Cập nhật mới

Dịch Full Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: Những thiên thần sa ngã


Bác Hodge nổi trận lôi đình. Bác đang đứng trong ở sảnh ngoài, Isabelle và Alec trốn đằng sau, khi Clary và những cậu con trai cà nhắc bước vào bẩn thỉu và dính đầy máu, và bác tuôn ngay một bài thuyết giáo mà đến mẹ Clary cũng phải tự hào. Bác không quên phần về họ nói dối bác về việc họ đã đi đâu – mà rõ ràng, Jace đã nói dối -hoặc về phần không bao giờ bác tin Jace nữa, và thậm chí còn tô vẽ hơn chút nữa, về việc phá Luật, sẽ bị ném khỏi Clave, và mang tới sự sỉ nhục đối với dòng họ Wayland kiêu hãnh lâu đời. Nói xong xuôi, bác trừng trừng nhìn Jace. “Cậu đã đặt tất cả mọi người vào nguy hiểm chỉ vì cậu muốn. Đây là một vụ mà ta sẽ không để cho cậu rũ bỏ được đâu!”

“Cháu không định làm vậy,” Jace nói. “Cháu không thể rũ được cái gì hết. Vai cháu trật mất rồi.”

“Giá mà ta nghĩ vết thương về mặt thể chất thực sự cản trở được cậu,” bác Hodge bực tức nói. “Nhưng cậu sẽ chỉ dành vài ngày tiếp theo trong bệnh xá cùng Isabelle và Alec lăng xăng quanh cậu mà thôi. Cậu có lẽ còn thích ấy chứ.”

Bác Hodge nói đúng hai phần ba: Jace và Simon đều bị thương phải vào bệnh xá, nhưng chỉ có Isabelle là lăng xăng quanh họ trong khi Clary – người đã đi tắm rửa – vài giờ sau mới tới. Bác Hodge đã chăm sóc những vết bầm trên tay cô, và hai mươi phút tắm rửa đã gỡ được gần hết đám nhựa đường ra khỏi da cô, nhưng cô vẫn cảm thấy đau nhức khắp mình mẩy.

Alec, ngồi bên bậu cửa sổ và trông như đám mây bão, nhăn mặt khi cánh cửa đóng lại sau lưng cô. “Ồ. Là cô.”

Cô lờ anh ta đi. “Bác Hodge nói bác đang tới và bác mong cả hai cố giữ chút tia lửa sống đang tàn lụi tới khi bác tới,” cô nói với Simon và Jace. “Hoặc gì đó đại loại.”

“Anh mong là bác đi nhanh nhanh chút,” Jace bực bội nói. Anh đang ngồi trên giường, dựa vào hai chiếc gối trắng êm ái, vẫn mặc bộ quần áo bẩn.

“Vì sao? Đau à?” Clary hỏi.

“Không. Anh có ngưỡng chịu đau rất cao. Thực ra thì không hẳn là ngưỡng mà phải là cả một sảnh chịu đau rộng lớn và được trang hoàng khéo léo ấy chứ. Nhưng anh dễ chán lắm.” Anh nheo mắt nhìn cô. “Em có nhớ lúc ở khách sạn khi em hứa rằng nếu chúng ta còn sống, em sẽ hóa trang thành y tá và giúp anh tắm bồn không?:

“Thực ra, tôi nghĩ là anh nghe nhầm,” Clary nói. “Đó là Simon hứa giúp anh tắm.”

Jace có vẻ miễn cưỡng nhìn Simon, người đang ngoác miệng cười với anh. “Ngay khi tôi đứng dậy được, bảnh trai nhé.”

“Tôi biết là chúng ta nên để cậu là chuột thì hơn,” Jace nói.

Clary cười và tới bên Simon, người cực kỳ khó chịu vì bị cả tá gối bao quanh còn chân chồng vài cái chăn.

Clary ngồi xuống mép giường. “Cậu cảm thấy sao rồi?”

“Giống như có người mát-xa cho mình bằng cái mài pho mát ấy,” Simon nói, nhăn mặt khi kéo chân lên. “Mình bị gẫy xương bàn chân. Nó sưng to đến nỗi Isabelle phải cắt tung giày mình ra.”

“Mừng vì bạn ấy chăm sóc tốt cho cậu.” Clary để cho chút a xít chui vào giọng mình.

Simon nhoài người tới, không hề rời mắt khỏi Clary. “Mình muốn nói chuyện với cậu.”

Clary gật đầu đồng ý dù có chút lưỡng lự. “Mình sẽ về phòng. Tới gặp mình sau khi bác Hodge băng bó cho cậu xong nhé?”

“Chắc rồi.” Cô ngạc nhiên khi bạn nhoài người tới và hôn lên má cô. Chỉ là một nụ hôn thoáng qua thôi, môi khẽ lướt lên da cô, nhưng khi cô lùi lại, cô biết mình đang đỏ mặt. Có lẽ, cô nghĩ khi đứng dậy, cô đỏ mặt vì cái cách mà những người khác nhìn họ.

Ra đến ngoài hành lang, cô bối rối chạm tay lên má. Một cái hôn lên má chẳng có ý nghĩa gì nhiều, nhưng đó không hề giống với biểu hiện của Simon thường ngày. Có lẽ cậu đang cố khiến Isabelle để ý? Trời ơi, Clary nghĩ, họ thật quá là lãng xẹt. Và Jace, đang đóng vai chàng hoàng từ dẫm phải gai mùng tơi. Cô rời đi trước khi anh kịp than phiền về độ dày mỏng của mấy tấm ga giường.

“Clary!”

Cô ngạc nhiên quay lại. Alec đang rảo bước qua hành lang đuổi theo cô. Anh ta dừng lại khi cô dừng lại. “Tôi cần nói chuyện với cô.”

Cô ngạc nhiên nhìn anh ta. “Về chuyện gì?”

Anh ta hơi chần chừ. Với nước da trắng và đôi mắt xanh sậm, trông anh ta cũng đẹp ngỡ ngàng như cô em, nhưng không giống Isabelle, anh ta làm mọi điều có thể để trông xấu xí hơn trong mắt người khác. Những chiếc áo len đã sờn chỉ và mái tóc như thể tự cắt tóc trong bóng tối chỉ là một phần trong đó. Trông anh ta không thoải mái với chính mình. “Tôi nghĩ cô nên biến đi. Về nhà đi,” anh ta nói.

Cô vẫn biết Alec không hề thích cô, nhưng điều anh vừa nói với cô vẫn giống như một cái tát. “Alec, lần cuối tôi ở nhà, nhà tôi đã có một Kẻ Lầm Đường. Và quỷ Ravener. Với những chiếc răng nanh. Không ai muốn trở về nhà hơn tôi, nhưng…”

“Cô phải có bà con họ hàng gì để ở nhờ chứ?” Có thoáng chút tuyệt vọng trong giọng nói của anh ta.

“Không. Hơn nữa, bác Hodge muốn tôi ở lại,” cô nói ngắn gọn.

“Không thể nào. Ý tôi là, không phải sau những điều cô đã làm…”

“Tôi đã làm gì nào?”

Anh ta nuốt khan. “Cô suýt giết chết Jace.”

“Tôi suýt … Anh đang nói cái quái gì thế?”

“Chạy theo bạn cô như thế - cô có biết đã đặt cậu ấy vào nguy hiểm mức nào không? Cô có biết…”

“Cậu ấy? Ý anh là Jace?” Clary ngắt lời. “Nói cho anh biết toàn bộ đều là ý tưởng của Jace. Anh ấyhỏi Magnus xem hang ổ ma cà rồng ở đâu. Anh ấy tới nhà thờ để lấy vũ khí. Nếu tôi không đi cùng thì đằng nào anh ấy cũng đi thôi.”

“Cô không hiểu đâu,” Alec nói. “Cô không hiểu cậu ấy. Tôi thì hiểu. Cậu ấy nghĩ mình có trách nhiệm phải cứu thế giới; cậu ấy sẵn lòng bỏ mạng để làm. Thi thoảng tôi nghĩ thậm chí cậu ta còn muốn chết, nhưng không có nghĩa là cô phải cổ vũ cậu ta.”

“Tôi thật không hiểu,” cô nói. “Jace là một Nephilim. Đó là điều các anh làm, các anh cứu người, các anh giết quỷ, các anh đặt mình vào nguy hiểm. Vậy thì đêm qua có gì khác nào?”

Alec không còn kiểm soát nổi mình nữa. “Vì cậu ấy bỏ tôi lại!” anh hét. “Thường thì tôi sẽ đi cùng cậu ta, bọc hậu giúp cậu ta, trông chừng cậu ta, giúp cậu ta an toàn. Nhưng cô – cô chỉ là một gánh nặng, một người thường.” Anh ta khạc chữ đó ra như thể đó là một lời tục tĩu.

“Không,” Clary nói. “Anh nhầm rồi. Tôi là một Nephilim – giống như anh.”

Khóe miệng anh ta hơi cong lên. “Có thể,” anh ta nói. “Nhưng không hề được đào tạo, chẳng có chút kiến thức gì, cô cũng chẳng hữu dụng gì mấy, đúng không? Mẹ cô nuôi lớn cô trong thế giới người thường, và đấy là nơi cô thuộc về. Không phải nơi đây, đến để khiến Jace hành động như – như không phải một người trong bọn tôi. Khiến cậu ấy phá bỏ lời thề với Clave, khiến cậu ấy phạm Luật…”

“Tin mới này,” Clary quát. “Tôi không khiến Jace làm gì hết. Anh ấy thích làm gì thì làm. Anh cũng thừa biết.”

Anh ta nhìn cô như thể cô là một loài quỷ ghê tởm anh chưa từng thấy bao giờ. “Những người thường các người đều là những kẻ ích kỷ, biết không? Cô có biết cậu ta đã làm gì cho cô không hử, cậu ta đã nhận nguy hiểm về phía mình? Tôi không chỉ đang nói về sự an toàn của riêng Jace. Cậu ấy có thể mất mọi thứ. Cậu ấy đã mất bố mẹ; cô muốn cậu ấy mất luôn cả gia đình còn lại nữa sao?”

Clary nổi đóa. Cơn giận dâng lên trong cô như một cơn sóng hắc ám – giận Alec, vì anh nói cũng có phần đúng, và giận mọi điều và mọi người khác nữa: giận con đường băng trơn trượt đã cướp bố cô khỏi cô trước khi cô kịp chào đời, giận Simon vì suýt tự giết chết mình, giận Jace vì là một kẻ tử vì đạo, không thèm quan tâm xem anh sống hay chết. Giận chú Luke vì chú đã giả vờ quan tâm tới cô trong khi đấy chỉ là điều dối trá. Và giận mẹ cô vì không phải một người mẹ chán ốm, bình thường, sống bừa bãi như mẹ luôn giả vờ, mà thực ra là một người hoàn toàn khác: một người hùng, tạo ra những chiến công kỳ vĩ và dũng cảm mà Clary chẳng quen chẳng biết. Một người mà lúc này không ở đây, khi Clary cực kỳ cần đến bà.

“Anh nên nói về tính ích kỷ đi,” cô rít lên, thật hằn học đến mức khiến Alec lùi lại một bước. “Anh chả quan tâm tới ai trên thế giới này ngoại trừ bản thân anh thôi, Alec Lightwood. Thể nào anh chẳng giết lấy nổi một con quỷ, bởi vì anh quá sợ.”

Alec sững hồn. “Ai nói với cô thế?”

“Jace”

Anh có vẻ như vừa bị ăn tát. “Cậu ấy không thể. Không thể nói lời đó.”

“Ồ, có đấy.” Cô có thể thấy mình đã làm anh ta thương tổn thế nào, và cô vui sướng. Có người nào đó phải bị tổn thương thay cho cô. “Anh có thể rao giảng tùy thích về danh dự, về sự trung thực và về việc người thường không hề có những đức tính ấy, nhưng nếu anh thành thật, thì anh sẽ thừa nhận rằng cái cơn tam bành này chỉ vì anh yêu Jace. Nó chẳng liên quan gì tới…”

Alec di chuyển, nhanh tới chóng mặt. Một tiếng rắc sắc lạnh ong ong trong đầu cô. Anh đã ấn chặt cô vào bức tường khiến gáy cô đập mạnh vào mảng tường ốp ván. Mặt anh chỉ cách cô có vài inch, mắt mở lớn và tối lại. “Không bao giờ,” anh thì thào, miệng mím lại thành một đường kẻ, “không bao giờ, nói những điều tương tự với cậu ta hoặc không tôi sẽ giết chết cô. Tôi thề trước Thiên Thần, tôi sẽ giết cô.”

Cơn đau trên hai tay cô nơi anh ta đang nắm chặt lại càng đau dữ dội. Dù không muốn nhưng cô vẫn thở dốc. Anh ta chớp mắt – như thể vừa bừng tỉnh khỏi giấc mộng – và thả cô, giật tay khỏi cô như thế da cô làm anh phải bỏng. Không nói lấy một lời, anh ta quay người và vội trở lại bệnh xá. Anh ta hơi lảo đảo khi bước đi, như người say hoặc chóng mặt.

Clary xoa xoa hai cánh tay đau ê ẩm, nhìn theo anh ta, thầm tán thưởng điều mình vừa làm. Giỏi lắm, Clary. Giờ mày khiến anh ấy thực sự ghét mày rồi.


Đáng ra vừa đặt lưng xuống cô phải ngủ lăn quay, nhưng dù kiệt sức, giấc ngủ vẫn không đến với cô. Thế là cô lôi cuốn tập ra khỏi ba lô và bắt đầu dựa bìa tập vào đầu gối và vẽ. Lúc đầu chỉ là những hình vẽ nguệch ngoạc – một chi tiết từ mặt tiền đổ nát của khách sạn mà cà rồng: một đầu xối hình thú mắt lồi đang như nanh múa vuốt. Một con đường vắng vẻ, một ngọn đèn đường duy nhất tỏa ánh sáng vàng vọt, một bóng đen đứng ngoài vùng ánh sáng. Cô vẽ Raphael mặc chiếc áo sơ mi đẫm máu với vết sẹo thánh giá trên cổ họng.Và rồi cô vẽ Jace đứng trên mái nhà, nhìn xuống mặt đất bên dưới đó mười tầng lầu. Không sợ, nhưng giống như cú nhảy đang thách thức anh – như thể không có khoảng không nào mà niềm tin của anh không thể lấp đầy bằng tinh thần bất khả chiến bại của riêng mình. Như trong giấc mơ của cô, cô vẽ anh với đôi cánh uốn rộng sau vai như những đôi cánh vòng cung của bức tượng thiên thần trong Thành Phố Xương Trắng.

Cuối cùng, cô cố vẽ mẹ. Cô đã nói với Jace rằng cô không thấy gì khác sau khi đọc cuốn Sách Xám, và cũng gần như thế. Nhưng giờ, khi cô cố tưởng tượng ra gương mặt mẹ, cô nhận ra có một điều khác biệt với mẹ Jocelyn trong ký ức của cô: Cô có thể thấy những vết sẹo của mẹ, những dấu ấn màu trắng nhỏ xíu ở khắp lưng và vai như thể mẹ đang đứng dưới tuyết.

Đau lòng lắm, khi biết rằng cái cách cô luôn thấy mẹ trong suốt cuộc đời, hóa ra lại giả dối. Cô nhét cuốn tập xuống gối mà mắt nóng ran.

Có tiếng gõ cửa – nhè nhẹ, ngập ngừng. Cô vội vàng chùi mắt. “Vào đi.”

Đó là Simon. Lúc trước cô không thực sự để ý xem bạn mình trông luộm thuộm tới mức nào. Cậu chưa tắm, quần áo rách rưới và dính bẩn, tóc tai bù xù. Cậu tần ngần đứng ngoài cửa, trịnh trọng kỳ lạ.

Cô nhích người sang bên, chừa cậu chỗ ngồi trên giường. Ngồi trên giường cùng Simon chẳng có gì kỳ lạ hết; họ đã ngủ ở nhà nhau trong nhiều năm, làm lều và pháo đài bằng chăn khi còn nhỏ, thức đọc truyện tranh khi lớn hơn.

“Cậu tìm thấy kính rồi,” cô nói. Một bên mắt bị vỡ.

“À, kính ở trong túi áo. Nhưng nó còn được thế này là mình mừng lắm rồi. Mình sẽ phái một bức thư lời lẽ thống thiết gửi cho LensCrafters.” Cậu thận trọng ngồi xuống bên cạnh.

“Bác Hodge đã băng bó cho cậu xong chưa?”

Simon gật đầu. “Rồi. Mình vẫn cảm thấy như bị bù loong đập cho tơi tả, nhưng chẳng có cái xương nào bị gẫy hết – chẳng cái nào nữa hết.” Cậu quay sang nhìn cô. Đôi mắt đằng sau đôi kính vỡ vẫn là đôi mắt trong ký ức của cô: đen và nghiêm túc, viền quanh là hàng lông mi mà con trai thì chẳng quan tâm mà con gái lại thèm muốn. “Clary, việc cậu tìm mình – việc cậu liều tất cả…”

“Đừng.” Cô ngượng nghịu giơ tay. “Là cậu thì cậu cũng sẽ làm điều tương tự vì mình thôi.”

“Tất nhiên,” cậu nói, không hề tự kiêu hay giả bộ, “nhưng mình luôn luôn nghĩ đó là điều đương nhiên giữa chúng ta. Cậu biết đấy.”

Cô lồm cồm quay sang nhìn bạn, ngơ ngác không hiểu. “Ý cậu là sao?”

“Ý mình là,” Simon nói, như thể cậu ngạc nhiên vì phải giải thích một điều đáng lẽ phải quá ư rõ ràng, “Mình luôn là người cần cậu hơn cậu cần mình.”

“Không đúng.” Clary hoảng hồn.

“Đúng mà,” Simon nói với sự bình tĩnh như cũ. “Cậu chưa bao giờ tỏ ra cần bất cứ ai, Clary ạ. Cậu luôn quá là… khép mình. Tất cả những gì cậu cần là cây bút chì và thế giới tưởng tượng của cậu. Rất nhiều lần mình phải nói tới sáu bảy lần cậu mới trả lời, như cậu đang ở rất xa. Và khi cậu quay sang mình cười nụ cười buồn cười đó, thế là mình biết nãy giờ cậu đã quên tất cả về mình và chỉ vừa mới nhớ ra – nhưng mình chưa bao giờ giận cậu. Một nửa sự chú ý của cậu đã hơn tất cả sự chú ý của tất cả những người khác.”

Cô định nắm lấy tay cậu, nhưng lại tóm phải cổ tay. Cô cảm nhận được nhịp đập của cậu dưới làn da. “Mình chỉ yêu quý ba người trong đời thôi,” cô nói. “Mẹ mình, chú Luke và cậu. Giờ mình đã mất tất cả trừ cậu ra. Đừng bao giờ tưởng tượng rằng cậu không quan trọng đối với mình – đừng bao giờ nghĩ như thế nhé.”

“Mẹ mình nói cậu chỉ cần ba người cậu có thể tin cậy để đạt được mức thể hiện bản thân,” Simon nói. Giọng cậu nhẹ nhàng như lại vỡ ra giữa chữ “thể hiện”. “Mẹ nói cậu có vẻ khá là biết thể hiện bản thân rồi.”

Clary cười ảo não. “Mẹ cậu còn nói lời thông thái nào về mình nữa không?”

“Có chứ.” Simon đáp lại nụ cười của cô bằng nụ cười ma mãnh không kém. “Nhưng mình sẽ không nói cho cậu biết đâu.”

“Giữ bí mật là không công bằng!”

“Ai bảo thế giới này công bằng nào?”


Cuối cùng, họ nằm bên nhau như hồi còn bé: vai chạm vai, chân Clary gác lên chân Simon. Ngón chân cô chỉ chạm tới dưới đầu gối cậu một chút. Họ nằm ngửa, nhìn lên trần nhà trong khi nói chuyện, một thói quen có từ hồi trần phòng ngủ của Clary còn dính đầy những ngôi sao phát sáng-trong-bóng-tối. Trong khi Jace có mùi xà bông và chanh, Simon có mùi như người vừa lăn lộn trên khu đậu xe của siêu thị, nhưng Clary không phiền hà gì.

“Điều kỳ lạ là,” – Simon cuộn lọn tóc cô quanh ngón tay – “mình đang nói đùa với Isabelle về ma cà rồng ngay trước khi mọi chuyện xảy ra. Chỉ để chọc cô ấy cười thôi, cậu biết đấy? Điều gì sẽ làm ma cà rồng Do Thái sợ quắn đít? Ngôi sao David bằng bạc? Gan thái miếng? Tờ séc mười tám đô?”

Clary cười.

Simon có vẻ hài lòng. “Isabelle không cười.”

Clary nghĩ tới những điều cô muốn nói, nhưng lại không nói ra. “Mình không chắc đấy là kiểu khôi hài của Isabelle đâu.”

Simon liếc nhìn cô qua hàng lông mi. “Cô ấy có ngủ với Jace không nhỉ?”

Tiếng kêu vì ngạc nhiên của Clary chuyển thành tiếng ho khan. Cô trừng mắt nhìn bạn. “Eo ơi, không hề. Bọn họ có liên hệ bà con mà. Họ sẽ không làm vậy đâu.” Cô dừng lại. “Mình không nghĩ vậy.”

“Chắc chắn là không rồi.”

“Mình không quan tâm thật!” Cậu lăn qua nằm nghiêng. “Cậu biết đấy, lúc đầu mình nghĩ Isabelle có vẻ, mình không biết nữa – hay hay. Vui vẻ. Khác biệt. Rồi, trong bữa tiệc, mình nhận ra cô ta thực sự điên khùng.”

Clary nhắm hờ mắt nhìn bạn. “Cậu ấy bảo cậu uống cocktail xanh đó hả?”

Cậu lắc đầu. “Do mình cả thôi. Mình thấy cậu đi cùng Jace và Alec, và mình không biết… Trông cậu khác bình thường. Cậu có vẻ quá khác. Mình không thể không nghĩ rằng cậu đã thay đổi, và cái thế giới mới này của cậu sẽ gạt mình ra ngoài. Mình muốn làm một điều gì đó có thể biến mình thành một phần trong thế giới đó. Vì thế khi cái gã da xanh lá cây thấp bé cầm khay nước đi qua…”

Clary làu bàu. “Cậu là đồ ngốc.”

“Mình có bao giờ nói mình không ngốc đâu.”

“Xin lỗi nhé. Có tệ lắm không?”

“Là chuột hả? Không. Thoạt tiên thì có mất phương hướng. Tự nhiên mình chỉ cao tới mắt cá mọi người. Mình nghĩ mình uống phải thuốc teo nhỏ, nhưng mình không thể lý giải nổi tại sao mình lại có ham muốn nhai vỏ kẹo cao su dùng rồi.”

Clary cười khúc khích. “Không. Ý mình là khách sạn ma cà rồng cơ – nó có vẻ tệ lắm không?”

Có gì đó lóe lên trong đôi mắt cậu. Simon nhìn đi chỗ khác. “Không. Mình không nhớ nhiều về khoảng thời gian giữa lúc ở bữa tiệc đến lúc rơi xuống khu đậu xe.”

“Thế lại tốt hơn.”

Cậu định nói gì đó nhưng ngáp dài một cái. Ánh sáng trong phòng bắt đầu tắt dần. Tách khỏi Simon và ga giường, Clary ngồi dậy và đẩy rèm cửa sổ sang bên. Ở ngoài kia, thành phố tắm mình trong vầng hoàng hôn đỏ ối. Mái nhà bàng bạc của tòa nà Chrysler, ở cách nơi này năm mươi khu phố về phía trung tâm, sáng lên như que cời lò đặt quá lâu trong bếp lửa. “Mặt trời lặn rồi. Có lẽ chúng ta nên đi ăn tối thôi.”

Không có tiếng trả lời. Quay lại, cô thấy Simon đã ngủ, tay gập dưới đầu, chân giang rộng. Cô thở dài, tới bên giường, tháo kính cho bạn và đặt lên tủ đầu giường. Cô không biết đã bao nhiêu lần cậu ngủ mà vẫn đeo kính rồi bị đánh thức bởi tiếng kính vỡ.

Giờ mình biết ngủ ở đâu đây? Cô chẳng ngại việc ngủ cùng giường với Simon, nhưng cậu chẳng chừa chỗ cho cô. Cô định chọc cậu dậy, nhưng trông cậu ngủ quá ngon lành. Mà cô cũng chẳng buồn ngủ. Cô vừa vớ lấy cuốn tập bên dưới gối thì nghe có tiếng gõ cửa.

Cô đi chân trần lạch bạch băng qua phòng và lặng lẽ vặn nắm đấm. Jace. Sạch sẽ, mặc quần bò và áo sơ mi xám, mái tóc vừa gội xong giống như một vầng hào quang vàng ong âm ẩm. Những vết bầm trên mặt anh đã chuyển từ tím sang xám nhạt, còn tay anh giấu sau lưng.

“Em đang ngủ đó hả? anh hỏi. Không có sự ăn năn hối lỗi nào trong giọng anh, chỉ có nỗi tò mò.

“Không.” Clary bước ra ngoài hành lang, kéo đóng cửa lại.”Vì sao anh nghĩ thế?”

Anh nhìn lên chiếc áo dây màu xanh da trời nhàn nhạt và chiếc quần ngủ ngắn. “Chẳng có lý do gì?”

“Tôi đã nằm trên giường gần như cả ngày rồi.” Cô nói, thực ra cũng đúng thôi. Thấy anh, sự hốt hoảng của cô lên tới một nghìn phần trăm, nhưng cô thấy không việc gì phải nói ra. “Anh thì sao? Anh không mệt hả?”


Anh lắc đầu. “Giống như dịch vụ thư tín, thợ săn quỷ không bao giờ ngủ. Dù tuyết hay mưa, dù nóng nực, dù trong đêm tối ảm đạm thì những…”

“Anh sẽ gặp vấn đề lớn nếu đêm tối ảm đạm phủ lên anh,” cô vạch trần.

Anh cười. Không giống mái tóc, hàm răng anh không hề hoàn hoàn hảo. Răng cửa hàm trên hơi bị mẻ, duyên dáng đáng yêu.

Cô ôm lấy khuỷu tay . Trong hành lang hơi se lạnh và cô cảm thấy tay bắt đầu nổi da gà. “Mà anh đang làm gì ở đây thế?”

“Đây có nghĩa là phòng của em hay ‘đây” có nghĩa là câu hỏi thiêng liêng cao cả về mục đích tồn tại của chúng ta trên hành tinh này? Nếu em có ý định hỏi phải chăng đấy chỉ là một sự tình cờ của vũ trụ hay còn có một mục đích siêu đạo đức cao cả hơn cho cuộc sống, thì đó là một câu hỏi lớn của bao nhiêu thế hệ. Ý anh là, giản hóa luận đề về bản thể học đơn giản rõ ràng là một vấn đề sai lầm để tranh cãi, nhưng…”

“Em lên giường ngủ lại đây,” Clary với lấy nắm đấm cửa.

Anh nhanh nhẹn chèn vào giữa cô và cánh cửa. “Anh ở đây,” anh nói, “vì bác Hodge nhắc anh nhớ hôm nay là sinh nhật em.”

Clary thở dài buồn bã. “Ngày mai cơ.”

“Không có lý do gì mà chúng ta không ăn mừng ngay từ bây giờ.”

Cô đưa mắt dò xét. “Anh đang tránh mặt Alec và Isabelle.”

Anh gật đầu. “Cả hai đều đang cố gây sự với anh.”

“Vì cùng một lý do ư?”

“Anh không biết.” Anh lén lút nhìn khắp hành lang. “Bác Hodge nữa. Mọi người đều muốn nói chuyện với anh. Trừ em. Anh cá là em không muốn nói chuyện với anh.”

“Không,” Clary nói. “Tôi muốn ăn. Tôi đang đói muốn chết.”

Anh giờ tay từ sau lưng ra. Một chiếc túi giấy hơi nhăn nhúm. “Anh lấy trộm ít thức ăn trong bếp nhân lúc Isabelle không để ý.”

Clary cười toe toe. “Một chuyến picnic à? Công viên Trung Tâm thì hơi muộn rồi, annh không nghĩ vậy sao? Ở đó đầy…”

Anh phẩy tay. “Tiên. Anh biết.”

“Tôi đang định nói là bọn trấn lột kia,” Clary nói. “Dù tôi thấy thương thay cho kẻ trấn lột nào gặp phải anh.”

“Em thông minh lắm, và anh có lời khen dành cho em,” Jace có vẻ hài lòng. “Nhưng anh không định tới Công Viên Trung Tâm. Nhà kính thì sao?”

“Giờ á? Giữa đêm á? Nó không- tối sao?”

Anh cười như thể trước một bí mật, “Đi nào. Anh sẽ cho em xem.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: Đóa hoa lúc nửa đêm


Dưới ánh chạng vạng, những căn phòng rộng lớn trống trải họ đi qua trên đường lên gác mái trông vắng vẻ hệt như dàn cảnh sân khấu, những đồ nội thất phủ khăn trắng lù lù trong cảnh tranh tối tranh sáng hệt như những tảng băng trôi hiện ra qua lớp sương mù.

Khi Jace mở cửa nhà kính, hương thơm ùa đến Clary, mùi hương mềm mại như cú tát từ chân mèo được bọc đệm: mùi thơm đằm thắm của đất hòa trộn cùng những mùi hương nồng nàn, ngào ngạt hơn của những đóa hoa đêm – hoa cúc bạch, hoa loa kèn trắng, cây hoa phấn – và nhiều loài hoa cô không biết, như cây cho ra những bông hoa vàng hình sao với những cánh hoa lốm đốm phấn ánh vàng. Qua lớp tường kính bao quanh khu vườn cô có thể thấy đèn đóm khu Mahattan sáng rực rỡ như những viên đá lạnh lẽo.

“Đẹp quá.” Cô từ từ quay quanh, ngắm nhìn tất cả. “Buổi tối ở nơi này thật đẹp.”

Jace cười. “Và chúng ta có được nơi này làm chốn riêng. Alec và Isabelle ghét lên đây. Họ bị dị ứng.”

Clary rùng mình, dù cô không thấy lạnh chút nào. “Đây là những loài hoa gì?”

Jace nhún vai và cẩn thận ngồi xuống cạnh bụi cây màu xanh bóng mượt lấm tấm những chùm nụ hoa khép chặt. “Không biết. Em nghĩ anh có để ý trong giờ thực vật học chắc? Anh không định làm nhân viên lưu trữ văn thư. Anh không cần biết những thứ đó.”

“Anh chỉ cần biết cách giết chóc thôi ư?”

Anh ngước nhìn cô và mỉm cười. Anh trông như thiên thần tóc vàng trong bức họa của Rembrandt, chỉ trừ cái khóe miệng mang nụ cười độc ác. “Đúng.” Anh rút cái gói bọc trong khăn ăn ra khỏi túi và đưa cho cô. “Và ngoài ra,” anh nói thêm, “anh làm món sandwich pho mát dở khiếp. Em ăn thử đi.”

Clary miễn cưỡng cười ngồi xuống đối diện anh. Nền đá của nhà kính lạnh ngắt dưới đôi chân cô để trần, nhưng cảm giác dễ chịu làm sao sau bao nhiêu ngày nắng nóng kéo dài. Từ trong cái túi giấy Jace lấy ra vài quả táo, một thanh sô cô la hoa quả và đậu phộng cùng một chai nước. “Trộm không tồi,” cô ngưỡng mộ.

Chiếc bánh sandwich pho mát còn ấm và hơi ỉu, nhưng ăn cũng được. Từ một trong không biết bao nhiêu túi trong áo khoác, Jace lôi ra một con dao tay cầm bằng xương có vẻ đủ sức mổ bụng một con gấu. Anh bắt đầu xử lý mấy quả táo, gọt chia chúng thành tám phần đều tăm tắp. “Ừm, thì đây không phải bánh sinh nhật,” anh nói và đưa cho cô một miếng, “nhưng hy vọng là có còn hơn không.”

“Không là điều tôi nghĩ mình sẽ nhận được đấy chứ, nên cảm ơn anh nhé.” Cô cắn miếng. Miếng táo còn tươi và mát lạnh trên đầu lưỡi.

“Không ai lại không có gì trong ngày sinh nhật.” Anh đang gọt vỏ quả táo thứ hai, lớp vỏ bong ra thành từng dải dài cong cong. “Sinh nhật phải là ngày đặc biệt. Sinh nhật anh luôn là ngày bố anh bảo anh có thể làm bất cứ điều gì hoặc có bất cứ cái gì anh muốn.”

“Bất cứ cái gì?” Cô cười. “Vậy anh muốn bất cứ cái gì nào?”

“À thì, khi anh năm tuổi, anh muốn tắm trong mì spaghetti.”

“Nhưng bố không đồng ý, đúng không?”

“Không, vậy mới nói. Bố đồng ý. Ông nói thế có đắt đỏ gì đâu, nên tại sao lại không nếu đấy là điều anh muốn? Bố bảo mấy người hầu đổ đầy nước sôi và pasta vào bồn tắm, rồi khi nó nguội đi…” anh nhún vai. “Anh tắm trong đó.”

Mấy người hầu ư? Clary nghĩ. Nhưng cô chỉ nói, “Rồi thế nào?”

“Trơn trượt.”

“Hẳn rồi.” Cô cố tưởng tượng ra khi anh là một cậu bé cười nắc nẻ, mì ống ngập tới tận tai. Cô không tưởng tượng nổi. Chắc chắn Jace không bao giờ cười nắc nẻ rồi, thậm chí là vào hồi năm tuổi. “Anh còn muốn gì khác?”

“Hầu hết vũ khí,” anh nói, “và anh chắc em không ngạc nhiên. Sách. Anh đọc nhiều sách lắm.”

“Anh không đi học à?”

“Không,” anh nói, và giờ thì anh nói chậm rãi, gần như thể họ đang tiến tới đề tài anh không muốn bàn luận.

“Nhưng bạn anh…”

“Anh không có bạn,” anh nói. “Ngoài bố. Bố là mọi điều anh cần.”

Cô cứ nhìn anh mãi. “Không có lấy một người bạn?”

Anh nhìn thẳng vào mắt cô. “Lần đầu tiên anh gặp Alec,” anh nói, “là khi anh mười tuổi, đó là lần đầu tiên anh từng gặp một đứa trẻ đồng trang lứa. Lần đầu tiên anh có một người bạn.”

Cô nhìn xuống. Giờ thì hình ảnh đang hình thành trong đầu cô, dù không muốn: Cô nghĩ tới Alec, cái cách anh ta nhìn cô. Cậu ấy sẽ không nói vậy.

“Đừng thương hại anh,” Jace nói, như thể đoán được suy nghĩ của cô, dù người cô đang thương cảm không phải là anh. “Bố cho anh sự giáo dục tốt nhất, sự huấn luyện tuyệt hảo nhất. Bố đưa anh đi khắp thế giới. Luân Đôn, Sain Peterburg, Ai Cập. Bố con anh thích đi du lịch lắm.” Mắt anh sa sầm lại. “Anh chẳng đi đâu từ hồi bố mất. Chẳng đi đâu ngoại trừ New York.”

“Anh may mắn thật,” Clary nói. “Cả đời em chưa bao giờ đi khỏi tiểu bang này. Mẹ em còn chẳng cho em đi tham quan tới DC nữa. Nhưng có lẽ giờ em biết nguyên do rồi,” cô rầu rĩ thêm.

“Mẹ lo em sẽ hoảng sợ? Khi thấy quỷ trong Nhà Trắng?”

Cô cắn một miếng sô cô la. “Có quỷ ở Nhà Trắng ư?”

“Anh đùa đấy,” Jace nói. “Anh nghĩ vậy.” Anh nhún vai một cách thản nhiên. “Anh chắc chắn có người đã từng nhắc tới vấn đề đó.”

“Em nghĩ bà không muốn em đi quá xa khỏi bà. Em dang nói tới mẹ em đấy. Sau khi bố mất, mẹ thay đổi rất nhiều” Giọng chú Luke vang trong đầu óc cô. Em chưa bao giờ như xưa kể từ khi chuyện đó xảy ra, nhưng Clary không phải Jonathan.

Jace nhướn mày nhìn cô. “Em có nhớ bố không?”

Cô lắc đầu. “Không. Bố mất trước khi em ra đời.”

“Em may đấy,” anh nói. “Như thế thì em sẽ không nhớ bố.”

Nếu là người khác nói ra câu này hẳn nghe luống cuống lắm, nhưng cái khác là trong giọng nói anh không hề có chút cay đắng nào, chỉ có nỗi cô đơn đau đớn cho bố mình. “Thế nó có phải nhạt dần không?” cô hỏi. “Ý em là nhớ bố ấy?”

Anh liếc nhìn cô, không trả lời. “Em có đang nghĩ tới mẹ không?”

Không. Cô sẽ không nghĩ tới mẹ theo cách ấy. “Thực ra là nghĩ đến chú Luke cơ.”

“Đó không hẳn là tên chú ấy.” Anh cắn một miếng táo, ngẫm nghĩ rồi nói. “Anh đang nghĩ về chú ấy. Có gì đó trong cách cư xử của chú ấy không được hợp lý…”

“Chú ấy là thằng hèn,” giọng Clary chua chát. “Anh nghe chú nói rồi đấy. Chú không muốn chống lại Valentine. Thậm chí là vì mẹ em.”

“Nhưng đó chính xác…” Một tiếng leng keng dài vang tới ngắt lời anh. Tiếng chuông ngân nga từ đâu đó. “Nửa đêm,” Jace nói và đặt con dao xuống. Anh đứng dậy, giơ tay ra để kéo cô đứng bên cạnh anh. Những ngón tay anh hơi dính vì nước táo. “Giờ quan sát nhé.”

Anh nhìn không rời vào bụi cây xanh nãy giờ họ ngồi cạnh, bụi cây điểm xuyết hàng tá những bông hóa còn khép nụ lóng lánh. Cô định hỏi anh là cô phải nhìn cái gì, nhưng anh giơ tay để ngăn cô lại. Mắt anh đang sáng lên. “Đợi đi,” anh nói.

Những chiếc lá trên khóm cây không hề lay động. Đột nhiên một trong những nụ hoa khép chặt bắt đầu vặn mình run rẩy. Nụ hoa phình lên, to gấp đôi và bung nở. Giống như đang xem một bộ phim chiếu nhanh về quá trình hoa nở: những đài hoa xanh xanh mỏng manh mở tung ra, để lộ những cụm cánh hoa bên trong. Chúng được phủ một lớp dính phấn hoa màu vàng nhạt nhẹ như phấn rôm.

“Ồ!” Clary reo lên, ngước thấy Jace đang quan sát cô. “Chúng nở mỗi đêm ư?”

“Chỉ vào nửa đêm thôi,” anh nói. “Chúc mừng sinh nhật, Clarissa Fray.”

Cô thấy xúc động đến lạ lùng. “Cám ơn anh.”

“Anh có cái này cho em.” Anh nói. Anh cho tay vào túi và lôi gì đó ra, ấn vào tay cô. Là một viên đá xám, nơi mấp mô, nhiều chỗ mòn tới trơn nhẵn.

“Hừ” Clary nói, lật qua lật lại viên đá trên những ngón tay. “Anh biết đấy, đa số khi các cô gái nói họ muốn một viên đá lớn, họ không thực sự muốn nói là, anh biết đây, một viên đá lớn theo nghĩa đen đâu.”

“Rất hay, cô bạn thích mỉa mai của tôi ạ. Đây chính xác không phải một viên đá. Tất cả các Thợ Săn Bóng Tối đều có một viên đá rune phù thủy.”

“Ồ.” Cô nhìn nó với sự hứng thú mới, nắm lấy nó theo cách cô từng thấy Jace làm trong hầm. Cô không chắc, nhưng cô nghĩ cô có thể thấy ánh sáng le lói chiếu qua kẽ tay.

“Nó sẽ đem lại ánh sáng cho em,” Jace nói, “thậm chí là giữa những bóng tối hắc ám nhất trên thế giới này cũng như những nơi khác.”

Cô nhét viên đá vào túi. “Cám ơn anh. Anh thật dễ thương đã tặng quà cho tôi.” Sự căng thẳng giữa họ dường như đang nén xuống cô như không khí ẩm. “Hơn là tắm trong mì spaghetti.”

“Ừ, khi em lên năm, em muốn mẹ cho em quay mòng mòng trong máy sấy cùng với đống quần áo,” Clary nói. “Cái khác là, mẹ em không đồng ý.”

“Có lẽ vì quay mòng mòng trong máy vắt có thể gây chết người,” Jace nhận định,” còn mì ống thì khó gây chết người lắm. Trừ khi là do Isabelle nấu.”

Bông hoa nửa đêm đã biến thành những cánh hoa rơi rụng. Chúng rơi xuống sàn, tỏa sáng như những mảnh ánh sao bàng bạc. “Khi em mười tuổi, em muốn có một hình xăm,” Clary nói. “mẹ em cũng không đồng ý.”

Jace không cười. “Hầu hết giới Thợ Săn Bóng Tối đều có Ấn Ký đầu tiên khi mười hai tuổi. Nó hẳn đã nằm trong máu của em.”

“Có thể. Dù em không nghĩ là các Thợ Săn Bóng Tối có một hình xăm ninja Rùa Donatello trên vai trái.”

Jace có vẻ như chẳng hiểu. “Em muốn một con rùa trên vai à?”

“Em muốn che đi vết sẹo trái rạ.” Cô kéo dây áo sang một chút, để lộ vết sẹo màu trắng hình sao trên đầu vai. “Thấy chưa?”

Anh nhìn đi chỗ khác. “Cũng muộn rồi,” anh nói. “Chúng ta nên xuống nhà thôi.”

Clary ngượng nghịu kéo quai áo lên. Làm như anh muốn thấy vết sẹo ngu ngốc của cô lắm đấy.

Lời tiếp theo nói ra không phải do ý muốn của cô. “Anh và Isabelle đã bao giờ - hẹn hò chưa?”

Giờ anh nhìn cô thật. Ánh trăng đã lấy đi màu sắc trong đôi mắt anh. Lúc này chúng giống màu bạc hơn là vàng. “Isabelle hả?” anh ngây ra.

“Tôi nghĩ là… “ Giờ cô thấy ngượng ngùng hơn. “Simon có thắc mắc.”

“Vậy cậu ta nên đi mà hỏi Izzy.”

“Em không nghĩ là cậu ấy muốn hỏi,” Clary nói. “Mà thôi, bỏ qua đi. Cũng chẳng liên quan gì tới em.”

Anh cười thoải mái. “Câu trả lời là không. Ý anh là, có thể từng có một lần một trong hai bọn anh nghĩ tới chuyện đó, nhưng con bé gần như là em gái của anh thôi. Hẹn hò sẽ kỳ cục lắm.”

“Anh nói Isabelle và anh chưa bao giờ…”

“Không bao giờ,” Jace nói.

“Cô ấy ghét em,” Clary nhận xét.

“Không phải đâu,” anh nói, khiến cô ngạc nhiên. “Em chỉ khiến con bé lo lắng thôi, vì trước giờ nó vẫn luôn là đứa con gái duy nhất giữa một đám con trai yêu chiều lấy nó, mà giờ thì không phải vậy nữa.”

“Nhưng cô ấy đẹp thế cơ mà.”

“Em cũng vậy,” Jace nói, “đẹp theo một cách rất khác, và con bé không thể nào không đồng ý. Nó luôn muốn được nhỏ nhắn, mỏng manh, em biết đấy. Con bé ghét phải cao hơn hầu hết tụi con trai lắm.”

Clary không nói gì đáp lại, vì cô chẳng có gì để nói. Xinh đẹp. Annh bảo cô đẹp. Chưa từng có ai nói thế với cô, trừ mẹ, mà mẹ thì không tính. Những bà mẹ luôn phải nghĩ rằng con mình xinh đẹp. Cô nhìn anh chăm chú.

“Chúng ta nên xuống thôi,” anh nhắc lại. Cô chắc chắn là đã khiến anh không thấy thoải mái khi cô nhìn như thế, nhưng cô dường như cô không thể dừng được.

“Thôi được,” cuối cùng cô nói. Nhẹ nhõm làm sao khi cô thấy giọng mình vẫn bình thường. Cô còn nhẹ nhõm hơn khi rời mắt khỏi anh lúc cô quay đi. Mặt trăng, giờ đã lên đỉnh đầu, chiếu sáng mọi thứ rõ ràng gần như ban ngày. Chưa bước được hai bước thì cô thấy một tia sáng trắng lóe lên từ thứ gì đó trên sàn nhà: là con dao Jace dùng để cắt táo, đang nằm nghiêng một bên. Cô vội vã lùi lại để tránh dẫm phải, và vai cô va vào vai anh – anh giơ tay giữ cô đững vững, ngay khi cô quay lại lại xin lỗi, và rồi không hiểu sao cô ở trong vòng tay anh và anh đang hôn cô.

Lúc đầu gần như thể anh không muốn hôn cô: Môi anh chạm mạnh vào môi cô, không chút nhân nhượng; rồi anh vòng cả hai tay ôm lấy cô và kéo cô sát vào mình. Môi anh mềm dần. Cô có thể cảm nhận được nhịp tim dồn dập từ nơi anh, cảm nhận vị ngọt của táo còn vương trên môi anh. Cô luồn tay vào tóc anh, như đã muốn làm ngay từ lần đầu gặp mặt. Tóc anh xoăn xoăn xung quanh những ngón tay cô, mượt mà mềm mịn. Tim cô rộn rã, và có tiếng sột soạt trong tai cô, giống như tiếng đập cánh…

Jace khẽ thốt lên và lùi khỏi Clary, dù vẫn ôm chắc lấy cô. “Đừng hoảng, nhưng chúng ta có khán giả đấy.”

Clary quay đầu. Đậu trên nhánh cây gần đó là Hugo, đang chăm chú quan sát bằng đôi mắt đen sáng. Vậy là tiếng cô nghe thấy thực sựlà tiếng vỗ cánh chứ không phải do sự nồng nhiệt điên cuồng. Thất vọng thật.

“Nếu nó ở đây, bác Hodge cũng không xa đây lắm,” Jace thì thào. “Chúng ta nên đi thôi.”

“Ông ta đang theo dõi anh à?” Clary rít len. “Ý em là bác Hodge ấy.”

“Không. Bác thích lên đây suy ngẫm chuyện đời ấy mà. Quá chán – chúng ta đang có một cuộc trò chuyện tế nhị thế kia mà.” Anh cười không thành tiếng.

Họ đi xuống theo đường đã đi lên, nhưng cuộc hành trình đối với Clary đã hoàn toàn khác. Jace nắm lấy tay cô, khiến những cơn sốc điện nho nhỏ chạy lên xuống huyết mạch cô từ mỗi điểm anh chạm vào: những ngón tay, cổ tay, lòng bàn tay. Đầu óc cô đầy những câu hỏi, nhưng cô quá sợ phá vỡ cảm xúc nên không dám nói gì. Anh đã nói, “quá chán,” vậy nên cô đoán đêm của họ đã kết thúc, ít nhất là phần hôn hít.

Họ tới cửa phòng cô. Cô dựa người lên bức tường cạnh đó, ngước nhìn anh. “Cám ơn vì chuyến dã ngoại nhân sinh nhật nhé,” cô nói, cố sao cho giọng bình thản.

Anh dường như tần ngần không muốn buông tay cô. “Em sẽ đi ngủ hả?”

Anh chỉ tỏ ra lịch sự mà thôi, cô tự nhủ. Dù sao, đây cũng là Jace. Anh chưa bao giờ lịch sự. Cô sẽ trả lời câu hỏi bằng câu hỏi. “Anh không mệt sao?”

Anh hạ giọng. “Anh chưa bao giờ tỉnh táo hơn lúc này.”

Anh cúi xuống hôn cô, đưa bàn tay lên ôm lấy gương mặt cô. Môi họ chạm vào nhau, lúc đầu chỉ phớt qua, sau đó nồng nhiệt hơn. Đúng lúc đó Simon mở cửa và bước vào hành lang.

Simon chớp chớp mắt, mái tóc bù rối bù và không đep kính, nhưng cậu đã thấy rõ. “Cái khỉ gì đây?” cậu hỏi, quá lớn khiến Clary nhảy bắn ra khỏi Jace như thể sự đụng chạm của anh làm cô bị bỏng.

“Simon! Cậu đang làm gì – ý mình là, mình tưởng cậu đang…”

“Ngủ? Đúng,” cậu nói. Má cậu đỏ rực trên làn da nâu, giống như mỗi khi cậu ngượng hay thất vọng. “Rồi mình tỉnh dậy và cậu không còn đó, nên mình tưởng…”

Clary không nghĩ ra điều gì để nói. Sao cô không nghĩ chuyện này sẽ xảy ra chứ? Vì sao cô không nói họ nên tới phòng Jace? Câu trả lời cũng đơn giản hệt như hoàn cảnh tồi tệ này: Cô hoàn toàn quên mất Simon.

“Xin lỗi,” cô nói, không biết nên nói với ai. Qua khóe mắt cô nghĩ mình thoáng thấy Jace đang nhìn cô bằng ánh mắt giận bừng bừng – nhưng khi cô nhìn anh, anh vẫn như mọi ngày: thoải mái, tự tin, hơi chán chường.

“Trong tương lai, Clarissa,” anh nói, “em nên nói trước là có một gã đang nằm trên giường của em, để tránh tình huống mệt mỏi thế này.”

“Cậu mời hắn lên giường?” Simon hỏi, có vẻ run rẩy.

“Lố bịch quá, đúng không?” Jace nói. “Ba đứa mình sẽ chẳng nằm vừa đâu.”

“Mình không mời anh ấy lên giường,” Clary quát. “Chúng mình chỉ hôn nhau thôi.”

“Chỉ hôn nhau?” Giọng Jace mỉa mai cô bằng sự tổn thương giả tạo. “Sao em chối bỏ tình yêu của chúng ta nhanh gọn thế.”

“Jace…”

Cô thấy sự hận thù sáng lên trong đôi mắt anh nên giọng lạc đi. Chả ích gì. Dạ dày cô đột nhiên nặng trĩu. “Simon, muộn rồi,” cô mệt mỏi nói. “Mình xin lỗi vì bọn mình đã đánh thức cậu.”

“Mình cũng vậy.” Cậu quày quả trở vào phòng ngủ, đóng sầm cửa lại sau lưng.

Nụ cười của Jace nhạt như bánh mì nướng bơ. “Thôi nào, đuổi theo cậu ta đi. Xoa đầu cậu ta và nói rằng cậu ta vẫn là cậu nhóc cực kỳ quan trọng của em đi. Không phải đó là điều em muốn sao?”

“Thôi đi,” cô nói. “Anh đừng cư xử như thế nữa.”

Nụ cười anh mở lớn hơn. “Như thế nào?”

“Nếu anh giận, cứ nói. Đừng hành động như thể chẳng chuyện gì ảnh hưởng tới anh. Như thể anh chẳng có chút cảm xúc nào.”

“Có lẽ em nên nghĩ tới chuyện đó trước khi hôn anh,” anh nói.

Cô nhìn anh không thể tin nổi. “Em hôn anh ư?”

Anh nhìn cô mà sự ác ý sáng lấp lánh. “Đừng lo,” anh nói, “với anh cũng chẳng đáng nhớ gì đâu.”

Cô nhìn anh bỏ đi, và thấy vừa muốn khóc vừa muốn đuổi theo anh mà đá vào mắt cá chân anh. Biết rằng cả hai hành động đó đều khiến anh hài lòng nên cô không làm, mà mệt mỏi lê bước trở lại phòng ngủ.

Simon đang đứng giữa phòng, trông có vẻ lạc lối. Cậu đã đeo kính. Cô nghe giọng Jace trong đầu, nói những lời khó nghe: Xoa đầu cậu ta và nói rằng cậu ta vẫn là cậu nhóc cực kỳ quan trọng của em.

Cô bước một bước lại gần bạn, rồi dừng lại khi thấy thứ cậu đang cầm trong tay. Cuốn tập của cô, mở ra tại hình cô đang vẽ, hình Jace mang đôi cánh thiên thần. “Đẹp,” cậu nói. “Tất cả những lớp tại Tisch đó cũng đáng đồng tiền bát gạo ấy chứ nhỉ.”

Thường thì Clary sẽ mắng cậu vì đã xem trộm cuốn tập của cô, nhưng giờ không phải lúc. “Simon, nghe này…”

“Mình nhận ra chui vào phòng ngủ của cậu để dỗi có lẽ không phải là hành động đẹp mắt nhất,” cậu đột ngột ngắt lời và ném cuốn tập trở lại giường. “Nhưng mình phải lấy đồ.”

“Cậu định đi đâu?” cô hỏi.

“Về nhà. Mình đã ở đây quá lâu. Người thường như mình không thuộc về nơi này.”

Cô thở dài. “Nghe này, mình xin lỗi, được chưa? Mình không định hôn anh ấy; chỉ là chuyện cứ tự nhiên xảy ra. Mình biết cậu không thích Jace.”

“Không,” Simon nói còn sống sượng hơn. “Mình không thích soda hết ga. Mình không thích những boy band giẻ rách. Mình không thích tắc đường. Mình không thích bài tập toán về nhà. Mình ghét Jace. Thấy khác chưa?”

“Anh ấy cứu mạng cậu,” Clary chỉ ra, cảm giác như một kẻ giả tạo – dù sao thì, Jace đã tới Dumort chỉ vì anh lo mình gặp phải rắc rối nếu cô bị giết.

“Nói chi tiết ra xem,” Simon thô lỗ bảo. “Anh ta là thằng khốn. Mình nghĩ cậu phải hơn thế chứ.”

Cơn giận của Clary bùng phát. “Ồ, và giờ cậu đang giảng đạo lý với mình?” cô quát lớn. “Cậu là người mời cô gái với ‘thân hình bốc lừa’ tới Fall Fling.” Cô nhại lại cái giọng lè nhè của Eric. Miệng Simon mím lại vì giận. “Vậy thì thi thoảng Jace là thằng khốn thì đã sao? Cậu không phải anh mình, cũng chẳng phải bố mình, cậu không cần phải thích anh ấy. Mình chưa bao giờ thích bất cứ cô bạn gái nào của cậu, nhưng ít nhất mình tế nhị không nói toẹt ra.”

“Chuyện này,” Simon rít lên qua kẽ răng, “hoàn toàn khác.”

“Khác sao? Khác thế nào?”

“Vì mình thấy cách cậu nhìn anh ta!” cậu hét. “Và mình chưa bao giờ nhìn một cô gái nào như vậy! Đó chỉ là việc cần làm, cách thực hành, tới khi…”

“Tới khi sao?” Clary lờ mờ nhận ra mình đang quá đáng, toàn bộ sự việc thật quá đáng; họ chưa bao giờ cãi nhau về những vấn đề lớn hơn việc ai ăn miếng Pop-Tart cuối cùng trong hộp ở nhà cây, nhưng cô dường như không thể ngừng lại được. “Tới khi Isabelle xuất hiện chăng? Mình không thể tin nổi là cậu đang rao giảng với mình về Jace trong khi chính cậu lại biến thành một thằng ngớ ngẩn vì cô ấy!” giọng cô lên cao thành tiếng thét.

“Tớ chỉ cố khiến cậu ghen thôi!” Simon gào lên, đáp lại. Tay cậu nắm chặt, buông xuôi. “Cậu ngốc lắm, Clary ạ. Cậu quá ngốc, cậu không thấy một điều gì sao?”

Cô bối rối nhìn cậu bạn mãi. Cậu đang muốn nói cái quái gì đây? “Cố làm mình ghen? Vì sao cậu lại làm vậy?”

Cô ngay lập tức thấy rằng đó là điều tệ hại nhất cô từng hỏi bạn.

“Vì,” cậu nói, quá chua xót tới làm cô choáng váng, “mình đã yêu cậu suốt mười năm nay, vì thế mình nghĩ giờ là lúc mình nên tìm hiểu xem cậu có cùng cảm xúc như mình không. Mà giờ mình đoán, là không.”

Hình như Simon vừa đá vào bụng cô nữa. Cô không thể nói, không khí đã bị rút hết khỏi lồng ngực. Cô nhìn bạn trân trối, cố nghĩ ra một câu trả lời, bất cứ câu trả lời nào cũng được.

Cậu tức giận cắt lời. “Đừng. Cậu không thể nói gì đâu.” Cô nhìn cậu bước ra cửa như thể bị tê liệt; cô không thể nhúc nhích mà giữ cậu lại được, dù cho cô muốn đến thế nào. Cô biết nói gì đây? “Mình cũng yêu cậu” ư? Nhưng cô không yêu – đúng không nhỉ?

Simon dừng lại trước cửa, tay đặt lên nắm đấm và quay lại nhìn cô. Mắt cậu, đằng sau cặp kính, trông mệt mỏi hơn là tức giận. “Cậu thực sự muốn biết mẹ mình còn nói gì về cậu nữa hả?” cậu nói.

Cô lắc đầu.

Dường như Simon không để ý. “Mẹ nói cậu sẽ làm trái tim mình tan nát,” cậu bảo, rồi bỏ đi. Cánh cửa đóng lại với tiếng lách cách khô khốc, và trong phòng chỉ còn lại một mình Clary.

Sau khi Simon bỏ đi cô ngồi xuống giường và cầm cuốn tập lên. Cô ôm khư khư trước ngực, không muốn vẽ, chỉ muốn cảm nhận và ngửi thấy những thứ quen thuộc: mực, giấy, phấn.

Cô nghĩ tới việc đuổi theo Simon, cố bắt kịp cậu. Nhưng cô biết nói gì? Cô có thể nói gì nào? Cậu ngốc lắm, Clary ạ, cậu đã nói vậy. Cậu không thấy điều gì sao?

Cô nghĩ tới cả trăm điều Simon từng nói hoặc từng làm, những câu nói đùa Eric và những người khác nói về họ, những cuộc chuyện trò im bặt khi cô bước vào phòng. Jace đã biết từ đầu. Anh đang cười em vì những tuyên ngôn tình yêu khiến anh hứng thú, đặc biệt khi nó không được đáp lại. Cô đã không dừng lại suy nghĩ xem anh muốn ám chỉ điều gì, nhưng giờ cô đã hiểu.

Cô đã nói với Simon rằng cô chỉ yêu quý ba người trong đời: mẹ, chú Luke và cậu ấy. Cô tự hỏi thực sự có thể nào trong khoảng thời gian một tuần, mà mất hết mọi người mình yêu quý. Cô tự hỏi liệu người ta có thể sống sót qua tình huống đó hay không. Ấy vậy mà – trong những khoảnh khắc ngắn ngủi, trên mái nhà với Jace, cô đã quên mất mẹ. Cô quên đi chú Luke. Cô quên đi Simon. Và cô đã hạnh phúc. Đấy là phần tệ nhất, rằng cô đã hạnh phúc.

Có lẽ điều này, cô nghĩ, mất đi Simon, có lẽ là sự trừng phạt cho sự ích kỷ hưởng hạnh phúc một mình, thậm chí chỉ trong khoảnh khắc, khi mẹ vẫn mất tích. Mà thôi, chẳng có gì trong chuyện nào là thật. Jace có thể là một kẻ hôn giỏi, nhưng anh chẳng quan tâm tới cô chút nào. Anh đã nói thế.

Cô từ từ hạ cuốn tập vào lòng. Simon đã đúng; bức hình vẽ Jace rất đẹp. Cô đặc tả được khóe môi anh mím lại, đôi mắt mong manh tới vô lý. Đôi cánh trông thực đến nỗi cô tưởng tượng rằng nếu mình sượt tay qua, cô sẽ cảm nhận được độ mềm mại của chúng. Cô lướt tay trên giấy, trí óc phiêu dạt đi phương nào…

Và giật tay lại, nhìn chằm chằm. Những ngón tay cô không chỉ chạm vào giấy khô mà còn vào lớp lông vũ mềm mại. Mắt cô thoáng thấy những chữ rune mình đã vẽ ở góc giấy. Chúng đang sáng lên, theo cách cô đã thấy những chữ rune mà Jace vẽ bằng thanh stele lóe sáng.

Trái tim cô bắt đầu đập từng nhịp nhanh và mạnh. Nếu một chữ rune có thể làm bức tranh sống lại, vậy có thể…

Không rời mắt khỏi bức hình, cô lần tìm những cây bút chì. Nín thở, cô lật sang trang mới và vội vàng vẽ thứ đầu tiên cô nghĩ ra. Cô vẽ chiếc cốc cà phê đặt trên tủ đầu giường. Dựa trên những kiến thức học được trong lớp vẽ tĩnh vật, cô để ý từng chi tiết: mép cốc dính bẩn, đường nứt trên quai cốc. Khi cô vẽ xong, nó chính xác đúng như khả năng của cô. Bị điều khiển bởi một bản năng mà chính cô cũng không hiểu, cô với lấy cái cốc và đặt lên tờ giấy. Rồi cẩn thận, cô bắt đầu phác họa những chữ rune vào bên cạnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: Chiếc cốc thánh


Jace đang nằm trên giường, giả bộ ngủ - vì chính anh chứ không phải ai khác – thì tiếng gõ cửa cuối cùng cũng làm anh bực mình. Anh lăn xuống giường, mặt nhăn nhó. Dù anh tỏ ra mình vẫn khỏe lúc trong nhà kính, toàn bộ cơ thể anh vẫn đau nhừ từ sau sự kiện tối qua.

Anh biết ai đứng ngoài trước khi ra mở. Có lẽ Simon lại biến thành chuột. Lần này Simon có thể sống mãi kiếp chuột, vì anh, Jace Wayland, đã sẵn sàng làm chuyện tương tự.

Cô đang ôm lấy cuốn tập phác thảo, mái tóc sáng màu xổ tung khỏi bím tóc. Anh dựa người vào khung cửa, tảng lờ đi lượng adrenaline đang chạy rần rần khi nhìn thấy cô. Anh tự hỏi nguyên do, và đây không phải là lần đầu tiên. Isabelle sử dụng sắc đẹp như dùng roi, nhưng Clary không hề biết mình đẹp. Có lẽ đó là lý do.

Anh chỉ có thể nghĩ ra duy nhất một lý do để cô ở đây, dù chẳng có lý do gì sau những gì anh đã nói với cô. Lời nói là vũ khí, bố đã dạy anh vậy, và anh đã muốn làm Clary tổn thương hơn bất cứ cô gái nào anh từng muốn làm thương tổn. Thật sự, anh không chắc trước đây anh có từng muốn làm tổn thương một cô gái nào không. Thường anh chỉ muốn có họ, rồi lại muốn họ để anh một mình.

“Đừng nói với anh,” anh nói, nhả chữ ra theo cách anh biết cô ghét cay ghét đắng. “Simon đã biến thành mèo rừng Nam Mỹ và em muốn anh làm điều gì đó trước khi Isabelle biến cậu ta thành khăn choàng đấy nhé. Mà em sẽ phải đợi tới ngày mai. Giờ anh không làm việc.” Anh chỉ vào mình – anh đang mặc bộ đồ ngủ xanh da trời bị rách một lỗ ở cổ tay. “Nhìn này. Đồ ngủ đấy.”

Clary gần như chẳng thèm nghe anh nói. Anh nhận thấy cô đang ôm khư khư một thứ trong tay – cuốc tập phác thảo. “Jace,” cô nói. “Chuyện quan trọng đấy.”

“Đừng nói với anh,” anh nói. “Em đang cần vẽ ghê gớm. Em cần một mẫu khỏa thân. À, giờ anh không có tâm trạng. Em nên nhờ bác Hodge,” anh thêm, sau một thoáng suy nghĩ. “Anh nghe nói bác ấy sẽ làm tất cả để đổi lấy một…”

“JACE!” cô ngắt lời, giọng tăng lên thành tiếng hét. “ĐỀ NGHỊ ANH IM LẶNG MỘT GIÂY VÀ LẮNG NGHE, ĐƯỢC KHÔNG?”

Anh chớp mắt.

Cô hít một hơi sâu và ngước nhìn anh. Mắt cô tràn ngập sự hoang mang. Một nỗi thôi thúc quen thuộc dâng lên trong anh: niềm thôi thúc muốn vòng tay qua cô mà nói với cô rằng tất cả đều ổn. Anh không làm vậy. Theo kinh nghiệm bản thân, mọi chuyện hiếm khi ổn thoả lắm. “Jace,” cô nói, quá nhỏ khiến anh phải nhoài người lên mới nghe rõ, “Em nghĩ mình biết mẹ em giấu chiếc Cốc Thánh ở đâu. Bên trong một bức tranh.”

“Hả?” Jace vẫn đang nhìn cô như thể cô nói với anh rằng cô vừa thấy một trong các Tu Huynh Câm khỏa thân mà nhào lộn trên hành lang. “Ý em là mẹ em giấu nó đằng sau một bức tranh hả? Nhưng tất cả những bức hình trong căn hộ của em đã bị xé toạc khỏi khung hết rồi mà.”

“Em biết.” Clary liếc vào trong phòng ngủ anh. Mừng quá, trong phòng anh không giống như đang có ai ở đó. “Nghe này, em vào được không? Em muốn cho anh xem cái này.”

Anh lùi khỏi cửa. “Nếu nhất thiết.”

Cô ngồi xuống giường, đặt cuốn tập thăng bằng trên đầu gối. Mấy món quần áo anh vừa mặc vứt đầy trên ga giường, nhưng phần còn lại của căn phòng gọn gàng như phòng thầy tu. Không có lấy một bức hình trên tường, không một áp phích hay ảnh gia đình hoặc bạn bè gì cả. Những cái chăn trắng tinh được trải thật căng thật thẳng ngang giường. Không hề giống căn phòng của một cậu thiếu niên điển hình. “Đây,” cô nói và lật cho tới khi tìm ra bức vẽ cốc cà phê. “Nhìn cái này nhé.”

Jace ngồi xuống bên cạnh, gạt chiếc áo phông vừa cởi ra sang bên. “Đó là cốc cà phê.”

Cô nghe thấy sự bực bội trong chính giọng mình. “Em biết đấy là cốc cà phê.”

“Anh thật sự không thể đợi tới khi em vẽ ra một cái gì đó thực sự phức tạp, như cầu Brooklyn hay một con tôm hùm chẳng hạn. Em có thể tặng anh một thông điệp nhạc cũng được.”

Cô lờ anh đi. “Nghe này. Đây là thứ em muốn anh nhìn thấy.” Cô đặt tay trên hình vẽ; rồi, với một cử động cực nhanh, cho tay vào trongtờ giấy. Thoắt sau khi rút tay ra, chiếc cốc cà phê đã treo lủng lẳng trên những ngón tay cô.

Cô đã tưởng tượng ra cảnh Jace nhảy dựng lên vì kinh ngạc và hét gì đó tựa “Ơ – rê - ka!” Nhưng không – cô ngờ, phần lớn vì Jace đã thấy nhiều thứ kỳ lạ hơn trong đời, và vì không còn ai dùng từ “Ơ – rê – ka!” nữa rồi. Nhưng đôi mắt anh đang mở lớn. “Em làm điều đó?”

Cô gật đầu.

“Lúc nào?”

“Ngay lúc nãy, trong phòng em, sau khi – sau khi Simon bỏ đi.”

Cái nhìn của anh sắc sảo hơn, nhưng anh không nói gì thêm về đề tài đó. “Em dùng chữ rune? Những chữ nào?”

Cô lắc đầu, tay mân mê trang giấy giờ đã trắng tinh. “Em không biết. Chúng xuất hiện trong đầu em và em vẽ đúng chính xác như em nhìn thấy.”

“Những chữ em thấy trong Sách Xám hả?”

“Em không biết.” Cô vẫn lắc đầu. “Em không thể nói với anh được.”

“Và chưa từng có ai dạy em sao? Mẹ em chẳng hạn?”

“Không. Em đã nói với anh rồi, mẹ em luôn nói với em rằng chẳng có thứ gì là phép thuật cả…”

“Chắc chắn mẹ em có dạy em,” anh ngắt lời. “Và sau đó khiến em quên đi. Magnus nói ký ức của em sẽ từ từ quay lại.”

“Có lẽ.”

“Tất nhiên.” Jace đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại quanh phòng. “Chắc chắn là Luật không cho phép sử dụng những chữ rune này trừ phi em được cấp phép. Nhưng giờ, đó không phải vấn đề. Em nghĩ mẹ em đã đưa Cốc Thánh vào bức tranh? Giống như em đã làm với chiếc cốc kia?”

Clary gật đầu. “Nhưng không phải trong những bức tranh ở nhà em.”

“Thế ở đâu khác nào? Tại phòng trưng bày chăng? Có thể ở bất cứ đâu…”

“Hoặc không hề là một bức tranh nào cả,” Clary nói. “Mà là một lá bài.”

Jace dừng lại, quay phắt về phía cô. “Một lá bài ư?”

“Anh nhớ bộ bài của Quý Bà Dorothea không? Bộ bài mẹ em đã vẽ tặng đấy?”

Anh gật đầu.

“Và nhớ khi em rút là Ace of Cups không? Sau đó khi em thấy bức tượng Thiên Thần, Chiếc Cốc trong tay bức tượng trông rất quen mắt. Đó là vì em từng thấy nó, trong lá Ace. Mẹ em đã vẽ Chiếc Cốc Thánh trong bộ bài của Quý bà Dorothea.”

Jace đứng sau cô một bước. “Vì mẹ biết lá bài sẽ an toàn nhờ những kết giới giăng quanh đất thánh và bằng việc tặng bộ bài, mẹ em sẽ đưa chiếc Cốc cho Dorothea mà không thực sự nói cho bà ta hay nó là gì hay vì sao bà ta phải giấu nó.”

“Hoặc thậm chí bà ta chẳng cần phải giấu làm gì. Dorothea không bao giờ đi đâu, và sẽ chẳng bao giờ cho bộ bài ấy đi…”

“Và mẹ em ở một nơi lý tưởng để để mắt tới cả chiếc Cốc lẫn bà ta.” Jace nghe ra khá ấn tượng. “Một bước không tệ.”

“Em đoán vậy.” Clary cố kiểm soát sự run rẩy trong giọng nói. “Em ước gì mẹ không giấu giỏi tới mức này.”

“Ý em là sao?”

“Em muốn nói nếu chúng tìm ra nó, có thể chúng đã tha cho mẹ em. Nếu chúng chỉ muốn chiếc Cốc…”

“Chúng có thể đã giết mẹ em, Clary ạ,” Jace nói. Cô biết anh đang nói thật. “Đấy cùng là những đã giết bố anh. Lý do duy nhất mà mẹ em còn sống tới giờ này là vì chúng không tìm ra chiếc Cốc. Hãy mừng mẹ em đã giấu nó quá tài.”


“Tớ không hiểu những thứ này thì có liên quan gì tới chúng ta,’ Alec nói, khuôn mặt của anh ta nom có vẻ mệt mỏi ẩn dưới mái tóc lòa xòa. Jace đã đánh thưc mọi cư dân của Học Viện ngay khi bình mình vừa ló rạng và lôi họ tới thư viện để, như lời anh bảo, ‘bàn binh bố trận.” Alec vẫn mặc bộ pijama, Isabelle mặc bộ váy ngủ màu hồng. Còn bác Hodge, trong bộ com lê vải tuýt gọn ghẽ như thường lệ, đang uống cà phê bằng chiếc cốc sứ màu xanh lá cây đã mẻ. Chỉ có Jace, mắt sáng lên dù những vết sẹo đã nhạt dần, có vẻ thực sự tỉnh táo. “Tớ nghĩ tìm chiếc Cốc là việc của hội Clave rồi chứ.”

“Chỉ là nếu chúng ta tự mình làm sẽ tốt hơn,” Jace nóng nảy đáp. “Bác Hodge và tớ đã bàn bạc và đưa tới quyết định.”

“Được thôi,” Isabelle vén bím tóc buộc bằng ruy băng hồng ra sau tai. “Em tham gia.”

“Anh thì không,” Alec nói. “Giờ đã có những đặc vụ của Clace hoạt động trong thành phố ngay lúc này nhằm tìm kiếm Cốc Thánh rồi. Cứ chuyển thông tin cho họ và để họ làm việc.”

“Không đơn giản như vậy,” Jace nói.

“Đơn giản chứ,” Alec ngồi nhoài về phía trước, nhíu mày. Điều này chẳng liên quan gì tới chúng ta mà chỉ toàn liên quan đến – đến chứng nghiện nguy hiểm của cậu mà thôi.”

Jace lắc đầu, rõ ràng đang bực. “Tớ không hiểu vì sao cậu cứ chống đối với tớ về vấn đề này.”

Vì anh ấy không muốn anh bị thương, Clary nghĩ, và thấy kinh ngạc trước khả năng hoàn toàn không thể nhìn ra điều đang xảy ra với Alec của Jace. Nhưng mà này, cô đã bỏ qua cùng một điều đó với Simon. Cô là ai mà dám lên giọng chứ? “Nghe này, Dorothea – chủ nhân của Sanctuary – không tin hội Clave. Thực ra là ghét họ. Nhưng bà ấy lại tin chúng ta.”

“Bà ấy chỉ tin em thôi,” Clary nói. “Em không biết gì về anh. Em không chắc bà ấy có thích anh hay không.”

Jace lờ cô đi. “Thôi nào, Alec. Sẽ vui mà. Hãy nghĩ tới những vinh quang nếu chúng ta mang Cốc Thánh trở lại Idris! Mọi người sẽ không bao giờ quên tên chúng ta.”

“Tớ không quan tâm tới vinh quang,”Alec nói, ánh mắt chưa từng rời khỏi khuôn mặt Clary. “Tớ không quan tâm tới việc làm chuyện ngu ngốc nào hết.”

“Tuy nhiên, trong trường hợp này, Jace nói đúng,” bác Hodge nói. “Nếu hội Clave phải đến tới đất thánh, đó sẽ là thảm họa. Dorothea sẽ bỏ chạy cùng chiếc Cốc và có lẽ sẽ biến mất mãi mãi. Không, Jocelyn rõ ràng chỉ muốn người duy nhất có thể tìm thấy chiếc Cốc, và đó là Clary, chỉ Clary mà thôi.”

“Vậy thì để cô ta đi một mình đi,” Alec nói.

Kể cả Isabelle cũng phải há hốc mồm khi nghe. Jace, nãy giờ đang nhoài người tới trước chống hai tay lên bàn, giờ đứng thẳng dậy và lạng lùng nhìn Alec. Clary nhận thấy, chỉ có Jace là có thể trông bảnh tai khi mặc quần ngủ và áo phông cũ, nhưng anh không còn tỏ ra vậy, có lẽ do sức chi phối ý chí quá lớn. “Nếu cậu sợ vài Kẻ Lầm Đường, vậy thì cứ việc ở nhà,” anh nhẹ nhàng nói.

Alec trắng bệch. “Tớ không sợ,” anh ta nói.

“Tốt,” Jace nói. “Vậy thì chẳng còn vấn đề gì nữa nhỉ?” anh nhìn quanh phòng. “Chúng ta cùng chung chiến hào rồi.”

Alec ậm ừ đồng ý, trong khi Isabelle gật đầu lia lịa. “Chắc rồi,” cô nói. “Nghe có vẻ vui.”

“Mình không rõ vui là thế nào,” Clary nói. “Nhưng tất nhiên là mình tham gia.”

“Nhưng Clary,” bác Hodge vội nói. “Nếu cháu lo lắng tới vấn đề nguy hiểm, cháu không cần phải đi. Chúng ta có thể báo cho hội Clave…”

“Không ạ,” Clary nói, khiến chính mình cũng ngạc nhiên. “Mẹ cháu muốn cháu tìm thấy nó. Không phải Valentine, và cũng chẳng phải họ.” Mẹ cô không trốn chạy khỏi lũ quái vật, Magnus đã nói. “Nếu mẹ thực sự muốn dành cả đời để ngăn Valentine chạm tới Cốc Thánh, ít ra cháu có thể giúp mẹ làm điều đó.”

Bác Hodge mỉm cười với cô. “Ta nghĩ mẹ cháu biết cháu sẽ nói vậy,” bác nói.

“Dù gì cậu cũng không phải lo đâu,” Isabele nói. “Cậu sẽ ổn mà. Bọn mình xử lý tốt vài ba Kẻ Lầm Đường. Chúng điên thật, nhưng không thông minh lắm.”

“Và dễ hơn đối phó với quỷ dữ nhiều,” Jace nói. “Không phải chơi bài lừa gì chúng hết. À, chúng ta sẽ cần ô tô đấy.” anh nói thêm. “Càng lớn càng tốt.”

“Vì sao?” Isabelle hỏi. “Chúng ta đã bao giờ cần ô tô đâu.”

“Chúng ta chưa bao giờ lo về việc mang theo một vật vô giá. Anh không muốn tha lôi nó lên tàu L,” Jace giải thích.

“Vậy đi tắc xi,” Isabelle nói. “Hoặc thuê xe tải.”

Jace lắc đầu. “Anh mốn một môi trường chúng ta kiểm soát được. Anh không muốn phải đối phó với tài xế tắc xi hoặc những công ty cho thuê xe của người thường khi chúng ta làm đang chuyện quan trọng tới nhường này.”

“Cô không có xe hay bằng lái gì à?” Alec hỏi Clary, nhìn cô với vẻ thù địch rõ ràng. “Tôi nghĩ đám người thường ai cũng có mà.”

“Mười lăm tuổi thì chưa có đâu,” Clary bực bội đáp. “Năm nay tôi sẽ có bằng, nhưng chưa phải bây giờ.”

“Cô hữu dụng thật đấy.”

“Ít nhận bạn em cũng biết lái xe,” cô đáp lại. “Simon có bằng lái.”

Cô ngay lập tức thấy hối hận vì điều đã nói ra.

“Thật sao?” Jace nói, theo kiểu trầm tư tới bực mình.

“Nhưng cậu ấy không có xe,” cô vội nói thêm.

“Vậy cậu ấy đi xe của bố mẹ à?” Jace hỏi.

Clary thở dài, tựa người ra bàn. “Không. Thường cậu ấy sẽ lái xe tải của Eric. Kiểu như, trong những lần đi diểu diễn hay đại loại thế. Thi thoảng Eric cho cậu ấy mượn những chuyện khác. Như đi hẹn hò ấy.”

Jace khịt mũi. “Cậu ta dùng xe tải để đón người yêu? Chả trách cậu ta thật là có giá với mấy cô chị.”

“Đó là ô tô,” Clary nói. “Anh chỉ ganh tỵ vì Simon có cái mà anh không có.”

“Cậu ta có nhiều thứ mà anh không có lắm,” Jace nói. “Như cận thị này, dáng người xấu này, và thiếu hợp tác tới bực mình.”

“Anh biết đây,” Clary nói, “hầu hết những nhà tâm lý học đồng tình rằng tính thù địch thật sự làm giảm đi sự thu hút người khác phái đấy.”

“À,” Jace bình thản đáp, “có lẽ điều này giải thích vì sao anh hay gặp người ghét anh thế.”

“Tớ không ghét cậu,” Alec chen vào.

“Đó là vì chúng ta chia sẻ tình huynh đệ,” Jace nói, sải bước đi tới bàn. Anh vớ lấy cái điện thoại màu đen và giơ ra cho Clary. “Gọi cho cậu ta đi.”

“Gọi ai?” Clary nói, hơi chậm tiêu trong một lúc. “Eric á? Cậu ấy không bao giờ cho em mượn xe,”

“Simon ấy,” Jace nói. “Gọi Simon và nhờ xem cậu ta có đưa bọn mình tới nhà em không.”

Clary nỗ lực lần cuối. “Anh không biết một Thợ Săn Bóng Tối nào có xe à?”

“Ở New York ư?” Nụ cười của Jace tắt dần. “Nghe này, mọi người đều ở Idris và Hiệp Định, và nếu có, họ sẽ nằng nặc muốn đi cùng chúng ta. Hoặc là gọi cho cậu ta hoặc chẳng có gì hết.

Cô nhìn thẳng vào đôi mắt anh trong thoáng chốc. Trong đó có sự thách thức, và còn một điều gì khác, như thể anh đáng ép Clary giải thích sự lưỡng lự của cô. Cô quạu mặt, đi tới bên bàn và giật điện thoại khỏi tay anh.

Cô không cần nghĩ trước khi quay số. Cô nhớ rõ số điện thoại nhà Simon hệt như nhớ số điện thoại của chính cô. Cô chuẩn bị để nghe tiếng mẹ hoặc tiếng một trong những người chị gái của cậu, nhưng chính Simon mới là người bắt máy sau hồi chuông thứ hai. “A lô?”

“Simon hả?”

Im lặng.

Jace đang nhìn cô. Clary nhắm chặt mắt, cố giả vờ là anh không ở đó. “Mình đây,” cô nói. “Clary đây.”

“Mình biết là ai.” Cậu có vẻ bực bội. “Mình đang ngủ mà.”

“Mình biết. Trời còn ngủ sớm. Mình xin lỗi.” Cô xoắm dây điện thoại quanh ngón tay. “Mình cần nhờ cậu chút việc.”

Lại một khoảng im lặng nữa trước khi cậu cười chán nản. “Cậu đang đùa.”

“Mình không đùa,” cô nói. “Bọn mình biết chiếc Cốc Thánh ở đâu và bọn mình đang sửa soạn đi lấy nó. Vấn đề là, bọn mình cần xe.”

Cậu lại cười. “Xin lỗi, nhưng cậu đang bảo mình là những người bạn giết quỷ của cậu cần mẹ mìnhđưa tới địa điểm đương đầu cùng thế lực hắc ám?”

“Thực ra, mình nghĩ cậu có thể hỏi mượn xe của Eric.”

“Clary này, nếu cậu nghĩ là tớ-”

“Nếu chúng ta có Cốc Thánh, mình sẽ có cách đưa mẹ mình về. Đó là lý do duy nhất Valentine vẫn chưa giết mẹ hay thả mẹ đi.”

Simon thở dài sườn sượt. “Cậu nghĩ trao đổi dễ vậy sao? Clary, mình không biết nữa.”

“Mình cũng không biết. Mình chỉ biết đây là cơ hội.”

“Thứ đó rất quyền năng đúng không? Trong D&D thì thường chúng ta không nên đụng vào những thứ quyền năng trước khi biết chúng ta làm được gì.”

“Mình sẽ không đụng vào nó. Mình chỉ dùng nó để đưa mẹ mình về.”

“Mình nghe mà chẳng hiểu gì, Clary ạ”

“Đây không phải D&D, Simon!” cô gần như hét lên. “Đây không phải trò chơi giải trí nơi mà điều tệ hại nhất xảy ra là khi bạn không may trong lần thả xúc xắc. Chúng ta đang nói tới mẹ mình, và Valentine có thể đang tra tấn mẹ. Hắn có thể giết mẹ. Mình sẽ làm mọi điều để đưa mẹ về - cũng như mình đã làm với cậu”

Lại im lặng. “Có lẽ cậu đúng. Mình không biết, đây không thực sự là thế giới của mìn. Nghe này, thật ra chúng ta sẽ đi đâu? Để mình có thể nói với Eric.”

“Đừng mang cậu ta theo,” cô vội can.

“Mình biết mà,” cậu trả lời với sự bình tĩnh rất kịch. “Mình không ngốc.”

“Chúng ta sẽ về nhà mình. Nó ở trong nhà mình ấy.”

Lại một khoảng im lặng ngắn – lần này là hoang mang. “Trong nhà cậu? Mình nghĩ nhà cậu đầy thây ma sống đi lại chứ?”

“Chiến binh Lầm Đường. Họ không phải thây ma sống lại. Mà dù sao, Jace và những người khác có thể xử lý chúng trong khi mình lo vụ chiếc Cốc.”

“Vì sao cậu phải lấy chiếc Cốc?” Simon có vẻ hoảng.

“Vì mình là người duy nhất làm được,” cô nói. “Đón bọn mình ở góc đường ngay khi có thể nhé.”

Cậu lẩm bẩm gì đó không nghe ra, rồi: “Được.”

Cô mở mắt. Nước mắt làm thế giới trở nên nhòe nhoẹt. “Cám ơn nhé, Simon,” cô nói. “Cậu là…”

Nhưng Simon đã cúp máy.


“Tự dưng bác nghĩ,” bác Hodge nói, “rằng những vấn đề nan giải của quyền lực luôn như nhau.”

Clary liếc xéo sang bác. “Bác nói sao ạ?”

Cô đang ngồi bên bậu cửa sổ của thư viện, bác Hodge ngồi trên chiếc ghế tựa với Hugo đậu trên tay vịn. Những gì còn sót lại của bữa điểm tâm – mứt dinh dính, vụn bánh mỳ và những vệt bơ- dính trên chồng đĩa đặt trên chiếc bàn thấp mà hình như chẳng ai muốn dọn đi. Cũng chẳng có gì bất ngờ, vì tất cả những gì cô phải làm là mặc quần bò áo phông vào, chải sơ qua mái tóc trong khi mọi người khác đang mải mê trang bị tới tận răng. Vì đã đánh mất con dao của Jace lúc ở khách sạn, vật duy nhất chứa sức mạnh siêu nhiên mà cô có là viên đá phù thủy trong túi.

“Bác đang nghĩ tới cậu bạn Simon của cháu,” bác Hodge nói. “và về Alec và Simon, rồi quan hệ giữa mấy đứa.”

Cô nhìn ra ngoài khung cửa. Trời đang mưa, những hạt mưa lớn bắn tung tóe vào khung cửa. Bầu trời mang màu xám xịt. “Họ thì liên quan gì tới nhau?”

“Ở đâu có những cảm xúc không được đáp lại,” bác Hodge nói, “thì ở đấy có sự mất cân bằng về quyền lực. Đấy là một sự mất cân bằng rất dễ bị khai thác, nhưng không phải là hành động khôn ngoan. Nơi nào có tình yêu, nơi đó thường cũng có sự thù hận. Chúng tồn tại song hành.”

“Simon không ghét cháu.”

“Có thể, dần dần cậu ta sẽ ghét cháu, nếu cậu ấy cảm nhận cháu đang lợi dụng cậu ta.” Bác Hodge giơ một tay lên. “Bác biết cháu không có ý định đó, và trong một vài trường hợp sự cần thiết lại dồn tính đẹp đẽ của cảm xúc vào chân tường. Nhưng tình huống này lại nhắc cho bác nghĩ tới vấn đề khác. Cháu vẫn còn bức hình bác đưa cháu chứ?”

Clary lắc đầu. “Giờ thì không. Cháu để trong phòng rồi. Cháu có thể đi lấy…”

“Khỏi.” Bác Hodge gãi bộ lông đen tuyền của Hugo. “Khi mẹ cháu còn trẻ, mẹ cháu có một người bạn thân, cũng như cháu có Simon vậy. Họ thân thiết như anh em. Thật ra, nhiều người còn tưởng họ là anh trai em gái nữa. Khi họ dần trưởng thành, mọi người xung quanh đều nhận thấy chú ta đã yêu mẹ cháu, nhưng mẹ cháu lại không hề nhận ra. Mẹ cháu luôn gọi chú ta là ‘bạn’.”

Clary nhìn bác Hodge. “Bác đang nói tới chú Luke?”

“Phải,” bác Hodge nói. “Lucian luôn nghĩ chú ta và Jocelyn phải ở bên nhau. Khi mẹ cháu gặp và đem lòng yêu Valentine, Lucian không chấp nhận nổi. Sau khi họ kết hôn, chú ta rời Circle và biến mất – và để cho bọn ta tưởng chú ấy đã chết.”

“Chú ấy chưa bao giờ nói – chưa bao giờ để lộ bất cứ điều gì như thế cả,” Clary nói. “Trong suốt bao nhiêu năm. chú ấy có thể hỏi cưới mẹ cháu…”

“Chú ấy biết câu trả lời sẽ là thế nào,” bác Hodge nói, nhìn ra ngoài giếng trời vấy mưa. “Lucian không bao giờ là loại người huyễn hoặc bản thân. Không, chú ấy bằng lòng được ở bên cạnh mẹ cháu – có lẽ là, chú ta nghĩ thời gian trôi qua rồi cảm xúc của mẹ cháu biết đâu sẽ thay đổi.”

“Nhưng nếu chú ấy yêu mẹ cháu, vì sao chú ấy nói với những người kia là chú ấy không quan tâm tới chuyện xảy ra với mẹ cháu chứ? Vì sao chú ấy không chịu để họ nói cho chú ấy biết mẹ cháu đang ở đâu?”

“Như bác đã nói, nơi nào có tình yêu, nơi đó có thù hận,” bác Hodge nói. “Mẹ cháu đã làm chú ấy tổn thương sâu sắc bao năm trước. Mẹ cháu đã quay lưng chú ấy. Vậy mà chú ấy luôn là con chó trung thành của mẹ cháu, chưa bao giờ phản kháng, chưa bao giờ buộc tội, chưa bao giờ thổ lộ tình cảm với mẹ cháu. Có lẽ chú ấy thấy đây là cơ hội để trả thù. Đề làm mẹ cháu đau đớn hệt như chú ấy đã từng phải đau đớn.”

“Chú Luke sẽ không làm thế.” Nhưng rồi Clary nhớ tới cái giọng lạnh băng của chú khi chú bảo cô đừng nhờ vả gì chú hết. Cô thấy sự băng giá trong đôi mắt chú khi chú đối mặt với những kẻ tôi tớ của Valentine. Đó không phải chú Luke mà cô từng biết, từng lớn lên bên cạnh. Chú Luke kia sẽ không bao giờ muốn trả thù mẹ cô vì đã không yêu chú đủ nhiều hay không yêu chú theo cách chú muốn. “Nhưng mẹ cháu có yêu chú ấy chứ,” Clary nói, nói lớn tiếng mà không hề nhận ra. “Chỉ là không giống cách chú yêu mẹ mà thôi. Thế là không đủ sao.”

“Có lẽ chú ấy không nghĩ vậy.”

“Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta lấy được chiếc Cốc?” cô nói. “Sao chúng ta tìm được Valentine để cho hắn biết chúng ta đã có nó?”

“Hugo sẽ tìm hắn.”

Những hạt mưa rơi lộp độp xuống ô cửa sổ. Clary rùng mình. “Cháu đi lấy áo khoác đây,” cô nói và rời khỏi bậu cửa.

Cô tìm thấy chiếc áo lanh có nón màu xanh – hồng nhét dưới đáy ba lô. Khi cô lôi nó ra, cô nghe có tiếng thứ gì đó bị vò nhàu. Đó là bức hình hội Circle, mẹ cô và Valentine. Cô nhìn nó một lúc lâu trước khi bỏ lại túi.

Khi trở lại thư viện, những người khác đã tụ tập đông đủ cả: bác Hodge ngồi quan sát với Hugo đậu trên vai, Jace mặc cả cây đen, Isabelle đi đôi bốt-dẫm-quỷ và roi vàng, còn Alec đeo ống tên chéo vai và bao cổ tay che chắn cánh tay phải từ cổ tay tới khuỷu tay. Mọi người trừ bác Hodge đều phủ đầy những Ấn Ký mới vẽ, mỗi centimet trên làn da trần đều chi chít những họa tiết uốn lượn đẹp mắt. Jace đã xắn ống tay áo trái, cằm đặt trên vai và nhăn mặt khi vẽ Ấn Ký hình bát giác trên cẳng tay.

Alec liếc qua. “Cậu vẽ xấu quá,” anh nói. “Đưa đây.”

“Tớ thuận tay trái mà,” Jace nói, nhưng giọng nhẹ nhàng và giơ thanh stele ra. Alec trông nhẹ nhõm khi cầm lấy thanh stele, như thể anh không chắc ràng đã được tha thứ cho hành động lúc nãy chưa. “Đây là chữ iratze cơ bản,” Jace nói khi Alec đang cúi đầu tóc đen của mình lên cánh tay Jace, cẩn thận vẽ từng nét của chữ rune trị thương. Jace nhăn mặt khi thanh stele di chuyển trên da anh, mắt nhắm hờ và tay nắm chặt làm nổi cơ bắp trên tay trái. “Vì Thiên Thần, Alec…”

“Tớ đang cố cẩn thận mà,” Alec nói. Anh thả tay Jace ra và lùi lại ngắm nhìn tác phẩm của mình. “Rồi đó.”

Jace nhả nắm tay, hạ tay xuống. “Cám ơn.’ Khi đó anh dường như cảm nhận sự hiệ diện của Clary, liếc nhìn cô, đôi mắt vàng nheo lại. “Clary.”

“Trông anh sẵn sàng rồi nhỉ,” cô nói khi Alec, đột nhiên đỏ mặt, tránh xa Jace và lăng xăng sửa soạn cung tên.

“Cả bọn đều sẵn sàng,” Jace nói. “Em vẫn còn con dao anh đưa em chứ?”

“Không. Em làm mất ở Dumort rồi, nhớ không?”

“À nhỉ.” Jace hài lòng nhìn cô. “Suýt giết được một người sói bằng con dao đó. Anh nhớ.”

Isabelle, đang đứng bên cửa sổ, đảo mắt chán chường. “Em quên mất đấy là điều khiến anh sục sôi và bận tâm đó Jace. Con gái giết chóc.”

“Anh thích bất cứ ai giết chóc mà,” anh nói một cách điềm đạm, “Đặc biệt nếu đó là anh.”

Clary sốt ruột liếc nhìn đồng hồ đặt trên bàn. “Chúng ta nên xuống nhà thôi. Simon sẽ tới bất cứ lúc nào.”

Bác Hodge đứng dậy. Clary thấy trông bác khá ư mệt mỏi, như thể không ngủ trong nhiều ngày.

“Cầu cho Thiên Thần bảo vệ các cháu,” bác nói và Hugo bay lên kêu quang quác, ngay khi tiếng chuông chính ngọ bắt đầu điểm.


Trời vẫn mưa lất phất khi Simon đỗ xe ở góc đường và nhấn còi hai lần. Tim Clary nảy lên – một vài phần trong cô đã lo rằng cậu sẽ không xuất hiện.

Jace nheo mắt nhìn qua cơn mưa nhỏ giọt. Bốn người bọn họ đã đứng trú dưới vòm đá. “Cái đó là xe tải thùng đấy hả? Giống quả chuối thối quá.”

Không thể chối cãi – Eric đã sơn chiếc xe màu vàng dạ quang, thân xe chi chít những vết lõm và gỉ như những vết sâu răng. Simon lại bấm còi. Clary thấy bạn, một hình dáng mờ mờ qua ô cửa sổ ướt mưa. Cô thở dài và đội mũ lên để che tóc. “Đi nào.”

Họ dẫm lên những vũng nước bẩn trên vỉa hè, đôi bốt to tổ bố của Isabelle tạo nên từng tiếng động kiêu hãnh mỗi lần đặt chân xuống. Simon, vẫn để động cơ hoạt động, bò ra sau kéo mở cửa hông, để lộ ra những hàng ghế mà vỏ bọc đã mủn tới nữa. Những cái lò xo có vẻ nguy hiểm thò ra qua những khe hở. Isabele nhăn múi. “Ngồi có an toàn không đấy?”

“An toàn hơn là bị trói trên nóc,” Simon đáp một cách thỏa mãn, “đấy là lựa chọn còn lại.” Cậu gật đầu chào Jace và Alec, hoàn toàn bỏ qua Clary. “Hey.”

“Ừ hey,” Jace nói và nhấc cái tủi vải thô kêu sột soạt đựng vũ khí. “Chúng tôi bỏ cái này vào đâu đây?”

Simon chỉ anh ra khoang sau, nơi những cậu con trai trong nhóm nhạc thường để nhạc cụ, còn Alec và Isabelle chui vào trong xe và ngồi mớm trên ghế. “Súng săn!” Clary nói khi Jace đi vòng từ bên kia xe sang.

Alec nắm lấy cây cung, đeo ở sau lưng. “Đâu?”

“Cô ấy bảo muốn ngồi ghế trước đấy,”, Jace nói và hất mái tóc ướt đang lòa xòa xuống mắt.

“Cung đẹp đấy,” Simon nói và gật đầu với Alec.

Alec chớp mắt, nước mưa lăn xuống từ hàng lông mi. “Cậu biết nhiều về bắn cung không?” anh ta nói, giọng cho thấy anh có chút nghi ngờ.

“Hồi ở trại tôi có học bắn cung,” Simon nói. “Học suốt sáu năm.”

Đáp lại cậu là ba ánh mắt nhìn ngơ ngác và một nụ cười khích lệ từ phía Clary, mà Simon đã lờ tịt đi. Cậu ngước nhìn bầu trời đang sa sầm. “Chúng ta nên đi trước khi trời đổ mưa tiếp.”

Ghế trước đầy vỏ bim bim Doritos và vụn bánh Pop-Tart. Clary phủi những gì có thế đi. Simon nhấn chân ga trước khi cô làm xong việc, khiến cô ngã ngửa ra sau ghế. “Ối,” cô oán thán.

“Xin lỗi.” Simon không thèm nhìn.

Clary có thể nghe thấy những người khác nói chuyện khe khẽ ở đằng sau – hầu như là bàn về cách đánh và cách tốt nhất để chặt đầu một con quỷ mà không để máu dính vào đôi bốt da mới. Dù chẳng có gì ngăn cách ghế trước và phần còn lại của chiếc xe, Clary vẫn cảm nhận được sự im lặng ngượng ngùng giữa cô và Simon, như thể họ đang ở một mình.

“Vậy ‘hey’ là thế nào?” cô hỏi khi Simon lái xe rẽ sang đường FDR, đường cao tốc chạy song song với dòng sông Đông.

“‘Hey’ nào?” cậu đáp, cắt ngang đầu chiếc SUV đen khi người điều khiển xe ấy, một người mặc com lê tay đang cầm điện thoại, ra dấu tục tĩu với họ qua lớp kính màu.

“‘Hey’ mà bọn con trai các cậu hay nói ấy. Như khi cậu thấy Jace và Alec, cậu nói ‘hey’, và họ ‘hey’ lại. Nói ‘xin chào’ thì làm sao đâu?”

Cô nghĩ đã thấy cơ mặt của bạn hơi giật giật. “‘Xin chào’ nghe nữ tính lắm,” cậu giải thích. “Những người đàn ông thực sự thích nói ngắn gọn. Súc tích.”

“Vậy càng nam tính thì càng phải ít lời hả?”

‘Đúng.” Simon gật đầu. Ở phía bên kia, cô thấy sương mù sà thấp trên dòng sông Đông, phủ kín bờ sông bằng làn xương mù xám xịt. Mặt nước cũng mang màu chì, gờn gợn thành màu như kem nhờ những cơn gió mạnh thổi từng đợt đều đặn. “Đó là lý do vì sao những nhân vật phản diện chính trong phim khi gặp nhau, họ không nói gì hết, họ chỉ gật đầu. Cái gật đầu đó có nghĩ, ‘Tao là kẻ xấu, và tao nhận ra mày, cũng là một kẻ xấu,’ nhưng họ không nói gì vì họ là Wolverine và Magneto và giải thích lằng nhằng sẽ làm hỏng cái uy của họ.”

“Tôi không hiểu cậu đang nói gì,” Jace nói, vọng tới từ ghế sau.

“Tốt,” Calry nói, và nhận được nụ cười thoảng nhất từ Simon khi cậu rẽ về hướng cầu Manhattan, hướng về khu Manhattan và về nhà.


Khi họ tới nhà Clary, trời đã ngừng mưa. Những tia nắng đan quyện đốt tan dư vị sương mù, những vũng nước trên vỉa hè đang khô lại. Jace, Alec và Isabelle bắt Simon và Clary đợi bên xe trong khi họ đi kiểm tra, như Jace nói, “kiểm tra mức độ hoạt động của quỷ.”

Simon quan sát trong khi Ba Thợ Săn Bóng Tối đi vào lối đi hai bên trồng những bụi hoa hồng dẫn lên nhà. “Mức độ hoạt động của quỷ? Họ có thiết bị đo xem quỷ có ởtrong nhà tập yoga không á?”

“Không,” Clary hỏi, kéo chiếc mũ ẩm xuống để tận hưởng tia nắng mặt trời chiếu lên mái tóc bết nước. “Máy Cảm Ứng cho họ biết những con quỷ đó mạnh như thế nào – nếu như có quỷ.”

Simon có vẻ ấn tượng. “Cái này thật sự hữu ích đấy.”

Cô quay sang. “Simon, về chuyện tối qua…”

Cậu giơ tay chặn lại. “Chúng ta không nói về chuyện đó. Thật ra, là mình không muốn nói.”

“Hãy cho mình nói một điều.” Cô nói liến thoắng. “Mình biết khi cậu nói cậu yêu mình, điều mình nói lại không phải điều cậu muốn nghe.”

“Đúng. Mình luôn hy vọng khi mình nói ‘yêu’ một cô gái nào đó, cô gái đó sẽ trả lời mình là ‘em biết’, giống như Leia đã nói với Han trong phim Return of the Jedi”

“Nghe sến quá.” Clary nói, không thể ngừng được.

Simon lười.

“Xin lỗi,” cô nói. “Nhìn này, Simon, mình…”

“Không,” cậu nói. “Cậu nhìn đi Clary. Nhìn mình, thực sự thấy mình. Cậu làm được không?”

Cô nhìn. Nhìn vào đôi mắt đen, pha trộn thêm những màu sắc tươi ở ngoài viền con ngươi, nhìn đôi lông mày có phần không đều quen thuộc, hàng lông mi dài, mái tóc đen và nụ cười trừ cùng đôi tay búp măng nghệ sĩ, tất cả những gì thuộc về Simon, người là một phần của cô. Nếu phải nói thực, liệu cô có dám nói rằng cô không hề biết Simon yêu mình không? Hay chỉ là cô không biết cô sẽ làm gì nếu cậu yêu cô nhỉ?

Cô thở dài. “Nhìn qua ảo ảnh rất dễ. Con người mới khó nhìn thấu.”

“Chúng mình đều muốn thấy thứ chúng mình muốn thấy,” cậu bình thản nói.

“Không phải Jace,” cô nói, không ngăn được mình, khi nghĩ tới đôi mắt trong sáng không hề biết nao núng kia.

“Nhất là anh ta đấy.”

Cô nhíu mày. “Cậu làm sao lại…”

“Được rồi,” giọng Jace vọng tới, ngắt lời họ. Clary vội quay sang. “Bọn anh đã kiểm tra bốn góc chung quanh rồi – chẳng có gì. Mức độ hoạt động thấp. Có lẽ chỉ có vài Kẻ Lầm Đường và chúng sẽ không làm phiền tới chúng ta nếu chúng ta không chui vào tầng trên.”

“Và nếu chúng dám,” Isabelle nói, nụ cười sáng lấp lánh hệt như sợi roi, “bọn mình cũng sẵn sàng rồi.”

Alec lôi cái túi nặng từ sau xe xuống, vứt nó lên vỉa hè. “Sẵn sàng lên đường,” anh tuyên bố. “Đi đá đít quỷ nào!”

Jac nhìn anh ta mà cảm thấy là lạ. “Cậu ổn không đấy?”

“Ổn.” Không nhìn Jace, Alec bỏ cung và những mũi tên xuống mà cầm cây gậy lông vũ sáng bóng, với hai lưỡi dao loang loáng bật ra khi anh ta chạm nhẹ ngón tay vào. “Cái này tốt hơn.”

Isabelle lo lắng nhìn ông anh. “Nhưng cây cung…”

Alec ngắt lời. “Anh biết anh đang làm gì mà Isabelle.”

Cánh cung nằm ngang ghế sau, tỏa sáng dưới ánh mặt trời. Simon cầm lấy, rồi rụt tay lại khi một nhóm thiếu phụ đang cười đùa đẩy xe nôi ngang qua, hướng về phía công viên. Họ không để ý tới ba cô cậu vũ khí đầy mình đang ngồi xổm cạnh chiếc xe tải vàng. “Sao tôi lại thấy được mấy người nhỉ?” Simon hỏi. “Chuyện gì với phép thuật tàng hình của các cậu vậy?”

“Cậu nhìn thấy chúng tôi,’ Jace nói, “vì giờ cậu biết sự thực cái cậu đang nhìn.”

“Ờ há,” Simon nói. “Tôi cũng đoán vậy.”

Simon có cự nự đôi chút khi họ bảo cậu ở lại trông xe, nhưng nếu Jace nhấn mạnh tầm quan trọng của việc có một chiếc xe nổ máy đậu bên đường để tẩu thoát. “Ánh mặt trời là đòn chí từ với quỷ, nhưng nó không làm hại gì tới Kẻ Lầm Đường. Nếu chúng đuổi theo bọn tôi thì sao? Nếu chiếc xe bị kéo đi thì sao?”

Điều cuối cùng Clary thấy về Simon khi quay lại vẫy tay chào cậu lúc đứng trên hiên trước là đôi chân dài đặt trên bảng đồng hồ trong khi cậu lục tìm bộ sưu tập CD của Eric. Cô thở dài nhẹ nhõm. Ít nhất thì Simon cũng được an toàn.

Mùi hôi ập vào mặt cô ngay khi họ bước qua cửa trước. Một thứ mùi khó tả, giống như mùi trứng thối trộn cùng thịt lên giòi và tảo mục trên bãi cát nóng. Isabelle nhăn mũi và còn mặt Alec xanh lét, nhưng Jace trông như thể đang ngửi một loại nước hoa hiếm. “Quỷ ở đây,” anh nói, với niềm hân hoan lạnh lùng. “Cũng mới đây thôi.”

Clary bồn chồn nhìn anh. “Nhưng chúng không còn…”

“Không.” Anh lắc đầu. “Bằng không bọn anh đã cảm nhận thấy chúng. Tuy vậy.” Anh hất hàm về phía cửa nhà bà Dorothea, đóng kín mít không để cho lấy một tia sáng lọt qua. “Có lẽ bà ta sẽ phải trả lời vài câu hỏi, nếu hội Clave nghe tin bà ta vẫn đang tiếp vài con quỷ.”

“Em không nghĩ hội Clave thích thú bất cứ thì gì trong căn nhà này,”Isabelle nói. “Mà nghĩ kỹ lại, có lẽ bà ta sẽ thoát khỏi vụ này dễ dàng chúng ta đấy.”

“Họ sẽ không quan tâm miễn là cuối cùng chúng ta có được chiếc Cốc.” Alec liếc nhìn chung quanh, đôi mắt xanh quét qua sảnh ngoài nhỏ nhắn, cầu thang cong cong vẫn lên tầng trên, những vết ố trên tường.”Đặc biệt nếu chúng ta làm thịt vài Kẻ Lầm Đường trong khi lấy thánh vật.”

Jace lắc đầu. “Chúng ở tầng trên. Tớ đoán rằng chúng sẽ chẳng làm phiền chúng ta nếu chúng ta không cố bước vào.”

Isabelle thổi lọn tóc dính khỏi mặt và nhíu mày nhìn Clary. “Cậu còn đợi gì nữa?”

Clary bất giác nhìn sang Jace, anh cười nửa miệng với cô. Đi đi, đôi mắt anh nói.

Cô tiến qua sảnh tới trước cửa nhà Dorothea, bước từng bước cẩn trọng. Với phần giếng trời đen thui vì bụi bẩn và đèn ngoài hành lang vẫn hỏng, ánh sáng duy nhất đến từ ngọn đèn phù thủy của Jace. Không khí nóng nực và ngọt ngạt, những bóng đen dường như đang hiện ra trước mặt cô như những loài thực vật sinh trưởng nhanh một cách thần kỳ trong khu rừng ác mộng. Cô vươn tay gõ cửa nhà bà Dorothea, một lần nhẹ và rồi dùng nhiều lực hơn.

Cửa bật mở, để luồng ánh sáng rọi ra sảnh. Dorothea đứng đó, to lớn bệ vệ trong từng vệt vằn vện xanh xanh vàng vàng. Hôm nay bà ta đội khăn màu vàng dạ quang có đính một con chim hoàng yến được nhồi bông và viền áo chạy theo hình chữ chi. Đôi khuyên tai hình chúc đài thả lắc lư trên tóc, hai bàn chân to tướng để trần. Clary ngạc nhiên quá – trước đây cô chưa bao giờ thấy Dorothea đi chân trần, hoặc không mang gì khác hơn ngoài đôi dép lê lót nhung đã cũ xỉn.

Móng tay bà ta sơn màu hồng ngọc trai nhạt, rất hợp mốt.

“Clary!” bà ta reo lên và ôm Clary chặt cứng. Trong một thoáng Clary cố chống cự, bị lôi vào cùng mùi nước hoa nồng đượm, mớ vải nhung lòe xòe và chiếc khăn tua rua của bà Dorothea. “Lạy Chúa lòng lành, cháu gái,” bà phù thủy nói, lắc đầu tới khi bông tay lắc le như chuông gió trong ngày bão. “Lần cuối cùng ta gặp cháu, cháu đã biến mất qua Cổng Dịch Chuyển. Cháu đi tới đâu vậy?”

“Williamsburg ạ,” Clary nói và cố thở.

Đôi lông mày của Dorothea nhướn tít lên. “Và người ta nói không hề có hệ thống vận chuyển công cộng thuận tiện ở Brooklyn cơ đấy.” Và bà ta mở rộng cửa và ra hiệu cho cả bọn bước vào.

Nơi này vẫn chẳng thay đổi gì từ lần cuối Clary thấy nó: vẫn những lá bài tarot và quả cầu thủy tinh xếp trên bàn. Những ngón tay cô ngứa ngáy muốn động tới những lá bài, muốn cầm chúng lên và xem những gì giấu đằng sau những hình vẽ trơn mượt kia.

Dorothea vui vẻ ngồi xuống chiếc ghế tựa và nhìn những Thợ Săn Bóng Tối bằng đôi mắt đen như đôi mắt của con hoàng yến nhồi bông trên mũ. Mùi nến thơn cháy trên đĩa ở hai bên bàn dù sao cũng ít nhiều át đi mùi tanh hôi nồng nặc lan tới từng centimet của căn hộ. “Vậy là cháu chưa tìm thấy mẹ?” bà ta hỏi Clary.

Clary lắc đầu. “Chưa ạ. Nhưng cháu biết ai đã bắt cóc mẹ cháu.”

Đôi mắt Dorothea đảo từ Clary tới Alec và Isabelle, cô nàng đang săm soi tấm áp phích Chỉ tay Số Phận trên tường. Jace, tỏ ra cực kỳ bàng quan trong vai trò vệ sĩ, ngồi ngả ngớn trên tay ghế. Hài lòng vì chẳng có món đồ nào bị tổn hại, Dorothea quay lại nhìn Clary. “Có phải là…”

“Valentine ạ,” Clary xác nhận. “Đúng ạ.”

Dorothea thở dài. “Ta đã lo sợ điều này.” Bà ta ngồi dựa lên mấy cái đệm. “Cháu biết hắn muốn gì từ mẹ cháu không?”

“Cháu biết mẹ cháu từng kết hôn với hắn…”

Bà phù thủy làu bàu. “Yêu nhầm người.Xấu nhất rồi đấy.”

Nghe thế Jace kêu lên một tiếng khe khẽ, gần như không nghe thấy – giống như một tiếng tặc lưỡi . Đôi tai Dorothea dựng lên như tài mèo. “Có gì vui sao, cậu bé?”

“Bà thì biết gì nào?” anh nói. “Ý là về tình yêu ấy,”

Dorothea đặt hai bàn tay trắng mềm mại lên lòng. “Hơn là cậu nghĩ đấy,” bà ta nói. “Không phải ta đã đọc cho cậu về lá trà sao, Thợ Săn Bóng Tối? Cậu đã phải lòng nhầm người chưa thế?”

Jace nói, “Không may là, thưa mẹ Bề Trên, tình yêu đích thực của đời con vẫn là con mà thôi.”

Nghe vậy Dorothea cười rú lên. “Ít ra thì,” bà nói, “cậu không phải lo bị từ chối, Jace Wayland ạ.”

“Không hẳn. Tôi thi thoảng cũng từ chối bản thân, chỉ cho vui ấy mà.”

Dorothea lại cười rú. Clary ngắt lời. “Bà hẳn phải thắc mắc nguyên do chúng cháu tới đây, Quý Bà Dorothea.”

Dorothea thôi cười mà lau mắt. “Làm ơn đi cháu,” bà bảo, “cứ tự nhiên gọi ta bằng daanh xưng thích hợp, như cậu kia đã làm kìa. Cháu có thể gọi ta là Phu nhân. Với lại nghĩ,” bà ta nói thêm, “cháu tới đây để cho ta bớt cô quạnh. Đúng không?”

“Cháu không có thời gian để giúp ai đó bớt cô đơn. Cháu phải giúp mẹ cháu, và để làm thế cháu cần một số thứ.”

“Và đó là gì nào?”

“Một thứ được gọi là Cốc Thánh,” Clary nói, “và Valentine nghĩ mẹ cháu có nó. Vì thế hắn bắt cóc mẹ cháu.”

Dorothea có vẻ thực sự, thực sự bị choáng. “Chiếc Cốc Thiên Thần ư?” bà ta ngờ vực hỏi lại. “Chiếc cốc của Raziel, ngài đã dùng để trộn máu của Đấng Thiên Thần và máu người rồi đưa cho một người uống, tạo ra Thợ Săn Bóng Tối đầu tiên đấy ư?”

“Chính cái đó,” Jace nói, giọng nói có chút lạnh nhạt.

“Thế quái nào hắn lại nghĩ Jocelyn có nó chứ?” Dorothea nói. “Jocelyn, chứ không phải ai khác?” Bà ta đã nhận ra trước khi Clary kịp trả lời. “Vì mẹ cháu không hề là Jocelyn Fray, tất nhiên rồi,” bà nói. “Cô ta là Jocelyn Fairchild, vợ hắn. Người mà mọi người tưởng đã chết. Mẹ cháu đã lấy chiếc Cốc và chạy trốn, đúng không?”

Có gì đó lóe lên trong mắt bà phù thủy, nhưng khi bà ta hạ mi mắt xuống rất nhanh nên Clary nghĩ chắc mình tưởng tượng ra. “Vậy,” Dorothea nói, “cháu có biết giờ mình phải làm gì không? Dù mẹ cháu giấu nó ở đâu, cũng không thể dễ mà tìm ra được – kể cả nếu cháu muốn tìm ra nó. Valentine sẽ làm nhiều điều kinh khủng khi có được chiếc Cốc.”

“Cháu muốn tìm ra nó,” Clary nói. “Chúng cháu muốn…”

Jace nhẹ nhàng ngắt lời. “Bọn này biết nó ở đâu,” anh nói. “Chỉ còn việc lấy lại nó thôi.”

Đôi mắt Dorothea mở lớn. “Vậy, nó ở dâu?”

“Ở đây,” Jace nói, giọng tự nhiên tới mức Isabelle và Alec đang đi vẩn vơ xem xét giá sách cũng phải quay lại nhìn.

“Ở đây ư? Ý cậu là cậu cầm theo nó hả?”

“Không hẳn đâu, thưa Phu nhân” Jace nói, người mà. Clary cảm thấy, đang tự thỏa mãn mình bằng thái độ thực sự đáng sợ kia. “Ý tôi chính bà đang có nó.”

Miệng Dorothea ngậm chặt lại. “Không vui đâu,” bà ta nói, quá dữ dội khiến Clary lo rằng mọi chuyện đang diễn biến theo chiều hướng xấu đến tồi tệ. Vì sao Jace luôn thích đi chọc giận người khác chứ?

“Đúng là bà đang giữ nó,” Clary vội vàng xen vào, “nhưng không…”

Dorothea từ ghế tựa đứng thẳng dậy vươn hết chiều cao lừng lững của mình, quắc mắt trừng trừng nìn xuống cả hai. “Các cháu nhầm rồi,” bà ta lạnh lùng cất tiếng. “Nhầm chuyện tưởng tượng rằng ta có nó, và nhầm vì dám tới đây và bảo ta là kẻ dối trá.”

Tay Alec đưa lên thanh trượng. “Ôi trời,”anh lầm rầm.

Bối rối, Clary lắc đầu.“Không,” cô nói liến thoắng, “cháu không bảo bà nói dối, cháu thề. Cháu chỉ nói chiếc Cốc ở đây, nhưng bà không hề hay biết.”

Quý Bà Dorothea nhìn cô. Đôi mắt, gần như khuất dưới những nếp nhăn của khuôn mặt, cứng ngắc như đá cẩm thạch. “Giải thích đi,” bà nói,

“Cháu đang nói mẹ cháu giấu nó ở đây,”Clary nói. “Nhiều năm về trước. Mẹ cháu chưa bao giờ nói với bà vì mẹ cháu không muốn liên lụy tới bà.”

“Vậy có thể cô ấy đưa nó cho bà, nhưng dưới dạng một vật khác,” Jace giải thích, “như một món quà.”

Dorothea ngơ ngác nhìn anh.

Bà ta không nhớ sao? Clary bối rối nghĩ. “Bộ bài Tarot,” cô nói. “Những lá bài mà mẹ cháu vẽ cho bà.”

Ánh mắt bà phù thủy chiếu đến những lá bài được gói trong lớp khăn lụa đặt trên bàn. “Những lá bài ư?” Trong lúc cái nhìn của bà ta lớn dần, Clary bước tới bàn và cầm bộ bài lên. Chúng ấm và khá trơn. Giờ đây, vì trước kia cô không thể làm được, cô cảm nhận được năng lượng từ những chữ rune vẽ ở mặt sau đập dồn qua dầu ngón tay mình. Cô tìm lá bài Ace of Cups và lôi ra, đặt những lá bài còn lại xuống bàn.

“Nó đây,” cô nói.

Tất cả đang nhìn cô, chờ đợi, im lặng tuyệt đối. Cô chầm chậm lật lá bài lại và nhìn lại những nét vẽ của mẹ: hình hai bàn tay thon thon, những ngón tay năm quanh chiếc Cốc Thánh bằng vàng.

“Jace,” cô nói. “Đưa thanh stele cho em.”

Anh ấn thanh stele vào lòng bàn tay cô, cảm giác âm ấm và sống động. Cô lật lá bài lại và lần theo những chữ rune trên mặt sau – chỗ này một đường xoắn chỗ kia một đường thẳng và chúng mang ý nghĩa hoàn toàn khác biệt. Khi cô quay lá bài lại, bức hình có chút thay đổi: Những ngón tay đã thả chân Cốc, và bàn tay dường như đang dâng chiếc Cốc cho cô mà nói, Đây, cầm lấy đi.

Cô nhét thanh stele vào túi. Rồi, dù phần tranh vẽ trên lá bài không lớn hơn tay cô, cô nhét vào như thể nhét vào một khe hở rộng. Tay cô cầm chặt lấy chân Cốc - những ngón tay nắm chặt lấy – và khi rút tay lại – chiếc cốc nằm gọn trong tay, cô nghĩ đã nghe thấy những tiếng thở dài thật khẽ trước khi lá bài, giờ trống không và trắng tinh, biến thành tro bụi và cháy qua kẽ ngón tay cô xuống sàn nhà trải thảm.

--- ------ BỔ SUNG THÊM --- ------
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: Chiếc cốc thánh


Jace đang nằm trên giường, giả bộ ngủ - vì chính anh chứ không phải ai khác – thì tiếng gõ cửa cuối cùng cũng làm anh bực mình. Anh lăn xuống giường, mặt nhăn nhó. Dù anh tỏ ra mình vẫn khỏe lúc trong nhà kính, toàn bộ cơ thể anh vẫn đau nhừ từ sau sự kiện tối qua.

Anh biết ai đứng ngoài trước khi ra mở. Có lẽ Simon lại biến thành chuột. Lần này Simon có thể sống mãi kiếp chuột, vì anh, Jace Wayland, đã sẵn sàng làm chuyện tương tự.

Cô đang ôm lấy cuốn tập phác thảo, mái tóc sáng màu xổ tung khỏi bím tóc. Anh dựa người vào khung cửa, tảng lờ đi lượng adrenaline đang chạy rần rần khi nhìn thấy cô. Anh tự hỏi nguyên do, và đây không phải là lần đầu tiên. Isabelle sử dụng sắc đẹp như dùng roi, nhưng Clary không hề biết mình đẹp. Có lẽ đó là lý do.

Anh chỉ có thể nghĩ ra duy nhất một lý do để cô ở đây, dù chẳng có lý do gì sau những gì anh đã nói với cô. Lời nói là vũ khí, bố đã dạy anh vậy, và anh đã muốn làm Clary tổn thương hơn bất cứ cô gái nào anh từng muốn làm thương tổn. Thật sự, anh không chắc trước đây anh có từng muốn làm tổn thương một cô gái nào không. Thường anh chỉ muốn có họ, rồi lại muốn họ để anh một mình.

“Đừng nói với anh,” anh nói, nhả chữ ra theo cách anh biết cô ghét cay ghét đắng. “Simon đã biến thành mèo rừng Nam Mỹ và em muốn anh làm điều gì đó trước khi Isabelle biến cậu ta thành khăn choàng đấy nhé. Mà em sẽ phải đợi tới ngày mai. Giờ anh không làm việc.” Anh chỉ vào mình – anh đang mặc bộ đồ ngủ xanh da trời bị rách một lỗ ở cổ tay. “Nhìn này. Đồ ngủ đấy.”

Clary gần như chẳng thèm nghe anh nói. Anh nhận thấy cô đang ôm khư khư một thứ trong tay – cuốc tập phác thảo. “Jace,” cô nói. “Chuyện quan trọng đấy.”

“Đừng nói với anh,” anh nói. “Em đang cần vẽ ghê gớm. Em cần một mẫu khỏa thân. À, giờ anh không có tâm trạng. Em nên nhờ bác Hodge,” anh thêm, sau một thoáng suy nghĩ. “Anh nghe nói bác ấy sẽ làm tất cả để đổi lấy một…”

“JACE!” cô ngắt lời, giọng tăng lên thành tiếng hét. “ĐỀ NGHỊ ANH IM LẶNG MỘT GIÂY VÀ LẮNG NGHE, ĐƯỢC KHÔNG?”

Anh chớp mắt.

Cô hít một hơi sâu và ngước nhìn anh. Mắt cô tràn ngập sự hoang mang. Một nỗi thôi thúc quen thuộc dâng lên trong anh: niềm thôi thúc muốn vòng tay qua cô mà nói với cô rằng tất cả đều ổn. Anh không làm vậy. Theo kinh nghiệm bản thân, mọi chuyện hiếm khi ổn thoả lắm. “Jace,” cô nói, quá nhỏ khiến anh phải nhoài người lên mới nghe rõ, “Em nghĩ mình biết mẹ em giấu chiếc Cốc Thánh ở đâu. Bên trong một bức tranh.”

“Hả?” Jace vẫn đang nhìn cô như thể cô nói với anh rằng cô vừa thấy một trong các Tu Huynh Câm khỏa thân mà nhào lộn trên hành lang. “Ý em là mẹ em giấu nó đằng sau một bức tranh hả? Nhưng tất cả những bức hình trong căn hộ của em đã bị xé toạc khỏi khung hết rồi mà.”

“Em biết.” Clary liếc vào trong phòng ngủ anh. Mừng quá, trong phòng anh không giống như đang có ai ở đó. “Nghe này, em vào được không? Em muốn cho anh xem cái này.”

Anh lùi khỏi cửa. “Nếu nhất thiết.”

Cô ngồi xuống giường, đặt cuốn tập thăng bằng trên đầu gối. Mấy món quần áo anh vừa mặc vứt đầy trên ga giường, nhưng phần còn lại của căn phòng gọn gàng như phòng thầy tu. Không có lấy một bức hình trên tường, không một áp phích hay ảnh gia đình hoặc bạn bè gì cả. Những cái chăn trắng tinh được trải thật căng thật thẳng ngang giường. Không hề giống căn phòng của một cậu thiếu niên điển hình. “Đây,” cô nói và lật cho tới khi tìm ra bức vẽ cốc cà phê. “Nhìn cái này nhé.”

Jace ngồi xuống bên cạnh, gạt chiếc áo phông vừa cởi ra sang bên. “Đó là cốc cà phê.”

Cô nghe thấy sự bực bội trong chính giọng mình. “Em biết đấy là cốc cà phê.”

“Anh thật sự không thể đợi tới khi em vẽ ra một cái gì đó thực sự phức tạp, như cầu Brooklyn hay một con tôm hùm chẳng hạn. Em có thể tặng anh một thông điệp nhạc cũng được.”

Cô lờ anh đi. “Nghe này. Đây là thứ em muốn anh nhìn thấy.” Cô đặt tay trên hình vẽ; rồi, với một cử động cực nhanh, cho tay vào trongtờ giấy. Thoắt sau khi rút tay ra, chiếc cốc cà phê đã treo lủng lẳng trên những ngón tay cô.

Cô đã tưởng tượng ra cảnh Jace nhảy dựng lên vì kinh ngạc và hét gì đó tựa “Ơ – rê - ka!” Nhưng không – cô ngờ, phần lớn vì Jace đã thấy nhiều thứ kỳ lạ hơn trong đời, và vì không còn ai dùng từ “Ơ – rê – ka!” nữa rồi. Nhưng đôi mắt anh đang mở lớn. “Em làm điều đó?”

Cô gật đầu.

“Lúc nào?”

“Ngay lúc nãy, trong phòng em, sau khi – sau khi Simon bỏ đi.”

Cái nhìn của anh sắc sảo hơn, nhưng anh không nói gì thêm về đề tài đó. “Em dùng chữ rune? Những chữ nào?”

Cô lắc đầu, tay mân mê trang giấy giờ đã trắng tinh. “Em không biết. Chúng xuất hiện trong đầu em và em vẽ đúng chính xác như em nhìn thấy.”

“Những chữ em thấy trong Sách Xám hả?”

“Em không biết.” Cô vẫn lắc đầu. “Em không thể nói với anh được.”

“Và chưa từng có ai dạy em sao? Mẹ em chẳng hạn?”

“Không. Em đã nói với anh rồi, mẹ em luôn nói với em rằng chẳng có thứ gì là phép thuật cả…”

“Chắc chắn mẹ em có dạy em,” anh ngắt lời. “Và sau đó khiến em quên đi. Magnus nói ký ức của em sẽ từ từ quay lại.”

“Có lẽ.”

“Tất nhiên.” Jace đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại quanh phòng. “Chắc chắn là Luật không cho phép sử dụng những chữ rune này trừ phi em được cấp phép. Nhưng giờ, đó không phải vấn đề. Em nghĩ mẹ em đã đưa Cốc Thánh vào bức tranh? Giống như em đã làm với chiếc cốc kia?”

Clary gật đầu. “Nhưng không phải trong những bức tranh ở nhà em.”

“Thế ở đâu khác nào? Tại phòng trưng bày chăng? Có thể ở bất cứ đâu…”

“Hoặc không hề là một bức tranh nào cả,” Clary nói. “Mà là một lá bài.”

Jace dừng lại, quay phắt về phía cô. “Một lá bài ư?”

“Anh nhớ bộ bài của Quý Bà Dorothea không? Bộ bài mẹ em đã vẽ tặng đấy?”

Anh gật đầu.

“Và nhớ khi em rút là Ace of Cups không? Sau đó khi em thấy bức tượng Thiên Thần, Chiếc Cốc trong tay bức tượng trông rất quen mắt. Đó là vì em từng thấy nó, trong lá Ace. Mẹ em đã vẽ Chiếc Cốc Thánh trong bộ bài của Quý bà Dorothea.”

Jace đứng sau cô một bước. “Vì mẹ biết lá bài sẽ an toàn nhờ những kết giới giăng quanh đất thánh và bằng việc tặng bộ bài, mẹ em sẽ đưa chiếc Cốc cho Dorothea mà không thực sự nói cho bà ta hay nó là gì hay vì sao bà ta phải giấu nó.”

“Hoặc thậm chí bà ta chẳng cần phải giấu làm gì. Dorothea không bao giờ đi đâu, và sẽ chẳng bao giờ cho bộ bài ấy đi…”

“Và mẹ em ở một nơi lý tưởng để để mắt tới cả chiếc Cốc lẫn bà ta.” Jace nghe ra khá ấn tượng. “Một bước không tệ.”

“Em đoán vậy.” Clary cố kiểm soát sự run rẩy trong giọng nói. “Em ước gì mẹ không giấu giỏi tới mức này.”

“Ý em là sao?”

“Em muốn nói nếu chúng tìm ra nó, có thể chúng đã tha cho mẹ em. Nếu chúng chỉ muốn chiếc Cốc…”

“Chúng có thể đã giết mẹ em, Clary ạ,” Jace nói. Cô biết anh đang nói thật. “Đấy cùng là những đã giết bố anh. Lý do duy nhất mà mẹ em còn sống tới giờ này là vì chúng không tìm ra chiếc Cốc. Hãy mừng mẹ em đã giấu nó quá tài.”


“Tớ không hiểu những thứ này thì có liên quan gì tới chúng ta,’ Alec nói, khuôn mặt của anh ta nom có vẻ mệt mỏi ẩn dưới mái tóc lòa xòa. Jace đã đánh thưc mọi cư dân của Học Viện ngay khi bình mình vừa ló rạng và lôi họ tới thư viện để, như lời anh bảo, ‘bàn binh bố trận.” Alec vẫn mặc bộ pijama, Isabelle mặc bộ váy ngủ màu hồng. Còn bác Hodge, trong bộ com lê vải tuýt gọn ghẽ như thường lệ, đang uống cà phê bằng chiếc cốc sứ màu xanh lá cây đã mẻ. Chỉ có Jace, mắt sáng lên dù những vết sẹo đã nhạt dần, có vẻ thực sự tỉnh táo. “Tớ nghĩ tìm chiếc Cốc là việc của hội Clave rồi chứ.”

“Chỉ là nếu chúng ta tự mình làm sẽ tốt hơn,” Jace nóng nảy đáp. “Bác Hodge và tớ đã bàn bạc và đưa tới quyết định.”

“Được thôi,” Isabelle vén bím tóc buộc bằng ruy băng hồng ra sau tai. “Em tham gia.”

“Anh thì không,” Alec nói. “Giờ đã có những đặc vụ của Clace hoạt động trong thành phố ngay lúc này nhằm tìm kiếm Cốc Thánh rồi. Cứ chuyển thông tin cho họ và để họ làm việc.”

“Không đơn giản như vậy,” Jace nói.

“Đơn giản chứ,” Alec ngồi nhoài về phía trước, nhíu mày. Điều này chẳng liên quan gì tới chúng ta mà chỉ toàn liên quan đến – đến chứng nghiện nguy hiểm của cậu mà thôi.”

Jace lắc đầu, rõ ràng đang bực. “Tớ không hiểu vì sao cậu cứ chống đối với tớ về vấn đề này.”

Vì anh ấy không muốn anh bị thương, Clary nghĩ, và thấy kinh ngạc trước khả năng hoàn toàn không thể nhìn ra điều đang xảy ra với Alec của Jace. Nhưng mà này, cô đã bỏ qua cùng một điều đó với Simon. Cô là ai mà dám lên giọng chứ? “Nghe này, Dorothea – chủ nhân của Sanctuary – không tin hội Clave. Thực ra là ghét họ. Nhưng bà ấy lại tin chúng ta.”

“Bà ấy chỉ tin em thôi,” Clary nói. “Em không biết gì về anh. Em không chắc bà ấy có thích anh hay không.”

Jace lờ cô đi. “Thôi nào, Alec. Sẽ vui mà. Hãy nghĩ tới những vinh quang nếu chúng ta mang Cốc Thánh trở lại Idris! Mọi người sẽ không bao giờ quên tên chúng ta.”

“Tớ không quan tâm tới vinh quang,”Alec nói, ánh mắt chưa từng rời khỏi khuôn mặt Clary. “Tớ không quan tâm tới việc làm chuyện ngu ngốc nào hết.”

“Tuy nhiên, trong trường hợp này, Jace nói đúng,” bác Hodge nói. “Nếu hội Clave phải đến tới đất thánh, đó sẽ là thảm họa. Dorothea sẽ bỏ chạy cùng chiếc Cốc và có lẽ sẽ biến mất mãi mãi. Không, Jocelyn rõ ràng chỉ muốn người duy nhất có thể tìm thấy chiếc Cốc, và đó là Clary, chỉ Clary mà thôi.”

“Vậy thì để cô ta đi một mình đi,” Alec nói.

Kể cả Isabelle cũng phải há hốc mồm khi nghe. Jace, nãy giờ đang nhoài người tới trước chống hai tay lên bàn, giờ đứng thẳng dậy và lạng lùng nhìn Alec. Clary nhận thấy, chỉ có Jace là có thể trông bảnh tai khi mặc quần ngủ và áo phông cũ, nhưng anh không còn tỏ ra vậy, có lẽ do sức chi phối ý chí quá lớn. “Nếu cậu sợ vài Kẻ Lầm Đường, vậy thì cứ việc ở nhà,” anh nhẹ nhàng nói.

Alec trắng bệch. “Tớ không sợ,” anh ta nói.

“Tốt,” Jace nói. “Vậy thì chẳng còn vấn đề gì nữa nhỉ?” anh nhìn quanh phòng. “Chúng ta cùng chung chiến hào rồi.”

Alec ậm ừ đồng ý, trong khi Isabelle gật đầu lia lịa. “Chắc rồi,” cô nói. “Nghe có vẻ vui.”

“Mình không rõ vui là thế nào,” Clary nói. “Nhưng tất nhiên là mình tham gia.”

“Nhưng Clary,” bác Hodge vội nói. “Nếu cháu lo lắng tới vấn đề nguy hiểm, cháu không cần phải đi. Chúng ta có thể báo cho hội Clave…”

“Không ạ,” Clary nói, khiến chính mình cũng ngạc nhiên. “Mẹ cháu muốn cháu tìm thấy nó. Không phải Valentine, và cũng chẳng phải họ.” Mẹ cô không trốn chạy khỏi lũ quái vật, Magnus đã nói. “Nếu mẹ thực sự muốn dành cả đời để ngăn Valentine chạm tới Cốc Thánh, ít ra cháu có thể giúp mẹ làm điều đó.”

Bác Hodge mỉm cười với cô. “Ta nghĩ mẹ cháu biết cháu sẽ nói vậy,” bác nói.

“Dù gì cậu cũng không phải lo đâu,” Isabele nói. “Cậu sẽ ổn mà. Bọn mình xử lý tốt vài ba Kẻ Lầm Đường. Chúng điên thật, nhưng không thông minh lắm.”

“Và dễ hơn đối phó với quỷ dữ nhiều,” Jace nói. “Không phải chơi bài lừa gì chúng hết. À, chúng ta sẽ cần ô tô đấy.” anh nói thêm. “Càng lớn càng tốt.”

“Vì sao?” Isabelle hỏi. “Chúng ta đã bao giờ cần ô tô đâu.”

“Chúng ta chưa bao giờ lo về việc mang theo một vật vô giá. Anh không muốn tha lôi nó lên tàu L,” Jace giải thích.

“Vậy đi tắc xi,” Isabelle nói. “Hoặc thuê xe tải.”

Jace lắc đầu. “Anh mốn một môi trường chúng ta kiểm soát được. Anh không muốn phải đối phó với tài xế tắc xi hoặc những công ty cho thuê xe của người thường khi chúng ta làm đang chuyện quan trọng tới nhường này.”

“Cô không có xe hay bằng lái gì à?” Alec hỏi Clary, nhìn cô với vẻ thù địch rõ ràng. “Tôi nghĩ đám người thường ai cũng có mà.”

“Mười lăm tuổi thì chưa có đâu,” Clary bực bội đáp. “Năm nay tôi sẽ có bằng, nhưng chưa phải bây giờ.”

“Cô hữu dụng thật đấy.”

“Ít nhận bạn em cũng biết lái xe,” cô đáp lại. “Simon có bằng lái.”

Cô ngay lập tức thấy hối hận vì điều đã nói ra.

“Thật sao?” Jace nói, theo kiểu trầm tư tới bực mình.

“Nhưng cậu ấy không có xe,” cô vội nói thêm.

“Vậy cậu ấy đi xe của bố mẹ à?” Jace hỏi.

Clary thở dài, tựa người ra bàn. “Không. Thường cậu ấy sẽ lái xe tải của Eric. Kiểu như, trong những lần đi diểu diễn hay đại loại thế. Thi thoảng Eric cho cậu ấy mượn những chuyện khác. Như đi hẹn hò ấy.”

Jace khịt mũi. “Cậu ta dùng xe tải để đón người yêu? Chả trách cậu ta thật là có giá với mấy cô chị.”

“Đó là ô tô,” Clary nói. “Anh chỉ ganh tỵ vì Simon có cái mà anh không có.”

“Cậu ta có nhiều thứ mà anh không có lắm,” Jace nói. “Như cận thị này, dáng người xấu này, và thiếu hợp tác tới bực mình.”

“Anh biết đây,” Clary nói, “hầu hết những nhà tâm lý học đồng tình rằng tính thù địch thật sự làm giảm đi sự thu hút người khác phái đấy.”

“À,” Jace bình thản đáp, “có lẽ điều này giải thích vì sao anh hay gặp người ghét anh thế.”

“Tớ không ghét cậu,” Alec chen vào.

“Đó là vì chúng ta chia sẻ tình huynh đệ,” Jace nói, sải bước đi tới bàn. Anh vớ lấy cái điện thoại màu đen và giơ ra cho Clary. “Gọi cho cậu ta đi.”

“Gọi ai?” Clary nói, hơi chậm tiêu trong một lúc. “Eric á? Cậu ấy không bao giờ cho em mượn xe,”

“Simon ấy,” Jace nói. “Gọi Simon và nhờ xem cậu ta có đưa bọn mình tới nhà em không.”

Clary nỗ lực lần cuối. “Anh không biết một Thợ Săn Bóng Tối nào có xe à?”

“Ở New York ư?” Nụ cười của Jace tắt dần. “Nghe này, mọi người đều ở Idris và Hiệp Định, và nếu có, họ sẽ nằng nặc muốn đi cùng chúng ta. Hoặc là gọi cho cậu ta hoặc chẳng có gì hết.

Cô nhìn thẳng vào đôi mắt anh trong thoáng chốc. Trong đó có sự thách thức, và còn một điều gì khác, như thể anh đáng ép Clary giải thích sự lưỡng lự của cô. Cô quạu mặt, đi tới bên bàn và giật điện thoại khỏi tay anh.

Cô không cần nghĩ trước khi quay số. Cô nhớ rõ số điện thoại nhà Simon hệt như nhớ số điện thoại của chính cô. Cô chuẩn bị để nghe tiếng mẹ hoặc tiếng một trong những người chị gái của cậu, nhưng chính Simon mới là người bắt máy sau hồi chuông thứ hai. “A lô?”

“Simon hả?”

Im lặng.

Jace đang nhìn cô. Clary nhắm chặt mắt, cố giả vờ là anh không ở đó. “Mình đây,” cô nói. “Clary đây.”

“Mình biết là ai.” Cậu có vẻ bực bội. “Mình đang ngủ mà.”

“Mình biết. Trời còn ngủ sớm. Mình xin lỗi.” Cô xoắm dây điện thoại quanh ngón tay. “Mình cần nhờ cậu chút việc.”

Lại một khoảng im lặng nữa trước khi cậu cười chán nản. “Cậu đang đùa.”

“Mình không đùa,” cô nói. “Bọn mình biết chiếc Cốc Thánh ở đâu và bọn mình đang sửa soạn đi lấy nó. Vấn đề là, bọn mình cần xe.”

Cậu lại cười. “Xin lỗi, nhưng cậu đang bảo mình là những người bạn giết quỷ của cậu cần mẹ mìnhđưa tới địa điểm đương đầu cùng thế lực hắc ám?”

“Thực ra, mình nghĩ cậu có thể hỏi mượn xe của Eric.”

“Clary này, nếu cậu nghĩ là tớ-”

“Nếu chúng ta có Cốc Thánh, mình sẽ có cách đưa mẹ mình về. Đó là lý do duy nhất Valentine vẫn chưa giết mẹ hay thả mẹ đi.”

Simon thở dài sườn sượt. “Cậu nghĩ trao đổi dễ vậy sao? Clary, mình không biết nữa.”

“Mình cũng không biết. Mình chỉ biết đây là cơ hội.”

“Thứ đó rất quyền năng đúng không? Trong D&D thì thường chúng ta không nên đụng vào những thứ quyền năng trước khi biết chúng ta làm được gì.”

“Mình sẽ không đụng vào nó. Mình chỉ dùng nó để đưa mẹ mình về.”

“Mình nghe mà chẳng hiểu gì, Clary ạ”

“Đây không phải D&D, Simon!” cô gần như hét lên. “Đây không phải trò chơi giải trí nơi mà điều tệ hại nhất xảy ra là khi bạn không may trong lần thả xúc xắc. Chúng ta đang nói tới mẹ mình, và Valentine có thể đang tra tấn mẹ. Hắn có thể giết mẹ. Mình sẽ làm mọi điều để đưa mẹ về - cũng như mình đã làm với cậu”

Lại im lặng. “Có lẽ cậu đúng. Mình không biết, đây không thực sự là thế giới của mìn. Nghe này, thật ra chúng ta sẽ đi đâu? Để mình có thể nói với Eric.”

“Đừng mang cậu ta theo,” cô vội can.

“Mình biết mà,” cậu trả lời với sự bình tĩnh rất kịch. “Mình không ngốc.”

“Chúng ta sẽ về nhà mình. Nó ở trong nhà mình ấy.”

Lại một khoảng im lặng ngắn – lần này là hoang mang. “Trong nhà cậu? Mình nghĩ nhà cậu đầy thây ma sống đi lại chứ?”

“Chiến binh Lầm Đường. Họ không phải thây ma sống lại. Mà dù sao, Jace và những người khác có thể xử lý chúng trong khi mình lo vụ chiếc Cốc.”

“Vì sao cậu phải lấy chiếc Cốc?” Simon có vẻ hoảng.

“Vì mình là người duy nhất làm được,” cô nói. “Đón bọn mình ở góc đường ngay khi có thể nhé.”

Cậu lẩm bẩm gì đó không nghe ra, rồi: “Được.”

Cô mở mắt. Nước mắt làm thế giới trở nên nhòe nhoẹt. “Cám ơn nhé, Simon,” cô nói. “Cậu là…”

Nhưng Simon đã cúp máy.


“Tự dưng bác nghĩ,” bác Hodge nói, “rằng những vấn đề nan giải của quyền lực luôn như nhau.”

Clary liếc xéo sang bác. “Bác nói sao ạ?”

Cô đang ngồi bên bậu cửa sổ của thư viện, bác Hodge ngồi trên chiếc ghế tựa với Hugo đậu trên tay vịn. Những gì còn sót lại của bữa điểm tâm – mứt dinh dính, vụn bánh mỳ và những vệt bơ- dính trên chồng đĩa đặt trên chiếc bàn thấp mà hình như chẳng ai muốn dọn đi. Cũng chẳng có gì bất ngờ, vì tất cả những gì cô phải làm là mặc quần bò áo phông vào, chải sơ qua mái tóc trong khi mọi người khác đang mải mê trang bị tới tận răng. Vì đã đánh mất con dao của Jace lúc ở khách sạn, vật duy nhất chứa sức mạnh siêu nhiên mà cô có là viên đá phù thủy trong túi.

“Bác đang nghĩ tới cậu bạn Simon của cháu,” bác Hodge nói. “và về Alec và Simon, rồi quan hệ giữa mấy đứa.”

Cô nhìn ra ngoài khung cửa. Trời đang mưa, những hạt mưa lớn bắn tung tóe vào khung cửa. Bầu trời mang màu xám xịt. “Họ thì liên quan gì tới nhau?”

“Ở đâu có những cảm xúc không được đáp lại,” bác Hodge nói, “thì ở đấy có sự mất cân bằng về quyền lực. Đấy là một sự mất cân bằng rất dễ bị khai thác, nhưng không phải là hành động khôn ngoan. Nơi nào có tình yêu, nơi đó thường cũng có sự thù hận. Chúng tồn tại song hành.”

“Simon không ghét cháu.”

“Có thể, dần dần cậu ta sẽ ghét cháu, nếu cậu ấy cảm nhận cháu đang lợi dụng cậu ta.” Bác Hodge giơ một tay lên. “Bác biết cháu không có ý định đó, và trong một vài trường hợp sự cần thiết lại dồn tính đẹp đẽ của cảm xúc vào chân tường. Nhưng tình huống này lại nhắc cho bác nghĩ tới vấn đề khác. Cháu vẫn còn bức hình bác đưa cháu chứ?”

Clary lắc đầu. “Giờ thì không. Cháu để trong phòng rồi. Cháu có thể đi lấy…”

“Khỏi.” Bác Hodge gãi bộ lông đen tuyền của Hugo. “Khi mẹ cháu còn trẻ, mẹ cháu có một người bạn thân, cũng như cháu có Simon vậy. Họ thân thiết như anh em. Thật ra, nhiều người còn tưởng họ là anh trai em gái nữa. Khi họ dần trưởng thành, mọi người xung quanh đều nhận thấy chú ta đã yêu mẹ cháu, nhưng mẹ cháu lại không hề nhận ra. Mẹ cháu luôn gọi chú ta là ‘bạn’.”

Clary nhìn bác Hodge. “Bác đang nói tới chú Luke?”

“Phải,” bác Hodge nói. “Lucian luôn nghĩ chú ta và Jocelyn phải ở bên nhau. Khi mẹ cháu gặp và đem lòng yêu Valentine, Lucian không chấp nhận nổi. Sau khi họ kết hôn, chú ta rời Circle và biến mất – và để cho bọn ta tưởng chú ấy đã chết.”

“Chú ấy chưa bao giờ nói – chưa bao giờ để lộ bất cứ điều gì như thế cả,” Clary nói. “Trong suốt bao nhiêu năm. chú ấy có thể hỏi cưới mẹ cháu…”

“Chú ấy biết câu trả lời sẽ là thế nào,” bác Hodge nói, nhìn ra ngoài giếng trời vấy mưa. “Lucian không bao giờ là loại người huyễn hoặc bản thân. Không, chú ấy bằng lòng được ở bên cạnh mẹ cháu – có lẽ là, chú ta nghĩ thời gian trôi qua rồi cảm xúc của mẹ cháu biết đâu sẽ thay đổi.”

“Nhưng nếu chú ấy yêu mẹ cháu, vì sao chú ấy nói với những người kia là chú ấy không quan tâm tới chuyện xảy ra với mẹ cháu chứ? Vì sao chú ấy không chịu để họ nói cho chú ấy biết mẹ cháu đang ở đâu?”

“Như bác đã nói, nơi nào có tình yêu, nơi đó có thù hận,” bác Hodge nói. “Mẹ cháu đã làm chú ấy tổn thương sâu sắc bao năm trước. Mẹ cháu đã quay lưng chú ấy. Vậy mà chú ấy luôn là con chó trung thành của mẹ cháu, chưa bao giờ phản kháng, chưa bao giờ buộc tội, chưa bao giờ thổ lộ tình cảm với mẹ cháu. Có lẽ chú ấy thấy đây là cơ hội để trả thù. Đề làm mẹ cháu đau đớn hệt như chú ấy đã từng phải đau đớn.”

“Chú Luke sẽ không làm thế.” Nhưng rồi Clary nhớ tới cái giọng lạnh băng của chú khi chú bảo cô đừng nhờ vả gì chú hết. Cô thấy sự băng giá trong đôi mắt chú khi chú đối mặt với những kẻ tôi tớ của Valentine. Đó không phải chú Luke mà cô từng biết, từng lớn lên bên cạnh. Chú Luke kia sẽ không bao giờ muốn trả thù mẹ cô vì đã không yêu chú đủ nhiều hay không yêu chú theo cách chú muốn. “Nhưng mẹ cháu có yêu chú ấy chứ,” Clary nói, nói lớn tiếng mà không hề nhận ra. “Chỉ là không giống cách chú yêu mẹ mà thôi. Thế là không đủ sao.”

“Có lẽ chú ấy không nghĩ vậy.”

“Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta lấy được chiếc Cốc?” cô nói. “Sao chúng ta tìm được Valentine để cho hắn biết chúng ta đã có nó?”

“Hugo sẽ tìm hắn.”

Những hạt mưa rơi lộp độp xuống ô cửa sổ. Clary rùng mình. “Cháu đi lấy áo khoác đây,” cô nói và rời khỏi bậu cửa.

Cô tìm thấy chiếc áo lanh có nón màu xanh – hồng nhét dưới đáy ba lô. Khi cô lôi nó ra, cô nghe có tiếng thứ gì đó bị vò nhàu. Đó là bức hình hội Circle, mẹ cô và Valentine. Cô nhìn nó một lúc lâu trước khi bỏ lại túi.

Khi trở lại thư viện, những người khác đã tụ tập đông đủ cả: bác Hodge ngồi quan sát với Hugo đậu trên vai, Jace mặc cả cây đen, Isabelle đi đôi bốt-dẫm-quỷ và roi vàng, còn Alec đeo ống tên chéo vai và bao cổ tay che chắn cánh tay phải từ cổ tay tới khuỷu tay. Mọi người trừ bác Hodge đều phủ đầy những Ấn Ký mới vẽ, mỗi centimet trên làn da trần đều chi chít những họa tiết uốn lượn đẹp mắt. Jace đã xắn ống tay áo trái, cằm đặt trên vai và nhăn mặt khi vẽ Ấn Ký hình bát giác trên cẳng tay.

Alec liếc qua. “Cậu vẽ xấu quá,” anh nói. “Đưa đây.”

“Tớ thuận tay trái mà,” Jace nói, nhưng giọng nhẹ nhàng và giơ thanh stele ra. Alec trông nhẹ nhõm khi cầm lấy thanh stele, như thể anh không chắc ràng đã được tha thứ cho hành động lúc nãy chưa. “Đây là chữ iratze cơ bản,” Jace nói khi Alec đang cúi đầu tóc đen của mình lên cánh tay Jace, cẩn thận vẽ từng nét của chữ rune trị thương. Jace nhăn mặt khi thanh stele di chuyển trên da anh, mắt nhắm hờ và tay nắm chặt làm nổi cơ bắp trên tay trái. “Vì Thiên Thần, Alec…”

“Tớ đang cố cẩn thận mà,” Alec nói. Anh thả tay Jace ra và lùi lại ngắm nhìn tác phẩm của mình. “Rồi đó.”

Jace nhả nắm tay, hạ tay xuống. “Cám ơn.’ Khi đó anh dường như cảm nhận sự hiệ diện của Clary, liếc nhìn cô, đôi mắt vàng nheo lại. “Clary.”

“Trông anh sẵn sàng rồi nhỉ,” cô nói khi Alec, đột nhiên đỏ mặt, tránh xa Jace và lăng xăng sửa soạn cung tên.

“Cả bọn đều sẵn sàng,” Jace nói. “Em vẫn còn con dao anh đưa em chứ?”

“Không. Em làm mất ở Dumort rồi, nhớ không?”

“À nhỉ.” Jace hài lòng nhìn cô. “Suýt giết được một người sói bằng con dao đó. Anh nhớ.”

Isabelle, đang đứng bên cửa sổ, đảo mắt chán chường. “Em quên mất đấy là điều khiến anh sục sôi và bận tâm đó Jace. Con gái giết chóc.”

“Anh thích bất cứ ai giết chóc mà,” anh nói một cách điềm đạm, “Đặc biệt nếu đó là anh.”

Clary sốt ruột liếc nhìn đồng hồ đặt trên bàn. “Chúng ta nên xuống nhà thôi. Simon sẽ tới bất cứ lúc nào.”

Bác Hodge đứng dậy. Clary thấy trông bác khá ư mệt mỏi, như thể không ngủ trong nhiều ngày.

“Cầu cho Thiên Thần bảo vệ các cháu,” bác nói và Hugo bay lên kêu quang quác, ngay khi tiếng chuông chính ngọ bắt đầu điểm.


Trời vẫn mưa lất phất khi Simon đỗ xe ở góc đường và nhấn còi hai lần. Tim Clary nảy lên – một vài phần trong cô đã lo rằng cậu sẽ không xuất hiện.

Jace nheo mắt nhìn qua cơn mưa nhỏ giọt. Bốn người bọn họ đã đứng trú dưới vòm đá. “Cái đó là xe tải thùng đấy hả? Giống quả chuối thối quá.”

Không thể chối cãi – Eric đã sơn chiếc xe màu vàng dạ quang, thân xe chi chít những vết lõm và gỉ như những vết sâu răng. Simon lại bấm còi. Clary thấy bạn, một hình dáng mờ mờ qua ô cửa sổ ướt mưa. Cô thở dài và đội mũ lên để che tóc. “Đi nào.”

Họ dẫm lên những vũng nước bẩn trên vỉa hè, đôi bốt to tổ bố của Isabelle tạo nên từng tiếng động kiêu hãnh mỗi lần đặt chân xuống. Simon, vẫn để động cơ hoạt động, bò ra sau kéo mở cửa hông, để lộ ra những hàng ghế mà vỏ bọc đã mủn tới nữa. Những cái lò xo có vẻ nguy hiểm thò ra qua những khe hở. Isabele nhăn múi. “Ngồi có an toàn không đấy?”

“An toàn hơn là bị trói trên nóc,” Simon đáp một cách thỏa mãn, “đấy là lựa chọn còn lại.” Cậu gật đầu chào Jace và Alec, hoàn toàn bỏ qua Clary. “Hey.”

“Ừ hey,” Jace nói và nhấc cái tủi vải thô kêu sột soạt đựng vũ khí. “Chúng tôi bỏ cái này vào đâu đây?”

Simon chỉ anh ra khoang sau, nơi những cậu con trai trong nhóm nhạc thường để nhạc cụ, còn Alec và Isabelle chui vào trong xe và ngồi mớm trên ghế. “Súng săn!” Clary nói khi Jace đi vòng từ bên kia xe sang.

Alec nắm lấy cây cung, đeo ở sau lưng. “Đâu?”

“Cô ấy bảo muốn ngồi ghế trước đấy,”, Jace nói và hất mái tóc ướt đang lòa xòa xuống mắt.

“Cung đẹp đấy,” Simon nói và gật đầu với Alec.

Alec chớp mắt, nước mưa lăn xuống từ hàng lông mi. “Cậu biết nhiều về bắn cung không?” anh ta nói, giọng cho thấy anh có chút nghi ngờ.

“Hồi ở trại tôi có học bắn cung,” Simon nói. “Học suốt sáu năm.”

Đáp lại cậu là ba ánh mắt nhìn ngơ ngác và một nụ cười khích lệ từ phía Clary, mà Simon đã lờ tịt đi. Cậu ngước nhìn bầu trời đang sa sầm. “Chúng ta nên đi trước khi trời đổ mưa tiếp.”

Ghế trước đầy vỏ bim bim Doritos và vụn bánh Pop-Tart. Clary phủi những gì có thế đi. Simon nhấn chân ga trước khi cô làm xong việc, khiến cô ngã ngửa ra sau ghế. “Ối,” cô oán thán.

“Xin lỗi.” Simon không thèm nhìn.

Clary có thể nghe thấy những người khác nói chuyện khe khẽ ở đằng sau – hầu như là bàn về cách đánh và cách tốt nhất để chặt đầu một con quỷ mà không để máu dính vào đôi bốt da mới. Dù chẳng có gì ngăn cách ghế trước và phần còn lại của chiếc xe, Clary vẫn cảm nhận được sự im lặng ngượng ngùng giữa cô và Simon, như thể họ đang ở một mình.

“Vậy ‘hey’ là thế nào?” cô hỏi khi Simon lái xe rẽ sang đường FDR, đường cao tốc chạy song song với dòng sông Đông.

“‘Hey’ nào?” cậu đáp, cắt ngang đầu chiếc SUV đen khi người điều khiển xe ấy, một người mặc com lê tay đang cầm điện thoại, ra dấu tục tĩu với họ qua lớp kính màu.

“‘Hey’ mà bọn con trai các cậu hay nói ấy. Như khi cậu thấy Jace và Alec, cậu nói ‘hey’, và họ ‘hey’ lại. Nói ‘xin chào’ thì làm sao đâu?”

Cô nghĩ đã thấy cơ mặt của bạn hơi giật giật. “‘Xin chào’ nghe nữ tính lắm,” cậu giải thích. “Những người đàn ông thực sự thích nói ngắn gọn. Súc tích.”

“Vậy càng nam tính thì càng phải ít lời hả?”

‘Đúng.” Simon gật đầu. Ở phía bên kia, cô thấy sương mù sà thấp trên dòng sông Đông, phủ kín bờ sông bằng làn xương mù xám xịt. Mặt nước cũng mang màu chì, gờn gợn thành màu như kem nhờ những cơn gió mạnh thổi từng đợt đều đặn. “Đó là lý do vì sao những nhân vật phản diện chính trong phim khi gặp nhau, họ không nói gì hết, họ chỉ gật đầu. Cái gật đầu đó có nghĩ, ‘Tao là kẻ xấu, và tao nhận ra mày, cũng là một kẻ xấu,’ nhưng họ không nói gì vì họ là Wolverine và Magneto và giải thích lằng nhằng sẽ làm hỏng cái uy của họ.”

“Tôi không hiểu cậu đang nói gì,” Jace nói, vọng tới từ ghế sau.

“Tốt,” Calry nói, và nhận được nụ cười thoảng nhất từ Simon khi cậu rẽ về hướng cầu Manhattan, hướng về khu Manhattan và về nhà.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Khi họ tới nhà Clary, trời đã ngừng mưa. Những tia nắng đan quyện đốt tan dư vị sương mù, những vũng nước trên vỉa hè đang khô lại. Jace, Alec và Isabelle bắt Simon và Clary đợi bên xe trong khi họ đi kiểm tra, như Jace nói, “kiểm tra mức độ hoạt động của quỷ.”

Simon quan sát trong khi Ba Thợ Săn Bóng Tối đi vào lối đi hai bên trồng những bụi hoa hồng dẫn lên nhà. “Mức độ hoạt động của quỷ? Họ có thiết bị đo xem quỷ có ởtrong nhà tập yoga không á?”

“Không,” Clary hỏi, kéo chiếc mũ ẩm xuống để tận hưởng tia nắng mặt trời chiếu lên mái tóc bết nước. “Máy Cảm Ứng cho họ biết những con quỷ đó mạnh như thế nào – nếu như có quỷ.”

Simon có vẻ ấn tượng. “Cái này thật sự hữu ích đấy.”

Cô quay sang. “Simon, về chuyện tối qua…”

Cậu giơ tay chặn lại. “Chúng ta không nói về chuyện đó. Thật ra, là mình không muốn nói.”

“Hãy cho mình nói một điều.” Cô nói liến thoắng. “Mình biết khi cậu nói cậu yêu mình, điều mình nói lại không phải điều cậu muốn nghe.”

“Đúng. Mình luôn hy vọng khi mình nói ‘yêu’ một cô gái nào đó, cô gái đó sẽ trả lời mình là ‘em biết’, giống như Leia đã nói với Han trong phim Return of the Jedi”

“Nghe sến quá.” Clary nói, không thể ngừng được.

Simon lười.

“Xin lỗi,” cô nói. “Nhìn này, Simon, mình…”

“Không,” cậu nói. “Cậu nhìn đi Clary. Nhìn mình, thực sự thấy mình. Cậu làm được không?”

Cô nhìn. Nhìn vào đôi mắt đen, pha trộn thêm những màu sắc tươi ở ngoài viền con ngươi, nhìn đôi lông mày có phần không đều quen thuộc, hàng lông mi dài, mái tóc đen và nụ cười trừ cùng đôi tay búp măng nghệ sĩ, tất cả những gì thuộc về Simon, người là một phần của cô. Nếu phải nói thực, liệu cô có dám nói rằng cô không hề biết Simon yêu mình không? Hay chỉ là cô không biết cô sẽ làm gì nếu cậu yêu cô nhỉ?

Cô thở dài. “Nhìn qua ảo ảnh rất dễ. Con người mới khó nhìn thấu.”

“Chúng mình đều muốn thấy thứ chúng mình muốn thấy,” cậu bình thản nói.

“Không phải Jace,” cô nói, không ngăn được mình, khi nghĩ tới đôi mắt trong sáng không hề biết nao núng kia.

“Nhất là anh ta đấy.”

Cô nhíu mày. “Cậu làm sao lại…”

“Được rồi,” giọng Jace vọng tới, ngắt lời họ. Clary vội quay sang. “Bọn anh đã kiểm tra bốn góc chung quanh rồi – chẳng có gì. Mức độ hoạt động thấp. Có lẽ chỉ có vài Kẻ Lầm Đường và chúng sẽ không làm phiền tới chúng ta nếu chúng ta không chui vào tầng trên.”

“Và nếu chúng dám,” Isabelle nói, nụ cười sáng lấp lánh hệt như sợi roi, “bọn mình cũng sẵn sàng rồi.”

Alec lôi cái túi nặng từ sau xe xuống, vứt nó lên vỉa hè. “Sẵn sàng lên đường,” anh tuyên bố. “Đi đá đít quỷ nào!”

Jac nhìn anh ta mà cảm thấy là lạ. “Cậu ổn không đấy?”

“Ổn.” Không nhìn Jace, Alec bỏ cung và những mũi tên xuống mà cầm cây gậy lông vũ sáng bóng, với hai lưỡi dao loang loáng bật ra khi anh ta chạm nhẹ ngón tay vào. “Cái này tốt hơn.”

Isabelle lo lắng nhìn ông anh. “Nhưng cây cung…”

Alec ngắt lời. “Anh biết anh đang làm gì mà Isabelle.”

Cánh cung nằm ngang ghế sau, tỏa sáng dưới ánh mặt trời. Simon cầm lấy, rồi rụt tay lại khi một nhóm thiếu phụ đang cười đùa đẩy xe nôi ngang qua, hướng về phía công viên. Họ không để ý tới ba cô cậu vũ khí đầy mình đang ngồi xổm cạnh chiếc xe tải vàng. “Sao tôi lại thấy được mấy người nhỉ?” Simon hỏi. “Chuyện gì với phép thuật tàng hình của các cậu vậy?”

“Cậu nhìn thấy chúng tôi,’ Jace nói, “vì giờ cậu biết sự thực cái cậu đang nhìn.”

“Ờ há,” Simon nói. “Tôi cũng đoán vậy.”

Simon có cự nự đôi chút khi họ bảo cậu ở lại trông xe, nhưng nếu Jace nhấn mạnh tầm quan trọng của việc có một chiếc xe nổ máy đậu bên đường để tẩu thoát. “Ánh mặt trời là đòn chí từ với quỷ, nhưng nó không làm hại gì tới Kẻ Lầm Đường. Nếu chúng đuổi theo bọn tôi thì sao? Nếu chiếc xe bị kéo đi thì sao?”

Điều cuối cùng Clary thấy về Simon khi quay lại vẫy tay chào cậu lúc đứng trên hiên trước là đôi chân dài đặt trên bảng đồng hồ trong khi cậu lục tìm bộ sưu tập CD của Eric. Cô thở dài nhẹ nhõm. Ít nhất thì Simon cũng được an toàn.

Mùi hôi ập vào mặt cô ngay khi họ bước qua cửa trước. Một thứ mùi khó tả, giống như mùi trứng thối trộn cùng thịt lên giòi và tảo mục trên bãi cát nóng. Isabelle nhăn mũi và còn mặt Alec xanh lét, nhưng Jace trông như thể đang ngửi một loại nước hoa hiếm. “Quỷ ở đây,” anh nói, với niềm hân hoan lạnh lùng. “Cũng mới đây thôi.”

Clary bồn chồn nhìn anh. “Nhưng chúng không còn…”

“Không.” Anh lắc đầu. “Bằng không bọn anh đã cảm nhận thấy chúng. Tuy vậy.” Anh hất hàm về phía cửa nhà bà Dorothea, đóng kín mít không để cho lấy một tia sáng lọt qua. “Có lẽ bà ta sẽ phải trả lời vài câu hỏi, nếu hội Clave nghe tin bà ta vẫn đang tiếp vài con quỷ.”

“Em không nghĩ hội Clave thích thú bất cứ thì gì trong căn nhà này,”Isabelle nói. “Mà nghĩ kỹ lại, có lẽ bà ta sẽ thoát khỏi vụ này dễ dàng chúng ta đấy.”

“Họ sẽ không quan tâm miễn là cuối cùng chúng ta có được chiếc Cốc.” Alec liếc nhìn chung quanh, đôi mắt xanh quét qua sảnh ngoài nhỏ nhắn, cầu thang cong cong vẫn lên tầng trên, những vết ố trên tường.”Đặc biệt nếu chúng ta làm thịt vài Kẻ Lầm Đường trong khi lấy thánh vật.”

Jace lắc đầu. “Chúng ở tầng trên. Tớ đoán rằng chúng sẽ chẳng làm phiền chúng ta nếu chúng ta không cố bước vào.”

Isabelle thổi lọn tóc dính khỏi mặt và nhíu mày nhìn Clary. “Cậu còn đợi gì nữa?”

Clary bất giác nhìn sang Jace, anh cười nửa miệng với cô. Đi đi, đôi mắt anh nói.

Cô tiến qua sảnh tới trước cửa nhà Dorothea, bước từng bước cẩn trọng. Với phần giếng trời đen thui vì bụi bẩn và đèn ngoài hành lang vẫn hỏng, ánh sáng duy nhất đến từ ngọn đèn phù thủy của Jace. Không khí nóng nực và ngọt ngạt, những bóng đen dường như đang hiện ra trước mặt cô như những loài thực vật sinh trưởng nhanh một cách thần kỳ trong khu rừng ác mộng. Cô vươn tay gõ cửa nhà bà Dorothea, một lần nhẹ và rồi dùng nhiều lực hơn.

Cửa bật mở, để luồng ánh sáng rọi ra sảnh. Dorothea đứng đó, to lớn bệ vệ trong từng vệt vằn vện xanh xanh vàng vàng. Hôm nay bà ta đội khăn màu vàng dạ quang có đính một con chim hoàng yến được nhồi bông và viền áo chạy theo hình chữ chi. Đôi khuyên tai hình chúc đài thả lắc lư trên tóc, hai bàn chân to tướng để trần. Clary ngạc nhiên quá – trước đây cô chưa bao giờ thấy Dorothea đi chân trần, hoặc không mang gì khác hơn ngoài đôi dép lê lót nhung đã cũ xỉn.

Móng tay bà ta sơn màu hồng ngọc trai nhạt, rất hợp mốt.

“Clary!” bà ta reo lên và ôm Clary chặt cứng. Trong một thoáng Clary cố chống cự, bị lôi vào cùng mùi nước hoa nồng đượm, mớ vải nhung lòe xòe và chiếc khăn tua rua của bà Dorothea. “Lạy Chúa lòng lành, cháu gái,” bà phù thủy nói, lắc đầu tới khi bông tay lắc le như chuông gió trong ngày bão. “Lần cuối cùng ta gặp cháu, cháu đã biến mất qua Cổng Dịch Chuyển. Cháu đi tới đâu vậy?”

“Williamsburg ạ,” Clary nói và cố thở.

Đôi lông mày của Dorothea nhướn tít lên. “Và người ta nói không hề có hệ thống vận chuyển công cộng thuận tiện ở Brooklyn cơ đấy.” Và bà ta mở rộng cửa và ra hiệu cho cả bọn bước vào.

Nơi này vẫn chẳng thay đổi gì từ lần cuối Clary thấy nó: vẫn những lá bài tarot và quả cầu thủy tinh xếp trên bàn. Những ngón tay cô ngứa ngáy muốn động tới những lá bài, muốn cầm chúng lên và xem những gì giấu đằng sau những hình vẽ trơn mượt kia.

Dorothea vui vẻ ngồi xuống chiếc ghế tựa và nhìn những Thợ Săn Bóng Tối bằng đôi mắt đen như đôi mắt của con hoàng yến nhồi bông trên mũ. Mùi nến thơn cháy trên đĩa ở hai bên bàn dù sao cũng ít nhiều át đi mùi tanh hôi nồng nặc lan tới từng centimet của căn hộ. “Vậy là cháu chưa tìm thấy mẹ?” bà ta hỏi Clary.

Clary lắc đầu. “Chưa ạ. Nhưng cháu biết ai đã bắt cóc mẹ cháu.”

Đôi mắt Dorothea đảo từ Clary tới Alec và Isabelle, cô nàng đang săm soi tấm áp phích Chỉ tay Số Phận trên tường. Jace, tỏ ra cực kỳ bàng quan trong vai trò vệ sĩ, ngồi ngả ngớn trên tay ghế. Hài lòng vì chẳng có món đồ nào bị tổn hại, Dorothea quay lại nhìn Clary. “Có phải là…”

“Valentine ạ,” Clary xác nhận. “Đúng ạ.”

Dorothea thở dài. “Ta đã lo sợ điều này.” Bà ta ngồi dựa lên mấy cái đệm. “Cháu biết hắn muốn gì từ mẹ cháu không?”

“Cháu biết mẹ cháu từng kết hôn với hắn…”

Bà phù thủy làu bàu. “Yêu nhầm người.Xấu nhất rồi đấy.”

Nghe thế Jace kêu lên một tiếng khe khẽ, gần như không nghe thấy – giống như một tiếng tặc lưỡi . Đôi tai Dorothea dựng lên như tài mèo. “Có gì vui sao, cậu bé?”

“Bà thì biết gì nào?” anh nói. “Ý là về tình yêu ấy,”

Dorothea đặt hai bàn tay trắng mềm mại lên lòng. “Hơn là cậu nghĩ đấy,” bà ta nói. “Không phải ta đã đọc cho cậu về lá trà sao, Thợ Săn Bóng Tối? Cậu đã phải lòng nhầm người chưa thế?”

Jace nói, “Không may là, thưa mẹ Bề Trên, tình yêu đích thực của đời con vẫn là con mà thôi.”

Nghe vậy Dorothea cười rú lên. “Ít ra thì,” bà nói, “cậu không phải lo bị từ chối, Jace Wayland ạ.”

“Không hẳn. Tôi thi thoảng cũng từ chối bản thân, chỉ cho vui ấy mà.”

Dorothea lại cười rú. Clary ngắt lời. “Bà hẳn phải thắc mắc nguyên do chúng cháu tới đây, Quý Bà Dorothea.”

Dorothea thôi cười mà lau mắt. “Làm ơn đi cháu,” bà bảo, “cứ tự nhiên gọi ta bằng daanh xưng thích hợp, như cậu kia đã làm kìa. Cháu có thể gọi ta là Phu nhân. Với lại nghĩ,” bà ta nói thêm, “cháu tới đây để cho ta bớt cô quạnh. Đúng không?”

“Cháu không có thời gian để giúp ai đó bớt cô đơn. Cháu phải giúp mẹ cháu, và để làm thế cháu cần một số thứ.”

“Và đó là gì nào?”

“Một thứ được gọi là Cốc Thánh,” Clary nói, “và Valentine nghĩ mẹ cháu có nó. Vì thế hắn bắt cóc mẹ cháu.”

Dorothea có vẻ thực sự, thực sự bị choáng. “Chiếc Cốc Thiên Thần ư?” bà ta ngờ vực hỏi lại. “Chiếc cốc của Raziel, ngài đã dùng để trộn máu của Đấng Thiên Thần và máu người rồi đưa cho một người uống, tạo ra Thợ Săn Bóng Tối đầu tiên đấy ư?”

“Chính cái đó,” Jace nói, giọng nói có chút lạnh nhạt.

“Thế quái nào hắn lại nghĩ Jocelyn có nó chứ?” Dorothea nói. “Jocelyn, chứ không phải ai khác?” Bà ta đã nhận ra trước khi Clary kịp trả lời. “Vì mẹ cháu không hề là Jocelyn Fray, tất nhiên rồi,” bà nói. “Cô ta là Jocelyn Fairchild, vợ hắn. Người mà mọi người tưởng đã chết. Mẹ cháu đã lấy chiếc Cốc và chạy trốn, đúng không?”

Có gì đó lóe lên trong mắt bà phù thủy, nhưng khi bà ta hạ mi mắt xuống rất nhanh nên Clary nghĩ chắc mình tưởng tượng ra. “Vậy,” Dorothea nói, “cháu có biết giờ mình phải làm gì không? Dù mẹ cháu giấu nó ở đâu, cũng không thể dễ mà tìm ra được – kể cả nếu cháu muốn tìm ra nó. Valentine sẽ làm nhiều điều kinh khủng khi có được chiếc Cốc.”

“Cháu muốn tìm ra nó,” Clary nói. “Chúng cháu muốn…”

Jace nhẹ nhàng ngắt lời. “Bọn này biết nó ở đâu,” anh nói. “Chỉ còn việc lấy lại nó thôi.”

Đôi mắt Dorothea mở lớn. “Vậy, nó ở dâu?”

“Ở đây,” Jace nói, giọng tự nhiên tới mức Isabelle và Alec đang đi vẩn vơ xem xét giá sách cũng phải quay lại nhìn.

“Ở đây ư? Ý cậu là cậu cầm theo nó hả?”

“Không hẳn đâu, thưa Phu nhân” Jace nói, người mà. Clary cảm thấy, đang tự thỏa mãn mình bằng thái độ thực sự đáng sợ kia. “Ý tôi chính bà đang có nó.”

Miệng Dorothea ngậm chặt lại. “Không vui đâu,” bà ta nói, quá dữ dội khiến Clary lo rằng mọi chuyện đang diễn biến theo chiều hướng xấu đến tồi tệ. Vì sao Jace luôn thích đi chọc giận người khác chứ?

“Đúng là bà đang giữ nó,” Clary vội vàng xen vào, “nhưng không…”

Dorothea từ ghế tựa đứng thẳng dậy vươn hết chiều cao lừng lững của mình, quắc mắt trừng trừng nìn xuống cả hai. “Các cháu nhầm rồi,” bà ta lạnh lùng cất tiếng. “Nhầm chuyện tưởng tượng rằng ta có nó, và nhầm vì dám tới đây và bảo ta là kẻ dối trá.”

Tay Alec đưa lên thanh trượng. “Ôi trời,”anh lầm rầm.

Bối rối, Clary lắc đầu.“Không,” cô nói liến thoắng, “cháu không bảo bà nói dối, cháu thề. Cháu chỉ nói chiếc Cốc ở đây, nhưng bà không hề hay biết.”

Quý Bà Dorothea nhìn cô. Đôi mắt, gần như khuất dưới những nếp nhăn của khuôn mặt, cứng ngắc như đá cẩm thạch. “Giải thích đi,” bà nói,

“Cháu đang nói mẹ cháu giấu nó ở đây,”Clary nói. “Nhiều năm về trước. Mẹ cháu chưa bao giờ nói với bà vì mẹ cháu không muốn liên lụy tới bà.”

“Vậy có thể cô ấy đưa nó cho bà, nhưng dưới dạng một vật khác,” Jace giải thích, “như một món quà.”

Dorothea ngơ ngác nhìn anh.

Bà ta không nhớ sao? Clary bối rối nghĩ. “Bộ bài Tarot,” cô nói. “Những lá bài mà mẹ cháu vẽ cho bà.”

Ánh mắt bà phù thủy chiếu đến những lá bài được gói trong lớp khăn lụa đặt trên bàn. “Những lá bài ư?” Trong lúc cái nhìn của bà ta lớn dần, Clary bước tới bàn và cầm bộ bài lên. Chúng ấm và khá trơn. Giờ đây, vì trước kia cô không thể làm được, cô cảm nhận được năng lượng từ những chữ rune vẽ ở mặt sau đập dồn qua dầu ngón tay mình. Cô tìm lá bài Ace of Cups và lôi ra, đặt những lá bài còn lại xuống bàn.

“Nó đây,” cô nói.

Tất cả đang nhìn cô, chờ đợi, im lặng tuyệt đối. Cô chầm chậm lật lá bài lại và nhìn lại những nét vẽ của mẹ: hình hai bàn tay thon thon, những ngón tay năm quanh chiếc Cốc Thánh bằng vàng.

“Jace,” cô nói. “Đưa thanh stele cho em.”

Anh ấn thanh stele vào lòng bàn tay cô, cảm giác âm ấm và sống động. Cô lật lá bài lại và lần theo những chữ rune trên mặt sau – chỗ này một đường xoắn chỗ kia một đường thẳng và chúng mang ý nghĩa hoàn toàn khác biệt. Khi cô quay lá bài lại, bức hình có chút thay đổi: Những ngón tay đã thả chân Cốc, và bàn tay dường như đang dâng chiếc Cốc cho cô mà nói, Đây, cầm lấy đi.

Cô nhét thanh stele vào túi. Rồi, dù phần tranh vẽ trên lá bài không lớn hơn tay cô, cô nhét vào như thể nhét vào một khe hở rộng. Tay cô cầm chặt lấy chân Cốc - những ngón tay nắm chặt lấy – và khi rút tay lại – chiếc cốc nằm gọn trong tay, cô nghĩ đã nghe thấy những tiếng thở dài thật khẽ trước khi lá bài, giờ trống không và trắng tinh, biến thành tro bụi và cháy qua kẽ ngón tay cô xuống sàn nhà trải thảm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: Abbandon


Clary không chắc mình đang trông đợi điều gì – những tiếng hò reo vui mừng, có lẽ và một tràng vỗ tay nữa. Thay vào đó là im lặng, chỉ phá tan khi Jace nói, “Không hiểu sao anh nghĩ nó phải lớn hơn kia.”

Clary nhìn chiếc Cốc trên tay. Nó có lẽ chỉ bằng cỡ ly rượu bình thường, chỉ có điều là nặng hơn nhiều. Năng lượng chảy trong đó như máu chảy trong huyết mạch. “Kích cỡ của nó cực kỳ hoàn hảo,” cô bực bội nói.

“Ồ, nó lớn đó chứ,” anh trịch thượng nói, “nhưng không hiểu sao anh đang chờ đợi một thứ… em biết đấy.” Anh ra hiệu bằng hai tay, vẽ ra một thứ cỡ một con mèo nhà.

“Đây là chiếc Cốc Thánh đó Jace, không phải Bồn Cầu Thánh đâu,” Isabelle nói. “Giờ chúng ta xong việc chưa?” Chúng ta đi được chưa?”

Dorotha nghiêng đầu sang bên, đôi mắt đen tròn ánh lên vẻ thích thú. “Nhưng nó bị hỏng rồi!” bà ta kêu lên. “Sao lại thế được?”

“Hỏng?” Clary bối rối nhìn chiếc Cốc. Cô cảm thấy nó ổn mà.

“Đây,” phù thủy nói, “để ta chỉ cho cháu,” và bước về phía Clary, giơ bàn tay dài sơn móng đỏ chót về phía chiếc Cốc. Clary, không hiểu vì sao, giật lùi lại. Đột nhiên Jace đã đứng chắn giữa, tay đặt gần thanh kiếm đeo nơi thắt lưng.

“Không có ý gì,” anh bình tĩnh nói. “nhưng không ai được chạm vào chiếc Cốc trừ bọn tôi.”

Dorothea nhìn anh một lúc, rồi ánh nhìn trống trải kỳ lạ trở về với đôi mắt bà. “Nào,” bà ta nói, “đừng vội chứ. Valentine sẽ không vui nếu có chuyện xảy ra với chiếc Cốc đâu.”

Với tiếng soạt nho nhỏ, Jace tuốt kiếm khỏi vỏ. Mũi kiếm chờn vờn ngay dưới cằm Dorothea. Ánh nhìn của Jace vô cùng kiên định. “Tôi không biết chuyện gì đang diễn ra,” anh nói. “Nhưng chúng tôi đi đây.”

Đôi mắt mụ già sáng lên. “Tất nhiên rồi, Thợ Săn Bóng Tối,”

Bà ta nói, lùi về phía bức tường che rèm. “Có muốn dùng Cổng Dịch Chuyển không?”

Mũi kiếm Jace rung lên vì bối rối trong chốc lát. Rồi Clary thấy anh nghiến chặt răng. “Đừng chạm vào…”

Dorothea chậc lưỡi, rồi nhanh như một tia chớp, bà ta giật rèm treo trên tường xuống. Chúng rơi xuống kèm theo một âm thanh sập xuống nho nhỏ. Cổng Dịch Chuyển đằng sau đã mở.

Clary nghe thấy Alec đằng sau cô, rít một hơi. “Cái gì kia?” Clary chỉ thoáng thấy một cái gì đó sau cánh cửa – những đám mây đỏ bay qua với một tia chớp đen, rồi một cái bóng đen sì, kinh khủng lao vù vù về phía họ – thì Jace hét bảo họ nằm xuống. Anh nằm ệp xuống, kéo Clary xuống theo. Clary nằm dán bụng lên mặt thảm, ngẩng đầu kịp thấy cái thứ màu đen vừa ào qua đâm trúng Quý Bà Dorothea. Bà ta hét lên, giơ tay về phía trước mà vùng vẫy. Thay vì đánh bà ta ngã xuống, thứ đó cuốn lấy bà ta như vải liệm bọc quanh xác chết, màu đen kịt kia dường như thấm vào bà như mực đen thấm vào giấy. Lưng bà ta cong lên một cách xấu xí, toàn bộ cơ thể kéo dài ra khi bà ta bay dần, bay dần lên, cơ thể cứ lớn dần và thay đổi. Tiếng lanh canh phát ra từ vật gì đó rơi xuống đất khiến Clary cúi xuống nhìn, đó là chiếc vòng tay của Dorothea, giờ bị biến dạng và gãy nát. Rải rác giữa đống đá quý là thứ gì nhìn như những viên đá trắng nho nhỏ. Clary mất một lúc mới nhận ra đó là răng người.

Bên cạnh cô, Jace thầm thì điều gì đó. Nghe giống một tiếng kêu vì không tưởng nổi. Bên cạnh anh, Alec nói bằng cái giọng nghèn nghẹt, “Nhưng cậu bảo không có nhiều hoạt dộng của quỷ cơ mà – cậu nói mức độ hoạt động thấp!”

“Chúng thấp thật,” Jace gầm lên.

“Chắc khái niệm thấp của cậu khác tớ!” Alec hét, rồi cái thứ từng là Dorothea rống lên rồi biến dạng. Dường như nó đang phình ra, còng xuống, mọc u bướu và trở nên dị dạng…

Clary không dám nhìn nữa khi Jace đứng lên, kéo cô đứng dậy theo. Isabelle và Alec lục tục đứng lên, nắm chặt lấy vũ khí. Bàn tay đang cầm roi của Isabelle hơi run run.

“Đi!” Jace đẩy Clary về phía cửa căn hộ. Khi cô cố ngoái nhìn, cô chỉ thấy màu xám xịt đang uốn lượn, như những đám mây bão, một thân hình đen đúa ở giữa…

Bốn người họ lao ra ngoài sảnh, Isabelle dẫn đầu. Cô nàng chạy về phái cửa chính, cố mở rồi quay lại, nét mặt căng thẳng: “Nó bị kẹt rồi. Chắc có ai phù phép…”

Jace chửi thể và lục tìm gì đó trong túi. “Thanh stele của tôi ở chỗ khỉ nào…?”

“Em cầm đây,” Clary chợt nhớ ra. Khi cô cho tay vào túi, một tiếng động như sấm rền nổ tung xuyên căn phòng. Nền nhà rung chuyển dưới chân. Cô loang choạng suýt ngã, giữ lấy lan can để đứng vững. Khi nhìn lên, cô thấy một khe hở mới trên tường chia cắt sảnh với căn hộ của Dorothea, xung quanh đầy những mảnh gỗ vụn và gạch vữa, có cái gì đó đang trèo qua đó – phải nói là túa ra mới đúng.

“Alec!” Đó là Jace, đang hét: Alec đang đứng trước cái lỗ, mặt trắng bệch trông khiếp hoảng. Jace văng tục, chạy tới và nắm lấy tay anh, lôi anh lại ngay khi cái thứ đang túa ra kia chui ra khỏi tường chảy vào sảnh.

Clary thấy hơi thở bị nghẹn lại. Da thịt cái sinh vật đó mang màu chì và như thể bị bầm dập. Dưới lớp da dang dần rỉ ra, những khúc xương nhô lên – không phải những đoạn xương trắng mới, mà là xương như thể đã chôn dưới đất cả ngàn năm, đen, nứt và bẩn thỉu. Những ngón tay nó không dính lấy một chút thịt và toàn xương xẩu, cánh tay mang da mỏng dính chi chít những nốt mụn đen nhiều nước đen sì, mũi và mắt là những cái lỗ hõm vào. Những ngón tay mang móng vuốt cào lên mặt đất. Dính lòng thòng trên cổ tay và vai là những mảnh vải sáng màu: tất đều là những gì còn lại của những chiếc khăn và mũ đội đầu của Quý Bà Dorothea. Nó cao ít nhất 9 foot.

Nó nhìn xuống bốn thiếu niên bằng hốc mắt trống hoác. “Đưa ta,” nó nói bằng cái giọng như gió thổi rác bay trên những vỉa hè vắng lặng, “chiếc Cốc Thánh. Đưa nó cho ta, và ta để các ngươi sống.”

Hoảng sợ, Clary nhìn những người khác. Isabelle trông như việc nhìn thấy thứ kia đã đấm một cú vào da dày cô nàng vậy. Alec thì bất động. Chính Jace, như thường lệ, là người lên tiếng trước. “Ngươi là cái gì?” anh hỏi, giọng rất vững vàng, dù anh trông có vẻ rúng động hơn Clary từng thấy.

Thứ đó nghiêng đầu. “Ta là Abbadon. Ta là Ác Quỷ của Địa Ngục. Nơi ở của ta là gió và bóng tối mịt mùng. Ta không giống những thứ chỉ biết rên rỉ ỉ ôi mà các người gọi là ác quỷ, cũng như đại bàng không thể nào giống với ruồi muỗi được. Các người đừng nghĩ tới chuyện đánh bại ta. Đưa ta chiếc Cốc hoặc chết.”

Chiế roi của Isabele run run. “Nó là một Đại Quỷ,” cô nói. “Jace, nếu chúng ta…”

“Còn về Dorothea?” Giọng Clary yếu ớt vang lên trước khi cô kịp ngăn lại. “Chuyện gì đã xảy ra với bà ấy?”

Đôi mắt trống rỗng của con quỷ liếc sang cô. “Mụ ta chỉ một cái vỏ mà thôi,” nó nói. “Mụ ta mở Cổng Dịch Chuyển và ta nhập vào. Cái chết của mụ rất nhanh gọn.” Tia nhìn của nó chuyển sang chiếc Cốc trên tay cô. “Cái chết của ngươi thì không đâu.”

Nó bắt đầu tiến về phía cô, Jace chắn đường, thanh gươm sáng loáng ở một bên tay, thanh thiên đao cầm chắc ở tay còn lại. Alec đang quan sát, vẻ mặt kinh hoàng tột độ.

“Nhân danh Thiên Thần,” Jace nói, nhìn con quỷ từ trên xuống dưới. “Ta biết Đại quỷ phải rất xấu xí, nhưng không ai báo trước cho ta về mùi hôi cả.”

Abbbadon mở miệng mà rít lên. Bên trong miệng nó là hai hàm răng sắc nhọn như mảnh kính vỡ.

“Ta không rõ lắm về cái vụ gió máy và bóng tối mịt mùng này,” Jace nói tiếp, “ta thấy mùi giống mùi bãi rác thì đúng hơn. Ngươi có chắc là không phải đến từ đảo Stalen Island chứ?”

Con quỷ này nhảy về phía anh. Jace giơ hai tay giơ dao và kiếm lên bằng tốc độ nhanh tới đáng sợ; cả hai thanh kiếm cắm vào phần nhiêu thịt nhất của con quỷ, bụng nó. Nó gầm lên, đánh anh ngã vật sang bên hệt như mèo lớn gạt phăng con mèo nhỏ. Jace lăn sang bên rồi bật dậy, nhưng Clary nhìn theo cách anh ôm tay là biết anh bị thương.

Thế là đủ cho Isabelle. Lao về phía trước, cô dùng roi vụt vào con quỷ. Roi quất trúng phần da xám xijt, một vết lằn đỏ xuất hiện, ứ đầy máu. Abbadon chẳng thèm để ý mà tiếp tục phăm phăm bước về phía Jace.

Bằng cánh tay lành lặn Jace rút thanh thiên đao thứ hai ra. Anh thì thầm gì đó với nó và nó phóng dậy, phát ra ánh sáng chói lọi. Anh giơ nó lên trong khi con quỷ đứng sừng sững trước mặt; anh nom nhỏ bé tới đáng thương trước nó, như một đứa trẻ bị một con quái vật che khuất. Và anh đang cười, kể cả khi con quỷ thò tay về phía anh. Isabelle, gào lên, quất roi vào nó, khiến máu bắn thành từng dòng đặc quánh trên nền nhà.

Con quỷ ra đòn, bàn tay sắc như dao cạo xả xuống Jace. Jace loạng choạng lùi lại, nhưng không bị tổn hại gì. Có gì đó chen vào giữa anh và con quỷ, một bóng người mặc đồ đen gầy gò đang cầm một thứ vũ khí sáng loáng trên tay. Alec. Con quỷ rú lên – thanh trượng gắn lông vũ của Alec đã đâm vào da nó. Với một tiếng gầm gừ nó giáng đòn tiếp theo, những móng vuốt xương tạt một đòn chí mạng vào Alec khiến anh bật người và bay trúng bức tường đằng xa. Anh đập vào tường với một tiếng rắc nghe ghê người và trượt dài xuống nền nhà.

Isabelle hét gọi tên anh trai. Anh không nhúc nhích. Hạ roi xuống, cô nàng bắt đầu chạy về phía anh. Con quỷ quay lại, đấm một cú trái tay khiến cô nàng lăn dài trên đấy. Ho ra máu, Isabelle gượng đứng dậy; Abbadon lại đánh và lần này, cô nằm im không nhúc nhích.

Con quỷ tiến tới chỗ Clary.

Jace đứng chết trên, nhìn thân thể co quắp của Alec như thể bị kẹt trong ác mộng. Clary hét lên khi Abbadon tới gần. Cô bắt đầu lùi lên cầu thang, té lên té xuống trên những bậc thang đã gãy vụn. Thanh stele bỏng rát trên da. Giá như cô có vũ khí, bất cứ thứ gì…

Isabelle đã lồm cồm ngồi được dậy. Vuốt những sợi tóc dính máu ngược lên, cô nàng hét gọi Jace. Clary nghe thấy tên mình trong tiếng hét của Isabelle và thấy Jace, chớp mắt như vừa bị tát cho tỉnh dậy, quay phắt người lao tới. Anh bắt đầu chạy. Con quỷ đang ở gần tới mức Clary có thể thấy những nốt nhọt đen trên da nó, thấy những thứ đang lúc nhúc bò trong đó. Nó đang vươn tay về phía cô…

Nhưng Jace đã ở đó, gạt bàn tay của Abbadon đi. Anh quăng thanh thiên đao vào con quỷ; lưỡi dao cắm vào ngực sinh vật, cạnh hai con dao đã ghim trên đó. Con quỷ nhe răng gầm ghè như thể hai lưỡi dao chỉ để gãi ngứa. “Thợ Săn Bóng Tối,” nó gầm. “Ta thích được giết người, được nghe tiếng xương người gẫy vụn như thằng bạn của người…”

Jace phóng lên trên lan can, lao mình về phía Abbadon. Lực từ cú nhảy khiến con quỷ lùi về sau; nó loạng choạng, Jace bám chắc trên lưng nó. Anh rút dao từ ngực nó, làm bắn ra một dòng nước vàng, rồi lại đâm xuống, hết lần này tới lần khác vào lưng con quỷ, và vai nó đầy những chất lỏng màu đen.

Gầm gừ, Abbadon lùi dần về tường. Jace phải nhảy xuống không thôi bị nghiền nát. Anh rơi xuống nền nhà, hạ cánh nhẹ nhàng và lại giơ lưỡi dao lên. Nhưng Abbadon nhanh hơn anh nhiều; tay nó xả xuống, đánh bật Jace về phía cầu thang. Jace ngã xuống, bàn tay đầy những vuốt bóp nghiến lấy cổ họng anh.

“Bảo chúng đưa chiếc Cốc cho ta,” Abbadon gầm, những cái móng chỉ cách da Jace một chút xíu. “Bảo chúng đưa nó cho ta và ta sẽ để chúng sống.”

Jace nuốt khan. “Clary…”

Nhưng Clary không biết anh định nói gì, vì đúng giây phút đó, cánh cửa trước bật mở. Ngay khoảnh khắc đó cô thấy ánh sáng. Rồi, chớp mắt xóa đi dư ảnh chói lòa, cô thấy Simon đứng trước ngưỡng cửa, Simon. Cô đã quên mất cậu đang đứng ngoài, đã gần như quên rằng cậu có tồn tại.

Simon nhìn cô trong tư thế co rúm trên cầu thang, hết nhìn cô lại nhìn Abbadon và Jace. Cậu với tay ra sau lưng. Cậu đang cầm cây cung của Alec, cô nhận ra, và bao tên đeo sẵn sau lưng. Cậu rút một mũ tên, đặt lên dây, điệu nghệ nâng cung lên, như đã làm chuyện này cả trăm lần trước đó.

Mũi tên phóng đi. Nó tạo ra tiếng rì rì nóng cháy, như tiếng đạp cánh của một con ong nghệ khổng lồ, khi nó vọt qua đầu Abbadon, lao về mái nhà.

Và làm vỡ kính giếng trời. Lớp kính đen cáu bẩn rơi xuống như mưa, và qua ô cửa sổ vỡ đó ánh mặt trời tràn vào, ánh mặt trời rực rỡ, những tia sáng vàng chói chang từ trần chiếu xuống và tràn ngập sảnh.

Abbadon hét lên và loạng choạng lùi lại, dùng tay mà che cái đầu dị dạng. Jace lần sờ cổ họng không hề bị tổn hại, trố mắt mà nhìn con quỷ đang co rút, đang gào thét trên sàn nhà. Clary cứ nghĩ nó sẽ bốc cháy, nhưng nó cứ thế co dần lại. Chân nó rút dần về phía thân, xương sọ mất dần mất dần tựa một tờ giấy đang cháy, và trong một phút nó hoàn toàn biến mất, chỉ để lại những vết cháy xém.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Simon hạ cung. Cậu chớp mắt sau cặp kính, miệng hơi hé mở. Cậu có vẻ kinh ngạc hệt như Clary.

Jace nằm trên đầu cầu thang, đúng nơi con quỷ ném anh xuống. Anh đang cố hết sức đứng lên thì Clary trượt xuống mấy bậc thang quỳ thụp xuống bên cạnh anh. “Jace…”

“Anh ổn.” Anh ngồi thẳng, lau máu trên khóe miệng. Anh ho và nhổ ra máu đỏ. “Alec…”

“Thanh stele của anh,” cô ngắt lời khi cho tay vào áo khoác. “Anh cần chữa cho mình không?”

Anh nhìn cô. Ánh mặt trời đổ xuống qua giếng trời vỡ nát chiếu sáng gương mặt anh. Anh trông như thể đang kìm mình khỏi điều gì đó bằng một nỗ lực vô cùng to lớn. “Anh vẫn ổn,” anh lại nói và đẩy cô sang bên, không hề nhẹ nhàng chút nào. Anh đứng dậy loạng choạng và suýt ngã – một cử động không duyên dáng đầu tiên cô thấy nơi anh, “Alec?”

Clary nhìn theo trong khi anh đi cà nhắc về phía người bạn đang nằm im bất tỉnh. Rồi cô nhét chiếc Cốc Thánh vào túi áo lạnh và đứng dậy. Isabelle đã bò tới bên anh trai và ôm đầu anh vào trong lòng, vuốt mái tóc anh. Ngực anh phập phồng lên xuống – chầm chậm, nhưng anh còn thở. Simon, dựa người vào tường mà quan sát, có vẻ kiệt sức tới khó tả. Clary nắm chặt tay cậu khi đi tới bên. “Cảm ơn,” cô thì thào. “Cậu tuyệt lắm.”

“Đừng cảm ơn mình,’ cậu nói, “hãy cảm ơn khóa học bắn cung của trại hè B’nai B’rith.”

“Simon, mình không…”

“Clary!” đó là Jace, đang gọi cô. “Đưa thanh stele cho anh.”

Simon miễn cưỡng thả tay cô. Cô quỳ xuống bên những Thợ Săn Bóng Tối, chiếc Cốc Thánh nặng nề đè lên hông cô. Gương mặt Alec trắng bệch, lốm đốm những vệt máu, đôi mắt xanh một cách không bình thường. Alec để lại trên cổ tay Jace những vệt máu. “Tớ có…,” anh cất tiếng, rồi dường như đã thấy Clảry, như thể lần đầu tiên. Cái gì đó trong ánh nhìn của anh mà cô chưa từng tưởng tượng thấy. Khải hoàn. “Tớ có giết nó không?”

Gương mặt Jace nhăn lại một cách đau đớn. “Cậu…”

“Có,” Clary nói. “Nó chết rồi.”

Alec nhìn cô mà cười. Máu sủi bọt từ miệng. Jace giằng tay ra, chạm những ngón tay lên hai bên mặt Alec. “Đừng,” anh nói. “Nằm im, cứ nằm im đấy.”

Alec nhắm mắt. “Hãy làm điều cậu phải làm,” anh thì thào.

Isabelle rút thanh stele của mình và đưa cho Jace. “Cầm lấy.”

Anh gật đầu, vẽ bằng mũi thanh stele lên mặt trước áo Alec. Lớp vải tách ra như thể anh dùng dao cắt đi. Isabelle quan sát bằng đôi mắt hoảng loạn trong khi anh xé áo, phanh ra bộ ngực trần của Alec. Da Alec rất trắng, đó đây có vài vết sẹo trong suốt. Trên ngực anh còn những vết thương khác: dấu móng vuốt chằng chịt đang đen lại, từ đó máu đỏ đang ào ạt chảy ra. Jace cắn chặt răng, đặt mũi stele lên da Alec, vẽ một cách thuần thục do luyện tập nhiều lần. Nhưng có gì đó không ổn. Kể cả khi anh vẽ những ấn ký trị thương, chúng dường như cứ thế biến mất như anh vẽ trên nước.

Jace ném thanh stele sang bên. “Chết tiệt.”

Giọng Isabelle run rẩy. “Có chuyện gì thế?”

“Nó làm anh ấy bị thương bằng móng vuốt,” Jace nói. “Anh ấy dính độc. Các Ấn Ký không có tác dụng.” Anh lại chạm lên mặt Alec, nhẹ nhàng. “Alec,” anh nói. “Cậu có nghe tớ nói không?”

Alec không nhúc nhích. Bọng mắt anh trông xanh xanh và đen như một vết bầm. Nếu không có tiếng thở của anh, Clary sẽ tưởng anh đã chết rồi.

Isabelle cúi đầu, mái tóc phủ lên gương mặt Alec. Cô choàng tay ôm trọn người anh. “Có lẽ,” cô thì thào, “chúng ta có thể…”

“Đưa anh ấy tới bênh viện đi.” Simon đang đứng nhìn họ, cái cung treo tòng teng ở một bên tay. “Mình sẽ giúp đưa anh ta vào xe. Bệnh viện của Hội Giáo Lý nằm ngay trên Đại lộ số Bảy…”

“Không bệnh viện gì hết,” Isabelle nói. “Chúng ta cần đưa anh ấy trở lại Học viện.”

“Nhưng…”

“Bệnh viện không biết cách chữa trị cho Alec,” Jace nói. “Anh ấy bị Đại Quỷ đánh trọng thương. Không một bác sĩ người thường nào biết cách chữa lành những vết thương này.”

Simon gật đầu. “Được rồi. Đưa anh ta lên xe.”

May mắn sao, chiếc xe không bị kéo đi. Isabelle đắp chiếc chăn bẩn ngang ghế sau và đặt Alec nằm trên đó, đầu đặt trên lòng Isabelle. Jace ngồi trên sàn bên cạnh bạn. Áo anh dính đầy máu trên cổ tay, ngực, máu người hòa chúng với máu quỷ. Khi anh nhìn Simon, Clary thấy tất cả ánh vàng đã bị gột sạch ra khỏi ánh mắt bởi một cung bậc cảm xúc cô chưa bao giờ thấy ở nơi anh. Hoảng sợ.

“Lái nhanh lên, anh bạn người thường,” anh nói. “Lái như thể lửa địa ngục đang đốt đít cậu ấy.”

Simon lái đi.


Họ quặt xe xuống Flatbush và phóng lên cầu, đi ngang tốc độ của tàu Q trong lúc nó đang xình xịch đi qua mặt nước xanh. Ánh mặt trời chói chang rọi vào mắt Clary, tỏa ra những tia nóng điên người lên dòng sông Đông. Cô nắm chặt lấy ghế trong khi Simon rẽ đường cung ra khỏi cầu với vận tốc năm mươi dặm một giờ.

Cô nghĩ về những điều tệ hại cô đã nói với Alec, về cái cách anh đã lao vào quỷ Abbadon, và về vẻ khải hoàn trên mặt anh. Khi quay đầu lại, cô thấy Jace đang quỳ cạnh người bạn trong khi máu đang loang dần trên tấm chăn. Cô nghĩ tới cậu bé với xác con chim cắt. Yêu thương là hủy diệt.

Clary quay đầu nhìn ra đằng trước mà cổ họng nghẹn ứ. Qua chiếc gương chiếu hậu chếch một góc không hợp lý, Clary thấy Isabelle đang quấn chăn quanh cổ Alec. Cô nàng ngước mắt và nhìn vào mắt Clary. “Còn bao xa?”

“Có lẽ là mười phút. Simon đang lái nhanh hết mức rồi.”

“Mình biết,” Isabelle nói. “Simon- những gì cậu đã làm thật không thể tin nổi. Cậu di chuyển quá nhanh. Mình không thể nghĩ một người thường có thể nghĩ tới một việc như thế.”

Simon dường như không bị lời khen ngợi từ một nguồn không ngờ tới làm cho rối trí chút nào; cậu vẫn dán mắt vào đường. “Ý cậu là bắn vào giếng trời á? Mình nghĩ ra ngay khi các cậu bước vào. Mình đang nghĩ tới cái giếng trời đó và các cậu bảo quỷ không chịu được ánh sáng mặt trời trực tiếp. Vì thế, thực ra mình mất một lúc mới hành động. Đừng thấy xấu hổ nha,” cậu nói thêm, “cậu không thể thấy được cái giếng trời này đâu nếu cậu không biết nó ở đó.”

Mình biết nó ở đó, Clary nghĩ. Đáng ra mình phải biết mà đập vỡ nó. Thậm chí nếu mình không có cung và tên, mình có thể dùng gì đó mà ném vào hoặc bảo Jace. Cô thấy mình ngu ngốc, vô dụng và vụng về, cứ như đầu cô chứa toàn bông không vậy. Sự thật là cô sợ. Quá sợ không thể nghĩ ngợi gì cho ra hồn. Cô cảm thấy xấu hổ đang bừng sáng sau mí mắt như một mặt trời bé con.

Rồi Jace nói, “cậu làm tốt lắm.”

Simon nheo mắt. “Vậy, nếu anh không phiền nói cho tôi biết – về thứ đó, về con quỷ - nó từ đâu tới?”

“Nó là Quý Bà Dorothea,” Clary nói. “Ý mình là, một dạng khác của bà ta.”

“Bà ấy chưa bao giờ có thân hình gợi cảm, nhưng mình không nghĩ bà ta lại xấu đến thế.”

“Mình nghĩ bà ta bị nhập,” Clary chậm chạp cất tiếng, cô ghép từng mảnh ký ức lại. “Bà ta muốn mình đưa chiếc Cốc. Rồi bà ta mở cổng dịch chuyển…”

“Thật thông minh,” Clary nói. “Con quỷ nhập vào bà ta, rồi giấu dạng siêu hình ở ngoài Cổng Dịch Chuyển, vì thế Máy Cảm Ứng không thể dò ra. Thế là chúng ta ngù ngờ đi vào cùng suy nghĩ đơn giản rằng sẽ đụng độ vài Kẻ Lầm Đường mà thôi. Thế mà chúng ta lại đối mặt với một Đại Quỷ. Abbadon – một trong những con Cổ Quỷ. Chúa Tể của những Tội Đồ.”

“Ờm, có vẻ từ giờ những Tội Đồ phải học cách sống mà không có nó,” Simon nói và quặt sang một con đường khác.”

“Nó không chết,” Isabelle bảo. “Khó có ai giết được đại quỷ lắm. Cậu phải giết chúng cả ở dạng thể chất và dạng siêu hình thì chúng mới chết hẳn. Chúng ta chỉ dọa nó bỏ chạy thôi.”

“Ồ.” Simon có vẻ thất vọng. “Còn về Quý Bà Dorothea? Bà ấy sẽ ổn chứ…”

Cậu ngừng nói, vì Alec bắt đầu ho sặc lên, thở khò khè, Jace bực bội lầm bầm chửi thề. “Sao chúng ta chưa về chứ?”

“Chúng ta về rồi. Chỉ là tôi không muốn đâm vào tường thôi.”Simon cẩn thận đậu lại ở góc đường, Clary thấy cửa Học Viện đã mở, bác Hodge đứng ngay dưới mái vòm. Chiếc xe đỗ xịch lại và Jace nhảy ra, với ra sau nhấc Alec lên như thể anh ấy không nặng hơn một đứa tẻ. Isabelle đi theo, cầm theo thanh trượng gắn lông vũ đẫm máu của người anh trai. Cửa Học Viện đóng sầm lại sau lưng họ.

Trong cơn mệt mỏi đang vắt kiệt từng chút sức lực, Clary nhìn Simon. “Mình xin lỗi. Mình không biết cậu nên giải thích thế nào cho Eric về vết máu.”

“Kệ Eric đi,” cậu nói với sự thuyết phục. “Cậu ổn không?”

“Không có lấy một vết trầy. Mọi người đều bị thương, nhưng mình thì không.”

“Đó là nghề của họ mà, Clary,” cậu nhẹ nhàng nói. “Quần thảo với quỷ - đó là điều họ làm. Không phải của cậu.”

“Mình làm gì đây, Simon?” cô hỏi, nhìn gương mặt bạn để tìm ra câu trả lời. “Mình làm gì đây?”

“À – cậu lấy chiếc Cốc,” cậu nói. “Đúng không nào?”

Cô gật đầu và vỗ vào túi. “Đúng.”

Simon có vẻ nhẹ nhõm hơn. “Mình thật không muốn hỏi,” cậu nói. “Có được chiếc Cốc là tốt rồi, đúng không?”

“Ừ,” cô nói. Cô nghĩ tới mẹ và nắm chặt lấy chiếc Cốc hơn. “Mình biết thế mà.”


Church đón cô ở đầu cầu thang, kêu meo meo như một con mèo già và dẫn cô tới bệnh xá. Cánh cửa đôi đã mở, qua đó cô có thể thấy cơ thể bất động của Alec đặt trên giường phủ ga trắng muốt. Bác Hodge đang lúi cúi trên người anh; Isabelle ngồi cạnh người gia sư già, tay đang cầm chiếc khay bạc.

Jace không ở cùng họ. Anh không ở cùng vì anh đang đứng ngoài bệnh xá, dựa người vào tường, bàn tay dính đầy máu co lại, buông thõng. Khi Clary dừng lại trước anh, anh mở choàng mắt và cô thấy đôi đồng tử đang mở rộng, toàn bộ sắc vàng bị màu đen nuốt gọn.

“Anh ấy sao rồi?” cô hỏi, nhẹ nhàng hết mức có thể.

“Alec mất rất nhiều máu. Dính phải quỷ độc cũng là điều bình thường, nhưng vì đây là Đại Quỷ, bác Hodge không biết dùng thuốc giải loại thường dùng có hiệu quả không.”

Cô vươn tay chạm vào tay anh. “Jace…”

Anh tránh ra. “Đừng.”

Hơi thở cô nghẹn lại. “Em chưa bao giờ muốn có chuyện gì xảy ra cho Alec. Em xin lỗi.”

Anh nhìn cô như thể lần đầu nhìn thấy. “Đó không phải lỗi của em,” anh nói. “Là của anh.”

“Của anh? Jace, không phải đâu…”

“Ồ, nhưng đúng thế đấy,” anh nói giọng mảnh như một miếng băng lạnh. “Mea culpa, mea maxima culpa.”

“Nghĩa là gì thế?”.

“Lỗi của tôi,” anh nói. “Lỗi của tôi, lỗi của tôi mọi dòng. Tiếng la tinh.” Anh vô thức vén lọn tóc khỏi trán cô, như thể không ý thức mình đang làm gì. “Một phần của lễ Mi-xa.”

“Em tưởng anh không tin vào tôn giáo.”

“Anh có thể không tin vào tội ác,” anh nói “nhưng anh vẫn cảm thấy có tội. Thợ Săn Bóng Tối bọn anh muốn sống theo một tôn chỉ, mà tôn chỉ đó lại không linh hoạt. Danh dự, lỗi lầm, ăn năn, những thứ đó là thật đối với bọn anh, và mặc dù chúng không liên quan tới tôn giáo nhưng lại liên quan tới con người bọn anh. Anh là thế đấy, Clary ạ,” anh tuyệt vọng nói. “Anh là một thành viên của Clave. Nó nằm trong máu huyết, xương tủy của anh. Vậy nói cho anh nghe, nếu em chắc chắn rằng đây không phải lỗi của anh, thì vì sao ý nghĩ đầu tiên trong anh khi thấy Abbadon lại không phải là về những chiến binh đồng đội của anh, mà là về em vậy?” Cánh tay kia của anh giơ lên, anh ôm lấy gương mặt cô, giam giữ gương mặt cô trong hai lòng bàn tay. “Anh biết – anh đã biết – Alec không hành xử bình thường. Anh biết có gì đó không ổn. Nhưng anh chỉ nghĩ về em mà thôi…”

Anh cúi đầu, để trán họ chạm vào nhau. Cô có thể cảm thấy hơi thở anh làm lay động hàng lông mi của cô. Cô nhắm mắt, để sự gần gụi với anh lan tỏa trong mình như một cơn thủy triều. “Nếu Alec chết, đó là do anh giết anh ấy,” anh nói. “Anh đã để bố chết, và giờ anh lại giết luôn cả người anh em duy nhất anh có.”

“Không phải đâu,” cô thì thào.

“Ồ, đúng đấy.” Họ đã ở khoảng cách gần để trao nhau một nụ hôn. Và anh vẫn ôm cô rất chặt, như chẳng điều gì có thể cho anh tin vào sự tồn tại của cô. “Clary,” anh nói. “Chuyện gì đang xảy ra với anh thế này?’

Cô cố tìm trong trí một câu trả lời – và nghe có ai đang húng hắng. cô mở mắt. Bác Hodge đứng cạnh cửa bệnh xá, bộ com lê gọn gàng đã lấm tấm những vết bẩn. “Ta đã cố gắng hết sức. cậu ấy đã dùng thuốc an thần, không đau đớn, nhưng…” Bác lắc đầu. “Ta phải liên lạc với hội Tu Huynh Câm. Điêu này vượt qua khả năng của ta rồi.”

Jace từ từ rời khỏi Clảy. “Bọn họ mất bao lâu mới tới được.”

“Ta không biết.” Bác Hodge bắt đầu bước xuống hành lang, vừa đi vừa lắc đầu. “Ta sẽ phái Hugo đi ngay lập tức, nhưng các Tu Huynh tới lúc nào là chuyện của họ,”

“Nhưng vì chuyện này…” Kể cả Jace cũng phải cố lắm mới theo kịp những sải bước dài của bác Hodge; Clary thì đã cách xa thảm hại sau hai người đó và phải cố dỏng tai nghe anh nói. “Cậu ấy sẽ chết mất.”

“Có thể” bác Hodge chỉ đáp có thể.

Thư viện tối và có mùi của mưa: một trong những ô cửa sổ để ngỏ, và một vũng nước đọng lại dưới những tấm rèm. Hugo kêu ríu rít và nhảy trên chỗ đậu trong khi bác Hodge đi tới, dừng lại chỉ để bật ngọn đèn trên bàn. “Thật đáng tiếc,” bác Hodge nói khi với lấy cây bút mực và tờ giấy, “rằng các cháu không mang chiếc Cốc về. Bác nghĩ, dù sao thế sẽ đem lại chút an ủi cho Alec và chắc chắn là cho…”

“Nhưng cháu có mang chiếc Cốc về,” Clary ngạc nhiên đáp. “Anh không nói gì với bác sao, Jace?”

Jace đang chớp mắt, nhưng do ánh nắng bất ngờ hay vì bị hỏi đột ngột thì Clary không rõ. “Không có thời gian – anh đang đưa Alec lên lầu…”

Bác Hodge đã đứng im phăng phắc, chiếc bút không hề rung động giữa mấy ngón tay. “Các cháu có chiếc Cốc?”

“Vâng.” Clary rút chiếc Cốc khỏi áo: nó vẫn lạnh, như thể tiếp xúc với cơ thể cô cũng không thể làm kim loại ấm lên được. Những viên hồng ngọc trên đó hấp háy sáng như những con mắt đỏ. “Cháu có nó ở đây.”

Cây bút hoàn toàn tuột khỏi tay bác Hodge và rơi xuống sàn ngay chân bác. Ngọn đèn bàn hắt ánh sáng ngược lên, không ưu ái cho gương mặt dạn dày của bác: ánh sáng soi rõ từng nếp hằn khắc khổ, lo lắng và mệt mỏi. “Đó là chiếc Cốc của Thiên Thần sao?”

“Đúng nó,,” Jace nói. “Nó là…”

“Giờ không vấn đề gì rồi,” bác Hodge nói. Bác đặt tờ giấy xuống bàn và tiến tới chỗ Jace, nắm lấy vai cậu học trò. “Jace Wayland, cháu biết cháu đã làm được gì không?”

Jace ngạc nhiên ngước mắt nhìn Bác Hodge. Clary nhận thấy sự đối lập: gương mặt đầy nếp nhăn của người già và gương mặt tươi trẻ của một cậu thiếu niên, những lọn tóc sáng màu rơi xuống mắt Jace thậm chí còn làm anh trông trẻ hơn. “Cháu không hiểu ý của bác,” Jace nói.

Hơi thở của bác Hodge rít qua kẽ răng. “Cháu rất giống anh ấy.”

‘Giống ai?’ Jace kinh ngạc hỏi; rõ ràng anh chưa bao giờ nghe bác Hodge nói chuyện kiểu này.

“Giống bố cháu,” bác Hodge nói và nhướn mắt nhìn con Hugo đang khe khẽ vỗ đôi cánh đen trong không khí ẩm ướt, bay liệng ngay trên đầu họ.

Bac Hodge nheo mắt. “Hugin,” bác nói, và với một tiếng quang quác ghê tai, con chim xòe móng vuốt, lao thẳng vào mặt Clary.


Clary nghe Jace hét, và rồi thế giới chỉ toàn những sợi lông vũ bay và hết móng vuốt rồi mỏ chim liên tiếp bổ xuống. cô thấy đau rát trên má và ré lên, theo bản năng đưa tay lên che mặt.

Cô cảm thấy chiếc Cốc Thánh bị giằng khỏi tay. “Không!” cô thét mà cố nắm lấy. Một cơn đau kinh hoàng chạy dọc cánh tay. Chân cô dường như bị đứt lìa. Cô trượt chân và ngã, đầu gối đập mạnh trên nền cứng. Móng vuốt cào lên trán cô.

“Đủ rồi, Hugo.” Hodge điềm tĩnh ra lệnh.

Con chim ngoan ngoãn bay xa khỏi Clary. Vừa khạc nhổ, Clary vừa chớp mắt để máu chảy xuống từ khóe mắt. Mặt cô dường như bị xé vụn.

Hodge không nhúc nhích; lão đứng nagy tại đó, tay cầm Cốc Thánh. Hugo đang bị kích động lượn từng vòng lớn và kêu khe khẽ. Còn Jace – Jace đang bất động nằm dưới chân Hodge, nằm thật im, như đột nhiên chìm vào cơn mộng mị.

Tất cả các ý nghĩ khác đều bay biến khỏi đâu cô. “Jace!”nói cũng làm cô đâu – cơn đau trên má thật đáng nể và cô cảm nhận được vị máu trong miệng. Jace không cử động.

“Cậu ta không sao đâu,” Hodge nói. Clary đang đứng dậy, muốn lao về phía lão – nhưng bị dội lại khi cô va vào thứ gì đó cứng và bền như pha lê. Giận dữ, cô đấm tay vào không khí

“Bác Hodge!” cô hét. Cô đá, gần như làm chân mình bầm dập vì bức tường vô hình đó. “Đừng ngốc nghếch vậy. Khi hội Clave biết bác đã làm gì…”

“Thì ta đã đi rồi,” lão nói, quỳ xuống bên Jace.

“Nhưng…” Cô choáng váng, như bị sốc điện khi nhận ra sự thật. “Ông chưa từng gửi thư cho hội Clave, đúng không. Vậy nên ông cư xử kỳ lạ khi tôi hỏi. ông muốn chiếc Cốc cho riêng mình.”

“Không,” Hodge nói, “không phải cho ta.”

Cổ họng clary khô khốc như ngói. “Ông làm việc cho Valentine,” cô thì thào.

“Ta không làm việc cho Valentine,”hodge nói. Lão nâng tay Jace lên và rút gì đó khỏi tay anh. Là chiếc nhẫn chạm trổ hình ngôi sao mà Jace luôn đeo. Hodge đeo vào tay mình. “Nhưng ta là người của Valentine, quả vậy thật.”

Bằng cử động nhuần nhuyễn, lão xoay chiếc nhẫn ba lần quanh ngón tay. Lúc đầu chẳng có chuyện gì xảy ra; rồi Clary nghe có tiếng cửa mở và vô thức quay lại xem ai bước vào thư viện. Khi cô quay lại, cô thấy bầu không khí cạnh Hodge gờn gợn như bề mặt hồ nhìn từ xa. Bức tường không khí gợn sóng rẽ ra như một tấm màn bạc, và rồi một người đàn ông cao lớn đang đứng cạnh Hodge, như thể hắn ta kết lại từ không khí ẩm.

“Starkweather,” hắn nói. “Anh có chiếc Cốc rồi chứ?”

Hodge giơ chiếc cốc trên tay, nhưng không nói gì. Bác ta đờ đẫn, nhưng vì sợ hay sửng sốt, thì thực sự Clary không biết. Clary luôn thấy lão rất cao, nhưng giờ trông lão như bị gù và teo nhỏ lại. ‘Chủ nhân Valentine của tôi,” cuối cùng lão nói. “Tôi không nghĩ ngài xuất hiện nhanh thế.”

Valentine. Hắn không còn nhiều mét tương đồng với cậu thanh niên đẹp trai trong bức hình, dù đôi mắt vẫn đen như cũ. Gương mặt hắn không phải giống như cô tưởng tượng: khắc khổ, kín kẽ, nội tâm, khuôn mặt của thầy tu với đôi mắt u buồn. Lộ ra bên dưới cổ tay áo com lê cắt may là những vết sẹo trắng gợn lên do nhiều năm sử dụng stele để lại. “Ta đã nói ta sẽ tới với người qua một Cổng Dịch Chuyển,” hắn nói. Giọng hắn nghe sang sảng, quen thuộc đến lạ lùng. “Ngươi không tin sao?”

“Có. Chỉ là – tôi nghĩ ngài sẽ phái Pangborn hoặc Blackwell, chứ không phải thân chinh hạ cố.”

“Người nghĩ ta sẽ để chúng mang chiếc Cốc về ư? Ta không ngốc. Ta biết sự cám dỗ của nó ra sao.” Valentine giơ tay ra, và Clary trông thấy, sáng lên trên ngón tay hắn là chiếc nhẫn giống hệt chiếc nhẫn của Jace. “Đưa cho ta.”

Nhưng Hodge ôm cứng lấy chiếc Cốc. “Tôi muốn có điều ngài hứa trước.”

“Trước ư? Ngươi không tin ta hả, Starkweather?” Valentine mỉm cười, một nụ cười không hề có chút vui vẻ nào. “Ta sẽ làm theo những gì người yêu cầu. Thỏa thuận là thỏa thuận. Mặc dù phải nói, ta rất kinh ngạc khi nhận được tin từ người. Nói nào ngày, ta đã nghĩ ngươi sẽ không màng gì một cười đời đầy những suy tính che giấu. Ngươi chưa bao giờ thích hợp với chiến trường cả.”

“Ngài không biết cảm giác của tôi thế nào,” Hodge nói, thở dài thườn thượt. “Lúc nào cũng phải lo sợ…”

“Đúng. Ta không biết.”Giọng Valentine nghe buồn hệt như đôi mắt, như thể hắn đang thương hại Hodge. Nhưng trong đó còn có một vẻ khinh ghét, một sự ghê gớm. “Nếu người không định đưa chiếc cốc cho ta,” hắn nói, “người không nên triệu hồi ta tới đây.”

Gương mặt Hodge giật giật. “Không dễ để phản bội những gì ta tin vào – những người tin tưởng mình.”

“ý ngươi là vợ chồng Lightwood, hay những đứa con của họ.”

“Cả hai,” Hodge nói.

“À, vợ chồng Lightwood.” Valentien vươn tay vuốt ve quả địa cầu bằng đồng đặt trên bàn, những ngón tay dài di chuyển theo đường viền của những châu lục và đại dương. “Nhưng thực sự thì ngươi nợ chúng cai gì nào? Người phải chịu đựng sự trừng phạt đáng ra phải dành cho chúng. Nếu chúng không có mối quan hệ cấp cao với những kẻ lãnh đạo của Clave, thì chúng đã về, đi dưới ánh mặt trời như những người bình thường. Chúng được tự do về nha.” Giọng hắn khi nói tới “nhà” lại phấn khích lên bằng tất cả ý nghĩa sâu xa của từ đó. Ngón tay hắn đã ngừng di chuyển quanh quả địa cầu; Clary chắn hắn đang chạm vào nơi chắc là Idris.

Hodge vội nhìn đi nơi khác. “Họ làm điều những người khác sẽ làm.”

“Người sẽ không làm thế. Ta sẽ không làm thế. Để một người bạn thay mình chịu khổ ư? Và chắc chắn điều này phải khiến ngươi thấy chua xót này, Starweather, khi biết rằng chúng đã dễ dàng đẩy định mệnh này cho ngươi…”

Đôi vai Hodge run lên. “Nhưng đó không phải lỗi của con cái họ. Chúng chẳng làm gì…”

“Ta không biết ngươi lại yêu trẻ con cơ đấy, Starkweather ạ,” Valentine nói, tựa như ý tưởng đó làm hắn thấy vui.

Từng hơi thở ngắn, nhanh tràn ra khỏi lồng ngực Hodge, “Jace…”

“Ngươi không cần nói với Jace.” Lần đầu tiên Valentien có vẻ tức giận. Hắn liếc nhìn thân hình bất động trên sàn. “Nó đang chảy máu,” hắn nhận xét. “Vì sao?”

Hodge ôm chiếc Cốc trước ngực. Đốt ngón tay của lão trắng bệch. “Không phải máu thằng bé. Nó chỉ bất tỉnh, chứ không bị thương.”

Valentine ngửa cổ mỉm cười vui vẻ. “Ta tự hỏi,” hắn nói, “khi tỉnh dậy nó sẽ nghĩ về ngươi như thế nào. Phản bội không bao giờ là đẹp, nhưng phản bội một đứa trẻ - là phản bội gấp đôi, đúng không nào?”

“Ngài sẽ không làm thằng bé bị thương,” Hodge thì thào. “Ngài đã thề không làm thằng bé bị thương.”

“Không bao giờ ta làm vậy,” Valentien nói. “Nào, tới đây.” Hắn rời khỏi bàn, tiến tới chỗ Hodge, người đang rúm ró né xa dần hệt như một con thú nhỏ mắc bẫy. Clary có thể nhìn thấy sự khổ sở ở lão. “Và ngươi sẽ làm được gì nếu ta nói ta định làm nó tổn thương chứ? Ngươi sẽ đánh lại ta sao? Giữ chiếc cốc tránh xa ta? Thậm chí nếu ngươi có thể giết ta, hội Clave cũng không bỏ lời nguyền rủa với người. Ngươi sẽ trốn ở đây tới khi chết, sợ cả việc mở một ô cửa sổ quá rộng. Cái gì ngươi sẽ không đánh đổi, để không còn phải sợ nữa đây? Ngươi sẽ không từ bỏ cái gì, để lại được về nhà?”

Clary không dám nghĩ tiếp. Cô không thể chịu nổi vẻ mặt Hodge. Lão nghèn nghẹt nói, “Nói với tôi rằng ngài sẽ không làm thằng bé tổn thương và tôi sẽ đưa nó cho ngài.”

“Không,” Valentine nói, nghe còn nhẹ nhàng hơn. “Đằng nào ngươi cũng phải đưa cho ta thôi.” Và hắn vươn tay.

Hodge nhắm mắt. Trong một khoảnh khắc gương mặt lão và gương mặt của một trong những thiên thần bằng đá cẩm thạch dưới bàn chân, đau dớn, sầu khổ và bị đè nén dưới sức nặng ghê người. Sau đó lão lầm bầm tuôn một tràng chửi thề thống thiết, rồi giơ chiếc Cốc Thánh cho Valentine, dù tay run như chiếc lá trong cơn gió dữ.

“Cám ơn,” valentine nói. Hắn cầm lấy chiếc cốc, trầm tư ngắm nghía. “Ta tin là người đã làm móp phần viền cốc.”

Hodge chẳng nói gì. Mặt lão xám nghoét. Valentine cúi xuống và bế Jace; khi hắn nhẹ nhàng bế anh lên, Clary thấy chiếc áo khoác được cắt may hoàn hảo bó sát quanh tay và lưng hắn, và cô nhận ra hắn là một người đàn ông vô cùng lực lưỡng, với bắp chân phải to bằng thân cây sồi. Jace, nằm rũ ra trong vòng tay hắn, chỉ như một đứa trẻ nếu đem so sánh với hắn.

“Hắn sẽ sớm về với bố thôi,” Valentien nói và nhìn xuống gương mặt trắng bệch của Jace. “Về nơi thằng bé thuộc về.”

Hodge giật mình. Valentine quay gót và bước vào tấm màn không khí gợn sóng từ đó hắn vừa bước ra. Clary nhận ra, hẳn hắn đã để Cổng Dịch Chuyển mở ra sau lưng. Nhìn qua nó, giống như nhìn vào ánh nắng phản chiếu trên gương mặt.

Hodge vươn một cánh tay khẩn khoản. “Đợi đã!” lão thét. “Còn lời ngài hứa với tôi? Ngài hứa kết thúc lời nguyền cho tôi.”

“Đúng,” Valentien nói. Hắn dừng lại và nhìn chằm chằm vào Hodge, người đang thở dốc và lùi lại, tay quơ cào trước ngực như bị gì đó đâm thẳng vào tim. Máu đen túa ra quanh những ngón tay to bè và nhỏ giọt xuống sàn Hodge ngẩng khuôn mặt sẹo lên nhìn Valentien. “Thế là xong ư?” lão hoảng loạn hỏi. “Lời nguyền – đã được giải rồi ư?”

“Phải,” Valentine nói. “Và cầu cho sự tự do ngươi đã mua lấy đó đem lại cho ngươi niềm vui.” Nói xong, hắn bước vào tấm màn khí lóng lánh. Trong một thoáng, dường như chính cơ thể hắn cũng gờn gợn, hệt như hắn đang chìm trong nước. Rồi hắn biến mất, mang Jace theo cùng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27: Trong hẻm chuột


Hodge thở dốc nhìn theo, tay nắm chặt lại rồi mở ra buông xuôi theo người. Tay trái lão đã đẫm thứ chất lỏng màu đen đặc ươn ướt chảy ra từ lồng ngực. Giờ trên gương mặt lão là sự trộn lẫn giữa hả hê và thù ghét chính bản thân lão.

“Hodge!” Clary đập tay vào bức tường vô hình giữa họ. Cơn đau chạy doc cánh tay, nhưng chẳng thấm vào đâu nếu đem so với cơn đau nhói trong ngực. Cô cảm thấy trái tim tự nó sắp sửa thoát ra khỏi lồng ngực. Jace, Jace, Jace – tên anh cứ vang lên trong đầu óc cô, chỉ chờ để bật lên thành tiếng hét. Cô kìm lại. “Hodge, thả tôi ra.”

Hodge quay lại, lắc đầu. ‘Ta không thể,” lão nói và dùng chiếc khăn tay gấp gọn sạch sẽ lau những ngón tay dính máu. Lão như như thực sự hối hận. “Cháu sẽ giết ta mất.”

“Không đâu,’ cô nói. “Cháu thề.’

“Nhưng cháu không được nuôi dạy như một Thợ Săn Bóng Tối,” lão nói, “và những lời hứa của cháu chẳng có ý nghĩa gì.” Giờ rìa khăn tay lão đang bốc khỏi, như thể lão vừa nhúng nó vào axit, còn tay lão chẳng bớt đen đi. Lão nhíu mày, từ bỏ công việc.

“Nhưng bác Hoge, “ cô tuyệt vọng nói, “ông không nghe hắn nói sao? Hắn sẽ giết Jace.”

“Hắn không nói vậy.” Hodge giờ đã tới bàn, kéo ngăn kéo và rút ra một tập giấy. Lão lấy bút từ túi ngực, gõ gõ vào cạnh bàn để mực chảy ra. Clary nhìn trừng trừng. lão đang viết thư ư?”

“Bác Hodge,” cô cẩn trọng nói. “Valentine nói Jace sẽ sớm về với bố. Bố của Jace đã chết. Vậy hắn có ám chỉ điều gì khác nữa đây?”

Hodge cứ cắm cúi viết mà không buồn ngước lên. “Chuyện phức tạp lắm. Cháu không muốn hiểu đâu.”

“Cháu hiểu đủ rồi.” Cô cảm thấy vị đắng bỏng rát nơi đầu lưỡi. “Cháu hiểu rằng Jace tin ông và ông đã bán đứng ông ấy cho một người ghét bố anh ấy và có lẽ ghét cả Jace nữa, chỉ vì ông quá hèn nhát không thể sống cùng lời nguyền ông đáng phải chịu.”

Hodge ngay lập tức ngẩng đầu . “Cháu nghĩ như vậy ư?”

“Đó là điều tôi biết.”

Lão đặt bút xuống, lắc đầu. Lão có vẻ mệt mỏi và quá già nua, già hơn nhiều so với Valentien, dù họ bằng tuổi. “Cháu chỉ biết những mảnh ghép nhỏ mà không biết cả một bức tranh lớn. Mà có thể có lẽ tốt hơn.” Lão gấp tờ giấy đã viết nãy giờ thành vuông vức và ném và lò sưởi, lò sưởi bùng lên ánh sáng xanh lá cây rực rỡ trước khi lụi tàn.

“Ông đang làm gì đấy?” Clary hỏi.

“Gửi thư.’ Bác Hodge quay đi khỏi lò sưởi. Giờ lão đang đứng gần cô, chỉ bị ngăn cách bởi bức tường vô hình. Cô áp những ngón tay lên đó, ước có thể chọc mù mắt lão – dù dôi mắt đó u buồn như đôi mắt Valentine ánh lên tin nhìn giận dữ. “Cháu còn trẻ,” lão nói. “Quá khứ chẳng liên quan gì với cháu, chẳng dính dáng gì như một đất nước lạ đối với người già, hay một cơn ác mộng với kẻ có tôi. Hội Clave nguyền rủa ta vì ta đã giúp sức cho Valentien. Nhưng ta không phải thành viên duy nhất của Circle phục vụ hắn – chẳng nhẽ vợ chồng Lightwood không mang tội như ta sao? Nhà Wayland cũng không à? Ấy vậy mà chỉ có ta là người duy nhất bị nguyền rủa phải sống một cuộc đời không được thò tay ra ngoài cửa sổ, chứ đừng nói là đặt chân ra ngoài.”

“Đây không phải lỗi của tôi,” Clary nói. “Cũng chẳng phải lỗi của Jace. Vì sao phải trừng phạt anh ấy vì điều hội Clave đã làm? Tôi có thể hiểu về việc ông giao chiếc cốc cho Valentien, nhưng còn Jace? Hắn ta sẽ giết Jace, cũng giống như hắn đã giết bố Jace…”

“Valentien,” Hodge nói, “không giết chết bố Jace.”

Một tiếng nấc bật ra khỏi lòng ngực Clary. “Tôi không tin ông! Ông toàn nói dối mà thôi! Mọi thứ ông từng nói đều là dối trá hết!”

“À,” lão nói, “thuyết tuyệt đối ngốc nghếch của tuổi trẻ, không cho phép nhượng bộ. Cháu không nhận ra sao Clary, rằng đây là cách của riêng bác để trở thành một người tốt?”

Cô lắc đầu. “Mọi chuyện đâu theo chiều hướng đó đâu. Những điều tốt ông làm không thể xóa nhòa đi những tội lỗi ông từng phạm phải. Nhưng…” cô cắn môi. “Nếu ông nói cho tôi biết Valentien ở đâu…”

“Không.” lão thốt lên. “Truyền thuyết kể rằng Nephlim là con của loài người và thiên thần. Tất cả tài sản kế thừa từ thiên thần truyền lại cho chúng ta là một khoảng cách sa ngã xa hơn mà thôi.” Lão chạm lên bề mặt bức tường vô hình bằng đầu ngón tay. “Cháu không được nuôi dạy như một người trong bọn ta. Cháu không cần mang những vết sẹo và sống trong cảnh giết chóc. Cháu vẫn có thể thoát ra. Clary à, hãy rời Học Viện đi ngay khi cháu có thể. Đi đi, và đừng bao giờ trở lại.”

Cô lắc đầu. “Không thể,” cô nói. “Tôi không thể đi.”

“Vậy ta đành chia buồn cùng cháu,” lão nói và rời khỏi phòng.


Cánh cửa đóng lại sau lưng Hodge, bỏ Clary lại trong thinh lặng. Chỉ có hơi thở khò khẻ của cô và những đầu ngón tay cô điên cuồng cào lên rào chắn trong suốt không nhân nhượng chắn giữa cô và cánh cửa. Cô làm chính xác điều bản thân tự nhủ không được làm: cô lao vào bức tường đó hết lần này tới lần khác, tới khi kiệt sức và nửa người đâu ế ẩm. Rồi cô ngồi xuống sàn, cố không khóc.

Ở đâu đó bên ngoài rào chắn này Alec đang hấp hối, trong khi Isabelle đợi Hodge trở lại cứu anh. Ở nơi nào đó bên ngoài căn phòng này Jace đang bị Valentine thô bạo đánh thức. Ở nơi nào đó cơ hội sống sót của mẹ cô đang dần tan biến theo từng khoảnh khắc. Vậy mà cô lại bị mắc kẹt ở đây, vô dụng và tuyệt vọng như một đứa trẻ.

Rồi cô ngồi bật dậy, nhớ lại lúc ở nhà Quý Bà DorotheA, Jace đá nhét thanh stele vào tay cô. Cô đã trả lại cho anh chưa nhỉ? Nín thở, cô lần tay vào túi trái; không có gì. Từ từ cô cho tay vào túi phải, những ngón tay mướt mồ hôi vướng phải những sợi chỉ thừa và rồi chạm phải một vật cứng, thân trơn mượt và tròn lẳn – thanh stele.

Cô đứng bật dậy, trái tim đập thình thịch, và cảm nhận bức tường vô hình bằng bàn tay trái. Tìm được rồi, cô gồng người, dùng tay kia nhích sang thanh stele từng chút cho đến khi đầu mũi chạm vào bức tường không khí trơn đều, nhẵn thín. Một hình ảnh đã hiện ra trong đầu cô, giống như con cá nhoi lên từ vùng nước đục ngầu, một họa tiết hình vảy càng lúc càng rõ khi con cá tới gần mặt nước. Lúc đầu từ từ, sau đó tự tin hơn, cô dùng thanh stele vẽ lên tường, để lại những nét vẽ màu trắng xám cháy rực nhảy múa trước mặt.

Cô cảm nhận khi chữ rune viết xong và hạ tay mà thở dốc. Trong một thoáng, mọi thứ chìm vào yên tĩnh và bất động, còn chữ rune treo lơ lửng ở đó như một ngọn đèn huỳnh quang đang tỏa sáng chói tới đau mắt. Rồi một âm thanh như tiếng vỡ vụn lớn nhất mà cô từng nghe thấy vang lên, như thể cô đang đứng dưới một dòng thác đá cuội mà lắng nghe chúng đổ xuống mặt đất chung quanh. Chữ rune cô vẽ chuyển thành màu đen và bay đi như tro tàn; nền nhà rung lên dưới gót chân; rồi mọi chuyện chấm dứt, và cô biết, không hề nghi ngờ một chút nào, rằng mình đã được tự do.

Vẫn cầm thanh stele, cô chạy vội tới bên cửa sổ và kéo rèm sang bên. Nắng chiều chạng vạng đã nhạt màu và những con phố bên dưới tắm mình trong vầng dương màu huyết dụ. Cô nhìn rất rõ Hodge đi sang đường, mái đầu xám cao vượt trội khỏi đám đông.

Cô lao khỏi thư viện và xuống lầu, chi dừng lại để nhét thanh stele vào túi áo khoác. Cô chạy trên cầu thang và lao ra đường nhanh tới đau xốc cành hông. Những người đang dẫn chó đi dạo trong buổi trời chiều ảm ướt nhảy sang một bên khi cô chạy vội vã trên đường dành cho người đi bộ dọc theo dòng sông Đông. Cô thấy hình mình in trên ô cửa sổ tối đen của một căn chung cư khi quặt ở góc đường. Mái tóc ướt nhẹp mồ hôi dính bết lên trán còn mặt cô dính đầy máu khô.

Cô đã tới ngã tư cô vừa tìm thấy Hodge. Trong một thoáng cô nghĩ mình đã mất dấu lão. Cô lao qua đám đông gần lối vào ga tàu, đẩy mọi người, dùng đầu gối và khuỷu tay như vũ khí. Đẫm mồ hôi và bầm tím, Clary thoát khỏi đám đông đúng lúc thoáng thấy bộ véc vải tuýt biến mất ở góc rẽ vào một hẻm nhỏ hẹp giữa hai tòa nhà.

Cô lách qua một thùng rác và bước vào con hẻm. Cổ hng cô cảm giác như đang phải bỏng sau mỗi lần hít thở. Dù ánh trời chiều mới vể trên những con phố, nhưng trong hẻm tối om như tầm nửa đêm. Cô có thể thấy Hodge đứng ở đầu kia hẻm, nơi cuối hẻm dẫn ra cửa sau của một nhà hàng bán đồ ăn nhanh. Rác rưới của nhà hàng vứt đầy bên ngoài: từng chồng túi đựng thực phẩm, những chiếc đĩa giấy bẩn thỉu và dao dĩa nhựa phát ra những tiếng lạo xạo khó chịu dưới gót giày khi lão quay lại nhìn cô. Cô nhớ lại bài thơ đã đọc trong lớp Tiếng Anh:Tôi nghĩ chúng ta đã bước vào hẻm chuột/ nơi xác người đã mục tới tận xương.

“Cháu đi theo ta,” lão nói. “Lẽ ra cháu không nên đi theo.”

“Tôi sẽ để ông yên nếu như ông cho tôi biết Valentine ở đâu.”

“Ta không thể,” lão nói. “Hắn sẽ biết là ta nói và sự tự do của ta sẽ ngắn ngủi hệt như cuộc đời của ta vậy.”

“Đằng nào cũng vậy thôi khi Clave biết rằng ông đã dâng chiếc Cốc Thánh cho Valentine,” Clary chỉ ra. “Sau khi lừa chúng tôi tìm nó giúp ông. Sao ông có thể sống với lương tâm mình trong khi biết hắn định làm gì với nó chứ?”

Lão ngắt lời cô bằng tiếng cười cộc lốc. “Ta sợ Valentine hơn hội Clave và cháu cũng sẽ vậy nếu cháu khôn ngoan ra,” lão nói. “Kiểu gì hắn cũng tìm ra chiếc Cốc, dù ta có giúp hay không.”

“Và ông không quan tâm rằng hắn sẽ dùng nó để giết trẻ em à?”

Cơn co giật hiện lên trên gương mặt lao khi lão tiến thêm một bước; cô thấy gì đó lóe sáng trên tay lão. “Chẳng nhẽ chuyện đó quan trọng với cháu thế sao?”

“Tôi đã nói với ông rồi,” cô nói. “Tôi không thể bỏ đi được.”

“Quá tệ,” lão nói và cô thấy lão giơ tay – và đột nhiên nhớ ra Jace có bảo rằng vũ khí của Hodge từng là chakhram, một loại đĩa bay. Cô cúi xuống ngay khi thấy vật hình tròn bằng kim loại sáng loáng xoay tròn lao vun vút tới; nó sượt qua, kêu rin rít, chỉ cách mặt cô vài inch và cắm phập vào lối thoát hiểm bằng kim loại ở bên trái.

Cô ngước mắt nhìn. Hodge đang nhìn cô, chiếc đĩa kim loại thứ hai đa nắm hờ trong tay phải. “Cháu vẫn có thể chạy,” lão nói.

Theo bản năng cô giơ tay, dù lý trí nói với cô rằng chakhram sẽ chẻ tay cô ra làm nhiều mảnh. “Hodge…”

Có gì đó ào ra trước mặt cô, một thứ lớn, màu xám đen, và còn sống. Cô nghe Hodge sợ hét lên. Vội vã lùi lại, Clary thấy thứ đó rõ hơn khi nó di chuyển giữa cô và Hodge. Một con sói dài khoảng sáu foot, lông đen tuyền với độc một sọc xám.

Hodge, nắm chặt chiếc đĩa sắt trên tay, trắng bệch như một khúc xương. “Cậu,” lão thở hổn hển, Clary nhận ra lão đang nói chuyện với con sói với chút kinh ngạc.” “Tôi tưởng cậu đã bỏ trốn…”

Con sói nhe răng, và cô thấy cái lưỡi đỏ thè ra ngoài của nó. Trong mắt nó chứa chất sự thù hận khi nhìn Hodge, một sự thù hận thuần túy và rất người.

“Cậu tới đây vì tôi hay vì cô bé kia?” Hodge nói. Mồ hôi chảy xuống từ thái dường, nhưng tay lão vẫn vững vàng.

Con sói tiến về phía lão, khẽ gầm gừ trong họng.

“Vẫn còn kịp đó,” Hodge nói. “Valentine sẽ chào đón cậu…”

Với một tiếng tru, con sói lao lên. Hodge lại hét, rồi một ánh bạc lóe lên kèm theo tiếng động nghe ghê tai khi chakhram cắm vào thân sói. Con sói lùi lại đứng trên chân sau và Clary nhận thấy vành đĩa thòi ra khỏi lớp lông sói, máu đang ứa ra, ngay lúc nó bổ sầm vào Hodge.

Hodge chỉ kịp hét lên một tiếng trước khi ngã xuống và hàm sói cắm phập vào vai lão. Máu bắn lên không trung như những vảy sơn bắn ra khỏi một thùng sơn bị vỡ, lốm đốm lên những bức tường xi măng. Con sói ngẩng đầu khỏi cái xác mềm oặt của lão gia sư và quay nhìn cô bằng đôi mắt màu xám, trong lúc máu vẫn nhiễu ra từ hàm răng.

Cô không hét. Trong phổi cô chẳng còn chút không khí nào để mà hét nữa; cô vội đứng dậy và chạy. chạy ra khỏi miệng hẻm và về phía ánh đèn đường quen thuộc, chạy để tìm kiếm sự an ổn từ thế giới thật. Cô nghe tiếng con sói tru sau lưng, cảm thấy hơi thở nóng của nó phả vào sau bắp đùi. Cô chạy hết tốc lực, lao về con đường…

Hàm sói cắn lấy chân cô, kéo cô trở lại. Chỉ trước khi đầu cô đập xuống vỉa hè cứng, nhấn chìm cô vào bóng tối, cô mới phát hiện ra rốt cuộc rằng mình vẫn còn đủ không khỉ để hét.

Tiếng nước tí tách nhỏ giọt đánh thức cô dậy. Từ từ, Clary hấp háy mở mắt. Chẳng có gì nhiều nhặn để mà nhìn. Cô nằm trên cái phản lớn đặt trên sàn một căn phòng nhỏ tường cáu bẩn. Có một chiếc bàn lung lay như răng ông lão xếp gọn ở một bên tường, trên bàn là giá nến bằng đồng trông có vẻ rẻ tiền có cắm cây nến đỏ lớn tỏa nguồn sáng duy nhất trong phòng, sự ẩm ướt thấm xuống qua những kẽ đá nứt. Clary lờ mờ nhận ra có gì đó thiêu thiếu trong căn phòng này, nhưng nỗi bận tâm này bị lấn át bởi mùi chó ướt nồng nặc.

Cô ngồi dậy và ngay lập tức ước mình không làm vậy, cơn đau bóng giẫy chạy trong đầu cô như một mũi giáo, nối tiếp là cảm giác buồn nôn. Nếu có gì đó trong dạ dày, hẳn cô đã nôn ra bằng hết.

Một chiếc gương treo ngay trên tấm phản, lủng lẳng trên chiếc đinh đóng giữa hai phiến đá. Cô nhìn vào gương mà tái cả mặt. Chả trách sao mà mặt cô đau – những vết xước chạy song song từ khóe mắt phải tới khóe miệng. Má phải cô dính đầy máu khô, và máu dính trên cổ và chảy đầy xuống trước áo sơ mi và áo khoác. Trong cơn hoảngloạn đột ngột cô chộp lấy túi rồi thấy thư giãn hơn. Thanh stele vẫn còn.

Tới lúc dó cô đã nhận ra điều kỳ lạ về căn phòng này. Một bức tường là những song sắt: nhưng chấn song to bự dài kéo từ sàn nhà lên tới trần. Cô đang trong một xà lim.

Lượng adrenaline tăng cao vùn vụt, Clary loạng choạng đứng dậy. Một luồng sóng choáng váng tràn qua cô, làm cô phải nắm lấy bàn tay để đứng vững. Mình không thể ngất được, cô ủ ê tự nhủ. Rồi cô nghe có tiếng bước chân.

Có ai đó đang đi đến qua hành lang ngoài nhà giam. Clary dựa lưng vào bàn.

Là một người đàn ông. Gã cầm cây đèn, ánh sáng đó sáng hơn ánh nến, và vì thế cô phải chớp mắt còn cô chỉ nhìn thấy gã là một cái bóng ngược sáng. Cô nhận thấy thân hình dong dỏng, đôi vai ngang và mái tóc bờm xờm; chỉ khi gã mở cử xà lim và bước vào, cô mới nhận ra người đó.

Gẫ vẫn vậy: quần bò đã sờn, áo sơ mi denim, đôi ủng làm việc, vẫn mái tóc không đều, vẫn cặp kính trễ xuống sống mũi. Những vết sẹo cô nhận thấy trên cổ họng gã lần cuối cô gặp giờ đã lành lặn thành từng mảng da bóng loáng.

Chú Luke.

Mọi chuyện thật quá sức chịu đựng của Clary. Kiệt sức, thiếu ngủ và đói, kinh hoàng và mất máu, tất cả những điều tệ hại đó đồng loạt ùa về với cô. Cô cảm thấy đàu gối nhũn ra mà ngã đổ nhào về phía trước.

Chỉ trong vài giây chú Luke đã sải bước qua phòng. Chú di chuyển quá nhanh, cô không kịp chạm đất thì chú đã đỡ được cô, ôm cô lên như ngày cô còn bé. Chú đặt cô xuống phản và lùi lại, ánh mắt lo lắng chăm chú nhìn Clary. “Clary?” chú nói và đưa tay tới. “Cháu ổn không?”

Cô tránh, giơ tay lên để gạt tay chú. “Đừng chạm vào cháu.”

Vẻ tổn thương sâu sắc thoáng qua mặt chú. Chú mệt mỏi quệt tay lên trán. “Chú nghĩ mình xứng đáng phải chịu điều này.”

“Vâng. Chú đáng lắm.”

Cái nhìn trên mặt chú trông lo âu. “Chú không mong cháu tin chú…”

“Tốt. Vì cháu không tin đâu.”

“Clary…” Chú bắt đầu đi lại dọc theo chiều dài xà lim. “Điều chú đã làm… chú không mong cháu hiểu. Chú biết cháu có cảm giác bị bỏ rơi…”

“Chú đã bỏ rơi cháu,” cô nói. “Chú bảo cháu đừng gọi cho chú nữa. chú chẳng quan tâm gì tới cháu. Chú không quan tâm gì tới mẹ chau. Chú nói dối về mọi chuyện.”

“Không,” chú nói, “không phải mọi chuyện đâu.”

“Vậy tên thật của chú là Luke Garroway?”

Chú buông xuông vai vẻ chịu đựng. “Không,” chú nói rồi cúi đầu nhìn xuống đất. Một vệt màu đỏ sậm chạy dài trên mặt trước chiếc áo sơ mi denim xanh.

Clary ngồi thẳng dậy. “Đó là máu sao?” cô hỏi. Cô quên mất vừa lúc trước thôi cô đang giận.

“Ừ,” chú Luke nói, tay ôm lấy lườn. “Vết thương chắc bị toác ra khi chú bế cháu.”

“Vết thương nào?” Clary không thể không hỏi.

Chú thận trọng trả lời. “Những chiếc đĩa của Hodge vẫn còn vô cùng sắc nhọn, dù hắn không ném mạnh như ngày xưa được nữa. Chú nghĩ hắn đã cắt được một dẻ sườn rồi.”

“Hodge?” Clary nói. “Lúc nào mà chú…?”

Chú nhìn cô, không nói gì, và cô đột nhiên nhớ tới con sói trong hẻm, con sói lông đen tuyền trừ một sọc xám chạy dọc thân, và cô nhớ cái đĩa đã đâm vào người nó, rồi cô nhận ra.

“Chú là người sói.”

Chú bỏ tay ra khỏi áo; những ngón tay chú thấm máu đỏ. “Ừ,” chú trả lời ngắn gọn. Chú tới bên tường và gõ mạnh: một lần, hai lần rồi ba lần. Sau đó chú quay lại. “Chú là người sói.”

“Chú giết Hodge,” cô nhớ lại.

“Không.” Chú lắc đầu. “Chú làm hắn bị thương khá nặng, nhưng khi chú trở lại tìm thi thể, trong hẻm chẳng còn gì. Hắn hẳn đã lê người trốn đi rồi.”

“Chú xé rách vai ông ta,” cô nói. “Cháu đã thấy.”

“Đúng. Mặc dù cũng đáng phải nói là lúc đó hắn đang định giết cháu. Hắn còn làm ai bị thương nữa không?”

Clary cắn chặt môi. Cô nếm thấy vị máu, nhưng đó là vị của máu cũ từ lúc Hugo tấn công cô. “Jace,” cô thì thào. “Hodge đã đánh anh ấy bất tỉnh và giao anh ấy cho… cho Valentine.”

“Cho Valentine?” chú Luke có vẻ kinh ngạc. “Chú biết Hodge đã giao chiếc Cốc Thánh cho Valentien, nhưng chú không hề biết…”

“Sao chú biết?” Clary hỏi trước khi kịp nhớ ra. “Chú nghe cháu nói chuyện với Hodge lúc trong hẻm,” cô nói. “Trước khi chú nhảy xổ vào.”

“Chú nhảy xổ vào hắn, đúng vậy, vì hắn định xẻ đầu cháu,” chú Luke nói, rồi ngước nhìn khi cửa xà lim lại mở và một người đàn ông cao ráo khác bước vào, theo sau là một người phụ nữ nhỏ bé, chỉ cao bằng một đứa trẻ. Cả hai đều mặc bộ đồ bình thường, màu sắc đơn giản: áo phông và quần bò và tóc cả hai đều có vẻ lâu ngày không gội, đều rối bù nư nhau, dù người phụ nữ tóc vàng còn người đàn ông tóc đen với những sợi tóc muối tiêu. Cả hai có cùng một khuôn mặt không rõ già hay trẻ, không có một nếp nhăn nhưng mang đôi mắt mệt mỏi. “Clary,” chú Luke nói, “gặp sói hai và sói ba, Gretel và Alaric.”

Alaric nghiêng cái đầu to tướng cúi chào. “Chúng ta đã gặp.”

Clary nhìn, hoảng hốt, “Thật sao?”

“Trong khách sạn Dumort,”Alaric nói. “Cháu phi dao găm trúng ngực chú luôn.”

Cô dúm người vào tường. “Cháu, ờ… cháu xin lỗi.”

“Không sao,” chú ta nói. “Một cú ném tuyệt lắm.” Chú ta cho tay vào túi áo ngực và lôi con dao của Jace có đính viên ngọc rồng như đôi mắt đỏ đang hấp háy ra. Alaric chìa ra cho cô. “Chú nghĩ cái này của cháu?”

Clary nhìn. “Nhưng…”

“Đừng lo,” chú ta trấn an. “Chú đã lau sạch lưỡi dao rồi.”

Không nói lấy một lời, cô cầm lấy. Chú Luke kh khẽ chậc lưỡi. “Nhìn lại quá khứ,” chú nói, “có lẽ vụ đột kích Dumort không được lên kế hoạch ngon lành cho lắm. Chú đã phải một nhóm người sói theo dõi cháu và bảo vệ nếu cháu gặp nguy hiểm. Khi cháu vào Dumort…”

“Lẽ ra Jace và cháu có thể xử lý được.” Clary nhét con dao vào thắt lưng.

Gretel nở nụ cười nhân ái với cô. “Đây là lý do ngài cho gọi chúng tôi chăng?”

“Không,” chú Luke đáp. Chú sờ lên cạnh sườn. “Vết thương của tôi bị há miệng và Clary cũng bị thương và cần được chăm sóc. Nếu hai người không ngại mang ít đồ y tế…”

Gretel nghiêng đầu. “Tôi sẽ trở lại cùng hộp thuốc,” cô nói và rời đi, Alaric đi theo sao như một cái bóng quá khổ.

“Cô ấy gọi chú là “ngài” clary nói, ngay khi cánh cửa xà lim đóng lại. “Chú nói sói hai và sói ba là thế nào? Hai ba gì ạ?”

“Cấp chỉ huy,” chú Luke chậm rãi giải thích. “Chú là sói đầu đàn của bầy sói này. Vì thế Gretel gọi chú là “ngài”. Tin chú, chú mất nhiều công sức lắm mới làm cô ta bỏ thói quen gọi chú là ‘chủ nhân’ đấy.”

“Mẹ cháu có biết không?”

“Biết gì?”

“Biết chú là người sói.”

“Mẹ cháu biết từ đâu.”

“Tất nhiên, cả hai người đều không định cho cháu biết.”

“Chú đã định nói với cháu,” chú Luke nói. “Nhưng mẹ cháu cương quyết không muốn cháu biết về Thợ Săn Bóng Tối hay Thế giới Bóng Tối. Chú không thể giải thích rằng người sói là một mạng tai nạn hi hữu được, Clary ạ. Nó chỉ là một phần nhỏ của cái tổng thể mà mẹ cháu không muốn cháu thấy. chú không biết cháu đã khám phá ra những gì…”

“Rất nhiều,” Clary bình thản đáp. “Cháu biết mẹ cháu là thợ Săn Bóng Tối. Cháu biết mẹ cháu kết hôn cùng Valentien và mẹ đã trộm Cốc Thánh và chạy trốn. Cháu biết sau khi mẹ có cháu, mẹ đã đưa cháu tới gặp Magnus Bane hai năm một lần để xóa Tâm Nhãn. Cháu biết khi Valentine cố bắt chú nói chiếc Cốc ở đâu để đổi lấy mạng sống của mẹ cháu, chú nói mẹ cháu chẳng là gì với chú.”

Chú Luke chăm chú nhìn bức tường. “Chú không biết chiếc Cốc ở đâu,”chú nói. “Mẹ cháu không chịu nói.”

“Chú có thể mặc cả…”

“Valentine không mặc cả. Hắn không bao giờ. Nếu hắn không có lợi thế, hắn sẽ không thèm đàm phán. Hắn là người độc đoán và không có tình cảm, dù hắn đã từng có thời yêu mẹ cháu, nhưng hắn không ngần ngừ mà giết mẹ cháu đâu. Không, chú không định mặc cả với Valentine.”

“Vậy chú quyết định bỏ rơi mẹ cháu?” Clary tức giận hỏi. “Chú là sói đầu đàn mà chú quyết định rằng mẹ cháu không cần chú giúp? Chú biết không, cháu tưởng đã đủ tệ rồi khi nghĩ chú là một Thợ Săn Bóng Tối khác và chú đã quay lưng với mẹ cháu chỉ vì một lời thề ngớ ngẩn nào đó của Thợ Săn Bóng Tôi hay gì đấy, nhưng giờ cháu biết chú chỉ là một cư dân của Thế Giới Ngầm gian xảo, không thèm quan tâm rằng suốt bao nhiêu năm qua mẹ cháu luôn đối xử với chú như với một người bạn – như một đồng đẳng – và thế mà chú lại đối đãi với mẹ cháu thế đấy!”

“Nghe cháu nói kìa,” chú Luke lặng lẽ đáp. “Cháu nói như một người nhà Lightwood.”

Cô nheo mắt. “Đừng nói về Alec và Isabelle như thể chú biết họ.”

“Chú đang nói về bố mẹ chúng,” chú Luke nói. “Những người chú biết, rất rõ, khi còn cùng là Thợ Săn Bóng Tối.”

Clary thấy mình há miệng vì ngạc nhiên. “Cháu biết chú từng đứng trong hàng ngũ hội Circle, nhưng sao chú giấu được thân phận người sói chứ? Họ không biết sao?”

“Không,” chú Luke nói. “Vì chú không phải một người sói bẩm sinh. Chú bị biến thành người sói. Và chú đã thấy rằng nếu cháu chịu nghe bất cứ điều gì chú nói. Cháu sẽ phải nghe toàn bộ câu chuyện. Đó là một câu chuyện dài, nhưng chú nghĩ chúng ta có thời gian.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Phần ba

NIỀM ĐAU THƯƠNG CỦA THẾ HỆ SAU

Thế hệ sau phải chịu khổ hệt như cha ông đi trước.

-William Carlos Williams, The Descent.

Câu chuyện của người sói

Sự thực là, chú đã biết mẹ cháu từ khi còn nhỏ. Bọn chú cùng nhau lớn lên tại Idris. Đó là một nơi tươi đẹp và chú luôn tiếc vì cháu chưa từng được thấy nó: Cháu sẽ thích những rặng thông bóng bẩy vào mùa đông, đất đai mang màu đen trù phú và những dòng sông nước lạnh lấp lánh. Ở đó có những ngôi làng nhỏ và một thành phố duy nhất, Alicante, nơi những thành viên của Clave họp mặt. Họ gọi nó là Thành phố Pha Lê vì những tòa tháp được tạo thành từ cùng loại nguyên liệu chống quỷ như những thanh stele của chúng ta; dưới ánh mặt trời chúng lấp lánh tựa pha lê.

Khi chú và Jocelyn tới tuổi, bọn chú tới Alicante để học hành. ở đó chú đã gặp Valentine.

Hắn lớn hơn chú một tuổi. Vào hồi đó, hắn là cậu nam sinh nổi tiếng nhất trường. Hắn đẹp trai, thông minh, giàu có, tận tụy, một chiến binh lỗi lạc. Chú chẳng là gì cả - chẳng giàu cũng chẳng giỏi, xuất thân từ một gia đình nhà nông chẳng đáng nhắc tới. Và chú học hành rất chật vật. Jocelyn là một Thợ Săn Bóng Tối bẩm sinh; chú thì không. Chú không thể chịu nổi những Ấn Ký mang quyền năng nhỏ nhất hoặc học những kỹ thuật đơn giản nhất. Chú từng có lúc nghĩ tới việc bỏ chạy, trở về nhà trong tủi nhục. Thậm chí là trở thành người thường. Chú của ngày đó thật thảm hại.

Valentine đã cứu chú. Hắn tới phòng chú - chú chưa bao giờ nghĩ hắn biết tên mình. Hắn đề nghị dạy chú. Hắn nói hắn biết chú đang phải vật lộn vất vả, nhưng hắn thấy những nhân tố của một Thợ Săn Bóng Tối vĩ đại trong chú. Và dưới sự hướng dẫn của hắn chú thực sự đã tiến bộ. Chú vượt qua những bài kiểm tra, có những Ấn Ký đầu tiên, giết chết con quỷ đầu tiên.

Chú tôn thờ hắn. Chú cứ ngỡ mặt trời mọc và lặn phụ thuộc vào Valentine Morgenstern. Tất nhiên chú không phải kẻ khốn khổ duy nhất được Valentine cứu rỗi. Còn có những người khác. Hodge Starkweather, dễ làm quen với những cuốn sách hơn là với con người; Maryse Trueblood, có ông anh kết hôn với một cô gái người thường; Robert Lightwood, một kẻ luôn sợ những Ấn Ký - Valentine đã tụ tập họ và bảo vệ họ. Khi đấy chú nghĩ hắn thật tốt bụng; giờ chú không chắc nữa. Giờ chú nghi hồi đó, hắn đang xây dựng cho hắn một đội thờ tôn thờ hắn.

Valentine bị ám ảnh bởi ý tưởng rằng trong mỗi thế hệ, sẽ càng ngày càng có ít Thợ Săn Bóng Tối - rằng giống nòi chúng ta đang chết dần. Hắn tin rằng chỉ cần Clave sử dụng chiếc Cốc Raziel rộng rãi hơn, sẽ có thêm nhiều Thợ Săn Bóng Tối khác. Với các giáo viên, đó quả là một ý tưởng báng bổ - không phải ai cũng có thể chọn người nào được hay không được trở thành Thợ Săn Bóng Tối. Valentine có thể khiếm nhã mà hỏi, Thế thì sao không biến tất cả con người thành Thợ Săn Bóng Tối đi? Vì sao không trao cho họ món quà được nhìn thấy Thế Giới Bóng Tối? Vì sao chúng ta lại ích kỷ giữ khả năng đó chỉ cho chúng ta?

Rồi những giáo viên trả lời rằng hầu hết con người không thể sống nổi qua quá trình biến đổi, Valentine bảo rằng họ nói dối, vì họ ích kỷ cố giữ quyền năng của Nephilim giới hạn trong một nhóm cá thể thượng đẳng. Khi đấy hắn đã nói thế - giờ chú nghĩ có lẽ hắn cảm nhận rằng thiệt hại phụ thêm cũng xứng đáng để đạt được kết quả cuối cùng. Dù sao đi nữa, hắn đã thuyết phục nhóm nhỏ bọn chú về cái lý của hắn. Bọn chú lập nên hội Circle, với tôn chỉ đưa ra là cứu rỗi chủng tộc Thợ Săn Bóng Tối khỏi nạn tuyệt chủng. Tất nhiên, vào hồi mười bảy tuổi, bọn chú cũng chẳng rõ mình sẽ làm thế nào, nhưng bọn chú tin rằng dần dà rồi bọn chú sẽ làm ra những chuyện kinh thiên động địa.

Rồi đến đêm bố của Valentine bị giết trong một vụ càn quét khu trại của người sói. Khi Valentine trở lại trường sau đám tang, hắn khắc trên mình Ấn Ký để tang màu đỏ. Hắn đã khác nhiều. Giờ sự tử tế nơi hắn đã xuất hiện thêm những cơn giận gần như là sự độc ác. Chú cho rằng cách cư xử đó của hắn là do hắn đang đau buồn nên chú cố gắng hơn bao giờ để hắn vừa lòng. Chú chưa bao giờ đáp lại cơn giận của hắn bằng cơn giận của chú. Chú chỉ thấy buồn khi làm hắn thất vọng.

Người duy nhất có thể làm hắn nguôi giận là mẹ cháu. Mẹ cháu luôn có một chút xa cách với nhóm, thi thoảng còn trêu chọc gọi bọn chú là fan club của Valentine. Điều đó đã thay đổi sau khi bố hắn qua đời. Nỗi đau của hắn đã đánh thức sự cảm thông nơi mẹ cháu. Họ đã yêu nhau.

Chú cũng yêu hắn: Hắn là người bạn thân nhất của chú và chú mừng khi thấy Jocelyn ở bên hắn. Khi bọn chú tốt nghiệp, họ kết hôn và tới sống trong trang viên của nhà mẹ cháu. Chú cũng về nhà, nhưng hội Circle vẫn duy trì hoạt động. Lúc đầu nó giống như một cuộc phiêu lưu của những cậu học trò, nhưng nó dần phát triển về lực và lượng, và Valentine cũng phát triển cùng nó. Những lý tưởng của hội cũng thay đổi. Circle vẫn đòi được sử dụng Cốc Thánh, nhưng kể từ khi bố hắn chết, Valentine bắt đầu công khai ủng hộ cuộc chiến chống những cư dân của Thế Giới Ngầm, không chỉ những kẻ đi sai Hòa Ước. Hắn cho rằng thế giới này dành cho con người, không phải cho những bán-quỷ. Quỷ thì không thể nào được tin tưởng hoàn toàn.

Chú không thoải mái với hướng đi mới của Circle, nhưng chú đã mắc kẹt vào đó - một phần vì chú không muốn làm Valentine thất vọng, phần vì Jocelyn bảo chú hãy tiếp tục. Mẹ cháu nuôi hy vọng rằng chú có thể tiết chế hội Circle, nhưng đó là không thể. Chú không thể nào kiềm chế nổi Valentine, Robert và Maryse Lightwood - giờ đã kết hôn - cũng xấu xa chẳng kém. Chỉ có Micheal Wayland là cũng cảm thấy nao núng, như chú, nhưng dù lưỡng lự, nhưng bọn chú vẫn theo hội; bọn chú cùng nhau săn lùng không mỏi mệt những kẻ thuộc Thế Giới Ngầm, tìm kiếm những kẻ chỉ phạm vào một tội nhỏ nhất. Valentine chưa bao giờ giết bất cứ kẻ nào không vi phạm Hòa Ước, nhưng hắn làm những điều khác. Chú thấy hắn nhét những đồng xu bạc vào mí mắt của một người sói trẻ con, làm mù con bé, để bắt con bé khai ra anh nó ở đâu... Chú thấy hắn - nhưng cháu không cần nghe đâu. Không. Chú xin lỗi.

Điều xảy ra tiếp theo là Jocelyn mang thai. Vào ngày mẹ cháu nói cho chú hay, mẹ cháu cũng thú nhận với chú rằng càng ngày mẹ cháu càng sợ chồng mình. Hành vi của hắn đã trở nên quái dị, thất thường. Hắn biến mất trong tầng hầm nhiều đêm liền. Thi thoảng cô nghe thấy những tiếng hét vọng qua những bức tường...

Chú tới gặp hắn. Hắn cười, bảo nỗi sợ của mẹ cháu chỉ là sự bồn chồn của người phụ nữ mang thai con đầu lòng mà thôi. Đêm hôn đó, hắn mời chú cùng đi săn. Bọn chú vẫn đang cố dọn sạch ổ người sói đã giết chết bố hắn nhiều năm trước. Bọn chú là parabatai, cặp đi săn hoàn hảo, hai chiến binh sẵn sàng chết vì nhau. Thế là khi Valentine bảo sẽ bọc hậu cho chú, chú đã tin hắn. Chú không thấy con sói tới khi nó nhảy bổ lên người chú. Chú nhớ hàm răng nó đã cắm ngập vai chú, và rồi chú chẳng còn nhớ chút gì về đêm đó hết. Khi tỉnh dậy, chú đang nằm trong nhà Valentine, vai bị băng bó và Jocelyn ở đó.

Không phải bất cứ vết cắn nào cũng có thể biến con người thành người sói. Chú bình phục và sống trong suốt mấy tuần tiếp trong sự tra tấn của chờ đợi. Đợi trăng tròn. Hội Clave sẽ nhốt chú trong phòng quan sát, nếu họ biết. Nhưng Valentine và Jocelyn đã giữ yên lặng. Ba tuần sau đó trăng tròn tới tỏa sáng rực rỡ, chú bắt đầu biến đổi. Lần Biến Đổi đầu tiên là lần kinh khủng nhất. Chú nhớ mình giận dữ chẳng vì lý do gì, tất cả những gì chú nhớ chỉ là một màn đen thăm thẳm, tỉnh dậy hàng giờ sau tại một cánh đồng cách thành phố hàng dặm. Người chú dính đầy máu, dưới chân là cái xác bị xé nhỏ của một loại động vật nào đó sống trong rừng.

Chú tìm đường về nhà và họ đón chú ngoài cửa. Jocelyn ôm chặt lấy chú mà khóc, nhưng Valentine kéo mẹ cháu lại. Chú đứng đó, người đầy máu và run rẩy tới tận chân. Chú chẳng nghĩ được gì, chỉ cảm nhận thấy vị thịt sống trong khoang miệng. Chú không biết chú đang mong chờ gì, nhưng chú nghĩ lúc đó chú đã biết.

Valentine lôi chú xuống nhà và vào rừng. Hắn bảo chú rằng hắn nên tự tay giết chết chú, nhưng giờ gặp chú rồi, hắn không thể ra tay. Hắn đưa cho chú con dao kindjal từng thuộc về bố hắn. Hắn nói chú nên làm một điều danh dự đó và tự kết liễu đời mình. Hắn hôn con dao khi đưa cho chú, rồi trở lại nhà, khóa cửa lại.

Chú chạy suốt đêm, lúc người lúc sói, tới khi vượt qua biên giới. Chú xông vào trại người sói, vung dao và yêu cầu một trận sống mái với con sói đã cắn chú và biến chú thành một trong bọn họ. Họ cười phá lên, chỉ chú tới sói đầu đàn. Tay và răng vẫn còn dính máu sau vụ đi săn, hắn đứng dậy đối mặt với chú.

Chú chưa bao giờ đánh một chọi một. Chú thích dùng nỏ; chú giỏi ngắm bắn. Nhưng chú chưa bao giờ giỏi cận chiến; Valentine mới giỏi đánh tay đôi. Nhưng chú chỉ muốn chết và muốn lôi sinh vật đã hủy hoại đời chú chết cùng. Chú tưởng chú nghĩ nếu mình trả thù xong, và giết chết những con sói đã giết bố Valentine, hắn sẽ khóc thương chú. Khi chú và kẻ đó lao bổ vào nhau, lúc người, lúc sói, chú thấy hắn ngạc nhiên vì sự dũng mãnh nơi chú. Khi đêm chuyển thành ngày, hắn bắt đầu thấm mệt, nhưng cơn giận của chú chẳng chịu nguôi ngoai. Và khi mặt trời lặn lần tiếp theo, chú đã cắm dao vào cổ hắn và hắn chết, còn người chú bê bết máu hắn.

Chú tưởng cả đàn sẽ lao vào cắn xé chú. Nhưng họ quỳ xuống và ngửng cổ tỏ sự quy phục. Người sói có một luật lệ: Ai giết chết sói đầu đàn sẽ thay thế hắn. Chú đã xông vào chỗ ở của người sói, và thay vì tìm thấy cái chết và sự báo thù ở đó, chú lại tìm thấy một cuộc đời mới.

Chú quên đi cuộc đời cũ và gần như quên mất cảm giác của một Thợ Săn Bóng Tối. Nhưng chú không thể quên Jocelyn. Ý nghĩ về mẹ cháu là người bạn đồng hành không chia cắt. Chú sợ cho mẹ cháu khi ở bên Valentine, nhưng vì biết nếu chú lảng vảng tới gần căn nhà, hội Circle sẽ săn đuổi và giết chú.

Cuối cùng, mẹ cháu tới gặp chú. Chú đang ngủ trong trại thì sói chỉ huy phó tới nói với chú rằng có một nữ Thợ Săn Bóng Tối trẻ tuổi muốn gặp chú. Chú biết ngay đó là ai. Chú có thể thấy sự thất vọng trong ánh mắt hắn khi chú lao đi gặp mẹ cháu. Đương nhiên, họ đều biết chú đã từng là Thợ Săn Bóng Tối, nhưng đó giống như một bí mật tủi hổ, không bao giờ được nhắc tới. Valentine hẳn sẽ cười lớn cho xem.

Mẹ cháu đợi chú ngay ngoài khu trại. Mẹ cháu không còn mang thai nữa, và trông có vẻ kiệt sức và xanh xao. Mẹ cháu đã sinh, một bé trai, mang tên Jonathan Christopher. Mẹ cháu khóc khi thấy chú. Mẹ cháu giận vì chú không báo cho mẹ cháu biết chú còn sống. Valentine đã nói với hội Circle rằng chú đã tự tử, nhưng mẹ cháu không tin. Mẹ cháu biết chú không đời nào làm chuyện đó. Chú cảm giác sự tin tưởng của mẹ cháu với chú có uẩn khúc gì đó, nhưng chú rất mừng được gặp lại mẹ cháu nên chú không thèm bóc mẽ.

Chú hỏi sao mẹ cháu tìm được chú. Mẹ cháu bảo có nghe thấy lời đồn đại ở Alicante về một người sói từng là Thợ Săn Bóng Tối. Valentine cũng đã nghe thấy, và mẹ cháu tới đây để báo chú biết trước. Chẳng bao lâu sau hắn đến, nhưng chú trốn hắn, người sói có thể làm thế mà, nên hắn bỏ đi không thể gây ra một vụ đổ máu nào.

Sau đó chú bắt đầu bí mật gặp lại Jocelyn. Năm đó là năm Hiệp Định, và tất cả những cư dân của Thế Giới Ngầm đều bàn tán xôn xao về Hòa Ước cũng như kế hoạch đề xuất phá bĩnh của Valentine. Chú nghe nói hắn đã nhiệt liệt tranh cãi với Clave nhằm chống lại Hiệp Định, nhưng không thành công. Thế là hội Circle có kế hoạch mới, tiến hành trong bí mật. Họ thỏa hiệp cùng quỷ - những kẻ thù ngàn đời của Thợ Săn Bóng Tối - để có được những món vũ khí có thể an toàn mang vào Đại Sảnh Thiên Thần, nơi Hiệp Định được ký kết. Và nhờ sự giúp đỡ của một con quỷ, Valentine đã đánh cắp chiếc Cốc Thánh. Hắn đặt lại đó một chiếc cốc giả. Nhiều tháng sau đó Clave mới phát hiện chiếc Cốc biến mất, nhưng lúc đó đã quá muộn.

Jocelyn cố tìm hiểu Valentine định làm gì với chiếc Cốc, nhưng thất bại. Tuy nhiên, mẹ cháu biết Circle định đánh úp những cư dân của Thế Giới Ngầm tay không tấc sắt và giết sạch họ trong Sảnh. Sau vụ thảm sát hàng loạt đó, chắc chắn Hiệp Định sẽ thất bại.

Dù lúc đó hỗn loạn, không hiểu sao với chú đó vẫn là quãng thời gian hạnh phúc. Jocelyn và chú ngầm gửi thư cho thần tiên, pháp sư, và thậm chí là những kẻ thù truyền kiếp của người sói, lũ ma cà rồng, báo cho họ về kế hoạch của Valentine và bảo họ chuẩn bị cho trận chiến. Chú và mẹ cháu, người sói và Nephilim đã hợp tác cùng nhau.

Vào cái ngày ký kết Hiệp Định, chú từ nơi ẩn náu quan sát Jocelyn cùng Valentine rời khỏi nhà. Chú nhớ cái cách mẹ cháu cúi xuống hôn mái tóc màu bạch kim của cậu con trai. Chú nhớ cách mặt trời chiếu rọi lên mái tóc và nhớ cả nụ cười của mẹ cháu.

Họ đi xe ngựa tới Alicante; chú chạy trên bốn chân, dẫn theo đàn người sói. Đại Sảnh Thiên Thần tụ tập đông đúc những Clave đại diện và hàng trăm hàng ngàn những người thuộc Thế Giới Ngầm. Khi Hiệp Định được đưa ra để ký kết, Valentine đứng lên và Circle đứng lên theo, ném áo khoác ra sau để lộ những món vũ khí. Khi Đại Sảnh trở thành một đám hỗn loạn, Jocelyn chạy về phía cánh cửa đôi lớn và mở tung.

Đàn sói của chú là những kẻ đầu tiên đứng ở cửa. Bọn chú xông vào Đại Sảnh, xé toạc màn đêm bằng tiếng sói tru, và những kẻ đến thứ hai là những hiệp sĩ thần tiên với vũ khí bằng pha lê và những bụi gai dị dạng. Theo sau họ là những Đứa Trẻ của Màn Đêm đang nhe nanh, còn pháp sư sử dụng lửa và vũ khí. Khi đám đông hỗn độn bỏ chạy khỏi Đại Sảnh, bọn chú lao vào thành viên của Circle.

Sảnh Thiên Thần chưa khi nào có một cuộc đổ máu như thế. Bọn chú cố không làm hại tới những Thợ Săn Bóng Tối không thuộc Circle; Jocelyn đã đánh dấu từng người một, bằng bùa chú của pháp sư. Rất nhiều người đã ngã xuống và chú sợ rằng bọn chú phải chịu trách nhiệm trong một vài trường hợp. Tất nhiên sau đó, bọn chú bị đổ tội cho lắm người. Còn về nhóm Circle, lúc đó có nhiều thành viên hơn chú tưởng, và họ chống cự kịch liệt với những cư dân của Thế Giới Ngầm. Chú đã chiến đấu xuyên qua đám đông để tiến tới chỗ Valentine. Chú chỉ nghĩ tới hắn - rằng chú có thể là người giết hắn, rằng chú sẽ có được vinh hạnh đó. Cuối cùng chú cũng tìm thấy hắn ở bên chân bức tượng Thiên Thần khổng lồ, đã hạ gục một hiệp sĩ tiên bằng một con dao giờ đã đẫm máu. Khi hắn thấy chú, hắn cười, một nụ cười hoang dại và đáng sợ. “Một người sói chiến đấu bằng kiếm và đao,” hắn nói, “cũng bất thường như một con chó ăn uống bằng nĩa và dao vậy.”

“Anh biết thanh kiếm, anh biết con dao,” chú nói, “Và anh biết tôi là ai. Nếu anh phải xưng hô với tôi, hãy nói tên tôi ra.”

“Ta không biết tên của những bán nhân,” Valentine nói. “Ta từng có một người bạn, một con người sống vì danh dự đã chết trước khi để dòng máu bị ô nhiễm. Giờ một con quái vật vô danh mang khuôn mặt anh ấy đang đứng trước mặt ta.” Hắn giơ dao. “Đáng ra ta nên giết cậu ngay khi có cơ hội,” hắn hét lớn và lao vào chú.

Chú tránh cú chém rồi chiến đấu trên bục, trong khi trận chiến đấu diễn ra xung quanh và từng người trong Circle ngã xuống. Chú thấy nhà Lightwood ném vũ khí và bỏ chạy; Hodge đã chạy trước, bỏ trốn ngay khi mới bắt đầu. Và rồi chú thấy Jocelyn đang lao lên những bậc thang về phía chú, gương mặt ngập tràn sự sợ hãi. “Valentine, dừng lại!” mẹ cháu hét. “Đó là Luke, bạn của anh, gần giống như em trai anh...”

Với một tiếng gầm Valentine chộp lấy mẹ cháu và lôi mẹ cháu ra trước mặt, kề dao vào cổ mẹ cháu. Chú vứt dao xuống. Chú không liều mạng để hắn làm hại mẹ cháu. “Lúc nào mày cũng muốn có vợ tao,” hắn rít lên. “Và giờ hai người cùng nhau âm mưu phản bội tao. Mày sẽ phải hối hận vì điều đã làm, trong suốt phần đời còn lại.”

Cùng lúc đó, hắn giật sợi dây chuyền trên cổ Jocelyn mà quẳng vào chú. Chú đau như bị roi quật. Sợi dây bạc thiêu đốt chú như bị roi quất. Chú hét và ngã ra sau, đúng lúc đó hắn biến mất trong trận hỗn chiến, lôi mẹ cháu đi cùng. Chú đi theo, trong tình trạng bị bỏng và chảy máu, nhưng hắn quá nhanh, mở đường máu thoát ra khỏi đám đông và dẫm đạp lên những xác chết.

Chú loạng choạng bước ra ngoài ánh trăng. Đại Sảnh đang cháy và bầu trời ánh lửa. Chú có thể thấy dọc xuống những tràng cỏ xanh rì của thủ đô tới dòng sông chìm trong trong bóng đêm, và con đường chạy dọc triền sông nơi người ta chạy trốn vào màn đêm. Rốt cuộc chú tìm thấy Jocelyn bên bờ sông. Valentine đã biến mất và mẹ cháu đang sợ hãi cho Jonathan, tuyệt vọng đòi về nhà. Bọn chú thấy một con ngựa, và mẹ cháu phi ngựa đi. Biến thành dạng sói, chú bám theo sát gót.

Sói rất nhanh, nhưng một con ngựa được nghỉ ngơi đầy đủ còn nhanh hơn. Chú bị bỏ lại xa còn mẹ cháu tới nhà trước chú.

Ngay khi tới gần nhà chú đã biết có chuyện cực kỳ không hay rồi. Ở đó mùi lửa cháy quá nặng, và có gì đó nặng mùi hơn, đặc quánh và ngòn ngọt - mùi hôi thối từ phép phù thủy của quỷ. Chú trở lại làm người khi khập khiễng đi dọc bờ sông, dòng sông trắng toát dưới ánh trăng, giống như một dòng sông bạc dẫn tới... đống hoang tàn. Ngôi nhà đã cháy thành tro, từng lớp từng lớp bột trắng rải rác trên bãi cỏ trong cơn gió đêm. Chỉ còn móng nhà, giống như những khúc xương cháy, vẫn còn nhìn rõ: ở đằng kia là cửa sổ, đằng này là ống khói - nhưng chất liệu xây nhà, những viên gạch và vữa, những cuốn sách vô giá và những tấm thảm thiêu cổ được truyền qua không biết bao nhiêu thế hệ Thợ Săn Bóng Tối, lúc đó đã biến thành tro tàn bay tứ tán dưới mặt trăng.

Valentine đã hủy diệt ngôi nhà bằng ngọn lửa địa ngục. Hắn phải làm thế. Không một ngọn lửa nào của thế giới này có thể nóng tới vậy, hay cháy tới gần như chẳng còn gì như thế.

Chú bước lên tàn tích vẫn còn bốc khói. Chú thấy Jocelyn đang quỳ lên nơi có lẽ từng là cửa trước. Chúng ám khói đen. Và có những khúc xương. Cháy đen lại, nhưng vẫn có thể nhận ra đó là xương người, những mảnh vải vụn quần áo dính ở vài chỗ, những mẩu đá quý mà lửa không làm cháy nổi. Những sợi chỉ màu vàng đỏ vẫn dính trên xương mẹ Jocelyn, và ngọn lửa đã làm chảy con dao của ông ngoại cháu bám dính lên bàn tay xương xẩu. Giữa những khúc xương khác là bùa hộ mạng bằng bạc của Valentine đang tỏa sáng, với biểu tượng của Circle vẫn đang cháy đỏ trên mặt... và giữa những khúc xương tàn đó, rải rác như thể quá yếu ớt không thể tập hợp lại một chỗ, là xương của một đứa trẻ.

Mày sẽ phải hối hận vì những gì đã làm, Valentine đã nói thế. Và giờ kh quỳ xuống bên Jocelyn trên những phiến đá lát đã cháy, chú nhận ra rằng hắn nói đúng. Chú đã hối hận và từ hồi đó tới nay, chưa lúc nào chú nguôi ngoai cả.

Bọn chú trở lại thành phố trong cái đêm đó, giữa những ngọn lửa vẫn còn cháy sáng và tiếng người kêu thét và rồi đi trong màn đêm của vùng quê. Mãi một tuần sau Jocelyn mới cất tiếng nổi. Chú đưa mẹ cháu rời Idris. Bọn chú bỏ trốn tới Paris. Bọn chú không có tiền, nhưng mẹ cháu không đồng ý tới Học viện nơi đó xin giúp đỡ. Mẹ cháu không muốn dính dáng gì tới Thợ Săn Bóng Tối hay Thế Giới Bóng Tối nữa.

Chú ngồi trong căn phòng của một khách sạn nhỏ, rẻ tiền và cố nói phải quấy với mẹ cháu, nhưng chẳng ăn thua. Mẹ cháu rất cứng đầu. Cuối cùng mẹ cháu cũng nói với chú lý do: mẹ cháu đang mang trong mình một đứa nhỏ khác và cũng biết tin được vài tuần rồi. Mẹ cháu muốn mình và đứa bé này có một cuộc đời mới, và mẹ cháu không muốn nghe được dù chỉ một tiếng thì thào về Clave hay Hòa Ước để làm ảnh hưởng tới tương lai hai mẹ con cháu nữa. Mẹ cháu cho chú xem tấm bùa hộ mệnh lấy từ đống xương; mẹ cháu đã bán nó tại chợ cóc ở Cignancourt và dùng số tiền đó mua vé máy bay. Mẹ cháu không nói cho chú biết sẽ tới đâu. Mẹ cháu nói, càng tránh xa Idris tới đâu càng tốt.

Chú biết rằng bỏ lại cuộc đời cũ đồng nghĩa với việc mẹ cháu sẽ đoạn tuyệt quan hệ với chú, và chú đã tranh cãi với mẹ cháu, nhưng không ăn thua. Chú biết rằng nếu không vì đứa bé trong bụng, mẹ cháu sẽ tự sát, và vì thà để mẹ cháu cho thế giới người thường còn hơn vào tay thần chết, nên cuối cùng chú đành miễn cưỡng đồng ý với kế hoạch của cô ấy. Và chú đã tạm biệt Jocelyn ở sân bay. Lời cuối cùng Jocelyn nói với chú trong lần chia tay nghiệt ngã ấy đã khiến chú lạnh tới tận xương tủy: “Valentine chưa chết.”

Sau khi mẹ cháu đi, chú trở lại đàn, nhưng không thấy được bình tâm. Luôn luôn có sự trống rỗng nhói đau trong chú và chú luôn thức dậy với tên mẹ cháu chưa kịp gọi trên môi. Chú không còn là sói đầu đàn của quá khứ nữa; chú biết chứ. Chú luôn công bằng không thiên vị, nhưng chú luôn nghĩ đi đâu đó; chú không thể tìm ra lấy một người bạn giữa những người sói, hay một người yêu. Chú, cuối cùng, cũng quá người - quá Thợ Săn Bóng Tối - để ở lại cùng những người sói khác. Chú đi săn, nhưng cuộc săn chẳng khiến chú thỏa mãn; và rốt cuộc khi Hiệp Định được ký kết, chú đi vào thành phố để ký.

Tại Sảnh Thiên Thần, giờ đã sạch bong không còn một dấu máu, những Thợ Săn Bóng Tối và bốn nhánh của bán nhân đã ngồi lại để ký những tờ giấy sẽ mang lại hòa bình cho giữa các giới. Chú kinh ngạc khi thấy nhà Lightwood và họ cũng vậy khi biết chú chưa chết. Họ nói, chính họ, cùng Hodge Starkweather và Micheal Wayland là những thành viên cuối cùng của hội Circle đã thoát chết vào đêm đó. Micheal quá đau buồn vì cái chết của vợ, đã ẩn náu trong trang viên cùng cậu con trai nhỏ. Clave đã trừng phạt ba người còn lại phải chịu lưu đày: Họ sẽ tới New York, điều hành Học Viện nơi đó. Nhà Lightwood, nhờ những mối quan hệ với những gia đình quyền quý bậc nhất của Clave, đã được nhận án phạt nhẹ hơn nhiều so với Hodge. Một lời nguyền dành cho ông ta: Ông ta đi với họ, nhưng không bao giờ được rời Học Viện, nếu không sẽ chết ngay tức khắc. Họ nói, giờ ông ta chỉ biết nghiên cứu và sẽ trở thành một gia sư tốt cho những đứa con của họ.

Sau khi ký Hiệp Định xong xuôi, chú đã đứng lên và rời sảnh, đi xuống dòng sông nơi mà chú đã tìm thấy Jocelyn vào cái đêm của vụ Nổi Loạn. Quan sát dòng nước đen lững lờ, chú biết mình sẽ không bao giờ tìm thấy bình yên nơi quê nhà được nữa: chú phải ở cùng mẹ cháu hoặc chẳng ở đâu hết. Chú quyết tâm đi tìm mẹ cháu.

Chú rời đàn, chỉ định một người khác thay thế; chú nghĩ họ nhẹ cả người khi chú ra đi. Chú du hành như một con sói đơn độc: một mình vào đêm, chỉ đi trên những con đường tắt hoặc những con đường làng. Chú trở lại Paris, nhưng không tìm ra dấu vết. Rồi chú tới Luân Đôn. Từ Luân Đôn, chú lên thuyền tới Boston.

Chú sống ở mỗi thành phố một quãng thời gian, rồi tới những Ngọn Núi Trắng ở cực bắc lạnh lẽo. Chú đi nhiều, nhưng càng lúc càng thấy mình nghĩ nhiều tới New York và những Thợ Săn Bóng Tối bị lưu đày tới đó. Jocelyn, theo một cách nói nào đó, cũng là một kẻ lưu vong. Chú đã đi một mạch tới New York chỉ với một chiếc ba lô vải thô và chẳng biết tìm mẹ cháu ở đâu. Chú rất dễ tìm một người sói và gia nhập, nhưng chú không chịu. Cũng như tại các thành phố khác chú truyền tin trong Thế Giới Ngầm, tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào về Jocelyn, nhưng chẳng có gì, không một lời, như thể đơn giản mẹ cháu đã biến mất vào thế giới người thường mà không để lại một dấu vết. Chú bắt đầu tuyệt vọng.

Cuối cùng chú vô tình tìm thấy mẹ cháu. Chú đang vẩn vơ đi lại trên những con phố của SoHo. Khi đứng trên phố Broome trải sỏi, một bức tranh treo trong gian trưng bày đã đập vào mắt chú.

Đó là một bức tranh phong cảnh mà chú nhận ra ngay tức khắc: một quang cảnh từ ô cửa sổ của trang viên gia đình nhà mẹ cháu, với bãi cỏ xanh mướt trải dài bên dưới những hàng cây che khuất những con đường. Chú nhận ra phong cách của mẹ cháu, cách vẽ, mọi thứ. Chú gõ cửa phòng triển lãm, nhưng đã tới giờ đóng cửa và cửa đã khóa. Chú nhìn lại bức tranh và giờ đã thấy chữ ký. Đó là lần đầu tiên chú thấy cái tên mới của mẹ cháu: Jocelyn Fray.

Vào ngay đêm đó, chú đã tìm thấy mẹ cháu, sống tại tầng năm của một căn hộ thuộc khu dành cho các họa sĩ, khu East Village. Chú bước trên những bậc thang trong ánh sáng yếu ớt mà tim đập thình thịch, và gõ cửa. Một cô gái nhỏ với hai bím tóc đỏ sậm và đôi mắt tò mò mở cửa cho chú. Và rồi, đằng sau cô bé, chú thấy Jocelyn đang bước về phía chú, tay dính đầy sơn và gương mặt vẫn hệt như hồi bọn chú còn bé...

Phần còn lại thì cháu biết rồi đấy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Đống đổ nát Renwick’s

Trong một lúc lâu sau khi chú Luke nói xong, trong phòng hoàn toàn im lặng. Âm thanh duy nhất là tiếng nước tí tách nhỏ xuống những bức tường đá. Cuối cùng, chú nói:

“Nói gi đi, Clary.”

“Chú muốn cháu nói gì đây?”

Chú thở dài. “Cháu có thể nói rằng, cháu hiểu?”

Clary nghe thấy rõ ràng tiếng máu mình chảy trong tai. Cô có cảm giác cuộc sống của cô giống như được xây trên một lớp băng mỏng tang như giấy, và giờ lớp băng đó bắt đầu nứt dần, đe dọa sẽ nhấn chìm cô xuống vùng tối lạnh lẽo bên dưới. Bên dưới màn nước đen tối, cô nghĩ, nơi những bí mật của mẹ cô trôi theo dòng chảy, nơi chứa đựng những gì còn lại đã bị lãng quên của một cuộc đời như con tàu đắm.

Cô ngước nhìn chú Luke. Chú dường như đang run rẩy, nhòe đi, như thể đang nhìn cô qua cặp kính mờ. “Bố cháu,” cô nói. “Cái bức hình mẹ cháu giữ trên mặt lò sưởi...”

“Không phải bố cháu,” chú Luke nói.

“Vậy ông ấy có tồn tại không?” giọng Clary cao lên. “Liệu từng có một John Clark nào không, hay đó chỉ là mẹ cháu dựng lên?”

“John Clark có tồn tại. Nhưng ông ấy không phải bố cháu. Ông ấy là con của hai người hàng xóm sống cạnh nhà mẹ cháu hồi mẹ cháu còn sống ở East Village. Cậu ta chết trong vụ tai nạn xe, đúng như mẹ cháu bảo, nhưng mẹ cháu chưa từng gặp mặt. Mẹ cháu có bức hình vì hai người hàng xóm nhờ mẹ cháu vẽ hình cậu ấy mặc quân phục. Mẹ cháu trả lại bức chân dung nhưng giữ lại tấm hình và giả bộ người đàn ông đó là bố cháu. Chú nghĩ mẹ cháu tưởng như thế cháu sẽ thấy dễ chấp nhận hơn. Dẫu sao thì, nếu mẹ cháu nói với cháu rằng bố cháu đã bỏ trốn hay biến mất, cháu sẽ muốn tìm bố. Một người chết...”

“Sẽ không phản bác lại những lời nói dối,” Clary cay đắng nói nốt hộ chú. “Chẳng nhẽ mẹ cháu không thấy như vậy là sai sao, sau bao nhiêu năm đó, để cho cháu tưởng bố cháu đã chết, trong khi người bố thật...”

Chú Luke không nói gì, để cố tự mình tìm cách nói hết câu, để cô tìm ra cái ý tưởng mà ngay cả trong mơ cô cũng không tài nào tưởng tượng nổi.

“Là Valentine.” Giọng cô run run. “Đó là điều chú đang nói với cháu, đúng không? Rằng Valentine... từng là... - là - là bố cháu?”

Chú Luke gật đầu, những ngón tay đan chặt của chú là dấu hiệu duy nhất của sự căng thẳng mà chú đang cảm nhận. “Đúng.”

“Ôi Chúa ơi.” Clary nhảy dựng lên, không thể ngồi yên nổi nữa. Cô đi về phía những thanh xà lim. “Không thể nào. Không thể nào.”

“Clary, làm ơn đừng buồn...”

“Đừng buồn ư? Chú đang nói với cháu rằng bố cháu là người về cơ bản là chúa tể hắc ám, và chú muốn cháu không buồn?”

“Lúc đầu hắn ta không ác,” chú Luke nói, nghe có vẻ thấy có lỗi.

“Ồ, cháu cầu được khác đi. Cháu nghĩ ông ta hoàn toàn ác. Tất cả những gì ông ấy đang ươm trồng về việc làm nòi giống loài người trong sạch và tầm quan trọng của dòng máu thuần khiết - ông ta giống như một trong những tay chính trị gia da trắng đáng sợ kia. Và cả hai người hoàn toàn tin lời ông ấy.”

“Chú không phải người nói chuyện về những Kẻ thuộc Thế Giới Ngầm ‘gian xảo’ chỉ một vài phút trước,” chú Luke bình tĩnh đáp. “Hay về việc không thể tin họ.”

“Không hề giống nhau!” Clary nghe thấy tiếng khóc trong giọng nói. “Cháu có một người anh,” cô nói tiếp, giọng nghẹn lại. “Ông bà nữa. Họ đều chết?”

Chú Luke gật đầu, mắt nhìn xuống bàn tay lớn đang mở đặt trên đầu gối. “Họ đã chết.”

“Jonathan,” cô nhẹ nhàng gọi. “Anh ấy lớn hơn cháu? Lớn hơn một tuổi?”

Chú Luke không nói gì.

“Cháu luôn muốn có anh,” cô nói.

“Đừng,” chú buồn bã nói. “Đừng hành hạ bản thân. Cháu có thể thấy vì sao mẹ cháu giấu cháu tất cả rồi, đúng không? Có lợi gì đâu nếu cháu biết cháu đã mất những gì trước khi kịp chào đời chứ?”

“Cái hộp đó,” Clary nói, đầu óc làm việc điên cuồng. “Với chữ J.C bên trên. Jonathan Christopher. Đó là cái khiến mẹ cháu khóc, đó là lọn tóc của người đó - của anh cháu, không phải của bố cháu.”

“Đúng.”

“Và khi chú nói ‘Clary không phải Jonathan,’ chú nói tới anh cháu. Mẹ cháu luôn bảo vệ cháu quá mức vì bà đã có một đứa con bị chết.”

Trước khi chú Luke kịp trả lời, cửa xà lim lại lanh canh mở ra và Gretel bước vào. Khi nghe tới ‘hộp thuốc,’ Clary nghĩ ngay tới chiếc hộp nhựa với hình Chữ thập đỏ trên đó, nhưng hóa ra lại là một khay gỗ lớn, bày những cuộn gạc được xếp gọn, những cái bát đựng thứ chất lỏng gì đó đang bốc khói và thảo dược tỏa ra mùi chua chua hăng hắc. Gretel đặt khay xuống cạnh tấm phản và ra hiệu cho Clary ngồi xuống, cô miễn cưỡng làm theo.

“Một cô gái ngoan,” người phụ nữ sói nói, nhúng miếng gạc vào trong một cái bát và đưa lên mặt Clary. Cô ta nhẹ nhàng lau hết vết máu khô. “Chuyện gì đã xảy ra với em vậy?” cô ta chê trách hỏi, như thể cô ta đang nghi rằng Clary đã cầm cái nạo pho mát mài lên mặt.

“Chú cũng đang muốn biết đây,” chú Luke hỏi, khoanh tay quan sát.

“Hugo tấn công cháu,” Clary cố không nhăn mặt khi thứ chất lỏng sền sệt chấm lên vết thương.

“Hugo nào?” chú Luke chớp mắt.

“Hugo con chim của Hodge. Cháu nghĩ nó là con chim bác ấy nuôi. Cũng có thể là Valentine.”

“Hugin,” chú Luke khe khẽ nói. “Hugin và Munin là hai con chim cảnh của Valentine. Tên của chúng có nghĩa là ‘Suy Nghĩ’ và ‘Trí Nhớ’.”

“À, chúng nên có nghĩa là ‘Tấn công’ và ‘Giết chóc’.” Clary nói. “Hugo suýt cào toạt mắt cháu ra.”

“Nó được huấn luyện để làm chuyện đó.” Chú Luke đang gõ ngón tay lên tay bên kia. “Hodge hẳn đã nuôi nó sau vụ Nổi Loạn. Nhưng nó vẫn là con vật cưng của Valentine.”

“Cũng như Hodge vậy,” Clary nói, nhíu mày khi Gretel lau tới vết rạch dài trên tay cô, giờ đang dính đất bẩn và máu khô. Rồi Gretel bắt đầu băng chặt lại.

“Clary...”

“Cháu không muốn nói về quá khứ nữa,” cô dõng dạc tuyên bố. “Cháu muốn biết giờ chúng ta sẽ làm gì. Giờ Valentine đã có được mẹ cháu, Jace... và chiếc Cốc. Còn chúng ta chẳng có gì.”

“Chú sẽ không nói chúng ta không có gì đâu,” chú Luke nói. “Chúng ta có một đàn sói mạnh. Vấn đề là chúng ta không biết Valentine ở đâu.”

Clary lắc đầu. Những sợi tóc xòa xuống mắt và cô bực tức vén lên. Chúa ơi, cô thật bẩn thỉu. Điều mà cô muốn hơn mọi điều khác - gần như hơn mọi thứ khác - là được tắm. “Valentine có nơi ẩn nấp nào không? Một hang ổ bí mật?”

“Nếu hắn có,” chú Luke nói, “hắn đã giữ bí mật thật kín rồi.”

Gretel thả tay Clary, để cho cô thận trọng nhúc nhích cánh tay. Thứ thuốc mỡ màu xanh lè Gretel đã bôi lên vết thương có tác dụng giảm đau, nhưng cánh tay vẫn cứng đơ và vụng về. “Đợi một chút,” Clary nói.

“Chẳng hiểu sao con người hay sử dụng cách nói đó,” chú Luke nói, chẳng với cụ thể một ai. “Chúng chẳng đi đâu cả.”

“Liệu Valentine có thể ở New York không nhỉ?”

“Có thể.”

“Khi cháu thấy hắn ở Học Viện, hắn đi qua Cổng Dịch Chuyển. Magnus nói chỉ có hai Cổng Dịch Chuyển ở New York. Một ở nhà Dorothea, một ở Renwick’s. Cánh cổng tại nhà Dorothea đã bị hủy, mà cháu không thấy hắn có thể trốn ở nơi nào khác, vì thế...”

“Renwick’s?” chú Luke có vẻ bối rối. “Renwick không phải một cái tên của Thợ Săn Bóng Tối.”

“Nhưng nhỡ Renwick không phải một con người thì sao?” Clary nói. “Nếu nó là một địa điểm chẳng hạn? Renwick. Như một nhà hàng, hoặc... một khách sạn hay gì đó.”

Chú Luke đột ngột mở to mắt. Chú quay sang Gretel, người đang tiến về phía chú với khay thuốc trên tay. “Đưa cho tôi cuốn danh bạ điện thoại,” chú nói.

Cô ta dừng lại, giơ cái khay về phía chú với vẻ trách móc. “Nhưng, thưa thủ lĩnh, vết thương của ngài...”

“Quên vết thương của tôi đi và cầm cuốn danh bạ tới đây giùm tôi,” chú quát. “Chúng ta đang ở trong đồn cảnh sát. Chắc hẳn cô sẽ tìm ra kha khá cuốn danh bạ cũ đấy.”

Bực bội khó chịu ra mặt, Gretel đặt cái khay xuống và đi ra khỏi phòng. Chú Luke nhìn Clary qua cặp kính hơi trễ xuống sống mũi. “Tư duy tốt đấy.”

Cô không trả lời. Bụng cô đang xoắn lại thành nút. Cô thấy mình đang cố thở qua nút thắt đó. Suy nghĩ bắt đầu hình thành gây ngứa ngáy ngoài rìa trí não, như đang đợi cô lãnh hội nó một cách hoàn toàn. Nhưng cô đã ngay lập tức ép nó xuống và quên đi. Cô không thể tiêu tốn nguồn lực, năng lượng, cho bất cứ thứ gì ngoài những vấn đề cần giải quyết ngay tức khắc.

Gretel trở lại với cuốn những trang vàng có vẻ bị ướt và nhét vào tay chú Luke. Chú đứng đọc một hồi trong khi cô gái sói tấn công vết thương bên sườn chú với băng gạc và những thứ thuốc mỡ dinh dính. “Có bảy Renwick trong cuốn danh bạ,” chú nói. “Không có nhà hàng, khách sạn, hay địa điểm nào khác.” Chú đẩy kính lên, gọng kính ngay lập tức trễ xuống. “Họ không phải Thợ Săn Bóng Tối,” chú nói, “và chú thấy có vẻ không có khả năng Valentine lại đặt trụ sở trong nhà người thường hoặc nơi trú ngụ của một cư dân Thế Giới Ngầm nào đó. Nhưng, có thể...”

“Chú có điện thoại không?” Clary ngắt lời.

“Chú không mang theo,” chú Luke, vẫn cầm cuốn danh bạ, liếc nhìn Gretel. “Cô đi lấy điện thoại dùm tôi nhé?”

Với tiếng khụt khịt chán ghét, cô ta ném miếng vải dính máu đang cầm xuống nền nhà và đi ra khỏi phòng lần thứ hai. Chú Luke đặt cuốn danh bạ xuống bàn, cầm cuốn gạc, và bắt đầu cuốn quanh vết thương quanh mạng sườn. “Xin lỗi,” chú nói khi Clary nhìn. “Chú biết là kinh rồi.”

“Nếu chúng ta tóm được Valentine,” cô đột ngột hỏi, “chúng ta có giết hắn không?”

Chú Luke suýt làm rơi cuộn gạc. “Cái gì?”

Cô nghịch những sợi chỉ thừa thò ra khỏi túi quần bò. “Hắn giết anh cháu. Hắn giết ông bà cháu. Đúng không?”

Chú Luke đặt cuộn gạc lên bàn và kéo áo xuống. “Và cháu nghĩ giết hắn sẽ được gì nào? Xóa đi những điều đó?”

Gretel trở về trước khi Clary kịp trả lời. Cô ta đeo gương mặt của kẻ sẵn sàng tử vì đạo và đưa cho chú Luke một chiếc điện thoại kiểu cũ khá thô kệch. Clary tự hỏi ai trả tiền điện thoại đây.

Clary giơ tay. “Để cháu gọi.”

Chú Luke có vẻ lưỡng lự. “Clary...”

“Đó là về Renwick. Chỉ một giây thôi.”

Chú mệt mỏi đưa điện thoại cho cô. Cô ấn số và hơi quay người đi để cho mình chút ảo tưởng về sự riêng tư.

Simon nhấc máy ở chuông thứ ba. “A lô.”

“Mình đây.”

Giọng cậu cao lên quãng tám. “Cậu ổn không?”

“Mình ổn. Vì sao? Cậu nghe tin gì từ Isabelle à?”

“Không. Sao mình lại nghe tin từ Isabelle? Có chuyện gì sao? Alec có chuyện sao?”

“Không,” Clary nói, không muốn nói dối rằng Alec đã ổn. “Không phải Alec. Nghe này, mình cần cậu lên Google tìm cho mình cái này.”

Simon khụt khịt. “Cậu đùa mình rồi. Họ không có máy tính ở đó sao? Cậu biết không, không cần trả lời đâu.” Cô nghe có tiếng cửa mở và tiếng meo meo của con mèo mà mẹ Simon nuôi bị đẩy từ chỗ nằm trên bàn phím máy tính xuống. Cô tưởng tượng khá rõ ràng ra cảnh Simon ngồi xuống, những ngón tay di chuyển nhanh nhẹn trên bàn phím. “Cậu muốn mình tìm gì nào?”

Cô nói. Cô cảm nhận được ánh mắt lo lắng của chú Luke khi cô nói chuyện. Chú cũng nhìn cô hệt như vậy vào năm cô mười một tuổi, bị cảm và sốt cao. Chú chườm đá cho cô và đọc cho cô nghe những cuốn truyện cô yêu thích, giả đủ các giọng.

“Cậu nói đúng,” Simon nói, đánh thức cô dậy khỏi dòng suy tưởng. “Đó là một địa điểm. Hoặc ít nhất cũng từng là. Giờ nó bị bỏ hoang rồi.”

Bàn tay đầy mồ hôi trượt trên điện thoại. Cô nắm chặt hơn. “Nói cho mình nghe xem.”

“Trại thương điên nổi tiếng nhất, nhà tù, bệnh viện xây dựng trên đảo Roosevelt vào những năm 1800,” Simon đọc đều đều. “Bệnh viện Renwick Smallpox được thiết kế bởi kiến trúc sư Jacob Renwick và ban đầu được dùng làm nơi cách ly những nạn nhân nghèo nhất của dịch đậu mùa bùng nổ tại Manhattan. Đa số những người được đưa vào quần thể kiến trúc kiểu Gothic rùng rợn này đều chết trong bốn bức tường đó. Suốt thế kỷ tiếp theo bệnh viện bị bỏ hoang không tu sửa. Di tích này hiện bị cấm lui tới.”

“Được rồi, đủ rồi.” Clary nói, trái tim đập rộn ràng. “Phải là nó rồi. Đảo Roosevelt Island đúng không? Người ta không sống ở đó à?”

“Không phải ai ai cũng sống ở Slope, thưa công chúa,” Simon nói, rõ ràng là muốn mỉa mai cô. “Mà cậu có lại cần mình đưa đi hay gì không?”

“Không! Mình ổn, mình không cần gì đâu. Mình chỉ muốn thông tin thôi.”

“Được rồi.” Clary nhận thấy, cậu bạn thân có vẻ bị tổn thương đôi chút, nhưng cô tự nhủ với mình rằng sẽ không sao đâu. Cậu sẽ an toàn ở nhà, và đó mới là điều quan trọng.

Cô cúp máy, quay lại chú Luke. “Có một bệnh viện bị bỏ hoang ở cực nam đảo Roosevelt mang tên Renwick. Cháu nghĩ Valentine ở đó.”

Chú Luke lại đẩy kính. “Đảo của Blackwell. Tất nhiên rồi?”

“Sao chú lại nói đó là đảo của Blackwell? Cháu đã nói...”

Chú khua tay ngắt lời cô. “Từng có thời đảo Roosevelt mang tên đó. Blackwell’s. Nó thuộc về một dòng họ Thợ Săn Bóng Tối lâu đời. Chú phải đoán ra chứ nhỉ.” Chú quay sang Gretel. “Gọi Alaric. Chúng ta cần mọi người quay lại đây ngay khi có thể.” Môi chú cong lên thành một nụ cười nửa miệng khiến Clary liên tưởng tới nụ cười băng giá của Jace trong những trận đánh. “Bảo họ chuẩn bị chiến đấu.”

Họ đi qua một mê cung lằng nhằng như mạch điện gồm những xà lim và hành lang của một nơi từng là hành lang lớn của một trạm cảnh sát và tiến ra đường. Tòa nhà giờ đã bị bỏ không, những tia nắng của buổi chiều muộn đã tạo những cái bóng kỳ lạ lên những chiếc bàn để không, những cái tủ bị khóa mang những cái lỗ đen lỗ chỗ do mọt ăn, những viên gạch nứt vỡ lát sàn tạo thành khẩu hiệu của NYPD: Fidelis ad Mortem.

“Lòng tin dẫn đến cái chết,” chú Luke nói, nhìn theo mắt cô.

“Để cháu đoán nhé,” Clary nói. “Ở bên trong nó là một trạm cảnh sát bị bỏ hoang; từ bên ngoài, người thường chỉ thấy đây là một khu chung cư đã bị dời đi, một khu đất trống, hoặc...”

“Thực ra từ ngoài nhìn vào nó giống một nhà hàng Trung Hoa,” chú Luke nói, “Chỉ nhận đặt hàng, không phục vụ ăn uống tại chỗ.”

“Một nhà hàng Trung Hoa?” Clary không thể tin nổi.

Chú nhún vai. “Ừ, chúng ta ở khu phố Trung Hoa. Đây từng là tòa nhà của Đồn số hai đó.”

“Mọi người hẳn sẽ thấy kỳ khi không thấy số điện thoại đặt hàng.”

Chú Luke cười. “Có số điện thoại chứ. Chỉ là bọn chú ít nhấc máy thôi. Thi thoảng, nếu họ buồn, một vài con sói con sẽ đi giao món thịt lợn mu shu cho một ai đó.”

“Chú đùa rồi.”

“Không. Có chút tiền típ cũng giúp được kha khá đấy.” Chú mở cửa trước, để cho luồng ánh nắng tràn vào.

Vẫn không biết chú nói thật hay đùa, Clary đi theo chú Luke vượt qua đường Baxter tới nơi chú đậu xe. Nội thất của chiếc xe bán tải tạo cho cô cảm giác thân quen thoải mái. Mùi hương nhàn nhạt của mạt gỗ cùng giấy cũ và xà bông, hai viên xúc xắc nhồi bông màu vàng đã bạc màu mà cô cho chú khi lên mười vì trông chúng giống những viên xúc xắc vàng treo trên gương sau của con tàu vũ trụ Millenium Falcon trong phim Star Wars. Những vỏ kẹo cao su đã vứt đi cùng những cốc cà phê rỗng nằm lăn lóc trên sàn xe. Clary ngồi vào ghế hành khách, thở dài và dựa lưng xuống. Cô mệt mỏi hơn dám thừa nhận.

Chú Luke đóng cửa. “Ở nguyên đó nhé.”

Cô quan sát trong khi chú nói chuyện cùng Gretel và Alaric, hiện đang đứng trên bậc thềm của trạm cảnh sát cũ, kiên nhẫn chờ đợi. Clary tự giải khuây bằng cách lúc tập trung lúc lơ đễnh nhìn họ, quan sát ảo ảnh xuất hiện rồi biến mất. Lúc đầu nó là trạm cảnh sát cũ, lúc sau nơi đó biến thành mặt trước một cửa hàng ọp ẹp với mái hiên màu vàng có chữ JADE WOLF CHINESE CUISINE.

Chú Luke đang vung vẩy tay với sói hai và sói ba và chỉ xuống đường. Chiếc bán tải của chú đỗ đầu hàng dài xe tải, mô tô, xe Jeep và thậm chí một chiếc xe buýt đón học sinh cũ kỹ trông như sắp long hết cả. Hàng phương tiện trải dài suốt khối nhà đến quành cả qua góc đường. Đoàn hộ tống của người sói. Clary tự hỏi sao họ xin được, mượn được, trộm được hay trưng dụng được từng đó xe trong một khoảng thời gian quá ngắn. Nhưng dù sao, ít nhất họ không phải chui tất vào tàu cao tốc.

Chú Luke nhận một túi giấy màu trắng từ Gretel, với một cái gật đầu, chú trở về chiếc xe bán tải. Chui cái thân gầy cao vào sau vô lăng, chú đưa cô cái túi. “Cháu phụ trách cái này.”

Clary ngờ vực nhìn vào. “Cái gì thế? Vũ khí ạ?”

Vai chú Luke run lên vì cười không ra tiếng. “Thực ra là bánh bao nóng hổi mới ra lò,” chú nói và lùi xe xuống đường. “Và cả cà phê nữa.”

Clary xé túi khi họ tiến lên phố, dạ dày sôi ùng ục. Cô xé miếng bánh, cảm nhận vị thịt lợn mằn mặn trên đầu lưỡi và lớp bột dai dai. Cô uống một ngụm cà phê đen ngọt lịm để nuốt xuống, và đưa một cái bánh bao cho chú Luke. “Chú ăn không?”

“Có.” Thật gần giống như thời xưa, Clary nghĩ, khi họ lái xe vào đường Canal, mua vài túi bánh bao nóng từ tiệm bánh Golden Carriage Bakery và ăn hết một nửa khi lái xe qua cầu Manhattan để về nhà.

“Vậy kể cho chú nghe về cậu Jace kia nào,” chú Luke nói.

Clary suýt nghẹn. Cô với lấy cốc cà phê, dùng nước nóng để chặn cơn ho. “Anh ấy làm sao ạ?”

“Cháu có biết Valentine định làm gì cậu bé đó không?”

“Không ạ.”

Chú Luke nhíu mày khi nhìn phải mặt trời đang lặn. “Chú nghĩ Jace là một trong những đứa trẻ nhà Lightwood?”

“Không.” Clary ăn chiếc bánh bao thứ ba. “Họ cậu ấy là Wayland. Bố cậu ấy là...”

“Michael Wayland?”

Cô gật đầu. “Và khi Jace mười tuổi, Valentine đã giết chú ấy. À, chú Michael ạ.”

“Đó chắc chắn là việc hắn sẽ làm rồi,” chú Luke nói. Giọng chú vang lên đều đều, nhưng có gì đó khiến Clary phải liếc sang. Chú không tin cô sao?

“Jace đã thấy bố chết,” cô nói thêm, như thể để làm rõ nghĩa thêm cho câu trước.

“Thật tệ,” chú Luke nói. “Khổ thân thằng nhỏ.”

Họ đang lái xe qua Cầu Đường 59. Clary liếc xuống nhìn dòng sông chuyển sang màu vàng và đỏ máu nhờ ánh mặt trời sắp tàn. Cô thoáng thấy cực nam của đảo Roosevelt từ đây, dù chỉ là đường nét mơ hồ từ phương bắc. “Anh ấy cũng không sao đâu,” cô nói. “Nhà Lightwood chăm sóc anh ấy rất tốt.”

“Chú biết. Họ rất thân với Michael Wayland,” chú Luke nhận xét trong khi tạt xe qua làn bên trái. Từ gương chiếu hậu Clary có thể thấy bầu đoàn xe đi theo cũng bắt chước rẽ theo. “Họ sẽ muốn chăm sóc con trai Michael.”

“Vậy chuyện gì xảy ra khi mặt trăng lên?” cô hỏi. “Vậy tất cả các chú sẽ biến thành sói hay sao ạ?”

Miệng chú Luke giật giật. “Không hẳn. Chỉ những người còn trẻ, những người vừa mới Biến Đổi, không thể kiểm soát sự biến hình. Hầu hết bọn chú đã học được cách, sau nhiều năm. Giờ chỉ có trăng tròn mới có thể tác động tới sự Biến Đổi của chú.”

“Vậy khi trăng chưa tròn, chú có cảm thấy sói một chút thôi?” Clary hỏi.

“Cháu có thể nói vậy.”

“Ừm, chú có thể đi trước và thò đầu ra khỏi cửa sổ nếu muốn.”

Chú Luke cười. “Chú là người sói, không phải một con chó tha mồi màu vàng.”

“Chú làm sói đầu đàn bao lâu rồi?” cô đột nhiên hỏi.

Chú Luke ngập ngừng. “Khoảng một tuần.”

Clary quay phắt sang nhìn. “Một tuần?”

Chú thở dài. “Chú biết Valentine đã bắt mẹ cháu đi,” chú nói mà không thay đổi ngữ điệu nhiều. “Chú biết chú có rất ít cơ hội chống lại hắn một mình và chú không thể mong gì sự hỗ trợ của Clave. Chú mất một ngày để tìm ra đàn người sói gần nhất.”

“Chú giết sói đầu đàn để cướp vị trí?”

“Đó là cách nhanh nhất chú có thể nghĩ ra để có kha khá đồng minh trong một khoảng thời gian ngắn,” chú Luke nói, giọng không có chút hối hận nào, dù chẳng cũng chẳng tự hào gì. Cô nhớ lần theo dõi chú trong nhà, cô để ý thấy những vết cào sâu trên tay và mặt chú và cách chú nhăn mặt khi dùng tới tay. “Chú đã từng làm thế rồi. Chú khá chắc mình có thể làm lại.” Chú nhún vai. “Mẹ cháu thì biến mất. Chú biết chú sẽ khiến cháu ghét chú. Nhưng chú chẳng còn gì mất.”

Clary gác chân lên mặt đồng hồ. Qua lớp kính chắn gió đã nứt, bên trên đầu ngón chân, mặt trăng đã lên qua đầu. “Thôi,” cô nói. “Giờ thì chú có đấy.”

Bệnh viện ở cực nam đảo Roosevelt được chiếu sáng vào đêm, những đường nét mờ mờ ảo ảo của nó rõ ràng gây cho người ta cảm giác tò mò đối lập hoàn toàn với dòng hải lưu đen và ánh sáng rực rỡ hơn của Manhattan. Chú Luke và Clary im lặng khi chiếc xe đi men theo hòn đảo nhỏ, khi con đường rải nhựa đường chuyển thành đường rải sỏi và cuối cùng là đường đất. Con đường đi men theo hàng rào mắt cao cao cong cong, trên đó có gắn những vòng xoăn dây thép gai giống như những cuộn ruy băng của ngày hội.

Khi con đường trở nên quá gồ ghề không thể đi xe thêm xa hơn, chú Luke đậu xe lại và tắt đèn. Chú nhìn Clary. “Nếu chú bảo cháu ở đây chờ chú, cháu có nghe không?”

Cô lắc đầu. “Ở trong xe cũng không nhất thiết là an toàn hơn nhiều. Ai mà biết được Valentine có lính tuần tra ngoài vành đai không?”

Chú Luke cười khe khẽ. “Vành đai. Nghe cháu kìa.” Chú chui ra khỏi xe và đi sang giúp cô xuống. Cô có thể tự mình nhảy xuống, nhưng sẽ tốt hơn nếu có chú giúp, chú vẫn làm như vậy kể từ hồi cô còn quá nhỏ không thể xuống được.

Chân cô chạm xuống nền đất nện khô, làm bụi bốc mù lên. Những chiếc xe đi theo sau cũng dừng lại, từng chiếc một, tạo thành một vòng tròn xung quanh xe chú Luke. Những ngọn đèn pha chiếu sáng phía trước, nhuộm hàng rào mắt cáo thành màu trắng bạc. Bên kia hàng rào, bệnh viện là một khu tàn tích tắm mình trong ánh sáng gay gắt cho thấy tình trạng xập xệ của nó: những bức tường tốc mái mọc lên từ nền đất gồ ghề giống như những chiếc răng gẫy, tường chắn bằng đá có lỗ châu mai bị cây thường xuân mọc che kín. “Đây là một phế tích,” cô nghe mình đang khe khẽ nói, có sự đồng cảm trong giọng nói. “Cháu chẳng hiểu sao Valentine lại có thể trốn ở đây.”

Chú Luke nhìn về phía bệnh viện. “Nó được bọc trong lưới ảo ảnh rất mạnh,” chú nói. “Cố nhìn qua ánh sáng đi.” Alaric đang đi dọc con đường về phía họ, cơn gió nhẹ khiến chiếc áo khoác bò của chú ta khẽ mở, lộ ra bộ ngực đầy sẹo. Những người sói đi sau chú ta trông hoàn toàn bình thường, Clary nghĩ. Nếu cô thấy họ đi cùng nhau ở nơi nào đó, cô sẽ nghĩ họ biết nhau - ở họ có một sự tương đồng không phải ở bề ngoài, mà là ở ánh mắt thẳng thắn, ở vẻ mặt mạnh mẽ. Cô sẽ nghĩ họ là những người nông dân, vì họ có vẻ nước da cháy nắng, săn chắc, và gầy còm hơn những cư dân thành phố trung bình, hoặc cô sẽ nghĩ họ là một nhóm dân chơi mô tô. Nhưng họ chẳng giống quái vật chút nào.

Họ đi cùng nhau nhanh gọn họp lại bên xe chú Luke, như thể cuộc hội ý trong môn bóng bầu dục. Clary, cảm thấy như một kẻ ngoài cuộc, quay ra nhìn lại bệnh viện một lần nữa. Lần này cô cố nhìn quanh ánh đèn, hay nhìn xuyên qua nó, cách thi thoảng bạn vẫn nhìn qua lớp sơn phủ để thấy những gì bên dưới. Và như thường lệ, nghĩ đến việc mình sẽ vẽ nó ra như thế nào luôn giúp ích cho cô. Ánh sáng dường như nhạt dần, và giờ cô đang nhìn qua một tràng cỏ với vài cây sồi tới một kiến trúc theo phong cách Gothic Phục Hưng dường như đứng sừng sững trước những rặng cây như thành một con tàu lớn. Những ô cửa sổ của những tầng dưới tối om và đã vỡ, nhưng ánh sáng tràn qua những ô cửa sổ hình vòm ở tầng ba, giống như ngọn lửa chạy dọc theo một rặng núi xa xa nào đó. Hiên nhà bằng đá nặng nề hướng ra ngoài, che khuất cánh cửa.

“Cháu thấy chưa?” chú Luke đã đến sau cô với những bước đi uyển chuyển của - một con sói.

Cô vẫn nhìn. “Nó giống một lâu đài hơn là bệnh viện.”

Chú Luke quay vai cô sang nhìn chú. “Clary, nghe chú nói này.” Chú nắm chặt tới phát đau. “Chú muốn cháu ở cạnh chú. Di chuyển khi chú di chuyển. Nắm lấy tay áo chú nếu cháu thấy cần. Những người khác sẽ ở quanh chúng ta, bảo vệ chúng ta, nhưng nếu cháu bước ra ngoài vòng tròn, họ không thể bảo vệ cháu được nữa. Họ sẽ đưa chúng ta tới cửa. Chú bỏ tay khỏi vai cô và khi chú di chuyển, cô thoáng thấy ánh kim loại lóe lên từ trong áo khoác. Cô đã không nhận ra chú có mang theo vũ khí, nhưng rồi cô nhớ ra điều Simon nói về thứ trong ba lô vải thô màu xanh cũ xỉn của chú Luke và hiểu ra. “Cháu hứa làm theo lời chú chứ?”

“Cháu hứa.”

Hàng rào là thật, không phải ảo ảnh. Alaric, vẫn ở trước, rung nó rần rần, rồi giơ bàn tay lười nhác lên. Những móng vuốt dài nhô ra từ dưới móng tay, và chú ta chém vào hàng rào mắt cáo, biến kim loại thành từng dải. Chúng lanh canh rơi xuống, hệt như những món đồ chơi xếp hình của Tinkertoys.

“Đi.” Anh ta ra hiệu cho những người khác chui qua. Họ lao về phía trước như một thể thống nhất, một biển những chuyển động hợp tác ăn ý. Nắm lấy tay Clary, chú Luke đẩy cô lên trước rồi chui vào theo. Họ đứng thẳng dậy sau khi chui qua, nhìn về phía bệnh viện đậu mùa, nơi những bóng đen tụ tập trên hiên đang bước xuống thềm.

Alaric ngửng đầu, đánh hơi. “Mùi của chết chóc nặng quá.”

Hơi thở chú Luke rời khỏi lồng ngực thành một tràng ồ ồ những tiếng rít. “Những Kẻ Lầm Đường.”

Chú đẩy Clary ra sau; cô nghe theo, hơi chuệnh choạng vì nền đất kém bằng phẳng. Cả đàn bắt đầu di chuyển về phía cô và chú Luke; khi tới gần, họ đi bằng bốn chân, môi cong lên để lộ những chiếc răng nanh dài, chân tay biến thành tứ chi phủ lông, lông mọc tràn ra khỏi quần áo. Có những giọng nói bé xíu của bản năng vang lên trong đầu Clary đang hét với cô: Sói! Chạy đi! Nhưng cô không chống lại và đứng nguyên tại chỗ, dù cảm thấy những dây thần kinh đang rung lên ở tay.

Đàn sói bao lấy họ, đối mặt về phía trước. Nhiều sói xuất hiện ở ngoài vòng tròn. Như thể cô và chú Luke đang đứng ở trung tâm một ngôi sao. Giống như thế, họ bắt đầu di chuyển về phía hiên trước của bệnh viện. Vẫn ở sau chú Luke, Clary thậm chí còn không nhìn thấy Kẻ Lầm Đường đầu tiên họ đụng độ. Cô nghe thấy một con sói tru lên như bị thương. Tiếng hú cứ lên cao cao mãi, rồi nhanh chóng chuyển thành tiếng gầm ghè. Có tiếng thịch rồi tiếng hét đùng đục và âm thanh như tiếng giấy bị xé.

Clary thấy mình đang tự hỏi liệu Kẻ Lầm Đường có ăn được không.

Cô ngước nhìn chú Luke. Mặt chú không có lấy một biểu cảm. Cô thấy chúng, ngoài vòng tròn sói, cảnh tượng được chiếu sáng rõ nhờ ánh đèn và ánh sáng từ Manhattan tới: hàng tá Kẻ Lầm Đường, làn da trắng ởn như xác chết dưới ánh trăng, trên da phủ kín những chữ rune như bị nhiễm trùng. Mắt chúng đờ đẫn khi lao vào đám sói, những con sói đối đầu với chúng, vuốt cào, răng cắn và xé. Cô thấy một trong những chiến binh Lầm Đường - một phụ nữ - ngã ra sau, cổ họng bị xé toạc, tay vẫn giật giật. Một kẻ khác ẩu đả với con sói bằng một tay trong khi tay kia đang nằm cách cả mét, máu túa ra từ mỏm chi cụt. Máu đen, đặc như nước đầm lầy, chảy thành dòng, thấm vào bãi cỏ nhiều đến mức Clary cảm thấy hơi trơn trượt. Chú Luke nắm lấy tay cô trước khi cô ngã. “Đứng đây với chú.”

Cháu vẫn ở đây, cô muốn nói nhưng không mở miệng nổi. Nhóm vẫn tiến về phía bệnh viện, chậm tới phát bực. Chú Luke nắm như gọng kìm. Clary không biết ai đang thắng, nếu có bên thắng. Người sói có kích thước và tốc độ vượt trội nhưng những Kẻ Lầm Đường di chuyển với sự chắc chắn và khó giết kinh khủng. Cô thấy một con sói nâu vốn là Alaric hạ gục một kẻ bằng cách xé toạc chân hắn và nhảy lên cắn cổ. Nó vẫn bước, kệ cho chú ta đang xé cổ họng nó, cái rìu vung lên để lại một vết thương dài đổ máu trên lớp lông mượt của Alaric.

Bị phân tâm, Clary hầu như chẳng để ý Kẻ Lầm Đường đã xuyên qua vòng bảo vệ, tới khi nó xuất hiện trước mặt cô, hệt như từ dưới đất mọc lên vậy. Mắt trắng dã, tóc bết bẩn, nó giơ con dao đang nhỏ máu lên.

Cô hết. Chú Luke quay phắt lại, kéo cô sang bên và nắm lấy cổ tay cái thứ đó mà vặn. Cô nghe tiếng xương gẫy, rồi con dao rơi xuống cỏ. Tay Kẻ Lầm Đường lủng la lủng lẳng, nhưng nó vẫn tiến tới, rõ ràng không biết đau là gì. Chú Luke gào tên Alaric. Clary cố với lấy con dao nơi thắt lưng, nhưng chú Luke giữ cô quá chặt. Trước khi cô kịp hét bảo chú thả cô ra, một ánh lửa bạc phóng vụt qua họ. Gretel. Cô đáp xuống ngực Kẻ Lầm Đường bằng hai chân trước, đánh ngã hắn. Một tiếng gào giận dữ vang lên từ cổ họng Gretel, nhưng Kẻ Lầm Đường mạnh hơn; nó quăng cô sang bên như quăng một con búp bê vải và đứng dậy.

Có gì đó bế bổng Clary. Cô hét, nhưng đó là Alaric, nửa người nửa sói, tay vẫn đầy những móng vuốt sắc nhọn. Nhưng đôi tay đó đang bế cô một cách nhẹ nhàng.

Chú Luke ra hiệu cho họ. “Đưa con bé ra khỏi đây! Đưa nó tới cửa!” chú đang hét.

“Chú Luke!” Clary vặn vẹo trong vòng tay Alaric.

“Đừng nhìn,” Alaric gầm gừ.

Nhưng cô đã nhìn. Đủ lâu để thấy chú Luke tiến về phía Gretel, con dao trên tay, nhưng chú đã quá muộn. Kẻ Lầm Đường cầm lấy con dao trên cỏ ướt máu, đâm vào lưng Gretel, hết lần này tới lần khác, trong khi cô cào cấu, chống cự rồi cuối cùng đổ gục, ánh sáng trong đôi mắt bạc biến mất. Với một tiếng hét chú Luke vung dao nhắm vào cổ Kẻ Lầm Đường...

“Chú đã bảo cháu đừng nhìn rồi mà,” Alaric gầm gừ, quay người dùng cơ thể che tầm nhìn của cô. Họ đang lao lên thềm, tiếng bàn chân đầy móng vuốt cào lên lớp đá hoa cương nghe hệt như tiếng móng tay cào lên bảng.

“Alaric,” Clary gọi.

“Ừ?”

“Cháu xin lỗi vì đã phi dao vào chú.”

“Không cần. Cháu phi vào đúng nơi mà.”

Cô cố nhòm qua chú ta. “Chú Luke đâu rồi?”

“Chú đây,” chú Luke nói. Alaric quay người. Chú Luke đang bước lên, nhét kiếm vào vỏ được đeo bên người, ngay dưới áo khoác. Lưỡi kiếm dính máu đen nhớp nháp.

Alaric thả Clary chuồi lên hàng hiên. Cô đứng xuống, quay phắt lại. Cô không thấy Gretel hay Kẻ Lầm Đường đã giết chị, chỉ có những cơ thể lố nhố và ánh kim loại loang loáng. Mặt cô đang ướt. Cô đưa tay lên để xem có chảy máu không nhưng hóa ra cô đang khóc. Chú Luke tò mò nhìn. “Gretel là một cư dân của Thế Giới Ngầm thôi,” chú nói.

Mắt Clary nóng lên. “Đừng nói thế.”

“Chú hiểu.” Chú quay sang Alaric. “Cám ơn cậu đã chăm sóc con bé. Trong khi chúng ta đi tiếp...”

“Tôi sẽ đi cùng anh,” Alaric nói. Chú ta đã chuyển thành dạng người hơn rồi, nhưng đôi mắt vẫn là mắt sói và vành môi vén lên để lộ những chiếc răng dài như những cái tăm. Chú co duỗi bàn tay với những móng tay dài ngoằng ra.

Đôi mắt chú Luke có phần ưu tư. “Alaric, đừng.”

Cái giọng gầm gừ của Alaric vẫn bình tĩnh. “Anh là thủ lĩnh. Giờ tôi là sói hai vì Gretel đã chết. Để anh một mình thật không được.”

“Tôi...” chú Luke nhìn Clary rồi lại nhìn trận chiến trước bệnh viện. “Tôi cần anh đi ra khỏi đây, Alaric. Tôi xin lỗi. Đó là lệnh.”

Đôi mắt Alaric lóe lên sự kháng cự, nhưng chú ta vẫn bước sang bên. Cánh cửa bệnh viện bằng gỗ dày được chạm khắc những họa tiết quen thuộc với Clary, những bông hồng của Idris, những chữ rune cong cong, vầng thái dương đang tỏa nắng. Cánh cửa mở ra với tiếng đánh bốp của then cài bật tung khi chú Luke đá vào. Chú đẩy Clary tiến lên qua khung cửa mở. “Vào trong đi.”

Cô lập cập đi qua chú, đến ngưỡng cửa thì quay lại. Cô thoáng thấy Alaric nhìn theo, đôi mắt chú ta lóe sáng. Sau lưng chú ta, thảm cỏ trước bệnh viện rải rác những cái xác, đất bẩn hòa cùng máu, đen hòa trộn cùng đó. Khi cánh cửa đóng sầm lại sau lưng, che đi khung cảnh kia, cô thấy mừng.

Cô và chú Luke đứng trong cảnh tranh tối tranh sáng, trên lối vào bằng đá chỉ được chiếu sáng nhờ một ngọn đuốc duy nhất. Sau những tiếng la hét hỗn độn của trận chiến, sự im lặng ở trong này giống như một chiếc áo choàng ngột ngạt. Clary thấy mình đang cố hít thở, cố hít lấy thứ không khí không quá ẩm ướt và không tanh nồng mùi máu.

Chú Luke nắm lấy vai cô. “Cháu ổn không?”

Cô lau má. “Chú không nên nói vậy. Về chuyện Gretel chỉ là một cư dân Thế Giới Ngầm. Cháu không nghĩ thế.”

“Chú mừng khi nghe cháu nói thế.” Chú với lấy ngọn đuốc trên đế sắt. “Chú ghét ý tưởng nhà Lightwood đã biến cháu thành bản sao của họ.”

“Họ không hề.”

Chú không rút nổi cây đuốc; chú nhíu mày. Cho tay vào túi, Clary lấy ra viên đá chữ rune nhẵn nhụi mà Jace đã tặng cô trong ngày sinh nhật, và giơ cao. Ánh sáng bừng lên giữa những ngón tay, như thể cô vừa làm nứt vỏ hạt giống bóng tối, để ánh sáng bị nhốt bên trong lọt ra. Chú Luke thả cây đuốc.

“Đèn phù thủy?” chú nói.

“Jace đưa cho cháu.” Cô có thể cảm thấy nhịp đập trên tay, tựa nhịp tim của một chú chim nhỏ. Cô tự hỏi Jace ở đâu trong chuỗi phòng đá xám này, liệu anh có sợ, liệu anh có tự hỏi rằng anh có được gặp lại cô hay không không.

“Đã nhiều năm rồi chú mới thấy lại một ngọn đèn phù thủy,” chú Luke nói và bắt đầu lên lầu. Những bậc cầu thang kêu cót két từng hồi dưới gót giày của chú. “Đi theo chú.”

Ánh sáng lóe lên của ngọn đèn phù thủy tạo ra cho họ những cái bóng kéo dài kỳ dị trên những bức tường đá hoa cương trơn nhẵn. Họ dừng lại trước thềm đá hình tròn bao quanh một cổng vòm. Cô có thể thấy ánh sáng trên đó. “Có phải bệnh viện đã như thế, hàng trăm năm trước?” Clary thì thào.

“Ồ phần cốt lõi của những gì Renwick xây vẫn là đây,” chú Luke nói. “Nhưng chú có thể tưởng tượng Valentine, Blackwell và những kẻ khác đã thay đổi nơi này một chút cho hợp với khẩu vị. Nhìn này.” Chú chà chân xuống sàn nhà: Clary nhìn xuống và thấy một chữ rune khắc trên đá hoa cương dưới chân họ: một hình tròn, ở giữa có một khẩu hiệu bằng tiếng La tinh: In Hoc Signo Vinces.

“Có nghĩa là gì ạ?” cô hỏi.

“Có nghĩa là ‘Nhân danh dấu hiệu này chúng ta sẽ chinh phục.’ Đó là phương châm của Circle.”

Cô nhìn lên, về phía ánh sáng. “Vậy họ ở đây,”

“Họ ở đây,” chú Luke nói và có sự phấn khích in trong giọng chú. “Đi nào.”

Họ bước lên cầu thang xoắn ốc, đi lượn tròn về phía ánh sáng tới khi nó tỏa chiếu lên người họ và họ đứng trong một hành lang dài và hẹp. Những ngọn đuốc bập bùng cháy hai bên. Clary nắm chặt ngọn đèn phù thủy, và nó nháy nháy rồi tắt như một ngôi sao chết.

Có những cánh cửa hai bên hành lang, tất cả đều đóng chặt. Cô tự hỏi liệu chúng có phải là những phòng bệnh vào hồi nơi này còn là bệnh viện, hoặc có thể là phòng riêng không. Khi họ bước đi trong hành lang, Clary nhìn thấy những dấu giày, dính bùn đất từ bãi cỏ bên ngoài, chằng chịt trên lối đi. Có người nào đó vừa mới đi lại ở đây.

Cánh cửa đầu tiên họ cố mở bật ra dễ dàng, nhưng căn phòng hoàn toàn trống trải: chỉ có nền gỗ bóng loáng và những bức tường đá, sáng tới kỳ quái dưới ánh trăng tràn vào qua ô cửa sổ. Những tiếng gào thét văng vẳng của trận chiến bên dưới tràn vào phòng, rì rào như tiếng sóng biển. Căn phòng thứ hai chứa đầy vũ khí: kiếm, thương, và rìu. Ánh răng chạy trên những hàng vũ khí bằng thép tuốt trần như một làn nước bạc. Chú Luke huýt sáo khe khẽ. “Một bộ sưu tập công phu đây.”

“Chú nghĩ Valentine sử dụng hết từng đây sao?”

“Không thể. Chú nghĩ nó dành cho quân đội của hắn.” Chú Luke quay đi.

Căn phòng thứ ba là phòng ngủ. Những tấm rèm treo quanh cái giường bốn cọc màu xanh da trời, tấm thảm Ba Tư mang họa tiết màu đen, xanh và xám, đồ nội thất sơn trắng muốt, giống như đồ nội thất của phòng trẻ con. Một lớp bụi mỏng phủ lên tất cả, sáng nhờ nhờ dưới ánh trăng.

Trên giường, mẹ Jocelyn đang say giấc ngủ.

Mẹ đang nằm ngửa, một tay chểnh mảng đặt lên ngực, mái tóc xổ tung trên gối. Mẹ mặc chiếc váy ngủ màu trắng Clary chưa từng thấy bao giờ, đang thở đều đều nhè nhẹ. Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, Clary có thể thấy mí mắt mẹ đang động đậy trong cơn mơ.

Hét lên khe khẽ, Clary chạy vội về phía trước - nhưng chú Luke đã ôm ngang ngực cô tựa như một rào chắn, ngăn cô lại. “Đợi đã,” chú nói, giọng chú cũng căng thẳng. “Chúng ta phải cẩn thận.”

Clary quắc mắt nhìn chú, nhưng chú không nhìn cô, khuôn mặt chú thể hiện sự giận dữ và đau đớn cao độ. Cô nhìn theo mắt chú và trông thấy những gì lúc nãy cô đã không muốn thấy. Những chiếc cùm bạc xích chặt lấy cổ tay và chân mẹ Jocelyn, đầu kia những sợi xích bạc đóng chặt xuống nền đá hai bên giường. Chiếc bàn bên cạnh đầy những khay ống và chai lọ kỳ dị, những lọ thủy tinh và những vật dụng bằng thép phẫu thuật có đầu nhọn dài và cong queo. Một chiếc ống bằng cao su dẫn từ một trong những bình thủy tinh tới mạch tay trái của mẹ Jocelyn.

Clary cố vùng khỏi vòng tay đang giữ chặt lấy cô của chú Luke và lao về giường, ôm lấy cơ thể bất động của mẹ. Nhưng chỉ giống như ôm một con búp bê các khớp nối đã hỏng. Cơ thể của mẹ Jocelyn vẫn cứng đơ và bất động, hơi thở chậm rãi thở đều đều.

Nếu là một tuần trước, Clary sẽ khóc như cái đêm cô phát hiện mẹ biến mất, khóc và gọi tên mẹ. Nhưng giờ cô không thể khóc lấy một giọt nước mắt, cô thả mẹ và đứng thẳng dậy. Cô không còn sợ gì nữa, cũng chẳng thương tiếc cho mình: chỉ có cơn giận dữ và nhu cầu tìm kẻ đã làm chuyện này, kẻ chịu trách nhiệm cho mọi chuyện.

“Valentine,” cô nói.

“Tất nhiên.” Chú Luke đứng cạnh cô, chạm nhẹ lên gương mặt Jocelyn, vén mí mắt mẹ cô lên. Đôi mắt bên dưới đó vô hồn như đôi đá cẩm thạch. “Mẹ cháu không bị tiêm thuốc,” chú nói. “Chú nghĩ mẹ cháu bị bỏ bùa.”

Clary thở ra trong tiếng sụt sịt cố nén lại. “Làm sao chúng ta đưa mẹ ra bây giờ?”

“Chú không thể chạm vào chiếc cùm,” chú Luke nói. “Bằng bạc. Cháu có...”

“Phòng vũ khí,” Clary đứng dậy. “Cháu thấy ở đó có rìu. Vài cái. Chúng ta có thể chặt dây xích...”

“Những sợi dây xích này không thể phá hủy được.” Giọng vang lên từ phía cánh cửa nghe thấp trầm, khàn khàn và quen thuộc. Clary quay lại thấy Blackwell. Hắn đang cười, vẫn khoác trên mình chiếc áo chùng màu đỏ máu như lần trước, chiếc mũ kéo ra sau, đôi giày dính bùn đất thấy rõ dưới gấu áo. “Graymark,” hắn nói. “Thật là một sự bất ngờ tuyệt vời.”

Chú Luke đứng thẳng. “Nếu mày ngạc nhiên, mày là một thằng ngu,” chú nói. “Tao không hề đến trong im lặng.”

Má Blackwell rực một vầng tím đậm hơn, nhưng hắn không di chuyển về phía chú Luke. “Lại sói đầu đàn nữa sao?” hắn nói và cười chẳng lấy gì làm thoải mái. “Không thể bỏ thói quen bắt bọn Thế Giới Ngầm thay anh làm việc bẩn thỉu à? Đội quân của Valentine đang bận xé thịt chúng dưới bãi cỏ, còn anh ở đây an toàn cùng mấy cô bạn gái.” Hắn nhếch mép cười về phía Clary. “Cô bé này hơi trẻ so với anh đấy, Lucian.”

Clary đỏ mặt vì giận, tay nắm lại thành quyền, nhưng giọng chú Luke, khi chú trả lời, vẫn giữ được lịch sự. “Tôi sẽ không gọi cái đó là đội quân đâu, Blackwell,” chú nói. “Đó là những Kẻ Lầm Đường. Từng là những con người nhưng phải chịu hành hạ đau đớn. Nếu tôi nhớ đúng. Clave cực kỳ khó chịu với vụ này - tra tấn, sử dụng phép thuật hắc ám. Tôi không thể tưởng tượng họ hài lòng tới mức nào.”

“Hội Clave chết tiệt,” Blackwell gầm lên. “Chúng tôi không cần chúng và những đường lối nhún nhường bọn lai tạp của chúng. Hơn nữa, đội quân những Kẻ Lầm Đường sẽ sớm không còn là Kẻ Lầm Đường nữa. Một khi Valentine sử dụng chiếc Cốc với chúng, chúng sẽ trở thành những Thợ Săn Bóng Tối giỏi hệt như chúng ta - hữu hiệu hơn cái cách Clave đào tạo ra những chiến binh bây giờ. Những kẻ ẻo lả yêu thích Thế Giới Ngầm.” Hắn nhe hàm răng cùn mùn.

“Nếu đó là kế hoạch của hắn với chiếc Cốc,” chú Luke nói, “vì sao hắn chưa làm? Hắn còn đợi gì nữa?”

Blackwell nhướn mày. “Anh không biết gì sao? Ngài đã có...”

Một tràn cười mượt như nhung ngắt lời hắn. Pangborn xuất hiện lùn xủn chỉ ngang tới khuỷu tay đồng bọn, mặc toàn đồ đen với sợi dây da buộc ngang vai. “Đủ rồi, Blackwell,” y nói. “Như thường lệ, anh nói quá nhiều.” Y nhe hàm răng nhọn hoắt về phía chú Luke. “Kế hoạch hay đấy, Graymark. Tôi không nghĩ là anh lại có gan đi lãnh đạo đàn sói mới nhất vào một nhiệm vụ tự sát.”

Khóe miệng chú Luke giật giật. “Jocelyn,” chú nói. “Hắn đã làm gì cô ấy?”

Pangborn khúc khích nghe như tiếng nhạc. “Tôi tưởng anh không quan tâm.”

“Tôi chẳng hiểu hắn muốn gì ở cô ấy nữa,” chú Luke nói tiếp, bỏ qua câu cười nhạo. “Hắn đã có chiếc Cốc. Cô ấy chẳng có tác dụng gì với hắn nữa. Valentine chưa bao giờ là kẻ giết người bừa bãi. Hắn giết người có chủ đích. Giờ, hắn là một câu chuyện hoàn toàn khác rồi.”

Pangborn hờ hững nhún vai. “Ngài làm gì với cô ta chẳng liên quan gì tới bọn này,” hắn nói. “Jocelyn là vợ ngài. Có lẽ ngài ghét cô ta. Đó là vấn đề.”

“Thả cô ấy ra,” chú Luke nói, “và chúng tôi sẽ bỏ đi cùng cô ấy, bảo đàn sói rút lui. Tôi sẽ nợ anh lần này.”

“Không!” cơn giận của Clary bùng nổ khiến Pangborn và Blackwell phải ngoái lại nhìn. Cả hai trông hơi hơi không tin vào mắt mình, như thể cô là một con gián biết nói. Cô quay sang chú Luke. “Vẫn còn Jace nữa. Anh ấy cũng ở đâu đó trong đây.”

Blackwell đang tặc lưỡi. “Jace hả? Chưa bao giờ nghe tới một Jace nào,” hắn nói. “Giờ, tôi có thể bảo Pangborn thả cô ta ra. Nhưng tôi sẽ không. Jocelyn với tôi mà nói, luôn là một con quỷ cái. Luôn tự cho mình cao quý hơn tất cả, nhờ vào vẻ bề ngoài và dòng dõi. Chỉ là một con chó cái thuần chủng, không hơn. Cô ta chỉ kết hôn cùng ngài để có thể chi phối chúng ta...”

“Bực mình vì anh không thể cưới cô ấy được, phải không Blackwell?” là tất cả những gì chú Luke đáp trả, dù Clary nghe ra cơn giận dữ lạnh lùng trong giọng nói của chú.

Blackwell, mặt tím lịm, giận dữ tiến thêm một bước.

Và chú Luke, di chuyển quá nhanh khiến Clary gần như chẳng nhìn thấy, cầm lấy con dao mổ trên mặt bàn mà ném. Nó xoay hai vòng trong không khí và cắm ngập vào cổ họng Blackwell, cắt đứng lời đáp thô thiên của hắn. Hắn sặc khèn khẹt, mắt chỉ còn lòng trắng và ngã khuỵu xuống, tay ôm lấy cổ. Máu màu huyết dụ đổ ra qua kẽ ngón tay. Hắn mở miệng muốn nói, nhưng chỉ có máu trào ra. Tay hắn trượt khỏi cổ và hắn đổ sập xuống như một cái cây bị cưa đổ.

“Ôi thôi,” Pangborn nói nhìn cái xác đổ xuống của người chiến hữu với sự kinh tởm. “Chết chẳng đẹp gì hết.”

Máu chảy qua vết cắt nơi cổ họng Blackwell tràn xuống sàn nhà, tạo thành vũng máu đỏ sền sệt. Chú Luke, nắm lấy vai Clary, thì thầm gì đó vào tai cô. Chẳng có nghĩa gì hết. Clary chỉ cảm nhận được tiếng ong ong trong đầu. Cô nhớ tới một bài thơ khác trong lớp tiếng Anh, gì đó về sau khi nhìn thấy cái chết đầu tiên ta chứng kiến, những cái chết khác chẳng còn ý nghĩa gì. Nhà thơ đã không hiểu ông ta đang nói gì.

Chú Luke thả cô ra. “Chìa khóa, Pangborn,” chú nói.

Pangborn dùng chân đá Blackwell, và ngước nhìn. Y trông khó chịu. “Hoặc sao? Anh sẽ ném xi lanh vào tôi? Chỉ có duy nhất một con dao trên bàn thôi. Không,” y nói, vươn ra sau và rút một lưỡi kiếm dài và trông hiểm ác, “tôi e là nếu anh muốn có chìa khóa, anh phải tới mà lấy thôi. Không phải vì tôi quan tâm tới Jocelyn Morgenstern theo cách này hay cách khác, anh hiểu mà, nhưng chỉ vì tôi, đã mong chờ được giết anh... nhiều năm rồi.”

Y nói tiếng cuối cùng, tận hưởng nó với sự hào hứng khi tiến vào phòng. Lưỡi kiếm lóe lên, giống như một tia sét dưới ánh trăng. Clary thấy chú Luke giơ tay về phía cô - một bàn tay dài kỳ lạ, với những móng tay như những con dao nhỏ xíu - và cô nhận ra hai điều: rằng chú sắp Biến Đổi, và rằng chú chỉ thì thầm vào tai cô một tiếng.

Chạy.

Cô chạy. Cô chạy theo hình chữ chi vượt qua Pangborn trong khi y chẳng buồn liếc nhìn cô, vòng qua xác Blackwell và ra ngoài cửa vào hành lang, tim đập dồn, trước khi chú Luke kịp biến đổi hoàn toàn. Cô không nhìn lại, nhưng cô nghe có tiếng hú, một tràng dài dữ dội, tiếng kim loại va chạm, tiếng đổ vỡ. Cô nghĩ là tiếng thủy tinh vỡ. Có lẽ họ đã làm đổ chiếc tủ đầu giường.

Cô lao qua hành lang vào phòng vũ khí. Trong đó cô vớ lấy chiếc rìu lưỡi thép đã nhuốm màu thời gian. Nó đóng chặt trên tường, dù cô đã không giằng hết sức. Cô cố lấy thanh kiếm, rồi thanh trượng lông vũ - thậm chí là một con dao nhỏ - nhưng chẳng có lấy một món vũ khí nào rời được ra. Cuối cùng, khi những móng tay bị gẫy gập và ngón tay chảy máu vì cố ráng, cô đành chịu thua. Trong phòng bị phù phép, không phải chỉ là phép thuật của những chữ rune: của một cái gì hoang dại và kỳ dị, một thứ gì đó hắc ám.

Cô ra khỏi phòng. Chẳng có gì trên tầng này có thể giúp cô. Cô tập tễnh đi xuống hành lang - cô bắt đầu cảm thấy cơn đau do kiệt sức thực sự ở chân và tay - và thấy mình đang mối nối giữa hai đầu cầu thang. Đi lên hay đi xuống đây? Cô nhớ lại, bên dưới trống vốc không có ánh sáng. Tất nhiên cô có ngọn đèn phù thủy trong túi, nhưng có gì đó trong cô chống cự lại chuyện một mình bước vào khoảng không u ám kia. Phía trên kia ánh sáng mạnh hơn, giúp cô thoáng thấy gì đó vừa di chuyển.

Cô đi lên. Cẳng chân cô đau, bàn chân đau, mọi thứ đều đau nhức. Vết thương đã được băng bó, nhưng vẫn không ngăn chúng khỏi nhức nhối. Mặt cô đau ở chỗ bị Hugo cào trên má, và miệng có vị gì đó đăng đắng và tanh tanh.

Cô bước lên đầu cầu thang trên cùng. Cầu thang cong cong như thân tàu, tầng trên im lặng hệt như ở tầng dưới; không có âm thanh nào của trận ẩu đả bên ngoài vang tới tai cô. Một hành lang kéo dài trước mắt cô, cũng với không biết bao nhiêu cánh cửa, nhưng ở đây có một số đã mở, để thêm ánh sáng tràn vào hành lang. Cô tiến lên, và một bản năng nào đó kéo cô tới cánh cửa cuối cùng bên trái. Cô thận trọng liếc nhìn vào trong.

Lúc đầu, căn phòng làm cô nhớ tới một trong những phòng triển lãm được tái cấu trúc của Bảo Tàng Nghệ Thuật Metropolitan. Cô có cảm giác được bước vào quá khứ - những bức tường ốp ván sáng lên như thể mới được đánh bóng, cả chiếc bàn ăn dài bất tận bày những món đồ sứ tinh tế. Một chiếc gương viền vàng trang trí tỉ mỉ treo trên tường đầu kia, giữa hai bức chân dung đóng khung nặng nề. Mọi thứ đều sáng lên dưới ánh đuốc: những chiếc đĩa trên bàn ăn đầy ắp thức ăn, những chiếc ly có rãnh tạo hình hoa huệ trắng, những chiếc khăn trải bàn trắng tới lóa mắt. Ở cuối phòng là hai ô cửa sổ rộng, che kín bởi những rèm vải nhung dày. Jace đứng ở một bên cửa sổ, im phăng phắc khiến cô tưởng anh là một bức tượng, tới khi cô nhận ra cô có thể thấy ánh sáng đang sáng lên trên mái tóc anh. Tay trái anh giữ mở chiếc rèm, và từ ô cửa sổ tối cô thấy sự phản chiếu của chừng một tá nến, bị nhốt trong kính hệt như những con đom đóm.

“Jace,” cô gọi. Cô nghe thấy giọng mình từ xa vọng tới: sự kinh ngạc, lòng biết ơn, niềm khao khát thật vời vợi đến mức đớn đau. Anh quay lại, thả rơi tấm rèm, và cô thấy cái nhìn băn khoăn trên mặt anh.

“Jace!” Cô lại gọi và chạy về phía anh. Anh ôm lấy cô khi cô lao vào anh. Vòng tay anh ôm cô rất chặt.

“Clary.” Giọng anh gần như không nhận ra được. “Clary, em làm gì ở đây?”

Giọng cô nghèn nghẹt trên áo anh. “Em tới vì anh.”

“Em không nên.” Đột nhiên vòng tay anh ôm lấy cô lơi ra; anh lùi lại, giữ cô tránh xa anh một chút. “Chúa ơi,” anh nói và chạm vào mặt cô. “Cô bé ngu ngốc này, em làm gì khuôn mặt em thế.” Giọng anh giận dữ, nhưng ánh nhìn lướt trên khuôn mặt cô, những ngón tay nhẹ nhàng vén tóc cô ra sau tai, đều dịu dàng. Cô chưa bao giờ thấy anh như thế; ở anh có gì đó mong manh dễ vỡ, như thể anh không những đang cảm động, mà thậm chí còn bị tổn thương. “Vì sao em không bao giờ thèm suy nghĩ gì hết?” anh thì thầm.

“Em đang nghĩ mà,” cô nói. “Em đang nghĩ về anh.”

Anh nhắm mắt một lúc. “Nếu có chuyện gì xảy ra với em...” Tay anh nhẹ nhàng lần dọc cánh tay cô, xuôi xuống cổ tay cô, như để trấn an mình rằng cô thực sự ở đây. “Sao em tìm ra anh?”

“Chú Luke,” cô trả lời. “Em tới cùng chú Luke. Để cứu anh.”

Vẫn nắm lấy cô, anh nhìn gương mặt cô rồi nhìn cửa sổ, khóe môi hơi mím lại. “Vậy những kẻ kia - em tới cùng đàn sói?” anh hỏi, nghe giọng kỳ kỳ.

“Của chú Luke,” cô nói. “Chú ấy là người sói, và...”

“Anh biết.” Jace ngắt lời. “Lẽ ra anh phải đoán ra chứ nhỉ - những chiếc cùm.” Anh liếc nhìn cánh cửa. “Chú ấy đâu?”

“Dưới nhà,” Clary chậm rãi đáp. “Chú ấy đã giết Blackwell. Em lên đây tìm anh...”

“Chú ấy sẽ phải rút lui thôi,” Jace nói.

Cô nhìn anh không hiểu. “Cái gì?”

“Chú Luke,” Jace nói. “Chú ấy sẽ phải bảo đàn sói rút lui. Ở đây có sự hiểu lầm.”

“Gì chứ, anh tự bắt cóc mình sao?” Cô định trêu anh, nhưng giọng chỉ lí nhí vang lên. “Coi nào, Jace.”

Cô giật cổ tay anh lôi đi, nhưng anh cưỡng lại. Anh đang chăm chú nhìn cô, và cô giật mình nhận ra điều mình đã không nhìn thấy trong cơn nhẹ nhõm vội vàng đầu tiên.

Lần cuối cô trông thấy anh, anh xây xước bầm dập, quần áo dính đầy máu me và đất cát, tóc bết dịch vàng và bụi bẩn. Giờ anh mặc chiếc áo sơ mi trắng dáng suông và quần vải đen, mái tóc đã gội xổ quanh ôm lấy khuôn mặt, óng lên sắc vàng nhạt và bay bay bồng bềnh. Anh gạt vài lọn tóc rơi xuống mắt bằng bàn tay thanh mảnh, và cô thấy chiếc nhẫn bạc to bản đã trở lại ngón tay anh.

“Đây là quần áo của anh sao?” cô ngạc nhiên hỏi. “Và... anh đã được băng bó...” Giọng cô lạc đi. “Valentine có vẻ cực kỳ quan tâm tới anh.”

Anh cười yếu ớt với cô. “Nếu anh nói cho em nghe sự thực, em sẽ bảo anh điên mất,” anh nói.

Cô cảm thấy tim mình nhộn nhạo trong lồng ngực, như nhịp đập cánh dồn dập của một con chim ruồi.

“Không đâu.”

“Bố anh đã cho anh những quần áo này,” anh nói.

Sự nhộn nhạo trở thành tiếng thình thịch gấp gáp. “Jace,” cô dè dặt nói, “bố anh mất rồi.”

“Không,” anh lắc đầu. Cô có cảm giác anh đang kiềm chế một cảm xúc mạnh mẽ, như là kinh hoàng hay vui sướng - hoặc cả hai. “Anh cứ tưởng vậy, nhưng không phải. Tất cả chỉ là hiểu lầm.”

Cô nhớ tới điều Hodge nói về Valentine và khả năng nói ra những lời dối trá hấp dẫn lẫn đầy sức thuyết phục của hắn. “Có phải đây là điều Valentine nói với anh không? Vì hắn là một kẻ dối trá đó Jace. Hãy nhớ điều Hodge nói. Nếu hắn nói bố anh còn sống, đó là lời nói dối để bắt anh làm theo điều hắn muốn.”

“Anh đã gặp bố,” Jace nói. “Anh đã nói chuyện với bố. Bố cho anh cái này.” Anh giật giật chiếc áo mới sạch sẽ, như thể đó là bằng chứng không thể chối cãi. “Bố anh không chết. Valentine không giết ông. Lão Hodge đã nói dối anh. Bao nhiêu năm trời anh tưởng bố đã chết, nhưng hóa ra không phải.”

Clary hoảng sợ nhìn quanh, nhìn căn phòng với những món đồ sứ sáng bóng và những ngọn đuốc bập bùng cùng chiếc gương chói lòa chẳng phản chiếu gì. “Ừm, nếu bố anh thực sự ở đây, thế ông ấy đâu rồi? Valentine cũng bắt cóc ông sao?”

Đôi mắt Jace sáng lên. Cổ áo anh đang để mở và cô có thể thấy những vết sẹo trắng mảnh che phủ xương quai xanh, như những vết nứt trên làn da màu vàng mềm mại. “Bố anh...”

Cánh cửa phòng mà lúc trước Clary đã đóng lại, giờ đang cót két mở ra, và một người đàn ông bước vào phòng.

Là Valentine. Mái tóc trắng cắt sát da đầu sáng lên như chiếc mũ trụ bằng thép được đánh bóng và hắn đang mím môi thật chặt. Hắn đeo bao da ở thắt lưng dày và chuôi một thanh trường kiếm thò ra từ đó. “Thế nào,” hắn nói, vừa nói vừa đặt tay lên đốc kiếm, “con đã thu thập đồ đạc chưa? Những Kẻ Lầm Đường của chúng ta chỉ có thể cầm chân người sói trong khoảng...”

Thấy Clary, hắn dừng sững lại. Hắn không phải dạng người dễ dàng bị bất ngờ, nhưng cô thoáng thấy sự sửng sốt trong đôi mắt hắn. “Cái gì đây?” hắn hỏi, quay sang nhìn Jace.

Nhưng Clary đã đang sờ lên eo tìm con dao. Cô cầm lấy chuôi dao, rút ra khỏi vỏ, và giơ tay lên. Cơn giận tràn trong mắt cô theo từng nhịp như nhịp trống. Cô có thể giết gã đàn ông này. Cô sẽ giết hắn.

Jace nắm lấy cổ tay cô. “Không.”

Cô không thể nào giấu được vẻ khó tin. “Nhưng mà, Jace...”

“Clary,” anh cương quyết. “Đây là bố anh.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Valentine

“Ta thấy ta vừa ngắt ngang chuyện gì rồi,” Valentine nói, giọng khô khốc như buổi chiều trên sa mạc. “Con trai, con có định nói cho ta biết đây là ai không? Một trong những đứa trẻ nhà Lightwood chăng?”

“Không phải,” Jace đáp. Anh nghe có vẻ mệt mỏi và không vui, nhưng lực nắm cổ tay cô không hề lỏng đi. “Đây là Clary. Clarissa Fray. Cô ấy là bạn con. Cô ấy...”

Đôi mắt đen của Valentine đang chậm rãi nhìn cô, từ mái tóc xơ xác tới mũi giày mòn vẹt. Chúng dừng lại trên con dao vẫn đang nằm trong tay cô.

Một vẻ biểu cảm khó hiểu hiện ra trên nét mặt hắn - có phần vui vui, có phần bực bực. “Cô gái trẻ, sao cô có con dao kia?”

Clary lạnh lùng đáp. “Jace đưa cho tôi.”

“Tất nhiên rồi,” Valentine nói. Giọng hắn rất nhẹ nhàng. “Cho ta xem được không?”

“Không!” Clary lùi một bước, như thể cô tưởng hắn sẽ lao vào mình, rồi cô cảm nhận thấy con dao bị giật ra gọn gàng khỏi những ngón tay. Jace, đang cầm con dao, nhìn cô với vẻ biết lỗi. “Jace,” cô rít lên, đẩy mọi phân lượng của cảm giác bị phản bội vào từng chữ cái của tên anh.

Nhưng anh chỉ bảo. “Em vẫn không hiểu, Clary.” Và với một kiểu cung kính khiến cô buồn nôn, anh tới chỗ Valentine đưa con dao cho hắn. “Đây này, thưa bố.”

Valentine cầm lấy con dao trong bàn tay lớn, dài, mà xem xét. “Một thanh kindjal, một con dao của người Thổ Nhĩ Kỳ. Riêng con dao này từng thuộc về một cặp đồng bộ. Đây, nhìn ngôi sao của nhà Morgenstern khắc trên con dao xem.” Hắn quay con dao lại, đưa cho Jace xem. “Ta ngạc nhiên là nhà Lightwood chưa bao giờ nhìn ra nó.”

“Con chưa bao giờ đưa cho họ xem,” Jace nói. “Họ để con giữ những đồ vật cá nhân. Họ không tọc mạch.”

“Tất nhiên là không rồi,” Valentine nói. Hắn trả thanh kindjal lại cho Jace. “Họ tưởng con là con trai của Michael Wayland.”

Jace nhét con dao cán đỏ vào thắt lưng và ngước nhìn. “Con cũng tưởng vậy,” anh khẽ đáp và trong khoảnh khắc, Clary thấy rằng anh không đùa, rằng Jace không chỉ giả vờ giả vịt cho mục đích riêng của mình. Anh thực sự nghĩ Valentine là người bố đã trở về tìm anh.

Một sự tuyệt vọng lạnh lẽo lan chảy trong mạch máu của Clary. Jace giận, Jace thù hằn, Jace nổi khùng, cô đều có thể đương đầu được, nhưng một Jace mới, yếu đuối và rạng rỡ trong phép nhiệm màu của chính anh, với cô lại là một người xa lạ.

Valentine nhìn cô qua mái tóc màu vàng nâu của Jace; đôi mắt hắn bình thản thích thú. “Có lẽ,” hắn nói, “cháu nên ngồi xuống Clary nhỉ?”

Cô cứng đầu khoanh tay trước ngực. “Không.”

“Tùy cháu thôi.” Valentine kéo ghế và ngồi xuống đầu bàn. Sau một lúc, Jace cũng ngồi xuống, bên cạnh những chai rượu đã vơi một nửa. “Nhưng cháu sẽ nghe thấy những điều khiến cháu ước gì mình đã ngồi xuống đấy.”

“Tôi sẽ báo ông biết,” Clary đáp, “nếu điều đó xảy ra.”

“Rất tốt.” Valentine dựa lưng vào ghế, tay đặt sau đầu. Cổ áo sơ mi của hắn hơi mở để lộ phần xương quai xanh đầy những sẹo. Sẹo chằng chịt, giống như con trai mình, giống như những Nephilim khác. Một cuộc sống với những vết sẹo và giết chóc,” Hodge đã nói thế. “Clary,” Valentine lại gọi, như thể đang nhấm nhá âm thanh tên cô. “Gọi tắt của Clarissa phải không? Không phải cái tên mà ta hẳn sẽ chọn.”

Môi hắn hơi cong lên. Hắn biết mình là con gái hắn, Clary nghĩ. Bằng cách nào đó hắn đã biết. Nhưng hắn sẽ không nói ra. Vì sao hắn không nói.

Vì Jace, cô nhận ra. Jace sẽ nghĩ - cô không thể tưởng tượng nổi anh sẽ nghĩ gì. Valentine đã thấy họ ôm nhau khi hắn bước qua cánh cửa kia. Hắn phải biết hắn đang giữ thông tin tàn khốc trong tay. Ở đâu đó đằng sau đôi mắt sâu khó dò kia, trí óc sắc sảo của hắn đang hoạt động nhanh như điện, tìm ra cách tốt nhất để sử dụng điều hắn biết.

Cô lần nữa liếc mắt van nài Jace, nhưng anh đang chăm chú nhìn ly rượu trên tay trái, lưng lưng thứ chất lỏng màu huyết dụ. Cô có thể thấy nhịp nhấp nhô gấp gáp của ngực anh khi anh thở; anh bực bội hơn mức anh đang thể hiện ra.

“Tôi thực sự chẳng quan tâm xem ông hẳn sẽ chọn cái gì,” Clary nói.

“Ta chắc chứ,” Valentine nói, nhoài người lên trước, “rằng cháu không quan tâm rồi.”

“Ông không phải bố Jace,” cô nói. “Ông đang cố lừa chúng tôi. Bố của Jace là Michael Wayland. Nhà Lightwood biết thế. Ai cũng biết thế.”

“Nhà Lightwood bị thông tin sai lạc thôi,” Valentine nói. “Chúng thực sự tin - vẫn tin rằng Jace là con trai của người bạn Michael. Hội Clave cũng vậy. Thậm chí các Tu Huynh Câm cũng không biết nó thực sự là ai. Dù họ cũng sẽ sớm biết thôi.”

“Nhưng chiếc nhẫn nhà Wayland...”

“À phải,” Valentine nói và nhìn tay Jace, nơi chiếc nhẫn sáng lên như vảy rắn. “Chiếc nhẫn. Buồn cười thật, đúng không, khi một chữ M đeo lộn ngược lại là chữ W ấy?”

Clary trân trối. “Tôi chẳng hiểu ý ông là gì cả.”

“Ta quên mất là sự giáo dục của người thường ít ỏi tới đáng thương thế nào,” Valentine nói. “Morgenstern có nghĩa là ‘sao mai.’ Như trong, Sao ngươi rơi xuống khỏi Thiên Đường, O Lucifer, đứa con của bình minh! Sao ngươi làm nứt tan mặt đất, và làm suy kiệt những quốc gia?

Một cơn rùng mình chạy dọc người Clary. “Ông, muốn nói tới quỷ Sa Tăng.”

“Hay bất cứ thế lực vĩ đại nào đã biến mất,” Valentine nói, “vì đã từ chối không chịu phục tùng. Cả thế lực của ta cũng vậy. Ta sẽ không muốn phục vụ một chính quyền thối nát, và vì thế ta đã mất đi gia đình, đất đai, suýt mất cả mạng...”

“Vụ Nổi Loạn là lỗi của ông!” Clary quát. “Con người chết trong vụ đó! Những Thợ Săn Bóng Tối như ông!”

“Clary.” Jace nhoài người tới, suýt hất đổ ly rượu ngay khuỷu tay. “Hãy nghe bố nói, được không? Không giống như em tưởng đâu. Lão Hodge đã nói dối chúng ta.”

“Em biết,” Clary nói. “Lão ấy đã bán đứng chúng ta cho Valentine. Lão ta chỉ là quân cờ của Valentine.”

“Không,” Jace nói. “Không, lão Hodge mới là người lâu nay muốn có chiếc Cốc Thánh. Lão là người cho Ravener tới tấn công mẹ em. Bố anh - Valentine sau đó mới phát hiện ra và đã tới để ngăn chặn lão. Bố anh mang mẹ em tới đây để điều trị, không phải để làm hại mẹ em.”

“Và anh tin tất cả những điều vớ vẩn đó sao?” Clary kinh tởm nói. “Không hề đúng. Hodge đã làm việc cho Valentine. Bọn chúng đồng mưu trong chuyện này, để tìm chiếc Cốc. Đúng là lão đã bẫy chúng ta, nhưng lão chỉ là một thứ công cụ thôi.”

“Nhưng lão ấy mới là người cần đến Cốc Thánh,” Jace nói. “Để lão có thể xóa bỏ lời nguyền và bỏ chạy trước khi bố anh nói với hội Clave về toàn bộ những điều lão đã làm.”

“Em biết là không phải mà!” Clary nóng nảy nói. “Em đã ở đó!” Cô quay sang Valentine. “Tôi đã ở trong căn phòng khi ông đến lấy chiếc Cốc. Ông không thấy tôi, nhưng tôi đã ở đó. Tôi đã thấy ông. Ông lấy chiếc Cốc và gỡ bỏ lời nguyền trên người lão Hodge. Lão ấy không thể tự mình làm được. Lão đã nói thế.”

“Đúng là ta đã giải lời nguyền,” Valentine đáp một cách cân nhắc, “nhưng là vì thương hại. Trông hắn thảm quá.”

“Ông không biết thương hại. Ông chẳng cảm thấy gì hết.”

“Đủ rồi đó, Clary!” Đó là Jace. Cô trừng mắt nhìn anh. Má anh đỏ lên như thể đã uống cạn cốc rượu cạnh khuỷu tay, đôi mắt thì quá sáng. “Đừng nói với bố anh như thế.”

“Hắn không phải bố anh!”

Jace trông có vẻ như vừa bị cô tát. “Vì sao em cứ quyết không tin bố con anh?”

“Vì con bé yêu con,” Valentine nói.

Clary cảm thấy máu rút hết khỏi gương mặt. Cô nhìn hắn, không biết hắn sẽ nói gì tiếp, nhưng cô khiếp sợ chuyện này. Cô có cảm giác như mình đang tiến tới một mép núi, quá sợ bị rơi xuống khoảng hư không. Cơn chóng mặt bóp nghẹn lấy dạ dày cô.

“Cái gì?” Jace có vẻ ngạc nhiên.

Valentine đang nhìn Clary thích thú, như thể hắn biết hắn đã ghim cô ở đó như ghim một con bướm lên bảng. “Con bé sợ ta sẽ lợi dụng con,” hắn nói. “Rằng ta đã tẩy não con. Tất nhiên không phải là thế rồi. Nếu cháu nhìn vào ký ức của mình, Clary ạ, thì cháu sẽ biết thôi.”

“Clary.” Jace bắt đầu đứng dậy, ánh mắt hướng về phía cô. Cô có thể thấy quầng thâm quanh mắt anh, thấy sự căng thẳng anh đang hứng chịu. “Anh...”

“Ngồi xuống,” Valentine nói. “Để con bé tự mình nghĩ đi, Jonathan.”

Jace ngay lập tức vâng lời, ngồi lại xuống ghế. Qua cơn quay cuồng chóng mặt, Clary dò dẫm để hiểu ra. Jonathan? “Em tưởng tên anh là Jace,” cô nói. “Anh cũng nói dối về chuyện đó sao?”

“Không, Jace là tên tắt.”

Giờ cô đã đến rất gần vách núi rồi, gần đến nỗi cô sắp nhìn được đáy vực. “Tắt của tên gì?”

Anh nhìn cô như không thể hiểu vì sao cô lại làm quan trọng hóa một vấn đề nhỏ nhặt như vậy. “Vì đó là những chữ cái đầu tên anh,” anh đáp. “J.C.”

Vách núi mở toang trước mặt cô. Cô có thể thấy đoạn đường dài rơi vào bóng tối. “Jonathan,” cô nói lí nhí. “Jonathan Christopher.”

Lông mày Jace nhíu chặt lại. “Sao em...?”

Valentine xen vào. Giọng hắn dỗ dành. “Jace, ta từng nghĩ không kể cho con nghe vài chuyện. Ta nghĩ câu chuyện mẹ con đã chết sẽ làm con bớt tổn thương hơn câu chuyện về một người mẹ đã bỏ rơi con ngay trước ngày con tròn một tuổi.”

Những ngón tay thon dài của Jace vô thức nắm chặt lấy đế ly. Clary thoáng tưởng nó sẽ vỡ. “Mẹ con còn sống?”

“Đúng,” Valentine đáp. “Còn sống, và đang ngủ ở trong một trong mấy căn phòng dưới lầu ngay trong lúc này. Phải,” hắn nói, trước khi Jace kịp xen vào. “Jocelyn là mẹ con đó, Jonathan. Và Clary - Clary là em gái con.”

Jace giật tay lại. Chiếc ly hơi nghiêng ngả, làm sánh thứ chất lỏng màu đỏ sậm lên khăn trải bàn trắng muốt.

“Jonathan,” Valentine gọi.

Jace đã biến thành một thứ màu ghê sợ, một dạng màu trắng xanh. “Không đúng,” anh nói. “Hẳn phải nhầm lẫn gì rồi. Không thể nào.”

Valentine nhìn cậu con trai một cách kiên định. “Vui mừng quá độ đây mà,” hắn nói bằng giọng thấp, trầm tư, “lẽ ra ta phải nghĩ đến chứ. Hôm qua còn là một đứa trẻ mồ côi, Jonathan. Và giờ một bố, mẹ, một cô em gái mà con không hề biết.”

“Không thể nào,” Jace nhắc lại. “Clary không thể là em gái con. Nếu thế thì...”

“Thì sao?” Valentine hỏi.

Jace không trả lời, nhưng vẻ mặt như muốn buồn nôn của anh là quá đủ cho Clary. Hơi loạng choạng một chút, cô đi qua bên bàn và quỳ bên cạnh ghế của anh, vươn tay chạm vào tay anh. “Jace à...”

Anh giật phắt khỏi cô, những ngón tay anh nắm chặt lấy khăn trải bàn ướt sũng. “Đừng.”

Sự thù hận với Valentine bừng lên trong cổ họng cô tựa như nước mắt không được khóc. Hắn đã giữ bí mật, và bằng việc không nói điều hắn biết - rằng cô là con gái của hắn - đã khiến cô có liên quan tới sự im lặng của hắn. Và giờ, khi trút sự thật lên họ như trút một tảng đá ngàn cân, hắn ngồi xuống quan sát trong sự chiêm nghiệm bình thản. Sao Jace lại không thấy hắn đáng ghét thế nào chứ?

“Nói với anh đó không phải sự thực đi,” Jace nói, nhìn chằm chằm xuống khăn trải bàn.

Clary nuốt khan cái cảm giác bỏng rát trên cổ họng. “Em không thể.”

Valentine nói như thể đang cười. “Vậy giờ con thừa nhận là ta nói thật từ đầu đến cuối?”

“Không,” cô đáp mà không buồn nhìn. “Ông đang nói dối và thêm vào đó một chút xíu sự thật, chỉ thế mà thôi.”

“Chuyện càng lúc càng mệt mỏi,” Valentine nói. “Nếu con muốn biết sự thật, Clarissa, đây là sự thật này. Con đã nghe câu chuyện về vụ Nổi Loạn và con nghĩ bố là người xấu. Đúng không?”

Clary không nói gì. Cô đang nhìn Jace, người có vẻ như sắp nôn mửa. Valentine tỉnh bơ tiếp tục nói. “Thực ra thì đơn giản lắm. Câu chuyện con nghe cũng đúng ở vài phần, nhưng không hoàn toàn đúng - lời nói dối trộn thêm chút sự thật, như con nói. Sự thật là Michael Wayland không phải và chưa bao giờ là bố của Jace. Wayland đã chết trong vụ Nổi Loạn. Ta đã dùng tên và nơi ở của Michael và trốn khỏi Thành Phố Pha Lê cùng cậu con trai. Quá dễ; Wayland không có ai thân thiết, còn những người bạn thân nhất, nhà Lightwood, lại chịu cảnh lưu đày. Bản thân hắn cũng sẽ bị ruồng rẫy vì đã tham gia vụ Nổi Loạn, và vì thế ta đã sống cuộc đời bị người ta hắt hủi, yên tĩnh vô cùng, một mình cùng với Jace trong trang viên của gia đình Wayland. Ta đọc sách. Ta nuôi dạy con trai. Và ta đợi thời cơ.” Hắn trầm tư vuốt ve miệng cốc xẻ rãnh. Clary nhận thấy, hắn thuận tay trái. Giống như Jace.

“Sau mười năm, ta nhận được một lá thư. Người viết thư ám chỉ rằng hắn đã biết thân phận thật của ta, và nếu bố không sẵn sàng ra tay một số bước nhất định, thì hắn sẽ tiết lộ. Ta không biết lá thư tới từ ai, nhưng cũng chẳng vấn đề gì. Ta không sẵn lòng đưa cho chủ bức thư điều hắn muốn. Hơn nữa, ta biết sự an toàn của mình đang bị đe dọa, và chỉ trừ phi hắn nghĩ là ta đã chết, thì hắn mới không thể động tới ta được. Ta giả chết lần hai, với sự giúp đỡ của Blackwell và Pangborn, và vì sự an toàn của Jace, ta đã phải làm sao cho con trai ta được gửi tới đây, sống dưới sự bảo vệ của nhà Lightwood.”

“Vậy ông để Jace nghĩ rằng ông đã chết? Ông cứ để anh ấy tưởng rằng ông đã chết, trong suốt bao nhiêu năm trời như thế? Quá bỉ ổi.”

“Đừng,” Jace lại nói. Anh đưa tay che mặt. Tiếng nói của anh nghẹn ngào, vang qua những kẽ ngón tay. “Đừng mà, Clary.”

Valentine mỉm cười nhìn cậu con trai nhưng anh không hề thấy. “Jonathan phải nghĩ rằng ta đã chết, đúng. Nó phải nghĩ rằng nó là con trai Michael Wayland, hoặc không nhà Lightwood sẽ không bảo vệ nó như chúng đã làm. Chúng nợ Michael chứ không phải ta. Vì Michael mà chúng yêu thương Jace, chứ không phải vì ta.”

“Có lẽ họ yêu anh ấy vì chính anh ấy thôi,” Clary nói.

“Một sự thông dịch ủy mị đáng hoan nghênh,” Valentine nói, “nhưng không đâu. Con không hiểu nhà Lightwood như ta từng hiểu.” Dường như hắn chẳng để ý tới việc Jace vừa giật mình, hoặc nếu có, hắn cũng bỏ qua. “Mà dù gì thì cũng chẳng sao hết,” Valentine nói thêm. “Nhà Lightwood được lợi dụng chỉ bảo vệ Jace, chứ không thay thế gia đình được, con thấy đấy. Nó có một gia đình. Nó có một ông bố.”

Jace ậm ừ gì đó trong họng, và bỏ tay ra khỏi mặt. “Mẹ con...”

“Bỏ chạy sau vụ Nổi Loạn,” Valentine nói. “Bố là người bị ruồng bỏ. Hội Clave hẳn đã truy diệt ta nếu biết ta còn sống. Mẹ con không chịu được có dây dưa với ta, và đã bỏ đi.” Sự đau đớn trong giọng nói hắn thật khôn cùng - và giả tạo, Clary cay đắng nghĩ. Tên khốn nạn khéo chống chế. “Lúc đó ta không biết được mẹ con mang bầu. Đang có Clary.” Hắn cười nhẹ, ngón tay chậm rãi lần dọc ly rượu. “Nhưng như người ta thường nói, lá rụng về cội,” hắn tiếp tục. “Định mệnh đã đưa chúng ta tới buổi đoàn viên ngày hôm nay. Gia đình chúng ta, một lần nữa lại ở bên nhau. Chúng ta có thể sử dụng Cổng Dịch Chuyển,” hắn nói và nhìn Jace. “Để về Idris. Về trang viên nhỏ ngày xưa.”

Jace hơi run rẩy nhưng vẫn gật đầu, vẫn nhìn ngây dại xuống đôi bàn tay.

“Chúng ta sẽ ở đó cùng nhau,” Valentine nói. “Như chúng ta phải thế.”

Nghe tuyệt thật, Clary nghĩ. Chỉ có ông, người vợ đang hôn mê, cậu con trai bị tổn thương tâm lý và cô con gái ghét ông tới tận ruột gan. Đấy là chưa nói đến việc hai đứa con còn yêu nhau nữa. Phải rồi, nghe như một buổi đoàn tụ gia đình hoàn hảo. Nhưng cô chỉ nói rằng, “Tôi sẽ không đi đâu cùng ông, và mẹ tôi cũng vậy.”

“Ông ấy nói đúng, Clary.” Jace khàn khàn nói. Anh xòe tay, những đầu ngón tay dính máu khô. “Đó là nơi duy nhất chúng ta có thể tới. Chúng ta có thể giải quyết mọi việc ở đó.”

“Anh không nói thật đấy chứ...”

Một tiếng rắc đinh tai vang lên từ tầng dưới, quá lớn nghe như thể một bức tường bệnh viện đã đổ sập. Chú Luke, Clary nghĩ, nhảy dựng lên.

Jace, dù có vẻ kinh hoàng tới buồn nôn, phản xạ tự động, nửa đứng dậy, tay sờ xuống thắt lưng. “Bố, họ...”

“Họ đang trên đường tới.” Valentine cũng đứng dậy. Clary nghe thấy tiếng bước chân. Một lát sau cánh cửa bật mở, và chú Luke đứng trước ngưỡng cửa.

Clary bậm môi ngăn tiếng hét. Người chú bê bết máu, quần bò và áo sơ mi đen bện lại, nửa mặt dưới cũng thế. Tay chú đỏ tới tận cổ tay, máu dính trên đó còn ướt và đang nhễu xuống. Cô không biết liệu có chút nào trong đó là máu của chú không. Cô nghe tiếng mình thét lên gọi tên chú, và rồi cô chạy băng qua phòng về phía chú, suýt vấp ngã trong cơn hối hả muốn bám lên vạt áo trước của chú mà đu mãi lên đấy, điều mà cô đã không còn làm từ hồi tám tuổi.

Trong một lúc bàn tay to lớn của chú đưa lên ôm trọn sau đầu cô, ôm chặt cô bằng một cánh tay. Rồi chú nhẹ nhàng đẩy cô ra. “Chú toàn thân đều là máu,” chú nói. “Đừng lo - không phải máu của chú đâu.”

“Vậy thì là của ai?” Lần này là giọng của Valentine, và Clary quay lại, bàn tay chú Luke đặt trên vai cô một cách bảo vệ. Valentine đang quan sát cả hai, đôi mắt nheo lại và đang tính toán. Jace đã đứng dậy và đi vòng qua bàn và tần ngần đứng sau bố. Clary không thể nhớ anh đã từng làm gì một cách ngần ngừ trước đây.

“Của Pangborn,” chú Luke nói.

Valentine đưa tay trước mặt, như thể cái tin đó làm hắn đau. “Tôi hiểu. Vậy là cậu đã dùng răng xé toạc họng hắn?”

“Thực ra,” chú Luke nói, “tôi giết hắn bằng cái này.” Với bàn tay còn lại chú giơ con dao dài mảnh đã dùng để giết Kẻ Lầm Đường. Dưới ánh sáng, cô thấy viên đá xanh nơi chuôi dao. “Anh có nhớ ra nó không?”

Valentine nhìn, và Clary thấy hắn siết hàm lại. “Có chứ,” hắn nói và Clary tự hỏi liệu hắn có nhớ cuộc nói chuyện lúc trước không.

Đây là thanh kindjal, một con dao của người Thổ Nhĩ Kỳ. Riêng con dao này từng thuộc về một cặp đồng bộ.

“Anh đưa nó cho tôi mười bảy năm về trước và bảo tôi hãy dùng nó mà kết thúc cuộc đời,” chú Luke nói, vũ khí nắm chặt trong tay. Lưỡi dao này dài hơn lưỡi dao cán đỏ trên thắt lưng Jace; nó nửa giống dao nửa giống kiếm và lưỡi dao nhọn như đầu kim. “Và tôi đã suýt làm vậy.”

“Cậu muốn tôi từ chối điều đó sao?” Có sự đau thương trong giọng Valentine, ký ức về một nỗi buồn trong quá khứ. “Tôi cố cứu cậu khỏi chính cậu đó, Lucian. Tôi đã sai lầm nghiêm trọng. Giá mà tôi có đủ dũng khí để tự mình ra tay, thì cậu đã có thể chết như một con người.”

“Như anh chăng?” chú Luke hỏi, và trong khoảnh khắc ấy Clary thấy điều gì đó ở một chú Luke mà cô luôn biết, người luôn biết khi nào cô nói dối hay giả bộ, luôn mắng cô những lúc cô kiêu căng hay không đáng tin. Trong sự cay đắng của giọng chú, cô nghe ra tình yêu chú từng dành cho Valentine, bị sự thù hận yếu ớt phủ lên. “Một con người đã xích người vợ hôn mê lên giường để tra tấn cô ấy nhằm lấy được thông tin khi cô ấy tỉnh dậy ấy à? Đó là sự dũng cảm của anh ư?”

Jace nhìn bố. Clary thấy sự giận dữ đáng kể trong giây phút đó bóp méo mọi đường nét trên khuôn mặt hắn; khi cơn giận biến mất, khuôn mặt hắn phẳng phiu lại như cũ. “Tôi không hành hạ cô ấy,” hắn nói. “Tôi xích cũng là vì muốn bảo vệ cô ấy mà thôi.”

“Khỏi cái gì?” chú Luke hỏi, bước sâu hơn vào phòng. “Điều duy nhất đang đe dọa cô ấy là anh. Điều duy nhất từng làm hại cô ấy chính là anh. Cô ấy đã dành cả đời trốn chạy để tránh khỏi anh.”

“Tôi yêu cô ấy,” Valentine nói. “Tôi chưa bao giờ muốn làm cô ấy tổn thương. Chính cậu là người khiến cô ấy quay lưng với tôi.”

Chú Luke cười lớn. “Cô ấy không cần tôi làm cô ấy quay lưng với anh. Cô ấy tự mình học cách căm ghét anh.”

“Dối trá!” Valentine gầm lên với sự tàn bạo không ngờ, rồi rút kiếm khỏi vỏ. Lưỡi kiếm mỏng và đen tuyền, trang trí họa tiết hình sao bạc. Hắn giơ thanh kiếm ngang tầm trái tim chú Luke.

Jace bước một bước về phía Valentine. “Bố...”

“Jonathan, im lặng!” Valentine quát, nhưng đã quá muộn; Clary nhìn thấy sự choáng váng trên mặt chú Luke khi chú nhìn Jace.

“Jonathan?” chú thì thào.

Miệng Jace cau lại. “Đừng gọi tôi bằng tên đó,” anh gay gắt, ánh mắt vàng tóe lửa. “Tôi sẽ giết ông nếu ông dám gọi tôi bằng cái tên đó.”

Chú Luke, chẳng thèm để ý tới thanh kiếm đang chĩa vào tim, không hề rời mắt khỏi Jace. “Mẹ cháu hẳn sẽ rất tự hào,” chú nói, quá nhỏ đến nỗi ngay cả Clary đứng gần bên chú, cũng phải căng tai mà nghe.

“Tôi không có mẹ,” Jace nói. Tay anh run run. “Người đàn bà đẻ ra tôi đã bỏ đi trước khi tôi kịp nhớ mặt bà ta. Tôi chẳng là gì với bà ta, nên bà ta cũng chẳng là gì với tôi.”

“Mẹ cháu không phải là người bỏ cháu mà đi,” chú Luke nói, ánh mắt từ từ chuyển sang Valentine. “Tôi cứ nghĩ kể cả anh,” chú nói chậm rãi, “cũng không sử dụng máu mủ của mình làm mồi nhử. Hóa ra tôi đã nhầm.”

“Đủ rồi đấy.” Giọng Valentine đã khá uể oải, nhưng có sự ngang tàng trong đó, một sự thèm khát bạo lực. “Thả con gái tôi ra, hoặc không tôi sẽ giết chết anh ngay tại chỗ.”

“Tôi không phải con gái ông,” Clary quát lớn, và chú Luke đẩy cô lùi lại, quá mạnh làm cô suýt ngã.

“Đi ra khỏi đây,” chú nói, “Tới nơi an toàn.”

“Cháu không thể bỏ chú!”

“Clary, nghe lời chú đi. Rời khỏi đây,” Chú Luke đã giơ dao. “Đây không phải trận chiến của cháu.”

Clary loạng choạng rời xa chú, về phía cánh cửa dẫn ra đầu cầu thang. Có lẽ cô có thể tìm người giúp, tìm Alaric...

Rồi Jace đứng trước mặt cô, chắn đường ra cửa. Cô đã quên mất anh di chuyển nhanh thế nào, khẽ khàng như mèo, nhanh như nước. “Em điên sao?” anh rít lên. “Chúng đã phá cửa trước. Nơi này toàn những Kẻ Lầm Đường.”

Cô đẩy anh. “Để em ra...”

Jace giữ chặt cô như gọng kìm. “Để chúng xé xác em ra à? Không bao giờ.”

Tiếng kim loại va chạm vang lên sau lưng cô. Clary giằng tay khỏi Jace và quay lại thấy Valentine đang chém đến chú Luke, chú gạt đòn tấn công ra với một tiếng động đinh tai. Kiếm của họ văng xuống đất, và giờ họ di chuyển ngang dọc trong phòng giữa những động tác giả và những nhát chém nhanh tít mù mịt. “Ôi, Chúa ơi,” cô thì thào. “Họ sẽ giết nhau mất thôi.”

Màu mắt Jace gần như thành đen. “Em không hiểu rồi,” anh nói. “Chuyện phải thế thôi...” Anh ngừng lời và hít một hơi khi chú Luke vượt qua vòng phòng thủ của Valentine, chém một nhát ngang vai hắn. Máu túa ra, nhuộm đỏ chiếc áo sơ mi trắng của Valentine.

Valentine ngửa cổ mà cười. “Một cú trúng đích,” hắn nói. “Tôi không nghĩ là anh có khả năng này đó, Lucian.”

Chú Luke đứng rất thẳng, con dao che khuôn mặt chú khỏi Clary. “Chính anh đã dạy tôi chiêu này.”

“Nhưng đó là nhiều năm trước rồi,” Valentine nói bằng cái giọng như lụa thô, “và từ đó, anh đâu có cần dùng dao mấy đâu nhỉ? Khi anh đã có răng nanh và móng vuốt để thay thế.”

“Chỉ để xé tim anh ra dễ hơn.”

Valentine lắc đầu. “Anh đã xé toạc trái tim tôi ra từ nhiều năm trước rồi,” hắn nói và Clary cũng không biết sự buồn bã trong giọng hắn là thật hay giả nữa. “Khi anh phản bội và bỏ rơi tôi.” Chú Luke lại xông tới, nhưng Valentine lanh lẹ lùi đi. Với một người to lớn, hắn di chuyển nhẹ nhàng tới đáng ngạc nhiên. “Chính anh đã khiến vợ tôi quay lưng với giống nòi. Anh tới với cô ấy khi cô ấy yếu đuối nhất, bằng sự thảm thương, bằng thứ nhu cầu vô dụng của anh. Tôi thì ở xa còn cô ấy tưởng anh yêu cô ấy. Cô ấy ngốc quá.”

Jace người căng như dây đàn đứng cạnh Clary. Cô có thể cảm nhận sự căng thẳng nơi anh, như những tia lửa bắn ra từ sợi cáp điện đã đứt. “Valentine đang nói về mẹ anh đó,” cô nói.

“Bà ấy đã bỏ rơi anh,” Jace nói. “Chỉ là một bà mẹ nào đó thôi.”

“Mẹ nghĩ anh đã chết. Anh muốn biết sao em biết không? Vì mẹ vẫn giữ một chiếc hộp trong phòng ngủ. Trên đó có chữ viết tắt tên anh. J.C.”

“Vậy bà ta có một chiếc hộp,” Jace nói. “Rất nhiều người có hộp. Họ để đồ trong đó. Anh nghe nói đó là một xu hướng.”

“Trong đó có một lọn tóc của anh. Tóc em bé. Và một bức ảnh, có lẽ là hai. Mỗi năm mẹ lại lôi chúng ra mà khóc. Những tiếng khóc nức nở nghe mà tan nát cõi lòng...”

Bàn tay Jace nắm chặt ở hai bên thân. “Thôi đi,” anh nghiến răng nói.

“Thôi cái gì? Thôi nói cho anh biết sự thực ư? Mẹ nghĩ anh đã chết - mẹ sẽ không bao giờ bỏ anh nếu mẹ biết anh còn sống. Anh nghĩ bố anh đã chết...”

“Anh thấy bố anh đã chết! Hoặc anh tưởng thế! Anh chỉ không - chỉ nghe về điều đó và chọn tin vào nó!”

“Mẹ tìm thấy những mẩu xương bị cháy thành than của anh,” Clary lặng lẽ nói. “Trong đống đổ nát của căn nhà bà. Cùng với nắm xương tàn của ông bà ngoại.”

Cuối cùng Jace cũng nhìn cô. Cô thấy sự ngờ vực khỏa lấp trong mắt anh, và quanh mắt anh, là sự căng thẳng phải duy trì nỗi ngờ vực ấy. Như thể nhìn xuyên qua ảo ảnh, Clary có thể thấy sự hình thành mong manh của niềm tin trong anh vào bố, được anh khoác vào một lớp áo giáp trong veo, bảo vệ anh khỏi sự thực. Ở đâu đó, Clary nghĩ, trên lớp giáp kia đã xuất hiện một vết nứt; đâu đó, nếu cô có thể tìm được lời đúng đắn, nơi ấy sẽ bị chọc thủng. “Thật lố bịch,” anh nói. “Anh không hề chết - chẳng có xương cốt gì cả.”

“Có đó.”

“Đó chỉ là ảo ảnh mà thôi,” anh cự nự.

“Hãy hỏi bố anh xem chuyện gì đã xảy ra cho bố mẹ vợ ông ta,” Clary nói. Cô đưa chạm vào tay anh. “Hãy hỏi ông ta xem đó chỉ là một ảo ảnh hay không..."

“Câm mồm!” Sự kiềm chế của Jace đã vỡ toác và anh quay sang cô, mắt long sòng sọc. Clary thấy chú Luke đang liếc về phía họ, giật mình vì tiếng hét, và nhân phút phân tâm đó Valentine đã lợi dụng sơ hở và đâm, găm lưỡi kiếm vào ngực chú Luke, ngay dưới xương quai xanh.

Đôi mắt chú Luke lồi ra vì kinh ngạc hơn là vì đau. Valentine rút tay lại và lưỡi kiếm kéo ra, dính máu đỏ tới tận chuôi. Với tiếng cười lanh lảnh Valentine tiếp tục đâm một nhát nữa, lần này đánh rơi vũ khí chú Luke ra khỏi tay. Thanh kindjal rơi xuống sàn nhà kèm theo tiếng lanh canh vang vọng trong không gian, và Valentine đá nó bay xuống gầm bàn trong lúc chú Luke đổ sụp xuống.

Valentine giơ thanh kiếm đen trên thân thể sống soài của chú Luke, sẵn sàng đâm một nhát kết liễu đời chú. Những ngôi sao bạc khắc chìm sáng lên dọc theo chiều dìa lưỡi kiếm và Clary nghĩ, chết lặng trong khoảnh khắc kinh hoàng, tại sao một thứ nguy hiểm chết người lại đẹp tới vậy?

Jace, như thể biết được Clary định làm gì trước khi cô kịp hành động, đã quay phắt về phía cô. “Clary...”

Giây phút chết lặng đã qua. Clary tránh khỏi Jace, thụp xuống tránh đôi bàn tay đang vươn ra của anh, và chạy băng qua sàn đá về phía chú Luke. Chú đang nằm trên sàn, dùng một tay chống đỡ cơ thể; Clary lao vào chắn trên chú ngay khi thanh kiếm của Valentine đâm xuống.

Cô thấy ánh mắt Valentine khi thanh kiếm lao về phía cô; có thể khoảnh khắc đó chỉ là một tích tắc, nhưng với cô, nó là vĩnh viễn. Cô thấy hắn có thể ngừng tay nếu muốn. Thấy rằng hắn thừa biết thanh kiếm sẽ đâm vào cô nếu hắn không ngừng lại. Thấy rằng ngả nào hắn cũng sẽ ra tay.

Cô vung hai tay lên, nhắm chặt mắt...

Một tiếng keng. Cô nghe Valentine hét lên, cô nhìn lên thấy hắn đang ôm bên tay không cầm kiếm nữa, mà chảy máu ròng ròng. Con dao kindjal chuôi đỏ nằm cách đó vài foot trên sàn nhà, ngay cạnh thanh kiếm đen. Quay lại trong kinh ngạc, cô thấy Jace đứng bên cửa, tay vẫn giơ ra, và nhận ra hẳn anh đã phi con dao bằng một lực đủ mạnh để đánh bay thanh kiếm đen khỏi tay bố mình.

Mặt trắng bệch, anh từ từ hạ tay xuống, đôi mắt đang hướng về Valentine... mở to khẩn khoản. “Bố, con...”

Valentine nhìn bàn tay chảy máu, và trong thoáng chốc, Clary thấy sự giận dữ co giật loáng qua mặt hắn, như một ánh đèn phục tắt. Giọng hắn, khi nói, lại rất hiền hòa. “Một cú ném đẹp đó, Jace.”

Jace lưỡng lự. “Nhưng tay bố. Con cứ tưởng...”

“Ta sẽ không làm em gái con bị thương,” Valentine nói, di chuyển nhanh gọn để lấy cả thanh kiếm đen lẫn thanh kindjal chuôi đỏ và nhét vào thắt lưng. “Ta sẽ ngừng tay. Nhưng sự quan tâm tới gia đình của con thật đáng tuyên dương.”

Đồ dối trá. Nhưng Clary không còn thời gian cho những lời nói vòng vo của Valentine. Cô quay ra nhìn chú Luke và cảm thấy cảm giác buồn nôn khủng khiếp đang dâng lên tận cổ. Chú Luke đang nằm ngửa, mắt nhắm hờ, hơi thở đứt đoạn. Máu sùi lên từ lỗ hổng trên áo sơ mi rách. “Em cần cuộn băng,” Clary nghẹn ngào nói. “Một miếng vải, bất cứ cái gì.”

“Đừng cử động, Jonathan,” Valentine lạnh lùng bảo và Jace đứng nguyên tại chỗ, tay đã nhét vào túi. “Clarissa,” bố cô nói, bằng cái giọng trơn như thép dính bơ, “người này là kẻ thù của gia đình chúng ta, và là kẻ thù của Clave. Chúng ta là thợ săn, và điều này có nghĩa đôi khi chúng ta phải đảm nhiệm vai trò sát thủ. Chắc chắn là con hiểu chuyện này.”

“Thợ săn quỷ,” Clary nói. “Kẻ giết quỷ. Không phải quân giết người. Khác nhau đấy.”

“Hắn ta là quỷ đó, Clarissa,” Valentine nói, vẫn bằng cái giọng mềm mại như cũ. “Một con quỷ mang mặt người. Ta biết những con quái vật kiểu đó lươn lẹo như thế nào. Hãy nhớ, ta từng tha mạng cho hắn rồi.”

“Một con quái vật ư?” Clary nhắc lại. Cô nghĩ tới chú Luke, chú Luke đẩy xích đu cho cô hồi cô lên năm, đẩy cao hơn, luôn cao hơn nữa; chú Luke trong lễ tốt nghiệp cấp hai của cô, tay cầm máy quay hệt như một ông bố tràn đầy sự tự hào về cô con gái rượu; chú Luke lựa từng hộp sách được chuyển tới cửa hàng, tìm kiếm bất cứ thứ gì cô thích và đặt sang bên. Chú Luke bế cô lên cho cô vặt táo từ những cây táo gần trang trại. Chú Luke, người đối với cô có vị thế như một người cha, trong khi người đàn ông kia đang cố cướp lấy vị trí đó. “Chú Luke không phải một con quái vật,” cô nói bằng cái giọng hệt như Valentine, lấy sắt thép đối chọi lại với sắt thép. “Hay quân giết người. Chính ông mới là kẻ đó.”

“Clary!” Đó là Jace.

Clary lờ anh đi. Đôi mắt cô nhìn thẳng vào đôi mắt đen lạnh lùng của người bố đẻ. “Ông giết bố mẹ của vợ ông, không phải trong chiến trận, mà như một kẻ giết người máu lạnh,” cô nói. “Và tôi cá ông đã giết Michael Wayland và cậu con nhỏ nữa. Ném xương cốt họ cùng với xương cốt của ông bà tôi để mẹ tôi tưởng rằng ông và Jace đã chết. Đeo sợi dây chuyền của ông quanh cổ Michael Wayland trước khi thiêu xác ông ấy, để mọi người điều nghĩ những nắm xương tàn kia thuộc về ông. Sau tất cả những gì ông nói về dòng máu thuần chủng của Clave - ông chẳng quan tâm gì tới dòng máu hay sự vô tội của họ khi ông giết họ, đúng không? Giết người già và trẻ nhỏ không chớp mắt, đó mới là quái vật.”

Một cơn giận nữa làm biến dạng nét mặt của Valentine. “Thế là đủ rồi!” Valentine gầm lên, thanh kiếm đen một lần nữa được giơ cao, và Clary đã nghe ra sự thực về con người hắn trong giọng của hắn, niềm phẫn nộ đã đưa đẩy hắn cả một đời. Một niềm phẫn nộ sôi sục không bao giờ có ngày nguôi. “Jonathan! Lôi em gái con ra ngay, bằng không nhân danh Thiên Thần, ta sẽ đánh nó để giết con quái vật nó đang bảo vệ!”

Trong giây phút ngắn ngủi nhất, Jace đã chần chừ. Rồi anh ngẩng đầu. “Vâng thưa Bố,” anh nói và đi về phía Clary. Trước khi cô kịp giơ tay để gạt anh ra, anh đã hung tợn nắm lấy tay cô mà kéo lên. Anh kéo cô đứng dậy, kéo cô tránh xa chú Luke.

“Jace,” cô thì thầm, hoảng sợ.

“Đừng,” anh nói. Những ngón tay anh bấu vào tay cô phát đau. Anh có mùi rượu, kim loại và mồ hôi. “Đừng nói gì với anh.”

“Nhưng...”

“Anh bảo rồi, đừng nói.” Anh lắc cô rất mạnh. Cô vấp té, cố đứng dậy, ngước nhìn Valentine đang đứng đó, hau háu nhìn xuống cơ thể co quắp của chú Luke. Hắn dùng đầu mũi giày đắt tiền đá chú, khiến chú kêu lên những tiếng kêu nghèn nghẹt.

“Để chú ấy yên!” Clary hét, cố giằng tay ra khỏi tay Jace. Vô ích - anh quá khỏe.

“Dừng lại đi,” anh rít vào tai cô. “Em chỉ làm mọi việc tồi tệ hơn với em thôi. Sẽ tốt hơn nếu em đừng nhìn.”

“Như anh sao?” cô rít lên đáp trả. “Nhắm mắt giả vờ như chuyện gì đó không xảy ra không thể khiến nó không có thật đâu Jace. Anh nên hiểu hơn mới phải...”

“Clary, dừng lại.” Giọng anh đột ngột làm cô im bặt. Anh nghe có vẻ tuyệt vọng.

Valentine đang chậc lưỡi. “Giá mà tôi đã nghĩ trước,” hắn nói, “mà mang theo con dao bạc thật sự, tôi sẽ kết liễu anh, để anh được chết đúng như một con sói, Lucian ạ.”

Chú Luke gầm ghè đáp lại gì đó mà Clary không nghe rõ. Cô mong là một câu nói thô lậu. Cô cố vùng khỏi Jace. Chân cô trượt ra và anh tóm lấy, kéo cô lại bằng lực mạnh tới phát đau. Anh đang ôm lấy cô, cô nghĩ, nhưng không phải theo cái cách cô từng mong muốn, cũng chẳng phải cách cô từng hình dung.

“Ít nhất hãy để tôi đứng dậy,” chú Luke nói. “Để tôi được chết trên đôi chân mình.”

Valentine nhìn theo chiều dài lưỡi kiếm về phía chú và nhún vai. “Anh có thể nằm ngửa hay quỳ mà chết,” hắn nói. “Nhưng chỉ có con người mới được quyền chết trên đôi chân, trong khi anh không phải người.”

“KHÔNG!” Clary hét lên trong khi chú Luke, không nhìn về phía cô, bắt đầu đau đớn nhấc mình vào thế quỳ.

“Vì sao em lại làm mọi chuyện tệ hơn với mình chứ?” Jace hỏi trong tiếng thì thầm nho nhỏ, căng thẳng. “Anh đã bảo em đừng có nhìn mà.”

Cô đang thở dốc vì dụng sức quá mức và vì đau. “Vì sao anh phải nói dối bản thân?”

“Anh không nói dối!” Anh thô bạo nắm lấy tay cô, dù cô không cố giằng tay ra. “Anh chỉ muốn những điều tốt trong đời - bố anh - gia đình anh - anh không thể mất tất cả thêm một lần nữa.”

Giờ chú Luke đang quỳ thẳng. Valentine đã giơ cao thanh kiếm đẫm máu. Mắt chú đã nhắm, và chú đang lầm bầm gì đó: những lời trăn trối, những lời cầu nguyện, Clary không biết. Cô vặn vẹo trong vòng tay Jace, cố giằng ra để có thể ngước lên nhìn gương mặt anh. Đôi môi anh mím chặt, hàm nghiến cứng, nhưng đôi mắt...

Lớp áo giáp mỏng manh đang vỡ. Chỉ cần tác động thêm một chút nữa thôi. Cô cố tìm từ đúng.

“Anh có gia đình,” cô nói. “Gia đình, đó là những người yêu thương anh. Như gia đình Lightwood đã yêu thương anh. Alec, Isabelle...” Giọng cô lạc đi. “Chú Luke là gia đình của em, và anh đang bắt em giương mắt nhìn chú ra đi hệt như anh tưởng anh đã thấy bố anh chết năm anh mười tuổi? Đó là điều anh muốn phải không Jace? Đó là dạng người anh muốn trở thành sao? Giống như...”

Cô dừng lại, đột nhiên sợ rằng mình đã nói quá xa.

“Giống bố anh,” anh nói.

Giọng anh lạnh băng, xa xôi, phẳng dẹt như lưỡi dao.

Mình mất anh ấy rồi, cô tuyệt vọng nghĩ.

“Ngồi xuống,” anh nói và đẩy cô rất mạnh. Cô loạng choạng ngã xuống đất, lăn qua một bên gối. Quỳ thẳng dậy, cô thấy Valentine đang giương kiếm cao quá đầu. Ánh sáng từ chúc đài treo trên đầu tỏa lên mặt kiếm tạo ra những tia sáng rực rỡ đâm thẳng vào mắt cô. “Chú Luke!” cô hét gọi.

Lưỡi kiếm chạm đích - xuống sàn nhà. Chú Luke không còn ở đó nữa. Jace, đã di chuyển nhanh hơn Clary có thể tưởng tượng nổi kể cả với một Thợ Săn Bóng Tối, đã đẩy chú đi, nằm sõng soài sang một bên. Jace đứng đối mặt với bố qua chuôi kiếm vẫn đang rung lên từng hồi, mặt anh trắng bệch, nhưng ánh nhìn rất kiên định.

“Con nghĩ bố nên đi,” Jace nói.

Valentine mở lớn mắt nhìn cậu con trai mà không thể tin nổi. “Con vừa nói gì?”

Chú Luke đã ngồi dậy được. Máu nóng một lần nữa chảy ướt áo chú. Chú nhìn trân trối trong khi Jace đưa tay ra và nhẹ nhàng, chừng như khá hờ hững, vuốt ve chuôi thanh kiếm đã cắm xuống sàn. “Con nghĩ bố đã nghe rõ rồi đấy, thưa bố.”

Giọng Valentine vang lên như tiếng roi quất. “Jonathan Morgenstern...”

Nhanh như chớp, Jace nắm lấy chuôi kiếm, giật khỏi sàn nhà và giơ cao. Anh cầm hững hờ, thẳng băng, mũi kiếm chỉ cách cằm bố mình vài phân. “Đấy không phải là tên tôi,” anh nói. “Tên tôi là Jace Wayland.”

Đôi mắt của Valentine vẫn dán vào Jace, hắn dường như chẳng còn để ý tới lưỡi kiếm trên họng. “Wayland?” hắn rống lên. “Con không có dòng máu của Wayland! Với con, Michael Wayland chỉ là một người xa lạ...”

“Vậy,” Jace bình tĩnh nói, “ông cũng thế thôi.” Anh giật kiếm sang trái. “Giờ đi đi.”

Valentine lắc đầu. “Không bao giờ. Ta không bao giờ nghe lệnh của một đứa trẻ.”

Mũi kiếm chạm tới cổ họng Valentine. Clary đang nhìn, vừa sợ hãi vừa hào hứng. “Tôi là một đứa trẻ được huấn luyện tốt,” Jace nói. “Ông đã tự mình chỉ dẫn cho tôi về nghệ thuật chém giết chính xác. Tôi chỉ cần nhúc nhích hai ngón tay để cắt cổ ông, ông có biết không?” Ánh mắt anh lạnh như thép. “Tôi đoán là ông có biết.”

“Con có đầy đủ các kỹ năng thật,” Valentine nói. Hắn nói có vẻ thô bạo, nhưng Clary để ý, hắn quả là đang đứng rất im. “Nhưng con không thể giết nổi bố đâu. Con từng luôn là kẻ yếu đuối.”

“Có lẽ thằng bé không thể.” Đó là chú Luke, giờ đã đứng dậy, trắng xanh xao và máu me bê bết nhưng đã đứng thẳng được. “Nhưng tôi thì có đấy. Và tôi không hoàn toàn chắc thằng bé có ngăn tôi nổi không.”

Đôi mắt đỏ ngầu của Valentine đảo sang Luke rồi lại nhìn cậu con trai. Jace không hề ngoái lại khi chú Luke nói, chỉ đứng im như tượng, thanh kiếm trên cổ tay không hề nhúc nhích. “Con nghe con quái vật kia đang đe dọa bố rồi đấy, Jonathan,” Valentine nói. “Con cùng phe với nó sao?”

“Cũng có điểm đúng đó,”Jace nhẹ nhàng nói. “Tôi không hoàn toàn chắc tôi có thể ngăn chú ấy nếu chú ấy muốn làm ông bị thương. Người sói lành nhanh lắm.”

Môi Valentine cong lên. “Vậy,” hắn nhổ toẹt, “giống như mẹ con, con thích sinh vật này, cái thứ quỷ nửa mùa này hơn là người cùng huyết thống với con, gia đình của con à?”

Lần đầu tiên thanh kiếm trên tay Jace dường như run run. “Ông bỏ rơi tôi khi tôi còn bé,” anh cẩn trọng nói. “Ông mặc cho tôi tưởng rằng ông đã chết rồi đưa tôi tới sống với những người xa lạ. Ông chưa bao giờ bảo với tôi rằng tôi còn có mẹ, có em gái. Ông bỏ tôi một mình.” Lời nói đó nghe như tiếng khóc.

“Ta làm thế vì con - để con an toàn,” Valentine phản đối.

“Nếu ông quan tâm tới Jace, nếu ông quan tâm tới những người chung huyết thống, ông đã không giết chết ông bà ngoại anh ấy. Ông đã giết những con người vô tội,” Clary giận dữ xen ngang.

“Vô tội ư?” Valentine quạc lại. “Chẳng ai vô tội trong một trận chiến hết! Họ đứng về phía Jocelyn để chống lại ta! Họ sẽ sẵn sàng giúp con gái cướp đi đứa con trai của ta.”

Chú Luke rít lên. “Anh biết cô ấy sẽ rời xa anh,” chú nói. “Anh biết cô ấy sẽ bỏ trốn, ngay cả trước vụ Nổi Loạn à?”

“Tất nhiên là ta biết chứ!” Valentine gầm lên. Sự kiềm chế lạnh băng của hắn đã vỡ và Clary có thể nhận ra cơn giận cuồn cuộn bên dưới, kéo căng các dây chằng trên cổ, siết chặt tay hắn thành hai đấm. “Ta đã làm điều phải làm để bảo vệ con cái của ta, và cuối cùng ta đã cho họ nhiều hơn những gì họ xứng đáng được hưởng: một giàn hỏa thiêu chỉ được dành cho những chiến binh vĩ đại nhất của Clave!”

“Ông đã thêu sống họ,” Clary thẳng thừng nói.

“Đúng!” Valentine hét. “Ta đã thêu sống họ.”

Jace kêu lên tiếng kêu nghe như bị bóp cổ. “Ông bà của tôi...”

“Con chưa từng biết họ,” Valentine nói. “Đừng giả bộ đau lòng khi còn không cảm thấy.”

Mũi kiếm đang rung mạnh hơn. Chú Luke đặt tay lên vai Jace. “Bình tĩnh lại đi,” chú nói.

Jace không nhìn chú. Anh thở dốc như thể giờ này đang chạy. Clary thấy mồ hôi lóng lánh trên hõm xương quai xanh của anh, làm tóc anh bết vào thái dương. Những mạch máu hiện rõ trên mu bàn tay. Anh ấy sẽ giết hắn, cô nghĩ. Anh sẽ giết Valentine.

Cô vội bước tới. “Jace... chúng ta cần chiếc Cốc. Hoặc anh biết rằng hắn sẽ làm gì với nó rồi đấy.”

Jace liếm đôi môi khô rang. “Chiếc Cốc, thưa Bố. Nó đâu rồi?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


“Ở Idris,” Valentine bình tĩnh trả lời. “Nơi con không bao giờ tìm thấy.”

Bàn tay Jace đang run. “Nói cho tôi nghe...”

“Đưa chú thanh kiếm, Jonathan.” Đó là chú Luke, giọng bình tĩnh, thậm chí còn có phần nhẹ nhàng.

Jace nghe như thể anh đang nói vọng lên từ đáy giếng vọng lên. “Sao ạ?”

Clary bước thêm một bước nữa. “Đưa chú Luke thanh kiếm. Để chú cầm nó đi Jace.”

Anh lắc đầu. “Anh không thể.”

Cô lại tiến thêm bước nữa; một bước nữa, và giờ cô đã đứng gần anh đến mức có thể chạm được vào anh. “Được, anh có thể mà,” cô nhẹ nhàng nói. “Làm ơn.”

Anh không nhìn cô. Đôi mắt anh đang xoáy vào mắt người bố. Khoảnh khắc đó cứ kéo dài và dài mãi, dường như là vô tận. Cuối cùng anh gật đầu, nhanh gọn, nhưng không không hề hạ tay xuống. Nhưng anh để chú Luke đến đứng bên cạnh và đặt tay trên tay anh, trên chuôi kiếm. “Giờ cháu thả ra được rồi đó, Jonathan,” chú Luke nói - rồi, thấy vẻ mặt của Clary, sửa lại. “Jace.”

Jace dường như không nghe thấy chú. Anh thả chuôi kiếm và rời xa người bố. Một vài màu sắc trên mặt anh trở lại, và giờ trông anh trắng như bột bánh, đôi môi chảy máu nơi anh đã cắn vào. Clary đau đớn chỉ muốn chạm vào anh, ôm lấy anh, vì biết rằng anh sẽ không bao giờ cho phép.

“Ta có đề nghị thế này,” Valentine nói với chú Luke, bằng cái giọng đều đều tới ngạc nhiên.

“Để tôi đoán nhé,” chú Luke nói. “Là ‘Đừng giết tôi’ hả?”

Valentine cười phá, phát ra một tràng âm thanh không hề có chút vui vẻ nào. “Còn lâu ta mới chịu hạ mình để cầu xin anh tha mạng,” hắn nói.

“Tốt,” chú Luke đáp, dùng lưỡi kiếm quệt nhẹ lên cằm gã đàn ông kia. “Tôi sẽ không giết anh trừ khi anh buộc tôi phải ra tay, Valentine. Tôi không muốn giết anh ngay trước mặt các con anh. Thứ tôi muốn là chiếc Cốc.”

Những tiếng rống dưới nhà giờ vang lên dữ dội hơn. Clary có thể nghe tiếng gì đó tựa tiếng bước chân ở hành lang bên ngoài. “Chú Luke...”

“Chú nghe thấy rồi,” chú nạt.

“Ta đã nói rồi, chiếc Cốc ở Idris,” Valentine nói, ánh mắt chuyển ra sau chú Luke.

Chú Luke đang vã mồ hôi. “Nếu nó ở Idris, anh hãy dùng Cổng Dịch Chuyển mang nó tới đây. Tôi sẽ đi cùng anh. Mang nó trở về.” Đôi mắt chú Luke đang đảo qua đảo lại. Lại có thêm nhiều hoạt động ngoài hành lang, những tiếng la hét, tiếng thứ gì đó đổ vỡ. “Clary, ở đó cùng anh cháu. Sau khi bọn chú bước qua, cháu hãy dùng Cổng Dịch Chuyển để tới nơi an toàn.”

“Cháu không rời đây đâu,” Jace nói.

“Có đó.” Có gì đó dộng thình thình lên cửa. Chú Luke cao giọng. “Valentine, Cổng Dịch Chuyển. Đi”

“Không thì sao nào?” Đôi mắt Valentine chằm chằm nhìn cánh cửa với vẻ suy tính.

“Tôi sẽ giết anh nếu anh buộc tôi phải ra tay,” chú Luke nói. “Dù trước bọn nhỏ hoặc không. Cổng Dịch Chuyển, Valentine. Ngay.”

Valentine dang rộng đôi bàn tay. “Tùy anh thôi.”

Hắn hơi lùi lại, ngay khi cánh cửa mở tung vào trong, bản lề rơi xuống sàn. Chú Luke né ra để tránh cánh cửa rơi xuống đè vào, trong lúc đó khẽ quay người, thanh kiếm vẫn trên tay.

Con sói đứng ở ngưỡng cửa như một ngọn núi của những tiếng rống, lông nâu, vai đùn về trước, môi vén lên để lộ những chiếc răng đang nhe ra. Máu chảy xuống từ không biết bao nhiêu vết thương rách toác trên da.

Jace khẽ chửi rủa và tay đã cầm sẵn thanh thiên đao. Clary nắm lấy cổ tay anh. “Đừng... chú ấy là bạn.”

Jace ngờ vực nhìn cô, nhưng cũng hạ tay xuống.

“Alaric...” Chú Luke hét lên gì đấy, bằng một ngôn ngữ Clary không hiểu. Alaric lại gầm gừ, phục người sát hơn xuống sàn nhà, trong giây phút bối rối, cô cứ ngỡ chú ta sẽ lao vào chú Luke. Rồi cô thấy bàn tay Valentine đặt ở thắt lưng, ánh lấp lánh của những viên đá quý đỏ, và nhận ra mình đã quên mất hắn vẫn còn cầm con dao của Jace.

Cô nghe tiếng hét gọi tên Luke, cứ ngỡ đó là giọng mình - rồi nhận ra rằng cổ họng cô như bị đổ keo, còn chính Jace mới là người hét.

Chú Luke quay lại, dường như chạm tới đau khổ, khi con dao khỏi tay Valentine và bay về phía chú như một con bướm bạc, xoay vòng trong không khí. Chú Luke giơ kiếm - và một thứ gì đấy to lớn, lông xám nâu lao vào giữa chú và Valentine. Cô nghe tiếng Alaric tru, tru vang lên, đột nhiên ngưng bặt; nghe tiếng con dao đâm trúng. Cô há hốc miệng và cố chạy tới, nhưng Jace giữ cô lại.

Con sói nằm còng queo dưới chân chú Luke, máu ướt đầm bộ lông. Thật yếu ớt, với bàn chân sói, Alaric quặp lấy chuôi đao nhô ra từ ngực.

Valentine cười lớn. “Và đây là cách anh trả lại sự trung thành không đòi hỏi gì mà anh đã mua với cái giá quá ư rẻ mạt sao, hả Lucian,” hắn nói. “Bằng cách để chúng chết thay cho anh.” Hắn đang lùi lại, vẫn nhìn chú Luke.

Chú Luke mặt trắng bệch, nhìn hắn, rồi cúi nhìn Alaric; lắc đầu một cái rồi quỳ xuống, ôm lấy xác con sói vừa ngã xuống. Jace, vẫn giữ vai Clary, rít lên, “Đứng im đây, nghe anh nói không? Ở yên đây.” và đuổi theo Valentine, giờ đang vội hướng về phía bức tường đầu kia, chẳng hiểu vì sao. Hắn định nhảy ra khỏi cửa sổ à? Clary có thể thấy hình phản chiếu của hắn in trên chiếc gương lớn viền vàng khi hắn tới gần nó, và nét biểu cảm trên gương mặt hắn - một dạng nhẹ nhõm nhạo báng - khiến nỗi cuồng nộ muốn giết người trào dâng trong cô.

“Đợi đấy mà em nghe,” cô lầm bầm rồi đi theo Jace. Cô chỉ dừng lại để cầm lấy con dao cán xanh trên nền nhà bên dưới gầm bàn, ở nơi Valentine đã đá bay nó tới. Món vũ khí trong tay cô giờ đã có cảm giác thoải mái, trấn an, khi cô đẩy chiếc ghế đổ sang bên và tiến tới gần tấm gương.

Jace đã giơ thanh thiên đao ra, ánh sáng tỏa rộng lên trên, làm tối đen viền mắt anh và hai bên hõm má. Valentine đã quay lại và đứng ngoài vòng sáng, quay lưng với tấm gương. Qua tấm gương, Clary có thể thấy rõ chú Luke đằng sau họ; chú đã đặt thanh kiếm xuống và rút thanh kindjal chuôi đỏ khỏi ngực Alaric, một cách nhẹ nhàng và cẩn trọng. Cô cảm thấy buồn nôn và nắm chặt lấy con dao của mình hơn. “Jace...” cô mở lời.

Anh không quay lại nhìn cô, dù tất nhiên anh nhìn thấy hình cô trong gương. “Clary, anh đã bảo em đợi mà.”

“Con bé giống mẹ lắm,” Valentine nói. Một bàn tay đã đưa ra sau lưng; hắn đang lần theo viền khung gương mạ vàng. “Không thích làm những điều được bảo.”

Jace không còn run như vừa nãy, nhưng Clary có thể cảm nhận được sự kiểm soát mỏng manh của anh đang bị kéo dãn tới mức nào, như lớp da căng trên mặt trống. “Anh sẽ đi cùng ông ta tới Idris, Clary. Anh sẽ mang chiếc Cốc về.”

“Không, anh không thể,” Clary mở lời và thấy, trong gương, gương mặt anh biến dạng ra sao.

“Em có ý kiến gì hay hơn không?” anh hỏi.

“Nhưng chú Luke...”

“Lucian,” Valentine nói bằng cái giọng mượt như nhung, “đang chăm lo cho một đồng chí đã ngã xuống. Còn về chiếc Cốc và Idris, chúng không ở đâu xa. Chỉ qua tấm gương này thôi, có thể nói là thế.”

Jace nheo mắt. “Tấm gương này là Cổng Dịch Chuyển?”

Đôi môi Valentine mím chặt và hạ tay, rụt khỏi tấm gương khi những hình ảnh trong đó bắt đầu cuộn tròn và thay đổi như màu nước chảy trên một bức tranh. Thay vào hình ảnh căn phòng với những món đồ gỗ tối màu và nến, giờ Clary có thể thấy cánh đồng xanh, những tán lá cây xanh như ngọc lục bảo, đồng cỏ rộng mênh mông dẫn tới một ngôi nhà đá lớn đằng xa xa. Cô có thể nghe thấy tiếng đàn ong bay vo ve và tiếng lá cây xào xạc trong gió, cùng mùi lá kim ngân phảng phất theo hương gió.

“Ta đã bảo con là không xa mà.” Valentine đứng ở nơi giờ là một ngưỡng cửa vòm mạ vàng, mái tóc rung động nhờ cùng cơn gió thổi qua tán lá của rặng cây đằng xa. “Có giống như con nhớ không, Jonathan? Không có gì thay đổi nhỉ?”

Trái tim Clary nghẹn lại trong ngực. Cô không nghi ngờ gì đây chính là ngôi nhà thời thơ ấu của Jace, hiển hiện đó quyến rũ anh tựa như kẹo hay đồ chơi có thể dụ trẻ nhỏ. Cô nhìn Jace, nhưng có vẻ anh chẳng hề thấy cô. Anh đang nhìn Cổng Dịch Chuyển, và quang cảnh đằng sau với cánh đồng xanh và ngôi nhà. Cô thấy nét mặt anh dịu lại, môi cong lên thèm muốn, như thể đang nhìn một người anh yêu.

“Con vẫn có thể về nhà,” bố anh nói. Ánh sáng tới từ lưỡi dao thiên thần mà Jace cầm trên tay tỏa bóng anh ngược ra sau để có vẻ như đang di chuyển qua Cổng Dịch Chuyển, khiến những cánh đồng ngập tràn ánh nắng và đồng cỏ bị phủ tối.

Nụ cười nhạt dần trên đôi môi Jace. “Đó không phải nhà của tôi,” anh nói. “Giờ đây mới là nhà của con.”

Cơn giận bùng lên khiến nét mặt Valentine thay đổi khi nhìn cậu con trai. Cô sẽ không bao giờ quên đi vẻ mặt đó - nó khiến cô đột ngột muốn gặp mẹ ghê gớm. Vì dù mẹ Jocelyn có giận cô tới đâu, mẹ cũng chưa bao giờ nhìn cô như thế. Mẹ luôn luôn nhìn cô với tình yêu thương vô hạn.

Nếu cô có thể cảm thấy thương cho Jace hơn mình đã từng cảm thấy, thì hẳn khi đấy cô đã thấy thế rồi.

“Tốt lắm,” Valentine nói và lùi lại một bước qua Cổng Dịch Chuyển để chân chạm đất Idris. Môi hắn cong lên thành một nụ cười. “A,” hắn nói, “quê nhà.”

Jace vội vội vàng vàng tới trước ven rìa Cổng Dịch Chuyển trước khi dừng lại, tay chống lên khung viền mạ vàng. Dường như một sự lưỡng lự kỳ lạ đang kìm giữ chân anh, thậm chí ngay cả khi Idris đang rung động trước mắt anh như một ảo giác trong sa mạc. Chỉ cần một bước thôi...

“Jace, đừng.” Clary vội nói. “Đừng đi theo ông ta.”

“Nhưng chiếc Cốc,” Jace nói. Cô không biết anh đang nghĩ gì, nhưng con dao trong tay anh run dữ dội vì tay anh rung.

“Hãy để Clave xử lý! Jace, làm ơn đi mà.” Nếu anh đi qua Cổng Dịch Chuyển đó, có lẽ anh sẽ không bao giờ trở lại, Valentine sẽ giết anh. Anh không muốn tin điều đó, nhưng hắn sẽ xuống tay.

“Em gái con nói đúng.” Valentine đang đứng giữa đồng cỏ xanh và những bông hoa dại, những lá cỏ rung động dưới chân hắn, và Clary nhận ra rằng dù hắn và họ chỉ cách nhau vài phân, nhưng họ đứng ở hai đất nước hoàn toàn khác nhau. “Con thực sự nghĩ con có thể chiến thắng sao? Dù là con đang có thanh thiên đao còn ta thì không có lấy một mảnh vũ khí? Ta không chỉ mạnh hơn con, mà bố nghi rằng con không có gan giết bố. Và con sẽ phải giết chết bố đó, Jonathan à, trước khi bố đưa chiếc Cốc cho con.”

Jace nắm chặt lấy thiên đao. “Tôi có thể...”

“Không, con không thể đâu.” Valentine vươn tay ra, qua Cổng Dịch Chuyển và chộp lấy cổ tay Jace lôi về phía trước tới khi mũi dao chạm vào ngực hắn. Nơi bàn tay và cổ tay anh chui qua Cổng Dịch Chuyển, chúng hình như rung động như thể nhúng xuống nước. “Vậy làm đi,” Valentine nói. “Đâm đi. Ba phân thôi - có lẽ là bốn.” Hắn giật con dao tới trước, mũi dao cắt qua lớp vải áo. Một vòng tròn đỏ như bông hoa anh túc nở rộ ngay trên trái tim hắn. Jace, thở dốc, giật tay ra và loạng choạng lùi lại.

“Đúng như ta nghĩ,” Valentine nói. “Quá yếu đuối.” Và thật đột ngột đến choáng váng, hắn vung nắm đấm về phía Jace. Clary hét lên, nhưng cú đấm không hề động tới Jace: thay vào đó cú đánh chạm vào mặt Cổng Dịch Chuyển tạo ra thứ hợp âm của hàng ngàn thứ mỏng manh vỡ vụn. Những vết nứt hình mạng nhện lan trên lớp kính-mà-chẳng-phải-kính; điều cuối cùng Clary nghe được trước khi Cổng Dịch Chuyển vỡ tan thành ngàn mảnh nhỏ là tiếng cười nhạo báng của Valentine.

Mảnh gương vỡ đổ xuống sàn nhà hệt một cơn mưa băng đá, một thác nước những mảnh vụn bạc đẹp một cách kỳ lạ. Clary lùi lại, nhưng Jace vẫn đứng bất động trong khi lớp gương vẫn rơi xung quanh anh, nhìn chằm chằm vào khung gương trống rỗng.

Clary cứ tưởng anh sẽ chửi rủa, sẽ hét hay nguyền rủa người bố, nhưng thay vào đó anh chỉ đợi cho những mảnh vụn ngừng rơi. Sau đó, anh im lặng quỳ xuống và cẩn thận lựa giữa những mảnh gương vỡ và nhặt một mảnh lớn nhất, xoay nó trong tay.

“Đừng,” Clary quỳ xuống bên anh, đặt con dao cô đang cầm xuống. Sự hiện diện của nó không còn làm cô yên lòng nữa. “Anh đã không thể làm gì được đâu.”

“Có chứ.” Anh vẫn nhìn xuống mảnh kính. Những mảnh vụn kính phủ bạc tóc anh. “Anh đã có thể giết chết ông ta.” Anh quay mảnh vụn về phía cô. “Nhìn đi,” anh nói.

Cô nhìn. Trên mảnh gương nhỏ cô vẫn thấy một mảnh của Idris - một chút trời xanh, bóng của tán lá xanh. Cô thở dài đau đớn. “Jace...”

“Các cháu ổn không?”

Clary ngước nhìn. Chú Luke đang đứng trước mặt họ. Chú không cầm vũ khí, đôi mắt hõm sâu với hai quầng xanh kiệt sức. “Bọn cháu ổn,” cô đáp. Cô có thể thấy thân hình nằm co quắp đằng sau chú, che một nửa trong chiếc áo khoác dài của Valentine. Một bàn tay nhô ra từ dưới viền vải; đầu móng tay là những móng vuốt. “Alaric...?”

“Chết rồi,” chú Luke nói. Giọng nói của chú chất chứa vô vàn nỗi đau thương được kìm nén; dù chú không biết Alaric nhiều, Clary biết cảm giác tội lỗi sẽ đè nặng lên chú mãi mãi. Và đây là cách anh đáp trả sự trung thành không đòi hỏi mà anh đã mua bằng cái giá quá rẻ mạt sao, Lucian. Để chúng chết thay anh.

“Bố cháu chạy mất rồi,” Jace nói. “Cùng chiếc Cốc.” Giọng anh nghe buồn buồn. “Chúng ta đã đưa nó tới thẳng cho ông ta. Cháu đã thất bại.”

Chú Luke đặt một tay lên đầu Jace, phủi lớp bụi gương dính trên tóc anh. Những móng vuốt vẫn đang phô ra, những ngón tay chú dính máu, nhưng Jace chịu đựng cái vuốt ve của chú như thể anh chẳng quan tâm, và cũng chẳng nói gì. “Đó không phải lỗi của cháu,” chú Luke nói và nhìn xuống Clary. Đôi mắt xanh của chú rất kiên định. Chúng nói: Anh cháu cần cháu; hãy ở lại cùng thằng bé đi.

Cô gật đầu, chú Luke bỏ họ lại đó mà đi tới bên cửa sổ. Chú mở toang cửa sổ, để cho những luồng gió ùa vào phòng làm lung lay ánh nến. Clary có thể nghe chú hét lên, gọi những con sói bên dưới.

Cô quỳ xuống cạnh Jace. “Ổn rồi mà,” cô ngắc ngứ nói, dù rõ ràng chuyện chẳng ổn chút nào, và có lẽ sẽ chẳng bao giờ ổn, rồi cô đặt tay lên vai anh. Lớp vải áo anh nham nhám dưới đầu ngón tay cô, ướt mồ hôi, và dễ chịu kỳ lạ. “Chúng ta có mẹ. Chúng ta có anh. Chúng ta có mọi thứ quan trọng.”

“Ông ấy nói đúng. Đó là lý do anh không thể chui qua Cổng Dịch Chuyển,” Jace thì thào. “Anh không thể làm được. Anh không thể giết chết ông ta.”

“Anh mà thất bại thì chỉ có một cách,” cô nói, “đó là nếu đã thực sự thất bại.”

Anh không nói gì, chỉ thì thào gì đó. Cô không nghe ra, nhưng cô vẫn vươn tay và cầm lấy mảnh gương trên tay anh. Anh đang chảy máu nơi tay cầm gương, từ hai vết cắt sâu và một vết nông. Cô bỏ mảnh gương xuống và cầm tay anh, khép những ngón tay anh lên lòng bàn tay bị thương. “Thật chứ Jace,” cô nói, dịu dàng như cô đang chạm vào anh, “anh không biết là không được chơi với mảnh kính vỡ à?”

Anh phát ra tiếng kêu nghe như tiếng cười bị nghẹn trước khi vươn tay ra mà ôm lấy cô. Cô biết chú Luke đang quan sát họ từ cửa sổ, nhưng cô vẫn cương quyết nhắm mắt và chôn mặt vào Jace. Anh có mùi của muối và máu, và chỉ khi miệng anh áp gần tai cô, cô mới hiểu ra anh đang nói gì, rằng lúc trước anh thì thầm điều gì, và đó là một chuỗi từ đơn giản nhất trần đời: tên cô, chỉ có tên cô mà thôi.

Phần kết

ĐAU THƯƠNG ĐẾN VỚI NHỮNG ĐỨA CON

Hành lang bệnh viện trắng lóa cả mắt. Sau quá nhiều ngày sống dưới ánh đuốc, ánh đèn khí gas và ánh sáng mờ mờ ảo ảo của ngọn đèn phù thủy, ánh đèn huỳnh quang khiến mọi thứ tái nhách và không tự nhiên. Khi Clary ký tên ở bàn trước, cô nhận ra người y tá đưa cho cô bìa kẹp hồ sơ mang nước da trông vàng vọt kỳ lạ dưới ánh đèn tuýp. Có thể cô ta là quỷ, Clary nghĩ và giao trả tập hồ sơ. “Cửa cuối cùng ở cuối hành lang,” y tá nói và cười hiền hậu. Hoặc chắc mình điên rồi.

“Cháu biết,” Clary nói. “Hôm qua cháu tới đây rồi mà.” Và ngày hôm kia, và hôm kia nữa. Mới đầu buổi hôm và hành lang không hề đông chút nào. Một ông lão đi từng bước chậm chạp trên đôi dép lê và mặc áo choàng, kéo theo một bình ôxy di động đằng sau. Hai bác sĩ mặc bộ đồ phẫu thuật màu xanh đang cầm hai cốc xốp cà phê, hơi nước bốc lên trong không khí lạnh lẽo. Bệnh viện bật điều hòa có phần quá lạnh, dù ngoài trời không khí cuối cùng cũng chịu chuyển sang thu.

Clary tìm thấy cánh cửa ở cuối hành lang. Cửa đã mở. Cô nheo mắt nhìn vào trong, không muốn đánh thức chú Luke nếu chú đang ngủ trên chiếc ghế cạnh giường, như trong hai lần trước cô tới. Nhưng chú đang thức và nói chuyện cùng một người đàn ông cao ráo mặc áo choàng màu da dê của hội Tu Huynh Câm. Anh ta quay lại, như cảm nhận được Clary vừa tới, và cô thấy đó là Tu Huynh Jeremiah.

Cô khoanh tay trước ngực. “Có chuyện gì vậy ạ?”

Chú Luke có vẻ kiệt sức, bộ râu lờm xờm ba ngày chưa cạo, cặp kính kéo lên đỉnh đầu. Cô có thể thấy lớp gạc vẫn quấn quanh ngực bên dưới lớp áo sơ mi vải flannel rộng thùng thình. “Tu Huynh Jeremiah đang định về,” chú nói.

Kéo mũ lên, Jeremiah đi về phía cửa, nhưng Clary đã chặn lại. “Sao đây?” cô thách thức anh ta. “Anh sẽ giúp mẹ tôi chứ?”

Jeremiah tới gần cô hơn. Cô cảm nhận được khí lạnh tỏa ra từ cơ thể người tu huynh, như khói bốc ra từ băng. Em không thể cứu người khác trước khi cứu được bản thân mình, giọng nói vang lên trong đầu cô.

“Trò bánh quy-tiên tri đã cũ lắm rồi,” Clary nói. “Mẹ em làm sao thế? Anh có biết không? Liệu Tu Huynh Câm có giúp được mẹ như đã từng giúp Alec không?”

Chúng tôi chẳng giúp ai cả, Jeremiah nói. Mà chúng tôi cũng không có nhiệm vụ phải giúp những kẻ đã ly khai khỏi Clave.

Cô lùi lại nhường đường cho Jeremiah bước vào hành lang. Cô quan sát anh ta bỏ đi, hòa mình vào đám đông, không ai thèm liếc nhìn anh ta tới lần thứ hai. Khi nhắm hờ mắt, cô thấy sự rung động do ảo ảnh bao quanh anh ta và tự hỏi những người khác đang thấy gì: một bệnh nhân? Một bác sĩ trong bộ đồ mổ đang hớt hải đi lại? Một người thân buồn bã tới thăm người nhà?

“Anh ta nói thật đấy,” chú Luke nói từ sau cô. “Anh ta không cứu Alec; mà là Magnus Bane. Và anh ta không biết chuyện gì không ổn với mẹ cháu nữa.”

“Cháu biết,” Clary nói và trở lại phòng. Cô mệt mỏi tới bên giường. Thật khó để liên kết với dáng người nhỏ bé trắng bệch đang nằm trên giường, bị cuốn trong một mê cung những đường ống, với người mẹ tóc đỏ rực như lửa tràn đầy sức sống của cô. Tất nhiên, tóc mẹ cô vẫn đỏ, xổ tung trên gối như một chiếc khăn choàng đầu dệt bằng những sợi chỉ màu đỏ đồng, nhưng nước da của mẹ quá trắng khiến Clary liên tưởng tới bức tượng sáp Nàng Công Chúa Ngủ Trong Rừng tại bảo tàng người sáp Madame Tussauds, có phần ngực nhấp nhô nhờ một bộ máy đồng hồ.

Cô nắm lấy bàn tay gầy guộc của mẹ, như mình đã làm vào ngày hôm qua và hôm kia. Cô có thể cảm nhận nhịp mạch đập trên cổ tay Jocelyn, chậm rãi và ổn định. Mẹ muốn dậy, Clary nghĩ. Mình biết mẹ muốn mà.

“Tất nhiên mẹ cháu muốn rồi,” chú Luke nói và Clary nhận ra rằng cô vừa nói lớn. “Mẹ cháu có nhiều thứ để khỏe lại lắm, nhiều thứ hơn mẹ cháu có thể biết.”

Clary nhẹ nhàng đặt tay mẹ xuống giường. “Chú đang nói tới Jace.”

“Tất nhiên là chú nói tới Jace rồi,” chú Luke nói. “Mẹ cháu đã khóc thương anh trai cháu suốt mười bảy năm. Nếu chú có thể nói với mẹ cháu rằng mẹ cháu không cần khóc nữa...” chú ngừng nói.

“Người ta nói, đôi lúc những người trong cơn hôn mê vẫn nghe thấy chú nói,” Clary gợi ý. Tất nhiên bác sĩ cũng nói đây không phải một ca hôn mê thông thường - không bị thương, không bị thiếu hụt ôxy, không có sự ngừng hoạt động đột ngột của tim hay não. Chỉ như là mẹ đơn giản chìm vào giấc ngủ và không thể nào được đánh thức nổi.

“Chú biết,” chú Luke nói. “Chú đã nói chuyện với mẹ cháu. Gần như không ngừng.” Chú cười mệt mỏi. “Chú nói với mẹ cháu rằng cháu đã dũng cảm thế nào. Rằng mẹ cháu sẽ tự hào về cháu ra sao. Đứa con gái chiến binh của mẹ.”

Có gì đó sắc nhọn và đau đớn trồi lên trong cổ họng cô. Cô nuốt nó xuống, nhìn ra ngoài ô cửa sổ. Qua đó cô thấy bức tường gạch đơn điệu của tòa nhà đối diện. Chẳng có quang cảnh tuyệt đẹp của những rặng cây hay dòng sông nào ở đây. “Cháu đã đi mua đồ chú bảo,” cô nói. “Cháu mua bơ đậu phộng, sữa, bột ngũ cốc và bánh mỳ từ tiệm Fortunato Brothers.” Cô nhét tay vào túi quần. “Cháu còn tiền lẻ...”

“Giữ đi,” chú Luke nói. “Cháu có thể dùng tiền này đi taxi về nhà.”

“Simon sẽ chở cháu về,” Clary nói. Cô quan sát chiếc đồng hồ hình con bướm treo lủng lẳng trên dây đeo chìa khóa. “Thật ra, giờ có lẽ cậu ấy đã ở dưới nhà rồi.”

“Tốt, chú mừng vì cháu có thời gian chơi với bạn.” Chú Luke có vẻ yên tâm hơn. “Mà cứ giữ tiền đi. Tối nay gọi đồ ăn về nhà.”

Cô mở miệng định cãi, rồi ngậm miệng lại. Chú Luke, như mẹ cô thường nói, là một tảng đá vào những lúc rắc rối - vững chãi, đáng tin cậy, và hoàn toàn không thể bị lay chuyển. “Mà chú nhớ về nhà nhé? Chú cũng cần phải ngủ đấy.”

“Ngủ? Ai cần ngủ chứ?” chú đùa, nhưng cô thấy sự mệt mỏi hằn in trên khuôn mặt chú khi chú ngồi xuống cạnh giường mẹ. Chú nhẹ nhàng gạt lọn tóc khỏi gương mặt mẹ Jocelyn. Clary quay người đi, đôi mắt cay cay.

Chiếc xe van của Eric đang chạy không bên vệ đường vào lúc cô bước ra ngoài lối ra của bệnh viện. Vòm trời cao cao phía trên, giống chiếc chén sứ xanh hoàn hảo, mang sắc màu đá ngọc bích sẫm hơn ở phía trên dòng sông Hudson, nơi mặt trời đang từ từ lặn xuống. Simon nhoài người sang giúp cô mở cửa xe và cô lồm cồm ngồi vào ghế bên cạnh bạn. “Cám ơn.”

“Đi đâu nào? Về nhà nhé?” cậu hỏi, lái xe hòa vào dòng giao thông của Đại Lộ số Một.

Clary thở dài. “Tớ còn chẳng biết đâu là nhà nữa.”

Simon liếc xéo sang cô. “Cảm thấy thương tiếc cho mình hả, Fray?” Giọng cậu đang chế giễu, nhưng nhẹ nhàng. Nếu cô nhìn ra sau cậu, cô vẫn có thể thấy những vết ố đen trên ghế sau nơi Alec đã nằm, chảy máu, trong lòng Isabelle.

“Ừ. Không. Mình không biết nữa.” Cô lại thở dài, vén gọn một lọn tóc xoăn xoăn. “Mọi thứ đều thay đổi. Mọi thứ đều đã khác. Đôi lúc mình ước mọi chuyện sẽ trở về như trước kia.”

“Mình thì không,” Simon nói, làm cô ngạc nhiên. “Chúng ta đi đâu đây? Ít nhất nói cho mình biết là lên khu nội ô hay ngoại ô đi.”

“Tới Học Viện,” Clary nói. “Xin lỗi,” cô nói thêm, khi cậu đánh tay lái làm một vòng quay đầu xe tuyệt đối là phạm luật giao thông. Chiếc xe van, quay trên hai bánh, rít lên phản đối. “Đáng ra mình nên nói với cậu trước.”

“Hừ,” Simon nói. “Cậu vẫn chưa trở lại đó đúng không? Kể từ khi...”

“Ừ, không phải từ hồi đó,” Clary nói. “Jace gọi cho mình và nói rằng Alec và Isabelle đã ổn. Có vẻ là bố mẹ họ đang tức tốc trở về từ Idris, giờ rốt cuộc có người đã thực sự nói cho họ biết chuyện. Họ sẽ về đây trong khoảng một hai ngày tới.”

“Nghe tin từ Jace có kỳ lạ không?” Simon hỏi, giọng vẫn bình thường. “Ý mình là, từ khi cậu biết...”

Cậu không nói nữa.

“Ừ?” Clary nói, giọng bắt đầu hơi cao lên. “Từ khi mình biết gì nào? Rằng anh ấy là đồ biến thái giết người thích quấy rối mèo à?”

“Thế nào mà con mèo của anh ta ghét tất cả mọi người.”

“Ôi, im đi Simon,” Clary bực dọc. “Mình biết ý cậu, và không, chẳng kỳ gì hết. Dù sao cũng đã chẳng có gì xảy ra giữa bọn mình cả.”

“Không có gì ư?” Simon nhại lại, cực kỳ không tin.

“Không có gì,” Clary quả quyết, liếc nhìn ra ngoài cửa sổ để cậu không thấy máu đang chạy rần rần lên hai má cô. Họ đang đi qua một dãy nhà hàng và cô có thể thấy quán Taki’s sáng rực rỡ dưới ánh hoàng hôn đang tụ lại.

Họ quành qua góc đường vừa khi mặt trời vừa biến mất sau ô cửa sổ hình hoa hồng của Học Viện, đổ xuống con đường phía dưới tạo thành những tia nắng hình vỏ sò mà họ chỉ mới nhìn thấy. Simon đỗ xe trước cửa và tắt máy, nghịch chìa khóa trên tay. “Cậu muốn mình lên cùng không?”

Cô lưỡng lự. “Không. Mình nên làm việc này một mình.”

Cô thấy sự thất vọng thoáng qua mặt Simon, nhưng biến mất rất nhanh. Simon, cô nghĩ, đã trưởng thành rất nhiều sau hai tuần qua, cũng như cô vậy. Dù sao đó cũng là điều tốt, vì cô hẳn sẽ không muốn bỏ cậu lại sau. Cậu là một phần của cô, cũng như khả năng hội họa của cô, bầu không khí bụi bặm của Brooklyn, tiếng cười của mẹ và dòng máu Thợ Săn Bóng Tối của chình cô vậy. “Được rồi,” cậu nói. “Chút nữa cậu có cần mình đưa về không?”

Cô lắc đầu. “Chú Luke cho mình tiền đi taxi. Mà mai cậu có muốn sang nhà mình không?” cô hỏi thêm. “Chúng mình có thể xem vài tập Trigun, làm ít bỏng ngô. Mình thích nằm xem phim ở nhà.”

Cậu gật đầu. “Nghe hay đấy!” Cậu nhoài người tới, hôn phớt nhẹ lên má cô. Đó là một nụ hôn nhẹ như lá vàng rơi, nhưng cô cảm thấy cơn rùng mình chấn động đến tận xương. Cô nhìn bạn.

“Cậu có nghĩ đó là một sự trùng hợp không?”

“Mình có nghĩ cái gì là trùng hợp cơ?”

“Rằng chúng ta tới Xứ Quỷ vào đúng cái đêm tình cờ Jace cùng những người khác tới đó đi săn một con quỷ ấy? Cái đêm trước khi Valentine tới bắt mẹ mình ấy?”

Simon lắc đầu. “Mình không tin vào những sự trùng hợp,” cậu nói.

“Mình cũng vậy.”

“Nhưng mình phải thừa nhận,” Simon nói thêm, “dù trùng hợp hay không, nó cũng trở thành sự cố ngẫu nhiên.”

“Sự Cố Ngẫu Nhiên,” Clary nói. “Giờ đó là tên ban nhạc cậu đấy.”

“Nghe hay hơn hầu hết những cái tên bọn mình nghĩ ra,” Simon thừa nhận.

“Còn gì nữa.” Cô nhảy khỏi xe, đóng sập cửa lại. Cô nghe thấy cậu bấm còi khi cô chạy lên lối đi dẫn đến cửa giữa những phiến cỏ mọc quá dày, thế là cô vẫy tay không buồn nhìn lại.

Bên trong nhà thờ lạnh và tối, có mùi của mưa và giấy ẩm mốc. Tiếng bước chân cô vang vọng trên nền đá, làm cô nghĩ tới Jace trong nhà thờ ở Brooklyn: Có thể có Chúa đó, Clary, mà cũng có thể không. Dù thế nào, chúng ta vẫn chỉ có một mình.

Trong thang máy cô lén nhìn mình trong gương khi cánh cửa lanh canh đóng lại. Hầu hết các vết bầm và vết cào xước đã lành lặn không để lại vết tích. Cô tự hỏi liệu Jace đã từng thấy cô nghiêm nghị như hôm nay chưa - cô mặc đồ để vào bệnh viện, váy đen xếp li, đánh son bóng hồng và chiếc áo sơ mi cổ thủy thủ theo phong cách cổ điển. Cô nghĩ trông mình như thể đứa bé tám tuổi vậy.

Nhưng anh thấy cô thế nào thì có sao đâu, cô tự nhủ, dù là bây giờ hay mãi mãi sau này. Cô tự hỏi liệu họ có bao giờ giống như Simon và cô em gái không: một sự hòa trộn giữa chán nhau tới tận cổ và giận nhưng thương yêu nhau. Cô không tưởng tượng ra được.

Cô nghe tiếng meo meo lớn trước khi cánh cửa kịp mở. “Này Church,” cô nói, và quỳ xuống bên quả bóng xám đang lượn lờ trên sàn. “Mọi người đâu rồi?”

Church, rõ ràng là muốn được gãi bụng, kêu ỉ ôi. Clary thở dài chịu thua. “Đồ mèo điên,” cô nói, gãi nhiệt tình. “Mọi người...”

“Clary!” Là Isabelle, lả lướt trong hành lang trong chiếc váy dài màu đỏ, mái tóc được ghim cao bằng những chiếc kẹp gắn đá. “Thật mừng được gặp lại cậu!”

Cô nhào xuống ôm lấy Clary khiến cô sém mất thăng bằng.

“Isabelle,” Clary há hốc miệng. “Mình cũng mừng được gặp lại cậu,” cô nói thêm, để Isabelle kéo cô đứng thẳng.

“Mình rất lo cho cậu,” Isabelle vui vẻ nói. “Sau khi các cậu tới thư viện với bác Hodge, mình ở lại với Alec, mình nghe một tiếng nổ lớn và mình tới thư viện, tất nhiên các cậu đã biến mất và mọi thứ vung vãi trên sàn nhà. Và có máu cùng những vệt đen nhớp nháp phủ lên mọi thứ.” Cô nàng rùng mình. “Mà cái đó là cái gì?”

“Một lời nguyền,” Clary nói lí nhí. “Lời nguyền của bác Hodge.”

“À, đúng rồi,” Isabelle nói. “Jace đã nói với mình về bác Hodge.”

“Có sao?” Clary ngạc nhiên.

“Rằng bác ấy được giải lời nguyền và bỏ đi? Ờ, có. Mình cứ nghĩ lẽ ra bác ấy sẽ nán lại để tạm biệt bọn mình cơ,” Isabelle nói thêm, “mình hơi bị thất vọng vì bác ấy. Nhưng mình đoán là bác ấy sợ hội Clave. Mình cá bác ấy sẽ sớm liên lạc với bọn mình thôi.”

Vậy là Jace không nói cho họ biết bác Hodge đã phản bội, Clary nghĩ, không biết mình cảm nhận thế nào nữa. Nhưng rồi, nếu Jace đang cố tránh cho Isabelle khỏi bối rối và thất vọng, thế thì có lẽ cô không nên can dự vào.

“Mà này,” Isabelle nói thêm, “chuyện thật tệ, mà mình chẳng biết làm thế nào nếu Magnus không xuất hiện và phù phép cho Alec khỏe lại. Phải từ đó không, ‘phù phép’ ấy?” Cô nhíu mày. “Jace nói với bọn này về mọi chuyện xảy ra trên đảo. Thực ra mình còn biết trước đó kia, vì Magnus cả đêm cứ ôm điện thoại. Mọi người trong Thế Giới Ngầm đều xôn xao hết cả. Cậu biết không, giờ cậu nổi tiếng rồi đó.”

“Mình á?”

“Ừ. Con gái của Valentine.”

Clary rùng mình. “Vậy thì mình đoán Jace cũng thành người nổi tiếng nữa.”

“Cả hai người đều nổi tiếng,” Isabelle vẫn nói bằng cái giọng vui vẻ như cũ. “Cặp anh em nổi tiếng.”

Clary nhìn Isabelle một cách tò mò. “Mình không nghĩ rằng cậu sẽ mừng theo kiểu này khi nhìn thấy mình, mình phải thừa nhận.”

Cô gái kia căm phẫn chống tay lên hông. “Sao lại không?”

“Mình không nghĩ cậu thích mình tới mức đó.”

Sự tươi sáng của Isabelle nhạt dần và cô nhìn xuống những móng chân sơn nhũ bạc. “Mình cũng không nghĩ là mình thích cậu đâu,” cô nàng thừa nhận. “Nhưng khi mình đi tìm cậu và Jace, các cậu đã biến mất...” Giọng cô nàng lạc đi. “Mình không chỉ lo lắng cho anh ấy; mình còn lo cho cậu nữa. Ở cậu có gì đó rất... an ủi. Và Jace tốt tính hơn nhiều khi có cậu bên cạnh.”

Đôi mắt cô mở to. “Thật á?”

“Đúng là thế mà. Ít cáu giận hơn. Cũng không phải anh ấy tốt bụng hơn gì, nhưng ít nhất anh ấy cho cậu thấy sự tốt bụng trong con người anh ấy.” Cô ngừng lại. “Và mình đoán là mình lúc đầu chẳng hề ưa cậu, nhưng giờ mình thấy trò ấy ngốc quá. Chỉ vì mình chưa hề có một cô bạn gái bao giờ không có nghĩa là mình không thể học cách có một người.”

“Thực ra mình cũng vậy,” Clary nói. “Mà Isabelle này?”

“Ừ?”

“Cậu không cần giả bộ tốt đâu. Mình thích khi cậu là chính cậu hơn.”

“Đỏng đảnh như con quỷ cái ấy à?” Isabelle nói và cười to.

Clary định cự lại khi Alec xuất hiện trong hành lang với hai cây nạng. Một chân của anh được băng bó, ống quần bò xắn tới đầu gối và có vết băng khác trên thái dương, dưới mái tóc đen. Còn lại anh trông vẫn khỏe mạnh so với một người suýt chết bốn ngày trước. Anh vẫy một cây nạng để chào.

“Chào,” Clary nói, ngạc nhiên khi anh đã xuống giường đi lại. “Anh có...”

“Khỏe không hả? Khỏe,” Alec nói. “Thậm chí anh không cần cả những thứ này sau vài ngày nữa.”

Cảm giác tội lỗi dâng đầy lên cổ cô. Nếu không phải vì cô, Alec sẽ không hề phải chống nạng. “Em thực sự mừng vì thấy anh vẫn ổn, Alec ạ,” cô nói, đặt mọi phân lượng của sự thành tâm trong giọng nói.

Alec chớp mắt. “Cám ơn.”

“Vậy là Magnus chữa trị cho anh sao?” Clary hỏi. “Chú Luke nói...”

“Đúng đó!” Isabelle reo lên. “Quá là tuyệt luôn. Ông ta xuất hiện và bắt mọi người ra khỏi phòng rồi đóng cửa lại. Những tia lửa màu xanh màu đỏ cứ bay ra ngoài hành lang qua kẽ cửa.”

“Anh chẳng nhớ gì hết,” Alec nói.

“Sau đó ông ta ngồi bên giường Alec cả đêm và tới sáng để xem anh mình có tỉnh dậy không,” Isabelle nói thêm.

“Anh cũng chẳng nhớ chuyện đó,” Alec vội nói vào.

Đôi môi đỏ của Isabelle cong lên thành một nụ cười. “Mình tự hỏi sao Magnus biết mà tới? Mình có hỏi, nhưng ông ta không nói.”

Clary nghĩ tờ giấy gấp gọn mà bác Hodge đã ném vào lò lửa sau khi Valentine bỏ đi. Cô nghĩ, bác là một người lạ lùng, đã dùng thời gian để làm mọi cách cứu Alec trong khi lại phản bội mọi người - và mọi thứ - bác từng quan tâm tới. “Mình không biết nữa,” cô nói.

Isabelle nhún vai. “Mình đoán là ông ta nghe tin từ đâu đó. Ông này có vẻ có một mạng lưới tin vịt lớn đó. Thiệt đúng là đồ đàn bà.”

“Ông ta là Đại Pháp Sư Brooklyn mà, Isabelle,” Alec nhắc nhở, nhưng không phải là không buồn cười. Anh ta quay sang Clary. “Jace đang ở trên nhà kính nếu em muốn gặp,” anh nói. “Anh sẽ đi cùng em.”

“Thật ạ?”

“Ừ.” Alec trông chỉ hơi không thoải mái. “Sao lại không chứ?”

Clary liếc nhìn Isabelle, người cũng nhún vai. Dù Alec định làm gì, anh cũng không nói cho cô em gái biết. “Đi đi,” Isabelle nói. “Dù gì thì mình cũng có việc phải làm.” Cô nàng vẫy tay với họ. “Đi đi.”

Họ cùng nhau bước trên hành lang. Alec đi nhanh, kể cả khi chống nạng. Clary phải rảo bước mới theo kịp. “Chân em ngắn lắm đấy,” cô nhắc anh nhớ.

“Xin lỗi.” Anh đi chậm lại, có vẻ hối lỗi. “Nghe này,” anh bắt đầu. “Những điều em nói với anh khi anh hét với em về Jace...”

“Em nhớ,” cô lí nhí nói.

“Khi em nói với anh rằng em, em biết đấy, rằng anh chỉ là - đó là vì...” Hình như anh ta đang gặp vấn đề trong việc ráp câu hoàn chỉnh. Anh cố nói lại. “Khi em nói anh là...”

“Alec, đừng.”

“Ừ. Thôi vậy.” Anh mím môi lại. “Em không muốn nói về chuyện đó.”

“Không phải thế. Chỉ là em thấy tệ vì những điều em nói. Thật tệ hại. Không hề đúng chút nào...”

“Nhưng mà đúng đó,” Alec nói. “Mọi từ.”

“Như thế cũng không được,” cô nói. “Không phải sự thật nào cũng nên được nói ra. Như vậy thì phũ phàng quá. Và khi em nói Jace đã bảo với em rằng anh chưa từng giết một con quỷ, anh ấy nói lý do là vì anh luôn bảo vệ anh ấy và Isabelle. Đó là một điều tốt anh ấy nói về anh. Jace có thể là một tay đểu đấy, nhưng anh ấy...” Yêu anh, cô muốn nói vậy, nhưng ngừng lại. “Chưa bao giờ nói một điều xấu nào về anh với em cả. Em thề.”

“Em không cần phải thế,” anh nói. “Anh cũng thừa biết.” Anh có vẻ bình tĩnh, thậm chí là tự tin theo cách cô chưa từng nghe thấy ở anh. Cô nhìn anh, ngạc nhiên. “Anh cũng biết anh không hề giết Abbadon. Nhưng anh rất cảm kích vì em đã nói với anh điều đó.”

Cô cười rung người. “Anh đánh giá cao em vì em đã nói dối anh?”

“Em làm vì lòng tốt,” anh nói. “Điều đó có ý nghĩa rất nhiều, rằng em tốt với anh, thậm chí sau những việc anh đã đối xử với em.”

“Em nghĩ Jace sẽ rất giận em vì nói dối nếu như lúc đó anh ấy không đang lo quắn lên,” Clary nói. “Nhưng mà sẽ không giận bằng nếu biết điều em đã nói với anh lúc trước.”

“Anh có ý này,” Alec nói, khóe môi hơi nhếch lên. “Chúng ta đừng nói gì với Jace đi. Ý anh là, có thể Jace có thể chặt đầu quỷ Du’sien từ khoảng cách mười lăm mét chỉ bằng một cái mở chai và dây cao su đấy, nhưng đôi lúc anh nghĩ cậu ta không hiểu nhiều về con người đâu.”

“Em cũng nghĩ vậy.” Clary nói.

Họ tới chân cầu thang xoắn ốc dẫn lên mái nhà. “Anh không thể đi lên.” Alec gõ cái nạng vào bậc thang bằng kim loại. Nó phát ra những âm thanh khe khẽ.

“Cũng được. Em tự lên được.”

Anh định quay đi, sau đó quay lại nhìn. “Anh phải đoán ra em là em gái Jace chứ nhỉ,” anh nói. “Cả hai cùng có một tài năng hội họa.”

Clary ngưng lại, chân đang đặt lên bậc thang thấp nhất. Cô giật mình. “Jace biết vẽ à?”

“Không hề.” Khi Alec cười, đôi mắt anh sáng lên ngọn đèn xanh, và Clary hiểu vì sao Magnus lại bị anh thu hút đến vậy. “Anh đùa đấy. Cậu ta còn chẳng vẽ nỗi một đường kẻ nữa là.” Cười khúc khích, anh ta bỏ đi trên cây nạng. Clary ngơ ngác nhìn anh ta đi. Một Alec biết trêu đùa tếu táo về Jace là điều cô có thể quen được, dù khiếu đùa của anh ta có chút vấn đề.

Nhà kính vẫn hệt như cô hằng nhớ, dù bầu trời trên mái nhà bằng kính đã chuyển màu xanh lục bảo. Mùi hương hoa trong lành, thơm thoang thoảng làm thanh tỉnh đầu óc cô. Hít một hơi thật sâu, cô đi qua những chiếc lá và nhánh cây đan xin xít.

Cô thấy Jace đang ngồi trên chiếc ghế băng bằng đá cẩm thạch ở giữa nhà kính. Anh cúi đầu, hờ hững xoay vật gì đó trong tay. Anh ngước lên khi cô chui qua một cành cây và vội nắm tay quanh vật đó. “Clary.” Anh có vẻ bất ngờ. “Em làm gì ở đây vậy?”

“Tới thăm anh,” cô nói. “Em muốn biết anh thế nào rồi?”

“Anh ổn.” Anh đang mặc quần bò và áo phông trắng. Cô có thể thấy những vết thâm đang mờ dần, giống như những đốm tối màu trên ruột táo trắng. Tất nhiên, cô nghĩ, những vết thương thật sự nằm bên trong, được che giấu khỏi mắt bao người, trừ của chính anh.

“Cái gì đó?” cô hỏi, chỉ vào bàn tay đang nắm lại của anh.

Anh mở tay. Một mảnh kính vỡ nằm trong lòng bàn tay anh, rìa lấp lánh ánh xanh da trời và xanh lá cây. “Một mảnh kính Cổng Dịch Chuyển.”

Cô ngồi xuống cạnh anh. “Anh có thấy gì trong đó không?”

Anh hơi nghiêng, cho ánh sáng chạy trên đó như trên nước. “Một mảnh trời. Cây, một con đường mòn... anh cứ xoay nó, cố nhìn thấy ngôi nhà đá. Nhìn thấy bố anh.”

“Valentine,” cô sửa lại. “Vì sao anh muốn thấy ông ta?”

“Anh nghĩ có thể anh sẽ thấy ông ta làm gì với Cốc Thánh,” anh ngần ngừ đáp. “Thấy nó ở đâu.”

“Jace, đó không phải là trách nhiệm của chúng ta nữa. Không phải vấn đề của chúng ta. Giờ khi hội Clave cuối cùng cũng biết chuyện gì xảy ra, nhà Lightwood đang vội vã trở về. Hãy để họ giải quyết.”

Lúc này anh mới thực sự nhìn cô. Cô tự hỏi rằng sao họ có thể là anh em trong khi họ chẳng giống nhau chút nào. Ít nhất, sao cô không có những hàng lông mi đen cong hay xương gò má góc cạnh kia chứ nhỉ? Chẳng công bằng chút nào. Anh nói. “Khi anh nhìn qua Cổng Dịch Chuyển và thấy Idris, anh biết chính xác Valentine định làm gì, rằng hắn muốn biết anh có thực sự bị ngã quỵ không. Mà có quan trọng đâu - anh vẫn muốn về nhà hơn anh hằng tưởng.”

Cô lắc đầu. “Em không hiểu Idris có gì hay. Nó chỉ là một nơi thôi mà. Cái cách anh và bác Hodge nói về nó...” Cô ngừng lại.

Anh lại nắm lấy cái mảnh gương kia. “Ở đó anh thấy hạnh phúc. Chỉ có một nơi anh có được sự hạnh phúc như thế.”

Clary giật một cuống lá ở bụi cây gần đó và bắt đầu dứt lá. “Anh thấy tiếc cho bác Hodge. Vì thế anh không kể cho Alec và Isabelle chuyện thực sự xảy ra.”

Anh nhún vai.

“Rồi họ cũng sẽ biết thôi.”

“Anh biết. Nhưng anh sẽ không phải người nói ra.”

“Jace...” Mặt hồ xanh rì với những chiếc lá rơi xuống. “Sao anh có thể hạnh phúc ở đó? Em biết anh nghĩ gì, nhưng Valentine là một ông bố tồi. Ông ấy giết chết thú cưng của anh, nói dối anh, và em biết ông ta còn đánh anh - đừng giả bộ ông ta không làm đi.”

Một nụ cười ma mị hiện trên gương mặt Jace. “Chỉ hai ngày Thứ năm một lần.”

“Vậy sao anh...”

“Đó là thời gian duy nhất anh cảm nhận được mình là ai. Là nơi anh thuộc về. Nghe có vẻ ngu ngốc nhưng...” Anh nhún vai. “Anh giết quỷ vì đó là việc anh giỏi và anh được dạy để làm, nhưng không phải con người anh. Và một phần anh giỏi việc đó chỉ vì sau khi anh nghĩ bố anh chết, anh đã - tự do. Không chịu hậu quả. Không ai để thương khóc. Chẳng ai quan trọng với anh mà chỉ là một người đi qua đời anh.” Khuôn mặt anh có vẻ như được tạc từ vật cứng. “Anh không còn nhiều cảm xúc như xưa nữa.”

Giờ nhánh cây kia đã trụi lùi lá; Clary vứt nó sang bên. “Vì sao không?”

“Vì em.” Anh nói. “Nếu không vì em, anh đã đi theo ông ta qua Cổng Dịch Chuyển. Nếu không vì em, anh đã đuổi theo ông ấy ngay bây giờ.”

Clary nhìn xuống cái hồ đầy những lá. Cổ họng cô nghẹn đắng. “Em tưởng em làm anh thấy bất an.”

“Đã quá lâu,” anh nói, “anh cứ nghĩ anh bất an vì có cảm giác anh chẳng thuộc về đâu. Nhưng em làm anh có cảm giác anh thuộc về.”

“Em muốn anh đi tới một nơi cùng em,” cô ngắt lời.

Anh liếc nhìn cô. Có gì đó trong cái cách mái tóc vàng nhạt rơi xuống mắt anh làm cô thấy buồn không chịu nổi. “Tới đâu?”

“Em mong anh tới bệnh viện cùng em.”

“Anh biết mà.” Đôi mắt anh nheo lại tới khi trông như viền đồng xu. “Clary, người phụ nữ đó...”

“Cũng là mẹ anh, Jace à.”

“Anh biết,” anh nói. “Nhưng anh với bà ta chỉ là một người xa lạ. Anh chỉ có một người bố và giờ ông ta đã đi mất. Còn tệ hơn cả chết.”

“Em biết. Và em biết dù có nói với anh mẹ tuyệt thế nào, rằng mẹ anh là một người phụ nữ tuyệt vời, xinh đẹp và cao quý thế nào và anh may mắn thé nào khi biết mẹ cũng chẳng ăn thua gì. Em không yêu cầu điều này vì anh, mà là vì em. Em nghĩ nếu mẹ nghe thấy giọng anh...”

“Thì sao?”

“Biết đâu mẹ sẽ tỉnh dậy.” Cô kiên định nhìn anh.

Anh nhìn thẳng vào mắt cô, rồi mỉm cười - một nụ cười chua xót và có chút méo mó, nhưng là một nụ cười thực sự. “Được. Anh sẽ đi cùng em.” Anh đứng dậy. “Em không cần phải nói với anh những điều hay ho về mẹ em,” anh nói thêm. “Anh đã biết rồi.”

“Thật sao?”

Anh hơi nhún vai. “Mẹ đã nuôi dạy em đúng không?” anh nhìn lên mái nhà kính. “Mặt trời sắp lặn rồi.”

Clary đứng dậy. “Chúng ta nên tới bệnh viện. Em sẽ trả tiền xe,” cô nói thêm, sau một thoáng suy nghĩ. “Chú Luke cho em ít tiền.”

“Không cần thiết đâu.” Nụ cười của Jace rộng hơn. “Đi nào. Anh có cái này cho em xem.”

“Nhưng mà anh lấy nó ở đâu đấy?” Clary hỏi, nhìn vào chiếc mô tô đậu trên nóc nhà thờ. Xe màu xanh lá cây độc địa sáng loáng, với bánh xe viền bạc và những ngọn lửa rừng rực sơn trên yên xe.

“Magnus đang phàn nàn rằng có người bỏ nó ngoài nhà lần trước khi ông ta mở tiệc,” Jace nói. “Anh thuyết phục ông ta đưa nó cho anh.”

“Và anh bay tới đây?” Cô vẫn nhìn anh chằm chặp.

“Ờ hớ. Anh càng lúc bay càng lụa.” Anh vắt một chân qua yên xe, và vẫy tay cho cô ngồi sau anh. “Nào. Anh sẽ cho em xem.”

“À, ít nhất là lần này anh biết nó bay được,” cô nói và ngồi ra sau. “Nếu chúng ta đâm xuống khu đậu xe của một nhà hàng Key Food, em sẽ giết anh đấy, anh rõ chửa?”

“Đừng lố bịch thế chứ,” Jace nói. “Làm gì có khu đậu xe nào ở khu Upper East. Sao phải lái xe đi mua đồ tạp hóa khi có người giao tới tận nhà cho em chứ?” Chiếc mô tô bắt đầu gầm rú, át đi tiếng cười của anh. Clary ré lên, nắm chặt lấy thắt lưng Jace khi chiếc xe phóng xuống mái nhà dốc xuôi nghiêng của Học Viện và lao vào khoảng không.

Gió thổi tung tóc cô khi họ bay lên, cao trên nhà thờ, vượt qua những nóc những tòa nhà cao ốc và chung cư gần đó. Và thành phố trải rộng trước mắt cô như một chiếc hộp đá quý được cẩu thả mở tung, đông đúc và đẹp hơn cô dám tưởng: đây là quảng trường xanh như màu ngọc bích của Công Viên Trung Tâm, nơi quần thần nhà tiên họp vào những đêm hè; đây là ánh sáng từ những quán bar và câu lạc bộ dưới phố, là nơi những ma cà rồng nhảy nhót suốt đêm tại Xứ Quỷ; đây là những con hẻm ở phố Trung Hoa nơi người sói lẩn lút đi lại trong đêm, bộ lông phản chiếu ánh đèn thành phố. Đây là những pháp sư đang bước đi với đôi cánh dơi, đôi mắt mèo kiêu hãnh và ở kia, khi họ bay qua sông, cô thấy những cái đuôi màu sắc thoáng lướt qua dưới mặt nước màu bạc, sắc lóng lánh của mái tóc dài đính ngọc trai và nghe thấy những tiếng cười cao vót, róc rách của những nàng tiên cá.

Jace ngoái lại nhìn cô, gió thổi tung mái tóc anh. “Em đang nghĩ gì thế?” anh hỏi lớn.

“Chỉ là sao mọi thứ dưới kia lại khác tới vậy khi lúc này đây, anh biết đấy, lúc này đây sau khi em có thể nhìn thấu.”

“Mọi thứ dưới kia vẫn y như thế,” anh nói, quặt về phía dòng sông Đông. Họ lại đang hướng tới cầu Brooklyn. “Em mới là người đổi khác.”

Tay cô vô thức nắm chặt lấy thắt lưng anh khi họ lao xuống càng lúc càng gần dòng sông. “Jace!”

“Đừng lo.”Anh nghe có vẻ vui phát điên. “Anh biết anh đang làm gì mà. Anh không làm bọn mình chết đuối đâu.”

Cô nheo mắt tránh cơn gió vùn vụt thổi tới. “Anh đang kiểm nghiệm lời Alec nói về chuyện vài chiếc xe có thể lặn dưới nước đấy à?”

“Không.” Anh cẩn trọng giữ thăng bằng xe khi họ bay vụt lên khỏi mặt nước. “Anh nghĩ đó là một câu chuyện.”

“Nhưng Jace,” cô nói. “Mọi câu chuyện đều là thật.”

Cô không nghe thấy tiếng anh cười, nhưng cô cảm nhận được, sự rung động qua mạng sườn anh chuyển sang đầu ngón tay cô. Cô ôm chặt hơn khi anh vút xe lên, kéo ga cho xe phóng lao về phía bên kia cầu như một chú chim xổ lồng. Dạ dày cô rơi ra khi dòng sông bạc xoáy xa dần và những mẩu cầu trượt dưới chân cô, nhưng lần này Clary mở mắt, để có thể nhìn thấy tất cả.

HẾT
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom