Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!

Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ

Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ

admin

Thánh Ngự Hư Không
Đại Thần
Tham gia
11/6/23
Bài viết
919,306
VNĐ
900,499
[Diendantruyen.Com] Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ

Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ
Tác giả: Uông Nhạ Nhạ
Tình trạng: Đã hoàn thành




Lâu ngày sống trong lồng son, con người cũng khó lòng giữ được bản tính tự nhiên.

Sau khi liên tục tăng ca suốt năm ngày, Uông Tễ được lãnh đạo trực tiếp là Amanda tìm gặp.

“Uông Tễ, chúng ta hiện tại giống như đang trên một chuyến tàu cao tốc. Hoặc anh nắm bắt cơ hội và nhảy lên tàu, hoặc sẽ bị bỏ lại phía sau, chỉ còn biết hít khói tàu mà thôi…”

Thế nhưng, kết quả kiểm tra sức khỏe gần đây lại không khả quan. Với trái tim đập không bình thường và cơ thể kiệt quệ. Uông Tễ cảm thấy bản thân chẳng khác nào một cục pin sắp cạn sạch năng lượng.

Tại khoảnh khắc ấy, anh quyết định chấp nhận việc trở thành “người bị bỏ lại phía sau” và trở về với núi rừng yên bình.

Ở nơi ấy, cuộc sống nhẹ nhàng mở ra với những niềm vui giản dị: Hoa tùng ủ rượu, nước xuân pha trà.

Phù Tô (công) x Uông Tễ (thụ)
 
Chương 1: Mì Vịt Hầm


Xuân đã qua từ lâu, nhưng cái lạnh cuối xuân bất chợt lại ùa về. So với chút hơi thở mong manh của mùa xuân, những cơn gió lạnh lẽo cùng nhiệt độ thấp khiến người ta cảm giác như mùa đông vẫn còn vương vấn.

Máy sưởi trong xe đang hoạt động. Uông Tễ dùng mu bàn tay áp lên khuôn mặt hơi nóng bừng, sau đó hé cửa sổ một khe nhỏ. Sáng nay vừa có trận mưa, không khí giờ đây ẩm ướt. Anh nhìn về phía dãy núi xa xa mờ ảo trong mây mù, cảm nhận tim mình đập nhanh hơn từng nhịp.

“Còn một hầm nữa thôi… Cuối cùng cũng về tới rồi.” Anh lẩm bẩm, những chữ cuối như hòa tan vào làn sương mờ mịt.

Tài xế tưởng anh đang nói chuyện, liền hồ hởi đáp: “Hầm này qua xong chạy thêm vài phút nữa là xuống cao tốc. Cậu muốn đi đâu? Nếu về thị trấn, tôi có thể chở thẳng về nhà luôn.”

Lời nói kéo Uông Tễ trở về thực tại. Anh lắc đầu cười nhẹ: “Không cần đâu, xuống cao tốc tìm chỗ nào tiện thì thả tôi xuống là được. Tôi không về thị trấn, tôi về Vân Lĩnh.”

“Ồ, vậy còn xa đấy! Cậu về thăm họ hàng à?” Tài xế liếc nhìn qua gương chiếu hậu, thấy người thanh niên ngồi sau có vẻ ngoài ấm áp, nho nhã.

“Ừ, về quê nhà.”

Nhưng không phải để thăm họ hàng, mà để về trồng trọt.

Khi vừa xuống khỏi cao tốc, Uông Dịch Dương đã đợi sẵn ở trạm xe buýt gần lối ra.

Thấy Uông Tễ kéo vali bước tới, bao lời trách móc anh không có nghĩa khí, tới thành phố lại không gọi mình ra đón như những người bạn thân đúng nghĩa chỉ kịp trôi qua đầu lưỡi. Nhưng cơ thể nhanh hơn lời nói, cậu ta vội bước tới ôm chầm lấy Uông Tễ.

“Cuối cùng cũng gặp lại nhau!” Cậu ta vỗ nhẹ vai Uông Tễ, giọng xúc động.

Uông Tễ cười, vỗ vai đáp lại. Hai người đã hơn một năm không gặp, lần gần nhất cũng chỉ là một buổi ăn vội chưa đầy hai mươi phút ở quán lẩu gần công ty Uông Tễ tại Thượng Hải.

Hôm ấy, trong khi Uông Dịch Dương đang cay xè với viên bò viên tự làm, phải đi lấy ngay hai bát thạch rau câu lạnh, thì Uông Tễ đã đặt đũa xuống để nhận một cuộc điện thoại công việc.

Cái ôm chân tình giữa hai người tại trạm xe buýt thu hút ánh nhìn tò mò của mọi người xung quanh. Trong ánh mắt dò xét của các cô chú lớn tuổi, Uông Dịch Dương nhanh chóng rụt tay lại: “Đi thôi, lên xe! Kiếm gì ăn sáng đã rồi về nhà.”

Huyện Nguyệt Lâm là một thị trấn nhỏ bốn bề núi non bao quanh. Trước đây, nơi này nghèo xơ xác, sau nhờ khai thác tiềm năng du lịch từ phong cảnh non nước hữu tình mà kinh tế phát triển lên không ít.

Bữa sáng ở thị trấn không có gì cầu kỳ. Sau khi đỗ xe, Uông Tễ và Uông Dịch Dương chọn đại một quán ăn sáng nhỏ để lót dạ.

Sáng cuối tuần, mới hơn tám giờ rưỡi, thị trấn vẫn còn ngái ngủ, trên phố người qua lại uể oải lười nhác.

Tránh chiếc xe điện loạng choạng với túi bánh bao treo lủng lẳng ở tay lái, hai người bước vào quán và tìm một chiếc bàn trống.

“Chủ quán, cho hai bát mì vịt hầm, thêm trứng ốp la và đậu phụ khô nhé!” Uông Dịch Dương gọi món.

Chủ quán nhanh nhẹn đáp lời. Uông Tễ suy nghĩ một chút rồi nói thêm: “Cho tôi thêm một xửng bánh bao hấp.”

Cũng không phải vì gì đặc biệt, chỉ là túi bánh bao kia với lớp dầu bóng bẩy trong túi nylon rung rinh nãy giờ trông quá thơm.

Quán nằm ngay cổng khu dân cư nên rất đông khách. Các bàn gỗ đã kín chỗ.

Ở bàn bên cạnh là một cặp vợ chồng dắt theo đứa con nhỏ. Cô bé trông chừng đang tuổi mẫu giáo, tóc tết hai bím, cột bằng dây nơ bướm màu hồng, trên nơ còn gắn cả hạt lấp lánh. Cô bé ngoan ngoãn dùng đũa gắp bánh bao chấm giấm, bất ngờ bị nước sốt nóng bắn lên làm mặt nhăn nhó. Người mẹ vội lấy khăn giấy lau miệng cho con, trong khi người cha vừa cười vừa dùng điện thoại chụp lại cảnh này.

Cách đó không xa, một đôi trẻ tuổi cũng đang ngồi ăn sáng. Họ khoác áo ngoài nhưng bên trong vẫn mặc nguyên đồ ngủ, chắc là cư dân trong khu, vừa thức dậy đã xuống tìm gì đó ăn. Cô gái một tay vén hờ mái tóc, tay kia cầm thìa múc tàu hũ ngọt. Chàng trai thì vừa xem livestream game vừa ăn mì, ăn được vài đũa liền đặt xuống: “Để anh qua tiệm tạp hóa mua dây buộc tóc cho em.”

Cô gái phụng phịu: “Không cần, buộc dây làm tóc có nếp, rối hết cả.”

“Ba ngày rồi em chưa gội đầu, nay lại thứ bảy, chắc chắn cũng chẳng gội, tóc có rối thêm chút cũng đâu sao.”

“Cút đi!”

Ở góc quán, hai ông bà già tóc bạc trắng đang yên lặng ăn sáng. Trên bàn của họ là hai bát cháo đậu đỏ, một đĩa dưa muối nhỏ, hai quả trứng trà và hai chiếc bánh bao nhân rau.

Hai người từ tốn ăn hết phần của mình, rồi lấy ra một xấp tiền mặt được gấp gọn gàng, đặt vào hộp tiền trên quầy. Bà chủ quán nhìn họ, cười nói: “Hôm nay hai ông bà lại đi dạo hả? Trời mưa, đường trơn lắm đấy.”

Hai ông bà cười hiền hậu: “Không đi dạo đâu, ra chợ mua chút đồ, trưa nay các con về ăn cơm.” Nói rồi, họ sóng vai bước ra ngoài.

Uông Tễ nhìn theo bóng lưng họ, bất giác mỉm cười. Nhịp tim dồn dập suốt buổi sáng cũng dần chậm lại, mang theo cảm giác yên bình.

Uông Dịch Dương vừa định hỏi anh tự dưng cười ngớ ngẩn cái gì thì bà chủ quán đã bưng mì và bánh bao lên bàn.

Uông Tễ vội vươn tay đón: “Cảm ơn chị.”

“Cẩn thận nóng đấy,” bà chủ căn dặn, “giấm và ớt có trên bàn, còn dưa muối thì ở góc kia. Đậu đũa và củ cải đều là nhà tự muối, cứ lấy thoải mái, không tính tiền.”

“Chị chu đáo quá.” Uông Tễ vừa nói vừa rút hai đôi đũa từ ống, đưa một đôi cho Uông Dịch Dương.

Bà chủ quán nhìn anh một lát, cười bảo: “Chàng trai, lần đầu tới đây phải không?”

Uông Tễ ngẩng đầu lên, hơi ngơ ngác: “Dạ?”

Uông Dịch Dương xen vào, cười nói: “Wow, bà chủ, quán đông khách thế này mà chị còn nhớ rõ từng người luôn hả? Không ngờ đó nha!”

Bà chủ bật cười: “Cậu đẹp trai thế này, lại ăn nói nhẹ nhàng lịch sự. Chỉ cần cậu tới một lần là tôi nhớ ngay. Sau này tôi phải ưu tiên, gắp thêm vài miếng tiết vịt vào tô cho cậu.”

“Ông chủ, bà chủ khen thế không ghen hả?” Uông Dịch Dương giả bộ trêu, lớn tiếng gọi về phía bếp.

Ông chủ đang kéo mì bật cười sảng khoái.

Uông Tễ hơi đỏ mặt, cúi đầu tập trung vào bát mì nóng hổi trước mặt.

Tô mì vịt thoạt nhìn nước trong veo, nhưng khi nếm lại cực kỳ đậm đà, vị thịt vịt thơm lừng ngấm trong từng giọt nước dùng. Sợi mì làm tay dai và mịn, thấm đẫm nước súp, vừa đưa vào miệng là đủ xua tan cái se lạnh của buổi sáng mưa.

Uông Dịch Dương vừa húp mì xì xụp, vừa nhai đầy phấn khích, trong khi Uông Tễ bị nước nóng làm bỏng, phải há miệng hít hà cho nguội bớt.

Anh lấy một đĩa nhỏ, tự pha nước chấm cho bánh bao. Nhiều giấm, ít ớt. Nhân tiện, anh cũng pha luôn một phần cho Uông Dịch Dương.

Uông Dịch Dương học theo, vờ cúi đầu cung kính: “Cảm ơn anh đại.”

Ngay lập tức, cậu ta bị Uông Tễ dùng đũa gõ nhẹ vào tay.

Uông Dịch Dương cười xòa: “Anh đúng là đi làm lâu quá rồi, nói năng kiểu dân văn phòng bám riết không bỏ được!”

Uông Tễ cầm một chiếc bánh bao căng tròn, đáp lời: “Làm dân văn phòng gần chục năm, muốn thay đổi cũng chẳng dễ.”

Anh học xong sớm, tốt nghiệp thạc sĩ lúc mới 23 tuổi, sau đó vào làm ở công ty lớn. Giờ đã 32, gió sương mười năm qua đã để lại dấu ấn trong tâm hồn, nhưng chưa kịp chạm đến vẻ ngoài trẻ trung như sinh viên của anh.

Cẩn thận cắn một miếng nhỏ trên chiếc bánh bao, anh hút phần nước thịt bên trong, vị thơm béo đậm đà lan tỏa khiến anh nheo mắt hài lòng. Khi nước đã hết, anh nhúng vỏ bánh vào nước chấm đầy giấm và dầu ớt rồi ăn gọn trong một miếng.

Dù đã vào độ tuổi sắp trung niên, Uông Tễ vẫn giữ được nét trẻ trung. Sự từng trải chỉ mài giũa nội tâm, chứ không nỡ khắc lên khuôn mặt anh.

Tô mì và xửng bánh bao đều được hai người ăn sạch sẽ, không để lại chút gì. Thanh toán xong, họ bước sang siêu thị bên cạnh.

Căn nhà ở quê của Uông Tễ từ lúc ông nội anh mất ba năm trước đã để không. Bố mẹ Uông Dịch Dương, nghe tin anh về, mấy ngày nay đã lo thu dọn giúp. Điện, nước, mạng, và gas đều được nối lại, nội thất và đồ gia dụng đầy đủ, vệ sinh cũng đã xong. Anh chỉ cần mua thêm vài món đồ sinh hoạt là có thể ở ngay.

Hai người đẩy ra hai xe hàng đầy ắp, chất đống lên xe rồi lái về Vân Lĩnh.

Con đường đèo vòng quanh núi, một bên là vách đá, một bên là vực sâu. Ngày mưa, núi non chìm trong làn sương dày, mây mù quấn quanh, tựa như tranh thủy mặc.

Uông Tễ tựa đầu vào cửa xe, trầm tư nhìn ra ngoài. Trong bầu không khí tĩnh lặng, Uông Dịch Dương liếc anh một cái, lên tiếng hỏi: “Sao vậy? Hối hận rồi à?”

Uông Tễ lắc đầu: “Không hối hận.”

Uông Dịch Dương cười: “Hối hận cũng là chuyện bình thường. Dù sao đó cũng là Thượng Hải, thành phố lớn lại còn làm ở công ty lớn. Tiền kiếm được nhiều hơn mấy năm của tụi này. Không chỉ ở quê, mà ngay cả đám bạn cấp ba của tụi mình, ai mà không ghen tị chứ?”

Uông Tễ cười khẽ: “Thật sự không hối hận.”

Anh dùng đầu ngón tay vẽ nguệch ngoạc trên cửa kính, rồi nghiêm túc nói: “Quá mệt mỏi rồi, muốn nghỉ ngơi một thời gian.”

Hai tuần trước, cấp trên của anh, Amanda, đã gọi anh lên.

Uông Tễ gia nhập công ty từ khi tốt nghiệp đã chín năm. Ban đầu, dù học ngành kỹ thuật tại một trường danh tiếng, anh lại được xếp vào vị trí không thuộc chuyên môn. Từ nhân viên cấp P5, anh mất ba năm để lên P6, rồi thêm ba năm nữa lên P7. Mọi thứ diễn ra nhanh chóng nhưng không hề dễ dàng, bởi anh phải đánh đổi bằng cả sức khỏe lẫn thời gian.

Thế nhưng, từ đó anh không thể tiến xa hơn. P8 được coi là “trần nhà” của người bình thường, và anh chỉ cách nó một bước chân. Thế nhưng, ba năm ở P7, cơ hội thăng tiến và tăng lương như xa vời. Chuyển bộ phận cũng là điều bất khả thi. Trong khi đồng nghiệp cùng cấp liên tiếp thăng tiến, anh buộc phải thừa nhận bản thân đã lạc lối giữa chặng đường, dù xuất phát điểm không hề thấp.

Liên tiếp năm ngày tăng ca, từ cuộc họp này sang cuộc họp khác, Uông Tễ không biết mình đã uống bao nhiêu ly espresso. Nhìn đôi môi đỏ thắm của Amanda mấp máy, anh không còn nghe rõ cô ta đang nói gì.

Có lẽ vẫn là những lời quen thuộc: học cách nhìn sắc mặt lãnh đạo, muốn thăng chức thì phải nắm bắt từng cơ hội.

Anh cảm thấy mình như một cục pin đã cạn sạch năng lượng. Ngay trong giây phút cuối cùng trước khi “hết hạn sử dụng” anh nghe thấy Amanda nói rõ ràng: “Uông Tễ, chúng ta hiện tại giống như đang ngồi trên một đoàn tàu cao tốc. Hoặc là anh nắm bắt cơ hội và nhảy lên tàu, hoặc sẽ bị bỏ lại phía sau, chỉ còn biết hít khói tàu mà thôi….”

Kết quả kiểm tra sức khỏe tuần trước không khả quan. Đặt tay lên ngực, cảm nhận nhịp tim bất thường, Uông Tễ đã quyết định: anh chấp nhận trở thành “người bị bỏ lại”

Vân Lĩnh là một ngôi làng nhỏ thuộc một xã trên núi. Cả xã không lớn cũng chẳng giàu có, chỉ có ba thôn nằm sát nhau.

Uông Tễ và Uông Dịch Dương lái xe đến ủy ban xã trước, rồi từ đó tiếp tục đi thêm khoảng mười phút nữa để lên núi.

Dọc đường toàn là nhà dân, nhưng chỉ đến khu vực gần ủy ban xã mới thấy có cửa hàng và trường học. Trước đây Uông Tễ không để ý, giờ quan sát kỹ, anh nhận ra con phố nhỏ này tuy không lớn nhưng đủ loại dịch vụ. Tuy nhiên, vì là vùng nông thôn, các cửa hàng đều nhỏ bé; siêu thị lớn nhất ở đây cũng chỉ có ba mặt tiền.

“Ở quê nhà nào chẳng có ruộng, sao vẫn có người bán rau thế nhỉ?” Uông Tễ tò mò.

“Bây giờ ở quê cũng không phải nhà nào cũng trồng rau đâu,” Uông Dịch Dương đáp, liếc nhìn anh. “Nhiều người đi làm xa, ruộng đất bỏ không đầy.”

“Chẳng hạn như ruộng nhà anh?” Uông Tễ cười khẽ, xoay cổ cho bớt mỏi, trong đầu bắt đầu nghĩ cách khai hoang lại.

“Thế anh thật sự định trồng rau hả? Muốn ăn thì cứ qua vườn nhà em mà hái, rau còn dư đầy đấy.”

“Đã nói là về quê làm nông, lát nữa anh sang nhà chú thím mượn ít hạt giống với cây con.”

Uông Dịch Dương chỉ cười, nghĩ anh nói chơi, bèn gật đầu: “Được chớ.”

Làng Vân Lĩnh dựa lưng vào núi, trước đây chia làm ba đội sản xuất, sau cải cách được phân thành ba tổ. Tên gọi các tổ rất đơn giản, từ chân núi lên lần lượt là Hạ Lĩnh, Trung Lĩnh, và Thượng Lĩnh.

Nhà của Uông Tễ và Uông Dịch Dương đều nằm ở Thượng Lĩnh.

30 năm trước khi ông nội của Uông Tễ còn làm bí thư Đảng ủy xã, rất nhiều người khuyên ông chuyển nhà xuống chân núi, kể cả bố của anh, Uông Vân Giang. Dù sao đất ở đó cũng là của nhà nước, chuyển xuống vừa gần đường vừa khỏi phải ngày ngày leo núi lội bùn. Nhưng ông nội là người chính trực, không muốn đụng đến một cây kim sợi chỉ của công, huống chi là đất đai. Vì chuyện này, Uông Vân Giang từng tranh cãi gay gắt với ông cụ, mãi đến khi ông được điều lên huyện công tác và được cấp nhà ở mới ngừng phàn nàn.

Chiếc xe men theo con đường bê tông chạy lên núi. Những ngôi nhà mái ngói tường đất của làng quê từ vài năm trước giờ đã được thay bằng những căn nhà tự xây hai, ba tầng. Làng ít người, nên mỗi nhà đều có sân riêng, không sát vách ai.

Càng gần đến đỉnh núi, số nhà càng thưa thớt, chỉ lác đác ẩn mình sau những tán cây và bụi hoa.

Nhà của Uông Tễ nằm ở phía trên. Xe chạy qua cổng nhà Uông Dịch Dương trước.

Ba mẹ của Uông Dịch Dương, biết hai người sắp về, đã sớm kê ghế ngồi chờ dưới mái hiên. Thấy xe đến, họ vội chạy ra đón.

“Ôi trời, thằng Tễ về thật rồi à?”

“Chà, càng lớn càng đẹp trai nhỉ!”

“Chào chú Uông, chào thím Uông.” Vừa bước xuống xe, Uông Tễ đã bị đôi vợ chồng xoay một vòng xem xét kỹ lưỡng. Đến khi anh lấy từ xe ra rượu thuốc và quà biếu, lại bị “trách yêu” vì tốn tiền.

Ở làng này họ Uông rất nhiều, tính ra nhà của Uông Tễ và Dịch Dương còn là họ hàng thân thích.

Có lẽ vì Uông Dịch Dương đã báo trước, nên chú thím hoàn toàn không hỏi Uông Tễ lý do về quê hay định ở bao lâu, chỉ liên tục rót trà, mang ra đĩa trái cây mời anh.

“Trái cây vẫn là mua từ Tết, nhưng toàn loại ngon cả đấy. Thím tính cân thêm ít kẹo Kim Ti Tước với Thỏ Trắng, mà chú nhà bây bảo kẹo đó rẻ tiền, giờ bọn trẻ không thích ăn nữa.” Thím vừa nói vừa đặt đĩa trái cây trước mặt anh, không nhịn được liền đưa tay vuốt mái tóc anh một cách trìu mến, “Bây gầy đi rồi.”

Mưa nhỏ tí tách rơi từ mái hiên xuống nền đá xanh trong sân, tạo thành những âm thanh đều đều. Uông Tễ ngoan ngoãn cúi đầu, mỉm cười đáp: “Cháu không gầy, chỉ là quần áo làm thím tưởng vậy thôi.”

Anh cười, tiếp lời: “Mà chú nói sai rồi, cháu vẫn thích ăn Kim Ti Tước với Thỏ Trắng lắm. Hồi bé cháu không biết đã ăn bao nhiêu ở nhà chú thím nữa.”

Uông Dịch Dương chen vào: “Phải rồi, mà nửa số đó là của em đấy. Hồi nhỏ anh tròn như cục bột, nhìn ngoan ngoãn, ông bà nội chia kẹo cũng cho anh hai viên, em chỉ được một viên.”

Cả bốn người nghe vậy đều bật cười, nhưng nghĩ đến ông bà đã khuất, bỗng dưng lại cảm thán trước dòng chảy thời gian.

Bầu không khí trầm mặc trong giây lát, cuối cùng chú Uông lên tiếng: “Để chú ngày mai xuống chợ xã mua cho bây mấy cân kẹo Kim Ti Tước với Thỏ Trắng.”

Sau khi uống một cốc trà nóng, Uông Dịch Dương lái xe đưa Uông Tễ về nhà thu xếp đồ đạc. Thím Uông đi theo nhắc: “Thằng Tễ này, trưa bây sang nhà thím ăn cơm nhá. Thím làm món ngon bồi bổ cho bây. Gầy quá rồi!”

“Dạ được ạ.” Uông Tễ hạ cửa kính xe đáp lời, mái tóc đen mềm mại bị gió thổi bay loạn.

Xe đi thêm một đoạn, rẽ qua khúc cua, Uông Tễ đã thấy mái nhà của mình.

Đó là căn nhà hai tầng có sân, xây dựng bằng vật liệu tốt nhất. Năm ấy, anh bỏ ra hai năm tiền lương để xây căn nhà này, không để cha anh Uông Vân Giang động tay vào việc gì, mọi thứ đều làm theo ý ông nội.

Ông nội cả đời sống đơn giản, đến lúc tuổi già, được đứa cháu xây cho căn nhà khang trang như thế, cả xã không ai là không khen. Thời gian đó, mỗi tối ông đều vui vẻ tự rót thêm một chút rượu. Nhưng đến khi phải nằm viện ở Thượng Hải, mỗi lần Uông Tễ tan làm đến thăm, ông vẫn mãi nhắc về ngôi nhà mới mà đứa cháu dựng lên cho mình.

Xe từ từ tiến gần, hình dáng căn nhà dần hiện rõ. Trong sân, cây anh đào và trà đỏ vẫn nở hoa, những bông hoa xinh đẹp sáng rực lên trong màn mưa lất phất.

Uông Tễ chuyển vali và cả đống túi lớn từ cốp xe vào phòng khách. Uông Dịch Dương hiểu anh có việc cần làm, tinh ý lái xe quay về nhà.

Ngôi nhà đã được chú thím Uông dọn dẹp tươm tất, ngay cả chăn ga gối đệm trong tủ cũng đã được giặt sạch, phơi khô và trải lên giường.

Phòng của ông nội anh nằm ở tầng một, từ sau khi ông mất, mọi đồ đạc trong phòng vẫn được giữ nguyên. Đầu giường vẫn còn hai chiếc rương gỗ cổ là sính lễ của bà nội anh năm xưa.

Bà nội mất sớm, nhưng trong ký ức của anh, cứ cách hai ngày, ông nội lại lau bụi trên rương một lần. Mùi gỗ cũ khi trời mưa luôn phảng phất hương ẩm đặc trưng. Ngửi thấy mùi này, Uông Tễ bỗng cảm thấy bình yên.

Uông Tễ mở vali và các túi đồ, sắp xếp mọi thứ vào đúng chỗ. Chổi và cây lau nhà được mang ra sân, dầu, gạo, muối, đường và bát đũa được xếp vào bếp, nước giặt và sữa tắm được đặt gọn trong phòng vệ sinh. Sau khi mọi thứ đã đâu vào đấy, anh cầm theo hộp bánh ngọt và chai rượu vừa mua ở siêu thị, đi dọc theo con đường nhỏ phía sau nhà lên núi.

Ở quê không có nghĩa trang công cộng, người mất đều được chôn trên núi. Uông Tễ bước qua con đường đất ướt lầy lội, đến trước mộ ông bà nội. Anh bày bánh ngọt và rót rượu lên trước mộ, vừa thở dốc nhẹ nhàng vừa nói nhỏ:

“Đã lâu rồi cháu không về, suýt thì leo không nổi.”

Những tán cây trên núi rung rinh trong làn gió, tạo thành âm thanh xào xạc. Mưa phùn làm ướt vai áo anh, những giọt nước đọng lại trên hàng mi, tạo nên một màn sương mỏng.

Anh vươn tay lau sạch bùn đất bám trên bia mộ, rồi ngẩng đầu lên, nhìn vào bức ảnh của người anh yêu quý nhất trên thế gian, nở một nụ cười dịu dàng.

Xa xa, những ngọn núi ẩn hiện mờ ảo trong làn sương xanh. Làn gió trong lành từ khe núi thổi qua, làm tung những sợi tóc lòa xòa trên trán anh. Khóe mắt đỏ hoe ánh lên chút ấm áp, hòa lẫn với những nếp nhăn mềm mại của nụ cười hiếm hoi.
 
Chương 2: Canh gà hầm măng non


Nói chuyện xong với hai vị lão nhân, Uông Tễ chưa vội về nhà. Lâu ngày không quay lại, anh cố ý đi một vòng quanh ngọn đồi phía sau để quen thuộc lại đường đi.

Đi được một đoạn, khi bước qua những tán thông trước mặt và phóng tầm mắt về phía xa, anh chợt khựng lại.

Núi non mờ ảo, trong màn mưa giăng phủ, giữa cảnh sắc hoang vu là một căn nhà nhỏ ba tầng lặng lẽ tọa lạc. Như bước ra từ một câu chuyện cổ tích, căn nhà gỗ nép mình trong rừng sâu, được bao bọc bởi những khóm hoa rực rỡ, tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài.

Ngày mưa âm u, ánh đèn vàng ấm áp trong căn nhà soi sáng cả khu vườn, ánh sáng len qua làn sương mỏng, như thấm vào tận sâu trong lòng Uông Tễ.

Đến giờ ăn trưa, chú Uông và Uông Dịch Dương đang ở sân sau vặt lông gà, còn thím Uông đứng cạnh bếp củi trong bếp, xào thịt xông khói với chiếc xẻng lớn. Uông  Tễ ngồi bên lò bếp châm lửa. Trong tiếng củi nổ tí tách, ánh lửa nhảy nhót làm sáng lên nửa bên mặt anh, rồi đổ bóng lên tường thành hình ảnh chập chờn.

Khói bếp từ từ lan tỏa vào không gian, mưa ngớt. Uông Dịch Dương dọn hẳn một chiếc bàn gỗ nhỏ ra sân, bốn người ngồi ngoài trời dùng bữa.

Trên bàn là một bữa cơm mang đậm hương sắc núi rừng: canh gà hầm măng non, thịt xông khói xào cải xuân, trứng chiên tỏi tây, nhân trần hấp, dương xỉ trộn chua ngọt, và thêm một bát canh ba vị với thịt thái lát.

Cả bàn đầy ắp hương vị mùa xuân.

Rau dại tươi non, Uông Tễ gắp một đũa nhân trần hấp. Nhân trần non hái về rửa sạch, bọc bột mì đem hấp, chấm cùng dầu mè và giấm. Đầu lưỡi thoảng chút vị đắng nhưng hậu vị lại lưu hương dịu dàng.

“Hương vị thế nào?” Chú Uông và thím Uông vẫn chưa động đũa, chỉ nhìn anh không ngớt.

Uông Tế giơ ngón tay cái, chân thành khen: “Thơm quá ạ!”

Thím Uông mỉm cười, múc thêm cho anh một muỗng canh gà hầm măng non: “Măng lôi đầu tiên của mùa xuân, vừa mới đào trên núi về đấy, nếm thử xem.”

Những mụt măng non vừa đội mưa xuân trồi lên khỏi mặt đất, giòn và ngọt, hầm chậm cùng thịt gà nhà đã xào qua. Múc một thìa đưa vào miệng, đầu tiên là vị ngọt đậm đà của thịt gà, sau đó là vị ngọt dịu của măng xuân, khiến cái dạ dày đã chịu khổ lâu ngày vì thức ăn chế biến sẵn của Uông Tễ được xoa dịu hoàn toàn.

Thịt xông khói đậm đà, ăn một miếng là muốn thêm hai thìa cơm. Uông Tễ vừa nhấm nháp vừa hỏi: “Nhà cụ Phù có ai về rồi à?”

Uông Dịch Dương vừa ăn vừa đáp, đầu không ngẩng lên: “Ý anh nói Alice hả?”

“Alice?”

“Ừ, anh không thấy vườn hoa nhà cụ ấy đẹp y như Alice lạc vào xứ sở thần tiên sao?”

Uông Tễ không biết Alice là ai, nhưng phải thừa nhận khu vườn đó đúng là đẹp như tiên cảnh.

“Chẳng phải cháu cụ Phù đang làm ở huyện sao?”

“Không phải người đó,” thím Uông tay cầm bát vừa xua tay vừa giải thích, “là cháu lớn của ông con trai đi Canada ấy.”

Chú Uông ngồi cạnh sửa lại: “Là con trai ông con trai đi Canada.”

“À, đúng rồi đúng rồi,” thím Uông gật gù, “Cao ráo, đẹp trai, phong cách lắm.”

Uông Tễ thậm chí chưa từng gặp con trai lớn của cụ Phù, chứ đừng nói đến cháu lớn của cụ.

Cụ Phù vốn không phải người Vân Lĩnh. Năm xưa cụ đến đây bằng cách nào chẳng ai rõ. Theo lời chú thím Uông, cụ bỗng nhiên xuất hiện một ngày nọ, ai cũng nghĩ cụ chỉ ghé chơi, không ngờ lại ở lại lập nghiệp.

Hồi đó thiếu giáo viên, cái gọi là “trường học” thực chất chỉ là một gian nhà cũ trong trụ sở xã. Cụ Phù một mình vừa dạy văn, toán, thể dục, lại còn kéo nhị, thổi sáo dạy nhạc.

Cụ Phù sau này kết hôn và sinh được hai người con trai. Con trai lớn, hơn 30 năm trước trở thành người đầu tiên trong làng thi đỗ đại học. Sau khi tốt nghiệp, ông sang Canada định cư. Con trai út thì ở bên cạnh hai cụ suốt thời gian dài, nhưng khoảng 20 năm trước cả gia đình ông cũng chuyển lên huyện sống, rất ít khi quay lại. Ngôi nhà mới xây trong làng từ đó để trống. Hai cụ qua đời cũng được an táng tại nghĩa trang ở huyện.

Thím Uông múc một bát canh, Uông Dịch Dương liếc nhìn rồi gắp thêm vài miếng thịt nạc bỏ vào bát của thím. Cậu ta nói: “Alice về từ mùa đông năm ngoái. Người ta tháng 12 mới về, nhưng đội thi công đã tới từ hôm Quốc khánh. Hoành tráng lắm!”

Chú Uông nghe đến đó, gãi đầu cười hồn nhiên: “Lúc đó chú với mấy người trong làng cũng đi phụ khiêng cát, vận chuyển cây cối. Mỗi ngày được hơn 200  đồng, còn sướng hơn đi làm thuê xa.”

Việc nhẹ, tiền nhiều, khi công trình hoàn thành, dân làng đều luyến tiếc.

“Cho nên dù Alice hơi kỳ quặc, nhưng mọi người trong làng đều quý cậu ta.” Thím Uông kết luận.

Uông Tễ tò mò hỏi: “Kỳ quặc thế nào hở thím?”

“Không hay ra ngoài, cũng chẳng nói năng nhiều.” Thím Uông kể, “Cậu ấy ở đây gần nửa năm mà thím chỉ gặp đúng hai lần. Mỗi lần nói chuyện, cậu ấy cũng không mở miệng nhiều, chỉ thỉnh thoảng đáp lại một tiếng.”

“Có lẽ tính cách không được tốt?” Uông Tễ nghĩ ngợi rồi đoán.

“Không phải đâu.” Thím Uông vội xua tay, “Nhìn cậu ấy lịch sự, có vẻ tử tế lắm, không phải kiểu người khinh thường người khác. Chỉ là…”

Thím ngừng lại, cố tìm từ để diễn tả nhưng không nghĩ ra, sợ Uông Tễ hiểu lầm, liền bối rối phân bua: “Nói chung cậu ấy là người tốt mà.”

“Có khi nào bị trầm cảm?” Uông Dịch Dương xen vào, “Hoặc sợ giao tiếp? Nhưng mà mức này thì cũng hơi quá. Một anh chàng đẹp trai, giàu có, từ nước ngoài về lại chui rúc trong rừng sâu, không ra ngoài, chẳng giao tiếp với ai, nghĩ mà nổi da gà.” Nói đến đây, cậu ta còn rùng mình một cái.

Thím Uông trừng mắt lườm cậu ta: “Đừng nói người ta có bệnh lung tung, kỳ cục lắm!”

“Đúng thế.” Chú Uông cũng phụ họa.

“Thì chẳng phải chỉ có mấy người chúng ta đây thôi sao. Với người ngoài con đâu có nói bậy. Mà anh họ Phù Hạo của cậu ấy về cũng bảo ông anh này có chút vấn đề, nhưng chẳng ai rõ là vấn đề gì…”

Uông Tễ nghe bọn họ nói chuyện mà không nhịn được quay đầu nhìn lên đỉnh núi. Từ sân nhìn lên chỉ thấy núi xanh mờ mịt, không thấy bóng dáng ngôi nhà nhỏ đâu. Đột nhiên, trên đầu anh có cảm giác lành lạnh, vài giọt mưa rơi xuống người.

“Ôi, lại mưa rồi!” Thím Uông kêu lên.

Thời tiết trên núi thay đổi thất thường, mưa nắng cứ thế mà xen kẽ. Bốn người luống cuống dọn dẹp bàn ghế và thức ăn vào trong nhà. Con mèo mướp đang lim dim ngủ ngoài sân bị đánh thức, nó lắc đầu, chậm rãi đi đến dưới mái hiên rồi lại cuộn mình thành một đám lông mềm mại.

Sáng hôm sau, Uông Tễ thức dậy lúc sáu giờ trong tiếng chim hót giữa núi rừng. Khi mở cửa sổ, anh nhìn thấy những ngọn đồi xanh thẳm trải dài trước mắt. Không phải vội vàng chen chúc trên đường cao tốc giờ cao điểm, cũng không phải mở máy tính để nghĩ cách nịnh nọt sếp hay dọn dẹp rắc rối cho nhân viên.

Anh thả bước trên con đường làng trong buổi sáng mùa xuân, gió nhẹ lướt qua, tiếng nước chảy róc rách bên tai. Cảm giác thư thái đến mức gần như không chân thực.

Trong làng rất hiếm khi có xe lên núi. Uông Tễ chạy dọc con đường bê tông một vòng coi như bài tập sáng. Khi chạy đến mức lưng bắt đầu nóng lên, anh mới hơi thở dốc mà quay về. Đi được nửa đường, anh chợt nhìn thấy một thứ trên sườn đồi ven đường. Không nghĩ ngợi nhiều, anh nắm lấy cành cây gần đó, leo lên.

Đất ẩm mềm, mỗi bước đi đều lún sâu hoặc trượt nhẹ. Anh từng bước cẩn thận tiến lại, vén lớp cỏ dại phủ trên mặt đất ra. Bên dưới là một vạt lớn hành dại, màu xanh mướt, lá còn đọng những giọt sương sớm.

Không mang theo cuốc nhỏ hay kéo, anh chỉ có thể dùng tay nhổ. Nhưng một mình anh ăn chẳng bao nhiêu, nên chỉ nhổ một nắm nhỏ đủ dùng cho bữa sáng.

Hành dại tươi mới đem cắt nhuyễn, trộn với bột mì và chút nước, thêm một quả trứng gà rồi rán thành bánh mềm, hoặc cho vào chảo chiên giòn thành bánh dầu nhỏ. Đó là món quà mùa xuân của tự nhiên.

Hôm qua khi ở nhà chú thím Uông, thím Uông có bảo anh mới về, nhà chẳng có gì ăn. Thím liền ra vườn hái một giỏ tre đầy rau tươi cho anh, còn cho thêm không ít thịt xông khói và lạp xưởng được hun dịp Tết. Anh nghĩ lát nữa sẽ cắt một ít cho vào bột bánh, mùi vị sẽ càng thơm ngon hơn.

Nghĩ đến đó, Uông Tễ lại lo lắng cho mảnh vườn của mình. Đất nhà anh đã nhiều năm không canh tác, sớm trở nên hoang hóa. Mấy hôm nay trời không thuận, nhưng đợi nắng lên, anh phải nhanh chóng dọn cỏ, khai hoang. Qua tiết Kinh Trập là thời điểm thích hợp để trồng hẹ, xà lách và ớt. Đến tháng sau thì gieo hạt các loại bí. Ở vùng núi này, người ta chỉ lo rau ăn không hết phải bỏ, chứ không bao giờ lo thiếu rau.

Một con bướm bất ngờ bay qua, đôi cánh mỏng khẽ chạm vào trán anh, để lại cảm giác nhột nhột trên da. Uông Tễ theo phản xạ giơ tay lên chạm, không ngờ lại quệt phải vệt bùn, khiến mặt mình lấm lem. Anh bật cười, phủi tay vài cái, nhưng không mang theo khăn giấy, đành đợi về nhà mới lau sạch được.

Cầm trên tay một nắm nhỏ hành dại, Uông Tễ men theo gốc cây, dò dẫm từng bước xuống dốc. Anh tìm một hòn đá vững chắc để đặt chân, cẩn thận từng chút một, di chuyển xuống dưới.

Chỉ còn vài bước nữa là đặt chân được xuống mép đường thì từ phía khúc quanh vang lên tiếng bước chân rất nhẹ, vì núi rừng tĩnh mịch nên âm thanh ấy mới nghe rõ ràng đến vậy.

Uông Tễ quay đầu nhìn, thấy một người đang bước ra từ khúc ngoặt.

Người đó đi chậm rãi, ánh mắt chạm đến anh trên sườn đồi thì thoáng ngạc nhiên, rồi dừng lại.

Gương mặt kia như một bức tranh thủy mặc, hài hòa giữa đậm và nhạt, làn da trắng đến gần như trong suốt làm nổi bật đôi mắt đen láy, tựa như phản chiếu cả mây mù trên những ngọn núi xa. Anh ta đứng đó, từ góc nhìn của Uông Tễ, trông như hòa làm một với cây cỏ trên triền đồi. Những tán lá xanh mướt đẫm sương và mưa đêm dường như muốn nhỏ từng giọt xuống vai anh ta. Gió núi lùa qua, mang theo hương cỏ cây và mùi đất ẩm, khẽ làm tà áo phất nhẹ. Con bướm vừa mới chạm vào trán Uông Tễ giờ lại bay quanh bên anh ta.

Lần đầu tiên Uông Tễ và Phù Tô gặp nhau là vào một buổi sáng mùa xuân, giữa núi rừng sau cơn mưa, khi sương sớm vẫn còn vương vấn.

Trông Uông Tễ lúc ấy thật lôi thôi: mặt mũi, tay chân, cả giày đều dính bùn. Anh nửa người bám vào sườn đồi, tay cầm một nắm hành dại.

Đang cúi xuống tìm điểm tựa để bước xuống, nhưng không thấy hòn đá nào đủ chắc, anh loay hoay lúng túng. Đúng lúc đó, người kia tiến lại gần vài bước, rồi từ dưới triền đồi vươn tay ra với anh.

Bàn tay ấy rất lạnh, khi Uông Tễ nắm lấy, anh có cảm giác như đang chạm vào một miếng ngọc. Nhưng vừa nắm vào, anh lại vô tình để lại trên “miếng ngọc” ấy một lớp bùn.

Người kia chỉ nhẹ nhàng dùng cánh tay kéo một chút đã giúp Uông Tễ đứng vững dưới chân dốc.

“Cảm ơn nhé.” Xuống được rồi, Uông Tễ chỉ vào tay anh ta, hơi áy náy: “Xin lỗi, tôi làm bẩn tay anh mất rồi. Lúc ra khỏi nhà quên mang giấy lau…”

Phù Tô nhìn theo hướng tay anh chỉ, thản nhiên phủi qua loa, rồi lắc đầu tỏ ý không sao.

“À, tôi là Uông Tễ. Hôm qua tôi mới về làng, sống ở căn nhà ngay dưới chân nhà anh, rất gần nhau. Hôm qua tôi còn lên núi sau nhà nhìn thấy vườn của anh. Đẹp lắm!”

Thói quen giao tiếp từ những năm tháng đi làm khiến Uông Tễ chủ động mở lời phá vỡ bầu không khí im lặng. Nhưng càng nói, giọng anh càng chậm lại. Bởi người trước mặt, tuy lịch sự nhìn anh, nhưng dường như không thực sự lắng nghe. Ánh mắt anh ta như đang lang thang ở một nơi nào khác, suy nghĩ cũng chẳng đặt ở đây. Lúc này, Uông Tễ cuối cùng cũng hiểu được phần nào ý của thím Uông hôm qua.

Nghĩ đến lời của Uông Dịch Dương hôm qua, không bàn đến chuyện “vấn đề tâm lý”, Uông Tễ cảm thấy tính cách của người này chắc hẳn lạnh lùng như vẻ ngoài của anh ta. Một kiểu người rạch ròi, giữ khoảng cách rất rõ. Có lẽ việc mình bất chợt bắt chuyện đã khiến anh ta cảm thấy bị làm phiền.

Uông Tễ hơi lúng túng, im lặng khép miệng lại, do dự không biết có nên giơ tay chào và nói lời tạm biệt hay không. Đúng lúc anh còn đang nghĩ, người trước mặt bỗng cất tiếng:

“Phù Tô.”

Giọng nói ấy tựa như giọt mưa rơi xuống dòng suối trên núi, trong trẻo và trầm lắng.
 
Chương 3: Bánh hành dại


Khi xây nhà, Uông Tễ vẫn giữ lại bếp củi truyền thống bên cạnh bếp ga hiện đại trong căn bếp của mình. Nhưng hầu như chẳng mấy khi anh đụng đến củi lửa, thường chỉ dùng bếp ga cho nhanh.

Hôm nay, một mình nấu ăn, anh mang chảo đáy bằng ra, định làm ít bánh hành dã chiến.

Chảo vừa quét một lớp dầu mỏng, anh vo bột thành những miếng cỡ lòng bàn tay rồi bỏ vào chiên. Khi hai mặt bánh vàng rộm, thơm lừng, anh gắp ra dĩa.

Bánh hành mới ra lò giòn rụm bên ngoài, mềm mịn bên trong, cắn đến đâu là nghe hương vị béo thơm của lạp xưởng lan tỏa đến đó.

Uông Tễ bưng dĩa bánh ra khỏi bếp, định bụng ngồi trong sân vừa ăn vừa ngắm cảnh. Ngoài trời không mưa không nắng, một buổi sáng yên bình. Vừa cắn một miếng bánh, anh lại nhớ đến Phù Tô – người vừa gặp hôm trước.

“Phù Tô…”

Anh thầm lặp lại cái tên, nghĩ mãi không thôi. Tên vừa hay, người lại đẹp, nhưng tính cách thì quả thật lạnh lùng.

Ban đầu anh muốn hỏi về thiết kế sân vườn nhà người nọ, xem hắn thuê đội nào trong huyện làm, để mình cũng chỉnh sửa sân nhà, trồng thêm ít cây cảnh và đặt một cái bàn đá cho mát mẻ vào mùa hè. Nhưng nghĩ đến vẻ lãnh đạm của Phù Tô, anh lại thôi, chắc nhờ Uông Dịch Dương hỏi thăm giúp thì hơn.

Uông Dịch Dương là em họ anh, đang làm ăn phát đạt ở huyện thành. Nhà hàng của cậu ta lúc nào cũng đông khách, một phần nhờ tính cách xởi lởi của cậu ta, phần khác nhờ món ăn ngon. Uông Tễ nhớ rõ ngày khai trương, anh còn đến chúc mừng, gửi phong bì đỏ và hoa.

Hôm qua, Uông Dịch Dương vừa về quê rồi lại chạy xe về huyện thành. Trước khi đi, cậu ta còn giúp Uông Tễ làm vài việc vặt.

Buổi sáng hôm sau, một chiếc xe hơi chạy lên núi, dừng trước nhà Uông Tễ. Hai người trên xe bước xuống, đẩy cổng sân đi vào.

Ở quê không ai quen khóa cổng hay gõ cửa. Nếu đến chơi, cứ tự nhiên vào nhà, tìm chỗ ngồi rồi gọi chủ nhà là được. Vào mùa hè, khách đến còn có thể tự hái trái cây trong sân để ăn.

Khi Uông Tễ nghe thấy tiếng người từ trên núi, anh liền vội vàng chạy về. Trong sân nhà mình, đã có hai người đàn ông đứng chờ.

“Cậu em, nhà này của cậu à?” Người lớn tuổi hơn lên tiếng hỏi.

“Dạ, là nhà cháu,” Uông Tễ đáp, “Hai chú cứ tự nhiên ngồi, để cháu vô bếp pha trà.”

Anh vào bếp. Trong sân, người đàn ông trẻ hơn khẽ nói với cha mình: “Ba, cái ông kia nói chuyện nghe dễ chịu ghê… giống mấy người làm dịch vụ ấy.”

“Im coi!” Uông Thiệu Quân phẩy tay, cho cậu con trai một cái tát nhẹ. “Người ta học thạc sĩ, làm công việc văn hóa, mày phải học hỏi chút đi.”

Hai cha con nói qua lại vài câu thì Uông Tễ bưng trà ra.

Uông Thiệu Quân cầm lấy ly trà, nhìn đôi giày còn dính chút bùn của Uông Tễ rồi hỏi: “Cậu em, bận gì mà chân dính bùn vậy?”

“Dạ, không bận gì đâu chú,” Uông Tễ cười, “Cháu lên núi sau nhà hái ít bồ công anh dại, đem về phơi khô làm nước uống.”

“Bồ công anh tốt lắm. Bà nhà tôi trước bị nóng trong người, uống nước bồ công anh vài lần thấy dễ chịu hẳn.”

Nói xong chuyện bồ công anh, Uông Thiệu Quân liền nhắc: “Hôm qua thằng Dương nó về tiệm kể cậu đã về quê. Tôi nghe mà không tin. Cậu chắc không nhận ra tôi, nhưng tôi với ông nội cậu thì thân lắm. Trước đây nhà tôi nghèo, ông nội cậu hay giúp đỡ. Nhà tôi với nhà cậu cũng là bà con xa đấy, gọi cậu một tiếng cháu trai chắc không sai đâu nhỉ?”

“Dạ, chú khách sáo quá,” Uông Tễ mỉm cười đáp.

Thấy anh thân thiện như vậy, Uông Thiệu Quân không khỏi xúc động: “Tôi nghe thằng Dương nói cậu giờ là cổ đông công ty lớn, chỉ cần ở nhà nhìn máy tính là kiếm được tiền. Tốt quá! Ông nội cậu mà biết cậu về đây chắc cũng vui lắm. Đúng là quê mình vẫn hơn.”

Uông Tễ nghe vậy chỉ biết cười ngượng, tai hơi đỏ lên, không biết đáp sao.

Uông Thiệu Quân lại quay sang nhìn con trai mình mà thở dài: “Đều họ Uông, mày mà được một nửa như cậu ấy thì tao mừng biết mấy, từ nhỏ đến lớn, vừa thấy sách vở là mệt rã rời. Năm ngoái thi đậu cao đẳng nghề sửa xe ở huyện, giờ đi làm ở xưởng sửa chữa rồi.”

Uông Thanh đang đứng ngẩn ngơ dưới tán cây anh đào trong sân, không ngờ câu chuyện bỗng dưng chuyển sang mình. Cậu liếc nhìn Uông Tễ – người đàn ông dáng vẻ văn nhã, gương mặt thanh tú, trông giống hệt kiểu người học hành nhiều. Có chút ngại ngùng, Uông Thanh bấu chặt lấy ly trà trong tay.

Uông Tễ nhìn cậu, mỉm cười dịu dàng, như một làn gió xuân mát lành: “Học một nghề kỹ thuật cũng tốt mà. Thời buổi này, chỉ cần có nghề nghiệp ổn định để sống là quý rồi.”

Nghe vậy, Uông Thanh thả lỏng hơn hẳn. Uông Thiệu Quân cũng bật cười vui vẻ. Dù ông ngưỡng mộ Uông Tễ có tương lai sáng lạn, nhưng vẫn tự hào về đứa con trai của mình – hiếu thảo, hiểu chuyện, lại chẳng khi nào ngồi không. Rảnh rỗi là rửa rau, phụ mẹ, hoặc theo cha đi giao hàng. Với ông, như Uông Tễ nói, có một nghề để kiếm sống đã là điều đáng quý. Gia đình ông chẳng mong cầu gì to tát, chỉ hy vọng mọi người được sống bên nhau, yên vui và hạnh phúc là đủ.

Sau đôi ba câu trò chuyện phiếm, họ bắt đầu nói đến việc chính. Uông Thiệu Quân đứng dậy, chỉ vào chiếc xe tải nhỏ chở đầy đồ: một vài thùng giấy lớn và chiếc xe máy nhỏ được buộc chặt bằng dây thừng.

Hôm qua, Uông Tễ đã nhờ Uông Dịch Dương giúp hai việc. Một là tìm xe tải nhỏ để chuyển các kiện hàng anh gửi từ thành phố về quê. Hai là mua giúp một chiếc xe máy ở huyện thành.

Chiếc xe máy là thứ Uông Tễ mới nảy ra ý định mua hôm qua. Trước đây ở Thượng Hải, anh đã bán chiếc xe cũ của mình vì không cần dùng đến. Về quê tuy không cần xe hơi, nhưng vẫn cần một phương tiện nhỏ để đi chợ hoặc làm việc lặt vặt. Nhìn chiếc xe máy mà Uông Dịch Dương chọn giúp, Uông Tễ không khỏi bật cười – kiểu dáng có phần hơi hài hước.

Uông Thiệu Quân và con trai nhanh chóng dỡ chiếc xe máy xuống rồi khiêng các thùng hàng vào nhà. Uông Tễ lấy tiền ra định trả công, nhưng Uông Thiệu Quân kiên quyết từ chối: “Chút việc cỏn con vậy mà bây cũng tính tiền với chú à? Sau này cần gì cứ gọi chú một tiếng. Bây mới về quê, thiếu thốn gì cứ nói chú lo cho.”

Không thể lay chuyển được, Uông Tễ đành lưu lại số liên lạc của Uông Thiệu Quân. Anh vào nhà, lấy ra hai bao thuốc lá và một túi bánh ngọt mang ra: “Thuốc này là loại tốt, cháu không hút thuốc, nhưng mua sẵn để trong nhà phòng khi cần. Chú giúp cháu chuyển đồ không công, hai bao thuốc này coi như thay lời cảm ơn, chú cứ nhận đi.”

Uông nhìn qua nhãn hiệu, hơi giật mình: “Loại này đắt đỏ lắm!”

“Chú giúp cháu, cháu tặng chú ít thuốc hút có sao đâu. Coi như cháu tròn bổn phận làm cháu trai.”

Do dự một lúc, cuối cùng Uông Thiệu Quân cũng cười tươi, nhận lấy. Ông vốn chẳng mấy khi mua loại thuốc xịn như vậy cho mình.

Sau đó, Uông Tễ đưa túi bánh ngọt cho Uông Thanh: “Chỗ anh không có món gì phù hợp cho trẻ con. Em mang bánh này về cho cô với ông bà trong nhà ăn thử nhé.”

Uông Thanh nhìn cha mình nhận thuốc, cũng đưa tay nhận bánh, nhỏ giọng đáp:

“Em mười sáu tuổi rồi, đâu phải con nít nữa…”

Uông Thiệu Quân đứng bên cười: “Anh mày lớn hơn tụi bây cả chục tuổi, trong mắt ảnh mày không phải con nít thì là gì?”

Uông Thanh liếc nhìn Uông Tễ, ánh mắt không giấu được vẻ kinh ngạc.

Sau khi tiễn hai cha con, Uông Tễ rửa sạch chén trà rồi lên núi sau nhà hái bồ công anh đem về, chuẩn bị xử lý đống đồ mới chuyển tới.

Chiếc xe máy anh mua từ hôm qua đã được đăng ký biển số qua một dịch vụ trực tuyến. Nhưng chiếc xe này…

Uông Tễ lấy điện thoại nhắn tin cho Uông Dịch Dương: “Chiếc xe này không giống với loại anh tưởng tượng lắm.”

Uông Dịch Dương trả lời rất nhanh: “Xe này tiện lắm! Đi làng quê mua đồ hay chở hàng nhẹ đều hợp, giá cũng phải chăng. Mua xe xịn quá để làm gì ở đây?”

Lời cậu ta nói quả thực có lý. Ở vùng quê, xe không cần phải quá sang trọng. Uông Tễ nhìn chiếc xe tay ga nhỏ màu trắng, cuối cùng cũng miễn cưỡng chấp nhận.

Anh nhắn thêm: “Còn nữa, sao em đi nói với mọi người trong thôn rằng anh là cổ đông lớn vậy?”

Uông Dịch Dương đáp lại: “Thì em sợ có người tò mò nói ra nói vào thôi. Với lại, bao nhiêu năm nay anh làm ăn ở ngoài, trong mắt tụi em anh đã tự do tài chính từ lâu rồi.”

“Thôi đi ông, đừng nói vậy nữa, nghe ngại lắm.”

Nói qua lại đôi ba câu, Uông Tễ cất điện thoại và bắt đầu dỡ các kiện hàng chuyển phát nhanh.

Uông Tễ không mua nhà ở Thượng Hải mà chỉ thuê. Nhiều năm qua, mọi đồ đạc đều do anh tự sắm sửa, từ một căn phòng trống rỗng dần dần trở nên đầy đủ. Khi quyết định về quê, đồ nội thất lớn anh để lại cho chủ nhà, chỉ gửi về những món nhỏ và đặt thêm một vài món mới.

Nhà ở quê đã được trang hoàng từ vài năm trước. Tầng trệt được thiết kế theo phong cách Trung Quốc cổ điển, phù hợp với sở thích của ông nội anh. Nhưng tầng hai, nơi dành cho khách và các phòng ngủ, lại bài trí khá đơn giản. Giờ đây, quyết định ổn định lâu dài, anh muốn cải thiện không gian sống sao cho thoải mái nhất.

Phòng khách nhỏ trên tầng hai được trải thảm. Trước cửa sổ đặt một chiếc sofa đơn và bàn gỗ nhỏ. Một chiếc kệ sách gỗ được anh tự lắp trong ba tiếng, ngăn tủ chứa đầy sách và truyện tranh yêu thích. Máy chơi game ít dùng cũng được đem ra, cùng với một chiếc tủ lạnh mini để trữ bia và trái cây cho mùa hè.

Mỗi ngày Uông Tễ vừa chỉnh lý, vừa làm quen với chiếc xe tay ga mới. Ở Thượng Hải quen đi đường bằng phẳng, nay trở về vùng núi, anh chưa quen với những con đường dốc ngoằn ngoèo và những khúc cua gấp.

Sáng ngày thứ năm, sau khi rửa mặt và chạy bộ, Uông Tễ dọc theo con đèo, chạy xa hơn mọi ngày. Khi đi ngang qua nhà Phù Tô, anh thấy ánh đèn sáng ở tầng hai dù mới chỉ hơn 6 giờ sáng.

Trong sân, những luống hoa đủ màu khoe sắc, tiếng chim hót vang rõ hơn nơi khác, thậm chí có cả đôi chim hỷ thước. Uông Tễ đứng lại, vừa lau mồ hôi, vừa ngắm nhìn cảnh vật một cách ngưỡng mộ.

Sau khi chạy bộ về, tắm rửa xong, anh nấu bữa sáng đơn giản với trứng chưng và khoai lang đỏ. Khoai này là loại trắng lòng, do chính chú Uông trồng trên núi, không thơm mềm như các loại khác nhưng lại bùi và đậm vị. Uông Tễ thích món khoai này, lần nào về cũng xin mang theo một ít.

Ăn xong bữa sáng, anh cưỡi chiếc xe đạp nhỏ, trở về như thường lệ. Mấy ngày nay, anh vẫn luôn ăn thịt khô, lạp xưởng, đồ sấy vốn thơm ngon nhưng ăn nhiều lại dễ ngán. Hôm nay, anh quyết định đi ra chợ quê mua chút thịt heo tươi về để đổi vị.

Vào xuân, không khí trở nên tươi mát, chim oanh bay lượn trên đồng cỏ, khắp núi tràn ngập sắc màu của những loài hoa dại đang nở rộ.

Ven đường, trong sân, một bà lão tóc đã bạc màu đang rải thóc cho gà ăn. Đột nhiên, tiếng động cơ xen lẫn âm thanh gió gào thét xé qua, làm đàn gà đang mổ thóc hoảng hốt vỗ cánh bay tán loạn. Bà lão chậm rãi quay đầu lại, nhưng chỉ kịp thấy bóng dáng mờ nhạt lướt qua giữa núi rừng.

Gió núi thổi tới tấp vào mặt, làm Uông Tễ phải hơi nheo mắt lại. Chiếc áo khoác đen của anh căng phồng theo luồng gió, cổ áo dựng lên. Anh đơn giản kéo khóa áo xuống, để vạt áo tự do tung bay theo làn gió núi.
 
Chương 4: Bánh rau tề thái


Người ở quê thường dậy sớm, mới hơn 9 giờ sáng mà trên đường, các cửa tiệm đã mở cửa gần hết.

Uông Tễ dừng lại trước một tiệm thịt heo. Trên thớt là những miếng thịt tươi vừa mới mổ sáng nay, dù không có ánh đèn chiếu vào, lớp mỡ trên thịt vẫn bóng lên, ánh sáng tự nhiên đầy hấp dẫn.

Ở nông thôn, heo được nuôi bằng bắp, khoai và cỏ nên thịt mềm, ngọt và có mùi thơm đặc trưng. Vì muốn làm thịt viên, chủ quán chọn cho anh một miếng thịt ở phần chân trước: “Thịt chân trước ba phần mỡ, bảy phần nạc, làm viên là chuẩn ngon nhất.”

Uông Tễ quét mã trả tiền, nhưng vì tay chủ quán còn dính dầu mỡ, ông gọi bà chủ ra gói thịt cho anh. Bà chủ nhìn Uông Tễ thêm vài giây, bỗng nhiên hỏi: “Có phải cậu là cháu ông Uông ở thôn Vân Lĩnh không?”

Uông Tễ khẽ đáp: “Dạ vâng.”

Bà chủ tiệm thịt bật cười, nhìn anh rồi nói: “Nhìn cháu mà cứ ngỡ như đang thấy bà nội cháu ngày trước. Giống lắm!” Vừa nói, bà vừa đặt dao xuống, đưa tay chỉ vào mặt mình làm minh họa. “Đúng nét này đây, y như đúc.”

Đã nghe câu này nhiều lần, Uông Tễ chỉ mỉm cười gật đầu. Bà chủ tiệm đang lấy thịt cho anh thì tiện tay thêm một miếng tai heo vào. Anh rút tiền ra trả, nhưng bà vội xua tay, ngăn không cho quét mã thanh toán: “Mấy thứ này có đáng bao nhiêu đâu, nhà cô cũng chỉ để lại nấu ăn thôi. Lần sau cháu mua thịt cứ ghé đây, cô sẽ lựa cho cháu miếng ngon nhất.”

Uông Tễ nói lời cảm ơn, cầm thịt rời đi. Bên cạnh tiệm thịt là cửa hàng bán thực phẩm khô, anh ghé vào mua thêm một ít đồ ăn. Rau củ trên núi giờ vẫn chưa có nhiều, nên anh qua tiệm tạp hóa đối diện mua thêm mấy cái sọt tre và vài dụng cụ làm vườn đơn giản.

Đồ dùng ở nhà lâu không động tới, sọt tre thì mốc meo, dụng cụ làm vườn cũng đã cũ, không còn tiện dùng.

Sau khi treo thịt và rau củ lên phía trước, Uông Tễ buộc sọt tre và dụng cụ vào yên sau rồi đạp xe về nhà.

Khi ngang qua nhà chú Uông, anh định ghé vào nhờ thím Uông nấu giúp ít đồ ăn trưa, lát nữa anh sẽ mang qua. Nhưng cổng nhà đóng kín, có lẽ họ ra vườn làm việc cả rồi. Uông Tễ đành tiếp tục đạp xe về.

Về đến nhà, anh cất đồ, thay giày, đội nón rơm rồi cầm chiếc sọt tre mới mua cùng cây cuốc nhỏ đi lên núi.

Mấy ngày nay trời mưa, đất trên núi vẫn còn ướt sũng. Uông Tễ lội bùn tìm một lúc lâu mới phát hiện một góc có rau dại mọc lên xanh tốt.

Lúc này cây rau chưa ra hoa, cọng còn non mềm. Uông Tễ ngồi xổm xuống, dùng cuốc đào một bụi.

Ban đầu anh còn lóng ngóng, lưỡi cuốc toàn cắt trúng lá hoặc rễ cây. Nhưng làm vài lần liền quen tay, anh cuốc xuống đất bên cạnh, rồi nhẹ nhàng bứng lên nguyên một bụi rau dại lành lặn.

Chậm rãi đào được nửa sọt, anh ngồi tại chỗ giũ bớt đất bám trên cây, sau đó vác sọt về. Trên núi lúc này thứ gì cũng có, dọc đường anh còn nhìn thấy cả một đám rau diếp cá, nhưng không chịu được mùi rau này nên đi vòng qua chỗ khác.

Về nhà, anh lấy một thau nước để ngâm rau dại. Đất bám nhiều, rửa không sạch ngay được nên phải ngâm trước cho dễ làm.

Sau đó anh thay giày, lau sạch sàn nhà, rồi vào bếp rót một ly trà bồ công anh uống. Trà bồ công anh đắng, nên sáng nay anh đã cho thêm mấy cánh hoa hồng để dịu vị.

Cây tề thái được cắt gốc, rửa sạch đất bùn. Trời vẫn còn sớm, Uông Tễ mang đống rau vào bếp chuẩn bị nấu ăn.

Dạo này anh hay dùng bếp gas để tiện lợi, nhưng ngày hôm nay rảnh rỗi, anh quyết định thử lại bếp củi. Dù bếp củi bất tiện, nhóm lửa khó khăn và thường bị ám khói, nhưng cơm nấu từ bếp củi luôn thơm ngon đặc biệt.

Bên cạnh bếp, chú Uông và thím Uông đã chuẩn bị sẵn một đống củi tốt từ trước, phòng khi Uông Tễ cần dùng. Họ sợ anh mới về quê còn lạ lẫm, thiếu củi nhóm lửa vào bữa cơm.

Việc nhóm bếp củi đòi hỏi khéo tay và kỹ thuật. Lâu ngày không làm, Uông Tễ lúng túng mất hơn nửa tiếng mới đốt được lửa ổn định. Bếp củi nhà anh có hai nồi lớn và hai nồi nhỏ. Hai nồi lớn đặt hai bên, một để nấu cơm, một để xào rau. Hai nồi nhỏ phía trước và phía sau dùng để nấu nước hoặc hầm canh.

Sau khi vo gạo sạch và cho vào nồi bên trái để nấu cơm, Uông Tễ đổ nước vào nồi bên phải để trụng rau. Khi nước sôi, anh cho cây tể thái vào, màu rau xanh nổi lên, nhìn rất tươi mát. Trụng xong, anh vớt rau ra, ép ráo nước rồi dùng dao thái nhuyễn để riêng.

Thịt heo sáng nay mua được xay nhuyễn, trộn cùng một chút muối, tiêu và lòng trắng trứng. Để thịt bớt mùi, anh thêm nước hành gừng, rồi cho rau tể thái đã thái nhỏ vào. Thêm chút tinh bột khoai lang đỏ và củ mài nghiền, hỗn hợp trở nên dẻo mịn.

Từ nhỏ, Uông Tễ đã sống cùng ông nội. Tuy ông nội anh rất thương cháu nhưng lại nấu ăn dở đến mức khó tin. Đồ ăn cháy khét ông cũng tiếc không bỏ, chỉ dành tiền cho Uông Tễ đi mua cơm, còn mình ăn tạm đồ cháy. Thương ông, Uông Tễ quyết tâm học nấu ăn từ hàng xóm. Trong khi bạn bè còn kén ăn, anh đã biết nấu những món ngon lành. Những năm đi làm xa, dù thường ăn cơm hộp, tay nghề nấu ăn của anh vẫn không bị mai một.

Hỗn hợp thịt được anh vo thành những viên tròn đều, một nửa đem luộc, một nửa chiên trên bếp gas. Trong lúc chờ nồi nước sôi, anh thay nước mới để nấu viên thịt luộc.

Đến khi món ăn hoàn tất, kim đồng hồ chỉ 11 giờ rưỡi. Uông Tễ múc một chén đầy những viên thịt luộc thơm phức, đem qua biếu chú Uông và thím Uông.

Nhà chú thím chỉ cách vài phút đi bộ, nên anh không lấy xe mà bưng chén thịt đi bộ qua.

Cổng nhà mở, Uông Tễ bước vào, thấy chú thím đang tất bật trong bếp. Chú Uông ngồi nhóm lửa, còn thím Uông đứng xào rau, khói bếp bay nghi ngút.

Uông Tễ đứng bên ngoài bếp nhà chú thím, nhìn hai vợ chồng đang loay hoay với bếp củi mà không khỏi cảm thấy thán phục. Anh một mình nhóm bếp củi đã thấy phiền, vừa phải chỉnh lửa vừa phải nấu nướng, mà bọn họ lại phối hợp ăn ý, xoay quanh bếp như không hề thấy phiền toái.

“Chú Uông, thím Uông, đang nấu cơm à?”

Nghe tiếng Uông Tễ, hai người quay lại, mỉm cười chào hỏi. Thím Uông định giữ anh ở lại ăn trưa, nhưng anh lắc đầu, từ chối:

“Không được đâu, nhà cháu cơm cũng nấu rồi. Sáng nay cháu ra chợ quê mua được ít thịt heo, làm thành viên, mang qua cho chú thím nếm thử.”

“Trời, sao mang nhiều thế này? Không cần mang nhiều như vậy đâu, bây để dành đấy ăn đi chứ.” Thím Uông nhìn hai chén đầy viên thịt mà xuýt xoa, vừa nói vừa bị khói bếp làm sặc, ho mấy tiếng.

“Ăn không hết thì bỏ tủ đông, khi nào cần hấp lại ăn cũng được.” Uông Tễ đặt hai chén thịt xuống, rồi đi đến bật máy hút khói trong bếp, phàn nàn: “Sao thím không bật máy hút khói? Khói nhiều thế này vừa ngộp vừa không tốt cho sức khỏe.”

Thím Uông vừa ho vừa cười xòa: “Xào hai món rau thôi mà, thím nghĩ mở cửa sổ cho thoáng là được, khỏi phải bật máy cho tốn điện.”

Biết chú thím tiết kiệm, Uông Tễ vẫn không đồng tình: “Máy hút khói bật vài phút cũng không tốn là bao. Nhìn xem, khói dầu thế này hại sức khỏe. Nếu thím không bật lần sau, cháu sẽ mách Dịch Dương đấy.”

“Ấy, đừng nói với nó!” Thím Uông hoảng hốt xua tay. “Cái thằng đó lải nhải lắm. Mà biết chuyện này thì nó sẽ nói mãi, hết ngày cũng chưa xong. Không hiểu giống ai mà nói nhiều như vậy.”

“Chú thím sợ bị nó nhắc thì sửa đi chứ.” Uông Tễ cười, tiện tay lấy một chiếc đĩa sạch, giúp thím bày món vừa xào ra.

Chú Uông ngồi gần đó cũng gật gù hùa theo: “Sửa, sửa ngay! Từ nay chú sẽ nhắc thím bây bật máy hút khói, không để quên nữa.”

Trò chuyện thêm vài câu, Uông Tễ nếm thử một miếng thịt cá khô thím vừa xào, khen ngon, rồi cầm tay không trở về nhà.

Trời hôm nay mát mẻ, gió từ rừng trúc thổi qua, làm cả khu rừng xào xạc. Uông Tễ đi bộ, vừa cảm nhận không khí thoáng đãng vừa thấy tâm trạng nhẹ nhõm lạ thường.

Nhưng khi bước gần đến cổng nhà mình, anh bất chợt thấy một bóng người đang đứng bên ngoài sân.

Đầu xuân, dù trời không lạnh lắm nhưng sáng nay Uông Tễ vẫn mặc một chiếc áo khoác mỏng. Lúc này anh đã cởi áo khoác, chỉ mặc áo thun bên trong mà vẫn thấy dễ chịu. Ngược lại, người đứng ngoài cổng lại mặc áo len đen dài tay.

Màu đen làm nổi bật nước da trắng trẻo của người đó, và dáng vóc cao lớn khiến anh ta trông thật nổi bật. Người đó quay lưng lại phía Uông Tễ, dường như đang chăm chú nhìn vào sân nhà qua cổng. Hàng mày hơi nhíu lại, vẻ mặt trầm tư.

Uông Tễ bước đến gần, định lên tiếng, thì người kia đã cất giọng trước. Âm thanh thấp và đều: “Gâu gâu, ra rồi.”

Câu nói khiến Uông Tễ ngẩn người. Anh nhíu mày, hỏi lại: “Gâu gâu? Ai ra? Ai ở trong nhà tôi?”

Nghĩ rằng mình để cửa mở, Uông Tễ liếc vào sân, không thấy gì lạ nhưng lòng vẫn có chút hoang mang.

Khi anh bước gần hơn, người kia bỗng giật mình, quay phắt lại. Cả hai bất ngờ chạm mắt nhau, rồi đồng thời lùi lại một bước vì kinh ngạc.

Uông Tễ cố gắng giữ bình tĩnh, hỏi: “Nhà tôi có ai sao?”

Phù Tô khẽ híp đôi mắt, ánh nhìn mang theo chút gì đó nhàn nhạt khó đoán. Chỉ vài giây sau, ánh mắt hắn dịu lại, nhận ra đây là nhà Uông Tễ. Hắn khẽ mở miệng, nói lời xin lỗi: “Xin lỗi.”

Rồi hắn quay về phía trong sân, bất ngờ cất giọng: “Gâu gâu.”

Tiếng hắn gọi không lớn, nhưng lại trầm ấm hơn lúc nãy.

Vừa dứt lời, Uông Tễ đã nghe thấy trong sân vang lên tiếng bước chân dồn dập, lạch cạch lạch cạch từ xa vọng lại gần.

Chỉ chốc lát, ánh mắt anh hạ xuống, thấy từ cửa hông của căn bếp nhà mình lao ra một con… chó nhỏ.

Đó là một con chó ta nhỏ xíu, bụng trắng, tai vàng. Dáng vẻ thì bình thường, nhưng nhìn kỹ lại vô cùng đáng yêu. Vì nó mập ú, bộ lông xù lên như bông gòn, từ xa nhìn cứ như một cục bông biết chạy.

Con chó nhỏ chạy tới, lượn hai vòng quanh chân Phù Tô, đôi mắt long lanh nhìn hắn một chốc, rồi quay đầu phóng đến chân Uông Tễ, phịch xuống đất hai cái.

“Vậy là nó chạy vô đây hả? Rồi kêu ‘gâu gâu’ như thiệt?” Uông Tễ bật cười, lấy mũi giày chạm nhẹ vào bụng mềm mại của con chó, phát hiện nó nằm yên không động đậy. Anh cúi đầu nhìn nó, cười nói: “Chó ta đúng không? Anh nuôi nó hả?”

Con chó nhỏ nằm gọn dưới chân, Uông Tễ ngồi xổm xuống, đưa tay vuốt nhẹ lên đầu nó.

Phù Tô đáp: “Đi tới cửa nhà cậu tự nhiên nó chạy thẳng vô đây. Xin lỗi, cậu coi thử coi nó có đụng phá gì không.”

“Không sao đâu, nhỏ xíu vầy thì làm được gì.” 

Uông Tễ vẫn cầm cái chén trên tay, vừa ngồi xuống là con chó nhỏ lập tức hưng phấn hẳn lên. Nó ngẩng đầu nheo mắt hưởng thụ khi được vuốt ve, đồng thời cứ cố gắng chồm vào cái chén trên tay anh.

Uông Tễ cúi nhìn cái chén còn sót chút vụn đồ ăn bên trong, liền hiểu ra. Chắc hẳn là con chó ngửi thấy mùi thịt từ bếp nhà mình nên mới chạy vô.

“Đúng là mũi thính như chó thiệt!” Anh khẽ cười.

Cái chén thì to, mà con chó lại nhỏ xíu. Nó cứ cố chui đầu vào, liếm sạch đáy chén đến nỗi suýt thì chui lọt cả thân mình vào luôn. Nhìn nó loay hoay buồn cười quá, Phù Tô cúi người định bế nó lên.

Ngón tay dài của hắn vừa chạm vào lông con chó, nó đã khó khăn lách ra, rồi lại xoay người chạy vụt vào sân. Không quên ngoái đầu nhìn Phù Tô, khe khẽ sủa: “Gâu gâu.”

Tiếng sủa nhỏ xíu như chính vóc dáng của nó.

Con chó vừa chạy ra ngoài sân chưa được bao lâu lại lò dò quay vào. Uông Tễ nhìn thấy vẻ mặt bất đắc dĩ của Phù Tô, liền lên tiếng: “Vô nhà ngồi chút không? Không sao đâu, trong thôn chó là nuôi chung, nó thấy mùi đồ ăn thì nhà nào cũng vô hết. Nhà tôi chắc còn mùi đồ ăn trong bếp á.”

Con chó nhỏ vẫn chưa chịu dừng lại, còn mon men tới sát cửa bếp nhà Uông Tễ. Nó ngẩng đầu nhìn Phù Tô, cái đuôi ngoe nguẩy đầy phấn khích, chẳng chút đoái hoài đến việc chủ nhân của mình đang lúng túng thế nào.

Phù Tô đứng tại chỗ, vụng về cúi đầu nói: “Vậy làm phiền cậu rồi!”
 
Chương 5: Cơm cháy chan canh


Sau khi làm xong thịt viên, nêm nếm muối và gia vị cẩn thận, Uông Tễ vẫn không dám đưa thẳng cho con chó nhỏ ăn.

Ở thôn quê, chó ta thường được cho ăn cơm thừa canh cặn, không ai quá chú trọng chuyện thức ăn. Nhưng con chó nhỏ này lại khác, là thú cưng của Phù Tô. Nhìn Phù Tô, Uông Tễ đoán con chó này chắc ngày thường được nuôi bằng thức ăn loại “xịn” như thịt hộp hoặc thức ăn dành riêng cho chó cao cấp. Thịt viên mà anh vừa làm, tuy ngon nhưng lại nêm muối, sợ cho nó ăn vào lại không tốt.

May mà trong máy xay thịt và cái bồn lúc nãy còn sót chút thịt vụn. Uông Tễ cẩn thận vét sạch, cố nặn được hai viên thịt nhỏ. Anh đặt mấy viên thịt vào nồi hấp, thêm nửa củ mài và một ít khoai lang đỏ vào chung. Con chó nhỏ cứ lẽo đẽo quanh chân, vừa sủa vừa rên ư ử đòi ăn. Uông Tễ cúi xuống, xoa đầu nó, vừa cười vừa nói: “Ráng chờ chút đi, cho mày ăn bữa ‘cơm chó bình dân’ nha.”

Con chó nhỏ tất nhiên không hiểu gì, nhưng cũng nghe lời, ngoan ngoãn ngồi yên, chỉ dùng đầu cọ nhẹ vào chân Uông Tễ như để làm nũng.

Lúc đó, Uông Tễ ngẩng đầu nhìn ra ngoài sân.

Dưới tán hoa sơn trà, Phù Tô đang ngồi trên chiếc ghế mây. Dáng ngồi thẳng tắp, ánh mắt hướng xuống đất, không biết đang nghĩ gì. Gương mặt hắn nổi bật, sắc nét như được điêu khắc từ ngọc, ánh sáng phản chiếu càng làm làn da trắng trẻo thêm phần rạng rỡ.

Uông Tễ đã gặp rất nhiều kiểu người trong đời. Công việc đòi hỏi anh phải tiếp xúc với đủ loại tính cách, từ chân chất đến mưu mẹo. Nhưng Phù Tô lại không giống bất kỳ ai anh từng gặp. Hắn không hẳn là người quá nổi bật hay lập dị, cũng chẳng hẳn là kiểu trầm mặc đơn thuần. Ở hắn có một vẻ tĩnh lặng đến kỳ lạ. Sự tĩnh lặng đó vừa ôn hòa, vừa tạo cảm giác xa cách, như thể dù có ngồi đối diện thì khoảng cách giữa hai người vẫn là một bức tường vô hình.

Tiếng chuông điện thoại bất ngờ vang lên, kéo Uông Tễ trở lại thực tại. Là một cuộc gọi quảng cáo. Anh lập tức cúp máy, liếc nhìn đồng hồ trên màn hình, nhận ra đã gần 12 giờ trưa.

Nồi cơm trên bếp củi đã chín từ lâu. Vì nhóm củi một lần khá cực, Uông Tễ nấu dư thêm một chút, tính để cơm thừa sáng mai chiên lên ăn. Trong nồi hấp, phần thức ăn cho chó vẫn chưa chín, củ khoai lang đỏ khi chọc thử vẫn còn cứng.

Anh bước ra khỏi bếp, đến bên chỗ Phù Tô, cười nói: “12 giờ rồi, hay ở lại ăn cơm luôn đi? Giờ về nấu chắc trễ lắm.”

Phù Tô đứng dậy, vẻ mặt như định từ chối.

Uông Tễ chỉ về phía con chó nhỏ đang lon ton theo sát phía sau, nói: “Viên thịt của nó còn chưa hấp chín, chẳng lẽ để tôi với nó ăn no, còn anh thì đói bụng ngồi chờ? Trưa nay tôi nấu cơm nhiều lắm, ở lại ăn một bữa đi, cùng thôn với nhau, không cần khách sáo.”

Anh nói liền một hơi, sợ Phù Tô ngại ngùng mà từ chối, nhưng cũng lo rằng nếu hắn thật sự từ chối, chính mình lại càng ngượng ngùng hơn. Vừa nói, Uông Tễ vừa cảm thấy hình như có điều gì đó không ổn.

Phù Tô đứng ngay trước mặt, im lặng nhìn anh, nhưng khi Uông Tễ nói hết, hắn hơi nghiêng đầu, quay tai trái về phía anh, ánh mắt vẫn điềm tĩnh nhưng lại lộ ra chút bối rối, tựa hồ đang dò hỏi điều gì.

Trong thoáng chốc, Uông Tễ hơi bối rối. Dù không muốn nghĩ xấu, nhưng những chi tiết nhỏ nhặt từ lần đầu gặp nhau đến giờ—tính cách ít nói, trả lời chậm rãi khiến anh không thể không đoán. Có phải… Phù Tô nghe không rõ?

Anh nuốt khan, môi mấp máy, rồi cố gắng điều chỉnh giọng nói: “Lưu lại ăn cơm đi?”

Lần này, anh cố ý nói chậm hơn, nâng giọng thêm chút: “Cơm tôi nấu nhiều lắm, đừng ngại.”

Phù Tô khẽ mỉm cười, nét mặt có chút giãn ra. Hắn đáp: “Vậy thì làm phiền cậu. Cảm ơn.”

Thấy hắn nhận lời, Uông Tễ nhẹ cả người. Anh gật đầu, quay trở lại bếp, nhưng vừa đặt tay lên kệ bếp đã vô thức vỗ trán một cái, trong lòng như có chút áy náy. Con chó nhỏ không hiểu chuyện gì, lẽo đẽo lại gần cọ vào chân anh. Uông Tễ cúi xuống, xoa đầu nó, như thể muốn xoa dịu cảm giác khó nói trong lòng.

Dù sao cũng phải nấu cơm, Uông Tễ nhanh chóng dọn dẹp tâm trạng rồi bắt tay vào việc. Sáng nay, anh có mua vài bó rau và trứng ở tiệm. Nhà còn ít tỏi non do thím Uông đưa hôm trước. Anh xào một dĩa củ mài với mộc nhĩ, rồi dùng tỏi non chiên thêm hai quả trứng gà.

Trong lúc dọn bếp, mắt anh vô tình liếc thấy cái túi đựng tai heo mà bà chủ tiệm thịt tặng kèm. Theo phản xạ, Uông Tễ liền băm hành tỏi, thêm ớt đỏ, rồi bỏ tai heo vào xào. Đến khi dĩa tai heo thơm phức được nhấc ra khỏi bếp, anh mới sực tỉnh: “Chờn đất! Tai heo hả?”

Nhìn dĩa tai heo đã xào xong, Uông Tễ có chút bối rối. Anh nghĩ thầm: Nếu dọn món này ra, Phù Tô có khi lại nghĩ mình đang cố ý chọc vào chuyện nhạy cảm của anh ta không nhỉ.

Vỗ trán một cái, anh quyết định để dĩa tai heo lại cho bữa tối. Trưa nay còn có thịt viên, xào tai heo làm gì cho thêm rắc rối. Nghĩ vậy, Uông Tễ đặt dĩa tai heo lên bệ bếp, định lấy màng bọc thực phẩm gói lại.

Đúng lúc này, Phù Tô bước vào bếp, lên tiếng hỏi: “Có cần tôi phụ gì không?”

“Không cần đâu,” Uông Tễ lắc đầu, xua tay, “Mọi thứ chuẩn bị xong hết rồi, chỉ cần bưng ra là ăn được. Trời hôm nay không mưa, mình dọn ra sân ăn cho mát.”

Phù Tô gật đầu, ánh mắt lướt qua bệ bếp. Thấy hai dĩa thức ăn đã xong, hắn đưa tay cầm cả hai dĩa để mang ra sân.

Uông Tễ nhìn thấy, lòng chợt thắt lại. Một trong hai dĩa đó chính là dĩa tai heo. Mặt anh thoáng chốc cứng đờ. Sau mười năm kinh nghiệm làm việc, anh đã rèn luyện được sự điềm tĩnh, nhưng giờ đây biểu cảm trên mặt hoàn toàn phá vỡ. Uông Tễ chỉ muốn đập đầu vào đâu đó vì lỡ để Phù Tô mang món này ra.

Việc đến nước này, chỉ còn cách cố gắng hết sức. Uông Tễ múc nồi cơm to ra, tận dụng cơm cháy ở đáy nồi. Anh bẻ cơm cháy thành miếng nhỏ, rồi chế nước cơm vào, nấu thành một nồi cháo cơm cháy.

Lửa trong lòng bếp vẫn cháy rực, viên thịt trong nồi nước vẫn giữ được độ nóng. Anh lấy hai cái chén sứ, bỏ vào chút muối, dầu mè, và ít cần tây thái nhỏ còn dư lại. Sau đó, anh múc nước dùng nóng bỏ vào làm đế canh, kèm theo hai viên thịt, biến nó thành một tô canh thịt viên cần tây. Viên chiên cũng được múc ra để riêng. Mở nắp nồi hấp, cơm của con chó đã chín.

Uông Tễ cùng Phù Tô mang đồ ăn ra đặt trên bàn gỗ trong sân. Trong sân chỉ có một chiếc ghế nhỏ vừa tầm, anh đưa nó cho Phù Tô, rồi chỉ vào phòng khách: “Để tôi vô lấy thêm ghế.”

Khi Uông Tễ trở ra với chiếc ghế khác, Phù Tô đang ngồi ở bàn gỗ, lột khoai lang nóng hổi vừa hấp. Đầu ngón tay hắn ửng đỏ vì nóng, nhưng hắn vẫn thuần thục bẻ khoai lang thành miếng nhỏ, thổi nguội rồi thả vào chiếc chậu hoa dùng tạm làm bát cho con chó.

Con chó cắm đầu ăn xì xụp. Uông Tễ ngồi xuống đối diện Phù Tô. Hắn ngước lên, nở một nụ cười nhè nhẹ, cảm ơn anh: “Cảm ơn cậu nha, phiền cậu quá.”

Nụ cười cùng ánh mắt mang theo nét đùa giỡn của Phù Tô làm Uông Tễ thoáng ngẩn người. Tim anh đập lệch nhịp một chút. Dù vậy, anh không để ý lắm, lần kiểm tra sức khỏe trước đây cũng đã cho kết quả anh có vấn đề về nhịp tim.

“Chuyện nhỏ thôi mà, không có phiền gì đâu. Thử cơm xem ngon không.” Uông Tễ gắp một chén cơm, nhẹ giọng và chậm rãi.

Phù Tô cảm nhận được sự chú ý đặc biệt trong cách nói của anh.

Hắn nhận chén cơm, do dự vài giây rồi khẽ nói: “Tai tôi có chút vấn đề.”

Uông Tễ ngước mắt lên, lộ rõ vẻ ngạc nhiên.

Phù Tô bình thản giải thích. “Mấy năm trước tôi bị ù tai do tổn thương thần kinh. Ban đầu chỉ là ù tai, nghe không rõ. Sau đó, thính lực giảm dần, thậm chí còn xuất hiện ảo giác. Lúc đó tôi đã đi khắp nơi chữa trị, có lúc tưởng bệnh thuyên giảm…”

Hắn dừng một chút, như cố chọn từ ngữ. “Nhưng hai năm trước, bệnh nặng thêm.”

Phù Tô kể mùa đông năm đó hắn phát bệnh nặng, tình trạng tệ hơn nhiều so với trước đây. Đi khám, bác sĩ chẩn đoán thêm bệnh hội chứng Meniere – một căn bệnh không thể chữa khỏi hoàn toàn.

Hội chứng Ménière



“Thính lực giảm, ù tai liên tục… Tôi không chỉ bị suy nhược mà còn ảnh hưởng khả năng giao tiếp. Người khác nói chuyện mà hơi nhanh hay câu quá dài, tôi phải cố gắng lắm mới hiểu được.”

Hắn dừng lại, như trút ra sự thật đã chôn giấu. “Vậy nên tôi thường tránh nói chuyện với người khác.”

Hắn ngước mắt lên, lần đầu tiên thật lòng nhìn thẳng Uông Tễ: “Xin lỗi, tôi đã lạnh nhạt trong những lần gặp trước.”

Uông Tễ nhìn hắn, không nói được là tiếc nuối hay đau lòng. Sau vài giây, anh chỉ lắc đầu: “Không sao đâu.”

Anh lại nhắc lại một lần nữa, nhẹ nhàng và chắc chắn: “Không có việc gì đâu.”

Câu nói này dường như mang theo chút sức mạnh, làm Phù Tô cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Việc nói ra bí mật giống như trút được một gánh nặng, hắn thả lỏng, cầm lấy đôi đũa, trong giọng nói còn lộ ra chút vui vẻ: “Đồ ăn hình như sắp nguội rồi.”

Hơi nóng bốc lên từ món ăn quả thật đã dần tan đi. Uông Tễ liền đáp: “Ăn mau đi, nguội rồi sẽ không ngon nữa.”

Phù Tô gắp một viên thịt chiên, bên ngoài giòn tan, bên trong mềm ngọt, nhai chậm rãi, cẩn thận thưởng thức. Hắn khẽ gật đầu, nói: “Ngon lắm.”

Bát canh thịt viên cần tây được đựng trong chiếc chén sứ Thanh Hoa, trông rất bắt mắt. Canh trong vắt, hương vị tươi ngon. Cần tây mang vị ngọt dịu. Phù Tô cầm muỗng, nghiêm túc uống hết một chén canh, từng viên thịt cũng được hắn ăn sạch không sót miếng nào.

Đã về quê một thời gian, Uông Tễ ngoài bữa cơm đầu tiên ở nhà chú Uông, vẫn luôn ăn một mình. Tuy ăn một mình cũng cảm thấy thoải mái, nhưng có thêm người thì đúng là vui hơn.

Phù Tô lại là người ít nói, ăn uống từ tốn, nhưng lại rất nể tình. Từng miếng cơm trắng đều được hắn nhai kỹ, như thể đang thưởng thức món ngon bậc nhất.

“Cơm này thơm thật,” Phù Tô cảm thán.

“Là vì nấu bằng bếp củi, so với nồi cơm điện thì chắc chắn thơm hơn.” Uông Tễ chậm rãi trả lời. Chính anh cũng đã lâu rồi không ăn cơm nấu bằng bếp củi, giờ đây từng hạt cơm lại khiến anh có cảm giác thân thuộc.

“Nhưng ngày thường chắc anh không dùng bếp củi đâu, đúng không?” Uông Tễ hỏi. Nhà quê thường vẫn giữ bếp củi, chắc chắn nhà Phù Tô cũng có, nhưng nhìn hắn không giống người hay nhóm bếp.

Quả nhiên Phù Tô lắc đầu: “Nhà có, nhưng chẳng dùng bao giờ. Tôi không nấu cơm.”

“Không nấu cơm?” Uông Tễ ngạc nhiên. “Vậy anh ăn gì?”

Phù Tô đang cắn một miếng củ mài. Miếng củ ngọt thanh như lê, giòn rụm, phát ra âm thanh rất vui tai. Hắn thong thả đáp: “Chủ yếu ăn yến mạch với bánh mì.”

Uông Tễ ngừng lại một chút, gắp thêm một viên thịt, tò mò hỏi: “Ngày nào cũng ăn như thế à?”

Phù Tô cười nhẹ, ánh mắt thấp thoáng nét vui vẻ: “Tôi không giỏi dùng lửa để xào nấu. Ăn mấy món đơn giản như vậy là tiện nhất.”

Uông Tễ gật đầu, bỏ viên thịt vào miệng, trong lòng không khỏi cảm khái. Nhìn đôi tay khớp xương rõ ràng của Phù Tô, anh không thể không nghĩ đến văn hóa ẩm thực phong phú của Trung Hoa. Một người về nước rồi mà ngày nào cũng ăn bánh mì, nghĩ đi nghĩ lại, thật sự cảm thấy có chút đáng thương.

Uông Tễ bưng ra hai chén canh cơm cháy, đặt một chén trước mặt Phù Tô: “Uống thử đi, chắc anh ít khi uống cái này.” Canh cơm cháy không phải món đắt đỏ, nhưng với Phù Tô, món ăn này chắc hẳn rất mới lạ.

Phù Tô nhận lấy chén, thổi nhẹ hơi nóng trước khi nhấp một ngụm nhỏ, sau đó, không nói gì, liền uống liền một hơi hết nửa chén.

“Rất thơm.” Hắn vừa nói vừa nhấm nháp phần cơm cháy mềm mại trong chén.

“Đúng không? Chỉ có bếp củi lửa mới nấu được như thế này, bên ngoài rất hiếm khi tìm thấy.” Uông Tễ giải thích.

Cơm cháy giòn vàng khi được đun trong nước cơm củi lửa, ngấm đều tạo thành hương vị đặc trưng mà khó có cách nào thay thế.

Thấy chó con ăn xong đồ trong bát mà vẫn không ngừng hít hà mùi cơm thơm nồng, Uông Tễ cũng múc cho nó một chén nhỏ. Chó con vùi đầu ăn sạch, sau đó nằm dài xuống đất tiêu hóa, một lát sau lại bật dậy, chạy đến bên chân Uông Tễ và Phù Tô cọ cọ vài lần, rồi nhanh chóng chạy đi chơi.

“Nó ăn uống no đủ thế này là định về nhà à? Có nhận được đường không đấy?” Uông Tễ hỏi.

Phù Tô lắc đầu, chậm rãi giải thích. Hóa ra, chó con không phải do hắn nuôi hẳn hoi, mà chỉ là trước đó hắn đã từng cho nó ăn vài lần, vậy nên giờ nó nhận hắn là “chủ”. Khi đói bụng, nó sẽ chạy đến tìm hắn, ăn no rồi lại tha thẩn chơi khắp núi. Chỉ khi trời trở lạnh hoặc người bẩn thỉu mới ghé vào nhà hắn ngủ nhờ, hoặc lay hắn dậy để xin tắm rửa.

“Con này không lớn lắm mà biết chọn người ghê.” Uông Tễ bật cười, đánh giá.

Phù Tô không mấy quan tâm đến chủ đề này. Ánh mắt hắn vẫn nhìn chén cơm cháy, rồi bất chợt hỏi: “Tôi chụp ảnh được không?”

“Được chứ.” Uông Tễ đáp, “Nhưng món ăn này đều đã ăn dở rồi, có khi không được đẹp.”

“Không sao đâu.” Phù Tô mỉm cười, lấy điện thoại ra. Bàn tay hắn lớn, các khớp rõ ràng, cầm chiếc điện thoại trong tay khiến nó trông nhỏ hơn hẳn.

Hắn hơi nghiêng người, tùy ý bấm chụp một tấm, sau đó đưa điện thoại cho Uông Tễ xem: “Đồ ăn cậu nấu đẹp lắm, bối cảnh cũng đẹp, lên ảnh trông thật sự rất ấn tượng.”

Ngón tay chạm nhẹ vào màn hình, trên đó hiện ra bức ảnh: phía xa là những ngọn núi xanh mướt, trong sân hoa sơn trà nở đỏ rực, một vài bông rơi lả tả trên đất, còn trên bàn gỗ là chén canh cơm cháy men xanh, đơn giản mà hài hòa với đủ sắc xanh, đỏ, trắng, vàng. Trong ảnh, bàn tay đang cầm đũa của Uông Tễ hơi mờ đi, tạo cảm giác ấm áp, chân thực.

Quả thực rất đẹp.

Sau khi ăn xong, Phù Tô không để Uông Tễ dọn dẹp, sau khi dọn xong mọi thứ thì ngồi trong sân uống một tách trà, tận hưởng hương hoa sơn trà thoang thoảng.

Đến lúc chia tay, đứng ở cửa sân, hắn đột nhiên hỏi: “Lúc trưa cậu xào cái gì với ớt cay vậy? Mềm mềm, hơi dính, vị rất lạ.”

Hóa ra, từ lúc ăn miếng đầu tiên, hắn đã muốn hỏi nhưng vì ngại không lễ phép nên nhịn. Giờ quen Uông Tễ hơn chút, hắn mới không nhịn được mà lên tiếng.

Uông Tễ nghe vậy bỗng ngẩn người, lát sau mới chậm rãi đáp: “… Là lỗ tai heo.”

Phù Tô hơi nhíu mày.

Uông Tễ vội vàng giải thích: “Không phải tôi cố ý đâu. Sáng nay ra chợ mua thịt, cô bán thịt cho thêm một ít. Lúc trưa nấu cơm, tôi vô ý xào luôn…”

Anh nói nhanh rồi lại chậm, cố gắng giải thích rõ ràng mà vẫn lo Phù Tô khó chịu. Nhưng chưa kịp nói hết, Phù Tô đã bật cười.

Không phải kiểu cười xã giao, mà là thật sự thoải mái, tự nhiên. Nụ cười ấy tựa như cơn gió núi mát lành ùa đến, khiến người ta bất giác cảm thấy dễ chịu.

“Ăn gì bổ nấy à?” Phù Tô nói, giọng hơi trêu đùa.

Uông Tễ ngơ ngác.

Phù Tô khẽ nghiêng đầu, ánh mắt mềm mại: “Cảm ơn nhé.”
 
Chương 6: Sủi Cảo Thủy Tinh


Thời tiết mùa xuân thất thường, nhiệt độ khi nóng khi lạnh.

Hôm qua còn gió lạnh phảng phất, đêm ngủ phải đắp chăn dày, hôm nay lại nắng vàng rực rỡ, ánh mặt trời gay gắt như chuyển sang mùa hạ.

Uông Tễ sáng nay ăn qua loa cái màn thầu rồi vác nông cụ ra đồng. Cuối cùng cũng có một ngày nắng, đất trồng rau nhà anh còn chưa khai hoang, nếu không tranh thủ thì sẽ lỡ mất tiết xuân phân.

Trong núi rộng đất thưa, trước kia mỗi nhà được chia nhiều đất trồng, Uông Tễ tự lượng sức, không định trồng hết. Anh chỉ chọn ba mảnh đất, dự tính trồng ít rau hẹ, xà lách và khoai tây trước, chờ đến tiết Thanh minh mới khai thêm hai mảnh nữa để trồng dưa và đậu.

Đất để lâu không canh tác, cỏ dại mọc um tùm. Uông Tễ cầm lưỡi hái, từng khóm một dọn sạch. Việc nhổ cỏ và dọn gốc rễ này ngốn mất của anh hơn hai giờ.

Đợi dọn xong mảnh cuối cùng, rửa tay sạch sẽ, anh cảm giác lưng mình như không còn là của mình nữa. Xem ra, mấy bài thể dục sáng vẫn chưa đủ để anh chống chọi với công việc nặng nhọc.

Anh vừa xoa xoa eo vừa nghĩ, tiếp theo là công việc lật đất, may mắn là công đoạn này có thể đứng làm, đỡ phải cúi lưng quá nhiều.

Đất trồng rau này vốn được chăm sóc từ trước, ít sỏi đá, nên việc lật đất cũng nhanh hơn. Trong khi làm, Uông Tễ còn bắt gặp vài con ấu trùng. Tiết kinh trập vừa qua, muôn loài cũng đã thức giấc dưới những trận mưa xuân đầu mùa.

Lật đất xong, anh rải thêm ít phân tro lên trên để cải thiện chất đất. Đây là kỹ thuật mới mà anh học từ một video nông nghiệp. Dù đã về quê trồng trọt, Uông Tễ vẫn chưa đủ can đảm để dùng phân chuồng.

Làm xong việc, anh tháo mũ rơm, định nghỉ ngơi một lát. Áo thun trên người đã ướt đẫm mồ hôi, anh dùng bao tay lau mặt, lòng bàn tay toàn mồ hôi nhễ nhại.

Hôm nay nhiệt độ lên cao bất thường, Uông Tễ dựa lưng vào gốc cây đỗ quyên bên bờ ruộng, uống nửa ly nước. Cổ anh ngứa ngáy khó chịu vì mồ hôi làm da bị kích ứng. Anh đưa tay cào cào cổ, phát hiện da đã ửng đỏ.

“Trồng trọt đâu phải chuyện dễ dàng…” Uông Tễ than nhẹ, nằm ngửa trên mặt đất, hai tay lót sau đầu. Ánh nắng mặt trời xuyên qua kẽ lá, rọi xuống thành từng tia lốm đốm. Anh nhắm mắt lại, khẽ cười: “Nhưng dù sao cũng đỡ hơn đi làm mệt đầu óc.”

Sau nhiều năm bị công việc chèn ép đến kiệt quệ, giờ đây anh thà để cơ thể mỏi mệt còn hơn tinh thần suy sụp.

Nằm nghỉ một lát, thấy người cũng đỡ mệt hơn, Uông Tễ đứng dậy, phủi bụi đất trên lưng, rồi cầm nông cụ trở về nhà. Đất đã được cày xới xong, mà theo dự báo thời tiết, chiều nay trời sẽ nhiều mây, chuyển mưa nhẹ. Lúc đó có thể tranh thủ gieo rau hẹ và rau xà lách, thêm chút mưa thì càng dễ nảy mầm.

Từ ruộng rau về nhà phải băng qua một đoạn đường xi măng. Uông Tễ leo qua mấy bậc dốc dựng đứng, đến khi bước lên đường lớn thì thấy một chiếc xe tải đang chạy lên núi.

Anh đứng nép qua một bên nhường đường, mắt dõi theo chiếc xe chạy khuất, rồi bất giác nhìn theo bóng xe một lúc lâu.

Nhà Uông Tễ nằm trên đỉnh núi, cao hơn nữa chỉ có nhà Phù Tô.

Kể từ bữa cơm hôm đó, quan hệ giữa anh và Phù Tô đã trở nên thân thiết hơn. Đôi khi dậy sớm tập thể dục, hai người tình cờ gặp nhau, cùng chạy bộ, trò chuyện dọc đường.

Cả hai đều là người trầm tính, nhưng ở gần nhau lại không thấy gượng gạo, dù có khi chẳng nói lời nào.

Khung cảnh trên núi yên tĩnh, khác hẳn sự náo nhiệt của thành phố. Ở đây phần lớn là người già và trung niên, có thêm một người bạn đồng trang lứa để trò chuyện, bỗng chốc trở thành điều dễ dàng cảm thấy thân thuộc.

Về đến nhà, việc đầu tiên Uông Tễ làm là lên lầu hai, tắm rửa sạch sẽ. Ánh nắng buổi sáng đã khiến cổ anh đỏ bừng cả một mảng. Mặc dù mặt nhờ đội mũ rơm nên không sao, nhưng phần cổ thì rát và ngứa. Nghĩ đến việc phải lên mạng đặt kem chống nắng, anh hơi ngao ngán. Còn vết sạm đen thì không đáng lo, chỉ sợ da bị phơi đến lột từng mảng, trông vừa kỳ quặc vừa kém sạch sẽ.

Thay một chiếc áo thun trắng và quần thể thao mới, anh xuống lầu, đi thẳng vào bếp. Lúc này cũng đã hơn mười một giờ, sắp đến giờ cơm trưa.

Buổi sáng, Uông Tễ ăn một chiếc màn thầu mà thím Uông tự hấp. Trước đây khi còn đi làm, căn tin công ty có một quầy bán đồ ăn Đông Bắc, sáng nào cũng có bánh nhân đậu hoặc màn thầu. Mỗi chiếc đều chắc nịch, nắm trong tay không biến dạng. Nhưng màn thầu ở đây thì khác, vừa mềm xốp, vừa ngọt nhẹ, ăn vào rất vừa miệng.

Ngon thì ngon, nhưng không mấy no.

Uông Tễ đã đào xới suốt buổi sáng, cái màn thầu ăn hồi sáng giờ cũng tiêu hóa sạch. Nhưng trời nắng gắt đến mức khiến anh kiệt sức, đứng trong bếp nhìn chằm chằm mấy món đồ mà chẳng có tâm trạng ăn uống gì.

Anh nghĩ bụng, hay là lên lầu ngủ một giấc, chờ khi trời mát hơn sẽ dậy nấu cơm. Đang định đi thì nghe thấy tiếng gõ cửa ngoài sân.

Ra ngoài xem, anh thấy Phù Tô đứng trước cổng. Người này cao lớn, bóng cây anh đào trong sân lả lướt rủ xuống bên cạnh hắn. Thấy Uông Tễ, Phù Tô khẽ giơ tay chào.

“Cửa không khóa, cứ vào đi.” Uông Tễ cười, nhường đường.

Phù Tô đẩy cửa bước vào, đưa cho Uông Tễ một túi đồ.

“Cho tôi?” Uông Tễ theo bản năng nhận lấy, mở túi ra nhìn và lập tức ngạc nhiên: “Anh mua trái cây này ở đâu thế?”

Ở quê, trái cây thường là nhà tự trồng hoặc hái trên núi. Mùa nào thức nấy, như mùa xuân thì có anh đào và quả hạnh, mùa hè là dưa hấu và đào, còn mùa đông lại có quả hồng. Đến mùa người dân ăn không hết, còn chẳng nghĩ đến chuyện bỏ tiền mua trái cây ngoài chợ.

Quê này thậm chí không có tiệm trái cây, chỉ có siêu thị nhỏ lác đác vài quả táo hay chuối. Những món này thường chỉ mua khi đi làm khách.

Thế nhưng trong túi của Phù Tô lại có thanh long, việt quất và một số loại trái cây lạ mắt, rõ ràng không phải ở quê có.

Chợt nhớ đến chiếc xe tải nhìn thấy lúc về nhà, Uông Tễ liền hỏi: “Là từ chiếc xe lúc nãy chuyển tới à?”

Phù Tô gật đầu.

“Ở đây không có những thứ này, chắc là gửi từ huyện thành?”

Phù Tô lại gật đầu, giải thích thêm hắn đã thỏa thuận với cửa hàng ở huyện, mỗi tuần chuyển trái cây và nguyên liệu nấu ăn, mỗi tháng thì gửi thêm các vật dụng cần thiết. Hắn sẽ thanh toán đầy đủ cả tiền hàng lẫn phí vận chuyển.

Nghe xong, Uông Tễ bật cười: “Anh cũng xa xỉ thật đấy. Tiền vận chuyển chắc còn ngang tiền hàng!”

Hắn chỉ tay về phía bộ bàn ghế gỗ gần đó: “Đừng đứng mãi, ngồi đi.”

Đặt túi trái cây lên bàn, ánh mắt Uông Tễ dừng lại ở họa tiết in trên túi. Nhìn qua đã thấy quen thuộc, vì trước đây khi còn làm việc ở thành phố, anh từng mua trái cây của cửa hàng này để đãi đồng nghiệp những ngày tăng ca. Tuy lương cao, nhưng Uông Tễ chẳng mấy khi tự mua trái cây ở đây cho mình.

Thấy Uông Tễ cứ nhìn chằm chằm chiếc túi, Phù Tô hỏi: “Không thích mấy loại này à?”

“Không phải không thích,” Uông Tễ lắc đầu, rồi thở dài thú nhận, “Chỉ là trái cây chỗ này đắt quá, anh lại mua nhiều như vậy.”

Thời tiết nóng nực, Phù Tô cuộn tay áo lên, bình thản đáp: “Cảm ơn cậu hôm trước mời cơm trưa, ăn ngon lắm.”

Cả hai đều không phải người hay khách sáo. Nghe vậy, Uông Tễ cũng không từ chối, chỉ cười đùa: “Anh mua trái cây thì cứ mua, nhưng tháng tới đừng đặt nữa, được không?”

Phù Tô hơi ngạc nhiên: “Sao thế?”

“Tháng năm này, anh đào trong sân nhà tôi chín, có thể ăn ngay.” Uông Tễ chỉ vào cây anh đào gần đó. “Sau núi cũng có mận chín ngọt lịm. Tháng sáu thì tới lượt quả hạnh, còn tháng bảy, tháng tám thì dưa hấu, đào, cái gì cũng sẵn. Trái cây tự nhiên trong núi ngon không kém ngoài tiệm, mà lại thơm, sạch. Anh tiết kiệm được cả đống tiền!”

Nói xong, anh bật cười: “Anh có thấy tôi keo kiệt quá không?”

“Không đâu.” Phù Tô cười chậm rãi, rồi gật đầu: “Thế tháng năm tôi sẽ không đặt nữa, qua ăn ké nhà cậu vậy.”

Uông Tễ phẩy tay hào sảng: “Không vấn đề, cứ để tôi lo!”

Uông Tễ nghe vậy cười cười, ánh mắt bất giác lướt qua cánh tay của Phù Tô, liền nghĩ đến lúc chạy bộ cùng hắn. Người như Phù Tô, dù ăn gì sống ở đâu, vẫn toát lên khí chất điềm tĩnh, sạch sẽ.

Hắn không phải kiểu người thích phô trương, nhưng sự kỹ lưỡng, cẩn thận lại thể hiện trong từng chi tiết. Dù chỉ là một cái áo sơ mi đơn giản, cũng được hắn mặc chỉnh chu mà thoải mái. Cái dáng vẻ kia, cứ như không chịu chút ảnh hưởng nào từ thời tiết oi bức.

Uông Tễ thầm nghĩ: Cái này mà làm khách mời trong chương trình sức khỏe hay dinh dưỡng, chắc chắn khối người tin sái cổ.

Để ngăn mình nhìn chằm chằm quá lâu, anh vội chuyển chủ đề: “Nhìn dáng người anh, chắc bình thường ăn nhiều mà không lo tăng cân nhỉ?”

Phù Tô ngẩng đầu, có chút bất ngờ nhưng không khó chịu, thản nhiên đáp: “Ăn nhiều nhưng tôi vận động cũng nhiều, chắc nhờ vậy mà giữ được cân nặng.”

“Thế thì tốt quá, tôi ăn ít hơn anh nhiều mà vẫn không thoát được lớp mỡ bụng này.” Uông Tễ vừa cười vừa tự vỗ vỗ bụng mình, tỏ vẻ bất lực.

Phù Tô nghe vậy liền nghiêng đầu nhìn anh, đôi mắt đen ánh lên chút ý cười nhẹ: “Chỉ cần kiên trì chạy bộ với tôi mỗi sáng, đảm bảo cậu sẽ thấy khác biệt.”

Uông Tễ cười hì hì, tựa như để xóa tan cái không khí hơi nghiêm túc: “Thôi, để tôi cân nhắc đã, tôi sợ chạy nhiều quá lại gầy đi, mất luôn chút phong độ này thì sao.”

Phù Tô cũng không nói thêm, chỉ nhướng mày tỏ ý “tùy cậu thôi.” Nhưng khóe miệng hắn khẽ cong lên, như thể nụ cười ấy chính là sự chấp nhận sự bướng bỉnh của Uông Tễ.

Nhìn cánh tay mình rồi nhìn sang cánh tay Phù Tô, anh thầm nghĩ: Hai đứa mình ăn cũng như nhau, chẳng lẽ tại mình vận động chưa đủ?

Thấy ánh mắt Uông Tễ, Phù Tô hỏi: “Sao vậy?”

Uông Tễ lắc lắc cánh tay mình: “Tôi đang nghĩ có khi nào mỗi sáng tôi nên chạy thêm hai vòng không. Nhìn so với anh mà thấy nản luôn đó.”

Phù Tô bật cười.

Uông Tễ tiếp lời: “Anh có phải mỗi sáng tập thêm gì nữa không? Sao mà luyện ra được vậy?”

Anh chỉ vào bắp tay cuồn cuộn của Phù Tô, vẻ mặt đầy ngưỡng mộ.

Phù Tô thật thà đáp: “Có lẽ tại ngày nào tôi cũng tưới cây, vận động cũng nhiều. Thỉnh thoảng mất ngủ thì tập nhẹ một chút.”

Phù Tô không kể hết với Uông Tễ rằng từ nhỏ hắn đã mê mấy môn vận động như cưỡi ngựa, leo núi, đấu kiếm, trượt tuyết… Hằng năm hắn vẫn duy trì tập luyện đều đặn, đôi lúc còn ở cường độ cao. Chỉ đến vài năm trước, khi tai có vấn đề, bị bác sĩ và ba mẹ khuyên can mãi, hắn mới miễn cưỡng từ bỏ.

“Nhà tôi có máy chạy bộ với tạ tay,” Phù Tô nói. “Nếu cậu muốn tập thì qua đó tập đi.”

Uông Tễ thấy hơi ngại, nhưng thật sự muốn qua xem thử nên gật đầu: “Chiều nay tôi ghé nhà anh coi thử. Với lại anh nhắc tưới cây, tôi cũng muốn tham quan vườn nhà anh từ lâu rồi.”

Phù Tô gật đầu: “Vậy tôi ở nhà đợi.”

Nói vài câu, Phù Tô rời đi trước. Uông Tễ ngồi hóng mát thêm chút rồi đứng dậy vào bếp chuẩn bị bữa trưa.

Dạo này anh không muốn ăn gì nhiều năng lượng. Lục tủ bếp, anh thấy trong nhà còn ít mộc nhĩ, cải thìa, rau chân vịt, với cả rổ cà rốt thím Uông mới cho hôm qua khi ghé nhà hái rau.

Cà rốt núi, củ nhỏ, chỉ cỡ bàn tay, nhưng ăn rất ngọt và giòn, màu cam cũng đậm hơn cà rốt thường.

Uông Tễ định làm món rau trộn. Lục thêm, anh tìm được ít miến khoai lang đỏ phấn. Đây là miến anh mua từ một gia đình dưới núi, loại làm thủ công hoàn toàn từ khoai lang đỏ, không pha bột sắn hay phụ gia gì.

Lần đó ghé mua miến, anh được gia đình đó mời ăn thử tô miến rau xanh. Miến giòn, dai, thơm mùi khoai lang, ngon đến nỗi ăn xong anh mua liền 12 cân, giữ lại 5 cân, còn 7 cân thì mang biếu chú thím Uông.

Để làm món rau trộn, Uông Tễ cắt cà rốt thành sợi rồi xào chín, luộc chín rau và miến, đánh thêm hai quả trứng gà chiên mỏng, cắt sợi. Tất cả cho vào tô lớn, thêm chút muối, xì dầu, dấm, với dầu mè ép từ hạt vừng.

Làm xong rau trộn, anh định lấy trái cây Phù Tô mang tới từ tủ lạnh thì sực nhớ trong nhà còn bột sương sáo. Uông Tễ nấu sương sáo, đổ vào hai hộp thủy tinh để trong tủ lạnh đông lại.

Trong lúc chờ sương sáo đông, anh bưng tô rau trộn ra sân ăn. Ăn xong, tranh thủ ngủ trưa một chút.

Tỉnh dậy, nhớ ra khu đất trồng rau, anh ra vườn gieo xà lách và hẹ, trồng thêm mấy củ khoai tây mầm. Làm xong, anh đắp đất rồi ngồi đợi cơn mưa để cây nảy mầm.

Về nhà, Uông Tễ rửa tay sạch sẽ, mở tủ lạnh lấy sương sáo đã đông cứng. Anh đổ ra, dùng ly cắt thành từng miếng tròn, thêm trái cây cắt nhỏ, rót sữa bò nguyên chất vào. Cách làm đơn giản hơn nấu bánh canh, chẳng cần vất vả nắn từng nếp gấp. Sương sáo cắt ra cuộn với trái cây là xong.

Sương sáo có bề mặt trong suốt, óng ánh như pha lê, bên trong là trái cây nhiều màu sắc rực rỡ. Sữa bò bên trên được rót khéo léo, tạo thành những đường lượn sóng mượt mà, thoạt nhìn giống như những chiếc bánh sủi cảo thủy tinh.

Uông Tễ dùng thìa múc thử một miếng nếm. Sương sáo trắng vốn không có vị gì, nhưng lại mang đến cảm giác thanh mát, mềm mịn. Kết hợp với vị ngọt nhẹ của trái cây và sữa bò, món này đúng chuẩn để ăn vào buổi trà chiều, vừa mát mẻ vừa không bị ngán.

Làm xong hai hộp, anh để lại một hộp trong tủ lạnh để ăn sau, còn hộp còn lại thì mang sang nhà Phù Tô.

Vừa tới nơi, Uông Tễ mới phát hiện nhà Phù Tô còn hoành tráng hơn những gì anh tưởng.

Chỉ mới đi dạo qua vườn hoa trong sân mà anh đã mất hơn hai mươi phút, thậm chí còn bị lạc trong mấy bụi hoa rậm rạp. Khi vòng ra sân sau và thấy chiếc xe việt dã màu đen đậu trong gara, anh không nhịn được thốt lên: “Xe này ngầu dữ!”

Khó có người đàn ông nào cưỡng lại sức hút của những cỗ máy với vẻ ngoài lạnh lùng và mạnh mẽ như vậy. Uông Tễ tò mò tiến lại gần, ngắm nghía một vòng.

Chiếc xe đã được độ lại, chỉ riêng chi phí độ cũng đủ để mua thêm một chiếc xe khác. Mặc dù bản gốc của nó không đắt như các siêu xe đình đám, nhưng Uông Tễ vẫn cảm thấy loại xe việt dã này rất “kén” người lái. Theo anh, để cầm lái một chiếc xe như vậy, người đó phải toát lên khí chất mạnh mẽ, thậm chí hơi ngầu. Phải là người cơ bắp hoặc phong trần, chứ nếu không sẽ bị cảm giác như không xứng với xe.

Mấy năm trước, khi mua xe, anh cũng đã từng mê mẩn dòng xe này, nhưng cuối cùng vẫn không dám chọn vì thấy mình chưa đủ khí chất để lái. Nghĩ đến cảnh bản thân ngồi trên chiếc xe mà cảm giác “lệch tông”, anh không khỏi bật cười.

Phù Tô đứng ở phía sau, im lặng nhìn anh. Uông Tễ ngẩng lên nhìn Phù Tô, lại liếc qua chiếc xe đen trước mặt, không khỏi thầm nghĩ: Anh ấy đúng là hợp với chiếc xe này.

Sau khi dạo quanh bên ngoài, hai người vào tham quan bên trong nhà. Ngôi nhà được xây theo kiểu truyền thống, với phòng khách thiết kế như một trung đường. Ngay giữa gian chính là bức họa lớn treo trên tường, bên dưới có treo đôi câu đối. Ở trung tâm là bàn bát tiên cùng hai ghế bành, trên bàn còn bày một bàn thờ với lư hương nghi ngút khói.

Hai bên trung đường là các phòng dành cho người lớn tuổi.

Phòng bếp ở tầng dưới, Uông Tễ cũng không để ý xem kỹ, trực tiếp theo Phù Tô bước lên tầng hai.

Khác hẳn với tầng một mang đậm phong cách cổ điển, tầng hai của Phù Tô hiện đại đến mức khó tin. Sàn nhà bằng gỗ đặc, xen kẽ những mảng nhấn bằng đá nhám và cẩm thạch. Đèn chiếu sáng tông ấm áp kết hợp với bộ sô pha tối màu tạo nên một không gian vừa sang trọng vừa ấm cúng.

Phía bên phải phòng khách, một khu bếp nhỏ mở hoàn toàn với đảo bếp được thiết kế gọn gàng. Uông Tễ đoán chắc Phù Tô hiếm khi dùng đến bếp, có lẽ chỉ dùng để pha cà phê hoặc nướng bánh là chính.

Điểm nổi bật nhất của phòng khách là bức tường kính cong toàn cảnh. Ngôi nhà nằm giữa rừng cây, nhưng từ cửa sổ có thể nhìn thẳng ra khung cảnh núi non bao la. Tất cả sắc màu xanh ngút ngàn của núi rừng hiện ra trong tầm mắt, không bị che khuất bởi bất kỳ thứ gì.

Uông Tễ bước ra ban công, đứng một lúc lâu, cảm thấy tâm hồn mình nhẹ nhõm hơn hẳn.

Hệ thống cửa kính không chỉ ở phòng khách mà còn kéo dài đến phòng ngủ. Uông Tễ đứng ngoài cửa phòng ngủ của Phù Tô, nhìn qua cửa sổ một lúc mới quay sang hỏi: “Anh ngủ mà không kéo rèm hả?”

Phù Tô gật đầu, giọng thoải mái: “Ừ, không kéo. Kéo rèm thì khác gì tự dưng bịt mắt mình đâu.”

Uông Tễ bật cười, cảm thấy lời này đúng là rất hợp với phong cách của Phù Tô.

Anh tiếp tục theo chân Phù Tô đi tham quan. Hắn mở một cánh cửa bên cạnh, bên trong là một phòng tập thể thao nhỏ được cải tạo từ phòng ngủ. Bên trong có máy chạy bộ và tạ tay, mấy thứ này Uông Tễ đã biết từ trước, nhưng không ngờ còn có cả một bộ khung tập đa năng.

Thấy anh ngạc nhiên, Phù Tô quay lại giải thích: “Thỉnh thoảng tôi mất ngủ, tập cái này thấy dễ ngủ hơn.”

Sau khi tham quan hết các phòng, hai người ra ban công ngồi trên chiếc ghế sô pha nhỏ. Lúc này Uông Tễ hoàn toàn hiểu ra: nếu anh chọn về quê để làm nông, thì Phù Tô rõ ràng đang tận hưởng một cuộc sống ẩn cư xa hoa.

Ánh mặt trời ban trưa thi thoảng bị che khuất bởi những đám mây trôi hờ hững. Xa xa, ngọn núi yên bình đứng vững, khiến không gian tĩnh lặng đến mức cả những bất an trong lòng dường như cũng bị dỗ dành, trở nên nhẹ nhàng hơn.

Uông Tễ và Phù Tô mỗi người ngồi một bên, thỉnh thoảng mới trao đổi vài câu ngắn.

Trên bàn trà giữa hai người là hai ly trà và hộp sương sáo mà Uông Tễ mang tới. Phù Tô thỉnh thoảng múc một miếng sương sáo lên ăn. Miếng sương sáo trắng mịn, không dính vào nhau, chỉ cần ấn nhẹ là nước sữa bò bên trong chảy ra. Tuy vậy, hắn vẫn ăn rất từ tốn, không hề để lại chút lộn xộn nào.

Thấy hắn im lặng ăn gần hết hộp, Uông Tễ bật cười hỏi: “Ăn được không?”

“Ngon lắm.” Phù Tô nói, đẩy hộp sương sáo về phía anh. “Ăn nhanh đi, tôi ăn hết bây giờ.”

“Cũng mang qua cho anh mà, anh cứ ăn đi.” Uông Tễ mỉm cười.

Ăn thêm hai miếng nữa, Phù Tô chợt hỏi: “Tôi có thể chụp lại được không?”

Uông Tễ bật cười: “Sao lần nào cũng ăn đến nửa hộp rồi mới nhớ chụp vậy?”

Phù Tô không trả lời, đứng dậy đi vào phòng khách lấy điện thoại. Một lát sau, hắn quay lại sân phơi, chọn góc, rồi đưa điện thoại lên chụp.

“Rắc.”

Trong khung hình, hộp pha lê đựng đầy những miếng sương sáo trong suốt, ngũ sắc của trái cây phản chiếu ánh sáng rực rỡ. Phía sau là không gian sân phơi rộng mở. Uông Tễ ngồi đối diện, không kịp tránh nên vô tình bị chụp vào một nửa khuôn mặt cùng nụ cười nhếch lên nơi khóe môi.

Hắn đang cười.

Trên màn hình điện thoại, ảnh chụp không thể hiện rõ. Nhưng khi đặt máy xuống và nhìn trực tiếp, nụ cười ấy lại vô cùng rõ ràng.

Nụ cười của anh dịu dàng như gió mát, phảng phất chút ẩm ướt của sương sớm. Trong khoảnh khắc đó, nụ cười ấy như hòa vào trời đất, thu hết vẻ đẹp của cảnh xuân vào trong đôi mắt.
 
Chương 7: Hương xuân xào trứng


Tối qua trời lại đổ mưa lớn, không khí hạ xuống se lạnh. Giữa đêm, Uông Tễ tỉnh dậy, lấy từ trong tủ ra một chiếc chăn lông, đắp kín người rồi mới tiếp tục ngủ.

Sáng sớm thức dậy không kịp làm bữa sáng, anh rửa mặt qua loa rồi đi thẳng ra vườn rau. Mùa xuân năm nay lạnh hơn mọi năm, mưa cũng nhiều, anh lo rau củ trong vườn sẽ khó phát triển tốt.

Sau cơn mưa lớn, đất vườn đã ngấm nước, Uông Tễ sợ những mầm rau vừa mọc sẽ bị ngập úng. Anh cầm cuốc đào một vòng mương thoát nước xung quanh, sau đó còn cẩn thận phủ thêm màng bảo vệ cho các mầm rau, tránh chúng bị hư hại vì lạnh.

Đôi giày dính đầy bùn đất, mỗi bước rút chân ra khỏi đất đều phải dùng lực.

Làm việc xong, cả người anh thấy sảng khoái, còn hơn cả tập thể dục buổi sáng. Uông Tễ thong thả cầm cuốc quay về.

Sau cơn mưa, núi non lại càng đẹp. Không khí trong lành, tươi mới như rửa sạch cả tâm hồn. Uông Tễ cố ý đi chậm để tận hưởng, mất hơn mười phút anh mới về tới nhà.

Bữa sáng chỉ đơn giản là một bát mì sợi. Hồi nhỏ, anh không thích mì, nhưng lớn lên lại thấy mì cũng không tệ. Một bát mì sợi thêm vài lá rau xanh, một quả trứng luộc, và một chút chao từ chiếc hũ sành trong tủ lạnh, là đủ no bụng.

Chao này do thím Uông tự tay làm. Ở quê anh, mùa đông nhà nào cũng tự làm chao, cho vào hũ sành, rót thêm dầu hạt cải rồi cất nơi thoáng mát trong bếp. Chao giữ được lâu, dùng để chấm bánh mì, cơm cháy hay trộn mì đều rất ngon.

Uông Tễ ăn nhạt, chỉ dùng đầu đũa chấm một ít chao cho có hương vị.

Ăn xong bữa sáng, anh khóa cổng, pha một bình trà rồi lên tầng hai. Vừa ngồi xuống ghế sô pha và đeo kính đọc sách, điện thoại trên bàn trà vang lên.

Từ ngày về quê, anh hầu như ít dùng điện thoại. Muốn xem phim thì dùng máy chiếu, muốn xem giờ thì đã có đồng hồ. Nếu không vì báo thức buổi sáng hay vài tin nhắn quảng cáo, có khi cả ngày anh chẳng động vào điện thoại.

Nghe chuông reo, Uông Tễ đoán được ai gọi. Quả nhiên, là bạn cùng phòng thời đại học.

Nhấc máy, đối phương không vòng vo: “Anh em này, suy nghĩ thế nào rồi?”

Uông Tễ cười: “Hôm qua tôi từ chối rồi mà, còn suy nghĩ gì nữa?”

“Vẫn không định làm hả?” Đầu dây bên kia có vẻ bất ngờ. “Anh bạn à, vì sao không muốn vậy? Tiền công cũng đâu phải ít, mà công việc này chỉ là lập trình mấy thứ đơn giản, với kỹ thuật của cậu thì nhắm mắt cũng làm xong.”

“Đừng tâng bốc tôi quá.” Uông Tễ đáp. “Từ ngày đi làm tôi toàn làm mảng phi kỹ thuật, mấy thứ này lâu không động vào, nhìn thôi đã thấy lạ lẫm rồi.”

“Câu này người khác tin thì thôi, chứ tôi không tin. Cậu đã ấp ủ chuyển sang kỹ thuật bao lâu rồi, ai không biết lại tưởng cậu làm giả bộ.”

Uông Tễ mỉm cười, không đáp. Bạn cùng phòng nói thêm vài câu nữa, anh mới cười bảo: “Cảm ơn cậu, nhưng tôi thật sự không làm.”

Đúng là công việc nhẹ mà lương cao. Anh biết bạn có lòng tốt, tin tưởng mình nên mới giới thiệu. Dù làm hay không, anh vẫn rất trân trọng tình cảm này. 

“Bây giờ mà nói mời cậu một bữa cơm thì hơi khó, vì xa quá. Nhưng sau này có cơ hội, nhất định tôi sẽ bù.”

Bạn cùng phòng thở dài, giọng bất đắc dĩ: “Không phải đâu Tễ à. Cậu còn trẻ mà, thật sự định nằm yên ở quê cả đời sao? Dù cho vậy đi nữa, cậu cũng phải để dành chút tiền dưỡng già chứ. Cậu mới hơn ba mươi, còn sống ít nhất mấy chục năm nữa, chẳng lẽ không cần tiêu tiền à?”

Uông Tễ nhẹ nhàng vuốt góc quyển sách, ánh mắt rũ xuống: “Sau này thì chưa biết, nhưng mấy năm tới chắc chắn tôi cứ nằm yên đã. Người ta nói nằm yên mà vẫn sống khỏe thì tính làm gì, chứ nằm mà không còn mệnh thì lấy gì sống thêm vài chục năm?” 

Anh bật cười nhè nhẹ: “Tạm thời tôi không thiếu tiền, mà tôi cũng chẳng ham hưởng thụ vật chất gì, nên tiêu cũng không đáng bao nhiêu.”

“Được rồi, cậu giỏi!” Bạn cùng phòng than: “Cậu coi tiền như rác, y như mấy vị ẩn sĩ thời xưa, sống kiểu quay về cội nguồn vậy. Chứ tôi á, mỗi ngày nằm mơ còn nghĩ tới chuyện kiếm tiền mua siêu xe, sắm đồng hồ hàng hiệu. Mấy hôm trước còn đi coi nhà, tự khích lệ bản thân cố gắng đây.”

Uông Tễ cười hờ hững: “Tôi đâu có tố chất mạnh như cậu, cả sức khỏe lẫn tâm lý. Không có bản lĩnh làm người giàu, thôi thì về quê trồng rau, cuộc sống này hợp với tôi hơn.”

Bạn cùng phòng nghe xong, thở dài một hơi: “… Được rồi, để tôi từ chối giúp cậu. Nhưng nhớ đấy, sau này đừng hối hận, vì người ta trả lương thật sự rất hậu hĩnh.”

“Cảm ơn cậu.” Uông Tễ nói.

Bạn cùng phòng lại cười khổ: “Nói thật, tôi không hiểu nổi cậu luôn. Hai đứa mình đều từ quê nghèo ra, vất vả lắm mới bám trụ được ở Thượng Hải. Giờ tôi đang hăm hở chuẩn bị tung hoành sự nghiệp, còn cậu thì ngược lại. Nói không hai lời, cậu chạy thẳng về quê. Lúc trước, khi lão Trần kể với tôi chuyện này, tôi còn tưởng là cá tháng tư.”

Lão Trần là bạn cùng phòng khác của họ thời đại học, là dân Thượng Hải chính gốc. Sau khi tốt nghiệp, anh ấy cùng Uông Tễ vào làm việc trong một công ty lớn. Làm được vài năm, lão Trần than mệt mỏi, không chịu nổi áp lực nên xin nghỉ. Sau đó, anh ấy về nhà tiếp quản gia sản, mở một quán cà phê nhỏ từ hai căn nhà mặt tiền gia đình cho thuê, sống an nhàn, thư thái, ngày qua ngày thật thoải mái.

Treo máy xong, Uông Tễ đặt điện thoại xuống, nhưng ánh mắt lại không tập trung nổi vào cuốn sách trên đầu gối. Anh gấp sách lại, đặt sang một bên, rồi ngả người tựa vào sofa, cánh tay che ngang mắt, buông một tiếng thở dài.

Từ khi quyết định nghỉ việc, những đồng nghiệp thân thiết, cả mấy tổ viên dưới quyền hay thậm chí cả Amanda – cấp trên của anh, đều cố khuyên nhủ. Ai cũng nói anh đừng vội vàng, bảo anh suy nghĩ kỹ thêm. Có những quyết định, một khi đã đưa ra sẽ rất khó quay đầu. Nhưng khi ấy, Uông Tễ đã suy nghĩ cẩn thận và chắc chắn về quyết định của mình. Hoàn tất thủ tục từ chức, anh mới cảm nhận được sự nhẹ nhõm chưa từng có.

Nhiều năm sống tại Thượng Hải, từ những ngày còn ở ký túc xá, anh chưa từng cảm nhận mình thuộc về nơi này. Sau khi đi làm, tự thuê nhà ở riêng, sự cô đơn càng trở nên rõ rệt. Nhưng điều làm anh cô độc không phải vì ở một mình, mà là vì nơi ấy quá xa lạ. Ở nơi đó, anh không có gốc rễ.

Người không có nhiều ham muốn thì cũng thiếu đi những khao khát. Uông Tễ chính là kiểu người như vậy. Nói rằng hơn ba mươi tuổi tâm đã tĩnh lặng như mặt nước có lẽ hơi khoa trương, nhưng đó chính xác là con người anh. Trong suốt ba mươi năm qua, động lực duy nhất của anh chỉ là vì ông nội mà cố gắng. Còn bây giờ, anh chỉ mong được trồng hoa, nhìn ngày trôi qua bình lặng, ngắm mặt trời mọc rồi lặn.

Những năm gần đây, anh thường xuyên mất ngủ, lo lắng triền miên, cơ thể rã rời và bất an. Không ít đêm, anh ngồi bên khung cửa sổ, lặng lẽ ngắm bóng tối cho đến khi trời sáng.

Thế nhưng, từ khi trở về quê nhà, tình trạng ấy đã cải thiện nhiều. Tuy thỉnh thoảng vẫn giật mình tỉnh giấc giữa đêm, nhưng chỉ cần mở đèn ngủ, tựa đầu vào giường, lắng nghe tiếng gió bên ngoài, mọi bất an đều tan biến. Không khí xung quanh quá đỗi quen thuộc, nơi đây là mảnh đất đã nuôi dưỡng anh. Từng gốc cây, ngọn cỏ ở đây đều khiến anh cảm nhận được sự bình yên và an toàn.

Đứng dậy khỏi sofa, Uông Tễ bước đi trên tấm thảm trải trong phòng khách, đến bên cửa sổ lớn.

Bên ngoài căn nhà nhỏ, cả sườn núi với cây cối, hoa cỏ đều đung đưa theo từng cơn gió.

Núi lặng gió êm, mọi thứ tĩnh mịch. Uông Tễ đứng trước cửa kính pha lê, lòng dạ cứ rối bời, những ý nghĩ mông lung cứ như sương khói trong hang động, lẩn khuất mãi không tan.

Mỗi năm đến tiết xuân phân, những cánh đồng và triền núi lại ngập tràn sắc xuân. Cây hương xuân bắt đầu nhú mầm non, người dân thường hái về nếm thử gọi là cắn xuân, ăn xuân. Chiều hôm đó, Uông Tễ không mang giỏ cũng chẳng xách làn, chỉ tiện tay nhét một túi nilon vào túi áo rồi leo lên núi phía sau nhà.

Chồi hương xuân vào đầu vụ rất non, chỉ cần hái lá mà không cần bẻ ngọn. Mầm cây sẽ tiếp tục lớn lên, kéo dài đến tận trước tiết lập hạ vẫn còn ăn được. Nhưng qua tiết cốc vũ, hương xuân sẽ già đi, mùi vị không còn ngon ngọt như lúc đầu.

Những năm gần đây, đời sống khấm khá hơn, người ở quê còn ăn uống cầu kỳ và tinh tế hơn cả người thành thị. Nhà nào cũng trồng rau trái trong vườn, mà rau dại, quả dại trên núi cũng ngon lành không kém. Người ta ăn đúng vụ mùa, đúng thời điểm, rau vừa già đi một chút liền dành nuôi gà vịt, chứ để ăn thì không còn thích thú.

Chồi hương xuân thường được dùng làm gỏi hoặc xào với đậu hũ như hành lá. Ăn kiểu này giữ được hương vị thanh mát, nhưng cũng có nhiều người không quen, cho rằng nó có mùi hăng. Uông Tễ sợ Phù Tô cũng không chịu được, nên tính cẩn thận một chút, quyết định xào chung với trứng gà để dễ ăn hơn.

Buổi tối, anh tính qua nhà Phù Tô ăn cơm, hương xuân xem như món quà mang theo.

Những chồi hương xuân non mướt được anh cắt ngắn, đánh đều vào trứng rồi đem xào trên chảo. Không cần thêm bất kỳ gia vị gì, chỉ rắc chút muối là đã thơm lừng. Xào xong, Uông Tễ cho vào hộp giữ nhiệt, khóa cổng rồi thẳng đường đi về phía nhà Phù Tô.

Từ trước tiết kinh trập đến sau xuân phân, anh về quê đã được một thời gian. Nói là về trồng trọt, nhưng đồ ăn trong đất chỉ vừa nảy mầm, tiến độ chẳng khác gì số không. Dẫu vậy, anh lại vô tình xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với Phù Tô, một người cùng chọn cách ở núi tránh sự xô bồ. Từ sau lần ghé thăm nhà Phù Tô lần trước, dạo gần đây, cả hai thường xuyên qua lại trò chuyện, chơi game cùng nhau.

Thật ra, Uông Tễ không phải người dễ gần. Từ nhỏ đến lớn, những nơi anh đi qua luôn rất ít người qua lại. Cậu em họ Uông Dịch Dương, là người bạn thực sự duy nhất của anh. Với Uông Tễ, ai cũng như nhau, không đặc biệt thân thiết, nhưng kỳ lạ là mọi người lại luôn cảm thấy gần gũi với anh. Cách anh nói chuyện hay cư xử đều khiến người khác thấy thoải mái.

Phù Tô có lẽ cũng giống như anh. Đi trên con đường mòn với những chú bướm bay qua trước mặt, Uông Tễ nghĩ, thật ra Phù Tô có vẻ khá lạnh lùng, một kiểu lạnh rất ôn hòa. Nhưng hai người lại hợp nhau đến lạ. Ở cạnh nhau dù không nói gì cũng chẳng thấy ngại, còn khi trò chuyện lại cảm giác vô cùng tự nhiên, thoải mái.

Cảm giác ấy là thật, không phải kiểu ngoài miệng vui vẻ nhưng trong lòng lại mong người ta đi mau để mình được yên tĩnh. Uông Tễ tự lý giải rằng, con người vốn là loài động vật sống bầy đàn. Ở trên núi, từ sáng tới tối chẳng gặp được mấy ai, nên việc tìm được một người đồng lứa hợp ý giống như bản năng kéo họ lại gần nhau, để thấy mình không hẳn đã hoàn toàn tách biệt khỏi xã hội.

Khi Uông Tễ tới nhà, Phù Tô đang ở lầu hai, cổng sân mở toang.

Hương hoa phảng phất trong gió, anh rảo bước qua sân. Trước tiên, ánh mắt anh rơi vào cái ổ chó treo dưới hiên, bên trong là một chiếc giường nhỏ phủ chăn mềm mại. Chỗ này, trước đây chắc là nơi đặt ổ chó.

Uông Tễ bước thẳng lên lầu, vừa đi vừa ngửi thấy một mùi thơm nồng đậm hơn cả hương hoa. Anh cất giọng trêu đùa: “Thơm quá, tôi cứ tưởng mình đi lạc vô tiệm bánh mì chứ!”

“Tôi đang nướng bánh mì.” Phù Tô ở trong bếp, nghe thấy liền ngoảnh đầu trả lời.

Uông Tễ tiến lại gần, đặt hộp thức ăn lên bàn đảo bếp.

Phù Tô chú ý đến, liền hỏi: “Lần này là món gì vậy?”

Những lần trước, mỗi khi Uông Tễ ghé qua đều mang theo mấy món làm hắn bất ngờ. Lần trước là trứng hấp hành dại, mềm mại tan trong miệng, thoang thoảng hương thanh khiết. Trước đó nữa là bánh bao nhân rau dại, lớp vỏ bánh trắng mềm bao lấy nhân xanh đậm làm từ bồ công anh, cây tể thái và măng mùa xuân. Ngay cả nước chấm bên ngoài cũng có vị ngọt thanh dễ chịu.

Phù Tô không lớn lên ở vùng núi, nên những món ăn dân dã nơi đây đều rất mới mẻ với hắn.

“Hương xuân xào trứng gà,” Uông Tễ gõ nhẹ ngón tay lên nắp hộp, rồi hỏi tiếp khi tiến lại gần: “Có cần tôi phụ gì không?”

Mấy lần đầu cùng ăn cơm, hai người còn khách sáo với nhau, nhưng giờ đã thân quen, thoải mái hơn nhiều.

Phù Tô chỉ về phía lò nướng, nói: “Bánh mì làm lạnh rồi, chắc cắt được miếng.”

Hắn đang áp chảo bò bít tết, vặn nhỏ lửa rồi cho thêm tỏi và lá hương thảo. Khi hương tỏa ra ngào ngạt, hắn giảm lửa, thêm chút bơ vàng để tăng vị.

Uông Tễ, ngửi thấy mùi thơm từ bơ vàng và bánh mì, đi tới chỗ lò nướng. Trước mặt anh là ổ bánh mì trắng tinh xảo, từng đường cắt trên mặt ổ đều hoàn hảo, chẳng khác gì sản phẩm mẫu.

“Nướng bánh mì mà đẹp vậy hả?” Uông Tễ kinh ngạc thốt lên.

Phù Tô đang trang trí phần bò bít tết, nghiêng đầu mỉm cười: “Món đơn giản nhất mà, nằm ngay trang đầu của thực đơn. Làm quen tay rồi.”

Hắn bưng đĩa bò bít tết ra bàn ăn, sau đó mở tủ lạnh, hỏi: “Muốn phết gì lên bánh mì? Có phô mai, dầu ô liu, với mứt dâu tây.”

“Phết dầu ô liu làm gì?” Uông Tễ vừa cắt một miếng bánh mì vừa đáp. “Tôi lấy mứt dâu tây.”

Bánh mì nướng được cắt miếng, bày ra bàn. Ngoài trời, ánh sáng đã nhạt dần. Phù Tô bật đèn treo trong phòng ăn, ánh sáng vàng ấm áp phủ xuống. Hai người mặt đối mặt ngồi dùng bữa tối.

Phù Tô mở hộp giữ nhiệt của Uông Tễ mang tới. Hương xuân xào trứng gà vẫn còn ấm. Hắn nhìn qua sắc màu bắt mắt của món ăn một lúc, sau đó gắp một miếng, đưa vào miệng. Như mọi lần, đánh giá của hắn rất cao: “Ngon thật.”

Uông Tễ phết một lớp mứt dâu thật dày lên miếng bánh mì của mình, cười nói: “Vậy thì tốt. Tôi còn lo anh không chịu được.”

“Sao vậy?” Phù Tô thắc mắc.

Uông Tễ cắn một miếng bánh mì, âm thanh giòn tan vang lên, anh giải thích: “Tại nhiều người nói hương xuân có mùi hơi lạ, không ăn được. Giống như mấy người không ăn sầu riêng, cứ bảo sầu riêng thối vậy đó.”

Phù Tô gật đầu, cười nhẹ: “Giống như cậu vừa ăn mứt dâu mà vừa nhìn tôi phết bánh mì với dầu ô liu vậy.”

Uông Tễ bật cười: “Ờ, chắc cũng kiểu vậy.”

Ổ bánh mì không thêm đường hay dầu, giữ nguyên vị ngọt tự nhiên của mạch nha. Lớp vỏ ngoài giòn rụm, bên trong mềm mịn, nhai vào cảm giác rất đã miệng. Kết hợp với mứt dâu tây ngọt ngào, càng thêm hấp dẫn.

Phần bò bít tết được chế biến hoàn hảo, màu sắc đẹp mắt. Mỗi miếng thịt mềm mại, ngọt nước, tỏa hương thơm béo ngậy của bơ. Ngay cả món ăn kèm bên cạnh cũng thơm ngon chẳng kém.

“Anh nấu ăn ngon ghê, sao không thử làm món Trung Quốc?” Uông Tễ nuốt xuống một miếng bò bít tết, tò mò hỏi.

Phù Tô dù sao cũng là người Trung Quốc, từ nhỏ đã gắn bó với những món xào kiểu Trung và cơm nhà. Hắn có một lòng kính trọng đặc biệt với kiểu ăn này, điều đó thể hiện rõ mỗi khi đến nhà Uông Tễ, món gì cũng ăn sạch bách. Nhưng có lẽ chính vì sự kính trọng đó mà hắn chưa bao giờ dám tự tay làm.

Vừa rắc chút muối lên miếng bánh mì phết dầu ô liu, Phù Tô trả lời: “Tại vì món Tây công thức rất chuẩn mực. Bơ bao nhiêu gram, muối biển bao nhiêu hạt, hạt tiêu xay mấy vòng… rõ ràng từng chút. Còn món Trung thì…”

Hắn dừng lại, như đang hồi tưởng những hướng dẫn chung chung trong công thức nấu món Trung: “Muối vừa phải, đường cũng vừa phải, dầu nóng sáu bảy phần, xào đến vừa chín tới hoặc chỉ qua nước sôi…”

Uông Tễ bật cười, cắn thêm một quả cà chua bi, nói: “Chính vì thế mới hay. Cứ làm theo ý mình, đó mới là tinh túy món Trung Quốc!”

Ăn được nửa bữa, Uông Tễ chợt nhớ đến ổ chó trong sân, liền hỏi: “Hôm nay trời âm u, sao anh lại giặt ổ chó?”

Phù Tô giải thích: “Tối qua trời mưa, con chó nửa đêm chui vào trong nhà rồi leo lên ổ ngủ. Không biết nó lăn lóc ở đâu mà dính đầy bùn, dơ quá, tôi đành phải giặt ổ. Trước thì tắm chó, rồi mới giặt ổ, sau đó lại phải tắm lại chính mình. Mệt muốn chết.”

Uông Tễ gật đầu, nhưng chợt nhận ra điểm khác thường: “Vậy là tối qua nửa đêm anh chưa ngủ?”

Phù Tô lắc đầu: “Không phải, tôi hay bị tỉnh giữa chừng thôi.”

Bữa cơm kéo dài hơn bình thường. Khi hai người ăn xong, ngoài trời đã tối đen như mực.

Trong bếp, máy rửa chén hoạt động, tất cả đĩa và dụng cụ ăn uống đều được dọn sạch. Cả hai bước vào phòng khách, ngồi xuống ghế.

“Chơi tiếp không?” Phù Tô cầm tay cầm từ tủ bên cạnh TV.

Thời gian qua, họ thường chơi cùng một tựa game khá khó. Người ta bảo, đôi yêu nhau mà cùng chơi game này thì chỉ 10 phút là cãi nhau, 1 giờ muốn chia tay, 2 giờ chỉ mong không bao giờ gặp lại. Nhưng họ lại phối hợp rất ăn ý. Giờ chỉ còn một chút nữa là hoàn thành trò chơi.

Mặc dù cám dỗ từ việc vượt màn cuối rất lớn, Uông Tễ lại ngập ngừng vài giây, rồi nói: “Nếu không thì tối nay đừng chơi, tâm sự chút đi?”

Khoảng cách hơi xa, Phù Tô không nghe rõ, quay đầu nhìn anh, ánh mắt dịu dàng: “Gì cơ?”

Uông Tễ vỗ nhẹ xuống chỗ trống bên cạnh, ý bảo hắn ngồi xuống, rồi nhắc lại: “Tâm sự đi.”

Phù Tô hơi bất ngờ trước lời đề nghị của Uông Tễ, nhưng không do dự, hắn đặt tay cầm xuống và đi đến bên cạnh.

Sô pha lún nhẹ khi hắn ngồi xuống, ngay sát bên Uông Tễ. Sự hiện diện gần gũi ấy khiến Uông Tễ cảm thấy an tâm một cách kỳ lạ. Anh kéo một chiếc gối ôm vào lòng, ngả người một chút, như tìm kiếm sự thoải mái giữa không gian tĩnh lặng.

“Yên tĩnh đến lạ,” anh khẽ nói, như một lời tự sự.

Phù Tô không trả lời ngay, chỉ hơi cúi người, bật mở micro của chiếc loa bên cạnh.

Một giai điệu nhẹ nhàng vang lên, âm nhạc dịu dàng lấp đầy khoảng không. Hắn ngồi thẳng lại, nghiêng đầu hỏi: “Như vậy có dễ chịu hơn không?”

Uông Tễ gật đầu, cảm giác căng thẳng trong lòng dần tan biến. Tiếng nhạc và tiếng gió làm dịu đi những suy nghĩ rối bời. Anh ôm chiếc gối, nhìn Phù Tô và hỏi: “Anh sống ở đây lâu như vậy, có ổn không?”

“Rất ổn.” Phù Tô trả lời dứt khoát, không cần suy nghĩ.

Uông Tễ thoáng im lặng, sau đó khẽ nói, giọng thấp dần: “Tôi cứ nghĩ, anh hay tỉnh giấc giữa đêm là vì không quen ở đây… hoặc có lẽ anh cảm thấy cô độc.”

Phù Tô chỉ nghe rõ nửa câu đầu. Hắn mỉm cười, giải thích: “Tôi vốn dĩ đã như vậy từ lâu. Ban đêm hay tỉnh giấc, thành thói quen rồi.” Hắn nghiêng đầu nhìn Uông Tễ, hỏi ngược lại: “Còn cậu, ở đây không thấy ổn sao?”

Uông Tễ không trả lời ngay. Anh cúi đầu, tựa cằm lên chiếc gối, vai khẽ rụt lại.

“Không phải không ổn, chỉ là… đôi khi tôi nghĩ, mọi người ngoài kia đều không ngừng tiến lên, còn tôi thì dừng lại.”

Anh nói chậm rãi, như đang cân nhắc từng chữ: “Dù vậy, đây là quyết định của tôi, tôi tự chọn dừng lại. Nhưng thỉnh thoảng… vẫn cảm thấy lo lắng. Lo sợ sau này sẽ hối hận, sẽ trách bản thân vì đã đưa ra lựa chọn sai lầm.”

Cả ngày nay, đầu óc Uông Tễ rối như tơ vò. Từ lúc trở về đây, anh luôn tự nhủ mình không hối hận, rằng quyết định rời bỏ công việc, rời xa guồng quay thành phố là đúng đắn. Nhưng cuộc gọi hôm nay khiến anh dao động.

Anh chán ghét những ngày dài công sở, chán cảnh làm việc không ngừng nghỉ, chán cả những bữa tiệc xã giao rượu chè và những cuộc chạy đua thành tích. Tất cả những thứ đó không còn hấp dẫn anh. Anh thích thức dậy nghe tiếng chim, ngắm hoàng hôn buông xuống mỗi chiều. Nhưng hiện tại yên bình này, liệu có thể kéo dài mãi mãi?

Trong sự bức bối, anh cảm thấy cần một người lắng nghe, và Phù Tô chính là người phù hợp nhất.

Họ đã quen biết nhau lâu, nhưng chưa từng hỏi về quá khứ của đối phương. Uông Tễ không biết tại sao Phù Tô lại chọn nơi này, và ngược lại, Phù Tô cũng không biết vì sao Uông Tễ quay về.

Những câu chuyện họ thường nói chỉ xoay quanh thức ăn, trò chơi, hoa cỏ và mây trời. Nhưng hôm nay, Uông Tễ đã xé toạc lớp vỏ bọc ấy, để lộ những tâm tư giấu kín.

Phù Tô lặng lẽ lắng nghe, rồi nhẹ nhàng nói: “Tôi đã dừng lại từ rất lâu rồi.”

Uông Tễ nghiêng đầu nhìn hắn, tay siết chặt rồi lại buông lỏng. Chiếc gối rơi xuống thảm, anh thậm chí không nhận ra.

“Anh không thấy lo lắng sao? Trong thế giới này, mọi người đều tiến về phía trước, không ai đứng yên.”

Phù Tô lắc đầu. Hắn cúi xuống nhặt chiếc gối lên, phủi nhẹ rồi đưa lại cho Uông Tễ, ánh mắt bình thản như mặt nước hồ không gợn sóng. “Có thể dừng lại là một loại may mắn.”

Uông Tễ đón lấy chiếc gối, ngẩn người.

Giọng Phù Tô vẫn dịu dàng, như từng đợt sóng nhỏ ru tâm hồn: “Tôi đã thấy nhiều người, đến cả việc dừng lại để thở một hơi cũng khó khăn. Họ không có lựa chọn. Vậy nên, có thể dừng lại, dù là rẽ lối hay quay đầu, với tôi đều là hạnh phúc. Tôi biết ơn vì được dừng lại.”

Những lời nói ấy khiến Uông Tễ hoàn toàn bất ngờ. Anh cứ nhìn Phù Tô mãi, cho đến khi ánh mắt của hắn quay sang nhìn thẳng anh.

Ánh mắt ấy, trong ánh đèn vàng dịu, vừa ôn hòa vừa sáng ngời. Giọng nói của Phù Tô cũng rất nhẹ nhàng: “Dù sao thì, lựa chọn nào cũng sẽ có lúc hối hận. Vậy nên, hãy chọn điều khiến mình thoải mái nhất trong hiện tại.”

Bên ngoài, núi rừng vẫn xao động, gió vẫn vờn qua những tán cây. Nhưng trong lòng Uông Tễ, một sự bình yên lạ lùng vừa được thắp sáng.

Anh nghĩ thầm: Cứ như vậy đi. Tôi không cần theo khuôn phép. Tôi chỉ cần là chính mình.
 
Chương 8: Hái trà


Thanh Minh vừa đến, làng quê vốn yên ả nay rộn ràng hẳn lên.

Nhiều nhà mở toang cửa sân, người người tay đội nón rơm, tay xách giỏ tre. Những búp trà non đầu mùa đã đón gió xuân mà vươn ra, xanh mướt. Cả làng chuẩn bị lên núi hái trà.

Trà hái về, hoặc sẽ được cân bán cho thương lái để kiếm thêm thu nhập, hoặc mang đến xưởng chế biến thành trà khô, cất giữ uống dần. Mỗi năm vào dịp Thanh Minh, từ đồi trà đến các xưởng chế biến đều nhộn nhịp, náo nhiệt nhất làng. Ban ngày, mọi người bận rộn hái búp; ban đêm, tiếng máy xao trà rì rầm. Hương trà thanh thoát len lỏi khắp ngọn đồi, thơm ngát cả không gian.

Những đồi trà trong làng vốn được chia đều cho từng hộ từ mấy chục năm trước. Khu vực này thuộc nhà ai thì người đó tự hái, không được xâm phạm vào phần của người khác. Nếu hái nhầm, đôi khi còn xảy ra tranh chấp.

Nay sau mấy thập niên, phần lớn các gia đình trong làng đều chỉ còn lại người già, con cháu đã đi làm ăn xa. Có những ngôi nhà nay đã bỏ trống, không còn ai trông nom. Đồi trà vẫn vậy, nhưng người hái trà ngày càng ít đi.

Trời vừa tảng sáng, sương mù mờ ảo phủ kín cả đồi.

Uông Tễ dậy từ sớm, ăn tạm củ khoai lang nướng cho bữa sáng rồi ra ngoài lấy nước hồ. Anh mang theo một chiếc giỏ tre, tiếng cổng gỗ đóng lại phát ra âm thanh khô khốc trong sương mai.

Đồi trà nhà anh nằm giữa lưng chừng núi, đường xa lại dốc nên anh không định lên đó. Phía sau núi có một mảnh trà dại, dù không nhiều nhưng cũng đủ để hái được vài cân, làm chút trà uống trong nhà là vừa.

Một đường đi đến chân núi, Uông Tễ dừng lại để kéo ống quần cao lên, cẩn thận che chắn. Trên đồi trà có nhiều đỉa lớn, loại sinh vật vừa đáng sợ vừa phiền phức. Chúng cắn người còn hút máu, khiến ai nấy đều phải dè chừng.

Hồi nhỏ anh từng bị đỉa cắn một lần nhớ đời. Lần đó đang hái quả dại trên núi, anh xuống đường thì bà ngoại bắt gặp vệt máu đỏ loang trên cổ áo. Bà hốt hoảng kéo anh lại, vạch áo ra xem thì phát hiện một con đỉa to đang bám chặt trên vai, máu rỉ ra từng giọt. Uông Tễ khóc òa tại chỗ, quả dại trong tay rơi lăn lóc khắp mặt đất. Bà ngoại vội vàng chạy vào bếp pha nước muối, đổ lên chỗ bị đỉa bám suốt một hồi mới gỡ được nó ra. Sau đó bà dắt anh về nhà, lấy trong tủ vài viên kẹo sữa dỗ dành.

Sáng nay trời đẹp. Đứng trên cao nhìn ra xa, anh thấy người hái trà lốm đốm trên đồi trà đối diện. Đúng mùa trà, khung cảnh thiên nhiên như được nhuộm màu xanh ngát, sương mù giăng lững lờ giữa những tán trà, điểm xuyết những bóng người đội nón rơm hái trà, trông như những nét vẽ sinh động trên bức tranh thanh xuân.

Cây trà mọc dọc theo thế núi, uốn lượn thành từng hàng ngay ngắn. Uông Tễ mang theo một chiếc ghế nhỏ, đặt sọt tre bên cạnh, rồi ngồi xuống cạnh một gốc trà.

Hái trà là một việc nhìn thì đơn giản, nhưng khi bắt tay vào làm mới thấy không dễ. Thoạt nhìn cảnh những ngón tay thoăn thoắt hái chồi non trong tiếng chim hót, hòa quyện cùng hương trà dịu dàng, thật thư thái và nhẹ nhàng. Nhưng đến khi chính mình hái, Uông Tễ mới cảm nhận được sự tỉ mỉ và mệt mỏi khác hẳn việc đồng áng.

Từ hơn sáu giờ sáng, anh hái trà đến lúc mặt trời lên cao. Uông Tễ đứng dậy, vặn người một cái, các khớp xương kêu răng rắc.

Hơn hai giờ làm việc, trong sọt tre chỉ lấp ló một lớp mỏng. Nếu là nông dân chuyên nghiệp, chắc chắn tốc độ này không đạt tiêu chuẩn, nhưng anh đã rất hài lòng. Bởi việc hái trà này, đối với anh, chỉ là tìm chút niềm vui nhàn nhã mà thôi.

Những công việc như trồng trọt hay hái trà, gắn liền với ký ức tuổi thơ, khiến anh cảm thấy ấm áp và yên bình. Nó tựa như mỗi buổi chiều, khi anh ngồi ăn cơm trong sân, ngẩng đầu là thấy khói bếp vờn quanh những ngọn núi phía xa.

Đến giữa trưa, Uông Tễ đấm đấm eo, để lại nửa sọt lá trà cùng chiếc ghế nhỏ trên núi, rồi xuống nhà ăn cơm trưa.

Nhiều người hái trà thường không về nhà ăn trưa. Họ đem theo vài gói mì tôm, một chiếc bình giữ nhiệt, rồi ngồi trên đồi pha mì ăn qua loa. Có người còn đơn giản hơn, chỉ ăn bánh bao kèm cải muối để tiết kiệm thời gian và sức lực.

Còn bữa trưa của Uông Tễ, dù đơn giản nhưng vẫn đủ ngon. Anh lấy cơm nguội từ hôm qua trong tủ lạnh, đánh thêm hai quả trứng, rồi chiên thành cơm chiên trứng vàng óng. Anh thêm chút lạp xưởng thái nhỏ, rắc hành lá tươi khi gần tắt bếp. Cơm chiên bóng bẩy, kết hợp với dưa muối thím làm, vừa thơm ngon vừa đủ để cân bằng vị béo của cơm.

Ăn xong, anh rửa sạch nồi niêu rồi lên núi tiếp tục hái trà.

Buổi chiều, tốc độ hái nhanh hơn nhiều, không phải chỉ nhờ anh, mà còn nhờ có thêm người hỗ trợ.

Khi Phù Tô lên núi, Uông Tễ đã bắt đầu thấm mệt. Anh ngồi bệt xuống, úp mặt vào hai tay mà ngủ gật. Sáng dậy sớm, lại không chợp mắt buổi trưa, giờ anh cảm giác cơ thể như đang rã rời.

Nghe tiếng bước chân lạo xạo trên lớp cát đá, anh gắng gượng ngẩng đầu, đôi mắt vừa hé mở đã mơ màng phủ sương. Chưa kịp nhìn rõ người tới, Uông Tễ đã nghe giọng vang lên trước.

“Ngủ ở đây à?”

Nghe ra người quen, anh mới khẽ mở mắt, rồi lại nhắm ngay, tiếp tục nằm gục xuống, cười nhàn nhạt: “Tôi đang làm việc mà cậu hai.”

Không để ý lời bông đùa, Phù Tô đặt đồ trong tay xuống đất, ngồi xuống cạnh anh, hờ hững nói: “Ngủ thì cứ ngủ đi.”

Vậy là cả hai chẳng nói thêm gì. Uông Tễ mơ màng thêm vài phút, đến khi hơi tỉnh táo, anh mới nhận ra bên cạnh yên lặng lạ thường. Ngẩng đầu nhìn sang, cảnh tượng trước mắt khiến anh hết buồn ngủ.

“Anh làm gì vậy?”

Phù Tô ngồi trên cái ghế thấp, đội mũ lưỡi trai, im lặng hái trà một cách nghiêm túc.

“Làm công cho cậu,” hắn đưa một nắm lá trà tới trước mặt anh, “Thế này ổn không?”

Uông Tễ cúi xuống nhìn. Những búp trà xanh tươi được hái gọn gàng, không dính lẫn chút tạp chất.

“…Kỹ thuật hái trà cũng giỏi đấy, nhưng tôi trả lương không nổi đâu.”

Phù Tô thản nhiên bỏ lá trà vào sọt bên cạnh anh: “Trả không nổi tiền lương thì cho ăn cơm.”

Uông Tễ bật cười, còn ngái ngủ nên giọng hơi kéo dài: “Cơm thì chắc chắn no.”

“Vậy là được rồi.” Phù Tô đáp.

“Nhưng mà sao anh biết tôi đang hái trà ở đây? Lại còn tự chuẩn bị ghế nhỏ nữa.” Uông Tễ chỉ chỉ chiếc ghế thấp Phù Tô ngồi, nhìn đôi chân dài của hắn hơi co lại, có vẻ không thoải mái.

Phù Tô dừng động tác, quay đầu chỉ tay về phía xa.

Uông Tễ nhìn theo hướng tay hắn, thấy một ngôi nhà nhỏ khuất nửa trong rừng cây.

“Ra vậy, anh nhìn thấy tôi từ phòng ngủ hả?” Buổi chiều anh đổi chỗ hái trà, vị trí này vô tình lại đối diện với căn phòng của Phù Tô qua lớp cửa kính.

Cả hai cùng hái trà, tốc độ nhanh hơn hẳn. Dù nhìn qua, Phù Tô trông như người chẳng quen việc nhà nông, nhưng khi hái trà lại nhanh nhẹn và khéo léo đến bất ngờ. Đầu ngón tay linh hoạt, từng búp non được hái sạch sẽ, không sót lại chút nào.

Hái được một lúc lâu, Uông Tễ vừa hái xong mấy cây trà phía trước, định xách ghế đổi chỗ. Như thói quen, anh dậm chân một cái để kiểm tra xem có đỉa bám không. Đang dậm dậm, anh sực nhớ gì đó, liền xoay người đi về phía Phù Tô. Nhưng vừa bước được vài bước, chân bỗng trượt. Trước khi kịp phản ứng, cả người anh đã chật vật ngã nhào xuống, quỳ rạp dưới chân Phù Tô.

Phù Tô bị bóng người bất ngờ lao đến làm giật mình, suýt nữa thì cùng chiếc ghế đổ xuống sườn núi. May mắn là phản ứng nhanh, hắn chống tay giữ thăng bằng lại được.

Ổn định xong, hắn nắm lấy cổ tay Uông Tễ, kéo người từ dưới đất lên: “Bảo ăn cơm thôi, đâu có bảo làm lễ lớn thế này.”

“Lễ lộc cái gì,” Uông Tễ dở khóc dở cười, đứng dậy phủi quần áo, “Tôi chỉ bị trượt chân chút xíu thôi, không sao đâu, anh có bị đụng không?”

“Không,” Phù Tô lắc đầu, rồi nhìn anh từ trên xuống dưới: “Nhưng cậu có chắc là mình không sao không?”

“Không sao mà,” Uông Tễ cười xòa, “Tôi định nhắc anh trên núi có đỉa lớn, cắn một phát là máu chảy thành dòng. Anh nhớ buộc chặt ống quần lại.”

Phù Tô giơ chân lên khoe: hắn mặc quần thể thao rộng, ống quần kéo cao, bên trong còn có thêm một lớp nữa, cổ chân được băng chặt bằng dây chun chuyên dụng, kín mít không chừa chỗ cho đỉa bò.

Uông Tễ thấy vậy mới thở phào nhẹ nhõm: “Anh biết cách phòng đỉa à, tôi còn lo anh không biết, bị cắn thì khổ.”

Phù Tô buông ống quần xuống, nhún vai: “Trước đây tôi đi bộ trong núi, bị cắn mấy lần nên rút kinh nghiệm rồi.”

Uông Tễ nhìn lại bản thân, so với Phù Tô, ống quần anh nhét vào trong tất, tất thì chui vào giày, mà giày thì đầy bùn chưa chùi sạch, trông cả người như một anh nông dân chính hiệu.

Thấy hơi khát, anh xách chiếc bình thủy tinh bên cạnh lên uống nước. Khi trở về quê, anh chỉ mang theo bình giữ nhiệt, nhưng uống nước bằng cái đó hơi bất tiện, nên hôm nay tiện tay lấy đại một chiếc bình thủy tinh để dùng.

Nhìn chiếc bình lớn cùng bộ đồ chất phác của mình, Uông Tễ không khỏi cảm thấy hài lòng: bản thân đã hoàn toàn rũ bỏ dáng vẻ người thành phố, chính thức nhập vai nông dân.

Ánh nắng xuyên qua tán lá chiếu xuống, anh nhắm mắt ngửa mặt đón ánh sáng, cảm giác như niềm vui ngày mùa đang tràn ngập trước mắt.

Phù Tô cắt ngang suy nghĩ: “Tôi cũng muốn uống nước.”

Cảm giác “ngày mùa rộn rã” của Uông Tễ bị phá vỡ. Anh mở mắt nhìn quanh: “Anh không mang theo ly sao?”

Phù Tô gật đầu: “Ừ, tôi từ trong phòng bước ra, nhìn thấy cậu mang ghế và sọt tre đi, nhưng không thấy mang ly, nên quên luôn.”

Uông Tễ bật cười: “Anh đúng là học giả tinh ranh. Cái này mà cũng phải nhìn tôi để đoán à?”

Nói rồi anh nhìn bình nước trong tay, băn khoăn không biết mình vừa uống bên nào, nhưng còn đang nghĩ, Phù Tô đã chìa tay ra, giục: “Không nói cơm nước gì hết, trước cho tôi uống hai ngụm đã.”

Lời nói nghe có chút đáng thương, Uông Tễ đưa bình thủy tinh cho Phù Tô, còn anh thì cúi đầu lục lọi trên người, sờ soạng khắp nơi. Nhưng trước khi anh kịp tìm ra thứ gì, Phù Tô đã cầm lấy bình, đưa lên miệng uống.

Nước từ miệng bình tràn xuống, nhỏ giọt trên cằm hắn. Phù Tô giơ tay lau, ngẩng đầu hỏi: “Sao nước này lại có vị ngọt?”

Uông Tễ khựng lại động tác, giải thích: “Tại cái bình này vốn là từ hộp trái cây. Tôi đổ hết trái cây bên trong ra, rồi trực tiếp rót nước vô. Dưới đáy bình còn dính chút nước đường.”

Phù Tô gật gù, rồi liếc mắt nhìn anh: “Vậy cậu đang tìm cái gì?”

Uông Tễ đáp: “Định kiếm cái khăn giấy hay gì đó, để cậu lau miệng bình. Nhưng giờ coi bộ không cần nữa rồi.”

Phù Tô bật cười, đôi môi vừa chạm nước giờ trông đỏ hơn: “Cậu có mang theo không?”

“Không mang.”

“Vậy còn kiếm làm gì?”

Uông Tễ cũng bật cười: “Thói quen thôi. Theo bản năng kiếm thử, sợ anh ngại chuyện uống chung. Dù gì tôi cũng đã uống trực tiếp từ bình rồi.”

Phù Tô lắc đầu, cười nhẹ: “Không khó tính vậy đâu.”

Trời dần về chiều. Hai người ngồi trên băng ghế, luân phiên uống nước từ chiếc bình thủy tinh. Ánh nắng vàng nhạt phủ lên cả hai, khiến bóng họ trải dài trên nền đất.

Phù Tô xoay chiếc bình trong tay, làn da trắng của hắn nổi bật dưới ánh nắng. Hắn thở dài, chậm rãi nói: “Thật ra, tôi thấy hơi kiệt sức rồi.”

Uông Tễ ngửa cổ uống hết ngụm nước cuối cùng, rồi đặt bình vào sọt tre: “Anh còn biết mệt à? Từ nãy giờ nhìn anh cúi đầu hái trà, tôi tưởng anh không biết chán. Nói chuyện với anh còn chẳng thấy anh buồn trả lời.”

Phù Tô đáp: “Sợ hái ít quá, cậu lại thiệt thòi.”

Uông Tễ bật cười: “Người đi làm thuê không được suy nghĩ như vậy. Ông chủ sẽ không bao giờ chịu thiệt đâu.”

Hai người nhìn nhau, rồi đồng loạt nghiêng đầu cười lớn.

Buổi sáng lên núi, Uông Tễ chỉ mang theo một chiếc sọt nhỏ, vì vốn không kỳ vọng hái được nhiều. Nhưng buổi chiều có Phù Tô phụ giúp, tốc độ hái tăng gấp đôi. Đến giờ, chiếc sọt nhỏ đã gần đầy.

Uông Tễ đứng dậy, cõng chiếc sọt lên vai: “Thôi, về nhà lãnh tiền công và thưởng thôi.”

Phù Tô nhấc hai chiếc băng ghế lên, lười biếng hỏi: “Còn có thưởng nữa hả?”

“Ừ, sau khi cân nhắc, tôi quyết định thưởng cho anh danh hiệu ‘nhân viên xuất sắc’.”

“Cảm ơn à. Tiền thưởng là gì?”

“Bất ngờ không. Đợi chút rồi biết.”

Mặt trời dần khuất núi, những người hái trà quanh đó cũng lục tục trở về. Bóng hai người trải dài trên nền trời ngập ánh hoàng hôn, hòa vào sự tĩnh lặng của buổi chiều tà.
 
Chương 9: Bánh trà


Trong sân nhà có một cái hồ nước nhỏ. Uông Tễ bưng một rổ rau củ tươi ra, vừa đi vừa xắn tay áo lên. Hồ nước đầy tràn, anh thả từng loại rau củ vào rồi cẩn thận rửa sạch.

Cà chua, ớt chuông, rau ngổ… từng loại ngâm trong nước suối mát lạnh. Đáy hồ được lát xi măng thô ráp, phản chiếu ánh nước lấp lánh.

Phù Tô đứng ở góc sân, chăm chú quan sát một cái lu cũ đã bị bỏ đi.

“Hồi trước dùng lu này để trồng sen hả?”

“Ừ. Mấy năm trước trồng sen, nhưng sau đó chẳng ai chăm, nên bỏ luôn.” Uông Tễ vừa rửa rau vừa đáp, tiếng nước vang lên róc rách dưới tay anh.

“Cũng hơi tiếc nhỉ.”

“Không sao. Năm nay lại trồng được mà. Thả thêm vài con cá vô lu nữa là đẹp.”

Phù Tô khẽ cười, tưởng tượng tới mùa hè tới, lu nước có hoa sen nở rộ, mưa nhỏ tí tách từ mái hiên nhỏ xuống, làm mặt nước gợn sóng, còn mấy chú cá thong thả bơi lội bên dưới.

Buổi tối, Uông Tễ bê rổ rau đã rửa sạch vào bếp. Phù Tô cũng bước theo, tự giác ngồi xuống bên bếp củi, bắt đầu nhóm lửa.

Lần đầu tiên hắn ngỏ ý muốn giúp nhóm lửa, ánh mắt Uông Tễ tràn đầy nghi ngờ. Anh khoanh tay đứng cạnh, đợi sẵn để “cứu nguy” nếu hắn làm hỏng chuyện. Nhưng Phù Tô lại làm thành thạo đến không ngờ. Từng động tác như nước chảy mây trôi: bỏ củi, thêm nhánh cây, rồi châm lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng rực, ánh lên nửa khuôn mặt của hắn, vừa ấm áp vừa trầm lặng.

Trong nhà không có thịt tươi, Uông Tễ lấy từ bếp ra một khúc lạp xưởng, thái từng lát mỏng, để dầu mỡ bên trong từ từ tiết ra. Sau đó, anh cho chúng vào bát, đập thêm hai quả trứng gà rồi trộn đều, chuẩn bị hấp chung với cơm.

Một nồi lẩu rau củ nghi ngút khói cũng được nấu lên. Nấm hương và mộc nhĩ được ngâm mềm, cà chua thái miếng, măng xuân thái sợi mỏng. Uông Tễ phi thơm hành lá rồi cho tất cả vào nồi, thêm chút muối và đường, để lửa nhỏ hầm kỹ. Bên cạnh, rau ngổ xào thanh đạm, ớt chuông trộn dầu giấm… sắc màu tươi tắn khiến người ta nhìn mà thèm ăn.

Trên bàn ăn, mọi thứ đã sẵn sàng. Ánh đèn vàng dưới mái hiên chiếu sáng không gian ấm cúng. Từ xa, làn khói bếp từ những ngôi nhà đối diện tỏa lên, hòa vào màn đêm.

Phù Tô bày xong bát đũa, còn Uông Tễ bê lên hai chén cơm nóng: “Ăn cơm nào.”

Có một con mèo hoa trèo lên tường, tò mò nhìn xuống bàn ăn. Uông Tễ tiện tay ném cho nó một miếng cà rốt. Mèo cúi đầu ngửi ngửi, cào nhẹ một cái, kêu “meo meo” như tỏ ý cảm ơn rồi tha miếng cà rốt đi.

Chợt nhớ ra điều gì, Uông Tễ hỏi: “Con chó đâu rồi?”

Phù Tô đang dùng thìa xúc lạp xưởng hấp, trứng chín mềm thấm đều nước sốt. Hắn đáp: “Có cho nó chậu cơm rồi, nhưng chắc giờ vẫn còn chạy chơi trên núi.”

“Nó cũng ham vui thật.” Uông Tễ cười, gắp một miếng măng non trong nồi lẩu, thổi nguội rồi ăn.

Bữa cơm tối kết thúc, cả hai ăn hết sạch bốn món trên bàn. Phù Tô còn ăn thêm hai chén cơm cháy nấu với canh.

“Anh ăn kinh thật.” Uông Tễ trêu.

“Làm việc cực khổ mà.” Phù Tô nhún vai, nhai nốt miếng cơm cháy cuối cùng.

Cơm xong, cả hai cùng rửa bát. Nhà Uông Tễ không có máy rửa bát, nên hai người chia nhau làm. Một người đánh xà phòng, người kia tráng sạch bằng nước. Bát đĩa rửa xong được xếp gọn gàng vào tủ.

Phù Tô đứng sau lưng Uông Tễ, hỏi: “Lửa trong bếp dập chưa?”

“Chưa. Để lát nữa tôi sao trà.”

“Sao trà?”

“Ừ. Trà hái trong ngày phải sao ngay. Để qua đêm sẽ mất mùi.”

“Vậy tự cậu làm à?”

“Thường thì đem đến xưởng trà, nhưng ít quá họ không mở máy. Với lại, đây là để uống chứ không phải bán. Sao ở nhà cũng được.”

Phù Tô gật đầu, không nói gì thêm.

Hai tiếng sau, cả hai đang nằm ngủ gà ngủ gật trên sofa trong phòng khách tầng hai. Trên bàn trà, chiếc đồng hồ báo thức vang lên. Phù Tô mở mắt, uể oải tắt chuông, rồi vươn vai, xoay cổ để đỡ mỏi.

Uông Tễ còn đang úp mặt vào gối, giọng nói mơ màng: “9 giờ hả?”

“Ừ.”

Anh chống tay ngồi dậy, đôi mắt còn ngái ngủ nhưng đã cong lên thành một nụ cười: “Không phải nói chuyện phiếm sao? Sao tự dưng cả hai lại ngủ hết vậy?”

Chạng vạng, Phù Tô nói sẽ ở lại giúp Uông Tễ sao trà. Lá trà mới hái cần phơi một lúc rồi mới xào được. Hai người ăn cơm xong lên lầu trò chuyện giết thời gian, nhưng chỉ nói được vài câu đã thiếp đi lúc nào không hay.

“Thôi cũng tốt, chợp mắt một lát cho khỏe. Sao trà lâu lắm, không ngủ thì chắc chắn lát nữa sẽ gục.”

Họ cùng xuống lầu. Uông Tễ, sau khi nghỉ ngơi, trông đầy sức sống. Anh xuống cầu thang bằng những bước nhảy nhẹ nhàng, hai tay bỏ vào túi quần, dáng vẻ thong dong nhưng bước chân lại uyển chuyển, không gây ra chút tiếng động nào.

Ở tuổi 30, Uông Tễ vẫn mang khí chất trẻ trung như một thiếu niên, cả người toát lên vẻ năng động và tinh nghịch.

Trong bếp, ngọn lửa trong lò vẫn chưa tắt hẳn, chỉ cần khơi lên là dùng được. Phù Tô lấy nhánh thông khô ra nhóm lửa, trong khi Uông Tễ rửa lại chiếc nồi một lần nữa bằng nước sạch.

“Sao trà không được dùng nồi dính dầu mỡ.” Anh giải thích. Vì thế, thay vì dùng nồi chiên xào hằng ngày, anh lấy một chiếc nồi chuyên nấu cơm đã được rửa kỹ để dùng.

Lá trà được bỏ vào nồi. Uông Tễ dặn: “Nhỏ lửa nhất thôi nhé.”

Phù Tô đứng bên kia bệ bếp, nghiêng đầu nhìn Uông Tễ. Từ góc nhìn này, chỉ thấy phần gương mặt anh. Hắn đáp: “Được.”

Bước đầu tiên của việc sao trà là làm khô, giúp lá trà mất nước và dậy mùi thơm. Những người chuyên xào trà thường dùng tay để đảo lá, vì cách này giúp kiểm soát nhiệt độ tốt hơn. Nhưng Uông Tễ ngại nóng, anh tìm một đôi găng tay bông sạch, đeo vào cẩn thận rồi mới bắt đầu làm.

Lá trà liên tục được đảo trên chảo, hơi nước bốc lên thơm nồng. Uông Tễ gom trà vào rổ, vừa xoa vừa làm nguội từng chút một.

Đảo rồi vê, lại đảo, lại vê… Lặp đi lặp lại vài lần, lá trà mới không còn vị cỏ tươi mà thơm đượm hương trà núi.

Khi anh đổ lá vào chảo để đảo lần nữa, mồ hôi đã lấm tấm trên trán.

“Để tôi làm thử nhé?” Phù Tô đứng dậy, chỉnh lại lửa rồi bước đến gần.

Uông Tễ, cánh tay mỏi nhừ, biết ý tốt của hắn, liền nói đùa: “Anh định kết phường với tôi à?”

Phù Tô cười gật đầu: “Cái nghề buôn nhỏ này mà cũng kết phường sao?”

“Đừng coi thường buôn nhỏ,” Uông Tễ tháo găng tay ra đưa cho hắn, “Cùng nhau làm, cùng nhau hưởng. Sau này lá trà tôi chia anh một nửa, anh mà uống sẽ thấy thơm lắm. Đúng kiểu trà núi cao chính gốc, dù muốn mua cũng chưa chắc có người chịu bán đâu.”

Ban đêm trong núi yên tĩnh lạ thường, không tiếng xe cộ, không một lời nói, ngay cả chó mèo cũng đã tìm được góc ngủ say. Bên ngoài, không ánh đèn neon, chỉ có ánh trăng trong trẻo rải trên đất và mái ngói.

Uông Tễ và Phù Tô cùng nhau nhóm lửa, xào trà, chẳng nói gì, chỉ thỉnh thoảng thay phiên vị trí mới cất tiếng vài câu.

“Có mệt không?”

“Không mệt.”

“Để tôi sao thêm chút nữa, cậu lo lửa đi.”

“Cẩn thận coi chừng cháy.”

“Rồi.”

Đêm khuya vắng lặng, trăng sáng sao thưa. Căn bếp nhỏ là nơi duy nhất phát ra tiếng lửa bập bùng và âm thanh lá trà trong nồi dần giòn rụm. Cả hai đặt mình vào không gian này, tận hưởng sự an yên của khoảnh khắc.

Đến khi lá trà hoàn toàn giòn, Uông Tễ tắt lửa, chỉ để nhiệt còn lại hong khô phần trà cuối.

Hương trà tràn ngập căn phòng. Hai người mệt nhoài, ngồi xuống ghế tựa vào tường. Uông Tễ phá tan sự im lặng: “Sao anh không nói gì vậy?”

Phù Tô nhắm mắt, khẽ đáp: “Làm sao? Hạng mục thành công rồi nên cần phát biểu cảm tưởng à?”

Uông Tễ bật cười, khóe môi cong lên: “Thôi được, tôi nhường cơ hội này cho anh đó.” 

Anh nhận ra mình dễ bị cuốn theo kiểu hài hước thâm trầm của Phù Tô, mỗi lần đều không nhịn được mà bật cười.

Do dự vài giây, Phù Tô khẽ ho một tiếng, chỉnh lại giọng nói.

Uông Tễ còn chưa kịp phản ứng, Phù Tô đã nghiêm trang mở miệng: “Kính thưa các vị lãnh đạo, các vị khách quý…”

Uông Tễ bật cười lớn, làm chú mèo ngủ ở góc tường bên ngoài cũng giật mình tỉnh giấc. Nó nhảy lên bậu cửa sổ, nghiêng đầu nhìn vào, rồi lại lười biếng tìm chỗ khác ngủ tiếp.

“Đừng cười,” Phù Tô nhắc, “Khách còn ở đây mà bị cậu cười chạy mất rồi.”

“Khách nào nữa chứ?” Uông Tễ hỏi.

“Có núi, cây, ánh trăng, và…” Phù Tô dừng một chút, mở mắt nhìn anh, “…hình như còn có cả lá trà hơi khét nữa.”

Uông Tễ giật mình, lập tức lao đến bếp chỉ trong vài bước dài: “Má ơi, suýt nữa quên mất!”

May mắn thay, chỉ có lớp trà mỏng đáy nồi bị hơi cháy xém, không ảnh hưởng nhiều đến hương vị. Uông Tễ nhanh chóng chuyển trà sang khay để hong khô tự nhiên qua đêm.

“Đại công cáo thành.” Anh thở phào nhẹ nhõm.

Phù Tô hai tay đút túi, bước đến gần: “Trà này khi nào mới uống được?”

“Vừa sao xong uống liền sẽ bị nóng trong người. Phải để một tháng mới ngon.”

Tiếng chuông điện thoại reo lên – báo thức của Phù Tô, nhắc hắn đã đến giờ nên đi ngủ.

Uông Tễ liếc nhìn điện thoại mình, bây giờ đã 11 giờ đêm.

Phù Tô tắt báo thức, cất điện thoại vào túi, nhìn Uông Tễ một thoáng, như thể đang định tạm biệt.

Uông Tễ mở miệng định nói hẹn gặp lại, nhưng không hiểu sao lòng hơi hụt hẫng. Trà hương còn thoang thoảng trong bếp, vài mẩu trà nhỏ còn lại dưới đáy nồi bị nhiệt đốt cháy khẽ phát ra tiếng lép bép.

Cảm giác này giống như hồi nhỏ đang chơi vui với bạn thì bị phụ huynh đến đón bạn về. Uông Tễ nghĩ, nếu đây là thành phố hay thị trấn, giờ này chắc chắn anh sẽ rủ Phù Tô đi làm một chầu BBQ hay gì đó cho tới sáng…

“Tôi…” Phù Tô mở lời.

“Anh muốn ăn bánh trà không?” Uông Tễ chợt hỏi.

“Gì cơ?” Phù Tô hơi ngớ người.

Uông Tễ cũng khựng lại, nhưng rồi vẫn nói: “Bánh trà ấy, ăn thử không? Ngon lắm.”

Phù Tô nhìn anh, trầm ngâm hai giây rồi đáp: “Ăn.”

Uông Tễ lấy bột gạo trộn với bột nếp, thêm chút đường, rồi dùng nước trà mới xào để pha bột. Nước trà xanh sậm dần hòa quyện, để nguội rồi đổ vào hỗn hợp, nhào đều đến khi thành dạng mịn.

Đã khuya, Uông Tễ lôi từ tủ ra một chiếc chén nhỏ, đổ bột vào chén, miệng chén đầy vun. Bếp lửa đã tắt, anh lấy một nồi hấp nhỏ, cẩn thận đặt chén vào.

“Đây coi như phần thưởng cho anh,” anh quay lại nói với Phù Tô, “Tính ra định để mai làm, nhưng giờ nếm thử trước đi.”

Phù Tô ngồi trên ghế nhỏ, bật cười: “Nhìn chén bé xíu luôn.”

“Thì là để thử mà, giờ này ăn no rồi còn ngủ được không?”

Dưới ánh đèn bếp mờ nhạt, hai người cùng ngồi đợi bánh trà chín. Ghế nhỏ, ngồi gần nhau đến mức đầu gối gần chạm.

Một ngày bận rộn, từ hái trà, xào trà đến làm bánh, cả hai đều hơi mệt, nhưng giây phút này ngồi đây lại thấy an yên đến lạ.

Mười lăm phút sau, bánh trà đã chín, Uông Tễ đeo găng cách nhiệt, cẩn thận mang chén ra. Anh lấy một cái muỗng, nhẹ nhàng múc một vòng sát mép chén, sau đó úp ngược chén, gõ nhẹ đáy chén. Miếng bánh trà mềm mịn hình nửa vòng tròn rơi xuống đĩa, còn nóng hổi.

Uông Tễ rửa tay sạch sẽ, cầm một nửa bánh bẻ ra đưa cho Phù Tô.

Bánh trà vừa chín tới, mềm mại, hơi dẻo dai, tan trong miệng mang theo vị trà nhè nhẹ, sau khi nhấm nuốt, vị hương trà còn vương lại giữa môi và răng, thơm thoang thoảng.

“Thấy sao, hôm nay bận rộn như vầy có đáng không?” Uông Tễ cười hỏi.

Phù Tô nuốt một miếng bánh, khẽ mỉm cười: “Đáng chứ.”

Đời thật kỳ diệu. Hơn hai mươi năm trôi qua, Uông Tễ quay lại ngôi làng nhỏ này, trong một đêm yên bình như thế. Hôm nay đã qua, ngày mai vẫn chưa đến, lòng anh an tĩnh lạ thường, cùng người bạn đồng hành vượt núi rừng xa xôi này chia sẻ một miếng bánh nóng hổi, như thể thời gian dừng lại trong khoảnh khắc.
 
Chương 10: Thanh minh và mưa


Tiết Thanh Minh năm nay lại mưa. Những cơn mưa lất phất không lớn, chỉ đủ làm ướt mặt đất và núi rừng.

Trời còn mờ sáng, Uông Tễ đã mang theo hộp đồ ăn đi trên con đường núi lầy lội. Trong hộp là táo đỏ, rượu trắng, và màn thầu.

Táo và rượu mua từ chợ, còn màn thầu do chính tay anh làm. Tối qua, anh đã chuẩn bị bột, để lên men suốt đêm. Sáng sớm, khi mặt trời còn chưa ló dạng, Uông Tễ đã nhóm lửa chưng bánh.

Ở đây, Thanh Minh tế tổ luôn cần một đĩa màn thầu gạo. Ở huyện thành, các cửa hàng thường làm màn thầu rất đẹp, còn khắc hoa văn bằng phẩm màu tự nhiên.

“Lần đầu làm, chưa khắc được hoa văn đâu. Để cháu luyện thêm, sang năm chắc chắn chưng cho mọi người những chiếc đẹp hơn.”

Vừa nói, Uông Tễ vừa đốt ba nén hương, rồi mở hộp đồ ăn ra.

Màn thầu được bày trên đĩa sứ thanh hoa, trắng ngần như ngọc. Anh còn thêm táo đỏ đã bỏ hạt, làm vài chiếc màn thầu nhân táo ngọt thơm lừng.

Ngồi trước phần mộ, Uông Tễ thủ thỉ với bà nội vài câu. Hương trong lư từ từ cháy, màn thầu còn ấm nóng trong sáng sớm se lạnh, như làm dịu đi cái rét mướt của cơn mưa phùn.

Khi xuống núi, trời đã sáng rõ.

Từ xa, Uông Tễ thấy một chiếc SUV màu đen đậu trước cổng nhà. Bước lại gần, cửa sổ xe hạ xuống, lộ ra gương mặt quen thuộc của Phù Tô.

Hôm nay hắn mặc chiếc áo khoác đen đơn giản, gương mặt sắc nét càng thêm lạnh lùng. Từ trong xe, hắn thò đầu ra hỏi: “Đi chưa?”

Những cảm xúc lẫn lộn trong lòng Uông Tễ, từ sáng sớm đến giờ, theo tiếng chim hót và làn mưa nhẹ mà tan biến.

Đứng giữa núi rừng xanh thẳm, anh cười tươi: “Đói chưa? Ăn sáng đã nhé.”

Rau chân vịt non mùa xuân được rửa sạch, trần qua nước sôi, cắt thành từng đoạn nhỏ. Trong một chiếc bát, Uông Tễ đánh trứng gà, thêm rau chân vịt, một muỗng bột mì và chút muối.

Anh chiên bánh rau chân vịt trên lửa nhỏ, lớp trứng vàng ươm, thơm phức lan tỏa trong gian bếp.

Nồi cháo trắng nhỏ đã được nấu từ sáng sớm, nhờ thêm củ mài xay nhuyễn nên cháo trở nên đặc sánh, thơm bùi.

Hai người ngồi dưới mái hiên, Phù Tô nuốt một ngụm cháo củ mài, cảm giác ấm áp lan tỏa từ đầu lưỡi. Uông Tễ bưng đĩa màn thầu đặt trước mặt hắn: “Ăn thử đi.”

Nghe vậy, Phù Tô cầm lấy một chiếc. Màn thầu mềm mịn, thơm ngọt, mang theo chút hương rượu nhè nhẹ từ men lên men.

“Hương vị thế nào?”

“Rất ngon.”

“Vậy ăn hết đi,” Uông Tễ nhìn Phù Tô, ánh mắt nghiêm túc, “Đây là lộc đó, ăn xong sẽ khỏe mạnh, bình an.”

Ánh mắt chân thành quá đỗi khiến Phù Tô bất giác gật đầu: “Được.”

Phù Tô từng trải qua một đợt sốt cao gần đây, kéo dài vài ngày với những triệu chứng mệt mỏi, chóng mặt và nôn mửa. Thính lực của hắn khi ấy giảm sút nghiêm trọng.

Dù đối diện với bệnh tật bất ngờ, hắn vẫn cố giữ bình tĩnh, tự đo thân nhiệt, đo huyết áp, uống thuốc, và thậm chí tự mình xử lý những lần nôn ói, thay ga giường ướt đẫm mồ hôi.

Như mọi lần, hắn kiên nhẫn chờ cơn bệnh qua đi, nhưng cảnh tượng đó đã khiến Uông Tễ hoảng hốt.

Bình thường giữa Uông Tễ và Phù Tô không có trở ngại trong giao tiếp. Nhưng chính sự điềm tĩnh và tự chủ của Phù Tô đôi khi khiến Uông Tễ quên mất rằng bệnh tình của hắn không hề đơn giản như vẻ ngoài.

Lúc này vị ngọt dịu của màn thầu tan dần trong miệng, từng chút một thấm vào lòng. Phù Tô ăn chậm rãi, cảm nhận sự chân thành và lời chúc phúc tốt đẹp trong từng miếng bánh mùa xuân.

Ăn sáng xong, hai người lái xe khởi hành. Vì là kỳ nghỉ lễ Thanh Minh, đường phố nhộn nhịp xe cộ, ai nấy đều vội vã trở về quê hương để tế tổ.

Đường núi ngoằn ngoèo, trời lại mưa lâm râm, mây mù bao phủ khiến Phù Tô phải lái xe chậm hơn thường lệ. Sau gần hai tiếng, họ đến huyện thành, vòng qua một con đường khác và cuối cùng cũng tới đích.

Giữa núi rừng sâu thẳm, ngôi cổ tự ẩn mình trong không gian yên bình. Uông Tễ và Phù Tô xuống xe, men theo bậc thang lát đá xanh đi lên núi.

Trong ngôi chùa này, Uông Tễ đã lập bài vị vãng sinh cho ông bà nội của mình. Những năm trước anh ít khi có cơ hội về quê vào dịp Thanh Minh, nên thường nhờ trụ trì thắp đèn trường minh thay. Nhưng năm nay, anh quyết định tự mình đến để hoàn thành việc này.

Ban đầu, Uông Tễ định đi xe buýt mini chuyên chở khách từ núi ra huyện. Nhưng trong một cuộc trò chuyện thoáng qua, Phù Tô đã đề nghị đi cùng anh.

Sau cơn mưa xuân, hai người bước qua cổng chính của ngôi cổ tự. Không khí tĩnh lặng, thoảng mùi nhang trầm nhẹ nhàng khiến lòng người thêm phần thanh thản.

Hôm nay trong chùa có tổ chức pháp hội thanh minh, thắp đèn và tụng kinh. Uông Tễ cùng Phù Tô đi vào đại điện, chọn góc phía sau, quỳ xuống trên đệm hương bồ, lặng lẽ nghe các sư thầy tụng kinh.

“Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm bát nhã ba la mật đa thời…”

Uông Tễ nhắm mắt lại, tâm trí dần chìm vào dòng tụng kinh chậm rãi.

“Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách…”

Trong đầu anh, hình ảnh ông nội hiện lên rõ ràng. Ông sống cả đời chịu khổ, đến những năm cuối đời, bóng dáng cao lớn, kiên cường như núi ấy cũng dần teo tóp, còng gập. Trước lúc ra đi, ông nắm lấy tay anh, nhưng đã không còn nhận ra anh là ai, chỉ còn lẩm bẩm nhắc lại những ký ức của cuộc đời mình.

Hồi bé nhà nghèo đói khổ, là anh cả, ông phải nhường hết phần ăn ngon cho các em. Lớn hơn ông đi làm thuê, bán củi kiếm tiền. Để đem củi từ trên núi xuống, ông phải gánh trên vai mấy dặm đường núi dài, người khác một ngày gánh hai bó, ông cắn răng gánh bốn, đến mức vai và chân mài ra cả máu. Về sau ông tham gia quân ngũ, rồi giải ngũ trở về quê nuôi dưỡng cha mẹ già. Vợ mất sớm, ông một mình gà trống nuôi con. Con trai thì không cố gắng, còn ông đến cuối đời vẫn cảm thấy thẹn với cháu.

Những chuyện kể ấy, ông nhắc mãi. Cuối cùng, ánh mắt mờ đục của ông chỉ còn lại một câu lặp đi lặp lại: “Mẹ nói phải tranh đua… Mẹ nói phải tranh đua…”

Câu nói nghe được từ nhỏ ấy, ông nhớ đến tận giây phút cuối cùng.

“Thậm chí chẳng có sinh ra, chẳng có già đi, mà cũng chẳng có tận cùng của sự sống và cái chết…”

Theo phong tục, sau khi người mất, phải hóa nhà vàng mã, tiền giấy, người giấy, mong rằng chúng có thể theo khói tro hóa thành thật, để người đã khuất có một cuộc sống đủ đầy nơi kia. Khi ông mất, Uông Tễ gần như dọn sạch hai cửa hàng hương nến trong vùng để mua đồ cúng. Anh thầm cầu nguyện, mong tục lệ này thật sự linh nghiệm. Anh chỉ mong ông có một cuộc sống tốt đẹp nơi kia. Chỉ cần thế, ngay cả tiền thật anh cũng không ngại đốt.

Hương trầm nghi ngút, tiếng chuông ngân vang. Uông Tễ quỳ trên đệm, bên tai là tiếng Phù Tô đọc nhỏ cùng âm thanh tụng kinh của các sư thầy.

“Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.…”

Đi thôi, vượt qua thôi, tự độ mình cũng là độ người, chúng sinh cùng đến bến bờ kia.

Pháp hội kết thúc, hai người bước ra khỏi đại điện. Trời lất phất mưa, gió thổi ướt vai áo. Đi qua lối đá xanh, Uông Tễ cúi xuống nhặt một cành hoa đỗ quyên bị gió thổi rụng. Ở nơi đây, người ta vẫn quen gọi loài hoa này là “hoa thanh minh.”

Đi thêm một đoạn, trước mặt là con đường mòn rợp bóng cây, dẫn tới bậc thang đá dài hun hút.

Phù Tô nhìn Uông Tễ bước xuống bậc thang. Anh không đi từng bậc mà thích nhảy nhẹ từng hai bậc, chân đáp xuống đầy uyển chuyển.

Nhưng bậc thang trong chùa dài và dốc, lại phủ đầy rêu xanh.

“Cẩn thận, coi chừng ngã.” Phù Tô không nhịn được lên tiếng nhắc. “Cậu mà té, tôi không đỡ nổi đâu.”

“Không sao,” Uông Tễ nói, nhưng chân đã chậm lại rõ ràng.

Xuống đến bậc cuối cùng, khung cảnh trước mắt mở ra rộng rãi, thoáng đãng. Đó là một hành lang dài treo đầy chuông gió và dải lụa đỏ cầu phúc. Những dải lụa bay phấp phới trong gió núi.

Hai người ngồi xuống bên hành lang, từ đây có thể nhìn bao quát toàn cảnh huyện thành phía dưới.

Cạnh họ có người đang buộc dải lụa cầu phúc. Họ nhìn một lúc, rồi cùng đồng thời quay đi.

Ánh mắt gặp nhau. Phù Tô là người phá vỡ sự im lặng trước: “Mắt cậu vẫn còn đỏ kìa.”

Uông Tễ hơi ngượng, vội vàng xoa xoa khóe mắt, rồi làm bộ hung dữ: “Đừng có nhìn. Quay đi.”

Phù Tô khẽ cười, cười xong lại ngoan ngoãn quay người, để chân đong đưa ngoài hành lang, khép mắt lại, lặng lẽ để gió mơn man qua mặt.

Uông Tễ khép mắt, làn gió nhẹ thoảng qua gò má. Anh chợt hỏi Phù Tô: “Anh tin Phật không?”

Hồi nãy trong đại điện, anh thấy hắn cùng các sư thầy tụng kinh.

Phù Tô im lặng một lát rồi đáp: “Không biết có tính là tin không nữa. Ban đầu là vì bệnh, khi đó tâm lý yếu đuối quá, gặp chút trắc trở đã cuống cuồng, muốn tìm một nơi nào đó để dựa vào.”

Những gì trong tầm tay đều không giải quyết được chấp niệm, đành đặt hy vọng vào lòng từ bi của thần Phật.

“Vậy còn bây giờ?” Uông Tễ mở mắt nhìn hắn.

“Bây giờ à?”

“Giờ thì coi như là một cách để nhắc nhở mình phải sống từ bi, làm người tốt.”

Hai người nhìn nhau cười.

Làn gió thổi tung mái tóc của Phù Tô. Hắn quay đầu, xa xa là những dãy núi xanh trập trùng, trên đầu là hành lang treo chuông gió, gió khẽ lướt qua làm chuông ngân vang. Hắn nói: “Giờ thì tôi đã chấp nhận rồi.”

Chấp nhận trước, buông bỏ sau, rồi mới có thể thay đổi. Thế gian này, mọi sự đều như vậy.

Buổi trưa, trong chùa có bữa cơm chay.

Uông Tễ và Phù Tô theo dòng người đi đến nhà ăn. Các chị tình nguyện viên múc cơm và đồ ăn, mỗi người nhận một bát sứ thô, đồ ăn được xếp gọn trên cơm.

Bàn ghế trong nhà ăn không đủ, Uông Tễ và Phù Tô đành bưng chén ra ngoài ăn.

Trời vẫn mưa rả rích, những hạt mưa thấm vào phiến đá xanh và mái hiên của tháp Phật.

Bên ngoài cũng có nhiều người như họ. Cả hai tìm được một băng ghế trống rồi ngồi xuống. Cơm trưa có đậu đũa xào, măng tây trộn và đậu hũ hầm. Vì đang mùa Thanh Minh, mỗi người còn được thêm một chiếc bánh thanh minh.

Chiếc bánh nhỏ xinh, vỏ ngoài xanh thẫm bóng mượt như ngọc bích, tỏa ra mùi thơm thanh nhẹ.

“Cái này là gì vậy?” Phù Tô tò mò hỏi.

Uông Tễ giải thích: “Bánh thanh minh, bên trong có gạo nếp. Ăn lúc còn nóng sẽ ngon hơn.”

Phù Tô gắp một chiếc bánh lên. Gạo nếp bên trong được nén chặt, mềm mại, chỉ cần khẽ dùng đũa là để lại một vết hằn nhỏ.

Bánh không có nhân, nhưng khi cắn một miếng, hương vị thanh nhẹ lan tỏa, nhấm nháp kỹ còn thấy chút ngọt dịu, không gắt, chỉ đủ để khiến lòng người cảm thấy tươi mới và dễ chịu.

“Bánh thanh đoàn à?” Phù Tô lẩm bẩm, miệng đầy bánh mềm mịn nên lời nói không rõ ràng.

Uông Tễ cũng vừa cắn một miếng, giọng anh nghe cũng hàm hồ tương tự: “Không khác lắm. Bánh thanh đoàn làm từ lá ngải cứu, còn bánh thanh minh này dùng rau dớn.”

Phù Tô gật gù, lại cắn thêm một miếng: “Ngon thiệt.”

Vì miệng đang đầy bánh nên âm thanh nghe như đang nói từ láy, khiến Uông Tễ không nhịn được cười.

Anh nói: “Anh thích món này hả? Sau núi có rất nhiều rau dớn lắm. Mai mốt tôi có thể làm cho anh ăn.”

Uông Tễ từ nhỏ đã quen với hương vị này, mỗi mùa Thanh Minh đều ăn, tự tay làm cũng không khó khăn gì.

Bánh thanh minh ở đây có hai loại: ngọt và mặn. Bánh ngọt thường nhồi nhân mè đen, mè đen được trộn thêm đậu phộng và chút mỡ heo, ăn vào thơm ngậy vô cùng.

Bánh mặn thì nhồi nhân thịt khô, đậu hũ khô và miến khoai lang đỏ, hương vị cay nhẹ, cắn một miếng là cảm giác đậm đà lan tỏa.

Nhưng trong chùa không dùng thịt khô hay mỡ heo, nên bánh thanh minh ở đây không có nhân, chỉ trộn chút đường trong lớp vỏ, làm nổi bật mùi thơm đặc trưng của rau cỏ tiết thanh minh.

Ăn xong, hai người lên đường về nhà. Uông Tễ là người lái xe.

Huyện thành đông đúc nhộn nhịp. Đường phố vào dịp lễ luôn chật kín người. Vừa lái xe, Uông Tễ vừa làm “hướng dẫn viên du lịch” cho Phù Tô.

“Đây là nhà văn hóa mới xây. Nhà văn hóa cũ bị phá bỏ để làm nhà ở. Hồi trước, trong sân nhà văn hóa có cây sơn trà, cuối xuân quả chín vàng ươm, bác bảo vệ leo lên thang hái, còn tụi tôi đứng dưới chờ sẵn, háo hức tới mức cơm tối cũng không ăn nổi…”

“Trường cấp ba của tôi kìa, tòa nhà mái đỏ kia là Trích Tinh Lâu, trường xây riêng cho học sinh lớp 12. Hồi đó, hôm nào trời quang tôi với tụi bạn trèo lên mái, từ đó nhìn lên còn thấy được cả sao trời…”

“Quán mì xào kia tôi nhớ rõ lắm! Hồi đi học, quán là của một bà lão đứng bếp. Sáng nào tôi cũng mua cơm hộp cho mấy đứa bạn, một lần năm sáu hộp, bà lão toàn thêm mì với trứng cho tụi tôi…”

“Kia nữa, quán bánh nướng kìa! Bánh củ cải với bánh rau tuyết của họ ngon cực, quán này có tuổi đời vài chục năm rồi. Mà chờ chút, chỗ này có chỗ nào đậu xe không? Tôi muốn ghé mua ít bánh mang về.”

Uông Tễ vừa lái xe vừa kể chuyện, giọng điệu hào hứng như muốn đưa Phù Tô vào ký ức tuổi thơ của mình. Qua từng câu chuyện, Phù Tô như thấy được một cuộc đời sống động, sáng bừng trong những mẩu chuyện giản dị nhưng tràn ngập niềm vui.

Rời khỏi huyện thành, cả trong và ngoài xe đều dần yên tĩnh.

Giữa đất trời mây núi, tiếng ồn và dòng suy nghĩ đều lùi xa, chỉ còn lại sự bình yên lan tỏa.

Khi xe trở về Vân Lĩnh, con đường nhỏ xanh mướt hoa dại dẫn họ đi qua từng ngôi nhà đơn sơ. Tới cổng nhà thím của Uông Tễ, anh thấy thím đang cho gà ăn trong sân.

Nhìn thấy xe của anh, thím dừng tay ngẩng đầu gọi: “Thằng Tễ đó hả?”

Uông Tễ dừng xe, hạ cửa kính xuống, mỉm cười chào hỏi.

Thấy người ngồi ghế phụ là Phù Tô, thím Uông mỉm cười chào. Phù Tô gật đầu đáp lễ. Thím bỏ cái chậu cơm cho gà xuống, bước lại gần xe.

“Hai đứa bây đi đâu đây? Sao lại lái xe về?”

“Dạ tụi cháu lên huyện thành chơi.”

Uông Tễ quay người ra sau lấy một túi bánh: “Bánh củ cải với rau tuyết, còn nóng hổi nè thím.”

Uông Tễ và thím Uông nói chuyện bằng phương ngữ, trong khi Phù Tô đứng im lặng lắng nghe, vì dù cố gắng lắm, hắn cũng không hiểu được những lời đối thoại thoăn thoắt đó. Đây cũng là lý do mà thím Uông trước giờ không nói nhiều với hắn.

Nói qua lại vài câu, thím Uông nhận túi bánh rồi lui lại một bước, hướng Phù Tô vẫy tay chào. Phù Tô cũng mỉm cười, đưa tay lên đáp lại.

Khi xe lăn bánh một lần nữa, Uông Tễ quay qua giải thích: “Thím hỏi tụi mình từ đâu về, tôi nói từ huyện thành. Rồi thím nhỏ giọng hỏi tôi quen anh từ hồi nào, tôi trả lời là lén thím quen anh từ kiếp trước rồi!”

Phù Tô bật cười khẽ, nhưng không kịp nói gì thì từ phía sau vang lên tiếng gọi lớn. Uông Tễ liếc kính chiếu hậu, thấy thím Uông từ trong sân chạy ra, vẫy tay rối rít.

Anh liền dừng xe, nhìn qua khoảng sân nhà thím Uông. Cây tú cầu chưa trổ bông, nhưng tán lá xanh rì đã mạnh mẽ vươn qua bức tường thấp. Giữa khung cảnh tươi tốt, thím Uông vui vẻ gọi: “Rau hẹ ngoài vườn tốt quá trời! Chú bây vừa mang thịt từ quê lên, tối nay thím làm vằn thắn, thằng Tễ nhớ ghé ăn nghen! Rủ cậu Phù Tô qua chung luôn nhen!”

Uông Tễ cười quay sang Phù Tô, hỏi: “Thím nói tối nay làm vằn thắn, nhân rau hẹ thịt. Thím kêu tôi rủ anh qua ăn chung, anh ăn không?”

Lúc này trời đã tạnh mưa, ánh nắng chiều len qua những tán lá. Phù Tô ngoảnh lại nhìn dáng thím Uông thấp thoáng xa xa, mỉm cười nhẹ: “Muốn ăn.”

Uông Tễ bật cười rạng rỡ, thò đầu ra cửa sổ, giọng nói trong trẻo, mang theo hơi thở cỏ cây hòa cùng gió núi: “Được luôn thím ơi!”
 
Chương 11: Cơm Lập Hạ


Đầu hạ cỏ cây xanh rờn, núi đồi phủ kín màu xanh biếc. Cảnh vật giữa đất trời dường như đậm hơn, không còn sự dịu dàng của mùa xuân mà thay bằng sức sống bồng bột, mạnh mẽ.

Uông Tễ đội mũ rơm, đang dựng giàn cho dàn dây leo ở mảnh vườn phía sau.

Mướp hương đã vươn dài, đậu cove và đậu đũa cũng lớn nhanh như thổi, cần sớm dựng giàn cho chúng leo lên mà ra hoa, kết trái. Trên đất, cà tím và ớt cay xanh mướt, cây cà chua sau khi được tỉa cành đã bắt đầu trĩu quả.

Giàn leo được làm từ những cây trúc mà hôm qua anh lên núi chặt về, sau khi tỉa bớt lá, chỉ còn lại những thân trúc chắc chắn, vừa vặn cho việc dựng giàn.

Dọn dẹp xong mảnh vườn, Uông Tễ hái thêm vài cây xà lách và một mớ rau dền đỏ. Cầm theo giỏ tre và chiếc cuốc, anh thong thả bước về nhà.

Từ xa anh đã thấy cổng sân nhà mình mở. Anh tháo mũ rơm, vừa đi vừa phe phẩy trong tay, nhẩn nha tiến lại gần.

Cây anh đào giữa sân đang độ sai quả, những chùm trái đỏ mọng xen giữa tán lá xanh mướt, đẹp đến mê người. Dưới tán cây, Phù Tô ngồi lặng lẽ.

Bên cạnh hắn là chiếc bàn đá mà Uông Tễ mới khiêng về không lâu, đặt ngay dưới bóng mát, nhìn thôi cũng thấy mát. Hắn ngồi dựa trên chiếc ghế gỗ kiểu cũ, đôi chân khẽ đẩy làm ghế phát ra tiếng kẽo kẹt nhẹ nhàng.

Phù Tô ngửa mặt nhìn đàn chim đang chuyền cành, mổ những quả anh đào chín. Trên bàn còn đặt một đĩa trái cây, cả người lẫn chim đang hưởng thụ bữa tiệc ngọt ngào dưới bóng cây yên tĩnh.

Khung cảnh ấy khiến lòng người lắng dịu, cả thời gian như ngừng lại giữa tiếng chim ríu rít.

Uông Tễ đứng ở ngoài cổng, im lặng ngắm cảnh một lúc. Đến khi Phù Tô cúi xuống, tay đưa một quả anh đào lên miệng, ánh mắt hai người vô tình chạm nhau.

Cây trúc trong tay Uông Tễ rơi xuống đất, khiến đàn chim vỗ cánh bay tán loạn.

Phù Tô khẽ cong khóe môi, ngón tay chỉ về phía cây anh đào: “Chim bay hết rồi.”

Uông Tễ nhặt cây trúc, đẩy cổng bước vào, theo anh là một cơn gió nhẹ. Anh than thở: “Tôi mồ hôi như tắm ngoài vườn để trồng dưa, trồng đậu, còn anh thì ngồi ăn anh đào, nằm ghế hưởng thụ. Tôi đúng là chẳng phải ông chủ gì, y như nô bộc vậy.”

Phù Tô bật cười, từ ghế đứng lên, rót cho Uông Tễ một ly trà đã nguội sẵn trên bàn đá: “Vừa ướp lạnh, uống thử xem.”

Uông Tễ đặt giỏ rau vào góc sân, ngả người lên ghế nằm. Nhận lấy ly trà từ tay Phù Tô, anh uống một hơi hết nửa ly, cảm giác dễ chịu tràn khắp người: “Thoải mái thật.”

Trán anh lấm tấm mồ hôi, in hằn một vệt đỏ vì mũ rơm thít chặt.

Phù Tô bước đến chiếc dây phơi, lấy xuống một chiếc khăn lông, nhúng vào nước giếng rồi vắt khô. Hắn mang khăn đến, đặt lên trán Uông Tễ: “Lau đi.”

Uông Tễ cầm khăn, lau mặt, mỉm cười: “Mát lạnh quá.”

Sau khi lau xong, anh tiện tay đưa lại khăn cho Phù Tô. Hắn cầm lấy, giũ nhẹ rồi treo trở lại dây phơi. Quay sang, hắn hỏi: “Thế nào, giờ có phải cảm thấy giống nô bộc được tôn làm ông chủ chưa?”

Uông Tễ vừa nhai trái anh đào chua ngọt, vừa cười thành tiếng.

Việc để Uông Tễ làm lụng còn Phù Tô nhàn hạ ở nhà thật ra không phải lỗi của hắn. Phù Tô giỏi nhiều thứ, nhưng riêng việc làm vườn thì tuyệt nhiên không biết gì cả.

Phù Tô từng rất nhiệt tình giúp Uông Tễ bón phân cho vườn rau, nhưng lần đó lại chẳng mấy thuận lợi. Hắn không biết canh lượng phân cho đúng, rắc quá tay, khiến những cây non yếu ớt vừa mới vươn lên từ mưa xuân đã bị héo rũ trong những ngày hè nắng gắt.

Để bảo vệ khu vườn quý giá của mình, Uông Tễ đành phải khách khí ngăn Phù Tô không bén mảng đến gần nữa.

Gió từ núi thổi về mát rượi, ánh nắng len qua những kẽ lá, chiếu loang lổ trên bức tường trắng. Hai người ngồi dưới bóng cây, tận hưởng khoảnh khắc tĩnh lặng. Đám chim chóc ban nãy vì hoảng sợ bay đi giờ đã quay lại, tiếp tục chuyền cành, rỉa những trái anh đào căng mọng, rỉ nước ngọt lịm.

Đến giờ trưa, Uông Tễ hỏi: “Muốn ăn gì?”

Phù Tô không chút do dự: “Cơm lập hạ.”

Uông Tễ nhìn hắn, ngạc nhiên: “Cơm lập hạ? Giờ đã qua lập hạ lâu lắm rồi, còn ăn gì nữa?”

Phù Tô cười nhạt: “Vậy thì ăn cơm gạo nếp đậu Hà Lan.”

Uông Tễ bật cười bất đắc dĩ.

Ở đây, món cơm lập hạ chính là cơm gạo nếp đậu Hà Lan. Mùa lập hạ, đậu Hà Lan vào vụ, hạt đậu bên trong quả mập mạp, căng tròn, mang màu xanh non mát mắt. Người ta lột hạt đậu, đem nấu cùng gạo nếp và thịt khô. Khi cơm chín, mùi đậu thơm mát hòa quyện với hương thịt và gạo nếp dẻo ngọt, vừa mở nắp nồi đã tỏa hương thơm lừng khó cưỡng.

Phù Tô lần đầu tiên ăn cơm lập hạ ở nhà thím Uông, lập tức bị hương vị quyến rũ. Hắn mê mẩn món cơm đến mức không chỉ yêu thích cơm gạo nếp đậu Hà Lan mà còn rất thích lớp cơm cháy giòn rụm dưới đáy nồi.

Món ăn không quá cầu kỳ, nguyên liệu cũng đơn giản, nhưng Uông Tễ vẫn lắc đầu, hỏi đùa: “Dạo này ăn liên tục vài bữa rồi, dạ dày anh chịu nổi à?”

Phù Tô cười đáp: “Tôi ăn xong mỗi lần đều chạy bộ thêm một tiếng. Không sao đâu.”

“Thôi được,” Uông Tễ cười xòa, uống nốt ly trà cuối cùng rồi đứng dậy, “Vậy nhóm lửa đi, để tôi nấu cơm gạo nếp cho.”

Phù Tô nhanh nhẹn chuẩn bị lửa bếp, trong khi Uông Tễ đem gạo nếp đi ngâm nước, rồi xách giỏ qua nhà thím Uông hái đậu Hà Lan.

Thím Uông đang lúi húi trong vườn, thấy anh lại ghé, liền hỏi: “Bây lại làm cơm gạo nếp à? Món ấy ngon thì ngon thiệt, mà khó tiêu lắm.”

Uông Tễ vừa cúi xuống hái đậu vừa cười đáp: “Ăn rồi nghiện thím ạ.”

Thím Uông bật cười. Thím biết Uông Tễ không mấy chuộng gạo nếp, chắc là do Phù Tô đòi ăn. Thím trêu: “Thằng nhóc Phù ấy, cái chi cũng ăn được, cái chi cũng thấy ngon.”

Sau khi hái xong đậu Hà Lan, hai người cùng ngồi trong sân lột vỏ. Khi Uông Tễ đang lột đậu, ánh mắt anh lơ đãng nhìn về góc tường, nơi cắm hai cây trúc mà anh từng mang từ núi về, chợt nảy ra ý tưởng.

“Hôm nay làm cơm gạo nếp, tôi sẽ thử sáng tạo xem sao.”

Một hạt đậu Hà Lan lăn khỏi tay Phù Tô, rơi xuống nền xi măng. Hắn cẩn thận nhặt lên, tò mò hỏi: “Cách sáng tạo gì cơ?” 

Cái phiên bản “chất phác” ban đầu đã đủ làm hắn ấn tượng, giờ lại nghe nói còn có cải tiến, hắn không khỏi ngạc nhiên.

Uông Tễ không trả lời, chỉ đưa nốt số đậu còn lại cho Phù Tô rồi cầm lưỡi hái, đi thẳng lên núi.

Trên núi, những cây trúc xanh mướt mọc thành từng bụi lớn. Uông Tễ lướt qua những cây trúc nhỏ, tìm đến một cây trúc to hơn, mọc gần cột điện. Sau khi ngắm nghía kỹ, anh vung lưỡi hái, chặt một đoạn mang về.

Thấy anh khiêng cây trúc về sân, Phù Tô lập tức đoán ra: “Làm cơm lam phải không?”

Uông Tễ liếc hắn, nhướng mày: “Biết thì biết thôi, nhưng nói ra làm gì? Còn kinh ngạc với bất ngờ gì nữa!”

Phù Tô khựng lại một giây, rồi nhanh nhẹn đỡ lấy cây trúc từ vai Uông Tễ: “Nấu cơm thôi mà phải chặt cả cây trúc to thế này? Nhìn cồng kềnh muốn chết.”

Hai người nhìn nhau trong thoáng chốc. Cuối cùng, Uông Tễ phá lên cười, cười đến mức bả vai rung lên bần bật.

Trúc được cắt thành từng ống đều nhau. Phù Tô mang ống trúc ra ao ngâm nước muối, kỳ cọ sạch sẽ. Trong khi đó, Uông Tễ bắt đầu chuẩn bị nguyên liệu.

Mỡ heo được thắng trong chảo, thịt khô thái nhỏ và đậu Hà Lan cho vào đảo đều. Mỡ heo chính là “linh hồn” của món cơm gạo nếp, giúp hương vị trở nên béo ngậy hơn. Sáng nay khi qua nhà thím Uông hái đậu, Uông Tễ đã tiện tay xin bà một miếng mỡ nhỏ.

Anh thêm một chút muối và gia vị để khử mùi, xào cho đến khi đậu và thịt chuyển màu thơm lừng, sau đó trút gạo nếp đã ngâm sẵn vào chảo. Gạo được đảo đều cho đến khi thấm mỡ và hơi dẻo, lúc đó Uông Tễ gọi Phù Tô mang ống trúc vào.

Mỗi ống trúc được đổ thêm một chút nước, rồi múc hỗn hợp gạo nếp, thịt, đậu Hà Lan vào, nén chặt. Các ống trúc lần lượt được xếp vào nồi lớn để chưng. Khói bếp bốc lên cuồn cuộn, thoảng trong gió là hương thơm ngọt ngào của gạo nếp hòa lẫn với mùi trúc non.

Khi Uông Tễ mở nắp nồi, luồng hơi nóng ùa ra, mang theo hương thơm ngây ngất khiến Phù Tô không khỏi nuốt nước bọt.

Đợi cơm lam nguội bớt, Uông Tễ tranh thủ rửa sạch rau dền và rau xà lách vừa hái từ sáng. Rau dền được xào sơ với chút dầu, còn rau xà lách thì để ăn sống. Những lá xà lách tự trồng non mượt, ngọt thanh, ăn kèm rất hợp.

Họ vẫn ăn cơm ở sân như mọi khi. Phòng bếp của Uông Tễ dường như chỉ là để nấu nướng, còn bàn ăn lại không mấy khi được dùng tới.

Khi cơm lam được bưng ra bàn, Phù Tô cố tình làm vẻ kinh ngạc, nhướng mày trêu: “Hóa ra anh chặt cây trúc là để làm cơm lam? Sáng tạo quá đi! Ai mà nghĩ ra được cơ chứ?”

Vừa nói, hắn vừa nhịn cười, khiến Uông Tễ đang cầm đũa không kịp phòng bị, giật mình suýt làm rơi xuống đất.

Phù Tô nhanh tay lẹ mắt, đỡ lấy đôi đũa rồi đưa lại cho anh, cười đầy vẻ đắc ý.

Hương thơm của gạo nếp hòa cùng mùi thịt khô đậm đà, đậu Hà Lan ngọt bùi và thoang thoảng mùi trúc non khiến từng đũa cơm lam trở thành một trải nghiệm vị giác đầy quyến rũ. Cơm dẻo mềm, mỗi lần cắn lại thêm một tầng hương vấn vương trong miệng.

Phù Tô ăn liền một hơi hết sạch cả ống trúc đầu tiên. Hắn có vẻ đặc biệt yêu thích món này, trái ngược với Uông Tễ. Sau hai ống cơm, Uông Tễ đã thấy ngấy, bèn chuyển sang nhai rau xà lách tươi giòn, từng miếng giòn xốp như để cân bằng lại vị giác.

Ăn xong, hai người dọn dẹp chén đũa. Uông Tễ vừa lau tay vừa nói: “Nằm ngoài sân nghỉ một lát rồi đi hái dâu tằm.”

Chiều nay, họ có kế hoạch ghé một vườn dâu ở gần huyện thành.

Ở Vân Lĩnh, do địa thế cao, trên núi không có cây dâu tằm. Tối qua trước khi đi ngủ, Uông Tễ tình cờ xem được một video tự ủ rượu dâu tằm, cảm thấy hứng thú. Anh tìm kiếm thông tin và phát hiện gần huyện thành có một vườn dâu cho hái thoải mái. Uông Tễ lập tức nhắn tin rủ Phù Tô đi, vừa để có bạn đồng hành, vừa có cớ “mượn” xe của hắn, lại tiện thể giúp hắn ra ngoài thư giãn, đỡ buồn khi cứ mãi loanh quanh trên núi.

Phù Tô liếc nhìn chiếc ghế nằm duy nhất trong sân, nói:v“Sân nhà cậu có mỗi cái ghế nằm, chia cho tôi một nửa đi?”

Uông Tễ bật cười: “Anh không sợ nóng hả? Đợi tí, để tôi lên lầu dọn cái sofa đơn xuống cho anh.”

“Được luôn.”

Vào buổi trưa đầu hạ, dưới bóng cây anh đào, hai người mỗi người một góc nghỉ ngơi. Phù Tô nằm dài trên chiếc sofa đơn, Uông Tễ ngả người trên ghế nằm, cả hai dùng mũ rơm che mặt để chắn bớt ánh nắng.

Uông Tễ cất giọng lười nhác: “Hôm nào phải xuống chợ tìm thợ mộc đóng thêm một cái ghế nằm nữa. Nhà hai người mà có mỗi một cái, cứ phải tranh nhau.”

Phù Tô đáp qua giọng buồn ngủ: “Vậy tôi cũng đóng một cái để ngoài vườn. Vài hôm nữa buổi tối trời mát, có thể nằm hóng gió.”

“Chỉ đóng một cái thôi? Lại tranh à?”

“Thì hai cái.”



Hai người trò chuyện một lúc rồi dần thiếp đi, tiếng cười nói lặng dần chỉ còn lại tiếng gió thổi qua kẽ lá. Cái ghế nằm lâu lâu lại phát ra tiếng “kẽo kẹt” khe khẽ.

Trong không gian yên bình ấy, lá cây anh đào xào xạc lay động theo gió, những chùm quả đỏ mọng cũng lắc lư nhè nhẹ. Ve sầu đang ẩn mình trong đất chờ ngày lột xác, chuẩn bị ngân lên khúc ca đầu tiên báo hiệu mùa hè giữa núi rừng sắp đến.
 
Chương 12: Đào Mừng Thọ, Màn Thầu


Nhà của Uông Thiệu Quân nằm ở vùng hạ lưu của thôn Vân Lĩnh, một nơi yên tĩnh dưới chân núi. Phía trước nhà là dòng sông nhỏ trong xanh, phía sau là rừng núi trùng điệp.

Sáng sớm hôm nay, Uông Thiệu Quân còn chưa kịp ăn sáng đã tất bật lái chiếc xe tải nhỏ đi về quê. Hôm nay là ngày đại thọ 80 tuổi của mẹ ông, nên mọi thứ phải được chuẩn bị thật chu đáo.

Các món chính như thịt heo và rau dưa đã được ông đặt trước tại cửa hàng từ ngày hôm qua. Thêm vào đó, ông còn nhờ chủ lò thịt bên thôn mua giúp một lượng lớn thịt bò tươi ngon. Không quên chuẩn bị món cá, ông đã hẹn trước với một nhà nuôi cá trong làng để lấy vài con cá tươi.

Chiếc xe tải nhanh chóng được chất đầy rau củ và thịt thà. Trước khi rời đi, Uông Thiệu Quân hạ kính xe, cười hào sảng nói với chủ lò thịt: “Giữa trưa nhớ qua sớm nha, ăn chút hạt dưa nói chuyện tí!”

Chủ lò thịt, trên tay vẫn cầm con dao lớn, cũng vẫy tay đáp lại: “Cứ yên tâm, giữa trưa ghé uống với ông nào hết vài cân rượu thì thôi!”

Chiếc xe tải từ từ lăn bánh, tiếng cười sang sảng của Uông Thiệu Quân vang vọng, hòa vào không khí tươi mát của buổi sáng vùng quê.

Khi Uông Thiệu Quân về đến nhà, cả gia đình đang ngồi quây quần ăn sáng trong sân. Nghe thấy tiếng xe từ xa, con trai ông Uông Thanh, reo lên: “Ba về rồi!”

Ông đỗ xe ngay ngắn, thò đầu ra khỏi cửa sổ xe, hỏi vọng vào: “Thằng cha bên lò rượu còn chưa tới à?”

Vợ của Uông Thiệu Quân, Lý Nhuận Hương đặt đũa xuống, tiến lên giúp chồng dọn đồ từ trên xe. Bà trách yêu: “Người ta nói 9 giờ mới đến, bây giờ mới hơn 8 giờ thôi, còn sớm mà, có gì phải vội. Nhìn ông xem, cơm sáng cũng không thèm ăn đã vội chạy đi.”

Uông Thiệu Quân gãi đầu, cười hì hì: “Hôm nay là ngày quan trọng mà, tôi sợ làm chậm trễ việc gì.”

Mẹ của ông, bà cụ tuổi đã cao, đang chậm rãi ăn tô mì trường thọ mà con cháu nấu riêng cho bà. Răng bà đã yếu, nên chỉ có thể ăn từng sợi một cách chậm chạp.

Thấy con trai và con dâu lỉnh kỉnh dọn xuống biết bao nhiêu đồ ăn, thịt cá, bà cụ khẽ lắc đầu: “Mua nhiều chi vậy bây ơi, tốn kém quá.”

Uông Thiệu Quân quay lại, cười xòa: “Tiền kiếm ra để xài mà má? Với lại, trưa nay bà con trong thôn đến chúc thọ, mình không chuẩn bị tươm tất thì làm sao đãi họ được?”

Bà cụ vuốt nhẹ chén cơm trong tay, nghe xong thì gật gù: “Vậy thì phải làm sao cho mọi người ai cũng được ăn ngon.”

Đúng 9 giờ, đầu bếp mà Uông Thiệu Quân thuê đã có mặt. Hàng xóm, bà con thân thích xung quanh cũng lục tục kéo đến giúp một tay. Đàn ông thì khiêng bàn ghế, dựng rạp; phụ nữ ngồi túm tụm nhặt rau, rửa rau, trò chuyện rôm rả.

Ở quê, những dịp như thế này không cần phải mời thiệp. Nghe tin có việc vui, ai rảnh rỗi đều sẽ tự giác đến phụ giúp, coi như thói quen của làng quê.

Trong sân, thím Uông đang ngồi tước một rổ măng tây. Lý Nhuận Hương từ bếp đi ra, bưng trà mời mọi người. Bà đặt một cốc nước trà xuống trước mặt thím Uông, rồi hỏi: “Chị Phương, hôm nay thằng Dương có về không?”

Thím Uông mỉm cười, gật đầu: “Có chứ, bà ba đại thọ 80 làm sao nó không về được. Tối qua chị nói với nó rồi, nó bảo trước giờ ăn tiệc nhất định sẽ đến.”

Uông Thiệu Quân và chú Uông là anh em họ, nên hai gia đình rất thân thiết.

Nghe vậy, Lý Nhuận Hương lại hỏi thêm: “Thế còn cháu ông Uông thì sao hả chị? Lần trước Thiệu Quân ghé đưa đồ, thằng bé ấy còn gửi lại nào thuốc lá, nào bánh kẹo. Em nhận mà ngại quá chừng, thuốc lá thì quý lắm!”

Thím Uông bật cười: “Thằng Tễ ấy à? Nó ngoan lắm, hiểu chuyện nữa. Chị có nhắn với nó rồi, chắc chắn nó không quên đâu.”

Ở quê, những buổi tiệc mừng như vậy thường không cầu kỳ như trong thành phố. Không cần thiệp mời, chỉ cần tin tức lan đi là đủ. Bữa tiệc thường được sắp xếp rất thoải mái, bàn ghế kê tạm trong sân, ai đến thì ngồi, người ít thì bàn rộng, người đông thì chụm lại một chút. Điều quan trọng nhất là không khí rôm rả, vui vẻ giữa bà con xóm giềng.

Uông Tễ và Phù Tô cưỡi chiếc xe máy nhỏ đến nơi thì sân nhà Uông Thiệu Quân đã đông kín người. Vừa bước vào, cả hai lập tức trở thành tâm điểm của mọi ánh nhìn.

Vốn dĩ, hai khuôn mặt anh tuấn như vậy xuất hiện cùng lúc, làm sao không khiến mọi người chú ý?

Những người không quen mặt bèn xì xào với nhau, vừa cắn hạt dưa vừa trao đổi: “Nhà ai thế nhỉ? Tôi không nhận ra, hình như chưa gặp bao giờ.”

“Ờ, cao ghê, đẹp trai thế này, không biết đã có vợ chưa?”

Một người khác liếc nhìn kỹ, rồi reo lên: “Ơ, phía sau kia không phải là cháu nội nhà ông cụ Phù đấy à? Thằng bé từ nước ngoài về ấy, năm ngoái nhà nó sửa nhà, chồng tôi còn qua làm thợ, nó trả tiền hào phóng lắm!”



Trước ánh mắt tò mò của mọi người, Uông Tễ và Phù Tô tiến đến bàn tiền biếu ở ngay cổng.

Ở quê mỗi khi có tiệc lớn, chủ nhà thường đặt một chiếc bàn nhỏ gần cổng để khách ghi danh và trao tiền mừng. Hai người thân tín của chủ nhà sẽ được giao nhiệm vụ ghi chép số tiền biếu và tên của từng người.

Uông Tễ bước tới trước, đưa phong bì lì xì, rồi nói rõ tên mình.

Người lớn tuổi ngồi sau bàn ngước lên, ánh mắt kinh ngạc khi nghe thấy cái tên quen thuộc: “Nhà Thế Văn hả?”

Thế Văn chính là tên ông nội của Uông Tễ.

Uông Tễ gật đầu: “Vâng ạ.”

Người lớn tuổi chăm chú nhìn cậu vài giây, đôi mắt đục mờ lóe lên sự vui mừng: “Bây lớn thế này rồi, giỏi, giỏi lắm!”

Đến lượt Phù Tô, khi cậu nói tên mình, người lớn tuổi ngạc nhiên hỏi: “Bây là cháu nội nhà cụ Phù đấy phỏng?”

Phù Tô không hiểu câu hỏi, liền nghiêng đầu nhìn Uông Tễ. Uông Tễ mỉm cười giải thích: “Ông ấy nhận ra anh là cháu nội của cụ Phù, đang hỏi đấy.”

Phù Tô gật đầu, nhẹ nhàng đáp lại. Người lớn tuổi lại nhìn hắn thêm vài lần, rồi mỉm cười hài lòng: “Giỏi, giỏi lắm.”

Trao tiền biếu xong, cả hai tiến vào bên trong gặp bà cụ thọ 80. Bà cụ vừa thay bộ quần áo mới, đang ngồi trên ghế ở giữa gian nhà chính, vẻ mặt rạng rỡ. Uông Tễ dẫn theo Phù Tô tới chúc mừng, nói vài câu chúc thọ tốt đẹp.

Uông Tễ nói tiếng địa phương nên không gặp khó khăn, nhưng Phù Tô chỉ biết tiếng phổ thông. Tuy bà cụ không hiểu hết lời hắn nói, nhưng vẫn cười hiền hậu, bàn tay gầy guộc vỗ nhẹ lên tay hai người, ánh mắt đầy niềm vui và sự thân thiết.

Dù tuổi cao, bà cụ không nhận ra hết khách khứa, nhưng nhìn thấy đông đủ mọi người, bà vui mừng khôn xiết.

Bên cạnh, Lý Nhuận Hương tỏ vẻ ngạc nhiên, ghé sát thím Uông hỏi: “Ông cụ Phù nhà bên cũng gửi cháu trai đến à?”

Không phải bà không chào đón, mà vốn dĩ chỉ nghĩ rằng Phù Tô sẽ không xuất hiện ở một bữa tiệc làng quê như thế này.

Nghe vậy, mấy bà thím xung quanh cũng nhìn sang Phù Tô với vẻ tò mò.

Thím Uông cười, trả lời: “Nó tên Phù Tô, chắc thằng Tễ rủ cùng đến. Hai đứa nó thân thiết lắm.”

Sợ có người vì tò mò mà làm khó Phù Tô, thím Uông dặn thêm: “Thằng nhóc không hiểu phương ngữ quê mình, nên mấy bà nói chuyện với nó thì nhớ nói chậm một chút.”

Mấy bà thím xung quanh đều gật đầu thông cảm: “Ừ đúng, người ta từ nhỏ toàn nói tiếng nước ngoài với tiếng phổ thông, nghe không hiểu cũng phải thôi.”

Chào hỏi xong, Uông Tễ và Phù Tô rời khỏi gian chính, đi ra sân. Ở góc sân, Uông Dịch Dương đã ngồi từ trước, vẫy tay ra hiệu cho cả hai lại gần.

Uông Tễ kéo ghế ngồi xuống, đối diện thẳng với ánh nắng mặt trời. Phù Tô thấy vậy, liền kéo ghế của Uông Tễ về phía mình, nhẹ nhàng dịch cậu sang một góc mát hơn.

Uông Tễ hơi ngạc nhiên, quay sang nhìn Phù Tô, nhướng mày: “Sao thế?”

Phù Tô chỉ đáp ngắn gọn: “Nắng.”

Uông Dịch Dương sớm nghe mẹ mình kể chuyện về hai người kia, biết rằng hiện giờ Uông Tễ và Phù Tô khá thân thiết. Uông Tễ thậm chí còn đưa Phù Tô về nhà mình ăn cơm vài lần, khiến ba mẹ Uông Dịch Dương khi nhắc đến Phù Tô đều khen ngợi hết lời. Nhưng hiện tại nhìn cách hai người họ tự nhiên và hòa hợp như vậy, Uông Dịch Dương vẫn không giấu được sự ngạc nhiên.

“Anh giỏi ghê,” cậu ta ghé sát tai Uông Tễ, cười tủm tỉm. “Ngay cả vị cao nhân ẩn dật như Alice mà cũng bị anh nắm gọn trong tay.”

“Biến.” Uông Tễ lạnh lùng phun ra một chữ, dứt khoát.

Uông Dịch Dương bật cười, rồi quay sang Phù Tô, chìa tay ra: “Tôi là Uông Dịch Dương, em họ của Uông Tễ.”

Cậu ta lại chỉ tay về phía xa, nơi chú Uông và thím Uông đang trò chuyện: “Kia là ba mẹ tôi.”

Phù Tô bắt tay đáp lễ.

Vị trí Uông Dịch Dương ngồi là góc tụ tập của đám trẻ con trong nhà. Xung quanh là những chiếc ghế băng nhỏ, nơi mấy đứa nhóc ríu rít chơi đùa.

Đối diện Uông Tễ là một bé gái nhỏ, thấy hai anh trai đẹp trai tiến tới, đôi mắt to tròn không giấu được sự hiếu kỳ, thỉnh thoảng lén liếc nhìn. Uông Tễ phát hiện, liền chỉ tay vào chiếc kẹp tóc hình con bướm trên đầu cô bé, khen: “Đẹp quá nha!”

Cô bé đỏ mặt, khẽ cười ngượng ngùng nhưng rất vui.

Tiệc chưa bắt đầu nhưng trong nhà ngoài sân đều rộn ràng tiếng trò chuyện. Uông Thanh tay bưng ấm nước, đi khắp sân rót trà cho mọi người. Thấy Uông Tễ và Phù Tô ngồi đó, cậu nhanh nhẹn bê hai ly trà đến.

“Anh.” Cậu đưa ly trà đầu tiên cho Uông Tễ.

Sau khi Uông Tễ nhận, cậu lại đưa ly còn lại cho Phù Tô, giọng vừa bất ngờ vừa thân thiết: “Anh Phù Tô, hôm nay anh cũng tới ạ?”

Phù Tô gật đầu, mỉm cười đáp lại.

Uông Tễ hơi bất ngờ: “Hai người quen nhau à?”

Phù Tô quay sang giải thích: “Trước đây gặp rồi.”

Hóa ra khi sân nhà Phù Tô thi công, người trong thôn được thuê theo ngày công. Vào dịp nghỉ lễ Quốc Khánh, Uông Thanh muốn kiếm chút tiền sinh hoạt để phụ giúp gia đình nên đến đó làm việc vài ngày. Một hôm cậu tình cờ gặp Phù Tô lần đầu tiên đến Vân Lĩnh.

Lúc ấy, một cậu nhóc mười mấy tuổi như Uông Thanh, lại học sửa xe, chẳng mấy mà bị thu hút bởi chiếc xe việt dã được cải tiến của Phù Tô. Đôi mắt cậu sáng rực, dán chặt vào chiếc xe đến mức không rời nổi. Trong giờ nghỉ trưa, cậu thậm chí còn ngồi ăn ngay cạnh xe để được ngắm thêm.

Phù Tô vốn định rời đi ngay sau khi xem qua căn nhà, nhưng thấy Uông Thanh mê mẩn chiếc xe như vậy, lại nghĩ cậu còn nhỏ, chưa có bằng lái, nên đề nghị đưa cậu đi thử vài vòng quanh vùng. Sau đó, Phù Tô còn dặn đội thi công trả công ngày hôm đó đầy đủ cho Uông Thanh, khiến cậu nhóc cảm kích mãi không thôi.

Bên này, Uông Dịch Dương đang nói chuyện với Uông Tễ thì có một cậu học sinh trông cỡ cấp ba đi tới. Tóc cậu ta nhuộm vài sợi vàng, nhìn qua là biết thân với Uông Dịch Dương. Cậu ta nhảy phóc lên lưng Uông Dịch Dương, rồi quay qua Uông Tễ chào: “Anh gà!”

Uông Tễ nghe xong, khựng lại: “Hả?”

Uông Dịch Dương quay sang đập nhẹ lên đầu cậu ta: “Anh thì cứ gọi là anh, cái gì mà anh gà? Chữ ‘Tễ’ đọc thanh bốn, học kiểu gì mà chữ cũng không biết đọc? Ba mày mới nói hồi nãy đó, kiểm tra tháng này lại đứng chót bảng, thiệt hết nói nổi!”

Cậu tóc vàng gãi đầu cười lỏn lẻn, bị đánh nhưng không giận, chỉ xoa xoa cánh tay rồi ngồi xuống cạnh Uông Dịch Dương. Cậu ta nhìn qua Uông Tễ, tò mò hỏi: “Anh Tễ, má em nói anh không còn ở Thượng Hải làm nữa mà về quê ở nhà… nằm chơi trồng rau, thiệt hông?”

Uông Dịch Dương cười khẩy: “Ủa, má mày cũng hiện đại ghê ha, còn biết cả chữ ‘nằm chơi’?”

Cậu tóc vàng cười hề hề: “Bà coi trên mạng đó!” Rồi quay qua hỏi tiếp: “Thiệt hở anh?”

Uông Tễ gật đầu, bình thản đáp: “Ừ, anh về nghỉ rồi.”

Cậu tóc vàng nghe vậy, mắt sáng rỡ: “Chờn ơi, sướng dữ dằn! Em cũng muốn nghỉ giống anh luôn, học hành chán chết. Anh học cao rồi còn về quê, thôi em khỏi học, nghỉ sớm cho khỏe.”

Nghe tới đây, Uông Tễ hơi giật mình. Trong lòng anh thầm nghĩ, chết cha, mình nói kiểu này lại làm gương xấu, lỡ đầu độc tư tưởng cậu nhỏ này rồi.

Còn chưa kịp nghĩ cách giải thích, Uông Dịch Dương đã đứng bật dậy, trừng mắt nhìn cậu tóc vàng, giọng gằn: “Mày mà cũng đòi nằm chơi hả? Học không nổi thì thôi, tao bảo mày qua phụ việc trong tiệm kiếm chút tiền mày còn không chịu, ở đó mà nằm chơi? Mày đứng yên đó, tao cho mày nằm luôn!”

Mỗi câu Uông Dịch Dương nói đều đi kèm với một cái búng tay chát chúa.

Cậu tóc vàng ôm tay, vừa né vừa la: “Ai da, ai da! Anh họ, đừng đánh nữa!”

“Mày đừng chạy! Gần nghỉ hè rồi, không chịu làm bài tập thì lo vô quán tao bưng bê. Đừng có tối ngày lêu lổng!”

“Em hông chịu đâu! Đi bưng bê mắc cỡ muốn chết. Chừng nào anh cho em làm quản lý thì em mới chịu!”

“Quản lý cái đầu mày! Có ngon thì nói y chang vậy với ba mày thử coi…”

Hai anh em cứ thế rượt nhau vừa chạy vừa cãi chí chóe một đoạn xa.

Uông Dịch Dương nói tiếng phổ thông hơi bập bẹ, nhưng nãy giờ từng câu từng chữ rõ ràng, Phù Tô đứng đó nghe không sót một chữ.

Phù Tô cúi đầu nhìn mình, sau đó đưa tay kéo cổ áo ra sau. Ngón tay hắn cầm chiếc nhãn mác vẫn còn dán trên áo và chìa cho Uông Tễ xem.

Uông Tễ bật cười, đưa tay giúp hắn vuốt phẳng: “Được rồi, biết anh tiết kiệm. Chờ lát nữa mà nhàu thì uổng.”

Ngón tay chạm nhẹ sau cổ làm Phù Tô thấy hơi ngứa. Hắn chớp mắt, cố giải thích: “Cũng không phải chỉ dựa vào may mắn mà có đâu. Tôi đi học cũng chăm chỉ lắm.”

Dù không bằng học sinh trong nước, nhưng khi bạn bè tụ tập tiệc tùng, hắn vẫn cặm cụi làm bài tập.

“Tốt nghiệp rồi đi làm cũng vất vả lắm,” hắn nói, suy nghĩ một chút rồi bổ sung, “…khá là quay cuồng.”

“Quay cuồng hả?” Uông Tễ nghe thế nhướn mày, “Vậy chắc anh chưa thấy tôi. Ngày xưa tôi là ‘vua tăng ca’ ở công ty, mãi sau này không kham nổi nữa mới nhường cho đồng nghiệp khác kiếm cơ hội sống.”

Phù Tô nhún vai, không chịu thua: “Tôi mà làm thì phải đứng đầu.”

Uông Tễ tiếp lời: “Tôi làm ở công ty lớn, tăng ca kiểu 996.”

Phù Tô bật lại: “Tôi làm liên tục nửa tháng, mỗi ngày 3 giờ sáng mới ngủ.”

Uông Tễ cười khẩy: “Tôi sẵn sàng 24/24, tăng ca trọn một tháng không nghỉ.”

Hai người đàn ông hơn 30 tuổi mà cãi nhau như trẻ con, cuối cùng nhìn nhau rồi cười phá lên, dựa lưng vào tường mà cười.

“Cậu còn khổ hơn tôi.” Phù Tô chống cằm lên cánh tay, khẽ cười. Đôi mắt hắn sáng lấp lánh, còn khuôn mặt lạnh lùng lúc này lại dịu dàng bất ngờ.

Ánh nắng nhẹ nhàng chiếu lên hai người. Uông Tễ nghĩ, mình mới về đây chưa đầy bốn tháng, mà mọi thứ trong quá khứ như đã trôi xa lắm rồi. Những ngày tăng ca tới sáng, những lần lặn lội qua bao thành phố xa lạ… giờ tất cả đều trở thành kỷ niệm.

Hiện tại, họ ngồi đây, trước mặt không còn là những tòa nhà cao tầng, mà là núi non, đồng ruộng, và quê hương.

Khi tiệc bắt đầu, mọi người lục tục tìm chỗ ngồi.

Bàn tiệc là nơi tập trung đủ kiểu người, ồn ào với thuốc lá, rượu bia, chuyện phiếm và những câu chuyện lặt vặt. Ai hợp gu ai thì ngồi cùng, ăn uống cũng thành nhóm người giống nhau quây quần với nhau.

Uông Tễ và Phù Tô thì không thích hút thuốc, cũng không thích uống rượu hay nói chuyện phiếm. Lúc đầu hai người còn không biết ngồi đâu cho hợp.

Bỗng nhiên, một bàn tay nhỏ túm nhẹ góc áo Uông Tễ. Anh cúi xuống nhìn, thì ra là cô bé lúc nãy có chiếc kẹp tóc hình con bướm: “Anh ơi, bàn tụi em còn chỗ trống, hai anh qua đây ngồi đi.”

Cả bàn toàn là trẻ con. Uông Tễ và Phù Tô nhìn nhau, cuối cùng cũng gật đầu rồi đi qua.

“Cảm ơn em.” Uông Tễ mỉm cười với cô bé.

Cô bé cũng cười, để lộ hàm răng đang thay dở, rồi vội vàng lấy tay che miệng vì ngượng.

Bên cạnh Uông Tễ là một cậu bé tròn trĩnh, tay đang loay hoay với cây kẹo que mãi không bóc được.

“Vợ con anh đâu? Sao lại ngồi ở đây với tụi em?” Cậu bé vừa hỏi, vừa liếc Uông Tễ tò mò.

“Anh chưa có vợ con,” Uông Tễ cười, “Ăn cơm rồi mà còn ăn kẹo, lát nữa đồ ăn nhiều quá lại không ăn nổi cho xem.”

Nghe vậy, cậu bé gật gù, bỏ cây kẹo vào túi: “Cũng đúng, phải để bụng ăn cơm nữa chớ. Vậy còn anh kia có vợ con chưa ạ?” Cậu ta chỉ vào Phù Tô.

“Sao em tò mò quá vậy,” Uông Tễ bật cười, “Anh ấy cũng chưa có đâu.”

Cậu bé mũm mĩm đột nhiên như vỡ lẽ, vỗ tay một cái rõ to: “À! Hóa ra hai người đều… ế!” Vừa nói, cậu vừa quay sang nhìn Uông Tễ với Phù Tô, ánh mắt đầy thích thú.

Nghe tới đây, Uông Tễ bật cười, suýt sặc: “Ủa? Mấy cái này ở đâu mà em học được vậy?”

Cậu bé gầy hơn, đang ngồi hí hoáy nghịch cái nắp xoong bên cạnh, chen lời vào: “Nói gì kỳ cục vậy! Nói ế nghe sao được, phải gọi là độc thân chớ!”

Uông Tễ ngẩng mặt nhìn trời, lại nhìn hai đứa nhỏ, bất lực bật cười: “Hai đứa còn nhỏ mà nói chuyện chững chạc dữ vậy trời?”

Cậu bé mũm mĩm xụ mặt, chống tay lên hông, cãi lại: “Sao mà không chững chạc được chớ? Bà nội nói đó, tới tuổi mà không lấy vợ, không có con thì đúng là ế! Như chú út nhà em nè, rõ là một ông ế!”

“Im đi! Người lớn mới gọi là ế, chứ hai người này nhìn đâu có già! Mày nói bậy nữa đi, lỡ sau này họ không cưới được vợ thì tại cái miệng quạ đen của mày đó!”

“!!!” Cậu bé mũm mĩm tức muốn khóc, quay sang gắt lên: “Liên quan gì đến tao?! Là tại họ không chịu đi mà ngồi đây chơi với tụi mình đó chớ! Hai người lớn vậy mà còn ngồi chung bàn với đám con nít, lại còn hai người ế ngồi sát bên nhau, thì làm sao mà kiếm được vợ!”

Uông Tễ ngẩn người: “Ơ… Ơ…”

May mà lúc này một đĩa chân giò hầm được bưng lên, hai đứa nhỏ nhanh chóng chuyển mục tiêu sang giành giật thức ăn. Chỉ còn lại Uông Tễ ngồi đờ đẫn, không biết nói gì, trong lòng chỉ thấy ngạc nhiên hết sức với cái cách mà bọn trẻ con thời nay suy nghĩ.

Anh nhìn qua bên kia bàn, phát hiện Phù Tô cũng đang cười khẽ, ánh mắt đầy ý tứ.

Ánh mắt hai người chạm nhau, Phù Tô khẽ nhếch môi: “Sao? Cậu bị gọi là ‘độc thân vui tính’ đó hả, đồ FA.”

Ở quê, tiệc tùng là phải xào nấu tại chỗ. Mấy người đầu bếp dựng bếp ngay trong sân, nấu món nào xong là bưng ra món đó, nóng hổi vừa thổi vừa ăn.

Nào là chân giò kho tàu, cá hấp, cải mầm cuốn thịt, bò hầm tàu hũ khô… Món nào món nấy đều đậm mùi thơm của lửa củi, nhìn qua đã thấy khác hẳn với mấy món nấu bằng bếp ga hay bếp điện trong thành phố.

Cuối cùng, món tráng miệng được đưa ra: một chiếc bánh bao khổng lồ hình quả đào mừng thọ, bốc khói nghi ngút.

Bánh vừa được hấp xong, nặng hơn cả ký. Một cô dì bếp tay cầm con dao to, đặt bánh lên bàn, ép từng người ngồi xuống. Bánh được xẻ thành từng miếng, chia đều cho mỗi người một phần, giống như cắt bánh kem, nhưng ăn vào lại thơm lừng vị bột ấm và chút ngọt ngào giản dị của nhân đậu.

Lớp vỏ đào mừng thọ mềm mại, bên trong là nhân đậu đỏ nghiền thơm ngọt, ăn vừa bùi vừa tan nơi đầu lưỡi. Nhưng Uông Tễ đã no căng, cắn được hai miếng rồi, anh cầm miếng bánh trên tay mà không nỡ tiếp tục cắn miếng thứ ba.

Bên cạnh, cậu nhóc mập mạp vừa gặm xong nửa cái chân giò bụng đã căng tròn, cũng ôm khối đào mừng thọ trên tay, trông giống như đang chia sẻ nỗi trăn trở cùng Uông Tễ.

Trong làng, dù nghịch ngợm cỡ nào, trẻ con đều biết một điều: đồ ăn trên mâm có thể thừa, nhưng đào mừng thọ tuyệt đối không được bỏ phí. Đó là biểu tượng của may mắn và trường thọ, dù có rơi xuống đất cũng phải nhặt lên, thổi bụi mà ăn.

Khi Uông Tễ quyết tâm cắn thêm miếng nữa, một bàn tay đột ngột vươn tới lấy nửa miếng bánh trên tay anh. Phù Tô chẳng nói chẳng rằng, hai miếng đã xử lý gọn.

Uông Tễ ngẩn người: “Tôi ăn rồi đó.”

Phù Tô thản nhiên nhìn anh: “Không còn cách nào khác, sợ cậu lát nữa ăn không nổi mà phun ra.”

Uông Tễ thở dài: “Là tôi suýt phun thật, sáng giờ đã ăn nhiều quá rồi.”

Nhìn cảnh đó, cậu nhóc mập mạp bên cạnh liền cầm miếng bánh mình đang ôm, đưa tới trước mặt Phù Tô, ánh mắt tràn ngập mong đợi. Nhưng vừa thấy miếng bánh dính đầy nước miếng và mỡ từ chân giò, Phù Tô liền nhíu mày, giọng lạnh lùng: “Mơ đi.”

Sau bữa tiệc, khách khứa dần rời đi. Uông Dịch Dương nhờ Uông Tễ chờ để cùng về, vì thế Uông Tễ đứng cùng Phù Tô trong sân, vừa trò chuyện vừa giúp thu dọn bàn ghế.

Trong phòng khách, thím Uông và mấy người thân đang trò chuyện với bà cụ, toàn lời chúc mừng khiến bà vui vẻ hẳn. Đột nhiên, bà cụ kéo tay cháu trai, khẽ nói: “Chụp cho bà một tấm hình đi.”

Cả đời bà chưa từng chụp ảnh. Trong nhà tuy ai cũng có điện thoại, nhưng chẳng mấy khi nghĩ đến việc chụp ảnh cho bà.

Uông Thanh vội lấy điện thoại ra. Bà cụ chân yếu, chậm rãi bước ra gian giữa, ngồi xuống ghế. Trông bà vừa hồi hộp vừa vui, cẩn thận chỉnh lại mái tóc bạc và kéo thẳng góc áo mới.

Người nhà đứng xung quanh, bà cụ hơi ngượng nhưng vẫn cố ngồi thẳng, cười nhẹ nhàng nhìn vào ống kính. Những nếp nhăn sâu hằn trên gương mặt già nua chồng chéo lẫn nhau, nhưng ánh mắt thì sáng ngời.

Sau khi chụp, Uông Thanh đưa điện thoại cho bà xem. Bà nhìn thật lâu, rồi ngại ngùng hỏi: “Tấm này… có in to để treo được không?”

Uông Thanh gật đầu: “Bà muốn phóng lớn phải không ạ?”

Nghe thế, bà cụ khẽ gật, rồi quay người chỉ lên bức tường sau lưng, nơi có một khung ảnh treo.

Uông Thanh quay lại nhìn – đó là di ảnh của ông nội.

Đứng bên cạnh, Uông Thiệu Quân tiến lại gần, nắm tay mẹ: “Má muốn phóng ảnh ra đúng không?”

Bà khẽ gật đầu: “Ừ, tốn 80 đồng thôi, là có tấm hình đẹp.”

Uông Thiệu Quân hiểu nỗi lòng mẹ. Hai năm trước, cha ông qua đời, lúc chuẩn bị di ảnh mới nhận ra cả đời ông sống chẳng có một tấm ảnh ra hồn. Cuối cùng, người nhà đành lấy ảnh thẻ trên chứng minh phóng lớn để làm di ảnh, treo trên tường, nhìn xa chỉ thấy mờ nhạt, chẳng rõ mặt mũi.

Uông Thiệu Quân nói: “Dùng điện thoại chụp không rõ lắm, hôm nào để con chở má lên huyện, vào tiệm ảnh chụp, ở đó có máy móc xịn, hình sẽ đẹp hơn.”

Nghe đến chuyện phải lên huyện, bà cụ lưỡng lự, rồi vẫn xua tay: “Thôi khỏi, không cần chụp đâu.”

Bà ngại tốn kém, sợ làm phiền đến mọi người trong nhà.

“Cháu có máy ảnh, cháu chụp được.”

Câu nói bất ngờ khiến cả gian nhà im lặng. Mọi người cùng quay về phía cửa, nơi Uông Tễ và Phù Tô đang đứng. Hai người bước vào, Phù Tô cúi người về phía bà cụ, lễ phép nói: “Cháu có máy ảnh, có thể chụp cho bà một tấm thật đẹp.”

Bà cụ nghe không hiểu tiếng phổ thông, Uông Thanh liền vội hỏi thay: “Anh Phù Tô, vậy có phiền anh không?”

Phù Tô lắc đầu, bình thản đáp: “Không phiền, giờ tôi về nhà lấy máy.”

Nói xong, hắn quay qua nhìn Uông Tễ: “Cùng đi không?”

Uông Tễ còn chưa hiểu chuyện gì nhưng cũng gật đầu. Uông Dịch Dương từ xa ném chìa khóa xe qua: “Hai người đi bằng xe máy của em đi, lấy đồ xong thì lái xe hơi về. Nhớ nhanh một chút.”

Phù Tô sống trên tầng hai, chỗ này Uông Tễ đã đến nhiều lần. Phía bên cạnh tivi đặt một chiếc tủ gỗ lớn, nhưng trước giờ anh chẳng để ý đến nó.

Khi Phù Tô mở tủ, Uông Tễ mới ngạc nhiên nhận ra bên trong toàn là thiết bị nhiếp ảnh. Tuy không rành về máy móc, anh cũng biết giá trị của những thứ này không hề nhỏ.

“Tôi cứ tưởng anh chỉ mua đại cái máy chơi chơi. Hóa ra là dân chuyên hả?”

Phù Tô chọn máy, lắp ráp các bộ phận, vừa kiểm tra pin vừa nói: “Tôi nghỉ việc rồi, rảnh rỗi hai năm nên chụp chơi thôi. Sao? Giờ có thấy tôi ngầu không? Trước giờ tôi toàn giấu tài mà!”

Uông Tễ lờ đi câu đùa của hắn, nhìn máy ảnh mà thắc mắc: “Anh mua cả tủ thiết bị này để chụp cái gì? Người nổi tiếng à?”

“Tôi đâu thích mấy thứ đó,” Phù Tô ngẩng lên, trả lời tỉnh bơ, “Tôi chụp phong cảnh.”

Mang máy ảnh xong, hai người xuống tầng. Khi bước ra sân, Phù Tô cố tình đi chậm lại, giữ khoảng cách vài bước phía sau. Uông Tễ đi trước, ánh nắng chiếu qua mái tóc anh, phản chiếu màu vàng óng ánh, cả người rực sáng như một bức tranh sống động.

“Uông Tễ.” Phù Tô bất ngờ lên tiếng, dừng lại.

“Gì?” Uông Tễ ngoảnh lại nhìn.

Phù Tô trầm giọng nói: “Tôi nói tôi chụp phong cảnh là thật. Tôi chưa từng chụp ảnh người bao giờ.”

“Hả?” Uông Tễ hơi ngơ ngác.

Xung quanh anh là một rừng tường vi nở rộ, những cành hoa đan xen, sắc hồng phấn xếp tầng tầng lớp lớp như ôm trọn lấy người trước mặt. Dưới ánh nắng chiều, khung cảnh ngập tràn sức sống.

Phù Tô nâng máy ảnh lên, trong phút chốc bấm màn trập.

Sau khi hạ máy, hắn mỉm cười nhìn Uông Tễ. Giữa ngày hè rực rỡ, hắn khẽ nói: “Giờ thì, chụp rồi.”
 
Chương 13: Trà chanh đá dâu tằm


Khi Uông Dịch Dương lái xe đến trước cửa, Uông Tễ đang ngủ trưa trên lầu hai.

Ngày hè oi bức, mặt trời chói chang đổ xuống không gian một sức nóng hầm hập. Ai đi ra ngoài cũng trở về với cả người đầy mồ hôi. Uông Tễ gần đây chỉ chịu ló mặt ra khỏi nhà vào sáng sớm hoặc chiều tối để ghé qua mảnh vườn nhỏ hít thở không khí. Còn lại, anh gần như đóng kín mình trên lầu hai, đến cả bữa cơm cũng ăn qua loa cho xong.

Trong phòng khách tầng hai, điều hòa chạy đều, phả hơi lạnh ngập khắp không gian. Rèm cửa được kéo kín, ngăn ánh sáng gay gắt chiếu vào. Căn phòng tối mờ, chỉ đủ ánh sáng để nhận ra một người đang nằm trên sofa. Uông Tễ cuốn hờ một tấm chăn mỏng, nửa đắp trên eo, nửa kéo lê trên thảm. Bên cạnh anh, chiếc tay cầm chơi game nằm yên tĩnh.

Uông Dịch Dương thay giày, bước tới gần, cất tiếng: “Chà, anh hưởng thụ dữ ha!”

Nghe giọng nói quen thuộc, Uông Tễ trở mình. Tấm chăn mỏng tuột hẳn xuống đất. Anh lười biếng với tay nhặt lên, mắt vẫn còn lờ đờ mơ màng.

Nhìn rõ người trước mặt, hắn cất giọng khàn khàn: “Em mới từ trong nước bước ra hả?”

Uông Dịch Dương cả người ướt đẫm, áo dính sát vào người vì mồ hôi. Cậu ta lách tới dưới điều hòa, hứng luồng hơi lạnh: “Không, nhưng nhìn cái dáng này của em mà anh không bất ngờ hả? Lỡ em là người khác thì sao?”

Uông Tễ uể oải ngồi dậy, ngáp dài, rồi lười nhác đi về phía cửa sổ kéo rèm ra.

“Mỗi ngày em đều mò đến nhà anh, còn không thèm báo trước. Ai vô được mà tự nhiên như em?”

Anh nói rồi vươn vai, nhưng thật ra đã biết Uông Dịch Dương từ trước khi cậu ta lên đến lầu. Khi tiếng cổng vang lên, tiếng bước chân dội vào cầu thang, anh đã chắc chắn đó không phải Phù Tô.

Phù Tô mỗi lần đến nhà đều đi dạo quanh sân trước, dừng lại ngắm những con cá nhỏ đang bơi lội trong chum sen một lát, rồi mới bước vào tìm anh. Hơn nữa, Phù Tô đi lên cầu thang rất nhẹ nhàng, trái ngược hẳn với bước chân nặng nề như muốn làm nứt thang đá của Uông Dịch Dương.

Rèm cửa vừa kéo ra, ánh sáng tràn vào khiến Uông Tễ nhất thời không quen, anh đưa tay che mắt, rồi lững thững bước vào phòng tắm rửa mặt.

Vừa bước ra, anh hỏi Uông Dịch Dương: “Có trà chanh, bia, với nước ngọt. Em muốn uống gì?”

Nước từ cằm Uông Tễ chảy xuống, men theo làn da trắng nõn, rơi vào cổ áo thấm ướt một mảng trên chiếc áo thun cotton của anh.

Uông Dịch Dương thổi một lát gió mát từ điều hòa rồi mới lên tiếng: “Nước lạnh.”

Uông Tễ lắc đầu, đáp lại: “Cái gì cũng là đồ lạnh hết.”

“Thì lấy nước có ga đi, bia tối uống.”

Uông Tễ khom lưng mở chiếc tủ lạnh nhỏ bên cạnh sofa. Trong tủ, mọi thứ được xếp ngay ngắn, đầy đủ các loại đồ uống lạnh. Anh rút ra một lon nước có ga và một hũ trà hoa quả.

Trà hoa quả là anh tự làm, bao gồm mười mấy trái dâu tằm, vài miếng chanh cùng nửa ly trà xanh. Anh đổ nước tinh khiết vào, cho vào tủ lạnh, và mỗi khi uống, cảm giác tươi mát, chua ngọt hòa quyện, rất dễ chịu.

Hôm đó anh và Phù Tô đã hái được gần hai rổ dâu tằm. Dâu tằm mới hái ăn không hết, vì trái dâu tằm thường hư rất nhanh, nên anh quyết định bỏ vào túi giữ tươi rồi đem cất trong tủ lạnh. Mỗi khi trời nắng nóng, anh lại lấy một ít ra pha trà.

Uông Dịch Dương nhận lấy lon nước có ga, kéo mở nắp trong một tiếng “phụt” vang lên, bong bóng khí nhẹ nhàng nổi lên trong không khí, tỏa ra hơi mát.

“Sao hôm nay đột nhiên trở về vậy, trong tiệm không bận à?” Uông Tễ vừa rót trà vào ly pha lê vừa hỏi cậu ta.

Uông Dịch Dương uống một ngụm nước có ga, rồi trả lời: “Trở về để đưa ảnh chụp.”

Uông Tễ ngẩng đầu lên, hỏi lại: “Ảnh chụp đã rửa ra hết rồi à?”

“Ừ,” Uông Dịch Dương nuốt ngụm nước, rồi tiếp lời: “Cả hai đều có một thùng đầy ảnh.”

Sau khi chụp xong, vì Phù Tô không có thiết bị rửa ảnh, nên cậu ta đã mang ảnh lên huyện thành để đi tìm cửa tiệm rửa ảnh.

Ban đầu chỉ định chụp cho bà cụ một bức ảnh, thực hiện ước nguyện cho bà. Nhưng người trong thôn, đặc biệt là những ông bà lớn tuổi, chẳng mấy ai từng chụp ảnh nhiều lần trong đời. Họ chỉ nhìn ngắm từ xa, chẳng dám bước tới, ai nấy đều cảm thấy hâm mộ.

Lúc Phù Tô chụp ảnh cho bà cụ, một vài ông bà trong thôn lục tục đi vào nhìn từ xa mà không quấy rầy. Nhưng họ đều đứng một bên, im lặng ngắm nhìn, thầm cảm phục.

Sau đó, Phù Tô tiếp tục chụp thêm cho gia đình Uông Thiệu Quân trong suốt một buổi chiều.

Không có phông nền, không có đèn nháy chuyên nghiệp, chỉ là một buổi chụp đơn giản trong sân nhà, nơi những người đứng chen chúc nhau. Nhưng chính sự giản dị ấy lại làm nên vẻ đẹp rất riêng. Mỗi bức ảnh thô mộc ấy, dù đơn sơ, lại mang đậm dấu ấn của thời gian, thể hiện sự vất vả, sự nỗ lực trong mỗi người. Chẳng có ai sẵn lòng thay đổi những bộ đồ cũ để đứng trước ống kính với nụ cười bẽn lẽn, nhưng họ vẫn làm vì chỉ có vậy, khoảnh khắc ấy sẽ lưu lại mãi trong ký ức.

Uông Dịch Dương tiếp tục nói: “Lái xe đến Vân Lĩnh, rồi em trực tiếp giao ảnh cho từng nhà. Anh không biết đâu, có bà cụ già cầm kính chói mắt, tay nắm lấy tay em mà cảm ơn rối rít, rồi suýt nữa còn tặng em trứng gà nữa. Anh nghĩ thử xem, em không nhận mấy món đó đâu, em chỉ giao hàng thôi mà. Mà trứng gà thì em cũng ít khi ăn chứ đừng nói là nhận.” Cậu ta thở dài một hơi.

Uông Tễ khẽ cười, nhớ lại cảnh tượng ngày hôm đó khi Phù Tô cũng bị các cụ già trong thôn vây quanh. Hắn hoàn toàn khác với vẻ vân đạm phong khinh thường ngày, lạc lõng giữa đám người, ánh mắt lén liếc sang anh, như muốn cầu cứu.

“Nhưng mà, Phù Tô thật sự rất được,” Uông Dịch Dương tựa lưng vào ghế sofa, nói bằng giọng khẳng định, “Thật đấy.”

Chiều hôm đó, sau khi trở về từ buổi lễ dưới thôn, tại sân nhà Uông Dịch Dương với mái ngói đá xanh được quét vôi trắng, Phù Tô đã giúp chú Uông và thím Uông chụp bức ảnh gia đình chính thức đầu tiên bằng máy ảnh chuyên nghiệp.

“Buổi tối gọi anh ấy đến nhà em ăn cơm đi, chúng ta ba người cùng uống một chén.” cậu ta quay sang nhìn Uông Tễ, đề nghị.

Uông Tễ nhún vai, đáp: “Anh ấy không uống rượu.”

“Vậy lấy trà thay rượu,” Uông Dịch Dương vẫn giữ giọng hào hứng, “Dù sao chúng ta ba người cũng phải cùng uống một chén. Em đã chuẩn bị nguyên liệu rồi, chỉ chờ tối nay trổ tài thôi.”

Uông Dịch Dương vốn là học viên xuất sắc của trường nấu ăn Tân Đông Phương. Trước khi mở nhà hàng riêng, cậu ta đã từng làm bếp chính, tay nghề rất khá. Nhưng từ khi trở thành ông chủ, hiếm khi nào cậu ta tự tay nấu ăn nữa.

Cơ hội hiếm có, Uông Tễ gật đầu đồng ý: “Được.”

Uông Dịch Dương ngửa cổ uống hết lon nước ngọt, sau đó ném lon rỗng vào thùng rác.

Không gian phòng khách rơi vào im lặng. Hai người đối diện nhau, ánh mắt chạm nhau, nhưng chẳng ai nói câu nào.

Cuối cùng, Uông Tễ phá vỡ sự yên lặng trước: “Anh thật sự tò mò, chuyện gì mà khiến em phải do dự như vậy? Đã uống cả lon nước, sao còn chưa chịu nói?”

“Vãi chưởng” Uông Dịch Dương kêu lên, vẻ mặt đầy kinh ngạc, “Làm sao anh biết em có chuyện muốn nói?”

Uông Tễ nheo mắt nhìn cậu ta, khẽ cười, không đáp.

Uông Dịch Dương bĩu môi: “Thật ghét chơi cùng những người thông minh như các anh.”

“Liên quan gì đến thông minh?” Uông Tễ nhàn nhạt đáp, “Anh chỉ là quá hiểu bây thôi.”

“Ờ ờ,” Uông Dịch Dương buồn bã cúi mặt, “Từ nhỏ lớn lên bên nhau, em vừa cởi quần, anh liền biết em định làm gì.”

“Cút.”

Uông Dịch Dương phá lên cười, nhưng nụ cười quá khoa trương khiến ngay cả cậu ta cũng thấy gượng gạo, bèn nhanh chóng thu lại.

Cậu ta đưa tay gãi đầu, nhưng vì mới cạo tóc ngắn cách đây vài hôm, cái đầu trọc khiến tay cậu chỉ đâm vào lớp chân tóc cứng ngắc, cảm giác thật khó chịu.

Lúc này, Uông Dịch Dương trở nên do dự, tìm từ mãi rồi lại thôi, cuối cùng mới cất lời: “Anh… hôm qua hoặc hôm nay có nhận được cuộc điện thoại nào không?”

“Có,” Uông Tễ đáp.

Uông Dịch Dương ngay lập tức căng thẳng, giọng run run hỏi: “Ai gọi thế?”

“10086 và một cuộc mời chào bảo hiểm.”

Nghe vậy, Uông Dịch Dương thở phào nhẹ nhõm, buông lỏng người tựa vào ghế.

Uông Tễ nhìn bộ dạng bối rối của Uông Dịch Dương, không nhịn được bật cười: “Rốt cuộc có chuyện gì, em nói thẳng ra được không? Trời đã nóng sẵn rồi, nhìn bộ dạng nhấp nhổm như ma ấy của bây càng làm anh thêm bực.”

Uông Dịch Dương tự nhận thấy mình cũng không được thoải mái, hít sâu một hơi, quyết định liều mình mở lời: “Hôm qua em gặp mẹ của anh.”

Câu nói vừa dứt, chiếc ly trong tay Uông Tễ khẽ khựng lại một thoáng, nhỏ đến mức khó phát hiện.

“Em đang nói chuyện anh về Vân Lĩnh ấy, có phải anh không báo chuyện này với bà ấy không?”

“Không.” Uông Tễ lắc đầu, giọng bình thản: “Vốn cũng ít liên lạc, nên không thấy cần thiết phải nói.”

“Tối qua bà ấy đến nhà hàng em đặt bàn. Lúc đó em đang ở quầy lễ tân, bà ấy hỏi em về anh, hỏi anh dạo này thế nào. Em tưởng bà ấy đang hỏi anh có thích nghi với Vân Lĩnh không, thế là…” Cậu ta gãi đầu, mặt đầy hối lỗi, “Em lỡ lời. Trách em cái miệng nhanh quá, hôm qua đúng ra em không nên ra quầy tiếp khách.”

Căn phòng rơi vào im lặng. Uông Dịch Dương cúi đầu, lo sợ chờ Uông Tễ trách mắng, nhưng chẳng có câu trách cứ nào. Thay vào đó, trong không khí vang lên một tiếng cười nhẹ nhàng.

Cậu ta ngạc nhiên ngẩng đầu, thấy Uông Tễ chống khuỷu tay lên bàn trà, một tay chống cằm, mỉm cười nhìn mình: “Bây xoắn xuýt nửa ngày, chỉ vì chuyện này thôi à?”

“Hả?” Uông Dịch Dương sững sờ, “Không phải em vừa lỡ nói chuyện anh từ chức sao?”

“Lỡ thì lỡ. Tiện thể giúp anh khỏi phải giải thích.” Uông Tễ nhún vai, vẻ mặt thoải mái.

Uông Dịch Dương không ngờ sự việc lại chuyển hướng thế này. Cậu ta nhìn chằm chằm vào Uông Tễ một lúc, chắc chắn anh không giận thật rồi mới thở phào nhẹ nhõm, tựa lưng vào sofa, vẻ mặt nhẹ nhõm hẳn: “Mọe, từ hôm qua tới giờ em cứ hối hận mãi, sợ anh gọi điện mắng em muốn chết, liền chạy về đây chịu tội. Lúc vào cửa còn định uống sẵn viên Ibuprofen đề phòng, hóa ra là em làm chuyện dư thừa!”

“Không phải em trở về còn để đưa ảnh sao?” Uông Tễ cười chế giễu.

“Nếu chỉ để đưa ảnh, em đã chọn ngày mát trời mà về. Trời nóng thế này, anh còn suýt tưởng em vừa ngâm mình trong ao lên đó thay.”

Uông Tễ liếc cậu ta: “Anh có trách bây đâu. Chuyện bé tí mà bây làm như nghiêm trọng lắm, làm như anh là người hẹp hòi lắm vậy.”

“Chủ yếu là phản ứng của mẹ anh…” Uông Dịch Dương nhăn mặt nhớ lại, rồi nhìn Uông Tễ lần nữa, giọng chắc chắn: “Bà ấy thật sự chưa gọi điện cho anh à?”

“Chưa.” Uông Tễ trả lời ngắn gọn.

“Không thể nào.” Cậu ta lắc đầu, bối rối nói: “Hôm qua khi biết anh từ chức, phản ứng của bà ấy rất lớn. Nếu không phải chồng bà ấy kéo lại, chắc bà ấy đã chạy đến hỏi anh ngay rồi. Bà ấy hỏi đi hỏi lại em, em còn tưởng bà ấy sẽ tự mình tìm anh nói chuyện.”

“Bà ấy sẽ không làm thế.” Uông Tễ nói, giọng đều đều.

“Tại sao?” Uông Dịch Dương khó hiểu.

Uông Tễ rút khăn giấy từ trên bàn, chậm rãi lau sạch vòng nước đọng do chiếc bình lạnh vừa lấy từ tủ. Mỗi động tác đều trầm ổn, không nhanh không chậm, như thể câu hỏi kia chẳng đáng bận tâm.

“Cho hỏi, anh đang làm cái gì mà thần bí dữ vậy?”

“Trong mắt em, lòng dạ anh có lớn được tới vậy sao?”

Uông Dịch Dương bật cười, cậu ta cũng hiểu ý, nên chỉ vẫy tay một cái rồi đi thẳng.

Mặt trời dần ngả xuống, ánh chiều tà nhuộm đỏ cả bầu trời.

Uông Tễ đội chiếc nón lá, đi chân trần vòng quanh mảnh vườn trồng rau. Tiếng dế kêu, tiếng chim hót vang rền. Những luống rau xanh mướt thoảng mùi thơm dễ chịu, trái cà chua trên cây lại đỏ thêm một chút, cà tím, ớt cay, mướp hương đã hái xuống được vài bận. Dưa leo thì khỏi phải nói, đã trộn gỏi không biết bao nhiêu lần rồi.

Anh bước tới góc vườn, chỗ đặt cái thùng nước, cầm gáo lên múc nước tưới cho mảnh đất đã phơi khô cả ngày. Dòng nước mát rượi giúp những cây rau ở đây thoát khỏi cái nóng oi bức của buổi chiều hè.

Cây dưa leo, cà tím, rồi cây đậu đũa… từng luống đều được tưới đủ nước. Khi tới giàn mướp hương, sau lưng anh bỗng vang lên tiếng bước chân, ai đó đang giẫm lên đất mềm và cỏ dại mà đi tới gần.

Uông Tễ vẫn cúi người, không ngoảnh lại, chỉ cất tiếng: “Vườn rau là khu vực trọng yếu, miễn lại gần.”

Tiếng bước chân liền khựng lại. Rồi vài tiếng cười khẽ vang lên.

Phù Tô dừng lại bên bờ ruộng, hắn ngồi xuống, làm bộ oán trách: “Cậu sao mà thù dai dữ vậy?”

Uông Tễ quay đầu lại, chỉ tay về phía mấy cây cà chua xanh lè bên cạnh: “Thấy không? Nó còn chưa đỏ được kìa. Tại anh đó, mùa hè này tôi không làm được mẻ cà chua trộn đường nào cả.”

Hồi đầu, mấy cây cà chua giống bị Phù Tô bón phân nhiều quá mà chết héo. Uông Tễ phải vội vàng gieo lại lứa khác. Dù giờ có ra quả thì chúng vẫn cứ xanh mãi, chẳng đỏ được để ăn.

Ý là anh đang nhắc Phù Tô nhớ tới vụ “thảm sát cây mầm” kinh điển đó. Nhưng Phù Tô lại chỉ bắt ngay cái câu quan trọng nhất: “Cà chua trộn đường là món gì? Là đường nào?”

Lời nhắc nhở bỗng hóa thành buổi dạy nấu ăn. Uông Tễ bất lực đáp: “Còn đường nào nữa? Đường cát trắng chứ đường gì.”

Phù Tô gật gù, tò mò: “Chừng nào cà chua chín, cậu làm thử coi.”

Nghe xong mà Uông Tễ phát điên: “Bởi vậy tôi mới nói, tại anh hết đó! Không thì giờ ăn lâu rồi!”

Phù Tô cười híp mắt, chẳng buồn đáp lại.

Khung cảnh trước mặt đẹp đến mức không chân thực. Xa xa là những dãy núi nối dài, mặt trời tròn trĩnh sắp lặn xuống. Cây cối xanh tươi um tùm, tiếng dế kêu rả rích khắp nơi. Mảnh đất đầy rau quả này như bao dung tất cả mọi sự sống. Ở đó, Uông Tễ đội nón lá, đứng giữa khu vườn, dù đang bực bội cũng toát lên vẻ hiền lành.

Tưới xong luống cuối cùng, Uông Tễ cất gáo nước vào thùng, vỗ vỗ tay nói: “Thôi, đi vô ăn cơm.”

Phù Tô đứng dậy, phủi sạch bùn trên quần áo, rồi nhìn chằm chằm vào cánh tay mình.

“Sao đó?” Uông Tễ hỏi lúc bò lên khỏi bờ ruộng.

Phù Tô đưa tay lên trước mặt Uông Tễ, nói: “Bọ rùa bảy chấm.”

Uông Tễ ghé lại gần. Quả nhiên, một con bọ rùa nhỏ bóng loáng, không biết từ đâu bay tới, nằm yên trên cánh tay Phù Tô. Lớp vỏ đỏ của nó sáng lên dưới ánh hoàng hôn.

“Đúng là bọ rùa bảy chấm. Anh cũng hay ghê, trêu hoa ghẹo nguyệt không ai bằng.” Uông Tễ bất giác nhớ lại lần đầu gặp Phù Tô. Khi ấy, một con bướm trắng cứ bay vòng quanh rồi đậu hờ trên vai hắn.

Phù Tô vẫn giơ tay, chậm rãi bước đi. Khi đến bên lề đường, hắn dừng lại, đối diện với cánh đồng rồi thổi nhẹ một hơi. Con bọ rùa liền mở cánh, từ từ bay đi.

Trên con đường nhỏ vắng vẻ, Uông Tễ đội chiếc nón rơm lên mặt, dang hai tay, ngửa đầu đón lấy những cơn gió hiu hiu thổi tới.

Bỗng, cổ anh thấy nhồn nhột. Uông Tễ vốn sợ ngứa, liền co rụt cổ lại và quay phắt người ra sau.

Phù Tô đang đứng đó, một tay đút túi, tay kia cầm một nhánh cỏ đuôi chồn vừa nhổ ở vệ đường, đang nghịch chọc vào người anh.

“Không tay hả?” Uông Tễ nhăn mặt hỏi.

Phù Tô không trả lời, chỉ cười cười, rồi dùng nhánh cỏ cọ nhẹ lên cằm anh. Những sợi cỏ mềm mượt lướt qua đầu mũi, khiến Uông Tễ không nhịn được hắt hơi hai cái rõ to.

Ven đường, có một cây đào dại sai trĩu quả. Thấy Phù Tô vẫn tiếp tục trò trẻ con, Uông Tễ liền bước tới, nhón chân hái một quả. Anh bẻ đôi nó ra, rồi nửa như mắng nửa như đùa: “Phiền dễ sợ.”

Phù Tô không giận, còn tươi cười nhận lấy nửa trái đào anh quăng qua. Hắn lau quả đào lên áo rồi cắn một miếng, vị ngọt thanh lan ra khắp miệng.

Mặt trời lặn nhuộm cả chân trời thành một màu cam xen lẫn sắc hồng nhạt. Tất cả trông rực rỡ, nồng nhiệt, giống như mùa hè này: cháy bỏng, dữ dội, và đầy sức sống.

Uông Tễ vừa cắn miếng đào, vừa chậm rãi đi về phía trước, mặc kệ Phù Tô. Hương vị tươi mát của quả đào len lỏi trong từng hơi thở. Dưới ánh hoàng hôn rực rỡ, anh như một đóa hoa, sắp nở bung dưới sức sống mãnh liệt của mùa hè.

Anh chợt tự hỏi: Những buổi chiều mùa hè trước đây, mình thường làm gì? Tại sao chưa từng dừng lại để ngắm hoàng hôn thế này?

Tiếng ve kêu râm ran, mặt trời lặn dần xuống cuối con đường. Có lẽ vì cảm giác tự do lúc này, hoặc vì ý thức được rằng bản thân mình thực sự cô độc, anh thấy vị ngọt của quả đào bỗng trở nên mê hoặc lạ thường. Những bước chân anh cũng bất giác chậm rãi, lắc lư theo nhịp.

Xung quanh, mỗi tấc đất đều ánh lên sắc vàng rực rỡ. Lá cây đung đưa như đang bùng cháy trong ánh chiều tà. Đâu đâu cũng dậy lên một nguồn năng lượng mạnh mẽ, như ngọn lửa không tiếng động. Trong bầu không khí ấy, đôi mắt Uông Tễ bỗng dâng lên chút cay xè, như sắp bị sức nóng này làm bỏng.

Đột nhiên, trong tầm mắt anh xuất hiện một bóng dáng quen thuộc, đứng yên lặng ngay trong tầm với.

Mùa hè làm gì có mưa phùn? Nhưng người trước mặt giống như cơn mưa mát lành, tưới lên những ngọn lửa đang bùng cháy trong lòng anh, làm dịu cả không gian.

Dãy núi phía xa xanh mướt, mặt trời lặn như viên ngọc hoàng kim. Tầm nhìn Uông Tễ bất giác dần thu hẹp lại, từ cảnh vật bao la xung quanh chỉ còn tập trung vào người đang đứng trước mặt. Trời đất dần nhạt nhòa, thời gian như ngừng trôi.

Trong ánh mắt anh, giờ đây chỉ còn lại bóng dáng cao gầy của Phù Tô.

Trong lòng Phù Tô lặng lẽ nghĩ: Mình trở về đây sau khi mùa xuân đã qua, bỏ lỡ thời khắc băng tuyết tan chảy và khởi đầu của xuân mới.

Nhưng có lẽ, mình có thể trọn vẹn tận hưởng mùa hè ở nơi này.



Hai bây cưới nhau lẹ cho mẹ, nhìn có khác gì vợ hiền chờ thằng chồng trêu hoa ghẹo nguyệt về nhà ăn cơm không?
 
Chương 14: Tôm hùm đất


Chưa bước vào sân, Uông Tễ và Phù Tô đã ngửi thấy hương thơm nức mũi từ xa.

Chú Uông và thím Uông đang sắp xếp bàn ghế trong sân, còn Uông Dịch Dương thì bận rộn trong bếp, mồ hôi nhễ nhại.

Thấy hai người bước vào, thím Uông cười nói: “Thím mới nói với chú tụi bây nè, hai đứa bây sao giờ này còn chưa tới.”

Uông Tễ đưa tay chùi nước quả đào còn dính trên tay, đi tới bên cái ao nhỏ để rửa: “Xới đất trồng rau nên chậm chút ạ.”

Phù Tô cũng bước tới, đưa tay dưới vòi nước. Uông Tễ xoa xà phòng trên tay mình tạo bọt rồi cố ý đưa qua lòng bàn tay hắn, chia một ít.

“Lười vừa thôi.” Uông Tễ nháy mắt trêu.

Chú Uông bê một món ăn từ trong bếp ra, thấy cảnh đó thì nói: “Xà phòng nhà này không thiếu, xài thoải mái, không cần tiết kiệm!”

Hai người chẳng nói gì, chỉ im lặng rửa sạch bọt xà phòng dưới vòi nước. Lúc cả hai cùng đưa tay để khóa vòi, ngón tay họ chạm nhẹ vào nhau. Uông Tễ nhanh chóng rụt tay lại: “Cho anh khóa.”

“Cơ hội quý giá vậy mà nhường tôi à, cảm động muốn chết luôn.” Phù Tô cười khẩy, giọng đầy ý trêu chọc.

Uông Tễ cúi đầu bật cười, vẩy tay cho khô nước rồi quay vào bếp. Phù Tô đóng vòi nước lại, vừa quay ra đã thấy thím Uông cười nói: “Nhóc Phù, hôm trước bây chụp mấy tấm hình cho nhà thím, coi đẹp dữ dằn luôn!”

Dù mới ăn cơm ở nhà thím Uông vài lần, nhưng giờ khi nghe thím nói bằng phương ngữ miền Nam, Phù Tô cũng đã hiểu được phần lớn ý nghĩa, chỉ thỉnh thoảng cần đoán thêm chút xíu.

Ảnh chụp được đóng khung cẩn thận, trịnh trọng treo trong phòng khách. Thím Uông dẫn Phù Tô vào ngắm, còn Uông Tễ thì bước nhanh vào bếp, hỏi Uông Dịch Dương: “Làm gì mà thơm dữ, đứng xa cả đoạn đường đã ngửi thấy rồi.”

Uông Dịch Dương vừa lau mồ hôi, vừa mở nắp nồi, để lộ một nồi tôm hùm đất đỏ au hấp dẫn.

“Tối nay định uống chút rượu, nên làm nhắm luôn. Tôm này em dậy sớm ra chợ mua loại tươi nhất, về rửa kỳ cọ cả tiếng đồng hồ, cho sạch bong đấy. Đi qua bếp bị mấy người trong nhà bếp mắng không còn mặt mũi nào, cứ như là em không có tự trọng vậy.”

Nồi tôm hùm đất cay đỏ rực, bên cạnh còn có đĩa rau muống xào xanh mướt, đĩa mướp thanh mát, thêm một món trộn từ trứng vịt bắc thảo và dưa leo, chưa kể con vịt muối được Uông Dịch Dương mang từ nhà hàng về. Cả một bàn ăn đầy ắp, mùi thơm lan tỏa khắp sân.

Trời bắt đầu tối, trong sân nhỏ bật lên chiếc đèn hiên.

Uông Dịch Dương đưa cho Uông Tễ và chú Uông mỗi người một chai bia lạnh. Phù Tô không uống rượu, ngồi bên cạnh thím Uông uống nước cơm.

Gió đêm mát rượi, bia lạnh, tôm hùm đất cay nồng… Uông Tễ vừa nhai miếng thịt tôm ngọt bùi vừa nghĩ: Hôm nay Uông Dịch Dương về nhà thật đúng lúc.

Nhớ lại những mùa hè trước, anh thường cố ý dành một tối không tăng ca để gọi phần cơm hộp tôm hùm đất. Nhưng khi ăn, tay bóc tôm, mắt lại nhìn chằm chằm vào màn hình, đầu óc nghĩ nào là báo cáo ngày mai, công tác ngày kia… chẳng có lần nào được ăn trọn vẹn ngon lành. Giờ thì khác, ngồi đây, từng phút giây đều nhẹ nhàng, dễ chịu. Phong cảnh trước mắt là thứ anh thích, người ngồi ăn chung bàn cũng là người anh quý, món ăn thì đúng khẩu vị. Thật sự là thoải mái.

Chú Uông và thím Uông không quen ăn cay nhiều, chỉ thử vài con tôm hùm đất, xong một chén cơm cùng rau thịt thì vào nhà xem TV, để lại ba người trẻ tuổi ngồi giữa sân vừa ăn vừa trò chuyện.

Uông Dịch Dương tháo găng tay bóc tôm, cầm chai bia cụng nhẹ vào ly nước cơm của Phù Tô: “Người anh em này, cảm ơn vụ chụp ảnh nhé!”

Tính Uông Dịch Dương vốn dễ làm quen, nhưng trước đó chưa tìm được cơ hội trò chuyện với Phù Tô. Bây giờ qua Uông Tễ, cậu ta mới bắt đầu tiếp xúc. Trong lòng cậu ta thấy Phù Tô tuy ít nói, có phần hơi lạnh lùng, nhưng lại rất chân thành và phóng khoáng, nên coi như nửa người anh em.

“Chuyện nhỏ thôi.” Phù Tô đáp.

Uông Dịch Dương lắc đầu, uống cạn nửa chai bia: “Không nhỏ đâu. Nếu không có anh, tôi chẳng bao giờ nghĩ ra việc này, bao năm qua cũng chưa từng nghĩ sẽ đưa ba má đi chụp hình như vậy. Tôi nghĩ mình hiếu thuận rồi, nhưng thực ra vẫn còn thiếu chu đáo.”

Phù Tô không nói gì thêm, chỉ nhấp một ngụm nước cơm.

Uông Dịch Dương hỏi tiếp: “Anh làm nghề này à? Tôi mang ảnh đi tiệm in, cô bé ở tiệm cứ tưởng tôi chụp, còn định bàn chuyện kỹ thuật với tôi. Hỏi đủ thứ về máy móc, thiết bị, tôi nghe không hiểu gì hết, làm cô bé thất vọng ra mặt.”

Phù Tô gắp một con tôm nhưng gỡ trúng vỏ rỗng, đặt sang một bên, đáp: “Không phải nghề chính, trước kia từng chụp hai năm, chỉ chụp chơi thôi.”

Uông Dịch Dương gật đầu, không hỏi thêm. Cậu ta chuyển chủ đề: “Mấy hôm trước Phù Hạo đến nhà hàng của tôi ăn, còn hỏi thăm anh đấy, hỏi anh ở đây thế nào. Tôi nói khá tốt.”

“Cũng khá tốt thật.” Phù Tô nhặt thêm một con tôm nữa, nhưng lần này vẫn chỉ là vỏ rỗng.

Uông Tễ ngồi bên cạnh bóc tôm, nghe vậy liền ngẩng đầu hỏi Phù Tô: “Anh với Phù Hạo không kết bạn WeChat à? Sao cậu ta không hỏi trực tiếp anh?”

Phù Tô nghiêm túc nghĩ ngợi: “Hình như thật không có. Nhưng chắc là có số điện thoại, mà có cũng chưa thấy nó gọi bao giờ.”

Điện thoại của Phù Tô hầu như chỉ để trang trí. Hệ thống không cài các ứng dụng giải trí, thông báo cũng hiếm khi hiện lên. Ngoài ba mẹ và bác sĩ, chỉ có Uông Tễ thỉnh thoảng nhắn vài tin.

Về phần này, Uông Dịch Dương cũng từng hỏi Phù Hạo. Lần đó, khi Phù Hạo ăn cơm xong và đứng trước quầy tính tiền, Uông Dịch Dương đã đề cập tới Phù Tô. Dáng dấp của Phù Hạo và Phù Tô có vài nét giống nhau vì là anh em họ, nhưng khuôn mặt của Phù Hạo ít góc cạnh hơn, nhìn chung vẫn ưa nhìn. Chỉ có điều, công việc trong thể chế cùng những buổi xã giao uống rượu đã khiến cậu ta bắt đầu lộ bụng bia dù chưa qua 30.

“Sao anh không tự mình gọi điện hỏi thăm một chút? Dù sao cũng là anh em họ.” Uông Dịch Dương lúc đó thẳng thắn. Trong lòng cậu ta cảm thấy Phù Hạo không đáng tin, nhất là sau lần đầu Phù Tô trở về. Khi ấy, Phù Hạo từng ám chỉ rằng anh họ có vấn đề, khiến Uông Dịch Dương nghĩ ngay đến chuyện tâm lý. Cuối cùng, hóa ra là Phù Tô bị vấn đề về tai. Sau khi biết chuyện, Uông Dịch Dương đã thấy áy náy suốt một thời gian dài.

Phù Hạo lúc đó cầm một viên kẹo bạc hà ở quầy, nhai rộp rộp rồi đáp: “Thôi đừng, tôi với anh họ từ nhỏ đến lớn chẳng gặp nhau được mấy lần, giờ tự dưng gọi hỏi thăm, nó kỳ kỳ sao ấy.”

Trong lòng Phù Hạo có phần phức tạp với người anh họ này. Cậu ta bị ảnh hưởng từ ba mẹ mình, bọn họ vừa thận trọng vừa cảm thấy không thật sự hòa hợp với Phù Tô

Ngày trước, ba của Phù Tô là Phù Lãng – định cư ở Canada. Vì ông ít khi về nên việc chăm sóc ông bà trong nhà đều dựa vào gia đình em trai. Nhưng Phù Lãng không bao giờ thiếu tiền gửi về. Từ khi Phù Hạo chào đời cho đến khi cậu ta kết hôn, sinh con, Phù Lãng luôn gửi tiền đều đặn, số tiền lớn đến mức về sau, mỗi lần nhìn thấy thông báo chuyển khoản, ba mẹ Phù Hạo cũng cảm thấy ngại ngùng. Tuy vậy, hai ông bà cụ là người sống độc lập, trước khi mất chưa từng để con cháu phải phiền lòng. Những năm đấy, họ thậm chí còn giúp đỡ ngược lại gia đình Phù Hạo, khiến họ nhận tiền mà đôi khi thấy áy náy.

Vậy nên, khi năm trước nhận được điện thoại của Phù Lãng báo tin Phù Tô muốn về Vân Lĩnh ở một thời gian, hai vợ chồng liền nhìn nhau. Cả hai cảm thấy đây chính là lúc báo đáp ân tình. Họ coi việc này như chuyện lớn, tìm đội thiết kế tốt nhất để sửa sang lại ngôi nhà, nâng cấp lên tiêu chuẩn cao. Chính họ cũng tự giám sát quá trình thi công, chỉ đợi cháu trai về nước vào ở. Phù Hạo vốn hay đưa bạn bè về nhà chơi cuối tuần để “trải nghiệm cuộc sống thôn quê” nhưng sau đó đã bị ba mẹ cấm đoán, bảo rằng không được làm phiền thêm nữa.



Tôm hùm đất sau khi nấu xong, thịt thường rơi ra khỏi vỏ và chìm xuống đáy nồi. Khi múc lên, không ít lần chỉ vớt được vỏ rỗng.

Phù Tô cứ lặp đi lặp lại việc gắp lên toàn vỏ, khiến Uông Tễ không chịu được, phải vào bếp lấy một cái muỗng. Anh múc phần thịt tôm đọng dưới đáy nồi, chan cả nước sốt đậm đà vào chén của Phù Tô.

“Sốt cũng cho tôi miếng.” Phù Tô nói.

“Sốt này mặn lắm.” Uông Tễ cảnh báo.

“Không sao.” Phù Tô im lặng, tiếp tục cúi đầu gắp thịt.

Uông Tễ đặt muỗng xuống, quay lại ăn phần tôm trong chén mình.

Uông Dịch Dương thì ngập ngừng kẹp một miếng thịt vịt muối, mãi không cho lên miệng.

Vừa rồi, bầu không khí giữa ba người rất tự nhiên. Nhưng chính vì quá tự nhiên và hài hòa, Uông Dịch Dương lại cảm thấy có gì đó lạ lùng. Một cảm giác kỳ quặc không thể gọi tên.

“Làm sao vậy?” Cảm giác được ánh mắt của Uông Dịch Dương cứ đảo qua đảo lại, Uông Tễ ngước mắt hỏi.

Uông Dịch Dương ngập ngừng mở lời: “… Anh cũng múc cho em một muỗng?”

Dù không hiểu lắm, Uông Tễ vẫn cầm muỗng lên, múc một muỗng thịt tôm đầy cho Uông Dịch Dương.

“Đủ chưa?” Anh còn hỏi thêm.

“Đủ rồi, đủ rồi.” Uông Dịch Dương ôm chén gật đầu lia lịa.

Nhìn bát thịt tôm của mình, Uông Dịch Dương suy nghĩ: Anh họ không múc cho chính mình sao? Còn hỏi mình một câu có đủ không… Tại sao vừa nãy mình lại nghĩ kỳ lạ như vậy? Không phải chẳng có gì sao?

Đúng lúc đó, từ trong nhà, thím Uông vọng ra gọi: “Dịch Dương, cái TV sao lại mở không được? Trên màn hình báo không có tín hiệu.”

Dòng suy nghĩ bị cắt ngang, Uông Dịch Dương đáp: “Có phải má lại lấy nhầm điều khiển không? Cái bản tin thời sự kia thì lấy cái điều khiển to mà mở.”

“Thật à? Ừ đúng rồi, mở được rồi!” Tiếng thím Uông và chú Uông nói chuyện vọng ra, ngày càng xa dần: “TV bây giờ làm phức tạp quá, vẫn là ngày trước đơn giản.”

“Đúng đó, già cả rồi, muốn xem TV cũng không xong…”

Uông Dịch Dương từ nhỏ vốn chẳng bận tâm những điều vụn vặt, mấy chuyện rối rắm vừa nãy trong đầu giờ đã tan biến, cậu ta lại tiếp tục tập trung vào bóc tôm.

Một nồi tôm hùm đất được ba người ăn sạch bóng. Đến cuối, Uông Dịch Dương còn trộn mì vào nước sốt dưới đáy nồi, mỗi người gắp lấy hai đũa, xì xụp húp hết.

Sau khi dọn bàn, rửa chén xong, cả ba ngồi ngoài sân hóng gió. Dưới hiên, ánh đèn sáng thu hút muỗi bay vo ve. Uông Tễ bị muỗi đốt mấy vết, khó chịu đá vào chân Uông Dịch Dương: “Lấy nhang muỗi đi.”

Uông Dịch Dương đứng dậy vào nhà, cầm ra một cuộn nhang muỗi và chai nước hoa cũ. Châm nhang xong, cậu ta đưa chai nước hoa cho Uông Tễ. Khói nhang lan tỏa, đuổi bớt lũ muỗi.

Uông Tễ nhận chai nước, đổ một ít vào lòng bàn tay, xoa lên cánh tay và chân. Loại nước hoa này là kiểu cổ, đựng trong chai thủy tinh nhỏ, không có vòi xịt.

Trong lúc khói nhang lượn lờ quanh sân, vẻ mặt của Uông Dịch Dương bỗng lộ ra chút ngượng ngùng.

“À, đúng rồi, suýt quên chưa nói,” cậu ta gãi đầu nói, giọng có phần lúng túng. “Em tính cầu hôn với Tân Hinh.”

“Chuyện tốt đó chứ!” Uông Tễ vừa xoa nước hoa vừa đáp, giọng không chút do dự.

“Thơm nức.” Phù Tô bên cạnh nhận xét, giọng không lớn nhưng rõ ràng.

“Không dễ ngửi sao? Tôi lại rất thích mùi này, nghe là đã thấy mùa hè rồi,” Uông Tễ cười, tiện tay lau thêm một ít nước hoa lên cánh tay của Phù Tô, “Một chút thơm, chia sẻ chút đi.”

Tân Hinh là bạn gái của Uông Dịch Dương. Ba người quen biết nhau từ cấp hai, nhưng mãi lên cấp ba, hai người kia mới nhận ra tình cảm và bắt đầu yêu nhau. Trong quãng thời gian đó, Uông Tễ vừa là người viết thư tình hộ, vừa là người nghe cả hai trút tâm sự khi cãi nhau. Đôi khi, anh còn phải đứng trông cầu thang để hai người kia có thể thoải mái nói chuyện yêu đương trên sân thượng.

“Nếu không quen hai người họ, nói không chừng điểm thi đại học của tôi còn cao hơn 10 điểm,” Uông Tễ từng đúc kết với Phù Tô như vậy.

Phù Tô chỉ cười, vươn tay đuổi con muỗi đang bay gần Uông Tễ.

Uông Dịch Dương lúc này không để ý tới hai người kia đang đùa, mặt mày đầy vẻ ngượng ngùng, lấy điện thoại ra.

“Em muốn làm một màn cầu hôn thật sáng tạo, khác người, để Tân Hinh cảm động đến mức không thể từ chối. Em đã nghĩ ra vài phương án, hai người các anh giúp em xem thử nhé?”

“Được chứ,” Uông Tễ lập tức ngồi sát lại, vẻ mặt đầy hứng thú. “Nhân sinh đại sự mà, cần tham mưu kỹ lưỡng.”

Phù Tô cũng nghiêng người lại gần, tỏ vẻ tò mò.

Thế nhưng, khi xem qua những kế hoạch Uông Dịch Dương đưa ra, Phù Tô chỉ ngồi một lúc rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra góc sân ngắm những bông tú cầu dưới ánh trăng.

Còn Uông Tễ, ban đầu vẻ mặt đầy hào hứng, dần dần trầm trọng hơn, cuối cùng anh nhìn thằng em họ mình đầy nghi ngờ.

“Nếu không thì bây cứ chọn cách đơn giản truyền thống đi. Bây bị lừa đá vào đầu à? Ai lại đi cầu hôn trong phòng mật thất cơ chứ?”

“Không lãng mạn hả?” Uông Dịch Dương lập tức phản bác. “Em đã bàn bạc với nhân viên ở đó, chờ Tân Hinh bị dọa đến tái mét mặt mày, em sẽ bước ra dưới ánh đèn, ôm 99 đóa hồng, quỳ một gối cầu hôn…”

“Thôi bây đừng quỳ, quỳ rồi thì độ cao vừa đủ để Tân Hinh đá bay cái đầu của bây đó.”



Sau một hồi tranh cãi, Uông Dịch Dương thất vọng, vẻ mặt uất ức: “Thôi, em sai rồi. Em không nên tìm anh bàn chuyện. Anh là cái đồ hơn 30 tuổi còn chưa yêu đương lần nào, có thể đưa ra ý kiến gì hữu ích chứ?”

Hai người cãi nhau xong, dịch ghế ngồi xa nhau hơn một chút, mặt ngoài tỏ vẻ giận dỗi nhưng thật ra cả hai đều âm thầm tự vấn. Uông Dịch Dương hoang mang tự hỏi: Bộ kế hoạch của mình không hoàn hảo hả ta? Tân Hinh có cảm động không ta?

Còn Uông Tễ thì vừa gãi chỗ muỗi đốt vừa thầm nghĩ: Anh mày đến trung niên rồi vẫn một thân một mình thì có làm sao, có lẽ mình thật sự không hiểu được suy nghĩ của giới trẻ bây giờ.

Dưới gốc cây, cả hai im lặng đưa lưng về phía nhau, chỉ còn tiếng Phù Tô vang lên khe khẽ từ góc sân, nghe không rõ. Hắn vẫn đứng đó, ánh mắt chăm chú ngắm những bông hoa, ngón tay khẽ vuốt nhẹ cánh hoa mỏng manh. Dưới ánh trăng, vẻ mặt hắn như phủ một tầng nặng nề khó tả.

Ở quê, người ta thường ngủ sớm. Sợ ba mẹ Uông Dịch Dương bị tiếng ồn làm phiền, Uông Tễ nhắc mọi người chuẩn bị về.

Trước khi đi, Uông Dịch Dương lấy một túi đồ trong xe đưa cho Phù Tô.

“Buổi sáng tôi vội vã đi lấy đồ từ tiệm chụp ảnh, họ tách riêng ảnh có khung và không khung. Túi này tôi chưa mở xem, anh về nhà kiểm tra xem có thiếu gì không.”

Phù Tô nhận túi, gật đầu cảm ơn.

Uông Tễ đứng bên cạnh, liếc nhìn cái túi, ánh mắt đầy tò mò nhưng không hỏi thêm.

Sắc trời đã tối hẳn. Trên con đường làng, đèn năng lượng mặt trời tỏa ánh sáng mờ nhạt, rọi xuống con đường nhỏ ngoằn ngoèo phía trước.

Hai người đi bộ một trước một sau, ánh đèn vàng mờ của đèn đường kéo dài bóng dáng, khiến khung cảnh trở nên tĩnh lặng mà ấm áp. Uông Tễ vừa đi vừa vỗ muỗi, động tác loạng choạng giống như đang nhảy breakdance, chọc cho Phù Tô ở phía trước bật cười khẽ.

“Mỗi ngày đều cười, cẩn thận cười ra nếp nhăn,” Uông Tễ vừa vỗ thêm một con muỗi vừa lẩm bẩm.

“Tôi ở tuổi này rồi, không có nếp nhăn mới lạ,” Phù Tô quay đầu nhìn anh, giọng đùa cợt.

“Tuổi nào mà già cả vậy? 30 thôi mà nói nghe như 50 vậy,” Uông Tễ phàn nàn, ngay sau đó lại bị muỗi cắn. Anh bực dọc, khẽ thở dài.

“Làm sao mà cậu hút muỗi dữ vậy?” Phù Tô nghe tiếng phàn nàn, quay lại vài bước đứng bên cạnh.

“Không biết nữa. Có khi do máu tôi ngọt, nhóm máu O mà, muỗi thích cũng phải.” Uông Tễ vừa nói vừa gãi chỗ muỗi cắn, càng gãi càng đỏ.

“Đừng cào, trầy da bây giờ.”

“Ngứa mà.”

Phù Tô khẽ thở dài, cúi đầu xuống. Một tay giữ cánh tay Uông Tễ, tay kia dùng đầu ngón tay vẽ một chữ thập nhỏ trên vết muỗi cắn.

“Phong ấn đó. Giờ chắc không ngứa nữa.”

Uông Tễ bật cười: “Đúng là kiểu mẹo dân gian. Không được mà vẫn ngứa thì sao?”

“Thì chịu đựng đi. Về nhà rồi bôi thuốc,” Phù Tô cười nhẹ, tay vẫn đặt trên cánh tay anh.

Khoảng cách giữa hai người bỗng trở nên gần gũi hơn bao giờ hết. Uông Tễ liếc nhìn bóng hai người trên mặt đất, thấy cái bóng dường như đang áp sát, khiến hắn hơi ngượng. Anh bước lên phía trước một bước, thoáng tạo khoảng cách. Phù Tô cũng tự nhiên buông tay ra.

Uông Tễ bước đi phía trước, còn Phù Tô theo sau. Chỉ một đoạn ngắn nữa là đến nhà, ánh trăng lấp ló qua tán cây anh đào trong sân, phủ một tầng sáng nhàn nhạt.

Uông Tễ bất ngờ quay người lại, hai tay đút túi, đi giật lùi nhìn Phù Tô. Bóng dáng anh dưới ánh đèn hắt dài trên nền đất, giống như đang đùa nghịch. Anh đưa tay lên, cách không vỗ đầu Phù Tô.

“Uông Dịch Dương vừa nãy đưa gì cho anh cái gì vậy?”

Phù Tô ngẩng lên, thấy hành động của hắn cũng không nổi giận, chỉ cười nhẹ: “Lúc đó cậu không hỏi, tôi còn tưởng cậu không hiếu kỳ.”

“Lúc đó Uông Dịch Dương ở bên cạnh mà. Lỡ đâu là bí mật gì, tôi hỏi mà anh không muốn trả lời thì chẳng phải là tôi mất mặt sao?” Uông Tễ cười, vừa nói vừa lùi lại, dáng vẻ như đang đùa.

Phù Tô dừng lại, mắt nhìn thẳng vào anh. Ánh mắt dưới đèn đường trong vắt, như mặt hồ lấp lánh ánh sóng.

“Qua phải chút, trật rồi,” Phù Tô nói, ánh mắt vẫn không rời.

Uông Tễ nghe lời, dịch qua một bước: “Giờ thì nói được chưa?”

Phù Tô khẽ mỉm cười, như đang đùa nghịch. “Lúc đó nếu cậu hỏi, tôi sẽ nói ngay thôi. Sẽ không từ chối cậu đâu.”
 
Chương 15: Ảnh chụp


Khi tới trước cửa nhà Uông Tễ, Phù Tô chẳng nói một lời, chỉ lặng lẽ bước theo anh vào. Uông Tễ đẩy cánh cửa sân sau, dẫn hắn lên lầu hai.

Đến phòng khách, Phù Tô tiện tay ném cái túi lên bàn trà, rồi bảo: “Tôi hơi mắc… cho tôi mượn nhà vệ sinh xíu.”

Uông Tễ cười, không quên cà khịa: “Anh không mắc mới lạ. Một nồi cháo, thím tôi uống đúng một chén, còn lại anh xử sạch. Ai không biết lại tưởng anh nhịn khát ba ngày.”

Phù Tô bật cười, đóng cửa nhà vệ sinh lại.

Một lúc sau khi hắn quay lại, tay còn vẫy vẫy cho khô, Uông Tễ vẫn ngồi trên sofa, ánh mắt dừng ở cái túi trên bàn trà nhưng không có ý động vào.

“Sao không mở ra coi thử?” Phù Tô hỏi, tiện tay rút một tờ khăn giấy lau tay.

Uông Tễ ngẩng lên nhìn hắn: “Tôi còn chưa biết anh mang cái túi đó tới là muốn tôi xem cái gì, hay đơn giản là không nhịn nổi mà chạy lên kiếm nhà vệ sinh.”

Phù Tô phá lên cười: “Cũng không đến nỗi gấp như vậy đâu.”

Hắn cầm cái túi đưa qua: “Cầm đi, coi thử đi.”

Uông Tễ nhận lấy. Trong túi không có thêm lớp gói nào khác, chỉ cần hơi rung nhẹ là toàn bộ rơi ra sofa. Thứ bên trong không phải gì khác, chỉ là một chồng ảnh chụp.

Thoáng nhìn qua, anh bật cười, khóe mắt khẽ cong, vẻ mặt có chút thú vị: “Đúng thật là…”

Giữa hai người, tấm ảnh trên cùng đập vào mắt là khoảnh khắc lần thứ hai họ gặp nhau. Khi ấy trời vẫn còn xuân, cây trà hoa đỏ trong sân nở rộ, rực rỡ. Phù Tô ngồi trước bát canh cơm cháy, tay chụp ảnh. Trong góc bức ảnh, mờ mờ hiện lên bàn tay của Uông Tễ đang cầm đũa.

Tấm ảnh đó lúc ấy chụp xong, Phù Tô còn chìa điện thoại cho anh xem. Nhưng cảm giác khi nhìn thấy lúc đó khác xa so với hiện tại, khi thời gian đã trôi qua lâu như vậy.

Phù Tô rót thêm một chén nước, nhìn Uông Tễ, cười hỏi: “Có phải cậu đã đoán ra từ sớm rồi không?”

Uông Tễ cầm lấy chồng ảnh, “À” một tiếng, rồi đáp: “Anh còn uống nước nữa à? Bớt bớt lại, thương cái bàng quang với quả thận của anh chút đi.”

Phù Tô nhướng mày, nói: “Cảm ơn à, thận và bàng quang của tôi vẫn tốt lắm.”

Hắn lại hỏi: “Sao cậu đoán ra được?”

Uông Tễ dựa lưng vào ghế, giọng điềm nhiên: “Uông Dịch Dương bảo là từ tiệm rửa ảnh lấy về. Không phải ảnh thì còn gì vào đây? Nếu là thứ khác, tôi cũng ngại chẳng dám hỏi anh thẳng thừng thế này. Ai lại đi lục lọi đời tư của người khác chứ.”

Phù Tô bật cười, đáp: “Nhỡ đâu là ảnh riêng tư của tôi thì sao?”

Uông Tễ ngẩng đầu, nhìn hắn một cái, nói tỉnh bơ: “Sao? Anh còn nhờ được Uông Dịch Dương chụp lén ảnh trần trụi của mình à?”

Không ngờ anh lại nói thẳng như vậy, Phù Tô cũng phì cười: “Hà, chứ cậu nghĩ tôi mua cả tủ thiết bị kia để làm gì? Chụp phong cảnh thì đâu cần xịn đến thế.”

Uông Tễ liếc hắn, nửa đùa nửa thật: “Phong cảnh không cần, nhưng chụp anh… trần trụi thì lại cần à?”

Anh vừa nói, tay vẫn chăm chú lật mớ ảnh trên tay.

Phù Tô nhìn thấy dáng anh cúi đầu, tay đưa tới khẽ chạm nhẹ vào cổ anh, bảo: “Ngẩng đầu lên chút đi, đừng cúi như vậy, muốn đau cổ à?”

Nghe lời, Uông Tễ ngẩng lên, rồi dựa lưng vào sofa, thẳng người lại. Anh gom chồng ảnh, từng tấm mà lật xem.

Lúc nãy chỉ thấy vài tấm đã không cảm giác gì, nhưng giờ cầm toàn bộ trong tay, cảm giác rõ ràng hơn nhiều. Rõ ràng thời gian hai người quen nhau chưa lâu, vậy mà chồng ảnh này lại dày nặng, đến mức một bàn tay anh gần như không ôm trọn được.

Chồng ảnh quá dày, lật từng tấm làm ngón tay anh hơi đau. Xem xong một tấm, anh lại đưa qua cho Phù Tô. Nhiều tấm là ảnh của anh, nhưng nhìn qua đã không nhớ nổi là Phù Tô chụp khi nào.

Anh cầm một tấm có hình món trứng xào hương xuân, hỏi: “Tấm này anh chụp lúc nào? Tôi không nhớ gì cả.”

Phù Tô suy nghĩ một lát, rồi cười bảo: “Lúc anh đang cắt bánh đấy.”

Nghe vậy, Uông Tễ liền cầm tấm ảnh, soi kỹ. Anh còn với tay lấy kính từ dưới bàn trà mang vào, dù cận thị không nặng nhưng anh thường chỉ đeo khi đọc sách.

Đeo kính vào, anh nhìn chăm chăm vào góc phải phía trên của ảnh, quả nhiên thấy một hình bóng mờ mờ, chính là nửa người anh đứng bên cạnh lò nướng.

“Thế tấm này thì sao? Anh chụp lén tôi à?”

Tấm ảnh chụp trong xe. Uông Tễ ngồi ghế phụ, ôm một rổ dâu tằm mới hái, trên tay còn cầm cây kem, đầu dựa vào cửa sổ xe, nhắm mắt ngủ. Từ góc chụp của Phù Tô, có thể thấy rõ hàng mi rũ xuống và sống mũi cao của anh.

Phù Tô đáp, giọng đầy vẻ đắc ý: “Chụp lén cái gì? Tôi chụp công khai mà. Điện thoại còn kêu tách rõ ràng, cậu ngủ say đến mức chẳng thèm tỉnh. Lúc đó, tôi đến cửa nhà cậu rồi mà gọi mãi cậu có chịu dậy đâu.”

Ngày hôm ấy, sau khi hái dâu tằm xong, trời nóng nực, cả hai về xe ngồi ăn kem. Phù Tô chọn kem ốc quế, chậm rãi gặm từng miếng. Uông Tễ cầm một cây kem xanh lục, ăn vội chỉ hai ba miếng đã xong, rồi ngả người ngủ luôn, giấc ngủ hiếm thấy đến mức sâu thật sự.

Phù Tô lúc ấy không đánh thức anh, chỉ đậu xe trước cổng nhà anh, bật điều hòa ngồi đợi nửa tiếng, đến khi Uông Tễ tự mở mắt.

Ý nghĩa của những tấm ảnh nằm ở những khoảnh khắc như thế. Bây giờ xem lại, từng giây phút bình yên mà họ trải qua bên nhau như được tái hiện ngay trước mắt, khiến người ta vừa cảm thấy lạ lẫm, vừa ấm áp đến khó tả.

Những tấm ảnh phần lớn chụp đồ ăn, đều là hai người cùng nhau thưởng thức. Đặc biệt, không ít tấm chụp giữa chừng khi món ăn đã vơi đi một nửa. Nhưng dù chụp dở dang như thế, cách bày biện của đồ ăn vẫn chỉnh chu, không chút khó coi. Dù chỉ là những món ăn thường ngày, chúng vẫn toát lên vẻ bình dị, đậm chất đời thường, như khoảnh khắc trong ảnh đang kể câu chuyện của riêng nó.

Ngoài đồ ăn, ở góc ảnh hay hậu cảnh mờ ảo, Uông Tễ luôn xuất hiện đâu đó. Lúc là một nụ cười thấp thoáng ở góc cạnh, khi là cánh tay với xương cổ tay nổi rõ lúc gắp thức ăn. Tất cả đều khiến người xem cảm nhận anh như một phần không thể thiếu của mỗi khung hình, bị “đóng khung” trong thế giới ảnh của Phù Tô.

Có lẽ sự kỳ diệu của nhiếp ảnh nằm ở chỗ đó. Nhìn những tấm ảnh, Uông Tễ bất giác nhận ra bản thân qua một góc nhìn lạ lẫm. Nhìn kỹ, anh phát hiện ra ngón tay mình dài, trên khớp ngón trỏ tay trái còn có một nốt ruồi nhỏ xíu mà bình thường anh chưa bao giờ để ý.

Từ mùa xuân đến hè, chồng ảnh cứ dày dần lên. Đến tấm cuối cùng, chỉ còn một bức duy nhất nằm lại trên tay Uông Tễ.

Đó là một bức ảnh nổi bật, được chụp trong vườn nhà Phù Tô vào một ngày trời trong xanh. Khắp tường dây leo xanh ngát như thác nước buông dài, hoa tường vi phía sau anh bung nở rực rỡ. Uông Tễ đứng quay đầu lại, ánh sáng mặt trời xuyên qua tán lá, chiếu lên gương mặt anh những vệt sáng mềm mại. Trong ánh mắt tròn to vì ngạc nhiên ấy như mang theo ánh sáng, sống động đến mức tựa như khoảnh khắc ấy vẫn còn đọng lại trong hiện thực.

Đây là lần đầu tiên ống kính của Phù Tô không hướng vào phong cảnh, mà chĩa thẳng vào con người.

Uông Tễ cầm bức ảnh lên, ngắm nghía rất lâu.

Phù Tô ngồi bên cạnh, phá vỡ sự im lặng: “Cô bé ở tiệm rửa ảnh chắc có chỉnh sửa chút xíu, chứ sao nhìn không giống với lúc tôi xem trong máy ảnh nhỉ?”

Nghe vậy, Uông Tễ quay đầu, mắt mở to đầy vẻ thắc mắc, giống hệt ánh mắt trong bức ảnh. Bình thường đôi mắt anh tuy to, nhưng luôn có độ cong mềm mại. Giờ đây, mở lớn lại tròn xoe, trong vắt như quả nho: “Chỗ nào không giống? Tôi vốn đã đẹp trai sẵn mà.”

Phù Tô bật cười. Uông Tễ cũng cười theo, không quên bồi thêm: “Thật mà! Tôi đẹp sẵn, không cần chỉnh sửa đâu.”

“Ừ thì đúng vậy,” Phù Tô nói, “Tấm nào cậu cũng xem lướt, riêng tấm này thì ngắm kỹ mãi. Nếu không đẹp thì đã chẳng lưu luyến lâu thế.”

Uông Tễ búng tay vào cánh tay Phù Tô, cười cợt: “Bớt trêu tôi đi. Tấm này anh chụp cũng khá lắm.”

Trong lúc bông đùa, khuỷu tay Uông Tễ vô tình để lộ hai nốt muỗi đốt đỏ lên. Phù Tô liếc qua thấy, hỏi ngay: “Hộp thuốc ở đâu?”

Uông Tễ còn đang dán mắt vào bức ảnh, đáp bâng quơ: “Dưới kệ TV.”

Phù Tô đứng dậy đi lấy thuốc. Uông Tễ ngồi lại trên sofa, ánh mắt đăm chiêu nhìn chồng ảnh. Anh khẽ thở dài, giọng đầy cảm thán: “Thời gian trôi nhanh thật. Từng ngày trôi qua, chưa kịp cảm nhận gì đã thấy hết nửa năm. Xem lại ảnh mới nhận ra, hóa ra đã lâu như vậy.”

Từ mùa xuân đến mùa hạ, mọi thứ trôi qua như một cái chớp mắt. Nhưng nhìn lại những tấm ảnh, từng khoảnh khắc, từng kỷ niệm lại ùa về, sống động và chân thật như chưa hề phai nhạt. Anh và Phù Tô, từ hai người xa lạ, giờ đã trải qua biết bao nhiêu thời gian bên nhau.

Phù Tô quỳ một gối tìm thuốc trong ngăn kéo. Có lẽ khoảng cách hơi xa, lời Uông Tễ nói hắn không nghe rõ, hoặc có lẽ hắn cố tình không đáp.

Uông Tễ nhìn hắn, ánh mắt dừng lại trên người Phù Tô. Hôm nay hắn mặc chiếc áo vải thô đơn giản cùng quần dài thoải mái. Bộ trang phục không có gì đặc biệt, nhưng mặc trên người hắn lại toát lên vẻ gọn gàng, khoáng đạt.

Phù Tô kéo ngăn kéo, tìm kiếm trong hộp thuốc, động tác nhẹ nhàng nhưng đầy sức mạnh. Cánh tay hắn gân guốc, từng đường nét rõ ràng từ bàn tay đến bắp tay, ẩn hiện bên dưới tay áo xắn hờ. Tìm được thuốc mỡ và tăm bông, hắn đóng ngăn kéo, đứng dậy rồi quay lại ngồi cạnh Uông Tễ trên sofa.

Cánh tay Uông Tễ bị muỗi cắn đầy vết sưng đỏ. Phù Tô nhìn qua, hỏi: “Trên đùi có không?”

Uông Tễ vén quần, để lộ những vết cắn dày đặc. Có vài vết mới đỏ tấy, một số khác đã mờ đi nhưng vẫn để lại dấu tích nhạt nhòa. Thậm chí đến cả phía sau đầu gối cũng có vài vết cắn mà anh không thể tự bôi thuốc.

Phù Tô không đưa thuốc mỡ cho anh mà tự tay bôi. Hắn nhúng tăm bông, cẩn thận chấm thuốc lên từng vết đỏ.

Uông Tễ vốn đang mải mê với chồng ảnh, giờ bị đầu tăm bông chạm vào liền cảm thấy ngứa ngáy. Anh đưa tay định gãi, nhưng Phù Tô đã ấn mạnh tăm bông xuống chỗ cần bôi.

“Đang bôi thuốc mà cũng gãi à?” Phù Tô liếc nhìn anh.

Uông Tễ tựa cằm lên đầu gối, cười nhẹ: “Không sao đâu. Từ nhỏ tới giờ cứ đến mùa này là người tôi đầy vết sưng như vậy. Đây mới bắt đầu thôi, đến khi hè qua sẽ tự khỏi.”

Anh kể hồi nhỏ da trắng trẻo, mỗi vết cắn lại càng nổi bật. Cả người như nam châm hút muỗi, dù xịt nước hoa hay dùng thuốc đuổi cũng không ăn thua. Mùa hè, tay chân anh toàn là vết sưng đỏ, cào đến nát cả da cũng không hết ngứa. Ban đêm, anh thường ngứa đến mức hừ hừ trong giấc ngủ, khiến ông nội phải ngồi quạt muỗi suốt cả đêm.

“Càng gãi càng ngứa. Nếu cào trầy da, tối còn ngủ được nữa không?” Phù Tô nghiêm giọng.

Bôi xong hai cánh tay, hắn dùng đầu ngón tay chạm nhẹ vào đầu gối Uông Tễ, ý bảo anh duỗi chân ra.

Uông Tễ thở dài, vừa duỗi chân vừa nói: “Không gãi cũng không ngủ được. Đợi lát nữa tôi nằm nghỉ chắc lại phải dậy đập muỗi. Không chỉ cắn người, mấy con muỗi còn kêu điếc tai.”

Anh vốn ngủ rất nông. Chỉ cần một con muỗi vo ve bên tai là lập tức tỉnh giấc, cả đêm không yên, phải đuổi bắt cho đến khi không còn con nào trong phòng.

Phù Tô nghe xong, hơi nhíu mày: “Không đóng cửa sổ lại à?”

“Có đóng chứ. Nhưng vô ích thôi, trong núi mà, muỗi ở khắp nơi.”

Ở trong núi là thế, cảnh đẹp thì đẹp, nhưng đến mùa hè, muỗi mòng đủ loại không cách nào tránh được.

“Nhưng nhà anh thì không bị à? Theo lý thuyết, vườn hoa cỏ nhiều thế kia phải là chỗ hút muỗi chứ.” Uông Tễ vừa nói vừa nhìn Phù Tô. Người này mặc quần dài, không thấy chân thế nào, nhưng tay thì chẳng có lấy một vết đỏ.

Phù Tô giải thích: “Có hệ thống xua muỗi.”

Vườn nhà hắn rất rộng, trong góc vườn có lắp hệ thống phun sương, mỗi ngày đều đặn phun dịch xua muỗi chiết xuất từ thảo dược tự nhiên. Ngoài ra còn có máy diệt muỗi, thậm chí lúc xây vườn, hắn đã cho trồng cả một dải cây có tác dụng xua muỗi như thiên trúc quỳ và vạn thọ cúc.

Nhờ sức mạnh của tiền bạc, trong nhà Phù Tô hiếm khi xuất hiện một con muỗi nào. Vì vậy, hắn không ngờ Uông Tễ lại bị muỗi cắn đến thảm như thế. Ngày thường, Uông Tễ sợ nắng nên toàn mặc quần dài, áo tay dài, che kín mít, hắn cũng không để ý.

Nghe xong, Uông Tễ ngẩn người: “Hóa ra là để xua muỗi à. Hôm trước tôi nhìn qua, còn tưởng anh xa xỉ lắp đài phun nước chơi.”

Phù Tô bôi xong thuốc cho chân trái, vỗ nhẹ đầu gối anh, bảo đổi chân: “Tôi lắp đài phun nước trong nhà để ai ngắm chứ?”

“Để tôi ngắm chứ còn ai nữa.” Uông Tễ duỗi thẳng chân phải ra. Nói xong lại vô ý, cổ chân anh chạm lên đầu gối Phù Tô. Người kia khựng lại một chút nhưng không nói gì.

Uông Tễ cười hì hì: “Chính anh không thấy đẹp sao? Mấy tia nước phun lên nhìn vừa mát mắt, vừa đẹp, giống như tôi vậy.”

Phù Tô không đáp, bôi nốt thuốc rồi đứng dậy đi rửa tay. Quay lại, hắn liếc vào phòng ngủ của Uông Tễ, thấy khung cửa sổ đối diện thẳng khu rừng sau nhà. Thảo nào muỗi vào kín phòng, cắn anh đến mức đó.

Trong phòng khách, Uông Tễ toàn thân bôi đầy thuốc mỡ, sợ làm bẩn sofa nên co đầu gối ngồi, không dám để chân chạm vào gì. Với dáng cao hơn mét tám của anh, tư thế này khiến anh trông nhỏ bé đi hẳn. Có vẻ thuốc mỡ chưa dịu ngứa, anh lại giơ tay lên gãi.

“Không biết rút kinh nghiệm.” Phù Tô bước lại gần, bình thản nói.

Uông Tễ nghe tiếng, buông tay ngay: “Không gãi mà ngứa quá chịu không nổi. Nghĩ xem, hơn ba mươi tuổi đầu, còn bị người khác bắt gặp cào vết muỗi cắn, mất mặt ghê.”

Phù Tô liếc anh, không ngồi xuống mà bắt đầu dọn chồng ảnh trên sofa.

Uông Tễ tưởng hắn định về, vội xỏ dép đứng lên: “Anh về à? Để tôi giúp cất đồ.”

Anh cúi xuống định lấy túi nhưng bị Phù Tô ngăn lại: “Để đó tôi lo, cậu tự dọn đồ của mình đi.”

“Dọn gì cơ?” Uông Tễ ngơ ngác.

Phù Tô xếp ảnh vào túi, rồi nói: “Quần áo, khăn tắm, mấy thứ cậu cần dùng tối nay. Mang hết lên đi.”

“Hả?” Uông Tễ ngẩn ra.

Toàn thân anh, tay áo và ống quần đều vén lên vì bôi thuốc, dáng vẻ hơi luộm thuộm. Phù Tô nhìn anh từ đầu đến chân, giọng trầm trầm: “Cả người đỏ ửng trông tội nghiệp thế này. Lên nhà tôi mà ngắm đài phun nước đi.”
 
Chương 16: Tiramisu


Mãi đến khi đặt chân lên tầng hai nhà Phù Tô, Uông Tễ ôm đống đồ tắm rửa, quần áo, và cả gối đầu mà vẫn ngơ ngẩn chưa tỉnh.

Phù Tô mở cánh cửa đối diện phòng ngủ của mình, quay sang hỏi: “Ngủ phòng này được không? Để tôi đi lấy chăn ga gối nệm.”

Dù trong đầu còn mơ hồ, nhưng Uông Tễ lại đáp lời rất tự nhiên: “Phòng này thôi, chẳng lẽ còn lựa chọn nào khác hả? Tôi không thể ôm đồ đi dạo một vòng ngắm cảnh rồi lại quay về đâu nhé.”

Tầng hai chỉ có ba phòng ngủ: một phòng của Phù Tô, một phòng nhỏ đã chuyển thành phòng tập thể dục, và căn phòng trước mặt anh.

Phù Tô đứng tựa vào cửa, khẽ cười: “Nếu không được, tôi nhường phòng mình cho cậu. Cậu thích cửa sổ bên đó mà đúng không? Tôi ngủ đâu cũng được, không kén giường.”

Uông Tễ lắc đầu: “Tôi cũng không kén giường.”

Phù Tô liếc qua gối đầu trong tay anh, nhướn mày cười nhẹ: “Nói dối.”

Lời nói không nghiêm túc, ngữ khí lại mang chút trêu chọc, âm cuối nhè nhẹ như đang vờn lên. Uông Tễ nghe xong, chẳng những không cảm thấy ngượng mà còn thấy thoải mái kỳ lạ.

Thật ra anh không hề kén giường. Việc ôm theo gối đầu là vì khi nãy ngơ ngác, nghe lời Phù Tô bảo mang đồ cần thiết lên, anh tiện tay nhấc cả cái gối. Lúc cúi người lấy đồ trong tủ, ánh mắt tình cờ chạm phải Phù Tô đang đứng dựa cửa, anh lại đột nhiên cảm thấy bối rối.

Phù Tô thực ra không nhìn anh, chỉ đứng đó chờ, nhưng chính cái nhìn không chủ ý ấy lại khiến Uông Tễ tự dưng cảm thấy ngại. Cảm giác trong lòng cứ trống rỗng, như thiếu mất thứ gì đó. Để khỏa lấp, anh tiện tay ôm luôn cái gối đầu trên giường.

Cảm giác lúng túng ấy đến nhanh, đi cũng nhanh. Giờ nghĩ lại, Uông Tễ cũng chẳng hiểu sao khi đó mình lại thấy ngại ngùng.

Căn phòng này vốn không có ai ở, giường cũng chưa trải. Phù Tô lấy bộ chăn ga gối từ tủ phòng mình, hai người cùng nhau loay hoay trải nệm.

Tầng hai chỉ có một nhà vệ sinh. Nhà tắm dưới tầng một đã lâu không dùng, cũng chẳng để đồ dùng tẩy rửa. Sau khi trải xong giường, Phù Tô hỏi: “Cậu tắm trước hay để tôi?”

Giữa mùa hè, chiều nay cả hai ở nhà Uông Dịch Dương ăn tôm hùm đất ngoài sân, không có điều hòa hay quạt, người ai cũng ướt mồ hôi. Uông Tễ còn thoảng hương nồng của nước hoa chống muỗi Lục Thần.

“Cậu tắm trước đi.” Uông Tễ đặt gối lên giường, chiếc áo gối bị ôm đến nhăn nheo. Anh quay người vuốt phẳng lại rồi nói thêm: “Trên người tôi còn thuốc mỡ, chờ thấm hẳn rồi tắm sau.”

Phù Tô nghe vậy liền về phòng lấy quần áo tắm.

Khi hắn rời đi, Uông Tễ đứng thẳng người dậy, nhìn quanh căn phòng bày biện không mấy quen thuộc, tự dưng lại chẳng biết nên làm gì.

Thật ra, lúc Phù Tô đề nghị ngủ lại, phản ứng đầu tiên trong đầu Uông Tễ là từ chối. Anh vốn không quen, cũng không thích ngủ lại nhà người khác. Nhưng lời từ chối chưa kịp thốt ra, bản thân đã lững thững theo chân hắn lên đây rồi.

Dù đã đến nhà Phù Tô nhiều lần, Uông Tễ trước giờ chỉ loanh quanh ở phòng khách hoặc nhà ăn, chưa từng đặt chân vào phòng dành cho khách. Vì thế, lần đầu tiên bước vào không gian này, anh có chút xa lạ và không thoải mái, nhất là khi Phù Tô rời đi, cảm giác quen thuộc duy nhất cũng biến mất.

Sự lạ lẫm và bối rối khiến Uông Tễ bản năng không muốn ở yên một chỗ. Đứng ở mép giường vài giây, anh quyết định bước ra ngoài.

Phù Tô đang chọn quần áo trước tủ, thấy Uông Tễ ló mặt liền hỏi: “Có chuyện gì à?”

Uông Tễ tựa người vào khung cửa, bắt chước dáng vẻ Phù Tô vừa dựa cửa phòng anh: “Đi tham quan.”

Phù Tô lấy từ tủ ra một chiếc khăn tắm sạch sẽ, gật đầu đầy hào phóng: “Xem đi. Tôi đi tắm, không giới thiệu đâu, cậu cứ từ từ mà khám phá.”

Trên tay ôm đồ đi ngang qua, Uông Tễ tự giác nhích người dán sát vào khung cửa, nhường đường cho hắn. Anh chỉ là đang cảm thấy có chút trống trải và muốn trò chuyện, nhưng Phù Tô đã đi tắm, để lại anh đứng một mình trước cửa phòng. Ngại quay lại phòng khách, anh vờ tỏ vẻ thản nhiên nói: “Phòng này nhìn qua là hiểu hết rồi, có gì mà cần từ từ. Anh cứ đi tắm đi, tôi tự mình đi loanh quanh.”

Câu này quả thực không sai. Phòng của Phù Tô bày trí cực kỳ tối giản, chỉ gồm một chiếc giường lớn, tủ đầu giường, tủ quần áo và một chiếc đèn đứng cạnh mép giường. Đầu giường bọc da màu đen, bộ chăn ga gối cũng đen nốt. Trên tủ đầu giường đặt một cuốn sách đang đọc dở, phong bì bên cạnh cũng màu đen. Cả căn phòng không có sắc thái gì khác ngoài màu sàn gỗ và sự hiện diện của Phù Tô.

Nhà vệ sinh nằm gần phòng ngủ. Khi Phù Tô bước vào đó, Uông Tễ xoay người định đi về phía phòng khách, nhưng chưa kịp bước xa thì nghe thấy tiếng cười khẽ vang lên từ phía sau.

Quay đầu lại, anh thấy Phù Tô đứng tựa vào cửa phòng tắm, mỉm cười hỏi: “Cậu không được tự nhiên đúng không?”

“Không có.” Uông Tễ theo phản xạ chối ngay. Nhưng vừa dứt lời, ánh mắt anh chạm vào ánh mắt của Phù Tô. Hai người nhìn nhau trong chốc lát, rồi anh bật cười, cúi đầu dựa vào khung cửa. Giọng nói nhẹ như gió thoảng: “Đột nhiên phải ngủ lại, không quen thôi.”

Âm cuối buông rất khẽ, nghe qua cũng giống như chính anh đang cười thầm với bản thân.

So với gương mặt lạnh lùng và đôi chút sắc bén của Phù Tô, Uông Tễ mang lại cảm giác hoàn toàn khác. Ngay cả ánh nhìn đầu tiên cũng đã đủ để nhận ra sự dịu dàng nơi anh – từ ngũ quan, đường nét khuôn mặt cho đến phong thái trò chuyện. Tất cả đều mềm mại như một cơn gió xuân thoảng qua. Không phải cái loại mềm yếu khiến người ta lấn lướt, mà là sự mềm mại khiến người khác cảm thấy dễ chịu, thoải mái, như đang được vỗ về.

Trước đây, một lần cấp dưới của Uông Tễ, một cô gái trẻ trong nhóm, mang báo cáo đến cho anh. Trong lúc nói chuyện, cô bỗng cười bảo: “Anh Tễ, anh đúng là nói chuyện như thần vậy đó. Nghe giọng anh bình thản mà mấy chữ cuối còn kéo dài nhẹ nhàng, giống như bị đuôi mèo quẹt ngang, ngứa ngứa mà cứ làm người ta rung rinh.”

Lúc đó, anh chỉ lo sửa lại báo cáo, chẳng hiểu rõ cô nói gì. Nhưng nghe xong cũng cảm thấy hơi ngại. Anh cúi đầu đẩy nhẹ gọng kính, lòng nghĩ: Cô bé này đúng là kiểu đu trend nịnh idol, ngay cả khen sếp cũng không quên rắc chút cầu vồng.

Hiện tại, giọng anh thoáng khàn đi. Phù Tô đứng ở cửa, tay vừa cầm nắm cửa thì buông nhẹ, làm phát ra một tiếng “tách”.

Uông Tễ ngồi thẳng dậy từ khung cửa, lên tiếng: “Anh tắm trước đi, đứng cả nửa ngày rồi, mệt chết. Để tôi ra phòng khách coi TV một lát. Tối nay anh muốn chơi game hay coi phim? Ngủ sớm giờ cũng hơi lạ.”

Phù Tô im lặng vài giây, rồi đáp khẽ: “Được, cái nào cũng được.” Nói xong hắn đóng cửa phòng lại.

Tiếng nước bắt đầu vang lên trong phòng tắm. Uông Tễ đi xuống phòng khách, ngồi vào sofa. Anh bật TV nhưng chẳng có gì đáng xem, thế là lấy điện thoại ra lướt một vòng. Thật ra, anh cũng không hứng thú gì với điện thoại, nhưng mỗi tối trước khi ngủ, anh vẫn thường lướt qua các app xem tin tức, đọc chút chuyện vui.

Dù sống ở trong núi, anh cũng không muốn hoàn toàn cắt đứt với thế giới bên ngoài. Tin tức thời sự phải nắm, mấy câu chuyện giải trí cũng xem cho biết, dù chẳng quen mặt mấy nghệ sĩ trẻ.

Cuối cùng, anh lại mở một app video ngắn. Dạo gần đây, Uông Tễ hay theo dõi các tài khoản nông học để học cách chăm sóc cây cối. Tuy lớn lên ở miền núi nhưng anh chưa từng thực sự làm vườn. Chuyện gieo hạt, bón phân hay chăm mầm non đều là lần đầu.

Lướt nhiều về nông trại, nền tảng cũng bắt đầu gợi ý cho anh thêm các video về ẩm thực. Lần trước, anh thấy một clip làm rượu dâu tằm, nhưng nghĩ lại thì Phù Tô không uống rượu, chú Uông cũng chẳng thích rượu trái cây. Làm ra mà chỉ mình anh uống thì vô vị, nên cuối cùng anh dùng dâu tằm để pha trà quả.

Đang lướt, anh tình cờ thấy một video dùng đậu phộng làm đậu hũ.

Người trong video lấy đậu phộng tươi xay nhuyễn thành hỗn hợp mịn, lọc qua khăn, rồi trộn cùng bột khoai lang và tinh bột, đun nhỏ lửa cho đến khi hỗn hợp sánh lại. Sau đó, họ đổ vào khuôn, để nguội trong tủ lạnh cho đông.

Món này có thể ăn theo hai cách: chan nước đường đỏ hoặc mật ong làm món ngọt giải nhiệt, hoặc trộn với rau thơm và sa tế để làm gỏi.

Uông Tễ thấy cách làm khá hay. Theo thói quen, anh định chia sẻ video. Nhưng ngay khi ngón tay sắp nhấn nút chia sẻ cho Phù Tô trên WeChat, anh lại dừng lại.

Vừa vặn lúc này, Phù Tô tắm xong đẩy cửa bước ra, trên người còn vương mùi hương dịu mát và chút hơi nước. Hắn ngồi xuống sofa, tóc chưa khô hẳn, những giọt nước lăn xuống theo động tác làm ướt áo Uông Tễ.

“Phòng tắm còn hơi nóng, cậu chờ chút nữa rồi vào tắm.”

“Được.” Uông Tễ đáp, rồi đưa điện thoại trong tay cho hắn. “Xem thử cái này. Vừa nãy tôi định chia sẻ cho anh, nhưng nghĩ thôi, đưa anh xem luôn cho tiện.”

Phù Tô không dùng nhiều ứng dụng giải trí, đôi khi Uông Tễ trước khi đi ngủ sẽ chia sẻ cho hắn vài video thú vị hoặc tin tức mới. Hắn thường lưu lại để khi nào tải app rồi mới xem và phản hồi.

“Gì vậy?” Phù Tô hỏi, tay vừa nhận điện thoại thì khẽ chạm vào tay Uông Tễ, vẫn còn hơi lạnh.

“Đậu hũ đậu phộng,” Uông Tễ vừa trả lời vừa xoa nhẹ mấy giọt nước đọng trên ngón tay mình. “Hôm trước thím Uông nói đậu phộng trong vườn chín rồi. Mai tôi ra hái một ít đậu tươi về làm thử xem sao.”

Phù Tô cúi đầu xem video, trong khi đó Uông Tễ đứng dậy vào phòng lấy quần áo chuẩn bị đi tắm. Anh vừa đi vừa nói: “Xem xong thì giúp tôi cắm sạc. Điện thoại sắp hết pin rồi.”

Phòng tắm vẫn còn đọng hơi nước, mùi sữa tắm dịu nhẹ thoảng trong không khí. Uông Tễ không quá chú trọng đến các sản phẩm chăm sóc cá nhân, nên hiện tại trong nhà đang dùng loại sữa tắm và dầu gội mua ngẫu nhiên ở siêu thị. Dù mùi thơm không quá nổi bật nhưng cũng dễ chịu.

Anh cầm lọ sữa tắm mà Phù Tô hay dùng, bóp ra tay tạo bọt. Hương thơm này khá quen thuộc, nhàn nhạt, thanh mát. Sau khi tắm xong, dù mùi hương đã dịu đi, nhưng mỗi lần cử động, hương thơm vẫn thoảng qua chóp mũi, khiến lòng anh thoải mái hơn hẳn.

Ra khỏi phòng tắm, Uông Tễ bước vào phòng khách. Phù Tô vẫn ngồi trên sofa, TV đang chiếu một bộ phim, nhưng hình ảnh đang bị tạm dừng ở đoạn mở đầu.

“Xem sao rồi? Thấy thế nào?” Uông Tễ hỏi, vừa bước tới vừa ngồi xuống sofa.

Phù Tô đáp: “Tôi tùy tiện mở thôi, chưa xem gì cả. Giờ xem luôn được không?”

Uông Tễ cười: “Tôi đâu hỏi phim. Tôi hỏi món đậu hũ á.”

“Mai làm thử hả?”

“Ừ, anh ăn ngọt hay mặn?”

“Ngọt đi.”

“Được, vậy làm ngọt.”

“Máy xát vỏ lâu rồi chưa dùng, mai tôi lấy ra rửa trước.”

“À, còn khuôn nữa, làm không có khuôn thì đậu hũ không được bóng đẹp đâu.”

“Tôi nhớ còn cái khuôn làm bánh kem, nhìn giống giống trong video đó, xài được không?”

“Được.”

Phim bắt đầu chiếu, Phù Tô tắt đèn lớn trong phòng khách, chỉ để lại đèn ngủ nhỏ bên sofa.

Hắn chọn một bộ phim tình cảm cổ điển của nước ngoài. Nam nữ chính nói những lời dịu dàng và trầm ấm, phù hợp với không khí buổi tối. Uông Tễ ôm gối, cuộn người trên sofa, xem phim chưa được một nửa thì mắt đã nhắm lại.

Phù Tô nhìn anh rồi khẽ hỏi: “Mệt lắm hả?”

“Không có,” Uông Tễ nhắm mắt trả lời, giọng đầy thư thái. “Nhắm mắt vậy mà thoải mái ghê.”

Ánh đèn dịu nhẹ, sofa mềm mại, nhiệt độ và độ ẩm trong phòng được điều chỉnh vừa phải bởi hệ thống điều hòa. Tiếng đối thoại bằng tiếng Anh từ bộ phim vang lên cùng với tiếng ve rả rích ngoài cửa sổ, tất cả hòa quyện lại, tạo nên không khí khiến người ta muốn thả lỏng, để mặc bản thân chìm vào cảm giác lười biếng, dễ chịu.

Hai người ngồi đó, một người chăm chú xem phim, một người chỉ nhắm mắt nghe tiếng động. Được một lúc, Uông Tễ thấy ngồi lâu không thoải mái, liền đặt gối ôm xuống rồi nằm hẳn ra sofa.

Sofa lớn đủ để anh nằm thoải mái, nhưng không đến mức quá rộng. Góc chiếc gối ôm chạm nhẹ vào chân Phù Tô.

Rất tự nhiên, Uông Tễ có thể cảm nhận được tiếng thở của Phù Tô dù anh nhắm mắt. Nhịp thở đều đặn, nhẹ nhàng mang đến cảm giác yên bình, như một sự hiện diện kiên định làm người ta an tâm.

Bộ phim không dài. Khi đến đoạn kết, tiếng nhạc cuối phim vang lên, Phù Tô vỗ nhẹ vai Uông Tễ. Cú vỗ đó không mạnh, nhưng đủ để anh mở mắt, không cần dùng sức.

“Một bộ phim buồn ha.” Uông Tễ lên tiếng, giọng lơ mơ.

Kết phim, cặp đôi chính vẫn không thể đến với nhau, chỉ còn lại sự luyến tiếc và bỏ lỡ.

Phù Tô cúi đầu nhìn anh, ánh sáng từ màn hình TV đang phát những dòng credit chiếu lên khuôn mặt cả hai, lúc sáng lúc tối.

“Không ngủ hả?” Phù Tô hỏi.

“Không có, nhắm mắt vậy thoải mái mà. Tôi vẫn nghe hết mấy đoạn thoại,” Uông Tễ dụi mắt, nói xong lại cười, “Nhưng giờ thì bắt đầu mệt thiệt.”

Phù Tô thở dài, giọng trách nhẹ: “Đừng có chà xát mạnh vậy. Cái tật gì kỳ, cứ tự mình làm đau.”

Uông Tễ buông tay, cười bất lực: “Nói vậy nghe giống tôi đang chơi xấu. Tôi tự làm gì mình thì cũng được chứ nhể.”

Anh vừa nói vừa ngáp, mắt hơi ướt, như còn đọng chút nước mắt sinh lý.

Phù Tô đứng dậy, cúi người tắt TV. Động tác khiến áo ngủ của hắn cọ rối cả tóc Uông Tễ. “Đi ngủ đi, cũng trễ rồi.”

Uông Tễ ngồi dậy, nằm lâu nên hơi choáng, phải mất vài giây mới đứng vững. Anh đưa mũi chân tìm đôi dép lê trên sàn, Phù Tô cúi người nhặt giúp rồi đặt ngay dưới chân anh.

“Cảm ơn.” Uông Tễ mỉm cười, xỏ dép vào.

Hai người cùng đi về phía phòng ngủ. Uông Tễ đi trước, Phù Tô đi sau, tiện rút dây sạc và cầm điện thoại của anh.

Phòng ngủ của hai người đối diện nhau. Đến giữa hành lang, Uông Tễ quay lại, định chúc Phù Tô ngủ ngon.

Phù Tô đưa điện thoại cho anh, rồi hỏi: “Giờ còn thấy không quen không? Buổi tối có ngủ được không?”

“Hả?” Uông Tễ hơi ngạc nhiên, nhưng rồi bật cười. “Anh còn nhớ chuyện đó à? Tôi quên lâu rồi.”

Phù Tô đáp: “Quên được thì tốt. Dần dần sẽ quen thôi.”

“Quen gì cơ?” Uông Tễ ngơ ngác.

Phù Tô nhìn anh, giọng bình thản: “Mùa hè còn dài. Ngủ cùng nhau đâu phải chỉ một đêm.”

Câu nói quá tự nhiên, khiến Uông Tễ dù muốn hỏi thêm nhưng cuối cùng chỉ im lặng. Sau vài giây suy nghĩ, anh đáp một câu ngắn: “Ngủ ngon.”

Vậy là Uông Tễ cứ thế ở lại nhà Phù Tô.

Buổi sáng, cả hai dậy sớm. Nếu trời đẹp, họ sẽ chạy bộ vài vòng ngoài trời. Sáng sớm trong núi, không khí mát mẻ, trong lành, dễ chịu vô cùng.

Nếu trời không tốt, hai người sẽ vào phòng gym. Họ thay phiên nhau dùng máy chạy bộ và giá tập. Uông Tễ tự lên kế hoạch tập luyện khá nghiêm túc. Nhưng đôi khi, đến cuối buổi anh lại muốn lười biếng, nhất là những phút cuối trên máy chạy. Lúc ấy, Phù Tô sẽ nắm tay kéo anh chạy nốt, vì hắn biết nếu bỏ ngang, Uông Tễ sẽ tiếc hùi hụi.

Sau khi hoàn thành, Uông Tễ bước ra khỏi phòng tắm với dáng vẻ sảng khoái. Lông mày anh nhướn lên, trông phấn chấn hơn hẳn.

Về các bữa ăn trong ngày, Uông Tễ phụ trách nấu bữa trưa và tối. Phù Tô thường chỉ hỗ trợ, còn bữa sáng thì hai người cùng làm. Đôi khi là sữa, yến mạch, sandwich, có hôm lại là cháo và trứng. Thỉnh thoảng Phù Tô sẽ tự tay nướng bánh mì. Khi ấy Uông Tễ sẽ đứng canh lò, chăm chú nhìn bánh nở đều. Chờ bánh nguội, anh cắt thành từng lát, còn Phù Tô thì chụp lại một bức hình.

Tủ lạnh hết sạch mứt dâu tây, Uông Tễ đề xuất thử làm một món khác. Thế là hai người rủ nhau lên núi hái đào. Cả buổi trưa sau đó, họ ở trong bếp nấu một nồi mứt đào chua ngọt. Hương thơm ngọt ngào, đậm đà lan tỏa khắp căn nhà, đến mức sau khi tắm xong, mùi mứt vẫn còn phảng phất trên người cả hai.

Nhịp sống của họ kỳ thực không thay đổi nhiều so với trước đây. Cách sống chung vẫn như cũ, dù ở cùng nhau, họ không phải lúc nào cũng trò chuyện.

Thường thì một người ở sân phơi, một người ngồi phòng khách. Một người cầm tách trà đọc sách, lướt điện thoại hoặc chỉ nhìn ra cửa sổ để tâm trí trống rỗng. Đôi khi, Uông Tễ bỗng ngẩng đầu nhìn ra ngoài, động tác đột ngột khiến Phù Tô hiểu ngay: chắc lại là hệ thống tưới phun sương trong vườn bị bật sai giờ.

Uông Tễ đã dọn hết đồ nghề làm vườn đến nhà Phù Tô. Khi anh xắn quần áo, tay cầm cuốc và giỏ tre ra vườn làm đất, Phù Tô thường đi theo. Trên mảnh đất ấy, dấu chân hai người đan xen. Phù Tô chẳng ngại đất bẩn, chỉ dừng lại bên bờ ruộng, rồi ngồi xuống nhìn núi non xa xa, ngắm nhà đối diện, hoặc lặng lẽ xem con bướm nào đó đậu lên tay mình.

Khi Uông Tễ tưới xong luống rau, anh gỡ giỏ tre đầy ắp nông sản. Thường anh tiện tay đưa cho Phù Tô một quả dưa leo vừa hái, còn tươi nguyên. Phù Tô không thèm rửa, chỉ lau qua trên áo rồi cắn một nửa. Hai người vừa nhai vừa đi vào nhà, lúc ấy bầu trời thường phủ đầy ráng chiều.

Điểm khác biệt duy nhất là buổi tối. Trước đây, dù ở chơi cả ngày, Uông Tễ vẫn phải về nhà trước khi ngủ. Giờ thì anh ở lại hẳn, buổi tối không cần vội vã chia tay. Ban đầu họ còn cùng nhau chơi game hoặc xem phim. Nhưng khi game đã qua hết màn, phim cũng xem đến đoạn nhàm chán, cả hai lại chọn cách làm gì đó riêng.

Tắm rửa xong, Uông Tễ ôm điện thoại, thẳng thừng tuyên bố: “Tối nay tôi muốn nghiêm túc chơi điện thoại, đừng làm phiền tôi.”

Phù Tô chẳng thèm tranh cãi, nhướng mày, rồi lấy cuốn sách đang đọc dở trên đầu giường: “Tôi cũng toàn tâm toàn ý đọc sách. Đừng phiền tôi luôn.”

Thế là cả hai mỗi người chiếm một nửa sofa, chẳng ai nói gì. Nhưng chỉ một lát, Uông Tễ đã ngọ nguậy, cúi người qua hỏi: “Nhìn cái này nè, chè băng Trường Lạc…”

Phù Tô đặt sách xuống: “Nhìn ngọt ghê. Có cả nho khô nữa.”

“Không thích nho khô thì bỏ ra. Tự làm thì ngọt vừa, không gắt. Để tôi coi công thức… bột gạo nếp, khoai dẻo… Anh nhìn thử xem.”

“Ủa, không phải cậu kêu tôi đừng làm phiền cậu à?”

“Anh cũng bảo tôi đừng làm phiền anh mà?”

“Nhưng là cậu mở lời trước.”

“Ủa, tôi nói thì anh phải trả lời hả? Nói đọc sách, mà sách gì chưa đọc đã khép lại rồi? Đây mà gọi toàn tâm toàn ý à?”



Cuộc sống ở núi sâu có những lúc ấm áp như vậy. Phù Tô sắm hẳn một bộ dụng cụ rửa ảnh, tuy không bằng thiết bị phòng tối chuyên nghiệp nhưng cũng đủ dùng. Hai người dành ngày Chủ nhật để rửa những bức ảnh đã chụp trong tuần, từng bức một chuyền qua tay nhau. Cứ thế, không chỉ là ảnh chụp, mà cả những khoảnh khắc yên bình cũng được lưu giữ, in dấu trong ký ức.

Rồi một hôm trời mưa, Amanda gọi đến.

Buổi sáng trời vẫn còn nắng rực rỡ. Nhưng đến trưa bầu trời dần xám xịt, chiều xuống thì mưa lớn trong núi.

Trời mưa nên cả hai ở nhà, cùng nhau nghe tiếng mưa rơi và xem một bộ phim tình cảm có chút yếu tố ẩm thực. Bộ phim được quay vào mùa đông, các nhân vật thường mặc áo khoác tối màu, phối cùng mũ len hoặc beret. Giữa khung cảnh lạnh lẽo ngoài trời, xem phim lại cảm thấy ấm áp. Điều khiến họ thích nhất chính là cảnh quay chiếc bánh Tiramisu.

Xem xong, Uông Tễ mở điện thoại, biểu cảm trên mặt chuyển từ háo hức sang thất vọng, nhíu mày nhìn màn hình. Phù Tô không hỏi gì, chỉ đứng dậy vào phòng mặc áo khoác mỏng.

“Lạnh vậy hả?” Uông Tễ hỏi khi thấy Phù Tô trở ra.

“Bên ngoài lạnh mà.” Phù Tô đáp.

“Bên ngoài?”

Uông Tễ vẫn chưa hiểu gì. Phù Tô tiến đến, lắc nhẹ chùm chìa khóa xe trong tay.

“Làm… làm gì?” Uông Tễ ngồi trên sofa, mở to mắt nhìn, như đã mơ hồ đoán được điều gì, nhưng lại không dám tin.

Phù Tô cúi đầu, nụ cười khẽ thoáng hiện trên môi. Hắn đột ngột xoay người, bước nhanh ra cửa cầu thang: “Hai phút. Không đuổi kịp thì khỏi đi chung.”

Chân hắn dài, chỉ vài bước đã gần như khuất bóng.

“Hả?” Uông Tễ chợt hiểu, vội vàng bật dậy khỏi sofa. Anh vừa cười vừa chạy vào phòng ngủ, nhanh chóng thay đồ ngủ và quần ngủ: “Chờ chút, đợi tôi với!”

Tiếng cười trong trẻo của Phù Tô vang vọng, hòa vào âm thanh tí tách của mưa rơi ngoài cửa sổ.

Khi Uông Tễ chỉnh tề chạy xuống, tay vẫn cầm điện thoại, Phù Tô đã cầm dù đứng chờ trong sân.

Hoa hồng leo dọc bờ tường nở rộ, từng cánh hoa bung nở như thác nước, dưới mưa rơi lả tả, cánh rụng đầy mặt đất.

Uông Tễ lao thẳng vào cơn mưa. Trước khi nước mưa kịp táp vào mặt, Phù Tô đã nghiêng dù che lấy anh.

Thở hổn hển vì vội vã, Uông Tễ ngẩng đầu, ánh mắt sáng ngời, thậm chí còn rực rỡ hơn cả đóa hồng: “Dám nói không mang tôi theo hả?”

Ngón tay Phù Tô nhẹ bấm khóa xe, đèn xe nhấp nháy giữa màn mưa. Trong cơn mưa xối xả, hắn khẽ cười, giọng trầm ấm: “Đưa cậu theo.”

Trời mưa, đường núi quanh co chìm trong sương mù dày đặc. Không bóng dáng xe nào khác, chỉ có hai người họ trên con đường vắng.

Uông Tễ không giấu nổi sự phấn khích, hỏi: “Sao anh đoán được vậy?”

Gạt nước quét qua kính, Phù Tô chăm chú nhìn phía trước. Nét nghiêng tuấn lãng của hắn như hòa vào những dãy núi mờ xa: “Xem phim xong cậu đã muốn ăn. Phim còn chưa chiếu hết đã mở điện thoại tra cứu, chắc là đang lục tìm công thức đúng không? Nhưng khi phát hiện nhà không có nguyên liệu như bánh quy ngón tay với phô mai Mascarpone, cậu im re, mặt còn nhăn lại.”

Uông Tễ bật cười, vô thức chạm tay lên giữa chân mày: “Thiệt hả? Tôi nhíu mày lại luôn hả? Chính tôi còn không để ý luôn.”

Phù Tô gật nhẹ: “Nhíu chặt lắm, nhìn như ai chọc cậu giận vậy á. Cảm giác như tối nay không ăn được thì chắc không ngủ được đâu.”

“Khoa trương quá đi.” Uông Tễ trách nhẹ, áp đầu vào cửa kính xe. Bên ngoài, mưa chảy thành dòng, vẽ nên những đường lượn mảnh trên lớp kính, đôi lúc còn bắn lên vài bọt nước li ti.

Phù Tô có khoa trương hay không, hắn không biết. Nhưng điều chắc chắn là, hắn luôn sẵn sàng chiều theo những mong muốn bất chợt của Uông Tễ. Dù trời mưa tầm tã hay đường sá khó khăn, hắn vẫn bằng mọi cách khiến Uông Tễ cảm thấy rằng những ý nghĩ tùy hứng của mình cũng xứng đáng được trân trọng.

Ngoài xe, bầu trời bị mây đen che kín, đôi khi tiếng sấm vang vọng từ chân trời. Mưa trút xuống xối xả, vạn vật như hòa tan vào thiên địa cuồng phong. Nhưng giữa khung cảnh ấy, hai người họ cứ thế tiến bước, tự do mà an yên. Chặng đường chưa rõ đích đến, nhưng họ biết mình sẽ cùng nhau quay về.

Họ dạo quanh khắp các siêu thị trong thị trấn để tìm đủ nguyên liệu làm bánh Tiramisu. Khi về đến nhà, trời đã xế chiều. Dù có xe và ô, cả hai vẫn bị mưa làm ướt đôi chút. Về nhà, việc đầu tiên là thay phiên nhau tắm nước ấm, để cơn lạnh theo nước mưa trôi đi.

Phù Tô tắm xong trước, đi thẳng vào bếp chuẩn bị làm Tiramisu. Hắn cho lòng trắng trứng và đường vào tô, rồi dùng máy đánh trứng khuấy bông lên như sương.

Khi Uông Tễ bước ra từ phòng tắm, hơi nước còn bám trên tóc, anh đi đến cửa sổ đang mở, gió lạnh luồn qua từng đợt. Tay anh cầm khăn, vừa lau tóc vừa tận hưởng cơn gió mát rượi.

Cả hai đã mở hết tất cả các cửa sổ trong nhà. Mùa hè mang theo mưa bụi, cơn gió thổi qua khiến không khí trong lành và dễ chịu hơn hẳn so với cái mát đều đều của điều hòa.

Gió lay động rèm cửa, thoảng qua mấy giọt mưa nhỏ rơi xuống, lấm tấm trên người Uông Tễ.

Điện thoại bất ngờ đổ chuông, hiển thị tên Amanda. Uông Tễ thoáng ngạc nhiên, nhưng vẫn bắt máy. Anh đặt điện thoại chế độ loa ngoài, tay vẫn cầm khăn lau tóc: “Amanda?”

Đầu dây bên kia, Amanda bật cười: “Không làm đồng nghiệp nữa rồi, đừng gọi kiểu khách sáo đó, cứ gọi tên tôi đi.”

Uông Tễ im lặng vài giây, lòng ngập ngừng. Từ ngày mới vào công ty, anh đã quen gọi cô là Amanda theo cách mọi người vẫn gọi, giờ đột nhiên lại không nhớ được tên thật của cô.

Biết ý, Amanda cười nói: “Sao? Bộ cậu không nhớ tên tôi là gì luôn hả?”

Uông Tễ định xin lỗi, nhưng cô đã tiếp lời: “Lâm Khoác Vân, tôi tên Lâm Khoác Vân.”

Cái tên ấy gợi nhớ chút gì đó vừa thanh thoát vừa mộc mạc. Uông Tễ khẽ cười: “Tên này hợp với chị ghê.”

Amanda cũng cười theo.

“Dạo này cậu sống ổn không?” Cô hỏi.

“Ổn lắm, cảm ơn chị đã quan tâm.” Uông Tễ đáp.

Amanda thoáng dừng lại, rồi trêu: “Tôi đâu còn là lãnh đạo của cậu nữa.”

“Lãnh đạo cũ thì vẫn là lãnh đạo chứ gì nữa. Dù nghỉ hay chưa nghỉ, tôi vẫn luôn biết ơn.” Uông Tễ cười nói, pha chút đùa cợt. Nhưng lòng anh thật sự cảm kích Amanda. Suốt mấy năm ở P7, cô luôn chân thành mong anh sớm thăng chức lên P8, tận tình chỉ dạy đủ điều. Dù nhiều lúc Uông Tễ không thật sự muốn đi theo con đường đó, nhưng anh vẫn ghi nhớ những gì cô làm.

Im lặng một lát, Amanda lên tiếng: “Tôi có đứa bạn học, dạo này cậu ta tự phát triển phần mềm, mà bên dưới lại không có người làm kỹ thuật giỏi. Sắp đưa lên hệ thống rồi, vừa phải sửa lỗi, vừa phải thêm tính năng theo yêu cầu khách hàng. Thời gian thì gấp, công việc thì nhiều, cậu ta kẹt quá mới nhờ tôi tìm giúp người đáng tin. Tôi nghĩ tới nghĩ lui, quanh mình chỉ có cậu là hợp.”

Uông Tễ định từ chối, nhưng vừa mở miệng đã nghe thấy một tiếng thở dài từ đầu dây bên kia. Suốt 10 năm làm việc chung, đây là lần đầu tiên Amanda nhờ anh chuyện gì ngoài công việc.

Do dự một lúc, anh nói: “Chưa bao giờ nghe chị nói chuyện kiểu dò hỏi thế này, tôi nghe mà chột dạ luôn á. Thôi được rồi, gửi tôi thông tin liên hệ của bạn chị đi. Xem như để người đó thiếu chị một món nợ tình cảm.”

Amanda bật cười: “Được rồi, để tôi gửi qua WeChat cho cậu.”

Trước khi cúp máy, Uông Tễ gọi: “Amanda?”

“Sao nữa? Đã nói đừng gọi tôi kiểu đó mà.”

Uông Tễ nói: “Chị đi thẳng vào tòa nhà phía trước, rồi quẹo phải. Ở đó có một máy bán hàng tự động, trong đó có kẹo cao su.”

Amanda hơi ngừng lại, giọng nghi hoặc: “… Sao cậu biết tôi đang ở đâu?”

“Tôi vừa nghe tiếng bật lửa. Tầng của tụi mình chỉ có một khu được phép hút thuốc thôi.” Uông Tễ đáp tỉnh bơ. Anh biết chắc Amanda không ở nhà, dù hiện tại là chiều thứ Bảy. Với tính cách của cô, giờ này chỉ có thể ở công ty.

Amanda thường ăn kẹo cao su để giảm bực bội, mà khi hết kẹo, cô sẽ ra khu hút thuốc. Thói quen này, Uông Tễ đã nhận ra từ lâu. Anh vốn là người rất tinh tế, để ý cả những chi tiết nhỏ nhặt ở cấp trên lẫn cấp dưới, và luôn ghi nhớ một cách chu đáo.

“Uông Tễ,” sau một lúc lâu, Amanda chậm rãi nói, “Cậu đúng là người phiền phức.”

“Vậy hả?” Uông Tễ không mấy bận tâm, cười nhẹ. “Lãnh đạo à, bớt nhút thuốc lại đi. Đừng hơn thua với công việc nhiều quá, giữ sức khỏe vẫn là quan trọng nhất.”

Amanda cúp máy.

Trong bếp, Phù Tô đang nhúng từng miếng bánh quy ladyfinger vào hỗn hợp cà phê và rượu Rum.

Uông Tễ hong khô tóc xong, bước đến cạnh bếp, vừa nhìn vừa hỏi: “Xong chưa? Tôi chưa kịp coi quá trình nữa.”

Phù Tô cúi đầu, tay xếp bánh quy vào khuôn, đáp hờ hững: “Cậu nấu cháo điện thoại đến quên cả trời đất.”

Uông Tễ phì cười trước cách nói của hắn: “Ai nấu cháo điện thoại? Tôi vừa làm việc lớn đó, kiếm được khối tiền, đủ đóng tiền nhà cho anh luôn.”

Phù Tô liếc xéo anh: “Tôi đâu có nhờ?”

Uông Tễ bật cười, chẳng nói thêm. Anh chỉ cố tình trêu vậy thôi, dù trong lòng hiểu rõ số tiền kiếm được chẳng thấm vào đâu so với chi phí duy trì hệ thống ba hằng số của nhà Phù Tô.

Ladyfinger còn dư khá nhiều. Uông Tễ rút một miếng từ trong túi bánh quy ra ăn. Hai người tối nay vẫn chưa ăn cơm, bụng đã đói từ lâu.

Phù Tô vừa phết lớp kem phô mai ngọt mịn lên bánh, tay dính bột không tiện cử động. Thấy thế, Uông Tễ tiện tay cầm một miếng bánh quy, đưa sát đến miệng hắn.

Phù Tô thoáng sững sờ, theo bản năng nghiêng đầu né. Nhưng chỉ vài giây sau, hắn cúi xuống, ngoạm một miếng.

Uông Tễ vỗ nhẹ tay, gạt đi vụn bánh còn dính: “Muốn ăn gì tối nay, để tôi nấu.”

Phù Tô nhai bánh, thong thả đáp: “Gì cũng được.”

Tiramisu vừa làm xong phải để vào tủ lạnh cho đông lại, nên hôm nay không ăn được. Đã hơn 8 giờ, ăn no quá cũng không tốt, nên Uông Tễ chỉ nấu đơn giản một dĩa rau dền xào và hai tô mì nước cà chua chua ngọt.

Sau bữa tối, Uông Tễ nhận được tin nhắn từ bạn học của Amanda qua WeChat. Anh cầm laptop từ phòng ngủ ra, ngồi vào đảo bếp. Quay qua Phù Tô, anh nói: “Chắc tối nay tôi phải thức khuya rồi. Anh mệt thì ngủ trước đi, chạy xe suốt buổi chiều cũng hao sức lắm.”

Vừa nói, anh vừa đeo kính lên, mở tài liệu đối phương gửi để xem qua. Mắt lướt nhanh, đầu óc phân tích, tai vẫn lắng nghe giọng Phù Tô: “Ừ, nhưng đừng thức quá khuya đó.”

“Biết rồi, anh ngủ đi.”

Xem sơ qua vài lần tài liệu và yêu cầu từ đối phương, Uông Tễ cảm thấy đã nắm rõ phần nào. Anh nhắn tin trả lời: [Tôi sẽ gửi cho anh trước rạng sáng mai.]

Đối phương phản hồi rất nhanh: [Người anh em ơi, không cần gấp vậy đâu. Phần này phức tạp lắm, lập trình viên tụi tôi ai cũng đang căng như dây đàn. Hai ngày nữa gửi cũng được, đừng thức đêm làm chi ông ơi.]

Uông Tễ chưa kịp hồi phục, nhưng anh đang rất vội.

Hôm nay trời đổ mưa lớn, mà ngày mai lại là chủ nhật. Buổi sáng anh dự định ra vườn gia cố mương thoát nước, buổi chiều thì cùng Phù Tô rửa ảnh chụp. Thời gian không còn dư dả để lo chuyện khác.

Anh đồng ý nhận công việc này là vì muốn trả ân tình ngày trước của Amanda. Cô ấy từng giúp anh lúc khó khăn, giờ anh cũng muốn đáp lại. Nhưng anh vẫn phân định rất rõ ràng: công việc này chỉ là tạm thời, không thể để nó làm xáo trộn cuộc sống hiện tại.

Nếu đêm nay không hoàn thành, thì ngày mai hoặc phải hy sinh buổi sáng làm vườn, hoặc chậm trễ buổi chiều với Phù Tô. Nhưng cả hai việc đó anh đều không muốn. So với những điều này, anh thà hy sinh thời gian ngủ của mình.

Đêm khuya tĩnh mịch, từng dòng số liệu hiện lên trên màn hình. Uông Tễ chăm chú nhìn, đôi mắt bắt đầu hơi mỏi. Anh liếc xuống góc phải màn hình máy tính, đã là 3 giờ sáng.

Cảnh tượng này làm anh nhớ về những ngày tăng ca trước đây, nhưng giờ không còn là văn phòng với những ô kính sáng loáng, cũng không phải những tòa cao ốc ngoài cửa sổ. Trước mắt anh bây giờ là gian bếp nhà Phù Tô, còn bên ngoài là núi rừng bao quanh, yên tĩnh và quen thuộc.

Tiếng then cửa nhẹ vang lên phá vỡ sự yên ắng. Uông Tễ quay lại, thấy Phù Tô trong bộ đồ ngủ bước ra từ phòng.

Anh khẽ hỏi: “Lại tỉnh rồi hả?”

Phù Tô thường hay tỉnh giấc giữa đêm, mà Uông Tễ thì ngủ không sâu. Nhiều lúc, chỉ cần Phù Tô thức dậy để uống nước, anh cũng sẽ theo đó mà dậy. Hai người sẽ ngồi ở quầy bếp hoặc trên sofa trò chuyện một lát, chờ buồn ngủ rồi lại quay về phòng.

Phù Tô gật đầu, giọng khàn khàn của người mới tỉnh: “Còn chưa xong à?”

“Sắp rồi.” Uông Tễ đáp.

Cả tầng hai chỉ có một chiếc đèn ngủ ở quầy bếp hắt ánh sáng dịu nhẹ. Phù Tô kéo đôi dép lê bước tới, rót nước cho mình rồi tiện tay rót thêm một ly cho Uông Tễ, đặt trước mặt anh.

Phù Tô ngồi xuống bên quầy bếp, ánh sáng từ trên trần hắt xuống đầu hắn, nhuốm một vẻ dịu dàng. Hắn nói: “Cậu cứ làm việc đi, tôi ngồi đây một lát.”

Uông Tễ tiếp tục công việc, đôi mắt chăm chú vào những dòng số liệu nhảy liên tục trên màn hình.

Lần đầu tiên nhìn thấy Uông Tễ làm việc, Phù Tô không khỏi ngạc nhiên. Anh ấy trông rất khác so với thường ngày. Đúng là phần lớn mọi người khi làm việc và khi sinh hoạt đều sẽ có đôi chút khác biệt, nhưng ở Uông Tễ, sự khác biệt ấy thật rõ ràng.

Anh đeo kính, tập trung vào những con số trước mặt. Đây là kết quả của bao nỗ lực anh từng bỏ ra, là điều anh luôn nắm chặt trong tay. Uông Tễ từng có một vị trí rất cao trong ngành của mình, và từng đeo những chiếc thẻ danh thiếp mà nhiều người mơ ước. Giờ đây, anh lại ngồi đây, thong dong và chuyên chú, với một vẻ nghiêm túc đầy sức hút. Một sức hút không phô trương, chỉ dành cho những ai chịu khó quan sát kỹ càng.

Đến 4 giờ sáng, Uông Tễ kiểm tra số liệu lần cuối, rồi gửi đi cho đội bên kia để ngày mai họ thử nghiệm.

“Cuối cùng cũng xong.” Anh duỗi người, mắt đau nhức sau cả đêm nhìn màn hình. Anh tháo kính xuống, định đưa tay xoa mắt.

“Đừng lấy tay chạm vào.” Phù Tô nói, rồi đứng dậy đi vào phòng tắm. Lát sau, hắn quay ra với một chiếc khăn lông thấm nước ấm.

Hắn nhẹ nhàng áp khăn lên trán Uông Tễ: “Đắp một chút đi.”

Hơi ấm từ khăn khiến đôi mắt mỏi mệt của Uông Tễ dễ chịu hơn. Anh khẽ thở ra một tiếng thoải mái.

“Xong rồi thì đi ngủ đi.” Phù Tô bảo.

Uông Tễ lắc đầu, vẫn giữ chiếc khăn: “Cũng qua luôn rồi. Mai dậy bù giấc sau.”

Phù Tô im lặng một lúc, rồi nói: “Đừng vì tiền thuê nhà mà nhận mấy việc thức khuya thế này nữa.”

Uông Tễ bật cười, mắt vẫn nhắm: “Không nhận nữa đâu. Thật ra tôi cũng không định nhận, nhưng người giao việc là sếp cũ. Cô ấy là người tốt, giúp được thì tôi muốn giúp thôi.”

Phù Tô không nói gì thêm.

Chiếc khăn dần nguội đi, Uông Tễ lấy xuống, đôi mắt vì chườm nóng mà ướt mượt, khóe mắt còn hơi đỏ. Anh ngẩng lên, vừa chạm mắt Phù Tô đã vội nghiêng đầu né tránh. Anh gấp chiếc khăn lại, cầm lên tay xoa xoa rồi nói: “Đói quá.”

Phù Tô gật đầu: “Dùng não nhiều thì đói nhanh.”

Uông Tễ cười, rồi hỏi: “Tiramisu còn không?”

“Tôi biết ngay là cậu sẽ không ngủ yên nếu chưa ăn mà.” Phù Tô đứng dậy, mở tủ lạnh lấy món tiramisu đã ướp lạnh suốt tám tiếng. Hắn rắc thêm một lớp bột cacao lên trên, rồi đặt hai cái muỗng vào khay, đem ra bàn.

Ánh đèn dịu nhẹ hắt lên chiếc tiramisu, làm nổi bật lớp bề mặt mịn màng. Uông Tễ múc một muỗng đưa lên miệng, cảm nhận vị ẩm mịn hòa quyện của pho mát ngọt ngào và hương rượu rum đậm đà.

Anh ngước lên nhìn Phù Tô, đúng lúc hắn cũng nhìn anh.

Hai người đều định nói gì đó nhưng lại thôi, chờ đối phương mở lời trước. Chỉ có tiếng chó sủa vang lên từ sân sau.

“Chó con giờ này mới về hả?” Uông Tễ ngạc nhiên.

Đêm nay sự việc quá nhiều, cả hai người đều mệt mỏi mà quên mất việc xuống kiểm tra ổ chó dưới lầu.

Phù Tô đặt muỗng xuống, bước ra sân phơi. Uông Tễ lặng lẽ theo sau, vừa đi vừa hỏi: “Chiều nay trời mưa lớn, nó có bị ướt không?”

Từ sân phơi đi xuống, cả hai nhìn thấy chú chó từ khe hở lan can chui vào khu vườn, giờ đã yên vị trong ổ, chỉ còn cái đuôi ngắn ngủn thò ra ngoài.

Phù Tô nghiêng đầu nhìn, thản nhiên nói: “Không đâu. Nếu nó thấy khó chịu cần tắm rửa, chắc chắn sẽ ở cầu thang mà sủa ầm lên. Sủa một tiếng là để báo với tôi rằng nó đã về giờ chuẩn bị đi ngủ.”

Uông Tễ múc thêm một thìa bánh pho mát trong tay, cười nhẹ: “Giờ này mà nó cũng sủa để gọi anh sao?”

“Ừ,” Phù Tô hơi cúi người, chống tay lên lan can, ánh trăng mờ hòa cùng làn gió đêm làm mái tóc lòa xòa trên trán hắn khẽ bay, “Tôi luôn phục vụ nó, bất kể ngày đêm.”

Uông Tễ bật cười: “Anh cưng nó thật. Một mặt yêu chiều, một mặt nuôi thả tự do. Sau này làm cha rồi nuôi con cũng thế à?”

Khoảnh khắc câu nói ấy buột ra, Uông Tễ thoáng khựng lại, chính anh cũng thấy bất ngờ. Anh cụp mắt xuống, không rõ vì sao bản thân lại không tự nhiên đến vậy. Trong cảm giác mơ hồ khó tả, anh chỉ mím môi im lặng, vị cacao đắng nhẹ còn vương nơi đầu lưỡi.

Đèn cảm ứng dưới sân vườn, vốn sáng lên vì động tĩnh của chú chó, giờ đây lại tắt ngấm, trả lại màn đêm yên tĩnh.

Sau một hồi im lặng, Phù Tô nhướng mày, giọng pha chút chế giễu: “Nghe cậu nói vậy, tôi còn chưa từng nghĩ đến chuyện làm cha đâu đấy.”

Cả đêm không ngủ khiến đầu óc Uông Tễ trở nên mơ hồ. Trong bóng tối nhàn nhạt, anh cứ ngỡ Phù Tô đang nhìn mình, nhưng lại không dám chắc. Anh cũng chẳng muốn ngẩng lên để kiểm tra, chỉ cúi đầu thấp hơn, giọng trầm trầm: “Vậy à? Còn tôi thì ngày nào cũng nghĩ.”

Tấm rèm nơi cửa sổ khẽ lay động, gió mang theo mùi đất, bên ngoài dường như mưa lại bắt đầu rơi.

Phù Tô nghiêng đầu nhìn Uông Tễ qua khe hở rèm, ánh sáng nhạt nhoà lướt qua đôi mắt thẫm đượm hơi nước của anh. Hắn khẽ cười, bắt chước ngữ điệu Uông Tễ vừa rồi, hỏi: “Vậy à?”

Sau đó, như thể tò mò thật sự, hắn nghiêng đầu hỏi tiếp: “Còn chưa từng yêu ai, thì lấy gì mà nghĩ nhiều đến thế?”
 
Chương 17: Đêm mưa


Những cơn mưa mùa hè thường bất ngờ và chóng vánh. Chỉ cần một vài giọt mưa rơi xuống lan can, rồi ngay sau đó mưa nặng hạt trút xuống. Giọt nước bắn tung tóe, vài tia nước văng đến trên người hai người họ.

Sau câu nói vừa rồi của Phù Tô, không gian sân phơi bỗng trở nên tĩnh lặng. Hắn quay đầu lại nhìn cơn mưa đang trút xuống, rồi xoay người bước vào trong nhà.

Lúc đi ngang qua Uông Tễ, dù ánh sáng mờ nhạt khiến không thể nhìn rõ thần sắc của đối phương, hắn cũng biết người kia vẫn còn đang ngơ ngẩn.

Ngón tay của Phù Tô khẽ chạm lên lưng Uông Tễ. Qua lớp áo mỏng, hắn dễ dàng cảm nhận được cột sống và cơ bắp đang căng lên bên dưới đầu ngón tay. Hắn vươn tay xoa nhẹ, như thể đang an ủi.

Sau đó, hắn hơi dùng chút lực, dẫn người bước vào phòng khách.

“Vào đi thôi, trời đang mưa,” Phù Tô nói.

Khi cả hai đã bước vào phòng khách, hắn liền buông tay ra.

Uông Tễ vẫn còn trong trạng thái hỗn loạn, những lời đối thoại vừa rồi khiến anh cảm thấy bối rối. Tuy nhiên, sự im lặng kéo dài lại càng làm anh thêm căng thẳng. Trên vai lưng anh, xúc cảm từ bàn tay của Phù Tô và hơi ấm vẫn còn vương lại. Anh không kìm được, liền lục lọi trong đầu, tìm đại một câu để nói.

“Anh… làm sao mà biết?” Uông Tễ thậm chí lắp bắp.

Họ chưa từng chạm tới những câu chuyện liên quan đến phương diện này. Trước khi gặp nhau ở đây, mỗi người đều có quá khứ riêng. Hai người tuy không cố tình né tránh, nhưng cũng hiếm khi hỏi han chuyện cảm xúc của đối phương, càng không nói đến việc đào sâu.

Phù Tô trả lời rất thản nhiên: “Ngày đó buổi tối, vô tình nghe được.”

“Ngày đó?” Uông Tễ ngớ người. “Ngày nào cơ?”

Một hình ảnh lờ mờ hiện ra trong trí nhớ anh: Đêm hôm đó, tại sân nhà Uông Dịch Dương. Sau khi anh bác bỏ lời đề nghị cầu hôn của Uông Dịch Dương, cậu ta đã thẹn quá hóa giận mà buột miệng nói ra điều gì đó…

Nhớ đến đây, Uông Tễ tức giận đến nghiến răng. Nhưng sự tức giận này lại càng khiến tâm trí anh thêm hỗn loạn.

Tại sao anh lại nổi giận? Cậu ta chẳng qua chỉ nói đúng sự thật. Trước giờ, Uông Tễ chưa bao giờ cảm thấy việc bản thân đến tuổi này mà chưa từng yêu đương là vấn đề lớn lao. Nhưng tại sao, chỉ vài câu nói vu vơ của Uông Dịch Dương lại làm anh tức giận?

Anh không hiểu nổi bản thân nữa. Càng cố gắng tìm câu trả lời, tâm trí anh càng rối bời. Anh biết mình đã không rõ ràng lắm với cảm xúc của chính mình, nhưng lại không đủ can đảm để tìm hiểu cho tường tận. Sự hỗn loạn trong tâm trí lúc này, dường như lại khiến anh cảm thấy an toàn hơn. Như thể né tránh sự thật là cách duy nhất để anh giữ lấy chút bình yên mong manh này.

Trở lại căn phòng ấm áp dưới ánh đèn dịu nhẹ, tất cả sự căng thẳng bộc lộ rõ ràng.

Phù Tô chăm chú nhìn anh trong chốc lát, rồi đột nhiên mỉm cười.

Cảm giác áp bức ngắn ngủi trên sân phơi lúc nãy tựa như đã tan biến cùng trận mưa. Giờ đây, hắn lại trở về với vẻ ôn hòa, trầm tĩnh, không còn chút gì mang tính chất công kích.

Uông Tễ ngơ ngác hỏi: “Anh cười gì vậy?”

Phù Tô quay lại với vẻ điềm đạm thường thấy mỗi khi cả hai trò chuyện: “Chẳng phải tôi vô tình nghe được bí mật của cậu sao? Nên cậu giận à?”

Vừa nói xong, hắn đã quay người đi về phía phòng ngủ.

Uông Tễ đi theo sau, khẽ cãi: “Bí mật gì chứ? Chỉ là chuyện chưa từng yêu đương thôi, có gì to tát đâu.”

“Ồ?” Phù Tô nhàn nhạt đáp, tay đút túi quần, không ngoái lại. “Nhưng cậu chưa từng nhắc tới, tôi cứ nghĩ trong lòng cậu đây là một bí mật không tiện chia sẻ với người khác.”

Khi hắn nói xong, cũng vừa bước tới cửa phòng ngủ. Uông Tễ chặn lại, nói nhanh: “Chuyện này đâu có gì ghê gớm, chẳng qua là tôi chưa yêu đương thôi, cũng không phải có vấn đề gì.”

Phù Tô khẽ nhướng mày, ánh mắt dõi từ trên xuống dưới một cách vô thức. Giọng nói nhẹ nhàng nhưng có chút bất đắc dĩ: “Tôi đâu nói cậu có vấn đề.”

“Vậy là gì?” Uông Tễ phản bác, nhưng ngay khi lời vừa dứt, anh nhận ra ánh mắt của Phù Tô đang nhìn mình, vội lấp liếm: “Anh nhìn cái gì vậy? Tôi đã bảo không có vấn đề mà.”

Phù Tô thật sự bị thái độ bối rối của anh làm cho bật cười. Hắn cười xong, dựa người vào khung cửa, khẽ thở dài.

Rồi hắn nhìn Uông Tễ, giọng trở lại trầm ổn: “Cậu mệt rồi, đi ngủ đi.”

Uông Tễ còn muốn nói thêm điều gì đó, nhưng Phù Tô đã đặt tay lên vai anh, nhẹ nhàng xoay người anh lại, đẩy anh về phía phòng khách: “Đèn với máy tính để tôi tắt, bánh Tiramisu tôi cũng sẽ bỏ vào tủ lạnh. Cậu nghỉ ngơi trước đi.”

Uông Tễ vẫn nắm chặt chiếc muỗng trong tay, theo bản năng không buông ra. Phù Tô nhìn thấy, khẽ nhắc: “Thả ra nào.”

Uông Tễ lưỡng lự một lúc rồi buông tay. Phù Tô mở cửa phòng khách, nhẹ đẩy anh vào rồi chốt lại: “Ngủ ngon.”

Uông Tễ xoay lưng lại với Phù Tô, không nhìn thấy ánh mắt hắn dưới ánh đèn mờ, tĩnh lặng như mặt nước.

Đồng hồ đã gần điểm năm giờ sáng, ngoài cửa sổ trời sắp sáng hẳn.

Uông Tễ nằm dài trên giường, đầu óc cứ mãi quẩn quanh như cơn mưa rả rích bên ngoài. Anh tự nhủ rằng vừa rồi ăn Tiramisu, đáng ra phải dậy súc miệng đánh răng lại, nhưng vẫn không động đậy. Tối nay, lý trí của anh chẳng hề hoạt động như mọi khi.

Đầu óc rối bời, anh thậm chí không nhớ rõ mình đã nói những gì. Nhưng anh lại không muốn nghĩ lại, chỉ có một tia lý trí trong anh cảnh báo: Đừng nghĩ tới nữa. Có những chuyện, dù giờ phút này cảm thấy rõ ràng đến đâu, thì cũng không nên động vào. Cứ để mọi thứ trôi qua, ngủ một giấc tỉnh dậy sẽ là một ngày mới, mặt trời vẫn mọc như thường, cuộc sống của anh cũng vậy.

Thật ra, anh chưa từng yêu đương. Một người đàn ông ba mươi tuổi chưa từng có kinh nghiệm tình cảm nghe qua có vẻ không ổn. Đổi lại là ai cũng sẽ tò mò tự hỏi: Rốt cuộc có vấn đề gì?

Nhưng anh biết mình không có vấn đề gì cả. Đã từng, chính anh cũng hoài nghi. Nhưng dù là sinh lý hay tâm lý, mọi thứ đều bình thường. Chỉ đơn giản là anh không muốn.

Thuở thiếu niên, khi những rung động đầu đời vừa chớm, từng có cô gái bày tỏ tình cảm với anh.

Tình yêu thuở ấy trong sáng, đẹp đẽ. Những người bạn cùng trang lứa đều mơ mộng, thầm hiểu lòng nhau nhưng lại dè dặt, e thẹn. Nhưng mỗi tối tự học về nhà, anh lại nhìn thấy dáng ông nội đứng chờ dưới ánh đèn đường. Mười mấy tuổi, trong lòng anh chỉ có một suy nghĩ duy nhất: Phải học thật giỏi. Phải sống thật xứng đáng.

Anh không có thời gian để nghĩ đến những chuyện khác.

Sau này, khi lên đại học rồi ra trường đi làm, mối quan hệ giữa người trưởng thành trở nên càng thêm rõ ràng. Tình cảm dường như chỉ là một loại gia vị, hoặc đôi khi còn là thứ để giải khuây.

Một lần lại một lần, anh khéo léo từ chối tình cảm của người khác, dù kín đáo hay mãnh liệt. Bạn bè bên cạnh đôi khi hỏi anh tại sao.

Hồi ấy, uống vài ly rượu vào, mặt anh đỏ lên, khóe mắt hoe hoe, giọng khàn đi: “Chuyện tình cảm có cần thiết đến vậy không? Cuộc đời thiếu bao nhiêu thứ, đâu phải cứ có thêm tình yêu là đầy đủ?”

Ở độ tuổi này, người ta bỏ ra nhiều thời gian và sức lực để theo đuổi một thứ tình cảm, rốt cuộc là vì gì? Yêu? Bầu bạn? Thỏa mãn? Hay vì tương lai con cái? Những thứ ấy với anh, hoặc quá mơ hồ, hoặc quá nặng nề.

Anh đã chứng kiến quá nhiều chuyện phân ly. Có những người chia tay êm đẹp, nhưng cũng có người trở mặt chẳng nhìn nhau, thậm chí còn sống chết với nhau. Anh không thể đồng cảm, thậm chí còn bản năng mà muốn tránh xa.

Sự bình yên trong tâm hồn là điều anh luôn trân quý. Trong khi phần lớn tình yêu lại là sự ích kỷ, nhạy cảm và ngờ vực.

Anh không mong chờ vào thứ gọi là tình yêu, cũng không hy vọng xa vời về bầu bạn. Với anh, chỉ cần tự thỏa mãn là đủ. Chuyện nối dõi tông đường lại càng không phải là điều quan trọng trong cuộc đời.

Rõ ràng, anh đã nghĩ thông suốt từ lâu. Nhưng lúc này đây, Uông Tễ đưa tay lên che mắt, lòng rối như tơ vò.

Có những chuyện, một khi nghĩ thông rồi thì phải đối mặt. Nhưng anh không muốn, cũng không dám đối mặt.

Từ nhỏ đến lớn, anh luôn ngoan ngoãn, sống đúng khuôn phép. Chấp nhận tất cả những gì cuộc sống trao cho. Việc xin nghỉ việc để trở về quê lần này chính là lần đầu tiên trong 32 năm, anh cho phép bản thân buông thả. Và anh từng tự nhủ với lòng, chỉ lần này thôi.

Khi tỉnh dậy, trời đã sáng hẳn. Đồng hồ chỉ hơn chín giờ sáng, ngoài cửa sổ mưa đã ngừng.

Buổi sáng hôm ấy, Uông Tễ vừa mở mắt, đầu đã hơi nhức, có lẽ vì một đêm chẳng ngủ ngon giấc. Anh ngồi dậy, ấn nhẹ hai bên thái dương để giảm bớt cảm giác đau âm ỉ. Ký ức về buổi tối hôm trước chợt lướt qua trong đầu anh như một thước phim tua nhanh. Tay chạm vào nắm cửa, anh hơi dừng lại, siết chặt một chút như muốn trấn tĩnh bản thân.

Phù Tô không có trong nhà. Uông Tễ lên lầu hai tìm một vòng, nhưng mọi nơi đều trống không.

Sau khi rửa mặt, thay quần áo xong, anh bước ra hoa viên. Cả khu vườn vẫn giữ vẻ tĩnh lặng sau cơn mưa tối qua, không khí mát mẻ, ngập tràn hương thơm cỏ cây. Con chó nhỏ vẫn đang cuộn mình trong ổ ngủ say, đuôi nó ướt nhẹp, rũ xuống chạm đất. Uông Tễ cúi xuống nhặt cái đuôi lên, đặt lại vào ổ để nó không bị lạnh.

Hoa viên sau mưa yên tĩnh lạ thường. Những giọt nước tí tách rơi từ cánh hoa, dây leo và mái hiên xuống nền đất ướt sũng. Uông Tễ ngồi xuống chiếc băng ghế đá, ánh mắt thất thần nhìn những bông dâm bụt sau cơn mưa nay càng rực rỡ hơn.

Cánh cổng gỗ bỗng mở ra. Anh ngẩng đầu, khóe miệng khẽ cong lên, giọng nói tự nhiên như đã quen thuộc từ lâu: “Anh đi đâu sớm vậy?”

Nhưng khi thấy Phù Tô cầm một cái cuốc bước vào, câu nói vừa tập luyện trong đầu bỗng dưng chệch hướng: “Anh làm gì vậy? Đừng nói là đi cuốc đất một mình đó nha?”

Phù Tô nhìn anh, cười nhẹ: “Tỉnh rồi hả?”

“Ừ. Mà anh làm gì cầm cuốc lội bùn sáng sớm vậy? Không phải đào mương một mình đó chứ?”

“Chứ ai rảnh mà làm giùm.” Phù Tô đặt cái cuốc dựa vào bờ tường, sau đó tiến tới rửa tay ở cái bể nước trong sân. Hắn ngẩng đầu, vừa vốc nước rửa mặt vừa nói: “Thấy cậu còn ngủ, tôi không muốn kêu dậy, thôi tự mình làm cho lẹ.”

“Bậy bạ,” Uông Tễ phẩy tay, giọng bất mãn. “Chờ tôi dậy rồi làm chung cũng được mà. Có gì phải vội đâu.”

“Ủa?” Phù Tô cười nhạt, vừa lau mặt vừa liếc mắt nhìn anh. “Hôm qua ai nói đi ngang qua đây thấy mương nước bị trôi hết bùn đất, còn nói sáng nay nhất định sẽ dậy sớm đào lại? Lời của cậu cũng như đồ ăn cậu nấu, toàn bỏ ngang giữa chừng.”

Bọt nước từ tay hắn văng trúng mặt Uông Tễ. Anh nhăn mặt, cúi đầu tránh. Giọng anh nhỏ lại, như có chút xấu hổ: “Vậy mà anh cũng phí một đôi giày luôn hả?”

“Có sao đâu. Giặt sạch là xong.” Phù Tô cúi xuống, liếc nhìn đôi giày đầy bùn của mình, giọng điềm tĩnh. “Giày để đâu rồi? Sáng nay tôi tìm không thấy.”

“Tôi sợ con chó thấy sẽ cắn bậy, nên đem cất ở phía sau rồi.”

“Ờ. Lần sau nhớ nói trước.” Phù Tô cởi giày, nhanh chóng rửa sạch lớp bùn bám bên ngoài rồi ngâm nó vào trong thùng nước. Cách xử lý này hắn làm quen tay từ hồi còn thường xuyên lên núi. Những đôi giày lấm lem bùn đất như vậy chỉ cần ngâm một lúc rồi giặt là sạch.

Xong xuôi, hắn quay sang nhìn Uông Tễ: “Tôi đi lên tắm một cái. Cậu ngồi ngoài đây thêm chút nữa hay vô nhà?”

Uông Tễ lắc đầu, đáp gọn: “Không ngồi.”

Khi cả hai cùng bước lên cầu thang, Phù Tô đi trước, quay đầu lại hỏi: “Cậu có ăn gì chưa?”

Uông Tễ lại lắc đầu, nhưng nhận ra Phù Tô không thể thấy động tác của mình, anh trả lời: “Không, mới lên đây có chút xíu à.”

Phù Tô nhẹ giọng nói: “Tủ lạnh còn miếng Tiramisu tối qua, cậu lấy mà ăn đi.”

Không nghe thấy Uông Tễ trả lời, hắn tiếp lời: “Nếu không muốn ăn Tiramisu thì còn yến mạch. À, sữa bò hết rồi, nhưng cậu có thể chấm với sữa chua ăn cũng được.”

Yến mạch trong nhà là loại khoai chiên nguyên cám. Ngày thường Uông Tễ hay than khó ăn, bảo nó nhạt nhẽo, nhưng khi ăn lại luôn phải chấm với sữa bò.

Qua hai bậc thang, tầm mắt Uông Tễ dừng ở bàn tay phải của Phù Tô đang buông thõng bên người. Ngón tay hắn thon dài, nhẹ nắm hờ, những đường gân nổi rõ trên mu bàn tay, trông như từng nét vẽ tinh tế.

Uông Tễ chớp mắt, nhìn chăm chú một lúc, rồi khẽ nói: “Tôi ăn Tiramisu.”
 
Chương 18: Bánh bao mè đen


Phù Tô từ phòng tắm bước ra, trên người còn vương mùi hơi nước mát lành, đúng lúc bắt gặp Uông Tễ vừa xong muỗng cuối cùng của nửa miếng Tiramisu mà hắn để lại.

Chiếc Tiramisu làm từ nguyên liệu nhập khẩu, đã được ướp lạnh suốt một đêm, nay càng thêm thơm ngọt và đậm vị. Uông Tễ lấy khăn giấy lau đi lớp bột ca cao dính trên môi, vừa nói: “Để lại cho anh một nửa đó.”

Phù Tô ngồi xuống đối diện anh, chẳng nói gì, cầm một chiếc muỗng khác, đưa tay trái múc một miếng.

Uông Tễ liếc qua tay phải của hắn, thấy đang quấn khăn lông, nghĩ chắc Phù Tô tiện tay cuốn lại sau khi lau tóc: “Anh thiệt là lười quá, đưa khăn đây tôi đem bỏ vô giỏ đồ dơ cho.”

Vừa nói, anh vừa vươn tay ra lấy. Nhưng ngay khi chạm vào, Uông Tễ nhận ra khăn lông không chỉ ẩm mà còn ấm nóng.

Ngước mắt nhìn Phù Tô, anh hỏi: “Sao không đưa tôi luôn?”

Phù Tô chỉ đáp gọn: “Thôi, chút nữa tôi tự bỏ được rồi.”

Không nói thêm, Uông Tễ cúi đầu nhìn kỹ tay phải của hắn. Đột nhiên, anh giơ tay chạm thử, vừa nắm vào đã cảm nhận được hơi ấm từ khăn lông, cùng với đó là chút run rẩy nhẹ từ ngón tay hắn.

Phù Tô khựng lại, ngẩng đầu nhìn anh.

Hai ánh mắt giao nhau. Trong ánh mắt Uông Tễ lộ rõ vẻ lo lắng: “Tay anh không thoải mái hả?”

Anh nhớ lại lúc nãy khi cả hai leo cầu thang, tay phải của Phù Tô đã nắm thành quyền bên người.

“Ừ, hơi khó chịu chút thôi, không sao đâu,” Phù Tô đáp.

“Lúc đào mương bị vặn phải không?” Uông Tễ khẽ nhíu mày.

“Không phải.”

Khi Uông Tễ nhíu mày, đôi mắt anh hơi nheo lại, vốn dĩ thường ngày trông ôn hòa, giờ đây lại càng thêm dịu dàng, không chút hung hãn, mà ngược lại khiến người ta thấy ấm áp.

Phù Tô mỉm cười nhẹ, nói: “Thật sự không phải, bệnh cũ mà.”

“Nhưng cũng vì đào mương nên mới phát lại, đúng không?” Giọng Uông Tễ hơi pha chút tự trách, như thể đang thầm oán chính mình không đủ chu đáo. Nhưng trong cách anh nói, sự trách móc ấy lại hóa thành một lời quan tâm chân thành hơn: “Biết tay mình có bệnh cũ mà còn bày đặt xách cuốc đi đào mương làm chi?”

“Ờ, tôi không đào thì chẳng lẽ chờ cậu xuống đào. Mà tôi với cậu không lẽ cứ ăn rau luộc hoài?” Phù Tô chọc chiếc muỗng vào miếng Tiramisu, giọng điềm tĩnh đáp lại.

“Thì tôi xuống đào cũng được,” Uông Tễ cười nhẹ, “Rồi rau mình ăn không đủ, thì tôi còn có thể xuống chợ mua, hoặc đặt siêu thị giao tận nơi mà.”

Phù Tô lắc đầu, hạ giọng: “Thôi, nghỉ ngơi chút đi. Tiền nhà còn phải bấm bụng sống qua ngày, bớt tiêu cái gì được thì bớt.”

Hắn cố tình chuyển đề tài, nhưng Uông Tễ không mắc bẫy, vẫn tiếp tục hỏi tới: “Tay anh bị gì? Bệnh cũ là sao? Viêm gân hả?”

Phù Tô cúi mắt, “Ừ” một tiếng.

Uông Tễ nhíu mày thêm chút nữa: “Làm tài chính cũng đến mức bị viêm gân hả?”

Uông Tễ vốn không rành lắm về công việc của Phù Tô, nhưng bản thân anh làm việc trong ngành công nghệ thông tin, ngày ngày gõ bàn phím mà đôi tay vẫn linh hoạt. Vì vậy, anh luôn nghĩ viêm gân là bệnh nghề nghiệp của mấy người viết tiểu thuyết chứ đâu phải ai cũng mắc.

Phù Tô nhấm nháp miếng pho mát cuối cùng từ chiếc muỗng, thản nhiên đáp: “Làm tài chính, cái gì cũng có thể đến.”

Nghe vậy, Uông Tễ im lặng một lúc, không nói thêm lời nào.

Anh bất chợt nhớ lại lần liên hoan của tổ đội xây dựng ngày trước. Khi ấy, mọi người đều uống chút rượu, có một nữ đồng nghiệp sau vài ly đã không kiềm được mà bắt đầu kể lể. Cô ta giận dữ phàn nàn về gã đàn ông làm tài chính vừa mới chia tay mình.

Giọng cô đầy oán hận: “Cái ngành này nhìn bề ngoài thì sáng sủa, chỉn chu, nhưng bên trong toàn là sóng ngầm yêu ma quỷ quái. Không như mấy dân công nghệ trông quê mùa, thô kệch làm người ta mất cảm tình. Đàn ông tài chính thì khác, khoác lên người bộ vest bóng loáng, nhưng vừa mở miệng đã tỏ ra kiểu cha chú dạy đời. Thêm nữa, toàn là hạng mê quyền lực, trọng nam khinh nữ, việc gì cũng tính toán lợi ích thiệt hơn, chẳng còn chút gì gọi là tình người…”

Nói đến đây, nữ đồng nghiệp mất cả lý trí, òa khóc, lao vào ôm eo người bên cạnh, vừa khóc vừa sờ loạn xạ. Cô còn kích động khuyên nhủ: “Nghe tôi nói! Tránh xa mấy thằng tài chính ra! Đừng dẫm lên vết xe đổ của tôi! Bọn họ là lũ mưu mô, hám lợi, keo kiệt. Cả ngày bận rộn tính toán như vậy, lỡ đâu lại mắc mấy bệnh khó nói!”

Và đêm hôm đó, người bị ôm chặt lấy eo, không ai khác chính là Uông Tễ.

Lúc này nhìn Phù Tô trước mặt, Uông Tễ bỗng thấy trong lòng trào dâng cảm giác gì đó khó tả.

Có lẽ ánh mắt của anh quá đỗi phức tạp, quá nóng bỏng, và cũng quá lộ liễu, đến mức ý nghĩ trong đầu như hiện rõ mồn một. Nhận thấy ánh nhìn của anh, Phù Tô khẽ ngước mắt lên.

Hắn vừa tắm xong, mặc một chiếc áo thun và quần dài chất liệu cotton rộng thùng thình. Bộ đồ chẳng có lấy một đường cắt may tinh tế nào, lớp vải mềm đã hơi bạc màu, trông có vẻ xuề xòa. Nhưng dáng người cao ráo, rắn chắc của Phù Tô vẫn nổi bật, không gì có thể che lấp.

Người làm tài chính đúng thật thường xuyên phải diện vest. Uông Tễ nhớ đến những ngày còn đi làm, công ty cách vách của anh thuộc top đầu trong nước, nhân viên ra vào toàn mặc vest, đi giày da bóng lộn. Phải công nhận rằng, vest đúng là thứ vũ khí sắc bén để tôn lên dáng vẻ của đàn ông.

Bốn mắt nhìn nhau, Uông Tễ bất giác tưởng tượng ra cảnh Phù Tô mặc một bộ vest cắt may vừa vặn, ngồi nghiêm nghị sau bàn làm việc. Gương mặt điềm tĩnh và đôi mắt thâm trầm của hắn dường như mang theo sức hút khó cưỡng.

Chú chó nhỏ mà Phù Tô nuôi tuy chỉ là một chú chó cỏ bình thường, nhưng lại được chăm sóc kỹ lưỡng đến mức khiến người khác phải ngạc nhiên. Nó đặc biệt để ý đến ngoại hình của mình, mỗi khi thấy cơ thể mình bẩn là ngay lập tức bò đến chân Phù Tô, đôi mắt long lanh cầu xin chủ nhân mau chóng tắm rửa cho nó. Và nơi nó thích nhất để được tắm chính là vườn hoa đầy hoa thơm và chim hót líu lo.

Khi được tắm, nó không quậy không phá, ngoan ngoãn ngồi yên trong chiếc bồn nhỏ, ra dáng như một “ông chủ nhỏ” khiến Uông Tễ và Phù Tô phải cung phụng. Chiếc đuôi ngoe nguẩy liên tục như một cái quạt máy, tạo nên vẻ đáng yêu không thể tả.

Thím Uông biết Uông Tễ chuyển đến sống cùng Phù Tô thì vô cùng vui mừng.

“Như vậy cũng tốt, trên núi quạnh quẽ quá, ngày nào cũng chỉ có mấy người già bọn thím, làm sao mà nói chuyện vui được. Bây với thằng nhóc Phù lại là bạn cùng trang lứa, có thể nói chuyện hợp nhau hơn.”

Trong lòng thím còn hy vọng hai người ở gần nhau nhiều thì sẽ bàn bạc chuyện tình cảm, thậm chí cùng nhau thảo luận về mẫu người lý tưởng mà mỗi người thích.

Hiện tại, Uông Dịch Dương đã chuẩn bị cầu hôn bạn gái. Chuyện lớn trong nhà cũng coi như hoàn thành. Thím Uông và chú Uông rất hài lòng, nhưng lại bắt đầu lo lắng cho Uông Tễ.

Thím hy vọng cháu trai mình sớm lập gia đình để có người bầu bạn. Nhưng vì Uông Tễ là người trầm tính, luôn có chính kiến, nên thím không dám tùy tiện giới thiệu ai cho anh. Chỉ mong rằng Phù Tô sẽ là người có thể khuyên nhủ Uông Tễ hoặc ít nhất cũng cùng nhau trò chuyện, khơi gợi những suy nghĩ về chuyện tình cảm.

Khi thím Uông vào đến vườn hoa, thím thấy hai người đang tắm cho chú chó nhỏ.

“Đây là đang mần gì thế? Tắm cho chó à?” Thím Uông tay bưng một chiếc bát sứ bước tới.

“Dạ, hôm qua trời mưa, nó lăn lộn trên núi dính đầy bùn.”

Uông Tễ đứng dậy, Phù Tô cũng định đứng theo, nhưng thím Uông xua tay: “Thôi, thôi, bây cứ tiếp tục đi. Thím mang ít bánh bao đến, vừa mới hấp xong còn nóng hổi, thịt heo với mè đen, hai đứa ăn thử xem sao.”

Sau khi chào hỏi cảm ơn thím Uông, Phù Tô tiếp tục công việc tắm cho chú chó. Bàn tay lớn của hắn nhẹ nhàng nâng thân chú chó nhỏ, nó nằm ngửa, phơi cả bụng lên như đang tận hưởng.

Uông Tễ rửa tay rồi nhận chiếc bát sứ từ thím Uông. Anh nhìn chiếc bát lớn, khẽ cảm thán: “Bánh bao to thế này, nhìn là biết đầy nhân.”

Thím Uông bật cười: “Chú bây cứ nói bánh bao ít nhân thì không ngon, ăn không đã. Nên thím gói lớn một chút cho ổng no ứ hự luôn. Thêm nữa hôm qua bây  xách xuống cả một đống thịt. Mấy cái thằng này xách nhiều thịt như vậy làm gì. Bây mới là ngườ cần ăn nhiều thịt hơn chứ, toàn thanh niên lớn cả rồi.”

Hóa ra tối qua, Uông Tễ đột nhiên thèm món thịt viên. Sáng sớm hôm nay, anh và Phù Tô đã chạy xe xuống núi mua thịt. Họ mua một cân thịt nạc cho mình và hai cân thịt mỡ lẫn nạc để mang cho thím Uông.

Khi bánh bao thơm lừng mùi thịt được dọn ra, chú chó trong bồn tắm kêu ăng ẳng một tiếng, nhảy cẫng lên như muốn tranh ăn. Phù Tô đè nó lại, thay nước trong bồn, tiếp tục kỳ cọ cho nó.

Thím Uông lần đầu thấy chú chó của Phù Tô, tò mò hỏi: “Chó này tên gì mà trông đáng yêu thế?”

Phù Tô vẫn bình thản trả lời trong lúc bận rộn: “Chưa đặt tên, cứ gọi nó là Chó thôi thím.”

Nghe vậy, thím Uông không khỏi lắc đầu tiếc nuối. Thím cảm thấy một chú chó dễ thương như vậy xứng đáng có cái tên thật đẹp. Còn Uông Tễ lại thấy cái tên ấy rất hợp. Anh vẫn nhớ lần đầu tiên thấy Phù Tô, hắn đứng ở cửa viện, vừa nhìn con chó vừa thản nhiên gọi “Gâu gâu.”

Khi tiễn thím Uông xong, hai người sấy khô lông cho chú chó. Trong lúc đó, một chú ong mật bay đến hoa viên, khiến chú chó mập lạch bạch đuổi theo.

Uông Tễ nhớ đến bánh bao còn nóng, đi vào bếp lấy một cái bánh bẻ đôi, đưa một nửa cho Phù Tô. Miếng bánh của anh là nhân mè đen, khi bẻ ra, lớp nhân mềm mại và bóng loáng nhỏ giọt xuống.

Cắn một miếng, nhân mè đen lấm tấm dính lên ngón tay. Không tìm được giấy lau, anh cúi đầu liếm sạch theo bản năng.

Phù Tô ngước mắt nhìn anh: “Ăn cẩn thận chút, không thì nhân chảy ra hết, dính đầy tay cho xem.”

Phù Tô cười khẽ, tiếp tục ăn phần bánh của mình. Một lát sau, hắn đột ngột hỏi: “Ngày mai có chuyện gì thế?”

Uông Tễ hơi giật mình: “Hả? Anh nghe thấy à?”

“Không, chỉ nghe loáng thoáng vài câu.”

Uông Tễ thở phào nhẹ nhõm, nhưng lại cúi đầu nhìn mũi chân. Một lúc sau, anh ngập ngừng nói: “Ngày mai… thực ra ngày mai tôi…”

Đúng lúc đó, tiếng thông báo WeChat vang lên, cắt ngang câu nói dở. Uông Tễ đành tạm dừng, lấy điện thoại từ túi ra để xem tin nhắn.

Con chó không đuổi kịp bầy ong mật, ủ rũ chạy từ sau vườn quay lại. Vừa vào đến sân, nó hít hít mũi, đánh hơi thấy mùi thức ăn liền nhào tới chân Phù Tô.

Phù Tô ngồi xổm xuống, bẻ một mẩu bánh bao nhỏ đút cho nó. Sau đó, hắn đứng dậy đi vào bếp, lấy thêm ít thức ăn cho chó. Lúc bận rộn với việc này, hắn hoàn toàn không để ý Uông Tễ đang ngồi bên, mắt vẫn dán vào màn hình điện thoại, vẻ trầm ngâm như vừa đọc được gì đó khiến hắn xuất thần trong giây lát.

Cho chó ăn xong, Phù Tô quay lại bàn, ngồi xuống. Hắn hỏi: “Mai đi làm gì vậy?”

Uông Tễ nhanh chóng thoát khỏi dòng suy nghĩ, nhét điện thoại vào túi rồi nhai nốt miếng bánh bao cuối cùng trong miệng. Ngước lên nhìn Phù Tô, anh đáp: “Mai tôi có chút chuyện, phải lên huyện thành.”
 
Chương 19: Huyện thành


Chiếc xe khách nhỏ hướng huyện thành lăn bánh, ghế trên xe đã chật kín người. Xe khởi hành từ Vân Lĩnh, trên đường ghé qua những trấn nhỏ lân cận, đôi khi cũng dừng lại giữa đường để đón thêm khách.

Bên cạnh Uông Tễ là một bé gái trông như đang say xe, nét mặt nhợt nhạt, chẳng mấy sức sống. Anh quay sang, nhẹ nhàng hỏi: “Con muốn đổi ngồi ra gần cửa sổ không?”

Cô bé e thẹn khi có người lạ bắt chuyện, bèn lắc đầu, rúc vào lòng bà nội. Qua khe tay bà che chở, cô bé lén lút ngước lên nhìn Uông Tễ.

Bà nội cô bé với đôi bàn tay nhăn nheo, khẽ xoa đầu cháu mình, rồi quay sang Uông Tễ, dùng giọng địa phương nói: “Con bé sợ người lạ lắm.”

Uông Tễ mỉm cười, đưa tay sờ vào túi áo. Anh chợt hối hận vì sáng nay ra khỏi nhà không mang theo vài viên kẹo bạc hà, đành phải kéo cửa sổ xe mở ra một khe hẹp.

Gió núi ùa vào, xua tan bầu không khí ngột ngạt trong xe. Những cơn gió ấy cũng làm rối mái tóc ngắn phía trước trán của Uông Tễ. Qua ô cửa sổ, những ngọn núi trập trùng trải dài vô tận hiện ra như một bức tranh mơ màng, còn những sợi tóc mềm mại của anh dường như muốn hòa tan vào bầu trời rộng lớn.

Xe khách nhỏ dừng lại ở trung tâm huyện thành, ngay bên cạnh một bãi đỗ xe tạm. Uông Tễ bước xuống, nhìn đồng hồ. Chuyến xe này khởi hành từ Vân Lĩnh lúc 9 giờ sáng, bây giờ đã hơn 11 giờ trưa.

Anh trả tiền xe bằng cách quét mã, tiện thể xin số điện thoại của bác tài để hỏi giờ giấc xe chiều, dự định sẽ bắt chuyến của bác để về lại nhà.

Lưu xong số điện thoại, Uông Tễ mở WeChat, gửi một tin nhắn cho Phù Tô.

[Tôi tới huyện thành rồi.]

Hôm qua Uông Tễ đã nói với Phù Tô rằng hôm nay mình cần lên huyện thành để lo chút việc. Phù Tô không hỏi anh nhiều, chỉ nhẹ nhàng bảo: “Cần tôi đi cùng không?”

Uông Tễ lắc đầu từ chối. Phù Tô lại định đưa chìa khóa xe của mình cho anh, nhưng Uông Tễ cũng không nhận. Sau đó hắn chẳng nói gì thêm, cũng không tỏ vẻ khó chịu hay giận dỗi.

Buổi tối hai người vẫn cùng nhau nấu cơm như thường lệ. Ăn xong, họ lại ngồi trên sofa, người đọc sách, kẻ chơi game.

Uông Tễ thử thăm dò, rút quyển sách đang đọc dở khỏi tay Phù Tô. Người kia chẳng hề phàn nàn, chỉ ngước lên, nhẹ nhàng hỏi: “Sao vậy? Muốn chơi game à?”

Thấy Phù Tô không để bụng chuyện mình giấu diếm, Uông Tễ nhẹ nhõm hẳn. Nhưng khi nằm xuống giường chuẩn bị ngủ, anh chợt nghĩ đến thái độ bình thản của người kia.

Phù Tô không giận mới là bình thường, đúng không? Hai người họ đều là đàn ông trưởng thành, đâu phải trẻ con. Nhưng không hiểu sao, sự quan tâm tự nhiên ấy khiến Uông Tễ có chút lấn cấn.

Cái gì là bình thường? Cái gì là không bình thường? Mà sao mình phải nghĩ chuyện này?

Nghĩ mãi không thông, Uông Tễ kéo tấm chăn mỏng che kín đầu, cố ép mình chìm vào giấc ngủ.

Điện thoại rung lên, một tin nhắn từ Phù Tô gửi đến. Không phải lời lẽ dài dòng, chỉ là một biểu tượng “OK” mặc định của hệ thống WeChat.

Uông Tễ nhìn chằm chằm biểu tượng đó một lúc lâu, cuối cùng cũng nhắn lại: [Tôi lo xong việc, ăn trưa xong sẽ về.]

Gửi xong, anh không chờ Phù Tô trả lời mà cất điện thoại lại vào túi, rồi bước ra đường bắt một chiếc taxi.

Định vị mà Đường Như gửi cho anh chỉ ra một địa điểm cách đó không xa. Khi Uông Tễ đến nơi, đồng hồ chỉ 11 giờ 25 phút, còn đúng 5 phút nữa là tới giờ hẹn.

Đó là một quán cơm nhỏ nằm cạnh khu chung cư. Uông Tễ bước vào, nhắc đến tên Đường Như để hỏi chỗ ngồi, nhưng nhân viên ở quầy lễ tân chỉ lắc đầu: “Chưa có đặt bàn trước ạ.”

Không muốn đôi co, Uông Tễ nói: “Làm phiền đặt cho tôi một phòng nhỏ, cảm ơn.”

Phòng ăn khá đơn giản, không lớn nhưng sạch sẽ. Uông Tễ ngồi xuống, nhân viên phục vụ mang tới một bình trà lúa mạch. Anh tự rót nửa ly, uống vài ngụm để làm dịu cổ họng khô rát sau cả buổi sáng không uống nước.

Xong, anh lấy điện thoại ra, gửi tin nhắn cho Đường Như: [Tôi tới rồi, phòng 206.]

Tin nhắn của Đường Như gửi hôm qua vẫn hiện ngay phía trên: [Tễ, má nghe nói con từ Thượng Hải về rồi. Mai là sinh nhật con, giữa trưa mình đi ăn với nhau nhé.]

[Má đã gửi địa chỉ quán ăn. 11 giờ rưỡi trưa mai, má sẽ chờ con ở đó.]

Khoảng 15 phút sau, Đường Như xuất hiện.

Cửa phòng mở ra, ánh sáng từ hành lang hắt vào cùng với gương mặt và dáng hình quen thuộc của người phụ nữ đã ngoài 50 nhưng vẫn còn giữ được vẻ trẻ trung. Làn gió nóng từ giữa trưa hè ùa vào theo bước chân của bà.

“Tễ.” Đường Như đứng trước cửa, cất tiếng gọi.

Uông Tễ khẽ gật đầu, chỉ vào ghế: “Ngồi đi.”

Đường Như đặt túi xách xuống, ngồi vào chỗ. Người phục vụ bước vào với thực đơn trên tay, hỏi: “Hai vị muốn gọi món ngay không ạ?”

Uông Tễ đáp trước khi Đường Như kịp trả lời: “Mấy món ở đây các cô thấy món nào ngon thì làm giúp tôi, cảm ơn.”

Đường Như vừa định đưa tay nhận thực đơn thì ngừng lại. Sau khi người phục vụ rời đi và khép cửa lại, bà thu tay về, giọng có chút trách móc xen lẫn sự quan tâm: “Hôm nay là sinh nhật con, để má gọi vài món con thích ăn.”

Uông Tễ cầm ly trà nhấp thêm một ngụm. Trà đã nguội, vị hơi đắng, nhưng điều đó không khiến anh bận lòng. Anh cười nhạt, nhẹ giọng: “Không cần đâu, sinh nhật với tôi không phải là ngày gì quan trọng.”

Đường Như khẽ vuốt mái tóc đen óng của mình, rồi nhìn anh, ánh mắt có chút trầm tư. Bà nói, giọng chậm rãi nhưng chắc nịch: “Với con có thể không quan trọng, nhưng với má thì rất quan trọng.”

Uông Tễ ngẩng đầu nhìn bà.

“Dù gì đi nữa,” Đường Như tiếp tục, giọng dường như nén chút xúc động, “Ngày con sinh ra đời cũng là ngày má phải chịu đau đớn nhất.”

Uông Tễ khẽ nhếch môi, bật ra một tiếng cười nhạt.

Tiếng cười của anh khiến Đường Như thoáng bối rối. Bà mím môi, rồi nhanh chóng chỉnh lại tư thế, ngồi thẳng lưng, cầm lấy chén trà để che đi cảm xúc thoáng chốc bất an của mình.

Đường Như nhìn Uông Tễ, giọng mang theo chút trách móc: “Con nghỉ việc rồi sao?”

“Đúng vậy.”

“Một công việc tốt như thế… sao con không nói với má?”

Câu hỏi này, bà đã giữ trong lòng từ lâu. Những lời chất chứa, vòng đi vòng lại trong đầu, cuối cùng cũng bật ra, mang theo chút tức giận.

Uông Tễ nhìn bà, ánh mắt bình tĩnh như mặt nước không gợn sóng. Trong lòng anh khẽ cười, cảm giác quen thuộc này khiến anh nhớ lại lần anh nói chuyện với Uông Dịch Dương trước đây: Có những điều mọi người đều hiểu rõ, nhưng không phải ai cũng chịu đối diện. Có người chỉ muốn lừa mình dối người.

Anh đáp, giọng nhẹ nhàng nhưng như một mũi dao sắc bén: “Bởi vì không cần thiết.”

Bốn chữ ngắn gọn như cây kim nhọn, xuyên thủng vẻ ngoài điềm tĩnh của Đường Như.

Đôi lông mày tinh tế của bà khẽ nhíu lại. Trước mắt bà là con trai mình – gương mặt thanh tú ấy không giống bà, mà cả tâm tư cũng hoàn toàn xa lạ. Dù vậy, bà tự trấn an bản thân: Không sao. Nó vẫn là con mình. Nó vẫn là đứa con mình đã sinh ra.

Đường Như hít một hơi sâu, lấy lại giọng điệu: “Má là má của con.” Bà nhấn mạnh, như bám víu vào danh phận này như thứ lợi thế lớn nhất. “33 năm trước, vào ngày này, má đã sinh con ra. Má đau suốt một ngày một đêm.”

Nói xong, bà tự tin hơn, cảm giác như mình đang giăng ra một tấm lưới chắc chắn, muốn ép Uông Tễ phải mềm lòng.

Nhưng Uông Tễ chỉ nhìn bà, ánh mắt trầm xuống, như một dòng sông sâu lặng lẽ. Giọng anh chậm rãi: “Đúng vậy, bà đã trả giá để sinh tôi. Nhưng cũng chỉ có thế.”

Ngón tay Đường Như nắm chặt lấy chén trà, lực đến mức các khớp trắng bệch.

Uông Tễ tiếp tục: “Bao nhiêu trả giá, thì được bấy nhiêu hồi báo. Nếu bà còn không hiểu điều này, vậy hôm nay hỏi tôi để làm gì?”

Lời nói lạnh lùng của anh như ngọn roi quất mạnh. Đó không chỉ là lời từ chối, mà còn là một cú đánh vào lòng tự tôn của Đường Như.

Đánh mất tình cảm, đánh mất sự yêu thương – trên đời này, tất cả trả giá và hồi báo đều cần được cân bằng. Nếu muốn nhiều, thì trước tiên phải tự hỏi mình có xứng đáng để đòi hỏi hay không.

Đường Như nghẹn lời, mọi kịch bản bà chuẩn bị kỹ càng trong đầu phút chốc tan biến. Những lời muốn nói, còn chưa thốt ra hết, thì bà đã bị gạt phăng khỏi thế chủ động.

Lớp son phấn tô vẽ cho sự dịu dàng đã trôi đi, để lại một chút buồn cười và vụng về, cùng cảm giác thất bại ê chề.

Tiếng gõ cửa vang lên, nhân viên phục vụ mang đồ ăn vào.

Sự xuất hiện của người lạ khiến không khí căng thẳng tạm thời dịu xuống. Đường Như cắn chặt môi, nuốt xuống cảm giác nhục nhã, cố giữ vẻ ngoài bình thản.

Khi người phục vụ rời đi, điện thoại của bà đột nhiên rung lên liên tục. Bà liếc nhìn màn hình, hàng lông mày đang nhíu chặt bỗng dãn ra. Gương mặt thoáng chút nhẹ nhõm, nhưng cũng xen lẫn sự bối rối.

Đường Như duy trì nụ cười trên gương mặt được chăm sóc kỹ lưỡng, nhẹ nhàng quay sang nhân viên phục vụ: “Còn có một người nữa, phiền cô mang thêm một bộ chén đũa.”

Lời bà vừa dứt, Uông Tễ nhíu mày, như thể trên mặt hồ yên ả bị ném xuống một viên đá, mặt nước lăn tăn sóng gợn.

Đường Như quay sang nhìn anh, nụ cười càng tươi: “Hôm nay là sinh nhật con, dẫu sao cũng nên có chút không khí chúc mừng, phải không? Chúng ta cùng ngồi lại một chút.”

Chúng ta.

Từ hai chữ ấy, Uông Tễ cảm giác cả người lạnh đi.

Ánh mắt anh và Đường Như chạm nhau, trong không khí ngột ngạt, đến cả nhân viên phục vụ cũng âm thầm suy đoán: Nhà ai cũng có chuyện khó nói, nhưng quan hệ giữa mẹ và con trai này xem ra không hề đơn giản.

Cánh cửa phòng một lần nữa mở ra. Người bước vào khiến Uông Tễ không kìm được, khẽ bật cười, nhưng nụ cười ấy không hề ấm áp.

Uông Vân Giang – người đàn ông từng là cha của anh – ngồi xuống cạnh Đường Như, tháo mắt kính, ra hiệu cho nhân viên phục vụ rót trà, sau đó lại phất tay đuổi họ ra ngoài.

Ông ta ngồi đó, vẻ ngoài không tệ, nhưng cách hành xử lại đầy vẻ khoa trương.

Uông Tễ nhìn hai người trước mặt. Nhiều năm trước, họ từng xé toang mặt nạ, cãi vã đến mức trời long đất lở. Bây giờ dù đã tách ra nhiều năm, lại vì anh mà tự liên lạc, tái hợp.

Ánh mắt anh hiện lên sự chế giễu rõ ràng, không chút che giấu.

Uông Vân Giang sau khi một mạch chạy xe dưới nắng gắt đến đây, mở miệng đã là lời khó nghe: “Chắc mày giận đến nghẹn lời rồi đúng không? Nhìn thấy tao mà chẳng nói được câu nào!”

Rồi ông ta liếc bàn ăn, lại tiếp tục gây khó dễ: “Tao còn chưa tới mà dám bày đồ ăn lên trước à? Chắc bụng mày trống quá rồi hả?”

Nếu đối mặt với Đường Như, Uông Tễ vẫn có thể cố giữ chút bình tĩnh để nói chuyện, thì đối diện với Uông Vân Giang, anh chỉ thấy ghê tởm, như phải đứng cạnh một thùng rác dưới trời hè oi ả.

Ánh mắt anh nhìn ông ta lạnh buốt, như sương giá. Khi ánh mắt hai người chạm nhau, Uông Vân Giang khựng lại, rồi lập tức quay đi, cúi đầu né tránh.

Anh cười lạnh trong lòng.

Người đàn ông này, trước giờ chỉ giỏi bề ngoài, bên trong thì rỗng tuếch. Một kẻ hèn nhát, ngoài mạnh trong yếu.

Món ăn lần lượt được bày lên bàn.

Uông Tễ nhìn qua một lượt. Bầu không khí trong căn phòng nhỏ càng lúc càng ngột ngạt. Trong lòng anh, bao cảm xúc từ phẫn nộ, khinh bỉ đến mệt mỏi đan xen, như một mớ hỗn độn không thể gỡ. Nhưng rồi, đột nhiên, một ý nghĩ lóe lên trong đầu anh.

Giờ này Phù Tô đang làm gì nhỉ?

Ý nghĩ ấy như một dòng nước mát lành giữa cái nóng oi ả, làm dịu lại cơn giận trong lòng anh. Căn phòng này, những con người này, những lời trách cứ và sự dối trá – tất cả dường như chẳng còn liên quan gì đến anh nữa. Tâm trí anh đã rời khỏi đây, trở về với ngọn núi xanh mướt và bầu không khí tự do, nơi thuộc về anh.

Đường Như lên tiếng, phá vỡ dòng suy nghĩ của anh.

Bà nhẹ nhàng múc cho anh một bát canh, đặt trước mặt, giọng điềm đạm: “ Tễ à, mẹ không cố ý giấu con chuyện này. Chúng ta chỉ muốn tìm cơ hội để hỏi rõ ràng thôi. Dù gì, con cũng hơn ba mươi rồi, nghỉ việc không phải chuyện nhỏ. Sao có thể tùy tiện như vậy được?”

Uông Vân Giang đập mạnh xuống bàn, bát đũa rung lên leng keng. Giọng ông ta đầy giận dữ, lại pha lẫn sự thất thố: “Mày từ chức tại sao không báo trước? Lặng lẽ về quê, mày không biết xấu hổ, nhưng tao còn cần mặt mũi chứ!”

Lời lẽ như thế dường như đã tích tụ từ lâu, nay mới tìm được cớ bộc phát. Trước đó, ông chỉ nghe từ Đường Như về việc Uông Tễ từ chức và trở về quê, lòng đã đầy hoang mang xen lẫn phẫn nộ. Hai người họ qua điện thoại chỉ trút giận lên nhau, không ai dám một mình đối diện với Uông Tễ. Nhưng giờ, khi cùng nhau đến đây, họ bỗng nhiên hùng hổ, đúng lý hợp tình, như thể nắm chắc quyền uy trong tay.

Uông Tễ ngẩng đầu, khóe miệng nhếch lên một nụ cười lạnh.

“Muốn mặt mũi?” Anh nhấn mạnh từng chữ, giọng nói châm chọc. “Qua hơn nửa đời người, bây giờ mới nhớ tới muốn mặt mũi.”

Lời anh như một cái tát. Uông Vân Giang bật dậy, tức giận đến mức không kiềm chế được, quăng đôi đũa xuống bàn, chỉ thẳng vào anh mà mắng: “Tao là ba mày! Mày dám nói chuyện với tao như vậy hả?!”

Uông Tễ vẫn ngồi yên, ánh mắt anh như băng giá, không chút gợn sóng.

Đường Như vội vàng giữ lấy Uông Vân Giang, trong khi ông vẫn không ngừng hổn hển và mắng nhiếc. Bà nhìn cảnh này, trong lòng vừa có chút bất lực, nhưng cũng le lói một niềm vui ngầm. Những lời mà bà không tiện nói, giờ lại được người khác thốt ra thay.

Bà lên tiếng, giả vờ hòa giải: “Ai nha, đừng nóng giận, hôm nay dù gì cũng là sinh nhật của thằng Tễ. Đừng có la nó như vậy. Chúng ta ngồi xuống, nói chuyện rõ ràng mới là đứng đắn.”

Nhưng Uông Vân Giang không phải người dễ kiềm chế. Nghe vậy, ông ta càng gào to hơn, giọng át cả những nỗ lực nhỏ nhoi của Đường Như.

“Sinh nhật cái đéo gì! Nó phải nghĩ rõ ràng, không có tao, nó có thể có ngày hôm nay không? Không có tao, nó làm sao ngồi ở đây được?!”



Chính vào giữa mùa hè năm nào đó, Uông Vân Giang vừa trải qua một mùa thi đại học lần nữa trong vai trò cán bộ địa phương. Đây là thời điểm mà ông ta thường được tâng bốc nhiều nhất. Khi kết quả thi được công bố, nhiều gia đình vui mừng, nhiều gia đình thất vọng, nhưng luôn có người nhắc đến Uông Vân Giang và “đứa con giỏi giang” của ông.

Năm ấy, khi Uông Tễ thi đỗ đại học hàng đầu, ngành học danh giá nhất, tên anh được in trên bảng vàng vinh danh của trường. Giấy báo nhập học đẹp đẽ ấy được đóng khung, treo suốt hai tháng liền. Sau đó, anh bảo vệ nghiên cứu sinh, tốt nghiệp loại ưu và vào làm ở một doanh nghiệp lớn tại Thượng Hải. Tuổi trẻ mà đã có mức lương năm trăm vạn.

Những câu chuyện như vậy giúp Uông Vân Giang hãnh diện không thôi. Đồng nghiệp và hàng xóm mỗi khi nhắc đến con ông đều trầm trồ, khen ngợi. Uông Vân Giang sống trong hào quang của con trai, tự mãn như thể chính mình đạt được những thành tựu đó.

Vậy nên, khi nghe tin Uông Tễ từ chức, quay về quê sống, ông không chỉ tức giận mà còn hoảng loạn.

Ở cái huyện thành nhỏ bé này, tin tức lan truyền nhanh hơn bất cứ nơi nào. Uông Vân Giang biết, một khi mọi người biết chuyện, ông sẽ không thể chịu nổi những lời xì xào sau lưng. Ai đó chắc chắn sẽ nói:

“Con trai Uông Vân Giang đó, không phải ông ấy luôn tự hào sao? Sao bây giờ lại thất bại đến mức phải về quê rồi?”

Với ông, điều này là không thể chấp nhận.

Ngoài ra, điều khiến ông càng hoang mang hơn là tiền. Từ chức đồng nghĩa với mất đi nguồn thu nhập lớn. Uông Tễ sẽ lấy tiền đâu mà sống? Và quan trọng hơn, lấy tiền đâu để phụng dưỡng cha mẹ?

Về phần Đường Như, dù bà và Uông Vân Giang đã nhiều năm không còn tình cảm, nhưng vào lúc này, họ lại có cùng một toan tính.

Trong mắt họ, Uông Tễ không chỉ là một đứa con. Anh là tấm vé danh dự, là “vốn liếng” lớn nhất trong cuộc đời cằn cỗi của họ.

Ngay từ khi anh 17 tuổi, đỗ vào trường đại học danh tiếng, Uông Tễ đã trở thành niềm tự hào của cả gia đình. Những bước tiến vượt bậc của anh – từ học vấn đến sự nghiệp – không chỉ là ánh sáng chiếu rọi cuộc đời anh, mà còn chiếu đến cả họ.

Sự xuất sắc của anh giúp họ có thể ngẩng cao đầu trong các mối quan hệ xã hội, là lý do để họ tự tin, kiêu hãnh.

Dù giữa họ không còn tình thân, nhưng điều đó không quan trọng. Bởi ở cái thị trấn nhỏ này, thiên hạ luôn mặc định rằng “cha mẹ nuôi dưỡng con cái, con cái phải báo hiếu cha mẹ.”

Trong mắt họ, Uông Tễ chính là bảo chứng cuối cùng cho tương lai, là niềm kiêu hãnh duy nhất của cả hai người. Những vinh quang anh đạt được đều như ánh vàng lấp lánh, còn họ chỉ muốn giữ thật chặt để không ai lấy mất.

Uông Tễ ngồi lặng lẽ, ánh mắt lạnh lùng nhìn hai người trước mặt – một đôi đã từng là vợ chồng nhưng giờ lại vì lợi ích chung mà bất chấp. Những lời họ nói, bề ngoài là quan tâm, nhưng trong thâm tâm, anh hiểu rõ tất cả đều chỉ nhằm bảo vệ chính họ, bảo vệ những lợi ích mà anh từng đem lại.

“Mày khi nào thì quay lại Thượng Hải?” Uông Vân Giang đặt mạnh ly trà xuống bàn, nước trong ly sánh ra một ít, ông tiếp tục gay gắt. “Công việc có thể tìm lại, mày là nghiên cứu sinh, chẳng lẽ còn sợ không tìm được việc sao?”

Lời vừa dứt, Đường Như đã nhanh chóng chen vào, giọng bà dịu dàng hơn nhưng sắc bén không kém: “Đúng đó, Tễ à. Với trình độ của con, công việc tốt ở đâu chẳng có. Mới 30 tuổi đã từ chức về quê, làm vậy có đáng không? Con nghĩ thử xem, cái thằng họ Uông kia chẳng phải nói con đã định ở nhà không làm gì sao? Lời đó mà lan truyền, người ta sẽ cười vào mặt con. Bạn bè, đồng nghiệp từ nhỏ đến lớn mà biết được con quay về quê vì thất bại ở Thượng Hải, con thật sự có thể chịu được điều tiếng đó sao?”

Uông Vân Giang tiếp lời, vẻ mặt đầy giận dữ: “Đúng vậy! Người sống nhờ mặt, cây sống nhờ vỏ. Mày không biết xấu hổ, nhưng họ Uông tụi tao còn cần giữ mặt mũi!”

Lời lẽ của họ như một màn kịch dàn dựng, phối hợp nhịp nhàng, kẻ đấm người xoa. Đường Như nhẹ nhàng hơn, giọng điệu giống như đang khuyên nhủ: “Tễ à, con đừng nghĩ ba má nói chuyện khó nghe, lời thật thường mất lòng. Ba má dù sao cũng không hại con, lời chúng ta là vì muốn tốt cho con. Chứ những người khác, họ chỉ nói điều dễ nghe để nịnh nọt, giống như thằng nhóc Uông kia. Ngoài miệng nó bảo con mệt mỏi cần nghỉ ngơi, nhưng nó thì sao? Ngày ngày bận rộn trong nhà hàng, chỉ chực mong con không bằng nó. Nó không phải vì tốt cho con, mà là ghen ghét con!”

Bà dừng lại, ánh mắt lấp lóe toan tính: “Thượng Hải, Tễ à, đó là Thượng Hải. Ai không muốn sống ở đó?”

Uông Tễ nhìn hai con người trước mặt, một người xướng, một người hoạ, phối hợp ăn ý như thể đã tập luyện nhiều lần. Họ nói ra những lời “đầy đạo lý,” nhưng từng câu, từng chữ đều chỉ hướng về lợi ích của chính mình.

Trong mắt họ, Thượng Hải không chỉ là một thành phố mà là biểu tượng của thành công, của mặt mũi. Từ chức, trở về quê đối với họ không phải là sự lựa chọn của anh, mà là sự sỉ nhục đối với những gì họ tự hào bấy lâu nay.

Uông Vân Giang nghĩ đến thể diện của mình trước đồng nghiệp, nghĩ đến việc bị bàn tán rằng con trai ông thất bại, không thể trụ lại Thượng Hải.

Đường Như thì nghĩ đến tương lai. Từ khi bước vào cuộc hôn nhân thứ hai, bà luôn tự hào vì có một người con trai tài giỏi, làm chỗ dựa tinh thần cho bà trong nhà chồng. Giờ đây, nếu Uông Tễ không còn làm việc ở Thượng Hải, không còn là “người con trai kiếm trăm vạn” bà sẽ mất đi lý do để tự tin, mất đi lợi thế trong gia đình mới.

Cả hai người đều đang toan tính, không vì anh, mà vì chính họ.

Họ nhìn nhau, một ánh mắt thỏa hiệp. Phải thống nhất mặt trận. Đây không còn là việc của riêng ai mà là vấn đề chung, ảnh hưởng đến lợi ích của cả hai.

Uông Tễ ngồi đó, không nói gì. Ánh mắt anh lướt qua hai gương mặt đầy tham vọng, thấy rõ sự ngụy trang vụng về. Họ muốn anh quay lại Thượng Hải không phải để anh sống tốt, mà để tiếp tục lợi dụng ánh hào quang của anh mà sống nốt phần đời còn lại.

Bọn họ muốn ăn thịt mình, muốn uống máu mình, anh nghĩ thầm, khóe môi nhếch lên một nụ cười lạnh.

Trong mắt họ, anh không phải là một con người, mà là một cỗ máy, một con gà đẻ trứng vàng. Khi trứng vàng ngừng rơi, họ liền lo lắng, hoảng hốt, tìm mọi cách ép anh tiếp tục vận hành.

Những lời “quan tâm” kia, từng chữ đều thấm đẫm sự ích kỷ. Họ chỉ muốn bảo vệ danh dự của mình, bảo vệ những gì họ có được từ anh.

Nhưng Uông Tễ không còn cảm thấy đau khổ hay tức giận nữa. Lòng anh giờ đây, chỉ có sự lạnh nhạt và một chút khinh miệt.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top