Cập nhật mới

Dịch Full Vương Quốc Những Kẻ Lạ Mặt

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Buổi sáng thứ Sáu, tòa nhà không một bóng ngưòi. Ngày thứ Bảy mọi người sẽ trở lại làm việc, những hành lang bóng loáng sẽ lại đầy ắp tiếng nói cười, tiếng tay của Daher đập vào đầu cậu sĩ quan trẻ nào đó. Giờ thì âm thanh duy nhất phá vỡ không gian tĩnh lặng là tiếng lích kích của hệ thống điều hòa trung tâm bắt đầu chạy, và, trong suốt vài giờ liền, là tiếng gọi cho lễ cầu nguyện. Nó luôn oang oang trên loa phóng thanh của các nhà thờ địa phương khiến người ta giật bắn mình.

Ibrahim bước vào tòa nhà, tay nắm chặt cốc cà phê và cảm thấy tê liệt. Ông đã dành cả phần còn lại của ngày thứ Năm để thu xếp việc có được bản chụp những hồ sơ hành quyết cũng như hồ sơ những vụ trộm cắp bị chặt tay có hình ảnh chặt đứt tay và chân. Daher đã nhận sáng nay sẽ mang những hồ sơ đó đến, mặc dù hôm nay là ngày nghỉ, mặc dù mức lương của anh ta không đủ để khuyến khích sự tận tụy đến như thế. Ibrahim tự hỏi vu vơ liệu cuộc sống gia đình của Daher có khốn khổ như mình không.

Farrah vẫn đang ở nhà ông, chờ chồng cô về. Sự có mặt của cô là ân huệ vì cô và cặp sinh đôi khiến Jamila luôn bận rộn, và nhờ đó mà sự đay nghiến của bà ta cũng giảm đến mức tối thiểu. Vấn đề hiện giờ là họ đang trong một tâm trạng lẫn lộn. Chán nản, khi không còn vấn đề y tế để tranh cãi nữa, họ dần trở thành những tác nhân gây ra sự hư hỏng của ai đó. Kể từ khi Farrah đến gặp thầy trừ tà, ngôi nhà luôn mang hơi hưởng của những hành động điên rồ.

Ở phòng làm việc, ông nhận thấy Daher đã mang đến một nửa số hồ sơ, có lẽ là từ đêm trước. Anh ta đã sắp xếp những chiếc hộp theo hàng lối ngay ngắn trên bàn. Ibrahim đặt cốc cà phê lên bàn làm việc, kéo ghế và mở hồ sơ đầu tiên.

Ông không biết mình đang tìm kiếm gì, nhưng dù sao đi nữa ông vẫn xem qua những hồ sơ đó, cố tránh đọc quá chi tiết. Một người đàn ông bị buộc tội giết vợ con. Một phụ nữ bị buộc tội giết mẹ. Thêm một người đàn ông nữa: một vụ án mạng của một người lạ tại một cửa hàng tiện ích. Ông xem một lượt phần lớn những hồ sơ của năm 2003 và không tìm thấy gì ngoài những vụ án mạng. Điều đó quả có hơi bất ngờ.

Ông chuyển sang những hồ sơ của năm 2007. Những hồ sơ này có đa dạng hơn một chút. Hầu hết các vụ hành quyết đều vì tội giết người, nhưng thường không liên quan đến vấn đề phạm tội hàng loạt. Một tên ở Chad đã bị xử tử vì tội bắt cóc trẻ em, hãm hiếp, trộm cắp, và sử dụng ma túy. Hắn mới hai mươi mốt tuổi. Còn nhiều tội nữa bị hành quyết là buôn bán ma túy, và thậm chí là tình dục đồng giới.

Ông nghe thấy tiếng sập cửa ở phía cuối hành lang, tiếng bước chân cọ vào tấm vải sơn lót sàn nhà. Daher bước vào mang trên tay hai hộp hồ sơ nữa. Mồ hôi nhỏ giọt trên má anh ta.

“Salaam aleỉkum (1).” Anh ta vừa lầm rầm nói vừa đặt hai chiếc hộp xuống sàn nhà phía cạnh bàn. “Đấy là mấy cái cuổi cùng.”

(1) Lời chào theo phong tục Hồi giáo.

“Tốt lắm. Cảm ơn anh đã mang chúng đến.”

Daher đứng cạnh cửa, đắn đo cân nhắc. Rồi anh ta kéo một chiếc ghế ra.

“Anh không phải ở lại đâu.” Ibrahim nói.

“Dĩ nhiên là tôi ở lại chứ!” Daher nói. “Tất cả chúng ta nên làm việc ngoài giờ. Đây là một vụ quan trọng.” Anh ta có phần lúng túng ngồi xuống cạnh sếp mình rồi kéo mở một tập hồ sơ. “Chúng ta sẽ tìm gì đây?”

Ibrahim giải thích điều mà Katya đã nói với ông qua điện thoại và thận trọng khi nhắc đến cả Tiến sĩ Becker nữa để tránh làm cho Daher đố kỵ cho rằng ông chỉ tập trung vào Katya. Bất ngờ thay, Daher rất biết công việc. Anh ta thậm chí còn nói chen ngang: “Và tất nhiên đó là lý do tại sao hắn ta chôn mười chín thi thể. Hắn mơ mộng rằng mình là thiên sứ của đấng Allah.”

“Chuyện có vẻ là vậy.”

“Vậy chính xác chúng ta tìm kiếm điều gì?” Daher hỏi lại.

“Sẽ rất tốt nếu chúng ta có thể tìm được kẻ nào bị trừng phạt vì tội trộm cắp và hắn có người thân bị xử tử, nhưng có vẻ như điều này là không thể có...” Ibrahim nhún vai. “Cứ cho tôi biết nếu có gì đáng chú ý nhé.”

Daher có vẻ nhận thấy tính chất phù phiếm của công việc này, nhưng dù sao anh ta vẫn dấn thân vào làm. Bọn họ im lặng đọc một hồi.

“Ông nghĩ sao về cái thứ mười chín đó?” Daher hỏi. “Ông có nghĩ là có quy luật bí ẩn ẩn chứa trong kinh Koran không?”

Anh ta đang có ý nhắc đến cảnh tượng các học giả Hồi giáo lao mình vào những thuyết âm mưu về các con số và kinh Koran. Thí dụ như, ai cũng biết từ cầu nguyện xuất hiện trong kinh Koran năm lần (gắn với thực tế rằng người Hồi giáo có năm lễ cầu nguyện bắt buộc trong một ngày), từ tháng xuất hiện chính xác là mười hai lần, và từ ngày xuất hiện chính xác là ba trăm sáu mươi lăm lần. Nhưng điều đó không có nghĩa mọi thứ đều là một phần của quy luật bí ẩn nào đó.

Dường như những học thuyết về tầm quan trọng của con số mười chín đã thống trị tư duy âm mưu. Mười chín chính là số câu thơ mà tổng lãnh thiên sứ Gabriel đã trao lại cho nhà tiên tri Mohammed trong hai chuyến viếng thăm đầu tiên tới hang đá. Mười chín cũng chính là số ký tự của câu thơ đầu tiên trong chương một của kinh Koran, một câu thơ đã được nhắc lại năm mươi tư lần trong toàn bộ cuốn kinh. Vấn đề mấu chốt là ở chỗ chương duy nhất mà từ mười chín được nhắc đến lại là chương có tên “Bí mật ẩn giấu.”

“Tôi cho rằng con số mười chín không có gì đặc biệt cả.” Ibrahim đáp. “Ngoại trừ đối với tên sát nhân của chúng ta, có lẽ vậy.”

Họ tiếp tục đọc. Daher trở nên nghiêm túc và im tiếng hơn theo cách mà Ibrahim trước đây chưa bao giờ thấy. Trong giây lát, Ibrahim hình dung một ngày nào đó mình trở thành chánh thanh tra.

“Có lẽ ý kiến của Tiến sĩ Becker rất hợp lý.” Daher nói. “Ai đã từng chặt tay chứ? Một đao phủ, phải vậy không nào? Có ai đã nghĩ đến việc hắn có thể là người của chúng ta chưa?”

“Theo những gì tôi biết, thì anh đã vừa khởi nguyên giả thuyết đó.”

“Dù hắn có là ai đi nữa, thì hắn có cảm giác phiêu lưu khi làm việc này. Ít nhất thì đó chính là từ đã được Thiên thần Charlie nhắc đến.”

“Tôi thấy lẫn lộn khi Tiến sĩ Becker vô tình bị đặt biệt hiệu là Thiên thần, giống như tên giết người tâm thần của chúng ta vậy.”

“Thực ra,” Daher đáp lời, “hắn không phải thiên thần, hắn là sát thủ thiên sứ.”

“À.”

“Và cả hai đều là người Mỹ.” Daher nói thêm.

“Anh sắp sửa phải gạt bỏ cái ý nghĩ đó ra khỏi tâm trí mình rồi đấy. Tôi đã đọc hồ sơ hành quyết của năm năm rồi, và anh có biết tôi thấy gì không? Cả một bầy sát nhân người Ả Rập Xê-Út. Nếu giết ngtrời là một loại vi-rút thì chúng ta đã chậm chuyển đổi mất rồi.”

Daher đưa ra một cách lý giải lịch thiệp cho vấn đề này. “Thực lòng, tôi nghĩ nó phù hợp vì chúng ta có hai thiên sứ trong vụ này. Một tốt, một xấu.”

“Rất tốt.” Ibrahim nói. “Và anh nói đúng, người hành hình sẽ có những công cụ cho công việc của mình, và có lẽ cả sự thích thú khi thực hiện công việc đó nữa.”

“Nhưng ông đã chứng kiến những cuộc hành quyết rồi đấy.” Daher nói. “Ông có thấy cái lúc chặt đầu người, cảnh sát phải lôi đao phủ ra ngoài. Họ đứng đó chờ đợi để lôi anh ta đi bởi họ lo ngại anh ta sẽ nổi cơn khát máu và gây hại cho những người khác. Ngay tại quảng trường! Trước mắt hàng trăm con người! Nhưng sự khát máu là có thật. Họ luôn phải lôi anh ta ra ngoài.”

Ibrahim đã từng chứng kiến những vụ hành quyết khi còn là một sĩ quan, cùng gần như vậy. “Điều đó đúng, nhưng cũng là truyền thông nữa. Trông anh ta có vẻ gì cần phải kéo đi không?”

“Thinh thoảng, có chứ!”

Ibrahim cố sắp xếp những hình ảnh đang dựng lên trong tâm trí ông về tên giết người hàng loạt với cảm tưởng của chính ông đối với một đao phủ từng gặp. Daher đã đúng về nhiều mặt, nhưng trong tâm can Ibrahim lại muốn phản bác.

“Tôi đã một lần trò chuyện với một đao phủ.” Ibrahim nói. “Anh biết anh ta nói gì về công việc của mình không? Anh ta đang nâng cao nhận thức.”

Daher phá lên cười.

“Đó chính là cách anh ta mô tả về công việc đó.” Ibrahim nói tiếp. “Nâng cao nhận thức về sự ghê rợn của việc giết người và cố gắng để khuyến khích mọi người không phạm phải những sai lầm trong giây phút cuồng dại mà hủy hoại cả cuộc đời mình.”

Daher cưòi toét miệng. “Điều đó thật buồn cười. Tôi đoán chắc anh ta nghĩ hầu hết những tên sát nhân đều không có tự chủ. Phải vậy không?”

Ibrahim nhún vai. “Phần lớn những ai giết người đều mất tự chủ, có khi chỉ trong giây lát.”

“Nhưng không phải tên giết người Thiên sứ đó.” Daher nói. “Hắn ta lập kế hoạch cho việc đó.”

Lại có tiếng bước chân ngoài hành lang và Daher bật dậy khỏi ghế. Trong một phần giây trước khi lao về phía cửa, cánh tay phải của anh ta vung sang bên hông. Anh ta tìm khẩu súng ngắn không mang theo khi vào trụ sở trống không vào thứ Sáu. Ibrahim giật mình.

Daher quay vào với vẻ khinh ghét. “Cô Hijazi đang ở đây.” Anh ta nói.

Katya đứng trước cửa văn phòng. Cô đang ôm hai tập hồ sơ.

“Xin chào.” Ibrahim chào và đứng dậy. “Quả là một bất ngờ thú vị, cô Hijazi. Mời cô vào.”

“Chào ông.” Cô đáp. “Tôi chỉ đến lấy một số hồ sơ thôi.”

“Tại sao cô lại làm việc?” Daher hỏi với thái độ không đồng tình thấy rõ. “Hôm nay là thứ Sáu đấy!”

“Thế không phải cũng là thứ Sáu với anh sao?” Katya vừa hỏi lại vừa đi qua anh ta để vào văn phòng. Cô nói với Ibrahim: “Tôi đã ra ngoài sa mạc hôm qua. Tôi đến hiện trường.”

“Cô tự đi một mình đến đó sao?” Daher hỏi.

“Không, tôi đi cùng nhóm Murrah. Talib al-Shafi và các cháu của ông ấy đi cùng tôi và chồng tôi.”

“Cô đã được phép làm việc đó đấy chứ?” Daher vừa hỏi vừa nhìn Ibrahim. “Tôi chẳng biết gì về việc này cả.”

“Chúng tôi không dành nhiều thời gian ở khu vực hiện trường.” Katya vẫn tiếp tục nói chuyện với Ibrahim. “Chúng tôi đi về phía tây và đã tìm được địa điểm mà chúng tôi cho rằng tên sát nhân đã trở lại. Tôi đoán hắn ta đã quay lại đó, nếu không thì làm thế nào hắn biết chúng ta đã phát hiện ra những cái xác ấy? Và chúng tôi cho rằng hắn biết điều này, bởi bàn tay của Amina”

“Suy luận tốt lắm.” Ibrahim nói và cảm thấy bối rối. “Vậy là cô cho rằng đã tìm được địa điểm hắn trở lại?”

“Đúng vậy. Talib nói rằng một người đàn ông đã đến đó bằng chiếc xe tải hiệu GMC và đi bộ để tìm một địa điểm có thể quan sát khu mộ chôn. Ông ấy cũng nói các dấu chân cho thấy hắn tức giận.”

“Nhưng cô đâu biết chắc đó là hung thủ thực sự.” Daher nói.

“Talib chắc chắn các dấu chân tại điểm quan sát phù hợp với dấu chân ở khu mộ chôn.”

“Tôi tưởng những dấu chân ở khu mộ chôn không rõ lắm chứ.” Daher nói.

“Chúng đủ rõ để điều tra.”

“Vậy thì để tôi nói thẳng nhé: một ông già mù tìm dấu vết người Bedouin định nói với chúng ta rằng đấy là hung thủ của chúng ta sao? Những dấu chân đó có thể là của bất cứ ai!”

Ibrahim nhận thấy nét mặt của Katya cau lại. “Đó là một nơi rất hẻo lánh.” Cô nói. “Không có dấu chân nào khác ngoài đấy cả.”

“Điểu ấy không có nghĩa rằng không có ai khác ở đó.”

“Cái chính là Talib tin rằng các dấu chân trùng khớp.” Katya nói. “Chính vì vậy nếu thực sự tên giết người đã xuất hiện ở khu mộ chôn, thì sự có mặt của hắn là vào khoảng năm hoặc sáu ngày trước.”

“Lần tới ấy,” Daher nói, “những gì tương tự phải được làm rõ bởi thanh tra phụ trách vụ án - ông Zahrani - và nó cần được làm rõ với cả Chánh Riyadh nữa. Cô có thể đã làm rối tung cả hiện trường vụ án rồi!

“Tôi làm việc trong đội pháp y.”

“Đúng, nhưng cô làm những công việc pháp y trong phòng thí nghiệm, không phải trên hiện trường. Cô đã tới một hiện trường vụ án thực sự được bao nhiêu lần rồi? Một lần? Hai lần? Có những nguyên tắc, và việc cô đã đến hiện trường vụ án không có nghĩa là cô biết cách để xử lý hiện trường. Về mặt chuyên môn mà nói, việc cô có mặt ở đó một mình có nghĩa là chúng ta không thể sử dụng các bằng chứng đó trước tòa được!”

“Tôi không ở đó một mình.”

“Được thôi, nhóm Murrah ở đó, và điều này có thể được chấp nhận ở tòa, nhưng nó có thể phá hủy mọi thứ.”

Ibrahim, một lần nữa, bất động trước cả hai người bọn họ. Nếu ông đứng về phía Katya, ông sẽ mạo hiểm với việc khiến nhân viên tốt nhất của mình lánh xa, nếu ông không bảo vệ cô, ông sẽ mạo hiểm đánh mất một người mà ông hoàn toàn tin tưởng trong vụ Sabria - và là người đang tiếp cận vụ án Thiên sứ sáng tạo nhất.

“Còn ngày thứ Năm của anh thì thế nào hả?” Katya hỏi Daher.

Anh ta giật mình, tỏ vẻ khó chịu. “Chúng tôi đã nhận diện được một nạn nhân khác.”

Katya quay ra cửa.

“Cô có người đưa tới đây không?” Ibrahim hỏi.

“Tôi có.”

“Tốt. Để tôi đưa cô xuống bãi xe.”

“Không cần thiết đâu ạ.” Katya nói.

“Không ai nên ở đấy một mình, nhất là khi tòa nhà lại trống vắng như thế này. Nếu hung thủ biết việc ở khu mộ chôn thì hắn biết chúng ta.”

Katya lưỡng lự gật đầu.

Khi họ khuất khỏi tầm nghe, Katya nói. “Thực ra tôi đã mong sẽ gặp được ông ở đấy. Tôi đã có kết quả mẫu máu tìm được trên tâm thảm ngoài cửa căn hộ của Sabria.”

“Cô nói đi.”

Katya chần chừ. “Kết quả DNA không phải là của ông, nhưng của ai đó liên quan tới ông.”

“Sao cơ?” Ông dừng bước.

“Đúng vậy.” Cô nói. “Và nó là của nam giới.”

Một cơn hoảng loạn, giận dữ, và hoài nghi tột độ. “Cô có chắc về điều này không?”

“Có, tôi đã kiểm tra rất kỹ. Tôi đã mất rất nhiều thời gian với việc đó.”

“Thôi được rồi.” Ông nhận ra mình đang thở gấp gáp. “Thôi được rồi, tôi sẽ đế ý đến vấn đề này.”

“Vậy ông biết người đó là ai?”

“Tôi nghĩ vậy.” Ông nói.

“Ông có muốn thử kiểm tra DNA của người đó không?” Cô vừa hỏi vừa lấy ra một tâm gạc trong túi áo.

Ông lắc đầu. “Không. Tôi sẽ đề nghị khi cần.”

“Thôi được.” Cô có vẻ lưỡng lự. “Tôi tưởng ông nói rằng không ai trong gia đình ông biết về cô ấy.”

“Rõ ràng là tôi đã sai.”

Jamila đón ông ở cửa nhà với vẻ mừng rỡ ra mặt. Hình như họ đã dựng lên một vở kịch. Khi ông đi qua bà ta để vào phòng khách, thì té ra bà ta đã làm một việc ngớ ngẩn, mà chắc trong vòng mười năm nữa sẽ không lặp lại: bà ta đã sắp đặt một người chồng cho Hanan, cô chị của cặp song sinh.

“Con bé mới có mười tuổi.” Ibrahim nói. Ông liếc nhìn vào phòng ngủ, không có ai ở đó. Ông đang tìm đứa con trai cả, Aqmar. Vợ của Aqmar, Constance, đã mở cửa căn hộ tầng dưới và nói là anh đang ở trên này.

“Mười tuổi thì đã làm sao!” Jamila hét lên. Farrah ngồi nép sang bên, trông lúng ta lúng túng. “Dù sao thì con bé sẽ không cưới xin gì cho đến khi đủ mười sáu tuổi. Nhưng tôi đã sắp đặt mọi chuyện rồi! Chỉ cần sự đồng ý của ông nữa thôi.”

“Cậu ta là ai?” Ông đi qua bà ta để vào phòng khách của nữ giới. Căn phòng cũng trống không nốt. “Aqmar đâu?”

“Tên cậu ta là Taha al-Brehm; cậu ta là con trai của anh họ tôi Abdullatif, người sống ở Riyadh ấy.”

“Bà đã gặp cậu ta chưa?”

“Cậu ta có cả một nhà máy dệt và ba cửa hàng điện thoại di động, còn bố cậu ta thì nhiều tiền hơn bất cứ người nào trong dòng họ “ Jamila vỗ tay.

“Bà đã nói chuyện với Hanan chưa?”

“Vẩn chưa.”

“Aqmar đâu rồi?” Ông hỏi lại.

“Tôi không biết. Ông nghĩ sao? Cậu ta quá xứng với con bé. Cậu ta là người rất truyền thống. Thích cưỡi ngựa và huấn luyện chim ưng, hãy nghĩ mà xem!”

Ông quay sang phía Farrah. “Con có thấy anh con đâu không?”

“Anh ấy ở trên tầng thượng ạ.” Cô vừa đáp vừa lấm lét nhìn mẹ mình.

“Nó không ở trên tầng thượng đâu.” Jamila vừa giận dữ nói vừa chắn ngang lối ra cửa của ông. “Nào, thế ông nghĩ thế nào?”

“Tôi nghĩ hẳn là bà điên mất rồi nên mới cho rằng tôi sẽ để ai đó cưới Hanan mà không có sự đồng ý của con bé. Tôi không quan tâm dù cậu ta có nhiều tiền hơn cả nhà vua.” Ông xô bà ta để đi qua rồi tiến về phía cửa trước khi bà ta kịp phản ứng gì. Nhưng kỳ thực thì tiếng om sòm còn theo ông lên tận tầng trên.

Ông không thể tin được bà ta lại làm cái việc đó. Ông chỉ đồng ý đám cưới của Zaki bởi vì Zaki đã đồng ý - và người ta phải biết nghĩ sau cuộc hôn nhân thất bại đó chứ, đáng lẽ bà ta phải tỏ ra chừng mực hơn.

Aqmar đang ngồi trên một tấm thảm ỏ tầng thượng trông như một chiến binh tử vì đạo kiên định. Anh mặc chiếc quần đùi ka-ki và áo phông màu xanh quân đội cũ đã mặc từ bao năm nay. Ibrahim vẫn nghĩ nếu ông không quyết liệt và khước từ việc để con trai mình đi Iraq chiến đấu trong cuộc thánh chiến chống lại Tây phương, thì hẳn Aqmar giờ này đã chết rổi. Thời kỳ mong muốn được trở thành anh hùng đã trôi qua nhanh như khi nó đến, nhưng trong trái tim của một người cha, những điều như thế không bao giờ nguôi ngoai. Những viên than đá trên chiếc điếu ống phía sau anh sắp tàn, và mùi thuốc lá thơm còn vương vất giữa những bức tường.

Một buổi tối Ibrahim và Sabria đang trên đường trở về từ một bãi biển tư nhân thì cô muốn dừng lại ở một cửa hàng rau quả. Bọn họ đã dừng xe. Khi ra khỏi ô-tô, Ibrahim phát hiện ra Aqmar và Constance đang lững thững đi trên hè phố ngắm nghía các cửa hàng. Ibrahim vội vàng né người vào trong xe và ngăn không cho Sabria bước ra. Ông đã lái xe đi ngay lập tức. Ông không chắc chắn, nhưng có cảm giác là con trai mình đã trông thấy. Họ không bao giờ nhắc đến chuyện đó cả. Cách cư xử của Aqmar đối với ông không hề thay đổi gì, nên Ibrahim tự nhủ mình chỉ mường tượng đến tình huống xấu nhất.

Lúc này, Aqmar đang ngồi trên nóc mái, nhìn thấy bố và giơ tay đang cầm chiếc điện thoại di động lên.

“Zaki vừa gọi để nói cuối tuần nó sẽ cắm trại với mấy người bạn ở sa mạc. Nó muốn con đảm bảo cho Saffanah có tất cả những gì con bé muốn. Bố có tin được tên nhãi này không bố?”

Ibrahim ngồi xuống cạnh anh, tựa lưng vào tường và cố tỏ ra thoải mái. “Còn ít thuốc lá thơm nào không con?”

“Không ạ.” Aqmar tỏ vẻ ái ngại và định đứng dậy. “Để con chuẩn bị thêm một ít nữa.”

“Không cần đâu con, cứ ngồi đi.”

Aqmar ngả ra sau và liệng chiếc điện thoại lên tấm thảm. “Con không hiểu tại sao nó cưới con bé đó nữa. Nó biết đó là một quyết định dở hơi. Và giờ thì nó muốn đẩy hết mọi rắc rối lên chúng ta.” Với từ chúng ta, anh muốn ám chỉ đến hai bố con họ.

“Em có kể với con về phiên tòa ly hôn không?”

“Bố có đùa con không đấy? Nó không thể nín miệng về chuyện đó.”

Ibrahim tựa thẳng lưng vào tường và cố gắng thở ra. Ông muôn dành một chút thời gian, lựa chuyện như một võ sĩ không có ý tung cú đấm, không muốn bị trúng đòn nhưng lại bị kẹt trên võ đài. Nhưng Jamila có thể lên tầng thượng bất cứ lúc nào, hoặc là một trong những đứa cháu của ông.

“Ta đến nhà thờ đi con.” Cuối cùng ông lên tiếng. Aqmar trông có vẻ không muốn, nên ông nói tiếp. “Hôm nay là thứ Sáu mà.”

Họ bước đi trong không khí trời đêm mát mẻ dễ chịu. Họ không nói gì nhiều nhưng quyết định sẽ đi bộ cả quãng đường đến một nhà thờ lớn trên phố Makkah, thay vì nhà thờ nhỏ thường đến. Nhà thờ lớn là một công trình hiện đại, vuông vắn và không có đỉnh nhọn, điểm nhấn duy nhất là chiếc tháp được trang trí lộng lẫy với kiến trúc bằng đá. Bên trong nhà thờ chật cứng đến mức họ phải len ra phía sau mới có vừa đủ chỗ để mỏi cổ rướn lên nhìn. Sau lễ cầu nguyện, họ rời nhà thờ trước khi bị cuốn vào những cuộc đàm luận. Họ dừng chân ở một quán café để ăn kem. Đó là một cái quán nhỏ xíu liền sảnh với hai chiếc ghế nhựa màu trắng để bên cạnh cửa vào. Có hai người đàn ông đang ngồi ở đó, một người vừa nhấp trà vừa đọc báo, người kia đang ăn thứ gì đó có vẻ giống bánh kẹp Sambooli. Mãi đến khi họ về nhà Ibrahim mới đánh bạo mở lời.

“Tuần trước một cộng tác viên của bố ở Đội Điệp vụ đã mất tích.”

Aqmar có vẻ lúng túng, hiển nhiên là đang tự hỏi chuyện đó thì có liên quan gì đến mình.

“Tên cô ấy là Sabria Gampon.”

Gương mặt con trai ông, vốn không quen với việc làm bộ, thể hiện sự choáng váng rồi xấu hổ và bất an. Theo đúng kiểu phản ứng đó, Ibrahim hiểu rằng thực tế Aqmar biết người đó là ai và anh đang ngượng ngùng vì điều này.

“Chuyện gì đã xảy ra vậy ạ?” Aqmar hỏi.

“Bọn bố không chắc nữa, nhưng họ đã tìm được DNA ai đó để lại trên chiếc đinh trong tấm thảm ngay ngoài cửa căn hộ của cô ấy. Có người đã bị chảy máu chân ở đó.”

Aqmar bối rối khổ sở. “Có một hôm con đến chỗ làm của bố và thấy bố rời khỏi tòa nhà. Con nghĩ sẽ đuổi kịp bố trên đường nhưng không thể, và rồi con thấy bố đỗ xe...”

Một sự thật hiển nhiên là sự phán đoán của cảnh sát - khả nắng nhận ra những kẻ nói dối, nắm bắt được cảm xúc chỉ bằng một cái liếc nhìn, khơi gợi những điểm yếu và đến cả những bí mật được chôn giấu kỹ nhất - đã biến mất khi đối tượng là người yêu quý. Ông thấy hốt hoảng khi nhận ra ông không thể xác định được con trai mình có nói dối hay không.

“Vậy con đã ở đó?” Ibrahim hỏi,

Aqmar gật đầu. Anh vạch chiếc quai dép để lộ vết cắt bởi chiếc đinh. Nó đã liền da những vẫn còn đỏ lằn.

“Con nhận ra bố đang đi thăm một người bạn.” Giọng Aqmar chùn đi. Con đã nghĩ mình bắt quả tang bố ngoại tình. Hãy nói cô ấy chỉ là bạn đi bố..

Ibrahim nhìn cả cuộc đời làm cha của mình đang mở ra trước một vấn đề vô cùng khó khăn, và ông đứng đó hoàn toàn bình tĩnh giữa sự hối thúc nói ra toàn bộ sự thật và việc nhận thức được rằng sự thật cũng có thể trở thành sức mạnh hủy diệt dối với bất cứ mối quan hệ nào.

“Bọn bố đang hoàn thành nốt nhiệm vụ cuối cùng.” Ông nói. “Con có bất ngờ vì việc Đội Điệp vụ có phụ nữ không?”

Ông thấy ghét chính bản thân mình.

“Không ạ. Bố đã nói trước chuyện đó rồi.” Aqmar trông có vẻ vẫn còn bối rối. “Có lần bố đã nói hầu hết những vụ trộm cắp ở Jeddah có liên quan đến phụ nữ.”

“Hoặc đàn ông cải trang giống phụ nữ.”

Một tá những câu hỏi đang xoáy vào tâm trí ông. Con có gõ cửa không? Cô ấy có mở cửa không? Bố có đang tắm không? Con có đứng đó nghe ngóng gì không? Ông cố gắng nhớ xem liệu Sabria có vẻ gì khác không. Liệu cô có biết Aqmar đã đến, liệu cô có mở cửa hay không.

“Con có nhớ con đã ở đâu cách đây hai tuần vào thứ Tư không?”

Aqmar khẽ mỉm cười với ông. “Con đang bị thẩm vấn ạ?” Khi Ibrahim không đáp lại, thì anh nói. “Con làm việc vào tất cả các tối thứ Tư cho đến tận mười giờ. Bố biết mà. Đó là ca làm mười bốn tiếng của con. Bố có thể gọi cho sếp con.”

“Con đã đến căn hộ đó khi nào?” Ibrahim hỏi.

“Khoảng ba tuần trước.”

“Con có nhớ chính xác đó là hôm nào không?”

“Ừm, vâng... đó là Chủ nhật. Hôm đấy con không đi làm.” Aqmar khoan chưa qua đường. “Đáng lẽ con đã gõ cửa, nhưng con nhận ra là bố đang làm việc và con không muốn làm phiền.”

Và đây, sự trừng phạt thực sự đối với sự dối lừa của ông: con trai ông có thể đang nói dối chính ông. Có lẽ điều mà Aqmar muốn nói là Con cho rằng bố có nhân tình và hốt hoảng bỏ chạy rồi đạp chân lên đinh.

Ibrahim nhìn Aqmar đang phải đay dứt với những điều còn sâu kín hơn nữa: sự tức giận thay cho mẹ anh; sự thất vọng trước những lời dối trá của bố mình; khao khát có được niềm hạnh phúc của bố và hiểu được tại sao ông chọn con đường này đế có được hạnh phúc đó; cảm giác xấu hổ đối với tất cả mọi chuyện đã xảy ra.

“Đội Trọng án cũng có phụ nữ.” Ibrahim nói. “Nhưng bọn bố hiếm khi thấy họ.”

Aqmar gật đầu. “Con mong là bạn bố sẽ ổn.”

Họ bước đi trong im lặng trên suốt quãng đường còn lại trở về nhà.

Về đến nhà, Aqmar chúc ông ngủ ngon rồi bước vào căn hộ của mình, nơi mà người vợ nhẫn nhịn của anh đã phải chờ đợi suất ba giờ đồng hồ. Ibrahim nghe tiếng Jamila đang nói chuyện điện thoại trên gác, lớn tiếng than vãn với một người bạn về cách hành xử phát bực mình của ông: không cho Hanan được đính hôn với một ông anh họ giàu có! Nó khiến ông nghĩ đên việc gõ cửa căn hộ của Zaki, đối diện căn hộ của Aqmar qua hành lang.

Saffanah mở cửa chỉ để lộ một con mắt. Nó đỏ ngầu và giận dữ. Cô ta lùi lại và để ông vào. Ông bước vào sảnh mà cô ta đang đứng ôm lấy eo, trông khổ sở.

“Con thế nào?”

Cô ta nhún vai.

“Chuyện với Zaki sao rồi?”

Cô ta lắc đầu. “Anh ấy sẽ không làm việc đó đâu ạ.” Cô ta vừa nói vừa ôm mình chặt hơn. Ông có thể nhận ra qua đôi vai run rẩy của cô ta rằng cô ta đang cố giữ không khóc. Đó là trận đánh mà ngay tức thì cô ta đã thua.

“Ra ngoài đi.” Ông nói. Ông không thể chịu được khi nhìn cô ta khóc. “Con có cần rau quả gì không?”

Cô ta gật đẩu.

Họ ra một khu chợ cỡ trung. Cô ta để ông đợi ở lối vào cho đến khi người khách duy nhất - một người đàn ông - mua hàng xong và rời khỏi đó. Cửa hàng chuẩn bị đóng cửa nhưng người chủ chờ đợi một cách nhã nhặn trong khi Saffanah dạo qua các quầy hàng với chiếc giỏ xách trên tay, luôn cảnh giác nhìn ra cửa đề phòng có người vào và cắt ngang việc mua sắm của cô ta. Cô ta vẫn không vén khăn che mặt lên và lần này thì ông đoán là do hai mắt cô ta đã sưng đỏ. Có thể ngay từ đầu đã thế.

Khi cô ta ra quầy thu ngân, Ibrahim trả tiền và giúp người chủ cửa hàng cho đồ vào túi. Ngay khi họ trở vào xe, ông nói: “Cuối tuần này Zaki sẽ ra ngoài thành phố, và bố biết là con không muốn dành thời gian buổi tối với mẹ, vậy thì sao chúng ta không sang ngồi với Aqmar và Constance rồi nướng bánh sô-cô-la hạnh nhân nhỉ?”

Cô ta cúi nhìn chiếc túi mua hàng rồi lắc đầu.

Khi mang túi rau quả vào nhà xong, ông rón rén bước lên gác để về phòng. Jamila vẫn đang nói chuyện điện thoại nhưng may thay cửa ngoài đã đóng, nên những lời phàn nàn của bà ta chỉ lí nhí. Ông lẻn vào phòng khách nam, túm lấy mấy cái gối rồi mang lên tầng thượng. Ở đó ông đã kê cho mình một chiếc giường nhỏ bên chiếc điếu ống và chìm vào giấc ngủ khi đang ngắm những vì sao lấp lánh, tâm trí băn khoăn không hiểu con trai ông nghĩ gì về bố mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Buổi sáng hôm đó cô dậy và ra ngoài sớm hơn thường lệ. Thành phố vẫn đang quỳ, tấm lưng cong bừng sáng ánh hồng của buổi sớm, đầu gục xuống mỏi mệt. Bài hát của những thầy tu báo giờ vang trên khắp các đường phố. Những chiếc loa phóng thanh của từng nhà thờ lại độc chiếm một khoảng không gian riêng bé nhỏ cho mình. Những người đàn ông xếp theo hàng cầu nguyện trên hè phố, những người lạ tụ nhóm lại với nhau. Khoảng thời gian chuẩn bị cho một ngày. Katya chưa bao giờ cầu nguyện trên hè phố nhưng thi thoảng vào những buổi sáng tĩnh lặng như thế này, cô rất mong được làm điều đó.

Cô chỉ vừa mới bước ra khỏi ô-tô ngay trước cửa ga thì Majdi nhắn tin cho cô: Hiện trường vụ án - ngay bây giờ, cùng địa chỉ. Cô lại trở vào xe cùng Ayman và họ đến địa điểm đó.

Khi họ đến nơi, cô há hốc miệng.

“Có chuyện gì vậy ạ?” Ayman quay sang cô.

“Không có gì.” Cô nói. “Chị đã tưởng một chỗ khác cơ.”

Rõ ràng là cậu không tin cô, nhưng cô cảm ơn cậu và ra khỏi xe, cố hết sức để không tỏ vẻ hoảng hốt. Cô đang đứng trước tòa nhà căn hộ của Sabria.

Cô vào thang máy và lên tầng bốn. Cửa vào căn hộ của Sabria để mở, và hai nhân viên pháp y đang đứng ở đó. Họ tránh sang để nhường lối cô vào.

Cô thấy Majdi trong phòng khách. Anh ta có vẻ khó chịu. “Cô đã nói là muốn làm việc ở hiện trường vụ án.”

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” Cô hầu như chỉ thốt lên được thế.

Majdi giơ cao hai bàn tay mình. “Không phải một vụ ám sát đâu đừng lo lắng. Một phụ nữ đã mất tích. Có ai đó đã thông báo tin này sáng nay.”

“Từ khi nào chúng ta tìm người mất tích kiểu này vậy?” Cô cố kiềm chế sự hoảng loạn của mình.

“Chúng ta không làm thế, nhung người phụ nữ này đã từng làm việc cho Đội Điệp vụ và họ đã gửi một thông báo đặc biệt tới đội pháp y. Chánh Riyadh đã gọi cho tôi sáng nay và hỏi liệu tôi có sẵn lòng làm việc này trước khi đến cơ quan không. Tôi đã định nhắn tin cho cô lúc đó nhưng khi ấy vẫn còn hơi sớm.”

Katya cảm thấy sức nóng đang bừng trên hai gò má. “Anh ở đây lâu chưa?”

“Hơn một tiếng rồi. Chúng tôi vẫn đang làm trong phòng ngủ và phòng tắm.”

Phải tự chủ hết mức cô mới không lao thẳng ra ngoài hành lang để gọi cho Ibrahim. Cô phải ở đây và tự tay cô thu thập được càng nhiều bằng chứng càng tốt. Những ý nghĩ điên rồ đang hối hả xuất hiện trong đầu cô: Mình có thể hủy bằng chứng không? Thay đổi nó chăng? Mình có thể nắm giữ nó không? Họ đã gửi về phòng thí nghiệm chưa, hay họ đang gửi nó đến Đội Điệp vụ để xử lý nó ở một phòng thí nghiệm khác? Bao lâu nữa thì họ sẽ phát hiện ra Ibrahim từng ở đây?

“Cô ta sống một mình sao?” Katya hỏi.

“Đúng vậy, nhưng cô ta đã kết hôn. Họ vẫn chưa thể liên lạc được với chồng cô ta.” Majdi nhìn cô với ánh mắt ác nghiệt. “Trong những vụ thế này, thường đó là người chồng.”

“Ý anh là sao khi nói những vụ thế này?”

“Chỉ là khi một phụ nữ bị mất tích.”

Majdi đang lo lắng về cách phản ứng của cô. Nếu cô không tham gia vào việc thì anh ta sẽ không bao giờ đề nghị cô đến hiện trường vụ án nữa.

“Tôi phải quay về phòng thí nghiệm.” Anh ta nói. “Cô ở đây được chứ?”

“Được, tôi ổn thôi.” Khi anh ta trở ra, cô gọi với theo. “Majdi cảm ơn anh.”

Anh ta gật đầu rồi quay đi.

Cô nhận thấy điều cốt yếu là phải chú ý đến những thứ gì có thể liên quan đến vấn để quan hệ của Ibrahim và Sabria. Cô đi thẳng vào phòng ngủ và bắt đầu làm việc. Cô vừa lật tấm lót giường lên thì một ý nghĩ bật ra: Ibrahim phải biết ngay lập tức. Ông ấy phải đến đấy. Nếu ông ấy ở đây thì việc tìm được DNA của ông ấy không còn là vấn đề nữa.

Cô rút ngay điện thoại ra và gọi cho ông. Ông không nghe máy. Cô hít một hơi rồi thử gọi lại. Lẩn thứ ba thì cô để lại tin nhắn: “Hãy đến căn hộ của Sabria ngay lập tức. Có người đã thông báo về việc cô ấy mất tích và đội pháp y đang ở đây. Hãy tin tôi, ông phải đến.”

Cô gác máy rồi cầu Chúa rằng ông sẽ nhận được tin nhắn trước khi quá muộn.

“Tôi đã nghe lỏm mấy tay lớn tuổi hơn nói rằng trước đây chúng ta từng có những vụ giết người hàng loạt rồi.” Daher nói.

Ibrahim và Daher đang ở hành lang ngoài phòng họp. Cửa vào đang đóng, nhưng những âm thanh từ phía trong vọng ra cho thấy phòng đang đông người. Ibrahim với tay mở cửa, nhưng Daher chặn ông lại. “Họ nói họ chưa bao giờ có thể chứng minh nó.” Anh ta nói. “Tại sao? Bởi vì không ai cho rằng chúng ta có những kẻ giết người đó. Những vụ giết người hàng loạt được thông báo trên tin tức đều có liên quan đến người nước ngoài, ông thấy không?”

“Điều này sẽ thực sự khiến anh thấy phiền đấy.” Ibrahim nói. “Hắn có thể là người Ả Rập Xê-Út.”

“Chúng ta đã từng có tên giết người hàng loạt người Ả Rập Xê-ứt nào trước đây chưa?”

“Tôi không biết. Mười năm về trước ở Đội Trọng án có vài vụ một kẻ đã liên tục giết người, nhưng chưa bao giờ giống như thế này cả. Chưa bao giò có tính hệ thông như thế này, và hiển nhiên là chưa bao giờ được lên kế hoạch kỹ càng như thế này nữa.”

Daher có vẻ như nhẹ lòng được phần nào. Ibrahim mở cửa.

Hai tuần trước người Bedouin tìm dấu vết al-Shafi đã gợi ý bọn họ tìm kiếm một lái xe taxi, nhưng lúc đó họ không có hồ sơ đàng hoàng về tên sát nhân. Họ chỉ đơn giản cử hầu hết các sĩ quan trẻ đi thu thập thông tin từ những công ty taxi về những vụ phạm tội của tài xế. Việc này hóa ra lại rất vô vọng, khi mà phần lớn các công ty không lưu trữ hồ sơ kiểu đó. Những công ty này đều vui vẻ cung cấp thông tin, nhưng, cũng giống như các hồ sơ hành quyết và chặt tay, việc đó là vô ích cho đến chừng nào họ lập được một hồ sơ tốt hơn về tên giết người đã.

Ý tưởng về tay tài xế taxi bắt đầu làm tất cả vỡ mộng. Chẳng có gì là bất ngờ khi không thể tìm ra tên sát nhân đó trong số năm mươi nghìn tài xế taxi ở Jeddah. Vấn đề ở chỗ, một khi bạn đã đẩy niềm hy vọng vào guồng, rất khó để ngăn nó khồng càn quét qua mỗi cuộc điều tra và rồi để lại sự nản lòng.

Giờ thì Ibrahim sẽ nói với họ rằng tên sát nhân đó có thể đã đóng giả lái xe cứu thương của Trăng lưỡi liềm Đỏ.

Ông đứng lên trước đám đông và nhận thấy sự thất vọng cũng như giận dữ ngập tràn căn phòng. Ở cuối phòng, Mu'tazz đang ngồi tựa lưng vào tường, quan sát Ibrahim bằng cặp mắt thằn lằn uể oải.

Ibrahim nói với mọi người về May Lozano và vụ cấp cứu vào hôm cô ta biến mất, khéo léo dẫn dắt câu chuyện theo giả thuyết của ông rằng tên giết người có thể đã sử dụng xe cứu thương hoặc xe của Trăng lưỡi liềm Đỏ để bắt cóc các nạn nhân. Nhưng kể cả khi đang nói, ông cũng nhận thấy những người trong phòng đắn đo trước một thực tế rằng họ thực sự không có thứ gì để tiếp tục cả. Tên giết người chỉ để lại một bàn tay vấy máu trên con phố đó, một hành động nói lên rằng Tao đang giết người phụ nữ đấy, và chúng mày chẳng thể làm gì hết..

“Chúng tôi cho rằng, trong thời gian trước mắt, tên sát nhân sa mạc đó cũng chính là kẻ đã bắt cóc và chặt tay Amina al-Fouad.” Ibrahim nói. “Những nạn nhân trước đó bị hắn chặt tay khi họ đã chết, nhưng bàn tay của Amina lại bị chặt khi bà ta còn sống. Bàn tay của Amina xuất hiện ngay sau khi chúng ta phát hiện ra khu mộ chôn đó, do vậy chúng tôi cho rằng tên giết người đã hành động trong cơn thịnh nộ sau khi hắn nhận ra chúng ta đã tìm ra các thi thể được chôn ở sa mạc.” Ông tóm tắt lại cho mọi người nghe về những gì Talib đã phát hiện ngoài sa mạc, cảm thấy day dứt có lỗi khi không tiết lộ rằng chính Katya mới là người đưa ra ý tưởng này và thực hiện nó. Mu'tazz chẳng cần phải có thêm nhiên liệu cho cỗ máy chiến tranh của ông ta nhằm chống lại Ibrahim làm gì.

“Do đó hắn muốn chúng ta biết hắn đã bắt cóc Amina và sẽ giết bà ta. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh với tất cả các anh rằng có thể Amina al-Fouad vẫn còn sống, và tôi không nghĩ là phải nhấn mạnh với các anh việc tìm ra tên giết người hiện là việc cấp bách hơn cả thời điểm tìm thấy những cái xác kia nữa”

Cả căn phòng im lặng trong giây lát trước khi Mu'tazz lên tiếng.

“Có thể bà ta chết rồi.” Ông ta nói. Một số người quay lại nhìn ông ta.

“Vâng, thưa Trung tá.” Ibrahim vừa nói vừa cố kiềm chế tông giọng. “Điều gì đã khiến ông cho là vậy?”

“Bà ta đã mất một bàn tay. Nếu tên giết người không có bằng cấp y khoa, hắn sẽ khó lòng cầm máu được”

“Không có được sự theo dõi cẩn trọng của bác sĩ” Ibrahim đáp, “hắn có thể làm như thời trung cổ là nhúng cánh tay cụt vào hắc ín.”

“Tôi rất nghi ngờ khả năng hắn quan tâm tới việc cầm máu.” Mu'tazz nói.

Cả căn phòng dường như còn im tiếng hơn.

“Được rồi.” Ibrahim cố hết sức để tỏ vẻ hòa nhã. “Và ông có gợi ý gì vậy?”

“Vì bà ta có thể đã chết,” Mu'tazz nói, “việc quan trọng hơn cả là phải tìm ra nguyên do tại sao hắn lại chọn al-Fouad, bởi nó có thể giúp chúng ta nhận diện ai sẽ là nạn nhân tiếp theo. Cách duy nhất có thể thực hiện điều này là phải hiểu lý do của hắn.”

“Hay nói cách khác là lập hồ sơ về hắn.” Ibrahim vừa nói vừa liếc về phía Tiến sĩ Becker. “Nếu đó là phần ông muốn tham gia, thưa Trung tá, tôi sẽ lấy làm vinh hạnh khi được chỉ định ông làm việc cùng Tiến sĩ Becker”

Tóm được ông rồi nhé. Mu'tazz cố gắng để che giâu sự phản đối.

Ibrahim hướng sự chú ý về những người còn lại ở trong phòng “Chưa bao giờ là ý tưởng hay khi phải giả định rằng một người bị mất tích đã chết. Chúng ta có trách nhiệm tìm được bà ấy. Tôi muốn tập trung lực lượng ngay lập tức để đưa bà al-Fouad còn sống trở về và cách duy nhất là phải tìm ra hung thủ. Mu'tazz nói đúng: cách để tìm ra hắn là phải hiểu những gì hắn đã làm. Tiến sĩ Becker sáng nay đã cung cấp cho tôi hồ sơ cập nhật nhất về hung thủ, và tôi sẽ đảm bảo để tất cả mọi người đều có bản sao. Tôi muốn mọi người hãy sẵn sàng và hiểu rõ chúng ta đang tìm kiếm thứ gì.”

“Tôi sẽ cử năm người - các anh đều biết nhiệm vụ rồi đấy - bí mật theo dõi ở khu vực cầu trên phố Sitteen.” Ông nói tiếp. “Rất có khả năng đó là nơi tên giết người đã tìm những nạn nhân đầu tiên.” Đến đây thì ông lúng búng, cảm thấy mình đang mất tập trung. Đừng ngó ngẩn vậy, ông thầm nhủ. Sabria không bị tên giết người bắt cóc. Hắn không có đủ thời gian để lên kế hoạch cho việc đó. Điều đó là không phù hợp. “Như vậy là những ai được cử đến Sitteen sẽ tập trung để nhận diện các nạn nhân. Chúng ta sẽ cố gắng để xác định mối liên quan giữa họ, và cho đến giờ chúng ta không có gì hơn ngoài đặc điểm về dân tộc. Tiến sĩ Becker đã nói rằng tên giết người thường chọn nạn nhân ở một nơi thân thuộc, như vậy tất cả những nạn nhân hẳn phải có mối liên hệ với khu vực cây cầu đó. Tiếp nữa, đối với những ai sẽ tìm thông tin qua các hồ sơ, tôi muốn các anh tập trung vào bất cứ đối tượng nào có mối liên hệ với khu vực Kandara. Thám tử Osama Ibrahim đã nhận lời sẽ chỉ điều tra vụ al-Fouad thôi.”

Ông nhanh chóng phân chia các công việc còn lại. Khi ông hoàn tất, Osama bước lên trước để nhận đội của mình và đưa họ tới văn phòng khác để chỉ dẫn tường tận. Những người được phân công hoạt động ở Sitteen bước lên trước. Ibrahim nhẹ lòng khi thấy đám đông đang giải tán. Chỉ có Mu'tazz bị gạt lại bên ngoài. Ông ta không thuộc về đội nào cả, vì kẹt với công việc văn phòng. Nhưng ông ta vẫn ở phía cuối phòng với vẻ cảnh giác.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Văn phòng làm việc của Sở cảnh sát Jeddah giống phòng spa hơn là phòng tổng đài. Những chậu cấy cọ cảnh lớn, những tấm thảm nhung, cách bài trí trung tính và mức độ yên tĩnh của một khách sạn năm sao. Tất cả như phá tan cái suy nghĩ đó là một phòng tổng đài. Không có một lời ồn ào hay lớn tiếng, chỉ có các nhân viên điềm đạm với giọng nói ân cần. Họ quyết tâm giữ gìn quy tắc bảy-phút: không lâu hơn khoảng thời gian đó, cảnh sát đáp lại bất cứ cuộc gọi nào. Họ thậm chí còn hỗ trợ những người có yêu cầu cuộc gọi báo thức, do số điện thoại khẩn 999 lại không may giống với số điện thoại lễ tân 99 của hầu hết các khách sạn.

Sở trưởng Hamid lúc nào cũng có vẻ giống hướng dẫn viên du lịch hơn là lãnh đạo Sở. Ông dẫn Ibrahim đến một dãy máy vi tính ở một bên căn phòng và xin phép ra ngoài một lát. Khi quay trở lại - Ibrahim đã bấm giờ đúng sáu phút rưỡi - ông mang theo băng ghi âm cuộc gọi của người đàn ông đã thông báo về việc Sabria mất tích. Ibrahim ngồi xuống bên quầy và nghe đoạn hội thoại bằng tai nghe.

“Vâng.” Giọng người đàn ông đó nói. “Tôi muốn thông báo về việc mất tích của người hàng xóm.”

“Rất tốt, thưa ông, tôi sẽ nối máy cho ông tới bộ phận Người mất tích.”

“Không, tôi không có thời gian đâu. Tôi chỉ muốn để lại tên cô ấy và địa chỉ nhà thôi.” Anh ta đưa ra thông tin như thể đọc từ một tấm danh thiếp, làm nhân viên văn thư không kịp phản ứng gì. “Cô ấy đã không ra vào căn hộ của mình mười bảy ngày rồi.”

“Được rồi, thưa ông.” Nhân viên văn thư nói. “Cảm ơn...”

Người đàn ông đó gác máy trước khi nhân viên nói hết câu.

Ibrahim nghe đi nghe lại. Ông không nhận ra giọng nói đó. Lúc đầu, nó nghe có vẻ như vội vàng và cáu kỉnh, nhưng càng nghe ông càng nhận ra nó không hề diễn cảm. Ông không thấy sự nôn nóng; anh ta chỉ làm bộ như vậy. Tôi không có thời gian đâu. Nhưng giọng nói lại đều đều và điềm tĩnh.

Người đó là ai được nhỉ? Tôi không có thời gian đâu. Anh ta chỉ nói như vậy vì không muốn nói chuyện với bộ phận Người mất tích. Anh ta không muốn trả lời câu hỏi của bất cứ ai. (Anh là ai? Tại sao anh lại để mắt đến căn hộ của một phụ nữ chứ? Cô ấy có sống một mình không? Người tình của cô ấy đâu?). Những cuộc gọi ẩn danh là chuyện khá bình thường, nhưng Ibrahim e rằng ông đang được nghe giọng của chính kẻ bắt cóc.

Katya đã rời khỏi căn hộ của Sabria khi ông đến đó, và như vậy là đã quá muộn. Ngay lập tức ông gọi cho cô. Cô nói rằng cô không chắc liệu mình đã thu thập tất cả bằng chứng hay chưa. Có thể họ đã gửi một số bằng chứng cho Đội Điệp vụ. Đội Trọng án đã nói rằng đang quá tải với việc xử lý các bằng chứng của vụ Thiên sứ rồi.

Suốt một giờ đồng hồ sau đấy ông cố gạt bỏ nỗi hoảng hốt, tâm trí ông như quay cuồng bạt tử trên một chiếc đu nhào lộn. Liệu họ sẽ phát hiện ra ông chính là người tình của cô không? Hay họ chỉ đơn giản cho rằng đó là DNA của chồng cô ấy? Liệu cuộc gọi có phải của Omar không? (Hẳn là anh đã chắp nối các chi tiết lại với nhau - còn lý do gì khác mà Ibrahim lại đề nghị mượn các hồ sơ đó chứ?) Hay Omar đã tự nhủ đó chỉ là công việc và không bao giờ đề cập đến vấn đề này nữa?

Lạ thay, không có gì xảy ra cả. Mọi người trong tòa nhà đã đi ăn trưa. Vụ Thiên sứ đã chiếm hết thời gian của họ. Vài người không làm việc ở hiện trường thì đang xem lại các hổ sơ vụ án. Ibrahim đã đến gặp đội pháp y và đã nói chuyện về vụ Thiên sứ với Majdi, người hiện đã quá căng thẳng. Khi ông thử tìm hiểu xem liệu họ có đang xử lý những bằng chứng nào khác không, thí dụ như bằng chứng thu thập được ở căn hộ của Sabria chẳng hạn, Majdi chỉ gạt đi. Họ quá bận rộn để bận tâm đến thứ gì khác ngoài vụ Thiên sứ.

Ông mở lại cuộn băng. Cô ấy đã không ra vào căn hộ của mình mười bảy ngày rồi. Điều này chính xác quá mức. Tên bắt cóc biết chính xác hắn bắt giữ cô được bao lâu. Nhưng trời ạ, tại sao hắn lại muốn cảnh sát tìm hiểu chứ?

“Đây là dấu vết.” Sở trưởng Hamid đưa cho ông một mẩu giấy. “Nó là thẻ điện thoại dùng một lần. Có vẻ cuộc gọi là từ vùng phụ cận của Trung tâm thương mại Biển Đỏ.”

“Nó có phải một trung tâm thương mại rất lớn không?” Ibrahim hỏi.

“Đúng vậy, mười tám lối vào và bốn nghìn chỗ đỗ xe. Ông phải dùng xe điện để đi quanh đó. Nhưng chúng tôi dò được anh ta ở gần lối vào Danube khi thực hiện cuộc gọi.”

“Đó có lẽ là lối vào đông nhất.” Ibrahim nói.

“Đúng vậy. Tôi lấy làm tiếc.”

“Chúng ta có thể xác định được nơi anh ta mua thẻ điện thoại không?”

“Có, nhưng việc đó sẽ phải mất một tuần.” Trong cái thế giới của tiêu chuẩn bảy phút, thì bảy ngày quả là không đáng để cân nhắc.

“Hãy cho tôi biết những gì các anh tìm được.” Ibrahim nói. Ông cảm ơn Sở trưởng rồi đi khỏi.

Nhà không có ai. Mọi người đã dự đi đám cưới của gia đình hàng xóm và ông cũng phải có mặt ở đó. Nhưng chú rể, con trai của một gã không bao giờ nói được lời tử tế nào về Ibrahim, Omar hay bất cứ ai thuộc dòng họ Zahrani trong vòng bán kính của hai mươi tòa nhà, chỉ là một đứa không hơn một con lừa như bố nó. Ibrahim tự thấy chẳng có gì phải áy náy khi quyết định ở nhà.

Ibrahim đứng trong bếp pha trà và chờ cho than đá bén lửa trong chiếc điếu ống. Gian bếp là một căn phòng vuông vức lúc nào cũng có cảm giác tối tăm và quá rộng. Phụ nữ trong gia đình ông chẳng bao giờ thấy vui vẻ ở đấy cả. Họ chặt thái và gọt vỏ các loại củ quả ngoài phòng khách, ngay phía trước cửa bếp. Một chậu cây bạc hà héo úa đặt trên bậu cửa sổ, những chiếc lá quăn lại vì hơi nóng.

Ông lững thững bước sang phòng khách. Qua cánh cửa phòng tắm ông thấy mấy con búp-bê Barbie của cháu gái đang ngồi trong bồn rửa. Phòng tắm đầy ngập quần áo bẩn.

Ông đi vào phòng may vá, căn phòng cấm. Jamila đã tuyên bố như vậy cũng như việc ông tuyên bố tương tự với phòng khách nam giới. Ở đây có chiếc máy may - một con quái vật đen sì với chiếc bàn đạp - và tủ quần áo chất ngất của bà ta. Bên trong đầy ứ những bộ đồ nhìn đã phát ngán, bộ nào bộ nấy vừa vặn với thân hình ngoại cỡ của bà ta. Bà ta thường xuyên chăm chút ăn diện; những bộ đồ đó được chưng theo kiểu cách của những phụ nữ mà bà ta không bao giờ trở thành được mặc dù rất muốn: văn nghệ sĩ, rồi doanh nhân, hay lữ khách. Bà ta có thể ngồi hàng giờ bên chiếc máy may để hoàn thiện từng đường kim mũi chỉ, nhưng rốt cuộc thì lúc nào cũng khoác lên mình bộ váy khỉ đột đó.

Tòa nhà khiến ông thấy ngột ngạt. Không gian tối tăm và oi nồng, cát từ ngoài sa mạc thổi tung vào ngay dưới chân cửa, cái nắng len qua những khe hở trên tường. Đã nhiều năm rồi ông nghĩ đến việc chuyển đên một nơi ở mới, nhưng Omar ở ngay tòa nhà bên cạnh, anh họ Essam của ông lại ở ngay dưới tòa nhà, và chuyện có vẻ không đến mức phải chuyển tất cả đi nơi khác chỉ vì có phòng ốc tốt hơn, có cảnh đẹp hơn.

Ông mang trà và than đá lên tầng thượng, nhưng ở đó cũng không thoát được hình ảnh của Jamila. Suốt hơn hai mươi tư năm qua, hình ảnh bà ta như in hằn trên mỗi vết rạn nứt của những bức tường bê-tông này. Họ cưới nhau từ năm mười tám tuổi, một cuộc hôn nhân sắp đặt nhờ cha mẹ, giống như Zaki. Cuối những năm cấp hai, ông đã yêu một người khác: Maidan. Đó là một cô gái người Philippines mà ông gặp trên phố khi cùng đi bộ từ trường về nhà.

Ông chưa bao giờ nhớ chuyện đã xảy ra thế nào, nhưng sau một thời gian ông đã mượn ô-tô của Omar để đón cô ở trường. Cho tới giờ ông cũng không hiểu làm thế nào ông lại tự xưng là anh trai của cô nữa. Chuyện của họ có thể đã khác đi rất nhiều. Ông có gương mặt mang những nét đặc trưng của một dòng họ Bedouin cổ điển - mũi dài, da ngăm đen, và đôi mắt hạnh nhân màu nâu sâu thẳm - được thừa hưởng từ họ ngoại. Maidan người thấp, nước da sáng, dáng tròn với những đường cong mềm mại. Họ dành những buổi chiều ở bên nhau trên bãi biển, ở những hội chợ, hay đơn giản chỉ lái xe qua sa mạc. Ông rất muốn hôn cô nhưng chưa bao giờ có can đảm để chủ động cả. Một lần cô phải đề nghị ông hôn mình, và ông làm theo, nhưng nó khiến họ sợ đến mức không bao giờ làm vậy nữa. Họ đã lên kế hoạch kết hôn.

Trong suốt sáu tháng, họ hầu như gặp nhau hằng ngày ngoại trừ cuối tuần, khi ông phải ở nhà theo yêu cầu của gia đình. Và rồi một hôm khi ông đến trường đón cô thì cô giáo chủ nhiệm đến nói chuyện với ông. Bà ta đứng bên chiếc cổng sắt ngay lối vào trường và nói với ra phía ô-tô của ông. “Maidan đã rời Ả Rập Xê-út rồi. Tôi tưởng là anh trai cô bé thì anh biết chuyện rồi chứ.” Thậm chí bà ta còn lườm ông một cái trước khi quay trở vào trường nữ sinh. Cổng đã đóng và ông không bao giờ gặp lại Maidan nữa.

Ông chưa bao giờ gặp gỡ gia đình cô. Ông thậm chí còn không biết cô sống ở căn hộ nào, chỉ biết là ở một tòa nhà. Ông đến đó, tuyệt vọng, và một người hàng xóm ở tầng dưới đã xác nhận gia đình người Philippines đó đã chuyển đi rồi.

Suốt bao nhiêu ngày ông hồi tưởng lại mối quan hệ của họ. Từng lời nói, từng cử chỉ, những lời ngợi khen đều mang nghĩa mới khi ông đào xới lớp bề mặt mỏng manh để tìm bản chất. Sao cô không hề nói với ông rằng cô sẽ ra đi chứ? Có phải cô đã định rời bỏ ông ngay từ đầu rồi không? Cô đã nói dối, giờ thì ông đã hiểu, nhưng nói dối đến mức nào? Và từ khi nào?

Và trên hết sau tất cả mọi chuyện: liệu cô có thực sự yêu ông không?

Cuối cùng thì ông đành chấp nhận rằng cô là một kẻ hèn nhát, và điều ông mong muốn ở một người phụ nữ là sự mạnh mẽ, đặc điểm mà những người phụ nữ tuyệt vời nhất luôn có, khả năng để nói với ông rằng khi nào thì chấm dứt mối quan hệ. Đó chính là điều ông nói với mẹ khi bà đưa ra ý tưởng về cuộc hôn nhân sắp đặt cho ông.

“Con muốn một người phụ nữ có thể đứng về phía con.”

Ông không hề hiểu lúc đó ông đang nói gì. Ông chỉ biết đến sự đau khổ của những lời đó: con muốn một người phụ nữ sẽ không bao giờ rời bỏ con mà không một lời giải thích.

Một phần trên gương mặt mẹ ông thấp thoáng nụ cười tinh quái; một phần lại nhìn ông đầy nghi hoặc. “Chỉ một người đàn ông mạnh mẽ mới phát ngôn như vậy.” Bà đã nói với niềm hãnh diện nhất định. “Nhưng thật lòng mẹ sẽ nói với con điều này, Jamila là người phụ nữ mạnh mẽ nhất mà mẹ biết.”

Sau khi suy nghĩ, ông phải thừa nhận rằng bà nói đúng. Jamila là người mạnh mẽ, nhưng chỉ là bề ngoài.

Lúc đó ông đã bật dậy khỏi ghế sô-pha và ào vào phòng khách hét ầm lên. “Con nói lần cuối và sau chót, con sẽ không lấy Jamila al- Brehm. Thật điên khùng!” Ông sục chân vào đôi xăng-đan rồi ra khỏi nhà, đóng sập cửa sau lưng mình.

Hai tháng sau, họ làm đám cưới.

Vấn đề thực sự nằm ở chỗ họ đã được hứa gả cho nhau từ khi sinh ra. Hai bà mẹ là bạn thân. Có hơi lạ thường một chút khi lời giao ước như vậy lại là giữa những người bạn chứ không phải giữa các gia đình, nhưng hai bà mẹ đã có mối giao kết gắn bó. Trong suốt mười tám năm, họ luôn giữ lời hứa. Cuộc hôn nhân giữa hai đứa trẻ sẽ giúp hợp pháp hóa mối quan hệ giữa hai gia đình của hai người phụ nữ, như thể cái mối giao kết phóng đại của họ cần phải được gắn chặt thêm vậy.

Và, giống như Zaki, ông mất ba tháng để nhận ra mình đã phạm sai lầm kinh khủng. Nhưng khi đó, Jamila đã có thai Aqmar, và chẳng thể làm được gì nữa.

Ông đặt chiếc ống điếu xuống. Làn khói cô đơn khiến ông cảm thấy đau khổ. Ông mong ở nhà một mình sẽ khiến ông không day dứt về Sabria, nhưng ông chỉ chìm sâu hơn vào những kỷ niệm xưa cũ. Tất cả đưa đến một ý nghĩ, không hẳn là đặc biệt, rằng Sabria chính là người phụ nữ tuyệt vời nhất ông từng biết. Không phải Jamila, không phải Maidan. Cô là người đàn bà ông đã lựa chọn, và không chỉ đơn thuần là biến mất.

Ông đổ hết phần nước chè còn lại vào chỗ than và rời khỏi nhà.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Mẹ Katya đã dạy cô về những giấc mơ: Nafsani, là những giấc mơ bắt nguồn từ nỗi sợ hãi và niềm khao khát. Rahmani, những giấc mơ được Chúa trời gửi đến và thường sẽ cho ta biết những mộng cảnh về tương lai. Còn shaytani, đó là những giấc mơ xuất phát từ điều xấu xa.

Khi còn nhỏ cô thường hỏi mẹ liệu mơ thấy những lời tiên đoán có phải là điều báng bổ thánh thần hay không, và mẹ cô trả lời rằng giải nghĩa giấc mơ không giống như một lời tiên đoán. Điều đó không chống lại Hồi giáo. Chẳng phải Joseph, con trai của Jacob đã thành công khi giải nghĩa những giấc mơ của vị vua vô danh đó sao? Vậy giấc mơ của Katya, bà hỏi, giấc mơ đó là gì mà khiến cô buồn rầu đến vậy?

Katya nói Thánh lý dạy rằng điều quan trọng là không nói ra những giấc mơ xấu của mình, nếu chúng xuất phát từ những điều xấu. Nhưng mẹ cô đã đáp lại bằng một Thánh lý nói rằng người ta chỉ nên nói với một người, đó là người thân thiết nhất và là người họ tin tưởng nhất. Katya nghĩ Thánh lý của mẹ nghe có vẻ hợp lý hơn của mình.

Do vậy họ ngồi xuống và thống nhất là giấc mơ bị mất chiếc răng của Katya thực ra là điểm gở. Những chiếc răng được quan niệm là gia đình, “tất cả những chiếc răng được xếp gọn ghẽ trong khoang miệng,” mẹ cô đã nói vậy, “và khi một chiếc rơi ra, điều đó có nghĩa là một người nào đấy sẽ bỏ đi, hoặc sẽ chết.”

“Giấc mơ đó có đáng sợ không con?” Mẹ cô hỏi.

“Không ạ, con không thấy sợ. Chỉ thấy kinh tởm thôi.”

“Thế nó là chiếc răng nào vậy con?”

“Là răng hàm ạ.”

Y như rằng, một tuần sau đấy, ông cậu Ramzi của Katya chết ở Li-băng, và những giấc mơ kia cũng chấm dứt.

Đã nhiều năm rồi Katya không còn nhớ chuyện đó nữa. Nó khác biệt hoàn toàn với những giấc mơ của cô giống như sự tiên đoán chính xác. Hoặc có lẽ là khi mẹ mất, cô không biết làm thế nào để giải nghĩa những giấc mơ nữa.

Cô đang ở nhà, ngồi bên chiếc bàn bếp có mặt bằng formica trên bốn chân kim loại, bâng quơ với những kỷ niệm thời thơ ấu. Ti-vi vẫn mở, nhưng để lặng tiếng, trên chiếc giá trước mặt cô. Hôm đó là thứ Bảy, và Abu đã đi đến lễ cầu nguyện tối với bạn của ông. Khi ông vừa đóng cửa ra ngoài, cô lôi từ trong ba-lô ra một tập tài liệu và gạt ra những tấm ảnh.

Ngay trước khi rời khỏi phòng làm việc, cô đã thu hết can đảm để lẻn vào phòng thí nghiệm của Majdi và sao lại những bức ảnh khu mộ chôn. Chúng được photo, nhưng cũng đủ rõ. Cô cũng chụp lại bản đồ những vị trí tìm được của từng thi thể ở khu mộ đó. Giờ thì cô dọn sạch bàn bếp và đặt những bức ảnh lên như thể chúng hiện ra dưới con mắt một con chim đang nhìn xuống sa mạc.

Chiếc bàn không đủ rộng. Cô cần một diện tích rộng gấp năm lần thế. Tốt hơn hết, cô nên treo chúng lên bờ tường. Hẳn cô đã làm thế trong phòng thí nghiệm, nhưng ở đó cũng không có đủ không gian như ở nhà - có quá nhiều giá và lỗ thông khí của điều hòa nhiệt độ. Phòng ngủ của cô cũng vậy thôi. Có một bức tường rất lớn trong phòng khách, nhưng cô không muốn chưng những hình ảnh về xác chết ở đó khi rất có thể bố cô sẽ đưa bạn từ nhà thờ về nhà. Họ chưa bao giờ có phòng khách cho nữ cả, đó chính là nhà bếp, mà bếp thì lại quá nhỏ và bề bộn.

Điểu gì là sự khác biệt giữa mộng tưởng và giấc mơ? Charlie nói về mộng tưởng của tên sát nhân, như những giấc mơ - tất nhiên là loại shaytani rồi. Chính Katya cũng có rất nhiều giấc mơ như thế. Nhưng Charlie đã mô tả nó như một thứ lớn hơn thế, một kiểu anh hùng ca tái diễn lại những shaytani có tồn tại trong đời sống thực nữa, chỉ có khác biệt là nó nặng về mưu cầu cá nhân. Hãy tìm những quy luật, Charlie đã nói với cô trong bữa ăn trưa như vậy. Với một tên giết người có tổ chức như tên này, hẳn sẽ có quy luật.

Katya tiếp tục đặt ảnh lên bàn. Cô không biết sẽ phải bắt đầu tìm kiếm quy luật bằng cách nào nhưng chỉ đoán rằng bước đầu tiên là phải hiểu suy nghĩ của tên sát nhân đó, và vì vậy, cô cần một tấm bản đồ.

Ayman bước vào bếp với vẻ buồn ngủ. Cậu nhấc ấm trà từ trong bồn lên và đổ nước vào.

“Em tưởng chị định đi mua sắm cơ mà.” Cậu nói.

Katya bật dậy khỏi ghế. “Allah, chị quên mất!” Cô gạt những bức ảnh vào tập tài liệu và nhìn đồng hồ đeo tay. Đáng lẽ cô phải gặp Nayir từ nửa giờ trước rồi. “Ôi trời ơi, chị muộn quá rồi!”

“Chị cần chở đi không?”

“Có!”

Ayman đặt âm trà xuống và đi ra cửa.

Đoạn tin tức quả thật kinh hoàng. Mọi người đều xem nó với cảm giác hoài nghi ớn lạnh. Không phải vì họ chưa từng thấy những cảnh bạo lực, hay chưa thấy một phụ nữ với khuôn mặt bị rách nát, bị bỏng và bị đánh như vậy. Tất nhiên chuyện đó tác động đến tất cả mọi người, nhưng điều thực sự khiến họ khó chịu là cuộc phỏng vấn gọn ghẽ với người bị cho là có liên quan đến vụ án. Bà ta ngồi im lặng trong một căn phòng ngập tràn ánh nắng cùng hai đứa con trai ở hai bên, với dáng vẻ của một bà nội trợ Ả Rập Xê-Út hoàn hảo, tấm khăn che mặt trang nhã buông phủ trước mặt, đôi mắt đen u sầu trước sự dò xét của máy quay phim. Bằng giọng dịu dàng bà ta giải trình rằng mình không bao giờ làm hại cô giúp việc. Bà ta coi cô gái đó như chị em của mình. Chính cô giúp việc đó - người đã bị đánh đập và khuôn mặt bỏng nát sẽ không bao giờ trông giống con người được nữa - cô ta đã tự mình gây ra những điều ấy.

Katya đang đứng trong phòng thay đồ của hiệu áo cưới trong bộ váy sáng màu ngà voi. Hai phụ nữ Philippines phía sau cô đang nhặng xị cả lên, và người chủ hiệu váy tên là Jo đang đỡ phần đuôi váy.

“Con điếm khôn nạn.” Jo lẩm bẩm trước TV. Những phụ nữ này tin Katya, nhưng một cô gái liếc nhìn cô, lo là cô có thể khó chịu trước những từ ngữ đó.

“Đính nó lại.” Jo đẩy phần đuôi váy sang cho một cô gái rồi bò ra khỏi phòng.

Không khí có phần thoải mái hơn, và đôi tay các cô gái đều bận bịu. Đã mấy hôm rồi Katya không xem tin tức. Hết vụ điều tra về Sabria rồi đến vụ Thiên sứ, công việc đã chiếm lĩnh mọi suy nghĩ của cô, có thể là vì cô đang lảng tránh việc nghĩ ngợi về đám cưới. Ngay cả khi cô và Nayir ngồi trong chiếc Rover ra ngoài sa mạc, câu chuyện lúc nào cũng là về công việc của cô.

Cô nghĩ, nếu là một đám cưới Ả Rập thực sự, thì điều trước tiên họ cần làm là tìm hội trường cưới. Một hội trường cho nam giới, và một hội trường lớn hơn cho nữ giới. Hội trường cưới của cô sẽ phải thoáng rộng: có sân khâu, có lối đi, bàn ăn cho một nghìn người. Thảm trải màu hồng, chúc đài bằng vàng, hoa trắng tràn ngập khắp mọi nơi. Cô không biết hội trường của nam giới trông sẽ thế nào - thực tế là cô chưa từng vào hội trường nam giới nào cả - nhưng chắc nó cũng giống với hội trường của nữ thôi. Cô đã gặp vị hôn phu của mình lần đầu ở một đám cưới. Othman đã kể với cô về những chiến binh Bedouin nhảy múa với thanh kiếm trong tay, và chú rể ngồi trên ngai vàng, hơi cổ lỗ xỉ, rồi nhận lời chúc từ tất cả mọi người: “Anh sẽ làm nhiều tiền, cô ấy sẽ sinh nhiều con.”

Bên nữ thì ít nghi thức hơn. Mọi người chúc mừng cô dâu, nhưng các bà mẹ và những phụ nữ lớn tuổi sẽ đi khắp hội trường để điều tra kỹ các cô gái độc thân. Con trai họ sẽ không được phép gặp gỡ những cô gái này trước khi kết hôn, nhưng các bà mẹ thì được phép, và họ sẽ điều tra kỹ càng và mong tìm được những đối tượng phù hợp với con trai mình - hay, nói đúng ra, là những đối tượng phù hợp với chính họ. Nếu gia đình bị phân tán, những phụ nữ đó sẽ dành thời gian với nhau nhiều hơn là với chồng mình. Katya chưa bao giờ qua được những cuộc kiểm tra như vậy. Cô quá trầm tính và giản dị. Cô chẳng bao giờ hứng thú với những chiếc váy lộng lẫy, và cô không có thời gian mà cũng không muốn dành cả một ngày trời chỉ để chải chuốt. Cô cũng không có đủ đồ trang điểm nữa kia.

Cô và Nayir đã thống nhất sẽ có một đám cưới nhỏ gọn và giản dị. Hơn nữa, một người không có họ hàng đông đến mức cần có hội trường cưới. Với lại Nayir muốn được lo tìm địa điểm. Việc chủ yếu của Katya chỉ là chọn váy cưới.

Nếu đây là một đám cưới Ả Rập thực sự, cô nghĩ, thì gia đình mình đã ở đây lúc này. Mẹ, các chị em gái và chị em họ. Mọi người sẽ giúp mình chọn trang phục cho ngày trọng đại nhất của cuộc đời mình.

Năm phút sau, Jo trở lại phòng. Cô ta nói với Katya: “Tôi xin lỗi. Chỉ là tôi không chịu được cảnh đó.” Cô ta ra hiệu về phía ti-vi. “Chuyện đó chẳng bao giờ chấm dứt cả.”

“Nó thật kinh khủng.” Katya không muốn nói với cô ta rằng có những thứ còn tồi tệ hơn đánh đập rất nhiều. Rằng theo hồ sơ của cảnh sát, gần 60 phần trăm những nạn nhân bị giết hại không nhận dạng được là những phụ nữ giúp việc. Và mới vừa rồi họ đã tìm được mười chín người như thế.

“Màu này rất hợp với cô.” Jo nói. “Cô thử nhìn xem.”

Katya xoay người ngắm mình trong gương. “Tôi thích màu này.” Cô nói. “Nhưng phần ngực rườm rà quá.”

Jo gật đầu và trở vào phòng thay đồ dự phòng, nơi treo hàng tá váy khác.

Giữa chừng thử chiếc váy thứ tư và thứ năm, Katya lén đến bên cửa sổ trước nhìn ra phố, được che bởi một tấm rèm đen nặng trĩu. Cô kéo rèm và ngó ra ngoài.

Trời đã tối và khu vực mua sắm bên ngoài sáng trưng với hàng trăm ngọn đèn dây màu vàng và một chiếc đèn lồng hình ngôi sao khổng lồ. Đứng ngay dưới chiếc đèn lồng đó, Nayir và Ayman đang uống nước quả ép và trò chuyện. Ayman nói điều gì đó khiến cho Nayir ngả đầu về phía sau cười ngặt nghẽo. Quả là trời định. Ayman là người em họ tốt nhất mà cô có thể ước mình có được.

Hạ tấm rèm và bước trở vào, Katya cảm thấy nhói lên... Sự đố kỵ? Hay buồn nhỉ? Cô chưa bao giờ có thể làm Nayir cười được như thế. Với cô, anh lúc nào cũng tế nhị và chở che.

Đã một giờ đồng hổ, hết thay ra rồi lại thử vào những chiếc váy khác nhau. Katya đáng ra thích thú với việc đó, nhưng sự giận dữ của Jo khiến cô kiềm chế cảm xúc. Mấy cô gái giờ đã im lặng. Katya gạt bỏ tâm trạng và lắng nghe khi Jo bắt đầu tâm sự những suy nghĩ giày vò của mình. Chuyện xảy ra hồi đầu năm, có vẻ là một vụ tự tử. Một cô giúp việc định treo cổ, một người khác thì uống thuốc tẩy, người thứ ba thì nhảy từ nóc tòa nhà xuống. Không kinh khủng như vụ người phụ nữ bị chủ đóng hai mươi tư chiếc đinh nóng vào mặt, vào hai bàn tay và hai cánh tay (chuyện đó xảy ra vào tháng Tám từ một năm trước). Hay vụ một cô gái ở Abha bị chủ nhà đánh đập, gây bỏng, rồi nhốt lại và cắt đứt hai môi (vào tháng Mười một.) Đó là chưa kể đến vụ hai xác chết không nhận diện được được tìm thấy vào tháng sau đó (có được đưa trên bản tin).

Vào tháng Một, câu chuyện có phần khác đi - và nó tạo cho Jo ít nhiều hy vọng, tuy muộn nhưng là có hy vọng. Một phụ nữ Ả Rập đã bị kết án ba năm tù vì hành vi bạo lực đối với cô gái trong vụ xảy ra vào tháng Mười một. Nhờ có bộ luật mới được thông qua, việc bỏ tù người phụ nữ đó cuối cùng đã được thi hành.

Nhưng chỉ vài tuần sau, một người giúp việc khác bị bắt vì sử dụng “tà phép” đối với chủ nhà và gia đình ông ta - hay ít nhất là do người chủ khai báo như vậy (xảy ra vào tháng Hai). Rồi thì cô gái nhảy từ ban-công tầng ba để chạy trốn gia đình đó đã được tìm thấy trong tình trạng bị đánh đập dã man và bị gây bỏng (vụ tháng Ba). Jo đã đánh dấu các tháng còn lại, cho đến sự việc đột ngột trong tin tức của tối hôm nay: vụ tháng Mười.

Katya chưa từng biết người giúp việc bất hạnh nào. Làm việc quá tải và kiệt sức, tất nhiên, bị phiền nhiễu bởi lũ trẻ ồn ào, hẳn rổi. Nhưng bị ngược đãi? Không hề. Và cho đến hôm nay, mỗi người giúp việc cô biết đều đã chết hay bị tổn hại sâu sắc hoặc cả hai. Cô tự nhủ rằng có thể do cô làm việc trong ngành cảnh sát.

Dần dần, những lời đả kích của Jo mở rộng phạm vi; không chỉ còn bó gọn trong những vụ án ở trên, cô ta bắt đầu đổ tội cho cả đất nước.

“Người ta để đám đàn ông chỉ bảo những người phụ nữ của họ từng việc được và không được phép làm. Đám ông chủ cũng giống vậy. Họ được phép nói với người giúp việc bất cứ điều gì, và cô ta phải thực hiện điều đó!”

Katya nhận ra sự im lặng của cô đang bị hiểu lầm là đồng tình. Cô muốn rời khỏi đây. Cô không còn muốn mua váy nữa - đằng nào thì cũng không tìm được chiếc nào ưng ý ở đây cả.

Cô nhìn đồng hồ đeo tay. “Ôi không, tôi phải đi rồi! Em họ tôi sẽ nổi cáu mất.”

Cả ba người phụ nữ nhìn cô thất vọng. Có phải cô ta cũng chỉ đơn giản là một phụ nữ bị kiểm soát chăng?

Katya thay đồ rồi trùm áo lên. “Cảm ơn rất nhiều vì đã dành thời gian cho tôi.” Cô nói rồi hối hả chạy ào ra cửa.

Nayir bước chậm rãi hết mức để hưởng thụ từng phút giây ở bên cô. Ayman đã đi đâu đó nói chuyện điện thoại, và giờ thì chỉ có Nayir ở bên cô. Những khoảng thời gian tuyệt vời nhất trong mối quan hệ của họ cho tới giờ đều diễn ra trong những lần đi dạo như thế này trên đường Comiche. Thậm chí anh đã cầu hôn tại một nhà hàng cách đây không xa.

Trời đã tối, nhưng đối với người Jeddah thì thực ra là ngày mới đang bắt đầu. Trời rốt cuộc cũng mát mẻ để có thể ra ngoài. Đối với Nayir, màn đêm đã phủ thêm một tấm màn riêng tư. Không có ánh mặt trời rọi qua tấm áo choàng của một người con gái và vẽ nên hình dáng. Không còn ánh sáng soi rõ những gương mặt để lộ mà phụ nữ dường như ngày càng thích thú hơn. Và phụ nữ đã hoàn toàn bỏ khăn trùm đầu - từ xa trông như thể mái tóc của họ chính là mạng che mặt. Ngày nay việc các gia đình cắm trại ở hai bên đường cùng với những cô con gái ở tuổi thành niên, thoải mái nô đùa trong quần jeans áo phông, tác phong mang vẻ nam tính như anh em trai của họ - thậm chí còn để tóc ngắn, đã phổ biến hơn nhiều. Cảm giác xâm lấn anh trước tất cả những điều đó là một sự mất mát và một nỗi buồn không thể diễn đạt được.

Anh để mặc cảm giác đó trôi qua trong tiếng thở dài, và nó cuốn đi như một đám mây mỏng manh trên nền trời thăm thẳm. Anh sắp làm đám cưới với người phụ nữ xinh đẹp này, người đang sánh bước cạnh anh. Anh sẽ sớm được thực hiện điều mà cơ thể anh hằng mong ước được làm từ lần đầu tiên anh gặp cô: bế bổng cô lên như một thứ nhỏ bé và hôn khuôn mặt cô hàng trăm lần, cuộn mình quanh thân thể cô, trần truồng và ngập tràn hạnh phúc. Anh cảm nhận được hơi ấm từ mái tóc và cổ của cô khi dạo bước bên cô, mỗi một mảnh vụn li ti trong con người anh đều cảm thấy được thắp sáng như một vì sao.

Một phần quá lớn của cuộc đời anh lúc này với anh dường như đã xa lạ. Sau khi cô nhận lời cầu hôn của anh, trên chiếc thuyền vào ngày hôm đó, anh đã đi xuống dưới khoang và tất cả mọi thứ trong con thuyền đã gắn bó với cuộc sống của anh trong bao nhiêu năm qua dường như đã khác biệt - bé nhỏ và ẩm ướt, ngập đầy những đồ tạo tác từ những giấc mơ đã chết từ lâu. Những bản đồ và bản hướng dẫn hàng hải còn sót lại từ giấc mộng một mình du thuyền vòng quanh thế giới của anh. Những tấm danh thiếp của những người đàn ông ở chợ lạc đà - một lời nhắc nhở rằng anh đã từng muốn mua lạc đà và dành hàng tháng trời rong ruổi trên sa mạc với những người Bedouin. Thật bất ngờ khi anh đã dễ dàng chấp nhận sự ra đi của những giấc mơ đó đến mức nào. Và hiện tại anh háo hức được đón chào điều mới mẻ. Được ký giấy đăng ký kết hôn. Được biến nó trở thành sự thật. Sự cấp bách này cũng bị thúc giục bởi những kỷ niệm về Fatimah, người đã khiến anh tan nát đến tận con tim và đã gạt anh sang bên. Anh kinh hãi khi nghĩ đên lần đính hôn này liệu có kết thúc tương tự vậy chăng: đột ngột và điên cuồng đên bất lực. Duy chỉ có điều này là đau đớn hơn. Anh đã tận tâm tận sức hơn rất nhiều. Nỗi sợ hãi đều đều gõ tiếng từ sâu thẳm cõi lòng anh, đôi lúc lại đập liên hồi như đôi cánh của loài chim ruồi, và anh nuốt nó vào thật sâu, nén giữ nó lại. Hãy tránh xa niềm hạnh phúc đang bừng nở trong trái tim ta.

Vấn đề là, khi tất cả đều tốt đẹp thì chúng lấp lánh sáng hơn bao giờ hết, nhưng khi tất cả những điều tồi tệ ập đến thì mang theo sự choáng váng kinh hoàng. Anh không hề biêt sự ghen tuông phải trả giá đến vậy. Nó có thể khiến trái tim anh ngừng đập. Khi Katya nói về công việc, anh đã cố an ủi chính mình với mục đích tốt đẹp của công việc cô đang làm cho xã hội, nhưng cùng lúc ấy anh gần như chết điếng bởi ý nghĩ về những người đàn ông mà cô tiếp xúc, những người đã thấy được khuôn mặt cô, đã có được toàn bộ thời gian ở bên cô trong khi anh không thể. Quỳ gối trong thánh điện, anh đã quên mất hoàn toàn những lời cầu nguyện khi bị phân tâm bởi sự căm ghét đối với những gã đàn ông đó. Anh nghĩ về tất cả những kẻ đó: những gã chồm ra khỏi ô-tô của chúng để tấn công phụ nữ đi trên phố. Những gã lẻn vào các khu mua sắm dành cho phụ nữ với trang phục giả nữ để có thể làm hại những cô gái. Những kẻ đã gửi hình ảnh trần truồng của mình bằng điện thoại di động qua Bluetooth trong bán kính hai mươi mét; khoe khoang những tấm ngực trần, như thể đám lông vũ phô trương của con công đực. Anh cố kiềm chế sự giận dữ. Khi bình tâm trở lại, anh khẩn cầu cho lòng vị tha, cầu nguyện rằng dù những cám dỗ tầm thường đó có đến trước mặt cô, Katya vẫn yêu anh với trọn vẹn sự đam mê trong tâm tưởng.

“Em cần một bức tường.” Cô nói.

“Em nói sao?”

“Một bức tường lớn và trống.” Cô thở hắt ra, còn anh thì trộm nhìn gương mặt cô. Nó có vẻ ưu tư và ương bướng. “Em đã phải cố mới lấy được những bản chụp lại của tất cả những bức ảnh xác chết. Có mười chín thi thể tất cả, anh còn nhớ chứ? Em cần một chỗ để treo chúng lên theo những vị trí mà chúng được tìm thấy.”

Anh muốn hỏi cô tại sao các điều tra viên vẫn chưa làm việc đó. Nhưng hiển nhiên họ không muốn những bức ảnh chụp thân thể trần truồng của những phụ nữ đó bị trưng lên tường của họ nếu việc đó không thực sự là cần thiết. Và có lẽ nó chẳng cần thiết.

“Majdi - anh có nhớ anh ta không? Đó là đội trưởng đội pháp y. Anh đã gặp anh ta một lần rồi đấy. Anh ta đã lập được một mô hình về hiện trường theo đúng những đặc điểm về địa lý.” Cô nói. “Nhưng nó có vẻ đơn giản và vô nghĩa. Em nghĩ tốt nhất là nên làm việc này theo phương pháp cũ.”

Anh cố bắt nhịp câu chuyện. Còn ai lý tưởng hơn trong việc xem xét ảnh về cơ thể phụ nữ như một phụ nữ chứ? “Anh có một bức tường cho em đây.” Anh nói.

Cô lập tức lắc đầu. “Con thuyền của anh nhỏ quá.”

“Anh đang nghĩ đến nhà chú anh cơ.”

“Ổ. Ý tưởng thật tuyệt, nhưng chúng ta không thể làm vậy. Đó là những bức đồ họa về xác chết của phụ nữ. Có khi chính anh cũng không muốn nhìn chúng ấy chứ.”

“Đó không phải là vấn đề với anh hay chú của anh.” Anh nói. “Bọn anh sẽ không xem ảnh nếu đó là điều em muốn.”

“Không, không, không phải vậy.,,”

“Vậy là chúng ta có bức tường rồi nhé.”

Một giờ sau, họ đã đứng trong tầng hầm nhà Samir.

Katya chưa gặp Samir bao giờ. Mặc dù ông là người thân duy nhất của Nayir, nhưng cô không được nghe nhiều về ông ngoại trừ việc ông đã tự mình nuôi nấng Nayir, mà không có sự giúp đỡ của một phụ nữ nào. Có lẽ đó là lý do khiến ông có vẻ bí ẩn. Ông đã nấu ăn sao? Rồi thay tã nữa? Hát ru và đọc truyện rồi bế ẵm Nayir khi anh khóc? Cô hình dung đến một người đàn ông mũm mĩm và nữ tính, ngày nào cũng ngồi trên chiếc ghế sô-pha tồi tàn xem truyền hình, mặc áo choàng ở nhà đã mặc suốt ba mươi năm qua.

Samir thực ra lại là một người chắc khỏe nhưng duyên dáng. Ông đi giày lười bằng da màu sáng, mặc vét, đeo cà-vát lớn màu xanh lá cây thẫm ngay dưới cổ áo. Khi họ đến nhà ông đã gần chín giờ, và ông mở cửa với vẻ giống một người quản gia, mái tóc hoa râm của ông ánh lên dưới ngọn đèn vàng của khách sảnh.

Ông mỉm cười với Katya một cách chừng mực nhưng có phần rạng rỡ với sự hào hứng sâu kín. Ông chào đón cả ba người rồi bảo Nayir đi pha trà và lấy quả chà là trong khi ông dẫn khách đến chỗ bức tường trống.

Samir cũng là một nhà hóa học giông bố của cô, nhưng bố cô thì dành cả đời làm việc trong các nhà máy và trường đại học, còn Samir làm việc độc lập. Ông làm việc ở tầng hầm, tham gia vào các dự án tự do của các nhà khảo cổ và đôi khi là các nhà sử học, tự thực hiện nghiên cứu về những lĩnh vực ông yêu thích, còn chi tiết công việc thì ông đảm bảo với Katya là rất tẻ nhạt. Ông đặt các trang thiết bị của mình trong phòng thí nghiệm dưới tầng hầm. Katya và Ayman đang đứng ở đó.

Căn phòng sáng sủa và rộng rãi, không khí thoáng mát dễ chịu. Ayman cười tươi.

“Liệu thế này đã đủ rộng cho những bức ảnh của cháu chưa?” Samir ra hiệu về phía bức tường cuối nhà.

“Quá đủ ấy chứ ạ.” Cô nói. “Tuy vậy, có lẽ cháu nên tự mình làm việc này. Những hình ảnh này là đồ họa.”

“Được, được, tôi cũng từng xem các bức ảnh hiện trường rổi. Tôi thậm chí còn tự khai quật tử thi rồi, tại các khu khai quật khảo cổ học. Tôi hiểu sẽ thấy những gì mà. Trừ phi cháu muốn chúng tôi rời đi?”

“Không ạ, mọi người có thể ở lại. Cháu chỉ muốn cảnh báo trước thôi ạ.”

“Không sao, cháu đừng lo. Tôi không làm phiền đâu, và tôi rất hân hạnh được trợ giúp cháu. Càng thêm mắt nhìn sẽ càng sáng rõ mà.” Samir liếc nhìn Ayman lúc này đang nhún vai một cách niềm nở, cố tỏ vẻ là người lớn. Cậu đang mong đợi Katya sẽ không buộc cậu phải rời khỏi đây. Cậu mới mười chín tuổi và phải chịu trách nhiệm trước bố của Katya về những nơi mà cô đến.

Katya lấy ảnh trong túi xách và bắt đầu treo chúng lên. Samir quan sát mọi việc và hướng dẫn cô bằng tâm bản đồ. Khi Nayir bước vào với khay trà trên tay cũng là lúc họ hoàn thành bức ảnh cuối cùng. Vẻ thất thần không tả nổi trên gương mặt anh khiến Katya thấy xấu hổ.

“Em xin lỗi.” Cô nói. “Có lẽ em nên báo trước với anh là mọi người đang treo ảnh lên.”

“Không sao đâu.” Anh đáp và đặt khay trà lên chiếc ghếbăng. ít ra thì anh đã không nói Anh sẽ giữ ánh nhìn của mình thật trong sáng. Đã bao nhiêu lần cô nghe cái câu nói nực cười đó rồi nhỉ? Nó có nghĩa là một người đàn ông có thể nhìn thấy một thứ khiêm nhã - canh tay trần của phụ nữ, mái tóc, chiếc cổ của cô ta - và lựa chọn không nhìn bởi tâm trí anh ta trong sáng.

Khi ảnh đã được treo lên, Katya cảm thấy thật lố bịch. Giờ thì sao đây?

Cô đã nhận ra qua tấm bản đồ rằng các thi thể được chôn theo vòng tròn, mười hai cái xác ở vòng ngoài và bảy cái ở vòng trong.

“Vậy là nó theo hình vòng tròn.” Ayman nói.

“Theo đúng thuật ngữ thì đó là một hình lục giác.” Samir đáp lời “Thực ra là, một hình lục giác được cấu tạo rất chuẩn mực.”

“Điều đó có nghĩa gì không ạ?” Ayman hỏi.

“Tôi không rõ nữa.” Saymir nói. “Cô nghĩ sao?”

Katya liếc nhìn Nayir. Anh đang chăm chú nhìn các bức ảnh vói vẻ kinh hãi lặng lẽ.

“Nó theo hình tổ ong phải không ạ?” Ayman hỏi.

“Hmm, đúng vậy.”

Bọn họ đều im lặng. Katya nhận ra là mình không thực sự quá cần một bức tường nhiều như là cần một đội điều tra hiện trường đã quen thuộc với vụ án này.

“Những dấu gạch chéo này trên bản đồ có nghĩa gì vậy?” Samir hỏi.

“Những chỗ đó là địa điểm họ tìm được các bàn tay.” Katya nói. “Các bàn tay của nạn nhân đã bị chặt rời.”

“Chỉ có ba thôi sao?” Samir hỏi.

“Không, các nạn nhân đều bị chặt tay, nhưng chỉ có ba bàn tay được tìm thấy ở hiện trường.”

“Thế còn các bàn tay khác thì sao, chúng ở đâu vậy?”

“Chúng cháu không biết.”

Samir lấy chiếc bút màu từ cái lọ đặt trên bàn và đánh dấu gạch chéo nhỏ vào mỗi bức ảnh chụp nơi họ tìm thấy những bàn tay đó.

“Nhưng việc chỉ chôn có ba bàn tay mới kỳ quái làm sao!” Samir vừa nói vừa nhìn bản đồ.

Sự im lặng thậm chí còn nặng nề hơn. Nayir đã rót trà cho mọi người và là người duy nhất nâng tách trà lên. Anh tựa vào bàn và nhấp một ngụm trà.

“Những cái xác đó.” Anh nói. Mọi người đều quay sang nhìn. Thật bất ngờ khi anh lên tiếng. “Chúng có tư thế thật kỳ quái.”

“Như thể tên giết người đã ném họ vào đó vậy.” Katya nói.

“Như vậy là tên giết người đã phải mất rất nhiều thời gian để vẽ ra mô hình chôn xác lục giác đó, và rồi hắn chỉ ném xác vào huyệt hay sao?” Nayir hỏi. “Chúng đều được chôn ở những tư thế rất lung tung.”

“Cháu nói đúng.” Samir nói. “Điều này thật kỳ quặc” Ông quay sang phía bức tường và Nayir đứng lên, cả hai có vẻ đã có kết luận cùng một lúc. “Có thể nào lại như vậy chăng?” Samir nói.

Nayir đặt tách trà lên bàn, nhận chiếc bút từ Samir và bước đến chỗ bức tường. “Có quy luật. Em có thấy nó không?”

Katya chăm chú nhìn những bức ảnh. “Không. Là gì vậy ạ?”

Anh bắt đầu từ góc trên bên tay phải. Phía dưới cái xác anh vẽ một hình đơn giản.

ب

Đó là chữ B. Nó cũng chính là tư thế mà cái xác được chôn, với đầu và hai chân hơi đưa về phía trước. Cái chấm phía dưới chính là nơi tìm được bàn tay.

“Ôi trời ơi.” Katya khẽ thốt lên. “Không thể nào.”

Nayir lại tiếp tục vẽ. Ở bức ảnh tiếp theo phía bên trái, anh viết chữ S.

س

Anh viết nó mà không có nét móc bên trái vì nó tiếp nối với chữ cái tiếp theo, M.

م

Nhìn từ trên cao xuống, cái xác này được chôn với phần thân người cong sang phải, hai cánh tay cuộn trước ngực để biểu đạt một chữ M.

Anh viết tiếp các chữ cái cho toàn bộ các bức ảnh, nhưng họ đã nhận ra câu nói đó là gì. Nó thân thuộc với họ như chính hơi thở vậy.

Bism'allah, ar-rahman, ar-rahim.

“Nhân danh đức Allah nhân từ và độ lượng.” Đó là câu nói mở đầu tất cả những bài cầu nguyện.

Katya phải ngồi ngay xuống. Samir, chính ông trông cũng nhợt nhạt, đưa cho cô một tách trà và ngồi xuống bên cạnh cô. Cô có chút hối hận thoáng qua vì đây là buổi gặp mặt đầu tiên của họ. Cô run rẩy nhấp một ngụm trà.

“Thật quái đản.” Samir lẩm bẩm.

Nayir đặt bút xuống và đến bên cạnh chú mình. Ayman thì bất động, ánh mặt cậu còn đang gắn chặt lên bức tường với vẻ sửng sốt.

“Em không nghĩ đây lại là công việc ở cơ quan của chị.” Cậu nói.

“Uống trà đi, chàng trai trẻ.” Samir nói. “Thứ này chẳng phải điều kỳ diệu gì cả. Đó là tội ác, và khi nhìn thấy nó, cậu nên quay mặt đi mới phải.”

Bất ngờ thay, Ayman làm theo. Cậu ngồi xuống bên cạnh Katya và uống tách trà của mình. “Nhưng chị vừa tìm ra được sự kỳ tài điên loạn của hắn, vậy thì sao chứ?” Ayman nói. “Nó chẳng có nghĩa lý gì cả. Hắn nói một câu mà ngày nào chúng ta chẳng nói. Ý em là, sẽ tốt hơn nếu hắn để lại địa chỉ hay thứ gì đó khác.”

Chẳng ai cười cả.

“Cháu xin lỗi về việc này.” Katya lên tiêng. “Đáng lẽ cháu không nên mang những bức ảnh này đến đây.”

“Không có gì phải xin lỗi, cháu à.” Samir đáp lại và vỗ về cánh tay cô. “Nayir đã tìm được lời giải giúp cháu rồi. Nó cũng đáng để biết những thách thức cháu phải đối mặt trong công việc chứ. Giờ thì thậm chí chúng ta còn tôn trọng công việc của cháu nhiều hơn trước. Và không một ai ở đây” ông nhìn quanh, “là thiếu quan tâm đến chuyện này cả, ít ra là tất cả những gì liên quan đến cháu.”

Cô khẽ mỉm cười với ông và cố kiềm chế để không nói rằng Ayman đã đúng: tất cả chẳng có nghĩa gì. Chỉ đơn giản là họ đã đẩy lùi tảng đá và nhìn xuống cái quần thể côn trùng lúc nhúc được tạo ra bởi cái trí tuệ tâm thần đó.

Trên đường trở ra xe của Ayman, Nayir nói. “Khi anh phải đối mặt với mọi việc, đặc biệt là việc gì anh không thể hiểu được, anh thấy cách tốt nhất là tìm câu trả lời trong giấc mơ.” Anh chăm chú nhìn cô, ánh nhìn kỳ lạ hiếm thấy đến mức nó khiên cô ngượng ngùng. “Istiqara” Anh nói. “Hãy xin lời giải đáp và Allah sẽ giúp.”

Cô mỉm cười. Cô đã quên mất rằng có đến bốn loại giấc mơ - istiqara. “Có lẽ em sẽ thử.”

“Anh sẽ gửi e-mail lời cầu nguyện cho em.”

Cô cảm ơn anh và ngồi vào xe cạnh Ayman.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Ôi Allah! Con xin khai sáng từ tri thức của Người

Và năng lực từ cội nguồn sức mạnh

Và con xin Người những điều phúc hạnh.

Người có quyền năng, khi con bất lực

Người hiểu biết, còn con bất tri

Người rõ nhất thế giới vô hình.

Ôi Allah! Nếu như Người hiểu được

Rằng điều này là phúc thuận với con

Thì hãy giúp con dễ dàng đón nhận

Và xin Người ban phúc lành cho con.

Nếu Người biết điều này là họa

Vậy xin hãy giúp con lánh xa

Và định đoạt những gì tốt đẹp

Cho con, và thỏa nguyện với con.

Đó là những lòi nguyện cầu tha thiết của Katya trước khi ngủ. Nó đã dẫn cô chìm vào đêm tối day dứt với cái nóng và mồ hôi, tấm khăn trải giường quấn quanh đôi chân cô như sợi dây xích. Nó dẫn cô đến những cái hang tối tăm ở al-Balad, nơi những sinh vật nửa người từ thời kỳ trước khi có loài người được sinh ra bằng máu của những phụ nữ bị sát hại. Chúng xuất hiện, trọn vẹn hình hài, từ lưỡi lửa liếm vào dáng hình còm cõi của của loài efreet, da chúng đen lại, khô cứng, và bong tróc bởi ngọn lửa, đôi mắt chúng vàng rực với ánh nhìn tàn độc và xuyên thấu. Chúng đuổi theo cô trong những ngõ ngách và đốt cháy quần áo của cô. Chúng được sinh ra từ máu của phụ nữ và chúng thèm khát cô. Chúng bao vây cô trong cái ngõ trên phố Falasteen nơi đã tìm thấy bàn tay của Amina, rồi chúng kéo lê cô đang gào thét dọc theo hè phố, những thanh gươm của chúng chặt đứt hai bàn chân cô trước tiên, rồi đến đôi tay, thân xác không còn sức tự vệ của cô bị ném lên những cái xác của không biết bao nhiêu phụ nữ khác nữa. Tất cả phụ nữ ở Jeddah đều nằm chết ở đó. Daher cũng ở đó nữa rồi cả Ibrahim. Họ nói chuyện với nhau. Còn cô thì gào thét, nhưng họ không nghe thấy cô.

Sau đó giấc mơ thay đổi. Cô lạc trong một thế giới núi đồi và mưa gió, bầu trời u ám và những cánh đồng xanh mướt. Cô bị kéo lê trên mặt đất, trên những bụi cây gai. Rồi một con efreet đẩy cô xuông đất sâu, lạnh lẽo, tối tăm, đất nhung nhúc côn trùng từ cái thuở hình dung xa xưa. Những lục địa còn giao cắt nhau để tạo ra chúng, câu chuyện cổ về đất đen. Chúng xô cô xuống đó, nhét đầy đất đen vào miệng cô, cố ấn một nắm đất xuống cổ họng cô, rồi cô choàng tỉnh hổn hển khiếp sợ và lăn lộn trên giường mà khóc.

“Trong câu chuyện người gác cổng và công chúa” Katya nói, “công chúa đã giết bọn efreet, phải không ạ?”

“Đúng rồi.” Bố cô nhìn cô chăm chăm. “Sao con lại hỏi vậy?”

“Đêm qua con đã mơ một bọn efreet đẩy con xuống đất sâu. Nó khiến con nghĩ đến câu chuyện đó.”

“Bố không nhớ là chuyện gì đã xảy ra nữa.” Ông nói. “Ngoại trừ việc con efreet tấn công nàng công chúa bởi người gác cổng đã lẻn xuống hang sâu dưới lòng đất để cứu nàng, và đôi tình nhân kết chuyện bằng một nụ hôn. Đám efreet là những sinh vật đố kỵ.”

“Trong câu chuyện, nàng đã giết chúng.” Katya nói. “Nàng đã đốt chúng thành than.”

Nhưng chi tiết đó cũng không giúp cô thấy khá hơn chút nào về giấc mơ đó.

“Con ổn chứ?” Bố cô hỏi. “Trông con rất nhợt nhạt.”

Cô đi làm với cảm giác khổ sở, không thể rũ bỏ được những tàn dư cuối cùng của đêm hôm trước. Cô khẩn cầu đức Allah, và lũ quỷ lại là kẻ trả lời.

Những con quỷ dữ hiện đại không quá khó để nhận ra. Chúng tự nhận mình mình là những kẻ đạo đức nhất. Chúng sống trong nỗi sợ hãi bị phát hiện ra con người thực sự của chúng.

Đó là ý nghĩ hẹp hòi đầu tiên của Katya khi cô đi ngang qua Abu-Musa ngoài hành lang trên đường đến văn phòng của Ibrahim. Ông ta cau có cúi xuống đất khi cô đi qua. Có thể là ông ta đã cau có nhìn vào mặt cô, nhưng điều đó sẽ là không đứng đắn.

Một trong những lý do mà cô ghét ông ta là bởi ông ta gần giống y chang gã nhân viên bán hàng mà cô từng cho địa chỉ và số điện thoại để chuyển một chiếc bàn làm việc và một chiếc giá sách tới nhà. Hắn ngày nào cũng gọi cho cô trong suốt một tháng trời, đầu tiên thì để lại tin nhắn với lời mời lịch thiệp hỏi cô có muốn gặp hắn rồi cùng ăn tối không. Khi nhận ra cô sẽ không gọi lại, thì hắn để lại những tin nhắn đầy căm hận; quy kết cô là một con điếm, rằng chỉ có bọn gái điếm mới cho đàn ông lạ mặt số điện thoại, và hắn khẳng định cô chỉ xứng được đối xử bằng một cuộc làm tình thô bạo mà thôi. Cô đã phải đổi số điện thoại, và không biết bao nhiêu tháng trời cô sợ phải tự đi ra hoặc đi vào căn hộ của mình.

Cô dừng lại trước cửa văn phòng của Ibrahim. Ông đang đứng phía sau bàn làm việc, vẻ mặt trầm ngâm khó chịu với chồng giấy tờ chất đống trên mặt bàn.

“Vâng, cô Hijazi.” Ông lên tiếng khi trông thấy cô.

Cô bước vào và đặt một tập hồ sơ trên bàn ông. “Tôi xin lỗi khi thêm phần hồ sơ này vào công việc giấy tờ của ông.” Cô nói. “Nhưng việc này rất quan trọng. Tôi đã phát hiện ra nó đêm qua.”

“Chuyện gì vậy?”

Abu-Musa xuất hiện trên ngưỡng cửa phía sau cô. Vẻ mặt ông ta vẫn còn cau có. “Liệu việc cô có mặt ở đây có đứng đắn không hả cô Hijazi?”

Cô lấy làm sửng sốt. Trong tất cả những tháng ngày cô làm việc ở đây, thực tế cô chưa từng bao giờ bị nói là xử sự không đúng mực cả. Nó thường được truyền đạt thông qua các cử chỉ hay ánh mắt và lời cảnh báo khẽ khàng từ sếp của cô, Zainab.

“Cô Hijazi chỉ vừa mang đến một hồ sơ vụ án rất quan trọng.” Ibrahim nói. “Tôi có thể giúp ông được gì chăng?”

“Về mặt chuyên môn thì cô Hijazi thậm chí không nên có mặt trong tòa nhà này nữa kia.” Abu-Musa đáp.

Katya cảm ơn Ibrahim rồi rời khỏi phòng.

Sáng hôm đó cô không làm việc. Cô ngồi trước máy tính, một tay đặt lên con chuột, rồi nhìn chăm chăm vào màn hình. Nếu có ai đi qua phía sau cô, cô nhấn chuột làm ra vẻ mình đang bận rộn, nhưng tâm trí cô mới là thứ duy nhất làm việc.

Mười một giờ cô rời khỏi tòa nhà đi ăn trưa sớm. Cô đã mua một bữa trưa đóng gói, nhưng vẫn chưa thấy đói; cô chỉ muốn đi ra ngoài.

Cô tránh bờ hồ, đi sâu vào thành phố và cô đi như thể có mục đích, ngay cả khi chỉ để đi. Cô đi ngang qua mấy bà mẹ đang chăm sóc con; mấy thanh niên đang tựa vào cửa kính ô-tô cười vang, tiếng nhạc của họ như làm rung cả khung sườn của cô. Mấy ông già đứng trước cửa hiệu của mình hút thuốc và nói chuyện. Trước một quán café, đàn ông đang ngồi trên ghế nhựa xem ti-vi được cắm vào chiếc máy phát điện, bóng mát duy nhất của họ chỉ là một cái cây nhỏ bé. Có hai cô bé ngồi trên hàng rào gỗ ăn trái cây và cùng nhau thì thầm vào một chiếc điện thoại di động. Khi một chàng trai tiến đến chỗ họ, một cô bé ném quả nho về phía anh ta và huýt gió, và anh ta quay lại, mặt đỏ bừng.

Nắng rát bỏng khuôn mặt cô, hơi nóng bao bọc lấy cô khi những âm thanh đường phố và tiêng nói cười cuối cùng đã xóa bỏ những mảnh ký ức cuối cùng về giấc mơ trong tâm tưởng cô. Ở đây không có cái chết, không có máu đổ và không có efreet. Nhưng có điều gì đó vẫn day dứt trong ý thức của cô. Amina al-Fouad. Cái ngõ ây. Bàn tay bị chặt ấy. Và cô rõ ràng đã thấy điều gì đó. Điều gì đó phi lý và phù du. Cô dừng bước, nắm giữ chặt lấy điều ấy, rồi vội vã quay trở lại hướng nhà ga. Cô bắt đầu hối hả. Tất cả đã trở nên rõ ràng bởi cô không tin Chúa để cho quỷ dữ lên tiếng trả lời cô trừ phi quỷ dữ muốn nói điều gì đó.

Một trong những lý do Ibrahim rời Đội Điệp vụ là ông ghét làm việc trong một phòng ban mà không có việc gì được hoàn thành cả. Có cả một chuỗi hoạt động, anh chuẩn bị các điệp viên của mình, rồi anh điều họ tới thực hiện nhiệm vụ và anh chờ đợi. Hàng tuần. Hàng tháng. Gạt mọi giấy tờ sang bên và theo dõi tình hình. Nhưng anh lại chính là gã chăn cừu trong khi lũ cừu của anh chạy tới nô đùa với sói, rồi anh hát một khúc ballad cô đơn bên đống lửa trại và tự nhủ mọi việc đều nằm trong tầm kiểm soát. Anh chẳng biết chuyện gì, chẳng thấy chuyện gì, nhưng từng tin tức một thỉnh thoảng lại được báo về, và anh sẽ ăn mừng hoặc khóc lóc. Cuối cùng thì, công việc đó cũng khiến ông chán nản như chuyện gia đình của mình vậy.

Không có gã chăn cừu nào ở Đội Trọng án hết, chỉ có những người Bedouin truyền thống tốt bụng tụ họp với nhau, thành lập những liên kết, và thề rằng sẽ bảo vệ nhau trước sự khắc nghiệt khôn tả của thế giới này. Tất nhiên cũng có người kình địch, nhưng cái chết ở đây quá gần, và tất cả những con đường người ta đi đều phải đề phòng nó. Hãy tự bảo vệ mình. Hãy di chuyển chậm chạp. Hãy đi theo lối cũ của các bậc cha anh và những bài học của những người đã ngã xuống để mà khôn ngoan.

Chỉ có lúc này ông bắt đầu cảm thấy có điều gì đó khó chịu trong tình thân ấy. Nó khuyến khích sự thân thiết nhưng không chào đón sự đổi mới. Người đang thực hiện nhiệm vụ tốt nhất trong vụ án này lại là một phụ nữ đứng ngoài vòng lửa trại, nhìn vào với sự mong mỏi, mà nếu được thỏa mãn, có thể cũng bóp nghẹt cả cô.

Đội điều tra quá hăng hái. Ông chỉ cần nói rằng họ đang nhóm họp, thì những lời đồn đại đã lan ra khắp nơi. Đã có một bước đột phá trong vụ án này! Họ có thể dừng công việc vất vả này lại và làm việc gì đó quan trọng! Thậm chí ai đó trong số họ có thể bị bắn khi tóm cổ tên giết người! Tiến sĩ Becker đã nói vói họ hàng chục lần rằng sẽ mất nhiều năm để tóm được tên hung thủ này, nhưng chẳng ai tin cô.

Một lần nữa Mu'tazz lại đứng ở phía cuối căn phòng, khoanh tay lại với vẻ chua chát trên nét mặt. Ibrahim ghét phải thừa nhận rằng Mu'tazz khiến ông lo lắng. Tuy cảm thấy ông đã giành thế thượng phong trong buổi họp lần trước, những mỗi cử chỉ phản đối trên gương mặt người đàn ông đó đều gay gắt với ông như thể ai đó đang hét lên qua một chiếc loa pin.

Tiến sĩ Becker xuất hiện với chiếc áo choàng đen bên ngoài trang phục nhưng vẫn không mang khăn trùm đầu. Bọn họ đang dần thị uy với cô. Ibrahim thấy an tâm khi cô vẫn ở đây, mặc dù trông cô không có vẻ gì là vui vẻ cả.

Chiếc bảng trắng không đủ lớn, nên những bức ảnh của mười chín nạn nhân được treo trên tường. Majdi đã treo chúng lên đó, vói sự hỗ trợ của Katya. Cô đang đứng ở vị trí mọi khi của mình bên bậu cửa. Chờ đợi để tháo chạy, Ibrahim nghĩ vậy.

Khi tất cả những tiếng ồn ào lắng xuống, Ibrahim chỉ vào những tấm ảnh và nói. “Tôi muốn các anh cho tôi biết các anh nhìn thấy gì.”

Mọi người quay sang trái, hoặc nhìn nhau, với vẻ khó hiểu trên nét mặt.

“Xin cứ thẳng thẳn, hãy cho tôi biết xem” Ibrahim nói. “Các anh nhìn thấy gì?”

“Các xác chết.”

“Đúng rồi. Còn gì khác nữa không? Có gì đó ẩn giấu sau đó không chẳng hạn?”

Sau một hồi lặng im, những người đàn ông bắt đầu dò đoán. Một quy luật theo vòng tròn à? Một hình lục phân? Một hình lục giác?

“Có một quy luật.” Cuối cùng thì Ibrahim lên tiếng. Ông bước đến bên bức tường và bắt đầu viết trên các bức ảnh. Trước tiên là chữ B, rồi đến chữ S, rồi M. Ông vừa mới bắt đầu vòng thứ hai thì những người đàn ông trong phòng đã nhận ra. Cả phòng nhốn nháo tiếng nói.

“Bism'allah, ar-rahman, ar-rahim.” Shaya nói.

Cả phòng im phăng phắc. Daher há hốc miệng.

“Cô Hijazi đã phát hiện ra quy luật này đêm qua.” Ibrahim ra hiệu về phía Katya. Cô vẫn không một chút bối rối trước ánh nhìn đố kỵ của hai mươi người đàn ông. “Cảm ơn cô Hijazi.”

Cả căn phòng lại im lặng, như sự tiếp nối của cú sốc trước đó. Mu'tazz tỏ vẻ phẫn nộ, nhưng Ibrahim không rõ đó là vì thông điệp kia hay vì cô Hijazi là người phát hiện ra nó.

“Như vậy, hắn là một người Hồi giáo.” Ai đó nghiêm giọng nói.

“Có thể hắn biết về đạo Hồi.” Daher đáp lại. “Mà không phải là người Hồi giáo thì sao.”

Ibrahim can thiệp trước khi cuộc tranh cãi trở nên gay gắt. “Tôi chắc các anh đều đang băn khoăn không rõ điều này giúp gì cho chúng ta.” Ông quay sang Katya. “Cô Hijazi, sao cô không lên đây và trình bày giả thuyết của mình nhỉ?”

Katya đứng bên bậu cửa. Mọi người lại quay ra nhìn cô, ngoại trừ một số người trong phòng không thể ép mình nhìn cô được.

“Tôi nghĩ rất có khả năng hắn sẽ lặp lại quy luật này ở đâu đó.” Cô nói và ra hiệu về phía bức tường. “Chúng tôi ngờ rằng việc hắn bắt Amina al-Fouad, và bàn tay của bà ta được sắp đặt như vậy có lẽ là một giai đoạn đánh dấu sự kết thúc của việc hành hình.”

Ibrahim ra hiệu về phía chiếc bảng trắng phía sau ông có treo một bức ảnh về bàn tay đó. Ông để ý khi mình làm vậy thì Mu'tazz trừng mắt nhìn Katya.

“Có thể” Katya nói tiếp, “bà ta sẽ là nạn nhân đầụ tiên trong loạt tấn công mới và tên sát nhân đã thay đổi quy cách giết người bởi hắn đang tức giận vì chúng ta đã tìm ra địa điểm ở sa mạc của hắn. Nhưng tôi cho rằng khả năng đó cũng tương đương với khả năng al-Fouad chính là nạn nhân cuối cùng trong vụ giết người hàng loạt đã xảy ra mà chúng ta không hề biết này. Chúng ta vẫn chưa giải mã hết được.” Có vẻ như cô đã nhận ra Mu'tazz đang nhìn cô chòng chọc, nét mặt cô sa sầm lại.

“Ý cô là tên giết người không chỉ chôn các nạn nhân ở sa mạc, mà còn giết người ở những nơi khác nữa phải không?” Shaya hỏi.

Ngữ điệu của anh ta cho thấy sự mất thể diện và sự hoài nghi mà cả đội đang cảm thấy lúc này. Ý cô là sao khi nói chúng ta không hề biết?

Tiên sĩ Becker ngước nhìn lên. “Thực ra chuyện đó cũng khá bình thường.” Cô nói. “Các cơ quan cảnh sát trên khắp thế giới thường không nhận ra có vụ giết người hàng loạt cho đốn khi hung thủ đã giết vài người rồi. Đó là bởi hầu hết những tên giết người hàng loạt không để lại dấu hiệu nào, như chúng ta thường gọi vậy, và chúng thường không cố định tại một địa điểm nào cả. Jeddah là một thành phố lớn vói rất nhiều phân khu khác nhau, nên hoàn toàn có khả năng hắn đã thực hiện trên toàn phạm vi Jeddah trong suốt thời gian qua.”

“Nhưng” Daher lên tiếng, “chúng tôi đã nhận ra những phụ nữ bị sát hại và bị chặt đứt tay lâu nay rồi, cô không nghĩ vậy sao?”

“Gã này của các anh để lại dấu hiệu là chặt tay nạn nhân.” Tiến sĩ Becker bình tĩnh đáp. “Nhưng dấu hiệu cũng là tư thế của những cái xác và việc bắn xuyên qua đầu. Có khả năng hắn đã giết người trong thành phố và sử dụng bất cứ dấu hiệu nào trong số đó - hoặc không. Hắn đã chứng tỏ được rằng hắn có thể giết một số lượng lớn nạn nhân. Có khả năng còn nhiều hơn thế. Các dấu hiệu có thể thay đổi theo thời gian. Có thể đã có những nạn nhân trước đó mà các anh không biết và sẽ không thể liên hệ tới vụ này chỉ thông qua một dấu hiệu.”

“Có lẽ tốt hơn hết,” cô nói tiếp, “nên lật lại những vụ án còn dang dở. Hắn có thể đã chặt tay hoặc bắn nạn nhân. Có thể hắn chỉ sắp đặt tư thê' của cái xác thôi. Có thể hắn chỉ bắn họ. Hãy tìm kiếm bất cứ dấu hiệu tương tự nào.”

“Việc đó sẽ kéo dài đến mãi mãi.” Daher nói, lúc này đã có vẻ cáu giận.

“Thực ra, theo như tôi hiểu,” Tiến sĩ Becker đáp lại không một mảy may châm biếm, “cảnh sát Jeddah đạt tỷ lệ thành công chín mươi phần trăm trong việc truy bắt tội phạm giết người, nên có lẽ không có nhiều hồ sơ để kiểm tra lại đâu.”

Daher mỉm cười. “Xin lưu tâm cho, thưa Tiến sĩ Becker, cô không biết tiếng Ả Rập đâu. Bất cứ chữ cái nào của chúng tôi cũng giống với hình người. Chúng tôi có thể lật lại hàng trăm vụ giết người trước đây và tìm thấy cả đống tiểu thuyết vỉa hè ấy chứ! Điều đó không có nghĩa là có sự liên hệ với vụ án này.”

“Anh nói đúng.” Ibrahim nói. “Đó sẽ là một khối lượng lớn công việc, và một số dò đoán dựa trên kỹ năng được đào tạo, nhưng tôi nghĩ rằng đó là một hướng khả thi và tôi sẽ giao nhiệm vụ này cho cô Hijazi.”

Không một ai phản đối, thậm chí cả Daher. Ibrahim đã mong là vậy. Khi họ nhận ra công việc tẻ nhạt nhất sẽ được giao cho phụ nữ, họ chẳng còn muốn phàn nàn gì nữa.

“Tôi đã nói chuyện vói Chánh Riyah và chúng ta sẽ cách ly khu vực cuối phòng này để cô Hajazi và vài điều tra viên nữ khác có thể có dành chỗ cho những hồ sơ mà họ sẽ kiểm tra. Tôi đề nghị tất cả mọi người tôn trọng sự riêng tư của họ.”

“Chẳng phải phụ nữ có một căn phòng rộng hơn ở tầng trên rồi hay sao?” Shaya hỏi.

Ibrahim giải thích rằng cô Hijazi đã nhận lời kiểm tra các hồ sơ xử án và hành hình. Các thùng hồ sơ đã chiếm một không gian đáng kể trong phòng thí nghiệm của nữ giới. Giờ tới lượt hàng tá, có khi tới hàng trăm, những hồ sơ của các vụ việc chưa được giải quyết cần phải kiểm tra lại, cô đang phải đứng trước tình trạng hoàn toàn không còn chỗ trống trong phòng làm việc.

Dường như mọi người đều chấp thuận điều này ngoại trừ Mu'tazz, người ra vẻ lắc đầu quầy quậy rồi hùng hổ bước ra khỏi phòng. Sẽ chẳng lạ nếu ông ta đang tiến thẳng về phía văn phòng của Chánh Riyah để kêu ca gì đó.

Khi những người còn lại giải tán hết, Ibrahim bắt gặp nét mặt của Daher và nhận ra anh ta đang tức giận. Thực tế là giận dữ đến mức Ibrahim nghĩ sẽ là khôn ngoan nếu để mắt đến anh ta.

“Vấn đề là có quá nhiều các vụ án cũ chưa được... giải quyết.” Katya nói khẽ.

Cô và Charlie đang ngồi trong khu vực nữ giới của tiệm Pizza Hut. Khi Charlie nhìn thấy hình logo quen thuộc ở phía ngoài cửa tiệm, cô đã cười phá lên, túm lấy cánh tay Katya rồi nói. “Chúa ơi, cô biết đường đến trái tim tôi rồi đấy!”

“Thật thế sao?”

“Lúc này tôi thấy nhớ nhà quá. Tuyệt thật.”

Giờ thì họ đang ngồi bên một chiếc pizza theo quy chuẩn của Hồi giáo có cà chua và pho-mát.

“Ý cô là gì, những hồ sơ đó chưa đóng sao?” Charlie hỏi.

“Cảnh sát cần có lời thú tội của tên sát nhân. Không có nó, họ không thể kết án hắn được.”

“Vậy những lời thú tội là giả à?”

Katya thở dài. “Đôi khi thôi, những kẻ bị tình nghi sẽ bị ép cung.”

“Bị tra tấn sao?”

“Có lẽ vậy. Nó còn tùy.”

“Vậy đó là lý do tại sao các cô đạt được tỷ lệ thành công là chín mươi phần trăm phải không?” Charlie hỏi.

“Có lẽ thế.”

“Tôi hiểu rồi. Như vậy là cô phải biết về tất cả các vụ án, chứ không chỉ những vụ còn bỏ ngỏ.”

“Đúng vậy. Nhưng nếu đề nghị các hồ sơ đó có nghĩa là tôi sẽ phải nói rằng cảnh sát không hề thực hiện trách nhiệm của mình.”

Charlie nheo mắt. “Họ đã giao các hồ sơ cho cô chưa?”

“Chưa, chưa đâu. Thanh tra Zahrani sẽ cố. Có thể sẽ mất một thời gian.”

“Chúa ơi.”

Họ lặng lẽ ăn một lúc. Suy nghĩ của Katya lại trở về tên giết người.

“Tôi vẫn băn khoăn tại sao tên giết người không làm tương tự với Amina như những người khác.” Cô nói. “Bà ta vẫn còn sống khi hắn chặt bàn tay bà ta.”

“Đúng đấy.” Charlie nói. “Và tôi đồng ý với điều cô đã nói: có khả năng đó là cách phản ứng khác của hắn đối với vụ điều tra này. Hơn nữa, Amina không giống những nạn nhân kia của hắn. Vậy có khả năng hắn ta cắt tay bà ta để các cô - phía cảnh sát - hiểu rằng đó chính là hắn. Nhưng mặt khác, cũng có thể các cô chưa kết nối được hai vụ này.”

“Nhưng tại sao hắn làm vậy chứ?” Katya lúng túng hỏi. “Chẳng lẽ hắn muốn chúng tôi bắt hắn sao?”

“Hẳn rồi. Có thể hắn muốn có được sự thừa nhận cho tội ác của mình. Thậm chí hắn có thể thấy tự hào về những hành vi đó. Cho đến lúc này, hắn đã có được cách tiếp cận vói phụ nữ và không một ai đế ý tới việc họ mất tích. Vấn đề là, Amina đã mất tích gần một tuần trước khi tên giết người phát hiện cảnh sát đã khám phá ra địa điểm chôn cất đó. Hắn biết chắc rằng vào thời điểm hắn bắt cóc bà ta có khả năng có người nhận ra việc bà ta mất tích. Bà ta là người Ả Rập Xê-Út, không phải người giúp việc.”

“Có lẽ bà ta đeo khăn che mặt và hắn không nhận ra bà ta là người Ả Rập Xê-út chăng?” Katya hỏi lại.

Charlie lắc đầu. “Theo như những gì chúng ta đã biết, hắn chưa từng bắt một phụ nữ nào không phải người gốc Á. Tôi cho rằng hắn biết cách để nhận ra một phụ nữ gốc Á thì trông thế nào. Tôi thực sự tin là hắn đang chế nhạo cảnh sát.” Charlie đặt miếng pizza xuống. “Như cô đã nói đây, Amina có thể là nạn nhân đầu tiên hoặc cuối cùng trong loạt giết người. Dù gì đi nữa, tôi nghĩ chúng ta phải thừa nhận rằng hắn chưa xong việc. Và chúng phải tìm được quy luật đó trước khi hắn ta giết Amina, nếu quả thực bà ta chưa chết.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Còn nhớ tên tội phạm ấu dâm không?” Shaya hỏi. Bọn họ đang ở phòng làm việc của Ibrahim cùng với trung úy Daher, Abdullatif, và Zunedh. Ibrahim đang ngồi tại bàn làm việc. Ông không gọi họ vào đây; bọn họ tự tràn vào sau cuộc họp và tranh luận.

“Tên nào?” Daher hỏi với vẻ miệt thị.

“Cái tên bị chặt đầu ấy. Tôi nghĩ là vụ năm ngoái. Họ đã bắt được hắn ở Hail.”

“Rồi, rồi, tôi nhớ rồi.” Daher tựa người vào tường.

“Thực ra, tôi đang nghĩ.” Shaya nói. “Hắn đã cưỡng hiếp những cậu bé con rồi vứt xác chúng ngoài sa mạc. Hắn là một tên giết ngưòi hàng loạt, cũng giống như gã này. Và hắn là người Ả Rập Xê-Út.”

Không ai đáp lời.

“Hắn còn trẻ, tên đó ấy.” Shaya nói tiếp. “Hai mươi hai tuổi, hình như vậy. Và một tờ báo nước ngoài đã nói hắn mắc chứng rối loạn tâm thần, nhưng dù sao chúng ta cũng đã xử tử hắn.”

“Và chúng ta nên làm vậy” Daher nói. “Mà mắc chứng rối loạn tâm thần thì sao chứ? Hắn đã giết người. Trẻ em! Hãy nghĩ đến điều đó, anh bạn ạ.”

“Nghĩ đến gì cơ?” Abdullatif hỏi. “Hắn không tự chủ được hành động của mình. Hắn bị điên. Shaya nói đúng. Họ nên tìm hiểu điểu đó và nên nhân đạo một chút”

“Thế còn những gia đình đó thì sao?” Daher hỏi lại. “Con cái họ đã chết”

“Giết một gã điên không giúp bọn trẻ sống lại được.” Abdullatif thẳng thừng nói, chấm dứt cuộc tranh luận. Bọn họ quay sang Ibrahim để xem liệu ông có muốn tham gia ý kiến hay không. Ông muốn nói với họ rằng tất nhiên đất nước này có những tên giết người hàng loạt, rằng những lời than vãn của bọn họ về vấn đề đó chỉ cho thấy rằng họ còn non trẻ và ngây thơ, và rằng chẳng có câu trả lời nào là thỏa đáng đối với vấn đề hình phạt tử hình cả.

“Vậy lạ hiện tại chúng ta đã biết tên giết người này thông minh đến mức nào.” Ibrahim nói. “Hắn tự cho mình là một tay thông minh. Viết thông điệp bằng những xác chết.”

“Và thông điệp mới hay làm sao.” Shaya nói. “Hoàn toàn bệnh hoạn.”

“Nhưng hắn ta không hẳn là một kẻ điên đâu.” Daher nói. “Nếu điên thì hắn đã bị bắt dễ dàng như tên giết người ở Hail kia rồi.”

“Vụ đó cũng mất đến bốn năm đây.” Ibrahim nói thêm vào.

“Tiến sĩ Becker đã nói những tên giết người kiểu đó có xu hướng chọn lựa nạn nhân theo nhóm tộc người của riêng hắn.” Daher nói.

“Có xu hướng không phải là một bộ luật đâu.” Ibrahim nói.

“Tôi hiểu ạ.” Daher đáp. “Và đó không phải là điều mà tôi thất vọng. Shaya nói đúng. Chúng ta có những tên giết người kiểu đó. Nhưng chúng ta đang cố gắng lập hồ sơ về hắn, phải không ạ? Chúng ta nên tìm hiểu hắn đến từ đâu.”

“Tất nhiên.” Ibrahim nói. “Nhưng trong khi còn thiếu các chứng cứ, chúng ta phải có những suy nghĩ cởi mở.”

“Tôi tự hỏi không hiểu họ có mời chuyên gia lập hồ sơ của FBI trong vụ Hail không nhỉ?” Zunedh hỏi. Anh ta là người trầm tính nhất trong số các sĩ quan, vô cùng nhút nhát. Thật bất ngờ khi anh ta lên tiếng. Và ngay lập tức anh ta đỏ mặt vì xấu hổ.

“Đúng vậy, ý hay đây.” Daher khen ngợi. “Tại sao hiện giờ chúng ta lại cần một người như vậy nhỉ?”

“Đúng vậy, ý hay đây.” Daher khen ngợi. “Tại sao hiện giờ chúng ta lại cần một người như vậy nhỉ?”

Ra là thế - nguyên nhân thực chất của sự ủng hộ đó: tại sao phụ nữ lại có mặt trong vụ án này? Ibrahim nghi ngờ điều này nhưng cũng đã mong là mình sai.

“Thôi đừng kêu ca nữa.” Ông nói. “Chúng ta may mắn có được Tiến sĩ Becker ở đây, và cũng may mắn khi cô Hijazi tìm được quy luật đó. Tôi mong nhận được sự tài giỏi đó của tất cả các thành viên trong đội.”

Daher lại bực tức. Mặt anh ta tím lại.

Khi Ibrahim nhìn họ tản đi thực hiện nhiệm vụ của mình, ông bắt đầu thấy lo lắng. Chỉ là vấn đề thời gian thôi trước khi lòng tự trọng bị tổn thương của Daher đẩy anh ta vào quỹ đạo của Abu-Musa và Mu'tazz, những người luôn cho rằng phụ nữ nên bị cấm làm việc trong lực lượng cảnh sát ngoại trừ những công việc thực sự cần đến họ để đảm bảo những chuẩn mực có liên quan đến giới tính: khám nghiệm tử thi nữ, xử lý các mẫu sinh học nữ giới, và đôi khi là việc thẩm vấn các nữ nhân chứng. Một khi Daher nhập hội đó, những sĩ quan khác cũng sẽ làm theo. Đột nhiên Ibrahim nghĩ đến việc Katya sẽ đốt đống lửa trại của riêng mình trong phòng họp. Liệu ông có khinh suất khi đề nghị việc đó không nhỉ? Tại sao không để cô ấy thực hiện các công việc trong phòng thí nghiệm chứ? Ông nghi ngờ cả chính lòng tự trọng của mình ở nơi làm việc. Ông đang kéo cô vào một trận chiến.

Chánh Riyadh đang ngồi bên bàn làm việc, bên cạnh là một chậu cây dương xỉ lớn và hai bức ảnh lồng khung kính, một bức là Vua Abdullah, cái còn lại là Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nayef, em trai của nhà vua. Không khí mát lạnh đến mức nổi da gà, nhưng Riyadh, với tầm vóc vĩ đại của mình, vẫn toát mổ hôi như thường, những đường chảy sẫm màu vẫn loang lổ trên áo sơ-mi của ông ở phía dưới hai cánh tay áo và những nếp gấp ở bụng.

Đối diện với ông là hai người đàn ông đang ngồi trên hai chiếc ghế gỗ nặng. Chiếc ghế thứ ba là dành cho Ibrahim. Một sĩ quan mặc quân phục đứng bên cửa. Ngay khi bước vào phòng, Ibrahim đã nhận ra bọn họ đều đến từ Đội Điệp vụ. Trong giây lát ông nhìn thấy tương lai của mình: xử tù, cảnh cáo, cái chết.

Nét mặt của Riyadh trông thoải mái; duy chỉ có cái miệng bóng nhẫy và chu ra là có vẻ khó chịu.

“Anh biết Thanh tra Ubaid của Đội Điệp vụ rồi.” Ông nói. Ibrahim gật đầu và bắt tay Ubaid.

“Họ ở đây vì vụ nạn nhân mất tích là người đã từng làm việc ở Đội Điệp vụ. Tôi biết anh đang bận bịu với việc điều tra vụ giết người nhưng tôi đã nói với họ anh sẽ vui lòng giải đáp những câu hỏi của họ thôi.”

Ibrahim ngồi xuống. “Tất nhiên rồi”

“Một phụ nữ đã từng cộng tác với ông - tên cô ấy là Sabria Gampon.” Ubaid nói.

“Đúng rồi. Tôi còn nhớ Sabria.”

“Ngày hôm qua cô ấy được thông báo là mất tích.”

“Cô ấy không còn làm việc cho Đội Điệp vụ nữa rồi mà.” Ibrahim vừa nói vừa giả bộ hơi khó hiểu.

“Thực ra là không.” Ubaid nói. “Nhưng chúng tôi nhận thấy dù sao việc điều tra là cần thiết. Hàng xóm của cô ấy đã gọi điện thông báo việc mất tích...”

“Hàng xóm của cô ấy?”

“Vâng. Thực ra là anh trai của một người hàng xóm. Theo như bên chuyển tín - những người đã thực hiện việc truy vấn cuộc gọi thì anh ta tên là Saleh Harbi. Hai người hàng xóm - là hai cô gái - đã lo lắng, và anh Harbi lại làm việc trong lĩnh vực thi hành luật, nên họ đã nhờ đến anh ta.” Như vậy Asma và Iman đã ngày càng lo về sự biến mất của Sabria. Đáng lẽ Ibrahim phải nói chuyện với họ, giải thích mọi việc. Giờ thì đã quá muộn.

“Nhưng tất nhiên anh cũng hiểu chúng tôi quan tâm tới các cộng tác viên của mình.” Ubaid nói và mỉm cười thân mật khiến Ibrahim ngay lập tức nghĩ đến việc Đội Điệp vụ đã vội vã và quá đáng đến mức nào trong việc đề bạt Omar vào vị trí phó chánh thanh tra, bởi vì ông lớn tuổi hơn.

“Vâng, đương nhiên rồi.” Ông đáp.

“Và chúng tôi có ý định sẽ điều tra việc này, bởi luôn có khả năng trường hợp mất tích kiểu này có liên quan đến công việc cô ấy từng thực hiện cho chúng tôi.” Cái cách mà ông ta dùng từ chúng tôi có ý gạt Ibrahim ra ngoài.

“Ông đã có manh mối nào rồi?”

“Chúng tôi đang tìm kiếm chồng của cô ấy.” Ubaid nói. “Không may thay, chúng tôi không có khả năng tìm được anh ta.”

Ibrahim liếc nhìn Riyadh lúc này đang đeo chiếc mặt nạ đẹp đẽ của lòng hiếu khách và sự quan tâm.

“Theo những gì tôi còn nhớ được,” Ibrahim nói một cách thận trọng, “cô ấy bị cưỡng hôn. Cô ấy đã không gặp chồng mình vài tháng rồi trước khi bắt đầu làm việc với chúng tôi, và việc đó đã từ năm năm về trước thì phải?”

“Vâng.” Ubaỉd có vẻ khó chịu khi mím môi lại. “Tuy vậy, cô ấy vẫn ở tình trạng kết hôn với người đàn ông đó - và không phải vì mục đích thị thực. Thị thực của cô ấy hết hạn rồi.”

“Tôi hiểu rồi. Vậy tôi có thể giúp gì được chăng?”

“Ông đã bao giờ gặp chồng của cô ấy chưa?” Ubaid hỏi.

Ibrahim lắc đầu. “Chưa. Tôi cho rằng họ hoàn toàn xa cách nhau.”

Ubaid trông như thể sắp bình luận về sự bất hợp lý trong việc thuê những phụ nữ độc thân để cộng tác. “Có vẻ cô Gampon hiện không làm công việc gì cả. Hàng xóm của cô ấy xác nhận như vậy.”

Ibrahim nhận ra những người láng giềng đã cố bảo vệ cô. Họ biết thị thực của cô đã hết hạn. Chỉ có điều mà họ không ngờ tới là bát cứ cuộc điều tra nào về một phụ nữ mất tích, dù người đó có đứng đắn đến đâu, thì đều đi đến kết cục là vấn đề đức hạnh.

“Tuy nhiên, cô ấy lại sống trong một căn hộ rất đàng hoàng.” Ubaid nói tiếp. “Chúng tôi đã nói chuyện với chủ nhà, người này xác nhận rằng cô ấy chưa từng quên lần đóng tiền nào.”

Quả là ý trời, và ngàn lần đội ơn Chúa rằng ông chưa bao giờ tự mình trả tiền thuê căn hộ đó. Ông đã khăng khăng đưa cô tiền mặt hằng tháng, và chưa bao giờ để người chủ nhà trông thấy mình cả.

“... Và chúng tôi đang băn khoăn không hiểu cô ấy đã trả tiền thuê nhà bằng cách nào, nên đã kiểm tra hồ sơ tài khoản ngân hàng của cô ấy và phát hiện những khoản tiền bất thường.”

“Bất thường như thế nào?”

“Hàng chục nghìn riyal đã được gửi vào - và sau đó được rút ra – đều đặn hằng tháng”

Ibrahim không thể thấy khó hiểu hơn.

“Đó là một khoản tiền lớn bất thường đối với một phụ nữ nhập cư không có công ăn việc làm gì.” Ubaid nói.

“Vâng, vậy ông cho rằng khoản tiền này...” Ibrahim vẫy tay, nhưng Ubaid không nói tiếp vào. “Vậy là gì chứ?”

Vẻ kiểu cách của Ubaid, khuôn mặt nghiêng sang bên của ông ta chau lại ngay lập tức phát tín hiệu rằng ông ta sẽ đặt vụ án sang một hướng thế; rằng ông ta có đủ bằng chứng để buộc tội vắng mặt Sabria về đạo đức; và rằng ông ta sẽ làm vậy, thậm chí rất hào hứng vì việc đó, bởi những vụ như thế này sẽ khiến cho cái dương v*t của ông ta dựng đứng và cứng như đá granite suốt cả quãng đời còn lại.

“Chúng tôi đã tìm được bằng chứng về sự có mặt của rất nhiều đàn ông trong căn hộ của cô ấy.”

“Vậy là ông nghi ngờ có mại dâm?” Giọng Ibrahim lúc này nghe như xa lạ với chính ông. Bọn họ có bằng chứng ở căn hộ của cô ấy.

“Khoản tiền gửi vào tài khoản của cô ấy là rất lớn.” Ubaid nói. “Và chúng khá là đều đặn.”

Ibrahim muốn nói với họ rằng Sabria bắt đầu làm việc cho Đội Điệp vụ một năm sau khi bị hãm hiếp, tra tấn và ngược đãi; rằng bởi quy luật trái khoáy về tiến hóa của loài người, cô đã trở nên gian xảo, ương bướng và hung hăng, những tố chất cần thiết để thực hiện công việc tay trong; và rằng chính nhờ công việc đó mà cô tìm được lối thoát cho mình. Ông chỉ muốn bóp cổ cái tên Ubaid còm nhom này và buộc ông ta phải hiểu rằng những người phụ nữ đã từng trải như vậy chỉ e sợ một thứ duy nhất: những tay đàn ông như Ubaid, những kẻ chỉ biết ngồi trên cặp mông lừa mà phán xét đức hạnh.

“Số tiền đó là từ đâu vậy?” Ibrahim hỏi.

“Chúng tôi không rõ. Tiền gửi vào lúc nào cũng là tiền mặt. Tiền rút ra cũng là tiền mặt.”

“Cô ấy có rút khoản tiền lớn nào trước khi mất tích không?”

“Không. Đúng ra là tháng này cô ấy không hề rút khoản tiền nào.”

Ibrahim gật gật. “Vậy là không phải cô ấy đã bỏ trốn.”

“Không phải”

Ibrahim liếc nhìn Riyadh lần nữa. Ông chánh thanh tra tỏ vẻ lấy làm tiếc một cách lịch thiệp về việc Đội Điệp vụ đã thuê phải một người phụ nữ vô luân đến vậy và lại bị phát hiện theo cách tai tiếng đến thế.

Ông phải cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói của mình. Bọn họ rõ ràng đang dò xét để lôi kéo ông vào vụ này. Một người phụ nữ không thể sau một đêm mà trở thành gái mại dâm được. Và chăng phải chính ông là người đã đấu tranh đến cùng để giữ cô lại trong đội hay sao? Liệu lúc đó ông có biết cô từng làm điếm không?

“Tôi lấy làm tiếc khi nghe chuyện này.” Ibrahim nói. “Tất cả những gì tôi có thể nói là cô ấy là một nhân viên xuất săc. Cô ấy đã giúp chúng tôi phá tan một mạng lưới ăn cắp tại các cửa hàng mà chúng tôi đã theo đuổi trong một thời gian dài. Cô ấy đã rơi vào một vài tình huông rất mạo hiểm và đã xoay xở để thu thập đủ bằng chứng cho chúng tôi nhằm lật mặt những tội phạm cao cấp. Chúng tôi đều lấy làm tiếc khi cô ấy rời đội.”

Ubaid không hề lắng nghe, mà chỉ lịch sự chờ đợi Ibrahim trình bày xong. Ông ta đã biết ông có liên quan thế nào đến vấn đề đức hạnh của Sabria Gampon.

“Mại dâm là một tội nghiêm trọng.” Ông ta nói với vẻ hoàn toàn lộ rõ mục đích của mình: chúng tôi sẽ truy tố vụ này. “Chúng tôi ngờ rằng chồng cô ta đã dắt khách, nhưng nếu những gì ông nói là sự thật và cô ta không gặp chồng mình nhiều năm rồi, vậy có lẽ cô ta có một ai khác. Chúng tôi sẽ tìm ra người đó.”

A, vậy ra là tội kép, vừa mại dâm lại vừa thông dâm. Thảo nào Ubaid ra vẻ tự mãn thế.

Họ đứng lên và bắt tay nhau, còn Ibrahim thì khiến chính mình bất ngờ khi bước ra khỏi đó mà không té xỉu.

“Tôi đã rút chiếc đinh khỏi sàn nhà trước khi rời khỏi đó.” Katya nói. “Cho nên không có dấu vết về máu đâu.”

“Tạ ơn Chúa.” Ibrahim thốt lên.

Ông đi tới đi lui. Họ đang ở trong phòng vệ sinh tầng ba, thì thầm nói chuyện cạnh chiếc bồn rửa. Lúc đó đã muộn và tòa nhà gần như vắng bóng người. Nhưng dù thế nào thì Katya vẫn khiếp sợ vô cùng - nhỡ Ibrahim nổi nóng, ông có thể khiến ai đó chú ý và họ sẽ bị bắt quả tang rồi mọi chuyện sẽ còn tệ hơn thế này.

“Tôi biết cô cho rằng con trai tôi đã làm vậy.” Ông nói. “Nó đã ở đó. Tôi đã thấy vết cắt ở chân nó.”

“Ồ.” Cô nói. “Tại sao cậu ta ở đó?”

“Một hôm nó đi theo tôi. Nhưng nó không hề nói chuyện với cô ấy. Hôm cô ấy mất tích nó phải đi làm. Tôi đã kiểm chứng việc này với sếp của nó. Con trai tôi tuyệt đối không liên quan đến sự biến mất của cô ấy, tôi có thể bảo đảm điều đó.” Ông nhìn cô hoang mang. “Có ai đấy đã dựng chuyện về cô ấy.”

“Thôi được rồi.” Katya chậm rãi nói. “Nhưng cô ấy đang che giấu chuyện gì đó.”

“Tôi hiểu. Chết tiệt!”

“Chắc chắn họ đã gửi các bằng chứng tới Đội Điệp vụ trước khi tôi đến đấy.” Katya nhắc lại lần thứ ba. “Tôi đã mang tất cả các bằng chứng tôi thu thập được về nhà. Tôi đã làm việc đó ngay tức thì. Em họ tôi đã đón tôi và tôi mang chúng về thẳng nhà mình. Sau đó tôi đã tráo đổi các bằng chứng. Tôi lấy tóc và sợi vải ở những vụ án khác, ghi lại nhãn, và để chúng vào hồ sơ của Sabria, cho nên đáng lẽ nó phải giống như chỉ có phụ nữ xuất hiện ở nhà cô ấy thôi chứ.”

“Đó không phải là vấn đề. Đội Điệp vụ đã có được những chứng cứ chết tiệt của bọn họ. Tôi cho rằng bọn họ đã dối trá khi nói rằng tìm được bằng chứng về sự có mặt của nhiều người đàn ông trong nhà cô ấy. Điều đó là không thể có.”

“Ông có nghĩ bọn họ dám dựng chuyện về cô ấy đến mức ấy không?” Katya hỏi.

“Sao lại không chứ? Nó là việc dễ nhất còn gì. Chỉ cần bỏ vài sợi tóc vào giường ngủ của cô ấy. Vấn đề là, tại sao lại làm vậy?”

Katya im lặng.

“Bọn họ biết điều gì đó về cô ấy. Họ muốn ngăn chặn điều gì đó. Nó vẫn đang tiếp diễn, cho dù nó là cái gì nếu không họ không phải làm điều này.”

“Thế còn hồ sơ tài khoản ngân hàng của cô ấy thì sao?” Katya hỏi.

“Họ không nói là bao nhiêu, chỉ nói rằng cô ấy đã gửi vào tại khoản một khoản lớn hằng tháng. Đến hàng chục nghìn. Và sau đó cô ấy lạị rút tiền ra, tiền mặt.”

“Ông có cho rằng họ đã giả mạo cả bằng chứng đó không?”

“Không. Tôi không biết nữa. Việc đó sẽ khó hơn rất nhiều”

“Điều này chẳng có lý gì cả.” Katya nói. “Tại sao cô ấy lại gửi tiền vào rồi lại rút tiền ra chứ? Tại sao không giấu tiền ở đâu đó khác?”

“Tôi không rõ nữa.” Ông nói. “Tôi tin chắc có chuyện tồi tệ đã xảy ra với cô ấy, và cho dù có là chuyện gì đi nữa, thì câu trả lời nằm ở Chamella Plaza. Những phụ nữ mà cô ấy đã gặp gỡ đó đang giao dịch gì đấy. Mà tôi lại không thể tự mình đến đó. Chết tiệt!” Ông đấm tay vào tường. Tấm gương rung lên.

“Tôi sẽ trở lại đấy.” Katya nói. “Và sẽ tìm hiểu những gì có thể.”

Ông thôi không đi lại nữa. “Cảm ơn cô, Katya. Tôi xin lỗi vì quá nóng giận. Tôi rất biết ơn sự giúp đỡ của cô. Và làm ơn hãy thận trọng. Những người phụ nữ ấy không có ở đó. Đội Điệp vụ có thể đã phát hiện ra vấn đề về khu thương mại ấy và có khả năng họ đã cử người đến. Đừng để bọn họ nhận ra cô nhé.”

“Tôi sẽ cẩn trọng.”

“Tôi phải gọi điện thoại đã.”

“Được rồi.” Cô nói.

Ông ra ngoài trước khi cô kịp ẩn nấp. Cô nghe tiếng chân ông bước vội phía đầu kia hành lang trước khi cô nhận ra ông quên không gõ cửa ra hiệu cho cô biết có an toàn để ra ngoài không. Ông chạy trở lại, gõ cửa, và phóng như bay về phía cầu thang bộ.

Việc khám phá ra rằng bản thân anh không phải người duy nhất là thứ bùa ngải có tác dụng chỉ trong một số trường hợp nhất định. Anh bị từ chối được nhận việc, hay anh bị tổn thương bởi một người bạn. Đừng lo, điều đó xảy đến với bất cứ ai. Ngoài bối cảnh thích hợp đó, thì thật choáng váng. Mình không phải người đàn ông duy nhất mà cô ấy yêu. Mình không phải người đàn ông duy nhất chung giường với cô ấy.

Ông vẫn chưa choáng váng bởi sự thật đó vì ông không tin đó là sự thật, nhưng vết rạn trên tấm kính đang ngày một lớn.

Ông gọi cho Fawzi, một đầu mối của ông ở Bộ, để hỏi xem liệu anh ta có tìm được địa chỉ của tay chủ cũ của Sabria hay không. (Ông không muốn thừa nhận hắn là chổng của cô). Với một sự vô tâm đến điên tiết, Fawzi nói: “Thật ra là được. Có cho anh đấy.”

Ibrahim sao lại địa chỉ. Fawzi đã hẳn ngồi trên cái địa chi đó cả mấy ngày nay rồi, nhưng quá ư là lười nên chưa chuyển nó đi. Ibrahim không thể giải thích được rằng việc đó quan trọng đến mức nào. Ông đã vô cùng mạo hiểm khi hỏi tìm địa chỉ này rồi.

“Cảm ơn anh đã giữ im lặng về việc này.” Ibrahim nói.

“Hẳn rồi. Có phải một phần của vụ giết người hàng loạt anh đang lo không?”

“Không. Một vụ trước đó.”

“Tôi sẽ không nói gì đâu.”

Ibrahim không chắc anh ta có tin ông hay không nhưng dù sao ông vẫn biết ơn Fawzi.

Địa chỉ ghi ở Karantina, không xa lắm so với vùng phụ cận gần đó là Kandara. Khu ổ chuột đó có cái tên tiếng Anh lai căng này do từng là một khu cách ly trong vài trăm năm liền khi các bệnh dịch định kỳ quét qua thành phố. Nó từng ở cách xa trung tâm thành phố đến mức được coi là an toàn. Ngày nay nó đã gần thành phố hơn, được nối bởi một con đường cao tốc xấu xí. Chiếc cầu vượt cắt ngang khu phụ cận và phân cách khu nhà máy lọc dầu khổng lồ vẫn thải khói dầu bẩn vào không khí vốn đã khốn khổ vì muỗi và mùi của chất thải chưa qua xử lý.

Phía dưới đường cao tốc là những khu nhà ổ chuột thuộc loại mà nếu so sánh thì phải xếp khu ổ chuột dưới cầu phố Sitteen ờ Kandara vào hàng cao cấp. Người dân ở đấy hầu hết là người châu Phi, những người đàn ông và vợ, đám con không đếm xuể trần truồng và ốm yếu chạy lông nhông trên những đường phố nghẹt thở bởi mùi rác rưởi. Họ đã đốt hộ chiếu ngay khi đặt chân đến đây để không bị gửi trả về những nơi còn tồi tệ hơn thế. Ít ra thì ở đây còn có chợ ma túy và mại dâm. Iít ra thì ở đây cảnh sát còn làm ngơ. Ít ra thì ở đây chính quyền còn để họ yên, cho dù họ bị cô lập dưới khu cầu vượt này, nơi mà sự tàn phá của muỗi đã dẫn đến việc bùng phát dịch sốt rét và sốt xuất huyết, còn nạn mại dâm tràn lan thì đưa đến bệnh viện những ca nhiễm AIDS mới mỗi ngày. Khu cách ly hiện đại chính là sự thờ ơ của chính quyền.

Ai nói chính quyền không hiểu công lý nào? Ibrahim cay đắng nghĩ khi ông lái xe qua các con phố. Chính quyền chỉ cần biết làm thế nào để quản lý được Karantina mà thôi. Họ lờ đi đĩa cân với một bên đang ngày càng lệch xuống thấp hơn do sức nặng của nạn trộm cắp, tài sản phi pháp, nhà chứa, và các tệ nạn băng hoại đạo đức đã khiến cho nơi này chiếm tỷ lệ các vụ án mạng cao nhất ở Jeddah. Khi luật pháp kiếm tìm công lý, nó sẽ cân đối quy mô với một chiều hướng sa sút đồi bại và đột ngột như cú chém của lưỡi dao đao phủ. Đó chính là cách mà chính quyền đã dẹp các khu chợ ngày thứ Sáu nhộn nhịp trên phố Yazeed Ibn Naeem, nơi người dân địa phương buôn bán thực phẩm, quần áo, đồ đạc, và các dụng cụ gia đình – tất cả đều là đồ ăn cắp. Cảnh sát đã vây bắt ba nghìn năm trăm tên trộm chỉ trong một chiến dịch. Ibrahim hiểu rằng đó chỉ là giả bộ của công lý. Chẳng còn gì tồi tệ hơn là một cái tát đột ngột từ bàn tay giận dữ của người cha lỡ đãng.

Ông không thấy có gi bất ngờ khi Halifi đi đến một kết cục ở nơi đây, tại cái nghĩa địa hy vọng của thành phố này, nhưng nó khiến ông lo lắng. Mỗi khi Sabria nhắc đến hắn, cô đều để lại ấn tượng về một kẻ đã gắng hết sức để tỏ ra giàu có, đáng tin và đáng kính. Hắn điều hành một công ty nhập khẩu hoàn toàn trong sáng nếu dựa trên những con số trong sổ sách, nhưng mặt khác Halifi nhập khẩu phụ nữ, lừa gạt họ bằng những lời hứa hẹn về các công việc được trả lương cao như giúp việc và rồi bán họ cho các khách hàng giàu có muốn có quan hệ tình dục bí mật - kiểu người có thể sống trong nhà của anh ta đồng thời lo toan các công việc nấu nướng và dọn dẹp. Trong vài trường hợp, Halifi bán phụ nữ cho các dịch vụ chiêu đãi viên, hoặc thậm chí là các chủ chứa độc lập. Hắn ta hiếm khi nào từ chối một lời đề nghị nào nêu giá cả đủ cao, và có không biết bao nhiêu phụ nữ ngoại quốc nhẹ dạ đã đến đây.

Ibrahim có thể theo dõi Halifi từ nhiều năm trước nhưng Sabria không muốn vậy. Cô không muốn cố tháo gõ quan hệ với hắn ta về mặt pháp lý bởi điều đó chỉ làm sống lại quá khứ. Trong mấy tháng đầu khi cô và Ibrahim bắt đầu gặp gỡ nhau, cô đã ba lần nói về Halifi trước khi gạt hắn vào cõi hư vô.

Tòa nhà chung cư đó không đánh số nhưng các tòa nhà chung quanh thì có, nên ông vẫn có thể nhận ra đã tìm đến đúng địa chỉ. Đó là một công trình bê-tông đã cũ, bẩn thiu và giản đơn. Ở một khu vực bình thường thì hai gia đình có thể sống ở đấy. Còn ở Karantina, đó chỉ có thể là hang ổ ma túy.

Ông có cảm giác là Halifi không sống ở đây. Có vẻ ông chỉ sắp bước vào một văn phòng nhỏ hơn dành cho việc kinh doanh của hắn. Ibrahim tức giận đến mức ông phải ngồi lại trong xe khoảng chừng năm phút và tự nhắc mình rằng ông chỉ đến đấy để tìm Sabria, chứ không có hành động ngu dại nào hết.

Cánh cửa trước đã long cả bản lề. Khi ông đẩy cửa vào, nó đổ ập vào bức tường phía sau, ông phải bước qua phần ngả xuống để vào trong. Trong đó tối thui, một hành lang dài hiện ra với hai ô cửa ở phía cuối đều đang để ngỏ. Có tiếng ồn ào phía trong đó nhưng không có dấu hiệu gì cho thấy là chủ nhà đã nhận ra có kẻ xâm phậm.

Ông bước vào căn hộ bên phải. Căn phòng đầu tiên chỉ có một chiếc ghế sô-pha và một chiếc TV. Chiếc sô-pha đã lòi hết ruột ghế. Căn phòng thứ hai ông thấy Halifi. Hắn đang ngồi bắt tréo chân trên một chiếc đệm cũ ở góc phòng. Một phụ nữ trẻ tuổi đang ngồi trên một cục bê-tông bên cạnh hắn và hút thuốc phiện. Cô ta trần truồng, phần mông và lưng dưới lằn những vệt đỏ.

“Mahmoud Halifi.” Ibrahim lên tiếng.

Người phụ nữ quay lại. Cô ta là người nhập cư, có lẽ là người Philippines. Cô ta chớp mắt rồi quay lại phía Halifi, đưa cho hắn ống thuôc rồi đứng dậy. Cô ta rời khỏi phòng như thể một bà nội trợ Hồi giáo mẫu mực lánh mặt ngay khi chồng mình có khách. Khi đi qua Ibrahim nơi ngưỡng cửa, cô ta đưa một tay tóm lấy bên vú trái của mình rồi lắc lắc nó về phía ông một cách thích thú.

Ibrahim đã chuẩn bị tất cả những thủ thuật khôn khéo để Halifi phải mở miệng, nhưng chứng kiến trạng thái tỉnh táo kiểu này, ông hiểu rằng tất cả đều vô ích.

“Tôi cần tìm Sabria Gampon.” Ông nói.

Halifi chẳng có vẻ gì hốt hoảng cả, thậm chí ngay cả khi Ibrahim xốc hắn lên rồi ném hắn vào tường. Khi Ibrahim hỏi, “Cô ấy đang ở đâu?” thì Halifi bất ngờ phá lên cười, một tràng cười hô hố nghẹt giọng và nói Ồ có, tao có nhớ con đó, một con điếm đời xưa. Ibrahim đấm một quả làm vỡ mũi Halifi và ném sầm hắn vào tường, nhưng hắn vẫn không có vẻ gì là hiểu được sự nghiêm trọng của vấb đề. Hắn chỉ quặn người lại lăn lộn, bò lê bằng đầu gối, và nhìn máu chảy nhỏ giọt từ miệng mình trên nền xi-măng. Hắn ngẩng lên nhìn Ibrahim.

“Sabria ở đâu?” Ibrahim gằn giọng, mặc dù trong bụng ông tự nhủ rằng đây là một sai lầm, ông chỉ phí thời gian.

“Làm sao tao biết được?” Halifi chảy nhỏ giọt cả một bãi máu nữa và ngồi ngồi xổm xuống. “Tao không gặp cô ta nhiều năm rồi.”

Ibrahim chỉ muốn giết hắn. Thậm chí đến lúc này, sau tất cả sự im lặng mà Sabria đã chịu đựng để chôn chặt gã đàn ông đó, sự ghê tởm và căm phẫn của Ibrahim vẫn còn nguyên vẹn. Chuyện thật dễ dàng. Nhặt một ống tiêm rỗng trên sàn nhà và tiêm một bong bóng cỡ đồng một trăm riyal vào cổ hắn. Ngay cả khi cảnh sát có quyết định điều tra cái chết của một tên xì ke mà túy ở khu Karantina, thì họ cũng chẳng thể tình nghi ai khác hơn ngoài những tên nghiện trong toà nhà này cả. Nhưng ông không mạo hiểm làm điều đó. Chẳng có gì ràng buộc ông với gã đàn ông kia hay cái nơi này hết.

“Nếu cô ta đã biến mất,” Halifi nói, “thì tức là cô ta đã chạy trốn. Đó là cách cô ta luôn luôn làm.”

Ibrahim đá hắn ngã trên sàn nhà rồi bỏ đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Ngày thứ Hai, Katya dành toàn bộ thời gian nghỉ ăn trưa ở quán cà phê tại Chamelle Plaza. Ibrahim không thể mạo hiểm tự mình lái xe đưa cô tới đó, nên ông đã đề nghị được trả tiền taxi cho cô. Nhưng cô đã gọi cho Ayman, và cậu vui vẻ nhận lời đưa cô đi.

Cô gọi một cốc latte và ngồi bên một chiếc bàn với tờ báo mở ra trước mặt. Cô có gây sự chú ý một chút khi ngồi đó một mình - hầu hết phụ nữ đến đây cùng bạn bè của họ - nhưng đó là cố ý. Cô muốn ai đó chú ý đến mình. Ai đó thấy cô kỳ lạ và phải nhìn cô đến hai lần, có thể hơi khựng lại để dò xét. Và cô mong là người đó biết về Sabria.

Khi bắt đầu cảm thấy thật ngớ ngẩn, cô đứng dậy để nói chuyện với người phục vụ, vẫn là người phụ nữ trẻ đã nhận ra Sabria từ bức ảnh toàn thân đó. Cô ta tên là Amal và cô ta đã nhận ra Katya.

“Cô đã tìm thấy cô ấy chưa?” Amal hỏi.

“Chưa, tôi vẫn chưa tìm được.” Katya nói. “Cô còn nhớ đã thấy cô ấy đi cùng những người khác chứ?”

“Vâng.”

“Liệu cô có nhận ra ai trong số đó nếu gặp lại họ không?”

“Có chứ. Thực ra một người vẫn đến đây. Cô ấy ngồi ở bàn trong góc đó và chờ đợi, nhưng bạn của cô không đến. Cô ấy có vẻ thất vọng.”

“Cô có biết tên cô ấy không?”

“Không. Nhưng tôi sẽ nhận ra nếu tôi trông thấy cô ấy.”

“Cô gặp cô ấy lần cuối là khi nào thế?”

“Sáng nay. Cô ấy đến đây tầm khoảng mười giờ. Có lẽ ngày mai cô ấy sẽ đến.”

“Cô có thể nói giúp là tôi một thứ cho cô ấy được không?” Katya nói. “Thứ này rất quan trọng.”

Katya đã có nửa số hồ sơ án mạng chưa được giải quyết của Sở. Chúng nằm trong những chiếc hộp trên sàn nhà phía sau cô. Phòng Lưu trữ đã cam kết sẽ giao cho cô số còn lại khi cô sẵn sàng. Cô cũng đã có tất cả hồ sơ cho vụ án hiện tại - các bức ảnh, các phác thảo, và các báo cáo nhỏ lẻ về mười chín nạn nhân được thực hiện bởi các sĩ quan khác nhau là thuộc cấp của Ibrahim, cả hồ sơ về Amina ál-Fouad nữa. Cô đã mất quá nhiều thời gian của tuần vừa rồi cho những mánh khóe để có được số hồ sơ này. Giờ thì thật buồn cười khi nghĩ chúng là những hồ sơ dễ có được nhất.

Cô không thể tiếp cận được một hồ sơ án mạng đã đóng nào. Katya hình dung chúng được khóa trong các ngăn tủ trong phòng lưu trữ. Điều mà cô không phải hình dung - điều mà với cô là rất rõ ràng qua cuộc trao đổi với Ibrahim - đó là trở ngại thực sự để tiếp cận chúng chính là việc thuyết phục được Chánh Riyadh về sự thiết yếu của chúng đối với vụ án này. Ibrahim đã báo cáo tóm lược về phát hiện của Katya cho Chánh Riyadh, và ông chấp thuận sự thay đổi tạm thời về trách nhiệm công việc của cô, nhưng không đề cập gì đến việc mở các hồ sơ đó. Có lẽ ông chưa tin hẳn giả thuyết của Katya là đúng.

Sau đấy là vấn đề về chuyên môn: có nhiều hồ sơ đóng hơn những hồ sơ chưa giải quyết được. Katya và Ibrahim sẽ phải thảo luận để tìm một hệ thống chọn những hồ sơ liên quan nhất. Sẽ như vậy, nếu Riyadh đồng ý cho mở các hồ sơ đó. Katya không hiểu Chánh Thanh tra lắm, nhưng cô linh cảm ông sẽ không khó chịu với lập luận rằng có những vụ đã bị truy tố nhầm. Tuy nhiên, có thể ông thấy việc mở rộng có liên quan đến tập hợp và phân loại hồ sơ đó hoàn toàn phí phạm thời gian.

Đến thứ Ba, người ta đã dựng xong một khu văn phòng ở tầng dưới, và cô lao đầu vào đống hồ sơ trên bàn làm việc. Mỗi khi nghĩ đến “bàn làm việc của mình,”cô phải cố nín cười. Nó không hẳn là một chiếc bàn làm việc, chỉ là bàn formica lớn có chân gấp. Xung quanh đó là sáu chiếc ghế kim loại theo chuẩn cảnh sát với đệm da đã rách một hoặc hai chiếc thường dành cho các nữ sĩ quan. Toàn bộ khu đó được bao quanh bởi rèm che đen đặc, nhưng họ có hai chiếc đèn bàn và một phần cửa sổ, nên cũng có đủ ánh sáng. Tấm rèm đã chắn ngang tầm nhìn của họ ra căn phòng quanh đó. Có thể chỉ cần chiếc ghế đẩu và một thùng các tông, và cô vẫn ngồi đó với niềm hãnh diện thầm kín của một con chỉm ưng.

Buổi sáng hôm đó, hai nữ sĩ quan đến để giúp cô đọc qua các hồ sơ vụ án. Ban đầu họ làm việc nghiêm chỉnh nhưng không tìm thấy quy luật của vụ án nào cả, nên họ buôn chuyện suốt mấy tiếng đồng hồ liền. Trước đây Katya đã rất kính nể những phụ nữ này - những sĩ quan được đào tạo tại học viện cảnh sát. Cô đã phải lấy hết can đảm để nói họ đọc lại các hồ sơ một lần nữa, và rồi lần nữa, bao nhiêu lần cũng được đến khi họ thấy điều gì đó.

Khi những phụ nữ đó đi khỏi, không có ai vào khu làm việc đó nữa ngoại trừ Ibrahim. Ông mang vào một số hồ sơ thất lạc. Ông gõ nhẹ lên một cột kim loại dành để treo tấm rèm vải đến, ra hiệu cho người ở trong sẵn sàng khi ông vào. Katya hiểu rằng sớm muộn cô cũng sẽ cảm thấy cô chỉ đang di chuyển sự giam hãm của mình xuống dưới tầng mà thôi. Nhưng cô vẫn chưa mất hứng. Thậm chí cô đã tự cho phép mình mơ mộng được trở thành thám tử và có phòng làm việc riêng - xin Chúa che chở cho cô và tha thứ cho sự huyễn hoặc của cô.

Cô dành cả buổi sáng để đọc các hồ sơ nhưng không thu nhặt được gì đáng quan tâm. Cô đang ngồi một mình trong khu vực màn quấy đó thì nghe thấy tiếng gõ nhẹ lên chiếc cột kim loại. Tấm màn vén lên để lộ ra Tiến sĩ Becker. Cô mang theo một chiếc hộp rồi đặt nó lên bàn.

“Giao hàng một lần những hồ sơ án mạng đã đóng nhé.” Cô vui vẻ nói. “Theo đúng yêu cầu.”

“Làm thế nào cô có được chúng vậy?” Katya vừa hỏi vừa đứng dậy.

“Tôi đã thuyết phục Chánh Riyadh rằng tôi muốn làm một số so sánh giữa những tên sát nhân ở Mỹ và ở đây.”

Katya kinh ngạc. Tuy nhiên, hóa ra trong chiếc hộp là ba mươi tám hồ sơ vụ án từ những năm 1980. Không thực sự giúp ích như cô mong đợi.

“Tôi nghĩ sẽ ngồi với cô một lúc và làm gì đó.” Charlie nói.

“Tôi rất tiếc.” Katya ra hiệu vể phía chồng giấy tờ trên bàn “Không có hồ sơ nào bằng tiếng Anh đâu.”

“Có thể tôi chỉ xem ảnh thôi.” Charlie nói.

Thực ra cô có thể giúp. Katya đã vẽ một sơ đồ các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Ả Rập và đề nghị Charlie để riêng ra bất cứ hồ sơ nào mà tư thế của nạn nhân có sự tương đồng với những chữ cái đó Charlie đào bới trong chiếc hộp của mình và háo hức bắt tay vào việc nhưng mười phút sau đó, cô ngừng lại bực tức.

“Không hồ sơ nào có ảnh cả.” Cô nói.

“Sao cơ?”

Charlie ra hiệu về phía những hồ sơ cô vừa xem qua. “Không có lấy một bức ảnh trong bất cứ hồ sơ nào cả. Tôi đang có linh cảm xấu về số còn lại đấy.”

Chỉ có ba hồ sơ là có ảnh, và chúng đều chụp các bộ phận như một bàn chân, một cánh tay đầy máu. Katya chán nản. Sở đã sử dụng các tay máy pháp y ngay từ khi có máy ảnh. Tại sao những vụ án này lại không có ảnh cơ chứ?

“Có người đã lấy ảnh đi rồi.” Cô nói. “Chúng tôi lúc nào cũng chụp ảnh nạn nhân mà.”

“Thậm chí là phụ nữ sao?” Charlie hỏi.

“Vâ-âng.” Katya ngập ngừng nói. “Thậm chí là phụ nữ.” Hiện giờ thì điều đó đúng, nhưng liệu hai mươi lăm năm về trước có đúng không nhỉ? Cô đang hướng suy nghĩ nhiều hơn đến việc ai đó đã lấy những bức ảnh trên với cái cớ để bảo vệ sự đứng đắn.

Katya tự mình xem lướt các hồ sơ. Charlie nói đúng, những bức ảnh chụp hiện trường vụ án đã được chọn lọc kỹ càng. Chúng chỉ chụp những bộ phận riêng lẻ hoặc chụp những vật chứng tìm được ở hiện trường mà thôi. Một khẩu súng. Một cái búa bê bết máu. Không có bức ảnh nào chụp toàn thân nạn nhân cả.

“Liệu có phải đây là vấn đề phẩm hạnh không?” Charlie hỏi.

“Có lẽ vậy.” Katya đáp. Đương nhiên đó phải là những lo ngại về phẩm hạnh rồi. Một người như Abu-Musa có thể đã tiếp cận hồ sơ lưu trữ điểm qua tất cả các nạn nhân nữ, và hủy những bức ảnh chụp toàn thân, khuôn mặt, và những phần để lộ da thịt không hợp với khuôn phép. Theo khuôn phép chặt chẽ nhất của Hồi giáo, người ta còn bị cấm không được xuất hiện trong ảnh. Để lộ ra những khiếm khuyết, những phần nhạy cảm của cơ thể cần được che giấu, đặc biệt là trước Ống kính máy ảnh càng là điều cấm kỵ.

Nhưng Katya có cảm giác lạnh buốt sống lưng. Có những nguyên do mờ ám hơn thế khi loại bỏ ảnh trong những hồ sơ vụ án này.

“Tôi vẫn đang tự hỏi, thực ra chúng ta biết gì về gã này nhỉ?” Daher nhắc lại lời của chính mình để đoán chắc với cả hai rằng suy nghĩ của anh ta là cẩn trọng. “Chúng ta chẳng biết gì cả. Nhưng điều gì có thể được cho là chúng ta biết về hắn chứ? Có hai điều chắc chắn. Một, hắn có sự day dứt về tôn giáo. Và hai, hắn là kẻ điên. Vậy nếu đặt hai điều đó lại theo cách dễ nhận thấy nhất, thì dĩ nhiên sớm

muộn hắn sẽ tìm đến một thầy trừ tà.”

Ibrahim gật đầu. “Lập luận có lý đấy.”

“Như vậy thì tại sao không tên khoác lác nào ở đấy giúp được gì nhỉ?”

“Chúng ta đã có vài cái tên rồi.”

Họ bước ra khỏi xe. Bọn họ đang ở Kandara, chỉ cách cây cầu trên phố Sitteen vài tòa nhà, chuẩn bị hỏi thăm tay phù thủy thứ năm trong ngày. Có thể Daher đã đúng - và ngay cả khi có vẻ chẳng giúp biến chuyển tình hình theo hướng khả thi hơn, thì anh ta vẫn thật thông minh khi ghép hai điều đó lại với nhau.

Ibrahim không thể thôi suy nghĩ về vệt lằn sưng tấy trên lưng Farrah, và điệu cười tự mãn của Jamila. Nó vẫn khiến ông giận điên người. Mặc dù Farrah không đau lưng nữa, nhưng ông vẫn quyết không chấp nhận rằng một tên phù thủy lang băm đã đuổi được hồn ma ra khỏi cơ thể con bé. Hắn chỉ đơn giản gây ra hiệu quả trấn an bằng một vết sẹo xấu xí và nguy cơ nhiễm trùng. Chừng nào liều thuốc đó vẫn còn tác dụng thì họ vẫn có lý do biết ơn hắn ta, ngoại trừ việc ông không hề thích con cái mình tin vào những thứ tào lao đó, nhất là khi nó có liên quan đến tôn giáo.

Họ bước theo những ngõ ngách nhỏ hẹp của al-Balad. Jeddah có đến cả tá thầy phù thủy trừ tà tiếng tăm và có lẽ là hàng trăm người nữa đang hành nghề trong tầng hầm hoặc phòng khách nhà họ, hàng xóm và thậm chí cả con phố ai cũng biết tên. Điều quan trọng là những kẻ hành nghề này chỉ thực hiện ar-ruqyah ash-shar'eeya - những bùa phép Sharia dựa trên các bài cầu nguyện của Hồi giáo. Bất cứ thứ gì khác sẽ khiến họ phải chịu tội tử hình và bị chặt đầu trước công chúng.

“Anh có nói với tay này là chúng ta đang đến không?” Ibrahim hỏi.

“Có ạ. Tôi đã đặt hẹn. Và tôi có nói chúng ta là cảnh sát.”

Căn nhà bên ngoài có vẻ bình thường, một cánh cửa gỗ với hai cửa sổ có cửa chớp ở hai bên. Họ nhấn chuông và người phục vụ mở cửa, dẫn họ vào cái sân nhỏ. Nhờ có đài phun nước và vài chậu cây treo mà không khí khá mát mẻ. Họ ngồi xuống hai chiếc ghế gỗ chờ đợi. Rõ ràng chỗ này tốt hơn bất cứ chỗ nào họ đã đến hôm nay. Ít ra thì tay phù thủy cũng có cách cư xử phải phép đủ để khách ngồi đợi trong bóng râm, ngay cả khi chẳng mời khách uống gì hết.

“Có gì đó vẫn khiến tôi băn khoăn.” Daher nói. Anh ta vẫn mang vẻ mặt lo lắng ấy. “Nếu cân nhắc đến những chuyện tâm linh đó trong mỗi vụ án mạng thì tên hung thủ của chúng ta hẳn là nhân vật tôn giáo.”

“Và anh đang nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra nếu hắn là một thầy tế Hồi giáo phải không?”

“Đúng vậy, đại loại thế.”

“Nó cũng chính là điều tôi đang băn khoăn.” Ibrahim nói. “Hắn đã xuyên tạc điều gì đó linh thiêng, điều mà khiến hắn cảm thấy giống với một thầy tế.”

“Tôi thấy khó hình dung được.” Daher nói. “Tôi nghĩ về tất cả thầy tế và học giả tôi từng biết, và không hề thấy ai có dính líu đến vụ án mạng nào. Chính vì lẽ đó tôi không thể hình dung tên giết người đó lại có thể là một thấy tế, dù có cố đến mức nào đi nữa.”

Ibrahim không biết mình có thể tiếp tục cuộc hội thoại này đến khi nào, nhưng ông quyết định mạo hiểm, bởi họ đang có mạch chuyện hay.

“Phần lớn thầy tế không hề lầm đường lạc lối.” Ông nói. “Nhưng bất cứ khi nào anh đưa chuyện gì đó đi quá xa, anh sẽ làm hỏng nó. Hãy nghĩ đến những thầy tế lúc nào cũng bị ám ảnh bởi đức hạnh, đến nỗi bọn họ tìm thấy tội ác ở bất cứ thứ gì. Họ có thể ra các điều luật tôn giáo cấm phụ nữ ăn kem ốc quế ở nơi công cộng vì e ngại việc hiểu theo 'nghĩa rộng'. Hay nói rằng không thể chấp nhận một người đàn ông ngồi trên chiếc ghế mà một phụ nữ vừa ngồi bởi hơi ấm của cô gái còn lưu trên nó có thể khêu gợi. Cho dù những điều như vậy có xảy ra đi nữa, thì họ có thực sự cho rằng việc nêu lên vấn đề, khiến mọi người phải ý về nó sẽ giúp kiểm soát hay làm tan biến điều đó không?”

“Ai cũng biết mấy tay đó không bình thường mà.”

“Ai cũng thế ư? Thật vậy không?”

“Thôi được, nhưng ông hiểu ý tôi muốn nói là gì mà.”

“Lúc nào người ta chẳng tin vào những chuyện tào lao ấy chứ.” Ibrahim nói có phần nóng nảy. “Tôi chỉ muốn nói rằng có người bị ám ảnh bởi đức hạnh đến mức đã tự biến mình thành những kẻ lầm đường lạc lối. Bọn họ nhìn thấy ám chỉ về tình dục ở cả những thứ trong sáng nhất.”

Daher im lặng ngẫm nghĩ.

“Có lẽ có điều gì đó lớn hơn mà chúng ta buộc phải chịu ở đây.” Ibrahim nói. “Tên giết người của chúng ta là một kẻ cực đoan, nhưng khi chúng ta nghĩ đến việc hắn ta là ai, chúng ta phải thấy hắn trong những người khác. Những người vô tội. Hắn làm lộ ra con người lầm đường lạc lối trong chúng ta.”

“Đúng rồi. Nó chính xác là cảm giác đó.”

Ngay sau đó người phục vụ trở ra với hai cốc nước.

* * *

Charlie ngồi cùng với Katya cả thời gian còn lại của buổi chiều. Như thường lệ, cô ăn bữa trưa mua sẵn mà hôm nay cô chia với Charlie. Một chiếc bánh kẹp ăn khai vị, ít bánh quy cây, pho-mát dây, cà rốt và cô-ca không béo trong tủ lạnh của phòng thí nghiệm. Riêng còn quả táo vẫn còn ở trên bàn trước mặt họ, vì họ không biết làm sao chia nó cho đều.

Họ chưa xem xong những hồ sơ trong hộp dưới sàn nhà. Cho đến giờ mới chỉ có sáu hồ sơ vụ án có ảnh hiện trường chụp toàn thân các nạn nhân, và không cái xác nào có tư thế khác thường cả.

“Bức ảnh này có cái gì đó.” Charlie nói. “Có lẽ vậy.”

Cô đưa cho Katya bức ảnh chụp một bàn tay bị chặt. Katya đọc báo cáo và nhận ra nó không phải án mạng. Hai mươi năm trưóc một người đàn ông vô gia cư đã phát hiện một bàn tay bị chặt dưới con mương thoát nước gần cầu vượt ở Kandara. Ông ta gọi cảnh sát và họ mở cuộc điều tra. Bên pháp y đã phát hiện ra nạn nhân vẫn còn sống khi bị chặt đứt tay. Tuy nhiên họ không chắc bàn tay đó có bị chặt một cách hợp pháp hay không.

Khi ai đó bị trừng phạt vì tội ăn cắp, họ sẽ bị người hành hình của thành phố chặt đứt bàn tay. Người hành hình sử dụng một thanh gươm nhỏ hơn gươm dùng để chặt đầu. Bàn tay bị chặt đứt sau đó sẽ được chôn cất một cách hợp thức dưới sự hỗ trợ của cảnh sát Jeddah. Đôi khi, có người được giảm nhẹ tội và được bác sĩ phẫu thuật cắt tay có sử dụng thuốc gây mê. Theo báo cáo, có khả năng không phải lúc nào các bác sĩ cũng loại bỏ bàn tay bị chặt theo đúng cách thức và một bàn tay bằng cách nào đó trôi theo hệ thống nước thải của thành phố. Bản thân vụ án này - một người nào đấy đã ghi tên rất lố bịch là SALEM-I-DEK, có nghĩa là “Chúa ban phước cho bàn tay của bạn”, một câu nói rất phổ biến khi khen ngợi tài nấu ăn của ai đó - có vẻ là một trong những vụ án không đi đến đâu. Nó không phải trọng án, và vẫn còn bỏ ngỏ.

Sĩ quan phụ trách vụ án, Trung úy Yasser Mu'tazz, đã điều tra kỹ càng hệ thống cống thoát nước và nói chuyện với các bác sĩ có phòng khám có thể kết nối với hệ thống cống thoát. Ông ta không phát hiện ra điều gì khác thường, và không bác sĩ nào ở những phòng khám đó từng phẫu thuật cắt bỏ bàn tay cả. Ông ta cũng nói chuyện với các sĩ quan phụ trách việc chôn cất các bàn tay bị chặt và thấy thủ tục của họ rất chuẩn mực. Dấu vân tay của bàn tay đó không phù hợp với bất kỳ dấu vân tay nào trong cơ sở dữ liệu quốc gia, và vụ án đã chìm vào quên lãng kể từ đó.

Thật kỳ lạ khi Mu'tazz đã nỗ lực đến vậy trong khi bàn tay đó đã được tìm thấy ở nơi cơ bản là một con mương thoát nước hai lần một năm khi ở Jeddah thực có mưa. Nhìn bức ảnh, Katya có thế thấy trời đã không mưa một thời gian rồi. Con mương khô trơ đáy và bị phủ một lớp cát dày.

“Điều này thật kỳ lạ.” Katya nói. “Vụ án này xảy ra hơn hai mươi năm rồi. Tại sao nó lại nằm trong những hồ sơ vụ án hiện tại chứ?”

Khi Katya ngước nhìn lên, nét mặt của Charlie lộ vẻ nghiêm trọng. “Tôi vừa tìm được cái gì đó.” Cô nói. Cô đã cầm tất cả các bức ảnh của vụ án, và đưa từng bức một sang cho Katya. Bức ảnh chụp vẫn bàn tay bị chặt đó ở một góc khác. Người chụp hẳn đã xuống tận con mương thoát nước để chụp ảnh. Con mương rộng chừng một mét. Trông như thể bàn tay đang bò về phía ống kính.

“Hãy nhìn lên bức tường sau bàn tay ấy.” Charlie nói. “Hay đúng hơn là thành của con mương.”

Có một vệt máu trên đó đã khô đen vì nắng.

“Cô có thấy nó có giống một chữ cái nào không?” Charlie hỏi.

“Có.” Katya nói. Cô nói một cách dứt khoát. Những đường viền của vết máu rất sắc nét như thể được sơn lên vậy. “Nhưng rất khó nhận ra đó là chữ cái nào. Nó có thể là một nửa chữ F hay chữ Q gì đó.” Phạm vi của ống kính máy ảnh không đủ rộng để chụp được toàn bộ. Cô lật bức ảnh lại. Có một cái tên và địa chỉ mờ mờ ở góc dưới bên phải được đánh máy thanh thoát: Hussain Sa’ud.

Bọn họ nghiên cứu kỹ các bức ảnh còn lại nhưng không có cái nào cho thấy vết máu đó. Và theo tất cả những gì Katya hiểu, thì đó có thể là một vết gì khác. Cô đọc hồ sơ một lần nữa. Mu'tazz không hề đề cập gì đến vết máu ở hiện trường. Liệu họ đã lấy mẫu nó chưa? Có kiểm tra xem nó có phù hợp với nhóm máu của bàn tay kia hay không? Katya vừa thất vọng vừa ngờ vực. Thật kỳ quặc khi Mu'tazz kết luận rằng bàn tay đã trôi theo con mương trong khi trời không mưa một thời gian rồi. Kỳ quặc hơn nữa là có thể có bằng chứng là vết máu ở hiện trường mà họ lại không thu thập nó. Cô nhận ra Charlie đang quan sát cô và cô giải thích trong khả năng có thể về vụ án và về cách xử lý của Mu'tazz.

“Có lẽ ông ta là lính mới chăng?” Charlie hỏi.

“Có nghĩa là sao cơ?”

“Một người mới vào nghề.”

“À, có thể.” Katya nói. “Nhưng ông ta đã là trung úy rồi. Tôi tự hỏi là tại sao hiện giờ ông ta không nói gì về vụ này.”

“Vụ án xảy ra hai mươi năm rồi mà.” Charlie nêu vấn đề. Thấy mặt của Katya, cô nói thêm: “Tuy nhiên tôi hiểu cô định nói gì: không phải lúc nào người ta cũng tìm thấy một bàn tay bị chặt.”

Imam Abdullah Arsheedy trông giống như hầu hết những thầy tế Hồi giáo bình thường khác trên thế giới này. Ông có khuôn mặt chất phác, lọt thỏm giữa đám tóc, khăn đội đầu và một bộ râu quai nón với sự cân xứng phải-thừa-nhận-là đáng chú ý của một nhà tu mộ đạo. Chỉ có đôi mắt của ông khiến cho khuôn mặt có vẻ khác biệt. Chúng hơi nhô và trũng xuống, kỳ thực là xấu, nhưng lại ánh lên vẻ hiếu kỳ.

Bọn họ ngồi trong phòng làm việc của ông, một căn phòng tối tăm mát dịu, bày biện toàn sách giáo khoa về tôn giáo. Không khí đầy bụi và nặng mùi hương trầm. Vừa uống trà, họ vừa trao đổi và thảo luận về những chuyện thường ngày, cố lái câu chuyện dần hướng sang phần trọng tâm của cuộc hội thoại. Họ vừa mới chuyển chủ đề câu chuyện sang vấn đề làm phép thì thầy trừ tà hé lộ một điều mà Ibrahim coi là chỉ tiết điên rồ.

“Phép thuật là có thực.” Arsheedy thẳng thắn nói. “Chính Nhà tiên tri - cầu chúc ngài bình an - đã nói 'tà ác là cái thực sự có thật'. Ông đã nhắc đến con mắt tà ác. Kinh Koran thừa nhận rằng phép thuật có tồn tại và có những quyền năng riêng, và những quyền năng đó là có thật. Điều mà kinh Koran không chấp nhận là việc sử dụng phép thuật. Đó là điều cấm kỵ.”

“Vậy thì những gì ông làm có khác biệt như thế nào với phép thuật?” Ibrahim hỏi. Ông thừa biết câu trả lời thông thường sẽ là gì đối với câu hỏi đó, nhưng ông muốn được nghe câu trả lời của Asheedy.

“Với những cách thức được chấp nhận trong kinh Koran và Sunna, việc trích xuất phép thuật từ một người nào đó sau khi phép thuật xảy ra là hoàn toàn có thể.”

Thầy trừ tà có vẻ đã nhận thấy sự hoài nghi của Ibrahim. Ông ta chỉ nói chuyện với Ibrahim, hoàn toàn lờ Daher đi, và nói với giọng điệu của cha với con khi giải thích những ý niệm thông thường.

“Điều cần nhớ là,” Arsheedy nói tiếp, “phép thuật chỉ có tác động đối với một người dựa trên ý nguyện của Allah. Sẽ là sai trái khi tin rằng điều gì đó có thể xảy đến với anh và có một quyền năng nào đó còn lớn hơn Allah mà Người không thể kiểm soát được. Do đó, khi có ai bị ảnh hưởng bởi tà thuật, thì rõ ràng là cách trốn tránh duy nhất là là ở bên Allah. Những gì tôi làm bản thân chúng không có tác dụng gì, tất cả đều nhờ vào quyền năng của Allah.”

Ibrahim phải thừa nhận là ông ta nói có lý, ngoại trừ một vấn đề nhỏ là niềm tin của ông ta và phép thuật. Tuy nhiên tranh luận từ ngữ trong kinh Koran với ông ta quả không phải là một điều khôn ngoan chút nào, nhất là khi muốn có thông tin từ ông ta.

“Rất thú vị.” Ibrahim nói. “Hẳn là ông đã tiếp xúc rất nhiều với những người bị ảnh hưởng bởi các loại phép thuật khác nhau. Nhìn từ bên ngoài, có vẻ như họ bộc lộ những đặc trưng của bệnh tâm thần phân liệt, giả dụ vậy, hoặc một vài rối loạn về tâm thần khác. Ông có bao giờ giới thiệu họ đến các phòng khám y khoa không?”

“Có, cũng thi thoảng.” Ông ta đáp. “Mặc dù phần lớn các tín chủ tìm đến tôi sau khi những khoa học y tế đối với họ đã thất bại. Các loại thuốc và phương pháp điều trị Tây y mà họ từng thử đều không có hiệu quả, cho nên họ đã tìm đến sự cứu giúp trực tiếp từ Allah. Một trong những yêu cầu khác đối với ar-ruyah ash-shar'eeya là tín chủ đó phải là người có niềm tin, họ phải tin, như tôi, rằng mọi điều chúng ta mong muốn có đều trực tiếp đến từ đức Allah.”

“Điều này cũng có lý.” Ibrahim nói. “Vậy là phần lớn những tín chủ của ông là những người đặc biệt sùng đạo?”

“Có rất nhiều mức độ khác nhau.”Asheedy luôn tỏ ra trao đổi một cách thẳng thắn và cởi mở cho dù Ibrahim có nói gì đi nữa. “Tôi cho rằng những bất ổn về tâm thần có thể khiến cho người ta càng dễ tiếp nhận đức tin hơn. Họ ở trong trạng thái nhu cầu cao hơn, có thể nói như vậy, và do đó đức tin là đặc biệt quan trọng đối với họ. Nó là cách để hàn gắn những đau khổ mà họ phải trải qua.”

“Và điều gì sẽ xảy ra nếu những tín đồ đó không, nói thế nào nhỉ, bị ám nhập bởi một hồn ma nào đó?” Ibrahim nói. “Điều gì sẽ xảy ra nếu anh ta chỉ bị tâm thần phân liệt thôi?”

“Tất cả những đau đớn đều là một loại ác tà.” Vị thầy tu điềm tĩnh đáp. “Và Allah luôn sẵn lòng cứu chữa những nỗi đau đó. Có thể việc cứu chữa sẽ đạt hiệu quả nhất nếu kết hợp với khoa học y tế, nhưng có một số trường hợp nhất định mà y khoa không thể làm được gì và chỉ có thuật làm phép mới có đủ sức mạnh để xoa dịu linh hồn của nỗi đau đó.” Ông ta đặt tách trà của mình trở lại chiếc khay, bắt tréo hai tay trong lòng rồi dò xét nhìn những vị khách. “Liệu tôi có nhầm không khi cho rằng các ông ở đây là vì công việc của cảnh sát?''

“Không sai, điều đó là chính xác.” Ibrahim nói. Ông liếc nhìn Daher người đang tỏ vẻ học trò mẫu mực. “Chúng tôi đang cố gắng tìm hiểu khoa tâm lý học về một tên tội phạm đặc biệt đang phải đương đầu. Hắn đã giết nhiều phụ nữ, và có những mối liên quan về tâm linh trong cách hắn giết người.”

Thầy trừ tà nghiêm nghị gật đầu. “Tôi e rằng tôi không thể giúp các anh về khoa tâm lý học theo bản chất của nó, nhưng tôi có thế xác nhận rằng khi một người thực sự bị tác động bởi tà ác - một hồn ma hay con mắt tà - anh ta có khả năng thực hiện những hành vi suy đồi nhất có thể hình dung được.”

“Vâng, tôi chắc là vậy.” Ibrahim nói. “Có lẽ ngay cả khi những hành vi đó làm ô uế thanh danh của tôn giáo chăng?”

“Nhất là trong trường hợp đó.” Arsheedy nói. “Đôi khi tôi cho rằng đó là cách duy nhất mà tà ác có thể bộc lộ - tức là bằng cách bóp méo tôn giáo. Tôi không ngạc nhiên khi tên sát nhân của các ông đang sử dụng đạo Hồi vào việc bóp méo đó của hắn. Tà ác luôn cố gắng để hủy diệt những gì thiêng liêng nhất - và nó luôn thất bại.”

Có gì đó lạnh lùng trong niềm tin kiên định của ông ta. “Có thể đấy là một câu hỏi kỳ quặc.” Ibrahim nói, “nhưng ông có tình cờ có tín chủ nào - kể cả hiện giờ hoặc trước đấy - bị mất một bàn tay không? Hoặc ai đó bị ảnh hưởng bởi người mất một bàn tay chẳng hạn?”

Arsheedy cân nhắc và chậm rãi lắc đầu. “Tôi không rõ nữa.” Ông ta nói. “Đúng là tôi có những tín chủ đã mất một bàn tay, nhưng họ không tìm đến tôi để làm phép.”

“Tôi muốn có một danh sách về những tín chủ đó, nếu ông không phiền.”

Thầy trừ tà chau mày. “Tôi e rằng không thể dễ dàng tiết lộ danh tính của họ được.” Ông ta nói. “Xin ông hiểu cho.”

“Tôi e rằng không thể dễ dàng ngoảnh mặt đi trước một kẻ đang lạm dụng tà phép trong một xã hội Hồi giáo được.” Ibrahim không hề câu nệ đáp lại. Thầy trừ tà mở miệng - hẳn là để bào chữa cho mình - nhưng rồi có vẻ ông ta đã nghĩ khác. Ông ta với tay về phía ngăn kéo bàn làm việc và lấy ra tờ giấy cùng chiếc bút.

“Ông có bao giờ thấy sợ không?” Đó là Daher. Mặc dù không khí đang im lặng, nhưng chủ nhà có vẻ không bất ngờ trước câu hỏi đó của anh ta.

“Có chứ.” Arsheedy vừa nói vừa liếc nhìn Ibrahim. “Rất khó để không sợ hãi khi đối mặt với ác tà.”

“Như vậy là ông nghĩ về thứ ác tà đấy như một thứ tách biệt khỏi bản thân một con người.” Daher nói tiếp. “Hẳn là rất khó để nhận thấy điều đó khi phải đón tiếp một kẻ mất lý trí và có thể có hành vi bạo lực trong phòng làm việc của mình.”

“Điều buồn cười là,” vị thầy tu thừa nhận, “những kẻ bạo lực không bao giờ khiến tôi sợ hãi cả. Thường thì sự thô bạo về sức mạnh thể chất là một sự giải thoát, hoặc sự nỗ lực của cơ thể để dứt bỏ chính nó khỏi điều gì đó xấu xa. Những kẻ thực sự làm tôi khiếp sợ là những người trầm lặng, khổ hạnh, nhưng anh có thể nhận thấy trong ánh mắt của họ sự căm hận vô bờ. Anh có thể cảm thấy điều đó, ngay cả khi họ chẳng làm gì hết. Anh có thể cảm nhận được nó ngay khi họ bước chân vào phòng. Bọn họ là những kẻ khiến tôi khiếp sợ nhất. Kỳ thực nó giống như bọn họ đang cố gắng kiềm tỏa cái tôi tà ác của chính mình, và làm như vậy, bọn họ đã ràng buộc với nó.”

Daher ngồi ngả ra sau trông có vẻ lo lắng. Ibrahim có cảm giác rằng thầy trừ tà có điều gì khác muốn cho họ biết.

“Có một người đàn ông từng khiến tôi sợ hãi hơn bất cứ ai.” Arsheedy vừa nói vừa đặt bút xuống. “Anh ta đến với bệnh sử về tình trạng lo âu và phiền muộn. Gia đình anh ta luôn cư xử như thể anh ta là người bình thường, nhưng bố mẹ anh ta đã chết và anh ta không kết hôn. Anh chị em của anh ta sống ở Najan, nhưng anh ta lại làm việc ở Jeddah. Tôi cho rằng anh ta thấy rất cô độc. Anh ta là nhân viên cứu thương của Trăng lưỡi liềm Đỏ và kể với tôi rằng có lần anh ta đã ở sau xe cứu thương với một người bị ma ám. Anh ta cho rằng những vấn đề của anh ta bắt đầu từ cái ngày đó, rằng bằng cách nào đấy hồn ma kia đã từ nạn nhân nhập vào anh ta. Anh ta tìm đến tôi và yêu cầu được làm phép. Anh ta không có vẻ gì là bị ma ám cả, nhưng tôi tin anh ta, và tôi đã làm phép. Đó là một cuộc làm phép bình lặng một cách lạ thường. Nhưng cả buổi hôm đó tôi có những cảm nhận ghê sợ về người đàn ông này. Tôi có cảm giác mọi điều anh ta nói với tôi đều dối trá. Tôi không thể nói với các ông là vì sao; chỉ đơn giản đó là cảm giác. Tôi đã cầu nguyện hàng tháng trời, cầu xin lòng bao dung, sự khai minh và lòng nhân từ, nhưng tôi gặp ác mộng trong nhiều tuần sau đó. Sau vài tuần, người đàn ông đó đã quay trở lại để đảm bảo với tôi rằng tôi đã thành công trong việc xua đuổi hồn ma kia, nhưng tôi không tin anh ta. Cho đến giờ điều đó vẫn khiến tôi day dứt, tôi nghĩ là vì tôi không hiểu nó.”

“Tên anh ta là gì?” Ibrahim hỏi.

“Sheikh Rami Hajar.”

Nhân viên của Phòng Lưu trữ trông khoảng mười lăm tuổi. Cậu ta chào Katya bằng cái gật đầu e dè và liếc nhìn đến hai lần tấm thẻ tên trên cổ cô. Bức ảnh thẻ cho thấy chiếc khăn trùm đầu màu đến và khuôn mặt ấy chính là khuôn mặt đang ở trước mặt cậu ta, nhưng có vẻ cậu ta không tin.

“Tôi có thể giúp gì cho chị?”

“Vâng, tôi muốn nói chuyện với Trưởng phòng Lưu trữ.” Cô nói. 'Tôi cho rằng bằng chứng trong một số hồ sơ tôi nhận được đã bị thất lạc.”

Chàng trai có vẻ tin tưởng, đứng lên và rời khỏi căn phòng nhỏ. Katya đứng bên cửa sổ chăm chăm nhìn ra căn phòng chờ đáng chú ý vì sự trống vắng của nó. Không một chiếc bàn hay giá treo nào. Hai chiếc ghế ở trong một góc xa tít. Các hồ sơ được lưu trữ ở đâu đó phía sau cánh cửa bị khóa ở bên trái cô.

Cuối cùng thì vị Trưởng phòng cũng xuất hiện.

“Tôi có thể giúp gì cho cô?” Ông ta hỏi.

Cô trao cho ông ta hai tập hồ sơ vụ án đã đóng mà cô nhận được từ Ibrahim. “Những hồ sơ này được yêu cầu nhằm phục vụ cho việc điều tra vụ Thiên sứ với mục đích rõ ràng là để so sánh những bức ảnh chụp toàn thân nạn nhân với vụ án hiện tại. Không may là trong những hồ sơ này không có bức ảnh nào chụp toàn thân nào cả. Liệu đấy có phải là bản sao chụp của hồ sơ gốc không thưa ông?”

Vị trưởng phòng nhíu mày và lật giở qua các hồ sơ. “Không, chúng không phải là bản sao chụp đâu thưa cô.”

“Những tay máy pháp y chụp ảnh toàn thân của nạn nhân từ năm 1989, có phải không ạ?” Cô hỏi.

“Vâng, đúng là vậy. Và cô nói đúng, những bức ảnh không có trong này.” Ông ta đóng các tập hồ sơ lại và trả cô. Mặt ông ta cứng lại. “Cô phải làm yêu cầu xét duyệt lại thôi.”

“Xét duyệt lại?”

“Đúng vậy. Cụ thể, cấp trên của cô phải chấp thuận và yêu cầu xét duyệt lại các hồ sơ rồi gửi các văn bản xuống văn phòng của chúng tôi. Khi nhận được các văn bản đó, chúng tôi sẽ xem xét vấn đề.”

“Làm vậy sẽ mất khoảng bao lâu thưa ông?”

“Chúng tôi sẽ xem xét việc đó sớm nhất có thể.”

“Vậy việc xem xét sẽ mất khoảng bao lâu ạ?”

“Tôi e rằng không thể nói được.”

“Ông cũng thấy đấy là việc khẩn cấp mà.” Cô vừa nói vừa cố gắng nhẹ giọng.

“Tôi hiểu.” Ông ta đáp. “Cô sớm gửi các văn bản đó cho chúng tôi chừng nào thì việc này được giải quyết nhanh chừng đấy.”

Phát bực mình, Katya quay bước rời đi.

Ibrahim tìm thấy Mu'tazz trong phòng làm việc của ông ta. Đã xế chiều, ngoài trời vẫn còn nắng, nhưng văn phòng không có cửa sổ nên ánh đèn đã sáng trên bàn làm việc của ông ta. Mu'tazz đang tập trung đọc đến nỗi không nhận thấy Ibrahim đã đứng ở cửa, và khi nhận ra, ông ta liền đóng tập tài liệu lại.

“Xin chào.” Ibrahim nói. Mu'tazz không đáp. Ibrahim đặt tập tại liệu lên bàn và giải thích về vụ án bàn tay bị chặt mà Katya đã phát hiện trong ngày hôm ấy.

Mu'tazz mở tập hồ sơ , nhìn lướt qua, rồi đóng lại. “Chúng ta đã có những vụ án về những bộ phận cơ thể.” Ông ta nói. “Thế thì sao nào?”

“Ông đã có bao nhiêu vụ?”

“Tôi không đếm.”

“Nhưng ông còn có những vụ khác nữa phải không?”

“Đúng. Một vụ về một cẳng chân. Một vụ là một cánh tay.”

“Tôi chưa từng nghe về chúng.” Ibrahim nói.

“Đó là vì ông không làm việc ở đây.”

“Có thể chúng có liên quan đến việc điều tra vụ giết người hàng loạt của chúng ta.” Ibrahim nói. “Vì vậy tôi sẽ nói với ông điều này. Ông hãy lấy hồ sơ của các vụ án đó và đặt chúng lên bàn làm việc của tôi vào sáng mai, và tôi sẽ không báo cáo về việc ông gây cản trở việc điều tra của tôi.”

Mu'tazz nhìn ông chằm chằm như một con vật ngu ngốc.

Ibrahim quay người bước đi nhưng rồi dừng lại ở ngưỡng cửa. “Nhân tiện, tôi đã được phép xét duyệt lại các hồ sơ vụ án của năm 1988 và 1989. Có vẻ không hồ sơ nào có ảnh chụp toàn thân nạn nhân hết. Xem chừng ảnh đã bị rút ra khỏi những hồ sơ đó.”

“Ồ, cũng có khả năng chứ.” Mu'tazz nói. “Cái đó được gọi là hợp với khuôn phép.”

“Việc phá hủy chứng cứ cũng không hợp với khuôn phép như việc ông vào phòng lưu trữ đâu.”

“Có chứ, nếu vụ án đó đã được đóng.” Mu'tazz đáp.

Ibrahim bỏ đi trước khi mất bình tĩnh. Ông trở lại phòng làm việc, rót một tách trà nóng từ chiếc ấm điện và cố quên Mu'tazz đi, nhưng đã quá muộn. Ông đã rơi vào vòng quỹ đạo của người đàn ông đó. Phẫn uất, vô lý, dùng tôn giáo như một thứ hộ chiếu để giành được sự tôn trọng từ cấp trên, ngay cả khi cấp trên nhận thấy sự giả dối của nó. Ông đã nghe được bàn tán rằng Mu'tazz chưa bao giờ được đồng sự chấp nhận bởi ông ta rất kỳ quái. Thế là đủ. Đàn ông luôn cần những người yếu đuối để nhắc nhở họ về sức mạnh của mình. Quả thực có điều gì đó đáng khinh về người đàn ông này - và, giống như tất cả những gì có vẻ vô tội và yếu đuối, ông ta có thế rất nham hiểm. Đâu là thời điểm mà một người đàn ông từ bỏ giấc mơ hòa hợp và bắt đầu âm mưu chống lại những người đã từ chối.

Ibrahim mở tập tài liệu trên bàn mình, đó là tập hồ sơ mà ông đã hối 10 thư ký của Chánh Riyadh để lấy được. Hồ sơ về quá trình công tác của Trung tá Yasser Mu'tazz.

Chẳng ngạc nhiên khi quá trình làm việc của Mu'tazz rất tầm thường, ông ta chỉ tỉ mỉ và kiên trì khi bắt buộc, và - theo như những gì Ibrahim có thể đánh giá qua các báo cáo - thì ông ta không phải kiểu người tin vào bản năng, ngay cả khi ông ta có nó. Những báo cáo của ông ta mang tính ước lệ hết mức có thể.

Cũng không lấy gì làm ngạc nhiên khi Mu'tazz vẫn là sĩ quan ít được tôn trọng nhất ở Sở. Những lời phê bình của cấp trên trong suốt từng ấy năm đều tế nhị chỉ ra rằng ông ta không bao giờ cố gắng để hòa nhập và những đồng sự khác cảm thấy rất khó gắn bó với ông ta. Tất yếu là ông ta đã bị bốn lần bãi miễn thăng chức. Không lần bị từ chối nào tác động rõ rệt đến tác phong làm việc của Mu'tazz cả. Ông ta vẫn tiếp tục làm việc một cách âm thầm và miễn cưỡng, bảo sao cho đến giờ ông ta vẫn hy vọng mù quáng rằng một ngày nào đó sẽ được đối xử công bằng.

Trong hồ sơ không có điểm nào cho thấy người đàn ông này sốt sắng quá mức hoặc là tip người đám xông vào phòng lưu trữ và tự động kiểm duyệt hồ sơ án mạng của Sở có liên quan đến ảnh chụp phụ nữ lõa thể. Ibrahim đã hy vọng tìm được một điểm tế nhị nào đó về phẩm chất của Mu'tazz, ít nhất là đủ để đánh giá liệu Mu'tazz có xảo quyệt và thôi nát đến mức làm việc gì giống như thế hay không. Tuy nhiên, điểm nổi bật duy nhất trong hồ sơ lại là lối viết văn hay thuần khiết của Mu'tazz. Thật nhục nhã khi so sánh điều đó với cách viết rối rắm của chính Ibrahim. Liệu người ta có thể căm ghét một người đàn ông có chữ viết lúc nào cũng thanh nhã và cân đối được không nhỉ? Viết chữ đẹp đã cho thấy một nét trong con người Mu'tazz đẹp hơn rất nhiều so với những gì ông nhận thấy, một nỗ lực vì sự thuần khiết đằng sau sự lười nhác đã làm nhơ cả cuộc đời sự nghiệp của ông ta.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Sau khi dừng tại Chamelle Plaza một lát, và lần thứ hai Katya lỡ cơ hội gặp mặt người bạn của Sabria, họ lại vào xe và phóng thẳng ra làn đường tốc độ cao trên đường cao tốc. Nayir chăm chú quan sát những mối nguy hiểm trên đường - những tay tài xế chen ngang mà không hề xi-nhan, những cậu thanh niên buồn chán cố trình diễn bất cứ pha nguy hiểm nào họ nghĩ ra, đu người trên cánh cửa xe, lê chân trên mặt đường nhựa. Tệ nhất, theo suy nghĩ của Katya, là việc ô-tô của những cậu thanh niên kia áp sát bên xe của người ta đến mức làm gãy gương chiếu hậu nếu không phản ứng nhanh. Bọn họ chỉ làm vậy khi có phụ nữ ngồi trong xe, cửa sổ để mở, và có vẻ như có cơ hội để ném vào một mẩu giấy có ghi những gia vị thiết yếu đối với viễn tưởng của một người đàn ông: số điện thoại di động để người phụ nữ đó gọi cho anh ta, nếu cô ta có thấy anh ta hấp dẫn từ ngực trở lên ở vận tốc 120 km trên giờ. Katya từng nhận được những cục giấy như thế, nên khi ở trong xe của Nayir cô đóng cửa sổ lại.

Nayir, người không tin vào việc sử dụng điều hòa nhiệt độ, có lẽ vì vài lý do về sự thuần khiết theo quan điểm của người Bedouin, cũng phải mở điều hòa khi cô ngồi trong xe, và đến mức gần như lạnh cóng. Tháng trước cô đã đi chung xe với anh hai lần và cả hai lần đó cô đều phải đề nghị anh tắt điều hòa đi. Cô hình dung hai đầu ngực của mình lộ rõ dưới lớp vải mỏng manh của chiếc áo sơ-mi và tấm áo trùm - một nỗi khiếp sợ, không biết anh có nhận thấy hay không nữa. Nayir đã rất kiềm chế việc nhìn cô chăm chăm, nhưng điều đó không có nghĩa là anh không thấy gì.

Việc ở một mình cùng anh ngày càng không dễ dàng. Đáng lẽ cả hai đang phải háo hức bàn luận về kế hoạch đám cưới, nhưng họ đã đồng ý với nhau từng chi tiết cụ thể rồi. Giờ thì sự im lặng trong xe càng nặng nề bởi những lo âu và những cái nhìn lúng túng. Suy nghĩ của Katya đang giằng xé cô. Cô phải làm việc mười đến mười hai tiếng một ngày, thậm chí cả những ngày cuối tuần, hầu như không có thời gian để đi chợ, nấu ăn, hay giặt giũ. Tất cả những công việc đó bố cô đều không nề hà đảm nhận hết, cũng như ông không hề thấy sự nam tính của mình bị xúc phạm. Nhà cô trở thành một đống lộn xộn. Ayman chỉ rửa bát mỗi tháng một lần, nếu bị ép buộc, nhưng hầu như cậu luôn khôn ranh tránh mặt bố Katya, người duy nhất có thể buộc cậu phải làm việc.

Thời gian rảnh của cô hầu hết đều tập trung vào việc tìm kiếm Sabria, xử lý các bằng chứng thu thập được ở căn hộ của cô ấy, và gây xáo trộn để che giấu những bằng chứng có thể liên quan đến Ibrahim. Cô vẫn phải lo cả việc theo dõi người bạn của Sabria tại Chamelle nữa. Và mặc dù cô thấy hài lòng khi tham gia điều tra vụ Thiên sứ bởi sự thoải mái trong không gian làm việc riêng trong phòng họp, cô không hề được miễn giảm trách nhiệm tại phòng thí nghiệm. Cô vẫn phải phụ trách việc điều phối công việc cho bốn kỹ thuật viên nữ, những người, nói một cách dễ thấy nhất, vẫn còn kém cỏi và thiếu động lực với một công việc chẳng hứa hẹn sự phát triển nào.

Trong khi những tạp âm chói tai của những suy nghĩ này đạt đến đỉnh cao, Katya nghe thấy những khúc nhạc cô độc của sự ngờ vực rền rĩ từ xa xôi: cô không phù hợp để làm vợ và làm mẹ. Cô và Nayir đã bàn bạc về việc họ sẽ sống cùng bố cô cho đến khi tìm được một căn hộ thích hợp riêng. Chiếc thuyền của anh quá nhỏ đối với cuộc sống của hai người. Như vậy là cuộc hôn nhân đã thực sự đặt thêm gánh nặng của một người nữa lên cuộc sống gia đình vốn đã mệt mỏi của cô. Thậm chí đến khi nào công việc ở cơ quan bớt bận bịu, thì cô vẫn phải làm việc theo ca chín tiếng hằng ngày. Có lẽ cô sẽ được ngủ ít hơn. Rồi thậm chí là mang thai nữa. Cô không cho rằng điều đó sẽ làm hỏng sự nghiệp của cô, nhưng đôi khi suy nghĩ đó vẫn khiến cô hốt hoảng.

Một loạt hiệu áo cưới đã cho cô cơ hội tiếp xúc với những cô dâu trẻ - vẻ xinh xắn, duyên dáng, hiền thục, càng được tôn lên đẹp hơn bởi sự pha trộn giữa nỗi sợ hãi và niềm hứng khởi trên gương mặt họ. Họ thốt lên lời hứa rằng sẽ làm bất cứ điều gì vì đức lang quân. Họ không có công ăn việc làm. Họ vừa học xong phổ thông. Họ là những đứa trẻ sẵn sàng lao mình vào một cuộc sống mà ở đó nhu cầu của chồng là trên hết và không còn điều gì khác quan trọng cả. So sánh như vậy, Katya cảm thấy mình giống như một ngoại lệ, giống những phụ nữ cô đọc được qua một bài báo vào dịp nào đấy ca ngợi sự nỗ lực vì tính độc lập của phụ nữ Ả Rập Xê-Út, bằng cách nêu gương nữ doanh nhân hay nhà từ thiện thành đạt. Hãy nhìn vào những mẫu người hiếm có đó, những người có đủ nghị lực để kết hôn, có sáu đứa con, và có cả sự nghiệp trọn vẹn nữa. Cô hay nghĩ rằng địa vị ngoại lệ đó của mình sẽ được đàn ông có tư tưởng tự do tán thưởng - có vẻ cũng có một số người như vậy - nhưng với người đàn ông truyền thông như Nayir, điều đó chắc chắn là không phù hợp. Và chỉ là vấn đề thời gian trước khi anh phát hiện ra mà thôi.

Cô thừa nhận với chính mình, mới đêm hôm trước thôi, rằng cô có thể đã sai lầm khi nhận lời cầu hôn này. Một sự thừa nhận đau đớn. ít nhất cô vẫn còn cơ hội ngăn nó lại trước khi chuyện này đi xa hơn. Nhưng trong số những điều tồi tệ mà cô hình dung mình có thể gây ra, thì việc khiến Nayir thất vọng là điều tồi tệ nhất. Vấn đề hiện giờ là chọn lựa điều thất vọng nào sẽ khiến anh ít bị tổn thương nhất. Đêm hôm qua, cô đã ngồi bên điện thoại và cân nhắc về những việc mình lựa chọn. Chấm dứt vào lúc này đồng nghĩa với một vết thương bởi phát súng bội ước với anh. Không chấm dứt vào lúc này sẽ khiến anh từ từ bị rỉ máu trong những năm sắp tới, và tự thấy mình tù túng, kiệt sức, những giấc mơ tuột khỏi tầm tay qua những kẽ nứt của một cuộc sống bị đổ vỡ.

Rốt cuộc, cô gọi cho anh đề nghị chở cô đi.

Giờ thì họ đã đến nhà Hussain Sa’ud, người có tên được đóng dấu trên mặt sau của tấm ảnh chụp bàn tay bị chặt đứt đó. Họ bước ra khỏi xe và đối diện với một ngôi nhà xấu xí. Nó bắt chước lối kiến trúc của một tòa lâu đài Bravia, có cửa sổ thụt vào sâu bên trong, có những tháp nhỏ bằng gạch, và cửa chính trông như thể một chiếc cầu kéo của pháo đài. Bản thân ngôi nhà lại quá nhỏ bé so với sự vĩ đại của một tòa lâu đài. Toàn bộ được sơn màu trắng sáng lóa, tương phản với ánh sáng của mái ngói xanh dương. Nó gợi cho Katya nhớ đến ngôi nhà lâu đài Disneyland xấu xí nổi tiếng trên phố Iskandareya.

Nayir gõ cửa. Vài phút sau, một cô bé chừng sáu tuổi ra mở. Katya tự giới thiệu và đề nghị được gặp Hussain, rồi cô bé vừa chạy ào vào trong ngôi nhà tối tăm vừa lớn tiếng gọi ông mình. Hai cậu bé thò đầu khỏi căn phòng có tiếng ti-vi ì xèo, tiếng chói tai của trò chơi điện tử. Một người phụ nữ vừa bước vội dọc theo hành lang vừa trùm chiếc khăn qua đầu. Bọn họ đứng đợi trong khi không khí mát rượi lồng lộng thổi qua lối cửa vào.

Có cảm giác như cả thế kỷ đã trôi qua trước khi Hussain xuất hiện ở ngưỡng cửa. Ông cao lớn, trông đã già nhưng khỏe mạnh, khuôn mặt tuy mỏng nhưng vẫn nguyên nét điển trai. Ông lớn tiếng gọi ai đó trong vườn châm thêm trà cho mình rồi hướng sự chú ý đến Nayir và Katya. Khi ông bước ra chỗ sáng, Katya thấy mắt ông màu xanh lục

“Tôi có thể giúp gì cho anh chị?” Ông hỏi.

Lên tiếng trước Nayir, Katya giới thiệu về mình. “Cháu mong được nói chuyện với ông về một bức ảnh.”

“Một bức ảnh sao?” Ông hỏi.

Katya lấy bức ảnh từ trong túi đeo vai và đưa cho Hussain. Ông nhận lấy nó rồi mỉm cười. “À vâng. Đây là bức ảnh thuộc một trong những vụ án còn bỏ ngỏ của tôi.” Ông lật bức ảnh lại và nhận ra con dấu ở góc ảnh. Ông mỉm cười với vẻ nuối tiếc. “Tôi từng đóng dấu lên tất cả mọi thứ.” Ông nói. “Đó là thời kỳ trước khi người ta sợ hãi khi tiết lộ địa chỉ. Thời ấy thành phố này vẫn còn an toàn lắm.”

“Ông nói đó là một trong những vụ án của mình ạ.” Katya lên tiếng. “Vậy ông là một điều tra viên sao?”

Trông ông có vẻ ngạc nhiên. “Đúng vậy, tôi từng là một điều tra viên. Đây là vụ án của tôi. Cô lấy nó ở đâu vậy?”

“Từ ngài chánh thanh tra của Phân khu Trung tâm. Trong hồ sơ đó nói điều tra viên phụ trách vụ án là Thám tử Yasser Mu'tazz cơ ạ.”

“Ồ, Yasser Mu'tazz chỉ là một miếng ghép nhỏ của trò chơi ghép hình mà thôi.”

Sa’ud mỉm cười nói. “Vào đi, vào đi. Chúng tôi sẽ mời anh chị chút trà.”

* * *

Vị đại tá nghỉ hưu Sa’ud đưa họ đi qua một loạt những căn phòng mỗi lúc lại càng lộn xộn khi hướng ra khu vườn phía sau ngôi nhà. Dưới bóng mát của một giàn nho, trên hiên nhà bê-tông ngổn ngang nệm ngồi tinh xảo và trường kỷ nhỏ nhắn như một phòng khách. Không khí mát lạnh. Ba đường ống lớn được dẫn ra từ ngôi nhà và chạy phía trên giàn nho, thổi không khí mát lạnh xuống không gian bên dưới. Hệ thống điều hòa không khí ngoài trời. Mùi shisha (1) đã bén thoang thoảng quanh họ. Cả hai được mời ngồi. Hussain từ từ khom mình xuống và ngồi lại vào chỗ cũ, với một loạt nệm trông như thể đã thường trực để tạo ra vị trí ưa thích của ông: phía bên trái vừa trong tầm tay là bộ ấm trà, ống hút thuốc, và một cuốn sách bọc da đặt úp.

(1) Một thiết bị thường làm bằng thủy tinh dùng để hút thuốc lá, trong đó khói được lọc và làm lạnh bằng cách đi qua nước.

Katya ngồi trên một chiếc nệm cạnh Nayir và tự hỏi bao lâu nữa thì Sa’ud sẽ nhận ra cô không phải người có tầm thế gì trong Sở cả, còn Nayir thì không phải là cảnh sát, và Sa’ud chẳng cần phải nói gì với họ hết.

Tuy nhiên, ngay cả trước khi trà được mang đến, Sa’ud đã nói rõ rằng ông coi họ như những thính giả được chào đón. “Anh chị chắc không biết tôi từng hoạt động ở Đội Trọng án suốt mười lăm năm nhỉ.” Ông ta đăm chiêu nói. “Giờ tôi đã bảy mươi lăm tuổi rồi, nếu mẹ tôi nhớ đúng. Thời trước người ta không mấy khi làm giấy khai sinh. Tôi là người Mecca, nhưng công việc đã đưa đẩy tôi đến Jeddah này và tôi lúc nào cũng thích ở đây hơn, xin Allah tha thứ cho tôi.”

Trà đã được mang đến cùng với một đĩa quả chà là được bày theo hình hoa. Sa’ud bắt đầu kể về cuộc đời mình, và họ nhận thấy khó lòng mà chen ngang được. Ông đặt họ vào một khoảng sân yên tĩnh một cách kỳ lạ, không có bất kỳ một bằng chứng nào cho thấy dấu hiệu của thế giới hiện đại trong tầm mắt, ngoài cảm giác về những chiếc ống dẫn khí phía trên đầu. Thật dễ dàng trở lại năm 1934 lúc cha ông mua người vợ đầu tiên của mình tại chợ nô lệ ở Mecca. Dễ dàng hình dung ra việc một nhóm cướp biển đã tấn công một ngôi làng nhỏ ở phía đông Ả Rập Xê-Út và mang về người con gái xinh đẹp nhất - Oubaya, mẹ của Sa’ud, người mới chỉ mười ba tuổi khi sinh ra ông. Ông kéo họ ngược trở lại quá khứ xa hơn nữa, khi ông bà của ông là những người Thổ Nhĩ Kỳ, cao lớn, tóc vàng (đôi mắt xanh lục của ông là sự biến đổi từ màu mắt xanh ngọc bích của họ), làm giàu bằng nghề vận chuyển các loại gia vị qua sa mạc nhờ các đoàn đi buôn.

Thường thì Katya không đủ kiên nhẫn dành cho những cuộc chuyện trò lan man như một thủ tục cần thiết trước khi vào việc với người ngoài sáu mươi tuổi, nhưng cô thấy lạ khi cô đang chìm vào thế giới lịch sử diệu kỳ đó. Chính Nayir là người đưa họ trở lại thực tại.

“Thời đại đã thay đổi rồi ạ.” Anh nói với vẻ nuối tiếc. “Nhưng tấm lòng mến khách của người ta thì vẫn còn.”

“Đúng, nó không hề thay đổi.” Sa’ud khẽ cười. “Và cả sự tàn bạo cũng vậy. Nào những người bạn của ta, anh chị muốn hỏi gì về bức ảnh đó?”

“Cháu đang băn khoăn liệu ông có thể tạm gác những câu chuyện đó lại được không.” Katya nói. “Cháu muốn được xem xét rộng hơn về con mương thoát nước đó, nơi ông tìm thấy bàn tay ấy.”

“Ồ?” Sa’ud đặt tách trà của mình xuống. “Và lý do là gì?”

“Cháu cho rằng có thứ gì đó được viết trên thành con mương đó.”

“Sao kia?”

“Một ký tự, được viết bằng máu.”

Sa’ud im lặng một lát, nét mặt ông thật khó đoán biết. Katya cảm thấy day dứt sợ hãi, lo rằng cô đã xúc phạm đến ông.

“Không.” Ông nói. “Nó không phải là một ký tự.” Đôi mắt xanh lục kỳ lạ của ông ánh lên đầy thích thú. “Đó chỉ là vệt sơn hoặc cái gì đó. Tôi đang tò mò điều gì đã khiến cô suy nghĩ về cái vết đó vậy?”

“Chúng cháu đang có một vụ án khác.” Katya nói. “Trong vụ án này chúng cháu đã phát hiện một bàn tay bị chặt.”

“Cô có tham gia vào vụ đó không?”

“Có ạ.” Cô nói. “Dưới quyền của Thanh tra Ibrahim Zahrani.”

Sa’ud dò xét cô một lúc lâu hơn và có vẻ quyết định đi đến kết luận. “Thôi được, tốt hơn hết tôi nên cho cô biết. Bàn tay bị chặt mà cô thấy là một phần của một vụ án lớn hơn. Như tôi đã nói đấy, nó là một vụ án còn dang dở của tôi. Tôi không vinh dự gì khi thừa nhận số vụ án mà tôi chưa thể giải quyết được, nhưng trong mười lăm năm ở Đội Trọng án, tôi cho rằng cần phải đón chờ điều đó. Tôi từng gọi vụ này là vụ Osiris.”

“Osiris?” Nayir hỏi. “Vị thần Ai Cập ấy ạ?”

“Đúng vậy. Nếu các anh chị còn nhớ, thì Osiris đã bị Set, thần sa mạc, chặt thành từng phần. Ông bị cắt thành mười bốn mảnh và rải khắp Ai Cập. Người tình tận tâm của ông, Isis, đã phải đi tìm, thu thập các mảnh đó rồi tái dựng cơ thể để chôn cất cho hợp thức. Chỉ có một phần bị mất.” Sa’ud mỉm cười kiểu cách, qua đó Katya suy ra sẽ là thiếu tế nhị nếu nhắc đến phần bị mất đó.

“Vụ Osiris bắt đầu vào cuối năm 1988. Tôi đang chuẩn bị nghỉ hưu ở lực lượng cảnh sát. Tôi đã dành hầu hết thời gian đi tuần tra giao thông và thực hiện các công việc văn phòng. Tôi đã có một sự nghiệp tốt đẹp, nhưng không sẵn sàng từ bỏ hoàn toàn công việc vì không biết mình sẽ làm gì với chính mình nữa. Tôi cảm thấy tôi đã để lỡ điều gì đó, một cơ hội nào đó để thực hiện công việc một cách xuất sắc.”

“Sếp của tôi đã gợi ý tôi tham gia vào một dự án phục vụ cộng đồng để giúp đỡ những nam thanh niên đang cố gắng tu tỉnh. Cảnh sát có chương trình đưa những thanh niên này đi đánh cá. Bọn họ là những tội phạm trẻ đã bị bỏ tù vì nhiều lý do, nhưng đều còn quá trẻ để từ bỏ việc làm lại cuộc đời. Phần lớn trong số đó là trẻ từ 13 đến 19 tuổi. Ý tưởng đặt ra là cho bọn trẻ việc gì đó có tính xây dựng để làm, để đưa chúng ra khỏi thành phố nhằm giúp chúng trân trọng thiên nhiên và tất cả chỉ là vậy. Chính vì thế mà một người bạn của tôi, tên là Jameel, và tôi cuối tuần nào cũng đưa chúng đi đánh cá.”

“Chúng là một bọn hung hăng, tôi phải nói như vậy, nhưng nói chung chúng tôi không gặp vấn đề gì trên thuyền cả. Chúng thích đánh cá và lái thuyền. Đôi khi chúng tôi còn bơi với ống thở nữa. Tôi thực sự tin rằng điều đó là tốt chúng. Nó giúp chúng xa lánh những rắc rối và cho chúng nền tảng căn bản để làm người tốt.”

“Thế rồi, một lần vào cuối tuần chúng tôi ra biển và dùng lưới đánh cá. Chúng tôi tự làm những tấm lưới đó, rồi quăng chúng ra xa và bắt được cả một đàn cá hàng chài. Chúng tôi kéo lưới và thả một nửa số cá trở lại biển vì không định ăn nhiều cá đến thế. Rồi chúng tôi lái thuyền đi một lúc và quăng lưới lần nữa, chỉ có điều lần này lưới bị mắc kẹt vào thứ gì đó. Chúng tôi đã mất rất nhiều thời gian để kéo nó lên, và khi kéo được, chúng tôi thấy một hộp gỗ rất lớn. Phần đáy lưới đã quấn xung quanh chiếc hộp đó. Chúng tôi kéo chiếc hộp lên boong. Nó nặng vô cùng. Thậm chí tấm lưới đã bị rách. Khi mở hộp ra, chúng tôi thấy một thứ rất kinh khủng. Một xác chết. Đó là xác một người nhỏ bé, có lẽ là phụ nữ, vì có tâm áo choàng nhét trong hộp. Người này đã bị cắt thành nhiều mảnh.”

“Lẽ dĩ nhiên là chúng tôi khiếp hãi. Chúng tôi chạy thuyền thẳng vào bờ và ngay lập tức gọi cho cảnh sát. Thời đó chưa có điện thoại di động đâu. Chúng tôi đã phải đợi một thời gian trước khi nhân viên cảnh sát và đội pháp y đến. Chúng tôi đặt chiếc hộp dưới bóng râm của một nhà kho ngay bên bên thuyền. Đó là một nhà kho lớn, để mở, và tất cả đứng vây quanh, mệt mỏi và đều sốc. Chúng tôi đã phải đợi cảnh sát suốt hai giờ đồng hồ rồi.”

“Trong lúc đó, một cậu trong đám con trai bị ốm. Cậu ta đã hơi ốm khi chúng tôi rời bên tàu sáng hôm đó, cộng thêm việc phơi nắng, cái nóng, và các hoạt động nên tình trạng càng tệ hơn, và cậu ta đã ngã gục. Tôi thấy cậu ta bị mất nước. Chúng tôi đưa cậu ta vào văn phòng của bến thuyền, ở đó người ta cho cậu ta uống nước và gọi xe cứu thương. Trong lúc đó, cảnh sát đến để điều tra chiếc hộp. Nhưng khi bọn họ vào trong nhà kho thì chiếc hộp đã biến mất.”

“Có ai lấy cắp nó sao ạ?” Nayir hỏi.

“Đúng thế, có vẻ là như vậy. Mặc dù chúng tôi chưa bao giờ biết được là vào thời điểm nào. Với một loạt sự cố xảy ra với cậu thanh niên kia, không một ai đã để ý đến chiếc hộp. Chúng tôi cho rằng đó chính là thời điểm nó biến mất. Vấn đề là ở chỗ chiếc hộp đó rất nặng. Có thể một người đã mang nó đi, nhưng hắn hẳn phải chở bằng ô-tô hoặc xe tải. Hai mươi con người đã sục sạo nhà kho đó suốt cả buổi tối còn lại và cả ngày hôm sau nữa, và chiếc hộp không hề ở đấy. Sự việc đó đã đặt ra các giả thuyết.”

“Một vài ngày sau, cảnh sát đã chất vấn từng người trong số tám thanh niên có mặt trên chiếc thuyền. Mỗi người đều có hồ sơ tội phạm, lẽ dĩ nhiên là vậy, nhưng tất cả đều có chứng cớ ngoại phạm. Không ai mất tích cả. Không ai có thể tiếp cận với một phương tiện có thể dùng để đưa cái hộp đi. Chúng tôi cũng đã tính đến việc tìm kiếm dưới vùng nước của cầu cảng. Có lẽ ai đó đã ném cái hộp trở lại biển. Phải mất vài ngày mới có đủ trang thiết bị để thực hiện việc này, nhưng cái hộp cũng không ở dưới ấy. Cuối cùng cảnh sát đành bỏ rơi vụ đó.”

“Nhưng ông đã tìm được một bàn tay.” Katya vừa nhắc vừa chỉ vào tấm ảnh.

“Sáu tháng sau đấy.” Sa’ud nói. “Bàn tay này xuất hiện trong con mương thoát nước ở Kandara. Rồi một bàn tay khác lại xuất hiện cách đó không xa. Đó cũng là thời điểm Mu'tazz tham gia vào vụ án này. Lúc bấy giờ Mu'tazz không phải một chuyên gia, nhưng anh ta còn trẻ và háo hức, luôn cố tỏ ra cẩn trọng. Anh ta phát hiện ra tôi cũng có một vụ án tương tự, và anh ta đã liên lạc với tôi. Chúng tôi chắp nối những bộ phận của cơ thể đó, và tôi đã tiếp nhận điều tra ở Kandara từ tay Mu'tazz. Tôi đã giải thích câu chuyện cho anh ta. Kẻ lấy cắp những bộ phận cơ thể này có vẻ đã rải chúng khắp cả Jeddah. Chúng tôi tìm thấy chiếc chân phải ở al-Balad, một phần của thân dưới ở al-Aziziya, và còn nhiều nữa. Trong khoảng thời gian chỉ một vài tuần, chúng tôi đã tìm được các bộ phận khác ở những địa điểm khác nhau. Chúng tôi không thu lại được tất cả các bộ phận bị thất lạc. Thực tế là chúng tôi chỉ tìm được mười ba phần trong số mười chín phần trong chiếc hộp đó. Tại thời điểm ấy, ai nấy đều gọi vụ án này là vụ Osiris, bởi con số mười ba đó, cho dù tôi luôn nói rằng cái xác của Osiris không hoàn chỉnh, nhưng cái tên vẫn gắn liền với nó.”

“Có chữ cái nào đi cùng một bộ phận nào đó không ạ?” Katya hỏi.

“Không, nhưng có một thông điệp được viết lại vào phút chót. Nó được viết bằng mực gần chiếc chân trái. Nó là câu trích dẫn trong kinh Koran: chúng ta đã tạo ra mọi thứ theo trật tự.”

“Ông có kiểm tra loại mực đó không?”

“Có chứ, nó là loại mực tiêu chuẩn để viết chữ đẹp, loại có thể mua ở bất cứ cửa hàng văn phòng phẩm nào.”

“Cảnh sát không đi đến giả thuyết nào hay sao ạ?” Katya hỏi.

“Thực ra, tôi chắc là cô có thể nhận thấy mức độ phức tạp của toàn bộ tình hình. Một mặt, bọn họ truy tìm tên trộm, đã đánh cắp chiếc hộp chứa bộ phận cơ thể đó và có liên can trực tiếp đến việc điều tra vụ án mạng. Mặt khác, bọn họ phải truy tìm tên giết người. Bọn họ đã bắt được một tên trộm, hoặc chí ra là họ tin như vậy. Có mười bốn nam thanh niên trong nhóm đó, nhưng chỉ có tám người lên thuyền hôm ấy. Một sĩ quan cho rằng thủ phạm chắc chắn phải là một kẻ trong số họ, chủ yếu là vì không ai khác biết về chiếc hộp này. Tôi đã tranh cãi, nhưng không có hiệu quả, rằng không thể là ai trong số bọn họ được, bởi lẽ người đó không thể mang chiếc hộp đi mà không làm tôi, Jameel, hay những thanh niên còn lại chú ý được. Với lại nhà kho đó để mở, nên ai cũng có thể lẻn vào và nhìn thấy chiếc hộp rồi quyết định đánh cắp nó. Có thể tên trộm là một kẻ cơ hội hoàn toàn lạ mặt.”

“Tuy nhiên, Đội trưởng Đội Trọng án lúc bấy giờ là Đại tá Ghamdi đã đi đến một giả thuyết duy nhất có cơ sở, đó là một kẻ trong số những thanh niên kia đã đẩy chiếc hộp rơi xuống vùng nước của bên cảng rồi hôm sau quay lại dùng lưới kéo nó lên và mang về nhà. Và quả thực, chính tấm lưới mà chúng tôi làm để phục vụ cho chuyến đi đánh cá ngày hôm sau đã biến mất.” Sa’ud ngả người ra sau và thở dài. Không khí mát rượi từ những chiếc ống dẫn phả lên khuôn mặt ông. Ông nhắm nghiền mắt lại.

“Do vậy, dựa trên cơ sở đó, cảnh sát đã bắt giữ một người trong đám thanh niên đã ở trên thuyền cùng chúng tôi chiều hôm ấy. Tên cậu ta là Ali Dossari. Cảnh sát đã nói rằng bọn họ có bằng chứng chống lại cậu ta, nhưng tôi cho rằng điều đó là không đủ. Bọn họ tuyên bố đã tìm được một phần dấu vân tay trên đồng hồ của cái xác ấy. Bọn họ đã phát hiện ra nó trùng khớp với dấu vân tay của Dossari. Tuy nhiên tôi luôn cho rằng dấu vân tay này đã ở đó trước khi cái hộp bị đánh cắp, lúc chúng tôi mở chiếc hộp ấy trên thuyền Dossari ở ngay cạnh tôi khi chúng tôi mở nó.”

“Tất cả những gì cảnh sát thực sự có chỉ là lời khai.” Ông ta nói tiếp. “Tôi nói điều đó không chắc chắn. Anh chị cũng hiểu chuyện là thế nào rồi. Dù sao thì bọn họ cũng truy tố cậu ta vì tội đánh cắp chiếc hộp và phân tán các bộ phận của cái xác khắp thành phố.”

“Còn ông lại nghĩ cậu ta vô tội?”

“Tôi không chắc là mình nghĩ gì nữa. Nhưng cuối cùng thì cậu ta đã được chứng minh là vô tội và được thả.”

“Theo ông thì chuyện gì thực sự đã xảy ra?” Katya hỏi.

“Tôi cho rằng một trong số những thanh niên tại bến tàu hôm đó đã có ý định gây rối và đã đánh cắp chiếc hộp. Tôi không biết đó là ai. Sự thật đáng buồn là chúng tôi sẽ không bao giờ biết sau đó chuyện gì xảy ra với cái hộp. Không bao giờ tìm lại nó được nữa. Có thể chính cậu thanh niên này đã phân tán các bộ phận đó, hoặc có thể là người khác. Quả thực, có thể là bất cứ ai. Dù sao điều đó cũng đã làm phá sản cuộc điều tra của chúng tôi.”

“Ông có phát hiện ra nạn nhân là ai không ạ?”

“Không. Chúng tôi bị mất chiếc đầu, cho nên không dựng lại khuôn mặt để tiếp tục điều tra được. Chúng tôi đã cố khớp dấu vân tay của nạn nhân với một số người mất tích tại thời điểm đó nhưng không thu hoạch được gì hết. Tôi hiểu đó là một vụ án khó phá, và với những chứng cứ sai lạc như vậy nó lại càng khó khăn hơn. Chính vụ án này đến giờ vẫn khiến tôi day đứt. Tôi thấy mình phải có trách nhiệm vì đã không bảo vệ được chứng cứ cũng. Nhưng tôi cũng cảm thấy thất vọng. Tôi đã nghiên cứu lại vụ án này rất nhiều lần và đều không phát hiện được gì cả. Điều tốt đẹp duy nhất mà tôi rút ra được từ đó là tôi thấy mình phải có trách nhiệm và vô cùng khó chịu bởi những việc làm của Đội Trọng án đến mức đã tự mình điều tra vụ này. Đó là toàn bộ nguyên nhân tại sao ngay từ đầu tôi tham gia vào Đội Trọng án. Tôi đã đành mười lăm năm làm việc phục vụ cộng đồng, và tôi hoàn toàn có thể nói rằng đó là quãng thời gian tuyệt vời nhất trong sự nghiệp của mình.”

Katya lĩnh hội câu chuyện một cách nhẹ nhàng. “Ông đã đóng dấu lên tất cả những bức ảnh của mình ạ?”

“Đúng vậy.” Sa’ud mỉm cười. “Ngày nay cô có thể cho rằng chuyện đó thật kỳ quặc, nhưng chúng tôi phải chịu trách nhiệm về công việc của mình - Tôi thích ghi tên và sắp xếp ngăn nắp mọi thứ.”

“Ông có vô tình có được bức ảnh nào trong vụ Osiris không ạ?” Cô hỏi. “Vụ này giống với vụ chúng tôi đang điều tra hiện giờ.”

“Có, đúng là tôi có các bức ảnh. Nhưng nếu cô đang cho rằng một trong những cậu thanh niên đó liên quan đến vụ án, thì cô đã chậm chân. Tôi đã đưa các bức ảnh đó cho một thám tử ở Trung tâm rồi.”

“Ồ.” Katya nói. “Ai vậy ạ?”

“Thanh tra Mu'tazz. Ông ta đã đến gặp tôi hơn một tuần trước.” Nhận thấy vẻ bất ngờ của Katya, ông nói thêm. “May thay tôi có giữ bộ ảnh rửa từ tất cả những bức ảnh và hồ sơ vụ án của tôi. Ông ta không cần hồ sơ - ông ta giữ bản sao hồ sơ của một số vụ bỏ ngỏ của ông ta. Nhưng ông ta muốn lấy ảnh. Chắc hẳn chúng không còn trong hồ sơ đó. Giúp tôi đứng lên nào.”

Bọn họ giúp Sa’ud đứng dậy rồi đi theo ông vào trong nhà, qua gian bếp, ở đó có một phụ nữ trẻ cuống cuồng che mặt lại, rồi họ đi lên một dãy bậc thang dài để lên tầng hai.

Katya vẫn còn đang choáng váng bởi thông tin Mu'tazz đã đến gặp Sa’ud và có vẻ ông ta không hề nói với Ibrahim. Chắc chắn ông ta đã được nghe điều gì đó từ ông già này, và nếu Ibrahim biết chuyện thì hẳn ông đã nói với cô. Chẳng lẽ lại không?

Họ bước vào một căn phòng sạch sẽ và sáng sủa. Chiếc bàn làm việc và bộ ghế bằng kim loại, vài chiếc tủ có ngăn kéo đựng hồ sơ , và hai tấm bản đồ trên tường là tất cả đồ đạc trong phòng. Sa’ud mở một ngăn kéo ở tầm thấp của chiếc tủ và rút ra một tập hồ sơ dày. Trong đó là ảnh chụp tất cả các bộ phận của cái xác trong vụ Osiris. Ông đặt chúng lên bàn. Trong khi Katya xem xét, Sa’ud đến bên tấm bản đồ cài những chiếc đinh ghim lên những địa điểm mà mỗi một bộ phận được tìm thấy dựa trên một danh sách cũ mà Nayir đang đọc cho ông.

“Mu'tazz có nói nhiều với ông về vụ án này không ạ?” Katya hỏi.

“Không nhiều lắm.” Sa’ud nói. “Chỉ là bọn họ đã tìm được một bàn tay phụ nữ bị chặt trên phố Falasteen.”

“Chúng cháu còn phát hiện một địa điểm chôn cất ngoài sa mạc có mười chín xác phụ nữ được sắp đặt tư thế theo các chữ cái mà ghép lại thành một điệp.”Katya kể và nói lại cho ông thông điệp đó.

Ông tròn mắt không tin nói điều vừa nghe. “Các cô đã phát hiện ra mười chín cái xác ngoài sa mạc sao?”

“Vâng. Và những phụ nữ đó đều bị mất tay.”

“Thế còn cách sắp xếp tại địa điếm chôn cất thế nào?”

“Bọn họ được chôn theo hình lục giác tương tự như cái hình kia ạ.” Cô chỉ tay vào tấm bản đồ. “Ngoại trừ việc các ông chỉ tìm được mười ba phần mà thôi.”

“Tên khốn Mu'tazz.” Sa’ud nói. “Hắn không hề nói gì với tôi. Cô biết đấy, tôi nghĩ việc tôi đảm trách vụ án của hắn đã khiến hắn khó chịu, và hắn không bao giờ tha thứ cho tôi về việc đó. Thật là một con lừa già. Theo như tôi hiểu thì hắn cũng không phụ trách vụ án này phải không?”

“Đó có phải điều ông ta nói không ạ?” Katya hỏi.

“Đúng.”

“Vâng, ông ta không phụ trách vụ án này. Và cháu dám chắc rằng ông ta không hề thông báo gì với người phụ trách vụ này về việc ông ta đến đây.”

Sa’ud bật cười một cách khó nhọc.

Ông đưa cho họ một bản sao hồ sơ vụ Osiris. Ông không muốn rời xa những bức ảnh cuối cùng của vụ Osiris trong khi ông đã đưa bộ dự phòng cho Mu'tazz mất rồi. Vì vậy ông đã sao chụp các bức ảnh cho cô. Chính trong hồ sơ vụ án đã có các phân tích về dấu vân tay từ hai bàn tay và các báo cáo về mười một bộ phận khác của cái xác đã được tìm thấy. Katya có cảm giác rằng tập hồ sơ cô đã xem ở văn phòng là một bản chụp từ bản gốc của Mu'tazz.

“Cô sẽ thông báo cho tôi về tiến trình điều tra chứ, phải vậy không?” Ông hỏi.

“Vâng ạ.” Katya đáp. “Cháu sẽ báo lại với ông. Nhưng cháu xin hỏi ông thêm một điều nữa. Những thanh niên ở trên thuyền ngày hôm đó, đã có ai...?”

“Ồ, Mu'tazz nói ông ta sẽ đi hỏi chuyện bọn họ, nhưng tôi vẫn chưa nghe được tin tức gì từ ông ta hết”

Khi trở lại xe, Katya lớn tiếng nói: “Em không thể tin là Mu'tazz không hề nói gì với Zahrani. Chuyện này có thể thực sự quan trọng đối với vụ án của bọn em và ông ta đang che giấu thông tin!”

“Việc này thật đáng ngờ, em có nghĩ vậy không?”

“Đúng vậy, rất đáng ngờ. Ý em không phải ông ta là tên sát nhân. Có vẻ ông ta chỉ muốn tự mình phá vụ án này?”

“Em biết rõ ông ta phải không?”

Câu hỏi được đặt ra một cách tự nhiên, nhưng cô hiểu đằng sau nó là một cái bẫy. “Em không hề biết ông ta chút nào - thực ra là em chưa từng nói chuyện với ông ta. Nhưng em nghe được nhiều chuyện từ những đồng nghiệp khác, và có vẻ ông ta là một trong những người đã bị từ chối thăng bậc nhiều lần hơn bất cứ ai, và ông ta cay cú về điều đó. Có lẽ ông ta cho rằng đây là cơ hội để phá một vụ án lớn bởi ông ta biết về vụ án trước đấy. Thậm chí có thể ông ta cho rằng mình có quyền làm như vậy.”

Không khí im lặng. Nayir đang tập trung vào việc lái xe. Lần này, mối nguy hiểm là một gã đang lái xe gần sát bên phải họ và cố giữ chiếc xe ở vị trí để Katya thấy tấm áp-phích trên cửa sổ sau xe của hắn. Trên đó có số điện thoại được in cỡ lớn và dòng chữ Tên anh là Khaled, hãy gọi cho anh nếu em thích anh! Khi Khaled nháy mắt với cô trong gương chiiếu hậu, cô không thèm đếm xỉa đến gã. Nayir hú còi và gã kia lái xe đi mất.

“Có thể Mu'tazz đã nói với Zahrani về những việc này rồi, và Zahrani chưa nói với em thì sao?” Nayir hỏi.

“Em khá chắc rằng nếu biết Zahrani đã nói với em.”

“Vậy em nói chuyện với ông ấy thường xuyên nhỉ.”

Cô có thể nói được gì đây? Vâng, hai người bọn em đã gặp nhau trong phòng vệ sinh ở tầng ba, ở đó ông ấy đã kể với em về vụ ngoại tình của ông ấy?

“Thanh tra Zahrani là người khuyến khích phụ nữ tham gia vào các đội điều tra.” Cô nói. “Và đó là một điều tốt. Anh nên nhớ chính em tìm ra mối quan hệ về tư thế của những cái xác đó.”

“A.”

“Nhờ con mắt chim ưng của anh.” Cô nói thêm.

Anh gật đầu tỏ vẻ biết ơn về lời khen tặng.

“Anh hiểu là em muốn làm nhiều hơn để phá án.” Anh nói. “Nhưng anh thấy phần lớn người tham gia phá án là nam giới.”

“Đúng vậy.”

“Và như vậy, để tham gia vào công việc đó, em sẽ phải tiếp xúc nhiều hơn với đàn ông.”

“Đúng vậy.”

“Không có đội điều tra trọng án nào chỉ toàn phụ nữ thôi sao?”

“Không có. Chỉ có nam giới, với sự hỗ trợ của nữ giới thôi.”

Anh trở nên im lặng. Cô nhìn anh một lần nữa, mong sẽ nhận ra chút yêu thương, một thứ gì đó làm dịu cảm giác lúc này giữa họ và nhắc nhở cô vì sao cô sẽ cưới anh, nhưng gương mặt anh tối sầm và khó chịu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Ibrahim và Daher đang đứng nói chuyện ở hành lang với Chánh Riyadh thì Shaya sải bước đi tới với vẻ hào hứng. “Tôi đã phát hiện ra vài điều về cái tên ông có được từ thầy phù thủy trừ tà đó.” Anh ta nói. “Gì vậy?” “Chúng tôi có một danh sách nhân viên làm việc cho những công ty taxi khác nhau. Tất cả những người có tên trong danh sách đều có lý lịch phạm tội và bọn họ sống hoặc làm việc gần phố Sitteen. Có tên Sheikh Hajar trong đó.” “Tên hung thủ của chúng ta là một sheikh (1) à?” Riyadh hỏi.

(1) Sheikh là từ chung dùng để gọi các trưởng tộc, trưởng làng, học giả, lãnh tụ Hồi giáo...

“Thực ra, theo những gì tôi được biết thì hắn chưa bao giờ là sheikh.” Shaya nói. “Nhưng có điều này - trước khi làm việc cho công ty taxi, hắn đã từng là nhân viên cứu thương của Trăng lưỡi liềm Đỏ.” Chánh Riyadh giơ bàn tay lên và Ibrahim hiểu ông định nói Đi bắt hắn về đây, nhưng Shaya ngớ ngẩn nói tiếp. “Còn nữa.”Anh ta xúc động nói. “Bố của Sheikh Hajar đã bị tù vì đâm vợ ông ta.” “Làm thế nào anh có được thông tin đó?” “Phân khu cảnh sát bắt hắn ta đã gửi đến một hồ sơ. Có vài vấn đề về cuộc sống gia đình thời thơ ấu của hắn được ghi trong báo cáo. Bố của hắn là một kẻ bạo hành thật sự. Ông ta hay treo hắn lên xà nhà và dùng roi đánh hắn. Ông ta đã chết trong tù. Hajar được người bà ở Jeddah một mình nuôi nấng. Có vẻ, sau khi ông bố bị bỏ tù, người mẹ đã chạy trốn và tự vẫn. Một vài tuần sau đó, người ta tìm thấy xác bà ta ở Muscat - quê hương bà ta. Tôi đang kiểm chứng lại câu chuyện, nhưng cho đến thời điểm này tôi đã tìm cách để có được xác nhận về cái chết của bà mẹ, hình phạt bỏ tù dành cho ông bố, và cái chết của ông ta trong tù.” “Thế còn người bà của Hajar thì sao? Vẫn còn sống chứ?” Ibrahim hỏi. “Tôi đang tìm hiểu về điều đó.” Shaya nói. Chánh Riyadh quay sang Ibrahim. “Tôi muốn người này được đưa đến đây ngay.” Ibrahim hiểu thêm rằng: Tôi để anh theo vụ này bởi anh tuân lệnh tôi, và nếu anh không như vậy thì tôi sẽ tìm người khác. “Chúng ta có thông tin gì liên quan đến việc phạm tội của hắn ta không?” Ibrahim hỏi. “Cho dù thế nào thì cũng đưa hắn đến đây ngay.” Riyadh nói. “Tôi muốn nói chuyện với hắn. Để xem hắn nói gì về lý lịch của mình. Để biết tất cả những gì có thể biết. Hắn chưa bị bắt mà đấy chỉ là thẩm vấn thôi, các anh hiểu chứ?” Ibrahim quyết định không tranh cãi gì. Katya gõ cửa và Daher ra mở. Nhìn qua vai anh ta cô có thể thấy các tập hồ sơ nằm la liệt khắp phòng. “Tôi cần nói chuyện với Thanh tra Zahrani.” Cô nói. Daher tỏ vẻ khó chịu. “Ông ấy đang bận.” Daher quay trở vào trong, và một phút sau, Ibrahim bước ra. “Tôi xin lỗi vì đã làm phiền.” Cô nói. “Chiều nay tôi đã đến gặp đại tá về hưu Hussain Sa’ud. Ông ấy đã tiếp quản vụ án bàn tay bị chặt mà Tiến sĩ Becker và tôi đã tìm được trong số hồ sơ vụ án cũ hôm qua.” “Tốt lắm.” “Năm 1989, Đại tá Sa’ud đã phát hiện được mười ba bộ phận cơ thể - không có phần đầu – đều thuộc một cái xác phụ nữ. Chúng đã bị rải khắp Jeddah này. Đằng sau nó còn là một câu chuyện dài nữa mà không kể bây giờ được. Vụ án đó được gọi là vụ Osiris. Đây là hồ sơ vụ án.” Cô đưa cho ông một bản chụp hồ sơ vụ án. “Và cô cho rằng vụ này có liên quan đến vụ Thiên sứ sao?” “Có khả năng đó.” Cô nói. “Các bộ phận của cái xác đã được rải khắp Jeddah cũng theo hình chúng ta đã phát hiện ngoài sa mạc. Nhưng còn có một điều nữa.” “Là gì vậy?” “Ban đầu, vụ bàn tay bị chặt đó là do Thanh tra Mu'tazz phụ trách. Có vẻ tuần trước Mu'tazz đã đến gặp Đại tá Sa’ud và lấy một bản chụp hồ sơ này. Trong đó bao gồm các báo cáo và ảnh chụp từng bộ phận của cái xác kia. Mu'tazz đã nói với Sa’ud rằng ông ta sẽ phỏng vấn những nghi phạm trước đây của vụ Osiris. Ông ta có nói gì với ông về chuyện đó không?” Ibrahim chỉ trừng mắt nhìn cô. “Tôi chỉ muốn ông biết điều đó.” Cô nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Sheikh Rami Hajar, người khách mà thầy trừ tà kia kể với họ, không phải là sheikh, như Ibrahim đã nghĩ. Hắn chỉ đơn thuần là được mẹ đặt tên là Sheikh. Ibrahim có những người anh em họ được đặt tên theo các thứ trong tuần, và ông cũng biết một cậu bạn cùng trường có anh em đều được đặt tên là Mohammed, vậy thì tại sao lại không thể tên là Sheikh chứ? Không hề gì đó là sự xúc phạm tới nhận thức thông thường khi một người đàn ông được đặt tên là Sheikh, thì phải là một ông già Bedouin hay một nhân vật tôn giáo. Hoặc có lẽ anh ta đã nghiên cứu đạo Hồi một cách nghiêm túc nên mới xứng đáng với lời xưng tụng kính cẩn như vậy.

Có vẻ như ngài Sheikh Hajar này đã dành trọn cuộc đời mình để quấy nhiễu phụ nữ. Hắn bị tố cáo lên ủy ban Bảo vệ Phẩm hạnh và Ngăn ngừa sự đồi bại những sáu lần vì hành vi đụng chạm bất chính. Khi còn là một kỹ thuật viên y tế cứu thương, hắn ta khai rằng mình mới chỉ chạm vào hai người phụ nữ trong trường hợp khẩn thiết để cứu mạng họ, nhưng đó lại không phải câu chuyện mà gia đình những phụ nữ này đã trình báo. Một người đàn ông trẻ tuổi người này là một sheikh thật - đã tố cáo Hajar quấy rối mẹ anh ta, bằng cách thò hai tay vào giữa hai chân bà và “đút ngón tay vào trong người bà” khi ở phía sau xe cứu thương. Không may là, trước tòa án truyền thống, lời nói của phụ nữ chỉ có giá trị bằng một nửa lời nói của đàn ông và do người con trai kia đã không tự mình chứng kiến hành vi này nên anh ta không đủ khả năng chứng minh tính xác tín của sự việc. Lời buộc tội đó đã bị bác bỏ, cũng như những trường hợp khác. Nhưng một người làm việc tại ủy ban nói trên đã tiếp tục tìm hiểu về vấn đề này và cuối cùng trình một báo cáo lên sở cảnh sát Jeddah nói rằng Hajar không tốt đến mức đó và cần phải được theo dõi. Cảnh sát quá bận bịu để có thể bận tâm đến một kẻ sờ mó lung tung như vậy, nhưng họ cũng buộc phải lập hồ sơ đầu tiên về Hajar.

Cuộc điện thoại tới Trăng lưỡi liềm Đỏ cho biết hắn đã bị sa thải từ năm ngoái vì có hành vi bất chính. Họ từ chối không tiết lộ hành vi đó là gì, chỉ nói rằng Hajar thích hợp với công việc không phải tiếp xúc với phụ nữ lạ mặt. Vì thế cấp trên của Hajar ngay lập tức giới thiệu cho hắn việc lái xe taxi. Sự ngớ ngẩn này có vẻ chẳng ảnh hưởng gì tới viên chức của Trăng lưỡi liềm Đỏ, người đã nói với Ibrahim: “Ít ra chúng tôi cũng có thể nói anh ta rất giỏi lái xe.”

Hajar sinh ra và lớn lên ở Oman, đã chuyển tới Jeddah cùng với bà khi mười lăm tuổi. Hắn vẫn giữ quyền công dân Oman của mình nhưng vẫn có một 'iqama, một chứng nhận định cư của Ả Rập Xê-Út, nên có thể dễ dàng tra cứu lý lịch làm việc của hắn. Hắn đã bỏ học trường y nửa chừng để làm nhân viên kỹ thuật y tế cứu thương. Sau khi rời Trăng lưỡi liềm Đỏ, hắn tìm được việc tại công ty taxi-trắng của thành phố, một dịch vụ có phần cao cấp hơn loại dịch vụ taxi- vàng, nhưng chiếc xe của hắn là một chiếc Camry Toyota cũ và không được lắp đặt công-tơ mét, nên khó theo dõi việc di chuyển của hắn trong thành phố. Hay ít ra là theo như công ty taxi đã khai báo. Lẽ dĩ nhiên hắn có điện thoại di động, và giấy phép hành nghề, nhưng không một ai biết hằng ngày hắn đi đâu. Theo như người quản lý tổng đài tại trụ sở chính của công ty cho biết, Hajar có một lý lịch lái xe trong sạch và được xem là nhân viên mẫn cán.

Hồ sơ thứ hai của cảnh sát cho biết Hajar từng bị bắt lần đầu tại một phân khu phía Tây. Hắn bị buộc tội hành hung một viên chức và có hành vi không thích hợp ở nơi công cộng. Có vẻ như một viên chức đã thấy hắn đuổi theo một phụ nữ dọc con phố lớn tiếng với cô ta, chặn đường cô ta, làm tất cả mọi cách để có thể giữ cô ta lại mà thực tế không chạm vào người cô ta. Khi viên chức kia cố ngăn hắn lại thì Hajar đã tấn công và làm gẫy tay anh ta. Hajar khai báo rằng người phụ nữ này, giống như một số phụ nữ khác cố tình làm vậy, đã thuê xe của hắn và khi đến nơi thì lại nói không có tiền trả. Thật dễ dàng đối với cô ta khi ra khỏi xe và bỏ đi. Phải bạo gan đến mức nào hắn mới dám đuổi theo một phụ nữ, nhất là khi những người xung quanh đều có suy nghĩ bảo thủ như gã viên chức đó, và khả năng bị cảnh sát tôn giáo bắt là cao hơn mức bình thường. Nhưng Hajar không sẵn lòng bỏ qua việc đó, nên hắn đuổi theo cô ta. Ngay cả khi đã bị tống giam, Hajar vẫn còn giận dữ đến mức nói rằng “những phụ nữ đó đáng bị đối xử như vậy.” Lẽ dĩ nhiên tên của người phụ nữ kia không được ghi trong hồ sơ , nhưng Hajar đã nói với cảnh sát rằng hắn thường đón khách ở Jamjoon.

Nhìn bề ngoài, Hajar có vẻ giống một kẻ gấy rối bình thường trên đường phố Jeddah, nhưng Ibrahim vẫn còn nhớ sự lo lắng không dứt của Iman Arsheedy về hắn. Những hành vi phạm tội không đáng kể đôi khi lại là dấu hiệu của những động thái khó lường hơn. Đó là chưa kể đến việc Hajar là một tài xế taxi hoạt động gần Jamjoon. Nhìn ảnh hố sơ tội phạm của hắn, Ibrahim nhận ra điều mà Arsheedy đã nói về hắn. Khuôn mặt Hajar không có nét gì đặc biệt, thậm chí là bình thường, nhưng có cái gì đó không hề thân thiện ở hắn. Đôi mắt trống rỗng, một sự trống rỗng sâu thẳm phía sau vẻ căm hờn đặc trưng của một bức ảnh phạm nhân. Đó là cái nhìn chăm chăm của một con thú và của một kẻ không hề thông minh, chứ không phải của một người từng học trường y. Báo cáo của cảnh sát cho biết hắn có mang theo người một loại thuốc: chlorpromazine. Hajar từ chối nói bât cứ gì về thứ thuốc này, nhưng bác sĩ của hắn đã xác nhận việc kê đơn là xác thực. Tìm kiếm nhanh trên Internet cho thấy chlorpromazine là một loại thuốc an thần loại mạnh.

Không may là họ không có địa chỉ của Hajar. Một số vùng phụ cận của Jeddah không có dịch vụ bưu điện, tên đường phố hay số nhà. Theo ông chủ của hắn, Hajar sống tại một trong những khu vực đó. Chính vì vậy mà lúc này Ibrahim và Daher đang ngồi trong một chiếc xe không mang đèn hiệu của cảnh sát đỗ đối diện với tổng đài hãng taxi trắng đó. Tổng đài đã gọi cho Hajar đề nghị hắn đến văn phòng để nhận phiếu chi thưởng, nhưng rõ ràng là Hajar không cắn câu bởi họ đã chờ ở đây hai tiếng rồi. Ibrahim hiểu rằng thật lố bịch khi bọn họ phải làm việc thấp kém này. Mà lại đang là cuối tuần nữa, điều đó càng khiến cho việc này không thỏa đáng chút nào. Nhưng ông đã quyết định phải làm gì đó.

Daher với tay về phía tách cà phê thứ ba trước khi lên tiếng cằn nhằn. “Đáng lẽ chúng ta có thể yêu cầu mấy tay trẻ hơn làm việc này.”

“Chúng ta có thể làm vậy.” Ibrahim đặt toàn bộ sự chú ý của mình vào những chiếc taxi và không lúc nào rời mắt khỏi chúng. “Nhưng tôi không muốn để mặc việc này cho may rủi.”

Sự thực là ông đang kiềm chế sự lo lắng. Phần lớn những người mất tích đều được tìm thấy trong vòng hai mươi tư giờ đầu tiên hoặc sẽ không bao giờ được tìm thấy nữa. Lẽ ra ông nên thôi phụ trách vụ Thiên sứ - giao nó lại cho Mu'tazz, người có lẽ xứng đáng với vị trí đó - và chuyên tâm tìm kiếm Sabria, ngay cả khi việc đó đòi hỏi cả thời gian trong giờ làm việc. Ông không biết mình sẽ giải thích thế nào với gia đình, đặc biệt là với anh trai mình, người chắc hẳn đã phát hiện ra vụ việc này rồi. Nhưng ông vẫn nên thử mới phải.

Ibrahim cố tự nhủ rằng sẽ chẳng tốt cho Sabria chút nào nếu ông bị tống vào tù vì tội ngoại tình. Nếu toàn bộ đời sống hôn nhân của ông có bị đổ vỡ thì đó là bởi gia đình ông đã phát hiện ra việc ông gặp gỡ cô. Nếu ông mất việc thì ông cũng sẽ mất khả năng có được tin tức về việc tìm kiếm cô. Nhưng trong những khoảnh khắc yên bình thì sự thực vẫn không thể chối bỏ được: ông đã có những quyết định hèn nhát để bảo vệ chính mình, sự nghiệp của mình, và một cuộc hôn nhân đã chết từ hai mươi năm trước.

Ông thấy mình đang chết dần vì sự thực là ngoài mối liên hệ mong manh với một phụ nữ xa lạ ở Chamelle Plaza, ông không còn bất cứ đầu mối nào khác nữa. Ông nên làm gì đó - bất điều cứ gì. Katya hằng ngày đều gọi cho ông để cập nhật tin tức đáng thất vọng. Ông hoàn toàn phụ thuộc vào cô, vì vậy ông buộc phải tin tưởng cô. Trong lúc ấy thì ông lại ở đây, ngồi trong ô-tô, nhâm nhi cà phê, và chẳng hề động não này của cảnh sát trong khi vẫn có khả năng cô đang ở ngoài kia, có lẽ đang bị giam giữ trong tầng hầm hoặc nhà kho hay một cái lán ngoài sa mạc của kẻ nào đó đang chết dần chết mòn nếu còn sống. Đội Điệp vụ lúc này cũng đang ở phía sau cô, và Ibrahim chỉ còn biết cầu nguyện Ubaid sẽ không tìm ra cô trước.

“Tại sao ông lại rời Đội Điệp vụ?” Daher hỏi.

Ibrahim quay sang anh ta. “Họ yêu cầu tôi ra đi.”

“Tại sao vậy?”

“Tôi đã không tuân theo các quy tắc.”

“Quy tắc nào cơ?”

Ibrahim thở dài. “Tôi cho rằng việc thuê phụ nữ là việc bình thường. Tôi đã thúc ép để giữ họ lại trong đội ngũ. Tôi đã đấu tranh với sếp mình về chuyện này, lúc nào cũng là vế chuyện này. Và có quá nhiều người trong Đội không thích việc đó và họ nghĩ tôi không đúng phép tắc.”

Daher tỏ vẻ hoài nghi, như thể anh ta biết sự việc còn hơn thế nữa.

'Thật nực cười.” Ibrahim nói tiếp. “Tất cả những tranh cãi về những gì phụ nữ được và không được phép làm thật là phí thời giờ.”

Daher gật đầu. “Đúng đấy, tôi chỉ không nghĩ phụ nữ sẽ hoàn toàn thấy thoải mái khi làm việc gần với đàn ông đến vậy. Không phải là tôi để tâm đến việc này quá mức, chỉ là...”

Ibrahim gạt tay. “Tôi không quan tâm đến cảm nhận cá nhân của bất cứ ai về phụ nữ hết, và anh cũng không nên như vậy. Nếu có một mối bận tâm đến phẩm hạnh bắt đầu xen ngang vào cách anh làm việc, thì sẽ có chuyện. Và tin tôi đi, ngay cả trong thành phố này, luôn luôn có chuyện.”

* * *

“Nayir có rất nhiều họ hàng.” Samir nói. “Thí dụ như, các anh em họ của tôi và gia đình họ sẽ đến đây thăm hỏi trong vài tháng. Và còn cả gia đình của Imam Hadi cũng cần phải tính đến nữa. Tôi cảm thấy không hay lắm nếu không mời họ tới dự lễ, nếu cân nhắc đến việc Nayir là người họ yêu quý và thằng bé chưa từng cưới xin.”

Vậy ra là thế, Katya nghĩ. Đó chính là lý do vì sao cô đang ăn một bữa tối dài như vô tận tại nhà chú Samir cùng Nayir và Ayman vào một buổi tối yên bình ngày thứ Sáu. Bố cô đang ở nhà chống cự với cơn cảm lạnh.

Bọn họ đã ăn xong từ một tiếng trước và giờ đang ngồi trên hiên nhà nhìn ra khu vườn lớn trồng chanh và cọ cảnh. Cả ba người ngồi theo hàng ngang, còn Samir thì ngồi đối diện, như thể một vị thẩm phán đang điều khiển một phiên tòa, dẫu chỉ là một phiên tòa không trang trọng và mang tính nội bộ. Ông ngả người về sau, một tay cầm tách trà, một tay cầm sợi dây điếu ống.

“Tôi chắc là người thân và bạn bè của cháu cũng sẽ vui mừng khi đến dự. Chính vì vậy tôi đã mạn phép nói chuyện với bố cháu, ông ấy đã nói chắc chắn rất nhiều bạn bè của ông ấy sẽ thấy vô cùng thất vọng nếu hai đứa định tổ chức đám cưới riêng tư mà không có đến cả một bữa tiệc chiêu đãi để họ có thể chia vui việc nên duyên của các cháu.”

Katya bắt đầu nghĩ đến việc bố cô đã vẽ ra một “cơn cảm lạnh” để tránh phải đối mặt với cuộc trò chuyện này. Ông hiểu Katya sẽ nổi giận khi biết ông và Samir mưu đồ việc này sau lưng cô. Nayir và Ayman ngồi cạnh cô như đã đóng băng.

“Và lẽ dĩ nhiên là cả các bạn đồng nghiệp của cháu nữa chứ.” Samir nói tiếp. “Họ sẽ muốn góp mặt trong sự kiện đáng mừng này.”

“Tất nhiên ạ.” Katya buột miệng nói, hy vọng là không có vẻ hoảng hốt trước ý tưởng đó. Đồng nghiệp của cô sẽ là những người cuối cùng được biết về đám cưới của cô. Cô lo lắng nhìn sang Nayir, người đã hiểu toàn bộ sự việc.

“Chúng cháu sẽ tổ chức cưới nhỏ thôi ạ.” Nayir kiên quyết nói. “Nhưng chú nói đúng. Một bữa tiệc chiêu đãi nhỏ gọn sau đám cưới là một ý kiến hay. Vì họ hàng và bạn bè thân thiết của gia đình ta. Cháu sẽ cân nhắc đến việc đó.”

Ngữ điệu của anh có ý chấm dứt cuộc trao đổi ở đây, nhưng Samir, chẳng có vẻ gì bị tác động bởi thái độ lạnh lùng của cậu cháu, vẫn vui vẻ nói: “Thực ra, bố Katya và ta đã bàn bạc kỹ rồi, và mọi việc đều đã được đồng thuận. Chúng ta sẽ thanh toán chi phí của bữa tiệc, còn bố Katya sẽ lo phần thiệp mời và gọi điện.” Ngay tức thì Katya hiểu rằng điều đó có nghĩa là có sẽ phải lo những việc đấy. “Chúng ta đã lên một danh sách khách mời sơ bộ và chỉ cần các cháu cho biết liệu có ai bị bỏ sót hay không thôi.”

“Có bao nhiêu người trong danh sách rồi ạ?” Nayir hỏi, lúc này đã có vẻ không hài lòng.

“Hai trăm hai mươi mốt người.”

“Sao cơ ạ?”

“Chúng ta không muốn bỏ sót bất cứ ai.” Samir nói. “Cháu có thể gây thù chuốc oán cả đời chỉ vì quên không gửi thiệp cưới đấy, hãy ghi nhớ điều đó.”

Nayir tỏ ra bực tức và liếc nhìn Katya với vẻ có lỗi. Còn Ayman thì lại thích thú. “Em biết một ban nhạc rock rất hay nếu anh muốn mời họ.” Cậu nói. “Vài người bạn của em đã lập một ban nhạc có tên là Silk Slave. Bọn họ đang ở Jeddah này.”

Nayir lắc đầu.

“Đừng lo.” Samir nói. “Chúng ta đã sắp xếp phần âm nhạc rồi. Tất cả những gì các cháu phải làm là ngồi đó và thư giãn thôi.”

Katya trở về nhà, tắm nước lạnh, vấ cố giữ tâm trí tỉnh táo. Cô tê liệt và kiệt sức. Cô trèo lên giường nhìn chăm chăm lên trần nhà và nhận ra cô vừa ràng buộc mình với một đám cưới. Chứ không phải với Nayir. Điều này lớn hơn rất nhiều. Cô vừa ràng buộc mình với hơn hai trăm con người. Và dù có thế nào thì điều đó cũng đã được chứng thực.

Cô chìm vào giấc mơ mình đang bơi giữa biển cả. Nhẹ nhõm. Bồng bềnh. Cô bơi giữa thảm san hô và đàn cá sáng lòa. Cô mê mẩn vẻ đẹp của nước, những tia sáng chiếu rọi và sự mịn màng của làn da mình. Cô hồi hộp khi được ở trần. Ở trần và ở ngoài trời. Cô nghĩ về tất cả những gì cô ngưỡng mộ ở chính mình: đường cong duyên dáng của vòng hông, cặp mông tròn trĩnh, bắp thịt săn chắc và mềm mại. Có cảm giác như thể suốt đời cô mong ước được ngắm nhìn trong trạng thái nguyên sơ, được mặc những bộ đồ bó sát hay không mặc gì hết, tất cả những đường cong của cô không chỉ lộ rõ mà còn được ngắm nhìn, được ngưỡng mộ. Đó là tội lỗi xấu xa nhất, niềm kiêu hãnh vô nghĩa này, nhưng cô cho phép mình hoan lạc trong từng khoảnh khắc đó. Cô tỉnh dậy hạnh phúc và ngượng ngùng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Cô chạy các mẫu vân tay của nạn nhân trong vụ Osiris mà không hề hy vọng tìm được mẫu nào phù hợp. Và quả thực là không có kết quả gì. Hơn bất cứ điều gì khác, cô chỉ mong có thể xuống ngay văn phòng của Mu'tazz và hỏi ông ta đã tìm hiểu được những gì qua các cuộc phỏng vấn những thanh niên trong chuyến đi đánh cá đó. Chắc chắn cách điều tra ấy đã thu hoạch được điều gì đó, dù chỉ lờ mờ, một manh mối nho nhỏ nào đấy đáng để theo đuổi. Tuy vậy cô hoàn toàn chắc chắn rằng có một rào cản không thể phá vỡ được giữa Thanh tra Mu'tazz và bản thân cô, một nhân viên phòng thí nghiệm thấp cổ bé họng. Một phụ nữ đang cố nhúng mũi vào việc của cánh đàn ông.

Cô đã đưa bản sao hồ sơ vụ Osiris cho Ibrahim và giữ bản sao của Sa’ud cho mình. Trong hồ sơ có tên của tất cả những thanh niên đã ở trên thuyền khi chiếc hộp kia được vớt lên. Đối với cô, có vẻ cô có thể tự phỏng vấn bọn họ, nhưng có đến tám cái tên trong danh sách. Một khối lượng công việc quá lớn. Cô sẽ phải dành trọn thời gian rảnh rỗi của mình để thực hiện việc này, giả sử những thanh niên đó đều nhận lời nói chuyện với cô, và việc đó có đáng không khi mà Mu'tazz đã thực hiện rồi?

Cô ngồi trong phòng thí nghiệm suốt ba giờ đồng hồ trước khi cảm thấy nóng ruột đến mức phải rời khỏi tòa nhà. Dùng tiền taxi Ibrahim cho, cô quay lại Chamelle Plaza, đoán chắc là sẽ lại rơi vào một ngõ cụt khác. Nhưng rồi cô bất ngờ khi cô phục vụ Amal đi vòng qua quầy thu ngân để chào cô và chỉ tay về phía chiếc bàn trong góc nơi có một phụ nữ đang ngồi kín như bưng trong chiếc áo trùm và khăn che mặt, tay ôm lấy hai vai một cách ủ rũ, tách cà phê đặt trước mặt

“Chính là cô gái.” Amal khẽ nói. “Cô ta đã quay lại sáng nay.”

Katya ngay lập tức đến bên chiếc bàn kia. “Xin lỗi.” Cô nói. “Cô có phiền không nếu tôi xin phép hỏi một câu?”

Người phụ nữ ngước nhìn cô, đôi mắt gần như bị che khuất phía sau khăn che mặt. Cô ta không nói gì.

Katya ngồi xuống. Người phụ nữ bồn chồn.

“Tôi đến đây vì việc của Sabria.”Katya nói.

Người phụ nữ đó đứng dậy. Anh mắt cô ta hoảng hốt. “Tại sao cô ấy đến đây?”

“Tôi không rõ. Tôi đang tìm cô ấy đây.”

“Cô biết cô ấy sao?”

“Không.” Katya nói. “Tôi đang làm việc này giúp một người bạn.”

“Bạn nào vậy?”

Katya thở dài. “Một người mà cô ấy yêu.”

Ánh mắt cô gái kia đầy nghi hoặc. “Cô muốn gì?” Cô ta hỏi.

“Tôi đang tìm Sabria.” Katya đáp. “Cô ấy đã biến mất khỏi căn hộ của mình.”

“Cô là cảnh sát à?”

“Tôi đã nói với cô rồi, tôi đang giúp một người bạn. Tại sao các cô lại gặp nhau ở đây?”

Cô gái không trả lời.

“Cô ấy đang đưa cho cô thứ gì đó phải không?” Katya hỏi.

Cô ta trông như thể sắp sửa đứng lên.

“Nghe này.” Katya nói. “Có thể đây là cách duy nhất chúng tôi có thể tìm hiểu được chuyện gì đang xảy ra với cô ấy.”

“Tôi không biết cô ấy ở đâu cả.” Cô ta nói.

“Tôi hiểu.” Katya bắt đầu thấy bực. “Nhưng nếu cô có thể cho tôi biết cô ấy đang làm gì ở đây thì sẽ giúp chúng tôi tìm ra cô ấy.”

Cô ta đứng dậy, bám tay lên mặt bàn. Bàn tay cô ta đang run rẩy. “Chính các người đã bắt một người con gái vô tội phải ngồi tù.” Cô ta nói- “Tên cô ta là Carmelita Rizal. Nếu các người muốn biết thông tin gì nữa thì hãy đi mà hỏi cô ấy.” Cô ta sải bước quay đi. Katya đứng lên và đi theo cô ta.

“Vậy ai là Carmelita Rizal?” Cô hỏi.

Người phụ nữ đó quay người lảo đảo và hét toáng lên: “Đừng động vào tôi!” Những khách hàng mua sắm xung quanh đó quay sang nhìn Katya chằm chằm, và cô bước lùi lại. Cô gái kia chạy đi và mất hút trong đám đông.

Tra cứu nhanh trên cơ sở dữ liệu cho thấy người phụ nữ tên là Carmelita Rizal hiện đang bị giam giữ tại Nhà giam Phụ nữ Briman ở Jeddah. Katya trở lại phòng làm việc của Ibrahim nhưng cửa đã khóa và đèn đã tắt. Cô thậm chí cũng không thấy Daher ở chỗ anh ta thường đứng gần máy pha cà phê ở đại sảnh.

Cô đã sẵn sàng để đến nhà giam phụ nữ ngay bây giờ. Cô lại có cảm giác nóng ruột đã cảm thấy suốt hôm nay. Nhưng Ayman không trả lời điện thoại, mà cô thì không còn đủ tiền đi taxi. Hơn nữa, cô còn không chắc là mình có vào được nhà giam hay không. Cô cần nói chuyện với Ibrahim. Ông là người duy nhất có thể thu xếp một cuộc gặp mặt kín đáo.

Bực mình, cô trở lại phòng thí nghiệm ở tầng trên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Hai sĩ quan cảnh sát chìm rốt cuộc đã bắt được Hajar vào sáng ngày thứ Bảy, khi hắn đến văn phòng tổng đài để lấy “tiền thưởng”.

Nhìn ngoài đời thực, Hajar thậm chí còn khó chịu hơn trong ảnh nhiều. Trong khoảng thời gian làm việc trước đấy của Ibrahim ở Đội Trọng án, một sĩ quan cấp trên từng nói với ông người ta luôn có thể nhận ra ai đó tâm thần bất ổn bởi những người này có rất nhiều phần trắng trong nửa mắt trên của bọn họ. Đó không phải là do làm bộ, mà là một điểm cố hữu, thậm chí là đặc điểm di truyền. Nếu điều đó đúng, Ibrahim nhớ lại, thì có lẽ là vì những người có tâm thần bất ổn dành quá nhiều thời gian để nhìn chăm chăm người khác một cách ngấu nghiến. Cách nhìn đó khiến ngưòi ta cảm thấy như sắp bị ăn thịt vậy.

Hajar được đưa về đồn trong khi cảnh sát khám xét căn hộ của hắn. Hắn nói mình đã thuê một căn phòng nhỏ ở tầng hầm một tòa nhà khu Kandara, cách Cầu phố Sitteen không xa.

Ibrahim bắt đầu nói chuyện với hắn.

“Anh sống ở Kandara bao lâu rồi?” Ibrahim hỏi.

Hajar không hề chớp mắt.

“Đó có phải là nơi anh thường bắt những người phụ nữ không?” Ibrahim chờ đợi.

Hajar không động đậy.

“Anh nên trả lời đi thì hơn. Chúng tôi bắt anh vì tội giết người”

“Giết người không phải việc đúng đắn đâu.” Mặc dù ngữ điệu đã được cẩn trọng điều chỉnh ở mức bình thường, nhưng hắn ta vẫn không hề chớp mắt và giữ nguyên ánh mắt chăm chăm như cá mập đó dán vào Ibrahim. Hắn có vẻ đang nuôi dưỡng một sự cuồng bạo thầm lặng đầy chết chóc. Ibrahim hiểu vì sao Imam Asheedy lại bất an với gã này đến vậy.

Ông mở một tập hồ sơ và lấy ra hai bức ảnh của May Lozano, một bức chụp cô khi còn sống, bức còn lại chụp cô khi đã chết. Ông đặt một bức ảnh khác ngay phía dưới. Bức ảnh chụp Amina al-Fouad.

“May Lozano,” ông vừa nói vừa chỉ vào bức ảnh, “đã bị bắt cóc bởi một người đàn ông lái xe cứu thương của Trăng lưỡi liềm Đỏ. Giống hệt chiếc xe đã đỗ trước tòa nhà chung cư của anh. Chúng tôi đã tìm thấy chìa khóa xe trong phòng khách của anh. Tôi thấy rất kỳ lạ là anh còn sở hữu một chiếc xe như vậy đấy.”

Hajar không hề xúc động.

“Amina al-Fouad,” Ibrahim nói tiếp, “đã bị bắt cóc bởi một chiếc taxi ngay trước Trung tâm Jamjoom. Chúng tôi biết anh thường chở khách đến Jamjoom.”

Rồi Ibrahim đặt tiêp tấm ảnh của Maria Reyes lên bàn. Quan sát thấy Hajar không hề phản ứng gì, ông thấy khó chịu. “Tất cả những phụ nữ này đều bị bắt cóc ở khu vực quanh Cầu phố Sitteen, không xa căn hộ của anh là mấy.” Điều này không đúng, nhưng ông muốn thử xem Hajar phản ứng thế nào. Một lần nữa, không hề có phản ứng gì. “Và dĩ nhiên, còn thứ này nữa.” Ông đẩy một tập hồ sơ khác ngang mặt bàn và lật mở nó. Trong đó là hồ sơ phạm tội của Hajar. “Anh có tiền sử về việc quấy rối phụ nữ.”

Hajar chẳng hề bận tâm liếc nhìn tập hồ sơ.

“Anh đã ở đâu ba tuần trước vào buổi chiều Chủ nhật vậy?” Ibrahim hỏi.

“Tôi không biết. Có lẽ đang làm việc.” Giọng Hajar đều đều.

“Anh có nhớ bất kỳ khách hàng nào không? Bất cứ ai có thể xác minh cho các địa điểm của anh?”

Khi Hajar không trả lời, Ibrahim nói tiếp. “Như vậy là anh cũng không có chứng cớ ngoại phạm?”

Có tiếng gõ nhẹ lên cửa và Majdi bước vào, mang theo một tập hồ sơ khác. Anh ta khom người và thì thầm với Ibrahim trước khi đi ra. Ibrahim mở tập hồ sơ mới.

“Có vẻ bên pháp y đã phát hiện ra máu và tóc ở phần sau chiếc xe tải của anh.”

Lẩn đầu tiên Hajar tỏ vẻ tự đắc. “Xe của Trăng lưỡi liềm Đỏ mà.”

“Họ đã tìm được những dấu vết đó trên thành phía trong đuôi xe của anh.” Ibrahim nói. “Phần lớn các nạn nhân được đưa vào xe cứu thương bằng cáng, vết máu đó lại không nằm ở chỗ nào gần chiếc cáng cả, nhưng nó ở đúng vị trí mà người ta có thế nghĩ đến nếu anh đập mạnh khuôn mặt của một phụ nữ vào thành xe. Vết máu nằm ở gần trần xe, cho nên có thể cô ta đang đứng trong xe. Có lẽ để chống cự.”

Đến đó thì ông mới cảm thấy sự rùng mình sợ hãi đầu tiên của Hajar.

Lại có tiếng lao xao ngoài cửa. Lần này Chánh Riyadh bước vào. Ibrahim ngay lập tức nhận ra có điều gì đó không ổn. Khi Ubaid và hai người đàn ông ở Đội Điệp vụ xuất hiện thấp thoáng phía sau Riyadh ngoài hành lang, Ibrahim chết lặng người.

Riyadh hất cằm ra hiệu cho ông ra ngoài. Ibrahim đứng dậy.

Ở ngoài hành lang, Chánh Riyadh nói. “Sao ta không vào phòng tôi nhỉ.” Đó không phải là một câu hỏi. Bọn họ im lặng đi theo ông. Hai phút dằng dặc trong sự kinh hãi, nỗi hoài nghi và cả sự chấp nhận vấy lấy Ibrahim. Ông hiểu rằng bọn họ đến đấy là vì ông, rằng bọn họ đã phát hiện ra điều gì đó. Ông hiểu, qua nét mặt của Chánh Riyadh, rằng mình sẽ không còn phụ trách vụ Thiên sứ nữa. Nhưng ông không thể tin vào điều đó. Có vẻ thật lố bịch khi bọn họ ngồi đối diện bàn làm việc của Riyadh và rồi Ubaid lên tiếng, bằng giọng nói dịu dàng và kỳ thực rất quyên rũ của ông ta. “Chúng tôi đã phát hiện ra chứng cứ, thưa Thanh tra Zahrani, cho thấy quan hệ của ông với cô Sabria Gampon thân mật hơn rất nhiều so với những gì ông đã cho biết trong cuộc trao đổi lần trước của chúng ta.”

“Tôi không rõ ý ông là sao.” Ibrahim đáp. Giọng ông lạc hẳn đi.

“Thực ra, tôi không muốn nói cụ thể, nhưng chứng tôi đã phát hiện khá nhiều bằng chứng sinh học cho thấy ông đã ở trong căn hộ của cô ấy trong tháng vừa rồi và thực tế là ông đã chung giường với cô ấy.” Ubaid có vẻ tức giận khi nói ra điều đó, như thể phải tuyên bố một điều như vậy - thậm chí trong một văn phòng kín đáo - là một sự xúc phạm mà đáng lẽ Ibrahim nên miễn cho ông ta. Chung giường với cô ấy. Nếu ông không chết điếng người đến mức đó, không trở nên vô dụng vì cú sốc đến mức đó, thì Ibrahim hẳn đã nói, Thực tế, tôi còn chung nhiều thứ khác nữa không chỉ là chiếc giường của cô ấy đâu, chỉ để xem điều đó sẽ khiến vẻ mặt lố bịch của Ubaid trông thế nào.

Thái độ Riyadh cho thấy sự thất vọng và có phần tức giận. Ít nhất thì thái độ đó cũng ở mức vừa phải. Ibrahim sẽ mất vị trí điều tra chủ chốt trong vụ án quan trọng nhất của mình.

“Tôi cho rằng, với tư cách là một sĩ quan cảnh sát,” Ubaid nói tiếp, “ông hiểu đó là phận sự của chúng tôi để giữ gìn khuôn phép - có lẽ còn nặng hơn các công dân khác bởi chúng ta là đại diện của luật pháp.”

“Tôi đã thu xếp để những sĩ quan này bắt giữ ông. Một cách kín đáo, tất nhiên rồi. Và suy xét một cách thận trọng, chúng tôi sẽ đưa ông đến một trong những địa điểm bí mật gần văn phòng trung tâm để giải đáp một số vấn đề.”

Họ đang cố tránh việc giữ Ibrahim trong cùng tòa nhà với anh trai ông. Rõ ràng là Omar vẫn chưa biết gì về chuyện này.

Riyadh trông như thể sắp phản đối, nhưng ông ta có thể nói gì đấy? Tôi cần người này - anh ta là người duy nhất có thể phá vụ án Thiên sứ? Còn có những người khác nữa, có lẽ còn phù hợp hơn Ibrahim, nếu họ dễ bảo hơn. Một vị chánh thanh tra cứng rắn hơn chắc hẳn sẽ đấm tay xuống mặt bàn và nói với sự xúc động mãnh liệt rằng những vi phạm đức hạnh không là gì khi còn một mối nguy lớn hơn đối với thành phố này, chính là việc tên giết người hàng loạt vẫn còn nằm ngoài vòng pháp luật. Nhân danh Chúa, liệu họ có thể chờ không? Nhưng Riyadh không phải người như thế. Và làm sao có thể trách ông ta được? Điều ông ta sẽ phải đối mặt là quá lớn để một cá nhân có thể tự giải quyết.

Ubaid nhanh chóng đứng dậy và ra hiệu về phía các sĩ quan của mình. Bọn họ vấy lấy Ibrahim, và ông lịch sự đứng lên. Ông cân nhắc, rất nhanh, mình có nên trốn chạy hay không, nhung ý tưởng đó có vẻ thật lố bịch. Ông đã luôn phải trốn tránh chuyện này rồi, trốn tránh vợ ông, trốn tránh Đội Điệp vụ và những giới hạn của nó, trốn tránh thanh thế của anh trai minh và sự ảnh hưởng của điều đó đối với sự nghiệp của ông, và cuối cùng là trốn tránh trách nhiệm tìm kiếm Sabria. Khi những người đó hộ tống ông ra cửa, ông nhận ra mình đã mệt mỏỉ vì trốn chạy; chính tâm can ông, chính bản năng xác tín của ông đang nói rằng trò chơi đã kết thúc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Sáng Chủ nhật, Katya bước vào phòng họp và thấy bàn làm việc của cô đã biến mất. Những tấm rèm màu đen đã bị gỡ xuống và những chiếc cột được dựng tựa vào tường. Một loạt thùng hồ sơ và tất cả những trang thiết bị cô đặt trên bàn làm việc đã hoàn toàn biến mất. Cô sững sờ giương mắt nhìn.

Lấy lại tình thần, cô trở ra đại sảnh, thấy bị kích động, tổn thương và tức giận. Cô thấy một số sĩ quan đứng ngoài cửa văn phòng của Ibrahim, nhưng phía sau cô có ai đấy gọi tên cô. Đó là Adara.

“Mình có cái này cho cậu ở phòng thí nghiệm.” Adara nói.

“Ồ.” Katya đáp. “Một lát nữa mình sẽ xuống dưới đó.”

“Sao cậu không xuống luôn bấy giờ nhỉ?”

Không nghĩ ngợi gì, cô theo chân Adara vào thang máy. Khi bọn họ đã ở trong và cửa đã đóng lại, Adara nói. “Ibrahim Zahrani đã bị bắt tối qua. Ông ấy bị buộc tội ngoại tình.” Katya thấy choáng váng. “Có vẻ ông ấy đã ngủ với một nhân viên cũ của mình ở Đội Điệp vụ, một phụ nữ đã mất tích. Chánh Riyadh đã trao vụ Thiên sứ lại cho Mu'tazz rồi.”

“Mình không thể...” Katya gần như không nói nên lời. “Gì cơ?”

Cửa thang máy mở và họ bước ra ngoài. Khi họ đi qua phòng khám nghiệm tử thi của nam giới, Katya thấy Abu-Musa đang ngồi im bên bàn làm việc đọc sách và thưởng thức cà phê.

“Ai đã làm chuyện đó vậy?” Cô khe khẽ hỏi. .

“Một số người ở Đội Điệp vụ.” Adara đáp.

“Cậu có chắc là không phải người trong Đội Trọng án không?”

Adara không trả lời cho đến khi họ bước vào phòng khám nghiệm tử thi nữ rồi đóng cửa lại.

“Abu-Musa không có lý do gì để tố cáo ông ấy cả, nếu đó là ý cậu muốn hỏi.”

“Abu-Musa chưa hề thực hiện bất cứ công việc gì trong vụ này, không phải vậy sao?”

“Không, ông ta chưa làm gì hết.” Adara nói. “Tất cả những cái xác đó đều là phụ nữ, và lẽ dĩ nhiên ông ta sẽ không động vào họ. Ông ta đứng gác để bảo đảm không có ai khác động chạm vào họ, vì vậy mình cho rằng chúng ta nên biết ơn mói phải.”

Katya ngồi xuống chiếc ghế cuối cùng trong phòng. “Mình không thể tin nổi chuyện này.”

“Ý cậu là việc của Zahrani à?”

“Ừ. Ông ấy đang phụ trách điều tra vụ này cơ mà!”

“Mình hiểu.” Adara dựa vào quầy.

“Chết tiệt!” Katya thấy nghẹn ngào. “Vậy đó là lý do tại sao bọn họ dỡ bỏ khu vực làm việc của mình ở phòng họp. Mu'tazz không muốn phụ nữ tham gia vào vụ này.” Cô ngước nhìn Adara, mong thấy sự mạnh mẽ trên gương mặt cô, một ánh mắt kiểu như mẹ cô thường nhìn cô khi cô tủi thân. Nhưng thay vì đó, cô chỉ thấy sự thông cảm.

“Mình đã biết về bạn gái của Zahrani và việc cô ta mất tích.” Katya nói. “Ông ấy không có lý do gì để làm việc đó cả. Ông ấy đang tìm cô ta, và mình đang giúp ông ấy.”

Adara không có vẻ gì bất ngờ, chỉ là tò mò.

“Bọn mình vẫn không hiểu chuyện gì đã xảy ra với cô ta. Mình đã cố theo dõi một người phụ nữ cô ta từng gặp gỡ ở khu mua sắm Chamelle, và người đó đã cho mình tên một phụ nữ khác, hiện đang ở tù. Cô ta nói người phụ nữ này sẽ giải thích mọi chuyện. Mình đang cần sự giúp đỡ của Zahrani để vào được nhà giam đó. Mình vẫn chưa nói với ông ấy về người phụ nữ này.”

“Mà cậu cũng không thể nói với ông ấy lúc này được. Ông ấy đang ở địa điểm thẩm vấn nào đấy.”

“Chuyện gì sẽ xảy ra vậy?” Katya hỏi.

“Có vẻ bọn họ đã đủ chứng cứ để buộc ông ấy tội ngoại tình. Majdi đã nghe Osama nói những người đang buộc tội ông ấy là phần tử tôn giáo cực đoan đang có chiến dịch. Bọn họ đang tìm kiếm một người để làm gương. Ông ấy biết bọn họ ở Đội Điệp vụ và có vẻ vài chuyện không hay đã xảy ra.”

“Liệu bọn bọ có thực sự đưa ông ấy ra tòa không?”

“Đó là điều ai cũng nghĩ đến.”

“Chuyện này thật điên rồ!” Katya ôm đầu. “Allah, mình không chắc mình có thể làm việc này nữa hay không. Mình đã phải cố gắng làm việc mười tiếng mỗi ngày, rồi mang các hồ sơ về nhà nữa. Mình biết là không buộc phải làm vậy, nhưng nó là cách duy nhất để mình có thể hoàn thành mọi công việc. Mình đang cố gắng chăm lo hơn cho ngôi nhà, cho bố mình, cho em họ mình... Mình chỉ được ngủ khoảng bốn tiêng mỗi đêm. Và trên hết...” Cô ngước lên nhìn Adara. “Trên hết, tháng sau mình sẽ làm đám cưới. Mình biết là mình vẫn chưa nói với cậu về chuyện này, và mình xin lỗi, chỉ là... mình vẫn chưa tìm được chiếc váy nào.”

Cô bật khóc. Tủi thân đến mức vùi mặt vào hai lòng bàn tay. Adara siết chặt đôi vai cô.

“La hawla walla kuwata illa billa.” Adara nói. Không có sức mạnh hay quyền năng nào ngoài Allah.

Katya gật đầu. Cô đã quá mất tự chủ để có thể thốt lên lời.

“Và cậu có sức mạnh đó của Người.” Adara buông cô ra. “Mình vui là cậu đã giúp Zahrani.”

Katya cố gượng cười. “Mình xin lỗi về chuyện này. Mình không nên khóc mới phải.”

“Đừng lo.”

“Cậu sẽ không nói với ai chứ?”

“Tất nhiên là không rồi.” Adara nói. “Nhưng mình mong nhận được lời mời dự đám cưới đấy.”

Katya mỉm cười. “Xong ngay.”

Adara đưa giấy ăn cho cô. Katya lau mắt.

“Mình phải đến nhà giam phụ nữ Briman.” Cô nói. “Mình biết là người phụ nữ ấy biết điều gì đó về Sabria. Điều đó có thể quan trọng đối với Zahrani nếu mình tìm ra nó. Mình chỉ không biết làm cách nào để vào được nhà giam ấy.”

“Mình chắc là cậu cần có giấy phép.” Adara nói. Cô quay sang phía quầy và bắt đầu mở một hộp dụng cụ. “Mình nghĩ đến một người có thế sẵn lòng cấp giấy cho cậu ngay bấy giờ. Nhưng cậu sẽ phải nói với anh ta những gì cậu biết.”

“Ai vậy?”

“Waseem Daher.”

“Cậu đang đùa mình đấy à.” Katya đứng dậy. “Anh ta có thể tố cáo mình là ngoại tình chỉ vì mình nói chuyện với anh ta. Cậu cho rằng anh ta sẽ làm gì với Zarahni chứ?”

Adara nhìn cô với vẻ quở trách. “Cậu biết gì về Waseem Daher nào?”

“Anh ta là một kẻ ngốc.”

“Khi Daher lên sáu, bố anh ta chết trong một tai nạn vì Daher ngồi ở ghế sau quá ồn ào.” Cô nhăn mặt. “Mình nghĩ anh trung úy đó sẽ sẵn lòng thay mặt cậu gọi một cú điện thoại, nhất là khi làm thế là tham gia giải tội cho biểu tượng người cha yêu quý của anh ta.”

Katya ngồi xuống. Điều này không xoa dịu được cơn bực tức của cô. Cô có thể thấy rõ vẻ tự mãn trên mặt Daher khi biết cô đã bị tống cổ ra khỏi phòng họp.

“Có phải cậu thực sự có thứ gì muốn cho mình xem không?” Katya hỏi.

“Thanh tra Zarahni chưa đủ hay sao?”

Phòng thẩm vấn lạnh cóng, một căn phòng sang trọng nếu ông không thấy nó quá lạnh. Một sự lạnh lẽo đối chọi với sự thách thức kiên định trong trái tim ông. Ông sẽ không nói với bọn họ điều gì hết. Và thẳng thắn mà nói, đó sẽ là một sự sỉ nhục cho họ nếu đặt câu hỏi. Những nghi phạm về tội ngoại tình không bao giờ thú tội hết. Bọn họ đều biết phải có bốn nhân chứng để chứng minh bất cứ điều gì. Trên thực tế bốn nhân chứng đó phải chứng kiến hành vi ngoại tình. Ngay cả lúc này, với những bức ảnh và bằng chứng về DNA, một thẩm phán cũng không thể buộc tội ông nếu không có nhân chứng. Đó chính là điều mà Sharia đã nói. Ông vẫn có khả năng thoát tội.

Ban đầu không thể hình dung được việc này thực tế sẽ bị đưa ra tòa nhưng sau hàng giờ đồng hồ trôi qua và căn phòng trở nên lạnh lẽo hơn, Ibrahim bắt đầu nhận ra bọn họ sẽ không thẩm vấn ông vì đã có mọi thứ bọn họ cần. Họ chắc hẳn đã hối lộ hoặc đe dọa những người thuê nhà khác trong tòa nhà của Sabria để làm chứng chống lại ông. Bởi vì Ubaid đã quả quyết như thế cơ mà.

Tối hôm ấy, nhân viên bảo vệ đưa ông đến một xà lim, ở đó ông được ăn một bữa ăn nóng và được đưa một bản kinh Koran cùng một chiếc điều khiển hệ thống điều hòa nhiệt độ. Lúc đó ông tức giận vô cùng. Bọn họ đã nói sẽ đến thẩm vấn ông. Vậy họ ở quái đâu hết cả rồi? Buổi sáng hôm sau, nhân viên bảo vệ trở lại vào giờ cầu nguyện đầu tiên để đưa cho ông một chiếc thảm cầu nguyện và nước để tẩy trần. Ông nhận lấy. Sau đó, bọn họ đưa ông trở lại phòng thẩm vấn, và ông ngồi đó một mình.

Những nỗi sợ hãi mỗi lúc một lớn dần; ông dường như không thể kiểm soát được chúng nữa. Ông hiểu rằng bọn họ đã tìm thấy Sabria. Cô đã chết. Bị siết cổ, bị đánh, bị bắn. Và bọn họ cho rằng ông đã giết cô. Hiện giờ bọn họ đang chắp nối vụ việc để chống lại ông. Bọn họ sẽ nói rằng ông đã biết về những môi quan hệ bất chính của cô với những người đàn ông khác. Rằng ông đã tình cờ phát hiện ra cô trên giường với một gã mua dâm và đã giết cô trong sự cuồng ghen, rồi đánh đập thân xác cô. Sau đó, ông đã nói dối cảnh sát và quan trọng nhất là đã không khai báo về sự mất tích của cô. Nhưng chắc chắn bọn họ có thể cho rằng ông không khai báo về việc cô mất tích vì sợ bị buộc tội ngoại tình?

Mọi việc đối với bọn họ lúc này đều quá rõ ràng. Nếu anh đã là kẻ ngoại tình, thì tại sao lại không phải là tên giết người được chứ? Những hình dung của ông bắt đầu đi xa đến mức, không lâu sau giờ ăn trưa, ông ngạc nhiên nhận ra mình không hề có bằng chứng gì về việc Sabria đã chết. Sự sợ hãi chính là vấn đề - nó đã che phủ tất cả. Ông không thể nào phân biệt được liệu đó điều từ tận tâm can cảm thấy hay đó chỉ đơn giản là bệnh hoang tưởng, trú ngụ cùng nơi bản năng của ông cũng lên tiếng. Ông nhắm mắt lại, cố gắng thả lỏng tâm trí. Nhưng không thể. Liệu có phải cô đã chết rồi, hay chỉ do ông khiếp hoảng?

Ông hút hết hai bao thuốc và chuẩn bị xin bao thứ ba thì cửa mở. Một cảnh vệ đứng ngoàỉ hành lang. Tiếng ồn ào nín bặt.

Hamida chị gái ông bước vào. Ông chưa gặp bà ở đồn cảnh sát bao giờ, nên sự gặp gỡ này khiến ông lấy làm lạ. Bà là típ ngưòi sẽ liều lĩnh đi đến bất cứ đâu mình thích.

Hamida lớn hơn ông mười hai tuổi và giống một người mẹ hơn cả mẹ của ông. Mùa đông nào bà cũng ở Ả Rập Xê-Út. Bà thường đến vào tháng Mười và ở lại đến tận tháng Ba. Hamida đã kết hôn với một người Palestine và có với nhau sáu mặt con trước khi ông ta trốn đi với một phụ nữ trẻ hơn, bỏ mặc bà nương tựa vào sự hào phóng của những người thân trong gia đình. Chính vì thế mà bà sống như vậy, mùa đông nào cùng di trú ở hàng chục gia đình, mỗi nhà lại ở một tuần và làm những việc riêng của mình. Bằng cách xuất hiện trong những khoảng thời gian ngắn hạn và vô thưởng vô phạt như vậy, bà đã thành công trong việc tiêm phòng cho mọi người về sự có mặt của mình và đã kéo dài hoạt động từ thiện này của gia đình gần hai mươi năm rồi.

Bất cứ khi nào Hamida ở lại nhà Ibarhim là Jamila lại tìm được cớ đế phàn nàn. Nhưng Ibrahim yêu quý Hamida vô cùng. Bà là người phụ nữ duy nhất mà ông biết chẳng bao giờ nề hà về đàn ông, về việc mặc áo trùm, về các buổi cầu nguyện hay bất cứ khuôn phép nào. “Tôi chẳng quan tâm Mecca nằm ở hướng nào hết.” Bà hay nói vậy. “Chúng ta đều sống trên một quả địa cầu. Dù tôi có để đầu ở đâu đi chăng nữa, thì tôi cũng luôn nhìn về Mecca!”

Ông đứng lên để chào đón bà, xúc động đến mức không nói nên lời.

Bà nhìn ông với ánh mắt có phần chế giễu và nói: “Bọn họ sẽ để em về nhà. Em sẽ bị quản thúc tại gia, nhưng ít ra thì cũng không chết dí ở đấy. Omar đã thu xếp việc đó rồi.”

Ông biết, dù có chuyện gì xảy ra thì Hamida là người duy nhất trên thế giới này luôn đứng về phía ông. Ông cảm thấy mắt mình rưng rưng ỉệ.

“Chị đã nói với bọn họ là chị sẽ lái xe đưa em về nhà.” Bà nói.

Ông bật cười nghẹn ngào và ôm lấy bà nhằm tránh không để bà thấy ông đang khóc

Người cảnh vệ bước vào và để ông ký nhận tài sản của mình, chỉ là điện thoại di động và chiếc ví. Bọn họ đã tước phù hiệu của ông ở đồn. Người cảnh vệ hộ tống họ ra ngoài theo lối để họ ít có khả năng tiếp xúc với người khác nhất.

Hamida vờ như không nhận thấy những giọt nước mắt của ông.

“Em tưởng chị đang ở Gaza chứ.” Ông nói.

“Chị vừa về hôm nay.”

“Chị ở với bọn em nhé?”

“Omar trước đã.” Bà nói. “Em biết nó thế nào rồi đấy.”

Ông không bất ngờ về việc Omar đã thu xếp để ông được thả, nhưng điểm mấu chốt của nỗi sợ hãi đang hiện rõ. Ông không thế hình dung được làm thế nào Omar sẽ vẫn trụ vững mà không bị ảnh hưởng sau tất cả những việc này. Thực tế là có khả năng ông sẽ phải trả giá cho vụ tai tiếng này bằng chính công việc của mình - hoặc chí ít là vị trí tại Đội Điệp vụ. Việc tận tâm với em trai và sự cần thiết phải bảo vệ những tiêu chuẩn đức hạnh trong một cơ quan ngày càng bị chi phối bởi những kẻ như Ubaid, để cân bằng được hai việc đó là gần như không thể.

Một chiếc xe tuần tra không đèn hiệu đang đợi bên lề đường trước tòa nhà. Bọn họ ngồi vào sau chiếc xe. Hai sĩ quan mặc thường phục ngồi ở ghế trước và không dám nhìn ông.

“Đưa chúng tôi đến Kilo Seven.” Hamida cao giọng nói. Ông chỉ muốn hôn bà một cái.

Ông không dám nghĩ đến điều gì sẽ đang chờ đợi ông ở nhà; ông chỉ tạ ơn Chúa đã đưa chị gái mình đến đấy. Khi gã chồng của bà bỏ đi, bà đã dấn mình vào một cuộc sống tự do nay đấy mai đó. Tuy có luộm thuộm và không ổn định, nhưng cách sống đó lại hết sức thoải mái cho mọi người trong gia đình. Nếu mọi người không còn gì khác để nói thì họ luôn nói về Hamida. Hiện bà đang ở với ai nhỉ? Họ cho bà và lũ trẻ nằm giường hay chiếu? Họ có cho bà ăn không? Tại sao bà lại trở về Palestine cơ chứ? Bà có một căn nhà nhỏ ở Gaza giữa một vườn cấy trái mênh mông. Tuy vậy, khi có người hỏi bà về căn nhà đó, bà nói thực ra bà chưa từng ngủ trong nhà. Bà thích được trải chiếu nằm dưới những cấy chanh. Cách đó an toàn hơn. (“Có ai nghe về việc Isarel ném bom một cái cây chưa?”)

Căn nhà là một phần lớn trong sự bí ẩn của Hamida. Một phụ có thể giữ được căn nhà ở Palestine và sống được ở đó thì nghiễm nhiên được đối xử như quý tộc. Mỗi khi bà trở lại Gaza, đám phụ nữ bàn tán xôn xao: Allah, bà ta sẽ chết. Bà ta sẽ bị bắn và sẽ chết! Bọn họ sẽ ném bom mấy cái cấy ấy, anh cứ chờ mà xem! Sự thương hại và lo lắng đó là những thứ dầụ xoa dịu hoàn hảo đối với một sự thật không thể thừa nhận chính là sự ghen tỵ đối với bà. Hamida, như bọn họ nói, lúc nào cũng đi đi lại lại. Vất va vất vưởng! Và giờ thì các con trai của bà ta lớn cả rồi, bà ta thậm chí chẳng có một người đàn ông trong nhà”, trời đã định thế rồi, bà ta hẳn là rất cô đơn! Nhưng cái chính là cuộc sống đó khiến Hamida hài lòng. Ibrahim không thể nghĩ được một tấm lá chắn nào tốt hơn thế để bảo vệ ông trước gia đình mình ngoài phẩm cách sáng ngời và lẫy lừng của bà.

Daher không có trong phòng họp. Anh ta không có phòng làm việc, chỉ có một chiếc bàn không chính thức tại một trong những căn phòng ngách phía sau chiếc bảng trắng. Katya lén nhìn vào thì thấy chiếc bàn trống không. Đã chín giờ sáng rồi; đáng lẽ ở đấy phải chộn rộn họp hành và bố trí công việc mà hiện giờ Mu'tazz đang đảm đương chứ. Nhưng chỉ có hai sĩ quan trẻ đang ngồi trong một căn buồng ngách, nghịch ngợm với mấy chiếc điện thoại di động và trông có vẻ rầu rĩ. Bọn họ cố tình lờ cô đi.

Cô trở lại phòng thí nghiệm và thấy Charlie Becker đang chờ ngoài cửa.

“Tôi đã nghe hết chuyện rồi.” Charlie nói. “Chánh Riyadh đã kéo tôi vào văn phòng của ông ấy và trình bày về việc Mu'tazz hiện giờ đang phụ trách việc điều tra.”

“Tôi cần nói chuyện với Daher.” Katya nói. “Cô có nhìn thấy anh ta không? Tôi cần nói chuyện về Thanh tra Zahrani.”

“Không.” Charlie nói. “Nhưng tôi có thể giúp cô tìm anh ta.”

Charlie đưa cô xuống tầng dưới tới phòng của Chánh Riyadh. Cô thò đầu vào cửa phòng, và chánh thanh tra đang ngồi ở bàn ngước nhìn lên. “Vâng, Tiến sĩ Becker.” Giọng ông ta nghe có vẻ yếu ớt.

“Tôi đang tìm Trung úy Daher.” Cô nói. “Anh ta có thông tin gì đấy muốn nói với tôi.”

“Tôi cho là anh ta chưa đến đâu”

Bọn họ trở lại khu đại sảnh. Charlie tiến thẳng ra phía cửa trước. Có một cửa an ninh mà hầu hết mọi người phải sử dụng để đi vào tòa nhà. Bọn họ đứng phía sau cửa và chờ đợi.

Những người đàn ông bước vào, đưa mắt liếc nhìn họ hiếu kỳ nhưng lịch sự không nhìn mái tóc không được che phủ của Charlie. Mười lăm phút sau, Daher đến cùng hai sĩ quan.

“Trung úy Daher.” Charlie nói. “Chúng tôi cần nói chuyện với anh.” Anh ta ngạc nhiên. Hai ngưòi đàn ông kia ngượng ngùng bỏ đi khi thấy Charlie chạm vào cánh tay Daher. Anh ta liếc nhìn cô với ánh mắt xem thường.

“Chúng tôi cần anh giúp.” Charlie nói. “Về việc của Thanh tra Zahrani.”

“Có chuyện gì về ông ấy vậy?”

Charlie ra hiệu cho Katya giải thích với anh ta bằng tiếng Ả Rập. “Zahrani đã bị bắt tối qua.” Katya nói. “Ông ấy bị buộc tội ngoại tình.”

“Tôi biết.” Mặt Daher trắng bệch ra. “Cô muốn gì?”

Katya đợi cho hai người đàn ông kia đi xa hẳn. “Tôi cần có sự cho phép để vào nhà giam phụ nữ Briman.” Cô thì thào. “Tôi cần nói chuyện với một trong những tù nhân ở đó. Cô ta biết điều gì đấy rất quan trọng về người phụ nữ được cho là người Zahrani đang gặp gỡ.”

“Sao kia?” Anh ta lớn tiếng, rồi tiến lại gần hơn một chút. “Làm thế nào cô biết những chuyện đó?”

“Zahrani biết người phụ nữ này đã mất tích. Bọn họ đã làm việc cùng nhau ở Đội Điệp vụ. Ông ấy đã đề nghị tôi thực hiện một số điều tra bởi cô ta làm việc tại một trung tâm mua sắm dành cho phụ nữ và ông ấy không thể tự mình đến đó được.” Bất chợt cô nhận ra điều này nghe có vẻ không thuyết phục. Ibrahim đang thực hiện một cuộc điều tra bí mật sao? Trong khi vụ Thiên sứ vẫn đang còn dang dở ư? Và ông đã không hề nói về điều này với viên sĩ quan đáng tin cậy nhất của mình?

“Ông ấy chưa từng nói gì với tôi về vụ này cả.” Daher nói.

“Anh có thể giúp tôi vào nhà giam Briman không nào?”

“Không.” Anh ta nói. “Và nếu thông minh ra, cô hãy lên phòng thí nghiệm của mình ở tầng trên và trở lại làm việc trước đi khi Mu'tazz phát hiện ra cô đang phung phí thời gian ở dưới này - hoặc là ông ta có thể quyết định sa thải cô đấy.”

Anh ta quay sang Charlie gật đầu một cái cứng nhắc rồi bỏ đi.

Chiếc xe cảnh sát dừng lại trước tòa nhà của Ibrahim. Không có người hàng xóm nào ngoài khu nhà, ngoài mấy phụ nữ mang khăn che mặt đang đứng nói chuyện phía cuối phố.

Ông nhận ra chiếc ô-tô của anh vợ mình đang đỗ ngay cửa trước. Đó là một chiếc xe dẫn động bốn bánh lớn, màu trắng viền đỏ và có một vết lõm trên ghi chắn hậu. Rahman, anh trai của Jamila là một con người khốn khổ với mục tiêu duy nhất của cả cuộc đời là gìn giữ thanh danh của gia đình mình - và điều đó tức là bao gồm cả em gái ông ta nữa. Nhìn thấy chiếc xe đó khiến Ibrahim nhận ra mình đã ngu ngốc đến mức nào khi đồng ý trở về nhà. Đấy là phần thưởng mà Rahman hẳn sẽ trân trọng: một kẻ tội lỗi xấu xa trở về nhà trong sự ô nhục để đối diện với người vợ bị khinh miệt của hắn. Ông có lẽ sẽ an toàn hơn nếu ở lại đồn.

Ông không biết gia đình mình đã được nghe nói lại những thông tin gì. Ông muốn hỏi Hamida nhưng sẽ thật mất thể diện khi biết sự thật ngay trước mặt hai sĩ quan này.

Khi họ ra khỏi xe, Hamida choàng lấy tay ông và họ đi vào tòa nhà. Chí ít thì cảnh sát đã không còng tay ông. Hai viên sĩ quan lẳng lặng đi theo. Ông không chắc điều gì đang chờ đợi mình nữa, nhưng lên nửa chừng cầu thang, hai chân ông bắt đầu run rẩy. Hamida đứng lại bên cạnh ông.

Ông không thể nào tập trung được. Tất cả những gì ông có thể nghĩ đến chỉ là một câu thôi, nhưng quá đau đớn để có thể thốt lên thành lời: bọn họ có biết chuyện không chị? Ông nhìn Hamida dò xét, nhưng bà đang nhìn hai sĩ quan đang đứng sau họ vài bước chân với vẻ hạ cố

Dĩ nhiên là bọn họ biết rõ, ông nghĩ. Làm sao mà bọn họ lại không biết được chứ?

Một cánh cửa bật mở ở chiếu ngay phía trên và Aqmar bước ra. Khi nhìn thấy Ibrahim, vẻ mặt cậu đã nói lên tất cả.

Bố đã khiến chúng con thật thất vọng.

“Ôi bác.” Aqmar vừa nói vừa mỉm cười. “Bác vào nhà đi.”

Bà buông tay Ibrahim, tiến lên để chào Aqmar và nhìn cậu với ánh mắt đầy ngụ ý. Hai vận động viên chạy tiếp sức đang trao nhau ngọn đuốc. Bà bước tiếp lên tầng trên vào hang ổ của Jamila.

Aqmar không nhìn vào mắt bố mình. “Bố ở lại đấy với con.” Cậu nói: “Bố sẽ lên đó và nói chuyện với mẹ con.” Ibrahim đáp.

“Bác Rahman đang ở trên đó.” Aqmar nói.

“Vậy thì bố sẽ nói chuyện với cả bác ấy nữa.”

“Bọn họ đang bàn bạc về việc chặt đầu bố đấy.”

Ánh mặt họ gặp nhau, và Ibrahim nhận ra nỗi sợ hãi của con trai mình.

“Thôi được.” Ông vừa nói vừa ra hiệu cho Aqmar bước vào trong căn hộ. “Vậy chúng ta sẽ đợi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Quả thực, chúng ta đã tạo ra mọi thứ theo tỷ lệ.

Theo Đại tá Sa'ud, đó chính là điều mà tên tội phạm của vụ án năm 1989 đã viết lại bằng máu. Nó khiến Nayir phải suy nghĩ. Sa'ud đã trích dẫn một câu như là: chúng ta đã tạo ra mọi thứ theo trật tự. Nhưng đáng lẽ ông phải nói là tỷ lệ mới đúng, bởi đó mới là điều được viết trong kinh Koran. Khi họ rời nhà ông đại tá, Nayir đã xem lại các bức ảnh chụp trong tập hồ sơ ông đại tá đưa cho họ. Và quả thực, tên giết người đã viết là trật tự. Hắn đã trích dẫn nhầm kinh Koran, chưa kể đến sự lầm lạc nói chung, hắn đã chỉ ra một thứ quan trọng về mình.

Trật tự.

Nayir đã có những suy nghĩ dị giáo khác thường. Anh tự nhủ rằng đó là lẽ tự nhiên đối với người đang vô cùng căng thẳng vì đám cưới sắp diễn ra. Anh nghĩ đến ý nguyện của Chúa. Kinh Koran đã nói rõ, hết lần này đến lần khác, rằng không có gì xảy ra mà không phải là một phần ý nguyện của Chúa. Như vậy câu hỏi tất yếu được đặt ra là: người ta phải giải thích thế nào về cái ác? Tại sao Chúa lại để một tên giết người hàng loạt có mặt trên thế gian này?

Dù bất cứ hình hài nào Người tạo nên, Người đều đặt các ngươi ở cùng nhau.

Và lời giải đáp mà phần lớn thầy tế Hồi giáo sẽ đưa ra là Chúa đã lựa chọn để một số người đi chệch khỏi thiện lộ.

Chúng ta đã chia tách bọn họ thành những nhóm khác nhau trên thế này…một số là người ngay và một số người là đối nghịch.

Nhưng đó không thực sự là một lời giải đáp. Nó chỉ là một sự mở rộng của ý niệm rằng Chúa là đấng toàn năng. Tại sao Người lại lựa chọn để một số người đi lạc hướng chứ? Hiện tại câu trả lời duy nhất mà Nayir có thể nghĩ đến là Chúa chưa bao giờ mong muốn tạo ra một thế giới hoàn hảo cả bởi Người muốn nó phi hoàn hảo hơn. Câu trả lời này hợp lý hơn nhiều. Nhưng làm sao Người có thể để những chuyện như thế xảy ra trên thế gian này chứ? Tại sao, vì chuyện đó, Người lại để cho ác quỷ tồn tại?

Và cho đến giờ, tên giết người kia, kẻ đang tìm khoái lạc bằng việc cướp đi sự an toàn, danh dự, và sau cùng, là mạng sống của con người theo cách lố bịch nhất, lại là kẻ luôn bận tâm đến trật tự.

Anh tạt vào lề đường phía trước nhà ga và thấy Katya đang đứng trong bóng râm nhỏ xíu của mái hiên bê-tông của toà nhà. Cô để lộ khuôn mặt. Nét mặt cô trông phiền muộn.

Cô bước vào chiếc Rover. “Cảm ơn anh đã đến.” Cô nói.

“Không có gì. Mình đi đâu đấy?”

“Anh sẽ không thích việc này đâu.” Cô nói. “Em cần đến nhà giam phụ nữ Briman. Em sẽ chỉ đường cho anh đến đó.”

Nhà giam? Anh nghĩ. Một phần trong anh vẫn giữ niềm tin rằng cô là một sĩ quan cảnh sát luôn ngồi ở bàn làm việc, viết báo cáo, rồi nhâm nhi cà phê với các đồng nghiệp nữ và không bao giờ rời khỏi trụ sở. Anh không thích những hình dung khác làm phá tan những hình ảnh đó: Katya ngồi trong xe cả ngày cùng một nam sĩ quan cảnh sát, Katya mặc lên người bộ giáp phục và mang súng, Katya ngồi đối diện với một tên giết người tàn bạo trong phòng thẩm vấn, Katya một mình đối mặt với ác quỷ.

Bớt căng thẳng nào, anh tự nói với mình. Người ta không cho phép các nữ sĩ quan được dùng súng hay lái xe hoặc thậm chí là đạp xe đạp, nên thực sự cô ấy đang gặp phải vấn đề gì vậy nhỉ?

“Có phải là vụ giết người hàng loạt không em?” Anh hỏi.

“Không phải anh ạ.” Cô nói. “Đấy là một vụ khác.”

Anh chờ đợi, nhưng cô còn đang lục lọi trong túi xách.

“Trông em có vẻ hơi căng thẳng.” Anh nói. Cô ngừng lại. “Em có muốn dừng lại uống một chút cà phê không?”

Cô nhìn anh mệt mỏi. “Không, cảm ơn anh.”

Có phải anh đang bị hoang tưởng không nhỉ? Lần nào gặp cô anh lại thấy cô mỗi lúc một thêm lo âu, và anh không thể không nghĩ rằng đó chính là vì đám cưới. Rằng có lẽ cô đang suy nghĩ lại.

“Vụ án tiến triển thế nào rồi em?” Anh hỏi.

“Bọn họ đã bắt giam một nghi phạm.” Trông cô như thể muốn nói thêm điều gì đó nhưng rồi lại thôi.

“Em đã phát hiện được liệu có phải Mu'tazz đang thực sự che giấu thông tin đối với điều tra viên chính không?”

“Có, đúng là ông ta đã làm vậy.”

Những câu trả lời cụt ngủn của cô khiến mỗi giấy phút trôi qua anh lại càng thêm lo lắng. “Và...?”

Cô thở hắt ra. “Rất khó giải thích anh ạ.”

Một vài phút sau họ đã đến nhà giam. “Anh có phiền khi đợi em không?” Cô hỏi.

“Dĩ nhiên là không.”

“Cảm ơn anh.” Và chỉ có vậy, cô bước ra khỏi xe.

“Cô thứ lỗi cho, chúng tôi đang sơn lại một số phòng.”

Giám đốc nhà giam là một phụ nữ tên là Latifah Matar. Bà có dáng người thấp, nhỏ gọn, nhanh nhẹn, tự tín, cách xử sự chừng mực và đáng tin cậy. Bà khiến Katya nhớ đến những giáo viên tiểu học từ những ngày xa xưa của mình, những phụ nữ vừa thoải mái thể hiện mình nghiêm khắc lại vừa thể hiện được những khía cạnh nhân hậu. Có một vệt sơn lớn màu xám trên cẳng tay của Matar; nó đã dấy bẩn lên áo choàng của bà, và giờ bà đang phải cố chùi sạch bằng khăn giấy ướt.

“Tạm được rồi.” Bà vừa nói vừa hạ ống tay áo xuống rồi ra hiệu dứt khoát cho Katya bước ra ngoài. “Đi với tôi nào.”

Katya trình bày rằng cô làm việc ở Đội Trọng án và có một vấn đề pháp y nhỏ của một vụ án cũ, chính vì vậy cô không gặp khó khăn gì để được chấp thuận nói chuyện với một phạm nhân. Thực tế là, Matar rất vui mừng vì có dịp để phạm nhân tiếp xúc với một phụ nữ “có cuộc sống tự tin và hữu ích” như vậy. Ở trạm an ninh, họ chạm mặt một nữ phạm nhân làm cảnh vệ có tấm biển tên đề WARDA. Cô ta cao trên một mét tám và đủ to khỏe để hạ gục một người đàn ông. Cô lạnh lùng gật đầu khi Marta đưa Katya qua cổng.

Hành lang tràn ngập những điều kỳ diệu. Phía bên trái là một xưởng vẽ rộng mênh mông với ngổn ngang nào giá vẽ, bảng màu, và những chiêc áo khoác ngoài lấm lem, xung quanh là những bức tranh vẽ hoa, máy móc, và những hình thù giống người rất kỳ quặc. Có cả một phòng đọc, có sách và bàn để phụ nữ ngồi đó viết. Phía bên phải là một khu vực làm đẹp. Qua những ô cửa trên cửa ra vào, Katya nhìn thấy một hàng máy sấy tóc và sáu người phụ nữ đang sơn móng và cắt tóc.

“Tôi không hề biết là bà có cả một tiệm làm đẹp nữa.” Cô nói.

Matar dường như thấy phản ứng của cô hơi ngây ngô. “Vâng.” Bà nói. ''Chúng tôi cho rằng điều quan trọng là dạy họ những kỹ năng mà họ có thể dùng đến khi được phóng thích.”

Katya lúc này lại càng ấn tượng hơn.

“Tôi luôn nói với Bộ rằng người ta không thể đưa một người phụ nữ trở lại với xã hội nếu cô ta không thể tự chăm lo được cho bản thân.” Matar nói. “Phần lớn những phụ nữ này cần có sự phục hồi. Họ đã từng luộm thuộm. Họ không có giáo dục. Và thẳng thắn mà nói, công việc giúp họ tránh xa những rắc rối. Ngoài tiệm làm đẹp này, các lớp học chữ và vẽ, chúng tôi còn điều hành một trường đào tạo y tá ở đấy nữa.”

Đột nhiên có tiếng trẻ con khóc ré lên.

“Và dĩ nhiên còn có cả nhà trẻ.” Họ dừng lại trước một cánh cửa không có cửa sổ. “Đấy là nơi chúng ta sẽ tìm cô Rizal. Tôi sẽ phải đề nghị cô đợi ở đấy.”

Katya im lặng gật đầu.

Cô băn khoăn không hiểu người mở ra nơi này có đọc tấm biển phía ngoài rằng đấy là một nhà giam hay không.

Không lâu sau, cánh cửa bật mở và Matar bước trở ra. “Cô Rizal sẽ hân hạnh được tiếp chuyện với cô.” Bà nói.

“Ồ.” Katya nói. “Cô ấy tử tế quá.”

“Cô Hijazi.” Matar đột ngột nói. “Chúng tôi muốn trao cho những người phụ nữ này ý thức trách nhiệm. Phần lớn họ đã mắc những sai lầm về đạo đức. Họ không có khiếm khuyết, và không có gì vốn đã là sai với họ cả. Nếu chính họ cho rằng có điều đó, thì chỉ bởi có người đã làm rối loạn tâm trí họ. Chính vì vậy chúng tôi cố gắng dạy họ cách tôn trọng bản thân mình và người khác.”

“Vâng, tôi vui vì điều đó.” Cô ngượng ngùng nói. Cô không hề có ý bình luận mỉa mai.

“Rất tốt. Giờ thì để tôi đưa cô đến phòng phỏng vấn nào.”

Mu'tazz hẳn sẽ khúc khích cười hân hoan khi nhìn thấy cảnh tượng này: Ibrahim bị giam trong phòng khách của con trai mình và nghe tiếng khóc than của vợ mình dội xuống từ phía trên trần nhà. Sự giam giữ đó cũng hà khắc chẳng kém gì trong phòng thẩm vấn. Ông không được phép sử dụng điện thoại di động. Bất cứ người nào bước vào nhà đều bị khám xét. Constance tội nghiệp bị đe dọa bởi những người cảnh vệ đứng gác ở cửa trước và cửa sau nhà mình đến mức cô không dám ra khỏi căn hộ nữa. Trái lại, Aqmar thì đã bỏ ra ngoài và vẫn chưa về nhà. Ibrahim cảm thấy tan nát cõi lòng.

Đã sắp đến giờ cầu nguyện buổi trưa. Ông đang bơ phờ ngồi trên sô-pha xem kênh truyền hình bằng tiếng Ả Rập thì nghe tiếng ồn ào ngoài cửa trước. Người cảnh vệ đang nói gì đó. Ibrahim nhìn qua khe cửa thì thấy Saffanah đang ở ngoài hành lang. Cô ta đứng cách người cảnh vệ chỉ chừng một bước chân, đầu hơi nghiêng sang trái và cúi xuống, giống như một con thú đang chuẩn bị di chuyển theo một hướng đã định.

“Không ai được phép vào hay ra mà không bị khám xét hết.” Qua giọng nói gay gắt của tay cảnh vệ thì có lẽ anh ta đã nhắc lại điều bắt buộc đó đến lần thứ ba rồi. Nhưng Saffanah vẫn tiến lại gần hơn. Người cảnh vệ đang cố làm rõ vấn đề rằng cô ta không được vào trong bởi không có lẽ nào anh ta lại đưa tay khám xét một phụ nữ cả, và Saffanah cũng đang thể hiện thái độ rõ ràng không kém rằng cô ta sẽ vào căn hộ của Aqmar và lẽ dĩ nhiên là không có chuyện để đàn ông lạ mặt đụng vào người mình. Cô ta thậm chí còn không nói chuyện với kiểu người đó. Khám xét là điều không thể tưởng tượng được.

Ibrahim mở cửa. Người cảnh vệ quay lại. Và Saffanah lao vọt vào trong nhà.

“Này!” Người cảnh vệ hét lên.

Ibrahim đưa hai tay lên. “Con bé là con dâu tôi. Nó hơi lập dị một chút.”

Người cảnh vệ vô cùng tức giận. “Tôi sẽ phải báo cáo về việc này.”

Ibrahim đóng cửa lại trong lúc anh ta với tay lấy điện thoại di động. Người cảnh vệ thò một chân vào cửa và đá bật nó mở. Anh ta đứng giữa cửa với điện thoại đặt trên tai, trừng mắt nhìn Ibrahim và Saffanah. “Tốt hơn hết là cô ấy không mang theo điện thoại di động.” Anh ta nói.

“Anh không phải lo đâu, con bé không tin vào điện thoại di động.”

Người cảnh vệ bước ra ngoài hành lang nói chuyện điện thoại và Ibrahim đóng cửa lại. Anh ta hẳn phải là đệ tử ruột của Ubaid. Ibrahim không thể hình dung được một cảnh sát thi hành công vụ bình thường lại hành xử một cách cứng nhắc đến như vậy. Với lại, từ trước đến giờ ông chưa bao giờ là tù nhân cả.

Saffanah đang đứng trong góc phòng cạnh cánh cửa trượt bằng kính, lối dẫn ra ban-công.

“Chuyện gì vậy con?” Ibrahim hỏi. Ông đã thẫn thờ suốt mấy tiếng đồng hồ rồi và nhận chìm từng tế bào của mình trong caffeine và nicotine đủ để lúc này có thể phát xạ được. Ông không chắc mình có thời gian cho rắc rối nhỏ nhặt này.

“Con chán ở trong nhà một mình lắm rồi.” Saffanah nói.

Cô bước về phía chiếc sô-pha rồi ngồi xuống một bên. Một lúc sau, ông cũng ngồi xuồng ở góc phía bên kia, đặt hai chân lên bàn trà và châm một điếu thuốc. Một lát sau đó, Constance nhẹ nhàng bước vào và chào họ. Trông cô hình như muốn mời họ uống trà nhưng rồi lại có vẻ cho rằng đó là một ý không hay cho lắm. Ibrahim thấy thảm hại vô cùng. Cuối cùng thì Constance cũng lặng lẽ rời đi, để mặc hai kẻ tan vỡ trái tim nương dựa trên cùng một chiếc ghế.

* * *

Xem xét kỹ hơn thì tòa nhà không được đẹp lắm. Phòng khách nhỏ xíu nặng mùi chất tẩy công nghiệp và nước lau sàn. Carmelita Rizal đang ngồi trên một chiếc sô-pha. Đứa con trai nhỏ của cô ta - có lẽ hai hay ba tuổi gì đó - đang nằm ngủ bên cạnh, gối đầu lên đầu gối mẹ. Rizal có gương mặt của một người mẫu - gò má cao, cặp môi đầy đặn, và đôi mắt to hình quả hạnh nhân. Cô ta là người châu Á; Katya đoán là người Philippines. Cô ta mặc áo choàng đen dài và đội khăn trùm đầu. Đứa bé mặc quần khaki và áo sơ-mi trắng. Cách phục trang nói lên vấn đề liên quan đến chính thể. Katya thấy buồn.

Cô ngồi vào một chiếc ghế kim loại. Trên chiếc bàn trà đặt giữa họ là một cuốn tạp chí phụ nữ và một giỏ hoa nhựa đã phai màu.

“Cô Rizal.” Katya nói. “Cảm ơn cô đã gặp tôi. Nếu cô không phiền, xin phép được hỏi cô đôi điều.”

Rizal cố tỏ ra can đảm. “Về chuyện gì vậy?”

“Tôi muốn hỏi cô về người phụ nữ có tên Sabria Gampon.”

Rizal bồn chồn và nắm chặt lấy đôi vai con trai mình.

“Cô biết cô ấy chứ?”

“Hmm.” Cô ta gật đầu. “Chúng tôi từng làm việc cùng nhau.”

“Ở đâu vậy?”

“Chúng tôi làm việc trong cùng một gia đình.”

Katya lắc đầu. “Cô có thể giải thích một chút được không?”

Rizal lo lắng thở hắt ra. Hai đầu gối cô bắt đầu run rẩy. “Chuyện là, cả hai chúng tôi đến đấy vì nghĩ rằng chúng tôi được thuê làm giúp việc. Ông chủ của chúng tôi tên là Mahmoud Halifi. Hắn thực ra là một tên tội phạm chuyên đưa phụ nữ tới Ả Rập Xê-Út rồi bán họ làm lao động nội địa cho những gã đàn ông giàu có muốn quan hệ tình dục. Vì lý do nào đó hắn quyết định giữ Sabria và tôi ở lại nhà hắn. Tôi đoán là hắn thích chúng tôi.” Sự căm phẫn hiện rõ trên nét mặt cô. “Trong tình huống như vậy, người ta phải nương tựa vào nhau thôi. Chúng tôi trở nên rất thân thiết.”

Sabria cũng đẹp như vậy, và Katya có thể hình dung được một tên cặn bã như Halifi muốn lợi dụng vẻ ngoài lộng lẫy của những người phụ nữ này như thế nào.

“Chúng tôi đã mất liên lạc một thời gian.” Rizal nói tiếp. “Một ngày nọ cô ấy biến mất. Tôi không hề biết chuyện gì đã xảy ra với cô ấy. Halifi nói với rôi rằng hắn đã gửi trả cô ấy về Philippines. Tôi không tin hắn ta nhưng tôi không có cách nào để tìm cô ấy cả. Tôi bắt đầu nghĩ rằng cô ấy thực sự đã về nước rồi.” Cô ta bật cười buồn bã và tự ti “Hóa ra cô ấy đã bỏ trốn. Halifi chuyển tới một ngôi nhà khác. Cô ấy nói sau đó đã quay trở lại để tìm tôi, nhưng chúng tôi đã chuyển đi nơi khác rồi.”

“Làm thế nào sau đó cô tìm được cô ấy?”

“Tôi đã bỏ trốn. Tôi làm việc mà Sabria đã làm. Tôi đến Kandara. Tôi sống dưới một chiếc cầu ở đó, hỏi thăm mọi người về cô ấy, nhưng không ai biết cô ấy là ai. Rồi tôi bị bắt giam.”

“Liệu tôi có thể hỏi,” Katya nói, “vì sao cô lại ở đấy không?”

“Ăn cắp và hành hung.” Cô thẳng thắn nói. “Tôi không tìm được công việc nào. Tôi không thể có được thị thực để rời khỏi đất nước này, chính vì vậy tôi kẹt ở đấy. Tôi không có họ hàng. Tất cả người thân của tôi đều ở Philippines. Tôi đã phải sống trên hè phố. Chúng tôi phải ăn.” Đứa con trai của cô cựa quậy và cô nhẹ nhàng vỗ về đứa bé. “Có người đã bắt được tôi đang ăn cắp, và tôi đã đâm hắn ta.”

“Cô đã ở đấy bao lâu rồi?”

“Ba năm.” Rizal nói mà không có vẻ gì quá cay đắng cả. “Đấy là tháng cuối cùng của tôi.”

“Con trai cô được mấy tuổi rồi?”

“Ba tuổi. Cháu được sinh ngay trước khi tôi vào đấy.”

Katya cảm thấy tan nát cõi lòng khi nghĩ đến việc đứa bé mới chỉ biết đến thế giới bên trong một nhà giam. “Vậy làm thế nào cô tìm được Sabria?” Cô hỏi.

“Cô ấy tìm đến tôi. Một hôm, cô ấy đến đấy. Có ai đó đã nghe được tôi nói chuyện về cô ấy ở khu cầu đó cuối cùng đã tìm thấy cô ấy và kể với cô ấy vể tôi. Thật kinh ngạc. Tôi hạnh phúc vì được gặp cô ấy đến mức khóc suốt.” Cô thích thú cười khi hồi tưởng lại. “Có chuyện gì xảy ra với cô ấy phải không?”

“Cô ấy mất tích.” Katya nói.

Rizal gật đầu. Nụ cười tắt lịm. “Tôi đã biết là có chuyện không hay mà.”

“Tại sao?”

“Tôi không gặp cô ấy một tháng nay rồi. Một khoảng thời gian khá dài, kể cả với cô ấy.”

Katya giải thích những cáo buộc của Đội Điệp vụ chống lại Sabrina “Tôi đã gặp một phụ nữ ở Chamelle Plaza. Cô ấy nói cô có thể giúp tôi làm rõ một vài điều về những biến động tài khoản ngân hàng của cô ấy. Điều đó có thể giúp giải oan cho cô ấy khỏi những cáo buộc này.”

Rizal bật cười, rồi sau đó trở nên nghiêm nghị. “Làm sao tôi biết được đó là sự thật chứ? Có thể ngay lúc này đấy Sabrina cũng đang ở tù và cô đang đề nghị tôi nói điều gì đó được dùng để chống lại cô ấy thì sao.”

“Đó không phải là lý do tôi đến đây.” Katya nói. “Người đàn ông cô ấy yêu đã bị bắt vì tội thông dâm. Nếu chúng tôi không thể chứng minh được Sabrina không phải là gái điếm, thì Ibrahim sẽ bị buộc tội là kẻ dẫn khách của cô ấy. Nếu điều đó xảy ra, thì người đàn ông mà bạn của cô thực sự yêu quý sẽ bị chặt đầu, và chúng tôi sẽ vẫn không tìm được Sabria.”

“Ông ấy không phải là tay ma cô dẫn khách của cô ấy.” Rizal nói với vẻ khó chịu trước lời gợi chuyện đó. “Halifí mới chính là kẻ như vậy. Tại sao họ không chặt đầu hắn chứ?”

“Nếu cô cho tôi biết Sabria đã thực sự làm gì thì điều đó sẽ giúp chúng tôi minh oan cho cô ấy.”

Rizal ngồi dựa vào ghế vẻ thất thần hiện lên trên gương mặt cô ta. “Chưa chắc đã vậy.”

“Thôi được, thậm chí là cô ấy có làm việc gì đó phi pháp đi chăng nữa,” Katya nói, “thì tôi chắc rằng tội đó không thể nào tệ hơn là gái điếm được - ít ra là dưới góc nhìn của pháp luật. Và hãy tin tôi đi, tôi sẽ cố gắng để bảo vệ cô ấy bằng mọi cách có thể.”

Rizal không đáp.

“Tôi hiểu là việc này có thể khiến cô ấy gặp rắc rối.” Katya nói. “Nhưng nó có thế là cách duy nhất để tìm ra cô ấy. Chí ít thì nó sẽ giúp minh oan cho Ibrahim, và tôi cho rằng đó cũng chính là điều Sabrina mong muốn.”

Rizal trầm ngâm suy nghĩ vài phút rồi gật đầu.

“Thôi được rồi.” Cô nói. “Có những phụ nữ ở Kandara, cô biết đấy. Những cô gái Philippines, những cô gái Indonesia, những người giống như tôi. Bọn họ đã bị cưỡng hiếp. Bọn họ đã bị đánh đập. Bọn họ đã bị đối xử tàn tệ đến mức có lúc cố tự vẫn, cô hiểu chứ?”

Katya gật đầu.

“Mỗi khi như vậy, sẽ có ai đấy trở nên khôn ngoan. Bọn họ phát hiện việc lạm dụng đó xảy ra ở đâu và ghi hình lại. Sau đó bọn họ sử dụng những hình ảnh đó để buộc tay chủ nhà phải thả người phụ nữ đó ra - và phải trả một khoản tiền để cô ta sinh sống, nhờ vậy cô ta không phải lo lắng chuyện tiền bạc nữa.”

“Có phải cô đang nói rằng Sabrina là người tống tiền chủ nhà không?” Katya hỏi.

“Tôi không nói gì hết.” Rizal nói. Con trai cô bắt đầu cựa quậy. Đứa bé trở mình, và trượt đầu khỏi lòng mẹ. “Cô ấy rất thông minh trong chuyện tiền bạc. Và cô ấy quan tâm đến người khác hơn chính bản thân mình.”

“Còn người phụ nữ ở khu mua sắm đó thì sao?” Katya hỏi. “Cô ta đang nhận tiền từ việc này phải không?”

Rizal nghiêng đầu. “Tôi không biết người đó là ai. Nhưng đúng, Sabrina đang gặp gỡ những phụ nữ như vậy ở khu mua sắm, và bọn chúng đã biết việc đó.”

“Sabria có giữ những hình ảnh về những vụ hãm hiếp đó không?”

Rizal nhíu mắt nhìn cô. “Có các bản sao lưu.” Cô ta nói. “Phòng trường hợp có chuyện xảy ra với cô ấy.”

“Tôi cần xem những hình ảnh đó.” Katya nói. “Chúng có thể giúp chúng tôi biết kẻ nào đã bắt cóc Sabrina.”

Rizal cân nhắc một lúc lâu, rồi nói. “Cô có bút không? Hãy ghi lại con số này.” Katya lục trong túi xách tìm một chiếc bút rồi viết con số đó lên tay mình. “Đó là một địa chỉ IP.” Rizal nói. “Các cuốn băng được lưu giữ trên mạng. Đấy là mã khóa đăng nhập.” Katya vội vàng ghi lại những con số khác. “Cô hãy vào trang đó mà xem. Cô có thể tự mình thấy những cảnh tượng kinh khủng mà những kẻ đó đã từng làm.”

Nayir chưa từng bao giờ dành quá nhiều thời gian ngồi chết lặng. Sự thực là chuyện đó đã xảy ra trong phòng khách nhà Katya lại càng làm cho tình thế trở nên tồi tệ hơn. Nó gợi lại những kỷ niệm về lần gần nhất anh ở đấy, đợi gặp bố của Katya (cũng là lần đầu tiên anh gặp ông) để hỏi xin cưới cô. Sự giày vò hiện tại này cũng không kém thế chút nào. Nỗi sợ hãi đã vượt quá những rào cản của nó, bị nung nóng bởi những độc tố vô hình, sẵn sàng lây nhiễm sang mọi thứ.

Cuối cùng thì cửa cũng mở và Katya ngồi vào xe.

“Em đang băn khoăn liệu anh có thể đưa em đến một chỗ khác nửa không.” Cô lắc đầu vô vọng. “Em họ em vẫn chưa về.”

Nhịp điệu giao thông trên đường cao tốc khá dễ chịu. Hẳn là cô đã cảm thấy anh đang mệt mỏi khi phải làm tài xế cho mình bởi cô có vẻ lúng túng cả mười lăm phút rồi, hết cắn móng tay rồi lại cắn môi. Những người bạn hay cợt nhả của anh đã từng cảnh báo anh về điều này. Rằng kết hôn là cưõng ép mình làm nô lệ. Anh cho rằng mình đã ký tờ giấy đó là vì tình yêu và tình dục, nhưng đồng thời anh cũng ký kết với việc đưa đón, việc chờ đợi tại những hàng ăn trong các khu mua sắm, trong các phòng chờ bác sĩ, trong những hàng dài ở các nhà hàng khi không được phép ngồi. Anh ký kết với việc sẽ dành phần lớn thu nhập của mình cho việc ăn, ở, mặc, và làm hài lòng người phụ nữ anh đã cưới. Ở những quốc gia khác, gánh nặng tài chính đôi khi được chia sẻ. Ở những quốc gia khác, phụ nữ có thể lái xe đi đây đó. Nhưng ở đây, quả thực là anh phải làm tất cả vì vợ mình.

“Nayir.” Cô lên tiếng, giọng cô có phần đứt quãng. “Em không nghĩ việc này sẽ đi đến đâu cả.”

Anh khiến chính mình phải ngạc nhiên khi khéo léo chuyển sang làn đường tốc độ chậm và lái lên phần vai đường. Chỉ đến khi xe dừng hẳn anh mới cảm thấy run rẩy dưới sống lưng. Tất cả sức lực của cơ thể anh dao động theo những cú đánh nghiêng ngả đột ngột mà những kẻ yêu nhau có thể tung ra bằng một sự tàn bạo dịu đàng nhất.

Trong xe tối nhập nhoạng, nhưng anh vẫn có thể nhận ra cô đang lo lắng, nước mắt lưng tròng.

“Có chuyện gì sao em?” Anh khẽ hỏi.

“Tất cả những chuyện này em không thể kể với anh được vì em sợ anh sẽ phản đối.”

“Là những chuyện gì vậy?”

''Những chuyện ở cơ quan.”

“Hãy nói anh nghe đi.”

Cô im lặng một lúc rất lâu.

Bỗng nhiên chuyện trở nên thật nhố nhăng. Họ sẽ chấm dứt chuyện này vì công việc của cô sao? Cô có thể nói gì với anh được nhỉ? Anh cảm thấy mình có thể tha thứ mọi điều ngoại trừ việc làm đổ vỡ đột ngột và không giải thích được kế hoạch của họ.

“Hãy cho anh biết đi.” Anh nhẹ nhàng nói. “Anh sẽ cố gắng hiểu. Bỏi vì em nói đúng. Chuyện này sẽ không đi đến đâu cả nếu chúng ta không thành thật với nhau.”

Cô gật gật đầu một cách miễn cưỡng và bắt đầu giải thích về những hành vi của mình tại nơi làm việc: lén lút đi loanh quanh, lấy trộm tài liệu, bí mật sao chép ảnh. Cô nói với anh về việc bước vào phòng họp khi những người đàn ông đều có mặt ở đó là một việc khó khăn đến mức nào nhưng cô vẫn ép mình phải can đảm để làm nhằm nắm được các thông tin. Cô kể lại cách mà cô trình bày giả thuyết của mình về tên giết người trong vụ Thiên sứ là kẻ làm việc trong thành phố này, và cô cho anh biết về khu vực người ta đã dựng lên trong phòng họp để dành cho cô và làm sao giờ đấy nó không còn nữa. Anh cố tập trung, nhưng tâm trí anh chỉ băn khoăn một điều: chuyện này sẽ xen vào hôn nhân của họ sao? Chuyện này ư?

Rồi cô kể đến Ibrahim Zahrani và người tình bí mật của ông và những nỗ lực của cô nhằm giúp ông tìm lại người phụ nữ đó.

“Em sẽ nói với anh.” Cô vội vàng nói khi nhận ra vẻ mặt sửng sốt của anh. Anh cố nối ráp câu chuyện và nhận ra rằng anh không thể. “Nhưng đó là một thông tin nguy hại. Và thực lòng mà nói, em không chắc mình cảm thấy thế nào về nó nữa. Em biết đó là điều sai trái. Những gì ông ấy đã làm là vô cùng sai trái. Nhưng người phụ nữ đó đang mất tích và ông ấy cần sự giúp đỡ của một phụ nữ để tìm cô ấy, mà bọn em làm việc cùng nhau. Vậy nên ông ấy tìm đến sự giúp đỡ của em.”

Sau đó cô giải thích những chuyện còn lại - rằng ông ấy đã bị buộc tội ngoại tình và hiện giờ đang bị quản thúc chặt chẽ tại nhà mà không được phép sử dụng điện thoại di động. Rằng cô đã đến nhà giam đó để tìm hiểu về những bí mật của Sabria và phát hiện ra có việc tống tiền.

Anh biết rằng mình rất buồn. Chuyện thật đáng buồn. Cô đã giấu giếm mọi chuyện với anh và hành xử không hề đúng mực. Nhưng điều duy nhất anh thực sự có thể cảm thấy trong giây phút đó là sự tức giận điên cuồng khi mọi thứ họ cố gắng gây dựng, toàn bộ công trình tinh tế đó, có thể sẽ đổ võ tan tành chỉ bởi sự đồi bại của một kẻ hoàn toàn xa lạ. Anh thấy buồn khi nghĩ đến việc cô đã giữ kín những chuyện này, nhưng còn buồn hơn khi nhận ra cô đã không tin tưởng anh. Rằng cô đã che giấu mọi hành động của mình ở nơi làm việc. Rằng cô sợ sự phán xét của anh.

Lức này cô đang nhìn anh.

“Anh mừng vì em đã cho anh biết.” Anh nói. “Anh không muốn em làm việc bí mật với một kẻ ngoại tình. Nhưng một người phụ nữ đã mất tích và em muốn giúp cô ta. Em thật can đảm.”

“Vâng, em muốn giúp.” Cô nói. “Em còn muốn mình có thể giúp nữa kia.”

Họ im lặng một lúc lâu. Cô đang nói rằng: em muốn mình có thể làm những việc này - nói chuyện với người lạ mặt, giữ bí mật cho một kẻ ngoại tình và xông vào nhà giam. Em không muốn anh đánh giá em thấp đi vì những việc làm đó. Anh không biết phải nói gì nữa.

Cả hai đều đang sốc. Không có gì để nói thêm nữa, nhưng sắp đến lúc sẽ không thích hợp để lộ ra những điều không được tính trước, nên anh lái xe trở lại con đường.

Khói thuốc đày đặc trong căn hộ đến mức mắt Saffanah đỏ lên. Để tránh tình trạng đó, Ibrahim di chuyển cái công việc tự hủy hoại chính mình ra ngoài ban công.

Chiều hôm đó, gia đình Jamila đã quyết định sẽ nhanh chóng khởi tố vụ án. Ông sẽ bị xét xử vì tội ngoại tình. Ông sẽ bị đình chỉ công tác trong ngành cảnh sát trong khi chờ đợi điều tra về các hành vi của mình. Bọn họ đã sỉ nhục ông, giờ bọn họ lại sắp sửa chặt đầu ông nữa. Và vì cái gì? Vì kích dục tố của ông, vì ham muốn của ông, vì khứu giác của ông. Vì cái cách mà trái tim ông đập hối hả trong lồng ngực khi Sabria bước vào phòng. Tất cả những năm tháng ấy ông đã âm thầm khao khát cô, tất cả những năm tháng ấy ông đã tin rằng mình không bao giờ có cơ hội, rằng ông đã ván đóng thuyền với Jamila và không còn cách nào khác. Cho đến cái ngày trước khi Sabria rời khỏi Đội Điệp vụ, khi ông dám lấy hết can đảm để hỏi cô, Cô có muốn đi dạo không? Chỉ đến quầy hàng đó thôi. Mình uống Pepsi nhé. Và cô đã đồng ý.

Ông mong Zaki sẽ về nhà. Không ai biết liệu sự vắng mặt của cậu là vì Saffanah hay vì phát hiện ra những gì bố mình đã làm. Ibrahim ngờ rằng đó là nguyên nhân thứ hai. Ông cảm thấy cần phải tự mình giải thích, và vì một lý do nào đó ông muốn giải thích cho Zaki nhiều hơn bất cứ ai khác. Hamida đang ở tầng trên đối phó với Jamila và anh trai bà ta, nhưng bà cũng không thể ngăn việc bọn họ gọi luật sư đến.

Ông không thể tin được họ sẽ làm vậy. Bọn họ thực sự sẽ đưa ông ra tòa. Chắc chắn Jamila đang sống trong mộng tưởng rằng điều đó sẽ xoa dịu cơn giận của bà ta. Cuối cùng thì bà ta sẽ rũ bỏ được nó. Nhưng với sự xúi giục của anh trai mình, thì đó không còn chỉ là những cảm nhận của bà ta nữa. Đó là danh dự của anh trai bà ta. Còn bọn trẻ thì sao? Chuyện này sẽ ảnh hưởng thế nào tới chúng? Ông sợ rằng cuối cùng bọn họ sẽ đổ tội cho ông. Giờ thì tảng băng của cuộc hôn nhân của họ đã tan chảy, sự đối lập giả tạo sẽ tràn xuống núi, thuần túy và lạnh lùng, gầm lên với sức mạnh chết người.

Ông vẫn ở ngoài ban công khi chiếc Land Rover dừng lại trước tòa nhà, rồi Katya và chồng cô bước ra khỏi xe. Ông huýt gió và cả hai ngước lên nhìn. Ông ra hiệu cho họ đứng đó trong khi ông trở vào trong, tìm mảnh giấy và viết vội lời nhắn rồi ném nó xuống phía họ. Cô bắt lấy mẩu giấy và đọc.

* * *

Nayir tự hỏi tại sao lúc này cô lại kể mọi chuyện với anh.

Ngay trước khi họ dừng xe trên con phố nhà Ibrahim, cô đã nói. “Em cần anh chuyển thông tin về vụ tống tiền này tới Ibrahim. Mọi người ờ đồn đều nói rằng ông ấy đang bị giữ trong phòng mà không được sử dụng điện thoại. Điều đó với em có vẻ hơi cực đoan, nhưng em không biết chuyện gì đang xảy ra nữa. Em cũng không biết gia đình ông ấy bị cô lập đến mức nào. Em cho là không, nhưng ai mà biết được chứ. Mọi việc sẽ càng thêm khó xử nếu một phụ nữ xuất hiện mà không có ai hộ tống. Và hiển nhiên là em không thể nói với gia đình ông ấy những gì mà em đang biết.” Cô ngập ngừng nhìn anh. “Em cần anh giúp đỡ.”

Cần. Nayir cảm thấy sức nặng của từ đó. Cô cần anh. Cô sẽ còn cần anh trong một thời gian nữa. Và lúc này đây, ngay sau cú sốc về câu chuyện trong ô-tô, anh không chắc mình có còn sẵn sàng giúp cô không.

Lời nhắn mà Ibrahim đã ném xuống từ ban công viết rằng Hãy nói với anh trai tôi rằng tôi cần ra ngoài một lát. Anh ấy sống ở nhà kế bên. Vì vậy họ gõ cửa nhà Omar và tự giới thiệu rồi giải thích rằng họ đến đây vì nhiệm vụ. Họ không nói nhiệm vụ đó là gì, và Omar cũng không muốn biết. Katya chỉ đưa cho Omar xem lời nhắn và nói. “Em trai của ông muốn có một lúc riêng tư, nếu có thể được.”

Omar hộ tống họ trở lại nhà Ibrahim và dẫn họ lên tầng thượng. Họ đợi ở cầu thang. Omar trở xuống tầng dưới. Họ nghe tiếng ông thuyết phục những cảnh vệ để Ibrahim được lên tầng thượng ngồi. Chỉ khoảng một giờ thôi. Ông cần chút không khí. Ngay đến tù nhân còn được ra ngoài trời mỗi ngày một lần nữa là.

Sau một hồi tranh luận, gọi điện và thói quan liêu tẻ ngắt, Ibrahim xuất hiện ở chỗ rẽ lên cầu thang cùng một phụ nữ trẻ bên cạnh. Cô ta hoàn toàn che kín mặt.

“Đây là con dâu của tôi, Saffanah.” Ông nói. “Con bé cũng cần chút khí trời.”

Khi mở cửa tầng thượng, bọn họ choáng ngợp bởi sự ồn ào của ba mươi đứa trẻ - cháu của ông, anh em họ của chúng và những anh em họ hàng xa. Bố mẹ chúng đang ở dưới nhà an ủi vợ ông và quyết định số phận của ông. Bọn trẻ chỉ thoáng nhận thấy sự có mặt của họ. Các cậu bé đang hăng hái đá bóng; còn các cô bé mải chơi nhảy dây, hò hét, hay túm tụm trong những góc bí mật.

Đám người lớn ngồi xuống tấm thảm bên bức tường phía nam. Những chiếc đệm ngồi và một bộ ấm trà cáu bẩn cùng những chiếc gạt tàn xếp chồng lên bên cạnh chiếc điếu ống nguội lạnh, Ibrahim ngồi dựa lưng vào tường. Nayir và Katya ngồi đối diện với ông. Saffanah quỳ gối nhấc bộ ấm trà lên, rồi mang nó xuống nhà.

Đám trẻ không tò mò về Ibrahim, nhưng chúng để ý đến những vị khách của ông. Ngay từ phút giây Nayir và Katya ngồi xuống, đám con gái đã bắt đầu lén lại gần hơn. Ban đầu chỉ có bốn đứa. Ibrahim bảo đứa nhỏ nhất ngồi lên lòng mình. Những đứa cháu gái khác của ông thì ngồi bên cạnh, đứa hai tuổi, ba tuổi, và bốn tuổi, đều ngước nhìn Nayir chăm chú. Ibrahim giải thích rằng mẹ chúng - cô con gái Parrah của ông - đã ở đây vài tuần nay rồi. Saffanah trở lại với chiếc điếu ống đã được châm, và Ibrahim nhận nó với vẻ biết ơn. Rồi cô ta lại trở xuống nhà.

Nayir chăm chú nhìn Ibrahim. Dường như không thể nào có chuyện một người đàn ông rộng rãi như vậy - một gia đình lớn đông vui, với tất cả những đứa cháu tuyệt vời này, niềm vui thú của cảnh tượng này - lại có thể quay lưng lại với và dan díu với một phụ nữ cùng làm việc. Đúng vậy, có lẽ cuộc hôn nhân đó đã trở nên tồi tệ và ông ấy đã ngã lòng vì một vẻ đẹp trẻ trung hơn. Nhưng điều đó có đáng để phạm phải lỗi tày đình này - cũng là một trong những tội nghiêm trọng nhất hay không? Nayir cho rằng nó có thể là do sự ích kỷ, một sự bất mãn xuẩn ngốc với tất cả những gì ông đã có ở đây, chứ không có chút gì là tàn nhẫn. Và ở Ibrahim, anh chưa hề nhận thấy sự ngu ngốc hay ích kỷ, chỉ là nỗi tuyệt vọng đầy bi kịch mà thôi.

Saffanah trở lại mang theo trà cho người lớn và bánh quy cho các cô bé. Katya có vẻ không thoải mái. Cô muốn nói chuyện với Ibrahim nhưng không thể ép mình nói bất cứ điều gì quan trọng trước mặt lũ trẻ được. Trong khi cô cố gắng để có một cuộc hội thoại ngắn gọn, Nayir nhìn ngắm lũ trẻ chơi đùa. Không phải lúc nào anh cũng có thể ngồi ở đâu đó và chăm chú quan sát trẻ con mà không thấy rùng mình hay cảm thấy không đứng đắn, nhưng gần đây chúng luôn xuất hiện trong tất cả những suy nghĩ của anh. Anh thấy chúng ở khắp mọi nơi, từng đám chạy đua qua các cửa hàng rau quả, cắm trại trên đường Corniche, chen nhau trong những chiếc xe tải nhỏ, và la hét ở các hội chợ. Có cảm giác như Chúa đã vời anh đến thế giới này, và nói rằng: Đây là thứ mà con sẽ có.

Ibrahim bắt đầu hút thuốc. Các cháu của ông luồn lách xung quanh, không chịu ngồi yên, và một cô bé đã sà vào chỗ Nayir. Những đứa khác làm theo. Làn khói từ chiếc điếu ống bay quẩn quanh gương mặt chúng. Có hai cô bé ngồi trên hai đầu gối của Nayir, một đứa đang ôm con búp bê Barbie, đứa còn lại cầm một chiếc điện thoại di động bằng nhựa cọ vào đế dép của Nayir một cách dò xét, để xem anh có phản ứng gì không. Cuối cùng, một cô bé đã lấy hết can đảm trượt vào lòng anh. Ibrahim chau mày nhìn đứa bé, và nó lấy hai tay che mặt lại. Sau đó nó ngước nhìn Nayir, nhận thấy anh vẫn bình thường nên lại ngồi im. Lúc đầu anh có vẻ e ngại khi chạm vào đứa bé, nhưng đến khi nó sà vào vòng tay anh, thì anh không còn lựa chọn nào khác.

“Bố chúng đang ở Dhahran.” Ibrahim nói. Nayir hiểu ông có ý nói rằng: chúng thiếu sự vỗ về của một người đàn ông.

Bầu trời phủ bóng tối nhập nhoạng, trong khi phía dưới nó cả thành phố bắt đầu lên đèn. Khi chung quanh trở nên tối xẩm và than trong chiếc ống điếu đã tàn, đám trẻ trở nên mỏi mệt và, cuối cùng cũng nghe theo lời mẹ chúng, khi bọn họ cứ chốc lát lại lên gác, rồi đứng ngoài cửa tầng thượng gọi vào: vào nhà đi con, đến giờ về rồi. Bọn trẻ vô tâm tính lờ mẹ chúng đi, vì biết rằng mẹ chúng sẽ không ra ngoài đó bởi Nayir đang ở đấy (tuy là qua nét mặt lúng túng của Ibrahim, Nayir ngờ rằng bọn họ đang muốn tránh mặt ông nữa).

Các cô bé xuống nhà trước. Chúng trượt khỏi lòng Nayir, chào tạm biệt và gật đầu khi ông của chúng dặn dò phải nghe lời mẹ. Đám con trai thì phải giục giã nhiều hơn mới chịu đi. Cuối cùng, tầng thượng đã vắng người. Ibrahim đặt chiếc ống hút sang một bên rồi nói. “Dù là chuyện gì đã buộc cô phải đến đấy đi nữa, cô hãy cứ nói với tôi.”

Katya liếc nhìn Saffanah.

“Con bé không sao đâu.” Ibrahim nói. “Tôi hiểu đấy không phải là tin tốt lành, nếu không cô đã nói từ nãy rồi.”

“Không phải tin gì khủng khiếp đâu.” Katya nói. Cô giải thích về những gì mình đã khám phá được tại nhà giam phụ nữ đó. Ibrahim, con người mà khi ấy dường như đã cam chịu sự thất bại, bỗng ngồi thẳng lên chăm chú lắng nghe.

“Cô đã vào trang web và xem các đoạn băng đó chưa?”

“Rồi ạ.” Cô vừa nói vừa liếc nhìn Nayir. Khi ở trong xe cô đã không kể chi tiết lắm về những đoạn băng này, và giờ thì cô có vẻ ngượng ngùng, qua đó anh có thể hiểu rằng chúng rất tục tĩu. “Vấn đề là,” cô nói tiếp, “tôi không nhận ra bất cứ gã đàn ông nào trong đó cả.”

“Tôi cần xem chúng.”

Cô lấy điện thoại di động của mình ra. Chiếc điện thoại có màn hình cảm ứng và cô loay hoay với nó một lúc trước khi trao nó lại cho Ibrahim. Ông ngồi dậy, ngay lập tức lần tìm chiếc kính nhưng nó không ở trong túi nên ông đã giữ chiếc điện thoại ở xa xa rồi nheo mắt nhìn.

Những tiếng gào thét kinh hoàng phát ra từ chiếc loa nhỏ xíu. Katya nghiêng người để giảm âm lượng. Ibrahim hầu như không để ý đến việc đó. Ông còn đang chăm chú nhìn vào màn hình. Nayir không thể không liếc nhìn màn hình, nhưng ở góc đó khiến anh rất khó thấy được gì, và dù sao đi nữa thì tất cả những gì anh có thể nghĩ đến là việc Katya đã xem những hình ảnh ấy. Katya đã thấy một phụ nữ bị hãm hiếp bởi một gã lạ mặt. Lúc đó anh nhận ra rằng đấy chính là sự thực phũ phàng về công việc của cô.

Ibrahim đặt chiếc điện thoại trên lòng mình. Saffanah, người nãy giờ ngồi trong góc để không ai phải lôi kéo cô vào câu chuyện, giờ lại đang chăm chú nhìn Ibrahim qua cái khe hẹp bé xíu trên chiếc khăn trùm đầu của mình.

“Ông có nhận ra bất cứ gã nào không?” Katya hỏi.

“Có.” Ibrahim nói. Đôi tay ông run rẩy. Ông có vẻ sửng sốt một cách cay nghiệt. “Có, tôi có nhận ra.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Fouz Ubaid, kẻ đạo đức giả đã dành quá nhiều thời gian để giày vò Thanh tra Ibrahim, đang ngồi cứng người, hai vai vuông vức, hai tay nắm lại trước mặt đặt trên bàn. Phòng thẩm vấn im phăng phắc. Hắn ngồi đó một mình kể từ khi người cảnh vệ đưa hắn vào từ hai tiếng trước.

Bọn họ không buộc tội hắn hay cho hắn quyền gọi luật sư, nhưng qua tấm kính một chiều, Katya có thể nhận thấy hắn ta đã chuẩn bị lời bào chữa cho mình. Có gì đó diễn ra trên nét mặt của một con người khi bắt đầu thanh minh cho cách hành xử tồi tệ nhất của mình, một sự chuẩn bị phức tạp về sự chính dáng, sự bất chấp, sự tính toán, và một chút sự sợ hãi. Không có khả năng hắn sẽ bào chữa cho mình. Thực vậy, bọn họ đã bắt quả tang hắn qua đoạn phim hắn hãm hiếp một cô giúp việc trẻ. Cô ta bị trói lại. Khi cô ta gào thét để kêu cứu, hắn dán băng dính vào miệng cô ta. Có vẻ rõ ràng người phụ nữ đó không sẵn sàng tham gia vào chuyện này.

Tuy vậy, điều đầu tiên mà Ubaid nói khi họ đưa hắn vào căn phòng này là “Cô ta đã muốn tôi làm vậy. Đó là sự sắp đặt theo ý muốn của cả đôi bên.”

Đó là tất cả những gì cần có để ngăn bộ máy của pháp luật.

Tội đồng lõa của người phụ nữ kia chính là vấn đề mấu chốt. Nếu hắn nói đúng và đấy là một sự đồng thuận, cho dù đó là bạo lực và diễn kịch đi chăng nữa, thì hình phạt hà khắc nhất mà Ubaid phải đối mặt là mười năm ở tù và một nghìn roi. Hắn chưa có gia đình, nên đó không phải tội thông dâm. Hắn sẽ chỉ bị buộc tội quan hệ tình dục phi pháp mà thôi.

Nhưng nếu có thể chỉ ra được rằng hắn đã cưỡng hiếp người phụ nữ này thì hắn sẽ phải chịu tội hiếp dâm, tức là sẽ bị chặt đầu công khai.

Sẽ rất mất công để chứng minh một vụ cưỡng hiếp, đặc biệt là sau vụ Qatif tai tiếng đó. Một phụ nữ đã bị hãm hiếp tập thể ở thành phố Qatif và bị trừng phạt cùng những kẻ đã hãm hiếp cô ta, bởi thẩm phán phán quyết rằng cô ta đã thuận ý gặp gỡ những gã đàn ông này và do đó đã phá vỡ một trong những giáo lý của xã hội văn minh: phụ nữ không được giao tiếp với đàn ông lạ mặt. Tất cả đều phải chịu hình phạt vì tội quan hệ tình dục phi pháp, mặc dù những gã kia đã bị truy tố về tội hiếp dâm. Chính vì sự công khai của vụ án này mà đàn ông dễ dàng cảm thấy tự tin hơn khi khai nhận quan hệ tình dục đồng thuận, vì biết rằng khó có thể chứng minh được đó là cưỡng hiếp - và rất khó để một phụ nữ khai nhận rằng cô ta bị cưỡng hiếp, nhằm tránh chính mình bị trừng phạt.

Gánh nặng đó hiện đang đè lên vai các điều tra viên để chứng minh Ubaid đã chủ động rình mò nạn nhân với mục đích cưỡng hiếp cô ta. Lúc đầu, Katya đã nghĩ việc này có thể khả thi nếu chứng minh được rằng có người đã sử dụng các đoạn băng kia nhằm tống tiền hắn và hắn đã phải trả tiền cho kẻ tống tiền. Điều này sẽ buộc hắn phải thú nhận tội lỗi của mình. Nhưng nhìn hắn lúc này, cô nhận ra rằng hắn mới ngông cuồng làm sao. Hắn ta có thể khai hắn đã trả tiền cho kẻ tống tiền chỉ vì cảnh phim đó thật đáng xấu hổ, bởi nó có thể gây rắc rối cho sự nghiệp của hắn, và bởi vì, xét cho cùng, đó là quan hệ tình dục phi pháp. Điều đó không có nghĩa là hắn phạm tội hiếp dâm.

Dù thế nào đi nữa thì vụ án này sẽ không do Đội Trọng án phụ trách. Họ đã quá bận bịu với vụ Thiên sứ để có thể dành thời gian tìm kiếm một cô gái người Phillipines không xác định được danh tính và cố dựng lên một vụ cưỡng hiếp nhằm chống lại một sĩ quan kỳ cựu của Đội Điệp vụ. Ngay cả khi có tìm được cô gái đó, cô ta vẫn phải bào chữa cho những gì mà tại địa điểm đầu tiên cô ta đã một mình làm với hắn. Nếu cô ta khai rằng hắn ta đã lừa gạt mình, cô ta phải chứng minh được điều đó - với bằng chứng xác thực. Và điều đó là gần như không thể. Không có bằng chứng thì chỉ đơn giản là lời nói của cô ta đã chống lại hắn mà thôi.

Có lẽ Ubaid đã nghĩ đến việc này rồi, nhưng xem ra không phải vậy. Hắn chỉ có vẻ như sẽ nghĩ ra điều đó mà thôi. Chính vì vậy mà hiện giờ Katya đang ở đây, chờ đợi và hy vọng rằng trong khoảng thòi gian ngắn ngủi khi Đội Trọng án vẫn có quyền khống chế hắn, họ có thể ép buộc và đe dọa hắn.

Vài phút sau, cửa mở và Thám tử Mu'tazz bước vào phòng.

Những phụ nữ ở phòng thí nghiệm của Katya luôn nói rằng Thám tử Khouri, người mà họ gọi là Abu-Haitham, là người đàn ông sùng đạo nhất trong Cục. Ông ta đã được bổ nhiệm định sau nhiều lần từ chối ngồi vào xe cảnh sát nếu có bất cứ phụ nữ nào ở trong xe, cho dù cô ta có che kín mặt và cư xử đúng mực thế nào đi chăng nữa.

Ông ta còn có sở thích mang theo một chiếc roi da lạc đà ngắn như vài cảnh sát cuồng tín thường sử dụng. Chiếc roi được giắt vào thắt lưng ngay cạnh bao súng và đã trở thành một trào lưu thịnh hành đến mức một số sĩ quan khác, bao gồm cả Mu'tazz, cũng đã mang theo roi như vậy, một cam kết thầm lặng đồng hành với đức tin tuyệt đối của Abu-Haitham.

Mu'tazz chỉ nhất quyết muốn chứng tỏ rằng ông ta là người đàn ông Hồi giáo thuần khiết nhất, nhưng không giống Abu-Haitham, ông ta có tính cách thật khó chịu. Ông ta không bao giờ nói chuyện với Katya. Những gì cô biết được chỉ là qua những câu chuyện trong phòng thí nghiệm. Lúc này quan sát ông ta, cô nhận thấy một sự ghê tởm khôn tả. Ông ta có khuôn mặt to, vuông chữ điền; đôi mắt gần sát với đôi lông mày, và cái miệng rộng không duyên dáng một chút nào. Mỗi khi mở miệng, ông ta không thể nào tránh được việc khoe ra cả hàm răng khấp khểnh. Chúng vừa xấu, vừa vàng, lại còn thưa, với chân răng đen sì. Ông ta để một bộ râu quai nón được tỉa tót ở quanh miệng và quanh xương quai hàm nhưng nó chỉ càng làm nổi bật thêm cái khoang miệng xấu xí ở chính giữa mà thôi.

Ông ta đặt tập hồ sơ lên bàn và nhìn xuốg Ubaid.

“Cho dù cuối cùng các vị thẩm phán có phán quyết thế nào về những lời buộc tội cưỡng dâm đối với anh, thì bọn họ cũng sẽ giảm án nếu anh tỏ ra hợp tác với chúng tôi.” Mu'tazz nói.

“Chúng tôi biết anh có liên đới với một phụ nữ có tên là Sabria Gampon. Chúng tôi biết cô ta đã tống tiền anh. Hiện cô ta đã mất tích ba tuần nay, và anh biết đấy, Đội Điệp vụ đang rất nóng lòng tìm ra cô ta.”

Ubaid ương bướng nhìn chăm chăm vào tấm kính một chiều. “Chúng tôi cho rằng anh có thể biết chuyện gì đó đã xảy ra với cô ta.” Mu'tazz lúc này đang đi vòng quanh chỗ Ubaid ngồi, dò xét hắn ta từ mọi góc độ. “Nếu anh biết điều gì đó, chúng tôi sẽ đánh giá cao nế anh cho chúng tôi biết.”

“Tôi chẳng biết gì hết.”

Với tốc độ khiến Katya phải giật mình, Mu'tazz đấm Ubaid từ phía sau gáy. Cú đấm đã sỉ nhục hắn; người ta có thể nhận ra điều đó qua màu đỏ đang bừng lên khắp hai má hắn. Mu'tazz tiếp tục đi lại phía sau hắn ta. “Mày nói gì kia?”

“Tôi không biết gì hết.”

Mu'tazz lại đấm hắn, lần này mạnh hơn. Cú đấm khiến đầu Ubaid chạm gần xuống mặt bàn.

“Mày nói gì?”

Ubaid im lặng.

Đấm! Mu'tazz ra tay mạnh hơn nữa. Đấm! Mỗi lần Ubai ngẩng đầu lên, trông hắn lại càng bẽ bàng hơn. Đôi mắt hắn ngấn lệ vì đau đớn sau mỗi cú đánh.

“Có phải mày nói là mày biết tìm Sabrina Gampon ở đâu không nhỉ?”

“Không, tôi...” Đấm!

“Tôi không biết này!”

Khuôn mặt Mu'tazz ngây ra. Thậm chí trông ông ta có vẻ chán nản, như thể trước đấy ông ta đã từng làm việc này rồi và biết rằng tình thế sẽ tiến triển thế nào cũng như không cần quan tâm nhiều đến kết quả sẽ ra sao.

Đấm-đấm!

Bỗng nhiên Katya thấy sợ. Sao không có ai khác vào phòng quan sát vậy? Người ta phải biết chuyện gì đang diễn ra chứ. Có lẽ cô khôn nên ở đấy một mình, chỉ là phòng khi sau này có ai đó hỏi chuyện. Sự việc đã diễn ra như thế này đây: việc tra tấn được bao bọc bởi sự im lặng đồng lõa. Và cô nhận ra rằng mặc dù muốn chứng kiến Ubaid phải chịu đau đớn, nhưng thực tế là cô kinh hãi vì điều này và vì vẻ thờ ơ lạnh lùng trên khuôn mặt của Mu'tazz.

Mu'tazz rút chiếc roi da lạc đà ra. Ông ta bước lùi lại rồi nói. “Mày phải nói gì về Sabrina Gampon nào?”

Ubaid lắc đầu tuyệt vọng.

Vút! Chiếc roi quất lên lưng hắn. Ubaid thét lên đau đớn. Trông mặt hắn thật kỉnh khủng.

“Mày phải nói gì đây?”

“Không gì hết!”

Vút! Vút! Vút!

“Làm ơn hãy dừng lại! Tôi không biết gì về cô ta hết!” Đó là những từ cuối cùng Katya nghe thấy trước khi lao ra khỏi phòng.

Katya đã dành cả buổi sáng còn lại vừa lặng lẽ làm việc trong phòng thí nghiệm, vừa suy ngẫm cảm giác sợ hãi và tội lỗi. Cô luôn tự nhủ Ubaid đáng bị trừng phạt. Rằng Mu'tazz đã trừng phạt hắn ta - phía sau sự thông đồng im lặng đó, có cả sự im lặng của cô - bởi mọi người đều biết rằng luật pháp không bao giờ cho phép điều này một cách hợp thức cả. Nhưng cô không thể thôi không nhớ lại vẻ lạnh nhạt trên mặt Mu'tazz khi ông ta tung ra hết cú đấm này đến cú đấm khác. Cô từng chứng kiến cảnh đàn ông đánh nhau. Ngay bản thân cô thậm chí đã từng bị đánh, trong chính căn phòng đó trong một cuộc thẩm vấn. Nhưng vẻ mặt của Mu'tazz đã cho thấy một sự vô cảm hoàn toàn, và thực lòng mà nói, nó đã khơi mở nỗi sợ hãi trong cô. Vụ Thiên sứ giờ đã là của ông ta, và mặc dù cô mong muốn tìm ra tên sát nhân đó, nhưng cô không hề muốn tiếp xúc với Mu'tazz chút nào.

Rõ ràng là Mu'tazz đang cô gạt cô ra khỏi vụ án này. Ông ta không chỉ đã đuổi cô ra khỏi phòng họp đó mà còn thu lại toàn bộ số hồ sơ các vụ án đã hoàn tất. Những gì còn lại đều vô dụng: hai chiếc hộp nhỏ có chứa các vụ án còn bỏ ngỏ từ giữa những năm 1990. Rồi một cú đánh khác nữa khi sếp của cô, Zainab, bước vào phòng thí nghiệm và cảnh báo cô về tình huống mới này.

“Bọn họ thực sự đang làm rất mạnh tay.” Bà ta nói. “Chính vì vậy chúng ta không thể để bất cứ hoạt động nào chậm trễ so kế hoạch được. Họ đã cảnh báo sẽ sa thải một số nhân viên phòng thí nghiệm nếu chúng ta để việc đó xảy ra, và tôi có cảm giác là tên cô nằm đầu tiên trong danh sách đấy.”

Katya muốn nói rằng chuyện này thật lố bịch. Bọn họ vẫn đang phải chờ kết quả kiểm tra DNA, nhưng hầu hết các bằng chứng của vụ Thiên sứ đã được xử lý xong hoặc đã được trao lại cho những nhân viên nam ở tầng dưới. Công việc ở phòng thí nghiệm đã được hoàn thành đến mức gần như không còn gì, và bọn họ bắt đầu xử lý những bằng chứng tồn đọng của các vụ án khác.

Thất vọng, cô xuống phòng thí nghiệm pháp y ở tầng dưới thì thấy Majdi và Osama đang xem xét vài bằng chứng. Cô đã làm việc với Osama trong vụ án trước và biết anh là người có tư duy cởi mở nên không cho rằng việc cô tham gia vào vụ Thiên sứ là không phù hợp. Osama trông có vẻ chán nản. “Có chuyện gì vậy?” Anh hỏi.

“Tôi chỉ xuống để xem vụ Thiên sứ đang có vấn đề gì không.” Cô nói. Cả hai người đàn ông đều thở dài thất vọng. “Chẳng có gì cả.” Osama nói. “Không có diễn tiến gì cả.”

“Chuyện gì đã xảy ra với nghi phạm vậy?”

Majdi lắc đầu. “Màu máu và tóc chúng ta tìm được trong chiếc xe Trăng lưỡi liềm Đỏ của hắn hóa ra lại là của nam giới. Sau đó chúng tôi phát hiện ra chiếc xe đó đã bị bán lại bởi nó từng gây tai nạn. Một trong những nhân viên y tế đã đập đầu vào thành xe khi chiếc xe lộn nhào, và có vẻ như Hajar chẳng buồn lau chùi nó.”

Osama dựa vào bàn làm việc. “Chẳng có gì trong chiếc xe đó cho thấy Hajar có liên quan đến vụ sát hại nào cả.”

“Ngay cả chiếc taxi cũng vậy.” Majdi nói tiếp. “Chúng tôi đã xem xét kỹ từng ly từng tý trong xe của hắn. Vấn đề đối với những chiếc taxi là chúng có quá nhiều tóc và mẫu thử. Cho đến giờ, không có đến một sợi tóc nào phù hợp với các nạn nhân hết. Và không có vẻ gì là Hajar đã xóa các dấu vết - hắn chẳng lau chùi thứ gì.”

“Bọn họ đã thả hắn rồi sao?” Katya hỏi.

“Không, vẫn chưa đâu.” Osama nói. “Mu'tazz vẫn chưa đưa ra quyết định. Giờ ông ta phụ trách vụ án mà.”

“Tôi biết.” Katya nói. “Các anh nghĩ ông ta sẽ làm gì tiếp đây?”

“Tôi khá chắc là ông ta sẽ làm những gì thường làm.” Osama đáp. “Ông ta sẽ suy tính một thời gian. Ông ta là một người khá chậm chạp khi đưa ra ý kiến.”

Majdi lên tiếng với vẻ bảo vệ. “Nhiều người như vậy mà.”

“Anh có vậy đâu.”

“Tôi thì không, nhưng tôi tôn trọng những ai cần thời gian để suy tính điều gì là đúng. Đôi khi mọi chuyện không phải lúc nào cũng rõ ràng.”

“Thực ra, tôi nghĩ anh nói sai rồi.” Osama nói. “Ông ta cần đối diện với sự thực rằng chúng ta đã rơi vào ngõ cụt. Và ông ta càng sớm nhận ra điều đó ngày nào, thì vụ án càng sớm được tiếp tục ngày ấy.”

Ngày thứ Tư, một người đàn ông bước vào phòng thí nghiệm và tự giới thiệu mình là Jalal Taleb, luật sư đại diện cho Ibrahim Zahrani. Trước những ánh mắt hiếu kỳ của bạn đồng nghiệp đổ dồn lên mình, Katya phải kéo ông ta ra ngoài hành lang nói chuyện.

“Ibrahim đã đề nghị tôi đến đây hôm nay để tìm một số hồ sơ mà ông ấy để ở phòng làm việc.” Taleb nói. “Tôi không thể tìm được chúng. Chánh thanh tra của Đội Trọng án nói phòng làm việc của Ibrahim đã được dọn đi từ khi ông ấy bị bắt giữ và hồ sơ đã được xếp vào thùng gửi xuống bộ phận Lưu trữ để phân loại. Tôi đã xuống bộ phận Lưu trữ, và bọn họ không thể cho tôi thông tin gì về những hồ sơ đó.”

“Ông ấy cần những hồ sơ gì vậy?” Katya hỏi.

“Đó là hồ sơ các vụ án cũ của Đội Điệp vụ có vài điểm liên quan đến Sabria Gampon. Ibrahim cho rằng có thể cô ấy đã biết hai gã đàn ông khác trong các đoạn băng ghi hình - hoặc chí ít là đã nghe được về bọn họ - qua công việc ở Đội Điệp vụ. Ông ấy rất mong được xem lại các hồ sơ đó.”

“Ông ấy đã nói chuyện này với anh trai chưa?”

“Vâng, chính anh trai ông ấy là người lúc đầu đã gửi các hồ sơ đó cho ông ấy và cũng chính ông ta hôm qua đã nói với ông ấy rằng những hồ sơ đó vẫn chưa được gửi trả lại Đội Điệp vụ.”

“Vậy là chúng vẫn còn ở đây.” Katya nói.

“Có vẻ vậy.”

“Và tại sao ông lại nói chuyện đó với tôi?”

“Ibrahim nói rằng nếu tôi không thể lần theo các hồ sơ trong phòng làm việc của ông ấy, tôi nên đến gặp cô và trình bày tình hình. Có khả năng những hồ sơ đó đã vô tình được chuyển giao cho một thanh tra khác trong Cục. Ibrahim nói đã để chúng trong cùng ngăn kéo tủ mà ông ấy để hồ sơ vụ án giết người hàng loạt. Chính vì vậy có lẽ những hồ sơ kia đang nằm trong phòng làm việc của một người Đội Trọng án.”

Trước khi Katya kịp hỏi tiếp, Taleb đã giơ tay lên và nói. “Cho đến giờ cô đã biết những gì về vụ của Ibrahim rồi?”

“Ý ông là vụ buộc tội ngoại tình sao?”

“Vâng?”

“Rất ít.” Cô nói. “Sao vậy?”

Taleb thở dài. “Mọi chuyện đã rẽ sang một ngả xấu.” Ông ta tiếp tục giải thích rằng, do có lệnh của tòa án mà Ibrahim buộc phải làm rõ mối quan hệ với Sabrina. Và ông đã làm việc duy nhất có thể làm khi những chứng cứ đưa ra đều chống lại mình: ông tuyên bố rằng đã chính thức kết hôn với Sabrina, tuy đó là hôn thú bí mật. Ông nói rằng họ đã ký một loại giấy chứng nhận hợp pháp có tên là misyar, một văn bản hôn nhân đã được một đại diện tôn giáo ký trước. Mặc dù đó không phải hành vi thích đáng, nhưng cũng không phi pháp.

Ibrahim cũng tuyên bố trước tòa rằng họ âm thầm kết hôn nên người vợ đầu không phát hiện ra. Nếu điều đó được chứng minh là đúng, thì điều tệ nhất ông phải đối mặt là vụ kiện của gia đình vợ mình. Vợ ông sẽ đệ đơn xin ly hôn vì ông đã cưới người khác mà không nói với bà ta. (Mặc dù hợp đồng hôn nhân của họ được lập từ hai mươi năm trước không đề cập gì đến việc ông buộc phải thông báo với bà ta về ý định cưới vợ hai.)

Rủi thay, Ibrahim không thể đưa ra văn bản đó nhằm chứng minh rằng thực tế ông đã cưới Sabrina. Cô đã mang theo văn bản đó trong túi xách khi mất tích, Ibrahim nói, và ông không biết có chuyện gì đã xảy ra với tờ giấy đó.

“Nhưng đúng lúc ấy,” Taleb nói, “Có người ở Đội Điệp vụ đã chỉ ra rằng Sabrina đã kết hôn với một người đàn ông có tên là Halifi và vẫn chưa ly hôn. Cô cũng biết đấy, luật pháp cũng khá linh động trong việc ly hôn - thí dụ như, đôi khi việc ly hôn được thực hiện bí mật và không chính thức - nên điều tra viên đó đã tìm gặp Halifi và theo những gì anh ta biết, đúng là anh ta chưa ly hôn với Sabrina. Chúng tôi đã cố hạ thấp độ tin cậy trong phát ngôn của anh ta viện lý do là cảnh sát đã tìm thấy anh ta khi đang dùng heroin, tuy nhiên lòi khai của anh ta vẫn được tòa chấp nhận.”

“Thật tệ.” Katya nói.

“Vâng, và tình hình đang trở nên xấu hơn. Theo gợi ý của tôi, Ibrahim sau đó phản bác rằng Sabria đã bị cưỡng hôn, và bị lạm dụng. Sau khi bỏ trôn, cô ấy không gặp lại Halifi năm năm rồi. Vị thẩm phán có vẻ không cho rằng chuyện đó có vân đề gì. Một cuộc hôn nhân là một cuộc hôn nhân. Khi bọn họ chưa ly hôn, thì cô ấy vẫn là vợ của Halifi, do đó Ibrahim vẫn phạm tội ngoại tình cho dù ông ấy đã thực sự cưới Sabrina rồi.”

“Vậy để tôi đoán nhé.” Katya nói. “Mọi người sẽ cho rằng Sabrina đã lừa dối cả hai người đàn ông đó.”

“Chính xác là vậy.” Taleb đáp. “Thẩm phán cho rằng Halifi và Ibrahim có thể đều nói thật và Sabrina đã nói dối cả hai người. Hay nói cách khác, cô ấy đã cưới Ibrahim mà không nói gì với ông ấy về Halifi cả. Hiện tại, tôi đã để cho tình hình đi theo hướng đó, bởi nó có lợi cho thân chủ của tôi, nhưng ông ấy lại vô cùng hoang mang về điều này. Ngay từ đầu ông ấy lúc nào cũng như vậy. Cũng tương đối vất vả để thuyết phục ông ấy rằng đó là cách duy nhất ông ấy có thể cứu được cái đầu của mình còn Sabria, người hiện đang mất tích, thì ít nhiều cùng không phải lo lắng đến mức như ông ấy lúc này được. Nhưng ông ấy e ngại hơn bất cứ khi nào rằng cảnh sát sẽ tìm thấy cô ấy và buộc tội cô ấy ngoại tình. Cho dù tình hình có diễn biến theo hướng nào đi chăng nữa, thì cô ấy sẽ vẫn bị buộc tội này hoặc tội khác thôi.”

“Và đó là lý do tại sao ông ấy muốn ông đến tìm gặp tôi.” Katya nói. “Chúng ta phải tìm ra cô ấy trước cảnh sát.”

“Đó là một cách để nhìn nhận sự việc.” Taleb nói. “Ông ấy tin tưởng cô hơn bất cứ ai khác trong Cục. Cô đã có công lớn trong việc giúp đỡ tìm kiếm Sabria, và cô dường như có quan tâm đến chuyện gì đã xảy ra với cô ấy. Ông ấy có cảm giác chắc chắn rằng một gã đàn ông trong các đoạn băng đó có liên quan đến sự mất tích của cô ấy. Anh trai ông ấy luôn thông tin cho ông ấy về tình hình của Ubaid, và tại thời điểm này, cảnh sát tuy không loại trừ ông ấy, nhưng cũng không có khuynh hướng cho rằng Ibrahim là nguyên nhân của vụ mất tích này, bởi ông ấy đã chủ động tìm kiếm Sabrina.”

“Tôi tán thành việc tìm ra những gã đàn ông còn lại.” Katya nói. “Nhưng cụ thể Ibrahim muốn tôi làm gì chứ? Chẳng lẽ đi khám xét văn phòng của chánh thanh tra hay sao?”

Taleb trề môi. “Tôi không rõ là ông ấy đã có kế hoạch cụ thể nào trong đầu hay chưa, chỉ là ý rằng khi người ta muốn một thứ gì đó, thì họ thường cố để có được nó.”

Quyết định đầu tiên của Katya khá là tự phát: cô bắt taxi trở lại nhà giam phụ nữ Briman. Nếu có ai đó biết nhiều hơn về những kẻ trong đoạn băng ấy, thì đó chính là Carmela Rizal.

Cô Rizal một lần nữa vui lòng nhận lời gặp cô. Họ vẫn ngồi trong căn phòng ấy, lần này không có con trai của Rizal, vì cậu bé đang chơi trong nhà trẻ. Rizal đáng lẽ phải tham gia lớp học làm gốm. Chiếc áo dài thắt ngang lưng của cô lốm đốm màu vẽ, và cô có mùi giống mùi đất sét ướt.

Khi Katya giải thích về những quyết định pháp lý của Ibrahim và sự thực là cảnh sát hiện đang tìm kiếm Sabrina để buộc tội cô ngoại tình, thì Rizal trở nên căng thẳng.

“Cô đã tự mình xem những đoạn băng đó chưa?” Katya hỏi.

Rizal lắc đầu. “Chưa. Sabrina đề nghị tôi giữ mật khẩu của trang đó chính xác là để phòng trường hợp như thế này. Nhưng tôi chưa bao giờ xem những hình ảnh đó cả. Cô ấy không mang chúng đến nhà giam đâu, tin tôi đi!”

“Tôi cần cô cho tôi biết tất cả những gì cô biết về những người có liên quan đến những đoạn bảng đó.” Katya nói. “Thực sự rất quan trọng nếu tôi có thể tìm ra Sabria trước cảnh sát.”

“Tôi không biết mình phải giúp cô thế nào đây.” Rizal đáp

“Cô có phiền khi xem những đoạn băng đó bây giờ để xem nhận ra ai không?”

Rizal rùng mình và nhắm nghiền mắt lại.

“Nó có thể là cách duy nhất để tìm được Sabria.” Katya nói

Một cách miễn cưỡng, Rizal chìa tay ra. Katya đưa cho cô chiếc điện thoại và chờ đợi, quan sát khi gương mặt của Rizal đỏ lên, cơ hàm căng ra khi hai hàm răng nghiến lại. Đến đoạn băng thứ hai, cô thốt lên: “Ôi Chúa ơi, đó chính là Jessica!”

“Jessica?”

“Vâng.” Rizal có vẻ choáng váng. “Jessica Camerone. Cô ấy là bạn của chúng tôi.”

Katya ghi chú lại. “Là gì cơ?”

“Thực ra, chúng tôi đã mất liên lạc với cô ấy từ rất lâu rồi. Ít ra là tôi.”

“Sabrina không nhắc gì đến việc cô ấy có liên quan đến đoạn băng này sao?”

“Không, không hề.”

“Và cô chắc đó chính là cô ấy chứ?” Katya hỏi.

“Vâng, chắc chắn.”

“Làm sao cô biết cô ấy?”

“Tất cả chúng tôi làm việc cho cùng một người. Halifi.”

“Jessica cũng bị hắn lạm dụng sao?”

Rizal gật đầu. “Cô ấy mất tích trước Sabrina. Khi đó tất cả chúng tôi đều bấn loạn cả lên. Mãi sau này Sabria mới tìm được cô ấy. Cô ấy đã kể cho tôi nghe về cuộc sống mới của Jessica. Tôi không hề biết cô ấy có liên quan đến việc này.”

“Thế còn những gã đàn ông đó thì sao?” Katya hỏi. “Cô không nhận ra ai à?”

“Không, không một ai cả.”

“Tôi cần tìm danh tính của của bọn họ. Cô có nghĩ là Sabrina giữ những thông tin này ở đâu đó không?”

Rizal lắc đầu. “Tôi biết cô ấy không giữ những thông tin gì sẽ ràng buộc cô ấy với việc tống tiền. Cô ấy vô cùng thận trọng. Cô ấy chưa bao giờ viết ra. Tất cả những gì cô ấy giữ đều ở trên trang web đó.”

“Chỉ có các đoạn băng trên trang đó thôi.” Katya nói.

“Tôi hiểu!” Rizal bắt đầu có vẻ căng thẳng. “Tôi mong là mình có thế giúp gì đó, nhưng tôi không biết gì cả!”

“Thôi được rồi.” Katya kiên quyết nói. “Có lẽ cô không biết tên bọn họ, nhưng tôi dám chắc là cô biết gì đó khác. Sabrina hẳn đã có lúc nói chuyện về những người tên. Ngay cả khi cô ấy không kể chi tiết cho cô nghe, có thể cô ấy đã nhắc đến điều gì đó chung chung. Hãy cố thư giãn và nhớ lại. Cô ấy có bao giờ nói về việc đã phát hiện ra những gã này lần đầu tiên như thế nào không? Thí dụ như có quan hệ cá nhân với chúng không?”

“Không, không, cô ấy chưa từng gặp chúng. Cô ấy chỉ biết những phụ nữ có liên đới thôi.”

“Và ngoài Jessica ra, cô ấy đã gặp những phụ nữ kia như thế nào?”

“Ở Sitteen, như tôi đã nói trước đó.”

“Cô ấy đã kể những gì với cô về bọn họ?”

Rizal ngước nhìn lên trần nhà với vẻ đau đớn. “Cô ấy nói về sự thực là bọn họ đã bị cưỡng hiếp. Rằng bọn họ đã bị bọn chủ cưỡng hiếp thường xuyên, và đó là lý do tại sao bọn họ bỏ trốn tới Sitteen.”

“Làm thế nào mà cô ấy có thể ghi được các đoạn băng hình về những phụ nữ đó nếu bọn họ đã bỏ trôn rồi?”

“Cô ấy tìm bọn chủ nhà và...” Rizal hít vào một hơi, nhắm nghiêm mắt và làm dấu thánh. “Tôi đoán cô có thể nhận ra rằng cô ấy đã thực hiện hoạt động gián điệp.”

Katya choáng váng nói không lên lời. “Ý cô là cô ấy đã cử những phụ nữ đó trở lại với những gã chủ kia, và họ biết trước họ sẽ bị hãm hiếp?”

“Không phải vậy.” Rizal nói. “Cô ấy đưa một phụ nữ mới vào gia đình mà gã chủ nhà từng là kẻ cưỡng dâm. Tôi biết là chuyện đó thật kinh khủng. Bọn họ đến đấy chỉ để ghi được những hình ảnh đó.”

“Được rồi.” Katya nói. “Vậy là Jessica là một trong số những gián điệp ấy?”

“Tôi không hể biết chuyện đó.” Rizal nói không lên lời. “Nhưng đúng vậy, tôi đoán là thế.”

“Những phụ nữ này - bọn họ sẽ được gì khi xong việc?''

“Sabria trả tiền cho họ. Cô ấy trả cho mỗi người một khoản tiền một phần lớn số tiền lấy được qua vụ tống tiền. Tôi không rõ chính xác là bao nhiêu. Cô ấy cũng hứa sẽ giúp họ thoát khỏi đất nước này và trong hầu hết các trường hợp thì điều đó còn tốt hơn cả số tiền kia. Nhưng những phụ nữ ấy, tôi nghĩ họ làm vậy cũng là để giúp đỡ những phụ nữ khác nữa. Để trừng trị những gã đàn ông đó. Tất cả số tiền Sabrina kiếm được qua việc tống tiền đã được dành để giúp đỡ những cô gái khác thoát khỏi đất nước này.”

“Bằng cách nào?”

“Họ mua giấy tờ giả mạo. Họ hối lộ các quan chức...”

Katya gật đầu. “Chính vì vậy Sabrina biết những gã đó sống ở đâu, và cô ấy biết cách làm thế nào để đưa một người giúp việc vào từng ngôi nhà một. Cô ấy chắc chắn phải có vài quan hệ để có thể làm được việc này.”

“Tôi không biết chi tiết mọi chuyện.” Rizal nói. “Cô ấy làm việc với một công ty dịch vụ giúp việc, nhưng tôi không rõ nó tên gì và tôi khá chắc rằng công ty này không hề biết cô ấy đã làm gì nữa kia. Tôi chỉ biết rằng Sabria có thể làm bất cứ việc gì khi cô ấy đặt toàn tâm toàn ý vào nó. Cô ấy là như vậy đấy.”

“Cô có nhớ bất cứ chi tiết nào về những gã đàn ông đó không?”

Rizal lắc đầu.

“Hãy nhớ lại đi. Chắc hẳn phải có điều gì đó chứ. Không cần phải cụ thể; có thể chỉ là một ký ức mang máng nào thôi...?”

“Vâng, được rồi.” Rizal nói bằng giọng run run. “Tôi nhớ có điều gì đó về một ngôi nhà nghỉ. Một trong những gã đàn ông đó có một ngôi nhà ở Ai Cập. Tôi không rõ liệu hắn có phải là kẻ hay đi săn không. Một gã trong số đó rất thích đi săn. Hắn có nhiều súng.”

“Cô có nhớ hắn săn gì không?”

“Không. Tôi nghĩ là săn chim.”

“Thôi được rồi.” Katya ngồi lại. “Chi tiết này rất hữu ích, và cô biết nhiều hơn cô tưởng đấy.”

“Tất cả đều chỉ mang máng.” Rizal nói. “Tôi không biết cụ thể. Khi cô ấy kể với tôi chuyện này, tất cả những gì tôi quan tâm là việc được ra khỏi đây nên tôi không thực sự để ý. Và cô ấy đã không nói với tôi cái tên nào cả. Chúa ơi, cô ấy thậm chí không nói với tôi về việc Jessica cũng tham gia vào chuyện này. Có lẽ cô ấy cho rằng nó sẽ khiến tôi thất vọng.”

“Cô Jessica này...” Katya nói.

“Chim ôtit!” Rizal bỗng nhiên thốt lên. “Đó chính là loài chim gã đó thường đi săn.” Katya ghi lại. “Tôi lấy làm tiếc là không thể nói với cô nhiều hơn.''

“Thế là tốt rồi. Cô Jessica này, hiện giờ cô ấy đang ở đâu vậy?”

Rizal run rẩy thở hắt ra rồi chỉ dẫn tới một ngôi nhà ở Andalus. “Ngôi nhà đó có một khu vườn rộng ở ngay trước nhà, cô có thể nhận ra nó. Sabrina đã nói rằng sẽ đến đây. Tôi gần như chết lặng khi cô ấy nói với tôi điều đó. Tôi tự hứa rằng một trong những điều đầu tiên sẽ làm khi ra khỏi đây là đến ngôi nhà đó và tìm Jessica.” Cô đưa lại chiếc điện thoại cho Katya và khẽ mỉm cười. “Cô ấy sẽ khóc khi trông thấy con trai tôi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


A1 Saqr Al Jazeera là một cửa hàng cung cấp chim ưng ở đầu phía nam phố Falasteen. Cửa hàng lớn đó rực sáng một màu nâu của cát sa mạc dưới ánh đèn đường. Đó là buổi tối ngày thứ Tư. Katya và Nayir đang ngồi nói chuyện trong chiếc Land Rover, chăm chú quan sát toà nhà không có cửa sổ ấy và chờ lễ cầu nguyện buổi tối kết thúc. Chiếc loa phóng thanh của một nhà thờ Hồi giáo đang vang tiếng adhan (1) nên đúng mười lăm phút nữa cửa hàng đó sẽ được phép mở cửa trở lại. Bọn họ không chắc có phải vậy không. Không thấy có tấm biển ghi giờ phục vụ nào và có khả năng là cửa hàng đã nghỉ cuối tuần.

Tỉnh dậy để cầu nguyện. Tỉnh dậy để sám hối. Đức Chúa là cao cả.

(1) Lời kêu gọi của thầy tu Hồi giáo báo giờ cầu nguyện cho các tín đồ

Bọn họ đã đến căn hộ của cô bạn Jessica của Sabria. Nếu có người nào giúp được họ nhận diện những gã đàn ông trong các đoạn băng kia, thì đó chính là cô ấy. Nhưng cô không ở nhà. Bọn họ đã đợi suốt một tiếng đồng hồ và không ai ra vào căn hộ đó cả. Katya thấy ngại khi bắt Nayir phải chờ lâu hơn.

Chính anh là người có ý tưởng đến đây. Khi ngồi trong xe, cô đã kể với anh về loài chim ôtit. Cô biết việc săn chim là phi pháp, nhưng theo Rizal thì một trong những kẻ bị tình nghi đã làm việc này. Nayir nói rằng cửa hàng cung cấp chim ưng có thể giúp họ lần theo dấu vết của một tên săn trộm.

Anh cho cô biết việc đi săn chim ôtit theo lối cổ, tức sử dụng chim ưng để đi săn, vẫn còn khá phổ biến trong một bộ phận những người giàu có. Loài chim đó là con mồi lựa chọn của bất cứ người nuôi chim ưng nào, và mặc dù chim ôtit đã bị giết hại nhiều bởi nạn săn bắn quá mức, nhưng anh biết những người giàu có và các doanh nhân đã nhập khẩu chim ôtit để thả chúng trên những bãi săn bắn riêng nhằm mục đích thực hành việc nuôi chim ưng theo kiểu truyền thống. Nói đúng ra hoạt động đó không bị coi là phi pháp, bởi bọn họ tự mình nhập khẩu con mồi từ Pakistan và sử dụng nó trên đất tư nhân. Hoàng gia cũng đi săn chim ôtit ở Pakistan vào các kỳ nghỉ hằng năm và chắc chắn sẽ không trừng phạt một số ít những công dân được hưởng đặc quyền thực hành một trong những hoạt động truyền thông cổ xưa nhất của quốc gia. Theo quan điểm của họ, thuật nuôi chim ưng là một hoạt động đáng tôn kính, và gần như là linh thiêng và cũng có nguy cơ biến mất không kém gì loài chim ôtit.

Katya ngờ rằng những gã đàn ông mà bọn họ đang tìm kiếm đều là những kẻ giàu có. Nếu không thì đã chẳng đáng bị tống tiền. Cô có mang theo hình chụp hai gã đàn ông vẫn chưa nhận diện được trong những đoạn băng đó, vói hy vọng đưa chúng cho Jessica xem. Nhưng có lẽ Nayir nói đúng, và sẽ có ai đó ở cửa hàng chim ưng trong khu vực này nhận ra.

“Chúng thậm chí còn có cả hộ chiếu riêng nữa.” Nayir nói.

“Lũ chim ưng ấy ạ?”

“Đúng vậy. Một vài con còn có giá hơn nửa triệu riyal nữa kia. Chủ nhân của chúng đi cùng chúng và muốn chúng được an toàn.”

“Thật điên rồ. Chẳng phải vị hoàng tử nào cũng có phi cơ riêng hay sao? Chẳng lẽ họ gửi chúng qua hải quan.”

“Anh cho rằng một vài người trong số họ làm vậy.” Đôi mắt Nayir ánh lên sự thích thú mà hiếm khi cô được thấy, và đột nhiên cô lại cảm thấy ghen tỵ vì những thứ thực sự làm anh vui đều thuộc về thế giới của đàn ông.

“Thực ra, một người bạn tốt của anh vẫn hằng tháng đến Abu Dhabi.” Anh nói tiếp. “Ở đó họ có một bệnh viện dành cho chim ưng vào loại tốt nhất thế giới, và thậm chí cả khách sạn bốn sao dành cho chúng nữa.”

Cô khịt khịt mũi. “Sao lại phải săn chim ôtit trong khi anh có cả trứng cá muối champagne chứ?”

“Thịt chim ôtit được coi là một thứ thuộc kích dục tuyệt vời. Nguời ta đã săn bắn nó suốt sáu nghìn năm nay vì mục đích hiển nhiên đó.”

Sự ghen tỵ đã chuyển sang khát khao. Cô không thể tin là anh đã nhắc đến từ thuốc kích dục thoải mái đến thế và cô hình dung trong những cuộc trò chuyện với đàn ông, Nayir trở thành người rất khác. Cô mong được thấy anh trong trạng thái hoàn toàn thoải mái như vậy nhiều hơn nữa.

“Anh không cho rằng người ta săn chim ôtit từ lâu như vậy bởi nó là một trong số những loài chim hiếm hoi sống sót ở ngoài sa mạc sao?” Cô hỏi. “Điều đó không như việc có hàng trăm loài chim để lựa chọn đâu.”

Anh mỉm cười. “Thực ra,” anh chậm rãi nói, “cảm giác của riêng anh là chim ôtit chủ yếu đáng giá do cách hành xử của chúng.”

“Là gì vậy?”

“Chúng có một thứ vũ khí là kỹ năng tự phòng vệ xuất sắc.”

“Như thế nào ạ?”

“Khi thấy con chim ưng đến gần, điều chúng sẽ làm trước tiên là dang rộng đôi cánh và xòe đuôi. Đó là một loài chim lớn tuyệt đẹp - có lẽ là lớn gấp ba một con chim ưng ấy chứ - và với đôi cánh dang rộng đó, nó càng có vẻ đáng sợ hơn. Nếu chim ưng vẫn tiến về phía nó, chim ôtit sẽ cất cánh và bay thẳng về phía mặt trời làm chim ưng bị lóa mắt. Nếu cách đó vẫn không hiệu quả, chim ôtit sẽ thải những gì có ở trong ruột nó ra, và cách này có hiệu quả ngay lập tức.”

Katya mỉm cười. “Như vậy là những người thợ săn thích thú được quan sát cảnh tượng ấy, phải không ạ?”

“Đúng rồi; thực tế là họ luôn để chim ôtit được bay trước. Như vậy sẽ thú vị hơn nhiều.”

“Anh đã từng làm vậy chưa?”

“Rồi. Anh từng đi săn.” Niềm vui không còn hiện trên nét mặt anh nữa, và lần đầu tiên anh có vẻ buồn bã. “Đó là một điều đẹp đẽ, và thật tệ là chúng ta không thể làm theo cách mà nó vốn như vậy nữa.”

Một chiếc ô-tô dừng lại tại điểm đỗ bên cạnh xe họ và hai người đàn ông bước ra. Một người trong số đó mở cửa hiệu. Người kia đang mang theo một chiếc lồng bên trong có con chim ưng đội mũ che mắt. Bọn họ nhận ra Nayir và chào anh. Cả hai người chỉ hơi liếc nhìn Katya.

Ông chủ cửa hàng là một người đàn ông ngoài bốn mươi tuổi mà Nayir không giới thiệu với Katya. Ông ta trong giống với người châu Á, có lẽ là người Pakistan. Ông ta nói cộc lốc chẳng buồn xã giao. “Vào đi.” Ông ta nói. “Bọn tôi phải thay một chiếc lông vũ mới cho con chim này.”

Con chim đã được bịt mắt và khá điềm tĩnh khi được mang vào cửa hàng. Katya theo Nayir bước vào trong.

Bên trong cửa hàng rất rộng, và các mặt hàng bày bán ít đến mức không lấp đầy đến một phần tư không gian. Có mũ trùm che mắt, lồng chim, và găng tay, vài chiếc lồng đắt tiền và túi mang du lịch. Phía sau quầy là một loạt những thiết bị đo từ xa được treo trên tường. Phần còn lại của cửa hàng trống không. Phải mất một lúc Katya mới nhận ra khu vực đó đã được phân chia. Phía sau gờ đầu tường là hai dãy lồng đối diện nhau. Đó là một chuồng chim.

Hai người đàn ông kia nhanh chóng nhưng nhẹ nhàng lấy con chim ra khỏi chiếc lồng, gỡ bỏ mũ trùm đầu của nó, rồi đặt nó lên một đầu của quầy bán hàng. Con chim không có vẻ phản ứng gì cả. Người chủ cửa hàng với một chiếc xô từ trên giá có nhãn hiệu BROWN AND WHITE xuống. Trong đó đựng cả tá lông vũ. Ông ta lục tìm đến khi bắt được một chiếc ưng ý.

“Ông ta làm gì vậy?” Katya thì thầm hỏi.

“Con chim ưng cần có đủ tất cả lông vũ để bay đúng hướng. Nó đã mất một chiếc lông, nên họ đang thay thế nó. Anh nghĩ họ sẽ gắn nó vào bằng keo.”

Rõ ràng họ từng làm việc này rồi. Người chủ cửa hàng vồn vã nói chuyện với Nayir trong khi làm việc. “Tôi có thể giúp gì cho anh tôi nay đây, anh Sharqi?”

Nayir đẩy nhẹ hai tâm ảnh của hai kẻ tình nghi qua mặt quầy “Tôi chỉ muốn biết hai anh có nhận ra mấy người này không.”

Người chủ cửa hàng đang lúi húi với con chim ưng liền thẳng người lên và liếc nhìn hai bức ảnh. “Có, tôi có biết một người. Sao thế?”

“Bọn họ có thể giúp chúng tôi tìm ra một tên giết người.” Nayir nói. Katya âm thầm ngạc nhiên rằng anh đang nói dối, nhưng cô có thể nhận ra là anh không thoải mái khi làm việc đó. Người chủ cửa hàng có vẻ không để ý.

“Tôi chỉ nhận ra có một người. Người đàn ông này tên là Hakim al-Adnan.” Ông ta nói. “Anh ta rất giàu có. Làm việc tại Tổng Cục Đầu tư nhưng sống ở Jeddah này. Anh là một trong những kẻ có phi cơ riêng. Không phải loại người anh muốn dính đến đâu.”

Ông ta chỉ vào bức ảnh kẻ đã hãm hiếp Jessica.

“Tôi là cảnh sát.” Katya nói. Người đàn ông Pakistan nhìn cô chăm chăm khiến cô nghĩ ông ta lại là một kẻ khắt khe về đạo đức nữa, nhưng có vẻ ông ta đang lắng nghe. “Chuyến viếng thăm này là không chính thức.” Cô nói tiếp. “Tôi có thể báo cáo khi về đồn, nhưng chúng tôi đang hơi vội. Ông có tình cờ có được địa chỉ của anh al-Adnan không? Chúng tôi cần hỏi anh ta vài điều.”

Người đàn ông Pakistan chớp chớp mắt rồi gật đầu. Ông ta quay lại phía con chim ưng và hoàn tất việc gắn chiếc lông vũ mới. Sau đó ông ta lau tay trước khi mất hút trong căn phòng phía sau. Katya thăm dò thái độ của Nayir. Không có phản ứng gì.

Vài phút sau đó người chủ cửa hàng xuất hiện. “Anh ta không để lại số thẻ tín dụng trong dữ liệu của chúng tôi, và chưa từng yêu cầu đặt hàng qua thư, nên tôi không có địa chỉ của anh ta.”

“Anh ta đi săn thường xuyên chứ?” Katya hỏi.

“Ồ vâng, mùa đông nào cũng vậy.”

“Ông có biết gì về địa điểm đi săn của anh ta không?”

“Tôi biết anh ta có sỏ hữu một khu ở gần Taðf. Tôi đã đến đó một lần. Tôi có thể vẽ sơ đồ chỉ đường nếu cô muốn. Nếu không, cô có thể tìm anh ta trên mạng.”

Trở vào chiếc Land Rover, Nayir có vẻ trầm ngâm.

“ Taðf cách đây có xa không anh?” Katya hỏi.

“Em muốn đến đó bây giờ sao?”

“Có lẽ vậy.” Cô nói.

Anh có vẻ ngạc nhiên. “Đã tối rồi. Anh không chắc chúng ta có thể quan sát được gì nhiều. Và bố em sẽ không...?”

“Em sẽ nói với bố đây là chuyện công việc.”

“Ông sẽ không cho rằng đó là điều kỳ quặc sao, em ở ngoài muộn đến thế rồi?”

Cô nhìn thẳng vào anh. “Chúng mình sắp cưới rồi, anh nhớ không? Bố em tin tưởng anh mà.”

Nayir quay nhìn ra ngoài cửa sổ nhưng anh lắc đầu. “Đường cao tốc Taðf là một con đường nguy hiểm. Chúng ta không nên lái xe đến đó vào buổi tối. Nhưng anh sẵn sàng đưa em đi vào ngày mai.” Anh quay lại phía cô. “Giờ anh nghĩ ta nên đến xem Jessica đã về nhà chưa.”

“Người đàn ông mà người huấn luyện chim ưng vừa mới nhận diện chính là kẻ đã cưỡng hiếp Jessica. Có lẽ không cần thiết phải quay trở lại đó nữa. Chúng ta đã biết ai là kẻ...” Cô bỏ lửng câu nói.

“Có chuyện gì vậy?” Anh hỏi.

Điều này khiến Katya phải băn khoăn: có vẻ như Sabria đã bị bắt cóc tại căn hộ của chính mình, nhưng làm thế nào một trong những nạn nhân bị tống tiền có thể tìm ra nơi cô đang ở được? Cô không có tên trong bất cứ danh sách nào. Thị thực của cô đã hết hạn và địa chỉ cũng đã cũ. Theo như cả Ibrahim và Rizal nói, thì cô đã tự bảo vệ danh tính của mình bằng một sự đa nghi đến mức hoang tưởng. Jessica chính là người duy nhất có vẻ như đủ thân thiết với Sabria để biết cô sống ở đâu. Và Jessica đã bị al-Adnan cưỡng hiếp.

“Anh nói đúng.” Katya nói. “Ta đến chỗ Jessica đi.”

Rizal không cho Katya địa chỉ - hình như là cô không có - mà chỉ chỉ đường thôi. Cách khoảng ba toà nhà về phía đông phố al-Andalus là một cửa hàng tiện ích có hình cây hoa giấy được vẽ trên cửa sổ. Xuôi theo khu nhà đó chừng nửa đường là một chiếc Huyndai mất bánh bỏ không. Chỗ nào đấy gần đó là một toà nhà chung cư hai tầng có một khu vườn ở phía trước. Rizal đã ghi nhớ địa điểm này bởi cô ta quyết tâm sẽ đến đây khi nào được thả.

Lúc này trong căn hộ đã sáng ánh đèn. Katya và Nayir lái qua khu vườn và bị bất ngờ bởi một con chó. Lần trước nó không có ở đây. Con chó giống Schnauzer nhỏ thó màu đen chạy ào ra đón họ, dai dẳng sủa đến cả nửa phút, rồi thong thả đi giữa hai chậu cây cảnh trở vào trong.

“Em đoán là có người ở nhà.” Katya nói.

Bọn họ nhấn chuông cửa căn hộ bên trái, và một phụ nữ trẻ ra mở cửa. Katya ngay lập tức nhận ra cô qua đoạn băng đã xem.

“Cô Jessica Camerone?” Katya lên tiếng.

Người phụ nữ đó gật đầu với vẻ lo lắng. Cũng giống như Sabria và Rizal, cô có một khuôn mặt xinh đẹp, nhưng trông có vẻ mệt mỏi.

“Tôi xin lỗi vì đã quấy rầy cô.” Katya nói. “Tôi là cảnh sát, và tôi muốn hỏi cô một vài điều về một người bạn của cô.”

“Người bạn nào vậy?”

“Sabria Gampon.”

Bàn tay Jessica bám chặt bậu cửa.

“Tôi có thể vào nhà được không?” Katya hỏi.

Jessica liếc nhìn Nayir lo lắng. Anh lùi lại và nói. “Tôi sẽ đợi ngoài này.”

Katya bước vào căn hộ.

“Có chuyện gì vậy?” Jessica vừa hỏi vừa ra hiệu cho cô ngồi bên chiếc bàn bếp. Katya ngồi xuống, và Jessica ngồi đối diện. Cô ta đang run rẩy, nhưng khuôn mặt lại có vẻ nghi hoặc.

“Sabria đã mất tích.” Katya nói. “Cô ấy đã biến mất gần một tháng nay. Cô có biết cô ấy có thể ở đâu không?”

“Ôi Chúa ơi.” Jessica đưa một tay lên che miệng và lắc lắc đầu. Katya đợi một lát trước khi nhắc lại câu hỏi.

“Tôi không biết.” Jessica nói với giọng có vẻ hơi thách thức. “Sao cô lại hỏi tôi điều đó?”

“Tôi biết về những đoạn băng ghi hình.” Katya nói. “Tôi biết cô đã bị một người đàn ông có tên là Hakim al-Adnan hãm hiếp.”

“Tất cả giờ đã kết thúc rồi.” Jessica kiên quyết nói. “Tôi đã để mọi chuyện lại sau lưng.”

“Cô thân với Sabria đến mức nào?” Katya hỏi.

“Ô tôi không biết. Tôi đã quen Sabria rất lâu rồi.” Jessica đứng lên và bước tói bên quầy bếp. “Cô đang buộc tội tôi vì điều gì đó chăng?”

“Tôi có lý do để tin rằng al-Adnan có liên quan đến sự mất tích của cô ấy. Nhưng Sabria sống khá kín tiếng. Sẽ rất khó để hắn tìm ra nơi ở của cô ấy.”

“Cho nên cô nghĩ rằng tôi đã nói với hắn?” Jessica cao giọng.

“Có hai lựa chọn.” Katya nói. “Cô có thể cho tôi biết sự thật, giúp tôi tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với Sabria và có thể bỏ tù gã đó, hoặc tôi có thể bắt giữ cô, đưa cô về đồn và bọn họ sẽ buộc cô phải nói ra sự thật. Tôi nghĩ cả hai ta đều hiểu nếu họ bắt giữ cô, họ sẽ buộc tội cô vì đã hành xử bất chính.”

“Tôi đã bị cưỡng hiếp!” Cô ta gào lên.

“Sẽ vô cùng khó khăn để chứng minh được điều này trước toà.” Katya nói. “Tôi sẽ không bắt cô nếu cô nói vói tôi sự thực về chuyện gì đã xảy ra.”

“Không.” Jessica nói. “Cô vẫn sẽ bắt tôi thôi. Bất cứ thông tin gì tôi cho cô biết đều sẽ được sử dụng trước toà, phải vậy không? Và bọn họ sẽ muốn nói chuyện với tôi để xác nhận lại thông tin đó. Và sau đó tôi sẽ phải thừa nhận rằng mình đã bị cưỡng hiếp sao?” “Không.”

Jessica đứng ở quầy bếp, hai cánh tay cứng đờ buông hai bên. “Sabria đã cử cô vào đây để ghi đoạn băng đó từ khi nào?” Katya hỏi. “Cô ấy đã trả cho cô một khoản tiền. Khoản tiền đó có nhiều không?”

“Không nhiều lắm. Tôi biết cô ấy đang làm gì. Cô ấy moi tiền của những gã đó. Cô ấy nói sẽ đưa tiền cho tất cả những phụ nữ cần giúp đỡ, nhưng sau đó tôi bắt đầu nhận ra rằng cô ấy không hề sống khổ sở chút nào. Cô ấy không đi làm, và sống trong một căn hộ đàng hoàng. Cô ấy sống ổn, trong khi tôi phải làm hai công việc để trả tiền thuê một căn phòng. Còn bốn phụ nữ khác nữa sống ở đây. Khá vất vả, nếu cô hiểu ý tôi muốn nói gì!”

“Cho nên cô đã đòi cô ấy đưa thêm tiền?”

“Cô ấy đã nói không.”

“Rồi sau đó thì sao?”

“Cô biết đấy, chính tôi mới bị hãm hiếp chứ.”

“Cũng là hợp lý thôi khi cô cảm thấy mình xứng đáng có.” Katya nói. “Cô đã tự mình liên hệ với al-Adnan phải không?”

Jessica mất một lúc mới trả lời. “Tôi đã có một thỏa thuận với hắn Tôi nói với hắn sẽ đòi ít hơn Sabria.”

“Cô liên hệ với hắn bằng cách nào?”

“Tôi đã bám theo Sabria đến Chamelle Plaza và tiếp tục theo dõi những phụ nữ mà cô ấy cử đi làm gái.”

“Hãy nói rõ hơn đi.”

“Cô ấy đã gặp gỡ những phụ nữ này ở đó. Bọn họ sẽ làm điếm cho cô ấy - nhận tiền từ những kẻ cô ấy tống tiền rồi mang tiền về cho cô ấy.”

“Những phụ nữ đó đã nhận tiền bằng cách nào?”

“Những gã đàn ông này được chỉ dẫn để đưa tiền cho lái xe của vợ bọn họ. Phần lớn chúng có vợ, và thuê lái xe cho vợ mình. Những tay tài xế đó sẽ đưa tiền cho những phụ nữ này, rồi bọn họ sẽ mang tiền đến Chamelle Plaza cho Sabria. Đây cũng là nơi cô ấy đưa tiền cho những phụ nữ nào cần.”

“Vậy là một ngày kia cô đã theo dõi cô ấy.”

“Thực ra là phải mất một tuần.” Jessica nói. “Tôi đã theo dõi các cô gái đến những địa điểm làm tiền của bọn họ và sau đó bám theo những tay lái xe về nơi ở của bọn họ cho đến khi tìm được al- Adnan. Hắn đã chuyển nhà từ khi hắn cưỡng hiếp tôi, nên tôi không biết hắn ở đâu cả. Dù sao thì tôi cũng đã chặn tài xế của hắn lại và đưa cho anh ta lời nhắn tới al-Adnan trình bày điều mà tôi muốn. Vài ngày sau, al-Adnan trở lại tìm tôi. Hắn ta nói hắn ta nhận lời.”

“Nhưng để đảm bảo với hắn rằng Sabria sẽ không tiết lộ hắn với cảnh sát, cô phải hủy các bản sao đoạn băng đó chứ, hoặc thỏa thuận với cô ấy chẳng hạn.” Katya nói.

“Không, tôi chỉ đến và nói với cô ấy rằng nếu cô ấy không ngừng tống tiền hắn, tôi sẽ đưa cho hắn địa chỉ của cô ấy. Nhưng tôi thực sự không làm vậy! Cô phải tin tôi. Tôi đã quá tức giận về số tiền đó, nhưng không có lý gì tôi lại ném cô ấy cho loài chó dữ đó cả. Cô ấy là bạn tôi.”

“Al-Adnan đã trả cô bao nhiêu?”

Jessica nhăn mặt. “Hắn không trả tiền.” Cô ta lại ngồi xuống bên chiếc bàn.

Katya biết cô ta đang nói dối. Không có lý nào. “Tại sao al-Adnan lại theo dõi Sabria mà không phải là cô?” Katya hỏi. “Cô chắc chắn đã thỏa thuận với hắn và cho hắn địa chỉ của Sabria.”

“Không!” Cô ta nói.

“Vậy thì làm thế nào những tay tài xế đó lại không phát hiện ra những phụ nữ nhận tiền của ông chủ bọn họ đã đi đâu? Bọn họ có thể theo dõi Sabria bất cứ lúc nào.”

“Tôi không biết nữa.” Jessica lo lắng nói. “Những phụ nữ đó rất cẩn trọng, tôi chắc vậy.”

“Cô có cẩn trọng không?”

Jessica im lặng.

“Tôi nghĩ thế này.” Katya nói. “Cô đã gặp al-Adnan. Cô thỏa thuận với hắn. Hắn đưa tiền cho cô và cô nói với hắn có thể tìm Sabria ở đâu.” “Không, không! Cô lầm rồi. Hắn không cho tôi đồng nào hết, và tôi chưa bao giờ nói vói hắn nơi cô ấy ở. Tôi đã gặp hắn, được chưa nào? Và đó chính là lúc tôi nhận ra mình đã sai lầm. Tôi không nhận tiền của hắn. Tôi thấy hắn ở bên kia bãi đỗ xe và đã quyết định không bao giờ nói chuyện với hắn nữa. Tôi không hề nói chuyện với al- Adnan.”

“Sau đó cô đã đi đâu?”

Jessica đã thỏa giận và nhìn xuống tay mình. “Tôi đã đến Chamelle.” Tiếng cô ta đứt đoạn. “Tôi biết là Sabria sẽ ở đó.”

“Như vậy là cô đã ngay lập tức trở lại Chamelle. Và tay chân của hắn có thể đã đi theo cô.”

“Tôi đã không nghĩ đên điều đó.” Jessica nói. Một giọt nước mắt lăn xuống một bên má cô ta. “Tôi không biết liệu chúng có thấy tôi không. Ý tôi là... Tôi không biết nữa. Tôi không nói chuyện với bọn họ.”

“Tại sao cô trở lại Chamelle?”

“Khi lần đầu tôi đến gặp Sabria về chuyện này, cô ấy đã đề nghị tôi một khoản tiền nữa. Nhưng tôi đã quá tức giận nên không nhận. Sau tất cả những gì xảy ra với al-Adnan, tôi đã tức giận và e sợ. Tôi nhận ra rằng tôi thà nhận tiền của cô ấy còn hơn là đối phó với hắn ta.”

Katya gật đầu. “Thế còn Sabria thì sao? Cô có gặp cô ấy ở Chamelle không?”

“Có.” Jessica run rẩy thở hắt ra. “Cô ấy nói một tuần sau sẽ đưa tiền cho tôi. Đến khi đó tôi đã gọi cho cô ấy, và cô ấy không trả lời. Tôi cho rằng cô ấy tránh mặt mình. Tôi thực sự không nghĩ là...”

“Như vậy là cuộc gặp tại Chamelle Plaza thực tế là lần cuối cùng cô gặp cô ấy?”

“Đúng vậy. Đã một tháng trước rồi.”

“Chân tay của al-Adnan có lẽ đã đi theo cô ở bãi đỗ xe về đến khu mua sắm đó.”

“Nhưng nó là một khu mua sắm dành cho phụ nữ cơ mà.” Jessica nói.

“Tất cả những gì chúng cần làm là mặc áo trùm lên người.” Katya đáp. “Cô và Sabria có cùng nhau rời khu mua sắm đó hay không?”

Jessica gật đầu, và lúc này nước mắt lã chã rơi. Cô ta gục đầu xuống. Katya nhìn những giọt nước mắt ướt đẫm trên áo sơ-mi của cô ta.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Sáng thứ Năm, Katya đến phòng thí nghiệm từ sớm. Đó là ngày cuối tuần nên cả toà nhà vắng tanh nhưng cô vẫn mở máy tính lên và tìm dữ liệu về Hakim al-Adnan. Người đàn ông Pakistan huấn luyện chim ưng đó nói đúng: trong cơ sở dữ liệu của chính phủ có ảnh của al-Adnan phù hợp với bức ảnh chụp trong đoạn băng ghi hình đó. Hắn từng là kế toán viên của Bộ Nội vụ trước khi làm việc ở vị trí hiện tại tại Tổng Cục Đầu tư. Địa chỉ nhà của hắn được ghi là ở Jeddah.

Cũng sáng hôm ấy, Katya và Nayir đứng trước hai cánh cửa gỗ được khắc chạm cầu kỳ. Chúng đã cũ và khá lạc lõng một cách nổi bật phía trước một ngôi biệt thự trát vữa stucco.

Một người hầu ra mở cửa. Ông ta mặc bộ đồng phục sơ-mi trắng có cổ tay bẻ lên, áo vét đen, ca-vát, và thậm chí cả đôi găng trắng nữa. Ông ta có mái tóc ngắn được cắt tỉa gọn gàng, và khi nói, giọng ông ta nghe giả tạo một cách khó chịu.

“Tôi có thế giúp gì anh chị?”

Katya mỉm cười nhã nhặn. “Vâng.” Cô nói. “Tôi là một phóng viên của tờ Tin tức Ả Rập. Tôi đang hoàn tất câu chuyện về ông Hakim al- Adnan và vai trò của ông ấy trong việc phục hồi hoạt động mang tính lịch sử là thuật nuôi chim ưng, và tôi muốn tiếp tục câu chuyện với một vài vấn đề thực tế.”

Người hầu nhìn Nayir với vẻ nghi hoặc rồi nói. “Vâng, nhưng tôi e là ông al-Adnan không có ở đây.”

“Tôi rất xin lỗi đã làm phiền ông.” Katya nói. “Ông ấy đã nói với tôi rằng có thể ghé qua bất cứ lúc nào. Mãi đến giờ tôi mới có cơ hội.”

Người hầu không trả lời.

“Ông có biết khi nào ông ấy về không?” Cô hỏi.

“Một tháng nữa, tôi e là vậy.”

“A, tôi hiểu rồi.” Katya nói, cố tảng lờ Nayir đang mỗi lúc căng thẳng cạnh cô. Cô không thích nói dối quá mức ngay trước mặt anh, và có vẻ anh cũng chẳng hề thích việc đó. “Tôi đã phỏng ông ấy lần đầu cách đây khoảng một tháng. Ông ấy nói sẽ đến ngôi nhà ở Taðf, nhưng tôi đã quên không hỏi khi nào ông ấy đi. Tôi xin lỗi.”

“Ông ấy đã đi Taðf một tháng trước rồi.” Người hầu nói.

Katya nghĩ lại. Đã gần một tháng tròn từ khi Sabria biến mất.

“Thật kỳ quặc khi ông ấy không mời cô lên đó.” Người hầu nói với vẻ châm biếm. “Xét cho cùng, ông ấy huấn luyện chim ưng ở đó mà.”

“Ồ, thực ra là ông ấy có mời tôi.” Katya vội vàng nói. “Tôi chỉ không biết lịch trình của ông ấy và không biết ông ấy sẽ ở đó lâu đến vậy.”

Người hầu trề môi. “Ông ấy dành thời gian trên đó nhiều hơn là ở đây.”

“A. Vậy thì. tôi xin lỗi đã quấy quả ông. Cảm ơn ông vì đã giúp.”

Người hầu gật đầu.

Trở vào trong xe, Katya biết chắc hai má cô đang bừng đỏ.

“Ông ta biết là em nói dối đấy.” Nayir nói.

“ Ít nhất thì em cũng đã có thông tin em cần.” Cô nói. “Al-Adnan đã đến Taðf vào đúng tuần mà Sabria mất tích. Nếu hắn ta quả thực đã bắt cóc cô ấy, thì có thể hắn đã đưa cô ấy đến đó.”

Nayir gật đầu và liếc nhìn cô với vẻ dò xét. “Anh sẽ chẳng bận tâm để tìm hiểu đâu.”

Nayir đã nói đúng, con đường dốc đèo Taðf quả thực hiểm trở. Chỉ vừa mới qua al-Hada thôi mà đường cao tốc đã bắt đầu gập ghềnh. Con đường đã đưa họ lên độ cao gần hai nghìn mét chỉ trong một quãng đường ngắn chừng hơn hai mươi cây số và với độ liều

lĩnh cao khi đi qua hơn chín mươi khúc quanh hình chữ S. Sau chừng ấy đường đất, họ đã lên được núi. Một bên đường, những chú khỉ đầu chó lao như tên băn vút vào khe núi, còn phía bên kia là khung cảnh trải ra mênh mông với những dãy núi đá màu cát hùng vĩ. Những tay tài xế khác dường như nghĩ rằng đây là một trường đua ngựa, nên thi nhau phóng với tôc độ liều lĩnh và lạng lách vượt qua chiếc Rover trên con đường chỉ có hai làn xe chạy. Khung cảnh thật kỳ vĩ; vách đá sâu hun hút đầy khiếp hãi. Katya bám chặt vào tay vịn xe và âm thầm cầu nguyện trong khi Nayir lái xe đưa họ vào thành phố một cách an toàn.

Sơ đồ mà người huấn luyện chim ưng đó vẽ đã đưa họ ra đến một con đường trải nhựa ngay bên ngoài thành phố. Con đường này dẫn họ lên cao hơn nữa trên núi và đột ngột trở nên bụi mù trước khi quanh xuống một thung lũng. Dưới đó, nép mình trong lòng sông cạn và được bao bọc bởi những ngọn núi là một dải đất màu xanh lá cây màu mỡ với ngôi biệt thự trát vữa stucco trắng duy nhất. Khi họ xuống dốc, mùi hương hoa hồng ngào ngạt không gian.

Cuối con đường là một cánh cổng, nơi họ gặp một nhân viên bảo vệ. Anh ta không hỏi gì mà chỉ vẫy tay ra hiệu cho họ đi qua với cái gật đầu thân thiện. Lòng hiếu khách của nơi núi rừng, Katya nghĩ.

Cô bắt đầu cảm thấy lo lắng. Cô không chắc làm thế nào họ có thể đối đầu với một kẻ giàu có và quyền lực như al-Adnan. Đáng ra cô nên nói với ai đó ở cơ quan về việc đã nhận diện được hắn. Chí ít thì cô có thể đề cập việc này với Ibrahim. Nhưng cô muốn tìm Sabria mà không để cảnh sát biết.

Bọn họ dừng lại trước mặt ngôi biệt thự và chờ đợi.

Vài phút sau, một người đàn ông trẻ mặc áo choàng nâu bước ra đi vòng qua một bên toà nhà. Anh ta mỉm cười và vẫy chào họ. Anh ta có mái tóc ngắn, làn da rám nắng với hai bàn tay to chào đón cả hai bằng cái bắt tay thoải mái với Katya cũng như Nayir, rồi tự giới thiệu mình là Yusuf, người trông nom trang trại hoa hồng.

“Chúng tôi luôn vui mừng khi có khách đến thăm.” Anh ta nói. “Anh chị từ đâu đến vậy?”

“Jeddah.” Nayir đáp.

“A, quả là chuyên đi tuyệt vời.” Sau đó, anh ta không hỏi gì thêm ngoài tên của hai người và muốn biết họ có định nghỉ lại trong ngôi biệt thự tối hôm đó không, bởi mấy đêm rồi trời rất lạnh, còn khu cắm trại thì không được hiếu khách như lúc vào xuân.

“Thực ra chúng tôi đến đây để tìm Hakim al-Adnan.” Katya nói “Chúng tôi là cảnh sát ở Jeddah và muốn hỏi ông ấy vài vấn đề.” Yusuf ngay tức thì có vẻ bị chấn động. “Ông ấy có thể giúp ích cho cuộc điều tra của chúng tôi.” Katya nói thêm.

“Ông al-Adnan không có ở đây.” Yusuf nói. “Ông ấy có việc đi vắng và sẽ không trở lại cho đến tận tuần sau. Tôi rất lấy làm tiếc.”

“Tôi cũng lấy làm tiếc.” Katya đáp.

“Mà đằng nào anh chị cũng đến đây rồi!” Yusuf nói. “Hãy ngồi uống trà đã. Xin mời.” Anh ta ra hiệu cho họ bước lên mái hiên phía trước của ngôi biệt thự, nơi có một bộ bàn ghế nhỏ xinh đặt dưới bóng râm của giàn khung gỗ. “Nếu anh chị có thể dành chút thời gian, tôi sẽ rất vui được đưa anh chị đi tham quan khu vườn, bởi anh chị đã đi suốt cả chặng đường từ Jeddah lên tới đây.”

Sau khi dùng trà, Katya và Nayir được hướng dẫn tham quan khu biệt thự và các khu vườn. Taðf nổi tiếng bởi các loại tinh dầu hoa hồng, thứ nguyên liệu được sử dụng để làm những loại nước hoa cao cấp trên toàn thế giới. Với lòng nhiệt tình của một cậu bé, Yusuf kể lại từng chi tiết về loài cây quý của anh ta và cuộc chiến cao cả mà anh ta đã thực hiện để bảo vệ chúng khỏi một gia đình nhím độc ác.

“Anh biết ông al-Adnan rõ lắm thì phải?” Cuối cùng thì Katya cũng lên tiếng khi họ đi dạo qua khu vườn.

“Vâng.” Yusuf chắc chắn đáp. “Ông ấy là chủ nhân tuyệt vời nhất mà tôi có thể mong đợi. Tôi thấy may mắn khi làm việc ở đây và được làm những gì tôi yêu thích.”

“Anh đã nói ông ấy có việc đi vắng phải không?”

“Vâng.”

“Đi phân phối tinh dầu hoa hồng tới những nơi còn lại trên thế giới sao?” Cô mỉm cười và Yusuf đáp lại bằng một nụ cười tươi rói.

“Thực ra, ông ấy chuyển hàng tới Mecca.” Anh ta đáp. “Ông ấy tới đó mỗi năm hai lần - vào tháng Tư và tháng Mười - để công đức tinh dầu cho Holy Kaaba (1).”

(1) Toà thánh điện linh thiêng của Hồi giáo ở Mecca.

Cũng đã vài năm rồi từ khi Katya hành hương tới Mecca, nhưng cô vẫn nhớ tinh dầu được dùng để xức hương cho phiến đá to thẳng đứng ở góc phía nam Kaaba. Theo truyện thánh, chạm vào phiến đá đó sẽ giúp tẩy sạch mọi tội lỗi.

“Ông ấy thật tốt bụng.” Cô thăm dò Nayir và thấy anh không có ấn tượng gì trước lòng hảo tâm lồ lộ của al-Adnan cả.

Họ đã đi hết khu vườn. Một hàng những bụi cây vừa được nhổ đi để lộ ra tầng đất mặt. Lớp đất màu đen màu mỡ, có nhiều mùn, rợp bóng của tấm vải bạt căng trên giàn.

Xa phía bên phải là ba hàng cây bụi mới đang vươn lên đón nắng. Katya bất thình lình nhớ lại giấc mơ, có máu và hoa, và lũ quỷ efreet đã chôn thân xác cô dưới đất. Sự hồi tưởng đó ập đến rất nhanh và rõ nét. Cô quay sang Nayir, anh dường như hiểu có chuyện gì đó không hay nhưng không rõ là chuyện gì.

“Những bụi cây này đã được trồng lâu chưa?” Cô hỏi.

“Chúng tôi trồng vào đầu mùa hè. Một vài bụi phát triển không tốt lắm.”

Cô đến bên những bụi cây có vẻ còi cọc.

“Xin đừng lại gần những bụi cây đó quá.” Yusuf nói.

Katya vẫn bước đi.

“Xin lỗi, cô ơi.” Yusuf gọi có phần cáu kỉnh hơn.

“Những bụi cây này đã được nhổ lên rồi trồng lại phải không?”

Yusuf có vẻ tức giận. “Không, chúng tôi không làm vậy.”

“Tôi cần một cái xẻng.”

“Cái gi cơ?” Lúc này anh ta bước nhanh về phía cô. Nayir đi theo sau anh ta.

Katya ngạc nhiên vì đôi tai cô có thể nghe thấy nhịp đập hối hả của trái tim mình. Cô cảm thấy một sự hốt hoảng lạnh người. Giọng cô run run khi lên tiếng hỏi: “Chính xác là chuyện này đã xảy ra bao lâu rồi?”

“Thưa cô, tôi xin lỗi, tôi phải đề nghị cô tránh xa ra.”

“Chính xác là bao lâu rồi?” Katya hỏi.

Yusuf quay lại và bắt đầu hét to về phía ngôi nhà để gọi người làm vườn chính.

“Có thể có một xác chết đã được chôn dưới những bụi cây đó.”

Yusuf quay lại nhìn cô kinh ngạc.

Người làm vườn chính xuất hiện và sải bước trên lối mòn dẫn tới từ ngôi nhà, theo sau là hai người đàn ông trẻ. Một người cầm một chiếc xẻng. Phải mất mười lăm phút và bàn bạc nhiều lần trước bọn họ bắt đầu lật lớp đất tơi, nhẹ nhàng hất chúng ra khỏi đám cây và đắp thành đông ở bên rìa thửa đất. Bọn họ nhổ bụi hồng đầu tiên lên khỏi mặt đất bằng sự nâng niu mà Katya đã thấy trong phim tài liệu về khảo cổ học. Ngay cả người Pakistan đó cũng không cẩn trọng với con chim ưng bị thương bằng họ.

Bọn họ đặt bụi cây đầu tiên vào một chiếc xe cút kít đầy đất và nước rồi tiếp tục đào sâu hơn. Katya đi đi lại lại. Cô chỉ muốn quỳ gối xuống và đào bới lớp đất đó bằng tay mình. Có phải đây chỉ là mơ không, điều hiện thực này? Một nỗi hoảng sợ còn sót lại do quỷ dữ gieo rắc trong tâm trí cô? Hai cánh tay cô đang run lên nên cô ôm chặt lấy eo mình.

Chiếc xẻng đụng phải vật gì đó. Mềm nhưng chắc. Đột nhiên hai người đàn ông kia quỳ gối xuống, gạt bỏ lớp đất tơi bằng tay. Trước khi cô nhận ra là mình đang làm gì, cô cũng quỳ gối xuống cạnh họ. “Cẩn thận đấy. Để tôi.” Lớp đất mát dịu và ẩm ướt, một loại đất không giống với bất kỳ loại nào cô từng thấy, và khi những ngón tay của cô đào sâu vào thứ gì đó, cô cảm nhận được làn da và vải áo, và sự bất động của cái chết. Cô vội vàng bới tung lớp đất còn lại. “Ôi Allah, chúng cơn cầu xin sự che chở của Người.”

Đó là một bàn chân phụ nữ, những móng chân sơn màu đỏ tươi trồi lên khỏi mặt đất.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Mới đầu giờ chiều và lễ cầu nguyện buổi trưa sắp kết thúc. Ibrahim đã chán ngấy việc ngồi xem TV đã ngán ngẩm với việc Saffanah ngồi bên đầu kia của chiếc sô-pha cũng xem TV nhưng không thực sự là xem và đủ đứng dậy để cầu nguyện, đến mức cuối cùng ông quay sang và hỏi cô ta. “Cha của đứa bé ở đâu?”

Cô ta hiểu ngay lập tức ông đang nói gì và không trả lời. Thậm chí không một cái nhún vai.

“Bố chỉ muốn biết con gặp anh ta như thế nào thôi.”

Chỉ có hai người bọn họ ở đây. Constance đang ở tầng trên, giữ vai trò tai mắt thăm dò tình hình của Jamila. Aqmar đã đi làm và Zaki vẫn tránh mặt ông.

“Nhìn này.” Ông nói. “Không có gì mà con nói có thể khiến bố bất ngờ được nữa đâu. Và bố hứa nó sẽ chỉ được biết trong căn phòng này thôi.”

Saffanah không có vẻ gì là muốn trả lời, nên ông quay lại xem TV. Vài phút sau, chỉ đến khi chương trình quảng cáo bắt đầu, cô ta mới lên tiếng. “Ở phòng khám bác sĩ.”

“Sao?”

“Con đã gặp anh ấy ở phòng khám bác sĩ. Anh ấy làm việc ở đó.”

Ibrahim cố tránh nhìn cô ta. Ông dám chắc cô ta sẽ nín thinh nếu ông làm vậy. “Con làm gì ở phòng khám đó vậy?”

“Kiểm tra sức khỏe cho đám cưới.”

Ông hiểu điều đó có nghĩa là mẹ cô ta đã lôi cô ta đến phòng khám phụ khoa để đảm bảo rằng màng trinh của cô ta vẫn còn nguyên vẹn. Cứ như thể Zaki sẽ quan tâm lắm đến việc vợ mình có chảy máu trên giường vào tuần trăng mật hay không vậy.

“Anh ta là bác sĩ à?” Ibrahim hỏi.

“Không ạ. Là thư ký.”

“Anh ta biết tình hình hiện tại của con chứ?”

Cô ta lắc đầu và quay lại xem TV, tay nâng phần đuôi khăn trùm đầu lên rồi che ngang mũi và miệng mình. Đó là một cử chỉ bình thường mà ông vẫn thường xuyên thấy cô ta làm, nhưng giờ nó lại cho thấy cô ta có vẻ như sợ hãi.

Như vậy là cô ta đã có cảm tình với một chàng trai tại phòng khám đó và theo cách nào đấy họ đã quan hệ với nhau. Ông nghĩ chuyện thật hay nếu nó xảy ra trước khi cô ta nhận lời cưới Zaki.

“Ở chỗ nào con đã...” Ngay khi lên tiếng hỏi, ông nhận ra mình đã đi quá xa. Cô ta ngây người và ngồi đó bất động như chính bức tường sau lưng cô ta vậy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Katya nâng chụp tai chống ồn của mình lên đủ lâu để hỏi. “Súng của ai đây?”

“Vũ khí trang bị của Ubaid đấy.” Majdi nói.

Katya quan sát anh ta chĩa khẩu súng vào chiếc hộp rỗng và thận trọng kéo cờ ba lần. Phía bên kia chiếc hộp, Thanh tra Osama Ibrahim đang đứng đó với hai tay khoanh trước ngực, trông như thể ông ta đã có một kỳ nghỉ cuối tuần tồi tệ.

“Chắc chắn hắn ta không ngu đến mức dùng vũ khí trang bị của cảnh sát đâu.” Katya nói.

“Cũng chẳng biết được.” Osama nói.

“Ông có thể nghe thấy tôi nói qua chụp tai chống ồn sao?”

Ông ta gật đầu.

“Chắc mình già rồi.” Cô lẩm bẩm. Cô thay chụp tai trong khi Majdi kiểm tra khẩu súng thứ hai. Có bốn khẩu súng trên bàn. Khẩu thứ nhất là của Ubaid; ba khẩu còn lại được lấy từ những vệ sĩ của Hakim al-Adnan.

“Ông đã nói chuyện với al-Adnan chưa?” Katya hỏi.

“Chưa.” Osama nói. “Tốt nhất là nên làm việc này trước đã.”

Bọn họ đã tìm được al-Adnan ở Mecca khi hắn đang đi dạo quanh Kaaba. Cảnh sát đã tôn trọng chờ đợi cho đến khi hắn xong việc rồi mới tiếp cận hắn, nói rằng họ muốn hỏi một số vấn đề. Hiện hắn đang ở phòng thẩm vấn.

Ba tay vệ sĩ của hắn cũng bị bắt giữ. Bọn họ là những kẻ duy nhất ở gần al-Adnan mà có mang theo vũ khí. Adara đã lấy ra một viên đạn từ ngực Sabria, còn Katya tìm được hai vỏ đạn ở trang trại hoa hồng tại chính nơi Sabria bị chôn. Cô bị giết bằng khẩu súng ngắn 22 ly ở cự ly gần. Một phát súng vào đầu, một phát vào tim.

Theo chuyên môn thì Đội Điệp vụ phụ trách vụ án này. Nhưng giờ bọn họ đã tìm được cái xác nên nó thuộc quyền điều tra của Đội Trọng án. Chánh Riyadh đã chuyển nó cho Osama.

Có vẻ rõ ràng là một trong những cận vệ của al-Adnan đã giết Sabria. Xác cô được tìm thấy trên khu đất của hắn. Majdi đã hoàn tất việc bắn thử nghiệm khẩu súng thứ tư và tháo kính bảo vệ và chụp tai chống ồn ra. “Tôi sẽ phân tích các vỏ đạn ngay bây giờ.” Anh ta nói.

“Khi nào anh có kết quả?” Osama hỏi.

“Cho tôi nửa giờ.”

* * *

Carmelita Rizal khóc nức nở; khuôn mặt cô ướt nhòe và người run lẩy bẩy với một đống khăn giấy trên lòng còn chiếc hộp đựng giấy lòe loẹt được đặt trên ghế sô-pha cạnh cô. Katya cảm thấy lo lắng không yên khi cô hình dung đến việc phần lớn cảnh sát cảm thấy như vậy khi phải chứng kiến con người ta tan vỡ ra thành từng mảnh trước cái chết của người mình yêu thương. Cô tự hỏi Nayir sẽ phản ứng thế nào nếu có ai đó đên báo tin dữ cho anh về cái chết của cô. Cô không thể hình dung được anh khóc thế nào. Nỗi đau của anh, cũng như rất nhiều điều khác nữa, cũng được gói bọc lại và giấu kín sâu thẳm trong con người anh.

Katya giải thích rằng Majdi đã khớp được những viên đạn từ súng của một cận vệ của al-Adnan với những vỏ đạn được tìm thấy trên người Sabria. Như vậy chính tên cận vệ của al-Adnan đã giết Sabria. Katya nói với Rizal về trang trại hoa hồng và trực giác của mình về việc Sabria có thể đã bị chôn giấu trong khu vườn đó. Vẫn thật kỳ quặc khi nhớ lại cơn đổ mồ hôi lạnh và cảm giác hối thúc không thể giải thích được ấy. Phần tồi tệ nhất là phải giải thích sự liên quan của Jessica, tuy không phải là chủ tâm. Katya ngờ rằng điều này đã thực sự cướp đi của Rizal hai người bạn tốt chỉ trong một cuộc đột kích.

“Tôi biết một điều.” Rizal lúc này vừa nói vừa lau mặt. “Khi được ra khỏi đây, tôi sẽ trở về Philippines. Ngay cả khi có chết đói đi chăng nữa. Tôi không có ai ở đây ngoài con trai mình.”

“Nếu cô cần giúp trong việc xin thị thực xuất cảnh, cứ cho tôi biết.”

“Vâng, cảm ơn cô. Tôi nghĩ là tôi có thể cần cô giúp đỡ.” Rizal nói. “Cô biết đấy, một trong những việc mà Sabria làm là mua thị thực xuất cảnh giả. Có lẽ tôi không nên nói điều đó với cả cô, nhưng chuyện chẳng còn là vấn đề nữa, phải vậy không?”

Katya lắc đầu.

“Tôi không thể không cảm thấy rằng mọi việc mà cô ấy đã làm là quá can đảm và xuẩn ngốc. Đó không phải là lời giải. Tôi nghĩ đối với cô ấy, điều đó vô cùng phấn khích. Cô ấy cảm thấy mình như một nữ anh hùng. Nhưng nó sẽ chỉ là một giải pháp nhất thời mà thôi. Mọi việc sẽ không bao giờ khác hẳn đi cho đến khi nào pháp luật thay đổi. Họ nói rằng họ không buộc phải bảo vệ chúng tôi, chúng tôi không phải người Ả Rập Xê-Út, nhưng cũng đông không kém gì người Ả Rập Xê-út và phải làm việc nhiều hơn.” Cô im lặng một lát, tay gấp tờ giấy ướt lại. “Chính vì vậy mà tôi sẽ rời khỏi đây. Tôi không quan tâm dù tôi có đói đến chết ở Manila. Ít ra thì tôi cũng sẽ đói trên quê hương mình.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


Buổi trưa Chủ nhật, Katya đang ngồi bên máy tính thì cửa mở và Charlie Becker thò đầu vào. Nhìn thấy Katya, cô mỉm cười.

“Mừng là cô ở đây.” Charlie nói. Cô bước vào mang theo hai túi giấy đựng đầy các tài liệu. Katya ngạc nhiên đứng lên. “Rốt cuộc thì tôi cũng đã thuyết phục được Riyadh rằng chúng ta vẫn còn việc phải làm. Đây là tất cả những vụ án chưa giải quyết được của bọn họ với những nạn nhân là nữ giới trong vòng năm năm qua - có cả ảnh nữa!”

Katya kinh ngạc. “Mu'tazz có biết việc này không?”

“Tôi không biết và tôi không quan tâm.” Charlie phấn khởi nói. “Tôi đã luôn miệng nói với với những người đó rằng bọn họ nên tìm kiếm các quy luật bởi tên giết người rõ ràng yêu thích những công trình nhỏ bé và những thông điệp bí mật của hắn, nhưng cô biết gì không?” Charlie ngước nhìn lên, khuôn mặt cô đỏ ửng vì phải ra sức mang quá nhiều hồ sơ. “Tôi không cho là bọn họ thực sự muốn nghe những điều tôi cần phải nói. Cho nên tôi mặc xác bọn họ, chúng ta có thể tự làm việc này.”

Katya mỉm cười trước sự bướng bỉnh của Charlie. “Tôi mừng là cô đã ở đây. Ngồi xuống đi.”

Charlie kéo một chiếc ghế xoay và ngồi xuống bên bàn Katya. Những phụ nữ khác trong phòng đưa mắt nhìn họ một cách hiếu kỳ, nhưng Katya lờ họ đi.

Charlie nói đúng: tất cả những hồ sơ này đều có ảnh. Vấn đề hiện giờ là có quá nhiểu ảnh, và mỗi bức đều có thể được xem là chữ này hoặc chữ khác trong bảng chữ cái.

Sau một giờ, Katya mở ngăn kéo hồ sơ của mình và lôi ra một bữa trưa đóng gói sẵn tương tự lần trước. Charlie bật cười. “Để tôi đoán nhé - hummus (1), cà-rốt, bánh quy cây, và pho-mát que đúng không?”

(1) Món khai vị làm từ gà, đậu, dầu, vừng, chanh và tỏi.

Katya đặt những gì có trong túi ăn lên bàn với một niềm kiêu tự hào bướng bỉnh nhất định.

“Và đừng quên táo và coca dành cho người ăn kiêng đấy nhé.” Charlie nói.

Katya đưa cho cô quả táo. “Vì chúng ta chưa bao giờ ăn chung quả táo cả, nên tôi muốn hôm nay cô ăn nó.”

“Tôi không thể, cô nhớ không? Tôi cảm thấy có lỗi nếu cô không ăn nó.”

“Ừ nhỉ, tôi quên mất.”

Do vậy quả táo được đặt ở giữa và họ chia nhau những thứ còn lại.

Chiếc bàn làm việc quá nhỏ và bừa bộn để Katya trải những tấm bản đồ hiện trường vụ án lên, nên cô đã dán chúng lên cạnh của máy tính và lên một khoảng tường bé xíu phía sau máy tính. Bản đồ thành phố cho thấy địa điểm của những phần cơ thể được tìm thấy trong vụ Osiris. Tấm bản đồ sa mạc chỉ ra một loạt những điểm chôn cất theo một hình lục giác thuần túy nằm gần một con đường thuộc khu vực hoang vắng. Cô đã vẽ một hình lục giác thứ ba rất rõ ràng rồi đặt chèn nó lên một tấm bản đồ thành phố khác với một dấu chấm hỏi khổng lồ được in trên cùng. Điểm duy nhất trên hình lục giác đó là bàn tay của Amina al-Fouad.

“Tôi tự hỏi mấy người đàn ông kia thực sự nghĩ gì về việc này nhỉ.” Katya vừa nói vừa ra hiệu về phía những tài liệu đang để ngỏ trên bàn.

“Có lẽ bọn họ lấy làm mừng vì chúng ta đã làm những việc lặt vặt này.” Charlie đáp; rồi có vẻ nghiêm túc hơn: “Tôi có cảm giác bọn họ cho rằng có khả năng Amina là một phần của các vụ giết người lớn.”

Hơn nữa nhưng lại không cho rằng chuyện đó sẽ xảy ra, nên bọn họ hiện thời không thể mất thời gian cho vụ này được.”

“Amina al-Fouad nhất định có liên quan.”

“Giờ thì đừng đánh mất hy vọng của chính mình.” Charlie nói. “Riyadh không nói là bà ta không có liên quan. Những bàn tay bị chặt rõ ràng cho thấy điều đó. Ông ấy chỉ nói rằng bà ta là một trường hợp đơn lẻ, cô hiểu chứ? Ông ấy cho rằng không có quy luật nào lớn hơn cả.” Charlie ra hiệu về phía những tấm bản đồ. “Nhưng tôi nghĩ có thể cô đúng, và đó là lý do tại sao tôi ở đây, giúp cô tìm ra quả táo thứ ba đó.” Cô ra hiệu về phía những tấm bản đồ.

“Đó là hình lục giác mà.” Katya nói.

“Đúng vậy, thực ra nếu có cuống thì nó sẽ là một quả táo đấy.”

Katya hé cười và tiếp tục ăn nhưng có điều gì đó vụt thoáng qua trong đầu cô. Quả táo. Cô nhìn những tấm bản đồ treo ở đó. Chúng trông rất giống những quả táo. Ba quả táo.

Cô đặt miếng cà-rốt xuống.

“Chuyện gì vậy?” Charlie hỏi.

“Ối, điên thật. Tôi...” Cô quay sang phía máy tính, mở đường dẫn rồi tìm kiếm. “Câu chuyện ba quả táo” hiện lên tức thì. “Tạ ơn Thượng đế!” Cô lớn tiếng nói. Các trình duyệt của Internet không đủ nhanh để bắt kịp các phiên bản hiện trên trang web.

Đó là một trong những câu chuyện của Nghìn lẻ một đêm. Cô đã đọc truyện đó từ hồi nhỏ. Câu chuyện rất rắc rối, nhưng cô nhớ rất rõ phần mở đầu. Vua Hồi giáo Harun al-Rashid, người mắc phải chứng mất ngủ tồi tệ nhất từ trước tới nay, một đêm đi dạo trên đường phố và gặp một người đánh cá khiến ngài chú ý. Ngài đã nói với người đánh cá đó rằng ngài sẽ cho ông ta hai trăm đồng dinar để đổi lại bất cứ thứ gì mà ông ta bắt được đêm hôm đó. Người đánh cá hân hoan đồng ý rồi quăng lưới và bắt được một cái rương lớn. Nhà vua mang cái rương đó về cung điện. Khi mở ra, ngài phát hiện ra xác một phụ nữ.

Theo như những gì cô nhớ được thì câu chuyện đứng độc lập với tất cả các câu chuyện khác. Nó là câu chuyện duy nhất trong đó có một phụ nữ bị giết và thậm chí có người đi tìm kẻ giết cô ta.

Cô đọc câu chuyện trong khi Charlie sốt ruột quan sát cảnh tượng. Mới đọc một vài đoạn thì Katya đã đưa tay lên che miệng.

“Có chuyện gì vậy?” Charlie hỏi.

Katya giải thích về câu chuyện đó. “Tôi sẽ chỉ cho cô thấy thứ mà nhà vua đã tìm thấy trong chiếc hộp đó. Đợi một chút nhé.” Cô quay lại phía máy tính và tìm câu chuyện bằng tiếng Anh. Cô đọc lướt qua nó cho đến đoạn cần đọc. “Đoạn này này.”

Charlie cúi xuống và đọc:

Họ tìm thấy trong đó một chiếc giỏ bằng lá cọ được buộc bằng len đỏ. Họ mở chiếc giỏ này và thấy có một mảnh thảm, họ nhấc nó ra, và dưới đó là một chiếc áo khoác phụ nữ được gập làm tư, rồi họ bỏ nó ra ngoài, và dưới đáy rương là một phụ nữ trẻ, trắng như thỏi bạc, đã bị giã và chặt làm mười chín mảnh.

Charlie hổn hển. “Cô đùa tôi phải không?” Cô đọc lại đoạn truyện đó. “Cô ta bị cắt thành mười chín mảnh sao?”

“Đúng vậy.” Katya nói. “Không thể tin được là tôi không nghĩ đến câu chuyện này.”

Charlie ngồi thụp xuống ghế. “Chuyện này đã thay đổi mọi thứ.”

“Ý cô là sao?”

“Ý tôi là hắn ta không còn chỉ lè kẻ cuồng tín nữa. Chúng ta đã cho rằng mười chín là con số thần thánh trong kinh Koran, cô còn nhớ chứ?”

“Còn, cô nói đúng.”

“Giờ thì nó có nghĩa gì đó khác. Mười chín có thể là điều ám chỉ đến câu chuyện này. Ý tôi là có bao nhiêu phụ nữ bị chặt thành mười chín mảnh trong những câu chuyện dân gian ở đây? Hiện tượng này có phổ biến không?”

“Không. Tôi không nhớ là có chuyện nào. Thực tế thì đây là vụ giết người duy nhất trong Nghìn lẻ một đêm. Đúng là có người chết khác, nhưng trong câu chuyện này là do một tên tội phạm. Và có cả người điều tra nữa. Tôì nghĩ nó là câu chuyện duy nhất trong cuốn sách kiểu như vậy.”

“Trời ơi. Charlie trông lặng người đi.

“Chuyện này có liên quan đến vụ Osiris.” Katya nói.

“Đúng vậy.”

“Tôi nghĩ nó nghĩa là có ba quả táo. Và chúng ta mới có hai quả thôi.”

“Charlie gật đầu. “Còn chuyện gì xảy ra trong đó nữa?”

Mỗi người lại đọc nó bằng thứ tiếng của mình. Theo những gì Katya còn nhớ, thì câu chuyện có phần quanh co và cổ xưa. Đặc biệt là một người đàn ông đã đi tìm ba quả táo suốt ba mươi ngày để thỏa lòng người vợ yêu đang ốm. Sau những sóng gió, anh ta đã giết vợ mình trong cơn ghen tuông và sau đó mới bi thương phát hiện ra rằng vợ mình chung thủy, một Desdemona (2) và anh ta bị mê muội bởi một tên nô lệ dối trá.

Nhân vật nữ trong vở kịch Othello của w. Shakespeare. Desdemona bị chồng là Othello giết hại vi nghĩ rằng nàng ngoại tình.

Katya và Charlie ngồi lặng im một lúc.

“Tôi không nghĩ là chúng ta nên hoàn toàn bỏ qua yếu tố tôn giáo.” Charlie quả quyết nói.

“Tôi đồng ý. Trong cả hai vụ án, kẻ giết người đều để lại những lời trích dẫn mang ý nghĩa tôn giáo.”

“Chuyện này chỉ làm thay đổi việc chúng ta nghĩ thế nào về hắn mà thôi.” Charlie nói. “Để tôi hỏi cô điều này, ở đây có được đọc Đêm Ả Rập (3) không? Ý tôi là những người mộ đạo thấy thế nào về cuốn sách này? Nó thuộc loại sách không đứng đắn lắm, phải vậy không?”

Tên gọi khác của Nghìn lẻ một đêm.

“Đúng vậy, sách đó ở đây bị cấm.”

“Bị cấm sao?”

Katya gật đầu. “Chúng tôi không được phép đọc nó, nhưng dù sao thì chúng tôi vẫn đọc. Có rất nhiều người tự hào về cuốn sách này. Nó là một phần lịch sử của chúng tôi. Giống như Shakespeare đối với các cô vậy.”

“Vậy là các cơ quan có thâẩm quyền về tôn giáo đã cấm cuốn sách?”

“Đúng vậy.”

“Vậy thì không có lý nào tên giết người vừa là một kẻ cuồng tín lại vừa đọc Đêm Ả Rập được.” Charlie nói.

“Đúng.” Katya nói. “Quả là vô lý.”

“Okay, đây là một ý nhé.” Charlie nói. “Chúng ta không biết ai là nạn nhân của vụ Osiris cả - và có khả năng là hung thủ của vụ Thiên sứ không phải kẻ đã giết cô ta. Hắn chỉ rải các bộ phận cơ thể của cô ta khắp thành phố mà thôi. Việc này có lẽ đã đem lại sự thỏa mãn cho hắn; nó đáp ứng một ham muốn mạnh mẽ nào đó. Hắn chỉ bắt đầu giết người mãi về sau này. Hắn đã giết mười chín phụ nữ.”

“Nếu hắn ta đang ở độ tuổi thành niên hoặc ngoài hai mươi vào năm 1989, thì tức là hắn khoảng ba mươi tuổi khi bắt đầu giết những nạn nhân được chôn ở sa mạc đó, điều này phù hợp vói những mô tả sơ lược kinh điển của một tên giết người hàng loạt. Bọn chúng bắt đầu giết người vào độ tuổi ba mươi. Trong vòng mười năm qua hắn đã giết những phụ nữ đó. Chúng ta có thể cho rằng hiện giờ hắn khoảng bốn mươi tuổi. Đó là một thông tin nhỏ mà hôm qua chúng ta vẫn chưa có được.”

“Okay.” Katya nói.

“Câu trích dẫn trong vụ Osiris là gì vậy nhỉ?” Charlie hỏi.

“Đó là Chúng ta đã tạo ra mọi thứ theo trật tự.”

Charlie gật đầu. “Đó chính là mối quan tâm cơ bản của hắn - trật tự. Tôi cho rằng đây chính là cách hắn ta kiểm soát chính mình và biện minh cho những hành động của hắn. Cho tôi biết còn điều gì nữa về đạo Hồi khuyến khích sự cấu trúc nữa không?”

Katya nhún vai. “Đạo Hồi không... không quan tâm đến điều đó.”

“Thôi được.” Charlie nói. “Thế còn những công trình nghệ thuật của các cô thì sao? Tôi đang nghĩ đến những thứ và những đồ chạm khắc tinh vi đó. Chúng đều mang đậm tính chất hình học.”

“Đúng, cô nói đúng đấy. Cũng có cấu trúc dành cho mỗi ngày là năm lần cầu nguyện dựa theo sự vận động của mặt trời.”

“Ổn rồi.” Charlie nói. “Vậy hãy cho là hắn đã phân tán các bộ phận cơ thể trong vụ Osiris bởi hắn nhận ra chiếc hộp đó giống như trong truyện Nghìn lẻ một đêm. Điều đó có nghĩa hắn được giáo dục tương đối tốt. Hắn biết câu chuyện đó. Hắn cho rằng mình rất thông minh khi rải những bộ phận đó theo hình quả táo. Chúa ơi, có lẽ hắn ta đã đợi hàng thập kỷ rồi xem có ai nhận ra điều đó không. Dù sao đi nữa thì sau đó, khi hắn bắt đầu tự giết người, hắn đã lặp lại quy luật này đối với các nạn nhân bị chôn ở sa mạc đó. Chỉ đến giờ hắn mới thể hiện chính mình. Hắn đã cố áp đặt một trật tự nhất định trên thế giói này. 'Không chỉ là đối với những nạn nhân và cách hắn ta chôn bọn họ.Tôi cho rằng có thể hắn ta cũng đang cố áp đặt một loại trật tự mang tinh đạo đức nào đó - và đó chính là khi yếu tố tôn giáo được thể hiện ra “

“Ý cô là sao?”

“Hắn chủ yếu nhằm vào những phụ nữ ngoại quốc. Nếu cô đánh giá bọn họ dưới con mắt của một tín đồ Hồi giáo khắt khe, cô có thể biện luận rằng những phụ nữ này đang hành động không đúng phép tắc. Bọn họ sống trong các gia đình, thân thiết với những người đàn ông lạ mặt. Phần lớn bọn họ không phải tín đồ Hồi giáo, đúng không? Họ đều là người Philippines và Sri Lanka.”

“Một vài người trong số họ có thể là tín đồ Hồi giáo.” Katya nói “Nhưng hầu hết là không.”

“Bọn họ có lẽ còn giúp nuôi nấng trẻ em ở đây, phải vậy không? Bọn họ có ảnh hưởng đối với trẻ em Hồi giáo, trong khi lại không phải người Hồi giáo và có khả năng bọn họ không tuân theo những quy tắc xã hội đúng chuẩn mực như phụ nữ Ả Rập Xê-Út.”

“Đúng vậy.” Katya gật đầu. “Tôi hiểu cô muốn nói gì.”

“Ở đây có bất kỳ tổ chức nào chống đối việc sử dụng người ngoại quốc làm giúp việc không? Tôi đang nghĩ đến việc ở Mỹ có tổ chức Ku Klux Klan (4), một nhóm người muốn xã hội phải đi theo một cách thức nhất định, và thường sẵn sàng có những hành động phân biệt chủng tộc để đạt được mục đích. Những kiểu cộng đồng bí mật như vậy có thể đã lôi kéo những kẻ như tên giết người của chúng ta. Ở đây các cô có tổ chức nào như thế không?”

Đảng KKK hay đảng 3K là hội kín ở Mỹ với chủ trương đề cao thuyết Người da trắng thượng đẳng.

“Không.” Katya chau mày. “Hầu hết mọi người đều cho rằng nên có những lao động này ở đây. Người Ả Rập Xê-Út không cho rằng lao động là cần thiết với họ. Đó là việc của người khác.”

Charlie thở dài. “Đúng. Tôi nghĩ là tôi biết điều này rồi.”

“Vậy còn Amina thì sao?” Katya hỏi.

Charlie ngồi thẳng lên. “Tôi nghĩ cả hai ta đều cho rằng tên giết người đang viết một thông điệp mới. Chỉ không biết đó là gì thôi.”

Katya đang cố hình dung thông điệp này có thể là gì. Hắn là một gã điên bị chi phối bởi cảm giác tai quái của mình về ý nghĩa. Hắn là một tên đao phủ. Một thiên sứ gác cửa địa ngục. Điểm chung duy nhất giữa tất cả các vụ giết người của hắn và vụ Osiris là hắn viết nên những thông điệp. Hắn không chỉ bị ám ảnh bởi trật tự; sự điên dại của hắn còn được thể hiện qua những ngôn từ và những chữ cái. Hiền nhiên là hắn biết viết biết đọc - thậm chí có khi còn là người viết thư pháp. Nhưng điều đó thì có nghĩa gì nhỉ? Rằng bọn họ nên truy tìm tất cả nghệ sĩ và nhà văn ở Jeddah này hay sao?

Katya thấy bực dọc. Vụ án đang ngày càng lớn dần, luôn luôn xuất hiện những manh mối mới, mà điều đó đồng nghĩa với khối lượng công việc mệt mỏi trong hàng tuần liền.

“Đừng bỏ cuộc.” Charlie nói. “Chúng ta sẽ tìm được hắn. Chúng ta chỉ cần thu hẹp những đối tượng có thể tiếp cận chiếc hộp trong vụ Osiris vào cái ngày nó bị đánh cắp.”

“Đúng.” Katya nói. “Nhưng có thể là bất người nào đã có mặt ở bến thuyền đó.”

“Phải.” Charlie cười bí hiểm. “Nhưng có khả năng chính là một trong những thanh niên có mặt trên thuyền cùng Đại tá Sa'ud.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom