Cập nhật mới

Dịch Full Titanic - Trong Vũ Trụ

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


HAI MƯƠI

Ngày 15 tháng 8

- Thật khốn nạn! - Luther tức giận nói. Anh ném điện đàm xuống và cuộc nói chuyện của họ không bị Phòng điều hành nhiệm vụ theo dõi nữa. - Hãy trở lại phương tiện di dờikhẩn cấp, bật các nút và lên đường! Họ không thể khiến chúng ta quay đầu và trở lại trạm.

Một khi đã rời khỏi trạm, họ không thể quay lại. Phương tiện di dời khẩn cấp về cơ bản là một chiếc tàu lượn có dù kéo phía sau. Sau khi tách khỏi Trạm vũ trụ, nó có thể bay tối đa bốn vòng quanh trái đất trước khi nó buộc phải tách khỏi quỹ đạo và đáp xuống trái đất.

- Chúng ta được ra lệnh phải ngồi yên. - Griggs nói. - Đó chính là điều ta sẽ làm.

- Tuân theo những mệnh lệnh ngớ ngẩn đó à? Nicolai sẽ chết nếu chúng ta không đưa anh ấy về trái đất!

Griggs nhìn Emma.

- Cô nghĩ gì, Watson?

Hai mươi phút qua, Emma đã quanh quẩn bên cạnh bệnh nhân của mình và kiểm tra tình hình của Nicolai. Tất cả bọn họ đều tự nhận thấy anh đã rất nguy kịch. Anh bị buộc chặt vào giường bệnh nhưng vẫn vặn vẹo và run lẩy bẩy. Chân tay anh thỉnh thoảng lại giật mạnh khiến Emma sợ là anh sẽ làm vỡ hết xương. Trông anh như một võ sĩ bị đánh túi bụi không thương tiếc trong một lượt đấu. Khí thũng dưới da đã khiến tất cả các mô mềm trên mặt anh căng lên và cặp mắt nhắm nghiền của anh cũng sưng phồng. Qua khe hở nhỏ, màng cứng ở mắt của anh có màu đỏ rực như một con quỷ.

Cô không biết Nicolai đã nghe được và hiểu được bao nhiêu nên cô không nói những gì mình đang nghĩ. Cô ra hiệu cho các bạn mình ra khỏi khoang dịch vụ của Nga.

Họ gặp nhau ở phòng sinh hoạt, ở đó Nicolai không thể nghe thấy họ nói gì và họ có thể yên tâm tháo kính bảo vệ và khẩu trang.

- Houston cần cho phương tiện của chúng ta đi ngay. - cô nói. - Nếu không chúng ta sẽ mất anh ấy.

- Họ hiểu tình trạng của anh ấy. - Griggs nói. - Họ không thể cho phép phương tiện di dời khẩn cấp khởi động cho tới khi Nhà Trắng phê chuẩn.

- Vậy là chúng ta sẽ quanh quẩn trên này và nhìn người khác bị bệnh à? - Luther vẫn chưa hết bực. - Nếu chúng ta chỉ cần lên phương tiện di dời khẩn cấp và lên đường thì sao? Họ sẽ làm gì? Bắn chúng ta chắc?

Diana nói khẽ.

- Họ có thể làm vậy.

Sự thật cô vừa nói khiến tất cả im bặt. Bất cứ phi hành gia nào đã lên tàu con thoi và đổ mồ hôi khi đếm ngược đều biết rằng ngồi trong buồng tại Trung tâm vũ trụ Johnson là các nhân viên thuộc Lực lượng Không quân, nhiệm vụ của họ là làm nổ tung tàu con thoi và thiêu sống các phi hành gia. Trong trường hợp hệ thống điều khiển bị trục trặc khi phóng tàu thì nhiệm vụ của các nhân viên an ninh này là ấn nút phá hủy tàu. Họ đã gặp từng thành viên trong phi hành đoàn. Có thể họ đã thấy ảnh của cả gia đình các phi hành gia. Họ biết đích xác mình sắp giết ai. Đó là một nhiệm vụ khủng khiếp nhưng không ai nghi ngờ về việc các nhân viên thuộc Lực lượng Không quân sẽ tiến hành điều đó.

Việc đó cũng gần chắc chắn như việc họ sẽ phá hủy Phương tiện di dời khẩn cấp theo lệnh cấp trên. Khi đối diện với bóng ma của một dịch bệnh giết người mới thì mạng sống của các phi hành gia dường như không còn là chuyện to tát.

Luther nói.

- Tôi dám cá là họ sẽ để chúng ta hạ cánh an toàn? Tại sao lại không chứ? Bốn chúng ta vẫn khỏe mạnh. Chúng tachưa bị mắc triệu chứng gì.

- Nhưng chúng ta đã tiếp xúc với nó. - Diana nói. - Chúng ta đã hít chung bầu không khí, ở cùng khoang. Luther, anh và Nicolai đã ngủ chung trong khoang chặn khí.

- Tôi cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh.

- Tôi cũng vậy. Griggs và Watson cũng vậy. Nhưng nếu đây là một căn bệnh lây nhiễm thì tất cả chúng ta đã ở giai đoạn ủ bệnh.

- Đó là lý do tại sao chúng ta phải tuân lệnh. - Griggs nói. - Chúng ta sẽ không đi đâu hết.

Luther quay sang Emma.

- Cô có đồng tình với chủ nghĩa quân phiệt này không?

- Không. - Emma nói. - Tôi không tán thành.

Griggs sửng sốt nhìn cô.

- Watson?

- Tôi không nghĩ cho bản thân. Tôi đang nghĩ về bệnh nhân của tôi. Nicolai không nói được, nên tôi phải làm thay anh ấy. Tôi muốn anh ấy được ở trong bệnh viện, Griggs.

- Cô đã nghe Houston nói gì rồi đấy.

- Điều tôi nghe được rất mập mờ. Mệnh lệnh di dời đã được đưa ra. Đầu tiên họ nói với chúng ta đó là vi rút Marburg. Rồi họ nói đó không phải là vi rút, mà là một sinh vật mới do những tên khủng bố chế tạo. Tôi không biết có chuyện quái quỷ gì đang xảy ra dưới đó. Tất cả những gì tôi biết là, bệnh nhân của tôi…. - cô đột ngột thấp giọng. - Anh ấy sắp chết. - cô nói khẽ. - Nhiệm vụ trên hết của tôi là làm cho anh ấy sống.

- Và nhiệm vụ của tôi là làm tròn vai trò của một chỉ huy trên trạm.

- Griggs nói. - Tôi buộc phải tin rằng Houston đang làm những gì tốt nhất có thể. Họ sẽ không đẩy chúng ta vào nguy hiểm nếu tình hình không thực sự xấu.

Emma không thể không đồng ý với anh. Trung tâm điều hành nhiệm vụ có những người cô biết và tin tưởng. Và có Jack ở đó, cô nghĩ. Cô không tin ai hơn anh.

- Có vẻ như chúng ta có đường truyền thông tin mới. - Diana nói và nhìn màn hình. - Của Watson.

Emma bay sang bên kia khoang để đọc tin nhắn hiện trên màn hình. Đó là của Trung tâm Khoa học đời sống của NASA.

Bác sĩ Watson,

Chúng tôi nghĩ cô nên biết chính xác mình đang đối mặt với cái gì. - đó là thứ tất cả chúng ta đang đối mặt. Đây là bản phân tích ADN của sinh vật đã tác động đến Kenichi Hirai.

Emma tải tệp tin đính kèm.

Cô mất một lúc để phân tích chuỗi nucleotit chạy trên màn hình. Cô mất vài phút nữa mới tin được kết luận.

Đó là gen của ba động vật khác nhau trong chuỗi nhiễm sắc thể, loài ếch đốm, chuột và con người.

- Sinh vật gì vậy? Diana sốt ruột hỏi.

Emma nói khẽ.

- Một dạng sống mới.

Đó là một con quái vật trong phim của Frankenstein. Đó là một hiện tượng tự nhiên bất thường. Cô bỗng chú ý vào từ chuột, cô nghĩ. Những con chuột. Chúng là những con đầu tiên bị ốm. Trong vòng một tuần rưỡi, chúng đã chết. Lần cuối khi cô kiểm tra lồng, chỉ còn một con cái còn sống.

Cô rời phòng sinh hoạt và hướng về nửa cuối tàu đã bị đóng lại.

Phòng thí nghiệm của Mỹ sáng lờ mờ. Cô lướt trong bóng tối lờ mờ, đến ngăn nhốt động vật. Có phải những con chuột là những sinh vật đầu tiên mang theo các sinh vật này, đó là phương tiện đã đưa Chimera lên Trạm vũ trụ quốc tế chăng? Hay chúng chỉ là các nạn nhân tình cờ bị ảnh hưởng khi tiếp xúc với sinh vật lạ trên trạm?

Con chuột cuối cùng còn sống không?

Cô mở ngăn kéo và nhìn sinh vật cuối cùng còn lại trong lồng.

Tim cô ngừng đập. Con chuột đã chết.

Cô đã nghĩ con chuột cái này có một tai bị gặm nát như một chiến binh sẽ là kẻ sống sót cuối cùng và dù chịu bị hành hạ nhưng nó sẽ sống lâu hơn những con sống cùng lồng. Giờ Emma cảm thấy vô cùng tuyệt vọng khi nhìn cái xác vô hồn lơ lửng ở góc lồng phía xa. Bụng nó trông như bị trương phồng lên. Cái xác phải được bỏ đi ngay lập tức và cho vào túi cách ly.

Cô cho tay vào hộp, đeo găng tay và đưa tay định bắt con chuột. Khi các ngón tay cô vừa chạm vào nó thì cái xác đột nhiên trở mình thức dậy. Cô hét lên kinh hãi và thả nó ra.

Con chuột lật mình lên, nhìn cô chằm chằm, ria nó quắc lên tức giận.

Emma cười thích thú.

- Vậy là mày chưa chết. - cô lẩm bẩm.

- Watson!

Cô quay về phía điện đàm, nơi ai đó vừa nhắc đến tên cô.

- Tôi đang ở phòng thí nghiệm.

- Về đây ngay! Phòng dịch vụ Nga. Nicolai đang lên cơn co giật!

Cô lao ra khỏi phòng thí nghiệm và va vào các bức vách trong ánh sáng lờ mờ khi cô bay nhanh về phía khoang dịch vụ Nga. Điều đầu tiên cô nhìn thấy khi vào khoang là khuôn mặt của các bạn mình, sự hoảng hốt hiện rõ mặc dù họ đều đeo kính bảo vệ. Rồi họ dạt sang hai bên để cô trông thấy Nicolai.

Tay trái của anh đang giật mạnh như lên cơn co giật và lực của nó mạnh đến mức nó khiến cả tấm ván cố định bệnh nhân rung lên. Những cơn co giật bắt đầu di chuyển xuống phần thân trái của anh và chân anh cũng bắt đầu đập mạnh. Giờ hai hông của anh lắc lư, đập mạnh vào tấm ván khi những cơn co giật không ngừng lan khắp cơ thể. Chúng ngày càng mạnh, cổ tay anh ấn chặt vào thân khiến máu hiện rõ. Emma nghe thấy tiếng xương bị gãy khi tay trái anh tiếp tục đập mạnh. Tay phải bị buộc chặt vung lên và đập loạn xạ, phần mu bàn tay anh đập vào mép bàn, làm thương cả da và thịt.

- Giữ chắc anh ấy! Tôi sẽ tiêm cho anh ấy một liều Valium! - Emma hét lên, rồi cuống cuồng lục ngăn tủ y tế.

Griggs và Luther mỗi người cầm chắc một cánh tay nhưng ngay cả Luther cũng không đủ sức giữ được bàn tay đã mất khả năng kiểm soát. Tay phải của Nicolai vung lên như một chiếc roi, hất Luther sang bên. Luther mất đà và chân anh đá vào má của Diana, làm lệch kính bảo vệ của cô.

Đầu của Nicolai đột nhiên đập mạnh về phía sau bàn. Anh thở dốc, ngực phồng lên do nén đầy không khí. Anh ho một hơi dài.

Nước đờm của anh phun ra, bắn vào mặt Diana. Cô hét lên kinh hãi, buông tay và bị trôi về phía sau khi cô dụi đôi mắt đã tiếp xúc với bệnh.

Một giọt nước màu xanh dương pha xanh lá cây bay ngang qua mặt cô. Bọc trong chất dịch trong suốt đó là một cái nhân trông như viên ngọc. Chỉ khi nó trôi qua khu vực được chiếu điện, Emma mới nhận ra cô đang nhìn thấy gì. Khi soi một quả trứng gà ngay trước ánh nến, ta có thể nhìn xuyên qua vỏ vào phần nhân bên trong. Giờ ánh sáng điện như ánh nến, tia sáng của nó xuyên qua lớp màng mờ đục của phần nhân.

Bên trong có thứ gì đó đang chuyển động và nó là sinh vật sống.

Màn hình điện tim kêu rất to. Emma quay lại nhìn Nicolai, cô thấy tim anh đã ngừng đập. Một đường kẻ thẳng tắp chạy ngang màn hình.

Ngày 16 tháng 8

Jack đeo tai nghe lên. Anh ở một mình trong phòng phía sau của Phòng điều hành nhiệm vụ. Lẽ ra đây là cuộc nói chuyện riêng nhưng anh biết điều anh và Emma sắp nói hôm nay sẽ không còn riêng tư nữa. Anh nghĩ là bất cứ cuộc nói chuyện nào trên Trạm vũ trụ quốc tế lúc này sẽ bị Lực lượng không quân Mỹ và Ban chỉ huy Vũ trụ Mỹ theo dõi.

Anh nói.

- Chỉ huy liên lạc, tôi là bác sĩ. Tôi đã sẵn sàng nói chuyện riêng trong năm phút.

- Rõ, bác sĩ. - chỉ huy liên lạc nói. - Phòng điều khiển dưới đất, liên lạc an toàn từ trái đất lên vũ trụ. - Anh dừng lại một chút. - Bác sĩ, hãy tiếp tục kết nối với phòng nói chuyện riêng.

Tim Jack đập mạnh. Anh hít sâu và nói.

- Emma, anh đây.

- Anh ấy sẽ sống nếu chúng ta đưa được anh ấy về. - cô nói. - Đáng lẽ anh ấy đã có cơ hội.

- Chúng ta không phải là người ra lệnh dừng việc di dời khẩn cấp! Một lần nữa, NASA lại bị chiếm quyền. Bọn anh đã cố đưa em về càng sớm càng tốt. Em chỉ cần chờ đợi.

- Sẽ không kịp đâu, Jack. - cô nói khẽ. Và những lời của cô khiến Jack lạnh sống lưng. - Diana cũng đã bị nhiễm bệnh.

- Em chắc không?

- Em đã kiểm tra mức độ amilaza của cô ấy. Nó đang tăng. Giờ bọn em đang theo dõi cô ấy và chờ triệu chứng đầu tiên xuất hiện. Thứ đó đang bay khắp khoang. Bọn em vừa dọn xong nhưng không chắc có ai bị nhiễm bệnh không. - cô dừng lại, anh nghe thấy cô hít mạnh một hơi. - Anh biết về những gì anh thấy trong cơ thể của Andy và Jill không? Những thứ mà anh nghĩ là các u nang ấy? Em đã chia tách nó dưới kính hiển vi. Em đã tải hình ảnh từ Trung tâm Khoa học đời sống. Đó không phải là các u nang, Jack. Và chúng cũng không phải là các bào tử.

- Vậy chúng là gì?

- Chúng là những quả trứng. Có thứ gì đó bên trong chúng. Thứ gì đó đang phát triển.

- Phát triển ư? Theo em thì đó là đa bào?

- Đúng. Đó chính là điều em định nói.

Anh sững sờ. Anh đã nghĩ họ đang đối mặt với một loại vi khuẩn, một thứ không lớn hơn vi khuẩn đơn bào là mấy. Kẻ thù giết con người nhiều nhất luôn là những sinh vật cực nhỏ. - như vi khuẩn và vi rút, động vật nguyên sinh, chúng quá nhỏ nên ta không nhìn thấy bằng mắt thường. Nếu Chimera là động vật đa bào, thì nó sẽ phức tạp hơn nhiều so với một vi khuẩn đơn giản.

- Thứ em thấy vẫn chưa hình thành. - cô nói. - Nó giống một nhóm các tế bào, nhưng lại có mạch máu. Và chúng có thể chuyển động co thắt. Chúng co giãn như một khối các tế bào cơ tim.

- Có thể chúng là một mẻ tế bào, một nhóm đơn bào bám vào nhau.

- Không, em nghĩ đó chỉ là một cơ thể. Nó vẫn còn non và đang tiếp tục phát triển.

- Thành cái gì?

- Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm biết. - cô nói. - Những thứ này đã sinh sôi trong cơ thể của Kenichi Hirai và ăn hết nội tạng anh ấy. Khi cơ thể anh ấy phân hủy, chắc chắn chúng đã bắn ra khắp tàu.

Đó là con tàu mà lực lượng quân đội đã lập tức cách ly, Jack nghĩ và nhớ lại những chiếc trực thăng và những người mặc bộ quần áo vũ trụ.

- Chúng cũng phát triển trong cơ thể của Nicolai.

Anh nói.

- Hãy ném xác đó ra khỏi tàu, Emma. Đừng chần chừ!

- Giờ bọn em sẽ làm việc đó. Luther đang chuẩn bị đưa xác ra khỏi khoang chặn khí. Chúng ta buộc phải tin vũ trụ sẽ giết chết thứ này. Đây là một sự kiện lịch sử, Jack. Vụ chôn con người đầu tiên trong không gian. - cô cười một cách kỳ lạ nhưng nó nhanh chóng im bặt.

- Hãy nghe anh. Anh sẽ đưa em về. Nếu anh có một tên lửa cho riêng mình, anh sẽ lên đó đón em về.

- Họ sẽ không cho bọn em trở về. Giờ em đã hiểu điều đó.

Anh chưa bao giờ nghe thấy cô nói lời bỏ cuộc bao giờ, nó khiến anh tức giận và tuyệt vọng.

- Đừng làm anh thất vọng, Emma!

- Em chỉ thực tế thôi. Em đã nhìn thấy kẻ thù, Jack. Chimera là một dạng sống đa bào phức tạp. Nó di chuyển. Nó sinh sôi. Nó sử dụng ADN của chúng ta, và chống lại chúng ta. Nếu đây là một sinh vật được tạo trong phòng thí nghiệm thì kẻ khủng bố nào đó đã tạo nên một thứ vũ khí hoàn hảo.

- Vậy thì hắn cũng phải tạo nên một bức tường bảo vệ. Không ai chế tạo ra một loại vũ khí mới mà không biết cách bảo vệ mình trước nó.

- Đó là một kẻ bệnh hoạn, một kẻ khủng bố mà niềm vui duy nhất của hắn là giết chết nhiều người. Và thứ này có thể làm điều đó. Nó không chỉ giết người, mà còn tự nhân lên. Nó đang lan tràn. - cô dừng lại. Và giọng cô lộ rõ sự mệt mỏi. - Khi xem xét các yếu tố đó, em thấy rõ ràng bọn em không thể trở về.

Jack tháo tai nghe, hai tay ôm đầu. Anh ngồi một mình rất lâu trong phòng, giọng nói của Emma vẫn sống động trong tâm trí anh. Anh không biết cứu em bằng cách nào, anh nghĩ. Anh còn không biết bắt đầu từ đâu.

Anh không nghe thấy cửa mở. Chỉ khi Liz Gianni thuộc bộ phận kiểm tra các chuyến hàng gọi tên thì anh mới ngẩng đầu lên.

- Chúng ta có một cái tên. - Bà nói.

Anh lắc đầu ngạc nhiên.

- Gì cơ?

- Tôi đã nói với anh là tôi sẽ tìm mẻ nghiên cứu đã bị hủy do nấm phát triển quá nhanh. Hóa ra đó là một nhóm tế bào… Và nhà nghiên cứu chính là bác sĩ Helen Koenig, một nhà sinh vật học hàng hải ở bang California.

- Cô ta sao rồi?

- Cô ta đã biến mất. Hai tuần trước, cô ta đã từ chức khỏi phòng thí nghiệm Khoa học biển nơi cô ta làm việc. Không ai biết tin gì về cô ta kể từ đó. Jack, đây mới là tin giật gân. Tôi vừa nói chuyện với một nhân viên ở Phòng thí nghiệm khoa học biển. Cô ấy cho tôi biết đội điều tra liên bang đã thu dọn toàn bộ phòng thí nghiệm của Koenig vào ngày mùng 9 tháng 8. Họ đã lấy đi toàn bộ hồ sơ của cô ta.

Jack ngồi thẳng lên.

- Vậy thí nghiệm của Koenig là gì? Cô ta đã gửi lên mẻ tế bào gì?

- Một sinh vật biển đơn bào. Họ gọi nó là Archaeon.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


HAI MƯƠI MỐT

- Lẽ ra đó là một bản dự thảo kéo dài trong ba tháng. - Liz nói. - Đó là một nghiên cứu về cách thức nhân lên của Archaeon trong môi trường trọng lực siêu nhỏ. Mẻ tế bào đã cho kết quả nguy hiểm. Nó phát triển quá nhanh và đóng lại thành từng khối. Nó đã nhân lên với tốc độ đáng sợ.

Họ đang đi dọc con đường uốn quanh khuôn viên của Trung tâm vũ trụ Johnson, qua bồn nước có vòi phun nước vào không khí ảm đạm. Ngày hôm đó khó chịu, nóng và oi bức nhưng họ thấy an toàn hơn khi nói chuyện bên ngoài. Ít ra họ có thể nói chuyện riêng.

- Các tế bào phản ứng khác lạ trong vũ trụ. - Jack nói. Đó thực sự là lý do tại sao các mẻ tế bào lại được nuôi trong trạm vũ trụ bay quanh quỹ đạo. Ở trái đất, các mô phát triển theo chiều ngang của một tờ giấy và bao phủ bề mặt đĩa cấy tế bào. Trong vũ trụ, trọng lực cho phép các tế bào phát triển theo không gian ba chiều và giúp chúng có được các hình dạng mà chúng không thể có trên trái đất.

- Khi suy nghĩ về việc các sinh vật này thú vị mức nào. - Liz nói. - thì thật ngạc nhiên là chúng lại bị hủy trong vòng sáu tuần rưỡi.

- Ai đã hủy thí nghiệm? - Jack hỏi.

- Đó là lệnh trực tiếp của Helen Koenig. Rõ ràng cô ta đã phân tích các mẫu Archaeon được đưa trở về trái đất từ tàu Atlantis và phát hiện thấy chúng đã bị nhiễm nấm. Cô ấy đã ra lệnh hủy mẻ tế bào đó trên trạm vũ trụ quốc tế.

- Thật vậy sao?

- Đúng vậy. Nhưng điều kỳ lạ là nó đã bị hủy như thế nào? Phi hành đoàn đã không đóng gói, mà ném nó đi như rác thải ướt, đó là điều họ thường làm với sinh vật vô hại. Koenig đã yêu cầu họ cho nó vào nồi nấu kim loại và thiêu chúng, rồi ném tro ra ngoài vũ trụ.

Jack ngừng lại trên lối đi, nhìn bà chằm chằm.

- Nếu bác sĩ Helen Koenig là một tên khủng bố sinh học thì tại sao cô ta lại phải hủy vũ khí của mình?

- Suy luận của anh rất giống tôi.

Anh nghĩ về điều đó một lúc, cố hiểu nó nhưng không thể tìm ra câu trả lời.

- Hãy cho tôi biết thêm về các thí nghiệm của cô ta. - Anh nói. - Archaeon chính xác là cái gì?

- Petrovitch và tôi đã đọc kỹ phần kiến thức nền tảng Archaeon là một nhóm kỳ lạ bao gồm các sinh vật đơn bào có tên extremphile. - tức là “các sinh vật thích các điều kiện khắc nghiệt cực điểm”. Chúng được phát hiện cách đây hai mươi năm, còn sống và sinh sôi gần các miệng phun núi lửa ở đáy biển. Chúng cũng được tìm thấy trong các mỏm băng ở vùng cực và trong lớp đá nằm sâu trong lớp vỏ trái đất, nơi mà chúng ta luôn cho là sự sống không tồn tại.

- Vậy chúng là một loại vi khuẩn cứng đầu?

- Không, chúng là một nhánh sinh vật tách biệt hoàn toàn. Về nghĩa đen, tên của chúng nghĩa là “các sinh vật cổ”. Chúng cổ xưa đến mức chúng là thủy tổ của mọi dạng sống, vào thời mà ngay cả vi khuẩn cũng chưa xuất hiện. Archaeon là một dạng sống xuất hiện đầu tiên trên hành tinh của chúng ta, và dù chịu tác động của chiến tranh hạt nhân hay va chạm với hành tinh khác thì chúng sẽ tồn tại rất lâu sau khi chúng ta đã tuyệt chủng hết. - Bà dừng lại. - Nói tóm lại thì chúng là sinh vật bất bại cuối cùng trên trái đất.

- Và chúng có thể lây lan?

- Không. Chúng vô hại với con người.

- Vậy nó không phải là sinh vật đang đe dọa chúng ta?

- Nhưng có thứ gì đó trong mẻ tế bào đó thì sao? Nếu cô ta đã lỡ cho vào một sinh vật khác trước khi chuyển chuyến hàng đến chỗ chúng ta thì sao? Tôi thấy thật thú vị là Helen Koenig đã biến mất ngay khi vụ bê bối này bắt đầu nóng lên.

Jack không nói gì, đầu óc anh đang mải nghĩ về việc Helen Koenig đã lập tức cho thiêu hủy toàn bộ mẻ nghiên cứu của mình. Anh nhớ lại điều Gordon Obie đã nói ở cuộc họp. Có lẽ đây không phải là hoạt động phá hoại ngầm, mà là một điều khác đáng sợ không kém. Đây là một sai sót.

- Còn nữa. - Liz nói. - Thí nghiệm này có điều gì đó khiến tôi quan tâm.

- Là gì vậy?

- Nó đã được tài trợ thế nào. Các thí nghiệm bên ngoài NASA phải cạnh tranh để được đưa lên trạm vũ trụ. Các nhà khoa học sẽ phải điền vào đơn đăng ký và giải thích các lý do về mặc kinh tế để đưa thí nghiệm của họ lên. Nó được chúng tôi xem qua trước khi chúng tôi phê duyệt xem thí nghiệm nào được đưa lên. Quá trình đó mất rất lâu, ít nhất là một năm.

- Việc ứng dụng Archaeons mất bao lâu?

- Sáu tháng.

Anh chau mày.

- Nó đã được đẩy lên quá nhanh phải không?

Liz gật đầu.

- Quá nhanh. Nó không cần cạnh tranh để có được tiền hỗ trợ từ phía NASA như hầu hết các thí nghiệm khác. Nó đã được bồi hoàn về mặt kinh tế. Ai đó đã trả tiền để gửi thí nghiệm đó lên Trạm vũ trụ quốc tế.

- Vậy tại sao một công ty lại trả nhiều tiền như vậy. - ý tôi là trả một số tiền quá lớn cho các sinh vật vô giá trị? Vì khao khát hiểu khoa học chăng? Bà khịt mũi nghi ngờ. - Tôi không nghĩ vậy.

- Công ty nào đã trả tiền cho nó?

- Chính là công ty của bác sĩ Koenig, phòng thí nghiệm Khoa học biển tại La Jolla, bang California. Họ tạo ra các sản phẩm mới từ biển.

Nỗi thất vọng ban đầu của Jack giờ đã tan biến. Giờ anh đã có thông tin để làm việc, có một kế hoạch hành động. Cuối cùng anh đã có thể làm gì đó.

Anh nói.

- Tôi cần địa chỉ và số điện thoại của phòng thí nghiệm Khoa học biển, và cả tên cô nhân viên đã nói chuyện với bà.

Liz gật đầu ngay.

- Anh sẽ có ngay, Jack.

Ngày 17 tháng 8

Diana tỉnh dậy sau giấc ngủ sâu, đầu cô đau như búa bổ và những giấc mơ vẫn chập chờn. Giấc mơ về nước Anh, về ngôi nhà thời thơ ấu ở Cornwall, về con đường lát gạch đỏ xinh xắn dẫn đến cửa trước, trên cửa có cây hồng leo. Trong giấc mơ của mình, cô đã đẩy cánh cổng nhỏ và nghe thấy nó kêu kẽo kẹt như mọi khi do mép cửa đã khô dầu. Cô bắt đầu bước đến chỗ lối đi dẫn đến ngôi nhà xây bằng đá.

Chỉ cần đi dăm bước là cô sẽ đến bậc cửa và mở cánh cửa đó. Cô sẽ hét to vì cuối cùng cô đã về nhà. Cô muốn mẹ ôm ấp và tha thứ cho cô. Nhưng dăm ba bước đó lại biến thành mười bước, hai mươi bước. Và cô vẫn không thể đến ngôi nhà đó. Con đường nhỏ trải dài xa mãi, xa mãi cho tới khi ngôi nhà nhỏ lùi lại chỉ còn bằng một con búp bê.

Diana tỉnh dậy, cả hai tay dang rộng và cô thét lên tuyệt vọng.

Cô mở mắt và thấy Michael Griggs đang nhìn mình. Mặt anh bị che kỹ bởi khẩu trang sợi hoạt tính và kính bảo vệ nhưng cô vẫn thấy vẻ sợ hãi trên đó.

Cô mở khóa túi ngủ, bay ngang khoang dịch vụ Nga. Ngay cả trước khi soi gương, cô đã biết mình sẽ thấy gì.

Một vệt màu đỏ tươi đang xâm lấn lòng trắng ở mắt bên trái của cô.

Emma và Luther thì thào khi họ bay cạnh nhau trong phòng sinh hoạt sáng lờ mờ. Phần lớn trạm vũ trụ vẫn trong tình trạng mất điện, trừ khoang của Nga có nguồn điện riêng và hoạt động hết công suất. Đầu kia của trạm thuộc về Mỹ đã biến thành một mê cung các đường hầm tối tăm ma quái. Nguồn sáng lớn nhất là màn hình máy tính trên đó có các sơ đồ của Hệ thống điều khiển môi trường và Hỗ trợ sự sống. Emma và Luther đã quen với hệ thống Điều khiển môi trường, đã ghi nhớ từng bộ phận của nó và các hệ thống phụ trong suốt quá trình họ được rèn luyện trên trái đất. Giờ họ có lý do khẩn cấp cần xem xét lại hệ thống đó. Có dịch bệnh trên tàu và họ không chắc toàn bộ tàu đã bị nhiễm bệnh chưa. Lúc Nicolai ho, những quả trứng đã bắn ra khắp khoang dịch vụ của Nga và khi đó cánh cửa để mở. Trong vòng vài giây, hệ thống lưu thông không khí trên trạm được thiết kế để ngăn không cho các túi khí ngày càng tích tụ, đã cuốn các cụm không khí đó đến các điểm khác trên tàu. Hệ thống điều khiển trong không khí như môi trường có lọc và nhốt lại các phân tử mới được sinh ra trong không khí như chức năng vốn có của nó không? Hay dịch bệnh đã có ở khắp nơi và ở mọi khoang.

Màn hình máy tính hiện lên một sơ đồ dòng khí đi vào và ra không khí của trạm. Oxi được cung cấp bởi vài nguồn tách biệt. Và nguồn cung cấp chính là máy electron của Nga, nó điện phân nước thành các phân tử hy-drô và ô-xi. Máy phát sử dụng dung dịch chất lỏng dùng các đĩa hóa chất làm một trong các nguồn cung cấp chính như các thùng chứa oxi và nó được tàu con thoi nạp nhiên liệu. Một hệ thống bơm sẽ đẩy oxi lên, trộn với ni-tơ ở khắp trạm. Các cánh quạt sẽ liên tục giữ cho không khí được lưu thông giữa các khoang. Các cánh quạt cùng hút không khí vào các máy lọc hơi đốt và máy lọc khí, loại bỏ khí CO2, nước và các chất cặn bã trong không khí.

- Các máy lọc không khí đặc biệt hiệu quả cao này sẽ giữ lại bất cứ quả trứng hay ấu trùng nào trong phòng mười lăm phút. - Luther nói và chỉ vào các máy lọc không khí đặc biệt hiệu quả cao trên sơ đồ. - Hệ thống này đạt hiệu quả chín chín phẩy chín phần trăm. Bất cứ thứ gì lớn hơn một phần ba micromet sẽ bị lọc ra.

- Giả sử những quả trứng đó có trong không khí. - Emma nói. - Vấn đề là chúng bám chặt lên bề mặt. Tôi đã thấy chúng chuyển động. Chúng có thể bò vào các khe hở, trốn sau các tấm vách mà chúng ta không nhìn thấy.

- Chúng ta sẽ mất mấy tháng mở tung mọi tấm vách để tìm chúng. Ngay cả khi đó, chúng ta sẽ vẫn bỏ sót vài chỗ.

- Đừng nghĩ đến việc dỡ các tấm vách! Vô ích thôi. Tôi sẽ thay đổi các bộ lọc không khí đặc biệt hiệu quả cao còn lại. Ngày mai chúng ta sẽ kiểm tra lại các mẫu vi khuẩn trong không khí. Chúng ta phải tin việc đó sẽ có tác dụng. Nhưng nếu các ấu trùng đó đã chui vào các dây dẫn điện thì chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy chúng. - Cô thở dài. Cô mệt mỏi đến nỗi phải cố gắng lắm mới suy nghĩ được. - Dù chúng ta làm gì thì cũng chẳng có gì thay đổi. Có lẽ đã quá muộn.

- Rõ ràng đã quá muộn với Diana. - Luther khẽ nói.

Hôm nay, mắt của Diana đã bắt đầu bị xuất huyết màng trắng. Giờ cô đã bị cách ly ở khoang dịch vụ Nga. Cửa ra vào đã bị dính một tấm nhựa và không ai được phép vào đó nếu không đeo khẩu trang và kính bảo vệ. Một việc làm vô nghĩa, Emma nghĩ. Họ đã hít thở chung bầu không khí, họ đều đã tiếp xúc với Nicolai. Có lẽ họ đều đã nhiễm bệnh.

- Chúng ta phải nghĩ rằng khoang dịch vụ Nga giờ đã bị nhiễm bệnh và không cứu vãn được. - Emma nói.

- Đó là khoang duy nhất còn đầy đủ năng lượng sống. Chúng ta không thể đóng hết khoang đó.

- Vậy tôi nghĩ anh biết chúng ta cần làm gì.

Luther mệt mỏi gật đầu.

- Ra ngoài vũ trụ một lần nữa.

- Chúng ta cần khôi phục lại năng lượng cho phần đuôi tàu này. - cô nói. - Anh phải sửa xong chuỗi các giàn nhiệt, nếu không ta sẽ lại đối mặt với một thảm họa khác. Nếu có thêm trục trặc gì nữa với nguồn điện chính, ta có thể mất hệ thống điều khiển môi trường, tiếp đó là các máy tính điều khiển và chỉ đường. - Người Nga đã từng gọi đó là một tình huống quan tài. Không có năng lượng để tự điều chỉnh, cả trạm sẽ lần lượt bị mất hết kiểm soát.

- Thậm chí nếu chúng ta khôi phục lại năng lượng thì nó sẽ không giải quyết được vấn đề thực sự. Đó là ô nhiễm sinh học.

- Nếu chúng ta có thể giới hạn nó ở cuối khoang dịch vụ của Nga.

- Nhưng ngay lúc này cô ấy đang ủ bệnh! Cô ấy như quả bom sắp nổ!

- Chúng ta sẽ ném xác của cô ấy ra ngoài vũ trụ ngay khi cô ấy chết. - Emma nói. - Trước khi cô ấy làm văng ra bất cứ quả trứng hay ấu trùng nào.

- Điều đó có thể không còn kịp nữa. Nicolai đã ho ra những quả trứng đó khi anh ấy còn sống. Nếu chúng ta đợi cho đến khi Diana chết…

- Anh đang nghĩ đến việc gì vậy, Luther? - Giọng nói của Griggs khiến cả hai đều giật mình. Họ quay lại nhìn anh. Anh đang đứng ở cánh cửa nhìn họ, mặt anh sáng lên trong bóng tối. - Có phải anh định nói là chúng ta sẽ ném cô ấy ra ngoài trong khi cô ấy vẫn còn sống không?

Luther bay sâu hơn vào chỗ tối như thể lui quân khi bị tấn công.

- Lạy Chúa, đó không phải là điều tôi định nói.

- Vậy thì anh đã định nói gì?

- Lạy Chúa, đó là các ấu trùng. - chúng ta biết nó ở bên trong cô ấy. Chúng ta biết đó chỉ là vấn đề thời gian.

- Có thể nó ở trong tất cả chúng ta. Có thể nó đang ở trong anh, đang lớn lên và phát triển ngay lúc này. Chúng tôi có nên ném anh ra ngoài không?

- Nếu điều đó ngăn không cho nó lan ra. Nghe này, tất cả chúng ta đều biết cô ấy sắp chết. Chúng ta không thể làm gì để cứu vãn điều đó. Chúng ta phải nghĩ xa hơn.

- Câm đi! - Griggs lao qua khoang sinh hoạt, túm lấy áo Luther. Cả hai đâm sầm vào bức vách đằng xa và lại bật ra. Họ xoay đi xoay lại trong không khí, Luther cố gạt tay Griggs ra, còn Griggs không chịu buông.

- Thôi đi! - Emma hét lên. - Griggs, bỏ anh ấy ra!

Griggs buôn tay. Hai người trôi dạt sang hai bên và thở dốc. Emma đứng giữa hai người như trọng tài.

- Luther nói đúng. - cô nói với Griggs. - Chúng ta phải nghĩ cho tương lai. Có thể chúng ta không muốn chuyện này, nhưng chúng ta phải làm.

- Vậy nếu đó là cô thì sao, Watson? - Griggs cự lại. - Cô sẽ muốn chúng tôi bàn bạc thế nào với cái xác của cô? Cô muốn chúng tôi đóng gói và ném cô đi nhanh mức nào?

- Tôi mong các anh sẽ nghĩ đến kế hoạch đó! Có ba người ở đây bị nguy hiểm và Diana biết điều đó. Tôi đang cố hết sức để giữ lại mạng sống cho cô ấy, nhưng ngay lúc này, tôi không biết cách nào sẽ có tác dụng. Tất cả những gì tôi có thể làm là tiêm kháng sinh cho cô ấy và chờ Houston cho chúng ta câu trả lời. Theo tôi biết, chúng ta hoàn toàn cô độc trên này. Chúng ta phải tính đến những điều tồi tệ nhất!

Griggs lắc đầu. Mắt anh đỏ lên, mặt anh trông vô cùng sầu não. Anh nói khẽ.

- Việc này có thể tệ hơn mức nào nữa?

Cô không trả lời. Cô nhìn Luther và đọc được suy nghĩ của chính mình trong mắt anh. Điều tồi tệ nhất vẫn chưa đến.

- Trạm vũ trụ quốc tế, chúng tôi có bác sĩ đang ở đây. - Chỉ huy liên lạc nói. - Hãy tiếp tục!

- Jack phải không? - Emma vội hỏi.

Cô thất vọng khi nghe thấy tiếng của Todd Cutler

- Tôi đây, Emma. Tôi xin lỗi, Jack đã rời trung tâm Johnson cả ngày nay. Anh ấy và Gordon đến California.

Khốn kiếp, Jack. Cô nghĩ. Em cần anh lúc này.

- Chúng tôi đều nhất trí về việc ra ngoài vũ trụ. - Todd nói. - Việc đó cần thực hiện ngay. Tôi muốn hỏi cô một câu. Luther Ames thế nào, cả về mặt sức khỏe và tinh thần? Anh ấy sẵn sàng làm việc này chưa?

- Anh ấy mệt mỏi. Tất cả chúng tôi đều mệt mỏi. Hai tư giờ qua, chúng tôi hầu như không ngủ được. Chúng tôi bận lau dọn.

- Nếu chúng ta cho anh ấy nghỉ ngơi một ngày, anh ấy có ra ngoài vũ trụ được không?

- Ngay lúc này, chỉ một ngày thì có vẻ như một giấc mơ hão huyền.

- Không đủ thời gian sao?

Cô suy nghĩ về chuyện đó một lát.

- Tôi nghĩ vậy. Anh ấy chỉ cần ngủ đủ.

- Được rồi. Câu hỏi thứ hai của tôi là cô có muốn đi ra ngoài không gian không?

Emma ngạc nhiên dừng lại.

- Anh muốn tôi là bạn đồng hành của anh ấy à?

- Chúng tôi nghĩ Griggs không có tâm trí làm việc đó. Anh ấy đã cắt đứt toàn bộ liên lạc với mặt đất. Nhà phân tích tâm lý của chúng ta cho biết hiện giờ anh ấy không ổn định.

- Anh ấy rất buồn, Todd ạ. Và còn cay đắng hơn khi các bạn không thể đưa chúng tôi về. Anh có thể không biết chuyện này nhưng Griggs và Diana…. - cô dừng lại.

- Chúng tôi biết. Tình cảm đã khiến anh ấy làm việc không còn hiệu quả. Nó khiến việc đi ra ngoài vũ trụ quá nguy hiểm. Đó là lý do cô phải đi cùng Luther.

- Quần áo thì sao? Các bộ quần áo đi bộ ngoài không gian quá rộng với tôi.

- Có một bộ Orlan cỡ M để trong tàu Soyuz cũ. Nó được thiết kế cho Elena Savitskaya, và được để lại trên trạm sau khi cô ấy làm xong nhiệm vụ cách đây vài tháng. Elena có chiều cao và cân nặng tương đương cô. Nó sẽ vừa thôi.

- Đây sẽ là chuyến đi ra ngoài vũ trụ đầu tiên của tôi.

- Cô sẽ được huấn luyện bằng thiết bị tập luyện trong môi trường không trọng lượng. Cô có thể làm được. Luther chỉ cần cô ngoài đó để trợ giúp.

- Còn bệnh nhân của tôi thì sao? Nếu tôi ra ngoài không gian thì ai sẽ chăm sóc cô ấy?

- Griggs có thể thay điện tim và đáp ứng các yêu cầu của cô ấy.

- Nếu có sự cố thì sao? Nếu cô ấy bắt đầu lên cơn co giật thì sao?

Todd khẽ nói.

- Cô ấy sắp chết, Emma ạ. Chúng tôi nghĩ cô không thể thay đổi sự thật đó được nữa.

- Đó là vì các anh chẳng cho tôi thông tin bổ ích nào để tôi làm việc cả! Các anh chỉ muốn giữ lại trạm vũ trụ này thôi! Có vẻ các anh quan tâm đến các tấm năng lượng mặt trời, hơn là lo cho phi hành đoàn. Chúng tôi cần cách chữa trị, Todd ạ, nếu không chúng tôi sẽ chết hết trên này.

- Chúng tôi chưa tìm ra cách điều trị, vẫn chưa…

- Vậy thì, thật khốn nạn! Hãy đưa chúng tôi về!

- Vậy cô nghĩ chúng tôi muốn mọi người trôi dạt trên đó sao? Cô nghĩ chúng tôi còn lựa chọn sao? Ở đây như thể có mệnh lệnh tối cao của chế độ Đức quốc xã! Các nhân viên thuộc Lực lượng Không quân đã chiếm hết Phòng điều hành nhiệm vụ.

Đột nhiên anh im bặt.

- Bác sĩ? - Emma gọi. - Todd!

Vẫn không ai trả lời.

- Chỉ huy liên lạc, tôi đã mất liên lạc với bác sĩ. - cô nói. - tôi cần anh nối lại đường dây.

Mọi liên lạc dừng lại. Rồi sau đó.

- Hãy chờ, Trạm vũ trụ quốc tế!

Cô chờ như thể vô vọng. Cuối cùng, khi giọng nói của Todd xuất hiện trở lại, cô thấy nó bé hẳn. Anh ấy bị đe dọa, Emma nghĩ.

- Họ đang nghe lén, đúng không? - Cô hỏi.

- Đúng!

- Đáng lẽ đây là cuộc nói chuyện riêng của gia đình! Đây là đường dây riêng mà!

- Không còn gì riêng tư nữa. Hãy nhớ điều đó.

Cô nuốt khan, cố nén cơn tức giận.

- Được rồi, tôi lại phải tha thứ cho cái trò này. Những hãy cho tôi biết là anh đã hiểu về sinh vật này. Hãy cho tôi biết tôi có thể dùng thuốc gì để chống lại nó?

- Tôi e là chưa có nhiều điều để cho cô biết. Tôi vừa nói chuyện với Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm, với bác sĩ Roman, người chịu trách nhiệm về dự án Chimera. Tin tức của anh ta không được tốt lắm. Toàn bộ các thử nghiệm với thuốc kháng sinh và kháng giun sán của họ đã thất bại. Anh ta nói Chimera có quá nhiều ADN lạ, và lúc này nó giống nhiễm sắc thể của động vật có vú hơn bất cứ thứ khác. Điều đó nghĩa là, nếu chúng ta dùng loại thuốc gì thì nó cũng sẽ giết chết chính chúng ta.

- Họ thử thuốc chống ung thư chưa? Sinh vật này nhân lên quá nhanh, nó như một khối u vậy. Ta có thể chống lại nó bằng cách đó không?

- Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đã thử thuốc ức chế gián phân và hy vọng có thể tiêu diệt nó trong quá trình giảm phân. Nhưng thật không may, liều thuốc họ cần mạnh đến nỗi nó giết chết cả con vật chủ. Toàn bộ chất nhầy trong ruột đã bị ăn hết. Con vật chủ chảy máu đến chết.

Đó là cái chết khủng khiếp nhất mà người ta có thể tưởng tượng được. Emma nghĩ. Ruột và dạ dày bị xuất huyết. Máu trào ra từ miệng và trực tràng. Cô đã chứng kiến một cái chết như vậy khi còn ở trái đất. Thậm chí nó còn đáng sợ hơn nhiều, các cục máu lớn bay đầy phòng như các quả bóng khổng lồ màu đỏ tươi, nó bắn tung tóe khắp nơi và bắn vào cả phi hành đoàn.

- Vậy thì chưa có cách nào. - cô buồn rầu.

Todd không nói gì.

- Không có cách nào sao? Không có cách nào để không giết chết con chủ à?

- Họ chỉ nhắc đến một thứ. Nhưng Roman tin đó chỉ là tác động tạm thời, chứ không phải là cách chữa trị.

- Cách gì vậy?

- Đó là cách điều trị trong phòng bội áp suất. Nó đòi hỏi áp suất nhỏ nhất là mười at-mốt-phe, tương đương với áp suất khi lặn xuống độ sâu hơn ba trăm mét, Những con vật bị nhiễm bệnh được giữ dưới áp suất cao như vậy vẫn còn sống sáu ngày sau khi bị nhiễm bệnh.

- Phải ít nhất là mười at-mốt-phe à?

- Chỉ cần thấp hơn, quá trình nhiễm bệnh sẽ tiếp tục như bình thường. Và sinh vật chủ sẽ chết.

Cô kêu lên bực tức.

- Ngay cả khi chúng ta bơm được áp suất không khí cao mức đó thì mười at-mốt-phe cao hơn mức trạm vũ trụ có thể chịu được.

- Mức hai at-mốt-phe đã gây áp lực lên thân tàu rồi. - Todd nói. - Thêm vào đó, cô cần máy áp suất bơm khí heli và ô-xi. Cô không thể tạo ra thứ đó trên trạm vũ trụ. Đó là lý do tôi không muốn nhắc đến nó. Trong tình huống của cô thì thông tin đó vô ích thôi. Chúng tôi đã xem xét khả năng đưa phòng bội áp suất lên trạm vũ trụ. Nhưng việc đưa thiết bị cồng kềnh như vậy. - một thứ tạo áp suất cao mức đó. - thì cần đến khu chở hàng của tàu Endeavour. Vấn đề là con tàu đó đã được đưa vào giai đoạn sửa chữa. Sẽ mất ít nhất hai tuần để đưa phòng bội áp suất lên tàu và phóng tàu. Điều đó nghĩa là chúng ta sẽ phải gắn tàu con thoi vào trạm vũ trụ, khiến toàn bộ tàu Endeavour và phi hành đoàn có nguy cơ bị lây bệnh. - Anh dừng lại. - Viên nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm nói lựa chọn đó không được chấp thuận.

Cô im lặng, sự tức giận của cô đã lên cao trào. Hy vọng duy nhất của họ, phòng bội áp suất đòi hỏi họ phải trở về trái đất. Điều đó cũng không khả thi.

- Ta phải lợi dụng được thông tin này chứ. - cô nói. - Hãy giải thích cho tôi! Tại sao biện pháp dùng bội áp suất của họ lại có tác dụng? Tại sao Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm không nghĩ đến việc thử nó?

- Tôi đã hỏi bác sĩ Roman câu hỏi đó.

- Anh ta nói gì?

- Đó là một sinh vật mới lạ. Nó đòi hỏi chúng ta sử dụng biện pháp mới.

- Anh ta không trả lời câu hỏi của anh.

- Đó là tất cả những gì anh ta nói với tôi.

Áp suất mười at-mốt-phe vượt mức chịu đựng của con người. Emma đã từng là thợ lặn rất lành nghề nhưng cô chưa bao giờ dám lặn sâu quá chín mươi mét, độ sâu chín mươi mét chỉ dành cho những kẻ điên. Tại sao Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bện lây nhiễm lại muốn thử nghiệm mức áp suất cực đại như vậy?

Chắc chắn họ có lý do, cô nghĩ. Họ biết điều gì đó về sinh vật này nên họ nghĩ cách đó sẽ có tác dụng.

Họ đang giấu NASA chuyện gì đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


HAI MƯƠI HAI

Lý do Gordon Obie có biệt danh Nhân sư chưa bao giờ được thể hiện rõ như trên chuyến bay đến San Diego. Họ đã đăng ký một trong các máy bay phản lực T-38 ở sân bay Ellington, Obie ngồi ở khoang điều khiển, còn Jack ngồi thu mình trong ghế hành khách. Họ hầu như không nói với nhau lời nào, điều đó không hề lạ. Máy bay T-38 không thuận tiện để nói chuyện vì hành khách và phi công ngồi thẳng hàng với nhau như hai hạt đậu đặt trong vỏ. Nhưng ngay cả khi họ ngồi duỗi chân sau hơn một tiếng rưỡi bay trong không gian chật chội, Obie vẫn không bị cuốn vào cuộc nói chuyện nào. Duy nhất một lần, khi họ đứng trên mép đường nhựa, uống trà, Bác sĩ Peppers lấy từ máy bán đồ uống tự động, ông mới chợt thốt ra một lời bình phẩm.

- Nếu cô ấy là vợ tôi thì tôi cũng sẽ sợ lắm.

Rồi ông ném chai nước vào thùng rác, bước trở về máy bay.

Sau khi hạ cánh ở sân bay Lindbergh, Jack nhận lái chiếc xe họ thuê được. Họ đi về phía bắc đến Interstate 5, đến La Jolla. Gordon hầu như không nói gì mà chỉ nhìn ra ngoài cửa sổ. Jack luôn nghĩ Gordon giống một cỗ máy hơn một con người. Anh tưởng tượng ra một bộ não như máy tính đang ghi nhận các khung cảnh lướt qua như các chuỗi dữ liệu: ĐỒI, ĐƯỜNG XÁ, XÂY DỰNG NHÀ CỬA. Mặc dù Gordon đã từng là phi hành gia nhưng không ai ở NASA thực sự hiểu ông. Ông mẫn cán xuất hiện trong toàn bộ các sự kiện xã hội của họ, nhưng sẽ đứng một mình, im lặng và làm một cái bóng cô đơn nhấm nháp không gì khác ngoài đồ uống yêu thích là trà Bác sĩ Peppers. Dường như ông hoàn toàn thấy thoải mái với sự im lặng của chính mình, coi đó là một phần cá tính của mình, giống như việc ông chấp nhận cặp tai nhô ra một cách hài hước và mái tóc cắt cẩu thả của mình. Nếu không ai thực sự hiểu Gordon Obie thì đó là vì ông không thấy cần thiết phải thể hiện bản thân.

Đó là lý do Jack ngạc nhiên khi nghe thấy câu bình luận của ông ở El Paso. Nếu cô ấy là vợ tôi thì tôi cũng sẽ sợ lắm.

Jack không thể tưởng tượng Nhân sự biết sợ hãi, anh cũng không thể tưởng tượng ông đã kết hôn. Theo như anh biết thì Gordon từ trước đến giờ là người độc thân.

Sương chiều đã cuộn vào từ phía biển khi họ lái xe vào chỗ đường vòng dẫn đến bờ biển La Jolla. Họ suýt nữa không vào được Trung tâm Khoa học biển. Người ta treo một tấm biển nhỏ ghi đã đóng cửa, con đường nhỏ phía sau dường như dẫn đến một rừng cây bạch đàn. Chỉ khi lái xe cách tấm biển nửa dặm họ mới nhìn thấy tòa nhà kỳ quái, trông gần như một khu pháo đài với các khối bê tông màu trắng nhìn ra biển.

Một phụ nữ mặc áo khoác trắng của phòng thí nghiệm tiếp họ ở khu vực an ninh.

- Rebecca Gould. - cô nói và bắt tay họ. - Tôi làm ở phòng ngay cạnh Helen, tôi đã nói chuyện với các vụ sáng nay. - Với mái tóc ngắn, thân hình chắc nịch, Rebecca trông không ra nam, cũng chẳng ra nữ. Ngay cả giọng nói ồm ồm của cô cũng khó nhận biết.

Họ đi thang máy xuống tầng hầm.

Tôi thật sự không biết tại sao các vị lại nằng nặc đòi xuống đây. - Rebecca nói. - Như tôi đã nói qua điện thoại, Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đã dọn sạch văn phòng của Helen. - Cô chỉ vào cánh cửa. - Các vị có thể tự xem xem họ để lại những gì.

Jack và Gordon vào phòng thí nghiệm, kinh ngạc nhìn quanh. Các ngăn kéo đựng tài liệu đều trống trơn. Các kệ và mặt tủ đã bị lấy hết thiết bị và không còn nhìn thấy một ống nghiệm nào. Chỉ các bức ảnh trang trí trên tường còn được giữ lại, hầu hết là các bức ảnh khi đi du lịch. Đó là các bức ảnh lôi cuốn, có cảnh các bãi biển nhiệt đới, cọ và những cô gái nước da bánh mật đang lấp lóa dưới ánh nắng.

- Tôi đang đi dọc hành lang để về phòng hôm đó thì đột nhiên họ xuất hiện. Tôi nghe thấy nhiều giọng nói không vui và cả tiếng kính vỡ. Tôi nhìn qua cánh cửa và thấy bọn họ lục tung hồ sơ, máy tính. Họ lấy đi mọi thứ. Lò ấp trứng với các mẻ thí nghiệm của cô ấy, các ngăn đựng mẫu thí nghiệm sinh vật biển, cả những con ếch cô ấy nuôi ở khu đất đằng kia. Các trợ lý của tôi la hét đòi họ dừng lại, họ tuôn ra không biết bao nhiêu câu hỏi. Tôi tự động chạy lên phòng tiến sỹ Gabriel ở trên lầu.

- Gabriel à?

- Ông Palmer Gabriel, chủ tịch công ty của chúng tôi. Ông ấy cũng xuống, đi cùng một viên thụ ủy của Trung tâm Khoa học biển. Họ cũng không thể ngăn hành động cướp phá đó. Quân đội đã vào, mang theo các hộp giấy lớn và họ khuân hết mọi thứ. Họ còn lấy bữa trưa của các nhân viên! - Cô mở tủ lạnh và chỉ vào các ngăn tủ trống không. - Tôi cũng không rõ tại sao các vị đến đây.

- Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều đang tìm Helen Koenig.

- Tôi đã nói rồi. Cô ấy đã từ chức.

- Cô biết tại sao không?

Rebecca nhún vai.

- Đó là điều mà Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm hỏi tôi mãi. Cô ấy có bực tức gì khi ở Trung tâm Khoa học biển không? Tôi đảm bảo không có điều đó. Tôi nghĩ cô ấy chỉ mệt mỏi vì bị vắt kiệt sức khi làm việc bảy ngày một tuần. Chỉ có Chúa mới biết cô ấy đã làm như vậy bao lâu.

- Và không ai tìm thấy cô ấy.

Rebecca hất cằm lên giận dữ.

- Rời thị trấn không phải là một tội.

Điều đó không có nghĩa cô ấy là một tên khủng bố. Nhưng Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đã coi Trung tâm thí nghiệm này như hiện trường gây án, như thể cô ấy đang gây mầm vi rút Bola hay thứ gì đại loại như vậy. Helen đang nghiên cứu Archaeons, các vi khuẩn vô hại.

- Cô có chắc đó là dự án duy nhất đang được thực hiện trong phòng thí nghiệm này không?

- Ông đang hỏi tôi có theo dõi Helen không à? Tất nhiên là không. Tôi còn bận rộn với công việc của mình. Nhưng Helen có thể làm gì khác nữa? Cô ấy đã mất hàng năm trời nghiên cứu Archaeon. Mẫu thí nghiệm mà cô ấy đã gửi lên Trạm vũ trụ quốc tế là phát hiện của cô ấy. Cô ấy coi đó là niềm vui riêng

- Có ứng dụng kinh tế nào của Archaeon không?

Rebecca ngập ngừng

- Tôi… không biết.

- Vậy tại sao họ lại nghiên cứu chúng trên vũ trụ?

- Các vị chưa từng nghe từ “khoa học thuần túy” sao, bác sĩ McCallum? Vì chính sự hiểu biết đó? Đây là các sinh vật và hấp dẫn, Helen đã tìm thấy loại này ở khe nứt Galapagos, gần một miệng núi lửa ở hai nghìn bảy trăm bốn mươi ba mét. Ở áp suất sáu trăm at-mốt-phe và nhiệt độ sôi, các sinh vật này vẫn sinh sôi. Nó cho chúng ta thấy sự sống có thể thích nghi mức nào. Sẽ rất tự nhiên nếu chúng ta thắc mắc không biết điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đưa dạng sống đó ra khỏi môi trường quá khắc nghiệt của nó và đưa lên một môi trường thân thiện hơn, nơi không còn hàng nghìn pao sức mạnh đè lên nó, và không còn trọng lực hạn chế sự phát triển của nó.

- Xin lỗi. - Gordon ngắt lời, cả hai quay lại nhìn ông. Ông đã đi khắp phòng thí nghiệm, nhìn mọi ngăn tủ và từng thùng rác. Giờ ông đang đứng trước một trong các tấm ảnh du lịch treo trên tường. Ông chỉ một tấm ảnh được gắn vào góc của bức tranh. Trong đó có một chiếc máy bay đậu trên đường nhựa. Dưới hai cánh máy bay là hai phi công. - Bức ảnh này lấy ở đâu vậy?

Rebecca nhún vai.

- Sao tôi biết được. Đây là phòng thí nghiệm của Helen mà.

- Đó là một chiếc KC-135. - Gordon nói.

Giờ Jack hiểu tại sao Gordon lại tập trung vào bức ảnh. KC-135 là loại máy bay tương tự mà NASA dùng để giới thiệu môi trường trọng lượng siêu nhỏ cho các phi hành gia. Khi bay trong các đường vòng parabol khổng lồ, nó sẽ như một vòng quay tạo ra không khí và tạo ra ba mươi giây không trọng lượng trong mỗi lần lao xuống.

- Koenig có sử dụng chiếc KC-135 nào trong thí nghiệm của cô ấy không? - Jack hỏi.

- Tôi biết cô ấy đã ở bốn tuần tại một sân bay ở bang New Mexico. Tôi không biết họ đã dùng loại máy bay gì.

Jack và Gordon nhìn nhau hiểu ý. Bốn tuần nghiên cứu với chiếc KC-135 sẽ ngốn rất nhiều tiền.

- Ai sẽ chi trả cho khoản tiền lớn như vậy? - Jack hỏi.

- Đó chính là tiến sỹ Gabriel.

- Chúng tôi nói chuyện với ông ấy được không?

Rebecca lắc đầu.

- Các vị không thể đường đột đến thăm ông Palmer Gabriel được. Ngay cả các nhà khoa học làm việc ở đây cũng hiếm khi thấy ông ấy. Ông ấy có các trang thiết bị nghiên cứu khắp nước Mỹ nên bây giờ có lẽ ông ấy không có trong thành phố.

- Một câu hỏi khác. - Gordon xen ngang. Ông đến chỗ nuôi động vật, nhìn vào đám rêu và sỏi xếp ở đáy. - Cái lồng này dành cho con gì vậy?

- Những con ếch. Tôi đã nói về chúng, ông nhớ không? Chúng là những con vật cưng của Helen. Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đã lấy chúng cùng những thứ khác.

Gordon đột nhiên đứng thẳng lên nhìn cô.

- Loại ếch gì?

Cô cười kinh ngạc.

- Tại sao những người ở NASA luôn đặt ra những câu hỏi quái dị như vậy?

- Tôi chỉ tò mò loại ếch nào được coi như thú cưng tôi.

- Tôi nghĩ đó là một loài ếch đốm. Nếu là tôi, tôi sẽ thích chó xù hơn. Chúng không quá gầy gò như vậy. - Cô nhìn đồng hồ. - Được rồi, các quý ông, còn câu hỏi nào nữa không?

- Tôi nghĩ tôi đã hỏi hết. Cảm ơn! - Gordon nói. Ông không nói gì và ra ngoài.

Họ ngồi trong chiếc xe thuê, sương từ biển thổi vào cuộn quanh cửa sổ của họ, làm mờ tấm kính. Rana pipien, Jack nghĩ, loài ếch đốm phương bắc, một trong ba động vật có trong nhiễm sắc thể của Chimera.

- Đây chính là nguồn gốc của nó. - Jack nói. - Phòng thí nghiệm này.

Gordon gật đầu.

- Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đã biết nơi này cách đây một tuần. - Jack nói tiếp. - Sao họ biết điều đó? Sao họ biết Chimera bắt nguồn từ Trung tâm Khoa học biển? Phải có cách gì đó buộc họ chia sẻ thông tin với chúng ta.

- Nếu đó không phải là vấn đề an ninh.

- NASA không phải là kẻ thù.

- Có thể họ nghĩ chúng ta là kẻ thù. Có thể họ tin mối đe dọa đến từ NASA. - Gordon nhận định.

Jack nhìn ông.

- Một trong số chúng ta à?

- Đó là một trong hai lý do tại sao Ủy ban An ninh loại chúng ta ra.

- Còn lý do khác?

- Vì họ là những kẻ khốn.

Jack cười to và bật về sau ghế. Cả hai không nói gì một lúc. Ngày hôm nay đã khiến họ ngạc nhiên và họ còn phải bắt chuyến bay về Houston.

- Tôi thấy mình đang đấm vào không khí. - Jack nói và ấn tay vào mắt. - Tôi không biết tôi đang chống lại ai, chống lại cái gì. Nhưng tôi không thể dừng lại đấu tranh được.

- Cô ấy cũng là người phụ nữ khiến tôi không thể bỏ cuộc. - Gordon nói.

Không ai trong số họ nhắc đến tên cô nhưng họ đều hiểu họ đang nói về Emma.

- Tôi nhớ ngày đầu tiên cô ấy đến Johnson. - Gordon nói. Trong ánh sáng lờ mờ lẫn trong sương mù, khuôn mặt chất phác của Gordon như một bức vẽ phác họa trong bóng màu xám. Ông ngồi im, mắt nhìn thẳng về phía trước, đó là một người đàn ông ủ rũ và vô vị. - Tôi đã nhìn cô ấy khi bước vào lớp đào tạo các phi hành gia. Tôi nhìn một lượt những gương mặt mới. Và cô ấy ở đó, hàng ghế đầu, chính giữa, không sợ bị gọi, không sợ ai trêu chọc, không sợ gì hết. - Ông dừng lại, khẽ lắc đầu. - Tôi đã không cho cô ấy bay lên. Mỗi khi cô ấy được chọn vào phi hành đoàn mới thì tôi lại muốn xóa tên cô ra khỏi danh sách. Không phải vì cô ấy không đủ khả năng. Thật tệ là không phải vậy. Tôi chỉ không muốn nhìn cô ấy bay khỏi bệ phóng đó và biết rằng mọi việc có thể trục trặc. - Ông đột nhiên ngừng lại. Jack chưa bao giờ hy vọng ông lại nói nhiều như vậy, Gordon chưa bao giờ bộc lộ cảm xúc của mình nhiều đến thế. Những điều ông nói không khiến Jack ngạc nhiên. Anh có thể nghĩ ra vô số lý do anh luôn yêu Emma. Người đàn ông nào không yêu cô cơ chứ? Anh tự hỏi. Ngay cả Gordon Obie cũng không ngoại lệ.

Anh bắt đầu nổ máy, kính chắn lau sạch hơi ẩm do sương. Đã năm giờ chiều, họ sẽ bay trở về Houston khi trời tối. Anh lái xe ra khỏi khu đậu xe và rẽ tới lối ra.

Khi mới đi được nửa đường, Gordon nói.

- Cái quái gì vậy?

Jack ấn mạnh phanh khi một chiếc ô tô mũi kín màu đen ép họ sang bên đường, tiến về phía họ trong sương mù. Giờ một chiếc xe khác đang lái xe ra khỏi bãi đỗ xe và phanh gấp lại. Bộ phận hãm xung phía trước của nó chạm vào xe của họ. Bốn người đàn ông xuất hiện.

Jack cứng người khi cửa xe của anh bị giật mạnh, ai đó ra lệnh.

- Thưa các ông, hãy ra khỏi xe! Cả hai!

- Để làm gì!

- Các vị ra khỏi xe ngay.

Gordon nói khẽ.

- Tôi có cảm giác việc này không thương lượng được.

Họ miễn cưỡng ra khỏi xe, bị vỗ nhanh mấy phát và ví của họ rơi ra.

- Ông ấy muốn nói chuyện với cả hai. Vào ghế sau! Người đàn ông chỉ vào một trong những chiếc xe màu đen.

Jack nhìn một lượt những người đang nhìn họ. Kháng cự là vô ích, đó chính là những từ tóm gọn lại tình thế của họ. Anh và Gordon bước về phía chiếc xe màu đen và chui vào ghế sau.

Một người đàn ông ngồi ở ghế trước. Họ chỉ nhìn thấy phía sau đầu và vai của ông ta. Ông ta có mái tóc bạch kim dầy, chải ngược về phía sau và mặc bộ com lê màu xám. Cửa sổ chỗ ông ta ngồi đã được kéo kính lên, hai cái ví của họ được đưa cho ông ta. Ông ta đóng cửa sổ lại, đó là tấm kính được tráng màu để tránh những cặp mắt tò mò. Ông ta xem những vật bên trong hai chiếc ví. Ông ta quay về hai vị khách ngồi ở ghế sau. Ông ta có cặp mắt sẫm màu, trông gần giống đá vỏ chai và dường như chúng trống rỗng, không phản chiếu hình ảnh của sự vật. Hai hố mắt đó chỉ thu ánh sáng. Ông ta ném hai chiếc ví lên đùi Jack.

- Các vị đã đi một đoạn đường rất xa từ Trung tâm Houston.

- Chắc chắn chúng tôi đã rẽ nhầm vào El Paso. - Jack nói.

- NASA muốn gì ở đây?

- Chúng tôi muốn biết mẻ tế bào các vị gửi lên thực ra là gì.

- Việc nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đã đến đây. Họ đã dọn sạch nơi đó. Họ đã lấy đi mọi thứ, các hồ sơ nghiên cứu của bác sĩ Helen Koenig, cả máy tính của cô ấy nữa. Nếu các vị có thắc mắc gì thì tôi khuyên các vị nên hỏi họ.

- Việc nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm không cho chúng tôi biết gì cả.

- Đó là vấn đề của các vị, không phải của tôi.

- Helen Koenig làm việc cho ông, tiến sỹ Gabriel ạ. Ông không biết trong phòng thí nghiệm của ông có việc gì sao?

Căn cứ vào biểu hiện của ông ta, Jack nghĩ anh đã đoán đúng. Đây chính là người sáng lập Trung tâm Khoa học biển, Palmer Gabriel. Đó là một cái tên quá lý tưởng cho một người đàn ông có cặp mắt không sáng sủa chút nào.

- Tôi có hàng trăm nhà khoa học làm việc cho tôi. - Gabriel nói. - Tôi có các cơ sở ở Massachusetts và Florida. Tôi không thể biết hết những chuyện diễn ra trong phòng thí nghiệm đó. Và tôi cũng sẽ không chịu trách nhiệm về bất cứ phạm pháp nào của nhân viên.

- Đây không phải là phạm pháp. Đây là một quái vật được người ta chế tạo ra. - một sinh vật có thể giết chết toàn bộ phi hành đoàn. Và nó bắt nguồn từ phòng thí nghiệm của ông.

- Các chuyên gia nghiên cứu của tôi tự quản lý mọi dự án của họ. Tôi không can thiệp. Tôi cũng là một nhà khoa học, bác sĩ McCallum ạ. Và tôi hiểu khoa học sẽ làm việc hết mình khi nó có sự tự do tuyệt đó. Đó là tự do chìm trong sự tò mò của họ. Cho dù Helen làm gì thì đó là việc của riêng cô ấy.

- Tại sao lại nghiên cứu Archaeon? Cô ấy muốn tìm cái gì?

Ông ta cúi mặt, họ chỉ thấy phần sau đầu ông ta có các mớ tóc bạch kim.

- Kiến thức luôn bổ ích. Đầu tiên chúng ta không thể nhận ra lợi ích của nó. Ví dụ như có thể có ích lợi gì khi biết các thói quen sinh sản của sên biển? Rồi sau đó, chúng ta biết được các hooc-môn hữu ích mà chúng ta chiết xuất từ những con sên biển chậm chạp. Rồi đột nhiên, chúng trở nên vô cùng quan trọng trong đời sống.

- Vậy thì Archaeon có tác dụng gì?

- Đó là câu hỏi hay phải không? Đó chính là điều chúng tôi đang làm ở đây, nghiên cứu một sinh vật cho đến khi chúng tôi tìm ra công dụng của nó. - Ông ta chỉ về viện nghiên cứu, giờ đã mờ trong sương. - Các vị thấy nó hướng ra biển. Toàn bộ các tòa nhà của tôi đều gần biển. Đó là giếng dầu của tôi. Đó là nơi tôi sẽ tìm ra thuốc chữa bệnh ung thư mới, nơi sẽ có phương thuốc điều trị kỳ diệu. Vị trí đó rất có ý nghĩa, vì đó là nơi khởi nguồn của chúng ta, là nơi chúng ta sinh ra. Toàn bộ các dạng sống đều bắt nguồn từ biển.

- Ông vẫn chưa trả lời câu hỏi của chúng tôi. Archaeon có giá trị kinh tế gì?

- Điều đó còn phải xem.

- Vậy tại sao phải đưa nó lên vũ trụ? Cô ta đã phát hiện điều gì trên chuyến bay bằng chiếc KC-135? Trọng lượng có vai trò gì?

Gabriel kéo cửa xuống, ra hiệu cho hai người đàn ông. Cửa sau bật mở.

- Giờ hãy ra ngoài!

- Chờ đã! - Jack nói. - Helen Koenig đâu?

- Tôi không gặp cô ấy kể từ khi cô ấy từ chức.

- Tại sao cô ấy lại cho hủy toàn bộ mẻ tế bào?

Jack và Gordon bị lùa ra khỏi ghế sau và áp giải về xe của họ.

- Cô ta lo sợ gì? - Jack hét lên.

Gabriel không trả lời. Cửa xe của ông ta đóng lại, mặt ông ta biến mất sau tấm kính màu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


HAI MƯƠI BA

Ngày 18 tháng 8

Luther tháo lượng không khí cuối cùng còn sót lại trong phòng chặn khí ra ngoài không gian và mở cánh cửa ra không gian.

- Tôi sẽ đi trước. - Anh nói. - Cô làm chậm thôi. Cô sẽ luôn thấy sợ khi lần đầu ra ngoài.

Khi mới thoáng thấy sự trống trải của không gian bên ngoài, Emma hơi hoảng và phải bám vào mép cửa. Cô biết cảm giác chỉ là nhất thời, rồi nó sẽ qua đi, rằng bất cứ ai lần đầu tiên ra ngoài không gian cũng sẽ bị choáng ngợp khi không còn khái niệm trên dưới. Hàng triệu năm tiến hóa đã hằn sâu vào não bộ của con người nỗi sợ bị rơi, đây là điều Emma đang cố vượt qua. Mỗi bản năng đều cho cô biết rằng nếu cô buông tay ra, nếu cô ra khỏi cánh cửa, cô sẽ phóng vọt lên, la hét trong lúc rơi vô tận. Nhưng nếu suy nghĩ logic, cô biết điều đó sẽ không xảy ra. Cô đã được nối với khoang chặn khí bằng một sợi dây. Nếu sợi dây đó bị đứt, cô sẽ dùng bộ quần áo cứu hộ đơn giản hóa khi đi ra ngoài không gian để bay trở về trạm. Nhiều rủi ro nhỏ sẽ gây ra thảm họa lớn.

Đúng, đó chính là việc đang xảy ra trên trạm vũ trụ quốc tế, cô nghĩ. Hết rủi ro này đến rủi ro khác. Đây chính là con tàu Titanic của chính họ trong vũ trụ. Cô không thể nào rũ bỏ cảm giác một tai họa nữa lại sắp giáng xuống đầu họ.

Họ đã không làm theo qui định. Thay vì ở suốt đêm trong khoang giảm áp suất như bình thường, họ chỉ ngủ bốn tiếng trong khoang chặn khí. Về mặt lý thuyết, họ phải ở trong đó đủ thời gian để phòng bệnh bị ép khí, nhưng nếu thêm vào bất cứ thủ tục thông thường nào thì họ sẽ gặp nguy hiểm.

Cô hít sâu và cảm thấy nỗi sợ bắt đầu tan đi.

- Cô sao rồi? - Cô nghe thấy Luther nói trong điện đàm.

- Tôi… chỉ đang tận dụng mấy phút để chiêm ngưỡng cảnh này. - cô nói.

- Có vấn đề gì không?

- Không. Tôi rất ổn. - Cô buông tay và bay ra ngoài cánh cửa.

Diana sắp chết.

Griggs cay đắng nhìn màn hình cho thấy Emma và Luther đang làm việc bên ngoài trạm. Những con ong mật, anh nghĩ. Những con rô-bốt biết tuân lệnh và nhảy cẫng lên khi có mệnh lệnh từ Houston. Trong nhiều năm qua, anh cũng là một con ong chăm chỉ. Chỉ lúc này anh mới hiểu vị trí của mình trong một hệ thống khổng lồ. Anh và mọi người khác đều có thể bị loại bỏ khi tham gia vào các bộ phận nhân sự thay thế người trên trạm. Họ chỉ có một chức năng cơ bản là duy trì phần cứng hoành tráng của NASA. Chúng ta có thể sẽ chết hết trên này, đúng vậy, thưa quý ông, nhưng chúng ta sẽ phải giữ cho nơi này có trật tự.

Họ có thể loại bỏ anh, NASA đã lừa dối anh, lừa dối tất cả bọn họ. Hãy cứ để Emma và Luther làm tốt vai trò của mấy tay lính quèn, anh không còn thiết tha với nó nữa.

Anh chỉ nghĩ về Diana.

Anh rời phòng sinh hoạt, đi về khoang dịch vũ Nga ở cuối trạm. Chui qua tấm nhựa bọc bên ngoài cánh cửa, anh vào khoang. Anh không đeo khẩu trang hay kính bảo vệ, làm thế có gì khác đâu? Họ đều sắp chết.

Diana bị buộc vào bàn điều trị. Mắt cô sưng phồng lên, hai mí mắt sưng húp. Bụng cô trước kia lúc nào cũng dẹt phẳng lì, nhưng giờ nó cũng trương lên. Trong đó đầy trứng, anh nghĩ. Anh hình dung ra chúng đang sinh sôi nảy nở bên trong cô, đang phát triển dưới lớp da xanh xao của cô.

Anh chạm nhẹ lên má cô. Cặp mắt hằn những vệt máu của cô mở to, cô cố tập trung vào khuôn mặt anh.

- Anh đây. - Griggs thì thầm. Anh thấy cô đang cố dứt tay ra khỏi dây buộc. Anh nắm chặt lấy tay cô. - Em phải giữ yên tay, Diana. Để gắn điện tâm đồ.

- Em không thấy anh. - cô khóc thút thít. - Em chẳng thấy gì cả.

- Anh ở đây. Anh đang ở ngay cạnh em.

- Em không muốn chết thế này.

Anh nhắm chặt mắt để nước mắt không trào ra. Anh muốn nói câu gì đó để an ủi giả tạo rằng cô sẽ không chết, rằng anh sẽ không để cô chết. Nhưng những lời đó không thốt ra được. Họ luôn thật lòng với nhau, lúc này anh sẽ không nói dối cô. Vì vậy anh không nói gì.

Cô nói.

- Em chưa bao giờ nghĩ…

- Gì vậy em? - Anh nhẹ nhàng gợi ý

- Rằng… nó sẽ xảy ra thế nào. Không có cơ hội thể hiện mình là anh hùng. Em ốm yếu và vô dụng. - Cô cười lớn, rồi nhăn nhó vì đau. - Đây không giống điều em nghĩ về một vầng hào quang.

Một vầng hào quang. Đó chính là điều mỗi phi hành gia tưởng tượng khi chết trong vũ trụ. Chỉ sợ hãi chốc lát, và chết trong vinh quang, bị hạ áp suất đột ngột hay bị hỏa hoạn. Họ chưa bao giờ tưởng tượng họ sẽ chết như thế này, một cái chết chậm rãi, đau đớn, bị đuối sức dần và bị một dạng sống khác ăn mòn, bị cách ly với trái đất, lặng lẽ hy sinh vì những điều tốt đẹp, vĩ đại hơn của loài người.

Họ có thể hy sinh. Anh có thể chấp nhận điều đó cho chính mình, nhưng anh không thể chấp nhận sự hy sinh của Diana. Anh không thể chấp nhận sự thật là anh sắp mất cô.

Thật khó tin ngày đầu tiên họ gặp nhau, trong kỳ huấn luyện tại Trung tâm vũ trụ Johnson. Anh đã nghĩ cô thật lạnh lùng và khó gần, một cô gái tóc vàng hoe quá tự tin. Chất giọng Anh của cô cũng khiến anh thấy khó chịu vì nó khiến cô có vẻ kẻ cả bề trên. Nó giòn tan và thượng lưu so với giọng nói lè nhè xứ Texas của anh. Trong tuần đầu tiên, họ không ưa gì nhau đến nỗi không bao giờ nói chuyện với nhau.

Đến tuần thứ ba, theo yêu cầu của Gordon Obie, họ đã phải miễn cưỡng ngừng chiến.

Đến tuần thứ tám, Griggs xuất hiện trước cửa nhà cô. Đầu tiên chỉ là để uống nước, hai chuyên gia bàn về các nhiệm vụ sắp tới của họ. Rồi cuộc nói chuyện về công việc lại dẫn đến những vấn đề riêng tư, đó là cuộc hôn nhân không hạnh phúc của Griggs, và một nghìn lẻ một trong những mối quan tâm mà cả anh và Diana đều có. Tất nhiên, nó dẫn đến điều không tránh khỏi.

Họ đã che giấu cuộc tình vụng trộm của mình với mọi người ở Trung tâm vũ trụ Johnson. Chỉ ở đây, trên trạm vũ trụ thì mối quan hệ của họ mới công khai trước các đồng nghiệp. Nếu có chút nghi ngờ gì về việc này trươc đó thì Blankenship đã loại họ ra khỏi nhiệm vụ bay này. Ngay cả trong thời hiện đại, vụ ly hôn của một phi hành gia cũng sẽ là vết nhơ trong sự nghiệp của anh, nhất là khi vụ ly hôn đó lại do mối quan hệ bất chính với một thành viên khác trong phi hành đoàn thì các nhiệm vụ bay trong tương lai của anh sẽ kết thúc. Griggs sẽ chỉ còn là một kẻ vô hình trong công ty, không ai nhìn thấy hay nghe thấy về anh nữa.

Anh đã yêu cô suốt hai năm qua. Trong hai năm đó, cứ khi nào nằm cạnh vợ trên giường thì anh lại khao khát Diana, cố tìm ra cách nào đó để họ có thể gần nhau. Một ngày nào đó, họ sẽ được gần bên nhau, cho dù họ có phải nghỉ việc ở NASA. Đó là giấc mơ đã nâng đỡ anh trong suốt những đêm buồn bã. Ngay khi đã sống cùng cô hai tháng trong không gian chật hẹp, anh vẫn yêu cô. Anh không từ bỏ giấc mơ đó cho đến lúc này.

- Hôm nay thứ mấy? - Cô lẩm bẩm.

- Thứ sáu. - Anh lại luồn tay vào tóc cô. - Ở Houston lúc này là năm giờ rưỡi chiều. Một giờ vui vẻ.

Cô cười.

- Giờ tan tầm.

- Giờ họ đang ngồi ở quán rượu, nhấm nháp khoai tây chiên và thịt bò hầm. Lạy Chúa, anh có thể làm việc đó bằng một ngụm rượu. Hoàng hôn rất đẹp. Em và anh ở trên hồ…

Những giọt nước mắt lấp lánh quanh khóe mắt cô khiến tim anh tan nát. Anh không còn nghĩ gì về sự ô nhiễm sinh học hay về mối đe dọa bị lây nhiễm nữa. Anh dùng tay lau nước mắt cho cô.

- Em đau không? - Anh hỏi. - Em cần thêm thuốc giảm đau không?

- Không. Hãy để dành nó! - Sớm muộn sẽ có người cần nó thôi, đó là điều cô không nói ra.

- Nói anh nghe em muốn gì. Anh có thể làm gì cho em?

- Em khát quá. - cô nói. - Tại anh nói về rượu đó.

Anh cười.

- Anh sẽ pha một cốc cho em. Kiểu có cồn nhé.

- Hay lắm!

Anh bay đến khoang dịch vụ, mở ngăn đựng đồ ăn. Ở đó đầy các đồ của Nga, khác với khoang của Mỹ. Anh thấy cá muối đã tiệt trùng, xúc xích, một khay các món ăn của Nga. Và vodka. - chỉ có một chai nhỏ được người Nga gửi lên dùng cho các nhu cầu về y tế.

Đây có thể là lần cuối cùng chúng mình uống cùng nhau.

Anh rót một ít vodka vào hai cái túi uống nước, để chai vào chỗ cũ. Rồi anh cho thêm nước vào hai túi, đặc biệt là túi của cô để nó không còn mùi cồn nữa. Anh nghĩ cô chỉ nhấm một ngụm để nhớ lại những kỷ niệm xưa, để cô nhớ lại những buổi tối họ ở cùng nhau, ngắm hoàng hôn từ sân trong nhà cô. Anh lắc túi thật đều để vodka và nước tan vào nhau. Rồi anh quay lại với cô.

Một giọt máu đỏ tươi đang rỉ ra từ miệng cô.

Cô đang co giật. Mắt cô trợn ngược, răng cắn chặt lấy lưỡi. Một sợi cơ lưỡi vẫn còn bám lơ lửng ở đầu lưỡi.

- Diana! - Anh hét lên.

Giọt máu đó vỡ ra, một giọt bóng như vải sa tanh trôi đi mất. Ngay lập tức, lại có một giọt khác hình thành do máu lại tiếp tục rỉ ra từ chỗ thịt bị cắn đứt.

Anh chụp lấy tấm nhựa dùng để cắn được gắn vào bàn cố định bệnh nhân. Anh cố nhét nó vào miệng cô, để bảo vệ các mô mềm của cô không bị tốn thương. Nhưng anh không thể tách răng cô ra được. Hàm của con người là một trong các bó cơ khỏe nhất trên cơ thể, và hàm cô đang cắn chặt. Anh lấy một ống Valium, tính toán số lượng, chuẩn bị tiêm và nhét vào van điện tâm đồ. Khi anh đã ấn pit-tông xong, cơn co giật của cô bắt đầu giảm. Anh tiêm cho cô hết một liều.

- Diana? - Anh gọi. Cô không trả lời.

Một giọt máu khác đang chuẩn bị hình thành và phun ra từ miệng cô. Anh phải dùng áp suất để ngăn nó lại.

Anh mở hộp dụng cụ y tế và tìm thấy gạc tiệt trùng. Anh mở gói đó, làm mấy gói hình vuông bay lung tung. Anh đứng gần đầu cô, nhẹ nhàng mở miệng cô để lộ ra chiếc lưỡi đã bị cắn rách.

Cô ho mạnh, cố quay mặt đi. Cô đang cố nuốt máu vào trong, cố hít nó vào bên trong.

- Đừng cử động, Diana. - Anh ấn khuỷu tay vào hàm dưới của cô, cố giữ cho hàm cô mở ra. Anh cầm một mớ gạc bên tay trái và bắt đầu lau hết máu. Cổ cô đột ngột giật mạnh về sau do cơn co giật mới và hàm cô kẹp chặt lại.

Anh hét lên, phần thịt ở tay anh đã bị hàm răng cô giữ chặt, anh đau đến mức mắt anh bắt đầu nhòe đi. Anh thấy máu nóng phụt lên mặt và thấy một giọt sáng màu bắt đầu hình thành. Máu anh trộn với máu của cô. Anh cố lôi tay ra nhưng răng cô găm quá chặt. Máu đang chảy, chất lỏng kia phồng lên bằng một quả bóng rổ. Động mạch chính! Anh không thể tách hàm cô, cơn co giật đã khiến cơ của cô rút lại bằng lực mạnh nhất của con người.

Mắt anh sắp tối sầm lại.

Anh tuyệt vọng cố dứt tay khỏi răng của cô. Nhưng hàm cô không lỏng ra.

Anh đánh cô. Khối chất lỏng to bằng quả bóng rổ tách ra và chia thành hàng chục quả bóng nhỏ hơn, bắn vào mặt và mắt anh. Anh vẫn không thể mở hàm cô. Giờ máu nhiều đến nỗi anh có cảm giác anh đang bơi trong một hồ máu và không thể hít được không khí trong lành.

Anh điên cuồng đấm vào mặt cô và nghe thấy tiếng xương vỡ nhưng anh vẫn không thể tách hàm cô ra. Nỗi đau rất khủng khiếp và không thể chịu đựng được. Anh hoảng loạn, anh cố đánh bất cứ thứ gì để không đau nữa. Anh không nhận ra mình đang đánh cô liên tiếp.

Anh hét lên, cuối cùng anh cũng giật được tay ra và bay bật trở lại. Anh ôm chặt khuỷu tay. Vài giọt máu bay vòng như những dải băng màu đỏ xung quanh anh. Anh đập vào tường nhiều lần, cố cho mắt mình sáng trở lại. Anh cố nhìn vào khuôn mặt đã biến dạng của cô và hàm răng dính đầy máu của cô. Điều đó chính là do anh làm.

Tiếng rú tuyệt vọng của anh vang vào các bức tường, tai anh chỉ còn nghe thấy âm thanh đau khổ của chính mình. Mình vừa làm gì? Mình vừa làm gì thế này?

Anh bay đến bên cạnh cô, ôm khuôn mặt đã biến dạng của cô trong tay. Anh không còn cảm thấy đau đớn do vết thương nữa, nó đã không còn và bị nỗi sợ về hành động của chính anh át hết đi.

Anh rú lên một tiếng nữa, lần này là do tức giận. Anh đấm vào bức tường, xé toang tấm chắn che cánh cửa. Dù sao thì tất cả chúng ta sẽ chết! Rồi anh nhìn chăm chăm vào hộp dụng cụ y tế.

Anh thò tay vào, lấy ra con dao mổ.

Bác sĩ điều hành bay Todd Cutler nhìn bảng điều khiển và cảm thấy hoảng loạn. Trên màn hình của anh có các số liệu y sinh của Diana Estes. Đường điện tâm đồ của cô đã đột biến thành các đường lên xuống rất mạnh. Anh thở phào nhẹ nhõm khi nó không kéo dài. Nhưng ngay khi đó, các đường điện tâm đồ lại quay lại nhịp nhanh như trước.

- Giám đốc điều hành bay. - Anh nói. - Tôi phát hiện có vấn đề với nhịp tim của bệnh nhân. Các đường điện tâm đồ của cô ấy cho thấy tâm thất đập quá nhanh ở mức 5-2.

- Nguy hiểm không? - Woody Ellis hỏi ngắn gọn.

- Nhịp tim như vậy dễ gây chết người nếu kéo dài. Giờ cô ấy đang bị hạ huyết áp chỉ còn ba mươi. Cô ấy chưa bao giờ tụt huyết áp nhanh như vậy. Nó không nguy hiểm nhưng nó khiến tôi lo lắng.

- Anh khuyên gì, bác sĩ?

- Tôi nghĩ nên tiêm cho cô ấy thuốc chống loạn nhịp tim. Cô ấy cần tiêm thêm lidocain hay amiodarone. Họ có cả hai loại thuốc đó trong gói đồ thuốc y tế.

- Ames và Watson vẫn đang ngoài vũ trụ. Griggs sẽ phải tiêm cho cô ấy.

- Tôi sẽ báo cho anh ấy.

- Được rồi, chỉ huy liên lạc. Hãy liên lạc với Griggs.

Trong khi họ chờ Griggs trả lời, Todd không rời mắt khỏi màn hình. Điều anh nhìn thấy khiến anh lo sợ. Mạch của Diana đang tăng qua nhanh: một trăm ba mươi lăm, một trăm bốn mươi. Giờ nó tăng vọt lên một trăm sáu mươi, các đường tim có lúc bị mất hẳn do bệnh nhân cử động quá mạnh hay do có điện tác động. Chuyện gì đang xảy ra trên đó vậy?

Chỉ huy liên lạc nói.

- Chỉ huy Griggs không trả lời.

- Cô ấy cần được tiêm lidocain. - Todd nói.

- Chúng tôi không thể liên lạc với anh ấy.

Anh ấy không thể nghe thấy chúng ta hay anh ấy không chịu trả lời. Todd nghĩ. Họ đã lo lắng về tình hình tâm lý của Girggs. Có phải anh ấy đã hoàn toàn cắt đứt liên lạc rồi không?

Ánh mắt của Todd đột nhiên dán chặt vào màn hình.

Diana Estes đang sắp mất hết nhịp tim. Tâm thất của cô đang đập quá nhanh, chúng không thể bơm máu hiệu quả nữa. Chúng không thể duy trì huyết áp của cô.

- Cô ấy cần thuốc ngay bây giờ! - Anh hét lên.

- Griggs không chịu trả lời. - Chỉ huy liên lạc nói.

- Vậy thì hãy đưa đội đang ở ngoài không gian vào trong!

- Không! Giám đốc điều hành bay xen ngang. - Họ đang ở thời điểm sửa chữa nhạy cảm. Chúng ta không thể làm họ bị gián đoạn.

- Tình hình của cô ấy ngày càng nguy kịch.

- Nếu chúng ta gọi đội ngoài không gian về, điều đó sẽ chấm dứt toàn bộ việc cửa chữa trong vòng hai tư giờ tới. - Nhóm đó không thể vào trong và trở lại ngay được. Họ cần thời gian hồi sức, và thêm khoảng thời gian nữa để lặp lại quá trình hạ áp suất, Mặc dù Wooly Ellis không nói rõ điều đó nhưng có thể ông đang nghĩ điều tương tự những người khác trong phòng: nếu họ có gọi đội ngoài không gian về trợ giúp thì họ cũng không thể làm gì để cứu Dianna Estes. Cô ấy không thể tránh khỏi cái chết.

Todd sợ hãi khi đường điện tim của cô lúc này đã dừng hẳn trên màn hình. Nó không tăng trở lại nữa.

- Cô ấy đang xuống dốc! - Anh nói. - Hãy gọi một trong số họ vào trong ngay! Gọi Watson về!

Họ lại lưỡng lự lần thứ hai.

Rồi Giám đốc điều hành bay nói.

- Hãy làm vậy!

Tại sao Griggs không trả lời?

Emma điên vội vàng di chuyển từ tay cầm này sang tay cầm khác, di chuyển nhanh hết mức dọc theo tấm năng lượng mặt trời. Cô thấy mình thật chậm chạp và vụng về trong bộ quần áo đi bộ ngoài không gian. Tay cô bị đau do cố cử động trong đôi găng tay cứng đơ. Cô đã kiệt sức sau khi sửa chữa. Giờ mồ hôi thấm đẫm bộ quần áo trong và các cơ của cô run rẩy vì mệt.

- Griggs, trả lời đi! Khốn kiếp! Trả lời đi! - Cô hét lên trên điện đàm.

Trạm vũ trụ quốc tế vẫn im lặng.

- Diana thế nào rồi? - Cô hỏi trong khi thở hổn hển.

Giọng nói của Todd xen vào.

- Vẫn được nối điện tâm đồ.

- Tệ thật!

- Đừng vội, Watson! Đừng bất cẩn!

- Cô ấy sẽ không trụ được mất. Griggs ở chỗ quái nào rồi?

Cô hít thở khó nhọc đến nỗi không thể nói chuyện được. Cô bắt mình tập trung vào tay cầm tiếp theo, để sợi dây buộc không bị rối tung lên. Cô leo lên giàn năng lượng, nhảy về phía thang nhưng bỗng dừng lại. Tay áo cô đã bị vướng vào một góc giàn năng lượng.

Chậm lại! Mày đang tự giết mình đấy!

Cô thận trọng gỡ tay áo và thấy nó không bị rách. Tim cô vẫn đập mạnh, cô tiếp tục leo xuống thang, đu mình vào khoang chặn khí. Cô nhanh chóng đóng cánh cửa lại và mở van điều áp.

- Hãy cho tôi biết, Todd! - Cô hét lên khi khoang chặn khí bắt đầu điều áp. - Nhịp tim thế nào?

- Mạch cô ấy rất yếu. Chúng tôi vẫn không thể liên lạc với Griggs.

- Chúng ta sắp mất cô ấy.

- Tôi biết, tôi biết!

- Được, áp suất đã lên mức năm at-mốt-phe.

- Còn phải kiểm tra sự tương thích của khoang chặn khí. Đừng bỏ qua bước đó!

- Tôi không còn thời gian.

- Watson, không được làm tắt bước khốn kiếp nào hết!

Cô dừng lại, hít sâu. Todd nói đúng. Trong môi trường không gian khắc nghiệt, người ta không bao giờ được làm tắt. Cô đã qua bước kiểm tra độ tương thích của khoang chặn khí, đã xong khâu hạ áp. Cô mở cánh cửa tiếp theo, dẫn đến khoang đựng thiết bị. Cô nhanh chóng thao đôi găng tay. Bộ quần áo cỡ M của Nga dễ cởi hơn bộ đi bộ ngoài không gian của Mỹ nhưng vẫn mất nhiều thời gian cởi hệ thống hỗ trợ sự sống và chui ra ngoài. Mình chẳng bao giờ kịp, cô nghĩ và tức giận đá để chân tuột ra khỏi phần thân dưới.

- Tình hình thế nào, bác sĩ? - Cô hét lên trong điện đàm.

- Giờ cô ấy đã không còn đường tâm đồ.

Tình hình rất xấu, Emma nghĩ. Đây là cơ hội cứu Diana cuối cùng của họ.

Giờ chỉ còn lớp vải làm nguội nước, cô mở cánh cửa dẫn vào trạm. Cô điên cuồng lao về phía bệnh nhân của mình. Cô đâm vào các bức tường và lao đầu về phía cánh cửa đang mở.

Một chất lỏng gì đó bắn vào mặt cô khiến cô mờ mắt. Cô trượt tay cầm và đâm vào bức tường đằng xa. Cô bị trôi lơ lửng mấy giây, cô nháy mắt cho chất lỏng đó ra hết. Mắt mình có gì vậy? cô nghĩ. Không phải là trứng, làm ơn, đó không phải là những quả trứng… Cô dần nhìn rõ lại nhưng cô không thể hiểu nổi mình đang nhìn thấy gì.

Xung quanh cô, trong nút số 1 hơi tối là các quả cầu không lồ. Cô cảm thấy ngày càng có nhiều chất lỏng bám vào tay. Cô cúi nhìn vết bẩn hơi đen đang làm ướt tay áo mình. Cô nhìn những vết bẩn sẫm màu đang vỡ xung quanh mình và bắn lên lớp vải làm nguội nước của cô. Cô đưa tay áo ra chỗ sáng hơn trong nút số 1.

Vết bẩn đó là máu.

Cô hoảng hốt nhìn những quả cầu lơ lửng trong bóng tối. Chúng nhiều đến nỗi…

Cô lập tức đóng cảnh cửa để ngăn không cho sự ô nhiễm lan vào khoang chặn khí. Đã quá muộn để bảo về phần còn lại của trạm, các quả cầu đó đã lan ra khắp nơi. Cô lao vào khoang sinh hoạt, mở hộp dụng cụ bảo vệ phi hành đoàn không bị ô nhiễm và đeo khẩu trang, kính bảo vệ. Có thể máu không lây nhiễm. Cô có thể tự bảo vệ mình.

- Watson? - Cutler hét lên.

- Máu… máu ở khắp nơi.

- Nhịp tim của Diana đang đột biến. - không còn nhiều thời gian để ép tim nữa.

- Tôi đang đến đó! - Cô đẩy cánh cửa ở nút số 1 và vào khu Zarya như một đường hầm. Khoang của Nga dường như sáng lờ mờ ở cuối khu của Mỹ. Các quả cầu máu như những quả bóng sặc sỡ đang lơ lửng trong không khí. Vài quả lao vào tường, khiến khu Zarya biến thành màu đỏ tươi. Cô lao về đầu kia của khoang và không tránh được một quả cầu máu khổng lồ lao thẳng về phía mình. Theo phản xạ cô nhắm mắt lại khi nó vỡ trên kính bảo vệ, che mất tầm nhìn của cô. Cô trôi tự do, lấy tay áo lau kính để làm sạch vết máu.

Cô thấy mình đang nhìn thẳng vào khuôn mặt trắng bệch như phấn của Michael Griggs.

Cô thét lên. Cô hoảng hốt vùng vẫy vô vọng trong không khí nhưng không đi đến đâu cả.

- Watson?

Cô nhìn các bong bóng máu vẫn bám quanh vết thương ở cổ anh. Máu đã bay ra từ chính chỗ này. - động mạch cổ đã bị cắt đứt. Cô cố sờ vào phần cổ còn nguyên của anh để tìm mạch. Cô không thể bắt mạch được.

- Điện tâm đồ của Diana đã thành đường thẳng rồi! - Todd nói.

Emma kinh hoàng nhìn về phía khoang dịch vụ Nga, Diana bị cách ly ở đó. Tấm nhựa cách ly đã biến mất, cả khoang đã được thông với trạm vũ trụ.

Diana vẫn bị buộc vào giường cố định bệnh nhân. Mặt cô đã bị đập đến biến dạng. Răng bị đập vụn. Một quả cầu máu đang rỉ ra từ miệng cô.

Cuối cùng tiếng báo động của màn hình điện tâm đồ khiến cô tỉnh lại. Một đường thẳng chạy ngang màn hình. Cô với tay tắt báo động và tay cô cứng lại giữa không trung. Ở nút khởi động có một khối chất lỏng màu xanh lơ pha xanh lá cây lấp lánh.

Những quả trứng. Diana đã ấp những quả trứng đó. Cô ấy đã thả Chimera ra ngoài.

Báo động màn hình dường như là tiếng kêu không thể chịu đựng nổi nhưng Emma vẫn bất động, nhìn đám trứng. Dường như chúng đang lung linh và lui lại để không bị phát hiện. Cô chớp mắt, mắt cô rõ trở lại. Cô nhớ chất lỏng đã bắn vào mặt, làm đau mắt khi cô lao qua cánh cửa ở khoang chặn khí. Khi đó cô đã không đeo kính bảo vệ. Cô vẫn cảm thấy má mình ướt, lạnh và ngứa.

Cô đưa tay lên sờ mặt mình và nhìn chằm chằm những quả trứng như những viên ngọc trai đang uốn éo trên những đầu ngón tay mình.

Tiếng báo động lúc này đã không thể chịu đựng nổi. Cô tắt màn hình, tiếng rú dừng lại. Sự im lặng sau đó cũng đáng sợ không kém. Cô không còn nghe thấy tiếng xì xì của các cánh quạt thông khí. Đáng lẽ chúng phải hút không khí vào và lọc nó qua hệ thống điều khiển môi trường và hỗ trợ sự sống. Có quá nhiều máu trong không khí. Nó đã khiến các máy lọc bị tắc. Áp lực tăng quá mạnh trên các máy lọc đã phá hỏng các bộ phận cảm ứng và tự động tắt các cánh quạt quá nóng.

- Watson, hãy trả lời tôi! - Todd nói.

- Họ chết rồi. - Giọng cô nghe như tiếng khóc. - Cả hai chết rồi!

Giờ thì giọng Luther xen vào điện đàm.

- Tôi sẽ vào.

- Không. - cô nói. - Không.

- Hãy chờ ở đó, Emma! Tôi sẽ đến đó ngay.

- Luther, anh không thể vào được! Máu và những quả trứng bay khắp nơi. Trạm không còn sống được nữa. Anh phải ở khoang chặn khí.

- Đó không phải là giải pháp lâu dài.

- Chẳng có cái quái gì tên là giải pháp lâu dài!

- Nghe này, tôi đã vào khoang của đội. Tôi đã đến gần cửa ngoài. Tôi đang bắt đầu điều áp.

- Các cánh quạt đã bị tắt. Không có cách nào làm sạch chỗ không khí này.

- Tôi đã lên mức năm at-mốt-phe. Tôi đang dừng lại chuẩn bị kiểm tra độ tương thích.

- Nếu vào, anh sẽ khiến mình bị lây!

- Tôi đã điều áp xong.

- Luther, tôi đã bị nhiễm rồi! Tôi bị nó bắn vào mắt! - Cô hít sâu và nói như khóc. - Anh là người duy nhất còn lại, người duy nhất có cơ hội sống sót.

Anh im lặng rất lâu.

- Lạy Chúa, Emma! - Anh lẩm bẩm.

- Được rồi, nghe tôi này! - Cô dừng lại để lấy bình tĩnh và suy nghĩ logic. - Luther, tôi muốn anh vào khoang để thiết bị. Chắc chắn ở đó vẫn sạch và anh có thể bỏ mũ ra. Sau đó hãy tắt bộ đàm.

- Gì?

- Hãy làm đi! Tôi sẽ đến nút số 1. Tôi sẽ ở ngay bên kia cánh cửa để nói chuyện với anh.

Todd xen vào.

- Emma? Emma, đừng tắt liên lạc ở trên đó với mặt đất!

- Xin lỗi, bác sĩ. - cô lẩm bẩm và tắt liên lạc.

Một lúc sau, cô nghe Luther nói qua hệ thống liên lạc bằng phần cứng của trạm không gian.

- Tôi đang ở khoang thiết bị.

Giờ họ nói chuyện riêng với nhau, cuộc nói chuyện của họ không còn bị Trung tâm điều hành kiểm soát nữa.

- Anh còn một lựa chọn. - Emma nói. - Đó là việc mà anh đã nấn ná quá lâu. Tôi không thể, nhưng anh làm được. Anh vẫn không nhiễm bệnh. Anh sẽ không đưa dịch bệnh về trái đất.

- Chúng ta đã thỏa thuận về việc này. Sẽ không có ai bị bỏ lại.

- Không khí trong bộ quần áo đi ra ngoài không gian của anh còn đủ dùng trong ba tiếng. Nếu anh vẫn đội mũ khi ngồi trong phương tiện di dời khẩn cấp và tiến thẳng đến chỗ tách khỏi quỹ đạo thì anh có thể hạ cánh kịp thời.

- Cô sẽ bị kẹt lại ở đây.

- Dù sao thì tôi cũng bị kẹt rồi! Cô hít sâu một hơi nữa và bình tĩnh nói. - Nghe này, cả hai chúng ta đều biết điều này trái với mọi mệnh lệnh. Nó có thể là ý kiến rất tồi tệ. Họ sẽ phản ứng thế nào thì tùy kẻ khác phỏng đoán… đó là một trò may rủi. Nhưng Luther, anh có quyền lựa chọn.

- Cô sẽ không có cách nào di dời khỏi đây.

- Hãy đưa tôi ra khỏi đầu anh đi! Đừng nghĩ về tôi nữa! - Cô nhẹ nhàng nói thêm. - Tôi đã chết rồi!

- Emma, không!

- Vậy anh muốn làm gì? Trả lời câu hỏi đó đi! Hãy nghĩ cho mình thôi.

Cô thấy anh hít sâu.

- Tôi muốn về nhà.

Tôi cũng vậy, cô nghĩ và chớp mắt cho nước mắt chảy đi. Lạy Chúa, tôi cũng vậy.

- Hãy đội mũ của anh lên! - Cô dịu dàng nói. - Tôi sẽ mở cánh cửa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


HAI MƯƠI TƯ

Jack chạy lên cầu thang tới tòa nhà số ba mươi, quét huy hiệu ở cổng kiểm tra an ninh và đi thẳng đến Phòng điều hành đặc biệt.

Gordon Obie chặn anh ở ngay ngoài phòng điều hành.

- Jack, chờ đã! Anh có thể vào đó làm loạn mọi chuyện, họ sẽ tống anh ra ngoài. Hãy dành một phút mà bình tĩnh lại. Nếu không anh sẽ không giúp được vợ anh.

- Tôi muốn vợ tôi trở về ngay bây giờ.

- Mọi người đều muốn họ trở về! Chúng ta đang cố hết sức nhưng tình hình đã thay đổi. Cả trạm bị ô nhiễm. Hệ thống lọc không khí đã hỏng. Nhóm ra ngoài không gian không còn cơ hội sửa giàn năng lượng nữa, vì vậy họ vẫn đang trong tình trạng mất điện. Và giờ họ không còn nói chuyện với chúng ta.

- Gì cơ?

- Emma và Luther đã cắt đứt liên lạc. Chúng ta không biết trên đó có chuyện gì. Đó là lý do tại sao họ gọi anh về. - để giúp chúng tôi liên lạc với họ.

Jack nhìn lối đi mở rộng dẫn vào phòng Điều hành bay đặc biệt. Anh thấy những người đàn ông và phụ nữ ở các bảng điều khiển, thực hiện công việc của họ như thường lệ. Anh bỗng cảm thấy tức giận khi những người điều hành bay đó lại có thể bình tĩnh và làm việc hiệu quả như vậy. Anh tức giận vì cái chết của hai phi hành gia nữa dường như không thể thay đổi vẻ chuyên nghiệp lạnh lùng của họ. Cách hành xử lạnh lùng của tất cả mọi người trong phòng chỉ khiến cho nỗi buồn của anh, nỗi sợ hãi trong chính anh nhân lên.

Anh vào phòng điều hành. Hai nhân viên mặc quân phục của Lực lượng không quân đứng cạnh giám đốc điều hành bay Woody Ellis, người đang điều khiển hệ thống điện đàm. Họ là những kẻ nhắc nhở khó chịu rằng căn phòng này không còn chịu sự điều khiển của NASA. Khi Jack đi theo men hàng ghế cuối cùng để về phía bảng điều khiển của bác sĩ, vài nhân viên điều hành bay nhìn anh thông cảm. Anh không nói gì, và ngồi ngay xuống ghế bên cạnh Todd Cutler. Anh lập tức nhận ra sau anh là phòng quan sát. Ở đó các nhân viên khác của Lực lượng không quân đang theo dõi cả phòng.

- Anh đã nghe tin mới nhất chưa? - Todd khẽ hỏi.

Jack gật đầu. Không còn đường điện tâm đồ trên màn hình nữa. Diana đã chết. Griggs cũng vậy.

- Nửa trạm đã bị mất điện. Và giờ những quả trứng lơ lửng trong không khí.

Và cả máu nữa. Jack có thể tưởng tượng Trạm vũ trụ lúc này như thế nào. Ánh sáng lờ mờ. Những bức tường tung tóe máu. Các bộ lọc khí thuộc hệ thống điều khiển môi trường bị tắc nghẽn. Đó là những giờ bay trên quỹ đạo đầy hãi hùng.

- Chúng ta cần nói chuyện với cô ấy, Jack. Hãy làm cho cô ấy nói cho chúng ta biết có chuyện gì trên đó.

- Tại sao họ không liên lạc?

- Chúng tôi không biết. Có thể họ đã mất niềm tin với chúng ta. Họ có quyền như vậy. Có lẽ họ đã quá tuyệt vọng.

- Không, chắc chắn họ phải có lý do. - Jack nhìn màn hình phía trước đang chiếu đường đi của Trạm vũ trụ trên trái đất. Em đang nghĩ gì vậy, Emma? Anh đeo tai nghe lên và nói.

- Chỉ huy liên lạc, tôi là Jack McCallum đây. Tôi đã sẵn sàng.

- Đã rõ, thưa bác sĩ. Hãy chờ! Chúng tôi đang cố liên lạc lại.

Họ chờ đợi. Nhưng Trạm vũ trụ quốc tế không trả lời.

Ở dãy bảng điều khiển số ba, hai trong số các điều khiển viên đột nhiên ngoái về sau nhìn Giám đốc điều hành bay Ellis. Jack không nghe thấy gì trong điện đàm, nhưng anh thấy điều khiển viên Odin, người chịu trách nhiệm về các mạng dữ liệu trên Trạm vũ trụ rời khỏi ghế, cúi về phía trước và thì thầm với nhân viên điều khiển ở dãy bảng điều khiển số hai.

Lúc này nhân viên điều khiển ở hàng thứ ba tháo tai nghe ra, đứng lên vươn vai. Anh bắt đầu đi bộ lên phía trên hành lang rất thoải mái như thể đang chuẩn bị đi thư giãn trong nhà tắm. Khi anh đi qua bảng điều khiển của bác sĩ, anh ném một mẩu giấy lên đùi Todd Cutler, rồi tiếp tục ra khỏi phòng.

Todd mở tờ giấy ra và sửng sốt nhìn Jack.

- Trạm vũ trụ đã chuyển toàn bộ máy tính của họ sang chế độ Đảm bảo đưa đội trở về trái đất an toàn. - Anh thì thầm. - Phi hành đoàn đã kịp kích hoạt các bước chuẩn bị di dời bằng phương tiện khẩn cấp.

Jack quay lại như không tin vào tai mình. Chế độ đảm bảo đưa đội trở về trái đất an toàn là cấu hình máy tính dùng để hỗ trợ việc di dời của phi hành đoàn. Anh lướt nhanh một lượt quanh phòng. Toàn bộ điều khiển viên không nói lời nào trên điện đàm. Tất cả những gì Jack thấy chỉ là các hàng vai vuông vức và ai cũng tập trung cao độ vào bảng điều khiển của họ. Anh liếc sang nhìn Woody Ellis. Ellis đứng im như tượng. Ngôn ngữ cử chỉ nói lên tất cả. Ông ấy biết chuyện gì đang xảy ra. Và ông cũng không nói lời nào.

Jack vã mồ hôi. Đây là lý do tại sao phi hành đoàn cắt đứt liên lạc với họ. Họ đã đưa ra quyết định của riêng mình và họ đang tiến hành nó. Lực lượng không quân sẽ nhanh chóng phát hiện ra. Bằng mạng lưới giám sát hàng không bao gồm các ra-đa và các máy cảm ứng hình ảnh, họ có thể theo dõi các vật thể nhỏ bằng quả bóng chày bay gần trái đất. Ngay khi phương tiện di dời khẩn cấp tách ra, khi nó bắt đầu tách khỏi quỹ đạo, nó sẽ bị trung tâm điều khiển thuộc Bộ tư lệnh hàng không trên Trạm không quân ở núi Cheyenne phát hiện. Câu hỏi trị giá hàng triệu đô lúc này là: họ có phản ứng không?

Anh cầu Chúa là em biết mình đang làm gì, Emma.

Sau khi chuẩn bị phương tiện di dời khẩn cấp, nó sẽ mất hai mươi lăm phút để được hướng dẫn và xác định các mục tiêu hạ cánh. Nó sẽ cần thêm mười lăm phút để chuẩn bị đốt nhiên liệu và tách khỏi quỹ đạo. Nó cần thêm một tiếng để hạ cánh. Bộ tư lệnh không quân Mỹ sẽ phát hiện ra và lần theo dấu vết của họ trước khi phương tiện di dời khẩn cấp có thể chạm đất.

Ở dãy số hai, nhân viên điều hành bay phụ trách kỹ thuật, bảo trì và các van khoá trên Trạm vũ trụ quốc tế giơ ngón tay cái lên. Bằng cử chỉ đó, anh đã ngầm thông báo: Phương tiện di dời khẩn cấp đã được tách ra. Dù thế nào thì phi hành đoàn đang trên đường về.

Giờ cuộc chơi đã bắt đầu.

Sự căng thẳng ngày càng cao trong phòng. Jack lo lắng nhìn hai nhân viên lực lượng hàng không nhưng có vẻ họ không biết gì về việc này, một trong số họ cứ nhìn đồng hồ treo tường như thể nôn nóng muốn đi chỗ khác.

Từng phút trôi qua, căn phòng im ắng lạ thường. Jack cúi về phía trước, tim đập mạnh, áo sơ mi của anh ướt đẫm mồ hôi, lúc này phương tiện di dời khẩn cấp đã trôi dạt ra ngoài tầm Trạm vũ trụ quốc tế. Mục tiêu hạ cánh của họ sẽ không xác định được. Hệ thống hướng dẫn của họ đã bị khoá trên các vệ tinh định vị toàn cầu.

Cố lên, cố lên, Jack nghĩ. Hãy đến khâu tách khỏi quỹ đạo ngay bây giờ đi!

Tiếng chuông điện thoại phá tan không khí im lặng. Jack nhìn sang hai bên và thấy một nhân viên giám sát của Lực lượng không quân nhận điện. Đột nhiên anh ta bất động và quay sang phía Woody Ellis.

- Chuyện quái gì đang xảy ra ở đây thế?

Ellis không nói gì.

Nhân viên đó lập tức gõ lên bàn phím trên bảng điều khiển của ông và ngạc nhiên nhìn màn hình. Anh chộp lấy điện thoại.

- Vâng, thưa ngài, tôi e là việc đó có thật. Phương tiện di dời khẩn cấp đã được tách ra. Không, thưa ngài, tôi không biết làm thế nào việc đó… vâng, thưa ngài, chúng tôi đã giám sát mọi điện đàm, nhưng…. - nhân viên đó đỏ mặt tía tai và vã mồ hôi khi nghe thấy một tràng chỉ trích trên điện thoại.

- Đưa nó về! - Anh ta ra lệnh.

Woody Ellis trả lời không cần giấu giếm.

- Đó không phải là tàu con thoi Soyuz. Anh không thể ra lệnh cho nó quay về như một chiếc xe máy được.

- Vậy thì hãy ngăn không cho nó hạ cánh!

- Chúng tôi không làm được. Đó là chuyến đi một chiều về trái đất.

Ba nhân viên khác thuộc Lực lượng không quân bước nhanh vào phòng. Jack nhận ra tổng tư lệnh Gregorian thuộc bộ tư lệnh không quân Hoa Kỳ. - người bây giờ điều khiển toàn bộ hoạt động của NASA.

- Tình hình thế nào? - Gregorian hét lên.

- Phương tiện di dời khẩn cấp đã tách khỏi trạm nhưng vẫn chưa tách khỏi quỹ đạo. - nhân viên đỏ mặt lúc nãy trả lời.

- Họ sẽ chạm khí quyển trong bao lâu?

- À, tôi không biết, thưa ngài.

Gregorian quay về phía giám đốc điều hành bay.

- Bao lâu nữa thưa ngài Ellis?

- Còn tùy. Có vài khả năng.

- Đừng có lên mặt giảng giải về kỹ thuật ở đây với tôi! Tôi muốn câu trả lời. Tôi muốn con số.

- Được rồi. - Ellis đứng thẳng, nhìn chằm chằm vào mắt ông ta. - Trong bất cứ khoảng nào từ một đến tám tiếng. Điều đó phụ thuộc vào họ. Họ có thể ở lại tối đa trên quỹ đạo bốn tiếng. Hay họ có thể tách khỏi quỹ đạo ngay lúc này và tiếp đất trong vòng một giờ nữa.

Gregorian nhấc điện thoại.

- Thưa tổng thống, tôi e là không còn nhiều thời gian quyết định. Giờ họ có thể tách quỹ đạo bất cứ lúc nào. Vâng, thưa ngài, tôi biết đó là một quyết định khó khăn. Nhưng lời khuyên của tôi cũng tương tự như ngài Profitt.

Khuyên gì? Jack nghĩ và thấy hoảng loạn.

Một nhân viên Lực lượng không quân hét lên từ một trong các bảng điều khiển.

- Họ đã bắt đầu đốt nhiên liệu.

- Chúng ta không còn thời gian nữa, thưa ngài. - Gregorian nói. - Chúng tôi cần câu trả lời của ngài ngay bây giờ. - ông ta dừng lại rất lâu rồi gật đầu nhẹ nhõm. - Ngài đã có quyết định sáng suốt. Cảm ơn ngài. - ông ta gác máy và quay về phía các nhân viên thuộc Lực lượng không quân. - Hãy thực hiện phương án!

- Phương án gì? - Ellis nói. - Các người định làm gì?

Câu hỏi của ông bị lờ đi. Một nhân viên thuộc Lực lượng không quân nhấc chiếc máy và bình tĩnh ra lệnh.

- Hãy chuẩn bị EKV!

EKV là cái quái gì? Jack nghĩ. Anh nhìn thấy Todd và thấy anh ấy cũng chẳng hiểu gì về cụm từ viết tắt đó.

Điều khiển viên phụ trách đường bay Topo bước về trước bảng điều khiển của họ và nhanh chóng trả lời thắc mắc đó.

- Đó là phương tiện tiêu diệt vật thể ở tầm gần trái đất. - Anh thì thầm. - Họ sắp tiêu diệt tàu.

- Mục tiêu được bình thường hóa trước khi nó rơi vào khí quyển trái đất. - Gregorian nói.

Jack hốt hoảng đứng dậy.

- Không!

Gần như ngay lập tức, toàn bộ điều khiển viên khác rời ghế phản đối. Tiếng thét của họ át cả tiếng của Chỉ huy liên lạc, người đang hét đến mức có thể để người khác nghe thấy.

- Tôi đã liên lạc với Trạm vũ trụ quốc tế! Trạm đã trả lời!

Trạm vũ trụ quốc tế à? Họ vẫn ở trên trạm sao? Ai đó đã bị bỏ lại.

Jack ấn vào tai nghe và nghe giọng nói truyền về.

Đó là Emma.

- Houston, tôi là Watson trên Trạm vũ trụ quốc tế. Chuyên viên Ames không bị nhiễm bệnh. Tôi xin nhắc lại, anh ấy không bị nhiễm bệnh. Anh ấy là người duy nhất lên phương tiện di dời khẩn cấp. Tôi khẩn cấp yêu cầu các bạn cho phép anh ấy được hạ cánh an toàn.

- Rõ, Trạm vũ trụ quốc tế. - Chỉ huy liên lạc nói.

- Các vị thấy không? Chẳng có lý do gì để bắn hạ nó cả. - Ellis nói với Gregorian. - Hãy dừng việc bắn tên lửa tiêu diệt của các vị!

- Làm sao chúng tôi biết được cô Emma đó có nói thật không? - Gregorian phản đối.

- Chắc chắn cô ấy nói thật. Tại sao cô ấy phải ở lại? Cô ấy đã quên bản thân mình để kẹt lại ở đó. Phương tiện di dời khẩn cấp là chiếc thuyền cứu hộ duy nhất cô ấy có!

Những lời đó có tác động rất mạnh khiến Jack bất động. Cuộc tranh luận gay gắt giữa Ellis và Gregorian dường như bỗng biến mất. Jack không còn quan tâm đến số phận của phương tiện di dời khẩn cấp nữa. Anh chỉ nghĩ về Emma giờ đang cô độc, bị nhốt trên trạm và không có cách nào rời đó được. Cô ấy biết mình đã bị nhiễm bệnh. Cô ấy ở lại chịu chết.

Phương tiện di dời khẩn cấp đã đốt cháy xong nhiên liệu. Nó đang hạ xuống. Đường bay của nó đang hiện trên màn hình.

Chạy ngang bản đồ thế giới ở căn phòng phía trước là một đốm sáng ra-đa nhỏ. Đó chính là phương tiện di dời khẩn cấp và một người hành khách duy nhất trên đó. Giờ họ đã nghe thấy giọng nói của anh trên điện đàm.

- Đây là chuyên gia đặc vụ Luther Ames. Tôi đang tiến gần đến độ cao chuẩn bị vào trái đất, toàn bộ hệ thống hoạt động bình thường.

Nhân viên Lực lượng không quân nhìn Gregorian.

- Chúng tôi vẫn sẵn sàng phóng tên lửa tiêu diệt tầm xa.

- Các vị không cần làm vậy. - Woody Ellis nói. - Anh ấy không bị bệnh. Chúng tôi có thể đưa anh ấy về trái đất!

- Bản thân con tàu có thể đã bị nhiễm vi rút. - Gregorian nói.

- Ông không biết điều đó!

- Tôi không thể bỏ qua khả năng đó. Tôi không thể mạo hiểm với những sinh mạng trên trái đất.

- Khốn nạn, đây là một vụ giết người.

- Anh ta đã không tuân lệnh. Anh ta biết chúng ta sẽ phản ứng ra sao. - Gregorian gật đầu với nhân viên thuộc Lực lượng không quân.

- Các tên lửa tiêu diệt tầm xa đã được phóng, thưa ngài.

Cả phòng đột nhiên im lặng. Woody Ellis mặt tái xanh và run rẩy. Ông nhìn chằm chằm màn hình phía trước, nhìn đường bay nhiều tầng của tàu và nó đang chuẩn bị đến điểm vào khí quyển của trái đất.

Mỗi phút trôi qua đều im lặng đến rợn người. Ở căn phòng phía trước, một trong các nữ điều khiển viên bắt đầu sụt sịt khóc.

- Houston, tôi đang đến điểm chuyển giao. - Tất cả đều hoảng sợ khi nghe thấy giọng nói vui vẻ của Luther đột nhiên bị ngắt trên điện đàm. - Tôi sẽ rất vui nếu các bạn cử ai đó đến gặp tôi khi tôi tiếp đất, vì tôi cần ai đó giúp tôi ra khỏi bộ áo quần mặc khi phóng tên lửa này.

Không ai trả lời. Không ai dám trả lời.

- Houston? - Luther nói sau một phút im lặng. - Này, các bạn vẫn ở đó chứ?

Cuối cùng Chỉ huy liên lạc cố trả lời nhưng không thể rõ ràng được.

- Đã rõ, phương tiện di dời khẩn cấp. Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn một két bia chờ anh đây, anh Luther thân mến. Có cả mấy vũ công và cả nhóm làm việc…

- Tuyệt! Các bạn đã được thả lỏng kể từ lần cuối chúng ta được nói chuyện với nhau. Được rồi, có vẻ như tôi sắp mất tín hiệu rồi. Hãy giữ cho bia lạnh vào nhé, tôi…

Có tiếng điện nổ lớn. Rồi đường truyền bị cắt đứt hoàn toàn.

Tín hiệu ra-đa trên màn hình nổ tung thành các mảnh vụn sáng chói như ánh mặt trời, rồi tan vào các ảnh điểm bụi nhỏ bé.

Woody Ellis bám vào ghế, lấy tay ôm đầu.

Ngày 19 tháng 8

- Hãy duy trì liên lạc giữa vũ trụ và trái đất. - Chỉ huy liên lạc nói. - Hãy chờ, Trạm vũ trụ quốc tế.

Hãy nói chuyện với tôi, hãy nói chuyện với tôi!Emma thầm cầu xin khi cô bay trong bóng tối chập chờn ở khoang sinh hoạt. Các cánh quạt thông khí đã hỏng, giờ khoang này im lặng đến nỗi cô chỉ có thể nghe thấy tiếng mạch đập của chính mình và các chuyển động của không khí ra vào phổi cô.

Cô giật mình khi đột nhiên nghe thấy giọng nói của Chỉ huy liên lạc.

- Hãy giữ liên lạc giữa vũ trụ và mặt đất! Anh có thể chuyển tới phòng nói chuyện riêng của gia đình.

- Jack à? - cô hỏi.

- Anh ở đây, anh ở ngay đây, em yêu.

- Anh ấy không bị bệnh! Em đã nói với họ là anh ấy hoàn toàn khoẻ mạnh…

- Bọn anh đã cố ngăn việc đó lại! Đó là mệnh lệnh trực tiếp từ Nhà Trắng. Họ đã không cho chúng ta cơ hội.

- Đó là lỗi của em! - Sự mệt mỏi của cô đột nhiên biến thành nước mắt. Cô đơn độc, sợ hãi và bị ám ảnh bởi quyết định gây ra thảm họa lớn của mình. - Em nghĩ họ sẽ để anh ấy trở về. Em nghĩ đó là cơ hội tốt nhất để anh ấy sống sót trở về.

- Tại sao em ở lại, Emma?

- Em phải làm vậy. - cô hít một hơi thật sâu rồi nói. - Em đã bị nhiễm bệnh.

- Em đã tiếp xúc. Điều đó không có nghĩa là em đã bị bệnh.

- Em đã thử đo huyết áp, Jack. Nồng độ men amilaza của em đang tăng lên.

Anh không nói gì.

- Giờ em đã tiếp xúc với bệnh hơn tám tiếng. Em sẽ còn hai mươi bốn đến bốn mươi tám tiếng nữa trước khi… em không còn hoạt động được nữa. - giọng nói của cô đã bình tĩnh lại. Giờ nó có vẻ bình tĩnh lạ lùng, như thể cô đang nói vế cái chết của một bệnh nhân khác chứ không phải của chính mình. - Thời gian đó đủ để sắp xếp lại một số việc. Ném các thi thể ra ngoài. Thay đổi vài bộ lọc không khí và khiến mấy chiếc quạt hoạt động trở lại. Như vậy sẽ giúp phi hành đoàn tiếp theo dễ dọn dẹp hơn. Nếu có phi hành đoàn khác…

Jack vẫn không nói gì.

- Về những gì còn lại của em…. - giọng cô bình tĩnh đến mức nghe có vẻ lạnh nhạt, toàn bộ tình cảm đã bị nén xuống. - Khi thời cơ đến, em nghĩ điều tốt nhất em có thể làm vì Trạm vũ trụ quốc tế là đi bộ ra ngoài vũ trụ. Ở đó em sẽ không còn làm ô nhiễm bất cứ thứ gì khi em chết đi. Sau khi xác của em đã…. - cô dừng lại. - Em còn thuốc Valium và Narcotic trong tay, đủ để em chịu đựng thêm vài giờ. Em sẽ ngủ cho đến khi em hết khí thở. Anh biết không Jack, đó là cái chết không đến nỗi nào, lơ lửng bên ngoài, ngắm trái đất và những vì sao, và chỉ trôi dạt trong giấc ngủ…

Rồi cô nghe thấy tiếng anh. Anh đang khóc.

- Jack. - cô lại nói khẽ. - Em yêu anh. Em không hiểu tại sao chúng ta lại tan vỡ. Em biết chắc đó là lỗi của em.

Anh hít sâu.

- Emma, đừng nói như vậy!

- Thật ngu xuẩn khi em lại chờ đến lúc này mới nói với anh. Có lẽ anh đang nghĩ em nói bậy chỉ vì em sắp chết. Nhưng, Jack à, điều em thành tâm nhất với Chúa là…

- Em sẽ không chết. - Anh giận dữ nhắc lại điều đó.

- Em sẽ không chết.

- Anh đã nghe về kết quả của bác sĩ Roman rồi đấy. Không có cách nào hết.

- Phòng điều áp sẽ có tác dụng.

- Chắc chắn phải có cách nào đó, em phải tìm cách nào đó để tạo ra ảnh hưởng giống như phòng điều áp. Nó đã có tác dụng với những con chuột bị nhiễm bệnh. Nó giúp chúng sống sót, vì vậy nó sẽ có tác dụng gì đó. Chúng là những con duy nhất sống sót.

Không. Cô bỗng nhớ ra. Chúng không phải là những con duy nhất.

Cô từ từ quay lại, nhìn cánh cửa dẫn đến nút số 1.

Con chuột, cô nghĩ. Con chuột đó vẫn sống phải không?

- Emma?

- Chờ chút! Em sẽ kiểm tra một thứ trong phòng thí nghiệm.

Cô bay qua nút số một và vào phòng thí nghiệm của Mỹ. Mùi máu khô vẫn còn khá nặng ở trong này. Ngay cả trong ánh sáng lờ mờ, cô vẫn thấy những vết máu bắn tung tóe trên tường. Cô bay đến khu dành cho động vật, kéo lồng chuột ra và bật đèn pin bên trong.

Ánh sáng đó chiếu rõ một cảnh tượng đáng thương. Con chuột bị phồng lên đang lên cơn quằn quại đau đớn. Chân nó duỗi thẳng, miệng ngáp ngáp hớp không khí.

Mày không thể chết được, cô nghĩ. Mày là kẻ sống sót, là trường hợp ngoại lệ chống lại quy luật đó. Mày là bằng chứng cho thấy tao vẫn còn hy vọng.

Con chuột co lại, cơ thể nó bật lên trong đau đớn. Một dòng máu cuốn quanh hai chân sau của nó và vỡ thành nhiều giọt máu cuộn tròn. Emma biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đó: đó là lần giãy chết cuối cùng khi não bị biến dạng thành một hỗn hợp như bát canh dạm đã bị nghiền nát. Cô thấy một vệt máu mới ở phần lông trắng phía sau. Rồi cô thấy thứ gì đó màu hồng thò ra giữa hai chân.

Nó đang cử động.

Con chuột đang giãy giụa.

Vật màu hồng đó tìm đường ra, uốn éo và không có lông. Nó được nối ở phần bụng bằng một sợi dây lấp lánh duy nhất. Đó là dây rốn.

- Jack. - cô thì thầm. - Jack.

- Anh đây.

- Con chuột? Con cái…

- Có chuyện gì với nó?

- Trong ba tuần qua, nó đã tiếp xúc bệnh nhiều lần với Chimera mà vẫn không bị bệnh. Nó là con duy nhất còn sống.

- Nó còn sống à?

- Đúng vậy. Em nghĩ em biết lý do. Nó có chửa.

Con chuột bắt đầu quằn quại. Một con chuột khác lại chui ra và bọc trong màng máu và nước nhầy.

- Chắc chắn chuyện này đã xảy ra vào đêm Kenichi cho nó vào lồng của những con chuột đực. - cô nói. - Em đã không làm gì với nó. Em không nhận ra là…

- Tại sao có chửa lại tạo ra sự khác biệt ở đây? Tại sao nó lại miễn dịch?

Emma lơ lửng trong ánh sáng lờ mờ, cố tìm ra câu trả lời. Việc đi ra ngoài vũ trụ mới đây và cái chết của Luther khiến sức khỏe của cô đã kiệt quệ. Cô biết Jack cũng đã kiệt sức như mình. Hai bộ não mệt mỏi chống lại quả bom hẹn giờ chính là căn bệnh truyền nhiễm của cô.

- Được rồi. Hãy nghĩ về việc có chửa! - cô nói. - Đó là một tình hình sinh lý phức tạp. Nó không chỉ là sự lớn lên của bào thai. Đó là tình trạng quá trình trao đổi chất bị biến đổi.

- Các hooc-môn. Các con vật có chửa có lượng hooc-môn rất cao. Nếu chúng ta tái tạo hiện tượng đó, chúng ta có thể tái tạo việc đang diễn ra trong con chuột đó.

Liệu pháp hooc-môn. Cô nghĩ về tất cả các loại hooc-môn vận động trong cơ thể người phụ nữ mang thai. Đó là estrogen, hooc-môn giới tính duy trì thai, prolactin, chất kích dục màng đệm ở người.

- Các viên thuốc ngừa thai. - Jack nói. - Em có thể tái hiện tình trạng có thai bằng hooc-môn ngừa thai.

- Chúng ta không có thứ gì như vậy trên trạm. Nó không có trong bộ dụng cụ y tế.

- Em đã kiểm tra ngăn tủ cá nhân của Diana chưa?

- Cô ấy không thể có thuốc tránh thai mà em lại không biết. Em là nhân viên y tế. Em phải biết chứ.

- Dù sao thì cứ kiểm tra đi. Làm đi, Emma!

Cô lao ra ngoài phòng thí nghiệm. Trong khoang dịch vụ Nga, cô nhanh chóng mở các ngăn kéo tủ của Diana. Cô thấy hơi tội lỗi khi lục lọi ngăn đồ của người khác, dù người phụ nữ đó đã chết. Trong đống quần áo được gấp gọn gàng, cô tìm thấy một chỗ cất giấu kẹo an toàn. Cô không biết Diana lại thích kẹo, có nhiều điều về Diana mà cô không biết. Trong một ngăn kéo khác, cô thấy dầu gội đầu, kem đánh răng và băng vệ sinh. Không có thuốc ngừa thai.

Cô đóng sầm ngăn kéo lại.

- Trên trạm chẳng có gì em dùng được!

- Nếu bọn anh phóng tàu con thoi ngày mai, nếu bọn anh mang được hooc-môn đó cho em…

- Họ sẽ không phóng tàu! Dù anh có gửi lên cả đống thuốc thì ít nhất ba ngày mới đến chỗ em.

Trong ba ngày, cô đã gần chết rồi.

Cô bám vào ngăn tủ dính máu. Hơi thở nhanh và gấp gáp, mỗi thớ cơ của cô đều rã rời. Cô hoàn toàn tuyệt vọng.

- Vậy chúng ta sẽ giải quyết việc này theo cách khác. - Jack nói. - Emma, hãy ở bên anh trong lúc này! Anh cần em giúp anh suy nghĩ.

Cô thở mạnh.

- Em sẽ chẳng đi đâu đâu.

- Tại sao các chất hooc-môn lại có tác dụng? Cơ chế hoạt động của nó là gì? Chúng ta biết chúng là các tín hiệu hoá học. - đó là một hệ thống giao tiếp bên trong ở mức độ tế bào. Chúng hoạt động bằng cách kích thích hay hạn chế các biểu hiện của gen…. - Giờ anh suy nghĩ rất mạch lạc và để cho dòng suy luận của mình dẫn dắt anh tìm ra giải pháp. - Để hooc-môn hoạt động, nó phải được kết nối với một cơ quan cảm nhận nhất định ở tế bào nó hướng đến. Nó như một chiếc chìa khoá, đi tìm ổ khoá đúng để cắm vừa. Có thể nếu chúng ta nghiên cứu các dữ liệu của Ttrung tâm Khoa học biển, chúng ta có thể tìm ra các ADN khác mà bác sĩ Koenig đã ghép vào nhiễm sắc thể của sinh vật gốc thì chúng ta có thể tìm ra cách ngăn chặn sự sinh sản của Chimera.

- Anh biết gì về bác sĩ Helen Koenig? Cô ấy làm thí nghiệm về những vật gì khác? Đó có thể là chìa khoá cho vấn đề này.

- Bọn anh có sơ yếu lí lịch của cô ta. Bọn anh xem các bài báo đã được xuất bản của cô ta về Archaeon. Ngoài những điều đó thì cô ta vẫn là bí ẩn lớn với chúng ta. Và Ttrung tâm Khoa học biển cũng vậy. Bọn anh đang cố moi thêm thông tin.

Việc đó sẽ mất nhiều thời gian quý báu, cô nghĩ. Em không còn nhiều thời gian nữa.

Tay cô đau vì bám quá lâu vào ngăn tủ của Diana. Cô thả lỏng tay, trôi đi như thể bị cuốn đi trong đợt sóng biển vô vọng. Các vật thể trong ngăn kéo của Diana thoát ra, lơ lửng vây quanh cô trong không trung. Chúng là bằng chứng cho thấy Diana rất thích đồ ngọt. Đó là các thanh sô-cô-la hiệu M & M’s. Một gói giấy bóng kính kẹo gừng bọc đường. Đó là thứ cuối cùng Emma bỗng tập trung vào. Gừng bọc đường.

Các chất kết tinh.

- Jack. - cô nói. - Em có cách.

Tim cô đập nhanh khi cô bay khỏi khoang dịch vụ của Nga, về phía phòng thí nghiệm của Mỹ. Ở đó cô bật máy tính cho thấy các chuyến hàng được chuyển lên. Màn hình sáng màu hổ phách kỳ quái trong khoang tối tăm. Cô tìm tập dữ liệu hoạt động và nhấp vào biểu tượng có chữ ESA. Đó là Trung tâm vũ trụ châu Âu. Đây là các quá trình và nguyên liệu cần thiết để thực hiện các thí nghiệm được chuyển lên của Trung tâm vũ trụ châu Âu.

- Em đang nghĩ gì, Emma? - Jack nói trên điện đàm.

- Diana đã nghiên cứu về sự phát triển của các chất protein kết tinh, anh nhớ không? Đó là các nghiên cứu về y khoa.

- Loại protein nào? - Anh hỏi và cô biết chính xác anh đang nghĩ điều cô nghĩ.

- Em đang tra danh sách đó. Có hàng chục…

Tên của các chất protein chạy dọc màn hình lờ mờ. Con trỏ dừng lại ở mục cô đang tìm: “chất kính dục màng đệm ở người”.

- Jack. - cô nói khẽ. - Em nghĩ em đã mua thêm cho mình được chút thời gian.

- Em tìm được gì?

- Chất kích dục màng đệm ở người. Diana đang phát triển các chất kết tinh. Em phải vào phòng hạ áp suất để kiểm nghiệm nó. Chúng ở trong khoang của Trung tâm vũ trụ châu Âu, đó là khoang chân không. Nhưng nếu em bắt đầu hạ áp bây giờ, em có thể có được các chất kết tinh đó trong vòng bốn đến năm tiếng.

- Có bao nhiêu chất kích dục màng đệm ở người trên trạm?

- Em đang kiểm tra. - cô mở tập thí nghiệm và nhanh chóng xem qua các dữ liệu.

- Emma?

- Chờ đã! Chờ đã! Em có các khối chất thí nghiệm gần đây nhất. Em đang tìm chất kích dục màng đệm ở ngườibình thường khi có thai nghén.

- Anh có thể lấy thứ đó cho em.

- Không, em đã tìm ra. Được rồi, nếu em pha loãng khối chất kết tinh này vào muối thường… nhúng cả cơ thể nặng bốn mươn lăm cân của em vào đó…. - Cô gõ các con số vào. Cô đang thực hiện phép tính xấp xỉ. Cô không biết chất kích dục màng đệm ở người sẽ chuyển hoá nhanh đến mức nào hay chu kỳ nửa phân rã của nó ra sao. Câu trả lời cuối cùng xuất hiện trên màn hình.

- Còn bao nhiêu liều? - Jack hỏi.

Cô nhắm mắt. Nó sẽ không kéo dài bao lâu. Nó sẽ không cứu được em.

- Emma?

Cô thở nhẹ nhõm. Cô nói như khóc.

- Ba ngày.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


HAI MƯƠI LĂM

Đã một giờ bốn mươi lăm phút sáng. Mắt của Jack mờ đi vì mệt mỏi. Các dòng chữ hiện lên màn hình cứ rõ rồi mờ đi.

- Chắc chắn phải có gì đó. - Jack nói như ra lệnh. - Cứ tìm đi!

Gretchen Liu ngồi ở bàn phím giận dữ ngước lên nhìn Jack và Gordon. Cô đang ngủ say khi họ gọi cô đến. Cô đã đến mà không kịp trang điểm và đeo kính áp tròng để chuẩn bị lên hình như mọi khi. Họ chưa bao chưa giờ thấy nhân viên quan hệ công chúng của mình lại thiếu rạng rỡ như vậy. Họ cũng chưa bao giờ thấy cô đeo kính vì gọng kính to càng cho thấy rõ cặp mắt thiếu ngủ của cô.

- Tôi đã nói với các vị rồi, đây là tất cả những gì tôi có thể tìm thấy về nghiên cứu Lexis. - Nexis. Hầu như chẳng có gì liên quan đến Helen Koenig. Về Trung tâm Khoa học biển, chỉ có một tin tức bình thường về tập đoàn này được công bố. Đối với cái tên Palmer Gabriel, các vị có thể tự nhận thấy là ông ta không thích báo chí. Trong vòng năm năm qua, tên ông ta chỉ xuất hiện trên tờ tạp chí tài chính Thời báo phố Wall trong các bài báo kinh tế về Trung tâm Khoa học biển và các sản phẩm của nó. Không có dữ liệu nào liên quan đến sinh học. Thậm chí còn không có ảnh của ông ta.

Jack ngả về sau ghế, dụi mắt. Ba người bọn họ đã ở trong phòng quan hệ công chúng suốt hai giờ đồng hồ qua, lục tìm mọi bài báo về Helen Koenig và Trung tâm Khoa học biển mà họ có thể tìm thấy trên phần mềm Lexis. - Nexis. Họ đã tìm được nhiều bài báo về Trung tâm Khoa học biển, hàng chục bài báo đã nhắc đến các sản phẩm của nó, từ dầu gội, thuốc đến phân bón. Nhưng hầu như không có gì về Koenig hay Gabriel.

- Hãy thử tên Koenig lần nữa xem! - Jack nói.

- Chúng ta đã nhập vào mọi khả năng đánh vần tên cô ấy. - Gretchen nói. - Chẳng có gì hết!

- Vậy thì hãy đánh chữ Archaeon.

Gretchen Liu thở dài, gõ chữ Archaeon và nhấp chữtìm kiếm.

Một chuỗi rất dài các bài báo xuất hiện trên màn hình.

“Các sinh vật lạ trên trái đất. Các nhà khoa học đã phát hiện một dạng sống mới ” (Thư tín Washington).

“Archaeon trở thành chủ đề của hội thảo quốc tế”(Thời báo Miami).

“Các sinh vậy dưới biển sâu cho thấy căn cứ về nguồn gốc sự sống” (Điều tra Philadelphia).

- Các bạn ạ, việc này vô ích thôi. - Gretchen bắt đầu nản. - Chúng ta sẽ mất cả đêm để đọc hết các bài báo trong danh sách này. Tại sao chúng ta không tận dụng buổi tối để đi ngủ?

- Chờ đã. - Gordon nói. - Cuộn xuống bài này đi! - ông chỉ vào đề báo ở gần cuối màn hình. “Một nhà khoa học thiệt mạng trong tai nạn lặn xuống khe Galapagos”.

Gretchen nhấp vào bài báo và cả đoạn văn xuất hiện. Việc này đã xảy ra cách đây hai năm.

BẢN QUYỀN: Thời báo New York.

CHUYÊN MỤC: Thời sự quốc tế.

TIÊU ĐỀ: “Một nhà khoa học thiệt mạng trong tai nạn lặn xuống khe Galapagos”.

TÁC GIẢ: Julio Perez, phóng viên tờ Thời báo New York.

NỘI DUNG: Một nhà khoa học Mỹ nghiên cứu về sinh vật biển Archaeon đã thiệt mạng ngày hôm qua khi tàu ngầm một người ngồi của anh bị mắc kẹt dưới khe biển Galapagos. Thi thể của bác sĩ Stephen D. Ahearn sáng nay mới được tìm thấy, khi đó các dây cáp của tàu nghiên cứu Gabriella đã lôi tàu ngầm lên mặt nước.

“Chúng tôi biết anh ấy vẫn ở dưới đó, nhưng chúng tôi không thể làm gì được”. Một bạn đồng nghiệp của ông trên tàu Gabriella nói. “Anh ấy bị mắc kẹt dưới độ sâu hai nghìn bảy trăm bốn mươi ba mét. Chúng tôi mất nhiều giờ đồng hồ mới lôi được tàu ngầm của anh ấy ra và kéo nó lên mặt nước”.

Bác sĩ Ahearn là giáo sư địa chất tại đại họcCalifornia, ở San Diego. Anh sống ở La Jolla, bangCalifornia.

Jack nói.

- Tên con tàu là Gabriella.

Anh và Gordon nhìn nhau, cả hai đều giật mình vì một ý nghĩ khiến họ ngạc nhiên : Gabriella, Palmer Gabriel.

- Tôi cá đây là tàu của Trung tâm Khoa học biển. - Jack nói. - Và Helen Koenig có mặt ở trên tàu.

Gordon nhìn màn hình.

- Giờ chuyện này đang trở nên thú vị. Anh nghĩ gì về việc Ahearn là một nhà địa chất học?

- Vậy thì sao? - Gretchen ngáp dài.

- Một nhà địa chất học sẽ làm gì trên một con tàu nghiên cứu về biển?

- Để kiểm tra đá ở đáy đại dương chăng?

- Hãy tìm kiếm tên anh ta.

Gretchen lại thở dài.

- Các vị nợ tôi một đêm ngủ ngon giấc đấy. - cô gõ tênStephen D. Ahearn và nhấp chữ tìm kiếm.

Một danh sách hiện lên, tổng cộng có bảy bài báo. Sáu trong số đó viết về cái chết của anh ở khe vực Galapagos dưới đáy biển.

Có một bài báo được viết cách đó một năm trước khi anh chết:

“Thông báo của bộ quốc phòng dân sự Mỹ : Giáo sư Ahearn sẽ trình bày các phát hiện mới nhất về nghiên cứu thiên thạch. Anh sẽ là nhân vật chủ chốt trong Hội nghị Địa chất học thế giới tại Madrid”(Công đoàn San Diego)

Cả hai người nhìn màn hình và khi đó họ quá kinh ngạc nên không nói được lời nào.

Rồi Gordon từ tốn nói.

- Chính nó đấy, Jack. Đó chính là điều họ cố giấu chúng ta.

Jack thấy tay mình tê cứng, họng khô rát. Anh chỉ tập trung nhìn một từ, từ đó đã nói lên tất cả.

Thiên thạch.

Nhà của giám đốc Trung tâm vũ trụ Johnson Ken Blankenship nằm trong một dãy các ngôi nhà không tên ở ngoại ô Clear Lake, có rất nhiều nhân viên làm việc tại Trung tâm vũ trụ Johnson cũng sống ở đó. Thật là một ngôi nhà quá lớn với một người độc thân.

Dưới ánh sáng của những bóng đèn, Jack thấy sân trước hoàn toàn trống trải, hàng rào được tỉa rất gọn. Khoảng sân được chiếu quá sáng vào lúc ba giờ sáng, đó chính là điều người ta nghĩ Ken Blankenship sẽ làm. Ông nổi tiếng về tính cầu toàn, cũng như nổi ám ảnh thái quá về an ninh. Có lẽ có cả một máy quay đang theo dõi chúng ta lúc này, Jack nghĩ khi anh và Obie chờ Blankenship ra mở cửa. Họ phải bấm chuông mấy lần mới thấy bật đèn bên trong. Rồi Blankenship xuất hiện, thân hình thấp béo như Napoleon và đang mặc áo choàng tắm.

- Mới ba giờ sáng. - Blankenship ngạc nhiên. - Các anh đang làm gì ở đây?

- Chúng ta cần nói chuyện. - Gordon vào đề ngay.

- Có vấn đề gì với điện thoại của tôi à? Các anh không thể gọi trước sao?

- Chúng tôi không thể dùng điện thoại, nhất là với việc này.

Họ bước vào nhà. Chỉ khi cánh cửa đã đóng lại, Jack mới nói.

- Chúng tôi biết Nhà Trắng đang cố giấu điều gì. Chúng tôi đã biết Chimera đến từ đâu.

Blankenship nhìn anh. Sự bực bội khi bị đánh thức lúc nửa đêm tiêu tan ngay. Rồi ông nhìn Gordon để xác nhận thông tin đó của Jack.

- Điều đó đã giải thích mọi việc. - Gordon nói. - Đây là bí mật của Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm, tính đa nghi của Nhà Trắng. Và sự thật là sinh vật này biến đổi theo cách mà các bác sĩ của chúng ta chưa từng thấy bao giờ.

- Các anh đã phát hiện điều gì?

Jack nói ngay.

- Chúng tôi biết Chimera là kết hợp giữa con người, chuột và động vật bò sát. Nhưng Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm không cho chúng ta biết các ADN khác trong nhiễm sắc thể của Chimera. Họ sẽ không cho chúng ta biết Chimera thực sự là gì và nó đến từ đâu.

- Đêm qua các anh nói với tôi là nó được gửi từ chuyến hàng của Trung tâm Khoa học biển, từ một mẻ tế bào Archaeon.

- Đó là điều chúng tôi nghĩ. Nhưng Archaeon là các tế bào vô hại. Chúng không có khả năng lây bệnh cho người. - đó là lý do tại sao thí nghiệm đó lại được NASA phê chuẩn. Có điều gì đó về sinh vật Archaeon này rất khác biệt, một điều mà Trung tâm Khoa học biển không cho chúng ta biết.

- Ý anh muốn nói gì? Thứ gì khác à?

- Về nơi nó đã đến. Từ khe nứt Galapagos.

Blankenship lắc đầu.

- Tôi thấy nó chẳng có ý nghĩa gì ở đây.

- Mẻ tế bào này được các nhà khoa học trên tàuGabriella phát hiện, đó là một con tàu của Trung tâm Khoa học biển. Một trong các nhà nghiên cứu đó là tiến sĩ Stephen Ahearn. Ông ấy đã rời tàu Gabriella, rõ ràng với tư cách là nhà cố vấn hàng đầu. Trong một tuần, ông ấy đã chết. Con tàu ngầm siêu nhỏ của ông ấy mắc kẹt giữa khe nứt và ông ấy đã chết ngạt.

Blankenship không nói gì, chỉ đứng nhìn Jack.

- Tiến sĩ Ahearn nổi tiếng về nghiên cứu thiên thạch. - Jack nói. - Các mảnh vụn như thủy tinh đó được tạo ra bất cứ khi nào sao băng va chạm với trái đất. Đó là lĩnh vực chuyên sâu của tiến sĩ Ahearn, địa chất học về sao băng và thiên thạch.

Blankenship vẫn không nói gì. Tại sao ông ấy không phản ứng gì? Jack băn khoăn. Ông ấy không hiểu điều này có ý nghĩa gì sao?

- Trung tâm Khoa học biển đã cử Ahearn đến khe nứt Galapagos bởi vì họ cần ý kiến của một nhà địa chất học. - Jack nói. - Họ cần xác nhận một thứ họ tìm thấy dưới đáy đại dương, đó là một mảnh sao băng.

Mặt của Blankenship cứng đơ. Ông quay đi và vào bếp.

- Đó là lý do tại sao Nhà Trắng quá lo lắng về Chimera! - Jack tiếp tục. - Họ biết nó từ đâu đến. Họ biết nó là gì.

Blankenship nhấc điện thoại và quay số. Một lúc sau, ông nói.

- Đây là giám đốc Trung tâm vũ trụ Johnson, Blankenship. Tôi cần nói chuyện với ông Jared Profitt. Vâng, tôi biết bây giờ là mấy giờ. Đây là trường hợp khẩn cấp nên nếu cô có thể kết nối tới nhà ông ấy…. - ông im lặng một lát. Rồi ông nói trên điện thoại. - Họ đã biết. Tôi không nói với họ. Họ tự tìm ra. - ông dừng lại. - Jack McCallum và Gordon Obie. Vâng, thưa ngài, họ đang đứng ngay đây, tại bếp của tôi. - ông đưa điện thoại cho Jack. - Ông ấy muốn nói chuyện với anh.

Jack cầm điện thoại.

- Tôi, Jack McCallum đây.

- Có bao nhiêu người biết? - đó là câu đầu tiên Jared Profitt hỏi anh.

Câu hỏi đó khiến Jack hiểu vấn đề này nhạy cảm mức nào. Anh nói.

- Chỉ các bác sĩ của chúng tôi biết. Và vài người ở Trung tâm Khoa học biển. - Anh chỉ nói vậy, anh biết đáng lẽ mình nên kể ra vài cái tên.

- Các anh có thể im lặng không? - Profitt hỏi.

- Còn tùy!

- Vào cái gì?

- Vào việc ông có hợp tác với chúng tôi không, và chia sẻ thông tin với chúng tôi.

- Anh muốn gì, bác sĩ McCallum?

- Toàn bộ sự thật, mọi thứ các vị biết về Chimera, kết quả khám nghiệm tử thi, dữ liệu từ các thí nghiệm y khoa của các vị.

- Nếu chúng tôi không chia sẻ các thông tin đó thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra?

- Đồng nghiệp của tôi ở NASA sẽ gửi fax đến mọi hãng thông tấn ở Mỹ.

- Và nói với họ chính xác là cái gì?

- Sự thật, rằng sinh vật này không bắt nguồn từ trái đất.

Ông ta im lặng rất lâu. Jack nghe thấy cả tiếng tim ông ta đập mạnh qua điện thoại. Chúng ta đoán đúng phải không? Chúng ta đã phát hiện ra sự thật đúng không?

Profitt nói.

- Tôi sẽ yêu cầu bác sĩ Roman nói với anh mọi chuyện. Anh ấy sẽ gặp anh tại khu Cát Trắng. - rồi ông ta dập máy.

Jack gác máy, nhìn Blankenship.

- Ông biết mọi chuyện này bao lâu rồi?

Sự im lặng của ông ta chỉ khiến Jack thêm tức giận. Anh tiến về phía trước vẻ đe doạ và Blankenship lùi lại về phía bức tường trong bếp.

- Ông biết chuyện này được bao lâu rồi?

- Chỉ… chỉ mấy ngày thôi. Tôi đã thề là sẽ giữ bí mật.

- Còn người của chúng ta đang chết trên đó thì sao?

- Tôi không còn lựa chọn! Điều này sẽ khiến mọi người hoảng sợ. - Blankenship hít sâu một hơi và nhìn thẳng vào mắt Jack. - Anh sẽ hiểu tôi định nói về việc gì nếu anh đến khu Cát Trắng.

Ngày 20 tháng 8

Emma cắn chặt răng, cố buộc ga-rô thật chặt. Các mạnh máu ở tay trái nổi lên như những con giun dưới làn da xanh xao. Cô lấy cồn lau phần cánh tay dưới khủyu và nhăn mặt khi kim tiêm đâm vào. Như con nghiện khao khát cai bệnh, cô tiêm hết những gì còn lại trong xi-lanh, nới lỏng ga-rô. Khi đã xong, cô nhắm mắt để mình trôi tự do. Cô tưởng tượng ra các phân tử chất kích dục màng đệm ở người như những ngôi sao hy vọng nhỏ bé đang di chuyển trong mạch máu mình, cuộn lên đầu và hai lá phổi. Nó di chuyển dần lên các động mạch và mao mạch. Cô thấy dường như mình đã cảm thấy tác động tức thời của nó, cơn đau đầu dần biến mất. Cơn sốt bốc hoả của cô cũng tan biến thành một thứ gì đó hư vô. Chỉ còn ba liều, cô nghĩ. Còn ba ngày nữa.

Cô tưởng tượng hồn mình lìa khỏi xác. Cô thấy mình như thể đang ở đằng xa, cuộn tròn lại như một bào thai trong quan tài. Một bong bóng bọc màng bay ra từ miệng cô rồi vỡ tung, thành các sợi chỉ ngoằn ngoèo như những con giòi.

Cô mở mắt ngay và thấy mình đang ngủ, đang mơ. Áo cô ướt đẫm mồ hôi. Đó là tính hiệu tốt. Điều đó có nghĩa là cơn sốt của cô đang hạ.

Cô xoa hai bên thái dương, cố quên đi hình ảnh trong giấc mơ nhưng không được. Sự thật và giấc mơ cứ quện vào nhau.

Cô cởi áo ngoài, lấy một chiếc áo sạch trong ngăn tủ của Diana. Dù gặp ác mộng, giấc ngủ ngắn đó đã giúp cô sảng khoái một chút. Giờ cô lại tỉnh táo và sẵn sàng tìm kiếm các giải pháp mới. Cô bay đến phòng thí nghiệm Mỹ và mở tập tin về Chimera trên máy tính. Đây là một sinh vật ngoài trái đất, Todd Cutler đã thông báo với cô như vậy. Mọi thứ NASA biết về sinh vật này đã được truyền tới các máy tính trên tàu cho cô. Cô xem lại các tệp thông tin đó, hy vọng tìm ra được điều gì đó mới, một phương pháp mà chưa ai nghĩ ra. Mọi thứ cô đọc đều quen thuộc và không lối thoát.

Cô mở tệp thông tin về nhiễm sắc thể. Một chuỗi nucleotit chạy dọc màn hình. Nó trải ra thành một chuỗi bất tận các chữ cái A, C, T và G. Đây là mã quy định của Chimera. - dù sao cũng chỉ là một phần của nó. Đó là những phần mà Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đã chọn lọc để chia sẻ với NASA. Cô nhìn chằm chằm vào nó như bị thôi miên khi các mã gen chạy dọc màn hình. Đây là phần cơ bản nhất của dạng sống ngoài trái đất đang phát triển bên trong cô. Đây là chìa khóa của kẻ thù. Giá như cô biết cách sử dụng nó.

Chìa khóa.

Cô bỗng nhớ lại những điều Jack đã nói với cô trước đây về các hooc-môn. Để hooc-môn hoạt động, nó phải bám chặt vào cơ thể gốc, vào một tế bào cụ thể nào đó. Nó như chiếc chìa khóa đang tìm kiếm để khớp vào ổ khóa.

Tại sao hooc-môn như chất kích dục màng tế bào dành cho động vật có vú lại có thể hạn chế sự sinh sản của dạng sống ngoài trái đất này? Cô tự hỏi. Tại sao một sinh vật ngoài trái đất, một thứ quá xa lạ với sự sống trên trái đất lại có các ổ khóa khớp với chìa khóa của chúng ta?

Trên máy tính các chuỗi nucleotit đã cuộn đến phần cuối. Cô nhìn con trỏ nhấp nháy và nghĩ về các sinh vật được sinh ra trên trái đất và bị Chimera lấy mất ADN. Bằng cách lấy các gen mới đó, dạng sống ngoài trái đất đã phần nào giống con người, một phần giống chuột, và một phần là bò sát.

Cô liên lạc với Houston.

- Tôi cần nói chuyện với ai đó ở Trung tâm Khoa học biển. - cô nói.

- Cụ thể là ai? - chỉ huy liên lạc nói.

- Một chuyên gia về bò sát.

- Chờ nhé, Watson!

Mười phút sau, tiến sĩ Wang ở Trung tâm Khoa học biển đã được nối với điện đàm.

- Cô thắc mắc về loài bò sát à? - ông hỏi.

- Đúng, về Rana pipiens, loài ếch đốm phía bắc.

- Cô cần biết thông tin gì?

- Chuyện gì xảy ra nếu ông cho ếch đốm tiếp xúc với các hooc-môn của con người?

- Cụ thể là hooc-môn nào?

- Ví dụ như Estrogen. Hay hooc-môn kích dục màng đệm ở người.

Bác sĩ Wang trả lời ngay.

- Các loài bò sát nhìn chung đều bị ảnh hưởng tiêu cực trong môi trường có hooc-môn nam tính. Thực ra việc đó đã được vài người nghiên cứu. Một số nhà khoa học nghĩ số lượng ếch nhái suy giảm trên thế giới là do chất hooc-môn nam tính làm ô nhiễm các nguồn nước và ao hồ.

- Các hooc-môn nam tính nào?

- Ví dụ như một vài loại thuốc trừ sâu có thể gần giống hooc-môn nam tính. Chúng phá hủy hệ thống nội tiết của các loài ếch, khiến chúng không thể sinh sản hay phát triển.

- Vậy là thuốc đó không thực sự giết chúng?

- Đúng, nó chỉ ngăn cản quá trình sinh sản thôi.

- Vậy loài ếch đặc biệt nhạy cảm với chất này?

- Đúng vậy, nhạy cảm hơn nhiều so với động vật có vú. Hơn nữa, da ếch có khả năng thẩm thấu. Vì vậy nhìn chung chúng nhạy cảm với chất độc hơn. Đó là một kiểu mà chúng ta gọi là “gót chân Achilles”.

Gót chân Achilles. Cô im lặng một lúc để nghĩ về điều đó.

- Bác sĩ Watson. - tiến sĩ Wang nói. - Cô có hỏi gì nữa không?

- Có. Loại bệnh hay chất độc nào có thể giết chết ếch nhưng không làm hại gì động vật có vú?

- Đó là một câu hỏi rất hay. Nói về thuốc độc thì nó tùy thuộc vào liều dùng. Nếu cô cho ếch ăn một ít thạch tín, nó sẽ chết. Nhưng thạch tín cũng giết chết con người nếu liều dùng quá cao. Và tương tự, các bệnh do vi khuẩn gây ra thì chỉ có một số vi khuẩn và vi rút giết chết ếch. Tôi không phải là bác sĩ chuyên khoa nên tôi không chắc nó có giết chết con người hay không, nhưng…

. - Các loại vi rút à? Đó là những loại nào?

- Ồ, ví dụ như vi rút Rana.

- Tôi chưa từng nghe cái tên đó.

- Chỉ có những chuyên gia về bò sát mới biết chúng. Chúng là các vi rút ADN, thuộc họ vi rút Irdo. Chúng tôi nghĩ chúng là nguyên nhân gây ra hội chứng phù ở những con nòng nọc. Những con nòng nọc sẽ bị phù lên và xuất huyết.

- Chúng có chết không?

- Phần lớn là chết.

- Loại vi rút đó có giết người không?

- Tôi không biết. Tôi nghĩ người ta cũng chưa biết điều này. Các loại vi rút Nara đã giết một lượng lớn các loài ếch trên khắp thế giới.

Gót chân Achilles, cô nghĩ. Mình đã tìm ra nó.

Bằng cách lấy thêm ADN của loài ếch vào nhiễm sắc thể, Chimera đã một phần là loài bò sát. Nó cũng bị một số loại vi rút ảnh hưởng như bò sát.

Cô nói.

- Có cách nào lấy được mẫu của một trong các vi rútNara không? Để thử nghiệm nó trên Chimera?

Ông im lặng rất lâu.

- Tôi hiểu rồi. - tiến sĩ Wang nói. - Chưa ai thử điều đó. Chưa ai nghĩ đến việc…

- Ông có thể lấy các loại vi rút đó không?

- Có, tôi biết hai phòng thí nghiệm nghiên cứu về bò sát ở California. Họ đang nghiên cứu về vi rút Nara.

- Vậy thì hãy làm ngay. Và hãy báo cho anh Jack McCallum. Anh ấy cần biết chuyện này.

. - Anh ấy và Gordon Obie đã đến khu Cát Trắng. Tôi sẽ tìm họ ở đó.

Cỏ lăn cuộn ngang trên mặt đường và chạy dọc theo những cồn cát. Họ lái xe qua gác canh, hàng rào điện và khu quân sự lạnh lẽo. Jack và Gordon ra khỏi xe, nheo mắt nhìn lên mặt trời. Mặt trời như một quả cam đỏ rực bị cát bụi che mờ. Đó là màu hoàng hôn, không phải vào giữa trưa. Họ đã cố chợp mắt vài giờ trước khi cất cánh ở Ellington. Jack thấy đau mắt khi nhìn thấy ánh sáng ban ngày.

- Lối này, thưa các vị. - người lái xe nói.

Họ theo người lình vào tòa nhà.

Việc đón tiếp lần này khác với lần trước Jack đến đây. Lần này người họ tống họ tỏ vẻ tôn trọng và lịch sự hơn. Bác sĩ Isaac Roman đã đứng chờ ở bàn tiếp đón mặc dù trông anh ta không được vui mừng vì chuyến đến thăm của họ.

- Chỉ anh được phép đi cùng tôi, bác sĩ McCallum. - Anh ta nói. - Ngài Obie chờ ở đây. Đây là thỏa thuận.

- Tôi chưa bao giờ thỏa thuận như vậy. - Jack nói.

- Còn ngài Profitt thì có, thay mặt cho anh đấy. Anh là người duy nhất có lý do vào tòa nhà này. Tôi không có nhiều thời gian nên anh quyết định nhanh cho. - Anh ta quay đi, bước về phía thang máy.

- Giờ đó sẽ là bạn đồng hành chết tiệt của anh. - Gordon nói. - Đi đi, tôi sẽ chờ.

Jack theo Roman vào thang máy.

- Điểm dừng đầu tiên là tầng hầm số hai. - Roman giải thích. - Ở đó có các thí nghiệm trên động vật của chúng tôi. - cửa thang máy mở, trước mặt họ là một bức tường bằng kính. Đó là cửa sổ quan sát.

Jack lại gần cửa sổ và nhìn vào phòng thí nghiệm bên trong. Trong lồng nhốt những con khỉ nhện và chó. Ngay bên phải ô cửa là những chiếc lồng bằng kính nhốt chuột. Roman chỉ vào những con chuột.

- Anh sẽ thấy mỗi lồng đều dán ngày giờ chúng bị nhiễm bệnh. Tôi không nghĩ ra cách nào tốt hơn để thể hiện bản chất chết người của Chimera.

Ở lồng ghi ngày thứ nhất, sáu con chuột có vẻ khỏe mạnh. Chúng đang đạp các bánh xe rất khỏe.

Ở lồng ghi ngày thứ hai, những dấu hiệu đầu tiên của bệnh đã xuất hiện. Hai trong sáu con đang co giật, mắt chúng như những giọt máu màu đỏ tươi. Còn bốn con khác túm tụm lại với nhau trong trạng thái ngủ lim dim.

- Hai ngày đầu là giai đoạn sinh sản của Chimera. - bác sĩ Roman nói. - Anh biết đấy, quá trình này trái ngược hẳn với những gì chúng ta thấy trên trái đất. Thường thì một dạng sống phải đạt đến thời kỳ trưởng thành rồi mới sinh sản. Chimera sinh sản trước, sau đó mới lớn lên. Nó phân chia rất nhanh và tạo ra tới hàng trăm phiên bản của chính nó trong vòng bốn mươi tám tiếng. Chúng bắt đầu từ kích thước siêu nhỏ. - mà chúng ta không thể thấy bằng mắt thường. Chúng đủ nhỏ để chúng ta hít vào trong không khí hay chui vào qua màng nhầy của chúng ta. Thậm chí chúng ta không hề biết mình đã bị nhiễm bệnh.

- Vậy là chúng sẽ lây lan trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống?

- Chúng lây lan trong bất cứ giai đoạn nào. Chúng chỉ cần được tự do trong không khí. Thường thì việc này xảy ra khi nạn nhân chết hoặc khi xác chết bị nổ tung vài ngày sau khi chết. Một khi Chimera đã gây bệnh cho chúng ta, một khi nó đã nhân lên trong cơ thể thì mỗi bản sao lại bắt đầu phát triển, và bắt đầu tiến hoá thành…. - Anh ta dừng lại. - Chúng tôi không biết phải gọi nó là gì. Tôi nghĩ là các túi trứng. Vì chúng chứa các dạng sống bên trong.

Jack chuyển sang lồng ghi ngày thứ ba. Tất cả những con chuột đang co giật, chân chúng duỗi ra như thể chúng đang bị sốc điện liên tục.

- Đến ngày thứ ba. - Bác sĩ Roman nói. - Ấu trùng phát triển rất nhanh, thay thế các chất trong não nạn nhân bằng các chất nhầy. Chúng phá hủy các chức năng thần kinh của động vật chủ. Và đến ngày thứ tư…

Họ nhìn lồng ghi ngày thứ tư. Tất cả lũ chuột, trừ một con đều đã chết. Các xác chết chưa được bỏ ra, chúng nằm cứng đơ, miệng há to. Vẫn còn lồng để xem, quá trình phân hủy vẫn tiếp tục.

Đến ngày thứ năm, các xác chết bắt đầu phình to.

Ngày thứ sáu, những cái bụng đã to hơn và da của chúng căng như mặt trống. Chất nhầy rỉ ra từ những cặp mắt mở to và lấp lánh trên hai lỗ mũi.

Đến ngày thứ bảy…

Jack dừng lại bên cạnh ô cửa và nhìn lồng ghi ngày thứ bảy. Các xác chết bị nổ tung rải rác dưới đáy lồng như những quả bóng bay bị nổ.

Da của chúng bị xé rách, để lộ ra những đống nội tạng đã phân hủy màu đen. Ngay cạnh mặt của một con chuột chết là một khối chất sền sệt mờ đục. Chúng đang cựa quậy.

- Các túi trứng. - Roman nói. - Đến giai đoạn này, các khung rỗng trong cơ thể động vật chủ chứa đầy túi trứng. Chúng phát triển với tốc độ chóng mặt và ăn hết mô của sinh vật chủ. Chúng ăn hết các bó cơ và nội tạng. - Anh ta nhìn Jack. - Anh biết vòng đời của các côn trùng ký sinh không?

Jack lắc đầu.

- Những con côn trùng trưởng thành tiêm trứng vào một con sâu còn sống. Các ấu trùng phát triển, ăn hết dung dịch trong cơ thể con chủ. Trong suốt thời gian đó, con sâu vẫnsống. Nó nuôi một dạng sống ăn thịt nó từ bên trong cho đến khi ấu trùng khiến con sâu nổ tung từ bên trong. - Roman nhìn những con chuột chết. - Các ấu trùng này cũng nhân lên, sinh sôi trong cơ thể nạn nhân còn sống. Cuối cùng đó cũng chính là thứ sẽ giết chết con chủ.

Toàn bộ ấu trùng này được bọc trong hộp sọ, gặm nhấm trên bề mặt của các chất màu xám. Chúng phá hủy con sâu, khiến nó bị chảy máu trong sọ. Áp suất trong đó sẽ tăng. Các mạch máu trong mắt bị ép mạnh, rồi nổ tung. Con vật chủ chịu những cơn đau đầu khủng khiếp và rối loạn. Nó sẽ vật lộn lên xuống như người say. Trong vòng ba đến bốn ngày, nó sẽ chết. Và dạng sống đó vẫn tiếp tục ăn xác chết, lấy đi ADN của nó, sử dụng ADN đó để đẩy nhanh quá trình tiến hóa của nó.

- Thành cái gì?

Roman nhìn Jack.

- Chúng ta vẫn chưa biết điểm kết thúc. Trong mỗi thế hệ, Chimera lấy ADN từ sinh vật chủ. Chimera mà chúng tôi đang thí nghiệm không giống với con ban đầu. ADN của nó đã phức tạp hơn nhiều. Dạng sống này đã tiến hoá hơn.

Và ngày càng giống người, Jack nghĩ.

- Đây là lý do tại sao việc này là bí mật tuyệt đối. - Roman nói. - Bất cứ tên khủng bố hay nước thù địch nào cũng có thể đào khe Galapagos để lấy chúng. Sinh vật này nếu rơi vào tay những kẻ độc ác…. - giọng nói của anh ta bé dần.

- Vậy là sinh vật này không phải do con người tạo ra?

Roman lắc đầu.

- Nó đã vô tình được tìm thấy ở khe nứt và được tàuGabriella mang lên mặt đất. Đầu tiên, tiến sĩ Koenig nghĩ cô ấy đã tìm ra một loại Archaeon mới. Nhưng thứ cô ấy tìm thấy chính là thứ này. - Anh ta nhìn khối trứng đang chuyển động. - Cách đây một nghìn năm, chúng đã bị nhốt trong phần còn lại của thiên thạch ở độ sâu hai nghìn bảy trăm bốn mươi ba mét. Điều đó đã kiểm soát nó trong suốt một thời gian. Đó chính là lý do nó nằm ở dưới đáy biển, chứ không phải trên mặt đất.

- Giờ tôi đã hiểu tại sao các anh lại thử nghiệm nó trong phòng điều áp.

- Trong suốt thời gian trước đó, Chimera đã phản ứng vô hại khi ở dưới khe nứt. Chúng tôi nghĩ nếu có thể tái tạo áp suất đó, chúng tôi sẽ có thể khiến nó ôn hòa như trước.

- Và các anh làm được không?

Roman lắc đầu.

- Chỉ tạm thời thôi. Dạng sống này đã thay đổi quá nhanh trong môi trường trọng lực siêu nhỏ. Bằng cách nào đó, nó đã được đem lên Trạm vũ trụ quốc tế. Công tắc sinh sản của nó đã được bật lên, như thể nó đã được lập trình để giết người. Nhưng cần mất đi trọng lực để quá trình đó hoạt động trở lại.

- Liệu pháp dùng bội áp suất này có tác dụng tạm thời trong bao lâu?

- Những con chuột bị bệnh vẫn khỏe mạnh nếu được nhốt trong lồng. Cho đến giờ chúng tôi đã khiến chúng sống được mười ngày. Nhưng ngay khi chúng tôi cho chúng ra ngoài thì bệnh lại tiếp tục.

- Còn vi rút Rana thì sao? - một giờ trước, tiến sĩ Wang ở Trung tâm Khoa học đời sống của NASA đã nói chuyện ngắn gọn qua điện thoại với Jack. Ngay khi đó, một nguồn vi rút tiêu diệt loài bò sát đã được chuyển đến bằng máy bay của Lực lượng không quân tới phòng thí nghiệm của bác sĩ Roman.

- Các nhà khoa học của chúng tôi tin là nó có tác dụng.

- Về mặt lý thuyết là vậy. Nhưng còn quá sớm để phóng tàu con thoi lên cứu họ. Trước hết, chúng ta phảichứng minh vi rút Nara có tác dụng, nếu không anh sẽ gây nguy hiểm cho tính mạng của các phi hành gia trên tàu con thoi. Chúng ta cần thời gian thử nghiệm vi rút đó. Ít ra cũng mất mấy tuần.

Emma không còn vài tuần, Jack nghĩ. Cô ấy chỉ còn ba ngày đủ dùng thuốc kích dục màng nhầy ở người. Anh im lặng nhìn lồng chứa xác những con chuột, nhìn những quả trứng trong chiếc tổ nhầy của chúng. Giá như mình có thể mua thêm thời gian.

Thời gian, Jack bỗng nhận ra một điều. Anh nhớ lại điều gì đó Roman đã nói với mình.

- Anh đã nói là phòng bội áp suất đã giúp những con chuột sống sót mười ngày.

- Đúng vậy!

- Nhưng tàu Discovery mới đâm xuống cách đây mười ngày.

Roman tránh ánh mắt anh.

- Anh đã chuẩn bị phòng bội áp suất ngay từ đầu. Điều đó nghĩa là anh đã biết mình đang đối mặt với cái gì. Thậm chí trước khi anh thực hiện mổ tử thi.

Roman quay đi, trở về thang máy. Anh ta há hốc mồm kinh hãi khi Jack túm lấy cổ áo anh ta và xoay anh ta sang bên.

- Đây có phải là chuyến hàng vị mục đích thương mại không? - Jack hỏi. - Phải không?

Roman hất tay anh ra và lộn về phía sau, ngã về phía tường.

- Bộ quốc phòng sử dụng Trung tâm Khoa học biển là mặt nạ. - Jack nói. - Anh đã trả tiền để họ gửi thí nghiệm đó lên cho mình, để che giấu sự thật là dạng sống đó dùng để phục vụ mục đích quân sự.

Roman lao về phía thang máy, định chạy trốn.

Jack chụp được áo của anh ta, túm chặt lấy cổ áo.

- Đây không phải là vụ khủng bố sinh học. Đây chính làsai lầm khốn nạn của chính anh!

Mặt Roman tím tái.

- Tôi không… không thở được!

Jack thả anh ta ra. Roman trượt dài trên bức tường, chân khuỵu xuống. Anh ta không nói gì một lúc lâu, chỉ ngồi lì trên sàn, cố lấy lại hơi thở. Cuối cùng, khi anh ta nói, anh ta chỉ còn thều thào.

- Chúng tôi không có cách nào khác để xem nó sẽ phản ứng ra sao. Nó sẽ thay đổi thế nào nếu không có trọng lực…

- Nhưng anh biết nó từ hành tinh khác đến.

- Đúng vậy.

- Và anh biết đó là một con quái vật, và nó đã có ADN của loài bò sát.

- Không, không. Chúng tôi không hề biết điều đó.

- Đừng có lừa tôi!

- Chúng tôi thực sự không biết làm cách nào lại có ADN của con ếch trong nhiễm sắc thể của nó! Chắc chắn việc này đã xảy ra trong phòng thí nghiệm của Koenig. Có thể cô ta đã nhầm lẫn. Cô ta chính là người đã tìm thấy sinh vật này ở khe nứt và là người duy nhất nhận ra nó là gì. Trung tâm Khoa học biển biết chúng tôi quan tâm tới nó, một sinh vật ngoài trái đất. Và tất nhiên chúng tôi quan tâm tới nó. Bộ quốc phòng đã trả tiền cho thí nghiệm bằng máy bay KC-135 của họ. Còn chúng tôi tài trợ để thí nghiệm đó được đưa lên Trạm vũ trụ quốc tế. Nó không thể được đưa lên đó với tư cách là một chuyến hàng của quân đội. Có quá nhiều câu hỏi được đặt ra, quá nhiều phòng ban chất vấn. NASA sẽ nghi ngờ tại sao quân đội lại quan tâm đến một sinh vật vô hại dưới đáy biển. Nhưng sẽ không ai thắc mắc nếu đó là nghiên cứu của một cá nhân. Vì vậy, nó đã được đưa lên như một chuyến hàng vì mục đích thương mai, và Trung tâm Khoa học biển là người tài trợ. Bác sĩ Koenig là nhà nghiên cứu chính.

- Bác sĩ Koenig giờ ở đâu?

Roman từ từ đứng lên.

- Cô ấy chết rồi.

Thông tin đó khiến Jack ngạc nhiên.

- Tại sao? - Anh khẽ hỏi.

- Đó là một tai nạn.

- Anh nghĩ tôi tin điều đó sao?

- Đó là sự thật!

Jack nhìn kỹ anh ta một lúc và tin Roman không nói dối.

- Sự việc này xảy ra hai tuần trước ở Mexico. - Roman nói. - Ngay sau khi cô ấy từ chức ở Trung tâm Khoa học biển. Chiếc taxi chở cô ấy đã bị phá hủy hoàn toàn. Và Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm lấy đi mọi thứ trong phòng thí nghiệm của cô ấy.

- Anh có ở đó kiểm tra không? Anh đã ở đó và chứng kiến toàn bộ hồ sơ của cô ấy đã bị tiêu hủy không?

- Chúng ta đang nói về một dạng sống ngoài hành tinh. Đó là sinh vật nguy hiểm hơn nhiều so với chúng ta tưởng tượng. Đúng, thí nghiệm đó là một sai lầm, một thảm hoạ. Nhưng bây giờ hãy tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra nếu thông tin đó bị giới khủng bố biết được?

Đây là lý do tại sao NASA không được biết gì, tại sao sự thật lại không được phơi bày.

- Và anh vẫn chưa thấy điều tệ hại nhất của nó sao, bác sĩ McCallum?

- Anh muốn nói gì?

- Tôi muốn cho anh thấy một điều nữa.

Họ đi thang máy xuống tầng hầm tiếp theo, tầng hầm số ba. Sâu hơn xuống âm phủ, Jack nghĩ. Họ lại bước ra và nhìn thấy một tấm kính. Phía sau là một phòng thí nghiệm khác có nhiều công nhân mặc đồ không gian.

Roman ấn nút điện đàm và nói.

- Ai đó đem mẫu vật đến đây được không?

Một trong các nhân viên phòng thí nghiệm gật đầu. Cô ta đi về phía cánh cửa, xoay ổ khóa khổng lồ và biến mất ở trong. Khi trở ra, cô ta đẩy một cái bàn trên đó là một chiếc khay và một hộp chứa bên trên. Cô ta đẩy nó về phía cửa quan sát.

Roman gật đầu.

Cô ta mở hộp thép, nhấc ra một chiếc xi-lanh Plexiglas, đặt nó lên khay. Chất bên trong đang chuyển động nhẹ nhàng lên xuống trong dung dịch sát trùng sạch.

- Chúng tôi đã tìm thấy thứ này ăn sâu vào xương cốt của Kenichi Hirai. - Roman nói. - Xương sống của anh ấy đã bảo vệ nó khỏi chấn động khi tàu Discovery lao xuống. Khi chúng tôi lấy nó ra, nó vẫn sống nhưng rất yếu.

Jack lắp bắp nhưng anh không nói lên lời. Anh chỉ nghe thấy tiếng quạt thông gió và tiếng mạch anh đập dồn dập khi anh sợ hãi nhìn chất bên trong xi-lanh.

- Ấu trùng sẽ phát triển thành vật này. - Roman nói. - Đây chính là bước tiếp theo.

Giờ anh đã hiểu tại sao đây là bí mật. Thứ anh nhìn thấy được bảo vệ trong dung dịch sát trùng. Nó đang cuộn lên trong xi-lanh và nó đã giải thích tất cả. Mặc dù đã bị phân rã do quá trình bị chích ra nhưng tính năng cơ bản của nó vẫn rõ ràng. Nó có lớp da bóng của loài bò sát, ấu trùng có đuôi và bào thai của nó có xương sống uốn cong. Nó không chỉ là bò sát, mà là thứ gì đó đáng sợ hơn vì gen gốc của nó không rõ ràng nữa. Động vật có vú, anh nghĩ, thậm chí còn có thể là con người. Nó đã bắt đầu trông giống động vật chủ.

Nếu có thể gây bệnh ở một loài khác thì nó vẫn có thể biến đổi hình dáng. Nó có thể lấy ADN của bất cứ sinh vật nào trên trái đất, nó có thể lấy bất cứ hình dạng nào. Cuối cùng nó sẽ tiến hóa đến một điểm mà nó không cần động vật chủ để phát triển và sinh sản nữa. Nó sẽ độc lập và tự túc. Có lẽ nó còn có trí khôn nữa.

Và lúc này Emma là một cơ thể sống cho những thứ này. Có thể cô ấy là một cái kén đầy chất dinh dưỡng cho chúng phát triển.

Jack run rẩy khi anh đứng trên đường nhựa và nhìn khu đất trống để đỗ máy bay. Chiếc xe jeep chở anh và Gordon trở về khu căn cứ Cát Trắng của Lực lượng không quân giờ đây chỉ còn là một chấm nhỏ, để lại vệt bụi dài ở đường chân trời. Ánh nắng gay gắt khiến anh chảy nước mắt. Và trong một thoáng dường như khu hoang mạc bốc hơi, biến mất trong mắt anh, như thể nó đang chìm dưới nước.

Anh quay sang nhìn Gordon Obie.

- Không còn cách nào khác. Chúng ta phải làm việc đó.

- Luôn là vậy mà. Điều đó đúng với mỗi lần phóng tàu cũng như mỗi nhiệm vụ. Tại sao lần này lại khác?

- Sẽ không có kế hoạch đề phòng bất trắc hay hỗ trợ an toàn. Tôi biết chúng ta đang đối mặt với việc gì, và đó là phương án liều lĩnh.

- Nhưng nó có thể giải quyết việc này. Khẩu hiệu của họ là gì? Nhỏ hơn, nhanh hơn, rẻ hơn.

- Thôi được. - Gordon nói. - Giả sử anh không bị nổ tung trên bộ phóng, giả sử lực lượng không quân không bắn anh tơi bời trên không. Khi anh đã lên đó, anh vẫn đối mặt với trò cá cược nguy hiểm nhất là vi rút có tác dụng không?

- Gordon, ngay từ đầu tôi đã xác định một điều: Tại sao lại có ADN của loài lưỡng cư trong nhiễm sắc thể. Làm thế nào mà Chimera đã được cấy gen của loài ếch. Roman nghĩ đó là việc ngẫu nhiên, một tai nạn trong phòng thí nghiệm của Koenig. - Jack lắc đầu. - Tôi không nghĩ đó là một tai nạn. Tôi nghĩ chính Koenig đã cho gen loài ếch vào đó, đó là một phép thử sai an toàn.

- Tôi không hiểu.

- Có thể cô ấy đã dự đoán trước được những mối nguy hiểm tiềm tàng, về việc sinh vật này có thể biến đổi như thế nào trong môi trường trọng lực siêu nhỏ. Nếu Chimera vượt khỏi tầm kiểm soát, cô ấy muốn có cách tiêu diệt nó. Đó chính là cánh cửa thoát hiểm khi nó phòng thủ. Và đây chính là cánh cửa đó.

- Vi rút tiêu diệt loài ếch.

- Nó sẽ thành công, Gordon. Nó phải thành công. Tôi đặt cược cả mạng sống của mình vì nó.

Một đợt bụi xung quanh họ, cuốn tung cát và những mẩu giấy vương vãi. Gordon quay lại và thấy bên kia đường là chiếc máy bay T-38 đã đưa họ từ Houson đến đây. Ông thở dài.

- Tôi nghĩ là anh sẽ nói vậy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


HAI MƯƠI SÁU

Ngày 22 tháng 8

Casper Mulholland nuốt gói thuốc giảm a-xít nhãn hiệu Tums thứ ba. Anh cảm giác bụng mình như vạc a-xít đang sôi, ở đằng xa, tàu Apogee II lấp lánh như một viên đạn, đáy được chôn dưới cát sa mạc. Con tàu thực sự không gây ấn tượng đặc biệt, nhất là với đám khán giả này. Phần lớn trong số họ đã nghe thấy tiếng gầm reng mặt đất khi phóng tàu của NASA. Họ đã sửng sốt khi thấy những cột lửa khổng lồ của tàu con thoi quệt ngang bầu trời. Tàu Apogee IItrông không giống tàu con thoi. Trông nó giống tên lửa đồ chơi của một đứa bé hơn. Casper nhận thấy sự thất vọng trong mắt của mấy chục người xem khi họ leo lên bục quan sát mới được dựng lên. Họ nhìn qua khu đất trống trải, cằn cỗi, về phía khu bệ phóng. Ai cũng muốn nhiều thứ đồ sộ. Ai cũng thích kích cỡ và sức mạnh. Những thứ nhỏ bé và giản đơn không khiến họ quan tâm.

Một chiếc xe tải khác xuất hiện ở khu bệ phóng. Một nhóm khách mới chui ra. Họ giơ tay che mắt vì ánh mặt trời buổi sáng. Anh nhận ra Mark Lucas và Hashemi Rashad. Hai thương nhân đã đến xem Apogee ba tuần trước. Anh lại thấy sự thất vọng trên mặt khi họ nheo mắt nhìn về phía bệ phóng.

- Đây là chỗ gần bệ phóng nhất mà chúng ta có thể đến à? - Lucas hỏi.

- Tôi e là vậy. - Casper nói. - Đó là vì sự an toàn của các ông. Ngoài đó có các động cơ nổ đấy.

- Nhưng tôi nghĩ chúng tôi sẽ nhìn kĩ các hoạt động ở bệ phóng của các vị.

- Các vị sẽ được xem đầy đủ hệ thống điều khiển từ mặt đất của chúng tôi. - nó tương đương với Phòng điều hành nhiệm vụ của Houston. Khi tàu rời bệ phóng, chúng ta sẽ lái xe đến tòa nhà đó và chúng tôi sẽ cho các vị thấy chúng tôi điều khiển tàu bay theo quỹ đạo trái đất như thế nào. Đó mới là bài thử nghiệm thật sự của chúng tôi, thưa ông Lucas. Bất cứ sinh viên cơ khí tốt nghiệp nào cũng phóng được tên lửa. Nhưng để đưa tên lửa đó lên quỹ đạo an toàn, rồi hướng dẫn nó lại gần Trạm vũ trụ là vấn đề phức tạp hơn nhiều. Đó là lý do tại sao chúng tôi đẩy lần minh họa này lên sớm bốn ngày. - chỉ để tàu hạ cánh đúng chỗ trên Trạm vũ trụ quốc tế. Chúng tôi sẽ cho các vị thấy hệ thống của chúng tôi có khả năng hạ cánh trên trạm. Tàu Apogee II chính là con chim mà NASA đang săn lùng để mua.

- Anh sẽ không thật sự hạ cánh chứ? - Rashad nghi ngờ. - Tôi nghe nói Trạm vũ trụ đã bị cách ly.

- Chúng tôi sẽ không hạ cánh. Tàu Apogee II chỉ là một hình mẫu. Nó không thể kết nối trực tiếp với Trạm vũ trụ quốc tế do thiếu hệ thống hạ cánh khi đang bay. Nhưng chúng tôi sẽ lái tàu đủ gần trạm để chứng tỏ chúng tôi có thể làm điều đó. Ông thấy đấy, chỉ cần xem xét việc chúng tôi có thể thay đổi lịch phóng tàu trong một thời gian ngắn như vậy đã là điểm ăn khách rồi. Khi nói tới các chuyến bay vào vũ trụ, sự linh hoạt chính là vấn đề mấu chốt. Mặc dù ông Obie đang nằm viện và bị vỡ xương chậu, nhưng các vị thấy chúng tôi sẽ không hủy lần phóng tàu này. Chúng tôi sẽ điều khiển toàn bộ nhiệm vụ này từ mặt đất. Thưa các vị, đó chính là tính linh hoạt.

- Tôi có thể hiểu tại sao các vị hoãn phóng tàu. - Lucas nói. - Ví dụ như do thời tiết xấu. Nhưng tại sao các vị lại đẩy lên sớm bốn ngày? Vài người cộng tác của chúng tôi không kịp đến đây.

Casper thấy liều Tums cuối cùng tan ra vì nước bọt chứa đầy a-xít.

- Thực ra lý do rất đơn giản. - Anh dừng lại, lấy khăn tay lau mồ hôi trên trán. - Đó là do cửa sổ bệ phóng mà tôi đã nói. Quỹ đạo của Trạm vũ trụ quốc tế nghiêng năm mốt phẩy sáu độ. Nếu ông nhìn đường bay của nó trên bản đồ, nó sẽ tạo ra sóng hình sin dao động trong khoảng từ năm mốt phẩy sáu độ bắc đến năm mốt phẩy sáu độ nam. Do trái đất quay, trạm sẽ đi qua các điểm khác nhau trên bản đồ trong mỗi lần quay quanh quỹ đạo. Hơn nữa, trái đất không hẳn là hình cầu, điều đó khiến vấn đề phức tạp hơn. Khi đường quay quanh quỹ đạo đó đi qua khu bệ phóng, nó sẽ là thời điểm thích hợp nhất để phóng tàu. Khi kết hợp các yếu tố đó, chúng ta sẽ có các lựa chọn phóng tàu khác nhau. Rồi người ta lại thắc mắc về thời gian phóng tàu vào ban ngày và ban đêm, các góc độ phóng tàu thích hợp và các dự báo thời tiết gần nhất…

Mắt họ bắt đầu đảo loạn lên. Anh đã khiến họ bối rối.

- Dù sao thì. - Casper kết thúc với một vẻ nhẹ nhõm. - Hôm nay, lúc 7 giờ 10 phút sáng nay sẽ là thời điểm tốt nhất. Các vị hiểu rõ điều đó đúng không?

Lucas dường như muốn lắc đầu như một con chó giật mình khi tỉnh giấc ngủ trưa.

- Có chứ, tất nhiên rồi.

- Tôi vẫn muốn đến gần hơn. - Rashad nói vẻ tiếc nuối. Anh ta nhìn tên lửa như một đốm sáng, mũi hếch lên trời. - Ở xa thế này chẳng có gì đáng xem cả đúng không? Nó nhỏ quá!

Casper cười trừ và anh thấy bụng mình tiêu hóa hết sự hồi hộp của anh.

- Ồ, ông biết người ta nói gì không, ông Rashad? Kích thước không thành vấn đề. Quan trọng là ông làm được gì với nó.

Đây là lựa chọn cuối cùng, Jack nghĩ khi một giọt mồ hôi chảy xuống thái dương, làm ướt đường viền trên mũ bảo vệ của anh. Anh đã cố không cho mạch mình đập quá nhanh nhưng tim anh như một con vật đang điên cuồng tìm cách nhảy ra khỏi lồng ngực. Đã nhiều năm rồi, đây là giây phút anh mơ ước: buộc cố định trong ghế ngồi của cơ trưởng, mũ bảo vệ đóng lại, ô-xi lưu thông. Đồng hồ đếm ngược chạy về số 0. Trong những giấc mơ đó, nỗi sợ chưa bao giờ xâm chiếm anh, chỉ có sự háo hức, mong đợi. Anh không nghĩ mình sẽ sợ hãi.

- Anh còn năm phút nữa sẽ cất cánh. Đây là lúc anh có thể rút lui. - đó là giọng nói của Gordon Obie qua đường liên lạc. Gordon đã cho Jack cơ hội thay đổi ý kiến trong suốt chuyến bay từ khu Cát Trắng về Nevada, và cả đầu giờ sáng nay, khi Jack mặc quần áo ở phòng chứa máy bay của công tyApogee, và cuối cùng là khi họ đi xe qua khu sa mạc được rải nhựa đường đến khu bệ phóng. Đây là cơ hội cuối cùng của Jack.

- Chúng ta có thể dừng việc đếm ngược ngay bây giờ. - Gordon nói. - Hủy toàn bộ nhiệm vụ này!

- Tôi đã sẵn sàng.

- Vậy đây sẽ là lần liên lạc cuối cùng của chúng ta. Tôi sẽ không thể liên lạc với anh nữa. Không có đường truyền từ mặt đất, không liên lạc với Trạm vũ trụ quốc tế, nếu không tất cả sẽ nổ tung. Khi chúng tôi nghe thấy giọng nói của anh, chúng tôi sẽ hủy toàn bộ nhiệm vụ này và đưa anh trở về. -Nếu chúng tôi vẫn có thể làm được, đó là điều ông không nói ra.

- Đã rõ.

Ông im lặng.

- Anh không phải làm việc này. Không ai bắt ép anh.

- Hãy thống nhất về việc này đi! Hãy đốt cây nến khốn kiếp này ngay đi, được chứ?

Tiếng thở dài đáp lại của Gordon rất to và rõ.

- Được rồi, chuẩn bị. Chúng ta còn ba phút nữa sẽ đếm ngược.

- Cảm ơn Gordon vì mọi việc.

- Chúc may mắn, mong Chúa phù hộ anh, Jack McCallum.

Đường truyền liên lạc đã bị ngắt.

Đây có thể là giọng nói cuối cùng mình được nghe, Jack nghĩ. Từ lúc này trở đi, đường truyền duy nhất từ trung tâm điều hành Apogee sẽ là các dữ liệu hướng dẫn trên tàu và các máy tính hướng dẫn đường bay. Con tàu sẽ tự lái, Jack chẳng hơn gì một con khỉ câm điếc ngồi trên ghế phi công.

Anh nhắm mắt, chỉ tập trung vào nhịp tim của chính mình. Giờ anh thấy bình tĩnh một cách kỳ lạ và chuẩn bị cho điều không thể tránh khỏi, cho dù đó là việc gì đi chăng nữa. Anh nghe thấy tiếng kêu vù vù và tiếng lách cách của các máy móc trên tàu sắp chuẩn bị phóng lên. Anh tưởng tượng bầu trời không một gợn mây, không khí trên đó đặc như nước, như một biển nước mà anh phải vượt qua để vào vũ trụ chân không.

Ở đó Emma đang hấp hối.

Đám đông trên đài quan sát bỗng im lặng. Đồng hồ đếm ngược được chiếu trên màn hình nhích sang nấc chỉ còn sáu mươi giây và kêu tích tắc liên tục. Họ sắp cho tàu cất cánh, Casper nghĩ. Một giọt mồ hôi chảy trên trán anh. Anh chưa bao giờ tin sẽ có giây phút này. Anh đã nghĩ nó sẽ bị hoãn lại, bỏ dở hay hủy hoàn toàn. Anh đã trải qua quá nhiều thất bại, quá nhiều điều rủi ro với con chim khổng lồ đó. Bông hồng đã chết đó như mật đắng trong cổ anh. Anh quan sát những người đứng trên đài và thấy nhiều người trong số họ đang lẩm bẩm tính thời gian khi mỗi giây trôi qua. Đầu tiên đó chỉ là tiếng thì thầm, rồi nó biến thành một hợp âm, làm xao động không khí.

- Hai chín, hai tám, hai bảy…

Tiếng thì thầm đã biến thành một hợp âm có nhạc điệu. Nó to dần lên khi mỗi giây trôi qua.

- Mười hai, mười một, mười…

Tay Casper run đến nỗi anh không thể nắm vững tay vịn. Mạch anh đập mạnh trong mỗi ngón tay.

- Bảy, sáu, năm…

Anh nhắm mắt. Ôi, lạy Chúa, họ đã làm gì thế này?

- Ba, hai, một.

Đám đông đều đồng loạt há hốc miệng kinh ngạc. Rồi tiếng gầm của động cơ bao trùm lấy anh, mắt anh mở to. Anh nhìn lên trời. Một vệt sáng đang bay lên. Giờ việc đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Đầu tiên là ánh sáng chói lòa, rồi một tiếng nổ dữ dội, tiếng nổ xé rách màng nhĩ của họ. Chuyện đó đã xảy ra với tàu Apogee I.

Nhưng vệt sáng đó vẫn tiếp tục bay lên cho tới khi nó chỉ còn là một chấm nhỏ trên bầu trời trong xanh.

Ai đó vỗ mạnh vào lưng anh. Anh giật mình quay lại, thấy Mark Lucas đang cười với mình.

- Nó bay rồi, ông Mulholland! Lần phóng tàu này thật tuyệt vời!

Casper lại cố nhìn lên trời lần nữa. Vẫn không có tiếng nổ nào.

- Tôi nghĩ ông chưa bao giờ nghi ngờ điều đó, đúng không? - Lucas cười hỏi.

Casper nuốt nước bọt.

- Không hề!

Liều cuối cùng.

Emma xoay ống tiêm, từ từ tiêm hết chất trong xi-lanh vào mạch máu. Cô rút mũi tiêm, ấn ga-rô vào chỗ tiêm, rồi gập cánh tay lại để giữ nó cố định khi cô ném kim tiêm đi. Cô có cảm giác đây là một nghi lễ thiêng liêng, một hành động được thực hiện với thái độ sùng kính và thiêng liêng. Cô biết đây là lần cuối cùng cô tận hưởng cảm giác này, từ sự nhói đau của mũi tiêm đến chỗ sưng do buộc ga-rô quá chặt trên cánh tay. Liều thuốc cuối cùng này sẽ giúp cô cầm cự được bao lâu?

Cô quay lại nhìn lồng nhốt chuột mà cô đã chuyển vào khoang dịch vụ Nga. Ở đó sáng hơn. Con chuột cái duy nhất giờ cuộn tròn như quả bóng và run rẩy, nó sắp chết. Ảnh hưởng của hooc-môn đó không được lâu dài. Những con chuột con đã chết ngay sáng hôm đó. Sáng mai, Emma nghĩ, mình sẽ là sinh vật duy nhất sống sót trên trạm.

Không, không phải là người duy nhất. Có một sinh vật khác bên trong cô. Các ấu trùng sẽ nhanh chóng qua giai đoạn ngủ đông để bắt đầu tiêu hóa và phát triển.

Cô đặt tay lên bụng như một phụ nữ mang thai kiểm tra bào thai bên trong. Thật sự nó rất giống một bào thai, sinh vật cô đang mang trong mình sẽ lấy đi các đoạn ADN của cô. Theo một cách nào đó, nó là con cháu có quan hệ máu mủ với cô. Nó có đoạn gen của động vật chủ mà nó ký sinh trên đó. Đó là Kenichi Hirai, Nicolai Rudenko, Diana Estes, và giờ là Emma.

Cô sẽ là người cuối cùng. Sẽ không có con vật chủ nào nữa, không có thêm nạn nhân nào nữa vì sẽ không có ai đến cứu cô. Trạm vũ trụ bây giờ chỉ còn là nấm mồ chôn bệnh tật, bị cấm đoán, không ai được phép đến gần. Nó như lãnh địa của người hủi trong thế giới cổ xưa.

Cô bay ra ngoài khoang dịch vụ Nga, về khu vực đã bị mất điện của trạm. Hầu như không còn đủ ánh sáng để cô nhìn thấy đường đi qua các nút chuyển giao tối tăm. Trừ tiếng thở đều đều của cô thì tất cả đều im lặng ở phần cuối trạm. Cô di chuyển trong các phân tử không khí đã từng cuộn trong lá phổi của những người giờ đã chết. Thậm chí lúc này cô lại cảm nhận thấy sự hiện diện của năm người đã chết. Cô còn tưởng tượng thấy giọng nói của họ còn vang vọng đâu đó. Tiếng mạch đập của cô yếu dần và là âm thanh cuối cùng còn sót lại trong sự im lặng đó. Đây là không gian họ đã sống cùng nhau, tất cả đều bị ám ảnh bởi những bước chân họ đã qua.

Và chẳng mấy chốc, cô nghĩ, mình cũng thành hồn ma trên trạm này.

Ngày 24 tháng 8

Jared Profitt thức giấc lúc nửa đêm. Chỉ cần nghe chuông điện thoại reo hai lần là ông đã tỉnh sau giấc ngủ sâu và hoàn toàn tỉnh táo. Ông nhấc máy.

Giọng nói ở đầu bên kia rất thô lỗ.

- Tổng tư lệnh Gregorian đây. Tôi vừa nói chuyện với Trung tâm điều khiển của chúng tôi đặt tại núi Cheyenne. Có một vụ phóng tàu thử nghiệm từ Nevada, nó đang trên đường tiến gần đến Trạm vũ trụ quốc tế.

- Vụ phóng tàu nào?

- Của Công ty cơ khí Apogee.

Profitt cau mày, cố nhớ cái tên đó. Mỗi tuần có hàng trăm vụ phóng tàu từ các nơi khác nhau trên khắp thế giới. Một số công ty hàng không thương mại luôn thử nghiệm hệ thống nổ đẩy hay bắn vệ tinh lên quỹ đạo trái đất, thậm chí họ còn thiêu chết mấy người. Bộ tư lệnh không quân đã phát hiện chín nghìn vật thể nhân tạo bay vào quỹ đạo.

- Hãy nhắc lại cho tôi nhớ về vụ phóng tàu ở Nevada này đi! - ông yêu cầu.

- Apogee đang thử nghiệm phương tiện phóng tàu có thể tái sử dụng mới. Họ đã phóng nó lên lúc 7 giờ sáng qua. Họ đã thông báo với Trung tâm vũ trụ liên bang theo quy định nhưng mãi đến khi đã phóng tàu họ mới thông báo cho chúng tôi. Chuyến bay này được đối tác mới của họ tài trợ. Họ phóng tàu đến quỹ đạo trái đất ở tầm thấp, đi qua Trạm vũ trụ quốc tế, sau đó trở về trái đất. Giờ chúng tôi đã theo dõi nó được một ngày rưỡi. Căn cứ vào lần đốt cháy nhiên liệu cuối cùng của tàu, tôi nghĩ họ đưa tàu đến trạm gần hơn họ đã nói.

- Gần mức nào?

- Còn tùy vào lần đốt nhiên liệu tiếp theo.

- Có đủ gần để hạ cánh xuống trạm không?

- Đó là điều không tưởng với loại tàu như vậy. Chúng tôi có máy do thám trên quỹ đạo của họ. Nó chỉ là một con tàu mô phỏng, không có hệ thống hạ cánh. Quá lắm thì con tàu đó chỉ có thể bay gần và tạo ra sóng dao động.

- Sóng dao động à? - Profitt ngồi bật dậy trên giường. - Không phải ông đang nói với tôi là con tàu này có người lái đấy chứ?

- Không thưa ngài, đó chỉ là cách nói văn vẻ. Công tyApogee nói tàu đó không có người. Có vài con vật trên tàu, bao gồm một con khỉ nhện nhưng không có phi công. Chúng tôi không thấy bất cứ liên lạc nào giữa tàu và mặt đất.

Một con khỉ nhện, Profitt nghĩ. Sự hiện diện của nó trên tàu có nghĩa là họ không thể loại trừ khả năng có người trên tàu. Các bảng điều khiển môi trường, nồng độ cacbon đi-ô-xít không có gì khác giữa động vật hay con người. Ông cảm thấy không an tâm khi thiếu thông tin. Thậm chí ông thấy bất an khi nghĩ đến thời gian phóng tàu.

- Tôi không chắc có báo động gì không. - Gregorian nói tiếp. - Nhưng ông phải chú ý nếu tàu đó có ý định lại gần trạm.

- Hãy cho tôi thêm thông tin về hãng Apogee! - Profitt ngắt lời.

Gregorian khịt mũi.

- Một công ty nhỏ với mười hai kỹ sư ở Nevada. Họ không được may mắn cho lắm. Cách đây một năm rưỡi, mẫu tên lửa của họ đã bị nổ tung hai mươi giây sau khi cất cánh. Và toàn bộ các nhà đầu tư của họ bốc hơi hết. Tôi hơi ngạc nhiên khi họ vẫn trụ lại ở đó. Các động cơ đẩy tên lửa của họ dựa trên công nghệ của Nga. Con tàu đó rất đơn giản, chỉ là một hệ thống khung thô sơ và có dù trở về trái đất. Trọng tải tối đa chỉ là ba trăm pao, cộng thêm một phi công.

- Tôi sẽ bay đến Nevada ngay. Chúng ta nên can thiệp ngay vào vụ này.

- Thưa ngài, chúng ta có thể kiểm soát mọi động thái của con tàu. Ngay lúc này chúng ta không có lý do nào để hành động. Họ chỉ là một công ty nhỏ, cố gây ấn tượng với các nhà đầu tư. Nếu con tàu có bất cứ dấu hiệu đáng nghi nào, chúng ta có thể dùng hệ thống tên lửa tiêu diệt tầm xa để bắn hạ con chim đó.

Tổng tư lệnh Gregorin có lẽ đúng. Việc một công ty cố đưa một con khỉ vào vũ trụ không thể là một báo động toàn quốc. Ông phải hành động cẩn trọng trong việc này. Cái chết của Luther Ames đã gây nên làn sóng phản đối trên toàn nước Mỹ. Đây không phải là lúc thích hợp để bắn hạ một con tàu vũ trụ nữa được chế tạo bởi công ty ở Mỹ.

Nhưng có quá nhiều điều về việc phóng tàu của hãngApogee lần này khiến ông quan tâm. Đó là thời gian, là khả năng tự lái và gặp tàu khác, và cả việc công ty đó không xác nhận hay phủ nhận sự hiện diện của con người trên đó.

Nó có thể là gì khác nếu không phải để cứu người?

Ông nói.

- Tôi sẽ đi Nevada.

Bốn mươi lăm phút sau, Profitt đã lên xe và ra đường chính. Đêm đó trời rất quang, những ngôi sao sáng như những chiếc đinh ghim trên bầu trời trong như nhung. Có lẽ có hàng trăm tỉ thiên hà trong vũ trụ, mỗi thiên hà lại có hàng trăm tỉ ngôi sao. Bao nhiêu vì sao có hành tinh và bao nhiêu hành tinh có sự sống? Thuyết tha sinh, thuyết về sự sống tồn tại và hiện diện ở mọi nơi trong vũ trụ giờ không còn là suy đoán. Học thuyết tin rằng chỉ có sự sống trên dấu chấm màu xanh nhạt, trong hệ mặt trời này giờ đã trở nên lố bịch như niềm tin ngây thơ của người xưa khi họ cho rằng mặt trời và các vì sao quay quanh trái đất. Yếu tố tiên quyết duy nhất để có sự sống là có các hợp chất được hình thành từ cacbon, cộng thêm một chút nước. Cả hai thứ đó đều có rất nhiều trong vũ trụ. Điều đó nghĩa là sự sống, dù nguyên thủy đến đâu cũng rất phong phú. Trong đám bụi giữa các vì sao có thể gieo mầm cho các vi khuẩn và các bào tử. Từ các sinh vật nguyên thủy đó mà toàn bộ sự sống khác sinh sôi.

Và chuyện gì sẽ xảy ra nếu những dạng sống đó đến như những mảnh bụi thiên hà khác, rồi nảy nở ở một hành tinh đã có sự sống trên đó?

Đó là ác mộng với Jared Profitt.

Trước kia ông từng nghĩ các vì sao thật đẹp. Đã có thời ông tận hưởng vũ trụ một cách ngạc nhiên và băn khoăn. Giờ khi nhìn bầu trời đêm, ông thấy mối đe dọa bất tận. Ông thấy trận chiến bất phân thắng bại giữa cái thiện và cái ác.

Kẻ thù của chúng ta từ trên trời rơi xuống.

Đã đến lúc từ biệt.

Tay Emma run lẩy bẩy. Cô đấm vào đầu mạnh đến nỗi cô phải nghiến răng để không kêu gào. Liều mooc-phin cuối cùng không thể giảm đau cho cô. Cô chóng mặt do liều thuốc đó và hầu như không thể tập trung vào màn hình hay bàn phím nằm ngay dưới tay mình. Cô dừng lại để tay không run nữa. Rồi cô bắt đầu đánh máy.

Thư riêng gửi: Jack McCallum.

Nếu em có một điều ước, em sẽ ước được nghe thấy giọng nói của anh một lần nữa. Em không biết anh ở đâu hay tại sao em không thể nói chuyện với anh. Em chỉ biết thứ trong cơ thể em sắp chiến thắng. Ngay cả khi viết những dòng này, em có thể cảm nhận thấy chúng sắp thắng thế. Em có thể thấy sức lực của em đang cạn dần. Em phải chống lại nó đến khi nào có thể. Em muốn đi ngủ rồi.

Khi viết những dòng này, đây là điều em muốn nói nhất. Em yêu anh. Em chưa bao giờ thôi yêu anh. Người ta nói không ai đứng trước cánh cửa dẫn tới thiên đàng mà còn mang theo lời nói dối. Họ nói rằng lời thú nhận lúc sắp chết luôn đáng tin. Và đây là lời thú nhận của em.

Tay cô run đến nỗi cô không còn đánh máy được nữa. Cô ghi tên và nhấn nút “gửi”.

Trong hộp dụng cụ y tế, cô thấy một liều Valium. Còn hai viên nữa. Cô uống một ngụm nước và nuốt cả hai viên. Khóe mắt cô bắt đầu nhòe đi. Chân tê dại như thể chúng không còn thuộc về cô nữa, mà thuộc về một người xa lạ.

Không còn nhiều thời gian.

Cô không còn sức mặc bộ đồ đi ngoài không gian nữa. Hơn nữa bây giờ cô chết ở đâu cũng không còn quan trọng. Trạm vũ trụ đã bị nhiễm bệnh. Xác cô chỉ là một vật thể khác cần được dọn đi.

Cô đi lại trong trạm lần cuối.

Cô muốn đến mái vòm để tận hưởng những giây phút cuối cùng, lơ lửng trong bóng tối và ngắm nhìn vẻ đẹp của trái đất bên dưới. Từ những ô cửa đó, cô sẽ thấy màu xanh của biển Caspia. Những đám mây cuộn trên Kazakhstan và tuyết trên đỉnh Himalayas. Dưới đó hàng tỉ người đang tiếp tục sống, cô nghĩ. Còn mình ở đây, chết giữa vũ trụ bao la.

- Emma? - đó là Todd Cutler, đang nói trên điện đàm. - Cô sao rồi?

- Không… không khỏe lắm. - cô lẩm bẩm. - Tôi đau lắm. Mắt mờ dần. Tôi đã uống liều Valium cuối cùng.

- Cô phải chờ ở đó, Emma. Hãy nghe tôi! Đừng bỏ cuộc. Chưa đến lúc đâu.

- Tôi thua rồi, Cutler.

- Không! Cô sẽ không thua. Cô phải có niềm tin.

- Vào phép màu ư? - cô cười. - Phép màu thực sự là tôi đang ở đây và ngắm trái đất từ nơi mà ít ai được đến…. - cô chạm vào cửa sổ mái vòm và cảm nhận thấy hơi ấm mặt trời qua tấm kính. - Tôi chỉ ước tôi có thể nói chuyện với Jack.

- Chúng tôi đang cố để điều đó xảy ra.

- Anh ấy đang ở đâu? Tại sao các anh không liên lạc được với anh ấy?

- Anh ấy đang làm việc như điên để đưa cô về. Cô phải tin điều đó.

Cô khóc. Tôi tin chứ.

- Tôi làm gì được cho cô? - Todd dịu dàng hỏi. - Cô muốn nói chuyện với ai không?

- Không. - cô thở dài. - Chỉ Jack thôi.

Cô im lặng.

- Tôi nghĩ điều tôi muốn nhất lúc này là…

- Là gì? - Todd hỏi.

- Tôi muốn ngủ. Thế thôi. Tôi chỉ muốn ngủ.

Anh hắng giọng.

- Tất nhiên rồi. Cô nên nghỉ ngơi. Tôi luôn ở đây khi cô cần. - Anh kết thúc cuộc nói chuyện rất nhẹ nhàng. - Chúc ngủ ngon. Trạm vũ trụ quốc tế!

Chúc ngủ ngon, Houston, cô nghĩ. Cô tháo tai nghe, để mặc nó trôi trong bóng tối.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Khác với Phòng điều hành nhiệm vụ của NASA, đây rõ ràng là một hệ thống điều hành nhỏ lẻ và rẻ tiền. Sàn nhà chỉ làm bằng bê tông. Các cuộn dây điện và dây cáp treo khắp nơi. Một con mèo rất to đang tìm đường đi trong đống thiết bị điện.

Profitt đi đến bảng điều khiển và thấy các dữ liệu được truyền đến.

- Tình hình tàu thế nào rồi? - ông hỏi.

Một trong những người của Gregorian làm nhiệm vụ điều hành bay ở Bộ tư lệnh Không quân Mỹ nói.

- Nó đã đốt gần hết nhiên liệu, thưa ngài. Giờ nó đang đến điểm gốc. Nó có thể hạ cánh xuống Trạm vũ trụ quốc tế trong vòng bốn mươi lăm phút nữa.

- Dừng ngay việc đó lại!

- Không! - Gordon Obie nói. Ông đứng tách ra và bước về phía trước. - Không được làm vậy! Ông không hiểu đâu…

- Không được cứu phi hành đoàn trên trạm. - Profitt nói.

- Đó không phải là nhiệm vụ cứu người!

- Vậy con tàu lên đó làm gì? Rõ ràng nó định hạ cánh xuống Trạm vũ trụ quốc tế.

- Không, nó sẽ không làm vậy. Nó không thể làm được. Nó không có hệ thống hạ cánh, không có cách nào để nối với trạm. Sẽ không thể có việc nhiễm bệnh từ trạm sang con tàu.

- Ông vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi, ông Obie. TàuApogee II đang làm gì trên đó?

Gordon ngập ngừng.

- Nó chỉ tiến lại gần trạm. Thế thôi! Đây là một cuộc thử nghiệm khả năng tiến lại gần của tàu Apogee.

- Thưa ngài. - nhân viên điều hành bay của Bộ tư lệnh không quân nói. - Tôi thấy một điều bất thường ở đây.

Profitt quay phắt lại phía bảng điều khiển.

- Chuyện bất thường gì?

- Áp suất trong buồng lái. Nó chỉ ở mức tám at-mốt-phe. Lẽ ra phải là mười bốn phẩy bảy. Hoặc là con tàu bị rò rỉ ở đâu đó, hoặc là họ cố tình hạ áp cho nó.

- Áp suất thấp như vậy bao lâu rồi?

Nhân viên đó nhanh chóng gõ một dòng lệnh trên bàn phím, một văn bản hiện ra, cho thấy áp suất liên tục trong buồng lái.

- Theo như máy tính của họ, buồng lái đã được duy trì áp suất ở mức mười bốn phẩy bảy trong mười hai giờ đầu sau khi phóng tàu. Sau đó, ba mươi sáu tiếng trước, áp suất được hạ xuống mười phẩy hai và được giữ cho đến một tiếng trước. - đột nhiên anh ta hếch cằm lên. - Thưa ngài, tôi biết họ định làm gì! Rõ ràng đây là một loại tàu chưa từng có!

- Tại sao?

- Nó có thể giúp con người đi bộ trong vũ trụ. - Anh ta nhìn Profitt. - Tôi nghĩ có ai đó trên tàu.

Profitt quay về phía Gordon Obie.

- Ai ở trên tàu? Ông đã đưa ai lên đó?

Gordon thấy không thể giấu được nữa. Ông thú nhận.

- Đó là Jack McCallum. - chồng của Emma Watson.

- Vậy đây là nhiệm vụ cứu người. - Profitt nói. - Các ông định làm gì? Anh ta sẽ ra ngoài vũ trụ, sau đó thì sao?

- Sau đó anh ấy sẽ sử dụng thiết bị hỗ trợ trở lại tàu. Bộ quần áo cỡ M anh ấy đang mặc có thiết bị đó. Anh ấy dùng nó để đi từ tàu Apogee II sang Trạm vũ trụ quốc tế. Anh ấy sẽ vào trạm qua phòng chặn khí.

- Anh ta sẽ tìm và đưa vợ mình về.

- Không. Đó không phải là kế hoạch của chúng tôi. Nghe này, anh ấy hiểu. - tất cả chúng tôi đều hiểu. - tại sao cô ấy không được trở về. Jack lên đó chỉ để mang vi rút Rana cho cô ấy.

- Nếu vi rút đó không có tác dụng thì sao?

- Đây là trò cá cược.

- Anh ta sẽ tiếp xúc với Trạm vũ trụ quốc tế. Chúng tôi sẽ không bao giờ cho anh ta trở về.

- Anh ấy không định trở về! Con tàu sẽ quay về và không có anh ấy. - Gordon dừng lại, nhìn thẳng vào Profitt. - Đó là chuyến đi một chiều và Jack biết điều đó. Anh ấy chấp nhận thỏa thuận đó. Vợ anh ấy đang chết dần trên đó! Anh ấy sẽ không và không thể để cô ấy chết một mình.

Profitt sửng sốt không nói lời nào. Ông nhìn bảng điều khiển, màn hình đầy các dữ liệu. Khi mỗi giây trôi qua, ông lại nghĩ về vợ mình, Amy đang hấp hối ở bệnh viện Bethedas. Ông nhớ mình đã lái xe như điên đến sân bay Denver để bắt chuyến bay tiếp theo về nhà. Ông nhớ mình đã tuyệt vọng thế nào khi ông đến cổng, hết hơi và nhìn máy bay cất cánh. Ông nghĩ chắc chắn sự tuyệt vọng đó đã thúc đẩy McCallum. Ông tưởng tượng ra sự đau đớn khi phải vất vả lắm mới tiến đến gần mục tiêu được, rồi lại thấy nó tuột khỏi tầm tay.

Ông nghĩ. Việc này sẽ không gây bất lợi cho bất cứ ai trên trái đất, không ai khác ngoài McCallum. Anh ta đã quyết định và hoàn toàn hiểu hậu quả. Mình có quyền gì mà ngăn cản anh ta?

Ông nói với nhân viên điều hành bay của Bộ tư lệnh Không quân.

- Hãy trao lại quyền điều hành cho Apogee! Hãy để họ thực hiện nhiệm vụ này!

- Thưa ngài?

- Tôi đã nói rồi, hãy để con tàu tiếp tục lại gần trạm!

Mọi người đều sửng sốt và im lặng. Rồi các nhân viên điều hành của Apogee trở về chỗ ngồi.

- Ông Obie. - Profitt quay về phía Gordon. - Ông biết là chúng tôi sẽ theo dõi mọi động thái của McCallum. Tôi không phải là kẻ thù của các vị. Nhưng tôi chịu trách nhiệm về những lợi ích lớn hơn và tôi sẽ làm những việc cần làm. Nếu tôi phát hiện thấy các vị có ý định đưa một trong hai người đó về, tôi sẽ ra lệnh bắn hạ tàu Apogee II.

Gordon Obie gật đầu.

- Tôi cũng mong ông sẽ làm vậy!

- Vậy là cả hai ta đều hiểu mình đang đứng ở đâu. - Profitt hít sâu, quay về phía bảng điều khiển. - Giờ, hãy tiếp tục đưa anh ta đến chỗ vợ đi!

Jack lơ lửng ở rìa không gian vô tận.

Dù tập luyện đi bộ trong thiết bị rèn luyện môi trường không trọng lượng bao lâu thì anh cũng không thể xóa hết bản năng sợ hãi của mình. Người anh cứng đơ khi anh nhìn vào không gian bất tận. Anh mở cánh cửa dẫn đến trạm đỗ để chuyển các chuyến hàng. Thứ đầu tiên anh nhìn thấy qua cánh cửa là trái đất, như một giọt nước xanh dương bên dưới. Anh không thấy Trạm vũ trụ quốc tế. Nó đang bay trên đầu anh, khuất tầm nhìn. Để đến trạm, anh phải đi qua các cánh cửa của trạm đỗ và bay sang bên kia tàu Apogee II. Nhưng đầu tiên, anh phải cố quên bản năng đang la hét đòi anh trở về khoang chặn khí.

- Emma. - Anh nói. Tên cô vang lên như lời cầu nguyện lầm bầm. Anh hít sâu, chuẩn bị thả tay khỏi cửa và lao mình vào không gian.

- Apogee II, tôi là Chỉ huy liên lạc của Houston đây. Apogee… Jack… xin hãy trả lời!

Đường truyền qua điện đàm khiến Jack giật mình. Anh nghĩ sẽ không có liên lạc từ mặt đất. Khi Houston gọi tên mình anh nghĩ là bí mật đã bị lộ.

- Apogee, chúng tôi cần anh trả lời gấp.

Anh vẫn im lặng và không biết có nên xác nhận mình đã có mặt ở quỹ đạo không.

- Jack, chúng tôi đã được lệnh Nhà Trắng sẽ không can thiệp vào nhiệm vụ của anh. Miễn là anh nhớ một điều quan trọng. Đây là chuyến đi một chiều. - chỉ huy liên lạc dừng lại rồi nói khẽ. - Một khi anh đã lên Trạm vũ trụ quốc tế, anh sẽ không được quay về. Anh sẽ không thể về trái đất.

- Đây là tàu Apogee II. - cuối cùng Jack trả lời. - Tôi đã nhận và hiểu lời nhắn.

- Anh vẫn định tiếp tục sao? Hãy nghĩ lại.

- Anh nghĩ tôi lên đây để làm cái quái gì? Chỉ để ngắm cảnh à?

- Được, chúng tôi hiểu rồi. Nhưng trước khi lên trạm, anh nên biết việc này. Chúng tôi đã mất liên lạc với Trạm vũ trụ quốc tế sáu tiếng trước.

- Ý anh là sao? “Mất liên lạc à”?

- Emma không trả lời nữa.

Sáu tiếng, anh nghĩ. Đã có chuyện gì trong sáu tiếng qua? Họ đã phóng tàu cách đây hai ngày. Apogee II đã mất rất lâu mới bắt kịp Trạm vũ trụ và hoàn tất việc lại gần trạm. Trong suốt thời gian đó, anh đã mất liên lạc và không biết có chuyện gì trên trạm.

- Có thể anh đã đến quá muộn. Anh muốn nghĩ lại thì…

- Sức khỏe của cô ấy thế nào? - Anh ngắt lời. - Nhịp tim ra sao?

- Cô ấy không nối máy điện tâm đồ. Cô ấy đã ngắt mọi thiết bị.

- Vậy là anh cũng không biết. Anh cũng không thể cho tôi biết có chuyện gì trên đó.

- Trước khi ngắt liên lạc, cô ấy đã gửi cho anh một bức thư điện tử. - chỉ huy liên lạc khẽ nói. - Jack, cô ấy đã nói tạm biệt anh.

Không. Anh lập tức buông tay khỏi cánh cửa, đẩy mình khỏi khoang chặn khí và lao đầu về phía trạm đỗ. Không. Anh bắt được tay cầm, đấm mạnh vào cánh cửa và leo sang bên kia tàu Apogee II. Trạm vũ trụ bỗng xuất hiện ngay trước mặt anh, ở ngay đó, thấp thoáng ngay trước mặt. Nó đồ sộ và loằng ngoằng đến nỗi anh bị choáng ngợp. Rồi trong lúc vẫn còn hoảng loạn, anh nghĩ. Khoang chặn khí ở đâu? Mình không thấy khoang chặn khí! Có quá nhiều khoang, quá nhiều tấm năng lượng mặt trời trải khắp khu vực không gian rộng bằng hai sân bóng đá. Anh không thể định hướng được. Anh đã mất hướng và sửng sốt bởi diện tích của nó.

Rồi anh nhận ra thân tàu Soyuz thò ra. Anh đang ở dưới khoang dịch vụ Nga. Lập tức mọi thứ được sắp xếp theo trật tự. Anh nhìn khoang của Mỹ ở gần cuối trạm và xác định được khoang sinh hoạt của Mỹ. Ở gần cuối khoang là nút số 1 dẫn đến khoang chặn khí.

Anh đã biết đường đi.

Đã đến lúc thực hiện cú nhảy. Chỉ có bộ quần áo và dụng cụ đi bộ trong vũ trụ, anh sẽ vượt qua khoảng không vô tận đó mà không có dây buộc, không có thứ gì cố định anh lại. Anh khởi động ba lô có động cơ đẩy, nhảy khỏi tàuApogee và phóng về phía Trạm vũ trụ quốc tế.

Đây là lần đầu tiên anh đi bộ trong vũ trụ. Anh lóng ngóng, thiếu kinh nghiệm nên không thể tính chính xác mình gần mục tiêu mức nào. Anh đâm sầm vào thân tàu mạnh đến nỗi bật ra rồi lại đập vào liên tiếp. Anh hầu như không thể bám vào chỗ tay cầm.

Nhanh lên! Cô ấy sắp chết!

Sợ hãi đến cuống cuồng, anh leo dọc theo thân tàu. Hơi thở anh nặng nhọc và gấp gáp.

- Houston. - Anh hổn hển. - Tôi cần nói chuyện với bác sĩ. - Anh ấy có ở đó không?

- Rõ!

- Gần đến… tôi đã gần đến nút số 1.

- Jack, bác sĩ đây. - giọng nói của Todd Cutler rất khẩn trương. - Anh đã mất liên lạc trong hai ngày qua. Anh cần biết vài chuyện. Lần cuối cùng Emma tiêm liều thuốc hooc-môn kích dục màng ngoài ở người cách đây năm mươi lăm tiếng. Kể từ đó tình hình của cô ấy xấu đi rất nhanh. Nồng độ chất amilaza và nhịp tim tăng đột biến. Trong lần nói chuyện cuối cùng, cô ấy kêu bị đau đầu và mắt mờ. Việc đó xảy ra sáu giờ trước. Chúng tôi không rõ tình trạng hiện nay của cô ấy.

- Tôi đã đến cửa khoang chặn khí!

- Phần mềm điều khiển trên trạm đã chuyển sang chế độ dành cho người đi bộ trong vũ trụ. Anh sắp vào phòng điều áp.

Jack giật tung cánh cửa, lao vào phòng chặn khí. Khi xoay vòng bên ngoài cánh cửa, anh thoáng thấy tàu Apogee II. Nó đã bay mất. Con tàu cứu hộ duy nhất để đưa anh về giờ đã quay về mà không có anh. Anh đã vượt qua điểm không còn đường quay về.

Anh đóng và khóa cánh cửa.

- Van điều áp mở ra. - Anh nói. - Bắt đầu điều áp!

- Tôi đang cố dự báo trước cho anh điều xấu nhất. - Todd nói. - Phòng khi cô ấy…

- Nói với tôi điều gì thiết thực hơn đi!

- Được, được, đây là tin tức mới nhất từ Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm. Vi rút Nara dường như đã có tác dụng với những con vật trong phòng thí nghiệm. Nhưng nó chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu, nếu nó được tiêm trong vòng ba mươi sáu tiếng đầu sau khi bị bệnh.

- Nếu tiêm sau đó thì sao?

Cutler không trả lời. Sự im lặng của anh đã khẳng định điều tồi tệ nhất.

Áp suất trong phòng chặn khí đã tăng lên mười bốn at-mốt-phe. Jack mở cánh cửa ở giữa và lao vào phòng chứa thiết bị. Anh cuống cuồng tháo găng tay, cởi bộ quần áo Orlan cỡ M, lắc mình cho nó tuột ra. Anh lấy các gói chứa đồ y tế và những ống tiêm đã được bơm đầy vi rút Nara từ túi có khóa của bộ quần áo Orlan. Lúc này anh đang run vì sợ hãi. Anh sợ điều mình sắp thấy trên trạm. Anh mở cánh cửa trong cùng.

Anh đối diện với cơn ác mộng khủng khiếp nhất.

Emma đang trôi trong nút số 1 như một vận động viên bơi lội trôi trong biển đen. Chỉ có điều vận động viên này đang chết đuối. Chân tay cô co giật liên tục và đều đặn. Cơn co giật khiến xương sống của cô như gãy gập, đầu giật lên xuống liên tục. Tóc cô quất mạnh như một chiếc roi. Đây là cơn co giật của người sắp chết.

Không, anh nghĩ. Anh sẽ không để em chết. Khốn kiếp thật, Emma. Em không thể bỏ anh.

Anh ôm chặt lấy eo cô, kéo cô về khoang dịch vụ Nga ở cuối trạm, nơi vẫn còn năng lượng và ánh sáng. Toàn thân cô co giật như một đoạn dây sống bị điền truyền liên tục. Nó co giật trên tay anh. Cô thật nhỏ bé và yếu ớt nhưng lúc này sức mạnh truyền khắp cơ thể sắp kiệt sức của cô dường như còn mạnh hơn lực siết của anh. Anh chưa quen với môi trường không trọng lực. Anh va vào tường như người say khi cố đưa cả hai đến khoang dịch vụ Nga.

- Jack, hãy cho tôi biết. - Todd nói. - Có chuyện gì vậy?

- Tôi đang đưa cô ấy đến khoang dịch vụ Nga, đặt cô ấy lên tấm ván cố định bệnh nhân.

- Anh tiêm vi rút cho cô ấy chưa?

- Phải buộc cô ấy đã. Cô ấy đang co giật. - Anh buộc chặt các khóa dán lên ngực và hông cô, cố định toàn thân cô lên tấm ván. Đầu cô giật lên xuống liên tiếp, mắt lộn ngược như đang xoay tròn. Màng mắt cô đỏ rực trông rất sợ. Tiêm vi rút cho cô ấy! Phải làm ngay!

Có một tấm ga-rô được móc ở mép tấm ván cố định. Anh rút nó ra, buộc quanh cánh tay đang co giật của cô. Anh phải dùng hết sức mới khiến khuỷu tay cô duỗi ra, để lộ ra mạch trước khuỷu. Răng anh ngậm chặt ống tiêm chứa vi rút Nara. Anh ấn mạnh mũi tiêm vào tay cô và ấn xi-lanh.

- Đã vào! - Anh nói. - Toàn bộ xi-lanh đã tiêm hết!

- Cô ấy thế nào?

- Cô ấy vẫn co giật!

- Có một hộp chất dilantin làm giãn cơ trong hộp dụng cụ y tế.

- Thấy rồi! Tôi sẽ tiêm! - tấm ga-rô bay lơ lửng gần đó như nhắc nhở anh về tình trạng không trọng lượng. Và cái gì không được buộc chặt sẽ nhanh chóng tuột khỏi tầm tay. Anh chộp lấy nó trong không trung và lại buộc vào tay Emma.

Một lúc sau, anh báo cáo.

- Dilantin đang được tiêm! Cơ của cô ấy đang giãn ra!

- Có thay đổi gì không?

Anh nhìn vợ mình và âm thầm cầu nguyện. Cố lên, Emma. Đừng bỏ anh.

Đốt sống của cô từ từ thả lỏng. Cổ mềm ra và đầu không đập vào tấm ván cố định nữa. Mắt cô đảo quanh. Giờ anh mới thấy con ngươi của cô. Chúng như hai hốc màu đen, chung quanh viền đầy máu. Khi thoáng thấy con ngươi của cô, anh bất chợt kêu lên.

Con ngươi bên trái của cô giờ đã phồng to hết cỡ. Nó đen sì và không còn sức sống.

Anh đã đến chậm. Cô sắp chết.

Anh lấy tay ôm mặt cô như thể anh có thể buộc cô sống lại. Nhưng ngay cả khi cầu xin cô đừng bỏ anh, anh vẫn biết rằng chỉ ôm ấp và cầu nguyện thì anh không thể cứu cô được. Cái chết là một quá trình hữu cơ. Các chức năng sinh hóa, các chuyển động của ion trên màng tế bào từ từ dừng lại. Não dần dần xẹp xuống. Các cơn co thắt đều đều của các tế bào tim yếu dần. Chỉ cầu nguyện sẽ không thể cứu sống cô.

Nhưng cô vẫn chưa chết.

- Todd. - Anh nói.

- Tôi đây.

- Triệu chứng cuối cùng là gì? Chuyện gì đã xảy ra với những con vật trong phòng thí nghiệm?

- Tôi không theo dõi.

- Anh đã nói vi rút Nara đã có tác dụng nếu tiêm cho con vật ở giai đoạn đầu. Điều đó nghĩa là chắc chắn nó tiêu diệt được Chimera. Vậy tại sao nó không có tác dụng ở giai đoạn sau?

- Có quá nhiều tế bào bị phá hủy và chảy máu trong.

- Chảy máu ở đâu? Các khám nghiệm tử thi cho thấy điều gì?

- Bảy mươi lăm phần trăm các ca ở chó thì việc xuất huyết gây tử vong xảy ra ở não. Các enzim của Chimera đã phá hủy các mao mạch trên mặt vỏ não. Các mạch máu bị vỡ. Chứng xuất huyết khiến áp suất trong não tăng đột ngột rất nguy hiểm. Nó như một vết thương rất mạnh ở đầu, Jack. Não sẽ bị lòi ra.

- Nếu chúng ta ngăn được chứng xuất huyết, khiến não không bị tổn thương thì sao? Nếu chúng ta có thể giúp bệnh nhân vượt qua giai đoạn cấp tính và họ có thể sống đủ lâu để vi rút Nara hoạt động thì sao?

- Có thể sẽ có tác dụng.

Jack nhìn con người phồng to của Emma. Một ký ức vụt qua đầu anh: Debbie Haning bất tỉnh trong phòng cấp cứu bệnh viện. Anh đã thất bại với Debbie. Anh đã chờ quá lâu mới hành động. Do sự thiếu quyết đoán mà anh đã mất cô ấy.

Anh sẽ không mất em.

Anh nói.

- Todd, con ngươi bên trái của cô ấy phình to. Cô ấy cần được khoan lỗ.

- Gì? Anh có điên không? Không có máy chụp X-quang à?

- Đây là cơ hội duy nhất của cô ấy! Tôi cần một cái khoan. Cho tôi biết hộp dụng cụ ở đâu?

- Chờ chút! - vài giây sau, Todd nói trên điện đàm. - Chúng tôi không chắc khoang dịch vụ Nga để đồ ở đâu. Nhưng có một hộp của NASA ở nút số 1, trong ngăn dự trữ. Hãy kiểm tra túi có chữ Nomex. Các dụng cụ trong đó rất chuyên biệt.

Jack lao ra ngoài khoang dịch vụ Nga. Anh lại đâm vào các bức tường và cánh cửa khi anh lóng ngóng tìm đường đến nút số 1. Tay anh run rẩy khi mở khay đựng dụng cụ. Anh lấy ra ba túi có chữ Nomex và thấy một túi ghi “khoan điện/ mũi khoan/ máy xạc”. Anh chộp lấy túi thứ hai có máy khoan ốc vít và một cái búa rồi lao ra khỏi nút số 1. Anh đã xa cô một lúc nhưng nỗi sợ rằng anh sẽ thấy cô đã chết cứ bám riết lấy anh khi anh bay qua đường hầm trở lại khoang dịch vụ Nga.

Cô vẫn thở và vẫn sống.

Anh buộc túi Nomex vào bàn, đỡ các dụng cụ. Chúng được dùng để sửa chữa và lắp đặt Trạm vũ trụ chứ không phải để phẫu thuật não. Giờ khi đã cầm chắc chiếc khoan trong tay và nghĩ xem mình phải làm gì thì anh hoảng sợ. Anh sẽ làm việc mà không được khử trùng và dùng dụng cụ để khoan các tấm thép chứ không phải cho xương và thịt người. Anh nhìn Emma nằm bất động trên tấm ván và nghĩ về thứ đang ở trong não cô. Anh nghĩ về chất xám của cô, nơi lưu trữ toàn bộ ký ức, giấc mơ và tình cảm cả đời cô. Tất cả những thứ đó khiến cô là một Emma độc nhất. Giờ tất cả sắp sang bên kia thế giới.

Anh lấy hộp dụng cụ y tế, lấy kéo và dao cạo. Anh túm lấy một mớ tóc của cô và bắt đầu cắt, rồi cạo phần tóc lởm chởm còn lại. Anh làm lộ ra một đường để rạch ở xương thái dương bên trái. Mái tóc đẹp của em. Anh lúc nào cũng thích mái tóc em. Anh luôn yêu em.

Anh búi gọn phần tóc còn lại của cô và vắt sang một bên để nó không vướng khi anh phẫu thuật. Anh lấy một đoạn băng dính gần đó buộc chặt đầu cô vào ván cố định. Giờ anh hành động rất nhanh, chuẩn bị dụng cụ: ống hút nước tiểu, dao mổ, băng gạc. Anh nhúng các mũi khoan vào dung dịch tẩy vết bẩn, rồi lấy cồn lau sạch.

Anh đeo găng tay tiệt trùng, cầm dao mổ lên.

Da anh nhớp nháp dưới lớp găng tay bằng nhựa cao su khi anh tạo vết rạch. Máu rỉ trên dao mổ, rồi to dần thành một giọt lớn. Anh lấy gạc lau sạch rồi ấn sâu hơn cho tới khi mũi dao chạm đến xương.

Khi khoan hộp sọ, não sẽ bị hàng triệu vi trùng xâm nhập. Nhưng cơ thể người rất linh hoạt và mau phục hồi, nó có thể tồn tại sau khi bị ảnh hưởng nặng nề. Anh buộc mình phải luôn nhớ điều này khi tiếp tục ấn sâu vào xương thái dương và xác định vị trí của mũi khoan. Những người Ai Cập và Inca cổ đại đã thực hiện thành công thủ thuật khoan sọ bằng trê-phin. Họ tạo một lỗ hổng trong não chỉ bằng những dụng cụ thô sơ nhất và không hề có các thiết bị tiệt trùng. Việc này có thể thực hiện được.

Tay anh bây giờ không run, anh ngày càng tập trung khi khoan vào xương. Chỉ cần khoan sâu quá vài milimet, anh có thể chạm vào phần chất xám. Hàng nghìn trí nhớ quý giá sẽ bị phá hủy trong một giây. Và nếu chạm vào động mạch chủ, anh sẽ khiến máu phun thành cột và không cầm được. Anh dừng lại một chút để thở và dò độ sâu của mũi khoan. Từ từ thôi! Chậm thôi!

Đột nhiên anh cảm thấy một mảnh xương nhỏ long ra và mũi khoan xuyên vào. Tim anh đập mạnh, anh nhẹ nhàng rút mũi khoan.

Máu lập tức tạo thành bong bóng, từ từ rỉ ra ở chỗ khoan. Nó đỏ đậm. Đó là máu tĩnh mạch. Anh thở phào nhẹ nhõm. Không phải động mạch. Lúc này áp suất trong não Emma sẽ bắt đầu giảm, máu chảy trong não sẽ thoát qua lỗ hổng mới. Anh hút hết chỗ máu, dùng gạc thấm hết chỗ máu rỉ ra. Rồi anh khoan mũi nữa, rồi thêm một mũi khác. Anh khoan một vòng đường kính gần một in-sơ trong não. Khi lỗ cuối cùng đã khoan xong, vòng tròn đã hoàn thành thì tay anh bị chuột rút. Mặt lấm tấm mồ hôi. Anh không thể dừng lại nghỉ ngơi, mỗi giây đều quý giá.

Anh lấy đinh vít và búa nện.

Cầu mong cách này có tác dụng và cứu được em!

Anh dùng ốc vít như một cái đục rồi nhẹ nhàng ấn sâu mũi nó vào hộp sọ. Anh nghiến chặt răng, tạo một vòng tròn trên não.

Máu trào ra. Cuối cùng, vết khoan lớn hơn đã giúp máu thoát ra, nó từ từ chảy ra khỏi não.

Và một thứ khác cũng vậy. Những quả trứng. Một bọc trứng phụt ra, bay lơ lửng, uốn éo trong không khí. Anh lấy túi chụp chúng lại, cho vào bình chân không. Trong suốt tiến trình lịch sử, kẻ thù nguy hiểm nhất của con người là các sinh vật siêu nhỏ như vi rút, vi khuẩn, động vật ký sinh. Và giờ là chúng mày, Jack nghĩ khi nhìn vào chiếc bình. Nhưng chúng tao sẽ đánh bại mày.

Máu đã ngừng chảy ở não. Khi đợt máu đầu tiên phun ra, áp suất ở não cô đã hạ xuống.

Anh nhìn mắt trái Emma. Đồng tử vẫn mở rộng nhưng khi anh chiếu ánh sáng vào, anh nghĩ có lẽ mình bị hoang tưởng chăng? Phần viền quanh đồng tử đã không còn đỏ và đồng tử như một khối nước màu đen đang trượt vào giữa.

Em sẽ sống, anh nghĩ.

Anh lấy gạc quấn vết thương, và bắt đầu truyền dung dịch chứa xteoit và ít thuốc mê để tạm thời làm cô hôn mê sâu hơn, bảo vệ não cô không bị tổn thương nhiều hơn. Anh nối điện tâm đồ vào ngực cô. Sau khi toàn bộ việc đó đã hoàn tất, anh mới lấy ga-rô buộc quanh tay mình, tiêm một liều vi rút Nara. Nó sẽ giết hoặc sẽ cứu cả hai người. Anh sẽ sớm biết điều đó.

Trên màn hình điện tâm đồ, đường tim của Emma rất đều. Anh cầm lấy tay cô và chờ dấu hiệu đầu tiên.

Ngày 27 tháng 8

Gordon Obie bước vào phòng điều hành đặc biệt, nhìn một lượt những người đàn ông và phụ nữ đang làm việc ở bảng điều khiển. Trên màn hình trước mặt, Trạm vũ trụ tạo thành một vệt uốn lượn trên bản đồ thế giới. Lúc này, ở sa mạc Algeria, những người dân trong làng đang tình cờ nhìn bầu trời đêm sẽ kinh ngạc khi thấy một ngôi sao lạ, sáng như sao Kim đang lao vụt ngang trời. Đó là vì sao duy nhất trên trời vì nó không được Chúa trời tạo ra, không phải do một lực lượng siêu nhiên mà bởi bàn tay yếu ớt của con người.

Trong căn phòng này, cách hoang mạc Algeria nửa vòng trái đất, có những người bảo vệ ngôi sao đó.

Giám đốc điều hành bay Woody Ellis ngạc nhiên, gật đầu buồn bã chào Gordon.

- Không nói lời nào. Trên đó hoàn toàn im lặng.

- Đường truyền cuối cùng cách đây bao lâu?

- Jack đã cắt liên lạc cách đây năm tiếng để chợp mắt một lúc. Đã gần ba ngày nay anh ấy không nghỉ ngơi. Chúng tôi sẽ không làm phiền anh ấy.

Ba ngày, và tình hình Emma vẫn không biến chuyển. Gordon thở dài, đi về phía bảng điều khiển của bác sĩ điều hành bay. Todd Cutler chưa cạo râu, hốc hác đang theo dõi các tín hiệu hóa sinh của Emma trên màn hình. Lần cuối cùng Todd ngủ là khi nào? Gordon tự hỏi. Mọi người trông đã kiệt sức nhưng không ai muốn bỏ cuộc.

- Cô ấy vẫn hôn mê trên đó. - Todd khẽ nói. - Chúng ta đã hết thuốc ngủ.

- Nhưng cô ấy vẫn chưa hết hôn mê à?

- Vẫn chưa. - Todd thở dài, ngả người về sau, kẹp chặt sống mũi. - Tôi không biết phải làm gì nữa. Tôi chưa từng gặp chuyện này, phẫu thuật não trong vũ trụ.

Trong suốt thời gian gần đây, nhiều người trong số họ luôn nói câu này. Tôi chưa từng gặp chuyện này. Nó thật mới mẻ. Đây là thứ chúng ta chưa từng thấy. Nhưng đó chẳng phải là bản chất của việc khám phá hay sao? Người ta không thể dự đoán trước các rắc rối, mỗi vấn đề mới phát sinh đều có cách giải quyết riêng. Mỗi niềm vui đều được xây đắp trên sự hy sinh.

Và đã có niềm vui trong những thảm kịch này. TàuApogee II đã hạ cánh an toàn xuống sa mạc Arizona, Casper Mulholland giờ đang thương lượng hợp đồng với lực lượng Không quân Mỹ. Jack vẫn khỏe mạnh dù đã ở Trạm vũ trụ quốc tế ba ngày. - điều đó cho thấy vi rút Nara vừa có thể chữa trị và phòng ngừa Chimera. Và sự thật là Emma vẫn còn sống cũng rất đáng mừng.

Mặc dù có thể đó chỉ là việc tạm thời.

Gordon cảm thấy rất buồn khi ông nhìn các tín hiệu điện tâm đồ của cô trên màn hình. Tim cô ấy có thể đập được bao lâu nữa khi não không còn hoạt động? Ông băn khoăn. Cơ thể cô ấy có thể sống được bao lâu sau trận hôn mê? Khi nhìn một người phụ nữ trước kia đầy sức sống đang từ từ yếu dần còn đau đớn hơn khi chứng kiến cái chết đột ngột và thảm khốc của cô.

Ông bỗng ngồi thẳng lên, nhìn chằm chằm vào màn hình.

- Todd. Có chuyện gì với cô ấy vậy?

- Gì cơ?

- Có vấn đề gì đó với tim cô ấy.

Todd ngẩng đầu lên nhìn đường điện tâm đồ lao vọt lên trên màn hình.

- Không. - Anh nói và bấm nút liên lạc. - Đó không phải là tim cô ấy.

Tiếng báo động lớn trên màn hình khiến Jack choàng tỉnh. Anh giật mình thức giấc. Nhiều năm rèn luyện ở bệnh viện và những đêm thức trắng trong phòng trực đã dạy anh phải luôn sẵn sàng tỉnh táo khi đang ngủ say. Khi mở mắt, anh biết mình đang ở đâu. Anh biết có chuyện gì đó.

Anh quay về phía âm thanh báo động và bị mất hướng vì tầm nhìn của anh bị đảo ngược. Emma xuất hiện trước mặt anh và lộn ngược từ trên trần nhà xuống. Một trong các tấm gắn điện tâm đồ của cô trôi tự do như một sợi cỏ biển trôi dạt dưới nước. Anh xoay một trăm tám mươi độ và mọi thứ trở về trật tự cũ.

Anh nối lại điện tâm đồ cho cô. Tim anh đập mạnh khi nhìn màn hình và lo sợ vì điều anh sắp nhìn thấy. Anh nhẹ người khi thấy nhịp tim bình thường hiện trên màn hình.

Rồi… có thứ gì đó. Một chuyển động gì đó. Cử động.

Anh nhìn Emma và thấy mắt cô mở to.

- Trạm vũ trụ quốc tế không trả lời. - chỉ huy liên lạc nói.

- Hãy thử đi! Chúng ta cần anh ấy nói chuyện ngay lúc này! - Todd hét lên. Gordon nhìn đường sinh hóa và không hiểu có chuyện gì. Anh lo sợ điều xấu nhất đã xảy ra. Các đường điện tâm đồ lao vọt lên xuống, rồi đột ngột thẳng băng. Không, anh nghĩ. Chúng ta đã mất cô ấy!

- Nó bị tháo ra. - Todd nói. - Tấm điện bị rơi. Có lẽ cô ấy đang lên cơn co giật.

- Vẫn không có tín hiệu từ Trạm vũ trụ quốc tế. - chỉ huy liên lạc thông báo.

- Có chuyện quái gì trên đó vậy?

- Nghe này! - Gordon gọi.

Hai người đều ngồi im khi một đường thẳng hiện trên màn hình. Tiếp theo lại có đường khác, rồi đường khác nữa.

- Bác sĩ, tôi đã nhận được tín hiệu từ Trạm vũ trụ quốc tế. - chỉ huy liên lạc thông báo. - Yêu cầu cho ý kiến ngay!

Todd chồm về phía trước ghế.

- Trung tâm điều khiển mặt đất, đóng đường truyền lại. Tiếp tục đi, Jack!

Đó là cuộc nói chuyện riêng nhưng Todd nghe rõ Jack đang nói gì. Đột nhiên tất cả đều im lặng, mọi người trong phòng quay về bảng điều khiển của bác sĩ. Ngay cả Gordon ngồi ngay cạnh bác sĩ cũng không thể hiểu tâm trạng của Todd. Todd gập người về phía trước, hai tay ôm tai nghe như thể muốn chặn bất cứ tạp âm nào.

Rồi anh nói.

- Tiếp tục đi, Jack! Có rất nhiều người dưới đây chờ nghe tin này. Hãy báo cho họ đi! - Todd quay về phía giám đốc điều hành bay Ellis và giơ ngón tay cái lên vui sướng. - Watson đã tỉnh lại! Cô ấy đang nói chuyện!

Chuyện xảy ra tiếp theo sẽ mãi hằn sâu trong tâm trí của Gordon Obie. Ông nghe thấy những tiếng nói bập bõm, rồi to dần thành niềm hạnh phúc. Ông thấy Todd vỗ vào lưng mình. Liz Gianni nhảy lên. Và Woody Ellis ngồi phịch xuống ghế vì quá bất ngờ và quá vui.

Nhưng điều ông nhớ nhất là phản ứng của chính mình. Ông nhìn quanh phòng, đột nhiên thấy cổ họng đau rát và nước mắt khiến mắt ông nhòe đi. Trong suốt những năm ở NASA, chưa ai thấy Gordon Obie khóc. Và giờ thì họ lại không để ý điều đó.

Họ vẫn đang reo hò vui mừng khi ông đứng lên, im lặng ra khỏi phòng.

5 tháng sau

Thành phố Panama, bang Florida

Tiếng bản lề kêu ken két và tiếng kim loại va chạm trong xưởng khổng lồ của Hải quân khi cánh cửa phòng điều áp cuối cùng mở ra. Jared Profitt nhìn hai bác sĩ Hải quân bước ra ngoài đầu tiên, cả hai đều hít sâu khi bước ra. Họ đã bị nhốt cả tháng trong không gian gò bó. Dường như họ rất hụt hẫng khi được trở về môi trường tự do. Họ quay lại giúp hai người khác ra khỏi phòng.

Emma Watson và Jack McCallum bước ra. Cả hai đều nhìn Jared Profitt đang tiến về phía họ.

- Chào mừng cô trở về, bác sĩ Watson. - ông nói và đưa tay chúc mừng cô.

Cô lưỡng lự rồi bắt tay ông. Cô gầy hơn nhiều so với trong ảnh. Sau bốn tháng bị cách ly trên vũ trụ, tiếp theo là năm tháng trong phòng bội áp suất khiến cô bị ảnh hưởng rõ rệt. Cơ bắp cô đã rã rời, mắt cô dường như to hơn và lấp lánh trên khuôn mặt xanh xao. Phần tóc mọc lại trên hộp sọ bị cạo trọc bây giờ có màu bạc, nổi bật hẳn trên mớ tóc màu hạt dẻ cũ.

Profitt nhìn hai bác sĩ.

- Các vị để chúng tôi nói chuyện riêng được không? - ông chờ cho đến khi những bước chân xa dần.

Rồi ông hỏi Emma.

- Cô khỏe chứ?

- Tôi ổn. - Emma nói. - Họ nói tôi đã hết bệnh.

- Người ta không phát hiện bệnh trên cơ thể cô nữa. - ông chỉnh lại.

Đây là sự khác biệt quan trọng. Mặc dù họ đã xác nhận là vi rút Nara thực sự đã triệt tiêu Chimera trong phòng thí nghiệm nhưng họ không chắc về việc tiên lượng bệnh cho Emma. Điều chính xác nhất họ có thể nói là không còn dấu vết của Chimera trong cơ thể cô. Từ khi cô trở về trái đất trên tàu Endeavour, cô đã bị thử máu, chụp X-quang và thử nghiệm sinh hóa liên tục. Dù tất cả đều cho kết quả âm tính nhưng Viện nghiên cứu y tế quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm vẫn yêu cầu cô thử nghiệm phòng bội áp trong khi các thí nghiệm tiếp tục. Hai tuần trước, phòng bội áp đã giảm xuống mức một at-mốt-phe. Cô vẫn khỏe mạnh.

Thậm chí lúc này cô vẫn chưa hoàn toàn tự do. Từ nay đến cuối đời, cô sẽ là sinh vật để họ nghiên cứu.

Ông nhìn Jack và thấy sự thân thiện trong mắt anh. Jack không nói gì, tay ôm eo Emma, một cử chỉ như muốn nói rõ rằng: ông không thể lấy mất cô ấy khỏi tay tôi.

- Bác sĩ McCallum, tôi mong anh hiểu mọi quyết định của tôi đều có lý do riêng.

- Tôi hiểu lý do của ông. Điều đó không có nghĩa là tôi đồng ý với những quyết định của ông.

- Vậy thì ít ra chúng ta cũng có điểm chung. - ông không đưa tay ra, ông có cảm giác Jack sẽ từ chối bắt tay mình. Ông chỉ nói. - Có mấy người đang chờ các bạn bên ngoài. Tôi sẽ không giữ các bạn thêm nữa. - ông quay mặt bước đi.

- Chờ đã. - Jack nói. - Giờ thì sao?

- Hai vị được phép đi, miễn là cả hai phải quay lại kiểm tra theo định kỳ.

- Không, ý tôi là những người có liên quan thì sao? Những người đã gửi Chimera lên Trạm vũ trụ?

- Họ sẽ không có quyền quyết định gì.

- Thế thôi à? - Jack cao giọng tức giận. - Không trừng phạt, không chịu hậu quả gì?

- Việc này sẽ được giải quyết như bình thường, cách được thực hiện ở bất cứ bộ phận nào của chính phủ, kể cả NASA. Họ sẽ kín đáo bị loại ra, rồi kín đáo nghỉ việc. Không thể có chuyện điều tra hay tiết lộ bất cứ việc gì. Chimera quá nguy hiểm nên không thể tiết lộ với những người khác trên thế giới.

- Nhưng đã có người chết.

- Chúng tôi sẽ nói đó là do vi rút Marburg. Nó vô tình được đưa lên Trạm vũ trụ quốc tế qua một con khỉ bị nhiễm bệnh. Cái chết của Luther Ames là do trục trặc kỹ thuật của phương tiện di dời khẩn cấp.

- Ai đó phải chịu liên đới chứ?

- Vì tội gì? Vì đưa ra quyết định sai lầm ư? - Profitt lắc đầu. Ông quay lại nhìn cánh cửa phòng chứa đóng chặt. Một tia nắng chiếu qua. - Không có tội phạm bị trừng phạt trong việc này. Chỉ có những người mắc sai lầm, những người không hiểu bản chất của thứ họ đang nghiên cứu. Tôi biết anh rất tức giận về việc này. Tôi hiểu anh muốn buộc tội ai đó. Nhưng không có tội phạm trong việc này, bác sĩ McCallum. Chỉ có… những anh hùng. - ông quay lại, nhìn thẳng vào Jack.

Hai người đàn ông nhìn nhau một lúc. Profitt không thấy chút ấm áp hay lòng tin trong mắt Jack. Nhưng ông thấy thái độ tôn trọng.

- Các bạn anh đang đợi. - cuối cùng Profitt nói.

Jack gật đầu. Anh và Emma bước qua cánh cửa nhà xưởng. Khi họ ra ngoài, Jared Profitt nheo mắt vì ánh sáng. Ông thấy Jack và Emma chỉ còn là hai chấm nhỏ, tay anh khoác vai cô, dáng cô tựa vào anh. Trong tiếng reo hò vui mừng, họ bước ra và biến mất trong ánh sáng rực rỡ buổi trưa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


ĐẠI DƯƠNG

HAI MƯƠI TÁM

Một ngôi sao chổi vệt vòng cung lên trời và tan thành nhiều mảng sáng lấp lánh. Emma hít sâu kinh ngạc, cảm nhận mùi gió trên vịnh Galveston. Mọi việc khi trở về dường như đều mới mẻ và lạ lẫm với cô. Đây là bức tranh toàn cảnh trọn vẹn của bầu trời. Sàn thuyền lắc lư dưới lưng cô. Tiếng nước ì oạp vỗ vào mạn thuyền Sanneke. Đã lâu lắm rồi cô không được tận hưởng điều đơn giản trên trái đất, vì vậy khi gió nhẹ mơn man trên mặt, cô cảm thấy đó là điều thật quý giá. Trong suốt những tháng bị cách ly trên Trạm vũ trụ, cô đã nhìn xuống trái đất, thấy nhớ nhà, thèm được ngửi mùi cỏ, vị mặn của biển trong không khí, hơi ấm của đất dưới chân. Cô đã nghĩ khi mình trở về nhà, nếu được trở về lần nữa, mình sẽ không bỏ nó nữa.

Giờ cô đã ở đây, tận hưởng cảnh đẹp và mùi vị của trái đất. Nhưng cô vẫn không thể ngăn mình tiếc nuối nhìn những vì sao.

- Em có bao giờ ước được quay lại đó không? - Jack nói khẽ đến nỗi những lời của anh như tan trong gió. Anh nằm cạnh cô trên boong tàu Sanneke, tay anh nắm chặt tay cô. Anh cũng nhìn lên bầu trời.

- Em có bao giờ nghĩ “nếu họ cho mình một cơ hội lên đó lần nữa, mình sẽ nắm lấy nó” không?

- Ngày nào em cũng nghĩ vậy. - cô lẩm bẩm. - Anh thấy có lạ không? Khi lên đó, chúng ta chỉ nói về việc trở về. Và giờ khi đã trở về, chúng ta luôn nghĩ về việc được lên đó lần nữa. - cô lướt các ngón tay trên trái dương, ở đó những sợi tóc ngắn hơn đang mọc trở lại và có màu bạc kỳ lạ. Cô vẫn cảm thấy một vết sẹo ở chỗ dao mổ của Jack đã cắt qua da và cân bọc sọ. Nó sẽ mãi nhắc nhở cô về việc cô đã được cứu sống trên trạm như thế nào. Đó cũng là một nỗi sợ lâu dài ăn sâu vào da thịt cô. Nhưng cô vẫn nhìn lên trời, cô lại thấy thèm được bay lên đó.

- Em nghĩ em sẽ luôn hy vọng có một cơ hội nữa. - cô nói. - Như những người thủy thủ vẫn muốn trở lại biển, cho dù chuyến đi khủng khiếp đến mức nào. Hay thậm chí họ còn âu yếm hôn đất khi cập bến. Họ vẫn nhớ biển và muốn quay lại.

Nhưng cô sẽ không bao giờ quay trở lại vũ trụ. Cô như một thủy thủ bị giữ chặt chân trên đất liền, xung quanh cô là biển cả, đày đọa và cấm đoán cô. Nó sẽ mãi tuột khỏi tầm tay cô vì Chimera.

Mặc dù các bác sĩ ở Houston và Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm không phát hiện thấy bất cứ dấu hiệu nhiễm bệnh nào trong cơ thể cô nhưng họ không chắc Chimera đã bị tiêu diệt hoàn toàn chưa. Có thể nó đang ngủ đông và sống ký sinh trong cơ thể cô. Không ai ở NASA đoán được sẽ có chuyện gì khi cô được bay lên vũ trụ.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www. gacsach. com. - gác nhỏ cho người yêu sách]

Vì vậy cô sẽ không bao giờ được quay lại. Giờ cô đã là cái bóng của một phi hành gia, không hy vọng được thêm một nhiệm vụ bay nào. Cô để mặc những người khác theo đuổi giấc mơ của họ. Một phi hành đoàn mới đã được đưa lên trạm để hoàn tất việc sửa chữa và tiếp tục dọn dẹp ô nhiễm sinh học mà cô và Jack đã làm. Tháng sau, các mảnh cuối cùng của tấm năng lượng mặt trời bị vỡ sẽ được đưa lên tàu Columbia. Trạm vũ trụ quốc tế sẽ không chết. Đã có quá nhiều người chết để biến Trạm vũ trụ thành sự thật, việc bỏ trạm lúc này nghĩa là đã có những người hy sinh vô ích.

Một ngôi sao chổi khác vụt qua, rồi lao xuống như một hòn than trước khi vụt tắt. Cả hai đều chờ và hy vọng có một ngôi sao chổi khác. Những người khác nhìn thấy sao chổi có thể nghĩ chúng là điềm gở, hay các thiên thần từ trên trời rơi xuống, hay coi đó là cơ hội ước một điều gì đó. Emma nhìn nhận chúng theo đúng bản chất của chúng: đó là các mảnh vụn trong vũ trụ, những người thích ngao du bất trị muốn trốn khỏi vòng tay lạnh lẽo và tối tăm của vũ trụ. Dù chỉ là đá và băng nhưng chúng vẫn không kém phần kỳ diệu.

Khi cô nghiêng đầu nhìn bầu trời, chiếc thuyền Sanneke chòng chành vì một cơn sóng lớn. Cô có ảo giác những ngôi sao đang lao về phía mình và cô đang lao vút đi qua không gian và thời gian. Cô nhắm mắt. Đột nhiên tim cô đập mạnh vì sợ hãi. Cô thấy mồ hôi lạnh trên má.

Jack nắm lấy bàn tay run rẩy của cô.

- Có chuyện gì vậy? Em lạnh à?

- Không, không phải lạnh. - cô nuốt khan. - Em bỗng thấy một việc khủng khiếp.

- Gì vậy?

- Nếu Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đúng rằng Chimera đến trái đất trên mảnh thiên thạch thì điều đó chứng tỏ có sự sống ở đó.

- Đúng vậy. Nó đã chứng minh điều đó.

- Nếu có sinh vật thông minh thì sao?

- Chimera quá nhỏ, quá nguyên thủy. Nó không có trí khôn.

- Nhưng nếu có ai đó đưa nó đến đấy có trí khôn thì sao? - cô thì thầm.

Jack nằm im bên cô.

- Một cuộc xâm chiếm thuộc địa. - Anh khẽ nói.

Như những hạt cát bay theo gió. Chimera hạ cánh ở bất cứ đâu, trên bất cứ hành tinh nào, trong bất kỳ hệ mặt trời nào thì nó sẽ gây bệnh cho các sinh vật gốc và lấy ADN vào nhiễm sắc thể của nó. Nó sẽ không cần hàng triệu năm để thích nghi với nơi ở mới của nó. Nó có thể lấy các mã gen mới từ các động vật sống ở đó để thành công cụ tồn tại.

Và một khi đã ổn định, một khi đã trở thành sinh vật thống trị trên hành tinh mới thì sao? Bước tiếp theo của nó là gì. Cô không biết. Cô nghĩ câu trả lời chắc chắn nằm trong các đoạn trong nhiễm sắc thể của Chimera mà họ vẫn chưa xác định được. Chức năng của các đoạn ADN tiếp theo vẫn còn là bí ẩn với họ.

Một ngôi sao băng khác lại vụt qua bầu trời. Nó cho thấy vũ trụ luôn vận động và biến đổi thất thường. Và trái đất là người du lịch duy nhất qua vũ trụ bao la.

- Chúng ta phải sẵn sàng. - cô nói. - Trước khi sinh vật Chimera tiếp theo đến.

Jack ngồi dậy nhìn đồng hồ.

- Trời sắp lạnh, ta về nhà thôi! Gordon sẽ nổi điên nếu chúng ta vắng mặt tại cuộc họp báo ngày mai.

- Em chưa bao giờ thấy ông ấy nổi giận.

- Em không hiểu ông ấy bằng anh. - Jack bắt đầu kéo mạnh dây neo. Buồm chính căng lên, thổi phồng trong gió. - Ông ấy đã yêu em đấy, em biết không?

- Gordie á? - cô cười. - Em không thể tưởng tượng nổi.

- Và em biết anh không thể tưởng tượng nổi việc gì không? - Anh nói khẽ rồi kéo cô lại gần anh trong buồng lái. - Rằng lại có người đàn ông nào mà không yêu em.

Gió bỗng nổi lên, buồm căng, thuyền Sanneke lao về trước, xẻ dọc làn nước trên vịnh Galveston.

- Sẵn sàng lên đường! - Jack hét. Anh lái tàu đi trong gió, quay mũi về phía tây. Họ không chỉ được các vì sao dẫn đường mà còn có ánh sáng trên bờ.

Ánh sáng từ ngôi nhà của họ.

TỪ VIẾT TẮT

NASA có một tên không chính thức là “Hãng chuyên nói tắt quốc gia”. Việc đó có nguyên nhân của nó. Những cuộc nói chuyện giữa các nhân viên ở NASA thường pha trộn những từ nói tắt, chữ viết tắt đó được sử dụng nhiều đến nỗi có thể bạn nghĩ họ đang nói một thứ tiếng lạ. Dưới đây, tôi xin giải nghĩa vài từ viết tắt và thuật ngữ được sử dụng nhiều lần trong truyện Gravity.

AFB: Lực lượng Không quân.

ALSP: Bộ dụng cụ hỗ trợ cấp cứu, đây là hộp dụng cụ y tế trên tàu để cung cấp các phương tiện cấp cứu trợ tim cao cấp.

APU: Bộ nguồn chính.

ASCR: Đảm bảo đưa phi hành đoàn trở về an toàn, đây là chế độ sử dụng phần mềm điều khiển trên Trạm vũ trụ quốc tế giúp hỗ trợ việc tách và phóng phương tiện di dời khẩn cấp.

ATO: Đốt nhiên liệu để vào quỹ đạo, đây là chế độ cho phép tàu đạt được một tốc độ nhất định nào đó trước khi quay trở về trái đất.

CAPCOM: Chỉ huy liên lạc với tàu.

CCPK: Bộ dụng cụ bảo vệ chống ô nhiễm cho phi hành đoàn.

CCTV: Truyền hình khép kín.

CRT: Ống tia cac-tốt.

CRV: Phương tiện di dời khẩn cấp, đây là thuyền cứu hộ của tàu.

C/W: Chú ý và cảnh báo.

DAP: Phi công lái tự động kỹ thuật số.

ECLSS: Hệ thống hỗ trợ sự sống và kiểm soát môi trường

ECS: Hệ thống kiểm soát môi trường.

EKG: Điện tâm đồ.

EKV: Vũ khí hủy diệt tầm xa, một loại tên lửa được thiết kế để phá hủy các vật thể trước khi chúng xâm nhập khí quyển trái đất.

EMU: Phương tiện di chuyển phụ, một loại quần áo đi bộ ngoài vũ trụ của Mỹ.

EPS: Hệ thống điện.

ESA: Hãng hàng không vũ trụ Châu Âu.

EVA: Hoạt động đi bộ ngoài không gian.

FAA: Cơ quan hàng không liên bang.

Falcon: Giám đốc điều hành bay chịu trách nhiệm về việc quản lý hệ thống điện và tấm năng lượng mặt trời trên Trạm vũ trụ quốc tế.

FCR: Phòng điều hành bay.

FDO: Nhân viên phụ trách động lực học trên chuyến bay.

FGB: (Các chữ viết tắt của tiếng Nga). Gian hàng chức năng, một trong các khoang trên Trạm vũ trụ quốc tế, nó cũng được gọi là Zarya.

Flight: Giám đốc điều hành chuyến bay.

GC: Trung tâm điều khiển trên mặt đất.

GDO: Nhân viên hướng dẫn.

GNC: Hướng dẫn, Chỉ đường và Điều khiển.

GOES: Vệ tinh môi trường hoạt động trên toàn quốc, đây là một vệ tinh dự báo thời tiết.

GPC: Máy tính dành cho các mục đích sử dụng thông thường.

Hab: Khoang sinh hoạt.

HCG: Hooc-môn kích dục ở người, một loại hooc-môn được sản sinh trong quá trình thai nghén.

HEPA filter: Bộ lọc khí đặc biệt hiệu quả cao.

ISS: Trạm vũ trụ quốc tế.

IVA: Hoạt động đi lại bên trong, đây là việc đi lại trong phương tiện hay con tàu đã được nén khí.

JPL: Phòng thí nghiệm lực đẩy máy bay.

JSC: Trung tâm vũ trụ Johnson.

KSC: Trung tâm vũ trụ Kennedy.

Ku-band: Hệ thống liên lạc phụ sử dụng tần số sóng thấp.

LCC: Trung tâm điều khiển việc phóng tàu.

LEO: Quỹ đạo trái đất tầm thấp, đây là quỹ đạo cách trái đất vài trăm dặm.

LES: Bộ quần áo mặc khi phóng tàu và về trái đất, đây là bộ quần áo màu da cam sáng được các phi hành gia mặc để cất cánh hay khi sắp về trái đất. Đây là một bộ quần áo được nén khí, có thể cách nhiệt và chống lại lực hút trái đất.

LOS: Mất tín hiệu.

MCC: Trung tâm điều hành nhiệm vụ bay.

ME: Các động cơ chính.

MECO: Tắt động cơ chính.

MMACS: Kỹ sư bảo trì, bộ phận cơ khí và hệ thống của phi hành đoàn.

MMT: Đội quản lý nhiệm vụ.

MMU: Bộ phận dữ liệu tổng hợp.

MOD: Giám đốc điều hành nhiệm vụ.

MSFC: Trung tâm vũ trụ Marshall.

NASA: Hãng hàng không vũ trụ quốc gia.

NASDA: Hãng hàng không vũ trụ Nhật Bản.

NOAA: Trung tâm khí tượng và đại dương quốc tế.

NORAD: Bộ tư lệnh phòng không Bắc Mỹ.

NSTS: Hệ thống vận chuyển hàng không quốc gia.

Odin: Giám đốc điều hành bay, chịu trách nhiệm về các dữ liệu và mạng máy tính trên Trạm vũ trụ quốc tế.

ODS: Hệ thống sát nhập tàu khi bay.

OMS: Hệ thống điều khiển tàu.

Orlan-M: Bộ quần áo đi bộ ngoài không gian của Nga.

ORU: Bộ phận thay thế khi đang bay quanh quỹ đạo.

Oso: Giám đốc điều hành bay chịu trách nhiệm về kỹ thuật, bảo trì và các khóa trên Trạm vũ trụ quốc tế.

PAO: Nhân viên quan hệ công chúng.

PFC: Phòng nói chuyện riêng của gia đình.

PI: Trưởng ban điều tra, đây là nhà khoa học làm việc trên mặt đất và chịu trách nhiệm về các thí nghiệm được đưa lên Trạm vũ trụ quốc tế.

PMC: Phòng họp y khoa riêng.

POCC: Trung tâm kiểm tra các chuyến hàng.

Psi: Pao trên một in-sơ.

PVM: Khoang điện có lớp chặn.

RCS: Hệ thống điều khiển phản xạ, một trong các hệ thống máy móc trên tàu con thoi được dùng khi bay trên quỹ đạo để điều khiển đường bay.

RLV: Phương tiện phóng tàu có thể tái sử dụng.

RPOP: Chương trình hoạt động lắp ghép ở tầm gần (đây là một loại phần mềm).

RSM: Khoang dịch vụ Nga.

RTLS: Trở về khu bệ phóng, một kiểu hủy phóng tàu. Nó yêu cầu tàu con thoi bay hạ thấp độ cao để xả nhiên liệu, rồi trở về khu hạ cánh gần khu phóng tàu.

SAFER: Cứu hộ phương tiện di dời khẩn cấp đơn giản hóa, một bộ dụng cụ trên tàu cho phép các phi hành gia có thể bay an toàn khi dây nối bị đứt.

Sim: Tình huống diễn tập.

SRB: Động cơ đẩy tên lửa.

STS: Hệ thống vận chuyển tàu con thoi.

Surgeon: Bác sĩ phụ trách suốt chuyến bay.

SVOR: Phòng điều hành đặc biệt, đây là phòng điều hành bay cho Trạm vũ trụ quốc tế.

TACAN: Định vị hàng không chiến lược.

TAEM: Quản lý năng lượng ở khu vực cuối.

TAL: Khu hạ cánh bên kia bờ Đại Tây Dương, đây là kiểu hủy phóng tàu và khi đó tàu con thoi hạ cánh ở khu bên kia bờ Đại Tây Dương.

TDRS: Vệ tinh truyền và dẫn dữ liệu.

Topo: Giám đốc điều hành bay điều khiển đường bay của Trạm vũ trụ.

TVIS: Hệ thống tách rung động.

UHF: Tần số sóng cao.

United Space Alliance (USA): Đây là một cam kết duy trì và thực hiện các hoạt động của NASA.

USAMRIID: Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm.

U. S. Space Command: Đây là bộ phận của Tổng tư lệnh thuộc Bộ Quốc phòng. Bộ phận này kiểm soát các vật thể nhân tạo bay quanh trái đất, hỗ trợ quân sự cũng như các hoạt động dân sự liên quan đến vũ trụ.

WET-F: Phương tiện huấn luyện trong môi trường không trọng lực.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom