Cập nhật mới

Dịch Full Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm

Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm
Tác giả: Henryk Sienkiewicz
Tình trạng: Đã hoàn thành




Câu chuyện kể về cuộc phiêu lưu trên vùng đất Đông Phi của cậu bé Stas mười bốn tuổi và cô bé Nell tám tuổi khi bị bắt cóc và đem từ kênh đào Suez qua sa mạc Sahara tới Sudan. Trải qua không biết bao nhiêu hiểm nguy, đối mặt với nhiều gian nan thử thách, khi thì trên sa mạc nắng cháy, lúc giữa rừng già thẳm sâu, cuối cùng, Stas và Nell cũng đoàn tụ được với gia đình.

Là tác phẩm duy nhất viết cho thiếu nhi của nhà văn Ba Lan nổi tiếng Henryk Sienkiewicz, ngay từ khi xuất bản lần đầu năm 1912, Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm đã được hoan nghênh nhiệt liệt, được tái bản ngay và được dịch ra nhiều thứ tiếng, sau đó được dựng thành phim năm 1973 và 2001. Trong suốt một thế kỷ qua, tác phẩm đề cao lòng quả cảm, khát vọng đi tới những chân trời xa, thực hiện những kì tích phi thường này luôn được coi là một trong những cuốn truyện hay nhất dành cho thiếu nhi.

Cuốn sách Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm được dịch từ nguyên tác tiếng Ba Lan "W pustyni i w puszczy" - NXB Pans twowi institut widawniczi.

Tác giả:

Henryk Sienkiewicz sinh năm 1846 trong một gia đình quý tộc Ba Lan nghèo. Ban đầu ông theo học ngành luật và y khoa, nhưng cuối cùng lại chuyển sang văn và sử. Về sau, ông không chỉ là một văn hào mà còn là một nhà báo tài năng.

Sự nghiệp sáng tác của Sienkiewicz rất đồ sộ, với các tác phẩm đã trở thành sách gối đầu giường của nhiều thế hệ: Người gác đèn biển (truyện ngắn, 1882); Bằng lửa và gươm (tiểu thuyết, 1884);Ngài Wolodyjowski (tiểu thuyết, 1888); Quo Vadis (tiểu thuyết, 1894-1896); Hiệp sĩ Thập tự (tiểu thuyết, 1900); Trên sa mạc và trong rừng thẳm (tiểu thuyết, 1912)...

Henryk Sienkiewicz được trao giải Nobel Văn học năm 1905. Sách của ông được dịch ra rất nhiều thứ tiếng, nhiều lần được dựng thành kịch, quay thành phim. Ông mất năm 1916 tại Vevey, Thụy Sĩ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


-Em có biết không, Nen?-Xtas Ta-rơ-cốp-xki nói với cô bạn gái người Anh bé nhỏ của mình. - Hôm qua, cảnh sát đã tới bắt viên quản lý Xmai-nơ cùng với ba đứa con của mụ ta, chính cái mụ Phát-ma đã mấy lần tới văn phòng của ba anh và ba em đấy.

Còn Nen, cô bé đẹp như một bức tranh, thì ngước cặp mắt màu lục nhạt của mình lên nhìn Xtas và hỏi với vẻ vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi:

-Thế họ bắt bà ta bỏ tù à, anh?

-Không, nhưng họ không cho phép mụ ta đi khỏi Xu-đan. Đồng thời có một nhân viên tới đây để canh không cho mụ rời một bước khỏi Pỏt Xai-đơ.

-Sao vậy hả anh?

Xtas, cậu thiếu niên vừa hết tuổi mười bốn, tuy rất yêu mến cô bạn gái tám tuổi của mình, song vẫn xem đó chỉ là một đứa trẻ non nớt, liền nói với vẻ mặt rất kiêu:

- Khi nào lớn như anh, em sẽ biết không những chỉ mọi chuyện xảy ra dọc kênh đào này, từ Port Xai-đơ đến Xu-ê(Kênh đào quan trọng nhất thế giới, nối Địa Trung Hải với Hồng Hải) mà còn cả trên toàn bộ đất Ai Cập nữa. Thế em không biết gì về Ma-hơ-đi hay sao?

- Em nghe nói là ông ta xấu xí và không ngoan.

Cậu bé mỉm cười thương hại.

- Hắn ta có xấu xí hay không thì anh không biết. Những người dân Xu-đan thì quả quyết rằng hắn ta đẹp tuyệt vời. Nhưng bảo kẻ đã giết hại ngần ấy người là "không ngoan" thì chỉ có thể là một cô nhóc con tám tuổi mặc váy ngắn mà thôi, đấy, chỉ ngắn tới đầu gối là cùng.

- Ba em bảo thế, ba em biết giỏi nhất.

- Ba bảo em thế vì nói cách khác thì em không hiểu nổi. Giá nói với anh thì ba em đã chẳng bảo thế. Ma-hơ-đi còn tệ hơn cả một bầy cá sấu. Hiểu chưa? "Không ngoan"! Hay thật! Nói như với bọn trẻ con mới đẻ ấy.

Song chợt nhìn thấy vẻ mặt xịu đi của cô bé, Xtas liền nín bặt, sau đó nói tiếp:

- Nen, em biết đấy, anh đâu muốn nặng lời với em. Sẽ đến lúc cả em nữa cũng sẽ mười bốn tuổi. Anh cam đoan với em như thế.

- Thế đấy! - Cô bé đáp với cái nhìn đầy lo lắng. - Nhưng nếu như trước đó Ma-hơ-đi tiến được vào Port Xai-đơ và ăn thịt em mất thì sao nào?

- Ma-hơ-đi không phải là kẻ ăn thịt người, nên hắn không ăn thịt dân chúng mà chỉ giết hại họ thôi. Hắn cũng chẳng tiến nổi tới Port Xai-đơ, mà nếu như hắn có tiến vào được và muốn giết em, thì trước hết hắn phải đấu với anh đã.

Lời tuyên bố đó cùng với tiếng không khí được hít mạnh vào mũi Xtas không hứa hẹn một điều gì tốt lành cho Ma-hơ-đi, đã khiến Nen yên tâm về sự an toàn của bản thân mình.

- Em biết, - cô bé nói, - anh chẳng chịu nộp em đâu, phải không? Thế nhưng tại sao người ta lại không cho bà Phát-ma rời khỏi Port Xai-đơ?

- Bởi vì mụ ta là em họ của Ma-hơ-đi. Chồng mụ ta, gã Xmai-nơ hứa với chính phủ Ai Cập ở Cai-rô rằng y sẽ tới Xu-đan, nơi Ma-hơ-đi đang ở, để xin tự do cho tất cả những người Âu bị rơi vào tay hắn.

- Cái ông Xmai-nơ ấy là người tốt hả anh?

- Khoan đã nào. Ba em và ba anh, những người hiểu rõ Xmai-nơ, hoàn toàn không tin hắn ta chút nào, và đã khuyên pa-sa(tước hiệu vương hầu ở các nước Trung Đông) Nu-ba-rơ chớ có tin y. Nhưng chính phủ vẫn đồng ý cử Xmai-nơ đi, và thế là đã nửa năm nay Xmainơ ở tịt chỗ Ma-hơ-đi. Tù binh không những không được thả về mà lại có tin từ Khác-tum cho biết rằng, bọn Ma-hơ-đi đối xử với họ ngày một tàn tệ hơn, còn lão Xmai-nơ thì sau khi cuỗm tiền của chính phủ đã phản bội. Hắn hoàn toàn ngả hẳn về phía Ma-hơ-đi và đã được phong tước ê-mia(Chức thủ lĩnh quân sự ở các nước Trung Đông). Người ta còn nói rằng, trong trận đánh khủng khiếp mà tướng Hic-xơ bị tử trận, chính Xmai-nơ đã chỉ huy pháo binh của quân Ma-hơ-đi, và hình như chính hắn là kẻ đã dạy cho bọn Ma-hơ-đi cách sử dụng đại bác, loại vũ khí mà trước đó, vốn là những kẻ mọi rợ, chúng hoàn toàn không biết đến. Bây giờ, lão Xmai-nơ đang muốn đưa vợ con thoát khỏi Ai Cập, cho nên khi mụ Phát-ma, con người ngay từ đầu hẳn đã biết mọi chuyện mà Xmai-nơ làm, muốn bí mật chuồn khỏi Port Xai-đơ, thì chính phủ liền bắt giữ mụ ta cùng các con mụ lại.

- Nhưng chính phủ sẽ được gì ở bà Phát-ma và lũ con của bà ta hở anh?

- Chính phủ sẽ nói với Ma-hơ-đi:"Hãy trả cho chúng ta các tù binh của ngươi, chúng ta sẽ trả mụ Phát-ma cho các ngươi..." Câu chuyện tạm bị gián đoạn vì lúc này Xtas chợt chú ý đến những con chim đang bay từ phía Êch-tum Om Pha-ra-gơ về phía hồ Men-da-lê. Chúng bay khá thấp, trong bầu không khí trong vắt trông rõ mấy con bồ nông với chiếc cổ cong gập lại sát lưng đang khoan thai vỗ những đôi cánh khổng lồ. Xtas dõi theo đường bay của chúng, em ngẩng đầu lên, chạy mươi bước dọc theo bờ kênh, vừa chạy vừa vung vẩy đôi tay.

- Nhìn kìa anh, có cả chim hồng hạc đang bay nữa kìa! - Nen bỗng kêu lên.

Xtas đứng sững ngay lại, vì quả thực phía sau đàn bồ nông, nhưng cao hơn chúng một ít, có thể trông thấy hai đoá hoa lớn màu hồng và màu đỏ thẳm dường như đang treo lơ lửng trên nền trời xanh thẳm.

- Hồng hạc! Chim hồng hạc!

- Chiều chiều chúng nó thường bay về tổ của chúng trên vùng đảo đấy, - cậu bé thốt lên. - Ôi, giá mà anh có khẩu súng nhỉ.

- Anh bắn chúng nó làm gì cơ?

- Phụ nữ không thể hiểu được những chuyện ấy đâu. Nhưng thôi, chúng mình đi tiếp đi, có thể sẽ trông thấy chúng nhiều hơn nữa chăng.

Vừa nói em vừa dắt tay cô bé; cả hai đi về phía bến tàu đầu tiên trên kênh đào tiếp sau cảng Port Xai-đơ. Theo sau lưng chúng là bà Đi-na, một phụ nữ da đen, ngày trước từng là nhũ mẫu của cô bé Nen. Họ đi dọc bờ đập ngăn nước hồ Men-da-lê với kênh đào, trong kênh lúc ấy đang có một chiếc tàu thuỷ lớn chạy bằng hơi nước của Anh được hoa tiêu dẫn đi. Chiều xuống. Mặt trời hãy còn cao nhưng đã ngả về phía hồ. Làn nước lợ mằn mặn của hồ loang loáng ánh sáng và lung linh phản chiếu muôn sắc cầu vồng. Bên bờ phía Ả Rập, trải dài đến hút tầm mắt là sa mạc trơ trụi, câm lặng, chết chóc, đầy vẻ hằn thù. Giữa bầu trời thuỷ tinh dường như chết cứng và cái mênh mông vô bờ bến của mặt cát gợn sóng không hề có một dấu hiệu gì của sự sống. Trong lúc trên mặt kênh đào cuộc sống đang sôi sục, thuyền bè tấp nập, vang rộn tiếng còi tàu, và trên hồ Men-da-lê hàng đàn hải âu và vịt trời đang nhộn nhịp đảo chao trong ánh mặt trời, thì phía bên kia, phía bờ Ả Rập lại giống hệt như xứ sở của cái chết. Chỉ khi mặt trời xuống thấp dần và ngày càng ngả sang màu đỏ thì mặt cát mới dần dần nhuốm màu tim tím, màu tím của những mầm cây non trong các khu rừng Ba-lan về mùa thu.

Trong khi đi về phía bến tàu, bọn trẻ còn trông thấy vài con chim hồng hạc nữa mà chúng vui sướng ngắm không chán mắt.

Sau đó, bà Đi-na nói rằng đã đến lúc phải quay về nhà. Ở Ai Cập ban ngày thường nóng nực (thậm chí cả trong mùa đông), nhưng ban đêm lại rất lạnh, mà sức khoẻ của Nen thì lại đòi hỏi phải hết sức giữ gìn, nên ông Rô-li-xơn, cha của cô bé, không cho phép cô ở lại trên bờ nước sau khi mặt trời lặn. Họ bèn quay trở về thành phố.

Vi-la của ông Rôlixơn nằm ngay rìa thành phố, gần bờ kênh đào.

Khi mặt trời lặn xuống biển, họ đã về tới nhà. Một lát sau, kĩ sư Ta-rơ-côp-xki, cha của Xtas, được mời đến dự bữa cơm, cũng tới, và thế là cả nhà, cùng với cô O-li-vi-ơ, cô gia sư người Pháp của Nen, ngồi vào bàn ăn.

Đã từ nhiều năm nay, ông Rô-li-xơn, một trong các giám đốc của công ti kênh đào Xu-ê, và ông Vơ-la-đi-xlap Ta-rơ-cốp-xki, kĩ sư trưởng của công ti này, kết thân với nhau. Cả hai đều goá vợ: bà Ta-rơ-cốp-xki, vốn dòng dõi người Pháp, đã mất ngay từ khi Xtas vừa chào đời, nghĩa là hơn mười ba năm về trước, còn mẹ của Nen thì qua đời vì bệnh phổi tại Hê-lu-an khi cô bé mới lên ba. Ở Port Xai-đơ, hai ông bố goá vợ sống trong hai ngôi nhà cạnh nhau, và do công việc của mình, ngày nào họ cũng gặp nhau. Nỗi bất hạnh chung khiến họ xích lại gần nhau hơn và làm cho tình bạn vốn có càng thêm bền chặt.

Ông Rô-li-xơn yêu Xtas như con đẻ, còn ông Ta-rơ-cốp-xki thì sẵn sàng nhảy vào lửa và lao xuống nước vì cô bé Nen. Sau khi kết thúc công việc hàng ngày, phút nghỉ ngơi thú vị nhất đối với họ là được trò chuyện về bọn trẻ , về việc giáo dục và về tương lai của chúng. Trong những câu chuyện đó, ông Rô-li-xơn thường khen ngợi năng khiếu, nghị lực và lòng can đảm của Xtas, còn ông Ta-rơ-cốp-xki thì lại say sưa với khuôn mặt thiên thần ngọt ngào của Nen. Và cả hai điều ấy đều là sự thật. Tuy hơi kiêu căng và hơi khoác lác một chút, nhưng Xtas học rất giỏi và các thầy giáo ở trường học dạy tiếng Anh tại Port Xai-đơ, nơi cậu bé học, đều công nhận rằng em có những năng khiếu khác thường. Nếu nói về lòng dũng cảm và tính tháo vát thì em được thừa hưởng ở người cha, vì ông Ta-rơ-cốp-xki có được những đức tính ấy ở trình độ cao, và cũng chính nhờ có chúng mà ông đã vươn tới cương vị cao cấp hiện tại.

Năm 1863(Nhân dân Ba-lan khởi nghĩa chống sự thống trị của Nga hoàng), ông đã chiến đấu suốt mười một tháng liền không ngơi nghỉ, sau đó ông bị thương, bị bắt, rồi bị đầy đi Xi-bia, ông chạy trốn về Ba Lan rồi thoát ra nước ngoài. Trước khi tham gia khởi nghĩa, ông đã tốt nghiệp kĩ sư, nhưng sau đó, ông còn dành thêm một năm nữa để nghiên cứu thuỷ lực học. Rồi sau đó, ông tìm được việc làm ở kênh đào, và chỉ trong vài năm, khi người ta đã đánh giá được sự am tường công việc, nghị lực cùng tính cần cù của ông, ông được nhận cương vị kĩ sư trưởng cao quý ấy.

Xtas được sinh ra, nuôi dưỡng và lớn đến năm mười bốn tuổi ngay tại hải cảng Port Xai-đơ trên kênh đào, nên các kĩ sư, bạn đồng nghiệp của cha em, thường gọi em là "đứa con của sa mạc".

Khi đang đi học, thỉnh thoảng, trong những dịp nghỉ hè hay nghỉ lễ, em lại được cùng với cha hoặc ông Rô-li-xơn tham gia các chuyến đi công vụ của họ từ Port Xai-đơ đến tận Xu-ê để kiểm tra công việc trên bờ kênh cùng việc nạo vét lòng kênh. Em quen hết thảy mọi người, từ các kĩ sư và nhân viên thuế quan, đến công nhân, những người Ả Rập và người da đen. Em "lùng sục" khắp nơi mọi chốn, tại bất cứ nơi nào đặt chân tới, và dần dần tiến hành những chuyến đi dài dọc theo bờ kênh, đi thuyền trên hồ Men-da-lê và nhiều lần bơi thuyền ra khá xa.Em đã từng vượt sang phía bờ Ả Rập, và nhảy đại lên lưng một con ngựa của ai đó, hoặc nếu thiếu ngựa thì lạc đà hay thậm chí cả lừa cũng được, đóng vai một tay kị sĩ dũng cảm của sa mạc. Tóm lại, nói như ông Ta-rơ-cốp-xki, em "chui rúc" khắp mọi nơi, và hễ rảnh rỗi một chút ngoài giờ học là lại lần ngay ra bờ nước.

Người cha không ngăn cản chuyện đó, vì ông hiểu rằng, việc chèo thuyền, cưỡi ngựa và sự tiếp xúc thường xuyên với không khí trong lành sẽ củng cố thêm sức khoẻ của đứa trẻ, đồng thời phát triển tính tháo vát của nó. Xtas cao và khoẻ hơn nhiều so với những đứa trẻ cùng tuổi, và chỉ cần nhìn vào cặp mắt cậu bé cũng có thể dễ dàng đoán được rằng, nếu lâm vào một chuyện hiểm nguy nào đó thì chắc hẳn cậu bé sẽ dễ phạm sai lầm do quá hăng hái hơn là vì khiếp sợ. Mới mười bốn tuổi đầu, em đã là một trong những tay bơi lội giỏi nhất ở Port Xai-đơ, điều này không phải là chuyện xoàng,bởi dân Ả Rập và người da đen vốn bơi lội giỏi như cá. Trong khi nhả đạn vào lũ vịt trời và ngỗng trời Ai Cập bằng khẩu súng săn cỡ nhỏ, cậu bé đã rèn luyện cho mình có được cánh tay và con mắt bắn trăm phát trăm trúng. Em ước ao một ngày nào đó sẽ được đi săn các loài thú lớn ở Trung Phi, háo hức lắng nghe chuyện những người Xu-đan làm thuê ở vùng kênh đào, những người này đã từng gặp thú dữ và bọn thú da dầy khổng lồ tại quê hương họ.

Điều này còn có thêm một cái lợi nữa là vừa nghe chuyện, cậu bé vừa học được ngôn ngữ của họ. Kênh đào Xuê không những chỉ đào thông là xong mà còn đòi hỏi phải thường xuyên chăm lo tu sửa, vì nếu không thì chỉ trong vòng một năm thôi, cát từ các sa mạc nằm dọc hai bờ kênh sẽ lấp biến nó đi. Cái công trình khổng lồ này của ông Léc-xép(người tổ chức đào kênh Xu-ê và Pa-na-ma) kéo theo một sự lao động liên tục và đòi hỏi phải thường xuyên cảnh giác. Do vậy, cho tới nay, có hàng loạt máy móc khổng lồ cùng hàng nghìn công nhân, dưới sự giám sát của các kĩ sư thành thạo công việc, lao động nạo nét lòng kênh. Để đào thông con kênh này đã từng phải dùng tới sức của hai mươi lăm nghìn người lao động. Giờ đây, khi công trình đã hoàn thành và lại được trang bị những máy móc hoàn thiện hơn, thì cần ít người hơn hẳn so với trước kia, song số lượng nhân công cho đến nay vẫn còn rất lớn. Trong đó, đại đa số là cư dân trong vùng, cũng không thiếu mặt dân Nu-bi-a, Xu-đan, Xô-ma-li cùng nhiều dân tộc da đen khác sinh sống ở vùng sông Nin Trắng và sông Nin Xanh, nghĩa là trong những vùng thuộc phạm vi cai trị của chính phủ Ai Cập, trước khi nổ ra cuộc khởi loạn của Ma-hơ-đi. Xtas sống thân mật với mọi người và cũng giống như những người dân Ba Lan khác, vốn sẵn có năng khiếu ngoại ngữ, em nắm được nhiều thứ thổ ngữ của họ mà chính bản thân em cũng không rõ từ khi nào và tại làm sao nữa. Sinh trưởng ở Ai Cập, em nói tiếng Ả Rập như một Người Ả Rập chính cống. Nhờ có những người Dan-di-ba thường được thuê làm thợ đốt lò phục vụ các thứ máy móc, em học được tiếng Ki-xva-hi-li, thứ tiếng rất phổ biến trong toàn bộ miền Trung Phi, thậm chí em có thể trò chuyện với những người da đen Đin-nếch và Sin-lúc sinh sống ở vùng hạ lưu sông Nin, phía dưới Pha-sô-đa(Một thành phố ở Xu-đan). Ngoài ra, em nói thạo tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Ba Lan, vì cha em một người yêu nước nhiệt thành, rất quan tâm đến chuyện làm sao cho cậu bé nói được tiếng nói quê hương. Dĩ nhiên, Xtas coi tiếng Ba Lan là thứ ngôn ngữ hay nhất trên thế giới, và cậu bé đã dạy cho bé Nen nói tiếng Ba Lan với không ít thành công. Có điều em không làm sao dạy cho cô bé phát âm được đúng tên em là Xtas chứ không phải "Xtex". Cũng chính vì lí do đó mà đôi khi giữa hai đứa trẻ xảy ra chuyện bất hoà, song những chuyện bất hoà đó cũng chỉ kéo dài cho tới khi cặp mắt cô bé bắt đầu long lanh những giọt lệ mà thôi. Và khi ấy, "Xtex" bèn xin lỗi, đồng thời thường tự giận mình.

Song cậu bé có một thói quen xấu là hay tỏ vẻ khinh thường khi nói về chuyện Nen mới lên tám và so sánh điều đó với tuổi tác và kinh nghiệm sống của bản thân mình. Em cho rằng một thiếu niên mười bốn tuổi, dẫu vẫn chưa hoàn toàn là người lớn, nhưng đã không còn là trẻ con nữa, và đã có khả năng thực hiện được mọi hành động anh hùng, đặc biệt là khi thiếu niên ấy mang trong mình dòng máu Ba Lan hoà dòng máu Pháp. Em khao khát một lúc nào đó sẽ có hoàn cảnh để thực hiện những hành động anh hùng như thế, nhất là để bảo vệ Nen. Cả hai thường tưởng tượng ra đủ mọi loại hiểm nguy khác nhau, và Xtas thường phải trả lời các câu hỏi của Nen xem em sẽ làm gì, nếu như nói thí dụ - một con cá sấu dài mười mét, hoặc một con bọ cạp to bằng con chó bò qua cửa sổ vào nhà cô bé. Song cả hai không một phút nào ngờ được rằng, chẳng bao lâu nữa, thực tế kinh khủng sẽ vượt xa mọi điều tưởng tượng của chúng.

P/s: Cuối cùng cũng xong
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Trong bữa cơm, có một tin vui chờ đón hai đứa trẻ. Vài tuần trước đây, hai ông Ta-rơ-cốp-xki và Rô-li-xơn, với tư cách là những kĩ sư lành nghề, được mời đến xem xét và đánh giá công việc trên toàn bộ mạng kênh rạch ở tỉnh En Phai-um, trong vùng lân cận thành phố Mê-đi-nét gần hồ Ca-rô-un, cũng như vùng dọc theo sông Du-xép và sông Nin. Họ sẽ ở lại đó chừng một tháng và đã được công ti của họ cho nghỉ phép để làm việc đó. Vì lễ Thiên Chúa giáng sinh sắp tới, mà cả hai đều không muốn chia tay với bọn trẻ, nên họ quyết định rằng cả Nen lẫn Xtas sẽ đi tới Mê-đi-nét. Nghe tin này, bọn trẻ suý t nhảy vọt lên vì vui sướng. Cho tới nay, chúng chỉ mới được biết các thành phố nằm dọc kênh đào, đó là I-dơ-mai-la và Xu-ê, còn ngoài vùng kênh là các thành phố A-léc-xan-đ-ri-a và Cairô. Chúng cũng đã được tham quan các kim tự tháp khổng lồ và tượng con Nhân sư ở gần thành phố Cai-rô. Song đó chỉ toàn là những chuyến đi ngắn ngủi, trong khi đó, muốn tới được Mê-đi-nét En Phai-um, chúng sẽ phải ngồi tàu hoả suốt cả một ngày trời dọc theo sông Nin về phía Nam, rồi sau đó, từ En Va-xta trở đi, rẽ về phía Tây, về phía sa mạc Li-bi. Xtas đã được nghe nói về thành phố Mê-đi-nét qua câu chuyện của các kĩ sư trẻ và các du khách từng được đi tới đó để săn bắn các loài chim nước cùng chó sói sa mạc và linh cẩu. Em biết rằng đó là một ốc đảo lớn nằm ở hữu ngạn sông Nin, nhưng không chịu ảnh hưởng của các trận lụt do con sóng này gây ra, mà có thuỷ hệ riêng, được tạo nên bởi hồ Ca-rô-un, sông Ba-hơ-rơ Du-xép, cùng cả một hệ thống kênh rạch nhỏ khác nữa. Những người từng thấy cái ốc đảo này đều nói rằng mặc dù vùng đất này vẫn thuộc về Ai Cập, nhưng do bị ngăn cách bởi sa mạc, nên nó tạo thành một chỉnh thể biệt lập hoàn toàn. Chỉ có riêng dòng sông Du-xép, trông giống như một sợi dây mỏng mảnh màu xanh lơ là mối liên hệ giữa vùng này với thung lũng sông Nin. Sự dồi dào về nước, độ phì nhiêu của đất và sự phong phú tuyệt vời của hệ thực vật đã khiến cho vùng này gần như trở thành một thiên đường trên mặt đất, còn những di tích trải trên một diện tích rộng lớn của thành phố Crô-cô-đi-lô-pô-lix thì thu hút hàng trăm du khách tới đây viếng thăm. Riêng Xtas thì chủ yếu là bị hấp dẫn bởi bờ hồ Ca-rô-un đầy các loài chim nước và những chuyến đi săn chó sói trong vùng đồi núi hoang mạc Gu-ê-ben En Xê-đơ-mên.

Nhưng mãi mấy ngày nữa bọn trẻ mới bắt đầu được nghỉ lễ, mà sự kiểm tra công việc ở vùng kênh lại khẩn cấp, khiến các ông bố không thể chờ đợi mất thì giờ, nên họ bèn sắp xếp rằng họ sẽ khởi hành ngay, còn bọn trẻ sẽ cùng với cô O-li-vi-ơ xuất phát sau một tuần lễ. Cả Nen lẫn Xtas đều muốn được cùng đi ngay, nhưng Xtas không dám đề nghị. Cả hai liền bắt đầu hỏi han đủ mọi thứ chuyện liên quan tới chuyến đi, và chúng lại náo nức vui sướng một lần nữa khi được biết rằng, chúng sẽ không phải nghỉ ngơi trong các khách sạn thiếu thốn tiện nghi của người Hy Lạp, mà sẽ nghỉ trong những chiếc lều do Hội du lịch của Cúc(1) cung cấp. Các du khách từ Cai-rô đến thăm Mê-đi-nét, thậm chí dù họ có lưu lại đó một thời gian dài đi nữa, cũng thường sống theo cách đó. Công ti Cúc cung cấp cho họ lều trại, người phục vụ, lương thực dự trữ, lừa ngựa, lạc đà cùng người dẫn đường, nên du khách chẳng hề phải lo nghĩ chuyện gì cả. Quả tình đó là một phương thức du lịch khá tốn kém, nhưng ông Ta-rơ-cốp-xki và ông Rô-li-xơn không cần phải quan tâm tới chuyện đó, vì mọi chi phí sẽ do chính phủ Ai Cập đài thọ, chính phủ này đã mời họ tới đánh giá và kiểm tra công việc tại vùng kênh, với tư cách là những chuyên gia giỏi. Cô bé Nen vốn thích cưỡi lạc đà hơn tất cả mọi chuyện khác trên đời, nên được cha hứa rằng sẽ được nhận riêng một con tuấn mã có bướu, trên đó cô bé sẽ cùng với cô O-li-vi-ơ, bà Đi-na, hoặc thỉnh thoảng cùng với Xtas, tham gia vào những chuyến đi chơi trong những vùng sa mạc lân cận và tới Ca-rô-un. Ông Ta-rơ-cốp-xki hứa với Xtas rằng sẽ cho phép em đi săn chó sói ban đêm, và nếu như em mang được chứng chỉ học tập giỏi từ trường về, thì sẽ được thưởng một khẩu súng săn Anh chính hiệu, cùng với mọi thứ đồ nghề cần thiết cho thợ săn. Vì Xtas hoàn toàn tin chắc vào kết quả học tập của bản thân, nên ngay lập tức em bắt đầu tự cho mình đã là chủ nhân của một khẩu súng săn và tự nhủ sẽ dùng khẩu súng ấy thực hiện biết bao kì công để đời đời được ghi nhớ.

Với lũ trẻ đang vui mừng, bữa ăn trôi qua trong những dự kiến và những câu chuyện như vậy. Riêng cô O-li-vi-ơ tỏ ra tương đối ít nhiệt tình nhất với chuyến đi, bởi cô ngại phải rời xa cái biệt thự đầy đủ tiện nghi ở Port Xai-đơ này; cô kinh hoàng khi nghĩ tới chuyện sẽ phải sống hàng mấy tuần trong lều, và nhất là chuyện cưỡi lạc đà. Cô đã được thưởng thức vài lần các chuyến đi kiểu ấy, điều mà bất cứ người dân châu Âu nào sống ở Ai Cập cũng đều làm thử vì tò mò. Song bao giờ các chuyến đi ấy cũng bị kết thúc chẳng mỹ mãn chút nào. Một lần, con lạc đà đứng lên sớm quá, khi cô chưa kịp ngồi vững trên bành, kết quả là cô bị tuột từ trên lưng nó xuống đất. Một lần khác, một chú lạc đà một bướu, hẳn không thuộc loại dễ khiến, đã lắc cô đến nỗi hai ngày sau cô vẫn chưa hoàn hồn. Tóm lại, nếu như Nen, sau vài chuyến được ông Rô-li-xơn cho phép đi như thế, cam đoan rằng trên đời này không có gì sướng hơn là việc cưỡi lạc đà, thì cô O-li-vi-ơ lại chỉ nhớ toàn những ấn tượng khó chịu mà thôi. Cô bảo rằng chuyện đó có thể là tốt đối với người Ả Rập, hoặc đối với một "cái kẹo" bé bỏng như Nen, cô bé bị lắc chẳng đáng là bao, chẳng khác nào một chú ruồi đỗ lên bướu lạc đà, song chẳng thích hợp chút nào đối với những người có tuổi, chẳng nhẹ nhàng gì, mà lại có xu hướng dễ bị say sóng. Còn nếu nói về Mê-đi-nét En Phai-um thì cô lại còn có thêm những lo lắng khác nữa. Ở Port Xai-đơ cũng như ở A-léc-xan-đri-a, Cai-rô và trên toàn Ai Cập, người ta chẳng bàn tán gì khác hơn ngoài chuyện khởi loạn của Ma-hơ-đi và sự tàn ác của bọn phiến loạn. Cô O-li-vi-ơ không biết chính xác thành phố Mê-đi-nét nằm ở đâu, nên cô lo ngại, không hiểu nó có nằm quá gần bọn Ma-hơ-đi hay chăng, và thế là cô bèn hỏi ông Rô-li-xơn điều đó.

Song ông chỉ mỉm cười và nói:

- Hiện nay Ma-hơ-đi đang bao vây thành phố Khác-tum, trong đó tướng Goóc-đôn đang cố thủ. Cô có biết Mê-đi-nét cách Khác-tum bao xa không?

- Tôi chẳng có khái niệm gì về chuyện đó cả.

- Cũng xấp xỉ bằng từ đây tới đảo Xi-xin vậy, ông Ta-rơ-cốp-xki giải thích.

- Vâng, gần bằng. - Xtas khẳng định. - Khác-tum nằm tại điểm mà sông Nin Trắng và Xanh hoà vào nhau tạo thành một dòng chung. Từ chỗ chúng ta tới đó còn cách cả một khoảng không gian mênh mông của đất Ai Cập và toàn bộ miền Nu-bi-a.

Tiếp đó em còn muốn thêm rằng dù cho Mê-đi-nét có nằm gần vùng khởi loạn đi chăng nữa, thì đã có em tại đó với khẩu súng của mình, nhưng em chợt nhớ lại rằng đã nhiều lần bị cha quở mắng vì những lời huênh hoang tương tự, nên vội nín lặng.

Hai ông bố lại bắt đầu nói sang chuyện Ma-hơ-đi và cuộc khởi loạn, vì đó là vấn đề quan trọng bậc nhất có quan hệ tới Ai Cập.

Tin tức từ Khác-tum đưa về rất xấu. Đã từ một tháng rưỡi nay, những bộ tộc man rợ bao vây chặt thành phố này, chính phủ Ai Cập và chính phủ Anh thì phản ứng rất chậm chạp. Mãi đến bây giờ đạo viện binh giải vây mới vừa lên đường, và người ta e rằng, mặc dù có áng vinh quang, lòng can trường và năng lực của tướng Goóc-đôn, song thành phố quan trọng này sẽ bị lọt vào tay bọn dã man mất. Ông Ta-rơ-cốp-xki cũng có ý kiến như thế, ông ngờ rằng, Anh quốc thầm mong sao Ma-hơ-đi chiếm lấy Xu-đan của Ai Cập để rồi sau đó họ sẽ chiếm lại miền đất này từ tay Ma-hơ-đi, và biến miền đất mênh mông này thành tài sản nước Anh. Song ông không trao đổi với ông Rô-li-xơn những điều nghi ngờ ấy, vì không muốn xúc phạm đến những tình cảm ái quốc của bạn.

Gần cuối bữa ăn, Xtas hỏi tại sao chính phủ Ai Cập lại chiếm cứ tất cả các nước nằm về phía Nam Nu-bi-a là Coóc-đô-phan, Đác-phua và Xu-đan cho đến tận An-béc Ni-an-đa, và tước đoạt quyền tự do của dân cư những miền đất đó. Ông Rô-li-xơn quyết định giải thích cho cậu bé: tất cả những gì mà chính phủ Ai Cập làm đều là thực hiện theo chỉ thị của Anh quốc, bởi nước Anh đang nắm quyền bảo hộ Ai Cập và về thực chất thì đang thống trị nước này một cách tuỳ ý.

- Chính phủ Ai Cập không tước đoạt tự do của bất cứ một ai cả, - ông nói, - mà ngược lại, còn mang lại tự do cho hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu người. Trong thời gian gần đây, ở Coóc-đô-phan,ở Đác-phua và Xu-đan không có một quốc gia độc lập nào tồn tại cả. Chỉ thảng hoặc ở nơi này nơi nọ, một tiểu thủ lĩnh nào đó dùng bạo lực áp đặt chính quyền của mình sang một miền đất khác và chiếm đoạt vùng đất ấy, không thèm để ý tới nguyện vọng của các cư dân địa phương. Còn trên đại thể, những miền này quần tụ các bộ tộc độc lập của người Ả Rập pha da đen, nghĩa là những bộ tộc mang trong mình dòng máu của cả hai chủng người đó. Các bộ tộc này luôn luôn sống trong tình trạng chiến tranh liên miên. Họ tấn công nhau, cướp của nhau ngựa,lạc đà, súc vật có sừng và trước hết là nô lệ. Đồng thời họ phạm không biết bao nhiêu điều tàn bạo. Nhưng tệ hại nhất là bọn thương gia săn ngà voi và săn nô lệ. Chúng gần như tạo thành một giai cấp riêng biệt, bao gồm hầu hết các tộc trưởng và những thương nhân giàu có.

Chúng tiến hành những cuộc săn lùng có vũ trang vào sâu trong lục địa Phi châu, cướp đi ngà voi và bắt sống hàng nghìn người, cả đàn ông, đàn bà, trẻ con. Chúng triệt phá các làng mạc và trại ấp, phá hoại đồng ruộng, khiến máu chảy thành sông và giết hại không thương tiếc tất cả những ai muốn chống cự lại. Nhiều vùng ở miền nam Xu-đan, Đác-phua và Coóc-đô-phan cũng như vùng thượng nguồn sông Nin cho tới tận hồ lớn, không còn một bóng người. Song bọn cướp Ả Rập này mỗi ngày tiến thêm một xa, đến nỗi cả vùng Trung Phi trở thành vùng đất của máu và nước mắt.

Anh quốc, như cháu biết, vốn săn đuổi bọn thương nhân buôn bán nô lệ trên toàn thế giới, bèn đồng ý để chính phủ Ai Cập chiếm Coóc-đô-phan, Đác-phua và Xu-đan, đó là cách duy nhất buộc lũ cướp phải từ bỏ cuộc buôn bán bẩn thỉu ấy đi, là cách duy nhất để giữ chúng trong vòng kiềm toả. Những người da đen bất hạnh thở phào nhẹ nhõm, những cuộc tấn công ăn cướp lắng dần, và người ta bắt đầu được sống có luật lệ. Dĩ nhiên tình hình ấy khiến bọn lái buôn không thoả mãn. Vậy nên, khi mà trong số chúng nó có tên Mô-ha-mét Ách-mét, bây giờ được gọi là Ma-hơ-đi, tên này bắt đầu kêu gào phát động một cuộc chiến tranh tôn giáo về hình thức, lấy cớ rằng tại Ai Cập lòng tin vào đức Mô-ha-mét đang bị suy giảm, thì tất cả bọn chúng đều cầm lấy vũ khí. Và thế là bùng nổ cuộc chiến tranh khủng khiếp này, cuộc chiến tranh mà cho tới nay rất bất lợi cho người Ai Cập. Trong tất cả các trận chiến đấu, Ma-hơ-đi đều đánh bại quân chính phủ, chiếm Coóc-đô-phan, Đác-phua, Xu-đan; hiện nay, các bộ tộc của hắn đang vây hãm Khác-tum và tiến về phía Bắc tới tận biên giới Nu-bi-a.

- Nhưng liệu hắn có tiến được tới Ai Cập không ạ? - Xtas hỏi.

- Không, - ông Rô-li-xơn trả lời, - Ma-hơ-đi quả có nói rằng, hắn sẽ đánh chiếm toàn thế giới, song đó chỉ là một con người mông muội, không hiểu gì cả. Hắn sẽ không bao giờ chiếm được Ai Cập vì Anh quốc không khi nào cho phép chuyện đó xảy ra.

- Thế nếu như quân đội Ai Cập hoàn toàn tan rã thì sao?

- Khi đó quân đội Anh sẽ thay, mà quân đội Anh thì chưa từng có ai thắng nổi bao giờ.

- Thế tại sao người Anh lại cho phép Ma-hơ-đi chiếm ngần ấy nước?

- Sao cháu biết là Anh quốc cho phép? - Ông Rô-li-xơn nói. - Anh quốc chẳng bao giờ phải vội vã cả, bởi Anh quốc là quốc gia vĩnh cửu.

Câu chuyện bị gián đoạn bởi một người đầy tớ da đen vào báo rằng mụ Phát-ma Xmai-nơ tới và cầu xin được vào gặp.

Phụ nữ phương Đông thường chỉ chăm lo việc nội trợ và rất ít khi rời khỏi "buồng the". Chỉ những người nghèo mới ra chợ hoặc đi làm đồng, thí dụ như vợ của các fellach, tức là những nông dân Ai Cập, nhưng cả những người này cũng che mặt khi ra đường.

Mặc dù mụ Phát-ma gốc người Xu-đan, tại đó người ta không theo phong tục này, hơn nữa, trước đây cũng đã từng có lần mụ tới văn phòng ông Rô-li-xơn rồi, xong việc mụ đến đây, nhất là vào lúc đêm hôm thế này và lại tới nhà riêng, cũng gây nên một sự ngạc nhiên.

- Chúng ta sẽ được biết điều mới về gã Xmai-nơ đây, - ông Ta-rơ-cốp-xki nói.

- Phải, - ông Rô-li-xơn đáp lại, đồng thời đưa tay ra hiệu cho người hầu dẫn mụ Phát-ma vào.

Lát sau một phụ nữ Xu-đan còn trẻ, người cao dong dỏng, mặt hoàn toàn không che mạng, với nước da rất sẫm màu, cặp mắt tuyệt đẹp, tuy hơi man dại và dữ tợn, bước vào. Vừa vào, mụ đã sụp mặt xuống đất, và khi ông Rô-li-xơn bảo mụ đứng dậy thì mụ chỉ ngẩng mặt lên nhưng vẫn tiếp tục quỳ.

- Thưa ngài, - mụ nói, - cầu đức A-la ban phúc cho ngài, cho con cháu của ngài, ngôi nhà của ngài và súc vật của ngài.

- Chị muốn gì? - Người kĩ sư hỏi.

- Thưa ngài, con cầu xin lòng từ thiện, sự cứu giúp trong cơn hoạn nạn. Con hiện đang bị giam giữ ở Port Xai-đơ, mà cái chết đang treo lơ lửng trên đầu con và các con của con.

- Chị nói là chị bị giam, thế mà chị lại có thể đi tới đây, thêm nữa lại vào ban đêm!

- Thưa, cảnh sát áp tải con tới đây, cảnh sát canh giữ nhà con cả ngày lẫn đêm, và con biết rằng chẳng bao lâu nữa họ sẽ được lệnh chặt đầu chúng con.

- Chị hãy nói cho ra dáng một người đàn bà chín chắn xem nào, - ông Rô-li-xơn nhún vai đáp, - không phải chị đang ở Xu-đan mà là Ai Cập, nơi người ta không giết một ai thiếu quyết định của toà án, vì vậy chị có thể tin chắc rằng, không một sợi tóc nào của chị cũng như của các con chị rơi khỏi đầu đâu.

Song mụ ta bắt đầu van xin ông hãy một lần nữa bênh vực mụ ta, xin chính phủ cho phép mụ đi đến với lão Xmai-nơ. Mụ nói:

"Những ông lớn người Anh vĩ đại như ngài có thể làm được mọi chuyện, thưa ngài. Chính phủ ở Cai-rô nghĩ rằng ông Xmai-nơ phản bội, nhưng điều đó không đúng một chút nào hết! Hôm qua có các thương nhân Ả Rập đến chỗ con, họ từ Xu-a-kim tới, trước đó họ mua nhựa cây và ngà voi ở Xu-đan, họ báo cho con hay rằng ông Xmai-nơ đang bị ốm nằm tại En Pha-sen-rơ và gọi con cùng các cháu tới đó để ban phước cho các cháu..." - Tất cả chỉ là chuyện bịa đặt của nhà chị, chị Phát-ma, - ông Rô-li-xơn ngắt lời.

Mụ ta bắt đầu thề với đức A-la là mụ nói sự thật, rồi tiếp đó mụ nói rằng, nếu như Xmai-nơ khoẻ lại thì chắc chắn trăm phần trăm là ông ta sẽ chuộc lại tất cả các tù binh Thiên Chúa giáo, còn nếu như ông ta có qua đời đi chăng nữa, thì chính mụ, người họ hàng ruột thịt của thủ lĩnh các tín đồ đạo Hồi, cũng sẽ dễ dàng tìm được cách đến gặp y và sẽ làm được bất cứ điều gì mụ muốn. Chỉ cần người ta cho phép mụ được đi, vì trái tim trong lồng ngực của mụ đang kêu rên bởi nỗi nhớ thương chồng. Mụ ta, một người phụ nữ bất hạnh, có làm gì nên tội với chính phủ và với phó vương cơ chứ?Chuyện đó có phải là lỗi của mụ đâu, và liệu mụ có thể nào chịu trách nhiệm trong chuyện chẳng may mụ là bà con với thầy cả đạo Hồi Mô-ha-mét Ách-mét?

Mụ Phát-ma, do sự có mặt của "những người Anh", không dám gọi người bà con ruột thịt của mình bằng cái tên Ma-hơ-đi, vì tên đó có nghĩa là: "người chuộc tội cho thế gian", bởi mụ biết rõ rằng, chính phủ Ai Cập coi hắn ta là một tên phiến loạn và kẻ chuyên lừa đảo. Song mụ cứ đập đầu xuống đất và vừa cầu khẩn trời cao đất dầy minh chứng cho sự vô tội cùng nỗi bất hạnh của mụ, vừa kêu khóc một cách thảm thương, như kiểu các phụ nữ phương Đông thường kêu khóc khi bị mất chồng hay con trai vậy.

Rồi mụ lại úp mặt xuống đất - nói đúng hơn là xuống tấm thảm lót sàn nhà - và im lặng chờ đợi.

Cuối bữa ăn, Nen muốn chợp mắt chút đỉnh, nhưng giờ đây cô bé tỉnh táo hoàn toàn. và vì vốn có trái tim giàu thương cảm, nên cô bé nắm lấy tay cha, vừa hôn vừa cầu xin cho mụ Phát-ma:

- Cha ơi, cha giúp bà ta đi cha! Giúp bà ta đi cha!

Còn mụ Phát-ma, hẳn là biết tiếng Anh, nên vừa nức nở, vừa nói, mặt vẫn không rời khỏi tấm thảm:

- Cầu đức A-la ban phước cho cô, hỡi đoá hoa thiên đường bé nhỏ, hỡi niềm hoan lạc của O-mai, hỡi vì sao trong sáng.

Còn Xtas, mặc dù trong lòng rất căm tức bọn Ma-hơ-đi, nhưng em cũng xúc động bởi lời cầu xin và sự đau đớn của mụ Phát-ma.

Hơn nữa vì Nen bênh vực mụ ta, mà em thì nói cho cùng, bao giờ cũng muốn những gì Nen muốn thực hiện, nên một lúc sau em cất tiếng nói khẽ như tự nhủ, nhưng cũng đủ để cho mọi người nghe thấy:

- Nếu mình là chính phủ, mình sẽ cho phép mụ Phát-ma ra đi.

- Nhưng vì con không phải là chính phủ, - ông Ta-rơ-cốp-xki đáp, - nên tốt nhất là con đừng có can thiệp vào những chuyện không thuộc về con.

Ông Rô-li-xơn cũng có tâm hồn giàu trắc ẩn và ông cũng thấu hiểu tình cảm của mụ Phát-ma, nhưng trong những lời của mụ ta có nhiều điều mà theo ông toàn là chuyện dối trá. Vì hàng ngày ông có quan hệ với sở thuế quan ở I-dơ-mai-lơ, nên ông biết chắc chắn rằng, không có một số hàng hoá nào là nhựa cây và ngà voi được chở qua kênh trong thời gian vừa rồi. Việc buôn bán những mặt hàng này gần như hoàn toàn bị đình lại. Vả chăng, các thương nhân Ả Rập cũng không thể nào trở về từ thành phố En Pha-se-rơ nằm trên đất Xu-đan, vì nói chung bọn Ma-hơ-đi ngay từ đầu đã không cho phép các thương nhân giao lưu với chúng, còn những kẻ nào bị chúng tóm được, thì đều bị cướp sạch và bị giữ lại làm tù binh cả. Chính vì thế, chắc chắn câu chuyện về bệnh tình của Xmai-nơ cũng là một điều bịa đặt mà thôi.

Song vì đôi mắt Nen vẫn đang nhìn cha đầy vẻ van xin, nên không muốn làm con buồn, ông bảo mụ Phát-ma:

- Này chị Phát-ma, ta đã viết thư gửi chính phủ theo lời khẩn cầu của chị, nhưng không có kết quả. Còn bây giờ thì chị nghe đây.

Sáng mai, cùng với ngài kĩ sư đây, ta sẽ đi Mê-đi-nét En Phai-um, dọc đường chúng ta sẽ lưu lại Cai-rô một ngày, vì khê-đíp muốn bàn bạc với chúng ta về các kênh tiêu nước từ sông Ba-hơ-rơ Du-xép và sẽ cho chúng ta chỉ thị về những con kênh đó. Trong khi bàn bạc, ta sẽ cố gắng trình bày với ngài chuyện của nhà chị và cố gắng xin ngài ban cho chị đặc ân. Nhưng ta không thể làm được điều gì hơn nữa và ta cũng không thể hứa hẹn một điều gì hết.

Mụ Phát-ma nhổm ngay dậy và vừa đưa hai tay ra dấu cảm ơn vừa bật kêu lên:

- Vậy là con đã được cứu sống!- Không đâu, chị Phát-ma, - ông Rô-li-xơn đáp, nhà chị đừng nói chuyện cứu mạng, vì như ta đã nói với chị, cái chết không hề đe doạ chị lẫn các con chị. Còn liệu khê-đíp có đồng ý cho chị ra đi hay không thì ta không dám chắc, bởi vì Xmai-nơ không ốm mà hắn là một tên phản bội, đã lấy tiền của chính phủ, hoàn toàn không nghĩ gì đến việc chuộc các tù binh khỏi tay Mô-ha-mét Ách-mét cả.

- Ông Xmai-nơ là người vô tội, thưa ngài, hiện ông ấy đang nằm ở En Pha-se-rơ, - mụ Phát-ma lặp lại, - còn nếu như ông ta có bội tín với chính phủ đi nữa, thì con xin thề với ngài, ông chủ đáng kính của con, rằng nếu như người ta cho phép con ra đi, thì con sẽ khẩn cầu Mô-ha-mét Ách-mét cho đến khi nào xin tha hết tù binh của các ngài mới thôi.

- Thôi được rồi. Ta hứa với chị một lần nữa là ta sẽ gặp khê-đíp để xin cho chị. Mụ Phát-ma bắt đầu vái lia lịa.

- Xin đa tạ người, thưa xi-di. Ngài thật quả là người vừa nhiều quyền thế vừa công minh chính đại. Còn bây giờ con cầu xin ngài một điều nữa là hãy cho chúng con được hầu hạ ngài như nô lệ vậy.

- Ở Ai Cập không một ai có thể là nô lệ cả, - ông Rô-li-xơn mỉm cười đáp lại. - Ta có đủ gia nhân rồi, vả chăng ta cũng không thể sử dụng sự hầu hạ của chị vì rằng, như ta đã nói với chị, tất cả chúng ta đây sẽ rời đi Mê-đi-nét, và có thể chúng ta sẽ ở lại đó cho đến tận ngày lễ ramadan(2).

- Con biết, thưa ngài, vì ông quản gia Kha-đi-gi đã nói với con, còn con, biết tin ấy, con đến đây không những chỉ để cầu xin ngài giúp đỡ, mà còn để thưa với ngài rằng, hai người cùng bộ tộc Đan-gan với con là I-đrix và Ghe-bơ-rơ, hiện đang là những chủ lạc đà tại Mê-đi-nét, và họ sẽ rập trán trước ngài khi ngài đến đó cốt để xin ngài ra lệnh cho họ và lạc đà của họ được hầu hạ các ngài.

- Được rồi, được rồi, - ông giám đốc nói, - nhưng đó là việc của công ti Cúc chứ đâu phải là việc của ta.

Sau khi hôn tay hai kĩ sư và bọn trẻ, mụ Phát-ma lui ra ngoài, vừa lui vừa cầu phước, nhất là cho cô bé Nen. Cả hai ông bố cùng im lặng một lát, rồi ông Rô-li-xơn cất tiếng:

- Một người đàn bà đáng thương... nhưng mụ ta nói dối như cuội vậy, thậm chí trong những lời cảm ơn cũng toát lên cái ý không có quyền giữ mụ ta ở Ai Cập, vì mụ ta không thể chịu trách nhiệm thay cho chồng được.

- Hiện nay chính phủ không cho phép một ai trong số dân Xu-đan đi Xu-a-kim không có giấy phép, cũng như đi Nu-bi-a, nghĩa là lệnh cấm đó không chỉ riêng cho mụ Phát-ma. Ở Ai Cập hiện có rất nhiều người vốn tìm tới đây để kiếm sống, trong đó có một nhóm người thuộc bộ tộc Đan-gan, nghĩa là bộ tộc của chính Ma-hơ-đi. Thí dụ, ngoài mụ Phát-ma ra, còn có Kha-đi-gi và hai gã chủ lạc đà ở Mê-đi-nét cũng thuộc bộ tộc này. Bọn Ma-hơ-đi gọi người Ai Cập là dân Thổ và tiến hành chiến tranh chống lại họ,nhưng trong số những người Ả Rập tại đây cũng có khối môn đệ của Ma-hơ-đi, những kẻ sẵn lòng bỏ trốn đến với hắn. Cần phải gộp vào bọn này tất cả những kẻ cuồng đạo, tất cả những kẻ ủng hộ pasa Ả Rập ngày trước, cùng nhiều kẻ trong các tầng lớp nghèo khổ nhất. Họ trách chính phủ đã hoàn toàn chịu ảnh hưởng của Anh, và cho rằng điều đó xúc phạm tới tôn giáo. Chỉ có Chúa mới biết rõ bao nhiêu kẻ đã chạy trốn bằng cách vượt qua sa mạc, bỏ qua con đường biển thông thường tới Xu-akim; do vậy, khi chính phủ biết được rằng mụ Phát-ma cũng muốn chuồn, họ bèn ra lệnh canh giữ mụ ta. Qua mụ ta và các con của mụ, những người ruột thịt với Ma-hơ-đi, rất có thể sẽ chuộc lại được tù binh.

- Liệu có đúng là những tầng lớp nghèo khổ nhất ở Ai Cập ủng hộ Ma-hơ-đi hay chăng?

- Ma-hơ-đi có đệ tử ngay cả trong quân đội, có thể chính vì vậy mà quân chính phủ đánh nhau kém đến thế.

- Nhưng bằng cách nào những người Xu-đan có thể trốn qua sa mạc được nhỉ? Hàng nghìn dặm đường cơ mà?

- Ấy thế mà chính bằng con đường ấy người ta đưa nô lệ tới Ai Cập đấy.

- Tôi e rằng bọn trẻ con của mụ Phát-ma không chịu đựng nổi một cuộc hành trình như thế.

- Mụ ta cũng muốn rút ngắn bớt đường đi bằng cách đi theo đường biển tới Xu-akim đấy thôi.

- Dù sao thì cũng là một người đàn bà tội nghiệp...

Câu chuyện kết thúc ở đó.

Nhưng mười hai giờ sau đó, mụ "đàn bà tội nghiệp" ấy, sau khi đã đóng thật kín cửa nhà, bắt đầu thì thầm với con trai của tên quản gia Kha-đi-gi, cặp lông mày nhíu lại, đôi mắt đẹp ánh lên thật ảm đạm.

- Hỡi Kha-mix, con trai của Kha-đi-gi, đây là tiền. Ngay hôm nay, người hãy đi Mê-đi-nét và giao cho I-đrix bức thư này, bức thư mà thầy cả Ben-la-li thánh thiện đã thảo gửi cho hắn theo lời yêu cầu của ta... Bọn trẻ của các kĩ sư ấy tốt bụng đấy, song nếu như ta không được phép ra đi thì không còn cách nào khác. Ta biết là ngươi không phản ta... Hãy nhớ rằng, ngươi và cha ngươi đều sinh ra từ bộ tộc Đan-gan, bộ tộc đã sản sinh ra đức Ma-hơ-đi vĩ đại.

--- ---------

1. Cúc: tên một công ti tư bản lớn ở nước ngoài.

2. Lễ ramadan: lễ của người Hồi giáo, bắt đầu từ tháng hai cho đến hết tháng ba.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Tối hôm sau, cả hai kĩ sư lên đường đi Carô. Tại đó, họ sẽ tới thăm thống sứ Anh và vào yết kiến phó vương. Xtas tính rằng, có thể chuyện đó sẽ khiến họ mất chừng hai ngày, và quả thật, những tính toán của em rất chính xác, vì chiều hôm thứ ba, em nhận được một bức điện của cha, đánh từ Mê-đi-nét, với nội dung như sau: "Lều trại đã sẵn sàng. Các con, hãy đi ngay sau khi con bắt đầu được nghỉ. Báo cho Phát-ma thông qua Kha-đi-gi biết là chúng ta không làm gì được cho chị ta...". Cô O-li-vi-ơ cũng nhận được một bức điện tương tự, và với sự giúp đỡ của bà da đen Đi-na, cô bắt đầu tiến hành việc chuẩn bị để lên đường.

Chỉ riêng cảnh chuẩn bị thôi cũng đã làm cho trái tim bọn trẻ náo nức vui sướng. Bỗng nhiên một chuyện không lành xảy ra suýt nữa khiến cho mọi dự định đều bị đảo lộn, thậm chí có thể chuyến đi phải đình lại. Vào hôm kì nghỉ của Xtas bắt đầu, ngay trước hôm ra đi, khi đang chợp mắt ban trưa trong vườn, cô O-li-vi-ơ bị một con bọ cạp đốt. Thông thường, những con vật có nọc độc này ở Ai Cập không mấy nguy hiểm, nhưng lần này vết đốt lại rất có thể nguy đến tính mạng. Con bọ cạp đã bò lên chỗ tựa đầu của chiếc ghế vải và đốt vào cổ cô O-li-vi-ơ khi cô tựa đầu vào đó. Và vì rằng trước đây cô đã có lần bị nổi ban đỏ trên mặt, nên người ta e rằng bệnh ấy lại tái phát. Người ta lập tức cho mời bác sĩ, song mãi hai giờ sau ông ta mới tới, vì ông bận việc ở một nơi nào khác.

Khi ấy, cả cổ lẫn mặt cô đã bị sưng vù lên, cô bị sốt và có những triệu chứ ng thường có của sự nhiễm độc. Trong những điều kiện như thế, bác sĩ cho rằng không thể nói tới chuyện đi đâu được cả, và ra lệnh đặt bệnh nhân vào giường. Vì vậ y bọn trẻ bị đe doạ bởi triển vọng sẽ phải nghỉ lễ Thiên Chúa giáng sinh tại nhà. Nói cho công bằng, trong những phút đầu tiên, quả tình Nen lo lắng nhiều tới nỗi đau đớn của cô giáo hơn là nghĩ ngợi về những điều sung sướng bị mất đi tại Mê-đi-nét. Em chỉ khóc thầm ở góc phòng khi nghĩ rằng em sẽ không được gặp mặt cha trong mấy tuần lễ liền.

Tuy nhiên, Xtas không dễ dàng chấp nhận điều không may đến thế, em lập tức gửi đi một bức điện, rồi tiếp đó, một bức thư, hỏi xem chúng cần làm gì.

Hai ngày sau có điện trả lời. Trước đó, ông Rô-li-xơn đã trao đổi với bác sĩ, và sau khi được biết rằng nguy hiểm đã qua, và giờ đây chỉ còn lo bệnh ban đỏ tái phát nên không thể để cho cô O-li-vi-ơ rời khỏi Port Xai-đơ được. Ông bèn chỉ thị trước hết phải lo lắng theo dõi và chăm sóc cô, rồi sau đó mới gửi cho bọn trẻ, cho phép chúng được lên đường cùng với bà Đi-na. Bà Đi-na, mặc dù vô cùng gắn bó với Nen nhưng không thể đảm đương chuyện tàu xe và khách sạn, nên người dẫn đường và thủ quỹ của chuyến đi sẽ là Xtas. Dễ dàng có thể hiểu được cậu bé tự hào đến thế nào về cương vị ấy, và với lòng can trường của một hiệp sĩ, cậu bé đã bảo đảm với Nen rằng sẽ không kẻ nào động được đến một sợi tóc của Nen, cứ hệt như là trong thực tế, đường đến Cai-rô và Mê-đi-nét có biết bao hiểm nguy và gian khó vậy.

Vì mọi việc chuẩn bị đã xong xuôi, nên ngay hôm ấy, bọn trẻ lên đường đến I-dơ-mai-lơ theo kênh đào, rồi từ I-dơ-mai-lơ đi tàu hoả tới Cai-rô, tại đó chúng nghỉ đêm, rồi hôm sau tới Mê-đi-nét. Khi rời khỏi I-dơ-mai-lơ, chúng trông thấy hồ Tim-xa mà Xtas đã từng được biết, vì ông Ta-rơ-cốp-xki, vốn là một thợ săn hăng hái trong những lúc rảnh rỗi, thỉnh thoảng có đưa em tới đây săn chim nước. Sau đó, con đường chạy dọc theo lũng Va-đi Tu-mi-lat, gần con kênh nước ngọt chảy từ sông Nin tới I-dơ-mai-lơ và Xuê. Người ta đào con kênh này trước khi khởi công đào kênh Xu-ê, vì nếu không thì công nhân làm việc cho cái công trình vĩ đại của ông Lec-xép hẳn sẽ không có nước ngọt để uống. Tuy nhiên, việc đào con kênh này còn có thêm một tác dụng tốt nữa: vùng đất trước kia vốn là một sa mạc cằn cỗi nay lại được hồi sinh bởi có được dòng nước ngọt to lớn và đầy sức sống chảy ngang qua.

Từ cửa sổ toa tầu, về phía bên trái, bọn trẻ có thể nhìn thấy một dải xanh mênh mông gồm những đồng cỏ - trên có ngựa, lạc đà và cừu đang gặm cỏ - và những cánh đồng trồng ngô, kê, có linh lăng cùng những thứ cỏ chăn nuôi khác xen lẫn nhau. Trên bờ kênh là đủ mọi loại công cụ lấy nước, từ những bánh xe nước có gầu múc đến những cần vọt thông thường, mà những nông dân đang cần cù lấy nước vào các thửa ruộng hoặc chở đi trong những thùng chứa đặt trên các xe trâu. Trên những ruộng ngũ cốc mới nẩy mầm dày đặc hàng đàn bồ câu, thỉnh thoảng một đàn chim cun cút lại bay vọt lên. Dọc bờ kênh lũ cò và sếu long trọng dạo bước. Phía xa xa, trên những túp nhà bằng đất sét của nông dân, những tán cây chà là vươn lên cao trông như những chiếc mũ cắm lông chim.

Ngược lại, phía Bắc đường tàu trải dài một sa mạc mênh mông, nhưng không giống cái sa mạc nằm phía bên kia kênh đào Xu-ê. Sa mạc kia trông như một đáy biển bằng phẳng mà nước đã chảy đi hết, chỉ còn lại mặt cát gợn sóng, còn ở đây, cát vàng hơn, dường như được đổ thành từng gò đống lớn, trên sườn gò mọc đầy các bụi cây màu xám. Giữa các gò đống ấy - những gò thỉnh thoảng nhô lên thành những quả đồi cao - là những thung lũng rộng; trên đó đôi khi có thể trông thấy những đoàn thương khách kéo dài.

Từ cửa sổ toa tàu, bọn trẻ có thể nhìn thấy những con lạc đà thồ nặng hàng đi thành một dãy dài, con nọ nối con kia, đi trên con đường cát. Trước mỗi con lạc đà là một người Ả Rập mặc áo khoác đen và đội một vành khăn trắng trên đầu. Nen chợt nhớ lại những bức tranh trong quyển kinh thánh mà cô bé được xem ở nhà vẽ cảnh những người dân I-xra-en tiến vào đất Ai Cập từ thời thánh Du-xép. Chúng giống hệt nhau. Tiếc một điều là cô bé không thể ngắm được đoàn thương khách kĩ hơn, bởi có hai sĩ quan người Anh đứng ở phía bên ấy của toa tàu chắn mất tầm nhìn của cô bé.

Song khi cô bé vừa nói với Xtas điều đó, thì cậu bé liền quay sang các sĩ quan, đặt một ngón tay lên vành mũ phớt và nói với vẻ mặt rất long trọng:

- Thưa các quý ông, không rõ các quý ông có vui lòng nhường chỗ cho tiểu thư đây chăng, bởi tiểu thư rất muốn được nhìn kĩ đoàn lạc đà?

Cả hai vị sĩ quan, cũng có vẻ trang trọng như vậy, chấp nhận lời đề nghị, và một người không những chỉ nhường chỗ cho cô tiểu thư đang tò mò mà còn nhấc bổng cô bé lên, đặt vào chỗ ngồi bên cạnh cửa sổ.

Thế là Xtas bắt đầu giảng bài:

- Đây là đất nước Gô-sen cổ xưa, mà vua Pha-ra-on đã nhường cho thánh Du-xép để dành cho những người anh em I-xra-en của ông ta. Ngày xưa, vào thời cổ đại, đây cũng đã từng có một con kênh nước ngọt, nên con kênh mới này chỉ là làm lại con kênh cũ mà thôi. Song sau đó, con kênh ấy bị cạn đi và đất đai biến thành sa mạc. Giờ đây, một lần nữa, đất đai sẽ trở lại phì nhiêu.

- Vì sao quý anh biết điều đó? - Một trong hai sĩ quan hỏi.

- Ở lứa tuổi tôi, ai cũng biết những điều đó. -Xtas đáp. - Thêm nữa cách đây không lâu, giáo sư X-tơ-ling vừa giảng cho chúng tôi nghe về lũng Va-đi Tu-mi-lat.

Mặc dù Xtas nói tiếng Anh rất thạo, nhưng cách phát âm của em hơi lơ lớ, nên người sĩ quan thứ hai để ý và hỏi:

- Hình như quý anh trẻ tuổi không phải là người Anh?

- Cô đây là tiểu thư Nen, mà cha cô giao phó cho tôi chăm sóc lúc đi đường, còn tôi không phải là người Anh, tôi là người Ba Lan và là con của một kĩ sư làm việc tại kênh đào.

Người sĩ quan mỉm cười khi nghe câu trả lời của cậu bé và nói:

- Tôi rất trọng người Ba Lan. Tôi thuộc trung đoàn kỵ binh từ thời Na-po-le-on đã vài lần được chiến đấu cùng với khinh kị binh Ba Lan, và cho tớ i nay, truyền thống đó trở thành niềm tự hào và vinh dự của trung đoàn.

- Rất hân hạnh được làm quen với ông, - Xtas đáp.

Và thế là câu chuyện diễn ra rôm rả, bởi rõ ràng hai viên sĩ quan rất thích thú. Hoá ra, cả hai cũng đi từ Port Xai-đơ đến Cai-rô để yết kiến đại sứ Anh quốc, nhận các chỉ thị cuối cùng về chuyến đi tiếp theo đang chờ đợi họ. Người trẻ hơn trong số hai người là bác sĩ quân y, còn người nói chuyện với Xtas là đại uý G-len. Đại uý được lệnh của chính phủ đi từ Cai-rô qua Xuê tới Mom-ba-xa để phụ trách toàn bộ khu vực kế cận với hải cảng này và kéo dài mãi tới tận vùng đất chưa được biết là Xam-bu-ru. Vốn rất say mê đọc sách về những cuộc thám hiểm châu Phi, Xtas biết rõ rằng, Mom-ba-xa nằm ở vài độ vĩ tuyến phía bên kia xích đạo và các đất nước kế cận với nó, mặc dù đã được tính vào phạm vi những vùng thuộc quyền lợi của Anh quốc, nhưng thực ra vẫn rất ít được biết đến, hoàn toàn hoang dã, đầy voi, hươu cao cổ, tê giác, trâu và các loài linh dương mà các đoàn quân, các đoàn truyền giáo cũng như các đoàn khách thương thường xuyên đụng độ với chúng. Với cả tấm lòng, em ghen thầm với đại uý Glen và nói rằng em phải đến Mom-ba-xa thăm ông ta và cùng ông ta săn sư tử hoặc trâu rừng.

- Hay lắm, nhưng khi đến thăm xin hãy đi cùng với cô tiểu thư bé nhỏ này, - đại uý Glen vừa cười vừa đáp và trỏ sang Nen, cô bé lúc nãy vừa rời cửa sổ đến ngồi bên ông.

- Tiểu thư Rô-li-xơn còn có cha, - Xtas đáp, - còn tôi chỉ là người đỡ đầu tiểu thư trong khi đi đường mà thôi.

Nghe thấy thế, viên sĩ quan kia liền quay lại hỏi:

- Rô-li-xơn? Có phải đó là một trong các giám đốc của kênh đào và có anh trai ở Bom-bay hay không?

- Ở Bom-bay hiện có bác tôi. - Nen vừa đáp vừa đưa một ngón tay nhỏ bé lên.

- Thế thì bác của em, cô bé thân mến, lấy chị tôi làm vợ. Tôi là Cle-ry. Chúng ta là bà con với nhau đấy, và tôi rất mừng là đã được gặp và quen biết với em, con chim bé bỏng ạ.

Quả thực bác sĩ rất vui mừng. Ông nói rằng, ngay sau khi tới Port Xai-đơ ông đã hỏi thăm ông Rô-li-xơn, nhưng ở Văn phòng ban giám đốc người ta nói với ông rằng ông Rô-li-xơn đã đi nghỉ lễ. Ông cũng tiếc rằng chiếc tàu mà ông đã cùng với ông Glen đi Mom-ba-xa sẽ rời Xu-ê sau vài ngày nữa, nên ông không thể tạt qua Mê-đi-nét được.

Ông yêu cầu Nen chuyển lời chúc sức khoẻ tới cha em và hứa sẽ viết thư về cho cô bé từ Mom-ba-xa. Bây giờ hai sĩ quan chủ yếu chỉ nói chuyện với Nen, khiến Xtas hơi đứng ra ngoài rìa.Để bù lại, cứ đến ga là lại xuất hiện hàng tá quýt, chà là tươi, thậm chí cả quả thanh lương trà rất tuyệt nữa. Ngoài Xtas và Nen, cả bà Đi-na cũng được thưởng thức những thứ quả ấy. Bên cạnh tất cả các đức tính của mình, bà nổi bật lên với tính phàm ăn ít gặp.

Nhờ thế, con đường đi Cai-rô đối với bọn trẻ nhanh chóng trôi qua. Lúc chia tay, các sĩ quan hôn bàn tay và mái đầu bé nhỏ của Nen, bắt chặt tay Xtas. Đại uý Glen, người rất thích cậu bé tháo vát và bạo dạn này, nói nửa đùa nửa thật:

- Anh bạn trẻ của tôi! Trong cuộc đời nào ai biết được khi nào, tại đâu và trong hoàn cảnh nào chúng ta lại có thể gặp nhau.

Tuy nhiên xin anh hãy nhớ rằng, bao giờ anh cũng có thể dựa vào tấm lòng và sự trợ giúp của tôi.

- Và cả ông cũng vậy! - Xtas đáp lại và em cúi chào đầy vẻ tự trọng.

--- ------ ----

1. Trung đoàn kị binh Anh từng gặp gỡ kị binh Ba Lan trong thời Na-po-le-on, cho tới nay vẫn còn tự hào về điều đó, và mỗi sĩ quan, khi nói về trung đoàn mình thường bảo: "Chúng tôi đã được cùng chiến đấu với người Ba Lan" (Chú thích của tác giả).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ---------

Ông Ta-rơ-cốp-xki cũng như ông Rô-li-xơn, vốn yêu thương cô bé Nen hơn cả cuộc sống của mình, rất vui mừng khi bọn trẻ đến. Đôi trẻ cũng vui sướng được gặp lại cha, nhưng chỉ lát sau đã bắt đầu đi thăm các căn lều bên trong đã được bài trí xong hoàn toàn và sẵn sàng chờ đón các vị khách đáng yêu. Những căn lều ấy thật tuyệt vời, hai lớp vải Fla-nen, một mặt màu xanh, một mặt màu đỏ, bên dưới trải nỉ thô và rộng rãi như những căn phòng lớn. Công ti muốn làm đẹp lòng các quan chức cao cấp của Hiệp hội kênh đào nên đã cố gắng để họ được tiện nghi và thoả mãn. Lúc đầu ông Rô-li-xơn sợ rằng việc sống một thời gian dài trong lều sẽ có hại cho sứ khoẻ của Nen, nhưng ông đồng ý chuyện đó cũng là vì, nếu như thời tiết xấu thì bất kì lúc nào cũng có thể chuyển vào ở trong khách sạn. Song bây giờ đây, sau khi xem xét kĩ lưỡng mọi thứ tại chỗ, ông lại tin rằng, ngày đêm tiếp xúc với không khí trong lành sẽ trăm lần tốt hơn cho sức khoẻ của cô con gái rượu của ông so với chuyện sống trong những căn phòng hôi hám của các khách sạn nhỏ của địa phương. Thêm vào đó, thời tiết rất tuyệt. Mê-đi-nét, tức En Mê-đi-ne, được vây quanh bởi những đồi cát của sa mạc Li-bi, có khí hậu tốt hơn nhiều so với Cai-rô, và chẳng phải tự nhiên người ta lại mệnh danh là "xứ sở hoa hồng". Với vị trí được che chắn tốt, độ ẩm không khí lại cao, nên tại đây ban đêm không quá lạnh như ở những miền khác của Ai Cập, kể cả những miền nằm xa hơn nữa về phía Nam. Mùa đông ở đây thật là dễ chịu, và từ tháng mười một trở đi lại chính là mùa cây cối phát triển nhanh nhất. Những cây chà là, ô liu, vốn rất ít gặp ở Ai Cập, những cây vả, cây cam, quýt, những cây thầu dầu khổng lồ, những cây lựu và biết bao nhiêu thứ thực vật phương Nam khác tạo nên một rừng cây lớn trùm lên cái ốc đảo tuyệt diệu này. Những khu vườn như được bao trùm trong một làn sóng khổng lồ của những cây xiêm gai, tử đinh hương và hồng, đến nỗi về đêm, mỗi làn gió đều mang về hương thơm dễ chịu của những loài hoa ấy. Ở đây, người ta căng ngực thở, và nói như các cư dân địa phương thì "chẳng ai muốn chết".

Khí hậu tương tự như vậy chỉ có ở một địa điểm khác là Hê-lu-an, nằm phía bên kia sông Nin, nhưng tại đó cây cối cũng không tươi tốt bằng ở đây.

Tuy nhiên, với ông Rô-li-xơn, Hê-lu-an gắn liền với một kỉ niệm đau đớn, vì mẹ của Nen qua đời ở đó. Vì lí do đó, ông chọn Mê-đi-nét, và giờ đây, khi ngắm nhìn nét mặt tưng bừng rạng rỡ của cô bé, ông tự nhủ thầm trong lòng rằng, trong thời gian tới, ông sẽ mua ở đây một mảnh đất có cả vườn tược, sẽ dựng lên trên đó một ngôi nhà đầy tiện nghi theo kiểu Anh, và sẽ về đây, về miền đất lành này, để nghỉ ngơi trong tất cả những kì nghỉ phép mà ông có thể có được, và rồi sau khi đã kết thúc công vụ ở kênh đào, thậm chí ông sẽ về ở hẳn tại đây.

Dù sao, đó cũng mới chỉ là kế hoạch cho một tương lai xa và chưa hoàn toàn chắc chắn. Trong khi đó, từ lúc đặt chân tới đây, lũ trẻ lùng sục mọi chỗ như hai chú ruồi, vì chúng muốn ngắm nghía tất cả các căn lều cùng lũ lừa và lạc đà mà công ti Cúc đã thuê tại chỗ, ngay trước bữa cơm. Song hoá ra rằng lũ súc vật hiện đang ở trên bãi chăn cách xa đấy, nên mãi ngày mai mới có thể thấy chúng được. Ngược lại, bên cạnh căn lều của ông Rô-li-xơn, Nen và Xtas rất vui mừng được gặp lại Kha-mix, con trai Kha-đi-gi, một người quen tốt bụng của chúng từ Port Xai-đơ. Anh ta không thuộc đám gia nhân do công ti Cúc thuê, thậm chí ông Rô-li-xơn còn ngạc nhiên khi gặp anh ta ở En Mê-đi-ne, song vì trước đây ông vẫn sử dụng anh ta làm người mang dụng cụ, nên giờ đây ông cũng dùng anh ta làm kẻ sai vặt.

Bữa cơm chiều thật thịnh soạn, vì ông lão Cốp-tơ, người đã nhiều năm liền đảm nhiệm chức đầu bếp trong công ti Cúc, muốn biểu diễn tài nghệ của mình. Bọn trẻ kể lại chuyện người mới quen trong khi đi đường là hai viên sĩ quan, điều này khiến ông Rô-li-xơn rất quan tâm, vì anh ruột của ông là Ri-sác, có vợ là chị của bác sĩ Cle-ry, quả thực đã sinh sống nhiều năm tại Ấn Độ. Đôi vợ chồng ấy không có con, nên ông bác nọ rất yêu quý cô cháu gái bé nhỏ mà ông ta chỉ được biết chủ yếu qua các bức ảnh, và trong tất cả mọi bức thư ông đều thăm hỏi kĩ lưỡng về cô bé. Cả hai ông bố cũng rất buồn cười về lời mời đi Mom-ba-xa mà Xtas nhận được từ đại uý Glen. Cậu bé coi đó là lời mời nghiêm túc và cương quyết tự hứa với mình rằng, khi nào đó, cậu sẽ tới thăm người bạn mới quen ở bên kia đường xích đạo. Mãi sau, ông Ta-rơ-cốp-xki phải giải thích cho em biết rằng các quan chức người Anh không bao giờ làm việc lâu tại một chỗ, vì khí hậu châu Phi rất độc, và trước khi Xtas kịp lớn lên thì hẳn là đại uý đã thay đổi nhiệm sở tới mười lần rồi, hoặc đã không còn trên cõi đời này nữa cũng nên.

Sau bữa ăn, cả nhà bước ra trước lều, nơi gia nhân đã bầy sẵn cái ghế vải gấp, đồng thời chuẩn bị riêng cho người lớn những bình xi-phông chứa nước khoáng và rượu brandy.

Đêm đã buông xuống, nhưng là đêm rất ấm áp, và vì đúng tiết rằm, nên trời sáng như ban ngày. Những bức tường trắng của các toà nhà trong thành phố đối diện với khu lều sáng lên mầu xanh mờ mờ, những vì sao long lanh trên bầu trời, trong không khí lan toả mùi hương hoa hồng, mùi cây xiêm gai và mùi hoa vòi voi.

Thành phố đã say ngủ. Trong sự tĩnh mịch của đêm thảng hoặc mới có vài tiếng kêu của lũ sếu, diệc và hồng hạc đang bay từ phía sông Nin về phía Cai-rô-un. Bỗng chợt có tiếng chó sủa rất lâu, trầm, tiếng sủa khiến Nen và Xtas kinh ngạc, bởi hình như nó vang ra từ căn lều mà chúng chưa vào thăm, căn lều dùng để chứa yên cương, dụng cụ và các thứ đồ dùng đi đường các loại.

- Con chó này hẳn phải to lắm! Ta đi xem nó đi!

- Xtas nói.

Ông Ta-rơ-cốp-xki bắt đầu cười thành tiếng, còn ông Rô-li-xơn thì cũng vừa cười, vừa gẩy tàn thuốc từ điếu xì gà:

- Thôi được! Chẳng có cách nào giữ kín được! Rồi quay sang phía lũ trẻ:

- Ngày mai, các con biết đấy, là ngày lễ Giáng sinh, con chó này sẽ là món quà bất ngờ mà bác Ta-rơ-cốp-xki dành để tặng Nen, nhưng vì cái điều bất ngờ đã bắt đầu sủa, nên ba buộc phải thông báo ngay từ hôm nay.

Nghe thấy thế, trong chớp mắt Nen trèo lên đầu gối của ông Ta-rơ-cốp-xki và ôm chầm lấy cổ ông, rồi tiếp đó cô bé nhảy sang đầu gối cha:

- Cha ơi, con sung sướng quá! Con sung sướng quá đi mất!

Những cái ôm và cái hôn dường như bất tận. Mãi sau, khi đã đứng xuống đất trên đôi chân của mình, Nen mới bắt đầu nhìn vào mắt ông Ta-rơ-cốp-xki:

- Bác Ta-rơ-cốp-xki...

- Gì cơ, Nen?

- Nếu như cháu đã biết rằng có nó ở đó, thì cháu có được phép nhìn nó một chút ngay hôm nay không hở bác?

- Tôi biết mà, - ông Rô-li-xơn giả vờ phẫn nộ kêu lên, - cái con ruồi con này chẳng bao giờ chịu để yên khi nghe tin mới.

Còn ông Ta-rơ-cốp-xki quay lại phía con trai của Kha-đi-gi và bảo:

- Kha-mix, dẫn chó ra đây.

Cậu thanh niên Xu-đan biến vào sau căn lều dùng làm bếp và một lát sau lại xuất hiện, dắt theo một con vật to tướng có đeo vòng cổ.

Nen thốt nhiên lùi lại.

- Ối! - Cô bé kêu lên, túm lấy tay cha. Còn Xtas thì lại hăng hái:

- Đấy là sư tử chứ đâu phải là chó.

- Tên nó là Xa-ba (sư tử). - Ông Ta-rơ-cốp-xki đáp. Nó thuộc giống maxtif, là giống chó to nhất trên thế giới. Con này mới được hai tuổi, nhưng quả là to.Đừng sợ, Nen, nó lành như một chú cừu non thôi mà. Nào, can đảm lên! Thả nó ra, Kha-mix!

Kha-mix buông dây vòng cổ mà anh ta vẫn giữ, con chó thấy được tự do, liền ve vẩy đuôi, sán lại ông Ta-rơ-cốp-xki, người mà trước đó nó đã quen biết và sủa lên vui sướng.

Bọn trẻ kinh ngạc ngắm cái đầu tròn với đôi môi trễ của con chó, ngắm nghía những cái chân đồ sộ, và thân hình với bộ lông màu vàng nhạt thật giống dáng sư tử dưới ánh trăng. Trong đời, quả thực chúng chưa từng gặp một con vật nào tương tự như thế.

- Với một con chó thế này có thể đi xuyên suốt châu Phi một cách an toàn. - Xtas thốt lên.

- Con hãy hỏi thử xem liệu nó có thể mang được tê giác về theo mệnh lệnh hay không? - Ông Ta-rơ-cốp-xki bảo.

Thực ra Xa-ba không thể trả lời câu hỏi đó, song nó vẫy đuôi mỗi lúc một vui vẻ hơn và sán vào những người ngồi đó một cách chân thành đến nỗi Nen hết sợ hãi mà bắt đầu vuốt ve đầu nó.

- Xa-ba, Xa-ba đáng yêu, Xa-ba quý mến!

Ông Rô-li-xơn cúi xuống nâng đầu con chó lên hướng vào mặt cô bé và nói:

- Xa-ba, hãy nhìn cho kĩ cô bé này. Đây là cô chủ của mày. Mày phải vâng lời và phải bảo vệ cô chủ, hiểu chưa?

- Gâu! - Xa-ba liền đáp lại bằng giọng trầm, dường như quả thực nó hiểu được điều người ta nói.

Thậm chí nó còn hiểu rõ hơn là người ta tưởng, vì nhân lúc đầu cao gần ngang với khuôn mặt cô bé, nó dùng cái lưỡi rộng bản của mình liếm cái mũi nho nhỏ và đôi má cô bé để ra điều bày tỏ lòng thành kính của mình.

Mọi người phá lên cười. Nen phải vào lều để rửa mặt. Mười lăm phút sau quay trở ra, cô bé thấy Xa-ba đang đặt chân lên vai Xtas, còn cậu bé thì còng người dưới sức nặng của nó. Con chó cao hơn cậu bé một cái đầu.

Đã tới lúc đi nghỉ, nhưng cô bé xin phép được chơi nửa giờ nữa để làm quen thân hơn với người bạn mới. Sự quen biết lẫn nhau diễn ra rất dễ dàng, đến nỗi chẳng mấy chốc, ông Ta-rơ-cốp-xki đã có thể đặt Nen ngồi bỏ chân một bên trên lưng con chó và đỡ lấy cô bé phòng khi nó ngã, rồi bảo Xtas cầm cổ dề dắt chó đi. Cô bé cưỡi chó như vậy tới mười mấy bước, sau đó cả Xtas cũng thử cưỡi lên lưng con "ngựa" đặc biệt này, nhưng "ngựa" ngồi xệp hai chân sau xuống, khiến chú bé bất ngờ bị tuột xuống mặt cát gần đuôi chó.

Đến lúc bọn trẻ phải đi nghỉ, thì chợt từ phía xa xa, trên bãi chợ sáng ánh trăng, hiện ra hai bóng trắng tiến dần lại phía khu lều.

Xa-ba vốn hiền lành từ nãy đến giờ bỗng bắt đầu gầm gừ một cách dữ tợn, khiến cho Kha-mix, theo lệnh ông Rô-li-xơn, phải tóm cổ dề giữ chặt lấy nó. Trong khi đó hai người đàn ông, mặc áo choàng kín đầu, đã dừng lại trước cửa lều.

- Ai đấy? - Ông Ta-rơ-cốp-xki hỏi.

- Chúng tôi là người quản lạc đà ạ. - Một trong hai người mới đến lên tiếng đáp.

- A, I-đrix và Ghe-bơ-rơ đấy à? Các anh muốn gì?

- Chúng tôi đến để hỏi xem ngày mai chúng tôi có cần thiết cho ngài hay chăng?

- Không. Ngày mai và ngày kia là những ngày lễ lớn, chúng tôi không thể đi tham quan vào những ngày ấy được. Ngày kìa các anh hãy đến vào buổi sáng.

- Xin cảm ơn các ngài.

- Lạc đà của các anh có tốt không? - Ông Rô-li-xơn hỏi.

- Tuyệt vời ạ!(1) - I-đrix đáp - Những con lạc đà có bướu nhiều mỡ và hiền lành như cừu. Nếu không thì Cúc đã không thuê của chúng tôi.

- Chúng có lắc nhiều lắm không?

- Thưa ngài, có thể đặt một nắm đậu lên lưng từng con mà không một hạt nào bị rơi xuống trong khi chúng chạy với tốc độ nhanh nhất.

- Đã nói khoác thì nói khoác kiểu Ả Rập! - Ông Ta-rơ-cốp-xki bật cười nói.

- Hoặc theo kiểu Xu-đan. - Ông Rô-li-xơn thêm.

Trong lúc đó, I-đrix và Ghe-bơ-rơ đứng yên như hai cây cột màu trắng, nhìn chòng chọc vào Xtas và Nen. Mặt trăng soi sáng hai khuôn mặt rất sẫm màu của họ, trong ánh trăng nom họ như được đúc bằng đồng. Dưới vành khăn trắng, tròng trắng của mắt họ ánh lên màu lục nhạt.

- Chào các anh! - Ông Rô-li-xơn chào.

- Cầu đức A-la canh giữ cho các ngài, đêm cũng như ngày.

Nói xong họ cúi chào rồi đi. Tiễn chân họ là tiếng gầm gừ trầm trầm của Xa-ba tựa như tiếng sấm xa xa, rõ ràng là nó không thích hai người đàn ông Xu-đan này chút nào hết.

--- ------ ----

1. Nguyên văn: Bismillach! - Thán từ mà người Ả Rập hay dùng để biểu lộ sự thán phục.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------

Suốt mấy ngày tiếp theo đó không có cuộc đi chơi nào. Chiều tối hôm lễ Giáng sinh, khi trên bầu trời hiện ra vì sao đầu tiên, trong lều của ông Rô-li-xơn hàng trăm ngọn nến bừng sáng trên cái cây dành cho Nen. Thực ra, cây thông được thay bằng một cây trắc bách diệp chặt ở trong một cái vườn tại En Mê-đi-nét, tuy nhiên, Nen vẫn tìm thấy giữa những cành cây vô khối kẹo bánh và một con búp bê tuyệt đẹp mà cha đã mua cho cô bé từ Cai-rô, còn Xtas thì được nhận khẩu súng săn của Anh mà em hằng khao khát. Em còn được cha trao cho đạn, nhiều thứ dụng cụ dùng cho thợ săn và yên ngựa. Nen không thể ngồi nóng chỗ vì sung sướng, còn Xtas, dù vẫn cho rằng, ai đã làm chủ một khẩu súng săn thật sự thì cũng phải có được sự đúng đắn tương ứng, song cũng vẫn không sao kìm giữ nổi - và chọn lúc quanh lều vắng vẻ, em liền trồng cây chuối và đi vòng quanh lều bằng hai tay. Nghệ thuật này em đã từng luyện tập rất kĩ ở trường học tại Port Xai-đơ; em làm thành thạo đến mức đáng kinh ngạc và nhiều lần đã khiến Nen thích thú, thậm chí cô bé còn ghen với Xtas một cách chân thành về chuyện đó nữa.

Đêm Lễ Giáng sinh và ngày đầu tiên của lễ trôi qua với bọn trẻ một phần trong lễ cầu kinh ở nhà thờ, một phần để ngắm nghía những thứ quà tặng mà chúng nhận được, và phần nữa dành để huấn luyện Xa-ba. Người bạn mới này tỏ ra sáng dạ không ngờ. Ngay trong ngày đầu tiên, nó đã học được cách đưa chân cho người ta bắt, mang khăn mùi soa lại cho chủ theo mệnh lệnh - tuy nó không dễ dàng trao trả những chiếc khăn ấy - và hiểu được rằng việc dùng lưỡi liếm mặt Nen là việc làm không xứng đáng với một con chó lịch sự. Với một ngón tay đặt lên cánh mũi, Nen giảng giải cho nó nhiều bài học khác nhau, còn nó vẫy đuôi để chứng tỏ rằng nó rất chăm chú lắng nghe và thâu nhận vào đáy lòng những bài học ấy. Trong những chuyến đi dạo trên quảng trường đầy cát của thành phố, tiếng tăm của Xa-ba tại Mê-đi-nét mỗi giờ một lớn lên, thậm chí, cũng như mọi thứ vinh quang khác, cái tiếng tăm này bắt đầu có mặt khó chịu của nó, bởi nó kéo theo hàng đàn lũ trẻ con Ả Rập. Ban đầu chúng còn đứng xa xa, nhưng sau đó, bạo dạn hơn vì sự hiền lành của con "quái vật", chúng mỗi lúc một tiến lại gần, và cuối cùng ngồi vây chặt quanh lều đến nỗi không ai còn có thể cử động thoải mái được nữa.Thêm nữa, vì đứa trẻ Ả Rập nào cũng hít mía từ sáng tới đêm, nên bọn trẻ kéo theo hàng binh đoàn ruồi nhặng; bọn này không những chỉ gây khó chịu mà thậm chí còn nguy hiểm nữa, bởi chúng truyền bệnh đau mắt Ai Cập. Vì vậy, gia nhân buộc phải xua bọn trẻ con đi, nhưng Nen đứng ra bảo vệ chúng, và cô bé còn phân phát he-lou tức là kẹo bánh, cho bọn trẻ ít tuổi nhất, vì thế Nen rất được chúng yêu mến, và dĩ nhiên, cũng khiến cho số lượng đám trẻ con tăng lên khá nhiều.

Ba ngày sau bắt đầu những chuyến đi chơi chung, thường là một phần bằng tàu hoả chạy trên đường ray hẹp - những đường ray mà người Anh đã xây dựng khá nhiều ở Mê-đi-nét Em Phai-um - một phần bằng lừa, và đôi khi bằng lạc đà. Hoá ra, mặc dù trong những lời ca ngợi mà I-đrix dành cho những con vật này dẫu có nhiều phần khoác lác, bởi không những hạt đậu mà thậm chí ngay cả con người cũng chật vật lắm mới ngồi yên được trên lưng chúng, song vẫn có phần đúng. Số lạc đà này dĩ nhiên là thuộc loại lạc đà để cưỡi, và vì chúng được nuôi dưỡng khá đầy đủ bằng ngô địa phương hoặc ngô Xi-ri nên bướu của chúng rất nhiều mỡ và chúng chạ y rất hăng, đến mức cần phải ghìm bớt chúng lại. Hai gã người Xu-đan là I-đrix và Ghe-bơ-rơ đã lấy được lòng tin và tình cảm của mọi người (mặc dù mắt họ đôi khi loáng lên những ánh hoang dã), và điều đó chủ yếu là do sự tuân thủ hết mực cùng sự chăm lo rất tận tình dành cho Nen. Ghe-bơ-rơ lúc nào cũng có vẻ mặt tàn ác và hơi thú vật, song I-đrix thì nhanh chóng nhận ra rằng cô bé là nhân vật được yêu quý nhất trong cả đoàn, nên mỗi khi có dịp là y lại tìm cách chứng tỏ rằng y lo lắng cho cô chủ hơn lo cho chính "linh hồn" của mình. Dĩ nhiên ông Rô-li-xơn hiểu được rằng, thông qua Nen, I-đrix muốn lần đến túi tiền của ông, nhưng vốn cho rằng, trên đời này không có một ai có thể không yêu mến cô con gái một của ông, ông vẫn biết ơn y và không tiếc tiền.

Trong vòng năm ngày, họ đã đi tham quan những di tích của thành phố cổ đại Crô-cô-đi-lô-pô-lix nằm gần thành phố, nơi đó ngày xưa những người Ai Cập thờ một vị thần tên là Xê-bắc, thần có mình người nhưng đầu cá sấu. Chuyến du lịch tiếp đó là chuyến đi tới kim tự tháp Ha-na-rơ và thăm các di tích mê cung, song chuyến đi dài nhất và toàn bằng lạc đà là chuyến đi tới hồ Cai-rô-un. Bờ phía bắc của hồ là sa mạc mênh mông, trên đó, ngoài di tích của các thành phố thuộc Ai Cập cổ đại, không còn một dấu vết nào khác của sự sống. Ngược lại, về phía Nam là một miền đất phì nhiêu và tuyệt vời; ngay bên bờ hồ, mọc đầy thạch thảo và lau sậy, là hàng đàn bồ nông, hồng hạc, diệc, ngỗng trời và vịt trời. Tại đây, Xtas có dịp để biểu diễn tài thiện xạ của mình. Bằng khẩu súng săn thông thường bắn đạn chì không có rãnh khương tuyến cũng như bằng khẩu súng săn bắn đạn viên với nòng có rãnh xoắn, những phát đạn của em tuyệt vời đến nỗi sau mỗi tiếng nổ dường như đều nghe thấy tiếng tắc lưỡi kinh ngạc của I-đrix và những người Ả Rập chèo thuyền, và những con chim bị bắn rơi xuống nước bao giờ cũng đi kèm với tiếng kêu không đổi: Tuyệt! Tuyệt vời!

Những người dân Ả Rập đoán chắc rằng ở phía bờ "sa mạc" bên kia có rất nhiều chó sói và linh cẩu, và chỉ cần ném một xác cừu ra cồn cát là có thể chắc chắn săn được thú rồi. Do nghe theo những lời cam đoan ấy, ông Ta-rơ-cốp-xki và Xtas thức hai đêm liền ngoài sa mạc, gần các di tích của Đi-ne. Nhưng con cừu đầu tiên bị dân Bê-đu-in cuỗm mất, ngay sau khi những người thợ săn vừa quay gót, còn con cừu thứ hai chỉ dụ được mỗi một con lang núi thọt chân và liền bị Xtas hạ ngay. Những chuyến đi săn tiếp theo phải tạm thời hoãn lại, vì hai kĩ sư đã đến lúc phả i lên đường đi kiểm tra các công trình thuỷ lợi tiến hành ở sông Ba-hơ-rơ Du-xép,gần En La-hum, về phía Đông Nam Mê-đi-nét.

Ông Rô-li-xơn chỉ chờ cô O-li-vi-ơ đến. Chẳng may, thay vì cô gia sư là một lá thư của bác sĩ, trong đó báo tin rằng, những vết han đỏ trên mặt lại xuất hiện sau khi bị bọ cạp đốt, và trong một thời gian dài nữa, người bệnh không thể rời khỏi Port Xai-đơ được. Tình thế trở nên khá rắc rối. Mang theo cả bọn trẻ, bà Đi-na, lều trại cùng toàn bộ đám gia nhân là điều không thể thực hiện được, chí ít cũng vì lí do đơn giản là các kĩ sư phải nay đây mai đó, và thậm chí họ có thể được lệnh phải đi đến tận kênh đào lớn I-bra-him. Vì vậy, sau một cuộc bàn bạc ngắn, ông Rô-li-xơn quyết định để Nen ở lại dưới sự chăm sóc của bà Đi-na và Xtas, cùng với viên đại diện cho toà lãnh sự Italia và viên thống đốc của địa phương, mà trước đó ông đã làm quen. Ông cũng hứa với Nen - cô bé tiếc vì phải chia tay với cha - rằng cùng với ông Ta-rơ-cốp-xki, ông sẽ từ những địa điểm làm việc ở gần đấy ghé về Mê-đi-nét, hoặc nếu tìm thấy gì đáng tham quan, thì họ sẽ gọi bọn trẻ đến nơi ấy.

- Ba và bác sẽ mang theo Kha-mix, - ông nói, và nếu cần thiết thì sẽ cử anh ta trở lại đón các con. Bà Đi-na lúc nào cũng phải đi kèm Nen, nhưng vì với bà Nen có thể làm mọi chuyện theo ý mình, nên cháu, Xtas, cháu phải canh chừng cho cả hai nhé.

- Bác có thể tin chắc rằng, - Xtas đáp, - cháu sẽ trông nom em Nen như em gái của cháu. Em có Xa-ba, cháu có khẩu súng săn, thách kẻ nào dám đụng tới em.

- Không phải bác muốn nói chuyện đó. - Ông Rô-li-xơn nói. - Chắc chắn là các con sẽ không cần tới Xa-ba cũng như khẩu súng săn. Chỉ cần cháu làm ơn trông chừng cho em khỏi mệt nhọc quá, và cẩn thận chớ để cho em bị cảm lạnh. Bác đã yêu cầu ông lãnh sự, hễ khi nào em cảm thấy không được khoẻ lắm thì ông ta sẽ mời bác sĩ từ Cai-rô đến. Bác và ba cháu sẽ thường xuyên phái Kha-mix về đây để lấy tin tức. Ngài thống đốc của địa phương cũng sẽ tới thăm các con. Thêm nữa, bác đồ rằng, ba cháu và bác sẽ chẳng khi nào vắng mặt lâu lâu.

Ông Ta-rơ-cốp-xki cũng không tiếc lời căn dặn Xtas. Ông nói với em rằng Nen không cần tới sự bảo vệ của em, vì rằng ở Mê-đi-nét cũng như trong toàn tỉnh En Phai-um không có những người dã man, cũng không hề có thú dữ. Thật là một chuyện tức cười và không xứng đáng với một thiếu niên chẳng bao lâu sẽ hết tuổi mười bốn nếu nghĩ như thế. Chỉ cần em ân cần và thận trọng, chớ tự ý một mình, hoặc cùng với Nen tiến hành một chuyến du lịch nào, nhất là bằng lạc đà, vì việc cưỡi lạc đà bao giờ cũng khiến cho người ta mệt mỏi.

Nghe thấy thế, Nen làm ra vẻ buồn bã, khiến ông Ta-rơ-cốp-xki phải an ủi cô.

- Dĩ nhiên, - ông vừa nói vừa vuốt mái tóc cô bé - các con có thể cưỡi lạc đà, nhưng chỉ khi nào có mặt chúng ta, hoặc khi đến với chúng ta, nếu Kha-mix được phái đến đón các con.

- Thế chúng con không được phép du lịch, dù chỉ là những chuyến đi chút chút ngần này hay sao ạ? - Cô bé hỏi.

Và cô bé đưa ngón tay nhỏ bé chỉ mức độ bé nhỏ của những chuyến du lịch ấy. Cuối cùng hai ông bố đồng ý rằng, chúng có thể đi chơi bằng lừa, chứ không phải bằng lạc đà, và không được đến các di tích cổ, nơi chúng dễ dàng lọt xuống một cái hang hốc nào đó, mà chỉ được phép đi chơi trên đường cái tại những cánh đồng lân cận, và tới những khu vườn nằm ngoài thành phố mà thôi.

Người thông ngôn cùng với một nhân viên phục vụ của công ti Cúc sẽ có nhiệm vụ luôn luôn đi kèm bọn trẻ.

Sau đó, hai ông ra đi, nhưng chỉ đi gần thôi, đến Ha-ma-rét En Mac-ta, nên chỉ sau mười giờ đồng hồ họ lại quay trở về Mê-đi-nét nghỉ đêm. Chuyện đó lặp đi lặp lại trong vài ngày, cho tới khi họ kiểm tra hết công việc ở những địa điểm gần nhất. Sau đó, khi công việc ở xa hơn, nhưng vẫn chưa phải ở những địa phương quá xa, thì đêm đêm, Kha-mix quay trở về, và sáng sớm hôm sau đưa Xtas và Nen tới những thị trấn nhỏ, mà cha chúng muốn cho chúng tham quan một chốn nào đó thú vị. Phần lớn thì giờ ban ngày, bọn trẻ sống cùng với cha, gần tối, chúng quay trở về Mê-đi-nét, về lại khu lều trại. Cũng có những ngày Kha-mix không quay lại, và khi đó, mặc dù có Xtas và Xa-ba làm bạn - càng ngày cô bé càng phát hiện ra ở con vật những đứ c tính mới - song Nen vẫn cứ trông ngóng người liên lạc ấy đến. Cứ như thế, thời gian trôi đi đến lễ Ba Vua, khi cả hai kĩ sư quay về Mê-đi-nét nghỉ lễ.

Hai ngày sau họ lại ra đi, nói rằng lần này sẽ đi lâu hơn, và có lẽ sẽ tới tận Be-ni Xu-ép, từ đó tới En Pha-khen, nơi bắt đầu con kênh đào cùng tên rồi đi mãi về phía Nam dọc theo sông Nin.

Vì vậy, bọn trẻ con vô cùng ngạc nhiên, khi vào hôm thứ ba, quãng chừng mười một giờ trưa, chúng thấy Kha-mix xuất hiện tại Mê-đi-nét. Xtas là người đầu tiên gặp anh ta khi em đi tới bãi chăn nuôi ngắm lạc đà. Kha-mix đang nói chuyện với I-đrix và chỉ nói vắn tắt với Xtas rằng anh ta về để đón em và Nen, rằng anh ta sẽ tới ngay khu lều để báo rõ địa điểm mà các ông chủ bảo bọn trẻ phải đến. Cậu bé lập tức lao đi, mang tin vui về cho Nen, và gặp Nen đang đùa nghịch với Xa-ba trước lều.

- Em biết không? Kha-mix tới rồi! - Ngay từ xa cậu bé đã kêu lên.

Thế là Nen bắt đầu nhảy cẫng cả hai chân lên, như kiểu bọn con gái thường nhảy dây.

- Ta đi đi! Ta đi đi!

- Phải, chúng ta sẽ lên đường, và đi xa đấy.

- Đi đâu hả anh? - Cô bé hỏi, lấy hai tay gạt mớ tóc xoã vào mắt.

- Không biết. Kha-mix bảo rằng lát nữa sẽ tới báo.

- Sao anh biết là đi xa?

- Anh nghe I-đrix nói rằng, ông ta và Ghe-bơ-rơ sẽ cùng đoàn lạc đà lên đường ngay lập tức. Thế có nghĩa là chúng ta sẽ đi tàu lửa và sẽ gặp lạc đà tại nơi hai ba đón chú ng ta, rồi từ đó chắc chúng ta sẽ đi tham quan ở một nơi nào khác.

Cô bé nhảy liên tục, những sợi tóc xoà xuống không những che riêng mắt mà cả mặt cô bé, còn đôi chân thì nẩy bật trên mặt đất như bằng cao su vậy.

Mười lăm phút sau, Kha-mix tới, cúi chào hai trẻ:

- Thưa cậu chủ, - y nói với Xtas, - ba giờ nữa chúng ta sẽ đi chuyến tàu đầu tiên.

- Tới đâu?

- Tới En Ga-rắc Xun-ta-ni, rồi từ đó, cùng với các ông chủ đi lạc đà tới Va-đi Rai-an.

Trái tim Xtas rộn lên vì vui sướng, song đồng thời những lời của Kha-mix cũng khiến em ngạc nhiên. Em biết rằng, Va-đi Rai-an là một vành đai rộng lớn của các quả đồi cát nổi lên trên sa mạc Li-bi, về phía Nam và Tây Nam Mê-đi-nét, trong khi đó ông Ta-rơ-cốp-xki và ông Rô-li-xơn khi ra đi lại nói rằng họ đi theo hướng hoàn toàn ngược hẳn lại, tức là về phía sông Nin.

- Có chuyện gì xảy ra vậy? - Xtas hỏi. - Thế cha tôi và bác Rô-li-xơn không phải đang ở Be-ni Xu-ép mà lại ở En Ga-rắc ư?

- Sự tình lại diễn ra thế đấy ạ! - Kha-mix đáp.

- Thế sao cha tôi lại bảo viết thư cho Người thì gửi về En Pha-khen?

- Các ông chủ viết cả trong bức thư này lí do tại sao lại đang ở En Ga-rắc. Y tìm trong người bức thư một lúc, rồi kêu lên:

- Ôi, Đấng tiên tri! Tôi để quên bức thư trong cái túi ở chỗ những tay quản lạc đà rồi. Tôi phải đi ngay kẻo I-đrix và Ghe-bơ-rơ đi mất thì hỏng.

Và y chạy ngay tới chỗ những người chủ lạc đà, trong khi đó, bọn trẻ cùng với bà Đi-na chuẩn bị lên đường. Vì có lẽ sẽ là một chuyến đi chơi dài, nên bà Đi-na gói ghém vài chiếc áo dài, một ít đồ lót và mang một bộ quần áo ấm hơn cho Nen. Xtas cũng sửa soạn cho mình, em không quên mang theo khẩu súng và đạn dược, vì hi vọng rằng sẽ đụng độ với lũ chó sói và linh cẩu tại những gò cát Va-đi Rai-an.

Mãi một tiếng đồng hồ sau, Kha-mix mới quay lại, người đẫm mồ hôi, thở hổn hà hổn hển, đến nỗi một lúc lâu không nói được nên lời.

- Tôi không tìm thấy những người chủ lạc đà nữa, - y nói, - tôi chạy đuổi theo họ, nhưng chẳng được ích gì. Song cũng chẳng sao, đến En Ga-rắc chúng ta sẽ tìm được cả thư lẫn các ông chủ thôi mà. Liệu bà Đi-na có cần phải đi với chúng ta không ạ? Có thể tốt hơn là bà ấy ở lại nhà. Các ông chủ có nói gì tới bà ta đâu?

- Nhưng khi ra đi ông chủ bảo rằng lúc nào bà Đi-na cũng phải đi cùng với cô chủ, vậy thì bây giờ bà ấy cũng sẽ đi cùng.

Kha-mix khom người xuống, đặt tay lên trái tim và nói:

- Chúng ta phải mau lên, thưa ông chủ, nếu không tàu hoả sẽ chạy mất.

Đồ đạc sẵn sàng nên cả bọn tới ga vừa kịp giờ. Khoảng cách từ Mê-đi-nét tới Ga-rắc không vượt quá ba mươi cây số, nhưng tầu hoả trên con đường nhánh nối hai địa điểm đó chạy rất chậm và lại đỗ rất nhiều lần. Giá như có một mình, thì hẳn là Xtas đã chọn cách đi lạc đà chứ không đời nào chịu ngồi tàu, vì em tính rằng, I-đrix và Ghe-bơ-rơ, xuất phát trước tàu hoả hai tiếng đồng hồ, hẳn sẽ đến En Ga-rắc trước chúng. Song, đối với Nen, con đường đó quá dài, nên anh chàng đỡ đầu trẻ tuổi, người đã ghi tâm khắc cốt những lời căn dặn của hai ông bố, không muốn làm cô bé bị mệt.

Và nói cho cùng, thời gian trôi qua đối với hai đứa cũng nhanh đến nỗi, ngoảnh đi ngoảnh lại, chúng đã tới Ga-rắc rồi.

Cái ga xép, mà những người Anh thường dùng làm nơi xuất phát đi thăm Va-đi Rai-an, vắng tanh vắng ngắt. Bọn trẻ chỉ gặp có vài người đàn bà mang những giỏ quýt, hai người đàn ông Bê-đu-in,những chủ lạc đà không quen biết, cùng I-đrix và Ghe-bơ-rơ với bảy con lạc đà, trong đó một con thồ nặng hàng. Còn chẳng thấy bóng dáng ông Ta-rơ-cốp-xki và ông Rô-li-xơn đâu cả.

Nhưng I-đrix giải thích sự vắng mặt của họ như sau:

- Hai ông chủ đi vào sa mạc để dựng lều mà người ta đã chở từ Et-xa tới, các ông chủ ra lệnh bảo chúng ta đi sau.

- Làm sao ta có thể tìm được họ trong vùng đồi núi này? - Xtas hỏi.

- Các ông chủ đã phái tới đây những người dẫn đường để đưa chúng ta đi.

Vừa nói thế hắn vừa trỏ hai người Bê-đu-in. Người già hơn trong hai người đó cúi chào, đưa tay lau con mắt độc nhỡn, và nói:

- Lạc đà của chúng tôi không béo bằng lạc đà của các ông, nhưng chạy chẳng kém đâu. Chỉ một giờ đồng hồ là chúng ta tới nơi thôi.

Xtas rất vui thích vì sẽ được ngủ đêm giữa sa mạc, nhưng Nen cảm thấy hơi thất vọng, vì trước đó cô bé cứ đinh ninh rằng sẽ được gặp cha ở Ga-rắc.

Lúc đó, viên trưởng ga, một người Ai Cập ngái ngủ, đội mũ phê-đơ màu đỏ và mang kính đen, tiến lại gần, và vì chẳng có việc gì làm, ông ta bắt đầu ngắm nghía bọn trẻ người Âu.

- Đây là con của các người Anh mà sáng hôm nay đã mang súng săn đi trước vào sa mạc. - I-đrix vừa nói vừa đặt Nen lên yên.

Đưa khẩu súng cho Kha-mix cầm, Xtas leo lên ngồi bên Nen, vì cái yên rộng rãi, có dáng một cái bành, có điều là không có mái che. Bà Đi-na ngồi sau lưng Kha-mix, những người khác cũng leo lên lạc đà và tất cả lên đường.

Giá như viên trưởng ga dõi theo họ lâu hơn một chút, hắn là ông ta sẽ thấy ngạc nhiên, vì những người Anh mà I-đrix vừa nói tới đã đi thẳng về phía di tích cổ, tức là về phía Nam, còn họ lại hướng về phía Ta-le-a, nghĩa là về phía ngược lại. Song trước đó, viên trưởng ga đã quay về nhà rồi, vì hôm đó không còn đoàn tàu nào tới Ga-rắc nữa.

Đã năm giờ chiều. Thời tiết thật là tuyệt diệu. Mặt trời đã ngả sang bên kia sông Nin và xuống thấp trên sa mạc, chìm vào trong những ráng chiều màu vàng và đỏ rực đang cháy lên ở phía trời Tây. Không khí dường như chứa chan những ánh hồng, khiến mắt người phải nheo lại vì ánh sáng quá thừa thãi. Đồng ruộng nhuốm màu tim tím, còn những rặng núi xa xa, nổi bật trên nền ráng chiều, lại có màu thạch anh tím ngắt. Thế giới mất đi những đường nét thực và dường như chỉ còn là một trò đùa của những ánh sáng từ thiên giới mà thôi.

Khi họ còn đi qua những vùng đồng ruộng xanh tươi có trồng cây thì những người Bê-đu-in dẫn đường cho đoàn lạc đà đi những bước khoan thai, nhưng ngay khi dưới gót chân lạc đà bắt đầu rin rít tiếng cát cứng thì mọi thứ đều thay đổi ngay lập tức.

- Yalla! Yalla!1 - Những tiếng kêu man rợ bỗng rú lên. Đồng thời nghe thấy tiếng rít của những chiếc roi vụt xuống, và đàn lạc đà, chuyển từ nước kiệu sang nước đại, bắt đầu lao đi như một cơn lốc, vó chúng làm bắn tung cát và sỏi sa mạc.

- Yalla! Yalla!

Nước kiệu của lạc đà xóc hơn, còn nước đại bước chạy mà chúng ít khi dùng - lại lắc lư nhiều hơn, nên ban đầu lũ trẻ thích chí với cuộc chạy điên cuồng này. Nhưng sự tròng trành quá nhanh, ngay cả khi chơi đu, cũng dễ khiến cho người ta chóng mặt.

Vì vậy, một lát sau, khi nhịp chạy không hề giảm bớt đi, cô bé Nen bắt đầu thấy quay cuồng trong đầu và hoa mắt.

- Anh Xtas này, tại sao ta lại phóng ác thế anh?

- Cô bé vừa kêu lên vừa quay lại phía người bạn của mình.

- Anh nghĩ rằng bọn họ đã thúc lũ lạc đà chạy quá nhanh, bây giờ không thể hãm bớt chúng lại được. - Xtas đáp.

Song nhận thấy rằng, giờ đây, nét mặt của cô bé hơi tái đi, Xtas bắt đầu gọi những người Bê-đu-in đang phóng như bay phía trước để bảo họ chậm bớt lại. Song tiếng gọi của em chỉ mang lại mỗi một kết quả duy nhất la khiến cho tiếng kêu: Yalla lại vang lên, và đàn súc vật càng tăng thêm tốc độ.

Lúc đầu, cậu bé ngỡ rằng những người Bê-đu-in không nghe thấy tiếng gọi của em, song khi tiếng gọi lần sau cũng không được một lời đáp lại, còn gã Ghe-bơ-rơ phía sau em vẫn không ngừng quất roi vào con lạc đà mà em và Nen đang cưỡi, thì em lại nghĩ rằng, có lẽ không phải do lạc đà hăng máu, mà rõ ràng là do bọn người này đang rất vội vã, vì một nguyên do nào đó không rõ.

Em thoáng nghĩ rằng, có thể do họ đi lạc đường, bây giờ họ muốn rút bớt thời gian đã mất nên họ mới phóng nhanh như thế, vì sợ rằng các ông chủ sẽ quở phạt họ về quá muộn. Song chỉ lát sau em hiểu rằng, điều đó không đúng, bởi lẽ, hẳn là ông Rô-li-xơn sẽ giận hơn nhiều nếu bọn họ làm Nen bị mệt. Vậy thì chuyện này là nghĩa lí gì? Tại sao họ không tuân theo lệnh của em. Trái tim cậu bé bắt đầu nổi lên cơn giận và nỗi lo lắng cho Nen.

- Dừng lại! - Em lấy hết sức thét lên, quay người lại phía Ghe-bơ-rơ.

- Ouxkout (câm mồm)! - Tên Xu-đan quát lên đáp lại. Và chúng tiếp tục phóng đi.

Ở Ai Cập, đêm buông xuống vào khoảng sáu giờ, ráng chiều tắt dần, rồi lát sau trên bầu trời hiện lên vầng trăng to tướng, đỏ bầm vì nhuốm sắc ráng chiều, trải xuống sa mạc làn ánh sáng dìu dịu.

Trong tĩnh mịch, chỉ nghe thấy tiếng thở hồng hộc của lũ lạc đà, tiếng móng chân chúng nện gấp gáp và câm lặng xuống mặt cát, thỉnh thoảng tiếng roi vút. Nen mệt đến nỗi Xtas phải giữ em trên yên. Cứ chốc chốc cô bé lại hỏi đã sắp tới chưa, rõ ràng, em chỉ ước mong làm sao chóng được gặp cha. Nhưng chúng chỉ hoài công dõi nhìn bốn chung quanh. Một giờ trôi qua, rồi giờ nữa, không hề thấy bóng lều trại và đống lửa nào cả.

Lúc ấy, Xtas bất chợt "dựng đứng" tóc trên đầu; em hiểu ra rằng bọn em đã bị bắt cóc.

--- ------ ------ ----

1 Yalla - tiếng kêu thúc giục lạc đà của người Ả Rập.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ---

Quả thực, ông Rô-li-xơn và Ta-rơ-cốp-xki đang trông chờ bọn trẻ, nhưng không phải giữa những đồi cát Va-đi Rai-an, nơi mà họ hoàn toàn không cần và cũng không hề muốn tới làm gì, mà tại một phía khác hẳn, tại thành phố En Pha-khen, trên con kênh cùng tên, nơi họ đang theo dõi những công việc được tiến hành trong những ngày cuối năm. Tính theo đường thẳng, khoảng cách giữa En Pha-khen và Mê-đi-nét vào khoảng bốn mươi lăm cây số. Song do không có đường nối trực tiếp, mà cần phải đi tới En Vax-ta, khiến đường xa gấp đôi, nên khi xem xét cuốn hướng dẫn về đường sắt, ông Rô-li-xơn đã tính toán như sau:

- Kha-mix ra đi vào buổi chiều, - ông nói với ông Ta-rơ-cốp-xki, - ở En Vax-ta, anh ta sẽ đi chuyến tàu chạy từ Cai-rô tới, nghĩa là sáng nay anh ta sẽ tới Mê-đi-nét. Bọn trẻ sẽ gói ghém hành trang chừng một tiếng đồng hồ. Ra đi từ trưa, hẳn chúng sẽ phải đợi chuyến tàu đêm đi dọc sông Nin, nhưng vì tôi không cho phép Nen đi đêm, nên chắc sáng nay chúng nó mới lên đường, và sẽ tới đây một lúc sau khi mặt trời lặn.

- Phải! - Ông Ta-rơ-cốp-xki nói. - Kha-mix phải nghỉ ngơi tí chút, thằng Xtas dẫu bao giờ cũng sốt sồn sột, nhưng nếu nói về cháu Nen, thì có thể tin ở thằng bé được anh ạ. Thêm nữa, tôi cũng đã gửi cho nó mẩu giấy dặn nó không được đi đêm.

- Thằng bé khá lắm, tôi hoàn toàn tin tưởng ở cháu. - Ông Rô-li-xơn đáp.

- Nói thật tình, tôi cũng vậy anh ạ. Tuy có nhiều nhược điểm, song Xtas có tính cách và không bao giờ nói dối, bởi cháu vốn dũng cảm, mà chỉ có bọn hèn nhát mới dối trá mà thôi. Cháu cũng không thiếu nghị lực, và nếu như thỉnh thoảng cháu biết cân nhắc chín chắn, thì tôi nghĩ rằng nó sẽ tự lập được trong cuộc sống.

- Chắc chắn là như vậy rồi. Còn nếu nói chuyện suy nghĩ chín chắn, thì hồi ở tuổi nó anh có chín chắn không?

- Phải thừa nhận là không, - ông Ta-rơ-cốp-xki vừa cười vừa đáp.

- Song, có thể, tôi không quá tự tin như nó.

- Rồi chuyện đó cũng qua thôi. Anh có thể lấy làm hạnh phúc vì có đứa con trai như thế.

- Còn anh thì vì có được một sinh linh dịu ngọt và đáng yêu như Nen.

- Cầu Chúa ban phước lành cho con bé! - Ông Rô-li-xơn xúc động đáp.

Hai người bạn thân siết chặt tay nhau, rồi họ cùng ngồi xem xét lại kế hoạch và bản hạch toán công việc. Công việc đó kéo dài mãi tới chiều.

Sáu giờ tối, lúc màn đêm đã buông xuống, họ có mặt trên sân ga, và vừa đi tản bộ dọc theo đường ke vừa nói tiếp chuyện bọn trẻ.

- Thời tiết tuyệt thật, nhưng hơi lạnh. - Ông Rô-li-xơn cất tiếng. - Không hiểu Nen có mang theo quần áo ấm hay không?

- Xtas hẳn sẽ nhớ điều đó, cả bà Đi-na cũng vậy.

- Tôi tiếc là đã không đi Mê-đi-nét mà lại đưa chúng tới đây.

- Anh có nhớ là chính tôi đã khuyên thế không nào?

- Nhớ chứ. Nhưng giá như từ đây chúng ta không tiếp tục đi xuống phía Nam thì hẳn là tôi đã đồng ý với anh. Tôi tính rằng, việc đi đường sẽ làm chúng ta mất nhiều thời gian, khiến chúng ta ở với bọn trẻ được ít hơn. Cũng xin thú thực với anh là chính Kha-mix đã gợi ý cho tôi nên đưa bọn trẻ tới đây. Anh ta nói với tôi rằng anh ta rất nhớ bọn trẻ và sẽ rất sung sướng nếu được tôi phái đi đón chúng. Thật cũng dễ hiểu vì sao anh ta lại gắn bó với bọn trẻ...

Câu chuyện bị gián đoạn bởi những tín hiệu báo rằng đoàn tàu đang tới gần. Lát sau, trong màn đêm hiện ra cặp mắt màu lửa của đầu máy, đồng thời nghe rõ tiếng còi cùng tiếng thở gấp gáp của nó.

Dẫy toa sáng ánh đèn trườn dọc theo đường ke, rùng rùng rồi dừng lại.

- Tôi chẳng thấy chúng ở cửa sổ nào hết. - Ông Rô-li-xơn nói.

- Có thể chúng nó ngồi phía trong và chắc chúng sẽ ra ngay bây giờ.

Hành khách bắt đầu xuống tầu, nhưng chủ yếu là người Ả Rập, vì ngoài các vườn cọ và xiêm gai ra, En Pha-khen không có gì đáng để tham quan cả. Không thấy bọn trẻ xuống tàu.

- Hoặc là Kha-mix không đi kịp tàu ở En Vax-ta, - ông Ta-rơ-cốp-xki cất tiếng với vẻ hơi bực mình, - hoặc là sau chuyến đi đêm hắn ta ngủ bù, và cả bọn ngày mai mới tới.

- Có thể, - ông Rô-li-xơn đáp với vẻ lo lắng, nhưng cũng có thể là có đứa nào đó bị ốm chăng?

- Nếu thế thì hẳn là Xtas đã đánh điện.

- Biết đâu chúng mình lại sẽ nhận được điện ở khách sạn thì sao.

- Ta đi đi.Nhưng tại khách sạn không hề có tin tức nào đang đợi họ cả. Ông Rô-li-xơn mỗi lúc một thêm lo lắng.

- Anh biết còn có thể thế nào nữa không? - Ông Ta-rơ-cốp-xki nói, - Có thể là, nếu như Kha-mix ngủ quên, y sẽ không thừa nhận với bọn trẻ chuyện đó, mà mãi ngày hôm nay mới đến chỗ chúng bảo rằng ngày mai chúng lên đường. Trước mặt chúng ta chắc y sẽ bào chữa là y không hiểu kĩ mệnh lệnh của chúng ta. Dù sao tôi cũng phải điện cho Xtas đây.

- Còn tôi sẽ điện cho ngài thống đốc của Phai-um.

Lát sau, cả hai bức điện được gửi đi. Tuy vẫn chưa có lí do gì để phải lo lắng, song trong khi chờ trả lời, cả hai kĩ sư đêm đó ngủ không ngon giấc và tờ mờ sáng hôm sau họ đã bật dậy.

Mãi gần mười giờ sáng mới có điện trả lời của ông thống đốc với nội dung như sau:

"Đã kiểm tra ở ga. Bọn trẻ đã đi Ga-rắc En Xun-ta-ni ngày hôm qua".

Để đoán được cái tin tức này đã khiến hai ông bố kinh ngạc và giận dữ biết chừng nào. Họ nhìn nhau một lúc lâu dường như không hiểu được lời lẽ của bức điện, sau đó ông Ta-rơ-cốp-xki, vốn là người nóng nẩy, đập tay xuống bàn nói:

- Đây hẳn là sáng kiến của thằng Xtas thôi, nhưng tôi sẽ dạy cho nó phải từ bỏ những sáng kiến kiểu này đi!

- Tôi không ngờ nó lại làm việc đó. - Ông bố của Nen nói. Rồi lát sau ông hỏi:

- Thế còn Kha-mix thì sao?

- Hoặc là hắn không gặp bọn trẻ và không biết nên làm thế nào, hoặc là hắn cũng cùng đi với chúng.

- Tôi cũng nghĩ thế.

Một giờ sau, họ lên đường đi Mê-đi-nét. Tại khu lều trại, họ được biết rằng cả bọn chủ lạc đà cũng không có mặt, còn tại ga người ta khẳng định rằng Kha-mix cùng đi với bọn trẻ tới En Ga-rắc.

Mãi đến ga này, cái sự thật kinh khủng mới bắt đầu lộ ra.

Viên trưởng ga, chính người Ai Cập ngái ngủ mang cặp kính đen và đội mũ phê-đơ màu đỏ ấy, trả lời cho họ biết, rằng ông ta trông thấy một đứa bé trai chừng mười bốn tuổi, cùng một em gái chừng tám tuổi và một người đàn bà da đen không còn trẻ nữa đi vào sa mạc. Ông ta không nhớ rõ tổng số lạc đà là tám hay chín con, nhưng có một con thồ nặng hàng, dường như chuẩn bị đi xa vậy, còn hai người Bê-đu-in cũng có hai bọc hàng lớn trên yên. Ông ta còn nhớ được rằng khi ông ta đang đứng quan sát đoàn người và vật nọ, thì một người Xu-đan là chủ lạc đà nói rằng, đây là con của những người Anh đã đi Va-đi Rai-an trước đó.

- Thế những người Anh ấy đã trở về chưa? - Ông Ta-rơ-cốp-xki hỏi.

- Đã về rồi ạ. Họ trở về ngay ngày hôm qua với hai con chó sói săn được. - Người trưởng ga đáp. -Tôi cũng ngạc nhiên là tại sao họ không về cùng bọn trẻ. Nhưng tôi không hỏi họ lí do, vì chuyện đó không liên quan đến tôi.

Nói xong, ông ta đi làm công việc của mình.

Trong khi ông ta kể, mặt ông Rô-li-xơn trắng nhợt ra như tờ giấy. Đưa cặp mắt không hồn nhìn sang bạn, ông bỏ mũ phớt, đưa bàn tay lên vầng trán đẫm mồ hôi, và lảo đảo như sắp ngã.

- Anh Rô-li-xơn, hãy cứng rắn lên nào! - Ông Ta-rơ-cốp-xki kêu lên. - Bọn trẻ của chúng mình bị bắt cóc rồi! Cần phải cứu chúng.

- Nen! Nen ơi! - Ông bố người Anh bất hạnh cứ lặp đi lặp lại.

- Nen và Xtas! Đó đâu phải là lỗi Xtas. Chúng nó đã lừa hai đứa tới đây một cách hèn hạ và bắt cóc chúng đi. Ai biết được vì sao cơ chứ? Để tống tiền chăng? Rõ ràng thằng Kha-mix là đồng loã. I-đrix và Ghe-bơ-rơ cũng thế.

Đến đây, ông chợt nhớ ra điều mụ Phá-tma nói, rằng cả hai tên Xu-đan này đều thuộc về bộ tộc Đan-gan đã sinh ra Ma-hơ-đi.

Nhớ ra điều đó, tim ông như chết lặng giây lâu trong lồng ngực, vì ông chợt hiểu ra rằng, bọn trẻ có thể không phải bị bắt để tống tiền mà là để đánh đổi với gia đình Xmai-nơ.

Nhưng bọn đồng tộc của tên tiên tri tàn ác kia sẽ làm gì bọn trẻ cơ chứ? Chúng không thể ẩn náu trong sa mạc hoặc đâu đó dọc bờ sông Nin, vì trên sa mạc thì tất cả sẽ bị chết đói chết khát, còn dọc sông Nin thì chắc chắn là sẽ bị bắt ngay. Có lẽ, chúng mang theo bọn trẻ chạy đến với Ma-hơ-đi rồi.

Ý nghĩ ấy cũng khiến ông Ta-rơ-cốp-xki kinh hoàng, song người cựu binh đầy nghị lực này nhanh chóng định thần và bắt đầu lược qua tất cả các sự kiện đã diễn ra, đồng thời tìm phương sách ứng cứu.

"Mụ Phát-ma, - ông suy nghĩ, - không có lí do gì để trả thù chúng ta cũng như bọn trẻ con chúng ta, vậy thì nếu chúng nó bị bắt cóc hẳn là để nộp cho Xmai-nơ. Dù sao chăng nữ a, chúng cũng không bị cái chết đe doạ. Đó quả là cái may trong cái rủi. Song đang có một con đường kinh khủng chờ bọn trẻ, con đường có thể là tử đạo đối với chúng".

Ông lập tức chia sẻ với bạn những suy nghĩ của mình rồi nói:

- I-đrix và Ghe-bơ-rơ, vốn là những kẻ hoang dã và ngu ngốc, tưởng rằng những đạo quân của Ma-hơ-đi đã ở gần đây, trong khi đó Khác-tum, thành phố Ma-hơ-đi chưa đến được, còn cách đây những hai nghìn cây số. Chúng nó sẽ phải vượt quãng đường này bằng cách đi dọc sông Nin và không tách xa nó, nếu không, người và lạc đà sẽ chết gục vì khát. Anh hãy đi ngay tới Cai-rô và yêu cầu phó vương gửi điện tới tất cả các đồn binh, đồng thời truy đuổi ngay bên tả ngạn và hữu ngạn dọc theo dòng sông. Hãy hứa thưởng thật hậu cho các tù trưởng ven sông nếu như bắt được bọn đang chạy trốn. Hãy bắt giữ tất cả những ai đến gần các làng mạc để xin nước. Bằng cách ấy, chắc chắn I-đrix và Ghe-bơ-rơ sẽ lọt vào tay chính quyền, còn chúng ta sẽ đoạt lại được bọn trẻ.

Ông Rô-li-xơn đã lấy lại được bình tĩnh.

- Tôi sẽ đi ngay đây, - ông nói. - Lũ đểu cáng này quên rằng quân đội Anh quốc của Vôn-đơ-lây đi cứu viện cho tướng Goóc-đôn đã lên đường và sẽ chặn đường chúng đến với Ma-hơ-đi. Chúng không thoát đâu. Chúng không thể thoát nổi. Tôi sẽ điện ngay cho bộ trưởng của chúng ta rồi sẽ lên đường. Còn anh định sẽ làm gì?

- Tôi sẽ điện xin nghỉ phép, và không cần chờ phúc đáp, tôi sẽ lên đường ngay theo vết bọn chúng dọc sông Nin đến Nu-bi-a để đốc thúc thêm vào việc đuổi bắt.

- Thế nghĩa là chúng ta nhất định sẽ gặp nhau, vì từ Cai-rô tôi cũng sẽ làm như thế.

- Được lắm! Bây giờ vào việc thôi.

- Cầu Chúa phù hộ! - Ông Rô-li-xơn đáp.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------

Trong khi đó, đàn lạc đà lao đi như một cơn bão trên mặt cát lấp loáng ánh trăng. Đêm thăm thẳm. Mặt trăng, lúc đầu to như cái đĩa và đỏ bầm, giờ đã nhợt đi và lên cao. Những rặng núi xa xa của sa mạc được bao phủ bởi một làn hơi màu bạc mỏng như voan, màn hơi không che khuất chúng đi mà chỉ biến chúng trở nên huyền ảo như một hiện tượng quang học. Thỉnh thoảng, từ những khối đá nằm rải rác vọng về tiếng tru thê thảm của loài chó núi.

Lại một giờ nữa trôi qua. Xtas vòng tay ôm lấy Nen, giữ chặt lấy cô bé, cố bằng cách đó giảm bớt phần nào những cú xóc mệt người của nhịp phi như điên dại. Cô bé mỗi lúc một hay hỏi tại sao chúng lại phải đi nhanh như thế, và tại sao mãi không thấy lều trại lẫn cha chúng đâu cả. Mãi sau, Xtas quyết định sẽ nói thật với Nen, sự thật mà chóng hay chầy cô bé cũng sẽ phải biết.

- Nen, - em nói, - em hãy rút găng tay ra và từ từ thả chúng xuống đất.

- Sao vậy, anh Xtas?

Xtas ghì chặt cô bé vào mình và đáp một cách dịu dàng hiếm có ở em:

- Em hãy làm như anh bảo đi.

Nen đang phải dùng một tay giữ chặt lấy Xtas không dám buông lơi ra, nhưng cô bé khắc phục chuyện đó bằng cách dùng răng rút từng ngón găng tay một, rồi khi mà găng tay đã rời ra hoàn toàn, cô bé liền thả xuống đất.

- Lát nữa em thả chiếc thứ hai nhé. - Xtas lại nói - Anh đã thả găng của anh rồi, nhưng găng của em dễ nhận thấy hơn vì có màu sáng.

Thấy cô bé đang nhìn mình vẻ muốn hỏi, em bèn nói tiếp:

- Em đừng sợ nhé, Nen... Em thấy đấy... có thể chúng ta sẽ không gặp ba em lẫn ba anh đâu... có thể là bọn người đáng ghét này đã bắt cóc chúng mình. Nhưng em đừng sợ... Bởi vì nếu đúng như thế, thì sẽ có người đuổi theo chúng ta. Họ sẽ đuổi kịp và chắc chắn sẽ đoạt lại chúng mình. Chính vì thế anh mới bảo em thả găng tay, để cho những người đuổi bắt tìm thấy dấu vết. Hiện giờ chúng mình chưa thể làm được điều gì hơn, nhưng sau này anh sẽ nghĩ ra cách gì đó... Chắc chắn là anh sẽ nghĩ ra được cách gì đó, chỉ cần em đừng sợ và hãy tin ở anh...

Nhưng khi Nen biết rằng có thể sẽ không được gặp cha và hiện các em đang đi sâu vào sa mạc tới một nơi nào đó thì em run lên sợ hãi, bắt đầu khóc, đồng thời nép chặt vào người Xtas, vừa nức nở vừa hỏi tại sao người ta lại bắt cóc các em và sẽ chở chúng đi đâu. Cậu bé an ủi Nen cũng bằng những lời như cha cậu đã dùng để an ủi ông Rô-li-xơn. Cậu nói rằng hai ông bố sẽ đích thân đuổi theo chúng,rằng họ sẽ báo cho tất cả các đồn dọc sông Nin.Cuối cùng, cậu bé cam đoan rằng, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, cậu sẽ không bao giờ bỏ Nen và sẽ luôn luôn bảo vệ Nen.

Song trong lòng cô bé, nỗi đau đớn và niềm nhớ thương cha còn lớn hơn cả sự sợ hãi, nên suốt một hồi lâu em không sao nín khóc được, và cứ thế cả hai đứa trẻ thảm thương ấy bị chở đi vun vút trên mặt cát sa mạc nhợt nhạt, giữa đêm sáng trăng.

Tim Xtas thắt lại không những chỉ vì nỗi đau đớn và sợ hãi, mà còn vì hổ thẹn nữa. Quả tình em không có lỗi gì trong những chuyện đã xảy ra,nhưng giờ đây em chợt nhớ lại tính ba hoa khoác lác của mình mà cha em thường chê trách. Trước đây em tin chắc rằng, không có tình thế nào mà em không thể khắc phục được, em tự cho mình là một tráng sĩ vô địch nào đó, sẵn sàng thách thức với toàn thế giới. Còn giờ đây, em hiểu ra rằng, em chỉ là một đứa trẻ bé nhỏ, mà bất kì kẻ nào khác muốn làm gì, em cũng phải chịu.

Và đấy - em đang bị đưa đi trên lưng lạc đà, mặc dù không muốn, chỉ bởi vì rằng con lạc đà đã bị một tên Xu-đan bán phần dã man thúc đằng sau. Em cảm thấy nhục nhã vô cùng, nhưng không thấy có cách nào chống lại. Em phải tự thú nhận rằng em đang sợ - sợ những con người ấy, sợ sa mạc, sợ những gì mà em và Nen có thể sẽ phải gặp. Song, em thành tâm hứa không chỉ với cô bé mà với bản thân mình, rằng sẽ chăm sóc và bảo vệ cô bé, dù phải trả giá bằng chính mạng sống của mình đi nữa.

Mệt mỏi vì khóc lóc và vì tốc độ phi như điên kéo dài tới sáu giờ liền. Nen bắt đầu thiu thiu ngủ, và lát sau đã ngủ say. Hiểu rằng bất cứ ai bị ngã từ lưng lạc đà đang phi nước đại xuống đất cũng có thể bị chết ngay tại chỗ, Xtas bèn dùng một sợi dây mà em tìm được trên yên buộc cô bé vào mình. Một lát sau, em cảm thấy hình như lũ lạc đà phi chậm hơn, tuy chúng vẫn đang đi qua vùng cát bằng phẳng và mềm mại. Xa xa ẩn hiện những ngọn núi, còn trên vùng đồng bằng, bắt đầu hiện ra những ảo ảnh thường có về đêm trên sa mạc. Trăng trên trời mỗi lúc một mờ, trước mắt đoàn người chợt hiện ra những đám mây kì lạ màu hồng trườn rất thấp, những đám mây hoàn toàn trong suốt, được thêu dệt nên bởi ánh sáng. Không hiểu vì sao chúng được hình thành, chúng di động về phía trước dường như bị đẩy bởi một hơi gió nhẹ nào đó vậy. Xtas nhìn thấy rõ áo dài của những người Bê-đu-in và lũ lạc đà bỗng nhiên hồng rực lên khi đi vào khoảng không gian được chiếu sáng đó, rồi sau đó, cả đoàn người bị bao trùm trong một thứ ánh sáng màu hồng dịu dàng.Đôi khi, những đám mây lại nhuốm màu xanh lơ, và cứ thế hiện tượng ấy kéo dài cho tới vùng núi.

Đến vùng núi, bước chạy của lạc đà càng chậm hơn. Bây giờ có thể thấy ở chung quanh, những khối đá nhô lên từ các gò cát, hoặc rải rác giữa các sườn đồi một cách hỗn độn. Nền cát chuyển thành nền đá. Họ đi qua mấy cái khe trải đầy đá trông giống như những lòng sông đã cạn khô. Chốc chốc, con đường lại bị ngắt quãng bởi những khe núi, khiến họ phải vòng tránh. Bọn súc vật, bắt đầu nhún nhảy như đang múa, thận trọng lựa chỗ đặt chân giữa các bụi cây khô cứng gồm toàn loài hồng sa mạc(1) loài cây phủ đầy trên những sườn đồi và các khối đá. Thỉnh thoảng một con lạc đà nào đó lại bị vấp, rõ ràng là đã đến lúc chúng cần phải nghỉ.

Quả thật, bọn Bê-đu-in dừng lại trong một khu núi, và nhảy từ yên xuống, chúng bắt đầu tháo các gùi hàng. I-đrix và Ghe-bơ-rơ cũng làm theo chúng. Chúng chăm sóc lạc đà, nới các dây cương, cởi bỏ những túi lương thực và tìm chỗ đá phẳng để nhóm lửa.

Không có củi khô cũng như phân khô mà người Ả Rập thường dùng, nhưng Kha-mix, con trai của Kha-đi-gi, liền bẻ các cây hồng sa mạc và xếp thành một đống to rồi châm lửa. Trong lúc bọn Xu-đan đang bận bịu với lũ lạc đà, Xtas, Nen và nhũ mẫu của cô bé, bà Đi-na, được ở một lúc cạnh nhau. Bà Đi-na còn hoảng sợ hơn cả bọn trẻ, không thể thốt ra được một lời nào. Bà chỉ biết bọc Nen vào một tấm chăn ấm, và ngồi xuống cạnh cô bé trên mặt đất, bà bắt đầu vừa rên rỉ vừa hôn hai tay cô bé. Xtas lập tức hỏi Kha-mix tất cả chuyện này có nghĩa gì, nhưng hắn chỉ cười phô hàm răng trắng nhởn và bỏ đi, tiếp tục lấy cây hồng sa mạc. Còn gã I-đrix khi bị hỏi, chỉ trả lời một tiếng cụt lên: “Rồi mày sẽ thấy”, - rồi giơ một ngón tay ra doạ em. Khi đống củi bằng cây hồng sa mạc cháy sáng lên - thực ra nó ngún âm ỉ nhiều hơn là cháy thành ngọn - tất cả bèn vây chung quanh thành một vòng tròn, trừ gã Ghe-bơ-rơ đang còn ở chỗ lạc đà, và bắt đầu ăn bánh ngô với thịt cừu và thịt dê sấy khô. Bị đói suốt dọc đường, bọn trẻ cũng cùng ăn, nhưng Nen vừa ăn mắt vừa dính lại vì buồn ngủ. Bỗng trong ánh sáng bập bùng của ngọn lửa hiện ra gã Ghe-bơ-rơ da đen sậm, mắt trắng dã long lanh, giơ lên cao hai chiếc găng tay bé nhỏ màu sáng và hỏi:

- Của ai đấy?

- Của tôi, - Nen đáp bằng giọng mệt mỏi và ngái ngủ.

- Của mày hả, đồ rắn độc ranh con? - Tên Xu-đan rít qua kẽ răng. - Mày đánh dấu đường để thằng cha mày biết phải đuổi chúng tao theo hướng nào phải không?

Vừa nói hắn vừa dùng chiếc roi kinh khủng kiểu Ả Rập - cái roi thậm chí có thể cứa đứt cả da lạc đà đánh Nen, khiến cô bé, mặc dù được bọc trong một tấm chăn dày, phải thét lên vì đau đớn và hãi hùng. Nhưng Ghe-bơ-rơ không kịp đánh roi thứ hai, vì ngay lúc ấy, nhanh như một con mèo rừng, Xtas đã nhảy tới, húc đầu vào ngực hắn, rồi chộp lấy cổ hắn.

Chuyện xảy ra bất ngờ đến nỗi gã Xu-đan ngã ngửa ra, Xtas nằm đè lên hắn, và cả hai bắt đầu lăn lộn trên mặt đất. So với tuổi của mình, cậu bé quả là mạnh mẽ khác thường, nhưng Ghe-bơ-rơ nhanh chóng át được cậu bé. Trước tiên hắn gỡ hai bàn tay, Xtas đang thít trên cổ hắn, rồi dằn mặt cậu bé xuống đất, hắn vừa ấn cổ cậu xuống vừa quật roi vào lưng cậu.

Tiếng kêu thét cùng nước mắt của Nen - cô bé túm lấy tay tên hung bạo van xin hãy “tha” cho Xtas - sẽ không có kết quả gì, nếu như bất ngờ gã Iđrix không cứu cậu bé. Hắn nhiều tuổi hơn Ghe-bơ-rơ, khoẻ hơn nhiều, và từ đầu cuộc trốn chạy từ Ga-rắc Xun-ta-ni mọi kẻ khác đều tuân theo mệnh lệnh của hắn. Lúc này, hắn giằng roi khỏi tay thằng em vứt ra xa, kêu lên:

- Xéo đi, đồ ngốc!

- Tôi phải dần cho thằng bọ cạp này một trận mới được! - Ghe-bơ-rơ nghiến răng đáp.

Nghe thấy thế I-đrix bèn túm lấy ngực áo khoác của hắn, và vừa nhìn thẳng vào mắt hắn vừa nói bằng giọng dữ tợn mặc dù rất khẽ:

- Bà Phát-ma tôn quý(2) cấm xử tệ với bọn trẻ con này, vì chúng đã đứng ra bênh vực cho bà.

- Tôi phải dần nó! - Ghe-bơ-rơ vẫn lặp lại.

- Còn tao thì bảo mày rằng mày sẽ không được phép vung roi đánh một đứa nào nữa. Nếu mày đánh một, thì tao sẽ nện trả mày mười roi.

Rồi lắc người hắn như lắc một nhánh cọ, gã nói tiếp:

- Bọn trẻ này thuộc về ngài Xmai-nơ, và nếu như có đứa nào không sống về được tới nơi, vì chính đức Ma-hơ-đi (cầu Thượng đế kéo dài tuổi thọ của Người) sẽ ra lệnh treo cổ mày lên. Hiểu chưa hả đồ ngốc?

Tên của Ma-hơ-đi gây ấn tượng rất mãnh liệt đến mọi tín đồ của y, nên Ghe-bơ-rơ lập tức cúi đầu xuống và lặp đi lặp lại như kinh hoàng:

- Allach akbar! Allach akbar!(3) Bị đánh đau, Xtas thở hổn hển, nhỏm dậy, cậu bé cảm thấy rằng, nếu lúc này cha em thấy và nghe được tiếng em, hẳn ông sẽ tự hào, bởi vì em đã không hề suy tính khi nhảy tới cứu Nen, và giờ đây, dù những lằn roi như lửa đang thiêu đốt, nhưng em hoàn toàn không nghĩ tới đau đớn của bản thân, mà bắt đầu an ủi cô bé và hỏi xem cú đánh có làm cô bé đau lắm không.

Rồi em nói:

- Anh tuy bị đánh, nhưng hắn sẽ không còn dám đánh em nữa. Ôi, giá như anh có vũ khí!

Người phụ nữ nhỏ xíu ấy bèn đưa hai tay ôm ghì lấy cổ cậu bé, và vừa tuôn nước mắt ướt đầm gò má cậu, vừa nói rằng mình không bị đau lắm đâu, rằng cô khóc không phải vì đau mà chỉ vì thương cậu. Nghe thấy thế, Xtas bèn kề môi vào tai cô bé thì thầm:

- Nen, không phải vì hắn đánh anh, mà vì hắn đã quật em, anh thề sẽ không tha hắn.

Cuộc xô xát kết thúc tại đó. Một lát sau, Ghe-bơ-rơ và I-đrix đã lại dàn hoà với nhau, cùng trải áo choàng lên mặt đất và ngả lưng xuống, còn Kha-mix cũng nhanh chóng làm theo bọn chúng. Bọn người Bê-đu-in rắc ngô cho lạc đà, sau đó cưỡi hai con lạc đà không thồ hàng đi về phía sông Nin. Nen tựa đầu vào gối của bà Đi-na ngủ thiếp đi.Đống lửa lụ i dần và lát sau chỉ còn nghe thấy tiếng lắc cắc của ngô bị răng lạc đà nhai vỡ. Trên trời có những đám mây nhỏ kéo qua, thỉnh thoảng lại che khuất mặt trăng, song đêm vẫn sáng. Tiếng tru thảm thiết của bầy chó núi vọng lên từ sau những tảng đá.

Hai giờ sau bọn Bê-đu-in trở về cùng lạc đà thồ nặng những túi da đựng nước. Tiếp thêm củi vào đống lửa, bọn chúng ngồi xuống cát và ăn uống. Sự quay về của chúng đánh thức Xtas đang thiu ngủ, cùng với hai tên Xu-đan và Kha-mix, con trai của Kha-đi-gi.

Bên đống lửa diễn ra cuộc nói chuyện sau đây:

- Ta đi được chưa? - I-đrix hỏi.

- Chưa, vì chúng tôi phải nghỉ đã - chúng tôi và lạc đà của chúng tôi.

- Không có ai trông thấy chúng mày chứ?

- Không. Chúng tôi tới sông ở quãng giữa hai làng. Chỉ có tiếng chó sủa xa xa.

- Từ nay cần phải đi lấy nước vào lúc nửa đêm và lấy ở những chỗ không có người. Chỉ cần vượt qua cái thác đầu tiên, từ đó trở đi, làng xóm sẽ thưa thớt hơn và ngả theo Đấng tiên tri nhiều hơn. Chắc chắn là chúng sẽ đuổi theo chúng ta.

Nghe thế, Kha-mix nằm úp bụng xuống đất, và lấy hai bàn tay kê dưới mặt nói:

- Các kĩ sư trước tiên sẽ phải chờ lũ trẻ tại En Pha-khen suốt đêm cho đến chuyến tàu tiếp đó, rồi sẽ đi Phai-um, từ đó tới Ga-rắc.

Tại đó họ mới hiểu được chuyện gì đã xảy ra. Khi ấy họ sẽ phải quay về Mê-đi-nét để gửi cái lời chạy theo sợi dây đồng đến các thành phố trên sông Nin cũng như các đoàn người cưỡi lạc đà sẽ đuổi theo chúng ta. Tất cả những điều đó sẽ mất ít nhất là ba ngày. Trước đó, không cần phải làm mệt đàn lạc đà của ta, còn chúng ta có thể bình tĩnh “uống khói” bằng ống điếu.

Vừa nói thế, hắn vừa rút một nhánh cây hồng sa mạc ra khỏi đống lửa và dùng nó châm vào điếu, còn I-đrix, theo phong tục Ả Rập, tắc lưỡi vì hài lòng.

- Mày nói hay lắm, hỡi con trai của Kha-đi-gi! -Hắn nói.- Song ta phải tranh thủ thời gian để trong ba ngày đó đi được xa nhất về phía Nam. Tao chỉ có thể an lòng hơn khi nào chúng ta vượt qua sa mạc quãng giữa sông Nin và Khac-giê (một ốc đảo lớn ở phía Tây sông Nin). Xin Thượng đế hãy cho lạc đà chịu đựng được.

- Chúng sẽ chịu được. - Một trong hai tên Bê-đu-in lên tiếng.

- Người ta cũng còn nói rằng, - Kha-mix xen vào, - quân đội của đức Ma-hơ-đi (cầu Thượng đế kéo dài tuổi thọ của Người) đã tới được A-xu-an.

Đến đây, Xtas - vốn không bỏ sót một lời nào trong cuộc trò chuyện này và nhớ cả những điều mà I-đrix vừa nói trước đó với Ghe-bơ-rơ - liền nhổm dậy nói:

- Quân của Ma-hơ-đi còn ở mãi dưới Khác-tum.

- La! La (không phải, không phải). - Kha-mix phản đối.

- Các ông đừng để ý những điều hắn nói, - Xtas đáp, - vì hắn không những chỉ có nước da đen thủi mà cả bộ óc cũng đen kịt nữa. Dù cho cứ ba ngày một các ông lại thay lạc đà mới và đi nhanh như hôm nay đi nữa, các ông cũng phải mất một tháng mới tới được Khác-tum. Thêm nữa, có thể các ông không biết rằng quân đội sẽ chặn đường các ông đi, không phải quân Ai Cập đâu mà là quân đội Anh kia...

Những lời này đã gây ấn tượng nào đó. Nhận thấy thế, Xtas bèn nói tiếp:

- Trước khi các ông tới được địa điểm nằm giữa sông Nin và cái ốc đảo lớn thì tất cả mọi con đường trên sa mạc đã bị những đơn vị binh lính canh phòng. Ha! Lời nói chạy theo đường dây đồng còn đi nhanh hơn lạc đà! Làm sao các ông có thể thoát được?

- Sa mạc rộng lớn vô cùng! - Một trong hai tên Bê-đu-in đáp.

- Nhưng các ông sẽ phải bám chặt sông Nin.

- Chúng tao có thể sẽ vượt sang bờ bên kia, và khi người ta đang săn tìm chúng tao bên này, thì chúng tao lại ở bên kia cơ.

- Lời nói chạy theo dây đồng sẽ đến các thành phố và làng mạc ở cả hai bên bờ sông.

- Đức Ma-hơ-đi sẽ gửi đến cho chúng ta một vị thiên sứ, thiên sứ sẽ bịt tay vào mắt bọn Anh và Thổ (tức Ai Cập) và dùng đôi cánh che cho chúng tao.

- Ông I-đrix này, - Xtas nói, - tôi không thèm nói với Kha-mix, vì đầu hắn trống rỗng như quả bầu, cũng không muốn nói với Ghe-bơ-rơ vì hắn chỉ là một con lang bần tiện, mà tôi nói với ông.

Tôi biết rằng các người muốn mang chúng tôi đến Ma-hơ-đi và nộp cho Xmai-nơ. Song nếu như các ông làm chuyện đó vì tiền, thì ông hãy nhớ rằng, cha của cô bé bé bỏng này còn giàu hơn tất cả những người Xu-đan gộp lại.

- Thế thì sao? - I-đrix ngắt lời.

- Thế thì sao? Các ông hãy tự mình quay lại đi,và ngài kĩ sư vĩ đại ấy, cũng như cha tôi, sẽ không tiếc tiền đối với các ông đâu.

- Hoặc sẽ nộp chúng tao cho chính phủ, chính phủ sẽ ra lệnh treo cổ chúng tao lên chứ gì?

- Không đâu, ông I-đrix. Chắc chắn các ông sẽ bị treo cổ, nhưng chỉ trong trường hợp nếu như các ông bị bắt khi đang trốn chạy. Còn nếu như các ông tự mình quay trở lại thì các ông sẽ không bị một hình phạt nào hết, thêm nữa các ông còn trở thành những người giàu có đến cuối đời. Ông biết đấy, những người da trắng từ châu Âu tới bao giờ cũng giữ lời hứa. Tôi thay mặt hai vị kĩ sư hứa với ông rằng mọi việc sẽ diễn ra đúng như lờ i tôi nói.

Quả thực Xtas hoàn toàn tin rằng cha em cùng ông Rô-li-xơn sẽ trăm lần muốn thực hiện những lời em hứa hơn là để cho cả hai, nhất là Nen, sẽ phải chịu đựng một cuộc hành trình khủng khiếp và một cuộc sống còn khủng khiếp hơn nữa giữa các bộ tộc hoang dã và điên loạn của Ma-hơ-đi.

Vì vậy, trái tim em đập gấp gáp trong khi chờ đợi câu trả lời của gã I-đrix, gã này cứ nín lặng, mãi một lúc lâu mới cất tiếng nói:

- Mày nói rằng cha của cô bé bé nhỏ này và cha mày sẽ trả cho chúng tao nhiều tiền?

- Chính thế.

- Tuyệt vời! - Cả hai tên Bê-đu-in cùng Kha-mix và Ghe-bơ-rơ cùng bật thốt lên khi nghe thấy thế.

- Liệu tất cả tiền của bọn họ có thể mở ra trước mắt chúng tao cánh cửa dẫn tới thiên đường, thiên đường mà chỉ một lời ban phước của Đức Ma-hơ-đi thánh thiện cũng đủ mở ra hay không?

Lập tức, Xtas thấy mất hẳn hi vọng, vì em hiểu rằng, mặc dù người phương Đông rất tham lam và có thể mua chuộc được, song khi một tín đồ Hồi giáo nào đã nhìn một việc gì đó từ khía cạnh lòng tin, thì thế giới này không có một kho báu nào có thể lay chuyển được anh ta.

Còn I-đrix, được tiếng kêu cổ vũ, y nói tiếp, rõ ràng là không phải để trả lời Xtas mà là để thu được nhiều hơn nữa sự thán phục và ca ngợi của đám bạn:

- Chúng ta có cái hạnh phúc được thuộc về bộ tộc đã sản sinh ra đấng tiên tri thiêng liêng, còn bà Phát-ma tôn quý cùng con cái của bà lại là họ hàng với Người. Đức Ma-hơ-đi vĩ đại yêu mến họ.

Nếu chúng ta nộp mày cùng cô bé kia cho Người, thì Người sẽ đánh đổi chúng mày lấy bà Phát-ma cùng các con trai của bà, còn chúng ta sẽ được Người ban phước. Mày nên biết là cả nước mà mỗi sáng Người dùng để rửa ráy theo quy định của kinh Co-ran, còn chữa khỏi bệnh tật và tẩy sạch mọi tội lỗi, nói gì tới sự ban phước của Người.

- Tuyệt vời! - Bọn Xu-đan và Bê-đu-in lại kêu lên. Xtas bèn tóm lấy chút hi vọng cuối cùng và nói:

- Thế thì các người hãy bắt tôi đem đi, còn để cho bọn Bê-đu-in cùng với cô bé quay trở lại. Chỉ một mình tôi cũng đủ đánh đổi bà Phát-ma cùng con cái của bà ta.

- Cả hai chúng mày thì càng chắc chắn là người ta sẽ đánh đổi hơn.

Nghe thấy thế, cậu bé bèn quay lại phía Kha-mix:

- Cha ngươi sẽ phải chịu trách nhiệm về hành động của ngươi.

- Cha tao đã ở trên sa mạc và đang trên đường đến với Đấng tiên tri rồi. - Kha-mix đáp.

- Thế thì người ta sẽ tóm được và sẽ treo cổ ông ta lên.

Đến đây, I-đrix thấy cần phải cổ vũ thêm cho các bạn bè của hắn. Hắn nói:

- Lũ diều hâu sẽ rỉa thịt xương cốt chúng ta, có thể hãy còn chưa nở. Chúng ta biết rõ những gì đang đe doạ chúng ta, nhưng chúng ta không phải là trẻ con, còn sa mạc thì chúng ta đã từng quen thuộc từ lâu rồi. Những người này (hắn chỉ bọn Bê-đu-in) đã nhiều lần tới Béc-be-rơ và biết rõ những con đường chỉ có lũ nai chạy mà thôi. Ở đó, không một kẻ nào có thể tìm thấy chúng ta, không kẻ nào có thể truy đuổi chúng ta. Quả thực chúng ta phải ra sông Ba-hơ-rơ En Du-xép, rồi sau này, ra sông Nin, để lấy nước, nhưng chúng ta sẽ làm việc đó về ban đêm. Các anh tưởng rằng dọc sông không có những bạn bè bí mật của đức Ma-hơ-đi hay sao?

Còn ta, ta nói với các anh rằng, càng đi về phía Nam thì họ lại càng nhiều hơn lên. Cả các bộ tộc cũng như các tù trưởng của họ chỉ chờ thời cơ thuận tiện để cầm gươm bảo vệ tín ngưỡng chân chính của mình. Chính những người này sẽ cung cấp nước uống, thức ăn, lạc đà, và sẽ đánh lạc hướng bọn đuổi theo. Chúng ta biết rõ rằng con đường đến chỗ đức Ma-hơ-đi rất xa xôi, nhưng chúng ta cũng biết rõ, cứ một ngày qua đi lại khiến chúng ta được đến gần hơn tấm da cừu, mà trên đó Đấng tiên tri thiêng liêng thường quỳ gối để cầu nguyện.

- Tuyệt lắm! - Đồng bọn lại kêu lên lần thứ ba.

Rõ ràng là uy tín của I-đrix trong bọn chúng tăng lên rõ rệt.

Xtas hiểu rằng đã mất hết hi vọng, song vì muốn tránh cho Nen ít ra khỏi gặp phải sự tàn tệ của bọn Xu-đan, nên em nói:

- Sau có sáu giờ đi đường mà cô bé đã sống dở chết dở. Sao các người lại nghĩ rằng cô bé có thể chịu đựng được con đường ấy cơ chứ? Nếu như Nen chết, thì tôi cũng chết theo, khi ấy các người sẽ mang gì để ra mắt Ma-hơ-đi cơ chứ?

Giờ thì I-đrix không tìm ra câu trả lời, thấy thế. Xtas bèn nói tiếp:

- ... Và Ma-hơ-đi cùng Xmai-nơ sẽ đón các người ra sao khi biết rằng, vì sự ngu ngốc của các người, mà mụ Phát-ma cùng con cái của mụ ta phải trả giá bằng tính mạng của họ?

Song tên Xu-đan đã kịp định thần và trả lời:

- Tao đã thấy mày bóp cổ Ghe-bơ-rơ ra sao. Thề có đức A-la, mày quả thật là sư tử con, mày sẽ không chết được đâu, còn con bé...

Nói tới đây, hắn nhìn mái đầu của Nen đang say ngủ, tựa vào đầu gối của u già Đi-na, rồi chợt kết thúc bằng một giọng ôn tồn không ngờ:

- Chúng ta sẽ làm riêng cho cô bé một cái tổ như tổ chim trên bướu lạc đà, để cho cô bé hoàn toàn không cảm thấy mệt và có thể ngủ dọc đường cũng yên giấc như bây giờ.

Nói thế xong, hắn bước tới phía con lạc đà, rồi cùng với bọn Bê-đu-in bắt đầu bố trí chỗ ngồi cho cô bé trên bướu con lạc đà tốt nhất trong số lạc đà một bướu. Chúng nói khá nhiều, tranh cãi nhau tí chút, nhưng cuối cùng, với dây thừng, chăn và các thanh tre, chúng cũng làm được một chỗ ngồi có dạng cái sọt sâu lòng cố định, trong đó Nen có thể ngồi hoặc nằm mà không thể ngã được.

Chúng còn căng một cái mái bằng vải trên chỗ ngồi đó. Chỗ ngồi ấy rộng đến nỗi bà Đina cũng có thể cùng ngồi trong đó.

- Mày thấy chưa? - I-đrix nói với Xtas. - Trong cái ổ thế này thì đến trứng cun cút cũng không thể vỡ nổi. Mụ già sẽ đi cùng cô bé để phục vụ cô cả ngày lẫn đêm... Mày sẽ ngồi cùng với tao, mà mày cũng có thể ngồi cùng với cô bé để chăm sóc nó.

Xtas vui mừng, dù chỉ đạt được từng ấy mà thôi. Suy nghĩ về tình thế hiện tại, em tin rằng, rất có thể người ta sẽ tóm được bọn chúng trước khi chúng kịp vượt qua cái thác đầu tiên, và ý nghĩ này động viên em thêm phần nào. Em thấy rất buồn ngủ, nên tự nhủ rằng sẽ buộc mình bằng một sợi thừ ng vào yên, và vì em sẽ không phải đỡ cho Nen, nên em có thể ngủ vài tiếng đồng hồ.

Đêm nhạt dần, lũ chó núi đã ngừng tru trong các hẻm núi.

Nhẽ ra cả đoàn đã lên đường, nhưng bọn Xu-đan thấy trời rạng sáng liền đi tới một tảng đá ở cách đó vài bước chân, và ở đó, theo những quy định của kinh Co-ran, chúng bắt đầu cuộc rửa ráy ban sáng, dùng cát thay cho nước mà chúng muốn tiết kiệm. Rồi sau đó vang lên tiếng đọc kinh Xu-bơ-hơ-gơ, tức là kinh cầu đầu tiên vào buổi sáng.

Trong sự tĩnh mịch sâu thẳm có thể nghe rõ từng lời nói của bọn chúng: “Sáng danh đấng Thượng đế đại từ đại bi. Hãy ngợi ca Người, chúa tể của thế giới, Người đại từ đại bi trong ngày phán xét. Chúng con thành kính Người và tuân theo Người, chúng con xin Người cứu giúp chúng con. Xin hãy dẫn dắt chúng con theo con đường của những người, mà đối với họ Người không tiếc của cải và phước lộc, chớ theo đường của những kẻ tội lỗi, những kẻ sẽ phải chịu cơn thịnh nộ của Người và sẽ bị lạc loài. A-men!” Còn Xtas, nghe thấy những lời ấy, bèn ngước mắt lên trời, và giữa vùng đất xa xôi này, giữa mặt cát vàng hoe và câm lặng ấy, em bắt đầu cầu nguyện: “Hỡi Đức Mẹ thiêng liêng của Chúa, chúng con sẽ trốn thoát dưới sự che chở của Mẹ...” ?

--- ------ ---------!

1 Còn gọi là cây phục sinh. Đây là loại hồng sa mạc, thích hợp với điều kiện sống khô cằn, có thân cây nhỏ, dùng làm thuốc. Chúng gồm hai giống: Anastatica hierochuntica - mọc ở vùng ĐôngĐịa Trung hải và Asteriscus pygmaeus - mọc ở vùng Angiêri và Beluxtan.

2 Tất cả họ hàng thân thuộc của Ma-hơ-đi đều được gọi kèm theo hai tiếng “tôn quý” (chú thích của tác giả).

3 Tiếng kêu này vốn có nghĩa là: “Thượng đế thật vĩ đại”, nhưng người Ả Rập thường thốt ra khi sợ hãi, tỏ ý cầu xin cứu độ (chú thích của tác giả)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ---

Đêm nhạt hẳn. Lẽ ra mọi người đã lên lạc đà, nhưng đột nhiên họ trông thấy một con chó sói sa mạc, đuôi cụp xuống, chạy ngang qua khe núi, cách đoàn người chừng trăm bước và sang tới phía cao nguyên bên kia khe, nó tiếp tục chạy, vẻ sợ hãi, dường như đang chạy trốn một kẻ thù nào đó vậy. Trên các sa mạc ở Ai Cập không có loài dã thú nào có thể khiến cho sói phải sợ hãi, nên cảnh này khiến cho bọn Ả Rập, Xu-đan rất lo lắng. Cái gì vậy nhỉ?

Liệu có phải những người đuổi theo đã đến hay không? Một tên Bê-đu-in leo lên một tảng đá cao, song vừa đưa mắt nhìn, hắn đã vội vội vàng vàng tụt ngay xuống.

- Lạy Đấng tiên tri! - Hắn bối rối và sợ hãi kêu to. - Có lẽ sư tử đang chạy tới chỗ chúng ta, gần lắm lắm rồi!

Ngay lúc đấy, bên kia phiến đá vang lên tiếng sủa trầm trầm: “gâu”, “gâu”. Nghe thấy thế, Xtas và Nen đồng thanh kêu lên:

- Xa-ba! Xa-ba!

Vì tiếng kêu đó có nghĩa là “sư tử” theo ngôn ngữ Ả Rập nên bọn Bê-đu-in lại càng hoảng sợ hơn, riêng Kha-mix bật cười nói:

- Tôi biết con sư tử này.

Nói xong hắn liền huýt sáo liên tục, và ngay lập tức, một con chó ngao khổng lồ nhảy xổ vào giữa đám lạc đà. Trông thấy bọn trẻ, nó liền nhảy tới, mừng rỡ đến nỗi vật ngã cả Nen, lúc cô bé giang tay ra đón nó, rồi nhẩy chồm lên mình Xtas, rồi vừa kêu vừa sủa nó chạy vòng quanh hai đứa mấy lần liền, rồi lại vật ngã Nen, lại nhảy chồm lên người Xtas, rồi mãi sau, nằm xẹp xuống chân chúng, nó bắt đầu hào hển thở.

Hai sườn nó hõm sâu vào, từ cái lưỡi đang thè lè ra nhiễu xuống những dải bọt, nhưng con chó vẫn ve vẩy đuôi và ngước cặp mắt đầy tình thương yêu nhìn Nen, như muốn bảo “Cha cô chủ ra lệnh cho tôi bảo vệ cô, nên tôi có mặt ở đây!” Bọn trẻ ngồi xuống hai bên hông nó và bắt đầu vuốt ve nó.

Hai tên Bê-đu-in, vốn chưa từng trông thấy một con vật nào tương tự như thế, vừa kinh ngạc nhìn nó vừa lắp đi lắp lại: “Lạy đức A-la, thật là một con chó khổng lồ”, còn nó, nó bình thản nằm đó một hồi lâu, sau đó ngẩng đầu lên, hít hít không khí vào cái mũi màu đen, trông hệt như một cái nấm cục to tướng, đánh hơi và nhảy vọt về phía đống lửa đã tắt ngấm, cạnh đó là các thứ xương xẩu còn sót lại.

Và ngay lập tức, xương cừu, xương dê bắt đầu kêu rau ráu, nát vụn ra như những cuộng rơm trong hàm răng khoẻ mạnh của nó. Sau tám người ăn, kể cả u già Đi-na và Nen, những thứ đó còn bỏ lại khá nhiều, thừa đủ ngay cả đối với một con chó khổng lồ như nó.

Song, bọn Xuđan lại bối rối vì sự xuất hiện của con chó. Hai tên chủ lạc đà gọi Kha-mix ra một bên, trao đổi với hắn, vẻ lo lắng, thậm chí khích động nữa.

- Chính I-blix(1) mang con chó này tới đây! - Ghe-bơ-rơ kêu lên. - Chứ làm cách nào nó có thể tìm được tới đây với lũ trẻ, bọn chúng nó đi bằng tàu hoả tới Ga-rắc kia mà?

- Hẳn nó theo vết lạc đà. - Kha-mix đáp.

- Chuyện không hay rồi. Ai trông thấy nó bên cạnh chúng ta đều nhớ đoàn ta và chỉ đường mà ta đi qua. Dứt khoát phải khử nó thôi.

- Nhưng bằng cách gì chứ? - Kha-mix hỏi.

- Có súng đây, mày cầm lấy nổ thẳng vào đầu nó.

- Có súng, nhưng tôi không biết bắn. Các ông biết bắn chăng...

Kha-mix thì hoạ may có thể biết tí chút, vì đã mấy lần Xtas mở và đóng súng khi có mặt hắn, nhưng hắn thương con chó, vì trước khi bọn trẻ tới Mê-đi-nét, chính hắn đã từng chăm sóc và yêu mến nó. Hắn thừa biết rằng, cả hai tên Xu-đan không hề có tí khái niệm gì về việc sử dụng loại vũ khí kiểu mới nhất này, rằng chúng không thể dùng nổi.

- Nếu các ông không biết bắn, - hắn nói với nụ cười láu cá, - thì chỉ có thằng bé tín đồ Thiên Chúa kia là có thể giết nổi con chó mà thôi, nhưng vì khẩu súng này có thể bắn liền mấy phát một lúc, nên tôi khuyên các ông chớ đưa cho nó làm gì.

- Lạy Thượng đế phù hộ! - I-đrix đáp. - Nó sẽ bắn hạ chúng ta như một lũ cun cút ngay.

- Chúng ta có dao đây. - Ghe-bơ-rơ lưu ý.

- Ông cứ thử xem, nhưng hãy nhớ cho rằng, ông cũng còn có cả cái cổ họng mà con chó sẽ cắn đứt đôi, trước khi ông kịp đâm nó.

- Vậy làm thế nào được bây giờ? Kha-mix nhún vai.

- Tại sao các ông lại muốn giết con chó nhỉ? Dù các ông có phủ cát lên xác nó, thì linh cẩu cũng sẽ bới ra, bọn người đuổi theo sẽ tìm thấy xương nó và sẽ biết rằng chúng ta không vượt sang bên kia sông Nin mà chạy trốn phía bờ bên này. Cứ để cho nó chạy theo chúng ta. Khi bọn Bê-đu-in đi lấy nước, còn chúng ta ẩn trong khu núi, thì ta vẫn có thể yên lòng vì con chó sẽ ở lại bên cạnh bọn trẻ con. Lạy đức A-la! May mà nó tới từ bây giờ đấy, chứ nếu không, nó có thể lần theo vết chúng ta, dẫn bọn người đuổi theo ta đến tận xứ Béc-be-rơ. Ta cũng không cần phải nuôi ăn nó, vì nếu như thức ăn thừa của chúng ta không làm cho nó đủ no, thì nó chẳng khó khăn gì không kiếm ra một con linh cẩu hoặc một con chó núi. Cứ để nó yên, tôi bảo các ông, và chớ có mất thì giờ bàn luận thêm làm gì nữa.

- Có thể mày nói có lí đấy. - I-đrix đáp.

- Nếu tôi có lí, thì tôi sẽ cho nó thêm ít nước, để tự nó không cần phải chạy ra sông Nin và không đến các làng mạc làm gì.

Thế là số phận của Xa-ba đã được định đoạt. Được nghỉ ngơi tí chút và được ăn uống no nê, nó tớp cạn trong nháy mắt chậu nước và chạy theo đoàn người với những sinh lực mới.

Lúc này, họ đi lên một vùng cao bằng phẳng bị gió thổi làm cho mặt cát gợn sóng lăn tăn; từ trên đó có thể nhìn thấy những khoảng sa mạc mênh mông về cả hai phía. Bầu trời có màu đỏ ngọc trai. Những cụm mây nhẹ nhàng tập trung ở phương Đông đổi thay như đá tản bạch, rồi bỗng nhiên nhuốm màu vàng chói.

Một tia sáng loé lên, một tia thứ hai, rồi mặt trời - như thường lệ ở những vùng miền Nam, nơi gần như không có hoàng hôn và bình minh - không phải mọc từ từ mà vọt ra từ sau các đám mây như một cột lửa, làm tràn ngập chân trời một làn ánh sáng chói lọi.

Trời vui lên, đất vui lên, và mắt người chợt phát hiện ra những vùng cát rộng vô bờ.

- Ta phải đi thật nhanh, vì ở chỗ này, người ta có thể thấy chúng ta ngay từ xa. - I-đrix nói.

Đàn lạc đà đã được nghỉ ngơi và uống nước phóng đi với tốc độ của loài nai. Xa-ba tụt lại sau, nhưng không cần phải lo là nó sẽ bị lạc đường, không xuất hiện tại chỗ nghỉ chân gần nhất. Con lạc đà một bướu, trên đó gã I-đrix đi cùng với Xtas, chạy ngay sau con lạc đà chở Nen, nên bọn trẻ có thể trò chuyện thoải mái với nhau.

Cái chỗ ngồi mà bọn Xu-đan làm, tỏ ra rất tuyệt, và quả thực, trông cô bé ngồi trong đó hệt như một con chim non trong tổ. Cô bé không thể nào ngã được, dù có ngủ say,và nhịp đi khiến cô ít bị mệt hơn rất nhiều so với lúc đêm. Ánh sáng rực rỡ ban ngày cũng khiến cho bọn trẻ thêm phấn chấn. Xtas hi vọng rằng nếu như Xa-ba đã đuổi kịp chúng, thì chắc cuộc truy đuổi cũng thế. Em chia sẻ ngay niềm hi vọng này với Nen, cô bé mỉm cười với em, nụ cười đầu tiên từ khi bị bắt cóc:

- Thế bao giờ họ đuổi kịp chúng ta? - Nen hỏi bằng tiếng Pháp để I-đrix không hiểu được.

- Không biết. Có thể hôm nay, có thể mai, cũng có thể hai ba ngày nữa.

- Nhưng lúc trở về chúng mình không phải đi lạc đà nữa chứ hở anh?

- Không. Chúng ta chỉ cần đi tới sông Nin, rồi đi theo sông Nin tới En Vax-ta.

- Thế thì hay quá, ôi, hay quá!

Tội nghiệp cho Nen, cô bé trước kia vốn thích cưỡi lạc đà là thế, mà bây giờ rõ ràng đã quá chán chuyện đó rồi.

- Theo sông Nin... tới En Vax-ta và về với ba! Cô bé nhắc lại bằng giọng ngái ngủ.

Và vì ở chỗ nghỉ trước Nen không được ngủ đẫy giấc, nên giờ đây cô bé lại thiếp đi say sưa, một giấc ngủ mà người ta thường ngủ lúc gần sáng sau những cơn mệt mỏi vô cùng. Trong khi đó, bọn Bê-đu-in thúc lạc đà đi không kịp thở, và Xtas để ý thấy chúng đi vào sâu trong sa mạc.

Vì vậy, để cho lòng tin của I-đrix về chuyện trốn khỏi cuộc truy đuổi bị lung lay, đồng thời để cho hắn thấy rằng, chính mình đang rất tin vào cuộc truy đuổi, Xtas bèn nói:

- Các ông rời xa sông Nin và sông Ba-hơ-rơ Du-xép, nhưng chuyện đó cũng chẳng giúp được gì cho các ông đâu, bởi lẽ người ta sẽ không truy tìm các ông ngay trên bờ sông, nơi có làng mạc nối nhau san sát, mà sẽ truy tìm sâu trong sa mạc kia.

I-đrix hỏi:

- Làm sao mày biết chúng tao tách khỏi sông Nin nếu từ đây không nhìn thấy bờ sông?

- Vì rằng mặt trời đang ở phương Đông của bầu trời, đốt nóng lưng chúng ta, điều đó có nghĩa là chúng ta đang rẽ về phía Tây.

- Mày là một thằng bé thông minh đấy. - I-đrix nói với vẻ thán phục. Lát sau hắn nói thêm:

- Nhưng bọn chúng chẳng đuổi kịp chúng tao đâu, và mày cũng đừng hòng trốn thoát.

- Không, - Xtas đáp, - tôi không đi trốn đâu... trừ khi cùng với con bé.

Và em trỏ Nen đang ngủ say sưa.

Cho tới trưa, họ đi gần như không kịp thở, nhưng khi mặt trời cao trên bầu trời và bắt đầu thiêu đốt, thì bọn lạc đà, vốn ít khi toát mồ hôi, giờ đây cũng đổ mồ hôi ròng ròng và tốc độ chạy chậm hẳn lại. Những khối đá và cát lở tích lại vây bọc lấy đoàn người và vật. Những khe núi về mùa mưa biến thành lòng suối - được gọi là các suối cạn mỗi lúc một thấy nhiều hơn. Cuối cùng, khe này khuất hoàn toàn giữa các khối đá. Song vừa tụt từ yên xuống đất, chúng liền kêu thét lên và chạy về phía trước chốc chốc lại cúi người xuống và vứt đá về trước mặt. Chưa kịp xuống yên, Xtas nhìn thấy một cảnh tượng kì quái: giữa các bụi cây khô khốc mọc trên đáy khe, một con rắn nhô ra, và quằn quại trườn đi nhanh như chớp giữa các hòn đá, nó biến mất vào trong một cái hang kín đáo nào đó chỉ có nó biết. Bọn Bê-đu-in hăng lên đuổi theo nó, Ghe-bơ-rơ cũng cầm dao nhảy tới tiếp tay. Song vì mặt đất không bằng phẳng, khó lòng ném đá hoặc đâm dao trúng con rắn, nên chẳng mấy chốc cả ba đều quay trở lại, mặt lộ rõ vẻ kinh hoàng.

Và những tiếng kêu thông thường của dân Ả Rập lại vang lên:

- Lạy đức A-la!

- Kinh quá!

- Ghê khiếp quá!

Rồi tất cả hai tên Xu-đan bắt đầu nhìn Xtas với cái nhìn kì lạ, vừa thăm dò, vừa có ý hỏi, khiến Xtas không hiểu ra sao cả.

Trong khi đó, Nen đã xuống khỏi lưng lạc đà, và mặc dù cô bé ít mệt hơn hồi đêm, nhưng Xtas vẫn trải đệm cho cô bé nằm xuống, để có thể - như em nói - giãn gân cốt. Bọn Ả Rập xúm vào ăn trưa, song bữa ăn chỉ gồm bánh khô và quả chà là với một ngụm nước. Chúng cũng không cho lạc đà uống nước, vì hồi đêm đã uống no. Nét mặt I-đrix, Ghe-bơ-rơ và bọn Bê-đu-in vẫn đầy lo lắng, cuộc nghỉ chân trôi qua lặng lẽ. Cuối cùng, I-đrix kéo Xtas ra một bên và bắt đầu căn vặn em với vẻ mặt đầy bí ẩn lo lắng:

- Mày có trông thấy con rắn không?

- Thấy chứ.

- Không phải mày niệm chú để nó hiện ra trước mặt chúng tao đấy chứ?

- Không.

- Hôm nay chúng tao sẽ gặp một chuyện chẳng lành nào đó, vì bọn ngốc kia không giết được con rắn.

- Các ông sẽ gặp giá treo cổ.

- Câm đi. Cha mày có phải là phù thuỷ không?

- Phải. - Xtas đáp không do dự và hiểu ngay ra rằng, bọn người hoang dã và mê tín này xem việc con rắn xuất hiện như một điềm xấu báo trước cuộc trốn chạy của chúng sẽ không thành.

- Thế có nghĩa là chính cha mày phái nó đến. -I-đrix đáp. - Nhưng lẽ ra ông ta phải hiểu rằng, chúng tao có thể sẽ trả thù mày vì phép phù thuỷ của ông ta.

- Các ông sẽ chẳng làm gì tôi hết, và bọn con trai mụ Phát-ma sẽ phải chịu tội khi tôi bị hành hạ.

- Mày cũng đã hiểu được điều đó kia à? Nhưng hãy nhớ rằng, nếu như không có tao, thì mày đã bị túa máu ra dưới cái roi của thằng Ghe-bơ-rơ rồi, cả mày lẫn con nhóc.

- Vì thế nên tôi sẽ bênh vực riêng ông thôi, còn Ghe-bơ-rơ sẽ chui đầu vào sợi thừng treo cổ.

Nghe thấy thế, I-đrix nhìn nó một lúc lâu như kinh ngạc rồi nói:

- Mạng sống của chúng tao chưa nằm trong tay mày, mà mày đã nói như ông chủ chúng tao không bằng...

Rồi lát sau hắn thêm:

- Mày là một thằng bé kì lạ mà tao chưa hề gặp bao giờ. Cho tới nay tao đối tốt với chúng mày, nhưng mà y đừng có tưởng bở và đừng doạ tao..

- Chúa sẽ trừng trị tội phản bội. - Xtas đáp.

Rõ ràng là sự tự tin thể hiện trong giọng nói cậu bé cùng với điểm gở dưới dạng con rắn trốn thoát,đã khiến cho I-đrix lo lắng vô cùng. Đã ngồi trên lưng lạc đà rồi, hắn còn lặp lại mấy lần liền:

“Phải! Tao đã đối xử tốt với chúng mày!”, dường như để phòng xa, hắn muốn khắc điều đó vào trí nhớ của Xtas; rồi tiếp đó, hắn bắt đầu lần tràng hạt làm bằng vỏ hồ đào và cầu nguyện.

Vào khoảng hai giờ trưa, mặc dù là tiết mùa đông, cái nóng vẫn trở nên ngột ngạt khác thường. Trên trời không một gợn mây, còn chân trời lại ngả sang màu xám. Trên đầu đoàn người có mấy con diều hâu bay lượn, những đôi cánh dang rộng của chúng trải bóng đen di động trên mặt cát vàng hoe. Trong bầu không khí nóng bỏng cảm thấy như có mùi khét. Bọn lạc đà tuy vẫn không ngừng chạy nhanh, nhưng bắt đầu kêu những tiếng lạ tai. Một tên Bê-đu-in đi tới gần I-đrix:

- Sắp có chuyện chẳng lành rồi. - Hắn nói.

- Mày nghĩ sao? - Tên Xu-đan hỏi.

- Lũ ma dữ đã đánh thức gió đang ngủ ở phía Tây sa mạc, gió đã dậy từ mặt cát và đang chạy lại phía chúng ta.

Iđrix hơi nhổm người trên yên, nhìn ra phía xa rồi nói:

- Đúng thế. Gió thổi từ phía Tây và phía Nam, nhưng thông thường gió này không dữ tợn như gió khơmasin(2), - Tuy thế, ba năm trước chính nó đã vùi kín cả một đoàn người ở gần A-bu Ha-men, và cho mãi tới mùa đông vừa rồi mới để lộ xương cốt họ ra.

Ualla! Nó có đủ sức để trít kín mũi lạc đà và hút khô nước trong các túi đựng nước.

- Phải phóng thật nhanh để nó chỉ quệt một cánh vào ta thôi.

- Nó đang thổi thẳng vào mặt chúng ta, không thể tránh nó được đâu.

- Nó càng tới nhanh thì càng qua nhanh chứ sao.

Nói thế, I-đrix liền vung roi thúc lạc đà, bọn khác cũng làm theo gương hắn. Suốt một hồi lâu chỉ nghe toàn tiếng roi đập trầm đục, tựa như tiếng vỗ tay, và tiếng thét: Yalla!... Về phía Tây Nam, chân trời màu trắng đục lúc trước nay đã sẫm lại. Trời vẫn rất nồng nực, mặt trời thiêu đốt đầu những người đi. Lũ diều hâu hẳn là đã lên rất cao, vì bóng cặp cánh của chúng mỗi lúc một thu nhỏ lại và cuối cùng biến mất.

Trời trở nên ngột ngạt.

Bọn người Ả Rập kêu thét thúc lạc đà đến khô cổ, sau đó chúng im lặng. Một sự tĩnh mịch chết chóc bao trùm, chỉ thỉnh thoảng bị gián đoạn bởi tiếng rền rĩ của những con vật. Hai con cáo cát(4) nhỏ xíu, với cặp tai to tướng chạy vụt qua gần đoàn người về phía đối diện.

Tên Bê-đu-in vừa nói chuyện với I-đrix lại cất tiếng nói, tiếng hắn nghe rất lạ, dường như không phải là tiếng của hắn nữa:

- Sẽ không phải là gió thường đâu. Bọn ma dữ đang ám chúng ta rồi. Tất cả là tại con rắn...

- Tao biết! - I-đrix đáp.

- Nhìn kìa, không khí đang run rẩy. Mùa đông thường không có thế này.

Quả thật làn không khí bị nung bỏng bắt đầu rung động, và do ảo giác của mắt, người ta thấy như cả mặt cát cũng run rẩy theo. Lão Bê-đu-in cởi cái mũ đẫm mồ hôi trên đầu xuống và nói:

- Trái tim sa mạc đang đập nhịp sợ hãi.

Cùng lúc đó, tên Bê-đu-in thứ hai đang đi dẫn đầu đoàn lạc đà chợt quay lại và kêu lên:

- Đến rồi! Đến rồi đấy!

Quả thực, gió đã đến. Phía xa xa xuất hiện một thứ gì trông tựa một đám mây màu sẫm, đang mỗi lúc một vươn lên cao và tiến nhanh lại phía đoàn người. Những sóng không khí ở sát chung quanh bắt đầu xao động, những hơi gió giật bất thần bắt đầu cuộn xoáy cát. Đây đó hình thành những chiếc phễu, dường như đang có ai đó lấy gậy khoan xoáy vào mặt cát sa mạc. Nhiều nơi tạo nên các cơn xoáy tít trông giống như những cột, phía dưới nhỏ, phía trên xoè ra như một ngù lông. Song tất cả những hiện tượng đó chỉ diễn ra trong một chớp mắt mà thôi. Đám mây mà người dẫn đầu đã thấy trước đó, giờ đang phi lại với một tốc độ nhanh không thể tưởng tượng nổi. Người lẫn vật dường như bị một cánh chim khổng lồ quật vào mình. Chỉ trong một giây, mắt và miệng của mọi người đều đầy bụi đất. Những đám mây bụi bao phủ cả bầu trời, che khuất mặt trời khiến chung quanh tối mịt. Mọi vật bắt đầu biến đi trước mắt mọi người, thậm chí, cả những con lạc đà gần nhất cũng ẩn ẩn hiện hiện như trong một làn sương mù. Không phải tiếng xào xạc - vì trên sa mạc không có cây cối - mà là tiếng gầm rú của cơn lốc nhấn chìm tiếng gọi của người dẫn đường và tiếng kêu rống của loài vật. Trong không khí có mùi gì như mùi khí than. Lũ lạc đà đứng sựng lại, quay ngược hướng gió, vươn dài những cái cổ xuống đất, khiến cho mũi chúng gần như chạm vào mặt đất.

Song bọn Xu-đan không muốn dừng lại, bởi lẽ những đoàn người, vật dừng lại trong cơn bão cát thường bị lấp kín. Khi ấy, tốt nhất là phóng theo chiều gió, song I-đrix và Ghe-bơ-rơ không thể làm điều đó, vì như thế có nghĩa là quay trở lại Phai-um, nơi chúng đang e sợ là sẽ có những người săn đuổi chúng. Vì vậy, khi đợt tấn công thứ nhất của cơn bão vừa qua đi, chúng lại thúc lạc đà phi tiếp tục.

Trời đất tạm thời yên tĩnh, nhưng cái bóng tối màu hung hung đỏ tan loãng ra vô cùng chậm chạp, vì mặt trời không thể xuyên nổi qua làn bụi đang treo lơ lửng trong không khí. Những hạt cát nặng hơn bắt đầu rơi xuống phủ đầy các khe hở và chỗ gãy trên mặt yên, nằm lại trong các nếp quần áo. Mỗi một hơi thở, người và vật lại hít bụi vào, thứ bụi khiến phổi khó chịu và lạo xạo trong răng họ.

Thêm nữa, cơn lốc có thể lại sắp nổi lên, che mờ hoàn toàn trời đất. Xtas chợt nghĩ rằng, nếu trong lúc tối trời như thế mà nó được ngồi trên cùng một con lạc đà với Nen, thì chúng có thể quay lại và chạy theo chiều gió về phía Bắc. Biết đâu, trong bóng tối và sự quay cuồng của các sức mạnh thiên nhiên, bọn kia sẽ không thể nhìn thấy chúng, và nếu như chúng đến được một cái hang bất kì nào đó trên sông Ba-hơ-rơ Du-xép bên sông Nin, thì chúng sẽ thoát:

I-đrix và Ghe-bơ-rơ sẽ không dám đuổi theo chúng, vì ngay lập tức bọn ấy sẽ lọt vào tay các cảnh sát địa phương.

Cân nhắc điều ấy xong, Xtas bèn thúc vào tay I-đrix và nói:

- Đưa cho tôi bầu nước.

I-đrix không từ chối, vì mặc dù buổi sáng họ đã ngoặt sâu vào sa mạc và hiện đang cách sông khá xa, nhưng vẫn còn rất nhiều nước, lạc đà lại đã uống no nước trong đợt nghỉ lúc đêm rồi. Thêm nữa, là một người quen thuộc với sa mạc, hắn hiểu rằng, sau cơn bão thường có mưa, và khi ấy những khe cạn lại biến thành dòng suối tạm thời trong một thời gian.

Xtas quả thật cũng muốn uống nước, nên nó bèn tu đẫy, rồi không trả lại bầu nước cho I-đrix, nó lại động vào vai tên này:

- Hãy dừng lại đã.

- Làm gì? - tên Xu-đan hỏi.

- Tôi muốn ngồi sang lạc đà của cô bé để cho nó uống nước.

- Mụ Đi-na có bầu nước lớn hơn bầu của tao cơ mà.

- Nhưng bà ấy tham ăn tục uống lắm nên chắc là đã tu sạch rồi. Mà chắc cũng đã có rất nhiều cát lọt vào cái chỗ ngồi mà các ông đã làm thành hình cái sọt. Bà Đi-na không thể đối phó nổi chuyện đó đâu.

- Gió sẽ nổi lên ngay bây giờ, nó sẽ lại phủ đầy thôi.

- Thế thì cô bé càng cần phải có người giúp đỡ.

I-đrix quất cho lạc đà một roi, họ yên lặng đi một lúc.

- Sao ông không trả lời? - Xtas hỏi.

- Bởi tao đang nghĩ nên trói mày vào yên, hay nên trói tay mày ra đằng sau.

- Ông điên à?

- Không đâu. Nhưng tao đoán mày định làm gì.

- Dù sao thì người ta cũng sẽ đuổi kịp chúng ta, tôi chẳng cần làm việc ấy đâu.

- Sa mạc nằm trong tay Thượng đế.

Họ lại yên lặng. Những hạt cát lớn hơn đã rơi xuống hoàn toàn, trong không khí chỉ còn lại thứ bụi đỏ nhỏ xíu tựa như bụi tuyết, qua đó, mặt trời trông tựa như một miếng đồng đỏ quạch.

Nhưng đã có thể nhìn được xa hơn. Phía trước đoàn người giờ đây đang là một vùng bằng phẳng, trên đó, những cặp mắt tinh tường của bọn Ả Rập lại nhìn thấy một đám mây. Đám mây này cao hơn đám lúc trước, thêm nữa, từ đó thò ra những cái cộ t, trông tựa những ống khói khổng lồ, phía trên phình rộng ra.

Nhìn thấy thế, tim bọn người Ả Rập và Bê-đu-in run lên, vì chúng nhận ra ngay rằng đó là những cơn lốc cát khổng lồ(3). I-đrix đưa hai tay lên đến gần tai và bắt đầu vái cơn xoáy lốc đang lao tới. Lòng tin của hắn vào một vị Thượng đế duy nhất không cản trở hắn thờ cúng và kinh sợ những vị thần khác, nên Xtas nghe rõ lời hắn khấn:

- Lạy thần! Chúng con là con cháu của thần, xin thần chớ vùi dập chúng con.

Còn “thần” thì đã lao tới và quật vào lũ lạc đà với một sức mạnh khủng khiếp khiến chúng gần như ngã rạp xuống mặt cát.

Bọn súc vật giờ đây dồn lại thành một đám chật kín, đầu quay vào trong, hướng vào nhau. Cả những khối cát to lớn chuyển động.

Đoàn người bị chìm trong một thứ bóng tối còn đậm đặc hơn lúc trước, và trong bóng tối đó, bay vụt qua sát cạnh đoàn người là những vật gì đó nhoè nhoẹt, còn tối hơn nữa, tựa như những con chim khổng lồ hay những con lạc đà bị bão cuốn đi. Bọn Ả Rập sợ rúm người lại tưởng chừng như đó là hồn ma của những người và vật đã bị chết vùi dưới cát hiện về. Trong tiếng gầm thét của cơn bão lốc, nghe thấy những giọng nói kì lạ, khi thì như tiếng than khóc nức nở, khi tựa tiếng cười sằng sặc, khi lại giống như tiếng gào rú kêu cứu. Song đó chỉ là ảo giác. Đoàn người bị đe doạ bởi một nỗi nguy hiểm thực tế trăm lần kinh khủng hơn. Bọn Xu-đan hiểu rõ rằng, nếu một trong số các vòi rồng cát được tạo thành liên tục giữa lòng cơn bão mà tóm lấy chúng vào vòng xoáy của mình, thì nó sẽ vật ngã người cưỡi và xua tán loạn đàn lạc đà, còn nếu nó đứt gãy và đổ xuống đầu chúng, thì chỉ trong nháy mắt chúng sẽ được phủ vùi trong một nấm mộ bằng cát khổng lồ, trong đó, chúng sẽ phải chờ cho đến khi một cơn bão tiếp đó làm phơi xương cốt của chúng ra.

Xtas thấy quay cuồng cả đầu óc, hơi thở bị nghẹt trong lồng ngực và cát khiến em mờ cả mắt. Song dường như đôi lúc em nghe thấy tiếng khóc và tiếng kêu của Nen, nên chỉ nghĩ tới cô bé mà thôi. Tranh thủ lúc lạc đà đang đứng xúm xít thành một đám, mà I-đrix thì đang không thể chú ý tới em, em liền quyết định sẽ khẽ khàng lao sang lạc đà của Nen, không phải để chạy trốn nữa mà để giúp đỡ và động viên cô bé. Song khi em vừa mới gập chân vào và đưa tay ra định bíu lấy cái yên của Nen thì một bàn tay khổng lồ của I-đrix đã tóm lấy em mà giật. Tên Xu-đan nhấc em lên như một chiếc lông, đặt ngay trước mặt và bắt đầu trói em bằng dây thừng, rồi sau khi trói chặt tay em lại, hắn đặt em nằm ngang qua yên. Xtas nghiến chặt răng cố chống cự, song chỉ vô ích. Cổ họng khô bỏng, mồm đầy cát, em không thể và cũ ng không muốn thuyết phục I-đrix rằng, em chỉ muốn sang giúp cô bé chứ không có ý định trốn.

Song chỉ lát sau, cảm thấy ngạt thở, em bắt đầu kêu lên, giọng đã nghẹt đi:

- Cứu lấy cô bé... Cứu lấy cô bé!

Song bọn Ả Rập chỉ nghĩ đến việc cứu lấy bản thân chúng thôi. Gió thổi kinh khủng đến nỗi chúng không thể ngồi nổi trên lưng lạc đà, mà lạc đà cũng không thể đứng yên tại chỗ. Hai tên Bê-đu-in, cùng với Kha-mix và Ghe-bơ-rơ nhảy xuống đất để nắm lấy sợi thừng buộc vào dây cương ở hàm dưới của lạc đà. Đẩy Xtas về phía sau yên, I-đrix cũng làm như vậy. Bọn súc vật cố dang rộng chân để chống lại cơn lốc điên cuồng, nhưng chúng không đủ sức, và cả đoàn, bị sỏi quật như hàng trăm ngọn roi quất, bị cát xói như kim châm, bắt đầu quành đi và lùi lại, lúc nhanh, lúc chậm. Chốc chốc, cơn lốc lại tạo thành vũng dưới chân lạc đà, thỉnh thoảng cát và sỏi lại dồn đống hai bên sườn lạc đà, trong chớp mắt tạo thành những đống cao đến đầu gối chúng, hoặc cao hơn nữa. Cứ thế, giờ này sang giờ khác, nỗi nguy hiểm mỗi lúc một thêm kinh khủng.

Mãi sau, I-đrix hiểu rằng, cứu cánh cuối cùng là ngồi lên lạc đà và phi theo chiều gió. Song điều đó cũng có nghĩa là quay lại phía Phai-um, nơi toà án Ai Cập cùng giá treo cổ đang chờ chúng.

“Hà! Biết làm thế nào?” - I-đrix nghĩ thầm. - “Cơn bão cũng sẽ cản chân bọn đuổi theo, khi nào nó ngớt, ta sẽ lại quay về phía Nam”.

Và hắn bắt đầu thét gọi đồng bọn lên lưng lạc đà. Khi ấy chợt xảy ra một điều làm cho tình thế thay đổi hoàn toàn.

Đột nhiên có một thứ ánh sáng mờ xám chiếu xuyên qua những đám mây tối tăm gần như đen. Rồi đó, bóng tối lại trở nên dày đặc hơn, nhưng đồng thời, sấm ngủ trên cao, bị gió lốc đánh thức dậy, bắt đầu lên tiếng trong vùng nằm giữa Sa mạc Ả Rập và Sa mạc Li-bi, tiếng sấm to, dữ dằn, có thể nói là thịnh nộ. Ngỡ như từ trời cao, những trái núi và những tảng đá đang lăn sầm sập xuống. Tiếng sấm điếc tai mỗi lúc một mạnh thêm, lớn lên, làm rung chuyển cả thế giới, chạy quanh vòm trời, đôi chỗ bùng nổ với một sức mạnh khủng khiếp, tưởng như cả vòm trời bị vỡ vụn ra, đổ sụp xuống trái đất, rồi tiếp đó, lại lan đi với tiếng ầm ù trầm đục kéo dài, để rồi lại bùng nổ, lại đứt gẫy thành những tia chớp giật nhoáng nhoàng, những là n sét chết người, hạ xuống thấp, dâng lên cao, gầm gào và kéo dài(5).

Gió lặng đi như kinh hoàng, rồi một lúc sau, khi từ một nơi nào đó vô cùng xa thẳm, cổng trời sập then lại sau lưng lũ sấm, và một sự im lặng chết chóc bao trùm.

Song một giây sau, tiếng của người dẫn đường vang lên trong bầu tĩnh mịch đó:

- Thượng đế thống trị cả bão lốc! Chúng ta được cứu sống rồi!

Họ lại lên đường. Song bao phủ họ là một bóng tối đen như mực, đến nỗi mặc dù lũ lạc đà chạy rất gần nhau, đoàn người vẫn không trông thấy nhau, và thỉnh thoảng họ lại phải kêu to lên để không lạc nhau. Thỉnh thoảng, một tia chớp màu đỏ, hoặc xanh lét soi rõ khoảng không gian đầy cát nhưng khi chúng biến đi, bóng tối lại càng trở nên dày đặc hơn, đến nỗi muốn đi phải giơ tay sờ soạng. Mặc dù niềm hưng phấn mà tiếng kêu của người dẫn đường đã gieo vào lòng bọn Xu-đan, song chúng vẫn còn lo lắng, chính vì chúng đang mò mẫm, hoàn toàn không biết đi về phía nào, không biết liệu chúng có đi lộn lại thành vòng tròn, hoặc đi về phía Bắc hay không. Lũ lạc đà vấp liên tục, nên không thể đi nhanh được.

Thêm nữa chúng thở rất to và rất lạ, khiến cả bọn ngỡ như toàn bộ sa mạc đang thở dồn vì kinh hãi. Cuối cùng, những giọt mưa to tướng đầu tiên bắt đầu rơi xuống, cơn mưa gần như bao giờ cũng xuất hiện sau cơn bão, và đồng thời, giọng người dẫn đường vang lên trong bóng đêm:

- Khe cạn!...Họ đang đứng trên bờ khe núi. Lũ lạc đà dừng lại trên bờ, rồi sau đó chúng bắt đầu thận trọng lần bước xuống lòng khe.

?

--- ------ ------ ------ ---!

1 Iblix: vua quỷ.

2 Cũng là loại gió Tây Nam, nhưng thổi về mùa xuân.

3 Loại cáo nhỏ hơn cáo thông thường, còn gọi là cáo phe-nêch.

4 Đó là những vòi rồng cát.

5 Tác giả đã có lần nghe một tiếng sấm kéo dài gần nửa giờ không dứt ở gần A-đen (chú thích của tác giả).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ---

Khe cạn rộng rãi, lòng khe trải đầy đá, giữa các tảng đá là những lùm cây gai góc lùn choằn choằn. Tường phía Nam của khe là những vách đá cao đầy vết nứt và đứt gãy. Bọn Ả Rập nhận ra điều đó trong ánh sáng của những tia chớp lặng lẽ nhưng mỗi lúc một loé ra thường xuyên hơn. Chẳng bao lâu sau, chúng đã phát hiện ra trong bức tường đá ấy một cái hang nông lòng, hay nói đúng hơn là một cái hàm ếch rộng rãi, trong đó, nhóm người có thể dễ dàng trú ngụ một cách thoải mái để tránh mưa to. Lũ lạc đà cũng được bố trí trên một mô cao ngay trước hang. Bọn Bê-đu-in và hai tên Xu-đan tháo các thứ hàng hoá và yên cương ra khỏi lưng lạc đà để chúng có thể nghỉ ngơi tốt hơn, còn Kha-mix, con trai của Kha-đi-gi, thì đi lấy cành gai khô về nhóm lửa. Những giọt mưa đơn độc to tướng vẫn rơi không ngừng, nhưng mãi tới khi cả đoàn đã nằm nghỉ ngơi thoải mái rồi thì cơn mưa to mới thật sự bắt đầu.

Ban đầu nước chả y như những sợi dây nhỏ, sau đó như những dây thừng, và cuối cùng, có thể ngỡ như cả những dòng sông trút từ những đám mây vô hình trên bầu trời xuống đất. Đó chính là cơn mưa rào thường vài năm mới có một lần, khiến cho ngay trong mùa đông, nước sông Nin và trong các dòng kênh cũ ng lên to, đồng thời làm đầy các bể chứa nước khổng lồ ở A-đen; thiếu những bể chứa ấy thì thành phố này không thể tồn tại được. Trong đời mình, Xtas chưa hề được thấy một thứ gì tương tự như thế. Dưới lòng khe, dòng suối bắt đầu chảy rào rạt, cửa vào hang dường như có một bức rèm nước chắn ngang, chung quanh chỉ nghe toàn tiếng mưa ào ạt và tiếng nước rào rào. Lũ lạc đà đứng trên mô cao, mưa cùng lắm cũng chỉ có thể làm chúng được tắm một bữa, song bọn Ả Rập vẫn thường xuyên ngó ra xem có gì nguy hiểm đe doạ lũ súc vật hay không. Còn mọi người thật dễ chịu được ngồi trong một cái hang che mưa, bên đống lửa cháy sáng đốt bằng cành gai khô chưa kịp bị mưa thấm ướt. Niềm vui sướng hiện rõ trên nét mặt I-đrix, kẻ đã cởi trói cho Xtas ngay sau khi đến nơi để em có thể ăn cơm được; lúc này quay sang phía em, hắn nhếch một nụ cười khinh thị nói:

- Đức Ma-hơ-đi vĩ đại hơn tất cả bọn phù thuỷ da trắng. Chính Người đã dập tắt cơn bão và gửi mưa đến đây.

Xtas không đáp lại, vì lúc này em đang săn sóc bé Nen, cô bé đang sống dở chết dở. Trước hết em giũ sạch cát trong tóc cô bé , rồi bảo bà u già Đi-na mở gói đồ đạc mà bà mang theo từ Phai-um đi vì cứ ngỡ bọn trẻ đến với cha chúng, lấy ra cái khăn mặt, nhúng vào nước, lau mắt và mặt cho cô bé. Bà Đi-na không thể làm được điều đó, vì bà vốn chỉ trông thấy bằng mỗi một con mắt duy nhất, mà lại cập quạng vì đã bị cơn bão làm cho hầu như không trông thấy gì nữa; việc rửa đôi mí mắt bỏng rát hiện thời chưa thể khiến cho bà dễ chịu chút nào. Nen ngoan ngoãn tuân theo mọi sự săn sóc của Xtas và chỉ nhìn cậu bé với dáng vẻ của một con chim non quá mệt mỏi. Mãi tới khi cậu bé tháo đôi giày của cô bé để dốc cát ra rồi trải nệm cho cô bé, cô mới choàng tay ôm vòng lấy cổ Xtas.

Trong trái tim cậu bé dâng tràn một tình thương bao la. Em cảm thấy mình vừa là người đỡ đầu, vừa là người anh lớn, và là người duy nhất bảo vệ Nen trong lúc này; em cảm thấy thương yêu cô em gái bé bỏng ấy vô cùng, yêu thương hơn nhiều so với lúc trước. Hồi ở Port Xai-đơ em cũng đã yêu thương cô bé, song vẫn coi đó là một “nhóc con” nên, nói thí dụ, em không bao giờ nghĩ tới chuyện hôn tay cô bé trước khi đi ngủ. Giá như có ai bảo em làm điều ấy chẳng hạn, thì em sẽ cho rằng đối với một chàng trai trẻ mười bốn tuổi đời, không thể làm một chuyện như thế mà không tổn hại tới danh giá và tuổi tác của mình. Còn giờ đây, nỗi bất hạnh chung đã thức tỉnh sự âu yếm ẩn náu trong lòng em, em hôn không chỉ một bàn tay mà cả hai bàn tay cô bé.

Đã đi nằm rồi mà em vẫn còn suy nghĩ về cô bé và quyết định sẽ thực hiện một hành động phi thường nào đó để giải thoát cho Nen khỏi cảnh đọa đầy. Em sẵn sàng chịu đựng tất cả mọi chuyện, kể cả việc bị thương, hoặc bị chết, chỉ với một điều “ghi chú” nhỏ bé giấu kín trong đáy lòng, là sao cho vết thương đừng quá đau đớn, còn cái chết đừng là điều nhất thiết phải xảy ra và cũng đừng chết thật, bởi nếu thế thì em không sao có thể trông thấy niềm sung sướng của bé Nen khi được giải thoát nữa. Rồi em cân nhắc đến những phương pháp anh hùng nhất để cứu Nen, nhưng những ý nghĩ của em bắt đầu hỗn độn. Em cảm thấy như có hàng đám mây cát rắc đầy xuống những ý nghĩ ấy, rồi ngỡ như tất cả đàn lạc đà nhập vào đầu óc em, và thế là em thiếp đi.

Sau khi chăm sóc lũ lạc đà, bọn Ả Rập - quá mệt mỏi vì cuộc chiến đấu với cơn bão táp - cũng ngủ say như chết. Các đống lửa lụi dần, trong hang mờ tối. Chỉ một lát sau đã vang lên tiếng người ngáy, còn từ phía ngoài vọng vào tiếng mưa rơi, tiếng nước vỗ óc ách vào đá dưới lòng khe. Cứ thế, đêm trôi đi.

Song, trước khi trời sáng, cái lạnh đã đánh thức Xtas khỏi giấc ngủ say. Hoá ra, nước tích tụ trong những khe đá trên vòm hang đã ngấm dần xuống và từng giọt, từng giọt một chảy qua một cái kẽ nứt nào đó trên vòm hang, nhỏ giọt xuống đầu cậu bé. Cậu bé ngồi nhổm dậy trên đệm và suốt một lúc lâu, cưỡng lại cơn buồn ngủ, em không thể nhớ nổi hiện em đang ở đâu và có chuyện gì xảy ra với em. Tuy vậy hồi lâu sau, em dần dần tỉnh táo lại.

“À! - Em nghĩ thầm. - Hôm qua có bão, còn hai đứa mình bị bắt cóc, và đây là cái hang mà chúng mình trú mưa”.

Em bắt đầu quan sát chung quanh. Trước hết, em ngạc nhiên nhận thấy mưa đã tạnh, và trong hang không hoàn toàn tối, vì vầng trăng sắp lặn, xuống thấp trên bầu trời, đang chiếu sáng lòng hang. Trong ánh trăng nhợt nhạt có thể thấy rõ lòng hang rộng rãi nhưng khá nông. Xtas nhìn rõ những tên Ả Rập đang nằm ngủ cạnh nhau, dưới bức tường bên kia là Nen trong cái áo dài màu trắng đang ngủ say bên cạnh bà Đi-na.

Một nỗi âu yếm to lớn lại tràn ngập trái tim cậu bé.

“Nen đang ngủ... đang ngủ, - em tự nhủ, - còn ta, ta không ngủ, vì ta còn phải cứu em”.

Rồi nhìn sang bọn Ả Rập, em thầm nói thêm:

“Ôi, ta muốn sao cả bọn chúng nó...” Bỗng em rùng mình.

Đó là vì ánh mắt của em chợt nhìn thấy cái hộp da, trong đó đựng khẩu súng em được tặng trong lễ giáng sinh, và cái hộp đựng đạn nằm ở khoảng giữa em và tên Kha-mix, gần đến nỗi chỉ cần đưa tay ra là tới.

Tim em bắt đầu đập mạnh. Giá mà cầm được khẩu súng và hộp đạn, thì em sẽ có thể làm chủ tình thế. Khi ấy, chỉ cần khẽ khàng chuồn ra ngoài hang, ẩn kín chừng vài chục bước chân cách cửa hang, giữa các khe đá, và từ đó kiểm soát lối ra. Em nghĩ:

“Bọn Xu-đan và Bê-đu-in khi tỉnh dậy mà không thấy mình lập tức sẽ lao ra khỏi hang, khi ấy, bằng hai phát đạn, ta sẽ hạ ngay hai tên đầu tiên, và trước khi hai tên sau kịp chạy tới thì khẩu súng đã lại được nạp đạn rồi. Chỉ còn lại mỗi mình Kha-mix thôi, với tên này thì ta đối phó dễ dàng rồi”.

Nghĩ tới đây em hình dung thấy bốn thây người nằm trong máu và nỗi kinh hoàng cùng sự khiếp hãi bóp chặt lấy lồng ngực.

Giết bốn mạng người! Dù đó là bốn thằng vô lại đi nữa thì chuyện ấy cũng thật kinh khủng. Em nhớ lại, một lần ở Port Xai-đơ, em đã trông thấy một người nông dân đi làm công bị khuỷu trục máy hơi nước tầu cuốc đánh chết cùng cái ấn tượng kinh khủng là những mảnh vụn của người run giật trong vũng máu đỏ. Chỉ nhớ lại chuyện đó thôi em đã thấy rù ng mình rồi. Còn bây giờ cần phải...

những bốn người! Tội lỗi và kinh khủng!... Không! Không! Em không bao giờ làm nổi chuyện ấy.

Em bắt đầu đấu tranh tư tưởng. Nếu vì bản thân thì hẳn là em không làm chuyện ấy. Nhưng ở đây là vì Nen, vì phải bảo vệ Nen, phải cứu lấy Nen, phải cứu lấy mạng sống của Nen, vì rõ ràng cô bé không thể nào chịu đựng nổi và chắc chắn là sẽ chết dọc đường, hoặc giữa các bộ tộc hoang dã đã biến thành “thú dữ” của lũ tín đồ Hồi giáo. So với cuộc sống của Nen, máu của những kẻ khốn nạn kia liệu có nghĩa lí gì và trong tình thế này có thể nào do dự được.

- Vì Nen! Vì Nen!

Chợt một ý nghĩ nảy ra như cơn lốc thoáng qua đầu Xtas khiến tóc em dựng ngược lên. Liệu sẽ ra sao, nếu như một tên nào đó trong bọn cướp gí dao vào ngực Nen nói rằng sẽ giết cô bé nếu như Xtas không đầu hàng và không trả khẩu súng lại cho chúng?

Khi ấy thì sao?

“Khi ấy, - cậu bé tự nhủ, - thì ta sẽ đầu hàng ngay lập tức”.

Và trong cảm giác thấy mình bất lực, em lại nằm vật xuống đệm.

Trăng đã dòm nghiêng qua cửa hang, trong hang tối hơn trước. Bọn Ả Rập vẫn ngáy đều. Xtas nằm một lúc, rồi một ý nghĩ mới lại soi sáng đầu óc em.

Nếu như lấy được vũ khí ra khỏi hang và ẩn vào giữa các tảng đá, không phải để giết người, mà là để bắn hạ lạc đà thì sao?

Thương tiếc những con vật vô tội ấy thật, nhưng biết làm sao khác được? Người ta giết súc vật đâu chỉ phải để cứu mạng sống của mình mà còn để nấu xúp thịt và làm chả nướng nữa. Một điều chắ c chắn là nếu như em giết được bốn con lạc đà... năm con lạ i càng tốt hơn - thì rõ ràng cuộc hành trình này không thể tiếp tục được nữa. Không kẻ nào trong đoàn dám tới các làng mạc ven sông để mua lạc đà mới. Và khi ấy, nhân danh hai ông bố, Xtas sẽ hứa với bọn chúng là không trị tội chúng, thậm chí hứa thưởng tiền nữa, và chúng không còn cách nào khác hơn là quay trở lại.

Phải! Nhưng nếu như bọn chúng không để cho em kịp hứa hẹn mà giết em ngay lập tức vì giận dữ thì sao?

Bọn chúng sẽ phải để cho em có thời gian và phải nghe em nói, bởi vì có khẩu súng trong tay em sẽ biết cách giữ chúng ở một khoảng cách cần thiết trước khi nói xong mọi điều. Nếu em làm thế, bọn chúng sẽ hiểu ra rằng lối thoát duy nhất của chúng là chịu đầu hàng. Khi đó, em sẽ dẫn đầu đoàn người và đưa họ thẳng tới sông Ba-hơ-rơ Du-xép, rồi tới sông Nin. Tuy hiện nay họ đang cách sông khá xa, có thể chừng một hoặc hai ngày đường, vì bọn Ả Rập đã rẽ sâu vào sa mạc do thận trọng, nhưng chuyện đó có hề gì.

Còn lại những mấy con lạc đà kia mà, Nen sẽ cưỡi một con. Xtas bắt đầu quan sát kĩ càng hơn bọn Ả Rập. Tất cả bọn đều ngủ say như những người đã quá mệt, và vì đêm sắp tàn, nên có thể chẳng mấy chốc nữa chúng sẽ thức giấc. Cần phải hành động ngay lập tức. Việc lấy hộp đạn không khó khăn gì vì nó nằm ngay bên cạnh.

Lấy khẩu súng thì khó khăn hơn, vì Kha-mix đặt ở phía bên kia người hắn. Xtas hi vọng có thể lấy trộm được súng, nhưng quyết định rằng, em sẽ lấy súng ra khỏi hộp và lắp nòng vào báng khi đã ra cách hang chừng vài chục bước đề phòng tiếng sắt va vào nhau sẽ đánh thức những kẻ đang ngủ tỉnh dậy.

Đã tới lúc. Cậu bé uốn mình như một con nhện phía trên người Kha-mix, tóm lấy quai hộp súng nhấc lên mang sang phía mình. Tim và mạch máu em đập mạnh, mắt tối sầm lại, hơi thở trở nên gấp gáp, nhưng em nghiến chặt răng cố gắng nén xúc động.

Tuy nhiên, khi các đai chằng hộp súng kêu khẽ, những giọt mồ hôi lạnh vẫn toát ra trên trán em. Giây phút ấy đối với em dài như thế kỉ. Song tên Kha-mix hoàn toàn không nhúc nhích tí nào. Hộp súng vẽ một vòng cung trên người hắn và nằm yên bên cạnh hộp đạn.

Xtas thở một hơi dài. Nửa phần công việc đã hoàn thành.

Bây giờ cần phải luồn ra khỏi hang không một tiếng động, chạy đi vài chục bước chân, ẩn vào khe đá, mở hộp, lắp súng, nạp đạn vào súng và bỏ thêm vào túi mươi viên nữa. Khi ấy, cả đoàn sẽ nằm trong tay em.

Hình bóng đen đen của Xtas nổi rõ nét trên nền màu sáng của lỗ hang. Một giây nữa thôi là em sẽ ở bên ngoài. Một phút nữa thôi là em sẽ ẩn được vào khe đá. Và khi ấy, dù cho có tên nào trong bọn cướp tỉnh dậy đi nữa, thì trước khi hắn kịp hiểu chuyện gì xảy ra, trước khi hắn kịp đánh thức đồng bọn - mọi sự đã muộn rồi. Vì lo rằng sẽ đá phải một hòn đá nào trong số đá nằm đầy cửa hang, cậu bé đưa một chân ra ngoài và dùng gan bàn chân dò dẫm tìm nền đất chắc chắn.

Khi em đã thò đầu ra ngoài và gần như lọt hắn cả người ra, thì đột nhiên xảy ra một chuyện khiến máu em dường như đông lại thành băng trong huyết quản.

Giữa sự tĩnh mịch sâu thẳm, tiếng sủa mừng rỡ của Xa-ba chợt vang lên như sấm, tiếng sủa tràn ngập cả lòng hang, đánh thức những hồi âm như đang ngủ say trong đó. Bọn Ả Rập đang ngủ đồng loạt bật dậy, sự việc đầu tiên đập vào mắt chúng là hình ảnh Xtas, một tay xách hộp súng, còn tay kia cầm hộp đựng đạn.

....

- Ôi, Xa-ba, mày làm gì thế?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ---

Cùng một lúc, cả bọn vừa thét lên một tiếng khủng khiếp vừa nhảy xổ vào Xtas, và chỉ một chớp mắt sau chúng đã giật được súng đạn khỏi tay em, quật em xuống đất, lấy thừng trói tay chân em lại, đánh đá liên hồi, cho tới khi gã I-đrix xua chúng ra vì sợ rằng thằng bé không sống nổi. Tiếp đó, chúng bắt đầu nói chuyện với nhau bằng những lời đứt đoạn, kiểu những người vừa bị một nỗi nguy hiểm khủng khiếp đe dọa, nỗi nguy hiểm mà họ vừa thoát khỏi chỉ nhờ một chuyện tình cờ.

- Nó thật là quỷ vương hiện hình! - I-đrix kêu lên, mặt hắn tái đi vì sợ hãi và xúc động.

- Suýt nữa thì nó bắn chúng ta như hạ những con ngỗng trời vậy, - Ghe-bơ-rơ nói thêm.

- Ôi, nếu như không có con chó!

- Chính Thượng đế phái nó xuống cứu chúng ta đấy.

- Vậy mà các người trước đây lại định giết nó! -Kha-mix nói.

- Từ nay chẳng ai động tới nó đâu.

- Lúc nào nó cũng sẽ được hưởng xương xẩu và nước uống.

- Lạy đức A-la!

- Lạy đức A-la! - I-đrix cứ lắp đi lắp lại vì không sao bình tâm nổi. - Cái chết đã ở trên đầu chúng ta!Ôi!

Và chúng ngó Xtas đang nằm với vẻ căm thù, song đồng thời cũng phần nào kinh ngạc, vì cái thằng bé nhóc con này chỉ có mỗi một mình mà suýt nữa đã trở thành nguyên nhân của sự thất bại và sự mất mạng của cả bọn.

- Lạy Đấng tiên tri! - Một trong hai tên Bê-đu-in thốt lên. - Cần phải đề phòng không cho thằng con đẻ của vua quỷ này vặn cổ chúng ta. Chúng ta sẽ mang con rắn này tới cho đức Ma-hơ-đi.

Các ông định làm gì nó bây giờ.

- Phải chặt tay phải của nó đi! - Ghe-bơ-rơ kêu lên.

Bọn Bê-đu-in không đáp lại gì hết, nhưng I-đrix không muốn tán đồng chuyện đó. Hắn nghĩ rằng, nếu như những người đuổi theo tóm được chúng, thì hình phạt do tội làm tàn tật thằng bé sẽ càng trở nên kinh khủng bội phần. Vả lại ai dám đoán chắc là Xtas sẽ không bị chết sau khi chặt tay? Mà nếu thế thì chỉ còn có một mình Nen để đánh đổi lấy Phát-ma và những đứa con của mụ mà thôi.

Cho nên khi Ghe-bơ-rơ rút dao ra để thực hiện lời đe dọa của hắn, I-đrix bèn túm lấy khuỷu tay hắn ngăn lại:

- Không! - Hắn bảo. - Thật đáng xấu hổ thay cho năm chiến sĩ của đức Ma-hơ-đi, vì sợ một thằng nhóc con Thiên Chúa giáo đơn độc, đến nỗi phải chặt tay nó. Đêm đến ta sẽ trói nó lại. Còn bây giờ nó sẽ được ăn mười roi vì cái điều mà nó vừa định làm.

Ghe-bơ-rơ muốn thi hành bản án ngay lập tức, nhưng I-đrix lại đẩy hắn ra và ra lệnh cho một trong hai tên Bê-đu-in đánh, song, trước đó đã nói thầm vào tai y bảo nên nhẹ tay thôi. Kha-mix, vì phục vụ đã lâu trong nhà các kĩ sư, hoặc vì một lí do nào khác, không muốn can thiệp vào chuyện đó, nên tên Bê-đu-in thứ hai dằn sấp Xtas ra đất. Bản án sắp được thi hành thì đột nhiên xảy ra một chuyện không ngờ, khiến nó bị cản trở.

Đó là sự xuất hiện của Nen và Xa-ba ở cửa hang.

Mải mê với con vật yêu mến của mình, con vật mà ngay sau khi vào hang đã chạy ngay tới bên chân cô chủ, Nen cũng có nghe thấy tiếng kêu thét của bọn Ả Rập, nhưng không chú ý tới chuyện đó lắm, vì ở Ai Cập, cả bọn Ả Rập lẫn dân Bê-đu-in gặp bất kì chuyện gì cũng hay kêu thét như sắp giết nhau đến nơi. Mãi cho tới khi Nen gọi Xtas mà không thấy tiếng trả lời, cô bé bước ra ngoài để xem có phải cậu đã leo lên lạc đà hay chưa, thì trong những tia sáng đầu tiên của buổi bình minh, một tên Bê-đu-in cầm roi lăm lăm đứng bên trên mình cậu. Nhìn thấy cảnh tượng ấy Nen giậm chân thét lên, và khi thấy tên Bê-đu-in không hề lưu ý gì tới chuyện đó, vẫn chuẩn bị giáng roi đầu tiên, cô liền lao tới lấy mình che cho Xtas.

Tên Bê-đu-in do dự vì không có lệnh đánh Nen. Trong khi đó vang lên tiếng gọi tuyệt vọng và kinh hoàng của cô bé:

- Xa-ba! Xa-ba! Xa-ba hiểu ngay mọi chuyện, và chỉ một bước nó đã phóng tới bên lũ trẻ. Lông cổ và lông lưng nó dựng ngược, mắt nó đỏ ngầu; từ trong ngực và trong cái cổ họng khổng lồ của nó bật lên tiếng gầm gừ như tiếng sấm. Rồi đôi môi trên cái hàm đầy nếp nhăn của nó từ từ nhấc lên cao, để lộ ra toàn bộ bộ răng cùng những cái nanh trắng nhởn dài hàng nửa tấc, cho tới tận cái lợi đỏ máu. Con chó ngao khổng lồ bắt đầu quay đầu sang bên trái, bên phải, dường như muốn phô cho bọn Xu-đan cùng bọn Bê-đu-in thấy rõ “bộ cánh” kinh khủng của mình và bảo với bọn chúng:

- Hãy nhìn đây! Đây là thứ mà ta sẽ dùng để bảo vệ bọn trẻ!

Bọn chúng vội vàng lùi lại, một mặt vì nhớ rằng chính Xa-ba đã cứu mạng chúng, thêm nữa, một điều rõ ràng là, kẻ nào dám tiến lại gần Nen bây giờ sẽ bị con chó giống maxtif cắn ngập răng nanh vào họng. Vì vậy, bọn chúng đứng yên bất lực, chỉ đưa mắt do dự nhìn nhau, dường như đứa này muốn hỏi đứa kia xem bây giờ phải làm gì.

Sự do dự của chúng kéo dài khá lâu, khiến Nen có đủ thì giờ gọi bà Đi-na và bảo bà cắt dây trói cho Xtas, cậu bé liền đứng dậy, và đặt tay lên đầu Xa-ba, cậu quay lại nhìn bọn cướp:

- Ta không muốn giết hại các người mà chỉ giết lạc đà thôi. - Nó nói rít qua hàm răng nghiến chặt.

Song cái tin này khiến bọn Ả Rập kinh hoàng đến nỗi chúng sẵn sàng nhảy xổ ngay vào Xtas một lần nữa, nếu như không có đôi mắt đỏ như lửa và bộ lông hãy còn xù lên của Xa-ba. Thậm chí gã Ghe-bơ-rơ đã muốn nhảy tới, nhưng chỉ một tiếng gầm gừ trầm đục đã khiến hắn đứng chôn chân tại chỗ.

Một giây im lặng, rồi sau đó giọng nói lảnh lói của I-đrix vang lên:

- Lên đường! Lên đường!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ -----

Một ngày trôi qua, một đêm rồi lại một ngày nữa, bọn chúng vẫn phóng vội vã về phương Nam, chỉ dừng lại trong các khe cạn nghỉ những đợt ngắn để không làm bọn lạc đà quá mệt, cho chúng uống nước và ăn, đồng thời chia nhau thức ăn nước uống. Vì sợ bị đuổi theo, chúng quành nhiều hơn nữa về phía Tây, còn nước thì trong một thời gian nhất định chúng không phải lo lắng nữa. Dù mưa kéo dài không tới bảy tiếng đồng hồ, nhưng rất to, cứ như là mây bị đổ xuống sa mạc vậy, nên cả I-đrix, Ghe-bơ-rơ lẫn bọn người Bê-đu-in đều biết rõ rằng, dưới các lòng khe cạn và tại những chỗ mà đá tạo thành các hõm thiên nhiên, trong vòng vài ngày tới, vẫn có thể tìm thấy đủ nước không những cho người và lạc đà uống, mà còn để dự trữ nữa. Như thường lệ, sau cơn mưa lớn, thời tiết lại đẹp vô cùng. Bầu trời không một gợn mây, không khí trong suốt đến nỗi mắt thường có thể trông được rất xa. Về đêm, trời đầy sao long lanh và nhấp nháy như hàng ngàn viên kim cương. Cát sa mạc phả làn hơi lạnh tỉnh người.

Những cái bướu lạc đà đã trở nên nhỏ hơn, nhưng vì chúng được nuôi ăn tốt, nên chúng vẫn“harde” nói theo ngôn ngữ Ả Rập, nghĩa là vẫn sung sức và vẫn chạy rất hăng, khiến cho đoàn người tiến về phía trước với tốc độ chỉ chậm hơn không đáng kể so với ngày đầu tiên rời khỏi Ga-rắc Xun-ta-ni. Xtas ngạc nhiên nhận thấy rằng, trong một số khe cạn, trong các hẻm đá tránh được mưa, bọn Bê-đu-in lấy ra những bọc ngô và chà là dự trữ. Em liền hiểu ra rằng, trước khi bắt cóc chúng, bọn kia đã tiến hành một số công việc chuẩn bị nhất định và mọi việc đã được thoả thuận ngay từ đầu giữa mụ Phát-ma, I-đrix và Ghe-bơ-rơ cùng bọn Bê-đu-in. Cũng dễ đoán ra rằng, hai tên Bê-đu-in vốn ủng hộ và ngưỡng mộ Ma-hơ-đi, chúng muốn đến với y, nên đã bị bọn Xu-đan kéo tham gia vào âm mưu này. Chung quanh vùng Phai-um và gần Ga-rắc Xun-ta-ni có rất nhiều dân Bê-đu-in, họ cùng với trẻ con và lạc đà đi du mục trên sa mạc, và thường tới Mê-đi-nét cũng như các ga xe lửa để kiếm ăn.

Song trước đó, Xtas chưa lần nào gặp hai tên này, và bọn chúng có lẽ cũng chưa hề tới Mê-đi-nét, vì chúng không biết Xa-ba.

Cậu bé có nghĩ đến việc thử mua chuộc chúng, nhưng chỉ nhớ lại những tiếng kêu thét đầy nhiệt tình của chúng khi nghe nhắc tới tên Ma-hơ-đi, cậu bé liền hiểu ngay rằng đó là chuyện không thể thực hiện được. Tuy nhiên, cậu bé không chịu buông xuôi tay bất lực tuân theo mọi sự rủi may, vì trong tâm hồn non trẻ này tàng trữ một nghị lực đáng kinh ngạc, do những thất bại vừa rồi hun đúc thêm lên. “Tất cả mọi chuyện mình định làm, - em tự nhủ, - đều kết thúc bằng việc mình bị chúng nó nện. Nhưng dù cho ngày ngày chúng nó quật mình bằng roi, thậm chí chúng có giết mình đi nữa, mình sẽ không ngừng tìm cách cứu Nen và bản thân mình ra khỏi tay lũ khốn nạn này. Nếu như những người đuổi theo tóm được thì càng hay, nhưng còn mình, mình sẽ hành động như hoàn toàn không hề trông đợi vào họ”. Và nhớ lại những gì đã phải chịu đựng, nghĩ tới bọn phản bội và tàn ác, sau khi đã giằng được khẩu súng còn đấm đá em, tim em sục sôi căm phẫn và cay cú. Em cảm thấy không những bị thua cuộc mà còn bị bọn chúng làm nhục.

Song, trước hết, em cảm thấy Nen bị xúc phạm, và cảm giác này cùng với nỗi đắng cay thiêu đốt lòng em sau sự thất bại vừa rồi, biến thành lòng căm thù không khoan nhượng đối với hai tên người Xu-đan. Em nhiều lần nghe cha nói, rằng lòng căm thù khiến cho người ta mất tỉnh táo, và chỉ có những tâm hồn không thể làm được điều gì tốt hơn mới chịu sự điều khiển của lòng căm thù mà thôi, song hiện tại em không sao chế ngự nổi tình cảm ấy trong lòng và không thể che giấu người ngoài.

Xtas không che giấu nổi lòng căm thù ấy đến mức cả I-đrix cũng nhận thấy, và bắt đầu lo ngại. Hắn hiểu rằng, giờ đây, nếu như chúng bị những người đuổi theo bắt được, thì không thể trông chờ gì ở sự che chở của cậu bé nữa.

Vẫn dám làm những chuyện liều lĩnh nhất, song I-đrix vốn là kẻ chưa mất hoàn toàn lí trí, nên hắn nghĩ rằng cần phả i dự liệu mọi khả năng, để trong trường hợp chẳng may, vẫn còn lại cho bản thân một lối thoát. Vì vậy, sau cuộc đụng độ vừa rồi, hắn muốn phần nào lấy lòng Xtas, và vì mục đích ấy trong lần nghỉ chân gần nhất, hắn nói với cậu bé như sau:

- Sau việc mày định làm, tao phải trừng phạt mày, nếu không bọn kia sẽ giết mày ngay, nhưng tao đã ra lệnh cho thằng Bê-đu-in nhẹ tay với mày.

Và không được một lời nào đáp lại, một lúc sau hắn lại nói tiếp:

- Này, chính mày nói rằng, người da trắng bao giờ cũng giữ lời hứa, vậy nếu như mày thề với Chúa của mày và lấy đầu con bé ra thề rằng mày không làm gì nữa để chống lại chúng tao, thì tao sẽ không ra lệnh trói mày ban đêm nữa.

Xtas cũng không thèm đáp lại một lời, và nhìn ánh mắt em.

I=đrix hiểu rằng hắn chỉ phí lời vô ích.

Tuy nhiên, mặc những lời đòi hỏi của Ghe-bơ-rơ và bọn Bê-đu-in, đến đêm hắn không ra lệnh trói Xtas, và khi tên Ghe-bơ-rơ vẫn không thôi nài nỉ, hắn giận dữ đáp:

- Lẽ ra được ngủ thì đêm nay mày sẽ phải thức gác. Tao cũng quyết định là từ nay trở đi, một trong số chúng ta phải thức canh cho những người khác ngủ.

Và quả thật, từ hôm đấy trở đi, chúng thay nhau gác đêm liên tục. Điều đó cản trở và phá vỡ phần lớn những ý đồ của Xtas; tới lượt mình gác đêm tên nào cũng rất cảnh giác đối với cậu bé.

Ngược lại, bọn trẻ được tự do hơn, chúng có thể xích lại gần nhau và trò chuyện mà không ai cản trở. Ở nơi nghỉ chân đầu tiên, Xtas ngồi xuống cạnh Nen, vì em rất nóng lòng được cảm ơn Nen đã cứu em.

Nhưng mặc dù rất biết ơn cô bé, em không biết diễn tả một cách suôn sẻ và tình cảm, mà chỉ lắc lắc hai bàn tay cô bé.

- Nen! - Em nói - Em thật là tốt bụng, anh cảm ơn em, thêm nữa, anh phải nói thẳng rằng, em đã hành động như một người mười ba tuổi vậy.

Đối với Xtas, những lời tương tự như thế là những lời khen ngợi cao nhất, vì thế trái tim của người “phụ nữ” bé xíu ấy liền bừng lên niềm vui và niềm tự hào. Vào giây phút ấy, cô bé cảm thấy quả thực không có điều gì không thực hiện được.

- Em mà lớn hẳn thì chúng biết tay! - Cô bé vừa nói vừa nhìn bọn Xu-đan với đầy vẻ khiêu khích.

Vì cô bé chưa hiểu các sự việc xảy ra và vì sao bọn Ả Rập nhảy xổ vào Xtas, nên Xtas bắt đầu kể lại chuyện cậu quyết định đánh cắp khẩu súng, giết lũ lạc đà, để buộc tất cả phải quay trở lại.

- Giá mà anh thành công, - cậu nói - thì có phải chúng mình đã được tự do rồi hay không.

- Thế nhưng chúng nó tỉnh dậy phải không anh?

- Cô bé hỏi, tim đập dồn dập.

- Chúng nó tỉnh dậy. Chính Xa-ba gây ra chuyện đó: con chó lao tới và cất tiếng sủa, đến nỗi người chết cũng phải tỉnh dậy.

Cô bé bèn hướng sự phẫn nộ của mình vào Xa-ba.

- Cái đồ Xa-ba xấu xí! Xấu xí! Đã thế thì khi nó về, em sẽ không nói với nó một lời nào hết, em sẽ nói với nó rằng nó rất xấu.

Mặc dù không muốn cười chút nào, Xtas cũng phải mỉm cười và hỏi:

- Làm sao em vừa có thể không nói với nó một lời nào mà đồng thời lại bảo cho nó biết rằng nó rất xấu được?

Đôi lông mày của Nen dướn lên, nét mặt cô bé lộ vẻ bối rối, rồi cô nói:

- Nó nhìn vẻ mặt của em thì nó biết chứ.

- Cũng có thể. Nhưng nó cũng chẳng có lỗi gì, vì nó đâu biết đang xảy ra chuyện gì. Em cũng nên nhớ là sau đó nó xông tới cứu chúng mình đấy thôi.

Điều nhắc nhở đó làm dịu phần nào cơn giận của Nen, nhưng cô bé không muốn tha thứ ngay cho kẻ tội phạm.

- Được rồi, - cô bé nói, - nhưng đã là người lịch thiệp thì đâu có sủa để chào hỏi khi gặp nhau. Xtas lại mỉm cười:

- Người lịch thiệp thì cả khi từ biệt cũng không sủa, trừ khi anh ta là một con chó, mà Xa-ba thì đúng là chó chứ còn gì nữa.

Song chỉ một giây sau, nỗi buồn lại che mờ mắt cậu bé, cậu thở dài một lần, hai lần, rồi đứng dậy khỏi tảng đá mà hai đứa đang ngồi, cậu nói:

- Tệ nhất là ở chỗ: anh đã không giải thoát được cho em.

Còn Nen đứng kiễng chân, vòng tay ôm lấy cổ Xtas. Cô bé muốn an ủi Xtas, muốn được ở thật gần, áp cái mũi nhỏ xíu vào mặt Xtas để nói lời cảm ơn. Nhưng vì không tìm ra được những lời thích hợp, cô chỉ biết ôm chặt lấy cổ Xtas và hôn vào tai cậu. Trong khi đó Xa-ba, vốn bao giờ cũng tụt lại sau - không phải vì nó không theo kịp lũ lạc đà mà chủ yếu là dọc đường nó còn cố săn lấy một con lang, hoặc dừng lại sủa bọn diều hâu đậu trên chóp đá - giờ mới lao tới, ồn ào không kém lệ thường. Nhìn thấy nó, lũ trẻ liền quên ngay mọi chuyện, và mặc dù tình thế của chúng cực kì khốn đốn, chúng vẫn vuốt ve và chơi đùa với Xa-ba như thường, cho tới khi bọn Ả Rập ngăn cản chúng. Kha-mix cho con chó ăn uống, rồi tất cả lại lên lạc đà phóng rất nhanh về phía Nam.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ---

Đó là đoạn dài nhất, vì chúng đi suốt mười tám giờ liền, chỉ dừng lại nghỉ một lần ngắn. Chỉ có những con lạc đà để cưỡi thực tốt, có đủ nước dự trữ trong dạ dày, mới có thể vượt được quãng đường như vậy. I-đrix không tiếc sức lạc đà, vì quả thực hắn lo sợ những người săn đuổi. Hắn hiểu rõ rằng, cuộc săn đuổi hẳn xuất phát từ lâu, và đồ rằng cả hai kĩ sư dẫn đầu cuộc săn đuổi này sẽ không để phí thời gian. Mối nguy hiểm đe dọa sẽ từ phía sông lại, bởi chắc chắn là ngay sau khi bọn trẻ bị bắt cóc, các mệnh lệnh được chuyển ngay bằng điện tín tới tất cả các điểm dân cư bên bờ sông, ra lệnh cho các vị tù trưởng phái những toán quân tiến sâu vào sa mạc dọc theo hai bờ sông Nin, giữ lại tất cả những kẻ đi về phía Nam. Kha-mix còn nói chắc chắn rằng chính phủ cũng như hai kĩ sư sẽ đưa ra những giải thưởng rất lớn cho những ai bắt được chúng, do vậy, hẳn là sa mạc hiện đang nhung nhúc bọn săn tìm. Chỉ còn một cách đối phó duy nhất là rẽ sâu hơn nữa về phía Tây, song về phía Tây lại là ốc đảo lớn Khác-ghê và nơi đó hẳn cũng đã nhận được các bức điện, hơn nữa, nếu chúng tách quá xa dòng sông, thì chỉ trong vòng vài ngày chúng sẽ thiếu nước uống, và cái chết khát sẽ chờ đợi chúng.

Còn chuyện lương thực nữa. Trước khi bắt cóc bọn trẻ hai tuần, những người Bê-đu-in đã chuẩn bị một số lương khô, ngô và chà là, giấu trong những chỗ giấu chỉ riêng chúng biết, song những chỗ đó cũng chỉ nằm trong phạm vi cách Mê-đi-nét bốn ngày đường mà thôi. I-đrix hãi hùng khi nghĩ tới chuyện phải cử người vào các làng ven sông mua lương thực khi thiếu ăn, khi ấy, bọn này, trước sự cảnh giác đã được khơi gợi cùng những giải thưởng mà người ta hứa hẹn trả cho ai bắt được bọn chúng, sẽ dễ dàng rơi vào tay các tù trưởng địa phương, rồi chúng sẽ khai ra cả đoàn. Tình thế quả là khó khăn, gần như tuyệt vọng, và càng ngày I-đrix lại càng thấy rõ hơn rằng hắn đã làm một công chuyện thật điên rồ.

“Chỉ cần vượt qua At-xu-an thôi! Chỉ cần vượt được At-xu-an!” - hắn sợ hãi và tuyệt vọng tự nhủ trong lòng. Hắn không tin Kha-mix khi tên này khăng khăng bảo rằng quân của Ma-hơ-đi đã tràn đến tận At-xu-an, vì Xtas bác bỏ chuyện đó, mà đã từ lâu I-đrix hiểu được rằng, thằng bé da trắng này hiểu biết nhiều hơn tất cả bọn chúng. Nhưng hắn cho rằng, bên kia cái thác đầu tiên, nơi dân chúng sống hoang dã hơn, ít chịu ảnh hưởng của người Anh và Chính phủ Ai Cập hơn, hắn sẽ tìm thấy nhiều người theo Đấng tiên tri hơn, những người này khi cần sẽ giúp đỡ chúng, cung cấp lương thực và lạc đà cho chúng. Song theo tính toán của bọn Bê-đu-in, từ đây đến At-xu-an hãy còn năm ngày đường nữa, mỗi lúc một nhiều tính chất sa mạc hơn, mà các thứ dự trữ dùng cho người và vật thì giảm đi trông thấy.

May thay, chúng có thể thúc lạc đà phi với tốc độ nhanh nhất, vì cái nóng chưa khiến cho sức lực lạc đà bị cạn đi. Ban ngày, vào những giờ trưa, mặt trời thiêu đốt quả là gay gắt, nhưng không khí vẫn rất dễ chịu, còn ban đêm lạnh đến nỗi Xtas phải ngồi sang cùng lạc đà với Nen - sau khi được sự đồng ý của I-đrix - để chăm sóc sức khoẻ cho cô bé và canh chừng cho Nen khỏi bị nhiễm lạnh.

Song những điều lo lắng của em hơi thừa, vì bà Đi-na - sau khi tình trạng đôi mắt, hay nói đúng hơn, con mắt đã khá - chăm sóc cô chủ rất ân cần. Cậu ngạc nhiên về chuyện cho tới nay sức khoẻ của cô bé không có gì trục trặc đáng kể, và bản thân cô bé chịu đựng đoạn đường càng ngày càng ít được nghỉ ngơi hơn này cũng tốt như chính Xtas vậy. Nỗi phiền muộn, sợ hãi và những giọt lệ mà cô bé đã đổ ra vì nhớ cha, không ảnh hưởng đáng kể tới cô. Có thể cô bé gầy đi chút ít, khuôn mặt trắng trẻo rám lên vì gió nắng, nhưng trong những ngày đi đường về sau này, cô bé cảm thấy ít mệt mỏi hơn nhiều so với lúc đầu. Quả tình, I-đrix đã cấp cho cô bé con lạc đà ít xóc nhất và đã làm cho cô cái chỗ ngồi thật tuyệt diệu, trong đó Nen có thể nằm ngủ, song chủ yếu là không khí trong lành của sa mạc, mà ngày đêm cô bé được thở hít, đã cấp thêm sức lực cho cô chịu đựng những vất vả nhọc nhằn.

Xtas không những chỉ coi sóc Nen một cách đơn thuần mà còn cố ý chăm sóc cô bé một cách thành kính, mặc dù rất gắn bó với cô em gái bé nhỏ, em hoàn toàn không cảm thấy mình đã có tình cảm ấy.Tuy nhiên, em nhận thấy là bọn Ả Rập cũng chịu ảnh hưởng của sự thành kính này, và bọn này vô tình tin chắc rằng, chúng đang chở đi một con tin vô cùng quý giá, mà chúng phải đối xử hết sức thận trọng. I-đrix đã quen với điều đó ngay từ hồi còn ở Mê-đi-nét, vậy nên tất cả bọn chúng đều đối xử tốt với cô. Chúng không hề tiếc nước hay chà là đối với Nen. Cả tên Ghe-bơ-rơ tàn bạo bây giờ cũng không dám động tới cô bé nữa. Một nguyên nhân nữa của chuyện đó cũng có thể là do vẻ xinh xắn khác vời của Nen; ở cô bé có một thứ gì đó của hoa và của chim, vẻ đẹp ấy thì ngay cả những tâm hồn hoang dã và kém phát triển của bọn người Ả Rập này cũng không chống lại nổi. Nhiều lần, tại các chỗ nghỉ chân, khi cô bé đứng bên đống lửa được nhóm bằng cây hồng sa mạc, hoặc những cành gai - hồng hào trong ánh lửa và toả ánh bạc bởi vầng trăng thì cả bọn Xu-đan lẫn bọn Bê-đu-in đều không thể rời mắt khỏi cô bé, và vừa tắc lưỡi tán phục theo phong tục của chúng, vừa lầm rầm thốt lên: Lạy đức A-la! Tuyệt vời! Tuyệt vời!

Vào trưa ngày thứ hai sau đợt đi kéo dài ấy, Xtas và Nen (khi ấy đang cùng cưỡi một con lạc đà)bị xúc động một cách vui sướng. Ngay sau lúc mặt trời mọc, trên sa mạc dâng lên một làn sương mờ sáng và trong suốt, sau đó làn sương tan đi. Rồi khi mặt trời lên cao hơn nữa, thì cái nóng càng ghê gớm hơn những hôm trước. Những lúc lạc đà dừng chân, không cảm thấy có một chút hơi gió nào, dường như cả không khí lẫn mặt cát đang ngủ say trong sự ấm áp, trong ánh sáng và sự tĩnh mịch. Đoàn người và vật đang đi trên một vùng đồng bằng đơn điệu không bị những khe núi cạn chia cắt, bỗng trước mắt bọn trẻ hiện ra một phong cảnh kì thú. Những khóm cọ thanh tao cùng những cây hồ tiêu, những cánh đồng quýt, những ngôi nhà màu trắng, một thánh đường nhỏ với cái tháp cao vút, còn phía dưới là những bức tường thành bao quanh các khu vườn cây, tất cả những thứ đó hiện ra rõ nét và gần gũi đến nỗi có thể nghĩ rằng, chỉ cần nửa tiếng đồng hồ nữa thôi là cả đoàn sẽ lọt vào vườn cây của ốc đảo.

- Cái gì thế này? - Xtas kêu lên. - Nen! Nen! Nhìn kìa!

Nen nhỏm dậy và lặng đi vì kinh ngạc, song chỉ giây lát sau cô bé bắt đầu kêu lên sung sướng:

- Mê-đi-nét! Về với ba! Về với ba! Xtas xúc động tái người đi.

- Quả thật... Đây có thể là Khác-ghê... Nhưng không! Có lẽ là Mê-đi-nét thật... Anh nhận ra cái tháp và thấy cả những chiếc chong chóng gió trên giếng nước kia.

Quả thật, ở phía xa xa, nổi rõ những chiếc cánh quạt gió được đặt trên tháp cao của những chiếc giếng nước kiểu Mỹ, trông giống như những ngôi sao màu trắng. Trên nền cây cối xanh tươi, trông chúng rõ ràng đến nỗi cặp mắt tinh tường của Xtas có thể phân biệt được cả mép cánh sơn màu đỏ.

- Mê-đi-nét thật rồi...

Qua sách vở cũng như qua các câu chuyện được nghe, Xtas hiểu rõ rằng trên sa mạc thường có ảo ảnh, và nhiều lúc khách bộ hành trông thấy các ốc đảo, các thành phố, những rặng cây và những cái hồ, song đó chẳng qua chỉ là ảo giác, là những trò đùa của ánh sáng, và là hình phản chiếu của các vật thực ở cách đấy rất xa. Nhưng lần này, hiện tượng rõ ràng đến mức gần như sờ mó được đã khiến cậu bé không thể nghi ngờ, mà nghĩ rằng quả thực đó là Mê-đi-nét. Kia là cái tháp trên toà nhà của viên thống đốc, kia là cái hành lang hình tròn nằm ngay dưới đỉnh tháp, từ đó viên miedin(1) gọi giáo dân đi cầu nguyện, kia chính là khóm cây quen thuộc - và nhất là những chiếc chong chóng gió ấy! Không - đây phải là thực! Cậu bé thoáng nghĩ rằng có thể bọn Xu-đan, sau khi cân nhắc tình thế, đã hiểu ra rằng chúng không thể thoát được, và không nói gì trước với cậu, chúng quay trở về Phai-um. Song chính sự thản nhiên của chúng đã khiến cho cậu nảy ra những mối nghi ngờ đầu tiên. Nếu đây quả thực là Phai-um thì sao bọn chúng lại nhìn một cách dửng dưng đến thế? Rõ ràng là bọn chúng trông thấy, chúng đưa tay chỉ trỏ cho nhau, nhưng trên nét mặt chúng không hề thấy có một biểu hiện nào của sự xúc động hay do dự.

Xtas trông lại một lần nữa, và có thể chính sự dửng dưng của bọn Ả Rập đã khiến em nhận thấy bức tranh trước mặt nhợt nhạt đi.

Em cũng nghĩ rằng, nếu như đoàn người quay lại thật thì hẳn chúng đã phải co cụm lại, phải tụ tập lại với nhau, ít nhất cũng vì sợ hãi chứ. Trong khi đó, bọn Bê-đu-in, mà theo lệnh của I-đrix suốt mấy ngày nay bao giờ cũng đi tiền trạm, vẫn chẳng thấy bóng dáng đâu, còn Kha-mix đi cảnh giới phía sau thì trông xa đến nỗi chỉ nhỏ bằng một con diều hâu bay gần mặt đất.

“Ảo ảnh” - Xtas tự nhủ.

Trong lúc đó, I-đrix tiến lại gần nó và gọi to:

- Này, thúc lạc đà đi nhanh lên! Mày có nhìn thấy Mê-đi-nét không?

Rõ ràng là hắn nói đùa, trong giọng nói của hắn chứa chất bao ý chọc tức, khiến cho trong lòng cậu bé tắt hẳn tia hi vọng cuối cùng vào chuyện mình đang ở trước thành Mê-đi-nét thật.

Và ấm ức trong lòng, em quay sang Nen để xua tan ảo tưởng cho cô bé, thì vừa lúc, xảy ra một sự kiện khiến cho tất cả mọi người tập trung sự chú ý về phía khác.

Trước mặt xuất hiện một tên Bê-đu-in đang phóng lạc đà cật lực quay trở lại, ngay từ xa đã vung vẩy một khẩu súng hoả mai Ả Rập dài ngoẵng mà trước đó trong đoàn không ai có. Tới chỗ I-đrix, hắn trao đổi vội vã vài tiếng, ngay lập tức, cả đoàn quành sâu thêm vào sa mạc. Một lúc sau lại xuất hiện tên Bê-đu-in thứ hai, dắt theo sau một con lạc đà cái béo mập buộc bằng sợi dây thừng, trên bướu có lắp yên, những túi da treo lủng lẳng hai bên hông.

Lại một cuộc nói chuyện ngắn ngủi nữa mà Xtas không thể nghe được tiếng nào. Đoàn người vội vã lao về hướng Tây và chỉ dừng lại khi đến được một cái khe cạn thật hẹp, đầy những tảng đá nằm hỗn độn, các khe nứt và hang động. Một trong số các hang đó lớn đến nỗi bọn Xu-đan có thể cho cả người và lạc đà ẩn kín trong đó.

Mặc dù cũng đoán được ít nhiều về chuyện vừa xảy ra, nhưng Xtas vẫn nằm xuống cạnh I-đrix và giả vờ ngủ, với hi vọng là bọn Ả Rập - mà cho tới lúc này mới chỉ trao đổi với nhau vài tiếng cụt lủn về sự kiện vừa rồi - chắc giờ đây sẽ bắt đầu nói chuyện kĩ hơn.

Quả thật, niềm hi vọng ấy không đánh lừa em, vì ngay sau khi rải thứ c ăn cho lạc đà, bọn Bê-đu-in và Xu-đan cùng với Kha-mix ngồi tụ tập lại với nhau.

- Từ nay ta chỉ có thể đi ban đêm thôi, còn ban ngày chúng ta sẽ phải ẩn náu - tên Bê-đu-in chợt lên tiếng. - Bây giờ các khe cạn sẽ có rất nhiều, trong mỗi một khe đều có thể tìm thấy nơi ẩn nấp an toàn.

- Chúng mày có chắc nó là lính canh không? I-đrix hỏi.

- Ôi A-la! Chúng tôi đã nói chuyện với hắn mà. May là hắn có mỗi một mình. Hắn đứng khuất sau tảng đá, chúng tôi không trông thấy, nhưng từ đằng xa chúng tôi đã nghe thấy tiếng lạc đà kêu. Chúng tôi bèn giảm tốc độ và lặng lẽ tiến đến gần, nên hắn trông thấy chúng tôi khi chúng tôi chỉ còn cách hắn vài ba bước chân. Hắn hoảng quá liền nhắm súng vào chúng tôi. Giá hắn bắn, thì dù cho chẳng có ai trong hai đứa tôi bị giết chết đi chăng nữa, nhưng bọn lính canh khác cũng có thể nghe thấy tiếng súng, vì vậy tôi vội vàng bảo hắn: “Dừng lại! Chúng tôi đang đuổi theo bọn người đã bắt cóc hai đứa bé da trắng, cả đoàn sẽ tới đây ngay bây giờ”. Thằng nhóc hãy còn trẻ và ngốc nghếch bèn tin lời, chỉ yêu cầu chúng tôi phải thề trên kinh Cô-ran là đúng như vậy. Chúng tôi bèn xuống lạc đà và thề...Đức Ma-hơ-đi sẽ giải tội cho chúng tôi...

- Và Người sẽ ban phước! - I-đrix nói. - Hãy kể tiếp xem sau đó chúng mày làm gì.

- Thế rồi, - tên Bê-đu-in tiếp tục, - sau khi thề xong tôi mới bảo thằng bé: “Nhưng ai bảo đảm cho chúng ta là anh không thuộc về bọn cướp đang chạy trốn với bọn trẻ con, biết đâu bọn chúng chẳng để anh lại đây để níu chân những người đuổi theo lại? Và tôi ra lệnh cho hắn cũng phải thề, hắn đồng ý và càng tin chúng tôi hơn.

Chúng tôi bắt đầu hỏi hắn xem có thêm lệnh gì mới theo đường dây đồng từ các tù trưởng hay không, và cuộc truy đuổi trên sa mạc đã tiến hành chưa. Hắn bảo rằng đúng thế, người ta hứa sẽ thưởng thật nhiều. Tất cả các khe cạn cách sông hai ngày đường đều được canh gác, trên sông các tầ u thuỷ chở người Anh và quân đội đi lại không ngớt...

- Cả tầu thuỷ lẫn quân đội đều không thể chống lại sức mạnh của Đức A-la và Đấng tiên tri...

- Cầu cho mọi việc xảy ra đúng như ông nói.

- Mày hãy nói xem chúng mày khử thằng ấy như thế nào? Tên Bê-đu-in chột bèn chỉ vào bạn hắn.

- A-bu An-ga - hắn nói, - còn hỏi hắn xem ở gần đây có người nào canh gác nữa không, và khi hắn trả lời rằng không, anh ấy bèn thọc cho hắn một nhát dao vào dưới cổ, bất ngờ đến nỗi hắn không kêu được một tiếng nào. Chúng tôi quẳng hắn xuống một khe sâu, lấy đá và gai góc phủ lên trên. Ở làng người ta sẽ nghĩ rằng hắn bỏ trốn theo đức Ma-hơ-đi, vì hắn kể với chúng tôi là chuyện ấy xảy ra luôn.

- Cầu Thượng đế ban phước lành cho những ai bỏ trốn cũng như đã ban phước cho chúng mày vậy!

- I-đrix đáp.

- Chính thế. Người đã ban phước lành. - A-bu An-ga đáp. - Bởi thế giờ đây, chúng ta đã biết được rằng cần phải đi cách xa sông ba ngày đường; ngoài ra chúng ta còn kiếm thêm được khẩu súng mà chúng ta đang thiếu cùng với một con lạc đà nữa.

- Các bình hãy còn đầy nước, - tên chột nói, - còn trong bao đầy kê, chỉ có thuốc súng là chúng tôi tìm được quá ít.

- Kha-mix có mang theo vài trăm viên đạn cho khẩu súng của thằng bé da trắng, khẩu súng mà chúng ta không biết bắn. Nhưng thuốc súng thì bao giờ cũng giống nhau và có thể dùng được cho súng của ta.

Tuy nói thế, nhưng I-đrix lại suy nghĩ, và một sự lo lắng nặng nề hiện trên nét mặt đen sẫm của hắn, vì hắn hiểu rằng, khi một xác người đã nằm xuống sau lưng bọn hắn, thì giờ đây nếu bọn hắn rơi vào tay chính phủ Ai Cập, cả sự bảo đảm của Xtas cũng không còn đủ để bảo vệ chúng thoát khỏi toà án và hình phạt nữa.

Tim đập dồn dập, Xtas lắng nghe rất chăm chú. Trong câu chuyện này, em thấy có những điều an ủi, đó là việc cuộc truy đuổi đã được tổ chức, giải thưởng đã được hứa hẹn, và tù trưởng của các bộ lạc dọc sông đã nhận được lệnh phải giữ lại các đoàn người đi về phía Nam. Cả cái tin về những chiếc tàu thuỷ chở đầy quân đội Anh chạy ngược sông cũng khiến em vui mừng. Các tín đồ của Ma-hơ-đi có thể đánh nhau với quân đội Ai Cập, thậm chí có thể thắng quân đội này, nhưng với người Anh thì lại là chuyện khác, và Xtas không lúc nào nghi ngờ rằng, trận đánh đầu tiên sẽ kết thúc bằng việc tiêu diệt tan tành những đám người hoang dã ấy.

Vì vậy, với niềm cổ vũ trong lòng, em tự nhủ: “Dù cho bọn chúng có mang được chúng ta tới chỗ Ma-hơ-đi chăng nữa, thì rất có thể trước khi chúng kịp mang đến nơi, đã không còn tồn tại cả bản thân Ma-hơ-đi lẫn bọn tín đồ của y”. Song niềm cổ vũ này bị sững lại bởi ý nghĩ rằng, nếu vậy, còn hàng tuần lễ đi đường đang chờ đợi các em, mà chuyện đó thế nào rồi cũng sẽ khiến Nen kiệt sức, bởi trong suốt thời gian đó, các em sẽ phải đi cùng với những kẻ khốn nạn, những tên sát nhân này.Nghĩ đến người Ả Rập trẻ tuổi bị tên Bê-đu-in giết hại như giết một con cừu, Xtas thấy vừa tiếc thương vừa sợ hãi. Cậu bé định sẽ không nói cho Nen biết chuyện đó để khỏi làm cô kinh sợ và buồn thêm, nỗi buồn bắt đầu từ khi ảo ảnh về ốc đảo Phai-um và thành phố Mê-đi-nét biến mất. Trước khi đến khe núi, cậu bé thấy rõ nước mắt đã ứa đầy trong mắt cô bé, vì vậy, sau khi đã nghe được hết những điều muốn biết qua câu chuyện của bọn Bê-đu-in, cậu giả vờ tỉnh giấc và bỏ đi đến với Nen.

Nen đang ngồi một góc bên cạnh bà Đi-na và vừa thút thít khóc vừa ăn chà là. Nhìn thấy Xtas, cô bé chợt nhớ lại rằng, cách đây chưa lâu Xtas đã thừa nhận rằng hành động của cô xứng đáng với người ít nhất đã mười ba tuổi, nên không muốn tỏ ra mình còn bé bỏng, cô cố lấy hết sức cắn chặt hạt chà là để ngăn cơn thổn thức.

- Nen! - Cậu nói. - Mê-đi-nét vừa rồi chỉ là ảo ảnh, nhưng anh vừa biết chắc rằng mọi người đang đuổi theo chúng ta, em đừng lo và đừng khóc làm gì.

Nghe thấy thế, cô bé ngước đôi đồng tử đẫm lệ lên nhìn Xtas và trả lời bằng giọng đứt đoạn:

- Không, anh Xtas à... em không khóc đâu.. có điều mắt em nó... ra mồ hôi đấy thôi...

Nhưng chính lúc ấy cằm cô bé run lên, từ hàng lông mi khép kín ứa ra hai giọt lệ to tướng, và cô bé oà lên khóc nức nở.

Song, vừa xấu hổ vì những giọt nước mắt ấy, lại vừa lo Xtas sẽ mắng, cô bé giấu đầu vào ngực Xtas, làm ướt đẫm áo em.

Xtas gắng an ủi cô bé:

- Nen, đừng có làm vòi phun nước như thế. Em có thấy bọn chúng cướp khẩu súng và con lạc đà cái của một người Ả Rập nào đó không? Em có biết điều đó có nghĩa là gì không? Điều đó có nghĩa là trên sa mạc hiện đang đầy những lính canh. Bọn vô lại này có thể bắt được lính canh một lần, nhưng tới lần thứ hai thì chính chúng sẽ bị người ta tóm cổ. Có biết bao nhiêu tàu thuỷ đang quần đảo trên sông Nin... Chứ sao nữa! Chúng ta sẽ trở về, Nen, chúng ta nhất định sẽ trở về, mà bằng tàu thuỷ cơ! Em đừng sợ Nen ạ...

Có thể em còn tiếp tục an ủi cô bé như thế, nếu như em không chú ý đến một thanh âm kì lạ vọng vào từ phía ngoài, nơi các gò cát mà trận bão vừa rồi dồn thành đống dưới lòng khe cạn.

Âm thanh đó giống tiếng sáo vậy, âm thanh mỏng mảnh như tiếng kim khí. Xtas ngừng nói và bắt đầu lắng tai nghe. Lát sau những thanh âm mỏng manh và ai oán ấy lại cất lên từ nhiều phía cùng một lúc. Cậu bé thoáng nghĩ rằng có thể đó là những lính canh Ả Rập đã vây kín khe núi, dùng còi để gọi nhau. Tim em đập dồn.

Em ngó một lần, hai lần sang bọn Xu-đan, hi vọng sẽ nhìn thấy sự kinh hoàng trên nét mặt chúng. Nhưng không I-đrix, Ghe-bơ-rơ và hai tên Bê-đu-in đang bình thản nhá bánh khô, chỉ riêng mình Kha-mix là có vẻ hơi ngạc nhiên. Những thanh âm ấy vẫn tiếp tục ngân vang. Một lát sau, I-đrix đứng dậy, nhìn ra ngoài hang, rồi quay vào dừng lại bên cạnh bọn trẻ và nói:

- Cát bắt đầu hát đấy.

Xtas thú vị đến nỗi quên biến đi ý định hoàn toàn không thèm nói chuyện với I-đrix, bật hỏi:

- Cát à? Thế là thế nào?

- Chuyện thường ấy mà, và điều đó có nghĩa là lâu nữa mới có mưa. Nhưng chẳng lo nắng đâu, vì từ đây tới At-xu-an chúng ta chỉ toàn đi ban đêm thôi.

Và không thể biết thêm được điều gì nữa ở hắn. Xtas và Nen lắng nghe hồi lâu những thanh âm lạ lùng này, chúng kéo dài mãi cho tới khi mặt trời hạ thấp về đằng Tây. Rồi đêm buông xuống và cả đoàn lại tiếp tục lên đường.

--- ------ ---.

1 Người báo giờ cho tín đồ đạo Hồi cầu nguyện.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ -----

Ban ngày họ trú trong những chỗ kín, đường đi lối lại khó khăn, giữa các tảng đá và các khe đá, còn ban đêm, họ phóng đi không kịp thở, cho tới lúc vượt qua cái thác sông thứ nhất. Mãi cho tới khi, dựa trên vị trí và hình thế của các khe núi, bọn Bê-đu-in mới nhận thấy rằng Át-xu-an đã nằm lại phía sau lưng chúng, thì I-đrix mới trút được một gánh nặng. Và vì chúng đang bị thiếu nước, nên chúng bèn tiến lại gần sông ở khoảng cách nửa ngày đường. Tại đó, đêm hôm sau, sau khi cho cả đoàn ẩn kín, hắn đã phái bọn Bê-đu-in dẫn toàn bộ lũ lạc đà tới sông Nin cho chúng uống no nước, chuẩn bị cho một thời gian dài. Kể từ sau Át-xu-an trở đi, dải đất trồng trọt dọc sông Nin càng ngày càng thu hẹp lại.

Tại một đôi chỗ, sa mạc tiến đến tận bờ sông. Làng xóm nằm cách nhau xa hơn nhiều. Vì thế, bọn Bê-đu-in quay trở lại một cách may mắn, không bị ai trông thấy, mang theo một lượng nước dự trữ đáng kể. Chỉ còn phải nghĩ đến lương ăn, vì bọn súc vật, do bị nuôi ăn kém, nên từ một tuần nay gầy đi trông thấy. Cổ chúng dài ngoẵng ra, bướu thu nhỏ lại, chân trở nên yếu ớt. Còn ngô và lương thực cho người có tiết kiệm lắm cũng chỉ đủ dùng được hai ngày nữa là cùng. Tuy nhiên gã I-đrix vẫn hi vọng, sau hai ngày nữa, bọn chúng sẽ có thể - nếu không ban ngày thì ban đêm - tiến đến gần một cánh đồng chăn nuôi gia súc gần sông và có thể kiếm ít lương khô và chà là trong một cái làng nào đó.

Chúng hoàn toàn không cho Xa-ba ăn uống, chỉ riêng bọn trẻ cố dành cho nó chút thức ăn thừa, song nó cũng tự lo được cho bản thân mình, và tại những chỗ nghỉ chân, nó thường chạy tới với cái mõm dính máu, cùng những vết cào cấu trên ức và trên cổ. Chẳng ai biết được chiến lợi phẩm của những cuộc chiến đấu ấy là chó núi, linh cẩu, cáo sa mạc hay hoẵng, song chỉ biết rằng, trông nó hoàn toàn không có vẻ quá đói khát. Thỉnh thoảng cái môi màu đen của nó lại ẩm ướt, dường như nó vừa uống nước vậy. Bọn Bê-đu-in đoán rằng, chắc chắn nó đã đào những cái hốc sâu dưới đáy các khe cạn, đến tận mạch nước, mà bằng khứu giác nó ngửi thấy dưới đất. Những khách bộ hành bị lạc đường cũng thường đào bới theo cách đó, và nếu như họ không đào tới được nước, thì gần như bao giờ họ cũng đào tới được lớp cát ẩm để mút lấy nó, và bằng cách đó đánh lừa cơn khát giày vò.

Ngay cả Xa-ba cũng có nhiều thay đổi. Ức và gáy lúc nào cũng đồ sộ, nhưng hai bên sườn thì hõm vào, nên trông nó lại càng cao hơn. Trong cặp mắt với tròng trắng đo đỏ của nó giờ đây có một vẻ gì hoang dã và dữ tợn. Đối với Nen và Xtas nó vẫn gắn bó như cũ, cho phép bọn trẻ muốn làm gì nó cũng được. Đối với Kha-mix, thi thoảng nó còn ve vẩy đuôi, nhưng đối với bọn Xu-đan và Bê-đu-in khác thì nó hoặc là gầm gừ hoặc là nhe nanh, những chiếc nanh khi ấy va vào nhau như những chiếc kim thép. I-đrix và Ghe-bơ-rơ bắt đầu sợ hãi nó, và mặc công lao của con chó, chúng căm thù nó đến mức sẵn sàng giết chết nó bằng khẩu súng kíp cướp được, nếu như chúng không có ý đồ muốn đem tặng gã Xmai-nơ một con vật đặc biệt, và giá như không phải là chú ng đã vượt qua Át-xu-an.

Chúng đã qua Át-xu-an! Xtas cứ nghĩ mãi về chuyện đó, và dần dần một nỗi nghi ngờ, không hiểu những người đuổi theo có đuổi kịp hay không, bắt đầu len vào tâm hồn em. Thật tình em cũng biết rằng, tuy cả miền Ai Cập, đất nước kết thúc phía bên kia Va-đi Han-pha, tức là sau cái thác thứ hai, lẫn cả Nu-bi-a, cho đến nay vẫn nằm trong tay chính phủ Ai Cập, song sau Át-xu-an, nhất là sau thác Va-đi Han-pha, cuộc đuổi bắt sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, còn những mệnh lệnh của chính phủ chỉ được thi hành một cách trễ nải. Em chỉ còn hi vọng rằng, cha em và ông Rô-li-xơn, sau khi tiến hành cuộc săn đuổi từ Phai-um, sẽ đáp tàu thuỷ tới Va-đi Han-pha và tại đó, sau khi được chính phủ cung cấp cho những binh sĩ cưỡi lạc đà, họ sẽ cố gắng cắt ngang đường chạy về phía Nam của bọn chạy trốn. Cậu bé nghĩ rằng giá mình ở cương vị hai ông bố, cậu sẽ làm như thế, nên cậu cho những suy nghĩ của cậu là rất gần sự thật.

Tuy nhiên, em vẫn không bỏ ý nghĩ phải tự cứu lấy mình.

Muốn có thuốc súng cho khẩu súng cướp được, bọn Xu-đan đã quyết định tháo mười mấy viên đạn súng săn, nên Xtas bèn bảo bọn chúng rằng chỉ có em mới biết làm việc đó, nếu như có tên nào không biết mà cứ làm liều thì đạn sẽ nổ ngay trên tay, khiến cho mất tay như bỡn. Vốn sợ những thứ không quen dùng và sợ các phát minh của người Anh, nên I-đrix bèn quyết định giao cho cậu bé làm việc đó. Xtas rất vui lòng làm việc ấy, với hi vọng thuốc súng của Anh vốn mạnh hơn, sẽ phá vỡ ngay khẩu súng kíp Ai Cập cũ kĩ trong lần bắn đầu tiên, và sau nữa em hi vọng rằng sẽ giấu được một ít đạn. Quả thực chuyện đó dễ hơn là em tưởng.

Tiếng rằng theo dõi em làm, nhưng lát sau bọn Ả Rập đã bắt đầu gẫu chuyện với nhau, và tập trung vào câu chuyện của chúng hơn là việc theo dõi. Tính lắ m lời cù ng thói cẩu thả bẩm sinh của bọn chúng đã khiến Xtas giấu được vào túi của mình bảy viên đạn cả thảy. Bây giờ chỉ cần làm sao vớ được khẩu súng nữa là đủ.

Cậu bé nghĩ rằng, sau Va-đi Han-pha, nghĩa là sau cái thác thứ hai, việc đó sẽ không khó khăn lắm, vì cậu dự đoán rằng, càng gần đích thì tính cảnh giác của bọn Ả Rập sẽ càng giảm bớt đi.

Thỉnh thoảng, cái ý nghĩ phải giết bọn Xu-đan và Bê-đu-in, thậm chí cả Kha-mix nữa, khiến cho cậu rùng mình, song sau khi bọn Bê-đu-in giết người, cậu không còn băn khoăn gì nữa. Cậu tự nhủ rằng cậu đang phải bảo vệ Nen, giành lại tự do và mạng sống cho Nen, do vậy, không cần phải đắn đo gì về tính mạng của kẻ thù, nhất là khi chúng không chịu đầu hàng, buộc em phải chiến đấu.

Song phải có khẩu súng. Xtas nghĩ cách cố đoạt lấy súng bằng mưu mẹo, và nếu như có cơ hội, em sẽ không chờ đến tận Va-đi Han-pha mà sẽ ra tay thực hiện càng sớm càng hay.

Em không phải chờ lâu.

Đã hai ngày trôi qua kể từ khi bọn họ vượt qua Át-xu-an, và đến sáng ngày thứ ba, I-đrix buộc phải cho bọn Bê-đu-in đi kiếm lương thực vì đã cạn nhẵn. Thấy số kẻ thù giảm đi, Xtas nhủ thầm: “Bây giờ hoặc là chẳng bao giờ nữa!”, và lập tức em quay lại hỏi tên Xu-đan:

- Ông I-đrix, ông có biết vùng đất bắt đầu từ sau Va-đi Han-pha là Nu-bi-a hay không?

- Biết chứ. Khi tao mười lăm tuổi, còn Ghe-bơ-rơ lên tám, cha tao đưa chúng tao từ Xu-đan tới Phai-um, tao còn nhớ rằng, khi ấy, chúng tao phải đi lạc đà qua suốt miền Nu-bi-a. Nhưng vùng này khi ấy đang còn thuộc về tay bọn Thổ (Ai Cập).

- Phải, Ma-hơ-đi đang còn ở tận dưới Khác-tum, và ông thấy không, gã Kha-mix thật là ngu ngốc khi nói với các ông rằng quân đội của những người theo đạo Hồi đã tiến tới tận Át-xu-an. Nhưng tôi muốn hỏi chuyện khác kia. Tôi đọc sách thấy nói là ở Nu-bi-a có rất nhiều dã thú và lắm bọn cướp không theo ai cả, chúng cướp cả người Ai Cập lẫn các tín đồ của Ma-hơ-đi. Các ông sẽ tự vệ bằng gì nếu như bọn thú dữ hoặc lũ cướp tấn công các ông?

Xtas cố tình phóng đại khi nói tới thú dữ, còn chuyện cướp bóc thì từ lúc bắt đầu chiến tranh là chuyện thường xuyên xảy ra ở Nu-bi-a, đặc biệt là ở phía Nam, tại vùng giáp giới giữa miền này với Xu-đan.

I-đrix phả i suy nghĩ một lúc vì bị câu hỏi bất ngờ, quả tình từ trước tới nay y chưa nghĩ gì tới nỗi nguy hiểm mới này. Rồi y đáp:

- Chúng tao đã có dao và khẩu súng này rồi.

- Khẩu súng này chẳng được tích sự gì đâu.

- Tao biết. Khẩu súng của mày tốt hơn, nhưng chúng tao không biết bắn, còn mày thì không thể giao súng vào tay mày được.

- Ngay cả khi súng không nạp đạn à?

- Phải, vì nó có thể đã bị phù phép. Xtas nhún vai.

- Ông I-đrix này, nếu như Ghe-bơ-rơ nói chuyện đó thì tôi không lạ, còn ông, tôi cứ nghĩ ông có đầu óc hơn cơ đấy. Ngay cả Ma-hơ-đi của các ông cũng không thể bắn từ một khẩu súng không nạp đạn đâu!

- Câm ngay! - I-đrix cắt ngang một cách thô lỗ. Đức Ma-hơ-đi có thể bắn ngay cả bằng ngón tay.

- Thế thì ông thử bắn đi.

Tên Xu-đan nhìn thẳng vào mắt cậu bé vẻ chăm chú.

- Tại sao mày lại muốn tao đưa súng cho mày?

- Tôi muốn dạy ông bắn khẩu súng đó.

- Thế thì mày được gì?

- Được nhiều chứ, vì nếu như bọn cướp tấn công chúng ta thì bọn chúng có thể giết không sót một ai cả. Nhưng nếu ông sợ cả khẩu súng lẫn tôi thì thôi, nói làm gì.

I-đrix im lặng. Quả thực hắn sợ, nhưng không muốn công nhận điều đó. Tuy nhiên, hắn lại rất thèm được làm quen với thứ vũ khí Anh này, vì việc sử dụng thành thạo khẩu súng sẽ nâng cao một cách đáng kể địa vị của hắn trong trại quân của bọn Ma-hơ-đi, đó là chưa kể tới chuyện, nếu có bị tấn công hắn sẽ dễ bề tự vệ hơn.

Vì vậy, sau một chút suy nghĩ, hắn nói:

- Thôi được. Kha-mix hãy đưa súng đây, còn mày thì lấy nó ra đi.

Kha-mix thi hành lệnh với vẻ vô tình, còn tên Ghe-bơ-rơ thì không thể chống lại lệnh này được vì hắn đang bận việc cách đấy một quãng, bên cạnh bọn lạc đà. Tay run run, Xtas lấy báng súng rồi nòng súng ra khỏi bao, đưa cho I-đrix.

- Ông thấy không, nòng súng trống rỗng nhé. - Cậu bé nói.

I-đrix cầm lấy hai nòng súng và nhìn xuyên suốt qua lỗ nòng hướng lên trời.

- Phải, trong này không có gì cả.

- Bây giờ ông chú ý nhé, - Xtas nói, - lắp súng như thế này này (vừa nói em vừa lắp hai nòng vào báng), còn tháo như thế này.

Ông hiểu chưa? Tôi tháo ra một lần nữa, bây giờ ông hãy tự lắp đi...

Chăm chú hết sức theo dõi động tác của Xtas, tên Xu-đan bắt đầu tập làm quen. Ban đầu hắn không thể dễ dàng làm được ngay, nhưng vì người Ả Rập nói chung thường rất khéo léo, nên chỉ lát sau khẩu súng đã được lắp hoàn chỉnh.

- Tháo ra! - Xtas ra lệnh.

I-đrix dễ dàng tháo khẩu súng.

- Lắp lại! Việc này còn dễ hơn. - Bây giờ ông hãy đưa cho tôi hai cái các tút rỗng.Tôi sẽ bảo ông cách lắp đạn.

Bọn Ả Rập giữ rất cẩn thận các vỏ đạn đã tháo ra, vì đối với chúng đồng đỏ có giá trị. I-đrix đưa cho Xtas hai cái vỏ đạn và bài học lại tiếp tục.

Thoạt đầu, tên Xu-đan cũng hoảng hồn vì tiếng va đập của những chiếc vỏ đạn nhưng hắn nhanh chóng hiểu ra rằng, không một ai có thể bắn được đạn ra từ một cái nòng rỗng cũng như từ một vỏ đạn rỗng cả. Lòng tin của hắn đối với Xtas lại trở lại còn bởi vì cứ chốc chốc cậu bé lại đưa súng vào tay hắn.

- Được rồi. - Xtas nói. - Ông đã biết lắp, biết mở, biết đóng và biết áp má cũng như bóp cò. Nhưng cần phải học ngắm nữa. Đó là việc khó nhất. Ông hãy cầm lấy cái bầu nước rỗng kia, đặt cách xa một trăm bước chân.. kia, lên trên những tảng đá kia, rồi quay lại đây, tôi sẽ bảo ông cách ngắm ra sao.

I-đrix cầm lấy cái bầu và không một chút ngần ngại bước đi để đặt bầu nước lên những tảng đá đã được chỉ. Nhưng trước khi hắn kịp bước một trăm bước đầu tiên. Xtas đã tháo những cái vỏ đạn rỗng và thay những viên đạn đầy thuốc vào chỗ của chúng.

Không chỉ trái tim mà mạch máu trên thái dương em cũng đập mạnh đễn nỗi em ngỡ như sắp bung vỡ ra đến nơi. Giây phút quyết định đã điểm - giây phút tự do cho Nen và cho bản thân em - giây phút chiến thắng - giây phút vừa kinh khủng vừa mong mỏi biết bao nhiêu!

Mạng sống của tên I-đrix đã nằm trong tay em. Chỉ một cái kéo nhẹ cò súng là tên bội phản kia, kẻ đã bắt cóc Nen sẽ ngã vật xuống chết. Nhưng Xtas, người mang trong mình dòng máu Ba Lan và dòng máu Pháp, bỗng cảm thấy rằng không một thứ gì trên đời có thể khiến em bắn được vào cái con người đang quay lưng lại. Ít nhất cũng hãy để hắn quay mặt lại để hắn nhìn thẳng vào cái chết. Còn sau đó thì sao? Sau đó gã Ghe-bơ-rơ sẽ lao tới, nhưng trước khi hắn kịp chạy tới mười bước chân, thì răng hắn cũng ngập bụi đất rồi. Chỉ còn lại mỗi mình Kha-mix thôi. Nhưng Kha-mix cũng sẽ sợ mất hồn, mà dù cho hắn không mất hồn đi nữa, Xtas cũng kịp đẩy thêm những viên đạn mới vào nòng súng.

Khi bọn Bê-đu-in quay trở lại, chúng sẽ gặp ba cái xác chết và chính chúng cũng sẽ được hưởng cái mà chúng đang được hưởng. Rồi sau đó, chỉ cần hướng lạc đà ra tới bờ sông là đủ.

Tất cả những ý nghĩ cùng những hình ảnh này như một cơn lốc vụt qua đầu óc Xtas. Em cảm thấy cái điều mà vài phút nữa sẽ xảy ra vừa kinh khủng lại vừa cần thiết. Trong ngực em, niềm hãnh diện của người chiến thắng trộn lẫn với cảm giác ghê tởm đối với sự chiến thắng. Có lúc, em đã do dự, song nhớ lại những nỗi đau khổ mà các tù binh da trắng phải chịu đựng, nghĩ đến cha, đến ông Rô-li-xơn, đến Nen, đến tên Ghe-bơ-rơ, kẻ đã dùng roi quật vào cô bé, thì lòng căm thù lại bùng lên trong lòng em với một sức mạnh mới. “Cần phải thế! Cần phải thế!”. - Em nghiến răng tự nhủ và lòng quyết tâm không gì lay chuyển nổi thể hiện trên mặt em, khiến cho nét mặt em như được tạc bằng đá. Trong khi đó, I-đrix đã đặt được cái bầu lên trên một tảng đá cách đó trăm bước và quay trở lại. Xtas nhìn rõ nét mặt hớn hở của hắn và toàn bộ thân hình cao lênh khênh trên mặt bằng bằng phẳng đầy cát. Lần cuối cùng, em vụt nghĩ rằng chính cái con người đang sống này chỉ lát nữa thôi sẽ gục xuống mặt đất và những ngón tay sẽ cào cấu mặt cát trong cơn giãy chết cuối cùng. Nhưng cậu bé không còn do dự nữa và khi I-đrix bước được năm mươi bước, em từ từ nâng súng lên ngang mắt.

Song trước khi ngón tay em chạm vào cò súng, từ phía bên kia đống lở tích cách đó chừng vài trăm bước chân, chợt nghe thấy tiếng hò reo vang dậy, và ngay lúc đó, chừng hai mươi kị sĩ cưỡi ngựa và lạc đà xuất hiện. Nhìn thấy chúng, I-đrix sững ra như hoá đá. Xtas cũng ngạc nhiên không kém, nhưng sự kinh ngạc của em nhanh chóng nhường chỗ cho niềm vui sướng như điên. Đây rồi, những người đuổi theo mà em ngóng trông bấy lâu nay! Phải!

Không thể khác! Rõ ràng là trong làng người ta đã tóm cổ được bọn Bê-đu-in và bọn chúng đã chỉ nơi ẩn náu của những tên còn lại. Bản thân I-đrix cũng nghĩ như vậy, tên này, sau khi hơi định thần, liền chạy tới Xtas với bộ mặt nhợt nhạt vì kinh hoàng và quỳ sụp xuống chân em bắt đầu lặp đi lặp lại bằng giọng hổn hển:

- Ông chủ ơi, tôi vẫn đối xử tốt với ông mà! Tôi vẫn đối xử tốt với cô bé mà, ông chủ hãy nhớ cho điều ấy!...

Xtas tự nhiên tháo đạn ra khỏi nòng súng. Em nhìn. Đám kị sĩ phóng hết sức trên những con ngựa và lạc đà, vui sướng thét lên và tung bổng lên không trung những khẩu súng hoả mai Ả Rập dài ngoẵng rồi lại tóm bắt lấy chúng trong đà phi với một sự khéo léo phi thường. Trong bầu không khí trong suốt, sáng rõ có thể nhìn thấy họ hết sức rõ ràng. Ở giữa, dẫn đầu đoàn là hai tên Bê-đu-in đang vừa phóng như bay vừa huơ tay và áo choàng như những thằng rồ.

Chỉ mấy phút sau cả bọn đã xông tới phía toán người. Một số kị sĩ nhảy xuống khỏi ngựa và lạc đà, một số vẫn ngồi nguyên trên yên và vẫn không ngừng kêu thét. Trong những tiếng kêu thét đó chỉ có thể phân biệt được hai tiếng:

- Khác-tum! Goóc-đôn! Goóc-đôn! Khác-tum!...

Mãi sau, một trong hai tên Bê-đu-in - chính là tên được thằng đồng bọn gọi là A-bu An-ga lao đến chỗ I-đrix đang rúm người dưới chân Xtas và kêu lên:

- Khác-tum chiếm được rồi! Goóc-đôn bị giết rồi!

Ma-hơ-đi chiến thắng! I-đrix bật dậy, nhưng vẫn chưa tin vào tai mình.

- Thế còn những người này? - Y hỏi bằng đôi môi run run.

- Những người này lẽ ra phải bắt chúng ta thì bây giờ sẽ đi cùng chúng ta tới chỗ Đấng tiên tri. Xtas tối sầm mắt lại...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ---

Quả thực, tia hi vọng cuối cùng về việc trốn thoát trong khi đi đường thế là đã bị tắt ngấm. Giờ đây, Xtas hiểu rằng, các mưu của em chẳng thể mang lại điều gì nữa, rằng cuộc đuổi theo sẽ không bao giờ đuổi kịp, và dù các em có chịu đựng nổi những khó nhọc trên đường thì cũng sẽ phải đi tới tận chỗ Ma-hơ-đi và sẽ bị nộp vào tay Xmai-nơ. Em chỉ còn một điều an ủi, đó là ý nghĩ rằng các em bị bắt cóc chẳng qua là để đánh đổi lấy những đứa con của gã Xmai-nơ. Nhưng liệu bao giờ chuyện đó sẽ xảy ra và trước đó các em sẽ phải gặp những chuyện gì? Tai ương khủng khiếp nào đang chờ các em giữa các bộ tộc hoang dã đang say máu người? Liệu Nen có chịu đựng nổi tất cả khó nhọc và thiếu thốn ấy? - Điều này không một ai có thể trả lời. Ngược lại, chỉ biết rằng, Ma-hơ-đi và những tín đồ của hắn rất căm thù những người Thiên Chúa giáo nói riêng và người Âu nói chung. Vì vậy, trong lòng cậu bé dậy lên nỗi lo sợ, không hiểu thế lực của gã Xmai-nơ có đủ để bảo vệ cho cả hai tránh khỏi những điều nhục mạ, sự tàn ác và điên dại của các tín đồ của Ma-hơ-đi, những kẻ đã giết hại ngay các tín đồ Hồi giáo trung thành với chính phủ? Lần đầu tiên kể từ khi bị bắt cóc, Xtas chìm trong một nỗi tuyệt vọng sâu thẳm, đồng thời em ngả theo một suy nghĩ mê tín, cho rằng em bị một thứ hung mệnh nào đó dõi theo ám ảnh. Vì nói cho cùng, ngay cả cái ý đồ bắt cóc các em từ Phai-um rồi mang đến tận Khác-tum cũng đã là một sự điên rồ hoàn toàn, sự điên rồ mà chỉ những kẻ hoang dại và ngu xuẩn như I-đrix và Ghe-bơ-rơ mới dám làm, bởi bọn chúng không hiểu rằng chúng sẽ phải vượt qua hàng nghìn cây số trên chính vùng đất thuộc về chính phủ Ai Cập, hay nói cho đúng hơn là thuộc về người Anh. Nhẽ ra chúng đã bị bắt ngay ngày hôm sau, ấy thế mà mọi sự lại sắp xếp thế nào để đến nỗ i giờ đây chúng đã đến rất gần cá i thác thứ hai mà chẳng có cuộc săn đuổi nào tóm được, còn những kẻ săn đuổi này thì lại nhập bọn với chúng và sẽ là lực lượng hỗ trợ chúng. Cộng thêm vào sự tuyệt vọng và nỗi lo sợ cho số phận của cô bé Nen, là cảm giác nhục nhã, bởi Xtas nghĩ rằng em không thể làm một việc gì để cứu vãn tình thế, và hơn thế nữa, em không còn có thể nghĩ ra được cách gì khác, bởi giá như bây giờ bọn kia có đưa cho em khẩu súng săn và đạn thì em đâu có thể khống chế nổi toàn bộ bọn Ả Rập đang hợp thành đoàn này.

Những ý nghĩ ấy giày vò em nhiều hơn nữa còn bởi lẽ sự giải thoát tưởng đã gần đến thế kia mà! Giá như Khác-tum không bị chiếm, hoặc bị chiếm chậm đi vài ngày, thì chính những người giờ đây chạy sang phía Ma-hơ-đi chắc chắn sẽ tóm bọn kia và nộp chúng vào tay chính phủ rồi. Ngồi trên lưng lạc đà sau lưng I-đrix và lắng nghe những lời trò chuyện của bọn chúng, Xtas tin rằng mọi chuyện đã có thể diễn ra đúng như thế. Bởi vì, ngay sau khi tiếp tục lên đường, viên chỉ huy toán săn đuổi bắt đầu kể cho I-đrix nghe nguyên do nào đã khiến bọn chúng phản bội lại phó vương.

Trước đó, chúng được biết rằng, đại quân không phải là quân Ai Cập nữa mà là quân Anh - đã lên đường xuống miền Nam chống lại bọn phiến loạn, dưới sự thống lĩnh của tướng Vôn-xơ-lây. Bọn chúng trông thấy nhiều tàu thuỷ chở lính Anh hùng hổ từ Át-xu-an tới Va-đi Han-pha. Tại đó, người ta đã xây dựng riêng cho họ một con đường sắt đi tới A-bu Ham-mét. Suốt một thời gian dài, các tù trưởng ven bờ sông - cả những người hãy còn trung thành với chính phủ lẫn những kẻ trong thâm tâm đã ủng hộ Ma-hơ-đi - vẫn tin rằng sự thất bại của những kẻ theo đạo Hồi và đấng tiên tri của chúng là không thể tránh khỏi, bởi chưa hề có kẻ nào chiến thắng nổi người Anh.

- Lạy đức A-la! - I-đrix ngắt lời, đưa hai tay lên trời. - Ấy thế mà bọn chúng đã bị đánh bại.

- Không, - viên toán trưởng đáp lại, - Ma-hơ-đi phái các bộ lạc Za-nô, Bac-ba-ra và Đa-zim đi chống lại người Anh, tổng cộng chừng ba mươi nghìn người lính thiện chiến nhất, do Mu-xa, con trai của He-lu thống lĩnh. Ở gần A-bu Klê-a đã diễn ra một trận đánh khủng khiếp, trong đó Thượng đế cho bọn vô thần chiến thắng.

- Chính vậy, Mu-xa, con trai của He-lu, tử trận, chỉ có một nhúm binh lính của ông ta quay lại với Ma-hơ-đi. Linh hồn của những người khác đã ở trên thiên đàng, còn xác họ nằm trong cát chờ ngày phục sinh. Tin tức về chuyện đó nhanh chóng lan ra khắp vùng sông Nin. Khi đó chúng tôi đã nghĩ rằng người Anh chắc sẽ tiến xa hơn nữa về phía Nam và giải vây cho Khác-tum. Ai ai cũng nói: “Kết cục! Kết cục rồi!” Trong khi đó, Thượng đế đã an bài cách khác.

- Hả? Sao vậy? - I-đrix hỏi một cách nóng ruột.

- Sao vậy? - Viên chỉ huy nói, mặt rạng ngời. Vì trong lúc đó đức Ma-hơ-đi đã lấy được thành Khác-tum, Goóc-đôn bị chặt đầu trong cuộc tiến công thành. Mà người Anh lại chỉ lo cho Goóc-đôn là chính, nên sau khi biết tin ông ta bị chết, họ bèn quay trở về phương Bắc. Lạy đức A-la! Thế là chúng tôi lại thấy bao nhiêu tàu thuỷ chở những người lính to lớn xuôi dòng sông, song chúng tôi không hiểu điều đó có nghĩa thế nào. Người Anh chỉ loan tin tốt, còn tin xấu thì họ giấu đi. Một số trong chúng tôi bảo rằng đức Ma-hơ-đi đã bị qua đời. Nhưng cuối cùng sự thật cũng ra ánh sáng.

Vùng đất này hiện hãy còn đang thuộc về chính phủ. Tại Va-đi Han-pha và xa hơn nữa, cho tới cái thác thứ ba, mà cũng có thể cho tới tận thác thứ tư, cũng hãy còn binh lính của phó vương, nhưng giờ đây, khi người Anh đã tháo lui, chúng tôi tin rằng, đức Ma-hơ-đi sẽ đánh chiếm không những chỉ toàn bộ Nu-bi-a và Ai Cập, không những chỉ Mếch-ca và Mê-đi-nét, mà còn đánh chiếm toàn thế giới.

Vì vậy, thay việc bắt các anh và nộp vào tay chính phủ,chúng tôi cùng đi với các anh tới gặp Đấng tiên tri.

- Thế nghĩa là đã có lệnh bắt chúng tôi?

- Lệnh được gửi tới mọi làng, mọi tộc trưởng, mọi đơn vị quân đội. Nơi nào không có sợi dây đồng mang lệnh từ Cai-rô chạy tới thì đã có các cảnh sát tới thông báo rằng hễ ai bắt được các anh sẽ được thưởng ngay một nghìn đồng bảng. Trời ơi! Đó thật là một tài sản lớn!... Lớn lắm!...

I-đrix nghi ngờ nhìn người đang nói.

- Thế nhưng các anh lại lựa chọn ân phước của Đức Ma-hơ-đi?

- Chính thế. Thêm nữa, Người đã thu được biết bao nhiêu tiền bạc và của cải ở Khác-tum, đến nỗi Người phải dùng bao đựng cỏ để đong tiền Ai Cập và chia chúng cho những kẻ trung thành với Người...

- Song nếu như binh lính Ai Cập đang còn có mặt ở Va-đi Han-pha và xa hơn nữa, thì dọc đường họ có thể bắt chúng tôi.

- Không. Chỉ cần nhanh chân lên một chút, trước khi bọn chúng kịp hoàn hồn. Giờ đây, sau khi người Anh rút đi rồi, đầu óc bọn chúng hoàn toàn bị đảo lộn, cả những tộc trưởng trung thành với chính phủ, lẫn binh lính và cảnh sát. Tất cả đều đang nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa Ma-hơ-đi sẽ tới, nên những người trong số chúng tôi, mà trong thâm tâm vẫn ủng hộ Người, bây giờ công khai chạy đến với Người, chẳng bị ai đuổi theo, vì trong những giây phút ban đầu này chẳng còn ai ra lệnh và cũng chẳng ai biết nghe ai nữa.

- Đúng thế. - I-đrix đáp. - Nhưng ông đã nói đúng rằng phải mau chân lên trước khi bọn chúng kịp định thần, vì từ đây tới Khác-tum hãy còn xa lắm...

Nghe trọn câu chuyện này, trong đầu Xtas lại bừng lên một tia hi vọng mỏng manh. Nếu như binh lính Ai Cập cho đến nay vẫn còn đang chiếm giữ nhiều địa điểm khác nhau dọc sông Nin ở Nu-bi-a, thì họ phải rút theo đường bộ trước sự tấn công của các bộ lạc của Ma-hơ-đi, vì tất cả các tàu thuỷ đã bị người Anh sử dụng hết. Như vậy, biết đâu đoàn này chẳng chạm trán với một trong số các đơn vị đang rút lui đó, và có thể sẽ bị bao vây. Xtas cũng tính rằng, trước khi tin tức về việc chiếm Khác-tum lan ra khắp các bộ lạc Ả Rập cư trú ở vùng phía Bắc Va-đi Han-pha, thì chắc hẳn phải có mất nhiều thời gian, nhất là khi chính phủ Ai Cập và người Anh giấu tin này. Do vậy, Xtas cho rằng, sự rệu rã chế ngự những người Ai Cập trong phút đầu đã qua. Cậu bé ít kinh nghiệm còn chưa hiểu rằng, dù sao đi nữa, việc mọi người phải quên đi tất cả mọi chuyện, và các vị tù trưởng trung thành với chính phủ - đồng thời cũng là chính quyền địa phương hiện tại của Ai Cập - hẳn là đang có bao nhiêu việc khác phải làm hơn là nghĩ đến việc cứu hai đứa bé da trắng.

Quả thực, những người Ai Cập nhập vào đoàn rất ít lo sợ bị đuổi theo. Họ có đi vội thật và không tiếc sức lạc đà, song họ đi ở khoảng cách rất gần sông Nin và đêm đêm thường rẽ ra sông để cho súc vật uống nước và lấy nước vào cái túi da. Đôi khi,ngay cả ban ngày, họ dám đi vào các làng mạc. Để bảo đảm an toàn, bao giờ họ cũng phái vài người đi thám thính trước, dưới dạng những người đi mua lương thực, xem xét tình hình trong vùng lân cận và nghe ngóng xem ở đấy có binh lính Ai Cập hay không, cũng như liệu các cư dân trong vùng có thuộc về những kẻ trung thành với bọn “Thổ” hay không. Nếu như tìm được đúng những người dân bí mật ủng hộ Ma-hơ-đi, thì cả đoàn sẽ vào làng, và thường thường, khi ra đi, đoàn người lại được tặng thêm vài hay mươi người Ả Rập trẻ tuổi muốn trốn đến với Ma-hơ-đi.

I-đrix cũng được biết rằng, gần như tất cả các đơn vị Ai Cập đều ở bên bờ phía sa mạc Nu-bi-a nghĩa là phía tả ngạn, phía bờ sông Nin. Để tránh đụng độ với họ, chỉ cần đi theo bờ hữu ngạn và tránh những thị trấn cùng những điểm cư dân tương đối lớn.

Tuy chuyện đó có khiến cho đường đi xa hơn nhiều, vì từ Va-đi Han-pha trở đi, dòng sông tạo thành một vòng cung quành rất xa xuống phía nam, rồi sau đó lại ngoằn về hướng Đông Bắc cho tới tận A-bu Ham-mét, nơi nó chảy thẳng về hướng Nam, nhưng bờ hữu ngạn, nhất là từ ốc đảo Xê-lim trở đi, gần như hoàn toàn không bị cảnh giới, mà đối với những người Xu-đan, đường đi giữa đám đông bè bạn, nước nhiều, lương ăn sẵn, trở nên vui vẻ hơn nhiều.

Sau khi vượt qua cái thác thứ ba, bọn chúng thôi không còn phải vội vã nữa, chúng đêm đi, ngày nghỉ, ẩn náu giữa các gò cát và khe núi chia cắt sa mạc. Lúc này, trên đầu chúng là bầu trời không một gợn mây, ở đường chân trời ngả màu xám, còn ở giữa cong lên như một cái vòm khổng lồ, tĩnh mịch và thanh bình. Tuy nhiên, càng ngày cái nóng nực càng gay gắt hơn, khi chúng đi dần về phía Nam, thậm chí trong các khe núi, trong bóng râm, cái nóng vẫn hành hạ người và vật. Trái lại, đêm thường rất lạnh, đầy những vì sao lấp lánh, được phân chia thành những chòm lớn chòm nhỏ.

Xtas để ý thấy rằng đó đã không còn là những chòm sao đêm đêm vẫn soi sáng ở Port Xai-đơ nữa. Nhiều khi em từng mơ tưởng rằng, một khi nào đó trong đời sẽ được trông thấy chòm sao Thập Tự Nam. Và thế là em đã được thấy chòm sao này sau khi vượt qua En Oóc-đe. Nhưng giờ đây, ánh sáng của chòm sao này chỉ báo trước cho em những tai ương bất hạnh mà thôi. Và từ vài ngày nay, cứ đêm đêm, đoàn người lại thấy cái ánh sáng bàng bạc, tản mạn và buồn tẻ của hoàng đạo, kéo dài từ khi mặt trời lặn cho đến những giờ khuya, dát bạc vùng trời phía Đông.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ --------

Hai tuần sau khi rời khỏi vùng lân cận Va-đi Han-pha, đoàn người đi vào khu vực bị Ma-hơ-đi chiếm. Họ vượt qua sa mạc đầy đồi núi Ghê-đi-re ở gần Khen-đi, nơi trước đó người Anh đã tiêu diệt không còn một mảnh giáp quân của Mu-xa U-le đi He-lu, và tiến vào vùng đất hoàn toàn không còn giống gì với sa mạc nữa. Nơi đây không thấy có cát và những lở tích. Nhìn đến hút tầm mắt là thảo nguyên mênh mông, một phần phủ đầy cỏ xanh tươi, một phần là rừng rậm, trong đó mọc những bụi keo gai góc, loài cây cung cấp thứ nhựa Xu-đan nổi tiếng. Đây đó nổi lên những cây na bắc đơn độc khổng lồ, tán xoè rộng đến nỗi dưới mỗi tán cây khoảng một trăm người có thể nấp tránh nắng mặt trời. Thỉnh thoảng cả đoàn lại đi ngang qua những tổ mối cao giống như những chiếc cột, những tổ mối này trải đầy trên toàn bộ vùng nhiệt đới Phi châu.

Màu xanh của thảm cỏ và những cây xiêm gai dịu dàng mơn trớn mắt nhìn, sau màu cát đơn điệu và cằn úa của sa mạc.

Tại những đồng cỏ ở bình nguyên hàng đàn lạc đà đang gặm cỏ dưới sự canh giữ của những toán lính có vũ trang của Ma-hơ-đi.

Nhìn thấy đoàn người, chúng liền bật dậy như những con chim ăn thịt, lao tới phía họ, bao vây họ tứ phía, và vừa múa tít giáo, vừa hét lên ghê người, vừa căn vặn xem họ là ai, tại sao kéo từ phía Bắc xuống và định đi đâu. Nhiều khi, bọn chúng trông thật là dữ tợn đến nỗi I-đrix phải vội vội vàng vàng trả lời ngay những câu hỏi để khỏi bị tấn công.

Vốn hình dung rằng các cư dân Xu-đan chỉ khác với tất cả những chủng người Ả Rập khác sinh sống tại Ai Cập mỗi một điểm là họ tin vào Ma-hơ-đi và không muốn thừa nhận chính quyền của phó vương, giờ đây Xtas mới thấy rằng em nhầm hoàn toàn.

Những người giờ đây cứ chốc chốc lại giữ cả đoàn lại, đại đa số đều có nước da sẫm hơn I-đrix và Ghe-bơ-rơ, còn so với hai tên Bê-đu-in thì da họ gần như màu đen. Trong người họ dòng máu da đen có ưu thế hơn dòng máu Ả Rập. Mặt mũi và ngực của họ đều được xăm chàm, những hình xăm đủ loại, hoặc là những câu kinh Co-ran.

Một số người gần như hoàn toàn ở trần, những người khác mặc diuby, tức là tấm choàng bằng vải bông trắng có may đính những tấm trang trí nhiều màu. Nhiều người có cài một nhánh san hô hoặc một mẩu ngà voi ngang qua lỗ mũi, qua môi hoặc dái tai. Các thủ lĩnh đội mũ tròn không lưỡi trai màu trắng cũng bằng thứ vật liệu như các tấm choàng, những chiến sĩ thường thì để đầu trần nhưng không cạo trọc như người Ả Rập ở Ai Cập, mà ngược lại, đầu họ mọc đầy tóc xoăn xoăn thường ngả màu đỏ do bị nhuộm vôi mà họ thường bôi để chống chấy. Vũ khí của họ chủ yếu là giáo, thứ vũ khí rất kinh khủng khi nằm trong tay họ, song cũng không thiếu súng trường Rê-ming-tơn mà họ đã thu được trong những cuộc chiến đấu với quân Ai Cập và sau trận hạ thành Khác-tum. Nói chung trông họ thật hãi hùng và cách đối xử với đoàn người đầy thù địch và họ cho rằng đoàn người này gồm các thương nhân Ai Cập, những kẻ mà lúc đầu, ngay sau trận chiến thắng, Ma-hơ-đi đã cấm không cho vào Xu=đan.

Thông thường, họ bao vây đoàn người, và trong tiếng ồn ào hỗn loạn xen lẫn những lời doạ nạt, họ gí giáo vào ngực mọi người hoặc nhằm súng vào họ, khiến cho gã I-đrix vội vàng kêu lên rằng hắn và em trai hắn thuộc về bộ tộc Dan-gan của chính đức Ma-hơ-đi, rằng chúng đang mang bọn trẻ con da trắng làm nô lệ đến nộp cho Đấng tiên tri. Chỉ mỗi một điều ấy thôi mới có thể khiến cho các ngọn giáo không làm chuyện dữ. Xtas, ngay sau khi được tiếp xúc với cái thực tế đầy kinh hoàng này, tê tái cả lòng khi nghĩ tới những gì đang chờ đợi cả hai đứa trong những ngày sắp tới, còn I-đrix, kẻ trước đó đã sống những năm dài trong một nước văn minh, cũng không hề tưởng tượng đến một chuyện như thế này bao giờ. Do vậy, hắn rất vui sướng, khi vào một buổi chiều kia, một đơn vị vũ trang của viên êmia Nu-rơ En Ta-thin đón cả đoàn dẫn về Khác-tum.

Trước khi chạy đến với Ma-hơ-đi, Nu-rơ En Ta-thin vốn là một sĩ quan quân đội Ai Cập thuộc trung đoàn da đen của phó vương, nên y không hoang dã như những tín đồ khác của Ma-hơ-đi và I-đrix có thể nói chuyện được với y một cách dễ dàng hơn. Nhưng ngay cả ở đây nữa, hắn cũng thất vọng. Hắn cứ tưởng rằng việc hắn mang bọn trẻ da trắng tới trại của Ma-hơ-đi sẽ gây nên một sự kinh ngạc, dù chỉ là vì những gian khó kinh khủng và nỗi nguy hiểm của con đường mà hắn đã trải qua. Hắn tưởng rằng bọn tín đồ của Ma-hơ-đi sẽ nhiệt tình đón tiếp hắn với cánh tay dang rộng, sẽ hộ tống hắn trong một cuộc ca khúc khải hoàn đến bệ kiến Đấng tiên tri, và Người sẽ rắc vàng và những lời khen ngợi lên đầu hắn, một con người đã không ngần ngại đến tính mạng để phục vụ cho bà Phát-ma, em họ của Người. Trong khi đó thì bọn tín đồ Ma-hơ-đi lại thọc giáo kề tận ngực những người trong đoàn, còn Nu-rơ En Ta-thin thì nghe một cách hững hờ câu chuyện cuộc hành trình của hắn, và cuối cùng, khi bị hỏi rằng y có quen biết Xmai-nơ, chồng của bà Phát-ma hay không, y đáp lại:

- Không, ở Om-đu-a-man và Khác-tum hiện nay có tới trên một trăm nghìn chiến hữu, nên chẳng dễ gặp nhau đâu, và không phải mọi sĩ quan đều quen biết nhau cả. Quốc gia của Đấng tiên tri thật bao la, do vậy nhiều vị emia hiện đang phải cai trị những thành phố xa xôi, ở Xen-na-ra, ở Coóc-đô-phan, Đác-phua và vùng lân cận Pha-sô-đa. Rất có thể là cái ông Xmai-nơ nào đó mà nhà anh hỏi, hiện nay không có mặt bên cạnh Đấng tiên tri đâu.

I-đrix hơi bị phật ý vì kiểu nói coi thường của Nu-rơ khi nói đến “cái ông Xmai-nơ nào đó”, bèn đáp lại bằng một giọng hơi nóng nảy:

- Ngài Xmai-nơ lấy em con cô của Đức Ma-hơ-đi,nên con cái của ngài là họ hàng của Đấng tiên tri đấy.

Nu-rơ En Ta-thin nhún vai:

- Đức Ma-hơ-đi có nhiều bà con họ hàng nên không thể nhớ tất cả mọi người được.

Chúng đi một lúc lâu trong im lặng, rồi I-đrix lại hỏi:

- Bao lâu nữa thì chúng ta tới Khác-tum?

- Trước nửa đêm. - Ta-thin vừa đáp vừa ngắm các vì sao đang hiện dần ở phương Đông của bầu trời.

- Liệu vào cái lúc khuya khoắt như thế tôi có thể tìm được thức ăn và lương thực cho gia súc hay không? Từ lúc nghỉ trưa tới giờ chúng tôi chưa có miếng nào vào bụng cả...

- Hôm nay tôi sẽ cho các anh ăn và ngủ qua đê mở nhà tôi, nhưng ngày mai, đến Om-đu-a-man, anh phải ráng mà kiếm lấy cái ăn, và tôi có thể nói trước với anh là chuyện đó không dễ đâu.

- Vì sao vậy?

- Vì đang chiến tranh mà. Từ mấy năm nay người ta không gieo cấy mà chỉ sống bằng thịt, nên một khi súc vật thiếu đi thì cái đói tới liền. Hiện nay toàn bộ miền Xu-đan đang bị đói, một bì ngô còn đáng giá hơn một tên nô lệ đấy.

- Lạy đức A-la! - I-đrix sửng sốt thốt lên. - Nhưng tôi trông thấy trên thảo nguyên hàng đàn gia súc và lạc đà kia mà.

- Những cái đó thuộc về Đấng tiên tri, thuộc về những người “cao quý” và thuộc về các ca-líp...

Phải... Những người Dan-gan, bộ tộc đã sản sinh ra đức Ma-hơ-đi, và những người Bag-ga-rơ, mà thủ lĩnh của họ là ngài Áp-đu-la-hi, có những đàn gia súc đông đảo, còn những bộ lạc khác thì ngày càng khó sống trên đời này.

Nói tới đây, Nu-rơ En Ta-thin vỗ vỗ vào dạ dày và tiếp:

- Đi phục vụ Đấng tiên tri, tôi có chức tước cao hơn, nhiều tiền hơn, nhiều quyền bính hơn, nhưng khi phục vụ cho phó vương thì bụng tôi lại to hơn...

Song chợt nhận thấy mình đã nói hơi nhiều, y liền nói thêm sau một lúc im lặng:

- Nhưng mọi chuyện đó rồi cũng sẽ qua cả thôi, khi có lòng tin vào chiến thắng.

Nghe thấy những lời đó, I-đrix chợt nghĩ rằng, dù sao hồi ở Phai-um, khi phục vụ những người Anh, hắn cũng chưa bao giờ biết đói là gì và thật dễ kiếm tiền, thế là hắn trở nên buồn bã.

Sau đó hắn hỏi tiếp:

- Thế ngày mai ông đưa chúng tôi tới Om-đu-a-man chứ?

- Phải. Theo lệnh của Đấng tiên tri, Khác-tum cần phải bỏ trống nên hiện có rất ít người ở tại đó. Hiện nay người ta đã phá vỡ những ngôi nhà lớn rồi chở gạch ngói cùng các thứ của cải khác đi Om-đu-a-man. Đấng tiên tri không muốn sống ở cái thành phố đã bị bọn vô đạo làm ô uế.

- Ngày mai tôi sẽ rập trán trước Người, Người sẽ ra lệnh cấp thức ăn và lương thực gia súc cho tôi.

- Ha! Nếu như quả thực anh thuộc về bộ tộc Dan-gan thì có thể anh sẽ được phép vào yết kiến Người. Nhưng anh hãy biết cho rằng ngày cũng như đêm có một trăm người cầm roi túc trực canh ngôi nhà của Người và họ không tiếc đòn roi đối với những kẻ nào không được phép mà lại muốn vào yết kiến Ma-hơ-đi đâu. Nếu không thì người ta chẳng khi nào để cho Người có một phút giây ngơi nghỉ... Lạy đức A-la! Tôi cũng đã từng thấy cả những người Dan-gan mang những lằn roi trên lưng.

I-đrix mỗi lúc một thêm thất vọng.

- Thế có nghĩa là, - y hỏi, - tín đồ không được trông thấy Đấng tiên tri hay sao?

- Tín đồ trông thấy Người hàng ngày trên quảng trường cầu nguyện, khi Người quỳ trên tấm da cừu giơ tay lên cầu Thượng đế, hay khi Người răn dạy mọi người giữ lòng tin chân chính. Nhưng được đến gần Người và được nói chuyện với Người là việc rất khó.

Ai đạt được phúc đó đều bị mọi người ghen tị, vì như thế nghĩa là ân phước của Thượng đế đã được ban phát xuống cho người đó, xoá sạch mọi tội lỗi trước kia của hắn.

Đêm đã đi vào chiều sâu, và cùng với đêm, cái lạnh thấm da thấm thịt cũng tràn về. Trong hàng người vang lên những tiếng kêu rừ rừ của ngựa, bước chuyển từ cái nóng bức ban ngày vào cái lạnh ban đêm mạnh và đột ngột đến nỗi da ngựa bốc hơi nghi ngút, khiến đoàn người như đi trong một đám sương mù. Ngồi sau lưng I-đrix, Xtas nghiêng người sang Nen hỏi:

- Em có lạnh không, em?

- Không. - Cô bé đáp. - Nhưng... thế là chẳng còn có ai che chở chúng mình nữa... Và nước mắt khiến cho lời nói của cô bé tắt nghẹn.

Lần này, Xtas không thể tìm ra cho cô bé được một lời an ủi nào vì chính em cũng tin rằng, thế là không còn có cách nào cứu được chúng nữa. Cả hai đã đi vào một nước bần hàn, đói rách, đất nước của những sự dã man thú vật, đất nước của máu đỏ. Chúng giống như hai chiếc lá nhỏ nhoi giữ a cơn bão tố, cơn bão ấy không những chỉ mang cái chết và sự tàn phá gieo rắc cho những mái đầu đơn côi mà còn cho cả các thành phố, các bộ tộc. Bàn tay nào có thể giằng chúng ra khỏi cơn bão táp ấy và cứu lấy hai đứa trẻ nhỏ bé, không ai che chở?

Trăng đã lên cao trên bầu trời, khiến những cành hoa trinh nữ và xiêm gai hoá thành những chùm lông vũ bằng bạc. Đây đó, từ trong rừng thẳm vang lên tiếng cười rùng rợn nghe như vui sướng của loài linh cẩu, bởi trong vùng đất đẫm máu này chúng tìm được quá nhiều thây người. Thỉnh thoảng đơn vị đưa đoàn đi lại chạm trán với các toán lính tuần phòng khác và trao đổi mật khẩu với nhau. Cuối cùng họ đi tới những dãy núi ven bờ sông và qua một hẻm núi dài họ tới được sông Nin. Người, ngựa, lạc đà bước lên một chiếc thuyền rộng, đáy bằng, và chẳng bao lâu sau, những chiếc mái chèo bắt đầu đều đều phá vỡ mặt sông êm đềm trải đầy bóng sao lung linh.

Sau nửa giờ, về phía Nam, phía những chiếc thuyền đi ngược nước đang hướng tới, bừng lên những ánh lửa sáng, và khi các con thuyền tiến lại gần, chúng hoá thành những chùm sáng đỏ trên mặt nước. Nu-rơ En Ta-thin chạm vào tay I-đrix, rồi chỉ ra phía trước nói:

- Khác-tum.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ---

Họ dừng lại ở rìa thành phố, trong căn nhà trước kia vốn thuộc về một thương nhân Italia giàu có. Nhưng sau khi ông ta bị giết trong trận công thành thì Ta-thin thu được ngôi nhà trong khi chia những của cải cướp được. Các bà vợ của viên ê-mia tiếp đón khá nhân hậu cô bé Nen sống dở chết dở vì quá mệt nhọc, và mặc dù toàn thành Khác-tum đang cảm thấy thiếu lương thực, họ vẫn tìm được cho cô jan(1) nhỏ bé một ít chà là khô và một ít cơm chan mật, sau đó đưa cô bé lên tầng trên và đặt cô vào giường. Ngủ qua đêm giữa đám lạc đà và ngựa trên sân, Xtas phải tạm hài lòng với một chiếc bánh khô độc nhất, ngược lại, nước uống thì em không thiếu vì cái đài nước phun trong vườn, không hiểu vì một sự may mắn nào đó, đã không bị phá hoại. Mặc dù rất mệt mỏi, rất lâu em không thể chớp mắt được, trước hết là đang nằm, sau nữa, vì sự bất an vô cùng do việc em bị tách khỏi Nen và không thể trực tiếp chăm lo cô bé. Rõ ràng cả Xa-ba cũng chia sẻ nỗi lo lắng này, con chó cứ đánh hơi chung quanh, thỉnh thoảng lại tru lên, khiến cho bọn lính tức giận. Xtas cố gắng yên ủi nó vì lo bọn lính sẽ trị con chó. May thay, con chó ngao khổng lồ này đã khiến cho cả viên êmia lẫn bọn lính kinh ngạc đến nỗi không một tên nào dám vung tay lên hành hạ nó.

Cả gã I-đrix cũng không ngủ. Từ hôm qua hắn đã cảm thấy người không được khoẻ, thêm nữa, sau cuộc nói chuyện với Nu-rơ En Ta-thin, hắn bị tan vỡ khá nhiều ảo tưởng, và hắn nhìn về tương lai cứ như qua một tấm màn chắn dày. Hắn mừng vì sáng ngày mai bọn chúng sẽ vượt sang Om-đu-a-man, thành phố chỉ cách một dòng sông Nin trắng mà thôi, hắn hi vọng rằng, tại đó hắn sẽ tìm thấy Xmai-nơ, nhưng rồi sao nữa? Trong khi đi đường, mọi chuyện đối với hắn rõ ràng và tuyệt diệu hơn rất nhiều. Hắn đã tin tưởng một cách chân thành vào Đấng tiên tri, trái tim hắn càng lôi kéo hắn đến với Người hơn còn vì lẽ cả hai cùng xuất thân từ cùng một bộ tộc. Song cũng như mọi người Ả Rập khác, hắn vốn tham lam và kiêu ngạo. Hắn mơ tưởng rằng người ta sẽ rắc vàng lên người hắn và sẽ phong hắn ít nhất cũng là tước ê-mia, hắn mơ tưởng đến những cuộc chinh chiến chống lại bọn “Thổ”, đến những thành phố sẽ chiếm và những của cải cướp được. Giờ đây, sau những điều được nghe Ta-thin nói, hắn bắt đầu lo lắng không hiểu liệu tất cả những điều hắn làm có phải cũng nhỏ nhoi như một giọt nước mưa chìm trong biển lớn so với những sự kiện vĩ đại hơn nhiều hay chăng. Cũng có thể - hắn chua xót nghĩ - chẳng một ai quan tâm đến những gì ta đã thực hiện, thậm chí cả Xmai-nơ cũng sẽ không chút vui mừng về việc ta mang những đứa trẻ này tới cho ông ta. Hắn bị dằn vặt bởi ý nghĩ đó. Ngày mai sẽ xua tan hoặc sẽ khẳng định nỗi lo sợ của hắn, vì thế hắn vô cùng nóng ruột chờ đợi ngày mai.

Sáu giờ sáng, mặt trời lên, đội ngũ quân lính bắt đầu náo nhiệt. Chẳng bao lâu sau Ta-thin xuất hiện và ra lệnh cho chúng chuẩn bị lên đường. Hắn báo trước rằng cả bọn sẽ đi bộ tới bến theo ngựa của hắn. Xtas vui mừng khôn xiết khi bà Đi-na đưa Nen từ tầng trên xuống, rồi cả đoàn lên đường đi theo bờ thành suốt dọc thành phố tới chỗ bến đò ngang. Ta-thin cưỡi ngựa đi phía trước, Xtas cầm tay Nen,theo sau là I-đrix, Ghe-bơ-rơ và Kha-mix cùng bà Đi-na, và Xa-ba, với ba mươi tên lính của viên ê-mia. Những người khác ở lại Khác-tum.

Xtas nhìn quanh, không thể hiểu vì sao cái thành phố có tường thành bao bọc vững chắc chung quanh như thế này, hơn nữa lại nằm ở chỗ hội lưu của sông Nin Trắng và Xanh - nghĩa là có nước bao bọc cả ba phía, trừ phía Nam là có thể vào được mà lại bị thất thủ. Mãi về sau này, em mới được các nô lệ là tín đồ Thiên Chúa cho biết rằng, khi ấy, nước sông rất cạn, những bãi cát rộng nhô ra, khiến cho người ta có thể dễ dàng tiếp cận các tường thành. Quân binh trong thành mất hi vọng về đạo viện binh giải vây và bị cái đói làm cho mòn mỏi, đã không thể đánh lui nổi cuộc tấn công của những kẻ hoang dã đang hăng máu, và thế là thành phố bị thất thủ, rồi sau đó diễn ra cuộc tàn sát những cư dân trong thành. Mặc dù cuộc công thành đã xảy ra được chừng một tháng, những dấu vết của cuộc chiến đấu vẫn còn rõ nét dọc theo tường thành, trong thành ngổn ngang những đống đổ nát của các ngôi nhà bị phá sập, vốn là đối tượng của cơn cuồng nộ đầu tiên của những kẻ chiếm được thành, còn trong đường hào bên ngoài thành đầy xác người chết, những xác chết mà không có ai nghĩ tới chuyện chôn cất. Trước khi ra tới bến đò, Xtas tính được chừng hơn bốn trăm xác người. Tuy nhiên những xác chết đó không làm cho bầu không khí ở đây bị ô uế, bởi lẽ mặt trời vùng Xu-đan đã sấy chúng thành xác khô. Tất cả các xác chết đều có màu giấy da cừu xám xịt và giống nhau đến nỗi không thể nào phân biệt nổi người Âu, người Ai Cập với người da đen. Giữa đám xác người có rất nhiều thằn lằn nhỏ bé, nhanh nhẹn ẩn dưới những mảnh thây khi có người đi tới gần, thông thường là lẩn vào miệng hay vào giữa những cái xương sườn đã khô cong của các xác chết.

Xtas dắt Nen, gắng che đi cái cảnh kinh khủng đó, em bảo cô bé nhìn sang phía khác, phía thành phố. Song về phía thành phố lại diễn ra những chuyện khiến đôi mắt và tâm hồn cô bé đầy nỗi kinh hoàng. Cảnh bọn trẻ con “người Anh” bị bắt làm nô lệ và con chó Xa-ba bị Kha-mix cầm cổ dề dắt đi thu hút theo những đám đông, và đoàn người càng đi tới gần bến đò thì những đám đông ấy mỗi lúc càng thêm lớn. Đám người tụ tập đông đến nỗi họ phải dừng lại. Khắp nơi vang dội những tiếng kêu thét dữ tợn. Những bộ mặt xăm chàm dữ dằn nhòm chòng chọc xuống Xtas và Nen.

Một số kẻ trong những người hoang dã này bật lên tiếng cười sằng sặc và sung sướng vỗ tay vào đùi khi nhìn thấy hai trẻ, những kẻ khác chửi mắng chúng, một số bọn lại rống lên như dã thú, nhe ra những hàm răng trắng nhởn và đảo đảo hai tròng mắt, cuối cùng, người ta bắt đầu đe doạ chúng, chĩa dao vào chúng. Nửa tỉnh nửa mê trong cơn sợ hãi, Nen cứ bám chặt vào Xtas, cậu bé cố hết sức che chở cho cô bé và nghĩ rằng giờ tận số của cả hai đứa đã đến.

May thay, sức cản của đám người say máu này khiến cho cả gã Ta-thin cũng phải phật ý. Theo lệnh của hắn, hơn chục tên lính liền vây quanh hai trẻ, những tên khác bắt đầu vung roi quật không thương tiếc vào đám người đang hú hét. Phía trước, người chạy toán loạn, rồi lại tụ tập kéo nhau sau toán lính và đưa họ xuống tận thuyền trong tiếng huyên náo hoang dã.

Bọn trẻ thở phào nhẹ nhõm trong khi đi thuyền vượt sông.

Xtas an ủi Nen rằng khi đám tín đồ này quen dần với chúng, họ sẽ thôi không đe doạ chúng nữa, và em cam đoan rằng, gã Xmai-nơ sẽ che chở và bảo vệ cho cả hai, đặc biệt là đối với Nen, vì nếu có chuyện gì không hay xảy ra cho chúng, thì gã sẽ không còn có ai để đánh đổi lấy con gã. Đó là sự thật, nhưng cô bé quá khiếp sợ trước đợt tấn công vừa rồi đến nỗi nắm chặt tay Xtas, không muốn rời ra một giây nào hết và lặp đi lặp lại như trong cơn mê sảng: “Em sợ!

Em sợ!”. Còn Xtas, em hết lòng mong sao lọt vào tay gã Xmai-nơ thật nhanh, gã biết bọn trẻ từ lâu, và trong thời gian ở Port Xai-đơ, gã đã tỏ ra - hoặc ít nhất cũng giả vờ - rất thân thiết với bọn trẻ.

Dù sao đi nữa, gã cũng không phải là kẻ quá ư hoang dại như những người Dan-gan, Xu-đan khác, và kiếp sống nô lệ trong nhà gã hẳn là dễ thở hơn...

Vấn đề là làm sao tìm được gã trong thành Om-đu-a-man. Cả Iđrix cũng trò chuyện với Nu-rơ En Ta-thin về chuyện ấy; khi đó tên này mã i sau mới chợt nhớ ra rằng, một năm trước đây, khi y đang ở Coóc-đô-phan, một nơi cách xa Khác-tum, theo lệnh của thủ lĩnh Áp-đu-la-hi, y đã từng nghe nói tới một tay Xmai-nơ nào đó, kẻ đã dạy quân lính bắn các loại súng đại bác thu được từ tay quân Ai Cập, rồi sau đó đã trở thành một tay trùm trong nghề săn nô lệ.

Nu-rơ bày cho I-đrix cách sau đây để tìm viên ê-mia nọ:

- Khi nào anh nghe thấy tiếng tù và um-bai(2) về buổi chiều, anh hãy cùng với lũ trẻ đi tới quảng trường cầu nguyện, nơi Đấng tiên tri ngày nào cũng tới để nêu gương sáng cho các tín đồ về lòng sùng đạo và kiên tín cho họ. Tại đó, ngoài Đức Ma-hơ-đi thánh thiện, anh sẽ thấy mặt tất cả những người “tôn quý” khác, cùng với ba vị thủ lĩnh, các vị pa-sa và ê-mia, trong số đó anh có thể sẽ tìm thấy ông Xmai-nơ.

- Tôi biết làm gì và ở đâu cho tới buổi nguyện chiều cơ chứ?

- Anh sẽ ở lại với đám lính của tôi.

- Còn ông, thưa Nu-rơ En Ta-thin, ông rời bỏ chúng tôi sao?

- Tôi phải tới gặp ngài thủ lĩnh Áp-đu-la-hi theo lệnh.

- Có phải đó là vị thủ lĩnh lớn nhất hay chăng? Tôi từ xa tới, nên mặc dù tên tuổi các vị thủ lĩnh đã vang dội đến tai tôi, nhưng phải đến ông mới có thể chỉ bảo cho tôi biết rõ hơn về họ.

- Ngài Áp-đu-la-hi, thủ lĩnh của tôi, là thanh kiếm của đức Ma-hơ-đi đấy.

- Cầu đức A-la khiến cho ngài ấy trở thành con trai của thần chiến thắng.

Suốt một hồi lâu những con thuyền trôi trong im lặng. Chỉ nghe thấy tiếng kẽo kẹt của những mái chèo nghiến vào mạn thuyền, và thảng hoặc có tiếng đuôi cá sấu quẫy nước. Rất nhiều con bò sát kinh khủng loại này kéo hàng đàn hàng lũ từ phương Nam tới Khác-tum, nơi có thừa mứa thức ăn, vì dòng sông đầy những xác chết; không phải chỉ vì riêng những người chết vì các bệnh dịch đang hoành hành trong đội quân của Ma-hơ-đi, đặc biệt là trong đám nô lệ. Các vị thủ lĩnh đã ra nhiều mệnh lệnh cấm việc “làm ô uế nước” nhưng chẳng ai chú ý đến các lệnh ấy, và thế là những xác chết mà lũ cá sấu chưa kịp nuốt cứ sấp mặt trôi đi lừng lững theo dòng nước đến tận cái thác thứ sáu hoặc xa hơn nữa, đến tận xứ Béc-be-rơ.

Song lúc này gã I-đrix đang suy nghĩ về chuyện khác, nên một lúc lâu sau gã lên tiếng hỏi:

- Sáng nay chúng tôi không có chút gì vào bụng, khó lòng chịu đựng nổi cái đói cho tới giờ nguyện buổi chiều, và rồi sau đó ai cho chúng tôi ăn uống chứ?

- Anh không phải là một thằng nô lệ, -Ta-thin đáp, - anh có thể ra chợ, nơi bọn lái buôn này bán những hàng chúng dự trữ được. Ở đó anh có thể mua được thịt khô, đôi khi cả đốc-nu (hạt kê) nữa, nhưng phải tốn nhiều tiền đấy, vì như tôi đã nói với anh, nạn đói đang ngự trị tại Om-đu-a-man.

- Thế thì những kẻ hung dữ sẽ bắt hoặc giết mất lũ trẻ của tôi.

- Bọn lính sẽ bảo vệ chúng nó, còn nếu không, anh có thể đưa tiền cho một thằng nào đó, chắc hắn sẽ vui lòng đi mua cái ăn cho anh thôi.

Vốn là kẻ muốn lấy tiền của người khác hơn là đưa tiền cho họ, I-đrix không khoái lắm với lời khuyên này, nhưng trước khi y kịp đáp lại thì thuyền đã cập bờ.

Đối với bọn trẻ, Om-đu-a-man có vẻ khác hẳn với thành Khác-tum. Thành phố kia có những ngôi nhà xây nhiều tầng, có quảng trường mu-di-ra, tức là quảng trường thống đốc, tại đó tướng Goóc-đôn anh dũng đã hi sinh, có nhà thờ, bệnh viện, nhà truyền đạo, kho quân giới, những trại lính lớn, các khu vườn lớn và nhỏ với đủ mọi loại cây cỏ tuyệt vời của vùng nhiệt đới. Còn Om-đu-a-man thì có vẻ giống một thứ trại khổng lồ của những người hoang dã hơn. Tường thành, vốn được xây dựng về phía Bắc của nơi này, đã bị triệt phá theo lệnh tướng Goóc-đôn. Còn hiện nay, nhìn hút tầm mắt, thành phố chỉ gồm những mái lều hình nón lợp bằng các cuộng kê đánh lại mà thôi.

Những hàng rào gai góc mỏng mảnh ngăn các căn lều đó với nhau và với đường phố. Đây đó cũng có cả những căn lều hẳn là thu được từ tay người Ai Cập. Còn ở nơi khác, chỉ vài tấm chiếu cọ trải dưới một mảnh vải bẩn thỉu căng trên mấy chiếc cọc tre đã là toàn bộ ngôi nhà cho một gia đình. Dân chúng chỉ trốn dưới mái nhà trong khi mưa, hoặc trong những giờ quá nắng, còn ngoài ra họ ở ngoài lều, đốt lửa, nấu ăn, sống và chết ngoài trời. Vì vậy mà phố xá đông đúc đến nỗi nhiều chỗ toán quân khó nhọc len qua các đám đông. Trước kia, Om-đu-a-man vốn chỉ là một cái làng nghèo nàn, còn bây giờ, nếu tính cả số nô lệ, tại đây tụ tập những hơn hai trăm nghìn người. Thậm chí, bản thân Ma-hơ-đi cũng như các vị thủ lĩnh của ông ta cũng thấy lo ngại về sự tụ tập này, sự tụ tập đe doạ mang tới cái đói và bệnh hoạn. Vì vậy, người ta liên tục phái những toán quân đi về phía Bắc để đánh chiếm các khu vực và những thành phố hãy còn đang trung thành với chính phủ Ai Cập.

Thấy bọn trẻ da trắng, ở đây cũng lập tức dậy lên những tiếng kêu thét đầy hằn thù, song dù sao thì dám đông cũng chưa đe doạ đến tính mạng của các em. Có thể dân chúng không dám làm điều đó ngay sát nách Ma-hơ-đi, cũng có thể họ đã quen với các tù binh, những người sau khi Khác-tum bị chiếm đã bị chuyển ngay sang Om-đu-a-man.

Xtas và Nen trông thấy cảnh một địa ngục trần gian. Chúng trông thấy những người Âu và người Ai Cập bị roi quật đến toé máu, những người bị đói khát, còng lưng dưới gánh nặng hoặc những thùng nước lớn mà người ta bắt họ phải mang. Chúng trông thấy những phụ nữ và trẻ con người Âu, trước kia vốn sống sung túc, giờ đây đang phải kéo đi ăn mày, xin một nắm ngô hoặc một rẻo thịt khô, những người đùm trong những mảnh vải rách nát, gầy guộc, giống như những hồn ma với những bộ mặt bị cảnh đói nghèo khiến cho vêu vao và những cặp mắt lạc thần, trong đó nỗi kinh hoàng và sự tuyệt vọng đã đông cứng lại. Chúng nhìn thấy cảnh bọn người dã man rũ lên cười khi trông thấy họ, cảnh chúng xô đẩy và đánh đập họ ra sao. Trên khắp mọi đường phố lớn và nhỏ không thiếu gì những cảnh khiến người ta phải quay mặt đi vì khiếp hãi và kinh tởm.Ở Om-đu-a-man hiện đang lan tràn một cách khủng khiếp bệnh dịch kiết lị và thương hàn, và trước hết là bệnh đậu mùa. Những người bệnh với những nốt đậu phủ đầy người nằm ngổn ngang cạnh lối vào các lều, khiến cho không khí bị nhiễm bẩn. Tù binh khiêng những thây người vừa mới chết quấn trong những tấm vải bố dày ra chôn xuống cát bên ngoài thành phố, nơi mà lũ linh cẩu sẽ làm tiếp theo cái công việc chôn cất thật sự cho họ. Bên trên thành phố quần đảo hàng đàn diều hâu, những đôi cánh của chúng in xuống mặt cát thành những cá i bóng đen tang tóc. Nhìn thấy tất cả những cái đó, Xtas nghĩ rằng, đối với em cũng như đối với Nen, tốt nhất là làm sao sớm được chết cho xong.

Tuy nhiên, trong cái biển cả bần hàn và đầy thù hằn con người này thỉnh thoảng vẫn nở bừng những biểu hiện của lòng từ thiện, giống như một đoá hoa nhợt nhạt xoè nở trong vũng lầy tanh hôi. Ở Om-đu-a-man vốn có một nhúm người Hy Lạp và Cóp-tơ mà Ma-hơ-đi đã để cho sống sót vì y cần đến họ. Không những họ được tự do đi lại mà còn tiến hành buôn bán và làm những công việc khác, và một số người, nhất là những kẻ giả vờ thay đổi tín ngưỡng, còn trở thành những thuộc hạ của Đấng tiên tri, điều đó khiến cho họ có một vị trí quan trọng trong số những tín đồ man dã. Một trong những người Hy Lạp nọ giữ toán lính lại và bắt đầu hỏi bọn trẻ từ đâu lạc loài tới đây. Ngạc nhiên khi được biết rằng các em vừa mới đặt chân tới, rằng chúng bị bắt cóc từ mãi tận Phai-um, ông ta liền hứa sẽ nói cho Ma-hơ-đi biết chuyện và sẽ tới thăm chúng trong tương lai. Ông thương xót gật gật đầu với Nen và cho mỗi đứa một vốc to quả vả dại sấy khô cùng một đồng ta-le bạc có khắc hình Maria Te-re-xa. Sau đó ông ta ra lệnh cho bọn lính không được xúc phạm tới cô bé rồi bước đi, mồm lặp đi lặp lại bằng tiếng Anh: “Poor little bird!” (Một con chim nhỏ tội nghiệp).

--- ------ ---------.

1 Jan: “con cừu non” - tiếng gọi thân mật.

2 Um-bai: một loại tù và lớn làm bằng ngà voi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ --------

Qua những phố nhỏ ngoằn ngoèo, mãi rồi họ cũng tới được bãi chợ ở trung tâm thành phố. Dọc đường họ trông thấy nhiều người bị chặt cụt một tay hoặc một chân. Đó là những tội phạm đã từng cất giấu các của cải cướp được, hoặc bọn ăn trộm. Những hình phạt mà các thống lĩnh hoặc ê-mia dành cho những kẻ không tuân lệnh hoặc những kẻ dám phạm vào những luật lệ mà Đấng tiên tri đã ban hành thật vô cùng thảm khốc, thậm chí chỉ vì một lỗi lầm nhỏ nhặt nào đó, thí dụ như hút thuốc lá chẳng hạn, người ta cũng sẽ bị đánh bằng roi ngựa đến bật máu tươi. Song chính các viên thống lĩnh lại chỉ chấp hành luật lệ một cách hình thức mà thôi, còn ở nhà thì họ tự cho phép mình được làm tất cả mọi thứ, nghĩa là hình phạt chỉ rơi xuống đầu người nghèo, những người bị cướp sạch sành sanh tài sản trong mỗi vụ ra tay của kẻ cầm quyền. Họ chẳng còn đường nào khác ngoài việc đi ăn mày, và vì rằng ở Om-đu-a-man không có lương thực dự trữ, nên họ chết dần chết mòn vì đói.

Cạnh các quầy bán lương thực nhung nhúc người ăn mày.

Tuy nhiên, vật đầu tiên khiến bọn trẻ phải chú ý tới là một cái đầu người bị cắm vào một cọc tre cao, chôn chính giữa chợ. Mặt của cái đầu này đã khô quắt lại và gần như có màu đen, còn tóc và râu cằm thì lại trắng như cước. Một tên lính giải thích cho I-đrix rằng đó là đầu của tướng Goóc-đôn. Nghe thấy thế, Xtas thấy lòng tràn ngập một nỗi tiếc thương vô hạn, một sự phẫn nộ và ý muốn khao khát được báo thù, đồng thời một nỗi hãi hùng cũng khiến cho máu trong huyết quản của em dường như đông lại. Thế ra vị anh hùng ấy, người hiệp sĩ không hề biết sợ hãi và không một tí tì vết ấy, con người công minh và đôn hậu được yêu mến ngay ở Xu-đan ấy, đã phải chết như vậy. Thế mà người Anh đã không kịp thời đến ứng cứu cho ông, rồi sau đó lại rút lui, để thi thể ông bị bêu nhục nhã, không được chôn cất theo nghi lễ Thiên Chúa giáo. Lúc này đây, Xtas mất hoàn toàn lòng tin vào người Anh. Cho tới nay, em vẫn tin tưởng một cách ngây thơ rằng, Anh quốc sẵn sàng đánh nhau với toàn thế giới nếu như bất kì một công dân nào của nước Anh bị xúc phạm, dù chỉ là điều xúc phạm nhỏ nhặt nhất. Tận đáy lòng em vẫn còn le lói chút hi vọng rằng sau cuộc truy đuổi không thành công để cứu con gái của ông Rô-li-xơn, hẳn là những đơn vị hùng hậu của người Anh sẽ lên đường, tiến đến tận Khác-tum hoặc xa hơn nữa. Thế mà giờ đây em hiểu ra rằng, cả Khác-tum cùng toàn bộ đất nước này đã lọt vào tay Ma-hơ-đi, trong khi chính phủ Ai Cập cũng như Anh quốc có lẽ chỉ nghĩ tới việc làm sao bảo vệ cho Ai Cập tránh khỏi những cuộc chia cắt tiếp tục, chứ chẳng nghĩ tới việc cứu các tù binh người Âu ra khỏi cảnh nô lệ.

Xtas hiểu được rằng em và Nen đã rơi vào một vực thẳm không lối thoát. Những ý nghĩ đó cộng với những thực tế đầy kinh khủng mà em trông thấy trên các đường phố Om-đu-a-man đã khiến em thất vọng đến cùng cực. Cái nghị lực mà em thường có giờ đây tạm thời nhường chỗ cho một sự cam chịu thuận theo số mệnh và sự hãi hùng khi nghĩ tới tương lai. Gần như vô vọng, em đưa mắt nhìn ngó khắp bãi chợ và các dẫy quầy hàng, nơi gã I-đrix đang mặc cả mua thực phẩm. Những kẻ buôn thúng bán bưng, chủ yếu là các phụ nữ Xu-đan và đàn bà da đen, đang bày bán ở đây áo du-ba (tức là áo mộc làm bằng vải trắng có may thêm các mảnh vải nhiều mầu), nhự a gôm, những quả bầu đã khoét thủng, chuỗi hạt cườm thuỷ tinh, lưu hoàng và đủ mọi thảm chiếu khác nhau. Rất ít quầy bán thực phẩm và chung quanh mỗi quầy đều có đám đông vây chặt. Các tín đồ của Ma-hơ-đi mua mọi thứ, trước hết là những súc thịt trâu bò khô, thịt linh dương và hươu cao cổ, với giá cao kinh khủng. Hoàn toàn không thấy có chà là, vả, sắn và ngô. Chỉ thảng hoặc mới có người bán nước pha mật ong hoang và hạt kê ngâm trong nước cất quả tamarin(1). Gã I-đrix hoàn toàn tuyệt vọng, vì hoá ra, cứ theo giá chợ hiện nay, thì chẳng mấy chốc gã sẽ tiêu sạch số tiền do mụ Phát-ma đưa cho để sinh sống, sau đó có lẽ chỉ còn có cách đi ăn mày mà thôi. Giờ thì gã chỉ còn hi vọng vào Xmai-nơ, và đó cũng là chuyện lạ, bởi vì chính Xtas cũng chỉ còn tính đến sự trợ giúp của Xmai-nơ mà thôi.

Một giờ sau, Nu-rơ En Ta-thin từ chỗ thống lĩnh Áp-đu-la-hi quay trở lại. Hẳn là ở đó hắn đã gặp chuyện gì đó không thật dễ chịu nên rất bực bội. Khi I-đrix hỏi xem hắn có tìm biết được thêm điều gì về Xmai-nơ chăng, hắn liền vặc lại ngay:

- Đồ ngốc, mày nghĩ rằng ngài thống lĩnh và tao không còn việc gì khác ngoài việc tìm Xmai-nơ cho mày hay sao?

- Thế bây giờ ông sẽ làm gì được cho tôi đây?

- Mày làm gì tuỳ ý mày. Tao đã cho mày ngủ đêm ở nhà tao, đã cho mày những lời khuyên quý báu, bây giờ tao không muốn thấy mặt mày nữa.

- Được thôi, nhưng tôi biết trú đêm vào đâu bây giờ?

- Tao không thèm biết.

Nói xong, hắn liền tập hợp bọn lính và bỏ đi. I-đrix chỉ còn kịp van hắn để hắn gửi số lạc đà và phần còn lại của cả đoàn, kể cả những người Ả Rập đã nhập vào đoàn trong vùng giữa Át-xu-an và Va-đi Han-pha, đến bãi chợ mà thôi. Mãi tới trưa những người này mới tới nơi và chẳng một ai biết là phải làm gì bây giờ. Hai tên Bê-đu-in bắt đầu vặc nhau với I-đrix và Ghe-bơ-rơ, bảo rằng hai tên này đã hứa với chúng một cuộc tiếp đón khác thế này, và rằng hai tên này đã đánh lừa bọn chúng. Sau một hồi lâu cãi cọ lời qua tiếng lại, bọn chúng quyết định dựng lều bằng cánh tay và cuộng kê ở cuối thành phố để có chỗ trú đêm đã, còn lại thì cứ trông cậy vào ý muốn của Đấng cứu thế và hãy chờ đợi.

Sau khi đã dựng xong lều - việc này chẳng mất mấy chút thì giờ đối với bọn Xu-đan và da đen - tất cả bọn chúng - trừ Kha-mix phải ở nhà chuẩn bị bữa ăn tối - kéo tới chỗ cầu nguyện công cộng.

Chẳng khó khăn gì không tìm ra chỗ đó, bởi hàng đoàn hàng đoàn người từ khắp thành Om-đu-a-man cũng đang tấp nập kéo về ấy. Bãi đất rộng, chung quanh có hàng rào gai và một phần hàng rào bằng đất sét được đắp lên cách đấy không lâu. Giữa bãi là một bục gỗ.Đấng tiên tri sẽ bước lên bục khi muốn răn bảo mọi người điều gì. Ngay trước bục người ta đã trải những tấm da cừu ngay trên mặt đất làm chỗ dành cho Ma-hơ-đi, các vị thống lĩnh và tù trưởng danh tiếng. Hai bên cắm cờ hiệu của các viên ê-mia, những lá cờ phấp phới trong gió, lộng lẫy đủ màu sắc, loè loẹt như những bông hoa lớn. Bốn phía quảng trường là đội ngũ dày đặc các tín đồ.

Chung quanh là cả một rừng giáo không tính xuể, thứ vũ khí mà gần như tất cả mọi chiến sĩ đều mang bên mình.

May mắn cho I-đrix, Ghe-bơ-rơ và những người trong đoàn là họ được xem như tuỳ tùng của một vị ê-mia nào đó, nên có thể tiến lên hàng đầu của đám đông. Sự xuất hiện của Ma-hơ-đi được báo trước bằng những thanh âm trang trọng và trầm bổng thúc ầm ầm, tiếng lộc cộc của đá đựng trong các quả bầu khô bị lắc lên, và tiếng rú rít của còi ngà voi, tất cả trộn lẫn vào nhau thành một thứ tiếng ồn kinh khủng. Đám người bị chế ngự bởi một nỗi cuồng nhiệt khôn tả. Kẻ thì quỳ sụp xuống, kẻ thì cố hết sức hét lên: “Ôi!

Sứ giả của Thượng đế! Ôi, người chiến thắng! Ôi, người từ thiện!

Ôi, người rộng lượng!”. Cảnh đó kéo dài cho tới khi Ma-hơ-đi bước lên bục thuyết giáo. Khi đó chợt bao trùm một bầu không khí im lặng chết chóc, còn y đưa hai bàn tay to lớn lên ngang tai và bắt đầu cầu nguyện một hồi lâu.

Bọn trẻ đứng cách đó không xa và có thể trông thấy y rất rõ.

Đó là mộ t người vào độ trung tuần, nhưng béo kì lạ, dường như bị nứt trương ra vậy, người gần như da đen. Vốn có cặp mắt rất tinh tường, Xtas nhận thấy mặt y cũng xăm chàm. Một tai y đeo một cái vòng lớn làm bằng ngà voi. Y mặc một cái áo du-ba màu trắng, đầu đội mũ chỏm trắng, chân đi đất, vì khi bước lên bục y đã tụt đôi hài đỏ ra để cạnh tấm da cừu, chỗ mà sau đó y sẽ cầu nguyện.

Trong các thứ trang phục của y không có một chút nào phong lưu cả. Chỉ thỉnh thoảng gió mang lại mùi hương khuynh diệp bốc lên từ người y, thứ mùi được các tín đồ hít lấy hít để và hấp háy mắt ra chiều khoái trá. Nói chung Xtas tưởng tượng hoàn toàn khác về vị tiên tri khủng khiếp này, kẻ cướp bóc và giết chóc ngần ấy ngàn người, nên giờ đây, khi nhìn bộ mặt bự mỡ, với cái nhìn có vẻ hiền lành, với cặp mắt nhoà lệ và nụ cười như được gắn vào miệng của y, em không thể không ngạc nhiên. Em cứ nghĩ rằng một kẻ như thế phải mang trên hai vai một cái đầu linh cẩu hay đầu cá sấu, thế mà giờ đây, em lại thấy trước mắt mình một quả bí ngô béo phị, giống hệt những bức tranh vẽ hình trăng tròn.

Song vị tiên tri đã bắt đầu rao giảng. Cả hai đều nghe rõ tiếng nói sâu thẳm và lanh lảnh của y, mỗi lời đều vang đến tận tai các tín đồ. Đầu tiên y nói về những hình phạt mà Thượng đế dành cho những kẻ không chịu tuân theo các luật lệ của Ma-hơ-đi, mà cứ giấu giếm của cải cướp được, cứ uống rượu mê-ri-xa, ăn cắp, hút thuốc, tha thứ cho kẻ thù trong khi chiến đấu. Vì tất cả những tội lỗi ấy, đức A-la đã gửi xuống cho những kẻ phạm tội nạn đói và thứ bệnh dịch khiến cho mặt mũi người trở thành một lát mật rỗ lỗ chỗ. Đời sống trần gian chỉ như một cái bao da thủng đựng nước mà thôi. Tài sản và lạc thú rồi cũng tan biến trong lớp cát sẽ chôn vùi người chết. Chỉ có lòng tin là giống như con bò sữa cấp cho ta dòng sữa ngọt ngào. Nhưng thiên đường chỉ mở cửa cho những người chiến thắng. Ai hi sinh vì lòng tin sẽ được phục sinh vĩnh hằng. Hạnh phúc thay, trăm lần hạnh phúc thay những người đã ngã xuống!

- Chúng con muốn được chết vì lòng tin! - Đám đông liền đáp lại bằng một tiếng kêu vang động.

Và tiếng huyên náo lại cồn lên khủng khiếp trong chốc lát.

Tiếng tù và umbai và tiếng trống lại gầm vang. Các chiến sĩ vung gươm đập vào gươm, giáo đập vào giáo. Nhiệt tình chinh chiến lan nhanh như lửa cháy. Một số kẻ thét lên: “Lòng tin sẽ chiến thắng!”, một số kẻ khác lại kêu: “Vượt qua cái chết đến với thiên đường!” Giờ đây Xtas hiểu được vì sao quân đội Ai Cập không thể chống cự nổi những bộ lạc hoang dã này.

Khi đã yên yên một chút, Đấng tiên tri lại cất lời. Y kể lại những điều y trông thấy và về sứ mạng mà y được Thượng đế giao phó. Chính đức A-la đã giao cho y phải làm cho đức tin trong sáng trở lại và truyền bá nó khắp thế gian. Kẻ nào không công nhận y là Ma-hơ-đi, là người - chuộc - tội, kẻ đó sẽ bị tội trầm luân. Ngày tận thế đã tới gần, nhưng trước đó, nghĩa vụ của những người kiên tín là phải đánh chiếm được Ai Cập, Mếch-ca và tất cả những đất nước bên kia biển lớn, nơi bọn ngoại đạo sinh sống.Đó là ý chí của Thượng đế và không gì có thể thay đổi được ý chí đó. Máu sẽ còn tuôn đổ nhiều nữa, nhiều chiến sĩ sẽ không được quay về với vợ con dưới mái lều của mình, song vinh hạnh của những người được ngã xuống thì không ngôn ngữ nào của loài người có thể tả xiết.

Rồi y vươn tay về phía những người đang tụ tập và kết thúc như sau:

- Thế nên ta, người - chuộc - tội và đầy tớ của Thượng đế, ta ban phước lành cho cuộc chiến tranh thần thánh và ban phước lành cho các người, hỡi các chiến sĩ. Ta ban phước cho những nỗi nhọc nhằn của các người, những vết thương, cái chết, ta ban phước cho chiến thắng và ta khóc cùng với các người như một người cha xiết bao yêu quý các con...

Y bật lên khóc. Tiếng kêu và tiếng ồn ào lại cồn lên khi y rời khỏi diễn đàn. Tiếng khóc lan ra mọi nơi. Bên dưới đài, hai viên thống lĩnh Áp-đu-la-hi và A-li U-led He-lu, đỡ lấy tay vị tiên tri dẫn tới tấm da cừu, nơi y quỳ xuống. Trong giây phút ngắn ngủi đó, I-đrix sốt ruột hỏi Xtas xem trong số các vị ê-mia có mặt Xmai-nơ hay không.

- Không! - Cậu bé đáp lại sau khi đã hoài công dõi mắt tìm khuôn mặt quen thuộc. - Tôi không trông thấy ông ta đâu cả. Có lẽ ông ta đã chết trong khi công phá Khác-tum rồi cũng nên.

Lễ cầu nguyện kéo dài rất lâu. Trong khi cầu nguyện lúc thì Ma-hơ-đi vung tay vung chân như một con nhện, khi thì lại ngước mắt đầy thành kính nhìn lên trời và thốt lên: “Người đấy! Người đấy!” Mặt trời ngả về Tây khi y đứng dậy bước về nhà. Đến lúc này, bọn trẻ mới có thể thấy hết lòng ngưỡng mộ của các tín đồ dành cho vị tiên tri, hàng đám người cuộn theo gót y, cào cấu mặt đất ở những chỗ gót chân y đặt xuống. Họ cãi nhau và đánh nhau trong khi làm việc đó, vì tin rằng thứ đất đó khiến cho người khoẻ mạnh được an toàn và chữa lành bệnh cho người đau ốm.

Bãi cầu nguyện dần dần thưa người. I-đrix cũng không biết nên làm gì, y đã định cùng với bọn trẻ và cả đoàn quay về các lều nghỉ đêm với Kha-mix, thì đột nhiên trước mặt hiện ra ông lão người Hy Lạp, chính cái ông lão mà sáng ấy đã cho Xtas và Nen mỗi đứa một đồng ta-le và một nắm chà là.

- Ta đã thưa chuyện với đức Ma-hơ-đi về các người, - ông nói bằng tiếng Ả Rập, - và Đấng tiên tri muốn gặp các người.

- Tạ ơn đức A-la và ngài, thưa quý ngài. - I-đrix bật kêu lên. - Liệu chúng tôi có gặp được ngài Xmai-nơ bên cạnh đức Ma-hơ-đi hay chăng?

- Xmai-nơ hiện đang ở Pha-sô-đa. - Ông lão người Hy Lạp đáp. Rồi ông nói với Xtas bằng tiếng Anh:

- Có thể là Đấng tiên tri muốn bảo trợ cho các cháu, vì ta đã cố gắng khuyên Người việc đó. Ta nói với Người là quang vinh của lòng từ thiện của Người sẽ lan ra khắp các dân tộc da trắng nếu Người làm việc đó. Nơi đây đang xảy ra những chuyện khủng khiếp, thiếu sự bảo trợ của Người thì chắc chắn các cháu sẽ chết đói, chết khổ, chết bệnh hoặc chết vì tay bọn điên khùng này mất thôi. Nhưng các cháu phải chiếm cho được cảm tình của Người, điều đó tuỳ thuộc vào chính cháu đấy.

- Nhưng cháu sẽ phải làm gì, thưa ngài?

- Trước hết, khi đứng trước mặt Người, cháu phải quỳ ngay xuống, nếu Người đưa tay cho cháu, thì hãy thành kính hôn tay Người và hãy cầu xin Người cứu mạng các cháu dưới đôi cánh của Người.

Nói đến đây ông lão người Hy Lạp dừng lại và hỏi:

- Có ai trong những người này biết tiếng Anh không?

- Không ạ. Kha-mix ở lại trông lều, I-đrix và Ghe-bơ-rơ chỉ hiểu được đôi ba tiếng, còn những kẻ khác thì không biết chút gì hết.

- Thế thì hay lắm. Cháu hãy nghe tiếp đây, vì cần phải dự liệu tất cả mọi chuyện. Ma-hơ-đi chắc sẽ hỏi cháu xem cháu có sẵn sàng chấp thuận tín ngưỡng của ông ta hay không. Cháu hãy trả lời ngay lập tức rằng có, và rằng chỉ thoáng gặp Người lần đầu thôi mà đã có một thứ ánh sáng ân phước nào đó rọi chiếu xuống cháu.

Hãy nhớ lấy: “Một thứ ánh sáng ân phước nào đó...” Câu đó sẽ khiến cho ông ta khoái chí và có thể ông ta sẽ lấy cháu vào chân mu-la-đem, tức là vào hàng những kẻ thân cận phụ c vụ ông ta. Khi đó chắc chắn các cháu sẽ sống sung túc và đầy đủ mọi thứ tiện nghi, những thứ sẽ tránh cho các cháu khỏi mắc bệnh tật... Nếu như cháu làm khác đi, sẽ nguy hiểm cho bản thân cháu, cho cô bé đáng thương này và có thể cả cho ta, người chỉ muốn điều tốt lành cho các cháu mà thôi. Cháu hiểu chưa?

Xtas nghiến chặt răng không trả lời gì hết, riêng nét mặt của em chợt sầm lại và đôi mắt tối đi. Nhìn thấy thế ông lão Hy Lạp nói tiếp:

- Ta biết, cháu bé ạ, đó là một chuyện phiền lòng, nhưng chẳng có cách nào khác đâu. Những người còn sống sót sau cuộc thảm sát ở Khác-tum đều phải nhận tôn giáo của Ma-hơ-đi. Chỉ có mấy vị cố đạo Thiên Chúa đi truyền giáo và mấy nữ tu sĩ là không thuận, nhưng đó lại là chuyện khác. Kinh Co-ran ngăn cấm việc giết các tu sĩ, nên mặc dù số phận của họ thật là khủng khiếp, nhưng ít ra họ cũng không bị cá i chết đe doạ. Ngược lại, đối với người thường thì không có cách nào thoát chết cả. Ta nhắc lại cho cháu rõ là tất cả mọi người đều cải đạo sang đạo Hồi, cả người Đức, người Italia, người Cóp-tơ, người Anh, người Hy Lạp, cả ta cũng...

Nói đến đây, dù Xtas đã nói chắc với ông ta rằng trong đám người không có ai biết tiếng Anh, song ông ta cũng tự nhiên hạ thấp giọng:

- Có lẽ ta không cần phải nói với cháu rằng đó không phải là một sự cải đạo, một sự phản bội, hay một tội lỗi nào cả. Trong tâm hồn của mỗi người, họ vẫn là người cũ, Chúa thấy hết... Cần phải nhẫn nhục trước bạo lực, dù chỉ là sự nhẫn nhục hình thức... Bổn phận của con người là phải bảo vệ cuộc sống, và sẽ là điều điên rồ, thậm chí sẽ là tội ác, nếu làm cho nó bị đe doạ. Mà để làm gì kia chứ?Để làm một chuyện hình thức, vì có mấy lời mà cháu có thể chửi thầm trong bụng ngay khi ấy? Cháu hãy nhớ rằng, cháu đang nắm trong tay không phải chỉ sinh mạng của bản thân cháu mà thôi, mà còn cả mạng sống của cô bạn bé bỏng của cháu đây nữa, mạng sống mà cháu không có quyền tự do định đoạt. Dĩ nhiên là thế!... Ta có thể nói chắc chắn với cháu rằng, nếu như có khi nào đó Chúa giải thoát cho cháu ra khỏi bàn tay những kẻ này, thì cháu sẽ không có điều gì phải hối hận đối với mình, mà cũng không một ai chúng ta trách cứ gì cháu, cũng như trách cứ tất cả chúng ta.

Nói thế, ông lão người Hy Lạp có thể là đang tự lừa dối lương tâm mình, nhưng sự im lặng của Xtas cũng đánh lừ a ông lão, vì ông lại ngỡ rằng em đang hoảng sợ. Ông lão bèn quyết định cổ vũ cho cậu bé thêm vững lòng.

- Nhà của Ma-hơ-đi đây rồi. - ông nói. - Người thà sống trong những túp nhà gỗ như thế này ở Om-đu-a-man còn hơn là sống ở Khác-tum, mặc dù tại đó Người có thể chiếm toà lâu đài của Goóc-đôn. Nào, can đảm lên cháu! Chớ có sợ. Hãy trả lời các câu hỏi thật cặn kẽ. Ở đây, người ta rất trọng sự can trường.

Cũng chớ nghĩ rằng Ma-hơ-đi sẽ gầm lên như sư tử đối với cháu.

Không đâu. Người luôn luôn mỉm cười, thậm chí ngay cả khi Người đang nghĩ đến chuyện chẳng tốt lành chút nào.

Nói xong, ông bắt đầu bảo đám người đứng tụ tập trước nhà hãy tránh ra nhường đường cho“khách” của Đấng tiên tri.

--- ------ ---------.

1 Cây mọc ở vùng nhiệt đới châu Phi, hiện được trồng chủ yếu ở Ấn Độ, làm nguyên liệu sản xuất gia vị và làm nước ngọt, đồng thời cho gỗ tốt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------

Khi họ bước vào nhà, Ma-hơ-đi đang nằm trên một chiếc đi văng mềm giữa đám vợ của y, trong số đó hai người đang phe phẩy những chiếc quạt lông đà điểu to tướng để quạt cho y, còn hai người khác đang khe khẽ gãi gãi gan bàn chân y. Ngoài đám vợ y, chỉ có mặt thêm hai viên thống lĩnh là Áp-đu-la-hi và Sê-rip, vì vị thống lĩnh thứ ba là A-li U-led He-lu đang dẫn quân lên phía Bắc, đến xứ Béc-be-rơ và A-bu Ham-mét, những xứ sở trước đó đã bị quân khởi nghĩa chiếm được. Nhìn thấy những người vào, tiên tri đẩy đám vợ ra, ngồi dậy trên đi văng. I-đrix, Ghe-bơ-rơ và hai tên Bê-đu-in rạp mặt xuống đất, rồi tiếp đó cứ quỳ mọp, hai tay bắt chéo trước ngực. Ông lão Hy Lạp gật đầu với Xtas ra hiệu cho em cũng làm như thế, nhưng cậu bé giả vờ không thấy, chỉ hơi khom mình và rồi vẫn đứng thẳng người. Mặt em tái đi, nhưng mắt sáng long lanh, từ toàn bộ dáng người, từ cái ngẩng cao kiên nghị và từ đôi môi mím chặt dễ dàng nhận thấy rằng trong người em đã có một cái gì đó vượt cao lên, rằng sự do dự và lo sợ đã qua đi rồi, rằng em đã có một quyết định không khoan nhượng, không gì trên đời này có thể khiến em thay đổi quyết định đó nữa. Rõ ràng ông lão người Hy Lạp cũng nhận thấy điều đó, vì trên nét mặt ông hiện ra một nỗi lo lắng rõ rệt. Ma-hơ-đi nhìn lướt qua hai đứa bé, khuôn mặt béo nứt ánh lên nét cười thường có, rồi quay sang phía I-đrix và Ghe-bơ-rơ.

- Các người từ phương Bắc xa xôi tới đây? - Y nói. I-đrix đập trán xuống đất.

- Bẩm vâng, thưa Ma-hơ-đi. Chúng con thuộc về bộ tộc Đan-gan, nên chúng con đã rời bỏ nhà cửa ở Phai-um để được đến quỳ dưới gót chân đầy ân phước của Người.

- Ta đã trông thấy các người đi trong sa mạc. Con đường ấy thật là khủng khiếp, nhưng ta đã phái một thiên sứ tới để cảnh giới cho các người và bảo vệ cho các người tránh khỏi cái chết từ tay những kẻ vô đạo. Các người không nhìn thấy thiên sứ đâu, nhưng chính thiên sứ đã che chở cho các người đó.

- Xin đa tạ Người, thưa Người - chuộc - tội.

- Và các người đã mang tới cho Xmai-nơ những đứa trẻ này để ông ta đổi lấy bọn trẻ con của ông ta, những đứa trẻ mà bọn Thổ đang giam giữ cùng cô Phát-ma ở Port Xai-đơ?

- Chúng con chỉ muốn được phụng sự Người thôi.

- Ai phụng sự ta cũng là phụng sự cho sự cứu rỗi của chính mình, nghĩa là các ngươi đã tự mở đường lên thiên đường đấy.

Phát-ma là người có họ với ta... Nhưng ta bảo thật cho các ngươi rõ, khi nào ta chiếm được toàn bộ Ai Cập, thì khi đó cô ta cùng với con cái của cô ta cũng sẽ được tự do thôi mà.

- Vậy xin Người hãy xử với bọn trẻ này theo ý người, thưa Đấng được ban phước thánh...

Ma-hơ-đi khép hai mi mắt lại, sau đó lại mở ra, mỉm cười thân thiện và gật đầu ra hiệu cho Xtas.

- Hãy lại gần đây, cháu bé.

Xtas tiến lên vài bước đầy cương nghị, như những bước đi đều của một người lính, cúi chào lần thứ hai, rồi bật thẳng dậy như một sợi dây đàn và nhìn thẳng vào mắt Ma-hơ-đi chờ đợi.

- Các cháu có sung sướng là đã được đến với ta chăng? - Ma-hơ-đi hỏi.

- Không, thưa tiên tri. Chúng tôi đã bị bắt cóc khỏi tay cha chúng tôi, dù hoàn toàn không muốn chút nào.

Lời đáp thẳng thắn này đã gây ấn tượng, cả cho viên thủ lĩnh vốn quen với sự nịnh nọt, lẫn cho những người có mặt tại đấy.

Thống lĩnh Áp-đu-la-hi nhíu mày. Ông lão Hy Lạp nhay nhay ria mép và bắt đầu bẻ đốt ngón tay, riêng Ma-hơ-đi vẫn không thôi cười mỉm.

- Thế nhưng, - y nói, - các cháu đang được ở nơi ngọn nguồn chân lí. Cháu có muốn uống nước từ ngọn nguồn ấy chăng?

Một giây im lặng, Ma-hơ-đi cho rằng cậu bé không hiểu câu hỏi bèn lặp lại rõ ràng hơn:

- Cháu có muốn tiếp thu khoa học của ta chăng?

Nghe thấy thế, cánh tay Xtas đang đặt trước ngực chợt phác lên một dấu thánh như một người từ trên một con tàu đắm sắp sửa nhảy xuống nước vậy.

- Thưa tiên tri, - em đáp, - tôi không biết thứ khoa học của Người, nên nếu tôi có thừa nhận nó thì chẳng qua cũng chỉ là sợ hãi, như một thằng hèn, như một người tồi tệ mà thôi. Liệu Người có muốn những kẻ hèn nhát và đểu cáng thu nhận học thuyết của Người?

Trong khi nó i thế, em vẫn nhìn thẳng vào mắt Ma-hơ-đi. Im lặng đến nỗi nghe rõ tiếng vo ve của đàn ruồi. Đồng thời cũng diễn ra một việc khác thường. Đó là việc Ma-hơ-đi bối rối và không tìm được ngay câu trả lời. Nụ cười biến mất trên khuôn mặt đang lộ rõ vẻ lúng túng và khó chịu. Y đưa tay với lấy quả bầu đựng nước pha mật để uống nhưng rõ ràng chỉ là để có thêm thời gian và che giấu bớt sự bối rối của mình.

Còn cậu bé dũng cảm thuộc dòng dõi những người từng bảo vệ đạo Thiên chúa, giọt máu trung thành của những người chiến thắng ở Khốc-him và thành Viên(1) thì cứ đứng nguyên đấy với cái đầu ngẩng cao chờ lời tuyên án. Gò má gầy gò bị rám bởi những cơn lốc cát sa mạc dậy lên màu hồng, mắt sáng long lanh, toàn thân run lên những cơn rùng mình nhiệt thành. “Đó - em nhủ thầm - dù những người khác có thừa nhận học thuyết của y, nhưng ta, ta sẽ không chịu từ bỏ lòng tin và linh hồn”. Và nỗi lo sợ vì những điều có thể và sẽ phải nổ ra giờ đây ẩn sâu vào tim em, chỉ có niềm sung sướng và tự hào tràn ngập trong lòng.

Ma-hơ-đi đặt quả bầu xuống và hỏi:

- Nghĩa là người từ chối học thuyết của ta?

- Tôi là tín đồ Thiên Chúa như cha tôi... - Kẻ nào bịt tai không nghe tiếng nói của Thượng đế, - Ma-hơ-đi nói thong thả bằng giọng nói khác hẳn đi, - kẻ đó chỉ là củi đốt mà thôi.

Nghe thấy thế, thống lĩnh Áp-đu-la-hi, kẻ nổi tiếng vì sự dã man và hà khắc, liền nhe bộ răng trắng nhởn như một con thú dữ, cất tiếng:

- Lời nói của thằng bé này thật là ngỗ ngược, xin Người hãy trừng phạt nó, hoặc hãy cho phép tôi được trị tội.

“Bắt đầu rồi đây!” - Xtas nghĩ thầm.

Song Ma-hơ-đi vốn lúc nào cũng muốn cho niềm vinh quang về lòng từ tâm của y được truyền tụng không những chỉ trong số các tín đồ đạo Hồi mà lan ra toàn thế giới, nên y nghĩ rằng, một hình phạt quá hà khắc đối với một đứa trẻ có thể sẽ làm tổn hại đến thanh danh y.

Y lần tràng hạt một hồi lâu và suy nghĩ, rồi nói:

- Không! Những đứa trẻ này bị bắt để mang tới cho Xmai-nơ, nên mặc dù ta không bao giờ thương lượng gì với bọn vô đạo, cần phải gửi chúng tới chỗ Xmai-nơ. Đó là ý muốn của ta.

- Sẽ làm theo ý muốn của Người! - Viên thống lĩnh đáp.

Ma-hơ-đi trở tay chỉ I-đrix, Ghe-bơ-rơ và bọn Bê-đu-in.

- Hỡi Áp-đu-la-hi, ngươi hãy nhân danh ta thưởng cho những người này vì họ đã vượt qua một quãng đường dài và nguy hiểm để phụng sự ta và Thượng đế.

Rồi y gật đầu ra hiệu rằng buổi tiếp đã kết thúc, đồng thời ra lệnh cho ông lão Hy Lạp cũng ra về luôn. Khi đã ra đến chỗ tối trên bãi cầu nguyện, ông lão liền túm lấy tay Xtas lắc lấy lắc để vì tức giận và tuyệt vọng.

- Đồ khốn nạn! Mày đã giết chết đứa trẻ vô tội này rồi! - Ông vừa nói vừa chỉ Nen. - Mày đã giết cả mày và có thể cả tao nữa đấy!

- Cháu không thể làm khác được. - Xtas đáp.

- Mày không thể! Mày hãy nhớ rằng hai đứa chúng mày sẽ bị đày ải tiếp trên một chặng đường thứ hai còn trăm lần tồi tệ hơn chặng đường vừa rồi. Đó là chết - mày hiểu chưa? Ở Pha-sô-đa, chỉ trong vòng một tuần, bệnh sốt rét sẽ giết chúng mày. Ma-hơ-đi biết rõ điều đó, vì thế ông ta gửi chúng mày tới chỗ Xmai-nơ.

- Ở Om-đu-a-man thì rồi chúng cháu cũng chết.

- Không đúng! Chúng mày sẽ không chết trong nhà Ma-hơ-đi, trong no đủ và tiện nghi đâu! Ông ta đã sẵn sàng đón nhận chúng mày vào che chở dưới cánh. Tao biết là ông ta đã sẵn sàng. Thế là mày đã trả ơn tao hậu hĩnh vì chính tao đã bệnh vực chúng mày.

Thôi, chúng mày muốn làm thế nào thì làm. Một tuần nữa Áp-đu-la-hi sẽ gửi một chuyến bưu điện bằng lạc đà đến Pha-sô-đa, trong tuần tới chúng mày muốn làm gì tuỳ thích. Chúng mày sẽ không thấy mặt ta nữa đâu!...

Nói xong ông bỏ đi ngay, nhưng chỉ lát sau ông đã quay trở lại. Như mọi người Hy Lạp khác, ông vốn lắm lời, và phải nói cho thoả. Ông lão muốn trút hết cơn giận đang bừng bừng trong người lên đầu Xtas. Ông không phải là người tàn bạo và không có một tim hung dữ, tuy vậy ông muốn cậu bé phải thấm thía hơn nữa cái trách nhiệm kinh khủng mà cậu bé buộc vào cho mình khi không chịu nghe lời khuyên cùng những lời ngăn đe của ông.

- Ai cấm mày là người Thiên Chúa trong lòng, hả?

- Ông nói. - Mày nghĩ là tao không theo đạo chăng? Nhưng tao không phải là thằng ngốc. Còn mày, mày muốn phô phang cái anh hùng rơm củ a mày kia. Từ trước tới nay tao đã giúp được cho tù binh da trắng bao nhiêu việc, còn từ giờ tao không còn có thể giúp họ được nữa, vì Ma-hơ-đi đã giận tao rồi. Tất cả sẽ chết hết! Cả cô bạn tù nhỏ bé của mày cũng vậy thôi.Chính mày đã giết chết con bé. Ở Pha-sô-đa cả đến người lớn cũng chết vì sốt rét như ruồi nữa là trẻ con. Còn nếu như chúng nó bắt bọn mày phải đi bộ theo sau ngựa và lạc đà, thì con bé sẽ gục ngay trong ngày đầu tiên.

Chính mày gây ra chuyện đó. Mày hãy vui sướng đi, cái đồ... Thiên Chúa giáo này!

Rồi ông bỏ đi, còn họ thì rẽ khỏi bãi cầu nguyện, qua những phố tối tăm, trở về lều. Họ đi rất lâu, vì thành phố trải dài trên một phạm vi khổng lồ. Mệt mỏi vì cố sức, vì đói, vì sợ và vì những ấn tượng kinh khủng suốt cả một ngày trời, chốc chốc Nen lại phải dừng chân. I-đrix và Ghe-bơ-rơ thúc cô bé đi nhanh hơn. Song chỉ một lát sau, chân cô bé hoàn toàn mềm nhũn. Xtas bèn bồng cô bé lên tay không chút ngần ngừ và mang đi. Dọc đường, em muốn nói với Nen, muốn thanh minh trước cô bé rằng em không thể hành động khác đi, nhưng những ý nghĩ cứ chết cứng lại trong đầu óc em, khiến em chỉ lặp đi lặp lại: “Nen! Nen! Nen!”, và siết chặt cô bé vào mình, không thể nói được gì hơn nữa. Sau vài chục bước chân, Nen đã ngủ thiếp đi vì kiệt sức trên tay em, thế là em im lặng bước đi trong sự tĩnh mịch của những phố hẻm đang ngủ yên, sự tĩnh mịch chỉ bị gián đoạn bởi câu chuyện giữa I-đrix và Ghe-bơ-rơ.

Trong tim bọn chúng tràn ngập niềm sung sướng, đó là điều may mắn cho cả Xtas, vì nếu không bọn chúng có thể sẽ trị em về tội dám đối đáp ngỗ ngược với Ma-hơ-đi. Song chúng đang bận tâm về những điều vừa được hưởng nên không thể nghĩ chuyện gì khác.

- Trước, anh cảm thấy ốm đến nơi rồi, - I-đrix nói,-nhưng được nhìn thấy Đức tiên tri anh đã khỏi bệnh hoàn toàn.

- Người giống như cây cọ trên sa mạc, như dòng nước mát lành giữa ngày nóng nực, lời của Người giống như những quả chà là chín mọng vậy. -Ghe-bơ-rơ đáp.

- Gã Nu-rơ En Ta-thin nói dối khi bảo rằng Người không cho chúng mình vào gặp. Người đã cho vào,đã ban phước lại còn ra lệnh cho ngài Áp-đu-la-hi phải ban thưởng cho chúng ta nữa chứ.

- Ngài thống lĩnh sẽ thưởng cho chúng ta rất hậu, vì ý muốn của Ma-hơ-đi là thiêng liêng.

- Tuyệt quá! Mong sao được đúng như lời ông nói, - một trong hai tên Bê-đu-in lên tiếng.

Và Ghe-bơ-rơ bắt đầu mơ tưởng đến hàng đàn lạc đà, súc vật có sừng, hàng đàn ngựa và hàng túi hàng túi ních đầy những đồng piaxt.

Gã I-đrix chợt khiến hắn tỉnh cơn mơ màng ấy khi cất tiếng hỏi và chỉ Xtas đang bế Nen đang ngủ say:

- Ta làm gì với con ruồi trâu và ruồi nhóc này hả?

- Ha! Ngài Xmai-nơ sẽ phải thưởng riêng cho chúng ta về chúng nó đấy!

- Khi mà đấng tiên tri đã nói rằng người không cho phép bất cứ một cuộc thương thuyết đổi chác nào với bọn vô đạo, thì Xmai-nơ chẳng dính dáng gì với chúng nó nữa đâu.

- Thế thì tôi thật tiếc là chúng nó không rơi vào tay ngài thống lĩnh, hẳn ngài ấy sẽ dạy cho thằng chó con kia biết thế nào là cất tiếng sủa chống lại chân lí và con người mà Thượng đế đã lựa chọn.

- Ma-hơ-đi rất nhân từ. - I-đrix đáp.Hắn cân nhắc một lúc lâu rồi nói:

- Dù sao, khi có hai đứa trong tay, thì ngài Xmai-nơ sẽ có thể chắc chắn rằng cả bọn Thổ lẫn bọn Anh đều không thể giết con ngài và bà Phát-ma.

- Thế nghĩa là có thể ông ta sẽ thưởng công cho chúng ta?

- Phải. Cứ để cho chuyến bưu điện của ngài Áp-đu-la-hi mang chúng nó đến Pha-sô-đa. Chúng ta càng thêm nhẹ gánh. Khi nào ngài Xmai-nơ quay trở lại đây, ta sẽ nhắc ngài về chuyện tiền nong sau.

- Anh nói thế có nghĩa là chúng ta sẽ ở lại Om-đu-a-man?

- Lạy đức A-la! Mày chưa ngán quãng đường từ Phai-um tới Khác-tum hay sao? Đến lúc chúng ta phải nghỉ ngơi rồi.

Đám lều trại không còn xa nữa. Tuy nhiên, Xtas cũng đã phải chậm bước chân, vì sức em cũng đã bắt đầu kiệt. Mặc dù Nen vốn nhẹ, nhưng mỗi lúc một thêm nặng trên tay em. Bọn Xu-đan, muốn nhanh được ngủ, bèn quát mắng em và bắt đầu đấm vào đầu em. Thậm chí gã Ghe-bơ-rơ còn dùng dao thích vào bả vai em đau điếng. Cậu bé chịu đựng tất cả những cái đó trong im lặng, chỉ cố tìm cách che cho cô em bé bỏng của mình, mãi cho tới khi một trong hai tên Bê-đu-in đẩy em mạnh đến suýt ngã em mới thốt lên với bọn chúng qua hai hàm răng nghiến chặt:

- Chúng tôi còn phải sống đến được Pha-sô-đa nữa đấy.

Những lời ấy khiến bọn Ả Rập dừng tay, vì chúng e sẽ phạm lệnh Ma-hơ-đi. Song điều khiến chúng phải ngừng những hành động ấy lại là vì I-đrix bỗng nhiên bị chóng mặt dữ dội, đến nỗi hắn phải tựa vào vai Ghe-bơ-rơ. Lát sau, cơn chóng mặt qua đi, nhưng tên Xu-đan hoảng hốt và nói:

- Lạy đức A-la! Có chuyện không hay xảy ra với tôi rồi. Có thể tôi bị nhiễm bệnh rồi chăng?

- Anh đã được gặp Ma-hơ-đi, anh không thể nào ốm được. - Ghe-bơ-rơ đáp.

Cuối cùng bọn chúng cũng về tới khu lều. Với chút sức cuối cùng, Xtas đưa Nen đang say ngủ vào tay bà Đi-na. Mặc dù cũng không được khoẻ lắm song bà cũng đã sửa soạn cho cô chủ của mình một chỗ nằm êm ái. Bọn Xu-đan và Bê-đu-in nuốt vội mỗi tên vài rẻo thịt tươi rồi lăn ngay ra chỗ nằm như những súc gỗ. Chúng không cho Xtas chút gì để ăn cả, chỉ có bà Đi-na dúi vào tay em một vốc ngô ngâm mà bà đã lấy bớt của lũ lạc đà. Song cậu bé chẳng còn lòng nào nghĩ đến chuyện ăn và ngủ cả.

Bởi lẽ, gánh nặng đang đè trên vai em thật quá nặng nề. Em cảm thấy rằng, khi từ chối thẳng thừng ân huệ của Ma-hơ-đi, cái ân huệ phả i đánh đổi bằng việc từ bỏ tín ngưỡng và linh hồn, em đã hành động đúng đắn; em cảm thấy rằng giá cha em biết, ông sẽ có thể tự hào và sung sướng vì hành động của em, song đồng thời em nghĩ rằng chính em đã kết liễu đời Nen, người bạn trong cảnh nô lệ, người em gái nhỏ thân thương, người mà em sẵn sàng hiến dâng cho đến giọt máu cuối cùng.

Vậy nên, khi tất cả mọi người đã ngủ say, em oà lên khóc nức nở, và nằm lăn trên một tấm nệm, em khóc rất lâu như một đứa trẻ, mà quả thật em cũng hãy còn là một đứa trẻ kia mà.

--- ------ ------ ---.

1 Khốc-him hiện nay là một thành phố ở U-crai-na, trước đây thuộc Ba Lan. Tại đó, năm 1621 quân Cô-dắc và Ba Lan, dưới sự chỉ huy của J. K. Khốt-ki-ê-vích đã mấy lần thắng quân Thổ đông hơn gấp bội, cũng tại đó, năm 1673, vua Ba Lan J.Xê-bi-e-xki cũng đã đánh tan quân Thổ. Năm 1683, quân đội liên minh của Ba Lan và các nước đồng minh đã giải vây cho thành Viên, đánh tan quân Thổ (N.D).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------

Cuộc bệ kiến Ma-hơ-đi và việc trò chuyện với y rõ ràng đã không khiến cho I-đrix khoẻ hơn lên chút nào, đến đêm, hắn bị ốm nặng thêm, và đến sáng thì đã bất tỉnh. Kha-mix, Ghe-bơ-rơ và hai tên Bê-đu-in được gọi đến chỗ viên thống lĩnh, tên này giữ chúng lại đó vài tiếng đồng hồ, ca ngợi lòng can đảm của chúng. Nhưng khi trở về, chúng lại rất bực bội và tức giận, vì chúng từng tưởng tượng đến những phần thưởng lớn lao khôn cùng, thế mà Áp-đu-la-hi chỉ thí cho mỗi tên một đồng bảng Ai Cập và một con ngựa mà thôi.

Bọn Bê-đu-in bắt đầu vặc nhau với Ghe-bơ-rơ, suýt nữa thì nện nhau với hắn, và cuối cùng, chúng tuyên bố rằng, chúng sẽ đi cùng với chuyến bưu điện bằng lạc đà tới Pha-sô-đa để đòi Xmai-nơ phải trả tiền. Kha-mix cũng nhập bọn với chúng, tên này hi vọng rằng sự che chở của Xmai-nơ sẽ mang lại cho hắn nhiều lợi ích hơn là việc ở lại Om-đu-a-man.

Đối với bọn trẻ, bắt đầu diễn ra một tuần lễ đói khổ, vì Ghe-bơ-rơ không hề nghĩ đến chuyện nuôi chúng ăn. May mắn là Xtas còn có được hai đồng ta-le có in hình Maria Tê-rê-xa mà em nhận được từ ông cụ người Hy Lạp, em bèn vào phố mua chà là và gạo. Bọn Xu-đan không phản đối gì cuộc đi này vì chúng biết rõ rằng em không thể nào trốn thoát khỏi Om-đu-a-man, và dù sao đi nữa, em cũng không bao giờ rời bỏ cô bé. Tuy nhiên chuyến đi không tránh khỏi những chuyện phiền toái, vì chỉ cần trông thấy một thằng bé mặc áo quần kiểu Âu mua thực phẩm ở chợ là hàng đoàn các tín đồ Hồi giáo nửa phần hoang dã đã kéo tới nghênh tiếp bằng những tràng tiếng cười và hú hét. May thay, nhiều kẻ đã trông thấy em ở chỗ Ma-hơ-đi hôm qua, bọn này bèn ngăn những kẻ định “ra tay” đối với em lại. Chỉ có lũ trẻ con ném cát và đá vào người em, nhưng em không thèm để ý gì tới chuyện ấy cả.

Giá cả ở chợ cao vô cùng. Xtas hoàn toàn không thể mua nổi chà là, còn phần lớn gạo mua được lại bị Ghe-bơ-rơ tước mất, “để dùng cho anh hắn đang ốm”. Cậu bé bèn dùng hết sức chống lại việc cướp đoạt ấy, khiến cho mọi sự kết thúc ở chuyện giằng co và đánh nhau, trong đó kẻ yếu hơn dĩ nhiên phải nhận hàng lô những vết thâm tím và u bướu trên mình. Trong chuyện đó cũng thể hiện rõ sự dã man của Kha-mix. Hắn chỉ gắn bó với con chó Xa-ba và nuôi nó bằng thịt tươi. Ngược lại, đối với bọn trẻ đang đói khổ mà hắn đã quen biết từ lâu, những đứa trẻ đối với hắn bao giờ cũng tốt bụng, thì hắn lại tỏ ra hoàn toàn dửng dưng, và khi Xtas xin hắn ít nhất cũng hãy chia cho Nen chút ít thức ăn, hắn vừa cười mỉa vừa đáp:

- Đi mà ăn mày.

Và cuối cùng, trong mấy ngày sau đó, muốn cứu Nen khỏi chết đói, Xtas đành phải đi ăn xin.(oa! đọc đoạn này ta thật xúc động :cry:) Chuyện đó không phải bao giờ cũng không mang lại kết quả. Thỉnh thoảng một cựu sĩ quan hoặc binh sĩ của phó vương Ai Cập đưa cho em vài đồng piaxt hoặc vài quả chà là khô và hứa hôm sau nữa sẽ giúp thêm. Một lần em gặp được một nhà truyền giáo và cô phước. Nghe em kể chuyện họ than khóc cho số phận của hai đứa, và mặc dù bản thân cũng bị cái đói khiến cho mòn mỏi, họ vẫn chia xẻ với em tất cả những gì họ có. Họ còn hứa sẽ đến thăm hai đứa ở lều, và quả thực hôm sau họ đến với hi vọng là có thể mang được bọn trẻ về nhà cho đến khi chuyến bưu điện lên đường. Nhưng Ghe-bơ-rơ và Kha-mix dùng roi ngựa đuổi họ đi. Song hôm sau, Xtas lại được gặp họ và được họ cho một bơ gạo cùng hai viên thuốc kí ninh mà vị cố đạo dặn em phải giữ thật cẩn thận vì thấy trước rằng, chắc chắn bệnh sốt rét đang chờ hai đứa trẻ tại Pha-sô-đa.

- Bây giờ các con sẽ phải đi dọc theo những vùng ngập nước sông Nin, - ông nói, - nghĩa là dọc theo các xu-đa như người ta hay gọi. Dòng sông không thể chảy tự do vì bị chắn bởi những cái đập chắn tự nhiên gồm cỏ rều và lá cây rụng hợp lại, những thứ này trôi theo dòng nước và đọng lại tại những chỗ nông, tạo nên ở đó những vùng lầy rộng lớn đầy bệnh tật, những nơi mà bệnh sốt rét không tha ngay cả những người da đen. Các con hãy chú ý chớ có ngủ đêm không đốt lửa trên đất trần nhé.

- Chúng con đang muốn được chết đây, thưa cha.

- Xtas đáp lại như rên rỉ.

Nghe thấy thế, vị cố đạo bèn ngước khuôn mặt gầy gò của mình lên cầu nguyện một lúc, sau đó từ biệt cậu bé và bảo:

- Con hãy tin ở nơi Chúa. Con đã không chối Chúa, thì ân phước và sự che chở của Chúa sẽ ở bên con.

Xtas không những chỉ đi ăn mày mà còn cố tìm việc làm thuê nữa. Một hôm, nhìn thấy một đám người đang làm việc trên bãi cầu nguyện, em bèn nhập bọn và cũng bắt đầu vác đất sét đắp hàng rào vây quanh bãi. Người ta cười mỉa em, xô đẩy em, song đến cuối buổi chiều, viên tù trưởng già coi sóc công việc cũ ng phát cho em mười hai quả chà là. Xtas vô cùng sung sướng với phần trả công này, vì ngoài gạo, chà là là thứ thức ăn duy nhất rất bổ cho Nen, mà ở Om-đu-a-man ngày càng khó kiếm.

Vì thế em rất tự hào mang chà là về cho cô em gái nhỏ, em đưa cho cô bé tất cả những gì em kiếm được, còn chính em thì chỉ sống cầm hơi suốt tuần nay bằng số ngô lấy trộm bớt của lũ lạc đà mà thôi. Nhìn thấy những quả cây ưa thích, Nen sung sướng vô cùng, nhưng cô bé muốn cả Xtas cũng cùng ăn. Thế là đứng nhón trên đầu ngón chân, đặt tay lên vai Xtas, cô bé ngẩng đầu nhìn vào mắt Xtas và yêu cầu:

- Anh Xtas, ăn một nửa đi anh, ăn đi anh! Còn cậu bé thì bảo:

- Anh ăn rồi, anh ăn rồi! Ôi, anh no lắm rồi đây này!

Và em mỉm cười, nhưng ngay lập tức vội cắn chặt môi để khỏi phải oà lên khóc, vì quả tình em đang đói thắt ruột. Em tự nhủ là hôm sau sẽ lại đi kiếm việc. Song mọi sự đã xảy ra cách khác. Sáng sớm hôm sau, một viên mu-la-dem được Áp-đu-la-hi phái đến báo rằng, đến đêm chuyến bưu điện bằng lạc đà sẽ khởi hành đi Pha-sô-đa, và theo lệnh của viên thống lĩnh, cả I-đrix, Ghe-bơ-rơ và Kha-mix cùng với hai tên Bê-đu-in phải chuẩn bị để lên đường ngay cùng với bọn trẻ. Mệnh lệnh này khiến cho Ghe-bơ-rơ ngạc nhiên và phẫn nộ, hắn bèn tuyên bố rằng hắn sẽ không đi, vì anh hắn đang ốm không người trông nom, mà nếu anh hắn có khoẻ đi chăng nữa thì cả hai anh em cũng cứ ở lại Om-đu-a-man như thường.

Viên mu-la-dem liền trả lời:

- Ma-hơ-đi chỉ có một ý muốn, và ngài Áp-đu-la-hi, vị thống lĩnh của Người, ông chủ của ta, không bao giờ thay đổi mệnh lệnh đã ban. Một tên nô lệ sẽ coi sóc anh ngươi, còn ngươi phải đi Pha-sô-đa ngay.

- Vậy thì tôi sẽ đến thưa với ngài rằng tôi không đi đâu cả.

- Chỉ có những kẻ mà chính ngài thống lĩnh muốn gặp là được vào chỗ ngài thôi. Nếu như nhà ngươi cố tình xông vào chỗ ngài khi không được phép thì người ta sẽ điệu nhà ngươi ra, và đưa tới thẳng giá treo cổ đấy.

- Lạy đức A-la! Thế thì anh cứ nói trắng ra rằng tôi là một thằng nô lệ cho xong chuyện.

- Câm đi và hãy tuân lệnh! - Viên mu-la-dem đáp.

Tên Xu-đan đã nhìn thấy ở Om-đu-a-man những giá treo cổ oằn xuống dưới sức nặng của những xác người treo, và ngày ngày, theo lệnh của tên Áp-đu-la-hi tàn ác; giá treo cổ lại được thay bằng những thây người mới, nên hắn hoảng sợ. Điều mà viên mu-la-dem nói với hắn, rằng Ma-hơ-đi chỉ có một ý muốn, còn Áp-đu-la-hi chỉ ra lệnh có một lần, được các tín đồ Hồi giáo truyền khẩu cho nhau. Không có cách nào khác là phải đi thôi.

“Mình sẽ không còn được gặp lại anh I-đrix nữa đâu!” - Ghe-bơ-rơ nghĩ thầm. Và trong trái tim lang sói của hắn vẫn còn tiềm ẩn một sự gắn bó nào đó với người anh ruột, bởi cái ý nghĩ sẽ phải bỏ anh đang bệnh hoạn khiến hắn đau lòng. Mặc dù Kha-mix và bọn Bê-đu-in cố sức thuyết phục hắn rằng ở Pha-sô-đa có thể sẽ tốt hơn ở Om-đu-a-man, và rằng Xmai-nơ có thể sẽ thưởng công chúng hậu hĩnh hơn là viên thống lĩnh, song chỉ vô ích. Không có lời nào có thể làm dịu bớt nỗi uất ức và cơn giận dữ của Ghe-bơ-rơ, cơn giận đó lại đổ phần lớn xuống đầu Xtas.

Quả thực đó là một ngày khổ hạnh đối với cậu bé. Em không được phép đi ra chợ, nên không thể kiếm được hoặc xin được gì cả, mà phải lao động cật lực như một tên nô lệ để chất buộc vào gùi hàng mà người ta chuẩn bị đi đường. Công việc này đối với em càng khó khăn hơn, bởi em đã bị yếu sức đi nhiều vì đói và mệt.

Em chắc rằng dọc đường em sẽ chết, nếu không phải chết dưới làn roi ngựa của Ghe-bơ-rơ thì cũng vì quá kiệt sức.

May thay, ông lão người Hy Lạp, vốn có trái tim nhân hậu, chiều hôm đó đã đến thăm và từ biệt bọn trẻ, đồng thời cung cấp cho chúng chút gì đó để đi đường. Ông còn mang đến cho chúng vài viên kí ninh, một ít chuỗi hạt cườm bằng thuỷ tinh và chút lương thực. Tuy nhiên điều quan trọng nhất, sau khi được biết về bệnh tình của Iđrix, ông nói với Ghe-bơ-rơ, Kha-mix và hai tên Bê-đu-in:

- Các ngươi hẳn biết là ta đến đây theo lệnh của Ma-hơ-đi. - Ông bảo chúng.

Nghe thấy thế chúng liền rập trán xuống đất, ông bèn nói tiếp:

- Dọc đường, các ngươi phải cho bọn trẻ con ăn uống và đối xử với chúng thật tử tế. Bọn chúng sẽ báo cáo lại cho ngài Xmai-nơ rõ cách đối xử của các ngươi, sau đó ngài Xmai-nơ sẽ viết cho Đấng tiên tri rõ về chuyện đó. Nếu như có lời phiền nào về các ngươi thì chuyến bưu điện sắp đến sẽ mang tới cho các ngươi bản án tử hình đấy, nghe chưa?

Một cái lạy nữa là câu trả lời duy nhất đáp lại lời ông, còn Ghe-bơ-rơ và Kha-mix có vẻ mặt như những con chó bị người ta tròng rọ bịt mõm vào vậy.

Ông lão Hy Lạp ra lệnh cho chúng đi, rồi nói bằng tiếng Anh với bọn trẻ:

- Ta bịa ra tất cả những chuyện đó, vì bản thân Ma-hơ-đi không ra thêm lệnh nào nữa đối với các cháu. Song vì y đã nói là các cháu phải đến Pha-sô-đa, nên cần phải làm sao cho các cháu sống được đến đấy. Ta cũng đồ rằng không tên nào trong bọn còn được gặp Ma-hơ-đi hay viên thống lĩnh trước khi lên đường nữa.

Rồi ông nói với Xtas:

- Ta đã và đang phật lòng về anh đấy, anh bạn trẻ ạ. Anh có biết là chút nữa thì anh giết cả ta không? Ma-hơ-đi giận lây sang cả ta, và để được y tha thứ, ta đã phải dâng cho Áp-đu-la-hi phần lớn tài sản của ta, ấy thế nhưng ta cũng vẫn chưa dám chắc liệu có cứu thân ta được lâu dài hay không nữa kia. Dù sao đi nữa, ta cũng không còn có thể cưu mang tù binh như ta đã làm được từ trước đến nay. Nhưng ta thương các cháu, nhất là (ông trỏ Nen) thương con bé... ta cũng có một đứa con gái vào tuổi như nó... mà ta yêu hơn cả mạng sống của bản thân... Vì nó, ta đã làm tất cả mọi chuyện như ta đã làm... Chúa Crix-tô sẽ phán xét ta về chuyện đó... Cho tới nay nó vẫn mang trên ngực, giấu dưới làn áo, một cái thánh giá bằng bạc... Nó cũng cùng tên với cháu đấy, cháu bé của bác ạ. Giá như không có nó, ta thà chết, hơn là phải sống trong một cái địa ngục như ở đây.

Và ông xúc động. Ông nín lặng một lúc lâu, rồi đưa tay lau trán, nói tiếp về chuyện khác.

- Ma-hơ-đi gửi các cháu tới Pha-sô-đa vì tin chắc rằng ở đó các cháu sẽ chết. Như vậy là ông ta có thể trả thù các cháu về sự bướng bỉnh của anh đấy, anh bạn trẻ ạ, sự bướng bỉnh đã xúc phạm sâu sắc tới ông ta. Đồng thời ông ta vẫn không bị mất đi quang vinh của một “đấng từ bi”. Ông ta bao giờ cũng thế... Nhưng ai mà biết được cái chết sẽ dành cho kẻ nào trước. Áp-đu-la-hi mớm cho ông ta cái ý định nên cử những con chó đã bắt cóc các cháu đi cùng với các cháu. Hắn đã thưởng công cho bọn chúng quá ít ỏi, giờ đây hắn lại sợ là chuyện đó lan rộng ra. Cả hắn ta lẫn tiên tri đều không muốn bọn người này sẽ loan tin rằng ở Ai Cập hãy còn nhiều quân, đại bác, tiền của và người Anh... Đường đi xa xôi và khó khăn lắm đấy. Các cháu sẽ đi qua một vùng đất không người và đầy sơn lam chướng khí, nên các cháu hãy gìn giữ những viên thuốc mà ta đưa cho như giữ gìn con người mắt vậy.

- Bác ơi, bác hãy ra lệnh thêm lần nữa cho Ghe-bơ-rơ để hắn không dám bỏ đói và đánh đập em Nen! - Xtas nói.

- Các cháu đừng lo. Bác đã gửi gắm các cháu cho một người tù trưởng già, người sẽ đi áp tải chuyến bưu điện này. Đó là một người quen cũ của bác. Bác đã cho ông ta một chiếc đồng hồ, nhờ đó đã cậy ông ta chăm sóc các cháu.

Nói xong, ông bắt đầu từ biệt. Bế xốc Nen lên tay, ông ghì chặt cô bé vào ngực và lặp đi lặp lại:

- Cầu Chúa ban phước lành cho con, con của ta...

Mặt trời đã lặn, đêm đã hiện lên đầy sao. Trong bóng đêm dậy lên tiếng ngựa thở rừ rừ và tiếng bước chân lạc đà thồ nặng hàng.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom