Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!
Chương 20


Adam tỉnh dậy và thấy mình trần truồng.

Anh nhìn quanh căn phòng đơn sơ nhưng khác với lúc ở nhà giam Pháp, lần này anh không thể thấy được mọi thứ phía sau mình: Tay, chân và người bị trói chặt bằng giấy ni lông vào một chiếc ghế đặt giữa phòng khiến anh không thể cử động được.

Khi nhìn lên Adam chỉ thấy được viên đại tá Pollard đang đứng bên cạnh. Vừa yên tâm khi thấy anh đã tỉnh lại, hắn liền nhanh chống quay gót ra khỏi phòng.

Adam quay đầu lại và nhìn thấy tất cả quần áo của mình được đặt trên gường tít tận góc cuối phòng. Anh cố dịch chuyển chiếc ghế nhưng chỉ lúc lắc được nó sang hai bên, sau vài phút anh chỉ tiến được về phía cửa có vài inch. Anh dùng hết sức cố nới lỏng sợi dây quanh cổ tay, cọ xát chúng vào ghế nhưng hai tay bị trói quá chặt nên chỉ nới lỏng được chút ít.

Sau mấy phút cố gắng không có kết quả, Adam phải dừng lại vì có tiếng mở cửa. Romanov đang bước vào. Theo sau hắn là một tên mà Adam không nhận ra. Tên thứ hai cầm một vật trông như hộp xì gà và ngồi xuống đâu đó phía sau Adam. Pollard đi sau tay cầm một bảng nhựa lớn.

Romanov nhìn lên thân hình trần truồng của Adam và mỉm cười khoái trá vì đang làm nhục anh. Hắn nói với một giọng nhẹ nhàng:

- Tên tôi là Alexander Petrovich Romanoy.

Adam nhìn thẳng vào địch thủ:

- Hoặc là Emmanuel Rosenbaum.

Hắn nói thêm trong khi bắt đầu xoay chiếc ghế:

- Rất tiếc vì chúng ta không thể bắt tay nhau được. Nhưng tôi thấy trong hoàn cảnh hiện nay thì mọi sự cẩn trọng nhất định là rất cần thiết. Trước hết tôi muốn chúc mừng ông vì đã lẩn tránh được khỏi tay tôi lâu đến thế. Nhưng bây giờ thì ông đã hiểu là tai mắt của tôi ở London cũng có thể gọi một cú điện thoại nhanh không kém người của các ông.

Adam hỏi:

- Tai mắt của các ông?

- Đừng có ngây thơ, đại úy. Ông phải hiểu vị trí của ông hiện nay không được hỏi mà chỉ trả lời câu hỏi thôi.

Adam nhìn chăm chú lên viên gạch trên tường phía trước tỏ ra không thèm để ý đến sự vòng vo của Romanov.

Hắn nói một cách gay gắt:

- Pollard, hãy đưa đại úy Scott ra giữa phòng. Hình như ông đã dịch chuyển được ít nhất là nửa mét định tẩu thoát.

Pollard tuân lệnh, hắn để tấm bảng nhựa lên sàn nhà rồi đẩy Adam cùng chiếc ghế lên giữa tấm bảng.

Romanov nói:

- Cảm ơn.

Hắn nói tiếp:

- Tôi nghĩ là ông đã gặp đại tá Pollard của chúng tôi. Tất nhiên đó không phải là một đại tá. Nhưng đó là một cái lon mà ông ta rất thích được đeo cho nên có dịp là chúng tôi phong chức cho ông ta ngay. Thực ra vị đại tá chân chính của chúng ta đã từng phục vụ cho quân đội Anh nhưng Hoàng gia và đất nước chỉ cho ông ta làm một anh lính trơn. Sau mười tám năm phục vụ trở về ông ta cũng vẫn là một người lính trơn. Mặc dù có một vết thương ở chân mà chẳng may lại không phải do kẻ thù của Triều đình gây ra cho nên ông ta không thể nào đòi được đồng lương hưu ít ỏi. Điều đó đã làm ông ta sống rất khó khăn. Nhưng như tôi đã giải thích, ông ta vẫn luôn luôn muốn được là một đại tá.

Romanov nói tiếp:

- Ông có ý tốt khi hỏi ông ta có phải phục vụ trong Trung đoàn Công tước York không. Nhưng bởi vì đại tá tài ba của chúng tôi đã phục vụ trong trung đoàn Jaket Xanh cho nên đó là cái cravat mà ông ta cảm thấy an toàn khi đeo.

Mắt Adam vẫn dán chặt vào tường.

- Bây giờ tôi thú nhận rằng chúng tôi đã nhầm lẫn treo ngược lá cờ Anh. Mặc dù Pollard lẽ ra phải phát hiện được điều đó mới phải, nhưng chúng tôi cũng phải cám ơn là ông cũng đã không nhận ra trước khi cửa xe đã được khóa lại.

Rồi Adam cảm thấy chiếc xyranh đâm vào lưng. Như anh muốn... anh bắt đầu nói. Sau đó sự đau buốt lan khắp cơ thể, rồi thình lình anh không biết gì nữa.

Chiều hôm ấy khi đến sân bay Orly Lawrence mong được ngồi ăn tối với người bạn cũ của mình trong phòng riêng yên tĩnh của Sứ quán. Anh gặp đại tá Pollard tại rào chắn. Câu nói đầu tiên của Lawrence là:

- Scott ra sao rồi?

- Tôi đang hy vọng ông sẽ cho tôi biết.

Pollard nói và đỡ vali cho Lawrence. Lawrence đứng khựng lại giữa đường nhìn chằm chằm viên sĩ quan cao lớn mặc đầy đủ quân phục Long Kỵ binh Ngự Lâm Hoàng gia. Anh nói:

- Ông nói thế nghĩa là thế nào?

Pollard nói:

- Nghĩa là thế thôi. Theo đúng hướng dẫn của ông trong bức thư, tôi đến Ile de la Cité để đón Scott nhưng khi đến nơi người ta cho biết là trước đó hai mươi phút có người mang tên tôi đã đón ông ta đi. Chúng tôi liên lạc với văn phòng của ông ngay tức khắc nhưng vì ông đang trên đường đến đây nên Đại sứ đã lệnh cho tôi đi thằng ra sân bay trong khi ông ấy gọi cho ngài Morris.

Lawrence lảo đảo suýt ngã. Viên đại tá vội chạy đến cạnh. Lawrence lẩm bẩm:

- Chắc chắn cậu ấy nghĩ là lại do mình.

Viên đại tá ngỡ ngàng chẳng hiểu anh muốn nói gì.

Khi Adam tỉnh dậy Romanov đang đứng một mình. Hắn tiếp tục nói tựa như Adam chưa bao giờ ngất đi cả:

- Đôi khi một người quá tự hào thường không muốn để lộ sự yếu đuối của mình trước đao phủ hoặc trước mặt đồng bào mình, nhất là trước mặt một kẻ phản bội. Ông hãy nói cho tôi biết ông để bức tranh Thánh ở đâu.

Adam gay gắt hỏi:

- Tại sao tôi phải nói? Đó là sở hữu hợp pháp của tôi?

- Không phải vậy, đại úy Scott. Vật ông đã lấy ra ở ngân hàng Geneva là nguyên bản của một bức tranh Thánh vô giá do chính tay Rublev vẽ, và nó là tài sản quốc gia. Nếu bức tranh Thánh vô giá đó xuất hiện ở bất cứ cửa hàng bán đấu giá hoặc phòng tranh nào trên thế giới thì lập tức chúng tôi có quyền đòi lại như một báu vật quốc gia bị lấy cắp đem bán.

Adam toan nói:

- Nhưng làm sao có thể là...?

Romanov nói:

- Bởi vì chính ông là người đang giữ nguyên bản bức tranh mà Sa hoàng đã gửi lại công tước Hesse giữ hộ và suốt hơn năm mươi năm qua chúng tôi chỉ giữ phiên bản mà thôi.

Mắt Adam mở to đầu hoài nghi khi Romanov lấy từ túi áo trong của chiếc áo khoác hắn đang mặc ra bức tranh Thánh Goerge và Con Rồng. Romanov ngừng lại rồi lật bức tranh lại; một nụ cười thỏa mãn hiện trên nét mặt khi mắt Adam nhận ra dấu vết chiếc vương miện đã bị mất ở phía sau. Romanov nói tiếp:

- Cũng như ông, tôi chỉ có quyền mượn phiên bản này, nhưng nếu ông cho tôi biết nguyên bản hiện ở đâu, tôi sẽ cởi trói cho ông và đổi phiên bản này lấy nguyên bản. Không ai biết gì hết và ông vẫn có khả năng tự lo liệu để kiếm được một món lời đáng giá.

Adam cười khẩy nói:

- Đổi đèn cũ lấy đèn mới hả?

Mắt Romanov nheo lại đe dọa:

- Scott, tôi tin ông hiểu mình đang giữ một kiệt tác vô giá. Một khi ông chưa chịu trả lại bức tranh Thánh đó thì ông sẽ gây ra những rắc rối khôn lường cho đất nước mình và rốt cục ông sẽ vào tù. Việc ông cần làm là nói cho tôi biết bức tranh Thánh ở đâu và rồi ông sẽ được tự do.

Adam không thèm lắc đầu nữa:

- Thế thì đã đến lúc cho phép ông biết một vài thông tin chắc ông sẽ quan tâm.

Romanov vừa nói vừa rút một tờ giấy trong chiếc phong bì hắn lấy trong túi áo trong ra. Adam thực sự thắc mắc không đoán được chuyện gì. Romanov chậm rãi mở ra và giơ lên cao cho Adam chỉ thấy được mặt sau. Hắn nói tiếp:

- Tờ giấy này tiết lộ lời tuyên án của thẩm phán Nikitchenko trong phiên tòa ở Nga năm 1946, lời tuyên án tử hình đối với thiếu tá Vladimir Kosky nào đó từng làm giám thị Nga trực ban trong đêm tên tướng Đức Hermann Goering chết.

Hắn lật tờ giấy lại để Adam thấy được.

- Như ông đã thấy đấy, thiếu tá Kosky bị buộc tội đã hợp tác với kẻ địch để ăn tiền. Người ta đã chứng minh hắn phải chịu trách nhiệm trực tiếp trong vụ chuyển thuốc độc cyanua vào xà lim tên tướng Đức đêm hắn tự tử chết.

Mắt Adam mở to, Romanov nói:

- A, tôi hiểu là bài mình đã có con át chủ bài. Bây giờ tôi nghĩ cuối cùng ông sẽ cho tôi biết bức tranh Thánh ở đâu bởi vì người Anh các ông có một câu ngạn ngữ, nếu tôi không nhầm là: trao đổi sòng phẳng không phải là trộm cắp. Bức tranh Thánh của ông đổi lấy bức tranh Thánh của tôi, cộng với lời phán xét pháp lý cuối cùng sẽ minh oan cho cha ông.

Adam nhắm mắt lại, lần đầu tiên đau đớn nhận ra Romanov không biết chuyện gì phía sau bức tranh Thánh.

Romanov bước tới nhìn thẳng vào Adam, nói:

- Đã đến lúc tôi phải đi ăn tối. Tôi cũng định mời cả ông nữa nhưng có lẽ dạ dày của ông chưa thích hợp cho việc đó.

Romanov đi ra, viên đại tá Pollard bước vào, Romanov và đại tá trao đổi mấy câu gì anh không hiểu được. Rồi hắn bước ra khỏi phòng, tay đóng nhẹ cánh cửa lại.

Pollard tiến lại gần Adam cho anh uống nước. Anh uống hết chai nước và thực sự ngạc nhiên khi thấy mình hồi sức nhanh chóng như vậy. Mặc dù các giác quan đã trở lại bình thường Adam vẫn nghi ngờ không rõ mình có sống sót qua một lần nữa không.

- Ối, ngã mất.

Adam nói và thình lình chúi đầu ra trước. Pollard nhanh chóng cởi trói cho anh và nhìn anh gục xuống nằm phủ phục. Anh nhổ nước bọt mấy lần và vẫn nằm trong tư thế cũ cho đến khi viên đại tá kéo nhẹ anh trở lại ghế. Khi đã ngồi xuống, Adam nắm chặt hai chân ghế rồi lấy hết sức bình sinh cúi người về phía trước quật mạnh chiếc ghế xuống đầu tên đại tá mất cảnh giác. Pollard đổ vật xuống đất trước mặt Adam.

Adam vẫn ngồi quì gối trước xác viên đại tá, không rõ tiếp theo phài làm gì. Anh mừng thầm là mình đang ở trong phòng cách âm. Anh chờ mấy giây để lượng xem sức lực mình còn lại bao nhiêu rồi nhặt chai nước lăn lóc trên đất lên uống hết không còn một giọt. Sau đó anh bò đến giường, mặc quần đùi, đi tất và chiếc áo sơ mi không mấy trắng trẻo vào, tiếp đó là quần dài và đi giầy. Anh định mặc áo khoác nhưng thấy lớp lót bên trong đã bị xé ra từng mảnh liền thay đổi ý định và đi lom khom như một ông già về phía tên đại tá, cởi chiếc áo khoác vải tuýt mác Harris của hắn ra mặc vào người. Vai hơi rộng nhưng hông lại ngắn.

Adam bước ra cửa cảm thấy gần như hân hoan. Anh vặn quả đấm và đẩy cửa ra. Cách cửa hé mở - không thấy có chuyện gì - hé tí nữa - vẫn không có gì. Anh nhìn qua khe hở nhưng chỉ thấy hành lang tối đen, Adam mở rộng cánh cửa, cái bản lề cửa bỗng rít lên như tiếng lốp xe đang chạy phanh chát đường. Sau khi đã chắc chắn không có ai quay lại, anh đánh bạo bước ra hành lang.

Adam đứng dựa sát vào tường chăm chú quan sát dọc hành lang hẹp không có cửa sổ, chờ cho mắt quen với bóng tối. Anh nhìn thấy một tia sáng lờ mờ chiếu qua ô cửa kính ở phía đầu kia hành lang bèn rón rén đi về phía đó. Anh đi tiếp, dò dẫm như một người mù chầm chậm tiến bước cho đến khi thấy một luồng sáng khác chiếu qua khe cửa bên phải cách cánh cửa của anh cần đến quãng mười mét. Anh thận trọng tiến tới cửa đầu tiên, chỉ còn một bước nữa bỗng cánh cửa bật mở. Một người đàn ông nhỏ nhắn mặc chiếc áo blu màu trắng và bộ quần áo nấu bếp xanh bước ra. Adam đứng im ép sát người vào tường trong khi người đầu bếp rút từ trong túi bao thuốc lá và hộp diêm ra và đi về phía kia. Khi tiến đến ô cửa kín hắn mở cửa và đi ra. Adam nhìn bóng người dựa vào tấm cửa kính. Hắn quẹt diêm, điếu thuốc lá cháy đỏ lên, đám khói đầu tiên nhả ra, thậm chí anh còn nghe thấy cả tiếng thở dài.

Adam rón rén đi qua căn phòng giờ đây đã biết đó là bếp. Anh đi về phía cánh cửa dẫn ra ngoài nhà, từ từ vặn quả đấm cửa và đợi cho bóng người kia bước đi. Bản lề cánh cửa này cũng chẳng được ai tra dầu mỡ bao giờ. Người đàn ông quay lại mỉm cười vừa đúng lúc Adam vung tay trái đấm mạnh vào bụng hắn. Hắn gục xuống, anh lại dồn hết sức vung tay phải giáng một quả nữa vào cằm. Người đàn ông ngã vật xuống đất trong khi Adam lấy làm mừng vì thấy hắn nằm im không nhúc nhích.

Anh kéo cái thân hình mềm nhũn qua bãi cỏ, để hắn sau một bụi cây và quì xuống cạnh đó cố quan sát xem mình đang ở đâu. Chỉ thấy phía trước là một bức tường cao, cạnh đó là một cái sân rải đầy sỏi. Dưới ánh trăng bức tường đổ bóng dài trên những viên cuội nhỏ. Có dễ đến hai mươi mét... Tập trung hết sức lực còn lại, anh chạy tới bức tường và đứng ép vào như một con hà bám vào đá, bất động trong bóng tối. Chậm rãi và im lặng, anh đi men từng bước theo bức tường cho tới khi ra đến trước tòa dinh thự. Hai cánh cửa lớn bằng gỗ sơn xanh trước lối vào đang mở rộng, cứ cách vài giây một chiếc xe con lại chạy lướt qua anh. Adam nghoảnh lại nhìn vào cửa trước, anh thấy một người đàn ông to béo ngực đeo đầy huân chương đang đứng trên bậc tam cấp bắt tay chào từng khách ra về.

Có một vài khách đi bộ về. Cạnh cổng hai cảnh vệ có vũ trang đang đứng nghiêm chăm chú chào từng chiếc xe hoặc từng khách đi qua.

Adam chờ cho chiếc BMW to tướng với lá cờ Tây Đức phấp phới trên mui từ từ đi qua cổng. Lợi dụng chiếc xe che chắn, Adam đi ra giữa đường, sau đó theo sát chiếc xe, anh bước đi qua hai cảnh vệ ra đường.

- Bonsoir.

Anh khẽ chào trong khi chiếc xe tiến đến. Chỉ còn cách đường một mét nữa thôi. Anh tự nhủ: Đi, chỉ đi thôi, không được chạy. Đi, đi cho đến khi khuất hẳn ngoài tầm nhìn của bọn chúng. Hai người lính gác chào lại anh một cách lễ phép. Không được ngoảnh lại. Phía sau có một chiếc xe nữa tiến ra nhưng mắt anh vẫn nhìn thẳng phía trước.

- Tu cherches une femme? (Anh đang tìm đàn bà ư?)

Một giọng nói vang lên từ khoảng tối cạnh ngôi nhà. Adam đã rẽ vào một đường phố một chiều khá tối tăm. Mấy người đàn ông trông khó đoán được tuổi đang đi lang thang xuôi ngược trên lề đương. Anh nghi ngại nhìn họ rồi bước vào bóng tối.

- Cá... i gì kia?

Adam vừa nói vừa bước mạnh xuống đường, các giác quan anh căng thẳng vì câu hỏi bất ngờ.

- Người Anh, đúng không? Anh đang tìm gái hả?

Câu nói đặc giọng Pháp. Adam hỏi, vẫn chưa nhìn rõ người phụ nữ:

- Cô nói đươc tiếng Anh chứ?

- Làm nghề này thì phải biết nhiều thứ tiếng, anh yêu ạ. Nếu không thì sẽ chết đói ngay.

Adam cố gắng nghĩ thật mạch lạc:

- Bao nhiêu một đêm?

Cô gái nói:

- Eh bien, nhưng bây giờ chưa đến nửa đêm, vậy em phải đòi hai trăm phơ răng.

Mặc dù không có tiền, Adam vẫn hy vọng ít ra cô gái cũng đưa được anh đến nơi an toàn.

- Hai trăm cũng được.

Cuối cùng cô gái cũng bước ra khỏi bóng tối, nói:

- Daccord, (Được).

Adam kinh ngạc thấy hóa ra cô gái thật là quyến rũ.

- Anh hãy nắm lấy tay em và khi chúng ta đi qua cảnh sát anh chỉ việc nói "Ma femme" (vợ tôi) thôi.

Adam vấp chân chúi người ra trước.

- Ô, em nghĩ anh đã uống nhiều quá đấy, anh yêu. Đừng ngại, anh có thể dựa vào em, được không?

Adam nói trong khi anh cố theo kịp cô gái một cách khó khăn:

- Không đâu, tôi chỉ mệt thôi.

- Anh vừa dự chiêu đãi ở Sứ quán ra, nest-ce pas (có đúng không)?

Adam thấy chột dạ.

- Đừng ngạc nhiên, anh yêu. Đa số khách quen em đều từ Sứ quán ra cả. Họ không thể mạo hiểm có tình nhân cố định, tu comprends ( anh hiểu chứ)?

Adam nói:

- Tôi tin cô.

- Nhà của em ở ngay sau góc phố kia kìa.

Cô gái nói để anh yên tâm. Adam tin anh có thể đi xa đến đó nhưng khi họ đến được tòa nhà và nhìn thấy cầu thang Adam phải hít vào một hơi thật sâu.

Anh định bước vào cửa trước...

- Anh yêu, em sống ở tầng trên. Quang cảnh xung quanh đẹp lắm - rồi cô gái nói ra vấn đề thiết thực - nhưng em không biết nói với anh như thế nào, nhà này không có thang máy.

Adam không nói gì nhưng anh tựa người vào tường thở mạnh. Cô gái nói:

- Anh fatigúe (mệt) rồi.

Khi họ lên đến tầng hai thì gần như cô phải kéo lê Adam qua những bậc thang cuối cùng.

- Em thấy đêm nay anh không dậy nổi đâu, anh yêu - cô vừa nói vừa mở cửa phòng và bật đèn - tại buổi chiêu đãi đấy.

Cô bước vào, đi mấy bước nữa và bật thêm một đèn khác.

Adam lảo đảo đi trên chiếc ghế duy nhất anh thấy và ngồi phịch xuống. Sau đó cô gái đi vào phòng trong. Adam cố sức không ngủ thiếp đi trước khi cô quay ra.

Khi cô gái đứng dưới ánh đèn trước khung cửa, lần đầu tiên Adam được ngắm cô kỹ càng. Mái tóc vàng cắt gọn gàng và lượn sóng, chiếc áo bluđông đỏ và váy đen ngắn đến đầu gối bó sát người. Chiếc thắt lưng nhựa trắng to bản nổi bật trên vòng eo nhỏ nhắn. Cô đi đôi tất lưới đen, trong điều kiện bình thường đôi chân tuyệt đẹp này chắc hẳn phải làm anh rạo rực.

Cô gái khẽ lúc lắc đôi mông tiến đến cạnh Adam và quỳ xuống. Đôi mắt cô xanh biếc một cách kỳ lạ.

- Anh có thể đưa em hai trăm bây giờ được không?

Cô dịu dàng hỏi, tay vuốt nhẹ trên đùi anh.

Adam nói ngắn gọn:

- Tôi không có đồng nào cả.

- Cái gì?

Cô nói, lần đầu tiên nghe có vẻ giận dữ. Thọc tay vào túi áo trong của anh. Cô rút ra một cái ví dày cộp rồi dí vào mặt Adam, hỏi:

- Vậy thì cái gì đây? Em không chơi thế đâu nhé.

Anh mở ví ra, trong ví đầy tiền Pháp và mấy tờ tiền Anh. Adam đoán chắc viên đại tá vừa được trả tiền mặt cho việc phục vụ vừa rồi của hắn.

Adam rút ra hai tờ một trăm phơ răng trịnh trọng giơ lên.

- Có thế chứ.

Cô gái nói và biến mất vào phòng trong.

Adam nhanh chóng kiểm tra cái ví thấy có một bằng lái xe và hai thẻ tín phiếu mang tên thật của viên đại tá Albert Tomkins. Anh liếc nhìn xung quang: một chiếc giường đôi kê đầu quay vào tường chiếm phần lớn diện tích căn phòng. Cách chiếc ghế anh đang ngồi chỉ có một thứ đồ gỗ nội thất duy nhất là chiếc bàn trang điểm và một chiếc ghế con với miếng đệm nhung đỏ phía trên.
 
Chương 21


Khi Adam tỉnh giấc mặt trời đã chiếu qua ô cửa sổ nhỏ của căn phòng ngủ. Thoạt tiên mọi thứ xung quanh làm anh chói mắt, anh chớp mắt và cố nhớ lại những gì đã xảy ra đêm qua. Thế rồi anh nhớ lại tất cả và rùng mình vì những kí ức đó. Adam ngồi sát ra mép giường và cố đứng lên nhưng cảm thấy vô cùng chóng mặt và yếu ớt nên lại ngồi xuống. Ít ra thì anh cũng đã trốn thoát. Anh nhìn quanh phòng nhưng không thấy hoặc không nghe tiếng cô gái đâu. Bỗng anh nhớ đến cái ví.

Anh ngồi bật dậy. Phải mất mấy giây anh mới thu hết sức lực để đứng dậy được và cố bước đi. Mặc dù anh đi chưa vững nhưng cũng đã tốt hơn mong đợi rất nhiều. Chỉ sự phục hồi nhanh chóng mới đáng kể chứ không phải là tốc độ nhanh, Adam mỉa mai nghĩ. Đến được cạnh lò sưởi, anh quì gối lục lọi đống củi nhưng chiếc ví của viên đại tá đã không cánh mà bay. Anh vội quay lại chỗ cái áo Jacket vắt trên thành ghế. Adam kiểm tra túi áo trong: một cái bút máy, một cái lược răng chỉ còn một nửa, một hộ chiếu, bằng lái xe, mấy thứ giấy tờ khác nhưng không có ví. Anh lục cái túi ngoài: một chùm chìa khóa, một con dao gấp, mấy đồng xu cả tiền Anh lẫn tiền Pháp, nhưng tất cả chỉ có thế. Adam văng tục và đổ vật xuống sàn nhà rồi cứ ngồi như vậy không nhúc nhích cho đến khi nghe có tiếng chìa quay trong ổ khóa.

Cửa ra vào mở ra, cô gái bước vào, tay xách chiếc giỏ đi chợ. Cô mặc chiếc váy hoa khá đẹp và chiếc áo blu dông trắng khiến trông cô giống như một người đi lễ nhà thờ buổi sáng Chủ nhật. Chiếc giỏ chất đầy thực phẩm.

- Anh thức dậy rồi à, anh yêu? Est-ce-que tu prends le petit déjeuner (Anh ăn sáng chứ?)

Anh nhìn cô hơi ngạc nhiên.

Cô chăm chú nhìn lại anh.

- Ngay cả gái gọi cũng cần ăn sáng chứ, nest-cepas? (Đúng không?). Đôi khi đó là bữa duy nhất trong ngày đấy.

Adam lạnh lùng hỏi:

- Cái ví của tôi đâu rồi?

Cô gái chỉ tay nói:

- Trên bàn ấy.

Adam nhìn quanh phòng và thấy cái ví được để ở chỗ dễ nhìn thấy nhất. Cô gái trách:

- Anh không việc gì phải giấu nó đi đâu. Mặc dù em là một con đĩ thật, nhưng em không nghĩ mình là một con ăn cắp.

Nói xong cô bước vào bếp vẫn để cửa mở toang.

Cô hỏi to:

- Cà phê và bánh sừng bò nhé?

Adam nói:

- Tuyệt vời - Rồi anh dừng lại một chút. - Tôi xin lỗi. Tôi thật là ngu ngốc.

Cô gái nói:

- Thôi đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa. Ca nest rien (Không sao cả đâu).

Adam nói:

- Tôi vẫn chưa biết tên cô.

- Tên làm việc của em là Brigitte, nhưng đêm qua anh không yêu cầu em phục vụ, sáng nay cũng vậy. Vậy anh có thể gọi tên thật của em là Jeanne.

- Jeanne, tôi có thể tắm được không?

- Cửa phòng tắm ở góc nhà ấy, nhưng anh đừng tắm lâu quá nhé, nếu không bánh sừng bò sẽ nguội mất.

Adam đi vào nhà tắm, thấy Jeanne đã để sẵn tất cả những gì mà một người đàn ông có thể cần đến: kem cạo râu, xà phòng, vải mềm, khăn tắm - và một hộp Durex to tướng.

Sau khi cạo râu và tắm nước nóng - những lạc thú mà Adam đã gần như quên hẳn - anh thấy hầu như đã bình phục nếu không kể đến còn hơi yếu mệt đôi chút. Anh quấn chiếc khăn tắm ngang thắt lưng trước khi đi vào bếp gặp Jeanne. Thức ăn đã bày sẵn trên bàn và Jeanne đang đỡ chiếc bánh sừng bò nóng dòn từ lò nướng ra.

- Thân hình đẹp đấy chứ - Cô vừa nói vừa xoay tròn, đưa mắt nhìn chăm chú và đặt chiếc đĩa trước met anh. Khá hơn những gã mà em vớ được nhiều.

Adam ngồi vào bàn đối diện cô và mỉm cười nói:

- Em cũng có đến nỗi tồi lắm đâu.

Jeanne nói:

- Rất sung sướng về lời khen của anh. Em bắt đầu nghĩ về anh rồi.

Adam chậm rãi phết mứt vào bánh, hồi lâu không nói câu nào.

Jeanne nhìn anh ăn ngấu nghiến mấy mẩu bánh cuối cùng còn lại trong đĩa, hỏi:

- Anh ăn lần gần nhất là khi nào vậy?

- Trưa hôm qua. Nhưng sau đó tôi đã gột sạch dạ dày mình rồi.

- Say chứ gì? Không nên uống nhiều như vậy.

Adam nói:

- Tôi nghĩ "nốc" là từ đúng nhất - Rồi anh nhìn cô gái - Jeanne, em vẫn có thể làm việc chứ?

Cô gái nhìn đồng hồ:

- Hai giờ chiều nay em sẽ có một khách quen. Sau đó sẽ phải ra phố lúc năm giờ - Vậy là phải làm việc sáng nay thôi.

Cô gái nói rất thiết thực, Adam đáp:

- Không, không, anh không định nói chuyện đó.

Jeanne nói:

- Anh có thể nhanh chóng làm cho người con gái, nói thế nào bằng tiếng Anh nhỉ - mặc cảm. Anh không phải là một trong những ngừơi kì cục ấy chứ?

Adam cười đáp:

- Không, không phải như vậy. Nhưng tôi xin trả thêm cho em hai trăm phơ răng nữa để em phục vụ tôi.

- Một việc hợp pháp chứ?

- Hoàn toàn hợp pháp.

- Alars, vậy em phải đổi kế hoạch một chút. Anh cần em bao lâu?

- Một đến hai giờ đồng hồ là cùng.

- Cao hơn giá công việc của em hiện giờ nhiều. Em sẽ phải làm gì đây.

- Tôi muốn trong vòng một giờ đồng hồ mọi người đàn ông Paris đều mê mệt em. Nhưng riêng lần này em không được tiếp họ, với bất kì giá nào.

Lawrence nói với nhóm D4:

- Scott vừa mới liên lạc với tôi mấy phút trước đây.

Sir Morris lo lắng hỏi:

- Anh ta nói gì?

- Chỉ nói là đang vặn ngược đồng hồ.

Snell hỏi:

- Ông nghĩ là anh ta nói vậy có nghĩa là gì?

Lawrence nói:

- Tôi cho là anh ta đang quay lại Geneva.

Matthews hỏi:

- Tại sao lại là Geneva?

Lawrence đáp:

- Tôi không chắc chắn lắm nhưng anh ta nói phải làm gì đó với cô gái Đức hoặc là ngân hàng nhưng tôi không thể tin điều đó được.

Hồi lâu không ai nói gì nữa. Rồi Busch hỏi:

- Ông có xác định được nơi gọi không?

Lawrence nói:

- Chỉ biết khu vực thôi. Đâu đó ở trên biên giới Đức - Thụy Sĩ.

Sir Morris nói:

- Tốt. Vậy là chúng ta lại vào việc rồi. Ông đã thông báo cho Interpol chưa?

- Thưa ngài rồi ạ, và tôi cũng báo cáo tóm tắt riêng cho cảnh sát Đức, Pháp và Thụy Sĩ - Lawrence nói thêm. Đó cũng là báo cáo thật duy nhất anh nói ra từ khi cuộc họp bắt đầu.

Jeanne cần bốn mươi phút để chuẩn bị và khi thấy thành quả lao động của cô Adam huýt lên một tiếng. Anh nói:

- Không ai sẽ nhìn thấy tôi lần thứ hai cho dù tôi có lấy hết tiền trong ngăn kéo tủ quầy trước mặt họ đâu nhé.

Jeanne nhoẻn miệng cười, nói:

- Đó là một ý kiến hay.

- Còn bây giờ thì em biết rõ em sẽ phải làm gì rồi chứ?

- Em biết rõ rồi. - Jeanne nhìn vào chiếc gương dài ngắm lại mình lần cuối. - Chúng ta đã tập dượt như bài tập quân sự tới bốn lần rồi còn gì nữa.

Adam nói:

- Tốt, em nói cứ như em sắp sửa ra nghênh chiến với quân địch ấy. Vậy thì chúng ta sẽ bắt đầu với cái mà trong quân đội gọi là "tiến lên tìm diệt địch" nhé.

Jeanne kiếm được chiếc túi ni lông trong ngăn kéo bếp. Trên túi in mỗi một chữ "Céline". Cô đưa cho Adam. Anh gập chiếc túi làm bốn và nhét vào túi áo jacket trong khi đi ra hành lang. Jeanne khóa cửa phòng rồi hai người cùng đi xuống cầu thang ra ngoài hè phố.

Adam vẫy một chiếc taxi, Jeanne nói với người lái xe:

- Vườn hoa Tuileries.

Khi họ đến nơi Adam trả tiền xe rồi bước lên vỉa hè đến cạnh Jeanne. Anh nói:

- "Bonne chance" (Chúc may mắn).

Adam đứng lại ở góc công viên để Jeanne đi trước quãng hai mươi mét. Mặc dù cảm thấy chưa bình phục hẳn anh vẫn theo kịp. Nắng chiếu vào mặt khi Adam nhìn cô đi qua mấy luống hoa rực rỡ. Chiếc váy hoa màu tím và và chiếc áo săng đay trắng bó sát người của Jeanne khiến cho hầu như mọi người đàn ông đi qua đều phải ngoái lại nhìn. Thậm chí có người còn đứng lại giữa đường nhìn theo cho tới khi cô đi khuất hẳn.

Từ cách xa hơn hai mươi mét Adam vẫn thấy Jeanne luôn bị nghe những câu hỏi chặn lại, đại thể như: "Je payerais n�importe quoi" (Tôi sẽ trả tiền, bao nhiên cũng được). Đối với một "putain" (gái làm tiền) bình thường như Jeanne, cô đã phải miễn cưỡng từ chối vì Adam đã dặn trước là phải bỏ qua mọi lời cám dỗ. Cô phải đóng được vai kịch của mình và với hai trăm phơ răng cô chỉ phải nghe những lời xúc phạm đó thôi.

Jeanne đã đi đến phía bên kia công viên không hề ngóai cổ lại. Cô đã được căn dặn không nhìn quanh trong bất cứ hòan cảnh nào. Cứ đi thẳng, Adam đã nói với Jeanne như vậy. Adam vẫn phía sau cô cách hai mươi mét khi cô đi đến đường Tuileries. Jeanne đợi chờ đèn tín hiệu bật xanh để đi qua đường phố rộng và chú ý luôn đi giữa đám đông.

Đến giữa đường, Jeanne rẽ sang phải và điện Louvre hiện ra trước mặt. Cô đã ngượng nghịu thú nhận với Adam là trước đây chưa bao giờ đến cung điện này.

Jeanne bước lên bậc tam cấp đi vào tiền sảnh. Khi cô đến được cửa quay thì Adam cũng bắt đầu bước lên bậc cuối cùng. Cô tiếp tục bước lên dọc cầu thang bằng đá hoa cương trong khi Adam kín đáo theo sát phía sau.

Khi lên đến bậc trên cùng Jeanne đi qua tượng Thần Chiến Thắng có cánh cửa của Samothrace. Cô tiếp tục đi vào gian phòng lớn đầu tiên đầy người xem và bắt đầu nhẩm đếm. Cứ mỗi lần đi qua một phòng tranh cô nhận thấy ở đó luôn luôn có ít nhất một người bảo vệ đứng loanh quanh ở gần lối ra. Một nhóm học sinh phổ thông đang xem Bữa tối cuối cùng của Giovani nhưng Jeanne bỏ qua bức tranh này và đi thẳng về phía trước. Sau khi vượt qua sáu người bảo vệ cô đến được phòng tranh mà Adam đã mô tả rất kỹ.

Jeanne cố ý bước vào giữa phòng và dừng lại vài giây. Mấy người đàn ông bắt đầu không để ý đến tranh nữa. Bằng lòng với ấn tượng vừa gây được, cô bước nhanh lại người bảo vệ, anh này vuốt lại chiếc áo jacket của mình và mỉm cười. Với vẻ vô tư Jeanne hỏi:

- Dans quelle direction se trouve la peinture du seizième siècle? (Phòng tranh thế kỷ thứ mười bảy đi đường nào?)

Người bảo vệ quay người để chỉ. Trong lúc anh ta quay đi Jeanne tát mạnh vào mặt anh và lấy hết sức gào lên:

- Quelle heureur! Pour qui est-ce que vous me prenez? (Bây giờ là mấy giờ! Anh túm lấy tôi để làm gì?)

Chỉ có một người duy nhất đang đứng trong Phòng Tranh Thánh không quay lại để xem cảnh tượng trên.

- Je vais parler à la Direction (Tôi sẽ nói với Ban Giám Đốc).

Cô nói to và đi nhanh về phía lối ra chính. Màn kịch chỉ diễn ra không đầy ba mươi giây. Người bảo vệ choáng váng đứng im như tượng bối rối nhìn theo.

Jeanne tiếp tục đi qua ba thế kỷ tranh nữa nhanh hơn cả H.G.Wells. Cô rẽ trái bước vào phòng tranh thế kỷ mười bảy như được chỉ dẫn rồi rẽ trái lần nữa để đi vào một hành lang dài. Ít phút sau cô gặp Adam ở đầu cầu thang bằng đá hoa cương dẫn xuống tiền sảnh.

Khi họ cùng đi xuống các bậc cầu thang, Adam đưa cho cô chiếc túi xách có chữ Celine và hai người chuẩn bị bước tiếp bỗng hai người bảo vệ đứng ở phía dưới giơ tay ra hiệu cho họ dừng lại. Cô thì thầm:

- Anh có định chạy không?

Adam nói quả quyết:

- Nhất định là không rồi. Em đừng nói gì cả nhé.

- Madame, excusez-moi, mais je dois fouiller votresac (Xin lỗi bà, tôi cần kiểm tra chiếc túi xách của bà).

Jeanne nói:

- Allez-y pour tout ce que vous y trouvez! (Các ông cứ lấy ra tất cả những gì thấy trong đó).

Adam nói và lấy bức tranh Thánh của Sa hoàng trong túi ra giơ lên trước mặt người bảo vệ, anh này tỏ vẻ ngạc nhiên trước đồ vật được trình diện. Hai nhân viên khác ập đến đứng hai bên Adam.

Bằng một thứ tiếng anh ngọng nghịu người bảo vệ lớn tuổi hỏi Adam liệu có thể mời một chuyên gia phòng tranh đến xem xét bức tranh không. Anh nói:

- Rất sẵn lòng. Tôi sẽ rất thích thú khi được nghe thêm ý kiến nhận xét của một người nữa.

Người bảo vệ lớn tuổi trông bắt đầu có vẻ nghi hoặc. Nhưng rồi anh ta nói với giọng không phải là thiếu thiện cảm:

- Je dois vous demnamder de me suivre. (Mời ông đi theo tôi).

- Anh ta nhanh chóng dẫn họ đến một căn phòng nhỏ bên cạnh phòng tranh. Người bảo vệ đặt bức tranh Thánh lên chiếc bàn lớn choán gần hết căn phòng. Adam ngồi xuống ghế, Jeanne chưa hết bối rối cũng ngồi xuống bên cạnh anh.

- Tôi sẽ quay lại ngay, thưa ông.

Người bảo vệ lớn tuổi đi gần như chạy trong khi hai người kia vẫn đứng im gần cửa. Adam vẫn chưa muốn nói với Jeanne mặc dù anh thấy mỗi lúc cô một lo lắng thêm. Anh nhìn cô hơi mỉm cười.

Cuối cùng cửa bật mở, một người đàn ông lớn tuổi có vẻ như một học giả đi trước người bảo vệ lúc nãy bước vào.

Người đàn ông nhìn Adam nói, ông ta là người đầu tiên không công khai tỏ ra quan tâm đến Jeanne.

- Bonjour, monsieur. Tôi được biết ông là người Anh.

Rồi không nhìn họ nữa, ông cầm bức tranh lên xem.

Ông nghiên cứu tranh một lúc khá kỹ trước khi nói khiến Adam cảm thấy hơi thoáng lo lắng:

- Tuyệt vời đấy nhỉ. Đúng không?

Một trong hai nhân viên bảo vệ sờ tay vào dùi cui.

Ông ta nhắc lại:

- Thật tuyệt vời. Tôi thử mạnh dạn đoán nhé, - Ông ta do dự- cuối thế kỷ thứ mười chín, một tám bảy mươi, có khả năng là một tám tám mươi. Đẹp quá. Bức chúng tôi từng có ở Louvre này không được như vậy.

Ông ta đưa lại bức tranh cho Adam và nói thêm:

- Ông hãy hiểu đây là phiên bản. Nguyên tác bức tranh Thánh George và con Rồng của Sa hoàng hiện đang trưng bày tại Cung điện Mùa đông ở Leningrad. Tôi đã thấy nó rồi - Ông ta nói có vẻ hơi tự mãn.

- Chắn chắn là ông đã thấy rồi.

Adam nén thở nói và cất bức tranh vào chiếc túi ni lông. Ông già cúi xuống sát mặt Jeanne và nói trước khi lê bước đi ra:

- Cũng khá buồn cười là dù chỉ mấy tuần trước có người đã hỏi về bức tranh Thánh của Sa hòang đấy.

Adam là người duy nhất không tỏ ra ngạc nhiên.

Viên chỉ huy tốp bảo vệ nói:

- Tôi chỉ...

- Làm nhiệm vụ của ông thôi - Adam nói nốt câu rồi nói thêm với vẻ hơi khen ngợi - Một sự thận trọng tự nhiên, tôi hiểu là thế. Tôi rất khâm phục cách làm việc vừa rồi của các ông.

Jeanne chăm chú nhìn hai người, hòan toàn không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Người bảo vệ nói, giọng ông ta nghe đã hết căng thẳng:

- Ông thật tốt bụng quá, monsieur.

Rồi ông ta mỉm cười với Jeanne và nói thêm:

- Hy vọng là ông bà sẽ còn trở lại đây.

Ông ta tiễn cả hai ra tận cổng điện Lourve, khi họ bước qua cửa ông ta đứng nghiêm chào.

Adam và Jeanne bước xuống các bậc cầu thang đi ra đường phố Paris đầy ánh nắng. Jeanne hỏi:

- Nào, bây giờ thì em có thể biết được mọi chuyện chưa?

Adam không giải thích mà nói lảng:

- Em thật là tuyệt vời.

Jeanne nói:

- Em biết rồi, nhưng tại sao anh lại phải trình diễn giải thưởng Oxca bên cạnh em trong khi bức tranh là của anh?

- Đúng vậy. Nhưng anh đã để nó lại để họ giữ hộ qua đêm. Và nếu không có sự trình diễn xuất sắc của em thì có thể phải khá lâu mới thuyết phục được các nhà chức trách hiểu bức tranh Thánh đó là của anh.

Nhìn vào mặt Jeanne Adam biết cô chẳng hiểu gì. Jeanne khoác tay Adam, nói:

- Anh biết không, đây là lần đầu tiên em đến điện Lourve.

Adam cười to, nói:

- Em là vật vô giá đấy.

Cô quay mặt lại anh, nói:

- Làm gì được như thế. Hai trăm phơ răng là giá mà chúng ta đã thỏa thuận, cho dù bức tranh có là của anh hay không.

- Đúng vậy. - Adam cầm chiếc ví của viên đại tá và rút ra hai tờ một trăm phơ răng, rồi anh ta lại rút thêm một tờ một trăm nữa. - Phần thưởng thêm vì em đã phục vụ xuất sắc.

Cô hoan hỉ bỏ tiền vào túi rồi nói:

- Em nghĩ em sẽ xả hơi một tối.

Adam ôm cô và hôn lên hai má làm như cô là một vị tướng Pháp vậy.

Jeanne hôn lên môi anh và mỉm cười:

- Chéri, anh yêu, lần sau tới Paris anh nhớ đến thăm em. Em còn nợ anh một lần đấy, ở nhà em nhé.

- Tại sao ông lại chắc chắn như vậy?

- Bởi vì Nam Cực cung cấp cho Pemberton quá nhiều thông tin.

- Ông nói thế nghĩa là thế nào?

- Anh nói với tôi rằng Pemberton đã nói rằng hắn sẽ không bao giờ gọi điện lại nếu như các anh cho hắn leo cây lần nữa. Không những hắn không gọi điện lại mà hắn còn muốn đánh lạc hướng các anh nữa. Hắn nói sẽ làm gì?

- Quay lại Geneva. Chuyện gì đó liên quan đến cô gái Đức và ngân hàng nữa.

- Con bé Đức thì đã chết, còn ngân hàng đóng cửa nghỉ cuối tuần. Nhất định hắn đang trên đường về Anh.

Adam nói với cô gái ngồi sau quầy:

- Tôi muốn thuê một chiếc xe và sẽ gọi điện lại đâu đó dọc bờ biển.Hiện tôi vẫn chưa quyết định sẽ dừng lại ở cảng nào.

Cô gái đáp:

- Được ạ, thưa ông. Xin ông làm ơn điền vào tờ khai này, với lại chúng tôi cần có bằng lái xe của ông nữa.

Adam dốc hết đám tờ giấy trong túi trong ra và đưa cho cô gái tấm bằng lái xe của tên đại tá. Anh chậm rãi điền vào tờ khai và bắt chước chữ kí của tên đại tá mà anh nhìn thấy trên tấm thẻ thành viên câu lạc bộ Play Boy. Anh đưa tiền mặt, hy vọng điều đó sẽ làm cô ta kiểm tra nhanh hơn.

Cô gái cầm nắm tiền và cẩn thận đếm từng tờ trước khi kiểm tra bằng lái và so sánh với chữ kí trong tờ khai. Adam nhẹ người khi thấy cô ta không nhận ra sự không phù hợp về ngày tháng năm sinh. Anh cất lại cả mớ giấy tờ của Albert Tomkins cùng với chiếc ví vào túi áo trong khi cô gái quay lại lấy chìa khóa điện treo trên tấm bảng phía sau:

Cô nói:

- Xe Citroen màu đỏ đậu ở tầng một, anh đưa chìa khóa điện cho người bảo vệ. Anh ta đánh xe ra khỏi chỗ đỗ và giao cho anh.

Khi người bảo vệ đưa lại chìa khóa cho anh, Adam đưa cho anh ta mười tờ francs. Đúng bằng số tiền mà người khác đã đưa cho anh ta để nếu có một người Anh có bề ngòai giống như Adam đến thuê một chiếc xe thì báo ngay cho người ấy biết. Người ấy còn hứa gì nữa nhỉ? Thêm một trăm nữa nếu anh có thể gọi điện báo tin trong vòng năm phút kể từ khi nhìn thấy Scott.

PHẦN BỐN KREMLIN - MOSCOW Ngày 19 tháng 6 năm 1966
 
Chương 22


Adam quay kính xe xuống, ngay lập tức làn không khí mùa hè ấm áp ùa vào. Anh đã quyết định rời khỏi đường chính đến Calais và chọn đường số Một đi Boulogne. Cần phải xét đến khả năng Romanov cho người theo dõi tại tất cả các cảng dọc bờ biển eo Măng sơ mặc dù Adam cũng không tin lắm là Lawrence hoặc người Mỹ biết rằng anh đã trốn thoát.

Chỉ khi đã đi hết vùng ngoại ô thủ đô nước Pháp Adam mới chắc rằng mình có thể chạy trung bình bảy mươi cây số giờ trên quãng đường còn lại. Nhưng điều không lường trước được là anh sắp phải vượt qua hơn một trăm cua rơ xe đạp đang chạy thành những vệt đủ màu, đỏ, xanh, đen, vàng nhấp nhô trước mặt. Trong khi vượt lên anh có thể xác định họ đang đạp với tốc độ trung bình bốn mươi dặm một giờ.

Vốn đang theo dõi cúp bóng đá thế giới tại Anh đang đến gần, anh nhận ra quốc kỳ các nước Pháp, Đức, Ý và cả Bồ Đào Nha nữa. Adam phải bóp còi inh ỏi liên tục để vượt qua một tốp bốn người, họ mặc áo phông xanh, trắng, đỏ cùng với một chiếc xe dẫn đường của đội Anh đi phía trước. Lát sau anh bỏ xa tốp dẫn đầu và lại có thể sang số bốn và dận ga như cũ.

Adam bật rađiô trong xe, dò một lúc mới bắt được sóng Buổi phát thanh Trong nước của đài BBC. Anh sửa lại tư thế ngồi cho thoải mái để nghe bản tin tiếng Anh, lần đầu tiên sau nhiều ngày gần như mù tin tức. Vẫn là tin tức về các cuộc đình công dài ngày, lạm phát cao và khả năng của đội Anh trong trận đấu giao hữu thứ hai tại Lord sắp tổ chức. Sau một ngày nghỉ ngơi, việc nghe bản tin này làm cho anh cảm thấy như đã trở về nhà và do đó suýt nữa lái chệch ra ngoài đâm vào hàng cây bên lề đường.

Phát thanh viên thông báo một tin không vui, đã tìm thấy xác viên phi công trẻ hãng RAF tại một cánh đồng gần quốc lộ Auxtre -Dijon sau khi máy bay của anh ta bị tai nạn trong một tình huống không rõ ràng. Cho đến hiện giờ vẫn chưa có chi tiết nào đáng tin cậy. Adam chửi rủa và đập mạnh vào tay lái khi anh nghĩ Alan Banks cũng đã trở thành nạn nhận của Romanov. Anh vỗ vào bức tranh rồi lại nguyền rủa nó.

Nhà ngân hàng già nua nói:

- Anh thật là ngốc nghếch khi liên lạc với ta, anh bạn trẻ. Lúc này anh đâu còn là vị anh hùng của Nga nữa.

- Lão già, hãy nghe đây. Tôi chẳng cần nhất thiết phải là vị anh hùng Nga, bởi vì rất có thể tôi sẽ không bao giờ trở lại đó nữa.

- Anh phải coi chừng: Mẹ Nga có móng tay dài lắm đấy.

- Nhờ có tầm nhìn xa trông rộng của ông tôi, tôi có đủ khả năng cắt đứt chúng. -Người gọi điện thoại nói, tay mân mê chiếc mề đay vàng đeo trên ngực. - Có điều là tôi cần biết chắc ông không nói cho họ biết tôi để cái kéo ở đâu thôi.

Poskonov hỏi:

- Tại sao ta lại phải im lặng kia chứ?

- Bởi vì nếu trong vòng hai mươi bốn giờ nữa mà tôi vẫn không chạm tay được đến Thánh George thì tôi sẽ gọi điện lại cho ông và cung cấp mọi chi tiết cần thiết để ông có thể hy vọng nhận được cái bắt tay đầy vàng, nhiều hơn tất cả những gì có thể mong đợi ở các ông chủ hiện nay của ông.

Nhà ngân hàng già nua không nói thêm câu nào.

Chợt viên bí thư Sứ quán lao vào phòng không hề gõ cửa. Romanov lấy tay che ống nói quát lên:

- Tôi đã nói anh không được cắt nang khi tôi nói chuyện kia mà.

- Nhưng chúng ta đã phát hiện được dấu vết của Scott.

Romanov quẳng ống nói xuống. Ở Nga nhà ngân hàng già tua lại băng ghi âm. Poskonov mỉm cười nghe lại từng lời nói của Romanov một lần nữa và kết luận, hắn chỉ để lại cho ông ta một con đường duy nhất. Ông đặt vé bay đi Geneva.

- Robin đấy à?

- Batman. Anh đi đến đâu rồi?

Adam nói:

- Anh mới ra được đến ngoại ô Paris và đang trên đường trở về nhà. Em vẫn làm theo kế hoạch đã bàn trên xe chứ?

- Hẳn rồi -Adam lặp lại trêu cô gái-Nhưng bao giờ thì em về tới nhà?

- Dàn nhạc sẽ đi từ Dunkerque bằng phà vào lúc sáu giờ rưỡi tối nay. Anh có thể đến củng đi với chúng em được không?

Adam nói:

- Không, anh phải về bằng đường khác. Nhưng Robin này, khi anh tới London em có thể thu xếp cho anh ngủ qua đêm không?

- Xem ra đó là một đề nghị em không thể nào từ chối được.

Cô gái nói, sau khi đọc địa chỉ của mình và để anh có đủ thời gian ghi lại, cô hỏi tiếp:

- Em sẽ chờ anh vào lúc mấy giờ đây?

- Khoảng nửa đêm.

- Anh có hay bắt các cô gái chờ lâu như thế không?

Viên sỹ quan trẻ đứng ở buồng đàm thoại đã nghe thấy gần hết cuộc hội thoại. Anh ta mỉm cười khi nhớ lại câu nói của thiếu tá Romanov:

- Người nào đem được bức tranh Thánh về cho tôi thì sẽ không phải lo lắng gì về tương lai của mình.

Adam nhảy lên xe tiếp tục lái cho đến men ngoại ô Beauvais, tại đây anh quyết định tạt vào lề đường để ăn nhanh bữa trưa.

Theo bảng giờ phà nhặt được ở quầy tính tiền của nhà hàng Hertz, anh chọn chuyến phà khởi hành từ Boulogne lúc ba giờ chiều, như vật chắc chắn sẽ đến kịp với một giờ đồng hồ dự phòng.

Adam ngồi lánh vào một hốc nhà dưới cửa sổ để thưởng thức bữa ăn mà bất cứ quán ăn Anh nào cũng sẽ gọi đó là bữa ăn của thợ cày. Chỉ có điều sau mỗi miếng anh nhận ra là thợ cày Pháp đòi hỏi chủ quán một tiêu chuẩn ăn cao hơn nhiều nông dân Anh có thể mơ đến.

Trong khi đợi cà phê anh moi hết giấy tờ của Albert Tomkin xem xét lại cẩn thận. Anh thú vị khi phát hiện ra mình còn phải đòi tiền trợ cấp thất nghiệp cho bao nhiêu tuần nữa.

Qua cửa sổ quán ăn anh nhìn thấy tốp đầu các cua rơ xe đạp lướt qua. Các vận động viên căn hết cơ bắp thể hiện quyết tâm duy trì vị trí của mình trong tốp dẫn đầu. Khi họ đạp qua Beauvais, Adam buồn cười nhận thấy họ đang vượt qua tốc độ hạn chế. Hình ảnh cuộc đua khiến Adam nhớ đến chuyện người ta đang chờ anh làm thủ tục cuối cùng là khám sức khỏe vào trưa mai tại Văn phòng Bộ ngoại giao.

Romanov đọc lại lần nữa bức điện đã giải mã. "Scott đang quay lại Geneva. Hãy kiểm tra cô gái Đức và ngân hàng". Hắn nhìn lên người sĩ quan cấp cao hơn vừa đưa cho mình bức điện. Hắn nói:

- Mentor nghĩ tôi ngây thơ vậy sao? Một điệp viên từ Amsterdam đã cho biết hiện giờ hắn đang trên đường tiến đến bờ biển Pháp.

- Vậy tại sao Mentor lại muốn ông đi theo hướng ngược lại?

Romanov lạnh lung nói:

- Bởi vì chắc chắn hắn cũng là kẻ đã báo tin cho người Mỹ- Hắn quay sang viên đại tá đang đứng bên cạnh -Chúng ta đã biết không phải là Dunkerque, vậy còn những khả năng nào nữa?

Viên đại tá nhìn lên tấm bản đồ trải trên bàn trước mặt:

- Cherbourg, Le Havre, Dieppe, Boulogne hoặc Calais. -Ông ta nói thêm. -Tôi cam đoan là Calais.

Romanov nói:

- Thật không may, đại úy Scott hoàn toàn không đơn giàn như vậy. Và vì xa lộ dẫn ông đến thẳng Calais nên tên đại úy đó đã lường trước chúng ta sẽ giăng bẫy trên lộ trình ấy. Tôi nghĩ là anh bạn của chúng ta sẽ cố chạy về Boulogne hoặc Dieppe trước.

Hắn kiểm tra lại bảng giờ phà do người bí thư thứ hai đem đến.

- Chuyến phà đầu tiên Scott có thể bắt kịp sẽ rồi Boulogne đến Newhaven vào lúc năm giờ.

Romanov cũng kiểm tra cả đường Calais và Le Havre:

- Tốt lắm. Phà Calais đã khởi hành lúc mười hai giờ trưa nay và vì lúc hắn gọi cho cô bạn gái là sau mười hai giờ, vì thế hắn không có hy vọng đi kịp chuyến đó. Còn tàu Le Havre sẽ không khởi hành trước bảy giờ mười lăm tối nay và hắn sẽ không liều lĩnh ở lại lâu như vậy. Tôi cho rằng chúng ta có thể tóm hắn trên bờ biển. Thưa đại tá, tôi nghĩ một lần nữa đại úy Scott lại ở trong tầm tay của chúng ta.

° ° °

Adam rời khỏi quán ăn và chỉ mấy phút sau đã đuổi kịp các cua rơ trong khi họ đang gắng sức guồng tới Abbeville. Anh lại nghĩ đến Romanov. Chắc hẳn là điệp viên của hắn có thể giăng bẫy tại các sân bay, nhà ga, xa lộ và các cảng. Nhưng hẳn là không thể rải người ở năm mươi địa điểm một lúc.

Adam rời khỏi lộ trình Abbeville đi về hướng Boulogne nhưng vẫn cho xe chạy ở giữa đường để tránh các cua rơ đang nhấp nhổm phía trước. Thậm chí một lần anh đã phải đạp gấp chân phanh khi hai cua rơ Ý và Anh va vào nhau ngay trước mặt anh. Cả hai đang phóng với tốc độ ghê người đã bị quăng xuống đất một cách không thương tiếc. Vận động viên người Anh vẫn nằm lịm đi trên đường.

Adam cảm thấy có lỗi vì đã không dừng lại giúp đỡ người đồng hương nhưng sợ rằng nếu dừng lại có thể sẽ không kịp chuyến phà. Nhìn thấy chiếc xa dẫn đường cho đội Anh vẫn chạy trước Adam liền vọt lên chạy song song nó. Anh vẫy tay cho người lái xe dẹp sang bên.

Người đàn ông ngồi sau tay lái có vẻ ngạc nhiên nhưng vẫn dừng xe lại, quay cửa kính xuống. Adam, vượt lên trước, nhảy ra khỏi xe và chạy đến cạnh chiếc xe dẫn đường. Anh chỉ tay về hướng Paris hét:

- Có một người trong đoàn anh gặp tai nạn cách đây khoảng một dặm.

- Cảm ơn anh bạn.

Người lái xe nói và cho xe quay lại nhanh chóng lao đi.

Adam tiếp tục lái với tốc độ vừa phải cho đến khi vượt qua tất cả các cua rơ. Sau đó một lần nữa anh lại cho xe chạy ở số bốn. Một biển báo cho biết chỉ còn cách Boulogne ba mươi hai ki lô mét nữa. Vẫn còn ba giờ đồng hồ dong đuổi thoải mái. Anh bắt đầu tưởng tượng mình sẽ ra sao nếu có thể sống sót qua ngày thứ Hai. Cuộc sống của anh lại trở về thường nhật như ngày nào? Chạy thể dục trong công viên, phỏng vấn tại Văn phòng Bộ Ngoại giao, tập luyện với viên thượng sĩ và thậm chí đến cả việc được ghi nhận vai trò của anh trong việc trao bức tranh Thành vào bàn tay an toàn. Vấn đề là anh vẫn chưa quyết định được an toàn ấy là đâu.

Một chiếc trực thăng trông như con ễnh ương xanh luốt qua trên đầu Adam, giờ đây, đó là phương tiện tốt nhất để anh trở về Anh. Nếu có nó thậm chí anh còn có thể có mặt tại phố Harley kịp giờ để khám sức khỏe tại Văn phòng Bộ Ngoại giao.

Adam quan sát chiếc trực thăng vòng lại và bay thẳng về phía sau lưng anh. Anh đoán chắc là có một sân bay quân sự đâu đó gần đây, nhưng không nhớ ra đó là sân bay nào. Lát sau anh nghe tiếng phành phạch của cánh quạt khi chiếc trực thăng bay ngang qua đường ở một độ cao khá thấp. Adam nắm chặt vô lăng đến nỗi các khớp ngón tay anh trắng bệch ra khi một ý nghĩ không thể có được lóe lên trong óc. Trong khi đó chiếc trực thăng lại vòng lại và bay thẳng về phía anh.

Adam quay kính xuống và cúi người trên vô lăng nhìn lên bầu trời. Có ba bóng người đang ngồi trong buồng lái. Anh giận dữ đấm tay vào vô lăng khi hiểu ra bọn chúng thật dễ dàng tìm ra một chiếc xe hơi thuê dưới cái tên có thể nhận ra ngay lập tức. Anh còn hình dung rõ cả nụ cười hoan hỉ của Romanov khi ngồi trên "con dao phay" bay lượn trên đầu anh.

Một biển báo thấp thoáng phía trước chỉ dẫn đường phụ rẽ vào một cái làng có tên là Fleureville. Anh nhấn ga đưa kim đồng hồ tốc độ lên tới hơn chín mươi kilômet giờ để chiếc xe nhỏ lướt trên con đường làng. Chiếc trực thăng cũng ngoặt sang phải bám riết lấy xe anh.

Adam rẽ ngoặt sang trái và hút chết khi tránh được chiếc máy cày đang từ một cánh đồng mới cày nhô ra. Anh tiếp tục rẽ phải và lại chạy vào đường đi Boulogne, cố nghĩ tiếp theo phải làm gì. Mỗi lần nhìn lên chiếc trực thăng bay trên đầu anh lại cảm thấy mình như con rối đang nhảy nhót theo sợi dây điều khiển của Romanov.

Một biển báo chỉ dẫn phía trước có đường hầm lấp lóa phía trước, Adam cố gạt qua ý định thật kịch tính là thử làm cho chiếc máy bay đâm nhào xuống. Chẳng cần thiết phải nhắc rằng chính anh mới là kẻ mới vào nghề.

Thoạt tiên khi nhìn đường hầm anh ước lượng nó dài khoảng sáu đến bảy mươi mét. Mặc dù đường hầm khá rộng nhưng một chiếc xe buýt hai tầng cũng không thể đi qua lọt và hành khách phải đi bộ qua cầu.

Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi Adam cảm thấy an toàn. Anh đạp phanh và dừng chiếc Citroen khoảng mười lăm mét cách đầu cuối đường hầm. Chiếc xe lánh sang bên gần như sượt vào tường. Anh bật đèn bên, chúng nhấp nháy trong bóng tối. Trong vài giây anh nhìn các xe đi sau chạy chậm lại và an toàn vượt qua.

Cuối cùng Adam nhảy ra khỏi xe chạy đến cuối đường hầm, đứng nép sát vào tường. Chiếc trực thăng đang bay lượn đâu đó nhưng đã quay lại và bay thẳng về phía đường hầm. Adam nhìn nó bay vèo qua đầu, mấy giây sau lại nghe tiếng quay trở lại. Trong khi chờ đợi Adam thấy có hai người đang định vẫy xe đi nhờ bên kia đường nói chuyện với nhau, rõ ràng là không hề biết gì về hoàn cảnh gay go của anh.

Anh tuyệt vọng nhìn về phía hai thanh niên và kêu lên:

- Các anh định vẫy xe đi nhờ đấy à?

- Vâng.

Họ đồng thanh đáp. Adam lảo đảo đi qua đường tới gặp họ.

- Anh có sao không?

Adam nghe tiếng một trong hai người hỏi nhưng không phân biệt được ai hỏi vì mắt vẫn chưa quen với bóng tối. Anh giải thích ngắn gọn:

- Không sao đâu. Bữa ăn trưa nay tôi uống hơi nhiều rượu và bây giờ có cuộc đua xe đạp nên đường đầy cảnh sát. Chắc chắn tôi sẽ bị bắt nếu cứ đi tiếp. Ai đó trong số các anh lái được xe không?

Người thanh niên cao hơn nói:

- Tôi chỉ có bằng lái Canada thôi. Với lại chúng tôi định đi Paris còn xe của anh thì lại chạy về hướng ngược lại.

Adam giải thích:

- Đó là của hãng Hertz, sáng nay tôi thuê nó ở phố St, Ferdinant và phải trả lại vào lúc bảy giờ tối nay. Trong tình trạng hiện nay tôi nghĩ là mình khó mà làm nổi điều đó.

Hai thanh niên nhìn anh một cách ái ngại.

- Tôi sẽ biếu mỗi người các anh một trăm francs nếu các anh giúp tôi trả lại nó an toàn cho hãng. Các anh thấy đấy, tôi không thể mất bằng lái được. Tôi là một thương gia đi du lịch mà.

Adam giải thích. Cả hai đều không nói gì.

- Giấy tờ của tôi đầy đủ cả, tôi cam đoan như vậy.

Adam đưa bằng lái cho người cao hơn, anh ta đi qua đường lợi dụng ánh đèn xe để xem bằng lái của Albert Tomkin và giấy bảo hiểm rồi quay sang trao đổi với bạn.

Adam nghe thấy tiếng cánh quạt chiếc trực thăng kêu phành phạch trên lối vào đường hầm. Cuối cùng người thanh niên cao hơn nói:

- Chúng tôi không cần mấy trăm francs nhưng cần một mẩu giấy ông giải thích tại sao chúng tôi lại thay mặt ông trảxe cho hãng Hertz ở Paris.

Adam rút cây bút của viên đại tá ra, cảm thấy mình trông tỉnh táo quá, anh liền ngả người lên mũi xe viết vội mấy chữ vào phía sau tờ hợp đồng của hang Hertz.

- Anh có muốn trở về Paris với chúng tôi không?

Adam hơi lưỡng lự. Không biết họ có nghe thấy tiếng chiếc trực thăng không?

- Không. Tôi phải đi Boulogne.

- Chúng tôi có thể chở anh đến Boulogne mà vẫn còn đủ thời gian đưa xe về Paris.

- Ôi, các anh thật là chu đáo quá. Nhưng thôi, tôi có thể tự lo được và tôi cũng thấy rất yên tâm là chiếc xe sẽ được trả lại càng sớm càng tốt.

Người thanh niên cao hơn nhún vai trong khi bạn anh ta mở cửa xe ném ba lô của họ lên ghế sau. Adam nán lại trong đường hầm khi họ hổ máy. Anh nghe thấy tiếng chiếc trực thăng đổi hướng. Chắc hẳn nó đang sà xuống thấp để hạ cánh tại một cánh đồng gần đó.

Đi đi, lạy chúa hãy đi đi, anh muốn gào to khi chiếc xe vọt lên chạy về phía Boulogne. Anh nhìn thấy nó chạy được quãng hơn một trăm mét rồi rẽ vào cổng một trang trại, lùi lại và quay về phía đường hầm. Họ bấm còi khi lướt qua anh trong bóng tối và mất hút về hướng Paris. Ada, quì xuống thở phào nhẹ nhõm và sắp nhổm người dậy để đi về hướng Boulogne bỗng anh thấy hai bóng người xuất hiện ở phía đầu kia của đường hầm. Anh thấy bóng hai người cao gầy nổi bật trên nền trời xanh trong sáng. Họ đứng nhòm ngó vào đường hầm. Adam ngồi im không nhúc nhích, anh cầu trời cho họ không nhìn thấy mình.

Rồi bỗng một người đi về phía anh trong khi người kia đứng im tại chỗ. Adam biết anh không còn hy vọng thoát được nữa. Anh cứ quì tại chỗ nguyền rủa sự ngu xuẩn của mình. Chỉ mấy giây nữa thôi là chúng sẽ thấy rõ anh.

- Marvin, đừng mất thời giờ quí báu nữa. Chúng ta biết là tên người Anh khốn kiếp ấy đã chạy về hướng Paris rồi.

- Tôi vừa nghĩ có lẽ là...

Người có tên là Marvin bắt đầu nói với ngữ điệu miền Nam kéo dài.

- Để chuyện nghĩ ngợi đấy cho tớ. Bây giờ phải quay lại trực thăng trước khi hắn sổng mất.

Khi Marvin chỉ còn cách Adam hai mươi mét bỗng hắn đứng lại, quay người và chạy về chỗ cũ.

Adam vẫn ngồi cắm rễ một chỗ đến mấy phút. Mồ hôi lạnh toát ra khắp người khi anh nhận thấy kẻ truy đuổi mình vừa rồi không phải là Romanov. Nếu một trong hai người kia không nhắc anh như một "tên người Anh khốn kiếp" thì chắc hẳn Adam đã vui mừng. Anh bỗng đau đớn nhận thức được sự thật phũ phàng. Anh đang bị bỏ rơi không có bạn bè.

Adam không cử động cho đền khi nghe tiếng chiếc trực thăng bay lên trên đầu mình. Anh ngẩng lên và thấy bóng chiếc máy bay Mỹ đang bay qua cổng vòm đường hầm về phía Paris.

Anh lảo đảo bước ra ngoài trời và giơ tay che mắt. Nắng dường như gay gắt hơn mấy phút trước. Bước tiếp theo phải làm gì đây? Anh chỉ còn không đầy một giờ đồng hồ nữa để bắt kịp tàu thủy nhưng không có phương tiện nào trong tay. Anh không tin chắc mình có thể xin đi nhờ xe, tìm được một chỗ đỗ ô tô buýt hoặc đơn giản là đi khỏi đường chính càng xa càng tốt. Mắt anh tiếp tục nhìn lên trời. Còn bao lâu nữa trước khi bọn chúng đuổi kịp chiếc xe và nhận ra là không có anh trong đó?

Các cua rơ lại bắt đầu vượt qua trong khi anh lảo đảo chạy về phía Boulogne. Anh tiếp tục chạy thậm chí còn đủ sức giơ tay chào các cua rơ Anh khi họ đạp qua. Chiếc xe dẫn đầu của đội Anh chạy đến sát phía sau, Adam giơ ngón tay cái lên chào và ngạc nhiên khi chiếc xe dừng lại trước mặt.

Người lái xe quay kính cửa xuống.

- Có phải anh là người chặn xe tôi ở Abbeville không?

Adam nói:

- Đúng vậy. Bạn anh đã hồi phục chưa?

- Chưa. Anh ấy đang nằm nghỉ ở đàng sau. Bị dãn dây chằng. Chiếc xe của anh bị làm sao vậy?

Adam nói:

- Bị hỏng cách đây khoảng một dặm.

Anh nhún vai vẻ thản nhiên. Người thanh niên nói:

- Thật không may. Anh có muốn đi cùng bọn tôi không? Chặng này chúng tôi chỉ đi đến Boulogne thôi nhưng anh cứ nhảy lên đi nếu điều đó có ích.

- Cảm ơn.

Adam nói với vẻ thanh thản của một chàng híppi râu xồm trước lời mời đi nhờ, Người lái xe cúi xuống mở cửa cho anh.

Trước khi bước lên xe, một lần nữa Adam nheo mắt nhìn lên bầu trời. Chiếc trực thăng đã mất tăm, mặc dù anh biết chẳng mấy chốc nữa nó sẽ quay lại. Chúng sẽ nhanh chóng hiểu ra địa điểm duy nhất nơ có thể xảy ra việc chuyển xe.

Người lái xe mặc quần áo đi đường giơ một tay ra:

- Tên tôi là Bob. Tôi là chỉ đạo viên của đội Anh.

Anh thân mật bắt tay người thanh niên.

- Tôi là Adam.

- Anh đi đâu vậy?

Adam nói:

- Boulogne. May ra tôi có thể đến kịp đó vào lúc ba giờ.

Bob nói:

- Chúng tôi phảiđến đó vào quãng hai giờ rưỡi. Bắt buộc phải như vậy. Chặng chiều nay khởi hành vào lúc ba giờ.

Adam hỏi, chỉ tay ra sau vai.

- Người đồng đội của anh cóđua tiếpđược không?

Chỉ đạo viên nói:

- Không. Anh ấy sẽ không thi đấu trong cuộc đua này nữa. Thông thường dãn dây chằng phải hai đến ba tuần mới bình phục. Tôi phải để anh ta lại Boulogne và tự mình tham gia chặng cuối cùng. Có bao giờ anh đua xe đạp không?

- Không. Tôi có tập chút ít nhưng không đi xe đạp nhiều từ khi em gái tôi đi xe ba bánh bị tai nạn.

- Chúng tôi vẫn có khả năng đoạt huy chương đồng.

Bob nói khi họ vượt qua mấy cua rơngười Anh nữa.

Adam giơ ngón tay cái lên ra hiệu khen ngợi họ sai đó ngoái lại nhìn qua cửa sau. Anh mừng thầm vì khi họ vào đến ngoại ô Boulogne vẫn không thấy bóng dáng chiếc trực thăng đâu. Bob cẩn thận đưa anh đến tận bến tàu.

- Hy vọng các anh đoạt huy chương đồng -Adam nói khi anh nhảy ra khỏi xe. - Và xin cảm ơn lần nữa. Chúc các anh may mắn trong chặng đua tiếp.

Adam xem lại đồng hồ. Còn hai mươi phút nữa là tàu khởi hành. Không hiểu sao còn nhiều thời gian như vậy. Anh đi đến quầy bán vé đứng vào hàng người không đông lắm, chờ mua một chiếc vé hành khách, Adam luôn nhìn quanh kiểm tra xem có ai đang theo dõi mình không nhưng dường như chẳng ai tỏ ra mảy may quan tâm đến anh cả. Sau khi mua vé xong anh tiến lạo con tàu và vừa mới cất tiếng huýt sáo bài hát "Ngày hôm qua" sai cả giai điệu bỗng thấy một chấm đen xuất hiện phía xa xa. Không thể nhầm lẫn được, nghe âm thanh ấy cũng đủ biết.

Adam nhìn chiếc cầu tầu dẫn khách lên boong giờ đây chỉ còn cách anh vài mét và nhỉn lại chấm đen đang to dần trên bầu trời. Anh xem lại đồng hồ. Còn mười hai phút nữa con tàu sẽ rời bến - vẫn đủ để bọn truy lung kịp hạ cánh chiếc trực thăng và lên boong tàu.

Nếu anh lên đó và người Mỹ lên theo thì chắc chắn họ sẽ tìm thấy anh. Nhưng nếu người Mỹ lên tàu và mắc lại đó thì anh có đủ thời gian để chạy đến Dieppe trước khi chuyến tàu sắp tới ở đó khởi hành...

Adam chạy gấp tới đám đông đang đi quanh quẩn chờ đợi chặng đua xe đạp tiếp theo sắp bắt đầu. Trong khi đó chiếc trực thăng lướt đến và bắt đầu bay lượn hệt như cảnh chim ưng săn chuột.

- Tôi tưởng là anh nói đang cố lên kịp chuyến tầu này?

Adam quay lại hai tay nắm chặt thành quả đấm nhưng hóa ra đó là người chỉ đạo viên đội Anh lúc này đã mặc quần áo cua rơ.

Adam đáp:

- Tôi thay đổi ý kiến rồi.

Bob nói, vẻ mặt đầy hy vọng:

- Cảm phiền anh lái chiếc xe giúp bọn tôi chặng này có được không?

Adam hỏi:

- Chặng này điđến đâu?

Chỉ đạo viên đội Anh nói:

- Dunkerque.

Adam cố nhớ lại xem Robin nói tàu của cô rời bến Dunkerque lúc mấy giờ.

Loa phóng thanh thông báo:

- Six minutes. (Sáu phút).

Adam trả lời:

- OK.

Chỉ đạo viên đội Anh nói:

- Tốt quá. Vậy thì anh đi theo tôi.

Adam chạy theo anh ta về phía chiếc xe dẫn đầu.

- Quatre minutes. (Bốn phút)

Adam nghe rõ tiếng Bob mở khóa xe đưa cho anh chìa khóa. Anh nhìn về phía con tài. Hai người Mỹ xuất hiện ở phòng bán vé.

- Deux minutes. (Hai phút)

Adam nhảy lên ghế lái nhìn lại con tàu vàthấy Marvin cùng đồng bọn đang bước lên cầu tàu.

- Une minute. (Một phút).

- Lái xe đến Dunkerque anh chỉ cần để lại chìa khóa ở tram kiểm soát của Anh. Chúnng tôi sẽ gặp lại anh khi đến đó.

Adam nói:

- Chúc may mắn.

- Cảm ơn.

Bob nói và chạy đến vạch xuất phát nhập vào đội của mình.

- Trente seconds. (Ba mươi giây).

Adam quan sát chiếc cầu tàu đang rút lên trong khi người phát hiệu lệnh khởi hành giơ súng lên trời.

- Chuẩn bị xuất phát, kéo...

Con tàu nổi một hồi còi dài vàhai người Mỹ bắt đầu cuộc hành trình đến Dover. Một giây sau tiếng súng lệnh phát nổ, Adam cài số cho xe chạy về hướng Dunkerque.
 
Chương 23


Adam ngồi trong quán cà phê nhỏ cạnh bến tàu chờ chiếc xe du lịch. Anh đã để chiếc xe của đội đua lại ở trạm kiểm soát và bây giờ sẵn sàng để lên tàu. Nhưng anh vẫn còn cần phải chắc chắn là Robin cũng có mặt trên chuyến tàu ấy. Tận đến lúc chỉ còn mười phút nữa là tàu rời bến chiếc xe du lịch mới xịch đến, Adam đón Robin bước từ xe xuống.

Robin nói:

- Chỉ có điều anh đừng có ngồi cách xa em thôi, được không?

Adam cười phá lên và vòng tay ôm choàng qua gần hết người cô. Anh nói:

- Gặp em thật là tuyệt quá.

- Anh biết không, em nghĩ là anh đang trên đường về Anh bằng một con đường bí hiểm nào đó, bằng tên lửa do thám hoặc thậm chí bằng cái gì đó độc đáo hơn nữa kia.

Adam nói:

- Anh cũng muốn được như vậy, nhưng bọn Mỹ đã đón đầu được đúng lúc anh quyết định lên tàu.

Cô nói:

- Bọn Mỹ ư?

- Lên tàu rồi anh sẽ giải thích mọi chuyện cho em.

Không một ai trong hai người chú ý đến tên điệp viên trẻ tuổi đã bám theo Robin từ lúc cô còn ở Berlin. Hắn ngồi ở một buồng điện thoại phía đầu kia bến tàu và đang quay số gọi một cú điện thoại quốc tế.

- Nếu là một tuần trước đây thì em sẽ chẳng bao giờ tin một lời nào của anh cả. Nhưng có hai việc.

- Việc gì?

- Thứ nhất là một quan chức cao cấp của Bộ Ngoại giao đã trả lại hộ chiếu cho Dudley Hulme ở Amsterđam. Vì thế em nhớ ra là phải đưa giấy tờ cho anh ngay.

Cô lục lọi trong túi xách một lát rồi đưa ra một cuốn hộ chiếu xanh đậm. Adam hân hoan cầm lại giấy tờ hỏi:

- Thế còn việc thứ hai.

- Em rất không vui khi đối mặt với ngài Romanov và em không có nguyện vọng lặp lại chuyện đó nữa.

Adam nói:

- Còn anh thì định sẽ phải gặp lại hắn.

Robin hỏi:

- Tại sao?

- Vì anh sẽ giết hắn.

Romanov và Pollard đến Dover năm phút trước khi phà cập bến. Chúng sốt ruột chờ đợi. Romanov bố trí chỗ ngồi sao cho có thể quan sát được qua cửa sổ phòng làm thủ tục hải quan và theo dõi được chuyến phà khi cập bến Dover. Hắn tìm được một chỗ ngồi lý tưởng phía sau chiếc máy bán cà phê tự động, từ đó có thể quan sát được mọi người đến và rời khỏi phòng hải quan mà không bị ai nhìn thấy. Romanov nói:

- Trong trường hợp hắn có hành động khác thường và không đi ra đường chính anh phải chắn cửa xe ra và báo ngay cho tôi biết nếu thấy có gì đó khác thường.

Viên đại tá để Romanov nấp sau chiếc máy bán cà phê tự động còn hắn chọn cho mình một chỗ trên bến cảng, nơi có thể theo dõi được tất cả xe cộ đi vào khu làm thủ tục hải quan cách cổng ra chừng năm mươi mét. Nếu Scott rời phà bằng xe con của Pollard, vẫn đủ thời gian chạy lại báo cho Romanov biết trước khi Scott có thể làm xong thủ tục và lái xe đến cổng chính. Ít ra thì đây cũng là một địa điểm khiến Scott có thể liều nấp sau các gốc cây được. Cả hai ngồi chờ.

Viên thuyền trưởng bật radio liên lạc giữa phà và bờ, tìm băng số chín và nói rành mạch vào chiếc micrô nhỏ:

- MV Chantilly gọi giám đốc cảng Dover. Nghe rõ không?

Anh ta chờ một lát rồi bật chiếc công tắc trước mặt, sau đó nghe thấy tiếng trả lời:

- Giám đốc cảng gọi MV Chantilly. Nghe rõ.

- Thuyền trưởng báo cáo. Chúng tôi có trường hợp khẩn cấp. Một hành khách bị ngã từ xuồng cấp cứu xuống boong tàu và bị nhiều vết thương ở tay chân - Adam rên lên trong khi viên thuyền trưởng nói tiếp - Adam rên lên trong khi viên thuyền trưởng nói tiếp - Tôi cần một xe cứu thương đợi sẵn ở cầu tàu để đưa nạn nhân đến bệnh viện gần nhất khi phà cập bến. Hết và thôi liên lạc.

Robin nói với giọng dịu dàng mà trước đó Adam chưa bao giờ được nghe:

- Anh yêu, mọi việc sẽ ổn thỏa. Khi chúng ta đến bờ mọi người sẽ lo để đưa anh đến bệnh viện ngay.

Viên thuyền trưởng nói ngắn gọn:

- Tôi phải trở lại cầu chỉ huy đây. Tôi sẽ bố trí hai nhân viên đem cáng đến cho cô.

Robin nói:

- Cảm ơn thuyền trưởng. Anh giúp đỡ chúng tôi chu đáo quá.

- Thưa cô, mọi việc sẽ hoàn toàn ổn thỏa. Cô đã dặn anh cô chưa?

Robin nói:

- Thưa thuyền trưởng rồi ạ.

- Tốt, vậy thì cô có thể khuyên anh ấy rằng sau này nếu có lúc nào định lên tàu thì tốt nhất là nhớ chú ý uống in ít thôi nhé.

Robin thở dài nói:

- Tôi đã dặn rồi. Thuyền trưởng không tin được tôi đã cố nói bao nhiêu lần đấy, nhưng tôi e anh ấy lại giống tính cha tôi thôi.

Adam ôm lấy chân tiếp tục rên rỉ.

Viên thuyền trưởng vừa nhìn xuống vết thương trên vai Adam vừa nói:

- Chúng ta hãy hy vọng, cuối cùng vết thương không đến nỗi nghiêm trọng lắm. Chúc may mắn.

- Một lần nữa, xin cám ơn thuyền trưởng.

Sau khi cánh cửa ca bin đã khép lại Robin nói:

- Cho đến giờ thì mọi việc vẫn tiến triển tốt đẹp. Chúng ta hy vọng phần hai của kế hoạch cũng sẽ tốt đẹp như vậy. Mà này, anh thở ra nặng mùi lắm.

- Em còn mong gì nữa sau khi bắt anh nốc hàng đống whisky vào mồm trong vòng hai mươi phút và sau đó lại bắt anh nôn hết ra quần áo?

Hai thủy thủ thận trọng nâng Adam lên băng ca, sau đó khiêng anh lên boong. Họ chờ ở đầu cầu tàu và nhẹ nhàng đặt anh xuống sàn boong trong khi một sĩ quan hải quan cùng đi với một nhân viên nhập cảnh chạy về phía họ. Robin xuất trình hộ chiếu của Adam. Nhân viên nhập cảnh giở từng trang và đối chiếu với ảnh.

Robin nói:

- Ẳnh chụp đẹp đấy chứ, nhưng tôi e là người ta sẽ phải thêm ở phía dưới "những vết sẹo khác thường" vào lần cấp giấy sau.

Cô đột ngột giật chăn ra để lộ vết cắt sâu trên vai Adam. Trông anh thật yếu ớt. Nhân viên hải quan hỏi:

- Ông ta có đem gì theo để kê khai luôn?

Adam không thể ngăn mình không sờ vào bức tranh Thánh.

- Không. Tôi không cho anh ấy mua bất cứ chai rượu nào trong chuyến đi này. Và tôi sẽ chịu trách nhiệm về việc kiểm tra tư trang của anh ấy cùng với tư trang của tôi khi rời khỏi phà.

Viên sĩ quan bỗng nhận ra đám đông người đang đứng im chờ đợi trước cầu tàu để xuống bến, anh ta nói:

- Được thôi. Cảm ơn cô. Vậy thì tốt nhất cô hãy lo để ông ta được đưa đến bệnh viện.

Hai thuyền viên khiêng Adam xuống cầu tàu. Một nhân viên đặt tay liên tục kiểm tra vết thương. Adam vẫy Robin khi họ đặt anh vào xe cứu thương.

Romanov phát hiện ra Robin khi cô đi qua phòng hải quan. Hắn reo lên với viên đại tá:

- Bây giờ tôi biết chính xác đại úy Scott hy vọng rời tàu như thế nào rồi, và chúng ta phải đợi khi hắn không ngờ nhất. Anh hãy đi thuê một chiếc xe đi London ngay.

Chiếc xe cứu thương vọt qua cổng hải quan, trên xe bật đủ các loại đèn và kéo còi hú. Khi họ đến được bệnh viện Vitoria Hoàng gia người nhân viên y tế nhận thấy dọc đường bệnh nhân của anh ta phục hồi nhanh chóng đến mức không thể tin được. Anh ta bắt đầu cảm thấy có lẽ viên thuyền trưởng đã quá quan trọng hóa ca cấp cứu này.

Romanov đứng cạnh cổng mỉm cười trong khi theo dõi chiếc xe du lịch chở các nhạc công nhô ra từ miệng phà tối đen và xếp hàng chờ làm thủ tục hải quan.

Romanov đưa mắt sục sạo khắp chiếc xe du lịch, hắn nhanh chóng nhận ra Robin Beresford. Đúng như hắn dự đoán, chiếc đàn công trơ bass dựng đứng bên cạnh cô chắn cho hắn không thấy được người ngồi bên cạnh. Romanov lẩm bẩm.

- Mày không giở được cái trò đó ra với tao lần thứ hai đâu.

Vừa lúc đó viên đại tá quay lại, mặt đỏ nhừ.

- Xe đâu?

Romanov hỏi, mắt vẫn không rời chiếc xe du lịch. Viên đại tá nói:

- Tôi mới chỉ đặt tạm một xe. Nhưng họ cần bằng lái xe quốc tế của ngài. Tôi quên mất là Scott đã lấy mất bằng của tôi và tất cả các giấy tờ khác.

Romanov nói:

- Anh đứng đây để ý xem Scott có tìm cách ra khỏi chiếc xe du lịch không.

Hắn chạy đến bàn của hãng Avis.

Trong lúc đó Adam nằm trên xe lăn đang được đưa vào một phòng nhỏ, nơi có bác sĩ trực xem xét.

Người bác sĩ trẻ cúi xuống bệnh nhân mấy phút. Anh xem xét cẩn thận trước khi có kết luận. Cuối cùng anh vừa rửa sạch vết thương trên vai Adam vừa nói:

- Vết cắt khá nghiêm trọng. Ông có thể quay cánh tay được không?

Adam quay tay một vòng tròn rồi lại duỗi ra.

- Tốt lắm. Ít ra cũng không bị gãy xương.

Bác sĩ tiếp tục rửa vết thương và nói:

- Tôi sẽ bôi một ít Iốt lên vết cắt, có thể hơi xót đấy.

Anh ta rửa sạch cả hai khuỷu tay trước khi dán băng dính lên. Anh hỏi, mắt vẫn nhìn chăm chú lên vết thương trên vai đang lành dần.

- Vết thương không phải là bị hôm nay phải không?

- Vâng.

Adam đáp, không giải thích gì cả.

- Dù sao thì ông cũng đã từng trải qua những cuộc chiến tranh. Tôi sẽ tiêm cho ông một mũi chống nhiễm trùng uốn ván.

Mặt Adam tái đi. Viên bác sĩ nói:

- Thật là buồn cười, rất nhiều người lớn không muốn nhìn thấy cái kim tiêm mới lạ.

Adam rên lên.

- Nào, bây giờ thì cũng không đến nỗi đau lắm chứ?

Bác sĩ vừa dỗ dành vừa cuốn một cuốn băng lớn trên vai Adam. Cuối cùng anh ta hỏi:

- Có ai đón anh không?

Adam nói:

- Có cảm ơn anh. Vợ tôi đang chờ.

- Tốt lắm. Vậy thì bây giờ anh có thể đi được rồi nhưng về đến nhà anh phải thông báo cho bác sĩ riêng biết chuyện này.

Romanov ngồi vào ghế lái xe và nhìn theo chiếc xe du lịch đang rời khỏi khu hải quan. Hắn lái xe theo sau qua cổng chính tiến vào xa lộ A2 đi London.

Pollard lo lắng hỏi:

- Liệu dọc đường có bị vuột mất hắn không?

- Lần này thì không.

Romanov nói, không giải thích gì. Suốt dọc đường đến thủ đô không một lần hắn để chiếc xe du lịch mất hút tầm mắt.

Adam đi ra cổng bệnh viện và kiểm tra thấy không có ai theo dõi mình. Những người duy nhất anh nhìn thấy là một người đàn ông mặc áo khoác len xanh đang đi dạo bên kia đường và một cô y tá tất tưởi chạy qua, mắt lo lắng nhìn vào đồng hồ đeo tay. Khá yên tâm anh gọi tắc xi đưa đến nhà ga Priory Dover để mua vé đi London. Anh hỏi:

- Mấy giờ chuyến tàu tới khởi hành?

Người soát vé nhìn đồng hồ nói:

- Tàu thủy vừa cập bến cách đây quãng bốn mươi phút nhưng họ còn cần một số thời gian để hành khách làm thủ tục.

Adam đi ra sân ga, mắt cảnh giác xem có ai có vẻ khả nghi không. Anh không để ý tới một người đàn ông tóc đen mặc áo khoác len xanh đang dựa người vào cửa chớp nhà hàng W.H.Smith đọc tờ Evening Standard.

Adam nghĩ tới Robin lúc này đang an toàn trên đường về nhà. Tàu đi London chạy vào ga, chở đầy hành khách vừa trên tàu thủy xuống. Adam đi ra khỏi bóng tối để nhảy lên tàu, anh chọn một buồng có đầy những thanh niên choai choai chắc là vừa qua một ngày tắm biển trở về. Chắc chắn không có ai muốn ngồi chung với bọn này. Anh ngồi vào chiếc ghế trống duy nhất ở góc xa và ngồi yên lặng nhưng mắt vẫn luôn quan sát qua cửa sổ.

Khi tàu chạy đến Canterbury không có thêm người khách nào khác bước vào buồng trừ người soát vé, anh ta lặng lẽ bỏ qua việc một thanh niên chìa cho mình chiếc vé xe khi được đề nghị kiểm tra vé. Adam cảm thấy hoàn toàn an toàn trong góc buồng đặc biệt này, ngay cả khi nhận thấy người đàn ông mặc áo khoác len xanh đi qua cửa và nhìn vào rất kỹ lưỡng.

Adam chợt bừng tỉnh khỏi dòng suy nghĩ miên man khi nghe tiếng kêu ca ầm mĩ của một gã thanh niên mà trong suốt hành trình từ đầu đến giờ có vẻ là đại ca của nhóm. Hắn khịt mũi rất to kêu:

- Trong buồng này có mùi hôi quá.

Một tên đồng bọn ngồi cạnh Adam nói và cũng bắt chước khịt mũi.

- Tớ cũng thấy thế, Terry.

- Và tớ nghĩ cái mùi ấy sát cạnh tớ.

Adam liếc nhìn gã thanh niên mặc áo jacket đen bằng da với những chiếc khuy nhỏ lóng lánh. Dòng chữ "Heil Hitler" chạy ngang qua lưng. Hắn đứng dậy mở cửa sổ.

- Có lẽ không khí trong lành ngoài trời sẽ cải thiện hơn chăng.

Hắn nói và ngồi xuống. Cùng lúc cả bốn tên đều khịt mũi. Tên đầu đảng kết luận:

- Khịt, khịt,... Tớ nghĩ mùi hôi ngày càng nặng hơn.

Adam nói:

- Chắc là tôi đấy.

Bọn chúng ngừng khịt mũi, bắt đầu nhìn vào góc buồng một cách nghi ngờ, thoáng im lặng trước đòn tấn công của Adam. Anh nói thêm không để cho bất cứ đứa nào kịp nói:

- Sau bài tập judo tôi không kịp tắm.

Đứa ngồi trước anh hỏi:

- Anh biết khá về judo đấy chứ?

Adam đáp:

- Cũng tàm tạm.

Terry hung hăng hỏi:

- Ông thắt đai nào? - Rồi hắn cười khẩy nói thêm - Nào, nói đi, đai đen chứ gì, tôi biết trước.

- Tôi chẳng thắt một cái đai nào gần tám năm nay rồi - Adam thản nhiên nói - Nhưng vừa qua tôi được phong Đệ nhị Huyền đai.

Vẻ e ngại lộ trên ba trong bốn khuôn mặt.

- Tôi cũng đang nghĩ phải bắt đầu tập judo đây - Tên trưởng nhóm nói tiếp, tay duỗi thẳng - Cần bao lâu để có thể chơi judo kha khá được?

- Tôi vẫn tập ba giờ một ngày trong suốt mười hai năm mà vẫn chưa đạt trình độ Olympic đâu.

Adam đáp trong khi nhìn người đàn ông tóc đen mặc áo khoác len xanh đi qua buồng lần nữa. Lần này hắn ta nhìn thẳng vào mặt Adam trước khi nhanh chóng đi khỏi. Adam tiếp tục nói:

- Tất nhiên phẩm chất duy nhất thực sự phải có một khi cậu nghiêm túc muốn bắt đầu tập judo là sự can đảm, và không ai dạy được cho cậu cái đó đâu. Hoặc là cậu can đảm, hoặc là không, có vậy thôi.

Terry hung hãng nói:

- Tôi can đảm. Tôi chẳng sợ gì và cũng chẳng sợ ai hết.

Hắn nói, nhìn Adam chằm chằm. Adam nói:

- Tốt lắm. Vậy thì cậu sẽ có dịp chứng minh lời tuyên bố vừa rồi trước khi chuyến đi này kết thúc.

Tên mặc áo "Heil Hitler" nói:

- Ông có ý nói gì? Ông định gây gổ hoặc làm trò gì đó đại loại ở đây hả?

Adam lạnh lùng đáp:

- Không. Đơn giản là lúc này tớ đang bị một tên thám tử tư theo dõi, hắn đang muốn bắt được tớ đang ngủ với vợ khách hàng của hắn.

Lần đầu tiên trong suốt chuyến đi cả bốn đứa bỗng ngồi im nhìn Adam với vẻ bắt đầu kính nể. Tên cầm đầu hỏi:

- Thế còn ông?

Adam gật đầu vẻ tiết lộ bí mật. Terry ranh mãnh hỏi:

- Chắc là một miếng ngoạm ngon lành chứ gì?

Adam đáp:

- Không tồi lắm. Hoàn toàn không tồi chút nào cả.

Tên cầm đầu vỗ bàn tay trái lên bắp tay phải trong khi giơ nắm đấm lên một cách hăng hái:

- Vậy thì ông hãy chỉ tên thám tử ấy để bọn này thanh toán hắn trong đêm nay cho.

Adam nói:

- Thế thì hơi mạnh quá. Nhưng nếu các cậu hoãn hắn lại được một lát để tôi xuống tàu tại Đông Waterloo thì ít ra tôi cũng đủ thời gian để báo trước cho cô ấy.

Tên trùm nói:

- Ông anh ơi, đừng nói nữa. Thằng cha nhìn lén của ông anh sẽ được đưa đến ga Charing Cross và được buộc chặt như một gói bưu phẩm của hãng Đường sắt Anh đấy.

Ba đứa kia cười phá lên và Adam bắt đầu nhận ra mới có một tuần mà Romanov đã biến được anh thành kẻ bịa chuyện chẳng kém bố Robin trước kia là mấy.

- Hắn kia kìa.

Adam thì thầm khi gã mặc áo len xanh đi qua lần thứ ba. Cả bọn nhìn ra hành lang nhưng chỉ thấy lưng hắn đang đi khuất. Adam xem đồng hồ nói.

- Mười một phút nữa tàu sẽ đến Đông Waterloo. Tôi đề nghị lúc đó chúng ta sẽ hành động... nếu các cậu vẫn nghĩ đến điều đó.

Cả bốn tên trong đội vệ binh mới thành lập của anh cúi người hăm hở chuẩn bị tư thế.

Mấy phút sau Adam rời khỏi buồng, vẫn để cửa mở rộng. Anh bắt đầu bước về phía ngược lại với lối gã áo len xanh đi qua. Khi đến cuối toa anh quay lại thấy lúc này gã đàn ông đang đi nhanh theo sau anh. Khi đi qua căn buồng có cửa mở gã mỉm cười giơ tay lên để Adam chú ý nhưng một đôi cánh tay mặc áo da đã thò ra và gã mất hút vào buồng kèm theo mấy tiếng kêu ú ớ. Cánh cửa buồng đóng sập lại và rèm cũng buông nhanh xuống.

Con tàu từ từ tiến vào ga Đông Waterloo.

Khi chiếc xe du lịch tiến đến phố Wigmore và dừng lại phía ngoài trụ sở Dàn nhạc Giao hưởng Hoàng gia, Robin vẫn vô cùng căng thẳng. Có một chiếc xe Ford màu xanh vẫn bám theo họ ít nhất là ba mươi dặm và khi nhận ra điều đó cô ngồi im không dám động đậy.

Khi mang chiếc công trơ bass ra khỏi xe, cô ngoái lại và nhìn thấy chiếc Ford đã tắt hết đèn pha đỗ dưới lòng đường cách đó quãng năm mươi mét. Romanov đứng trên vỉa hè trông như con thú bị nhốt trong chuồng đang muốn lao ra ngoài. Một người đàn ông khác mà Robin không biết mặt vẫn trên xe sau tay lái. Adam đã dặn cô không được nhìn quanh bất kỳ hoặc dừng lại lúc nào mà cứ đi thẳng vào trụ sở Dàn nhạc. Mặc dù vậy cô cũng không cưỡng lại được nhìn thẳng vào mắt Romanov và lắc đầu. Romanov vẫn tỉnh bơ đứng nhìn ra phía trước.

Khi nhạc công cuối cùng rời khỏi xe, Romanov và viên "đại tá" đưa mắt nhìn sục sạo khắp bên trong xe và cuối cùng là khoang hành lý, bất chấp sự phản đối của người lái xe. Robin lo lắng đứng trong một cửa sổ trên gác nhìn chúng nhảy vào chiếc Ford xanh lái đi. Cô tiếp tục nhìn theo chiếc xe cho đến khi đèn sau mờ dần và mất hút trong đêm tối.

Viên đại tá ngoặt khỏi phố Wigmore chạy để phóng về phía phố Backer và dừng lại đối diện trước cửa ga Barker. Romanov nhảy khỏi xe đi vào một buồng điện thoại và bắt đầu giở danh bạ điện thoại từ vần A đến vần D. Chỉ có một Robin Beresford có đăng ký cùng với địa chỉ đúng như tên điệp viên trẻ đã đọc cho hắn. Hắn quay số và sau mười lần gọi không có ai trả lời, hắn mỉm cười vì biết chắc cô sống một mình. Hắn không ngạc nhiên.

Khi Romanov trở lại xe, viên đại tá hỏi:

- Bây giờ ta làm gì?

- Phố Argyle, NW3 ở đâu?

Viên đại tá nói:

- Chắc là đâu đó gần phố Hampstead. Nhưng trước hết tôi phải kiểm tra lại bản đồ giao thông London từ A đến Z đã. Kế hoạch thế nào đây?

Romanov nói:

- Thay vì cho việc chờ cô Beresford ra khỏi nhà, chúng ta sẽ chờ cô ta đi vào nhà.

Quãng ba mươi phút sau Robin rời khỏi cửa sau trụ sở Dàn nhạc. Cô đi vòng vèo quanh quảng trường Portman rồi bước thật nhanh đến góc phố. Mặc dù luôn tự nhủ là Romanov sẽ không quay lại nhưng trong suốt thời gian đó Robin vẫn không kìm nổi cơn run. Cô vẫy một xe taxi và thở phào nhẹ nhõm khi thấy chiếc xe xịch đến chỉ trong nháy mắt. Robin kiểm tra người lái và ghế ngồi sau như Adam hướng dẫn rồi lên xe.

Chỉ ít phút sau khi Robin vẫy taxi, Romanov cũng đến trước cửa một nhà. Tấm biển gắn trên tường cho thấy cô Beresford sống ở tầng bốn.

Tự chiếc cánh cửa cũng chứng minh cho việc bất cứ tên trộm cao thủ nào ở Moscow cũng như Romanov đều không mấy khó khăn gì để lọt vào trong chốc lát. Viên đại tá nhanh chóng chạy tới bên Romanov rồi cả hai tên tiếp tục im lặng đi lên cầu thang đến tầng bốn.

Romanov bật ổ khóa Yale còn nhanh hơn Robin mở bằng chìa của cô. Sau khi đã vào trong nhà hắn nhanh chóng xem xét bố trí nội thất căn phòng và tin chắc là không có ai nữa trong đó.

Viên đại tá đứng bồn chồn không yên bên cạnh.

- Bình tĩnh lại đi ngài đại tá. Tôi không cho là cô ấy bắt chúng ta phải đợi quá lâu đâu.

Viên đại tá cười với vẻ lo lắng.

Chiếc tắc xi xịch đến cạnh ngôi nhà Robin chỉ. Cô nhảy khỏi xe và trả cho người tài xế khá hậu vì đã quá nửa đêm khá lâu và vì cuối cùng cô cảm thấy đã an toàn. Dường như cả năm trời bây giờ cô mới về nhà. Cô chỉ mong được tắm nước ấm và ngủ một giấc đẫy mắt.

Adam bước ra khỏi ga Đông Waterloo vào lúc quá nửa đêm một chút, anh vui mừng khi thấy xe điện ngầm vẫn còn hoạt động. Anh không đi đến Charing Cross vì không biết chắc người của bên nào đang chờ đón mình ở đó. Anh xuất trình vé tháng đi West Indian cho người soát vé và đợi loanh quanh ở sân ga cho đến khi cuối cùng đoàn tàu cũng chạy tới.

Giữa Đông Waterloo và nơi anh định tới còn có mấy ga nữa, ngay cả vào lúc đêm khuya này đoàn tàu cũng dừng bánh ở các ga đó quá lâu. Đến Embankment có mấy tay chơi đêm bước lên, đến quảng trường Leicester còn thêm nhiều người nữa. Mỗi ga Adam lại lo lắng chờ đợi, giờ đây anh mới nhận ra đây là chuyến tàu cuối cùng. Anh chỉ hy vọng Robin ngoan ngoãn làm đúng những điều đã được chỉ dẫn. Anh nhìn xung quanh toa mình đang ngồi. Trên toa đầy những người làm việc ca đêm, bồi bàn, y tá, người đi ăn tiệc trở về, bọn say rượu, có cả cảnh sát giao thông nữa. Cuối cùng tàu chạy tới ga của anh vào lúc mười hai giờ bốn mươi.

Người soát vé chỉ cho Adam đường đi. Anh thấy nhẹ người vì có thể đi ra cửa rất nhanh chóng bởi vì không còn ai xung quanh trong đêm khuya như thế này để hỏi đường nữa. Anh chậm rãi tiến đến số nhà hai mươi ba. Căn hộ tối om. Anh đẩy cánh cổng quay, bước thẳng vào lối đi, tay rút chùm chìa khóa trong túi ra và tra chiếc chìa tròn trĩnh vào ổ khóa. Adam thận trọng đẩy cửa và sau đó đóng lại nhẹ nhàng sau lưng mình.

Quá mười hai giờ mười một chút, chuyến tàu cuối cùng từ Dover vào ga Charing Cross. Không thấy Adam đâu, Lawrence bảo lái xe đưa mình trở lại Cheyne Walk. Anh không hiểu được tại sao người điệp viên do tự tay anh lựa chọn không báo cáo gì cả. Khi Lawrence trở lại căn hộ, anh tra chìa khóa vào ổ khóa, hy vọng Adam đã đợi sẵn ở trong.
 
Chương 24


Hắn đẩy cánh cửa, chậm rãi bước lên lối vào trong bóng tối dày đặc. Khi đến góc nhà, hắn lần tìm viên đá thứ ba bên trái. Xác định được đúng đó là viên đá nơi thường cất chiếc chìa khóa dự bị, hắn đẩy nó sang bên và mò tìm trong đất. May quá, chiếc chìa khóa vẫn y nguyên chỗ cũ. Như một tên trộm hắn tra nhẹ chìa vào ổ khóa rồi khép cánh cửa lại và rón rén đi vào sảnh, bật đèn và bắt đầu leo lên cầu thang. Lên đến tầng trên, hắn tắt đèn phòng lớn, vặn quả đẩm cửa phòng ngủ và đẩy cánh cửa. Vừa bước vào phòng bỗng một cánh tay xiết chặt lấy cổ họng và quật hắn xuống đất bằng một sức mạnh ghê gớm. Hắn cảm thấy một cái đầu gối ấn mạnh trên lưng và một cánh tay bị bẻ quặt ra sau lưng thế Nelson. Hắn nằm sấp úp mặt xuống sàn nhà không cựa quậy được, ngay cả thở cũng rất khó khăn. Đèn bật sáng trưng và vật đầu tiên mà Adam nhìn thấy là viên đại tá. Hắn van xin:

- Đại úy Scott, đừng giết tôi, đừng giết tôi.

Adam lạnh lùng nói:

- Tao không có ý định đó đâu, ngài Tomkins ạ. Nhưng trước hết lúc này ông chủ đáng kính của mày đang ở đâu?

Adam tiếp tục ấn mạnh đầu gối vào giữa lưng viên đại tá và bẻ ngược cánh tay lên thêm chút nữa cho đên khi hắn la lên the thé:

- Sau khi biết là cô gái sẽ không về nhà nữa ông ta đã trở về Sứ quán.

- Đúng như ta đã dự định.

Adam nói nhưng không nới lỏng tay trong khi anh nói rõ cho viên đại tá nghe những việc hắn cần phải làm.

- Nhưng không thể thế được. Tôi muốn nói là nói ông ấy nhất định phải chú... á... Viên đại tá cảm thấy tay hắn bị quặt ra sau lưng cao hơn.

Adam nói:

- Mày có thể tiến hành toàn bộ thao tác đó trong vòng không đến mười phút mà hắn thì chẳng cần biết gì hết. Tuy nhiên tao thấy sẽ công bằng là mày đáng được thưởng nếu cố gắng.

- Cảm ơn ông.

Viên đại tá xun xoe nói:

- Nếu mày đem đến đây vật tao yêu cầu và làm theo lời chỉ dẫn đến nơi đến chốn thì để đổi công mày sẽ được trả lại hộ chiếu, bằng lái xe, giấy tờ, ví và sự bảo đảm sẽ không bị xử tội phản bội. Nhưng mặt khác, nếu đến chín giờ ba mươi ngày mai mày không quay lại vơi thứ tao yêu cầu thì trong vòng ba mươi phút tất cả các giấy tờ trên sẽ được đặt trước bàn ông Lawrence Pemberton ở Bộ Ngoại giao cùng với báo cáo về các nguồn thu nhập khác mà mày không báo cáo với ngành thuế.

- Xin ông đừng làm điều đó, thưa đại úy Scott.

Adam nói:

- Khi chuông đồng hồ điểm mười giờ.

Viên đại tá mếu máo:

- Nhưng thưa ông đại úy, mong ông hãy nghĩ lại, lúc đó điều gì sẽ xảy ra với tôi?

Adam nói:

- Tao đã xem xét việc này rồi, và đã rút ra hai kết luận.

- Như thế nào, thưa ông đại úy Scott?

Adam không hề nới lỏng tay ra, nói:

- Hiện nay tội gián điệp có thể bị kết án tù từ mười tám đến bốn hai năm tùy theo ý Thánh Thượng, vậy với hạnh kiểm tốt mày có thể được ra tù trước khi thể kỷ này kết thúc, vừa kịp để đến nhận điện mừng của Nữ hoàng. Trông viên đại tá có vẻ hoảng.

Hắn lắp bắp:

- Còn điều thứ hai?

- Ồ, rất đơn giản là nếu mày thông báo co Romanov biết chuyện viếng thăm ban đêm của tao thì để trả công, hắn sẽ bố trí cho mày sống những ngày còn lại trong một ngôi nhà nhỏ thuộc một khu ngoại ô không lấy gì đáng ao ước lắm. Bởi vì, ngài Tomkins thân mến của tôi ạ, ngài cũng biết rõ ngài chỉ là một tên gián điệp cỡ rất nhỏ. Tao cũng không chắc nếu bản thân mình vứt lại với hai sự lựa chọn đó thì sẽ cảm thấy cái nào là rùng rợn hơn. - Tôi sẽ làm việc đó cho ông, thưa đại úy Scott, ông có thể tin cậy ở tôi.

- Tao có thể tin mày, Tomkins. Bởi vì nếu mày cho Romanov biết dù một bí mật nhỏ nào của chúng ta, mày sẽ bị bắt ngay trong vòng ít phút. May lắm thì mày chỉ có thể tìm cách tẩu thoát bằng cách chạy đên hãng hàng không. Nhưng tao đã kiểm tra rồi, không có chuyến nào trước xẩm tối ngày mai.

- Tôi sẽ chuyển nó cho ông lúc chín giờ ba mươi ngày mai đúng giờ quy định. Ông có thể tin điều đó. Nhưng lạy Chúa, ông hãy sẵn sàng cho tôi chuộc tội. Adam nói: - Tao sẽ làm như hứa cũng như trả tất cả giấy tờ cho mày, Tomkins ạ. Adam đỡ viên đại tá từ từ đứng dậy và đẩy hắn về phía cầu thang. Anh bật đèn rồi ấn hắn đi xuống cầu thang cho đến khi họ tiến đến cửa trước. Adam nói:

- Chìa khóa đâu?

Nhưng ông đã lấy hết chìa khóa của tôi rồi, thưa đại úy Scott.

- Chìa khóa xe cơ, mày ngu thế?

Viên đại tá nói:

- Nhưng thưa ông đây là xe thuê.

Adam nói:

- Tao sẽ thuê xe mày.

- Nhưng thưa ông làm thế nào tôi trờ về London kịp giờ được ạ?

- Tao không biết, nhưng mày vẫn còn có cả đêm để đi bằng phương tiện nào đó. Thậm chí mày có thể đi bộ vẫn còn kịp. Chìa khóa đâu?

Adam nhắc lại, lại bẻ tay viên đại tá ra sau bả vai. Viên đại tá nói với giọng cao hơn một nốt:

- Trong túi áo trái của tôi ấy.

Adam thọc tay vào túi chiếc áo khoác mới của hắn rút chùm chìa khóa xe ra. Anh mở cửa, đẩy viên đại tá ra lối đi và áp giải hắn tới vỉa hè, và nói:

- Mày đi đi và đứng sang phía bên kia đường. Mày không được trở lại ngôi nhà cho đến khi tao đến cuối đường. Tao có phải nói rõ thêm không?

- Hoàn toàn rõ ạ, thưa ông đại úy Scott.

- Tốt. - Adam nói, lần đầu tiên thả hắn ra

- Tomkins, còn một điều nữa. Trong trường hợp mày nghĩ đến trò chơi hai mang thì hãy biết là tao đã báo cho Văn phòng Bộ Ngoại giao để họ đặt Romanov dưới sự giám sát. Adam hy vọng anh nói với một giọng thuyết phục.

- Ông quả đã lường được hết mọi việc. Viên đại tá rầu rĩ nói.

Adam đáp:

- Tất nhiên, tao cho là vậy. Thậm chí tao còn tìm được thời gian cất điện thoại của mày trong khi đợi mày quay lại rồi kia. Adam đẩy viên đại tá qua đường rồi mới bước lên xe thuê. Anh quay cửa sổ xe xuống.

- Hẹn gặp lại mày đúng chín giờ ba mươi sáng mai. Anh nói thêm và cài chiếc xe Ford chạy số một. Viên đại tá đứng run rẩy trên vỉa hè bên kia đường trong khi Adam chạy xe đến cuối phố. Hắn vẫn đứng đó cho đến khi Adam rẽ trái đi về trung tâm London. Lần đầu tiên kể từ khi Heidi chết, Adam cảm thấy Romanov đang chạy trốn. Thật là vinh dự lớn cho ngân hàng nhỏ bé của chúng tôi. Ông Bischoff nói một cách hài lòng khi nhìn nhà ngân hàng quan trọng nhất của phương Đông đang ngồi trong phòng giám đốc cùng uống trà chiều với mình.

Poskonov nói:

- Không hoàn toàn như vậy, ngài Bischoff thân mên của tôi. Sau bắng ấy năm quan hệ tôi mới là người cảm thấy vinh dự. Và ngài thật thông cảm với tôi cho nên đã mở cửa ngân hàng cả vào ngày Chủ nhật. Còn bây giờ ta vào việc. Vưa qua Romanov có ký vào một mẫu đơn tuyên bố từ bỏ quyên sở hữu tài sản đó không?

Bischoff nói: - Ồ, có chứ. Anh ta thậm chí không thèm đọc cả các điều khoản kể cả ba điều thêm mà ngài yêu cầu chúng tôi ghi vào.

- Vậy thì của cải thừa kế của anh ta sẽ đương nhiên được trả lại cho nhà nươc Nga chứ? - Đúng vậy, thưa ngài Poskonov, và chúng tôi sẽ chuyển đến....

-... Sẽ đại diện cho chúng tôi trong tất cả các giao dịch hối đoái tiền tệ mà chúng tôi tiến hành với phương Tây.

Bischoff nói: - Xin cảm tạ ngài. Và chúng tôi sẽ rất sung sướng được phục vụ các ngài kể cả những yêu cầu nhỏ nhất. Nhưng nếu Romanov trở lại ngân hàng và đòi được giải thích về tài sản thừa kế của anh ta thì sao?

Chủ tịch ngân hàng lo lắng hỏi. Nhà ngân hàng Nga quả quyết nói: - Anh ta sẽ không trở lại nữa đâu. Ngài có thể tin lời tôi. Còn bây giờ tôi muốn xem có những gì trong các hộp đó.

Bischoff nói: - Vâng, tất nhiên ạ. Xin mời ngài đi theo tôi. Hai vị chủ tịch ngân hàng đi thang máy riêng xuống tầng trệt và sau đó Bischoff dẫn khách xuống hầm ngầm. - Bây giờ tôi sẽ mở khóa năm hộp mang tên Romanov bằng chìa khóa của ngân hàng nhưng chỉ riêng ngài mới mở được chúng bằng chìa khóa của anh ta.

- Cảm ơn. Poskonov nói và chờ cho Bischoff mở năm chiếc hộp và trở lại lối ra của hầm ngầm.

Bischoff nói: - Ngài cứ xem bao lâu tùy thích. Nhưng đến sáu giờ cánh cửa lớn sẽ tự động khóa lại cho đến chín giờ sáng mai, và sẽ không có gì ngoài vũ khí hạt nhân mới bậy được nó ra. Vào lúc năm giờ bốn lăm sẽ có một hồi chuông cảnh báo nhắc nhở ngài là chỉ còn mười lăm phút nữa.

Ông già nói: - Tuyệt. Trong suốt sự nghiệp tài chính của mình chưa bao giờ ông bị nhắc nhở trước mười lăm phút về một điều gì đó. Bischoff trao cho Poskonov chiếc phong bì đựng chìa khóa của Romanov. Khi cánh cửa thép nặng nề đã đóng lại phía sau, ông lão nhìn lên đồng hồ trên tường. Ông còn hơn hai giờ nữa để phân loại những gì có thể được chuyển đi và những gì phải để lại. Lương hưu nhà nước cấp và huân chương hạng hai dường như không phải là phương án tối ưu đối với Poskonov. Ông vặn chìa khóa mở hộp nhỏ thứ nhất và đọc những giấy tờ chứng minh quyền sỡ hữu đối với những vùng đất đã được quốc hữu hóa nhiều thập kỉ nay và rên lên. Hộp thứ hai đựng cổ phần của các công ty một thời từng làm ăn phát đạt bây giờ đã bị "bóc vỏ" đúng như nghĩa đen của từ đó. Poskonov thất vọng khi thấy hộp nhỏ thứ ba chỉ cất một di chúc chứng minh mọi thứ thuộc quyền sỡ hữu của cha Romanov và những người thừa kế trực hệ của ông ta. Phải chăng ông ta đã chờ đợi bằng ấy thời gian để khám phá ra câu chuyện vàng bạc châu báu mà ông già đã nói với mình chỉ là một con số không ngoài những tưởng tượng hão huyền. Poskonov mở hòm lớn thứ nhất nhìn vào. Bên trong có mười hai ngăn nhỏ. Ông cẩn thận mở nắp ngăn thứ nhất ra và bủn rủn chân tay khi thấy toàn là đá quý đang chiếu sáng lấp lánh trước mặt. Ông thọc cả hai tay vào hòm để các viên ngọc rơi qua kẽ ngón tay mình hệt như đứa trẻ nghịch sỏi trên bãi biển. Ngăn thứ hai đựng đầy ngọc trai, ngăn thứ ba đựng toàn tiền vàng và vàng thỏi, tất cả các báu vật trên có thể làm lóa mắt người xem, kể cả ông già như Poskonov. Ông không xác định được mình phải mất bao nhiêu lâu để xem hết các ngăn còn lại nhưng khi chuông cảnh báo reo lên thì ông vẫn còn lơ lửng trên chín tầng mây say sưa với kho báu mới tìm thấy. Ông nhìn đồng hồ. Vẫn còn đủ thời gian để bỏ mọi thứ vào ngăn và hôm sau ông sẽ quay lại để lấy đi chỉ một lần và mãi mãi những gì ông đã nhận được sau hơn năm mươi năm phục vụ cho đất nước. Khi chiếc nắp cuối cùng được đậy lại, ông xem đồng hồ trên tường: sáu giờ kém sáu phút. Cũng đủ thời gian để ngó qua hòm bên cạnh và xem xem liệu có tìm được cái gì giá trị tương đương không. Ông vừa vặn chìa khóa vừa liếm môi phấp phỏng khi mở chiếc hòm lớn ra. Vừa nâng nắp hòm lên ông vừa tự hứa chỉ liếc qua một tý thôi. Khi nhìn thấy cái tử thi, ông choáng người quay ngoắt lại ngã vật xuống đất, tim nghẹt lại. Chín giờ sáng hôm sau người ta phát hiện ra cả hai cái xác. Chuông điện thoại réo vang. Adam chộp lấy máy trước khi âm thanh nhức óc anh lần thứ hai.

Giọng một cô gái dịu dàng: - Thưa ông, chuông báo thức ạ. Tám giờ rồi.

- Cảm ơn. Adam đáp, đặt nhẹ ống nghe xuống. Việc báo thức không còn cần thiết nữa vì anh đã ngồi trên giường xem xét để đề ra một kế hoạch được hơn một tiếng đồng hồ rồi. Cuối cùng Adam đã tìm được cách để kết liễu đời tên Romanov. Anh bật dậy khỏi giường, kéo rèm nhìn sang Sứ quán. Không rõ hắn dậy đã lâu chưa. Anh quay trở lại bên giường cầm điện thoại lên bấm số mà Robin đã cho. Chuông reo vài lần, mãi mới có tiếng một bà già trả lời:

- Bà Beresford đây.

- Chào bác Beresford. Cháu là Adam Scott. Cháu là bạn của Robin. Cháu gọi đến xem đêm qua cô ấy đã trở về nhà an toàn chưa thôi ạ.

Mẹ Robin nói: - Ô,cảm ơn. Bác thật ngạc nhiên đến mức vui mừng vì được gặp nó trước ngày nghỉ cuối tuần. Nó thường ngủ ở căn hộ mỗi khi về muộn. Bác e là nó đang ngủ. Cháu có muốn bác đánh thức nó không?

Adam nói: - Không ạ. Bác đừng làm cô ấy mất giấc. Cháu chỉ gọi để hẹn cô ấy đi ăn trưa thôi. Bác nói giúp với cô ấy là cháu sẽ gọi lại.

Bà trả lời: - Nhất định là bác sẽ nói vậy. Cảm ơn cháu đã gọi cho bác. Adam để lại ống nói vào máy và mỉm cười. Mối mảnh của trò chắp hình đều đã được đặt cẩn thận vào vị trí nhưng không có sự trợ lực của viên đại tá thì anh vẫn thiếu một mảnh góc có tính quan trọng sống còn. Adam bắt đầu đặt những thứ của Tomkins gồn hộ chiếu, các giấy tờ cá nhân và chiếc ví vào một phong bì lớn. Anh lấy bức tranh Thánh trong túi áo jacket của hắn ra, giơ lên cẩn thận xem xét vành vương miệng bằng bạc của Sa hoàng. Sau đó anh mở con dao gấp và bắt đầu tháo chiếc vương miệng ra một cách chẫm rái và hết sức khéo léo. Ba mươi phút sau Adam đang đứng trong thang máy đi xuống tầng hầm khách sạn. Khi bước ra Adam đi đến nơi sáng sớm hôm nay anh đã để chiếc Cortina xanh. Anh mở khóa cửa xe ném chiếc áo jacket cũ của viên đại tá lên ghế rồi khóa cửa, kiểm tra lại tất cả các cửa khác trước khi lên thang máy trở lại tầng trệt. Người phụ trách cửa hàng quần áo nam đứng dưới cổng vòm khoát tay ra hiệu hết giờ nhưng Adam vẫn cố tìm một chiếc áo sơ mi trắng, chiếc quần vải mềm xám và chiếc áo khoác xanh rồi mặc thử trong phong thay quần áo nhỏ. Lúc chín giờ hai ba phút, Adam thanh toan hóa đơn với khách sạn Công viên Hoàng gia và bảo người gác cổng đánh chiếc xe Ford xanh từ khu để xe lên. Anh đứng đợi ở lối vào khách sạn. Mấy phút trôi qua anh bắt đầu lo viên đại tá sẽ không quay lại, Nếu thất bại Adam biết cú gọi tiếp sẽ là cho Lawrence chứ không phải Romanov. Dòng suy nghĩ miên man của anh bị gián đoạn bởi tiếng còi xe hơi. Người gác cổng vừa nói vừa trả lại chìa khóa cho Adam:

- Xe của ông đang đợi ở dốc ra.

- Cảm ơn. Adam nói và đưa cho anh ta mấy đồng bảng Anh cuối cùng trong ví viên đại tá. Anh bỏ chiếc ví vào phong bì rồi niêm phong lại trước khi xem lại đồng hồ một lần nữa. Anh lo lắng đứng đợi thêm hai phút trước khi nhận ra viên đại tá đang thở phì phò đi lên dốc dẫn đến lối vào khách sạn. Tay hắn nắm chặt một chiếc túi xách nhỏ. Viên đại tá nói trước khi tiến đên cạnh Adam:

- Thưa ông đại úy Scott, tôi đã làm việc đó. Nhưng tôi phải trở về ngay nếu không hắn sẽ phát hiện ra mất. Hắn nhanh chóng đưa chiếc túi xách cho Adam, anh mở mặt trên nhìn vào đồ vật bên trong và nói:

- Mày là người biết giữ lời hứa và như tao đã cam kết, mày sẽ tìm lại đủ các thứ cần thiết trong này. Anh đưa chiếc phong bì niêm kín cùng với chùm chìa khóa xe, không nói gì thêm và chỉ ra chiếc xe thuê. Viên đại tá chạy đến chiếc xe, nhảy vào và lái xe nhanh xuống dốc rời khỏi khách sạn Công viên Hoàng gia trước khi rẽ trái chạy đến phố công viên Khách sạn Kensington. Adam xem lại đồng hồ: Chín giờ ba lăm. Anh hỏi người gác cổng:

- Làm ơn cho tôi một chiếc taxi. Người lái taxi quay cửa kính xuống nhìn Adam có ý hỏi đi đâu.

- Quảng trường Chesham SW 1. Cửa hàng đồ gỗ. Adam ngắm nghía gian hàng khoảng mươi phút trong khi người thợ hoàn thành đơn đặt hàng đặc biệt của anh. Anh nhìn kết quả với vẻ hài lòng, trả cho anh ta hai bảng rưỡi rồi đi bộ trở lại đường Hoàng Đế để gọi taxi.

- Ngài định đi đâu ạ?

- Tháp London. Mọi người trong nhóm D4 đã ngồi vào chỗ chuẩn bị để họp vào lúc chín giờ ba mươi, Busch công kích ngay khi Lawrence chưa kịp ngồi xuống ghế:

- Làm thế quái nào mà lần này ông lại để sổng mất anh ta được?

Lawrence nói: - Lỗi tại tôi. Tôi đã cài người ở tất cả các bến cảng từ Newhaven đến Harwich nhưng khi thấy Romanov và tên cấp dưới của hắn rời đường ke tại Dover để chạy vào xa lộ theo đuôi chiếc xe buýt thì người của tôi lại cho rằng chắc chắn hắn phải thấy Scott. Anh nói tiếp: -

Tôi đã chỉ thị cho viên sĩ quan nhập cảnh phụ trách chung ở cảng bí mật cho phép Scott rời tàu. Ý định của tôi là đón anh ta ngay ở khu vực thủ tục hải quan. Dường như kế hoạch đó không thể bị trở ngại bởi chúng ta đã giám sát chặt Romanov. Song Scott đã tiếp tục qua mặt cả Romanov và người của chúng ta ở Dover. Busch vẫn không khoan nhượng:

- Nhưng chúng ta đã có một cơ hội thứ hai khi Scott lên tàu hỏa. Lawrence nhìn vào người Mỹ đợi xem anh ta có thừa nhận hai nhân viên CIA của anh ta cũng để sổng mất Scott ở Dover không. Anh nhấn mạnh:

- Người của tôi cũng đã ở trên tàu hỏa. Nhưng anh ta chỉ có một dịp tiếp xúc với Scott khi anh ta đứng một mình, song đúng lúc đó anh ta bị một bọn du côn say rượu túm lấy và đánh cho một trận nhừ tử. Đó là một bọn thanh niên choai choai dường như vừa nghỉ mát ở bờ biển trở về. Matthews nhìn xuống tập giấy trước mặt mình nói:

- Có lẽ chúng ta tuyển mộ nhân viên không đủ trình độ. Lawrence lẳng lặng không trả lời. Snell nói:

- Vậy là cho đến giờ chúng ta có thể nói: Scott cùng bức tranh Thánh của Sa hoàng và Romanov vẫn còn luẩn quẩn đâu đó ở London có phải không? Lawrence thừa nhận: - Hẳn vậy. Snell giả định:

- Vậy là chưa phải tất cả đã mất hết. Có thể Scott vẫn đang cố bắt liên lạc với ông. Lawrence nói khẽ: - Tôi nghĩ là không. Busch hỏi: - Tại sao ông lại chắc chắn là như vậy? - Bởi vì Scott biết có một người trong số chúng ta trong phòng này là kẻ phản bội và anh ta nghĩ người đó là tôi.

- Chào ngài Đại sứ. Tôi là Adam Scott, tôi muốn nói chuyện với thiếu ta Romanov. Một giọng lịch sự đáp lại: - Chào ông Scott. Chúng tôi không có thiếu tá Romanov làm việc ở Sứ quán.

- Tôi cũng không tin là không có ông ta ở đấy như ngài nói.

- Nhưng nếu ông vui lòng để lại số điện thoại của ông thì tôi sẽ tìm hiểu thêm.

- Tôi sẽ chờ. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu ngài nhanh chóng tìm được Romanov một khi anh ta biết ai đang gọi cho mình. Đầu giây bên kia im lặng một lúc lâu và Adam chỉ mong cho đồng shiling vừa bỏ vào hộp gọi điện thoại vẫn còn đủ hiệu lực. Cuối cùng có một tiếng "cách", Adam nghe tiếng người nói:

- Ai gọi đấy? Giọng nói vang lên không giấu được vẻ nghi ngờ. Adam nói ngắn gọn: - Hẳn ông biết rất rõ tôi là ai rồi. Tôi muốn làm một thỏa thuận.

- Thỏa thuận? Romanov nhắc lại, giọng hắn từ nghi ngờ chuyển sang ngạc nhiên. - Tôi sẽ đổi lại bức tranh Thánh của tôi

- mà như ông đã kiên quyết khẳng định là không có giá trị gì đối với tôi

- để lấy phiên bản của ông. Nhưng tôi cũng cần ông đưa cả các tư liệu minh oan được cho cha tôi.

- Làm sao tôi biết được ông sẽ không lừa dối tôi. Adam nói:

- Đúng là ông không biết đựợc. Nhưng ông có còn gì để mất đâu? Điện thoại bắt đầu kêu píp píp báo sắp hết tiền. Romanov nói:

- Cho biết số điện thoại của ông. Adam nói: - 738-9124. - Tôi sẽ gọi lại ông sau. Vừa kịp đường dây ngắt. Hắn hỏi tên điệp viên người địa phương ngồi đối diện:

- Bao nhiêu lâu thì có thể xác định vị trí số 738-9124? Tên điệp viên đáp: - Khoảng mười phút. Nhưng có thể đó là một cái bẫy. - Đúng vậy. Nhưng chỉ còn mười chín giờ nữa là hết thời hạn để đưa bức tranh Thánh sang Mỹ, tôi không còn sự lựa chọn nào nữa. Romanov quay lại phía tên điệp viên: - Giao thông ở London sáng thứ Sáu thường như thế nào? - Một trong những thời gian tấp nập nhất trong tuần. Sao ông hỏi vậy? Romanov trả lời: - Bởi vì tôi cần một chiếc xe mô tô và một người lái siêu hạng. Adam không thể làm gì người phụ nữ trung niên đang chiếm buồng điện thoại. Tại vì trong khi anh sốt ruột đi ra kiểm tra lại cây cầu thì bà ta bước vào. Chắc chắn bà rất thắc mắc tại sao anh chàng kia không sử dụng chiếc buồng không có người bên cạnh. Anh lo lắng nhìn đồng hồ: mười giờ bốn lăm. Anh biết mình không thể liều lĩnh đợi quá mười một giờ một phút nào bởi bì tin chắc rằng lúc đó Romanov đã truy ra nơi anh vừa gọi. Người đạn bà gọi đến mười hai phút nữa rồi mới đặt ống nói xuống. Khi bước ra khỏi buồng, bà ta nhìn Adam và mỉm cười ấm áp. Chỉ còn ba phút và có lẽ anh hủy bỏ kế hoạch ban đầu của mình và gọi cho Lawrence. Anh bắt đầu quan sát đội vệ binh khi họ đi tuần tra qua cổng Traitor (kẻ phản bội) - cái tên thật là phù hợp làm sao. Adam đã chon được một vị trí mà từ đó anh có thể thấy rõ cả hai đầu chiếc cầu kéo và cảm thấy mình không thể bị bất ngờ. Trong trường hợp xấu nhất ở đây còn có một con kênh bao quanh tứ phía. Lần đầu tiên trong đời Adam mới biết đươc năm phút có thể dái như thế nào. Khi chuông điện thoại reo anh có cảm giác như đó là hồi chuông báo động. Anh lo lắng cầm máy lên, mắt không rời đường cái. - Scott? - Đúng vậy. - Bây giờ tôi có thể thấy rõ ông bởi vì tôi chỉ cách ông khoảng một phút nữa. Tôi sẽ đứng ở đầu Cầu Tháp. Hãy bảo đảm ông đứng đó với bức tranh Thánh. Nếu ông không có bức tranh Thánh tôi sẽ đốt các giấy tờ chứng minh cho sự vô tội của cha ông ngay trước mắt ông. Đường dây tắt. Adam vui mừng vì một mảnh nữa trò xếp hình đã đước đặt đúng chỗ. Anh bước ra khỏi buồn điện thoại, quan sát dọc đường cái. Một chiếc BMV lướt tới đỗ lại ở đầu cầu. Người lái mặc áo khoác da ngồi trong tư thế sẵn sàng nhưng dường như chỉ quan tâm đến dòng xe cộ lướt qua chân tháp. Người đàn ông ngôi sau anh ta đang nhìn thẳng vào Adam. Adam bắt đầu chậm rãi đi bộ đến đầu cầu. Anh đưa tay vào túi áo để kiểm tra bức tranh Thánh có còn ở đó không. Khi còn quãng ba mươi mét cách đầu cầu thì người thứ hai kia nhảy xuống xe và bắt đầu đi về phía anh. Lúc mắt hai người chạm vào nhau Romanov đứng lại giữa đường giơ lên một cái khung gỗ nhỏ hình vuông. Adam không đáp lại bằng động tác tương tự mà chỉ đơn giản vỗ vào túi ao bên của mình và tiếp tục đi. Hai người tiến lên phía trước để gặp nhau giống như các hiệp sỹ thời cổ cho đến khi chỉ còn cách nhau vài bước. Họ đứng lại gần như cùng một lúc và đối mặt nhau. Romanov nói: - Cho xem bức tranh đã. Adam dừng lại rồi chậm rãi rút bức tranh Thánh trong túi ra nâng lên trước ngực để Romanov có thể thấy được Thánh George đang nhìn hắn trừng trừng. Romanov nói: - Lật lại. Adam làm theo, Romanov không giấu được vẻ vui mừng khi nhìn thấy vành vương miệng nhỏ bằng bạc của Sa hoàng nạm ở phía sau. Adam nói: - Đên lượt ông. Romanov giơ bức tranh Thánh của hắn ra phía trước tựa như đang vung kiếm lên. Bức kiệt tác lấp lánh dưới ánh mặt trời mùa hè. Adam nói tiếp: - Cả tài liệu nữa. Romanov lấy trong áo ra một bó hồ sơ và từ từ mở ra. Adam nhìn lời tuyên án chính thức của tòa án trong vài giây rồi chỉ tay trái vào phía bên kia cầu nói: - Tiến lại phía tường và để bức tranh Thánh cùng với tập tài liệu ở đấy. Bây giờ đến lượt Romanov làm theo lệnh của Adam, anh ta tiếp tục tiến lại bức tường phía bên kia cầu để đặt bức tranh Thánh vào giữa bức tường. Adam hô: - Đi chậm qua cầu. Hai người đàn ông cùng nhau song song đi qua cầu, luôn giữ khoảng cách không dưới hai mét cho đến khi dừng lại trước mỗi bức tranh Thánh của đối phương. Khi bức tranh đã ở trong tầm tay, Romanov giật lấy, bỏ chạy và nhảy lên chiếc mô tô không hề ngoái lại. Chưa đầy một giây sau chiếc BMV đã mất hút trong dòng xe cộ dày đặc. Adam không nhúc nhích. Mặc dù bức tranh Thánh mới ra khỏi tầm nhìn của anh hơn một giờ đồng hồ, anh vẫn thấy nhẹ nhõm vì đã trả lại được nguyên bản. Anh xem lại các giấy tờ chứng minh cha mình vô tội rồi cất chúng vào túi áo trong. Mặc mấy khách du lích đang đứng lại nhìn. Adam làm mấy động tác thư giãn. Bỗng có ai đập mạnh vào lưng, anh giật mình hoảng hốt quay lại. Một bé gái đang đứng nhìn anh: - Chú và bạn chú có diễn lại màn kịch lúc nãy nữa không? Chiếc BMV xịch đến trước Sứ quan ở phố Công viên Cung Kensington, Romanov nhảy xuống xe, chạy lên bậc tam cấp xộc thẳng vào phòng làm viêc của Đại sứ không cần gõ cửa. Viên Đại sứ chẳng cần phải hỏi cũng biết hắn có đạt được kết quả không. Romanov vừa nói vừa đưa bức tranh Thánh cho ông ta. - Mọi việc diễn biến như tôi đã định. Hắn hoàn toàn bị bất ngờ. Viên Đại sứ lật bức tranh lại để thấy chiếc vương miệng nhỏ bằng bạc của Sa hoàng. Mọi hoài nghi trước đó của ông ta giờ đây tan biến hết. - Tôi sẽ ra lệnh gửi ngay bức tranh Thánh đi Wasington bằng bưu kiện ngoại giao. Không được lãng phí thêm chút thời gian nào nữa. Romanov nói: - Ước gì tôi có thể trực tiếp chuyển nó đi. - Thiếu tá, hãy thỏa mãn với việc đã hoàn thành xuất sắc phần việc của mình trong chiến dịch này. Viên Đại sứ ấn nút điện cạnh bàn làm việc, ngay lập tức hai người đàn ông xuất hiện. Một người cầm túi bưu kiện ngoại giao mở rộng trong khi người kia đứng im bên cạnh. Viên Đại sứ đưa bức tranh ra và nhìn bức tranh được đặt vào túi. Romanov thầm nghĩ trông hai sứ giả cứ như không hề quản ngại, sẵn sàng chuyển cả chiếc bàn làm việc của ngài Đại sứ đi vậy. Viên Đại sứ nói: - Một máy bay ở sân bay Heathrow sẽ đưa các anh bay thẳng đến Washington. Mọi giấy tờ cần thiết làm thủ tục hải quan đã được giải quyết. Các anh sẽ đến sân bay Quốc gia quãng năm giờ chiều theo giờ Washington nên có thể tạo điều kiện thuận lợ cho các đồng sự của chúng ta ở Mỹ kịp thời gian hoàn tất các thủ tục của họ theo hiệp ước. Hai người đàn ông gật đầu, niêm phong bưu kiện ngoại giao trong sự hiện diện của viên Đại sứ rồi đi ra. Romanov bước lại cửa sổ theo dõi chiếc xe công vụ chở hai sứ giả chạy vào đường cao tốc Kensington về phía sân bay Heathrow. - Một li vốt ka, thiếu tá? - Cảm ơn. Romanov đáp, vẫn không rời khỏi cửa sổ cho đến khi chiếc xe chạy khuất. Viên Đại sứ đi vào phòng bên cạnh lấy trong tủ lạnh ra hai cốc, một chai rượu và rót cho Romanov một cốc vốt ka đầy. Ông ta nói và nâng cốc rượu lên: - Thật không cường điệu chút nào khi nói cậu đã góp phần đưa nước ta thành một quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Chúng ta hãy uống chúc mừng sự hồi hương của nhân dân Aleuts trở về thành những công dân Nga. Romanov hỏi: - Khả năng đó ra sao? Viên Đại sứ nói: - Tôi nghĩ rồi đây anh sẽ biết ý nghĩa chiến công của mình. Sau đó ông ta tiếp tục nói với Romanov về bản thông báo tóm tắt ông mới nhận được sáng nay. Romanov mừng thầm vì ông ta không hề biết tình thế ngàn cân treo sợi tóc của hắn vừa qua. Viên Đại sứ nơi tiếp: - Tôi đã hẹn gặp ngoại trưởng vào lúc ba giờ chiều nay để thông báo tóm tắt cho ông ta. Chúng ta có thể tin rằng người Anh bao giờ cũng chỉ có lợi khi "chơi đẹp" thôi. Tôi được biết ông ta chẳng hài lòng chút nào vì không được đóng vai trò người tạo ra lễ hội như hy vọng. Người Anh có một số ý nghĩ thật lạ đời về việc làm thế nào có thể giữ cho hệ thống của họ hoạt động được liên tục... Romanov cười to và nâng cốc hỏi: - Chúc mừng Aleuts. Nhưng lúc này chuyện gì đang xảy ra ở Wasing ton? - Đại sứ của ta đã yêu cầu gặp ngoại trưởng Mỹ vào lúc tám giờ tối nay. Ông ta cũng sẽ tổ chức một cuộc họp báo tại Sứ quán sau cuộc gặp đó. Chắc anh sẽ thấy buồn cười khi biết tổng thống Mỹ đã hủy bỏ chuyến đi Texas vào ngày nghỉ cuối tuần này và yêu cầu các mạng lưới truyền thông bố trí cho ông ta nói chuyện với "Đồng bào Mỹ thân mến" về một vấn đề quốc gia hệ trọng. Romanov vừa nói vừa tự rót cho mình một cốc vốt ka nữa. - Mà chúng ta chỉ vừa đạt đước trước đó có vài giờ? - "Đầu xuôi đuôi lọt", như câu ngạn ngữ của Anh. Chúng ta cũng cảm ơn sự khác biệt về thời gian giữa Anh và Hoa Kỳ bởi vì không có cái đó chúng ta sẽ không bao giờ đến kịp giờ quy định. Romanov rùng mình với ý nghĩ mọi việc đã được giải quyết vào phút chót như thế nào, hắn nốc một ngụm hết cốc vốt ka thứ hai. - Thiếu tá phải ở đây dùng cơm trưa với tôi. Mặc dù có chỉ thị anh phải về ngay nhưng bí thư của chúng tôi đảm bảo là chuyến máy bay đầu tiên rời Heathrow sẽ không cất cánh trước tám giờ tối nay. Tôi ghen tỵ với anh về buổi đón tiệp anh sẽ được hưởng khi trở về nước ngày mai đấy. - Tôi còn cần 1000 bảng Anh để... Viên Đại sứ nói: - À, được. Tôi đã để sẵn cho anh. Ông ta mở khóa chiếc ngăn kéo nhỏ bàn làm việc của mình lấy ra một tập tiền mỏng gói bằng giấy bóng. Romanov đút vào túi áo và cùng đi ăn trưa với viên Đại sứ. Busch nhảy bổ vào văn phòng Lawrence kêu lên: - Romanov đã chiếm được bức tranh Thánh. Lawrence há hốc mồm, nét thất vọng hiện rõ trên mặt. Anh hỏi: - Tôi vừa nhận được tin từ Wasington. Người Nga đã yêu cầu gặp gỡ chính thức với ngoại trưởng Mỹ vào tám giờ tối nay. Lawrence nói: - Tôi không tin chuyện ấy. Busch nói: - Còn tôi thì tin. Chúng tôi luôn luôn biết tên bạn khốn kiếp của ông là một kẻ phản bội thối tha, y như cha hắn vậy. Không thể giải thích khác được. Lawrence nói: - Tôi mong như vậy, có lợi hơn cho hắn. Chuông điện thoại trên bàn làm việc của Lawrence bỗng réo vang. Anh chộp lấy nó như người chết đuối với được cọc. Cô thư ký nói: - Bác sỹ John Vance muốn nói chuyện với ông. Nói rằng ông dặn ông ấy gọi lại. Vance? Vance nào nhỉ? Lawrence cố nhớ lại cái tên ấy nhưng không nhớ được. Anh nói: - Bảo ông ta nói đi. Một giọng nói vang lên: - Chào ông Pemberton. - Chào bác sĩ Vance. Tôi có thể giúp ông điều gì ạ? - Ông có yêu cầu tôi gọi điện cho ông sau khi khám sức khỏe cho Scott. - Scott? Lawrence nhắc lại, không tin vào tai mình nữa. - Vâng, Adam Scott. Chắc là ông vẫn còn nhớ. Ông muốn ông ta hoàn tất việc khám sức khỏe để tuyển vào ban ông. Lawrence lặng đi không nói nên lời. Vị bác sĩ nói tiếp: - Tôi đã bào cho ông ta chứng nhận sức khỏe tốt. Ông ấy có một vài vết thương thâm tím khá nặng nhưng không sao cả, chỉ mấy ngày nữa là khỏi thôi. Lawrence nhắc lại: - Vết thương và thâm tím? - Có vậy tôi mới nói, ông bạn thân mến ạ. Nhưng ông đừng lo cho Scott. Ông ta sẽ bình phục để đủ sức bắt đầu làm việc bất cứ lúc nào. Tôi báo vậy để ông biết nếu ông còn cần đến ông ta. Lawrence nhắc lại: - Nếu tôi còn cần đến ông ta? Có thể là lúc này Scott còn ở chỗ ông chăng? Vance nói: - Không. Ông ấy đã đi khỏi quãng mười phút rồi. Lawrence hỏi: - Ông ta có tình cờ nói với ông là đi đâu không? - Không, ông ta không nói rõ. Chỉ nói qua là phải đi tiễn bạn ở sân bay. Sau khi cà phê được dọn đi, Romanov xem lại đồng hồ. Hắn còn dư thời gian để đến cuộc hẹn và kịp ra máy bay. Hắn cảm ơn viên Đại sứ vì đã giúp đỡ rất nhiều rồi tạm biệt ông ta, chạy xuống bậc tam cấp của Sứ quán và bước vào ghế sau chiếc xe màu đen. Người lái xe đi ngay không nói gì vì anh ta đã được dặn ký nơi viên thiếu tá muốn tới. Trong suốt lộ trình ngắn ngủi không ai nói với ai câu nào, đến phố Charlotte người lái xe cho xe đỗ lại lề đường, Romanov bước ra, nhanh chóng qua đường tiến đến cánh cửa hắn đang cần tìm và ấn nút chuông. Một giọng nói vang lên qua máy đàm thoại nội bộ: - Ông có phải là hội viên không? Romanov nói: - Phải. Cánh cửa mở cách một tiếng, hắn đi xuống cầu thang. Mất mấy giây mắt hắn mới quen dần với ánh đèn. Rồi hắn nhận ra viên cố vấn đang ngồi một minh sau chiếc bàn nhỏ cạnh cột nhà ở góc xa của văn phòng. Romanov gật đầu, người đàn ông đứng dậy đi qua sàn nhảy rồi bước qua mặt hắn và bước vào nhà vệ sinh duy nhất, Romanov đi theo. Sau khi đã vào trong. Yên tâm, hai người cùng đi đến một phòng vệ sinh và mở cửa. Romanov rút một nghìn bảng Anh trong túi ra đưa cho người đàn ông đang ngồi trên bệ xí. Mentor mở gói giấy ra với vẻ tham lam, hắn cúi xuống xem và bắt đầu đếm. Hắn không nhận thấy Romanov đang duỗi các ngón ta ra. Romanov lật người hắn lại. Hắn mất mấy giây để nhặt mấy tờ mười bảng rơi trên nền nhà. Sau khi đã nhặt đủ một trăm tờ hắn đút hết vào túi áo Mentor. Sau đó Romanov lần lượt cởi các cúc quần của Mentor cho đến khi chiếc quần tụt xuống tận mắt cá. Hắn nâng nắp bệ xí đặt gã ngồi lên bệ. Động tác cuối cùng là xoạc hai chân lão hội viên thật rộng hết cỡ mà chiếc quần đã tụt xuống cho phép va tách xa hai bàn chân ra. Sau đó Romanov vẫn để cửa khóa trai mà bò qua cái khe rộng phía dưới để ra ngoài. Hắn nhanh chóng kiểm tra lại việc dàn cảnh. Từ bên ngoài người ta chỉ thấy đôi chân xoạc rồng và chiếc quần tụt xuống. Sáu mươi giây sau Romanov trở lại xe để chạy tới sân bay Heathrow. Hai giờ trước khi chuyến bay của Hãng Hàng không Nga cất cánh, Adam đến sân bay Heathrow. Anh chọn một vị trí quan sát tốt chỉ cách nơi Romanov sẽ phải đi qua để ra sân bay có bốn mươi mét. Adam cảm thấy tự tin là anh sẽ không bao giờ phải chạm đến bậc thang của Aeroflot. Romanov làm thủ tục tại bàn của hãng Hàng không Anh lúc hơn sáu giờ một chút. Hắn không thể không nói là đi trên máy bay của Hãng Hàng không Anh thì thích hơn máy bay của Hãng Hàng không Nga, mặc dù hắn biết Yuri sẽ cau mày trước sự ngạo mạn đó. Chỉ có đièu hắn không tin rằng sẽ có ngày nào ai đó có thể bình luận về điều này. Sau khi đã nhận thẻ lên máy bay, hắn lên thang máy đi đến phòng đợi ngồi chờ đến lượt. Bao giờ cũng vậy, vào lúc một chiến dịch kết thúc, điều mong muốn nhất của hắn là được về nhà. Hắn rời chỗ ngồi để rót một cốc cà phê, khi đi qua chiếc bàn giữa phòng hắn liếc thấy dòng tít của tờ báo London Evening Standard đập vào mắt. Dòng chữ to tướng: "Ngày nghỉ cuối tuần ở Texas của Tổng thống Mỹ bị hủy bỏ - Một điều bí hiểm". Romanov giật lấy tờ báo trên bàn đọc đoạn đâu nhưng nó không có thông tin gì hơn ngoài những điều mà hắn biết. Thậm chí không một suy luận nào trong đoạn tin cho phép tiến gần đến sự thật. Romanov không thể đợi để xem trang đầu tờ Sự thật số ra ngày hôm sau trong đó hắn sẽ biết câu chuyện hẳn đã được thêu dệt lại. Theo chuẩn mực phương Tây đó là sự độc quyền. "Hãng Hàng không Anh xin thông báo chuyến bay 117 chuẩn bị cất cánh. Xin mời các hành khách đi vé hạng nhất qua cổng số 23". Romanov rời phòng đợi để đi qua hành lang dài đến nửa dặm để ra máy bay. Lúc sáu giờ năm mươi hắn đi qua đoạn sân rải nhựa để đến chiếc máy bay đang đợi khách. Chiếc máy bay chở bức tranh Thánh chắc sẽ hạ cánh xuống sân bay Wasington trong vòng hai giờ nữa. Romanov bước lên cầu thang vào máy bay, bước qua chân một hành khách ngồi bên cạnh và mừng thầm vì được ngồi cạnh cửa sổ. Cô tiếp viên hỏi: - Các ngài có uống chút gì trước khi bay không ạ? Người ngồi cạnh nói: - Cho tôi xin cà phê đen. Romanov cũng gật đầu đồng ý. Mấy phút sau người tiếp viên trở lại mang theo hai tách cà phê và giúp người ngồi cạnh Romanov kéo chiếc bàn ăn từ thành ghế ra. Romanov né người sang bên khi cô tiếp viên đặt tách cà phê trước chỗ hắn. Hắn uống một ngụm cà phê nóng quá nên lại để xuống bạn. Người ngồi bên cạnh lấy trong túi ra một gói đường xắc ca rin, gạt hai mảnh vào tách cà phê nóng đang bốc khói. Việc gì phải lo lắng như vậy. Cuộc đời ngắn ngủi lắm - Romanov thầm nghĩ. Hắn nhìn chăm chú qua cửa sổ theo dõi chiếc máy bay hãng Hàng không Nga bắt đầu chạy ra đường băng và mỉm cười với ý nghĩ chuyến bay của mình tiện nghi hơn biết bao nhiêu. Hắn nhấp tách cà phê lần thứ hai thấy rất vừa ý. Hắn uống một hớp dài, bắt đầu cảm thấy mơ màng. Cũng chẳng lạ vì cả tuần vừa qua hắn mất ngủ ghê gớm kia mà. Hắn ngả người tựa lưng vào thành ghế nhắm mắt lại. Giờ đây hắn sẽ được nhận mọi vinh dự Nhà nước sắp dành cho hắn. Cùng với việc Valchek rõ ràng bị gạt qua lề đường, hắn có thể còn qua mắt cả Zaborski nữa. Còn nếu điều đó không thành thì ông nội hắn đã dành cho hắn một phương án khác. Hắn chỉ rời London với một hối tiếc duy nhận: không giết được Scott. Nhưng chắc người Mỹ sẽ lo liệu điều đó. Lần đầu tiên trong tuần hắn không bắt mình phải cưỡng lại cơn buồn ngủ... Mấy phút sau người hành khách ngồi cạnh Romanov cầm tách cà phê của Romanov lên để cạnh tách của mình. Sau đó anh ta lật lại cái bàn nhỏ vào thành ghế và phủ chiếc khăn len lên đùi Romanov. Anh ta nhanh nhẹn lấy chiếc kính râm của Hãng hàng không Anh đeo lên mặt Romanov để che đôi mắt mở trừng trừng của hắn. Anh nhìn thấy cô tiếp viên đang đứng cạnh mình. Cô mỉm cười hỏi: - Tôi có thể giúp gì cho ông được không? - Không, cảm ơn. Ông ta chỉ nói là không muốn bị quấy rầy trong suốt chuyến bay bởi vì tuần vừa qua đã phải làm việc rất căng thẳng. Cô tiếp viên nói: - Tất nhiên được ạ - Cô lấy hai tách cà phê đi và nói thêm - Chỉ mấy phút nữa là máy bay sẽ cất cánh. Người đàn ông suốt ruột gõ ngón tay lên bàn. Cuối cùng người tiếp viên trưởng xuất hiện và đến bên cạnh ông ta: - Thưa ngài, có điện khẩn từ văn phòng gọi cho ngài. Ngài phải trở về Nhà trắng ngay. Ông ta thừa nhận: - Tôi cũng đang chờ điều đó. Adam nhìn về chiếc máy bay Nga cất cánh và lượn nửa vòng để bay về phương Đông. Anh không hiểu được tại sao Romanov không đáp chuyến này. Chắc chắn hắn ta cũng không lên máy bay Hãng Hàng không Anh. Chợt Adam lẩn vội vào bóng tối. Anh nhìn chăm chăm không tin vào mắt mình. Lawrence đang rảo bước qua đường nhựa, một nụ cượi mãn nguyện thoáng hiện trên mặt.

ĐOẠN KẾT

Phố New Bond Sothebys London W1 ngày 18 tháng Mười năm 1966

Đoạn kết

- Đã bán cho quý ông ở giữa phòng với giá năm nghìn bảng Anh. Bây giờ chúng tôi chuyển sang lô 32.

Người rao bán đấu giá vừa nói vừa nhìn xuống cái sàn được tôn cao trước gian phòng đầy người. Khi người nhân viên đặt bức tranh nhỏ lên chiếc giá gỗ bên cạnh anh ta nói to:

- Bức tranh Thánh George và con Rồng.

Người rao giá nhìn lướt qua các chuyên gia, người chơi tranh nghiệp dư và khán giả. Anh hỏi vẻ chờ đợi:

- Các vị trả giá bao nhiêu cho tác phẩm kỳ diệu của nghệ thuật Nga này?

Robin nắm chặt tay Adam.

- Kể từ khi đối mặt với Romanov em chưa bao giờ cảm thấy hồi hộp như thế này.

Adam nói:

- Em đừng làm anh nhớ lại chuyện đó nữa.

Người rao giá nói tiếp:

- Tất nhiên đây không phải là nguyên bản hiện đang treo tại Cung điện Mùa đông, tuy nhiên đây là phiên bản tuyệt vời do một họa sĩ triều đình Nga vẽ vào khoảng năm 1914 - Anh ta nói thêm, mắt nhìn vào bức tranh nhỏ với nụ cười tán thưởng- Tôi có thể rao giá trước được không ạ? Giá mở đầu là tám nghìn.

Mấy giây trôi qua, đối với Adam và Robin thì dường như dài vô tận.

- Cảm ơn ông.

Cuối cùng người rao giá nói, mắt nhìn về phía một người ra hiệu muốn dấu tên đang đứng đâu đó phía trước phòng.

Cả Robin lẫn Adam đều không thấy được tấm biển đặt giá ở đâu. Họ đã mất một giờ đồng hồ ngồi phía sau phòng xem các mặt hàng bán đấu giá trước đó để rồi khó mà biết được cuối cùng chúng sẽ về tay ai.

Robin hỏi:

- Tay chuyên gia nói có thể bán được bao nhiêu?

Adam nhớ lại:

- Đâu khoảng từ mười đến hai mươi nghìn.

- Chín nghìn.

Người rao giá nói, mắt nhìn về phía tấm biển đặt giá xuất hiện phía bên phải phòng.

Robin nói:

- Em vẫn nghĩ thật buồn cười là có lúc nào đó người Nga đã đồng ý việc trao đổi này.

Adam hỏi:

- Tại sao vậy? Sau khi người Mỹ đã lấy được cái hiệp ước ấy ra thì không có gì hại cả khi để cho người Nga được lấy lại nguyên bản của họ và đổi cho anh phiên bản mà về pháp lý thuộc quyền sở hữu của anh. Quả là mẫu mực về sáng kiến ngoại giao, thế mới gọi là Lawrence sáng chói.

Người rao giá nói:

- Vị ở phía trước phòng đặt mười nghìn. Xin cảm ơn ngài.

- Anh sẽ làm gì với số tiền này?

- Mua một chiếc công trơ bass mới, sắm quà cưới cho em gái, còn lại đưa hết cho mẹ anh.

- Mười một nghìn, một vị ở lối đi giữa - người rao giá nói. Cảm ơn bà.

Robin nói khẽ:

- Chẳng tiền bạc nào có thể trả lại cuộc sống cho Heidi cả.

Adam gật đầu tán thành vẻ suy tư.

- Cuộc gặp với bố mẹ Heidi vừa qua như thế nào?

- Ông ngoại trưởng đã trực tiếp gặp họ tuần trước. Cũng chẳng giúp gì được nhưng ít ra thì ông ấy cũng khẳng định được là anh đã nói đúng sự thật.

- Người rao giá lại nhìn về phía trước phòng:

- Mười hai nghìn.

- Anh đã gặp ngoại trưởng chưa?

- Adam đáp:

- Trời ơi. Anh còn quá tầm thường để gặp Ngoại trưởng. Anh thật may mắn gặp được Lewrence là tốt rồi, mặc kệ ông Ngoại trưởng.

Robin cười:

- Em cho rằng anh được xếp một chỗ trong Văn phòng Bộ Ngoại giao là quá hạnh phúc rồi.

Adam vừa nói vừa cười khúc khích:

- Đồng ý. Nhưng là một chỗ trống phát sinh bất ngờ.

- Anh nói "bất ngờ" nghĩa là thế nào?

Robin hỏi và thấy bất mãn vì hầu như Adam chẳng hề trả lời thẳng vào những câu hỏi của cô trong nửa giờ qua.

- Điều anh có thể trả lời em là một trong những đội viên cũ của Lewrence đã "về hưu non".

- Sự thật về Romanov cũng thế sao?

- Robin hỏi, cố khám phá mọi điều đã xảy ra kể từ khi họ gặp nhau lần cuối cùng.

- Mười ba nghìn - Người rao giá nói, mắt nhìn về phía một quý bà ngồi ở lối đi giữa.

- Robin nói:

- Rốt cuộc đằng nào hắn cũng không thể sống sót lâu hơn nữa một khi bọn chúng phát hiện lúc ở trên cầu anh đã đánh tráo để đưa lại nguyên bản cho người Nga trong khi Romanov lại biếu anh phiên bản.

Adam nói một cách vô tư:

- Từ lúc ấy đến giờ người ta không nghe tin gì về hắn nữa. Và tất cả các nguồn tin của chúng ta đều cho hay là sếp Yuri sắp bị thay thế bởi một người nào đó cũng có tên là Yuri.

- Mười bốn nghìn - Người rao giá nói, mắt anh dừng lại vẫn trước quý ông ngồi ở phía trước.

- Khi anh đưa ra các hồ sơ chứng minh cha anh không phải là người đã chuyển lén thuốc độc vào xà lim cho Goering thì ra sao?

- Adam nói:

- Sau khi có những tài liệu do chính Nga xác nhận, Lewrence đã chính thức đến thăm viên đại tá trung đoàn trưởng và cung cấp cho ông ta những bằng chứng thuyết phục.

Robin nói:

- Phản ứng của họ ra sao?

- Người ta sắp tổ chức lễ tưởng niệm cha anh và giao nhiệm vụ cho một tay tên là Ward vẽ chân dung cha anh treo ở nhà ăn trung đoàn. Mẹ anh được mời đến cắt băng khánh thành trong sự hiện diện của tất cả các sỹ quan đã từng phục vụ với cha anh.

Người rao giá nói và nhấc chiếc búa nhỏ lên vài phân:

- Vậy là mười bốn nghìn cho lần đặt giá thứ nhất.

Robin nói:

- Chắc là mẹ anh sung sướng đến ngây ngất ấy nhỉ.

Adam nói:

- Mẹ anh không cầm được nước mắt. Bà ấy chỉ nói được: "Mẹ mong cho cha có thể sống lại để tháy cảnh này". Thật mỉa mai. Giá như cha anh cứ bóc bức thư ấy ra.

Người rao giá nói, lần này thì khua tít chiếc búa nhỏ lên:

- Mười bốn nghìn cho lần đặt giá thứ hai.

- Em có muốn dự bữa tiệc trưa trong buổi lễ kỷ niệm ở nhà hàng Ritz không? - Adam nói, anh sung sướng vì cuộc đấu giá diễn ra suôn sẻ.

- Không, cảm ơn.

Adam nhìn người bạn gái đồng cam cộng khổ với mình một cách ngạc nhiên.

- Sẽ không vui lắm nếu mỗi lần hỏi anh câu gì, em chỉ được trả lời bằng bản thông báo vắn tắt của Văn phòng Bộ Ngoại giao thôi.

Adam có vẻ ngượng ngập, anh nói:

- Anh xin lỗi.

Robin nói:

- Như vậy là không công bằng. Bây giờ anh đang trong cuộc, cho nên không dễ dàng gì. Vậy chắc là em sẽ phải chết xuống mồ mà vẫn không biết rõ hiệp ước nào đã giấu ở bên trong bức tranh Thánh ấy.

Adam ngoảnh mặt đi không nhìn vào cô gái đã từng cứu sống mình.

- Hay là em sẽ tìm ra sự thật vào năm 1996, khi hồ sơ văn phòng được công bố?

Adam từ từ quay lại nhìn vào mặt cô:

- Alas...

Anh vừa bắt đầu nói thì chiếc búa của người rao giá đập xuống bàn nghe đánh thịch. Cả hai người đều ngẩng lên.

- Bức tranh đã được bán cho quý ông ở phía trước với giá mười bốn nghìn bảng Anh.

- Một cái giá không đến nỗi tệ lắm.

Adam mỉm cười nói. Robin khẽ đáp:

- Theo em đó là một giá hời.

Adam quay lại cô cười giễu cợt.

- Rốt cuộc thì - cô nói thầm - anh hãy tưởng tượng xem, cái bang thứ bốn mươi chín ấy cũng có thể được đem bán nếu nó rơi vào nhà bán đấu giá đấy.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom