Cập nhật mới

Dịch Vợ Người Du Hành Thời Gian

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,526
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: Ngày sinh


Thứ Tư, 5/9 - Thứ Năm, 6/9/2001 (.Henry 38 tuổi, Clare 30 tuổi)

HENRY: Clare đang đi tới đi lui quanh nhà như một con hổ cả ngày naỵ. Tử cung co thắt cứ sau hai mươi phút. “Gắng ngủ chút đi em”, tôi bảo cô ấy, và cô ấy nằm xuống giường được vài phút lại ngồi dậy. Đến hai giờ sáng, cuối cùng cô ấy cũng ngủ được. Tôi nằm bên cạnh cô ấy, thức thao láo, nhìn ngắm cô ấy thở, lắng nghe những âm thanh cáu kỉnh nho nhỏ cô ấy phát ra, và nghịch tóc cô ấy. Tôi lo lắng, cho dù tôi biết, cho dù chính mắt tôi đã nhìn thấy cô ấy sẽ không sao cả, và Alba cũng sẽ không sao cả. Clare thức giấc lúc 3 giờ 30 phút.

“Em muốn vào bệnh viện”, cô ấy bảo tôi.

“Có lẽ chúng ta nên gọi taxi”, tôi nói. “Đã muộn lắm rồi.”

“Gomez nói hãy gọi cho anh ấy, không cần biết muộn đến mức nào.”

“Được rồi.” Tôi quay số của Gomez và Charisse. Điện thoại đổ chuông 16 lần, rồi Gomez nhấc máy, nghe như tiếng người vọng lên từ đáy đại dương.

“Hử?” Gomez nói.

“Này chiến hữu. Đến giờ rồi.”

Cậu ấy lầm bầm điều gì đó nghe như “trứng muối.” Rồi Charisse cầm máy và bảo họ sẽ đến ngay. Tôi cúp máy rồi gọi cho bác sĩ Montague, để lại tin nhắn vào hộp thư thoại của bà ấy. Clare đang quỳ dưới sàn bằng cả hai chân và tay, đu đưa người hết trước lại sau. Tôi cũng quỳ xuống sàn với cô ấy.

“Clare?”

Cô ấy ngước lên nhìn tôi, vẫn đu đưa. “Henry... nói lại em nghe, tại sao chúng ta quyết định làm việc này?”

“Vì khi kết thúc, họ sẽ đưa cho em một đứa trẻ và em sẽ được quyền giữ nó.”

“Ừ, phải rồi.”

Mười lăm phút sau, chúng tôi trèo vào trong chiếc Volvo của Gomez. Gomez ngáp dài trong lúc giúp tôi đỡ Clare vào ghế sau. “Đừng có nghĩ đến chuyện rửa xe của tôi bằng nước ối”, cậu ấy hòa nhã nói với Clare. Charisse chạy vào nhà để lấy túi đựng rác và lót chúng lên ghế ngồi. Chúng tôi trèo lên xe và đi. Clare tựa người vào tôi và nắm chặt tay tôi.

“Đừng bỏ em”, cô ấy nói.

“Anh sẽ không làm vậy”, tôi cam đoan với cô ấy.

Tôi bắt gặp ánh mắt của Gomez trong gương chiếu hậu.

“Đau quá”, Clare nói. “Ôi Chúa ơi, đau quá.”

“Hãy nghĩ đến việc gì đó, một việc tốt đẹp.” tôi đáp lại. Chúng tôi đang phóng như bay qua đại lộ Western, đi về phía nam. Hầu như chẳng có bóng ai trên đường.

“Nói cho em nghe...”

Tôi lục lọi trí óc và chọn ra lần viếng thăm gần đây nhất của tối đến tuổi thơ của Clare. “Em có nhớ ngày chúng ta đi chơi hồ, khi em 12 tuổi? Chúng ta đã đi bơi, và em đã kể cho anh nghe rằng em đang bắt đầu có kinh nguyệt?” Clare bóp chặt tay tôi bằng sức mạnh đủ làm nát xương.

“Thật sao?”

“Phải. Em đã khá ngượng ngùng, nhưng cũng rất tự hào về bản thân. Em đã mặc bikini màu hồng và xanh, đeo kính râm có chữ trái tim được in lên gọng kính.”

“Em nhớ rồi... A!... Ôi! Henry, đau quá, đau quá!”

Charisse quay người lại và nói, “Cố lên, Clare, chỉ là đứa bé đang tựa vào cột sống của cậu, cậu phải xoay người đi, được chứ?” Clare cố thay đổi tư thế.

“Đến rồi đây”, Gomez nói, rẽ vào khu vực cấp cứu của bệnh viện Mercy.

“Em đang chảy nước”, Clare nói. Gomez dừng xe, nhảy ra ngoài và chúng tôi nhẹ nhàng đỡ Clare xuống xe. Cô ấy đi được hai bước thì vỡ nước ối.

“Căn giờ chuẩn lắm, mèo con”, Gomez nói. Charisse chạy đi làm thủ tục, Gomez và tôi từ từ đỡ Clare vào phòng cấp cứu rồi đi dọc các dãy hành lang dài xuống khoa sản. Cô ấy đứng tựa vào quầy y tá trong lúc họ hờ hững chuẩn bị phòng cho cô ấy.

“Đừng bỏ em”, Clare thì thầm.

“Anh sẽ không bỏ em”, tôi nhắc lại. Tôi ước gì mình có thể chắc chắn. Tôi đang cảm thấy lạnh và hơi buồn nôn. Clare quay người và dựa vào tôi. Tôi quàng tay ôm lấy cô ấy. Đứa bé là một khối tròn quay chắn giữa chúng tôi. Ra đi, hãy đi ra từ bất cứ nơi nào con đang trú ngụ. Clare thở hổn hển. Cô y tá tóc vàng to béo lại gần và bảo chúng tôi rằng phòng bệnh đã sẵn sàng. Chúng tôi nối đuôi nhau đi vào. Ngay lập tức Clare quỳ cả hai tay hai chân xuống sàn. Charisse bắt đầu dỡ đồ, quần áo nhét vào tủ, dụng cụ tắm cho vào phòng tắm. Tôi và Gomez đứng nhìn Clare bất lực. Cô ấy đang rên rỉ. Chúng tôi nhìn nhau. Gomez nhún vai.

Charisse nói, “Clare, đi tắm nhé? Cậu sẽ thấy khá hơn trong nước ấm.”

Clare gật đầu. Charisse xua tay đuổi Gomez đi và Gomez nói, “Tớ nghĩ tớ sẽ đi hút thuốc”, rồi bỏ đi.

“Anh có nên ở lại không?” tôi hỏi Clare.

“Có! Đừng đi đâu hết... hãy luôn ở nơi em có thể thấy anh.”

“Được rồi.” Tôi bước vào phòng tắm để xả nước. Nhà tắm bệnh viện khiến tôi khiếp đảm. Chúng luôn có mùi xà phòng rẻ tiền và mùi xác thịt bệnh tật. Tôi vặn vòi, đợi cho nước bắt đấu ấm lên.

“Henry! Anh có đó không?” Clare gọi.

Tôi thò đầu vào trong phòng. “Anh đây.”

“Ở yên đấy”, Clare ra lệnh, và Charisse thay thế tôi trong phòng tắm. Clare phát ra tiếng động mà tôi chưa bao giờ nghe một con người tạo ra, một tiếng rên dài rầu rĩ và đau đớn. Tôi đã làm gì cô ấy thế này? Tôi nghĩ đến Clare tuổi 12 đang cười đùa, thân thể dính đầy cát ẩm ướt bên dưới chiếc khăn tắm trong bộ bikini đầu tiên, trên bãi biển. Ôi, Clare, anh xin lỗi, anh vô cùng xin lỗi. Cô y tá da đen đứng tuổi hơn bước vào và kiểm tra cổ tử cung của Clare.

“Giỏi lắm”, cô ấy thì thầm với Clare. “Sáu centimet rồi.”

Clare gật đầu mỉm cười rồi lại nhăn nhó. Cô ấy ghì chặt lấy bụng rồi rên rỉ to hơn trước. Y tá và tôi giữ chặt cô ấy. Clare hổn hển lấy hơi, rồi lại bắt đầu la hét. Amit Montague xuất hiện và bước nhanh tới chỗ Clare.

“Cố lên nào,...” Y tá đang truyền đạt lại cho bác sĩ Montague hàng đống những thông tin mà tôi chẳng hiểu gì hết. Clare đang thổn thức. Tôi đằng hắng, lấy lại giọng. Tiếng tôi phát ra ồm ộp. “Gây tê ngoài màng cứng nhé?”

“Clare?”

Clare gật đầu. Mọi người lũ lượt kéo nhau vào phòng mang theo nhiều dây nhợ, kim tiêm và máy móc. Tôi vẫn nắm chặt tay Clare nhìn vào mặt cô ấy. Cô ấy đang nằm nghiêng người, thút thít, rên rỉ, mặt cô ấy ướt đẫm vì mồ hôi và nước mắt trong lúc bác sĩ gây mê nối đường truyền và cắm mũi tiêm vào sống lưng cô ấy. Bác sĩ Montague đang kiểm tra cho Clare và cau mày nhìn vào màn hình theo dõi thai nhi.

“Có chuyện gì vậy?" Clare hỏi. “Có gì không ổn.”

“Nhịp tim của cô bé rất nhanh. Cô gái bé nhỏ của anh chị, nó đang sợ. Cô cần phải bình tĩnh lại, Clare, có như vậy đứa bé mới bình tĩnh theo, được chứ?”

“Nhưng đau quá đi!”

“Đó là vì cô bé rất lớn.” Giọng của bác sĩ Amit Montague nhẹ nhàng, dễ chịu. Bác sĩ gây mê lực lưỡng có bộ ria hải mã nhìn tôi buồn chán. “Nhưng giờ chúng tôi sẽ tiêm cho cô một hỗn hợp thuốc tê, nhé. Cô sẽ sớm thư giãn hơn và đứa bé cũng sẽ thư giãn theo, được chứ?” Clare gật đầu, được rồi. Bác sĩ Montague mỉm cười. “Còn Henry, cậu ổn chứ?”

“Không hẳn thoải mái lắm.” Tôi gắng gượng cười. Tôi có thể cần đến một chút thuốc mà họ đang tiêm cho Clare. Tôi hoa cả mắt, nhìn một thành hai; tôi thở sâu và lại bình thường.

“Khá hơn rồi đấy”, bác sĩ Montague nói. “Nó giống như một đám mây trôi qua, và cơn đau cũng trôi qua, chúng tôi chụp lấy nó và đưa nó đi nơi khác, bỏ nó ở lại một mình, còn cô và đứa bé này vẫn ở lại, phải không? Giờ thì dễ chịu rồi, chúng ta sẽ từ từ tiến hành, không phải vội...” Sự căng thẳng đã biến mất khỏi khuôn mặt Clare. Mắt cô ấy đặt cố định vào bác sĩ Montague. Máy móc đang kêu bíp bíp. Căn phòng mờ mờ tối. Bên ngoài, mặt trời bắt đầu ló dạng. Bác sĩ Montague đang quan sát màn hình theo dõi thai nhi “Hãy nói với cô bé cô đã ổn, và nó cũng ổn. Hát cho cô bé nghe được chứ?”

“Alba, không sao đâu, đừng sợ”, Clare nói khẽ. Cô ấy nhìn tôi. “Anh hãy đọc bài thơ về những người tình trên tấm thảm đi.”

Tôi ngơ ngác, rồi tôi nhớ ra. Tôi thấy ngượng khi phải ngâm thơ Rilke trước mặt mọi người. Tôi bắt đầu: “Engell: Es ware ein Platz, den wir nicht, wissen...”

“Đọc bằng tiếng Anh ấy”, Clare ngắt lời.

“Xin lỗi.” Tôi đổi vị trí, tôi ngồi bên bụng Clare, xoay lưng lại với Charisse, y tá và bác sĩ, tôi luồn tay bên dưới áo Clare. Tôi có thể cảm nhận được đường nét của Alba qua làn da nóng của Clare.

“Thiên thần!” tôi nói với Clare như thể chúng tôi đang nằm trên chiếc giường riêng của mình, như thể chúng tôi đã thức trắng đêm trong thời khắc bình thường khác,

“Thiên thần!: Nếu có một nơi nào đó chúng ta không biết đến, và ở đó,

trên tấm thảm không thể gọi tên, đôi nhân tình tỏ bày

điều họ không bao giờ có thể đem đến nơi đây - sự dũng cảm

của đôi tim đang bay cao

những tòa lâu đài của niềm vui, những bậc thang

đứng lơ lửng cách xa mặt đất,

tựa vào nhau run rẩy - và có thể làm chủ mọi điều này đây,

trước đám đông khản giả đang vây quanh, sự im lặng tang thương vô chừng:

Liệu những điều đó, có khi nào, dập tắt đoạn kết cuộc tình,

mãi mãi giấu kín, mãi mãi bị chôn vùi, chẳng ai trong chúng ta còn biết,

những đồng xu của hạnh phúc vĩnh cửu trước đôi nhân tình hớn hở

trên tấm thảm

đê mê?

“Được rồi”, bác sĩ Montague nói, tay tắt màn hình. “Mọi sự đã ổn.” Bà ấy mỉm cười với chúng tôi rồi bước ra cửa, cô y tá theo sau. Tôi vô tình bắt gặp ánh mắt của bác sĩ gây mê, người có vẻ mặt như đang muốn nói với tôi Mày là cái loại đàn ông ẻo lả gì vậy?

CLARE: Mặt trời đang lên và tôi đang nằm tê dại trên chiếc giường lạ lẫm trong căn phòng màu hồng này, và ở đâu đó trong đất nước xa lạ, Alba đang bò về nhà, hoặc ra khỏi nhà. Cơn đau đã qua, nhưng tôi biết nó không đi đâu xa, mà chỉ đang ẩn nấp ở một góc nào đó, có thể đang ở dưới gầm giường, và sẽ nhảy bổ ra khi tôi không chú ý. Những cơn co thắt tử cung đến rồi đi, xa xăm và nghẹn ngào như những hồi chuông vang lên trong sương mù. Henry nằm xuống cạnh tôi. Mọi người ghé qua thăm rồi ra về. Tôi muốn nôn, nhưng không thể. Charisse đưa cho tôi cốc nước đá; nó có vị như nước tan ra từ băng tuyết. Tôi nhìn các ống truyền, nhìn ánh đèn đỏ nhấp nháy và nghĩ đến mẹ tôi. Tôi thở. Henry nhìn tôi không rời. Anh ấy rất căng thẳng và không vui. Tôi lại bắt đầu sợ rằng anh ấy sẽ biến mất. “Không sao đâu”, tôi nói. Anh ấy gật đầu. Anh ấy vuốt bụng tôi. Tôi đổ mồ hôi như tắm. Trong này thật nóng. Y tá ghé qua và kiểm tra. Amit kiểm tra. Tôi và Alba như đơn độc một mình giữa đám đông. Đừng sợ, tôi bảo con bé. Con đang làm tốt lắm, con không làm mẹ đau đâu. Henry đứng dậy đi tới đi lui cho đến khi tôi bảo anh ấy dừng lại. Tôi cảm thấy như nội tạng của tôi đang hóa thành những sinh vật có sự sống và lịch trình riêng của chúng, mỗi nội tạng có một chuyến tàu riêng cần phải bắt kịp. Alba đang đào hầm trong tôi, một chiếc máy xúc bằng xương và da thịt bên trong cơ thể bằng da bằng thịt của tôi, đào sâu thêm chiều sâu của tôi. Tôi tưởng tượng ra con bé đang bơi trong mình, tôi tưởng tượng ra con bé đang nhảy vào sự tĩnh lặng của mặt hồ trong buổi sớm tinh mơ, nước rẽ ra hai bên theo mỗi nhịp bơi của nó. Tôi tưởng tượng ra khuôn mặt con bé, tôi muốn nhìn thấy mặt nó. Tôi bảo bác sĩ gây mê rằng tôi muốn cảm thấy điều gì đó. Từ từ, thuốc mê tan biến và cơn đau quay trở lại, nhưng đó là một cơn đau khác với cơn đau trước đó. Cơn đau này không quá tệ. Rồi thời gian trôi qua.

Thời gian trôi đi và cơn đau bắt đầu lăn qua lăn lại như thể nó là một phụ nữ đang đứng bên cạnh chiếc bàn ủi, đẩy hết trước rồi sau dọc tấm vải bàn màu trắng. Amit ghé qua và bảo rằng đã đến giờ vào phòng hộ sinh. Tôi được cạo và rửa ráy rồi được đặt lên một chiếc băng-ca và được đẩy ra hành lang. Tôi ngắm trần nhà ngoài hành lang trong lúc được đẩy qua, Alba và tôi đang được đẩy đi để gặp mặt nhau, Henry đang đi bên cạnh. Trong phòng hộ sinh, mọi thứ đều có màu xanh và trắng. Tôi ngửi thấy mùi nước khử trùng, nó làm tôi nhớ đến Etta, và tôi muốn gặp Etta nhưng lúc này bà đang ở biệt thự Sáo Bắc Mỹ. Tôi nhìn lên Henry đang mặc đồ phẫu thuật và tôi nghĩ tại sao chúng tôi lại ở đây, đáng lẽ chúng tôi phải ở nhà, rồi tôi cảm nhận thấy Alba đang lao tới, đang vồ vập xô đẩy, tôi rặn mà không cần suy nghĩ. Chúng tôi làm việc đó nhiều lần như thể nó là một trò chơi, một bài hát. Có ai đó nói, Này, ông bố biến đâu rồi? Tôi nhìn quanh. Henry đã đi mất. Và tôi đã nghĩ, Chúa nguyền rủa anh ấy, nhưng không, tôi không có ý như vậy. Alba đang ra, con bé đang ra, và rồi tôi thấy Henry, anh ấy đang loạng choạng tiến vào tầm nhìn của tôi, ngơ ngác và trần trụi, nhưng anh ấy đang ở đây! Amit nói, Khỉ thật! rồi A, đầu con bé đây rồi. Tôi rặn và rặn và đầu Alba thò ra, tôi đưa tay xuống sờ vào đầu nó cái đầu nhung ướt trơn trượt và mỏng manh. Tôi rặn rồi lại rặn cho đến khi Alba rơi vào lòng bàn tay đang chờ đợi của Henry, và có ai đó nói Ôi! Tôi trống rỗng và nhẹ nhõm, rồi tôi nghe có tiếng như được phát ra từ chiếc đĩa hát khi bạn đặt nhầm rãnh, rồi Alba khóc thét lên, và đột nhiên con bé đã ở đây. Có ai đó đặt con bé lên bụng tôi và tôi nhìn xuống, mặt con bé - mặt Alba - hồng hào và nhăn nhó, tóc nó đen nhánh, mắt nó mò mẫm tìm quanh và đôi tay giơ lên ngọ nguậy, Alba tự kéo người về phía ngực tôi rồi ngừng lại, con bé kiệt sức vì sự cố gắng, vì mọi việc đang diễn ra.

Henry cúi người xuống gần tôi và chạm vào trán con bé, nói “Alba.”

Sau đó:

CLARE: Buổi tối đầu tiên Alba có mặt trên đời. Tôi nằm trên giường trong căn phòng bệnh viện, vây quanh bởi bóng bay, gấu bông và hoa, Alba nằm trong tay. Henry vắt chân ngồi ở đuôi giường chụp ảnh hai mẹ con tôi. Alba vừa bú xong và con bé thở ra những quả bong bóng bằng sữa non từ đôi môi tí hon rồi lăn ra ngủ như một quả bóng da và nước, ấm áp mềm mại tựa lên áo ngủ của tôi. Henry dùng hết cuộn phim, mở máy lôi nó ra.

“Anh đã đi đâu vậy?” đột nhiên tôi nhớ ra và hỏi.“Lúc ở trong phòng hộ sinh.”

Henry cười. “Anh đã hi vọng em không chú ý. Anh đã nghĩ có lẽ em đã đủ việc để lo...”

“Anh đã đi đâu?”

“Anh đã lang thang trong trường tiểu học cũ của mình lúc nửa đêm.”

“Trong bao lâu?” tôi lại hỏi.

“Hàng giờ đồng hồ. Trời bắt đầu hửng sáng khi anh biến mất trở lại. Đang là mùa đông và họ đã tắt lò sưởi. Anh đã đi bao lâu?”

“Em không rõ. Chắc khoảng năm phút.”

Henry lắc đầu. “Thật điên rồ. Ý anh là, anh vừa bỏ em ở lại, để lượn lờ quanh các dãy hành lang ở Fancis Parker một cách bất lực... Thật là... Anh đã cảm thấy thật...” Henry mỉm cưòi. “Nhưng mọi chuyện đã diễn ra tốt đẹp, nhỉ?”

Tôi cười. “Miễn sao đến đích, mọi sự trên đường chỉ là những cú xóc chẳng đáng kể gì.[1]”

[1] Nguyên gốc “All's well that ends well.”

“Em sáng dạ hơn em tưởng[2]!” Có tiếng gõ cửa khẽ; Henry nói, “Mời vào!” và Richard bước vào, rồi dừng lại, ngập ngừng. Henry quay người và nói, “Bố...” rồi nhảy xuống giường, nói tiếp “Bố vào đi”. Richard mang theo hoa và một con gấu bông nhỏ, Henry đặt chúng vào đống hoa và gấu bông khác bên bậu cửa sổ.

[2] Nguyên gốc “Thou speakest wiser than thou art aware of”: trích All's Well That Ends Well của William Shakespeare

“Clare”, Richard nói. “Ta... chúc mừng các con.” Ông từ từ ngồi thụt xuống chiếc ghế bên cạnh giường.

“Bố có muốn bế con bé không?” Henry hỏi khẽ. Richard gật đầu, nhìn vào tôi chờ sự đồng ý. Richard trông như thể đã không ngủ nhiều ngày. Áo sơ mi của ông cần được là, ông bốc mùi mồ hôi và mùi bia cũ. Tồi mỉm cười chấp thuận, cho dù tôi phân vân liệu đó có phải là ý hay. Tôi đưa Alba cho Henry, anh ấy cẩn thận đặt con bé vào đôi bàn tay đang chìa ra ngượng ngùng của Richard. Alba quay khuôn mặt tròn trịa hồng hào của con bé vào khuôn mặt lâu ngày không cạo của Richard, trườn về phía ngực ông và tìm vú. Sau một giây, con bé từ bỏ và ngáp dài, rồi lại lăn ra ngủ. Richard mỉm cười. Tôi đã quên cách nụ cười làm thay đổi khuôn mặt ông như thế nào.

“Con bé thật đáng yêu”, ông ấy nói với tôi. Rồi bảo Henry, “Nó giống hệt mẹ con.”

Henry gật đầu. “Nghệ sĩ vĩ cầm của bố đấy.” Anh ấy mỉm cười. “Tài năng đã bỏ qua một thế hệ.”

“Nghệ sĩ vĩ cầm?” Richard nhìn xuống đứa trẻ có mái tóc đen nhánh và đôi bàn tay bé xíu đang ngủ trên tay ông. Chẳng có ai không giống một nghệ sĩ vĩ cầm như Alba lúc này. “Một nghệ sĩ vĩ cầm.” Ông ấy lắc đầu. “Nhưng làm sao con biết... A, thôi, khỏi cần nói. Vậy cháu sẽ là nghệ sĩ vĩ cầm đấy hả, cháu gái!” Alba thè lưỡi ra ngoài chỉ một chút xíu, và tất cả chúng tôi phá lên cười.

“Con bé sẽ cần có thầy hướng dẫn, một khi nó đủ lớn”, tôi đề nghị.

“Thầy hướng dẫn? Phải rồi. Các con sẽ không gửi nó tới học lũ đần độn Suzuki đấy chứ?” Richard sốt sắng.

Henry đằng hắng. “Thực ra bọn con đang hi vọng rằng, nếu bố không quá bận...”

Richard hiểu ra. Đó là một niềm hạnh phúc khi ông nhận ra còn có người cần đến ông, rằng chỉ ông mới có thể đem đến cho cô cháu gái duy nhất của ông sự đào tạo nó cần.

“Ta rất sẵn lòng”, ông nói, và tương lai của Alba được trải ra trước mặt nó như một tấm thảm đỏ đang trải dài xa tới tận chân trời.

Thứ Ba, 11/9/2001 (Clare 30 tuổi, Henry 38 tuổi)

CLARE: Tôi tỉnh giấc lúc 6 giờ 43 phút sáng và Henry không có trên giường. Alba cũng không có trong nôi. Ngực tôi đau. Âm hộ tôi đau. Mọi thứ trên người tôi đau. Tôi bước xuống giường một cách cẩn thận hết mức có thể và đi vào nhà tắm. Tôi từ tốn đi qua hành lang, qua phòng ăn. Trong phòng khách, Henry đang ngồi trên ghế sofa, Alba nằm trên tay anh ấy, không nhìn vào chiếc ti vi trắng đen bé xíu được vặn nhỏ tiếng. Alba đang ngủ. Tôi ngồi xuống cạnh Henry. Anh ấy quàng tay qua người tôi.

“Sao anh dậy sớm vậy?” tôi hỏi. “Em tưởng anh đã nói vài giờ nữa nó mới diễn ra?” Trên ti vi, một người đàn ông đang đọc dự báo thời tiết, miệng mỉm cười, tay chỉ vào hình ảnh vệ tinh của khu vực tây bắc.

“Anh không ngủ được”, Henry nói. “Anh muốn lắng nghe thế giới lúc bình thường thêm một chút nữa.”

“Ồ.” Tôi gối đầu lên vai Henry và nhắm mắt lại. Khi tôi mở mắt ra, đoạn quảng cáo của công ty điện thoại vừa kết thúc và mẫu quảng cáo nước đóng chai tiếp nối. Henry đưa Alba cho tôi rồi đứng dậy. Sau một phút, tôi nghe tiếng anh ấy chuẩn bị bữa sáng. Alba tỉnh giấc, tôi cởi nút áo ngủ và cho con bé bú. Ngực tôi đau. Tôi ngồi xem ti vi. Một phát thanh viên đang mỉm cười nói với tôi điều gì đó. Anh ta và cô phát thanh viên khác, một phụ nữ châu Á, cười với tôi. Ở Tòa Thị Chính, Thị trưởng Daley đang trả lời chất vấn. Tôi lơ mơ ngủ. Alba vẫn đang bú. Henry bưng một khay trứng rán, bánh mì và nước cam vào. Tôi muốn cà phê. Henry đã biết ý, uống cà phê của mình trong bếp, nhưng tôi vẫn có thể ngửi thấy trong hơi thở của anh ấy. Anh ấy để khay đồ ăn xuống bàn và đặt đĩa của tôi lên đùi tôi. Tôi ăn trứng trong lúc Alba bú. Henry dùng bánh mì quệt vét loang của lòng đỏ. Trên ti vi, lũ trẻ đang trườn trên bãi cỏ để chứng minh hiệu quả của loại bột giặt nào đó. Chúng tôi ăn xong, Alba cũng bú xong. Tôi vỗ vào lưng con bé cho nó ợ, Henry mang đĩa bánh vào trong bếp. Khi anh ấy trở ra, tôi đưa Alba cho anh ấy và đi vào phòng tắm. Nước nóng quá sức chịu đựng, nhưng nó mang lại cảm giác tuyệt trần cho cơ thể đau nhức của tôi. Tôi thở trong làn hơi ẩm, cẩn thận lau người, thoa dầu thơm lên môi, lên ngực và bụng. Hơi nước bám đầy lên gương, nên tôi không phải nhìn chính mình. Tôi chải tóc, mặc quần thun và áo len vào. Tôi cảm thấy mình méo mó và xuống sắc. Trong phòng khách, Henry đang nhắm mắt ngồi trên ghế, Alba đang mút ngón tay cái của nó. Lúc tôi ngồi xuống, Alba mở mắt và khẽ ê a. Ngón tay trượt ra khỏi miệng con bé và nó bối rối. Một chiếc xe Jeep đang chạy qua sa mạc. Henry đã tắt tiếng ti vi. Anh ấy đưa tay mát-xa mắt. Tôi lại lăn ra ngủ.

Henry nói, “Dậy đi, Clare." Tôi mở mắt. Màn hình ti vi nhòe mờ xung quanh. Đường phố. Bầu trời. Một tòa cao ốc màu trắng đang bốc cháy. Một chiếc máy bay như món đồ chơi từ từ bay qua tòa nhà màu trắng thứ hai. Ngọn lửa im lặng bốc lên. Henry bật tiếng ti vi. “Ôi Chúa ơi”, một giọng nói trong ti vi vang lên. “Ôi Chúa ơi.”

Thứ Ba, 11/6/2002 (Clare 31 tuổi)

CLARE: Tôi đang vẽ Alba. Lúc này Alba đã được chín tháng và năm ngày tuổi. Con bé đang ngủ dưới lớp chăn bằng vải dệt màu xanh sáng nhỏ, trên tấm thảm Trung Quốc màu vàng thổ và tía trong phòng khách. Tôi vừa cho nó bú. Ngực tôi nhẹ bẫng, hầu như trống rỗng. Alba đang say sưa ngủ đến nỗi tôi cảm thấy hoàn toàn yên tâm đi ra sau nhà, qua khu vườn, và tiến vào xưởng vẽ.

Tôi đứng trên ngưỡng cửa một hồi và hít vào mùi bụi của xưởng vẽ lâu không được dùng đến. Rồi tôi lục trong ngăn bàn tìm giấy vẽ có hình dáng giống da bò, nhặt vài cây bút chì màu, một tấm bảng vẽ và những dụng cụ khác rồi đi ra khỏi xưởng (chỉ đôi chút hối lỗi) và quay trở vào nhà.

Khắp nhà yên ắng. Henry đang ở nơi làm việc (hy vọng thế). Tôi có thể nghe thấy tiếng máy giặt đang quay dưới tầng hầm. Máy điều hòa rên rỉ. Tiếng giao thông thưa thốt trên đại lộ Lincoln. Tôi ngồi xuống thảm, bên cạnh Alba. Một chiếc thang ánh nắng tràn vào, chỉ cách đôi bàn chân mập mạp của con bé chưa đến một gang tay. Trong nửa giờ nữa, nó sẽ phủ lên người con bé.

Tôi gắn tờ giấy lên bảng vẽ và đặt bút màu xuống bên cạnh. Bút chì cầm trên tay, tôi ngắm nghía cô con gái yêu.

Alba đang ngủ say. Lồng ngực con bé nâng lên hạ xuống chậm rãi và tôi có thể nghe thấy tiếng rù rì nó phát ra theo mỗi nhịp thở. Tôi phân vân liệu con bé có lạnh. Trời trong này khá ấm, một buổi chiều muộn tháng Sáu. Alba chỉ mặc độc chiếc bỉm trên người. Con bé đang phấn khích. Bàn tay trái của nó đang siết lại và nhả ra theo nhịp. Có thể nó đang mơ đến âm nhạc.

Tôi bắt đầu phác thảo khuôn mặt đang quay về phía tôi của con bé. Tôi không thực sự phải suy nghĩ nhiều trong lúc vẽ. Tay tôi di chuyển dọc tờ giấy như một cái máy ghi địa chấn, thu lại hình dáng của Alba trong lúc tôi theo dõi nó bằng mắt. Tôi ghi lại cách cổ con bé biến mất trong lớp mỡ trẻ con phúng phính dưới cằm, cách vết lõm phía trên đầu gối khi nó khẽ giơ chân đạp. Cây bút chì của tôi lột tả cái bụng no nê đang lồi lên rồi chìm vào bên dưới đỉnh cái bỉm, một đường nét góc cạnh và gồ ghề cắt ngang vẻ tròn trịa của Alba. Tôi xem xét bức tranh, sửa lại góc độ của hai chân, vẽ lại những nếp gấp nơi cánh tay phải của con bé nối liền với thân.

Tôi bắt đầu tô màu. Tôi phác họa sơ những điểm quan trọng bằng màu trắng - dọc cái mũi bé teo của con bé, nửa thân trái, dọc mu bàn tay, cái bỉm, và cạnh của bàn chân trái. rồi tôi tô đến phần tối, trong màu xanh lá cây và xanh nước biển đậm. Một mảng tối trùm lên phía bên phải của Alba, nơi cơ thể con bé tiếp xúc với chăn. Nó như một bể nước, và tôi biến nó trở nên vững chắc. Giờ Alba trong bức tranh bỗng trở nên ba chiều sống động, như có thể nhảy ra khỏi tờ giấy.

Tôi dùng hai loại bút màu, một loại hồng sáng và một loại hồng đậm gợi nhớ đến miếng cá ngừ sống. Bằng những nét vẽ nhanh tôi tạo ra da của Alba. Như thể làn da của con bé ẩn sau tờ giấy và tôi đang lột những lớp vỏ vô hình che chắn nó. Bốn cạnh làn da màu này, tôi dùng màu tím để vẽ tai, mũi và miệng của Alba (miệng của con bé khẽ chúm chím mở hình chữ O). Mái tóc dày đen của con bé trở thành một hỗn hợp màu xanh sẫm, đen và đỏ trên giấy. Tôi vẽ tiếp đến đôi lông mày trông như hai con sâu bướm bù xù đang làm tổ trên mặt Alba.

Ánh nắng đã bao trùm Alba. Con bé cựa quậy, đưa bàn tay nhỏ xíu lên che mắt, và thở dài. Tôi viết tên con bé, và tên tôi, cùng ngày tháng xuống dưới chân tờ giấy.

Bức tranh đã hoàn tất. Nó sẽ hiện hữu như một bằng chứng lưu giữ lại lời nhắn nhủ - rằng mẹ đã yêu con, mẹ đã sinh ra con, và mẹ vẽ bức tranh này vì con - sau khi tôi qua đời, sau khi Henry qua đời, và thậm chí sau khi Alba qua đời. Nó sẽ nhắn nhủ rằng, chúng ta đã sinh ra con, và giờ con đang ở đây, vào lúc này.

Alba mở mắt và mỉm cười.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,526
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: Bí mật


Chủ Nhật, 12/10/2003 (Clare 32 tuổi, Henry 40 tuổi)

CLARE: Đây là một bí mật: đôi khi tôi mừng vì Henry đã biến mất. Đôi khi tôi thích được ở một mình. Đôi khi tôi lang thang trong căn nhà lúc nửa đêm và ớn lạnh trong niềm vui vì không phải nói chuyện, không phải đụng chạm, chỉ đi, chỉ ngồi hoặc chỉ tắm. Đôi khi tôi nằm trong phòng khách và nghe Fleetwood Mc, The Bangles, B-52s, The Eagles, những ban nhạc mà Henry không chịu nổi. Đôi khi tôi đi dạo với Alba và không để lại lời nhắn rằng mình đã đi đâu. Đôi khi tôi đi uống cà phê cùng Celia, và chúng tôi sẽ nói về Henry, về Ingrid hoặc về bất kì ai Celia đang hẹn hò trong tuần đó. Đôi khi tôi đi chơi cùng Charisse và Gomez, và chúng tôi không nói chuyện về Henry, chúng tôi chỉ tìm cách tận hưởng sự bầu bạn của nhau. Có lần tôi đi đến Michigan, khi trở về, Henry vẫn đang biến mất và tôi không nói với anh ấy tôi đã đi đâu. Đôi khi tôi tìm người giữ trẻ và đi xem phim hoặc đi xe đạp dọc bãi biển Montrose khi trời đã tối, chẳng có một ánh đèn; nó mang đến cho tôi cảm giác như đang bay.

Đôi khi tôi mừng vì Henry đã biến mất, nhưng lúc nào tôi cũng mừng khi anh ấy trở về.

Những trải nghiệm khó khăn

Thứ Sáu, 7/5/2004 (Henry 40 tuổi, Clare 32 tuổi)

HENRY: Chúng tôi đang tham dự buổi ra mắt triển lãm của Clare tại Trung tâm Văn hóa Chicago. Cô ấy đã làm việc không ngừng nghỉ suốt một năm trời, tạo ra các bức tượng chim khổng lồ từ dây kim loại, bọc chúng trong những mảnh giấy mờ rồi phủ véc-ni lên cho đến khi chúng truyền dẫn ánh sáng. Các bức tượng đang được treo lên trần nhà cao tít và lủng lẳng sát sàn. Một vài trong số chúng được cơ giới hóa: vài con chim biết vỗ cánh, và ở góc phòng, hai con gà trống đang chậm rãi mổ vào nhau. Một con bồ câu cao hai mét rưỡi đang sừng sững đứng canh cửa. Clare mệt mỏi nhưng ngây ngất. Cô ấy mặc một chiếc đầm giản dị bằng lụa, tóc vén cao trên đầu. Mọi người mang hoa đến tặng cô ấy; cô ấy đang ôm một bó hồng trắng trên tay, rất nhiều bó được bọc ni-lon khác đang để cạnh sổ ghi danh. Phòng triển lãm chật kín người. Mọi người đứng tụ tập xung quanh, trầm trồ trước mỗi tác phẩm, ngửa đầu nhìn những con chim đang bay lượn. Ai cũng chúc mừng Clare. Tờ Tribune đã đăng một bài tán dương hết lời cho cuộc triển lãm. Tất cả bạn bè của chúng tôi đang ở đây, gia đình Clare đã đi từ Michigan lên. Lúc này họ đang vây quanh Clare. Philip, Alicia, Mark, Sharon và các con của họ, Nell, Etta. Charisse đang chụp ảnh họ, và tất cả cười với cô ấy. Khi Charisse đưa cho tôi xem ảnh vài tuần sau đó, tôi đã sửng sốt trước những quầng thâm quanh mắt Clare và vẻ gầy gò của cô ấy.

Tôi đang bế Alba trên tay. Chúng tôi đang đứng gần tường, tách ra khỏi đám đông. Alba chẳng thể nhìn được gì, vì ai cũng rất cao nên tôi đặt con bé lên vai, và nó cứ không ngừng nhún nhảy.

Gia đình Clare đã giải tán và cô ấy đang đứng cùng Leah Jacobs, người môi giới của Clare, giới thiệu với một đôi vợ chồng già ăn mặc sang trọng. Alba nói, “Mẹ bế.”

“Mẹ đang bận, Alba”, tôi đáp. Tôi cảm thấy buôn nôn. Tôi khom người đặt Alba xuống sàn. Con bé giơ hai tay lên. “Không. Mẹ bế cơ.” Tôi ngồi xuống sàn và kẹp đầu giữa hai đầu gối. Tồi cần phải tìm một nơi không ai có thể nhìn thấy. Alba đang kéo tai tôi. “Đừng, Alba”, tôi nói. Tôi ngẩng đầu lên. Bố tôi đang len lỏi giữa đám đông để lại gần chúng tôi. “Đi đi, Alba”, tôi bảo con bé. Tôi đưa tay đẩy nhẹ nó, “Lại với ông nội đi.” Con bé bắt đầu khóc thút thít. “Con không muốn ông nội. Con muốn mẹ cơ!” Tôi bò về phía bố. Tôi đụng phải chân ai đó. Tôi nghe tiếng Alba hét lên “Mẹ ơi!” trong lúc biến mất.

CLARE: Căn phòng chật kín người. Ai cũng tụ tập quanh tôi, mỉm cười. Tôi mỉm cười đáp lại. Buổi triển lãm có vẻ rất tuyệt, và nó đã kết thúc. Tôi rất vui mừng, và rất mệt. Mặt tôi đau nhức vì phải cười nhiều. Tất cả mọi người tôi quen biết đều đang ở đây. Tôi đang nói chuyện với Celia khi nghe có tiếng huyên náo ở cuối phòng tranh, rồi tôi nghe tiếng Alba hét lên, “Mẹ ơi!” Henry đâu rồi? Tôi tìm cách len lỏi qua đám đông để đến bên Alba. Rồi tôi nhìn thấy con bé: Richard đang bế nó lên. Mọi người rẽ sang hai bên để tôi đi qua, Richard đưa Alba cho tôi. Con bé kẹp chặt hai chân vào hông tôi, vùi đầu lên vai tôi, quàng tay qua cổ tôi, “Bố con đâu rồi?” tôi nhẹ nhàng hỏi con bé, “Biến mất rồi”, Alba đáp.

Cuộc sống tĩnh lặng

Chủ Nhật, 11/7/2004 (Clare 33 tuổi, Henry 41 tuổi)

CLARE: Henry đang ngủ, bầm dập và bê bết máu, trên sàn nhà bếp. Tôi không muốn di chuyển hay đánh thức anh ấy. Tôi ngồi bên anh ấy trên tấm vải sơn lót nhà một lát. Cuối cùng tôi đứng dậy và pha cà phê. Trong lúc những giọt cà phê đang nhỏ xuống bình, Henry rên rỉ và đưa tay lên mắt. Có thể dễ dàng nhận ra anh ấy đã bị người ta đánh. Một bên mắt anh ấy sưng mọng không thể mở ra. Có lẽ máu chảy ra từ mũi. Tôi không nhìn thấy vết thương nào, chỉ có những vết bầm dập tím ngắt to bằng nắm tay khắp người. Anh ấy gầy rộc; tôi có thể thấy hết những đốt sống và xương sườn đang nhô ra. Mông lép kẹp, hai má sâu hóm. Tóc anh ấy đã điểm bạc, dài gần tới vai. Những vết cắt khắp tay chân, và vết côn trùng cắn khắp người. Anh ấy đen sạm, cáu bẩn, móng tay đen xì, bùn đất bám vào những vết hằn trên da. Anh ấy bốc mùi cỏ, mùi máu và muối mặn. Sau một hồi ngồi nhìn, tôi quyết định đánh thức anh ấy dậy. “Henry”, tôi nói rất khẽ, “Dậy đi, anh đã về đến nhà”. Tôi cẩn thận vuốt má và anh ấy mở mắt. Anh ấy vẫn chưa thực sự tỉnh. “Clare”, anh ấy lầm bầm. “Clare.” Nước mắt bắt đầu chảy từng dòng từ con mắt còn lành lặn của anh ấy, người anh ấy rung lên vì thổn thức và tôi kéo anh ấy vào lòng. Tôi đang khóc. Henry cuộn tròn trên đùi tôi, ngay ở giữa sàn nhà, chúng tôi khẽ rung lên cùng nhau trong tiếng khóc, cùng nhau thét ra sự nhẹ nhõm và nỗi thống khổ.

Thứ Năm, 23/12/2004 (Clare 33 tuổi, Henry 41 tuổi)

CLARE: Hôm nay là ngày trước ngày Giáng Sinh. Henry đang ở trung tâm mua sắm Water Tower Place, anh ấy đưa Alba đi xem ông già Noel tại Marshall Field trong khi tôi tranh thủ mua sắm nốt. Giờ tôi đang ngồi trong quán cà phê ở cửa hàng sách Border, uống capuccino bên chiếc bàn gần cửa sổ và nghỉ ngơi với một đống đồ kềnh càng đang tựa vào ghế của tôi. Bên ngoài cửa sổ, ngày đang dần trôi và những chiếc đèn nhấp nháy trắng đang nhá lên hình những cây thông Giáng Sinh. Những người đi mua sắm đang vội vã lướt qua đại lộ Michigan. Tôi có thể nghe thấy tiếng chuông của ông già Noel thuộc Đạo quản Cứu thế[1] bên dưới. Tôi quay vào trong cửa hàng tìm Henry và Alba. Có ai đó đang gọi tên tôi. Kendrick đang tiến về phía tôi cùng vợ của ông ấy, Nancy, Colin và Nadia theo sau.

[1] Nguyên gốc: Salavation Army: Cứu thế quân, hoặc Đạo quân Cứu thế, là một giáo phái Tin Lành thuộc cộng đồng Kháng Cách, cũng là một tổ chức xã hội với các hoạt động từ thiện.

Chỉ liếc qua tôi đã biết họ vừa trở ra từ FAO Schwarz; họ có vẻ bàng hoàng của những bậc cha mẹ vừa trốn khỏi địa ngục của cửa hàng đồ chơi. Nadia chạy lại bên tôi và ríu rít, “Dì Clare, dì Clare! Alba đâu ạ?” Colin cười bẽn lẽn và xòe tay ra khoe chiếc xe kéo màu vàng bé tí mà cậu bé có. Tôi chúc mừng cậu bé và nói với Nadia rằng Alba đang đi thăm ông già Noel, Nadia bảo tôi cô bé đã gặp ông già Noel từ tuần trước. “Cháu đã cầu xin điều gì?” tôi hỏi. “Một bạn trai ạ”, Nadia nói. Con bé mới ba tuổi. Tôi cười với Kendrick và Nancy. Kendrick nói nhỏ điều gì đó với Nancy, rồi chị ấy bảo, “Đi nào, các con. Chúng ta phải tìm sách cho dì Silvie nữa”, rồi ba người bọn họ đi về phía các quầy hàng trả giá. Kendrick chỉ tay về phía chiếc bàn trống đối diện với tôi, hỏi, “Tôi có thể chứ?”

“Dĩ nhiên rồi.”

Ông ấy ngồi xuống, thở dài. “Tôi ghét Giáng Sinh.”

“Henry cũng vậy.”

“Thật sao? Tôi không biết điều đó.” Kendrick tựa người vào cửa sổ và nhắm mắt lại. Vừa lúc tôi nghĩ ông ấy đang ngủ thì ông ấy mở mắt ra và nói, “Henry có uống thuốc theo đúng chỉ dẫn không vậy?”

“Tôi đoán là có. Ý tôi là, anh ấy cố gắng hết mức có thể. Gần đây anh ấy du hành thời gian khá thường xuyên.”

Kendrick gõ ngón tay lên mặt bàn. “Thường xuyên đến mức nào?”

“Cứ vài ngày một lần.”

Kendrick tỏ ra giận dữ. “Tại sao cậu ấy không nói gì với tôi?”

“Tôi nghĩ có lẽ anh ấy sợ ông sẽ chán nản và bỏ cuộc.”

“Cậu ấy là đối tượng thí nghiệm duy nhất có thể nói chuyện mà chúng tôi có, vậy mà cậu ấy chẳng bao giờ nói với tôi điều gì!”

Tôi cười. “Chào mừng gia nhập vào thế giới của tôi.”

Kendrick nói, “Tôi đang cố tìm cách giải quyết một bí ẩn khoa học ở đây. Tôi cần cậu ấy phải nói với tôi khi phương pháp không hiệu quả. Bằng không chúng tôi sẽ chỉ lãng phí thời gian.”

Tôi gật đầu. Bên ngoài, tuyết đã bắt đầu rơi.

“Clare?”

“Vâng?”

“Sao cô không để tôi nghiên cứu DNA của Alba?”

Tôi đã nói chuyện này hàng trăm lần với Henry. “Vì đầu tiên ông sẽ muốn định vị bộ mã gen của con bé, điều này không sao cả. Nhưng rồi ông và Henry sẽ bắt đầu nài nỉ tôi để cho ông thử nghiệm thuốc trên người con bé, và điều đó thì không thể được. Đó là lí do vì sao.”

“Nhưng con bé vẫn còn nhỏ; con bé có khả năng phản ứng tích cực với thuốc cao hơn.”

“Tôi đã nói không. Khi Alba đủ 18 tuổi, con bé có quyền tự quyết nếu nó muốn. Cho đến giờ, những gì ông đưa cho Henry đều là một cơn ác mộng.” Tôi không thể nhìn vào Kendrick. Tôi nói điều này trong khi nhìn vào đôi tay đang nắm chặt trên bàn.

“Nhưng chúng tôi có thể áp dụng liệu pháp gen cho con bé...”

“Không ít người đã chết vì liệu pháp gen.”

Kendrick im lặng. Cửa hàng đang chìm trong tiếng huyên náo. Rồi tôi nghe có tiếng bi bô của Alba, gọi, “Mẹ ơi!” Tôi ngước lên nhìn. Con bé đang cưỡi trên vai Henry, bám chặt lấy đầu anh ấy. Cả hai bố con đang đội mũ gấu trúc. Henry nhìn thấy Kendrick, và trong khoảnh khắc ngắn ngủi, anh ấy có vẻ e sợ. Tôi tự hỏi hai người đang giấu tôi bí mật gì. Rồi Henry mỉm cười và sải bước về phía chúng tôi, Alba nhấp nhô hớn hở phía trên đầu đám đông. Kendrick đứng dậy để chào Henry, và tôi gạt ý nghĩ đó khỏi đầu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,526
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: Sinh nhật


Thứ Tư, 24/5/1989 (Henry 41 tuổi, Clare 18 tuổi)

HENRY: Tôi ngã phịch xuống và trượt trên bãi cỏ lởm chởm đau điếng người ở đồng cỏ, dừng lại dơ dáy và bê bết máu dưới chân Clare. Cô ấy đang ngồi trên tảng đá, tinh khôi trong chiếc váy trắng bằng lụa, tất trắng và giày trắng, kèm theo đôi găng tay ngắn cũng trắng nốt. “Xin chào Henry”, cô ấy nói như thể tôi chỉ ghé qua để cùng thưởng thức trà.

“Có chuyện gì vậy?” tôi hỏi. “Trông em như đang chuẩn bị đi dự buổi lễ ban thánh thề lần đầu tiên.”

Clare ngồi thẳng lên và nói, “Hôm nay là 24 tháng Năm, năm 1989”. Tôi nhẩm nhanh. “Chúc mừng sinh nhật. Em có tình cờ tích trữ bộ cánh Bee Gees nào quanh đây cho anh không?” Clare trượt xuống tảng đá, lôi ra từ phía sau một túi quần áo mà không buồn trả lời. Bằng cử chỉ duyên dáng, cô ấy mở túi đồ, để lộ ra một chiếc áo đuôi tôm, quần, và chiếc áo sơ mi kiểu cách đòi hỏi phải có khuy rời. Cô ấy lại lôi ra một chiếc va-li đựng đồ lót, khăn buộc lưng, một cái nơ con bướm, khuy cài và một bông hoa cài ngực, tôi bất ngờ và cảnh giác. “Clare. Chúng ta sẽ không tổ chức đám cưới ngày hôm nay hay gì đó điên khùng tương tự đấy chứ? Vì anh biết chắc rằng kỉ niệm ngày cưới của chúng ta là vào mùa thu. Tháng Mười. Cuối tháng Mười”

Clare quay mặt đi trong lúc tôi thay đồ. “Ý anh là anh không thể nhớ chính xác kỉ niệm ngày cưới của chúng ta chứ gì? Đúng là đàn ông.”

Tôi thở dài. “Em biết là anh nhớ rõ mà. Anh chỉ không thể nói cho em. Dù sao thì, chúc mừng sinh nhật em.”

“Em mười tám tuổi rồi.”

“Chúa ạ, đúng vậy. Cứ như chỉ mới hôm qua đây thôi em vẫn còn là một cô bé sáu tuổi.”

Trí tò mò của Clare bị kích thích, như mọi lần, với ý nghĩ rằng tôi vừa viếng thăm một Clare khác, dù già hay trẻ. “Anh vừa gặp em hồi sáu tuổi?”

“Mới vừa đây anh còn đang nằm trên giường đọc Emma với em. Em đang 33 tuổi. Còn anh 41, và cảm thấy già cỗi hệt như tuổi của mình. Tôi đưa tay vuốt tóc và xoa khuôn mặt lởm chởm râu, “Anh xin lỗi, Clare. Anh sợ rằng anh không được bảnh bao lắm cho ngày sinh nhật của em.” Tôi gài bông hoa vào khuyết áo đuôi tôm và bắt đầu gắn khuy cài. “Khoảng hai tuần trước anh đã gặp em hồi sáu tuổị. Em đã vẽ cho anh bức tranh một con vịt.”

Clare đỏ mặt. Nét hồng hào lan ra như một giọt máu giữa tô sữa.

“Anh có đói không? Em đã chuẩn bị hẳn một bữa tiệc cho chúng ta.”

“Dĩ nhiên anh đói. Anh đã bị bỏ đói, đã gầy hốc hác đến nỗi sẵn sàng ăn thịt người.”

“Anh chưa cần phải làm vậy.”

Có điều gì đó trong giọng nói của Clare khiến tôi ngần ngại. Có điều gì đó đang diễn ra mà tôi không biết, và Clare trông đợi tôi phải biết. Cô ấy gần như đang ngân nga trong niềm phấn khởi. Tôi cân nhắc lựa chọn giữa sự thú tội ngu dốt giản đơn đáng quý hoặc tiếp tục giả vờ. Tôi quyết định lờ nó đi thêm một lúc. Clare đang trải tấm mền mà về sau sẽ là một phần chiếc giường của chúng tôi ra. Tôi cẩn thận ngồi lên nó và cảm thấy thoải mái trước màu xanh quen thuộc. Clare lôi ra sandwich, những chiếc cốc giấy nhỏ, dao dĩa, bánh quy, một lọ trứng cá muối nhỏ mua từ siêu thị, bánh quy Hướng Đạo Sinh vị bạc hà, dâu tây, một chai Cabernet có dán nhãn sang trọng, pho mát Brie trông có vẻ đã bắt đầu chảy ra đôi chút, và đĩa giấy.

“Clare. Rượu và trứng cá muối ư?” Tôi ấn tượng, nhưng chẳng hiểu sao tôi không thích ý tưởng này một chút nào. Cô ấy đưa cho tôi chai Cabernet và cái mở nút chai. “Anh nghĩ anh chưa từng nói vói em rằng anh không được uống rượu. Lệnh của bác sĩ.” Clare tiu nghỉu. “Nhưng anh có thể ăn. Và anh có thể giả vờ uống. Ý anh là, nếu điều đó làm em cảm thấy khá hơn.” Tôi không thể giũ bỏ cảm giác rằng chúng tôi đang chơi trò gia đình. “Anh đã không biết em biết uống rượu. Anh hầu như chưa từng thấy em uống bao giờ.”

“Em không thực sự thích nó, nhưng vì đây là một dịp trọng đại, nên em nghĩ sẽ thú vị nếu uống một chút. Champagne có lẽ sẽ tốt hơn, nhưng chai rượu này nằm sẵn trong chạn, nên em đã cầm theo.” Tôi mở rượu và rót cho chúng tôi mỗi người một li nhỏ. Chúng tôi cụng li trong im lặng. Tôi giả vờ nhấp môi. Clare tu một ngụm đầy, và nuốt nó theo đúng phong cách của một người làm kinh doanh, rồi nói, “Cũng không quá tệ.”

“Chai rượu này có giá hơn 20 đô la.”

“Ồ. Vậy thì, ngon tuyệt.”

“Clare.” Cô ấy bóc chiếc sandwich lúa mạch đen có vẻ được nhét quá nhiều dưa chuột. “Anh ghét phải làm một người chậm hiểu... Ý anh là, hiển nhiên hôm nay là sinh nhật của em...”

“Sinh nhật thứ 18 của em”, cô ấy đồng tình.

“Đầu tiên anh rất buồn vì không có quà cho em...” Clare ngẩng đầu lên, vẻ ngạc nhiên, và tôi nhận ra tôi đang bị kích động, tôi đang có ý đồ, “nhưng em biết rằng anh không thể đoán trước mình sẽ đi đâu, và anh không thể mang gì theo người...”

“Em biết tất cả những điều đó. Nhưng anh không nhớ chúng ta đã có giải pháp cho chuyện đó trong lần ghé thăm trước của anh sao? Vì hôm nay là ngày cuối cùng trong danh sách và cũng là ngày sinh nhật của em. Anh không nhớ sao?” Clare nhìn tôi chăm chú, như thể sự tập trung có thể sẽ làm dịch chuyển trí nhớ của cô ấy sang tôi.

“Ồ. Anh chưa đến thời điểm đó. Ý anh là, cuộc nói chuyện đó vẫn còn ở trong tương lai của anh. Anh tự hỏi tại sao anh đã không nói với em lúc đó? Anh vẫn còn nhiều lần ghé thăm nữa trong danh sách. Hôm nay thực sự là lần cuối sao? Mà chúng ta sẽ gặp nhau trong hiện tại sau vài năm nữa. Hãy đợi đến khi đó.”

“Nhưng đó là một quãng thời gian rất dài. Đối với em.”

Chúng tôi im lặng ngượng ngùng hồi lâu. Thật kì quái khi nghĩ rằng vào lúc này tôi đang ở Chicago, 25 tuổi, đang mải lo chuyện của mình, hoàn toàn chẳng biết đến sự tồn tại của Clare, và hiển nhiên cũng không biết đến sự hiện diện của tôi trong đồng cỏ Michigan đáng yêu vào một ngày mùa xuân tuyệt đẹp, kỉ niệm 18 năm ngày Clare chào đời này. Chúng tôi dùng dao nhựa để phết trứng cá muối lên bánh quy Ritz. Suốt hồi lâu, chẳng có gì ngoài tiếng nhai gặm ngấu nghiến. Cuộc trò chuyện có vẻ đã bay theo gió. Rồi lần đầu tiên tôi tự hỏi liệu Clare có đang hoàn toàn thành thật với tôi, cô ấy biết rằng những câu nói bắt đầu bằng, “Tôi không bao giờ” hoàn toàn khác với tôi so với những người khác, vì tôi không bao giờ có được bản tóm tắt hoàn chỉnh quá khứ của tôi tại bất kì thời điểm nào, vì quá khứ của tôi luôn xen lẫn một cách phiền phức với tương lai. Chúng tôi ăn dâu tây.

“Clare.” Cô ấy mỉm cười thơ ngây. “Chính xác thì chúng ta đã quyết định gì? Trong lần gặp gần đây nhất? Chúng ta đã lên kế hoạch gì cho ngày sinh nhật của em?”

Cô ấy lại đỏ mặt. “Kế hoạch này”, cô ấy đáp, chỉ tay vào bữa ăn ngoài trời của chúng tôi.

“Tất cả những điều này thật đáng yêu. Nhưng còn gì khác không?”

“Có.” Tôi chăm chú lắng nghe, vì tôi nghĩ tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra.

“Có?”

Mặt Clare đỏ bừng nhưng vẫn xoay sở để tỏ ra đường hoàng trong lúc nói, “Chúng ta đã thống nhất sẽ ngủ cùng nhau.”

“À.” Thực ra tôi đã luôn thắc mắc về kinh nghiệm tình dục của Clare trước 26 tháng Mười, năm 1991, khi chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên ở hiện tại. Bất chấp những lần khiêu khích từ phía Clare, tôi đã từ chối quan hệ với cô ấy và dành không ít thời gian tán gẫu với cô ấy chuyện này chuyện kia trong khi phải cố gắng lờ đi sự cương cứng khó chịu. Nhưng hôm nay, Clare đã đủ tuổi, đã là người lớn, và hiển nhiên tôi không thể khiến cuộc sống của cô ấy trái với lẽ thường quá mức, vì nói gì thì nói, tôi cũng đã mang đến cho cô ấy một tuổi thơ khá kì quặc, chỉ bằng sự hiện diện của tôi trong đó. Có bao nhiêu cô gái được có chồng tương lai thường xuyên xuất hiện trần trùng trục trước cả khi họ gặp gỡ? Clare đang nhìn tôi suy nghĩ. Tôi nghĩ đến lần đầu tiên quan hệ với Clare và tự hỏi liệu đó có phải lần đầu tiên cô ấy quan hệ với tôi. Tôi quyết định sẽ hỏi cô ấy khi trở về hiện tại của tôi. Trong lúc đó, Clare đang dọn dẹp mọi thứ trở lại giỏ đồ picnic.

“Và?”

Có gì phải đắn đo chứ. “Được rồi.”

Clare vừa hưng phấn vừa sợ hãi. “Henry. Anh đã ngủ với em rất nhiều lần...”

“Rất, rất nhiều lần.”

Cô ấy ngượng ngùng khi phải nói điều này ra khỏi miệng.

“Và lần nào cũng tuyệt”, tôi bảo cô ấy. “Đó là điều tuyệt diệu nhất trong đời anh. Anh sẽ nhẹ nhàng với em.” Tôi nói vậy vì bỗng nhiên tôi cảm thấy lo lắng. Tôi cảm thấy đầy gánh nặng, thấy mình như Humbert Humbert[1] và đồng thời thấy như thể tôi đang bị theo dõi bởi rất nhiều người, và tất cả những người đó là Clare. Tôi chưa bao giờ cảm thấy nhục dục của mình ít như lúc này. Được rồi. Thở sâu nào. “Anh yêu em.”

[1] Nhân vật trong tiểu thuyết Lolita.

Chúng tôi đứng dậy, hơi tròng trành trên bề mặt nhấp nhô của tấm mền. Tôi dang tay ra và Clare bước vào trong chúng. Chúng tôi đứng ôm nhau bất động giữa đồng cỏ như cô dâu chú rể đứng trên đỉnh chiếc bánh cưới. Và rốt cuộc thì, đây là Clare, chẳng khác mấy so với khi chúng tôi gặp nhau lần đầu. Không chút sợ hãi. Cô ấy ngửa đầu ra phía sau. Tôi tiến tới và hôn cô ấy.

“Clare.”

“Dạ?”

“Em thực sự chắc rằng chúng ta đang ở một mình chứ?”

“Tất cả mọi người đang ở Kalamazoo, trừ Etta và Nell.”

“Anh cảm thấy như mình đang bị Candid Camera quay lén.”

“Chỉ giỏi hoang tưởng. Thật đáng buồn.”

“Quên đi.”

“Chúng ta có thể vào phòng em.”

“Quá mạo hiểm. Chúa ạ, chẳng khác gì đang ở phổ thông.”

“Gì cơ?”

“Không có gì.”

Clare lùi lại, tôi kéo khóa chiếc váy cô ấy đang mặc. Cô ấy lột nó qua đầu và vứt xuống mền bằng vẻ lạnh nhạt đáng ngưỡng mộ. Clare cởi đến áo ngực, và quần lót. Cô ấy đứng trước mặt tôi, hoàn toàn trần trụi. Nó gần như một điều kì diệu: tất cả những vết hằn nhỏ mà tôi yêu mến đã không còn; bụng cô ấy phẳng lì, không còn dấu vết của những lần mang thai đã mang lại cho chúng tôi thật nhiều khổ đau và hạnh phúc. Clare này gầy hơn một chút, vui tươi hơn nhiều so với Clare mà tôi yêu ở hiện tại. Một lần nữa tôi nhận ra nỗi buồn đã vây phủ chúng tôi nhiều đến mức nào. Nhưng ngày hôm nay, tất cả những điều đó đã biến mất một cách màu nhiệm; ngày hôm nay, niềm hân hoan lại đến gần với chúng tôi hơn. Tôi khụy gối xuống, và Clare tiến lại gần, đứng trước mặt tôi. Tôi tựa đầu vào bụng cô ấy một hồi, rồi ngước lên nhìn; Clare đang đứng sừng sững trước mặt tôi, hai bàn tay cô ấy đang vuốt tóc tôi, bầu trời xanh trong không một gợn mây bao quanh cô ấy.

Tôi cởi áo khoác và tháo cà vạt. Clare quỳ xuống và chúng tôi cùng tháo bỏ những chiếc khuy rời, khéo léo và tập trung như đội gỡ bom đặc nhiệm. Tôi cởi quần dài, quần lót. Chẳng có cách nào để làm việc này một cách duyên dáng. Tôi tự hỏi các nam vũ công thoát y đối mặt với khó khăn này như thế nào, hay họ chỉ nhảy lò cò quanh sân khấu, một chân trong quần, một chân ngoài quần? Clare cười. “Em chưa bao giờ thấy anh cởi quần áo cả. Không phải là một cảnh tượng đẹp mắt.”

“Em đã làm anh tổn thương rồi đấy. Lại đây, anh sẽ lột cái vẻ mặt tự mãn đó của em ra.”

“Ồ.” Sau mười lăm phút nữa, tôi tự hào mà nói rằng, tôi đã xóa bỏ mọi dấu vết của cái vẻ kẻ cả trên khuôn mặt Clare. Nhưng không may, cô ấy càng lúc càng căng thẳng và cảnh giác. Trong mười bốn năm và có Chúa chứng giám với bao nhiêu lần, bao nhiêu ngày, giờ quan hệ cùng Clare trong niềm hạnh phúc, lo âu, vội vã và uể oải, lần này hoàn toàn mới lạ đối với tôi. Tôi muốn, nếu có thể, cho cô ấy cảm nhận cảm giác phi thường mà tôi đã cảm thấy khi tôi gặp cô ấy và quan hệ cùng cô ấy, mà tôi đã nghĩ (mới ngớ ngẩn làm sao) là lần đầu. Tôi ngồi dậy, thở hổn hển. Clare cũng ngồi dậy và khoanh tay quanh đầu gối, vẻ phòng ngự.

“Em ổn chứ?”

“Em sợ.”

“Đừng lo.” Tôi nghĩ ngợi. “Anh thề với em rằng, lần tới gặp lại, về cơ bản mà nói em sẽ cưỡng hiếp anh. Ý anh là, em thực sự có tài năng vượt trội trong chuyện này.”

“Thật sao?”

“Em là một ngôi sao sáng”, tôi lục giỏ picnic: cốc, rượu, bao cao su, khăn tắm. “Thông minh lắm.” Tôi rót cho chúng tôi mỗi người một cốc rượu. “Vì sự trong trắng. Nếu chúng ta có đủ thế gian và thời gian. Cạn li.” Cô ấy ngoan ngoãn làm theo, như một đứa trẻ đang uống thuốc. Tôi rót thêm cho cô ấy và cho tôi.

“Nhưng anh không được phép uống rượu.”

“Đây là dịp đặc biệt trọng đại. Cạn li.” Clare nặng chừng 55kg, nhưng đây là cốc Dixie. “Một cốc nữa.”

“Nữa? Em sẽ lăn ra ngủ mất.”

“Em sẽ thư giãn hơn.” Cô ấy tu ừng ực. Chúng tôi xếp cốc lại và ném chúng vào giỏ. Tôi duỗi tay nằm xuống như một người đang đi tắm nắng hoặc như đang bị đóng đinh trên cây thánh giá. Clare nằm xuống bên cạnh tôi. Tôi kéo cô ấy lại gần, chúng tôi nghiêng người nằm đối diện nhau. Tóc cô ấy xõa xuống vai và ngực một cách tuyệt đẹp và cảm động khiến tôi ước cả tỉ lần giá như tôi là một họa sĩ.

“Clare?”

“Dạ?”

“Hãy hình dung cơ thể em trống rỗng và mở rộng. Có ai đó đã đến và mang hết mọi thứ bên trong em đi; chỉ để các dây thần kinh ở lại.” Tôi chọc đầu ngón tay trỏ vào bên trong cô ấy.

“Tội nghiệp Clare bé nhỏ. Chẳng còn gì bên trong.”

“Nhưng đó là một việc tốt, vì em sẽ có nhiều khoảng trống bên trong hơn. Hãy nghĩ đến những gì em có thể nhét vào khi không còn những thứ ngớ ngẩn như phổi, và dạ dày.”

“Nhét thứ gì ?” Cô ấy ướt đẫm. Tôi rút tay ra và cẩn thận dùng răng xé vỏ bao cao su, một hành động tôi không làm trong nhiều năm.

“Nhét chuột túi. Nhét lò nướng bánh mì. Nhét dương v*t.” Clare giật chiếc bao cao su khỏi tay tôi bằng một vẻ ghê tởm. Cô ấy đang nằm ngửa người, giơ nó lên trước mặt và ngửi. “Chúng ta buộc phải dùng nó sao?”

Mặc dù tôi thường xuyên từ chối Clare nhiều điều, nhưng ít khi tôi nói dối cô ấy. Tôi cảm thấy áy náy vô cùng khi đáp, “Anh e là buộc phải làm vậy”. Tôi lấy chiếc bao cao su lại, nhưng thay vì đeo nó vào, tôi quyết định điều chúng tôi thực sự cần ở đây là quan hệ đường miệng. Clare trong tương lai rất ghiền quan hệ đường miệng, và sẵn sàng nhảy qua tòa nhà cao tầng hoặc chấp nhận rửa bát khi không phải lượt cô ấy rửa để được quan hệ đường miệng. Nếu quan hệ đường miệng là một môn thể thao Olympic, tôi chắc chắn sẽ giành được huy chương. Tôi giạng chân cô ấy ra và đưa lưỡi vào âm hộ.

“Ôi Chúa ơi” Clare rên rỉ. “Chúa nhân từ.”

“Không la hét”, tôi cảnh báo. Etta và Nell có thể sẽ chạy tới đồng cỏ để kiểm tra nếu Clare thực sự hết mình. Trong mười lăm phút sau đó, tôi đưa Clare trở về vài bậc trong nấc thang tiến hóa cho đến khi cô ấy chỉ còn là một tế bào nhân với chút vỏ não ngoài. Tôi đeo bao cao su vào và cẩn thận, từ tốn trượt vào trong Clare, hình dung ra mọi thứ rách toạc và máu chảy lênh láng quanh tôi. Mắt cô ấy nhắm chặt. Ban đầu tôi tưởng cô ấy thậm chí không nhận ra tôi đã ở trong cô ấy cho dù tôi đang nằm hẳn lên người. Nhưng rồi cô ấy mở mắt ra, mỉm cười hoan hỉ.

Tôi tìm cách để ra khá nhanh; Clare đang ngắm tôi chăm chú, và khi tôi ra, tôi có thể thấy vẻ ngạc nhiên lộ ra trên khuôn mặt cô ấy. Mọi việc mới kì lạ làm sao. Những điều thú tính mà chúng ta làm. Tôi ngã lăn lên người cô ấy. Chúng tôi tắm trong mồ hôi. Tôi có thể cảm nhận được trái tim cô ấy đang đập liên hồi. Hoặc có lẽ nó là từ tôi.

Tôi cẩn thận rút ra khỏi Clare và tháo bao cao su. Chúng tôi nằm bên nhau nhìn lên bầu trời xanh trong. Gió đang hòa cùng những ngọn cỏ tạo ra âm thanh như tiếng rì rào của biển. Tôi nhìn Clare. Cô ấy có vẻ sững sờ đôi chút.

“Clare.”

“Dạ?” cô ấy nói khẽ.

“Em có đau không?”

“Có,”

“Em có thích không ?”

“Ồ có chứ!” cô ấy nói, rồi bật khóc. Chúng tôi ngồi dậy, tôi ôm cô ấy vào lòng. Cô ấy đang run rẩy.

“Clare. Em sao vậy?”

Cô ấy nói gì đó mà tôi không thể nghe rõ, rồi cô ấy lặp lại: “Anh sắp đi mất. Và em sẽ không được gặp anh trong nhiều năm nữa.”

“Chỉ hai năm. Và một vài tháng.” Cô ấy yên lặng. “Ôi, Clare. Anh xin lỗi. Nhưng cũng thật buồn cười. Anh mới vừa nghĩ rằng ngày hôm nay thật đáng quý làm sao, khi anh được ở đây và thăng hoa trong nhục dục cùng em, thay vì bị rượt đuổi bởi những kẻ côn đồ, hoặc phải chịu đói rét trong chuồng gia súc hoặc những chuyện ngớ ngẩn khó chịu khác mà anh vẫn thường phải đối mặt. Và khi trở về, anh lại được ở bên em. Ngày hôm nay thật tuyệt diệu.” Cô ấy khẽ mỉm cười. Tôi hôn cô ấy.

“Tại sao em luôn là người phải chờ đợi?”

“Bởi vì em có bộ gen hoàn hảo và em không bị ném vào dòng thời gian như một củ khoai tây nóng. Hơn nữa, kiên nhẫn là đức hạnh.” Clare khẽ đấm thình thịch vào ngực tôi. “Chưa kể, em đã biết anh suốt cả đời này, trong khi anh chỉ gặp em khi anh 28 tuổi. Nên anh đã dành suốt quãng thời gian trước khi gặp em để...”

“Để ngủ với những người phụ nữ khác.”

“Ừ, thì, đúng vậy. Nhưng, đó chỉ là để luyện tập cho đến khi anh gặp em. Nó rất cô đơn và kì quặc. Nếu không tin, em có thể tự kiểm chứng. Anh sẽ không bao giờ được biết. Tình dục mang lại cảm giác rất khác khi em không bận tâm.”

“Em không cần ai khác cả.”

“Vậy thì tốt.”

“Henry, hãy cho em chút thông tin, dù chỉ một ít. Anh sống ở đâu? Chúng ta gặp nhau ở đâu? Vào ngày nào?”

“Chỉ một gợi ý thôi nhé. Chicago.”

“Nữa đi mà.”

“Hãy có niềm tin. Tất cả vẫn đang ở phía trước đợi em.”

“Chúng ta có hạnh phúc không?”

“Chúng ta thường điên trong hạnh phúc. Chúng ta cũng đau khổ vì những lí do mà cả hai chúng ta chẳng thể làm được gì. Như phải phân li.”

“Vậy tất cả thời gian anh ở đây với em trong quá khứ thì anh không ở bên em trong hiện tại?”

“Không hẳn như vậy. Anh có thể biến mất chỉ mười phút, hoặc mười ngày. Không có quy luật nào cả. Đó là lí do vì sao nó trở nên khó khăn đối với em. Và đôi khi anh rơi vào những tình huống nguy hiểm, rồi trở về bên em trong tình trạng bầm dập, tả tơi, và em sẽ lo lắng cho anh mỗi lần anh biến mất. Giống như em cưới một viên cảnh sát vậy.” Tôi mệt lả. Tôi tự hỏi mình thực sự bao nhiêu tuổi, theo thời gian thực tế. Theo lịch, tôi 41 tuổi, nhưng với tất cả những lần đến rồi đi này, có lẽ tôi thực sự phải đến 45, hay 46 tuổi. Hoặc có lẽ tôi chỉ 39. Ai biết được. Có điều gì đó tôi phải nói với Clare; là điều gì?

“Clare?”

“Dạ?”

“Khi em gặp lại anh, hãy nhớ rằng anh sẽ không biết em; nên đừng tức giận khi anh đối xử với em như người dưng, vì đối với anh, em hoàn toàn xa lạ. Và hãy làm ơn, đừng nhồi nhét tất cả mọi thứ vào đầu anh một lúc. Hãy nhân từ với anh một chút nhé Clare.”

“Em sẽ. Ôi, Henry, hãy ở lại với em!”

“Suỵt. Anh sẽ ở bên em.” Chúng tôi lại nằm xuống. Sự mỏi mệt thấm vào tôi, tôi sẽ sớm biến mất.

“Em yêu anh, Henry. Cảm ơn anh về món quà sinh nhật.”

“Anh yêu em, Clare. Hãy ngoan nhé.”

Và tôi biến mất.

Bí mật

Thứ Năm, 10/2/2005 (Clare 33 tuổi, Henry 41 tuổi)

CLARE: Một buổi chiều thứ Năm, tôi đang ở trong xưởng vẽ làm giấy kozo vàng. Henry đã biến mất gần 24 tiếng, như thường lệ, tôi giằng xé giữa việc không ngừng nghĩ đến thời gian và nơi chốn mà anh ấy có thể đang đi đến, tức giận với anh ấy vì không ở đây, và lo lắng không biết khi nào anh ấy sẽ trở về. Điều đó không giúp ích gì cho sự tập trung của tôi, và tôi đã làm hỏng rất nhiều giấy. Tôi vớt chúng ra rồi ném vào hũ. Tôi dừng lại và nghỉ ngơi một lát, nước trong hũ cũng rất lạnh, mặc dù tôi đã làm ấm nó một chút để tay khỏi bị nứt nẻ. Tôi ôm lấy chiếc cốc sứ. Hơi nóng bốc lên. Tôi ghé mặt vào, hít hà làn hơi ấm và mùi cà phê. Và rồi, tại ơn Chúa, tôi nghe tiếng Henry huýt sáo trong lúc anh ấy đi dọc con đường băng qua vườn để tới xưởng vẽ. Anh ấy giậm cho tuyết rơi khỏi ủng và phủi vai áo choàng. Anh ấy có vẻ cực kỳ hạnh phúc. Tim tôi đập mạnh và tôi đoán: “24 tháng Năm, năm 1989?”

“Phải. Ôi, phải!” Henry nhấc bổng tôi lên, trong khi tôi vẫn đang đeo tạp dề ướt và ủng cao su, rồi xoay tôi vòng vòng. Tôi cười rộ, cả hai chúng tôi cùng cười rộ. Henry ngập tràn trong hưng phấn. “Tại sao em không nói cho anh biết? Anh đã phân vân tự hỏi một cách không cần thiết suốt những năm qua. Đồ ranh mãnh!” Anh ấy cắn vào cổ tôi, rồi thọc lét.

“Nhưng anh đã không biết, nên em không thể nói.”

“Ồ phải rồi. Chúa ạ, em thật tuyệt.” Chúng tôi ngồi xuống chiếc sofa cũ kĩ dơ dáy. “Anh có thể tăng nhiệt độ phòng lên một chút được không?”

“Dĩ nhiên rồi.” Henry nhảy dựng lên và tăng nhiệt độ lò sưởi. “Anh đã đi bao lâu?”

“Gần một ngày.”

Henry thở dài. “Nó có đáng không? Một ngày lo âu để đổi lại chỉ vài giờ tuyệt diệu?”

“Có. Đó là một trong những ngày đẹp nhất đời em.” Tôi im lặng nhớ lại. Tôi vẫn thường lôi ký ức về khuôn mặt của Henry khi nằm trên tôi, vây quanh bởi bầu trời xanh thẳm, và cảm giác được lấp đầy bởi anh ấy. Tôi nghĩ đến nó mỗi khi Henry biến mất hoặc khi tôi không ngủ được.

“Nói cho anh đi...”

“Nói gì?” Chúng tôi nằm trong vòng tay nhau, tìm hơi ấm, tìm sự dỗ dành.

“Chuyện gì xảy ra sau khi anh đi khỏi?”

“Em đã nhặt mọi thứ lên và chỉnh đốn diện mạo, rồi quay trở về nhà. Em đi lên phòng và không gặp phải ai. Em đã đi tắm. Sau một hồi, Etta bắt đầu gõ cửa thình thịch và tra hỏi tại sao em nằm trong bồn tắm giữa ban ngày ban mặt, em đã phải giả vờ rằng mình bị ốm. Xét về mặt nào đó thì đúng là em đã ốm. Em dành suốt mùa hè để thơ thẩn và ngủ triền miên. Em đọc sách. Em đã thu mình vào vỏ ốc mà em tự tạo ra. Đôi khi em đi tới đồng cỏ và hi vọng anh sẽ xuất hiện. Em viết thư cho anh, rồi lại đốt chúng đi. Em đã không ăn uống gì suốt một thời gian dài, khiến mẹ phải đưa em đến gặp bác sĩ tâm lí, rồi lại bắt đầu ăn trở lại. Cuối tháng Tám, bố mẹ em tuyên bố rằng, nếu em không trở nên tươi tỉnh hơn, em sẽ không được đến trường vào mùa thu năm đó, nên ngay lập tức em đã lại hoạt bát vì mục tiêu duy nhất trong đời em là được ra khỏi căn nhà đó và đến Chicago. Trường học là một điều trọng đại; nó mới mẻ, em có căn hộ riêng của mình và em yêu thành phố lớn. E đã có những điều để nghĩ đến ngoại trừ sự thật khó chịu rằng em chẳng biết anh đang ở đâu, cũng như làm cách nào để gặp được anh. Vào thời điểm em tình cờ gặp anh ở thư viện, em đang sống khá ổn; em rất thích công việc của mình, em có bạn bè, em được nhiều bạn trai để ý đến...”

“Ồ?”

“Dĩ nhiên rồi.”

“Em đã hẹn hò với họ?”

“Phải. Một vài lần. Để nghiên cứu... và vì đôi khi em tức giận trước ý nghĩ rằng ở đâu đó ngoài kia, dĩ nhiên anh đang hẹn hò với những người phụ nữ khác. Nhưng các cuộc hẹn của em đã như một vở hài kịch châm biếm. Em đi chơi với những anh chàng trẻ tuổi đáng yêu hoàn hảo làm nghệ thuật, và dành cả buổi tối để nghĩ việc này thật nhàm chán và vô nghĩa, và cứ không ngừng nhìn đồng hồ. Em ngừng hẹn hò sau khi gặp năm anh chàng, vì em có thể thấy rằng mình đang khiến họ phát cáu. Có ai đó đã phát tán tin đồn rằng em là người đồng tính, rồi đến lượt hàng loạt các cô gái rủ em đi chơi.”

“Anh có thể hình dung em trong lốt người đồng tính.”

“Anh mà không ngoan ngoãn là em sẽ chuyển giới đấy.”

“Anh luôn muốn trở thành một cô đồng tính nữ.” Henry có vẻ mơ màng, gà gật; không công bằng chút nào vì tôi đang rạo rực và sẵn sàng nhảy chồm lên người anh ấy. Henry ngáp. “Ít nhất không phải trong kiếp này. Phải trải qua quá nhiều cuộc phẫu thuật.”

Trong đầu tôi, tiếng Cha Compton ngồi phía sau phên sắt của phòng sám hối đang nhẹ nhàng hỏi còn việc gì khác nữa tôi muốn xưng tội hay không. Không, tôi kiên quyết đáp. Không, chẳng còn gì cả. Đó chỉ là một sai lầm. Tôi đã say nên lần đó không được tính. Vị Cha đức hạnh thở dài rồi kéo phên sắt. Buổi xưng tội kết thúc, sự sám hối của tôi là lường gạt Henry, phải để cho nó rơi vào quên lãng, cho đến khi nào chúng tôi không còn trên đời này nữa. Tôi nhìn anh ấy đang mãn nguyện no đủ, thoả thuê với sự duyên dáng của tôi thuở xuân thì, và hình ảnh Gomez đang say sưa ngủ, hình ảnh căn phòng của Gomez trong ánh nắng sớm vụt lên trong tâm trí tôi. Đó chỉ là một sai lầm, Henry, tôi câm lặng giãi bày với anh ấy. Tôi đã chờ đợi, và tôi vấp ngã, chỉ một lần duy nhất đó. Hãy nói với anh ấy, Cha Compton hay người nào đó khác trong đầu tôi nói. Tôi không thể, tôi cãi lại. Anh ấy sẽ ghét tôi.

“Clare”, Henry nói khẽ. “Tâm trí em đang ở phương nào vậy?”

“Em chỉ đang nghĩ.”

“Tại sao em có vẻ buồn vậy?”

“Có bao giờ anh sợ rằng tất cả những điều tuyệt diệu trong cuộc đời chúng ta đều đã xảy ra?”

“Không. Có lẽ đôi khi. Nhưng theo một nghĩa khác. Anh vẫn đang ghé thăm lại quãng thời gian mà em nhắc đến. Anh chỉ sợ rằng chúng ta không dành đủ sự quan tâm cho hiện tại. Du hành thời gian là một việc bất ổn, nên anh thường chú tâm nhiều hơn khi anh đang lạc trong nó, và đôi khi anh nghĩ rằng, nếu anh có thể dành sự chú tâm đó cho hiện tại, thì mọi việc sẽ trở nên thật hoàn hảo. Nhưng gần đây cũng có rất nhiều điều tuyệt diệu xảy đến với chúng ta.” Anh ấy mỉm cười, nụ cười cong cong rạng rỡ thơ ngây, và tôi để mặc cho sự ăn năn của mình lắng xuống, quay trở lại cái hộp nhỏ bé nơi tôi nhét nó gọn gàng như gập một chiếc dù.

“Alba.”

“Alba thật hoàn hảo. Và em thật hoàn hảo. Tình yêu của anh dành cho em chưa bao giờ thay đổi, bất kể thời gian có trôi qua, chúng ta chia sẻ cuộc sống này...”

“Trong hạnh phúc cũng như trong hoạn nạn...”

“Bởi vì có hoạn nạn khiến cho cuộc sống này càng trở nên chân thực. Đó là hiện thực mà anh muốn có.”

Hãy nói cho anh ấy biết, hãy nói ngay lúc này.

“Ngay cả thực tế cũng có thể trở nên không tưởng...” nếu tôi muốn nói thì đây là thời điểm thích hợp nhất. Anh ấy chờ đợi. Tôi không thể nói ra.

“Clare?” Tôi khổ sở nhìn anh ấy, như một đứa trẻ bị bóc mẽ giữa lời nói dối phức tạp, và cuối cùng tôi nói, gần như không nên lời.

“Em đã ngủ với người khác.” Mặt Henry cứng đờ, hoài nghi.

“Với ai?” anh ấy hỏi mà không nhìn vào tôi.

“Gomez.”

“Tại sao?” Henry vẫn bất động, đợi để bùng phát.

“Em đã say. Bọn em đã cùng tham dự một bữa tiệc, và Charisse đang ở Boston...”

“Đợi đã. Việc này xảy ra khi nào?”

“Năm 1990.”

Anh ấy phá lên cười. “Ôi, Chúa ơi. Clare, đừng làm như vậy với anh chứ. Khỉ thật. Năm 1990. Chúa ạ, anh tưởng em nói với anh chuyện vừa diễn ra tuần trước.” Tôi cười yếu ớt. Anh ấy nói, “Ý anh là, anh không nhảy lên vui mừng trước ý nghĩ đó, nhưng vì anh vừa nói với em rằng em hãy ra ngoài kia và trải nghiệm, thì anh không thể... Anh không biết nữa.” Anh ấy bắt đầu đứng ngồi không yên. Anh ấy đứng dậy và đi xung quanh xưởng vẽ. Tôi phân vân. Suốt 15 năm tôi đã tái tê trong sợ hãi, sợ rằng Gomez sẽ nói gì đó trong sự ích kỷ thường thấy của anh ấy. Nhưng giờ Henry chẳng bận tâm. Có không?

“Nó thế nào?” Anh ấy hỏi, khá bình thản, quay lưng lại với tôi trong lúc bận rộn với máy pha cà phê.

Tôi cẩn thận lựa lời để nói. “Khác biệt. Ý em là, để không gay gắt chỉ trích Gomez thì...”

“Ồ, em cứ tự nhiên.”

“Đại loại như đứng giữa cửa hiệu đồ sứ và tìm cách dắt con bò đực ra ngoài.”

“Của cậu ấy to hơn anh.” Henry nói chắc nịch.

“Giờ thì em không biết, nhưng hồi đó anh ấy chẳng có chút tế nhị nào. Anh ấy đã hút thuốc trong lúc quan hệ cùng em.” Henry nhăn mặt. Tôi đứng dậy và đi về phía anh ấy. “Em xin lỗi. Đó chỉ là một sai lầm.” Anh ấy kéo tôi lại gần, và tôi nói khẽ vào cổ áo của anh ấy, “Em đã rất kiên nhẫn chờ đợi...”, nhưng rồi tôi không thể nói tiếp. Henry vuốt tóc tôi. “Không sao đâu, Clare”, anh ấy nói. “Chuyện không có gì quan trọng cả.” Tôi tự hỏi liệu anh ấy có đang so sánh Clare mà anh ấy vừa gặp ở năm 1989 với bản thể tôi dối trá đang nằm trong vòng tay anh ấy. Và như thể anh ấy đọc được suy nghĩ của tôi, anh ấy nói, “Còn điều bất ngờ nào nữa không?”

“Chỉ có vậy thôi.”

“Chúa ạ, em thật sự không thể nào giữ được bí mật.” Tôi nhìn Henry, và anh ấy nhìn lại tôi đăm đăm. Tôi nhận thấy rằng hình ảnh của tôi trong mắt anh ấy đã thay đổi.

“Nó khiến anh hiểu rõ hơn... nó khiến anh cảm kích...”

“Anh đang muốn nói với em rằng em đã không phải dằn vặt trong sự so sánh?”

“Phải.” Tôi hôn anh ấy thăm dò, và sau một giây ngập ngừng, Henry hôn lại tôi, và không lâu sau chúng tôi lại trở về với bình thường. Tốt hơn cả bình thường. Tôi đã nói với anh ấy, và không có chuyện gì xảy ra cả, anh ấy vẫn yêu tôi. Tôi cảm thấy cơ thể mình nhẹ nhàng hơn, và tôi thở dài trong sự tốt đẹp của sự sám hối mà không phải hứng chịu, dù là nhỏ nhoi nhất, của sự trừng phạt. Tôi cảm thấy mình như bước ra khỏi chiếc xe vỡ nát tan tành mà không hề bị dù chỉ một vết nhọ trên má. Ở đâu đó ngoài kia, tôi và Henry đang quan hệ cùng nhau trên tấm mền xanh lá trong đồng cỏ, còn Gomez đang nhìn tôi ngái ngủ và đưa bàn tay to bè của anh ấy về phía tôi, và mọi thứ, mọi thứ đang diễn ra ngay vào lúc này, nhưng như thường lệ, đã quá trễ để thay đổi; Henry và tôi trút bỏ quần áo của nhau trên chiếc sofa trong xưởng vẽ như những hộp sô-cô-la còn nguyên vẹn chưa được chạm đến, và vẫn còn chưa muộn, ít nhất chưa phải lúc này.

Thứ Bảy, 14/4/1990 (Clare 18 tuổi)

CLARE: Tôi mở mắt và không biết mình đang ở đâu. Có mùi thuốc lá. Bóng chiếc rèm cửa đổ lên trên bức tường màu vàng rạn nứt. Tôi quay đầu và bên cạnh tôi, đang say sưa ngủ, trên giường của anh ấy, là Gomez. Bỗng chốc tôi nhận ra, và tôi hoảng hốt.

Henry. Ôi, Henry sẽ giết chết tôi. Charisse sẽ ghét bỏ tôi. Tôi ngồi dậy. Phòng ngủ của Gomez ngổn ngang những chiếc gạt tàn ngập ngụa, những bộ quần áo, sách luật, những tờ báo và những bát đĩa bẩn. Quần áo của tôi xếp thành chồng nhỏ trên sàn bên cạnh tôi.

Gomez đang say sưa ngủ. Anh ấy có vẻ bình thản, không giống như một người vừa ngoại tình với bạn thân của bạn gái mình. Mái tóc vàng của anh ấy rối bù, không giống với vẻ chải chuốt hoàn hảo thường ngày. Anh ấy trông như một cậu bé quá khổ, đang kiệt sức vì những trò chơi con trai.

Đầu tôi như muốn nổ tung. Khắp người tôi cảm thấy như vừa bị đánh cho bầm dập. Tôi lảo đảo ngồi dậy và đi dọc hành lang rồi bước vào nhà tắm ẩm ướt, mốc meo, ngập ngụa đồ dùng cạo râu và khăn tắm bẩn. Khi đã đứng giữa phòng tắm, tôi không còn nhớ mình muốn gì; tôi đi vệ sinh và rửa mặt bằng miếng xà phòng cứng, rồi nhìn chính mình trong gương, để xem tôi có khác đi chút nào, để xem nếu Henry có thể nhận ra chỉ bằng việc nhìn vào tôi. Ngoại trừ vẻ như muốn ói trên mặt, tôi trông chẳng khác gì những khi thức dậy vào bảy giờ sáng khác.

Căn nhà im lặng. Có tiếng đồng hồ kêu tích tắc ở đâu đó gần đây. Gomez thuê căn nhà này cùng với hai người bạn học ở trường Luật Northwestern. Tôi không muốn đụng mặt ai khác cả. Tôi quay trở lại phòng của Gomez và ngồi xuống giường.

“Chào buổi sáng.” Gomez mỉm cười, với tay về phía tôi. Tôi dội lại và bật lên khóc. “Ô kìa, mèo con! Clare, này, này...” Anh ấy nhổm người dậy và không lâu sau tôi đã ngồi khóc trong vòng tay của Gomez. Tôi nghĩ đến tất cả những lần tôi khóc trên vai Henry. Anh đang ở đâu? Tôi tự hỏi trong tuyệt vọng. Em cần anh lúc này. Gomez không ngừng gọi tên tôi. Tôi đang làm gì ở đây, trên người chẳng có một mảnh vải, và khóc trong vòng tay của Gomez cũng đang trần trụi? Anh ấy với người, lấy cho tôi một hộp khăn giấy. Tôi hỉ mũi và chấm mắt rồi nhìn anh ấy bằng ánh mắt tuyệt vọng cùng cực. Anh ấy nhìn lại tôi trong bối rối.

“Ổn rồi chứ?”

Không. Làm sao tôi có thể? “Vâng.”

“Có chuyện gì vậy?”

Tôi nhún vai. Gomez chuyển sang thái độ thẩm vấn nhân chứng.

“Clare, em đã từng quan hệ với ai bao giờ chưa?” Tôi gật đầu. “Vì Charisse? Em cảm thấy không phải với Charisse?” Tôi gật đầu. “Anh đã làm gì sai sao?” Tôi lắc đầu. “Henry là ai?” Tôi sửng sốt nhìn anh ấy chằm chằm.

“Làm sao anh biết?” Giờ thì tôi đã để lộ. Chết tiệt. Khỉ thật.

Gomez với người lấy bao thuốc trên chiếc bàn để cạnh giường và châm lửa. Anh ấy vẫy tắt que diêm và rít một hơi dài. Với điếu thuốc trên tay, Gomez có vẻ ăn vận đầy đủ hơn, mặc dù vẫn chẳng có mảnh vải nào trên người. Anh ấy đưa cho tôi một điếu, và tôi cầm lấy, cho dù tôi không hút thuốc. Nhưng đó có vẻ là điều nên làm, và nó cho tôi chút thời gian để nghĩ xem sẽ nói gì. Anh ấy châm thuốc cho tôi rồi đứng dậy lục lọi trong tủ quần áo, lôi ra một chiếc áo choàng tắm màu xanh trông không có vẻ sạch sẽ, rồi đưa nó cho tôi. Tôi khoác nó lên mình, nó rộng thùng thình. Tôi ngồi trên giường, hút thuốc và nhìn Gomez mặc quần jeans vào. Ngay cả trong tình trạng khốn khổ của mình, tôi vẫn có thể thấy Gomez là một anh chàng đẹp mã, cao ráo và to lớn, một vẻ đẹp hoàn toàn khác so với sự hoang dã của một con báo uyển chuyển ở Henry. Ngay lập tức tôi cảm thấy ghê tởm vì đã so sánh hai người. Gomez đặt gạt tàn xuống bên cạnh tôi, ngồi xuống giường và nhìn tôi.

“Em đã nói mơ về một anh chàng Henry nào đó.”

Chết tiệt. Chết tiệt. “Em đã nói gì?”

“Hầu như chỉ lặp đi lặp lại ‘Henry’, giống như em đang gọi ai đó đến bên mình. Rồi ‘Em xin lỗi.’ Có một lần em đã nói, ‘Chỉ tại không có anh ở đây’, như thể em đã rất tức giận. Henry là ai?”

“Henry là người yêu của em.”

“Clare, em không có người yêu. Charisse và anh đã gặp em hầu như mỗi ngày trong suốt sáu tháng qua, em chưa từng hẹn hò một ai, và không ai gọi điện cho em cả.”

“Henry là người yêu của em. Anh ấy đang đi xa một thời gian. Anh ấy sẽ quay về vào mùa thu năm 1991.”

“Anh ta đang ở đâu?” Đâu đó gần đây.

“Em không biết.” Gomez nghĩ tôi đang bịa chuyện. Chẳng hiểu vì sao tôi quyết tâm phải khiến anh ấy tin. Tôi chụp lấy túi xách, mở ví ra và chìa cho Gomez xem tấm ảnh của Henry. Anh ấy nhìn nó chăm chú.

“Anh đã nhìn thấy anh chàng này. Không, phải là: một ai đó rất giống anh ta. Anh chàng này quá già để là tên đó. Nhưng tên của hắn cũng là Henry.”

Tim tôi đập như điên dại. Tôi gắng tỏ ra bình thản và hỏi, “Anh đã gặp anh ấy ở đâu?”

“Các câu lạc bộ đêm. Chủ yếu là ở Exit và Smart Bar. Nhưng anh không thể hình dung hắn lại là người yêu của em; hắn là một gã khùng. Hắn đi đến đâu là hỗn loạn đến đó. Hắn là một kẻ nghiện rượu, và hắn... Anh không biết, nhưng hắn thật sự rất thô bạo với phụ nữ. Ít nhất đó là những gì anh được nghe.”

“Bạo lực?” Tôi không thể hình dung Henry lại có thể đánh một người phụ nữ.

“Không. Anh không biết.”

“Họ của anh ấy là gì?”

“Anh không biết. Nghe này, mèo con, hắn ta sẵn sàng ăn tươi nuốt sống em... hắn không phải hạng người em cần.”

Tôi mỉm cười. Anh ấy chính xác là người tôi cần, nhưng tôi biết lang thang khắp các quán bar để tìm anh ấy chỉ là vô nghĩa. “Em cần người như thế nào?”

“Người như anh. Chỉ có điều em không nghĩ vậy.”

“Anh đã có Charisse. Anh còn cần em làm gì?”

“Anh chỉ muốn có em. Anh cũng không biết tại sao.”

“Anh là một tín đồ Mormon[1] hay sao vậy?”

[1] Đạo Mormon, tên gọi chính thức là Giáo hội Chúa Giêsu Kitô của các Thánh ngày Sau hết. Các tín đồ Mormon tin rằng có nhiều Chúa và nhiều thế giới. Chúa có lúc đã là con người. Tín đồ Mormon sẽ thành các Chúa sau khi chết.

Gomez nghiêm nghị nói: “Clare, anh...”

“Đừng nói ra điều đó.”

“Thật lòng, anh...”

“Không. Em không muốn nghe.” Tôi đứng dậy, dập thuốc lá rồi mặc quần áo. Gomez vẫn ngồi bất động và nhìn tôi mặc đồ. Tôi cảm thấy cũ kĩ, bẩn thỉu và ớn lạnh khi mặc lên người bộ quần áo dự tiệc tối qua trước mặt Gomez, nhưng tôi cố gắng không thể hiện ra ngoài. Tôi không thể kéo phéc-mơ-tuya sau lưng chiếc váy nên Gomez đã giúp tôi.

“Clare, đừng tức giận.”

“Em không giận anh. Em chỉ giận chính mình.”

“Anh chàng này chắc phải đặc biệt lắm mới có thể rời bỏ một cô gái như em và tin rằng em sẽ đợi suốt hai năm.”

Tôi cười với Gomez. “Anh ấy là một người tuyệt vời.” Tôi có thể thấy mình đang làm tổn thương Gomez. “Gomez, em xin lỗi. Nếu em chưa vướng bận, và anh chưa vướng bận thì...” Gomez lắc đầu, và trước khi tôi kịp nhận ra, anh ấy đã hôn tôi. Tôi hôn lại anh ấy, và trong khoảnh khắc, tôi tự hỏi... “Em phải đi đây, Gomez.”

Anh ấy gật đầu.

Tôi bỏ đi.

Thứ Sáu, 27/4/1990 (Henry 26 tuổi)

HENRY: Ingrid và tôi đang ở nhà hát Riviera và đang nhảy cho rụng rời bộ óc tí hon của chúng tôi trong tiếng nhạc của Iggy Pop. Ingrid và tôi luôn hạnh phúc nhất khi chúng tôi đang nhảy, làm tình hoặc bất kỳ hoạt động thể xác nào mà không phải nói chuyện cùng nhau. Ngay lúc này đây chúng tôi đang lạc trên thiên đàng. Chúng tôi đang nhảy ở hàng đầu và Pop đang khiến chúng tôi đặc quánh trong sự cuồng nhiệt. Đã có lần tôi nói với Ing rằng cô ấy nhảy như một người Đức, và cô ấy không thích nghe điều đó, nhưng nó là sự thật: cô ấy nhảy quá nghiêm túc, như thể cuộc sống đang bị đặt lên cân đo, như thể một điệu nhảy chuẩn xác có thể cứu sống những đứa trẻ đói khát ở Ấn Độ. Iggy đang ngâm nga Calling Sister Midnight (Anh làm một thằng khờ vì em...) và tôi hiểu chính xác những gì ông ấy đang cảm nhận. Chính trong những khoảnh khắc như thế này tôi mới hiểu ý nghĩa của mối quan hệ giữa tôi và Ingrid. Chúng tôi cuồng cháy trong Lust for Life, China Doll, Funtime. Ingrid và tôi đã nhảy đủ năng lượng để bay tới Diêm Vương Tinh. Tôi có một cảm giác thăng hoa kì lạ và sự chắc chắn rằng tôi có thể làm việc này, ở đây, suốt cả cuộc đời và hoàn toàn thoả mãn. Ingrid đang đổ mồ hôi như tắm. Chiếc áo phông trắng của cô ấy đã dính vào người một cách khá thú vị và duyên dáng. Tôi cân nhắc việc lột bỏ nó khỏi người cô ấy nhưng rồi gắng kiềm chế lại vì hôm nay cô ấy không mặc áo lót, và vì nếu làm vậy, cô ấy sẽ không bao giờ thôi cằn nhằn. Chúng tôi nhảy, Iggy Pop hát, và đáng tiếc, sau ba bài hát thêm, buổi hoà nhạc cuối cùng cũng kết thúc. Tôi cảm thấy rất phấn chấn. Trong lúc chúng tôi lũ lượt ra về cùng những người đi xem hoà nhạc hoan hỉ và phấn chấn khác, tôi tự hỏi nên làm gì tiếp theo. Ingrid bỏ đi giữa một hàng dài chờ vào nhà vệ sinh, còn tôi đợi cô ấy ở đường Broadway. Tôi đang nhìn một tay chơi ngồi trong chiếc BMW cãi nhau với thằng nhóc giữ xe vì đỗ xe trái phép khi một gã tóc vàng to lớn bước lại gần.

“Henry?” Hắn ta hỏi. Tôi phân vân không biết có phải mình sắp bị triệu ra toà hay gì đó không.

“Vâng?”

“Clare gửi lời chào.” Clare là đứa nào?

“Xin lỗi, anh nhầm người rồi.” Ingrid lại gần, lại trông như người tình của Bond như thường lệ. Cô ấy nhìn gã tóc vàng, người có thể được coi như một hình mẫu khá ổn của cánh đàn ông, dò xét. Tôi quàng tay qua người cô ấy.

Gã tóc vàng mỉm cười. “Xin lỗi. Chắc hẳn anh phải có anh em song sinh gì đó ngoài kia.” Tim tôi co lại; có chuyện gì đó diễn ra mà tôi không được biết; một chút tương lai của tôi đang nhỏ về hiện tại, nhưng bây giờ không phải lúc tìm hiểu. Hắn ta có vẻ vui mừng vì điều gì đó, rồi chào tạm biệt và đi mất.

“Chuyện gì vậy?” Ingrid hỏi.

“Chắc hắn ta nhầm anh với ai đó.” Tôi nhún vai. Ingrid tỏ vẻ lo lắng. Hầu như điều gì dính dáng đến tôi đều khiến Ingrid lo lắng, nên tôi phớt lờ. “Này Ing, chúng ta làm gì tiếp theo đây?” Tôi cảm thấy như muốn nhảy qua sân thượng hai toà cao ốc.

“Về nhà em nhé?”

“Tuyệt vời.” Chúng tôi dừng lại ở Kẹo của Margie để mua kem, và không lâu sau đã ngồi trong xe đồng thanh hét, “Anh thèm, em thèm, tất cả chúng ta đều thèm kem” và cười nắc nẻ như hai đứa trẻ bị loạn trí. Một lát sau, khi đang nằm trên giường với Ingrid, tôi tự hỏi Clare là ai, nhưng rồi tôi nghĩ chắc hẳn sẽ chẳng có câu trả lời cho điều đó vào lúc này, nên tôi quên nó đi.

Thứ Sáu, 18/2/2005 (Henry 41, Clare 33)

HENRY: Tôi đang đưa Charisse đi xem opera. Vở Tristan và Isolde. Lí do tôi ngồi đây với Charisse có liên quan đến ác cảm mãnh liệt của Clare với Wagner. Tôi cũng chẳng hâm mộ Wagner, nhưng chúng tôi có vé không thời hạn nên tôi thà xem sớm còn hơn muộn. Chúng tôi đã nhắc đến việc này trong một buổi tối nọ ở nhà Charisse và Gomez. Charisse đã ủ rũ nói rằng cô ấy chưa bao giờ được xem opera. Và kết quả là tôi đang bước ra khỏi taxi cùng Charisse trước cửa nhà hát Lyric, còn Clare đang ở nhà trông Alba và chơi Scrabble với Alicia, người đang ghé thăm chúng tôi tuần này.

Tôi không thực sự có hứng thú với buổi tối hôm nay. Khi tôi đến nhà đón Charisse, Gomez đã nháy mắt với tôi và nói: “Đừng đưa cô ấy về trễ quá, nhóc!” bằng giọng của một bậc phụ huynh vô tâm tốt nhất mà anh ta có thể. Tôi không thể nhớ lần cuối tôi và Charisse làm gì cùng nhau mà chỉ có hai chúng tôi là khi nào. Tôi rất thích Charisse, nhưng tôi chẳng có gì để nói với cô ấy cả.

Tôi dẫn Charisse xuyên qua đám đông. Cô ấy đi rất chậm, từ tốn bước qua hành lang lộng lẫy, các gian phòng cao bằng cẩm thạch chật cứng những người giàu có tao nhã và lịch thiệp, cùng các sinh viên trong những bộ áo choàng giả lông và khuyên mũi. Charisse mỉm cười với người bán lời nhạc kịch – hai người đàn ông mặc áo tuxedo đứng trước cửa ra vào và ngân nga “Lời nhạc kịch! Lời nhạc kịch đây! Hãy mua cho mình một bản lời của nhạc kịch đi!” trong sự hoà âm hai bè. Không có ai tôi quen đang ở đây. Người hâm mộ Wagner là Mũ Nồi Xanh[2] của cộng đồng opera; họ có những quy tắc rất nghiêm khắc và đều biết lẫn nhau. Rất nhiều tiếng hôn gió đang vang lên trong lúc Charisse và tôi bước lên những hàng ghế đầu tiên của ban công thấp nhất trong nhà hát.

[2] Lực lượng đặc nhiệm Mũ Nồi Xanh (Green Berets) là đơn vị tác chiến đặc biêtk tinh nhuệ của Lục quân Mỹ.

Clare và tôi có một lô riêng; đó là một trong những đam mê cuả chúng tôi. Tôi kéo rèm và Charisse bước vào, nói, “Ồ!” Tôi cởi áo choàng của cô ấy và treo nó sau ghế, rồi làm tương tự với áo khoác của tôi. Chúng tôi ngồi xuống. Charisse vắt hai cổ chân vào nhau rồi đặt đôi bàn tay nhỏ nhắn lên đùi. Mái tóc đen của cô ấy lập loà dưới ánh đèn mờ dịu, với màu son tối và đắm chìm trong vẻ đẹp của nhà hát: Chiếc rèm xanh và vàng được trang trí công phu đang che chắn sân khấu, những gợn sóng như những thác nước thạch cao đang ôm lấy mọi mái vòm và khung tò vò cùng với tiếng rì rầm phấn khích của đám đông. Rèm sân khấu được vén lên, chúng tôi đang ở trên một chiếc thuyền và Isolde đang hát. Tôi tựa lưng vào ghế và thả lòng mình theo tiếng hát.

Bốn giờ đồng hồ, một liều tình dược, và những tràng pháo tay giòn rã qua đi, tôi quay sang Charisse, hỏi, “Em thấy vở nhạc kịch thế nào?”

Cô ấy mỉm cười, “Nó thật ngớ ngẩn, phải không? Nhưng những tiếng hát đã làm cho nó không còn ngớ ngẩn.”

Tôi giơ áo khoác của cô ấy lên, cô ấy lần mò tìm ống tay áo rồi khoác lên mình. “Ngớ ngẩn? Có lẽ vậy. Nhưng anh sẵn sàng vờ như Jane England là một cô gái trẻ đẹp thay vì là một con bò nặng 300 pound, bởi cô ấy có giọng hát của Euterpe3.”

[3] Euterpe (thần thoại Hy Lạp): Nữ thần của âm nhạc và thơ trữ tình, một trong chín nữ thần nghệ thuật.

“Euterpe?”

“Nữ thần âm nhạc.” Chúng tôi hoà vào dòng người mãn nguyện đang túa ra ngoài, bước vào cái lạnh của đêm đông. Chúng tôi đi qua đường Wacker Drive và vẫy được taxi chỉ sau vài phút. Tôi đang chuẩn bị nói với tài xế địa chỉ của Charisse thì cô ấy nói, “Henry, hãy đi uống cà phê nhé? Em chưa muốn về nhà.” Tôi bảo tài xế đưa chúng tôi đến Don’s Coffee Club nằm trên đường Jarvis ở phía bắc thành phố. Charisse tán gẫu về tiếng hát của các diễn viên, mà đã rất tuyệt vời; về dàn dựng sân khấu, mà cả hai chúng tôi đều đồng ý rằng đã không truyền cảm hứng được cho khán giả; về sự khó khăn đạo đức trong việc tận hưởng giọng hát của Wagner khi bạn biết rằng ông ta là một tên khốn theo chủ nghĩa bài Do Thái và thần tượng Hitler. Khi chúng tôi đến Don’s, cả tiệm đang reo hò ầm ĩ; mọi sự chú ý đang đổ dồn về Don trong chiếc áo Hawaii màu cam; tôi vẫy tay với anh ấy. Chúng tôi ngồi xuống một chiếc bàn nhỏ ở phía trong. Charisse gọi bánh anh đào trộn kem và cà phê, còn tôi gọi cà phê, sandwich mứt và bơ đậu phộng như thường lệ. Perry Como đang ngân nga trên đài. Có một luồng khói thuốc đang bay lơ lửng trên những bộ đồ ăn và các bức tranh bán thanh lí. Charisse gục đầu vào lòng bàn tay và thở dài.

“Buổi tối nay thật tuyệt. Em cảm thấy như đôi khi em quên mất thế nào là người lớn.”

“Bọn em không ra ngoài nhiều phải không?”

Charisse quệt kem lên xung quanh chiếc đĩa của cô ấy, cười nói, “Joe vẫn hay làm vậy. Thằng bé bảo kem sẽ ngon hơn khi nó mềm. Chúa ạ, em đang học những thói hư của trẻ thay vì dạy cho chúng những điều tốt đẹp từ em.” Cô ấy cắn một miếng bánh. “Để trả lời cho câu hỏi của anh, bọn em có ra ngoài, nhưng chủ yếu lúc nào cũng là những buổi dính líu đến chính trị. Gomez đang cân nhắc ứng cử vào vị trí uỷ viên lập pháp của thành phố.”

Tôi nghẹn cà phê và ho lên sặc sụa. Khi có thể nói trở lại, tôi đáp, “Em đang đùa phải không? Chẳng phải như vậy là gia nhập vào phe ác sao? Chẳng phải Gomez luôn chỉ trích chính quyền thành phố?”

Charisse nhìn tôi gượng gạo. “Anh ấy quyết định sẽ thay đổi hệ thống từ bên trong. Anh ấy đã chán ngấy những vụ bạo hành trẻ em kinh tởm. Em nghĩ anh ấy đã tự thuyết phục mình rằng anh ấy sẽ có thể cải thiện tình hình nếu có chút quyền hành trong tay.”

“Có thể cậu ấy đúng.”

Charisse lắc đầu. “Em thích khi bọn em còn là những nhà cách mạng theo chủ trương vô chính phủ hơn. Em thà ném bom cho nó tan tành còn hơn phải xu nịnh.”

Tôi cười. “Anh đã không biết em còn cực đoan hơn cả Gomez.”

“Chỉ là em không kiên nhẫn như Gomez. Em muốn có hành động.”

“Gomez mà kiên nhẫn?”

“Dĩ nhiên rồi. Cứ nhìn vào chuyện với Clare là biết...” Charisse dừng lại đột ngột, nhìn tôi.

“Chuyện gì với Clare?” Trong lúc tôi hỏi điều này, tôi nhận ra rằng đây là lí do chúng tôi đang ở đây, rằng Charisse đã đợi thời cơ để nói về chuyện này. Tôi tự hỏi có điều gì cô ấy biết mà tôi không biết hay không. Tôi tự hỏi liệu tôi có muốn biết điều mà Charisse biết. Tôi không nghĩ tôi muốn biết điều gì cả.

Charisse quay mặt đi, rồi lại nhìn tôi. Cô ấy cúi xuống cốc cà phê của mình, đặt hai tay quanh thân cốc. “Em tưởng anh đã biết... Gomez rất yêu Clare.”

“Phải.” Tôi không tạo điều kiện cho cô ấy tiến tới.

Charisse mân mê những thớ gỗ trên mặt bàn. “Clare đã bảo anh ấy hãy vứt bỏ tình cảm đó đi. Nhưng Gomez nghĩ rằng nếu anh ấy nấn ná đủ lâu, sẽ có chuyện xảy ra, và anh ấy sẽ có được Clare.”

“Có chuyện xảy ra...?”

“Với anh.” Charisse nhìn vào mắt tôi.

Tôi cảm thấy muốn bệnh. “Đợi anh một chút”, tôi nói với cô ấy. Tôi đứng dậy và đi về phía nhà vệ sinh treo tấm hình Marilyn Monroe nhỏ xíu. Tôi vẩy nước lạnh lên mặt rồi nhắm mắt đứng tựa vào tường. Khi biết rằng tôi sẽ không biến mất đi đâu cả, tôi quay trở lại bàn và ngồi xuống. “Xin lỗi về chuyện đó. Em đang nói gì nhỉ?”

Charisse có vẻ nhỏ bé và sợ hãi. “Henry”, cô ấy nói khẽ. “Hãy nói cho em biết.”

“Nói gì cơ, Charisse?”

“Nói với em rằng anh sẽ không đi đâu cả. Rằng Clare không muốn có Gomez. Rằng mọi chuyện sẽ ổn thoả. Hoặc nói rằng tất cả chỉ là tưởng tượng. Hãy nói với em chuyện gì sẽ xảy ra!” Giọng Charisse run run. Cô ấy đặt tay lên tay tôi, và tôi ép chính mình không được rụt lại.

“Em sẽ ổn thôi, Charisse. Mọi chuyện rồi sẽ ổn.” Cô ấy nhìn tôi chằm chằm ngờ vực nhưng muốn tin. Tôi ngả lưng xuống ghế. “Cậu ấy sẽ không bỏ em.”

Cô ấy thở dài. “Còn anh?”

Tôi im lặng. Charisse nhìn tôi không chớp mắt, rồi gục đầu xuống. “Về thôi”, cuối cùng cô ấy nói, và chúng tôi ra về.

Chủ Nhật, 12/6/2005 (Henry 26 tuổi)

CLARE: Một buổi trưa Chủ Nhật nắng ráo, tôi đi vào bếp và thấy Henry đang đứng bên cửa sổ và nhìn ra ngoài sân. Anh ấy vẫy tôi lại gần. Tôi đứng cạnh anh ấy và nhìn ra. Alba đang chơi trong sân với một cô bé lớn hơn nó. Cô bé khoảng bảy tuổi, có mái tóc đen dài và đi chân trần. Cô bé đang mặc chiếc áo phông dơ dáy có logo của Cubs trước ngực. Cả hai đang ngồi bệt xuống đất, quay mặt vào nhau. Cô bé kia quay lưng lại phía chúng tôi. Alba đang mỉm cười và vẫy tay như đang bay lượn. Cô bé lắc đầu và cười.

Tôi nhìn Henry. “Cô bé nào vậy?”

“Đó là Alba.”

“Em biết, nhưng nó đang chơi với ai vậy?”

Henry mỉm cười nhưng chân mày anh ấy nhíu lại nên cười có vẻ phiền muộn. “Clare, đó là Alba khi con bé lớn hơn. Con bé đang đi xuyên thời gian.”

“Ôi chúa tôi.” Tôi nhìn chăm chăm vào con bé. Nó đang quay người lại chỉ vào nhà và tôi kịp liếc nhìn con bé, rồi nó lại quay đi. “Chúng ta có nên ra đó không?”

“Không cần đâu. Con bé ổn. Nếu chúng muốn, chúng sẽ vào.”

“Em rất muốn gặp con bé...”

“Đừng gặp sẽ tốt hơn...” Henry bắt đầu, nhưng khi anh ấy bắt đầu vừa mở miệng thì hai Alba đã nhảy lên và cùng nhau chạy vào nhà, tay trong tay. Chúng mở tung cửa vào trong bếp, cười nói. “Mẹ, mẹ”, Alba ba tuổi của tôi vừa nói vừa chỉ tay, “Mẹ xem này! Alba lớn!”

Alba kia tươi cười nói, “Chào mẹ”, tôi mỉm cười đáp lại, “Chào Alba.” Con bé quay người, nhìn thấy Henry và hét toáng lên, “Bố!” rồi chạy bổ về phía Henry, ôm chầm lấy anh ấy và bắt đầu khóc. Henry liếc nhìn tôi, cúi xuống Alba và thì thầm điều gì đó vào tai con bé.

HENRY: Mặt Clare trắng bệch; cô ấy đứng nhìn chúng tôi, tay cầm tay Alba bé đang há hốc mồm nhìn cơ thể lớn hơn của nó ôm chầm lấy tôi thổn thức. Tôi cúi xuống và thì thầm vào tai Alba: “Đừng để mẹ biết rằng bố sẽ chết.” Con bé ngẩng lên nhìn tôi, nước mắt đang đọng lại trên đôi mi dài của nó, miệng run rẩy, gật đầu. Clare chìa tay đưa khăn giấy cho Alba và bảo con bé xì mũi, rồi ôm con bé. Alba bằng lòng để được dẫn đi rửa mặt. Alba nhỏ, của hiện tại, ôm ghì lấy chân tôi. “Tại sao vậy bố? Tại sao chị ấy lại khóc?” Rất may tôi không phải trả lời con bé vì Clare đã trở lại cùng Alba lớn; Alba đang mặc áo phông của Clare và quần được cắt ra từ quần của tôi. Clare nói, “Chúng ta cùng đi ăn kem nhé?” Cả hai Alba mỉm cười; Alba nhỏ nhảy quanh chúng tôi và hét lên, “Con thèm kem, mẹ thèm kem, con thèm kem, chị thèm kem...” Chúng tôi đổ dồn lên xe, Clare ngồi sau tay lái, Alba ba tuổi ngồi trên ghế trước, Alba bảy tuổi và tôi ngồi ở ghế sau. Con bé dựa vào tôi, tôi quàng tay qua người con bé. Chẳng ai nói với nhau nửa lời, ngoại trừ Alba bé nhỏ, “Chị Alba, nhìn kìa, một con chó! Chị Alba, nhìn kìa, nhìn kìa...” cho đến khi con bé lớn đáp lại, “Ừ, Alba, chị thấy rồi.” Clare đưa chúng tôi đến Zephyr; chúng tôi ngồi xuống bên một chiếc bàn nhựa màu xanh sáng loá và gọi hai kem chuối, một sô-cô-la mạch nha, và một ốc quế vani. Lũ trẻ mút kem chuối của chúng như những chiếc máy hút bụi; Clare và tôi mân mê phần kem của mình, không nhìn vào nhau. Clare nói, “Alba, cuộc sống ở hiện tại của con thế nào?”

Alba ném vội cho tôi một cái nhìn. “Không có gì nhiều ạ”, con bé nói. “Ông nội đang dạy con bản công-xéc-tô dành cho violin thứ của Saint Saens.”

“Con đang chơi cho vở nhạc kịch ở trường”, tôi buột miệng.

“Thật sao?”

“Ồ, bố xin lỗi”, tôi nói. “Có lẽ nó sẽ chưa diễn ra cho đến năm sau đó.” Và câu chuyện tiếp tục như thế. Chúng tôi ngập ngừng trò chuyện, cân nhắc giữa những gì chúng tôi biết và những gì chúng tôi phải ngăn không cho Clare và Alba nhỏ biết. Sau một hồi, Alba lớn gục đầu vào tay trên bàn. “Con mệt hả?” Clare hỏi. Con bé gật đầu. “Chúng ta nên về thôi”, tôi bảo Clare. Chúng tôi thanh toán. Tôi bế Alba lên; con bé mềm oặt, gần như ngủ gật trên tay tôi. Clare bế Alba nhỏ đang kích động vì quá nhiều đồ ngọt. Chúng tôi trở vào xe và trong lúc đang rong ruổi trên đại lộ Lincoln, Alba tan biến. “Con bé đi về rồi”, tôi bảo Clare. Chúng tôi nhìn vào mắt nhau một thoáng trong gương chiếu hậu. “Về đâu hả bố?” Alba hỏi. “Về đâu?”

Sau đó:

CLARE: Cuối cùng tôi cũng dỗ được cho Alba ngủ. Henry đang ngồi trên giường uống Scotch và nhìn ra cửa sổ ngắm những con sóc đang rượt đuổi bên dưới giàn nho trong vườn. Tôi lại gần và ngồi xuống bên cạnh anh ấy. “Xin chào”, tôi nói. Henry nhìn tôi, đưa tay ôm lấy tôi và kéo vào lòng. “Xin chào”, anh ấy đáp.

“Anh sẽ nói với em chuyện vừa nãy là thế nào chứ?” tôi hỏi.

Henry đặt ly rượu xuống và bắt đầu cởi từng chiếc khuy trên áo tôi ra. “Anh có thể thoát mà không cần phải nói cho em biết không?”

“Không.” Tôi cởi thắt lưng và khuy quần jeans của anh ấy.

“Em chắc chứ?” Anh ấy hôn lên cổ tôi.

“Chắc.” Tôi kéo khoá quần của anh ấy xuống, luồn tay bên dưới chiếc áo sơ mi, lướt qua bụng anh ấy.

“Em sẽ không muốn biết.” Henry thở vào tai tôi, chạy dọc lưỡi trên vành tai. Tôi rùng mình. Anh ấy lột áo tôi ra, gỡ móc cài áo lót. Ngực tôi xổ ra giải phóng và tôi nằm xuống nhìn Henry cởi quần jeans, quần lót và áo sơ mi của anh ấy. Anh ấy trèo lên giường. Tôi nói, “Tất nữa.”

“Ồ, phải rồi.” Anh ấy tháo tất. Chúng tôi nhìn nhau.

“Anh chỉ đang tìm cách làm em phân tán.” Tôi nói.

Henry vuốt bụng tôi. “Anh đang tìm cách làm phân tán chính mình. Nếu anh đồng thời làm em phân tán thì đó là một phần thưởng kèm theo.”

“Hãy nói cho em biết.”

“Anh sẽ không nói.” Anh ấy vuốt ngực tôi, đưa tay xoa nụ hoa.

“Vậy thì em sẽ hình dung ra trường hợp tồi tệ nhất.”

“Em cứ tự nhiên.” Tôi ưỡn mông và Henry trút bỏ quần jeans và quần lót của tôi. Anh ấy giạng chân tôi ra, nằm lên tôi, hôn tôi. Ôi, Chúa ơi, tôi tự nhủ, nó có thể là chuyện gì? Điều tồi tệ nhất là gì? Tôi nhắm mắt lại. Một kí ức ùa về: Đồng cỏ một ngày giá rét của tuổi thơ tôi, tôi chạy trên những ngọn cỏ tàn úa, có tiếng động, Henry gọi tên tôi...

“Clare?” Henry khẽ cắn vào tai tôi. “Tâm trí em đang ở đâu vậy?”

“Năm 1984.”

Henry ngừng lại và nói, “Tại sao?”

“Em nghĩ đó là nơi nó diễn ra.”

“Nơi cái gì diễn ra?”

“Việc mà anh không dám nói với em.”

Henry trượt khỏi người tôi và chúng tôi nằm xuống bên cạnh nhau. “Kể cho anh nghe đi”, anh ấy nói.

“Đó là sáng sớm một ngày mùa thu. Bố em và Mark đang ra ngoài đi săn. Em đã tỉnh giấc vì nghĩ có tiếng anh gọi. Em chạy ra ngoài đồng cỏ, và anh đang ở đó. Anh, bố và Mark đang cùng nhìn một thứ gì đó, nhưng bố bắt em trở vào trong nhà nên em đã không biết các anh đang nhìn gì.

“Ồ.”

“Một lát sau em đã quay trở lại nơi đó. Có một đám cỏ chìm trong máu.”

Henry chẳng nói gì chỉ mím chặt môi. Tôi quàng tay qua người anh ấy, ôm chặt. Tôi nói, “Điều tồi tệ nhất...”

“Suỵt, Clare.”

“Nhưng...”

“Suỵt.” Bên ngoài trời vẫn nắng rực rỡ. Còn trong nhà, chúng tôi đang rét run vì lạnh, ôm chặt lấy nhau tìm hơi ấm. Alba đang say sưa ngủ trên giường của con bé và mơ về những li kem, mơ những giấc mơ huyền diệu của tuổi lên ba, trong khi một Alba khác ở đâu đó trong tương lai đang mơ được vòng tay ôm lấy bố, và tỉnh dậy để thấy gì... thấy gì?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,526
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: Chuyện xảy ra ở bãi đỗ xe đường Monroe


Thứ Hai, 7/1/2006 (Clare 34, Henry 42)

CLARE: Chúng tôi đang say sưa ngủ trong bình minh của một ngày mùa đông khi điện thoại đổ chuông. Tôi bị dựng dậy và nhận ra Henry vẫn đang nằm bên cạnh. Anh ấy với tay qua người tôi và nhấc điện thoại lên. Tôi nhìn đồng hồ, đang là 4 giờ 32 phút sáng. “Xin chào”, Henry nói. Anh ấy lắng nghe trong khoảng một phút. Giờ thì tôi đã hoàn toàn tỉnh giấc. Mặt Henry chẳng để lộ cảm xúc. “Được rồi. Ở nguyên đấy. Chúng tôi sẽ tới ngay.” Anh ấy nhoài người, cúp máy.

“Ai vậy?”

“Là anh. Anh đang ở bãi đỗ xe đường Monroe, không quần áo, trong nhiệt độ âm mười lăm độ. Chúa ơi, hi vọng xe vẫn có thể khởi động.”

Chúng tôi nhảy xuống giường, mặc vội quần áo của ngày hôm qua. Henry đã đi giày ống và khoác áo choàng trước cả khi tôi kịp xỏ quần jeans vào. Anh ấy chạy ra ngoài khởi động xe. Tôi nhét áo sơ mi của Henry, quần lót, quần jeans, tất, ủng, áo khoác và găng tay, kèm một chiếc chăn vào trong túi, đánh thức Alba dậy, mặc quần áo cho nó rồi chạy ra ngoài cửa. Tôi lái xe ra khỏi gara trước khi nó kịp nóng lên, và nó chết máy. Tôi khởi động lại, chúng tôi ngồi đợi chừng một phút rồi tôi thử lần nữa. Hôm qua tuyết rơi dày hơn mười phân, đường Ainslie lụt trong băng tuyết. Alba đang khóc nhè, Henry phải quay sang dỗ con bé. Khi đến Lawrence, tôi tăng tốc và mười phút sau tôi đã đến Drive, không có ai ra ngoài vào lúc này, lò sưởi của chiếc Honda kêu rù rì. Bên kia mặt hồ, trời đang dần hửng sáng. Mọi thứ độc màu xanh và cam, giòn tan trong cái lạnh tê tái. Trong lúc rong ruổi trên Lake Shore Drive, một kí ức mãnh liệt hiện lên trong tôi: cái lạnh, mặt nước tĩnh lặng mơ hồ, những ngọn đèn đường rực sáng: tôi đã từng trải qua khoảnh khắc này trước đó. Tôi vướng sâu vào khoảnh khắc này và nó lan toả, mặc dù chúng tôi đang phóng vút đi trong đô thị mùa đông, nhưng thời gian như đang dừng lại. Chúng tôi đi qua Irving, Belmont, Fullerton, LaSalle: tôi rẽ ở Michiga. Chúng tôi lướt qua con lộ của những cửa hiệu sang trọng vắng vẻ, đường Oak, Chicago, Randolph, Monroe, và giờ đang đi xuống thế giới ngầm bằng bê tông của các bãi đỗ xe. “Hãy lái tới cuối hướng Tây Bắc”, Henry nói. “Ở box điện thoại cạnh trạm bảo vệ.” Tôi đi theo chỉ dẫn của anh ấy. Kí ức đã biến mất. Tôi cảm thấy như vừa bị thiên thần hộ mệnh bỏ rơi. Bãi đỗ xe hầu như trống trơn. Tôi phóng xe qua những đường kẻ màu vàng để tới chiếc điện thoại thẻ: ống nghe đang đung đưa lơ lửng. Không thấy bóng dáng Henry đâu cả.

“Có thể anh đã quay trở về.”

“Cũng có thể không...” Henry bối rối, tôi cũng vậy. Chúng tôi bước ra khỏi xe. Dưới này rất lạnh. Hơi thở của tôi ngưng tụ lại rồi biến mất. Tôi không nghĩ mình nên về, nhưng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra. Tôi đi lại trạm bảo vệ và nhìn vào bên trong. Không có ai cả. Những chiếc màn hình theo dõi hiện ra các dải bê tông trống trải. “Chết tiệt. Anh đã đi đâu rồi? Hãy đi vòng quanh thử xem.” Chúng tôi quay trở vào xe và chậm rãi lái qua những gian hầm trống rỗng, đi qua các tấm biển chỉ dẫn: Lái Chậm, Các Bãi Đỗ Khác, Hãy Nhớ Vị Trí Xe Của Bạn. Không thấy bóng dáng Henry ở đâu cả. Chúng tôi nhìn nhau bất lực.

“Anh từ đâu đến?”

“Cậu ấy không nói.”

Chúng tôi lái xe về nhà trong im lặng. Alba đang ngủ. Henry nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ. Bầu trời không một gợn mây và ửng hồng ở phía đông. Đã có nhiều xe hơn trên đường, những người đi làm sớm. Trong lúc đợi đèn đỏ ở đường Ohio, tôi nghe có tiếng những con hải âu đang kêu quang quác. Mặt đường tối om với muối và tuyết. Cả thành phố mềm mại, trắng muốt và mờ mịt trong tuyết. Mọi thứ thật tuyệt đẹp. Chúng tôi có vẻ như vô sự vào lúc này, nhưng sớm hay muộn, sẽ có chuyện khủng khiếp xảy đến.

Sinh nhật

Thứ Năm, 15/6/2006 (Clare 35 tuổi)

CLARE: Mai là sinh nhật Henry. Tôi đang ở Vintage Vinyle tìm đĩa hát mà anh ấy thích nhưng chưa có. Tôi đã hy vọng có thể nhờ sự giúp đỡ của Vaughn, chủ cửa tiệm, vì Henry thường ghé cửa hàng này trong nhiều năm nay. Nhưng thay vì Vaughn, một cậu học sinh phổ thông đang đứng sau quầy bán hàng. Cậu ấy mặc áo phông Seven Dead Arson và chắc hẳn còn chưa ra đời khi hầu hết các đĩa trong cửa tiệm được phát hành. Tôi lục trong các thùng đĩa. Sex Pistols, Patti Smith, Supertramp, Matthew Sweet, Phish, Pixies, Pogues, Pretenders, B-52’s, Kate Bush, Buzzcocks, Echo và Bunnymen, The Art of Noise, The Nails, The Clash, The Cramps, The Cure, Television. Tôi dừng lại trước một đĩa nhạc đã mờ sỉn của Velvet Underground và gắng nhớ xem đã từng thấy nó ở nhà hay chưa, nhưng khi nhìn kĩ, nó chỉ là một tập hợp các bài mà Henry đã có từ những album khác. Dazzling Killmen, Dead Kennedys. Vaughn bước vào cửa tiệm, tay bưng một thùng bự chảng, thả nó xuống mặt quầy thanh toán rồi lại ra ngoài. Anh ấy làm vậy thêm vài lần nữa, rồi cùng cậu học sinh kia bắt đầu gỡ đồ trong thùng, xếp các đĩa nhạc lên quầy, háo hức trước các đĩa mà tôi chưa từng nghe đến bao giờ. Tôi lại chỗ Vaughn và đặt ba đĩa nhạc xuống trước mặt anh ấy. “Chào, Clare”, anh ấy cười hớn hở. “Em khoẻ chứ?”

“Chào Vaughn. Mai là sinh nhật Henry. Giúp em đi.”

Anh ấy đưa mắt nhìn ba chiếc đĩa tôi đã chọn. “Cậu ấy đã có hai đĩa này rồi”, anh ấy hất đầu về phía đĩa của Lillipur và Breeders, “còn cái này tệ khủng khiếp”, chỉ tay về đĩa Plasmatics. “Nhưng bìa đĩa rất đẹp, nhỉ?”

“Phải. Anh có thứ gì đó trong thùng mà Henry sẽ thích không?”

“Không. Đống này chỉ toàn của thập niên 50. Một bà lão vừa qua đời. Có thể em sẽ thích thứ này, anh chỉ vừa có nó ngày hôm qua.” Anh ấy lôi một tập hợp Golden Palominos ra khỏi thùng Hàng Mới Nhập. Có một số bài mới, nên tôi đã mua nó. Đột nhiên Vaughn mỉm cười với tôi. “Anh có món đặc biệt cho em đây. Anh đã để dành nó cho Henry.” Vaughn đi vòng ra phía sau quầy thanh toán và lục lọi một hồi. “Đây.” Vaughn đưa cho tôi chiếc đĩa đựng trong bìa trắng. Tôi lôi đĩa ra và đọc nhãn đĩa: Annette Lyn Robinson, nhà hát Paris, 13 tháng Năm, 1968, Lulu. Tôi nhìn Vaughn với vẻ dò hỏi. “Không phải gu thông thường của cậu ấy, nhỉ? Nó là đĩa lậu của một buổi hoà nhạc; nó không được chính thức phát hành. Một thời gian trước cậu ấy đã nhờ anh để ý tìm đĩa nhạc của bà ấy, nhưng nó cũng không phải gu của anh nên sau khi tìm thấy anh cứ quên không nói cho cậu ấy biết. Anh đã nghe thử, nó rất hay. Chất lượng âm thanh rất tốt.”

“Cám ơn anh.” Tôi thì thào.

“Không có gì. Mà này, có chuyện gì mà quan trọng hoá vậy?”

“Annette là mẹ của Henry.”

Vaughn nhướn chân mày, trán của anh ấy nhăn lại một cách khôi hài. “Không giỡn? Ừ, phải, cậu ấy có nét giống bà ấy. Thú vị nhỉ. Tại sao cậu ấy không bao giờ nhắc đến bà nhỉ?”

“Anh ấy không mấy khi nói về bà. Bà đã qua đời khi anh ấy còn nhỏ, trong một tai nạn xe hơi.”

“Ồ. Đúng vậy. Anh nhớ mang máng có chuyện đó. Mà em có cần thêm gì nữa không?”

“Không, chỉ vậy thôi.” Tôi thanh toán và ra về, ôm chặt giọng hát của mẹ Henry vào lòng trong lúc bước qua đường Davis trong niềm hân hoan.

Thứ Sáu, 16/6/2006 (Henry 43, Clare 35)

HENRY: Hôm nay là sinh nhật 43 của tôi. Tôi mở mắt thức dậy lúc 6 giờ 46 phút sáng, mặc dù hôm nay tôi được nghỉ làm. Tôi không thể ngủ tiếp. Tôi nhìn sang Clare; cô ấy đang hoàn toàn thả mình vào giấc ngủ, tay dang rộng, tóc xoã quanh gối. Cô ấy trông rạng rỡ, kể cả khi những nếp hằn từ gối đang hiện trên má. Tôi cẩn thận ra khỏi giường, vào trong bếp pha cà phê. Tôi xả nước trong phòng tắm một hồi, chờ cho nước nóng. Đáng lẽ chúng tôi phải gọi thợ sửa ống đến, nhưng chúng tôi luôn luôn quên bẵng. Tôi trở vào nhà bếp, rót một cốc cà phê và mang theo vào phòng tắm, đặt lên bồn rửa mặt. Tôi ngó nghiêng khuôn mặt của mình rồi bắt đầu cạo râu mà chẳng cần nhìn, nhưng hôm nay, để vinh danh ngày sinh của mình, tôi cẩn trọng hơn.

Tóc tôi đã gần bạc hết, chỉ còn một chút đen ở hai bên thái dương, và đường chân mày vẫn còn đen nhánh. Tôi đã để tóc dài hơn một chút, không dài như tôi vẫn thường để trước khi gặp Clare, nhưng cũng không ngắn. Da tôi thô ráp, các nếp nhăn đã xuất hiện ở khoé mắt, trên trán và từ cánh mũi tới khoé miệng. Mặt tôi quá gầy guộc. Cả người tôi quá gầy guộc. Không gầy như tù nhân trại Auschwitz, nhưng cũng không như những người bình thường khác. Có lẽ gầy như các bệnh nhân ung thư thời kỳ đầu, hay như người nghiện. Tôi không muốn nghĩ đến chuyện đó nên tiếp tục cạo. Tôi rửa bọt, bôi nước xoa mặt, lùi lại và ngắm thành quả.

Hôm qua ở thư viện có người nhớ đến sinh nhật tôi nên Roberto, Isabelle, Matt, Catherine và Amelie đã tập trung lại rủ tôi đi ăn trưa ở Beau Thai. Tôi biết, tại nơi làm việc, có những lời xì xầm về sức khoẻ của tôi, về việc tại sao tôi đột nhiên sút cân rất nhiều và già đi nhanh chóng. Mọi người rất tử tế, quá tử tế, như cách người ta vẫn đối xử với bệnh nhân AIDS và bệnh nhân đang trải qua hoá chất trị liệu. Tôi gần như ước có người hỏi thẳng tôi, để tôi có thể nói dối họ cho xong. Nhưng thay vì làm vậy, chúng tôi chỉ đùa quanh quẩn và ăn Pad Thai., Prik King, Gà Cashew và Pad Seeuw. Amelia đã tặng cho tôi một pound hạt cà phê ngon tuyệt. Catherine, Matt, Roberto và Isabelle đã vung tay tặng tôi một bản sao chép cuốn Nghệ Thuật Thư Pháp trong bộ sưu tập của bảo tàng J. Paul Gery mà tôi đã thèm thuồng ngắm nghía trong hiệu sách của thư viện Newberry suốt nhiều năm nay. Tôi ngẩng lên nhìn họ, xúc động, và nhận ra các đồng nghiệp của tôi tưởng tôi sắp chết. “Mọi người...” tôi mở miệng, nhưng rồi không biết phải nói gì, nên tôi bỏ lửng. Chẳng mấy khi ngôn ngữ bỏ rơi tôi.

Clare thức dậy, Alba tỉnh giấc. Tất cả chúng tôi mặc quần áo và sắp xếp đồ đạc. Chúng tôi sẽ đi đến sở thú Brookfield với Gomez, Charisse và lũ trẻ của họ. Chúng tôi dành cả ngày thong thả ngắm những con khỉ, chim hồng hạc, gấu bắc cực và rái cá. Alba thích nhất là những con mèo lớn. Rosa nắm tay Alba và kể cho con bé nghe về khủng long. Gomez giả làm một con tinh tinh giống hệt, Max và Joe chạy điên cuồng khắp nơi, giả làm những con voi to lớn và chơi điện tử cầm tay. Charisse, Clare và tôi đi tản bộ bâng quơ, nói chuyện phiếm, và tắm trong ánh nắng. Đến bốn giờ chiều, tất cả lũ trẻ đã mệt nhoài và cáu kỉnh, nên chúng tôi nhét chúng lên xe, hứa sẽ lại dẫn chúng đến đây vào một ngày gần nhất, rồi lên đường về nhà.

Cô trông trẻ đến chính xác bảy giờ. Clare hối lộ và doạ dẫm Alba phải ngoan, rồi chúng tôi lẩn đi mất. Chúng tôi diện những bộ quần áo đẹp nhất theo lời nài nỉ của Clare. Trong lúc lướt về phía nam của cao tốc Lake Shore Drive, tôi nhận ra tôi không biết mình đang đi đâu. “Rồi anh sẽ thấy”, Clare nói. “Không phải là một bữa tiệc bất ngờ đấy chứ?” tôi hỏi ngần ngại. “Không”, Clare cam đoan. Cô ấy ra khỏi cao lộ ở Roosevelt và lách qua Pilsen, khu vực của người Mỹ gốc Tây Ban Nha, chỉ ngay phía nam khu trung tâm thành phố. Từng nhóm trẻ con đang chơi trên đường, và chúng tôi len lỏi qua chúng, rối cuối cùng đỗ gần đường 20 và Racine. Clare dẫn tôi đến một căn nhà hai tầng xiêu vẹo rồi nhấn chuông cửa. Chúng tôi được mở cho vào. Chúng tôi đi qua khu vườn đầy rác rồi đi lên những bậc thang ọp ẹp. Clare gõ cửa và Lourdes, một người bạn từ trường mỹ thuật của Clare, mở cửa. Lourdes cười và vẫy tay mời chúng tôi vào nhà. Khi bước vào trong, tôi nhận ra căn hộ này đã được biến thành một nhà hàng chỉ với một bàn ăn duy nhất. Mùi thơm phức đang lan toả khắp căn hộ. Bàn ăn được trải khăn trắng muốt, đồ sứ và nến. Một cái máy hát đĩa nằm trên nóc chiếc tủ bát được chạm trổ nặng nề. Trong phòng khách treo đầy lồng chim: những con vẹt, những con hoàng yến, và những con vẹt xanh bé tí teo. Lourdes hôn lên má tôi và nói, “Chúc mừng sinh nhật, Henry”, và một giọng quen thuộc cất lên sau đó, “Phải rồi, chúc mừng sinh nhật!” Tôi thò đầu vào bếp và thấy Nell đang ở đó. Bà đang khuấy thứ gì đó trong chảo và vẫn không ngừng lại ngay cả khi tôi quàng tay quang người và khẽ nhấc bổng bà lên một chút khỏi mặt đất. “Ồ!” bà nói. “Dạo này cậu chăm ăn Wheatles[1] phỏng?” Clare ôm Nell và họ mỉm cười với nhau. “Nó có vẻ bất ngờ”, Nell nói, và Clare chỉ mỉm cười càng rạng rỡ hơn. “Thôi nào, ngồi xuống đi”, Nell ra lệnh. “Bữa tối đã sẵn sàng.”

[1]Một loại ngũ cốc.

Chúng tôi ngồi đối diện nhau. Lourdes dọn ra các món khai vị truyền thống của Ý được bày biện tinh tế trên các đĩa nhỏ: thịt giăm bông Prosciutto trong vắt với dưa vàng, những con trai mềm đang bốc khói, những lát cà rốt mỏng và củ cải đường có vị thì là và dầu olive. Dưới ánh nến, làn da của Clare trông ấm áp và đôi mắt ẩn trong bóng tối. Chuỗi ngọc trai cô ấy đang đeo vẽ ra đường nét của những chiếc xương cổ và khoảng trống mịn màng trắng trẻo phía trên ngực; chúng nâng lên rồi hạ xuống theo mỗi nhịp thở của cô ấy. Clare bắt gặp ánh mắt tôi đang nhìn cô ấy đăm đăm, mỉm cười rồi quay đi chỗ khác. Tôi nhìn xuống đĩa, nhận ra tôi đã ăn hết món trai của mình và đang ngồi đó cầm chiếc dĩa nhỏ trên tay như một thằng ngốc. Tôi đặt nó xuống; Lourdes dọn đĩa của chúng tôi đi và mang ra món tiếp theo.

Chúng tôi ăn món cá ngừ sống chan sốt cà chua, táo và húng quế ngon tuyệt của Nell. Rồi ăn salad gồm rau diếp đắng và ớt ngọt, tiếp đến là những quả ôliu màu nâu khiến tôi nhớ đến bữa tối tôi đã ăn cùng mẹ tại khách sạn ở Athens khi tôi còn rất nhỏ. Chúng tôi uống Sauvigon Blanc, cụng li không ngừng (“Vì những quả ôliu!” “Vì những cô trông trẻ!” “Vì Nell!”) Nell xuất hiện từ trong bếp mang theo một chiếc bánh sinh nhật nhỏ màu trắng được cắm đầy nến. Clare, Nell và Lourdes hát “Chúc mừng sinh nhật”. Tôi ước rồi thổi tắt nến chỉ trong một hơi. “Điều đó có nghĩa rằng cậu sẽ có được ước muốn của mình”, Nell nói, nhưng điều ước của tôi không phải điều có thể ban tặng. Những con chim nói chuyện với nhau bằng giọng lạ lẫm trong lúc chúng tôi ăn bánh, rồi Lourdes và Nell rủ nhau biến mất vào trong bếp. Clare nói, “Em có quà cho anh đây. Hãy nhắm mắt lại đi.” Tôi nhắm mắt lại. Tôi nghe tiếng Clare đẩy ghế lùi ra khỏi bàn. Cô ấy đi ngang qua căn phòng. Rồi có tiếng kim chạm vào đĩa nhựa, tiếng rít, tiếng vĩ cầm, giọng nữ cao cất lên như cơn mưa bất chợt xuyên qua tiếng ầm ĩ trong nhà hát. Giọng của mẹ tôi đang hát Lulu. Tôi mở mắt. Clare đang ngồi phía bên kia bàn, mỉm cười. Tôi đứng dậy và kéo cô ấy ra khỏi ghế, ôm ghì cô ấy. “Thật tuyệt vời”, tôi nói, rồi nghẹn ngào, không thể tiếp tục, nên tôi hôn cô ấy.

Một hồi lâu sau đó, khi đã nói lời tạm biệt với Nell và Lourdes trong quyến luyến, ướt át, khi chúng tôi đã về đến nhà và trả tiền cho cô giữ trẻ, khi đã quan hệ cùng nhau trong mê mẩn, mệt mỏi và thích thú, chúng tôi nằm trên giường trong giấc ngủ gần kề, và Clare nói, “Anh đã có một sinh nhật vui vẻ chứ?”

“Hoàn hảo”, tôi nói. “Một sinh nhật vui vẻ nhất,”

“Có bao giờ anh ước mình có thể khiến thời gian ngưng lại?” Clare hỏi. “Em không phiền nếu phải ở đây trong giây phút này mãi mãi.”

“Ừ”, tôi nói, rồi nằm nghiêng người lại. Trong lúc tôi đang trôi vào giấc ngủ, Clare nói tiếp, “Em cảm thấy như chúng ta đang trên đỉnh của tàu trượt”, nhưng rồi tôi chìm vào giấc ngủ và quên không hỏi cô ấy, vào sáng hôm sau, ý cô ấy là gì.

một cảnh tượng khó ưa

Thứ Tư, 28/6/2006 (Henry 43, và 43)

HENRY: Tôi hiện ra trên sàn nhà bê tông lạnh trong bóng tối. Tôi gượng đứng dậy nhưng cảm thấy chóng mặt nên lại nằm xuống. Đầu tôi đau nhức. Tôi đưa tay dò dẫm; sau tai trái của tôi đang sưng vù. Khi mắt đã quen với bóng tối, tôi nhìn thấy những đường nét mờ ảo của những dãy bậc thang, và tấm biển Lối Ra, xa phía trên đầu tôi là chiếc đèn huỳnh quang trơ trọi đang phát ra những tia sáng lạnh lẽo. Xung quanh tôi là những thanh sắt nối nhau ngang dọc của cái lồng. Tôi đang ở thư viện Newberry sau giờ làm việc, bên trong cái lồng.

“Đừng hốt hoảng”, tôi nói to với chính mình. “Không sao cả. Không sao cả. Không sao cả.” Tôi dừng lại khi nhận ra tôi không nghe thấy những gì mình đang nói. Tôi tìm cách đứng dậy. Lạnh cóng. Tôi tự hỏi mình sẽ phải đợi bao lâu. Rồi tự hỏi các đồng nghiệp sẽ nói gì khi họ nhìn thấy tôi. Bởi đây chính là thời điểm đó. Thời điểm họ phát hiện ra thực tế tôi là một sản phẩm kì dị của thiên nhiên đến mức nào. Tôi không hề mong giây phút này sẽ đến.

Tôi đi lại để giữ ấm, nhưng việc đó chỉ khiến đầu tôi càng thêm co giật, nên tôi từ bỏ và ngồi xuống sàn nhà, ở ngay chính giữa cái lồng, rồi co quắp mình chặt hết mức có thể. Nhiều giờ đồng hồ trôi qua. Tôi tua lại sự cố này trong đầu, chuẩn bị lời giải thích, và cân nhắc tất cả những tình huống có thể khiến chuyện đã xảy ra theo chiều hướng tốt đẹp hơn, hoặc tệ hơn. Cuối cùng tôi phát ngấy với việc đó và rủ rỉ hát thầm trong đầu. That’s Entertainment của The Jam, Pills and Soap của Elvis Costello, Perfect Day của Lou Reed. Tôi đang gắng nhớ lại lời ca khúc I Love a Man in Uniform của Gang of Four thì các bóng đèn nhấp nháy sáng lên. Dĩ nhiên, không ai khác, đó là Kevin – anh chàng bảo vệ Đức quốc xã – đang mở cửa thư viện. Kevin là người cuối cùng trên đời này tôi muốn gặp khi đang trần như nhộng và mắc kẹt trong lồng. Tất nhiên, cậu ta nhìn thấy tôi ngay khi bước vào. Tôi đang cuộn tròn trên sàn, nằm im giả chết.

“Ai đó?” Kevin nói, to hơn mức cần thiết. Tôi hình dung Kevin đứng đó, mềm nhũn và dặt dẹo trong ánh nắng bình minh ẩm ướt của dãy cầu thang. Giọng của cậu ta nẩy quanh, vọng lại từ những tảng bê tông. Kevin đi xuống, rồi đứng dưới chân cầu thang, cách tôi chừng ba mét. “Làm sao anh vào được bên trong?” Cậu ta đi vòng quanh cái lồng. Tôi tiếp tục giả vờ như bất tỉnh. Nếu đã không thể giải thích, tôi chẳng thà không bị tra hỏi. “Chúa ơi, là anh hả, DeTamble”, tôi có thể cảm thấy Kevin đang đứng đó kinh ngạc. Rồi cậu ta nói vào bộ đàm, “10-4, xin chào, Roy.” Tiếng rè rè đáp lại, “Phải, Roy, là tôi, Kevin. Cậu có thể xuống A46 một lát được không? Phải, ở bên dưới.” Lại tiếng rè. “Cứ xuống đây sẽ biết.” Kevin tắt bộ đàm. “DeTamble, tôi không biết anh định chứng tỏ điều gì, nhưng anh đã làm đủ rồi đấy.” Tôi nghe tiếng cậu ta đi vòng quanh. Đôi giày của cậu ta kêu lộc cộc và cậu ta đang phát ra những tiếng cằn nhằn lí nhí. Chắc hẳn cậu ta đang ngồi trên bậc cầu thang. Sau vài phút, cánh cửa tầng trên mở ra và Roy đi xuống. Roy là cậu bảo vệ tôi thích nhất. Cậu ấy là một anh chàng da đen to lớn luôn có nụ cười thường trực. Cậu ấy là ông hoàng của khu vực lễ tân; tôi luôn thích thú khi đến nơi làm việc và được đắm mình trong sự hồ hởi ấn tượng của cậu ấy. “Ồ”, Roy nói. “Ai thế này?”

“Là DeTamble. Tôi không thể hiểu nổi làm thế nào anh ta vào được trong đây.”

“DeTamble? Ái chà. Anh chàng này khoái cởi truồng chạy rông nhỉ? Đã bao giờ tôi kể cho cậu nghe lần tôi bắt gặp anh ta đang đi bách bộ trên tầng ba trong tình trạng nguyên thuỷ chưa?”

“Có. Anh đã kể.”

“Dù sao thì, chúng ta phải đưa anh ta ra khỏi đó.”

“Anh ta không hề động đậy.”

“Ít nhất vẫn còn đang thở. Cậu nghĩ anh ta có bị thương không? Có lẽ chúng ta nên gọi xe cấp cứu.”

“Chúng ta sẽ cần đến đội cứu hoả để dùng kìm cắt sắt mới có thể mang nổi anh ta ra khỏi đó.” Kevin có vẻ phấn khích. Tôi không muốn dính đến đội cứu hoả lẫn cứu thương. Tôi rên rỉ và ngồi dậy.

“Chào buổi sáng, anh DeTamble” Roy thủ thỉ. “Anh đến có hơi sớm đấy.”

“Chỉ một chút thôi”, tôi đồng tình, khoanh đầu gối lên tới cằm. Tôi lạnh đến nỗi răng tôi đau nhức vì va vào nhau lập cập không ngừng. Tôi nhìn Kevin và Roy đăm chiêu, họ nhìn lại tôi. “Có lẽ tôi không thể hối lộ các cậu được đâu nhỉ?”

Họ nhìn nhau trao đổi. “Còn tuỳ xem anh muốn gì.” Kevin nói. “Chúng tôi không thể giữ bí mật chuyện này, vì chúng tôi không thể đưa anh ra khỏi đó chỉ dựa vào sức mình.”

“Không. Tôi không trông đợi vào chuyện đó.” Họ có vẻ nhẹ nhõm. “Nghe này, tôi sẽ đưa cho các cậu mỗi người 100 đô nếu các cậu làm giùm tôi hai việc. Việc đầu tiên là, tôi muốn nhờ một trong hai cậu lấy giùm tôi cốc cà phê.”

Roy nở nụ cười tươi rói thường lệ. “Gì chứ việc đó tôi sẵn sàng làm miễn phí. Nhưng tôi tự hỏi anh định uống nó bằng cách nào?”

“Mang cho tôi một cái ống hút. Đừng lấy cà phê từ máy trong phòng nghỉ. Hãy ra ngoài mua một cốc tử tế. Có kem và không đường.”

“Được rồi”, Roy nói.

“Điều thứ hai là gì?” Kevin hỏi.

“Nhờ cậu lên khu vực sách đặc biệt vào lấy cho tôi bộ quần áo trong ngăn kéo bên dưới bàn làm việc của tôi. Sẽ có thưởng thêm nếu cậu làm việc đó mà không để ai phát hiện.”

“Không vấn đề.” Kevin nói, và tôi tự hỏi tại sao tôi từng không thích anh chàng này.

“Nên khoá cửa cầu thang này thì hơn”, Roy nói với Kevin, người đang gật đầu và đi làm theo. Roy đứng bên hông lồng và nhìn ái ngại. “Rốt cục thì làm sao anh vào được đó?”

Tôi nhún vai. “Tôi thực sự không có lời giải thích thoả đáng.”

Roy mỉm cười rồi lắc đầu. “Hãy suy nghĩ thêm trong lúc tôi đi lấy cà phê cho anh.”

Hai mươi phút trôi qua. Cuối cùng tôi nghe tiếng mở khoá và Kevin bước xuống cầu thang, theo sau là Matt và Roberto. Kevin nhìn tôi và nhún vai như để nói, tôi đã cố. Cậu ấy nhét áo sơ mi của tôi qua song sắt. Tôi mặc nó vào trong lúc Roberto đứng lạnh lùng nhìn tôi, tay khoanh trước ngực. Mất một lúc để nhét chiếc quần vào được lồng sắt. Matt ngồi trên bậc cầu thang, vẻ hồ nghi. Tôi nghe tiếng cửa lại được mở một lần nữa. Là Roy mang cà phê và một ổ bánh mì ngọt. Cậu ấy nhét ống hút vào cốc rồi đặt nó lên sàn nhà cạnh ổ bánh mì. Tôi phải khó khăn lắm để rời mắt khỏi chúng và nhìn vào Roberto, người đang quay sang Roy và Kevin hỏi, “Các cậu để chúng tôi nói chuyện riêng với nhau nhé.”

“Dĩ nhiên rồi, tiến sĩ Calle.” Hai anh chàng bảo vệ đi lên cầu thang và bước ra khỏi cánh cửa dẫn tới tầng một. Chỉ còn tôi ở lại, đơn độc, bị mắc kẹt, và không có một lời giải thích thoả đáng, cho Roberto, người tôi kính trọng và người tôi không ngừng nói dối trong suốt thời gian qua. Chỉ còn cách nói ra sự thật, mà nghe còn khó tin hơn bất kì lời nói dối nào của tôi trước đây.

“Được rồi, Henry”, Roberto nói. “Bắt đầu đi.”

HENRY: Đó là một buổi sáng tháng Chín đẹp trời. Tôi hơi muộn giờ làm một chút vì Alba (con bé không chịu mặc quần áo) và vì tàu điện (nó không chịu đến) nhưng không quá muộn, ít nhất là theo tiêu chuẩn của tôi. Khi tôi đến bàn lễ tân, Roy không có mặt, thay vào đó là Marsha. Tôi nói, “Chào Marsha. Roy đâu rồi?” và cô ấy đáp, “Ồ, anh ấy đang có chút công chuyện.” Tôi nói, “Ồ”, rồi bước vào thang máy đi lên tầng bốn. Khi tôi tới Khu vực Sách đặc biệt, Isabelle nói, “Anh đến muộn”, và tôi đáp trả, “Không quá muộn.” Tôi vào văn phòng của mình và thấy Matt đang đứng cạnh cửa sổ, nhìn ra ngoài công viên.

“Chào Matt”, tôi nói, Matt giật nẩy mình.

“Henry!” Cậu ấy thốt lên, mặt trắng bệch. “Làm thế nào cậu thoát ra được khỏi lồng sắt?”

Tôi đặt ba lô xuống bàn và nhìn cậu ấy chằm chằm. “Lồng sắt?”

“Cậu... Tớ vừa từ đó về... cậu đang bị mắc kẹt trong lồng sắt. Roberto ở dưới đó với cậu... cậu bảo tớ lên đây đợi, nhưng cậu đã không nói đợi gì...”

“Ôi Chúa ơi.” Tôi ngồi xuống bàn. “Ôi Chúa ơi.” Matt ngồi xuống ghế của tôi và ngẩng đầu lên nhìn tôi. “Hãy nghe tớ giải thích...” tôi bắt đầu giải trình.

“Cậu có thể giải thích sao?”

“Dĩ nhiên rồi.” Tôi suy nghĩ. “Tớ... chuyện là... ôi, chết tiệt.”

“Là chuyện gì đó rất kì cục phải không Henry?”

“Phải. Đúng vậy.” Chúng tôi nhìn nhau chằm chằm. “Nghe này, Matt, hãy xuống dưới đó xem chuyện gì đang diễn ra, tớ sẽ giải thích cho cậu và Roberto cùng một lượt, được chứ?”

“Được rồi.” Chúng tôi đứng dậy và đi xuống tầng dưới.

Trong lúc chúng tôi đi qua dãy hành lang phía đông, tôi nhìn thấy Roy đang lởn vởn gần lối vào cầu thang. Cậu ấy đơ người khi nhìn thấy tôi, và ngay khi cậu ấy chuẩn bị hỏi điều hiển nhiên sẽ hỏi thì Catherine nói, “Chào mọi người, khoẻ chứ?” Cô ấy đi qua chúng tôi và cố gắng mở cửa cầu thang. “Roy, tại sao không mở được cửa?”

“Cô Mead”, Roy liếc nhìn tôi, “chúng tôi đang gặp vấn đề với...”

“Không sao đâu Roy”, tôi nói. “Đi nào, Catherine. Roy, cậu không phiền đứng trên này chứ?” Cậu ấy gật đầu và để chúng tôi đi vào cầu thang.

Ngay khi bước vào, tôi nghe tiếng Roberto đang nói, “Tôi không muốn ngồi đây nghe cậu kể chuyện giả tưởng. Nếu tôi muốn đọc khoa học giả tưởng, tôi sẽ hỏi mượn Amelia.” Ông ấy đang ngồi dưới chân cầu thang. Khi chúng tôi bắt đầu đi xuống, ông ấy quay người lại.

“Chào Roberto”, tôi nói khẽ. Catherine thốt lên, “Ôi Chúa ơi! Ôi Chúa ơi!” Roberto đứng vội dậy và mất thăng bằng. Matt chạy tới đỡ ông ấy. Tôi nhìn vào trong lồng sắt và thấy tôi. Tôi đang ngồi trên sàn, mặc áo sơ mi trắng và quần kaki của tôi, đang co gối trước ngực, dễ nhận thấy tôi đang rét run và đói lả. Có một cốc cà phê đặt bên ngoài lồng sắt. Roberto, Matt và Catherine im lặng nhìn chúng tôi.

“Cậu đến từ thời điểm nào?” tôi hỏi.

“Tháng Tám, 2006.” Tôi cầm cốc cà phê lên, giữ ngang cằm, đút ống hút qua khe hở của lồng sắt. Cậu ấy hút tì tì. “Cậu muốn ăn bánh mì không?” Có. Tôi bẻ nó ra thành ba mảnh và đẩy vào lồng. Tôi có cảm giác như mình đang ở trong sở thú. “Cậu bị thương rồi”, tôi nói. “Tớ đập đầu vào thứ gì đó”, cậu ấy nói. “Cậu sẽ ở đây thêm bao lâu nữa?”

“Khoảng nửa tiếng.” Cậu ấy chỉ tay về phía Roberto. “Rắc rối đây.”

“Chuyện gì đang diễn ra vậy?” Catherine hỏi.

Tôi hội ý với tôi. “Cậu muốn giải thích chứ?”

“Tớ mệt rồi. Cậu làm đi.”

Nên tôi giải thích. Tôi giải thích rằng mình là người du hành thời gian, giải thích cách thức và khía cạnh di truyền của nó. Tôi giải thích rằng tất cả chỉ là một loại bệnh nào đó và tôi không thể điều khiển nó. Tôi giải thích về Kendrick, về cách mà tôi và Clare đã gặp nhau. Tôi giải thích về các mối tương quan, về cơ học lượng tử và tốc độ ánh sáng. Tôi giải thích về cảm giác sống ngoài dòng thời gian, về những lần nói dối, những lần trộm cắp và về nỗi sợ hãi. Tôi giải thích về sự cố gắng để có được một cuộc sống bình thường. “Và một phần của một cuộc sống bình thường là một công việc bình thường”, tôi kết luận.

“Tôi sẽ không gọi đây là một công việc bình thường”, Catherine nói.

“Tôi sẽ không gọi đây là một cuộc sống bình thường”, tôi đang ngồi trong lồng nói.

Tôi nhìn vào Roberto, người đang ngồi trên những bậc thang, tựa đầu vào tường. Ông ấy có vẻ mệt lử và đăm chiêu. “Vậy”, tôi hỏi, “ông sẽ sa thải tôi chứ?”

Roberto thở dài, “Không. Không, Henry ạ. Tôi sẽ không sa thải cậu.” Ông ấy cẩn thận đứng dậy, và phủi vai áo phía sau. “Nhưng tôi không hiểu tại sao cậu không giải thích cho tôi sớm hơn.”

“Ông sẽ không tin tôi”, tôi nói. “Mới đây ông đã không tin tôi, cho đến khi ông nhìn thấy tôi khác xuất hiện.”

“Phải...” Roberto nói, nhưng lời tiếp theo của ông ấy đã bị nuốt chửng trong tiếng rít kì cục ré lên mà đôi lúc vẫn xuất hiện mỗi khi tôi đến và đi. Tôi quay người lại để nhìn thấy đống quần áo đang nằm trên sàn nhà trong lồng sắt. Trưa nay tôi sẽ quay lại đây để khều chúng bằng cây móc quần áo. Tôi quay trở lại với Matt, Roberto và Catherine. Họ đang sững sờ.

“Chúa ơi,” Catherine nói. “Như thể chúng ta đang làm việc cùng Clark Kent vậy.”

“Tôi cảm thấy mình như Jimmy Olsen”, Matt nói.

“Điều đó có nghĩa cô là Lois Lane”, Roberto chọc Catherine.

“Không, không. Clare mới là Lois Lane”, cô ấy đáp.

Matt nói, “Nhưng Lois Lane hoàn toàn mù tịt về mối quan hệ Clark Kent/Superman, ngược lại với Clare.”

“Không có Clare, chắc tôi đã từ bỏ từ lâu rồi”, tôi nói, “Tôi đã không hiểu tại sao Clark Kent tìm đủ mọi cách để giữ bí mật với Lois Lane.”

“Như vậy chuyện mới thú vị hơn.” Matt nói.

“Thật sao? Tôi không chắc về điều đó.” Tôi đáp.

Thứ Sáu 07/07/2006 (Henry 43)

HENRY: Tôi đang ngồi trong văn phòng của Kendrick và lắng nghe ông ấy giải thích tại sao việc điều trị không có hiệu quả. Bên ngoài, thời tiết đang oi bức, cái nóng đan lên người lớp áo ẩm ướt mồ hôi. Trong phòng, điều hoà để lạnh khiến tôi sởn gai ốc. Chúng tôi đang ngồi đối diện nhau trên những chiếc ghế chúng tôi vẫn hay ngồi. Trên bàn là chiếc gạt tàn đầy. Kendrick không ngừng châm thuốc mới ngay khi điếu cũ vừa tàn. Đèn trong phòng không được bật, không khí nặng nề với cái lạnh và khói thuốc. Tôi muốn uống một li rượu. Tôi muốn la hét. Tôi muốn Kendrick ngừng nói để tôi có thể hỏi ông ấy. Tôi muốn đứng dậy và ra ngoài. Nhưng thay vào đó, tôi ngồi im lắng nghe.

Khi Kendrick ngừng nói, những âm thanh vọng lại xa xăm trong toà nhà bỗng trở nên mãnh liệt.

“Henry? Cậu nghe tôi nói chứ?”

Tôi ngồi bật dậy và nhìn ông ấy như một cậu học sinh vừa bị phát hiện đang mơ màng trong lớp. “Ơ, không.”

“Tôi đã hỏi cậu có hiểu những gì tôi đang nói, lí do tại sao việc điều trị không có hiệu quả, không?”

“À có.” Tôi cố gắng lấy lại tâm trí. “Nó không hiệu quả vì hệ thống miễn dịch của tôi đã hoàn toàn rối loạn. Và vì tôi đã già. Vì có quá nhiều gen liên quan.”

“Phải.” Kendrick thở dài và dụi thuốc vào cái gạt tàn đầy ụ. Những làn khói túa ra trốn thoát rồi tan biến. “Tôi rất tiếc.” Ông ấy dựa lưng vào ghế, chắp đôi bàn tay hồng hào vào nhau và đặt trên đùi. Tôi nghĩ đến lần đầu tiên gặp ông ấy, trong căn phòng này tám năm trước. Lúc đó cả hai chúng tôi đều trẻ trung hơn và tự mãn hơn, chúng tôi đã tin vào sự hào phóng của di truyền học, đã sẵn sàng dùng khoa học để thách thức tự nhiên. Tôi nhớ đến lần cầm con chuột có khả năng đi xuyên thời gian của Kendrick trong tay, đến sự dâng trào của niềm hi vọng tôi đã cảm thấy khi đó. Tôi nghĩ đến cảm giác của Clare khi tôi bảo với cô ấy rằng việc điều trị không có hiệu quả. Mặc dù cô ấy chưa bao giờ nghĩ nó có hiệu quả.

Tôi lấy lại giọng. “Còn Alba thì sao?”

Kendrick vắt chân vào nhau và bồn chồn. “Sao là sao?”

“Nó sẽ có hiệu quả với con bé không?”

“Chúng ta sẽ không bao giờ biết chắc. Trừ khi Clare thay đổi ý định và để tôi tác động vào DNA của Alba. Và cả hai chúng ta đều biết rằng Clare không thích liệu pháp gen một chút nào. Cứ mỗi khi tôi tìm cách trao đổi với cô ấy về chuyện đó, cô ấy lại nhìn tôi như thể tôi là Josef Mengele.”

“Nhưng nếu ông có DNA của Alba, ông sẽ có thể tạo chuột thí nghiêm và tiến hành nghiên cứu để khi con bé đủ 18 tuổi, nó có thể tự mình quyết định có muốn hay không.”

“Phải.”

“Vậy ngay cả khi tôi đã vô phương cứu chữa, ít ra Alba cũng sẽ được giúp đỡ một ngày nào đó.”

“Phải.”

“Vậy thì được rồi.” Tôi đứng dậy và xoa hai tay vào nhau, phe phẩy chiếc áo sơ mi đang dính chặt vào người vì mồ hôi đã hoá lạnh. “Đó là điều chúng ta sẽ làm.”

Thứ Sáu, 14/06/2006 (Clare 35, Henry 43)

CLARE: Tôi đang làm giấy Gampi trong xưởng vẽ. Đó là loại giấy rất mỏng và trong suốt, bạn có thể nhìn xuyên qua nó. Tôi nhúng nguyên liệu vào hũ và lôi nó lên, cẩn thận lăn đống vữa dễ đứt cho đến khi nó được trải đều một cách hoàn hảo. Tôi đặt nó lên chiếc hũ chờ ráo nước. Tôi nghe có tiếng Alba đang cười, con bé chạy qua khu vườn, vừa đi vừa hét, “Mẹ! Xem bố mua cho con cái gì này!” Con bé chạy vụt qua cửa và lao về phía tôi, Henry bình thản theo sau. Tôi ngó xuống để xem thứ gì khiến con bé phấn khích đến vậy, và tôi nhìn thấy một đôi giầy hồng ngọc.

“Hệt như của Dorothy!” Alba nói đoạn thực hiện một điệu nhảy clacket. Con bé gõ gót chân vào nhau ba lần, nhưng nó không biến mất. Dĩ nhiên, con bé đang ở nhà. Tôi cười, Henry có vẻ hài lòng với chính mình.

“Anh đã ghé bưu điện chứ?”

Mặt anh ấy đổi sắc. “Khỉ thật. Anh quên mất. Xin lỗi, mai anh sẽ đi.” Alba đang xoay vòng quanh, Henry đưa tay ra ngăn con bé lại. “Đừng, Alba. Con sẽ bị chóng mặt đấy.”

“Con thích bị chóng mặt.”

“Đó không phải là ý hay.”

Alba đang mặc áo phông và quần sooc. Phía trên khuỷu tay con bé có dán một chiếc băng cá nhân. “Tay con bị sao vậy?” tôi hỏi con bé. Thay vì trả lời, con bé nhìn Henry, tôi cũng làm theo.

“Không có gì nghiêm trọng đâu,” anh ấy nói. “Con bé đã mút tay mình và để lại một vết hằn.”

“Vết hằn là gì ạ?” Alba hỏi Henry đang chuẩn bị giải thích cho con bé thì tôi nói, “Tại sao lại dán băng cá nhân lên vết hằn?”

“Anh không biết”, Henry nói. “Con bé muốn vậy.”

Tôi linh cảm có điều gì đó không ổn; giác quan thứ sáu của người mẹ. Tôi bước lại gần Alba. “Hãy xem nào.”

Con bé rụt tay lại, đưa tay còn lại lên ôm chặt. “Mẹ đừng tháo băng cá nhân ra, đau lắm.”

“Mẹ sẽ cẩn thận.” Tôi túm chặt lấy tay con bé. Nó rên rỉ, nhưng tôi đã kiên quyết. Tôi từ từ duỗi tay con bé, khẽ lột băng cá nhân. Có một vết chàm nhỏ màu đỏ ở giữa vết bầm màu tím. Alba nói, “Đau lắm mẹ ơi, đừng mà.” Tôi thả con bé ra. Nó dán băng cá nhân lại và nhìn tôi, chờ đợi.

“Alba, con hãy đi gọi điện cho Kimy và hỏi bà có muốn ghé qua dùng bữa tối không nhé.” Alba mỉm cười và chạy ùa ra khỏi xưởng vẽ. Sau một phút, cánh cửa sau của nhà chính đóng sầm lại, Henry đang ngồi trên bàn vẽ, xoay tới xoay lui chiếc ghế của tôi. Anh ấy nhìn tôi, đợi cho tôi nói gì đó.

“Em không thể tin anh dám làm như vậy”, cuối cùng tôi lên tiếng.

“Anh không còn lựa chọn nào khác”, Henry nói. Giọng anh ấy nhỏ lí nhí. “Con bé... anh không thể bỏ con bé ở lại mà không, ít nhất, giúp nó... anh muốn chuẩn bị cho con bé. Để Kendrick tìm hiểu nó, tìm hiểu con bé, phòng khi cần kíp.” Tôi đi về phía anh ấy, phát ra những tiếng cót két trong đôi ủng và tạp dề cao su. Tôi tựa vào cạnh bàn. Henry nghiêng đầu. Ánh sáng trùm lên khuôn mặt của anh ấy, khiến tôi có thể nhìn rõ các nếp nhăn trên trán, quanh khoé miệng và khoé mắt. Anh ấy đã sút cân thêm nữa. Cặp mắt của anh ấy to lồ lộ trên khuôn mặt. “Clare, anh đã không nói với con bé điều gì cả. Em có thể nói với nó khi... đến lúc.”

Tôi lắc đầu. Không. “Gọi cho Kendrick và bảo ông ấy dừng lại.”

“Không.”

“Vậy thì em sẽ gọi.”

“Clare, đừng...”

“Henry, anh có thể làm bất cứ điều gì anh muốn với cơ thể của mình, nhưng...”

“Clare!” Henry rít tên tôi qua hai hàm răng nghiến chặt.

“Sao?”

“Kết thúc rồi, được chứ? Anh đã kết thúc rồi. Kendrick nói ông ấy chẳng thể làm gì hơn.”

“Nhưng...” tôi ngừng lại để hấp thu những gì anh ấy vừa nói. “Nhưng vậy thì... chuyện gì sẽ xảy ra?”

Henry lắc đầu. “Anh không biết. Có lẽ điều chúng ta đã nghĩ sẽ xãy ra... sẽ xảy ra. Nhưng nếu đó là sự thật, thì... anh không thể bỏ Alba ở lại mà không làm gì để giúp con bé... Ôi, Clare, hãy để anh được làm việc này vì con bé! Nó có thể sẽ không hiệu quả, con bé có thể sẽ không bao giờ dùng đến nó... có thể con bé sẽ thích được du hành thời gian, có thể con bé sẽ chẳng bao giờ bị lạc, hay bị đói hay bị cưỡng hiếp, đánh đập. Nhưng sẽ thế nào nếu con bé không thích du hành thời gian? Sẽ thế nào nếu con bé muốn được làm một cô gái bình thường? Clare? Ôi, Clare, đừng khóc...” Nhưng tôi không thể ngừng, tôi đứng đó thổn thức trong chiếc tạp dề màu vàng của mình, và cuối cùng, Henry đứng dậy, quàng tay qua người tôi. “Chúng ta chẳng phải là những người được Chúa thương xót, Clare”, anh ấy nói khẽ. “Anh chỉ muốn đảm bảo an toàn cho con bé.” Tôi có thể cảm thấy xương sườn của anh ấy qua làn vải. “Em sẽ cho phép anh để lại cho con bé ít nhất là điều đó?” Tôi gật đầu, và Henry hôn lên trán tôi. “Cảm ơn em”, anh ấy nói, rồi tôi lại bắt đầu khóc.

Thứ Bảy, 27/10/1984 (Henry 43, Clare 13)

HENRY: Giờ thì tôi đã biết kết thúc của mình. Nó sẽ diễn ra như thế này: tôi sẽ ngồi trên đồng cỏ, trong một buổi sáng mùa thu. Trời sẽ âm u và lạnh lẽo. Và tôi sẽ mặc một chiếc áo choàng bằng len, đi ủng và găng tay. Đó sẽ là một ngày không nằm trong Danh Sách. Clare sẽ đang ngủ, trên chiếc giường ấm áp của cô ấy. Cô ấy đang mười ba tuổi.

Xa xa, một tiếng súng sẽ xé toạc không khí khô hanh và lạnh lẽo. Đang mùa săn nai rừng. Đâu đó ngoài kia, đàn ông trong những bộ áo màu cam sẽ ngồi đợi để được nổ súng. Rồi sau đó họ sẽ uống bia, ăn sandwich mà vợ họ đã chuẩn bị.

Gió sẽ nổi lên, sẽ băng qua vườn cây ăn quả, và cuốn những chiếc lá vàng vô dụng khỏi những ngọn cây. Cánh cửa sau của căn biệt thự Sáo Bắc Mỹ sẽ đóng sầm lại và hai bóng người tí hon trong bộ quần áo huỳnh quang màu vàng sẽ xuất hiện, mang theo khẩu súng trường. Họ sẽ đi về phía tôi, vào trong đống cỏ, Philip và Mark. Họ sẽ không nhìn thấy tôi vì tôi sẽ lẩn trong những ngọn cỏ cao, một vị trí tối tăm và im lìm giữa cánh đồng vàng và màu xanh chết chóc. Khi đến cách tôi khoảng hai mươi thước, Philip và Mark sẽ đi ra khỏi con đường mòn và tiến vào trong.

Họ sẽ dừng lại để nghe ngóng. Họ sẽ nghe thấy trước tôi: một tiếng lạo xạo, có thứ gì đó đang di chuyển trên những ngọn cỏ, thứ gì đó to lớn và lóng ngóng, một ánh chớp loé lên, chiếc đuôi chăng? Và nó sẽ tiến về phía tôi, về phía khoảng rừng thưa; Mark sẽ nâng khẩu súng trường của anh ấy lên, cẩn thận nạp đạn, rồi bóp cò, và:

Một tiếng súng vang lên, rồi một tiếng la hét, tiếng người. Rồi im lặng. Rồi: “Clare! Clare!” và lại im lặng.

Tôi sẽ ngồi yên trong thoáng chốc, không suy nghĩ, không cả thở. Philip sẽ chạy, và tôi sẽ chạy, Mark cũng sẽ chạy, và chúng tôi cùng tụ về một điểm:

Nhưng sẽ chẳng có gì. Chỉ có vệt máu loang ra trên mặt đất, lấp lánh và lênh láng. Những ngọn cỏ dập. Chúng tôi sẽ nhìn nhau chằm chằm mà chẳng nhận ra nhau, bên trên lớp đất trống trơn.

Trên giường, Clare sẽ nghe có tiếng thét. Cô ấy sẽ nghe thấy như có ai đó đang gọi tên mình, và sẽ ngồi dậy, tim cô ấy sẽ nện từng nhịp mạnh mẽ trong lồng ngực. Cô ấy sẽ chạy xuống nhà, ra ngoài cửa, vào đồng cỏ, trong bộ đầm ngủ của mình. Khi cô ấy nhìn thấy ba chúng tôi, cô ấy sẽ dừng lại, bối rối. Sau lưng bố và anh trai cô ấy, tôi sẽ đặt một ngón tay lên môi. Trong lúc Philip đi về phía cô ấy, tôi sẽ quay đi chỗ khác, sẽ đứng trong sự che chắn của vườn cây ăn quả và ngắm cô ấy run lẩy bẩy trong cái ôm của bố, trong lúc Mark đang đứng bên cạnh, nôn nóng và lúng túng, những sợi râu lởm chởm tuổi mười lăm của cậu ấy sẽ trùm lên chiếc cằm, và cậu ấy sẽ nhìn tôi, như thể đang cố nhớ ra tôi là ai.

Và Clare sẽ nhìn tôi, tôi sẽ vẫy tay với cô ấy, và cô ấy sẽ quay trở vào nhà cùng bố, cô ấy sẽ vẫy tay đáp lại, yếu ớt, chiếc đầm ngủ sẽ phất phơ trong gió như thể cô ấy là một thiên thần, và cô ấy sẽ trở nên nhỏ dần, nhỏ dần, và sẽ mất hút vào trong khoảng cách, sẽ biến mất trở vào trong nhà, còn tôi sẽ đứng bên cạnh vệt đất loang lổ máu nhỏ và tôi sẽ biết: đâu đó ngoài kia, tôi đang chết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,526
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: Chuyện xảy ra ở bãi đỗ xe đường Monroe


Thứ Hai, 7/1/2006 (Henry 43 tuổi)

HENRY: Trời rất, rất lạnh và tôi đang nằm trên mặt đất phủ đầy tuyết. Tôi đang ở đâu? Tôi tìm cách ngồi dậy. Chân tôi tê cứng, tôi không thể cảm thấy gì ở chân nữa. Tôi đang ở giữa một vùng trống trải không một bóng nhà lẫn cây cỏ. Tôi đã ở đây bao lâu rồi? Trời đang tối om. Tôi nghe có tiếng xe cộ. Tôi đứng dậy bằng tay và hai đầu gối. Tôi đang ở công viên Grant. Viện Nghệ thuật sừng sững trong bóng tối cách đây chừng vài trăm mét đường tuyết trắng. Những toà nhà lộng lẫy trên đại lộ Michigan đang đứng im lìm. Những chiếc xe ô tô lướt dọc cao tốc Lake Shore Drive, đèn pha cắt xuyên đêm đen. Phía bên kia hồ là một dải ánh sáng mờ; bình minh đang đến. Tôi phải đi ra khỏi đây. Tôi phải làm ấm người.

Tôi đứng dậy. Chân tôi trắng bệch và tê cứng. Tôi không thể cảm nhận được chúng và không thể di chuyển chúng, nhưng tôi vẫn bắt đầu bước đi. Tôi loạng choạng lết qua lớp tuyết dày, đôi khi ngã xuống, rồi lại đứng dậy đi tiếp, cứ lặp lại như vậy không ngừng, cho đến khi tôi quyết định sẽ bò. Tôi bò qua đường, bò ngược xuống những bậc thang bê tông, bám chặt vào tay vịn.

Muối xát vào những chỗ trầy xước trên tay và đầu gối của tôi. Tôi bò tới chiếc điện thoại thẻ.

Bảy tiếng chuông đổ. Tám. Chín. “Alô”, tiếng tôi ngái ngủ vang lên ở đầu dây bên kia.

“Hãy đến giúp tôi”, tôi nói. “Tôi đang ở bãi đỗ xe đường Monroe. Ở đây lạnh muốn chết. Tôi ở gần trạm bảo vệ. Đến đón tôi ngay.”

“Được rồi. Hãy ở yên đấy. Tôi sẽ đến ngay đây.”

Tôi cố gác máy trở lại nhưng để hụt. Răng tôi va vào nhau lập cập. Tôi bò đến trạm gác của bảo vệ và nện thình thịch vào cửa. Không có ai. Tôi nhìn thấy màn hình theo dõi, lò sưởi, áo khoác, bàn và ghế bên trong. Tôi thử vặn núm cửa. Cửa khoá. Tôi chẳng có gì để cậy khoá. Cửa sổ được chốt bên trong. Tôi run lẩy bẩy. Dưới này không có một chiếc xe nào.

“Giúp tôi với!” Tôi hét lên. Chẳng có ai đến. Tôi cuộn tròn lại trước cửa, đầu gối chạm cằm, đưa tay ôm lấy chân. Chẳng có ai đến, và rồi, cuối cùng tôi cũng biến mất.

Nh ững mảnh vụn

Thứ Hai, Thứ Ba, Thứ Tư, 25-26-27/09/2006 (Clare 35, Henry 43)

CLARE: Henry đã biến mất cả ngày nay. Alba và tôi đã ăn tối ở McDonald’s. Chúng tôi chơi Go Fish và Crazy Eights; Alba đã vẽ một cô gái với mái tóc dài đang bồng một chú chó. Chúng tôi đã chọn đồ cho con bé đi học ngày mai. Giờ Alba đã lên giường đi ngủ. Tôi đang ngồi ở bậc thềm, cố gắng đọc Proust; đọc những sách tiếng Pháp khiến tôi uể oải; tôi đã gần ngủ gật khi có tiếng đổ vỡ trong phòng khách, Henry đang nằm trên sàn, trắng bệch và run rẩy. “Giúp anh với!”, anh ấy nói qua hàm răng đang va lập bập vào nhau. Tôi chạy vội đi gọi điện thoại.

Một lát sau:

Phòng cấp cứu: những người già đầy bệnh tật, các bà mẹ với những đứa con nhỏ đang sốt cao, những cô cậu thanh niên đang chờ bạn được phẫu thuật gắp đạn ra khỏi người, những người sau đó sẽ ba hoa về điều này để gây ấn tượng với các cô bạn gái nhưng lúc này thì đang mỏi mệt và yếu ớt.

Một lát sau:

Trong căn phòng nhỏ màu trắng: các cô y tá nâng Henry lên giường và lột tấm chăn đang đắp trên người anh ấy xuống. Anh ấy mở mắt nhìn tôi rồi nhắm mắt lại. Một thực tập sinh tóc vàng nhìn anh ấy từ đầu đến chân. Y tá đo nhiệt độ, bắt mạch cho anh ấy. Henry run rẩy mạnh đến nỗi chiếc giường rung lên bần bật khiến cánh tay của cô y tá cũng rung lên như một chiếc giường Magic Fingers của các khách sạn thập niên 70. Bác sĩ kiểm tra đồng tử, tai, mũi, ngón tay, ngón chân và cơ quan sinh dục của Henry. Rồi họ bắt đầu quấn chăn qua người anh ấy, các lớp chăn trông như được làm từ kim loại, bằng nhôm. Họ đắp khăn ướp lạnh lên chân anh ấy, căn phòng nhỏ này rất ấm. Henry lại mở mắt. Anh ấy đang cố nói điều gì đó. Nó nghe như tên tôi. Tôi luồn tay dưới các lớp chăn và nắm chặt bàn tay lạnh giá của anh ấy. Tôi nhìn cô y tá. “Chúng tôi phải giữ ấm cho anh ấy, tăng nhiệt độ cơ thể của anh ấy lên rồi sẽ tính tiếp”, cô ấy nói.

Một lát sau:

“Làm thế nào mà cậu ấy bị giảm nhiệt đến như vậy giữa tháng Chín?” vị bác sĩ hỏi tôi.

“Tôi không biết”, tôi đáp. “Bác sĩ hãy hỏi trực tiếp anh ấy.”

Một lát sau:

Trời đã sáng. Charisse và tôi đang ngồi trong căn tin của bệnh viện. Charisse đang ăn bánh pút-đinh sô-cô-la. Trên tầng, trong phòng của mình, Henry đang ngủ. Kimy đang ở bên anh ấy. Trên đĩa của tôi là hai miếng bánh mì nướng, ẩm ướt và chưa được đụng đến. Có ai đó ngồi xuống bên cạnh Charisse; là Kendrick. “Tin tốt”, ông ấy nói, “nhiệt độ của cậu ấy đã tăng đến 97.6. Có vẻ như não bộ không bị tổn thương.”

Tôi chẳng thể nói được gì. Tạ ơn Chúa, là những gì tôi có thể nghĩ.

“Tôi sẽ cập nhật tình hình khi tôi xong việc ở Rush St. Luke’s”, Kendrick nói và đứng dậy.

“Cảm ơn, David”, tôi nói lúc ông ấy chuẩn bị ra về. Kendrick mỉm cười rồi bỏ đi.

Một lát sau:

Bác sĩ Murray bước vào với một cô y tá người Ấn Độ đeo băng tên Sue. Sue mang theo một cái chậu lớn, một cái nhiệt kế và một cái xô. Bất kể điều gì sắp xảy ra, nó sẽ là đơn giản.

“Chào buổi sáng, ông bà DeTamble. Chúng tôi sẽ làm ấm lại chân của ông.” Sue đặt cái chậu xuống sàn và lặng lẽ biến mất vào trong nhà tắm. Có tiếng nước chảy. Bác sĩ Murray là một người to lớn và có mái tóc tổ ong cực đẹp mà chỉ có những người phụ nữ da đen duyên dáng bệ vệ mới dám để. Cơ thể to lớn của bà uốn éo dưới lớp áo blouse trắng trên đôi chân khoẻ khắn trong đôi giày bằng da cá sấu. Bà lôi từ trong túi áo ra một cái kim tiêm và lọ thuốc, rồi bắt đầu rút thứ thuốc trong lọ vào ống tiêm.

“Đó là cái gì vậy?” tôi hỏi.

“Moóc-phin. Sẽ đau đấy. Hai bàn chân của cậu ấy gần như đã hỏng.” Bà ấy cẩn thận cầm tay Henry, bàn tay mà anh ấy đang im lặng giơ về phía bà như thể bà vừa thắng được nó từ ván bài. Mũi kim xuyên vào trong, rồi bác sĩ Murray ấn pít-tông; sau một vài giây, Henry khẽ rên lên biết ơn. Bác sĩ Murray gỡ những chiếc khăn lạnh ra khỏi chân của Henry trong lúc Sue xuất hiện, mang theo nước nóng. Cô ấy đặt nó lên sàn nhà cạnh giường. Bác sĩ Murray hạ thấp giường xuống rồi hai người họ đặt anh ấy ngồi dậy. Sue đo nhiệt độ của nước. Cô ấy đổ nước vào trong chậu rồi nhúng chân Henry vào đó. Anh ấy thở dốc.

“Các mô còn lành lặn sẽ chuyển sang màu đỏ. Nếu nó không có màu như con tôm luộc thì sẽ rất gay go đấy.”

Tôi ngắm hai bàn chân Henry bồng bềnh trong chậu nước bằng nhựa màu vàng. Chúng trắng như tuyết, trắng như cẩm thạch, trắng như ti-tan, trắng như giấy, như bánh mì, và như lớp ga trải giường, trắng hết mức có thể. Sue đổi nước mới vì đôi bàn chân lạnh giá của Henry đã làm nguội nước. Cây nhiệt kế chỉ 106 độ. Sau năm phút, nó còn xuống 90 độ và Sue lại thay nước. Hai chân Henry lủng lẳng như những con cá chết. Nước mắt chảy xuống hai bên má của anh ấy rồi biến mất dưới cằm. Tôi lau má anh ấy. Tôi vuốt tóc anh ấy. Tôi không ngừng nhìn để thấy hai bàn chân Henry chuyển đỏ. Nó giống như nhìn bức ảnh hiện hình, ngắm những hình ảnh dần chuyển từ một màu xám sang đen kịt trong khay hoá chất. Một đốm đỏ xuất hiện ở hai bên mắt cá của cả hai bàn chân. Đốm đỏ loang lổ lan dần sang gót chân trái, rồi cuối cùng một vài ngón chân cũng ngập ngừng ửng đỏ. Bàn chân phải vẫn cứng đầu trắng ởn. Một màu hồng miễn cưỡng xuất hiện rải rác ở gan bàn chân rồi không chịu lan ra thêm nữa. Sau một giờ đồng hồ, bác sĩ Murray và Sue cẩn thận lau khô chân cho Henry, rồi Sue nhét một chút bông vào giữa các đầu ngón chân. Họ đặt anh ấy nằm trở lại và cài một bộ khung quanh hai chân của anh ấy để không ai đụng vào chúng.

Đêm hôm sau:

Trời đã khuya và tôi đang ngồi bên giường của Henry trong bệnh viện Mercy ngắm anh ấy ngủ. Gomez ngồi trên ghế đối diện, và cũng đang ngủ. Gomez ngủ ngửa mặt ra sau, miệng há hốc và thi thoảng ngáy lên rồi ngoẹo đầu sang bên khác.

Henry nằm im lìm. Những tiếng bíp không ngừng phát ra từ máy truyền IV. Ở cuối chân giường, một chiếc máy trông như cái lều đang nhô lên dưới lớp chăn nơi đáng lẽ là đôi chân của Henry. Nhưng chúng không ở đó. Chúng đã bị hoại tử vì tê cóng. Họ đã cắt cả hai chân anh ấy, từ mắt cá chân trở xuống, vào sáng nay. Tôi không thể hình dung, tôi cố không hình dung, cái gì đang bên dưới lớp chăn kia. Đôi bàn tay băng bó của Henry đang đặt trên chăn. Tôi cầm chúng lên, cảm nhận sự mát mẻ và khô ráo của chúng, cảm nhận từng nhịp mạch đập ở cổ tay, cảm nhận sự hiện hữu của bàn tay Henry trong tay tôi. Sau ca phẫu thuật, bác sĩ Murray đã hỏi tôi muốn bà ấy làm gì với đôi chân của Henry. Nối chúng lại nghe có vẻ như là câu trả lời chuẩn xác, nhưng tôi chỉ nhún vai rồi nhìn đi chỗ khác.

Cô y tá bước vào, mỉm cười với tôi, rồi tiêm cho Henry. Sau vài phút, anh ấy thở dài, liều thuốc đã đánh thức bộ não của anh ấy. Henry quay đầu về phía tôi. Mắt anh ấy chỉ khẽ hé mở, rối lại khép vào. Anh ấy lại chìm vào giấc ngủ.

Tôi muốn cầu nguyện, nhưng tôi không thể nhớ nổi một câu kinh nào, tất cả những gì xảy ra trong đầu tôi chỉ là Eeny-meeny miney moe[1], túm lấy chân con hổ, nếu nó kêu la, hãy thả nó đi, eeny meeny miney moe. Ôi Chúa ơi, đừng làm vậy với con. Nhưng con Snark đó là một boojum[2]. Không. Chẳng có gì cả.

[1] Eeny meeny miney moe: là trò chơi trẻ con dùng để chọn người bằng cách chỉ tay vào mỗi người chơi và hô từng từ. Chỉ đến khi ai nói “moe” thì đó là người được chọn.

[2] Snark: một giống quái vật giả tưởng do Lewis Carroll tạo ra trong tập thơ The Hunting of the Snark của ông. Boojum là một chủng loài của snark.

Tôi không biết đã mấy giờ rồi. Bên ngoài trời đang dần sáng. Tôi đặt tay Henry xuống giường trở lại. Anh ấy kéo nó lại gần ngực, che chở.

Gomez ngáp dài và vươn vai. “Chào buổi sáng, mèo con”, anh ấy nói, rồi đứng dậy và lê bước vào nhà tắm. Tôi có thể nghe thấy tiếng anh ấy đi tiểu trong lúc Henry mở mắt.

“Anh đang ở đâu vậy?”

“Bệnh viện Mercy. 27 tháng Chín, 2006.”

Henry nhìn đăm đăm lên trần nhà. Rồi, chậm rãi, anh ấy chống người ngồi dậy, và nhìn xuống cuối chân giường. Anh ấy rướn người, thò tay xuống dưới chăn. Tôi nhắm mắt lại.

Henry bắt đầu la hét.

Thứ Ba, 17/10/2006 (Clare 35, Henry 43)

CLARE: Henry đã về nhà được một tuần. Anh ấy dành cả ngày cuộn mình trên giường, quay mặt về phía cửa sổ, chập chờn trong giấc ngủ của moóc-phin. Tôi cố đút cháo, bánh mì nướng và mì Ý cho anh ấy, nhưng Henry chỉ nhỏm nhẻm ăn. Anh ấy cũng ít khi nói chuyện. Alba lảng vảng xung quanh, im lặng và lo lắng, mong làm cho tâm trạng bố phấn chấn hơn, con bé mang cam, mang báo mới, và mang gấu Teddy của nó cho bố; nhưng Henry chỉ mỉm cười lơ đãng để mặc đống đồ được mang tới xếp thành chồng nhỏ trên chiếc bàn đặt đầu giường. Một cô y tá nhanh nhảu tên Sonia Browne ghé qua mỗi ngày một lần để thay đồ và đưa ra những lời khuyên, nhưng ngay khi cô ấy biến mất trong chiếc xe Volkswagen Beetle màu đỏ, Henry liền chui vào lớp vỏ trống rỗng của mình. Tôi giúp anh ấy dùng bô. Tôi thay đồ ngủ cho anh ấy. Và tôi hỏi anh ấy cảm thấy thế nào; những câu trả lời tôi nhận được luôn lấp lửng hoặc chẳng buồn trả lời một chút nào. Mặc dù Henry ở ngay trước mặt tôi, nhưng anh ấy đã biến mất.

Tôi đi qua hành lang, qua phòng ngủ, với một giỏ quần áo bẩn trên tay, và tôi nhìn thấy Alba đang đứng bên cạnh Henry, người đang nằm cuộn tròn trên giường, qua khe cửa he hé mở. Tôi dừng lại để nhìn con bé. Nó đứng bất động, tay duỗi dài hai bên đùi, bím tóc đen nhánh của con bé lủng lẳng sau lưng, chiếc áo cổ chui màu xanh của nó xộc xệch vì mới được trùm vào. Ánh nắng ban mai tràn ngập trong căn phòng, nhuộm một màu vàng óng lên mọi đồ vật.

“Bố ơi?” Alba hỏi khẽ. Henry không trả lời. Con bé thử lại, lần này to hơn. Henry quay người về phía con bé. Alba ngồi xuống giường. Mắt Henry đang nhắm lại.

“Bố ơi?”

“Hả?”

“Bố đang chết phải không?”

Henry mở mắt ra và nhìn Alba. “Không.”

“Alba nói bố sẽ chết.”

“Trong tương lai, Alba ạ. Nhưng chưa phải lúc này. Con hãy bảo Alba đừng kể cho con những chuyện như vậy nữa.” Henry đưa tay xoa bộ râu quai nón đã mọc dài kể từ khi chúng tôi rời bệnh viện. Alba ngồi đặt tay lên đùi, đầu gối khép lai.

“Từ nay bố sẽ phải nằm trên giường mãi sao?”

Henry nhỏm người dậy, tựa vào đầu giường. “Có lẽ vậy.” Anh ấy lục ngăn tủ, nhưng thuốc giảm đau để trong nhà tắm.

“Tại sao ạ?”

“Tại vì bố không khoẻ, được chưa?”

Alba lùi ra khỏi Henry, tuột xuống giường. “Dạ!” con bé nói, đoạn mở cửa phòng và suýt nữa đâm sầm vào tôi. Nó giật mình, rồi bất chợt vung tay ôm chặt lấy tôi. Tôi bế con bé lên. Nó đã nặng trĩu trên tay tôi. Tôi bế nó về phòng rồi cả hai chúng tôi ngồi lên chiếc ghế xích đu, cùng nhau bập bênh. Khuôn mặt nóng của Alba tựa lên cổ tôi. Mẹ biết nói gì với con đây, Alba? Mẹ có thể nói gì đây?

Thứ Tư và thứ Năm, 18-19/10 và thứ Năm, 26/10 năm 2006 (Clare 35, Henry 43)

CLARE: Tôi đang đứng trong xưởng vẽ, tay cầm một cuộn dây làm lõi và một xấp phác thảo. Tôi vừa dọn sạch bàn làm việc lớn, những bức vẽ được găm cẩn thận trên tường. Giờ tôi đang đứng và cố tưởng tượng ra tác phẩm trong tâm trí. Tôi gắng hình dung nó ở cả ba chiều, có kích thước như người thực. Tôi cắt một đoạn dây; nó tuột ra khỏi cuộn lớn. Tôi bắt đầu tạo khung cho thân. Tôi đan những sợi dây vào nhau thành đôi vai, lồng ngực, rồi tạo tới xương chậu. Tôi dừng lại. Có lẽ tay và chân nên có khớp nối? Tôi có nên tạo bàn chân hay không? Tôi bắt đầu uốn đầu, và rồi nhận ra tôi không muốn làm nó như thế này. Tôi nhét chúng xuống dưới gầm bàn và bắt đầu làm lại.

Như một thiên thần. Mọi thiên thần đều đáng sợ. Ấy thế nhưng, than ôi, tôi vẫn khẩn cầu họ, những con chim ngắc ngoải của linh hồn... Đôi cánh là thứ duy nhất tôi muốn tặng cho anh ấy. Tôi lấy miếng kim loại mỏng vẽ vào không khí, rồi khâu móc và đan dệt; tôi lấy tay đo khoảng cách một bên của đôi cánh đang sải rộng, rồi lặp lại lần nữa cho bên kia, cân nhắc sự đối xứng như thể tôi đang cắt tóc cho Alba, dùng mắt để đo, dùng tay để cảm nhận cân nặng, vóc dáng. Tôi nối hai bên cánh vào nhau, rồi đứng dậy, trèo lên thang và treo chúng lên trần nhà. Chúng trôi bồng bềnh trong không khí, cao lủng lẳng ngang ngực tôi, rộng hai mét rưỡi, một vật trang trí duyên dáng, và vô dụng.

Ban đầu tôi đã hình dung nó sẽ có màu trắng, nhưng giờ tôi nhận ra màu trắng không dành cho đôi cánh này. Tôi mở ngăn tủ đựng nước màu và phẩm nhuộm. Xanh biển, vàng hoàng thổ, nâu đen, đỏ tía. Không phải nó. Đây rồi: màu đỏ đồng. Màu của máu khô. Một thiên thần ác nghiệt không thể màu trắng, nếu có, phải là trắng hơn tất cả màu trắng tôi có thể tạo ra. Tôi đặt lọ phẩm màu lên mặt bàn, bên cạnh màu đen tuyền, rồi đi về phía bó sợi đang được đặt trong góc của xưởng vẽ. Sợi kozo và vải lanh; trong suốt và mềm dẻo, một loại sợi kêu lách cách như hai hàm răng đang va lập cập vào nhau kết hợp với một loại mềm như đôi môi. Tôi lấy ra hai pound kozo cứng và đàn hồi cần phải được nấu và đập dập, phải giã nhỏ và nghiền nát. Tôi đun nước nóng trong một cái nồi khổng lồ che kín cả hai ụ bếp. Khi nước sôi, tôi thả kozo vào, ngắm nó chuyển sang màu tối sẫm và từ từ ngấm nước. Tôi đổ natri hidroxit vào rồi đậy nắp lại và bật máy hút khói. Tôi chặt một pound vải lanh thành những mảnh nhỏ, đổ nước vào máy xay rồi bắt đầu nghiền chúng thành bột màu trắng. Rồi tôi đi rót cho mình một li cà phê và ngồi nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ, qua khu vườn về phía nhà chính.

Cùng lúc đó:

HENRY: Mẹ tôi đang ngồi ở cuối chân giường. Tôi không muốn bà biết chuyện đôi chân của mình. Tôi nhắm mắt lại và giả vờ ngủ. “Henry?” bà nói. “Ta biết cháu đã thức. Dậy đi nào, anh bạn, mặt trời đã lên cao rồi.” Tôi mở mắt. Là Kimy. “Chào buổi sáng, Kimy.”

“Đã 2 rưỡi chiều rồi anh bạn. Cháu nên ra khỏi giường và đi lại cho khoẻ khoắn.”

“Cháu không thể xuống giường, Kimy ạ. Cháu đâu còn chân.”

“Nhưng cháu có xe lăn”, bà nói. “Nhanh nào, cháu phải tắm và cạo râu đi chứ? Cháu bốc mùi như một ông già dơ dáy.” Kimy đứng dậy, mặt nhăn nhó. Bà lật chăn ra khỏi người tôi và tôi nằm đó như một con tôm ươn, lạnh và mềm oặt trong nắng chiều. Kimy buộc tôi phải ngồi trên xe lăn rồi đẩy tôi tới cửa phòng tắm. Cửa quá hẹp để đẩy xe vào.

“Được rồi”, Kimy đứng chống nạnh trước mặt tôi, nói “Chúng ta phải làm sao đây nhỉ?”

“Cháu không biết, Kimy. Cháu chỉ là một thằng què.”

“Đó là loại ngôn ngữ gì vậy, què?”

“Què là từ khác dùng để chỉ những kẻ tàn tật.”

Kimy nhìn tôi như thể tôi mới lên tám và mới buông lời chửi tục trước mặt bà (và tôi đã không biết nó có nghĩa gì, tôi chỉ biết đó là từ cấm nói). “Ta nghĩ từ chính xác của nó phải là khuyết tật, Henry ạ.” Bà cúi xuống và cởi cúc áo ngủ của tôi.

“Cháu vẫn còn tay mà”, tôi nói, rồi tự cởi áo. Kimy quay mặt đi, cục cằn và gắt gỏng, rồi vặn vòi nước, chỉnh nhiệt độ và đậy đường thoát nước của bồn tắm. Bà lục tủ thuốc, lấy ra chiếc dao cạo, kem cạo và chổi cạo râu của tôi. Tôi không biết làm thế nào để có thể ra khỏi chiếc xe lăn này, nên tôi quyết định trượt ra khỏi ghế. Tôi đẩy mông về phía trước, ưỡn lưng và tuột xuống sàn nhà. Vai trái của tôi đụng mạnh xuống sàn, mông tôi đập xuống cái phịch, nhưng không quá đau. Bác sĩ vật lí trị liệu ở bệnh viện – một thanh niên niềm nở có tên Penny Featherwight - có một số mẹo để lên xuống xe lăn, nhưng chúng cần phải có đủ xe hoặc giường hoặc xe và xe. Tôi ngồi trên sàn nhà tắm. Chiếc bồn tắm to lù lù trước mặt như những tảng đá trắng muốt ở Dover. Tôi ngẩng lên nhìn Kimy, một bà lão tám mươi tuổi, và tôi nhận ra rằng, mình chỉ có thể trông cậy vào bản thân mà thôi. Bà nhìn tôi, cái nhìn đầy thương hại. Tôi tự nhủ Chết tiệt, mình phải tìm cách để làm được việc này, không thể để Kimy nhìn mình với ánh mắt như vậy. Tôi luồn ra khỏi chiếc quần ngủ rồi bắt đầu gỡ những miếng băng y tế đang dán trên hai chân. Kimy nhìn vào gương, kiểm tra răng của bà. Tôi với tay qua thành bồn tắm và thử nước.

“Nếu cho thêm một chút thuốc bắc vào, bà sẽ có món thằng què hầm cho bữa tối.”

“Quá nóng hả?”

“Phải.”

Kimy chỉnh lại vòi nước rồi ra khỏi phòng tắm, đẩy xe lăn ra ngoài. Tôi cẩn thận gỡ băng gạc ra khỏi chân phải. Lớp da bên dưới xanh xao và lạnh lẽo. Tôi thò tay xuống dưới đoạn cụt, xuống lớp da thịt đang bao bọc phần xương còn lại sau khi bị cắt bỏ. Tôi mới vừa uống Vicodin cách đây không lâu, và tôi tự hỏi liệu tôi có thể uống một viên nữa mà không để Clare phát hiện. Lọ thuốc chắc hẳn để đâu đó trong tủ phía trên. Kimy quay trở lại với một chiếc ghế trong phòng ăn trên tay. Bà đặt nó phịch xuống bên cạnh tôi. Tôi gỡ lớp băng gạc ra khỏi chân còn lại.

“Bà ấy đã làm rất cừ.”

“Bác sĩ Murray? Phải, đó là một sự cải thiện lớn. Khiến cho cháu nhanh nhẹn hơn trước nhiều.”

Kimy cười. Tôi nhờ bà vào trong bếp lấy cuốn danh bạ điện thoại. Khi bà đặt nó xuống bên cạnh chiếc ghế, tôi trườn lên nó và ngồi trên ghế. Rồi tôi lại trườn trên ghế và nửa rơi nửa lăn vào bồn tắm. Một con sóng lớn bắn ra khỏi bồn, đập xuống mặt sàn. Tôi đã vào được bồn tắm. Hallelujah. Kimy khoá vòi nước rồi dùng khăn lau khô chân của bà. Tôi dìm mình xuống nước.

Sau đó:

CLARE: Sau khi nấu nhiều giờ đồng hồ, tôi lọc kozo rồi cũng cho nó vào máy xay. Càng để trong máy xay lâu, nó càng mịn hơn và càng có màu giống xương hơn. Sau bốn tiếng, tôi cho các chất phụ gia, đất sét và phẩm vào. Đống bùn nhão màu vàng be bỗng chốc chuyển sang màu đỏ sẫm. Tôi đổ nó vào xô rồi rót sang hũ chứa. Khi tôi quay trở lại nhà chính, Kimy đang ở trong bếp nấu món cá ngừ hầm với vụn khoai tây chiên rắc bên trên.

“Thế nào rồi ạ?” tôi hỏi bà.

“Nó đang ở trong phòng khách.” Những dấu chân ướt nhẹp của Kimy chạy từ buồng tắm tới phòng khách. Henry đang ngủ ở ghế sofa với một cuốn sách đặt trên ngực. Ficciones của Borges. Mặt anh ấy nhẵn nhụi. Tôi lại gần, cúi xuống ngửi; một mùi tươi mát. Những sợi tóc bạc ướt nhẹp của anh ấy toả ra khắp nơi. Alba đang thủ thỉ với gấu Teddy của con bé trong phòng. Trong khoảnh khắc, tôi có cảm giác như mình đã đi ngược thời gian, như thể đây là một khoảnh khắc đã lạc mất của quá khứ. Nhưng rồi tôi đưa mắt nhìn xuống nơi phẳng lì cuối cơ thể của Henry dưới lớp chăn, và tôi biết rằng tôi vẫn đang ở đây, trong hiện tại.

Sáng hôm sau trời đổ mưa. Tôi mở cửa xưởng vẽ và đôi cánh thiên thần đang đợi tôi, trôi bồng bềnh trong ánh sáng xám của bình minh. Tôi bật đài; là Chopin đang hát, cuồn cuộn dâng trào như những con sóng vỗ lên bãi cát. Tôi đi ủng cao su, đeo tạp dề và buộc khăn để tóc khỏi dính bột giấy. Tôi rửa chiếc khuôn bằng gỗ và đồng thau ưa thích, mở nắp hũ, trải nỉ để chuẩn bị đặt giấy lên. Tôi thọc tay vào hũ và khuấy đống vữa màu đỏ đậm để trộn sợi và nước vào với nhau. Chúng ướt nhẹp. Tôi nhúng khuôn và thước vào trong hũ rồi cẩn thận nhấc chúng lên, rồi gạt cho bằng và để ráo nước. Tôi đặt nó xuống góc hũ; nước chảy ra để lại một lớp sợi trên bề mặt. Tôi gỡ thước ra và nhấn khuôn lên tấm nỉ, khẽ lắc nhẹ. Khi tôi nhấc nó lên, giấy lưu lại trên tấm nỉ, mỏng manh và sáng bóng. Tôi đặt một tấm nỉ khác lên trên, làm ướt, rồi lại nhúng khuôn và thước vào trong hũ, nhấc nó lên, để ráo nước rồi trải xuống tấm nỉ. Tôi mải miết làm, cứ lặp đi lặp lại. Tiếng piano hoà trong tiếng bì bõm, nhỏ giọt của nước và tiếng mưa. Khi đã có được một chồng giấy và nỉ, tôi liền ép chúng vào máy nén rồi quay trở lại vào nhà và ăn sandwich kẹp thịt hun khói. Henry đang đọc sách, Alba đang ở trường.

Sau bữa trưa, tôi đứng trước đôi cánh với xấp giấy mới trên tay. Tôi chuẩn bị dán lên bộ khung cánh một lớp màng giấy. Xấp giấy còn ẩm, tối và trông như muốn rách, nhưng nó bám vào bộ khung xương khéo léo như da người. Tôi xoắn giấy thành những sợi cơ, thành gân, bện vào và nối kết với nhau. Đôi cánh khẳng khiu như cánh dơi, dấu vết của những sợi dây gân lồ lộ dưới lớp giấy trơ trụi trên bề mặt. Tôi sấy khô sấp giấy vẫn chưa dùng đến, hong nó lên các tấm thép. Rồi tôi xé nó ra thành nhiều mảnh nhỏ, tựa lông cánh. Khi đôi cánh đã khô, tôi sẽ dán những mảnh lông này vào, từng sợi một. Tôi bắt đầu vẽ lên những chiếc lông cánh, đen, xám và đỏ. Bộ lông chim của một thiên thần ác nghiệt, một con chim tang tóc.

Buổi tối, một tuần sau:

HENRY: Clare đã nài nỉ tôi thay quần áo và nhờ Gomez mang tôi ra sau cửa, đi qua vườn vào xưởng vẽ của cô ấy. Xưởng được thắp đầy nến; chắc hẳn phải đến một trăm cây hoặc nhiều hơn. Chúng ở khắp nơi trên bàn, trên sàn nhà, và trên bậu cửa sổ. Gomez đặt tôi xuống sofa rồi rút vào nhà chính. Ở giữa xưởng vẽ, một chiếc ga giường màu trắng đang rũ xuống từ trần nhà. Tôi quay lại để xem liệu có cái máy chiếu nào phía sau lưng không nhưng không có. Clare đang mặc một chiếc đầm màu đen. Khi cô ấy di chuyển dọc căn phòng, khuôn mặt và hai bàn tay của cô ấy bồng bềnh lơ lửng, trắng bệch.

“Anh uống cà phê chứ?” cô ấy hỏi tôi. Tôi đã không uống cà phê từ lúc rời bệnh viện. “Được thôi”, tôi đáp. Cô ấy rót cà phê ra hai chiếc cốc, cho sữa vào, rồi mang một cốc lại cho tôi. Chiếc cốc nóng thật gần gũi và dễ chịu trong tay tôi. “Em đã làm tác phẩm này vì anh.” Clare nói.

“Là chân hả? Anh sẽ cần đến nó.”

“Là một đôi cánh”, cô ấy nói, đoạn kéo bỏ chiếc ga trải giường.

Đôi cánh khổng lồ bồng bềnh giữa không trung, chập chờn trong ánh nến. Chúng tối hơn cả bóng đêm, đầy vẻ hăm doạ nhưng cũng tràn ngập cảm giác của niềm khát khao, của tự do, và của sự vội vã bay xuyên không trung, cảm giác được đứng vững vàng, trên đôi chân của chính tôi, được chạy như bay. Những giấc mơ được bay lượn trên bầu trời, được trôi lơ lửng giữa trùng mây như thể trọng lực đã bị bãi bỏ để ta có thể được nhấc mình ra khỏi Trái Đất này, đang lại trở về với tôi trong căn phòng mờ tối này. Clare ngồi xuống cạnh tôi. Tôi có thể cảm nhận được cái nhìn của cô ấy đang dành cho tôi. Đôi cánh vẫn bay lặng im, chúng tả tơi xơ xác. Tôi không thể nói lên lời. Siebe, uch lebe. Woraus? Weder Kindbeit noch Zukunfi! Werden weniger... Uberzabliges Dasein! Entspringt reir Herzen. (Hãy xem này, tôi đang sống. Sống bằng gì? Chẳng phải quá khứ hay tương lai/ chỉ ngày càng nhỏ bé... Sự sống mãnh liệt/ dâng tràn trong tim tôi.)

“Hôn em đi.” Clare nói, tôi quay sang cô ấy, khuôn mặt trắng và đôi môi sẫm tối bồng bềnh trong bóng đêm đen huyền, nhấn chìm lấy tôi, và tôi bay, tôi được giải thoát; sự sống dâng tràn trong tôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,526
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: Những giấc mơ chân


Tháng 10, tháng 11/2006 (Henry 43)

HENRY: Tôi mơ thấy mình đang ở Newberry, đang tổ chức Show’N Tell cho các sinh viên cao học của Cao đẳng Columbia. Tôi đang chỉ cho họ xem cổ tịch – các cuốn sách đầu tiên được in, rồi các mẩu tích của Gutenberg, Game and Play of Chess của Caxton, Eusebius của Jensen. Buổi giới thiệu diễn ra rất suôn sẻ, họ hỏi những câu hỏi rất thú vị. Tôi lục lọi trong xe đẩy để tìm cuốn sách đặc biệt tôi vừa tìm được trong thư viện, một cuốn sách mà tôi đã không biết chúng tôi có. Nó được bọc trong một chiếc hộp nặng nề màu đỏ không tiêu đề, chỉ có số hiệu CASE WING fZW 983.D 453, dán tem vàng có đóng dấu của thư viện Newberry. Tôi đặt chiếc hộp lên bàn và trải miếng lót ra. Tôi mở hộp, bên trong là đôi chân của tôi, hồng hào và khoẻ khoắn. Chúng nặng đến bất ngờ. Khi tôi đặt chúng lên miếng lót, những ngón chân ngoe nguẩy như muốn nói những lời chào, để nói với tôi rằng chúng vẫn có thể làm vậy. Tôi bắt đầu thuyết trình về chúng, giải thích sự liên quan giữa đôi chân của tôi với nghệ thuật in ấn Venice thế kỉ XV. Các cô cậu sinh viên chăm chú ghi chép lại. Một người trong số họ, cô gái tóc vàng xinh xắn trong chiếc áo hai dây điểm xuyết những vật trang trí sáng loá, chỉ vào đôi chân của tôi và nói, “Nhìn kìa, chúng trắng ởn!” Đúng vậy, lớp da đã chuyển sang màu trắng chết chóc, đôi chân đã không còn sự sống và đang bắt đầu phân huỷ. Tôi buồn bã nhắc mình rằng việc đầu tiên phải làm vào sáng mai là gửi chúng đến bộ phận bảo tồn.

Trong giấc mơ, tôi đang chạy. Mọi việc đều yên ổn và tốt đẹp. Tôi chạy ven hồ, từ bãi biển đường Cây sồi hướng về phía Bắc. Tôi thấy trái tim mình đập hối hả, thấy phổi mình nâng lên rồi hạ xuống nhịp nhàng. Tôi đang di chuyển đều đặn. Thật nhẹ nhõm làm sao. Tôi đã sợ mình sẽ không bao giờ có thể chạy được nữa, thế mà giờ đây tôi đang phóng như bay. Thật tuyệt.

Nhưng rồi chuyện bắt đầu tệ hại. Từng phần của cơ thể tôi lần lượt rụng rời. Đầu tiên là tay trái. Tôi dừng lại và nhặt nó lên, phủi sạch cát, rồi lại gắn vào người, nhưng nó không thể dính chặt, nó tiếp tục rụng ra chỉ sau nửa dặm. Tôi đành kẹp nó vào nách bằng tay còn lại, tự nhủ có lẽ khi về nhà, tôi có thể gắn nó chặt hơn. Nhưng rồi đến lượt tay còn lại rụng ra, và tôi chẳng còn tay nào để nhặt đôi tay tôi đã mất. Nên tôi tiếp tục chạy. Không quá tệ; nó không hề đau. Liền sau đó tôi nhận thấy của quý của mình đã tuột ra và rơi vào ống quần bên trái. Nó cứ nẩy quanh khó chịu, rồi mắc kẹt ở gấu quần bằng chun. Tôi chẳng thể làm được gì, nên tôi lờ nó đi. Rồi tôi lại cảm thấy hai bàn chân của mình đang rạn nứt trong đôi giày bên dưới, chúng rụng khỏi mắt cá khiến tôi ngã dập mặt xuống đường. Tôi biết rằng nếu tôi cứ nằm ở đây, tôi sẽ bị những người đang chạy khác dẫm đạp lên mình, nên tôi bắt đầu lăn lộn. Tôi lăn và lăn cho đến khi ra tới mặt nước biển, và những con sóng cuốn tôi ra khơi, bên dưới đại dương. Và tôi tỉnh giấc, thở hổn hển.

Tôi mơ thấy mình đang diễn ba-lê. Tôi là vũ công nữ chính. Tôi đứng trong phòng thay đồ và bị Barbara, chuyên viên phục trang của mẹ tôi, quấn lên người bộ váy nỉ bó sát màu hồng. Barbara là một người cứng cỏi, nên ngay cả khi chân tôi đang đau phát điên, tôi cũng không dám mở miệng phàn nàn trong lúc bà ân cần ấn hai gót chân của tôi vào trong đôi giày múa bằng xa-tanh màu hồng dài ngoằng. Xong xuôi, tôi loạng choạng đứng dậy và rên rỉ. “Đừng có ẻo lả như vậy” Barbara nói, nhưng rồi bà dịu lại và tiêm cho tôi một liều moóc-phin. Chú Ish xuất hiện ở ngưỡng cửa phòng thay đồ rồi chúng tôi vội vã đi qua những dãy hành lang bất tận phía sau sân khấu. Tôi biết chân của mình đang đau mặc dù tôi không thể nhìn thấy hay cảm nhận được chúng. Chúng tôi hối hả đi đến sàn diễn, và đột nhiên, khi đã đến bên cánh gà, nhìn vào sân khấu, tôi nhận ra đây là vở kịch Kẹp Hạt dẻ và tôi sắm vai bà tiên. Chẳng hiểu sao nó khiến tôi khó chịu. Đây không phải điều mà tôi trông đợi. Nhưng có ai đó khẽ đẩy tôi, và tôi lảo đảo tiến ra sân khấu. Tôi nhảy. Mắt tôi như đui chột giữa ánh đèn sân khầu, tôi nhảy mà không cần nghĩ ngợi, không cần biết đến vũ điệu, trong cơn đau mãnh liệt. Cuối cùng tôi ngã sõng soài, thút thít khóc, và khán giả đứng dậy, vỗ tay khen ngợi.

Thứ Sáu, 3/9/2006 (Clare 35, Henry 43)

CLARE: Henry giơ củ hành lên và nhìn tôi vẻ nghiêm trọng. “Đây là củ hành.”

Tôi gật đầu. “Phải, em đã được đọc về chúng.”

Anh ấy nhướn một bên chân mày. “Rất tốt. Giờ thì nghe rõ nhé, để lột vỏ hành, em lấy một con dao sắc, cầm nghiêng củ hành đã nhắc đến ở trên thớt, và bắt đầu cắt hai bên đầu, như thế này. Rồi em có thể bóc vỏ, như thế này. Được chứ? Giờ thì bắt đầu thái. Nếu em định làm hành tây tẩm bột chiên thì thái từng lát một, nhưng nếu em muốn nấu súp hay sốt mì Ý, thì em thái khúc, như thế này.”

Henry đã quyết định sẽ dạy tôi nấu ăn. Tất cả bàn nấu và tủ bếp đều quá cao so với chiếc xe lăn của anh ấy, nên chúng tôi ngồi ở bàn ăn, vây quanh bởi chén bát, dao đĩa và hộp đựng sốt cà chua. Henry đẩy thớt và dao về phía tôi. Tôi đứng dậy, lóng ngón thái hành tây. Henry kiên nhẫn theo dõi. “Được rồi, tốt lắm. Giờ đến lượt ớt xanh. Em cắt quanh chỗ này, gọt bỏ cuống.”

Chúng tôi làm sốt cà chua tỏi, pesto và lasagna. Hôm sau lại làm bánh quy, bánh sô-cô-la hạnh nhân. Alba mừng rơn. “Nhiều hơn nữa đi ạ,” con bé nài nỉ. Chúng tôi chần trứng và cá hồi, tự làm pizza. Tôi phải thừa nhận rằng nấu ăn rất thú vị. Nhưng đêm đầu tiên khi phải tự nấu bữa tối một mình, tôi rất sợ. Tôi đứng trong bếp, vây quanh bởi nồi niêu xoong chảo. Món măng tây đã quá lửa, và tôi tự làm bỏng mình khi lấy cá nhám ra khỏi lò. Tôi bày mọi thứ ra đĩa và dọn lên bàn ăn, nơi Henry và Alba đang ngồi đợi sẵn, đĩa trống đặt trước mặt. Henry mỉm cười động viên. Tôi ngồi xuống. Henry nâng li sữa và nói “Chúc mừng đầu bếp mới!” Alba cụng li với anh ấy, và chúng tôi bắt đầu ăn. Tôi nhận ra chúng có vị không tồi. “Ngon lắm mẹ ạ!” Alba nói, và Henry gật đầu. “Ngon tuyệt!” Henry tán thưởng, chúng tôi nhìn nhau không rời, và tôi nghĩ, Đừng bỏ em ở lại.

G ậy ông đập lưng ông

Thứ Hai, 18/12/2006, Chủ Nhật, 2/1/1994 (Henry 43 tuổi)

HENRY: Tôi thức dậy lúc nửa đêm vì hàng ngàn con côn trùng có răng sắc nhọn như dao cạo đang cắn xé chân tôi. Trước khi tôi kịp lôi một viên Vicodin ra khỏi lọ, tôi đã ngã xuống. Tôi gập đôi người lại. Tôi đang nằm trên sàn, những không phải sàn nhà tôi, là của ai đó khác, vào một đêm khác. Tôi đang ở đâu? Cơn đau khiến mọi thứ trở nên thật mờ mịt. Căn phòng tối om. Có mùi gì đó khiến tôi nhớ, nhưng nhớ đến gì? Mùi chất tẩy rửa. Mùi mồ hôi. Mùi nước hoa, rất quen thuộc... không có lẽ?

Tiếng bước chân đi lên cầu thang, tiếng người xì xầm, tiếng nhiều ổ khoá được mở, tôi có thể trốn ở đâu đây? và cánh cửa được mở ra. Tôi đang bò trên sàn thì đèn được bật lên khiến mắt tôi đau nhức. Giọng một phụ nữ thảng thốt, “Ôi Chúa ơi.” Tôi chửi thầm trong đầu, Không, điều này không thể là sự thực, và cửa phòng được đóng lại, rồi tôi nghe Ingrid nói, “Celia, chị về đi.” Celia phản đối. Trong lúc họ đứng tranh cãi phía bên kia cửa, tôi tuyệt vọng nhìn quanh nhưng không có đường nào để thoát. Đây chắc hẳn là căn hộ của Ingrid ở đường Clark nơi tôi chưa từng đặt chân đến. Tất cả đồ vật của cô ấy đang ở xung quanh, vây lấy tôi, chiếc ghế Eames, chiếc bàn cà phê bằng cẩm thạch có hình hạt đậu chất đầy những cuốn tạp chí thời trang, chiếc ghế sofa màu cam xấu xí mà chúng tôi thường... Tôi đảo mắt khắp nơi để tìm thứ gì đó mặc, nhưng mẩu vải duy nhất trong căn phòng chật chội này là chiếc áo choàng của người Hồi giáo có màu tím vàng đang vất vưởng trên ghế sofa. Tôi chộp lấy nó và khoác lên người, rồi ngồi phịch xuống ghế. Ingrid mở cửa bước vào. Cô ấy đứng im một hồi lâu và nhìn tôi, tôi nhìn lại cô ấy và tất cả những gì tôi có thể nghĩ là Ôi Ing, tại sao em lại đầy đoạ mình như vậy?

Ingrid trong trí nhớ của tôi là một thiên thần tóc vàng xinh đẹp cá tính, người tôi đã gặp tại bữa tiệc ở Jimbo trong ngày Quốc khánh; một Ingrid Carmichael đau khổ nhưng không thể gục ngã, người đã khoác lên mình một bộ áo giáp bằng tiền tài, sắc đẹp và sự rầu rĩ. Còn Ingrid đang đứng trước mặt tôi thì hốc hác, khô khan và mệt mỏi; cô ấy đứng nghiêng đầu nhìn tôi ngạc nhiên và khinh miệt. Có vẻ như chẳng ai trong chúng tôi biết phải nói với người kia điều gì. Cuối cùng cô ấy cởi áo khoác, ném nó lên ghế và ngồi xuống đầu bên kia của chiếc sofa. Cô ấy đang mặc quần da. Chúng khẽ phát ra tiếng rin rít khi cô ấy ngồi xuống.

“Chào Henry.”

“Chào Ingrid.”

“Anh đang làm gì ở đây?”

“Anh cũng không biết. Anh xin lỗi, anh chỉ... em biết đấy.” Tôi nhún vai. Chân tôi đau đến nỗi tôi chẳng còn bận tâm mình đang ở đâu.

“Trông anh thật thảm hại.”

“Anh đang rất đau đớn.”

“Thật buồn cười. Em cũng vậy.”

“Ý anh là đau đớn về thể xác.”

“Tại sao?” Tôi biết nếu tôi có tự nhiên bốc cháy trước mặt Ingrid, cô ấy cũng chẳng thèm bận tâm. Tôi kéo chiếc áo choàng lên, để lộ đôi chân cụt.

Ingrid không giật mình, cũng không kinh ngạc. Cô ấy không ngoảnh mặt đi chỗ khác. Khi cuối cùng cũng nhúc nhích, cô ấy nhìn vào mắt tôi, và tôi nhận ra rằng, trong số tất cả mọi người, chỉ có Ingrid là hiểu hoàn cảnh của tôi lúc này nhất. Đi trên hai con đường hoàn toàn khác biệt nhưng chúng tôi đã đến cùng một đích. Cô ấy đứng dậy và đi vào một căn phòng khác. Khi trở ra, cô ấy cầm theo chiếc hộp đựng đồ khâu vá nhỏ trên tay. Tôi thầm hi vọng. Và hi vọng của tôi được thoả mãn: Ingrid ngồi xuống, mở nắp hộp, và giống y như ngày xưa cũ, bên trong là một chiếc hộp khác đựng thuốc, bên cạnh những cái nệm kim và đê bao ngón tay.

“Anh muốn loại nào?”

“Loại có thuốc phiện.” Cô ấy nhấc lên một cái túi đựng đầy thuốc và đưa cho tôi; tôi nhìn thấy Ultram và lấy ra hai viên. Sau khi nhét chúng vào miệng, Ingrid lấy cho tôi một cốc nước và tôi nuốt chúng.

Ingrid đưa bàn tay có móng dài đỏ chót lên vuốt mái tóc vàng dài. “Anh từ đâu đến?”

“Tháng Mười hai, năm 2006. Hôm nay ngày bao nhiêu?”

Ingrid nhìn đồng hồ đeo tay của cô ấy. “Vừa qua mùng một tết. Giờ đã là ngày 2 tháng 1, năm 1994.”

Ôi không. Làm ơn đừng. “Có chuyện gì vậy?” Ingrid nói.

“Không có gì.” Hôm nay là ngày Ingrid tự kết thúc đời mình. Tôi có thể nói gì với cô ấy? Liệu tôi có thể ngăn cô ấy lại? Tôi có nên gọi cho ai đó? “Ing, anh chỉ muốn nói rằng...” tôi ngần ngại. Tôi có thể nói gì mà không đánh động cô ấy? Mà liệu có còn quan trọng? Khi cô ấy đã chết? Cho dù cô ấy đang ngồi ngay đây trước mặt tôi?

“Sao?”

Tôi đổ mồ hôi. “Chỉ là... hãy biết yêu chính mình. Đừng... anh biết em không được hạnh phúc...”

“Và đó là lỗi của ai?” Đôi môi tô son đỏ chót của cô ấy mím chặt. Tôi không đáp lại. Có phải là lỗi của tôi? Tôi không biết. Ingrid nhìn tôi chằm chằm như thể cô ấy trông đợi một câu trả lời từ tôi. Tôi quay mặt đi chỗ khác. Tôi nhìn vào bức tranh của Maholy Nagy trên tường đối diện. “Henry?” Ingrid nói. “Tại sao anh tàn nhẫn với em như vậy?”

Tôi nặng nhọc đưa mắt nhìn lại cô ấy. “Anh đã vậy sao? Anh không cố ý.”

Ingrid lắc đầu. “Anh đã chẳng bận tâm em sống hay chết.”

Ôi, Ingrid. “Anh có bận tâm. Anh không muốn em chết.”

“Anh đã không hề bận tâm. Anh đã bỏ rơi em, và không hề đến bệnh viện thăm em.” Ingrid nói như thể ngôn từ đang bóp cổ cô ấy.

“Gia đình em đã không cho anh đến. Mẹ em bảo anh hãy tránh xa em ra.”

“Dù là vậy, anh vẫn nên đến.”

Tôi thở dài. “Ingrid, bác sĩ của em bảo anh rằng anh không thể vào thăm em.”

“Em đã hỏi, họ bảo rằng anh không hề gọi điện một lần.”

“Anh đã gọi. Anh được bảo rằng em không muốn nói chuyện với anh, và bảo anh đừng bao giờ gọi điện cho em nữa.” Thuốc giảm đau đang bắt đầu ngấm. Cảm giác râm ran ở dưới chân đã lụi dần. Tôi thò tay xuống dưới tấm áo choàng và sờ vào bàn chân cụt bên trái, rồi bên phải.

“Em đã suýt chết và anh thì lặn mất tăm.”

“Anh đã nghĩ em không muốn nói chuyện với anh nữa. Làm sao anh biết được đó không phải là sự thật?”

“Anh đã kết hôn và không thèm gọi điện báo cho em biết, lại còn mời Celia đến lễ cưới để chọc tức em.”

Tôi bật cười. “Ingrid, Clare đã mời Celia. Họ là bạn, chính anh cũng không hiểu tại sao. Có lẽ vì sự khác biệt hoàn toàn đã tạo nên sự hấp dẫn giữa họ. Dù sao thì, việc đó hoàn toàn không phải vì em.”

Ingrid chẳng nói chẳng rằng. Cô ấy trắng nhợt dưới lớp trang điểm. Cô ấy đút tay vào túi áo choàng và lôi một gói English Ovals cùng bật lửa.

“Em hút thuốc từ bao giờ?” tôi hỏi. Ingrid ghét thuốc lá. Cô ấy chỉ thích cô-ca, thuốc kích thích, và mê những món đồ uống có tên thi vị. Cô ấy lôi một điếu thuốc ra khỏi bao bằng hai ngón tay có móng dài, rồi châm lửa. Tay cô ấy run rẩy. Ingrid rít một hơi dài, khói len lỏi thoát ra từ giữa đôi môi của cô ấy theo từng lọn cong cong.

“Cuộc sống mà không có đôi chân của anh như thế nào?” Ingrid hỏi tôi. “Mà chuyện gì đã xảy ra?”

“Hoại tử vì tê cóng. Anh đã ngất xỉu ở công viên Gran giữa tiết trời tháng Một.”

“Anh đi lại bằng cách nào?”

“Chủ yếu nhờ xe lăn.”

“Ồ, tệ nhỉ.”

“Phải,” tôi nói. “Rất tệ.” Chúng tôi ngồi trong yên lặng một hồi.

Ingrid hỏi, “Anh vẫn còn kết hôn chứ?”

“Phải.”

“Con cái gì không?”

“Anh có một cô con gái.”

“Ồ.” Ingrid tựa lưng vào ghế, rít thuốc và nhả ra một làn khói mỏng từ hai lỗ mũi. “Ước gì em đã có con.”

“Em đã không muốn có con, Ing.”

Cô ấy nhìn tôi, nhưng tôi không thể hiểu được cái nhìn đó. “Em luôn muốn có con. Nhưng em đã nghĩ anh không muốn có, nên em đã không nói gì.”

“Em vẫn có thể có con.”

Ingrid phá lên cười. “Thật sao? Em có con không, Henry? ở năm 2006, em có chồng, có nhà ở Winnetka và hai, ba đứa con không?”

“Không hẳn vậy.” Tôi đổi tư thế ngồi. Cơn đau đã biến mất nhưng cái vỏ của cơn đau còn sót lại, một khoảng trống nơi đáng lẽ cơn đau phải ngự trị nhưng thay vào đó lại là sự trông đợi cơn đau sẽ đến.

“Không hẳn vậy”, Ingrid lặp lại lời tôi. “Không hẳn đến mức nào? Như, ‘Không hẳn vậy, Ingrid ạ. Thực tế thì em là một bà cô không nhà không cửa’?”

“Em không phải một bà cô không nhà không cửa.”

“Vậy em sẽ không trở thành một bà lão vô gia cư. Được, tuyệt lắm.” Ingrid dập tắt thuốc lá và vắt chéo chân lên nhau. Tôi đã từng yêu đôi chân của Ingrid. Cô ấy đang đi đôi ủng cao gót. Chắc hẳn cô ấy và Celia vừa trở về từ một bữa tiệc. Ingrid nói, “Chúng ta đã loại trừ hai trường hợp tồi tệ nhất và tốt đẹp nhất: em không phải một mệnh phụ ở ngoại thành và không phải dân vô gia cư. Tiếp nào, Henry, hãy cho em thêm vài gợi ý.”

Tôi im lặng. Tôi không muốn chơi trò chơi này.

“Được rồi. Hãy chọn lựa từ nhiều đáp án vậy. Xem nào. A) Em là một vũ công thoát y trong một câu lạc bộ nhớp nháp ở đường Rush. B) Em phải vào tù vì sát hại Celia và xẻ thịt cô ấy đem cho Malcolm ăn. Nghe hay đấy. C) Em sống ở Rio del Sol với một nhà trung gian tài chính giàu có. Thế nào, Henry? Có lựa chọn nào nghe hợp lí với anh không?”

“Malcolm là ai?”

“Con chó Đức của Celia.”

“Anh cũng đoán vậy.”

Ingrid nghịch chiếc bật lửa của mình, cứ bật rồi lại tắt. “Còn đáp án D) Em đã chết thì sao?” Tôi nao núng. “Nghe có hấp dẫn với anh chút nào không?”

“Không. Không hề.”

“Thật sao? Em thích nó nhất.” Ingrid mỉm cười. Đó không phải một nụ cười quyến rũ. Nó giống một biểu hiện nhăn nhó, đau đớn, hơn là một nụ cười. “Em thích nó đến nỗi nó đã gợi ý cho em một việc hay ho.” Cô ấy đứng dậy và sải bước qua căn phòng, đi vào hành lang. Tôi có thể nghe thấy tiếng cô ấy mở, rồi đóng, ngăn kéo. Khi xuất hiện trở lại, cô ấy đưa một tay giấu sau lưng. Ingrid đứng trước mặt tôi và nói, “Ngạc nhiên chưa!” và chĩa súng vào tôi.

Nó không phải một khẩu súng lớn. Nó mỏng, có màu đen, và sáng bóng. Ingrid giữ nó ngang hông một cách thoải mái, như thể cô ấy đang tham dự một bữa tiệc cocktail. Tôi nhìn chằm chằm vào khẩu súng. Ingrid nói, “Em có thể bắn anh.”

“Phải, em có thể”, tôi nói.

“Rồi em sẽ bắn chính mình”, cô ấy nói.

“Điều đó cũng có thể xảy ra.”

“Nhưng có thể không?”

“Anh không biết. Ingrid. Em là người quyết định.”

“Thôi vòng vo đi, Henry. Hãy nói cho em biết”, Ingrid yêu cầu.

“Được rồi. Không. Nó không diễn ra như vây.” Tôi cố tỏ ra chắc chắn.

Ingrid cười ngạo nghễ. “Nếu em muốn nó diễn ra như vậy thì sao?”

“Ingrid, đưa khẩu súng cho anh.”

“Đến đây mà lấy nó.”

“Em sẽ bắn anh sao?” Ingird lắc đầu, mỉm cười. Tôi trèo ra khỏi ghế sofa, trèo xuống sàn nhà, và bò lại gần Ingrid, kéo lê chiếc áo choàng, chậm hơn bình thường vì thuốc giảm đau. Cô ấy lùi lại, chĩa khẩu súng về phía tôi. Tôi dừng lại.

“Đến đây nào Henry. Chó ngoan lắm. Chó trung thành lắm.” Ingrid gỡ chốt an toàn và bước lại gần tôi. Tôi căng thẳng. Cô ấy dí súng vào đầu tôi. Nhưng rồi Ingrid phá lên cười, và chĩa mũi súng vào thái dương của mình. “Thế này thì sao, Henry? Nó có diễn ra như thế này không?”

“Không.” Không!

Cô ấy nhăn nhó. “Anh chắc chứ, Henry?” Ingrid di chuyển khẩu súng xuống ngực. “Thế này thì sao? Đầu hay ngực, Henry?” Ingrid bước tới. Tôi có thể chạm vào cô ấy. Tôi có thể tóm lấy cô ấy... Ingrid đá vào ngực tôi và tôi ngã lăn ra sàn, ngước lên nhìn cô ấy. Ingrid cúi xuống và nhổ vào mặt tôi.

“Anh đã yêu em chứ?” Ingrid nhìn tôi hỏi.

“Có”, tôi trả lời.

“Nói dối”, Ingrid nói, rồi bóp cò.

Thứ Hai, 18/12/2006 (Clare 35, Henry 43)

CLARE: Tôi tỉnh giấc lúc nửa đêm và thấy Henry đã biến mất. Tôi hoảng hốt ngồi bật dậy. Các tình huống tồi tệ không ngừng diễn ra trong đầu tôi. Anh ấy có thể bị xe đâm, bị mắc kẹt trong một toà nhà bỏ hoang nào đó, giữa thời tiết băng giá... tôi nghe có tiếng động, có ai đó đang khóc. Có lẽ là Alba, có lẽ Henry đã đi dỗ dành con bé. Tôi bước xuống giường và đi đến phòng của Alba, nhưng con bé vẫn đang cuộn mình ngủ bên cạnh Teddy, chăn của con bé đã bị đạp xuống giường. Tôi đi theo tiếng động qua hành lang và nhìn thấy Henry đang ngồi trên sàn phòng khách, vùi mặt vào hai bàn tay mà khóc.

Tôi quỳ xuống bên cạnh anh ấy. “Có chuyện gì vây?” tôi hỏi.

Henry ngẩng mặt lên, tôi có thể nhìn thấy những giọt nước mắt đang chảy trên má của anh ấy sáng lên dưới ánh đèn đường hắt vào qua cửa sổ. “Ingrid đã chết rồi,” Henry nói.

Tôi đưa tay ôm lấy anh ấy. “Ingrid đã chết từ lâu rồi, Henry.” Tôi nói khẽ.

Henry lắc đầu. “Hàng năm, hàng phút... có gì khác nhau?” anh ấy nói. Chúng tôi ngồi trên sàn nhà trong im lặng. Cuối cùng, Henry nói, “Em nghĩ trời đã sáng chưa?”

“Có lẽ.” Ngoài trời vẫn một màu u tối. Chẳng có lấy một tiếng chim.

“Hãy đứng dậy thôi”, anh ấy nói. Tôi kéo xe lăn đến, giúp anh ấy ngồi lên và đẩy vào trong bếp. Tôi đưa áo choàng tắm cho Henry và anh ấy khó nhọc khoác lên người. Anh ấy ngồi bên bàn ăn, nhìn đăm đăm ngoài cửa sổ, vào khu vườn đang chìm trong tuyết trắng phía sau nhà. Xa xa có tiếng xe ủi tuyết đang cạo đường. Tôi bật điện, đổ cà phê vào phin lọc, đổ nước rồi bật máy pha. Tôi lấy ra hai chiếc cốc. Tôi mở tủ lạnh, nhưng khi tôi hỏi Henry muốn ăn gì, anh ấy chỉ lắc đầu. Tôi ngồi xuống đối diện Henry và anh ấy nhìn tôi. Mắt anh ấy đỏ hoe, tóc rối bù. Hai bàn tay anh ấy khẳng khiu, gương mặt trống rỗng.

“Đó là lỗi của anh”, Henry nói. “Nếu anh không ở đó...”

“Liệu anh có thể ngăn cản cô ấy?” Tôi hỏi.

“Không, anh đã cố.”

“Vậy thì đừng đổ lỗi cho chính mình nữa.”

Máy pha cà phê kêu lên những tiếng nổ nho nhỏ. Henry đưa tay xoa mặt. Anh ấy nói, “Anh đã luôn tự hỏi tại sao cô ấy không để lại đôi dòng nhắn nhủ gì.” Tôi đang định hỏi ý anh ấy là gì thì nhận ra Alba đang đứng ở cửa phòng bếp. Con bé mặc bộ áo ngủ màu hồng, đi dép lê con chuột màu xanh. Alba nheo mắt và ngáp dài trong ánh sáng chói loà của căn bếp.

“Chào bé con”, Henry nói. Alba bước lại gần và ngồi lên đùi anh ấy. “Chào buổi sáng”, Alba đáp.

“Trời chưa sáng đâu”, tôi bảo con bé. “Vẫn đang là ban đêm.”

“Tại sao bố mẹ thức giấc lúc nửa đêm ạ?” Alba ngửi ngửi. “Bố mẹ đang pha cà phê, vậy là buổi sáng rồi.”

“Ồ, là cái định nghĩa cà phê bằng buổi sáng”, Henry nói. “Có lỗ hổng trong suy luận của con rồi, con gái.”

“Sao cơ ạ?” Alba hỏi lại. Con bé ghét bị sai trong mọi vấn đề, dù là nhỏ.

“Con đang đưa ra kết luận dựa vào dữ liệu không chuẩn xác; con quên mất rằng bố mẹ nghiện cà phê, và chúng ta ra khỏi giường lúc nửa đêm chỉ để uống THÊM nhiều cà phê hơn nữa.” Anh ấy gầm gừ lên giả làm một con quỷ, hoặc có lẽ một người nghiện cà phê.

“Con muốn uống cà phê”, Alba nói. “Con cũng nghiện cà phê.” Con bé gầm gừ lại với Henry. Anh ấy nhấc con bé lên và đặt nó đứng dậy. Alba chạy vòng qua bàn về phía tôi rồi con bé ôm chầm lấy tôi và hét “GỪ!” vào tai tôi.

Tôi đứng dậy và bế con bé lên. Nó đã lớn bổng. “Gừ thì cũng đi ngủ, nhé.” Tôi bế con bé vào phòng và thả nó xuống giường, nó cười ngặt nghẽo. Đồng hồ điểm 4:16 phút. “Thấy chưa?” Tôi chỉ cho con bé. “Còn quá sớm để con có thể ra khỏi giường.” Sau một hồi cự nự, Alba cũng chui vào chăn đi ngủ, và tôi quay trở lại nhà bếp. Henry đã rót cho chúng tôi mỗi người một cốc cà phê. Tôi ngồi xuống. Trong này thật lạnh.

“Clare.”

“Vâng?”

“Sau khi anh chết...” Henry ngừng nói và nhìn đi chỗ khác, anh ấy thở sâu rồi tiếp tục. “Anh đã thu xếp mọi việc, giấy tờ, di chúc, và thư gửi mọi người, những lời nhắn nhủ tới Alba, tất cả đều nằm trong ngăn bàn của anh.” Tôi không thể tìm được lời đáp lại. Henry nhìn tôi.

“Đó là khi nào?” tôi hỏi. Henry chỉ lắc đầu. “Vài tháng? Vài tuần? Hay vài ngày nữa?”

“Anh không biết, Clare ạ.” Anh ấy biết, tôi biết anh ấy biết.

“Anh đã thấy cáo phó của mình phải không?” tôi hỏi. Henry ngần ngại rồi gật đầu. Tôi mở miệng định hỏi thêm, nhưng rồi tôi sợ.

Hàng gi ờ, hàng ngày

Thứ Sáu, 24/12/2006 (Henry 43, clare 35)

HENRY: Tôi dậy sớm, rất sớm, khi căn phòng vẫn còn chìm trong ánh sáng xanh trước lúc rạng đông. Tôi nằm yên trên giường ngắm nhìn Clare ngủ, lắng nghe tiếng thở sâu của cô ấy, nghe tiếng giao thông rải rác trên đại lộ Lincoln, nghe tiếng quạ í ới gọi nhau và tiếng lò sưởi phụt tắt. Chân tôi đau nhức nhối. Tôi nhổm người dậy để tìm lọ Vicodin trong ngăn bàn đặt đầu giường. Tôi lấy ra hai viên, tống chúng xuống cổ họng bằng một ngụm cô-ca.

Tôi thả mình trở lại bên dưới lớp chăn. Clare đang say sưa ngủ, mặt úp xuống gối, tay ôm lấy đầu. Tóc cô ấy giấu bên dưới chăn, Clare trông nhỏ hơn khi không có mái tóc đỏ của mình. Tư thế ngủ hồn nhiên của cô ấy khiến tôi nhớ lại khi cô ấy còn nhỏ. Rồi tôi gắng nhớ lại liệu tôi đã từng thấy Clare ngủ khi còn nhỏ hay chưa, và nhận ra tôi chưa từng. Tôi đã nhầm với Alba. Ánh sáng đang đổi sắc. Clare cựa mình, quay người về phía tôi. Tôi ngắm kĩ khuôn mặt của cô ấy. Khoé mắt và miệng của cô ấy đã điểm xuyết những nếp nhăn, điểm khởi đầu cho khuôn mặt của Clare ở tuổi trung niên. Tôi sẽ không bao giờ được nhìn khuôn mặt trung niên đó, tôi cay đắng nuối tiếc, khuôn mặt sẽ đi cùng Clare trong quãng đường sắp tới mà không có tôi, khuôn mặt sẽ không còn được tôi hôn lên, khuôn mặt thuộc về một thế giới mà tôi sẽ không được biết, nơi tôi chỉ còn tồn tại trong kí ức của Clare, một mối liên kết đến quá khứ bất định.

Hôm nay là ngày giỗ thứ 37 của mẹ tôi. Tôi đã không ngừng nghĩ đến bà, mong mỏi được gặp lại bà trong suốt 37 năm đó, và bố tôi đã không một giây thôi nghĩ đến bà. Nếu sự mong nhớ tha thiết có thể đưa người chết sống lại, bà sẽ là Eurydice[1] của chúng tôi, bà sẽ hồi sinh như Lady Lazarus, không ngừng trốn thoát khỏi tay tử thần, để an ủi chúng tôi. Nhưng tất cả những lời kêu than của chúng tôi cũng không thể mang lại thêm một giây cho cuộc sống của bà, không thể khiến trái tim bà đập lại thêm một nhịp, khiến lồng ngực bà phập phồng một lần thở. Điều duy nhất sự mong mỏi của tôi có thể làm là đưa tôi đến gặp bà. Còn Clare sẽ có được gì sau khi tôi chết? Làm sao tôi có thể bỏ cô ấy ở lại?

[1] Eurydice: Con gái của thần Apollo, vợ của Orpheus, người đã xuống địa ngục tìm cách tái sinh Eurydice.

Tôi nghe tiếng Alba nói chuyện trong phòng con bé. “Này”, Alba nói. “Này, Teddy? Suỵt, hãy đi ngủ đi.” Im lặng. “Bố ơi?” Tôi nhìn sang Clare xem cô ấy có bị đánh thức bởi tiếng gọi của Alba. Cô ấy vẫn ngủ say. “Bố ơi!” Tôi rón rén quay người, khẽ chui ra khỏi chăn và trườn xuống sàn. Tôi bò ra ngoài, qua hành lang và vào phòng của Alba. Con bé cười khúc khích khi nhìn thấy tôi. Tôi gầm gừ, và Alba vỗ vào đầu tôi như thể tôi là một con thú. Con bé đang ngồi trên giường, giữa đống thú nhồi bông của nó. “Nhích ra nào, Cô bé Quàng khăn đỏ.” Alba ngồi dịch vào trong. Tôi bám lấy giường rồi leo lên. Con bé cuống cuồng thu dọn những con thú nhồi bông xung quanh tôi. Tôi đưa tay ôm lấy con bé rồi tựa người vào thành, con bé giơ Teddy Xanh ra trước mặt tôi. “Cậu ấy muốn ăn kẹo dẻo.”

“Vẫn còn quá sớm để ăn kẹo dẻo, Teddy Xanh ạ. Ăn trứng chần và bánh mì nướng nhé?”

Alba nhăn mặt. Con bé nhăn cả miệng, mũi và lông mày lại. “Teddy không thích trứng đâu”, con bé nói.

“Suỵt, khẽ nào. Mẹ vẫn còn đang ngủ.”

“Dạ”, Alba thì thầm lớn tiếng. “Teddy muốn ăn Jelly-O cơ.” Tôi nghe tiếng Clare rên rỉ và bắt đầu thức dậy ở phòng bên.

“Cháo yến mạch vậy nhé?” Tôi thương thuyết. Alba cân nhắc rồi bảo, “Với đường đen được không ạ?”

“Được rồi.”

“Con có muốn tự làm không?” Tôi trườn khỏi giường.

“Có ạ. Cho con cưỡi bố nhé?”

Tôi ngần ngại. Chân tôi đang đau khủng khiếp, và Alba hơi quá lớn để làm việc này mà không khiến tôi thêm đau, nhưng tôi không thể khước từ con bé bất cứ điều gì vào lúc này. “Dĩ nhiên rồi, nhảy lên nào.” Tôi khuỵu cả hai tay, hai chân xuống sàn. Alba trèo lên lưng tôi, và chúng tôi thong dong bò vào trong bếp. Clare đang ngái ngủ đứng bên bồn rửa, nhìn cà phê nhỏ từng giọt vào bình. Tôi trườn về phía cô ấy, rúc vào đầu gối của cô ấy. Clare nắm lấy tay Alba và nhấc bổng con bé lên. Alba khúc khích cười không thôi. Tôi bò về ghế của mình. Clare mỉm cười và nói, “Bữa sáng sẽ có gì vậy, các đầu bếp?”

“Jell-O!” Alba hét inh tai.

“Hừm, Jell-O gì? Jell-O ngô?”

“Khôôông!”

“Jell-O thịt hun khói?”

“Eo ơi!” Alba ôm chầm lấy Clare, khẽ giật tóc cô ấy.

“Đau quá, đừng làm vậy, bé con. Thì Jell-O yến mạch vậy.”

“Cháo yến mạch ạ!”

“Jell-O cháo yến mạch, ngon nhỉ.” Clare lôi ra túi đường đen, sữa và hộp yến mạch. Cô ấy đặt chúng lên mặt bàn và nhìn tôi dò hỏi. “Còn anh? Jell-O trứng tráng chứ?”

“Nếu em nấu thì anh sẽ ăn.” Tôi kinh ngạc trước sự lanh lẹ của Clare, di chuyển quanh bếp như thể cô ấy là Betty Crocker, như thể cô ấy đã làm việc này hàng năm trời. Cô ấy sẽ ổn khi không có tôi, tôi tự nhủ trong lúc nhìn cô ấy, nhưng tôi biết rằng cô ấy sẽ không hề ổn. Tôi ngắm Alba trộn nước và bột lúa mạch vào với nhau, và tôi nghĩ đến Alba khi lên mười, mười lăm, rồi hai mươi tuổi. Quãng thời gian tôi ở bên họ là chưa đủ. Tôi chưa muốn đi, tôi muốn được ở đây, muốn được nhìn thấy họ và ôm họ trong lòng, tôi muốn sống...

“Bố đang khóc kìa mẹ ơi”, Alba thì thầm vào tai Clare.

“Vì bố phải ăn đồ mẹ nấu đấy”, Clare bảo con bé rồi nháy mắt với tôi, và tôi phải cười.

Đêm giao thừa, hai

Chủ Nhật, 31/12/2006 (Clare 35, Henry 43)

7 giờ 25 phút tối

CLARE: Chúng tôi sẽ tổ chức tiệc giao thừa. Lúc đầu Henry tỏ ra miễn cưỡng, nhưng giờ thì anh ấy hoàn toàn thích thú. Anh ấy đang ngồi bên cạnh bàn ăn và hướng dẫn cách tỉa hoa từ cà rốt và củ cải cho Alba. Tôi phải thừa nhận rằng tôi đã không cho anh ấy lựa chọn khác, tôi đề cập đến chuyện mở tiệc trước mặt Alba và con bé rất hứng khởi nên anh ấy chẳng thể nào khiến con bé thất vọng.

“Sẽ rất vui mà, Henry. Em sẽ mời tất cả mọi người.”

“Tất cả?” anh ấy hỏi lại, miệng mỉm cười.

“Tất cả những người chúng ta yêu mến”, tôi đính chính. Và thế là trong suốt những ngày qua tôi đã dọn dẹp nhà cửa, còn Henry và Alba nướng bánh (mặc dù mỗi mẻ họ nướng đều chui vào miệng con bé một nửa nếu chúng tôi không canh chừng). Hôm qua Charisse và tôi đã đi siêu thị để mua đồ ăn nhẹ, đủ loại rau củ, bia, rượu, champagne, món khai vị đủ màu sắc, giấy ăn với dòng chữ Chúc mừng năm mới được in vàng rực, và đĩa giấy cùng màu... Khắp nhà giờ đây có mùi như thịt viên chiên và cây thông Noel đang quắt queo nhanh chóng trong phòng khách.

Alicia đang rửa li uống rượu cho chúng tôi.

Henry ngẩng mặt lên nhìn tôi và nói, “Clare, sắp đến giờ rồi đấy. Em đi tắm đi.” Tôi liếc nhìn đồng hồ và nhận ra đúng vậy, đã đến giờ.

Tôi nhảy vào bồn tắm, gội đầu, sấy tóc, mặc quần áo lót, đi tất, xỏ vào chiếc đầm dạ hội bằng lụa màu đen, đi giày cao gót và xức một chút nước hoa, tô son, soi gương lần cuối rồi quay trở lại nhà bếp nơi Alba vẫn tinh tươm trong chiếc váy nhung màu xanh của con bé, còn Henry vẫn đang mặc chiếc áo sơ mi vải dệt màu đỏ thủng lỗ chỗ và chiếc quần jeans rách màu xanh.

“Anh không định thay đồ sao?”

“Ồ, phải rồi. Giúp anh chứ?” Tôi đẩy xe đưa anh ấy vào phòng ngủ.

“Anh muốn mặc gì?” Tôi lục ngăn tủ để tìm quần lót và tất.

“Gì cũng được. Tuỳ em chọn.” Henry đưa tay đóng cửa phòng ngủ. “Lại đây nào.”

Tôi ngừng lục lọi và nhìn Henry. Anh ấy giữ thắng xe lăn và trèo lên giường.

“Chúng ta sẽ muộn mất”, tôi nói.

“Đúng thế, vậy nên hãy nhanh làm việc chính thôi.” Giọng anh ấy thủ thỉ và đầy thuyết phục. Tôi chốt cửa phòng.

“Em vừa mới thay đồ...”

“Suỵt, thôi nào.” Anh ấy đưa tay về phía tôi, lòng tôi chùng lại, rồi tôi ngồi xuống bên cạnh anh ấy, và ý nghĩ một lần cuối vụt lên trong đầu tôi.

(8 giờ 5 phút tối)

HENRY: Chuông cửa kêu lên đúng lúc tôi đang thắt cà vạt. Clare băn khoăn hỏi, “Trông em ổn chứ?” Cô ấy trông rất đẹp, hồng hào và đáng yêu, và tôi nói với cô ấy như vậy. Chúng tôi ra khỏi phòng ngủ trong lúc Alba chạy đi mở cửa và hét toáng lên “Chào ông nội! Chào bà Kim!” Bố tôi dậm mạnh đôi ủng đang bám đầy tuyết xuống sàn rồi cúi người ôm lấy con bé. Clare hôn lên má ông. Bố tôi đưa áo khoác của mình cho Clare như để tưởng thưởng. Alba bám dính lấy Kimy và dẫn bà đi xem cây Noel trước cả khi bà kịp cất áo choàng.

“Chào con, Henry”, bố tôi mỉm cười nói, cúi người về phía tôi và bất chợt tôi nhận ra: trong buổi tối hôm nay, cuộc đời tôi sẽ tái hiện ra trước mắt. Chúng tôi đã mời tất cả những người quan trọng trong cuộc đời mình: bố, Kimy, Alicia, Gomez, Charisse, Philip, Mark, Sharon và con cái họ, Roberto, Catherine, Isabelle, Matt, Amelia, bạn trong lĩnh vực nghệ thuật của Clare, bạn đại học của tôi, bố mẹ của bạn bè Alba, môi giới của Clare, và cả Celia Attley – sau một hồi nài nỉ của Clare. Những người vắng mặt là những người không thể đến vì lí do bất khả kháng: mẹ tôi, Lucile, Ingrid... Chúa ơi, đừng mang tôi đi.

(8 giờ 20 phút tối)

CLARE: Gomez và Charisse xuất hiện như những phi công cảm tử Nhật. “Này, Nhóc thủ thư lười biếng, cậu không bao giờ dọn tuyết trên vỉa hè nhà mình hả?”

Henry vỗ tay vào trán, đáp, “Tôi biết ngay là đã quên việc gì đó mà.” Gomez ném chiếc túi đựng đầy đĩa CD vào đùi Henry rồi bỏ đi dọn vỉa hè. Charisse cười rộ và đi theo tôi vào trong bếp. Cậu ấy lôi ra một chai vodka Nga to tướng và nhét nó vào trong tủ lạnh. Chúng tôi nghe thấy tiếng Gomez đang ông ổng hát “Let it snow” trong lúc anh ấy dọn tuyết dọc căn nhà.

“Lũ trẻ đâu hết rồi?” tôi hỏi Charisse.

“Bọn tớ gửi chúng ở nhà bà ngoại. Tớ nghĩ chúng sẽ thích ở bên bà ngoại trong đêm giao thừa hơn. Chưa kể, cậu biết đấy, bọn tớ muốn chịu tàn tích của rượu chè trong riêng tư.” Tôi chưa bao giờ nghĩ nhiều đến việc đó; tôi chưa từng say kể từ khi Alba tra đời. Alba chạy ùa vào trong bếp và ôm chầm lấy Charisse. “Xin chào, cô bé! Cô chú có quà Giáng sinh cho cháu đây!”

Alba nhìn tôi dò xét. “Mở nó ra đi.” Đó là một bộ đồ cắt móng tay nhỏ xíu, đi kèm với lọ sơn móng tay. Alba kêu lên sung sướng. Tôi vỗ nhẹ vào người con bé, và mở nó ra.

“Cảm ơn cô Charisse.”

“Không có gì, Alba.”

“Con đem khoe với bố đi”, tôi bảo con bé, và nó liền chạy về phía phòng khách. Tôi thò đầu vào hành lang để nhìn Alba hớn hở chìa món quà cho Henry xem, anh ấy xoè bàn tay ra cho con bé như thể đang trải qua cơn phẫu thuật rút móng. “Món quà tuyệt lắm”, tôi bảo Charisse.

Cậu ấy mỉm cười, “Đó là ước mơ hồi nhỏ của tớ. Tớ đã muốn trở thành một chuyên gia chăm sóc sắc đẹp khi lớn lên.”

Tôi cười, “Nhưng cậu không đủ khả năng để biến nó trở thành sự thật, nên thay vào đó cậu đã trở thành một nghệ sĩ.”

“Tớ đã gặp Gomez và nhận ra rằng, không ai có thể lật đổ hệ thống điều hành coi nhẹ nữ quyền của giai cấp tư bản bằng việc uốn tóc.”

“Dĩ nhiên là chúng ta cũng đã không thực sự lật đổ nó bằng việc bán các tác phẩm nghệ thuật cho nó.”

“Nói thì phải ngẫm đến mình, cô bạn thân mến. Cậu thì chỉ biết đam mê cái đẹp.”

“Thật áy náy quá.” Chúng tôi thong thả đi vào phòng ăn rồi Charisse bắt đầu chất đầy đồ ăn lên đĩa của mình. “Gần đây cậu đang làm gì?” tôi hỏi Charisse.

“Nghệ thuật virus máy tính.”

“Ồ, chẳng phải như vậy là phạm pháp sao?”

“Không hẳn, tớ chỉ thiết kế rồi vẽ chúng lên phông nền và đem đi triển lãm. Tớ không thực sự phát tán chúng.”

“Nhưng có thể sẽ có người phát tán.”

“Phải.” Charisse cười ranh mãnh. “Tớ hi vọng họ sẽ làm vậy. Gomez cứ không ngừng chế giễu, nhưng một vài trong số những bức tranh nhỏ nhoi này đủ sức gây nhiều phiền toái cho Ngân hàng Thế giới và Bill Gates cùng những kẻ khốn làm ra máy ATM.”

“Dù sao cũng chúc cậu may mắn. Khi nào triển lãm?”

“Tháng Năm. Tớ sẽ gửi thư mời cho cậu.”

“Khi nào nhận được nó, tớ sẽ biết đường để chuyển đổi tài sản của mình sang vàng khối và nhét chúng vào bình nước đóng chai.”

Charisse cười. Catheine và Alicia vừa xuất hiện, nên chúng tôi ngừng nói chuyện về sự hỗn loạn của thế giới qua nghệ thuật và chuyển sang khen ngợi đầm dạ hội của nhau.

(8 giờ 50 phút tối)

HENRY: Khắp nhà chật ních những người thân thiết và gần gũi nhất của chúng tôi, một vài trong số họ tôi đã không được gặp kể từ sau ca phẫu thuật. Leah Jacobs – người môi giới của Clare – rất lịch thiệp và tử tế, nhưng tôi khó có thể chịu được sự thương hại trong ánh mắt của cô ấy. Celia khiến tôi bất ngờ khi lại gần tôi và chìa tay ra. Tôi nhận lấy nó, và cô ấy nói, “Tôi rất tiếc khi thấy cậu như thế này.”

“Còn cô trông rất tuyệt”, tôi nói, và đó là sự thật. Tóc cô ấy vén cao, quần áo độc màu xanh lấp lánh.

Celia nói bằng giọng ngọt như bông đường của cô ấy, “Tôi thích cậu khi cậu còn là một kẻ chẳng ra gì hơn, tôi dễ dàng ghét cái thân hình mảnh khảnh trắng trẻo của cậu hơn.”

Tôi cười, “Ôi, những ngày tháng tươi đẹp.”

Celia lục trong túi xách và lôi ra một bức ảnh. “Tôi tìm thấy cái này trong đống đồ của Ingrid đã lâu. Tôi nghĩ có lẽ Clare sẽ thích nó.” Cô ấy đưa cho tôi bức ảnh. Đó là ảnh của tôi, có lẽ khoảng năm 1990. Tóc tôi để dài và tôi đang cười, cởi trần đứng trên bãi biển đường Cây Sồi. Đó là một bức ảnh đẹp. Tôi không nhớ Ingrid đã chụp nó khi nào, nhưng dù sao thì, hầu hết quãng thời gian của tôi bên Ing giờ đây chỉ còn là một khoảng trống.

“Phải, tôi cược rằng cô ấy sẽ rất thích nó. Memento mori[1].” Tôi trả lại bức ảnh cho Celia.

[1] Memeto mori: một câu thành ngữ tiếng Latin, có nghĩa “Hãy nhớ rằng ngươi sẽ chết”, không ai có thể sống mãi.

Cô ấy nhìn tôi sắc lẹm, “Cậu chưa có chết, Henry DeTamble ạ.”

“Không lâu nữa đậu, Celia.”

Celia cười. “Vậy thì nếu cậu xuống địa ngục trước tôi, nhớ giữ cho tôi một chỗ bên cạnh Ingrid.” Cô ấy quay đi tìm Clare.

(9 giờ 45 phút tối)

CLARE: Lũ trẻ đã chạy quanh không ngừng và đã ăn quá nhiều nên giờ chúng trở nên xộc xệch và buồn ngủ. Tôi gặp Colin Kendrick trong hành lang và hỏi cậu bé có muốn đi ngủ không; cậu bé long trọng nói với tôi rằng cậu bé muốn được thức cùng người lớn. Tôi xúc động trước sự lịch thiệp và vẻ đẹp của tuổi mười bốn, vẻ ngượng ngùng của cậu bé trước mặt tôi, cho dù cậu bé đã biết tôi trong suốt cuộc đời mình. Ngược lại, Alba và Nadia Kendrick không được tự chủ bằng. “Mẹ”, Alba nhõng nhẽo, “mẹ đã nói bọn con có thể thức cùng mà?”

“Phải rồi, nhưng con không muốn chợp mắt một chút sao? Mẹ sẽ đánh thức con dậy khi giao thừa đến.”

“Không chịu đâu!” Kendrick đang đứng nghe cuộc thương thuyết, tôi nhún vai với ông ấy, và ông ấy bật cười.

“Thật là cặp đôi bất kham. Được rồi, các cô gái, hãy vào phòng Alba và yên lặng chơi trong giây lát đi.” Chúng vùng vằng bỏ đi. Tôi chắc rằng chỉ sau vài phút, chúng sẽ lại vui vẻ chơi với nhau.

“Rất vui khi được gặp lại cô, Clare”, Kendrick nói trong lúc Alicia thong thả bước tới gần.

“Clare, trông bố kìa.” Tôi nhìn theo ánh mắt của Alicia và nhận ra bố tôi đang tán tỉnh Isabelle. “Ai đấy?”

“Ôi trời”, tôi cười lớn. “Đó là Isabelle Berk.” Tôi giải thích quan điểm và xu hướng tình dục hà khắc của Isabelle cho Alicia biết. Chúng tôi cười ngặt nghẽo đến thở không ra hơi. “Hoàn hảo, tuyệt vời. Ôi, chết mất”, Alicia nói trong nước mắt.

Richard đang bước lại gần thì khựng lại trước sự kích động của chúng tôi. “Có chuyện gì thú vị vậy, các quý cô xinh đẹp?”

Chúng tôi lắc đầu, vẫn không ngừng khúc khích. “Họ đang mỉa mai nghi lễ chọn bạn tình của đấng sinh thành đầy uy quyền của bọn họ”, Kendrick nói. Richard gật đầu ngơ ngác, và hỏi Alicia về lịch biểu diễn mùa xuân của con bé. Họ vừa đi về phía nhà bếp vừa trò chuyện về Bartok. Kendrick vẫn đang đứng cạnh tôi, đợi để nói về điều tôi không muốn nghe. Tôi định cáo lui thì ông ấy đặt tay lên tay tôi.

“Đợi đã, Clare...” Tôi đợi. “Tôi rất xin lỗi”, ông ấy nói.

“Không sao đâu, David.” Chúng tôi nhìn nhau đăm đăm trong giây lát. Rồi Kendrick lắc đầu và mò mẫm tìm thuốc. “Nếu khi nào cô muốn ghé qua phòng thí nghiệm, tôi sẽ chỉ cho cô xem những gì chúng tôi đang làm cho Alba...” Tôi đảo mắt khắp nơi tìm Henry. Gomez đang dạy Sharon điệu rumba trong phòng khách. Mọi người đều đang vui vẻ, chỉ có Henry là chẳng thấy tăm hơi. Ít nhất đã 45 phút tôi chưa nhìn thấy anh ấy. Tôi nóng lòng muốn tìm anh ấy, muốn chắc chắn rằng anh ấy vẫn ổn, rằng anh ấy vẫn đang ở đây. “Xin thứ lỗi”, tôi nói với Kendrick, người có vẻ như vẫn đang muốn tiếp tục cuộc trò chuyện. “Để lần khác nhé, khi yên tĩnh hơn.” Ông ấy gật đầu. Dù sao thì Nancy Kendrick cũng đang xuất hiện trở lại với Colin lẽo đẽo theo sau, khiến cuộc trò chuyện là bất khả thi. Họ hồ hởi lao vào chủ đề khúc côn cầu trên băng, còn tôi lẻn trốn.

(9 giờ 48 phút tối)

HENRY: Trong nhà đang dần nóng lên, tôi cần phải ra ngoài hóng gió một lát nên đã đẩy xe ra hiên nhà ngồi. Tôi vẫn nghe thấy tiếng mọi người trò chuyện trong phòng khách. Tuyết đang rơi nhanh và dày hơn, che phủ khắp các bụi cây và xe cộ, làm mềm những đường nét cứng cáp của chúng và ngăn chặn âm thanh của giao thông trên các con lộ. Một đêm tuyệt đẹp. Tôi mở cửa chắn giữa hiên nhà và phòng khách.

“Này, Gomez.”

Gomez phi nước kiệu chạy lại và thò đầu ra cửa, “Sao?”

“Ra ngoài này một chút đi.”

“Lạnh lắm.”

“Đi nào, lão già hom hem yếu đuối.”

Có gì đó trong ngữ điệu của tôi đã làm Gomez cắn câu. “Được rồi, được rồi. Chờ chút coi.” Cậu ấy biến mất và quay trở lại sau vài phút, áo choàng khoác trên người, tay cầm áo của tôi. Trong lúc tôi loay hoay mặc áo, Gomez chìa chai rượu đút túi của cậu ấy về phía tôi.

“Ồ, không, cảm ơn cậu.”

“Là Vodka. Cho ấm người.”

“Phản ứng với thuốc phiện.”

“Ồ, phải. Đãng trí làm sao.” Gomez đẩy tôi qua phòng khách. Khi ra đến đầu bậc thềm, cậu ấy nhấc bổng tôi lên, và cõng tôi trên lưng như một đứa trẻ, như một con khỉ, rồi chúng tôi bước qua cửa chính, không khí lạnh như một lớp vỏ cứng bọc lên người. Tôi có thể ngửi thấy mùi rượu trong mồ hôi của Gomez. Đâu đó ngoài kia, đằng sau ánh sáng chói loà hào nhoáng của Chicago, những ngôi sao đang trú ngụ trên bầu trời.

“Này chiến hữu.”

“Hử?”

“Cảm ơn cậu về mọi chuyện. Cậu đã là một người bạn tuyệt vời...” Tôi không thể nhìn thấy mặt Gomez, nhưng tôi có thể cảm nhận được cậu ấy đang cứng người lại bên dưới lớp quần áo.

“Cậu đang muốn nói gì?”

“Nữ thần báo tử của tớ đã cất tiếng hát rồi, Gomez. Thời gian đã hết. Cuộc chơi đã tàn.”

“Khi nào?”

“Sớm thôi.”

“Sớm đến mức nào?”

“Tớ không biết”, tôi nói dối. Rất, rất sớm thôi. “Tớ chỉ muốn nói rằng... tớ biết đôi khi tớ đã cư xử như một thằng khốn”, (Gomez bật cười) “nhưng chúng ta đã có những khoảng thời gian vui vẻ”, (tôi ngừng lại vì đang chực khóc) “rất vui vẻ”, (và chúng tôi đứng đó, hai người đàn ông ăn nói vụng về, hơi thở đóng băng thành những luồng khói trắng trước mặt, tất cả những lời muốn nói bị bỏ lại không thể nói ra) và cuối cùng tôi nói, “Hãy vào nhà thôi.” Trong lúc nhẹ nhàng đặt tôi xuống xe lăn, Gomez ôm lấy tôi trong giây lát, rồi nặng nề bước đi mà không ngoảnh lại.

(10 giờ 15 phút tối)

CLARE: Henry không có trong phòng khách, nơi mọi người đang tụm nhau lại và nhảy, theo nhiều phong cách khác lạ, theo giai điệu của Squirrel Nut Zippers. Charisse và Matt đang nhảy gì đó trông như cha-cha, còn Roberto đang khiêu vũ khá tinh tế cùng Kimy, người di chuyển nhẹ nhàng nhưng vững chãi. Gomez đã bỏ rơi Sharon để nhảy cùng Catherine, người đang kêu oai oái khi anh ấy xoay cô vòng vòng và cười sặc sụa khi anh ấy dừng lại để châm thuốc.

Henry không có trong bếp, nơi đang bị chiếm dụng bởi Raoul, James, Lourdes và số còn lại của những người bạn hoạ sĩ của tôi. Họ đang tiêu khiển cho nhau bằng các câu chuyện về những điều tồi tệ mà các nhà môi giới nghệ thuật làm với nghệ sĩ và ngược lại. Lourdes đang kể chuyện về cái lỗ mà tác phẩm của Ed Kienholtz đã để lại trên chiếc bàn đắt tiền của người môi giới của anh ta. Họ hùa nhau cười phá lên thích thú. “Đừng để Leah nghe được những gì cậu nói”, tôi chòng ghẹo. “Leah đâu rồi?” James lên tiếng. “Tôi cược rằng cô ấy có nhiều chuyện thú vị để kể...” Nói đoạn James bỏ đi tìm người môi giới của tôi, người đang uống cognac với Mark ở cầu thang.

Ben đang tự pha cho mình một cốc trà. Anh ấy lôi ra chiếc túi đựng đủ loại thảo dược bên trong, rồi cẩn thận đo số lượng đổ vào trong túi lọc và nhúng nó vào cốc nước nóng. “Anh có thấy Henry đâu không?” tôi hỏi.

“Có, tôi vừa nói chuyện với cậu ấy. Cậu ấy đang ở hiên trước.” Ben lén nhìn tôi. “Tôi khá lo lắng về Henry. Cậu ấy có vẻ rất buồn. Cậu ấy có vẻ...” Ben dừng lại và khua tay ngụ ý có lẽ tôi nhầm “cậu ấy khiến tôi nghĩ đến thái độ của một số bệnh nhân cũ, khi họ biết mình không còn sống được bao lâu nữa...” Ruột gan tôi thắt lại.

“Anh ấy đã trở nên khá buồn rầu kể từ khi đôi chân không còn...”

“Tôi biết. Nhưng cậu ấy nói chuyện như thể đang chuẩn bị bước lên chuyến tàu sắp rời bến. Cậu ấy nói với tôi...” Ben hạ giọng thủ thỉ, khiến tôi khó có thể nghe rõ anh ấy nói gì. “Cậu ấy nói với tôi rằng cậu ấy rất quý tôi, và cảm ơn tôi... Ý tôi là, người ta, đàn ông, không nói những điều như vậy trừ khi họ không còn sống được bao lâu nữa.” Mắt Ben mọng nước sau cặp kính cận. Tôi quàng tay ôm lấy anh ấy, và chúng tôi đứng như vậy trong giây lát, hai tay tôi giữ lấy thân hình rũ rượi của Ben. Mọi người đang trò chuyện xung quanh chúng tôi, ngó lơ chúng tôi. “Tôi không muốn sống lâu hơn bất kì ai tôi biết”, Ben nói. “Chúa ạ, sau khi uống cái thứ khủng khiếp này và sống dặt dẹo ốm yếu suốt 15 năm, tôi cứ nghĩ tôi đã có được cái quyền tụ họp tất cả mọi người xung quanh quan tài của tôi và nói, ‘Cậu ấy đã tranh đấu cho đến hơi thở cuối cùng’, hay điều gì tương tự. Tôi đã hi vọng Henry sẽ ở đó và trích lời Donne, ‘Hỡi Tử thần, đừng có kiêu ngạo, cái thằng khốn nhà ngươi’. Và đó sẽ là một tang lễ xúc động.”

Tôi bật cười. “Nếu Henry không thể có mặt, tôi sẽ thay anh ấy làm việc đó. Tôi sẽ bắt chước một Henry ác khẩu.” Tôi nhướn một bên chân mày, hất cao cằm, và hạ giọng: “Một giấc ngủ ngắn trôi qua, ta muôn đời tỉnh giấc, và Tử thần sẽ chỉ biết ngồi trong bếp lúc ba giờ sáng trong chiếc quần đùi của hắn và chơi ô chữ tuần trước...” Ben phì cười. Tôi hôn lên gò má nhẵn thín xanh xao của anh ấy rồi bước đi.

Henry đang ngồi một mình ngoài mái hiên trong bóng tối, nhìn tuyết rơi. Tôi đã không ngó ra ngoài cửa sổ cả ngày nay, nên giờ tôi mới nhận ra tuyết đã rơi nặng hạt trong hàng giờ đồng hồ. Máy ủi tuyết đang ì ạch lăn trên đại lộ Lincoln, và những người hàng xóm của chúng tôi đang cặm cụi xúc tuyết trên vỉa hè nhà họ. Mặc dù mái hiên được vây kín nhưng vẫn thật lạnh.

“Hãy vào nhà nhé”, tôi nói. Tôi đứng bên cạnh Henry, ngắm một chú chó chạy tung tăng trên tuyết bên kia đường. Henry đưa tay ôm lấy tôi và dựa đầu vào hông tôi.

“Anh ước gì chúng ta có thể khiến thời gian ngừng lại giây phút này”, anh ấy nói. Tôi đưa tay vuốt tóc anh ấy. Chúng khô cứng và dày hơn trước, khi chúng chưa điểm bạc.

“Clare”, anh ấy nói.

“Henry.”

“Đã đến lúc...” anh ấy ngừng lại.

“Sao cơ?”

“Đã... Anh sắp...”

“Ôi Chúa ơi.” Tôi ngồi xuống trường kỉ, đối mặt với Henry. “Nhưng... đừng. Hãy ở lại với em.” Tôi nắm chặt đôi bàn tay của anh ấy.

“Đó là sự đã rồi. Nào, hãy để anh được ngồi gần em.” Anh ấy đu người khỏi xe lăn và ngồi xuống trường kỉ. Chúng tôi nằm xuống trên tấm vải lạnh tái tê. Tôi run rẩy dưới lớp vải mỏng tang của chiếc đầm dạ vũ. Trong nhà, mọi người vẫn đang cười nói và nhảy múa. Henry đưa tay ôm lấy tôi, giữ ấm cho tôi.

“Tại sao anh không nói với em? Tại sao anh để em mời tất cả những người này đến?” Tôi không muốn nổi giận, nhưng không khỏi bộc phát.

“Anh không muốn em ở một mình... sau khi anh chết. Và anh cũng muốn được nói lời tạm biệt với tất cả mọi người. Tối nay là một đêm tuyệt diệu, là một lời chú tụng cuối...” Chúng tôi nằm đó trong im lặng một hồi. Tuyết cũng im lặng rơi.

“Mấy giờ rồi?”

Tôi nhìn đồng hồ. “Hơn 11 giờ một chút.” Ôi Chúa ơi, Henry kéo tấm chăn từ chiếc ghế bên cạnh, và chúng tôi choàng nó lên người nhau. Tôi không thể tin được điều này. Tôi đã biết giây phút này sẽ đến, sớm hay muộn, nhưng giờ thì nó thực sự đã đến, và chúng tôi chỉ nằm đây, chờ đợi...

“Ôi, tại sao chúng ta không thể làm được điều gì đó?” Tôi thì thầm vào tai Henry.

“Clare...” Hai tay Henry ôm chặt lấy tôi. Tôi nhắm mắt lại.

“Hãy ngăn nó, hãy khước từ nó khỏi diễn ra. Hãy thay đổi nó!”

“Ôi, Clare.” Henry thổn thức, tôi ngước lên nhìn anh ấy. Mắt anh ấy loé lên những giọt nước mắt trong ánh sáng phản chiếu từ tuyết. Tôi đặt má lên vai Henry. Anh ấy vuốt tóc tôi. Chúng tôi nằm đó, tưởng chừng như cả thế kỉ đã trôi qua. Henry đổ mồ hôi. Tôi đưa tay lên má anh ấy và nhận ra anh ấy đang nóng bừng lên vì cơn sốt.

“Mấy giờ rồi?”

“Đã gần nửa đêm.”

“Anh sợ.” Tôi nắm chặt lấy tay Henry, kẹp chặt chân anh ấy. Thật khó để tin rằng Henry rất cứng cỏi, người đàn ông của cuộc đời tôi, Henry trong thân thể hữu hình mà tôi đang ghì chặt lấy bằng tất cả sức mạnh của mình, lại có thể biến mất.

“Hôn anh đi!”

Tôi hôn Henry, và rồi tôi còn lại một mình dưới tấm chăn, trên chiếc ghế trường kỉ trong mái hiên lạnh lẽo. Những bông tuyết vẫn rơi đều đặn. Trong nhà, tiếng nhạc đã ngừng chơi và tôi nghe Gomez nói, “Mười! Chín! Tám” và mọi người đồng thanh hùa theo, “Bảy! Sáu! Năm! Bốn! Ba! Hai! Một! Chúc mừng năm mới!” và tiếng nắp chai champagne được mở ra, rồi mọi người lại bắt đầu trò chuyện cùng một lượt, và có ai đó nói, “Henry và Clare đâu rồi?” Đâu đó ngoài kia có người đốt pháo hoa. Tôi đưa tay ôm mặt và chờ đợi.

Luận thuyết của nỗi khát khao

Bốn mươi ba năm cuộc đời anh. Cái kết thời gian bé nhỏ.

Thời gian của anh - người đã nhìn thấy sự bất tận qua vô vàn các vết nứt của lớp vỏ trơ trụi của vạn vật, và chết bởi nó.

­­–– A.S. Byatt, Chiếm hữu

Cỏ chậm rãi bước theo, cứ từ từ tiến tới,

như thể có điều gì đó ngáng đường;

ấy vậy mà: cũng như thể một khi vượt qua nó,

cô sẽ không còn phải bước thêm nữa, và cô sẽ giang cánh bay.

–– Trích Mù

Rainer Maria Rilke

Thứ Bảy, 27/10 – Thứ Hai, 1/1/2007 (Henry 43, Clare 35)

HENRY: Bầu trời trơ trụi và tôi đang rơi xuống bãi cỏ cao khô ráo, hãy đến nhanh đi, và mặc dù tôi cố ngồi im không động đậy, tiếng kêu răng rắc của cây súng trường vang lên từ xa nghe có vẻ chẳng liên quan gì đến tôi, nhưng không: tôi ngã lăn ra đất, tôi nhìn xuống cái bụng đang mở ra như quả lựu của mình, một món canh nội tạng và máu đựng trong cái bát của thân thể tôi; không đau chút nào. Không lẽ? Có ai đó đang chạy lại. Tất cả những gì tôi muốn nhìn thấy là Clare trước khi... trước khi... Tôi gọi to tên cô ấy, Clare, Clare!

Và Clare cúi xuống nhìn tôi, thổn thức khóc, còn Alba thì thầm, “Bố ơi...”

“Mãi mãi...”

“Henry...”

“Yêu em...”

“Ôi Chúa ơi, Chúa ơi...”

“Suốt đời...”

“Không!”

“Suốt kiếp...”

“Henry!”

CLARE: Phòng khách chìm trong yên lặng. Mọi người đứng yên không động đậy, đông cứng, nhìn xuống chúng tôi. Billie Holiday đang hát, rồi ai đó tắt đầu máy và sự im lặng bao trùm. Tôi ngồi trên sàn ôm chặt Henry. Alba đang quỳ bên cạnh anh ấy, thì thầm vào tai và lắc mạnh. Da Henry vẫn còn ấm, mắt anh ấy vẫn mở đang nhìn xuyên qua tôi, anh ấy nặng trĩu trên tay tôi, rất nặng, làn da xanh xao của anh ấy đang dần biến mất, màu đỏ chồm lên ngự trị, thân thể bị xé thủng đang mở ra thế giới bí mật của máu. Tôi ẵm Henry vào lòng. Có máu dính ở một bên mép của anh ấy. Tôi chùi nó đi. Pháo hoa đang được bắn lên ở đâu đó gần đây. Gomez nói, “Có lẽ chúng ta nên gọi cảnh sát.”

Biệt ly

Thứ Sáu, 2/2/2007 (Clare 35)

CLARE: Tôi ngủ suốt ngày. Tiếng động vang lên quanh nhà: tiếng xe rác chạy trong hẻm, tiếng mưa, tiếng những ngọn cây gõ cửa phòng ngủ của tôi. Tôi ngủ. Tôi sống trong giấc ngủ triền miên, muốn có nó, tận dụng nó, và xua đuổi những giấc mơ, khước từ, cự tuyệt. Giấc ngủ đã trở thành người bạn tình, sự chối bỏ, liều thuốc mê và sự lãng quên của tôi. Điện thoại đổ chuông rồi lại đổ chuông. Tôi đã tắt hộp thư thoại có tiếng trả lời của Henry. Đang là buổi trưa, đang là đêm tối, và đang là bình minh. Mọi thứ chỉ còn xoay quanh chiếc giường này, giấc ngủ bất tận biến mọi ngày vào một ngày, khiến thời gian ngừng lại, kéo giãn và co rút thời gian cho đến khi nó trở nên vô nghĩa.

Có đôi lúc giấc ngủ bỏ rơi tôi, và tôi phải giả vờ như đang ở trong nó, giống như những lần Etta vẫn đến đánh thức tôi dậy đi học. Tôi thở chậm và sâu. Tôi khiến đôi mắt mình bất động bên dưới hai mi, tôi khiến tâm trí tôi bất động, và không lâu sau giấc ngủ sẽ nhìn thấy bản sao hoàn hảo của chính nó và đến hoà làm một.

Có đôi lúc tôi thức dậy và với tay sang Henry. Giấc ngủ xoá hết mọi sự khác biệt: xưa và nay; sự sống và cái chết. Tôi không còn đói khát, không còn những sự phù du hão huyền rỗng tuếch, không còn bận tâm. Sáng nay tôi liếc thấy khuôn mặt mình trong gương khi vào nhà vệ sinh. Tôi gầy hốc hác, làn da nhợt nhạt tựa giấy, mắt thâm quầng và tóc rối bù. Tôi trông như đã chết. Tôi chẳng còn tha thiết điều gì.

Kimy ngồi cuối chân giường. Bà nói, “Clare? Alba đã đi học về... Cháu có muốn để nó vào một lát không?” Tôi giả vờ như đang ngủ. Bàn tay nhỏ nhắn của Alba vuốt má tôi. Nước mắt lọt qua khoé mắt tôi. Alba đặt thứ gì đó, ba-lô của con bé? Hay hộp đàn violon? xuống sàn nhà và Kim nói, “Cởi giày ra đã, Alba”, rồi Alba trèo lên giường với tôi. Con bé quàng tay tôi qua người nó, gối đầu bên dưới cằm tôi. tôi thở dài và mở mắt. Alba vờ như đang ngủ. Tôi nhìn đăm đăm vào đôi lông mi đen dài, vào chiếc miệng rộng và làn da trắng của con bé; con bé đang thở từ tốn, cẩn thận, nó bám lấy hông tôi bằng bàn tay mạnh mẽ, con bé có mùi bút chì mới gọt, mùi nhựa bôi dây đàn và mùi xà phòng. Tôi hôn lên đầu nó. Alba mở mắt và bóng dáng Henry trong con bé khiến tôi gần như không thể đương đầu. Kimy đứng dậy đi ra khỏi phòng.

Hãy mở ra sau khi anh mất

Ngày 10/12/2006

Clare thân yêu,

Trong lúc viết những dòng chữ này, anh đang ngồi ở chiếc bàn trong căn phòng ngủ cuối nhà và nhìn ra xưởng vẽ của em bên kia khu vườn đầy tuyết xanh của trời đêm, mọi vật trơn bóng và giòn giã trong băng tuyết, thật tĩnh lặng. Đó là một trong những buổi tối khi cái lạnh của vạn vật dường như khiến thời gian chậm lại, như điểm giữa của chiếc đồng hồ cát nơi thời gian chảy qua từ tốn. Anh có cảm giác, rất giống với những khi anh sắp hết thời gian nhưng hầu như không bao giờ ngược lại, rằng anh đang trôi bồng bềnh trong dòng thời gian, lênh đênh thư thái trên bề mặt của nó như một phụ nữ phì nhiêu đang bơi lội. Có gì đó thúc giục anh, trong buổi tối ở nhà một mình này (em đang đi dự buổi tiệc độc tấu của Alicia ở nhà thờ thánh Lucy) phải viết cho em một lá thư. Bỗng nhiên anh muốn để lại thứ gì đó, sau khi anh mất. Anh nghĩ rằng thời gian còn lại của mình đang dần cạn kiệt. Anh cảm thấy như thể năng lượng, niềm vui thú, sự duy trì dự trữ của mình đang rất mong manh và nhỏ bé. Anh không nghĩ mình có thể tiếp tục được lâu nữa. Anh biết rằng em hiểu.

Nếu em đang đọc những dòng chữ này, thì chắc hẳn anh đã chết. (Anh nói chắc hẳn, vì chúng ta chẳng bao giờ biết được chuyện gì sẽ xảy ra; sẽ là ngớ ngẩn và tự coi trọng bản thân thái quá nếu vạch định cái chết của ai đó như một sự việc tuyệt đối.) về phần mình, anh hi vọng nó sẽ đơn giản, nhanh chóng và rõ ràng. Anh hi vọng rằng mình sẽ không khiến mọi chuyện trở nên om xòm. Anh xin lỗi. (Những lời này nghe như một bức thư tuyệt mệnh. Thật lạ.) nhưng em biết rằng nếu có thể ở lại, nếu anh có thể lựa chọn tiếp tục sống, anh sẽ bấu víu vào từng giây phút. Cái chết này, bất kể nó là gì, em biết nó đã tự tìm đến anh và mang anh đi như một đứa trẻ bị bắt bởi những con yêu tinh.

Clare, anh muốn nói với em một lần nữa, rằng anh yêu em. Tình yêu của chúng ta đã như một sợi chỉ dẫn lối qua mê hồn trận, như tấm lưới chắn bên dưới người đu dây, là điều duy nhất có thực trong cuộc sống kì lạ này của anh để anh tin tưởng. Đêm nay anh cảm thấy tình yêu của anh dành cho em hiện hữu trong thế giới này nhiều hơn cả bản thân mình, như thể nó sẽ nán lại và vây quanh em, giữ lấy em và ôm em vào lòng sau khi anh đi mất.

Anh ghét phải nghĩ đến việc để em phải chờ đợi. Anh biết em đã đợi anh cả cuộc đời này, luôn tự hỏi con đường của sự chờ đợi này còn kéo dài đến bao lâu. Mười phút, mười ngày. Một tháng. Anh thật là một ông chồng vô dụng, chẳng thể cậy nhờ, còn em, Clare, như một người thuỷ thủ, như Odysseus đơn độc và bị vùi dập bởi những con sóng lớn, bởi những trái ngang và đôi khi chỉ như một món đồ chơi của Thượng đế. Hãy vì anh, Clare. Sau khi anh chết, hãy thôi chờ đợi, hãy tự do, hãy giải phóng mình khỏi anh. Hãy đặt anh vào sâu thẳm trong em và tiến vào thế giới ngoài kia mà sống. Hãy yêu thế giới ngoài kia và yêu chính em trong nó, hãy đi qua nó như thể nó chẳng mang lại trở ngại gì cho em, như thể thế giới là một phần tự nhiên của em. Anh đã mang đến cho em một cuộc sống vội vã bất định. Anh không có ý nói rằng em đã không sống. Em đã tạo ra những điều tuyệt diệu và ý nghĩa, trong các tác phẩm của em, trong Alba, con bé thật không lời nào tả xiết; và đối với anh, đối với anh, em là tất cả.

Sau khi mẹ anh mất, bố anh đã không còn nhựa sống. Chắc hẳn bà sẽ rất buồn nếu biết được. Mọi phút trong cuộc sống của bố anh kể từ đó đã nhuốm màu u tối vì sự ra đi của mẹ, mọi hành động của ông đã thiếu chiều kích vì bà không còn ở đó để làm chuẩn mực. Khi còn trẻ, anh đã không hiểu, nhưng giờ, giờ thì anh đã hiểu, sự biệt li có thể theo ta như một tổn thương vĩnh cửu, như một con chim đen.

Nếu anh phải sống mà không có em, anh biết rằng mình sẽ không thể chịu nổi. Anh có một giấc mơ, anh nhìn thấy em bước đi vững vàng, mái tóc em long lanh dưới ánh nắng. Tuy chỉ là một giấc mộng, nhưng nó đã gắn chặt vào tâm trí anh, anh luôn muốn khắc hoạ hình ảnh đó, và anh hi vọng rằng nó sẽ trở thành sự thật.

Clare, còn một điều cuối cùng mà anh đã không dám nói với em, vì anh sợ rằng nếu anh nói ra nó sẽ không thể trở thành sự thật (anh biết, thật ngớ ngẩn phải không?) và bởi vì anh vừa không ngừng khuyên em hãy thôi chờ đợi và điều này có thể sẽ là nguyên nhân khiến em phải chờ đợi dài hơn tất cả những lần chờ đợi trước đây. Nhưng anh sẽ nói, phòng khi em cần điều gì đó giúp em bước tiếp, sau khi anh chết.

Mùa hè trước, khi anh đang ngồi trong phòng đợi của Kendrick thì đột nhiên anh thấy mình đứng giữa hành lang của một ngôi nhà xa lạ. Anh mắc kẹt giữa một núi ủng đi mưa, chúng có mùi như những cơn mưa rào. Cuối hành lang, ánh sáng mờ ảo đang bao quanh cánh cửa, nên anh đã tiến lại gần cửa rồi nhìn vào trong, rất chậm rãi và rất khẽ khàng. Căn phòng có màu trắng, và ngập tràn trong ánh bình minh. Bên cửa sổ, một phụ nữ đang ngồi quay lưng lại phía anh, và mặc chiếc áo len màu đỏ san hô, mái tóc dài bạc trắng xoã xuống lưng. Một cốc trà đặt trên chiếc bàn bên cạnh. Chắc hẳn anh đã gây ra tiếng động, hoặc cũng có thể bà ấy cảm nhận được anh đang đứng phía sau nên đã quay lại và nhìn thấy anh. Người phụ nữ đó là em, Clare, đó là em trong hình hài của một bà lão, ở tương lai. Anh đã thật hạnh phúc, Clare, thật hạnh phúc không lời nào tả xiết khi được gặp em, như trở về từ cái chết và ôm em vào lòng, được nhìn những năm tháng hiển hiện trên khuôn mặt em. Anh sẽ không kể cho em thêm nữa, để em có thể tự hình dung, để em có thể bất ngờ đón nhận nó khi thời gian đến, vì nó sẽ, và nó đã. Chúng ta sẽ gặp lại nhau, Clare ạ. Cho đến khi đó, hãy sống thật trọn vẹn và sống cho hiện tại trong thế giới tuyệt đẹp này.

Trời đã tối và anh đang dần kiệt sức. Anh yêu em, mãi mãi. Thời gian chẳng có nghĩa lí gì với tình yêu đó.

Henry.

Tồn tại

Thứ Bảy, 12/7/2008 (Clare 37 tuổi)

CLARE: Charisse đã đưa Alba, Rosa, Max và Joe đi trượt pa-tanh ở Rainbo. Tôi lái xe đến nhà cậu ấy để đón Alba, nhưng tôi đến sớm còn Charisse về muộn. Gomez cuốn khăn tắm ra mở cửa.

“Em vào đi”, anh ấy nói, rồi mở rộng cửa ra. “Cà phê nhé?”

“Được thôi.” Tôi đi theo anh ấy qua phòng khách bừa bộn của họ vào nhà bếp. Tôi ngồi xuống chiếc bàn vẫn đang ngổn ngang bát đĩa từ bữa sáng, dọn một chỗ đủ rộng để đặt khuỷu tay lên mặt bàn, Gomez sục sạo quanh nhà bếp để pha cà phê.

“Lâu lắm không thấy mặt em.”

“Em khá bận. Alba đang đi học đủ thứ, em phải đưa con bé đi khắp nơi.”

“Em vẫn sáng tác chứ?” Gomez đặt tách và đĩa xuống trước mặt tôi rồi rót cà phê vào. Sữa và đường đã có sẵn ở bàn nên tôi tự lấy.

“Không.”

“Ồ.” Gomez đứng tựa vào bàn nấu ăn, tay ôm cốc cà phê của mình. Tóc anh ấy đen bóng vì nước và được chải phẳng lì. Tôi đã không để ý đường chân tóc của Gomez đang lùi dần về phía sau. “Ngoài việc đưa đón công chúa của em đi khắp nơi, em còn làm gì nữa?”

Tôi làm gì? Tôi đợi. Tôi nghĩ. Tôi ngồi trên giường và ôm chiếc áo vẫn còn vương mùi Henry, hít vào căng phổi mùi hương của anh ấy. Tôi đi lang thang lúc hai giờ sáng, khi Alba đã ngủ an toàn trên giường của con bé; đi những đoạn đường dài cho đến khi mệt lả để có thể chìm vào giấc ngủ. Tôi trò chuyện với Henry như thể anh ấy vẫn còn ở đây bên tôi, như anh ấy có thể nhìn thấy qua đôi mắt tôi, và suy nghĩ bằng trí não tôi.

“Không có gì nhiều.”

“Hừm.”

“Anh thì sao?”

“Em biết rồi đấy. Công việc. Đóng vai trưởng giả nghiêm khắc trong nhà. Những việc bình thường.”

“Ồ.” Tôi nhấp một ngụm cà phê. Tôi nhìn đồng hồ phía trên bồn rửa bát. Nó có hình dáng một con mèo đen: đuôi nó lắc lư qua lại như một quả lắc và cặp mắt to chuyển động theo mỗi nhịp, kêu tíc tắc ầm ĩ. Đang là 11 giờ 45 phút.

“Em có muốn ăn gì không?”

Tôi lắc đầu. “Không, cảm ơn anh.” Dựa trên đống bát đĩa trên bàn, tôi biết Charisse và Gomez đã ăn dưa mật, trứng bác và bánh mì cho bữa sáng. Lũ trẻ đã ăn Lucky Charms, Cheerios và thứ gì đó có lẫn bơ đậu phộng. Bàn ăn chính thị là hiện trường tái diễn bữa ăn sáng của một gia đình thế kỉ hai mươi mốt.

“Em có đang hẹn hò với ai không?” Tôi nhìn lên và Gomez vẫn tựa người vào chiếc bàn nấu ăn, vẫn giữ cốc cà phê ngang cằm.

“Không.”

“Tại sao không?”

Không phải việc của anh, Gomez ạ. “Em chỉ đơn giản không nghĩ đến nó.”

“Em nên nghĩ đến nó.” Anh ấy đặt cốc vào bồn.

“Tại sao?”

“Em cần điều gì đó mới mẻ. Cần ai đó mới mẻ. Em không thể cứ ngồi một chỗ và đợi Henry xuất hiện cả đời được.”

“Dĩ nhiên em có thể. Cứ chờ mà xem.”

Gomez tiến tới hai bước và đứng sát cạnh tôi. Anh ấy nhoài người và ghé miệng sát tai tôi. “Em không bao giờ nhớ điều này sao?” Anh ấy liếm tai tôi. Có, tôi có nhớ. “Cút đi, Gomez”, tôi rít lên với anh ấy, nhưng tôi không tránh đi chỗ khác. Tôi bị dính chặt vào ghế của mình bởi ý nghĩ đó. Gomez vén tóc tôi lên và hôn vào sau cổ của tôi.

Hãy đến với em! Ôi! Hãy đến với em!

Tôi nhắm mắt lại. Đôi bàn tay léo tôi ra khỏi ghế, cởi cúc áo tôi. Một chiếc lưỡi đặt lên cổ tôi, lên vai tôi và lên ngực tôi. Tôi với tay ra mò mẫm, chiếc khăn tắm rơi xuống sàn. Henry. Đôi bàn tay cởi cúc quần jeans của tôi, kéo chúng xuống, ngả người tôi xuống bàn ăn. Có thứ gì đó bằng kim loại rơi xuống. Thức ăn và dao đĩa, một chiếc đĩa bán nguyệt, vỏ nhựa dính dưới lưng tôi. chân tôi dạng ra. Lưỡi đặt lên vùng kín. “Ôi!” Chúng tôi đang ở trong đồng cỏ. Đang là mùa hè. Một cái chăn màu xanh. Chúng tôi vừa ăn, vị của dưa vẫn còn ở trong miệng. Lưỡi rời ra bỏ lại một khoảng trống, ướt và rộng mở. Tôi mở mắt ra; tôi đang nhìn chằm chằm vào cái cốc nước cam chỉ còn một nửa. Tôi nhắm mắt lại. dương v*t của Henry đều đặn đi vào trong tôi mạnh mẽ. Phải. Em đã rất kiên nhẫn chờ đợi. Henry. Em biết sớm hay muộn anh cũng sẽ trở lại thăm em. Phải. Da chạm da, tay chạm ngực, đôi thân thể bám vào nhau đẩy theo nhịp.

“Ôi, Henry...”

Tất cả dừng lại. Chỉ còn tiếng đồng hồ đang kêu tích tắc. Tôi mở mắt ra. Gomez đang nhìn chằm chằm xuống tôi bằng vẻ tổn thương hay giận dữ? Trong khoảnh khắc, mặt anh ấy vô cảm. Tiếng cửa xe đóng lại. Tôi ngồi dậy, nhảy xuống khỏi bàn và chạy vào phòng tắm, Gomez ném quần áo của tôi vào theo.

Trong lúc mặc quần áo, tôi nghe tiếng Charisse và lũ trẻ đi vào cửa trước, cười đua. Alba gọi, “Mẹ ơi!” và tôi thét lên đáp lại, “Mẹ sẽ ra ngay!” Tôi đứng trong ánh sáng mờ ảo của căn phòng tắm bằng gạch đen và hồng, nhìn chăm chăm vào chính mình trong gương. Tóc tôi dính Cheerios. Hình ảnh của tôi trong gương xanh xao và lạc lối. Tôi rửa tay, cố chải lại tóc bằng những đầu ngón tay. Mình đang làm gì thế này? Mình đã chấp nhận để cho chính mình trở thành loại người gì thế này?

Rồi câu trả lời vụt đến: Giờ mày đã là một kẻ lãng du.

Thứ Bảy, 26/7/2008 (Clare 37 tuổi)

CLARE: Phần thưởng cho Alba vì đã ngoan ngoãn đợi ở các phòng tranh trong lúc tôi và Charisse ngắm các tác phẩm là được đi đến Ed Debevic, một nhà hàng có các hoạt động đặc biệt dành cho thực khách. Ngay khi chúng tôi bước qua cửa, không khí của những năm 1964 tràn ngập. The Kinks đang chơi hết cỡ và các khẩu hiệu được treo khắp nơi:

“Nếu bạn là khách hàng tốt, bạn sẽ gọi thêm món!!!”

“Vui lòng nói rõ ràng khi gọi món.”

“Cà phê của chúng tôi rất ngon, bản thân chúng tôi cũng uống nó!”

Hôm nay là ngày bong bóng động vật; một quý ông trong bộ com-lê màu tía bóng lộn lôi ra một con chó Dachshund cho Alba rồi biến nó thành một cái mũ và đặt nó lên đầu con bé. Con bé vui mừng quấn quít. Chúng tôi xếp hàng suốt nửa tiếng mà Alba không hề phàn nàn một tiếng; con bé ngắm những cô cậu bồi bán tán tỉnh nhau và âm thầm định lượng những con vật bằng bong bóng của những đứa trẻ khác. Cuối cùng chúng tôi được dẫn tới bàn của mình bởi một cậu bồi bàn đeo cặp kính gọng sừng dầy cộm, bảng tên của cậu ta ghi SPAZ. Charisse và tôi mở thực đơn, cố tìm món gì đó ở giữa phô mai Cheddar rán và thịt viên chiên. Alba nói sữa đánh đá liên hồi. Khi Spaz xuất hiện trở lại, Alba bỗng nhiên trở nên ngượng nghịu và phải được dỗ mãi mới nói cho cậu ta biết con bé muốn gọi một li sữa đánh đá vị bơ đậu phộng (và một phần khoai tây chiên nhỏ, vì tôi bảo nó rằng chỉ uống sữa đánh đá vào bữa trưa là không tốt). Charisse gọi mì ống trộn pho mát, còn tôi gọi bánh mì tròn kẹp thịt xông khói, cà chua và xà lách. Khi Spaz vừa đi khuất, Charisse ngân nga, “Alba và Spaz, ngồi trên cây, H-Ô-N...” Alba nhắm mắt lại và đưa tay bịt tai, vừa lắc đầu vừa mỉm cười. Cậu bồi bàn có bảng tên BUZZ oai vệ đi về phía máy karaoke và bật I Love That Old Time Rock and Roll của Bob Seger.

“Tớ ghét Bob Seger”, Charisse nói. “Cậu nghĩ ông ta có mất 30 giây để viết bài hát đó không?”

Sữa đánh đá được mang đến trong chiếc cốc cao với cái ống hút xoắn tít và một ống lắc bằng kim loại đựng số sữa đánh đá không thể chứa thêm trong cốc. Alba đứng dậy để uống, con bé đứng bằng đầu ngón chân để có được góc đứng tốt nhất nhắm cúi xuống hút món sữa đánh đá và bơ đậu phộng. Con chó Dachshund bằng bong bóng cứ không ngừng trượt xuống trán con bé, làm gián đoạn sự tập trung. Con bé ngẩng đầu lên nhìn tôi sau cặp lông mi đen dày của nó và đẩy cái mũ bong bóng lên cao đến nỗi nó chỉ còn bám được vào đầu con bé nhờ tĩnh điện.

“Khi nào bố về ạ?” con bé hói. Charisse phát ra một tiếng động mà người ta vẫn phát ra khi không may để Pepsi chạy lên mũi, rồi bắt đầu ho sặc sụa. Tôi vỗ vào lưng cậu ấy cho đến khi cậu ấy giơ tay ra hiệu bảo tôi dừng lại.

“29 tháng Tám”, tôi nói với Alba. Con bé quay trở lại hút xì xụp cặn của cốc sữa đá trong lúc Charisse nhìn tôi trách móc.

Một lát sau, chúng tôi ngồi trên xe trên cao lộ Lake Shore Drive; tôi cầm lái còn Charisse nghịch đài radio, Alba ngủ trên ghế sau. Tôi rẽ ra khỏi xa lộ ở công viên Irving và Charisse nói, “Alba không biết rằng Henry đã chết sao?”

“Dĩ nhiên con bé biết. Nó đã nhìn thấy Henry lúc anh ấy qua đời”, tôi nhắc cho Charisse nhớ.

“Vậy thì tại sao cậu nói với con bé rằng anh ấy sẽ về vào tháng Tám?”

“Bởi vì anh ấy sẽ. Chính anh ấy đã đưa cho tớ danh sách ngày tháng.”

“Ồ.” Cho dù mắt tôi đang dán vào tường, tôi vẫn có thể cảm nhận được Charisse đang nhìn tôi chằm chằm. “Như vậy không phải kì lắm sao?”

“Alba thích như vậy.”

“Kì đối với cậu.”

“Tớ không gặp anh ấy.” Tôi cố giữ giọng bình thản, như thể tôi không bị hành hạ bởi sự bất công này, như thể tôi không nuốt cơn oán giận vào lòng khi Alba kể với tôi về những lần gặp gỡ của con bé và Henry, cho dù tôi đang nuốt từng lời nó kể.

Tại sao không phải em, Henry? Tôi hỏi anh ấy trong im lặng trong lúc rẽ vào lối đi ngổn ngang đồ chơi dẫn tới nhà Charisse và Gomez. Tại sao chỉ Alba? Nhưng như thường lệ, chẳng có câu trả lời. Như thường lệ, chuyện phải là như thế. Charisse hôn tạm biệt tôi và bước xuống xe, bình thản bước về phía chiếc cửa đang mở ra huyền ảo, để lộ Gomez và Rosa đang đứng đó, Rosa nhún nhảy giơ cho Charisse xem thứ gì đấy. Charisse cầm lên và đáp trả, rồi ôm chặt con bé. Gomez nhìn tôi chằm chằm, rồi cuối cùng khẽ đưa tay lên vẫy. Tôi vẫy đáp lại. Anh ấy quay người bỏ đi. Charisse và Rosa đã bước vào trong. Cánh cửa khép lại.

Tôi ngồi đó trên lối đi dẫn vào nhà, Alba đang ngủ trên ghế sau. Những con quạ đang bước đi trên bãi cỏ bồ công anh tàn tạ. Henry, anh đang ở đâu? Tôi gục đầu vào tay lái. Hãy cứu em. Không có tiếng trả lời. Sau khoảng một phút, tôi khởi động xe, đi lùi ra khỏi con đường và hướng về nhà trong im lặng.

Thứ Bảy, 3/9/1990 (Henry 27 tuổi)

HENRY: Ingrid và tôi đã để lạc mất xe và chúng tôi đang say xỉn. Trời đã tối, chúng tôi đã đi tới, đi lui, đi vòng quanh khắp xó nhưng vẫn không thấy xe. Tiên sư Lincoln Park. Tiên sư Lincoln Towing. Tiên sư chúng nó.

Ingrid tức tối. Cô ấy đang đi trước mặt tôi. Lưng của cô ấy, thậm chí cái cách hông của cô ấy chuyển động, cũng tức tối. Đây là lỗi của tôi. Câu lạc bộ đêm Park West chết tiệt. Tại sao lại có người mở câu lạc bộ đêm ở giữa Lincoln Park nơi bạn không thể đỗ xe quá mười giây mà không bị Lincoln Towing kéo về ổ để hả hê giam giữ.

“Henry.”

“Gì?”

“Lại cô bé đó.”

“Cô bé nào?”

“Cô bé chúng ta đã nhìn thấy lúc nãy.” Ingrid dừng lại. Tôi nhìn về phía cô ấy đang chỉ.

Cô bé đang đứng trước cửa hàng hoa. Nó mặc thứ gì đó sẫm màu, tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy là khuôn mặt trắng và đôi chân trần của nó. Cô bé khoảng bảy, tám tuổi; quá nhỏ để ra ngoài một mình vào ban đêm thế này. Ingrid bước lại gần cô bé, nó đang nhìn cô ấy bình thản.

“Cháu ổn chứ?” Ingrid hỏi cô bé. “Cháu đi lạc hả?”

Cô bé nhìn tôi và nói, “Cháu đã đi lạc, nhưng giờ thì cháu biết mình đang ở đâu rồi. Cảm ơn cô.”, con bé lịch sự nói thêm.

“Cháu có cần đi nhờ về không? Bọn cô sẽ đưa cháu về nếu cô tìm được xe của mình.” Ingrid nhoài người về phía cô bé, mặt cô ấy chỉ cách nó chỉ một gang tay. Tôi bước lại gần họ và nhận ra cô bé đang mặc một chiếc áo gió của đàn ông, nó dài đến tận mắt cá chân cô bé.

“Không cần đâu ạ, cảm ơn cô. Dù sao cháu cũng sống xa nơi này lắm.” Cô bé có mái tóc đen dài và đôi mắt sáng; trong ánh đèn vàng của cửa hàng hoa, nó trông như một cô bé bán diêm thời Victoria.

“Mẹ cháu đâu?” Ingrid hỏi. Cô bé trả lời, “Mẹ cháu ở nhà.” Nó mỉm cười với tôi và nói, “Bà không biết cháu đang ở đây.”

“Cháu đã bỏ nhà đi hả?” Tôi hỏi cô bé.

“Không ạ”, cô bé đáp, và cười. “Cháu đang đi tìm bố, nhưng có lẽ cháu đã đến quá sớm. Cháu sẽ quay lại sau.” Cô bé lách qua Ingrid và tiến lại gần tôi, túm lấy áo choàng của tôi và kéo về phía cô bé. “Chiếc xe đỗ bên kia đường”, cô bé thì thầm. Tôi nhìn sang bên kia đường và thấy chiếc Porsche của Ingrid đang nằm đó. “Cảm ơn...” tôi nói, và cô bé đâm bổ tới hôn tôi, nụ hôn trượt vào gần tai, rồi chạy đi mất, đôi chân trần của nó vỗ lên mặt đường bê tông trong lúc tôi đứng đăm đăm nhìn nó. Ingrid chẳng nói gì trong lúc chúng tôi bước vào xe. Cuối cùng tôi nói, “Con bé thật lạ”, và cô ấy thở dài, nói, “Henry, là một người thông minh nhưng đôi khi anh thật chậm tiêu”, rồi cô ấy thả tôi xuống trước cửa toà nhà của tôi mà không nói thêm một lời.

Thứ Bảy, 29/7/1979 (Henry 42 tuổi)

HENRY: Đâu đó trong quá khứ, tôi đang ngồi ở bãi biển Lighthouse với Alba. Con bé mười tuổi, còn tôi bốn mươi hai. Cả hai chúng tôi đã đi xuyên thời gian. Đó là một buổi chiều muộn ấm áp, có lẽ tháng Bảy hoặc tháng Tám. Tôi đang mặc chiếc quần jeans và áo phông trắng ăn trộm được từ một căn biệt thự Bắc Evanston sang trọng; Alba mặc áo ngủ màu hồng mà con bé đã thó từ dây phơi quần áo của một bà lão nào đấy. Nó quá dài so với con bé nên chúng tôi đã buộc nó quanh đầu gối của con bé. Suốt buổi chiều mọi người cứ không ngừng ném cho chúng tôi những cái nhìn kì quái. Có lẽ chúng tôi không thực sự trông như một ông bố và cô con gái thông thường trên bãi biển. Nhưng chúng tôi đã làm hết mức có thể; chúng tôi đã đi bơi và đã xây một lâu đài bằng cát. Chúng tôi đã ăn hotdog và khoai tây chiên mua từ quầy bán dạo trong bãi gửi xe. Chúng tôi không có bạt hay cái khăn tắm nào, nên khắp người chúng tôi dính đầy cát, ẩm ướt và mệt lử. Chúng tôi đang ngắm lũ trẻ con chạy vòng quanh trước những con sóng, và những con chó đần độn phì nhiêu hớn hở chạy theo chúng. Mặt trời đang dần khuất bóng phía sau chúng tôi trong lúc chúng tôi nhìn đăm đăm lên mặt biển.

“Bố kể chuyện cho con nghe đi”, Alba nói, tựa đầu vào tôi như một sợi mì để lâu.

Tôi quàng tay qua người con bé. “Chuyện gì?”

“Một câu chuyện thú vị. Chuyện ngày xưa về bố và mẹ, khi mẹ còn bé.”

“Được rồi. Ngày xửa ngày xưa...”

“Đó là khi nào ạ?”

“Tất cả thời gian là một. Một thời gian dài về trước, và hiện tại.”

“Cả hai sao ạ?”

“Phải, luôn luôn là cả hai.”

“Làm sao có thể là cả hai?”

“Con có muốn bố kể chuyện không nào?”

“Có ạ...”

“Vậy thì ngồi yên. Ngày xửa ngày xưa, mẹ con sống trong một ngôi nhà lớn bên cạnh một đồng cỏ, và trên đồng cỏ có một nơi gọi là khoảng rừng thưa, nơi mẹ con vẫn thường ra chơi. Vào một ngày đẹp trời, mẹ con, lúc đó vẫn còn là một cô nhóc tí hon, mái tóc còn to hơn người, ra khoảng rừng thưa chơi và có một người đàn ông đang ở đó...”

“Người đàn ông không mặc quần áo!”

“Một sợi chỉ cũng không”, tôi đồng tình. “Và sau khi mẹ con đưa cho ông ấy chiếc khăn tắm mà mẹ con tình cờ mang theo, ông ấy giải thích rằng ông ấy là người du hành thời gian, và chẳng hiểu vì sao mẹ con đã tin lời ông ấy...”

“Vì đó là sự thật!”

“Phải, nhưng làm sao mẹ con biết được? Dù sao thì mẹ con cũng đã tin ông ấy, và sau đó còn ngớ ngẩn đến mức lấy ông ấy. Và giờ chúng ta ở đây.”

Alba đấm vào bụng tôi. “Bố kể cho đúng đi”, con bé yêu cầu.

“Ôi. Làm sao bố có thể kể cho con nghe điều gì nếu con cứ đánh bố như vây? Chúa ạ.”

Alba im lặng. Rồi con bé nói, “Tại sao bố không bao giờ đến thăm mẹ ở tương lai?”

“Bố không biết, Alba. Nếu có thể, dĩ nhiên bố muốn đến.” Màu xanh đang đậm dần phía chân trời và thuỷ triều đang xuống. Tôi đứng dậy, chìa tay ra cho Alba, kéo con bé đứng dậy. Con bé đứng phủi cát ra khỏi tấm áo ngủ, rồi vấp ngã về phía tôi và nói, “Ối!” rồi biến mất. Tôi đứng đó giữ chiếc áo ngủ bằng cotton ẩm ướt trên tay và nhìn đăm đăm vào dấu chân mảnh khảnh của Alba trong ánh sáng đang lụi dần.

Tái sinh

Thứ Năm, 4/12/2008 (Clare 37)

CLARE: Đó là một buổi sáng lạnh lẽo. Tôi mở cửa xưởng vẽ và giậm cho tuyết rơi khỏi ủng. Tôi kéo rèm và bật lò sưởi, pha cà phê. Tôi đứng ở góc trống giữa xưởng và nhìn quanh.

Hai năm của bụi bặm và sự tĩnh mịch chìm lên mọi đồ vật. Bàn vẽ trơ trụi. Bộ chày cối nằm sạch sẽ và trống rỗng. Những cái khuôn được sắp xếp gọn gàng, các cuộn dây chưa được đụng đến nằm cạnh bàn. Sơn và phẩm màu, các lọ đựng bút vẽ, sách vở, tất cả vẫn y nguyên như khi tôi bỏ chúng. Các bức phác hoạ tôi ghim lên tường đã úa vàng và cong queo. Tôi gỡ chúng xuống và ném vào giỏ rác.

Tôi ngồi xuống bàn vẽ và nhắm mắt lại.

Gió đang thổi những ngọn cây dập vào hông làm căn nhà kêu lên những tiếng xào xạc, một chiếc xe chạy qua vũng nước trong hẻm. Máy pha cà phê rít lên rồi kêu òng ọc khi nhỏ giọt cà phê cuối cùng vào bình. Tôi mở mắt ra, cảm thấy ớn lạnh nên ghì chặt chiếc áo len nặng nề vào người.

Sáng nay, khi tỉnh dậy, có điều gì đó đã thúc giục tôi phải đến đây. Nó như thể sự trào dâng của sắc dục: một cuộc hẹn hò vụng trộm với người tình cũ, nghệ thuật, của tôi. Nhưng giờ tôi đang ngồi đây và chờ đợi thứ gì đó đến, nhưng chẳng có gì. Tôi mở ngăn bàn phẳng lì và lôi ra một tờ giấy nhuốm chàm. Nó nặng nề và hơi thô ráp, màu xanh lam và lạnh lẽo như kim loại. Tôi đặt nó xuống bàn. Tôi đứng đó và nhìn chằm chằm nó một hồi. Tôi lôi ra một nắm bút chì màu và giữ chúng trong lòng bàn tay. Rồi tôi đặt chúng xuống và rót cho mình một cốc cà phê. Tôi nhìn ra cửa sổ cuối căn nhà. Nếu Henry ở đây, chắc hẳn anh ấy sẽ ngồi bên chiếc bàn của mình và nhìn tôi. Hoặc có thể anh ấy sẽ chơi Scrabble với Alba, đọc truyện tranh hoặc nấu súp cho bữa trưa. Tôi nhấp một ngụm cà phê và cố tìm cách cảm nhận thời gian trở lại, cố xoá đi sự khác biệt giữa xưa và nay. Chỉ có kí ức đang giữ tôi ở lại. Thời gian, hãy để tôi tan biến. Để những điều chia cách chúng ta có thể hoà làm một.

Tôi đứng trước tờ giấy nhuộm chàm, tay giữ cây bút chì màu trắng. Tờ giấy rộng mênh mông, và tôi bắt đầu từ chính giữa, cúi người trên tờ giấy cho dù tôi biết tôi sẽ thoải mái hơn nếu vẽ trên giá. Tôi vẽ khung cho bức tranh, to nửa người: đây là đỉnh đầu, háng, gót chân. Tôi phác thảo khuôn mặt. Tôi vẽ phớt, từ trí nhớ: đôi mắt trống rỗng, trung điểm, cái mũi dài, cái miệng tròn khẽ mở. Đôi lông mày nhướn lên ngạc nhiên: ồ, đó là mày. Cái cằm nhọn và quai hàm tròn trịa, trán cao và hai tai chỉ hơi ló ra. Đây là cái cổ, đôi vai chảy xuống hai tay đang khoanh trước ngực, đây là đáy vòm ngực, cái bụng phúng phính, hai hông đầy đặn, đôi chân hơi cong cong, bàn chân chĩa xuống như thể cả thân mình đang bay giữa không trung. Các điểm phác thảo như những ngôi sao trên bầu trời màu chàm của giấy; bóng người là một chòm sao. Tôi tô đậm những điểm quan trọng và bóng người trở thành ba chiều. Tôi cẩn thận vẽ mặt, tô mắt – nó đang nhìn tôi – ngạc nhiên trước sự tồn tại bất chợt. Mái tóc lượn sóng dọc tờ giấy, bồng bềnh nhẹ bẫng và bất động, những đường kẻ khiến cơ thể tĩnh lặng như đang nhúc nhích. Còn gì khác trong bức vẽ này, thế giới này? Các ngôi sao xa tít. Tôi lục trong đống đồ đạc để tìm cây kim. Tôi dán bức vẽ lên cửa sổ và bắt đầu chọc những lỗ nhỏ vào tờ giấy, mỗi lỗ trở thành một mặt trời toả sáng từ một thế giới khác. Và khi tôi đã có một thiên hà đầy sao, tôi bắt đầu chọc đến bóng người trong tranh, mà giờ đây đã thành một chòm sao thực sự, một mạng lưới của những chùm sáng nhỏ. Tôi nhìn bản sao của mình, và cô ta nhìn lại tôi. Tôi đặt ngón tay lên trán cô ta và nói. “Tan biến”, nhưng cô ta vẫn ở lại; tôi mới là người đang tan biến.

Gặp lại

Thứ Năm, 24/7/2053 (Henry 43, Clare 83)

HENRY: Tôi thấy mình đang đứng trong hành lang tối. Ở cuối hành lang, một cánh cửa đang hé mở, ánh sáng trắng bao quanh viền cửa. Hành lang ngổn ngang ủng cao su và áo đi mưa. Tôi bước chậm rãi và yên lặng về phía cửa, cẩn thận nhìn vào trong. Ánh sáng ban mai tràn ngập khắp phòng có một chiếc bàn gỗ đơn sơ đặt cạnh cửa sổ. Một người phụ nữ đang ngồi ở bàn, nhìn ra ngoài. Cốc trà đặt bên cạnh. Bên ngoài là bãi biển, những con sóng vồ vập chồm lên bờ rồi điềm tĩnh rút về theo từng đợt lặp lại. Mặt biển tĩnh lặng sau vài phút. Người phụ nữ ngồi bất động. Có điều gì đó rất quen thuộc ở bà. Đó là một người phụ nữ đã già; mái tóc bạc trắng, mỏng và xoã dài xuống cái lưng hơi còng. Bà mặc một chiếc áo len màu san hô. Đường cong trên đôi vai và sự tĩnh lặng trong dáng điệu của bà nói lên rằng đây là một người đã rất mệt mỏi, và bản thân tôi cũng rất mệt mỏi. Tôi đổi chân đứng, dồn sức nặng đang đè lên chân này sang chân kia, khiến sàn nhà kêu lên kẽo kẹt; người phụ nữ quay người lại và nhìn thấy tôi, mặt bà được tái sinh trong hạnh phúc, tôi sửng sốt, đây là Clare, Clare khi về già! Và cô ấy đang tiến lại gần tôi, rất chậm rãi, và tôi ôm cô ấy vào lòng.

Thứ Hai, 14/7/2053 (Clare 82 tuổi)

CLARE: Buổi sáng nay mọi thứ đều sáng sủa; cơn bão đã để lại những cành cây ngổn ngang trong vườn, mà tôi sẽ sớm ra đó nhặt chúng lên. Cát trên bãi biển đã được phân bổ lại, nằm tươi mới trên bờ, lỗ chỗ dấu vết những giọt mưa để lại. Những cây Hoa Hiên cong mình lấp lánh trong ánh sáng trắng lúc bảy giờ của ngày mới. Tôi ngồi bên bàn ăn với cốc trà bên cạnh, nhìn ra mặt biển, lắng nghe và chờ đợi.

Hôm nay chẳng có gì khác so với mọi ngày. Tôi thức dậy từ sớm, mặc quần và áo len, chải tóc, nướng bánh mì, pha trà và ngồi nhìn ra biển, tự hỏi liệu hôm nay anh ấy có đến. Chẳng có gì khác so với những lần anh ấy biến mất còn tôi ngồi đợi trước đây, chỉ có điều lần này tôi được biết cuối cùng Henry cũng sẽ đến. Có đôi lúc tôi tự hỏi liệu sự sẵn sàng này, sự mong ngóng này có ngăn không cho điều kì diệu xảy ra. Nhưng tôi không có lựa chọn nào khác. Anh ấy đang đến, và tôi ở đây.

Từ ngực cho đến mắt

cơn đau của nỗi khát khao dâng tràn, và cuối cùng anh cũng khóc,

người vợ thân yêu của anh, thanh cao và chung thuỷ, đang trong vòng tay anh,

mong mỏi như mặt đất ấm áp được mong mỏi bởi người đang bơi trong con sóng hung bạo khi thuyền chìm

bên dưới sự giận dữ của Poseidon, gió gào thét và biển mênh mông.

Chẳng mấy ai có thể sống sót sau những con sóng lớn

để trườn, muối đọng tấm thân, trên bãi biển yên bình

trong niềm vui sướng hạnh phúc, khi biết vực thẳm đã bị bỏ lại sau lưng:

và vì thế cô quá đỗi hân hoan, mắt nhìn chồng

đôi cánh tay bạc trắng ôm lấy anh ghì chặt trong sự vĩnh hằng.

Trích, The Odyssey

Homer
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom