Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!

Dịch [Việt Nam] Thất Sơn Truyện

Dịch [Việt Nam] Thất Sơn Truyện
Chương 40 : Phần 18: Ca Lâu Công Chúa


Lâm Gia Thái Bảo - Bóng đen lan ra khắp nơi, tựa hồ như kiểm soát tất cả mọi thứ trong căn phòng này, kể cả hơi thở của bọn tôi. Có vẻ nhờ năng lực Thiên Hổ, tôi cảm giác như trong một sát na, bàn tay ai đó hay chính xác hơn là “thứ gì đó” đang sờ vào mặt và tai mình, “nó” săm soi thật kỹ để biết ai bạn ai thù. Liền theo sau, Sinh hét lên thêm một tiếng “Diệt!”, tức thì những cái xác cụt đầu bỗng nhiên bị bóng đen níu lại, trên lưng bọn nó nổi lên một khuôn mặt quỷ Dạ Xoa nhe nanh cười ghê rợn, chúng đổ ập xuống, tay chân quơ quào rồi từ từ tan ra thành tro bụi khi bóng đen đó rút trở lại lưng của Sinh. Lúc này, Sinh gục xuống, thở hổn hển, thậm chí lúc chạy đua với bọn Bạch Tuộc Hổ hay Sâu Đóm tôi cũng không hề thấy nó mệt mỏi như vậy, má hóp, bụng lũng vào chỉ còn thấy mấy cái be sườn, trông rất tiều tụy. Tú Linh vội đỡ nó rồi dìu vào trong góc, xoa trán và trước ngực cho Sinh. Thùy và Tùng hoàn toàn ngơ ngác trước kỹ thuật Sinh vừa trình diễn, dám cá là cả đời đèn sách của họ cũng không nghĩ đến việc được chứng kiến một bí thuật như vậy. Thật ra phần tôi cũng hết sức tò mò, tranh thủ lúc Tú Linh hồi sức cho Sinh bèn quay sang hỏi anh Hùng: “Sinh vừa thi triển Dạ Xoa chú đó hả anh?” Anh Hùng gật đầu, ánh mắt anh lộ vẻ hài lòng nhưng vẫn chất chứa suy tư. Anh giải thích cho tôi cùng Thùy và Tùng về thứ Chú này. Như đã biết, đập miễu có bốn cách trừ ma: Quyết, Ấn, Chú, Phù. Trong đó Chú thì nhiều vô số kể, Phục Ma Kinh mà Viễn Từ để lại cho anh Hùng tuy có tới 1080 bài nhưng đâu đó bên ngoài vẫn còn những người tự tạo riêng Chú cho mình, loại này sẽ nói đến sau. Riêng hệ thống “phổ biến” chia làm tám cấp, từ thấp lên cao là: Phàm, Thuyết, Thính, Văn, Khốc, Pháp, Khu và Sát. Bốn loại đầu là những chú diệt ma lẻ tẻ, cô hồn chết trôi sông lạc chợ hoặc quỷ nhập tràng, bốn loại còn lại thì chia ra từng tình huống cụ thể mà sử dụng. Khốc dùng khi chưa biết miễu nằm chỗ nào; Pháp dùng để ngăn chặn khi miễu thuộc loại đông đảo, chưa biết được thực lực chúng; Khu dùng để dồn ép, vì thực tế có một số dân đập miễu thích nuôi miễu làm thú cưng chẳng hạn, vậy nên có những bài Chú được dùng khi biết rõ năng lực của miễu, áp chế ma lực bọn nó để làm nó sơ hở, khi đó dùng Sát để kết liễu. Lúc trước Sinh có Phục Ma Chú trung thừa trên tay thuộc cấp Văn, sau này gặp lại thì nó đã thành thượng thừa, cấp Khốc, tương tự cấp củaThiên Đăng Ẩn Quang. Dạ Xoa Chú thực ra tên đầy đủ được lưu truyền lại là Dạ Xoa Tàn Diệt Vô Lượng Pháp Chú, người tạo ra Chú này là bậc tiền bối hết sức uy dũng của lục lâm thời hoàng kim: Mạc Hải Vinh. Dĩ nhiên nó cũng có một xuất xứ và cách tạo ra Chú hết sức công phu, có dịp khác sẽ bàn đến, sức mạnh chính của nó là từ khả năng triệu hồi Quỷ Dạ Xoa Vân Tỳ Kha La trong thần thoại Phật giáo, khi khai triển hết sức có thể tiêu diệt miễu trong bán kính cả cây số. Anh Hùng bảo đã đến nước này, không cần sợ phải bứt đây động rừng nữa, gặp ma giết ma gặp quỷ giết quỷ, sẵn sàng thi triển hết phép với chúng. Nghe đến đây, bỗng nhiên Tùng hỏi anh Hùng: “Anh có thi triển mấy cái Chú đó được không?” Anh Hùng chỉ cười rồi nói gọn lỏn: “Được!” Anh là tuýp người tạo cho người khác sự tin tưởng, kiểu như mọi việc anh đã dự tính rồi, nó xảy ra hẳn phải có nguyên nhân. Nhắc đến đó, tôi chợt nhớ lại lý do anh Hùng rủ tôi theo chuyến này là vì năng lực của tôi, đến giờ thực tình vẫn chưa rõ ràng. Cảm giác là Thiên Hổ chỉ hữu dụng lúc vào Bát Quái Động, tuy nhiên đi lạc vô tình như Tùng và Thùy còn vào được thì lý gì ba người lục lâm kia lại phải trông chờ vào tôi? Nghĩ đến đã thấy khó hiểu, tuy nhiên tôi không hỏi, cứ đinh ninh là sẽ có lúc cần dùng Thiên Hổ, một cách quyết định. Lúc này Sinh đã khỏe lại, thấy nó vẫn tợp ít rượu, do rượu sắp hết nên chỉ một hơi nhỏ. Cảm giác nó uống không phải vì buồn hoặc ghiền như bợm, nhưng chính xác là gì thì tôi không đoán được. Thấy cu cậu hồ hởi lại, chúng tôi cám ơn nó, thấy nó có vẻ đắc chí lắm. Anh Hùng hỏi Sinh: “Còn khai được mấy lần nữa?”, nó đáp nếu khai liền thêm cái nữa chắc chết thật, lấy sức lại thì muốn bao nhiêu có bấy nhiêu. Nhìn lại mọi người một lượt, khỏi nói cũng biết ai cũng đều mệt lả ra, vừa chạy xong con này thì lại chạy vì thứ khác, sắp vào đến mộ chủ Ca Lâu Vương đầy bí hiểm thì tinh thần không thể yếu ớt được nên anh Hùng nhìn tới nhìn lui rồi bảo cả bọn vào một góc khuất của cây cột, ngồi nghỉ ngơi lấy sức. Tôi thấy anh suy nghĩ gì đó rồi hỏi Tùng và Thùy cảm thấy thế nào. Thùy vẫn hăng hái bình thường, Tùng thì ban đầu còn sợ sệt, nhưng trải qua nhiều hiểm nguy cam go, thấy được năng lực của bọn tôi nên y cũng cố tỏ ra bình tĩnh, ngoài ra cũng có ý bảo là sẽ cố không làm vướng đội hình. Từ lúc vào nhóm đến giờ, Thùy có tâm sự nhỏ với tôi rằng cô thấy Sinh và Tú Linh thể hiện rất nhiều, phần anh Hùng khá ít, nhưng dựa vào thái độ của bọn tôi với anh nên cô cũng tự hiểu anh chỉ đang giấu nghề mà thôi, thấy vậy, Thùy tò mò hỏi: “Anh học mấy cái này từ ai vậy?” Anh Hùng thoáng bất ngờ từ câu hỏi đó, anh nhấp ngụm nước, kéo một hơi thuốc rồi ngả lưng dựa vào cột, nói: “Một cao nhân đang ở Ninh Bình”, xong anh quay sang nhìn Tú Linh rồi tiếp: “Tính ra anh với em là sư huynh đệ đồng môn đó.” Có vẻ như năm năm anh tu luyện là một ẩn số mà anh chưa từng chia sẻ với ai, kể cả Tú Linh. Cô cũng như tôi và Sinh tỏ ra ngơ ngác. Tú Linh hạ giọng như muốn khẳng định: “Đừng nói là anh theo Cậu Tư nhe?” Anh gật đầu, tôi và Thùy cũng như Tùng đang chăm chú còn Sinh và Tú Linh không khỏi kinh ngạc. Tôi hỏi: “Cậu Tư?...Có phải đệ tử của Lý Tổ sư không anh?” Không đợi anh Hùng trả lời, Sinh đã nốc một ngụm rồi chen ngang: “Tư Rồng, thần đồng lục lâm, tám tuổi đã đi đập miễu một mình.” Tú Linh cũng trầm trồ rồi tiếp lời: “Sư phụ chế còn nói, lục lâm hồi ấy đặt ổng cái biệt danh rất kêu: Lục Vương, không biết tài phép của ổng còn đến cỡ nào.” Anh Hùng nhổm người dậy, giọng rất nghiêm túc: “Lục lâm đặt biệt danh vậy không hề ngoa chút nào đâu.” Sinh vỗ vai anh Hùng rồi giơ ngón cái lên, nói: “Em đợi tới lúc được rửa mắt.” Anh Hùng trả lời: “Rửa thì anh không chắc, chỉ có cái từ lúc xuống núi đến giờ vẫn chưa có dịp xài “quà” ổng tặng.” Nói đến đó anh im lặng, cảm giác năm năm đó là một hồi ức ám ảnh đối với anh. Chúng tôi ngồi đó chừng thêm một hai điếu thuốc, vai tôi bỗng nhói lên dữ dội, mặt tôi vừa nhăn thì anh Hùng và Sinh đã sẵn sàng, anh hỏi Sinh: “Trụ được lâu không, áp lực đang đến, Dạ Xoa vừa đánh động mười tám con quỷ dưới trướng Ca Lâu Vương rồi.” Sinh tuy nhìn còn hơi uể oải nhưng nó vẫn gật đầu, bảo là không sao. Nghe đến mười tám con quỷ sắp đến, tôi có phần hơi lo ngại, không biết với từng ấy miễu thì đập đường nào. Đang nghĩ đến đó bỗng lưng tôi cộm lên, tựa như bức tường tôi dựa vào bị u ra vậy, Sinh lập tức lia đuốc về hướng tôi, Thùy không kìm được, kêu “Ối!” một tiếng đầy hoảng hốt: trên tường đang mọc ra một khuôn mặt người rất to, mắt lồi trợn lên, nhe nanh kế vai tôi. Lập tức tôi nhảy chồm về trước một bước, sẵn tiện kéo Tùng đang ngồi kế theo làm gã ngã lăn quay. Cả hai vừa phóng ra khỏi tường thì cái đầu đó lồi lên rồi một thứ hình thù kỳ dị, thân người khô đét, quấn vải đen như áo choàng, cổ dài lêu nghêu, đầu tròn, hai mắt lồi chui ra ngoài. Nó bò bằng tứ chi, lườm bọn tôi lăm lăm. Đột nhiên nó nhảy xổ tới làm bọn tôi nhảy sang hai bên, tôi, Sinh và Tùng một bên, bên kia là anh Hùng, Tú Linh và Thùy. Bỗng Sinh lầm bầm: “Con mẹ nó, dính bẫy của nó rồi.” Vừa định hỏi lại Sinh thì lưng tôi lạnh ngắt khi nghe thấy âm thanh phì phì như rắn kêu, vang vọng từ khắp mọi nơi trong căn phòng. Những khuôn mặt quái dị bắt đầu bò ra từ các bức tường, mỗi mặt đều khác nhau, giống như là đeo mặt nạ vậy. Thì ra con hồi nãy nhảy vào nhằm mục đích chia tách đám chúng tôi ra để dễ bề tiêu diệt. Anh Hùng cũng phát hiện kế hoạch này, bảo Sinh lùi về một góc ngay, tôi lập tức kéo Tùng lại, để gã nép sau tôi và Sinh, mặc dù xét ra tôi cũng có mạnh mẽ gì hơn Tùng đâu. Sinh nói: “Ông lo cho Tùng nghe, có gì cứ chạy đi, khỏi lo tui!”, tôi chỉ biết gật đầu nghe theo nó. Trước mặt bọn tôi đúng là có mười tám con quỷ đeo mặt nạ, bò bằng tứ chi, áp sát vòng vây lại. Bên phía anh Hùng thì anh và Tú Linh trụ được khá dễ dàng từ mấy đòn tấn công của bọn nó, riêng bên này thì tôi và Tùng chỉ né và chạy, Sinh tẩm tro xá lợi vào dao đi rừng rồi vung lên chém liên hồi, thỉnh thoảng kết hợp một vài bài chú. Tình hình hai bên giằng co căng thẳng, bỗng ba con xông lên cùng lúc, áp khí quỷ dị tuôn trào khiến Tùng suýt ngất, miệng sùi bọt mép, Sinh chống đỡ không nổi, một con vòng ra sau há to cái miệng định ngoạm một phát cắt Tùng làm đôi, bỗng trong một khoảnh khắc, tôi gào lên rồi vung tay đánh mạnh vào con quỷ, khiến nó văng ra xa trước sự bất ngờ của mọi người. Lúc này mắt tôi lại bị nhòe, lưng thấy rất nặng, không đứng thẳng được, biết là đã có Thiên Hổ trợ ứng nên Sinh thoải mái đánh bật hai con kia ra khá dễ dàng rồi đứng lại sát bên tôi. Phía bên kia, anh Hùng và Tú Linh đối phó cũng không khó khăn mấy. Đột nhiên, một con trong đó cúi sát người xuống, con quỷ này đeo mặt nạ mếu miệng, phần bụng nó như bị ai đó bên trong rạch ra, những đám chất nhầy bốc mùi hôi thối chảy xuống, nham nhở xung quanh là những cái răng bé như hạt đậu, nó vùng người đứng bật dậy bằng hai chân sau, đám quỷ xung quanh thấy vậy liền tập trung về phía nó, từng con từng con một chui vào cái lỗ trên bụng nó: chúng đang hợp thể. Thấy không ổn, Sinh hô lớn, bảo tôi và gã Tùng chạy qua phía anh Hùng, anh xem xét tình hình trong vài giây rồi quyết định cùng Sinh tiến lên, kết liễu bọn quỷ xung quanh trong khi chúng đang bận chuyển hoá, tránh đêm dài lắm mộng, cứ lấy búa dao mà xả rồi tụng chú, chứ để nó hoàn tất quá trình này thì không biết có đủ mạng cho vật hay không. Nói nghe thì dễ, nhưng quá trình quỷ hóa của bọn quỷ bầy kia tạo ra trận âm phong dữ dằn cộng quỷ khí rất mạnh, bước đi còn khó huống gì dùng sức niệm chú. Xung quanh lúc này, do ảnh hưởng từ quỷ khí mà tôi thấy có rất nhiều ảo giác như những đốm lửa ma trơi, những khuôn mặt ông địa bay qua lại. Lúc này, hai người Hùng và Sinh sau bao cố gắng đã có thể tiếp cận con quỷ mếu mặt, anh Hùng vung búa lên định ném thẳng vào nó, ra sau thì ra, bỗng nhiên từ cái mồm nham nhở răng dưới bụng phóng thẳng ra một bàn tay rất dài lao đến quăng anh sang một bên. Do bất ngờ cộng với áp lực khiến anh chỉ kịp đỡ một cái rồi lui ra sau mấy bước, Sinh lao đến ứng cứu, dùng dao chặt vào cánh tay, chỉ thấy dao nó như chém vào bùn đất, tay đó đứt thì mọc ra hai tay mới chỗ bị chặt, Sinh vung lên chém một hồi thì mới phát hiện đã bị một rừng tay quấn chặt, Tú Linh đang đứng cạnh tôi phải bước lên, phóng kim ứng cứu. Anh Hùng chậc lưỡi rồi khai chú Đại Hắc Thiên, những cánh tay đó mới buông tha cho Sinh. Mười bảy con quỷ giờ đã chui vào bụng con quỷ mếu mặt được phân nửa, chúng liên tục ré lên những tràng chói tai, phần bụng của con quỷ mếu mặt ngày càng trương to. Bỗng một tiếng hét tựa như sấm rền vang lên, hất văng tất cả chúng tôi ra xa bằng một áp lực kinh người, đến nỗi tôi đã nghe được tiếng nứt vỡ từ trần nhà. Anh Hùng lộn ra mấy vòng, lập tức rút búa, cùng Sinh lao lên chắn trước bọn tôi. Mười tám con quỷ giờ chỉ còn lại một khối cầu thịt đen nhớp nhúa, cao chừng ba mét, từ khối thịt mọc ra tua tủa những cánh tay, chân. Những cái mặt nạ vô hồn như mười tám cảm xúc khóc cười hỷ nộ ái ố nhìn chòng chọc vào đám người bọn tôi, tức thì những cánh tay vung tới, anh Hùng chỉ kịp hét lên bảo mọi người tránh ra, lúc này tôi mới để ý những bàn tay to lù lù ấy có móng nhọn hoắc. Cả đám chúng tôi, kể cả tôi khi đó có Thiên Hổ nhất thời trợ ứnh, cũng không tiếp cận được. Những cánh tay đó như bất hoại, cộng với móng vuốt sắc nhọn, muốn lao đến tấn công trực diện thì không thể nào cản nổi hết đượ. Cục thịt thì cứ lăn vòng quanh, dồn bọn chúng tôi vào giữa, tình hình cả đám như cá nằm trên thớt, đúng là tiến không được mà lui cũng không xong. Lúc này thì có biến: ngay phía sau bọn tôi, nền nhà sụp xuống một hố lớn sau một cú rung, phía dưới vang vọng tiếng sóng biển ầm ầm cùng con gì đó đang gào thét, tôi chợt nghĩ trong đầu cái Ca Lâu Thành này không biết đến khi nào mới làm bọn tôi thôi hết bất ngờ đây? Bọn chúng tôi thì vừa loay hoay chống trả, khi nền sụp xuống không khỏi bất ngờ, trong nhất thời mất tập trung, cục thịt kia vung tay tới tấp, anh Hùng đỡ dùm Thùy, bị đánh đến văng vào góc, tôi che chắn cho Tùng cũng tối tăm mặt mày không tài nào biết đượ phía bên kia đang thế nào. Đột nhiên lúc này, một tảng đá nhọn hoắt rơi xuống từ trần nhà, nhắm ngay hướng đầu tôi mà lao xuống. Tùng hét lên nhưng dễ gì tôi phản ứng kịp, tảng đá đã rơi đến sát bên! Bỗng lưng tôi bị ai đạp văng ra, vừa lúc tảng đá tiếp đất, tiếng rói vỡ tan tành vang lên chát chúa. Nhìn lại thì ra là Tùng, gã đỡ dùm Thùy và dùng chân đẩy tôi ra, tôi với Thùy không sao còn gã bị tảng đá đè đến nát cả chân, đang nằm kêu khóc, Sinh lúc đó quay sang nhìn Tùng cũng ăn trọn cú tát từ mười tám con quỷ, may mà không bị xé thành năm mảnh, nhưng nó cũng văng ra sau, tình thế cả nhóm lúc này đích thực là ngàn cân treo sợi tóc, thập phần nguy hiểm. Còn chưa kịp than khóc xong, từ cái hố sụp xuống ở nền nhà, bốn năm cái xúc tu vằn vện đã vươn lên: bọn Bạch Tuộc Hổ ngoài Biển Oan Hồn theo đến tận đây sao? Nếu nói vậy thì Thành chủ này như một hòn đảo giữa biển, xây dựng trên các cột chống phía trên như nhà sàn, biển thông vào đến tận đây. Tôi băn khoăn hết sức, phen này họa chăng mọc cánh bay ra thì ổn. Bỗng giữa khung cảnh hiểm nguy này, không gian nhất thời như im bặt lại, làm tôi nghe tiếng bật lửa tạch tạch, nhìn sang đống đổ nát chỗ anh Hùng bị đánh văng lúc nãy thấy anh đang ngồi dựa lưng vào một hòn đá to đùng và châm điếu thuốc, tôi hét lên: “Anh làm gì đi! Chết kiểu này sao mà coi hả đại ca?” Anh rít một hơi, kẹp điếu thuốc vào giữa hai ngón tay rồi chỉ thẳng vào tôi nói: “Ai chết?” Lập tức thằng Sinh cũng quay qua hét: “Lẹ đi anh, chết mất xác như vầy là mình cũng thành miễu biết hát đó!” Anh Hùng cười nhẹ như chọc tôi rồi nhìn sang Sinh, đột anh nhiên đứng dậy, phủi hai cái vạt áo, ngậm điếu thuốc, đoạn anh nhặt cây búa lên, bắt trớn lao lên nhanh như cắt. Thân thủ kinh hồn như thế này tôi chưa từng thấy qua, một mình anh chống đỡ cả trăm bàn tay lao đến, Sinh thấy vậy thì quay ra hỗ trợ bọn tôi, Thùy đang cầm máu cho Tùng, tình hình gã hết sức nguy kịch: chân phải bị nát, động mạch phún máu như xối, mặt Tùng tái nhợt đi, đã sớm rơi vào mê sảng. Anh Hùng nhảy về hướng bên phải của mười tám con quỷ khi một cánh tay phóng đến, không phải là cú nhảy né tránh, mà như để chuẩn bị gì đó, mười tám cái mặt nạ bỗng ré lên theo từng cảm xúc riêng biệt của chúng, có vẻ như là đang thu hút quỷ khí từ Ca Lâu Thành, rất nhiều nơi rỉ ra làn khói màu đen, lao đến trợ lực cho nó. Cả hai sắp tung ra đòn quyết định, anh Hùng nói: “Mười tám con mà chỉ có nhiêu thôi sao, tới tao nhé!”, rồi anh bảo mọi người nhắm mắt đếm đến ba mươi hãy mở ra, nhưng cả đám có ai nghe theo đâu, tôi tò mò hết sức, bắt ấn vuốt mắt. Tay trái anh Hùng chuyển dần sang màu xanh, tay phải chấp lên trên, tư thế này đối với tôi hơi bị quen thuộc. Tú Linh lắp bắp: “Bồ Tát Kim Cương Thủ và Thiên Đăng Ẩn Quang Chú cùng lúc à…?” Cô hét lên, bảo nhắm mắt lại ngay, không thì mù mắt chắc cú! Lúc đó, mặc dù tôi đã làm theo lời Tú Linh, nhưng do Thiên Hổ đã hỗ trợ nhất thời, tôi vẫn thấy mờ ảo hình ảnh tay trái anh Hùng ánh lên một màu xanh dương, tay phải phát ra tựa như mặt trời mọc ngay trong đây, tưởng tượng như chúng soi rõ từng ngóc ngách, hòn đá, thiêu đốt cả trăm cánh tay quỷ, chúng rên lên như từng đàn chim heo khổng lồ đang bay ngập trời, ánh sáng biến mất nhanh như lúc nó đến, tôi bàng hoàng dụi mắt, mở ra thì thấy anh Hùng đang đi chầm chậm đến chỗ mười tám con quỷ, giờ mười tám cái mặt nạ chỉ biểu lộ một cảm xúc duy nhất: khiếp sợ. Đường đến chân thân của nó đã mở, anh dùng cánh tay phải chọc thẳng vào trong, phần thịt đen bầy nhầy như rã ra, từ những khe nứt lóe lên ánh màu xanh khác. Cùng lúc này, tiếng niệm chú của anh Hùng như vang vọng khắp nơi, tay trái anh vung rìu lên bổ thẳng vào con quỷ, chỉ nghe tiếng nó rú lên kinh khủng, sau đó là âm thanh xèo xèo, ánh sáng phụt tắt, mọi thứ lại tối om như vốn có. Tôi thấy khi con quỷ vừa bị diệt, anh Hùng đứng im chút nữa, cả người anh run lên, tỏa ra một làn khói trắng. Sinh ngỡ ngàng nói: “Một tay anh thi triển hai Chú? Em lạy một lạy.” Tôi nói là chỉ thấy tay xanh tay trắng thôi, đâu phải hai, Sinh bảo là khi anh xọc tay vào con quỷ, anh thi triển chú Dạ Xoa, anh gói gọn Chú đó trong bàn tay, khi đó con quỷ bị ăn sạch sẽ hồn phách, thể xác hóa thành tro bụi. Anh Hùng quay lại, hỏi tình hình của Hùng, Tú Linh lắc đầu, nói là máu mất quá nhiều, tạm thời châm cứu cầm máu, chân thì hư rồi, nếu muốn nối lại ngay thì phải ngồi đợi cô dùng kỹ thuật của hàng rong chừng sáu tiếng, còn cô cho uống miếng thuốc đỡ đau và an thần, tình hình nguy kịch chỉ là không biết còn kẹt trong này thêm bao lâu nữa mà thôi. Anh Hùng suy nghĩ một hồi, rồi anh quyết định ở lại đợi. Nhìn Tùng tôi hết sức ái ngại, dù gì anh ta cũng cứu tôi một mạng, giờ có ở đây đợi yêu ma quỷ quái gì cũng đành thôi. Bỗng mặt đất rung chuyển, Sinh hét lên làm tôi nhớ lại bọn Bạch Tuộc Hổ còn chực chờ bên dưới. Còn đang ngơ ngác, từ dưới hố vụt lên một cái xúc tu, chỉ phần ngọn của nó cũng đã to hơn của những con chúng tôi gặp ở Biển Oan Hồn. Gánh một đòn rất nặng từ cái xúc tu này, nền đất rung lên nhẹ, miệng hố sụp xuống, diện tích cái hố ngày càng to, lan đến sát bên bọn tôi. Sinh kêu: “Rút nhanh!”, nó cũng bế Tùng lên chạy theo hướng anh Hùng ra phía sau. Cả bọn vừa chạy chưa được bao xa, hàng chục cái xúc tu khổng lồ lại vun lên liên tiếp, có cảm giác như chúng cũng liên tục quất vào nền bên dưới. Đột nhiên, ngay bước chạy của thằng Sinh, mặt đất nứt toác ra. Đang bế Tùng nên Sinh mất đà, loạng choạng rơi thẳng xuống hố! Mọi việc diễn ra hết sức bất ngờ, anh Hùng lập tức quay lại gọi vọng xuống dưới, thấy Tùng lúc này đã có ý thức, Sinh đang cõng gã, tay nó bám vào thành hố. Anh Hùng và tôi lao đến, bảo Sinh ráng trụ thêm chút ít nữa, lúc này, vết nứt bắt đầu lan ra xung quanh, khiến tôi với anh Hùng di chuyển hết sức khó khăn. Bỗng từ dưới hố, giọng thằng Sinh vọng lên, không giống như buông xuôi mà là quả quyết: “Anh dẫn mọi người đi trước đi, hẹn gặp mọi người tại nơi đặt ngọc rết!” Vừa nói xong, một cái xúc tu khổng lồ đập thẳng vào chỗ nó đang bám, tình hình sống chết của nó ra sao, ai mà biết được. Anh Hùng nghiến răng, nắm đấm siết chặt, rồi anh quay sang bảo Tú Linh dẫn Thùy, lúc này đang khóc lóc nức nở, kêu gào tên của Tùng, bảo họ đi trước. Anh đứng nhìn cái hố thêm một lúc nữa rồi quay lên. Tôi không dám hỏi anh về sự sống chết của Sinh với Tùng. Cảm giác ở Hòn Chông Chênh năm năm trước như trở lại với anh. Mà có lẽ là không, anh Hùng cứ như tin là Sinh sẽ không sao. Hai người bọn tôi chạy như bay, phía sau nền đá sụp đổ sát gót, từng tảng đá rơi xuống lập tức bị bóng đêm nuốt chửng, bên dưới không biết bao sâu, những đợt sóng cứ đánh ầm ầm. Thỉnh thoảng bọn Bạch Tuộc Hổ lại gào rú, khắp bốn phía của Ca Lâu Thành vang lên những tiếng đập chói tay. Tú Linh dẫn đầu, chạy được một lúc thì thoát khỏi những hố sập tử thần. Chúng tôi chạy qua những căn phòng, leo lên những bậc thang, có rất nhiều bích hoạ nhưng không ai buồn đến xem, chỉ biết nhấm phía trước mà đi. Một lúc sau, chúng tôi đến một cánh cổng có hình thù khá đặc biệt, trên đó khắc kinh văn với những ký tự giống cái vô lăng và những mảnh da, lúc này thấy ổn hơn nên cả đám chậm lại, Tú Linh nhìn sơ qua cánh cửa rồi quay sang bảo: “Trên đó viết đây là tòa điện của công chúa!” Trên cánh cửa, cạnh bên những dòng kinh văn có một bức tranh, khá giống với bức quỷ hai đầu chúng tôi gặp lúc trước, nhưng bức tranh này vẽ hai người con gái đang đứng dựa vào nhau.
 
Chương 41 : Xác ôm xác


Hai bức vẽ, một bức ở tòa điện khổng lồ bên dưới, một bức trên cánh cửa làm chúng tôi đứng đực ra, không biết phải suy nghĩ như thế nào cho đúng. Nhìn vào nét vẽ có thể chắc mẩm là cùng một họa sĩ, ánh mắt, cử chỉ, cách tô màu, bố cục đều mang nét tương đồng, thêm vào đó là biểu tượng chim thần dang cánh và mười tám bóng đen vây quanh, đứa trẻ lên ba còn hiểu thừa rằng người họa sĩ này đang khắc họa một câu chuyện duy nhất. Thế nhưng, tại sao ở bên dưới là một người có hai đầu tứ chi, còn bức vẽ trên cánh cửa là hai người riêng biệt đang đứng đâu lưng vào nhau. Còn một chi tiết cũng khó hiểu không kém: nét đứt ở chỗ bả vai giờ được thay thế bằng một món trang sức được kết thành từ những cọng lông chim, che mất đi vị trí kết nối. Anh Hùng bảo Tú Linh hãy đọc lại dòng kinh văn, phải chắc chắn một trăm phần trăm, không thôi lại đi vào bãi mai phục của Ca Lâu Thành thì cả bọn lại khốn đốn. Tú Linh nhìn anh với vẻ khó chịu, nhưng cũng hiểu ra vấn đề, cô bèn lấy những tài liệu chứa trong ba lô, tra lại từng chữ một, khẳng định đây chắc chắn là điện công chúa. Lúc này anh Hùng mới bước về phía cánh cửa, xem xét tình hình xong anh bảo mọi người sẵn sàng chưa. Nhóm sáu người giờ chỉ còn lại bốn, riêng phần tôi dù chưa định thần lại được nhưng cũng không ái ngại gì mấy, Thùy thì… Cô đang gục mặt, anh Hùng phải gọi thêm lần nữa mới giật mình, ánh mắt đảo ngang đảo dọc, cô nói lí nhí rằng nãy giờ không nghe mọi người bàn gì hết rồi ngồi thụp xuống khóc nức nở. Nói thẳng ra, tôi hiểu tâm lý của cả anh Hùng và Tú Linh hiện giờ khi hai người bọn họ nhìn vào cảnh tượng trước mặt mình, Dũng và Châu bị con tắc kè ăn thịt, chết không thấy xác, Tùng gần như cụt mất một chân, lại rơi xuống vực, khả năng sống sót nói thẳng ra là bằng không, nhóm khảo cổ bốn người giờ còn mình Thùy, có mạnh mẽ cỡ nào cũng bị sự thật này quật ngã mà thôi. Nhớ lại hang nhện, Thùy nhất quyết đu dây xuống cứu bạn mình mặc dù không biết phía dưới có thứ gì, những lúc Tùng tái máy tay chân hại cả bọn, cô cũng không buông một lời trách mắng, chỉ muốn cả đám trở ra ngoài an toàn. Tôi nhìn cô bé trút những gánh nặng trên vai theo dòng nước mắt mà không kìm được tiếng thở dài, định bước đến an ủi thì anh Hùng đã kéo tôi lại, anh nhìn tôi kiểu như muốn nói rằng “Để anh…” Tôi gật đầu, anh tiến về phía Thùy rồi bảo: “Lục lâm là như thế, sống nay chết mai, nhưng đó là con đường họ chọn. Em, Tùng, Dũng và Châu chỉ tình cờ bước vào Động Bát Quái, đáng ra từ đầu anh nên dứt khoát hơn, giả danh kiểm lâm hay cảnh sát gì đó đuổi em đi ra thì mọi việc có khi lại không như thế này, chỉ là anh khâm phục cái thần thái ở hang nhện của em mà thôi.” Nói đến đây, anh Hùng ngồi xuống, ánh mắt anh ngang hàng với ánh mắt của Thùy, anh cũng thở dài: “Chính cái thần thái đó đã thôi thúc anh lôi em theo, nếu không có những kiến thức của em và Tùng, hoặc những lúc hai người chỉ điểm những hiểm nguy, có khi cả bọn không thể nào đi được đến đây. Anh biết em đang lo cho Tùng, dù gì thì đó là điểm tựa duy nhất để em có thể bước ra Hang Bát Quái mà ngẩng cao đầu được chút ít. Nhưng em đừng quên, Tùng đang đi với Sinh, anh tin thằng Sinh sẽ liều mạng để cứu Tùng cho nên em đừng lo lắng quá, Tú Linh cũng đã cầm máu phần nào rồi. Vấn đề chính ở đây anh muốn nói rằng, em đã có điểm tựa của Tùng, nếu em ngồi đây khóc mếu máo trong khi bọn anh khám phá ra những bí mật cuối cùng của tòa Ca Lâu Thành huyền thoại thì được thôi, anh không ép em. Về phần em kìa, em có muốn trở về trước mộ ông nội, kể cho ông nghe về những khám phá đó không? Đó là do em quyết định hết. Vậy nhe cô bé! À, nếu em sợ, đừng quên thanh niên Thiên Hổ kia lúc nào cũng chọn phía em mà nhảy qua thôi!” Tôi giật thót mình, nhớ lại mấy lúc trước, đúng thật là đa số tôi đều nhảy về phía Thùy, nhưng mà chỉ là trùng hợp thôi mà, hay là không phải? Hừm. Tôi nhìn Thùy, thấy cô bé cũng đang ngẩng mặt nhìn lại tôi, lấm lem nước mắt. Tôi không hiểu là do những lời động viên của anh Hùng về bí mật của Ca Lâu Thành, hay là vì Thùy cũng suy nghĩ lại về chuyện có Thiên Hổ (cái này là do tôi tưởng tượng ra thì đúng hơn) cho nên cô đứng phắt dậy, cánh tay dứt khoát lau đi những giọt nước mắt rồi nói: “Em sẽ đi tới cùng, lúc nãy trong những tư liệu mà chế Tú Linh lấy ra có cả cuộn giấy của ông nội em để lại, em nhớ là người dịch giúp em cũng có nhắc đến cánh cửa vào điện công chúa, theo thiết kế thì chín chín phần trăm đây chính là nơi đó rồi.” Thùy nói xong còn nhìn sang Tú Linh như muốn hỏi ý kiến, Tú Linh gật đầu cái rụp. Không khí u ám lúc nãy bất chợt thay đổi, mọi người, trong đó có tôi cảm thấy phấn chấn rõ rệt, không biết phía sau cánh cửa này có điều gì đang chờ đợi nhưng mà nó là đích đến, là tôn chỉ của cả chuyến đi từ Hòn Sơn Rái, qua Nam Du rồi đến Kiên Lương lần này. Tôi nín thở khi anh Hùng tiến về phía cánh cửa, như thường lệ, anh thận trọng xem xét xung quanh rồi đặt tay lên khoen cửa hình tròn có khắc đầu chim thần Ca Lâu La, anh dùng lực đẩy nhẹ, nôm có vẻ nặng hơn những cánh cửa lúc trước hay sao đó nên anh áp cả vai vào nó mọi chịu hé ra một chút, một luồng gió lạnh ngắt thổi ánh sáng vàng vọt ra ngoài, gió mạnh đến nỗi tóc tôi bay lên rối bù, phải lấy tay che mắt lại. Cũng lạ ở chỗ là mở cửa ra liền nghe tiếng nước từ đâu chảy róc rách. Điểm giao nhau của hai cánh cửa nằm ngay chỗ đâu lưng của hai người phụ nữ trên bức bích họa, ngoài tối, trong sáng, trông họ như đang dang tay ra kéo cả bọn chúng tôi vào trong. Căn phòng này cũng giống như nhiều căn phòng khác trong Ca Lâu Thanh: rộng và cao. Điểm khác biệt duy nhất là kiến trúc của nó, căn phòng hình tròn có đường kính khoảng mười mấy mét, chạy dài theo đường tròn là tượng mặc đồ trông giống với tỳ nữ bưng bình, một mảnh vải khoác từ vai xuống đến đầu gối, vì chúng không đeo mặt nạ nên có thể thấy những chi tiết cảm xúc được khắc họa rất tỉ mỉ, tôi nhớ đến mười tám con quỷ vừa rồi mà không khỏi rùng mình, cấm trên những chiếc bình là trường minh đăng bọc trong lồng thủy tinh, đáy bình chảy ra những dòng nước, chính là âm thanh róc rách tôi nghe được lúc nãy, có khoảng hơn hai chục bức tượng như thế này, điểm cuối của dòng nước là một đài phun xây theo hình chiếc dĩa khổng lồ cao hơn đầu người, bên trên có bức tượng chim thần khép cánh, gục đầu. Sao kỳ vậy? Tôi là người cuối cùng bước vào căn phòng, không biết tôi chốt đoàn tự lúc nào luôn, lúc này cả bọn cũng đang chú ý điểm kỳ lạ của bức tượng chim thần này, tôi nhớ rõ ràng, tất cả những bức tượng, bất kể là trưng trước cổng hay khắc trên kiến trúc, chim thần đều được miêu tả hết sức dũng mãnh, lúc nào cũng dang cánh, nhe nanh, đối lập hoàn toàn với bức tượng ủ rũ trước mặt. Anh Hùng tiến đến bức tượng tỳ nữ gần chúng tôi nhất, xem xét cái bình rồi lấy tay gạt ngang dòng nước đưa lên mũi ngửi. Anh đanh mắt lại, quay sang nhìn Tú Linh, cô cũng tiến đến làm tương tự rồi thốt lên: “Dầu đèn?” Anh Hùng gật đầu: “Chính xác là dầu lưu ly, cháy rất mạnh, anh từng suýt mất mạng vì nó.” Anh đang nhắc đến chuyện diệt con Phet Đặp với Sinh. Anh dừng lại suy nghĩ, bước qua những bức tượng, đi một vòng giáp căn phòng, nước từ những chiếc bình chảy về chính giữa qua những đường rãnh nhỏ đan xen, cắt đoạn lẫn nhau theo đường vòng cung, anh thận trọng nhảy qua các rãnh nước này rồi đặt tay lên đôi cánh đang rũ xuống của bức tượng chim thần. Dường như phát hiện được gì đó bất thường, tôi thấy ánh mắt anh sáng lên một chút rồi vụt tắt, anh quay sang nói với cả bọn: “Đây không phải chim thần Ca Lâu La mà là con của nó.” Tôi thắc mắc: “Chim mà cũng có con hả anh?” Tú Linh nhìn tôi với ánh mắt chế giễu, Thùy thêm vào: “Theo nhiều ghi chép khác nhau thì chim thần Garuda tức Ca Lâu La có sáu đứa con. Sáu con chim có màu sắc, tính tình khác nhau nhưng tổng thể đều khắc họa hình ảnh dũng mãnh và can đảm. Ủa anh, vị này là vị nào?” Anh Hùng ngẫm kỹ rồi bảo: “Đôi cánh như che phủ cái gì đó, gương mặt gục xuống, lông chim tuy có nhưng không nhiều, theo anh thì đây chắc là chim thần Sát Phá Chủy.” Thùy giật mình, cô kể rằng nếu đúng là chim thần đó thì những chi tiết trong căn phòng này trở nên khá hợp lý, theo một số tư liệu thì Sát Phá Chủy và Sát Đại Phù là hai trong số những người con của Ca Lâu La, lúc còn nhỏ Sát Đại Phù tưởng nhầm mặt trời là trái ngon nên đòi anh trai mình cho ăn, thần mặt trời nghe được liền nổi cơn thịnh nộ, phóng những tia lửa xuống trừng phạt nó. Sát Phá Chủy thấy vậy liền dang cánh che chắn cho em trai, chịu nỗi đau thiêu đốt của những tia lửa mặt trời này khiến Sát Phá Chủy gào thét dữ dội nhưng vẫn không hề buông em mình ra, vì thế mà lông cánh của nó rụng xuống từng chiếc, từng chiếc một. Phải nhờ đến thần Indra nói giúp, rằng trẻ con còn nhỏ dại chưa biết sợ sự vĩ đại, thần mặt trời mới chịu tha, tuy vậy thần vẫn buông lời nguyền rủa đến chim thần Sát Phá Chủy khiến lông cánh bị cháy mất của nó mãi mãi không mọc lại rồi đày nó đến hang động Hách Mật An Tỳ. Nghe đến đây anh Hùng mới bật đèn pin, rọi đến chỗ phía trên cánh cửa chính thì thấy trên đó có một khối cầu đặt trên chiếc dĩa, hình như được làm bằng kim loại. Tôi động não, bắt đầu thấy câu chuyện Thùy vừa kể có chứa những manh mối liên quan đến sự sắp đặt trong căn phòng này. Thứ nhất là khối cầu kim loại có thể tượng trưng cho mặt trời mà chim thần Sát Đại Phù muốn ăn, thứ hai là trong dầu lưu ly cũng liên quan đến lửa thiêu đốt, chẳng lẽ chúng tôi đang đứng trong phòng cơ quan nào đó, phải tìm cách giải mới có đường đi tiếp? Khỏi nói cũng biết, tôi còn suy nghĩ được như vậy, mấy người kia chắc cũng đã hiểu ra gần hết. Anh Hùng lấy cây đuốc ra rồi tẩm dầu lưu ly đốt nó lên, ngọn lửa cháy trong hang Phet Đặp mà anh kể hiện lên rõ mồn một trước mắt tôi, nó không giống với lửa thường mà có cái gì đó rất tinh khiết, rất trang nghiêm. Anh tiến về phía khối cầu kim loại, nói là trên đầu chúng tôi nhưng nó cũng không cao lắm, anh Hùng lấy đà rồi bật lên, tay anh khéo léo rót một tí lửa vào chiếc dĩa, khối cầu kim loại liền bừng sáng, không biết dùng kỹ thuật gì để chế tạo ra nhưng khi ngọn lửa vừa chạm đến liền lan lên trên với sức cháy mãnh liệt, trông nó bây giờ chẳng khác gì một mặt trời thu nhỏ. Bỗng từ phía sau có tiếng động của bánh răng, tôi quay phắt đầu lại thì thấy đôi cánh của chim thần Sát Phá Chủy đang từ từ hé ra, cái đầu đang cúi cũng hướng lên nhìn về phía khối cầu rực lửa, ẩn sau đôi cánh thấp thoáng vật gì đó. Tú Linh bảo: “Cơ quan trong này hoạt động bằng lửa à?” Anh Hùng nói: “Có thể lắm, mỗi lần đốt sẽ kích hoạt những chốt bánh răng khác nhau, lợi dụng sự dãn nở dưới nhiệt lượng của kim loại, điều này làm anh thắc mắc, thiết kế được cơ quan tinh vi kiểu này, liệu Ca Lâu Vương và mười tám vị tư tế có làm nổi không? Không phải là chê họ, mà là thời điểm đó, trình độ công nghệ của họ vẫn chưa đủ cao.” Thùy thắc mắc: “Từ Khoái thì sao anh…?” Anh Hùng suy nghĩ một tí rồi nói tiếp: “Nếu là hắn thì cũng khá hợp lý, về khoảng các loại bẫy, cơ quan trong lăng mộ thì người Trung Quốc và Ấn Độ thời đó đúng là vượt trội thật. Từ Khoái lúc này là mối quan hệ mật thiết duy nhất mà chúng ta có.” Tôi hỏi: “Giờ đốt cái gì tiếp anh?” Anh Hùng nói theo truyền thuyết thì Sát Đại Phù muốn ăn mặt trời, giờ đã đốt mặt trời lên cho nó, tiếp theo nên châm lửa vào những bình chứa dầu lưu ly mà những bức tượng tỳ nữ đang bưng, kích hoạt cơ quan để đôi cánh của Sát Phát Chủy mở rộng hơn, anh cũng không quên căn dặn, tất cả đều từ suy luận mà ra cho nên phải hết sức cẩn thận. Đoạn, anh cầm ngọn đuốc tiến về phía dòng dầu lưu ly trên bức tượng gần nhất rồi quay về sau nhìn cả bọn, tôi khẽ gật đầu, anh Hùng đứng cách mấy bước chân, chìa tay, chầm chậm đưa ngọn đuốc lên phía trên rồi lắc mạnh, những miếng vải nhỏ thấm lửa bắt đầu rơi xuống rồi một tiếng “Phực!” vang lên, lửa lưu ly bắt rất nhanh, cả căn phòng rực sáng đến nổi có thể thấy rõ từng ngóc ngách, từng cảm xúc trên khuôn mặt của những bức tượng tỳ nữ. Chúng tôi đưa tay che trán khỏi sức nóng, hướng mắt về phía chim thần Sát Phá Chủy, chờ đợi nó dang đôi cánh ra. Nhưng sự kiện xảy đến tiếp theo không phải vậy. Chuyển động là có nhưng không phải đến từ chim thần mà là từ hàng chục bức tượng tỳ nữ, chúng đang quay đầu về phía cánh cửa, chỗ chúng tôi đang đứng tụ lại, miệng chúng động đậy rồi cằm bị tách ra, đôi môi mở rộng, vòm họng đen ngòm. Bất chợt, trong một sát na, bả vai tôi đau dữ dội, rồi một lực tác động không biết từ đâu đè tôi gục xuống trên đầu gối, anh Hùng thấy cảnh đó liền lao đến chỗ Thùy bằng tốc độ kinh hoàng rồi chụp cổ cô ấn xuống, Tú Linh kế bên cũng đã cúi cả người sát mặt đất, tôi nghe những tiếng “Cạch! Cạch!” vang lên giòn khấu rồi từ cửa miệng của những bức tượng, những mũi tên phóng ra như muốn xé nát căn phòng, hàng trăm mũi tên bay vèo vèo trên đầu, nếu không nấp xuống chắc bị bắn thủng lỗ chỗ như tổ ong rồi. Tất cả mọi chuyện xảy ra trong vòng chưa tới ba giây. Một lát sau thì tên mới dừng bắn, ngồi dậy, bàng hoàng nhìn vào mắt nhau, chúng tôi trút một hơi thở nặng trịch, vừa thoát chết trong gang tất. Những bức tượng sau khi phóng tên thì quay đầu về vị trí cũ nhưng vẫn chưa chịu ngậm miệng lại, thay vào đó, từ phía bên trong bắt đầu chảy ra một dòng dầu lưu ly khác, cảm giác mực độ dầu chảy ra lần này nhiều gấp đôi nếu so với khi chảy ra từ chiếc bình, dòng dầu này men theo mảnh vải khoác trên mình tượng, rót vào những cái rãnh, dẫn đến tượng chim thần Sát Phá Chủy. Anh Hùng bảo: “Lần này căng à. Cơ quan này chắc dựa vào nguyên lý hoạt động dây chuyền, phải tác động vào những bộ phận khác nhau trong căn phòng mới được. Lúc nãy hơi gấp rồi. Thùy, em còn quên đoạn nào trong câu chuyện em vừa kể không, chi tiết nhỏ cũng quan trọng lắm đó.” Thùy vừa bị úp mặt xuống sàn, gò má vẫn còn dính tí cát, cô phủi phủi, ngẫm một hồi rồi thốt lên, giọng nói nghe như đang xin lỗi: “Em quên mất, đoạn cuối của câu chuyện còn nhắc đến sự việc được Hoàng tử Rama cứu khỏi Hách Mật An Tỳ nữa.” Tú Linh chậc lưỡi: “Cứu như thế nào em?” “Hoàng tử Rama đem chiếc nhẫn của nàng Sita tới hang động, cầu xin thần mặt trời hãy buông tha cho Sát Phá Chủy. Nàng Sita là biểu tượng của thủy chung, đức tính hy sinh, chiếc nhẫn của nàng chính là báu vật của trời đất nên thần mặt trời đồng ý ngay.” “Chiếc nhẫn đó sau này thì sao em?” “Sau này nàng Sita bị chằng tinh bắt cóc, Sát Đại Phù đã đánh nhau với nó nhưng bị nó nắm được điểm yếu, Sát Đại Phù chỉ gấp được chiếc nhẫn bay về báo với Hoàng tử Rama, sau đó tự đâm đầu xuống vực tự vẫn vì nỗi nhục bại trận. Lúc này, đau buồn nhất phải kể đến Sát Phá Chủy, nó ngồi ở bờ vực ngày đêm khóc thương, vì lông cánh đã cháy gần hết nên không tài nào bay xuống dưới được. Nó nguyền rủa thần mặt trời rồi cũng gieo mình xuống theo em mình...” Anh Hùng lầm bầm: “Chiếc nhẫn… Chiếc nhẫn…” Chợt mắt anh nheo lại, nhìn sang phía bức tượng chim thần Sát Phá Chủy như nhớ lại chi tiết gì đó. Đoạn anh móc chiếc búa khắc rồng phượng ra rồi nói tiếp: “Ngày xưa chú Ba đi cùng người bí ẩn tự xưng là Lý sư phụ vào đây, không biết mục đích là gì nhưng chú có nhắc tới Ngô Công Kim Thân, nghĩa là đã đi qua ải này.” Anh móc đèn pin soi kỹ chiếc búa, ngay tại điểm tiếp giáp giữa lưỡi búa và cán búa có một vòng kim loại quấn ngang, phải soi vào trong mới thấy được vì phần lớn đã bị lưỡi búa che mất, lờ mờ trên đó có dòng chữ viết bằng kinh văn. Tú Linh nhìn anh Hùng, ánh mắt cô trợn trừng, có vẻ như cô cũng bất ngờ vì lâu nay có búa mà không biết có nhẫn, lần đầu tiên tôi thấy cô như vậy. Cô mấp máy: “Dành cho sự đau khổ của nàng Sita.” Anh Hùng nghe đến đó, không chút do dự, vung tay chém mạnh vào đáy của lưỡi búa trong sự ngỡ ngàng của toàn thể chúng tôi, lưỡi búa này tôi nghĩ chỉ là thứ kim loại được rèn bình thường hay sao ấy, vừa rớt khỏi cái cán khắc rồng phượng liền đen lại rồi rã ra thành tro. Anh Hùng tháo chiếc nhẫn rồi cất cái cán vào ba lô, đoạn tiến về phía tượng chim thần Sát Phá Chủy, săm soi chỗ cái mỏ một hồi thì vặn đúng cơ quan, cái mỏ mở ra, bên trong đúng thật là có dấu để đặt một vật hình tròn lên. Vừa xong, tôi lại nghe thấy tiếng cơ quan, bánh răng chuyển động âm vang khắp tòa điện, tay của những bức tượng tỳ nữ mở miệng bắt đầu chuyển động, tay bưng bình đưa xuống hứng lấy một nửa dòng dầu lưu ly làm nó bớt chảy xiết. Đôi cánh chim thần Sát Phá Chuỷ lần này dang rộng, tôi thấy hình ảnh bức tượng chim thần Sát Đại Phù nhỏ nhoi đang rúc đầu vào mé cánh của anh mình. Anh Hùng quay sang hỏi Thùy: “Còn chi tiết nào nữa không em, phải chắc là đã đủ hết nghe, theo như bố trí với mọi sự sắp đặt nãy đến giờ thì căn phòng này được thiết kế dựa theo truyền thuyết đó đó.” Thùy ngẫm một hồi rồi nói là đủ cả rồi, lần này là chắc trăm phần trăm. Anh Hùng nói chúng tôi dù vậy cũng phải đề phòng chứ không chủ quan nữa, nói rồi anh đốt đuốc, thận trọng tiến về phía dòng dầu lưu ly rắc lửa lên. Chúng tôi nín thở chờ đợi kết quả. Nhưng không được! Bức tượng chim thần không hề cử động thêm gì nữa, thay vào đó là cái miệng mở rộng hơn, thiếu điều gấp đôi lúc trước của lũ tượng tỳ nữ, rồi hàng trăm mũi tên bay vèo vèo trên đầu chúng tôi, tôi nghe anh Hùng chậc lưỡi, Tú Linh thì như muốn hét: “Mẹ nó, còn thiếu cái gì nữa vậy??” Câu hỏi tu từ đầy phẫn nộ của cô vừa dứt cũng là lúc tên ngừng bay, giờ tên ghim lởm chởm trên những bức tường của tòa điện, rồi xác tên bị xé đôi sắp lớp dưới sàn như lá bàng sân trường. Anh Hùng thở dài, quay sang nói với tôi: “Không được rồi chú em ơi, không lẽ lại bắt mày phải đọc lại bốn câu thơ? Làm vậy nguy hiểm lắm. Chậc, lần này về nhất định khai phù, cứ chọc ngoáy Thiên Hổ bị nó vật chết không kịp ngáp chứ chẳng chơi!” Tôi nghe đến đoạn bị vật chết tuy cũng thấy sợ sợ nhưng không thể phủ nhận được sự hân hoan đang dân lên trong lòng, cuối cùng thì tôi cũng có thể giúp cả đoàn, hay là tại tôi muốn thể hiện với Thùy nhỉ? Hừm, để vậy hoài có vẻ không ổn. Đành vậy, giờ ngồi chờ quyết định của anh Hùng chứ không vội đọc bốn câu thơ. Ca Lâu Vương để lại một bài toán tưởng chừng như vượt quá sức bọn tôi, cảm giác bất lực bắt đầu xuất hiện trong suy nghĩ mỗi người. Anh Hùng suy nghĩ gì đó lung lắm, rồi đột nhiên mặt anh giãn ra, lập tức lục tìm trong ba lô một lúc sau lấy ra được nửa mảnh đồng đen hình tròn nhặt được trong mộ Reahu. Có vẻ anh định đứng dậy lao đến chỗ nào đó để tra cục đồng đó vào, tuy nhiên vừa mới đứng dậy, mặt đất rung chuyển dữ dội, bỗng nhiên nền nghiêng hẳn sang một bên, tựa hồ như cái dĩa để trên cát chảy, làm cả đám bọn tôi ngã nhào vào góc. Bình thường thì cú ngã đó không sao, tuy nhiên hiện giờ căn phòng đang có rất nhiều dầu lưu ly, nền nghiêng sang một bên khiến dầu đổ hẳn về phía bên này, lửa trên quả cầu vẫn đang cháy hừng hực, chực chờ rơi xuống chỉ một mồi nhỏ thôi cũng đủ biến bọn tôi thành người quay! Anh Hùng cũng nhận thấy tình thế hết sức cấp bách, một mặt bảo bọn tôi đu bám lên các cây cột chờ đợi, rồi anh băng thẳng qua đống dầu nhớp nháp, nhắm đến một bức tượng tỳ nữ trong góc. Dầu trơn làm anh suýt té mấy lần, đến khi nền nhà bỗng sụp nghiêng xuống một ít nữa thì anh té hẳn. Chúng tôi tuy biết anh đang liều mình vì cả đám nhưng cũng chẳng biết giúp đỡ thế nào được, đành làm theo lời anh nói là bám chặt vào cây cột. Nền nhà vừa nghiêng vừa trơn nhẫy, dù anh đã trang bị giày đinh nhưng di chuyển cũng hết sức khó khăn chậm chạp, lúc này tôi cảm nhận nền nhà rung nhẹ, chuẩn bị cho đợt sụp tiếp theo, anh Hùng có lẽ cũng hiểu được chuyện đó, anh bắt đà phóng thật mạnh, tay cầm mảnh đồng đen vươn ra hết sức, nhắm đến phần ngực một bức tượng tỳ nữ. Chúng tôi im lặng, nín thở, cố căng mắt ra trong ánh sáng lập lòe của căn phòng, theo dõi từng bước chân của anh Hùng. Mặt đất rung chuyển rồi sụp xuống, nền lúc này nghiêng dễ đến hai mươi độ, cú nhảy của anh vừa đáp ngay đích đến, mảnh đồng nằm gọn vào phần bị khuyết trên thân tượng. Tiếng cạch vang lên, cơ quan đã di chuyển, lúc này nếu thất bại rồi để tên bắn ra, mười phần chắc mười là thân thể cả đám đều ghim đầy tên! Tiếng cơ quan vang ngày một to, nền đất rung nhẹ, tôi cảm nhận rằng nó không giống như sắp sụp xuống thêm nữa, quả nhiên đúng như vậy, từ các hốc tường những viên gạch di chuyển, để lộ ra một khe nhỏ, không lớn lắm nhưng cũng rút bớt dầu lưu ly chết người đó đi. Vừa lúc ấy, đám ba người bọn tôi cũng đến giới hạn chịu đựng, buông tay phóng xuống. Cả bọn còn chưa kịp hoàn hồn, tức thì bức tượng chim thần đang chầm chậm dang đôi cánh ra, đầu tượng chim Sát Đại Phù ngẩng lên cao, các cánh tay tỳ nữ nối thành một đường dài dẫn lửa từ quả cầu rót thẳng vào miệng tượng. Liền theo đó, những tiếng bánh răng cơ quan di chuyển nặng nề làm cả căn phòng kêu lên ầm ầm, tựa hồ như có thể đổ sập bất cứ lúc nào. Từ phía trên đầu tượng Sát Phá Chủy, trần nhà tách ra làm hai, để lộ ra một lỗ hổng, đồng thời, tượng chim thần được cơ quan nâng lên chui tọt vào lỗ hổng đó, thì ra phía dưới chân tượng có một cái cầu thang ngầm, khi bức tượng được cơ quan đẩy lên, phần cầu thang này mới xuất hiện. Có ánh sáng lân tinh màu đỏ phát ra từ phía trong, anh Hùng nói khả năng rất cao lối đi này sẽ dẫn đến chánh điện của công chúa, chúng tôi ai nấy cũng hồ hởi, phần vì vừa thoát nạn, phần vì đích đến đã ở rất gần. Nhưng thật xúi quẩy, chúng tôi chưa kịp mừng với nhau thì bức tượng chim thần Sát Phá Chuỷ ôm em bắt đầu cử động, chiếc nhẫn nó đang ngậm trên miệng rơi xuống vì cái mõm đang dần há to. Một âm thanh chói tay nghe như tiếng còi xe vang lên, bốn bức tường và trần nhà run dữ dội, kèm theo đó là tiếng tạch tạch như ai đang mồi lửa phát ra từ trong họng chim thần, tôi trợn mắt khi nhận ra chuyện gì sắp đến, Sát Phá Chuỷ sắp phun lửa mất rồi! Anh Hùng dục cả bọn chạy mau vào hang động, chỉ vừa kịp lúc ngọn lửa xối ra từ cửa họng chim thần, dội thẳng vào khối cầu kim loại làm nó đỏ ửng, màu đỏ đậm đến nổi mặc dù đã bị vây quanh bởi đám lửa vẫn thấy được hình hài tròn trĩnh đang bị thiêu đốt của nó. Chúng tôi mặc dù đứng sâu trong hang để quan sát nhưng vẫn cảm nhận được sức nóng kinh người từ lửa dầu lưu ly. Thuỳ nói, giọng pha chút xúc động: “Tình anh em của Sát Phá Chuỷ và Sát Đại Phù có lẽ đã làm Ca Lâu Vương động lòng, Sát Phá Chuỷ vì thương em đau lòng mà tự vẫn, nhưng nó đau mười thì cha nó là Ca Lâu La đau một ngàn. Chắc Ca Lâu Vương chính là người cho xây tòa tháp này một là để làm vừa lòng chim thần Ca Lâu La, suốt đời để đứa con ngài thiêu đốt mặt trời; hai là nhắc nhở đến tình phụ tử, tình anh em trong một nhà mỗi lần ông mở công đi vào mộ công chúa…” Tôi nghe thì nghe vậy thôi, nói không tin cũng không phải nhưng cái cơ quan mà Thuỳ hết mực cảm kích vừa suýt lấy mạng cả đám, nên tôi chỉ cười cho cô thấy vui. Chúng tôi đứng xem cũng chẳng lâu, anh Hùng sốc lại tinh thần bằng một điếu thuốc, trước khi châm lửa không quên lau chùi dầu lưu ly bám trên người thật kỹ lưỡng, tôi và Tú Linh cũng làm một điếu, không gian bao phủ bởi màu đỏ thỉnh thoảng có đốm lửa nhảy múa trông cũng vui vui. Tôi hỏi anh vì sao anh biết cục đồng đen đó là mấu chốt, và tại sao trên tượng người nữ đó lại khuyết đúng chỗ đó. Anh kéo một hơi thuốc, nhả ra rồi nói bằng giọng quả quyết chắc nịch: “Thật ra chúng ta đã làm đúng bước để khởi động cơ quan dẫn lên cầu thang, tuy nhiên, có người nào đó đã phá vỡ thế trận cơ quan đó bằng việc phá bỏ một chốt lẫy - chính là cục đồng đó, hòng ngăn chặn việc đi lên phòng của cô công chúa đó mà thôi. Anh chỉ đoán lờ mờ được kế hoạch gì đó đằng sau tất cả những việc này tuy nhiên lúc nãy đảo mắt quan sát, anh thấy trước mỗi ngực tượng nữ hầu đều có một vật gì đó nhô lên, thế là anh ướm thử may thôi.” Tôi gặng hỏi mãi anh ấy cũng không nói gì thêm về chuyện này nữa, tuy nhiên việc “linh cảm” của anh Hùng đạt đến như vậy, cũng khiến tôi khó nghĩ. Nhìn vào lối đi lên cầu thang, tôi đã thấy không còn ánh sáng của đèn cầy vĩnh cửu nữa, hai bên lối đi là những bức tượng bán thân của những người đeo mặt nạ chim thần, đếm ra có tổng cộng mười tám bức, chắc là những vị tư tế, cuối cầu thang là cánh cổng vừa hai người dẫn vào một gian phòng nhỏ, chính giữa phòng có một chiếc giường treo rèm phủ kính tứ phía, ánh sáng đỏ nhuộm lên một màu chết chóc lên khắp nơi, nhưng không hiểu sao tôi rất chắc chắn đây chính là phòng của công chúa. Chúng tôi chưa ai nghĩ đến chuyện giở rèm ra xem bên trong có gì mà chỉ đi quanh phòng dò xét, tính ra nếu căn phòng này không liên quan thì cũng không cần thiết phải kéo rèm lên, cứ nhằm lối đi lên bên gian trái mà bước tiếp thôi, tôi còn mong như vậy, rắc rối là một món ăn nếm mãi thành ra ngán ngược cổ họng rồi. Tôi đi một hồi, thấy một cái bàn trang điểm, trên đó có hai chiếc lược và hai cái kiếng nhỏ, chậu hoa ngàn năm không ai chăm nên thân cây giờ đã hoá tro mất tăm, thấy không có gì đặc biệt nên tôi quay lên xem ba người bọn họ, Thuỳ đang đứng cạnh một chiếc bàn to hơn, chắc là chỗ học hành của công chúa, Tú Linh đang đi dọc bờ tường xem bích hoạ hoặc tìm kinh văn gì đó còn anh Hùng thì đang đứng săm soi mấy tấm rèm, tôi tá hoả khi thấy anh định giơ tay mở nó ra xem nhưng tiếng gọi của Thuỳ đã ngăn tôi lại, tôi nhìn sang, thấy ánh mắt cô lộ rõ vẻ hoang mang. Cô ấp úng: “Anh có thấy...thấy gì đó ngộ ngộ không?” Tôi lắc đầu, Thuỳ nói tiếp: “Vật dụng trong phòng này...sao nhỉ, ngộ lắm, có điểm gì đó bất hợp lý với nó...mà sao em không nghĩ ra nó là cái gì vậy? Anh?” Tiếng Thuỳ gọi tôi bằng “anh” nghe ngọt quá, bất giác mấy câu nói của cô lọt từ lỗ tai này qua lỗ tai kia. Đang mê mẩn, Thuỳ gọi phát nữa tôi mới bừng tỉnh còn Thuỳ nhìn tôi ngơ ngác, tôi đỏ mặt quay đi, chưa kịp giải trình thì nghe tiếng anh Hùng: “Lại đây coi cái này nè mấy đứa!” Tiến đến đứng sau lưng anh (giờ ảnh kéo cái màn ra luôn rồi, trời ạ), trên giường lại là hai bức tượng khác, tư thế khá giống với tượng chim thần ôm em bên dưới, điểm khác biệt ở chỗ thay vì tượng chim, thì ở đây là tượng người. Một cánh tay bao bọc lấy cơ thể, nhưng không hùng dũng như bên dưới, mảnh khảnh nữa là đằng khác. Tôi nói: “Tượng phụ nữ hả anh, chẳng lẽ là con gái của Ca Lâu La?” Không thấy ai trả lời, anh Hùng và Tú Linh nhìn tôi ngộ lắm, Tú Linh nói: “Tượng gì? Tượng nào? Đây là hai cái xác mà!”
 
Chương 42 : Âm mưu, thủ đoạn


Lâm Gia Thái Bảo - Lúc nãy tôi hơi bậy, trên giường có đến ba cái xác chứ không phải hai, da thịt đều đã khô đét lại, thoạt nhìn dưới ánh đuốc cũng nghĩ là tượng thật, do thời gian cộng với màu da đen lại khiến người ta nhìn lầm. Nhìn vào hình dáng tư thế, có thể thấy có hai cái đang dâu lưng với nhau, và cái còn lại thì đang choàng tay, ôm từ phía sau. Tưởng chừng như căn phòng này chỉ là chốn để chúng tôi ghé qua, nhưng việc phát hiện có xác trên giường làm mọi chuyện trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Tú Linh nói: “Gần hai ngàn năm trôi qua, khác với ngoài thành đều đã hóa ra cát bụi, căn phòng này dường như chỉ mới bỏ không một hai chục năm.” Quả nhiên các vật dụng vẫn còn khá chắc chắn, không hề giống với niên đại của chúng tí nào, lớp màn che xung quanh giường cũng còn rất mềm mịn tuy có dính chút bụi. Nhưng thứ làm chúng tôi bất ngờ nhất vẫn phải kể đến là ba cái xác kia. Căn phòng lúc này nhuốm đầy màu chết chóc và nguy hiểm, ánh sáng đỏ chớp tắt soi lên bức tường xám tro lạnh ngắt như khiêu khích chúng tôi xông lên. Tú Linh nhìn xung quanh rồi nói: “Đây thì chắc là phòng của bà công chúa rồi, nhưng kiểu gì mà lại không hề có chút quỷ khí gì thế này?” Anh Hùng gật đầu đồng tình, anh nói thêm: “Không phải là không có, tuy nhiên anh thấy quỷ khí kiểu như này thực ra ở một dạng khác, anh nhớ lúc bái sư ở Ninh Bình, anh có thấy Quỷ Sống, loại đó làm quỷ lúc còn là con người cho nên quỷ khí phát ra không tà ma quái dị, mà khi ẩn khi hiện. Có thể chính vì quỷ khí đó mà căn phòng này dường như không chịu sự tác động của thời gian.” Tôi nghe xong thoáng rùng mình, nếu nói vậy thì lúc còn sống, cô công chúa này đã là quỷ rồi hay sao? Truyền thuyết tôi nghe được đến giờ thì đúng là vậy thật, tuy nhiên đáng chú ý còn có chi tiết cô ta bị giết hai lần, thật khiến tôi tò mò khi cô ta còn sống đã phải trải qua những chuyện như thế nào? Bỗng nhiên trong không gian nửa tối nửa sáng, ánh đỏ vừa lóe lên, bọn chúng tôi giật bắn người khi nghe được âm thanh kẽo kẹt nặng nề vang lên trong góc, anh Hùng liền quay sang bảo cả đám cẩn thận, loại này tuyệt đối không phải là thứ dễ đối phó! Khỏi cần anh ấy nhắc, lập tức bọn tôi đều lui ra sau đứng. Anh soi đuốc về hướng phát ra tiếng động: nơi cái bàn trang điểm mà tôi kiểm tra lúc nãy, hai tấm gương đồng hình tròn, trang trí tinh xảo lúc nãy tôi nhớ đã để lại vị trí cũ, sao bây giờ lại bị dựng lên thế này, mặt gương còn mới tuy nhiên cũng chỉ phản chiếu lại hình ảnh mờ mờ ảo ảo. Tiếp đến là cái ghế ngồi, nó đang xê dịch, giống như có ai đó đang ngồi lên rồi quay người ra sau nhìn chúng tôi, khiến cái ghế cũ kỹ oằn lên và phát ra tiếng kêu kẽo kẹt. Nó đang nằm chắn ngang đường đi lên, nếu không thì cỡ gì thì tôi cũng ù chạy qua thôi. Anh Hùng la tôi, ra dấu bảo cả bọn cứ bình tĩnh, chớ nên khinh suất, chưa biết thứ gì đang áng ngữ ở bên ấy mặc dù mười phần cũng bảy tám phần là quỷ hồn công chúa, tuy nhiên cứ băng ngang mà không có chuẩn bị gì thì khác nào đâm đầu vào chỗ chết. Tình thế lúc này tôi chỉ mong có Sinh ở đây, ít ra nó với anh Hùng chia nhau gánh cũng đỡ, đằng này có thể thấy chỉ mỗi mình anh Hùng cũng không biết “cân” nổi hay không, tôi ngoài cái phù chập chờn ra thì coi như vô dụng, Tú Linh thì lại không rành về mảng đập miễu. Cả bọn đành nhất nhất nghe theo sự sắp đặt của anh Hùng, chẳng ai có ý nghĩ băng về hướng ấy. Chưa cần đợi lâu, sự việc diễn ra tiếp theo cũng đủ khiến tôi ngỡ ngàng, căn phòng nửa tối nửa sáng bỗng nhiên loang lổ những vệt tựa như đèn chiếu vào, thoắt ẩn thoắt hiện, giống như nó đang cố trở mình quay về lúc còn người sống trong này vậy. Tiếng bàn ghế kêu lên răng rắc, những cánh cửa tủ đóng vào, mở ra càng lúc càng nhiều và dồn dập hơn, như có một thế lực vô hình nào đó đang dồn bọn tôi vào góc. Anh Hùng nói: “Quỷ khí bắt đầu bộc phát rồi, nhưng loại này lạ quá, anh chưa từng gặp bao giờ…” Tú Linh quay sang hỏi anh: “Lạ là lạ thế nào? Em chưa cảm nhận được gì luôn nè!” Anh Hùng hạ giọng xuống, giống như anh cũng nghi ngờ chính những thứ mình đang nghĩ: “Quỷ khí này, cảm giác như…cô ta chưa chết?!” Tôi nghe xong mà cảm giác như ai phà hơi lạnh vào lưng, thầm nhủ hai ngàn năm chưa chết thì thành cái gì rồi chứ quỷ con mẹ gì nữa. Tôi nói: “Bây giờ nên làm thế nào? Hay là liều đại đi anh, băng lên cầu thang luôn!” Anh Hùng lắc đầu, bảo: “Đập miễu nên từng bước, giờ lên lầu chưa biết có thứ gì trên đó, miễu dưới này chưa đập xong, nhỡ trên đấy có Ca Lâu Vương, khác nào trước sau vây chặt, hiện giờ Sinh lại không có ở đây, thôi thì đành xử công chúa này trước rồi coi mạng tụi mình đủ lớn lên nói chuyện phải quấy với ông vua trên kia được không!” Tôi nghe xong cũng thấy có lý, hiện giờ vẫn phải theo tôn chỉ của lục lâm, cẩn thận từng bước, nép vào một góc để dễ bề phòng thủ, cái mạng vẫn quan trọng nhất. Tuy nhiên, nói gì thì nói chứ bảo bình tĩnh ngay lúc này cũng khó dữ dằn, căn phòng như đang rơi vào một vùng hỗn loạn không thời gian, ảo giác về lúc vẫn còn là phòng của công chúa, mọi thứ hết sức tươi mới, nào hoa, nào vải vóc lụa là, hiện lên sống động đầy màu sắc rồi lại vụt tắt trở về màu xám tro lạnh lẽo chết chóc, tất cả cứ như một đoạn băng tua đi tua lại khiến bọn tôi không biết đường nào mà lần. Anh Hùng quan sát thật kỹ, anh đưa ra thêm một phán đoán: “Quỷ hồn này không ổn định… có lẽ nó không có sát ý!” Không biết anh Hùng cảm giác cái “không có sát ý” ấy thế nào, nhưng tim tôi đập liên hồi muốn rớt ra ngoài, cứ thế này thì khỏi cần nó hù tôi cũng vỡ mật mà đi theo ông bà. Thùy nãy giờ tay run run nắm chặt lấy áo tôi, bỗng chỉ tay về giường, hỏi anh Hùng: “Vậy mấy cái xác kia đâu rồi anh?” Cả đám nghe thấy thế liền đưa mắt nhìn lên giường, lúc mờ ảo tranh tối tranh sáng chỉ còn lại một dấu vết thụng xuống của tấm ga giường minh chứng cho chỉ mới vừa nãy thôi còn có thứ ngồi lên nó, ba cái xác thì biến đâu mất rồi? Tú Linh không giấu nổi vẻ hốt hoảng, anh Hùng vẫn quan sát xung quanh, nhìn anh hết sức căng thẳng. Bỗng nhiên âm vang lên những tiếng loạt soạt như có con gì đang bò, nhưng nhìn thì không thấy gì cả, lúc này tôi bỗng gục người xuống vì sức nặng trên vai, đỡ là do đã quen với cơn nhói nên không còn cảm giác nữa. Anh Hùng thấy tôi gục xuống, biết là nguy hiểm đã sát bên, lập tức phát chú Thiên Đăng, tuy nhiên mục đích của anh không phải để khu ma diệt quỷ, mà mượn ánh sáng Thiên Đăng tỏa ra để quan sát xung quanh. Quả nhiên, quỷ khí trong đây rất khó phân biệt, phần nào che khuất tầm nhìn, cộng với căn phòng cứ biến đổi liên tục, cơ bản chỉ với ánh đuốc vải bùa cháy bập bùng khó mà soi ra được sự tình. Bằng ánh sáng xanh của Thiên Đăng, không gian bừng lên, tôi giật thót mình khi phát hiện dưới đất xung quanh có những bóng đen dính lại với nhau, tựa như bị khâu lại bằng chỉ, nhưng không giống ba cái xác biến mất, những bóng đen này bị may lại như trái banh, lăn chầm chậm trên mặt đất, đôi khi chúng đi, đôi khi chúng bò trườn, tay chân co quắp kỳ dị. Anh Hùng phát hiện ra, anh nói: “Oan hồn người tùy táng trấn yểm à?” rồi lập tức vận khí, kỳ thực bọn kia cũng chỉ như oán hồn bất tán, chịu không nổi pháp lực của Thiên Đăng Ẩn Quang, một đòn đã tan biến sạch. Thùy bỗng kêu lên: “Nhìn cái gương đồng kìa!” Tôi quay lên ngay lập tức, suýt nữa thì đã rớt tim ra ngoài khi thấy ba cái xác đang ngồi trên bàn, hai cái đầu cúi gục xuống, không nhìn rõ mặt mũi, y phục trên người giờ chỉ như những mảnh vỏ cây khô đét dơ bẩn dính chặt lại, tóc của nó thì thì bết lại từng cục, làn da thoắt ẩn thoắt hiện, mọc ra từ hư vô, tím tái nhợt nhạt, cái xác ôm sau lưng giờ đã choàng tay lên vai hai cái xác kia, trông nó giờ giống như cái áo choàng. Chúng nhìn vào gương, tay cầm lượt, cố gỡ mớ tóc rối bù, gương đồng mờ ảo không thể nhìn ra được bên đó mặt mũi chúng thế nào, anh Hùng dang hai tay ra, bảo bọn tôi nép phía sau, rồi anh nói với Tú Linh: “Chắc anh phải siêu thoát quỷ hồn hai cô công chúa, bí mật về Ca Lâu Thành mới được sáng tỏ, trong thời gian đó, em coi sóc hai đứa này nhe.” Tôi thắc mắc: “Sao anh lại nói là hai người? Em tưởng chỉ một thôi chứ?” Anh Hùng nói: “Nhìn vật dụng trong phòng đi, anh thấy công chúa Ca Lâu Thành là hai chị em sinh đôi.” Tú Linh gật đầu, ra vẻ đồng ý với suy nghĩ ấy, Thùy thì ôm miệng, nói với bọn tôi là đúng rồi, điểm kỳ lạ trong căn phòng mà cô cảm thấy lúc nãy chính là điều này, đọc tư liệu thì thấy chỉ ghi về một người công chúa, nhưng đồ vật trong phòng thì lại có đến hai thứ mỗi món, tôi sực nhớ lại về cách bày trí mới ngớ ra, cũng đồng tình với suy nghĩ đó. Lúc này anh Hùng vừa định khai Chú gì đó, bỗng nhiên cái xác đang nhìn vào gương bỗng quay ngoắt lại, bây giờ tôi mới nhìn được mặt nó: trên phần đáng lẽ ra là khuôn mặt thì chỉ có một cái lỗ sâu hoắm, đen ngòm một màu. Thùy kêu lên rồi lấy tay che mắt, Tú Linh cũng không dám nhìn trực diện. Tôi ngẩng lên thì nghe anh Hùng lẩm bẩm một bài Chú, đến lúc quay lại nhìn vào gương đồng thì bọn xác lại biến mất. Bỗng như trực giác hay là do năng lực của Thiên Hổ, linh cảm có thứ gì đó đang lao đến, tôi lập tức nhào tới đẩy mọi người ra, vừa ngay lúc một bóng đen quái quỷ bò từ trên tường xuống, nó kỳ dị đến độ anh Hùng cũng phải nhanh chóng thủ thế, mặt anh hết sức nghiêm túc. Bọn xác lù lù hiện ra không khỏi khiến bọn tôi giật mình, đến giờ tôi mới được nhìn kỹ khối thịt bầy nhầy gớm ghiếc này. Hai cô gái chừng mười tám mười chín, phần lưng được khâu với nhau bằng những sợi chỉ to, tựa như cách người ta may bao, hình ảnh đó không khỏi làm tôi muốn nôn ọe. Anh Hùng hét lên: “Cẩn thận!” rồi lao lên chắn trước tôi, vừa đúng lúc cái xác như dịch chuyển tức thời, vung tay định một nhát chém đứt tôi thành mấy mảnh. May mà anh dùng Bồ Tát Kim Cương Thủ, bộc phát lên cánh tay, nhanh như cắt ngăn chặn kịp, Tú Linh bèn lôi tôi và Thùy vào góc, không quên quay lại căn dặn anh Hùng cẩn thận. Không biết có phải do Thiên Hổ không hay do tôi bị ảo giác, trong phút chốc, tôi thấy mắt anh… chính xác là con ngươi ánh lên màu vàng rực như lửa cháy rồi vụt tắt. Đạo hạnh của anh Hùng vốn dĩ là thứ không cần bàn nhiều, đám người bọn tôi ai cũng đều biết hết rồi, nhưng đối thủ lần này lại hoàn toàn khác, từ quỷ khí cho đến hình thái. Cái xác như là được tạo bằng cát bụi, có thể tan rã ra rồi bay vòng quanh khắp nơi trong phòng, rồi đột ngột ngưng tụ lại một nơi, tấn công chớp nhoáng hết sức bất ngờ, nó có những bốn tay, cái nào cũng đầy móng sắc nhọn. Đúng thật là tôi không thể cảm nhận được áp lực từ quỷ khí đó mang lại, cảm giác như nó còn sống thực sự và chỉ là một quái vật chiến binh hai đầu bốn tay mà thôi. Không giống như khi tôi gặp Quỷ Reahu hay mười tám vị tư tế, quỷ hồn công chúa khiến tôi thấy rất khó chịu, tâm lý tôi bị ảnh hưởng, biến đổi từ đau buồn, thống khổ, căm giận đều có cả, nhưng không thấy sợ. Khác biệt của quỷ sống như anh Hùng nói là đây ư? Lúc này, ba người bọn tôi chỉ có việc nép vào góc, anh Hùng chiến đấu ngoài kia nhưng chẳng ai tiếp được gì. Tú Linh có thử phóng kim, nhưng vô dụng trước thân thể cát bụi của nó. Con quỷ với hình thù kỳ dị, di chuyển bằng cả tay và chân, đang bò có thể bật dậy chạy, rồi lại đu lên trần nhà, đang đu thì lại tan rã ra rồi hợp lại ngay sát bên, khiến anh Hùng hết sức chật vật để chống đỡ. Đang lúc quần thảo với anh, nó bỗng biến mất, tôi còn chưa kịp định thần thì anh Hùng hét lên, tôi nhìn đã thấy nó đang lù lù lao xuống định tấn công Tú Linh, lúc này Thiên Hổ như thức giấc, tôi hét một tiếng thật to, trong phút chốc áp khí tỏa ra rất lớn khiến mọi người hết sức ngạc nhiên, con quỷ cũng thất kinh, vội tan biến. Đoán trước được nó sẽ quay trở lại, anh Hùng đã sẵn sàng, đột nhiên sau lưng anh chỉ nghe “bịch” một tiếng, nó đã vung tay đến cận kề! Có vẻ anh chỉ đang thăm dò mà thôi chứ chưa có ý định tấn công áp đảo, một đòn đánh trực diện và rất nhanh của nó anh cũng chỉ né tránh rất đơn giản. Đột nhiên anh nhảy lui về sau giống hệt lúc đánh mười tám vị tư tế, anh kẹp hai ngón cái vào răng rồi cắn mạnh, sau đó khoanh tay trước ngực rồi vuốt dọc xuống, hai vệt máu chạy dài từ khuỷu đến cổ tay, máu không màu đỏ mà chuyển thành xanh lam, trong phút chốc cảm nhận như anh Hùng vận khí rất nhiều, hai lòng bàn tay anh sáng lên, nhìn thoáng qua như có chữ “vạn” bên trong, rồi anh lao thẳng đến con quỷ. Tú Linh thốt lên: “Khu Hồn Vãng Sanh Tịnh Độ Chú...?” Chú Vãng Sanh tôi có nghe qua, loại đó các thầy chùa vẫn hay tụng tại các đám tang, siêu độ tất thảy chúng sanh, tuy nhiên đó là ở thế giới thường, trong lục lâm, tôi cho rằng Tịnh Độ Vãng Sanh lại là một đẳng cấp hoàn toàn khác, hơn nữa, trong tên của nó có chữ Khu, cấp độ rất cao trong Chú. Tôi hỏi Tú Linh Chú này thế nào, cô chỉ đáp ngắn gọn: “Truy hồi ký ức quỷ hồn, hóa giải oán hận, giúp nó được siêu sinh.” Tôi căng mắt theo dõi diễn biến tiếp theo, Thùy cũng tương tự vậy, mặc dù vẫn còn đang rất run sợ, tay vẫn không buông lưng áo tôi ra. Có vẻ như con quỷ kỳ dị kia cũng phát hiện ra pháp khí của anh Hùng đang dâng trào khó mà chống đỡ, nó bèn tản ra định trốn chạy, tuy nhiên với lòng bàn tay kì lạ đó, anh Hùng dường như nắm được quỷ hồn của nó, khiến chiêu bài hóa cát bụi tứ tán của nó trở nên vô dụng. Nó đột nhiên rú lên kinh hãi, âm thanh vang vọng khắp căn phòng đinh tai nhức óc. Anh Hùng nhăn mặt, có lẽ việc phát Chú này khiến anh khá đau đớn và tốn sức, khi con quỷ không thể hóa thành cát bụi nữa, anh nhanh chóng chụp lấy một trong hai cái đầu, ấn mạnh lòng bàn tay vào. Nó tuôn ra một tràng tiếng thét, cố sức vùng vẫy chống trả, liên tục đánh tới tấp vào anh Hùng, tuy nhiên không thể nào vượt qua được lớp pháp khí dày đặc tỏa ra nên về cơ bản không thể gây hại gì đến anh được. Lúc này có vẻ như đến giai đoạn quyết định, anh đọc thật lớn những lời chú mà tôi nghe không hiểu gì cả, chỉ có một mình anh mấp máy mà nghe như có cả một hội trường cùng đồng thanh đọc theo, giọng đọc trầm bổng, tiếng đọc thê lương, buồn không sao tả xiết. Không gian xung quanh bừng lên ánh sáng màu lam, ánh sáng tựa như đưa chúng tôi vào thế giới khác. Tú Linh và Thùy lấy tay che mắt, phần tôi thì được Thiên Hổ phù trợ, nên dù nhìn trực diện mà vẫn thấy ánh sáng dịu nhẹ. Con quỷ vẫn ra sức giãy dụa, tôi chỉ thấy anh Hùng mắt nhắm nghiềm, tựa như đang quan sát gì đó, ký ức của công chúa chăng? Tôi thấy vậy cũng tập trung làm theo. Khi vừa nhắm mắt lại, tôi như rơi vào một vùng không gian có làn khói màu lam, chứng kiến những chuyện trong ký ức của Ca Lâu Thành. Trên ghi chép nhắc về một cô công chúa, cô ta tên gì nhỉ? À, Tỳ Sa Mật La. Cả căn phòng nhuộm một màu lam, chìm trong một làn khói mỏng, chợt làn khói ấy tan ra từ từ, trên bốn bức tường âm vang những tiếng gọi nhau, những giọt nước mắt, nỗi đau và sự căm hờn, hạnh phúc và khổ đau giờ như hai chú cá vờn nhau trong lòng hồ, tôi đứng giữa những rầm vang của ký ức, nhìn ngắm đôi mắt đẫm lệ của Ca Lâu công chúa. Tôi thầm nghĩ đây không còn là những ghi chép trên những mảnh da nữa mà là một câu chuyện chân thật được Thiên Hổ khắc họa lại, căn phòng âm u giờ đây ngập tràn nắng và gió, công chúa đang ngồi chống tay lên thành cửa sổ nhìn ra phía xa, cô ta đang khóc, đúng vậy, nhưng đôi mắt ấy long lanh ấy, khóe môi nhỏ nhắn ấy, dòng tóc đen tuyền ấy, chúng không chất chứa một sự hiện diện của cảm xúc nào cả. Là vì cô sắp hóa thành quỷ hay vì quá đau buồn đến độ nước mắt cứ vô tình chảy xuống? Tôi không tài nào biết được. Linh cảm có chuyện sắp xảy ra, tôi lần mò đến chỗ mà tôi biết chắc rằng anh Hùng, Tú Linh và Thùy đang đứng, nói đúng hơn là một thứ “linh cảm” kia đã dẫn tôi đến chỗ ấy, tôi vươn tay, lập tức thấy ba người bọn họ như nhảy vào trong mảnh ký ức, ánh mắt láo liên, mới đầu chưa hiểu đầu cua tai nheo gì nhưng cũng bắt nhịp rất nhanh, anh Hùng lau những vết máu trên tay rồi bảo cả bọn cứ đứng im quan sát. Những bí mật cuối cùng của Ca Lâu Thành chắc đang dần hé mở. Có tiếng bước chân phía sau lưng, là hướng cánh cổng mà chúng tôi bước vào lúc đầu, một người thanh niên khuôn mặt tuấn tú, ria mép uốn cong xuống, chân mày đậm phủ trên đôi mắt sáng, nhìn cách ăn vận giản đơn, áo bào lại có vết rách chứng tỏ thân phận thấp hơn công chúa rất nhiều, khả năng rất cao nhân vật này chính là Tỳ Giả. Anh ta không dám tiến đến chỗ công chúa, chỉ dám đứng phía xa cất tiếng nói, thứ ngôn ngữ tôi nghe không được, cũng may nhờ có Tú Linh làm thông dịch viên: “Người cảm thấy trong người như thế nào rồi?” Công chúa quay người lại, cô hơi cúi đầu, lạnh nhạt nói: “Ta cảm thấy thế nào à? Đã bao giờ ngươi chết đi, sống lại, để rồi biết rằng một ngày không xa nữa thôi, phải chết đi lần nữa?” Người thanh niên im lặng. Công chúa lại nhìn xa xăm ra phía ngoài cửa sổ: “Vậy thì đừng hỏi ta cảm thấy như thế nào.” Tỳ Giả dường như không biết phải trả lời làm sao, chỉ đứng đực ra, lúc đó thì một người con gái khác có khuôn mặt y hệt công chúa cũng vừa bước từ trên xuống, sự kiện này củng cố lại giả thuyết lúc đầu của anh Hùng: Ca Lâu Vương có đến hai người con gái, nhưng tại sao tất cả những mảnh da đều chỉ nhắc đến một? Khó nghĩ thật, đành theo dõi tiếp vậy. Tỳ Giả cúi đầu hành lễ với người mới tới, cô ta khoác tay ra hiệu hãy lui ra ngoài đi, đoạn tiến đến chỗ cô công chúa kia rồi nói: “Chàng đi rồi sao chế không ra tiễn?” (Bó tay với Tú Linh luôn, đến cả lúc dịch cũng một câu chế, hai câu chế.) “Mật Lan à, đáng lẽ là ta và em không còn cảm xúc gì sót lại chứ, sao ông trời lại thích trêu người…” Nói đến đó thì hai hàng nước mắt chảy xuống như hai đường than van trên đôi gò má nàng, nàng gọi người kia là Mật Lan, vậy thì nàng đích thị là Ca Lâu công chúa Tỳ Sa Mật La rồi. Mật Lan đến ngồi cạnh chị mình, khuôn mặt nàng không còn chút cảm xúc, nhưng dường như nàng vẫn ý thức được mình phải làm gì nên liền choàng tay ôm lấy Mật La. Chợt khung cảnh thay đổi, làn khói mờ ảo lại ập tới, nó lôi chúng tôi ra khỏi cửa sổ, đô thị Ca Lâu Thành hiện lên rõ mồn một bên dưới, những dãy nhà san sát, cảnh mua bán tấp nập, tiếng gọi chào hàng ồn ào, lướt qua những con đường, chứng kiến những cảnh tượng đó mới biết ngày xưa tòa thành này sầm uất như thế nào, vẻ mặt người dân lúc nào cũng hớn hở, hạnh phúc, họ nở những nụ cười tươi rói trên môi. Màn sương trở nên dày đặc hơn, khung cảnh tấp nập biến mất, thoáng cái chúng tôi đã đứng phía ngoài Ca Lâu Thành, mục kích sự khổng lồ của nó mà không khỏi trầm trồ. Đang băn khoăn không biết tại sao màn sương lại đưa chúng tôi tới đây thì tiếng nói chuyện lại vang lên, là một người thanh niên ăn vận kỳ lạ, khác hẳn với trang phục của Ca Lâu Thành tôi thấy lúc nãy, anh đang cưỡi trên lưng ngựa, đoàn tùy tùng đi phía sau, Tú Linh nhìn cờ phướn của bọn họ rồi nói chữ trên đó là chữ “Tấn”, anh Hùng bảo vậy thì người thanh niên này là Từ Khoái rồi, vì trong cuộn da trên Đảo Bia Mộ có ghi lại thông tin Từ Khoái ngày xưa theo lệnh Tấn Vũ Đế du thuyền về nam mà, đoàn người ngựa đang đi theo hướng ngược lại với Ca Lâu Thành, đây có lẽ là thời điểm anh ta vừa diện kiến Ca Lâu Vương xong. Từ Khoái nói với người cưỡi ngựa cạnh mình: “Vị Ca Lâu Vương đó hào khí ngất trời, lại là vua anh minh, bá tánh trong thành ai nấy đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, âu cũng là điều tốt. Thế nhưng…” Nói đến đó, Từ Khoái ra hiệu cho đoàn người dừng lại rồi anh phóng xuống ngựa, lấy ra một chậu cây, trên đó trồng một loại thực vật trông như cây cải xanh, một tấm vải màu vàng, bọc bên trong là cái mai rùa, hai món đồ này đều chi chít những chữ giáp cốt, anh trải tấm vải xuống nền đất, đặt chậu cây ở vị trí chính giữa, tôi thấy những thớ cải động đậy, không phải kiểu bị gió lay mà trông như nó đang hít thở, phập phồng liên hồi, Từ Khoái khụy gối xuống rồi bắt đầu gieo quẻ. Hành động này đặt biệt thu hút sự chú ý của anh Hùng và Tú Linh, ban đầu anh Hùng chỉ đứng im lặng nghe Tú Linh phiên dịch bằng chất giọng pha chút giễu cợt, thế nhưng lúc này, khi thấy chậu cây và quan sát những hành động, cử chỉ, thao tác của Từ Khoái, hai người bọn họ nhìn nhau bằng ánh mắt...ngưỡng mộ?! Anh Hùng nói: “Từ Khoái sao vừa gieo quẻ Dịch vừa bói cả Cải Thi vậy?” Tú Linh thêm vào: “Chẳng lẽ là một loại gieo quẻ thất truyền nào đó?” “Hừm... Thế giới kinh dịch, dịch số rất đa dạng và phong phú, nói thất truyền cũng không phải, có thể là một cách làm khác với hiểu biết của anh và em, Cải Thi là tổ tiên của ngải, lại thuộc phạm trù của dân đào giếng. Tay Từ Khoái này thấy vậy cũng là loại thuật sĩ có đạo hạnh cao thâm không chừng?” Tôi hỏi anh Hùng Cải Thi là giống quái gì, anh nói nó là loài thực vật biết khóc, biết cười, chỉ nghe lời kể lại thôi chứ giờ mới thấy tận mắt. Vốn dĩ dân đào giếng thờ Cải Thi, sẵn tiện để giữ nhà, nói ra thì dài dòng, rắc rối lắm, e rằng sẽ bỏ lỡ câu chuyện trước mắt nên anh hẹn tôi khi khác sẽ kể. Tú Linh trầm ngâm, chúng tôi tiếp tục quan sát Từ Khoái hết gieo quẻ này đến quẻ khác, mỗi lần đọc kết quả đều tắc lưỡi, thở dài, lắc đầu đủ kiểu, còn quay sang cây cải bái lạy như hỏi ý kiến của nó, những thớ cải động đậy, một âm thanh nghe như tiếng khóc thút thít vang lên. Đến đó, Từ Khoái mới đứng lên nhìn vào vị tùy tùng của mình rồi nói rằng gieo quẻ năm lần đều ra cùng một kết quả, Ca Lâu Thành sắp có biến lớn, vị công chúa mà anh ta gặp lúc nãy thật ra đã chết năm năm trước rồi, không biết ai đã bày mưu cho Ca Lâu Vương hồi sinh con gái mình nhưng thời hạn sống của công chúa sắp cạn, nếu không tiếp ứng kịp thời thì cô ta sẽ bị quỷ hóa. Nhìn ánh mắt của Từ Khoái, tôi thấy cha nội này gieo quẻ thì đúng thật nhưng chắc bị công chúa mê hoặc rồi, hết Từ Khoái rồi đến Tỳ Giả, sắc đẹp của cô công chúa này quả thật không thể coi thường được, đạo hạnh “rắc thính” đã đạt đến thượng thừa: không cần rắc cũng dính. Từ Khoái leo lên ngựa, bảo với người tùy tùng hãy dẫn mọi người về trước, nói với Tấn Vũ Đế rằng anh ta sẽ ở lại Phù Nam giải quyết công việc thêm một thời gian nữa rồi sẽ trở về sau, đoạn phi nước kiệu về hướng Ca Lâu Thành. Làn khói lại ập đến, nó đưa chúng tôi đến một căn phòng rộng lớn, trang nghiêm, có một người đàn ông đang ngồi chễm chệ trên chiếc ngai chạm khắc biểu tượng chim thần phía trên, phủ cái mỏ che ngang mái đầu. Đứng ở phía đối diện là một lão già râu bạc phơ, đầu không còn cọng tóc, lão ta đang cúi người hành lễ. Chưa ngẩng đầu lên xong đã nghe lão nói: “Bệ hạ, hôm nay vi thần có việc đi ngang sẵn tiện tạt vào âu cũng là muốn nhắc nhở với bệ hạ, thời điểm bảy năm đã gần kề, công chúa có những tiến triển rất tốt, phương thuốc trường sinh bất lão có khả năng thành công rất cao!” Thì ra người đàn ông kia chính là Ca Lâu Vương Tỳ Khâu Đạt Bà, chẳng trách sao thần thái của ông ta ngất trời, đôi lông mày xếch lên, bộ râu đen tuyền bao quanh cái miệng với môi trên dày hơn môi dưới, ông ta vận áo bào màu đen với hoa văn vàng, trông đơn giản nhưng dũng mãnh vô cùng. Đôi mắt sắc lẻm và già cỗi khẽ nhắm lại, ông nói: “Bước tiếp theo là gì?” Lão già vuốt râu rồi bảo: “Vi thần sẽ mách lại với anh chàng trẻ tuổi tài hoa mà bệ hạ tiến cử, tên gì nhỉ, à đúng rồi, Tỳ Giả hiền điệt. Mọi việc chuẩn bị cần khá nhiều thời gian và phải nghiên cứu thêm nữa, bệ hạ còn việc triều chính phải lo chớ nên để tâm sẽ hại đến sức khỏe bản thân.” Ca Lâu Vương thở dài, ông chống cùi chỏ lên thành ghế, ngón trỏ mân mê vầng trán rồi nói tiếp: “Nhưng mà Giản Độ này, phương thuốc này, đánh đổi quá nhiều thứ. Hoàng hậu thì từ lâu ta đã không còn yêu thương gì cả, bà ta ra sao cũng được. Còn Mật La và Mật Lan…” Lão già lập tức cắt ngang: “Bệ hạ, vi thần xin được phạm tội tày trời cắt ngang lời người. Nhưng mà, một vị vua anh minh và tài giỏi như bệ hạ, ngàn năm mới có một, bệ hạ lại không có thái tử nối ngôi, sứ mệnh gìn giữ và bành trướng đế chế Ca Lâu chỉ có mình bệ hạ đủ sức đảm đương. Xin người hãy nghĩ đến đại cuộc. Với lại…” Lão già dừng lại, nôm có vẻ không muốn nói hết câu nhưng vẫn quyết định thốt ra: “Chẳng phải bệ hạ đã làm một lần rồi sao? Trận sét ngày hôm đó…” Ca Lâu Vương đưa tay lên ý bảo lão Giản Độ đừng nói nữa. Ông đổi tư thế ngồi rồi bảo lão ta cứ như kế hoạch, xuống tìm Tỳ Giả ở phòng của anh ta. Lão già cung kính cúi đầu rồi từ từ lui ra. Ca Lâu Vương đứng dậy đi về phía cửa sổ, nhìn xuống tòa thành nguy nga bên dưới rồi lại trút một tiếng thở dài khác: “Con gái yêu, phụ vương có lỗi nhiều quá…” - Ảnh liên quan đến một chi tiết nhỏ trong truyện, lấy từ tác phẩm The Shining của Stephen King mà Thái Bảo rất thích.
 
Chương 43 : Phần 21: Khúc ca của máu và ác mộng


Lâm Gia Thái Bảo - Những phân cảnh này, tôi mặt dù vẫn theo dõi được tình tiết nhưng không thể nào hiểu được vì sao dòng thời gian lại bị đảo lộn như vậy. Thứ nhất là cảnh hai vị công chúa Tỳ Sa Mật La và Tỳ Sa Mật Lan mang ý nghĩa gì? Thứ hai, tại sao lại cho chúng tôi xem cảnh Từ Khoái quay về Ca Lâu Thành trước khi chiếu lên hình ảnh của Ca Lâu Vương và lão già Giản Độ? Thứ ba, làn khói này là giống quái gì, có thể tin nó được không hay chúng tôi lại đang rơi vào một cạm bẫy khác, rằng chúng tôi sẽ mãi kẹt vào dòng ký ức và quên luôn thực thể của bản thân, không bao giờ thoát ra được nữa? Tôi quay sang anh Hùng, đơn giản vì những câu hỏi cứ ập đến làm tôi cảm thấy ngạt thở, anh nhìn tôi, suy nghĩ một hồi rồi bảo: “Theo anh thấy thì đây là một loại ngải khác, được cài vào người công chúa hoặc dấu dưới chỗ nào đó trong phòng, khi có người đi vào, nhận thấy sự tình rồi đọc chú siêu thoát, loại ngải này sẽ tự động được kích hoạt. Lúc đầu, anh có hơi nghi nghi, kiểu như linh tính thôi, anh tưởng rằng làn khói này là một dạng đánh lạc hướng, toả ra để khống chế, rồi sau đó một thứ khác, ví dụ như ma quỷ trong căn phòng sẽ xuất hiện và giết chết những người xâm phạm, nhưng anh lập tức gạt bỏ giả thuyết đó khi anh thấy được đạo hạnh cao thâm của Từ Khoái. Anh nghĩ đây là mục đích ban đầu của gã ta, khi có người đủ khả năng giải mã hết mọi chuyện thì cây ngải trong căn phòng sẽ phát tán. Đây có thể là những sự kiện then chốt, đưa cả bọn tới câu trả lời cuối cùng.” Tôi thắc mắc: “Em thấy thằng cha Từ Khoái bị mê công chúa nên mới quay lại thôi, đạo hạnh gì nữa anh?” Anh Hùng lắc đầu: “Không không. Chuyện đơn giản thôi, suy luận bình thường có thể đoán ra được, Từ Khoái sống ở Ca Lâu Thành chưa được bao lâu mà đã thông thuộc ngôn ngữ của họ mà thảo ra những cuộn da. Thứ hai, gieo quẻ Dịch, cơ bản thời đó đa số thầy địa lý, thầy phong thuỷ đều làm được, nhưng gieo quẻ dịch cộng với Cải Thi anh mới thấy luôn. Lại gieo ra chính xác nữa chứ.” Thuỳ giơ tay, cô đang xin phép được phát biểu, anh Hùng nhìn rồi cười nhẹ, bảo cứ mạnh dạng nói, cô giờ khác gì một phần của đoàn, mọi người còn sống đến bây giờ cũng nhờ công không phải nhỏ của Thuỳ, mặt cô hơi đỏ, cô bảo: “Mọi người có nghĩ...chuyện Từ Khoái viết những mảnh da, đưa ra những cạm bẫy, cơ quan, còn gài cả quái vật này kia là đang tìm một người nào đó có đủ sức để...để...giúp ông ta làm một điều gì đó không?” Anh Hùng nghe xong, tôi thấy trong ánh mắt anh có một tia sáng nào đó loé lên, tựa như anh hiểu mọi thứ mà Thuỳ vừa nói. Riêng tôi thì không hiểu gì cả, chỉ thấy mọi chuyện rắc rối đều từ sự ích kỷ của Ca Lâu Vương và sự mê gái của hai gã Tỳ Giả và Từ Khoái. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, nhờ vậy mà chúng tôi có khả năng sẽ tìm ra Ngô Công Kim Thân, thôi cũng là điều tốt. Tôi vừa định nhắc đến Từ Khoái thì đã thấy làn khói mờ ảo dâng lên, che mờ tất cả rồi đột ngột tan biến như có một cơn cuồng phong thổi bay tất cả. Ca Lâu Vương đứng trầm ngâm tư lự, nhìn xuống bên dưới thành, ánh mắt đầy vẻ khó xử lại xuất hiện, giống như con người ta cân nhắc khi phải đánh đổi những thứ quan trọng. Ông ta đang trầm ngâm thì nghe người hầu báo lại là có Từ Khoái xin yết kiến. Ca Lâu Vương hết sức ngạc nhiên bèn cho vào, ân cần hỏi han: “Từ Đại phu sao còn chưa về Tấn Quốc?” Chỉ thấy Từ Khoái trút ra hơi thở nặng trịch, nói: “Không giấu gì quốc vương, Khoái tôi gieo quẻ, thấy hiện giờ còn duyên chưa dứt buộc phải lưu luyến nơi này, chưa tiện về được, Khoái tôi có hẹn với Thiên Tử xin hai năm nữa sẽ về, với lại…” Từ Khoái nói đến đó thì đưa mắt nhìn quanh vẻ ái ngại, Ca Lâu Vương hiểu ý bèn cho mọi người lui ra, lúc này Từ Khoái mới hành lễ cung kính, nói vẻ đầy sợ sệt: “Xin Quốc Vương lượng thứ nếu Khoái tôi có lỡ lời, tôi gieo quẻ thấy được thành ta có đại nạn sắp ập đến, e là lê dân bá tánh không khỏi lầm than, tôi dù chỉ có tài hèn sức mọn cũng xin gánh vác, thấy chết không cứu tuyệt nhiên không phải cách sống của Từ Khoái này!” Ca Lâu Vương không tỏ ra bất ngờ mấy, có lẽ ông ta đã biết rõ năng lực cao thâm của Từ Khoái nên chẳng lấy làm lạ gì chuyện y biết được bí mật của Ca Lâu Thành, có chăng lý do gã ta chọn ở lại còn khó nghĩ đôi chút. Ông ta vuốt nhẹ râu rồi nói: “Việc này bản thân ta và Hội đồng Tư tế cũng đã có tiên liệu, lại phiền Từ Đại phu bận tâm rồi, thân làm quốc vương như ta thật đáng hổ thẹn.” Ngầm hiểu ý nghĩa trong đó, Khoái không dám bàn thêm, tuy nhiên cũng không thể cứ thế quay về, liền ứng biến: “Quốc vương thật anh minh, điều này Khoái tôi sẽ kể lại sau khi hồi quốc, Khoái tôi có một thỉnh cầu, cúi xin Quốc vương ưng thuận?” Ca Lâu Vương bèn hỏi thử xem là gì, Từ Khoái trả lời: “Ca Lâu Thành thanh bình thịnh trị, lễ nhạc phong phú, tiếc là Tấn Đế chẳng thể tận mắt trông thấy, phận làm bề tôi, Khoái ngày đêm trăn trở, mong muốn học hỏi ở nơi này để về Tấn Quốc không phụ lòng Thiên Tử, cúi xin quốc vương cho tiện chức lưu lại ít lâu, nghiên cứu kinh thư lễ nhạc, khi xong sẽ đi ngay.” Tôi thấy Ca Lâu Vương suy nghĩ khá lâu, lý do thì chắc là: nếu đuổi hắn đi thì sinh hiềm khích, lưu hắn lại thì sợ kế hoạch bại lộ, dù gì chuyện hắn ở lại cũng rất đáng ngờ. Sau cùng, Ca Lâu Vương quyết định ban cho Khoái một dinh thự ngoài thành, ba ngày cho nhập cung một lần để đọc kinh thư. Khoái cúi lạy rồi lui ngay. Vừa lúc đó, Tỳ Giả và Giản Độ xuất hiện. Lớp khói xanh lại dâng lên, khi nó tan đi, tôi lại thấy cảnh phòng của công chúa hiện lên: Từ Khoái bước vào. Điều tôi hết sức bất ngờ là phản ứng của Mật La, nàng ra lệnh cho người hầu lui ra, lập tức lao đến ôm chầm lấy Từ Khoái, tôi cười thầm, thính nặng thế này thì dù công chúa có là quỷ thì Từ Khoái cũng chẳng màng. Gã lau nước mắt công chúa rồi nói: “Ta đợi nàng ở bến thuyền, sao nàng lại lỗi hẹn.” Tôi vỡ lẽ, thì ra lúc nãy ở bến thuyền, Từ Khoái chần chừ rồi gieo quẻ là vì không thấy Mật La xuất hiện. Mật La thút thít: “Ta không đi với chàng được, còn phụ vương và cơ đồ Ca Lâu Thành…” Từ Khoái nắm chặt vai cô, nói: “Nàng còn chưa thấy được dã tâm của Quốc vương hay sao? Ông ta vốn dĩ chỉ xem nàng và Mật Lan là con cờ mà thôi, ngày xưa tiên đế Tỳ Khâu Chất Đà vốn chẳng ưu ái ông ta do không sinh được hoàng tử nên để cho Hoàng thúc nàng lên ngôi, ngày ấy nàng còn nhỏ thì đã bị đem ra luyện Nhân Quỷ, hồn phách bất định, ngay khi vừa lật đổ em trai, Quốc vương dùng Thiên Lôi mưu hại nàng, nay đại nạn Ca Lâu Thành sắp đến, ông ta lại chần chừ chưa muốn vãng sinh cho nàng, trước sau gì cũng vì lợi ích của ông ấy mà thôi!” Mật La nghẹn ngào: “Ta không màng chuyện đó, ta chỉ mong chàng đừng để bản thân mình bị liên lụy, nhỡ phụ vương nghe thấy thi…” Từ Khoái gạt tay, khẳng khái nói: “Vài loại yêu thuật vớ vẩn của Giản Độ và Tỳ Giả, Khoái ta vốn chẳng để trong mắt, chỉ cần nàng chịu cao bay xa chạy cùng ta, bọn họ chẳng thể làm gì được bọn mình!” Mật Lan nãy giờ nép sau rèm bèn bước ra, nãy giờ có vẻ nàng cũng đã nghe hết cuộc nói chuyện, khuôn mặt không có chút sinh khí, nói: “Tỷ hãy đi theo Từ Đại phu, dù gì Ca Lâu Thành từ lâu đã chỉ còn cái xác không hồn mà thôi.” Mật La nghe vậy, nhưng trong lòng đang dâng lên những cơn sóng khó tả, nàng quay ra cửa nhìn xuống kinh thành bên dưới rồi nói: “Nếu đại nạn ấy không đến, ta và chàng nhất định sẽ đi, chỉ xin chàng đợi ta thêm chút ít nữa.” Từ Khoái vừa định nói gì đó, Mật Lan bèn ngăn lại, bảo: “Từ Đại phu đường đột quay về, Phụ vương ắt hẳn sinh nghi và cho người kiểm soát chặt chẽ, trốn chạy lúc này e là lành ít dữ nhiều, chi bằng ngài hãy lấy lòng tin với Phụ vương ít lâu, người lơ là cảnh giác thì khi ấy trốn chạy cũng không muộn, với lại, tử hạn của tỷ muội tôi còn hai năm nữa, chớ nên bứt dây động rừng.” Từ Khoái cho là lời ấy có lý, bèn lui ra ngoài, trước khi đi không quên gửi cho Mật La một gói bột màu vàng, bảo rằng pha với nước ấm rồi uống sẽ kiềm chế quỷ hóa. Lúc Từ Khoái quay ra thành, đâu biết rằng bên trong, Tỳ Giả cùng Giản Độ sau khi gặp Ca Lâu Vương xong, bèn đến hậu thất của Hoàng hậu, bắt giam bà ta. Không gian sau đó như một cuốn phim được chiếu với nhịp độ rất nhanh, chỉ thấy sự vật hiện lên rồi thay đổi không ngừng. Từ Khoái hàng ngày vùi mình bên những cuộn da, ghi chép công đức của Ca Lâu Vương, việc làm này tỏ ra rất hữu hiệu, số lính gác tư dinh của Từ Khoái, thực chất là bọn lính canh là tai mắt của Tỳ Giả và Giản Độ, thưa dần. Viết nên những điều hư cấu về Ca Lâu Vương, Từ Khoái xấu hổ vô cùng. Anh Hùng “xem” đến đây, bèn quay sang nói với bọn tôi: “Thì ra tất cả những chuyện này đều là âm mưu của hắn…”, tôi ngơ ngác, thật ra thì ai cũng ngơ ngác cả, anh Hùng có lẽ như định thì thầm ai ngờ nói lớn quá nên cả bọn nghe hết. Thấy bọn tôi mất tập trung, anh chỉ vào “màn hình”, bảo cứ xem tiếp đi, sắp đến đoạn giải mật. Làn khói mờ ảo hiện lên ngoại ô Ca Lâu Thành một đêm mưa âm u, sấm giật đầy trời, tư dinh của Từ Khoái chợt vang lên tiếng động cửa đóng lại, một nhóm người mặc áo choàng tiến vào, Từ Khoái đã đứng đợi sẵn, khi tất cả vào rồi thì chàng ta mới nhẹ nhàng khép cửa lại. Dưới ánh đèn hiu hắt, tựa hồ tất cả chỉ là những cái xác vô hồn, họ bàn bạc gì đó rất gãy gọn. Từ Khoái đứng quay lưng lại, tay chắp sau lưng, nghiêm nghị nói: “Tử hạn của công chúa đã đến, điểm yếu của Ca Lâu Thành xuất hiện, Khoái tôi hy vọng các vị thực hiện theo những gì đã bàn bạc.” Một bóng đen trong nhóm người kia lên tiếng: “Được Từ Đại phu giúp đỡ, ơn này tôi và chúa công không bao giờ quên.” Từ Khoái ra dấu cho họ lui ra, nhóm người đó vừa đánh ngựa đi khuất đã nghe chúng thì thầm âm mưu trừ khử Từ Khoái khi mọi chuyện xong xuôi. Tôi cảm thấy quan trường sao mà rối ren, thật giả lẫn lộn, với lại nhóm người đó là ai, xuất hiện ở đó làm gì, thế là thắc mắc nối tiếp thắc mắc, ngay cả từ đầu cuộc hành trình này, vốn dĩ Ca Lâu Thành đã là một thắc mắc khổng lồ. Câu trả lời làm tôi đợi không lâu, khi làn khói dâng lên rồi tan đi, chúng tôi bất giác hốt hoảng bởi một âm thanh kinh hoàng của chiến trận. Quang cảnh bi hùng còn hoành tráng hơn cả những bộ phim tôi coi, cảm giác máu nóng và mùi hôi dâng tràn trong không khí. Từ trên cao, những rặng núi đồi xung quanh Ca Lâu Thành, hàng trăm ngàn người đang lao vào chém giết nhau, Tú Linh kêu lên khi nhìn cờ hiệu: “Là quân của Tỳ Khâu Sa Thác, em trai của Ca Lâu Vương!” Tôi ngỡ ngàng: nói vậy thì nhóm người kia lẽ nào của Sa Thác, vậy thì Từ Khoái giúp cho quân của Sa Thác âm mưu lật đổ Ca Lâu Vương, chỉ để gã ta cứu người tình thôi sao? Sử chỉ chép lại mười bảy năm trước, Đạt Bà dấy quân lật đổ Chất Đà cùng Sa Thác, Sa Thác chạy loạn về Phù Nam, được vua Hỗn Bàn Huống (Vua Kaundinya III của Phù Nam) giúp đỡ với lời hứa của Sa Thác là Ca Lâu Thành sẽ quy thuận Phù Nam. Trên các cờ hiệu của liên quân bên cạnh Sa Thác, Tú Linh chỉ ra quân của Phù Nam, Tất Đà, Phổ Cáp, Phạn Sơn… đều là những thành bang lân cận, trải dài theo khu vực từ Hồng Ngự, Châu Đốc, Long Xuyên, Trà Vinh ngày nay, thấy Ca Lâu Thành sắp bị đánh gục bèn kéo đến định ăn hôi. Quân Ca Lâu Thành đông đảo và thiện chiến uy lực ngất trời, tuy nhiên binh lính của Sa Thác tựa như âm binh đao thương bất nhập, thân thể dù bị đâm chém thế nào cũng không chết được, đoàn quân âm binh ấy tiến lên như chẻ tre, những phòng tuyến Ca Lâu quân lập ra đều vô hiệu, trống trận vang lên liên hồi, khói lửa mù mịt cả một phương, Ca Lâu quân chống đỡ yếu ớt dần. Cứ đà này thì chỉ còn hai mươi dặm nữa là loạn quân của Sa Thác tiến vào thành chủ. Lúc này, Ca Lâu Vương và bộ tướng đang họp bàn, tình thế hết sức căng thẳng, bỗng một bộ tướng vào báo cáo về đặc tính quỷ dị của quân địch. Ca Lâu Vương đập bàn quát: “Thằng khốn, dám dùng tà thuật đối đầu với Tỳ Khâu Đạt Bà này!” Dĩ nhiên ông ta biết tà thuật Sa Thác đang dùng là gì, tuy nhiên thắc mắc vẫn là ai đã giúp sức cho hắn? Lập tức, ông cử Tỳ Giả lãnh hữu quân, Thập Bát tư tế lãnh tả quân, Giản Độ cầm trung quân ra nghênh địch, lệnh giữ chân địch tại đồi Én cách thành chủ mười lăm dặm. Tỳ Giả và Giản Độ nhận lệnh lập tức lên ngựa phóng như bay đến chiến trường. Lúc nãy tôi có nghe Từ Khoái xem thường đạo pháp hai người bọn họ, cứ nghĩ Tỳ Giả và Giản Độ cũng chỉ như hạng lôm côm, đánh đấm chẳng bao nhiêu rồi họ cũng cúp vòi chạy về mà thôi, nhưng không ngờ, hai người họ pháp lực tuyệt nhiên không phải loại xoàng, vung tay múa chân, thi triển nhiều loại phép thuật tà dị khó tả, đám âm binh bị đẩy lui nhanh chóng, quân Ca Lâu Thành phối hợp ngăn cản, làm chậm quân Sa Thác, lúc này bọn Tỳ Giả, Giản Độ cùng Thập bát Tư Tế thi triển thuật, chỉ một thoáng đã thấy quân địch rút chạy sau một hồi trống dài. Tin thắng trận lập tức vang về thành chủ, Ca Lâu Vương còn chưa dứt câu cười thì lại nhận thêm hung tin: pháp bảo trấn thành phía Bắc bị vỡ. Như đã biết, Ca Lâu Vương đời thứ nhất xây dựng vương quốc trên một nền đất yếu có thể sụp lún bất cứ lúc nào, chỉ vì vùng này có vượng khí nên ông ta lập ra trận đồ trấn yểm, gồm hai mươi pháp bảo là các viên ngọc tự nhiên, trải qua trăm năm, đặc tính các pháp bảo này dĩ nhiên có suy giảm tuy nhiên chưa tới mức tự hủy, ắt hẳn có bàn tay người khác nhúng vào. Ca Lâu Vương tức điên người, cho rằng chỉ có Sa Thác biết chuyện, y đang định đi nước bài cuối cùng, hủy hoại hoàn toàn Ca Lâu Thành rồi xây dựng lại, nói vậy thì trong thành có nội gián, nhưng là ai mới được? Vừa mới nói đến đó, Ca Lâu Vương còn chưa biết sao thì đã nghe từ ngoài có tiếng nói vọng vào: “Tấn Quốc Phiêu Nam Hầu Từ Khoái xin được yết kiến Ca Lâu Vương.” Ca Lâu Vương ngạc nhiên, không biết Từ Khoái có ý định gì nhưng vẫn cho y vào, tuy nhiên quốc vương do dự chưa biết Khoái định làm gì nên cho người vời y vào phòng riêng. Từ Khoái vừa vào liền nói một cách chắc chắn: “Tại hạ có cách để phục hồi nguyên khí Ca Lâu Thành!” Ca Lâu Vương hết sức ngạc nhiên, liền hỏi Từ Khoái xem cách đó ra sao. Y từ tốn trả lời: “Dùng người thay pháp bảo!” Đạt Bà không giấu nổi sự khó hiểu trong mắt, bản thân ông ta cũng có một bụng pháp thuật, nghiên cứu nhiều, tuyệt nhiên chưa nghe đến chuyện dùng người thay pháp bảo trấn địa. Từ Khoái giải thích: “Tại nước của tôi, chuyện này không hiếm. Về cơ bản, những bảo vật trấn Ca Lâu Thành lúc bấy giờ chỉ là tạm bợ, ngọc thì chỉ mang một đặc tính duy nhất, hoặc Thái Dương hoặc Thái m, từ lúc chúng hình thành đến khi tan biến cũng không tài nào thay đổi được, hoạ chăng chỉ có loại ngọc của loài rết thì còn may ra, nhưng tìm được nó còn khó hơn lên trời. Lại nói về xác người, là Thi, thì ngược lại. Con người còn sống là dương, chết đi là âm, cơ bản mang hai Thái trong bát quái, muốn thay đổi qua lại không phải là việc khó. Khó ở chỗ…” Ca Lâu Vương nghe đến đó liền đổi tư thế ngồi, như nghiệm ra một chuyện tày trời vậy, mắt ông hơi trợn, ông phán: “Từ Đại phu cứ nói, tình hình đã đến nước này không cần phải giấu diếm!” Từ Khoái chắp tay, cúi người rồi đưa ra thỉnh cầu: “Khó ở chỗ tìm ra những Thi phù hợp cho việc trấn thành, điều này chỉ còn trông cậy vào Quốc Vương, hai vị công chúa Tỳ Sa và mười tám vị tư tế!” Lúc này, tự dưng tôi nghe một tiếng nấc, là Tú Linh. Nhìn sang anh Hùng cũng thấy anh trợn mắt, hiếm khi anh có phản ứng như vậy. Chẳng lẽ lời thỉnh cầu của Từ Khoái ẩn chứa sự kiện ghê gớm gì lắm sao? Tôi hỏi, chỉ nghe anh Hùng đặt ngón trỏ lên môi, bảo tôi im lặng mà theo dõi. Ca Lâu Vương gào lên: “Ngươi muốn...muốn lấy mạng trẫm? Khi quân!” Từ Khoái thấy vậy liền quỳ sát đất, hai tay bái lạy liên hồi, van xin Ca Lâu Vương cho mình được nói hết. Hình như Quốc Vương cũng nhận thấy mình vừa phản ứng hơi quá, cộng thêm những đóng góp bao lâu nay của Từ Khoái trong việc soạn ra những mảnh da với mục đích tôn vinh ông nên ông bèn ngồi xuống, khoát tay ra hiệu Từ Khoái nói tiếp. Gã bảo: “Xin Quốc Vương lượng thứ, tôi vì nói gấp nên gây ra hiểu lầm. Theo tôi được biết, việc công chúa bị giết mấy năm trước là do một người nào đó mách bảo cho bệ hạ…?” Ca Lâu Vương trợn mắt, hai ngón tay vò lên trán, thấy vậy Từ Khoái liền nói tiếp: “Phải chăng đó là phương thuốc trường sinh bất lão mà người này đã hứa sẽ mách cho bệ ha? Nếu vậy thì, Khoái tôi xin lấy mạng mình ra đảm bảo, phương thuốc đó hoàn toàn vô tác dụng, chỉ là người kia đạo hạnh chưa đủ cao thâm, nhận thức chưa đủ tường tận, suy nghĩ còn quá ngây thơ mà thôi!” Quốc Vương vẫn chưa hết bất ngờ, lẫn trong đó còn có cả sự hoài nghi, “người kia” mà Từ Khoái đang nhắc đến chính là Giản Độ chứ còn ai khác nữa, lúc nãy, trong những ký ức của làn khói, tôi thấy lão ta nhắc đến phương thuốc trường sinh bất tử với Ca Lâu Vương mà. Còn một chi tiết ghê rợn nữa, tôi muốn nói với anh Hùng nhưng tiếc rằng những hình ảnh đang chiếu ra trước mắt không phải là một đoạn video nào đó, không thể dừng hình được. Ca Lâu Vương đổi tư thế ngồi, hai tay ông đặt lên đầu gối, lưng khom xuống nhìn thẳng vào Từ Khoái: “Nhà ngươi đã tìm hiểu được gì rồi?” Từ Khoái tâu: “Dạ bẩm, vừa đủ.” Chỉ nghe tiếng Ca Lâu Vương thở dài, mắt ông nhắm nghiền, đầu ông lắc liên hồi, tựa như một người đang hoài niệm về quá khứ, chợt, như nhận ra được gì đó, ông chống hai tay lên thành ghế, đứng bật dậy, đi về phía Từ Khoái rồi nắm vạt áo gã, nhất bổng gã lên, đôi tay lực lưỡng tựa như chẳng cần dùng chút sức lực. Quốc Vương nghiến răng rồi nói: “Nhà ngươi nói phương thuốc đó không có tác dụng là ý gì? Chẳng lẽ ta… ta… giết chết con gái mình chẳng vì lý do gì cả? Ngươi… ngươi chưa nói gì với công chúa đó chứ?” Từ Khoái bảo: “Muôn tâu, hạ thần chưa tiết lộ gì cả.” Tôi nghĩ bụng: đồ dốc láo, lúc nãy mới thấy ông rủ công chúa đánh bài chuồn, ông khui hết mẹ nó rồi, chưa tiết lộ cái đầu nhà ông, mả mẹ thằng khọm này đúng là xảo quyệt không ai bì kịp. Tôi nhìn sang ba người bọn họ, người thì nhăn mặt, người thì khịt mũi, đúng là họ cũng có nghĩ như tôi. Chợt suy tư của tôi bị câu nói của Ca Lâu Vương làm đứt quãng: “Ta giết con gái mình… chẳng vì lý do gì cả…” Nói xong ông đứng đực ra, ông buông Từ Khoái xuống rồi gầm lên một tiếng, ông ra ngoài, bảo quân lính lập tức cho gọi Tỳ Giả và Giản Độ ngay lập tức. Không lâu sau, hai người bọn họ máu me đầy mình, có lẽ như vừa lâm trận, chưa kịp chỉnh chu đã phải gấp rút chạy về yết kiến Quốc Vương, ánh mắt lộ chút ngạc nhiên khi thấy sự hiện diện của Từ Khoái, gã ta đang đứng bên trái ghế ngồi của Quốc Vương. Về phần Ca Lâu Vương, ông vẫn giữ thái độ điềm tĩnh, ông hỏi tình hình chiến trường, binh lính, lương thực, được một hồi ông mới nói sang chuyện chính nhưng vẫn làm ra vẻ hỏi han bình thường: “Giản Độ, Tỳ Giả này, phương thuốc trường sinh bất tử của trẫm đã đến đâu rồi?” Hai người họ nhìn nhau, Giản Độ thưa: “Muôn tâu bệ hạ, phương thuốc trường sinh của người đã vào những giai đoạn chuẩn bị cuối cùng, quá trình chuyển biến của công chúa đã sắp hoàn thành. Chuyện này…” Lão Giản Độ ngập ngừng rồi nhìn vào chỗ Từ Khoái đang đứng, ý muốn hỏi liệu có nên tiếp tục khi có người ngoài ở đây. Ca Lâu Vương phán: “Ngươi cứ nói.” “Có thể đây chính là lý do Tỳ Khâu Sa Thác dẫn quân đến vây Ca Lâu Thành, hắn đã đánh hơi được phương thuốc trường sinh bất tử!” Ca Lâu Vương tỏ ra dửng dưng với suy nghĩ đó, ông nói: “Hai ngươi chắc cũng biết đến Từ Đại phu đây.” Họ gật đầu chào, ông tiếp: “Từ Đại phu là một người học cao hiểu rộng, cũng có công rất lớn đối với Ca Lâu Thành, giúp quảng bá nó đến đại chúng, thiết nghĩ những chuyện sắp tới đưa ông ấy ghi chép lại là hợp lý nhất. Các khanh hãy trình bày lại một lần nữa để Từ Đại phu có cơ sở mà biên soạn.” Tỳ Giả nghe Quốc Vương nói vậy bèn mạnh dạn nói: “Khải bẩm bệ hạ, căn nguyên của thuật trường sinh, chính là làm cho âm dương trong nội tâm luôn được cân bằng. Con người sở dĩ vướng vào sinh lão bệnh tử vì nguyên khí trong nội tâm bị suy giảm qua năm tháng, phần âm lấn át phần dương, khiến cơ thể già úa mục rữa nội tạng mà chết, còn những kẻ càn dương nhập tâm, hỏa khí xung nộ bộc phát cũng không tránh khỏi cảnh vỡ mạch mà chết. Vi thần phát hiện ra, điện hạ có nguồn chí dương từ Thần Điểu phò trợ, trong khi Ca Lâu Thành lại là cực chí âm của thiên nhai, ngày ngày điện hạ ra vào thần điện, hai khí âm dương cơ bản luôn xung khắc nhưng lại điều hòa nhau, điều này cốt yếu nằm ở mạch đất của Ca Lâu Thành, nếu thành sụp đổ, mạch âm biến mất, ngài sẽ bị càn dương nhập tâm, nộ hỏa thiêu đốt cơ thể. Từ đó, vi thần dùng Nhân Quỷ, một mặt phò tá bệ hạ, mặt khác nó sẽ hút bớt cả nguồn âm và nguồn dương nếu lỡ một trong hai tăng đột biến. Nhị vị công chúa chính là thứ cân bằng khí lưu, tuy nhiên tử hạn của công chúa sắp đến, khí lưu sẽ bộc phát, lúc này chúng ta cần thi triển bước cuối cùng của Nhân Quỷ, làm cho công chúa quỷ hóa hoàn toàn, dùng quỷ khí phong ấn tại trung cung của thành chủ, vừa điều tiết âm dương, vừa bổ sung nguyên khí cho bệ hạ không bị hư hao, tuyệt đối không thể sai lầm, vi thần xin đem đầu ra đảm bảo!” Từ Khoái nghe đến đó thì đứng dậy vỗ tay, cất tiếng cười lớn khiến Tỳ Giả dù đang tự tin dương dương tự đắc cũng phải cảm thấy chùng xuống. Khoái nói: “Khá khen cho Tỳ Giả sư phụ, nghĩ được cách đó, tuy nhiên Khoái tôi vì tương lai Ca Lâu Thành phải có lời chê cho đạo hạnh của hai vị đây” - Từ Khoái nói dứt câu thì chỉ tay về phía Tỳ Giả và Giản Độ, khiến hai người này lập tức muốn nổi điên vì bị xem thường. Thấy họ có vẻ chưa phục, Từ Khoái bèn tiếp lời: “Khoái tôi tuy học không nhiều, nhưng cũng dám xin chỉ ra điểm sai lầm tử nạn của nhị vị. Dịch lý có câu “vật cùng tắc biến, vật cực tất phản”, phàm thứ gì trong tự nhiên, nếu phát triển đến mức thái quá thì đều thay đổi tính chất. Ca Lâu Thành, xét ra tự như một huyệt âm vị khổng lồ, tuy nhiên, căn nguyên của nó lại do dương trưởng thái quá nên dương mang âm tính. Chuyện Quốc vương đây được Thần Điểu Ca Lâu La phò trợ, Khoái tôi đã sớm biết…” - nói đến đấy, Từ Khoái im lặng để thăm dò thái độ của Ca Lâu Vương, thấy ông vẫn chống tay theo dõi, ánh mắt dò xét vô cùng, nếu là người khác thì hẳn phải khó chịu đến run tay cuống chân, đứng còn không vững huống hồ gì thuyết giản, nhưng Từ Khoái chứng tỏ được bản lĩnh, dõng dạc tiếp lời: “Ca Lâu La là chim thần, bay trên chín tầng trời, đập cánh một cái có thể đi vạn dặm, lấy trời làm nơi sống, trong Dịch lý, trời là quẻ Càn, nếu kỳ thực Ca Lâu La có dương tính thì sao lại sống ở nơi càn dương như vậy? Truyền thuyết nói rằng, Ca Lâu La ăn rắn thần mà sống, rắn thì âm tính, chỉ nghe ăn vật cùng loại, chưa nghe ăn vật ngược tính, vậy khác nào tự đầu độc mà chết? Phán đoán sai đặc tính của sự vật là cái sai thứ nhất của hai vị. Pháp bảo trấn thành trước giờ, kỳ thực là để giữ dương khí lại mà thôi! Phàm vật nhiều dương thì khô héo, nhiều âm thì mục rữa, Ca Lâu Thành xây dựng trên một hang động khổng lồ, có thể nói là lớp giấy mỏng trên chảo âm mạch, nếu để âm khí dâng cao, âm chồng lên âm, hai bên tương hợp thì đó mới chính là ngày tàn của Thành chủ, vì âm chồng lên âm thì sụp đổ, dương với âm thì trái tính, dương bốc lên cao, âm tụ dưới thấp, vì chỗ ly tán đó mà Thành chủ còn vững được đến ngày nay, vậy mà hai vị đây còn định dùng Nhân Quỷ để hút bớt dương khí, nhỡ đâu dương khí không đủ lớn để gánh vác, Thành chủ sụp đổ, hai cái đầu của các vị có đủ để cứu mọi người không, đó là cái sai thứ hai. Luyện Nhân Quỷ cần dùng một âm một dương, nhị vị công chúa đều sinh vào ngày giờ âm khí dâng cao, thân nữ nhi cộng thêm, chẳng phải khi quỷ hóa sẽ thành một nhục thể chí âm, vậy mà hai vị còn dám giảo biện là cân bằng âm dương, đó là cái sai thứ ba. Hay là hai vị có mưu đồ riêng khi mưu hại cả công chúa và hoàng hậu?” Quả thật Từ Khoái là một tay chính khách lão làng, nắm bắt tâm lý Ca Lâu Vương chuẩn xác khi biết được ông ta rất thương hai người con gái, chỉ một câu chốt như vậy đủ để tâm lý Tỳ Khâu Đạt Bà dao động. Lúc này, Tỳ Giả và Giản Độ giận đến tím người, chẳng còn cách gì biện giải, bỗng nhiên có kẻ mang vào một tên thích khách, nhìn như người của Sa Thác. Tên này vừa bị giải vào thì liên tục mắng chửi Tỳ Giả và Giản Độ bội ước, bán đứng chúa công của hắn ta, ra tay ngăn chặn đoàn quân âm binh của Sa Thác. Ca Lâu Vương nghe đến đó thì nộ khí xung thiên, lao đến dùng một chưởng đánh chết tên này, chỉ tay vào Tỳ Giả và Giản Độ, nghiến răng, nói: “Khá khen cho hai tên súc sinh, dám lừa gạt cả ta! Để ta cho chúng bây được toại nguyện!” Ca Lâu Vương lệnh cho quan binh trói gô cả hai, cùng với Thập Bát Tư tế tống giam vào ngục, mặc kệ bọn họ cứ luôn mồm kêu oan. Chúng tướng thấy Ca Lâu Vương một lúc đòi tống giam tất cả Tư tế, lo sợ không có người cầm chân được quân của Sa Thác, bèn đồng loạt quỳ xin tha tội cho hai người họ. Không để Ca Lâu Vương phải suy nghĩ cách ứng phó, Từ Khoái dõng dạc nói: “Chuyện này không cần Quốc vương và chúng tướng lo nghĩ, Khoái tôi đã có tiên liệu, quý vị hãy chờ xem…” Quả nhiên, Từ Khoái vừa dứt lời, từ bên ngoài đã nghe thấy tiếng quan binh cấp báo, quân của Sa Thác đột nhiên rút lui, liên quân cũng vì thế tan rã, chỉ trong buổi chiều đã rút chạy hơn năm mươi dặm. Tất thảy mọi người đều kinh ngạc, Tỳ Khâu Đạt Bà không giấu nổi bất ngờ, bèn hỏi Từ Khoái căn nguyên do đâu, chàng ta lấy ra một hình nhân có ghi họ tên và bát tự của Sa Thác, trên đó có kèm một sợi tóc, cổ hình nhân thì bị đứt lìa, bên trong lớp vải chảy ra dung dịch gì đó màu đỏ thẫm như máu, hết sức kinh dị. Gã ung dung đáp: “Khoái tôi dùng bí thuật của đạo sĩ Tấn quốc, hành thích được Sa Thác, quân Sa Thác như rắn mất đầu, buộc phải lui binh.” Anh Hùng theo dõi nãy giờ, đến bây giờ mới buộc miệng, tặc lưỡi, nói: “Chuyện đâu đơn giản vậy…” Lúc này không chỉ quốc vương, mà tất thảy bộ tướng bên dưới đều bội phục tài năng đạo pháp của Từ Khoái, riêng Ca Lâu Vương thì cảm thấy nhẹ nhõm và an tâm hẳn. Lập tức, ông lệnh cho quân sĩ không được lơ là mất cảnh giác, tiếp tục giữ vững phòng ngự, tăng cường giới bị, đêm nay có thể quân của Sa Thác đánh úp, tất cả nghe theo lệnh, lập tức thi hành. Quân lính đi rồi, Từ Khoái mới tiến đến kế bên Ca Lâu Vương mà tâu rằng: “Thưa ngài, như thần vừa tâu lúc nãy, Ca Lâu Thành có thể được cứu, tính mạng của bệ hạ cũng được bảo toàn, người sẽ hút tinh hoa của hai mươi bảo vật trấn thành làm những cái Thi mà trường thọ muôn đời, mười tám vị tư tế và hai công chúa điện hạ là vừa đủ!” Vua trầm ngâm nói: “Mật La và Mật Lan trước sau gì cũng phải thành pháp bảo mới được hay sao?” Từ Khoái đáp: “Đúng vậy, vi thần nghĩ nát óc cũng chẳng tìm ra cách khác, vả lại… vả lại hai vị công chúa dù gì cũng đã một phần quỷ hóa, chi bằng tạm thời dùng ngọc quý trấn yểm, biến họ thành pháp bảo, đợi vi thần thu thập đủ nguyên tố sẽ tìm cách hồi sinh trở lại, chuyện này tuyệt đối sẽ thành công, ngài chớ nên lo lắng.” Ca Lâu Vương tiến ra ban công, lại chắp tay ra sau, nói bằng giọng tuyệt vọng: “Vậy thì ngươi cứ làm, bước tiếp theo là gì?” Từ Khoái nhìn trước sau, đoạn mới tiến đến gần, hỏi: “Để lần thay pháp bảo này được thành công, Khoái tôi cần biết thêm nữa về chim thần…” Ca Lâu Vương đến giờ phút này thiết nghĩ chẳng còn cần thiết phải giữ bí mật làm gì nữa, liền kể lại: “Mọi chuyện bắt đầu từ mười bảy năm trước, tiên đế vì trách ta không có con trai, cộng thêm Sa Thác dùng thủ đoạn hèn hạ vu khống ta định giết hại tiên đế, ông nổi trận lôi đình, ra lệnh bắt ta về xử trảm. Lúc này ta đang cầm cự với quân Phù Nam ở Ba Sát, may có thân tín mật báo, ta đành phải lẩn trốn. Vợ con đều bị tống giam, ta lang thang hết ngày này qua tháng khác khỏi sự truy sát của phụ vương. Một ngày nọ, ta đến cửa biển, nơi này có những cánh rừng ngút ngàn, thân cây cao hơn trăm trượng, hết sức hùng vĩ. Trong cơn đói khát, ta gục ngã ngay bìa rừng, phía sau đã nghe thấy tiếng hò reo của quân lính truy đuổi, lòng ta lúc ấy cho rằng số mình đã tận, muốn chạy cũng không còn sức. Tuyệt vọng, ta cầu khẩn thần Ca Lâu La hãy cho ta sức mạnh, rồi ta thiếp đi. Trong cơn mê, ta nghe giọng một ông lão thì thầm bên tai: ta cứu nhà người một mạng, đổi lại ngươi phải cho ta linh hồn.” Kể đến đó, đột nhiên Ca Lâu Vương ngưng lại, trút ra những tràng thở dài não nùng, Từ Khoái thắc mắc: “Và ngài đồng ý đánh đổi?” Ca Lâu Vương gật đầu. Ông im lặng một lúc rồi nói tiếp: “Ta đã chấp nhận đánh đổi linh hồn để có sức mạnh quay về lật đổ em trai ta, phụ vương vì tức giận nên đã qua đời trước đó vì bạo bệnh, ta chỉ căm hận là ngày đó đã để tên khốn Sa Thác chạy mất.” Từ Khoái tò mò, hỏi: “Nếu vậy chẳng phải sự đánh đổi đó có hiệu quả tốt cho ngài hay sao? Hà cớ gì trông ngài vẫn tiếc nuối như vậy?” Ca Lâu Vương quay mặt sang nhìn Từ Khoái đầy giận dữ, khiến gã ta suýt thất kinh mà kêu lên một tiếng, không phải vì sợ Ca Lâu Vương đang nổi trận lôi đình, mà là khuôn mặt của Ca Lâu Vương biến đổi, đôi mắt tròn vạnh, khuôn mặt mọc đầy lông vũ, răng nanh dài nhọn hoắt, cái mũi khoằm xuống tựa như mỏ chim ưng Anh Hùng trợn mắt, nói với giọng pha chút thất kinh, anh bảo truyền thuyết nói về Ca Lâu La là loài chim thần đầu người mình chim, không biết rằng loài quái điểu ấy thực sự tồn tại cho đến lúc này, hoặc chăng đó là do một loại ma thuật nào mà anh chưa được biết? Ca Lâu Vương quát: “Ta căm hận cái quyết định đó, nó biến ta thành một con quỷ, vợ con ta từ chối ta, còn gì đau khổ bằng… Lần đó, giọng nói trong mơ kia ban cho ta sức mạnh với điều kiện linh hồn ta thuộc về lão, lão chỉ đợi ngày trùng sinh mà thôi, đã lâu lắm rồi ta ăn không còn thấy ngon, uống không còn đã khát, nhìn không còn thấy màu, thở không còn ấm, cảm giác đó khốn nạn lắm ngươi có biết không?” Mặc dù đạo hạnh cao thâm, nhưng có vẻ Từ Khoái vẫn tỏ ra lép vế trước áp lực Ca Lâu Vương tỏa ra. Tôi thắc mắc: “Nói vậy Ca Lâu La là có thật hả mọi người?” Tú Linh nói: “Cũng có thể đó chỉ là một loài đại bàng to lớn thời cổ đại mà thôi, người xưa hay thần thánh hóa mọi thứ mà… Mà cũng có thể Ca Lâu Vương luyện một loại tà thuật nào đó, dẫn đến chuyện bản thân ông ta bị quỷ hóa một phần cho nên có khuôn mặt gớm ghiếc đó!” Anh Hùng cắt ngang: “Không phải tà thuật đó, điều này anh không muốn tin đâu, chẳng lẽ lão Ca Lâu Vương đó có đồ khủng?!” Tôi quay sang hỏi: “Pháp thuật? Ấn Chú hay gì vậy anh?” Chỉ thấy anh Hùng nói đầy vẻ ái ngại: “Nếu kêu chắc thì anh không dám, nhưng mười phần thì tám chín phần chính là nó rồi. Nói Ấn Chú hay pháp thuật gì cũng không phải, đúng ra thì nó là một lời nguyền rủa, nhưng phương thức hình thành và vận hành rất giống với Phù của lục lâm. Thôi thì cứ gọi là Phù Ca Lâu La cho dễ hiểu!”
 
Chương 44 : Ngoại truyện: Lục Vương Tư Rồng (Phần 1)


Lâm Gia Thái Bảo - Năm 1928, trên con kinh dẫn vào làng Hưng Hội, quận Vĩnh Lợi, Bạc Liêu (nay nằm đâu đó gần thị trấn Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi) là những người nông dân chạy loạn, thất thểu bồng bế nhau. Những người này phần lớn từ Trà Vinh lánh sang. Thời buổi loạn lạc, dân cư phải di tản liên miên, chỉ có những người có ruộng đất hoặc của ăn của để thì còn có lý do để bám đất bám làng, tầng lớp bần cố nông thì chỉ có nước phải lang bạt như thế mà thôi. Trời chiều tháng bảy mưa rả rít, âm u tịch mịch, loạn dân co cụm lại với nhau dưới các tán cây. Ngoài đồng trống, có một thằng bé rách rưới vẫn lang thang, băng qua những thửa ruộng lún sình, có vẻ nó định đi đến miếu ông Hổ ngoài rìa làng. Dân làng cũng chẳng ai màng quan tâm, những thằng nhóc mồ côi lang thang tứ xứ như thế đầy ra. Thằng nhỏ nom đói và lạnh lắm, vai cứ run lên sau từng trận gió, nó phải đi mãi mới thấy miếu ông Hổ hiện ra phía trước, thấp thoáng sau tán cây gừa cổ thụ. Chuyện về cái miếu ông Hổ ở làng Hưng Hội này kể ra cũng khá ly kỳ. Tương truyền lúc Nguyễn Ánh chạy về phương nam, có lần đi ngang đây thì thấy một bức tượng hổ bằng đá, nằm trơ trọi, lúc này, quân Tây Sơn đã đuổi theo sát bên, tính mạng chúa tôi Nguyễn Ánh thập phần nguy hiểm, Ánh chỉ kịp đặt tay lên đầu tượng rồi ngửa cổ mà khấn rằng: “Nếu trời thương thân này thì cho ứng nghiệm được thoát tai ách, Ánh tôi thề sẽ có báo đáp!” Vừa nói xong trời đất bỗng tối sầm lại, một trận cuồng phong nổi lên cùng kéo theo một tiếng gầm kinh thiên động địa, sấm nổ vang dậy một góc trời khiến ai cũng phải nhắm mắt bịt tai, khi họ mở mắt ra, quân Tây Sơn không hiểu vì lý do gì đều ngã lăn ra đất bất tỉnh, nhờ thế chúa tôi Nguyễn Ánh mới thoát thân được, bèn rút lên Thất Sơn, An Giang. Sau này khi phục quốc, Nguyễn Ánh nhớ đến ơn xưa, bèn cho người tìm lại tượng hổ năm nào, dựng nên một ngôi đền khang trang, hương khói rất vượng, thần Hổ linh ứng vô cùng. Vào giai đoạn Pháp thuộc, nghĩa quân thường giả trang làm người đến cúng bái, tổ chức họp bàn chiến lược tại đền, quân Pháp biết được bèn ra lệnh đập bỏ. Tuy nhiên, vừa sáng hôm sau, những tay lính Pháp tham gia đập đền đều chết thảm tại doanh trại, bụng như bị con gì xé ra, kinh khủng vô cùng. Tên đồn trưởng hoang mang cực độ, bèn sai người lập lại ngôi đền, nhưng quy mô không còn lớn như trước, cho nên chỉ gọi là cái miếu. Từ đó về sau, người ta bảo rằng ông Hổ đã bỏ đi, ngôi miếu không còn linh thiêng, cộng với loạn dân liên miên, khói hương dần lạnh lẽo, chẳng còn ai tu sửa nên từ ngoài nhìn vào trông như nơi thờ cô hồn vậy, âm u và thê lương. Lại nói về thằng bé mồ côi, nó bước chân thấp chân cao, điệu bộ mệt lả, lầm lũi tiến vào ngôi miếu cổ. Trời lúc này đã nhá nhem tối, bên trong ánh sáng mờ mờ, không nhìn rõ được gì cả. Nó quá đói và mệt, bèn ngả lưng dựa vào tường, định ngủ một giấc cho qua cơn, lúc này khi đôi mắt nó đã quen dần với bóng đêm, thằng bé giật mình, thứ nó dựa vào không phải là vách tường mà là ba cái quan tài xếp chồng lên nhau. Nó vừa định kêu lên thì từ trên quan tài thò ra đầu một người đàn ông, chừng bốn mươi tuổi, khuôn mặt gầy gò khắc khổ như cô hồn dã quỷ khiến thằng bé suýt ngất. Bỗng cái bóng lên tiếng: “Cái thằng này, tao còn sống sờ sờ, mày là ai mà đi qua vùng này?” Thằng bé thấy vậy mà gan dạ, có lẽ mồ côi từ lâu cộng với cuộc sống lăn lộn từ nhỏ khiến nó can đảm hơn, nó nói: “Tôi chạy loạn qua vùng này, cả nhà chết hết rồi.” Ông kia mới lục tục bò ra khỏi quan tài, ông ta còn dẫn theo một thằng nhóc, cũng trạc tuổi thằng bé mồ côi kia, đoạn mới quay sang nói: “Này là thằng cháu tao, mày có ăn gì chưa? Nhìn mặt này chắc cũng nhịn đói vài ngày rồi hả?” Thằng bé chỉ im lặng gật đầu, ông kia mới bảo đợi một chút, rồi loay hoay nhóm lên một đống lửa nhỏ, lấy trong túi ra hai củ khoai đưa cho thằng nhóc, bảo nó nướng lên mà ăn. Nó chộp vội củ khoai, ăn sống luôn, sau đó vốc miếng nước lã bên hiên uống no bụng rồi lăn ra ngủ. Lúc ấy chỉ mới độ giờ Tuất. Ngoài trời sấm nổ liên hồi, mưa giông nghe như tiếng ai đó kêu gào, khóc lóc hết sức thảm thiết, cây gừa cọ tán vào mái ngôi miếu chẳng khác gì tiếng hàng trăm bàn tay đang cào cấu, giống như đang cố sức kêu thằng bé mồ côi kia thức dậy. Ông lão và thằng bé đi cùng lặng lẽ nhìn lên trời rồi đóng chặt cửa miếu lại, cất lên những tràng cười “chít chít”, ánh chớp lóe lên soi sáng khuôn mặt hai ông cháu là hai cái đầu chuột lông lá. Thì ra cả hai người họ là loài chuột lang, sống lâu năm trong mồ mả, có được âm khí rồi lại ăn được dầu đèn, liếm chân nhang đền miếu, linh khí thu thập từ từ mà có hình người, mỗi ngày phải nằm trong quan tài mười hai tiếng để lưu giữ cốt khí chí âm. Hai con chuột tiến từ từ đến thằng bé mồ côi vẫn còn ngủ say, tên chuột tinh già kêu chít chít, nói với tên nhỏ: “Nhịn đói mấy ngày để tu luyện, vừa may có thằng nhỏ này cúng cho một mạng”, lão vừa nói vừa há cái mõm đầy những răng nhọn định ngoạm ngay cổ thằng bé vắn số. Chớp lại lóe lên lần nữa, trong tiếng sấm cũng vang lên tiếng nói nhẹ nhàng nhưng chắc nịch: “Tôm tép, ông nội ngươi đã định tha cho, còn không biết chạy mà lại định ăn thịt ta à?” Một luồng sợ hãi chạy dọc người hai tên chuột tinh, cảm giác nguy hiểm cận kề khiến chúng phải nhảy lui về sau mấy bước, tên chuột già rít lên những tràng chói tai: “Thằng khốn, mày là ai? Mau xưng tên tuổi!” Thằng nhóc nhẹ nhàng ngồi dậy, vươn vai, nhếch mép nói: “Bọn chuột nhắt các ngươi có vãng sanh thì nhớ tên ông nội mày là Trần Hải Long!” Hải Long chỉ mới tí tuổi đầu nhưng dáng đứng hết sức uy nghi lẫm liệt khiến lão chuột tinh run sợ một phép, toan bỏ chạy nhưng loáng một cái, Hải Long với thân thủ phi phàm đã chặn trước đầu lão. Bị dồn vào đường cùng, lão cố gắng tấn công, dùng móng vuốt cào xé tới tấp tuy nhiên chỉ như trò đùa với thằng nhóc vậy. Vừa thấy lão chuột tinh sơ hở, Hải Long vận khí, khắp tay nó hiện lên chi chít những kinh văn được xăm ẩn, chỉ một tay phải tung chưởng đánh gục lão yêu quái. Thấy tên chuột tinh tiểu tử đang run sợ, Hải Long chỉ đến bên cạnh nó, dùng tay ấn vào trán nó, chỗ ấn vào lóe lên ánh sáng màu lơ rồi lịm tắt, Hải Long nói: “Ta lang thang hai ngày nay, toàn đi qua vùng loạn lạc, đói không có đồ ăn, may mà chú cháu nhà ngươi giúp đỡ, ta chỉ đánh dằn mặt hai bọn mi, chớ nên tính chuyện hại người nữa, ấn Bồ Đề Tỏa ta để lại trên trán mi, hãy nương vào nó mà tinh tấn tu tập, tìm đến chùa chiền mà nghe giảng kinh Phật, đừng phí hoài công sức tu luyện bấy lâu, bằng không thì ta sẽ không tha mạng cho lần hai đâu!” Tên chuột con quỳ lạy rối rít, cõng chú của mình chạy thẳng một mạch trong làn mưa giông. Hải Long thấy vậy cũng không quan tâm nữa, bèn lăn ra ngủ tiếp, vì sáng hôm sau nó còn phải đi đến làng Long Thạnh gần đó để xử lý một việc hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến cả cuộc đời. Ngày hôm sau, mặt trời chưa ló dạng, Hải Long đã lên đường. Củ khoai sống hôm qua và vốc nước lã đối với nó là quá đủ, sinh lực như hồi phục hoàn toàn. Đi một lèo, đến gần trưa nó mới tới được làng Long Thạnh, hỏi thăm nhà ông Năm Ớt. Làng Long Thạnh ai cũng biết nhà ông ta, họ thường gọi là nhà ông Năm Kho Gạo. Xưa kia, tổ tiên Năm Ớt từ vùng Thất Sơn An Giang đến làng lập nghiệp, từ từ gây dựng cơ đồ, đến thời Năm Ớt thì đã là một vựa gạo khổng lồ, ghe đậu dưới bên tấp nập, cả ngày không ngớt tiếng kêu gọi nhau trên bến. Mọi chuyện tưởng chừng như hết sức thuận lợi, tuy nhiên dạo gần đây, công việc làm ăn hơi xuống dốc. Ban đầu Năm Ớt cũng chẳng buồn quan tâm nếu như vợ ông không bị tiếng kêu dựng dậy lúc nửa đêm, lần nào cũng là: “Sao mày ngồi lên đầu tao?”, đến nỗi vợ ông xanh xao, mất ngủ trầm trọng. Tình hình trở nên tệ hơn là khi cả nhà ông Năm, mỗi lần ngồi ghế đều cảm giác như phần lưng ghế là cơ thể của ai đó, đang cố vòng tay ôm lấy họ, nửa đêm thì từ trong mấy bồ gạo vang lên tiếng như bàn tay cào cấu, ao sau nhà cứ nửa đêm nghe tiếng có người phóng ì đùng, quẩy nước văng cả lên bờ, nhưng khi người làm kéo ra thì lại không thấy ai cả. Một hôm, bà Hai đang soi gương chải đầu thì thấy trong gương có người đứng vuốt tóc mình, giật mình xem lại thì thấy tóc dính đầy bùn hôi thối. Người thường mê tín một thì với dân kinh doanh như ông Năm mê tín mười. Ông ta hầu như suy sụp tinh thần, trong một tháng mời mười chín ông thầy pháp thì cả thảy mười chín ông, ông nào cũng lắc đầu quầy quậy, bó tay trước cái vong bí ẩn đang ám cả nhà Năm Ớt. Hải Long nghe chuyện bèn đến, viện cớ là để thử sức, nhưng kỳ thực mục đích chính là vì nó muốn tìm một thứ. Khi nó đến nơi, người ở nhà ông Năm định đạp cho một phát vì tội bố láo, ai đời một thằng nhỏ như nó có thể trừ ma được. Hai tên người ở túm lấy áo nó định đẩy ra thì Hải Long xoay người, tung ra mấy cước làm hai tên nằm đo ván rồi nó đi hiên ngang vào sân nhà ông Năm. Cậu Hai Chính, con lớn của ông Năm thấy có động liền chạy ra, kéo thêm vài người làm nữa, vừa xuất hiện ở sân thì đã bị Hải Long chỉ tay vào mặt mắng rằng: “Gia đình này thật vô ơn, không biết trên dưới, hôm nay tôi đến đây muốn giúp các người diệt họa mà các người nỡ đối xử với tôi như thế à?” Hai Chính chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả, thấy thằng nhóc vừa mới hạ hai tráng đinh nhà mình, miệng còn lên giọng chửi bới dĩ nhiên sôi máu, lao đến định dạy cho Hải Long một bài học. Ai ngờ thân thủ thằng bé quá nhanh nhẹn, thoắt cái đã leo lên vai cậu Hai, tay vỗ nhẹ vào trán rồi lầm rầm gì đó. Đột nhiên Hai Chính quỳ sụp xuống, khóc lóc liên hồi, không sao dừng lại được, làm ông Năm phải lật đật chạy từ trong nhà ra, thấy cậu Hai đang quỳ mọp dưới chân một thằng bé, nước mắt nước mũi dàn dụa thì hết sức bối rối. Hải Long thấy vậy chỉ tay vào ông Năm, nói: “Thằng con ông vô lễ, gặp cao nhân như ta mà dám mạo phạm, ta chỉ niệm chú nhẹ cho nó mê man, nhà ông còn ai coi thường ta thì ra một lượt để ta phạt luôn thể!” Ông Năm lờ mờ hiểu ra chuyện, nghĩ bụng chắc thánh thần nhập vào thằng nhóc này, có câu bệnh thì vái tứ phương, bèn chạy đến chắp tay cung kính: “Lạy ông nhỏ, thằng con nhà tôi sự đời chưa tỏ tường, mạo phạm đến ông nhỏ, ông chớ nên chấp nhặt như vậy, hôm nay ông nhỏ ghé qua tệ xá có điều chi đấy ông?” Hải Long dõng dạc nói: “Tôi thường đi đây đó trừ ma diệt quỷ, nghe đồn nhà ông có vong khó, tôi lặn lội từ xa tới đây để trừ hại thay gia đình, chỉ xin đổi lại một thứ trong nhà ông mà thôi!” Năm Ớt nghe thấy vậy liền mừng quýnh lên, nhưng nhớ lại mười chín ông thầy pháp lủi thủi ra về lúc trước thì tâm trạng chùng xuống hẳn, bèn nói: “Không biết ông nhỏ tài phép ra sao, chứ cái vong này tôi thỉnh nhiều thầy về vẫn không trị được.” Hải Long cười lớn, nói: “Loại thầy pháp tôm tép ấy không đáng để ta nhắc tới, ta cam kết với ông, trong một canh giờ là ta trục vong xong, đổi lại ông chỉ cần đưa ta một thứ trong nhà ông là được”. Năm Ớt nghĩ dù sao cũng chẳng mất gì bèn gật đầu cái rụp. Hải Long thấy vậy liền giải thuật cho Hai Chính rồi quay sang nói Năm Ớt kêu tất cả mọi người trong nhà ra sân đứng hết, mỗi người ngậm một cây đũa ngang miệng, trán quét ít máu gà trống, tay cầm ba que nhang, trong lúc Hải Long vào nhà trục vong thì bên ngoài, họ phải vừa ngậm đũa, vừa niệm Phật thầm trong đầu, không được ngơi nghỉ cho đến khi nó trở ra, nếu không thì sẽ bị cái vong đó nhập vào. Ông Năm nghe thằng nhỏ mới bảy tám tuổi cắt đặt mọi thứ chỉ biết há hốc mồm kinh ngạc, răm rắp nghe theo. Lúc nó vào nhà, ông Năm hỏi có cần gì không, nó lắc đầu, cười rồi giơ tay lên nói: “Cần cái này được rồi!” Hải Long lững thững bước vào nhà, đang giữa trưa nhưng không khí trong này âm u đến đáng sợ, lạnh lẽo, nó biết được rằng chính sự xuất hiện của nó đã làm thế lực kia bộc phát mạnh mẽ hơn. Hải Long chắp hai tay lại bắt ấn, niệm chú gì đó, tay phải nổi kinh văn tựa như lần đấu với lão chuột tinh, nó đi khắp căn nhà, quan sát trên dưới, bỗng nó dừng lại trước tấm gương soi khung gỗ chạm khắc kiểu Pháp mà bà lớn dùng để trang điểm, nó tháo tấm gương ra, đem đặt ở giữa nhà, hướng mặt gương lên trên, rồi đi vòng quanh tấm gương bảy lần, vừa đi vừa niệm chú, sau đó cắn rách ngón tay cái, lấy máu vẽ những ký tự ngoằn ngoèo lên mặt gương, vừa vẽ vừa niệm nhanh và to hơn nữa. Bỗng từ trên xà nhà vọng xuống tiếng hét chói tai, tấm gương lập tức nứt ra, trong đấy hiện lên hình ảnh một nhục thể kỳ dị với những cái đầu to nhỏ khác nhau dính chặt lại. Trông nó như con thằn lằn, tứ chi là bốn bàn tay năm ngón. Hải Long nhìn lên trần nhà thì không thấy gì cả, lập tức hiểu ra là nó trống trong gương, con “thằn lằn” này nhe nanh ra, sẵn sàng nhào ra cắn nát đầu Hải Long bất cứ lúc nào, nhưng Hải Long không hề tỏ ra nao núng. Nó nhếch mép: “Thì ra là mày, hôm nay gặp tao coi như số mày xui!”, vừa dứt lời, nó lập tức xốc tấm gương lên rồi quay ra mặt sau, bắt ấn hai tay chọc thẳng vào. Lại thêm một tiếng thét nữa vang lên, những vết nứt chạy dài trên gương, từ đó ứa ra chất dịch màu đen hôi thối. Từ phía mặt gương, những bóng đen quỷ dị liên tục phóng ra. Hải Long vội quăng tấm gương, tức thì bóng đen lao đến, giơ bàn tay sắc nhọn định bổ thẳng vào đầu nó, nhưng nó ngay lập tức thủ thế đỡ đòn chí mạng, nhảy lui về sau mấy bước. Nhìn trực diện mới biết thực thể của nó kinh dị hơn hình ảnh trong gương gấp mấy lần: một cái đầu khổng lồ, tóc dài, phần cổ là hàng chục khuôn mặt người nhỏ bé ghép lại mà thành, đôi mắt nó to hơn cái thúng, mở thao láo, cái miệng kinh tởm ngoác rộng, nôm có thể nuốt gọn cả con trâu. Nó không có chân, chống đỡ thân hình là bốn cái tay ngoằn ngoèo khẳng khiu, ngón tay dài như chiếc đũa. Có vẻ mục đích chính của Hải Long là trục nó ra khỏi tấm gương, lúc này Hải Long bắt ấn, miệng nói đầy tự tin: “Chơi thế đủ rồi nhé!”, tức thì hai lòng bàn tay phát sáng rồi nó lao đến con quái không chút do dự. Bên ngoài, gia đình Năm Ớt ngậm đũa tụng kinh mỏi cả răng, ê cả hàm nhưng chẳng ai dám lơi là, đều làm theo lời Hải Long một phép. Giữa trưa, trời nắng chang chang bỗng nhiên mây đen từ đâu kéo đến ầm ầm trên đầu như sắp có một cơn bão khổng lồ ập đến. Vừa lúc này, trong nhà vang lên tiếng “phập” đanh gọn, mây đen cũng theo đó mà tan đi nhanh như lúc nó xuất hiện. Chốc sau đã thấy Hải Long vác tấm gương đi ra, vừa nhìn thấy mặt gương, vợ chồng ông Năm lăn ra ngất xỉu: trên đấy chi chít những vết ố hình khuôn mặt đang la hét. Hai Chính hỏi sự tình nãy giờ bên trong, Hải Long đặt tấm gương xuống, phủi tay ra bộ chuyện trẻ con, bảo: “Không biết nhà mấy người mua tấm gương này ở đâu, đây là tấm gương cổ, chủ nhân đầu tiên của nó có lẽ đã chết thảm, oan hồn nhập vào gương không siêu thoát được, ám hết đời chủ này tới đời chủ khác. Nó là siêu linh hồn, trú ngụ trong gương, mỗi ngày nhà các người soi vào nó thì thần trí mê muội dần, quỷ khí được giấu sau lớp gương cho nên mấy tay thầy pháp trước không phát hiện được. Cũng may ta đến đúng lúc, chứ nếu không thì nay mai thôi, quỷ hồn nó làm chủ tâm trí mấy người hoàn toàn rồi sẽ làm mấy người điên loạn, gặp ai là giết người đó, gom âm khí về nuôi nó!” Nói xong, Hải Long đến kế bên Năm Ớt giờ còn đang nằm mê man, vả vào mặt ông ta mấy cái cho tỉnh hẳn rồi nói: “Tôi đã làm xong phần việc của mình, ông cũng nên thực hiện lời hứa đi.” Năm Ớt vừa mới hoàn hồn, lắp bắp: “Nhà tôi tiền tài không thiếu gì, ông nhỏ muốn gì thì cứ nói.” Hải Long ngồi chồm hổm kế bên ông Năm, ra dáng suy nghĩ gì đó rồi nói: “Tôi biết ông tổ năm đời nhà ông ngày xưa là người bên Chân Lạp, thân cận của vua Ang Em, sau bị vua Ang Tham lật đổ, tổ tiên ông lưu lạc qua vùng Thất Sơn có giúp đỡ một người tên là Bà Đà Ngạc xây dựng lăng mộ cho con gái ông ta, Bà Đà Nhan, tuy nhiên để giữ bí mật về lăng mộ, Bà Đà Ngạc lệnh giết tất cả phu xây, tổ tiên ông trốn thoát được, lánh về vùng này bắt đầu lập nghiệp, hẳn ông ta có để lại cho con cháu một tấm giấy trắng có bốn chữ Hán, đừng dối tôi, tôi muốn lấy tấm giấy đó!” Năm Ớt ngây mặt ra, nói: “Bẩm ông nhỏ, chuyện ông nhỏ nói về nguồn gốc tổ phụ nhà tôi quả là có thật, … làm … làm sao ông nhỏ biết được?” Hải Long vỗ bụng cười: “Đã bảo ta là thần thánh mà, những chuyện này sao giấu ta được.” Ông Năm nghĩ lại, truyền thuyết dòng họ ông có kể về tấm giấy đó, nó như là chìa khóa dẫn đến lăng mộ công nương Bà Đà Nhan của vùng Thất Sơn, những năm 1730. Tuy nhiên, trải gần hai trăm năm, con cháu đời sau không ai hiểu được tấm giấy đó là chìa khóa kiểu gì, vì trên khuôn giấy đó chỉ độc có bốn chữ Hán: “Cử Đầu Vọng Nguyệt”, ngoài ra không còn thêm chi tiết gì khác. Đã nhiều lần, người trong họ đem ra nhờ những bậc thầy uyên thâm Hán tự rồi cả thầy phong thủy, thầy bói về nhưng ai cũng bó tay, không hiểu nổi dụng ý trong đó là gì, đến đời ông Năm cũng dành hơn chục năm để nghiên cứu vì biết ắt hẳn tìm được lăng mộ đó dĩ nhiên trong đấy ngọc ngà châu báu không thể thiếu, tuy nhiên lực bất tòng tâm, càng nghiên cứu càng mù mờ. Từ lâu trong tâm trí ông Năm đã sớm đầu hàng chuyện này, chẳng màng quan tâm nữa, cho nên khi Hải Long đề nghị, ông ưng thuận ngay. Ông Năm dẫn Hải Long vào từ đường, lôi ra một hộp gỗ sơn son thếp vàng hình rồng hết sức tinh xảo, trong hộp đấy có rất nhiều vật gia bảo, đồ nào cũng đáng giá thiên kim, tờ giấy ấy nằm ở lớp cuối cùng. Tay run run, ông ta lấy nó lên, phải cẩn thận vì nó đã quá cũ kỹ, có thể rách bươm bất cứ lúc nào. Hải Long đón lấy tờ giấy, chỉ mới nghía qua cái là nó đã nhếch mép, điệu bộ tự tin vô cùng khiến ông Năm không khỏi kinh ngạc, lẫn chút bối rối. Rốt cuộc thằng nhóc này là thần thánh phương nào đây? Hải Long cuộn tờ giấy lại rồi quay lưng đi thẳng, ông Năm gọi với theo: “Ông nhỏ ơi, khoan, gượm đã, chẳng hay cao danh quý tánh của ông nhỏ là chi?” Thằng bé đi tiếp, không thèm ngoảnh lại, nói: “Ông nhớ ta là Trần Hải Long được rồi.” Có cuộn giấy, Hải Long đi ra mé làng, nơi có cái nghĩa địa, nó đi vòng quanh trong đấy, kiếm mấy cái chiếu quấn xác cũ, rút ra mấy sợi mành rồi giắt vào túi quần, sau đó đi kiếm một cái lư hương, nó lựa cái nào có tuổi đời lâu nhất rồi khấn vái người đã khuất, sau đó cầm lư hương lên, rút chân nhang cắm lại trước bia mộ, vét sạch tro trong đấy ra rồi đi hái thêm ít lá chuối non bỏ vào. Kế tiếp nó lại đi vòng quanh xem xét, có những ngôi mộ đất nằm sát mé kinh nhỏ, từ lâu đã bị lở, để lộ bên trong cỗ quan tài mục nát, Hải Long không chút do dự, thò tay vào cạy ra một mảnh ván hòm. Nó kiểm tra lại đồ đạc rồi đi ra chợ, kiếm mãi mới có một chỗ bán đồ ăn, nó vét túi còn ít tiền bèn mua ba cái bánh bao, ăn ngay một cái còn hai cái để dành. Mấy ngày nay lang thang khắp nơi, nơi nào cũng tan hoang, chẳng có chỗ nào bán đồ ăn, tính nó lại không thích đòi hỏi gì từ chủ nhà cho nên đói vật vờ là vì thế. Ăn no xong nó đi kiếm nước lã uống cho qua cơn khát rồi nằm đại trên bụi rơm mà ngủ, những chuyện còn lại phải đợi đến đêm mới làm được. Như được cài sẵn đồng hồ, đầu giờ Tý, lúc trăng vừa lên cao, Hải Long tỉnh dậy, lật đật chuẩn bị. Nó chạy ra bãi sình ven sông khoét một lỗ nhỏ, đợi nước rỉ ra thì múc vào cái lư hương, đoạn xé nhỏ manh chiếu quấn xác cùng với lá chuối non bỏ vào rồi dùng ván hòm giã nhẹ, vừa giã nó vừa lầm rầm bài chú gì đó. Lát sau, trong lư hương chỉ còn lại một dung dịch màu xám tro, đặc kẹo do mủ chuối, nó bê lư hương lên một gò đất khô ráo, trải tờ giấy ra rồi dùng dung dịch đó đổ lên, lấy tay xoa đều ra. Thật kỳ lạ, tờ giấy cũ kỹ tưởng chừng như gió còn có thể làm tan thành tro bụi vậy mà khi thấm bởi dung dịch này lại không hề hấn gì cả, vả lại nó còn chuyển sang màu vàng đậm, trông tươi mới hết sức. Đợi cho dung dịch thấm hẳn vào rồi khô đi, Hải Long mới cầm tờ giấy lên soi dưới ánh trăng, chỉ lờ mờ nhìn ra một thứ gì đó. Chợt nó nghe sau lưng có tiếng người bước lại gần - đó là một vị thanh niên chỉ chừng hai hai hoặc hai ba tuổi, vận bộ đồ tàu và đội cái nón bánh tiêu màu nâu, miệng ngậm tẩu thuốc. Người này xuýt xoa: “Biết đặc tính của Cốt Chỉ cần phải thoa nước Oa Hãn để hiện lên ẩn đồ, mới tám tuổi mà đã khai được Khốc Chú Tịnh Độ Vãng Sinh, lại còn dùng cả Thiên Đăng Ẩn Quang Chú diệt siêu linh, mạn phép cho Lý Huỳnh tôi được hỏi, tại sao Trần Hải Long, con trai của Trần Bá, vị thông hải cuối cùng, lại phải kỳ công đi tìm lăng mộ Bà Đà Nhan như vậy?” ...
 
Chương 45 : Ngoại Truyện Lục Vương Tư Rồng (Phần 2)


Lâm Gia Thái Bảo - Sự xuất hiện của vị thanh niên lạ mặt nhưng quen tên kia không khỏi làm cho Hải Long cảm thấy bồn chồn, thậm chí pha chút bất an. Ngày nó còn nhỏ, nói đâu xa, chỉ mới hơn năm trước, Trần Bá vẫn nhắc cái tên ấy suốt một quãng thời gian dài, nó vẫn nhớ như in cảm xúc của ba nó khi nói đến Vạn Lĩnh Đạo Sĩ - Lý Huỳnh, người một mình diệt hơn trăm miểu vùng núi Bà Đen Tây Ninh chỉ trong vòng bảy ngày và quan trọng hơn hết, gã làm một mình. Dĩ nhiên, với ngần ấy kỳ tích, khi lục lâm nói về Lý Huỳnh, lúc nào cũng với giọng điệu ngưỡng mộ, tuy nhiên trường hợp của Trần Bá, ông còn kèm theo chút lo lắng, và Hải Long hiểu được điều đó. Thấy Lý Huỳnh mào đầu bằng câu nói vừa pha chút tò mò lẫn muốn thị uy tên tuổi, Hải Long cảm thấy không thích, bèn trả lời: “Không dám phiền ngài Lý đây, Hải Long tôi may mắn được nghĩa phụ nuôi dạy chu đáo, tất cả chuyện này đều nhờ ông chỉ giáo, không dám nhận mình giỏi!” Lý Huỳnh nghe đến chỗ “nghĩa phụ” thì phì cười, bèn nói: “Thì ra Lý mỗ suy luận đúng, nếu vậy thì việc tìm lăng mộ Bà Đà Nhan hẳn là giúp cho cậu Long đây tìm hiểu về xuất thân của mình, đúng không?” Hải Long hết sức ngạc nhiên, chuyện Trần Bá nói với Hải Long trước khi bị giết làm sao Lý Huỳnh có thể biết được, ông bảo nếu muốn thân phận thực sự của cậu thì hãy nhớ tìm đến lăng mộ của công nương Bà Đà Nhan, trong đấy sẽ có lời giải đáp, cuộc sống của hai cha con Hải Long hết sức bí mật, hành tung gọn gàng, thậm chí muốn tìm tung tích để đặt hàng còn khó. Thêm vào đó, xuất thân của Hải Long trong mắt Trần Bá có vẻ gì đó là bí mật kinh thiên động địa, không thể nào có chuyện nói cho người ngoài, mặc cho người đó là Lý Huỳnh đi chăng nữa. Nói đến đây ắt hẳn không thể không kể về người tên Trần Bá, thông hải cuối cùng của lục lâm. Thông hải, suy cho cùng, là một nhánh hậu duệ của vua Trần, trốn chạy Hồ Quý Ly, loạn lạc đến vùng đất Phú Yên những năm giữa thế kỷ XV. Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, danh tiếng những thông hải đã vang dội, những kỳ tích tựa như chỉ có trong truyền thuyết, bảo vật trong lục lâm được bổ sung cơ số thứ đều nhờ thông hải, chắc có nằm mơ cũng không ai dám tưởng tượng: tim bạch tuộc hổ, răng trai, mắt vích ngàn tuổi, tổ Yến Chúa, ngọc Cáp Lị Ngư. Giới lục lâm vốn là một tổ chức kín tiếng, nếu không nhờ người trong cuộc kể lại thì hầu như không thể biết họ đang làm chuyện gì, thông hải thì hành tung càng kì bí, chẳng ai hiểu tại sao một làng chài đông đúc với những lục lâm lão làng dần dần biến mất, đến những năm 1918 chỉ còn lại một người duy nhất: Trần Bá. Một trong những huyền thoại của Trần Bá được lưu truyền như sau, khoảng những năm mở đầu thế chiến thứ nhất, Pháp vơ vét hầu như tất cả của cải ở thuộc địa, tài lực vật lực, trong đó bắt lính và nguyên liệu là thứ chúng quan tâm nhất. Năm đó, một tàu Pháp đang chở lính thì bị bão đánh vào một vùng biển lạ, chân vịt mắc vào xích sắt, trên đấy chi chít chữ cổ, nói về một lời nguyền gì đó. Trời đang bão, sấm chớp đùng đùng, giữa khung cảnh ấy, một đường sáng màu đỏ chiếu thẳng từ biển lên tới chín tầng mây, khiến cơn bão từ một màu đen kịt chuyển thành một vùng mây xanh lơ, kỳ dị khó tả. Lúc này từ đáy biển, một bàn tay khổng lồ vươn lên bóp chặt vào đáy thuyền làm nó gãy đôi. Đợt ấy chỉ duy nhất một tay sĩ quan Pháp còn sống sót về kể lại cho Toàn quyền làm tay này khó nghĩ, còn đang bán tín bán nghi thì tin về: mấy chiếc tàu hắn ta cử ra thăm dò đều nằm lại biển không một tung tích. Chuyện được giấu rất kỹ, tuy nhiên một lần những tên lính Pháp nhậu say, vô tình nói ra làm Trần Bá biết được, ông nghĩ thầm: “Quỷ Biển?” Ngay đêm đó, ông cùng một thông hải khác lên đường tìm diệt con quỷ đó, vì nội bộ thông hải có lưu truyền truyền thuyết về Hải Quỷ Kỳ Động hoặc tên khác là Hải Vực Trường Sa, nơi đó giam cầm tên quỷ biển chúa, dưới trướng có đạo quân đông đảo lên đến vạn con. Nếu để bọn chúng sống lại, hồi phục ma lực hoàn toàn thì coi như cũng là ngày tàn của biển! Sáng sớm hôm sau đã thấy hai người họ trở về, quần áo rách bươm, chuyện thành bại ra sao không thấy Trần Bá nói, chỉ được người đồng hành đi theo kể lại. Đêm đó, bằng bí thuật thông hải, họ vượt biển băng băng, tiến về hải phận Hải Vực, quả nhiên quỷ biển hồi sinh là thật, bọn chúng lập tức ứng chiến. Quân số chênh lệch kinh khủng, nếu không phải Trần Bá là đại cao thủ, e là cũng bỏ mạng chỉ trong một khắc, tuy nhiên thứ ông ta nhắm đến không phải là giết đám quỷ lôm côm này, mà là tìm cách phong ấn Quỷ vương lại. Cũng may, có một trăm lẻ tám sợi xích trói chặt quỷ vương trong hải vực, một sợi đứt ra nên quỷ khí của hắn chưa hoàn, Trần Bá dùng sức nối chúng lại trước khi bọn quỷ biển âm mưu cắt đứt tất cả. Dĩ nhiên đó chỉ là giải pháp tình thế, Trần Bá định bụng khi hồi phục nguyên khí sẽ thanh toán bọn ác linh ấy, tuy nhiên người tính không bằng trời tính, ý định chưa kịp làm thì biến cố ập đến, Trần Bá nhận nuôi Hải Long từ một người quen rồi lao vào cuộc sống lẩn trốn, chuyện bên trong dĩ nhiên vẫn theo lối xưa của lục lâm: người trong cuộc không kể thì ai mà biết. Trở lại cuộc kỳ ngộ giữa Lý Huỳnh và Hải Long, thấy thằng nhóc còn ngơ ngác, Lý Huỳnh ra vẻ như đang xâu chuỗi những thông tin gì đó rồi mới nói: “Sao cậu không hỏi tôi, khỏi cần đi, muốn biết trong đó có cái gì, tôi trả lời cho, biết đâu thân thế cậu được sáng tỏ?” Hải Long xua tay, bảo: “Không dám phiền ông đây, dăm ba cái lăng ấy, Long tôi tự đi được!” Lý Huỳnh cười ra vẻ thú vị rồi mới đứng dậy, kéo một hơi tẩu, nói: “Núi cao ắt có núi cao hơn, hy vọng Lý Huỳnh tôi sẽ được gặp lại cậu, một ngày nào đó, trưởng thành hơn, nhưng dĩ nhiên phải còn sống đã!” Hải Long cảm thấy bị nói đểu, vừa định mắng gì đấy thì đã thấy Lý Huỳnh quay lưng đi thẳng, một chốc đã mất dạng sau hàng chuối. Hải Long cũng chẳng cần phải rượt theo làm gì, tính khí nó vốn ngang tàng, làm gì mình thích mà thôi. Lúc này, Hải Long soi ngược tờ giấy lên ánh trăng. Loại giấy này được gọi là Cốt Chỉ, nói trắng ra là giấy tinh luyện từ bột xương người chết, phơi khô ít nhất hơn hai mươi năm, sau đó trộn với dầu cóc và nhớt từ cây tầm ma để rây giấy ra khuôn. Loại này nếu được viết bằng mực trộn máu thì mực sẽ bị thấm hút vào giấy, chỉ có cách dùng nước Oa Hãn (mồ hôi cóc) mới làm các hình chữ viết ẩn xuất hiện trở lại. Ngày xưa lục lâm còn dùng giấy này nhiều để tránh quân triều đình truy xét, nhưng từ khi Pháp xâm lược, triều đình mất dần quyền lực, lục lâm không cần phải tránh mặt kiểu đó nữa nên dần dần loại giấy này đi vào quên lãng. Cảm giác nét mực trong chữ “Cử Đầu Vọng Nguyệt” đang lan ra như những rễ cây đâm tủa, hiện thành hình thế núi sông, trải qua mấy trăm năm vẫn hết sức sống động, Hải Long căng mắt theo dõi thì thấy điểm cần đến là vùng Phụng Hoàng Sơn (tên khác là núi Cô Tô, An Giang). Cảm giác sắp tới là một cuộc hành trình dài, bí mật nơi đặt lăng mộ Bà Đà Nhan đã được giải đáp, Hải Long suy nghĩ cũng không cần vội làm gì nên lăn ra ngủ tiếp một giấc cho lại sức, mai sẽ đến Cô Tô. Ngày ấy, đi từ Bạc Liêu đến An Giang là cả một vấn đề, đường không có, rừng rậm nhiều, cộng thêm loạn lạc khiến nhiều nơi xuất hiện phỉ, thế mà Hải Long chỉ mất hơn một ngày để đến được nơi nó muốn, lúc tới nơi thì đã gần đến giờ Tý. Đi đường lúc thì nó quá giang, lúc thì kết bè đi trên sông, lúc đi ngang nơi rừng rậm thì dùng bí thuật của thả diều, cho nên mới đi nhanh được đến vậy. Căn cứ theo bản đồ, Hải Long biết được điểm cần đến nằm ở mé Tây của núi. Núi Cô Tô nay thuộc địa phận xã Cô Tô, huyện Tri Tôn, An Giang. Núi cao 614m, dài nhất 5,8km, rộng nhất 3,7km, là một ngọn núi đá vôi có cấu tạo hết sức thú vị, bên trong có cả một hệ thống hang động chằng chịt đan xen, vô cùng vững chắc. Hải Long men theo chân núi, đến triền núi phía tây rồi leo lên một cái cây cao ngắm nhìn địa thế. Chính giữa thấp thoáng một hàng các bia đá đã bị hư hoại theo thời gian được sắp ngay hàng, nếu canh theo lối ấy có thể thấy một chỗ lõm vào ở chân nói, khá đều, cây mọc um tùm, xác suất khá lớn lối vào chỉ có thể nằm ở khu vực gần đó. Tuy nhiên, sự bất thường âm khí tại nơi này làm Hải Long suy nghĩ. Thường thì khu vực đồi núi, âm khí phần lớn đều từ miễu biết hát tỏa ra, lúc mạnh lúc yếu bởi vì các miễu thường di chuyển hoặc ẩn nấp, đợi đêm đến mới bộc phát, tuy nhiên thứ âm khí mà Hải Long cảm nhận được từ nãy đến giờ duy nhất chỉ có một luồng, ngay cả âm mạch cũng không cảm nhận được, điều đó có nghĩa là: cả núi Cô Tô chỉ có một cái miễu biết hát duy nhất. Mặc dù theo cảm nhận của Hải Long, nguồn ma lực này không lớn, vậy thì tại sao chỉ có một cái? Hay thực chất ẩn sau lăng mộ kia là một con quỷ chúa cực mạnh, đã ăn hết những cái miễu biết hát ở vùng này. Trong đầu Hải Long chỉ có thể liên tưởng đến thi thể công nương Bà Đà Nhan bên trong lăng, quả thật khó hiểu, không lý giải nổi! Nhưng đã đến nước này thì dù bên trong có ngưu đầu mã diện hay Diêm La Vương, nó cũng bỏ qua một bên để tiến vào mà thôi. Hảo Long kiểm tra thật kỹ, tiên liệu những phương thức người ta dùng để đóng cửa lăng để tìm ra các cách ứng phó phù hợp rồi tiến thẳng đến chân núi theo đường dẫn của các tấm bia, xung quanh cỏ cao đến ngang vai, um tùm rậm rạp, đi lại hết sức khó khăn, tuy nhiên thứ làm nó hụt hẫng đó là chỗ chân núi không hề có thứ gì tựa như lối vào, chỉ có một khối đá tự nhiên, phần thân chìm trong lòng đất, nhô lên thôi cũng đã cao đến hơn mười mét, bán kính chắc phải đến bảy, tám chục mét. Hải Long nảy ra suy nghĩ đi lần theo mép tảng đá khổng lồ, biết đâu chỗ khe hở tiếp giáp với tảng đá khác có đường vào. Tuy nhiên, nó lại thất vọng thêm lần nữa khi khu vực xung quanh, các tảng đá ken đặc với nhau như xếp gạch, tảng nào cũng to bằng cái nhà, việc tìm kẻ hở thế là công cốc. Đột nhiên mây đen kéo đến, xốc theo sau là một trận âm phong rợn người thổi nghiêng ngả cây cối, trăng vừa khuất sau mây đen, xung quanh dáo dác tiếng chim chóc bay tứ tán, lẫn trong đó là tiếng chim heo kêu và mèo rống tràng dài nghe như ai khóc. Phen này có vẻ không được thuận lợi, Trần Bá lúc trước có kể cho nó nghe chuyện đập miễu kỵ nhất là lúc trời mưa, chim kêu mèo khóc, vì khi đó quỷ khí ma lực của miễu đã thức tỉnh. Hải Long đó giờ chỉ nghe truyền thuyết, nay ra lăn lộn trong thực tế mới trải qua lần đầu, quả nhiên âm khí cậu cảm nhận lúc nãy đang dâng lên rất nhanh, quỷ lực của nó không hề nhỏ. Đang cảm thấy bối rối chẳng biết làm sao thì bỗng có một luồng âm phong lạnh ngắt tỏa từ quỷ khí nó cảm nhận được, luồng âm phong đó đang dội xuống từ phía trên đầu, nếu vậy thì phía trên sẽ có lỗ hổng, Hải Long khá nhỏ con, nếu tìm được lỗ đó sẽ chui lọt vào trong, vào đó rồi tìm đường ra sẽ dễ hơn. Nghĩ là làm, nó liền dùng thân pháp nhanh nhẹn, thoắt cái đã leo lên đến đỉnh tảng đá chắn cửa hang. Phía trên tương đối bằng phẳng, dây leo đan kín, quả nhiên chỗ tiếp giáp với tảng đá bên trên, có một kết cấu như cửa sổ ẩn phía sau mỏm đá, phải tìm rất kỹ mới thấy, trên đó tạc hình phượng hoàng rất tinh xảo, thường thì các lăng mộ cũ của văn hóa Chân Lạp, Angkor sẽ có kết cấu này, người ta quan niệm người chết khi đủ ngày sẽ thoát khỏi lăng mộ để nhập cõi niết bàn, hình tượng phượng hoàng cũng được điêu khắc theo trường phái Nam Tông với nét uyển chuyển sống động vô cùng. Nó dạt lớp dây leo qua hai bên, vừa mở lớp cửa ra, luồng gió lạnh ngắt, mạnh mẽ tuôn ra tới tấp, nếu là người thường có lẽ đã chấn động tâm lý, âm khí nhập tâm mà ngất xỉu hoặc mất mạng chứ chẳng chơi. Hải Long ghé mắt nhìn vào trong, có một đường thông xuống bên dưới, dĩ nhiên là tối đen không thấy được gì cả, nó phải nhắm mắt, dò tìm, cảm nhận luồng khí tỏa ra để xem bên dưới như thế nào. Hít một hơi thật sâu lạnh hết cả phổi, nó chống hai tay, dạng hai chân bám vào vách rồi từ từ leo xuống. Càng leo xuống càng thấy lạnh, hơi lạnh tỏa ra từ lớp đá như muốn đóng băng tất cả vật sống trong cái lăng này. Mặt tường bằng đá được gia công tinh xảo nên bề mặt khá trơn, cộng với thời gian đã phủ lên nó một lớp rêu cho nên Hải Long dùng rất nhiều sức mới leo được tới dưới, tuy không khí lạnh ngắt nhưng mồ hôi vã ra như tắm. Chân nó vừa chạm đến nền, bỗng nhiên trước mặt sáng bừng lên, đó là những cây đuốc hai bên hành lang, giống như được kích hoạt bằng một cơ quan nào đó, thắp lên ngọn lửa bập bùng màu xanh hết sức ma quái. Điều này vượt ngoài hiểu biết của Hải Long lúc đó, đèn đó được gọi là Địa Tâm Đăng, sáng lên khi có dương khí xuất hiện, là một thuật của hàng thịt trong lục lâm, dùng để chiếu sáng trong lăng mộ thì quả là hết sức phù hợp. Mục tiêu thứ nhất đã xong, tiếp theo Hải Long phải đi xem hết ngóc ngách trong nơi này để tìm ra bí mật về thân thế của mình, bởi vậy nó chẳng có thời gian để nghía qua các bức bích họa hết sức sống động được vẽ trên vách, màu sắc còn rất tươi mới dù đã qua gần hai trăm năm. Nó bước hết sức cẩn trọng, vừa đi vừa để ý xem xét, tránh kích hoạt cạm bẫy trong lăng mộ. Nhưng người tính không bằng trời tính, bàn chân nhỏ bé của nó vừa đặt xuống, nền gạch vang lên một tiếng “cạch” lạnh ngắt - cơ quan đã mở, chỉ trong tích tắc sau đó, gạch lát dưới chân nó sập xuống, Hải Long không hề bất ngờ, nó nẩy người lên, đạp vào tường định nhảy qua hố, ai ngờ đâu hàng chục khối cát từ trên đầu ập xuống khiến nó rớt thẳng xuống dưới. Mắt nhắm nghiềm, nín thở, miệng vừa mở ra đã ngập đầy cát, hết sức khó chịu. Cát cứ thế đổ dồn dập xuống không ngớt, hố lại sâu đến năm sáu mét, cát ngập quá nửa người nó, dù thân thủ nhanh lẹ cỡ nào cũng như vô dụng. Hải Long than trời trách đất, chỉ một giây lơ là không ngờ phải bỏ mạng nơi này, đang tưởng chừng như tuyệt vọng thì một sợi dây thừng từ trên hố được ném xuống kèm theo giọng nói rất quen thuộc: “Cầm lấy sợi dây nhanh lên!” Sắp chết lại gặp đường thoát, Hải Long lập tức bám lấy sợi dây kia, người bên trên ra sức kéo, chốc sau Hải Long đã thoát được cái hố cát tử thần, thở lấy thở để. Mắt nó ngập cát, nhất thời nhìn gì cũng thấy mờ mờ, trước mặt nó xuất hiện hai bóng đen lù lù, một lớn một nhỏ, nó dụi mắt mấy cái để nhìn rõ hơn, khi thấy hai người đó, nó hết sức bất ngờ: người cứu nó lại chính là hai con chuột tinh đã gặp ở làng Hưng Hội, Bạc Liêu. Lão chuột tinh thấy nó ngơ người ra thì bảo nó ngồi xuống, lão đưa nó bình nước nước rồi nói: “Cậu đừng sợ, tôi không còn muốn làm hại ai nữa đâu, lấy nước rửa mặt cho hết cát đi rồi tôi kể cho nghe!” Hải Long nghĩ, nếu lão muốn giết nó, thì để nó chết dưới đống cát dễ hơn nhiều, thế là nó lấy nước rửa sạch mặt mũi, đoạn quay sang hỏi lão chuột: “Vậy ra hai chú cháu ông đi theo tôi đến tận đây? Lý do?” Lão chuột nhìn đứa cháu rồi mới quay sang nói với Hải Long, vẻ mặt hết sức nghiêm trọng: “Cậu tin tôi cũng được, không tin cũng được, nhưng nơi này không nên lưu lại lâu, có gì đi ra ngoài, tôi kể cho cậu nghe!” Khỏi phải nói, tính tình Hải Long ngang tàng, dễ gì nghe theo lời khuyên úp mở ấy, nó nói: “Thôi, tôi bằng mọi giá vào được đây, giờ đâu phải ông nói đi ra là ra ngay được, nơi này có gì ghê gớm lắm sao?” Lão chuột lắc đầu, ra vẻ chán nản lắm, lão ấy thở dài rồi nói: “Thật ra lăng mộ này là nơi tôi với thằng cháu tôi tu luyện thành người, hơn một năm trước thì bị một con quỷ đến cướp, nó tàn ác vô cùng, giết hại cả người và ma quỷ không chừa thứ gì, hai chú cháu tôi may mắn thoát được. Lúc bị cậu đánh bại, tôi định dẫn thằng cháu về vùng bảy núi, tìm một ngọn đồi nào đó dựng am tu luyện, hành thiện cứu đời, ai ngờ thấy cậu đi xăm xăm về hướng này, tôi liền nảy ra ý định đi theo xem sao, rốt cuộc đúng là cậu chui vào đây thật, hai chú cháu leo vào đã thấy cậu bị sập bẫy cát. Con quỷ kia ghê gớm lắm, cậu có tài ba như vầy cũng chưa chắc đánh được nó, tôi khuyên thật, giờ đi ra ngoài còn kịp đó!” Hải Long xua tay, lắc đầu nói: “Không được, ơn cứu mạng của ông và nhóc này tôi ghi nhớ, chắc chắn sẽ đền đáp, nhưng bảo tôi đi ra ngoài, bụng dạ nào mà như vậy được. Tôi vào đây cũng là làm theo di nguyện của ba tôi mà thôi, ông với thằng nhỏ đi ra trước đi, tôi vào một chút sẽ trở ra ngay!” Vừa nói dứt câu thì một tiếng thở rất mạnh phát ra từ cuối hành lang, lửa trên các cây đuốc như bị hút về phía ấy, biến mất sạch, không gian xung quanh trở nên tối đen trở lại, tiếng nhai nhoàm nhàm lạnh lưng âm vang khắp nơi. Theo phản xạ, đèn vừa tắt, Hải Long vận lực phát ra Thiên Đăng Ẩn Quang, tuy nhiên cậu ta quên là bên cạnh còn có hai con chuột tinh, lần vận khí vừa rồi hơi mạnh khiến bọn chuột tinh kêu lên đau đớn, nhưng tuyệt nhiên họ chẳng chịu quay đầu bỏ chạy khiến Hải Long thấy cảm kích vô cùng. Nó điều chỉnh pháp lực, ánh sáng phát ra từ chú Thiên Đăng thu gọn lại, chiếu vừa đủ không gian chừng mười bước chân xung quanh, hai chú cháu chuột dù vậy vẫn cảm thấy khó chịu. Hải Long quay sang nói: “Tôi nói hai người ra ngoài đi, có mệnh hệ gì tôi cứu không nổi đâu!” Ai ngờ lão chuột tinh nói: “Sống chết có số, lúc trước tôi làm nhiều việc ác rồi, hôm nay hiệp sức cùng cậu diệt con quỷ kia rồi dẫn đường cho cậu trong lăng mộ này, coi như cũng được chút phúc báo.” Hải Long nghe vậy gật đầu, nghĩ thầm lão chuột tinh này thấy vậy cũng nghĩa khí lắm, còn đang định nói gì đó thì nghe nhóc chuột tinh hét lên: “Hai người cẩn thận!” Hải Long quay sang thì hết sức bất ngờ, vội lấy tay nắm áo tên nhóc chuột, cùng ông chú kia nhảy lùi về sau, vừa đúng lúc tránh khỏi cú ngoạm tử vong của con quỷ, chính xác hơn là một nhục thể quái vật trông như con cá trê khổng lồ. Nó bò thôi mà đã muốn cao hơn một người trưởng thành, cái đầu cá trê với cặp mắt to lồi ra ngoài, lớp da có vảy mỏng, nó chỉ có hai chân trước với những cái móng sắc nhọn, cái miệng đỏ ối như máu, nó không có lưỡi, từ vòm họng đưa ra một cái đầu người trọc lóc, có vẻ như đó mới chính là phần “tim” của con quái vật này, Hải Long từng nghe Trần Bá nói về loài cá trê sống trong quan tài, ăn thịt người chết rồi chuyển dần sang màu trắng, nói vậy thì con cá trê này ăn phải thứ gì trong lăng mộ này để quỷ hóa đáng sợ đến thế? Hải Long chưa xuất đòn vội vì còn muốn thăm dò đối thủ, con quái thấy thế liền chủ động tấn công, nó há miệng phun ra những cục nước bọt to tướng về nhóm người bọn họ nhằm chia cắt đội hình, dễ bề tiêu diệt, hai bên giằng co qua lại, con quỷ nọ quả thực mạnh đến kinh người, Hải Long không tài nào tìm được điểm yếu của nó để mà tiếp cận. Lão chuột tinh bèn bảo thằng cháu mình lui ra xa rồi lão lao đến đánh mạnh vào con mắt trái của con quái khiến nó phân tâm, quá đau đớn, con cá trê dùng chân tán mạnh vào lão, chỉ nghe lão chuột kêu lên một tiếng, xương lão đã vỡ. Vừa lúc ấy, Hải Long đã khai ấn Thiên Đăng, lao đến định một chiêu tiễn con quái về thế giới bên kia, nhưng nó cũng không phải là dạng xoàng, nó cúi người lấy đà định lao đến cắn đứt tay Hải Long. Mọi thứ diễn ra quá nhanh, nếu Hải Long rút tay lại thì hoàn toàn mất ưu thế, còn nếu cứ vươn ra đánh vào tim nó thì bị ngoạm đứt tay, vừa lúc hai bên chạm vào nhau, lão chuột từ bên dưới cố sức nhảy lên, dùng chân đạp thẳng vào họng con quái, khiến nó mất đà, Thiên Đăng Ẩn Quang Chú đã đến trước mặt nó! Ánh sáng của chú Thiên Đăng bộc phát bên trong đường hầm chói lòa, Hải Long và lão chuột đều biết ở cự ly thế này, quỷ hồn thế nào cũng sẽ chỉ có đường chết! Khi ánh sáng lịm dần đi, chỉ thấy thi thể con quỷ cá trê đã khô đét lại, nhăn nheo xù xì ghê gớm, nằm đè lên lão chuột đã bị gặm mất nửa người. Hải Long lặng người đi nhìn lão chuột hấp hối còn thằng cháu thì gào khóc. Nó không ngờ có ngày nó cảm động khi chứng kiến cảnh một con yêu tinh chết đi. Lão chuột tinh thều thào trong cơn hấp hối: “Hầy, không ngờ ta già quá rồi, mới có nhiêu đó mà sắp chết, nhưng coi như cũng không uổng phí một đời…”, ổng quay sang thằng cháu, nói tiếp: “Tiểu Bạch, mày thay chú, giúp cho thằng bé này, tìm...kiếm…”, chỉ kịp nói đến đó, lão chuột trút hơi thở cuối cùng! Hải Long quỳ xuống, lấy tay vuốt mắt lão chuột, nói: “Chuột tiên sinh, ra đi thanh thản, mong ông về cõi niết bàn.” Nhưng ngạc nhiên là đứa cháu, nó run run vai, giống như muốn khóc lắm nhưng cố kìm lại, giọng mếu mếu nói: “Chú tui nói là cậu muốn biết về thư tịch của lăng mộ này đúng không, đi theo tui!” Trong ánh mắt nó, Hải Long cảm thấy nghị lực và sức mạnh nội tâm rất lớn, cảm khái vô cùng. Tiểu Bạch dẫn Hải Long đến một gian mật thất, bên trong hết sức gọn gàng ngăn nắp giống như có người hay vào đây để dọn dẹp, khắp nơi có rất nhiều thư tịch, niên đại có những cái đã vài trăm năm là ít. Hải Long đi một vòng quanh phòng, thấy trên bàn có một cuốn sổ ghi chép đang để mở, đọc vào dòng đề tự khiến nó hết sức bất ngờ: “Ngày mùng mười, tháng tám, năm Bính Dần. Trần Bá đề bút.” Nét chữ tuy mờ do bụi nhưng không lẫn đi đâu được, là chữ của Trần Bá, cha nuôi của nó. Hải Long ngồi xuống, đọc ngấu nghiến cuốn sổ. Tiểu Bạch ngồi xem, đảo mắt bối rối, mấy chục phút trôi qua, Hải Long ngước mặt lên, ánh mắt hết sức hoảng hốt, nó ngồi như người mất hồn bởi thứ nó vừa đọc quả là khó tin.
 
Chương 46 : Ngoại Truyện Lục Vương Tư Rồng (Phần cuối)


Lâm Gia Thái Bảo - Mọi chuyện bắt đầu vào những năm 1757, vua Nặc Nguyên của Chân Lạp mất, chú là Nặc Nhuận xưng làm Giám Quốc, Nặc Nhuận cắt hai đất Trà Vang và Ba Thắc (nay thuộc Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu) cho Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát để xưng vương, Chúa Nguyễn chưa kịp phong thì rể của Nặc Nhuận là Nặc Hinh nổi loạn cướp ngôi, một viên bộ tướng của Nặc Nhuận là Bà Đà Ngạc dẫn theo gia quyến còn lại của chúa công, lui về vùng thất sơn An Giang trấn giữ, quân của Nặc Hinh cũng chẳng có cơ hội truy sát vì thời kỳ đó nội bộ Chân Lạp hết sức rối ren. Nói về Bà Đà Ngạc, văn võ song toàn, trí dũng hơn người, xuất thân từ một bộ lạc vùng Hạ Lào, tổ tiên nhiều đời tinh thông thuật thần bí, lúc Bà Đà Ngạc còn làm bộ tướng dưới quyền Nặc Nhuận thì đã có giao du qua lại với giới lục lâm ở Miền Nam lúc bấy giờ và có một người bạn thân tên là Mạc Hải Vinh, hai người vẫn thường xuyên trao đổi thư từ qua lại. Lúc Bà Đà Ngạc chạy loạn, Mạc Hải Vinh cũng giúp đỡ hết sức tận tình, chu cấp lương thực tiền bạc giai đoạn đầu. Bà Đà Ngạc có một người con gái tên là Bà Đà Nhan, xinh đẹp tuyệt trần, cầm kỳ thi họa đều tinh thông, xa gần nức tiếng. Bà Đà Ngạc cũng có hai người đệ tử tên là Trần Siêu và Võ Khắc Thuần, độ tuổi trai tráng, được Mạc Hải Vinh gửi cho Bà Đà Ngạc nuôi dạy. Hai người học rất nhanh lẹ, đạo hạnh ngày một cao cường và dĩ nhiên cả hai đều thầm thương trộm nhớ Bà Đà Nhan. Về phần Bà Đà Nhan thì cô dành tình cảm cho Trần Siêu hoàn toàn. Khoảng năm 1780, Bà Đà Ngạc lâm trọng bệnh, được lục lâm cứu chữa, bệnh tình không đến nỗi mất mạng nhưng cũng đi lại hết sức khó khăn, đành nằm một chỗ. Bà Đà Ngạc nghĩ đến chuyện tìm người nối dõi, thấy cả hai đệ tử đều ưu tú siêu việt, là người tốt, nhưng tình cảm của con gái lại dành cho Trần Siêu, cho nên ông cũng không ép uổng, bèn tổ chức hôn lễ cho hai người, để Trần Siêu danh chính ngôn thuận quản lý cơ nghiệp ông để lại. Còn phần của Võ Khắc Thuần, Bà Đà Ngạc để lại một bảo vật là cây dao lưỡi hổ, vật phẩm cực quý trong giới lục lâm. Võ Khắc Thuần tuy ngoài mặt tỏ ra bình thản, nhưng trong lòng vô cùng đau xót, sau đó cũng xin sư phụ được xuống núi, hành thiện cứu đời nhưng kỳ thực ông chỉ muốn quên đi hình ảnh của Bà Đà Nhan mà thôi, dần dần, sự đau xót đó biến thành nỗi căm hận, lây sang cả Trần Siêu. Về phần Trần Siêu, sau khi kế thừa cơ nghiệp của Bà Đà Nhan thì gặp một biến cố lớn. Năm 1783, vừa sau giai đoạn Nguyễn Ánh lưu trú ở An Giang, viên tướng của Ánh tên là Trần Đương cũng lưu lạc tới vùng này, ban đầu Đương không biết đến sự tồn tại của giới lục lâm, nên khi y cứu được một ông lão luyện kumanthong tên là Bốc La thì y nhờ Bốc La luyện cho bốn con ma con, ngăn chặn quân Tây Sơn. Sau đó, khi biết được Ánh đang ở Xiêm, Trần Đương nghĩ tới lui, tìm cách giải quyết Bốc La, vì Xiêm là vùng đất bùa ngải nhiều, đem theo lũ ma con đi khác gì để vua Xiêm trách phạt, còn nếu để lại đây thì không tin được miệng lưỡi của Bốc La. Lúc này có người đề cử Trần Siêu, Trần Đương mừng ra mặt, lập tức đồng ý để Siêu khử Bốc La, tuy nhiên kết quả lại quá đau lòng, mặc dù giết được Bốc La, nhưng trước khi chết lão đã kịp dùng kumanthong hại chết Bà Đà Nhan, Trần Siêu đau khổ, khóc đến trào cả máu. Một hôm Mạc Hải Vinh quay lại thăm Bà Đà Ngạc, thấy sự tình không thể nào không thở dài, ông còn chỉ ra một thứ sai lầm khiến Trần Siêu hốt hoảng. Do tính toán sai dương mạch và âm mạch của vùng Thất Sơn nên khi chôn Bốc La chung với bọn ma con đã suýt khiến âm dương mạch đảo chiều, gây thiên tai hạn hán. Để ngăn ngừa chuyện này, Trần Siêu xây một ngôi miếu dưới chân núi Tà Pạ, dùng pháp bảo Mạc Hải Vinh đưa cho là một khúc gỗ Mộc Tử Nha vạn năm, trấn yểm bên dưới để điều hòa dòng chảy của khí lưu, khi đó mọi chuyện mới giảm bớt. Mạc Hải Vinh hỏi thăm về Võ Khắc Thuần thì được Trần Siêu kể lại sự tình, Mạc Hải Vinh tỏ ra khá trầm tư, bảo đúng là ý trời khó cãi. Lục lâm tuy là một tổ chức kín tiếng, nhưng có những thứ nổi tiếng đến độ ai cũng biết, trong lục lâm có những dòng họ như thế, gọi là Tứ Trấn: Lý gia thuộc vùng Hà Tiên, chuyên đào giếng; Trần Gia, vùng Phú Yên, chuyên thông hải; Võ Gia, vùng Tây Ninh, chuyên đập miễu và Long Đế thuộc Gia Định, là một tổ chức tồn tại chỉ để phục vụ trong nội bộ của lục lâm. Mạc Hải Vinh có hai người bạn thân khác thuộc Trần gia và Võ gia, hai người này sau khi bốc quẻ vài trăm năm sau, thấy nếu con cháu cứ theo hướng này thì chẳng thể có kết cục tốt đẹp, bèn đưa con cho Hải Vinh, gửi gắm nhờ đưa cho thầy khác để tu luyện, cho chúng quên đi mối thù truyền kiếp này. Sau đó, Trần Siêu mất vợ, lại phải xa con nên ông cảm thấy suy sụp, bèn rời bỏ vùng Thất Sơn, tìm lại quê cũ là Trần Vĩnh Thôn, Phú Yên, gia nhập lại giới thông hải. Tại đây ông lập gia đình để có thể hòa nhập với cuộc sống mới. Mọi chuyện tưởng dần chìm vào quên lãng thì khoảng năm 1830, Võ Kỳ Hưng, con của Võ Khắc Thuần (sau khi xuống núi, Thuần lui về vùng Hà Tiên, lập gia đình và đổi tên thành Võ Sĩ Kỳ) đi ngang vùng Tà Pạ, trừ được con Tích Lĩnh, lấy đi khúc gỗ Mộc Tử Nha trấn yểm lại ở ngôi miếu do Trần Siêu và Mạc Hải Vinh dựng nên. Trần Siêu cho rằng Kỳ Hưng làm vậy khác nào khơi dậy mối thù cũ, coi thường thiên địa, gây nên nạn can qua và thiên tai, làm hại bách tính. Ông lại phải khăn gói đi tìm lại khúc gỗ, trong khi hành sự còn đánh trọng thương Kỳ Hưng. Kể từ thời điểm trên thì đâu lại vào đó, hai dòng họ tuyên bố trở thành kẻ thù của nhau cho đến khi trời sập đất lúng, xuống đến mười chín tầng địa ngục mối thù cũng không nguôi, tất cả chỉ vì một người con gái. Sự việc đến đấy thì trở nên căng thẳng tột độ, chém giết xảy ra liên miên, máu chảy thành sông, nội bộ lục lâm lục đục hơn bao giờ hết, vậy mà ông trời vẫn chưa muốn dừng trêu người. Đến đời cha của Hải Long, Trần Hồng Xuyên, trong lúc hành tẩu giang hồ gặp phải Võ Thị Duyên, con gái của Võ gia. Đôi nam nữ phải lòng nhau, quyết định gạt qua tất cả, trốn đi với nhau, trong khi đó Duyên là con gái của trưởng tộc Võ gia Võ Cang nên cô được phép đeo cây dao lưỡi hổ theo. Võ Cang hết sức tức giận và xấu hổ, bèn cho người đi theo truy sát ba mẹ của Hải Long. Trần Gia cũng không kém, vì Trần Hồng Xuyên là con trưởng, sẽ nối dõi sự nghiệp sau này nên mối nhục này làm sau họ bỏ qua được, họ liên tục cử người đi truy sát, thiệt hại của hai bên đã cao, nay lại càng tăng vọt. Võ Cang thấy vậy bèn thực hiện một cuộc báo thù kinh thiên động địa. Sở dĩ những người thông hải có thể tự do vùng vẫy ở biển khơi là nhờ một thứ ở hải vực Trường Sa, có hình thù như con hải sâm nhưng rất to, tổ tiên thông hải gọi nó là Định Hải Châu, cứ mỗi đứa bé thông hải chào đời sẽ cho nó uống một ít máu tiết ra từ “viên ngọc” ấy, như vậy nó có thể lặn sâu như cá, bơi giỏi, chịu lạnh tốt. Võ Cang huy động những người giỏi nhất của Võ Gia, tìm cách đến hải vực, phá hủy Định Hải Châu, giết luôn cả Nam Hải Thần Ngư canh giữ, việc này như giọt nước làm tràn ly, kéo hai gia tộc vào xung đột máu lửa hơn mười năm. Hồng Xuyên và Thị Duyên cảm thấy khó tránh khỏi họa này, bèn nhờ Trần Bá, một người huynh đệ của Hồng Xuyên, nuôi giữ Hải Long dùm họ, chẳng lâu sau cả hai bị truy sát. Vậy tại sao trong lăng mộ Bà Đà Nhan lại có những pho cổ thư bao gồm cả bút tích của Trần Bá? Chuyện là Trần Siêu mỗi năm đến cuối tháng tư đều đến nơi này thắp nhang tưởng nhớ người vợ đầu tiên, con cháu ông sau này đều theo lệ cũ mà làm, mỗi năm quay về đều ghi chép lại những sự việc tai nghe mắt thấy trong giới lục lâm, những tuyệt kỹ, các bài chú, vân vân. Đến thời kỳ Võ Gia và Trần Gia giao tranh, chỉ còn Trần Bá vẫn lui về đây ghi chép. Ông không muốn nói cho Hải Long biết sớm là vì muốn nó tự đi tìm, lĩnh hội tất cả tuyệt kỹ mà Trần Gia gom góp được, âu cũng là một dạng giáo dục “thương cho roi cho vọt” của lục lâm. Lần cuối cùng Trần Bá đến đây là vào năm trước, lúc đó Hải Long bảy tuổi. Hải Long nhớ lại, năm rồi cũng chính là năm Trần Bá bị giết, trước đó ông bỏ đi vài ngày, nói là đi công việc nhưng thấy ông chuẩn bị đồ nghề đủ cả, không lâu sau tin dữ ập về, kèm theo đó là một cái tên: Võ Hưng Bá. Nó lặng người đi, nhìn căn phòng cổ thư một lượt, rồi nó bắt đầu đọc, đọc đến đâu nhớ đến đó, có những chú rất khó, cấp Sát, nó tập vài lần là được, khiến Tiểu Bạch hết sức ngạc nhiên. Hải Long ở trong đấy đúng ba tháng, ngày ba bữa được Tiểu Bạch chuẩn bị đầy đủ. Đến một ngày nọ, khi Tiểu Bạch đem cơm vào thì thấy tóc của Hải Long đột nhiên dài ra, đôi mắt đỏ ngầu, suýt nữa thì nhóc chuột tinh đã sợ đến vỡ mật, Hải Long bèn trở về bình thường, rồi cười Tiểu Bạch quá nhát gan. Ngày cuối cùng trong lăng, Hải Long cùng Tiểu Bạch đến bên mộ của Lão chuột tinh, thắp ba nén nhang, nói: “Tính ra lão cứu ta ba lần, ta không biết đền đáp thế nào, ta biết lão rất yêu quý Tiểu Bạch, Hải Long nhân danh tổ tiên Trần gia mà thề rằng sẽ bảo vệ nó thay ông, ông cứ yên tâm an nghỉ, hàng năm ta tranh thủ về thăm!” Đoạn, nó quay sang Tiểu Bạch, nói tiếp: “Từ nay coi như mày là em tao, nghe chưa?” Tiểu Bạch gật đầu, hỏi: “Giờ mình đi đâu anh hai?” Hải Long mang tay nải, bao gồm một số cổ thư cậu tâm đắc, rồi nói: “Đi tìm một người tên Lý Huỳnh…” Đối với Hải Long, việc tìm Lý Huỳnh chẳng tốn mấy công sức, vừa thấy Vạn Lĩnh, nó quỳ xuống, nói: “Lần trước Long thất lễ, xin thầy bỏ qua, nay con nguyện đi theo thầy, chỉ xin thầy cho con biết, Võ Gia là những ai, đang ở đâu, được không thầy?” Lý Huỳnh không hẳn là bất ngờ trước yêu cầu đó, mà chính xác là gã cảm thấy sợ hãi trước một Hải Long thay đổi một trăm tám mươi độ, không còn cậu nhóc ngang tàn, coi trời bằng vun mà gã gặp vài tháng trước nữa. Lý Huỳnh bấm tay, nhận ra rằng tài phép của Hải Long đã tiến bộ vượt bậc chỉ trong thời gian ngắn ngủi, vả lại không tài nào đoán được nó đang suy tính gì trong đầu. Gã biết về mối thù truyền kiếp của hai gia đình Trần, Võ, gã cũng hiểu rằng giờ có ngăn cản cũng không tài nào được nữa rồi, nghĩ vậy gã bèn nói hết những điều gã biết về Võ Gia. Hải Long nghe xong im lặng một hồi, đoạn nó hứa với Lý Huỳnh sẽ quay về tìm gã rồi nó lên đường. Còn chuyện nó đi tìm Võ Gia ở đâu, làm những gì thì không ai biết, trừ Lý Tổ sư. Năm 2008, trên một ngọn núi tại Ninh Bình, có cái chòi lá nhỏ nằm nép bên tảng đá to, bên cạnh là dòng suối trong veo và một khu vườn hoa thơm bướm lượn, triền núi đang dốc chợt thoải ra vừa đủ diện tích để đặt những thứ đó vào, trông như tạo hóa tạo ra nơi này chỉ nhằm một mục đích đó vậy. Phía trước hàng ba, chỗ nhìn ra mênh mông núi đồi, có một người đàn ông chừng năm mươi tuổi đang ngồi vẽ hí hoáy, vừa vẽ ông vừa quay sang chiếc ghế bỏ trống bên cạnh mình rồi liến thoắng: “Sao? Trán cao lên xíu hả? Phải hông, tao nhớ vầy đúng rồi… Mắt thì sao? Mũi nhỏ lại, ừ ừ… Ui da! Tao bẻ răng bây giờ, cắn cắn cái gì, nghệ thuật là phải từ từ!” Cuộc hội thoại bị cắt ngang bởi tiếng phì phò của một gã thanh niên mới leo lên núi, gã đứng chống hong, hít lấy hít để không khí, mồ hôi đỗ nhễ nhại, nôm như đang mệt lắm, đoạn gã vuốt mặt, chỉnh đốn lại quần áo rồi nói với người đàn ông: “Ông cho con hỏi, trên này có ai tên Cậu Tư không?” Người đàn ông vỗ lên ghế, dưới lớp đệm chui lên một con chuột màu trắng, béo múp, nó rất dạn, nhìn chằm chằm vào gã thanh niên rồi ghé tai nói với người đàn ông cái gì đó. Ông ấy trở mình rồi trả lời: “Hùng Bonsai, ta đợi anh lâu rồi.” Ông ta nhấp ngụm trà, quay bức tranh lại cho gã thanh niên kia xem: “Suốt cuộc đời, ta chưa nhận ai làm đệ tử là để chờ một người như anh xuất hiện. Nhưng nói vậy không có nghĩa là ta sẽ đồng thuận liền, trước hết, phải vượt qua thử thách cái đã.” Gã thanh niên hết sức ngạc nhiên, tên tuổi và dự định của anh ta, làm sao ông này biết được? Phải chăng Tư Rồng là đây? Anh hỏi: “Vậy còn bức tranh? Chú cho con xem làm gì?” Tư Rồng nhìn con chuột, chỉ thấy nó gật gật, rồi ông nói: “Khi nào xuống núi, nhớ tìm một thằng nhìn giống bức tranh này, có nó trong đội, con mới tìm được ngọc rết!”
 
Chương 47 : Để ba ru con ngủ


Lâm Gia Thái Bảo - Ngoại trừ Thuỳ không hiểu Phù là thứ gì thì cả Tú Linh và tôi đều chưng hửng trước câu nói của anh Hùng, từng nghe anh nói, Phù vốn có nhiều loại, nhưng thuộc về hàng khủng chỉ có Địa Long, Thiên Hổ, Hải Phượng và Không Quy, chứ làm gì có một loại Phù nào khác khủng hơn?! Khi tôi hỏi thêm thì anh Hùng mới giải thích, anh nói, khác với ba bậc là Quyết, Ấn và Chú, Phù vốn dĩ không phải thứ luyện tập mà có, người muốn sở hữu Phù, một là do cơ duyên mà ra, hai thì phải tự lặn lội đi tìm nguyên liệu rồi tự kết cho bản thân. Nguyên liệu đã khó tìm thì không cần bàn, cách kết phù, ngoại trừ những lục lâm lão làng, đã kinh qua muôn vàn hiểm nguy, tích góp những bí thuật kinh thiên động địa thì chẳng ai biết được phải làm như thế nào cả, có thể nói cách làm càng táo bạo độc nhất, phù kết ra càng mạnh, như đã biết vốn dĩ còn rất nhiều Phù khác, chỉ có Tứ Đại phù là “ngon” nhất. Cho nên, muốn có được Phù thì chỉ nhờ cơ duyên là chính, Ca Lâu Vương có nói ngày xưa lúc ông sa cơ, gặp được ông lão rồi đánh đổi linh hồn mình để có được Ca Lâu Phù, đó chính là cơ duyên mà anh muốn nhắc tới. Tôi nghe xong thì hoảng hồn, chẳng lẽ lúc ông cậu tôi kết Thiên Hổ lên người tôi cũng đã vô tình lấy đi linh hồn rồi, anh Hùng xua tay bảo đừng lo, anh đã kiểm tra, vốn dĩ tứ đại phù không phải thứ thuộc về tà thuật cho nên chuyện đánh đổi linh hồn là không tồn tại, cho nên anh mới bảo rằng Ca Lâu Phù có phương thức hoạt động giống tứ đại phù nhưng mặt khác cũng là một lời nguyền dành cho Ca Lâu Vương. Tôi chậc lưỡi: “Ông này thiệt khổ, những lúc bí bách toàn gặp phải loại người bất lương. Làm vua cũng có sướng gì đâu!” Anh Hùng cười, tôi hỏi lý do thì anh bảo: “Ngày xưa cậu Tư cũng nói y chang mày!” Vừa dứt câu thì làn khói lại lan tỏa, kéo chúng tôi vào một gian phòng quen thuộc, là phòng của công chúa Tỳ Sa Mật La, em của cô, Tỳ Sa Mật Lan đang ngồi cạnh bên, trước mặt hai người là hai cái dĩa màu xanh lục, trống không. Tuy khuôn mặt bọn họ giống nhau như ép trong khuôn đúc nhưng không hiểu vì sao tôi lại thấy công chúa Mật La có phần sắc sảo vượt trội. Hai vị công chúa khoác áo màu xanh dương, trên đó khảm rất nhiều viên ngọc chói lòa, trang phục này trông khá giống với những bộ sari tôi hay bắt gặp trong những bộ phim Ấn Độ, trên đầu họ mang vương miện chim thần Ca Lâu đang dang cánh, há mõm dữ tợn, họ ngồi trên hai chiếc lá sen khổng lồ, cả gian phòng im phăng phắc, không một tiếng động, hai người họ chỉ nhìn chầm chầm vào cánh cửa, không ai nói với ai câu gì. Cửa mở, là Từ Khoái, hắn cúi mình cung kính rồi bước vào, công chúa Mật La không còn nhảy cẫng lên rồi sà vào lòng hắn như lúc trước nữa, nàng ngồi im như một bức tượng thiên thần kiêu sa, rũ rượi. Theo sau Từ Khoái là hai người tùy tùng, họ đang khó nhọc khinh một cái nồi nghi ngút khói. Từ Khoái tiến đến bên công chúa Mật La rồi bảo: “Nàng cảm thấy sao rồi?” Không có tiếng trả lời, công chúa vẫn nhìn chầm chầm vào cánh cửa. Từ Khoái cũng chỉ hỏi vu vơ, vốn dĩ không quan tâm nàng ta trả lời ra sao, gã nói tiếp: “Hôm nay lại bắt nàng phải vất vả rồi, nào!” Vừa dứt lời, cả hai vị công chúa liền đưa hai cánh tay ra trước mặt, Từ Khoái thấy vậy liền chụp một sợi xích rồi khóa chặt chúng lại, đoạn cố định đầu xích vào cạnh bàn, gã không bộc lộ chút cảm xúc nào cả, gã khoát tay ra hiệu cho bọn tùy tùng, chúng liền múc thứ dung dịch nhão nhẹt trong cái nồi đổ lên dĩa, nổi lềnh bềnh trên đó là những viên thịt băm được nấu tái, vẫn còn thấy máu rỉ ra. Thứ dung dịch này trông giống cháo, bốc khói như cháo nhưng tôi có cảm nhận nó không phải cháo, nguyên nhân là vì những viên thịt băm, có linh cảm không lành, tôi quay sang anh Hùng, thấy ánh mắt anh đang đanh lại nên không dám hỏi. “Cháo” vừa múc xong, bọn tùy tùng liền rối rít chạy ra ngoài, chỉ còn Từ Khoái trong phòng, nhưng hắn đứng ở khoảng cách rất xa. Hai vị công chúa thấy vậy liền múc lấy múc để, loáng cái chỉ còn lại hai cái tô không. Bỗng hai chiếc lá sen biến đổi, những gân lá màu xanh nhạt dần biến thành màu đỏ như màu máu, mép lá oằn cong lên, bao lấy thân thể của hai vị công chúa, họ gục mặt xuống, chống cả hai tay lên bàn, gân tay chuyển thành màu đen, bất chợt, họ bật đầu dậy: khuôn mặt xinh đẹp giờ đã bị biến dạng vô cùng đáng sợ. Tròng mắt đen kịt, căng lên như hai cái đít chén, răng nanh lởm chởm, lớp da tựa như lớp hồ trắng nhão nhoét, nổi chi chít gân máu bầm đen, họ rú lên những tiếng động lạnh sống lưng, dường như họ đã mất hết ý thức, cố nhào tới chỗ Từ Khoái đang đứng mà cào cấu, nếu không nhờ sợi dây xích cố định chắc tính mạng gã không được đảm bảo, Từ Khoái chỉ nhếch mép cười rồi quay lưng đi ra. Đến đây thì làn khói lại ập đến che mất mọi thứ. Làn khói “thả” chúng tôi vào một dãy hành lang âm u tĩnh mịch, nền nhà, hai bức tường và trần bên trên đều được lát bằng đá tảng vuông kích cỡ lớn, có ánh sáng màu vàng lờ mờ hắt ra ở phía cuối hành lang, một tiếng hét thê lương phút chốc lại âm vang bốn bề làm gai ốc tôi nổi cục cục. Chúng tôi nhìn nhau rồi nhắm hướng đó mà bước tới. Giờ tôi mới để ý, đi vài bước thì thấy một khoen sắt hình tròn treo dưới sợi dây xích, sau khoen sắt là một cánh cửa gỗ loang lổ những vết cào, cắt, chặt, chém đủ cả. Anh Hùng dừng lại, lấy tay sờ lên cửa rồi nói: “Gỗ U Đàm!” Là chất liệu gỗ làm vô lăng của ông chú ở Hòn Sơn, quái lạ, sao xuống đến đây mới gặp nó, còn kinh văn đâu? Anh Hùng lắc đầu, nôm cũng không hiểu, chúng tôi chỉ biết bước tiếp, càng đến gần thì tiếng gào thét càng rõ hơn, giờ mới biết đó là giọng của một người phụ nữ, giữa những tiếng hét lại chen vào tiếng nói thều thào, Tú Linh dỏng tai lên nghe rồi quay sang bảo: “Tao nguyền rủa chúng mày, tao nguyền rủa cả dòng họ chúng mày, tao có biến thành tro cũng vẫn nguyền rủa chúng mày. Đạt Bà Cẩu Tặc! Từ Tạp Chủng!” Tôi nghĩ bụng, lại chuyện gì đây, thằng cha Từ Khoái này không biết còn nghĩ gì trong đầu nữa. Lời rủa bằng tiếng Phạn ngày một lớn khi chúng tôi tiến đến chỗ ánh sáng, ghé đầu vào, tôi phải lập tức lùi lại mấy bước, thực tình tôi đã chuẩn bị tâm thế cho cảnh tượng bên trong nhưng sự chuẩn bị đó quá là sơ sài, tôi bịt miệng, kềm một cơn nôn tháo đang trào lên cổ họng, Thùy thì che mặt, ngất xỉu, cũng may Tú Linh chụp cô lại kịp. Tôi hít một hơi thật sâu rồi bước lên đứng cạnh anh Hùng, bên trong gian phòng, một người phụ nữ lõa thể đang bị treo lên cao, một mảnh vải rách rưới đủ che đi những nơi nhạy cảm. Người phụ nữ này bị treo, nhưng không phải là treo vào một dàn giáo, hay là xích sắt từ trên trần nhà rủ xuống mà là nhờ vào một cây sen khổng lồ bên cạnh, tán lá của nó trông giống với thứ mà hai vị công chúa ngồi lên lúc nãy, chính giữa mọc lên một nhánh hoa sen dài ngoằn ngoèo, đầy gai góc, đóa sen ốp lại, chụp vào bộ tóc của người phụ nữ lõa thể, giữ bà ta lơ lửng trên không. Thế nhưng điều kinh tởm nhất không phải đến từ “hệ thực vật sen” kia, mà là tình trạng của bà ta, sự việc mà đám tùy tùng kia đang làm với thân thể của bà ta. Chúng đang dùng một cây dao sáng loáng khứa vào mảng thịt trên đùi bà ta cho đến khi chạm tới xương, rồi bằng một động tác dứt khoát, lốc một lớp thịt ra. Chân trái của bà ta đã bị lốc thịt sạch trơn, chỉ còn lại bộ xương khẳng khiu, lủng lẳng, cảm giác chẳng còn thớ thịt nào dính lại. Người phụ nữ này vẫn còn đội vương miện, tóc bà ta rủ xuống, rối bời, miệng bà ta liên tục chửi rủa, ánh mắt thẫn thờ, thâm quầng, gân máu trên mắt nổi lên đỏ ói, hai tay bị những cái rễ sen bên dưới cố định, máu từ những chỗ bị xẻo thịt không chảy ra mà chỉ ứ động, tôi tự hỏi làm sao mà bà ta còn sống vậy? Tú Linh, đang ôm Thùy, nói với tôi bằng giọng tức tối: “Là ngải! Chúng tra tấn bà ta nhưng không để cho bà ta chết, cây sen đó chính là thứ cung cấp năng lượng, giữ cho máu không chảy, tim không ngừng đập. Lũ ác ôn!” Anh Hùng bảo: “Không hẳn là tra tấn đâu. Nhìn sang kia đi!” Tôi nhìn theo hướng ngón tay anh Hùng, là cái nồi đựng cháo lúc nãy, nó đang được bắt trên bếp lửa, sôi ùng ục. Bên chiếc bàn cạnh bên có một tên tùy tùng đang cặm cụi, hắn ta nhận đống thịt mà tên tùy tùng còn lại vừa lốc xong, băm chúng ra rồi cho vào nồi cháo, hắn khuấy đều, múc một ít lên cho vào miệng, hắn nếm chèm chẹp rồi còn tấm tắc gật đầu khen ngon. Tên khốn nạn này dùng thịt của hoàng hậu cho công chúa ăn để khai mở hoàn toàn quỷ hồn của công chúa mà không phải quan tâm đến tử hạn, tôi chỉ biết rủa mả cha cái tên giảo hoạt đó, nếu không phải đây chỉ là làn khói ảo ảnh, dù tay không tôi cũng quyết ra liều mình với tên vô lại đó. Anh Hùng móc một điếu thuốc, chậm rãi đưa lên miệng rồi bật lửa, tôi thấy những ngón tay anh run run rất nhẹ, nhưng đó là cái run mà tôi đã thấy, lúc anh chuẩn bị đập mười tám tên tư tế. Rít xong một hơi thuốc dài, anh lẳng lặng đi ra, chúng tôi thấy vậy cũng nối gót đi theo, lúc này thì làn khói xanh quen thuộc đã bao trùm tất cả, tôi vẫn nghe tiếng rủa của người đàn bà kia âm vang đâu đó. Làn khói đưa chúng tôi xuyên qua những gian phòng, gian điện rồi phóng ra ngoài, đô thị của Ca Lâu Thành lại hiện rõ mồn một dưới chân chúng tôi, nhưng nó không còn như xưa nữa rồi, tất cả bị bao trùm bởi một gam màu vàng bụi bặm nhưng u ám đến thê lương. Cảnh mua bán tấp nập được thay bằng những dáng người lầm lũi, hẩm hiu, ánh mắt họ đầy sợ sệt; cảnh trẻ con nô đùa được thay bằng ánh mắt dáo dác của những bà mẹ đang ôm con mình vào lòng, như sợ có ai đó bắt đi; đàn ông, đàn bà, bất kể già trẻ đang đứng tụ tập xung quanh một cái bàn, ngồi trên đó là Từ Khoái, gã đang kiểm tra sổ sách gì đó rồi nhìn sang tên lính đứng kế bên mình, hắn thấy vậy liền hô lớn, từ phía đám đông một lão niên đầu tóc bạc phơ chống gậy bước ra. Lão quỳ xuống hành lễ rồi nói bằng giọng lắp bắp: “Bẩm Từ Đại phu, nhà con đã gửi đi ba người, con năm nay tuổi già sức yếu xin được ở lại chăm lo nhà cửa ạ!” Từ Khoái nhìn lão ta rồi quát: “To gan, Quốc Vương đang cần nhân lực, ta phụng mệnh người đi kêu gọi nhân dân, lâu nay các người đã hưởng cuộc sống ấm nó, cũng là nhờ công của Quốc Vương, nay người chỉ mượn sức các ngươi đi xây một tòa tháp, mà các ngươi lại trở mặt như thế hả? Người đâu, lôi lão già này ra đánh cho ta!” Lão già nghe xong liền vái lấy vái để nhưng vô ích, hai tên lính đã nhanh chóng lôi lão ra phía sau, thi nhau dùng gậy đánh vào tấm lưng của lão, tôi nghe những tiếng răng rắc như xương gãy vụn. Làn khói lại kéo chúng tôi đi, tôi nghĩ trong bụng, tòa tháp có ánh sáng đỏ lấp lánh, đích đến cuối cùng của chuyến đi, chẳng lẽ lại được xây dựng bằng xương máu của người dân như vậy? Không giống với những công đức được ghi chép lại trong những cuộn da lúc trước tẹo nào, gã Từ Khoái đúng là tay bịp bợm bật nhất mà, cứ tưởng việc gã hư cấu công trạng Ca Lâu Vương đã tuyệt đỉnh hư cấu rồi, ai ngờ so với bụng dạ của gã còn thua một trời một vực. Tôi vẫn hy vọng, tất cả những thứ khốn nạn gã làm chỉ vì một lý do tốt đẹp nào đó, nhưng nghĩ nát óc cũng không ra, gã ta làm vậy nhằm mục đích gì? Chúng tôi đáp lại tại một bờ biển, chính xác hơn là một dãy đồi thấp bao quanh bởi biển, phía cuối là những dãy tường, Ca Lâu Thành mọc lên phía xa xa. Bên dưới, cỡ mấy ngàn người đang đứng nheo nhóc, bị nhốt trong những cái lồng bằng kim loại khổng lồ, xung quanh binh lính với áo giáp, vũ khí đủ cả đang đứng canh gác. Ở một cái lồng ít người hơn nằm ở ngoài rìa, tôi có thể thấy thấp thoáng bóng dáng của Tỳ Giả và Giản Độ, họ vẫn vận bộ đồ máu me y như lúc bị giải đi, phía sau là những vị Tư tế, vẻ mặt ai nấy cũng thất thần, cơ thể gầy đi, tiều tụy thấy rõ. Từ phía đám lính bên ngoài, một tên bước lên, trên tay hắn cầm một cuộn giấy, hắn dở ra rồi dõng dạc đọc: “Quốc Vương Ca Lâu Thành tuyên án tù nhân chiến tranh, tàn quân của Tỳ Khâu Sa Thác đã bị đánh đuổi, cuộc sống của bá tánh Ca Lâu Thành đã an bình trở lại, nhưng tội ác của các ngươi là không thể dung tha. Thêm vào đó, Tỳ Giả, Giản độ và các vị Tư tế lại phạm thêm vào tội mưu phản, nay ta, Ca Lâu Quốc Vương Tỳ Khâu Đạt Bà tuyên án các người tử hình, thi hành ngay tức khắc!” Vừa dứt lời, binh lính liền khép chặt vòng vây, những người không còn tất sắc trong tay liên tục bị giải ra ngoài bằng một lối đi nhỏ hẹp của những cái lồng, những người như Tỳ Giả, Giản Độ và những vị Tư tế thì bị gông cườm cẩn thận, không tài nào thi triển gì được, chúng đưa từng người đến bên những mỏm đá, trên đó là những đao phủ đeo mặt nạ đang đợi họ. Những tiếng chém “xạch, xạch” vang lên liên tục, máu phun xuống biển nhuộm một màu đỏ chết chóc, tiếng la hét, tiếng khóc lóc, tiếng gào thét vang dậy cả một vùng, đầu của tù nhân rơi rụng như mưa, lăn từ trên triền đồi xuống bãi biển, ngó xuống phía dưới thì cũng đã chất hàng đống rất cao những đầu lâu, có cái thì đã ra xương trắng, có cái thì đang phân hủy, thì ra Biển Oan Hồn là cái này à? Sự việc còn chưa dừng lại ở đó, sau khi hành hình xong, hai tên lính liền lôi cái xác không đầu về phía sau, tại đó có một đội quân khác, dẫn đầu bởi Từ Khoái, gã đã cho chuẩn bị đất sét, sau khi những cái xác này được lôi vào thì quân lính sẽ đắp đất lên người chúng còn Từ Khoái thì lầm bầm đọc những câu chú, những cái tượng này lặp tức cứng lại, quân lính lại chất chúng lên xe, chở thẳng về hướng Ca Lâu Thành. Quay sang hướng mỏm đá, tôi thấy mặt biển bên dưới phút chốc lại biến động, như có con gì đó đang cựa quậy với thân mình trơn nhẫy và sáng bóng loang lổ, chúng đang tranh nhau ăn những cái đầu người liên tục rớt xuống. Đến lúc này thì tôi nghe anh Hùng thở dài, thú thực tôi cũng đang tức điên cả người đây, trường sinh bất tử là thứ gì vậy, chẳng phải Ca Lâu Vương cũng đã nhận ra cái giá phải trả là quá đắt? Đến lúc này thì thứ đó không còn là “cái giá phải trả” nữa rồi, nó đã trở thành một tội ác, hay ông ta đang hứng chịu lời nguyền. Làn khói quen thuộc đưa chúng tôi đến bên trong một chiếc xe ngựa, Tỳ Khâu Đạt Bà đang ngồi ôm đầu, bứt tóc, ông ta ngước lên, ánh mắt đã thâm quầng, thân thể tiều tụy trông thấy, không còn hào khí kiêu hùng tôi thấy lúc trước nữa, ông nói với người đi cùng mình: “Sắp về đến chưa?” Người kia châm một ly trà đưa cho Quốc Vương rồi bảo: “Dạ bẩm, chúng ta đã vào địa phận Ca Lâu Thành rồi ạ. Lần này về người nhất định phải tẩm bổ lại mới được, sức khỏe của người đã có dấu hiệu xuống dốc rõ rệt. Thường thì những chuyến đi sứ như thế này đâu thể làm hại đến người. Vả lại, chuyến này lại về sớm!?” Đạt Bà nhấp ngụm trà rồi hỏi: “Ngươi có con gái không?” “Thưa, có ạ.” “Vậy con ngươi bị bệnh ngươi có lo không?” “Dạ thưa, chuyện của công chúa, hạ thần tuy không tường tận, nhưng đạo hạnh của Từ Đại phu hạ thần có tận mắt chứng kiến. Xin bệ hạ chớ nên lo lắng mà hại đến thân!” Lúc này, Ca Lâu Vương nhìn vào người đi cùng này với ánh mắt thương hại pha chút khinh bỉ, có thể vì câu nói xu nịnh, không đầu không đuôi đó ai mà chẳng nói được, tưởng tượng như sau khi giết Tỳ Giả, Giản Độ và những vị Tư tế thì không còn ai đối ẩm với ông được nữa. Xe ngựa tiến vào thành chính, vừa bước xuống xe thì một tràng những tiếng hét động trời vang lên khiến Ca Lâu Vương phải trợn mắt, ông hô lên một tiếng “Mật La!” rồi tức tốc chạy vào, chúng tôi cũng nhìn nhau rồi phóng theo sau lưng ông. Đường lên phòng công chúa chính xác như lúc chúng tôi bước vào, khác ở chỗ đi theo Ca Lâu Vương thì chúng tôi tránh được tất cả những cạm bẫy, ông tung cánh cửa khổng lồ nhẹ như không, thú thật là những phân cảnh này không có cái nào không làm tôi thốt lên một tiếng bất ngờ, trước mặt tôi, hai vị công chúa đã quỷ hóa hoàn toàn, cả hai bị cột lại bằng dây xích, dưới chân là hai tô cháo thịt người bị đổ tung tóe, hơn hai mươi binh lính đang vây quanh hai vị công chúa, dùng những mũi kim chuôi đỏ, đầu đen liên tục đâm vào tấm lưng trần của bọn họ, khâu họ lại với nhau như người ta khâu bao cát, lúc chúng tôi lên tới thì công việc gần như đã hoàn thành. Ca Lâu Vương nộ khí xung thiên, ánh mắt ông đã chuyển thành màu đỏ, miệng biến thành một cái mỏ dài, răng nanh nhọn hoắt, ông gầm lên rồi bay vào đánh chết cả thảy bọn quân lính hết sức gọn gàng, đoạn ông quay sang hai vị công chúa, kêu gào tên họ nhưng cả hai mắt đã nhắm nghiền. Thấy vậy, Ca Lâu Vương càng nổi điên, ông hét tên của Từ Khoái rồi chạy như bay đến phòng của gã, chúng tôi cũng chạy theo ngay sau lưng. Lúc ông đẩy cửa bước vào đã thấy Từ Khoái chắp tay phía sau, đứng bên cửa sổ nhìn xuống Ca Lâu Thành, thấy bộ dạng bây giờ của Quốc Vương nhưng vẫn không tỏ vẻ gì là nao núng, gã chậm rãi quay người lại rồi nói: “À Quốc Vương, người đi sứ về sớm nhỉ? Nghe đâu đến hai ngày sau mới xong mà?” Ca Lâu Vương gầm lên, giọng nói lúc bổng, lúc trầm, như có hai tiếng nói phát ra cùng một lúc: “Từ Khoái! Ngươi đã làm gì con trẫm? Ngươi muốn tạo phản à? Đây không phải là phương thuốc như ngươi đã hứa!” Từ Khoái từ tốn nói: “Quốc Vương ơi là Quốc Vương. Cho đến bây giờ mà ngươi vẫn còn tin phương thuốc đó là dành cho ngươi à? Hahaha, Khoái ta từ ngày đặt chân đến vùng này, ngỡ ngàng trước vượng khí bất thường, khi âm khi dương nhưng lại hết sức trật tự, không gây hỗn loạn, loại khí này bên Tấn Quốc kiếm mỏi mắt chỉ thấy le lói ở Côn Luân mà ta tìm không ra. Đất này là địa linh nhân kiệt, có thể luyện được thuốc nhưng cần phải có cái lò lớn cái đã, cái lò đó cần hai mươi nhánh củi, cũng phải đủ linh lực để nung. Ngươi chắc không biết, ngày đó chính ta là người giúp Sa Thác luyện âm binh chống lại ngươi, nhưng tên đó quá ngu độn, không giúp ích gì được, nên ta khử hắn luôn!” Ca Lâu Vương giận tím người, quát: “Thằng súc sinh, tại sao với đạo pháp của mi, không đường đường chính chính hạ trẫm mà phải bày trò đê tiện như vậy?” Từ Khoái nói: “Đúng là trong mắt ta, đám thập bát tư tế chỉ như trò đùa trẻ con, tuy nhiên ngươi thì khác, Quốc Vương à! Năng lực chim thần Ca Lâu La trong ngươi khắc chế được ta, chính vì điều này ta phải lao tâm khổ tứ, bày đủ mưu kế để đưa ngươi vào chỗ chết, thành lò luyện trường sinh cho ta! Cũng may nhờ có sự ngu ngốc của đám người dưới trướng của ngươi mà ta dắt mũi hai anh em nhà ngươi như dắt hai con chó. Xui cho ta là ngươi về sớm, thôi thì để ta tiễn ngươi một đoạn theo con gái mình vậy!”Nói đoạn, Từ Khoái đọc lầm rầm gì đó, hai cánh tay gã chợt nổi lên những đường kinh văn, Ca Lâu Vương thấy vậy liền hét lớn: “To gan! Dạng tôm tép như ngươi mà đòi so với trẫm. Trẫm xử ngươi trước rồi cứu con gái sau!” Từ Khoái nghe vậy liền cười lớn, hắn cúi người xuống, như muốn thì thầm với Ca Lâu Vương: “Đừng có nói điều sằng bậy. Hai đứa con gái ngươi từ đầu chí cuối đều là quân tốt thí, số phận định đoạt là phải hóa quỷ, có leo lên trời nhờ ngọc hoàng thượng đế cũng không cứu được!” Câu nói đó như chọc vào chỗ điên của Ca Lâu Vương, ông ta lao tới Từ Khoái với tốc độ kinh hoàng, đòn đầu tiên này Khoái tránh được, Ca Lâu Vương thân thể đã hóa chim gần hết, tưởng chừng như chậm chạp, ngờ đâu ông quay lại nhanh như chớp, tung một chưởng, Từ Khoái đưa tay lên nhưng chỉ giảm đi phần nào áp lực, bị chưởng đó đánh bay vào góc phòng. Không để cho Từ Khoái có thời gian phản ứng, Ca Lâu Vương tung cánh, áp sát gã trong tíc tắc, chân Ca Lâu Vương vung lên cao, định một cước kết liễu Từ Khoái, nhưng gã cũng không phải dạng vừa, gã vung tay đánh xuống mặt đất, thân thể nhờ lực đẩy mà né được đòn tử thần, mặt đất bên dưới bị lực tác động làm vỡ ra, sàn nhà sụp xuống, cả hai đều phóng ra né, tránh việc rớt xuống bên dưới. Từ Khoái dường như nhận ra nằm ở thế bị động là không ổn, gã liền cắn vào ngón tay, vẽ lên cùm tay, chỗ kinh văn chớp tắt bỗng phát sáng chói lòa, nhìn chiêu này khá giống Thiên Đăng, tay rỉ máu cầm lấy cùm tay, Từ Khoái lao đến chỗ Ca Lâu Vương, nhấn mạnh vào ngực ông. Nhưng không có tác dụng, đòn đánh tưởng chừng như mạnh nhưng chẳng rớt được cọng lông chim! Ca Lâu Vương cười điên dại trước sự ngỡ ngàng của Từ Khoái, ông ta vung tay, một chưởng đánh Từ Khoái bay về phía góc phòng thêm một lần nữa, nhưng lần này, gã đã ọc máu. Có thể thấy, Đạt Bà nhờ có Ca Lâu Phù mà áp đảo hoàn toàn, tôi cười thầm, phen này tay Từ Khoái chết chắc rồi, không dự liệu được sức mạnh của Ca Lâu Phù, xem thường đối thủ thì chỉ có kết cục này, thú thật tôi nãy giờ cũng thầm ủng hộ Ca Lâu Vương, những chuyện động trời mà chúng tôi quan sát nãy giờ cũng một tay gã Từ Khoái này làm, đứng sau điều khiển chứ đâu. Tôi vừa nghĩ đến đó thì đã thấy Ca Lâu Vương ung dung đi đến chỗ Từ Khoái, gã ta cố gượng dậy nhưng vô ích, chưởng vừa rồi quá mạnh. Ca Lâu Vương nghiến răng nói: “Đồ súc sinh, kết cục này do ngươi tự chuốc lấy!”, ông vung cánh, những cái lông cánh biến thành những lưỡi gươm sắc nhọn, nhắm thẳng hướng Từ Khoái mà đâm. Bỗng một tiếng thét vang lên sau lưng bọn tôi, chưa kịp quay lại nhìn xem nó là thứ gì thì đã thấy một bóng đen vụt ngang trước mắt, bóng đen này bay đến chỗ Ca Lâu Vương bằng tốc độ kinh hoàng rồi bằng một đòn, đánh gãy hết tất cả “lưỡi gươm” của ông ta, sau đó nó đứng chễm chệ trước mặt Từ Khoái như muốn che chở cho gã. Nhìn kỹ lại mới tá hỏa, là nhục thể bị khâu lại của hai vị công chúa! Nhục thể hai đầu, bốn tay, bốn chân này chính là thứ mà anh Hùng dùng Vãng Sanh Chú siêu thoát, khiến chúng tôi mấy giờ liền rơi vào làn khói ký ức. Nhắc mới nhớ, lúc trước chúng tôi có bàn, rằng cây ngải gây ra ký ức này là Từ Khoái cài vào, nhưng khi biết sự thật thì tôi dám quả quyết rằng Từ Khoái có muốn thì chỉ là giấu nhẹm đi chứ làm gì mà khai ra. Vậy ai là người đã làm? Nhưng đây không phải là lúc nghĩ tới chuyện này. Quay về phía Ca Lâu Vương, thấy ông đang đứng đực ra, chưa biết phải phản ứng như thế nào, miệng ông mấp máy như muốn nói gì đó như không thể thốt nên lời, cũng đúng, đòn vừa rồi nói lên rằng Mật La và Mật Lan đã mất đi ý thức hoàn toàn, không còn nhận ra phụ vương mình nữa. Từ Khoái thấy vậy liền cười ha hả, răng vẫn còn dính máu, ánh mắt đã trở nên điên dại, hắn bò lại nấp sau nhục thể của công chúa rồi quát: “Sao rồi Quốc Vương? Cảm giác như thế nào hả? Ông cứ xông vào đây mà giết Khoái tôi!” Ca Lâu Vương vẫn không nao núng, ông dang cánh bay lên cao, ánh mắt nhìn thẳng vào chỗ Từ Khoái rồi phóng những sợi lông sắc bén, nhục thể đó đỡ như không, nhưng đó chỉ là bài đánh lạc hướng, Ca Lâu Vương chợt bắt tốc độ, lao về phía nhục thể như muốn đánh vào nó, nhục thể này vốn không có ý thức, thấy bị tấn công liền dơ móng ra đỡ đòn, ai ngờ Ca Lâu Vương né đòn đó gọn gàng rồi lướt ra phía sau, một tay điểm vào hai cái ót, nhục thể đổ gục xuống sàn, kêu lên những tràng chói tay, cố sức vực dậy nhưng không được, chỉ nghe tiếng Ca Lâu Vương thì thầm: “Ba xin lỗi…” Ông nhìn về phía Từ Khoái, ánh mắt ông đầy sát khí, ông dang cánh, bắt trớn lao về kết liễu tên phản tặc, ai ngờ khi ông vừa bay đến sát bên, Từ Khoái giơ ra một thứ gì đó, lập tức ông bị khựng lại, vì tránh né thứ mà Từ Khoái đang cầm trên tay nên lao thẳng vào bức tường phía sau vang lên một tiếng “Rầm!” Tôi nghe tiếng Tú Linh chửi thề khi cô thấy thứ mà Từ Khoái đang nắm trên tay, đó là hai hình nộm bị khâu vào nhau trông rất giống với hai vị công chúa, máu rỉ ra từng dòng, nhìn kỹ mới biết nó được tạo thành từ những mẫu thịt thật. Từ Khoái nhìn vào chỗ Ca Lâu Vương lao người vào rồi nói: “Quốc Vương thích không, Khoái tôi tự tay tạo nó ra cho công chúa đó, chắc ông còn nhớ thứ này mà nhỉ?” Nói đến đó, Từ Khoái bóp mạnh vào hình nộm, lập tức nhục thể của hai công chúa ré lên những tiếng đinh tai nhức óc, lăn lộn dưới nền sảnh, tựa như đau đớn tột độ. Ca Lâu Vương lập tức hét lên: “Dừng lại!” Thân thể chim thần Ca Lâu đã biến mất, giờ chỉ còn một người đàn ông mặc áo bào, dáng vẻ tiều tụy, nước mắt đầm đìa. Từ Khoái nghiến răng: “Ngươi hét với ai, hét lại ta nghe?” Giọng Đạt Bà lí nhí: “Từ Đại phu, xin dừng lại. Ngươi muốn làm gì thì làm, đừng làm đau con ta nữa…” Từ Khoái cười đểu: “Tốt, tốt. Ngươi biết ta muốn làm gì mà, bảo vật thứ hai mươi. Xin mời!” Ca Lâu Vương nghe xong, mắt ông nhắm nghiền, ông bật dậy rồi đi về phía nhục thể, giờ nó chỉ còn phát ra những tiếng lé ré, ông nhìn nó rồi chắp hai tay trước ngực đọc thầm, lồng ngực ông lập tức mở ra, có thể thấy be sườn và lục phủ ngũ tạng, bên trên, chỗ vị trí trái tim, phát ra ánh sáng màu đỏ, là một viên ngọc to bằng cùm tay. Chẳng lẽ đây là… Không đợi tôi hỏi Tú Linh đã bảo: “Ngô Công Kim Thân đó.” Ca Lâu Vương lấy tay móc viên ngọc đó ra, rồi đặt lên nhục thể hai công chúa, nó lập tức dừng kêu đau, đoạn ông quỳ xuống, đỡ nó lên rồi choàng cả hai tay qua vai nó, ôm lấy viên ngọc và nó, ông nhắm mắt, hô to “Kết!”, ánh sáng đỏ bao phủ cả căn phòng rồi vụt tắt, đó cũng là lúc làn khói xanh ập tới. Làn khói đưa chúng tôi vụt qua những hình ảnh cảnh tượng liên hồi, những người lính bị đám quân không đầu, đeo mặt nạ ông địa giết chết; đội quân không đầu này đem nhục thể của hai vị công chúa và Ca Lâu Vương đặt lên chiếc giường; bá tánh Ca Lâu Thành bị biến thành nô lệ, xây cái tháp cho Từ Khoái, hai mươi pháp bảo đã hoàn thiện, những đường sáng màu đỏ từ hai mươi tòa tháp kết nối lại với nhau, đó chính là “cái lò” mà Từ Khoái nhắc đến, Từ Khoái cho đặt một cái ngai vàng, gã đang ngồi chễm chệ, nhìn xuống thành quả mà gã đã “cực nhọc” có được, những đường sáng gặp nhau tại cái ngai, chiếu thẳng vào người Từ Khoái, gã đón nhận chúng bằng tràng cười đáng ghét, chờ đợi sự hồi sinh. Đến đây thì anh Hùng mới nói: “Tính toán sai rồi!” Chưa kịp hiểu anh muốn nói điều gì thì phân cảnh tiếp theo đã trả lời giúp tôi: Từ Khoái đang nằm quằn quại, những tòa tháp bắt đầu lung lay và sụp đổ, khuôn mặt gã biến dạng dữ dội, tóc dài mấy thước, gã đang cố bò đến chỗ chiếc ngai vàng, trong phút chốc Ca Lâu Thành sụp đổ, không chấp nhận để mọi thứ công cốc, Từ Khoái dùng thuật cho chim tha các cuộn da đi... Đến đây thì làn khói khác lại ập đến, nó có màu đỏ, tôi nghĩ trong bụng chắc chắn đây là phân cảnh cuối cùng rồi. Ca Lâu Vương Tỳ Khâu Đạt Bà đang ở chỗ mỏm đá, gió biển thổi bộ tóc bỏ xả của ông bay phất phơ, ông ngồi trên chiếc ghế, lắc lư qua lại theo nhịp một bài hát cổ xưa, hai cánh tay ông đang ôm hai hình hài nhỏ bé, kháu khỉnh, mắt chúng đang nhắm nghiền, chợt một trong hai đứa mở miệng ngáp, ông lại hát to hơn, tôi không hiểu lời ca là gì nhưng nghe chúng êm đềm đến lạ, Tú Linh đã quay mặt đi không muốn dịch nữa, Thùy thì đang thút thít. Một đứa cất tiếng khóc, ông ôm chúng chặt hơn, tựa như cái cách mà ông ôm chúng trong gần hai ngàn năm và mãi về sau vậy. Lúc làn khói đưa chúng tôi về thì tay anh Hùng vẫn đang vịn vào trán của một trong hai vị công chúa Tỳ Sa, chợt nhục thể rã ra, hai bóng hình màu vang trong vắt bay ra ngoài cửa sổ rồi biến mất, bỏ lại cái xác của Ca Lâu Vương tan dần thành tro, chấm dứt hai ngàn năm ôm ấp, bảo vệ con mình. Tất cả chỉ là một âm mưu vô tiền khoáng hậu của một gã điên cuồng với tham vọng. Có lẽ anh Hùng phát hiện âm mưu của Từ Khoái khi lần thứ hai hắn vào chầu vua. Chợt từ đám bùi nhùi đó, một viên ngọc lăn tròn, tỏa ra ánh sáng màu đỏ đầy diễm lệ, là Ngô Công Kim Thân. Anh Hùng đưa nó cho tôi, tôi có thể cảm nhận được thứ anh sáng đỏ đầy uy lực in lên tròng mắt, trầm trồ hết mấy câu, Thuỳ cũng bước đến sau lưng tôi quan sát. Tôi hỏi: “Lúc nãy anh đã biết Từ Khoái sẽ thất bại đúng không?” Anh gật đầu: “Ban đầu Từ Khoái không quan tâm đến chuyện hai cô công chúa bị quỷ hóa, gã cứ đinh ninh dùng họ để khiển Ca Lâu Vương. Tuy nhiên chính điểm này Từ Khoái quên, viên Ngô Công Kim Thân của lão già lạ mặt cài vào người Ca Lâu Vương cũng chính là quả tim, nghĩa là lão già đó đợi ngày viên Ngô Công Kim Thân hút hết máu huyết của Quốc Vương thì lão sẽ hồi sinh. Thế nhưng tình cảm Ca Lâu Vương dành cho con quá lớn, viên ngọc chưa thể khai phá hết công lực, viên ngọc đó đặt vào nhục thể không khác gì viên đá cuội - vì nó thiếu máu của Ca Lâu Vương. Ca Lâu Vương đời đầu dùng máu mình mở một lời thề với vùng đất này, nói nôm na Ca Lâu Thành như một con quái vật, chỉ cung phụng sức mạnh của nó cho người nào mang dòng máu Quý Sương trong người mà thôi. Từ Khoái cho rằng ai cũng máu lạnh như ông ta, xem con người là cỏ rác, nên cứ đinh ninh lấy viên ngọc ra là được, ai dè… Hiện giờ anh đoán không lầm thì xác của Từ Khoái vẫn ở trên kia, nếu đặt viên ngọc này chạm vào nhục thể của hắn thì biết điều gì sẽ xảy ra không? Hắn sẽ trở thành pháp bảo thứ hai mươi, như vậy có thể, chỉ có thể thôi, hồi sinh được hắn” Thùy gục mặt: “Vậy tất cả sự giết chốc, hết thảy sinh mạng đều công cốc…” Cả đoàn im lặng, cầm được viên ngọc trên tay, nghĩa là nhiệm vụ đã hoàn thành, chúng tôi đã có thể đi ra, giờ chỉ cần tìm được Sinh là ổn. Thế nhưng, cảm giác bồn chồn chợt chảy khắp lòng ngực tôi, có một cái gì đó lấn cấn, một sự ích kỷ nhưng hoàn toàn hợp lý. Nghĩ đến đó, tôi mới quay sang anh Hùng, cảm giác khá ấp úng nhưng thái độ hoàn toàn kiên quyết, tôi nói: “Anh ơi, em chưa muốn quay ra!” Vẻ mặt anh Hùng có chút thay đổi, anh hỏi: “Sao vậy?” “Nhiệm vụ đã xong, nhưng chuyến đi thì chưa kết thúc!” “Chứ mày muốn làm gì nữa?” - Anh châm điếu thuốc. Tôi nhìn làn khói anh thở ra rồi nói: “Đập chết mẹ thằng Từ Khoái!” Anh cười: “Lâu lâu mới thấy mày nói câu nghe được!” -
 
Chương 48 : Phần 23: Hộ pháp của Lục Lâm


Lâm Gia Thái Bảo Tú Linh nghe tôi bảo đi đập chết mẹ Từ Khoái thì cười mỉm, không biết cô đang vừa ý hay là chế giễu giây phút “bá đạo” của tôi nữa, công nhận nói xong câu đó trong lòng tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều. Những việc thằng Từ Khoái làm từ đầu chí cuối đều bắt nguồn từ lòng ích kỷ với ham muốn quyền lực mà ra, còn Ca Lâu Vương, theo tôi thấy thì ông ta cũng chỉ muốn tiếp tục cai trị bá tánh, đem tới cho vương quốc của ông ta cuộc sống ấm no lâu dài. Mà nói gì thì nói, không biết trên đời này có phương thuốc trường sinh bất tử hay không, chỉ thấy một tòa thành nguy nga, tráng lệ, một vị vua anh minh và một vương quốc hùng mạnh bị lịch sử lãng quên vì nó mà thôi. Tôi hỏi ý kiến mọi người, xem coi làm gì tiếp theo, anh Hùng bảo: “Đã đập xong cái miễu ở dưới đây, giờ lên trên được rồi, có ai cảm thấy mệt mỏi hay muốn ở dưới đây đợi không?” Tôi lắc đầu, Tú Linh thì châm điếu thuốc, bắt chéo chân đứng dựa vào tường, người tôi lo duy nhất chính là Thùy, cô cũng đã biết Ca Lâu Thành là thứ gì rồi, giờ có thể ngẩng cao đầu đi ra, đâu cần theo chúng tôi làm gì cho cực thân. Chúng tôi ai nấy cũng nhìn về phía cô, đợi câu trả lời, chỉ thấy cô tự tin nói: “Em thì xong việc rồi nhưng không đứng đợi mọi người đâu, dù gì thì cũng đã cùng nhau trải qua biết bao nhiêu sóng gió, làm vậy ai coi cho được! Nhưng mà, em có chuyện muốn hỏi, chúng ta không đợi Sinh mà lên luôn hả anh? Còn anh Tùng nữa, không biết...” Thùy bỏ lửng câu nói vì biết chúng tôi ai cũng hiểu cô muốn nói gì, anh Hùng nghe đến đó mới nói: “Em đừng lo cho thằng Sinh, anh với nó đã có hẹn, mặc dù chưa biết địa điểm chính xác là ở đâu nhưng anh dám chắc với em là thằng Sinh sẽ biết đường mà mò lên trên. Còn Tùng, anh có nói với em rồi, anh ta đi chung với Sinh, thằng Sinh tuy là dân đập miễu nhưng mấy ngón nghề cơ bản của tẩu lộ như cầm máu, sơ cứu nó làm được hết, nếu nó trở về mà không có Tùng đi theo thì anh dám chắc nó đã cố gắng hết sức. Đó chỉ là trường hợp xấu nhất thôi, dù gì thì mình cũng không nên nghĩ xui như vậy.” Tôi nghe xong câu đó liền cảm thấy hưng phấn hơn bội phần, Thùy suy nghĩ một lát rồi cũng gật đầu nói là đã hiểu. Anh Hùng ra hiệu, cả bọn theo chân anh lên trên ngọn tháp, ánh sáng đỏ chớp tắt liên hồi, càng lên cao thì càng sáng hơn, bốn bóng đen in lên bức tường của cầu thang xoắn ốc, không ai nói với ai câu gì, chỉ nghe tiếng giày lộp cộp đầy tự tin của cả bọn. Có một điểm khó hiểu, ban đầu chúng tôi nghĩ thứ ánh sáng đỏ này là Ngô Công Kim Thân, nhưng anh Hùng đang giữ viên ngọc rết đó, và thứ ánh sáng đỏ của nó nhẹ hơn, có tỉ ửng hồng trong đó chứ không đậm đặc một bầu không khí đầy máu như bây giờ. Tôi thắc mắc, anh Hùng nói chính anh cũng mới lần đầu thấy Ngô Công Kim Thân có mang Thái Dương chính hiệu, viên Ngô Công Kim Thân ở Hòn Chông Chênh đã ngã xanh thì anh giao cho chú Chín rồi, giờ kêu anh giải thích anh cũng không biết đường, Ngô Công Kim Thân đâu phải hàng trôi bờ dạt chợ, muốn thấy là thấy đâu. Đường lên đỉnh tòa tháp cũng không có gì đặt biệt ngoài cuộc hội thoại đó, suốt đường đi chúng tôi có thấy vài bức tượng, bích họa về hàng loạt những công đức của Ca Lâu Vương và Từ Khoái này kia, nhưng ai cũng đã biết thừa về sự thật đằng sau nên chẳng thèm nhìn làm gì. Căn phòng “cái lò” của Từ Khoái hiện ra sau một cánh cửa mất bản lề, thân cửa nằm dưới đất, lủng lỗ chỗ, như bị một lực tác động rất mạnh từ bên trong thổi bay ra vậy. Căn phòng này trông như một khối lập phương hoàn hảo, không rộng, không chật, không cao, không thấp, chính giữa là một cái ngai khổng lồ, nó chính là thứ phát ra ánh sáng đỏ lập lòe, ánh sáng này bừng lên rồi dịu lại, đủ để soi sáng căn phòng với hàng chục cửa sổ, anh Hùng nói năng lượng từ hai mươi pháp bảo xung quanh sẽ chiếu qua những cái cửa sổ này, “sạc” cho Từ Khoái thứ viển vông gọi là trường sinh bất tử. Trên ngai, một sinh vật có hình người với lớp da khô đét đang ngồi gục mặt, lý do tôi nói nó là “sinh vật có hình người” là bởi vì những chi tiết khó hiểu xoay quanh, nó vẫn có thân thể, tứ chi và một cái đầu nhưng bộ tóc của nó dài quá xá, ước chừng chắc cũng năm sáu mét chứ chẳng chơi, nó đang ngồi bệ vệ trên chính bộ tóc này, một tay chống lên đầu, cùi chỏ tựa vào cái ngai, tay còn lại bỏ ủ rủ. Ngón tay và ngón chân của nó mọc ra nhọn hoắc, quái lạ, đã hai ngàn năm rồi sao tóc và móng tay vẫn còn sinh động đến thế? Chẳng lẽ sinh vật này chính là Từ Khoái sau khi trường sinh bất tử không thành công? Mười phần thì chín phần chính là gã rồi. Anh Hùng, tay cầm Ngô Công Kim Thân, tiến đến chỗ sinh vật kia, anh đưa viên ngọc lên gần miệng gã định nhét vào thì nghe Thùy kêu lên: “Anh ơi! Nãy anh nói làm vậy thì Từ Khoái sẽ sống lại mà? Em tưởng mình sẽ trấn yểm hay đọc chú gì đó để đày ải Từ Khoái xuống mười tám tầng địa ngục chứ?” Anh Hùng vẫn không rút tay lại, anh quay đầu về sau, nhìn Thùy bằng phân nửa khuôn mặt: “Sống lại thì sao chứ? Con mèo khi bắt được con chuột, nó có giết liền không?” Thú thực tôi cũng nghĩ như Thùy, nhưng nếu làm Từ Khoái sống dậy rồi giết gã thì mới hả dạ, tôi chỉ lo rằng sau khi hồi sinh gã rồi mà không đánh nổi thì lại chết trong nhục nhã, nhưng ý nghĩ đó lập tức bị câu nói cũ rích và thái độ tự tin của anh Hùng xua tan, khi anh quay đi, tôi còn thấy một nụ cười rất nhẹ lóe lên trên môi anh. Anh chậm rãi đưa viên ngọc rết đến gần cái xác, như thể sợ làm nhanh quá thì khoảnh khắc này sẽ chấm dứt, anh đang hưởng thụ từng phút giây, điều này làm tôi không khỏi băn khoăn, sao anh Hùng lại là người xúc động nhất trong tất cả bọn tôi sau khi xem xong ký ức về Ca Lâu Vương, một sự kiện đã xảy ra trong quá khứ xa xưa hơn cả anh Thông chăng. Ngô Kim Công Thân phát sáng dữ dội khi tiếp cận âm khí, ánh sáng dịu dàng của nó át cả màu đỏ phát ra từ cái ngai, thứ ánh sáng này như bị hút bởi Từ Khoái, những đường sáng nhỏ như sợi chỉ, chảy mạnh như dòng nước, loáng một cái đã bao quanh khắp thân thể gã, lớp da khô đét bỗng trở nên hồng hào trở lại, bộ quần áo cũng trở nên mới hơn, như được may lại từ tro tàn, không lâu sau thì một khuôn mặt trắng trẻo, khôi ngô tuấn tú với cặp chân mày rậm và bộ râu đen tuyền hiện ra trước mặt chúng tôi, nếu không tận mắt chứng kiến câu chuyện chắc nói cũng không ai tin gã này là một tay cáo già bật nhất. Anh Hùng nhét cả Ngô Công Kim Thân vào miệng Từ Khoái, lúc này anh liền lùi lại mấy bước, Từ Khoái sau khi tiếp xúc trực tiếp với Ngô Công Kim Thân liền trừng hai mắt, đôi mắt gã không có tròng trắng mà chỉ là một màu đen tuyền quỷ dị, gã hét lên dữ dội, cho cả hai tay lên trời, mái tóc dài như bị một lực hút vô hình nào đó kéo về phía gã rồi phập phồng trong không trung, trông nó giống một hệ thực vật hơn là tóc, chúng kết thành từng búi từng búi, liên tục uốn lượn như những bụi cây nhỏ lung lay trước gió. Từ Khoái chống hay tay lên thành của cái ngai rồi từ từ đứng dậy, gã nhìn thân thể của mình, trông gã hết sức bối rối, gã liếc ngang liếc dọc khắp căn phòng, dù thấy chúng tôi nhưng không có phản ứng gì cả. Mái tóc khổng lồ, khuôn mặt điển trai, bộ đồ thời Tấn, lại cộng thêm cái ngai và khung cảnh xung quanh, trông gã lúc này như một vị quân vương nào đó mà tôi hay gặp trong phim, nhưng là quân vương bịp bợm của loài quỷ. Sau một hồi ổn định lại, Từ Khoái nhìn về phía chúng tôi rồi cười ha hả, xong hắn nói gì đó bằng thứ ngôn ngữ mà tôi nghe được trong những đoạn ký ức vừa qua. Anh Hùng bảo Tú Linh dịch, cô tằng hắng rồi dõng dạc nói: “Bọn ngu ngốc, dám cá là bọn mày không biết được sự thần thông quảng đại của chụy, cuối cùng thì bọn mày cũng hồi sinh chụy dậy, chụy đây có lời cảm kích nhưng mà chỉ tới đó thôi nhé!” Từ Khoái từ từ bước xuống những bậc thang, tay dang ra cùng một nụ cười rất chi là “thảo mai” với bọn tôi, y sổ một tràng tiếng Hán cổ, Tú Linh khi nghe xong liền phun nước bọt, chửi lại gì đó rồi quay sang nói với bọn tôi: “Thằng chó đó tưởng mình chưa biết chuyện, định nói ngon ngọt dụ dỗ mình đi theo nó làm lính lác!” Nghe đến đó ai cũng sôi máu, Tú Linh bèn chửi thêm một tràng. Tôi nhăn mặt quay sang Tú Linh có ý thắc mắc về đoạn thông dịch kỳ quặc đó, cô ta chỉ phẩy tay rồi nói: “Đối với chế thì thằng Từ Khoái này là thứ đàn ông mặc váy, dịch vậy hợp lý rồi!” Thùy cười, tôi cũng mặc kệ. Quay sang Từ Khoái, thấy gã ta còn đứng thao thao bất tuyệt, Tú Linh định dịch tiếp thì bị anh Hùng ngăn lại, anh nói: “Em dạy anh nói câu này với…”, đoạn kéo Tú Linh ra góc phòng, hai người đứng thì thầm cái gì đó, tôi ráng dỏng tai lên nhưng cũng không nghe được, khoảng một phút sau thì đã quay lại, tôi thấy trong ánh mắt anh Hùng có cái gì đó cháy lên rồi vụt tắt, đây là lần thứ ba tôi thấy chúng như vậy, đây không phải là ảo giác gì nữa, nói trắng ra là anh Hùng còn dấu bài nhiều lắm. Từ Khoái vẫn đang nói không ngừng, Tú Linh dịch ra thành: “Bao lâu nay chụy chìm trong giấc ngủ, đợi một ngày có người ngu ngốc đến độ tin theo mấy thứ nhảm nhí mà chụy viết ra, thì ra là bọn bây, chụy đã cho cơ hội đi theo phục vụ chụy mà lại từ chối. Đáng tiếc. Hôm nay chụy sẽ cho bọn bây biết thế nào là…” Từ Khoái chưa nói hết câu thì đã bị anh Hùng lao lên đấm cho một cú thôi sơn lên mặt, tôi giật mình, anh Hùng quá nhanh, mới thấy anh đứng đây mà loáng cái đã áp sát Từ Khoái với tốc độ kinh hoàng, Từ Khoái ăn trọn cú đấm vào mặt, bay về phía góc phòng giống hệt như lần bị Ca Lâu Vương tần cho tơi tả, không biết anh Hùng có cố ý làm vậy không nữa. Từ Khoái chưa kịp đứng lên thì đã thấy anh Hùng chỉ ngón trỏ về phía đó rồi hô lớn, là tiếng Hán cổ, thì ra lúc nãy kêu Tú Linh dạy cho để chửi Từ Khoái hay gì đó. Tôi định hỏi anh vừa nói gì thì đã nghe anh bảo: “Nhóc Thiên Hổ, để anh dịch cho mày nghe!” Đoạn, anh lại lao đến chỗ Từ Khoái, gã đưa tay lên đỡ nhưng không kịp, anh Hùng vặn tay gã kẹp vào nách mình rồi vung cánh tay còn lại ra hết cỡ, nắm đấm của anh có những dòng kinh văn xăm ẩn màu đen vây xung quanh. Anh Hùng vọng vô bản mặt của Từ Khoái: “Đ*!” Anh vặn cơ thể gã lên rồi vọng vào be sườn: “CON!” Anh đè gã xuống, vung chân hết cỡ đạp vô bả vai gã: “Đ*!” Anh xốc cả người gã lên không trung rồi ấn vào tường bằng sức lực kinh hoàng, làm cả bức tường như muốn lung lay sập xuống: “MẸ!” Anh lại kéo gã ra, ném gã vào cái ngai làm cho nó vỡ tan tành: “MÀY!” Tôi quan sát từng đòn đánh anh tung ra, kèm theo tiếng chửi rủa vang vọng cả căn phòng (tuy có hơi tục tĩu) mà thấy trong lòng rạo rực hết cỡ, phải đánh Từ Khoái như vậy mới đủ làm cơn giận trong lòng tôi dịu xuống một chút. Anh Hùng bước về phía chúng tôi, anh nhìn tôi rồi hỏi: “Mày thấy anh chửi hay không?” Tôi cười rồi nói được lắm, nhưng hơi chóng vánh, lúc này thì anh Hùng mới châm điếu thuốc, bảo: “Chưa xong đâu, anh mới khởi động thôi, mà Từ Khoái chắc cũng chưa hiện nguyên hình!” Tôi trợn mắt: “Chẳng lẽ hắn cũng đã quỷ hóa hả anh?” “Chứ còn gì nữa, mày thử tưởng tượng ngồi trên cái ngai này, hấp thu năng lượng gần hai ngàn năm, mà thứ “năng lượng” này lại đến từ những tử thi, những con người chết không nhắm mắt, những oán linh đầy căm hận mà lại không bị quỷ hóa à?” Anh Hùng vừa dứt câu thì từ chỗ đống đổ nát, những mảnh đất vỡ ra từ cái ngai bắt đầu bay lên tứ tung, Từ Khoái đứng dậy thở hồng hộc, từ miệng gã tráo ra thứ chất lỏng màu đen, bốc mùi hôi thối cả căn phòng, gã thét lên những tràng re ré rồi dùng tay xé rách cổ họng mình, bên trong lập tức lồi ra thêm ba khuôn mặt nữa. Anh Hùng che tay chắn trước cả bọn rồi bảo chúng tôi lùi lại, tôi hỏi anh đây là thứ quỷ gì vậy, anh ngẫm một hồi rồi bảo: “Tạp Thực Đẩu, một loại quỷ cổ xưa, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Mày thấy ba cái đầu đó không, chúng có thể ăn tất cả mọi thứ. Cái đầu heo gọi là Thỉ Giả chuyên ăn xác, cái đầu khỉ gọi là Hầu Giả chuyên ăn linh hồn còn cái đầu sói là Lang Giả chuyên ăn ý chí.” Thùy thốt lên, cô bảo mình có từng đọc qua tài liệu về loại quỷ này, tương truyền ngày xưa thần Vishnu cũng phải vất vả lắm mới thu phục được nó đơn giản bởi vì tung ra chiêu gì nó cũng ăn hết, bản thân nó không mạnh nhưng không đánh được nó cũng là một bài toán khó chứ chẳng chơi. Anh Hùng nói mọi người chuẩn bị đi, vừa dứt câu thì đã thấy nhục thể Tạp Thực Đẩu lao đến chỗ tôi với tốc độ rất nhanh, cũng may anh Hùng đã kịp bắt bài, anh chạy đến húc tôi, cả hai anh em ngã lăn quay ra sàn nhà, nhờ vậy mà tránh được đòn chí mạng. Cái đầu heo của Thỉ Giả trông gớm ghiếc với những cái răng vàng khè, hai chiếc răng nanh mọc xuyên cả ra ngoài, trên đó những dòng nước bọt chảy xuống đặc sệt, nó nhìn về phía tôi và anh Hùng rồi kêu lên ren réc, đoạn há cái họng to như cái thùng với răng mọc lởm chởm lao đến tiếp tục tấn công chúng tôi. Chuyện né tránh nhờ có anh Hùng bên cạnh nên cũng không khó khăn gì, chỉ có điều, con heo Thỉ Giả này không chịu buông tha chúng tôi, mỗi lần táp hụt thì nó lại gào lên rồi xông tới mà không cần biết chướng ngại vật là cái gì. Anh Hùng chửi thề, anh đẩy tôi sang một bên rồi dùng ngón cái vuốt lên cùm tay rồi bắt chéo hai tay trước ngực, là tư thế của Thiên Đăng Ẩn Quang, anh la lớn rồi lao lên chỗ của nhục thể Tạp Thực Đẩu, đòn Thiên Đăng này chắc anh đã kềm lại nên tôi có thể thấy rõ mọi chuyện, khi anh vừa định một đòn đánh bay Từ Khoái, không hiểu sao ánh sáng của Thiên Đăng lại tắt ngắm trước khi anh kịp làm gì. Anh tung người, né cú táp hết sức hung hăng của Thỉ Giả rồi quay sang gọi Tú Linh, như muốn kiểm chứng gì đó: “Em, phóng kim vô nó thử anh coi!” Tú Linh lập tức móc trong túi ra hơn chục cây kim mà cô đã sử dụng chỗ Đảo Bia Mộ, phóng về phía nhục thể, chỉ thấy con Hầu Giả hả họng đớp hết tất. Anh Hùng chậc lưỡi: “Thiệt tình, đến cả Chú với Hình mà nó cũng ăn được. Giống quỷ chó chết gì không biết!” Anh suy nghĩ một lát rồi đặt tay lên vai tôi, bảo: “Chắc phải nhờ mày rồi, khai Phù đi!” Tôi nghe xong thấy phấn khởi hết sức, cuối cùng tôi cũng có cơ hội ra trận. Tôi bắt hai ngón tay, vuốt từ cổ tay lên trán, cơn đau quen thuộc lại ập đến vật tôi ngã xuống đất, tôi cố chịu đau rồi đọc lên bốn câu thơ, mấy ngày qua tôi liên tục nhẫm bài thơ này trong đầu nên đọc ron rót: “Thiên Hổ nghịch vuốt che mắt đời Thiên nhãn khai quang chiếu khắp nơi Hổ trảo dọc ngang chia thiên địa Nhất đắc thăng thiên vạn tầng trời. Khai!” Tôi cảm nhận được một sự thân quen kỳ lạ đến từ Thiên Hổ, lần này không đau như lần trước nữa, tôi bò bằng bốn chân, trên tấm lưng mình, tôi có thể cảm nhận được sự bảo bọc của một thực thể nào đó, nhưng vì ở sau nên tôi không thấy được thực thể đó là gì, tôi bắt đầu quan sát thấy những đường chỉ màu vàng như lần tôi tìm ra Bát Quái Động, tấm lưng tôi bấy giờ nóng rang cả lên, tôi còn nghe một tiếng gầm hiên ngang, thiện chiến vang vọng khắp bốn bức tường của căn phòng này. Tôi quay sang anh Hùng, thấy anh đang đưa vật gì đó cho Tú Linh xong rồi anh cũng nhìn tôi, chỉ chờ cái gật đầu của anh, tôi lao về phía nhục thể trước mặt mình không chút do dự. Lần đầu tiên được chiến đấu song song với anh Hùng, trong lòng không khỏi cảm thấy rạo rực, cũng nhờ đó mà mỗi đòn tôi đánh ra đều mang một chút cuồng nộ. Tôi có thể cảm nhận được tốc độ kinh hoàng của Thiên Hổ, thoáng cái tôi đã đứng sau lưng Từ Khoái, phía trước, tôi thấy anh Hùng đang lầm rầm đọc một bài chú, mười đầu ngón tay anh phủ bởi những ký tự kinh văn ngoằn ngoèo, Hầu Giả thấy chủ nhân bị đánh liền hả miệng ra hút lấy những đường sáng trên những ký tự kinh văn kia, chỉ chờ có nhiêu đó, tôi lập tức nhào lên cổ Từ Khoái, hai tròng mắt đen thui của gã trợn trừng lên nhìn tôi, chắc gã bất ngờ lắm, vậy càng tốt, điều đó sẽ tăng thêm phần hả dạ cho cú vồ này, nghĩ là thực thi, tôi vung tay, cả cánh tay được bao bởi vuốt hổ, khuôn mặt gớm ghiếc của Thỉ Giả ăn trọn đòn vừa rồi, nó gào lên, nôm đang đau đớn tột độ, con sói Lang Giả thấy vậy liền mở miệng định táp tôi, tôi lập tức xoay người, đạp lên bản mặt của Từ Khoái rồi phóng lên không trung, một tiếng rầm thấu trời xanh của Thiên Hổ vang lên cũng là lúc tôi húc cả đầu vào con Lang Giả, cả nhục thể của Từ Khoái bị cú húc đó làm cho loạng choạng, phải lùi về sau mấy bước. Tôi chậc lưỡi, hơi thất vọng, tưởng đâu sẽ đánh Từ Khoái bay vô tường chứ. Thiên Hổ năng lực khỏi phải bàn cãi trong giới lục lâm, nhưng có lẽ tôi chưa được khai phù hoàn chỉnh, các đòn tấn công dần mất đi uy lực, nếu không có anh Hùng trợ uy kế bên chắc không dám đánh hăng vậy. Nhục thể kinh dị của Từ Khoái nhìn tuy chỉ như một đống bầy nhầy quái quỷ nhưng thân thủ nhanh nhẹn không ngờ, phút chốc đã hồi phục lại sau cú đánh của Thiên Hổ. Anh Hùng lại hô ứng, cùng tôi tiếp tục xông lên nhưng đối thủ phía bên kia dĩ nhiên không phải loại dễ ăn, phải nói ba cái đầu phối hợp vô cùng ăn ý: Lang Giả phun nước bọt khiến đối phương hoặc dính đòn để rồi suy sụp, không thì nếu lúc tránh né sẽ bị Hầu Giả và Thỉ Giả đón sẵn hai bên. Hai bên giao tranh nãy giờ độ chừng ba phút nhưng với tôi nó dài như cả thế kỷ, anh Hùng thì thi triển không dưới ba mươi bài chú có lẽ từ cấp Khu và Sát đều nhắm vào chỗ hiểm của Từ Khoái hầu làm phân tâm ba con quỷ trên cổ hắn, có vẻ anh cũng đã gần tới giới hạn của bản thân khi cứ thở hồng hộc và phải di chuyển liên tục để tránh nước bọt của Lang Giả, phần tôi do có Thiên Hổ nên phần tránh né cũng gọn gàng hơn tuy nhiên tấn công thì không uy lực bằng. Trong lúc tôi và anh Hùng cố sống chết lao lên quần thảo với Từ Khoái thì Tú Linh đang chạy xung quanh mép tường của căn phòng, thỉnh thoảng cô ghim một cây kim có buộc chỉ đỏ xuống, có lẽ là “đồ chơi” mà anh Hùng đưa cho lúc nãy. Sau một đợt dâng lên tấn công khiến cả hai bọn tôi thấm mệt, anh Hùng khoát tay ra hiệu lui về, vừa đúng lúc Tú Linh có vẻ như đã lo liệu xong phần cắm mấy cây kim, bèn đứng ở một góc vẫy tay làm ám hiệu. Anh Hùng cúi xuống làm hại tôi cứ nghĩ anh ấy buộc dây giày, ai ngờ có hai sợi chỉ đỏ nằm đấy tự khi nào, sực mình nhớ lại chỗ này lúc nãy anh Hùng và Tú Linh bàn bạc kế hoạch, có lẽ khi bắt đầu chạy đi cắm các cây kim, Tú Linh để sẵn hai đầu sợi dây ở đây, nhìn gần mới thấy nó được bện lại từ một nhúm chỉ đỏ thường, cứ khoảng ba bốn mét thì có một nút dây, thắt chung với một tờ giấy được cuộn tròn. Từ Khoái vẫn ngạo nghễ đứng từ xa nhìn anh Hùng vẻ khinh bỉ rồi hắn chầm chậm bước đến, nói: “Sao hả gã hậu sinh ngu ngốc? Định quỳ lạy Từ Khoái ta đúng không? Làm nhanh lên đi chứ?” Tôi gân cổ lên, mặc dù biết gã không hiểu tôi nói gì: “Con mẹ nhà ông, đồ chó má, hôm nay bố mày cho mày biết trời cao đất dày là cái gì!”, vừa nói tôi cúi thấp người theo thế tấn công quen thuộc của Thiên Hổ, lúc này anh Hùng lại khoát tay một cái nữa - đầy tự tin, anh quay sang nói với tôi: “Thôi đánh chơi nhiêu đó thôi, mày lui ra sau đường chỉ này, nhanh!” Nói xong, anh cầm hai đầu sợi dây, từ từ đứng dậy, vừa lẩm bẩm gì đó rồi nói một câu mà dù Tú Linh đang thở dốc cũng phải ráng dịch cho Từ Khoái một phen khó hiểu: “Chào mừng đến với lục lâm thế kỷ hai mươi mốt, thằng chó!” Anh chắp tay, hai đầu sợi dây chập lại với nhau, lóe lên ánh sáng như bị đốt cháy, sau đó hai bàn tay anh úp lại và xòe ra, ấn mạnh xuống đất, hét lên “Khai” một tiếng, tức thì vòng chỉ đỏ như có một thứ gì thổi bay lơ lửng giữa không trung, mềm mại vô cùng! Tôi còn chưa hết ngạc nhiên bởi loại thuật mới mà anh Hùng “diếm hàng” đến giờ, đã vậy còn bất ngờ hơn Từ Khoái đột nhiên rống lên một tiếng ra vẻ vô cùng đau đớn, từ các vết rách ở cổ một chất dịch màu đen túa ra liên hồi rồi y ngã lăn quay ra đất, cơ thể co giật làm ba cái đầu quỷ kia như tan ra thành tro bụi, bị hút trở lại vào da cổ y, để lại những vết rách nham nhở gớm ghiếc. Gã thở phì phò trút ra một tràng tiếng chửi rủa, Tú Linh có vẻ hả hê lắm nên dịch ra cho anh Hùng đối đáp: “Thằng khốn, mày thi triển thuật quái quỷ gì vậy, cơ thể ta… Tại sao?” Anh Hùng bước chậm rãi vào vùng không gian được tạo bởi sợi chỉ đỏ lơ lửng bồng bềnh, vừa đi vừa giải thích chậm rãi: “Đúng là mày rất mạnh, nhưng chỉ ở thời của mày và ở đất nước của mày thôi, bọn tao là lục lâm của Việt Nam, những gì đang hành hạ mày trong đau đớn tên là Dạ Ma Thiên, vốn là thủ thuật của một nhóm người trong lục lâm bọn tao, mày cứ nhớ tên họ là hàng thịt, lát nữa có xuống cửu tuyền thì nhớ tránh xa mấy người đó ra nhé!” Thấy tôi còn có vẻ ngơ ngác, Tú Linh sau khi dịch xong đoạn đó của anh Hùng thì quay sang “bồi” thêm một ít: “Có nhớ Như Lai Ngũ Chỉ Thiên chỗ Chú Ba Lành không? Dạ Ma Thiên cũng là một khu vực bị kiểm soát giống như vậy, trong thần thoại Phật giáo có nhắc đến một tầng trời gọi là Dạ Ma Thiên, tầng trời đầy ánh sáng, kiểm soát những thứ ám hồn tăm tối, anh Hùng suy đoán nguyên lý hoạt động của Tạp Thực Đẩu cũng như “phù” Ca Lâu La của Ca Lâu Vương khá giống nhau, sau này lục lâm mới kế thừa rồi phát triển thành loại Phù của riêng họ. Dạ Ma Thiên là Thiên khống chế Phù!” Cảm giác như Tú Linh còn muốn nói rất nhiều nữa, tuy nhiên tình hình trước mắt khiến cô phải tập trung theo dõi nên bỏ ngang đoạn giải thích ở đó. Trong vòng tròn chỉ đỏ, Từ Khoái bò mọp dưới đất, đau đớn khôn xiết, anh Hùng đứng hít thở lấy lại sức, anh bẻ tay rôm rốp rồi nói: “Mày ghi lại những cuộn da, mục đích thực sự không phải là vì lấy lòng Ca Lâu Vương mà ở lại đúng không? Mục đích chính của mày là nếu tổng hợp tất cả cuộn da lại, mày để cho người đọc ấn tượng bởi một Từ Khoái quả cảm, anh hùng. Mày đặt ra rất nhiều cạm bẫy trong Ca Lâu Thành mục đích là ngăn ngừa những người không có năng lực bước vào đây vì có thể họ sẽ phá hủy thi thể của mày cũng như làm sai lệch các pháp bảo, mày cần một người biết chuyện đủ để họ rơi vào cái bẫy từ cuộn da mà có thể vô tình hồi sinh cho mày, đúng chứ?” Từ Khoái tuy đang quằn quại dưới đất, nghe Tú Linh dịch lại xong cũng cười lớn, nói: “Khá khen cho thằng chó như mày cũng thông minh, đúng vậy, ý định của tao là thế, mày có ngon thì…” Chưa kịp để hắn nói hết câu, anh Hùng lao đến bằng thân thủ kinh hồn, liên tiếp tung đòn vào mặt và bụng hắn, tưởng như đòn nào cũng có thể là đòn chí mạng nếu lúc sinh thời tên Từ Khoái này không phải là dạng bá đạo một phương, âu chỉ chịu được hai đòn là cùng! Tuy không đường hoàng gì cho lắm, tuy nhiên tình cảnh này, ba đánh một làm tôi thấy hài lòng. Từ Khoái cố gắng chạy ra khỏi Dạ Ma Thiên để kích hoạt lại Tạp Thực Đẩu, tuy nhiên cứ vừa thoát khỏi đòn liên hoàn của anh Hùng thì tôi và Tú Linh đều đón đầu đợi sẵn, ban phát thêm cơ số nội thương cho y. Từ Khoái đúng là con quái vật, tất cả những đòn bọn tôi tung ra hầu như gần hết sức ấy vậy mà gã cũng chỉ mới thấm mệt chứ chưa thấy dấu hiệu đau đớn gì cả, điều này chỉ tổ làm bọn tôi điên lên thêm, cứ đấm đá túi bụi, anh Hùng kết thúc đòn liên hoàn của mình bằng một chưởng Thiên Đăng Ẩn Quang nhắm thẳng vào bụng y, đánh y bay thẳng lên trần nhà. Nhưng có lẽ anh Hùng cũng sực nhớ, tứ diệt ma bao gồm Quyết, Ấn, Chú, Phù vốn dĩ chỉ có thể diệt âm khí, không đả thương dương khí được, Từ Khoái tuy quỷ hóa, nhưng trạng thái y hiện nay đã quay về người thường, đòn Thiên Đăng Ẩn Quang đầy uy lực ấy xem ra không đủ thấm tháp, nhưng cũng để lại chấn thương vật lý không nhỏ. Từ Khoái thân thủ cũng không phải dạng xoàng, vừa chạm đến trần lập tức dùng tay bám chặt vào, đu mình lơ lửng trên không, nghiến răng chửi rủa gì đó nghe không rõ. Đột nhiên hắn rút tay ra, trong lúc rơi xuống liền chắp tay thi triển gì đó, chỉ bằng một khoảnh khắc toàn thân tôi cứng lại như tượng đá, có vẻ mọi người cũng bị dính thuật, chỉ thấy Thùy kêu lên hoảng hốt, Tú Linh định đến trợ sức nhưng cũng bất lực, không gian xung quanh bỗng chốc phủ đầy một màn sương trắng dày đặc giơ tay ra không thấy được ngón, màn sương lạnh ngắt đầy chết chóc cứ phả nhẹ vào da thịt khiến tôi ớn lạnh tận xương tủy, cảm giác sợ hãi pha lẫn bất lực như cơn sóng dâng trào trong lòng. Còn đang chìm đắm trong sợ hãi vô định, cơ thể tôi trở lại bình thường, cảm giác nhẹ bẫng vừa xuất hiện thì lù lù trong màn sương, một bàn tay thối rửa thò ra nắm chặt lấy cùm tay tôi kéo mạnh về phía trước, dí sát mặt tôi vào một nắp hòm đang mở hé, bên trong có một khuôn mặt cũng đang giai đoạn phân hủy bốc mùi nồng nặc. Tôi vừa định giằng tay ra thì nó càng siết chặt hơn, rồi cái khuôn mặt kinh tởm đó mở mắt trừng trừng, cảm giác như mắt tôi và mắt nó chỉ cách nhau gang tấc, nó mấp máy cái môi lở loét, thều thào: “Sao mày ăn thịt tao? Sao mày ăn thịt tao?” Không thể giấu nỗi kinh sợ, tôi cố sức vùng mạnh đến nỗi làm đứt cả cánh tay của cái xác, tôi mất đà bật ngửa ra sau, va vào thứ gì đó mềm mềm. Linh cảm có chuyện không lành chạy dọc sóng lưng, tôi lập tức nhảy lui ra sau rồi quay lại nhìn thì thấy mình vừa va vào một đống thi thể trương sình được xếp chồng lên nhau. “Bọn nó” như bị đánh thức đột ngột, con nào cũng mở mắt thau láo, nhìn chòng chọc vào tôi rồi từ từ ngóc đầu dậy, bò bằng tứ chi lao đến chỗ tôi đứng. Lúc này phải gọi là hồn vía tôi lên mây cả, chẳng còn tâm trí để quan tâm cái loại tà thuật nào mà lão Từ Khoái vừa sử dụng, chỉ co chân lên chạy như điên cho đến khi vấp phải thứ gì như nhánh cây làm tôi té sấp mặt. Trong đầu vẫn biết chỉ có những thứ cô hồn âm binh ở nơi này chứ nhánh cây nào ra, tôi thêm một phen khiếp vía khi mình vừa vấp vào cái cẳng chân một bộ xương khô, xung quanh vang lên những tiếng lạo xạo xương vỡ, cảm giác như lúc đi qua Biển Oan Hồn nhưng tôi biết rằng, xung quanh mình lúc này chắc phải cả trăm bộ xương đang lao đến. Tôi trấn tĩnh lại, âu cũng là lựa chọn duy nhất lúc này, vuốt vào vai, cảm giác đau nhói rỉ máu, tập trung gọi Thiên Hổ ra nhưng hoàn toàn không có tác dụng, phen này chắc đành chôn xác chung với Ca Lâu Vương mà thôi, ai ngờ còn chưa than hết câu, xung quanh tựa như bộc phát ra một trận cuồng phong thổi bay sạch trơn màn sương ma quái kèm theo đó là một tiếng thét nghe rất… vui tai vì tôi biết nó là của Từ Khoái! Màn sương biến mất, ảo giác đã bị đánh tan, tôi, Tú Linh và Thùy ai nấy nhìn nhau ngơ ngác vì biết rằng vừa rồi mỗi người đều trải qua ác mộng lớn nhất của đời mình. Giữa phòng, anh Hùng đứng thẳng đầy kiêu hãnh, anh vừa đấm một cú trời giáng vào Từ Khoái khiến gã bay đến góc phòng nằm rên ư ử. Sau khi xem xong ký ức, cả thảy bọn tôi ai nấy đều thích chuyện đánh Từ Khoái sao cho gã bay vào góc phòng mới được. Anh Hùng bước đi chậm rãi đến gần Từ Khoái, tôi chợt giật mình kinh hãi khi phát hiện ra Từ Khoái đã bị anh đánh văng ra khỏi khu vực Dạ Ma Thiên, kiểu này để gã khai triển Tạp Thực Đẩu lần nữa thì đừng mong lừa vào Dạ Ma Thiên. Tú Linh cũng thấy chuyện đó, liền hét lớn lên: “Kết liễu hắn nhanh đi, anh làm cái gì vậy?” Tuy nhiên tôi cảm nhận từ anh Hùng một luồng khí khác hẳn, căm thù và chết chóc. Mỗi một bước đi hai tay anh bắt Chú, miệng lẩm bẩm kinh văn, hoàn toàn bỏ ngoài tai lời kêu của bọn tôi. Từ Khoái lúc này đã tỉnh lại sau cú đánh trời giáng lúc nãy, y như bọn tôi nghĩ, gã lập tức thi triển Tạp Thực Đẩu thêm lần nữa, tuy nhiên có lẽ do thể lực tiêu hao quá nhiều nên quá trình đó diễn ra khá chậm, cộng thêm Tú Linh câu giờ bằng những mũi kim hết sức khó chịu. Quá nôn nóng, tôi định lao lên thì lập tức Thùy níu lại ngay, cô lắp bắp: “Nhìn… nhìn anh Hùng kìa!” Tôi và Tú Linh quay sang, vẫn là một thứ sát khí ngất trời tỏa ra từ anh, không giống cảm giác an toàn hằng ngày. Tú Linh khẽ nói: “Cái gì nữa vậy trời?” Tôi lên tiếng giục: “Chế, nhanh lên, để nó hồi sinh Tạp Thực Đẩu là xong đó!” Tú Linh nhìn như người mất hồn, nói: “Chế không biết sao nhưng linh cảm nghề nghiệp cho chế biết, chú em đừng nên đi qua đó lúc này!” Tôi đứng như trời trồng, nhìn vào anh Hùng vẫn bước chậm rãi kèm theo những cái bắt Chú nhẹ nhàng, tựa hồ như anh đang mất dần ý thức, điều làm tôi ngạc nhiên đó là lúc này xung quanh anh giống như đang tỏa ra một thứ khói, pháp khí chăng? Nó có màu vàng, ngưng kết lại sau lưng anh giống như đang “nặn” ra một hình thù gì đó. Là một cánh tay? Lại thêm một cánh tay khác? Những cánh tay cứ thế được tạo thành từ khói hư vô, tuy không rõ ràng vành vạnh nhưng nhìn vào thì chỉ nghĩ đến chuyện sau lưng anh, làn khói màu vàng đang kết thành bốn cánh tay đối xứng nhau, tựa như một đóa sen đang nở, thường thấy ở những tượng thần của Ấn Độ giáo. Chợt tôi thấy Tú Linh không còn đứng thần ra nữa, cô ta lấy ra một điếu thuốc, châm lên rồi kéo một hơi trông hết sức nhàn nhã, nói: “Giờ thì có ba thằng Từ Khoái cũng chết với ổng!” Tôi và Thùy quay sang thắc mắc, Tú Linh nói: “Mấy đứa biết Hộ pháp trong Phật Giáo không? Lục lâm cũng có một kiểu như vậy, nhưng ít người luyện được lắm, nôm na thì nó là Chú thôi, nhưng nếu một bài Chú cấp Sát kết hợp với một lời nguyền, bùm, ta có một ông thần Hộ pháp!” Thùy hỏi: “Vậy… của anh Hùng… là thần nào vậy?” Tú Linh thả tiếp hơi khói thứ hai, nói: “Shiva, thần hủy diệt!” Nghe đến đó chúng tôi lập tức nhìn lại cuộc chiến bên kia, anh Hùng lúc này đã bước sát đến Từ Khoái, pháp khí mà anh toát ra khiến Từ Khoái tay run bần bật, chẳng thể gọi Tạp Thực Đẩu ra được nữa! -
 
Chương 49 : Chơi vơi


Lâm Gia Thái Bảo - Từ Khoái không thể giấu nổi kinh hãi trào dâng trong ánh mắt, thiếu điều môi gã xệ xuống. Hình ảnh một kẻ hậu sinh hùng dũng hiên ngang đứng trước mặt gã, thậm chí cảm giác như cao hơn một cái đầu. Sau lưng anh Hùng là luồng pháp khí tựa hồ chỉ như làn khói nhưng lại dày đặc và cuộn trào không ngừng, ngưng kết thành hình ảnh thần Shiva (ít ra Tú Linh cũng nói vậy) đang dang tay quả thật không khỏi khiến người khác trầm trồ, chẳng thể tin nổi nếu không nhìn tận mắt. Căn phòng vốn dĩ được chiếu sáng một ánh đỏ khiến chúng tôi thỉnh thoảng phải chớp mắt vì mỏi, tuy nhiên không hề nhìn lầm, từ khóe mắt anh sáng lên, chính là cảm giác tôi đã gặp mấy lần lúc trước. Đôi mắt anh trừng lên, bên trong hai con ngươi là hai vòng lửa hình tròn, hoàn hảo như hai chiếc nhẫn đang xé lửa xèn xẹt, hình ảnh đó làm tôi nghĩ đến đôi mắt của Ngộ Không, Hỏa Nhãn Kim Tinh, nhưng có lẽ đó chỉ là truyền thuyết, trường hợp mắt anh Hùng có chăng chỉ là “tác dụng phụ” của việc triệu hồi Shiva. Tôi không tài nào lý giải được. Pháp khí càng ngày càng dày đặc hơn, áp đảo hẳn quỷ khí của Từ Khoái, gã ôm thương tích đầy mình nay lại gặp chuyện dị thường, khó tránh khỏi cảm giác hoang mang tột độ, hai tay cứ run lẩy bẩy chẳng còn tí sức, thậm chí chẳng thấy Tạp Thực Đẩu xuất hiện mặc dù gã đã thi ấn cả chục lần. Về phần anh Hùng, anh vẫn đứng gần như bất động, khuôn mặt chẳng hề có miếng cảm xúc nhưng tôi hiểu phần nào, đó là khi cơn giận dữ đã lên đến đỉnh điểm. Rõ ràng anh ấy có ác cảm và mối thù gì đó rất lớn với Từ Khoái, nhưng tại sao cho đến khi gã ta tung ảo thuật sương mù thì anh Hùng mới thức tỉnh được thần Shiva với cơn phẫn nộ vô bờ bến này? Trong ác mộng Từ Khoái tạo ra, điều ghê gớm gì đã xuất hiện? Thêm một điều khiến tôi chẳng thể lý giải nổi, chỉ đành đợi mọi chuyện xong xuôi, hỏi trực tiếp anh thì may ra. Vừa mới dứt dòng suy nghĩ, phía góc phòng, anh Hùng trong trạng thái Hộ Pháp thủ thân, tung một cú đấm thẳng vào mặt Từ Khoái làm đầu gã đập mạnh vào tường, tạo nên một âm thanh khủng khiếp. Sau đó là một cuộc tấn công kinh hoàng và hoàn toàn nghiêng hẳn về anh Hùng, Từ Khoái thậm chí chẳng thể đỡ nổi một đòn, cứ mỗi lần Từ Khoái sắp nằm gục ra đất thì anh Hùng lại đá gã lên và cứ thế đánh như tập với bao cát, điều làm tôi ngạc nhiên là những đòn này hết sức dã man, mặc dù tôi chẳng ưa gì gã, nhưng cách hành xử của anh Hùng lúc này quá khác biệt, ra đòn hết sức tàn bạo, chốc lát mà anh đã bẻ cả hai tay và hai chân của gã ta - vặn đến gần đứt khiến gã kêu lên đầy đau đớn pha lẫn là tiếng khóc và van xin gì đấy, Tú Linh còn vẫn ngạc nhiên nên cũng chẳng buồn phiên dịch. Nhận thấy mọi chuyện có vẻ như trở nên không ổn và anh Hùng đang dần mất kiểm soát, linh tính mách bảo ngay lúc này tôi phải làm gì đó, tôi đã thử hét tên và ném đá về phía anh như vô ích, anh có lẽ đã bị cơn giận dữ kiểm soát. Suy nghĩ về chuyện có thứ gì đó đang chi phối hành động của anh, lợi dụng cơn phẫn nộ từ ác mộng mà Từ Khoái đã tạo ra, tôi quay sang Tú Linh, nói: “Bà chế, làm cái gì đi chứ!” Tú Linh tỏ ra khá bối rối, lần đầu tôi thấy cô ta như vậy: “Nhóc nói thì hay lắm, làm là làm cái gì!” Đột nhiên, cả tôi và Tú Linh cũng như Thùy như chết đứng, khi luồng pháp khí màu vàng phía sau anh Hùng, tựa như mọc ra thêm một cái đầu nhìn trừng trừng vào bọn tôi đầy dò xét, kiểu như coi có phải là kẻ thù hay không để mà… vặt tay chân như Từ Khoái! Nước lúc này đã đến cổ, buộc phải hành động, tôi không nói nhiều, chỉ kịp gọi Thiên Hổ rồi lao về phía anh Hùng. Có lẽ Tú Linh cũng hiểu, liền phóng kim vào hai vai anh, mục đích để củng cố tam muội chân hỏa vì khi chúng ta bị mất kiểm soát, bị ma quỷ nhập tràng hay thứ gì đó yểm lên người, tam muội chân hỏa hai vai và đỉnh đầu sẽ suy giảm, thắp lại để vật chủ có được ý thức là giải pháp Tú Linh nghĩ ra ngay lúc đó. Kim vừa cắm vào vai, khuôn mặt trên pháp khí liền bỏ Từ Khoái sang một bên, quay sang nhìn về hướng Tú Linh đầy vẻ khó chịu, lúc này thì tôi đã lao đến dùng sức đẩy anh Hùng ra xa khỏi thứ khói vàng đó nhưng không được vì hung thần Shiva bằng khói ảo vung ra cú đánh hết sức uy lực buộc lòng tôi phải né tránh trong gang tấc, kỳ thực cú đánh tốc độ kinh khủng đó không nhờ Thiên Hổ thì chắc xương cốt tôi hóa ra ngàn mảnh rồi cũng nên. Cứ tưởng vô vọng trước một vị thần hủy diệt, ai ngờ những mũi kim Tú Linh phóng ra khi nãy bắt đầu có tác dụng, pháp khí màu vàng từ từ bị lấn át bởi một lớp màu xanh, một bên mắt của anh Hùng không còn phát sáng nữa, nhận thấy cơ hội, tôi liền lao đến vung hai tay ôm chặt anh lại, vừa ngay lúc Tú Linh phóng mũi kim quyết định vào đỉnh đầu của anh, tạm coi như tam muội chân hỏa đã được thắp lại, chỉ thấy lớp pháp khí màu vàng như bị một cơn gió bộc phát từ người anh Hùng, đẩy văng ra xa rồi tan biến vào không gian. Hộ Pháp biến mất, anh Hùng lập tức ngồi thụp xuống. Anh lắc lắc cái đầu, như đang dần có lại ý thức, mặt anh trông xanh xao thấy rõ, mồ hôi túa ra như tắm, hơi thở tựa như không còn chút sinh khí. Anh bàng hoàng nhìn tôi rồi vỗ vào vai tôi, anh nói bằng giọng thều thào mệt mỏi: “Cám ơn mày nhiều, không có hai người là anh chết rồi…”, có vẻ như Hộ Pháp thủ thân là một chiêu thức hết sức nguy hiểm, có thể ảnh hưởng đến cả tính mạng người sử dụng, anh Hùng cứ như là vừa chết đi sống lại, sức lực ắt hẳn hao tổn đến sáu, bảy phần! Tôi định hỏi tại sao anh lại xúc động đến nổi phải làm vậy thì anh Hùng đã trở mình, cố đứng dậy, đi đến bên Từ Khoái. Thấy anh đã thấm mệt, lại sợ anh làm gì quá tay nữa nên tôi bèn ngăn lại, hỏi xem mình giúp gì được không, quả thực hỏi xong mới thấy mình… tự tin quá đáng. Anh Hùng cười rồi nói: “Anh vẫn còn đủ sức tiễn thằng này đến nơi đáng ra nó thuộc về!”, nói đoạn anh nhích từng bước đến sát bên Từ Khoái, gã ta dĩ nhiên tứ chi gãy nát, xương cốt mười phần vụn vỡ hết tám chín phần, khuôn mặt hết sức đáng thương cứ kêu gào van xin mãi không thôi. Nhìn cảnh ấy, người nào dễ cảm động có khi quên hết tội ác hắn đã gây ra mà mủi lòng tha thứ, điển hình là tôi, thú thực thì lúc ấy tâm trí tôi cũng hết sức dao động. Anh Hùng đưa tay ra bắt Chú vận khí, quay sang nói với Tú Linh: “Em dịch lại cho hắn, có xin lỗi thì xuống cửu tuyền, tìm lại thần dân Ca Lâu Thành mà hối hận ăn năn!” Tú Linh vừa dịch xong, anh lập tức đọc kinh văn, bỗng chốc một trận âm phong kinh hồn thổi tới, vô số tiếng cười ma quái cất lên khiến tôi còn tưởng cả một đoàn quân miễu biết hát đang tràn đến, vô phương chống đỡ, chỉ nghe Tú Linh kêu lên: “Nhóc Thiên Hổ, chạy qua đây nhanh lên, Chú đó không đứng gần vậy được đâu!” Tôi quay sang nhìn anh Hùng để kiểm tra xem có phải anh đang rơi vào trạng thái phẫn nộ mất kiểm soát nữa hay không, chỉ thấy khuôn mặt anh trộn lẫn giữa bình thản và nuối tiếc, giống như đang chia buồn cho mấy vạn sinh linh phải lầm than chỉ vì mộng ảo quyền lực của những gã bất nhân như Từ Khoái, cuộc sống đâu phải cứ nói xin lỗi là xong. Tôi nhanh chóng chạy về phía Tú Linh, chưa kịp hỏi chuyện gì đang xảy ra, Tú Linh có vẻ cũng hiểu được thắc mắc của tôi, liền nói: “Thập Điện Diêm La Sát Chú, Chú này chuyên trị quỷ sống, đày nó vào cõi vạn kiếp không siêu sinh được!” Chỉ nghe tên bài Chú thôi đã khiến tôi nổi da gà, dựng tóc gáy, bèn đưa mắt quan sát nó được thi triển ra sao. Trên đầu Từ Khoái, không gian như bị xé toạc, một lỗ màu đen chuyển dần sang xanh lơ lơ lửng xuất hiện, từ trong lỗ đó chui ra một thứ như cái lưỡi khổng lồ được tạo bởi vô số nhục thể oán hồn đang kêu gào khóc lóc pha lẫn cười rít hết sức kinh dị, đầu lưỡi là hai sinh vật nhìn qua có thể đoán được là Đầu Trâu Mặt Ngựa đang dùng móc câu và dây xích, kẻ đâm xuyên qua lưng, người dùng xích quấn cổ Từ Khoái, dựng hắn đứng thẳng dậy, chỉ nghe tiếng rống của gã vang dội như cả trăm con bò rống cùng lúc. Thứ xuất hiện sau đó còn khiến tôi cảm thấy kinh hãi hơn, mười bàn tay khổng lồ thò ra từ lỗ hổng, có lẽ nào là tay của Thập Điện Diêm Vương trong truyền thuyết? Mười cánh tay đó đều có màu tím đậm, càng nhìn càng giống tay tử thi, móng nhọn màu đen, chúng bấu chặt vào cơ thể Từ Khoái rồi giật mạnh, tựa như ngũ mã phanh thây, tiếng rống của gã tắt hẳn khi cơ thể bị xé ra thành những mảnh nhỏ, viên ngọc rớt ra lăn xuống nền nhà, âm phong lúc này như bị hút ngược trở lại bên trong lỗ đen, cơ thể Từ Khoái tan ra thành tro bụi, cuốn theo vào nơi tối tăm đó, đảm bảo hắn được trường sinh ở thế giới bên kia! Vật chủ của căn phòng đế vương, cũng là thứ pháp bảo trấn quốc - thi thể Từ Khoái đã mất, căn phòng bắt đầu lịm dần ánh sáng đỏ, tuy nhiên cũng đủ để nhìn thấy đám người bọn tôi ai cũng đã tới cực hạn chịu đựng thể xác, ai cũng mệt lả chỉ muốn nằm tại chỗ mà đánh một giấc cho đã đời. Có vẻ như nhận thức được nguy hiểm đã qua, nên bao nhiêu mệt mỏi từ đầu đến giờ ập đến cùng một lúc. Anh Hùng ngồi bệt xuống, chống hai tay ra sau, thở dốc những hơi lên như vừa sau cơn trụy tim. Tú Linh và tôi chẳng quan tâm gì nữa, cứ thế nằm lăn ra đất, cười một tràng khoái chí mặc cho cơn đau trên vai tôi, máu vẫn rỉ ra. Tôi quay sang anh Hùng, hỏi: “Vụ Hộ pháp Shiva hồi nãy, ở đâu anh học được vậy?” Anh Hùng vừa thở gấp vừa nói: “Dĩ nhiên là sư phụ anh, Cậu Tư. Hộ Pháp lục lâm luyện nói khó không khó nói dễ cũng không dễ, căn cứ vào đạo hạnh mà luyện được hay không, thậm chí tìm Hộ Pháp hợp vía hay không nữa.” Tôi tặc lưỡi thích thú rồi hỏi tiếp: “Hồi nãy bá đạo quá anh, sao anh không thi triển Hộ Pháp đó sớm hơn?” Anh Hùng lắc đầu lè lưỡi, nói: “Nãy mày thấy rồi đó, triệu hồi được Hộ Pháp không hề dễ, thực ra anh chỉ triệu hồi được duy nhất một lần lúc có sư phụ hỗ trợ. Thêm nữa, sức mạnh của Hộ Pháp là rất lớn nhưng tác hại cũng hết sức khôn lường. Trong một chu kỳ mặt trăng xoay quanh Mặt Trời, người thi triển chỉ có thể triệu hồi Hộ Pháp được tối đa ba lần, lạm dụng qua lần thứ tư nhẹ thì bị tẩu hỏa nhập ma, Hộ Pháp vật cho thành khùng khùng điên điên, nặng thì bị ăn sạch linh hồn, lục phủ ngũ tạng xuất huyết, chết không kịp ngáp.” Tú Linh chen ngang: “Hồi nãy lúc dính ảo thuật của Từ Khoái em cứ tưởng xong phim rồi, ai dè vì ảo thuật đó mà anh vô tình kích hoạt được Hộ Pháp, anh gặp ác mộng gì vậy?” Anh Hùng thoáng chau mày, vẻ rất buồn, nhưng cũng không giấu diếm gì, anh nói: “Anh mơ thấy ba anh, hồi nhỏ ba anh vì bảo vệ gia đình khỏi đám cướp mà bị chết thảm, cộng với sự căm thù từ tội ác mà Từ Khoái gây ra với Ca Lâu Thành khiến anh phẫn nộ cùng cực, vô tình làm sao gọi được Shiva… Đúng là hay không bằng hên.” Chúng tôi nghe đến đó đều im lặng. Tôi nghĩ thầm không biết anh Hùng sau này có luyện được thuần thục Hộ Pháp Thủ Thân này hay không, không biết tôi có thể luyện được hay không. Định là im lặng tiếp, nhưng tò mò quá nên tôi đành hỏi thêm: “Anh Hùng, nếu anh gọi được Shiva, với hồi nãy còn gọi được cả Thập Điện Diêm Vương, nói vậy thì thực sự có những vị thần đó hay sao? Thực sự có thiên đường và địa ngục hay sao?” Anh Hùng nghĩ ngợi gì đó, giống như đang nghĩ cách trình bày cho tôi hiểu, rồi anh nói: “Nói sao giờ, thực ra cái đó anh không chắc. Em chỉ cần biết, con người có linh hồn, cái đó có thật. Linh hồn con người có ý chí, cái đó cũng có thật, từ ý chí mà con người có niềm tin vào thế lực siêu nhiên bên ngoài. Lục lâm vận dụng ý chí và niềm tin đó để tạo ra hệ thống tứ diệt ma và cả Hộ Pháp kiểu này nữa. Hình dung thế này, niềm tin vào những người đó là cái khuôn, đạo hạnh của lục lâm là thứ kim loại đổ vào cái khuôn đó để đúc hình, tạo nên Dạ Xoa, tạo nên Thiên Đăng, tạo nên Shiva và cả Thập Điện Diêm Vương. Nếu có người đạo hạnh đủ cao, vận dụng âm dương ngưng kết làm khuôn, người đó có thể tạo ra muôn hình vạn trạng những chiêu thức, bài Chú khác nhau, thứ quyết định thực ra mày biết là gì không? Niềm tin! Còn mày hỏi anh mấy người đó có thực sự tồn tại hay không… Anh không biết, không chắc.” Tôi trầm ngâm nghĩ một hồi rồi hỏi tiếp cho rõ: “Vậy ví dụ như Từ Khoái lúc nãy bị Thập Điện phong ấn vào thế giới vạn kiếp bất phục là sao? Chẳng phải là xuống địa ngục hay sao?” Anh Hùng cười rồi nói: “Thì dùng Chú đánh tan hồn phách, khiến hắn chẳng nhập vào thể xác mới để chuyển kiếp, chẳng phải là vạn kiếp không siêu sinh được sao?” Nghe đến đó tôi mới ngờ ngợ hiểu, thế giới lục lâm đúng thật là phức tạp. Tôi thở dốc, mắt cứ chớp liên hồi vì mồ hôi đổ ra quá nhiều, đưa tay lên dụi mắt cho bớt cay, tôi nghe giọng pha lẫn giữa trách mắng và đồng cảm của Tú Linh: “Anh cũng thiệt tình, cái tính sửa hoài không được, làm việc gì cũng bị tình cảm chi phối, anh với thằng Thông đúng là một cặp trời sinh, nó thì cứ bạ đâu làm đó, ruột thẳng như ruột ngựa. Hai người đi chung em mới yên tâm, anh đi một mình, có ngày gặp đứa con gái nào nó khóc lóc ỉ ôi là động lòng, bay vô giúp rồi rước họa vào thân như chơi…” Anh Hùng cười khịt: “Em ghen hay gì!” Tú Linh quát, giọng pha chút ngượng ngùng: “Ghen con mẹ anh, lần này đem ngọc rết về cứu thằng Thông xong rồi em về trường đá gà, hai người muốn đi đâu thì biến mẹ cho nước nó trong nhé! Lần sau có đi đập miễu đừng có ca bài ca mèo vờn chuột giùm em cái trời đất ơi, lúc nãy lỡ viên ngọc nhiễm âm khí thì sao?” Anh Hùng lắc đầu bảo: “Dễ gì. Từ Khoái là loài quỷ sống bị càng dương nhập tâm, khô héo đến chết nên không sợ viên ngọc bị nhiễm âm khí.” “Anh nói thằng Từ Khoái bị quỷ hóa còn gì, hai mươi pháp bảo nạp năng lượng cho nó cũng là những tử thi, đâu thể từ giả thuyết lúc sống bị càng dương nhập tâm mà làm liều vậy được!” “Em nói cũng đúng, đó là giả thuyết rồi suy luận mà ra thôi, phần dám chắc của anh không phải từ đó mà là từ thần Shiva. Chú Tư Rồng có nói, Shiva có pháp nhãn thứ ba, kiểu như một loại kính chiếu yêu nhưng mà thiên về năng lượng tinh thần là chủ yếu. Con mắt này chính là thứ linh cảm mà anh có được trong suốt cuộc đời đi săn lan của mình, anh vốn sỡ hữu linh cảm này từ nhỏ, từ khi luyện Hộ Pháp thì mới được kích hoạt lên tầm cao hơn nữa. Lúc anh cầm viên đá đi tới chỗ Từ Khoái thì đã chắc mẩm rằng nó sẽ không bị nhiễm âm khí!” Tú Linh khịt mũi: “Xùy, anh đúng là thứ lắm lời, gì cũng nói được!” Anh Hùng nằm ngửa luôn ra đất, nhịp thở của anh vẫn chưa ổn định lại, lồng ngực anh phập phồng, phổi anh đang cố hút oxy. Anh nói với Tú Linh: “Em còn khỏe hơn anh, châm giùm anh mấy cây kim coi bé yêu.” Tôi nổi da gà khi nghe anh Hùng gọi Tú Linh là “bé yêu” nhưng mà cũng không dám bật cười vì bản thân tôi cũng muốn được Tú Linh châm cho vài cây kim, tứ chi tôi rã rời hết rồi, các bắp thịt cứ rung liên hồi, giờ muốn đứng lên cũng khó. Tú Linh hình như cũng rất mệt hay sao đó mà không thấy cô phản ứng gì cả, điều này làm tôi trộm nghĩ, chẳng lẽ cô đã quen với cách gọi này, nhiêu đó thôi cũng làm tôi muốn ói, miễu cũng đã đập xong, mặc kệ nam nữ các người muốn làm gì thì làm. Tôi quay sang bắt chuyện với Thùy thì thấy cô đang tiến đến chỗ Ngô Công Kim Thân giờ đang nằm lăn lóc trên mặt đất, cô nằm cạnh bên nó, ánh mắt cô trợn lên hết cỡ, miệng mấp máy liên hồi, đoạn cô ghì đầu đến gần hơn, trầm trồ: “Đúng là bảo vật của trời đất, trong đời tôi lần đầu thấy được Ngô Công Kim Thân, mặc dù đã nghe sư phụ kể nhiều nhưng thấy tận mắt mới biết nó xinh đẹp và quyền lực, như một vị công nương kiều diễm, chỉ cần tồn tại đã đủ làm người đời choáng ngợp!” Tôi cố gắng ngồi dựa vào tường rồi nói với Thùy: “Anh cũng mới chỉ thấy ngọc rết thường, lúc nãy cũng có cầm thử Ngô Công Kim Thân, mà em miêu tả có hơi quá không ta?” Thùy vẫn không rời mắt khỏi viên ngọc, cô vươn tay lên ngoắc tôi: “Anh lại đây mà coi nè!” Tôi mặc dù rất mệt, đứng dậy không nổi nhưng vẫn cố lết tới chỗ Thùy, Thùy chụp đầu tôi lôi xuống sát bên đầu cô, tôi có thể cảm nhận được hơi thở ấm nồng của cô, mùi thơm dịu nhẹ của xác thịt phụ nữ trải qua mấy ngày vẫn còn phưng phứt, tôi đưa mắt nhìn vào Ngô Công Kim Thân, nhịp thở chậm rãi của Thùy phà vào gò má tôi làm tôi cảm thấy buồn ngủ dữ dội, cộng thêm thân thể đang mệt mỏi rã rời, bất giác chỉ muốn nhắm mắt mà ngủ luôn cho rồi. Chợt một cú tát trời giáng đáp xuống mặt tôi, tôi bị đau nên đâm ra cáu gắt, tính quát một tràng thì nhận ra người đó là anh Hùng, anh đang nắm cổ tay Thùy, bàn tay cô đang kề sát Ngô Công Kim Thân, như muốn cầm nó lên vậy. Mồ hôi anh chảy đầy khuôn mặt, anh vẫn đang thở dốc nhưng thần thái trong mắt anh vẫn không hề thay đổi, nó đanh lại và đầy sát khí, tuy vậy giọng nói anh vẫn rất trầm và trìu mến: “Thùy à, để anh giữ viên ngọc cho, mình ngồi nghỉ ngơi chút rồi đi ra em ơi!” Thùy rút tay ra rồi bảo: “Em cũng tính đem viên ngọc tới cho anh nè, anh nắm tay em gì mà chặt dữ vậy, đau muốn chết!” Tôi cũng nói giúp Thùy, sợ rằng anh Hùng còn bị ảnh hưởng tâm lý từ lúc triệu hồi thần Shiva: “Làm gì dữ vậy đại ca, em nó đụng viên ngọc thôi mà cũng không cho!” Nghĩ là làm, tôi đứng phắt cả người dậy, trong lòng hết sức kinh ngạc, sức khỏe ở đâu ra mà còn sung thế này? Chợt trong tròng mắt, tôi cảm thấy một lớp màng màu đỏ phủ kín, trước mặt thình lình hiện ra hai con quỷ đang nhe nanh thè lưỡi đang bay lượn xung quanh, chực chờ bay vào cắn tôi. Năng lượng không biết được cung cấp từ đâu nhưng tôi cảm thấy tràn đầy sinh khí, ba người bọn họ đã mệt lử cả rồi cho nên mấy con quỷ lốc cốc lom com này cứ để Thiên Hổ tôi lo liệu. Không cần phải kêu anh Hùng hay Tú Linh trợ sức như trước. Tôi mạnh dạn chấp hai ngón tay, kéo lên trán, miệng hô lớn bốn câu thơ quen thuộc. Tuy nhiên không có gì xảy ra cả. Tôi cố thử lại lần nữa nhưng kết quả vẫn vậy, lần nữa và lần nữa, Thiên Hổ không xuất hiện, cũng may là hai con quỷ vẫn chưa động thủ mà vẫn vờn vòng quanh. Tôi nhìn xung quanh, có một cây dao nằm cách tôi khoảng hai bước chân về hướng con quỷ, tôi thận trọng cúi mình, tiến từ từ đến chỗ con dao kia, con quỷ vẫn không có phản ứng, tôi cười thầm trong bụng, con dao đã trong tầm tay, tôi chụp lấy nó rồi bằng thân thủ nhanh nhẹn, tôi lao đến chỗ con quỷ, dao này chắc của anh Hùng, nhất định có kết Ấn hay gì đó, con quỷ phen này chết chắc với tôi. Con quỷ chắc bị tấn công bất ngờ nên vẫn chưa động thủ, tôi lao lến với sự tự tin tột độ, chỉ còn vài mi-li-met nữa thôi nó sẽ xong đời. Ai ngờ, trong một sát na, tôi bị một lực đẩy kinh hoàng đánh bay về phía xa, lưng đập vào tường, tôi “Hự!” lên một tiếng đau nhói, chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chợt tôi nghe tiếng đọc chú lầm rầm của ai đó, lớp màn màu đỏ trong mắt tôi chảy xuống như sáp đèn cầy rồi mất hút, trước mắt tôi, chỗ con quỷ mà tôi đang định đâm lúc nãy, là anh Hùng và Tú Linh. Cả hai bị một loài thực vật gì đó trói chặt, miệng bị lá cây bịt kín, đang cố cựa quậy để thoát ra nhưng tôi cảm thấy sự mệt mỏi tột cùng trong từng cử chỉ, anh không thể động đậy được, phía sau, Tú Linh cũng đang rơi vào tình cảnh tương tự. Quay đầu về chỗ tôi đứng lúc nãy, tôi vừa bàng hoàng vừa mừng vui phát ra hiện người cho tôi một cước bay vào góc tường chính là Sinh, áo quần nó đã rách gần hết, ánh mắt nó đầy căm phẫn, đứng đối diện với nó là Thùy. Nó chỉ thẳng mặt cô rồi nói: “Tụi mày hay lắm, suốt một quãng đường đi dài, tụi tao đã cưu mang, bảo vệ tụi mày.” Tôi còn chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì đã thấy Sinh lao tới chỗ Thùy với tốc độ kinh hoàng, Ấn Phục Ma trên vai nó phát sáng chói lóa, tôi cố gượng dậy, trong lòng nghĩ chắc lúc thằng Sinh rớt xuống hố Bạch Tuộc Hổ bị đập đầu nên đâm ra lú lẫn hay gì rồi, sao tự nhiên lại tấn công một cô bé chân yếu tay mềm, tay không tất sắc như vậy? Chưa kịp hét lên cản thằng Sinh thì đã thấy nó áp đến sát bên, tay nó gồng lên như vuốt hổ, trên đó xăm đầy kinh văn đen kín, nó tung một đòn tất sát tay trên chém dao tay còn lại vung trảo, Thùy mà dính đòn này thì cầm chắc cái chết trong tay. Nhưng kỳ lạ thay, tay và dao chỉ như vừa chạm vào vải áo thì Thùy ngã người về sau, né đòn đó như không. Sinh vẫn chưa dừng lại, nó đổi tư thế, xoay người đưa cùi chỏ về hướng Thùy mà sấn tới, Thùy cũng trở mình, huơ khuỷu tay lên, né sang phải tránh đòn đó gọn ơ. Sinh cúi thấp trọng tâm, đưa chân gạt xuống đất, xoẹt ngang không gian chỗ Thùy đang đứng nhưng cô hấp một cái đã nhảy lên, đã vậy tay cô cũng...bắt Chú, từ trên không trung giáng đòn xuống chỗ Sinh đang đứng làm nó phải nhảy về sau mấy bước. Tôi ấp úng: “Th...Thùy...em...sao vậy? Em là ai?” Thằng Sinh nhìn sang phía tôi, sẵn tiện thông báo luôn với anh Hùng và Tú Linh: “Con khốn này với thằng mặt cứt Tùng là Na Long Hội đó, em mới trầy trật đánh với thằng Tùng xong, tức tốc chạy lên đây tiếp cứu!” Những cái rễ thực vật uốn ngang miệng anh Hùng và Tú Linh trước khi họ kịp lên tiếng, chỉ thấy trong ánh mắt họ cũng cùng một vẻ căm phẫn như thằng Sinh. Phần tôi vì đứng lên không nổi nên chỉ lết lết trên mặt đất, luôn miệng hỏi Thùy rốt cuộc là ai. Cô nhìn tôi bằng ánh mắt khinh thường rồi nói, chất giọng khác hẳn chứ không phải giọng nói êm bồng bềnh như mây của Thùy mà tôi biết: “Đến nước này thì chị mày cũng không cần phải giấu diếm. Đúng, chị mày là Na Long Hội, biệt hiệu La Tiên, nhận lệnh Đầu Lĩnh đi đến đây tìm ngọc rết, cũng may gặp đám bọn mày nên chẳng cần đụng tới một móng tay.” Nói xong, La Tiên đưa Ngô Công Kim Thân ra mơn trớn, như thể đang chọc tức chúng tôi. Anh Hùng và Tú Linh cựa quậy dữ dội nhưng vô ích, tôi chẳng còn tí sức lực, chỉ biết nằm than khổ, thằng Sinh nghe đến đó thì điên máu. Nó lao đến chỗ La Tiên quyết sống chết một phen, hai bên giằng co hết sức quyết liệt, tất cả chiêu thức tung ra có thể một chiêu đoạt mạng, vừa tránh xong một đòn của Sinh, cứ tưởng ả ta tung chiêu hiểm, không ngờ rằng ả lui về sau, thoắt cái đã tiến sát đến tôi, tay đã kịp móc trong túi ra một vật thể gì đó hình tròn gì đó rồi ném về phía thằng Sinh gây ra một tiếng nổ động trời, khói bay mù mịt, thằng Sinh đưa tay lên che mắt, tôi cũng định làm vậy thì bỗng bị một lực tay kinh hồn quấn quanh thanh quản, không tài nào thở được, kề dưới cổ tôi là một lưỡi dao sáng bén. Thằng Sinh vừa thoát ra khỏi đám khói, định lao đến đánh tiếp thì thấy tình cảnh hiện giờ của tôi nên chỉ đứng đực ra đó. Tôi quát: “Lên luôn đi mày! Sống chết gì kệ tao!” Thú thật lúc đó tôi cũng đang sôi máu dữ dội, một hình tượng cô bé Thùy ngây thơ, mạnh mẽ và ngoan ngoãn sụp đổ, tựa như thế giới gãy gọn rồi sập xuống xung quanh, huống hồ gì ngọc rết đem về cứu Thông bị ả phỗng tay trên, thù này nuốt sao nổi, cho nên sống chết gì tôi cũng chẳng màng nữa. Thằng Sinh vẫn ậm ừ chưa dám lao lên, tôi chửi nó hết lời mà nó cũng không chịu nghe, sau này nghĩ lại mới biết tôi ích kỷ với nó quá. Ả La Tiên kề sát dao vào cổ tôi hơn, thút tôi đi đến chỗ cái cửa sổ to đùng, tôi than thầm trong bụng, mới đây tôi còn tỏa sáng với Thiên Hổ mà bây giờ lại trở thành gánh nặng với mọi người như vậy, không khỏi cảm thấy khóe mắt cay xè. Tôi cũng nghĩ rằng Thùy đã bị con ả La Tiên này nhập vào thể xác hay sao đó nên cố gắng lên tiếng, biết đâu giọng nói của tôi tiếp cận được cô bé Thùy bên trong như trong phim thì sao: “Thùy ơi, em có nghe anh nói thì cố gắng chiến đấu đi em, đừng để con ả này dẫn dắt nữa!” Ả La Tiên nghe tôi xong thì cười ha hả: “Thằng nhóc này ngây thơ vậy mà tụi mày cũng dẫn nó theo, tao ngán tới cổ mấy câu nói kiểu như này của mày rồi nhóc! Tao không phải Thùy Thiếc gì hết!” Nói đến đó, tôi nghe sau lưng mình một loạt những âm thanh “sệt sệt” vang lên, như lúc người ta nhai thứ gì đó nhão nhẹt vậy đó, lực tay kềm cổ tôi yếu dần, rồi cả thân thể như sụp xuống, tôi quay người lại thì chỉ kịp thấy một bóng người phóng ra cửa sổ. Một tiếng “Phập!” vang lên bên ngoài, bóng người phóng ra lúc nãy đang đeo trên người một bộ diều lượn, nó phi thẳng đến chỗ biển Oan Hồn, những tràng cười đắc chí đáng ghét vang vọng một góc trời. Thì ra trong túi đeo ả cứ kè kè bên mình có giấu con diều lượn. Thằng Sinh cũng chạy đến đứng bên cửa sổ, nó đưa một chân lên thành cửa toan leo ra ngoài, nhưng hình như nó không biết làm cách nào để đuổi theo cả, nó đâu có biết bay, giờ chạy xuống dưới nguyên một đoạn cầu thang đã sụp, nó chỉ biết đấm tay vào khung cửa mà gục đầu xuống. Tôi đứng chết trân, não vẫn chưa kịp xử lý những sự kiện vừa xảy ra, tôi nhìn vào mắt thằng Sinh khi nó quay vào nhưng nó không nhìn lại, chỉ nghe giọng nó nói: “Giờ không phải lúc…” Thú thật tôi không dám quay về sau mà nhìn mặt anh Hùng nữa, chỉ đứng đó mà lựa lời rồi tính sau, chưa kịp suy nghĩ ra phải nói như thế nào thì mặt đất rung chuyển, từng mảng gạch bắt đầu sụp xuống xung quanh tôi. Thằng Sinh thấy vậy liền chạy hết tốc lực đến chỗ anh Hùng, nó ra sức gỡ những cái rễ cây đang quấn chặt người anh, miệng liên tục gào thét bảo tôi lại giúp Tú Linh, trái bom con ả Na Long Hội quăng xuống lúc nãy đã làm cho kiến trúc này tới hạn chịu đựng, thêm Từ Khoái đã bị đày xuống âm phủ, quỷ khí của hắn cũng là một phần giữ cho căn phòng này đứng vững, giờ hắn đi rồi thì có khi cả Ca Lâu Thành sẽ sụp đổ. Tôi nghe vậy cũng dẹp mẹ mấy suy nghĩ tiêu cực, giờ giữ mạng quan trọng hơn, tôi chạy hết tốc lực đến chỗ Tú Linh, công nhận mấy cái rễ cây này cứng như đá, nhưng vì tình huống nguy cấp đến tính mạng nên tôi cũng lấy lại chút sức lực, tay ứa máu cũng không thấy đau. Thằng Sinh gỡ cho anh Hùng xong thì cả hai chạy lại tiếp tôi, làm loáng cái cũng rồi. Anh Hùng hình như biết được tâm lý của tôi hay sao nên quay sang bảo: “Như thằng Sinh nói lúc nãy, giờ không phải lúc, ngọc cũng bị lấy mất rồi, giờ đi xuống dưới, tòa thành này chưa…” Câu nói của anh Hùng bị một chấn động kinh hoàng cắt ngang, cả bốn bức tường xung quanh chúng tôi rung lên bần bật, Sinh chửi: “Con bà nó, có trái bom thôi mà, đâu có sụp dễ vậy được, ít gì mình cũng còn thời gian chạy ra ngoài!” Ngay lúc đó, cảm giác như có một luồng sóng xung kích lan truyền rất nhẹ nhưng vô cùng ổn định trong không gian, linh cảm có chuyện không hay xảy ra. Chợt Sinh trợn mắt, nhìn sang anh Hùng và Tú Linh, cả hai người bọn họ cũng có phản ứng tương tự. Anh Hùng chạy ra cửa sổ, nhìn lên phía trên rồi mấp máy, giọng anh thoáng chút kinh hãi: “Cửu Long Đỉnh… vừa bị đảo chiều?” Tôi hỏi Cửu Long Đỉnh là cái gì, anh Hùng đáp: “Long mạch của miền tây được dân trong nghề gọi là Cửu Long Đỉnh, nó vừa bị đảo, không biết cao nhân đào giếng nào đang đấu nhau!” Tú Linh lên tiếng: “Trời ơi, cái đó để giải thích sau đi. Giờ lo mà thoát ra khỏi chỗ này!” Tôi nhìn quanh căn phòng chỉ toàn cửa sổ, bốn bề bị biển Oan Hồn bao vây, có độc một con đường duy nhất dẫn ra ngoài, chỉ còn cách chạy xuống dưới men theo nó mà đi thôi. Mà bây giờ chạy xuống dưới, thằng nhỏ ba tuổi cũng biết là bị chôn sống như chơi. Vừa nghĩ tới đó thì tôi đã bị Tú Linh đẩy mạnh, thằng Sinh cũng bước theo kế bên, tiến về chỗ cửa sổ của anh Hùng đang đứng. Chẳng lẽ… Chưa kịp la lên than khổ, không làm được đâu thì đã thấy thằng Sinh xốc nách tôi, cả bọn phóng xuống biển Oan Hồn không chút do dự. Bên dưới, những xúc tu vằn hồ đang cựa quậy, chực chờ quấn chết đoàn người đang lao xuống với tốc độ kinh hoàng. - Hình ảnh mang tính chất minh họa: Thập Điện Diêm Vương.
 
Chương 50 : Phần 25: Hảo hữu


Lâm Gia Thái Bảo - Trên tòa tháp nhảy xuống không hề thấy được gì bên dưới, chỉ nghe tiếng sóng đánh ầm ầm và âm thanh của bọn bạch tuộc hổ đang quần thảo bên dưới, tôi cứ niệm Phật liên hồi, chỉ sợ chưa kịp rơi xuống nước đã đập đầu vào đá chết thảm, vậy thì mặt mũi nào xuống cửu tuyền khoe mình là lục lâm đây? Có vẻ như trời đất còn thương, tòa tháp nhìn vậy không cao lắm, tôi chưa kịp niệm xong bài chú đại bi thì đã rớt tõm xuống nước, biển trong động lạnh như băng, vừa chìm xuống đã chạm vào làn da trơn nhẫy của đám quái vật tám chân, chứ chìm sâu hơn e là thủng tai do áp suất, không thì cũng khó thở mà chết! Ngoi lên thở gấp vài hơi, thấy mọi người đều an toàn, đang loay hoay chưa biết như thế nào thì từ phía sau vang tới âm thanh đập nước tung tóe, tựa hồ đám bạch tuộc đang hết sức hoảng hốt, bơi loạn xạ. Anh Hùng nói: “Có thể chúng cảm nhận được long mạch thay đổi, hoặc có thể… do gặp quái thú khác!” May mắn thay trong lúc nguy cấp này, mắt tôi nhòe đi, nhờ vậy mà có thể thấy được phía xa xa có một vách núi, dường như bọn bạch tuộc cũng đang tránh thứ gì đó săn đuổi, đang lao về bên đấy. Tôi nhanh miệng thuật lại tình hình, mọi người đều đồng ý là chỉ còn cách quá giang thử bọn bạch tuộc. Còn chưa kịp nghĩ cách làm sao thì từ đâu sấn tới một con, nó lướt ngầm gần mặt nước, anh Hùng kêu lên ra dấu cho Tú Linh, cô lấy đà từ tay Sinh, đạp lên vai anh Hùng rồi nhảy lên cao, đồng thời phóng hơn chục cây kim vào mặt nước đen ngòm, con bạch tuộc nhờ thế khựng lại, dường như nó bị tê liệt. Bọn tôi buộc dây vào xúc tu, tay nắm chặt các giác bám, xong rồi Tú Linh gỡ kim ra, con bạch tuộc lồng lên lao thẳng như tên bắn về phía vách đá, giống như đang sợ thứ rượt đuổi đằng sau vô cùng. Con bạch tuột phi như bay trong nước, tốc độ rất nhanh, loáng cái đã đến sát bờ, vách đá dần hiện ra mờ ảo, sừng sững dựng đứng, con bạch tuộc đột ngột lặn xuống, có vẻ như hang ổ của bọn nó nằm sau lớp đá này. Cả đám vội buông dây, bơi sống chết về phía vách núi, biển chỗ này có bãi đá, có cái ngầm, có cái nhô cao hơn nước biển, nhọn hoắc, chúng tôi liền leo lên một tảng đá như thế đứng nghỉ mệt. Vừa mới thở hắt ra vài cái lấy hơi thì cảnh tượng vùng biển phía xa hiện lên rõ mồn một, cũng nhờ ánh đỏ vẫn còn lay lắt từ tòa tháp, bất chợt nó sáng lên cực độ rồi vụt tắt, đổ sụp một lâu đài cát. Mặt biển dậy sóng do những con bạch tuột quằn quại, chúng bị tấn công bởi thứ gì đó trông như một con rồng biển, to dài, mình đầy gai nhọn, những con bạch tuộc hổ xấu số bị cắn xé hết sức dễ dàng, lúc nãy bọn tôi chậm chân e là giờ cũng nằm trong bụng sinh vật kỳ dị kia rồi cũng nên. Đứng gần biển lúc này không phải là lựa chọn an toàn, cả đám lập tức men theo bãi đá, đi đến chỗ vách núi, leo trèo không biết mệt Mãi đến hơn nửa tiếng mới băng qua được địa hình lởm chởm chỉ chừng hơn hai trăm mét, tuy nhiên ở đây tạm gọi là tránh được lũ quái vật biển đó, ai cũng ngồi phịch xuống, mệt không nói thành tiếng. Chốc sau, anh Hùng và Sinh mới đứng dậy đi xem xét xung quanh, thấy vách núi này cũng có một loài thực vật thân gỗ sinh trưởng, tuy không lớn nhưng cũng có thể đem nhóm lửa sưởi ấm, ai cũng ướt nhem nên mất ít thời gian, đốm lửa mới cháy được, có còn hơn không nên mọi người đều tranh thủ sưởi ấm. Lúc ổn định tinh thần lại, anh Hùng mới quay sang hỏi Sinh: “Chuyện thằng Tùng với Thùy, sao mày biết tụi nó là Na Long Hội?” Sinh bèn đem chuyện rớt xuống vực kể lại. Kỳ thực thành chủ được xây như nhà sàn trên biển Oan Hồn, có một số cột đá khổng lồ tuy nhiên cũng có một số trái núi nhỏ, cheo leo dựng đứng, được sạc bằng đỉnh, làm thành cây cột tự nhiên. Sinh và Tùng rớt xuống một chỗ như vậy, lúc rơi xuống nằm lăn ra, choáng gần bất tỉnh. Tùng cũng nằm gần đấy, túi đeo bên mình rơi ra. Tùng lay Sinh dậy, nhờ nhặt túi lên hộ, lúc Sinh đưa túi thì Tùng với tay, nhờ vậy Sinh mới nhìn kỹ bàn tay Tùng có xăm kinh văn, tựa hồ như là Chú gì đó của lục lâm liền nghi ngờ, ướm hỏi, Tùng dĩ nhiên ấp úng, bịa đủ thứ lý do. Đột nhiên Tùng la toáng than đau, nhờ Sinh lại xem giùm vết thương, trong chốc lát liền lấy dao ra sấn tới ngay yết hầu. Sinh lăn lộn giang hồ cũng không ít, dĩ nhiên cảnh giác có thừa, liền tránh sang, lấy chân đá vào chỗ vết thương khiến Tùng dù có cứng gan đến đâu cũng không tránh khỏi khóc thét. Tùng tuy ngã, nhưng thân thế không rõ lai lịch, Sinh nghĩ cũng thuộc hàng cao thủ gì đó, lập tức chưa sấn tới vội. Quả nhiên vừa thủ thế thì thấy phi tiêu lao đến đanh gọn, Sinh giả vờ trúng đòn hiểm nằm lăn ra đất kêu rên không thôi. Tùng đứng cà nhắc, vừa than đau vừa nói giọng tự đắc, trong đấy kể ra việc hắn và Thùy là cặp song sát của Na Long Hội, được Đầu Lĩnh cử đi lấy viên ngọc rết về để làm đại sự. Lúc vào hang thì phát hiện nhóm của Hùng, cả hai bàn tính không thể đấu trực tiếp, cũng không thể cứ lén lút bám theo, nếu nhận là lục lâm thì dễ gì Hùng tin tưởng như thế cho nên bịa ra thân thế giả hòng qua mắt cả nhóm, quả nhiên thành công vì sự phân vai khéo léo. Kể đến đó Tùng liền dùng dao định kết liễu Sinh, ai ngờ nãy giờ cậu ta chỉ giả đò bị trọng thương, nhất thời không phản ứng kịp liền bị Sinh vung một dao đứt cổ. Sau đó cậu ta leo lên theo đường vách núi, nhưng nền điện bị sập, buộc lòng phải leo lên từ mặt hông để rồi phóng vào cửa sổ như mọi người đã biết. Kể đến đó, SInh cũng hỏi chuyện bọn tôi về những gì xảy ra lúc nó vắng mặt, nghe xong, Sinh vỗ tay tức tối, hận không có mặt ở đó để hợp sức đập Từ Khoái cho hả hê. Chuyện cần kể cũng đã kể, lúc này cả nhóm đột nhiên im lặng, ai cũng đang nghĩ tới sự kiện để ả La Tiên cướp viên ngọc, tâm trạng chùng xuống cực độ. Đột nhiên từ xa xa vang lên tiếng đá sỏi kêu lạo xạo, tựa như có thứ gì đó lao đến như vũ bão, làm mọi người tạm quên sự chán nản, đưa mắt ngóng về phía đó. Chợt sau lưng cũng vang lên âm thanh tương tự, trước sau giáp công, dưới biển thì không thể đến gần, anh Hùng lập tức bảo nhóm lên thật nhiều đuốc, dù thứ gì đang bò đến thì ở nơi này tuyệt nhiên chẳng phải điều tốt đẹp. Quái thú dưới này có lẽ đang bị ảnh hưởng bởi Cửu Long Đỉnh bị thay đổi, hành động hết sức khó hiểu, anh đoán âm thanh đó là do lũ sâu đóm. Bọn tôi chia đuốc cho nhau rồi leo lên vách núi chứ biết còn đi đâu. Vách đá không trơn lắm, nhìn chung có thể leo lên được, còn đến được đâu thì chưa biết, anh Hùng dẫn đoàn, Sinh chốt đoàn, mọi người ra sức đu bám, chạy càng xa càng tốt. Anh Hùng có hai cây đuốc, một cây anh buộc dây rồi ném lên phía trước để dò đường, cây còn lại giữ trong tay. Vách núi càng lên cao càng thoải nên dễ leo hơn, lên cao so với mặt biển chừng hai mươi mét, anh Hùng phát hiện ra có rất nhiều hang, mỗi hang to cỡ một con heo con. Lúc này khắp nơi văng lên những tiếng kêu chít chít sởn gai ốc, trong hang lấp ló những cái đầu xù xì đầy lông mắt đỏ thau láu nhòm vào cả bọn, hễ cứ huơ đuốc về phía nó thì nó lại rụt vào. Sinh nói chắc là hang chuột… tôi hình dung chuột to cỡ con heo, cắn một cái chắc lìa nguyên cánh tay. Anh Hùng thận trọng lựa đường đi, né tránh các hang chuột, cơ bản bọn này sợ ánh đuốc, nên khi nào lửa còn cháy ít ra còn đỡ sợ. Cứ tưởng leo lên bình thản như vậy, ai ngờ lát sau, từ đâu trên cao phả đến trận gió khiến lửa đuốc cứ lúc sáng lúc tối, bọn tôi đảo mắt nhìn lên thì ra là bọn sâu mặt người, chúng thấy ánh lửa nên lao đến. Vách núi nhìn lên chỉ thấy một màu tối đen, không biết còn bao xa nữa, trong khi nguy hiểm đã giăng tứ bề, thật là buồn ngủ còn gặp chiếu manh, phen này chắc phải mua vé vào Quỷ Môn Quan thật rồi. Mọi người chắc ai cũng gần như tuyệt vọng, nhưng không ai nói với ai, cứ dùng hết sức mà leo lên, biết đâu còn tia hy vọng le lói nào trên đấy. Lúc này bọn bướm đã kéo đến rất đông, quần thảo trên đầu, gió thổi tới tấp, đuốc trên tay tôi phụt tắt, chúng bắt đầu lao xuống tấn công! Tránh né bọn bướm cũng đơn giản, nhưng đuốc cứ dần tắt, bọn chuột cũng đang thò ra hang nhiều hơn, sơ sẩy bị ăn thịt như chơi. Bỗng đâu phía trên chúng tôi, từ trong vách núi phát ra tiếng ầm ầm, tựa như ai đó đang dùng quả nặng để phá nhà cao tầng vậy. Cả nhóm lại than trời kêu khổ, phen này tới con gì nữa đây. Nhưng không phải vậy, vách núi bị thứ gì đó húc vỡ ra một lỗ hổng to tướng, ánh sáng tự nhiên soi rọi vào hang động khiến lũ bướm kêu ré lên, vừa lúc này một cái đầu rắn khổng lồ từ trong lỗ hổng lao ra cắn một lúc chết hết năm sáu con bướm khiến bọn còn lại chạy tứ tán. Cái đầu rắn ấy quay sang nhìn chòng chọc vào bọn tôi như kiểu dò xét, anh Hùng ra dấu bảo cả bọn bình tĩnh, chớ nên mạnh động. Con quái vật ấy, theo lời anh Hùng, còn to hơn cả con trăn anh gặp trong rừng tràm Trà Sư, vảy nó đen tuyền như thép, trên đầu có bảy cục u như nắm tay, đôi mắt rực lên màu vàng. Nó thè lưỡi, kêu lên những tiếng khè khè rồi bò lại gần, nó hạ thấp đầu xuống như bảo chúng tôi leo lên lưng nó vậy. Rõ ràng lỗ hổng nó vừa bò vào là lối trở lên mặt đất, nhưng bảo leo lên lưng nó thì… thật đáng ngờ. Anh Hùng tiến đến chậm chậm, chạm thử vào nó rồi quay sang nói: “Bồ câu của cao nhân nào vậy?” “Bồ câu”? Thứ quái dị đó khiến người ta nhìn thôi đã cóng hết cả mình, lục lâm quả là thế giới không đùa giỡn được. Lũ chuột lúc này đều im bặt, chẳng dám kêu lên nửa tiếng, trốn sâu trong hang. Anh Hùng leo thử lên lưng, cảm thấy con rắn khổng lồ này đúng là bồ câu của thả diều thật, liền bảo chúng tôi nhanh chóng leo lên theo. Tất cả nằm rạp xuống, vòng tay ôm chặt lấy thân nó nhưng chỉ chưa đến nửa vòng. “Bồ câu” khi thấy khách đã ổn định, liền chậm chậm rút đầu trở ra khỏi hang, từ lòng núi bên trong ra đến cửa hang bên ngoài ước tính hơn ba mươi mét, vừa ra khỏi hang thì nghe thấy âm thanh rất lớn, như kiểu có ai đó vần tảng đá khổng lồ bịt kín miệng hang lại. Ánh mặt trời chiếu sáng đột ngột làm cả bọn phải lấy tay che lại, tôi thì nhắm tít cả mắt, mấy ngày trời ở dưới Bát Quái Động không biết vitamin D là gì mà. Không biết con vật giống rắn vừa rồi là loài gì hoặc của ai, nhưng nó vừa cứu chúng tôi thoát chết trong gang tấc, giờ tôi vẫn còn bàng hoàng nhưng cũng phấn chấn phần nào: tôi vừa đi xong một chuyến và vẫn còn toàn mạng gặp lại ông mặt trời, ôi tôi nhớ ông quá. Trời đã ngả về chiều, chỗ con rắn đưa chúng tôi đến trông giống một bãi đá, phía dưới là bờ biển có hình bán nguyệt với hàng trăm, hàng ngàn du khách đang đi tắm biển chiều, những chiếc dù đã được gập lại, hàng ghế sơn màu trắng, xanh, vàng, đỏ đủ cả, những đợt sóng biển vỗ rì rào kèm theo hương thơm mặn mà của đại dương xanh thẳm và những ngọn sóng bạc đầu. Tôi hít một hơi thật sâu, nhìn sang anh Hùng thấy anh đang đỡ Tú Linh dậy, thằng Sinh thì cố lục lạo balo của mọi người, cuối cùng cũng moi được một chai rượu đục ngầu, nó nốc một hơi cạn sạch rồi “Khà” một tiếng rõ to. Giờ nhìn kỹ mới biết, quần áo của chúng tôi cũng chẳng khác gì quần áo của thằng Sinh là mấy, lấm lem bùn đất, loang lổ những vết rách, khuôn mặt thì vài chỗ đen xì như kiểu vừa chơi đánh bài trét lọ nồi xong. Nãy giờ chưa quen với ánh sáng nên chỉ nhìn được phía xa xa, tôi không ngờ rằng trước mắt chúng tôi có hai người, một nam một nữ đang đứng quan sát cả bọn, hình như anh Hùng cũng giật mình. Người thanh niên nhìn cũng trạc tuổi anh Hùng nhưng cao và ốm hơn, khuôn mặt anh ta khá thon thả, anh ta đeo mắt kính gọng đen, ăn mặc khá chỉnh chủ với áo trắng, quần tây, giày và nịt da, cùm tay đeo đồng hồ bóng loáng, một tay cho vào túi, tay còn lại anh nắm chặt cái vạt áo vest mà anh đang vắt trên vai. Tôi nghĩ bụng đây có lẽ là người thả diều đã phái con rắn xuống cứu chúng tôi. Đó là suy nghĩ đầu tiên vụt lên trong đầu tôi bởi vì một lý do đơn giản thôi: ánh mắt anh ta mang một sức mạnh ý chí khổng lồ, điểm chung của tất cả lục lâm mà tôi từng gặp qua. Kể cả… Thùy. Nhắc Thùy mới nhớ, người đứng cạnh bên anh chàng mặc vest kia sao có khuôn mặt giống Thùy đến thế? Hay tôi bị sự phản bội của Thùy tác động quá mạnh tới nổi sinh ra ảo giác rồi? Tôi định đưa tay lên dụi mắt thì đã nghe tiếng chửi lanh lảnh của thằng Sinh: “A! Con mẹ mày, con khốn La Tanh La Tiên gì gì đó! Còn dám kêu đồng bọn quay lại? Anh Hùng, lên đòi lại ngọc rết với em!” Vừa dứt lời thì thằng Sinh lao lên không chút do dự, nó phóng tới người thanh niên mặc vest với sát khí ngất trời, tôi thấy vậy cũng lao lên vì chắc mẩm rằng tôi không nhìn lầm, người trước mặt tôi chính xác là Thùy, ngoại trừ việc cô ta có đeo cặp kính cận hình tròn thì không nhầm lẫn vào đâu được. Hai chúng tôi tiếp cận người thanh niên trong tích tắc, anh ta không có phản ứng gì trên khuôn mặt cả, chỉ thấy chân anh ta hơi nhít, bất chợt mặt đất chao đảo, tôi cảm giác như mình đang đứng trên một tấm nệm bông nhão nhẹt chứ không phải đất đá cứng cáp như lúc nãy nữa. Khi nhìn xuống, tôi hốt hoảng nhận ra mặt đất là hàng trăm con rắn, chúng không tấn công mà chỉ cúi đầu di chuyển đột ngột làm tôi và thằng Sinh té ngã lăn quay. Vừa định ngồi phắt dậy thì tôi thấy anh thanh niên kia cười nhẹ, anh đặt tay lên cặp kính, chỉnh lại tròng kính rồi chậm rãi tiến về phía anh Hùng, người nãy giờ vẫn chưa động thủ. Khi anh ta đi ngang qua chỗ tôi, tôi định đưa tay lên bắt Ấn nhưng không hiểu sao cơ thể lại nặng trịch, như trên vai còn cục tạ trăm ký đè lên vậy, gồng hết sức lực cũng không đứng dậy được, tôi nhìn thằng Sinh, quay qua chỗ Tú Linh, cả hai đều rơi vào tình cảnh tương tự, chuyện quái gì đang xảy ra vậy, áp lực này quá dữ dội! Tôi quay sang chỗ anh Hùng, chỉ còn mình anh là đang đứng vững, cặp mặt anh sáng lên hai vòng tròn lửa xèn xẹt, nhìn chầm chầm vào người thanh niên đang tiến về phía mình, chẳng lẽ anh định gọi thần Shiva, nhưng đợi mãi cũng không thấy thần đâu. Người thanh niên kia ghé ngang chỗ tôi, tôi thấy anh đưa tay vuốt vuốt khoảng không trên đầu mình như vuốt lông mèo rồi tặc lưỡi: “Đồ ngon vậy mà để hư hết một hai phần rồi, uổng quá!” Giọng nói anh thanh niên không trầm như giọng anh Hùng, nó đớt đớt và hơi khó nghe. Anh ta dừng lại, đứng đối diện với anh Hùng, khẽ ngoắc đầu sang một bên rồi lên tiếng: “Quách Vệ Hùng, nghe anh em lục lâm đồn về anh đã lâu, nay mới có dịp gặp, đúng là một tài năng. Anh không phải người của Tứ Trấn nhưng năng lực thì hơn hẳn cả đống người bọn họ.” Anh Hùng đanh mắt, mặc dù đã rất mệt nhưng hào khí anh tỏa ra không thua kém gì người thanh niên kia cả, anh nói: “Sao anh lại cứu chúng tôi?” Người thanh niên cười ha hả: “Chà, chuyện nên làm thì làm thôi. Sẵn tiện, anh đang giữ một món đồ của tôi, nhưng tôi nghĩ anh sẽ cần nó cho chuyến đi sắp tới nên anh cứ lấy mà xài, sau này xong chuyện tôi sẽ tới đòi!” Anh Hùng cũng cười, như nhận ra sự kiện gì đó: “Thì ra là Võ gia. Người con thứ mấy nhỉ?” Anh thanh niên kia ngoắc tay ra hiệu, “Thùy” liền hấp tấp chạy lại, trong lúc chạy còn hậu đậu như thế nào đó mà đánh rơi quyển sổ trước mặt tôi, khi cô cúi xuống nhặt thì linh cảm mới mách bảo với tôi rằng: có thể đây không phải là Thùy, khí chất này hoàn toàn khác. Anh thanh niên đưa mắt nhìn chúng tôi một lượt rồi mới bảo với anh Hùng: “Anh nói đúng, tôi là Võ gia, tên Vân Hạo. Hùng Bonsai”, anh huýt sáo, lập tức đám rắn xung quanh chúng tôi chui tọt vào những bụi cây gần đó, “hẹn ngày gặp lại!” Vài giờ sau, chúng tôi cũng tìm đường tới được một nhà khách trên mỏm đá cạnh biển, thì ra chúng tôi đang ở Mũi Nai, Hà Tiên. Thằng Sinh được cắt cử đi kiếm cồn, nó vát về hàng loạt thứ rượu không có nhãn, bên trong ngâm con gì thì tôi hoàn toàn mù tịt, và tất nhiên là mười mấy chai Gò Đen, lúc nó đi vào thì gặp anh Hùng với Tú Linh đang loay hoay nấu đồ ăn, anh nhìn nó với ánh mắt dò xét thì nó chỉ biết nhún vai rồi cầm một chai lên tu. Màn đêm cũng buông xuống từ lâu rồi, giờ đã gần mười một giờ, nãy giờ chúng tôi thay phiên nhau tắm rửa, phân chia công việc cho một buổi nhậu lấy lại năng lượng. Chúng tôi ngồi quay quần trước hàng ba của nhà khách, tắt hết đèn bên trong để ngắm nhìn cảnh biển. Thú thực tôi đang rất ăn năn, chỉ muốn trút hết trong lòng, nãy giờ lo chuẩn bị này kia nên chưa dám nói, giờ rảnh rồi bèn lên tiếng, giọng lí nhí: “Anh Hùng… Nếu lúc đó em cẩn thận hơn, không để con La Tiên kề dao vô cổ, chắc thằng Sinh đã xử đẹp nó rồi… Viên Ngô Công Kim Thân cũng không bị…” Tú Linh ngồi kéo thuốc, chẳng thèm nhìn tôi mà nghe tôi nói, thằng Sinh thì chỉ lo nốc rượu, anh Hùng vỗ vai tôi bảo: “Nếu mày muốn nhận lỗi thì mày trách cả đoàn trước đi, ví dụ như anh với Tú Linh không đề phòng con nhỏ đó mà để nó gài bẫy trong phòng nè, hoặc thằng Sinh tới tiếp ứng trễ quá nè. Mày nói làm như là hay lắm, muốn cao thượng không?” Tôi ấp úng: “Sao anh nói vậy được, em thấy…” Tú Linh quát tôi: “Thôi đi nhóc. Lỗi phải gì xin hoài. Im lặng cho anh Hùng suy nghĩ đi!” Câu nói của Tú Linh làm tôi sực nhớ, tôi đã quá tập trung vào viên ngọc mà quên đi chuyện anh Thông, giờ để ý mới thấy ai cũng đang xuống tinh thần dữ dội, anh Thông là bạn nối khố của Tú Linh, là người đã không biết bao nhiêu lần cứu mạng Thạch Sinh, ngọc rết đã cầm trong tay mà không lấy về được để cứu anh ấy, thời gian không biết là còn bao nhiêu nhưng đã gấp lắm rồi. Tôi thấy Tú Linh và Sinh ai nấy cũng hút thuốc, uống rượu nhưng đều gục mặt, cảm giác được lỗi lầm tôi gây ra là không nhỏ nhưng nhận hết trọng trách về bản thân mình khác nào trách họ vô dụng không cứu được tôi mới gây ra chuyện ngọc rết bị hẫng tay trên. Thấy vậy, tôi cũng gục mặt, bất giác thấy ly rượu và điếu thuốc cũng lao vào như bọn họ. Chúng tôi ngồi im lặng khoảng nửa giờ đồng hồ, ly vẫn cụng, thuốc vẫn châm. Chợt giữa không gian tĩnh mịch đó, anh Hùng lên tiếng: “Nãy anh nhờ mày hỏi mấy người thả diều, mày có làm không Sinh?” Sinh bảo: “Đợi anh hỏi nãy giờ. Em có gặp một chú, ổng ngồi trên vách đá chỗ bờ biển ấy. Ổng nói Cửu Long Đỉnh đảo chiều làm anh Thông tiến hóa, chú Chín phải đem ổng về Núi Két nhốt trong lồng sắt.” Anh Hùng thở dài: “Vậy cũng yên tâm phần nào, có chú Chín bọc hậu cho mình không thôi bí đường thiệt luôn.” Tú Linh hỏi: “Giờ sao nữa anh?” “Em không về trường đá gà à?” “Anh bớt bớt đi. Anh nghĩ em là loại người vậy hả?” Anh Hùng cười, nói: “Bước tiếp theo như thế nào chắc phải hỏi chú Chín thôi. Giờ mọi người dọn dẹp rồi đi ngủ, mai lên đường về Núi Két gặp ổng mà thỉnh giáo. Chín giờ sáng nghe.” Tôi nghe anh Hùng nói thì làm theo vậy thôi chứ làm sao mà ngủ được, chỉ vắt tay lên trán để cho màn đêm chầm chậm trôi đi, tâm tư tôi thả theo hơi men. Tôi tự nhủ không thể nào để cảm giác tiêu cực này lấn chiếm mình được, lúc nãy nói chuyện, mọi người mặc dù tuyệt vọng nhưng chưa ai chịu bỏ cuộc, tôi tin rằng ngày mai chú Chín sẽ mách kế cho chúng tôi tiếp tục. Ông ta là một lục lâm lão làng, lần trước anh Hùng có nói ổng chỉ cần bấm tay là biết việc thành hay bại, có lẽ lần này ổng cũng đã lường trước mà bắt đầu nghĩ cách, khi chúng tôi về tới sẽ lập tức lên đường. Nghĩ tới đó thì thấy phấn chấn phần nào, tâm trí tôi cũng dần chìm vào giấc ngủ. Một cú tát trời giáng vực tôi dậy, bực mình hết sức à nghe, đã hẹn chín giờ đi, tôi có đặt báo thức tám giờ rưỡi rồi, có cần phải dùng vũ lực để đánh thức nhau như vầy hoài không? Tôi dụi mắt xong mới tá hỏa nhận ra trời vẫn còn tối đen, định quay sang chửi thì đã thấy Tú Linh đưa ngón trỏ lên miệng tôi, kiểu như cô biết tính tôi vậy, vẻ mặt cô ta khá hình sự nên tôi mới hỏi là có chuyện gì. Tú Linh bảo: “Nhóc ngu cũng ngu vừa thôi, chừa cho thiên hạ với. Không có Núi Két Núi Kiết gì đâu, giờ mà còn quay về bàn cách này kia nữa thì thằng Thông chết chắc, Cửu Long Đỉnh đảo chiều rồi, thời gian giờ chắc chỉ còn vài ngày!” Tôi lắp bắp: “Chẳng lẽ…”, chỉ nghe tiếng Tú Linh giục đi nhanh theo cô, đồ đạc cô chuẩn bị xong hết rồi. Khi chạy ra tới sườn núi phía dưới tôi mới tá hỏa phát hiện ra hai chiếc xe của tôi và Tú Linh đã đậu ở dưới tự bao giờ, ngồi trên chiếc 67 của tôi là anh Hùng và Sinh. Sau này nghe kể lại mới biết, đêm đó anh Hùng lặng lẽ xách balo định bụng bỏ đi một mình, không để ai vướng vào nguy hiểm nữa hết. Hai chiếc xe này là anh nói thằng Sinh lúc chiều nhờ thả diều đem tới, nhưng vừa ra đến nơi định nổ máy thì đã thấy Sinh chuẩn bị đồ sẵn, ngồi đợi nãy giờ, nó ngậm thuốc, vắt balo lên vai, nhếch mép cười rồi leo lên yên sau, khỏi cần anh Hùng nói gì cả. Anh Hùng cũng chỉ cười lại, lúc đang nổ máy chuẩn bị chuồn thì bị tôi và Tú Linh phát hiện. Tôi nhìn sang Tú Linh, rồi cả hai cùng nhìn về phía anh Hùng và Sinh, họ thì đơ ra cũng không nói được gì. Linh tính mách bảo cho tôi biết rằng giờ phút này chúng tôi chẳng cần phải nói với nhau câu gì cả. Tú Linh tiến đến chiếc Honda Win của mình, đá chân chống rồi nhìn tôi, vỗ vỗ vào yên sau. Hai chiếc xe máy nổ rền vang như muốn xé toạc ánh sáng vàng cam của buổi bình minh chuẩn bị ló dạng. Tôi quay sang hỏi anh Hùng: “Giờ mình đi đâu anh?” Anh chỉ điếu thuốc về phía tôi rồi bảo: “Đi tới nơi có Con Đường của lục lâm.” Hết thiên 2. -
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top