Cập nhật mới

Dịch Full Tarzan 1: Con Của Rừng Xanh

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: Tuần dương hạm nhổ neo


Trung úy Ac nốt tỉnh dậy và thấy mình đang nằm trên chiếc đệm làm bằng cỏ và rêu. Lớp cỏ dưới lưng anh đã uốn cong lên làm thành một mái che kín đáo. Phía dưới chân anh có một lỗ hổng. Nhìn qua lỗ hổng đó, anh trông thấy một bãi cỏ xanh và một khoảng rừng lá ken dày, trông như một con đê lớn.

Trung úy cảm thấy mình hết sức yếu ớt. Anh càng tỉnh, càng bị những vết thương hành hạ, đau đớn. Chỉ cần cựa nhẹ một chút là anh thấy đầu đau như muốn vỡ. Anh chỉ muốn nằm im và nhắm mắt lại. Anh cố gắng nhớ lại thật kỹ những chuyện đã xảy ra để xác định hiện trạng của mình. Lúc này, thực ra anh vẫn chưa biết mình đang nằm ở đâu, trong tay kẻ thù hay trong tay đồng đội.

Sau một lúc cố gắng, cuối cùng anh đã nhớ tới cái người da trắng trần truồng đã giải thoát anh khỏi chiếc cọc hành hình và bế anh lên. Nếu như anh không mơ thì đúng là có chuyện ấy. Nhưng rồi sau đó thì sao? Còn bây giờ? Chuyện gì sẽ xảy ra với anh? Trong cái tổ làm bằng cỏ rất kín đáo này, anh chỉ nghe thấy vọng vào tiếng xạc xào của rừng già. Tiếng cành cây khô khốc. Tiếng lá rì rào. Tiếng côn trùng rên rỉ. Tiếng chim kêu vượn hú... Chẳng có một dấu hiệu gì của sự sống con người! Đầu óc anh lơ mơ. Một lát sau anh lại thiếp đi. Tới khi anh tỉnh dậy thì trời đã trưa. Lại lần nữa, anh phải cố gáng suy nghĩ mò lại đầu mối của các sự kiện đã xảy ra và tin chắc rằng mình đang sống. Nhìn qua lỗ hổng phía dưới chân, anh trông thấy có cơ thể rám nắng, săn chắc của một người đàn ông. Đó là một người da trắng. Anh lựa hơi thở, cố gắng gọi người lạ.

Người đàn ông quay lại và chui vào tổ cỏ. Đó là một thanh niên đẹp trai, có mái tóc rất dài. Ac nốt nói với chàng trai bằng tiếng Pháp nhưng chàng lại lắc đầu. Thật đáng tiếc! Người bị thương nghĩ rồi lại nói bằng tiếng Anh. Nhưng chàng trai vẫn không hiểu gì. Ác nột lại lần lượt thử nói bằng tiếng Italia, Tây Ban Nha rồi tiếng Đức. Kết quả vẫn thế. Là một thủy thủ lênh đênh bốn biển, trung úy Ác nốt còn biết vài tiếng Nauy, tiếng Nga và tiếng Hy Lạp nữa. Thậm chí anh còn thuộc một số từ ngữ của những thổ dân da đen đông Phi dọc bờ biển này. Nhưng chàng trai không hề biết một ngôn ngữ nào cả.

Một lát sau chàng trai xem qua các vết thương của trung úy rồi bỏ ra ngoài. Nửa giờ sau chàng ta quay lại với một ôm hoa quả và một ít nước, đựng trong vỏ một quả bí khô. Ác nốt uống nước và há miệng cho chàng trai đặt từng mẩu trái cây vào lưỡi. Ac nột lại thử nói với chàng trai đang chăm sóc mình vài câu. Nhưng mọi cố gắng của anh đều vô ích.

Chàng trai bí ẩn đó lại bỏ đi, có vẻ như vừa nhớ ra một điều gì đó. Vài phút sau chàng trở lại, mang theo một nắm vỏ cây mềm và một vật gì đó giống như chiếc bút. Ác nốt nình kĩ. Đúng là chiếc bút thật! Chàng trai ngồi bên cạnh Ac nốt, nhìn chăm chăm vào mặt anh một lúc rồi chỉ tay vào ngực mình. Từ cổ họng chàng bật ra hai tiếng: "TÁC DĂNG"

Hai âm thanh đó vang lên cùng với một cái lắc đầu. Ngay sau đó, chàng trai cúi xuống nhìn mảnh vỏ cây. Khuôn mặt chàng có vẻ rất căng thẳng. Chàng mắm môi mắm lợi, cầm bút bôi vào vỏ cây. Chàng bôi xong liền đưa mảnh vỏ cây cho Ac nốt. Viên trung úy giật mình khi nhìn thấy trên mảnh vỏ cây hiện ra những từ tiếng Anh: "Ông là ai? Hiểu không?"

Trung úy Ác nốt định cầm bút nhưng sức anh còn quá yếu. Đồng thời anh cũng nghĩ ngay rằng chàng trai này viết tiếng Anh, hẳn chàng là một người Anh.

- Tôi hiểu, - viên trung úy nói - Tôi biết nói và viết tiếng Anh. Nhưng chúng ta nói với nhau thì tiện hơn. Trước hết tôi xin cám ơn anh vì...

Nhưng Tác dăng lại lắc đầu, chỉ tay vào mảnh vỏ cây và cây bút.

- Anh là người nước Anh, vì sao không nói tiếng Anh?

Nhưng vừa nói xong trung úy chợt nghĩ: "Chàng trai này vừa bị câm, vừa bị điếc." Anh muốn cầm bút vào tay, nhưng vừa cựa mình anh đã phải nghiến chặt răng lại vì vết thương nhức nhối. Anh lại nằm thở.

Tác dăng hiểu rằng người đàn ông da trắng này vẫn còn cần nghỉ ngơi. Chàng viết thêm vào mảnh vỏ cây: "Ông ngủ đi! Sau đó tôi đưa ông về chỗ người của ông"

° ° ° Khi đội quân tiễu phạt từ rừng sâu thất vọng trở về, thuyền trưởng Dunran muốn nhổ neo, trở lại căn cứ hải quân của mình. Tất cả mọi người đều đồng tình với ý định đó, trừ Potorova.

- Không - Potorova lắc đầu kiên quyết - Tôi sẽ không đi! Các ông cũng không được đi! Biết đâu cả hai người của chúng ta còn đương lang thang vất vưởng đâu đó trong rừng? Một người là trung úy của các ông đấy, thưa ngài thuyền trưởng! Còn một người là chàng trai lạ mặt đã lần lượt bảo vệ tất cả chúng tôi trước cái chết. Hai hôm trước, anh ta đã cứu tôi và hộ tống tôi về tới tận bờ biển này. Sau đó lại chạy đi định cứu cha tôi và ông Clayton. Anh ta chưa quay lại đây. Có thể anh ta đang ở chỗ ông trung úy bị thương thì sao?

- Nhưng mà những thủy thủ của chúng tôi đã tìm thấy quân phục sỹ quan của trung úy trong đám dân da đen, cô Potorova ạ! - thuyền trưởng trả lời - Những người thổ dân đó đã tỏ ra rất hằn học, căm thù khi chúng tôi hỏi tới trung úy.

- Điều ấy là có thể, thưa thuyền trưởng! Nhưng chẳng có ai trong số thổ dân đó nói chính xác rằng trung úy đã chết cơ mà.

Viên thuyền trưởng lắc đầu buồn bã:

- Chàng trai người rừng của các vị có thể bị giết hoặc bị bắt làm tù binh rồi thì sao? - Viên thuyền trưởng vẫn tiếp tục tranh luận.

Cô gái bật cười, trả lời bằng giọng có vẻ tự hào:

- Các ông không biết anh ta đấy thôi, thưa thuyền trưởng!

- Tôi cũng công nhận là với cái con người siêu phàm đó chúng ta cần phải gặp, làm quen, - Thuyền trưởng gật gù bình luận - Nhưng còn nhiệm vụ của chúng tôi nữa.

- Đây chỉ là một dự đoán thôi, - Trung úy Sapinto nói chen vào - Chàng người rừng đó là người của bộ lạc đã tấn công đội tìm kiếm của chúng ta. Chàng ta bỏ cô ở lại là để chạy về giúp đỡ bộ lạc của mình.

Nghe trung úy Sapinto nói, Potorova liền quay sang nhìn mặt Clayton.

- Điều ấy là một giả thiết có cơ sở đấy - giáo sư Poto lên tiếng ủng hộ.

- Tôi phản đối! - Ông trợ lí Philando lên tiếng - Cái anh chàng người rừng kì lạ đó có thể ám hại chúng ta bất cứ lúc nào nếu anh ta thích. Anh ta có thể dẫn cả bộ lạc đến tấn công chúng ta. Thế mà đằng này chỉ thấy anh ta giúp đỡ chúng ta.

- Điều đó đúng! - Clayton góp lời - Nhưng chúng ta cần phải lưu ý một điều là: trong bán kính một trăm dặm rừng này, ngoài an ta ra thì không có một người da trắng nào sống ở đây cả. Toàn là những người dã man. Anh ta lại trang bị vũ khí cũng chẳng khác gì họ. Chắc chắn là anh ta có quan hệ tốt với họ.

- Tôi không tin, - Potorova lại lên tiếng - Nếu như các ông cũng tiếp xúc với anh ta như tôi, các ông cũng sẽ tin cậy anh ta như tôi. Anh ấy đã cứu tôi thoát chết. Không hề do dự, anh ấy đã đánh nhau với một con đười ươi hung dữ...

- Cô chủ yêu quý của tôi ơi! - Người đàn bà da đen từ nãy đến giờ lắng nghe đã sốt ruột kêu lên - Chả lẽ cô thích ở lại giữa đám thú rừng lởn vởn quanh đây hay sao? Trong khi đó cô có thể trở về bằng con tàu to lớn thế kia.

- Sao lại không? - Cô gái cau mày trả lời tức khắc - Thế cô không xấu hổ vì đã bội ơn người đã hai lần cứu cô thoát chết hay sao?

- Lạy thánh Gabrien! Quả đúng như vậy. Nhưng có điều là anh chàng ấy cứu sống chúng ta để chúng ta về, chứ không phải để ở lại đây. Tôi đã phải nghe tiếng hổ báo, sư tử gầm ban đêm quá nhiều rồi.

- Tôi cũng không cho là cô phóng đại đâu, Exme ạ! - Clayton nói - nghe tiếng sư tử gầm là tôi dựng hết cả tóc gáy.

- Được rồi! Anh và Exmeranda có thể lên tàu, nếu như các vị sợ hãi đến thế - Cô gái cười mai mỉa - Anh sẽ nói sao nếu như anh phải sống suốt đời trong rừng này, giống như người đã cứu anh?

- Tôi nghĩ rằng tôi sẽ trở thành một người rừng thuộc loại hạng bét, cô Potorova ạ! - Clayton trả lời ngay.

- Tôi chưa bao giờ tự hỏi: Mình thuộc loại đàn ông dũng cảm hay hèn nhát? - Trung úy Sapinto thốt lên - Nhưng mà đêm nay, khi người trung úy bất hạnh của tôi bị bắt đi, thì lần đầu tiên trong đời, tôi đã tự kết luận được về mình: "Tôi là một kẻ nhát gan"... Những âm thanh ghê rợn của rừng này: tiếng gầm rú, tiếng cành cây gẫy, tiếng bước chân rón rén... Đấy các vị nghe xem! Hình như bốn phía đang có hàng nghìn cặp mắt theo dõi chúng ta. Chúng ta không thấy, nhưng chúng ta chỉ cảm thấy thôi.

Tất cả mọi người im bặt. Lát sau Potorova mới lên tiếng. Cô chỉ tay vào rừng, nói:

- Anh ta cũng đang ở trong đó. Đôi mắt anh ta cũng đang nhìn. Nhưng có thể là nhìn trung úy Acnốt - bạn ông. Các ông có thể bỏ anh ta sao? Các ông không thể nán lại vài ngày hay sao?

- Cô thắng tất cả rồi đấy, - Viên thuyền trưởng lên tiếng kết luận - Tuần dương hạm sẽ chờ vài ngày nữa.

- Rất chí lý! Ông Philando kêu lên - Tranh thủ thời gian trong chờ đợi, ngày mai chúng ta có thể đi xem kho báu của mình.

- Ồ, ông thấy không? Giáo sư Poto vỗ tay vào trán, vui vẻ - Thế mà chúng ta hoàn toàn quên mất cái thùng gỗ sồi ấy. Thưa thuyền trưởng! Ngài có thể cho chúng tôi mượn vài thủy thủ để giúp sức được không? Một tay thủy thủ nào đó của thuyền Ơrâu phải đi để chỉ cho chúng tôi biết chỗ giấu hòm.

- Tất nhiên rồi! - Thuyền trưởng nói - Khi hỏi cung đám thủy thủ nổi loạn và hẩm hiu đó, trước hết chúng tôi nghĩ tới việc cứu các vị. Nhưng bây giờ chúng ta có thể điều tra xem vì cái gì mà đám người vô lại đó lại dám cướp thuyền của các vị.

Mọi việc đã được bàn tính, thỏa thuận. Sáng hôm sau trung úy Sapinto cử mười thủy thủ và kéo theo một tên tội phạm của thuyền Ơrâu đến nơi giấu kho báu. Tuần dương hạm sẽ nghỉ trong vịnh một tuần lễ nữa. Sau tuần lễ đó, nếu không thấy hoặc không còn nghi ngờ gì về cái chết của Acnốt nữa và chàng người rừng không hiện ra, thuyền Ơ râu và tàu tuần dương sẽ nhổ neo.

Sáng hôm sau, giáo sư Poto không đi cùng tốp người đào thùng tiền vàng. Khi thấy mọi người trở về tay không, ông vội chạy ra.

- Thùng đâu rồi? - Giáo sư gào lên hỏi Clayton từ xa.

Clayton vẫn thong thả bước, chán nản trả lời:

- Nó biến mất rồi.

- Mất? Không thể có chuyện đó! Ai lấy được nó? - Giáo sư gắt gỏng.

- Chúng tôi không biết. - Clayton trả lời - Lúc đầu chúng tôi nghĩ là gã thủy thủ dẫn đường đã nhớ nhầm chỗ. Nhưng đúng là dưới xác tên cướp biển đó đã có chôn thêm một cái gì đó nữa. Cái lỗ hình chữ nhật vẫn còn rỗng, đất rơi xuống không đầy 1 xô.

- Nhưng có ai biết mà lấy cái thùng đó đi? - Giáo sư vẫn hỏi.

- Các vị có thể nghĩ tới các thủy thủ của tuần dương hạm - trung úy Sapinto nói ngay - Thuyền trưởng của chúng tôi nói rằng, trong khi chúng tôi tìm cô gái trong rừng, ở tầu không có người nào lên bờ cả.

- Tôi không hề nghi ngờ thủy thủ tàu tuần dương - Giáo sư Poto nói như có ý xin lỗi.

- Chắc chắn là chiếc thùng đã bị moi đi từ lâu rồi, - Viên trung úy nói tiếp - bị moi đi từ trước khi cái xác bắt đầu ươn. Nếu chỉ bị moi gần đây thì cái xác không thể còn nguyên lành như thế.

- Thề trước Chúa Trời! - Clayton kêu lên - Chắc là một tốp người da đen nào đó đã làm chuyện ấy. Có thể một người nào đó trong bộ lạc đã trông thấy đám thủy thủ nổi loạn chôn chúng.

- Chúng tôi thực là những kẻ rủi ro! - Giáo sư thở dài ngao ngán - Thế là vàng đã mất, mất luôn rồi. Chúng tôi không bao giờ còn được trông thấy kho vàng đó nữa.

Sáu ngày sau, thuyền trưởng Dunran tuyên bố rằng ông không thể chờ lâu hơn được nữa. Ngày hôm sau tàu phải lên đường. Potorova định xin hoàn thêm một vài ngày nữa, nhưng sáu ngày qua quả thực chính cô cũng đã nghi ngờ về khả năng quay lại của chàng trai người rừng. Có lúc cô chợt nghĩ tới cái chết của chàng nhưng cô không thể nào hình dung được một kẻ nào đó có thể làm chàng ngã xuống. Có một điều cô tin chắc là: chàng trai không phải là kẻ ăn thịt người, mặc dù chàng có thể là đòng bọn với bộ lạc da đen nào đó.

Cô không phản đối chuyện tàu tuần dương ngày hôm sau nhổ neo. Nhưng cô đề nghị để lại súng đạn, thực phẩm và một số thứ cần thiết cho sinh hoạt con người, cho cái con người mà các thủy thủ chưa một lần nhìn thấy như cô. Cô cùng lưu ý mọi người rằng: biết đâu trung úy Ac nốt sẽ xuất hiện trong ngôi nhà gỗ này. Cô nói khá nhiều về viên trung úy nhưng trong đầu cô lại nghĩ nhiều nhất tới "thần rừng" - người đã giữ gìn cho cô sự sống, người mà cô khao khát được đền ơn.

Đề xuất của Potorova được chấp thuận và được thực hiện ngay. Clayton trước khi đi, còn để bên cạnh các thực phẩm một lá thư cảm ơn Người Bắn Cung, chuyển lời cám ơn của anh tới người rừng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: Rừng xanh hiu quạnh


Trung úy Acnốt nằm sốt li bì trên đệm cỏ. Anh buồn bã nghĩ rằng: vì bị mất máu quá nhiều nên chỉ vài ngày sau anh sẽ chết. Giữa những cơn sốt mê man, anh tính tới chuyện nhờ Tácdăng chuyển lời trăn trối của anh tới thuyền trưởng tuần dương hạm. Tácdăng trả lời anh bằng mấy chữ rất vô nghĩa: "Con khỉ to đi chỗ này. Người da trắng giết." Rõ ràng là Tácdăng chẳng hiểu gì cả. Acnốt thất vọng, xoay mình, nhắm mắt lại. Anh không muốn tự tử. Và dù có muốn, anh cũng không biết tự tử bằng cách nào, làm gì để cho cái chết đến nhanh hơn. Phải chấp nhận cái chết thế này: chết từ từ, chết chậm chạp. Nhưng cần phải có mấy chữ để lại... Nhiệt độ trong người mỗi lúc một cao.

Ba ngày tiếp theo, trung úy Acnốt vẫn mê man trong những cơn sốt. Anh bắt đầu mê sảng. Tácdăng lúc nào cũng ở bên cạnh anh. Tácdăng chườm nước lã và rửa các vết thương cho anh. Tới ngày thứ tư thì... thật kì lạ, cơn sốt đột ngột dừng lại. Nhưng Acnốt chỉ còn như một cái bóng. Anh gầy dơ xương, nằm bẹp dí. Tácdăng phải nâng anh dậy, ghé đổ vào miệng anh từng hớp nước.

Thật ra, nguyên nhân của những cơn sốt của anh chỉ là phản ứng của bệnh ngã nước - một thứ bệnh mà người da trắng rất dễ mắc phải khi sống ở vùng nhiệt đới.

Hai ngày sau nữa, Acnốt bắt đầu hồi phục. Sức khỏe của anh khá trông thấy, tới mức có thể đứng dậy, lê chân tới những bãi rừng trống. Tất nhiên anh phải có Tácdăng đỡ vai. Hai người chỉ đi vài bước rồi lại ngồi nghỉ dưới một bóng cây nào đó. Tácdăng lại lấy mấy mảnh vỏ cây và cây bút ra dùng, để hai người có thể hiểu nhau. Acnốt viết trước:

- "Tôi là Pôn dơ Acnốt, trung úy hải quân Pháp. Tôi rất mang ơn anh vì những gì anh đã làm cho tôi. Anh đã cứu sống tôi. Tôi muốn đền ơn anh. Vì sao anh viết chữ Anh mà không nói tiếng Anh?"

Thoạt đầu Tácdăng hoàn toàn không hiểu gì. Chỉ tới khi Acnốt lột bỏ thật nhiều từ, đơn giản hóa từ ngữ bằng cử chỉ, lúc đó Tácdăng mới trả lời. Những dòng chữ của Tácdăng làm Acnốt kinh ngạc:

- "Tôi nói giống bộ lạc của tôi. Bộ lạc khỉ to. Ketchac đứng thứ một. Tôi nói như Tantơ - voi, Numa - sư tử. Không nói như con người. Chỉ có cô gái trẻ. Tôi nói bằng những con kiến này."

Acnốt bắt đầu vỡ lẽ: người này sống với đàn vượn. Nhưng Acnốt không thể nào tin được một người sống trên thế giới này, một thanh niên trưởng thành mà chưa khi nào nói chuyện với con người. Nhưng cũng không thể nào tin được người đó lại biết viết và biết đọc. Acnốt nhìn dòng chữ của Tácdăng một lần nữa. Chàng ta viết về cô gái. Anh đoán đó là cô gái đã bị đười ươi bắt cóc. Acnốt cầm lấy bút và viết:

- "Cô gái Gian Potorova ở đâu?"

- "Ở chỗ người của cô. Nhà gỗ bờ biển"

- Không chết ư? Potorova đang ở đâu, có chuyện gì?"

- "Tơcốt bắt. Tôi giết Tơcốt. Tôi là tráng sĩ vĩ đại".

Acnốt nghĩ rằng anh cần phải viết lại lần nữa. Anh viết:

- "Tôi rất biết ơn anh vì những việc anh đã làm!"

Câu này Tácdăng hoàn toàn không hiểu gì. Nhưng sau đó chàng nhìn mặt Acnốt và cảm nhận được ý muốn của Acnốt. Bởi vì sau đó Tácdăng viết:

- "Hãy dạy tôi nói lưỡi người."

Thế là hai người bắt đầu vào công việc. Acnốt chỉ từng thứ một và gọi tên nó ra bằng tiếng Pháp. Anh nghĩ rằng anh chỉ có thể dạy cho người đàn ông của rừng già này dễ nhất là bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của anh.

Tácdăng thực là một học trò kiên nhẫn và chăm chỉ đến mức phi thường. Sau một vài ngày, Tácdăng đã có thể chỉ vào từng thứ mà nói rất trơn tru: "Đây là cây. Đây là áo. Tôi đói. Cái này là cỏ v.v..". Dần dần, Acnốt cũng hiều cái tiếng kêu "Tácdăng" chính là tên của chàng người rừng. Acnốt kiểm tra lại vài lần và anh bắt đầu gọi chàng trai bằng cái tên đó. Tácdăng tỏ ra rất thích khi được gọi đúng tên mình.

Nhưng mọi việc không hề đơn giản. Một tuần sau, Acnốt thử lập một câu dài và biết rằng mình đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Đó là chuyện anh quyết định dạy cho Tácdăng tiếng Pháp. Trong khi đó Tácdăng đã quen với việc đọc và viết tiếng Anh. Nhưng trở lại từ đầu thì hơi muộn. Hơn nữa, Tácdăng chưa đủ khả năng để hiểu rằng loài người có nhiều thứ tiếng rất khác nhau. Acnốt lại tiếp tục công việc. Acnốt cũng không tưởng tượng được rằng trong đời mình, có lúc anh lại trở thành giáo viên dạy ngôn ngữ học, và lại là một giáo viên tận tụy, "yêu nghề" đến thế.

Sau một thời gian, Acnốt được Tácdăng đưa cho mấy dòng chữ. Nghiên cứu một lúc, anh hiểu nội dung dòng chữ là: Liệu anh đã cảm thấy đủ sức để Tácdăng đưa anh về bờ biển hay chưa? Hiểu được điều đó Acnốt rất mừng. Từ lâu anh đã khao khát trở về với những người đồng hương của mình. Nhưng anh lại viết:

- "Anh không thể đưa tôi đi qua rừng rậm xa thế"

Tácdăng nhìn dòng chữ một lát rồi phì cười:

- Có thể chứ! - Tácdăng nói ngay bằng tiếng Pháp khiến Acnốt phải bật cười, sung sướng. Học trò của anh đã dùng một từ tiếng Pháp chính xác, rất ngon lành. Thế là anh đã được hưởng thành quả giáo dục của mình.

Vài ngày sau, hai người lên đường. Suốt dọc đường đi, Acnốt không hết kinh ngạc vì sức lực và tài leo trèo của chàng trai núi rừng. Khoảng năm giờ chiều, hai người đã tới khoảng trống ven biển. Tácdăng tụt xuống khỏi cành cây. Sau một thời gian dài, bây giờ chàng sẽ được gặp lại cô gái có tên Gian Potorova. Nhưng phía trước ngôi nhà gỗ không hề có một bóng người. Trung úy Acnốt cũng phát hiện ra rằng trong vịnh không thấy bóng dáng con tàu tuần dương cùng chiếc thuyền buồm Ơrâu đâu cả. Khi tới gần ngôi nhà gỗ, cả Acnốt lẫn Tácdăng đều thấy lòng mình se lại. Hai người chẳng nói với nhau một lời, lặng lẽ tiến lại gần. Tácdăng mở then chốt cửa, bước vào trong. Căn nhà trống rỗng. Và chàng cũng thấy lòng mình trống rỗng.

Hai người đàn ông nhìn nhau. Acnốt hiểu rằng bạn bè, đồng đội của anh nghĩ rằng anh đã chết. Tácdăng thì nghĩ tới cô gái. Cô gái đã bỏ đi, mặc dù chàng đã cứu cô cùng những người thân thích của cô. Một cảm giác chua xót và thất vọng dâng lên trong lòng chàng. Chàng tự nhiên muốn bỏ chạy thẳng về bộ lạc vượn của mình. Chẳng bao giờ chàng trở lại ngôi nhà gỗ này nữa. Chẳng thà chàng chỉ là một con thú dữ của núi rừng, còn hơn làm một con người.

Nhưng còn Acnốt thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra với anh ấy khi mình bỏ đi? Thì cứ để anh ta tự lo lấy một mình! Chàng cũng không muốn nhìn mặt anh ta nữa. Chàng muốn chạy trốn tất cả. Bởi vì mọi thứ quanh chàng đều gợi nhớ Potorova...

Trong khi Tácdăng đang thẫn thờ suy nghĩ thì trung úy Acnốt bước vào. Mới nhìn thoáng qua, Acnốt cũng nhận ra rằng trong nhà có rất nhiều thứ để lại cho mình. Đó là vải bạt, xoong nồi, bột mỳ, đồ hộp, chăn đệm, sách báo, một khẩu súng và khá nhiều đạn. Khi bước tới chiếc bàn viết ngày xưa mà Giôn Clayton đã đóng, Acnốt thấy trên mặt bàn có hai bức thư. Một bức thư gửi cho Người Bắn Cung. Bức thư đó để ngỏ, được viết bằng nét chữ đàn ông cứng cỏi. Một bức thư nữa được dán kín, chữ đề trên phong bì là nét chữ con gái.

- Tácdăng! Ở đây anh có hai lá thư.

Acnốt gọi và quay ra cửa. Nhưng anh chẳng trông thấy Tácdăng đâu nữa.

Anh chạy vội ra ngoài, nhìn quanh. Chẳng có một ai. Anh lên tiếng gọi mãi cũng không có tiếng đáp lại.

"Lạy Chúa tôi!" - Trung úy Acnốt thầm thì. - "Anh ta bỏ mình lại đây. Mình đã cảm thấy điều đó dễ xảy ra. Thế mà thành sự thật. Anh ta lại vào rừng sâu, mặc cho mình cô đơn giữa vùng rừng hoang sơ, độc địa này...". Đúng là Acnốt đã cảm thấy chuyện này từ trước. Anh đã trông thấy Tácdăng đau khổ ra sao khi trông thấy ngôi nhà gỗ không người. Tácdăng khi đó đã nhìn anh với cái nhìn oán trách. Cái nhìn đó giống như cái nhìn của con thú bị thương nhìn kẻ đi săn vừa nổ súng. Những người trong ngôi nhà này đã phụ lòng Tácdăng. Acnốt hiểu điều đó. Nhưng vì sao lại thế? Điều này anh không thể cắt nghĩa nổi.

Acnốt nhìn quanh. Nỗi cô đơn làm anh nghẹt thở. Anh đang ở trong một hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm. Anh vẫn chưa lành vết thương, cơ thể còn quá yếu ớt. Chỉ còn lại một mình anh giữa chốn rừng thiêng nước độc.

Trong khi đó Tácdăng vẫn nhằm hướng tây, xuyên rừng, chạy về với đàn vượn cũ của mình. Tácdăng đang chạy trốn trước chính bản thân mình. Nhưng mọi cố gắng của chàng đều vô ích. Tácdăng càng chạy nhanh bao nhiêu thì hình ảnh cô gái càng bám riết theo chàng bấy nhiêu. Chàng trốn sao khỏi nỗi nhớ! Chàng thoát sao khỏi cái mà mãi sau này chàng mới biết tên gọi của nó: Tình yêu!

Chạy được một lúc, Tácdăng trông thấy một con sư tử. Nó đi ngược hướng với chàng, thong thả tiến về phía bờ biển, nơi có ngôi nhà gỗ. Acnốt có thể chống cự với nó được không? Nếu như Acnốt bị sư tử Numa, nhất là con sư tử hung hãn Secta tấn công thì ra sao nhỉ? Tácdăng băn khoăn rồi dừng lại.

"Mày là ai, Tácdăng ơi!" - Tácdăng tự hỏi.

"Mày là một con khỉ hay một con người? Là khỉ hay là người? Nếu mày là một con khỉ, hãy làm cái điều mà loài khỉ vẫn làm: cứ để cho nó chết. Nhưng nếu mày là một con người, mày phải quay lại ngay mà cứu người đồng loại!"

° ° °

Trung úy Acnốt đóng chặt cửa. Anh không phải là người nhút nhát. Nhưng những người dũng cảm nhất cũng vẫn sợ nỗi cô đơn. Anh nạp đạn vào súng và để súng ở vị trí thuận lợi nhất. Sau đó anh bước lại bàn, cầm bức thư gửi cho Người Bắn Cung.

Thực ra Người Bắn Cung chính là Tácdăng. Tácdăng đã kí dưới mẩu giấy găm trên cửa bằng cách vẽ hình người bắn cung. Những vị khách không mời của căn nhà gỗ không hề biết rằng: chàng trai lạ mặt của rừng già đã bao lần cứu họ không biết nói, nhưng lại biết viết. Vì vậy họ nghĩ rằng ngoài chàng trai cứu họ ra, trong rừng này còn có một nhân vật bí hiểm, chủ nhân của ngôi nhà này nữa. Đó là Người Bắn Cung.

Không có thư gửi cho mình! - Trung úy Acnốt suy nghĩ - Nhưng bức thư này có thể có những thông tin nhất định về con tàu rời bờ và ngày nó quay trở lại." Nghĩ như vậy, trung úy Acnốt quyết định mở phong bì, lôi bức thư ra đọc.

"Thưa ông!

Chúng tôi không được gặp ông nhưng rất biết ơn ông vì ông đã cho phép chúng tôi được ở trong nhà. Chúng tôi rất lấy làm tiếc vì sẽ không bao giờ gặp ông để lần lượt từng người cám ơn ông. Như ông thấy đấy, chúng tôi đã không làm hỏng một thứ gì trong nhà. Hơn nữa, chúng tôi để lại cho ông vài thứ vì nghĩ rằng có thể ông cần đến nó.

Nếu như ông có quen biết người đàn ông da trắng sống trong rừng đã mấy lần cứu sống chúng tôi, thì cho chúng tôi gửi lời cảm ơn (Tất nhiên trong trường hợp ông biết cách nói chuyện với anh ta)

Chúng tôi sẽ ra đi và sẽ không bao giờ quay lại đây nữa. Chúng tôi chúc ông và chàng trai sống trong rừng, cả hai mạnh khỏe! Chúng tôi rất mong có một dịp nào đó được đền ơn hai ông!

Một người chân thành biết ơn ông

W.Xêrin Clayton"

"Và sẽ không bao giờ quay lại đây nữa". Trung úy Acnốt thầm thì nhắc lại lời trong thư. Đầu anh gục xuống bàn một cách nặng nề.

Trung úy Acnốt cứ gục mặt trên bàn như thế suốt một giờ liền. Rồi đột nhiên anh ngẩng phắt đầu dậy, lắng nghe. Có tiếng động nghe như tiếng cánh cửa mở. Anh chộp lấy cây súng. Phía ngoài trời đã tối. Trong nhà lại càng tối hơn. Tuy vậy anh vẫn trông thấy then cửa phía ngoài đang từ từ trượt nhẹ sang bên. Tóc sau gáy anh cũng từ từ dựng lên.

Cánh cửa mở ra môt cách lặng lẽ. Qua kẽ cửa, có thể trông thấy một bóng đen lờ mờ đang đứng sau cánh cửa. Acnốt giương súng lên, nhằm thẳng vào khe cửa. Anh chờ đợi. Cánh cửa vừa mở toang thì ngón tay anh cũng xiết mạnh cò súng.

° ° °

Cánh cửa bung ra cùng tiếng súng nổ. Một thân hình xam xám ngã quay ra đất. Acnốt giương súng trở lại định bắn lượt nữa. Dưới ánh sáng của khung cửa mở rộng, anh chợt nhận ra cơ thể của người đàn ông da trắng trong rừng. Anh chợt hiểu rằng anh đã bắn nhầm phải người cứu mình, bạn anh, đồng thời là người da trắng duy nhất còn lại với anh trên bờ biển này. Anh đã bắn phải Tácdăng.

Acnốt kêu lên đau đớn, vứt súng, nhảy bổ ra cửa. Anh nâng đầu chàng dậy và gọi. Không thể kiên nhẫn chờ đợi tiếng trả lời, anh cố lắc đầu chàng trai. Anh không tìm thấy một vết thương nào trên người chàng trai. Anh áp tai vào ngực chàng trai lắng nghe và vui mừng nhận ra rằng tim vẫn còn đập.

Acnốt thận trọng ôm Tácdăng lên giường. Anh chốt cửa lại cẩn thận, thắp đèn lên cho thật sáng để tìm kĩ vết thương.

Viên đạn không trúng vào đầu mà chỉ lướt qua vành tai, làm thành một vết rách. Tóc Tácdăng quá rậm và dài nên Acnốt không phát hiện ra ngay. Acnốt thở dài nhẹ nhõm và lấy cồn lau rửa vết thương. Một lát sau Tácdăng bắt đầu thở. Chàng trai chỉ bị choáng. Khi đã tỉnh hẳn, chàng trai đăm đăm nhìn vào mặt người đang chăm sóc mình. Tin rằng Tácdăng đã tỉnh táo hoàn toàn, Acnốt bước tới bàn viết một vài dòng chữ. Anh muốn giải thích cho Tácdăng rõ sự nhầm lẫn của mình. Nhìn mảnh giấy một lát, Tácdăng hiểu. Chàng cười và nói bằng tiếng Pháp:

- Chẳng sao cả!

Tácdăng còn muốn nói thêm điều gì đó nữa. Nhưng vốn từ tiếng Pháp của chàng còn quá ít. Vì vậy chàng cầm bút viết: "Đười ươi Bônga xé rách tôi nhiều lần. Kétchác, Tơcốt xé nhiều hơn. Tôi đã giết chết rồi."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: Xuyên rừng


Khi Tácdăng đã hoàn toàn bình thường trở lại, trung úy Acnốt đưa cho Tácdăng cả hai lá thư mà những người khách của ngôi nhà để lại. Tácdăng đọc bức thư để ngỏ trước. Nói đúng hơn là Tácdăng đã cố gắng nghiên cứu bức thư, dưới sự giải thích kiên trì của trung úy Acnốt. Nội dung tờ giấy đó đã làm Tácdăng ấm ức. Lá thư thứ hai được dán kín trong phong bì. Tácdăng xoay ngang, xoay dọc lá thư dán kín rất nhiều lần mà vẫn chưa hiểu phải làm gì với nó. Trung úy Acnốt giật mình nhìn chàng trai người rừng. Đối với chàng, chiếc phong bì đơn giản này vẫn là một điều bí mật. Acnốt vội xé hộ phong bì cho Tácdăng và giúp chàng đọc từng chữ một cho đúng:

"Người Bắn Cung kính mến!

Trước khi rời khỏi nơi này, ông cho phép tôi (Cũng giống như Clayton) cám ơn ông vì đã cho phép chúng tôi được ở trong nhà.

Chúng tôi rất tiếc vì ông đã không đến đây để chúng ta làm quen với nhau. Chúng tôi chân thành cám ơn ông! Nhưng còn có một người nữa chúng tôi cũng muốn cám ơn. Đáng tiếc là anh ta đã không quay lại ngôi nhà gỗ của ông sau khi đưa tôi về từ rừng sâu. Nhưng tôi không tin rằng anh ấy đã chết. Anh ta tên gì tôi cũng không biết. Nhưng trên cổ anh ta trước đây có đeo một sợi dây chuyền gắn gia huy.

Nếu như ông biết anh ta, nếu như ông biết cách nói chuyện với anh ta, hãy chuyển hộ tôi lòng biết ơn sâu nặng tới anh ấy. Ông hãy nói hộ tôi với anh ấy rằng: tôi đã chờ anh ấy trở lại ngôi nhà gỗ này suốt bảy ngày liền. Nói cho anh ấy biết rằng: tôi ở Mỹ, thành phố Bantimo. Nếu anh ấy thích đến đó, tôi sẽ rất sung sướng được đón tiếp.

Tôi đã tìm thấy lá thư của ông để cạnh ngôi nhà. Tôi không hiểu lí do gì mà ông lại yêu tôi. Bởi vì dù sao chúng ta cũng chưa một lần trông thấy mặt nhau, chưa nói với nhau một lời. Nhưng ông tin rằng tôi bao giờ cũng là một người bạn gái của ông!

Gian Potorova."

Hiểu hết nội dung lá thư, Tácdăng ngồi lặng đi. Cả hai bức thư chứng tỏ rằng người trong ngôi nhà này đã không biêt rằng Người Bắn Cung và chàng trai chỉ là một. Thư cũng chứng tỏ rằng: không bao giờ chàng còn được trông thấy cô gái nữa. Nhưng làm sao có chuyện một cô gái như vậy có thể sống ở nơi này - một vùng rừng độc địa, chỉ đem lại cho những người da trắng đe doạ và chết chóc? Làm sao cô gái có thể lưu lại nơi này, khi nó không phải là quê hương của cô? Trong khi đó thì Tácdăng lại không hề biết tới một mảnh đất nào khác nữa. Cuối cùng thì Tácdăng cũng phải đứng dậy. Chàng lao vào giường nằm. Trung úy Acnốt tắt đèn và cũng đi ngủ. Hai người đàn ông da trắng nghỉ ngơi trong ngôi nhà suốt cả tuần lễ. Trong tuần đó, trung úy Acnốt tiếp tục dạy tiếng Pháp cho Tácdăng. Càng ngày hai người càng hiểu nhau hơn. Tácdăng rất thích nói và nói rất nhiều. Cái lưỡi của chàng chẳng bao giờ chịu nằm yên. Hình như nó được giải phóng sau hai mươi năm bị cầm tù trong mông muội. Một buổi chiều Tácdăng quay sang hỏi trung úy Acnốt một câu thật bất ngờ:

- Nước Mỹ ở đâu?

Acnốt chỉ cho Tácdăng xem bản đồ và giải thích rằng màu xanh là biển, còn các màu khác trên bản đồ là lục địa. Sau đó anh chỉ vào vị trí mà hai người đang sống.

- Còn bây giờ thì chỉ nước Mỹ đi! - Tácdăng giục.

Khi Acnốt chỉ tay lên vùng Bắc Mỹ, Tácdăng cười, và đặt bàn tay lên bản đồ từ châu Phi sang Bắc Mỹ nói:

- Rất gần. Chỉ cách một bàn tay.

Acnốt ngẩn người. Anh phải giải thích điều này cho Tácdăng hiểu như thế nào? Anh cầm bút chấm một chấm nhẹ lên vùng biển châu Phi và nói:

- Một chấm nhỏ tí này trong bản đồ - Acnốt nói - thì rộng gấp ngàn lần ngôi nhà của cậu đấy. Cậu hiểu chứ? Hãy nghĩ xem nước Mỹ cách xa chúng ta bao nhiêu!

Tácdăng suy nghĩ một lát rồi hỏi:

- Ở Mỹ có những người da trắng?

- Có rất nhiều.

- Ở đâu?

Acnốt chỉ một vùng phía bắc.

- Gần thế thôi à? - Tácdăng ngạc nhiên.

- Không gần đâu.

- Ở đó người da trắng có thuyền to đi qua biển?

Acnốt gật đầu.

- Chúng ta sẽ đi đến đó. - Tácdăng nói

Acnốt lắc đầu.

- Xa lắm. Chúng ta sẽ già và chết trước khi đến đó..

- Anh thích ở đây mãi mãi à? - Tácdăng hỏi.

- Không.

- Ngày mai chúng ta đi. Tôi không muốn ở đây. Chết còn hơn.

- Rất tốt! - Trung úy trả lời - Tôi không biết có đến được không. Nhưng đúng là thà chết còn hơn phải sống dai dẳng mãi ở đây. Nếu cậu thích, ta cùng đi.

- Tốt! - Tácdăng nói - Ngày mai chúng ta đi. Đi Mỹ.

- Điều ấy không dễ đâu. Chúng ta không có tiền.

- Tiền là gì?

Acnốt phải giải thích rất lâu, Tácdăng mới hiểu cái khái niệm mù mờ đó.

- Làm thế nào để có tiền? - Tácdăng lại hỏi.

- Làm việc

- Được rồi, tôi sẽ làm việc.

Thế là ngay buổi sáng hôm sau, hai người lên đường, men theo bờ biển tiến về phương bắc. Hai người mang theo xoong nồi, thực phẩm, bạt che mưa và nhiều thức cần thiết khác. Tácdăng nhìn những thứ Acnốt định đem theo và cho là quá thừa. Nhưng Acnốt không cho phép chàng được vứt đi thứ nào.

- Cậu phải tập ăn đồ chín cho quen đi! Những người da trắng không ăn thịt sống.

- Tôi không thích ăn chín. Cho vào lửa, thịt toàn bị hỏng.

Hai người vừa đi vừa trò chuyện, tranh luận. Họ đi suốt một tháng liền lên phương bắc. Có ngày Tácdăng săn được rất nhiều thực phẩm dọc đường. Có ngày cả hai cùng phải nhịn đói. Tácdăng vẫn hỏi không ngớt miệng về đủ mọi thứ chuyện trên đời. Acnốt giới thiệu, giải thích cho Tácdăng những thói quen, lối sống của người văn minh. Chàng trai tiếp thu rất nhanh và nhớ rất kỹ. Chàng đã ăn được thịt chín nhưng vẫn dùng mười ngón tay xé thịt, đút vào mồm giống như một con khỉ. Nhiều lần trông thấy thế, Acnốt kêu ầm lên:

- Không thể làm thế được! Thật là kinh tởm. Con người không làm thế.

Acnốt mắng mỏ, nhưng Tácdăng chỉ cười trừ

Một hôm, Tácdăng vô tình nhắc tới chiếc thùng gỗ mà đám thủy thủ thuyền Ơrâu đã giấu ở gần ngôi nhà gỗ của chàng. Chàng kể rằng chàng đã đào lên và giấu ở chỗ khác.

- Lạy Chúa tôi! Đó là thùng tiền vàng! - Trung úy Acnốt đứng sững người, kêu ầm lên - Đó là kho báu của giáo sư Poto. Thật đáng tiếc! Đó cũng là tiền đấy.

- Thế thì chúng ta quay lại lấy đi! Ngay bây giờ, - Tácdăng đề nghị.

- Thế nào? Quay trở lại à? Chúng ta đã đi hết hơn một tháng rồi. Xa lắm rồi! Mà đằng nào cũng không thể khiêng nổi.

- Tôi sẽ quay lại, - Tácdăng vẫn giữ ý kiến của mình - Tôi quay lại một mình. Đi một mình, tôi đi nhanh hơn.

- Tôi tính thế này, - Acnốt nói - Chúng ta cứ tiếp tục đi. Khi nào gặp người, chúng ta sẽ mượn thuyền bơi trở lại đó. Như thế nhanh hơn. Chúng ta sẽ cùng đi thuyền quay lại.

- Tốt lắm! Tácdăng gật đầu - Thùng tiền vẫn còn ở đó. Các ông đúng là những người yếu ớt. Tôi vẫn chưa hiểu vì sao loài người các ông vẫn chưa bị tiêu diệt. Sư tử khỏe hơn. Nó dùng mồm và răng cũng có thể tiêu diệt các ông hàng nghìn người một ngày.

Trung úy bật cười:

- Cứ chờ xem! Rồi cậu sẽ thấy loài người có những gì, làm được gì trên trái đất này. Cậu sẽ thấy những thành phố lớn, những con tàu, máy móc. Con người biết suy nghĩ, biết gắn bó với nhau để sống. Khi loài người biết gắn bó với nhau thì mạnh hơn tất cả các loài động vật.

- Có lẽ đúng thế, - Tácdăng trả lời có vẻ trầm tư - Nếu như Kétchác biết gắn bó với Túplát và tôi thì rất mạnh. Chúng nó không biết suy nghĩ, không biết dự trữ thực phẩm. Cả Kala cũng vậy. Kala không hiểu vì sao tôi lại để thực phẩm dọc đường rừng.

- Kala là ai?

- Mẹ, - Tácdăng trả lời - Đó là mẹ tôi.

- Ồ, cậu nói gì thế? - Acnốt ngạc nhiên - Cậu cũng biết mẹ mình à?

- Biết chứ. Đó là một con vượn to. To hơn tôi nhiều.

- Còn bố cậu?

- Tôi không biết.

Trung úy Acnốt chăm chú nhìn khuôn mặt Tácdăng.

- Không phải thế đâu. Cậu là người. Mẹ cậu không phải là vượn. Có thể là một đàn vượn nào đó đã nuôi cậu, - Acnốt phỏng đoán - Cậu không còn nhớ được mẹ của mình đấy thôi. Cậu có tìm được thứ gì trong ngôi nhà gỗ không?

- Ở đó chỉ có sách. Những cuốn sách mà ông biết đấy, - Tácdăng trả lời - Nhưng có một cuốn sách chỉ nhỏ bằng bàn tay, tôi không đọc được. Tôi vẫn mang theo đây.

Tácdăng rút trong ống tên của mình ra một cuốn sổ bì màu đen đưa cho Acnốt. Viên trung úy xem qua vài trang đầu rồi nói:

- Đây là cuốn nhật ký của Giôn Clayton, huân tước Grayxtau, một quý tộc nước Anh. Đúng là người Anh nhưng lại viết tiếng Pháp.

Trung úy Acnốt tò mò lần đọc từng trang nhật ký được viết hai mươi năm trước. Anh bắt đầu nắm được câu chuyện bi thảm của Giôn Clayton cùng vợ là tiểu thư Alice từ ngày hai người từ giã nước Anh cho tới ngày Clayton bị Kétchác giết chết. Anh bắt đầu đọc to lên, thỉnh thoảng dừng lại vì nghẹn ngào. Có lúc anh ngừng đọc một lúc để nhìn khuôn mặt Tácdăng. Chàng trai ngồi nghe im lặng như pho tượng. Khi cuốn nhật kí xuất hiên đoạn viết về việc đứa trẻ chào đời, giọng văn viết đang buồn bã lập tức chuyển thành vui vẻ, tràn đầy hi vọng. Trung úy Acnốt đọc:

"Hôm nay con của chúng tôi đã được ba tháng tuổi. Nó ngồi trong lòng Alice. Thực là một đứa bé khỏe mạnh và hạnh phúc. Bây giờ, khi tôi đang viết những dòng này, hình như để tự khẳng định rằng mình đã chào đời, đã có mặt ở thế gian này, nó tự nhiên vồ lấy cây bút của tôi. Nó bị mực dây vào các đầu ngón tay rồi in cả bàn tay bé bỏng lấm mực vào trang nhật ký. Cứ như là nó tự đóng dấu chứng nhận sự vào đời của mình vậy..."

Đúng như Giôn Clayton đã viết. Trên trang giấy của cuốn nhật ký còn in vết những ngón tay nhỏ xíu. Phía cuối trang còn có một vết mực to hơn. Nếu nhìn kĩ thì đúng là vết cổ tay đứa bé. Đọc xong cuốn nhật kí, cả hai người đàn ông đều trầm ngâm.

- Cậu nghĩ sao? Tácdăng! - Acnốt lên tiếng sau một hồi im lặng - Những trang nhật kí này đã giải thích nguồn gốc, xuất xứ của cậu đấy. Chính cậu là con trai của huân tước Grayxtau.

Tácdăng lắc đầu:

- Cuốn sách đó chỉ nói về một cậu bé, - Chàng trai trả lời - Đứa trẻ đó đã chết. Xương nó nằm trong nôi. Có thể nó chết vì đói. Mỗi khi vào ngôi nhà gỗ, tôi đều trông thấy bộ xương đó. Sau đó người ta đến nhà và chôn cất tất cả đống xương xuống đấy. Cuốn sách đó chỉ nói về đứa bé, không nói về tôi. Mẹ tôi là Kala.

Trung úy Acnốt không tin Tácdăng. Ngược lại, Acnốt đã làm cho Tácdăng bắt đầu nghi ngờ về nguồn gốc của mình. Acnốt nghĩ rằng Tácdăng chỉ có thể tin rằng chính mình là cậu bé bôi mực bẩn lên trang giấy khi nào Tácdăng tiếp xúc thực sự với nền văn minh của con người.

Khoảng hai tuần sau, hai người đã gặp một vùng đồng bằng. Phía trong hàng rào của ngôi làng nhấp nhô mấy túp lều nho nhỏ. Đứng ở bìa rừng, hai người trông thấy những cánh đồng rộng, trồng nhiều loại hoa màu khác nhau. Xa xa có mấy người da đen đang lúi húi làm đồng.

Hai người lữ hành im lặng, đứng ngắm vùng đất lạ. Đột nhiên Tácdăng tháo cung ra khỏi vai, rút một mũi tên đặt vào cung. Trung úy Acnốt vội đập vào vai Tácdăng nói:

- Cậu làm gì thế, Tácdăng?

- Họ sẽ giết chúng ta đấy. Đằng nào thì họ cũng sẽ trông thấy chúng ta. - Tácdăng nói.

- Họ có thể là bạn bè của chúng ta.

- Đó là những người da đen. - Tácdăng trả lời gọn lỏn, rồi kéo dây cung.

- Không được! - Acnốt quát lên - Không được giết người vô cớ! Tôi đã dạy cậu thế nào? Không phải người da đen nào cũng là kẻ thù.

- Tôi không hiểu nổi, - Tácdăng lắc đầu rồi từ từ hạ cung xuống, - Trong rừng sâu thì người da đen là kẻ thù, ở đây thì lại không. Thế là thế nào? Vậy ở đây nếu sư tử Numa nhảy ra vồ, tôi cũng không được phép đụng tới nó hay sao?

- Cậu cứ chờ tới khi nào người da đen nhảy ra tấn công đã! Khi đó cậu hãy tự vệ. Nếu như họ không xử sự với chúng ta một cách thù địch thì ta không thể coi họ là kẻ thù.

- Thế thì đi! - Tácdăng tặc lưỡi rồi đi xuyên qua cánh đồng.

Nước da màu đồng thau của Tácdăng sáng ánh lên dưới mặt trời. Dang chân cố chạy theo chàng là trung úy Acnốt với bộ quần áo rách như tổ đỉa.

Đột nhiên có người da đen hét lên một tiếng rồi chạy về phía hàng rào. Ngay lập tức cả làng huyên náo. Từ trong làng, một người đàn ông cầm súng chạy ra. Ông ta nâng súng nhằm thẳng vào Tácdăng. Trông thấy thế, Acnốt hoảng hốt gào lên thật to: "Đừng bắn! Chúng ta là bạn bè."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: Chập chững làm người


Sự xuất hiện ở giữa cánh đồng một người đàn ông gần như trần truồng, tóc tai rũ rượi đã làm cho dân cư trong làng da đen vô cùng sợ hãi. Những nông dân da đen đang trồng bông bỏ chạy tán loạn khỏi các luống đất. Lâu nay họ không nghĩ rằng trong rừng già cạnh mình lại có một nhân vật kì dị đến thế.

- Đứng lại! - Người đàn ông cầm súng quát lên - Ông đi đâu?

- Tácdăng, đứng lại! - Trung úy Acnốt quát theo vì chàng trai của anh vẫn xăm xăm xông tới định giáp chiến - Họ sợ chúng ta làm hại họ thôi.

Tácdăng dừng lại chờ Acnốt rồi cả hai rảo bước tới chỗ người đàn ông đang cầm súng trước cổng làng. Người cầm súng nhìn hai người lạ với đôi mắt hết sức ngạc nhiên.

- Các ông là ai mà như hai con quỷ sứ thế? - Người cầm súng hỏi bằng tiếng Pháp.

- Chúng tôi đang cần ông giúp đỡ đây, - Acnốt trả lời ôn tồn - Chúng tôi bị lạc rừng.

Người đàn ông thả súng xuống đất rồi tiến lại gần với bàn tay thân thiện.

- Tôi là cố đạo Congxtantin của nước Pháp. Tôi truyền giáo nơi này. - Ông cố đạo lên tiếng tự giới thiệu - Tôi vui lòng đón hai ông nếu như hai ông là những người lương thiện.

- Chúng tôi đều là những người tử tế cả. Đây là... - Ac nốt ngập ngừng hắng giọng -... là Tácdăng, thưa cha Congxtantin! Còn tôi là Pôn đơ Acnốt, trung úy hải quân Pháp.

Thế là Tácdăng đã bước qua vọng gác đầu tiên để bước vào thế giới văn minh.

Hai "nạn nhân" của rừng già ở lại trong làng suốt một tuần liền. Họ hồi sức, khỏe mạnh và có quần áo mặc tươm tất. Trung úy Acnốt trở lại với cuộc sống của mình. Nhưng với Tácdăng thì tất cả đều là mới lạ. Lần đầu tiên anh trông thấy và tiếp xúc với những người da trắng ở mọi lứa tuổi khác nhau. Lần đầu tiên anh mặc quần áo của người da trắng. Lần đầu tiên anh cảm thấy rằng mình cần phải xử sự, hành động một cách khác chứ không phải theo thói quen lâu nay trong rừng già.

Cuộc hành trình tiếp theo của Tácdăng và viên trung úy đã trở nên xuông sẻ. Ít lâu sau hai người gặp một bến cảng nhỏ nằm ở cửa một con sông đổ ra biển. Trông thấy thuyền bè và dân cư đi lại đông đúc, lần đầu tiên trong đời, Tácdăng cảm thấy mình trở nên rụt rè, xấu hổ và thiếu tự tin. Anh phát hoảng lên như một con thú rừng bị săn đuổi. Nhưng dần dà Tácdăng hết sợ. Anh quen dần với nếp sống văn minh. Chỉ hai tháng sau, khó ai nhận ra cái chàng trai khôi ngô, tráng kiện trong bộ quần áo mùa hè lịch sự lại là một người rừng, cách đó không lâu đã leo trèo như khỉ, chẳng quan tâm gì ngoài chuyện săn mồi. Tácdăng đã thôi không ăn bốc nữa. Anh dùng bộ dao dĩa rất thành thục.

Từ bến cảng, trung úy Acnốt điện về cho hạm đội của mình biết là anh vẫn còn sống và xin nghỉ phép hai tháng. Đồng thời anh yêu cầu gửi tiền đến cho anh để anh tiếp tục cuộc hành trình. Trong thời gian ở bến cảng, "ngài Tácdăng" (mọi người đều gọi chàng ta là "ngài") cũng gây ra lắm chuyện xôn xao.

Có hôm, một gã da đen mắc bệnh thần kinh, cầm dao găm chạy vào quán ăn đe dọa đám khách. Mọi người ù té chạy trốn. Gã da đen trông thấy Tácdăng vẫn ngồi nguyên trên ghế, liền chạy tới đâm. Tácdăng không hề giật mình. Lưỡi dao găm chưa chạm vào ngực Tácdăng thì cổ tay gã da đen đã bị tóm chặt. Con dao găm rơi xuống sàn nhà cùng với tiếng xương cổ tay gãy đánh rắc một cái. Gã da đen kêu ầm lên, bỏ chạy khỏi quán ăn. Hình như sự đau đớn và sợ hãi đã làm cho gã hết điên, lành bệnh. Trong khi đó Tácdăng vẫn ngồi bình thản trước cốc cà phê. Anh gọi thêm thức ăn rồi lặng lẽ húp hết đĩa súp, như chẳng có chuyện gì vừa xảy ra. Khách khứa trở vào quán ăn, trông thấy "monsieur Tácdăng" bình an vô sự thì vô cùng kinh ngạc.

Một lần khác Acnốt và Tácdăng ngồi ở hàng hiên khách sạn uống cà phê. Lúc đó trong rừng vang lên tiếng thú dữ gầm thét. Đám khách ăn bên cạnh liền bàn tới chủ đề sư tử. Người thì cho rằng sư tử là loài thú nhút nhát. Người thì cho rằng đó là loài thú dũng cảm. Tranh luận rất nhiệt liệt , nhưng cuối cùng thì ai cũng phải vui vẻ thừa nhận rằng: nếu đã nghe thấy tiếng sư tử thì tốt nhất là phải có khẩu súng bên cạnh.

- Kìa ngài! Sao ngài chẳng tham gia câu chuyện cho vui. - Một người trong nhóm quay sang hỏi Tácdăng - Ngài có gặp sư tử bao giờ không?

- Có gặp, - Tácdăng trả lời rất khiêm nhường - Tôi nghĩ rằng tất cả các ngài đều có lý. Vì các ngài đã trông thấy sư tử ở nhiều tình trạng khác nhau. Đúng là khi thì nó dũng mãnh, khi thì nó hèn nhát. Cũng như người vậy thôi. Có ai giống ai đâu. Chẳng hạn, hôm nay, ngài gặp trong rừng một con sư tử nhát gan. Vừa trông thấy ngài, nó cắm cổ bỏ chạy ngay. Nhưng ngày hôm sau, không may ngài gặp lại em trai của nó thì có thể bạn bè chờ mãi cũng chẳng thấy ngài trở về được nữa. Nhưng nói chung, với loài sư tử thì bao giờ tôi cũng phải hết sức cảnh giác.

- Sư tử chỉ hung dữ đối với những ai tỏ ra sợ nó, - một người trong nhóm tiếp lời Tácdăng.

Trung úy Acnốt ngồi bên cạnh nghe, chỉ cười, không nói gì.

- Tôi không hiểu ông nghĩ thế nào, - Tácdăng nói - chứ riêng tôi thì tôi rất thích khi săn được một con sư tử mạnh hơn tôi, tấn công tôi. Còn nếu tôi săn sư tử bằng khẩu súng trong tay thì chẳng thú vị tẹo nào. Bởi vì tôi biết trước là thế nào tôi cũng thắng.

- Hừ! Tôi có cảm giác là ngài thích săn sư tử bằng dao găm.

Một người ngồi phía xa cười nhạo.

- Đúng thế đấy, nhưng cần thêm một sợi dây nữa. - Tácdăng trả lời thật thà.

- Ngài có thể đi săn ngay bây giờ được không?

- Hiện giờ tôi không đói - Tácdăng trả lời gọn lỏn.

Tất cả phá lên cười, trừ trung úy Acnốt.

- Ngài có óc khôi hài đấy! Nhưng tóm lại thì ngài sợ thôi. Chúng tôi cũng thế.

- Tôi không sợ, - Tácdăng trả lời - Có điều là tôi không có lý do để làm việc đó. Làm thế thì được cái gì?

- Tôi cá ngài năm nghìn phơ-răng. Đó là lí do - Một người kêu lên - Tôi sẽ trả đủ 5000 phơ-răng cho ngài, nếu như ngài săn được nó trong điều kiện như ngài đã nói. Nếu như ngài vào rừng không mang súng và không võ trang, chỉ có dao và dây.

Tácdăng quay sang nhìn Acnốt. Viên trung úy nhoẻn cười rồi nói:

- Ông hãy cá 10.000 phơ-răng.

- Xong rồi! - Người cá tiền gật đầu. Ông ta là một nhà buôn đang phát đạt. Ông ta đang muốn khoe khoang cho mọi người biết doanh thu của mình.

- Được rồi, tôi sẽ cởi bỏ quần áo, bỏ ở bìa rừng. Muộn nhất là sáng mai tôi sẽ về đây.

- Ông muốn đi thật à? Ngay bây giờ, ban đêm? - Nhà buôn hỏi lại.

- Sao lại không? Ban đêm tôi nhìn thấy sư tử rõ hơn.

- Không! - Nhà buôn phản đối - Tôi không muốn suốt đời ân hận khi nhớ tới cái chết của ngài. Hãy để ban ngày. Ban ngày sư tử sẽ chậm chạp hơn.

- Tôi đi đây, - Tácdăng nói - Tôi đi lấy dao và dây.

Mọi người tiễn Tácdăng ra tận bìa rừng. Tácdăng trút quần áo ra, để lại ở một trạm gác rừng. Trước khi chàng định nhảy vào bụi rậm, nhóm người còn lo lắng hỏi lại, xem chàng có nhụt chí không. Tácdăng chỉ cười rồi lao vào rừng. Mọi người đứng im lặng một lát rồi quay về khách sạn. Họ cảm thấy vừa lo lắng, vừa khó chịu.

Tácdăng chạy một quãng cho khuất bóng người rồi mới nhảy tót lên cây. Chàng sung sướng vì cảm giác tự do đã trở lại. Đây mới là cuộc sống đích thực của chàng. Chàng rất thích thế này. Cái văn minh của loài người bị ràng buộc bởi đủ thứ áo quần chật chội. Làm sao sánh được với tự do của rừng xanh. Đến bao giờ chàng mới được trở lại miền nam, trở lại thăm ngôi nhà gỗ?

Chẳng cần tìm kiếm lâu la gì. Chỉ đi một lát, Tácdăng đã đánh hơi thấy mùi sư tử. Chàng nghe rõ tiếng chân bước nhè nhẹ của một cơ thể to lớn, uyển chuyển. Chàng chuyền cành vòng sang bên, bám sát con mồi trước khi nó chưa cảm thấy gì trên đầu. Chờ cho tới khi con sư tử bước ra khoảng trống, in rõ dưới ánh trăng mờ, Tácdăng mới vung cánh tay. Chiếc thòng lọng rơi trúng cổ con ác thú. Cũng giống như những lần trước kia, Tácdăng xiết mạnh sợi dây cho thòng lọng thít thật chặt cổ sư tử rồi mới cột đầu dây trong tay vào một cành cây to. Con sư tử vùng lên định chạy, nhưng vô ích. Tácdăng nhảy thẳng xuống lưng nó. Lưỡi dao găm trong tay chàng cắm ngập vào tim nó mấy nhát liền.

Sư tử nằm yên. Theo thói quen, Tácdăng đạp một chân lên cổ vị chúa rừng xanh, đập tay vào ngực rồi thét lên tiếng thét chiến thắng của bộ lạc mình. Thét xong, Tácdăng cảm thấy lòng mình bâng khuâng. Chàng nhớ bộ lạc của mình. Cuộc sống rừng xanh thật đáng yêu biết bao nhiêu! Nhưng còn Acnốt? Đi với Acnốt hay trở lại với rừng xanh? Trong đầu Tácdăng thoáng diễn ra một sự lựa chọn giữa tự do và tình bạn. Nhưng sau cùng thì nỗi nhớ về Gian Potorova đã chiến thắng tất cả. Tácdăng xốc con sư tử lên vai, quay ra bìa rừng.

° ° ° Lại nói tới nhóm người cá cược trong khách sạn. Họ ngồi ngoài hiên khách sạn suốt hàng tiếng đồng hồ không muốn nói chuyện với nhau. Một vài người tế nhị gợi sang những đề tài khác, nhưng chẳng ai có hứng tán gẫu nữa. Hầu như tất cả đều nghĩ tới chàng trai đang một mình trong rừng đêm. Câu chuyện thoạt đầu tưởng như chuyện đùa, mà cuối cùng đã thành chuyện thật. Biết đâu rồi sẽ sinh ra đủ chuyện rắc rối sau này?

- Lạy Chúa tôi! - Cuối cùng thì nhà buôn không chịu nổi không khí căng thẳng, phải lên tiếng. - Tôi không thể ngồi đây chờ được. Có lẽ phải đi cứu cái thằng điên ấy.

- Tôi sẽ đi với ông, - Một người khác nói.

Chỉ một lúc sau, tất cả mọi người đều muốn vào rừng xem sự thể ra sao. Họ tản về nhà lấy súng rồi tập trung thành một nhóm cứu viện, thận trọng tiến vào rừng.

- Lạy Chúa! Cái gì thế? - Một người đang đi kêu lên. Bởi vì ông nghe thấy trong rừng xa vang lên tiếng thét ghê rợn.

Cả nhóm nhìn nhau im lặng lắng nghe tiếng thét.

- Có một lần tôi đã nghe thấy tiếng thét ghê rợn này, - Một người lên tiếng. Đó chính là Benghitran, một người sống sót trên thuyền Ơrâu - Đó là tiếng thét trong vùng rừng già, rất nhiều thú dữ. Người ta nói rằng đó là tiếng thét của con khỉ đầu đàn khi nó săn được con mồi to.

Nhưng người đàn ông cầm súng bàn nhau chia thành từng toán, theo các hướng khác nhau để tìm kiếm. Nhưng ngay lúc đó họ giật mình vì nghe thấy tiếng cười trong bóng cây gần đó. Họ ngồi thụp xuống nhìn kỹ, và trông thấy một thân hình đàn ông lực lưỡng với con sư tử trên vai đang tiến lại gần.

Chính trung úy Acnốt cũng ngạc nhiên, không ngờ Tácdăng đã săn nhanh đến thế, lại có thể vác cả một con sư tử to đến thế trở về. Cả đám khách thả súng xuống, vây lấy Tácdăng hỏi chuyện tới tấp. Tácdăng chỉ cười, không nói. Anh chàng không nói, vì không thể trả lời kịp, và cũng vì việc giết con sư tử đối với chàng chẳng có gì là ghê gớm. Thấy Tácdăng cười, không nói, mọi người lại càng khâm phục. Trong mắt họ, Tácdăng hiện ra như một anh hùng. Nhà buôn sau đó liền đưa ra đủ 10.000 phơ-răng. Lúc này Tácdăng đã hiểu giá trị của đồng tiền. Chàng biết rằng trong cái thế giới mà mình vừa gia nhập này, không có tiền thì khó mà sống. Vì vậy chàng vui vẻ nhận tiền.

Có một khoản tiền lớn, Acnốt thuê luôn một chiếc thuyền buồm có động cơ, cùng Tácdăng quay lại lấy chiếc thùng vàng. Chỉ hai ngày sau thuyền đã tới nơi. Chiếc thùng vẫn nẵm nguyên chỗ cũ. Hai người dùng cuốc xẻng dọn lối đi và nhanh chóng moi lên. Thuận buồm xuôi gió, vài ngày sau hai người đã đưa được chiếc thùng trở về.

Ba ngày sau hai người đi thuyền tới Ly-ông. Tácdăng rất muốn đi ngay sang Mỹ, nhưng Acnốt bắt chàng cùng mình tới Pari trước. Viên trung úy tốt bụng muốn giúp Tácdăng một việc rất hệ trọng. Đó là vân ngón tay của đứa trẻ trong cuốn nhật ký. Acnốt phải thuyết phục, giảng giải cho Tácdăng tin rằng người ta dù giống nhau đến mấy, cũng vẫn khác nhau ở vân tay. Vân ngón tay và cổ tay của người ta không hề thay đổi hình dáng, đường nét. Cho dù con người ta lớn lên, già đi thì vân các đầu ngón tay và cổ tay vẫn thế.

- Nhưng nó là đứa trẻ, - Tácdăng vẫn chưa thông - Đằng nào thì nó cũng chết rồi. Chả lẽ nó lại là tôi?

- Cũng có thể đấy, - Acnốt nhún vai trả lời - Nếu như cậu không phải là con trai Clayton thì làm sao cậu tự nhiên lại có mặt ở rừng già châu Phi?

Cảnh sát hình sự Pari đã tiến hành nghiên cứu vân tay của Tácdăng. Họ rải bột màu lên tấm kính, sau đó dùng một con lăn bằng cao su lăn qua lăn lại cho thật mỏng. Tácdăng phải ấn các đầu ngón tay vào kính rồi lại ấn vào một tờ giấy trắng. Trong lúc đó, Acnốt trao cho cảnh sát cuốn nhật kí có vân tay đưa trẻ sơ sinh.

- Vết vân tay trong nhật kí rất mờ vì giấy đã ố vàng hết cả, - Một nhân viên cảnh sát thông báo - Chúng tôi phải kiểm tra bằng hệ thống kính phóng đại. Hai tuần lễ nữa chúng tôi mới có thể trả lời ông.

- Thật đáng tiếc! - Acnốt thở dài - Bạn tôi lại lên đường đi Mỹ ngay trong ngày mai. Anh ta đã lấy vé rồi.

Trung úy Acnốt rất quan tâm tới việc so sánh vân tay. Trong khi đó Tácdăng lại chẳng thèm để ý tới. Tácdăng đã không chờ kết quả kiểm tra, vì hiện tại chàng chỉ có một nguyện vọn duy nhất là: trông thấy Gian Potorova.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: Vẫn chàng trai ấy


Trước cổng một ngôi nhà cũ kỹ ở vùng ngoại ô Bantimo có một chiếc ô tô dừng lại. Một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi bước ra khỏi xe. Trả tiền cho người lái xe xong, người đàn ông đi thẳng vào nhà.

- Chào ông Calo! - Giáo sư Poto bước ra đón khách.

- Xin chào giáo sư! - Người đàn ông đáp - Tôi đến để bàn bạc với ngài.

- Ai đã để ông vào cổng thế? - Giáo sư tỏ vẻ khó chịu

- Còn ai khác ngoài cô Exmeranda. Cô ta vẫn nhớ tôi.

Giáo sư Acsimet Poto ngồi co trong chiếc ghế bành. Ông có vẻ rất lo ngại về câu chuyện sắp phải bàn với khách.

- Thưa ông giáo sư! - Calo bắt đầu nói - Tôi đến để thưa chuyện về con gái của ngài. Ngài biết ý định của tôi rồi đấy. Ngài đã cho phép tôi cầu hôn với cô gái. Nhưng trong thời gian gần đây, cô ấy cứ lảng tránh tôi.

- Nhưng ông Calo ạ! - Giáo sư nói - Gian Potorova là đứa con gái ngoan nhất trần đời. Nó sẽ làm tất cả những gì tôi muốn.

- Tôi rất mừng là có sự giúp đỡ của ngài. Nhưng ngài biết đấy. Tôi cho rằng người có lỗi trong chuyện này là anh chàng Clayton. Gần đây anh ta thường xuyên xuất hiện trong gia đình ngài.

- Đó là người bạn của chúng tôi, - Giáo sư giải thích - Ông đừng quên là anh ta đã cùng chúng tôi trải qua không biết bao nhiêu tai họa ở rừng châu Phi. Ông đừng ngạc nhiên vì sao Gian hiện giờ không tính đến chuyện cưới xin. Nhất là trong lúc này, chúng tôi đang muốn chuyển chỗ ở tới trang trại ở vùng bắc Uýtcơnxin. Hiện tại thì Philando và Clayton đang ở đó dọn dẹp, chuẩn bị trước.

- Ngài nói sao? Hiện giờ Clayton đang ở đó? - Calo kêu lên có vẻ phật ý - Tại sao các vị không nói cho tôi biết trước? Tôi có thể giúp các vị một tay.

- Gian thì cho rằng dù sao thì chúng tôi cũng bị ràng buộc vào ông quá nhiều rồi. Tôi đã vay của ông tiền để chi dùng cho một chuyến phiêu lưu. Tôi vẫn là con nợ của ông. Tôi không ngờ là lại thất bại thảm hại đến thế.

Calo còn muốn bàn tới một chuyện gì đó nữa, nhưng ngay lúc đó Gian Potorova bước vào phòng. Vừa trông thấy khách, cô gái giật mình. Giáo sư Poto cáo lỗi để đi ra ngoài để làm việc gì đó liên quan tới chuyện chuyển nhà. Trong phòng chỉ còn lại Calo và cô gái.

- Này cô Gian! Calo nói - Cô biết rõ vì sao tôi hay đến với cô. Chả lẽ chúng ta không thể cưới nhau trước khi gia đình chuyển tới Uýtcơxin? Chắc cô cũng biết rồi. Cha cô cũng muốn thế.

Cô gái tái nhợt người. Im lặng một lát, cô thì thào:

- Tôi biết. Nhưng trong chuyện này thì đúng là ông đã mua tôi. Ông đã đưa tiền cho cha tôi để cha tôi đi tìm kho vàng. Bây giờ cha tôi không trả nổi món nợ đó nên đã bị ông khống chế... Nếu như ông bắt buộc phải trả nợ ngay, thì tôi... tôi sẽ lấy ông. Nhưng tôi lấy ông là để bảo vệ danh dự cho cha tôi. Tôi không thể nào yêu được ông đâu! Không bao giờ yêu được.

Calo đứng dậy.

- Cô nói đúng. Tôi chẳng giấu cô làm gì. Tôi định cưới cô và...

Calo chưa nói hết, cô gái đã chạy ra ngoài.

Cho tới ngày hai cha con giáo sư chuyển đi, Calo vẫn không thực hiện được ý định của mình. Tuy vậy gã tuyên bố rằng hai tuần lễ nữa gã sẽ đến Uýt cơn xin.

Uýtcơnxin là quê mẹ Gian. Bà Potorova - vợ của giáo sư Poto có một trang trại nhỏ nằm giữa những khu rừng rậm phía bắc Uýtcơnxin. Sau khi dọn dẹp, chuẩn bị xong xuôi, Clayton và Philando đón hai cha con giáo sư tới nơi ở mới. Ngôi nhà được sửa chữa, quét vôi nên trông rực rỡ, phong quang chẳng khác gì ngôi nhà mới xây.

- Ôi, Clayton! - Cô gái kêu lên nhạc nhiên - Ông đã thu xếp thật tuyệt vời! Biết cảm ơn ông thế nào đây?

- Tôi là bạn của cha cô, - Clayton nói - Tôi không thể chịu đựng được khi nghĩ tới cảnh ông phải sống trong một ngôi nhà đổ nát.

Nhưng cho tới khi Calo tới Uýtcơnxin, Potorova vẫn không chịu ở chính thức trong ngôi nhà mới. Sau khi bàn bạc rất lâu với giáo sư Poto, mọi người nhất trí là Calo nên chuyển tới một thành phố gần đó để thu xếp các thủ tục kết hôn.

Một buổi chiều, Gian Potorova ra khỏi nhà, đi dạo.

Cô gái cần thư thái, yên tĩnh nên đã lang thang dạo một mình. Lòng cô trĩu nặng những ưu phiền, nên không để ý tới một đám mây đen đang bay lên từ một cánh rừng gần đó. Thật ra rừng đã bốc cháy từ khi nào không rõ. Ngay cả những người trong trang trại cũng không biết. Gió đã đẩy ngọn lửa tới gần chỗ cô gái đang đứng. Đám cháy theo gió lan rất nhanh. Nó lan tới cánh đồng cỏ rậm rạp và cắt ngang cả con đường mà Calo sẽ phải đi qua.

Nhưng ngay lúc đó ở một đoạn đường khác, phía đông bắc có một chiếc xe ô tô màu đen đi vòng qua đám lửa, xông thẳng vào trại. Chiếc xe vừa dừng bánh ở cổng đã thấy nhảy vọt ra một chàng trai tóc sáng. Chàng trai chạy rất nhanh vào trong nhà.

Không hề gõ cửa, chàng trai xông thẳng vào phòng Clayton đang ngồi.

- Ông không biết gì hay sao? Ông đang bị lửa vây. Rừng cháy.

Clayton lúc này đang khổ tâm về chuyện kết hôn của Calo với cô gái, nên gần như mấy ngày này anh chẳng biết xung quanh có gì. Nghe tiếng quát của chàng trai lạ mặt, Clayton nhảy ra ngoài hiên.

- Gian! Clayton gọi to - Gian đâu rồi? Cháy rừng!

- Lạy thánh Gabriel! Cô ấy đi dạo, - Người đàn bà da đen kêu lên hoảng hốt.

- Đi lối nào? Clayton thét lên.

Sau khi nhìn người đàn bà da đen chỉ lối, Clayton chạy bổ về phía rừng. Nhưng chàng trai lạ mặt đã chạy vượt lên, chặn đường Clayton, nói:

- Clayton! Hãy ở lại lo cho mấy người ở đây. Để tôi tìm cô ấy!

Clayton chưa hết ngạc nhiên đã thấy chàng trai lạ mặt chạy biến vào rừng, nhanh như một con báo.

- Ai thế nhỉ? - Giáo sư Poto hỏi, thẫn thờ. - Trông mặt quen quen.

- Tôi không biết, - Clayton trả lời.

Mặc dù người lạ mặt đã gọi đúng tên mình, nhưng lúc này Clayton cũng không để ý tới nữa. Anh quát lên:

- Mọi người nhanh lên! Chạy lối này! Nó không thể chận nổi chúng ta.

Gian Potorova lúc này đã đi dạo trở về. Cô chỉ cảm thấy quanh mình lúc này tự nhiên trời tối dần. Một lát sau thì cô ngửi thấy mùi khói. Cô không biết chạy lối nào, nhưng hơi nóng thúc ép, bốc tới, buộc cô phải chạy về hướng tây. Được vài bước, cô lại trông thấy trước mặt có một đám khói lớn. Thật may! Cô trông thấy một con đường lớn. Cô vội vã chạy lên mặt đường, hướng về thành phố.

Nhưng chạy được vài bước, cô lại trông thấy lửa bốc lên trước mặt như những bức tường đỏ. Chỉ còn lại phía duy nhất là những bụi cây bên phải. Cô vội chạy tới. Bụi cây rất dày. Cô không thể nào chui qua nổi. Thế là hết... Cô ngã gục xuống mặt đường và bắt đầu cầu nguyện một cách tuyệt vọng.

- Gian, Gian! Cô Potorova! - Có tiếng ai đó gọi vang lên.

- Đây! Tôi ở đây. - Cô gái ngẩng đầu gào lên - Đây, tôi ở trên đường!

Xuyên qua kẽ lá cây, cô trông rõ một hình người. Nhưng một đám khói cuồn cuộn bay tới, che khuất tất cả. Cô không trông thấy gì nữa. Cô bịt miệng, sặc sụa vì khói rồi gục xuống mặt đất ẩm. Bỗng có đôi cánh tay rất mạnh mẽ nâng bổng cô lên. Một người nào đó mang cô chạy vọt đi.

Không mở được mắt vì khói, cho tới khi cảm thấy dễ thở cô mới mở mắt ra nhìn. Cô đã đang ở trên cây. Phía dưới chân cô là những bụi rậm. Xung quanh cô là những cành cây sồi chằng chịt. Cô cảm thấy mình đang gặp một tình thế rất giống với ngày nào trong rùng già châu Phi. Hình như cũng vẫn người đàn ông ấy vừa đưa cô xuyên qua những cánh rừng xanh. Nhưng làm gì có chuyện đó! Cô liếc nhìn khuôn mặt người cứu mình và nín thở vì kinh ngạc.

"Thần rừng!" - Cô gái thì thào kêu lên. Nhưng ngay lập tức cô lại nghĩ là mình đang rơi vào phòng chờ của âm phủ. Cô chỉ tỉnh táo trở lại khi nghe thấy tiếng nói trẻ trung của người cứu nạn:

- Vâng, đúng thế! Mặc dù cô đã bỏ đi khỏi rừng, tôi vẫn tìm được cô đây.

Lúc này hai người đã ngồi ở khu rừng thưa, bao bọc quanh trang trại. May thay gió đã xoay chiều nên các ngôi nhà trong trại không bị đốt cháy. Tácdăng và cô gái thong thả quay về nhà.

- Tại sao lần ấy anh không quay lại ngôi nhà ven biển?

- Tôi phải chăm sóc trung úy Acnốt. Anh ấy bị thương rất nặng.

- Tôi cũng đoán là anh ấy bị thương và anh cũng có thể ở chỗ anh ấy, - Cô gái nói - Nhưng người ta bắt buộc tất cả chúng tôi phải đi. Người ta còn cho rằng anh thuộc bộ lạc da đen ở đó.

Tácdăng bật cười.

- Tên thật của anh là gì? - Cô gái hỏi - Tôi nên gọi anh như thế nào?

- Lúc nào tôi cũng có một cái tên ngắn gọn là Tácdăng. Đó là tên mà đàn vượn đặt cho tôi khi tôi còn sống với chúng. Lúc đó tôi không thể nói được với cô. Vì vậy cho nên tôi đã ký bằng một bức vẽ.

- Tácdăng, Người Bắn Cung! - Cô gái ngạc nhiên kêu to - Đó là chữ của anh?

- Đúng thế! Còn ai viết nữa.

- Nhưng mà Người Bắn Cung viết tiếng Anh. Còn anh thì không nói được tiếng Anh. Tôi nghĩ rằng ở đó có hai người.

- Đây là một chuyện khá dài dòng, - Tácdăng cười - Nói vắn tắt thì... viết và đọc tiếng Anh là do tôi tự học. Khi đó không có ai dạy tôi nói. Chỉ tới khi gặp ông Acnốt... Nhưng Acnốt lại dạy tôi nói tiếng Pháp. Thế là mọi việc càng trở nên phức tạp.

Lúc này trong các ngôi nhà thuộc trang trại không còn một ai. Tácdăng quay ra phía đường cái, chỉ vào chiếc ô tô màu đen:

- Mời cô lên xe! Có thể chúng ta sẽ tìm được họ.

Potorova dương tròn mắt. Cô hết nhìn Tácdăng lại nhìn chiếc ô tô, cứ như lần đầu tiên cô gặp hai kỳ quan vậy. Cô vừa ngồi yên vào chỗ, chiếc xe đã phóng vụt đi. Chàng trai này thay đổi nhanh chóng đến thế! Cách đây không lâu anh ta là một người rừng, hôm nay anh ta đã lái ô tô.

- Khi tôi tìm cô ở Bantimo, - Tácdăng nói - Tôi nghe người ta nói rằng cô phải lấy chồng. Cái người tên là Calo đó là ai?

- Còn ai, ngoài cái người đàn ông mà cha tôi đã nợ tiền.

Nghe đến đây, Tácdăng nhớ lại ngay lá thư mà Potorova viết cho bạn gái. Lá thư đó bị vứt lại trong ngôi nhà gỗ. Acnốt đã đọc bức thư cho Tácdăng nghe. Trong lá thư có viết về Calo. Vì vậy, bây giờ Tácdăng đã hiểu tất cả.

- Nếu như cha cô không mất thùng gỗ quý đó, - Tácdăng mỉm cười nói -... thì cô sẽ không lấy người đó phải không?

Potorova lặng lẽ gật đầu.

Chiếc ô tô tới gần một đoạn đường cháy. Lửa đã liếm sát mặt đường. Tácdăng tăng tốc độ. Bánh xe lướt vọt qua đoạn đường nguy hiểm. Tácdăng lại tiếp tục câu chuyện.

- Cô đừng lấy Calo!

- Nhưng Calo không chịu từ bỏ ý đồ, - Cô gái thở dài.

- Tơcốt đã phải từ bỏ ý đồ, - Tácdăng nói rất buồn bã.

Potorova khẽ rùng mình. Cô biết là Tácdăng nhắc đến con đười ươi đã bắt cóc cô.

- Nhưng có phải bây giờ chúng ta đang sống trong rừng đâu, - Cô gái lên tiếng, sau mấy giây trầm tư

- Và còn anh nữa. Anh có còn là chàng trai của rừng rú nữa đâu!

Tácdăng chưa kịp trả lời, trước kính ô tô đã hiện ra một thung lũng nhỏ, cạnh đoạn đường vòng gấp. Trên mặt đường, Clayton đang đứng giữa nhóm người mà anh vừa hộ tống ra khỏi trang trại để tránh cơn hỏa hoạn. Trông thấy Potorova bình an trên xe, cả nhóm người chạy ùa tới chỗ cô, kêu lên sung sướng. Giáo sư Poto ôm lấy con gái cưng của mình, chẳng hề để ý tới chàng trai cứu nạn. Clayton là người đầu tiên bước tới chỗ Tácdăng, chìa tay ra bắt:

- Chúng tôi chẳng biết đền ơn anh thế nào, - Clayton nói - Đúng là anh đã cứu tất cả chúng tôi đấy. Nhưng cho phép tôi được hỏi! Vì sao anh lại biết tôi? Tôi có cảm giác là chúng ta đã gặp nhau ở một nơi nào đó. Vậy mà tôi chẳng nhớ ra nổi.

Tácdăng nắm chặt bàn tay Clayton, cười nói:

- Ông nói đúng đấy, ông Clayton! Chúng ta quen nhau đấy - Tácdăng nói và nhấc mũ - thực sự là ông không thể nhận ra tôi hay sao?

Clayton giật mình kêu lên:

- Lạy Chúa lòng lành! Chả lẽ lại là...

Nghe thấy tiếng kêu kinh ngạc của Clayton, giáo sư Poto và ông trợ lý Philando chạy lại gần, nhìn mặt Tácdăng. Cả hai đều không biết là mơ hay thật. Cái chàng người rừng đã cứu sống họ giữa rừng sâu châu Phi làm sao lại xuất hiện ở đây, ngay ở nước Mỹ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: Bức điện


Nhóm người trong gia đình giáo sư Poto rất mừng vì Potorova thoát nạn, nhưng vẫn không tin nổi "thần rừng" Phi châu ngày nào lại hiện ra trước mắt mình. Cuộc trò chuyện hàn huyên kéo dài sôi nổi, cho tới khi mọi người đi tới một trạm gác rừng. Đó là một ngôi nhà rất thấp, ai bước qua cũng phải cúi đầu. Trước tiên Tácdăng kể cho mọi người nghe về chuyến hành trình của Acnốt cùng Tácdăng tìm về với cuộc sống loài người rồi tới chuyện Acnốt giúp chàng làm quen với thế giới văn mình.

Philando ngồi bên cửa sổ lắng nghe. Đang nghe bỗng ông thấy từ xa, chỗ họ đỗ ô tô lại có một chiếc ô tô nữa tới đỗ bên cạnh.

- Calo! Philando kêu lên - Ông Calo từ thành phố đã quay trở lại.

- Điều đó có gì mà ông phải ngạc nhiên, - giáo sư Poto bình thản lên tiếng - Các ông hãy nhìn ông cố đạo đi bên cạnh nữa kìa!

Gian Potorova cảm thấy ớn lạnh cả người. Clayton vụt đứng thẳng dậy. Cô hầu Exmeranda lẩm bẩm điều gì đó. Giáo sư Poto lúng túng tháo kính. Chỉ riêng Tácdăng là vẫn ngồi im, không hiểu có chuyện gì.

Calo bước vào phòng.

- Ơn Đức Chúa Trời! - Calo kêu lên - Tôi đã sợ mọi người gặp chuyện rủi ro. Rất may là tôi đã trông thấy xe của ông Clayton.

Mọi người im lặng, không đáp một lời. Tácdăng bắt đầu hiểu. Chàng nhìn Calo như một con sư tử nhìn mồi. Gian Potorova lo lắng nhìn Tácdăng. Cái nhìn của cô như có ý nhắc nhở Tácdăng cần phải giữ bình tĩnh.

- Ông Calo! - Cô gái lên tiếng trước - Đây là ông Tácdăng, bạn cũ của chúng tôi.

Rô bớt Calo quay sang Tácdăng chìa tay ra bắt. Tácdăng đứng dậy, khẽ gật đầu chào, đúng phép lịch sự mà Acnốt đã dạy, nhưng không bắt tay Calo. Calo cũng không quan tâm tới điều đó. Gã quay sang vị tu sĩ hành lễ đang đứng phía sau, nói:

- Đây là cha Tuslay, Gian ạ! - Calo giới thiệu - Hôn lễ có thể tiến hành ngay bây giờ. Chuyến tàu đêm sẽ đưa chúng ta về Bantimo. Các vị nói sao?

Lúc này Tácdăng đã hiểu tất cả. Chàng nhìn cô gái, nhưng vẫn không cử động. Potorova im lặng. Một bầu không khí căng thẳng nặng nề bao trùm căn nhà.

- Chả lẽ ông không chờ được vài ngày nữa hay sao? - Cuối cùng thì cô gái cũng phải lên tiếng nói với giọng buồn bã - Tôi chẳng còn hồn vía nào sau chuyến hỏa hoạn vừa qua.

Rôbớt Calo biết rằng tất cả mọi người trong phòng đều căm ghét gã. Gã lại lên tiếng, cố phá tan không khí thù địch:

- Tôi đã phải chờ quá lâu rồi, - Gã gằn giọng - Tôi đã không kiên nhẫn hơn được nữa. Cô đã đồng ý lấy tôi. Tôi không cho phép cô đùa bỡn tôi lâu nữa. Tôi đã làm xong giấy đăng ký kết hôn. Còn đây là cha tinh thần của tôi. Lại gần đây, ông Tuslay! Người làm chứng cho hôn lễ thì ở đây quá nhiều rồi. Quá nhiều!

Calo bước tới, định ôm vai Potorova. Nhưng lúc đó, chính gã lại bị đau nhói ở vai, bởi một bàn tay ai đó cứng như sắt. Ngay lúc đó, bàn tay thứ hai đã chộp lấy cổ gã. Trong chớp mắt, Calo bị nâng bổng lên không trung. Hai bàn tay đó là của Tácdăng. Chàng nâng bổng Calo lên trời chẳng khác gì con mèo đùa chuột.

Potorova hoảng hốt. Cô trông thấy vết sẹo trên trán Tácdăng đã đỏ ửng lên, rất giống ngày nào, khi Tácdăng đứng đối mặt với con đười ươi trong rừng. Cô hiểu ngay đó là dấu hiệu của điều gì. Tácdăng có thể giết chết kẻ cưỡng hôn. Potorova thét lên một tiếng rồi chạy đến bên cạnh Tácdăng. Clayton cũng chạy tới. Anh muốn giật Calo khỏi cánh tay của chàng trai hung dữ. Trong khi đó Calo vẫn thở khò khè trên đầu Tácdăng. Chỉ cần Tácdăng lắc mạnh cổ tay một cái là Calo có thể bay vọt ra khỏi cửa sổ. Nhưng Tácdăng chưa làm điều đó. Anh đã trông thấy cô gái bên cạnh mình.

- Anh thả ngay xuống! - Cô gái nhìn vào mặt Tácdăng, kêu to lên - Hãy vì tôi mà thả ông ấy xuống!

Tácdăng liếc cô gái và hơi lỏng tay ra.

- Tôi không muốn ông ta bị chết, - Cô gái nói - Tôi không muốn anh thành một kẻ giết người.

Tácdăng liền thả gã đàn ông xám ngoét trên tay mình xuống sàn nhà.

- Ông sẽ phải bỏ cô ấy, không điều kiện gì hết! - Tácdăng nói vào mặt Calo - Hãy hứa đi! Tôi sẽ để ông sống.

Calo vừa thở, vừa gật đầu.

- Ông cút khỏi đây ngay! Từ nay đừng quấy rầy cô ấy nữa, hiểu không?

Calo im lặng xoa những vết tím trên người, gật đầu khuất phục. Tácdăng đẩy nhẹ Calo một cái. Trong chốc lát kẻ cầu hôn đã biến mất. Ông trợ lý Philando quay sang ông cố đạo, cô gắng giải thích điều gì đó. Tácdăng quay lại với Pôỏova. Nhưng ngay lúc đó, giáo sư đã lên tiếng:

- Này chàng trai! Anh hãy giải thích cho tôi! Anh có quyền gì mà can thiệp vào chuyện này của chúng tôi? Tại sao anh lại động chạm tới ông Calo? Tôi đã hứa gả con gái tôi cho ông ấy, cho dù nó thích hay không thích. Tôi phải giữ lời hứa.

- Tôi can thiệp vì... - Tácdăng trả lời - vì con gái ông không yêu hắn. Cô ấy không thích lấy hắn. Thế là đủ.

- Anh không hiểu được là anh đã gây ra chuyện gì, - Giáo sư Poto giận dữ - Bởi vì bây giờ ông ấy sẽ không lấy Gian nữa.

- Không muốn lấy? - Tácdăng nói như bị nghẹt thở - Tôi đã tha tội cho hắn. Và ông cũng có thể chấm dứt quan hệ với hắn được rồi. Ông sẽ trả tiền cho hắn.

- Anh nghĩ mọi chuyện đều quá đơn giản, anh bạn trẻ ạ - Giáo sư Poto thở dài. - Tôi không có tiền trả nợ.

- Rất đơn giản vì... - Tácdăng nói chầm chậm - vì kho báu của ông vẫn còn.

- Sao? Anh nói sao? - Giáo sư Poto kêu lên - Anh nói nghiêm túc đấy chứ? Nó đang nằm ở đâu? Làm thế nào tìm thấy được?

- Tôi đã trông thấy đám thủy thủ của ông đến châu Phi chôn dấu chiếc thùng, - Tácdăng giải thích - Họ đi khỏi, tôi đã đào lên và chôn chỗ khác. Khi đó, tôi cũng không biết nó có gì, nó là của ai. Chỉ đến khi trung úy Acnốt nói cho tôi biết chiếc thùng đó đối với ông có ý nghĩa ra sao thì tôi mới quay lại lấy. Tất nhiên tôi không thể mang theo chiếc thùng đó tới đây, tới Mỹ. Acnốt cho rằng, mang chiếc thùng đó đi rất nguy hiểm, rằng chiếc thùng đó đã gây ra không biết bao nhiêu là rủi ro và cái chết. Ông Acnốt đã gửi nó vào nhà băng. Còn đây là giá trị của chiếc thùng.

Nói xong, Tácdăng lấy trong túi ra một chiếc phong bì và đưa luôn cho giáo sư Poto. Hai bàn tay vị giáo sư già trở nên lóng ngóng. Ông mở mãi chiếc phong bì mới lôi được tờ giấy ở trong ra. Hội đồng giám định của nhà băng đã khẳng định rằng giá trị tối thiểu của thùng tiền vàng là 241 nghìn đô la.

- Lạy Chúa tôi! - Giáo sư Poto kêu lên xúc động - Bây giờ thì chúng tôi lại nợ anh. Ở châu Phi đã mấy lần anh cứu sống chúng tôi. Còn hôm nay anh không chỉ cứu Gian mà còn cứu cả tôi nữa. Đó là danh dự của tôi. Nếu như con tôi không lấy hắn, hắn có thể giết cả tôi.

Sau khi chạy ra ngoài quan sát Calo, Clayton đã quay trở lại.

- Tôi cho rằng đã đến lúc chúng ta phải đi, - Clayton nói - Chúng ta phải đến thành phố trước khi trời tối. Không nên đứng lâu giữa vùng rừng hỏa hoạn này. Có người vừa qua đây nói rằng: hiện giờ đám cháy đang lan rộng lên cả phía bắc.

Cả nhóm người bước ra khỏi nhà, đến chỗ ô tô. Giáo sư Poto cùng con gái và cô hầu da đen ngồi xe của Clayton. Tácdăng thì chở trợ lý Philando.

- Thật sự là tôi không thể nào tin nổi, - Ông già Philando lắc đầu chầm chậm - Khi tôi trông thấy anh lần đầu thì anh sống trên cành cây của rừng già châu Phi. Còn hôm nay, lần thứ hai, thì anh đã chở tôi bằng một chiếc ô tô hiện đại.

Tácdăng cười, thừa nhận. Một lát sau anh mới lên tiếng:

- Ông Philando! Ông có nhớ chuyện này không? Trong ngôi nhà gỗ mà các ông đến ở, có ba bộ xương.

- Tất nhiên là tôi nhớ, - Viên trợ lý già gật đầu - Tôi thấy và tất cả chúng tôi đã chôn cất tử tế.

- Ông thấy mấy bộ xương đó có gì đặc biệt không?

Viên trợ lý nhìn Tácdăng với cặp mắt dò xét:

- Vì sao anh lại hỏi thế?

- Vì điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tôi. Câu trả lời của ông có thể phá tan một điều bí ẩn làm tôi băn khoăn lâu nay. Ông trả lời tôi nhé! Thật chân thực! Có phải cả ba bộ xương đó đều là xương người không?

- Không! - Viên trợ lý trả lời - Bộ nhỏ nhất mà chúng tôi thấy nằm trong nôi là xương của một con khỉ con.

- Cám ơn ông nhiều! - Tácdăng trả lời và không hỏi gì thêm nữa.

- Lúc đó chúng tôi rất lấy làm lạ. Không hiểu vì sao trong nôi của con người lại có xương của một con khỉ mới đẻ. - Ông Philando trầm ngâm - Tôi đã nói điều này với giáo sư Poto, nhưng cả hai chúng tôi đều không nói cho người khác biết.

Tácdăng lắng nghe rất chăm chú nhưng không nói gì. Viên trợ lý thấy Tácdăng im lặng thì lại nghĩ rằng anh đang chú ý vào tay lái.

° ° °

Cả nhóm người của giáo sư Poto ngồi trong phòng đợi ngoài sân ga. Họ chờ tàu đến. Tácdăng tranh thủ nói với cô gái những lời mà anh hằng chờ đợi và ấp ủ bao ngày.

- Gian thân yêu! Bây giờ cô đã được tự do. Vì cô, tôi đã từ bỏ rừng xanh để biến thành một con người. Vì cô, tôi đã đi qua hai phần ba thế giới. Và tôi sẽ còn làm tất cả những gì mà cô mong muốn. Tôi... Tóm lại là tôi... yêu em. Gian ạ! Em lấy tôi được không, Gian!

Potorova giật mình quay mặt đi, cố giấu sự xúc động. Bây giờ cô mới biết là chàng trai của rừng già yêu cô đến thế. Vậy mà hiện tại thì... chính ngay hôm nay cô đã phụ lòng chàng. Bởi vì sau khi Calo đi khỏi, Clayton đã cầm tay cô ngỏ lời. Và cô đã nhận lời.

- Thông cảm cho tôi! - Cô gái nói sau khi nghe Tácdăng thổ lộ - Tôi cũng rất yêu anh. Nhưng tôi đã không hình dung được là chúng ta lại cùng nghĩ về nhau như vậy. Còn bây giờ thì tôi không thể từ chối Clayton. Anh ấy là người tốt. Anh ấy yêu tôi... Trong chuyện này tôi không thể phụ lòng anh ấy. Tôi phải giữ lời. Anh hãy thông cảm cho tôi!

Tácdăng im lặng một hồi.

- Tôi vẫn chưa biết hết những cung cách ứng xử trong xã hội của cô, - Tácdăng cất giọng chậm rãi, nặng nề - Tôi để cô tự do quyết định thôi.

Vừa lúc đó, có người đi đến chỗ họ. Tácdăng liền bước tới cửa sổ, nhìn ra ngoài. Trước mắt anh, một hình ảnh êm đềm của quá khứ hiện trở lại: anh cùng Potorova ngồi trên đám cỏ giữa rừng. Hai người ngồi bên nhau, cùng ăn hoa quả của rừng xanh. Chỉ có hai người thôi! Hai người hạnh phúc biết bao!

Bỗng có một nhân viên hỏa xa bước vào phòng chờ. Ông ta lên tiếng hỏi xem trong phòng có ai tên là Tácdăng không.

- Có, tôi là Tácdăng đây! - Chàng trai quay lại trả lời.

- Ngài có bức điện gửi từ Pari tới, - Nhân viên hỏa xa thông báo ngay - Ở Bantimo người ta không tìm thấy ngài. Thế là người ta lại chuyển nó tới trang trại của giáo sư Poto. Rất may là chúng tôi biết ngài đã rời trang trại tới đây.

Tácdăng mở phong bì ra đọc:

"CÁC VÂN TAY CHỨNG TỎ RẰNG NGÀI THỰC SỰ LÀ GRAYXTAU. XIN CHÚC MỪNG!

Acnốt"

Đọc xong, Tácdăng ngẩng đầu lên. Clayton đang đứng sau lưng anh. Lúc này thì mọi điều đã được khẳng định chắc chắn. Clayton là anh họ của Tácdăng. Đó cũng chính là người mang tước hiệu quý tộc của Tácdăng, giữ quyền sở hữu tài sản của Tácdăng và thậm chí, sẽ cưới cô gái mà Tácdăng yêu quý. Bức điện đã thay đổi tất cả. Chỉ một câu thôi mà sự thật đã sáng tỏ: ai là người thừa kế chính thức tước hiệu và tài sản của giòng họ quý tộc Grayxtau. Tácdăng đã có tước hiệu, trang trại và tài sản. Chỉ có điều là chàng đã mất Gian Potorova.

- Bạn thân mến của tôi! - Clayton nói trong khi tiến lại gần Tácdăng - Tôi vẫn chưa kịp đền ơn bạn vì tất cả những gì bạn đã giúp chúng tôi. Thật là kì lạ! Dường như bạn có mặt trong cuộc đời này là chỉ để làm công việc bảo vệ cuộc sống của chúng tôi vậy! Tôi rất mừng vì bạn đã tới đây. Chúng ta phải làm quen với nhau! Và bạn phải kể cho chúng tôi nghe thật nhiều chuyện. Trước hết là chuyện vì sao bạn lại đến được cái vùng rừng châu Phi kinh khủng đó.

- Tôi sinh ra ở đó, - Tácdăng điềm tĩnh trả lời - Mẹ tôi chỉ là một con vượn. Vì vậy, lẽ dĩ nhiên mẹ tôi không thể nói cho tôi biết được điều gì về nguồn gốc của tôi.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom