạng.

Ngay lúc đó thì mười ngàn thế giới rúng động.

Sau đó Phật bị ngộ độc nấm độc từ đồ ăn của người thợ rèn Chunđa dâng cúng.

Bởi vì Phật không còn Định Thọ Mạng bảo vệ".
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 03, 04: Truyện em họ của Phật


"Nó mắng tôi, đánh tôiNó hại tôi, cướp tôiAi ôm ấp niệm ấyHận thù không thể nguôi."(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 03)"Nó mắng tôi, đánh tôiNó hại tôi, cướp tôiKhông ôm ấp niệm ấyHận thù sẽ tự nguôi."(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 04)Tích Pháp Cú: Đức Phật có người em trai họ tên là Tuýt Sa là hoàng tộc.

Ông hơn 50 tuổi mới xuất gia.

Sau khi xuất gia, ông ỷ là em của Phật nên kiêu mạn.

Ông không xử sự theo phép tắc tăng đoàn là người tu sau phải kính trọng người tu trước dù người đó lớn hay nhỏ tuổi (tính theo tuổi đạo để phân biệt lớn nhỏ, ngày nay vẫn vậy).Trong hội chúng đông, ông thường ngồi hàng ghế đầu ngay trước Phật.

Đi trong tăng đoàn thì ông hay đi trước.

Nhiều người phiền lòng nhưng các Tỳ kheo vị tha nên bỏ qua không chấp.Một lần, có một Trưởng lão ở xa về lại tăng đoàn.

Ngài thấy Tuýt Sa lớn tuổi ngồi bệ vệ ở giữa nên nghĩ: "đây là một Trưởng lão đắc đạo nào đó mà ta không biết".

Vị này đến đảnh lễ và hỏi:- Hiền giả đã xuất gia bao lâu?Tuýt Sa đáp:- Tôi mới xuất gia 2,3 tháng trước.Vị Tỳ kheo liền trách:- Nếu ông như vậy thì ông không được ngồi đây và khi một Tỳ kheo khác đảnh lễ ông phải biết từ chối, Ông không được vô lễ như vậy.Tuýt Sa liền dãy nảy:- Các người mắng tôi, các người coi thường tôi, tôi sẽ đi mách Phật.Sau khi biết sự tình Đức Phật bảo Tuýt Sa:- Đúng rồi!

Em có lỗi thì phải xin lỗi.Tuýt Sa vẫn dãy nảy:- Thưa không!

Thà nói đoàng hoàng chứ mắng chửi vậy em không chịu.Đức Phật khuyên bảo thêm nhưng Tuýt Sa vẫn không chịu mà vùng vằng bỏ về phòng.Các Tỳ kheo thấy như vậy bèn hỏi Phật:- Bạch Thế Tôn, vì nguyên cớ gì mà Tuýt Sa cứng đầu ương ngạnh kì lạ vậy?Đức Phật nói:- Thật ra, không phải mới đời này.

Từ các kiếp xưa người này đã ương ngạnh cứng đầu.Sau đó Đức Phật kể lại nhân duyên quá khứ:Thời xưa, lúc đó cũng có những vị đạo sĩ.

Trong thành nọ, có một đạo sĩ phương xa tên là Đê-va-la.

Ông mới vào thành nên đã hỏi người dân:- Thưa hiền sĩ, khi có những người Sa môn phương xa đến thành này, tối đến họ thường tá túc tại đâu?Dân chỉ ông đến nhà người thợ gốm tốt bụng hay giúp đỡ người tu hành.

Đê-va-la hỏi đường đến nhà thợ gốm đó.

Đến nơi ông hỏi:- Thưa hiền hữu gia chủ, tôi là đạo sĩ phương xa đi ngang qua đây thì trời tối.

Nếu không có gì trở ngại thì hiền hữu xin cho tôi được tá túc qua đêm.Người thợ gốm đồng ý:- Ban ngày nhà tôi bừa bộn, nhưng ban đêm dọn dẹp gọn gàng và người làm về hết thì nhà tôi khá rộng.

Tôi xin mời hiền giả ở lại.Không bao lâu sau lại có một Đạo sĩ thứ hai tới tên là La-ga-đa cũng nói với thợ gốm:- Tôi ở phương xa lỡ đường đến đây thì trời tối, vậy nên xin được ở lại tá túc nhờ gia chủ một đêm.Người thợ gốm nói:- Thưa hiền giả, trước hiền giả đã có một Đạo sĩ đến đây xin ở lại.

Để tôi hỏi vị ấy.

Nếu vị ấy đồng ý thì mời hiền giả ở lại.Chủ nhà vào hỏi, Đê-va-la hoan hỉ đồng ý.Đến buổi đêm, La-ga-đa ngồi thiền xong thì đi ra ngoài kinh hành.

Đạo sĩ Đê-va-la, không biết lý do gì lại nằm giữa cửa để ngủ.

Trời tối đen như mực.

La-ga-đa bước qua cửa dẵm đúng đầu Đê-va-la.

Đê-va-la la lối om xòm khiến La-ga-đa vô cùng hối hận xin lỗi.Khi La-ga-đa đi kinh hành về bước qua cửa trời vẫn tối đen.

La-ga-đa nhớ vị trí đầu Đê-va-la lần trước nên tránh mà bước sang vị trí khác.

Không ngờ Đê-va-la đã quay lộn đầu từ lúc nào.

Lần này La-ga-đa dẵm trúng cổ Đê-va-la.Đê-va-la la làng:- Trời ơi, anh ác quá, anh hại tôi, anh giết tôi...La-ga-đa rất khổ sở và xin lỗi mãi không được.Thật ra, Đê-va-la có khả năng đoán trước sự việc.

Và ông có cái tật thích làm điều gì đó để người khác mắc lỗi để trách móc.

Đây là loại bệnh kì lạ.Đêm đó Đê-va-la quậy phá la lối trách móc khiến cả hàng xóm quanh nhà thợ gốm thức giấc.

Đê-va-la thời đó là Tuýt Sa ngày nay.

Đến bây giờ tật đó vẫn thế.

Nhân đó Đức Phật đọc bài Pháp Cú:"Nó mắng tôi, đánh tôiNó hại tôi, cướp tôiAi ôm ấp niệm ấyHận thù không thể nguôi".(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 03)"Nó mắng tôi, đánh tôiNó hại tôi, cướp tôiKhông ôm ấp niệm ấyHận thù sẽ tự nguôi".(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 04)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Lòng thù hậnAi ôm giữ niệm "nó đánh tôi mắng tôi, nó hại tôi cướp tôi" thì hận thù không thể nguôi.

Kẻ đó luôn đổ lỗi cho người.

Kẻ đó luôn thấy người là xấu ác, hại ta, cướp ta, giết ta từ đó thành sân hận.

Tâm sân hận ngược với lòng từ bi yêu thương con người.

Họ luôn thấy người là tốt đẹp, đáng quý, đáng thương.

Theo kinh Hàng Ma thuộc Trung Bộ Kinh thì tâm sân hận là tâm ác ma.

Ác ma luôn sân hận và kiêu mạn.

Còn tâm từ bi là tâm các vị thánh hay tâm của bồ tát.Bài học 2: Tật xấu kiết sửTa thấy Ngài Tuýt Sa có tật xấu kiêu mạn.

Ngài tự coi mình là em Phật.

Rồi bị Trưởng lão khiển trách thì sân hận, khóc lóc, hờn giận...

Tật xấu đó đeo bám Ngài từ nhiều kiếp quá khứ đến nay chưa không diệt.

Quá khứ Ngài thích làm người ta mắc lỗi rồi vu oan giá họa khiến kẻ đó khốn khổ.

Đó là tật xấu kiết sử: Thân kiến và Kiêu mạn.

Kiết sử bám dính với chúng sinh mãi mãi trong luân hồi.

Để diệt kiết sử không có phương pháp gì ngoài thiền định.Bài học 3: Nhân quả nền tảng triết học Phật giáoTa thấy Phật luôn nói về các nguyên nhân sâu xa ở kiếp xưa dẫn đến quả báo hiện tại.

Bởi vì Phật có Thiên Nhãn Minh thuần tịnh siêu nhiên của một vị Phật.

Phật thấy rõ nhân quá khứ kiếp xưa đưa đến quả báo ở hiện tại như ta thấy lòng bàn tay ta vậy.

Do vậy, trong truyện tích Pháp Cú ta hay thấy Phật luôn nói về nguyên nhân kiếp xưa ra sao nên hiện tại thành như vậy.

Ta buộc phải tin vì để có thể thấy được Nhân quả nhiều đời đó, ta phải chứng A-la-hán có Thiên nhãn minh.

Khi đó trong định ta sẽ thấy rõ ràng nhân quả nhiều đời diễn ra.

Nếu ta chưa chứng A-la-hán, ta buộc phải coi Nhân quả mà Phật nói ra là tiên đề nền tảng của triết học Phật Giáo.Bài học 4: Kẻ ngu si hay kiêu mạnTa thấy Phật vĩ đại thì vô ngã.

Còn em họ Phật Tuýt Sa chưa đắc đạo.

Vị đó mới xuất gia 2, 3 tháng.

Tuýt Sa tự thấy mình là em Phật mà tự thấy mình vĩ đại.

Ngài tự cho mình cái quyền làm điều này điều khác không màng luật lệ.

Đây là tâm lý thường tình của thế gian: "Kiêu mạn là bản tính của kẻ ngu si.

Khiêm hạ là bản tính của người trí tuệ".Bài học 5: Kẻ ác vẫn có thần thôngĐê-va-la là người tu đắc thần thông có khả năng tiên đoán tương lai.

Vị đó tiên đoán được đúng vị trí dẵm chân của La-ga-đa mà tạo ra sự cố.

Thế nên tu đắc đạo có thần thông không có nghĩa là thánh.

Cho nên Đại Ác Ma có thần thông vĩ đại nhưng tâm ác cũng vĩ đại.

Ta nên nhớ: "Thần thông do phúc mang tới.

Mà phúc không chắc do đức mang tới.

Đôi khi có phúc bởi cấp trên ép buộc.

Hoặc do may mắn có cơ hội tạo phúc nhưng bản chất tâm thì ác.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 05: Truyện 2 kẻ lấy oán báo oán


"Lửa nào tắt được lửa?Thù nào diệt được thù?Tình thương diệt thù hậnLà định luật ngàn thu"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 05)Tích Pháp Cú: Trước thời Đức Phật tại thế, có một ông yêu một cô gái.

Nhưng bà mẹ lại chọn cô khác để cưới.

Ông bèn xin mẹ cưới cô gái ông yêu và mẹ chiều lòng con trai.Tiếc rằng cô vợ đó không có con.

Rồi bà mẹ bắt đầu đay nghiến con trai.

Bà ép ông phải cưới thêm vợ khác.

Ông đành vâng lời mẹ.

Cô vợ hai sau đó có bầu.

Cô cả sợ cô hai có con sẽ giành hết tình thương yêu trong gia đình.

Khi đó cô cả không con sẽ như một người đầy tớ trong gia đình.Vợ cả bèn bày mưu kế.

Cô bí mật trộn thuốc vào đồ ăn cho cô hai ăn làm hư thai.

Thai thứ nhất hỏng, thai thứ hai hỏng.

Đến cái thai thứ ba thì cô hai phát hiện âm mưu cô cả và họ giết nhau cùng chết.Kiếp sau cô hai đầu thai thành con mèo.

Cô cả đầu thai làm con gà.

Con gà đẻ quả trứng nào đều bị mèo ăn sạch.

Kiếp sau nữa thì con gà đầu thai thành con beo.

Con mèo đầu thai thành con nai.

Con nai đẻ ra đứa con nào thì con beo lại ăn thịt hết sạch.Kiếp sau nữa vào thời Đức Phật.

Con nai đầu thai làm quỷ Dạ xoa.

Con beo đầu thai thành cô gái con nhà giàu.

Rồi quỷ Dạ xoa cứ rình cô gái đó đẻ con ra là nó ăn thịt.

Một lần cô gái đẻ ra một đứa con và biết Quỷ Dạ xoa đang tìm cách ăn thịt nó.

Cô bồng đứa bé chạy trốn vào Tinh xá Phật.Quỷ Dạ xoa chạy theo đến cửa thì bị Hộ pháp chặn lại.

Đức Phật bảo Hộ pháp cho Quỷ Dạ xoa vào.

Đức Phật bảo Quỷ Dạ xoa hiện nguyên hình.

Đức Phật khuyên:- Các ngươi hết kiếp này đến kiếp kia cứ thù oán nhau như vậy chừng nào oán mới dứt?Đức Phật đọc bài kệ Pháp Cú để răn hai người:"Lửa nào tắt được lửa?Thù nào diệt được thù?Tình thương diệt thù hậnLà định luật ngàn thu".(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 05)Đức Phật đọc xong bài kệ thì Dạ xoa chứng Quả Dự Lưu.

Đức Phật thấy Dạ xoa chứng thánh quả đầu tiên và không còn sân hận.

Phật bảo cô gái đưa đứa con cho Dạ xoa bồng.

Cô gái không chịu vì sợ đứa con sẽ bị quỷ ăn thịt.

Phật nói:- Hãy tin lời Như Lai.Nhờ thần lực trong câu nói đó mà cô gái đã đưa con cho Dạ xoa.

Quỷ Dạ xoa ôm đứa bé một cách thương yêu trong lòng.

Lúc lâu rồi Quỷ trả lại cô gái.

Trước Phật họ hứa làm bạn tốt với nhau mãi mãi.Sau đó Dạ xoa nói:- Trước đây, vì lòng thù hận mà con không để ý chỗ ở.

Giờ con nhìn lại thấy con không hề có chỗ ở.Cô gái nói:- Chị hãy về nhà em.

Em sẽ để chị ở trên gác.

Mỗi ngày em sẽ cúng thức ăn cho chị.Quỷ Dạ xoa đồng ý.

Rồi Đức Phật chúc lành hai chị em.

Từ đó Dạ xoa bí mật ở trên gác nhà cô gái.Quỷ Dạ xoa tâm linh minh mẫn còn chứng Thánh quả nên có thần thông.

Dạ xoa biết được chuyện tương lai.

Dạ xoa đã ngầm giúp cô gái làm ăn phát đạt.

Rồi người làm thuê ở nhà cô ngày càng đông.

Tiếng gia xúc, gia cầm, tiếng lúa gạo, xay xát... liên tục làm động tâm quỷ Dạ xoa trên gác.Quỷ Dạ xoa hiện hình nói với cô gái:- Công việc của em bây giờ nhiều và người làm đông đúc.

Nó khiến chị bị động tâm không thể tiếp tục ở trên gác được.Cô gái nói:- Thế chị ở tạm cây đa đầu làng.

Mỗi ngày em đưa thức ăn tới cúng chị.Hai chị em càng ngày càng gắn bó.

Quỷ Dạ xoa thường hay tư vấn cho cô gái:- Năm nay trời sẽ mưa lụt.

Em đừng trồng lúa dưới thấp mà nên trồng trên gò cao.Năm khác Dạ xoa lại khuyên:- Năm nay trời hạn lớn, em đừng trồng lúa trên gò cao mà nên trồng ở thung lũng thấp.Lâu sau, dân làng sinh nghi ngờ vì cô gái đó quá may mắn.

Họ đến gặng hỏi.

Cô gái bèn nói thật:- Tôi nhờ một cô quỷ Dạ xoa mách nước.Dân làng nói:- Vậy cô hãy cho chúng tôi biết cách thức.

Chúng ta sẽ cùng nhau cúng cho quỷ Dạ xoa ăn.Từ đó cả làng sống thanh bình hạnh phúc cùng cô quỷ Dạ xoa trên cây đa đầu làng.Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Tình thương diệt hận thù."

Lửa nào dập được lửa?

Thù nào dập được thù?"

Sự thù hận như ngọn lửa thiêu đốt trong lòng chúng ta.

Lửa không thể dập tắt được lửa.

Thù hận tích lũy không thể xóa bỏ được hận thù.

Chỉ có thể "Tình thương diệt hận thù là định luật ngàn thu".

Tình thương như nước mát, êm ái, mềm mại... nhưng lại có thể dập tắt được lửa hận thù.

Đó là quy luật tự nhiên của vũ trụ.Bài học 2: Sự tham lam ác độc đánh mất trí khônCô vợ cả chỉ vì sợ không được chồng yêu là cái lợi nhỏ.

Cô ta nhẫn tâm giết hại 3 đứa trẻ trong bụng mẹ là tội ác lớn.

Tâm lý con người chúng ta luôn như vậy.

Lòng tham lam, ác độc đánh cắp trí khôn ta. nên ta hay dùng cái hại lớn đổi lấy lợi ích nhỏ.Giống như tội cướp của là tội nhỏ.

Kẻ đó có thể bị phạt phạt tiền hoặc bị tù ngắn hạn.

Nhưng tên cướp khi thấy nạn nhân hô hoán thì lao vào giết người bịt miệng.

Tội giết người cướp của là tử hình.

Hoặc tội hiếp dâm có mức án phạt 7 năm tù.

Thế nhưng thực hiện xong hành vi đồi bại thì kẻ đó giết người bịt miệng cũng sẽ bị tử hình.Bài học 3: Oan oan tương báo mãi không dứt"Lửa không thể dập được lửa.

Thù không thể tắt được thù".

Do vậy nếu dùng thù hận đáp trả sự thù hận thì oan oan tương báo mãi mãi không dứt.

Hận thù đó sẽ kéo từ kiếp này đến kiếp khác mãi mãi trong luân hồi.

"Chỉ tình thương diệt hận thù mới có thể chấm dứt được sự thù hận".Đạo Phật có phép tu "Nhẫn nhục Ba-la-mật".

Ta biết mọi đau khổ đến với ta đều xuất phát từ nguyên nhân ác nghiệp quá khứ của ta.

Nay đủ duyên thì quả báo tới ta nên bình an đón nhận.

Nhưng làm thế nào biết đủ duyên hay không?

Ta hãy cố gắng hết sức mà không thể thoát thì đó là duyên.

Khi đó ta hãy bình an đón nhận định nghiệp.

Ta không nên thù hận.Ta nhớ, Đức Mục Kiền Liên thấy bọn cướp tìm giết Ngài.

Ngài đã 6 lần dùng thần thông biến mất trước mặt bọn cướp chính là sự nỗ lực.

Đến lần thứ 7 Ngài bình an đón nhận quả báo vì đó là định nghiệp.

Còn năm 1193 có 3000 vị tu sĩ ở Nalanda thấy 100 tên lính Hồi giáo mang gươm vào.

Các vị lại ngồi đó để chúng chém giết mà không hề cố gắng là sai.

Sau sự kiện đó toàn bộ Phật giáo Ấn Độ diệt vong.Còn kẻ tạo tội với ta thì tương lai sẽ nhận quả báo mà không thể nào thoát.

Cứ khi duyên hội đủ thì kẻ đó sẽ chịu tội theo quy luật tự nhiên.

Ta không nên thù hận kẻ đó thành ra "oan oan tương báo".

Sau đó ta và họ chém giết nhau mãi mãi trong luân hồi không thể nào thoát ra.Điều này rất khó nhưng Việt Nam ta làm tốt.

Thời Mỹ đánh ta thì tổng khối lượng bom đạn Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam gấp 3 lần toàn bộ khối lượng bom đạn trong Thế chiến II của toàn bộ thế giới.

Nhưng ta không hề khuất phục mà cố gắng với "ý chí sắt đá" đánh đuổi Mỹ.

Khi hòa bình rồi thì ta không hề thù hận họ.

Ta vẫn bắt tay làm ăn với họ nhưng ta vẫn hiểu bản chất của Mỹ là thế nào.Bài học 4: Tín ngưỡng thờ thần ở Việt NamTa thấy cô gái giúp quỷ Dạ xoa nơi ăn chỗ ở.

Rồi quỷ Dạ xoa giúp lại cô gái làm ăn phát đạt.

Nó rất giống với phong tục thờ thần ở Việt Nam.

Quỷ Dạ xoa chính là một vị thần như các vị công đồng, thánh cô, thánh cậu... trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.Dân gian Việt Nam thấy ma quỷ ở đâu hiển linh thì lập miếu thờ tại đó để thờ gọi là đền, miếu.

Đó chính là đền thờ quỷ Dạ xoa vô danh.

Rồi Dạ xoa lại giúp dân nơi đó làm ăn phát đạt.

Do vậy đạo Phật rất thuận với tâm linh tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Vì sao lại như vậy?

Bởi vì chân lý chỉ có một mà thôi.Bài học 5: Năng lực quỷ thần là Thần thôngTa thấy trong Kinh Hàng Ma thuộc Trung Bộ Kinh Nikaya.

Đại Ác Ma Dusi năng lực thần thông vĩ đại đã quậy phá tăng đoàn Đức Phật quá khứ.

Sau đó Dusi bị đọa địa ngục nhiều vạn năm.

Đến nay cải tà quy chính đủ duyên gặp Phật Thích Ca tu đắc đạo làm Đức Mục Kiền Liên Đệ nhất Thần thông.Do vậy, năng lực Quỷ Thần chính là Thần Thông.

Còn năng lực cõi Người và cõi Trời là trí tuệ.

Vậy nên Đức Phật được tôn xưng là "Thầy của Trời Người".

Vì chỉ có cõi Người và cõi Trời mới có học tập, tư duy, trí tuệ.

Còn cõi Quỷ Thần thì Phật không dạy được do họ quá kiêu ngạo.

Phúc của thần lớn tự dưng sinh ra năng lực thần thông lớn.

Còn suy luận, tư duy Logic của Quỷ Thần kém xa con người.Ngoài ra, ta còn thấy quỷ Dạ xoa có năng lực dự báo tương lai.

Đó chính là thần thông gọi là Thiên Nhãn Minh.

Do vậy, nhà tiên tri nào nếu bằng linh cảm thấy được tương lai thì đó là thần thông.

Nhà tiên tri nào bằng các thuật toán huyền bí, kinh dịch, độn pháp, tử vi lý số, chiêm tinh... thấy trước tương lai thì đó là trí tuệ.

Thần thông có thể đúng, có thể sai, lúc linh, lúc không linh.

Còn trí tuệ thì mãi mãi vẫn là trí tuệ như 1+1 bằng 2 vậy.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 06: Truyện Phật bỏ vào rừng 3 tháng hạ


"Hơn thua nhau bởi vìQuên rằng ai cũng chếtNếu biết chết đang chờCòn tranh cãi làm chi !"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 06)Đây là sự kiện lớn trong cuộc đời Đức Phật.

Khi đó tăng đoàn mâu thuẫn tranh cãi quyết liệt từ một việc nhỏ không đáng có.

Phật khuyên bảo không được.

Phật bỏ vào rừng và ở trong đó suốt ba tháng hạ.Tích Pháp Cú: Thời Đức Phật có nhiều vị Tỳ kheo tu theo các chuyên môn khác nhau.

Có vị chuyên về giáo thọ là giảng đạo lý.

Những vị đó gọi là Pháp sư và quản lý hội chúng chuyên tu học giáo lý.

Có vị chuyên hành trì giới luật.

Những vị đó gọi là Luật sư và quản lý hội chúng chuyên tu học giới luật.Một mùa hạ Đức Phật đến xứ Gô-si-ta của nước Cô-xăm-bi.

Người ở Tinh xá với nhóm chư tăng gồm cả pháp sư và luật sư.

Hôm đó, một vị pháp sư có sơ hở về giới luật.

Vị đó tắm xong còn dư ít nước trong chậu.Sau đó có một vị luật sư vào tắm.

Vị ấy thấy pháp sư tắm trước để ngửa chậu dư ít nước.

Đây là phạm giới luật: "Khi tắm phải dùng hết nước, đặt nghiêng chậu để chậu khô và sạch".

Vị luận sư quay ra hỏi vị pháp sư:- Thưa hiền giả, có phải hiền giả vừa tắm xong chăng?- Thưa phải, tôi vừa tắm xong.- Có phải hiền giả để ngửa chậu còn chút nước chăng?- Thưa phải, tôi có để ngửa chậu còn chút nước.- Vậy hiền giả có biết đó là lỗi chăng?- Dạ vâng, bây giờ tôi mới biết là lỗi.

Nhưng lúc để tôi không biết là lỗi.

Nay tôi xin xám hối.- Không sao, nếu hiền giả biết lỗi và đã xám hối thì tội đã diệt sạch.Hai vị chào nhau.

Chuyện tưởng như xong, nhưng đoạn sau mới thành vấn đề.Pháp sư, luật sư đó đều là các vị tăng uy đức có 500-600 đệ tử theo học.

Khi vị luật sư đi ra thì nói với đệ tử mình rằng:- Vị pháp sư đó coi như vậy mà phạm giới luật Phật.

Nhưng lại còn không biết đó là lỗi.Sự thật đúng như vậy: Lúc phạm giới luật vị pháp sư kia không biết đó là lỗi vì lỗi đó quá bé.

Đoạn sau đó, vị pháp sư đã biết lỗi và đã xám hối.

Vị luật sư đã chứng nhận là pháp sư sạch tội thì vị luật sư không nói cho đệ tử.Các đệ tử sau đó đi nói lại với người khác:- Vị pháp sư đó phạm lỗi mà không nhận lỗi!Tin đó nhanh chóng lan rộng ra trong tăng chúng chuyền đến tai pháp sư.

Vị ấy ngạc nhiên nghĩ: "Lần đó mình đã nhận lỗi, xin lỗi, xám hối, vị luật sư đó cũng nói là sạch tội rồi.

Sao có truyện này xảy ra?"

Vị pháp sư đó bèn nói với đệ tử mình rằng:- Vị luật sư kia nói dối.

Thầy có nhận lỗi và xám hối, vị luật sư còn xác nhận là sạch tội.

Vậy giờ sao lại nói như vậy?

Ông ấy là luật sư mà nói dối.Rồi hai bên cãi nhau.

Trong Tinh xá giới tăng sĩ chia làm hai phe tranh cãi nhau quyết liệt.

Cư sĩ đến thấy truyện lạ, sau khi nghe xong sự tình cũng chia hai phe cãi nhau bên đúng bên sai.

Chư Thiên trên trời thấy dưới hạ giới cãi nhau thì động tâm dò xét sự việc.

Sau khi biết sự việc thì Chư Thiên cũng chia làm hai phe cãi nhau.

Các Tỳ kheo đắc đạo đến thưa với Phật.

Chuyện ban đầu rất nhỏ nhưng bây giờ đã gây chia rẽ toàn bộ tăng đoàn, cư sĩ, đến tận các tầng trời.

Phật đến và nói với họ:- Này các Tỳ kheo hãy hòa hợp, hãy đoàn kết, hãy ngừng sự tranh cãi ở đây.Đức Phật nói lần thứ nhất họ vẫn cãi nhau.Đức Phật nói lần thứ hai họ quay ra nói với Phật:- Bạch Thế tôn, Thế tôn đã già rồi cứ lo tu, việc này để tụi con xử.Đức Phật khuyên họ:- Này các ông, các ông là những người mang ánh sáng đạo lý chiếu soi thế gian.

Nhưng chuyện rất nhỏ mà không thể đoàn kết được sao dạy ai được?

Sao làm chỗ nương tựa cho trời và người được?Phật nói gì thì nói nhưng các vị vẫn khăng khăng:- Bạch thế tôn, Thế tôn già rồi cứ lo tu, việc này để tụi con xử cho ra nhẽ, không thể thế này được.Hôm sau, Đức Phật đi khất thực.

Người đi và không quay về Tinh xá.

Phật đi thăm Trưởng lão Paru và giảng một bài pháp cho Trưởng lão.Sau đó Phật đi đến khu rừng Sừng Bò gặp ba vị Tôn giả A-la-hán.

Người nói bài kinh "Sống hòa hợp hay Tiểu kinh rừng Sừng Bò".

Sau đó Đức Phật thọ kí rằng: "Từ đây cho đến vĩnh kiếp về sau, ai nghe tới tên ba vị Tôn giả Kim-bi-la, A-lu-ru-đa, Nan-đi-a thì sẽ được nhiều điều may mắn trong cuộc sống và có được sự hòa hợp".Do vậy, nếu gia đình ta có bất hòa nếu ta nhớ mà niệm danh hiệu ba vị Tôn giả đó sẽ được hòa hợp.

Đó là lời Đức Phật ấn chứng trong kinh.Sau đó, Phật từ giã ba vị Tôn giả đi đến khu rừng nguyên sinh Pa-ri-lây-gia-ca.

Phật ở một mình trong rừng suốt mùa hè.

Tuy Phật sống độc cư trong rừng nhưng phúc của Phật sẽ không bao giờ người ở một mình mà không được sự hầu hạ.Khi đó một con voi chúa tuệ giác hơn người đi đến hầu Đức Phật.

Von chúa với tâm linh minh mẫn đã hầu Phật như một người đầy tớ trung thành cẩn thận trong ba tháng hè.Và một con khỉ chúa tâm linh cảm ứng thấy được sự vĩ đại của Phật.

Nó cũng đến xin hầu Phật.

Sau khi được Phật đồng ý thì nó sung sướng nhảy nhót và một cái cây gãy đâm vào đầu rồi chết.

Sau khi chết khỉ được sinh cõi trời.

Đó là do nó có đủ phúc lành vì tâm cung kính Phật.

Đức Phật sống trong rừng Pa-ri-lây-gia-ca suốt ba tháng hạ.Khi đó ở Tinh xá Gô-si-ta các cư sĩ Phật tử phát hiện Đức Phật ra đi mà không từ giã một lời.

Các cư sĩ mới hỏi:- Thế Tôn đã đi rồi, vì sao?Các Tỳ kheo trả lời:- Thế Tôn bảo chúng tôi hãy ngừng tranh cãi và hãy sống hòa hợp.

Nhưng chúng tôi không làm được.

Nên Thế Tôn đã ra đi.Cư sĩ tức giận:- Các Ngài đã hứa xuất gia theo Thế Tôn là đem thân mạng mình thờ Thế Tôn.

Vậy mà một lời dạy của Thế Tôn các Ngài không nghe.

Các Ngài không xứng đáng được hưởng sự cúng dường của chúng tôi.

Đừng bao giờ đến gặp chúng tôi nữa.Từ đó Phật tử không mang đồ tới cúng.

Tỳ kheo bị nói mà chẳng thể đi khất thực.

Suốt ba tháng hạ các Tỳ kheo chỉ ở trong tăng xá đói gần chết.

Lúc đó các vị mới hối hận.

Từ một việc vô cùng nhỏ dẫn đến cãi nhau.

Phật khuyên can cũng không được nên Phật bỏ đi.

Cư sĩ tức giận không cúng cho ăn.

Bây giờ thì đói gần chết.Ta chú ý: Giới luật quy định trong ba tháng hạ tăng đoàn không ai được đi khỏi Tinh xá hay chuyển đến nơi khác.

Nên các vị không thể đi tìm Phật hay rời đi nơi khác ở.Hết ba tháng hạ.

Tỳ kheo rời Tinh xá đi tìm Phật.

Ngài A-Nan dẫn các Tỳ kheo ở Gô-si-ta đi đến chỗ Đức Phật trong rừng nguyên sinh Pa-ri-lây-gia-ca.

Vì các vị thánh chứng đạo đều có tâm cảm ứng và biết rõ vị trí nhau.Đến bờ rừng.

Đức A-Nan bảo các vị đứng ngoài.

Ngài đi vào đảnh lễ Phật xin Phật tha lỗi cho Tỳ kheo ở Gô-si-ta.

Các vị đó đã biết lỗi và bị bỏ đói suốt ba tháng hạ.

Xin Đức Phật cho các vị được xám hối.Đức Phật đồng ý bảo Tôn giả A-nan cho các Tỳ kheo vào.

Rồi Đức Phật dạy họ bằng bài Pháp Cú:"Hơn thua nhau bởi vìQuên rằng ai cũng chếtNếu biết chết đang chờCòn tranh cãi làm chi!"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 06)Bài Pháp Cú là Phật trách móc và nhắc nhở các Tỳ kheo rất chính xác, đúng thực tế, đúng hoàn cảnh các vị suýt chết đói.

Bản năng hơn thua hiếu thắng sẽ chịu thua bản năng sinh tồn.

Khi chết đói rồi thì hết cãi nhau hơn thua đúng sai.

Cũng một phần lúc đó tâm Tỳ kheo đã xuống cấp trầm trọng.

Nên Phật chỉ nói một bài kệ đơn giản dễ hiểu với đạo lý cơ bản: Vô thường và cái chết.Khi Đức Phật ra khỏi rừng thì voi chúa muốn đi theo Phật và Phật nói:- Không, con phải ở lại.

Con không thể sống với con người được.

Đây là lần cuối ta gặp con.

Trong kiếp này con không thể gặp ta nữa.

Và trong kiếp này con không thể chứng được thiền định nào hay bất kì một thánh quả nào.Voi chúa quỳ xuống lạy Phật từ biệt Phật.

Đoàn Tỳ kheo ôm bình bát ra đi.

Voi đứng nhìn Phật đi khuất rồi vỡ tim mà chết vì quá đau buồn.

Voi chúa được sinh cõi trời vì công đức nó đã làm và lòng tôn kính Phật của nó.Khi Đức Phật dẫn đoàn Tỳ kheo về.

Đoàn người đi vào sứ Kô-sa-la của vua Ba Tư Nặc.

Vua Ba Tư Nặc nghe tin có đoàn Tỳ kheo Gô-si-ta tới.

Vua kéo quân đến chặn cấm không cho các Tỳ kheo bước vào quốc gia mình.

Khi vua gặp Phật.

Vua liền xuống voi và quỳ lạy Phật:- Bạch Thế Tôn, đây có phải những Tỳ kheo mà ba tháng hạ đã tranh cãi nhau dữ dội hay không?Đức Phật nói:- Phải.- Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn cho phép con cấm không cho những vị này vào lãnh thổ của con.Đức Phật mới nói:- Này Đại Vương, các vị đó đã biết lỗi, đã sám hối và đã hòa hợp.

Nay Đại Vương hãy tha lỗi cho họ.Lúc đó vua Ba Tư Nặc mới rút quân về mà cho đoàn Tỳ kheo Gô-si-ta đi vào lãnh thổ Ko-sa-la.Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Ai ai cũng bị cái chết đang chờNếu ta luôn quán chiếu "tương lai ta sẽ chết".

Một người vô thần, không tin nhân quả, không tin luân hồi hay đời sống tâm linh thì họ sẽ lao vào hưởng thụ.

Họ sợ chết là hết mà còn bao món "của ngon vật lạ thế gian" chưa được hưởng.Một người tin nhân quả, tin luân hồi thì họ tìm mọi cách để tu hành, giúp đời, tích phúc.

Vì họ sợ chết rồi không có cơ hội tạo phúc nữa.

Nếu thiếu phúc thì hết kiếp người họ sẽ đọa vào 3 đường ác đạo: Địa ngục, Súc sinh, Ngã quỷ.Ta thấy Đức Phật dùng hình ảnh "Cái chết" để cảnh tỉnh các tu sỹ biết đạo.

Cái chết đã khiến các vị chuyên tâm tu hành, tích phúc.

Nếu Phật dùng "Cái chết" để cảnh tỉnh kẻ vô thần, không tin tâm linh luân hồi thì phản tác dụng.Bài học 2: Có tín đồ lớn mà làm sai thì đại họaVị Pháp sư có 500 đệ tử và vài ngàn cư sỹ tu theo.

Vị đó làm sai, khuyến khích, kích động đệ tử cư sỹ nói xấu nhau thì vỡ toang tăng đoàn Đức Phật.

Ta thấy, thời đó đạo đức tăng đoàn Phật Thích Ca là cao tột vì có Phật và rất nhiều các vị thánh nhân A-la-hán.

Vậy mà tăng đoàn vĩ đại đó vẫn cứ toang.Còn thời nay, Sư có 1,2 triệu follow trên mạng xã hội đả kích nói xấu Sư có 1,5 triệu follow.

Rồi họ đả kích nhau qua lại một hồi thế là Đạo Phật Việt Nam toang.

Chắc các bạn có thể đoán biết được tôi đang nói về 2 vị nào đó.Bài học 3: Ẩn ác dương thiệnTa thấy việc phạm giới của vị Pháp sư kể trên rất chi là nhỏ "như mắt muỗi".

Khi tắm vị đó vô tình để ngửa chậu có ít nước thừa.

Nhưng truyện đó bị lôi ra bàn tán kích động thì vỡ tan tăng đoàn Đức Phật.

Do vậy ta không nên "Chuyện bé xé ra to".

Những lỗi lầm nhỏ bé có thể bỏ qua thì hãy bỏ qua để được bình an.Văn hóa phương đông có đạo lý "Ẩn ác dương thiện".

Khổng Tử khuyên rằng: "Tốt đẹp hãy bày ra, xấu xa nên che lại" chính là vậy.

Khi cái xấu được nói nhiều, bàn tán rộng thì cái xấu thành bình thường, thành tiêu chuẩn của xã hội.

Đó là điều nguy hiểm.

Ta hãy nói nhiều về điều thiện để điều thiện thành phổ biến, thành tiêu chuẩn của xã hội.

Khi đó điều ác thành kỳ lạ, khác thường, lập dị, khủng khiếp...

Và dần dần điều ác sẽ tự tan biến vì không có đất sống.Bài học 4: Tật xấu hiếu thắngKhông biết cãi nhau thì người thắng được gì?

Nhưng chắc chắn sẽ tan cửa nát nhà và đánh mất tình cảm.

Sau đó là sự thù hận và nội tâm kích động.

Sau đó có thể sẽ đánh nhau, giết nhau hoặc âm mưu quỷ kế hại nhau chết.Bài học 5: Thiền định diệt Kiết sửHiếu thắng, ghen tị, đố kị, tật đố, hiềm khích... là kiết sử Thân kiến thấp nhất trong 10 Kiết sử.

Ta biết chứng Chánh niệm tỉnh giác diệt 5 Triền cái thì đắc Sơ quả dự lưu.

Vị thánh Sơ quả diệt xong kiết sử Thân kiến.

Vậy mà 2 vị pháp sư, luật sư có ngàn đệ tử lại chưa diệt được Thân kiến.

Bởi vì họ chuyên nghiên cứu kinh và học giới luật chứ không tu thiền diệt kiết sử.

Vậy nên kiết sử Thân kiến thấp kém nhất các vị vẫn còn thành ra hiếu thắng.Bài học 6: Dân chúng là Hộ phápDạy đạo đức cho dân là người tu.

Nhưng để nuôi dưỡng người tu lại là dân chúng.

Dân chúng chính là hộ pháp giám sát các sư tu đúng hay sai.

Nên dân thấy các sư tu sai đạo đức thì phải mạnh dạn làm hộ pháp.

Phật tử phải khẳng định không cúng dường cho sư vô đạo.

Hoặc có quyền lớn như vua Ba Tư Nặc cấm cửa không cho sư vào thành.

Khi đó chánh pháp mới vững.

Nếu ta thấy sư sai mà vẫn dung túng là "nối giáo cho giặc".

Ta đã và đang góp phần phá đạo.Bài học 7: Cõi trời chưa có Chánh kiếnCõi trời các vị vẫn chưa có Chánh kiến và vẫn cãi nhau inh ỏi.

Ở đó các vị chỉ có phúc lớn nên môi trường thuận lợi để hưởng phúc mà thôi.

Đó không phải là cõi có chân lý trí tuệ.Bài học 8: Súc sinh phúc lớn vẫn sinh thiênSúc sinh tạo phúc lớn vẫn sinh thiên như khỉ chúa, voi chúa vậy.

Trong tín ngưỡng tâm linh dân tộc Việt thì những linh vật như Cụ rùa Hồ Gươm vẫn được thờ như một vị Thần.

Cá voi được người đi biển thờ gọi là Cá Ông.

Hay trong huyền thoại có thần Kim Quy tặng An Dương Vương móng làm nẫy nỏ.

Do vậy súc sinh phúc lớn vẫn được làm thần tiên.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 07, 08: Truyện Tiểu hắc, Đại hắc


"Ai sống nhìn tịnh tướngKhông hộ trì các cănĂn uống thiếu tiết độBiếng nhác chẳng tinh cầnMa uy hiếp kẻ ấyNhư cây yếu trước gió"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 07)"Ai sống quán bất tịnhKhéo hộ trì các cănĂn uống có tiết độCó lòng tin, tinh cầnMa không uy hiếp đượcNhư núi đá trước gió"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 08)Tích Pháp Cú: Có ba anh em nhà kia gọi là: "Ba anh em thằng đen".

Ma-ha-ca-la là Đại Hắc, Ma-si-ca-la là Trung Hắc, Chun-ca-ca-la là Tiểu Hắc.Ba anh em làm nghề buôn bán.

Anh cả và em út nhận trách nhiệm buôn chuyến đi xa.

Đoàn buôn rất đông người.

Có những cỗ xe bò lớn trở hàng hóa.

Có nhiều người phục vụ làm thuê.

Có những người đi theo để bảo vệ.

Đoàn buôn đi xuyên quốc gia này sang quốc gia khác.

Trung Hắc thì ở nhà trông coi cửa hàng rộng lớn và buôn bán tại đô thị.

Ba anh em đều giàu có và Đại Hắc có tới 8 bà vợ.Một hôm đoàn buôn Đại Hắc Tiểu Hắc đi từ thành Sê-ta-ri-a qua thành Xá Vệ (Sa-va-ti) gần Kì Viên.

Đoàn xe bò hàng trăm chiếc đang đi thì thấy rất đông người cầm phẩm vật mặc áo nghiêm trang chạy trước mặt khiến họ phải dừng lại.

Đại Hắc tò mò hỏi:- Các hiền hữu đi đâu, mà nghiêm trang thế?Đoàn người đáp:- Chúng tôi đến Kỳ Viên để đảnh lễ cúng dường Đức Thế Tôn và nghe pháp.Bỗng nhiên Đại Hắc rúng động toàn thân vì duyên xưa tác động.

Đại Hắc nói với Tiểu Hắc:- Em coi đoàn xe.

Anh đi Kỳ Viên coi Đức Thế Tôn ra sao?Tiểu Hắc chưa biết ra làm sao thì Đại Hắc đã nhảy xuống xe mặc vội đồ đẹp và chạy theo đoàn người.Đến nơi Đại Hắc hòa lẫn trong đoàn người ngồi nghe pháp.

Hôm đó đặc biệt Đức Phật chỉ nhìn mặt Đại Hắc mà thuyết pháp.

Phật nói về sự nguy hiểm của dục lạc thế gian trúng tâm lý Đại Hắc có 8 bà vợ.

Đại Hắc giác ngộ ngay lúc đó mà xin xuất gia.Đức Phật hỏi:- Con còn cha mẹ không?- Dạ, cha mẹ chúng con đã mất.- Vậy con còn ai là người thân?- Dạ con còn hai đứa em.

Đứa ở nhà coi cửa hàng.

Đứa đi theo đoàn buôn.- Vậy con về nói với em con sự tình.Đại Hắc đảnh lễ Phật và đi về thấy đoàn xe vẫn chờ Đại Hắc ở cửa Tinh xá.

Đại Hắc nói với em:- Bây giờ anh giao hết tài sản cho em và Trung Hắc anh đi xuất gia.Tiểu Hắc hốt hoảng:- Trời ơi!

Anh làm thế sao được?

Em làm sao lo được nếu không có anh.Đại Hắc vẫn cương quyết giao hết tài sản cho hai em để xuất gia.

Tiểu Hắc không biết làm sao.

Từ trước đến giờ chàng hoàn toàn dựa vào anh.

Bây giờ không có anh thì chàng không biết làm sao.

Nghĩ một lúc Tiểu Hắc quay sang nói với người thân cận:- Các ngươi đưa hết đoàn xe này về.

Ta cũng đi xuất gia luôn.Và vội vàng chạy theo anh.Khi tu hành thì người anh giác ngộ nên tinh tấn.

Người em vì cả đời lệ thuộc vào anh nên đi theo anh xuất gia.

Cậu không mến đạo nên tu khổ sở.

Thấy tín nữ xinh đẹp vào Tinh xá nghe pháp thì Tiểu Hắc ngồi xuýt xoa, thèm thuồng...

Các Tỳ kheo khác rất phiền lòng.

Nhưng Tiểu Hắc mới tập sự nên không ai trách.Trước khi thọ giới Tỳ kheo Đại Hắc bạch Đức Phật:- Bạch Thế Tôn, để làm trọn bổn phận người Sa môn thì có những Pháp tu như thế nào?Đức Phật nói:- Có hai Pháp, một là Pháp Tu, hai là Pháp Hành.- Bạch Thế Tôn, con đã lớn tuổi nên học không được nhiều.

Con đã biết một số giáo lý căn bản mà Thế Tôn dạy.

Nay con xin được tinh tấn thực hành.

Nhược điểm của con là từ trước đến giờ con sống trong dục lạc.

Vậy nên con muốn tập trung vào đề mục Thiền Quán Thân.Đức Phật bảo Đại Hắc đến bãi tha ma để thực hành.

Đại Hắc đến đó thực hành Thiền quán tử thi.

Ta chú ý: trong Kinh Thân Hành Niệm thì Quán tử thi là phép quán cao nhất của Thiền Quán Thân.

Cuối kinh Thân Hành Niệm thì Phật ấn chứng ai tu theo kinh sẽ đắc Lục thông A-la-hán.Trong bãi tha ma có người quản trang.

Khi người thân đưa xác đến sẽ dặn dò quản trang làm những điều theo ý nguyện gia đình.

Hoặc đưa tiền làm hỏa thiêu.

Nếu gia đình nghèo không có tiền mua củi hỏa thiêu thì cắt nhỏ xác cho Kền Kền ăn là điểu táng.Quản trang là một bà lão.

Bà thấy có vị Sa môn thấp thoáng ở gốc cây này, bụi cây kia.

Bà đến hỏi chuyện và hiểu rõ ý muốn được Quán tử thi.

Bà dặn:- Trước khi đến đây để Quán tử thi thì Ngài phải báo mấy nơi:Thứ nhất báo tôi là người quản lý ở đây.

Thứ hai báo người quản lý Tinh xá của Ngài để họ biết Ngài đi đâu.

Thứ ba báo cho ông trưởng ấp vì ở đây hay có trộm.

Sau khi ăn trộm xong thì chúng chạy vào bãi tha ma dấu đồ và ra tay không để không bị bắt.

Thời gian sau nó đến nơi dấu đồ rồi mang đồ về.

Báo trưởng ấp để chứng minh rằng Ngài trong sạch.Đại Hắc đồng ý và dặn bà lão:- Nếu có xác thiêu nào bà thấy thích hợp hãy gọi cho tôi.Hôm đó có một cô gái con nhà giàu xinh đẹp nhưng chết sớm.

Gia đình đưa đến và gửi tiền nhờ bà thiêu.

Bà gọi Ngài đến.

Bà xếp củi đặt xác lên giàn, làm nghi thức và tháo bộ quần áo bên ngoài để cho người khác cần dùng.Ngài quán tử thi bị thiêu: Lớp da ngoài bong ra, mỡ chảy lỏng rỏ xuống, toàn thân cháy đen nhăn nhúm, xác co giật... rồi chỉ còn bộ xương... thêm nữa thì xương mục thành bụi.Đại Hắc ghi nhớ hình ảnh đó để thực hành thiền quán chiếu.

Ngài từ biệt bà lão về một góc vắng và thiền quán thấy rõ Vô thường: Sinh - già - bệnh - chết, rồi sau cái chết thì xác thân bị thiêu cháy đen tan thành cát bụi...

Không lâu sau thì Ngài đắc A-la-hán.

Ngài trở về gặp Đức Phật.Hôm sau Phật bảo tăng đoàn về Sê-ta-ri-a quê hương của Đại Hắc để giáo hóa.

Đại Hắc, Tiểu Hắc cũng đi cùng tăng đoàn.

Mọi người không biết Đại Hắc đã đắc đạo trừ các vị A-la-hán và Đức Phật.Đến Sê-ta-ri-a vợ Tiểu Hắc muốn lôi kéo chồng hoàn tục.

Họ đến thỉnh Phật xin được cúng dường trai tăng.

Đức Phật đồng ý.

Phật cho Tiểu Hắc đi về chuẩn bị xắp xếp.

Buổi sáng đi, chiều thấy Tiểu Hắc mặc đồ cư sĩ đi về Tinh xá báo Phật: "Con đã xắp xếp xong".

Rồi chàng trở về nhà ở luôn.

Thời đó người mới tập sự chưa thọ giới hoàn tục là bình thường.Sau khi trai tăng xong, 8 bà vợ của Đại Hắc học theo vợ Tiểu Hắc.

Họ cũng thỉnh Đức Phật trai tăng vào một bữa khác ở nhà Đại Hắc.Phật đồng ý và chỉ định Tỳ kheo khác về nhà Đại Hắc xắp xếp.

Trai tăng xong mọi người về hết chỉ còn Đại Hắc ở lại.

Tám bà vợ Đại Hắc quay lại lôi kéo Ngài.

Đại Hắc dùng thần thông bay xuyên nóc nhà.Mọi người ra về các Tỳ kheo bàn tán:- Hôm trước, Thế Tôn cho Tiểu Hắc ở nhà thì Tiểu Hắc hoàn tục.

Hôm nay để Đại Hắc ở lại sau buổi trai tăng không biết có chuyện gì không?Đoàn người về lại Tinh xá.

Đức Phật chuẩn bị thuyết pháp thì mọi người thấy Đại Hắc bay xuống từ hư không đến trước mặt Phật quỳ xuống đảnh lễ Phật.

Lúc đó Đức Phật mới tán thán Đại Hắc là người đã đắc chánh quả.

Khi đó Phật nói bài kệ Pháp Cú:"Ai sống nhìn tịnh tướngKhông hộ trì các cănĂn uống thiếu tiết độBiếng nhác chẳng tinh cầnMa uy hiếp kẻ ấyNhư cây yếu trước gió"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 07)"Ai sống quán bất tịnhKhéo hộ trì các cănĂn uống có tiết độCó lòng tin, tinh cầnMa không uy hiếp đượcNhư núi đá trước gió"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 08)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Tịnh tướng và Bất tịnh tướngCơ thể con người chúng ta bản chất là bất tịnh.

Cơ thể ta là tứ đại: đất, nước, gió, lửa hợp thành.

Xương, tóc, lông, móng, răng, thịt da, gân cơ, máu mủ, huyết tương, đờm rãi, ruột rà, phủ tạng, não bộ, thức ăn chưa tiêu hóa, thứ tiêu tiểu chưa bài tiết...

đó là đất và nước.

Trong thân có hơi thở cung cấp oxi duy trì sự sống là gió.

Trong thân có hơi nóng 37 độ C là lửa (thân nhiệt).

Cơ thể mọi sinh vật sống đều cấu tạo từ đất, nước, gió, lửa.

Dù đó là con giòi, con muỗi cho đến con voi, con hổ.

Thậm chí, cả thực vật như cây cối cũng có sự trao đổi khí và có thân nhiệt.

Do vậy cơ thể con người cũng như cơ thể mọi loài khác bản chất là bất tịnh.

Ta chỉ khác các loài khác là phúc loài người lớn hơn, trí tuệ vĩ đại hơn, đạo đức từ bi hơn và tâm linh minh mẫn hơn mà thôi.Còn ai nhìn thấy thân thể là đẹp đẽ, nõn nà, non tơ, sức sống, hấp dẫn, ngọt thịt, thơm da... tức thấy cơ thể là tịnh tướng thì sẽ động dục và ham muốn tình dục.

Phật gọi đó là "Kẻ sống nhìn tịnh tướng".Chú ý: Dù ta thấy cơ thể bản thân ta hay cơ thể người khác giới là tịnh tướng thì đều bị động dục.

Do vậy chị em ăn mặc hở hang khoe ngực, khoe mông... khiến anh em bị động dục.

Thế nhưng chính chị em cũng đã và đang bị động dục.

Thế nên Hồi Giáo cấm tiệt việc ăn mặc hở hang này.

Chị em Hồi Giáo ra đường là kín từ đầu đến chân hở mỗi 2 con mắt.Bài học 2: Hộ trì các cănCăn có 6 căn gọi là Lục Căn: Tai, Mắt, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý thức.

Và 6 thành phần ngoại cảnh tiếp xúc 6 căn gọi là Lục Nhập hay Lục Xúc: âm thanh, hình ảnh, hương thơm, vị đồ ăn, nóng lạnh thô mịn, pháp đúng sai.

Vậy Lục căn hợp với Lục nhập là: 1- Tai nghe âm thanh.

2- Mắt nhìn hình ảnh.

3- Mũi ngửi hương.

4- Lưỡi nếm vị.

5- Thân xúc chạm cảm giác.

6- Ý nghĩ các pháp đúng sai.

Ở đây một vị có 6 căn: Tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý thanh tịnh không khởi niệm động dục, tránh xa tham dục thì Phật gọi là: "Kẻ khéo hộ trì các căn".Do vậy, giai đoạn đầu tu hành thì việc tránh xa người khác giới, tai không nghe âm thanh tình dục, mắt không thấy hình ảnh gợi dục, mũi không ngửi hương thơm kích dục, lưỡi không nếm đồ ăn kích dục, thân thể không xúc chạm người khác giới, tâm không nghĩ tình dục là quan trọng nhất để tu thanh tịnh dục.Ngược lại, ai sống "không khéo hộ trì các căn" tức: Tai nghe âm thanh tình dục, lời lẽ kích dục.

Mắt thấy hình ảnh hở hang thiếu vải, lõa thể.

Mũi ngửi hương người khác giới.

Lưỡi nếm đồ ăn kích dục như hải sản, rượu bia.

Cơ thể xúc chạm gần gũi khác giới.

Ý nghĩ cảnh trong phim 18+.

Kẻ đó không thể tu.

Họ chỉ có tham đắm trong tình dục mà thôi.Bài học 3: Ăn uống có tiết độVấn đề "ăn uống có tiết độ" ảnh hưởng lớn đến tu hành thanh tịnh.

Dân gian nói rằng: "Ăn no rửng mỡ đi tìm của lạ" là vì vậy.

Các loài vật cứ khi nào nguồn thức ăn đầy đủ thì bầy đàn đó phát triển số lượng.

Vì chúng ăn no rồi tình dục nhiều đẻ con nhiều.

Loài người cũng vậy, cứ "Ăn no phè phỡn thì rửng mỡ đi tìm của lạ".

Ăn no thì nhu cầu quan hệ tình dục tăng để sinh con đẻ cái phát triển bầy đàn.

Đó là bản năng tự nhiên của muôn loài.Do vậy ăn uống cần tiết độ.

Thời Đức Phật, sư ngày ăn 1 bữa trước ngọ để tiết giảm ăn uống.

Chú ý: thời đó sư vẫn ăn mặn vì dân cho gì ăn nấy không được chọn.

Thời nay, sư ăn chay thanh tịnh để giảm đạm giảm ham muốn tình dục.

Mục đích chính là không bị: "Ăn no rửng mỡ đi tìm của lạ".Bài học 4: Có lòng tin tinh cầnNgười "Có lòng tin tinh cần" và kẻ "Biếng nhác chẳng tinh cần" là 2 loại người: 1- Chăm chỉ tu hành và tin sâu Phật pháp.

2- Lười biếng không tu, không tin Phật pháp.

Người tu hành thanh tịnh, từ bi, khiêm hạ thì "Đức trọng quỷ thần kinh".

Ma quỷ không uy hiếm được họ, trái lại còn nể sợ họ.

Còn người không tu, tham đắm tình dục, sân hận, kiêu mạn... thì bị ma quỷ quy hiếp tinh thần.Bài học 5: Phúc lớn và tu Thiền đúng thì đắc đạoTa thấy Đại Hắc phúc lớn, tài sản lớn, tiền bạc nhiều và có tới 8 bà vợ.

Đại Hắc phát nguyện từ bỏ phúc thế gian dồn phúc vào tu hành.

Thêm nữa, Đại Hắc có duyên gặp Đức Phật tu theo lời Phật dạy thì đắc đạo A-la-hán.

Ta mới thấy "Phúc lớn mà bỏ phúc thế gian đi tu.

Có duyên gặp Chánh Pháp thì đắc đạo".Do vậy 2 yếu tố: Phúc lớn và Chánh pháp là then chốt để đắc đạo.

Phúc lớn như Thái Tử Cồ Đàm mà tu sai 6 năm không đắc đạo.

Nhưng cũng phúc lớn đó tu đúng Chánh Pháp thì 49 ngày là đắc đạo thành Phật.

Thời Đức Phật thì 100% những điều Phật giảng là Chánh Pháp.

Thế nhưng chỉ số ít các vị đắc A-la-hán.

Chính là vì phúc không đủ.Bài học 6: Ma trong Pháp Cú là Ma tình dụcTa thấy Pháp Cú Phật nói về: "Ma uy hiếp kẻ đó, như cây yếu trước gió".

Mà toàn bộ truyện ta chẳng thấy Ma đâu?

Thật ra Ma mà Phật nói chính là Ma tham dục trong tâm chúng ta.

Ma chính là 2 bà vợ của Tiểu Hắc và 8 bà vợ của Đại Hắc.Tôi thấy trong Tây Du Ký, Đường Tăng luôn bị Ma Nam tìm cách ăn thịt.

Còn các Ma Nữ thì thích tấm thân trong trắng thanh tịnh của sư.

Đó là sự thật: "Sư tu hành luôn bị Ma Vương tìm cách chiếm tâm và luôn bị Ma nữ tham dục quyến rũ".Để diệt Ma thì Phật dạy Sư rằng: "1- Thiền quán thân bất tịnh.

2- Khéo hộ trì các căn.

3- Ăn uống có tiết độ.

4- Có lòng tin tinh cần.

Khi đó Ma không uy hiếp được.

Vị đó như núi đá trước gió".

Nếu không sư sẽ chỉ như "Cây yếu trước gió mà thôi".Bài học 7: Phân biệt chủng tộc là sai chánh phápTa thấy "Ba anh em thằng đen" với màu da đen "hạ đẳng" theo quan niệm của "Kẻ phân biệt chủng tộc".

Vậy mà Đại Hắc có phúc lớn, giàu sang, có 8 bà vợ.

Rồi Đại Hắc tu theo Phật thì đắc đạo A-la-hán có thần thông bay lượn trên trời.Ở truyện tích Pháp Cú 47: "Truyện về vua Ba Tư Nặc và dòng họ Thích Ca diệt vong" ta cũng thấy: Vua Ba Tư Nặc vĩ đại, thông minh, trí tuệ, quyền uy của đại quốc Ko-sa-la có màu da đen.

Và dòng họ Thích Ca có màu da trắng.

Và họ phân biệt chủng tộc khinh thường vua của đại quốc nhưng da đen.

Khi vua Ba Tư Nặc cầu hôn công chúa dòng họ Thích Ca để lấy lòng Đức Phật.

Dòng họ Thích Ca đã gả con rơi của vua Thích Ca với người hầu gái.

Họ nói dối là công chúa.

Kết quả là vua Lưu Ly, con trai của vua Ba Tư Nặc với "công chúa giả" đã sân hận.

Vua Lưu Ly mang quân giết sạch toàn bộ dòng họ Thích Ca.Vậy nên màu da không quyết định kẻ đó cao sang hay hèn kém.

Chỉ có Phúc mới quyết định kẻ đó cao sang hay hèn kém.

Phúc kém thì đọa địa ngục, súc sinh, ngã quỷ chứ không được làm người.

Phúc lớn thì làm người giàu sang, phú quý.

Phúc lớn nữa nữa thì sinh cõi trời hưởng hạnh phúc vĩ đại.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 09, 10: Truyện Đề-bà-đạt-đa không xứng áo cà sa


"Ai mặc áo Cà saTâm chưa rời uế trượcKhông tự chế, không thậtKhông xứng áo Cà sa"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 09)"Ai rời bỏ uế trượcGiới luật khéo nghiêm trìTự chế sống chân thậtThật xứng áo Cà sa"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 10)Tích Pháp Cú: Lần đó hai Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên dẫn theo 1000 Tỳ kheo đi về thành Vương Xá.

Trong lần thuyết pháp Ngài Xá Lợi Phất giảng về Nhân quả của hạnh bố thí.

Ngài nói:- Nếu người nào đó thường hay bố thí.

Nhưng họ không khuyên người khác bố thí.

Đời sau kẻ đó sẽ giàu có nhưng cô độc.

Quanh họ không có thân quyến.- Người nào không làm hạnh bố thí.

Nhưng họ lại hay khuyên người khác bố thí.

Đời sau họ không giàu nhưng lại có nhiều quyến thuộc giàu và họ được người thân giúp đỡ.- Người nào không bố thí và cũng không khuyên người khác bố thí.

Đời sau vừa nghèo vừa cô độc.- Người nào vừa bố thí, vừa khuyên người khác bố thí.

Kiếp sau giàu có và nhiều quyến thuộc.Ngài giảng vậy với nghĩa lý sáng tỏ, mang lợi ích cho nhiều người ở thành Vương Xá.

Dân chúng cảm kích bàn nhau làm lễ cúng dường trai tăng.

Lần này toàn bộ dân chúng quyên tiền góp sức ủng hộ.

Không như các lần trước đó là chỉ một người giàu bỏ tiền.Có một ông nhà giàu nọ có xấp vải quý được ông ướp hương hoa.

Ông ta muốn cúng dường cho Tôn giả nào xứng đáng nhất.Một người khuyên ông cúng cho Tôn giả Xá Lợi Phất.

Người khác lại bàn rằng Tôn giả Xá Lợi Phất hiếm khi đến đây.

Chi bằng cúng cho Đề-bà-đạt-đa vì Ngài đến đây thường xuyên và thân thiết hơn.Và rồi Đề-bà-đạt-đa có y mới.

Ngài đi dạo quanh thành suốt ngày.

Không biết tại sao Ngài khoác y mới, với vải thượng hạng, với tay nghề thợ khéo nhất kinh thành mà không hề đẹp.Mọi người ngạc nhiên bàn tán: "Tấm y vô cùng đẹp và quý báu nhưng sao Ngài Đề-bà-đạt-đa đắp lên mình lại không hề thấy đẹp?"

Các Tỳ kheo chưa đắc đạo mới mang chuyện đó hỏi Phật.

Đức Phật nói:- Người sống không tinh cần, không từ bi, không chân thật, không giới hạnh, không xứng với áo Cà sa nên mặc không đẹp.

Không phải bây giờ mới xảy ra truyện này.

Từ xa xưa truyện này đã xảy ra rồi.Đức Phật kể lại:"Vào kiếp xưa Đề-bà-đạt-đa là thợ săn.

Mọi người hay đặt ông săn voi lấy ngà.

Trong rừng có bầy voi đông đúc và có một vị Độc Giác Phật.

Bầy voi có linh tính nên chúng hay đến hầu hạ vị Độc Giác Phật.Người thợ săn theo dõi bầy voi phát hiện vị Độc Giác Phật được bầy voi cung kính.

Một lần Phật ra ngoài, tên thợ săn nén ăn cắp tấm y của Ngài.

Tên đó đến chỗ Ngài hay ngồi đắp y giả làm Độc Giác Phật dụ bầy voi.

Bằng cách đó gã giết được nhiều voi.Thời đó có vị Bồ Tát (tiền thân Phật Thích Ca) đầu thai làm voi chúa.

Voi chúa phát hiện đây là tên thợ săn đắp giả y của Độc Giác Phật.Voi chúa đi đến tránh được mũi giáo của tên thợ săn và hạ gục hắn.

Từ thời đó Đề-bà-đạt-đa đã không xứng với áo cà sa."

Kể chuyện xong Phật đọc bài kệ:"Ai mặc áo Cà saTâm chưa rời uế trượcKhông tự chế, không thậtKhông xứng áo Cà sa"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 09)"Ai rời bỏ uế trượcGiới luật khéo nghiêm trìTự chế sống chân thậtThật xứng áo Cà sa"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 10)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Đi với Bụt mặc áo cà saDân gian có câu rằng: "Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy".

Thiện luôn đi với thiện.

Vị đó có tâm thiện, hành động thiện, lời nói thiện, chơi với người thiện, dáng vẻ thiện...

Ác luôn đi với ác.

Kẻ đó có tâm ác, hành động ác, lời nói ác, chơi với kẻ ác và thần thái dáng vẻ ác.

Dân gian còn gọi là "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã".Do vậy, người có tâm ác, sống không tự chế bản thân, sống không chân thật, đạo đức giả thì mặc áo cà sa sẽ thấy không thích hợp.

Người lành thiện sống theo giới luật Phật, sống chân thật, tâm lương thiện, biết tự chế bản thân mới phù hợp với áo cà sa.

Người ấy mặc áo cà sa mới thấy đẹp và phù hợp.Bài học 2: Hạnh Bố thíTa thấy Tôn giả Xá Lợi Phất giảng về hạnh bố thí rất sâu sắc chi tiết hợp lý.

Có 4 hạng người:Hạng thứ nhất: là người không bố thí, không khuyên ai bố thí thì cả họ và người thân đều thiếu phúc.

Quả báo toàn bộ bọn họ đều nghèo khổ.Hạnh thứ hai: là người chỉ bố thí một mình không khuyên ai bố thí.

Họ sẽ có phúc nhưng người thân thiếu phúc.

Quả báo kiếp sau phúc sai biệt nên họ không ở cùng nhau.

Kẻ bố thí sẽ được giàu có mà cô đơn vì người thân đã sinh về cõi khổ.Hạnh thứ ba: Người không bố thí nhưng hay khuyên người khác bố thí.

Đó chính là các sư vì sư chẳng có tiền để bố thí.

Nhưng sư suốt ngày khuyên người khác bố thí vì đó là chánh pháp Phật dạy.

Quả báo kiếp sau mọi người đều giàu có.

Họ sẽ cung kính cúng dường sư để trả nợ.

Nhưng sư chẳng màng vật chất nên chẳng giàu.

Bù lại sư có nhiều đệ tử giàu có giúp đỡ hỗ trợ.

Còn những sư làm ăn kinh tế "mượn đạo tạo đời" tích góp tiền ngàn tỷ thì tôi không bàn.

Điều này đúng như lời Tôn giả Xá Lợi Phất giảng.Hạnh thứ tư: là người biết bố thí, biết khuyên họ hàng và người khác bố thí.

Quả báo đời sau kẻ đó có người thân quyến thuộc đông đảo và tất cả họ đều giàu.Bàn thêm chút ít về hạnh Bố thí.

"Tiểu kinh Nghiệp phân biệt" thuộc Trung bộ kinh Nikaya thì Phật ấn chứng: "Kẻ bố thí cúng dường cho vị thánh tu hành chân chính thì đời sau sẽ có tài sản vĩ đại.

Bởi vì vị tu hành chân chính là thánh nhân phúc lớn.

Kẻ cúng dường vật chất cho vị phúc lớn thì quả báo sẽ có tài sản lớn".

Từ đó suy ra, nếu ta cúng dường nhầm cho kẻ ác tạo tội.

Ta sẽ phạm tội đồng lõa với cái ác.Bài học 3: Thượng thừa tướng phápTheo Ma Y Thần Tướng (sách đời Tống) nói rằng: Tướng mặt mũi chân tay... là Bộ vị tướng pháp thuộc hàng thấp nhất.

Gọi là Hạ Thừa Tướng Pháp.

Tướng cốt cách dáng vẻ: đi đứng nằm ngồi, ăn uống nói cười và xương cốt... là Trung thừa tướng pháp.

Cao cấp nhất là Thượng thừa tướng pháp.

Đó là tướng thần thái, khí sắc, thanh hương.Vậy một người có thần thái tác phong oai nghi đĩnh đạc là người có Thượng thừa tướng pháp tốt đẹp.

Kẻ đó dù mặc áo bình thường ta vẫn thấy đẹp.

Người không có thần thái oai phong thì thượng thừa tướng pháp kém xấu.

Kẻ đó dù đắp vàng lên người thì nhìn ta vẫn thấy hèn kém.Thượng thừa tướng pháp còn 4 yếu tố: 1- Khí lực hơi thở mạnh yếu dài êm hay hơi thở dốc ngắn thể hiện sức khỏe tốt xấu.

2- Sắc mặt tươi vui hồng hào hay ủ ê, sầu muộn, thất thần, hoảng hốt sẽ thấy cát hung.

3- Cơ thể toát ra hương thơm hay mùi hôi thối để thấy phúc nhiều ít.

4- Thanh âm giọng nói trầm hùng ngân vang hay khô cộc, eo éo, the thé để thấy giàu có cao sang hay nghèo hèn.

Bạn hãy chú ý.Bài học 4: Độc Giác Phật quá khứKinh Phật hay nói đến những vị A-la-hán tự tu tự giác ngộ chánh pháp mà đắc đạo ở thời không có chánh pháp của Phật trên thế gian.

Vị đó không có duyên giáo hóa chúng sinh vì lý do gì đó.

Vị đó chỉ chứng A-la-hán một mình rồi sau đó nhập Niết bàn.

Phật gọi vị đó là "Độc giác Phật" tức vị thánh giác ngộ một mình.

Trong các kinh vị đó còn có tên gọi khác là: Duyên Giác Phật hay Bích Chi Phật.Còn các vị Phật chuyển pháp luân bằng chánh pháp giáo hóa chúng sinh trong 91 đại kiếp mà Phật thấy chỉ có 6 vị.

Điều đó được ghi trong Kinh Đại Bổn.

Bản kinh số 14 thuộc Trường Bộ Kinh Nikaya.

Thế nhưng Độc Giác Phật thì có rất nhiều.4 - Sao Phật lại sinh làm con voi?Ta nhớ, Kinh Đại Bổn là kinh số 14 thuộc Trường Bộ Kinh Nikaya nói rõ rằng: "6 vị Phật trong 91 đại kiếp mà Phật thấy đều là Bồ Tát ở Đâu Suất Đà Thiên hóa sinh cõi người làm Phật".

Vậy trước khi là Phật thì vị thánh đó là Bồ Tát thực hành Bát Nhã Ba-la-mật "Từ bi cứu độ chúng sinh vô lượng vô biên".Bồ Tát thì luôn đi kèm với Đại nguyện: Bồ Tát Quan Âm có đại nguyện cứu độ chúng sinh vô úy thí.

Bồ Tát Địa Tạng có đại nguyện cứu độ chúng sinh nơi Địa ngục.

Bồ Tát Phổ Hiền có đại nguyện cứu độ chúng sinh hiền thiện.

Bồ Tát Văn Phù có đại nguyện cứu độ chúng sinh tầm cầu chánh pháp.

Rồi Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Đại Thế Chí, Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Chuẩn Đề...đều có những Đại nguyện riêng.

Do vậy Bồ Tát không nề hà khó khăn vất vả.

Bồ Tát chỉ thấy nơi đâu chúng sinh có duyên và có sự mong cầu cứu độ thì Bồ tát hiện thân cứu giúp.Loài voi là loài thân hình to lớn, tâm linh mạnh mẽ.

Voi hiền lành thân thiện và có tâm thiện.

Khi loài voi bị nghiệp đau khổ thì Bồ Tát vẫn tùy tâm loài voi mà hiện thân cứu giúp.

Bởi vì tâm thiện của voi tương ưng với tâm Bồ Tát.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 11, 12: Truyện 2 vị Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên


"Sai mà tưởng là đúngĐúng mà tưởng là saiThu mình trong tà kiếnĐường giác ngộ đứng ngoài"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 11)"Đúng thì biết là đúngSai thì biết là saiAn trú trong chánh kiếnĐường giác ngộ không dài"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 12)Truyện diễn ra trong một đoạn lịch sử Đức Phật: Sau khi Đức Phật đắc đạo, đầu tiên Phật giáo hóa năm anh em Kiều Trần Như.

Đây là năm vị quan trong triều được vua Tịnh Phạn bí mật giao trách nhiệm âm thầm thăm sóc thái tử khi Ngài đi tu.

Trong 5 vị thì Kiều Trần Như lớn tuổi nhất.Bạn còn nhớ, Đức Phật ra đời được 7 ngày tuổi vua cha Tịnh Phạn mời 7 vị Bà La Môn đến đoán tướng cho Phật.

Vị trẻ nhất trong đó là Kiều Trần Như.

Khi nói bài pháp đầu tiên thì Phật 6*6=36 tuổi (cả tuổi mụ) còn Kiều Trần Như khoảng 50-60 tuổi.Sau khi độ cho 5 anh em Kiều Trần Như, Phật độ tiếp chàng trai Gia-xá giàu có, thông minh đức hạnh.

Sau khi ngộ đạo thì Gia-xá kéo 54 người bạn thân theo Phật tu và đều đắc thánh quả.

Đó là 60 vị A-la-hán đầu tiên trên thế gian này.Sau đó, Phật về vùng U-ru-ve-la-cap-pa độ 30 chàng trai thuộc dòng dõi Bat-đa-va-di-ga đắc đạo.

Sau đó Đức Phật tìm đến nhóm thờ lửa, tu khổ hạnh có thần thông là nhóm 3 anh em Ca Diếp Thờ Lửa.Khi gặp 3 anh em Ca Diếp, Đức Phật không nói đạo lý mà Phật thi triển thần thông để hóa độ.

Trong kinh ghi lại Đức Phật dùng 1500 thần thông khuất phục 3 anh em Ca Diếp.

Sau khi bị khuất phục thì 3 anh em kéo theo 1000 đệ tử Quy Y Phật.

Sau khi độ được nhóm thờ lửa, Phật thuyết cho họ nghe bài Pháp có tựa đề là "Lửa".

Phật lấy ngay triết lý về lửa vốn dĩ rất thân quen với họ để nói về Đạo lý Chánh pháp của Người.Khi đó tăng đoàn đã trên 1000 người.

Rồi Đức Phật vào thành Vương Xá gặp vua Bình Xa.

Phật thực hiện lời hứa năm nào với vua là sẽ độ cho vua khi Phật tìm được đạo.Vua Bình Xa quá kính ngưỡng Phật, một người 6 năm trước Vua đã gặp chưa đắc đạo đã phi thường.

Nay Vua gặp lại Phật thì thật sự là một Đấng Giác ngộ Vô thượng.

Vua quy y và làm đệ tử Phật.

Vua bắt toàn bộ quần thần trong triều quy y theo.

Giới Bà La Môn quyền quý, thấy vua quan làm vậy cũng đổ theo quy y Phật.

Khi đó hầu như toàn bộ thành Vương Xá đều theo làm đệ tử Đức Phật.Phật sinh ra ở tiểu quốc nhỏ Sa-ki-a (Thích Ca) tại kinh thành Ca Tỳ La Vệ.

Nhưng Phật đặt nền móng Kinh Đô tôn giáo của Người ở thủ đô Vương Xá của Đại Quốc Ma Kiệt Đà.

Đây là Kinh Đô đạo Phật đầu tiên sau khi Phật thành đạo.

Vua Bình Xa cúng dường Đức Phật khu rừng trúc để xây làm Tịnh Xá.

Đó là Tinh xá Trúc Lâm (Vê-lu-va-na) nổi tiếng.

Gần thành Vương Xá có 2 ngôi làng cạnh nhau.

Hai làng có 2 gia đình trưởng tộc giàu có.

2 gia đình đó có 2 con trai chơi thân với nhau như bóng với hình.

Cả hai đều rất đạo đức, trí tuệ, tài năng và dung mạo đẹp.

Đó chính là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.Khi đến tuổi trưởng thành mà 2 thanh niên không màng truyện vợ con.

2 chàng chỉ thích tìm hiểu triết học đạo lý.

2 chàng quyết tâm đi tu 2 gia đình buồn nhưng không dám ngăn cản.

Vì gia đình rất tôn trọng 2 chàng về đạo đức và trí tuệ.

Do đó mọi quyết định của 2 chàng từ trước đến nay đều được chấp thuận.Khi đó, ở Vương Xá nổi lên một thầy tu khổ hạnh tên là San-da-gia.

Vị này thuyết pháp hay, tu thiền khổ hạnh có nhiều người theo làm đệ tử.

2 chàng trai như bao người khác xin xuất gia theo thầy.

Thế nhưng trí tuệ thầy không đáp ứng được nguyện vọng 2 Ngài.

Kinh kể rằng: "2 Ngài vấn đáp thầy một lúc thì thầy không trả lời được.

Khi thầy hỏi 2 Ngài đến đâu thì 2 Ngài trả lời thông suốt mạch lạc".

Nhưng vì 2 Ngài có tình nghĩa nên thấy thầy trí tuệ còn hạn chế mà vẫn kính trọng.

Hai Ngài xin thầy được phép đi du hành làm sa môn lang thang tìm đạo.

Sau mấy năm tham vấn khắp nơi không tìm được đạo, 2 Ngài quay về Vương Xá và nói:- Chúng ta chưa có duyên tìm được đạo sư khai ngộ.

Vậy ta cứ theo đạo lý đã học mà về nhà tự tu.

Một trong hai người, ai tìm được đạo hãy đến báo cho người kia.Hai chàng trở về nhà và tự tu trong tịnh cốc tại gia.

Cha mẹ rất vui vì nay con trai họ đã về.

Thời gian trôi qua đến lúc Đức Phật đắc đạo giáo hóa dân chúng thành Vương Xá.

Phật ở Tịnh Xá Trúc Lâm dạy các đệ tử tỏa ra khắp nơi đem Chân lý Chánh pháp Giác ngộ này đến cho mọi người.Hôm đó, Xá Lợi Phất có việc phải vào thành.

Ngài nhìn thấy Tôn giả A-sa-di (trong nhóm 5 vị Kiều Trần Như) đang khất thực.

Tôn giả A-sa-di đã là một vị thánh nhân A-la-hán nên thần thái oai nghi thanh tịnh khác hẳn người phàm.Xá Lợi Phất bằng trực giác đoán biết đây là một con người phi thường.

Xá Lợi Phất đến lạy và đi theo Tôn giả.

Sau khi khất thực xong Tôn giả A-sa-di đến gốc cây ngồi.

Xá Lợi Phất liền lấy miếng vải của mình trải xuống thỉnh Tôn giả ngồi rồi đứng hầu một bên.Sau khi Tôn giả thọ thực xong đặt bát xuống Xá Lợi Phất quỳ xuống đảnh lễ:- Thưa Tôn giả, Tôn giả từ đâu đến, thầy của Tôn giả là ai, Tôn giả tu theo pháp gì mà toàn thân toát ra sự quang minh thanh tịnh vậy?Tôn giả A-sa-di khiêm tốn nói:- Này hiền hữu, ta chỉ là một sa môn tầm thường.Xá Lợi Phất lại nói:- Thưa Ngài, con có niềm tin rằng Ngài đã chứng được đạo vị phi thường.

Xin Ngài hãy nói cho con một đôi lời để con có hướng đi.Tôn giả A-sa-di thấy Xá Lợi Phất quá ân cần kính trọng nên đã nói ra bài kệ (Đạo Phật ngày nay bài kệ này vô cùng nổi tiếng):"Các pháp do duyên sinhThầy ta Gô-ta-maĐã nói ra như thế."

Vừa dứt câu thì Xá Lợi Phất ngộ đạo chứng dự lưu là quả thánh đầu tiên.

A-sa-di nói tiếp:"Còn nữa này hiền hữuCác pháp vì duyên diệtThầy ta Gô-ta-maCũng nói ra như thế."

Bài kệ sau thì Xá Lợi Phất không chứng thêm gì.

Khi đó Ngài bừng tỉnh đảnh lễ A-sa-di và nói:- Con có một người bạn.

Xin Tôn giả cho con biết Đại Sa Môn Cồ Đàm (Gô-ta-ma) hiện đang ở đâu.- Ở tại Tinh xá Trúc Lâm trong rừng trúc của vua Bình Xa.Xá Lợi Phất từ biệt Tôn giả A-sa-di rồi đến gặp Mục Kiền Liên.

Tại đây Ngài đọc bài kệ đầu thì Mục Kiền Liên bừng ngộ chứng quả Dự lưu.

Bài kệ sau cũng không chứng thêm gì.

Hai huynh đệ mới nói:- Ta hãy đến thăm thầy cũ San-da-gia.

Ta hãy nói những điều lợi lạc này và mời thầy cùng đến Tinh xá Trúc Lâm gặp Đại Sa Môn Cồ Đàm để học đạo.Hai vị đến gặp San-da-gia:- Hôm nay, trên đường chúng con gặp một vị mà chúng con nghĩ là một thánh nhân A-la-hán giữa thế gian này.

Vị đó nói lên bài kệ làm chúng con khai ngộ.

Chúng con đã thấy được Chân lý Chánh pháp.

Và con xin thầy hãy đi cùng chúng con đến Tịnh Xá Trúc Lâm.

Nơi đó có Đại Sa Môn Cồ Đàm đang giáo hóa.Rồi 2 Ngài đọc bài kệ.

San-da-gia nghe xong không thấy xúc động gì.

Hai Ngài tiếp tục thuyết phục thầy nhưng không được.

Hai Ngài hỏi:- Tại sao thầy không chịu đi trong khi cả đời thầy dâng hiến cho đạo tìm cầu giác ngộ?San-da-gia đáp:- Bây giờ tôi hỏi hai anh: "Trên đời này, người trí tuệ và người ngu xi, ai đông hơn?"

- Thưa thầy, giữa thế gian này người ngu đông hơn người trí.- Vậy ai có trí tuệ tới Cồ Đàm mà tu.

Còn ở đây ta sẽ giáo hóa những người kém trí tuệ hơn.

Và ở đây ta sẽ đông hơn.2 vị Xá Lợi Phất mà Mục Kiền Liên khi đó mới vỡ lẽ: "Thầy mình không có mục tiêu tìm Chân lý mà là tìm danh vọng".

Xá Lợi Phất đứng lên nói một câu:- Thầy sẽ nổi tiếng vì câu nói này (Đúng là San-da-gia nổi tiếng đến ngày nay sau 2500 năm vì câu nói đó của ông)Hai anh em từ giã thầy cũ rồi đi đến Trúc Lâm Tinh xá.

Khi đó Phật đang thuyết pháp.

Vừa thấy bóng dáng hai chàng từ xa Đức Phật dừng bài pháp và tán thán:- Kìa là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.

Một đôi bạn Phúc Duyên hoàn hảo.Hai Ngài đến nghe Phật thuyết pháp.

Bài pháp của Phật làm nhiều người chứng đạo mà hai Ngài không chứng thêm gì.

Tuần sau Đức Xá Lợi Phất chứng A-la-hán.

Tuần tiếp theo thì Đức Mục Kiền Liên cũng chứng A-la-hán.Sau khi hai vị chứng A-la-hán, Phật tuyên bố đưa hai vị lên làm Đại Đệ Tử lãnh đạo Tăng đoàn (Thượng thủ Tăng đoàn).

Hai Ngài mới khoảng hơn 20 tuổi mà Tăng đoàn lúc đó có Kiều Trần Như gần 60 tuổi.

Rồi có ba anh em Ca Diếp rất lớn tuổi.

Mọi người mới ngạc nhiên hỏi Phật thì Đức Phật trả lời:- Như Lai không thiên vị.

Như Lai làm việc này vì nhân duyên phải thế.Sau đó, Đức Phật kể các kiếp xưa Ngài Kiều Trần Như đã tạo công đức gì để nhân quả được đắc đạo đầu tiên.

Phật kể tiếp nguyên nhân 55 thanh niên Da-Xá phát nguyện gì mà đắc A-la-hán.

Ba anh em Ca Diếp phát nguyện gì mà đắc A-la-hán...Còn Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất từ nhiều kiếp luôn phát nguyện phụ với Phật thống lãnh tăng đoàn.

Và hôm nay Phật làm đúng như vậy.Sau đó, hai Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên kể cho Phật nghe vị thầy cũ San-da-gia.

Và câu nói nổi tiếng của vị đó: "Thế gian này, người ngu đông hơn người trí.

San-da-gia vô trí sẽ độ được số đông những con người vô trí đó".Đức Phật nghe xong đã nói bài Pháp Cú:"Sai mà tưởng là đúngĐúng mà tưởng là saiThu mình trong tà kiếnĐường giác ngộ đứng ngoài"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 11)"Đúng thì biết là đúngSai thì biết là saiAn trú trong chánh kiếnĐường giác ngộ không dài"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 12)Tin tức về 2 Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên tu theo Phật đắc đạo làm thống tăng đoàn đạo Phật đã bay đi khắp nơi.

Toàn bộ đệ tử của San-da-gia nghe thấy mà bỏ đi hết.

San-da-gia đã hộc máu mà chết vì tham vọng đổ vỡ.Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Biết rõ đúng saiBiết rõ đúng sai là điều vô cùng khó khăn.

Ai tìm được cái đúng tuyệt đối, tức đã tìm ra chân lý tuyệt đối.

Đúng sai còn tùy vào đối tượng quan sát, vị trí thời điểm quan sát.

Ví dụ trong vật lý: Một vật gọi là di chuyển phải căn cứ biểu kiến với vật thể khác.

Nếu A bắn viên đạn về B.

Tại điểm A ta thấy viên đạn bay đi xa.

Tại điểm B ta thấy viên đạn bay về gần.

Rồi nếu ta bắn súng liên thanh.

Các viên đạn di chuyển cùng tốc độ.

Chúng sẽ thấy nhau như đang đứng yên.Vậy sao có thể biết rõ đúng sai tuyệt đối?

Không bao giờ có giá trị tuyệt đối.

Khi trí tuệ ta tăng trưởng, ta thông minh hơn thì làm ít điều sai hơn mà thôi.

"Kiến thức là vô hạn mà cuộc đời thì hữu hạn".

Kiến thức chính là cái đúng nó nhiều vô hạn.

Nhưng cuộc đời con người thì hữu hạn nên mãi mãi ta không tìm được "Cái đúng tuyệt đối" hay "Tận cùng của kiến thức".Thế nhưng trong Đạo Phật lại có cái đúng tuyệt đối.

Những vị thánh A-la-hán được Phật gọi là "Diệt tận vô minh chứng đạt vô thượng Bồ đề".

Vị thánh đó giác ngộ chân lý tuyệt đối không gì có thể hơn.

A-la-hán được Phật gọi là "Bậc thánh vô học".

Vị đó không cần học thêm bất cứ điều gì.

Tự trong trí tuệ vị đó tự suy ra chân lý và làm theo chân lý.

Rất tiếc vị thánh A-la-hán sau khi từ bỏ thân người thì nhập Niết Bàn không còn trong Luân Hồi.

Thế nên chân lý tuyệt đối chính là Niết Bàn.Bài học 2: Người ngu đông hơn người tríTrên Youtube, các video vớ vẩn nhảm nhí như: Nấu cháo gà nguyên lông, đổ nước mắm lên đầu mẹ, cái bánh siêu to khổng lồ lãng phí vì chẳng ai ăn... lại nhiều người xem.

Rồi các chuyện cướp, hiếp, giết, tin hot, tin nóng, hở hang, lộ hàng, sờ-căng-đan showbiz, đua đòi đú đởn, ăn chơi chụp chẹp... rất nhiều người xem.

Còn chuyên mục người tốt việc tốt, việc tử tế, khoa học tri thức, kiến thức thú vị... chẳng ai xem.

Nên "kẻ ngu đông hơn người trí" là vậy.Bài học 3: Phật giáo hóa bằng thần thôngTrong cuộc đời giáo hóa của Phật ta thấy Phật hiếm khi dùng thần thông.

Đa phần Phật dùng đạo lý nói chánh pháp để giáo hóa.Nhưng đó là người có tâm tôn kính Phật, trân trọng đạo lý và tìm cầu chánh pháp.

Khi Phật nói họ lắng nghe, thấu hiểu mà giác ngộ.

Còn đối với kẻ kiêu ngạo, có thần thông hay võ thuật sao siêu thì nói đạo họ không thèm nghe.

Mà tâm không thèm nghe thì sao có thể giác ngộ chánh pháp.Ví dụ như trường hợp Phật giáo hóa 3 anh em Ca Diếp thờ lửa có thần thông hay tên cướp Angulimala võ thuật cao siêu vậy.

Chỉ có thần thông của Đức Phật mới khiến họ "tâm phục khẩu phục".

Nhưng khuất phục xong bằng thần thông thì Phật phải nói đạo thì họ mới giác ngộ.

Do vậy gốc vẫn là chánh pháp.

Còn thần thông chỉ để khuất phục khiến kẻ cứng đầu khiếp sợ biết lắng nghe mà thôi.Ngày nay cũng vậy.

Những kẻ giàu sang phú quý, quyền lực nghiên quốc gia... mà các sư nghèo đến nói đạo họ không thèm nghe.

Họ chỉ nghe thầy tướng số, tử vi, phong thủy, bói toán mà thôi.

Vì sao vậy?

Vì tướng số, tử vi, phong thủy, bói toán là huyền môn thần bí giống như thần thông vậy.Vậy nên ở chùa luôn có 2 vị hộ pháp: Ông thiện và Ông ác.

Ông thiện sẽ dùng đạo lý khuyên bảo.

Ông ác là chém giết, thần thông biến hóa khiến chúng sinh cứng đầu khuất phục.

Và trong truyện tích này ta thấy Phật có 2 Đại đệ tử thượng thủ tăng đoàn: Tôn giả Xá Lợi Phất trí tuệ đệ nhất chuyên dùng lý lẽ khuyên bảo.

Và Tôn giả Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất chuyên dùng phép thuật khuất phục chúng sinh.

Ta cũng nên vậy.

Ta phải có thần thông, quyền lực, tiền bạc vĩ đại.

Nhưng ta cũng cần có trí tuệ thấu đạt đạo lý.

Khi đó ta mới có thể là hộ pháp toàn năng.Bài học 4: A-la-hán luôn khiêm hạA-la-hán được Phật định nghĩa là "Vị thánh diệt trừ hết 10 Kiết sử".

Trong đó Kiết sử thứ 7 là kiêu mạn.

Do vậy A-la-hán là vĩ đại nhưng không hề kiêu mạn.

Các vị A-la-hán là vô ngã và khiêm tốn tột cùng.Ngoài ra, thời Phật tại thế thì trên A-la-hán còn có Đức Phật muôn ngàn lần vĩ đại hơn.

Sau thời Phật, các A-la-hán xịn diệt xong kiêu mạn thì vẫn giữ tâm khiêm hạ.

Nhưng các vị gần chứng A-la-hán có thần thông mà chưa diệt kiêu mạn lại vô cùng "bố đời".

Do vậy, sau thời Đức Phật mới có các bản kinh lý không như "Kinh Kim Cang", "Bát nhã Tâm kinh" để giúp các vị chưa diệt kiêu mạn tu tâm khiêm hạ.Bài học 5: Phật từ bỏ phúc thế gian nhưng phúc vẫn tới theo tự nhiênTa thấy Phật từ bỏ phúc thế gian là ngôi vị thái tử Thích Ca.

Người xuất gia tu hành không màng thế tục.

Nhưng đắc đạo xong thì Phật làm thầy vua Bình Sa của Đại Quốc Ma Kiệt Đà.

Phật được vua cúng khu vườn thượng uyển Trúc lâm để làm Tinh xá.

Rồi Phật được ông Cấp Cô Độc đại quốc Cô-sa-la mua đất khu vườn của Thái Tử Kỳ Đà bằng số tiền vàng phủ kín đất vườn để cúng Phật.

Vua Cô-sa-la là Ba-tư-nặc cũng quy y làm đệ tử Phật.

Nên người phúc lớn dù không mong cầu thì phúc vẫn đến một cách tự nhiên.Bài học 6: Đắc đạo phải có tâm cầu đạoTa thấy 2 thanh niên Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên có tâm cầu đạo vĩ đại.

Rồi sa môn Cồ Đàm cũng có tâm cầu đạo vĩ đại.

Nên Ngài đã tu 6 năm khổ hạnh cực đoan quyết tìm được đạo.

Chính vì vậy khi gặp đúng Chánh pháp thì các vị đắc đạo ngay tức thì.

Hai Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên nghe xong bài kệ thì đắc đạo Sơ quả Dự lưu.

Sa môn Cồ Đàm ngồi thiền 49 ngày dưới gốc Bồ đề thì đắc đạo làm Phật.Vậy nên muốn đắc đạo thì đầu tiên tâm ta phải mong cầu đạo vĩ đại.

Khi đủ phúc, đủ duyên thì tìm được đạo mà tu đắc đạo.

Còn nếu ta có phúc lớn, được sinh trong thời duyên lớn có chánh pháp Đức Phật tồn tại.

Nhưng tâm ta lại đi mong cầu có thật nhiều tiền hay quyền lực vĩ đại làm đại đế vương... thì chẳng bao giờ đắc A-la-hán cả.

Vậy nên 3 yếu tố chính để đắc đạo là: Tâm cầu đạo, Phúc và Duyên.Bài học 7: Các pháp do duyên sinhĐức Phật dạy về Nhân Quả.

Nhưng bài kệ mà Tôn giả A-sa-di nói cho Ngài Xá Lợi Phật lại là "Các pháp do duyên sinh".

Sao không phải "Các pháp do nhân sinh" ?

Thế còn Duyên là gì?Theo luật nhân quả, nhân đã gieo chắc chắn tương lai sẽ có quả báo.

Nhưng khi nào quả báo tới lại do duyên.

Duyên là các điều kiện đủ như: Đủ thời gian (thiên thời).

Đủ các điều kiện thuận lợi (địa lợi).

Khi đó quả báo mới tới.

Do vậy duyên quyết định khi nào quả báo tới.

Nên "Các pháp do duyên sinh" mà Ngài A-sa-di nói là chính xác.Nhân là điều kiện cần và Duyên là điều kiện đủ để Quả báo thành.

Thiếu 1 trong 2 yếu tố Nhân Duyên thì Quả báo không thành.

Nên mới có câu nói rằng: "Vì đại nhân duyên mà Đức Phật ra đời".
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 13, 14: Truyện hoàng tử em Phật


"Như mái nhà vụng lợpMưa liền xâm nhập vàoCũng vậy tâm không tuTham dục liền xâm nhập"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 13)"Như ngôi nhà khéo lợpMưa không xâm nhập vàoCũng vậy tâm khéo tuTham dục không xâm nhập"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 14)Truyện diễn ra trong một đoạn lịch sử Đức Phật: Pháp cú 11, 12: "Truyện về 2 vị Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên" ta đã kể về cuộc đời Đức Phật khi Người đắc đạo và độ vua Bình Sa cùng dân chúng thành Vương Xá.

Tại Vương Xá thành Phật đã độ cho 2 Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.

Truyện này nối tiếp truyện trước.Tin về vị hoàng tử tiểu quốc nhỏ Sa-ki-a (nước Thích Ca) bỏ ngai vàng đi tu đã chứng đạo.

Vị đó hiện đang làm thầy của vua Đại quốc Ma Kiệt Đà hùng mạnh.

Tin đó trấn động và lan truyền đến kinh thành Ca-tì-la-vệ.Vua Tịnh Phạn nhận được tin rất mừng.

Vua gửi một phái đoàn tới mời Phật về thăm quê hương.

Phái đoàn đầu tiên đến gặp Phật đúng lúc Đức Phật đang thuyết pháp nên họ ngồi chờ.

Họ ngồi nghe Phật thuyết pháp rồi chợt giác ngộ.

Họ xin xuất gia theo Phật từ bỏ tất cả, bỏ cả trách nhiệm mà vua Tịnh Phạn giao phó.Không thấy tin tức của phái đoàn đầu tiên trở về.

Vua Tịnh Phạn bèn gửi tiếp phái đoàn thứ hai.

Và mọi chuyện vẫn diễn ra như lần trước.

Vua được tin báo: "Cả hai phái đoàn đã quy y theo Phật không về quê hương".Vua liền cử phái đoàn thứ ba đến gặp Phật.

Dẫn đầu đoàn là vị nổi tiếng bản lĩnh tài giỏi biết kiềm chế là Ca-lưu-đà-di.

Sau khi nghe Phật thuyết pháp, Ca-lưu-đà-di cũng chợt giác ngộ.

Ca-lưu-đà-di đi đến quỳ đảnh lễ Phật và xin xuất gia.

Nhưng Ngài không quên bổn phận nên trình bày mong muốn của vua Tịnh Phạn muốn mời Phật về thăm quê hương đất nước.

Đức Phật nhận lời.Lần Đức Phật về thăm quê hương Người đã độ cho kế mẫu Kiều Đàm Di chứng sơ quả Dự Lưu.

Tiếp đó Đức Phật thuyết pháp độ cho vua cha Tịnh Phạn chứng nhị quả Nhất lai.Truyện tích này là Phật độ cho hoàng tử Nan Đà em cùng cha khác mẹ với Phật.

Nan Đà là con ruột của bà Kiều Đàm Di và vua Tịnh Phạn.

Nan Đà rất mực tôn kính và yêu quý anh trai mình từ thời trẻ.

Hai anh em sinh cách nhau 7 ngày và Phật được kế mẫu Kiều Đàm nuôi lớn bằng sữa của mình.Hôm đó là ngày hôn lễ của hoàng tử Nan Đà.

Cô dâu là công chúa xinh đẹp của nước lân bang xứ Gia-na-pa-đi.

Nước này nằm ở đông nam nước Thích Ca.Phật đi khất thực qua nơi tổ chức đám cưới.

Người đi luôn vào hội trường hôn lễ.

Hoàng tử Nan Đà nghe tin báo vội chạy ra quỳ xuống đảnh lễ Phật.

Khi đứng lên thì Phật đưa Nan Đà bình bát của Phật.

Nan Đà đón nhận.

Đức Phật không nói lời nào.

Người lặng lẽ quay lưng bước đi.Nan Đà ôm bình bát của Phật bối rối thấy Phật quay đi không dám hỏi han hay thắc mắc.

Chàng chỉ dám đi theo Phật mà thôi.

Toàn bộ người trong đám cưới cả cô dâu cũng không biết truyện gì.

Họ chỉ thấy Đức Phật đi trước và chú rể Nan Đà ôm bình bát theo sau.

Về tới tịnh xá, tăng đoàn yên ổn ngồi vào vị trí.

Phật hỏi Nan Đà:- Em có muốn xuất gia không?Vì lòng tôn kính Phật tột độ nên Nan Đà chỉ có thể đáp rằng:- Dạ thưa, em có!Đức Phật liền xuống tóc cho em.

Mọi người trong hoàng cung hốt hoảng vì chú rể Nan Đà đã xuống tóc xuất gia bỏ mặc cô dâu ở đám cưới.

Họ đến trình báo vua Tịnh Phạn.

Vua Tịnh Phạn mỉm cười đồng ý vì Ngài đã giác ngộ chứng thánh quả.Nan Đà làm tì kheo nhưng tâm thì loạn động.

Chàng mơ tưởng và thương nhớ cô dâu xinh đẹp.

Rồi một tuần trôi qua trong đau khổ.

Nan Đà không chịu nổi vì thương nhớ người yêu.

Đức Phật bèn gọi Nan Đà đến nói:- Hôm nay ta cho em đi thăm cõi trời.Đức Phật dùng thần thông dắt Nan Đà bay vượt lên mây và đi vút xa.

Hai người bay qua một cánh rừng đang cháy.

Đức Phật dùng thần thông giúp Nan Đà nhìn rõ cảnh trí hạ giới.

Nan Đà nhìn xuống thấy một con khỉ đang trèo lên cây phía dưới là lửa cháy, đuôi và lông nó cũng đang cháy.Hai anh em bay tiếp lên cao qua nhiều tầng mây tới được cõi trời Đế Thích.

Ở cõi trời các thiên tử vô cùng đẹp đẽ lộng lẫy và các tiên nữ vô cùng xinh đẹp và thanh tịnh.

Khác với cõi trần gian nếu người nữ đẹp lập tức có sự hấp dẫn động dục.Nan Đà với tâm người trần nhìn ngắm các tiên nữ thích thú và cảm mếm sắc đẹp các nàng.

Sau khi đi một vòng Đức Phật chào hỏi các vị trời xong, Phật đưa Nan Đà về lại Tinh xá.

Phật hỏi em:- Bây giờ em nhớ lại người yêu em so với các tiên nữ thế nào?Nan Đà đáp:- Bây giờ em nhớ lại thì thấy người em muốn cưới giống con khỉ đang cháy trong rừng.Đức Phật nói:- Em ráng tu, ta sẽ nói vua trời Đế Thích để dành cho em 7 cô tiên nữ.Hình ảnh cô dâu xinh đẹp trong lòng hoàng tử Nan Đà lập tức biến mất.

Thay vào đó là 7 cô tiên nữ xinh đẹp ở cõi trời Đế Thích.Nan Đà tinh cần tu hành vì mục đích gái đẹp và các Tỳ kheo trong Tinh xá đều biết truyện đó.

Nhưng vì Nan Đà là em Phật nên mọi người không dám nói ra miệng.

Nhưng trong tâm thì nghĩ: "Ông đó tu mướn để có 7 cô tiên nữ".Nan Đà không để ý điều đó.

Ngài bắt đầu tinh cần tu hành.

Do căn duyên đã đến, phúc duyên đầy đủ thêm với sự tinh cần nên Nan Đà nhanh chóng đắc A-la-hán.

Các vị A-la-hán ở tăng đoàn bằng tâm biết tâm thì biết Nan Đà đắc đạo A-la-hán.

Nhưng một số vị chưa chứng thánh thì không biết nên tâm vẫn còn ý khinh thường.

Mà ai có tâm khinh thường A-la-hán thì quả báo là đau khổ vô cùng.Đức Phật biết sự nguy hiểm đó.

Trước hội chúng Phật đã đọc bài kệ thông báo cho mọi người biết Nan Đà nay đã chứng quả A-la-hán:"Như mái nhà vụng lợpMưa liền xâm nhập vàoCũng vậy tâm không tuTham dục liền xâm nhập"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 13)"Như ngôi nhà khéo lợpMưa không xâm nhập vàoCũng vậy tâm khéo tuTham dục không xâm nhập"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 14)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Mái nhà khéo lợpPhật dùng hình tượng đơn sơ dễ hiểu là mái nhà lá vụng lợp mưa dễ xâm nhập vào.

Còn ngôi nhà khéo lợp thì mưa không thể xâm nhập.

Từ đó liên tưởng đến người khéo tu đúng cách thức thì tham dục không khởi.

Còn tu hành không đúng cách thức thì tham dục bộc phát ầm ầm.

Vậy tu thanh tịnh dục thế nào cho đúng cách.

Pháp Cú 7&8 Phật dạy:"Ai sống nhìn tịnh tướngKhông hộ trì các cănĂn uống thiếu tiết độBiếng nhác chẳng tinh cầnMa uy hiếp kẻ ấyNhư cây yếu trước gió"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 07)"Ai sống quán bất tịnhKhéo hộ trì các cănĂn uống có tiết độCó lòng tin, tinh cầnMa không uy hiếp đượcNhư núi đá trước gió"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 08)Kinh Pháp cú 7 & 8 Phật dạy 4 bước: "1- Thiền quán bất tịnh.

2- Khéo hộ trì các căn.

3- Ăn uống có tiết độ.

4- Có lòng tin tinh cần.

Khi đó ma vương và ma nữ không uy hiếp được vị đó.

Vị đó như núi đá trước gió".

Đó là tu thanh tịnh dục đúng cách.

Ngày nay sư không tu thiền mà chỉ tu ăn chay và hộ trì các căn nên dễ bị ma vương, ma nữ hại.Bài học 2: Bàn về tính dụcLoài người hay loài vật đều có 2 bản năng gốc là sinh tồn và duy trì nòi giống.

Dân gian hay nói về Tứ khoái: Ăn, ngủ, tình dục, vệ sinh (ăn - ngủ - đụ - ị).

Trong Tứ khoái có 3 khoái là bản năng sinh tồn, 1 khoái là bản năng duy trì nòi giống.Do nhu cầu tình dục là bản năng duy trì nòi giống của mọi loài vật và cả loài người.

Loài nào không có tình dục thì loài đó dễ tuyệt chủng.

Khi môi trường điều kiện thích hợp, nguồn thức ăn phong phú thì loài đó tình dục nhiều làm tăng số lượng cá thể trong đàn.Do vậy "Ăn no xong thì rửng mỡ kéo nhau đi tìm của lạ" không phải chỉ riêng loài người.

Loài vật nào cũng vậy mà thôi.

Cứ khi ăn no, cứ khi nguồn thức ăn phong phú là nhu cầu tình dục tăng rồi sinh con đẻ cái nhiều.Phật dạy về Luân hồi 6 cõi được chia thành Tam giới.

Thấp nhất là Dục giới, nơi chúng sinh có tính dục, có giới tính đực cái.

Dục giới gồm: Địa ngục, súc sinh, ngã quỷ, người, thần, trời dục giới.

Cõi Ngọc hoàng thượng đế vẫn là cõi dục vì Ngọc hoàng là nam giới và thích xem tiên nữ múa hát.

Nhưng thiên tử và tiên nữ cõi trời thanh tịnh dục, ít động dục.Cao hơn Dục giới là Trời Sắc Giới.

Tại đó các thiên tử không còn thân người mà chỉ còn hòa quang.

Trời sắc giới lìa xa tình dục, chấm dứt dục.

Cao hơn trời Sắc giới là Vô sắc giới xứ định.

Đó là cõi của các vị thánh ngồi thiền nhập định.

Vô sắc giới xứ định không còn hào quang mà chỉ còn tâm thức.Bài học 3: Sao hoàng tử Nan Đà nói rằng yêu cô dâu mà thấy Tiên nữ là chán cô dâu ngay?Tình yêu lứa đôi được hình thành từ tình dục và duyên nợ.

Nếu chỉ tham dục mà đến với nhau thì sau khi thỏa mãn tình dục là chán nhau luôn.

Nên nhiều vụ hiếp dâm xong thì hung thủ giết cô gái ngay sau khi quan hệ mà không hề thương tiếc.

Phương Tây đời sống tình dục buông thả nên họ cưới nhau để thỏa mãn tình dục.

Chính vì tình dục mà cưới nhau nên vợ chồng phương tây dễ ly dị.Còn vợ chồng Phương Đông tình sâu nghĩa nặng "đầu bạc răng long" vì họ có duyên nợ.

Chồng kiếm tiền đưa vợ lo việc gia đình.

Vợ lo lắng việc nội trợ gia đình, chăm sóc dạy bảo con cái...

Đó là "của chồng công vợ".

Từ đó vợ chồng nợ duyên với nhau.

Chồng nợ vợ ơn nghĩa công sức vợ.

Vợ nợ chồng kinh tế gia đình.

Chính vì duyên nợ đó khiến vợ chồng gắn bó bền chặt vì họ mắc nợ nhau.

Khi đó tình dục là thứ yếu mà thôi.Hoàng tử Nan Đà thấy Tiên nữ đẹp lập tức quên cô dâu cũ do Nan Đà ít duyên nợ với cô dâu.

Chàng chỉ vì sắc đẹp và tình dục mà nhớ cô dâu.

Nên khi gặp sắc đẹp Tiên nữ thì Nan Đà quên cô ta luôn.Bài học 4: Khinh thường A-la-hán quả báo khổPháp cú 25 kể về Ngài Châu Lợi Bàn Đặc.

Kiếp xưa thời Phật Ca Diếp là một vị tăng tài giỏi.

Nhưng vì tự thấy mình tài giỏi mà khinh thường bạn đồng tu.

Trong các bạn đó có một vị chứng A-la-hán nhưng kín đáo nên Châu Lợi Bàn Đặc không biết.

Quả báo Châu Lợi Bàn Đặc bị kém trí tuệ, một câu kinh không thể học thuộc.

Quả báo ngu si đó kéo dài nhiều kiếp từ thời Phật Ca Diếp đến thời Phật Thích Ca.

Phật Thích Ca biết sự nguy hiểm đó nên khi Nan-đà đắc A-la-hán thì lập tức Phật công bố cho đại chúng biết.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 15: Truyện gã đồ tể Chun Đa


"Hiện đời khổ đã đếnĐời sau khổ nhiều hơnKẻ ác đầy nước mắtHái quả đắng đã gieo"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 15)Tích Pháp Cú: Gần Tinh xá Phật có một gã đồ tể nuôi heo giết thịt tên là Chun-đa.

Chun-đa có công nghệ giết mổ heo tinh tế mà ác độc.

Trong kinh diễn tả chi tiết như sau:"Trước khi giết heo, gã ta trói heo thật chặt không thể nhúc nhíc.

Gã lấy cây gỗ đập nó bầm dập làm thịt nó mềm ra.

Gã đánh thật đau nhưng không để heo chết.

Sau đó gã lấy một dụng cụ bằng sắt đặt vào miệng heo cho nó mở hàm.

Rồi gã rót nước nóng vào miệng heo với độ nóng vừa đủ không để heo chết.

Toàn bộ thức ăn và phân trong ruột heo bị nước nóng rửa trôi ra ngoài cho đến khi gã thấy nước được sạch.Kế đó gã dùng nước từ ruột heo tuôn ra ngoài đun sôi tưới lên da khiến da heo lột sạch.

Con heo vẫn sống và kêu la thảm thiết nhưng bị trói chặt cứng.

Khi da và lông heo bị lột sạch bởi nước sôi thì gã cắt đầu heo hứng máu tưới lên thịt cho có mầu đỏ hồng.

Rồi quay thịt heo.

Gã để lại phần ngon cho gia đình còn lại mang bán.

Gã ta rất giàu vì công nghệ chế biến thịt heo ngon nổi tiếng kinh thành đó".Gã thấy cuộc sống như vậy là ổn và không cần bố thí, làm phúc, cúng dường.

Gã không một ngày nào đến Tinh xá nghe pháp dù nhà rất gần Tinh xá Phật.

Thỉnh thoảng các Tỳ kheo có ghé qua cửa nhà gã khất thực.

Nhưng gã đều đuổi họ đi hoặc đóng cửa.Đến ngày phúc hết, gã tự nhiên mắc phải bệnh lạ khiến gã vật vã, la lối và kêu lên bằng tiếng heo.

Gã bò bằng 4 chân lê lết quanh nhà, đập đầu vào tường, chui xuống gầm giường, hất tung mọi thứ bằng cái đầu của gã...

Gã giống như một con heo thật sự.Người nhà muốn giữ gã nhưng gã quá khỏe không thể giữ được.

Họ đành đóng kín cửa trước, cửa sau để một mình gã trong nhà vật vã với căn bệnh lạ.Tiếng la hét thêu gào của gã như tiếng heo khi gã giết chúng làm thịt.

Trong suốt 7 ngày liên tiếp gã hóa thành một con keo như vậy.

Đến ngày thứ 7 gã kêu thét lên bằng hơi sức cuối cùng toàn thân nám đen rồi gục chết.Các Tỳ kheo khất sĩ đi ngang qua nhà gã không biết truyện.

Họ chỉ thấy tiếng heo kêu trong nhà gã đồ tể Chun Đa liên tục trong 7 ngày.

Các vị tưởng gã giết heo suốt ngày suốt đêm nên ngạc nhiên hỏi Phật:- Bạch Thế Tôn, nhà ông đồ tể Chun-đa đó vì sao suốt 7 ngày nay giết heo liên tục vậy?Phật trả lời:- Này các Tỳ kheo, không phải Chun-đa giết heo đâu.

Tiếng kêu la đó chính là của Chun-đa.

Chun-đa vừa chết và nay đã xuống Địa ngục A Tỳ.

Người đồ tể này suốt đời tạo nghiệp sát sinh nặng nề mà không làm chút phúc bù lại.

Do vậy, ngay trong hiện đời quả báo khổ đã hiện ra một phần.

Chun-đa phải làm con heo bị tra tấn đau khổ kêu than 7 ngày.

Sau khi chết quả báo khổ còn nhiều hơn gấp bội.Sau đó Phật đọc bài kệ:"Hiện đời khổ đã đếnĐời sau khổ nhiều hơnKẻ ác đầy nước mắtHái quả đắng đã gieo"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 15)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Quả báo đa phần ở đời sauBài kệ pháp cú này Phật khẳng định: "Kẻ hiện đời khổ kéo đến bởi ác nghiệp hiện tại thì đời sau khổ nhiều hơn.

Vì quả báo đa phần sẽ đến ở đời sau khi hội tụ đủ các duyên cần thiết".Ta biết, nhân gieo phải chờ đủ duyên là thời gian (thiên thời) và các điều kiện thuận lợi (địa lợi) mới tạo thành quả báo.

Từ hạt nhân cây cối đến Luật nhân quả đời người đều cùng nguyên tắc đó.Ví dụ: Ta gieo nhân được làm Tỷ Phú.

Nhưng nay ta đã 49 tuổi và đang nghèo rớt mồng tơi.

Để làm Tỷ Phú cần thời gian học tập, có kinh nghiệm, có quan hệ, có tài làm ăn kinh tế....

Những cái đó ta hoàn toàn mù tịt.

Vậy kiếp này ta gieo nhân làm Tỷ phú nhưng ta không đủ duyên để quả báo thành tựu.Tuy vậy, nếu ta tạo phúc cực lớn hay tội cực lớn (Đại Ác Nhân hoặc Thánh Nhân) thì một phần nhỏ bé của quả báo đến sớm do không đủ duyên cũng khiến ta thay đổi số mệnh.

Do vậy Đại Ác Nhân hoặc Thánh Nhân sẽ thay đổi số mệnh trời ban ghi trong lá số tử vi trọn đời.

Nếu ai đọc tác phẩm "Liễu Phàm tứ huấn" sẽ thấy rõ điều này.Bạn có thể tìm trên Google tác phẩm này.

Tác phẩm dày khoảng 53 trang.

Liễu Phàm Tứ Huấn (了凡四訓) là một tác phẩm được viết bởi Viên Liễu Phàm, sống trong thời nhà Minh, quê ở Gia Thiện, thuộc Chiết Giang, Trung Quốc vào khoảng năm 1550.

Ông viết "Bốn điều quan trọng" (Tứ huấn) nhằm giáo dục người con trai, Viên Thiên Khải.

Tóm tắt tác phẩm như sau:"Liễu Phàm từ nhỏ cơ duyên gặp được tiên sinh họ Khổng.

Khổng tiên sinh đã bốc lá số tử vi trọn đời và Liễu Phàm ghi lại chi tiết.

Từng thời điểm trong cuộc đời sau đó của Liễu Phàm diễn ra theo đúng lá số tử vi đó không sai 1 ly.

Đúng đến mức vào ngày giờ đó được vua ban thưởng bao nhiêu đấu gạo đều chính xác 100%.

Kể từ đó Liễu Phàm buông xuôi mọi sự việc vì cho rằng đời người là số mệnh an bài.Một lần Liễu Phàm gặp thiền sư Vân Cốc.

Hai vị ngồi thiền đối diện nhau mà tâm Liễu Phàm không động.

Sau khi xả thiền Thiền sư đến đảnh lễ hỏi chuyện.

Thấy Liễu Phàm kể về số mệnh và lá số tử vi do Khổng tiên sinh tặng.

Vân Cốc thiền sư mỉm cười nói: "Tưởng rằng tiên sinh là một cao nhân nhưng không phải vậy".

Sau đó Vân Cốc thiền sư giảng cho Liễu Phàm đạo lý Nhân Quả và nguyên tắc hình thành số mệnh.

Số mệnh là quả báo do các nhân kiếp xưa đời này đủ duyên tạo quả.

Thế nhưng Đại Ác Nhân và Thánh Nhân sẽ thay đổi số mệnh.

Đại Ác Nhân thay đổi số mệnh từ tốt thành xấu.

Thánh Nhân thay đổi số mệnh từ xấu thành tốt.Kể từ đó Liễu Phàm chăm chỉ tạo phúc tích đức.

Rồi mọi việc diễn ra dần dần sai khác với lá số tử vi của Khổng tiên sinh.

Đến năm 53 tuổi theo lá số tử vi thì Liễu Phàm chết.

Nhưng năm đó Liễu Phàm qua khỏi.

Liễu Phàm sống tới 73 tuổi và năm 69 tuổi thì viết tác phẩm này để dạy con trai Viên Thiên Khải."

Bài học 2: Thiện và ÁcKệ Pháp Cú ta thấy Phật nói về Thiện và Ác.

Vậy Thiện và Ác là thế nào?

Định nghĩa ra sao?

Biểu hiện thế nào?

Tiêu chuẩn nào để xét Thiện hay Ác?

Kinh Mãn nguyệt (Cùlapunnama sutta) thuộc Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) số TT:110 do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.

Kinh đó Phật nói kỹ về tính chất kẻ Ác và người Thiện như sau:1 - Thiện luôn đi với thiện, ác luôn đi với ác.

Tục ngữ có câu: "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã.

Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy" là đúng vậy.2 - Thiện luôn nghĩ thiện, ác luôn nghĩ ác.

Thiện hay ác thì đầu tiên tâm kẻ đó phải là thiện hay ác.3 - Thiện bày mưu tính kế giúp người.

Ác bày mưu tính kế hại người.

Hóa ra người thiện cũng bày mưu tính kế thâm sâu nhưng mong ước giúp người.

Trước đây tôi cứ nghĩ thiện là không làm ác.

Nhưng sự thật, thiện không làm ác chỉ là không tạo tội.

Nhưng thiện phải làm thiện mới có phúc lớn.4 - Thiện nói ái ngữ.

Ác nói ác khẩu.5 - Thiện làm điều thiện.

Ác làm điều ác.6 - Thiện tin chánh pháp, nhân quả, luân hồi, tin người thiện sẽ được hạnh phúc, kẻ ác sẽ chịu tội.

Kẻ ác không tin chánh pháp, không tin nhân quả, không tin luân hồi.

Kẻ ác vô thần, không tin có thần thánh và không tin có đời sau.7 - Kẻ ác mà làm thiện ắt có mưu đồ.

Hoặc kẻ đó bị ép buộc phải làm với lưỡi dao kề cổ.

Còn tâm kẻ ác luôn muốn lợi cho bản thân và thích thấy người khác đau khổ.8 – Người thiện sau khi chết thì sinh cõi thần, trời, người.

Kẻ ác sau khi chết thì đọa tam ác đạo: Địa ngục, súc sinh, ngã quỷ.Bài học 3: Nghiệp là gì?Ta thấy Chun-đa tạo tội sát sinh.

Nhưng nếu hắn chỉ giết 1-2 con heo trong đời thì tội nhẹ.

Nhưng cả đời gã hành nghề đồ tể.

Ngày này qua ngày khác hắn giết heo bằng công nghệ ác độc.

Cuối đời tội ác chồng chất và quả báo khổ tới.

Đó là Ác nghiệp.Do vậy, ta thấy Phật nói về Luật Nhân Quả nhưng lại đề cao về Nghiệp.

Ví dụ: Ác Nghiệp, Tam Nghiệp, Thân Nghiệp, Khẩu Nghiệp, Ý Nghiệp, Chánh Nghiệp, Thiện Nghiệp...Nhân là một hành động thiện (ác).

Còn nghiệp là nhân thiện (ác) tích lũy sâu dày theo năm tháng.

Do nghiệp là tập hợp của vô số các nhân thiện (ác) nên nghiệp quả to lớn vĩ đại.Nghiệp có tính chất gần giống với nghề nên hay nói ghép là: Nghề nghiệp, sự nghiệp, cơ nghiệp, sản nghiệp.

Nghề được đào tạo ở trường lớp theo chuyên môn.

Nghiệp giống nghề vì cùng làm những việc giống nhau theo năm tháng.Do vậy cùng là nghề kế toán.

Kế toán ở công ty thu nợ xã hội đen thì đồng nghiệp với kẻ ác chém giết khủng bố.

Kế toán ở trường học thì đồng nghiệp với giáo viên dạy trẻ sẽ hưởng quả báo phúc.

Rồi đồng nghiệp trong công ty thì có thể là: Kế toán, giám đốc, trưởng phòng, kinh doanh, tin học, tạp vụ, thiết kế...

Đồng nghiệp sẽ có quả báo tương đồng nhưng nghề chuyên môn của họ là hoàn toàn khác nhau.Tiểu kinh Nghiệp phân biệt (Cùlakammavibhanga sutta) thuộc Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) số TT:135 do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.

Phật khẳng định tầm quan trọng của Nghiệp như sau:Này Thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp.

Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình, bởi vì có liệt (xấu), có ưu (tốt)".Phật nói rằng: "Chúng sinh là chủ nhân của nghiệp và thừa tự của nghiệp".

Tức chúng sinh tạo ra nghiệp và nghiệp sẽ đưa chúng sinh đi theo nó.Phật nói tiếp: "Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình, bởi vì có liệt (xấu), có ưu (tốt)".

Tức người đó sinh ra nghiệp (thai tạng), nghiệp đó bám chặt vào họ (quyến thuộc), nghiệp là xuất phát điểm (điểm tựa) chia tách chúng sinh làm 2 ngả: cõi lành hay ác đạo, bởi vì nghiệp có thiện (ưu) có ác (liệt).Bài học 4: Cận tử nghiệpCận tử nghiệp tức nghiệp ở giây phút cuối đời.

Cận tử nghiệp chính là cõi giới nơi đến của người đó sau khi chết.

Chứ không phải chết mà thấy hơi ấm lưu lại ở đầu thì về cõi lành.

Chết mà hơi ấm lưu lại ở bụng thì về cõi trung.

Chết mà hơi ấm lưu lại ở chân thì về cõi dữ.

Những quan niệm đó là sai lầm.

Hoàn toàn không có Kinh Phật nào nói vậy cả.

Không biết vì sao ai đó chế ra điều đó không hề đúng Nhân Quả.Một người khi chết mà đau đớn, gào thét, máu me thì cõi giới họ đến là địa ngục như gã đồ tể Chun-đa.

Một người chết mà si mê lú lẫn chẳng nhớ ai với ai thì cõi giới họ đến là súc sinh.

Một người chết mà tâm thần hoảng loạn, sợ hãi, cô đơn, lạnh lẽo, đói rách thì cõi giới họ đến là ngã quỷ.Ở Truyện tích Pháp Cú 16 ngay sau đây ta thấy ông Thiện Tín chết bình an tự tại vui vẻ hạnh phúc, có hương thơm, có hào quang và tiếng nhạc trời...

Ông Thiện Tín đó có "Cận tử nghiệp lành" và được đi về cõi lành.

Cụ thể là về cõi Đâu Suất Đà Thiên.Vậy nên muốn xét đoán một người chết sẽ sinh về đâu ta hãy chú ý đến giây phút "Cận tử nghiệp".

Bởi vì sao?

Bởi vì Truyện tích Pháp Cú 15 và 16 này Phật đã ngầm nói rõ cho ta biết sự thật đó.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 16: Truyện ông Thiện Tín


"Hiện đời vui đã đếnĐời sau vui nhiều hơnKẻ thiện đầy hạnh phúcHái quả ngọt đã gieo"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 16)Tích Pháp Cú: Gần nhà ông Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ (Sa-va-ti) có gia đình tín chủ chuyên làm thiện.

Trong kinh không ghi tên nên ta tạm gọi là ông Thiện Tín.

Gia đình ông Thiện Tín rất giàu gần bằng gia đình ông Cấp Cô Độc.Ông Thiện Tín là người nổi tiếng với thiện nguyện chăn sóc người vãng lai nghèo khổ khi họ mới tới thành Xá Vệ.

Ông cũng thường xuyên cúng dường chư tăng trong tăng đoàn Đức Phật.

Ta biết tăng đoàn thời Đức Phật có rất nhiều vị thánh A-la-hán.

Theo Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống số 26 Trường Bộ Kinh thì Phật nói có 1200 vị A-la-hán.

Do vậy, ai có duyên sinh vào thời đó và được cúng dường tăng đoàn Đức Phật thì phúc lớn.Ông Thiện Tín có 14 người con.

Tất cả các con, ông đều dạy chúng biết làm phúc cúng dường chư tăng giống như ông.

Khi về già thì sức khỏe yếu kém và ông biết chính xác 3 ngày nữa là chết.

Ông bèn gọi các con tới nói:- Ba ngày nữa cha sẽ ra đi.

Trước khi chết cha muốn được nghe chư tăng tụng 1 bài kinh để cha được ra đi trong tiếng kinh Phật.Các con đến bạch với Phật.

Phật cho một số vị Tỳ kheo đến nhà ông tụng kinh.

Các Tỳ kheo đến hỏi ông muốn nghe kinh gì?

Ông đáp:- Bạch các vị, con thường nghe Thế Tôn ca ngợi kinh Tứ Niệm Xứ vì đó là con đường cao cả nhất tu thiền định đạt giác ngộ giải thoát.

Nay con xin được nghe bản kinh này.Ông nhắm mắt và tiếng kinh tụng vang lên.Ngay lúc ông nhắm mắt thì ông thấy bầu trời sáng rực hào quang và trần nhà mở tung.

Trên đó các chư thiên đánh từng đoàn xe đến mời ông lên xe về cõi trời của họ.

Có rất nhiều đoàn xe của các cõi trời lũ lượt đến mời ông.

Tiếng nói của các chư thiên nhao nhao làm ông không nghe được tiếng kinh.

Ông nói:- Xin các vị im lặng, xin các vị im lặng...Các Tỳ kheo không thấy linh ảnh mà ông thấy.

Nên các vị nghe ông nói "Xin hãy im lặng..." thì bèn dừng tụng kinh và xin phép gia đình để ra về.

Các con buồn rầu đưa tiễn chư tăng đến cổng.

Sau đó họ quay lại lay cha dậy và hỏi:- Cha ơi, sao các vị chư tăng đang tụng kinh thì cha bảo họ ngừng?Ông trả lời:- Đâu có, cha đâu kêu chư tăng dừng.

Cha kêu chư thiên đừng làm ồn để cha được nghe tiếng kinh.Người con hỏi:- Đâu có chư thiên nào đâu cha?Ông kể lại linh ảnh mà ông thấy khi ông nhắm mắt.

Sau đó ông hỏi các con:- Này các con, trong các cõi trời thì cõi nào có Phật thuyết pháp?Người con trưởng đáp:- Thưa cha, con nghe Thế Tôn nói cõi trời Đâu Suất Đà Thiên có Bồ Tát Di Lặc thuyết pháp ạ.- Vậy cha sẽ xin về cõi đó.

Khi cha nhắm mắt con hãy lấy một vòng hoa ném lên trời và nguyện rằng: "Xin vòng hoa này được gắn lên xe của cõi Đâu Suất Đà Thiên".Khi ông nhắm mắt người con trưởng ném một vòng hoa lên trời và nguyện đúng như vậy.

Kỳ lạ thay vòng hoa đó đứng lơ lửng trên hư không mà không rơi xuống đất.

Ông Thiện Tín mỉm cười trút hơi thở cuối cùng.

Một mùi hương thơm ngát thoát ra và lan tỏa khắp căn phòng.Chư Tỳ kheo về đến Tinh xá liền bạch Phật:- Bạch Phật, khi chúng con đang tụng kinh thì ông Thiện Tín đó bảo ngừng và chúng con ra về.

Chúng con không biết tại sao?- Này các Tỳ kheo, không phải ông Thiện Tín đó bảo các ông ngừng.

Ông ta bảo chư thiên ngừng nói nhao nhao để được nghe kinh.

Và nay ông Thiện Tín đó đã lên xe về cõi trời Đâu Suất nơi có Bồ Tát Di Lặc thuyết pháp.Sau đó Phật đọc bài kệ:"Hiện đời vui đã đếnĐời sau vui nhiều hơnKẻ thiện đầy hạnh phúcHái quả ngọt đã gieo"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 15)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Đời sau vui nhiều hơnĐời này ta gieo nhân thiện ác.

Cuối đời quả báo lành đến chỉ là "Phần nổi của tảng băng chìm" vì duyên lành chưa viên mãn.

Quả báo chính yếu sẽ tới ở đời sau khi mọi điều kiện cần thiết của duyên lành hội đủ.

Vậy nên Phật nói "Hiện đời vui đã đến.

Đời sau vui nhiều hơn".Thật vậy, ông Thiện Tín gieo nhân được hưởng hạnh phúc cõi trời.

Nhưng đời sống này khi ông vẫn còn thân người sẽ không thể được hưởng hạnh phúc vĩ đại cõi trời.

Phải ở đời sau được sinh vào cõi trời thì duyên lành mới viên mãn.

Duyên đó chính là điều kiện và môi trường cõi trời.

Chỉ khi đó ông mới được hưởng hạnh phúc vĩ đại cõi trời.

Còn "hiện đời vui đã đến" tức niềm hạnh phúc của ông cuối đời người chỉ là nhỏ bé nếu so với "Đời sau vui nhiều hơn".Bài học 2: Phúc cần tích lũy cả đờiTa thấy ông Thiện Tín cả đời làm thiện giúp người.

Ông thường xuyên cúng dường tăng đoàn Đức Phật.

Cuối đời quả báo lành hiện về và ông được quyền lựa chọn các cõi trời để tái sinh.

Ông đã chọn Tịnh Độ Đâu Suất Đà Thiên nơi có Bồ Tát Di Lặc giảng pháp.

Sao phải đến cuối đời thì ông mới thấy linh ảnh cõi trời và hào quang.

Mà trong cả cuộc đời ông không thấy?Ta nên biết đời này từ khi ta sinh ra, ta đã bị ấn định một số mệnh.

Số mệnh chính là quả báo của các nghiệp kiếp trước. (Chú ý: Nghiệp có liệt có ưu mà tạo thành quả báo có dữ có lành).

Đời này ta sinh ra với các điều kiện về môi trường, cuộc sống, xã hội, quyến thuộc, họ hàng... là duyên để nghiệp kiếp trước thành quả báo.

Còn nghiệp đời này ta gây ra phải chờ duyên mới, đời sống mới, mới tạo thành quả báo đầy đủ viên mãn.Thế nhưng nghiệp (thiện hay ác) đời này ta tích lũy nếu to như núi Thái Sơn thì sẽ có một phần quả báo nhỏ bé tới sớm vì thiếu duyên.

Và một phần quả báo nhỏ bé đó đủ thay đổi số mệnh cuộc đời ta.

Thế nên "Đại ác nhân và Thánh nhân sẽ thay đổi số mệnh trời ban".

Đại Ác Nhân thì thay đổi số mệnh từ tốt thành xấu.

Thánh Nhân thì thay đổi số mệnh từ xấu thành tốt.

Còn người thường không tạo tội hoặc tạo phúc to như núi sẽ khó có thể thay đổi số mệnh.Ta đã bàn ở Pháp Cú 15 thì giây phút cuối đời là "Cận tử nghiệp".

Cận tử nghiệp là lúc ta bắt đầu được hưởng quả báo từ các nghiệp đời này.

Vì vậy quả báo lúc cuối đời "Cận tử nghiệp" chính là quả báo kiếp sau ta sẽ hưởng.

Chỉ khác là "Hiện đời vui đã đến.

Đời sau vui nhiều hơn".

Tức quả báo đời sau sẽ vĩ đại gấp nhiều lần so với quả báo hiện đời đang diễn ra.Bài học 3: Thấy Cõi trời, Phật, Bồ Tát tốt không?Trên đây ta thấy ông Thiện Tín tạo phúc cả đời mà chẳng thấy linh ảnh cõi trời bao giờ.

Chỉ trước lúc chết thì ông mới thấy linh ảnh cõi trời hiện ra.

Vậy người tu nếu thấy linh ảnh cõi Trời, Phật, Bồ Tát hiện ra là tốt hay xấu?Trường hợp 1: Ta biết Phật hiếm khi dùng thần thông.

Phật chỉ dùng thần thông đối với kẻ kiêu mạn không thể khuyên dạy bằng đạo lý.

Khi đó Phật dùng thần thông để răn đe nhắc nhở kẻ đó đang sai lầm.

Vậy nếu linh ảnh Phật, Bồ Tát hiện ra đó là thần thông của Phật, Bồ Tát thì các vị đang nhắc nhở ta tu sai.

Ta đang kiêu mạn, chủ quan, lầm đường lạc lối.Trường hợp 2: Phật, Bồ Tát hiện ra là giây phút cuối đời trước khi chết giống ông Thiện Tín vậy.

Khi đó ta đang đứng ở ngưỡng cửa cõi người và cõi trời.

Và khi đó ta sẽ thấy linh ảnh Phật, Bồ Tát.Trường hợp 3: Đa phần linh ảnh đó là do Ác ma phá ta.

Kinh Hàng Ma (Màratajjanìya Sutta) thuộc Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya) số TT:50 do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.

Đại ác ma Du-si phá hoại đời tu của Tỳ kheo chỉ có 2 món võ vô cùng hiệu quả.

01 - Nó nhập tâm Phật tử đến chửi rủa đánh đập các sư để sư sân hận.

02 - Nó hiện hình Phật, Bồ Tát hào quang, khen tặng chúc tụng Tỳ kheo như sắp tu thành chính quả thành Phật, thành Bồ Tát để sư kiêu mạn.

Khi tâm sư sân hận hoặc kiêu mạn thì ác ma Du-si chiếm lấy tâm hồn sư.Đa phần linh ảnh Phật, Bồ Tát hiện ra là do Ác Ma phá ta khiến ta kiêu mạn.Để diệt tâm sân hận và tâm kiêu mạn thì Phật dạy trong Kinh Hàng Ma rằng: "Tỳ kheo tu Thiền quán xả ly an trú Chánh niệm tỉnh giác sẽ không giận không sân.

Tỳ kheo tu Thiền quán Vô thường Vô ngã sẽ không kiêu mạn".

Sư không tu thiền rất dễ bị sân hận và kiêu mạn phá hoại đời tu.

Khi đó tâm hồn sư đã bị Đại ác ma Du-si chiếm giữ.Và đây là kinh nghiệm của cá nhân tôi: "Đi chùa nếu thấy sư trong chùa sân hận hoặc kiêu mạn thì rất có thể đó chính là Đại ác ma Du-si".
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 17: Truyện Đề-bà-đạt-đa hại Phật


"Khi quả báo hiện raKẻ ác liền than khócĐâu biết rằng đời sauCòn thê thảm vạn lần"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 17)Tích Pháp Cú: Khi đó Phật ở vùng các tiểu quốc A-lu-bi-da phía nam kinh thành Ca-tỳ-la-vệ.

Vua của các tiểu quốc đó cũng là bà con với vua Tịnh Phạn thuộc dòng họ Thích Ca.

Vua đó muốn đi tu nhưng vì trách nhiệm với đất nước nên không thể.

Ông nghĩ ra sáng kiến là khuyên 6 người em đi tu để hưởng lợi ích lớn từ Phật Pháp.Sáu người em đồng ý và họ rủ theo người thợ cạo tóc là U-ba-li cùng theo.

Trong lễ xuất gia 6 người xin Phật cho U-ba-li xuất gia trước để U-ba-li làm sư huynh.

Kế đó 6 người phải đảnh lễ thợ cạo tóc U-ba-li nhằm diệt tính kiêu mạn.

Sáu vị trong hoàng tộc đó gồm: hoàng thân Ba-bi-da xứ Ma-la, hoàng thân A-lu-ru-đa, Ngài A-Nan, Ngài Ba-Ru, Ngài Kim-bi-la và Đề-bà-đạt-đa.Thời gian sau Ngài A-Nan chứng quả dự lưu, 4 vị khác chứng A-la-hán.

Riêng Đề-bà-đạt-đa không chứng thánh mà lại chứng thần thông.

Đề-bà ngồi thiền nhập định có thần thông vi diệu mà không hề chứng bất kỳ thánh quả nào.Chắc các bạn vẫn nhớ Đại Ác Ma Mara thời hiện đại đã hiện ra phá Phật Thích Ca trong đêm thứ 49 trước khi Người đắc đạo.

Hay Đại Ác Ma Dusi tiền thân của Tôn giả Mục Kiền Liên chống phá Đức Phật quá khứ đều có thần thông vĩ đại mà không hề chứng thánh quả nào dù nhỏ nhất.Đó là điều vô cùng nguy hiểm.

Bởi vì một kẻ có năng lực vĩ đại, thần thông vĩ đại mà tâm vẫn còn Thân kiến ích kỷ, ghen tị và Kiêu mạn chính là nguyên nhân dẫn đến một kết cục tang thương.Lúc đó trong Tinh xá Phật có hiện tượng lạ xảy ra: Những cư sỹ đi đến Tinh xá cúng dường chư tăng, nghe pháp và học đạo.

Khi họ gặp 5 vị hoàng tộc kia thì yêu mến.

Nhưng cứ thấy Đề-bà-đạt-đa ở đâu là tránh mặt.

Hiện tượng đó lặp đi lặp lại lâu ngày khiến Đề-bà-đạt-đa chịu hết nổi.

Và rồi lòng ghen tị với Đức Phật trong tâm Đề-bà nổi lên.Đề-bà-đạt-đa có tham vọng được thành tựu như Phật, được giáo hóa đại chúng và được sự tôn kính lễ lạy như Phật.

Đề-bà thấy cơ hội hiện thực hóa tham vọng nhờ vào A Xà Thế.

A Xà Thế là một vị thái tử đầy tham vọng đang đợi được lên ngôi mà vua cha Bình Sa mãi không chết.Thấy được tâm Thái Tử vậy thì Đề-bà dùng thần thông hiện ra trước mặt A Xà Thế.

A Xà Thế hỏi: "Ngài đi đâu?".

Đề-bà biến mất và hiện ra trên đỉnh núi.

A Xà Thế khâm phục quỳ lạy.

Sau khi thu phục xong A Xà Thế, Đề-bà tự xưng là Tân Phật và nói:- Ta nhìn cơ duyên thấy ngươi phải giết cha mới được làm vua Ma Kiệt Đà.

Ta sẽ giúp ngươi thực hiện điều đó.

A Xà Thế bị tham vọng làm mờ mắt mà nghe lời Đề-bà.

Sau khi giết cha xong A Xà Thế ủng hộ Đề-bà và Đề-bà bắt đầu tấn công Phật.

Đề-bà cho người công kích nói xấu Phật và ra lệnh quần thần vương quốc Ma Kiệt Đà phải nói xấu Phật.

Đề-bà gây dư luận chống phá Phật khắp mọi nơi.

Đức Phật bị một nước lớn Ma Kiệt Đà là nơi đặt đại bản doanh Tăng đoàn Phật Giáo chống phá.

Nhưng Đức Phật và Tăng đoàn vẫn đứng vững.Một lần Đề-bà bày mưu kế thả voi say dẵm Phật nhưng thất bại.

Lần khác Đề-bà lăn đá từ đỉnh núi xuống âm mưu giết Phật cũng không thành.

Rồi Đề-bà lập riêng tăng đoàn mới với những điều khổ hạnh hơn so với tăng đoàn Đức Phật.

Đề-bà thuyết phục một số tăng sĩ bỏ Phật tu theo hắn.Thời gian sau thì Quả báo đến.

Đề-bà mất hết thần thông.

Và rồi Đề-bà bị bệnh nặng toàn thân mọc lên mụn nhọt, đụng vào cơ thể là hắn đau đớn.

Phật sai Xá Lợi Phất và Mục Thiền Liên đến gọi tăng sĩ tu theo Đề-bà trở về.

Sau đó Đức Phật tha chứ cho toàn bộ các tăng sĩ này.Khi đó Đề-bà hối hận muốn được gặp Phật để xin lỗi.

Phật ở Tinh xá có tin báo Đề-bà bệnh nặng được 5 người khiêng trên cáng xin được gặp Phật để xám hối.

Phật nói:- Kiếp này Đề-bà không còn cơ hội gặp Như Lai.Thật vậy, khi đến cửa Tinh xá Phật, Đề-bà bước xuống cáng.

Chân vừa hạm đất thì đất nứt đôi hút Đề-bà chui xuống.

Khi đất hút đến cổ Đề-bà chỉ kịp nói với một câu hướng về Đức Phật:- Con xin xám hối Đức Thế Tôn bậc thầy của Trời Người.

Đời đời con xin đem thân mạng này cúng dường Đức Thế Tôn.Và đất rút Đề-bà chui vào lòng đất.

Sau này Kinh Pháp Hoa ở Phẩm Đề-bà-đạt-đa thì Đức Phật đã thọ ký cho Đề-bà: "Thời gian sau khi trả nợ xong ác nghiệp ở địa ngục, Đề-bà được trở lại làm người tu hành tinh tấn đắc đạo làm Độc Giác Phật.

Đó là một vị thánh đắc đạo A-la-hán một mình không giáo hóa chúng sinh".Tôi nghĩ điều này rất có thể đúng.

Vì trong Kinh Hàng Ma thuộc Trung Bộ Kinh Nikaya kể về thời Phật quá khứ.

Đức Mục Kiền Liên khi đó làm Đại ác ma Du-si.

Di-si cũng quậy phá tăng đoàn Phật quá khứ tung trời.

Sau khi bị đọa địa ngục vạn năm đến đời này gặp Phật Thích Ca thì Tôn giả tu đắc đạo A-la-hán thần thông đệ nhất và thống lĩnh tăng đoàn.Do vậy ác nhân tạo tội thì phải chịu tội nơi địa ngục.

Nhưng ác nhân đó có phúc lớn.

Bởi vì có phúc lớn mới có năng lực thần thông vĩ đại để chống phá Đức Phật.

Kẻ đó sau khi trả nợ hết tội cải tà quy chính tu hành vẫn đắc đạo.

Vậy nên phúc là cần thiết và tội phúc tách bạch chẳng thể bù trừ.Sau khi Đề-bà bị hút vào đất, Đức Phật đọc bài kệ:"Khi quả báo hiện raKẻ ác liền than khócĐâu biết rằng đời sauCòn thê thảm vạn lần"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 17)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Quả báo chính yếu đến ở đời sauKệ pháp cú này Phật muốn nhấn mạnh: "Quả báo đời này hiện ra do ác nghiệp hiện đời khiến kẻ đó đau khổ than khóc lúc chết.

Nhưng đó chỉ là phần nổi của tảng băng chìm mà thôi.

Quả báo đau khổ tột cùng trong cõi Địa ngục còn thê thảm gấp vạn lần sẽ chờ kẻ đó ở đời sau".Thiên Chúa Giáo cũng nói đến quả báo ở đời sau cho những ai làm theo lời dạy của Chúa.

Kẻ đó sẽ được về nước Chúa, được ở cạnh Đức Thiên Chúa.

Hồi Giáo cũng nói về "Ngày phán quyết".

Ngày mà kẻ đó chết đi sẽ có một vị thần phán xét tội phúc kẻ đó.

Nếu phúc lớn hơn tội sẽ được lên thiên đàng.

Tội nhiều hơn phúc sẽ bị đọa địa ngục.Bài học 2: Hoàng tộc luôn có tâm Kiêu mạnCác vị hoàng thân xuất gia tu theo Phật vô cùng trí tuệ.

Họ biết họ là hoàng tộc thì bản tính kiêu mạn thường trực trong tâm.

Tuy họ không thấy nhưng 100% là có.

Thế nên các vị mang theo kẻ hầu là thợ cạo tóc trong cung cho xuất gia trước.

Sau đó họ phải lạy nhận người hầu đó làm sư huynh để diệt tâm kiêu mạn.

Một hành động vô cùng trí tuệ.Vì các vị có trí tuệ lại có phúc lớn mới được sinh ra trong hoàng tộc.

Rồi các vị có duyên gặp Chánh pháp của Đức Phật Thích Ca dạy tu hành.

Chỉ thời gian ngắn sau thì 4 vị đắc A-la-hán.

Riêng Đức A-Nan đắc Sơ quả Dự Lưu.

38 năm sau đó, sau khi Phật nhập Diệt 7 ngày thì đức A-Nan mới đắc A-la-hán.Thế nhưng Tôn giả A-nan là một vị A-la-hán vĩ đại.

Đức A-Nan 25 năm làm thị giả phục vụ hầu hạ Phật.

Ngài ghi nhớ trong đầu toàn bộ Kinh Phật.

Rồi Ngài chủ trì đọc tụng kết tập kinh điển Phật lần thứ nhất.

Ngày nay ta có kinh Nguyên Thủy Nikaya là lời dạy của Phật Thích Ca để học tập là nhờ công ơn đầu tiên của Tôn giả A-Nan.Bài học 3: Thần và Thánh.Cõi thần và cõi thánh (còn gọi là cõi trời) các vị đều có phúc lớn.

Dân gian gọi đó là cõi Thần Tiên vô cùng hạnh phúc.

Kinh Đế Thích sơ vấn (Bản kinh số 21 thuộc Trường Bộ Kinh Nikaya) kể về cuộc đời vua trời Đế Thích.

Có đoạn khi vua trời mới lên cõi trời thì ở gần cõi thần A-tu-la.

Rồi trời và thần đánh nhau và trời thua.

Thế nên trời phải bay lên rất cao để xây cung điện.

Ta mới thấy thần và thánh nếu xảy ra xung đột thì ai phúc lớn hơn sẽ thắng chứ không phải đạo đức hơn là thắng.Năng lực của thần là thần thông.

Bản tính của thần là sân hận và kiêu mạn.

Năng lực của thánh là đạo đức, đạo lý chánh pháp và thần thông.

Bản tính của thánh là từ bi, hi sinh vì chúng sinh.

Vậy nên trong Đạo Phật các tu sỹ chỉ chứng thánh chứ không chứng thần.

Các vị thánh trong đạo Phật chưa giải thoát sẽ sinh về cõi trời chứ không sinh vào cõi thần.Chứng thánh trong đạo Phật là diệt trừ tật xấu kiết sử.

Các vị thánh càng cao càng diệt được nhiều kiết sử.

Kiết sử có 10 tật xấu: 1- Thân kiến (ích kỷ).

2- Giới cấm thủ (cố chấp).

3- Nghi (hoang mang, ngờ vực).

4- Tham ái dục.

5- Sân hận (thù ghét).

6- Trạo hối (ngồi thiền không thể tĩnh).

7- Kiêu mạn.

8- Tham sắc ái (tham và yêu cảnh trí cõi trời sắc giới).

9- Tham vô sắc ái (tham và yêu cảnh trí cõi định vô sắc giới).

10- Vô minh (không có Tam Minh).Còn các vị Thần phúc lớn nên có năng lực thần thông.

Thần càng vĩ đại thì thần thông càng mạnh mẽ.

Vị thần cao nhất, thần thông mạnh nhất trong Kinh Phật là Đại Ác Ma.

Câu chuyện này thì Đại Ác Ma chính là Đề-bà-đạt-đa.

Ác Ma thần thông vĩ đại nhưng sân hận, kiêu mạn và ghen tị với Phật.

Ác Ma bày mưu tính kế hại Phật và tăng đoàn để nhằm đạt được danh vọng như Phật.

Nhưng vì gây tội lớn nên mất phúc nhanh.

Phúc mất thì thần thông mất và bệnh tật đau khổ.

Cuối đời Đề-bà xuất hiện hiện tượng đất nứt ra nuốt Đề-bà chui vào lòng đất.

Ai thấy vậy cũng sợ nhưng Phật nói "Đâu biết rằng đời sau còn thê thảm vạn lần".Kinh Hàng Ma (kinh số 50 thuộc Trung bộ kinh Nikaya) kể về tiền kiếp của Đức Mục Kiền Liên là Đại ác ma Dusi.

Dusi cũng ghen tị với Phật quá khứ nên tìm cách phá hoại.

Quả báo là Du-si bị đọa địa ngục nhiều vạn năm.

Đến đời sống này cải tà quy chính do phúc vẫn còn nên gặp Phật Thích Ca tu hành đắc đạo A-la-hán thần thông đệ nhất.

Vậy nên hết khổ lại đến vui.

Quan trọng có phúc không để mà vui.Bài học 4: Ngưu tầm ngưu, mã tầm mãThiện đi với thiện, ác đi với ác.

Luôn luôn là như vậy.

Những Phật Tử đến gặp Phật nghe pháp là những người thiện.

Tự dưng tâm họ xuất hiện sự xa lánh với kẻ ác Đề-bà.

Do đó, họ cứ thấy Đề-bà ở đâu là lảng tránh.

Rồi những kẻ tu theo Phật mà bị Đề-bà dụ dỗ bỏ tăng đoàn Đức Phật đi theo hắn là những kẻ có tâm ác hoặc bị nợ duyên với Đề-bà.

Do vậy hắn mới có thể dụ được những kẻ đó.Nhưng tâm ác hại người dễ mất duyên.

Khi duyên hết thì tự dưng tâm Tỳ kheo theo Đề-bà muốn xa lánh hắn ta.

Đến lúc này Phật mới bảo 2 Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Kiên nói các vị đó về lại Tinh xá và Phật tha tội.

Vậy nên nợ duyên với người tốt là điều may mắn vì người tốt sẽ bảo ta làm việc tốt.

Nợ duyên với ác nhân thì ác nhân bắt ta tạo tội.Bài học 5: Vua Bình Sa công đức lớn hiện đời vẫn bị quả báo khổVua Bình Sa có công đức hộ trì Phật giáo và đưa toàn đại quốc Ma Kiệt Đà tu theo Phật ngay khi Phật vừa đắc đạo.

Vua còn cúng dường Phật vườn Trúc Lâm để xây Tinh xá.

Đó là những công đức lớn.Thế nhưng phúc lớn đó đa phần sẽ đến ở kiếp sau.

Đời sống này là cơ duyên để các nghiệp kiếp xưa tạo quả.

Thế nên vua Bình Sa tạo phúc lớn hiện đời vẫn bị quả báo khổ.

Vua bị con đẻ là A Xà Thế hại chết.

Phúc lớn đến như Phật mà quả báo khổ đủ duyên kéo đến thì Phật vẫn phải chịu.

Phật bị Đề-bà hãm hại là một nạn ách điển hình của nghiệp quá khứ.Vậy nên ai đã và đang làm thiện tích phúc mà vẫn thấy khổ thì hãy vững tâm làm thiện.

Bởi vì những điều thiện, những phúc báu ta đã và đang gây tạo sẽ trổ quả ở kiếp sau.

Đời sống này là duyên để nghiệp kiếp xưa tạo quả.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 18: Truyện con gái ông Cấp Cô Độc


"Khi phúc lành hiện raKẻ thiện nhiều hoan hỉĐâu biết rằng đời sauCòn sung sướng vạn lần"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 18)Tích Pháp Cú: Ông Cấp Cô Độc là một đại tín chủ giàu có nổi tiếng thời Đức Phật.

Truyện tích ông cúng dường Phật khu vườn Kì Viên mua của Thái Tử Kì Đà với số tiền vàng phủ kín mặt đất khu vườn là minh chứng.

Ông có nhiều con.

Ông cùng các con lo việc cúng dường Phật và chư tăng.

Ông cúng dường trai tăng nhuần nhuyễn đến mức ông biết rõ từng vị thích ăn món gì và ông cúng món đó.

Vậy nên chư tăng rất an vui tu hành.Kinh thành Xá Vệ còn có tín chủ là bà Vi-sa-ca cũng có hạnh cúng dường như ông.

Thời đó vật chất ít ỏi nên cúng dường đa phần chỉ cúng thức ăn.

Về sau các con trai của ông lập gia đình nên việc cúng dường không còn chu đáo.

Ông giao việc cúng dường cho cô con gái út tên là Su-ma-na.

Và rồi người con gái này chứng Nhị quả Nhất lai còn ông Cấp Cô Độc mới chứng Sơ quả Dự lưu.

Do chứng cao hơn nên bà biết rõ tâm ông.

Bà biết rõ ông tu ra sao và biết phúc của ông không bằng bà nhưng bà giữ bí mật.Một lần Su-ma-na thấy duyên trần đã hết.

Bà muốn ra đi nên gọi ông tới.

Ông hỏi bà:- Con gái có chuyện gì vậy?Bà nói đùa với ông rằng:- Em nhỏ ở lại vui vẻ.Ông tưởng bà loạn trí liền hỏi:- Sao hôm nay con ăn nói kì lạ vậy?- Thôi em ở lại cố gắng tu hành.Và bà nói xong liền ngồi đó viên tịch.Ông thấy con gái chết đột ngột thì hoảng sợ chạy vào hỏi Phật.

Phật nói cô con gái đó đùa cha vì cô chứng nhị quả cao hơn cha.

Cô thấy duyên trần đã hết nên cô chọn cách tự tại ra đi.

Trước khi ra đi cô còn tìm cách trêu cha.

Sau đó Phật đọc bài kệ:"Khi phúc lành hiện raKẻ thiện nhiều hoan hỉĐâu biết rằng đời sauCòn sung sướng vạn lần"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 18)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Quả báo lành sẽ đến ở đời sauKệ Pháp Cú Phật khẳng định lại: "Quả báo lành đời này hiện ra do thiện nghiệp khiến kẻ đó vui sướng hạnh phúc.

Nhưng đó chỉ là phần nổi của tảng băng chìm mà thôi.

Phần phúc to lớn vĩ đại cõi trời sung sướng gấp vạn lần đang chờ kẻ đó ở đời sau".Vậy nếu đời này ta gieo nhân tạo nghiệp thì phải đến đời sau ta mới hái quả viên mãn.

Còn đời này cuộc sống ta thay đổi tốt đẹp chỉ là một phần vạn của quả báo lành mà thôi.Bài học 2: Cúng dường đúng cái các vị cầnDân gian có câu: "Một miếng khi đói bằng một gói khi no".

Một miếng ăn nếu cho người gần chết đói có thể cứu sống một mạng người.

Cũng miếng ăn đó cho người đang no thì họ không cần.

Thậm chí họ còn cảm thấy cực hình nếu buộc phải ăn khi đã no.Do vậy, cúng dường các vị thánh đúng cái các vị cần thì phúc lớn.

Các vị dù là thánh nhưng vẫn còn thân người và cần ăn để sống.

Các vị chuyên tâm tu hành nên không lao động nông nghiệp hay buôn bán lấy tiền mua đồ ăn.

Các vị đã diệt tham dục nên không cần vật chất xa hoa mà đơn giản chỉ cần ăn để sống mà thôi.

"Có thực mới vực được Đạo".

Các vị đầu tiên phải có ăn thì mới mang đạo lý chánh pháp răn dạy cho đời.Do vậy thời Đức Phật ai cúng đồ ăn cho các vị tu hành chân chính sẽ có phúc lớn.

Quả báo như bạn thấy.

Ông Cấp Cô Độc và cô con gái út phúc vĩ đại.Thời nay Phật và các vị thánh đã vào cõi Phật chứ không còn thân người.

Vậy ta phải cúng thứ gì mà các vị cần?

Sau đây là những món các vị cần:"Giới hương, định hương, giữ tuệ hươngGiải thoát, giải thoát, chi kiến hươngQuang minh, vân đài, biến pháp giớiCúng dường thập phương Tam bảo tiền"Câu 1: Cúng Phật sự tu hành giữ giới, tu hành thiền định, tu hành trí tuệ học kinh hiểu chân lý chánh pháp.

Câu 2: Cúng Phật sự đắc đạo giải thoát là hương thơm đúng đắn nhất (chi kiến hương).

Câu 3: Cúng Phật bằng cách biến toàn bộ thế giới đều diệt Vô minh chứng đạt quang minh độ cho tất cả đều đắc đạo ngồi đài mây.

Câu 4: Đó là sự cúng dường cần có trước tiên để kính dâng Tam bảo.Ngày nay ta không cần cúng Phật đồ ăn, nước uống.

Ta hãy cúng Phật bằng sự tu hành giới hạnh, thiền định, học kinh Phật (giới định tuệ).

Đó là việc ta có thể làm ngay và luôn.

Còn chứng đạt giải thoát đắc A-la-hán độ chúng sinh đắc đạo "Quang minh Vân đài" là mục tiêu của Phật và Đại Bồ Tát.

Khi nào ta thành các vị thì ta làm sau.Bài kệ cúng hương đó là giai đoạn tu hành Giới-Định-Tuệ của các sư.

Trước đó là giai đoạn tu Tam nghiệp tích phúc của người thường chưa xuất gia vô cùng quan trọng.

Vì phải có gốc là phúc mới có ngọn là từ bỏ phúc thế gian, hướng phúc đó vào tu hành đắc đạo.

Nếu không có phúc thì tu hoài Giới-Định-Tuệ mà chẳng thể đắc đạo.Bài học 3: Phúc và DuyênTăng đoàn Đức Phật thời đó toàn là A-la-hán.

Do vậy, Phật tử chỉ cần cúng đồ ăn cho các vị là có phúc lớn.

Ông Cấp Cô Độc vừa giàu có, vừa đắc sơ quả Dự Lưu.

Cô con gái cúng dường trai tăng thì đắc nhị quả Nhất lai.

2 vị đó là cư sỹ thực hành 5 giới vậy mà đắc thánh quả.

Đời nay các sư tu mãn kiếp cũng không được vậy vì thiếu Phúc và thiếu Duyên.Ông Cấp Cô Độc và con gái phúc lớn.

Họ có duyên gặp đúng Chánh pháp của Đức Phật.

Họ chỉ tu 5 giới mà đắc Sơ quả, Nhị quả.

Đời nay sư tu dù sư có phúc lớn cũng khó đắc đạo.

Bởi vì đây là thời Mạt Pháp xa rời Chánh Pháp Đức Phật.Ta nên nhớ phúc vĩ đại như Sa Môn Cồ Đàm mà tu sai chánh pháp 6 năm khổ hạnh tinh tấn chẳng thể đắc đạo.

Cũng Sa Môn Cồ Đàm đó có duyên tu đúng chánh pháp thì 49 ngày ngồi thiền đã đắc đạo thành Phật.

Vậy nên duyên có được chánh pháp là vô cùng quan trọng.Bài học 4: Phúc ông Cấp Cô Độc và cô con gáiTa thấy về đắc đạo thì ông Cấp Cô Độc chỉ mới đắc Sơ quả nhưng tài sản của ông thì "tiền vàng phủ kín Kỳ Đà Viên".

Chính vì mới đắc Sơ quả chỉ diệt tham dục, chưa ly dục nên ông vẫn có vợ con.

Đắc nhị quả ly dục sẽ không có vợ con.

Cô con gái Su-ma-na của ông thì phúc không hiện ở tài sản hay gia đình.

Phúc của cô hoàn toàn hiện ở đắc đạo nhị quả Nhất lai.Ta lưu ý: Sơ quả Dự Lưu là bắt đầu bước vào dòng thánh.

Vị thánh Dự Lưu mãi mãi vĩnh viễn không bị đọa 3 ác đạo và tương lai chắc chắn đắc đạo giải thoát.

Nhị quả Nhất Lai là vị thánh sẽ sinh lại luân hồi 1 kiếp sau đó sẽ đắc đạo giải thoát.

Trong Nikaya thì Phật không nói có Tam quả Bất Lai mà chỉ có quả A-la-hán giải thoát.

Tam quả Bất lai đời sau có nói là sinh về cõi trời vĩnh viễn không sinh vào cõi người.

Tam quả Bất Lai này còn thấp hơn nhị quả Nhất lai trong Nikaya là sinh về luân hồi 1 kiếp rồi đắc đạo giải thoát.5 - Ẩn ý sau cái chết của Su-ma-naVì sao nàng Su-ma-na lại trêu cha?

Tôi không nghĩ đó đơn thuần là đùa vui.

Chắc chắn có một ẩn ý gì đằng sau hành động đó.Tôi nghĩ: Ông Cấp Cô Độc làm phúc vĩ đại gấp nhiều lần con gái.

Thế nhưng phúc đó không hội tụ vào đắc đạo.

Phúc đó hội tụ vào khối tài sản khổng lồ của ông.

Thế nên ông chỉ chứng Sơ quả Dự lưu.

Con gái thấy cha vậy nên muốn thể hiện cho cha thấy niềm hạnh phúc và sự tự tại với cái chết của một người chứng Nhị quả.

Theo tôi, ý của cô muốn khuyên cha chăm chỉ tu hành.

Cô thấy rõ niềm hạnh phúc đắc đạo vĩ đại gấp ngàn vạn lần phúc vật chất thế gian.

Cho nên cô mới nói: "Thôi em ở lại cố gắng tu hành" là cô khuyên ông tu hành chứ không khuyên ông tích của làm giàu.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 19, 20: Truyện 2 vị pháp học pháp hành


"Dù thuyết kinh lưu loátNhưng lười biếng thực hànhGiống người chăn bò mướnKhông xứng hạnh sa môn"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 19)"Tuy không nói kinh nhiềuNhưng siêng năng tu tậpTừ bỏ tham sân siTâm sáng ngời giải thoátKhông chấp thủ hai đờiThật xứng hạnh sa môn"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 20)Tích Pháp Cú: Vào thời Đức Phật có hai người bạn thân.

Họ là thương nhân giàu có giai cấp Vê-sa thượng lưu.

Khi Phật ở thành Xá Vệ vườn ông Cấp Cô Độc thuyết pháp cho mọi người thì hai người đến tham dự.

Sau khi nghe Phật thuyết pháp thì cả hai đều phát tâm xuất gia từ bỏ gia tài vợ con.Trong 5 năm đầu họ rèn luyện tập sự, uy nghi tế hạnh, giới luật rồi thọ Tỳ kheo.

Sau khi trở thành Tỳ kheo thì họ cùng đến gặp Phật xin được chuyên sâu tu tập.

Phật nói trong pháp của Phật có pháp học và pháp hành.

Pháp học là đi sâu vào lý thuyết triết lý ít thực hành.

Pháp hành là đi sâu vào thực hành và ít lý thuyết.Hai vị mỗi người xin theo một phương pháp khác nhau.

Một vị xin Phật rời Kỳ Viên tu hành chuyên sâu thiền định ở Tinh xá khác vắng vẻ hơn.

Một vị đi theo Pháp Học chuyên sâu nghiên cứu lý thuyết kinh điển ở lại Kỳ Viên nơi có Phật thuyết pháp và có nhiều Trưởng lão, Cao Tăng để nghe và học kinh.Ta chú ý: Thời Đức Phật chữ viết chưa thịnh hành.

Vậy nên muốn học kinh phải đi theo các Trưởng lão nghe các vị đọc tụng các bài kinh Phật.

Đó chính là khẩu truyền.

Sau khi Phật nhập diệt 218 năm dưới thời vua A Dục ở đại hội kết tập kinh lần 3 thì kinh Phật mới được ghi chép thành Tam Tạng Kinh Điển Phật Giáo bằng ngôn ngữ Pali.Nhiều năm trôi qua hai vị trưởng thành trong giáo pháp và có nhiều đệ tử.

Một hôm vị chuyên sâu Pháp Hành có duyên về Kỳ Viên gặp Phật.

Ngài mang theo các đệ tử của mình.

Vị theo Pháp Học ở Kỳ Viên nghe tin trong tâm khởi ý niệm: "Bạn mình lâu rồi mới gặp, lần này ta sẽ chất vấn bạn đề đạo lý xem ai hơn".

Ý nghĩ đó mới khởi lên động niệm và Phật biết.Phật cũng biết: "Tâm hơn thua phàm phu của một vị pháp học không thực hành muốn khoe khoang với một vị chứng thánh tội rất nặng".

Nên khi hai vị mới gặp nhau chào hỏi chưa thi thố tài năng thì Phật xuất hiện.

Phật gọi hai vị ngồi xuống và chủ động hỏi:- Hôm nay cũng vì nhân duyên gặp mặt nên ta hỏi các ông điều này.

Những người chứng sơ thiền thì tâm thế nào?Vị Pháp học nhanh nhẹn trả lời trước:- Bạch Phật, hành giả chứng sơ thiền thì ly dục ly ác pháp chứng và an trú thiền thứ nhất một trạng thái hỉ lạc do ly dục sinh còn tầm còn tứ...Phật hỏi tiếp:- Vậy nhị thiền thì tâm thế nào?

- Bạch Phật, nhị thiền là hành giả diệt tầm diệt tứ nội tỉnh nhất tâm.

Một trạng thái hỉ lạc do định sinh không tầm không tứ.Phật hỏi tiếp về thiền, hỏi đến đâu vị pháp học trả lời vanh vách nhanh nhẹn chính xác.

Sau đó phật hỏi đến thánh quả:- Vậy người chứng sơ quả Dự lưu tâm thế nào?Vị pháp học không rõ vì trong kinh chỉ nói đến thánh quả Dự lưu diệt trừ được ba kiết sử: Thân kiến (ích kỷ), giới cấm thủ (cố chấp), nghi hối (nghi ngờ về con đường chánh pháp) mà không thấy miêu tả cảm giác biến đổi tâm.Đức Phật liền quay sang hỏi vị pháp hành đã chứng thánh quả những câu hỏi trên.

Vị này trả lời chi tiết chính xác bằng chính kinh nghiệm thực chứng của bản thân không căn theo lý thuyết ghi trong kinh.

Vị này nói đến đâu Đức Phật khen đến đó.

Các tầng trời thì chư thiên cũng rúng động cùng tán thán vị A-la-hán pháp hành.Các chư tăng ở Tinh xá và cư sĩ cũng quây quần quanh 3 người khen ngợi.

Thế nhưng đệ tử vị pháp học thì bất mãn tự ái.

Bởi vì thầy họ trả lời thì Phật không khen lại khen vị hành giả phương xa.

Phật thấy vậy liền quở mắng đệ tử pháp học bằng bài kệ:"Dù thuyết kinh lưu loátNhưng lười biếng thực hànhGiống người chăn bò mướnKhông xứng hạnh sa môn"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 19)Sau đó Phật quay sang khen ngợi vị pháp hành:"Tuy không nói kinh nhiềuNhưng siêng năng tu tậpTừ bỏ tham sân siTâm sáng ngời giải thoátKhông chấp thủ hai đờiThật xứng hạnh sa môn"(I-Phẩm Song Yếu, Pháp Cú 20)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Lý thuyết đi đôi với thực hànhNgười có lý thuyết cao siêu mà không thực hành là "Lý thuyết xuông" hay "Tiến sỹ giấy".

Người không có lý thuyết mà nhiệt tình thực hành thì: "Ngu si + nhiệt tình = kẻ phá hoại".

Chỉ có lý thuyết đi đôi với thực hành mới có thành công vĩ đại.Thời xưa chỉ có nông nghiệp thì bò là một gia tài.

Người lý thuyết rành rọt mà tâm không tu không thực chứng ví như người chăn bò mướn: "Họ luôn ở cạnh bên con bò mà chẳng phải chủ gia tài đó".

Vậy nên kẻ ôm một mớ lý thuyết mà không hề thực hành thì lý thuyết đó chỉ là đống giấy lộn mà thôi.Bài học 2: Không chấp thủ 2 đờiKệ Pháp Cú 20 có một ý rất hay là "Không chấp thủ hai đời" tức chấp thủ đời này và đời sau.

Có người mới biết nhân quả thì làm phúc để mong đời này "ta giỏi hơn người, giàu có hơn người, quyền lực hơn người".

Có người hiểu sâu nhân quả biết gieo nhân tạo nghiệp lành đời này thì đời sau mới có quả.

Và họ cũng làm thiện tích phúc để đời sau "ta giỏi hơn người, giàu có hơn người, quyền lực hơn người".Phật nói: "Đó là sai".

Dù đời này hay đời sau mà làm với tâm Tham - Sân - Si, bản ngã, cái tôi, của ta... thì vẫn sai vì đó là tham vọng.

Chỉ có người làm vì lòng vị tha, vì lợi ích chúng sinh không chấp thủ cá nhân đời này, đời sau mới đúng chánh pháp.Bài học 3: Người phúc lớn tu đúng thì đắc đạoTa thấy thời Đức Phật người đắc đạo luôn là người phúc lớn.

Các vị A-la-hán thời đó toàn là hoàng tộc, giai cấp bà-la-môn, trưởng giả hay con trưởng giả.

Nếu họ ở thế gian không tu thì giàu có, quyền lực.

Còn họ tu theo Phật thì đắc đạo A-la-hán.Lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận một số vị tu hành đắc đạo.

Và ta cũng thấy các vị đó xuất thân "không phải dạng vừa".

Vạn Hạnh Thiền Sư làm quân sư cho vua Lê Đại Hành đánh Tống rồi làm thầy của vua Lý Công Uẩn.

Phật Hoàng Trần Nhân Tông lãnh đạo dân Đại Việt đánh Nguyên Mông lần 2 và 3 với số quân giặc lên đến hơn 100 vạn quân.

Thiền sư Từ Đạo Hạnh viên tịch để lại thân xá lợi 300 năm từ thời Lý đến khi giặc Minh xâm lược.

Từ Đạo Hạnh là con quan tổng trấn Từ Vinh.

Sau Từ Vinh xúc phạm Sùng Hiền Hầu (em vua) nên bị Sùng Hiền Hầu sai Pháp Sư Đại Điên dùng phép thuật đánh chết.

Sau Từ Đạo Hạnh học đạo về giết Đại Điên bằng pháp thuật trả thù cha.Vậy nên phúc là điều kiện cần để đắc đạo.

Không có phúc thì tu hoài, tu mãi, tu đúng mà chẳng đắc đạo.

Tu đúng chánh pháp là điều kiện đủ để đắc đạo.

Ví như Sa môn Cồ Đàm phúc vĩ đại mà tu sai khổ hạnh cực đoan 6 năm chẳng thể đắc đạo.Và truyện tích này cũng vậy.

Hai người bạn ở giai cấp Vê Sa cao quý tức họ có phúc lớn.

Một vị tu đúng thì đắc đạo.

Một vị tu sai chỉ học lý thuyết mà không thực hành dù có phúc lớn cũng chẳng thể đắc đạo.Bài học 4: Pháp học và Pháp hànhTrước đây Việt Nam ta và trên Thế Giới chỉ có học viện Phật Giáo chứ không có "Hành Viện Phật Giáo".

Đó là trong quá khứ.

Ngày nay Việt Nam ta có rất nhiều Thiền viện chính là "Hành Viện Phật Giáo".

Âu cũng là nhờ ơn đức của Thiền sư Thích Thanh Từ và các vị Trưởng lão khác có công xây dựng Đạo Phật Việt Nam đi đúng đường.

Thật lành thay!Tôi xin liệt kê một số Thiền Viện ở Việt Nam: Trúc lâm Yên tử, Trúc lâm Bạch Mã, Trúc lâm Giác Tâm, Trúc lâm Thượng Hoàng, Trúc lâm Tây Thiên, Trúc lâm Chánh Giác, Trúc lâm Phương Nam, Trúc lâm Đà Lạt, Trúc lâm Sùng Phúc, Trúc lâm Hàm Rồng, Trúc lâm Tuệ Đức, Trúc lâm Tuệ Quang, Trúc lâm Chính Pháp, Trúc lâm Hộ Quốc, Trúc lâm Trà Vinh, Trúc lâm Thiên Trường, Trúc lâm Chân Không, Trúc lâm Chân Nguyên, Thường Chiếu, Trúc lâm Viên Ngộ...Và truyện tích này Phật nhắc nhở chúng ta rằng: "Biết rõ căn bản và thực hành tu thiền sẽ đắc đạo giải thoát.

Còn chỉ học lý thuyết mà không thực hành thiền thì mãi mãi không thể đắc đạo".

Vậy nên chỉ tụng kinh không tu thiền sẽ mãi mãi không thể đắc đạo.Bài học 5: Vô Minh và Quang MinhNgười chỉ học lý thuyết con chữ mà không hề bắt chân ngồi thiền thực tu, thực chứng giống người mù không thấy ánh sáng.

Phật gọi kẻ đó là Vô Minh (không thấy ánh sáng).

Kẻ đó chỉ biết về đạo, về cảnh giới chứng thánh, về cảm nhận hạnh phúc của các vị thánh như người mù biết màu sắc ánh sáng thông qua sự miêu tả của người sáng (Quang Minh).

Họ hoàn toàn không thể cảm nhận thực tế ánh sáng màu sắc nó ra sao hay thế nào.Bài học 6: Bản tính phàm phu luôn đố kỵMột vị thánh thiền định đắc đạo sẽ diệt trừ các tật xấu "Tham sân si".

Tham sân si là thành ngữ mà cụ thể là 10 tật xấu Kiết sử.

Kiết sử bám keo két trong tâm mọi chúng sinh nhiều đời nhiều kiếp gọi là "Kiết hay Kết".

Nó sai sử mọi hành động của chúng sinh gọi là "Sử".

Trong đó có: (1) Thân kiến là tham lam, ích kỷ, mong nhiều lợi ích bản thân. (5) Sân hận là thù ghét con người. (7) Kiêu mạn là kiêu căng ngạo mạn thấy bản thân là tài giỏi.Chính 3 kiết sử trên đã thành bản tính cố hữu của phàm phu là thích hơn thua đố kị.

Còn các vị thánh đắc đạo thì diệt xong 10 kiết sử sẽ mất tật xấu hơn thua đố kị.

Chính vì không tu, không diệt kiết sử nên vị pháp học nghe thấy tin vị pháp hành đến thăm thì khởi tâm hơn thua đố kị muốn thi thố tài năng.Bài học 7: Coi khinh A-la-hán tội nặngPháp cú 25 kể về Ngài Châu Lợi Bàn Đặc.

Kiếp xưa thời Phật Ca Diếp thì Ngài tu có trí tuệ nhưng chưa đắc đạo.

Ngài khởi tâm coi thường chúng bạn đồng tu trong đó có những vị chứng A-la-hán mà Ngài không biết.

Quả báo từ thời Phật Ca Diếp đến thời Phật Thích Ca thì Ngài luôn sinh ra làm người kém trí tuệ.

Một câu kinh, một bài kệ mà không thể học.Chính vì Phật biết sự nguy hiểm của tội coi khinh A-la-hán nên đã hiện ra giữa 2 người.

Phật đã khéo léo ngăn cản cuộc đấu khẩu do vị pháp học tham sân si muốn thách đố để giành chiến thắng.Bài học 8: Chân lý chánh pháp do thực chứng nói ra thì rúng động cõi trờiThời nay vẫn có Kinh Nikaya do chính Phật Thích Ca giảng là chân lý chánh pháp.

Đã 2500 năm qua các sư tụng niệm trì trú kinh này mà chẳng thấy trời đất cảm ứng gì.

Mà trong truyện tích thì những lời bộc bạch giải trình của vị pháp hành xuất phát từ tâm thực chứng khiến trời đất rúng động.

Sao vậy?Như tôi đã nói ở trên.

Chỉ có đọc tụng kinh tức chỉ học lý thuyết mà không chút thực hành thiền định và thực chứng sẽ như người mù (Vô Minh) nói về ánh sáng màu sắc.

Họ chỉ biết ánh sáng màu sắc thông qua lời giải thích của người sáng mắt.

Còn sự thật họ không biết tẹo gì về nó.Và đó chính là sự vĩ đại của tâm thực chứng nói về chánh pháp vị đó thấy trong tâm.

Khi đó trời đất cảm ứng, rúng động, các thiên thần vỗ tay khen ngợi.

Còn 2500 năm đã qua biết bao thế hệ các sư tụng niệm trì trú Kinh Nguyên Thủy do Phật Thích Ca nói ra mà chẳng thấy cảm ứng gì.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Chương 2: PHẨM KHÔNG PHÓNG DẬT - Pháp cú 21,22,23: Truyện hoàng hậu Ma-gan-bi-da


"Người sống rất ý nghíaLà người biết tu hànhSống mà như đã chếtLà những kẻ ác tâmHiểu rõ ràng điều ấyBậc trí rất tinh cầnHuân tu giới định tuệĐạt tối thượng Niết bàn"(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 21,22,23)Tích Pháp Cú: Xứ Cô-dăm-bi trị vì bở vua U-đê-na nơi đó Phật ít đến giáo hóa.

Trong quá khứ thì hoàng hậu mẹ vua U-đê-na khi mang thai vua bà mặc áo đỏ ngồi chơi ở vườn.

Có con đại bàng bay qua thấy áo đỏ tưởng miếng thịt liền xà xuống bắt hoàng hậu tha đi.

Vua sinh ra trên núi cao được một ẩn sĩ nuôi.

Ẩn sĩ đó truyền cho vua câu thần chú khuất phục voi.

Về sau vua về kinh thành dùng quân đoàn voi giành lại ngai vàng.Vua U-đê-na có nhiều hoàng hậu, trong đó có hai chính cung là Sa-ma-va-ti và Ma-gan-bi-da.

Sa-ma-va-ti thì kính tin Tam Bảo.

Bà giúp các cung nữ hầu cận biết kính tin Tam Bảo giống bà.

Còn Ma-gan-bi-da thì căm thù Đức Phật.

Bà hướng dẫn những hầu cận và khuyến khích cả kinh thành chống Phật.

Ma-gan-bi-da ghét Phật nên cũng ghét luôn Sa-ma-va-ti.

Vua U-đê-na không chánh kiến không bênh phe nào.Đó là truyện hiện tại.

Sau đây là truyện quá khứ.Quá khứ của Hoàng hậu Sa-ma-va-ti.Thủa nhỏ, cha mẹ Sa-ma-va-ti là hào trưởng giàu có.

Trong kinh thành bỗng nhiên xuất hiện bệnh dịch.

Người chết la liệt trên đường phố và trước cửa nhà cô.

Gia đình Sa-ma-va-ti hoảng sợ đục tường phía sau nhà chạy vào rừng và ở đó thời gian dài.

Sau khi cha mẹ mất nàng Sa-ma-va-ti rời rừng tìm về nhà cũ.

Nàng được nhận làm con nuôi vị trưởng khố hoàng cung tên là Gô-sa-ka.Gô-sa-ka thủa nhỏ vô cùng "Cao số".

Ông bị cha nuôi cố tình hãm hại 7 lần không chết.

Sau khi lớn lên ông bằng thủ đoạn hay bằng sự tài giỏi mà ông đã lấy toàn bộ gia tài của cha nuôi.

Thấy Sa-ma-va-ti xinh đẹp nên Gô-sa-ka tiến cung cho vua U-đê-na.

Bà được vua phong làm Hoàng hậu.Quá khứ của Hoàng hậu Ma-gan-bi-da.Ma-gan-bi-da thời trẻ là thiếu nữ vô cùng xinh đẹp.

Cha mẹ cô là Bà La Môn giỏi kinh Vệ-Đà hiểu rõ tướng thuật.

Họ thấy Ma-gan-bi-da có tướng hoàng hậu.

Có nhiều người đến hỏi cưới nhưng vợ chồng đều từ chối.

Một lần cha bà vô tình đi đường gặp Đức Phật với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp toàn thân như phát hào quang.

Ông ngạc nhiên vì thế gian này có người đẹp hoàn hảo như vậy.

Ông chạy về gọi vợ và con gái:- Hôm nay tôi gặp một người kỳ lạ.

Một người đẹp vô cùng và chắc đây là rể của mình rồi bà ạ!Ông dắt vợ con đi đến chỗ Đức Phật.

Phật biết nhân duyên hóa độ đã đến nên Phật đi chậm.

Người dùng thần thông in dấu chân lên bờ đá rồi ngồi bên gốc cây gần đó chờ đợi.

Hai ông bà đi đến nơi thấy dấu chân in trên bờ đá.

Vợ bảo chồng:- Thôi ông đừng mơ nữa.

Đây là người đã thoát khỏi thế gian này.Chồng không tin mà cố tìm Phật.

Ông thấy Phật ngồi ở gốc cây gần đó.

Ông dắt gia đình đến giới thiệu với Phật.

Ông giới thiệu cô con gái với những tính tốt, sắc đẹp, hiền dịu, đảm đang... rất thích hợp để Phật lấy làm vợ.

Phật nói:- Thế gian này là vô thường.

Thế gian không phải chỗ có thể ở lâu.

Cái thân người con gái mà ông bà gọi là xinh đẹp thật ra chỉ là vẻ ngoài.

Bên trong chứa đựng những thứ đồ tiêu tiểu.

Ta không bao giờ muốn đụng đến dù chỉ bằng ngón chân.Hai vợ chồng nghe lời Phật nói thì đốn ngộ chứng Sơ quả ngay tức thì.

Đó chính là Nhân Duyên viên mãn và được Phật khéo giáo hóa giác ngộ.Câu nói đó làm cha mẹ Ma-gan-bi-da giác ngộ thì cũng chính câu nói đó lại làm cho con gái họ căm thù giận Phật tận xương tủy.

Sau khi hai vợ chồng quỳ xuống quy y Phật.

Họ xin xuất gia và để lại toàn bộ gia tài cho con gái.

Cô con gái ở với chú và được chú tiến cung cho vua U-đê-na làm Hoàng hậu.Quay lại câu chuyện thời hiện tại...Khi đó hoàng hậu Ma-gan-bi-da được thám báo báo tin có Đức Phật và tăng đoàn đến Cô-dăm-bi giáo hóa.

Hoàng hậu Ma-gan-bi-da tổ chức, xúi dục, mua chuộc người dân đứng 2 bên đường chửi mắng và phỉ báng Phật thậm tệ.

Còn hoàng hậu Ma-gan-bi-da đứng trên lầu cao hả hê vì đã trả được mối thù khi xưa bị Phật nói: "Cô gái đó bên trong chứa đựng những thứ đồ tiêu tiểu.

Ta không bao giờ muốn đụng đến dù chỉ bằng ngón chân."

Đoạn sau đây là Quả báo hãi hùng...Do lòng ghen tị với Sa-ma-va-ti càng ngày càng tăng.

Đặc biệt sau "đại lễ chửi Phật" thì tâm Ma-gan-bi-da bị thôi thúc mãnh liệt phải hại cho bằng được Sa-ma-va-ti.Một lần vua U-đê-na đi săn bắt ở nơi xa.

Ma-gan-bi-da cho người đóng kín toàn bộ cửa cung điện Sa-ma-va-ti.

Rồi bà tẩm dầu đốt cháy sạch cung điện gồm cả Sa-ma-va-ti và toàn bộ cung nữ.Vua U-đê-na về thấy cảnh cung điện Sa-ma-va-ti là đống tro tàn.

Vua vẻ mặt bình thản.

Vua U-đê-na là người tài giỏi.

Thời trẻ vua học đạo trên núi cao rồi bằng tài năng trí tuệ đã lấy lại ngai vàng.

Nên trước biến cố khủng khiếp mặt không hề biến sắc.Có người hỏi vua:- Thưa Đại Vương, ai làm truyện này?Vua trả lời: - Sa-ma-va-ti khi còn sống đã làm phiền ta rất nhiều.

Do đó phải một người rất yêu ta mới có thể giúp ta làm chuyện này.Ma-gan-bi-da đứng gần đó hốt nhiên đáp:- Thưa Đại Vương, chính thiếp làm chuyện này.- Khanh thật tốt, khanh đã vì ta mà dẹp giúp ta cái gai trong mắt.

Nay ta sẽ trọng thưởng.Vua đưa thông báo trọng thưởng toàn bộ họ hàng của hoàng hậu Ma-gan-bi-da bất kể có liên hệ gần hay xa.

Những người họ hàng thật của hoàng hậu thì ít và họ hàng "rởm" thì nhiều.

Đa phần những người đó là những người quen biết với Hoàng hậu.

Họ đã vì đồng tiền mà nghe lời Hoàng hậu xúi giục đứng lên chửi Phật.

Nay thấy vua trọng thưởng toàn bộ họ hàng gần xa của hoàng hậu nên họ nhận vơ để có tiền.Khi vào cung, vua ra lệnh trói sạch toàn bộ những người đó.

Vua sai chôn họ xuống cánh đồng rộng lớn thò đầu lên.

Vua cho trâu cày toàn bộ cánh đồng và vùi lấp xác trong đất.

Còn hoàng hậu Ma-gan-bi-da thì bị thiêu sống trước sự chứng kiến của toàn dân.Sự việc kinh hoàng trấn động toàn xứ Cô-dăm-bi.

Tin đó lan truyền đến Tinh xá Phật.

Các Tỳ kheo đến hỏi Phật nguyên do vì đâu.

Phật giải thích:"Kiếp xưa, Sa-ma-va-ti cũng có phúc được làm Hoàng hậu.

Một lần bà cùng các cung nữ xuống sông tắm.

Có một vị Bích Chi Phật ngồi thiền trong bụi rậm.

Vương Phi và cung nữ tắm sông lạnh lên bờ đốt lửa ở bụi rậm sưởi ấm thì lộ ra Ngài.Vương Phi thấy đây là vị A-la-hán được vua tôn kính.

Bà tưởng Ngài đã chết cháy và sợ vua kết tội.

Nên bà cùng cung nữ chất thêm củi thật lớn đốt cháy thật to nhằm phi tang.Sau đó bà yên tâm bỏ về.

Khi lửa tàn, vị A-la-hán xả thiền ra đi không quay lại kinh thành.

Hoàng hậu và đám cung nữ lần đầu sơ ý đốt nhầm không có tội.

Nhưng lần 2 cố tình chất củi đốt phi tang thì bị tội.

Kiếp này bà và đám cung nữ phải chịu quả báo bị thiêu sống như vậy".Còn nhân quả vì sao Hoàng hậu Ma-gan-bi-da và người thân bị chết là sự kiện "đại lễ chửi Phật" ta đã biết.Sau đó Phật tổng kết lại bằng bài kệ Pháp Cú:"Người sống rất ý nghĩaLà người biết tu hànhSống mà như đã chếtLà những kẻ ác tâmHiểu rõ ràng điều ấyBậc trí rất tinh cầnHuân tu giới định tuệĐạt tối thượng Niết bàn"(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 21,22,23)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Sống có ý nghĩa và sống như đã chết"Sống có ý nghĩa là người biết tu".

Người biết tu là người biết sửa lỗi bản thân từ bỏ tham sân si.

Người đó sống vị tha vì người, đóng góp cho sự phát triển xã hội.

Ngày nay điều này vẫn đúng.

Những người sống mang lợi ích cho xã hội, giúp xã hội phát triển hạnh phúc là người sống có ý nghĩa."

Sống mà như đã chết là những kẻ ác tâm".

Xã hội cũng cho rằng người sống không mang lợi ích cho xã hội thì đó là cặn bã của xã hội.

Còn những kẻ ác tâm sống âm thầm phá hoại xã hội.

Kẻ đó sống chỉ mang đau khổ cho mọi người là mối họa của xã hội.

Kẻ đó phải bị bỏ tù để tách biệt họ với xã hội loài người.Phật khuyên "Nên tu giới định tuệ đạt giải thoát tối thượng niết bàn" là mục đích cao cả nhất của Đạo Phật.

Khi đắc đạo cũng là khi vị đó đạt trí tuệ đạo đức viên mãn sẽ mang lợi ích cho xã hội lớn nhất.

Đó là ý nghĩa cao cả nhất của cuộc sống mà Phật dạy.Bài học 2: Những vị vua thời nhỏ gian khổ đã tôi rèn ý chí nghị lực mãnh liệt thì tài giỏiVua U-đê-na sinh ra trên đỉnh núi và học đạo của vị ẩn sỹ.

Lớn lên vua quay trở về kinh thành chiếm lại ngôi báu.

Truyện kể không nói chi tiết nhưng tổng quan ta thấy vua U-đê-na là một vị vua phúc lớn thời nhỏ gian khổ.

Chính sự gian khổ đã rèn rũa nên một vị vua mãnh liệt tài giỏi.

Vua đánh chiếm lại ngôi báu từ "hai bàn tay trắng".Rồi đứng trước cảnh cung điện hoàng hậu Sa-ma-va-ti cháy thành tro bụi.

Toàn bộ vợ yêu cùng cung nữ đều chết cháy.

Sự kiện đó đột xuất bất ngờ ngoài sức tưởng tượng.

Nhưng vua lập tức biết chắc kẻ hãm hại là ai.

Lập tức trong đầu vua có mưu kế để lôi kẻ đó ra ánh sáng trị tội.

Đó chính là tài năng xuất chúng của vua U-đê-na.Bài học 3: Người phúc lớn có tâm cầu đạo thì gặp đạo lập tức chứng đắcĐây là trường hợp vợ chồng Bà-la-môn cha mẹ của Ma-gan-bi-da.

Hai vị thuộc kinh Vệ Đà và có khả năng tướng thuật tài giỏi.

Hai vị ở giai cấp thượng đẳng có con gái tướng hoàng hậu.

Đó chính là biểu hiện của phúc lớn.

Người phúc lớn thì gặp Phật nói một câu lập tức đốn ngộ đắc đạo.Vậy nên người có phúc lớn, cơ duyên gặp đúng Chánh pháp chuẩn của Đức Phật, có tâm cầu đạo thì 100% đắc đạo.

Dù chỉ một câu nói đơn giản cũng đắc thánh quả vĩ đại.

Ngày nay phúc ta thiếu.

Cơ duyên tìm được chánh pháp không có mà toàn thấy mạt pháp.

Rồi tâm cầu đạo của ta yếu kém thậm chí chẳng có mục tiêu đắc đạo.

Nên chẳng có ai đắc đạo.Bài học 4: Cố chấp lớn nhất của cô gái là sắc đẹp"Trai tài - Gái sắc" là thành ngữ Việt Nam.

Con trai luôn chấp cái tài, hấp dẫn bởi cái tài và thi đua kèn cựa nhau bởi cái tài.

Con gái luôn chấp sắc đẹp, hấp dẫn bởi sắc đẹp và thi đua kèn cựa nhau bởi sắc đẹp.

Đó là tâm lý chung của mọi thời đại, mọi con người, mọi xã hội.Do vậy, cô gái bị chê "Xấu đau xấu đớn" là lời chê đau khổ nhất.

Con trai bị chê: "Ngu như bò" là lời chê thậm tệ nhất.

Cũng vậy, con gái được khen xinh và con trai được khen tài là lời khen hạnh phúc nhất.

Con trai có tài thì xấu vẫn đầy em chết.

Con gái xinh dù hơi ngu ngu vẫn đầy anh theo đuổi.

Chính cái ngu của cô gái xinh đẹp làm tôn vinh cái tài của các chàng trai.

Thế nên tiến sỹ nữ khó lấy chồng là vậy.Ở đây Phật chê một cô gái kiêu ngạo có sắc đẹp "đáng làm Hoàng hậu" là thứ đồ tiêu tiểu.

Thật là một lời xỉ nhục nặng nề nhất, khủng khiếp nhất đối với cô.

Chính lời chê khủng khiếp đó phá vỡ tâm chấp thân của cha mẹ Ma-gan-bi-da khiến họ đốn ngộ.

Nhưng chính lời nói ra sự thật phũ phàng đó lại khiến Ma-gan-bi-da căm hận Phật đến tận xương tủy.

Và kết quả sau đó thì ai cũng biết.Bài học 5: Tội lập "Đại lễ chửi Phật" thì quả báo khủng khiếp tới ngay và luôn chẳng cần đời sau.Thật không may cho hoàng hậu Ma-gan-bi-da.

Bà căm hận người thường chửi họ thì bị họ tát vào mặt là xong hết nợ.

Hoặc bà là hoàng hậu mà chửi người thường đôi khi chẳng ai dám làm gì.

Nhưng ở đây bà tổ chức "Đại lễ chửi Phật" thì quả báo khủng khiếp đến ngay và luôn.Còn tội "A dua A tòng" theo lời Hoàng hậu xúi bậy hoặc nhận tiền của Hoàng hậu đứng lên chửi Phật thì quả báo cũng tới ngay và luôn.

Những kẻ đó bản chất là ác độc, tham lam, không biết đúng sai, không biết chân lý và vô đạo đức.

Họ có duyên với Hoàng hậu nên khi vua ra lệnh khen thưởng toàn bộ họ hàng Hoàng hậu không kể gần xa thì họ "mặt dày" nhận vơ.

Kết quả cuối cùng ai cũng rõ.

Và "quả báo đến trong hiện đời là nhỏ bé.

Quả báo đến ở đời sau sẽ nặng gấp vạn lần".Bài học 6: Quả báo có thể không diễn ra ở đời này hoặc đời sau.

Quả báo tùy duyên xuất hiện có thể cách xa nhiều đời.Trường hợp kiếp xưa của hoàng hậu Sa-ma-va-ti đã cố tình châm lửa đốt cháy một vị Độc Giác Phật.

Ta nên biết, để xuất hiện một vị Phật trên đời cần thời gian rất lâu.

Vì điều kiện xuất hiện Phật là Chánh Pháp của Phật trước đó đã biến mất.Một vị thánh tự tu tự chứng A-la-hán không dựa vào Chánh pháp của Phật quá khứ để lại.

Vị đó phải tự mình tìm ra chánh pháp mới thành Phật.

Còn vị thánh đắc đạo dựa vào chánh pháp của Phật trước đó chỉ gọi là A-la-hán chứ không là Phật.Do vậy, mọi người hi vọng Phật Di Lặc ra đời khi Kinh Nikaya của Phật Thích Ca vẫn lưu truyền là không thể.

Nếu thời nay có một vị thánh đắc đạo giải thoát sẽ là một vị A-la-hán chứ không phải là Phật.Nên từ khi hoàng hậu Sa-ma-va-ti cùng các cung nữ tạo tội với Bích Chi Phật.

Đến đời này Bà cũng hoàng hậu cùng đám cung nữ bị quả báo đã trải qua thời gian nhiều đời nhiều kiếp.

Sao lâu vậy?Ta biết nhân đã gieo thì quả báo 100% sẽ thành.

Nhưng để quả báo thành thì cần duyên hội đủ.

Duyên là các điều kiện cần và đủ để qua báo xuất hiện.

Điều kiện cần và đủ ở đây là họ cùng phải là Hoàng hậu và cung nữ và cùng nhau trả nợ quả báo.

Điều kiện đó rất khó xảy ra.

Chính vì vậy thời gian rất lâu quả báo mới thành.Vậy nên không phải cứ gieo nhân thì quả báo sẽ đến.

Cũng không chắc quả báo sẽ đến trong kiếp sau.

Mà quả báo sẽ đến khi duyên đầy đủ.Ta còn nhớ Kinh Bổn Sanh thuộc Tiểu Bộ Kinh kể rằng: Phật Thích Ca kiếp xưa thời Phật Nhiên Đăng Ngài là Đức Thiện Tuệ.

Vì tôn kính Phật mà Ngài đã nằm ra vũng bùn để Phật bước qua.

Phật Nhiên Đăng sau đó thọ ký cho Đức Thiện Tuệ tương lai sẽ thành Phật.

Nhưng duyên để thành Phật là quá khó như ta đã bàn.

Phải trải qua 4 A-Tăng-Tỳ-Kiếp đến nay nhân đó mới thành quả báo.

Đức Thiện Tuệ được làm Phật Thích Ca.Bài học 7: Tâm lý thường tình là "Dùng tội lỗi này che đậy tội lỗi khác"Ta hay thấy, kẻ trộm khi bị phát hiện thì quay sang đánh chết chủ nhà.

Kẻ hiếp dâm xong thì giết cô gái vì sợ bị phát hiện.

Và hoàng hậu Sa-ma-va-ti vô tình đốt cháy Độc Giác Phật là không có tội.

Nhưng để phi tang, bà cho nhiều củi lửa tạo thành đám cháy thật to nhằm phi tang là tội nặng.

Đó là tâm lý thường tình của phàm phu.

Và cũng là nguyên nhân khiến chúng ta tội chồng thêm tội.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 24: Truyện kẻ biết cẩn thận lo xa


"Nỗ lực giữ chánh niệmCẩn thận từng việc làmSống thuận theo đạo lýTiếng lành sẽ lan xa"(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 24)Tích Pháp Cú: Một thời thành Vương Xá bị bệnh dịch.

Gia đình Côm-ba-gô-sa-ca trốn khỏi thành bỏ lại trong nhà một kho tàng đầy tiền vàng chôn giữa nhà.

12 năm sau cha mẹ chết.

Côm-ba quay lại nhà thì đây chỉ là ngôi nhà hoang phế cửa cổng không có.

Lúc này nếu đào kho tàng lên sẽ bị cướp và giết hại.

Chàng không dám đào kho báu nên phải xin làm thuê cho một nhà giàu.Ông chủ là quan coi giữ kho cho vua Bình Sa.

Ta tạm gọi là ông Trưởng khố.

Côm-ba đẹp trai tuấn tú có dáng vẻ sang trọng nên được ông Trưởng khố cho làm quản đốc.

Một lần vua Bình Sa có việc ghé qua nhà Trưởng khố.

Vua Bình Sa rất giỏi xem tướng.

Trước đây vua có lần đứng trên lầu thấy Sa môn Cồ Đàm chưa đắc đạo đang khất thực dưới đường.

Vua thấy Sa môn đó tướng đẹp đẽ khác thường nên đã đi theo hỏi đạo.

Vị Sa môn đó hứa khi nào tìm được đạo sẽ độ cho vua.

Truyện này ta đã nghe ở phần trước.Lần này cũng vậy, vua ở trong nhà nghe thấy ngoài sân có tiếng người quản đốc Thanh tướng đại phú gia và Thần thái sang trọng. (Thanh tướng và Thần thái thuộc hàng Thượng thừa tướng pháp.

Khẩu quyết Tướng Pháp là "Nhất thanh thần sắc khí - Nhị cốt cách dáng vẻ - Tam bộ vị tướng pháp").Vua hỏi ông Trưởng Khố:- Người này là ai?- Thưa Đại Vương, đây là người mồ côi cha mẹ.

Xưa ở thành Vương Xá chạy trốn dịch bệnh.

Nay anh ta về lại đây xin làm thuê nhà hạ thần.Vua Bình Sa trầm ngâm:- Lạ thật, người này Thần thái, Thanh âm như vậy không thể là người nghèo khổ được.Khi về cung vua nói truyện đó với bà cung nữ già.

Bà liền xin vua được điều tra sự thật.Bà có người con gái đẹp.

Bà cho con gái xin làm công ở nhà ông Trưởng khố.

Thời gian sau, người con gái chiếm được tình cảm của Côm-ba-gô-sa-ca rồi thành vợ chồng.

Sau đó bà bày mưu cho con gái khiến công việc của Côm-ba gặp thất bại túng quẫn.

Quá bế tắc Côm-ba phải nén đêm tối về nhà cũ đào kho vàng lấy chút ít rồi lấp lại như cũ đưa cho vợ.Cô gái báo cho mẹ và vua Bình Sa biết sự việc.

Rồi mọi việc lại tiếp tục diễn ra lặp lại theo kịch bản cũ.

Đến lần thứ ba thì vua bắt trói Côm-ba về điều tra.

Côm-ba-gô-sa-ca bèn khai sự thật với vua:"Xưa kia gia đình hạ thần giàu sang.

Rồi dịch bệnh ập tới phải bỏ lại toàn bộ kho tàng nhà cửa chạy vào rừng.

Khi cha mẹ hạ thần chết, hạ thần về lại nhà cũ thấy tan hoang.

Dù biết kho tàng vẫn ở giữa nhà mà không dám đào vì sợ cướp giết hại.

Hạ thần phải xin làm thuê cho nhà ông Trưởng Khố".Vua Bình Sa cười ha hả nói rằng:- Thế là ta đã đúng.

Nhìn thấy tướng của ngươi ta không tin rằng ngươi là người nghèo khổ.Sau đó vua phong tước quan và cho xây lại nhà cũ cho Côm-ba-gô-sa-ca.Câu chuyện đó lan rầm rầm trong dân đến tai các Tỳ kheo.

Các vị kể lại cho Phật và Phật khen chàng Côm-ba bằng bài kệ:"Nỗ lực giữ chánh niệmCẩn thận từng việc làmSống thuận theo đạo lýTiếng lành sẽ lan xa"(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 24)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Chánh niệm trong ý nghĩ, lời nói, việc làm (Tam nghiệp Chánh niệm)Ở đây Phật ca ngợi chàng Côm-ba tinh tế trong suy nghĩ, cẩn thận từng lời nói việc làm khiến chàng được an toàn tính mạng.

Chàng sống thuận theo đạo lý là dám hi sinh sự bình an, dám liều lĩnh đêm hôm về nhà cũ đào kho tàng lấy tiền đưa vợ.

Dù chàng biết nếu ai phát hiện có thể bị mất mạng.

Chính sự cẩn thận, chu đáo dám hi sinh đó khiến tiếng lành về một chàng trai giàu có lại đi làm thuê khổ cực đã lan xa đến tận Tinh xá Phật.

Chư tăng cũng cảm phục và kể lại chuyện đó cho Đức Phật.Bài học 2: Người biết lo xa luôn là người tài giỏi"Kẻ không biết lo xa ắt sẽ có buồn gần".

Ta thấy chàng trai Côm-ba biết tính toán chu đáo và nhìn xa trông rộng.

Sự cẩn thận của chàng là chính xác trong xã hội trộm cướp hoành hành giết người như cơm bữa.

Chàng không còn ai thân quen nên không thể nhờ cậy ai.

Khi cưới vợ thì chàng cũng cẩn thận không dám nói với vợ sự thật vì sợ nguy hiểm tính mạng vợ.

Nếu vợ lộ truyện đó thì gia đình chàng có thể bị mất mạng vì thân yếu thế cô.Nhưng lâm vào cảnh túng quẫn thì chàng dám liều bỏ đi sự bình an.

Đêm hôm chàng về nhà cũ đào vàng đưa vợ.

Tất cả các hành động của chàng đều rất cẩn thận chu đáo tính toán kỹ càng.

Và kết quả cuối cùng là vô cùng tốt đẹp.Bài học 3: Xã hội xưa trộm cướp nhiều luật pháp lỏng lẻo nhân dân bất anTa thấy xã hội xưa nếu thân yếu thế cô, không ai bảo vệ mà có tài sản lớn thì nguy hiểm tính mạng.

Do vậy các đoàn buôn thời xưa luôn có bảo kê giám hộ là các băng đảng võ thuật, khí giới hộ tống đề phòng trộm cướp.

Thời nay doanh nhân tỷ phú 1 mình đi máy bay từ nước này sang nước khác chẳng ai bảo vệ.

Trừ những vị quyền lực như tổng thống, thủ tướng, chủ tịch nước... mới được bảo vệ cẩn trọng.Tuy vậy, thời nay giữa biển khơi mênh mông xa đất liền thì các tàu hàng vẫn đối mặt với nạn cướp biển như thời xưa.

Ở vùng biển đất nước có quân đội, hải cảnh mạnh như Việt Nam thì không có cướp biển.

Ở các vùng biển đất nước nghèo yếu như Somali thì tàu hàng dễ bị cướp biển hỏi thăm.Đó chính là lợi ích của xã hội có chính phủ, công an, quân đội mạnh.

Nếu xã hội loạn, chính phủ yếu kém thì dân sẽ bất an như thời xưa.Bài học 4: Thượng thừa Tướng phápTrong tác phẩm "Ma Y luận giải" tôi có bàn về tướng pháp Ma Y.

Đây là một trường phái tướng thuật có từ đời Tống tồn tại trong giới Tướng thuật Việt Nam dưới dạng Diễn ca lục bát.Sách đó nói: "Nhất thanh thần – Nhị cốt cách – Tam bộ vị".

Thuật nhân tướng cao cấp nhất là nghe thanh âm, nhìn thần thái khí sắc thanh hương.

Tức nghe tiếng nói, quan sát thần thái ánh mắt tác phong, ngửi hương thơm cơ thể, nghe khí lực hơi thở.

Quan trọng nhì là xem xương cốt và cách: ăn uống nói cười, đi đứng nằm ngồi.

Thấp nhất của tướng thuật là xem bộ vị: khuôn mặt, bàn tay, nốt ruồi...Ở đây vua Bình Sa có khả năng Thượng thừa tướng pháp bằng quan sát thanh âm thần thái của Côm-ba.

Quả thật Thượng thừa tướng pháp "Rất chi là" linh nghiệm.Bài học 5: Vú nuôi của vuaTa thấy bà cung nữ già tin tưởng tuyệt đối vào tài tướng pháp của vua Bình Sa.

Bà đã khéo léo thu xếp giúp con gái cưới được chàng Côm-ba giàu có khi chàng đang là kẻ mồ côi nghèo hèn.

Đó chính là cái tài, cái khéo cũng như cái phúc của bà.
 
14-Tích Pháp Cú - Tập 1 (Pc01-Pc60)
Pháp cú 25: Truyện Ngài Châu Lợi Bàn Đặc


"Siêng năng không dừng nghỉTự điều phục lấy mìnhBậc trí xây hòn đảoNước lụt không tràn qua"(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 25)Tích Pháp Cú: Các bạn chú ý những vị Trưởng lão nổi tiếng thời Đức Phật trong kinh A-Hàm từ thời Ngài Trần Huyền Trang nhà Đường đã nhắc đến nên có tên Việt hóa.

Ví dụ Tôn giả Sa-ri-pu-ta theo Pali thì A-Hàm gọi là Tôn giả Xá Lợi Phất.

Theo Pali Ngài Chun-na-pa-ta-ca nhưng gọi theo A-Hàm là Ngài Châu Lợi Bàn Đặc.

Tôi ưu tiên dùng tên theo Kinh A-Hàm vì hơn ngàn năm qua chúng ta đã quen rồi.Ngài Châu Lợi Bàn Đặc (Chun-na-pa-ta-ca) đến bạch với Phật.- Bạch Thế Tôn, con quá ngu dốt.

Một bài kệ đầu tiên con không học nổi.

Nên anh con bảo con về hầu ông ngoại còn được chút công đức hơn ở trong đạo mà không học được gì.

Nay con xin về.Phật hỏi:- Con có muốn tu hành giải thoát không?- Bạch Thế Tôn, đó là ước mơ cháy bỏng trong lòng con.

Không lúc nào con nguôi ngoai lý tưởng tu hành giải thoát.- Con xuất gia với ai?- Con xuất gia với Thế Tôn.- Ta đâu bảo con về sao con bỏ về?

Hãy đến đây.Đức Phật dắt Ngài đến một hòn đá to dưới bóng cây.

Đức Phật đưa bàn tay liền hiện ra cái khăn.

Cái khăn đó bằng thần thông ứng hiện chứ không phải khăn thường.

Phật nói:- Con hãy cầm cái khăn này lau mặt và nói: "Tẩy sạch những dơ bẩn".

Mỗi lần con lau con nói một câu cho đến khi thấy điều lạ xảy ra.Sau đó Đức Phật cùng tăng đoàn hơn ngàn người rời Tinh xá Vườn xoài về tư gia ông Kì Bà dự trai tăng.Ở Vườn xoài chỉ còn Châu Lợi Bàn Đặc ngồi kiết già cầm cái khăn của Phật lau mặt.

Sau mỗi lần lau Ngài nói một câu: "Tẩy sạch những dơ bẩn".

Không lâu sau cái khăn từ từ dơ bẩn nhanh lạ kì.

Ngài nhìn cái khăn dơ bẩn nghiệm ra thân thể con người thật là dơ bẩn.

Ngài ngồi đó chìm trong suy nghiệm đạo lý thấy rõ thân người thật đáng chán.

Rồi Ngài nhập định lúc nào không hay.Đức Phật ở nhà ông Kì Bà biết ở Vườn xoài Châu Lợi Bàn Đặc đã nhập định và căn cơ tu hành kiếp xưa đã quay về.

Phật liền hiện thêm một thân khác đứng trước Châu Lợi Bàn Đặc nói:- Cái dơ của thân là nhỏ.

Cái dơ của tâm mới to lớn.

Chính những tham, sân, si, vô minh, bản ngã mới là cái cần tẩy sạch.Phật vừa dứt câu thì Ngài Châu Lợi Bàn Đặc chứng A-la-hán.

Phật mỉm cười biến mất.Ông Kì Bà đang mang đồ trai tăng tới cúng dường chư tăng.

Khi đến trước bát của Phật, ông chuẩn bị cúng dường thì Phật chặn lại hỏi:- Ở Tinh xá còn Tỳ kheo nào không?

Ông Kì Đà thưa:- Bạch Thế Tôn ở Tinh xá không ai nữa.- Không vẫn còn một người.

Ngươi hãy về tìm và mời ra đây.Ông Kì Đà cho gia nhân về tìm.

Gia nhân lập tức lên ngựa chạy đến vườn xoài thấy có 1000 Châu Lợi Bàn Đặc đang đi lại khắp vườn.Gia nhân vội chạy về bạch Phật:- Bạch Thế Tôn trong Tinh xá có 1000 vị mặt mũi giống nhau.- Ngươi hãy đến hỏi: "Ai là Châu Lợi Bàn Đặc ?" thì mời về đây.Gia nhân lại tức tốc về Tinh xá và hỏi:- Xin thưa, trong các vị ai là Châu Lợi Bàn Đặc?Cả 1000 vị đều đồng thanh trả lời:- Ta là Châu Lợi Bàn ĐặcGia nhân không biết làm thế nào đành nhảy lên ngựa chạy về hỏi Phật.

Phật nói:- Ngươi hãy về hỏi lại một lần nữa và lắng nghe vị nào trả lời trước thì mời vị đó về.Gia nhân lại về Tinh xá và hỏi:- Xin thưa, vị nào là Châu Lợi Bàn Đặc?Châu Lợi Bàn Đặc biết ý Phật nên trả lời trước.

Gia nhân đến quỳ trước mặt xin thỉnh Ngài đến dự trai tăng.

Lúc đó 999 vị Châu Lợi Bàn Đặc khác biến mất.

Ngài lên ngựa đi đến nhà ông Kì Đà.Theo tục lệ, sau khi thọ trai thì Phật thuyết pháp.

Nhưng hôm đó Phật bảo Châu Lợi Bàn Đặc thuyết pháp.

Châu Lợi Bàn Đặc ngồi trên pháp tòa thuyết pháp thao thao bất tuyệt những đạo lý sâu sắc làm mọi người vô cùng bất ngờ.Cuối hôm đó các Tỳ kheo đến hỏi Phật nguyên cớ gì mà được vậy.

Phật trả lời:- Đời xưa thời Phật Ca Diếp thì Châu Lợi Bàn Đặc là vị đại tăng tu hành rất giỏi.

Nhưng không kìm chế được lòng tự cao và thiếu từ bi nên thấy huynh đệ kém dở thì ông khinh thường chúng bạn đồng tu.

Ông phải chịu quả báo kém trí tuệ một bài kệ không thể thuộc kể từ đó đến nay.- Cách đây mấy trăm kiếp Châu Lợi Bàn Đặc là một vị vua.

Ông đi vi hành người đầy bụi bẩn.

Ông kêu tùy tùng lấy khăn lau mặt và thấy cái khăn quá dơ bẩn.

Vua khởi ý nghĩ trong đầu "Thân này thật là cấu uế bất tịnh".

Ý nghĩ đó ghim chặt trong lòng vua nhiều kiếp.

Nay ta sử dụng công án đó để khai mở tâm thức cho Châu Lợi Bàn Đặc.

Sau khi đốn ngộ những kết quả thiền định tu hành kiếp xưa quay lại Châu Lợi Bàn Đặc đắc thành chính quả với trí tuệ uyên bác.Nhân sự kiện này Phật cảm hứng đọc bài kệ:"Siêng năng không dừng nghỉTự điều phục lấy mìnhBậc trí xây hòn đảoNước lụt không tràn qua"(II-Phẩm Không Phóng Dật, Pháp Cú 25)Bài học kinh nghiệm:Bài học 1: Nước lụt không tràn quaBài Pháp Cú này Phật khuyên mọi người nên chăm chỉ tu hành, sửa chữa lỗi lầm.

Mọi người nên biết tự kiềm chế những ham muốn bản năng về tham sân si.

Phật gọi là: "tự điều phục chính mình".

Làm được vậy kẻ đó như xây hòn đảo.

Khi nước lụt kéo đến kẻ đó được bình an.Vậy nước lụt ở đây ý Phật ám chỉ điều gì?

Đó chính là quả báo tới.

Châu Lợi Bàn Đặc đang là bậc đại tăng trí tuệ mà quả báo tới hóa thành kém trí tuệ không thể học thuộc 1 câu kệ.

Thế nhưng Ngài vẫn "Siêng năng không ngừng nghỉ, tự điều phục lấy mình".

Đến khi duyên tới thì hốt nhiên đại giác ngộ A-la-hán.Ta nên nhớ vị Đại đệ tử của Phật giác ngộ nhanh nhất sau khi gặp Phật 7 ngày là Tôn giả Ma-ha Ca Diếp.

Nên Ngài được phong danh vị "Phạm hạnh đệ nhất" tức vị thánh đắc thành Phạm hạnh A-la-hán nhanh nhất.

Vậy mà Ngài Châu Lợi Bàn Đặc hốt nhiên đại ngộ trong vòng 1 buổi sáng thiền định.Vậy nên truyện tích về Ngài Châu Lợi Bàn Đặc này rất nổi tiếng trong nhà thiền.Bài học 2: Quả báo vì khinh thường A-la-hánKiếp xưa Ngài Châu Lợi Bàn Đặc vì thấy mình giỏi hơn bạn đồng tu nên khởi tâm khinh thường.

Bạn đồng tu của Ngài trong thời Phật Ca Diếp có nhiều vị chứng A-la-hán mà Ngài không biết.

Vậy là quả báo ngàn vạn kiếp Châu Lợi Bàn Đặc bị kém trí tuệ từ thời Phật Ca Diếp đến nay.Vậy nên trì tụng kinh Pháp Hoa vô cùng nguy hiểm.

Trong các Phẩm Công Đức có nhiều đoạn nói rằng: "Chỉ cần trích dẫn hoặc kiến giải một câu trong Kinh Pháp Hoa thì công đức bằng muôn ngàn lần độ chúng sinh đắc đạo A-la-hán".

Ai tin vào lời kinh mà khinh thường A-la-hán thì đọa.

Pháp môn nào trì tụng kinh Pháp Hoa đọc đến đoạn này mà khởi tâm khinh thường A-la-hán thì pháp môn đó diệt vong.Sao Kinh Pháp Hoa lại có những đoạn nguy hiểm vậy?

Bởi vì Kinh Pháp Hoa không dành cho người thường.

Kinh Pháp Hoa dành cho hàng Bồ Tát đắc đạo A-la-hán xong rồi.

Các vị đang đi trên con đường Bát Nhã từ bi cứu độ chúng sinh.

Ví dụ: Bồ Tát Quan Âm, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Diệu Âm...

Để đề phòng tâm Bồ Tát bị kiêu mạn nên Kinh Pháp Hoa hạ rất thấp quả vị A-la-hán cho các vị thấy "ta còn nhỏ bé" mà giữ tâm khiêm hạ.Ta đặc biệt chú ý đầu Kinh Pháp Hoa có đoạn: "Diệu-Pháp Liên-Hoa" là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm".

Và đó là lời cảnh báo: "Đây là thuốc chữa bệnh kiêu mạn dành cho hàng Bồ Tát.

Kinh được chư Phật hộ niệm.

Người thường không uống thuốc dành cho hàng Bồ Tát".Bài học 3: Người chưa đắc đạo dù thông minh tài giỏi vẫn mắc lỗiNgài Châu Lợi Bàn Đặc thông minh tài giỏi, chánh pháp và lý luận tỏ tường.

Thế nhưng Ngài chưa đắc đạo thì Kiết Sử kiêu mạn chưa diệt.

Nên Ngài thấy "Ta đây tài giỏi còn bạn đồng tu thật ngu si kém cỏi".Do vậy, người chưa đắc đạo mà họ tự thấy họ thông minh tài giỏi.

Nếu họ không tu thiền thì 100% bị Kiêu mạn.

Kinh Hàng Ma (kinh số 50 trong Trung Bộ Kinh) Phật dạy cách diệt tâm Kiêu mạn là "Thiền quán thân vô thường, vô ngã".

Nếu không thiền quán vô thường, vô ngã thì 100% là kiêu mạn nếu họ tự thấy họ là tài giỏi.Cho nên "Tài phải đi đôi với Đức".

Bác Hồ có nói: "Có Đức mà không có Tài thì làm gì cũng khó.

Có Tài mà không có Đức thì là đồ bỏ đi".

Và đây là ví dụ điển hình của có Tài mà thiếu Đức thì quả báo nặng nề.Bài học 4: Hai yếu tố đắc đạoĐắc đạo A-la-hán đại giác ngộ, đại giải thoát là quả báo hạnh phúc vĩ đại nhất của đạo Phật.

Vậy khi nào quả báo đắc đạo tới?

Khi và chỉ khi ta có đại Nhân Duyên.

Nhân là có tâm mong cầu chánh pháp, thực hành theo chánh pháp, tích phúc báu vĩ đại.

Duyên là vào đúng thời có Chánh pháp Đức Phật tồn tại.

Hoặc có một vị Bồ Tát tìm được Chánh pháp tu thành Phật quả.Vậy nên Sa môn Cồ Đàm phúc báu vĩ đại với 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp.

Ngài được làm thái tử và có tâm cầu đạo mãnh liệt đã xuất gia tu hành.

Thế nhưng tu sai chánh pháp 6 năm tinh tấn chẳng thể đắc đạo.Xét trường hợp Ngài Châu Lợi Bàn Đặc.

Tâm Ngài mong ước khát khao được đắc đạo.

Phúc Ngài lớn đã từng có kiếp sống Ngài được làm vua.

Vậy Ngài có Nhân đắc đạo.

Duyên ở đây là Ngài được gặp Phật Thích Ca, được tiếp xúc với chánh pháp của chính Đức Phật.

Còn giây phút đắc đạo của Ngài "quá nhanh quá nguy hiểm" gọi là hiện tượng "giọt nước tràn ly".

Khi đó tâm Ngài bừng sáng, vỡ òa, hốt nhiên đại ngộ.

Đó chỉ là kết quả tất yếu của Nhân Duyên mà thôi.
 
Back
Top Bottom