Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!

Theo Đuổi Chim Loan - Thất Tát Nương Tử

Theo Đuổi Chim Loan - Thất Tát Nương Tử

admin

Thánh Ngự Hư Không
Đại Thần
Tham gia
11/6/23
Bài viết
915,385
VNĐ
900,499
[Diendantruyen.Com] Theo Đuổi Chim Loan - Thất Tát Nương Tử

Theo Đuổi Chim Loan - Thất Tát Nương Tử
Tác giả: Thất Tát Nương Tử
Tình trạng: Đã hoàn thành




Tên truyện: Theo Đuổi Chim Loan/ Trục Loan

Thể loại: Ngôn tình, Cổ đại, HE, Tình cảm, Cung đình hầu tước, Nhẹ nhàng, Duyên trời tác hợp.

- ---------- 

Thái tử đương triều chủ mưu soán ngôi, ngày hành hình tuyết rơi dày đặc mịt mù.

Gia tộc Lệ thị nắm quyền triều chính bị liên lụy, cả gia tộc bị đày ải tới tháp Minh Nguyệt cằn cỗi.

Người trong họ Lệ thị khóc lóc động trời, không ngừng chửi mắng người nhà của Thái tử bị phế.

Chỉ có Lệ Tri im lặng không nói gì.

Trên đường lưu đày, khổ cực không thể tả.

Hàng ngày, Lệ Tri tiết kiệm thức ăn, lẳng lặng đưa cho đứa con mồ côi bệnh ngày càng nặng của Thái tử.

Thiếu niên trong sáng thanh thuần như lời đồn, dịu dàng nhã nhặn, có phong thái của bậc bề trên.

Một ngày nọ, Lệ Tri đánh rơi đồ nên quay lại.

Dưới ánh trăng sáng trong, mặt đất mờ sương. Người thiếu niên khôi ngô tuấn tú, mặt vô cảm nhìn mấy con chó hoang cắn nhau.

Giữa những răng nanh xâu xé, là cái màn thầu nàng vừa mới đưa.

*

Một trận chiến tháp Minh Nguyệt chấn động thiên hạ, để thiên hạ biết rằng dòng máu của Thái tử Huệ Nhược Thần vẫn còn đó.

Mấy năm sau, hoàng đế băng hà, trước khi lâm chung đã giải tội cho Thái tử, lệnh cho Hoàng thái tôn kế vị.

Thế gia đại tộc thèm muốn chiếc ghế Hoàng hậu, từng quyển sổ con tấu cầu phong hậu được đưa lên nhưng không thấy hồi âm.

Thuộc hạ tranh đấu vỡ đầu, vị vua mới lại dựa vào lan can nếm vải.

Hôm sau, vật bảo của Hoàng hậu cùng chiếu chỉ phong hậu được đưa tới cung Thanh Loan, hai chân Lệ Tri mềm nhũn, tạ ơn tiếp chỉ dưới sự nâng đỡ của người hầu.

*

Đêm tân hôn của đế hậu, Lệ Tri đỏ bừng mặt, một bàn tay lạnh lẽo vuốt ve má nàng.

Vị vua mới ghé vào tai nàng nhẹ nhàng nói nhỏ:

“Đưa ta đến cực lạc, hoặc xuống địa ngục cùng ta.”

Một câu tóm tắt: Hành trình cạnh tranh của hai người điên.

Dàn ý: Trời không tuyệt đường người.
 
Chương 1


“Muội biết không? Có người nắm tay nhau khi sinh ra đó!”

Trên một cái giường được ngăn cách bằng tấm chăn mỏng đã giặt đến bạc màu, tỷ tỷ nhẹ nhàng vỗ về muội muội đang đòi nghe kể chuyện.

Ánh trăng xuyên qua cửa sổ bằng lụa mỏng đang khép hờ, chiếu vào hai gương mặt trẻ con giống nhau như đúc.

“Chúng ta chính là nắm tay nhau khi sinh ra đó.” Lệ Tri cười nói.

Lệ Hạ phấn khởi, muốn từ trên giường ngồi dậy, Lệ Tri ấn nhẹ nàng xuống, lấy chăn bông mềm mại đắp cho nàng.

“Có thật vậy không? Chúng ta thật là nắm tay nhau khi sinh ra sao?” Đôi mắt Lệ Hạ cong thành hình trăng lưỡi liềm, khuôn mặt đầy hào hứng giống như một con thú nhỏ trong sáng vui vẻ.

“Thật đó, là ma ma đỡ đẻ nói cho tỷ biết đấy.” Lệ Tri ôn nhu nói: “Lúc di nương sinh chúng ta, tỷ sinh ra trước, ma ma đang chuẩn bị báo tin vui thì bỗng nhiên nhìn thấy……….A..một tay của đứa bé này sao lại nắm chặt như vậy?”

Lệ Tri cố ý dừng lại một chút, chọc cho Lệ Hạ mở to hai mắt, không ngừng hỏi tới.

“Sau đó thì sao? Sau đó thì sao?”

“Sau đó à? Sau đó ma ma lại kêu di nương tiếp tục dùng sức, nói là còn một bé nữa. Qua nửa canh giờ, muội mới được sinh ra. Lúc muội sinh ra, cây hoa quỳnh do mẫu thân trồng cũng nở hoa theo. Ngày hôm sau, mọi người mới biết là đêm hôm đó, toàn bộ hoa quỳnh ở Kinh Đô đều nở hoa hết……Ai cũng bảo đây là điềm lành đấy!”

Lệ Hạ nghe xong, dường như có điều suy nghĩ. Lệ Tri tưởng là đã dỗ được muội muội ngủ rồi, đang chuẩn bị nhắm mắt ngủ thì Lệ Hạ bỗng nhiên nắm tay nàng.

Năm ngón tay mềm mại nhỏ xinh tìm được tay nàng, đan vào lòng bàn tay, từ từ siết chặt.

Lệ Tri mở mắt, ngờ vực nhìn qua muội muội.

“A tỷ, chúng ta sẽ mãi mãi ở bên nhau đúng không?”

Muội muội từ trước đến giờ không sợ trời không sợ đất, hiếm khi thấy lo sợ như bây giờ, Lệ Tri không khỏi mỉm cười.

Nàng yêu thương vuốt tóc mai của muội muội, ánh mắt sáng như mắt của mẫu thân.

“Đương nhiên chúng ta sẽ mãi mãi ở bên nhau rồi.”

Nàng nắm chặt tay Lệ Hạ, giọng nói chan chứa yêu thương như tuyết tan thanh khiết ngày xuân.

Ánh trăng vô tư tỏa sáng, căn phòng cũ chật chội được mạ lên ánh sáng vàng rực rỡ, giống như phòng ngủ nguy nga lộng lẫy của đích đệ. Trong bóng đêm yên tĩnh, chỉ có cây vô hoạn tử ngoài sân phát ra âm thanh xào xạc.

Lời hứa, khắc cốt ghi tâm.

“Chúng ta sẽ mãi mãi, mãi mãi, mãi mãi ở bên nhau.”

Bất tri bất giác, nước mắt nhòe ướt gương mặt Lệ Tri.

Nàng hé miệng, muốn nói gì đó, nhưng ra khỏi miệng chỉ là những tiếng thì thầm đứt quãng.

Cơn gió lạnh chẳng biết nổi lên từ lúc nào, xua đi đêm trăng tĩnh lặng, cảnh vật trước mắt bỗng nhiên bị nghiền nát, khuôn mặt của đôi song sinh tiêu tán như bọt biển, một mùi hôi thối không rõ xộc vào mũi.

Theo bản năng nàng tỉnh dậy, cố gắng mở mắt ra, một gương mặt đầy vết nhăn đột nhiên xuất hiện trước mắt.

“….Ta còn tưởng ngươi chết rồi chứ.” Phụ nhân nói.

Phụ nhân đeo cùm gỗ nghiêng người, hậm hực thu bàn tay sắp đặt lên người Lệ Tri trở về.

Lệ Tri nhìn theo ánh mắt của bà ta, liền đoán được ý định ban đầu của phụ nhân này.

“Thẩm hiểu lầm rồi, tại ta mệt quá nên mới ngủ một chút.”

Thiếu nữ rũ ống tay áo xuống che đi chiếc vòng bằng vỏ sò trên cánh tay, đôi mắt lá liễu hẹp và dài cong lên, lộ ra một nụ cười vô hại.

Thấy không lấy được chút béo bở nào trên người Lệ Tri, ánh mắt tham lam vừa dò xét kỹ xung quanh, vừa như đang nhìn lá cờ trên cao, rồi lảo đảo đi về hướng đội ngũ phía trước.

Một cơn gió lớn thổi qua, Lệ Tri mặc quần áo phong phanh không khỏi co người ôm bờ vai.

Tuyết lớn lông ngỗng ở Kinh Đô biến thành tuyết trắng ở Đằng Dương hoang dã, mỗi khi gió lạnh thổi lên, sương tuyết màu bạc như rắn độc chui vào cổ áo và tay áo.

“Tất cả đến đây ăn cơm!”

Một tiếng hét to phá vỡ bầu không khí chết chóc, hai gã nha dịch cầm theo thùng gỗ đựng thức ăn đi đến chỗ đám người bị lưu đày.

Một khi không tiếp được khẩu phần ăn của mình, cho dù là bị rơi xuống đất cũng sẽ có những kẻ đói khát chạy đến cướp mất.

Trên đường lưu đày, Lệ Tri đã nhiều lần nhìn thấy cảnh này.

“Cầm chắc…..”

Một thứ gì đó cứng ngắt, màu xám trắng bay về hướng Lệ Tri, đó là mộ cái bánh màn thầu bị mốc, giống như được tìm thấy trong thùng nước vo gạo nào đó, vừa nhỏ vừa cứng, còn không đủ cho một hài tử tám tuổi ăn.

Lệ Tri nhặt cái màn thầu rơi trước mặt lên, phủi nhẹ lớp bụi bẩn phía trên.

Hai gã nha dịch tiếp tục quăng ném khẩu phần ăn của một ngày cho đám người lưu đày, động tác như đang cho súc vật ăn vậy.

Có ba trăm sáu mươi người bị lưu đày, bao gồm cả Lệ Tri trong đó, tất cả những người mười sáu tuổi trở lên đều phải đeo một cái cùm gỗ nặng hai mươi lăm cân. Có hai người phụ trách áp giải đường dài, gọi là trường giải, cứ mỗi khi đến một thành trì, sẽ có bốn đến sáu người áp giải đường ngắn là đoản giải gia nhập, mãi đến thành trì kế tiếp sẽ có đoản giải khác thay ca.

Đích đến của những người bị lưu đày này sẽ căn cứ theo tội ác mà họ gây ra, tội nhẹ thì lộ trình ngắn, tội nặng thì lộ trình dài.

Trong quá trình này, chết là hợp lý, bất kể là tự nhiên chết hay không phải tự nhiên chết, thì bọn nha dịch áp giải cũng sẽ không bởi vì lúc đi có hơn ba trăm người, lúc đến chỉ còn có bảy, tám mươi người mà bị trừng phạt.

Chết, là “tổn hao” tự nhiên của tội lưu đày.

Lúc nha dịch phân phát đồ ăn, có người muốn cầu xin thức ăn nhiều một chút đều bị bọn họ không lưu tình mà đạp ngã.

Một số người ăn ngấu nghiến khẩu phần ăn của mình, nhưng ánh mắt tham lam thì lại dính chặt lên khẩu phần ăn của người khác.

Có người thì dùng răng cắn đứt cái màn thầu cứng như đá, phần còn lại thì chia cho hài tử còn nhỏ.

Lệ Tri không có khẩu vị, có lẽ là do lòng bàn chân của nàng bị đau đến tê dại.

Giày vải mang lúc rời kinh đã rách mấy chỗ, cát đá thô ráp cọ sát vô đôi chân, ngọn cỏ sắt bén cắt qua cổ chân, đôi chân vốn mềm mại bây giờ lại xuất hiện những vết chai dày và bong bóng máu, vết thương chảy máu mãi vẫn chưa thấy tốt lên.

Đã vậy nàng còn phải đối mặt với những ánh mắt không có hảo ý trong đám người lưu đày, nỗi sợ hãi với tương lai phía trước và sự tuyệt vọng chờ đợi cái chết nếu nàng đổ bệnh.

Đối với một thiếu nữ mười lăm tuổi mà mấy tháng trước vẫn còn là thiên kim tiểu thư mà nói, đây chẳng khác gì một thảm họa.

Nhưng nàng lại không phẫn nộ với tình trạng hiện giờ, cũng không bi thương, bất kể là ai nói chuyện với nàng cũng bị đôi mắt biết cười kia hấp dẫn.

Nhân lúc mọi người đang tập trung chú ý vào lương khô trên tay hoặc là thùng gỗ trong tay trưởng giải, Lệ Tri chống tay đứng lên.

Nàng hái một lá cây to xuống gói cái màn thầu cứng ngắt lại, lặng lẽ đi về chiếc xe ngựa duy nhất ở đội ngũ phía sau.

Chiếc xe ngựa lẻ loi cách xa dòng người lưu đày, dừng ở nơi hoang vu trống trải, trên đỉnh xe phủ một lớp tuyết trắng tinh.

Lệ Tri đứng trước xe ngựa, nhẹ nhàng gõ lên thành xe.

Trong xe ngựa không có tiếng vọng ra, rèm cửa cũng không nhúc nhích.

Ánh sáng dường như bị thứ gì đó xua đuổi, chậm rãi từ trên người Lệ Tri rút đi.

Thái dương yếu ớt vẫn còn trên đỉnh núi, nhưng bóng đen cường thế đã tràn xuống đáy cốc.

Mây mù vắt ngang bầu trời bị chia cắt bởi dãy núi màu xanh xám, ánh sáng ảm đạm không rõ rơi trên tấm mành gấm có hoa văn mai, trúc, tùng, những hoa văn kia dùng kim tuyến, ngân tuyến và những sợi tơ màu trắng nhạt, xanh lá mạ, xanh đá, lam nhạt, màu tím nhạt..v..v..tỉ mỉ dệt thành, trong ngày tối tăm đầy chết chóc này lộ ra sự suy sụp, đổ nát.

Lúc này một bàn tay thon dài, tú lệ vươn ra khỏi rèm. Màu sắc tái nhợt, giống như một tác phẩm điêu khắc bằng đá lạnh lẽo.

Năm ngón tay tái nhợt đặt lên hoa văn thúy trúc, từ từ vén mành gấm sang một bên. Gió lạnh đột nhiên thổi bay tuyết trên mặt đất, sau màn sương tuyết hiện ra một gương mặt thiếu niên giống như sinh ra từ ánh trăng.

Ánh trăng trút xuống, bông tuyết tung bay, cả người hắn như được tắm trong ánh sáng rực rỡ.

“… Lệ cô nương.”

Âm thanh thiếu niên khàn khàn giống như giọt nước nhỏ xuống từ băng tinh trên mái hiên, chỉ cần không chú ý nó sẽ tiêu tán trong khí lạnh.

Lệ Tri đưa chiếc màn thầu mà nàng đã giữ suốt một đường ra, giọng nói cao hơn bình thường một chút đã tiết lộ tâm tình của nàng lúc này.

“Một chút tâm ý, mong Điện Hạ sớm ngày khôi phục.” Nàng cười dịu dàng, đất vàng trên mặt cũng không che được ánh sáng trong mắt nàng.

Hắn không nhìn màn thầu trong tay nàng.

“… Ngươi cũng không có nhiều, giữ lại cho mình ăn đi.” Nói đến đây, thiếu niên che mặt ho lên. Cho dù đã quay đầu, nhưng Lệ Tri vẫn có thể trông thấy giữa lông mày của hắn nhíu chặt lại.

Tạ Lan Tư, con mồ côi của phế Thái Tử.

Qua nhiều ngày tiếp xúc, Lệ Tri thấy hắn rất giống với lời đồn, ngọc khiết tùng trinh (*), ôn hòa hữu lễ, có tác phong của phụ thân.

(*) ngọc khiết tùng trinh: ngọc tinh khiết kiên trì như cây tùng, ý chí không thể lay chuyển.

Nếu Thái Tử không bị phế, một thứ nữ như Lệ Tri sẽ không có cơ hội được nói chuyện với hắn.

“Điện Hạ yên tâm, dân nữ đã ăn rồi.” Lệ Tri nói dối.

Nàng đem lương khô được bọc bằng lá cây to để nhẹ lên xe ngựa, cười và thi lễ một cái, sau đó xoay người đi về chỗ của mình lúc nãy.

Tiếng ho khan trầm thấp lại vang lên lần nữa, bên trong mơ hồ mang theo một lời nói cảm tạ.

Lệ Tri đi được một đoạn, lại quay đầu nhìn xe ngựa.

Mành gấm mai trúc tùng lại được thả xuống, hoa tuyết tung bay, xe ngựa lẻ loi trơ trọi như là bị ngăn cách ở một mảnh thiên địa khác.

Rất nhiều người nói hắn không thể sống tới lúc đến Minh Nguyệt Tháp.

Hầu như là tất cả mọi người đều nói.

Họ nói, nếu không phải Tạ Lan Tư từ nhỏ đã triền miên trên giường bệnh, Hoàng Đế cũng sẽ không mở một mặt lưới để hắn trở thành huyết mạch duy nhất còn sống sót của Thái Tử sau án mưu nghịch.

Thái Tử mưu nghịch, liên lụy đến một đám đại thần, đứng mũi chịu sào chính là Trung Thư Lệnh quyền nghiêng triều dã Lệ Kiều Niên.

Hơn bốn trăm nhân khẩu của Lệ gia bị xử tử, sung quân, cách chức, trong vòng một đêm những gia tộc nhỏ vốn luôn vay quanh Lệ gia đều như khỉ tán, lo sợ bị liên lụy.

Ngoài Lệ gia lão thái thái Tăng Thị hơn sáu mươi tuổi đã sớm phân gia ở cùng chi thứ hai nên tránh được một kiếp ra, thì những người còn sống đều ở đây……Bất quá bây giờ chỉ còn lại mười mấy người mà thôi.

Từ nguyên nhân bên trên, người Lệ gia có đầy đủ lý do để hận Tạ Lan Tư, hận đến nghiến răng.

Vì không cùng mục tiêu thù hận nên Lệ Tri cũng bị người trong nhà xa lánh.

Mọi người đều không hiểu tại sao nàng lại không hận con của kẻ đã hại mình cửa nát nhà tan.

Lệ Tri cũng không cần bọn họ hiểu.

Nàng trở lại chỗ nghỉ ngơi của mình lúc trước, mọi người đã giải quyết xong phần lương khô ít đến thảm thương của mình, sau đó lại biến thành những cái xác không hồn quen thuộc, chỉ biết cuộn người lại ngẩn ra, thần sắc đau khổ và chết lặng.

Lệ Gia cũng không ngoại lệ, bọn họ ở trong gió lạnh cuộn người lại thành hình tròn, hưởng dụng vị trí trung tâm chính là chủ mẫu Lệ Gia Vương Thị và con trai trưởng Lệ Huệ Trực.

Lệ Huệ Trực nhìn thấy Lệ Tri đi rồi quay lại, khuôn mặt nhỏ nhắn nứt nẻ do bị đông lạnh hiện lên nụ cười hồn nhiên, vừa định nói gì đó với nàng thì bị Vương Thị đang ôm hắn dùng lực một cái làm cắt ngang lời nói của hắn.

Lệ Tri đã quen với loại cô lập không đau không ngứa này. Sau khi ngồi xuống, nàng lựa lúc Vương Thị không chú ý liền nhíu nhíu lông mày với Lệ Huệ Trực làm cho hắn cười rộ lên, trên con đường  lưu vong khó có khi gặp được một khuôn mặt tươi cười ngây thơ như thế này.

Màn đêm trong sơn cốc luôn đến rất nhanh, không biết từ lúc nào bầu trời đã chuyển sang màu trắng, ánh trăng buồn hắt lên đỉnh núi, ánh sáng ôn nhu kia làm cho Lệ Tri không thể nào ngủ được mà nhìn đến ngẩn ngơ.

Khi cơn gió đêm lạnh thấu xương thổi qua mặt đất, nàng không khỏi hắt hơi một cái.

Theo thói quen Lệ Tri muốn lấy chiếc khăn tay mà nàng hay mang theo bên người ra, nhưng lại phát hiện bây giờ chiếc khăn ấy không có ở trên người nàng. Nàng chưa từ bỏ ý định nên tiếp tục tìm, cuối cùng nàng mới biết có thể là nàng đã làm mất trên đường đi đến xe ngựa.

Mọi thứ trên đường lưu vong đều rất trân quý, đương nhiên nàng cũng chỉ có một chiếc khăn tay duy nhất.

Tuy rằng chiếc khăn ấy rất có thể đã bị người khác lấy mất, nhưng Lệ Tri vẫn đứng lên, quyết định men theo con đường lúc chạng vạng nàng đã đi để tìm một chút.

Nha dịch trông coi ở phụ cận lười biếng nhìn nàng một cái, hắn không ngăn nàng lại. Sáu đến tám người nha dịch, đầu đuôi trái phải vây đội ngũ lưu vong lại, chỉ cần hoạt động trong phạm vi này, vô luận là ẩu đả hay là khóc than, chỉ cần không quá đáng thì sẽ không bị ngăn cản.

Lệ Tri vừa đi về phía xe ngựa ở cuối đội ngũ, vừa mượn ánh trăng cẩn thận xem xét những khe hở trên mặt đất và sau lưng những tảng đá mà nàng đi ngang qua.

Những người lưu vong đã kiệt sức nằm bất động như đã chết trên mặt đất, mặc cho nàng đi qua đi lại.

May mắn chính là, Lệ Tri đi được nửa đường đã tìm được khăn tay, nó rơi vào khe hở của mấy tảng đá, không bị người tham lam nhìn thấy.

Nàng ngồi xuống nhặt khăn tay, rũ sạch đất cát và bụi bặm, cẩn thận đặt vào ngực mình.

Gió đêm thổi qua rừng cây xào xạc, Lệ Tri không khỏi ngẩng đầu nhìn ánh trăng sáng soi rọi, bóng đêm và ánh trăng hoán đổi vị trí. Trước mắt nàng, chiếc xe ngựa vừa nãy còn ẩn núp trong đêm đen giờ đã hiện ra thân ảnh, tấm mành gấm mai trúc tùng cuộn lên thu hút sự chú ý của Lệ Tri.

Ma xui quỷ khiến thế nào mà nàng đứng lên, tầm mắt nhìn chằm chằm vào chiếc xe ngựa.

Trăng lạnh sáng ngời, sương giăng trên đất.

Thiếu niên khôi ngô tuấn tú, màu da như ngọc, gương mặt không biểu tình đang nhìn mấy con chó hoang cắn nhau.

Giữa những chiếc răng nanh đang cắn xé đó, chính là cái màn thầu nàng đã đưa.
 
Chương 2


“Đi mau!”

Trường giải Trịnh Cung hung thần ác sát thúc giục những người lưu đày bị rớt lại phía sau. Những người đó sắc mặt trắng bệch, sức cùng lực kiệt lảo đảo cố đi nhanh hơn.

Lệ Tri đi trong đội ngũ phía sau, vì để tiết kiệm sức lực nàng cắn chặt răng, một chữ cũng không nói ra, ép bản thân mình đi lên phía trước.

Mồ hôi từ hai gò má đỏ ửng của nàng chảy xuống hòa vào cổ áo ướt đẫm, mồ hôi sau lưng cũng đã làm ướt áo lót bên trong, khi gió lạnh thổi qua, nó giống như chiếc khăn tay được vớt từ giếng nước lên dính sát vào người, Lệ Tri không khỏi rùng mình một cái.

Gió gào thét cuốn bay bông tuyết trong sơn cốc trống trãi, khi xuyên qua những cành cây trơ trọi, nó tạo ra những âm thanh như quỷ khóc sói tru.

Xe ngựa của Tạ Lan Tư đi ở cuối đội ngũ, phía trước có một gã nha dịch đánh xe, hắn vung roi ngựa để xua đuổi những người lưu vong xung quanh, bốn bánh xe lắc lư, tiếng chuông vang lên không ngừng.

Tiếng chuông đã đưa Lệ Tri trở lại đêm qua.

Tiếng gió sàn sạt, bóng cây lắc lư.

Bên dưới bầu trời vô biên, Tạ Lan Tư tóc đen dài buông lỏng, trên khuôn mặt sáng như ngọc lộ ra thần sắc lãnh đạm. Hắn lười biếng khoác hờ một chiếc áo sam màu tím khảm xà cừ đứng trong nền tuyết mịn, một sợi dây lưng bằng tơ tằm màu đỏ thẫm rũ xuống cạnh chân hắn, ánh trăng sáng khiến hắn như không nhiễm bụi trần, giống như dải ngân hà từ trên đỉnh mây chảy xuống.

Âm thanh giẫm vỡ lá khô làm Tạ Lan Tư ngẩng đầu lên.

Bốn mắt nhìn nhau, hắn nở nụ cười như không có việc gì.

Những lời mắng chửi và thúc giục của nha dịch đã khiến Lệ Tri tỉnh táo trở lại. Trên đất ánh trăng theo gió mà đi. Nỗi đau thể xác một lần nữa bừng tỉnh, cơn đói chẳng thấm vào đâu so với sự tra tấn lặn lội đường dài.

Đế giày mỏng như giấy khiến nàng cảm nhận rõ ràng từng viên sỏi dưới chân, để giảm bớt đau đớn, Lệ Tri lấy chiếc khăn tay mình vừa tìm được ra, định nhét vào đế giày.

Nàng vừa mới cúi người, thì có một tiếng thét sắc nhọn phá vỡ yên tĩnh vang lên.

“A..!”

Một gã đoản giải ôm chặt mũi tên đầm đìa máu tươi trên cổ, hai mắt trừng lớn hoảng sợ mà té xuống.

Vù vù..lại có thêm mấy mũi tên nữa bắn vào đám người, đội người lưu vong bỗng chốc đại loạn.

“Sơn tặc đến rồi! Mau chạy đi!”

Không biết là ai la lên, mọi người liền điên cuồng chạy về phía trước như đoạt mạng.

Lệ Tri bị đám người hoảng loạn đụng ngã xuống đất, chưa kịp đứng lên, thì đã bị một bàn chân to mang giày rơm rơi xuống cổ tay nàng.

Theo bản năng, Lệ Tri đưa bàn tay còn lại của mình ra cầm thật chặt cổ tay đang đeo chiếc vòng bằng vỏ sò của mình.

Bàn chân to đó rơi trúng vào mu bàn tay của nàng, đau nhói.

Lệ Tri biến sắc, cắn chặt răng không rên một tiếng.

Đợi dòng người hoảng loạn chạy về phía trước, nàng nắm lấy cơ hội đứng lên, sau khi đứng vững chuyện đầu tiên nàng làm chính là kiểm tra chiếc vòng, tuy mu bàn tay bị giẫm rách da nhưng may mắn chiếc vòng không sao.

Chuyện thứ hai, chính là nhìn về phía xe ngựa đi cuối đội ngũ.

Sơn tặc lao từ trong rừng núi ra, chúng cưỡi những con ngựa to khỏe phóng thẳng vào dòng người lưu đày, khảm đao giơ lên phát sáng lạnh lùng dưới bầu trời xám xịt. Tiếng gào thét rung trời, những tên nha dịch lười biếng bị áp đảo tuyệt đối về mặt lý chí và quân số, chỉ có thể nhếch nhác chạy thoát thân.

Chiếc xe ngựa không ai quan tâm bị vứt bỏ trên đường, Tạ Lan Tư bị mấy tên sơn tặc lôi ra khỏi xe ngựa, ép hắn leo lên lưng một con hắc mã, trong nháy mắt liền chạy sâu vào trong rừng.

Sau khi Tạ Lan Tư bị sơn tặc bắt đi, một gã giống như thủ lĩnh đã huýt sáo triệu tập đồng bọn rút lui.

Chỉ trong thời gian uống cạn tách trà, Tạ Lan Tư và những tên sơn tặc đã biến mất trong rừng, chỉ còn lại đám người lưu đày và những tên nha dịch sợ hãi nhìn nhau.

“Trước tiên mọi người di chuyển đến nơi an toàn đi!”

Một gã áp giải đường dài tên Chân Điều có vài phần chủ kiến hét lên.

Mọi người hoang mang lo sợ đi theo chỉ thị của hắn. Gấp gáp đi được một đoạn mới dừng lại ở một khoảng đất trống được bao bọc bởi vách núi.

Lúc này, đám nha dịch mới nhớ đến việc kiểm kê nhân số. Trải qua một trận tai vạ vừa rồi, người lưu đày ít đi mười chín người.

Đừng nói là ít đi mười chín người, cho dù là số người mất nhiều hơn mười chín người cũng không phải chuyện gì lớn. Nhưng trong mười chín người bị mất đó lại có cả đứa con của phế Thái Tử, đây mới đúng là chuyện lớn mất đầu. Đám nha dịch ngươi nhìn ta, ta nhìn ngươi, trên mặt mỗi người đều tràn đầy lo lắng.

Lệ Tri lo cho Tạ Lan Tư hơn bọn hắn rất nhiều. Nàng lợi dụng lúc hỗn loạn vừa qua, mọi người đang chen chúc với nhau liền lặng lẽ đến gần đám nha dịch đang thương lượng đối sách.

“Sơn tặc bây giờ tại sao lại to gan như vậy, ngay cả đội ngũ của quan sai cũng dám tập kích?”

“Bọn chúng rõ ràng đến vì đứa con của phế Thái Tử, chúng ta có nên bẩm báo với cấp trên không?”

“Phí lời! Chuyện này còn cần ngươi nhắc à?”

Trịnh Cung quát mắng tên đoản giải mà một thành trì trước đó phái tới xong, hắn quay đầu nhìn Chân Điều, cũng là trường giải giống hắn:

“Chân huynh, huynh hiểu biết sâu rộng, huynh nói xem…bây giờ chúng ta phải làm sao?”

Chân Điều có chút xuất thần, vẻ mặt bất định. Nghe Trịnh Cung kêu, hắn liền hồi thần nhưng vẻ mặt vẫn lộ chút do dự.

Đám nha dịch đều không hiểu nhìn hắn.

Lát sau, Chân Điều định thần nói: “Chúng ta đã đi hơn phân nửa hành trình rồi, lúc này mà quay về sẽ tiêu phí nhiều thời gian hơn. Không bằng để một người nhanh chân ra roi thúc ngựa sáu mươi dặm, chạy đến Trọng Thành báo cáo cho huyện lệnh việc này, sau đó điều binh doanh đến cứu.”

Đám nha dịch không có chủ ý nào tốt hơn nên đồng ý làm theo lời của Chân Điều.

Trịnh Cung mang theo hai gã áp giải đường ngắn tháo ngựa trên chiếc xe bị vứt bỏ lúc trước ra. Lệ Tri cau mày nhanh chóng suy nghĩ.

Sáu mươi dặm ra roi thúc ngựa, đã vậy còn phải báo huyện lệnh điều binh khiển tướng, vừa đi vừa về ít nhất phải mất một đêm. Nếu là kẻ thù chính trị của phế Thái Tử muốn nhổ cỏ tận gốc, thì thời gian cả đêm đủ cho Tạ Lan Tư chết một nghìn lần.

Biến số quá nhiều, nàng không thể khoanh tay đứng nhìn.

Con đường lưu đày hoang tàn vắng vẻ, cho dù có chạy trốn thành công, cuối cùng cũng sẽ rơi vào miệng cọp hoặc là bị lạc đường chết đói. Hơn nữa phần lớn tội nhân lưu đày đều mang trên người cùm gỗ rất nặng, bọn nha dịch căn bản không cần lo lắng những lưu nhân này tự ý chạy trốn.

Chờ những tên lính gác bận bỏ ngựa ra khỏi xe, lơ là với những chuyện khác, Lệ Tri lặng lẽ đi vào trong rừng.

Vốn dĩ có thể hành động một cách thần không biết quỷ không hay, nhưng Lệ Tri lại bị muội muội cùng cha khác mẹ của mình là Lệ Hương nhìn thấy. Nàng ấy không tin nổi mà trừng lớn hai mắt, buột miệng nói ra:

“Ngươi muốn làm gì?!”

Vô số ánh mắt nhìn về phía Lệ Tri, trước khi bị đám nha dịch ngăn lại, Lệ Tri đã nhanh chân chạy vào trong rừng.

“Đứng lại!” Trịnh Cung tức giận đuổi theo.

Nếu bị bắt lại, không những không cứu được Tạ Lan Tư mà mình còn bị mất mạng. Lệ Tri dùng hết sức bình sinh của mình để chạy. Không biết qua bao lâu, nàng mới nhận ra chỉ còn một mình nàng trong rừng.

Lệ Tri dừng bước thở dốc. Nàng nhìn xung quanh, tìm được hướng mặt trời lặn, dựa theo phương pháp trong cuốn du ký mà nàng đã đọc trước đây để phân biệt Đông Nam Tây Bắc.

Tìm được phương hướng thì con đường muốn đi sẽ dễ tìm hơn.

Lệ Tri phải mất thời gian gần một nén nhan mới đi ra khỏi khu rừng. Vừa nhìn thấy ánh sáng, thì trước mắt nàng đã hiện lên một mảnh đất trống đầy thi thể chưa được dọn dẹp, cứ phơi thây nơi hoang dã như vậy, chờ đợi dã thú đến thăm.

Nàng dựa theo hướng sơn tặc biến mất, không chút do dự, một lần nữa bước vào rừng cây rậm rạp.

Nơi vó ngựa đi qua chắc chắn sẽ để lại dấu vết, nhất là một đại đội nhân mã lớn như vậy. Lệ Tri dễ dàng đi theo dấu chân ngựa tìm được đại bản doanh của bọn chúng.

Sơn trại tọa lạc ở đỉnh núi, tường trại dựa vào vách núi, cửa lớn đóng chặt. Trên tháp canh đơn sơ có hai tên sơn tặc đang ngồi canh gác.

Lệ Tri nhờ rừng núi để ẩn núp, quan sát được đại khái hoàn cảnh sơn trại, nàng nhìn thấy tường trại thấp nhất cũng là hai mươi thước, không thể nào leo tường trà trộn vào trong được.

Nếu như không thể trà trộn vào, vậy chỉ có thể để sơn tặc tự đưa nàng vào.

Lệ Tri nhìn tuyết trắng trên mặt đất, quyết định đánh cuộc một lần.

*******

“Cái gì? Có một nữ nhân muốn tìm nơi nương tựa ở sơn trại chúng ta?”

Trên chiếc ghế bành khoác da sói, đại đương gia của sơn trại với thân hình cường tráng híp mắt nhìn tên tiểu đệ đang hồi báo phía dưới.

“Nữ….. Mười bốn mười lăm tuổi, nàng nói mình là một trong những người lưu đày bị áp giải lần này, nhờ chúng ta mà nàng có cơ hội trốn thoát.” Tiểu đệ giải thích nói: “Huynh đệ canh cổng không biết xử trí như thế nào nên mới đặc biệt đến đây bẩm báo với mấy vị đương gia.”

“Chuyện này có gì mà khó xử trí?” Nhị đương gia với mái tóc dài rối tung nói: “Nếu là nữ thì cứ đưa tới tường rào, xếp chung với những nữ nhân chúng ta bắt được ấy. Các huynh đệ trong tường rào chẳng lẽ còn sợ nhiều nữ nhân sao?”

Nhị đương gia và Đại đương gia trao đổi với nhau một ánh mắt dâm tà, hai người ăn ý mà cười ha hả.

“Nhưng mà…nhưng mà…. Mấy vị đương gia vẫn nên nhìn người trước rồi hãy nói sau đi!”

“Nữ nhân này có gì hiếm lạ à?” Đại đương gia nổi lên hứng thú: “Nếu vậy, cứ cho nàng đi vào đây, ba huynh đệ chúng ta sẽ tự mình nhìn thử!”

Tiểu đệ lĩnh mệnh đi ra.

Một lát sau, tiểu đệ lại một lần nữa bước vào bậc cửa Quần Anh Sảnh.

“Vào đi, đương gia của chúng ta muốn gặp ngươi!” Tiểu đệ đứng bên ngoài cửa hô.

Trên ghế bành, ba vị đương gia không hẹn mà cùng nhìn ra cửa.

Trong khung cửa vuông vức, những hạt bụi nhỏ li ti bay trong ánh hoàng hôn rực rỡ, một thiếu nữ mặc tố y cúi đầu bước qua ngưỡng cửa, tựa như một bông tuyết lạc đường.

Ánh mắt ba vị đương gia đều đặt trên người thiếu nữ. Sự khinh thường trước kia bất tri bất giác biến mất không còn lại gì.

“Ngươi ngẩng đầu lên.” Đại đương gia trầm giọng lên tiếng.

Giống như chần chừ, lại giống như khiếp nhược, Đại đương gia lên tiếng được một lúc, thiếu nữ mới từ từ ngẩng đầu lên.

Đó là một đôi mắt sáng ngời với đôi mày tinh tế như được vẽ trên giấy trắng, một bông tuyết đọng lại trên lông mi dài của nàng, chớp lên chớp xuống, như muốn xát vào lòng ba người.

Yết hầu Đại đương gia giật giật, vừa muốn nói chuyện…..

“Ta muốn nàng.”

Âm thanh thô lỗ phát ra từ vị Tam đương gia từ nãy đến giờ chưa mở miệng. Thân thể hắn cao lớn ngồi trên ghế, giống như một bãi dầu mỡ được bao bọc trong ruột dê.

“Khục….” Đại đương gia hắng giọng, đè xuống những tham niệm trong đầu. “Nếu như Tam đệ ưa thích, làm ca ca đương nhiên sẽ ủng hộ rồi. Ngươi… Ngươi tên gì?”

Lệ Tri một lần nữa rũ mắt xuống, nói khẽ:

“Nô tên Lý Hạ.”

Đại đương gia rất hài lòng với thái độ khom lưng uốn gối của Lệ Tri, ôn hòa nói: “Ta hỏi ngươi, ngươi có nguyện ý làm phu nhân của Tam đệ ta không?”

Lệ Tri nhìn về miếng thịt mỡ ngồi chỏng chơ trên ghế.

“Ba huynh đệ chúng ta là ba huynh đệ ruột thịt, vì bị quan phủ áp bức nên bất đắc dĩ mà vào rừng làm cướp.” Đại đương gia nói: “Nếu như ngươi nguyện ý theo Tam đệ ta, thì sau này, chúng ta chính là người một nhà. Mặc dù không có vinh hoa phú quý, nhưng có thể ăn ngon mặc đẹp, so với người phải lang thang bên ngoài thì tốt hơn gấp trăm lần.”

“….Đương nhiên nguyện ý.” Lệ Tri nói.

“Tốt!” Đại đương gia vui mừng vỗ đùi một cái: “Chọn ngày không bằng gặp ngày, tối nay ta sẽ làm chủ hôn cho các ngươi!”
 
Chương 3


Với tư cách là phu nhân tương lai của Tam đương gia, Lệ Tri được tiếp đãi bằng những món ăn ngon.

Nói cho cùng thì bọn hắn chưa từng thấy nữ nhân nào chủ động đến sơn trại để tìm nơi nương tựa. Mặc dù sự an toàn của Lệ Tri không bị đe dọa, nhưng nàng vẫn bị giam giữ trong một căn phòng ngủ nhỏ hẹp. Trước khi thành hôn, nếu không có sự đồng ý của các đương gia, nàng sẽ không được tự do ra vào.

Lệ Tri đã từng lấy cớ đi nhà xí để ra ngoài một lần, nàng thấy ở mỗi cửa sổ đều có một tên tiểu tặc canh chừng, ra đến cửa viện cũng có người đi lại khắp nơi, gần như không thể lén lút trốn thoát mà không bị phát hiện.

Cũng may, lúc Lệ Tri nghĩ biện pháp để ra ngoài thì cũng có người nghĩ biện pháp để vào trong.

Một nữ nhân trẻ đã dùng thế ép người bắt tên tiểu tặc trông coi Lệ Tri mở cửa ra, nàng ta hùng hổ xông vào phòng, và dùng những lời nói cay nghiệt chửi mắng Lệ Tri. Nàng ta chửi rất nhiều, nhưng khi Lệ Tri tổng kết lại thì chỉ có một ý nghĩa là:

“Ngươi nên an phận làm nữ nhân của tên mập chết bằm Tam đương gia kia đi, đừng có nghĩ đến Đại đương gia của ta, nếu không, lão nương sẽ cào rách mặt ngươi.”

Nếu là bình thường, Lệ Tri sẽ không so đo với nữ nhân này.

Nữ nhân của đạo tặc, có mấy người là tự nguyện? Chỉ vì không thể không tiếp nhận sự thật, không thể không quên đi lai lịch bị cướp bóc của mình. Mặc dù đối phương tràn ngập địch ý với nàng, nhưng Lệ Tri lại thấy rất đồng tình với nàng ta.

Chỉ tiếc, vì mục đích của mình, nàng không thể không tiến thêm một bước là chọc giận nữ nhân này.

Con người dưới tình huống không lý trí chắc chắn sẽ nói ra sự thật.

Muốn chọc giận người này thật sự quá dễ dàng, cho dù Lệ Tri có nhỏ tuổi hơn nàng ta nhiều đi nữa thì Lệ Tri vẫn tìm được nhược điểm của nàng ta.

Với tư cách là một trong những phu nhân tương lai của Tam đương gia, để giữ thể diện cho mấy vị đương gia, an bài trong phòng nàng không chỉ ấm áp dễ chịu mà đồ dùng cũng vô cùng xa xỉ, vừa nhìn là biết đây chính là hàng hóa trân quý mà bọn hắn cướp được.

Lệ Tri chỉ dùng ánh mắt đảo qua những đồ vật này một lần, sau đó e thẹn nói:

“Ngươi nói những điều này đều không quan trọng, quan trọng là mấy vị đương gia đều thích….nếu không, cũng sẽ không mời ta làm phu nhân của Tam đương gia.”

Sau đó….chuyện sau đó thì không cần phải nói, hầu như đều là một mình nữ nhân kia đơn phương chế giễu và chửi nàng.

Từ trong lời nói của người này, Lệ Tri biết được, còn có một người khách quý mới đến được thu xếp ở phòng khách phía tây, đãi ngộ tốt hơn nàng gấp nghìn lần. Nghe Đại đương gia nói, đó là quý nhân trong Kinh, rất đáng giá.

Lấy được tin tức mong muốn, Lệ Tri không cần phải nhiều lời nữa. Mặc kệ nữ nhân này khiêu khích cái gì, nàng đều không thèm cãi lại. Đối phương tuy rằng kinh ngạc khi thấy nàng thay đổi thái độ, nhưng không tìm được cớ để phát tác, cuối cùng đành phải hậm hực mà rời đi.

Không lâu sau, hôn lễ bắt đầu được chuẩn bị. Nói là hôn lễ, không bằng nói là động phòng thì đúng hơn.

Có vài người nhìn giống như là thôn nữ trong trại đi vào phòng, thuần thục trang trí nến đỏ và chữ hỉ. Chiếc giường được hai thôn nữ sửa sang lại trông rực rỡ hẳn lên, chăn uyên ương bằng gấm đỏ tươi, gối hồng thêu hoa mẫu đơn. Một thôn nữ hầu hạ nàng thay hỉ phục, một người khác thì bưng một chiếc đĩa vuông rắc long nhãn và đậu phộng vào chăn gấm.

“Ta rất sợ tối, ngươi có thể chuẩn bị thêm nến cho ta được không?” Lệ Tri thỉnh cầu với thôn nữ trước mặt.

Khuôn mặt đặc biệt được rửa bằng nước tuyết của Lệ Tri cho thấy địa vị sau này của nàng trong trại, thôn nữ không muốn đắc tội với nàng, sảng khoái đáp ứng.

Màn đêm rất nhanh đã đến.

Tam đương gia nồng nặc mùi rượu đẩy cửa bước vào.

Nến đỏ chập chờn, mỹ nhân mới có được quy cũ ngồi ở giữa giường, dưới chiếc khăn trùm đầu màu đỏ, hắn có thể tưởng tượng được khuôn mặt chói lóa của nàng.

Thân hình to lớn nên hắn hành động bất tiện, cộng thêm cái bụng đầy rượu khiến hắn thở hổn hển, lảo đảo đi đến trước giường.

Tam đương gia xoa những ngón tay đã khô nóng lên người mình rồi mới vén chiếc khăn trùm đầu đỏ thẩm lên.

Từ lúc sinh ra đến giờ, hắn chưa từng thấy người nào xinh đẹp đến rung động lòng người như thế này.

Hắn muốn nàng, dù là lên núi đao xuống biển lửa cũng muốn chiếm hữu nàng. Nếu như nàng có thể cười với hắn, thì cho dù kêu hắn làm chậu vàng cho nàng rửa tay hắn cũng nguyện ý.

“Nàng…nàng đừng sợ.” Ngay cả tiếng nói và hơi thở phun ra từ bờ môi to dày của hắn cũng đầy mùi rượu. “Ta sẽ đối tốt với nàng.”

Nữ tử bên cạnh hắn đều coi thường vẻ ngoài của hắn, những nữ nhân bị hắn chiếm đoạt luôn khóc lóc thảm thiết.

Mà nàng….

Thiếu nữ trước mắt, mím môi nở nụ cười với hắn.

Tam đương gia giống như nghe được tiếng chuông chùa, đinh tai nhức óc nhưng cứ vang vọng mãi trong ngực.

Hắn không thể kìm được, thô bạo đẩy ngã thiếu nữ.

Đêm, còn rất dài.

“Các ngươi có nghe thấy tiếng gì không?” Đại đương gia buông chén rượu xuống, hồ nghi nhìn ra ngoài cửa sổ.

Nhị đương gia nhìn theo tầm mắt của hắn, ngoài cửa vẫn trời yên biển lặng như cũ.

“Không nghe thấy gì, không phải huynh đã uống say rồi chứ?” Nhị đương gia cười trêu chọc.

Đại đương gia cũng nghi là mình uống say rồi, nhưng khi hắn hít mũi một cái, sắc mặt lập tức ngưng trọng:

“Không đúng! Ngươi ngửi thử…..tại sao lại có mùi thịt nướng?”

Nhị đương gia cũng đã ngửi thấy mùi thịt nướng, hắn cười nói: “Lòng nghi ngờ của ca ca quá nặng, nhất định là phòng bếp đang nướng heo, nếu không….”

Còn chưa nói xong, một tên tiểu tặc vội vàng vọt vào.

“Không, không tốt rồi!” Hắn lắp bắp nói: “Hai vị đương gia…không tốt! Bên ngoài cháy rất lớn! Viện phương Bắc bị cháy rồi!”

“Viện phương Bắc? Đây không phải là nơi ở của tam đệ sao?” Nhị đương gia chấn động.

“Nhanh kêu người đi cứu hỏa!” Đại đương gia sắc mặt khó coi đứng lên. “Nhị đệ, mang người đi theo ta!”

……..

Lửa lớn nuốt chửng màn đêm, chỗ đỏ chỗ đen giống như một tờ giấy Tuyên Thành bị đốt cháy, hỏa tinh hủy diệt phảng phất như đang nhảy múa.

Tiếng bước chân ầm ĩ không ngừng chạy về một phương hướng, tiếng la cứu hoả vang lên liên tiếp, có gió đông phù hộ, cuối cùng ngay cả tên tiểu tặc phụ trách trông coi phòng khách phía tây cũng gia nhập cứu hoả.

Đợi bốn phía không có một bóng người, Lệ Tri lập tức đi về hướng phòng khách, gỡ cái chốt cửa ném xuống đất.

Bên trong cánh cửa chỉ có một người, người mà dù cho nàng phải trải qua muôn vàn khó khăn cũng muốn bảo vệ.

Sao Lệ Tri lại xuất hiện ở nơi này, hơn nữa còn mặc một bộ hỉ phục đỏ thấm? Đây là điều mà cho dù nhà thông thái có  thần cơ diệu toán đến đâu cũng không đoán ra được.

Lệ Tri không đợi Tạ Lan Tư sửng sốt xong, nàng nắm lấy bàn tay lạnh buốt của hắn, chạy ra khỏi phòng không thèm nhìn lại.

Không khí lạnh, nhưng trong gió đêm thổi tới lại có khí tức nóng rực.

Tay Tạ Lan Tư giật giật, giống như muốn rút ra, Lệ Tri càng thêm dùng sức mà nắm chặt hắn.

“Các ngươi qua bên kia nhìn xem! Nhất định phải tìm được nữ nhân kia, ta muốn xé nàng ta ra thành từng mảnh!”

Tiếng nói nghiến răng nghiến lợi của Đại đương gia xa xa truyền đến, kèm theo là những tiếng bước chân mất trật tự chạy về phía tây viện.

Từ tây viện đi ra chỉ có một con đường, nếu không quay lại thì sớm muộn gì cũng gặp bọn cướp.

Tạ Lan Tư không khỏi nhìn về phía Lệ Tri, trên mặt nàng không có hút hỗn loạn nào, bước chân nàng cũng không chần chừ. Tạ Lan Tư rất tò mò hành động tiếp theo của nàng nên hắn mặc kệ nàng dẫn mình chạy trốn.

Tiếng bước chân đã gần trong gang tấc, chỉ sợ chỗ rẽ kế tiếp sẽ gặp phải.

Trước chỗ đó… Lệ Tri vươn người….nhảy.

Tạ Lan Tư mở to hai mắt, nhảy theo nàng xuống hồ sen.

Nước ao tràn vào hai lỗ tai, thế giới bỗng nhiên yên tĩnh.

Lá sen trong hồ đã héo rũ nhưng màu xanh của lá sen vẫn còn trong sóng nước. Tay áo màu tím chứa đầy nước, giống như một con chim nhạn đang bay múa. Dây lưng lụa màu đỏ thẩm bên hông hắn nhẹ nhàng đong đưa trước khuôn mặt tinh khiết của thiếu nữ.

Trên nền hỉ phục màu đỏ, gương mặt đó như hải đường say nắng, dưới ánh trăng phản chiếu, mơ hồ hiện lên một vầng hào quang.

Sự quấy nhiễu của nước làm năm giác quan bị che lấp, khoảnh khắc bốn mắt chạm nhau tưởng như rất ngắn nhưng dường như cũng rất dài, dài đến mức trên mặt thiếu nữ hiện lên vẻ nghi ngờ, sau đó, nắm lấy hai cánh tay của hắn nhích lại gần.

Hắn không rõ nàng muốn làm gì, cho đến kho đôi môi mềm mại của nàng áp vào hắn, từ từ chuyền không khí cho hắn.

Thiếu nữ vừa độ khí, vừa dùng ánh mắt trấn an hắn.

Hắn có thể đếm rõ mỗi một sợi lông mi của nàng, cũng có thể thấy rõ hình bóng duy nhất trong mắt nàng.

Hắn nhìn thấy chính mình kinh ngạc.

Tạ Lan Tư chợt bừng tỉnh, đang muốn giãy giụa thoát khỏi trói buộc của Lệ Tri, trên bờ lại truyền đến tiếng bước chân tìm kiếm.

Hắn không thể không an tĩnh lại.

Đối với hắn, dưới nước không có gì đáng sợ, hắn đã từng bơi hàng nghìn lần, bơi qua đáy hồ tối tăm, xuyên qua đám cỏ nước rối rắm, và đặt chân lên một vùng đất khác.

Chiếc lá sen vàng héo rũ trên đầu, giống như hồ điệp đang rơi.

Hồ điệp lốm đốm, lác đác trên đầu hai người. Mặt nước gợn sóng như dải ngân hà, và đôi mắt thiếu nữ, làm cho hắn nghĩ đến bầu trời rực cháy đêm nay.

Hắn là con cưng của trời, đó chỉ là trí tưởng tượng của đám ngu dân.

Mẫu thân của hắn là Thôi Quốc Công Chúa, còn phụ thân hắn là con trai của quốc tặc soán ngôi Thôi Quốc. Hắn không phải là người của tiền triều, cũng không phải là người của tân triều. Vì ân oán của hai triều đại, cha mẹ hắn không có tình cảm, trái lại, mối quan hệ ghẻ lạnh của họ cất giấu hận thù sâu đậm.

Khi còn bé, hắn có một con hãn huyết bảo mã. Đó là lễ vật duy nhất hắn được nhận từ trong tay phụ thân.

Có người nói, vì con ngựa đó do Thái Tử tặng nên hắn yêu thương vô cùng.

Thật ra cũng không phải vậy, là ai tặng cũng không quan trọng, hắn chỉ đơn thuần là thích con ngựa đó.

Đến giờ, hắn vẫn nhớ rõ con ngựa ấy được đặt tên là Kinh Lôi, nhớ rõ lúc nó cúi đầu, dịu dàng ngoan ngoãn liếm bàn tay của hắn, trong đôi mắt tròn đen láy và ẩm ướt có hình bóng nhỏ bé của hắn.

Về sau, vì con ngựa đó không nghe mệnh lệnh của thứ đệ nên bị thứ đệ loạn tiễn bắn chết.

Hắn đứng bên cạnh thi thể của Kinh Lôi nhìn thật lâu, trong tiếng cười ha ha của thứ đệ quay người rời đi, thậm chí không kêu người chôn cất thi thể Kinh Lôi.

Không tới mấy ngày, thứ đệ được phát hiện trong hồ non bộ ở Đông Cung.

Sóng trong hồ chưa bao giờ tĩnh lặng, cá chép diễm lệ nhẹ mổ bóng người khổng lồ trên mặt nước, dưới ánh mặt trời thiêu đốt sắc mặt phụ thân tái nhợt như tờ giấy trắng. Sau thứ đệ, Đông cung không ngừng có người gặp chuyện không may, bọn nô tỳ đều cho là bị tà ma nguyền rủa.

Phụ thân lấy cớ thân thể hắn yếu ớt nhiều bệnh nên giam lỏng hắn ở Hồ Tâm Lâu trong Đông Cung.

Mẫu thân không đành lòng hắn sống một mình, xin được đi cùng, hai người cứ thế sống nương tựa vào nhau ở Hồ Tâm Lâu, cho đến khi chỉ còn hắn cô độc một mình.

Sao trời đổi dời, thời gian thấm thoát. Hết thảy đều nghiêng trời lệch đất.

Hắn ngồi trên xe ngựa lưu vong, đi khỏi Hồ Tâm Lâu……

Nghênh đón tân sinh.
 
Chương 4


Phương Đông trắng xóa, đại hỏa đã tàn.

Phảng phất như trời cao nghe được lời khẩn cầu của Lệ Tri, tiếng chuông báo động của tháp canh từ xa vang lên, tiếng chuông xuyên qua toàn bộ sơn trại.

Trọng Thành binh được trang bị vũ khí tiêu chuẩn của Đại Yến phút chốc đánh vào sơn trại, đám người đang hùng hổ tìm Lệ Tri và Tạ Lan Tư biến thành chó nhà có tang, chỉ có thể vùi đầu chạy thục mạng.

Lệ Tri đang muốn cầu mấy tên Trọng Thành binh cứu giúp, tay chỉ vừa giơ lên khỏi mặt nước đã bị Tạ Lan Tư kéo ngược vào trong ao.

Đám Trọng Thành binh nghe thấy tiếng vang, quay đầu lại, vẻ mặt đề phòng xem xét xung quanh.

Thân thể Tạ Lan Tư vùi thật thấp, chỉ có một đôi mắt không gợn sóng lộ lên mặt nước, Lệ Tri bị thái độ dị thường của hắn ảnh hưởng, cũng giấu thật kỹ thân thể của mình vào nước.

Giờ khắc chuyển giao ngày và đêm, bầu trời tối tăm, sương lạnh bồng bênh trên mặt nước khiến ao sen càng thêm mờ ảo. Trọng Thành binh không phát hiện hai người trốn dưới nước, đúng lúc Lệ Tri đang định thả lỏng một chút, thì một tên lính đột nhiên hét vào viện nhỏ trước mặt:

“Ai?!”

Hai tên lính khác liền xông lên, đuổi gia quyến của Đại đương gia ra khỏi viện.

Mấy nữ nhân và tiểu hài tử run rẩy ngồi xuống cùng nhau, vẻ mặt sợ hãi mà nhìn binh khí trong tay đám binh lính.

“Ta, ta biết các ngươi đang tìm ai……” Nữ nhân trẻ đã từng cãi nhau với Lệ Tri nói.

Nàng ta còn chưa dứt lời thì một nhát đao đã giáng xuống khuôn mặt xinh đẹp của nàng ta.

Đi cùng với những tiếng thét chói tai là hình ảnh nữ nhân trẻ kia té xuống, chết không nhắm mắt. Lệ Tri trong ao nước không thể tin mà nhìn một màn này.

Trọng Thành binh xách cổ một gã thiếu niên đang mặc cẩm y lên, nói với một tên lính khác:

“Giống không?”

Người sau cũng khó mà đưa ra quyết định, phất tay nói: “Giết rồi hãy nói.”

Một đao đi xuống, thiếu niên mười lăm, mười sáu tuổi đã rơi đầu. Trọng Thành binh nhặt đầu của cậu bé lên buộc bên hông như một chiến lợi phẩm.

Lệ Tri bỗng nhiên hiểu ra tại sao vừa rồi Tạ Lan Tư lại ngăn nàng lại…..những người này, đến đây là để mượn đao giết người.

Sau đó, có một số tên Trọng Thành binh đi qua hồ sen, không cần Tạ Lan Tư nhắc nhở, Lệ Tri đã nín thở và lặng xuống.

Nếu muốn thoát khỏi sơn trại, chỉ có thể dựa vào chính mình rồi.

Lệ Tri đang nghĩ cách để thoát khỏi đây, thì thấy Đại đương gia toàn thân đẫm máu xuất hiện ở cuối con đường, khi hắn nhìn thấy thi thể gia đình mình nằm ngổn ngang trong sân, đôi mắt hắn như muốn nhỏ máu.

Đại đương gia lảo đảo đi về phía trước, ôm lấy thi thể của nhi tử, hét lên một tiếng thống khổ.

Những tên Trọng Thành binh đang kiểm tra rải rác xung quanh ao sen bị tiếng hét này thu hút, bọn chúng bao vây Đại đương gia thành ba tầng trong, ba tầng ngoài.

“Nói! Là ai kêu các ngươi bắt Hoàng Tôn đi?” Một tên dẫn đầu Trọng Thành binh quát.

Đôi mắt của Đại đương gia sung huyết, bình tĩnh nhìn cái đầu của thiếu niên đang treo bên hông một tên Trọng Thành binh. Có thể đoán được, kế tiếp là một trận huyết chiến đẫm máu với một cái kết đã được định trước.

Biết rằng Đại đương gia không phải người tốt lành gì, nhưng khi chứng kiến kết cục hôm nay của hắn, Lệ Tri vẫn không nhịn được mà thổn thức.

Lúc này, nàng phát hiện Tạ Lan Tư đã không còn bên cạnh nữa.

Thời điểm Trọng Thành binh bị Đại đương gia thu hút sự chú ý, hắn đã lặng lẽ bơi sang bờ bên kia của ao sen. Lệ Tri vội vàng đi theo.

Kỹ năng bơi của nàng không tốt, cũng may hồ sen nước cạn, hai chân nàng có thể giẫm lên đất để đi. Lệ Tri nửa bơi nửa đi, cuối cùng cũng lên được bờ.

Tạ Lan Tư dường như đã quên mất sự tồn tại của nàng, một mình đi về phía trước. Hắn dùng tay áo đã ướt sũng của mình che mũi và miệng, kiềm nén tiếng ho.

“Điện Hạ, để ta dìu ngài đi.” Lệ Tri chủ động nói.

Tạ Lan Tư vẫn còn ho, cũng không ngẩng đầu lên mà khoát tay với nàng.

Lệ Tri không buồn, nàng biết, chỉ là một lần cứu mạng, còn chưa đủ để đả động đến Tạ Lan Tư, một người sau khi lâm vào cảnh khó khăn thì lại như sắp lọt vào nơi thâm cốc.

Hỉ phục do sơn tặc chuẩn bị đã thấm nước trong ao, nặng trĩu trên người Lệ Tri, không cần nói có thoải mái hay không, y phục này đi đến đâu cũng sẽ bị người ta chú ý. Trên đường Lệ Tri tùy tiện tìm một thi thể nữ xem như sạch sẽ, sau khi xin lỗi xong, thì nàng cởi áo vải của thi thể đó ra rồi thay cho hỉ phục trên người nàng.

Thay xong y phục, nàng nhanh chóng đuổi theo Tạ Lan Tư đã sắp khuất dạng. Hắn đã ngừng ho nhưng sắc mặt vẫn tái nhợt.

“Ngài muốn chạy trốn à?” Nàng hỏi.

Tạ Lan Tư không quay đầu lại.

“Ta có thể giúp ngài.” Lệ Tri giương giọng.

Cuối cùng, Tạ Lan Tư quay đầu lại, cho nàng ánh mắt đầu tiên khi trời sáng.

“Không phải chúng ta đã trốn rồi sao?”

Trên khuôn mặt suy yếu của thiếu niên lộ ra một nụ cười, dường như hắn cảm thấy nghi hoặc với đề nghị của nàng.

“Ý của ta là……không đi Minh Nguyệt Tháp. Ngài muốn đi nơi nào, ta sẽ giúp ngài.”

“Ta muốn hồi Kinh, ngươi có thể giúp ta sao?”

“Có thể.” Lệ Tri trả lời không chút do dự.

Tạ Lan Tư nghe vậy nở nụ cười, những giọt nước long lanh đọng trên hàng mi dài của hắn. Mặc dù xiêm y đã ướt, trên búi tóc còn vương một mảnh lá sen khô nát, nhưng khí chất trên người thiếu niên vẫn không chê vào đâu được.

“Lệ cô nương, ta nói đùa.” Hắn ôn nhu nói.

……

Ngọn lửa lại bắt đầu, ngọn lửa màu cam thay mặt trời nhuộm đỏ cả bầu trời.

Sơn trại cao ngất hóa thành liệt hỏa hừng hực sau lưng hai người.

Là Trọng Thành binh hay là người trong sơn trại đốt lửa? Chuyện này không còn quan trọng nữa. Giờ đây Lệ Tri đã hiểu, địch nhân mà Tạ Lan Tư phải đối mặt không phải chỉ có mỗi tội danh bị lưu đày.

Thân thể Tạ Lan Tư yếu ớt, lại ngâm mình trong ao sen cả đêm nên hắn ho suốt một quãng đường. Lệ Tri lo lắng chỉ trong chớp mắt hắn sẽ bỗng nhiên ngã xuống trước mặt nàng.

Con đường xuống núi đóng băng vừa dốc vừa trơn trượt, vì Lệ Tri lo lắng cho Tạ Lan Tư, nên ánh mắt nàng luôn dán trên người hắn. Lúc hắn lảo đảo một cái, nàng đã nhanh chóng đỡ hắn từ phía sau.

“Để ta dìu Điện Hạ đi, như vậy sẽ nhanh hơn.” Lệ Tri nói: “Ta biết đường để về đội ngũ.”

Nửa câu sau của Lệ Tri đã khiến cánh tay đang giãy giụa cố thoát khỏi tay nàng an tĩnh lại.

Tạ Lan Tư nhìn nàng, dường như muốn nói điều gì đó, nhưng cuối cùng lại im lặng.

Đường trở về rất thuận lợi, Lệ Tri thuận tay nắm một chút bùn đất bôi lên mặt. Lúc mặt trời lên cao hai người cuối cùng cũng nhìn thấy cờ xí của đội ngũ lưu đày.

Khi Chân Điều nhìn thấy Tạ Lan Tư lông tóc an toàn, hắn vừa cảm thấy khó tin, vừa cảm thấy có chút may mắn. Hoàng Tôn tìm được đường sống trong chỗ chết rất nhanh được mời vào xe ngựa. Còn Lệ Tri…… Bởi vì tự tiện rời khỏi đội ngũ nên bị phạt ba mươi roi.

Thời điểm quyết định đi theo Tạ Lan Tư trở lại đội ngũ, nàng đã chuẩn bị tốt tâm lý bị phạt.

Ba mươi roi mà thôi, nàng sẽ không bởi vậy mà gục ngã.

“Ba…!”

Trịnh Cung giơ roi ngựa lên, nặng nề đánh lên lưng Lệ Tri đang nằm sấp dưới đất.

Lệ Tri cắn chặt hàm răng, không rên một tiếng.

Người Lệ Gia vì ngại mất mặt nên đã lẫn đi thật xa, sợ người ta biết người đang bị phạt chính là nữ nhi của Lệ Gia. Nhưng thứ muội Lệ Hương của Lệ Tri lại lách vào trong đám người vây xem, khuôn mặt nhăn như tờ giấy bị phơi khô sau khi thấm nước.

Mỗi lần roi giáng xuống, là sau lưng truyền đến cơn đau kịch liệt như da tróc thịt bong. Đau đến mức tận cùng, sự khuất nhục khi bị đánh trước công chúng chẳng là gì.

“Xem ra xương cốt ngươi rất cứng nha, nếu ngươi có thể nhịn đến cuối cùng không rên tiếng nào thì lát nữa ta sẽ cho ngươi thêm một cái màn thầu.” Trịnh Cung cười nói.

So với nỗi đau và sự tuyệt vọng mà muội muội song sinh của nàng phải trải qua trước khi chết, thì quất roi và những lời đàm tiếu này….căn bản chẳng là gì.

Lệ Tri cố gắng nắm chặt chiếc vòng bằng vỏ sò trên cổ tay, giống như nàng sẽ có sức mạnh vô hạng khi làm như vậy. Mồ hôi lạnh rơi xuống từ trán và chóp mũi, khiến đất vàng trước mặt nàng cũng trở nên thâm nhòe.

Ngọn roi mang theo huyết nhục và cái giá lạnh của mùa đông, giống như có hàng ngàn ngân châm lạnh giá đâm vào cơ thể nàng.

Đau không? Sợ không?

Nàng thậm chí còn không nhìn thấy máu của mình, vậy thì nàng có tư cách gì để sợ hãi?

Một roi cuối cùng cũng đã giáng xuống người nàng, tiếng xé gió bay đi rất xa. Tay cầm roi ngựa của Trịnh Cung cũng đã đổ đầy mồ hôi, hắn giữ lời cầm đến một cái màn thầu, ném tới trước mặt Lệ Tri như cho chó ăn.

Không có ai đến đỡ nàng. Nàng cũng không cần.

Lệ Tri run rẫy chống đỡ thân thể ngồi dậy, nhặt cái màn thầu cứng ngắc bám đầy bụi trên mặt đất, dùng miếng vải bố coi như sạch sẽ run run lau sạch vết bẩn trên đó.

Y phục trên lưng dính đầy máu và vết thương, gió lạnh thổi qua, vết thương bỏng đau như bị lửa thiêu.

Lệ Tri không quan tâm.

Điều nàng quan tâm nhất đã vĩnh viễn rời xa nàng rồi.

Cô độc trôi nổi trong cuộc sống này, đó mới thực sự là địa ngục vô tận.

Cầm chiếc màn thầu bốc mùi, nàng khẽ cười.

…….

Ba nghìn dặm lưu đày, sẽ không vì người nào đó bị quất roi mà dừng lại.

Lệ Tri đổ mồ hôi lạnh, nặng nề lê bước theo sát đội ngũ lưu vong lên đường. Trịnh Cung ở sau lưng không lưu tình mà thúc giục, roi ngựa vung lên kêu răng rắc. Lệ Tri xem như không thấy hắn, duy trì tốc độ sao cho không bị tụt lại cuối cùng.

Tiếng chuông ở bốn góc xe ngựa hòa quyện với tiếng vó ngựa giẫm lẹp xẹp ngân vang trong gió, và bức màn gấm thêu mai trúc tùng chưa bao giờ mở ra.

Lúc chạng vạng tối, đội ngũ lưu vong dừng lại đóng quân nghỉ ngơi.

Lệ Tri cầm lấy cái màn thầu mà ban ngày mình có được đi về hướng xe ngựa.

Nàng gõ vách xe như thường ngày, một lát sau, bức màng gấm được vén lên. Tạ Lan Tư nhìn nàng dâng màn thầu lên mà ánh mắt phức tạp.

“….Tại sao còn đưa tới nữa?”

Lệ Tri hiểu hắn đang nhắc đến chuyện ngày ấy nàng vô tình nhìn thấy, nàng cẩn thận tiết kiệm khẩu phần lương thực đưa tới lại bị hắn lấy ra cho chó ăn. Nếu là người khác, mặc dù không đến mức kết thù, nhưng cũng sẽ không tiếp tục làm chuyện hảo tâm để rồi bị người khác không coi ra gì.

Nhưng Lệ Tri không thèm để ý.

“Nếu đã cho rồi, thì xử trí như thế nào đều là chuyện của Điện Hạ.” Lệ Tri cười rồi nói tiếp: “Chỉ cần Điện Hạ không bị đói, ngài đem màn thầu cho ai ăn cũng không sao cả.”

Gió từ trên sơn cốc thổi tới, rải đầy mặt đất, hạ xuống miệng vết thương. Trong rừng, lá cây rơi xào xạc, tiếng gió rít gào từ xa tới gần, màn đêm buông xuống càng thêm cô tịch.

Tạ Lan Tư nhìn những vết máu lan rộng từ lưng đến vai nàng, những điểm đỏ tươi đó khiến hắn nhớ tới những bông hoa mai càng chịu khổ, càng tràn đầy sức sống.

Một người có bị nhục hay không là tùy thuộc vào việc trong lòng người đó có bị giày vò hay không.

Thời điểm nàng bị phạt, hắn ở trong xe nghe thấy vô số âm thanh, nhưng lại không nghe thấy tiếng của nàng.

Hiếm khi hắn cảm thấy nghi hoặc.

Nghi hoặc vì tại sao một danh môn chi nữ mấy tháng trước vẫn còn được sống an nhàn sung sướng, phút chốc bị cuốn vào vận mệnh khó khăn và bị đày đọa, nhưng lại không hề bị trầm luân tiều tụy, mà còn bộc phát ra sự cứng cỏi, bất khuất khiến cho người ta sợ hãi thán phục.

“….Vì sao?” Hắn hỏi.

Trong ánh sáng lưu động đầy âm u buồn bã của ánh trăng.

Ánh trăng mờ ảo len lỏi vào rừng cây xanh đen, thiếu nữ đứng ngoài xe ngựa ngửa đầu nhìn hắn, trên gương mặt cố tình được che phủ bằng đất bùn, có hai vệt màu sáng kéo dài từ đôi mắt mịt mờ ánh nước đến chiếc cằm thon gầy.

Hắn không khỏi ngơ ngác.

Thiếu nữ dưới ánh trăng hơi nở nụ cười, đôi mắt long lanh như mặt hồ rực rỡ sau khi được mặt trời xuyên qua những đám mây chiếu sáng.

“Ta nói ta ngưỡng mộ Điện Hạ.” Nàng nói: “Điện Hạ có tin không?”
 
Chương 5


Đã ba ngày đã trôi qua kể từ khi Lệ Tri bị quất roi, nhưng vết thương trên lưng nàng vẫn còn rướm máu.

Thật vất vả vết thương mới tốt một chút thì mồ hôi lại làm cho nó bong tróc ra. Thân là tội nhân bị lưu đày, nàng không được nghỉ ngơi dưỡng thương. Trên đường lưu vong không có đại phu, muốn lấy được thuốc trị thương trong tay của đám nha dịch lại càng thêm khó khăn.

Lệ Tri chỉ có thể nhớ lại những cuốn tạp thư mà trước đây nàng đã đọc, sau đó hái một loại cây gọi là Cẩu Nha Căn trong hoang dã, đợi đến khi nghỉ ngơi vào ban đêm nàng nhai nát rồi bôi lên vết thương.

Tuy loài cỏ này là cỏ dại mọc hoang khắp các đồi núi nhưng nó lại có tác dụng cầm máu và chữa lành vết thương. Lúc trước Lệ Tri đọc về loại cỏ này trong một cuốn du ký. Trên đường lên núi tác giả gặp phải dã thú, sau khi trốn thoát, người đó đã dùng loại cỏ này nghiền nát và đắp lên vết thương.

May mắn chính là nàng đã tìm đúng nó, sau vài ngày, miệng vết thương của nàng đã đóng vảy.

Đêm đó, đội ngũ đóng quân nghỉ ngơi ở một vùng hoang vu.

Như mọi khi, Lệ Tri lấy cỏ Cẩu Nha Căn từ trong lòng ngực ra và cho vào miệng. Nước cỏ có vị chát đắng đã làm tê liệt biểu tình trên mặt thiếu nữ, thật vất vả mới nhai xong, nàng cố nén cơn buồn nôn nhổ ra lòng bàn tay.

Nàng không thể cởi y phục và bôi thuốc trước công chúng, cũng may Lệ Tri biết nơi đây có một thứ duy nhất có thể che chắn cho nàng……xe ngựa.

Sau khi dùng xe ngựa che khuất tầm mắt của người khác xong, Lệ Tri bắt đầu cởi y phục, đem cỏ đã nhai nát bôi lên vết thương sau lưng. Bởi vì không có ai giúp đỡ nên mỗi lần bôi thuốc nàng phải tốn thời gian một nén nhang.

Còn may mắn hơn là vì có tên tuổi của Hoàng Tôn trong xe ngựa, nên dù biết Lệ Tri đang ở sau xe ngựa cởi y phục để bôi thuốc, cũng không có ai dám đến quấy rối.

Về phần bản thân Hoàng Tôn….. Lệ Tri tin tưởng hắn không có hứng thú với cảnh xuân ngoài xe.

Nàng bôi thuốc xong, sửa sang lại xiêm y một lần nữa, trước khi rời đi, nàng gõ vách xe.

Nàng cầm lương khô đợi bên ngoài xe ngựa rất lâu, rèm cửa mới được vén lên.

Sắc mặt Tạ Lan Tư suy yếu hơn thường ngày, trán và chóp mũi lấm tấm những giọt mồ hôi, hắn mím chặt môi, như thể đang chịu đựng một loại đau đớn nào đó.

“Điện Hạ không thoải mái chỗ nào sao?” Lệ Tri lập tức hỏi.

Tạ Lan Tư lắc đầu, khàn giọng nói: “Không có việc gì…”

Lệ Tri nhận thấy chân phải của hắn cứng ngắc, cử động rất lạ.

Suy nghĩ một hồi, Lệ Tri liền hiểu nguyên nhân….tuy đi bộ ba nghìn dặm là cực hình, nhưng ba nghìn dặm đều ngồi trong xe ngựa cũng không phải là việc dễ dàng.

Nàng do dự một chút, ngập ngừng giữ lấy chân phải của hắn.

Lần đầu tiên Lệ Tri chạm vào chân của một nam tử, Lệ Tri cảm thấy vô cùng lúng túng, nàng cố gắng kiềm chế biểu cảm trên mặt, nhưng nàng lại không thể khống chế được vành tai đang dần đỏ lên của mình. Nếu Tạ Lan Tư lại cự tuyệt nàng, sợ rằng nàng sẽ tìm một cái lỗ chui xuống ngay lập tức.

Để Tạ Lan Tư không có cơ hội cự tuyệt, Lệ Tri dùng sức ấn mạnh vào các cơ dưới tay.

Một tiếng rên đau đớn thoát ra từ kẽ răng của Tạ Lan Tư. Vì thế hắn cảm thấy quẫn bách, môi mỏng càng thêm mím chặt.

“Rất nhanh sẽ ổn thôi.” Để giảm bớt xấu hổ, Lệ Tri nói: “Trước kia, mỗi khi muội muội song sinh của ta luyện múa trở về, ta đều bóp như vậy cho muội ấy.”

“Muội ấy cũng ở trong đội ngũ à?” Tạ Lan Tư nhíu mày nhẫn nhịn cơn đau ở chân.

“….Muội ấy chết rồi.”

Lệ Tri nhanh tay xoa nhẹ vài cái, nhìn Tạ Lan Tư: “Còn tê không?”

Tạ Lan Tư cử động thử, thành công khôi phục lại tư thế ngồi đoan chính.

“Đa tạ” Hắn nói.

Lúc này Lệ Tri mới lấy cái màn thầu được gói trong khăn tay ra, không nói lời nào mà nhét vào tay Tạ Lan Tư.

Tạ Lan Tư nhìn Lệ Tri đang cất chiếc khăn tay, khẽ nói:

“Lệ cô nương nhường cho ta khẩu phần lương thực của mình, vậy cô nương ăn cái gì?”

Lệ Tri ngẩng đầu cười: “Ta ăn một bữa, nhịn một bữa, ngược lại càng thêm có tinh thần. Điều quan trọng bây giờ là Điện Hạ mau chóng bình phục.”

“Bệnh của ta, không phải ăn no là có thể tốt lên.”

“Vậy phải như thế nào mới tốt lên được?” Lệ Tri nghiêm túc nhìn hắn: “Nếu như cần thảo dược, Điện Hạ có thể nói cho ta biết đặc điểm của thảo dược. Ta sẽ cố hết sức tìm cho Điện Hạ.”

“Bệnh cũ rồi.” Tạ Lan Tư tránh nặng tìm nhẹ.

Hắn bẻ đôi cái màn thầu cứng ngắc ra, đưa phần lớn hơn cho Lệ Tri.

“Đa tạ hảo ý của Lệ cô nương, nhưng cho chó ăn…. chỉ cần một chút là đủ rồi.”

Lệ Tri nghe hắn nói muốn cho chó ăn, cũng không giận. Nàng nhận lấy một nửa cái màn thầu mà Tạ Lan Tư đưa lại:

“Vậy……”

Nàng chưa dứt lời thì nghe thấy tiếng chó sủa phía trước, tiếng sủa lớn đã khiến cho đội ngũ lưu vong trở nên ầm ĩ.

Lệ Tri tưởng là mình nghe nhầm.

Mặc dù tiếng chó sủa giống nhau, nhưng chủ nhân sẽ luôn phân biệt được tiếng chó mình nuôi và tiếng của những con chó khác. Cũng giống như Lệ Tri lúc này, khi nghe thấy tiếng chó sủa, nàng không bao giờ nghĩ đến bầy chó hoang mà Tạ Lan Tư dùng để mua vui.

Đây rõ ràng là tiếng chó nàng nuôi, nhưng làm sao nó có thể xuất hiện ở đây.

Lệ Tri không quan tâm đến những thứ khác, nàng chạy đi thật nhanh.

Chạy đến phía trước, một con chó đen to lớn quen thuộc đang sủa những người lưu vong vây quanh nó. Trái tim của Lệ Tri đập thình thịch trong lồng ngực, sự kinh ngạc và vui sướng như một dòng nước xiết vọt lên đầu nàng, mà nàng chính là con thuyền cô độc không biết phải làm gì trong dòng nước ấy.

“Thần Đan!” Lệ Tri thốt lên.

Đại hắc cẩu lập tức ngẩng đầu lên, trông thấy Lệ Tri bên ngoài đám người, đại hắc cẩu càng thêm hưng phấn. Sau vài lần né tránh, nó thoát khỏi một tên lưu vong, lao thẳng đến trước mặt Lệ Tri.

“Gâu! Gâu gâu gâu!”

Thần Đan bổ nhào lên đùi Lệ Tri, liên tục kêu lên, chiếc mũi ướt át không ngừng ủi vào lòng bàn tay Lệ Tri.

“Thần Đan…” Lệ Tri nhịn không được nghẹn ngào.

Nàng ngồi xổm xuống, ôm Thần Đan vào lòng, nhẹ nhàng vuốt ve cái đầu xù lông của nó. Trong trí nhớ của nàng, Thần Đan có bộ lông bóng loáng, cao lớn cường tráng…nhưng bây giờ, Thần Đan trong ngực nàng gầy đến trơ xương, bụng hóp sâu, tay nàng có thể chạm vào xương sườn của nó, bộ lông mượt mà một thời đã trở nên xơ xác.

Thời điểm nàng gặp được Thần Đan là Tết Nguyên Tiêu năm thứ ba Sơ Nguyên.

Tối đó, công tử và tiểu thư Lệ Gia kết bạn ra ngoài xem đèn với số tiền mừng tuổi được cho cách đó không lâu. Đồ chơi các huynh đệ tỷ muội mang về không giống nhau, có đồ trang sức, điểm tâm, có mặt nạ, đồ uống. Chỉ có nàng là người duy nhất trong tiếng cười nhạo của huynh đệ tỷ muội đem tiền mừng tuổi đổi về một con chó đen nhỏ bị nông hộ ngược đãi.

Và người duy nhất ủng hộ nàng cũng chính là muội muội song sinh của nàng.

Các nàng cùng nhau rửa vết thương cho chó con, cùng nhau bôi thuốc cho nó, cùng nhau nhúng ngón tay vào bọt thịt bôi lên mũi chó con, hướng dẫn nó liếm thức ăn.

Các nàng đặt tên cho chó con là Thần Đan, hy vọng sau này nó vô bệnh vô tai.

Trong nháy mắt, con chó đen nhỏ khi đó lắc mình biến thành một con chó đen to lớn thích chạy nhảy, điểm chung duy nhất chính là cái đuôi đen của nó khi nhìn thấy các nàng sẽ lắc lư dữ dội.

Nó chỉ là một con chó trung thành, một con chó nghe không hiểu tiếng người phức tạp. Nàng dặn nó ở nhà đợi nàng, nó chỉ biết chủ nhân đã đi rồi, cho dù vượt qua trăm ngàn núi cao, nó cũng sẽ gắng hết sức mà đuổi kịp chủ nhân.

Bất kể thế sự biến hóa như thế nào, bất kể nàng là tù nhân hay vẫn là danh môn thứ nữ, hai mắt chó nhỏ của nàng vẫn luôn sáng ngời, đen nhánh thể hiện yêu thương sâu sắc dành cho chủ nhân.

Lệ Tri tựa đầu lên người chó nhỏ.

Thần Đan cảm nhận được sự ẩm ướt trên lông, nó xoay đầu nhẹ nhàng liếm mu bàn tay của Lệ Tri.

Lệ Tri điều chỉnh lại tâm tình của mình, sau đó mang theo Thần Đan quay về nơi tụ tập của người Lệ Gia.

“Thần Đan?!” Lệ Hương nhìn con chó đen to lớn Lệ Tri mang về, trợn to hai mắt không dám tin.

Những người Lệ Gia khác cũng nhìn lại.

Vương Thị ngăn Lệ Huệ Trực đang muốn đi qua với vẻ mặt kinh hỉ lại, trên khuôn mặt luôn nghiêm túc của bà cũng lộ ra vẻ kinh ngạc:

“Làm sao nó đến được đây?”

Lệ Tri cười xoa đầu Thần Đan nói: “Nó có cái mũi rất thính, có lẽ nó đã ngửi mùi để tìm đường đến đây.”

Khó có khi Vương Thị không thuyết giáo điều gì, bà nhìn Thần Đan, trên mặt lộ vẻ xúc động nói:

“Làm khó nó rồi…”

Lệ Hương cố gắng đứng lên, vì đã bị bệnh vài ngày nên sắc mặt nàng vàng như nến.

“Thần Đan, Thần Đan…..khá lắm, ngươi vậy mà có thể tìm đến đây.”

Lệ Hương ngồi xuống trước mặt Thần Đan, xoa xoa đầu nó, Thần Đan vẫy vẫy đuôi đáp lại.

“Ngươi gầy quá, Kinh Đô là một nơi tốt như vậy, ngươi đuổi theo đến đây làm cái gì?”

Lệ Hương vừa nói, vừa lấy từ trong lòng ra một miếng màn thầu nhỏ bằng ngón tay út.

“Hương Nhi!” Trịnh Thị mẹ đẻ của Lệ Hương gấp giọng gọi.

“Không sao….chỉ một chút thôi.” Lệ Hương nói xong, liền đem miếng bánh để trước mặt Thần Đan. Thần Đan hít hít, cắn một cái vào trong miệng.

Trịnh Thị tức giận nhìn nữ nhi, nhưng vì ngại người Lệ Gia đang ở xung quanh nên không phát tác.

Thứ trưởng tử Lệ Gia, Lệ Tấn Chi mở miệng dàn xếp:

“Trịnh di nương, người cứ kệ Hương Nhi đi. Dù sao cũng là khẩu phần của muội ấy tiết kiệm được, miếng bánh chỉ lớn bằng cái móng tay thì có chuyện gì chứ?”

Phụ thân của Lệ Tri, Lệ Kiều Niên chỉ có hai nhi tử, một người là Lệ Tấn Chi do ái thiếp Trịnh Thị sinh ra, một người khác chính là Lệ Huệ Trực do chính phòng Vương Thị sinh. Hai người này thì một người đã cập quan, người còn lại chỉ mới bảy tuổi, ngày thường nước giếng không phạm nước sông, nhưng hai người mẹ đẻ đã tranh đấu gay gắt từ lâu.

Lệ Tấn Chi lên tiếng nên Trịnh Thị cũng không nói nữa.

Lệ Tri lấy nửa cái màn thầu mà Tạ Lan Tư trả lại cho nàng lúc nãy, bẻ một miếng đưa cho Lệ Hương, nàng ấy lập tức thay đổi sắc mặt:

“Ngươi cho ta làm gì? Ta không cần đồ của ngươi!”

“Hương Nhi…..” Lệ Tấn Chi nói: “Tất cả chúng ta đều là người một nhà, muội làm cái gì vậy?”

“Muội không phải người một nhà với nàng ta!” Lệ Hương nổi giận đùng đùng nói, nàng xoay đầu lại, hung hăng liếc Lệ Tri: “Nếu không phải ngươi, Lệ Hạ sẽ không chết……ta không bao giờ tha thứ cho ngươi!”

“Lệ Hương!” Lệ Tấn Chi quát một tiếng chói tai, Lệ Hương đứng dậy đi về chỗ cũ ngồi xuống, sắc mặt rất khó coi.

“Lệ Tri, muội đừng so đo với muội ấy…tính tình muội ấy bướng bỉnh, cứ để muội ấy đói đi, đến lúc đói chịu không nổi, muội ấy sẽ biết ai đối tốt với mình.”

Lệ Tấn Chi đi đến trước mặt Lệ Tri, thuận tay lấy khối màn thầu mà Lệ Hương không nhận, tự nhiên nhét vào trong quần áo của mình.

Lệ Tri không vạch trần hành vi của hắn, cười nói:

“Lệ Hương nói cũng không sai.”

“Trong nhà muội là thiện lương nhất, đi ngang qua hoa dại cũng phải đi đường vòng. Ta tin rằng chuyện của Lệ Hạ cũng là ngoài ý muốn…” Lệ Tấn Chi vỗ vai Lệ Tri: “Muội đừng tự trách mình. Hiện tại, điều quan trọng nhất chính là gia tộc chúng ta có thể bình an đến Minh Nguyệt Tháp.”

“Cảm ơn đại ca trấn an.” Lệ Tri cười nói.

Lệ Tấn Chi thoả mãn gật đầu: “Mau ngồi xuống nghỉ ngơi đi, hồi phục thể lực, sáng sớm ngày mai còn phải tiếp tục lên đường nữa.”

Lệ Tri nhận lời mời của Lệ Tấn Chi, ngồi bên cạnh hắn.

Nàng lại bẻ chiếc màn thầu chỉ còn một góc ra làm đôi rồi đút cho Thần Đan một nửa.

Cầm miếng màn thầu nhỏ cuối cùng, Lệ Tri bắt đầu ăn, nàng ăn rất chậm, gần như cẩn thận nhai từng miếng, từng miếng trong miệng.

Vụn màn thầu khô cứng thấm đủ nước bọt, cuối cùng lộ ra một chút ngọt ngào khó nắm bắt.

Ở Kinh Đô, đây là thứ mà ngay cả ăn mày cũng ghét bỏ, nhưng trên con đường lưu vong, nó lại là báu vật mà mỗi người đều dựa vào để sinh tồn.

Lệ Tri ăn màn thầu, chợt nhớ tới một chuyện……

Tại sao Tạ Lan Tư không cho chó hoang ăn thức ăn mà nha dịch phát cho hắn?

Nàng nhìn cỗ xe ngựa có rèm che ở cuối đội ngũ, và cảm thấy có lẽ mình đã suy nghĩ nhiều rồi.

…….

“Đi đi, nhớ kỹ thời gian trở về đó!.” Chân Điều dừng bước lại.

Tạ Lan Tư khẽ gật đầu, đi về phía bụi cây phía trước.

Người có ba việc gấp, Tạ Lan Tư đương nhiên cũng có. Những người khác lúc đi vệ sinh thì không cần áp giải, nhưng Tạ Lan Tư thì cần.

Chạy mất một tên tội nhân lưu đày và chạy mất một Hoàng Tôn, tính nghiêm trọng của hai việc này hoàn toàn khác nhau. Cũng may, uy lực còn sót lại của Phế Thái Tử vẫn còn, nên đám nha dịch không quá khó xử Tạ Lan Tư, khi áp giải hắn vào rừng, để thuận tiện cho hắn, họ luôn đứng cách một khoảng xa.

Tạ Lan Tư  đi vài bước, quay lại thấy Chân Điều không nhìn qua đây, hắn lấy từ trong ngực ra thức ăn được phân đến hôm nay, lặng lẽ ném vào bụi cỏ. Hắn cũng hái rau dại và lá cây nhìn qua không độc ở dọc đường giấu vào trong lòng.

Lằng nhằng một hồi, ngay lúc Chân Điều bắt đầu mất kiên nhẫn thì Tạ Lan Tư đã trở lại.

Chân Điều nhìn hắn từ trên xuống dưới rồi dẫn hắn về xe ngựa.

Tạ Lan Tư ngồi trong xe, hắn lấy một cây rau dại đã hái dọc đường ra, nhẹ nhàng dùng tay phủi bụi. Sau đó ngắt một chiếc lá xuống, cứ thế bỏ vào miệng.

Hắn vô cảm nhai nuốt rau dại đắng chát, ăn hết miếng này đến miếng khác như một cái xác không hồn. Cuối cùng, ngay cả gốc cây hắn cũng ăn hết.

Chất lỏng màu xanh lục chảy xuống cái bụng đang đói, làm trỗi dậy bản năng buồn nôn, Tạ Lan Tư dùng ý trí muốn sống để khắc chế bản thân, không những không nôn ra, mà còn ăn hết một cây rau dại thứ hai.

Cây rau dại thứ nhất đã tiêu trừ cơn đói của hắn, cây rau thứ hai hắn ăn chậm lại, ăn xong rau dại, hắn lại tiếp tục ăn những chiếc lá đã hái bên đường…

Khi ánh trăng xuyên qua cửa sổ xe ngựa, hắn đã ăn xong một nắm rau dại và lá cây.

Âm thanh chó hoang nôn nóng, bất an vang lên ngoài xe ngựa.

Tạ Lan Tư cầm lấy nửa cái màn thầu nhỏ mà Lệ Tri cho, dùng đầu ngón tay chà xát một chút vụn bánh.

Hắn nhìn những mảnh vụn màn thầu trên đầu ngón tay, một lúc sau, hắn đưa lên miệng, nhẹ nhàng liếm.

Nước bọt làm tan vụn bánh, vị ngọt như có như không lan tỏa trong miệng, hắn kìm nén dục vọng đang gào thét trong lồng ngực, ném nốt miếng màn thầu còn lại cho bầy chó hoang bên ngoài.

Dưới ánh trăng, ánh mắt Tạ Lan Tư lạnh như băng nhìn đám chó hoang đang tranh đoạt ngoài cửa sổ.

Bất luận con đường phía trước có bao nhiêu thử thách và đau khổ đang chờ đợi….

Hắn cũng sẽ sống sót đến Minh Nguyệt Tháp.
 
Chương 6


Mấy ngày sau, đội ngũ lưu vong tiến vào ranh giới của Trọng Thành, theo quy định, đội lưu vong không được vào thành, ở Trọng Thành cũng như vậy.

Trong quá khứ, chỉ có nha dịch áp giải đường ngắn mới hòa nhập vào đội lưu vong. Nhưng lần này, các quan viên cấp thấp mặc quan phục cũng đến. Tên áp giải đường dài Trịnh Cung, người luôn tỏ ra kiêu ngạo trước mặt những kẻ lưu vong, sau khi nhìn thấy người do Trọng Châu Thứ Sử phái tới, liền cúi đầu khom lưng, khóe miệng nhếch gần đến mang tai.

Quan viên địa phương cúi đầu bên ngoài xe ngựa của Tạ Lan Tư, sau khi nói vài câu ngắn ngủi, một lão đại phu ôm hòm thuốc bước vào xe ngựa.

Đám người lưu vong đứng bên ngoài lộ ra ánh mắt hâm mộ.

Trịnh Cung cáo mượn oai hùm xua đuổi đám người ấy đi chỗ khác, Lệ Tri ôm Thần Đan, lơ đãng nghe người Lệ Gia nói chuyện.

“… Mẫu thân, người đi đi!” Lệ Tấn Chi gần như tức giận nói: “Trọng Châu Thứ Sử Phu Nhân là tỷ muội tốt của mẫu thân trước khi xuất giá. Với tầng quan hệ này, một quan chức nho nhỏ còn dám làm mẫu thân mất mặt sao? Hơn nữa, chúng ta cũng không phải cầu bọn hắn làm chuyện quan trọng gì, chỉ là muốn xin một ít thức ăn và mấy bộ quần áo ấm thôi mà…..”

Mẹ đẻ Trịnh Thị của Lệ Tấn Chi phụ họa nói:

“Đúng đó phu nhân! Trước đây ngay cả tư cách nói chuyện với lão gia của chúng ta, Trọng Châu Thứ Sử còn không có, huống chi là tiểu quan dưới quyền!”

Vương Thị bị hai người giật dây cũng động lòng, nhưng vẫn chưa buông được tự trọng của mình.

“Nhưng nếu hắn cự tuyệt… Dù nói thế nào ta đã từng là nhị phẩm Cáo Mệnh Phu Nhân, nếu như bị một tên tiểu quan cửu phẩm cự tuyệt…”

“Mẫu thân, đây là lúc nào rồi?”

Lệ Tấn Chi đè lại tức giận khuyên:

“Nếu không qua được cửa này, đi qua thôn này sẽ không còn thôn khác. Đến lúc đó cả nhà chúng ta đều phải chết đói!”

“Đại ca, mẫu thân không muốn, huynh cũng đừng bức người… Phu tử đã từng nói qua….” Âm thanh nho nhỏ của Lệ Huệ Trực vang lên.

“Vậy phu tử có nói cho ngươi biết, người không ăn sẽ chết đói, mùa đông không mặc quần áo ấm sẽ chết cóng không?” Lệ Tấn Chi ngoài cười nhưng trong không cười ngắt lời Lệ Huệ Trực: “Hơn nữa, coi như chúng ta có thể sống sót, nhưng Lệ Huệ Trực ngươi mới có bảy tuổi, vạn nhất có điều gì xảy ra, mẫu thân có thể mua thuốc hối hận ở đâu?”

Câu nói sau cùng đã chọc giận Vương Thị, bà lạnh giọng bác bỏ, dường như bà cảm thấy hai từ “vạn nhất” cực kỳ xúi quẩy.

“Mẫu thân, con cũng là lo cho Huệ Trực nên mới nói như vậy, dù sao thì hắn cũng còn quá nhỏ.” Lệ Tấn Chi hiên ngang lẫm liệt nói: “Nếu con là người có quan hệ với Trọng Châu Thứ Sử, vì sinh kế của nhà chúng ta, con tuyệt đối sẽ không nói hai lời liền đi xin người ta ngay, dù cho có bắt con quỳ xuống sủa như một con chó…vì sự tồn vong của Lệ Gia, con cũng sẽ không chối từ!”

“Đại ca, chuyện này và tuổi tác không liên quan, ta..”

Mặt Lệ Huệ Trực đỏ lên, muốn biện hộ cho mình, nhưng tiếng nói của một đứa trẻ bảy tuổi dù đặt ở đâu cũng vô cùng nhỏ.

Cuộc nói chuyện bị gián đoạn một lúc, Lệ Tri ngẩng đầu lên nhìn. Vương Thị dường như đã hạ quyết tâm, đứng dậy đi về phía quan viên Trọng Thành.

Lại qua một lúc, đại phu tóc trắng từ trong xe ngựa bước ra.

Vào giây phút cuối cùng khi bức màn gấm rủ xuống, Lệ Tri nhìn thấy trong ánh sáng lờ mờ của xe ngựa, Tạ Lan Tư khoác áo lông dựa vào thành xe ho khan, sắc mặt hắn tái nhợt hơn bao giờ hết.

Đại phu thấp giọng nói vài câu với quan viên Trọng Thành bên cạnh xe ngựa, hắn hành lễ với Tạ Lan Tư từ xa, sau đó dẫn những người khác lên ngựa trở về thành.

Vương Thị đi không bao lâu đã ngượng ngùng quay lại.

“Mẫu thân, thế nào rồi?” Lệ Tấn Chi không kiên nhẫn hỏi.

“Đều tại ngươi nhất định bắt ta phải đi…….” Sắc mặt Vương Thị khó coi: “Hắn nói Thứ Sử Phu Nhân đi thăm người thân rồi, hắn phải chờ phu nhân về bẩm báo mới có thể định đoạt.”

“Đợi Thứ Sử Phu Nhân kia về là khi nào hả?” Lệ Tấn Chi cả giận nói.

“Cũng không còn cách nào, ai bảo bây giờ chúng ta là người đi cầu xin chứ!” Vương Thị nói.

Tranh chấp sau lưng tiếp tục mãi cho đến khi Trịnh Cung ra lệnh đội ngũ lên đường.

Lệ Tri vờ như không nhìn thấy một khối u nhô ra từ cổ tay áo Vương Thị, cùng với đôi mắt đỏ hồng của Lệ Huệ Trực, đối với vận mệnh sụp đổ của Lệ Gia trong tương lai nàng không quan tâm.

……..

“Trúng độc?”

Trọng Châu Thứ Sử đứng trước giá Bát Bảo kinh ngạc xoay người lại, ngay cả Ngọc Sơn Tử (*)quý giá có khắc thanh tùng tuyết đình và tiểu đồng vui chơi bên dòng suối cũng bị hắn bỏ lên bàn.

(*)Điêu khắc tròn phong cảnh rừng núi

Ngọc Sơn Tử là một bức tranh phong cảnh rừng núi được chạm khắc hình tròn, khi làm thì vẽ sơ đồ trước rồi mới chạm khắc nên thường được đặt tên theo bức tranh. Núi, hình, động vật, chim, nước chảy, v.v. được chạm khắc trên Ngọc Sơn Tử, với các lớp rõ ràng và các hình dạng khác nhau, việc chạm khắc loại cảnh quan núi rừng này, từ khung, bố cục, đến sắp xếp thứ bậc, đều thể hiện và thấm nhuần các quy tắc của bức tranh.

“Đúng, chính xác là trúng độc.” Đại phu cúi người, thái độ khiêm tốn nói: “Khẩu phần lương thực của Hoàng Tôn được cung cấp riêng, lão phu kiểp tra đồ ăn trong xe ngựa, phát hiện có một chút bột phấn kim cương thạch.

“Bột phấn kim cương thạch…..đó là vật gì?” Thứ Sử nhíu mày.

Đại phu chậm rãi nói: “Hồi đại nhân, kim cương thạch vốn là một loại khoáng vật, không thể ăn được. Nhưng nếu đem kim cương thạch xay nhuyễn thành bột phấn bỏ vào đồ ăn, bột phấn kim cương thạch sẽ được hấp thụ trong thành dạ dày, tích lũy lâu dài, sẽ nôn ra máu mà chết.”

“Thì ra là thế…” Thứ sử như có điều suy nghĩ: “Ngươi có kê thuốc cho hắn không?”

“Lão thân thấy thân thể hắn hư nhược, liền cho hắn mấy bình Khu Hàn Hoàn do chính lão thân bào chế. Có thể nhuận phổi bổ khí, nhưng đối với độc kim cương hắn trúng thì không có tác dụng.”

“Nếu không được trị liệu, hắn có thể sống bao lâu?”

“Nhiều thì một năm, ít thì nửa năm.”

Thứ sử nghe xong liền lâm vào trầm tư. Ba nghìn dặm lưu đày chỉ vừa mới bắt đầu, nếu tính từ bây giờ thì rất có thể Hoàng Tôn sẽ chết trước khi đến được Minh Nguyệt Tháp.

Đây là chuyện mà rất nhiều người mong muốn.

Đại phu do dự một lát, nói: “Còn có một chuyện…tuy rằng lão thân phát hiện thấy đồ ăn trong xe ngựa có độc kim cương thạch, nhưng có lẽ y thuật của lão thân không tinh, bệnh trạng của hắn cũng không khớp lắm…”

Thử Sử không ngạc nhiên, cũng không muốn hỏi thêm. Hắn khoát tay áo nói:

“Ta đã biết, ngươi lui xuống đi.”

Đại phu nói tất cả những gì nên nói xong, hắn thi lễ một cái, yên lặng rời khỏi thư phòng.

Vị quan có khuôn mặt dài nhìn Trọng Châu Thứ Sử, thăm dò hỏi:

“Đại nhân, ngài nghĩ sao? Có cần đổi đại phu khác đến xem không?”

“Không cần.”

“Nhưng mà độc kia….”

Thứ Sử cười lạnh nói: “Phế Thái Tử gây thù chuốc oán khắp nơi, số người muốn hắn đoạn tử tuyệt tôn cũng không ít. Thứ đại phu phát hiện chỉ là độc kim cương thạch, nhưng bên người Tạ Lan Tư, có thể có rất nhiều thứ muốn mệnh của hắn.”

Vị quan mặt dài nhanh chóng hiểu ra: “Đại nhân nói chính là bọn sơn tặc kia…tựa hồ có người muốn lấy tiền mua mạng.”

“Có nhiều người muốn ra tay với hắn như vậy, vừa hay cũng tiết kiệm được sức lực của ta. Ngươi truyền tin cho người của ta, kêu bọn hắn không cần làm chuyện dư thừa.” Bàn tay to béo của Thứ Sử đặt lên Ngọc Sơn Tử giá trị liên thành, vuốt ve đỉnh núi màu xanh. Hắn cười đầy ẩn ý: “Dù sao thì loại chuyện này… vẫn là đám quý nhân trong Kinh thành thạo hơn.”

Đội ngũ những kẻ lưu vong uốn lượn như một dải ruy băng xám giữa rừng núi xanh thẫm chập chùng.

Đám người Lệ Tri đã rời khỏi Trọng Châu được mấy ngày. Ra khỏi núi vẫn là núi, không thấy dấu vết của con người.

Tịch dương nơi xa dường như cũng bị bệnh nặng, ánh chiều tà ảm đạm như sắp bị dập tắt hoàn toàn trong khoảnh khắc tiếp theo.

Những người lưu vong khi nghe tin hạ trại tại chỗ, đều kiệt sức ngã quỵ xuống đất, bất kể thân phận trước đây là kẻ buôn người hay quan lại quyền quý, giờ phút này đều nằm xiêu vẹo trên cùng một mảnh đất màu vàng.

Lệ Tri ngồi bên ngoài nơi người Lệ Gia tụ họp, tự giác rời khỏi trung tâm nói chuyện của Vương Thị và Lệ Tấn Chi. Đại Hắc Cẩu Thần Đan ngoan ngoãn ngồi bên người nàng.

Nhân lúc không ai để ý, nàng lặng lẽ kiểm tra vết roi trên cánh tay.

Vết thương đầm đìa máu tươi lúc trước đã hoàn toàn ngừng chảy máu, lưu lại một vệt đỏ xấu xí giống như con giun đất. Nếu vết thương này rơi vào người Lệ Hương, có lẽ nàng ấy sẽ ngất ngay tại chỗ. Nhưng Lệ Tri lại như không biết nó sẽ mang đến ảnh hưởng gì cho mình, nàng xem vết thương một cách vô cùng thờ ơ.

“Ăn cơm đi! Không được tranh giành, coi chừng ăn roi!”

Áp giải đường dài Trịnh Cung cầm cái thùng gỗ quen thuộc xuất hiện, Lệ Tri sửa sang lại ống tay áo cho tốt.

“Của ngươi, bắt lấy….” Trịnh Cung từ trong thùng gỗ lấy lương khô ra, không kiên nhẫn mà ném cho Lệ Tri.

Màn thầu rơi xuống người Lệ Tri, nàng vội vàng bắt lấy, phát hiện lương khô lúc trước tốt xấu gì thì cũng to bằng nắm tay, nhưng nay nó chỉ bằng lòng bàn tay mà thôi.

Lệ Tri nhìn nhanh vào thùng gỗ, trong đó đều là những thứ trông giống như thức ăn thừa của người khác…..không những chỉ to bằng nắm đấm của đứa bé, mà hầu hết chúng đều đã hư thối, mốc meo, ngay cả màu sắc cũng thay đổi.

Lệ Tri yên lặng nhận lấy cái màn thầu khô quắt, nhưng rất nhanh đã có người dị nghị với cái này:

“Quan gia, xin ngài thương xót! Cái này quá ít, cho tôi nhiều hơn một chút đi…….”

Người nam nhân cầm cái màn thầu thiu to bằng lòng bàn tay ôm lấy chân Trịnh Cung cầu xin.

“Không có là không có! Không biết tốt xấu thì cái gì cũng không có mà ăn!” Trịnh Cung đá một cước lên người nam nhân gầy như que củi kia.

“Quan gia, van cầu ngài, cho nữ nhi của ta một cái đi, kiếp sau ta sẽ làm trâu làm ngựa báo đáp ngài…” Một phụ nhân khóc lóc vang xin, nữ nhi gầy yếu của nàng ta co rúc ở một bên, như một bộ xương có thể gãy rời bất cứ lúc nào.

“Cút, mẹ nó đúng là xui xẻo mà!” Trịnh Cung nhổ một ngụm nước bọt xuống đất, kiên quyết ném tiếng khóc của phụ nhân ra sau lưng.

Cho dù mọi người có cầu xin bao nhiêu, thì thức ăn họ nhận được cũng không nhiều lên.

Từ khi tiến vào ranh giới Phụng Châu, nhiệt độ càng ngày càng lạnh giá, ngày nào cũng có người lưu đày đổ bệnh. Đối với những tù nhân ốm nặng thì dù bị đòn roi cũng không thể đi tiếp, nha dịch sẽ dùng đao kết liễu mạng sống của họ một cách không thương tiếc.

Mỗi ngày Lệ Tri đều buộc mình phải ăn một thứ gì đó, từ lương khô bốc mùi và đổi màu, cho đến những chiếc lá hái được trên đường đi vệ sinh….. nếu có một con rắn trước mặt, Lệ Tri sẽ tìm cách biến nó thành thức ăn của mình.

Đáng tiếc, trong mùa đông giá rét này, chỉ có những con mãnh thú mà nàng không thể đối phó được mới đi lang thang bên ngoài tìm kiếm thức ăn.

Vì tránh bị dã thú tập kích, nhóm đi vệ sinh từ ba người biến thành năm người. Mặc dù vậy, Lệ Tri vẫn ngẫu nhiên nhìn thấy những đôi mắt màu xanh lang thang trong rừng.

Lệ Tri đang tê dại nhai nuốt cái màn thầu khô khốc, thì thấy gã nam nhân ôm chân Trịnh Cung lúc nãy, hắn đã ăn xong lương thực của mình và đang dùng một ánh mắt đáng sợ nhìn chằm chằm vào Thần Đan bên người Lệ Tri.

Người đã đói đến cùng cực thì chuyện gì cũng làm được.

Lệ Tri đã từng đọc trong sách ghi chép về việc đổi thịt con để ăn trong nạn đói, cho nên ăn thịt chó cũng chẳng là gì.

Lệ Tri cảm thấy lo lắng cho tương lai của Thần Đan trong đội ngũ lưu vong, nhưng tất cả những gì nàng có thể làm là ôm chặt Thần Đan, dùng thân thể của mình để cản trở ánh mắt tham lam của nam nhân kia.

Lúc này thứ muội Lệ Hương đi đến bên cạnh Đại Hắc Cẩu, sờ lên đầu của nó, thừa dịp lúc đưa lưng về phía đám người Trịnh Thị, nàng muốn đút cho Thần Đan nửa miếng bánh của mình.

Lệ Tri nhận ra đó là khẩu phần vừa rồi Trịnh Cung đưa cho nàng ấy, có lẽ Lệ Hương đã ăn một chút, cũng có thể là không ăn, nhưng theo Lệ Tri nhìn thì nửa chiếc bánh nhỏ này không khác gì lúc Trịnh Cung đưa cho.

Nàng nhíu mày, đang muốn ngăn cản hành vi của Lệ Hương, nhưng Thần Đan lại không chịu nổi mà ăn mất cái bánh.

Người đói đến mức ngực dính vào lưng, chó cũng vậy. Lệ Tri không thể nào chỉ trích Thần Đan.

“…..Sao ngươi không ăn?” Lệ Tri hỏi.

Thời điểm Lệ Hương vuốt ve Thần Đan, trên gương mặt không có chút huyết sắc nào hiện lên một nụ cười. Nhưng khi Lệ Tri nói chuyện với nàng, ánh mắt của nàng chuyển thành lạnh lùng oán hận.

“Ta không đói.” Lệ Hương lạnh lùng nói.

“Không đói cũng phải ăn.” Lệ Tri thử khuyên bảo: “Nếu không thì sao ngươi đến Minh Nguyệt Tháp được?”

Lệ Hương cười khẩy, như thể khinh thường câu hỏi của nàng.

“Không sao.” Nàng xoa đầu Thần Đan, trong mắt hiện lên một tia bi thương: “Lệ Gia đã không còn, với thân phận này, đến Minh Nguyệt Tháp rồi…thì có thể thế nào?”

Sao một hồi im lặng, Lệ Hương không tự nhiên mà nói tiếp:

“Ta nghe…có người nói về việc ăn thịt chó. Ngươi…tốt nhất nên cẩn thận một chút…đừng hại Lệ Hạ rồi. lại hại chết con chó của nàng ấy…Nàng ấy yêu thương Thần Đan hơn bất kỳ người nào…”

Nàng nói câu sau cùng rất nhỏ và yếu, Lệ Tri gần như không thể nghe rõ giọng nói của nàng.

Khuôn mặt của Lệ Hương đỏ bừng bất thường, đôi môi nứt nẻ không có một tia huyết sắc, mỗi khi nàng ấy nói một câu nào đó, nàng ấy phải dừng lại để lấy hơi.

Lệ Tri nhớ mười ngày trước, tuy rằng sắc mặt Lệ Hương  tái nhợt, nhưng trên mặt vẫn có chút thịt, còn bây giờ nàng ấy chỉ là một bộ xương xiêu vẹo, ngay cả hốc mắt cũng trũng sâu.

Trời đông giá rét. Trong mỗi trận gió đều như ẩn chứa trăm triệu ngân châm.

Tất cả mọi người đều quấn chặt lấy mình trong chiếc áo vải mỏng manh, chỉ có Lệ Hương là dường như không cảm thấy lạnh, mặc cho gió rét tùy ý lùa vào ống tay áo.

Những người lưu vong ở đây, sau khi bị bệnh, chỉ có thể tự cầu phúc. Cho dù giữ được một chút hơi tàn, cũng phải đối mặt với vô số ánh mắt tham lam thèm thuồng của đám người lưu vong, bọn hắn vì muốn có thêm quần áo để mặc, đều đang cầu nguyện cho người bị bệnh bên cạnh vĩnh viễn không thể mở mắt ra nữa.

Không ai có thể giúp muội ấy.

Lệ Tri không nhịn được sờ lên trán của Lệ Hương.

“…Ngươi sốt rồi.” Nàng nhíu chặt lông mày.

“Đừng chạm vào ta…” Lệ Hương hất tay nàng ta, dùng giọng điệu ác liệt cảnh cáo.

“Cho dù ngươi trách ta, cũng không nên lấy thân thể của mình ra đùa giỡn.”

Lệ Hương khinh thường cười nhạo một tiếng, sự mỉa mai thoáng qua trên khuôn mặt đỏ bừng của nàng.

“Ta lúc nào thì đùa giỡn thân thể của mình?” Nàng nói: “Cái loại thời điểm này…cái loại địa phương quỷ quái này…ngoài việc chấp nhận số phận, thì ta còn biện pháp nào?”

Lệ Hương không muốn nói thêm nữa, nàng cố gắng đứng dậy, lảo đảo quay về chỗ mẹ đẻ Trịnh Thị, Trịnh Thị chỉ liếc nhìn nàng một cái rồi quay đầu nói với chuyện với Lý Tấn Chi.

Vào ngày thứ hai, điều mà Lệ Tri lo lắng nhất đã xảy ra.

Bệnh tình của Lệ Hương nặng hơn, nửa bước cũng không đi nổi.
 
Chương 7


“Đứng lên đi!”

Ngọn roi sắc bén rơi xuống người Lệ Hương, nhưng nàng chỉ khẽ run như một mảnh vải, thậm chí không rên lên một tiếng nào.

Những người lưu vong xung quanh sợ bị liên lụy nên chỉ biết chạy về phía trước. Có vài người Lệ Gia dừng bước vì Lệ Hương, đó là mẹ đẻ của Lệ Hương, Trịnh Thị, và thứ huynh cùng mẹ với nàng ấy, Lệ Tấn Chi. Còn một người nữa là Lệ Tri.

Vương Thị kéo Lệ Huệ Trực đang định dừng lại, không cho hắn quay lại nhìn, cũng không cho hắn lên tiếng, buộc hắn phải tiếp tục bước đi.

Trịnh Cung uy hiếp Lệ Hương vài roi nhưng không thể bắt Lệ Hương đứng dậy đi tiếp được, đành phải gọi Chân Điều đến chứng kiến cùng:

“Nàng ta đi không nổi nữa.” Trịnh Cung đặt tay lên chuôi đao.

Chân Điều tiến lên xem tình trạng của Lệ Hương, Trịnh Thị nhìn hắn đầy chờ mong. Nhưng hắn chỉ lắc đầu với Trịnh Cung rồi đi về chỗ cũ của hắn.

Tiếng khóc của Trịnh Thị vang lên, sắc mặt Lệ Tấn Chi rất khó coi, nhưng hắn cũng không thể nghĩ ra cách nào khác.

Lệ Hương nằm yên lặng trên mặt đất, đôi mắt khép hờ tan rả và trống rỗng, lông mày hơi cau lại, như đang suy nghĩ vấn đề nan giải nào đó.

Lệ Tri không biết nàng ấy có đang suy nghĩ điều gì không, thần trí của nàng có còn tồn tại trong núi non trùng điệp này không, vì khi Trịnh Cung rút thanh bội đao đã tước đoạt vô số sinh mạng ra, nàng vẫn yên lặng và mê mang.

Lệ Hương như vậy thật lạ lẫm với Lệ Tri.

Trong trí nhớ của nàng, Lệ Hương luôn là quả ớt nhỏ khiến người ta đau đầu nhất ở Lệ Phủ. Trèo cây, đào trứng chim, bắt cá chép trong ao… bất kỳ trò chơi nào nam tử chơi, nàng cũng phải thử một lần.

Lúc bị mắng, bên cạnh nàng ấy luôn có một người.

Ở Lệ Gia, hai người các nàng cùng nhau nghịch phá. Khi xảy ra chuyện, người được yêu thương là Lệ Hương sẽ che chở cho người còn lại.

Các nàng như một đôi song sinh khác, cùng nhau mạo hiểm, cùng nhau bị mắng, và cùng nhau cười ranh mãnh khi vừa bị phạt xong.

Thời gian qua đi cảnh vật thay đổi, nàng ấy chỉ còn lại một mình.

Bội đao lóe lên tia sáng lạnh nơi núi rừng hoang vu, Trịnh Cung nhổ một ngụm nước bọt xuống đất, hùng hổ đi về phía Lệ Hương.

Trịnh Thị không dám tiến lên ngăn cản, bà quỳ gối bên cạnh Lệ Hương, van xin Trịnh Cung hạ thủ lưu tình, Lệ Tấn Chi là ca ca của Lệ Hương cũng bồi thêm những câu cầu xin.

Trịnh Cung đá Lệ Tấn Chi đang cản đường ra và giơ cao bội đao của mình.

“Cầu Điện Hạ khai ân, cứu muội muội ta một mạng!”

Trịnh Cung sửng sốt, theo bản năng ngừng đao lại.

Mọi người nhìn Lệ Trí đang quỳ trên mặt đất, sau đó nhìn chiếc xe ngựa đang chậm rãi đi tới.

Hàn phong trong núi gào thét thấu xương, chuông gió ở bốn góc xe ngựa đồng loạt phát ra âm thanh. Bức màn gấm phía sau lắc lư theo xe ngựa xóc nảy, mơ hồ có thể thấy được một mảnh màu xám tro.

Lệ Tri dập đầu thật mạnh xuống mặt đất đầy sỏi đá và cỏ dại, mỗi lần cúi xuống, nàng đều hét lên:

“Cầu Điện Hạ khai ân, cứu muội muội ta một mạng!”

Lệ Tri như không nhìn thấy những ánh mắt khác thường xung quanh, cũng như không nghe thấy những tiếng thì thầm bàn tán của mọi người. Nàng kiên định dập đầu, như thể những viên đá sắc nhọn trên mặt đất không tồn tại, và trong đôi mắt kiên cường, trầm tĩnh ấy, chỉ có chiếc xe ngựa theo gió mà đến.

“Ngươi đang làm gì đó? Quấy rầy Hoàng Tôn là tử tội!” Chân Điều đi phía sau xe ngựa nhíu mày.

Trịnh Cung sợ đến mức quất lên người Lệ Tri một roi.

“Còn không mau cút đi! Bớt lo chuyện bao đồng, nếu không ta tiễn ngươi đi trước!”

Vết thương vừa mới lành, bây giờ lại tét ra lần nữa, Lệ Tri mặt không đổi sắc cúi thấp người xuống, nặng nề dập đầu.

“Cầu Điện Hạ khai ân, cứu muội muội ta một mạng!”

Âm thanh vang dội và mạnh mẽ được gió mang đi rất xa, bất tri bất giác, toàn bộ đội ngũ lưu vong đều dừng lại.

Trán Lệ Chi đã tê dại, chỉ còn lại cảm giác nóng rát. Nhưng ánh mắt của nàng lại trong suốt, cho dù Trịnh Cung tức giận đến mức giơ bội đao về phía nàng, nàng cũng không dao động.

Nàng có lòng tin, vô luận Tạ Lan Tư có nguyện ý hay không, lần này, hắn nhất định sẽ giúp nàng một tay.

Ngay khi bội đao sắp rơi xuống, giọng nói điềm tĩnh của Tạ Lan Tư từ trong xe ngựa truyền đến.

“Để nàng lên đây đi!”

Không chờ Chân Điều và Trịnh Cung phản ứng, Lệ Tri đã  lập tức dập đầu cảm tạ:

“Đa tạ Điện Hạ cứu mạng!”

Lệ Tri nâng Lệ Hương đang nằm trên mặt đất lên, một mình nàng không thể chống đỡ toàn bộ trọng lượng, nên nàng nói với Lệ Tấn Chi còn đang sững sờ bênh cạnh: “Thỉnh cầu đại ca giúp muội một tay.”

Lúc này Lệ Tấn Chi mới hoàn hồn, vội vàng đỡ Lệ Hương lên.

Lệ Tri đặt Lệ Hương ở phía trước xe ngựa, nha dịch đánh xe miễn cưỡng ngồi dịch ra ngoài một chút. Tuy rằng vẫn phải chịu nắng chịu gió, nhưng may mắn, không phải chịu đựng những khó khăn khi đi bộ đường dài.

Lệ Tri đứng bên cạnh cỗ xe, nói với bóng người trong ô cửa sổ bằng gỗ:

“Ân đức của Điện Hạ, Lệ Tri suốt đời không quên. Nếu có cơ hội, Ta sẽ bất chấp xông pha khói lửa để báo đáp.”

Bên trong cửa sổ lặng yên không một tiếng động.

Trong tiếng đánh chửi của nha dịch, đội ngũ lưu vong lần nữa uốn lượn mà đi.

Dần dần, trong cái giá rét khắc nghiệt, mặt trời yếu ớt bò lên không trung. Ánh nắng ảm đạm xuyên qua núi rừng, chỉ còn lại một mảnh ảo ảnh lay động.

Đội ngũ lưu vong kiềm nén và yên tĩnh, chậm chạp tiến về phía trước.

Cho dù tay chân có đau nhức, và chảy máu vì lạnh, cho dù bụng đói đến trống rỗng, tầm mắt mơ hồ. Tất cả mọi người đều liều mạng tiến về phía trước.

Đi theo phương hướng của sự sống.

Mặt trời yếu ớt đang cố gắng leo lên, nhưng cơn gió mùa đông lại đang cố thổi nó xuống.

Khi mặt trời lặn xuống sơn cốc, màn đêm cũng liền đi tới.

Dòng người vừa ra khỏi rừng, liền hạ trại ở một nơi hoang dã. Không có rừng cây che đậy, hàn phong càng trở nên kinh khủng. Đã vậy, bầu trời còn lác đác rơi xuống những bông tuyết trắng tinh lạnh giá.

Đám người lưu vong cố hết sức chen chúc quanh đống lửa.

Ngọn lửa lúc sáng lúc tối giữa nơi hoang địa, giống như là vận mệnh của mỗi người nơi đây.

Nha dịch đánh xe cũng đã đi sưởi ấm bên cạnh đống lửa, Lệ Tri ngồi ở đầu xe, Thần Đan ngồi xổm dưới xe. Trước tiên nàng kiểm tra tình trạng của Lệ Hương, sau đó chia cái bánh cực nhỏ mà nàng vừa lấy được ra làm hai phần.

Lệ Tri đưa một miếng bánh nhỏ qua tấm rèm gấm cho Tạ Lan Tư trong xe, miếng bánh còn lại được nàng bẻ thành từng mảnh nhỏ, từng chút một đút vào miệng Lệ Hương, Lệ Hương chỉ ăn một chút, sau đó quay đầu cắn chặt môi, không muốn ăn nữa.

Lệ Tri cảm thấy nhiệt độ cơ thể của nàng lạnh buốt, liền nói với Tạ Lan Tư trong xe ngựa:

“Ta muốn xin Điện Hạ một việc nữa.”

Màn gấm phía sau vô thanh vô tức.

“Dân nữ nghe nói lúc ở Trọng Thành, Điện Hạ đã nhận được mấy lọ đan dược bồi bổ cơ thể. Dân nữ cả gan, xin Điện Hạ giúp muội muội ta vượt qua cửa ải khó khăn này. Đại ân đại đức của Điện Hạ, dân nữ nhất định sẽ kết cỏ ngậm vành báo đáp.”

Sau vài tiếng ho ngắt quãng, giọng nói của Tạ Lan Tư vang lên từ trong xe ngựa.

“Thuốc này không cứu được nàng ấy.”

“Còn nước còn tát, ngoài cái này ra ta cũng không còn cách nào khác.”

“Lệ cô nương, tương lai không ai nói trước được, ta sao có thể tin lời ngươi nói là sẽ xông pha khói lửa và kết cỏ ngậm vành đây?”

Lời nói của Tạ Lan Tư rất ôn hòa, nhưng Lệ Tri lại bắt được sự lạnh nhạt trong đó.

“Nếu như Điện Hạ không tin chuyện tương lai, vậy bây giờ, dân nữ có thể làm gì cho Điện Hạ?”

“Ngươi có thể làm cái gì cho ta?” Tạ Lan Tư hỏi lại.

Có tiếng sột soạt khe khẽ trong đêm.

Chu Thị, người thị thiếp đã sinh ra Lệ Từ Ân và Lệ Tượng Thăng, một trai một gái trong Lệ Gia, lặng lẽ rời khỏi đội ngũ Lệ Gia. Đi đến bên người Trịnh Cung, hai người thì thầm vài câu, sau đó quay người đi đến phía sau đồi núi nhỏ cách đó không xa.

Đám nha dịch gác đêm không ngạc nhiên về điều này: vì để đổi lấy một ít thức ăn, người lưu vong có thể trả giá tất cả.

Sau một hồi im lặng, giọng nói của Lệ Tri lại vang lên.

“….Tất cả.” Nàng nói: “Chỉ cần Điện Hạ giúp đỡ, dân nữ nguyện ý trả giá tất cả.”

Lệ Hương đang nằm trên đầu xe, vùng vẫy dữ dội, nàng ấy nức nở không rõ ràng, không thể thốt ra một câu hoàn chỉnh, nhưng nàng đã bộc phát ra một sức mạnh đáng kinh ngạc, gắt gao siết chặt cổ tay của Lệ Tri.

“…Không cần.”

Lệ Tri nghe Tạ Lan Tư nói trong xe ngựa.

Bức màn gấm bị một bàn tay gầy gò vén lên, Tạ Lan Tư mặc một chiếc áo choàng màu xám tro xuất hiện, một đôi lông mày đen như màn đêm trên khuôn mặt tái nhợt.

“Coi như là báo đáp Lệ cô nương đã chiếu cố ta đoạn thời gian này.”

Tạ Lan Tư đưa tay ra, một lọ thuốc cổ dài màu nâu lặng lẽ nằm trong lòng bàn tay của hắn.

Hắn nhìn Lệ Tri với vẻ mặt không quá xa lạ, cũng không quá thân thiết, giống như một vị bồ tát cứu độ chúng sinh đang kiên nhẫn lắng nghe.

“Như vậy, chúng ta đã thanh toán xong rồi.” Hắn nói.

Lệ Tri nhìn lọ thuốc trong bàn tay hắn.

“Được.”

Nàng nhận lấy lọ thuốc, lập tức đổ ra một viên đút cho Lệ Hương.

Lệ Hương không muốn uống thuốc mà Lệ Tri xin được, nhưng Lệ Tri có thái độ cứng rắn hiếm thấy, nàng bóp miệng Lệ Hương và mạnh mẽ nhét viên thuốc màu nâu tỏa hương vào miệng.

Lúc Thần Đan vừa tới Lệ Gia, Lệ Tri đã sử dụng phương pháp tương tự để ép nó uống vô số viên thuốc, cứng rắn nuôi nó từ một con chó đen nhỏ mưng mủ thành một con chó đen lớn có bộ lông mượt mà. Chuyện mớm thuốc này, Lệ Tri đã quá quen thuộc.

Lệ Hương không có nhiều sức lực để chống cự, cuối cùng thua trận, không thể không nuốt xuống viên thuốc nhỏ đó.

Xem ra thuốc thật sự có tác dụng, sau khi trừng mắt nhìn Lệ Tri hồi lâu, Lệ Hương khàn giọng nói:

“Ta sẽ không cảm kích ngươi…”

Lệ Tri ôm đầu nàng để trên đầu gối mình, nhẹ nhàng vuốt mái tóc vàng khô của Lệ Hương, ngày xưa, chúng đã từng là ba ngàn sợi tóc đen.

“Ngươi không cần cảm kích ta.” Lệ Tri nói.

“Nếu… nếu đêm đó ngươi không ngủ say…” Lệ Hương lẩm bẩm, “Tất cả mọi chuyện… tất cả mọi chuyện sẽ khác.”

“….”

“Nếu đêm đó….người ngủ với nàng ấy là ta…”

Sự hối hận như ngọn lửa cháy bỏng dâng lên trong cơ thể của Lệ Tri, khiến nàng suýt nữa không kìm được rên rỉ. Nàng cắn chặt môi, yên lặng để lửa đốt cháy trái tim mình.

Nếu đêm đó, nàng không ngủ say như vậy.

Vô số lần trong đêm đen không ngủ được, nàng nhìn chằm chằm vào hư không, suy nghĩ câu nói này.

Nàng không dám ngủ nữa, sau này còn trở nên sợ hãi giấc ngủ, chỉ có thể mở to mắt cả đêm. Nàng sợ ngủ quên sẽ mất đi thứ gì đó, càng sợ khi ngủ mơ sẽ nhìn thấy biểu cảm cuối cũng trước khi chết của muội muội song sinh.

Sợ hãi, tuyệt vọng, cô đơn và bất lực.

Dưới thân muội ấy là những vũng máu lớn, máu thấm ướt cả áo ngủ bằng gấm, dọc theo góc chăn nhỏ xuống dưới chân.

Là máu của muội muội nàng.

Nàng yêu muội ấy biết bao, nhưng giờ đây khi nghe thấy tên muội ấy, nghĩ đến giọng nói và nụ cười của muội ấy, tâm hồn nàng sẽ tan nát trong đau đớn.

Nàng không dám nhớ lại quá khứ.

Mỗi lúc như thế này, nàng đều hận mình ngu ngốc, hận mình chậm chạp, hận không thể cũng đem mình ra ăn thịt cho đến chết.

“Nhưng kỳ thật…” Lệ Hương nói: “Ta biết rõ… Ta chỉ đang giận lây sang ngươi. Cái chết của Lệ Hạ… Không thể trách ngươi.”

“…”

“Lệ Hạ… Khỏe mạnh như vậy. Lúc leo cây với ta, còn leo nhanh hơn ta…nàng ấy khỏe mạnh như vậy…chưa từng sinh bệnh, làm sao có thể đột nhiên…chảy máu mà chết…” Lệ Hương lộ ra một tia mê mang. “Cái chết của Lệ Hạ…rõ ràng có kỳ quặc, có ẩn tình….vậy mà, phụ thân, huynh trưởng… Tất cả mọi người đều úp úp mở mở….”

Lệ Tri vuốt ve đầu thứ muội, trong mắt có hào quang chập chờn như sóng nước.

Nàng nói với giọng cực kỳ lạnh lùng, điềm tĩnh:

“Ta sẽ không để muội ấy chết vô ích.”

Lệ Hương kinh ngạc nhìn nàng với đôi mắt ngấn lệ.

“Ta cam đoan với ngươi.” Lệ Tri nói: “Đợi ngươi khỏe lại, chúng ta cùng nhau làm rõ chuyện này.”

“Ta còn có thể khỏe lại sao?” Lệ Hương hỏi.

“Đương nhiên.” Lệ Tri nói: “Ngươi đã uống thuốc, đã khá hơn nhiều rồi. Chờ ngủ thêm một đêm, ngày mai liền có thể hoạt bát trở lại.”

Lệ Hương bán tín bán nghi, đôi mắt mệt mỏi dần rũ xuống.

“Ngày mai… Ngươi nhất định phải đánh thức ta.”

“….Được.”

Trong đêm lạnh, tuyết mịn tung bay.

Trên vùng đất hoang vu có vài thân cây trơ trọi, khi gió thổi qua, những chiếc lá khô héo úa đột nhiên rơi xuống, bay vào hư không…

Giống như một con chim đã thoát khỏi sự trói buộc, một lần nữa lấy lại được tự do.
 
Chương 8


Sáng sớm hôm sau, trên người Lệ Tri có một lớp tuyết mỏng rơi xuống, nhưng thân thể đã cứng đờ của Lệ Hương lại không bị một bông tuyết nào làm vấy bẩn.

Tiếng khóc của Trịnh Thị rung vang đất trời, nhưng Lệ Hương vẫn không tỉnh dậy sau giấc ngủ say.

Chết trên đường lưu vong, ngay cả việc đưa linh hồn trở về quê cũ cũng là một hy vọng xa vời.

Mười lăm năm tình tỷ muội, điều mà Lệ Tri có thể làm bây giờ là đào hố càng sâu càng tốt, để sài lang không thể lôi thi thể muội muội ra ngoài. Thần Đan ngửi thi thể của Lệ Hương, rồi dùng hai chân trước giúp Lệ Tri đào hố.

Lệ Tri cẩn thận đặt Lệ Hương xuống hố bằng những ngón tay đầy máu, Lệ Hương chắc chắn là đã quá mệt mỏi nên muội ấy mới ngủ say như vậy. Nàng muốn đảm bảo rằng sẽ không có ai tới làm phiền muội ấy nữa.

Lệ Tri ghé sát vào khuôn mặt lạnh như băng của thứ muội, như ôm mà cũng như đang thủ thỉ. Trịnh Cung không ngừng thúc giục, hắn đồng ý an táng di thể trong thời gian một nén nhang, một chiếc trà cũng không muốn chờ lâu.

Cuối cùng, Lệ Tri đứng dậy rời khỏi Lệ Hương, đất vàng trên mặt nàng loang lỗ vệt nước mắt, nhưng đôi mắt nàng lại sáng như đèn lồng trong Tết Nguyên Tiêu, đau buồn đã biến mất, chỉ còn lại sự kiên cường cứng cỏi.

Nắm đất cuối cùng phủ lên mộ địa che đi tân sinh của một người, Lệ Tri nhặt mười lăm viên đá có hình thù kỳ lạ, các đầu nhọn của chúng cắm sâu vào đất vàng.

Một ngày nào đó nàng nhất định sẽ đưa Lệ Hương về nhà.

Dòng người lưu đày lại tiếp tục lên đường, Trịnh Thị khóc đến vô lực, được Lệ Tấn Chi đỡ,  Lệ Huệ Trực liên tục dụi mắt khiến mắt sưng húp như mắt cá vàng to. Dù vậy, hắn vẫn cố nén tiếng nấc nhỏ, nắm chặt tay Vương Thị để tránh cho bà vấp phải những viên đá giữa đường.

Chu Thị, người đã dùng những thủ đoạn đê ​​tiện để kiếm thêm khẩu phần ăn, đã bị người Lệ Gia  cô lập từ lâu, giống như Lệ Tri trước đây. Bà nắm chặt tay hai đứa bé, thất tha thất thểu đi phía ngoài dòng người lưu đày.

Hai hài tử của Chu Thị, ca ca là Lệ Tượng Thăng, năm nay mười hai tuổi, khi mới sinh ra đã nắm chặt tay thành nắm đấm, phải đổi mấy người lớn mới tách ra được. Lão gia của Lệ Gia Lệ Kiều Niên liền đặt tên là Tượng Thăng. Sau này khi ca ca lớn lên, quả nhiên là có sức mạnh trời sinh. Muội muội tên là Lệ Từ Ân, năm nay mười một tuổi, bởi vì nàng là thứ xuất, lại không có điểm mạnh nổi bật, nên xưa nay ở Lệ Gia luôn thấp cổ bé họng.

Ở tuổi của hai huynh muội, chúng hẳn đã biết Chu Thị đang làm gì để nuôi sống chúng, bởi vì khi Lệ Tri và Lệ Tượng Thăng chạm mắt nhau, người sau đã nhanh chóng dời mắt đi như bị lửa đốt, mặc dù Lệ Tri không hề có ác ý, nhưng trên mặt thiếu niên ấy vẫn lóe lên vẻ phòng ngự như một con thú nhỏ.

Mỗi người đều vì sống sót mà cố gắng hết sức, ở trước mặt sự sinh tồn, đạo đức trở nên tầm thường không đáng để nhắc tới.

Đây là một thế giới hoàn toàn khác với Kinh Đô, đây là nơi luật lệ của dã thú được vận hành.

Lưu đày ba nghìn dặm, dường như nhìn mãi không thấy điểm dừng.

Sau khi dòng người lưu đày bước vào sa mạc Qua Bích Than với tầng tầng lớp lớp sóng cát nhấp nhô, lồi lõm, không biết đâu là bờ bến, thì lương thực ngày càng khan hiếm. Số lương khô ít ỏi trước tiên phải lấp đầy dạ dày của đám nha dịch, sau đó mới tới những người lưu đày.

Người lưu đày cũng chia làm ba, sáu, chín bậc, có quan hệ với đám nha dịch thì được ăn no một nửa, không có quan hệ gì thì ăn no được hai phần, còn người nào khiến chúng không vừa mắt thì chỉ được một chút lương khô không đủ dính kẽ răng.

Lệ Tri thuộc về loại cuối cùng.

Vì chuyện của Lệ Hương, Lệ Tri và Trịnh Cung đã kết thù với nhau, hắn cho rằng mình là người có thể làm chủ trong đội ngũ lưu vong, nhưng thực tế là do Tạ Lan Tư và Chân Điều không muốn ganh đua với hắn mà thôi. Nếu Tạ Lan Tư lên tiếng, thì chỉ cần không phạm pháp, hắn chỉ có thể ngoan ngoãn nghe theo.

Hắn không dám đối phó với Tạ Lan Tư, chẳng lẽ ngay cả một nữ nhân lưu đày trẻ tuổi là Lệ Tri hắn cũng không đối phó được sao?

Hắn chỉ đang thắc mắc tại sao lương khô phát cho Lệ Tri ít như vậy, mà nàng lại không nằm trong số những người ngã xuống mỗi ngày.

Tất nhiên sẽ không có nàng.

Lá cây, vỏ cây, cỏ dại, côn trùng mất đầu, thỉnh thoảng còn có các loại cây thân củ do Thần Đan đào lên từ sa mạc. Chỉ cần nhìn không có độc, cái gì ăn được nàng đều ăn, cho dù trong dạ dày tiết ra nước chua, trong miệng chát đến tê dại, nàng cũng cố gắng ăn.

Nàng cũng coi như là hậu nhân của danh môn, nhưng thoạt nhìn, nàng không giống hậu nhân của danh môn chút nào. Đầu của nàng có thể cúi xuống, nhưng cho dù có cúi thấp đến đâu cũng sẽ không vì vậy là đứt rời.

Nàng nhất định phải sống sót.

Lệ Tri nghĩ rằng mình sẽ phải giãy giụa  một đường như vậy, giống như một con thú ăn phải tươi nuốt sống mà đến Minh Nguyệt Tháp. Tuy là khó khăn, nhưng cũng không phải là không qua được.

Nhưng trời cao đã vẽ một rãnh trời trong vận mệnh của nàng.

Vào một buổi tối, những người lưu vong phân tổ để đi vệ sinh, Lệ Tri vừa rời đi không lâu, thì tiếng tru khóc của Thần Đan đột nhiên vang lên. Nàng phớt lờ tiếng la hét của nha dịch cách đó không xa, lao thẳng đến nơi những người lưu vong cắm trại bằng một tốc độ chưa từng thấy.

Thần Đan là một con chó trung thành với con người, nó được Lệ Tri và Lệ Hạ chung tay nuôi dưỡng, tính cách hiền lành của nó khiến mọi người trong Lệ Phủ yêu thích, những nô bộc trong phủ luôn thích ném cho nó một miếng thịt hoặc một khối hoa quả. Mỗi khi đi ngang qua, mọi người thường thuận tay sờ vào bộ lông đen bóng như được bôi dầu của nó.

Những ân huệ trong quá khứ đã hại nó.

Khiến nó dễ dàng bị người ta thu mua, vô tư ăn đồ ăn người ta ném xuống đất, giống như ở Lệ Phủ trước đây. Lại không ngờ rằng khi con người đã đói đến mức cùng cực, thì con người còn đáng sợ hơn cả dã thú.

“Giúp ta ngăn nàng ta lại, sau đó ta sẽ chia thịt chó cho ngươi!” Trịnh Cung không chút kiêng kỵ cười một tiếng, gậy gỗ trong tay liên tiếp nện xuống.

Tiếng tru khóc của Thần Đan chuyển từ mạnh sang yếu, từ hiện hữu sang hư vô.

Lệ Tri bị đám người lưu đày đè xuống đất, nàng cũng không đếm được trên người mình có bao nhiêu bàn tay, chỉ có thể cảm nhận được ác ý đen tối tràn ngập thế gian này, chỉ có thể nhìn thân thể của Thần Đan dần dần không còn giãy giụa nữa..

Chẳng biết từ lúc nào, nàng cũng không còn giãy giụa nữa.

Đám người phát hiện nàng yên tĩnh, dò xét mà buông tay ra, nàng vẫn duy trì tư thế bị đè đó, ánh mắt bất động nhìn thẳng vào Thần Đan dưới chân Trịnh Cung.

Quen thuộc làm sao.

Máu tươi chói mắt, còn có linh hồn đau đớn như bị xé nát. Lịch sử tựa hồ như đang lặp lại.

Vì sự bất lực của nàng.

“Xảy ra chuyện gì?” Chân Điều cau mày đi đến chỗ Trịnh Cung.

Sau lưng Chân Điều là những người già yếu, bệnh tật đi chậm nhất trong đội ngũ lưu đày, còn có chiếc xe ngựa gắn chuông gió. Nhóm người cuối cùng của đội ngũ cũng đã nhập vào nơi trú quân.

“Đêm nay có thể ăn thịt rồi.” Trịnh Cung ném cây gậy dính máu, cười nói.

Chân Điều liếc nhìn con chó chết trên mặt đất, sau đó nhìn Lệ Tri cũng nằm trên cát như như đã chết, trong mắt hắn lộ ra một tia không đành lòng.

Cũng chỉ là không đành lòng.

Cho nên hắn quay đầu đi, không nhìn vào sự đau khổ đang diễn ra vào lúc này.

Lệ Tri cảm thấy linh hồn mình như đang phiêu đãng trong không trung, và cơ thể mục nát của nàng bị mắc kẹt trong cát. Nàng nhìn thấy Trịnh Cung lột da cắt thịt Thần Đan, cuối cùng biến nó thành một nồi canh thịt chó sôi trào. Nàng nhìn thấy những người giúp Trịnh Cung ngăn cản nàng được phân phát món canh thịt chó đó, bọn họ vui đến phát khóc. Còn nàng, nàng ngơ ngác như người vô hồn, cảm giác gì cũng không có.

Cứ như thể trái tim đã biến mất, nàng sẽ không bao giờ cảm thấy đau đớn nữa.

Nàng thậm chí còn không biết mình đã đứng dậy từ lúc nào.

Nàng đi đi lại lại, tìm kiếm xương cốt mà những người lưu đày ăn thừa, gom lại thành đống, quỳ xuống đất đào hố khi những người khác đã nghỉ ngơi.

Trịnh Cung quất nàng mấy roi, thấy nàng không đau không ngứa, bèn mặc kệ nàng. Nơi cát vàng vô biên này, hắn cũng không sợ nàng bỏ trốn.

Người Lệ Gia thì thầm bàn tán, Trịnh Cung ung dung xỉa răng, xe ngựa đứng lặng lẽ nơi hoang dã.

Thế giới ầm ĩ như vậy, nhưng trong tai Lệ Tri lại rất yên tĩnh.

Lệ Tri đặt hài cốt Thần Đan vào hố, trong hố không có gì cả, đợi nàng rời đi, Thần Đan chắc hẳn sẽ rất cô đơn. Lệ Tri nhìn xung quanh, bồi hồi trước mỗi thân cây nơi trú quân.

Nàng tìm rất lâu mà không tìm thấy thứ mình muốn, càng tìm càng nôn nóng, càng tìm càng bất an.

Có một ngọn lửa vô hình, dường như muốn thiêu nàng sạch sẽ.

“Ngươi đang tìm cái gì?”

Một âm thanh mơ hồ hình như từ nơi xa truyền đến. Khi hắn hỏi lần thứ hai, Lệ Tri ngẩng đầu nhìn hắn, một thân ảnh màu tím mơ hồ, giống như nhánh cây cát cánh đung đưa trong gió đêm, đột ngột xuất hiện ở nơi hoang dã.

“Ta đang tìm một cành cây khô nhẵn nhụi.” Lệ Tri giải thích, “Đó là món đồ chơi yêu thích của Thần Đan, ngươi có thể giúp ta không?”

Bóng người mơ hồ kia không lên tiếng, nhưng hắn ngẩng đầu lên, liếc nhìn mấy nhánh cây có thể bẻ gãy, rồi đưa tay bẻ một nhánh, sau đó lấy một con dao tùy thân ra bắt đầu gọt.

Sau khi lấy được nhánh cây nhẵn nhụi, Lệ Tri lộ ra vẻ mặt như hài tử, chân thành nói: “Cảm ơn ngươi.”

Tạ Lan Tư nhìn thiếu nữ đi về phía hố đất, mười ngón tay của nàng vẫn chưa lành lặn, đêm nay chúng lại đầm đìa máu tươi. Trong vòng chưa đầy một tháng, nàng đã tự tay mai táng hai người thân trong gia đình.

Hắn biết, trên người nàng còn rất nhiều vết thương do roi đánh, nhưng nàng chưa từng lộ ra vẻ mặt đau đớn.

Chịu rất nhiều đả kích ập đến, lẽ ra nàng nên lung lay sắp đổ, nhưng đôi vai mảnh khảnh của nàng không hề run rẩy, bước chân cũng không hề chậm lại. Giống như chính nàng là một cái sàng, thống khổ từ bên này giáng xuống, lập tức rỉ ra từ bên kia.

Nàng chỉ là một cái sàng không có nhiệt độ.

Đôi khi hắn không khỏi nghĩ, nếu Lệ Tri trải qua cuộc sống trước đây của hắn, thì nàng sẽ lựa chọn như thế nào?

“Trước kia, ta có một con ngựa, ta đặt tên nó là Kinh Lôi.”

Không biết vì sao, hắn đột nhiên có một loại dục vọng cực kỳ hiếm thấy muốn nói chuyện, mặc dù Lệ Tri quay lưng về phía hắn, chuyên tâm lấp hố đất, hắn vẫn tiếp tục nói một mình.

“Sau đó, bởi vì nó không tuân lệnh, nên bị thứ đệ của ta dùng roi sắt đánh, máu chảy đầm đìa.”

Không biết câu nói nào đã khiến Lệ Tri kích động, thiếu nữ như đang trôi nổi trong mộng bỗng nhiên run rẩy.

“Sau đó, thứ đệ của ta cũng chết.” Tạ Lan Tư dùng giọng điệu trần thuật nói.

Lệ Tri ngơ ngác, không nhúc nhích.

Nhìn thấy nàng, giống như nhìn thấy chính mình ngày xưa.

Hắn đứng bên cạnh thi thể của Kinh Lôi, yên lặng mà nhìn những vết máu trên người nó.

Lệ Tri trầm mặc khiến Tạ Lan Tư cảm thấy không thú vị, chắc tâm tình của thứ đệ năm đó cũng giống như vậy. Hắn nhìn Lệ Tri lần cuối, rồi quay người trở lại xe ngựa.

Sau khi Tạ Lan Tư bỏ đi một lúc lâu, Lệ Tri rốt cuộc cũng đắp xong nắm đất cuối cùng.

Nàng không nhớ nhiều về những gì đã xảy ra sau đó.

Hình như nàng đã trở lại đội ngũ lưu vong, nhưng nàng không nhớ mình có ngủ hay không. Mấy ngày kế tiếp, nàng giống như một cái xác không hồn, mù quáng đi theo bước chân của mọi người, chết lặng mà tiến về phía trước….

Thẳng cho đến khi nàng cũng ngã xuống giống Lệ Hương.
 
Chương 9


Hai ngày sau khi Thần Đan chết, Lệ Tri ngã bệnh.

Cơn sốt làm thần trí nàng mơ hồ, khiến nàng không cảm nhận được sự tồn tại của tứ chi. Tiếng hét của Trịnh Cung như xuyên qua tường truyền đến, nàng cố gắng đứng dậy, nhưng ngay cả mở mắt cũng khó khăn. Trịnh Cung dùng roi đánh nàng… nên đánh nàng. Nàng chỉ có thể phán đoán dựa vào tiếng xé gió và sự lay động của không khí.

Nàng còn nghe thấy gì nữa?

Nàng nghe thấy âm thanh của bội đao được rút ra khỏi vỏ.

Xung quanh đang có người nói chuyện, nhưng nàng nghe không rõ họ đang nói gì.

Có lẽ nàng phải chết ở đây rồi. Mang theo nuối tiếc và bi thống, biến thành một bộ xương khô vô giá trị trong vùng hoang mạc này.

Nàng nghe thấy tiếng khóc, lúc đầu nàng tưởng là tiếng khóc của người Lệ Gia nàng quen biết, nhưng sau đó, nàng nhận ra tiếng khóc là của muội muội nàng.

Muội ấy đã chết rồi, tiếng khóc của nửa linh hồn khác đã sớm bị mai một trên cõi đời này.

“Tại sao muội không nhảy Liên Thượng Vũ một lần nữa?”

“… bởi vì muội đã mất đi đôi cánh của mình.”

Trên Vương Liên Trì của Lệ Phủ, đã không còn bóng dáng uyển chuyển như cánh bướm kia nữa.

“Tám vỏ sò trên dây đỏ đều do muội nhặt được và xâu lại với nhau. Mỗi một vỏ sò, muội đều thắp hương và cầu nguyện chín vạn lần”.

Trong ý thức hỗn loạn, Lệ Tri nhận ra rằng bội đao đã không rơi xuống.

Nàng cố gắng hết sức để mở mắt, từ tầm nhìn quay cuồng của mình nàng nhìn thấy một vệt xanh trong vắt.

Không lâu sau, nàng đã được vài đôi tay nhấc bổng lên và đặt ở một nơi khác.

Nàng nhìn thấy bầu trời trong xanh không một gợn mây, nhìn thấy chiếc chuông bạc dưới góc mái hiên. Tiếng chuông lắc lư theo tiếng vó ngựa. Dường như tiếng chuông từ xa truyền đến đã nâng linh hồn Lệ Tri lên cao, vứt bỏ hết mệt mỏi, vượt qua thời gian và địa điểm, đưa nàng về với kí ức vô tận của biển.

Nàng sinh ra ở Lệ Phủ, nơi quan chức cao cấp nhất, thân mẫu của nàng là Tần Thị đến từ hải ngoại, một quốc gia được gọi là “Đại Sóc”. Nơi đó nữ tử cũng có thể đọc sách làm quan, và người ta nói Nữ Hoàng Đế cũng không phải là hiếm gặp.

Ngoài muội muội có tính cách phóng khoáng của nàng ra, thì không ai tin vào một thế giới kinh thế hãi tục mà Tần Thị miêu tả.

Nghe hạ nhân trong phủ nói, Tần Thị vô tình được một chiếc thuyền đánh cá trên biển cứu sống, đầu óc không được bình thường, ngay cả nói chuyện cũng là học được sau này. Vì dung mạo xinh đẹp, và có một đôi mắt màu tím dưới ánh mặt trời rất đặc biệt, nên bà bị người ta cố ý mua làm quà cho Lệ Kiều Niên.

Tần Thị tuy rằng xinh đẹp nhưng tính tình lạnh lùng, khi đối mặt với Lệ Kiều Niên cũng không tươi cười nên không được sủng ái. Sau này thoát khỏi nô tịch trở thành thị thiếp, nhưng cũng chỉ là ngẫu nhiên mà thôi, bà ấy có thai.

Cặp song sinh khiến cho tất cả hoa quỳnh trong Kinh Đô đều nở hoa trong một đêm không mang lại hạnh phúc cho Tần Thị, chẳng bao lâu sau, bà qua đời vì buồn đau.

Nhiều năm sau, hai tỷ muội đã lớn thành thiếu nữ.

Tỷ muội song sinh có đôi mắt lá liễu và lông mày như dãy núi nhỏ giống nhau như đúc, ngay cả cái bướu khó nhận thấy ở giữa sống mũi cũng giống hệt nhau, Nhưng giống như sử dụng cùng một loại sơn để tạo ra hai bức tranh hoàn toàn khác nhau, dù là người đần độn nhất cũng sẽ không gọi sai tên của các nàng.

Tỷ tỷ đã sớm gánh vác trách nhiệm dưỡng dục muội muội, tính tình chững chạc hơn so với các bạn cùng trang lứa, không chỉ đọc nhiều sách vở kiến thức uyên thâm, mà ngay cả nữ công cũng là nhất tuyệt.

Dưới sự bảo vệ của tỷ tỷ, muội muội vẫn giữ được sự hồn nhiên của một đứa trẻ, luôn có thể nảy ra những ý tưởng quậy phá, nhiều mưu ma chước quỷ, bất kể muội ấy đi đâu cũng có thể nhanh chóng kết giao bằng hữu mới.

Ngay cả người đốt củi mù trong phủ cũng có thể nhận ra thân phận của hai tỷ muội từ tiếng bước chân.

Các nàng lớn lên cùng nhau, và đã từng nghĩ rằng các nàng sẽ già đi cùng nhau.

Chiếc vòng vỏ sò trên tay nàng mang bảy mươi hai vạn lần cầu phúc.

Người đã vì nàng mà thắp hương cầu nguyện, bây giờ nàng đã không bao giờ tìm lại được nữa rồi.

Tiếng chuông leng keng theo gió bay vào trong xe ngựa, Tạ Lan Tư đặt cuốn sách trong tay xuống, nhìn thiếu nữ đang cuộn tròn ở đối diện.

Cơn ác mộng thống khổ ép chặt đôi mày liễu như dãy núi xa xăm của nàng, đôi mi dài đen láy thỉnh thoảng run rẩy bất lực, giống như một con chim non với đôi cánh chưa trưởng thành đang phí công vùng vẫy.

Trên khuôn mặt đã chìm vào giấc ngủ kia lại lộ ra tầng tầng lớp lớp sự phòng bị, những giọt nước mắt không ngừng rơi từ khóe mắt xuống hai bên tóc mai đen đặc, giống như những giọt sương rỉ ra từ kẽ đá dưới ánh nắng chói chang, óng ánh long lanh, trong vắt không tỳ vết.

Ma xui quỷ khiến thế nào mà hắn đưa tay ra chạm vào bi thương của nàng.

….

Cành cây khô nứt ra trong lửa, tiếng răng rắc không dứt.

Một mùi thơm khó tả xộc vào mũi. Hình như xa xa có tiếng ca nhớ nhà truyền đến. Nàng như trở về trong bụng mẫu thân, cả người ấm áp dễ chịu.

Lệ Tri mở đôi mắt nặng trĩu ra, ánh trăng nhợt nhạt lọt vào tầm mắt.

Ánh trăng nhu hòa nhẹ nhàng rơi xuống vùng hoang vu, trong nháy mắt bị ngọn lửa màu cam nuốt chửng. Đám người lưu vong được chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm vây quanh một đống lửa, chỉ có đống lửa trước mặt Lệ Tri là có vẻ trống trãi. Vài xâu thịt đỏ cắm ở trước lửa trại, tỏa mùi thịt thơm nồng.

Tạ Lan Tư ngồi ở đối diện, trên người mặc áo sam với thắt lưng thanh lịch, trông giống mặt trời lặn xuống thương không. Ngọn lửa run rẩy trong gió đêm khiến vẻ mặt hắn trở nên mơ hồ.

Nàng còn sống, Lệ Tri nghĩ.

Nhưng nàng không biết nên cảm thấy bi thương hay là vui mừng.

“Ăn đi.”

Một xiên thịt bị nướng đến cháy xém xuất hiện trước mắt Lệ Tri, Tạ Lan Tư bình tĩnh nói.

“... Tại sao lại có thịt?” Giọng Lệ Tri khàn khàn.

“Săn đấy.” Tạ Lan Tư nói, “Vốn dĩ có nhiều hơn, nhưng mà phân ra một phần, chỉ có nhiêu đây thôi.”

Khó trách trong không khí còn có rất nhiều mùi thịt nướng còn sót lại, bên cạnh mấy đống lửa trại còn có xương trắng, đám người lưu vong như sói đói, đêm nay lại lộ ra một tia thoả mãn.

Lệ Tri trầm mặc một lúc, cầm lấy thịt nướng, khàn giọng nói:

“Đa tạ Điện Hạ…”

Nàng vụng về chống đỡ cơ thể yếu ớt của mình, không thèm để ý đến lễ nghi, trực tiếp dùng miệng cắn một miếng thịt nướng lớn.

Khi mùi thịt tràn ngập trong miệng, Lệ Tri đã lâu không dính thức ăn mặn, gần như cảm nhận được một loại xúc động đã mất từ ​​lâu. Ngay cả khi không có một hạt muối nào trên đó, thì đối với Lệ Tri và đám người lưu vong mà nói, thì đây cũng là mỹ vị xa hoa nhất rồi.

Tạ Lan Tư không vội vàng, hắn gắp một xiên thịt nướng khác, dùng dao cắt thành từng miếng nhỏ bỏ vào miệng. Hắn ăn rất chậm vì phải ngừng lại để ho. Mỗi khi ho, trên khuôn mặt tái nhợt của hắn sẽ hiện lên một dòng huyết sắc bất thường.

“Điện Hạ săn được con gì? Dã Trư sao?” Nàng hỏi.

“Chó.”

Một chữ đơn giản của Tạ Lan Tư đã khiến Lệ Tri biến sắc, những thứ nàng vừa ăn ngay lập tức bị một lực lượng dời sông lấp biển đẩy lên cổ họng.

Nàng quay đầu, không thể kiềm chế mà nôn ra.

“Ngươi biết đường từ Kinh Đô đến Minh Nguyệt Tháp sẽ đi qua cái gì không?” Hắn đột nhiên hỏi.

Đương nhiên Lệ Tri không thể trả lời câu hỏi của hắn.

“Tổng cộng sẽ đi qua hai mươi hai ngọn núi, chín ngọn đồi, bốn hoang mạc và hai bình nguyên.” Tạ Lan Tư nói với giọng nhẹ nhàng thờ ơ. “Mà trên đường đi chỉ có sáu thành lớn, chỉ có sáu cái….. nấu xương ăn xương chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi.”

“… Loại tình huống này, làm sao ta có thể không lên kế hoạch trước cho bản thân?”

Lệ Tri nằm trên đồng hoang, trên mặt nước mắt giàn giụa, lưng cong như cây cung căng hết cỡ, nôn đến cuối cùng, chỉ còn lại mật đắng.

Những gì nàng không hiểu, bây giờ nàng đã hiểu hết rồi.

Ngay từ đầu, những con chó hoang đó là đường lui của Tạ Lan Tư.

“Chín con, chạy ba con.” Tạ Lan Tư thở dài, “… Thật đáng tiếc.”

Lệ tri ngẩng đầu, xuyên qua khe hở của ánh lửa nhìn thiếu niên đối diện. Nếu không để ý đến sự lạnh lùng trong đáy mắt hắn, biểu tình của hắn từ bi đến cỡ nào. Đủ để lừa gạt tất cả những tên cáo già khác.

Mọi người đều nói, đích tử của Thái Tử, ngọc khiết tùng trinh, ôn hòa hữu lễ, có phong cách của phụ thân.

Chỉ có Lệ Tri nhìn thấy nàng và hắn có cùng một thứ.

Đó là đau đến lạnh lùng.

“Ngươi nhìn bên kia.” Tạ Lan Tư nói.

Theo hướng hắn chỉ, Lệ Tri nhìn thấy Trịnh Cung đang hài lòng xỉa răng. Tất cả mọi người đều gầy đi, chỉ có hắn, càng ngày càng tròn trịa hơn.

Hành động xỉa răng của Trịnh Cung khiến nàng nhớ đến ngày Thần Đan chết, hắn cũng như vậy, vẻ mặt thỏa mãn và thư thái.

Giết một sinh vật trung thành và ngoan ngoãn không gây cho hắn ta một chút căng thẳng nào.

“Nếu ngươi muốn hắn tiếp tục cao hứng” Tạ Lan Tư chậm rãi nói, “Thì đừng ăn gì.”

Những lời của Tạ Lan Tư đâm mạnh vào ngực Lệ Tri. Đôi mắt nàng dấy lên ánh lửa tàn nhẫn.

Tại sao người tốt luôn phải chịu khổ?

Tại sao ác giả ác báo chỉ xuất hiện trong những câu chuyện xưa của người kể chuyện?

Mọi người luôn nói thiên lý sáng tỏ, nhân nào quả nấy…. vậy báo ứng của Trịnh Cung ở đâu, hung thủ giết muội muội của nàng ở đâu?

Hoàng Tử và thường dân đồng tội, bất kể ở triều đại nào, cũng chỉ là một câu nói đùa.

Căm thù là một lực lượng mạnh hơn tất cả các loại tình cảm khác.

Nó có thể thay đổi Lệ Tri từ một tiểu thư sẽ khóc thét khi bị xước da thành một người cứng đầu không rên một tiếng khi bị đánh ba mươi roi. Nó cũng có thể khiến nàng, người vừa rồi còn ghê tởm nôn ra mật đắng, vùng vẫy từ dưới đất đứng lên, cầm lấy xiên thịt rơi trên mặt đất, tùy tiện nhét vào miệng.

Nàng không cắn mà nuốt, thỉnh thoảng cố nén phản ứng nôn mửa, nàng che miệng, dùng sức nuốt miếng thịt chó xuống.

Ánh lửa bập bùng soi rõ thủy quang vỡ vụn trong mắt nàng.

Nàng thực hiện lời hứa của mình….. Nàng sẽ làm bất cứ điều gì để sống sót.

Ngọn lửa nhảy nhót lúc sáng lúc tối, khiến hai gương mặt bên lửa trại có chút mơ hồ.

Đêm đã qua hơn phân nửa, trong hoang vắng vang lên những tiếng ngáy liên tiếp. Ngọn lửa hừng hực yếu dần, tiếng răng rắc đã ngưng từ lâu. Ngoại trừ ngẫu nhiên ho khan mấy tiếng, Tạ Lan Tư không nói gì nữa.

Lệ Tri nhặt một nhánh cây khô không cháy và khuấy phần củi còn lại. Tạ Lan Tư có vẻ buồn ngủ, đứng dậy và phủi chiếc áo khoác màu xanh lam, chậm rãi đi về phía xe ngựa dưới bầu trời đầy sao.

“… Tại sao Điện Hạ lại giúp ta?”

Sau lưng hắn, một giọng nói yếu ớt vang lên.

Tạ Lan Tư dừng bước, quay đầu nhìn lại. Trong đôi mắt lạnh lùng của hắn hiện lên một tia giễu cợt.

“… Ta nói ta ngưỡng mộ cô nương, cô nương có tin không?”

Giọng điệu của hắn rất quen thuộc với Lệ Tri, hắn gần như lặp lại những gì nàng đã nói, ngay cả những lúc ngắt quãng trong giọng điệu cũng giống như đúc.

Lệ Tri á khẩu không trả lời được.

Tạ Lan Tư không đợi nàng trả lời, quay người lên xe ngựa.

Bức màn gấm rơi xuống, xe ngựa và bên ngoài trở thành hai thế giới.

Mai, trúc, tùng trên màn như đang nhảy múa với gió đêm.

Nàng… đương nhiên một chữ cũng không tin.

Lệ Tri cụp mắt xuống, hướng ánh mắt không nơi nương tựa về phía đống lửa còn sót lại.

Thiên lý không thể tin, nàng chỉ tin vào chính mình.

Báo ứng nàng muốn, nàng tự mình đi thỉnh.

**************

_Lời của Editor: Từ chương 1 mình có dịch sát nghĩa chức vụ của các nha dịch là “áp giải đường dài” và “áp giải đường ngắn”. Nhưng càng về sau thì cách dịch này không hợp lý và khó làm suông câu văn. Nên mình đã sửa lại những chương trước theo đúng nghĩa Hán Việt mà tác giả viết, sửa như sau:

Áp giải đường dài = Trường giải

Áp giải đường ngắn = Đoản giải

_Và trong quá trình đọc nếu các bạn thấy sai chính tả hoặc gõ chữ nhầm ở đâu đó thì xin để lại cmt để mình sửa. Vì mình vừa edit vừa đọc nên đôi khi sẽ có sai sót. Cảm ơn mọi người.
 
Chương 10


“Ngươi thua rồi!”

Trịnh Cung cười lớn, chộp lấy khối bạc vụn trên hòn đá, tên đoản giải đã thua liên tiếp tức tối đứng lên.

“Sao thế lão Vương……có thua bao nhiêu đâu mà đã ngừng chơi à?” Trịnh Cung trêu ghẹo.

Mấy tên nha dịch vây xem cũng la ó theo, sắc mặt Vương đoản giải càng thêm khó coi.

Sau khi Vương đoản giải rời đi, sòng bạc vẫn tiếp tục. Trịnh Cung hét lên, những nha dịch bên cạnh thi nhau móc bạc vụn của mình ra gia nhập.

Ở trên người Trịnh Cung, Lệ Tri khó có thể tìm thấy chút ánh sáng nào của tình người.

Ngày thứ hai, ngày thứ ba, sòng bạc vẫn cứ tiếp tục.

Vương đoản giải càng đánh càng thua, càng thua càng muốn đánh, thẳng đến khi không còn gì để mất, thì Trịnh Cung loại hắn ra khỏi cuộc chơi.

Lệ Tri biết cơ hội của mình đã đến.

Một lần, khi Vương đoản giải trông coi những nữ lưu đày đi vệ sinh, Lệ Tri cố ý ở lại cuối cùng.

“Làm gì? Ngươi không muốn đi?” Vương đoản giải thua liên tục mấy ngày, tâm tình cáu kỉnh, nhìn ai cũng muốn nổi giận.

Lệ Tri do dự một chút, sau đó thận trọng nói: “Có một chuyện mà dân nữ không biết có nên nói ra hay không… Quan gia cứ thua tiền miết, thật ra là có ẩn tình trong đó.”

“Ẩn tình gì?!” Sắc mặt Vương đoản giải đại biến.

“Nếu ta nói với quan gia, quan gia có thể cho ta một miếng ăn không?” Lệ Tri nuốt nước miếng.

Vương đoản giải không hề nghi ngờ, sờ trong lòng, lấy ra một miếng khoai lang còn sót lại ném cho Lệ Tri.

“Nói mau! Nếu dám lừa ta, cẩn thận cái đầu của ngươi…” Trong mắt Vương đoản giải hiện lên một tia hung ác.

Lệ Tri nhặt miếng khoai lang rơi dưới đất giấu vào trong tay áo, nhìn quanh không thấy ai, liền tiến tới gần Vương đoản giải thì thầm vài câu.

“Thật không?!”

“… Hoàn toàn là sự thật, quan gia cứ đánh bạc thêm một lần nữa là có thể chứng minh những gì dân nữ nói là sự thật.”

Phía sau có tiếng người sột soạt mặc quần áo khi đi vệ sinh xong, Lệ Tri ngừng nói. Sau khi trở lại khu đóng quân, Vương đoản giải thực sự nóng lòng liền đi tìm Trịnh Cung đánh bạc.

“ Ngươi còn tiền đánh bạc sao?” Trịnh Cung lộ ra vẻ mặt khinh thường.

“Ta còn!”

Vương đoản giải lấy ra một miếng ngọc bội đục ngầu.

Trịnh Cung nhìn nó với vẻ ghét bỏ, nhưng cuối cùng hắn vẫn đồng ý đánh với Vương đoản giải một ván.

Trên hoang mạc mênh mông cát vàng, Trịnh Cung và Vương đoản giải ngồi trên mặt đất, nhìn những nha dịch náo nhiệt và những kẻ lưu vong vây mấy tầng xung quanh chiếu bạc.

Lệ Tri quay lưng về phía đám đông, vẻ mặt bình tĩnh ăn khoai lang trong tay.

Hàm răng nhỏ cắn vào miếng khoai lang sống giòn tan.

Chẹp chẹp, chẹp chẹp, chẹp chẹp…

Chậm chạp mà kiên quyết, như muốn bầm thây vạn đoạn.

Không lâu sau, âm thanh tức giận của Vương đoản giải vang lên sau lưng: “Ngươi chơi bẩn lừa ta!”

Trịnh Cung còn chưa kịp giải thích, đám đông đã vang lên tiếng kinh hô.

Vương đoản giải đánh Trịnh Cung ngã xuống đất, hai người lập tức vật lộn với nhau.

Trịnh Cung xưa giờ luôn ham ăn biếng làm, thường trốn đi đánh xe. Chẳng mấy chốc, hắn đã thua Vương đoản giải, người có eo thô vai rộng, toàn thân cơ bắp.

“Thôi đi, các ngươi quên mình còn đang áp giải phạm nhân sao?!” Chân Điều nghe được tin tức chạy đến, giận dữ mắng hai người.

Lúc này đám nha dịch xem náo nhiệt mới lao tới kéo hai người đang đánh nhau ra. Vương đoản giải chỉ thở gấp, nhưng mắt mũi của Trịnh Cung đã sưng bầm.

“Họ Trịnh kia, nếu ngươi không trả lại số tiền mà ngươi đã lừa ta, ta sẽ không để yên cho ngươi!”

“Ngươi có bệnh không, chơi thua không chịu à!”

Mặc dù đã tách ra, Nhưng Vương đoản giải và Trịnh Cung vẫn tức giận đỏ mặt mà mắng nhau.

Lệ Tri đút miếng khoai lang cuối cùng vào miệng, ngay cả vụn khoai dính trên đầu ngón tay cũng không tha.

Trịnh Cung không phải kẻ ngu.

Hắn sẽ mất bao lâu để phát hiện ra nàng là người mật báo sau lưng đây?

Vài ngày sau, Vương đoản giải cầm thùng gỗ đựng lương khô đi phát, khi đến trước mặt Lệ Tri. Hắn dừng lại một chút, rồi từ trong thùng lấy ra miếng lương khô lớn nhất ném cho Lệ Tri trước ánh mắt ghen tị của những người khác.

Lệ Tri biết, Vương đoản giải và Trịnh Cung hòa giải, kế hoạch của nàng đã tiến được một bước lớn.

Theo một nghĩa nào đó, Lệ Tri cũng bị chìm đắm trong mị lực của việc đánh bạc.

Điều khác biệt là nàng đang đánh cược vào sinh tử. Vận mệnh thông qua trò chơi, nàng đã khiến vận mệnh của mình và người khác đi theo những hướng hoàn toàn khác nhau.

Và điểm quan trọng nhất…. nàng không sợ thua.

Không sợ hai bàn tay trắng, không sợ vạn kiếp bất phục.

Sự chiếu cố đặc biệt của Vương đoản giải chỉ kéo dài ba ngày, sau đó hắn giao cho đoản giải mới đến thay ca, rồi rời đi với những tài vật do Trịnh Cung trả lại cho hắn.

Sau khi Vương đoản giải đi, liên tiếp hai ngày Lệ Tri đều không nhận được khẩu phần lương thực. Mỗi lần Trịnh Cung phát lương khô đều phớt lờ sự tồn tại của nàng, cố ý cho những người xung quanh nàng khẩu phần lương thực lớn hơn một chút.

Những người lưu vong thường gió chiều nào theo chiều đó, vì để làm hài lòng Trịnh Cung, họ đã chế nhạo và nhắm vào Lệ Tri mà không có bất kỳ gánh nặng nào.

Trịnh Cung muốn giết nàng cho hả giận, nhưng vì thái độ không rõ ràng của Tạ Lan Tư, hắn chỉ có thể sử dụng các thủ đoạn quanh co để đạt được mục đích của mình.

Sự ác ý không thể che giấu trong mắt hắn cho thấy, hắn muốn bỏ đói Lệ Tri cho đến chết.

Nhưng nếu có một cơ hội ngay lập tức thì sao?

Dòng người bôn ba ngàn dặm, quá trình này có thể kéo dài vài tháng đến một năm, thời gian dài như vậy không thể không tắm giặt một lần.

Mỗi tháng, trường giải sẽ chọn một nơi gần nguồn nước để hạ trại và nghỉ ngơi. Những người cần tắm rửa sẽ căn cứ giới tính mà kết bạn đi với nhau, thừa dịp đêm tối sẽ lặng lẽ rửa sạch thân thể.

Ngày thứ ba sau khi Vương đoản giải rời đi, đội ngũ gặp được một ốc đảo nhỏ. Chân Điều quyết định đêm nay sẽ nghỉ ngơi ở đây, để mọi người có cơ hội tẩy rửa thân thể.

Có người thà lấm lem bùn đất cũng không muốn đụng vào nước lạnh, có người chấp nhận hàm răng run lên cầm cập cũng muốn ngâm mình trong nước để gột rửa thân thể.

Họ lần lượt đi đến hồ nước ẩn trong rừng cây, Chu Thị cũng muốn đi tắm, nhưng bà nhìn hai đứa trẻ với khuôn mặt bối rối.

“Ta sẽ giúp di nương trông coi đệ đệ và muội muội, di nương yên tâm đi đi.” Lệ Tri mỉm cười xuất hiện bên cạnh Chu Thị.

“Thật sao? Nhưng mà…” Chu Thị kinh hỉ nhưng vẫn có chút do dự.

“Di nương mau đi, một lát nữa sẽ không có ai đi đâu.” Lệ Tri nói.

Lời nói của nàng đã cảnh tỉnh Chu Thị, ở nơi này, nữ nhân bị bỏ lại một mình chẳng khác nào thỏ lọt vào miệng sói.

Sau khi Chu Thị cám ơn Lệ Tri xong, liền vội vàng đuổi kịp những nữ lưu vong đang đi phía trước.

Lệ Tri mỉm cười với hai huynh muội, rồi ôm đầu gối ngồi trên nền đất lạnh bên cạnh hai người.

Cô và hai huynh muội  Lệ Tượng Thăng, Lệ Từ Ân không có nhiều liên lạc với nhau, vì là huynh trưởng nên Lệ Tượng Thăng bảo vệ muội muội của mình sau lưng, vẻ mặt đề phòng nhìn Lệ Tri, người đến mà không rõ lý do.

Sự hy sinh của thân mẫu và bao gian khổ trên con đường tha hương đã khiến thiếu niên mười hai tuổi trưởng thành sớm.

“Tối nay có thể  thấy Giác Tú (*)…” Lệ Tri nhìn bầu trời đầy sao, cảm thán nói.

“Giác Tú là cái gì?” Lệ Từ Ân tò mò hỏi.

“Là tên của chòm sao.”

“Tại sao nó được gọi Giác Tú?”

“Muội hãy nhìn hai ngôi sao đó, chúng có giống hai sừng của một con rồng không?”

(*)Sao Giác, Giác Tú (Chữ Hán: 角宿, bính âm: Jiǎo Xiù) hay Giác Mộc Giao (角木蛟) là tên gọi của một trong hai mươi tám chòm sao Trung Quốc cổ đại (nhị thập bát tú). Nghĩa đen của nó là sừng và con vật tượng trưng là giao long/thuồng luồng (Giác Mộc Giao). Nó là chòm sao thứ nhất trong 7 chòm sao thuộc về Thanh Long ở phương Đông, tượng trưng cho Mộc của Ngũ hành và mùa xuân. nguồn:wikipedia

Lệ Từ Ân nheo mắt nhìn, lập tức kinh ngạc thốt lên: “Giống! Thật sự rất giống!”

Lệ Tượng Thăng không nói gì, nhưng ánh mắt cũng nhìn về phía Lệ Tri chỉ.

“Mỗi ngôi sao đều mang đến những điềm báo khác nhau.” Lệ Tri nói.

“Điềm báo của Giác Tú là gì?” Lệ Từ Ân hỏi.

Lệ Tri không trả lời, nàng mỉm cười nhìn lên bầu trời đầy sao.

Sau khi tắm rửa sạch sẽ, Chu Thị trở lại bên cạnh hai huynh muội, trong ngực ôm muội muội, trong tay nắm ca ca, thấp giọng ngâm nga những bài đồng dao quê hương.

Màn đêm càng ngày càng tối.

Gió đêm xuyên qua mặt nước vờn quanh rừng cây, khuấy động những phiến lá phát ra tiếng nhạc sàn sạt. Xe ngựa của Tạ Lan Tư cô độc đứng bên ngoài đám đông, tấm da chó mềm mại và ấm áp trải ở cửa xe ngựa, màn gấm mai trúc tùng khẽ đung đưa dưới ánh trăng.

Không còn ai đến hồ nước trong rừng nữa, người muốn tắm và người không muốn tắm lần lượt chìm vào giấc ngủ. Tiếng ngân nga của Chu Thị chẳng biết đã ngừng lại từ lúc nào, tiếng ngáy liên tiếp phá vỡ cảnh đêm yên tĩnh.

Tối nay đến lượt Trịnh Cung trực, nhưng chỉ khác ở chỗ hắn chuyển từ ngủ nằm sang ngủ ngồi mà thôi.

Lúc này Lệ Tri đứng dậy, Lệ Từ Ân đang ngủ bên cạnh cũng bị nàng đánh thức.

“ Tỷ tỷ …” Lệ Từ Ân nửa mê nửa tỉnh nhìn nàng.

Lệ Tri mỉm cười ra hiệu bảo nàng ấy im lặng, tiểu cô nương mặc dù không biết Lệ Tri định làm gì nhưng vẫn ngoan ngoãn im lặng.

Một lợi thế của chứng mất ngủ là ngươi có thể hòa mình vào màn đêm, đem tất cả mọi hoạt động xung quanh thu hết vào trong mắt.

Mỗi đêm khi Trịnh Cung trực, hắn sẽ rất tỉnh táo trong hai canh giờ đầu tiên, đến khi các đồng liêu của hắn đều đã ngủ, hắn sẽ lơ là nhiệm vụ của mình bằng cách ngủ một giờ và tỉnh một nén nhang.

Ngay lúc hắn tỉnh dậy.

Hắn sẽ nhìn thấy hình bóng nàng đi vào trong rừng.

Chỉ một mình, hình bóng mảnh mai và đơn bạc.

Hắn sẽ nghĩ ra một ý tưởng ác độc và đau đớn hơn là bỏ đói nàng đến chết.

Hắn sẽ rón rén theo sau, để tránh bị nàng phát hiện khi hắn giẫm phải cành khô trên mặt đất.

Nhưng có một loại âm thanh, mà hắn không cách nào tiêu trừ.



Trịnh Cung đã đưa tay nhấc chân một cách nhẹ nhàng nhất, nhưng tiếng vải cọ xát vẫn phát ra âm thanh sột soạt trong màn đêm tĩnh mịch.

Hắn thấy bực bội vì điều này, không thể không thả chậm bước chân, kéo dài khoảng cách, đề phòng thiếu nữ phía trước cảnh giác.

Bởi vì hắn biết nàng sẽ đi đâu, cho nên tạm thời mất đi mục tiêu cũng không sao cả.

Hắn mang mục đích giết chóc đi theo một thiếu nữ không hề phòng bị, giống như một con sói xảo quyệt đang theo dõi một con thỏ mũm mĩm, ngây thơ.

Đương nhiên cuối cùng hắn sẽ giết nàng, bởi vì con tiện nhân này dám tố giác hắn, nhưng trước đó, hắn sẽ bịt miệng nàng lại, xem cái xương cứng cỏi này dưới tình huống nào mới có thể  kêu gào xin tha.

Nghĩ đến đây, một loại khoái cảm được che giấu bắt đầu sinh sôi trong trái tim đen tối của Trịnh Cung.

Nước chảy giữa rừng cây cuối cùng hội tụ thành một cái hồ. Mặt hồ trong vắt và tĩnh lặng dưới ánh trăng giống như một tấm gương tinh xảo, phản chiếu những vui buồn và tội lỗi của thế gian đến từng chi tiết.

Thiếu nữ dừng lại bên hồ, quay đầu nhìn quanh, tựa như muốn xem xem mình có bị theo dõi không. Trịnh Cung vội nấp sau gốc cây, một lúc lâu sau, nghe tiếng nước, hắn thò đầu ra nhìn. Trông thấy thiếu nữ ngồi xổm bên hồ, đưa tay múc nước hồ, nhẹ nhàng rửa sạch đất vàng dơ bẩn đã che lấp khuôn mặt.

Nước chảy ra từ những ngón tay của thiếu nữ, nàng vén mái tóc đen ướt sũng ra sau tai, mười ngón tay mảnh khảnh ngâm trong nước vuốt ve đôi mắt như lá liễu, sống mũi cao và hẹp lướt qua chiếc bướu nhỏ nhắn đáng yêu, cuối cùng là đôi má trắng nõn, dưới cái cằm nhọn là cái cổ mảnh khảnh.

Nàng ngẩng đầu lên, ánh trăng dường như đều tập trung trên mặt nàng, giống như một đóa hoa quỳnh nở rộ trong ảo ảnh.

Trịnh Cung nhìn ngây người.

Thiếu nữ rửa mặt xong, nàng nhìn xung quanh, rồi cẩn thận cởi giày, tất và quần áo.

Lau sậy bên hồ đung đưa che khuất cảnh xuân, Trịnh Cung trợn to mắt, nôn nóng thay đổi tư thế, muốn nhìn rõ hơn.

Không đợi hắn tìm được vị trí tốt nhất, thiếu nữ đã bước chân trần xuống hồ.

Nàng bước từng bước một, bước ra khỏi vô số xoáy nước, sau đó hít một hơi thật sâu lao vào giữa hồ.

Sóng nước dập dềnh từng lớp cho đến khi yên lặng.

Trịnh Cung đợi sau gốc cây hồi lâu cũng không thấy thiếu nữ ngoi đầu lên. Hắn không thèm che giấu thân hình, từ sau gốc cây lao ra.

Quần áo bên hồ vẫn còn đó, nhưng thiếu nữ lại giống như tiên tử trong giấc mơ, đã hoàn toàn biến mất khỏi tầm mắt của hắn.

Trịnh Cung tiến thêm vài bước, bắp chân của hắn hoàn toàn chìm trong hồ. Ngoại trừ gợn sóng do hắn tạo ra, mặt hồ vẫn yên tĩnh như cũ.

Quần áo vẫn còn ở đây mà, không thể nào hắn vừa mới xuất thần một chút đã rời đi được.

Trong không khí yên tĩnh phiêu tán một cỗ khí tức chẳng lành. Trịnh Cung đột nhiên cảm giác dựng tóc gáy.

Hắn vừa định quay lại bờ, thì một lực kéo mạnh từ trong nước truyền đến, có thứ gì đó túm lấy bắp chân hắn, hắn theo bản năng muốn lui về phía sau, nhưng bùn trơn dưới đáy hồ khiến hắn ngã ngửa ra.

Bọt nước khổng lồ tràn ra.

Đáy hồ không bằng phẳng.

Trịnh Cung lóe lên suy nghĩ này trong quá trình chìm xuống.

Sóng nước làm mê hoặc ánh mắt hắn, sự hỗn loạn khiến hắn quên cả nín thở. Nước hồ tanh hôi không ngừng xộc vào mũi và miệng hắn, hắn nhìn thấy bọt nước mình phun ra, nhìn thấy hai bàn tay đang nắm chặt lấy mắt cá chân hắn.

Tám vỏ sò được kết nối thành chuỗi bằng sợi chỉ đỏ, ở trong nước, chúng khôi phục lại vẻ sáng bóng ngày xưa, ánh sáng ấy óng ánh chói lọi.

Hắn kịch liệt giãy giụa, miệng và mũi trào ra rất nhiều bọt nước, hắn khua tay vung vẩy đẩy ra từng trận sóng nước. Trong làn nước đen ngòm quay cuồng, hắn nhìn thấy tảng đá lớn được thiếu nữ thả rơi từ từ xuống đáy hồ tối đen.

Mặt nước dần dần phẳng lặng.

Lệ Tri cởi dây thừng được thắt từ cây thủy sinh quanh eo nàng xuống rồi buộc vào chân Trịnh Cung.

Cuối cùng nhìn về hướng thi thể chìm xuống đáy hồ, Lệ Tri đong đưa tứ chi bơi về phía trước.

Sau tiếng nước vỡ ào ào, Lệ Tri ngoi đầu lên, tham lam hít thở làn không khí ngọt ngào.

Sau khi giảm bớt tình trạng khó thở do thiếu dưỡng khí, Lệ Tri bơi về phía bờ.

Chỉ một bước.

Một đôi mắt đen láy nhìn chằm chằm nàng.

Lệ Tri nhìn vào đôi mắt vừa bình tĩnh vừa tìm tòi nghiên cứu này, liền nhận ra rằng hắn đã biết chuyện gì đã xảy ra trong hồ nước.

Nàng nhìn hắn, một lúc sau, nghiêng đầu cười với vẻ ngây thơ của hài đồng.

“Điện Hạ muốn vạch trần ta sao?” Lệ Tri nhẹ giọng hỏi.

Bầu trời màu xanh ngọc bích đầy sao, mặt hồ lặng lẽ tỏa sáng, cỏ xanh lau sậy chen chúc với nhau, thiếu nữ ẩn mình trong hồ, mái tóc đen dày bồng bềnh trong nước, bờ vai trắng nõn như ẩn như hiện, giống như thủy yêu mê hoặc lòng người trong những câu truyện liêu trai.

“... Ngươi sợ sao?” Tạ Lan Tư hỏi lại một câu.

Lệ Tri nở nụ cười.

Vào cái ngày nàng chỉ còn lại hai bàn tay trắng, nàng đã vứt bỏ tất cả sợ hãi rồi.

“Ngày thứ đệ của Điện Hạ chết” Nàng nói, “Điện Hạ có sợ không?”

Nàng đắm mình trong hồ nước, nhìn thẳng vào Tạ Lan Tư trên bờ.

Nàng nhìn thấy, bên môi hắn nở một nụ cười bí ẩn.
 
Chương 11


Thần sắc Chân Điều đầy lo lắng, đám đoản giải còn lại hai mặt nhìn nhau.

Mặt trời đã lên ba sào, lẽ ra đội ngũ phải lên đường như thường lệ, nhưng bây giờ mọi người vẫn đang mắc kẹt trong ốc đảo.

Chỉ có một nguyên nhân, Trịnh Cung, người trực đêm qua, sáng nay đã mất tích.

“Hay là đi tìm trong ốc đảo một lần nữa?” Một đoản giải đề nghị.

“Ta đã tìm bốn năm lần rồi, nhưng thật sự không có.” Một tên đoản giải khác lắc đầu.

“Một người sống sờ sờ không thể cứ biến mất như vậy được.” Chân Điều tức giận nói: “Triệu tập tất cả những người lưu đày lại đây, ta muốn thẩm vấn từng người một!”

Chỉ có một trăm năm mươi người còn sống trong số ba trăm bốn mươi người rời khỏi Kinh Đô, nhưng nếu chỉ dựa vào một mình Chân Điều thì không thể thẩm vấn hết được. Cho nên Chân Điều chọn thêm hai tên đoản giải kỹ tính khác để tham gia điều tra thẩm vấn.

Mối nghi ngờ chính của Chân Điều là những người có ân oán với Trịnh Cung, nhóm người này hắn sẽ đích thân thẩm vấn.

Khi đến lượt Lệ Tri, Chân Điều nhìn nàng nhiều hơn một chút và nhận ra nàng là người đã ngăn đón xe ngựa để cầu cứu.

“Đêm qua ngươi làm gì?” Chân Điều hỏi.

“Ta giúp Chu di nương trông nom hai hài tử của bà ấy, để di nương yên tâm đi tắm hồ.” Lệ Tri nói, “Sau khi Chu di nương trở về, ta cùng ba người bọn họ ngắm sao. Đêm qua, Giác Tú hiện ra, ta đã chỉ cho đệ đệ và muội muội cái gì gọi là Giác Tú.

“Sau đó thì sao?”

“Sau đó, Chu di nương hát ru hai đứa nhỏ ngủ. Bất tri bất giác ta cũng ngủ luôn. Khi tỉnh lại đã là buổi sáng rồi.”

“Ngươi nói ba người này, đều ngủ trước ngươi?”

“Hồi đại nhân, đúng vậy.”

“Nói cách khác, không có ai có thể chứng minh ngươi ngủ thật hay ngủ giả?” Chân Điều híp mắt, nghi hoặc nhìn thiếu nữ trước mặt.

Không đeo gông xiềng, tức là còn chưa tới mười sáu tuổi, chẳng lẽ một thiếu nữ yếu ớt như vậy lại là thủ phạm khiến Trịnh Cung mất tích?

“Đại nhân, có người làm chứng cho nàng ta.” Lúc này một đoản giải đi tới, “Một tiểu cô nương tên Lệ Từ Ân nói đây là tỷ tỷ cùng cha khác mẹ của nàng. Đêm qua, tiếng ngáy bên cạnh làm nàng ngủ không được nên tỉnh dậy vài lần, và thấy Lệ Tri luôn ở bên người nàng.”

Lệ Tri thản nhiên đón nhận ánh mắt của Chân Điều.

“… Được rồi, để người khác tới.” Chân Điều phất phất tay, ý bảo Lệ Tri lui ra.

Sau khi Lệ Tri lui ra, Chân Điều liên tiếp thẩm vấn hơn chục người có ân oán với Trịnh Cung, nhưng họ đều phủ nhận mình có liên quan đến việc Trịnh Cung mất tích.

Cuộc điều tra chẳng đi đến đâu.

“Đại nhân…” Có đoản giải nhịn không được nhìn sắc trời, vẻ mặt khó xử nói, “Nếu không xuất phát, hôm nay sẽ không đi được bao nhiêu.”

Mặc dù những nha dịch áp giải không phải chịu trách nhiệm về việc số lượng tội nhân giảm xuống, nhưng họ sẽ bị hoạch tội khi làm chậm trễ lộ trình.

Lời của đoản giải đã nói lên tâm khảm của những nha dịch khác, tất cả bọn hắn đều chờ mong nhìn Chân Điều.

Cách đó không xa, Tạ Lan Tư vén màn gấm xe ngựa lên, nắm tay che miệng ho khan hai tiếng.

“Khục… Sao chưa xuất phát, đã xảy ra chuyện gì sao?”

“Điện Hạ……” Chân Điều đi tới xe ngựa khom người hành lễ, “Trường giải Trịnh Cung, tối hôm qua mất tích, ty chức đang thẩm vấn đám người lưu vong để tìm manh mối.”

“Trịnh Cung?” Tạ Lan Tư nói, “Rạng sáng hôm nay, khi ta mở cửa sổ thông khí, ta nhìn thấy một bóng người trông giống như Trịnh Cung đang đi về phía đông. Hắn còn chưa trở lại sao?”

“Điện Hạ, ngài nhìn thấy đúng là Trịnh Cung sao?” Chân Điều sửng sốt.

“Ta chỉ nhìn thấy bóng lưng.” Tạ Lan Tư lại ho khan hai tiếng, sắc mặt có chút hồng, “Hẳn là Trịnh Cung.”

“Chỉ có một mình hắn à?” Chân Điều hỏi.

Tạ Lan Tư gật đầu.

“Đại nhân…” Một gã đoản giải dò xét mở miệng: “Trịnh Cung… có phải là hắn đào quân không?”

Một hòn đá dấy lên nghìn đợt sóng, tiếng đám đoản giải nhao nhao phụ họa.

“Đúng đó, hắn luôn phàn nàn công việc này mệt mỏi mà không kiếm chát được gì…”

Không phải Chân Điều không biết bản tính của Trịnh Cung, nhưng hắn vẫn nghi ngờ liệu Trịnh Cung có ngu ngốc đến mức đào quân hay không.

Hắn tâm phiền ý loạn nói: “Việc này mà còn điều tra không khỏi sẽ trì hoãn lộ trình, trước tiên gọi bọn lưu vong lên đường đi!”

Tạm thời không giải quyết được chuyện Trịnh Cung mất tích, đám đoản giải lớn tiếng hét lên, đội ngũ lưu vong lần lượt lên đường.

Chu Thị mỗi tay nắm một hài tử, chật vật bước đi trong sa mạc. Lệ Tri đi đến bên người Lệ Từ Ân nắm lấy bàn tay nhỏ của muội muội.

Chu Thị kinh ngạc nhìn nàng, Lệ Tri cười với bà. Do dự một hồi, Chu Thị buông tay Lệ Từ Ân ra, Lệ Tượng Thăng ở bên cạnh thò đầu ra nhìn, thấy muội muội vui vẻ với Lệ Tri, sự phòng bị trên mặt hắn mới dần dần giảm bớt.

Sau hai ngày đi bộ trong sa mạc, cuối cùng đội ngũ cũng nhìn thấy núi rừng phập phồng. Mặc dù điều này có nghĩa là sẽ có thêm thức ăn, nhưng khi độ cao tăng lên, không khí trở nên lạnh hơn, mặt đất bắt đầu xuất hiện những bông tuyết rơi lả tả.

Quần áo mỏng manh của những người lưu vong không thể chống chọi với cái lạnh khắc nghiệt, càng ngày càng có nhiều người nhiễm gió rét.

Khi cả đội đi qua thành Dương Thành, ngoài hai tên đoản giải được chuyển giao ra, thì có thêm một trường giải mới thế chỗ cho Trịnh Cung.

Trường giải mới bất cận nhân tình này họ Trần, hắn xem thường tất cả mọi người, vừa tới không lâu đã xảy ra xung đột với Chu Thị.

“Cút mau!”

Đêm đó, tiếng gầm giận dữ của Trần trường giải đã phá vỡ sự yên tĩnh của nơi trú quân.

Chu Thị bị đẩy ngã xuống đất, vẻ mặt sợ hãi và quẫn bách nhìn Trần trường giải đang trừng mắt phẫn nộ.

“Hoang đường! Ngươi cho đây là địa phương nào? Cho dù ngươi là tần lâu sở quán, bổn quan cũng không phải là cái loại khách nhân đó của ngươi! Trước mắt bao nhiêu người dám quấy rối bổn quan, ta thấy ngươi chán sống rồi!”

Nói xong, Trần trường giải giơ nắm đấm lên.

Mặt Chu Thị đỏ lên, nước mắt lăn dài trên gò má.

Lệ Tượng Thăng vọt tới, cố gắng nâng Chu Thị dậy, hắn trừng mắt nhìn Trần trường giải. Lệ Từ Ân cũng khóc và đứng che trước người Chu Thị.

“Chúng ta sai rồi, cầu xin đại nhân đừng đánh di nương…”

Ta không quan tâm trước đó ngươi đã làm gì, ta nói cho ngươi biết…. những biện pháp hạ lưu bẩn thỉu đó sẽ không thực hiện được ở chỗ của ta!” Trần trường giải quát lớn.

Trước đây Chu Thị có hối lộ Trịnh Cung, nhưng cũng là cảnh tối lửa tắt đèn, giờ phút này chịu nhục một cách công khai, bà chỉ biết vùi đầu khóc không thành tiếng.

Trần trường giải hừ lạnh một tiếng, ôm bội đao ngồi lại chỗ cũ.

“Di nương, đừng khóc… Chúng ta đi thôi.” Lệ Tượng Thăng đỡ Chu Thị đứng dậy, thấp giọng nói.

Lệ Từ Ân cũng tiến lên đỡ Chu Thị dậy, ba người giữa vô số ánh mắt chế giễu khinh thường, cùng nhau đi đến chỗ không người ngồi xuống.

“Đáng đời… đúng là nữ nhân xuất thân từ thương gia, không biết liêm sỉ, lẳng lơ…” Vương Thị vòng tay ôm lấy Lệ Huệ Trực, cười lạnh một tiếng.

Chu Thị có dung mạo quyến rũ, được Lệ Kiều Niên vô cùng yêu thích, nữ nhân trong phủ nhìn bà không vừa mắt đã là chuyện lâu ngày.

Sau khi Vương Thị nói xong, Trịnh Thị còn dội thêm một gáo nước lạnh: “Nếu lão gia còn sống, chẳng phải sẽ bị nữ nhân này chọc cho tức chết sao!”

Dù mất đi nữ nhi duy nhất cách đây không lâu nhưng miệng lưỡi bén nhọn của Trịnh Thị vẫn không bị ảnh hưởng chút nào.

“Ta đã sớm nói với lão gia, không thể mang nữ nhân như vậy vào cửa!” Vương Thị nói.

“… Mẫu thân, Chu di nương cũng là bị ép buộc.” Lệ Huệ Trực bảy tuổi không nhịn được nói thay Chu Thị, “Con thấy di nương đều đưa hết khẩu phần lương thực của mình cho Tượng Thăng và Từ Ân. Bà không có gì để ăn, cũng sắp chết đói …”

“Cho dù chết đói, ta cũng sẽ không làm loại chuyện này!” Vương Thị quả quyết nói, “Đây là cốt khí của chúng ta!”

“Đúng vậy…” Trịnh Thị phụ họa.

“Nhưng mà…”

“Con phải nhớ kỹ, con là đích tử của Lệ Gia trâm anh bất thế, đây không phải là lời con nên nói!” Vương Thị trừng mắt một cái, Lệ Huệ Trực chỉ có thể ngậm miệng lại.

Lệ Tri ngồi dưới đất, nghịch những chiếc lá mà nàng tiện tay hái, lắng nghe cuộc trò chuyện của bọn họ với vẻ trào phúng.

Người đã sắp chết đói rồi, còn nhớ cái gì mà trâm anh bất thế của ngày xưa chứ.

Kể từ đó, Chu Thị đã đắc tội với Trần trường giải, mỗi khi hắn phân phát lương khô, Chu Thị và các con của bà chỉ có thể nhận được khẩu phần lương thực nhỏ nhất.

Chu Thị không còn lựa chọn nào khác ngoài việc mở rộng đùi cho tất cả những người lưu vong, để đổi lấy một chút lương thực sống sót.

Bà trở thành người không được yêu thích nhất trong một trăm năm mươi người, và ngay cả những người ăn mặc tồi tàn cũng có thể nhìn bà với ánh mắt khinh bỉ và chán ghét.

Lúc Chu Thị cần, bà sẽ giao hai hài tử Lệ Từ Ân và Lệ Tượng Thăng cho Lệ Tri. Lệ Tri luôn che mắt Từ Ân và khẽ ngâm nga những bài đồng dao đến từ Kinh Đô mà Chu Thị đã từng hát. Lệ Tượng Thăng ngồi một bên, khuôn mặt âm trầm, giống như một tảng đá cứng.

Nhưng mà vẫn không đủ.

Mặc dù mỗi người chỉ ăn theo khẩu phần lương thực thấp nhất, nhưng lượng thức ăn cần cho ba người cũng không phải là ít.

Chu Thị tìm mọi cách để tìm kiếm thức ăn.

“Người nói cái gì?” Lệ Tri nhìn Chu Thị trước mặt.

Bà gọi Lệ Tri sang một bên, quay lưng lại với ánh mắt nghi hoặc của hai hài tử, vẻ mặt xấu hổ mà nói lại một lần nữa.

“Ta... Ta nhìn thấy… Trịnh Cung đi theo ngươi vào rừng cây, sau đó… chỉ có ngươi đi ra, Trịnh Cung biến mất.” Thần sắc bà xấu hổ, ánh mắt dao động không dám tiếp xúc với đôi mắt của Lệ Tri, “Ta đã nhìn thấy tất cả…”

“Ngươi cho ta ăn…” Bà nói, “Ta sẽ giữ bí mật cho ngươi.”

Lệ Tri đã hiểu.

Nàng cười nói: “Được.”

Không thể tin được việc kiếm thức ăn lại dễ dàng như vậy, đôi mắt của Chu Thị mở to.

“Đủ không?”

Lệ Tri đưa phần lương khô còn chưa nóng tay mà nàng vừa nhận được cho Chu Thị.

“Đủ rồi, đủ rồi.”

Chu Thị vội vàng nhận lấy lương khô, nhìn Lệ Tri cười ngập ngừng, rồi bẻ một nửa đưa lại cho nàng. Sau đó nhanh chóng rời đi, quay lại bên người hai hài tử.

Lệ Tri nhìn bóng lưng Chu Thị một lúc, rồi quay người đi về phía xe ngựa.

Sau khi bức màn gấm được vén lên, Lệ Tri đưa lên nửa phần lương khô, giọng điệu tiếc nuối nói: “Đều giao hết cho Điện Hạ, sau này lương thực có thể còn ít hơn nữa.”

Tạ Lan Tư nửa nằm trên ghế phủ đầy da chó, môi không huyết sắc, nhưng hai gò má lại nhuộm một vòng đỏ ửng.

“… Bị uy hiếp rồi?” Âm thanh hắn khàn khàn, vẻ mặt bình tĩnh dường như biết rõ chân tướng.

“Đây là điều khó tránh khỏi.” Lệ Tri cười nói, “Tai vách mạch rừng, luôn sẽ có ngoài ý muốn.”

“Cái ngoài ý muốn này” Tạ Lan Tư hỏi, “Ngươi định xử lý như thế nào?”

Lệ Tri cười nói, “Thuận theo tự nhiên thôi.”

Tạ Lan Tư từ chối cho ý kiến, che miệng cúi đầu ho khan. Lệ Tri cho rằng gió lạnh từ tấm rèm gấm lùa vào, nàng đang muốn rời đi, thì Tạ Lan Tư phất tay cự tuyệt lương khô nàng đưa.

“Ta ăn không vô… ngươi mang đi đi.” Hắn ho khan một tiếng, vẻ mặt không giống giả.

Lúc này Lệ Tri mới phát hiện lương khô nàng đưa hôm qua còn nằm trong góc xe ngựa.

Tạ Lan Tư chỉ ăn một chút rồi đặt nó sang một bên.

“Điện Hạ, thân thể của ngài... ” Lệ Tri cau mày.

Bức màn gấm đã buông xuống, nhưng phía sau bức màn tiếng ho cố nén vẫn còn tiếp tục.

Lệ Tri đứng ngoài xe ngựa một lúc rồi bất lực rời đi.
 
Chương 12


Vào ngày thứ hai, Lệ Tri đứng ngoài xe ngựa với khẩu phần lương thực vừa nhận được, gõ vào thành xe một lúc, nhưng không có ai trả lời.

“Điện Hạ?” Lệ Tri thăm dò gọi một tiếng.

Bức màn gấm vẫn bất động, ngựa vàng kéo xe khịt khịt cái mũi, một làn sương trắng tản ra trong không trung.

Mọi người tụ tập thành nhóm ở phía xa, sương trắng bao phủ mặt đất và các tán cây xung quanh, nhiệt độ thấp như vậy, thường sẽ có người bất tỉnh vì lạnh.

Lệ Tri thấp giọng nói một câu thất lễ, nàng giơ tay vén rèm gấm ra một khe hở. Ánh trăng nhàn nhạt chiếu vào trong xe ngựa, phản chiếu một mảnh hỗn độn, bàn trà bị lật úp xuống đất, một bình nước bị đổ hơn phân nửa, Tạ Lan Tư gục ở một bên, nửa ống tay áo ướt sũng, cả khuôn mặt đỏ bừng.

“Điện Hạ!”

Giọng nói của Lệ Tri làm cho Chân Điều cách đó không xa chú ý, hắn cau mày bước nhanh tới: “Khi không kêu lên cái gì?”

Không đợi Lệ Tri trả lời, hắn đã đã nhìn thấy Tạ Lan Tư trong xe ngựa.

“Điện Hạ!” Lần này đến lượt Chân Điều biến sắc.

Hắn nhanh chóng nhảy lên xe, vừa nói tạ lỗi vừa sờ trán Tạ Lan Tư, lập tức sắc mặt hắn trở nên khó coi.

Chỉ cần nhìn cái trán đỏ bừng kia, Lệ Tri liền đoán được thân nhiệt của Tạ Lan Tư nhất định cao đến đáng sợ.

“Mau đi lấy nước và khăn lau đến đây.” Chân Điều cau mày nói với Lệ Tri.

Lệ Tri vội vàng tìm những nha dịch khác, nghe nói Hoàng Tôn ngã bệnh, rất nhanh nước và khăn lau sạch sẽ đã được đưa lên xe ngựa.

Chân Điều đã cố gắng chiếu cố Tạ Lan Tư, nhưng hắn là một đại nam nhân, ngày thường ở nhà cũng được người khác chiếu cố, nên hắn không hề biết cách chăm sóc người bệnh. Hơn nữa Tạ Lan Tư đổ mồ hôi rất nhiều, riêng việc lau mồ hôi thôi cũng là cả một vấn đề.

Khi đang trong tình thế khó xử, Chân Điều nhìn thấy Lệ Tri đang đứng dưới cửa xe thần sắc ân cần trông ngóng.

“Ngươi có quan hệ gì với Điện Hạ?”

“Điện Hạ có ân với ta.” Lệ Tri tránh nặng tìm nhẹ nói.

“Ở nhà ngươi có chăm sóc ai chưa?” Chân Điều hỏi.

Lệ Tri gật nhẹ đầu: “Sinh mẫu mất sớm, lúc hai tỷ muội ta sinh bệnh, chúng tôi đều chăm sóc lẫn nhau.”

Chân Điều thở phào nhẹ nhõm, để Lệ Tri lên xe chăm sóc Tạ Lan Tư.

“Cần gì cứ nói với ta hoặc trường giải khác.”

Lệ Tri sờ cái trán đỏ bừng của Tạ Lan Tư, quả nhiên nó nóng như nàng dự đoán.

Nóng như vậy rất khó để tự hạ nhiệt.

“Ngài ấy cần một đại phu.” Lệ Tri cau mày.

Nói là nói thế, nhưng nơi hoang sơn dã lĩnh này, Chân Điều cũng không có cách nào gọi ra một đại phu. Hắn đáp ứng với Lệ Tri, khi đi qua thôn kế tiếp, hắn sẽ dừng lại tìm một đại phu dân gian đến xem bệnh cho Tạ Lan Tư. Bây giờ, Lệ Tri cần phải chiếu cố thật tốt cho Tạ Lan Tư. Để tạ ơn, hắn sẽ cho nàng thêm khẩu phần lương thực.

Trước khi xuống xe, Chân Điều đã cảnh báo Lệ Tri một cách khó hiểu: “Đó là Hoàng Tôn, nếu Tạ Lan Tư chết, Lệ Tri, ngươi chiếu cố hắn thì chỉ có thể chôn cùng với hắn.”

Lệ Tri nhặt ấm nước lên, lau sạch vết nước trên mặt đất. Tìm chiếc rương đựng quần áo sạch, dùng dây buộc tóc màu đen che kín mắt của mình, thấp giọng nói tạ lỗi, rồi cởi quần áo của Tạ Lan Tư ra.

Sau khi mất thị lực, nàng cũng không thấy thoải mái hơn. Lệ Tri cảm giác như mình tự bê đá đập chân mình, nhiệt độ cơ thể lạ lẫm ở đầu ngón tay càng trở nên sinh động hơn.

Nàng cố tưởng tượng đây là muội muội nàng bị ốm, hoặc là Thần Đan sau khi bị cạo sạch lông…..tóm lại, nàng dùng tốc độ nhanh nhất để lau mồ hôi trên người Tạ Lan Tư, rồi quấn qua loa quần áo sạch lên người hắn.

Sau khi làm xong hết thảy, Lệ Tri tháo dây buộc tóc trên mắt ra và rồi nàng đụng thẳng vào đôi mắt đang hé mở của Tạ Lan Tư.

“…”

Không khí trở nên đặc biệt yên tĩnh, Lệ Tri cảm thấy cổ họng mình có chút ngứa ngáy.

Nàng ho một tiếng, cầm dây buộc tóc trong tay lên giải thích: “Ta không nhìn.”

“… Ta làm sao vậy?” Tạ Lan Tư dời mắt, ánh mắt yếu ớt liếc nhìn rương quần áo và chậu nước sạch.

“Điện Hạ bị bệnh, quần áo ướt đẫm mồ hôi, dân nữ chưa được Điện Hạ cho phép đã tự ý mở rương quần áo để thay đồ cho Điện Hạ. Xin Điện Hạ thứ tội.”

Lệ Tri thấy Tạ Lan Tư không tức giận, liền nói:

“Chân trường giải nói, khi chúng ta đến thôn kế tiếp, ngài ấy sẽ tìm một đại phu xem bệnh cho Điện Hạ.”

Tạ Lan Tư bị sốt đến mức ý thức không rõ, sau khi nhận ra không có nguy hiểm nào trong xe, mí mắt hắn lại từ từ rũ xuống:

“Không…”

Lệ Tri kề sát lại mới nghe rõ lời nói cuối cùng của hắn:

“Không được… Để bọn họ cho thức ăn và nước uống vào…”

Nói xong, Tạ Lan Tư lại thiếp đi lần nữa.

Một giấc này hắn ngủ cả đêm, Lệ Tri cũng canh giữ trong xe cả đêm, nàng không quan tâm những người bên ngoài xe đang bàn luận cái gì. Ngày hôm sau khi mọi người lên đường, Chân Điều khoát tay với Lệ Tri, bảo nàng cứ ở trong xe chăm sóc cho Tạ Lan Tư.

Trong ánh mắt ghen ghét của đám người lưu vong, Lệ Tri được ngồi xe để đi hết hành trình hôm nay.

Cơn sốt của Tạ Lan Tư vẫn rất nghiêm trọng, quần áo vừa mới thay xong đã tiếp tục ướt đẫm mồ hôi, làn da nóng như nước sôi, chỉ cần đặt ngón tay ở trước mặt là có thể cảm nhận được hơi nóng từ mũi, Lệ Tri ngồi trong xe không hề dễ dàng, nàng luôn lo lắng rằng Tạ Lan Tư sẽ mất đi hơi thở vào giây phút tiếp theo.

Trong tâm trạng lo lắng này, đội ngũ lưu vong cuối cùng cũng đến được một thôn trang nhỏ.

Chân Điều mời một lão nhân tóc trắng xoá đến, nghe nói, những người trong thôn mà bị bệnh vặt, đều do lão điều trị.

Lão nhân run lẩy bẩy lên xe, đầu tiên là sờ trán Tạ Lan Tư, sau đó bắt mạch, không biết là do không yên tâm với y thuật của mình hay là do bệnh trạng trước mắt quá kỳ lạ, mà sau mấy lần bắt mạch, ông lão cứ lắc đầu mãi.

Chân Điều nhịn không được, mở miệng phá vỡ sự im lặng quỷ dị:

“Đại phu, tình huống người bệnh như thế nào?”

Lão nhân thở dài: “Thuốc và châm cứu không có tác dụng, chỉ có thể thuận theo ý trời.”

Những lời của đại phu khiến Chân Điều sốt ruột, Lệ Tri chưa bao giờ thấy hắn sốt ruột như vậy.

“Đại phu, thân phận người này rất cao quý, xin hãy tận sức thử một lần!”

“Lão phu sẽ tận lực, còn lại, chỉ có thể nghe theo thiên mệnh.” Lão nhân nói.

Lão nhân không biết viết nên đã đọc toa thuốc và phương pháp sắc thuốc, Chân Điều còn đang muốn tìm giấy để ghi lại thì Lệ Tri đã nói:

“Ta thuộc rồi.”

Nàng thuật lại đơn thuốc, lão nhân gật đầu, lại nhấn mạnh phương pháp sắc thuốc với nàng thêm lần nữa.

Vì vậy, công việc sắc thuốc đương nhiên được giao cho Lệ Tri.

Có thể ngồi trên xe là một chuyện vô cùng tốt trong con mắt của những người lưu vong. Bây giờ họ không còn cảm thấy việc này sẽ làm tổn hại đến thanh danh của họ nữa. Người đầu tiên đến nói với Chân Điều muốn thay thế Lệ Tri làm việc chính là Vương Thị, người xưa nay rất cao ngạo.

“…Nàng ấy chỉ là một tiểu nha đầu không biết chăm sóc người khác, lúc ở nhà ta thường xuyên chăm sóc lão gia, cớ sao không để ta chăm sóc.” Vương thị tận tình khuyên nhủ.

Nếu là trước đây, Chân Điều còn có thể nói vài câu dễ nghe với bà, nhưng giờ phút này chính hắn còn đang vướng vào rắc rối, đương nhiên không cho sắc mặt tốt.

Vương Thị không chiếm được chuyện tốt, chỉ có thể giả vờ như không có chuyện gì xảy ra, hậm hực bỏ đi.

Cứ qua một hai canh giờ, Chân Điều sẽ đến xe ngựa để xem Tạ Lan Tư thế nào.

Chỉ có bản thân hắn biết, hắn đang ở trong một tâm trạng khác với những nha dịch đang lo lắng sẽ bị liên lụy kia.

Công việc của Chân Điều không phải là áp giải tù nhân, mà là báo cáo chi tiết tình hình hàng ngày của Tạ Lan Tư cho quan trên, và quan trên của hắn sẽ bẩm báo trực tiếp cho Hoàng Đế.

Mệnh lệnh mà hắn nhận được là “theo thiên ý”, trên đường đi, hắn đã chứng kiến ​​Tạ Lan Tư trải qua nhiều tình huống nguy hiểm đến tính mạng, nhưng hắn vẫn chưa hiểu được “thiên ý” của Hoàng Thượng đến tột cùng là gì.

Không dám giết, cũng không dám bảo vệ, sợ lỡ tay phá hủy “thiên ý”. Mỗi ngày Chân Điều đều phải sống trong tình thế tiến thoái lưỡng nan này.

Bước một bước sai, hắn sẽ vạn kiếp bất phục.

Chân Điều bất đắc dĩ thở dài, dặn dò Lệ Tri nấu thuốc cho tốt, vẻ mặt lo lắng rời đi.

Lệ Tri thuần thục sắc thuốc, tuy được coi là tiểu thư, nhưng là một tiểu thư sinh mẫu mất sớm, không được sủng ái, nên so với nô tỳ cũng không tốt hơn bao nhiêu.Từ nhỏ, nếu nàng và muội muội song sinh của mình bị ốm, thì hai người các nàng sẽ tự chăm sóc lẫn nhau, cho nên nàng rất thành thạo trong việc chăm sóc người khác.

Trong khoảng thời gian sắc thuốc, nàng vẫn nhớ thỉnh thoảng thay khăn thấm mồ hôi trên trán Tạ Lan Tư.

Sau khi bát thuốc đầu tiên được nấu xong, Lệ Tri bưng bát thuốc màu đen lên xe ngựa. Nàng để Tạ Lan Tư dựa vào thành xe, nâng đầu hắn lên và đưa bát thuốc đến miệng hắn.

Không ngờ môi của Tạ Lan Tư lại ngậm chặt khi vừa chạm vào nước thuốc, Lệ Tri cố gắng đổ một ít vào môi hắn, nhưng thuốc lại chảy ra ngay lập tức.

Lệ Tri đã cố gắng thử nhiều lần nhưng không có cách nào đút thuốc vào miệng hắn được. Khi nàng đang đau đầu, thì đột nhiên nghĩ đến một điều.

“Phương thuốc là do một đại phu trong thôn kê, ta xem đều là dược liệu bình thường, sắc thuốc xong ta cũng đã uống vài ngụm, không có mùi lạ.”

Nàng ghé sát vào tai Tạ Lan Tư, lặp đi lặp lại lời cam đoan, sau đó đút thuốc vào miệng hắn, thuốc liền rơi xuống miệng hắn một cách thần kỳ.

Vội vàng đổi nước hạ nhiệt, sắc thuốc, khuyên uống thuốc.

Cuộc sống như vậy kéo dài hai ngày, Tạ Lan Tư vẫn không tỉnh, Lệ Tri chỉ có thể nghiền lương khô cho vào chén thuốc rồi đút cho hắn.

Nàng ăn ngủ đều ở trên xe, cố gắng chăm sóc như chăm sóc người thân nhất của mình, chỉ mong hắn có thể sớm tỉnh lại.

Nàng hoàn toàn không để ý đến những lời đàm tiếu bên ngoài xe.

Giống như nàng đã cố gắng hết sức để sống, nàng tin rằng Tạ Lan Tư cũng có lý do để không chết.

Nàng tin chắc rằng hắn sẽ không dễ dàng bị bệnh tật đánh gục như vậy.

Đêm đó, Lệ Tri ngủ chập chờn như thường lệ, và khi nàng tỉnh dậy giữa chừng, nàng theo thói quen dò xét hơi thở của Tạ Lan Tư.

Không khí lạnh băng khiến nàng bật dậy ngay lập tức.

Sau khi đến gần, nàng thử thăm dò hơi thở lại một lần nữa, nhưng vẫn không cảm thấy hơi nóng.

Màu đỏ trên gương mặt của thiếu niên đã biến mất, thay vào đó là vẻ nhợt nhạt như ánh trăng, Lệ Tri chạm vào nhiệt độ cơ thể hắn, nó gần như lạnh giống không khí.

Nếu không phải lồng ngực yếu ớt của hắn vẫn còn phập phồng, Lệ Tri suýt chút nữa đã cho rằng người nằm trên xe là người chết.

“Điện Hạ? Điện Hạ!” Lệ Tri nhỏ giọng kêu, Tạ Lan Tư đã hôn mê bất tỉnh.

Nàng áp lòng bàn tay vào mặt hắn, cố gắng làm ấm cơ thể hắn. Dường như có tác dụng, hàng mi rũ xuống của Tạ Lan Tư run lên như bị đánh thức.

Được khích lệ, Lệ Tri lấy tất cả quần áo dày nặng ra khỏi rương, trải chúng lên người Tạ Lan Tư từng lớp một.

Ngay cả khi bị Trịnh Cung quất roi, Lệ Tri cũng không cảm thấy trái tim mình bị siết chặt như bây giờ.

Nếu hắn chết, những gì nàng làm trước đây có ý nghĩa gì?

Vô luận như thế nào, hắn nhất định không được chết!
 
Chương 13


Màn đêm rút đi, bầu trời trở nên sáng hơn một chút.

Mặt trời buổi sáng màu đỏ cam chiếu vào xe ngựa qua cửa sổ giấy, Tạ Lan Tư dần dần tỉnh lại trong tia sáng yếu ớt.

Hắn vươn tay, vô thức che đi ánh nắng đang chiếu thẳng vào mắt mình.

Ý thức của hắn có chút mơ hồ, tầm mắt quay cuồng làm cho hắn không phân biệt được phương hướng, trong lúc nhất thời, hắn còn tưởng rằng mình đã trở lại Hồ Tâm Lâu ở Đông Cung.

Tạ Lan Tư cảm thấy cơ thể mình nặng nề lạ thường, lúc đầu hắn còn tưởng là do mình bị bệnh, cho đến khi tầm mắt của hắn chạm vào chiếc áo khoác và các loại quần áo khác đang đắp lên người hắn… hầu hết những thứ có thể đắp được trong rương quần áo đều ở đây.

Đằng sau đống quần áo như ngọn núi nhỏ là một thân ảnh đang nhắm mắt nghỉ ngơi bên bức màn gấm.

Nàng dùng mấy bộ quần áo mỏng và cả áo ngoài của mình để gia cố màn gấm, đem tất cả hàn phong ngăn sau lưng bức màn dày, bản thân nàng lại chỉ mặc mỗi trung y mỏng manh, cuộn mình ngồi ở cửa.

Ngay khi Tạ Lan Tư vừa cử động tay, cố gắng đẩy núi quần áo nặng nề trên người ra, thì thiếu nữ ngồi ở cửa đột nhiên mở mắt.

Nàng căn bản không ngủ.

“Điện Hạ!” Lệ Tri thốt lên.

Như thể lần đầu tiên học nói, Tạ Lan Tư hỏi ngắt quãng:

“… Ta đã hôn mê bao lâu rồi?”

“Đã gần ba ngày rồi.” Lệ Tri nói: “Đại phu nói chỉ cần hết sốt thì sẽ có chuyển biến, hôm qua ngài vừa hạ sốt, hôm nay quả nhiên đã tỉnh dậy.”

Giọng hắn vô cùng khàn, Lệ Tri cầm ấm nước rót một cốc nước sạch, đồng thời chủ động đỡ Tạ Lan Tư dậy đút nước cho hắn như lúc trước.

Sự khác biệt so với trước đây là bây giờ Tạ Lan Tư rất tỉnh táo.

Lúc Lệ Tri nâng hắn dậy, nàng cảm nhận được sự kháng cự rõ ràng.

Nàng thức thời để tự hắn dựa người vào thành xe, chỉ đưa chén nước đến bên miệng Tạ Lan Tư, nhưng hắn lại nghiêng đầu tránh chén nước ấy.

“Nước này ta đã uống thử rồi, chỉ là nước suối thôi.” Lệ Tri nói thêm.

Tạ Lan Tư nhìn nàng, như thể ngạc nhiên khi nàng biết hắn đang lo lắng điều gì, hoặc là đang cân nhắc xem lời nói của nàng có đáng tin hay không, một lúc sau, hắn cuối cùng cũng mở miệng ra để Lệ Tri đút nước cho hắn.

Có lẽ là rất khát, nên khi Tạ Lan Tư uống xong chén nước đầu tiên, hắn không từ chối chén thứ hai mà Lệ Tri đưa tới nữa. Mãi đến lúc uống hết ba chén nước, hắn mới đẩy chén ra, yếu ớt nói:

“Làm phiền Lệ cô nương dời đống quần áo này ra, ta không cử động được.”

Lệ Tri liền nhanh chóng xếp núi quần áo ngay ngắn vào rương.

Tuy nhiên, khi trên người chỉ còn lại một chiếc áo khoác đang đắp, Tạ Lan Tư vẫn không thể cử động cơ thể được.

Hai chân của hắn dường như vẫn chưa tỉnh, dù hắn có đánh thế nào nó cũng không có phản ứng. Thấy sắc mặt Tạ Lan Tư trắng bệch, lực hắn đánh lên chân càng ngày càng mạnh, Lệ Tri gắt gao nắm chặt hai tay của hắn, khẩn cầu:

“Điện Hạ đừng nóng vội, có thể ngài vẫn chưa hoàn toàn bình phục. Ta lập tức đi tìm Chân trường giải, nhờ hắn tìm đại phu cho ngài.”

Thấy Tạ Lan Tư ngừng đánh lên chân, Lệ Tri định nhanh chóng rời khỏi xe ngựa.

“… Mặc áo ngoài của ngươi vào.” Âm thanh Tạ Lan Tư đè nén và kiềm chế.

Nếu cứ mặc trung y ra ngoài như vậy, nói không chừng sẽ có những lời đàm tiếu. Lệ Tri vội vàng mặc áo ngoài vào, vén màn gấm nhảy xuống.

“Chân trường giải!” Nàng hét lên.

Chân Điều ở cách đó không xa, nghe được tiếng gọi của nàng, biết Tạ Lan Tư đã xảy ra chuyện, vội vàng chạy tới.

“Có chuyện gì?”

Lệ Tri nói với hắn về bệnh trạng của Tạ Lan Tư, vẻ mặt của Chân Điều trở nên khó coi, hắn trèo lên xe ngựa để kiểm tra hai chân của Tạ Lan Tư.

“…Điện Hạ, thất lễ.”

Sau khi Chân Điều tạ lỗi, hắn ẳm Tạ Lan Tư đến ngồi lên băng ghế trong xe, sau đó gõ nhẹ vào đầu gối trái và phải của Tạ Lan Tư, như thể chờ đợi phản ứng nào đó, vừa gõ, hắn vừa nhìn Tạ Lan Tư.

Tạ Lan Tư nhìn Chân Điều, và Lệ Tri cũng nhìn Chân Điều.

Hai đầu gối bị gõ mấy lần nhưng không có chuyện gì xảy ra.

Sắc mặt Chân Điều càng ngày càng trầm.

“Chân trường giải, chân của ta bị sao vậy?” Tạ Lan Tư hỏi.

“… Điện Hạ, ty chức cũng không biết là chuyện gì xảy ra. Hay là chờ đại phu xem xong rồi hãy nói.” Chân Điều tránh đi ánh mắt của Tạ Lan Tư.

Sau khi Chân Điều xuống xe, hắn kêu Lệ Tri tiếp tục ở lại trong xe để chăm sóc Tạ Lan Tư.

Thật ra, sắc mặt của Chân Điều cộng với nhiều lần gõ vào đầu gối của Tạ Lan Tư đã khiến Lệ Tri đoán được chuyện gì đã xảy ra…

Hai chân của Tạ Lan Tư bị liệt rồi.

Nàng tin rằng Tạ Lan Tư, người đang ngồi trên băng ghế và nhìn ra ngoài cửa sổ mà không nói lời nào, cũng có cùng suy đoán với nàng.

Nhưng trước khi đại phu chính thức xác nhận, ai cũng không nói ra câu kia.

Lúc chạng vạng tối, Chân Điều trở lại xe ngựa với một đại phu không nói được tiếng quan thoại. Đại phu lấy ra một túi đầy kim bạc dài bằng ngón tay, và đâm vào các huyệt vị gần đầu gối của Tạ Lan Tư.

Tác động của hình ảnh này mạnh đến nỗi ngay cả Lệ Tri cũng cảm thấy đau âm ỉ ở đầu gối.

Đại phu nhìn Tạ Lan Tư, ra hiệu và nói: “Có cảm giác gì không?”

Sắc mặt Tạ Lan Tư tái nhợt dựa vào thành xe, vô lực lắc đầu.

Đại phu châm các huyệt vị khác trên chân, nhưng Tạ Lan Tư vẫn không có cảm giác gì.

Cuối cùng, túi kim tiêm đầy kim bạc được đặt trước mặt Lệ Tri và Chân Điều. Đại phu lắc đầu, tỏ vẻ bất lực.

“... Tại hạ chỉ có thể đoán đây là di chứng lưu lại của bệnh sốt.”

“Có chữa được không?” Tạ Lan Tư ở trước mặt Lệ Tri và Chân Điều hỏi.

Thần sắc đại phu khó xử, nói vài câu an ủi chính đáng. Có thể thấy rằng, ông ta không ôm hy vọng đối với việc khôi phục hai chân của Tạ Lan Tư.

Sau khi Chân Điều tiễn đại phu xuống xe, Lệ Tri vẫn ở lại.

Nàng đang suy nghĩ nên nói gì để an ủi Tạ Lan Tư, thì hắn đột nhiên nói: “Ta muốn đi vệ sinh.”

“Cái gì?”

Lệ Tri ngây ngẩn cả người.

Tạ Lan Tư quay đầu lại, ánh mắt từ trong hư không dời đến trên mặt Lệ Tri.  Hắn gằn từng chữ nói:

“….Ta muốn đi vệ sinh.”

Lệ Tri cuối cùng cũng phục hồi tinh thần, hai chân hắn không thể nhúc nhích, lại hai ngày hai đêm không đi đại tiểu tiện, ngay cả thần tiên cũng không nhịn được.

Nếu hắn không nghẹn đến cực hạn, e rằng Tạ Lan Tư cũng sẽ không mở miệng nói ra yêu cầu này với nàng.

Lệ Tri biết rõ sự xấu hổ và nhục nhã trong lòng hắn nên nàng lặng lẽ xuống xe nói với Chân Điều, để Chân Điều cõng Tạ Lan Tư vào rừng.

Khi Tạ Lan Tư quay trở lại, khí tức quanh người hắn càng thêm lạnh lùng, đối với việc Lệ Tri ở trên xe, hắn không xua đuổi cũng không đáp lời, thậm chí làm như không nhìn thấy sự hiện hữu của nàng. Ánh mắt hắn thẫn thờ nhìn những ô vuông trên cửa sổ bằng gỗ.

Mặc dù Lệ Tri không có loại kinh nghiệm này, nhưng nàng có thể tưởng tượng được nỗi thống khổ khi mất đi tôn nghiêm mà Tạ Lan Tư phải đối mặt khi xuống xe.

Là kiêu tử chân chính của Thiên Tử, lại mất đi tất cả, ngay cả hai chân của mình cũng đã mất.

Tình huống của Lệ Tri cũng không khá hơn là bao, nhưng nàng thực sự cảm thấy có chút thương cảm cho Tạ Lan Tư, người lúc này đang thất hồn lạc phách.

“Điện Hạ không cần quá lo lắng... Đại phu trong thôn y thuật không tinh, chờ chúng ta đến Minh Nguyệt Tháp, nhất định sẽ có đại phu tốt hơn đến trị liệu cho Điện Hạ.” Nàng thử nói gì đó an ủi Tạ Lan Tư, nhưng nàng phát hiện, tại thời điểm này nói điều gì cũng là vô nghĩa.

Nàng thậm chí còn sợ … Tạ Lan Tư bắt được sự thương hại trong nét mặt và lời nói của nàng.

“….. Nếu không chữa được thì sao?” Giọng nói Tạ Lan Tư vô hồn.

“Nếu không chữa được………” Lệ Tri dừng một chút, “Dân nữ nguyện ý làm chân của Điện Hạ.”

“Ngươi?” Tạ Lan Tư cuối cùng cũng dời ánh mắt qua nhìn Lệ Tri.

“Dân nữ nghe nói có một người thợ mộc tay nghề siêu phàm, có thể đóng một chiếc ghế có bánh xe, mặc dù ngồi trên ghế, nhưng chỉ cần có người đẩy ở phía sau, ta cũng có thể đi khắp nơi. Chờ đến Minh Nguyệt Tháp, nếu đại phu không thể chữa khỏi chân cho Điện Ha, dân nữ sẽ để Điện Hạ ngồi trên xe lăn, và đẩy Điện Hạ đi tìm những danh y giỏi trên thế gian này để trị chân.

“… Người bị lưu đày mà không có đặc xá, sẽ không được rời khỏi nơi lưu đày.”

“Vậy ta sẽ gom tiền mời đại phu đến Minh Nguyệt Tháp chữa bệnh cho Điện Hạ.” Lệ Tri nghiêm túc nói: “Điện Hạ yên tâm, dân nữ sẽ không bỏ cuộc đâu.”

“Chuyện tới đây rồi, ngươi còn không bỏ cuộc là đang chờ cái gì?” Tạ Lan Tư cau mày, “Ta đã là phế nhân, thậm chí ta còn không đảm bảo mình có thể sống sót đến Minh Nguyệt Tháp …..”

“Dân nữ có thể đảm bảo.” Lệ Tri nói.

Nàng nhìn vào mắt Tạ Lan Tư và nói từng chữ một:

“Chỉ cần dân nữ sống một ngày, Điện Hạ sẽ sống một ngày.”

Nàng nói:

“Mà dân nữ ….chắc chắn sẽ còn sống đến Minh Nguyệt Tháp. Cho nên, Điện hạ cũng vậy. Xin Điện Hạ đừng mất đi hy vọng, bất kể xảy ra chuyện gì, dân nữ cũng sẽ ở phía sau Điện hạ.”

Chữ chữ đều là đáy lòng của Lệ Tri, Tạ Lan Tư xúc động trước sự chân thành trong mắt nàng, và vẻ mặt của hắn hiện lên sự ngỡ ngàng hiếm thấy.

“…Vì cái gì?” Hắn hỏi.

“Bởi vì ngưỡng mộ.”

“Ta đã nghe qua rồi.”

“Điện Hạ đã nghe qua, nhưng vẫn chưa từng tin.” Lệ Tri nói, “Cho nên Điện Hạ không cách nào quên được, bởi vì Điện Hạ không tìm được khả năng nào khác.”

Tạ Lan Tư không thể phủ nhận những lời nói của Lệ Tri.

Lý do của nàng rõ ràng là hoang đường, thế nhưng là trừ nó ra, hắn không thể tìm ra bất luận lý do khả dĩ nào khác.

Nếu là vì một chỗ dựa trên con đường lưu vong, hoặc là hy vọng ngày sau có thể được đặc xá, thì giờ đây, với đôi chân bị liệt, mọi thứ dường như đã xa khỏi tầm với.

Thái độ của nàng vẫn không hề thay đổi.

“Ngay cả khi ta vĩnh viễn không bao giờ đứng dậy được, ngươi cũng sẽ không thay đổi tâm ý sao?” Tạ Lan Tư hỏi.

“Nếu có một câu nói dối, dân nữ nguyện bị thiên lôi đánh chết.”

“... Được.” Tạ Lan Tư nói, “Ta sẽ tin ngươi một lần.”

“Điện Hạ, chờ ta một chút.”

Lệ Tri nhớ tới cái gì đó, lấy từ dưới ghế ra một bát cháo lạnh màu xanh lá cây.

“Hiện tại việc quan trọng nhất là Điện Hạ phải dưỡng thân thể thật tốt, sau này mới có sức lực để trị chân.” Lệ Tri nói, “Đây là canh rau dại do dân nữ nấu lúc nấu thuốc, mặc dù nó không có thịt, nhưng tốt hơn là chỉ ăn lương khô.”

Tạ Lan Tư nhìn nàng một cái.

Lệ Tri cho là hắn nghi ngờ bát canh rau dại này, đang muốn nếm thử trước mặt hắn, thì Tạ Lan Tư đã nhận lấy, không nhanh không chậm mà dùng thìa gỗ múc canh đưa vào miệng.

Mặc dù là canh rau dại để nguội nhưng có bao nhiêu là mùi vị. Lệ Tri nhìn Tạ Lan Tư ăn mà không khỏi nuốt nước bọt.

Lệ Tri nghĩ rằng nàng đã che giấu rất tốt, cho đến khi Tạ Lan Tư đưa nửa bát rau dại còn lại qua, thản nhiên nói:

“Ngươi cũng ăn đi.” Tạ Lan Tư nói: “Nếu ngươi phải chiếu cố ta, vậy thì ngươi càng cần nhiều thể lực hơn ta.”

Nàng không thể khước từ, nên dùng cùng một cái thìa gỗ đó ăn nốt phần canh rau dại còn lại, thậm chí một miếng lá cũng không để sót.

“Bây giờ mọi người đều biết mối quan hệ của  ta và ngươi không đơn giản, về sau tốt nhất ngươi không nên đưa khẩu phần lương thực của ngươi vào đây.” Tạ Lan Tư nói.

“Điện Hạ hoài nghi có người hạ độc?”

“Không phải hoài nghi.” Tạ Lan Tư nói chắc chắc.

Với sự nhạy bén và đa nghi của hắn, Lệ Tri không ngạc nhiên khi hắn nhìn thấu được quỷ kế của địch nhân.

“Độc trong khẩu phần ăn, bột kim cương thạch trong nước uống, sơn tặc trên đường……..” Tạ Lan Tư nói, “Còn có vô số nha dịch làm cơ sở ngầm, ta không biết thế lực nào đứng sau chúng, nhưng ta biết rằng có vô số người đang mong chờ cái chết của ta.”

Lệ Tri có thể liệu trước là tình cảnh của Tạ Lan Tư rất khó khăn, nhưng khó khăn đến mức này không khỏi khiến nàng trầm mặc.

“Hối hận?” Tạ Lan Tư bình tĩnh nhìn nàng, từ đôi mắt trầm lắng sâu như biển đó, Lệ Tri không thể đoán ra suy nghĩ thực sự của hắn.

Nàng lắc đầu, đặt bát và thìa gỗ xuống, lấy chiếc áo choàng đắp lên người hắn, vân vê góc áo.

“Nếu vì chuyện này mà rút lui e sợ, dân nữ mới hối hận cả đời.” Lệ Tri nói.
 
Chương 14


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Đêm khuya tĩnh lặng, mấy ngọn lửa sắp tàn đang tỏa ra hơi nóng cuối cùng.

Những nha dịch trực ban ngồi trên tảng đá, hai tay chống cằm chợp mắt. Đám người lưu vong có người thì trằn trọc, có người thì ngáy to, Lệ Tri ngồi cách xa ngọn lửa trại, đang dựa vào ánh trăng để tập trung tinh thần làm cái gì đó. Xe ngựa lặng lẽ dừng ở phía sau nàng, vì nàng mà ngăn trở hàn phong trong màn đêm.

Mồ hôi lấm tấm trên trán, Lệ Tri giơ mu bàn tay lên lau mồ hôi, hài lòng nhìn thành quả sau một đêm bận rộn của mình:

Một chiếc mộc khiêu(*) đơn giản được làm từ vô số cành cây và dây leo.

(*)Mộc khiêu: 木橇 xe trượt bằng gỗ

Với chiếc mộc khiêu này, Tạ Lan Tư có thể di chuyển mà không cần phải nhờ đến nha dịch cõng.

Nàng còn xé chiếc khăn tay duy nhất của mình để dùng sợi bông gia cố dây kéo trên chiếc mộc khiêu. Chiếc khăn tay chỉ lớn nhiêu đó nên Lệ Tri phải vắt óc suy nghĩ để có thể sử dụng hết tất cả các sợi bông.

Nhìn thấy chiếc “xe sang” mà nàng đã trăm cay nghìn đắng chế tạo, Tạ Lan Tư trầm mặc.

Không chịu nổi nhiệt tình của nàng, Tạ Lan Tư cuối cùng cũng phải miễn cưỡng lên xe. Đây có lẽ là lần đầu tiên hắn ngồi trên một chiếc “xe” sát đất, toàn thân hắn cứng đờ, bất động.

Hai tay Lệ Tri nắm lấy dây kéo, cắn răng và dùng sức, chiếc mộc khiêu chở Tạ Lan Tư chậm rãi đi từng bước.

Tạ Lan Tư không quen với sự tồn tại của mộc khiêu, khi Lệ Tri phát lực, hắn theo bản năng nắm lấy mép của mộc khiêu, trên khuôn mặt hiện lên một chút khẩn trương.

“Điện Hạ cái gì cũng không sợ, lại sợ ngồi mộc khiêu?” Lệ Tri bị vẻ mặt như lâm đại địch của hắn làm cho buồn cười.

“Ta không sợ ngồi mộc khiêu, ta sợ ngồi mộc khiêu do ngươi kéo.” Tạ Lan Tư không mặn không nhạt nói.

“Mọi thứ đều có lần đầu tiên, chờ ta kéo thuần thục hơn thì sẽ không sao nữa.” Lệ Tri cười nói xong, mới phát hiện mình nói “ta” trước mặt Tạ Lan Tư như vậy là là thất lễ.

“Điện Hạ, dân nữ…”

Lời bổ cứu của Lệ Tri còn chưa dứt, Tạ Lan Tư đã ngắt lời nàng:

“Ta và ngươi bây giờ vẫn cần chú ý đến những nghi thức xã giao đó sao?”

Điều này cũng đúng.

Lệ Tri thoải mái cười nói: “Đã như vậy, sau này Điện Hạ đừng gọi ta là Lệ cô nương nữa, cứ gọi ta bằng tên là được.”

Đúng lúc này, tiếng hét của Chân Điều vang lên cách đó không xa.

Tất cả mọi người chuẩn bị lên đường.

“Ta đi kêu người đến hỗ trợ, Điện Hạ chờ một chút.”

Lệ Tri gọi một gã đoản giải gần đó đến giúp nâng Tạ Lan Tư lên xe ngựa. Cái mộc khiêu chưa kịp sử dụng cũng được nàng cẩn thận đặt vào trong xe.

Một lúc sau, một tên đoản giải trèo lên đầu xe, bắt đầu đánh xe chạy về phía trước.

Nhờ phúc của Tạ Lan Tư, Lệ Tri không cần phải trèo non lội suối, vì vậy mà có rất nhiều kẻ lưu vong nhìn nàng với ánh mắt ghen ghét, bọn hắn cho rằng nàng đã dùng thủ đoạn ám muội để lấy lòng Chân trường giải và Hoàng Tôn.

Lệ Tri không quan tâm đến những lời đồn đại vô căn cứ của ngoại giới.

Để nàng và Tạ Lan Tư tìm được thứ gì đó có thể an tâm ăn vào, nàng đã phải cố gắng rất nhiều.

Chu Thị thỉnh thoảng vẫn tìm nàng vơ vét lương khô, Lệ Tri vì hai đệ muội, luôn chọn những lương khô không bị động tay chân rất khó mới có được cho Chu Thị.

Cuộc sống cứ thế mà trôi qua từng ngày một.

Lúc đầu nàng phải dốc toàn lực để kéo mộc khiêu, nhưng sau đó nàng đã biết nên dùng góc độ và tư thế như thế nào để tiết kiệm sức lực, lúc trời trong gió mát, nàng phớt lờ ánh mắt khác thường của người khác, kéo Tạ Lan Tư đi một vòng gần đó để thư giãn.

Hầu hết thời gian, bầu trời đều có bông tuyết tung bay. Núi càng cao tuyết càng dày, bước một bước xuống tuyết là có thể bị ngập tới đầu gối. Loại thời điềm này, nàng và Tạ Lan Tư chỉ có thể ở trong xe.

Mặc dù đã có cửa sổ ngăn gió lạnh, nhưng những bông tuyết vẫn có thể luồn qua kẽ hở của màn gấm bay vào.

Nhiệt độ trong xe không tốt hơn bên ngoài bao nhiêu, nhưng nàng đã mặc áo choàng của Tạ Lan Tư, khi nàng lạnh đến mức thở vào lòng bàn tay, Tạ Lan Tư sẽ đưa cho nàng một chiếc lò sưởi bằng đồng cỡ nắm tay, bên trong có tro tàn còn ấm.

Khi màn đêm buông xuống, những người ngồi ngoài xe không dám yên tâm nhắm mắt. Trong đội ngũ thường xuyên xảy ra cảnh người bị đánh chết vì một mảnh áo rách, hay một cái màn thầu thiu.

Đối mặt với sự sống còn, con người và dã thú không khác nhau bao nhiêu.

Lệ Tri có thể được ở trong xe đã tốt hơn nhiều so với những người khác.

Quy mô của đội ngũ lưu vong đang giảm dần hàng tháng, một số chết vì bệnh giữa đường, một số thì đã đến nơi cần đến nên rời đội ngũ.

Không khí nặng trịch và tịch liêu đè nặng lên những người lưu vong còn lại, cho đến khi tuyết tan, thời tiết ấm lên, tình hình mới dần được cải thiện.

Đầu tháng ba, bầu trời âm u kéo dài cuối cùng cũng quang đãng.

Lệ Tri dỗ Tạ Lan Tư ra khỏi xe ngựa để hít thở không khí. Nàng kéo mộc khiêu, đưa Tạ Lan Tư đi vòng quanh nơi trú quân. Chân Điều và những nha dịch khác đã quen với sự kết hợp khiến người ta chú ý này, chỉ cần không phải rời đi quá xa, họ đều nhắm mắt làm ngơ.

Chiều tà mang theo hơi nóng còn sót lại của mặt trời, giống như một tấm chăn màu cam, quấn lấy hai người thân mật với nhau.

Lệ Tri hái những bông hoa dại và giơ chúng trước mặt Tạ Lan Tư như dâng vật báu, nàng mỉm cười với đôi mắt cong cong như ánh trăng lưỡi liềm.

“Điện hạ nhìn xem, hoa dại bên đường đều nở rồi…..”

Tạ Lan Tư không có hứng thú với hoa dại, nhưng hắn vẫn cho mặt mũi mà “ừ” một tiếng.

Vừa kéo Tạ Lan Tư đi dạo đi, Lệ Tri vừa thu thập các loại rau dại ăn được.

Nàng đem rau dại vừa hái bỏ vào chiếc túi được làm lại từ một y phục rách giấu trong áo khoác, nhân lúc không có ai chú ý, nàng sẽ lợi dụng lúc nấu thuốc để nấu canh rau dại.

Hai người phải chắp vá lung tung để vượt qua mùa đông.

Cùng gian khổ, nương tựa vào nhau xem ra cũng không quá khó khăn.

“Điện Hạ, ngươi xem đó là cái gì?” Lệ Tri đột nhiên dừng lại, chỉ vào một gốc cây.

Nàng trừng lớn hai mắt, nghi rằng mình đã đói đến mức sinh ra ảo giác.

Theo hướng ngón tay của nàng, Tạ Lan Tư nhìn thấy những chiếc dù lớn lớn nhỏ nhỏ.

“Cây nấm” Tạ Lan Tư nói.

Lệ Tri kéo Tạ Lan Tư đến gần đại thụ, ngồi xổm xuống mở to mắt quan sát.

Những cây nấm này có cao có thấp, có loại màu trắng nhạt, có loại màu vàng nhạt, cái dù trên đầu cũng có loại lớn, loại nhỏ. Lệ Tri cố gắng tìm loại mà nàng đã từng nhìn thấy trên bàn ăn, nhưng chúng hoàn toàn khác nhau hoặc chỉ có một chút ít điểm tương đồng, Lệ Tri không biết có nấm ăn được trong số này không.

Để an toàn, tốt nhất là không nên ăn.

Lý trí của Lệ Tri vẫn còn, nhưng khi nghĩ đến món súp nấm thơm ngon, nàng vẫn không khỏi cảm thấy ngứa ngáy.

“Điện Hạ nói gì đi?” Lệ Tri quay đầu nhìn Tạ Lan Tư đang ngồi trên mộc khiêu.

Tạ Lan Tư cau mày: “Ta thà ăn canh rau dại.”

“Cũng đúng.”

Lệ Tri quyết định nghe lời Tạ Lan Tư và kéo hắn ra khỏi khu rừng nấm dưới gốc cây.

Đáng tiếc… Nàng xem nhiều tạp thư như vậy, tại sao không có một quyển nào dạy cách nhận biết nấm độc chứ!

Lệ Tri hối hận không thôi, và khi trở lại xe ngựa, nàng vẫn thỉnh thoảng nhớ đến đám nấm màu mỡ đó.

Sau khi mặt trời lặn hoàn toàn, ánh trăng leo lên bầu trời.

Đám người lưu vong chia tốp năm tốp ba vào rừng đi vệ sinh, Lệ Tri nằm bên cửa sổ nhìn theo, đoán xem có ai tìm thấy rừng nấm không. Không bao lâu sau, trong rừng vang lên tiếng kêu kinh hỉ, hai chữ “cây nấm” khiến những người xung quanh như ong vỡ tổ chạy tới.

Lệ Tri quay đầu nhìn Tạ Lan Tư:

“Điện Hạ, có người phát hiện rừng nấm rồi.”

Tạ Lan Tư dựa vào thành xe, ôm một cuốn bản thảo, thờ ơ đáp một tiếng.

“Điện Hạ đang xem cái gì vậy?” Lệ Tri đến gần.

Nàng lật mặt trước của cuốn sách và thấy ba chữ viết tay Đạo Đức Kinh.

Lệ Tri lập tức buông trang sách ra, như thể nhìn thấy hồng thủy mãnh thú. Tạ Lan Tư nhìn thoáng qua đã nhìn ra lý do, liếc nhìn nàng và hỏi:

“Không thích xem?”

Vẻ mặt Lệ Tri đau khổ.

Tạ Lan Tư cười khẽ một tiếng: “Ta cũng không thích xem.”

“Vậy sao ngài còn xem?” Lệ Tri hỏi.

“Giết thời gian.” Tạ Lan Tư nói, “Dù sao cũng không có việc gì làm.”

Lệ Tri thầm nghĩ dù nàng không có việc gì làm cũng sẽ không đọc những cuốn sách buồn ngủ như vậy.

Nàmg nằm sấp bên khung cửa sổ bằng gỗ, tiếp tục ngẩn người vì buồn chán.

Một lúc sau, mọi người lần lượt chạy ra khỏi rừng, trên tay ít nhiều cũng cầm một chút nấm. Lệ Tri còn nhìn thấy người Lệ Gia, Trịnh Thị và Lệ Tấn Chi vội vã ra khỏi rừng, ngực căng phồng, lờ mờ có thể thấy hình dáng của cây nấm. Vương Thị và Lệ Huệ Trực cũng có nấm trong tay, Lệ Huệ Trực rất phấn khích, trên khuôn mặt nhỏ nhắn tràn đầy nụ cười.

Khi Vương Thị sắp đi ngang qua xe ngựa, Lệ Tri muốn nhắc nhở bà rằng nấm có thể có độc. Nhưng sau khi nhận thấy ánh mắt của nàng, Vương Thị đã giấu hai tay cầm nấm ra sau lưng và đi đường vòng nhanh qua xe ngựa.

“Họ sẽ không nghe lời ngươi” Tạ Lan Tư nói.

Sao Lệ Tri không biết?

Những người đói khát sẽ không từ bỏ món ngon mà họ có chỉ vì một vài suy đoán vô căn cứ.

Không lâu sau, nồi nước được dựng lên.

Người lưu vong chưa bao giờ đoàn kết như vậy, ai có nồi hiến nồi, ai có muối hiến muối, ai có nấm hiến nấm, mọi người quây quần bên chiếc nồi nhỏ, không ngừng nuốt nước miếng.

Lệ Tri ngồi trong xe ngựa ngửi thấy mùi súp nấm nhàn nhạt, bụng phát ra tiếng kêu vang dội.

Nàng lúng túng quay lại nhìn Tạ Lan Tư, người sau bất động như núi, không ngẩng đầu lên.

Lệ Tri hiếu kỳ khi hắn không bị món súp nấm trước mặt ảnh hưởng, mở miệng nói:

“Điện Hạ?”

Tạ Lan Tư “Ừ?” Một tiếng.

“Ngài không đói bụng sao?”

Tạ Lan Tư không trả lời đói hay không, hắn chỉ hời hợt nói:

“Quen rồi.”

Lệ Tri cũng là người lưu vong bị đói trong nhiều ngày, nhưng nàng không hề cảm thấy quen với cái đói.

Nếu như tất cả mọi người đều không ăn thì không sao, nhưng nếu có người ăn thứ gì đó ngon…chẳng hạn như món súp nấm hiện tại, nàng sẽ đói đến mức bụng ngứa ngáy, giống như có một bàn tay không ngừng gãi nàng.

“Trù nghệ của ta rất tốt.” Lệ Tri nói, “Khi đến Minh Nguyệt Tháp, Điện Hạ nhất định phải thử một chút thủ nghệ của ta.”

Tạ Lan Tư lại “Ừ” một tiếng.

“Điện Hạ, chúng ta đi được nửa đường rồi sao?” Lệ Tri lại hỏi.

“Không biết.”

“Chân Điều nhất định biết rõ, Điện Hạ có thể hỏi ……. “

Đạo Đức Kinh che phủ tầm mắt của Lệ Tri, đồng thời cắt ngang lời nàng chưa nói xong.

“Yên tĩnh, tiết kiệm thể lực.”

Nói nhiều thêm hai chữ thì có thể phí bao nhiêu thể lực chứ?

Lệ Tri bĩu môi, cảm thấy rất không thú vị mà  tiếp tục nhìn khung cảnh náo nhiệt bên ngoài xe.

Một nồi súp nấm khiến cho không khí trầm lặng giữa những người lưu vong sống lại. Nụ cười đã lâu không thấy nay lại xuất hiện trên mặt mọi người. Có văn nhân bị giễu cợt, vì trước khi uống súp nấm hắn đã không nhịn được mà ngâm ra một bài thơ về nấm, có người uống liền hai chén súp nóng còn chưa đủ, bưng cái bát rỗng đến chỗ người ngồi trước nồi cười làm lành, muốn múc thêm bát nữa.

Có người uống no rồi, tựa vào gốc cây, cùng trăng sáng ngâm khúc ca dao nhớ nhà. Nha dịch hiếm khi không ngăn cản, còn hòa vào tiếng hát gõ nhịp.

Trong tiếng ca du dương, không ít người cúi đầu lau nước mắt.

Lệ Tri cũng nổi lên tình cảnh nhớ nhà, nhỏ giọng ngâm nga.

Kinh Đô, nơi nàng lớn lên cùng muội muội, nơi chứa đựng tất cả những kỉ niệm của các nàng.

“Ngươi nhớ nhà?”

Đây là lần đầu tiên Tạ Lan Tư chủ động nói chuyện với nàng hôm nay.

Tâm tình Lệ Tri chán nản, gật đầu.

Trên mặt Tạ Lan Tư không có thay đổi gì, hắn chỉ nhìn Lệ Tri một lát, nói:

“Sẽ trở về.”

Lệ Tri nở nụ cười.

“Ta tin Điện Hạ.”

Ánh trăng sáng tỏ, sắc đêm tĩnh lặng.

Người lưu vong nở nụ cười hiếm hoi.

Một nồi súp nấm đưa người ta trở lại quá khứ vô ưu.

Lệ Tri nhìn trăng tròn trên bầu trời, bất tri bất giác rơi vào mộng đẹp. Đây là giấc ngủ sâu nhất mà nàng từng ngủ kể từ khi bị đày ải. Trong mộng, nàng nhìn thấy muội muội song sinh mà lâu rồi nàng không thấy.

Nàng mỉm cười và nói với muội muội rằng mọi thứ đều sẽ tốt thôi.

Mọi thứ đều sẽ tốt thôi.

Lệ Tri thì thầm trong giấc mộng.

Ngày thứ hai trời chưa sáng, nàng bị đánh thức bởi tiếng khóc tê tâm liệt phế.

Đẩy cánh cửa sổ bằng gỗ ra để xem, Vương Thị té nhào vào người Lệ Huệ Trực, thống khổ khóc lóc, quên mất phong thái quý tộc mà bà vô cùng tự hào ngày xưa.

Lệ Huệ Trực vẫn bất động, khuôn mặt tím đen không có dấu vết của sự sống.

***************

[Diendantruyen.Com] Theo Đuổi Chim Loan - Thất Tát Nương Tử


Mộc khiêu (xe trượt bằng gỗ)/ Nguồn: St
 
Chương 15


“Là ai đã hại nhi tử số khổ của ta!”

Voong Thị ôm thân thể Lệ Huệ Trực, dùng tay phải đập liên tục xuống đất, đau khổ tột cùng mà kêu khóc hết tiếng này đến tiếng khác.

Mọi người vây quanh hai mặt nhìn nhau.

Đêm qua không phải chỉ có một mình Lệ Huệ Trực ăn súp nấm, tại sao chỉ có hắn là người duy nhất gặp nạn?

Lệ Tri đẩy những người xung quanh ra, vừa mới bước đến trước mặt Vương Thị, đã bị người mẫu thân cực kỳ bi thương này ôm lấy bắp chân.

“Van cầu ngươi, van cầu ngươi……” Vương Thị òa khóc, nhìn Lệ Tri cầu xin, “Ngươi hãy xin Điện Hạ cứu con của ta, ta sẽ làm trâu làm ngựa cho Điện Hạ!”

Lệ Tri kiểm tra hơi thở của Lệ Huệ Trực trước, sau đó thăm dò cổ hắn.

Nỗi bi thương dâng lên trái tim của nàng.

“… Huệ Trực đã đi rồi.”

Chẳng biết Chu Thị đã đứng xung quanh từ lúc nào, khi nghe thấy những lời đó bà đã nắm chặt tay hai hài tử, nước mắt bi thương trào ra.

Có lẽ Trịnh Thị cũng nghĩ đến nữ nhi vừa qua đời không lâu vì bệnh của mình, hốc mắt của bà đỏ lên.

“Không! Không! Ngươi nói dối, hắn còn có thể cứu! Ngươi cứu hắn!” Vương Thị hoảng sợ lắc đầu.

Lệ Tri chịu đựng bi thương, hảo tâm khuyên nhủ:

“Đệ đệ đã đi rồi, mẫu thân hãy cho đệ ấy nhập thổ vi an.”

“Ngươi thật to gan! Một thứ nữ mà dám nguyền rủa đệ đệ đích xuất?!” Vương Thị hét lên, “Đây là huyết mạch duy nhất của Lệ Thị! Hắn không thể chết được!”

“Lời nói của mẫu thân thật có ý tứ.”

Lệ Tấn Chi vẫn im lặng từ nãy giờ, cười lạnh nói:

“Không ngờ trong mắt mẫu thân, ta cũng không phải là nhi tử của phụ thân?”

Dính đến nhi tử của mình, Trịnh Thị ngay lập tức vứt bỏ bi thương và tham gia chiến trường như một con gà chọi.

“Lời nói của phu nhân không khỏi làm tổn thương đến tình cảm. Tối qua mọi người đều ăn súp nấm, vì sao chỉ có mình Huệ Trực gặp nạn? Chẳng lẽ phu nhân không nên tự hỏi lại bản thân mình sao?”

“Ngươi có ý gì?!” Vương Thị trừng mắt giận dữ.

“ Thiếp thân là nói….” Trịnh Thị liếc mắt khinh khỉnh, “Nhờ có phu nhân trông coi nồi sắt, nên người khác chỉ có thể ăn bã nấm và nước súp, nếu không thì hôm nay không phải chỉ một người ngã xuống đâu.”

Đám người xì xào bàn tán với nhau, đều nhớ đến việc Vương Thị chiếm nồi sắt ngày hôm qua.

“Đúng vậy, tối qua ta đã năn nỉ bà ấy cho ta hai bát, nhưng bà ấy nói trong bát ta đã có quá nhiều rồi!”

“Thật không may cho hài tử khi có một mẫu thân như vậy…”

“Nói không chừng là do bà ta ngày thường làm việc bá đạo, tổn hại âm đức, cho nên lúc này mới báo ứng lên người hài tử…”

Những âm thanh lớn nhỏ vừa vặn truyền vào trong tai Vương Thị, Vương Thị giống như một người gỗ, ngơ ngác rơi lệ.

Lệ Huệ Trực thiên tư thông minh, sáu tuổi đã có thể ngâm thơ tác phú(*), là một thần đồng nổi tiếng ở Kinh Đô. Lệ Kiều Niên luôn coi hắn là người kế vị của mình. Lệ Huệ Trực không chỉ có tài năng văn chương xuất chúng, mà còn có một trái tim trong sáng. Mặc dù sinh mẫu của hắn là Vương Thị luôn tự cao với xuất thân cao quý của mình, hay dùng quyền lực để ức hiếp người khác, nhưng Lệ Huệ Trực lại là người bình dị gần gũi, được tất cả hạ nhân trong phủ yêu mến.

(*)Phú, một phong cách quan trọng của văn học cổ điển Trung Quốc, mặc dù đối với người hiện đại, nó ít phổ biến hơn nhiều so với thơ, văn xuôi và tiểu thuyết.

Hắn chết trẻ là nỗi đau buồn cho tất cả mọi người, ngoại trừ Trịnh Thị và Lệ Tấn Chi.

Lệ Tri quỳ xuống và nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt tím tái của ấu đệ.

Nàng vẫn nhớ như in cảnh tượng hắn kêu “tỷ tỷ” và vui vẻ đuổi theo sau lưng muốn chơi đùa với nàng. Chỉ chớp mắt, hắn đã nằm bất động ở đây.

Lệ Hương cứng miệng mềm lòng cũng đã rời đi.

Nàng còn có thể mất đi cái gì nữa?

“Đều vây quanh ở đây làm gì? Mau thu dọn đồ đạc lên đường đi!” Nha dịch la lên.

Có vài tiếng kinh hô từ đám đông, và theo ánh mắt kinh ngạc của họ, Lệ Tri quay sang nhìn Vương Thị.

Bà ấy giơ cao một cái kim trâm không biết lấy ra từ đâu, không chút do dự mà đâm vào cổ họng của mình.

Máu tươi đỏ thẫm phun ra từ cây trâm.

Nàng sẽ vĩnh viễn nhớ rõ cảnh này.

Vương Thị nắm kim trâm cắm thật sâu vào yết hầu ngã xuống đất, hai mắt mở to, cổ họng phát ra tiếng ộc ộc. Tay còn lại cố tìm lấy tay Lệ Tri, gắt gao cầm chặt. Sau đó, mãnh liệt rút kim trâm ra, máu tươi phun ra tung toé.

“Giúp ta… mai táng…” Bà thều thào nói.

Vương Thị nhét kim trâm vào tay Lệ Tri, máu trên đó giống như một ngọn lửa, đốt cháy lòng bàn tay của Lệ Tri.

Một lúc sau, Lệ Tri khép hai mắt ảm đạm của Vương Thị lại.

Ba nghìn dặm lưu đày chỉ là vài lời ngắn ngủi trong thánh chỉ, chỉ có những người đã từng đi trên con đường này mới biết, trên mỗi đoạn đường từ Kinh Đô đến Minh Nguyệt Tháp đều có vô số vong hồn.

Họ là những thiếu nữ chưa cập kê, là những tiểu đồng tóc để chỏm, là những phụ nhân khốn khổ. Bọn họ căn bản không biết mình đã phạm phải sai lầm gì, chỉ vì một người trong tam tộc làm sai, mà họ phải bất lực bước lên con đường đày ải đáng sợ này.

Khi Lệ Tri đang đào hố, Lệ Tấn Chi và Trịnh Thị đến giúp đỡ một cách bất thường, sau khi cả ba người cùng nhau chôn cất Vương Thị và Lệ Huệ Trực xong, Lệ Tấn Chi đã lấy chiếc kim trâm của Vương Thị như một lẽ đương nhiên.

Dưới sự thúc giục và la hét của những nha dịch, Lệ Tri trở lại xe ngựa.

Tạ Lan Tư dựa vào cửa sổ, không biết đã nhìn bao lâu. Sau khi Lệ Tri lên xe, hắn lặng lẽ nhìn nàng không nói gì.

Nha dịch lên xe, vung roi thúc ngựa tiến lên. Tiếng chuông gió vang lên trong rừng cây, chim chóc vô tư hót theo, không hề bị ảnh hưởng bởi thăng trầm của thế gian.

“Điện Hạ……”

“Hả?”

“Có phải ta đã làm sai không?” Lệ Tri hỏi, “Lúc ta phát hiện rừng nấm, ta nên phá hủy nó phải không?”

“Vậy bọn họ sẽ hận ngươi, sẽ không cảm kích ngươi.” Tạ Lan Tư nói.

Không phải Lệ Tri không hiểu đạo lý này, nhưng nàng vẫn không nhịn được mà ôm trách nhiệm về mình.

Một sinh mệnh trẻ trung và chính trực đã ra đi trước mặt nàng.

Nàng không cách nào thờ ơ.

“Nếu người quan trọng nhất của Điện Hạ rời khỏi nhân thế này, Điện Hạ sẽ đi cùng người đó, hay là vẫn ở lại tiếp tục sống tạm bợ?”

Tạ Lan Tư nhìn vào mắt của nàng, Lệ Tri không thể nhìn ra hắn đang nghĩ gì vào lúc này.

“Người có khiến ta đi theo, thế gian này không tồn tại.” Hắn nhếch môi cười.

Từ ngày muội muội qua đời, tất cả những điều này giống như một giấc mộng buồn đối với Lệ Tri.

Niềm vui tình cờ có được giống như vỏ sò dạt vào bờ bởi nỗi buồn, quý giá và mong manh, dễ dàng bị sóng biển đánh tan.

Nàng không có ý định tán gẫu, chỉ nằm bất động bên cửa sổ và nhìn ra ngoài.

Tiếng vó ngựa không ngừng gõ lên đất, dòng người như rắn kéo dài, uốn lượn giữa núi rừng.

Sau khi rẽ qua một ngọn núi, khung cảnh xung quanh xe ngựa thay đổi từ một sơn cốc rừng rậm thành vách đá cao và dốc.

Nhìn lên là núi trọc thẳng tắp, nhìn xuống là sườn dốc đất đá lổn nhổn. Đường đi hẹp chỉ vừa đủ một chiếc xe ngựa đi qua.

Đây là con đường nguy hiểm nhất của cuộc hành trình ba nghìn dặm.

Nhà dột còn gặp mưa dầm, bỗng nhiên bầu trời xuất hiện mưa phùn bay bay, mặt đất trơn trượt, ai nấy đều đi như lâm đại địch, kể cả tên đánh xe có kinh nghiệm nhất cũng rịn mồ hôi đầy đầu.

Lệ Tri ngồi trong xe, không hiểu sao tâm nàng không thể tĩnh được.

Mưa càng lúc càng nặng hạt, mưa bào mòn dốc núi, cuốn đi vô số đất đá, kết tụ thành dòng nước màu vàng đất đổ xuống. Thỉnh thoảng sỏi đá từ đỉnh núi rơi xuống, có người bị nện trúng đầu chảy máu, nhưng không ai dám dừng lại, chỉ có thể kiên trì lội nước đi lên phía trước.

Đột nhiên, có người hét lên kinh hãi.

Lệ Tri mặc kệ mưa bay và đá rơi, nhoài người ra khỏi màn gấm nhìn ra bên ngoài.

Một lượng lớn đất đá lăn xuống sườn núi phía trước, gây ra vô số khói bụi. Phía sau xe ngựa, có một dòng nước lũ không biết từ đâu phun ra, cuốn về phía mọi người.

“Là đất đá trôi!”

Không biết ai gào lên một tiếng, đội ngũ ngay ngắn trật tự ban đầu lập tức rơi vào hỗn loạn, mọi người bỏ chạy như ruồi không đầu, có người mạo hiểm xông qua cự thạch đang rơi phía trước, có người thừa lúc nước lũ chưa tới mắt cá chân, chạy ngược lại phương hướng ban đầu.

Dòng nước bị nhuộm vàng bởi bùn, chảy dữ dội, chỉ chốc lát, đã có vài người giẫm phải bùn trơn trượt ngã xuống dòng nước lớn, chưa kịp đứng dậy thì nước đã xộc thẳng vào miệng và mũi.

Những người không có cơ hội đứng lên, giống như một hòn đá trong dòng chảy, lao thẳng ra bên ngoài vách đá.

Chân Điều lấy tay che đá rơi xuống, lớn tiếng kêu gọi mọi người chạy trốn.

Xe ngựa Lệ Tri ngồi đang lắc lư, những con ngựa sợ hãi không chịu tiến lên, chúng hắt hơi và giậm chân liên tục.

Đúng lúc này, một tảng đá lớn từ trên cao rơi xuống, vừa vặn nện vào dây cương giữa ngựa và xe.

Lệ Tri còn chưa kịp phản ứng, cỗ xe đã mất thăng bằng và lăn xuống dốc núi cùng với tảng đá.

Nàng và Tạ Lan Tư  rơi xuống, vô số đồ dùng đập vào người bọn họ rồi rơi ra khỏi cửa sổ bằng gỗ đang mở, lăn xuống sườn núi không đáy.

Tiếng kinh hô của đám đông cách họ càng lúc càng xa, Lệ Tri mấy lần suýt nhảy ra khỏi cửa sổ, nhưng đều mạo hiểm tránh được.

Cỗ xe va đập rồi vỡ vụn giữa đường. Lệ Tri rơi xuống chỗ tấm ván gãy nát, Tạ Lan Tư ở ngay tay nàng, cùng nhau lăn xuống đáy cốc. Nàng nhìn thấy một hòn đá sắc nhọn sắp đâm vào sau ót của hắn, Lệ Tri không có thời gian để suy nghĩ, nàng lăn qua trước hắn.

Bả vai truyền đến một cơn đau kịch liệt, ngay cả cơ hội kêu lên Lệ Tri cũng không có, nàng cảm thấy mình còn đang không ngừng lăn xuống.

Đột nhiên, dưới thân nàng  trống không.

Một tay Tạ Lan Tư nắm chặt gốc cây cổ thụ mọc trên vách đá, tay còn lại nắm lấy cổ tay của nàng. Cả khuôn mặt vì dùng lực quá độ mà vặn vẹo.

Còn nàng, treo ở vách núi nhô ra, phía dưới chính là đáy vực sâu vạn trượng.

Cỗ xe hư hỏng và bốn con ngựa lăn xuống bên cạnh nàng, sau đó biến mất vào khu rừng rậm rạp dưới đáy cốc mà không hề gây ra một tiếng động nào.

Chỉ cần Tạ Lan Tư buông tay nàng một chút, kết cục của nàng sẽ thịt nát xương tan giống như chiếc xe ngựa bị hỏng kia.

Nàng ngẩng đầu nhìn Tạ Lan Tư.

Thiếu niên sắc mặt tái nhợt, ống tay áo rộng tung bay trong gió. Hắn cũng đang nhìn nàng.

Lệ Tri nhìn thấy một chút suy nghĩ trong mắt hắn.

“Điện Hạ …” Nàng nói, “ Điện Hạ đi đứng không tiện, buông ta ra … ngài mới có thể dùng hai tay trèo lên.”

Nàng chỉ có thể đánh cuộc một lần.

“Vậy ngươi làm thế nào?” Tạ Lan Tư hỏi.

Dưới chân không có điểm tựa, tử vong gần trong gang tấc, Lệ Tri lại mỉm cười trấn an thiếu niên.

“Điện Hạ yên tâm, trời không tuyệt đường người, ta sẽ nghĩ biện pháp khác.”

“Ngươi không hối hận?”

“Không hối hận.” Lệ Tri cười nói.

Không ngừng có đá rơi từ đỉnh đầu xuống, nếu tiếp tục giằng co nữa, Tạ Lan Tư không chỉ hao tổn sức lực mà tình huống có khả năng sẽ sinh biến.

Lệ Tri nín thở chờ Tạ Lan Tư đưa ra quyết định cuối cùng.

Một lúc sau, Tạ Lan Tư siết chặt cổ tay nàng hơn.

Trong tiếng gầm kìm nén, Tạ Lan Tư mạnh mẽ phát lượng, từ từ kéo nàng lên. Lệ Tri trừng to hai mắt, sau khi nhận ra ý định của Tạ Lan Tư, nàng liền vươn cánh tay còn lại của mình ra và cố gắng nắm lấy bức tường đá đang càng lúc càng gần, hai chân nàng tiếp đất một cách khó khăn trên một tảng đá.

“Có thể đứng không?” Tạ Lan Tư hỏi.

Lệ Tri không dám làm ra bất kỳ một động tác thừa thãi nào, chỉ có thể gật đầu thật khẽ.

Tạ Lan Tư buông Lệ Tri ra, và dưới ánh mắt không thể tin được của nàng, hắn xoay người lại, nhanh nhẹn trèo lên cây cổ thụ cong queo, bước thêm một bước nữa và quay trở lại bục vách đá nhô ra.

Hắn quỳ xuống đất và đưa tay về phía Lệ Tri.

Lệ Tri ngơ ngác đưa tay cho hắn.

Tạ Lan Tư nắm lấy tay của Lệ Tri, và nâng tay còn lại lên, phát lực thêm lần nữa, Lệ Tri cảm thấy cơ thể mình từ từ nâng lên. Khi gần đến, Lệ Tri dùng cả tay và chân, cuối cùng cũng leo lên bên cạnh Tạ Lan Tư.

**********

Lời của Editor: Chương này và chương về chú chó Thần Đan đã làm mình cảm động suýt khóc. Thương cho tấm lòng làm mẹ cái gì cũng muốn dành cho con mình, đáng thương hơn đáng trách. Thương cho một cậu bé trong sáng như ánh mặt trời. Hic..không biết con đường ba nghìn dặm này khi nào mới hết….
 
Chương 16


Ánh mắt của Lệ Tri dán chặt vào đôi chân không khác gì người thường của Tạ Lan Tư.

Linh hoạt như vậy, có lực như vậy….. Dáng vẻ này làm sao giống một người bị liệt chứ?

Nàng vẫn còn đắm chìm trong sự kinh ngạc, Tạ Lan Tư đã linh hoạt mà trèo lên bức tường đá dốc.

Đối mặt với nghịch cảnh, tất cả nghi vấn đều có thể gạt sang một bên.

Lệ Tri vội vàng trèo lên.

Nước mưa hòa lẫn với đất vàng và sỏi đá trút xuống, Lệ Tri mím chặt môi, thỉnh thoảng nghiêng đầu để tránh những tia nước bay tới. Nàng dồn hết tâm trí vào tay chân, chỉ cần sơ suất một cái, chờ đợi nàng chính là thịt nát xương tan.

Bất tri bất giác, lưng nàng đã ướt đẫm mồ hôi.

Cách nơi họ rơi xuống hơn ba mươi trượng, có nhiều nước vàng tạo thành một thác nước nhỏ ở phía trên một con dốc khác, thanh thế to lớn đổ xô xuống đáy cốc.

Bọt nước màu vàng đất bắn tung tóe, cọ rửa bức tường đá sạch sẽ trơn trượt, hai người đều cau mày trong quá trình leo núi, căng thẳng từng dây thần kinh.

Trải qua muôn vàn khó khăn, cuối cùng tay phải của Lệ Tri cũng chạm vào con đường phía trên, chật vật đẩy người lên. Rút cuộc cũng quay trở lại nơi họ đã ngã xuống.

Tạ Lan Tư đang ngồi cách đó không xa, không quan tâm đến ống tay áo bị ngâm trong nước vàng, khuôn mặt tái nhợt bất động, lồng ngực kịch liệt phập phồng.

Những tảng đá rơi trên đầu dần dần ngừng lại, dòng nước vàng cũng yếu đi, thác nước phía trước trở nên nhỏ hơn.

Sau một thời gian ngắn ngủi, sự yên bình giữa trời và đất trở lại như thuở ban đầu, chỉ có mớ hỗn độn trước mặt chứng minh rằng những gì vừa xảy ra không phải là ảo giác.

“Làm sao bây giờ?” Lệ Tri hỏi.

“Đội ngũ đi chậm hơn ta, đuổi theo mau.”

Tạ Lan Tư chống hai đầu gối đứng lên…… Nào có bóng dáng của bị liệt?

Lệ Tri đi theo sau, dùng ống tay áo hơi sạch lau vết bùn trên mặt. Vừa mới tìm được đường sống trong chỗ chết, đến bây giờ tim nàng vẫn còn đập thình thịch.

Hai người dọc theo con đường nhỏ đi về phía trước, truy tìm dấu chân trên con đường lầy lội.

Đường nhỏ uốn lượn quanh co, thời điểm mặt trời lặn xuống núi, cả hai cuối cùng cũng đến được đáy cốc.

Tạ Lan Tư nhìn bầu trời mờ tối, đề nghị tìm một sơn động qua đêm. Hai người chia nhau tìm một lúc, Lệ Tri trở về tay không, may mắn là Tạ Lan Tư đã tìm được một sơn động có thể qua đêm.

Nàng đi theo Tạ Lan Tư đến đó, mới phát hiện sơn động mà hắn nói chỉ là một vách núi trũng, nhưng dù nói thế nào, nó cũng là một nơi tránh gió.

Xung quanh đều là rừng cây, không thiếu củi đốt.

Lửa rất nhanh được đốt lên.

Lệ Tri biết cách đánh lửa bằng cách dùng hai thanh gỗ đánh mạnh vào nhau và nàng cũng biết cách phân biệt đá lửa, nhưng nàng rất ngạc nhiên khi Tạ Lan Tư cũng rất quen thuộc với việc đánh lửa này, có vẻ như đây không phải là lần đầu tiên hắn làm.

Sau khi đốt lửa xong, hai người mỗi người một bên, quay lưng về phía nhau, rồi cởi bỏ bộ quần áo ướt sũng ra để hong khô.

Lúc này, cuối cùng cũng có cơ hội trò chuyện.

Lệ Tri hỏi một câu mà nàng đã kiềm chế từ lâu:

“Chân của Điện Hạ tốt lên lúc nào vậy?”

Sau lưng không truyền đến câu trả lời của Tạ Lan Tư, vì vậy Lệ Tri lập tức đoán ra một khả năng khác.

“Ngay từ lúc đầu, Điện Hạ đã không hề bị liệt.” Nàng dùng giọng điệu chắc chắn nói.

Sự im lặng của Tạ Lan Tư xác nhận suy đoán của nàng, Lệ Tri cũng không cảm thấy tức giận, nàng chỉ cảm thấy không thể tưởng tượng được …. Nàng tận mắt nhìn thấy cây kim bạc kia đâm sâu vào đầu gối của Tạ Lan Tư, làm sao hắn có thể im lặng, ngay cả nét mặt cũng không có gì thay đổi?

Chẳng lẽ, đại phu sơn dã kia cũng là đồng bọn của hắn?

Lệ Tri lập tức bác bỏ khả năng này.

“Tại sao Điện Hạ phải làm như vậy?” Lệ Tri hỏi.

“Sau khi bị liệt, chúng ta có gặp phải bắt cóc và chặn giết không?” Tạ Lan Tư hỏi.

“……Không có.”

“Một Hoàng Tôn hoàn chỉnh sẽ làm cho rất nhiều người cảm thấy bị uy hiếp, nhưng một Hoàng Tôn bị liệt thì chưa chắc đã vậy.” Tạ Lan Tư châm chọc nói.

Lệ Tri có thể hiểu cách làm của hắn, nàng cũng sẽ không hỏi những câu ngu ngốc như tại sao hắn lại giấu luôn cả nàng.

Ngay từ đầu, nàng chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ được Tạ Lan Tư tin tưởng dễ dàng như vậy.

Đừng nói là một lần dò xét, cho dù dò xét một vạn lần, nàng cũng có lòng tin rằng mình sẽ vượt qua được khảo nghiệm.

Nàng thức thời nói: “Ta nhất định sẽ không phá hủy kế hoạch của Điện Hạ.”

“Ngươi không oán?” Tạ Lan Tư nhẹ giọng hỏi.

“Ta biết Điện Hạ đang ở trong hoàn cảnh khó khăn, lo lắng là điều đương nhiên.” Lệ Tri nói, “Một ngày nào đó, ta sẽ khiến Điện Hạ tin tưởng ta.”

Tạ Lan Tư không tin có ngày đó.

Hắn đưa lưng về phía đống lửa ấm áp, trong tay cầm một hòn đá tùy tiện nhặt được. Hoa văn màu vàng nhạt và trắng cuộn quanh như một con rắn, lúc hắn cầm hòn đá đó, dường như có một con rắn hổ mang lạnh lẽo đã bò lên đầu ngón tay của hắn.

Con người luôn nói dối hết lần này đến lần khác, tâm khẩu bất nhất.

Kẻ nói không hối thực ra hối cả đời, kẻ nói không hận thực ra hận thấu xương, nói yêu thương đấy, nhưng cuối cùng lại bỏ thuốc độc vào chén hắn.

Thay vì phân biệt thật giả từng cái một, hắn học được phương pháp gọn gàng dứt khoát hơn.

Cái lạnh phủ xuống rừng cây, ánh trăng soi bóng mặt đất.

Vạn vật trên thế gian trở nên hư ảo, dường như nó cũng chứa đựng những bí mật thầm kín.

Quần áo hong trên nhánh cây đã khô một nửa, hai người lần lượt mặc quần áo vào, rồi ngồi quanh đống lửa tiếp tục hong người.

Lệ Tri lặng lẽ nhìn cái bóng đen của Tạ Lan Tư dưới ánh lửa, càng lúc càng không đoán được những suy nghĩ trong lòng của hắn.

Rõ ràng hắn có thể giả chết thoát thân, nhưng hắn cứ cố chấp giữ lấy thân phận Hoàng Tôn bị lưu đày ba nghìn dặm này để làm gì?

“Ngươi còn có cái gì muốn hỏi, cứ hỏi luôn đi.” Tạ Lan Tư nói.

Lệ Tri đương nhiên sẽ không hỏi một câu hỏi nhạy cảm như vậy.

“Làm thế nào mà Điện Hạ có thể chống lại việc bị ngân châm đâm?” Nàng hỏi.

Nàng vốn là thuận miệng hỏi, nhưng Tạ Lan Tư lại nhìn đống lửa đến xuất thần.

Một lúc sau, hắn vươn tay về phía ngọn lửa màu cam đang nhảy nhót.

Đầu ngón tay gầy gò tái nhợt vươn vào trong ngọn lửa, lập tức bị bao bọc. Lệ Tri kinh hãi, chưa kịp phản ứng đã kéo tay Tạ Lan Tư ra khỏi ngọn lửa.

Chuyện xảy ra chỉ trong nháy mắt, nhưng nhịp tim của Lệ Tri còn đập nhanh hơn cả lúc leo vách núi vừa rồi.

“Điện Hạ!” Nàng kêu lên.

Tạ Lan Tư không thay đổi sắc mặt, ánh mắt bình tĩnh nhìn vào ngón tay vừa đưa vào ngọn lửa.

“…..Ta không có cảm giác.”

Lệ Tri sửng sốt một lúc, mới nhận ra là hắn đang trả lời câu hỏi vừa rồi.

Đặt ngón tay vào ngọn lửa cũng là trả lời câu hỏi của nàng.

“Điện Hạ không có cảm giác đau?” Lệ Tri khó có thể tin.

Có ai trên đời không biết đau không?

“Cảm giác đau như thế nào?” Tạ Lan Tư hỏi ngược lại.

Chỉ khi nhìn vào mắt hắn, Lệ Tri mới có thể tin rằng câu hỏi ngớ ngẩn đó là do hắn hỏi thiệt tình.

Lệ Tri đã gặp phải rất nhiều câu hỏi khó khăn, nhưng nàng tin rằng câu hỏi này của Tạ Lan Tư, ngay cả phu tử có học thức uyên bác nhất cũng khó có thể trả lời.

Cảm giác đau là cảm giác gì?

Giống như giải thích màu sắc cho một người mù từ nhỏ, dù dễ hiểu đến đâu, thì hắn cũng không cách nào phác họa được màu sắc trong đầu.

Lệ Tri không thể trả lời câu hỏi của hắn.

“Còn ai khác biết về chuyện này không?” Nàng hỏi.

“Những người còn sống,” Tạ Lan Tư nhìn vào mắt nàng và nói, “Chỉ có ta và ngươi.”

“Điện Hạ yên tâm, ta sẽ không phụ lòng tin tưởng của Điện Hạ đối với ta.” Lệ Tri cam đoan.

Tạ Lan Tư nhìn đống lửa và ném viên đá trong tay vào đó.

Viên đá làm gãy cành cây vốn đã giòn, phát ra tiếng răng rắc, từng chùm tia lửa lóe lên trong đêm tối.

“Tên trong nhà của ngươi là gì?” Hắn nhìn đống lửa.

Nếu không phải xung quanh chỉ có một mình Lệ Tri, suýt chút nữa nàng còn tưởng rằng Tạ Lan Tư đang hỏi tên hòn đá.

“Điện Hạ hỏi nhũ danh của ta sao?” Lệ Tri nói: “Ta không có nhũ danh, nhưng muội muội cùng mẹ của ta gọi ta là Bàn Bàn.”

“….Bàn Bàn.”

Tên gọi khác của Kỳ Lân, và nó cũng có nghĩa là bàn bàn nhập họa(*).

(*)bàn bàn nhập họa: Dùng để miêu tả vẻ ngoài của một người phụ nữ rất đẹp, giống như tranh trong tranh

Tạ Lan Tư nhỏ giọng đọc một lần, cũng là cái tên đó, nhưng khi được hắn chậm rãi nói ra, dường như vì vậy mà nó nhiều hơn một tia kiều diễm.

Mặc dù Lệ Tri vẫn để trong lòng việc hắn không có cảm giác đau, nhưng Tạ Lan Tư đã thay đổi chủ đề, nên nàng cũng thức thời không nói về điều đó nữa.

“Điện Hạ có nhũ danh không?” Nàng tiếp tục đề tài của Tạ Lan Tư.

Suy nghĩ của Tạ Lan Tư dường như quay về rất lâu trước đây.

Lệ Tri kiên nhẫn đợi cho đến khi hắn khẽ nói:

“…..A Lý.”

“Là chữ Lý nào?” Lệ Tri hỏi.

Tạ Lan Tư không trực tiếp trả lời câu hỏi của nàng.

Hắn nắm lấy tay nàng, đầu ngón tay mát lạnh chậm rãi lướt qua, Lệ Tri chịu đựng từng trận từng trận ngứa ngấy, nhận ra đó là chữ Lý trong cá chép.

Sau khi liên hệ Tạ Lan Tư lạnh lùng yên tĩnh với chú cá chép năm màu sặc sỡ trong ao, bỗng thấy Tạ Lan Tư trước mặt cũng có chút đáng yêu.

“Đây là nhũ danh do Thái Tử Điện Hạ đặt sao?” Lệ Tri hỏi.

“Là mẫu phi của ta đặt.” Tạ Lan Tư nói.

Đại danh chánh phi của Thái Tử, ngay cả những người bình thường nhất cũng đã nghe qua.

Suy cho cùng thì thân phận tiền triều công chúa mẫn cảm của bà, đã không bị thu vào hậu cung, cũng không phải Thanh Đăng Cổ Phật cả đời, mà là gả cho Thái Tử làm chính thê, chuyện này trong lịch sử chưa từng có.

Chuyện này có liên quan đến huyết thống chính thống của hoàng thất, khi Hoàng Đế đưa ra quyết định này, cả triều đình náo động. Trước Tử Vi Cung có rất nhiều đại thần khuyên nhủ, nhưng Hoàng Đế vẫn kiên quyết làm theo ý mình, tứ hôn tiền triều Công Chúa Ngụy Nghi cho Thái Tử Tạ Tùng Chiếu.

Sau nhiều năm chung sống, hai người chỉ có một người con duy nhất, đó là Tạ Lan Tư, người ít lộ diện ra bên ngoài.

“Bàn Bàn.”

Lệ Tri giật mình, sau đó mới phản ứng là Tạ Lan Tư đang gọi tên nàng.

“Điện Hạ?” Nàng khó hiểu nhìn thiếu niên được ngọn lửa chiếu sáng.

“Đừng lừa gạt ta, nếu không ngươi sẽ phải hối hận.” Hắn cụp mắt xuống, hàng mi đen nhánh mảnh mai đổ bóng xuống đôi mắt sâu thẳm.

Lệ Tri nhìn hắn một lúc rồi cười rạng rỡ.

“Được.”

Rạng sáng ngày hôm sau, hai người dập tắt đống lửa và lên đường.

Dấu vết của đại đội nhân mã rõ như bó đuốc trong đêm rất dễ làm người khác chú ý.

Hai người lần theo dấu vết đội lưu vong để lại, một đường đi về phía trước. Đến chạng vạng tối, hai người dựa vào ưu thế người ít tốc độ nhanh, đuổi theo đội ngũ nhiều người đã mệt mỏi.

Trước khi tụ hợp, Lệ Tri lại làm một chiếc mộc khiêu đơn giản.

Lúc Lệ Tri kéo Tạ Lan Tư ngồi trên mộc khiêu đi tới, tất cả những người sống sót sau trận lở đất đều vô cùng sửng sốt.

Chân Điều vốn tưởng rằng Tạ Lan Tư rơi xuống vách núi sẽ cửu tử nhất sinh, không ngờ lại nhìn thấy hắn còn sống xuất hiện trước mặt mình. Chuyện ly kỳ ​đến mức Chân Điều chỉ nghĩ đến hai chữ đầu tiên trong đầu đó là “Số mệnh”.

Đứa con của phế Thái Tử bị lưu đày ba nghìn dặm này có thực sự đơn giản như bề ngoài không?….
 
Chương 17


Vào ngày hôm đó, Chân Điều đã tự bỏ tiền túi mua một chiếc xe ngựa cho Tạ Lan Tư khi đi ngang qua một ngôi làng.

“Đa tạ hảo ý của Chân trường giải, nếu không, bằng hai chân của ta, ta cũng không biết phải làm sao.”

“Nào dám, nào dám, đây là chức trách của ty chức.”

Lệ Tri nhìn Tạ Lan Tư và Chân Điều khiêm nhường với nhau một lúc, cảm thán Tạ Lan Tư quản lý biểu cảm của mình quá tốt.

Nàng thậm chí còn tự hỏi liệu hắn có từng bị liệt qua chưa, nếu không thì làm sao hắn có thể diễn đến xuất thần nhập hóa cái biểu cảm ba phần đau buồn, bảy phần kiên cường của một người bị liệt như vậy?

Chân Điều đỡ Tạ Lan Tư lên xe ngựa xong, Lệ Tri nhanh chóng theo sau như một thị nữ.

Sau khi chắp tay cáo lui với Tạ Lan Tư, Chân Điều liếc nhìn Lệ Tri và cảnh báo:

“Phải hầu hạ Điện Hạ cho thật tốt đấy.”

Một lần đại nạn không chết, thái độ của Chân Điều đối với Tạ Lan Tư đã thay đổi rõ rệt.

Sau đó, khi những nha dịch khác ở bên ngoài phân phát khẩu phần lương thực hôm nay cho đám người lưu vong, thì Chân Điều dẫn theo một nông phụ gõ cửa xe ngựa, mang lên cháo loãng và đồ ăn kèm.

“Hai ngày nay Điện Hạ đã bị sợ hãi, ty chức tìm được một gia đình trong thôn, nhờ họ làm thêm một phần bữa tối.” Lời nói của Chân Điều kiềm chế, chắp tay ở dưới xe ngựa nói tiếp: “Chỉ là những món ăn phụ từ nông hộ mà thôi, không tính là tinh xảo, nhưng nó có thể giúp Điện Hạ thay đổi khẩu vị.”

Sau một phen khách sáo, Tạ Lan Tư nhận bốn món ăn và một chén canh trên khay gỗ.

Lệ Tri tường tận xem xét đồ ăn được bưng tới, cảm thấy Chân Điều có lẽ không nói sai.

“Hai mặt mâm gỗ đen bóng, hẳn là thường xuyên dùng tới, năm cái bát cũng là bát đất nung nông hộ thường dùng, hình như cũng đã dùng qua một đoạn thời gian.” Lệ Tri hỏi: “Điện Hạ cảm thấy như thế nào?”

Tạ Lan Tư nhặt một cây kim bạc có thể dùng để kiểm tra chất độc từ góc khay.

“Hắn là người thông minh.” Tạ Lan Tư nói.

Hai người chia nhau bốn món ăn, thậm chí còn uống sạch sẽ canh rau, lần đầu tiên Lệ Tri cảm thấy no kể từ khi rời Kinh Đô.

“Lúc Điện Hạ ở Đông Cung ăn cái gì?” Lệ Tri tùy ý hỏi: “Nghe nói quý nhân trong cung mỗi lần dùng cơm sẽ bày cả một bàn dài.”

“Đó là Hoàng Cung, không phải Đông Cung.” Tạ Lan Tư nói, “Các đầu bếp ở Đông Cung kế thừa công việc của cha họ. Trù nghệ qua quít bình thường, và bởi vì phụ thân ghét xa hoa, nên ông quy định nghiêm ngặt việc sử dụng hàng ngày của mọi người ở Đông Cung.”

“Ngay cả phụ thân ta mỗi ngày cũng chỉ ăn năm món một canh, bàn ăn trong Đông Cung còn không bằng một số quan viên ngũ phẩm.”

“Về phần ta.” Hắn nói, “Ta ăn nhiều nhất là cá hấp và rau luộc.”

Đồ ăn còn không tốt bằng Lệ Tri ở Lệ Gia. Lời này Lệ Tri chỉ dám nghĩ trong lòng, nàng cười nói:

“Chờ đến Minh Nguyệt Tháp, Điện Hạ liền có lộc ăn, ngài muốn ăn cái gì, ta đều có thể nấu cho Điện Hạ.”

“Nếu chúng ta không được phân cùng một chỗ thì sao?” Tạ Lan Tư hỏi.

Bây giờ ba nghìn dặm đã đi được nửa đường, Minh Nguyệt Tháp không còn là nơi không thể đến nữa.

Bọn họ cũng không phải là chuyển nhà đến Minh Nguyệt Tháp, mà là bị đày đến Minh Nguyệt Tháp đấy.

Những gì đang chờ đợi họ là các loại lao dịch không giống nhau. Nam tử phần lớn sẽ bị phái đi tu sửa tường thành và khuân vác, nữ tử thì bị phân làm tôi tớ cho những người mặc giáp.

Chờ đợi dòng người lưu đày là những tra tấn còn tuyệt vọng hơn so với việc phải trèo đèo lội suối.

Mặc dù Thái Tử bị phế và bị giáng xuống làm thứ dân, nhưng thân phận tôn thất của Tạ Lan Tư vẫn được giữ lại, nhìn thấy Hoàng Đế vẫn có thể gọi một tiếng là Hoàng Gia Gia, chắc hẳn khi hắn đến Minh Nguyệt Tháp hắn sẽ được xem là thượng khách.

Đám người Lệ Tri thì khác.

Vận mệnh của bọn họ giống như bèo trên mặt nước, một con sóng có thể phá hủy họ.

“Cho dù chúng ta không được phân chung một chỗ,” Lệ Tri mỉm cười, giống như không biết khi bị phân cho một người mặc giáp làm tôi tớ là việc kinh khủng đến mức nào, “Ta cũng sẽ nấu bất cứ thứ gì Điện Hạ muốn ăn.”

Tạ Lan Tư nhìn nàng, như thể đang đánh giá lời nói của nàng có bao nhiêu phần đáng tin.

Một lát sau, hắn dời mắt, từ chối cho ý kiến.

Con đường vắng tiếng chuông gió như trôi qua nhanh hơn, nháy mắt mùa xuân đã qua rồi.

Mùa hè nóng bức ập đến, có người đang đi thì ngã quỵ, không bao giờ tỉnh lại nữa. Ngay cả khi nằm trong xe ngựa, quần áo của họ cũng ướt đẫm mồ hôi, mồ hôi trên mặt chưa từng ngừng chảy.

Lệ Tri chưa bao giờ cảm thấy tiếng ve kêu ồn ào như vậy. Dường trong trời đất chỉ còn lại tiếng ve sầu kêu vô tận.

Vào cao điểm của mùa hè, mỗi ngày Lệ Tri đều mong đợi mùa hè mau qua, nhưng thời gian ở lại mùa thu mát mẻ ngắn hơn nàng tưởng tượng, giống như chỉ một cái chớp mắt liền rời đi, và mùa đông lạnh giá khiến người ta khiếp sợ lại ập đến.

Hành trình của dòng người lưu vong cũng đã đi đến hồi kết sau một năm hai tháng.

Ngày đến Minh Nguyệt Tháp, mọi người không hẹn mà đều dừng bước lại, lẳng lặng nhìn về phía cổng thành uy nghiêm giữa sương mù dày đặc.

Vào mùa đông lạnh giá, Minh Nguyệt Tháp tối tăm giống như địa ngục trần gian được nhắc đến trong thoại bản, núi rừng xám xịt bao quanh trấn, không nghe được một tiếng chim hót, sương mù lạnh lẽo đọng lại trên cổng thành và tháp canh, không thấy một bóng người, dường như tất cả các sinh linh sống đã bị diệt sạch ở đây.

Bọn nha dịch dùng roi thúc giục họ, dòng người miễn cưỡng tiếp tục tiến về phía trước.

Khi họ đến gần hơn, những binh lính gác cổng xuất hiện, bộ giáp nặng nề và vẻ mặt lạnh lùng càng làm bầu không khí bất cận nhân tình ở đây thêm trầm trọng.

Sau khi đám nha dịch nói chuyện với tướng lĩnh thủ thành, dòng người mới được phép vào cổng thành.

Xe ngựa đi qua cuối cùng, tướng lĩnh thủ thành cùng thuộc hạ đứng ở cửa, hành lễ từ xa với Tạ Lan Tư trong xe ngựa.

Lệ Tri thở phào nhẹ nhõm, xem ra cuộc sống của Tạ Lan Tư ở Minh Nguyệt Tháp sẽ không phải khổ sở.

Chỉ cần hắn sống tốt, nàng cũng sẽ không tệ.

Đi qua cửa thành không bao lâu, xe ngựa dừng lại, Chân Điều dẫn theo một binh lính mặt đen đứng ở ngoài xe ngựa.

“Đô hộ Minh Nguyệt Tháp mời Điện Hạ nhập phủ.”

Binh lính mặt đen hành lễ, vũ khí trên người vang lên, phía sau cách đó không xa, có một chiếc xe ngựa sang trọng hơi thấp đang chờ sẵn. Ngoài ra còn có bốn hán tử vạm vỡ đi theo xe ngựa chờ chuyển Tạ Lan Tư vào xe.

Tạ Lan Tư liếc nhìn Lệ Tri, di chuyển xuống xe. Chân Điều ngăn Lệ Tri đang xuống xe lại, hắn hất cằm về phía đội ngũ lưu vong.

“Ngươi có thể trở về.”

Lệ Tri cúi đầu thi lễ với bóng lưng Tạ Lan Tư một cái, sau đó nghe lời quay trở lại đội ngũ.

Một bộ phận người lưu vong không thân thiện với Lệ Tri, cố tình nói to những lời chỉ trích, nhưng Lệ Tri chỉ đứng im và tỏ ra bình tĩnh, như thể nàng không phải là người trong những lời đồn đãi đó.

Đa số những người còn lại thì không có tâm tình để chú ý đến Lệ Tri, họ trông có vẻ sợ hãi và không ngừng cầu nguyện mong cho bản thân họ được phân đến nơi tốt hơn một chút.

Đội ngũ dừng ở cổng huyện nha Minh Nguyệt Tháp, Chân Điều bước lên phía trước để mọi người giữ bình tĩnh, Nha Nội Huyện Lệnh đang phân nhóm người lưu vong thuộc quản lý của mình.

Mấy tên nha dịch da ngăm đen nghênh ngang nhận đút lót của những người lưu đày, còn những ai không có gì để đút lót thì nhìn người khác với vẻ hối hận và ghen tị. Bọn họ hối hận vì trước đây không chịu giữ đồ đạc của mình khi bị đánh, bị đói, nếu không thì bây giờ đã có thể xin được một công việc an toàn và thanh nhàn rồi.

Lệ Tấn Chi cúi đầu khom lưng nói chuyện với một nha dịch mặt đen, từ trong lòng lấy ra chiếc kim trâm của Vương Thị rồi đưa cho hắn ta.

Nha dịch hài lòng nhận lấy kim trâm rồi mang hắn tiến vào huyện nha.

Trịnh Thị trông mong nhìn theo bóng lưng của nhi tử, một lúc sau, Lệ Tấn Chi vui mừng bước ra, khi nhìn thấy Trịnh Thị, sự vui mừng của hắn chuyển thành hổ thẹn, sau khi nói gì đó với bà, Trịnh Thị như bị sét đánh, sắc mặt như tro tàn.

Danh sách những người làm lao dịch liên tục được công bố, phần lớn những kẻ đưa đút lót đều đã được đến những nơi an toàn tính mạng và không quá mệt nhọc.

Những người không đút lót thì thường phải đi tu sửa tường thành, đào than đá và làm những công việc nặng nhọc nhất, nữ tử hoặc là phân cho những tên mặc giáp hung bạo nhất, hoặc là bị gửi thẳng đến quân doanh làm doanh kỹ.

Trong lúc nhất thời, có người gào khóc, có người vui mừng.

“Lệ Tri……ai là Lệ Tri?”

Tên nha dịch đứng ở cửa huyện nha đọc tên của Lệ Tri, vẻ mặt có chút kinh ngạc, hắn ngẩng đầu nhìn vào đám người.

“Dân nữ chính là Lệ Tri.” Lệ Tri đứng ra.

“Ngươi…….” Nha dịch chỉ tay, “Đi Đô Hộ Phủ báo danh.”

Lệ Tri không ngạc nhiên, bình tĩnh tiếp nhận phân công.

Cùng lúc đó, Đô Hộ Minh Nguyệt Tháp Lỗ Hàm đã mời Tạ Lan Tư đến thư phòng Đô Hộ Phủ.

Thư phòng chủ yếu được làm bằng gỗ tử đàn. Trên bàn trà gần cửa sổ có một chiếc bình cao cổ tráng men màu xanh ngọc có hoa văn hoa sen, bên trong là những bông đỗ quyên trắng hồng. Trên chiếc bàn gỗ tử đàn được đặt ngay ngắn vài nghiên mực quý, đủ loại ngọc đồng, một tờ giấy viết thư mỏng được đặt trên bàn, bên trên là một phong thư vừa được mở ra.

Tạ Lan Tư vừa vào phủ, đã được mời làm thượng khách.

Lỗ Hàm bốn mươi tuổi, là một võ tướng nhưng lại giống một văn thần hơn, phong thái nhẹ nhàng, tâm tư tinh tế. Sau khi nhận được sự đồng ý của Tạ Lan Tư, hắn đã mời đại phu nổi tiếng nhất ở Minh Nguyệt Tháp đến điều trị bệnh chân cho Tạ Lan Tư.

Đại phu vẫn dùng ngân châm đâm vào trước, sắc mặt Tạ Lan Tư không thay đổi.

Đại phu thở dài, lắc đầu không ngừng.

Kết quả xem bệnh chỉ có Lỗ Hàm thất vọng, vì Tạ Lan Tư và một người khác không có mặt ở đây đều biết rằng ngay cả khi Đại La Thần Tiên đến, thì chân của hắn cũng không thể di chuyển được.

Sau khi để đại phu lui ra, Lỗ Hàm tỏ ra áy náy và dập đầu thỉnh tội với Tạ Lan Tư:

“Vi thần có tội, để Điện Hạ nhận hết gian nguy trên đường, đến nỗi hai chân bị liệt….“

Tạ Lan Tư ngồi trên sạp nhanh chóng đỡ hắn dậy.

“Ba nghìn dặm lưu đày đầy rẫy những việc ngoài ý muốn, cho dù Lỗ đại nhân có lòng, cũng là ngoài tầm với.” Tạ Lan Tư che miệng ho khan một tiếng, sắc mặt tái nhợt càng khiến hắn giống như ngọc quân tử bị hãm hại, “... Nếu trách tội ngươi, chẳng phải ta sẽ thành kẻ ngang ngược sao?”

“Điện Hạ nhân đức, giống như Thái….” Lỗ Hàm dừng một chút, “Như Đại Điện Hạ.”

“Lỗ đại nhân mời ngồi.” Tạ Lan Tư ra hiệu về phía bên kia sạp.

Sau khi Lỗ Hàm tạ ơn xong, hắn vén áo ngồi xuống, trầm giọng nói:

“Điện Hạ yên tâm, đây chỉ là đại phu nổi danh nhất trong trấn, nhưng trong sơn thôn còn có rất nhiều người tài ba dị sĩ, vi thần sẽ cho thuộc hạ đi tìm kiếm danh y ở khắp nơi, nhất định sẽ có một ngày Điện Hạ có thể đứng lên trở lại.”

“Hảo ý của Đô Hộ ta xin nhận, nhưng điều này có thể mang đến nguy hiểm cho Đô Hộ… Vẫn còn rất nhiều người ở Kinh Đô muốn diệt trừ ta.” Tạ Lan Tư tỏ vẻ do dự.

“Chỉ cần ý chỉ của Bệ Hạ không thay đổi, thì không ai có thể lấy mạng của Điện Hạ  trong Minh Nguyệt Tháp.” Vẻ mặt kiên quyết của Lỗ Hàm lúc này mới cho thấy sự sát phạt quyết đoán của một võ tướng.

Tạ Lan Tư chắp tay nói lời cảm tạ, Lỗ Hàm vội nói không dám.

“Không dám giấu diếm, ta đã gặp Đại Điện Hạ khi còn là tứ phẩm đại tướng quân.” Lộc Hàm nói: “… Đó là yến tiệc đêm giao thừa trong Hoàng Cung, ta vì bận công vụ nên tới muộn, trên con đường tuyết rơi ngoài Cung, ta ngẫu nhiên nghe thấy các mưu thần bên cạnh Đại Điện Hạ đang thuyết phục ngài ấy. Hóa ra khi tất cả các Hoàng Tử đang dâng lên trân bảo và điềm lành cho Hoàng Thượng, thì Đại Điện Hạ lại dâng lên bức “Hà Tây Cơ Hoang Đồ” do một danh họa vẽ, và cầu xin Hoàng Thượng miễn tất cả các đại tiệc vào năm tới, đem ngân lượng tiết kiệm được cứu trợ nạn dân thiên tai ở Hà Tây, giúp dân xây dựng lại gia viên.”

“Lúc Hà Tây xảy ra thiên tai, Điện Hạ còn nhỏ nên có lẽ không biết nhiều về nó.” Lỗ Hàm nói, “Khi đó thiên tượng Hà Tây dị thường, một năm không thấy một giọt mưa. Các quan viên sợ phải gánh trách nhiệm nên không bẩm báo, triều đình không hề hay biết về thảm họa cho đến khi các nạn dân ở Hà Tây chạy trốn đến Kinh Đô. Lúc này, Hà Tây đã thành địa ngục trần gian. Có người căn cứ vào lời kể của nạn dân Hà Tây mà vẽ lên một bức tranh về thảm kịch ăn vỏ cây và đổi con để ăn thịt … Đây chính là bức “Hà Tây Cơ Hoang Đồ” mà Đại Điện Hạ đã dâng lên.”

“Không phải chỉ có một mình Đại Điện Hạ biết người dân Hà Tây đang sống trong địa ngục, cũng không phải chỉ có một mình Đại Điện Hạ biết là cứu trợ thiên tai có thể giảm bớt tai họa, nhưng chỉ có một mình ngài ấy vì người dân Hà Tây bất chấp sự an nguy của bản thân mà lên tiếng.”

“Cho nên, vi thần luôn tin rằng có ẩn tình khác trong chuyện mưu phản của Đại Điện Hạ.” Lỗ Hàm nói, “Nếu Điện Hạ muốn tra ra chân tướng, vi thần nguyện hiến chút lực mỏng của mình.”

Sau một hồi im lặng, Tạ Lan Tư chậm rãi nói.

“Tam Pháp Ti đều đậy nắp quan tài kết luận sự tình, dù ta có không tin thì cũng chỉ có thể tiếp nhận phán quyết.”

Lỗ Hàm muốn thuyết phục một lần nữa, nhưng Tạ Lan Tư ho lên, hắn không còn cách nào khác phải đè xuống không nhắc tới, rồi đưa trà cho Tạ Lan Tư.

“Thân thể của Điện Hạ, vi thần nhất định sẽ tìm đại phu giỏi nhất để điều trị. Điện Hạ cứ yên tâm điều dưỡng thân thể của mình thật tốt trong Đô Hộ Phủ.” Lỗ Hàm nói, “Còn về cô nương mà Điện Hạ tiến cử cho làm việc trong Đô Hộ Phủ….không biết Điện Hạ muốn an bài nàng ở nơi nào?”

Lỗ Hàm khéo léo hỏi, trên thực tế, điều muốn hỏi là nữ nhân này có phải là nữ quyến của Tạ Lan Tư hay không.

Nếu là nữ quyến, đương nhiên phải an bài họ ở cùng nhau.

Nếu không phải, vậy thì cứ dùng quan hệ thân sơ để luận bàn.

“Lỗ đại nhân quyết định là được..” Tạ Lan Tư nói, “Trên đường lưu đày, nàng đã giúp ta rất nhiều, hơn nữa….”

“Cũng không có quan hệ gì khác.”
 
Chương 18


Đô Hộ Phủ uy nghiêm rộng lớn, những lầu gác đình viện màu đen thẫm san sát nối tiếp nhau. So với Lệ Phủ tráng lệ ở Kinh Đô, nó mang vẻ đẹp hào phóng của hoàng hôn và cát vàng.

Lệ Tri bị một nam nhân trông giống như quản gia đưa tới hậu viện, thu xếp ở một gian phòng chật chội và ẩm thấp.

“Đây là nơi ở của ngươi, những hạ nhân khác đều là hai ba người một gian, lão gia chúng ta nhân đức, đặc biệt cho phép ngươi một người một gian.” Nam tử nói.

Lệ Tri nở một nụ cười ngây thơ, ra sức khen ngợi nam tử này, sau đó biết được hắn họ Đường, quả nhiên là quản gia trong phủ.

“Được rồi, trong phủ này không có nhiều quy củ, chỉ cần ngươi an phận thủ thường, cuộc sống sẽ không khó khăn. Việc ngươi cần làm ta sẽ đến giao phó sau. Bây giờ ngươi cứ ở trong viện này rửa mặt, thay quần áo sạch sẽ đi.”

Đường quản gia phất tay, kêu Lệ Tri không cần tiễn.

Lệ Tri sống trong một cái viện nhỏ cũ kỹ, cùng viện có hơn mười gian nhĩ phòng, ở giữa viện có một cái giếng cổ và một cây táo đã chết dở.

Nàng xách một thùng nước giếng, chịu cái lạnh thấu xương để lau người, rồi thay bộ quần áo thô mới tinh.

Quần áo do Đô Hộ phủ cung cấp đối với người vừa đi hết ba nghìn dặm lưu đày như Lệ Tri mà nói thì nó quá mức dài và rộng, may mắn thay, khi nàng dọn dẹp gầm giường, nàng tìm thấy một bao châm tuyến đầy bụi do ai đó để lại.

Nàng thu nhỏ lưng áo và ống tay áo bằng một sợi bông, sau khi soi mình vào chiếc gương đồng mờ ảo, cuối cùng nàng cũng có thể ra ngoài gặp người rồi.

Vừa mới làm xong những thứ này, cửa phòng của Lệ Tri có người gõ.

Cánh cửa gỗ đổ nát lắc lư vài cái, Lệ Tri mở cửa phòng. Một phụ nhân với khuôn mặt xa lạ đứng ở cửa.

“Ngươi có phải là người lưu vong mới được phân công đến Đô Hộ phủ không? Gọi là Lệ Tri?” Phụ nhân nhìn Lệ Tri từ trên xuống dưới.

“Là ta, không biết thẩm có chuyện gì?”

“Ta là quản sự ma ma Hoán Y Phòng trong phủ, họ Trương. Có người bảo ta dẫn ngươi đi ra cửa sau, đi theo ta.”

“Đường quản gia bảo ta ở trong viện không được đi lung tung…”

“Không có chuyện gì đâu, chỉ đi một chút là trở về rồi!”

Lệ Tri cảnh giác đứng yên: “Thẩm có thể nói cho ta biết là ai muốn gặp ta không?”

Trương ma ma nghĩ tới điều gì, vỗ vỗ đầu nói:

“À, đúng rồi! Nàng nhờ ta nói với ngươi tên nàng là Gia Tuệ. Nàng nói rằng khi ngươi nghe thấy cái tên này….”

“Đi thôi.”

Lệ Tri một khắc trước còn một mực đứng trong phòng, một khắc sau đã nhanh chóng bước ra khỏi cửa.

Gia Tuệ không nên ở đây, nhưng nếu nàng ấy không khai báo tên của mình, thì làm sao Trương ma ma có thể biết có một người tên Gia Tuệ?

Lệ Tri vừa suy nghĩ lung tung, vừa đi theo Trương ma ma ra cửa sau.

Một mặt, nàng không muốn Gia Tuệ đến đây để chịu khổ, mặt khác, sau khi mất Lệ Hương và Thần Đan, nàng đã khao khát biết bao người mà nàng có thể tin tưởng xuất hiện bên cạnh mình.

Trương ma ma nhét một ít tiền cho gã sai vặt canh cổng, người này từ từ mở cửa sau của Đô Hộ phủ ra.

Một bóng người quen thuộc xông vào cửa sau, vừa nhìn thấy Lệ Tri liền quỳ xuống…….

“Tiểu Thư!” Gia Tuệ nước mắt tràn mi kêu lên.

Lệ Tri hoài nghi ánh mắt của mình, ít phút trước, Lệ Tri lo lắng vạn phần, nhưng giờ khắc này, trong lồng ngực nàng chỉ còn lại niềm vui đoàn tụ.

“Gia Tuệ, tại sao ngươi lại ở chỗ này?” Lệ Tri vội vàng tiến lên, nâng thiếu nữ dậy.

“Tiểu thư ở đâu, nô tỳ ở đó.” Gia Tuệ rưng rưng nước mắt, “Từ nhỏ nô tỳ đã là nha hoàn thiếp thân của tiểu thư, cho dù có chết cũng sẽ chết ở bên cạnh tiểu thư.”

Trương ma ma thu tiền của Gia Tuệ, thức thời kéo gã sai vặt canh cổng ra xa một chút, nhường không gian cho chủ tớ hai người.

“Ngươi còn trẻ như vậy, nói cái gì mà chết với chết?” Lệ Tri không nhịn được nghẹn ngào, “Làm sao ngươi tới nơi này được? Trên đường có phải chịu rất nhiều khổ cực hay không?”

“Từ khi Hình Bộ niêm phong Lệ Phủ, tất cả hạ nhân đều bị phân tán. Nô tỳ và Gia Hòa trở về nhà và ở Kinh Đô chờ tiểu thư lên đường cùng đội ngũ lưu vong.” Gia Tuệ nói, “Nô tỳ thăm dò được nơi tiểu thư bị đày là Minh Nguyệt Tháp, nô tỳ liền thu dọn đồ đạc tìm một thương đội lên đường. Giai Hòa vì phải chăm sóc phụ mẫu nên bị nô tỳ bỏ lại Kinh Đô. Nô tỳ đi theo thương đội phải mất gần nửa năm mới đến được Minh Nguyệt Tháp.”

“Sau khi đến nơi này, nô tỳ thuê một quán trà ở cửa thành buôn bán, chính là để trở thành người đầu tiên nhìn thấy tiểu thư vào thành. Nô tỳ đã đợi hơn nửa năm, nhưng hôm nay nô tỳ lại mở quán trễ, không gặp được tiểu thư vào thành. May mắn sau đó, nô tỳ đến huyện nha hỏi thăm, mới biết tiểu thư đã vào Đô Hộ Phủ. Thế là nô tỳ liền ngựa không dừng vó chạy đến đây.”

Gia Tuệ nắm chặt tay Lệ Tri, nước mắt không ngừng rơi.

“Nô tỳ cũng không khổ cực, nô tỳ đã quen làm việc nặng. Nhưng tiểu thư… tiểu thư gầy quá, trên đường đi nhất định đã gặp rất nhiều khổ sở, đều là do nô tỳ bất tài không thể giúp tiểu thư…”

“Ngươi đừng nói như vậy.” Lệ Tri nắm tay Gia Tuệ, rưng rưng nước mắt, “ Là ta vô dụng, liên lụy ngươi.”

Hai người nắm chặt tay nhau, nhìn đôi mắt đẫm lệ của đối phương, vừa khóc vừa cười.

“… Bất kể thế nào, tiểu thư vẫn bình an chính là chuyện lớn tốt nhất.” Gia Tuệ lau nước mắt, trịnh trọng nói: “Từ nay về sau, nô tỳ vĩnh viễn ở bên cạnh tiểu thư.”

“Nói xong chưa? Sắp đến giờ rồi.” Trương ma ma đi tới thúc giục.

“Tiểu thư, tiểu thư về trước đi.” Gia Tuệ nói, rồi đưa cho Lệ Tri một cái tay nải, “Đây là quần áo và một số đồ dùng hàng ngày. Tiểu thư cầm lấy trước đi, nếu còn cần gì nữa thì  lần sau nô tỳ sẽ mang đến.”

Một người đã là thân thế tự do, một người đã trở thành nô bộc, tuy rằng ở cùng một chỗ, nhưng lần nữa gặp nhau, sẽ không biết là khi nào.

Lệ Tri đè nén bi thương trong lòng, cúi đầu lau nước mắt, lúc ngẩng đầu lên, trên mặt đã là nụ cười:

“Ngươi cũng phải bảo trọng…..nhớ chăm sóc bản thân cho thật tốt, đừng lo lắng cho ta.”

Sau khi hai người lưu luyến không rời mà phân ra, Trương ma ma dẫn Lệ Tri trở lại tiểu viện ẩm thấp tối tăm.

“Nô tỳ này của ngươi thật là trung tâm.” Trương ma ma nói, “Ta đã thấy rất nhiều người khi gia cảnh sa sút, hạ nhân đều cuốn gói bỏ chạy, nhưng ta chưa từng thấy ai đuổi theo ngàn dặm xa xôi để đi theo chịu khổ cả. “

Tâm tình Lệ Tri phức tạp, miễn cưỡng cười:

“Gia Tuệ và ta lớn lên cùng nhau, tình nghĩa đương nhiên khác biệt.”

Trương ma ma đưa Lệ Tri về viện xong liền rời đi. Lệ Tri trở lại nhĩ phòng, mở tay nải ra, phát hiện bên trong có mấy bộ quần áo thu đông bằng vải tốt, một cái bàn chải đánh răng, mấy cái khăn tay mềm mại... Một hộp đậu tắm, và một hộp gỗ đơn giản, trong đó có hơn mười loại bánh ngọt phổ biến ở Kinh Đô.

Nhìn thấy mọi thứ mà Gia Tuệ đã dày công chuẩn bị, đôi mắt của Lệ Tri lại trở nên ẩm ướt.

Gia Tuệ và Gia Hòa là một đôi song sinh gia sinh tử(*) ở Lệ Gia, họ hơn Lệ Tri và Lệ Hạ năm tuổi, vì tuổi tác vừa phải và tình cờ cũng là sinh đôi nên được quản gia sắp xếp hầu hạ Lệ Tri và Lệ Hạ.

(*)Gia sinh tử: là con có cha và mẹ đều là hạ nhân trong phủ.

Gia Tuệ là nha hoàn thiếp thân của Lệ Tri, Gia Hòa là nha hoàn thiếp thân của Lệ Hạ.

Tuy là thân phận tiểu thư và nha hoàn, nhưng vì sinh mẫu mất sớm, phụ thân không để ý đến các nàng, chủ mẫu cũng không quan tâm, bốn người các nàng càng giống như tỷ muội cùng lớn lên.

Lệ Tri biết con đường phía trước nguy cơ trùng trùng nên nàng không muốn liên lụy đến hai tỷ muội Gia Tuệ, nhưng nếu tình thế đảo ngược, nếu hai tỷ muội Gia Tuệ gặp rủi ro, nàng và muội muội sẽ không có khả năng ngồi nhìn.

Có đôi khi, nàng cảm thấy số phận của mình thật éo le, nhưng có lúc, nàng lại cảm thấy ông trời đối đãi với nàng không tệ, cho nàng có hai tỷ muội tuy không cùng huyết thống nhưng lại giống như có cùng huyết thống.

Khoảng một giờ sau khi Lệ Tri trở lại nhĩ phòng, Đường quản gia lại đến tiểu viện.

“Sau này, ngươi sẽ làm việc ở Huyên Chỉ Viện của tiểu thư. Ngươi có thể hỏi những người cùng viện với ngươi để tìm ra vị trí của Huyên Chỉ Viện. Giờ mẹo sáng mai, ngươi phải đến Huyên Chỉ Viện báo danh. Quản sự ma ma ở đó họ Lý, chỉ cần ngươi không trộm cắp, không gian trá thủ đoạn thì bà ấy là một người rất dễ kết thân. Về sau, nếu có việc gì thì cứ trực tiếp nói với Lý Ma Ma là được..” Đường quản gia chắp tay sau lưng nói.

“Ta đã biết, đa tạ Đường quản gia hao tâm tổn trí.”

“Sau này ngươi ở Đô Hộ phủ…. Đặc biệt là trước mặt chủ tử, phải xưng là nô tỳ. Ta thì không sao nhưng nếu mạo phạm quý nhân thì không tốt.” Đường quản gia nhắc nhở.

Lệ Tri biết nghe lời phải: “Nô tỳ đã hiểu.”

Đường quản gia gật đầu, thong thả bước ra khỏi tiểu viện.

Chạng vạng tối, những nha hoàn trực ban lần lượt trở lại viện, và họ không khỏi có chút ngạc nhiên khi nhìn thấy người mới Lệ Tri.

Lệ Tri nhân cơ hội đi lên nói chuyện, một lát sau, mấy nha hoàn cùng tuổi trong viện cùng kết giao. Một nha hoàn lấy ra một túi nhỏ hạt dưa, chia cho mỗi người một ít, đứng trò chuyện bên cây táo.

“Trong phủ không có gì đáng để ý, lão gia và phu nhân đều là người khoan hậu.” Nha hoàn áo lam nói.

Nha hoàn áo lục đang ăn hạt dưa cũng phụ họa:

“Tiểu thư và thiếu gia cũng là người rất tốt, bọn họ chưa bao giờ đánh mắng chúng ta.”

Lệ Tri hỏi: “Không biết dưới gối lão gia có bao nhiêu hài tử?”

“Hai người.” Nha hòan áo lam đưa hai ngón tay, “Một thiếu gia, một tiểu thư.”

Có lẽ thấy được sự nghi hoặc của Lệ Tri, nha hoàn áo lam nói thêm:

“Lão gia của chúng ta là một người si tình, lão gia và phu nhân là thanh mai trúc mã. Phu nhân sinh tổng cộng hai hài tử, đó là thiếu gia và tiểu thư. Ta nghe nói, quý nhân trong Kinh thường có ba vợ và bốn thê thiếp, không biết có phải không?”

Lệ Tri thấy nha hoàn áo lam muốn khoe khoang, liền nương theo ý nàng ấy mà nói chuyện, thế là nàng thành công mở ra cái máy hát của nha hoàn áo lam.

Khi cuộc trò chuyện kết thúc, Lệ Tri đã nắm bắt được tính tình và đặc điểm của các chủ tử trong phủ.

May mắn là chủ tử trong phủ dường như không phải người xảo trá, và hầu hết những hạ nhân trong Đô Hộ phủ đều có một cuộc sống thanh nhàn.

Lệ Tri không lo lắng cho Tạ Lan Tư, nàng tin rằng với thân phận và tài trí của hắn, hắn có thể sống một cuộc sống tốt hơn nàng nhiều.

Mục tiêu hàng đầu của nàng bây giờ là giành được chỗ đứng vững chắc trong Đô Hộ phủ.

Giờ mẹo ngày thứ hai, Minh Nguyệt Tháp trời còn chưa sáng. Lệ Tri đến Huyên Chỉ Viện để báo cáo.

Quản sự ma ma Huyên Chỉ Viện họ Lý, hơn bốn mươi tuổi, tóc mai hai bên hoa râm, khuôn mặt chữ quốc, giống như một nam nhân cao lớn thô kệch. Đôi môi luôn mím lại khiến người ta cảm thấy có không có gì trên trên đời làm cho bà ấy vui vẻ.

Lý Ma Ma nghiêm khắc giải thích các quy củ của Huyên Chỉ Viện cho Lệ Tri, phân phó nàng làm thô sử nha hoàn trong nội viện, phụ trách về những việc lặt vặt như quét tước và giặt giũ. Lệ Tri cẩn thận ghi nhớ các quy củ của Huyên Chỉ Viện.

Thấy thái độ của Lệ Tri nghiêm túc, giọng điệu Lý Ma Ma trở nên ôn hòa hơn một chút, bà gọi một thô sử nha hoàn khác là Cúc Sinh đến để làm quen với nàng.

Cúc Sinh là một tiểu cô nương trạc tuổi Lệ Tri, hai người nhìn nhau cười, coi như là thân thiết.

Sau khi trời sáng, Lý Ma Ma mang theo một vài nha hoàn đi vào phòng của tiểu thư để hầu hạ Lỗ Huyên rời giường, Lệ Tri và Cúc Sinh thì lấy một chậu quần áo lớn để giặt bên bờ sông.

Những gia đình giàu có ở Kinh Đô thường có những thủy công chuyên gáng nước mang về, sau đó những nha hoàn trong Hoán Y Phòng sẽ cùng nhau giặt, nhưng trong Đô Hộ phủ lại không có thủy công, nên công việc giặt giũ của Huyên Chỉ Viện đều do thô sử nha hoàn mang ra bờ sông bên ngoài Đô Hộ phủ để giặt.

Cúc Sinh  là một cô nương thiện tâm, nàng ấy luôn lo lắng không biết Lệ Tri có thể nâng nổi chiếc chậu gỗ đầy quần áo hay không, và liệu Lệ Tri có thể kiên trì đi được hai dặm không.

Lệ Tri không nhịn được cười nói: “Ta đã đi ba nghìn dặm, thì hai dặm có là gì?”

Cúc Sinh suy nghĩ một chút, liền lè lưỡi tinh nghịch làm một cái mặt quỷ.

Lệ Tri đang định thăm dò tung tích của Tạ Lan Tư từ miệng Cúc Sinh thì một bóng người quen thuộc xuất hiện trong tầm mắt nàng.

Chu Thị, người đã moi khẩu phần lương thực của nàng trên con đường lưu vong, bị ba gã nam tử trẻ tuổi nhìn giống như du côn đẩy vào một con hẻm nhỏ u ám.
 
Chương 19


Thấy ba tên du côn kéo Chu Thị vào một con hẻm nhỏ, Lệ Tri buông chậu gỗ xuống và đuổi theo.

Cúc Sinh thấy thế cũng chạy theo.

Trong hẻm nhỏ, ba tên du côn đã đẩy ngã Chu Thị mặt không còn chút máu xuống đất, chúng muốn bá vương ngạnh thượng cung ngay tại chỗ.

Lệ Tri nhìn thấy cảnh này, một cổ lửa giận bay thẳng lên đỉnh đầu nàng.

“Dừng tay!” Mặt nàng tái mét.

“Ngươi là cái củ hành nào?”

Một tên du côn trông có vẻ thiếu kiên nhẫn, đến khi nhìn thấy khuôn mặt của Lệ Tri, hắn lập tức bỏ Chu Thị ra và đi về phía Lệ Tri với đôi mắt tỏa sáng.

“Muội muội không chỉ có tâm địa thiện lương, mà còn đẹp mắt nữa, sao ta chưa từng gặp qua? Ngươi cùng nữ nhân già này lưu vong đến đây sao? Theo ca ca ta, đảm bảo về sau ngươi sẽ có một cuộc sống tốt nha….”

“Ta là người của Đô Hộ phủ, ngươi dám đụng đến ta?!” Lệ Tri lạnh lùng quát.

Cúc Sinh kinh ngạc nhìn nàng, kinh ngạc vì nàng chỉ mới đến phủ ngày đầu tiên mà đã học được cách dùng Đô Hộ phủ làm lá chắn rồi.

Sắc mặt của ba tên du côn thay đổi khi nghe thấy Đô Hộ phủ, bọn hắn liếc nhìn nhau, rồi lại nhìn Lệ Tri, cảm thấy nàng không giống nói dối.

“Mẹ, xui xẻo!” Một tên du côn nhổ nước miếng xuống đất.

Ba người hậm hực rời đi. Trước khi đi, tên cầm đầu cố ý nhìn chằm chằm Lệ Tri, ánh mắt như muốn nói “chờ xem”.

Lệ Tri cũng đang nhìn hắn.

Ánh mắt giằng co do tên cầm đầu khởi xướng, nhưng ánh mắt dời đi trước nhất cũng là của tên đó.

Minh Nguyệt Tháp nằm ở vùng biên cương, nơi có nhiều dân tộc cùng chung sống với nhau, phong tục dân gian cởi mở hơn nhiều so với ở Kinh Đô. Nơi đây có rất nhiều nữ nhân thô bạo và man rợ. Họ như hổ, như hắc hùng, nhưng không có ai giống như loài rắn âm trầm mà khoác lên mình hoa văn xinh đẹp.

Tên cầm đầu không giải thích được tại sao mình lại hoảng hốt, nhưng hắn quyết định thuận theo nội tâm của mình là nhanh chóng dẫn hai tiểu đệ rời khỏi đây.

Ba tên du côn đi rồi, Cúc Sinh mới thở phào nhẹ nhõm, nghĩ mà sợ nói:

“May là bọn hắn bị tên tuổi của Đô Hộ phủ dọa chạy mất, lá gan của ngươi cũng quá lớn….”

“Chỉ là bọn tiểu lưu manh mà thôi, không có gì phải sợ.” Lệ Tri nói.

Nàng bước nhanh về phía trước đỡ Chu Thị quần áo không chỉnh tề dậy.

Sắc mặt Chu Thị trắng bệch, nhìn Lệ Tri trước mặt, lúc này nước mắt mới trào ra.

“Chu di nương, làm sao di nương lại bị bọn hắn đeo bám?” Lệ Tri nhíu mày.

“Ta… ta…” Chu Thị muốn nói lại thôi, nhìn Cúc Sinh.

“Ta ra ngoài xem một chút, chậu gỗ của ngươi còn ở bên ngoài.” Cúc Sinh thức thời đi ra khỏi hẻm nhỏ.

“Chu di nương, người đừng vội, từ từ nói.” Lệ Tri vỗ nhẹ cánh tay Chu Thị, dùng ánh mắt trấn an.

Chu Thị buông đề phòng và bật khóc. Bà nắm chặt tay Lệ Tri, giọng nói run rẩy:

“Ta vốn tưởng rằng những ngày đó sẽ kết thúc khi ta đến Minh Nguyệt Tháp, nhưng không ngờ… Ngay cả khi ta đến Minh Nguyệt Tháp, bọn hắn vẫn không buông tha cho ta…”

Lời nói của Chu Thị rất mơ hồ, nhưng Lệ Tri lại hiểu chuyện gì đã xảy ra với bà.

“Ta không trách người khác, là tự ta thấp hèn… sẵn sàng làm bất cứ điều gì để có miếng ăn… thanh danh của ta đã bị hủy… đáng thương Tượng Thăng và Từ Ân có một mẫu thân như ta… ” Chu Thị nói xong lời cuối cùng, khóc không thành tiếng.

“Chu di nương, việc này cũng không trách người.” Lúc này đổi thành Lệ Tri nắm chặt cánh tay Chu Thị, ép đôi mắt đẫm lệ của Chu Thị nhìn nàng, gằn từng chữ nói: “Di nương một là không ăn trộm, hai là không ăn cắp... di nương chỉ là muốn cho mình và hài tử được sống tốt…..sai là những kẻ đã dùng điều này để áp bức di nương.”

“Nhưng ta… ta đã hèn hạ đe dọa ngươi để lấy đi khẩu phần lương thực…”

Chu Thị che khuôn mặt đẫm nước mắt, thống khổ và xấu hổ khiến khuôn mặt bà biến dạng.

“Không sao, ta tha thứ cho di nương rồi.”

Lệ Tri vén tóc mai ướt đẫm nước mắt của Chu Thị ra sau tai.

Giọng nói của nàng chứa đầy ôn nhu thương xót.

Chu Thị càng nắm chặt tay của Lệ Tri, giống như nếu bà không làm như vậy, cơ thể gầy gò của bà sẽ rơi xuống một nơi sâu hơn. Chu Thị nhắm chặt hai mắt và mím chặt môi, nhưng cổ họng vẫn run rẩy phát ra tiếng khóc nức nở.

Nước mắt tuôn như suối chảy dài trên khuôn mặt bà.

Chu Thị xuất thân thương hộ không sai, nhưng bà có thể gả vào Lệ Phủ, đương nhiên không phải là nữ nhi của một thương hộ bình thường. Chu Gia kinh doanh nhiều đời, giàu có sánh ngang với vương hầu, Chu Thị là đích nữ Chu Gia, từ nhỏ đã được giáo dục như một tiểu thư.

Điều Vương Thị hiểu, bà cũng hiểu, nhưng bà vẫn phải làm điều không nên làm.

Một đôi nhi nữ của bà như một ngọn lửa đang lụi tàn trên con đường lưu vong, sao bà có thể làm như không nhìn thấy? Từng đêm từng đêm, bà đều lo lắng không biết ngày mai các con của bà có còn mở mắt ra nữa không.

Bà nhắm mắt lại, mặc cho đám du côn đó hủy hoại mình, nhắm mắt lại, nhận lấy khẩu phần lương thực từ tay Lệ Tri…lần nào, lần nào, trái tim của bà cũng rỉ máu.

Vô số lần, bà muốn chết.

Nhưng bà vẫn còn hai hài tử.

Hài tử của bà không làm điều gì sai.

Cho dù bà có rơi vào địa ngục vô tận, hai hài tử của bà, một đôi nhi nữ trong sáng và ngây thơ, cũng không nên rơi xuống cùng bà.

Lệ Tri đỡ Chu Thị đang khóc đến mất đi sức lực dậy, hỏi:

“Di nương, người đang ở chỗ nào? Ta đưa người về.”

Cũng may, chỗ Chu Thị ở là gần bên bờ sông nơi Đô Hộ phủ giặt quần áo, Lệ Tri đưa Chu Thị đến nơi, phát hiện rằng đó không phải là một nơi để ở mà là một túp lều tạm thời được dựng bằng tấm ván gỗ.

“Ta đi tới chỗ giặt quần áo trước chờ ngươi.” Cúc Sinh nói.

Lệ Tri biết nàng ấy muốn nhường chỗ nói chuyện cho mình nên nhìn Cúc Sinh đầy cảm kích.

Nghe tiếng, một khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ bừng vì lạnh từ bên trong thò ra, nhìn thấy sinh mẫu và Lệ Tri ở bên ngoài, trên mặt lộ ra nụ cười ngây thơ.

“Di nương! Lệ Tri tỷ tỷ!”

Lệ Từ Ân nhảy ra khỏi túp lều như một con thỏ con hoạt bát.

Dù cuộc sống có nhiều vất vả nhưng gương mặt của tiểu cô nương vẫn không vương chút sương khói nào.

Lệ Tri cười xoa đầu nàng, hỏi: “Ca ca của muội đâu?”

“Ca ca ra ngoài kiếm củi rồi.” Lệ Từ Ân cười nói.

Đang nói đến Lệ Tượng Thăng, thì một thiếu niên gầy gò từ bờ sông bên kia đi đến.

Khi Lệ Tượng Thăng nhìn thấy Lệ Tri và Cúc Sinh xa lạ trước lều, hắn rất ngạc nhiên. Lệ Tri chào trước: “Tượng Thăng ….”

Người sau cúi đầu trầm mặc, ôm củi đi vào trong lều. Lệ Tri nhìn thấy trên mặt hắn hiện lên những vết máu ứ đọng.

“Đứa nhỏ này từ khi đến Minh Nguyệt Tháp tính cách càng ngày càng âm trầm…… Cô nương đừng trách hắn, đều là tại ta.” Chu Thị nghẹn ngào nói.

“Ta không trách hắn, di nương yên tâm.”

Lệ Tri không có gì trên người để cho họ,  nhìn Chu Thị với vẻ áy náy:

“Nếu đã tiễn di nương về chỗ ở rồi, ta cũng yên lòng. Ta vẫn còn quần áo của Đô Hộ phủ phải giặt….”

Chu Thị lập tức nói: “Cô nương mau đi đi, đừng vì ta mà bỏ lỡ công việc.”

“Ngày mai ta lại đến thăm di nương, lúc đó ta sẽ mang theo một ít thức ăn và đồ dùng đến.” Lệ Tri an ủi.

Ngay khi Lệ Tri chuẩn bị rời đi, Chu Thị đột nhiên nhét một thứ gì đó vào tay nàng. Khi Lệ Tri nhìn thấy đó là một con bài ngà(*) viết chữ Chu.

(*)Con bài ngà: quân bài làm bằng xương.

“Tuổi tác ta đã lớn, kiếp này cũng không có hy vọng được trở về Kinh Đô… Ta có một việc muốn nhờ cô nương giúp đỡ.” Chu Thị nhìn nàng với vẻ mặt khẩn cầu, “Đây là vật duy nhất ta có, nếu một ngày nào đó cô nương có thể trở lại Kinh Đô, có thể thay ta đưa con bài ngà này cho cha ta không?”

Lệ Tri cân nhắc một lát, rồi nhận lấy con bài ngà.

“Được, nếu như ta có thể trở về Kinh Đô, ta nhất định sẽ giúp di nương đem vật này giao cho Chu lão gia.” Nàng trịnh trọng nói.

Chu Thị cảm động quỳ xuống trước mặt nàng.

“Đại ân đại đức của cô nương, kiếp này ta không thể báo đáp, nếu có kiếp sau, ta nguyện làm con chim Cát Tường đứng dưới mái hiên của cô nương, mỗi ngày khi mặt trời mọc đều cầu phúc cho cô nương.”

“Di nương mau đứng lên, chúng ta đều là người một nhà, không cần như thế … “

Lệ Tri vội vàng đỡ Chu Thị dậy.

Nàng an ủi thêm một lần nữa rồi mới rời khỏi lều. Sau khi đi được một đoạn đường dài, Lệ Tri quay đầu lại, và nàng vẫn có thể nhìn thấy Chu Thị đứng trước tấm ván gỗ hỏng, nhìn nàng thật lâu.

Khi Lệ Tri đến nơi Cúc Sinh đang giặt quần áo, Cúc Sinh đã giặt giúp nàng một nửa số quần áo mà lẽ ra nàng phải giặt.

Lệ Tri áy náy nói: “Làm phiền ngươi rồi… Ngày mai ta sẽ giặt giúp ngươi.”

“Có gì đâu, trước khi ngươi tới, tất cả quần áo ở Huyên Chỉ Viện đều là do ta giặt, đã quen rồi.” Cúc Sinh cười hì hì nói.

Lệ Tri không muốn làm phiền người khác, nàng cố gắng giặt sạch quần áo còn sót lại trong chậu gỗ.

Nước sông mùa đông lạnh như băng, hai tay Lệ Tri ngâm trong nước trở nên sưng đỏ. Mỗi khi gió sông như dao thổi qua, mặt nàng bị chà xát đến đau nhức.

Nhưng so với trên đường lưu vong màn trời chiếu đất, ăn không đủ no, thì nó đã  tốt hơn rất nhiều.

“Ngươi giặt như vậy sẽ không sạch đâu … cho thêm đậu tắm vào, sau đó đập quần áo trên đá …” Cúc Sinh không sợ phiền mà chỉ dẫn tận tình.

“Đa tạ ngươi…”

Khuôn mặt Cúc Sinh đỏ bừng, nàng nghiêng đầu nhìn Lệ Tri đang vụng về vò mạnh bộ quần áo bẩn, hỏi:

“Có phải tất cả các cô nương ở Kinh Đô đều xinh đẹp như ngươi không?”

Lệ Tri ngẩng đầu cười với nàng ấy: “Phong cảnh mỗi nơi mỗi khác, Kinh Đô nhìn ta thế này đã chán rồi. Cúc Sinh mà đến Kinh Đô, nhất định sẽ là một mỹ nhân xinh đẹp độc nhất vô nhị ở Kinh Đô đấy.”

Tiểu cô nương cười xấu hổ.

“Trước đây, Minh Nguyệt Tháp cũng có những người từ Kinh Đô đến, nhưng họ không dễ hòa đồng. Họ chỉ nói chuyện với những người cũng đến từ Kinh Đô thôi.” Cúc Sinh nói, “Không giống như ngươi, không có một chút kiêu ngạo nào.”

Nói xong, nàng ấy lại bổ sung:

“Cũng không đẹp bằng ngươi.”

Lệ Tri cười nói: “Người ta nói gần son thì đỏ, vậy chẳng phải ngươi cũng sẽ trở nên xinh đẹp hơn sao?”

Tiếng cười thanh thúy của Cúc Sinh nhảy múa trên mặt sông lấp lánh, hai thiếu nữ trạc tuổi nhau vừa giặt đồ vừa trò chuyện rôm rả.

Những đám mây mỏng trên bầu trời không biết từ lúc nào đã bị thổi bay sang phía bên kia, để lộ ra một màu trắng cao chót vót ở nơi từng được lụa trắng bao phủ.

“Đó là Tiên Nãi Nguyệt Thần Sơn của Minh Nguyệt Tháp chúng ta. Trên núi có Thần cung, phù hộ cho Minh Nguyệt Tháp luôn mưa thuận gió hòa.” Cúc Sinh chú ý đến ánh mắt của Lệ Tri, “Nhưng trong Thần cung không cho người ngoài vào, nếu chúng ta muốn tế bái thì đều phải đi miếu Nữ Oa ở trấn trên.”

Lệ Tri thuận thế hỏi về phong tục của Minh Nguyệt Tháp và một số điều cấm kỵ trong Đô Hộ phủ, đợi lúc Cúc Sinh buông cảnh giác, nàng giống như vô tình nhắc đến Tạ Lan Tư.

“... Sau khi Hoàng Tôn đến, ta chưa được gặp qua. Nhưng ta biết hắn sống ở Trúc Viện phía đông, nghe nói chân tay hắn không tiện, cho nên hắn cũng không lộ diện. Nhưng những người đã gặp đều nói rằng hắn đẹp như Tiên Nãi Nguyệt Thần Sơn của chúng ta.” Cúc Sinh cong môi, “Ta không tin có Thần Sơn đẹp như vậy, chắc chắn là các nàng có quá ít kiến thức.”

Lệ Tri ghi nhớ tên Trúc Viện, dự định khi có cơ hội sẽ đi dò thám.

Khi hai người giặt xong quần áo và lên đường trở về Đô Hộ phủ, trời đã xế chiều.

Lệ Tri thật không ngờ, đây là lần cuối cùng nàng và Chu Thị gặp nhau.

Ngày thứ hai, Chu Thị bị phát hiện nhảy sông tự sát.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top