Cập nhật mới

Dịch Full Tâm Lý Học

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: C20: 20. Rối Loạn Nhân Cách Ái Kỷ


Narcissistic Personality Disorder - Rối Loạn Nhân Cách Ái Kỷ


Trong thần thoại Hy Lạp có câu chuyện về chàng Narcissus. Chàng rất đẹp, đẹp đến não nề, đẹp đến đau lòng người khác. Có vô vàn cô gái yêu chàng nhưng chàng lại chẳng thích một ai, chàng cho rằng chỉ có mình mới xứng đáng với tình yêu của mình mà thôi. Echo, một nữ thần sông núi đã mang lòng yêu chàng. Do Echo lỡ phạm lỗi với Hera nên bị nữ thần tước đi giọng nói, cô chỉ có thể lặp lại những lời người khác nói sau cùng mà thôi. Echo lấy hết can đảm tỏ tình với Narcissus nhưng chàng ta lạnh lùng từ chối khiến cô đau khổ, thân hình tiều tụy, yếu ớt dần. Các nữ thần sông núi khác thấy vậy nên rất tức giận, các nàng cầu xin nữ thần tình yêu Aphrodite hãy trừng phạt Narcissus. Nữ thần nghe lời cầu xin nên đã giáng một lời nguyền lên người Narcissus, chàng sẽ yêu người đầu tiên mà chàng gặp. Lúc ấy là giữa ngày xuân, Narcissus đi săn và tìm đến một con suối để nghỉ ngơi. Khi chàng cuối xuống bỗng thấy khuôn mặt mình, và chàng đã chìm đắm trong tình yêu với chính bản thân mình. Nhưng mỗi khi chàng đưa tay chạm vào mặt nước, bóng hình ấy tan vỡ khiến chàng đau khổ. Narcissus quên đi tất cả, chẳng thiết ăn uống, cứ ngồi bên dòng suối và ngắm nhìn hình bóng của mình không biết chán. Chẳng bao lâu chàng mất đi, bên bờ suối mọc lên những nhành thủy tiên trắng kiêu ngạo, thơm ngát. Và có lẽ xuất phát từ đó, từ Narcissism được dùng để nói về thói ngạo mạn và tự yêu mình thái quá.

Khi viết bài về rối loạn nhân cách hoang tưởng, tôi có nói sơ về việc 9 bệnh rối loạn nhân cách được xếp vào ba nhóm A, B và C. Rối loạn nhân cách hoang tưởng nằm trong nhóm A ( nhóm kỳ quặc). Hôm nay chúng ta sẽ bàn về một bệnh rối loạn nhân cách nữa, nằm trong nhóm B với những đặc điểm chính là kịch tính, quá cảm xúc và thất thường. Đó chính là bệnh rối loạn nhân cách ái kỷ (Narcissistic Personality Disorder) hay còn gọi là bệnh rối loạn nhân cách yêu bản thân thái quá.


Trong bảy tội lớn nhất của con người trong Kinh Thánh, phẫn nộ, phàm ăn, lười biếng, kiêu ngạo, đố kỵ, trụy lạc và tham lam thì tội lỗi đại diện cho bệnh rối loạn nhân cách ái kỷ là đố kỵ. Bạn thấy lạ đúng không? Tôi cũng vậy, tôi cứ nghĩ tội lỗi đại diện cho bệnh này phải là kiêu ngạo mới đúng vậy. Nhưng nếu đi sâu vào triệu chứng và tiềm thức của người mắc bệnh này thì mới bạn sẽ hiểu lý do.


Đặc điểm chính của rối loạn nhân cách ái kỷ là những xu hướng ảo tưởng qua suy nghĩ hay qua hành động, sự cần thiết được người khác ngưỡng mộ và không có khả năng thấu cảm với người khác. Những người này thường phóng đại tầm quan trọng của họ đối với người khác. Họ tin rằng họ có những kỹ năng đặc biệt, có một không hai mà chỉ có những người có vị trí cao trong xã hội mới hiểu được. Bản thân họ chỉ quan tâm và chú ý đến khả năng và những gì họ đạt được. Bởi vì họ coi họ là quan trọng, là độc nhất, cho nên họ không thể nào thông cảm và thấu hiểu được cảm xúc của người khác, và thường được coi là những người kiêu căng, ngạo mạn. Họ lợi dụng sự thành công của người khác để làm bàn đạp cho mình.

Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh rối loạn nhân cách ái kỷ theo DSM-5 là

Sự rối loạn trong việc vận hành nhân cách thường ngày:

Sự rối loạn trong các hoạt động của bản thân.
-Nhân cách: thường dựa vào người khác để xác định bản thân là ai, phóng đại về bản thân, hạ thấp người khác.


-Hướng đi của bản thân: mục đích cuộc sống được đặt ra để đạt được sự tán thưởng của người khác. Mục tiêu và khả năng của bản thân họ đề ra cao một cách vô lý để họ cảm thấy rằng mình là đặc biệt, hoặc là quá thấp vì họ cảm thấy mình xứng đáng có được hết thảy, thường không để ý đến động lực thật sự của mình là gì.

Sự rối loại giữa các mối quan hệ cá nhân và xã hội.
-Thấu cảm: không có khả năng nhận thức, xác định cảm xúc và những gì người khác cần. Thường đón nhận phản ứng của người khác với thái độ quá mức, nhưng chỉ trong trường hợp nó có liên quan đến bản thân, đánh giá quá cao hoặc quá thấp sức ảnh hưởng của mình lên người khác.

-Quan hệ tình cảm: các mối quan hệ chỉ tồn tại với mục đích phục vụ cái tôi của bản thân, không hề có hứng thú với việc đối phương muốn gì và thích gì.

Rối loạn nhân cách ái kỷ đa số được chẩn đoán với người đã trưởng thành, bởi vì trẻ em và thanh thiếu niên vẫn còn đang trong thời kỳ phát triển tâm lý và cải thiện nhân cách. Tuy nhiên, nếu được chẩn đoán ở trẻ em và thiếu niên thì những triệu chứng trên phải tồn tại và kéo dài ít nhất một năm.


Tóm tắt lại là những người mắc rối loạn nhân cách ái kỷ là những người kiêu ngạo, coi bản thân mình đặc biệt hơn hẳn những người khác, không có khả năng thấu cảm, thích và cần được ca ngợi và coi trọng. Vậy thì tại sao đố kỵ lại được coi là tội lỗi tượng trưng cho bệnh này?

Ở tầng tiềm thức thì sự ảo tưởng, cho rằng mình xứng đáng được hưởng hết thảy, và mình quan trọng hơn những người khác được giải thích rằng do bản thân người đó cảm thấy mình bị nguy hiểm, bị đe dọa bởi những gì người khác đạt được. Vì thế, trong tiềm thức họ tìm cách kéo những người có vẻ giỏi giang hơn mình ấy xuống ngang hàng mình, hoặc thấp hơn mình để thỏa mãn cho cảm giác bản thân mình vượt trội hơn hẳn người khác. Để giải thích rõ hơn, tôi sẽ kể lại một trường hợp mà thầy tôi gặp phải trong những ngày đầu đi thực tập tại bệnh viện.

Lúc ấy thầy tôi mới vừa ra trường và được nhận vào thực tập ở bệnh viện trường tôi. Ngay khi vào được một, hai tuần thì một vị bác sĩ đã chuyển một hồ sơ bệnh án qua cho thầy với gương mặt áy náy khi bắt thầy nhận bệnh án này, vì không ai muốn nhận nó hết. Nhưng ca bệnh này sẽ mang lại cho thầy nhiều kinh nghiệm với kiến thức. Đó là bệnh án về một người mắc chứng rối loạn nhân cách ái kỷ.

Bệnh nhân được đưa đến khám bởi người bạn cùng phòng của anh ta. Người bạn ấy lo rằng với tính cách này của anh thì anh sẽ khiến anh gặp nhiều rắc rối. Anh đã đi khám nhiều bác sĩ rồi nhưng thường chỉ sau mười phút đã bỏ đi. Khi gặp thầy tôi, anh ta có vẻ nghi ngờ khả năng, nhưng vẫn nói chuyện. Thầy tôi không hỏi gì nhiều, chỉ lắng nghe anh ta nói. Trong suốt một tiếng đồng hồ trị liệu thì có hết khoảng 45 phút là anh ta kể về mình, về gia đình, về những gì anh ta đạt được. Sau đó anh ta thấy được bằng tốt nghiệp của thầy tôi treo ở trên trường và hỏi, "Anh không phải tốt nghiệp từ trường ở nước Mỹ à?", "Không." Thầy tôi vừa trả lời xong thì anh ta đập bàn mạnh một cái, mắng thầy tôi làm phí thời giờ của anh ta, đứng dậy và bỏ ra ngoài bãi đỗ xe. Người bạn đi cùng nhìn thầy tôi với ánh mắt ái ngại và xin lỗi rối rít. Thầy tôi bảo lúc ấy bản năng của thầy chỉ muốn đập cho anh ta một trận, nhưng lương tri kéo thầy lại, thầy suy nghĩ về những gì mình đã trải qua, khó khăn để xin được đi thực tập nên thầy phải kiềm lại. Thầy hỏi người bạn đi cùng có nghĩ rằng anh ta có sao hay không? Có làm gì tổn thương đến bản thân hay không. Người bạn ấy trả lời rằng thầy đừng lo, anh ta quá yêu bản thân mình thế nên chả đời nào tự làm mình tổn hại đâu.

Bệnh nhân trong câu chuyện trên thể hiện rõ một số triệu chứng của bệnh rối loạn nhân cách ái kỷ. Anh ta dành phần lớn thời gian để nói và ca ngợi bản thân. Vì anh ta nghĩ rằng anh ta đặc biệt, thế nên chỉ có những người có địa vị xã hội như thầy tôi mới xứng đáng để nghe anh ta nói chuyện. Cho nên khi anh ta thấy thầy tôi không phải tốt nghiệp từ trường nào đó trong nước Mỹ thì anh ta cho rằng thầy tôi không xứng đáng để anh ta nói chuyện tiếp. Trong tiềm thức, anh ta kéo thầy tôi, một người có địa vị xã hội cao hơn anh ta, xuống thấp hơn để bản thân có thể trèo lên cho bằng, hoặc cao hơn nhằm thỏa mãn cái mong muốn mình đặc biệt hơn người. Đó chính là đố kỵ. Vì đố kỵ thế nên không chấp nhận bất cứ ai giỏi hơn mình và tìm cách kéo họ xuống. Luôn coi mình là trung tâm của sự ngưỡng mộ thế nên không thể chịu nổi khi ai đó giỏi hơn mình.

Bệnh rối loạn nhân cách ái kỷ được coi là "con lai" của hai chứng bệnh rối loạn nhân cách kịch tính và rối loạn nhân cách phản xã hội vì nó có một số triệu chứng là đặc điểm của hai bệnh trên, ví dụ như không có khả năng thấu cảm là triệu chứng tiêu biểu của ASPD, còn coi mình là trung tâm của mọi việc, cần được tán thưởng và ngưỡng mộ là đặc điểm của bệnh rối loạn nhân cách kịch tính. Những người mắc rối loạn nhân cách ái kỷ thường dùng sự tách ly (Splitting) làm cơ chế bảo vệ. Theo phân tâm học, sự tách ly, hay còn gọi kiểu suy nghĩ trắng và đen- có hoặc không, là sự thất bại trong suy nghĩ của một người, họ không thể mang cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực của bản thân và những người khác lại để liên kết, tạo nên một tổng thể "hiện thực". Đây là một hình thức tự vệ trong tiềm thức được dùng bởi rất nhiều người. Họ thường hay nghĩ đến mức cùng cực, mỗi hanh động, động lực của họ chỉ có hoàn toàn tốt, hoặc hoàn toàn xấu chứ không có ở giữa. Người bệnh rối loạn nhân cách ái kỷ dùng cơ chế này để ổn định cảm xúc tích cực về bản thân phục vụ cho cái tôi của họ, bằng cách nhận định bản thân vượt trội hơn hẳn những người khác và đáng được ngưỡng mộ. Những ai không làm theo ý họ, hoặc không coi trọng những giá trị mà họ mang lại là những kẻ xấu xa và chỉ biết ganh tỵ với những gì họ đạt được.


Nguyên nhân gây ra chứng rối loạn nhân cách ái kỷ vẫn còn nằm trong vòng tranh cãi và chưa có kết quả cuối cùng. Những nhà tâm lý học dùng mô hình sinh lý- tâm lý- xã hội để giải thích nguyên nhân và họ cho rẳng nguyên nhân gây ra bệnh rất phức tạp. Bệnh rối loạn nhân cách ái kỷ có thể liên qua đến sự chỉ trích thái quá, hoặc tâng bốc quá của các bậc cha mẹ đối với con mình, không ngừng nhấn mạnh về sự đặc biệt của nó. Điều này khiến cho đứa trẻ có thể che dấu đi sự thiếu tự tin của mình bằng cách phát triển bề ngoài về sự hoàn hảo, và hành vi chứng tỏ sự cần thiết được ngưỡng mộ liên tục. Bên cạnh đó còn có sự liên hệ giữa bộ não, suy nghĩ và hành vi, khả năng giải quyết stress.

Khi học tâm lý tính cách con người, giáo sư tôi có đưa ra một nghiên cứu rất thú vị. Nghiên cứu này kết luận rằng giới trẻ thời nay có tính ái kỷ, cho rằng mình xứng đáng được hưởng mọi thứ hơn những người sống 20 năm về trước. Nguyên nhân là vì sao? Ngày nay, trong các buổi diễn đàn về tự lực, hướng bản thân đến lối sống hoàn thiện, hoặc trong những cuốn sách hướng dẫn bạn tự rèn luyện bản thân thường hay có những câu như, "Chỉ cần bạn cố gắng hết mình bạn sẽ thành công" hay "Chỉ cần bạn cố gắng hết sức, bạn sẽ đạt được những điều mình muốn." Vì những câu như thế khiến giới trẻ ngộ nhận rằng họ có quyền được hưởng mọi thứ chỉ cần họ cố gắng hết sức. Thế nhưng "cố gắng hết sức" là một khái niệm trừu tượng, không được định nghĩa rõ ràng. Thế nào gọi là cố gắng hết sức? Bạn cho rằng bạn học hết 2 tiếng là sự cố gắng hết sức của bạn và vì thế bạn xứng đáng được điểm 10 thay vì điểm 6 hay 7. Thế nhưng đối với người khác, sự cố gắng hết sức của họ là chăm chỉ ngay từ đầu buổi học. Chính những khái niệm trừu tượng này dẫn đến sự ngộ nhận và tính ái kỷ trong giới trẻ.

Trên thực tế, bệnh rối loạn nhân cách ái kỷ là một trong những bệnh tâm lý có tỷ lệ người mắc bệnh thấp nhất, chiếm khoảng 2% dân số. Thế nhưng con số này đang dần tăng lên bởi vì một trong những nguyên nhân mà tôi nêu bên trên. Cũng giống như các bệnh rối loạn nhân cách khác, rối loạn nhân cách ái kỷ rất khó chữa. Một phần là vì người mắc bệnh không cho rằng họ bị bệnh, và vì thế nên họ không tự đi tìm sự giúp đỡ từ các chuyên gia. Phương thức chữa bệnh phổ biến nhất là dựa vào nói chuyện và khám phá tiềm thức người bệnh, hướng dẫn họ suy nghĩ tích cực hơn, tốt hơn. Lâu dài, các chuyên gia sẽ giúp người bệnh có cái nhìn sâu vào bên trong suy nghĩ của họ, giải đáp tại sao họ lại có thái độ và hành vi như thế với hy vọng rằng điều này sẽ giúp cho họ cải thiện hành vi của mình. Không có loại thuốc nào có thể chữa rối loạn nhân cách ái kỷ, các loại thuốc được dùng để chữa các triệu chứng phụ khác như trầm cảm, lo âu có thể xuất hiện kèm theo bệnh.



Cre: Hiroshimi.wordpress.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: C21: 21. Rối Loạn Nhân Cách Phân Liệt


Schizoid Personality Disorder - Rối Loạn Nhân Cách Phân Liệt

Rối loạn nhân cách phân liệt thuộc về nhóm thứ hai trong ba nhóm của bệnh rối loạn nhân cách có tên là nhóm lập dị. Đa số phần lập dị trong nhóm này thường liên quan đến cách một người giao tiếp, tác động đến người khác. Một số người không hề có hứng thú gì với người khác. Một số người lại cực kỳ khó chịu với những người xung quanh. Còn có một số thì lại rất đa nghi. Khi sự lập dị đạt đến mức tột cùng thì những lối sống này tạo thành ba loại rối loạn nhân cách mà rối loạn nhân cách phân liệt là một trong số đó.

Rối loạn nhân cách phân liệt là dạng phân ly (schism), hoặc tách rời khỏi các mối quan hệ xã hội bình thường. Người mắc rối loạn nhân cách phân liệt đơn giản không hề có bất kỳ sự cần thiết hay mong muốn có quan hệ thân mật nào, kể cả tình bạn. Cuộc sống gia đình thường chẳng có ý nghĩa gì với họ cả, và thường họ chẳng cảm thấy vui vẻ thỏa mãn gì với việc mình là một phần của nhóm cả. Con người là loài sống theo quần thể, đó là một tập tính sống hình thành qua triệu năm giúp con người có thể chống lại những điều kiện bất lợi từ thiên nhiên, các loài động vật hung dữ, mạnh mẽ hơn chúng ta gấp ngàn lần. Hơn nữa theo tháp nhu cầu Maslow, nhu cầu được thuộc về một nhóm nào đó, được chấp nhận là một nhu cầu cần thiết cơ bản tầng thứ ba của con người. Và họ cần đạt được nhu cầu ấy trước khi có thể tiến lên những tầng cao hơn. Vì thế nên việc tách ly khỏi xã hội, không cần thiết hay không mong muốn bất kỳ mối quan hệ nào, khi ở mức độ tột cùng ảnh hưởng đến đời sống của một người thì đó là một dạng rối loạn.

Những người mắc rối loạn nhân cách phân liệt chỉ có một ít hoặc không có người bạn thân nào cả, và họ chỉ muốn được ở một mình thay vì dành thời gian cho người khác. Họ thường chọn những sở thích có thể thực hiện một mình và hưởng thụ một mình ví dụ như sưu tập tem. Họ đồng thời còn có xu hướng chọn những công việc có thể làm đơn độc với máy móc ví dụ như thợ máy hoặc lập trình viên vi tính. Thường thì bệnh nhân mắc rối loạn nhân cách phân liệt cảm nhận rất ít khoái lạc từ những trải nghiệm cơ thể hoặc các giác quan (ví dụ như họ không cảm thấy hứng thú, sung sướng khi quan hệ tình dục, hoặc ăn uống). Đời sống cảm xúc của họ đặc biệt khô cằn. Đời sống tình dục có thể chỉ tồn tại trong tưởng tượng. Đàn ông có thể không bao giờ kết hôn và phụ nữ có thể lấy những kẻ nóng nảy, vũ phu. Họ không thể thấu cảm, không hiểu được cảm xúc của những người xung quanh cũng như không có hứng thú tìm hiểu, tạo mối quan hệ với bất kỳ ai.

Trong hoàn cảnh tốt nhất, người rối loạn nhân cách phân liệt thường nhìn không khác gì những người khác cả, họ không cảm thấy bận tâm bởi những lời chỉ trích, mà cũng chẳng thấy vui khi được khen. "Vô vị", "trống rỗng" là từ tốt nhất để tả về đời sống cảm xúc của người đó. Thông thường, rối loạn nhân cách phân liệt thường không phản ứng gì với những ám hiệu, gợi ý từ xã hội, và thường xuất hiện lạc lõng, hoặc lóng ngóng. Ví dụ, một người như vậy bước vào một căn phòng có một người khác thì anh ta chỉ nhìn chằm chằm người nọ, chẳng có ý định hay động lực bắt chuyện gì cả. Đôi lúc, người rối loạn nhân cách phân liệt thường rất thụ động khi có chuyện không vui xảy ra, và không hề có phản ứng tích cực, hiệu quả gì đối với những sự kiện quan trọng như vậy. Họ thường hay ngẩn ngơ, mơ mộng giữa ngày nhưng vẫn có thể xác định được đâu là thực tế, đâu là ảo tưởng.


Người từ một số nền văn hóa khác nhau thường phản ứng với stress theo cách nhìn có vẻ giống như rối loạn nhân cách phân liệt. Đó là, dù thật sự không mắc bệnh, nhưng một số người dưới áp lực nặng nề thường nhìn thụ động và tê dại. Ví dụ như một người vừa mới dọn ra khỏi khu ổ chuột nghèo khổ cùng cực vào thành phố lớn có thể có những phản ứng theo kiểu phân liệt từ vài tuần cho đến vài tháng. Người như vậy, thường cảm thấy bị ngập trong tiếng ồn, ánh sáng, và đám đông chen chúc, và thường thích được ở một mình, có cảm xúc khô cằn, thường biểu hiện ra một số kỹ năng xã hội bị thiếu hụt. Đồng thời người di cư từ những nước khác đôi lúc nhìn như lạnh lùng, dè dặt và tách biệt với mọi người. Ví dụ, những người di cư từ vùng Đông Nam Á tới Mỹ vào giữa những năm 1970 tới 1980 thường bị nhận xét là nóng nảy, lạnh lùng bởi những người Mỹ sống trong những thành phố lớn. Đây chính là sự khác biệt giữa các nền văn hóa và không nên lý giải nó như rối loạn nhân cách.

Tiêu chuẩn chẩn đoán cho bệnh rối loạn nhân cách phân liệt:

Xu hướng tách ly ra khỏi các mối quan hệ xã hội và phạm vi bộc lộ cảm xúc bị giới hạn trong các mối quan hệ cá nhân, bắt đầu vào đầu thời kỳ đầu tuổi trưởng thành và thể hiện trong nhiều phạm vi, ngữ cảnh khác nhau, và có bốn dấu hiệu sau đây (hoặc hơn):

Không có mong muốn, hoặc thích thú những mối quan hệ thân thiết, bao cả mối quan hệ gia đình.
Gần như lúc nào cũng chọn những hoạt động đơn độc.

Có rất ít, hoặc không hề có hứng thú gì với các hoạt động tình dục với người khác.
Cảm thấy rất ít, hoặc không hề cảm thấy khoái lạc trong bất kỳ hoạt động nào.
Không hề có bạn thân, hoặc bạn tâm tình ngoại trừ cha mẹ, anh chị em ruột thịt, con cái.
Lãnh đạm trước những lời chỉ trích hoặc khen ngợi từ người khác.
Cảm xúc lạnh lùng, tách ly, không hề dao động nhiều.
Những triệu chứng này không phải là hệ quả từ việc dùng thuốc hoặc từ các điều kiện sinh lý y tế để được chẩn đoán là rối loạn nhân cách phân liệt.

Để hiểu rõ thêm về bệnh này, mời các bạn đọc case sau đây:


Roger là một sinh viên tình nguyện giúp đỡ trong phòng thí nghiệm của một trong những giáo sư tâm lý học của anh. Roger rất có trách nhiệm, đi làm đúng giờ và hoàn thành công việc mà anh ta được giao. Tuy nhiên, anh có vẻ tách ly với công việc, chưa bao giờ quá phấn khích hoặc có vẻ thích thú công việc của mình dù anh đã tình nguyện được vài mùa học. Roger thường làm việc tại phòng thí nghiệm vào buổi tối. Có một số dịp, một số sinh viên khác phàn nàn với giáo sư rằng Roger đã "trừng mắt" nhìn họ. Khi buộc phải kể chi tiết, những sinh viên này nói khi họ để mở cửa phòng làm việc mình, đôi lúc họ quay lại và thấy Roger đứng ngay cửa nhìn họ. Một số sinh viên nữ khác thì nói anh ta giống như "ma" vậy và đóng cửa phòng làm việc của mình.

Roger sống với em trai mình, cậu ta cũng học cùng trường với anh. Em trai anh dường như là người giải quyết hết mọi công việc thường ngày giống như là qua lại với chủ nhà, mua sắm vật dụng và trả phí điện nước. Do đó Roger có cuộc sống như được bảo vệ và phần nhiều thời gian anh ta dùng để học, đọc sách và lướt mạng. Anh ta không bao giờ tham gia vào bất kỳ cuộc thảo luận hay hoạt động nào. Giáo sư ban đầu nghĩ anh ta bị thế là do thuốc nhưng sau khi hỏi thì biết được Roger không dùng bất kỳ loại thuốc nào. Sau khi tốt nghiệp với bằng tâm lý học, Roger quay về sống với ba mẹ, anh sửa lại phần trên nóc gara và sống ở đó, không phải trả tiền thuê suốt 15 năm. Cứ vài năm thì anh sẽ viết email cho giáo sư kể về cuộc sống của mình, nhưng khi giáo sư trả lời thì email không gửi đi được do "địa chỉ không tồn tại". Có vẻ như Roger đã dùng cách gì đó để giữ bí mật địa chỉ email của mình.

Rất dễ thấy trong trường hợp Roger rằng anh ta bị mắc rối loạn nhân cách phân liệt với các triệu chứng như: không hề có bất kỳ mối quan hệ thân thiết với người khác, làm việc đơn độc, không hề cảm thấy hứng thú, khoái lạc trong bất kỳ hoạt động nào, không hề có bạn thân và cảm xúc lãnh đạm, tách ly với công việc. Ngoài những triệu chứng này ra thì anh ta hoạt động trong công việc của anh ta có thể nói là bình thường, đi làm đúng giờ và làm đúng việc được giao.

Nguyên nhân gây ra rối loạn nhân cách phân liệt cho đến nay còn chưa rõ và hiểu biết về nguyên nhân gây bệnh rất ít. Tuy nhiên yếu tố di truyền và môi trường đều được cho là có vai trò trọng yếu trong nguyên nhân. Trong một số trường hợp, rối loạn nhân cách phân liệt thường xảy ra trước rối loạn tâm thần phân liệt và tỷ lệ mắc bệnh rối loạn nhân cách phân liệt thường xảy ra cao hơn đối với người có tiền sử gia đình mắc rối loạn tâm thần phân liệt cho thấy bệnh này có thể di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Một số chuyên gia sức khỏe tâm lý cho rằng thời thơ ấu trống trải thiếu vắng sự ấm áp và cảm xúc đóng góp vào phần phát triển bệnh lý.

Như các bệnh rối loạn nhân cách khác, người mắc rối loạn nhân cách phân liệt thường không tự tìm kiếm sự giúp đỡ, họ hài lòng với lối sống của mình và không cảm thấy đó có gì là sai cả. Nhưng khi họ tìm điều trị thì tham vấn tâm lý là phương pháp được dùng nhiều nhất. Chữa trị thường tập trung vào tăng cường những kỹ năng sống, đồng thời cũng cải thiệm những mối quan hệ xã hội, giao tiếp và sự tự tôn (tầng thứ tư của tháp Maslow). Bởi vì sự tin tưởng là một phần quan trọng trong chữa trị nên chữa trị có thể trở nên thách thức với các chuyên gia, bởi vì bệnh nhân rối loạn nhân cách phân liệt thường gặp khó khăn trong việc xây dựng mối quan hệ với người khác.


Thuốc ít được dùng để điều trị rối loạn nhân cách phân liệt. Tuy nhiên nó có thể được kê khai nếu bệnh nhân đồng thời mắc những bệnh tâm lý khác như trầm cảm.

Có một lần có người gửi câu hỏi tư vấn cho bọn mình, INTP có phải là rối loạn nhân cách phân liệt hay không? Câu trả lời là không. INTP là một trong 16 loại tính cách dựa trên MBTI test còn rối loạn nhân cách phân liệt là một dạng rối loạn bệnh lý. Mặc dù người INTP thường e thẹn và tách biệt với môi trường thế nhưng họ vẫn cảm thấy vui vẻ, thích thú với những mối quan hệ thân thiết, trong khi người rối loạn nhân cách phân liệt thì không. Người INTP có thể trải nghiệm đủ loại cung bậc cảm xúc thế nhưng cảm xúc của người rối loạn nhân cách phân liệt rất ít, vô vị và trống rỗng. Người INTP có thể hăng hái say mê với những ý tưởng công việc, còn người rối loạn nhân cách phân liệt thì không hề cảm thấy hứng thú với bất kỳ hoạt động nào.

Người với chứng rối loạn này thường rất ít khi bạo lực vì họ không thích phải giao tiếp, đụng chạm với người khác. Mặc dù hành vi của họ có thể kỳ dị nhưng người rối loạn nhân cách phân liệt thường vẫn có thể hoạt động bình thường trong cuộc sống thường ngày ví dụ như Roger. Tuy nhiên, họ có thể không gầy dựng được bất kỳ mối quan hệ ý nghĩa nào, hoặc có gia đình riêng cho mình.



Cre: Hiroshimi.wordpress.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: C22: 22. Rối Loạn Nhân Cách Ranh Giới


Borderline Personality Disorder - Rối Loạn Nhân Cách Ranh Giới

Rối loạn nhân cách ranh giới (Borderline Personality Disorder – BPD) thuộc cụm B của rối loạn nhân cách. Đặc tính của rối loạn này là nỗi sợ hãi bị bỏ rơi cùng cực, cảm giác về bản thân, các mối quan hệ bấp bênh, tâm trạng không ổn định. Trong một báo cáo trước Quốc hội về dạng rối loạn này, cơ quan Quản trị Dịch vụ Tâm thần và Lạm dụng thuốc (Substance Abuse and Mental Health Services Administration – SAMHSA) đã chỉ ra rằng khoảng 18 triệu người (chiếm 5,6%) người Mỹ sẽ phát bệnh tại một số thời điểm trong cuộc đời của họ. Chưa có tư liệu nào chỉ ra sự ảnh hưởng đáng kể từ sự khác biệt về giới tính. Cả phụ nữ và đàn ông đều có nguy cơ phát bệnh như nhau (SAMHSA, 2010).

Giống như những rối loạn nhân cách khác, do yêu cầu cao về các phương pháp điều trị, chăm sóc và các dịch vụ xã hội, những người mắc BPD họ chịu gánh nặng kinh tế khá lớn (Soeteman, Hakkaart-van Roijen, Verheul, & Busschbach, 2008). Những người mắc chứng rối loạn này cũng có tỉ lệ cao mắc các rối loạn khác như trầm cảm, lạm dụng thuốc, tự làm hại bản thân, rối loạn ăn uống. Khoảng 70% những người mắc BPD muốn tự tử và 4 – 9% thực sự tự tử (NIMH).

Triệu chứng

Theo DSM-5, người được chẩn đoán mắc BPD phải cho thấy sự bền vững của một mô hình hành vi bao gồm ít nhất năm triệu chứng dưới đây:

Cố gắng hết sức để tránh bị bỏ rơi thật sự hay trong tưởng tượng.


Mối quan hệ không bền vững với người thân, bạn bè hay người yêu, đặc trưng bởi việc luân phiên giữa hai thái cực: lý tưởng hóa quá mức và giảm giá trị (VD: từ yêu thương nồng nhiệt có thể chuyển sang không thích và giận dữ).


Nhận dạng bản thân không ổn định và méo mó, dẫn đến sự thay đổi bất thường về cảm xúc, mục tiêu, giá trị và ý kiến.



Có tính xung đột và hành vi nguy hiểm ít nhất trong hai khía cạnh có khả năng gây tổn hại cho người bệnh. Ví dụ: mua sắm không kiềm chế, quan hệ tình dục bừa bãi, lạm dụng chất, ăn uống vô độ.


Lặp đi lặp lại những hành vi tự sát hoặc hành vi tự hủy.


Khí sắc thay đổi thất thường và mãnh liệt. Có thể kéo dài trong vài giờ cho đến vài ngày.


Luôn có cảm giác trống rỗng và chán chường.


Giận dữ vô cớ hoặc khó kiểm soát cơn giận, ví dụ thường xuyên biểu hiện sự cau có, giận dữ hoặc đánh nhau nhiều lần.



Xuất hiện những suy nghĩ hoang tưởng liên quan đến stress, và có các triệu chứng phân ly nặng, ví dụ như không phân rõ được thực tại, trải nghiệm phi nhân cách hóa.
Để chứng thực các triệu chứng phía trên, hãy tìm hiểu qua một ca của người phụ nữ trẻ dưới đây.

Ca điển hình BPD:

Ngọc Minh là một phụ nữ độc thân đã 30 tuổi. Lần đầu tiên, cô được chẩn đoán mắc chứng rối loạn lưỡng cực sau đó là BDP và trước đó cô từng làm việc với một số nhà trị liệu. Qua1 trình điều trị khiến cô cảm thấy không mấy vui vẻ hay thú vị vì thế cô thường bỏ dở chúng. Cô luôn nhìn nhận mình có thể trở thành một giám đốc điều hành đỉnh cao, nhưng kể từ khi tốt nghiệp đại học, cô thực tập tại một số công ty và bỏ việc sau vài tháng hoặc một năm chỉ vì nhàm chán hoặc họ không lên chức cô nhanh. Minh dường như không chắc chắn về mục tiêu của mình. Hôm trước thì cô muốn làm việc trong ngành công nghiệp thời trang, nhưng ngày hôm sau cô muốn theo đuổi sự nghiệp diễn xuất mặc dù cô đã học ngành quản trị kinh doanh.

Các mối quan hệ của cô ấy với mọi người thường không được ổn định. Chẳng có cái nào kéo dài hơn một năm cả. Cô yêu cầu bạn trai của mình dành tất cả thời gian cho côvà sẽ rất tức giận nếu anh ta bỏ cô lại một mình. Có một lần, cô đã chia tay với một trong những người bạn trai chỉ vì anh ta đã phải đi công tác một tuần cho việc kinh doanh và không thể đưa cô ấy đi cùng. Cô cũng bối rối về hình ảnh của bản thân mình. Nếu một anh chàng thu ngân tại một cửa hàng tạp hóa không nhìn thẳng vào mắt cô, thì ngay sau đó cô sẽ buồn và tự nhận mình thật xấu xí. Tuy nhiên, nếu anh ta nhìn cô thì lại nghĩ đó là một sự xúc phạm đến vẻ đẹp.

Trường hợp Ngọc Minh là một ca BPD điển hình. Cô không thể chịu đựng được việc ở một mình hoặc bị tách biệt và lý do này khiến cô chia tay với bạn trai của mình. Những yêu cầu của cô đã đưa cô vào những rắc rối và không thể hình thành một mối quan hệ bền vững trong tình cảm và có thể trong gia đình. Hình ảnh về bản thân và mục tiêu cuộc sống không rõ ràng và kết quả là, cô không có định hướng cụ thể cho cuộc đời mình.

Dường như một sự kiện bình thường cũng có thể kích phát các triệu chứng. Những người mắc phải BPD có thể cảm thấy đau khổ và tức giận khi phải tạm thời chia xa như trường hợp chuyến công tác của người bạn trai Minh, hoặc những chuyến nghỉ mát cỉa người mà họ cảm thấy thân thiết (NIMH). Đối với họ, sự tách biệt hoặc bị bỏ rơi có thể ngụ ý rằng họ "xấu xa"; do đó họ rất nhạy cảm với những điều kiện bên ngoài. Một sự thay đổi nhỏ trong kế hoạch như trễ vài phút hoặc hủy bỏ các cuộc hẹn có thể làm cho họ giận dữ. Những nỗi sợ hãi mãnh liệt từ việc bị bỏ rơi dẫn đến việc họ không thể chấp nhận ở một mình và luôn luôn phải có một ai đó với họ (Grohol, 2015).

Người mắc BDP thường có mối quan hệ cá nhân bất ổn định. Họ có thể ở thái cực lý tưởng hóa người chăm sóc hoặc những người bạn của họ sau vài lần gặp đầu tiên và yêu cầu họ dành nhiều thời gian cho mình hơn. Tuy nhiên, nếu người yêu hoặc người chăm sóc của họ không đáp ứng được những nhu cầu này, họ nhanh chóng chuyển sang thái cực giảm giá trị. Họ có thể cảm thấy người đó không quan tâm mình, không thương yêu mình đầy đủ hoặc không cho những gì mình muốn và tưởng tượng mình ​​sẽ bị từ chối hoặc bị bỏ rơi từ họ. Điều này dẫn tới sự khủng hoảng nghiêm trọng, và thường dẫn đến hành vi tự hủy hoại bản thân như: cắt tay, đập đầu hoặc nổi nóng để điều chỉnh cảm xúc hoặc trải nghiệm đau đớn.


Những người mắc phải BPD cũng trải qua một khoảng thời gian dài cảm thấy nhàm chán hoặc trống vắng khiến cho họ không ngừng tìm kiếm một cái gì đó để có thể lấp đầy các khoảng trống ấy. Họ cũng đang gặp khó khăn trong việc kiểm soát sự tức giận khi những người thân có những hành vi mà họ xem như bỏ bê, không quan tâm hoặc từ bỏ họ, và sau đó họ cảm thấy xấu hổ và tội lỗi với việc làm của mình và xem điều đó thật "xấu xa". Kết quả là họ có thể có hành vi tự tử hoặc tự làm hại bản thân để trừng phạt chính mình (Grohol, 2015).

Do sự chồng chéo của các triệu chứng, BPD là một trong những dạng rối loạn dễ bị chẩn đoán nhầm sang rối loạn lưỡng cực, trầm cảm hoặc rối loạn căng thẳng sau chấn thương tâm lý (Ruggero, Zimmerman, Chelminski, & Young, 2010). Sự xuất hiện đồng thời của nhiều dạng rối loạn đặt ra một thách thức trong việc chẩn đoán BPD, từ đó kết quả của việc điều trị có thể bị ảnh hưởng.

Nguyên nhân

Nguyên nhân phát sinh của chứng rối loạn nhân cách ranh giới được các nhà khoa học đồng thuận là sự kết hợp của yếu tố di truyền, yếu tố sinh học và các yếu tố tâm lý bao gồm: các chấn thương tâm lý xảy ra khi bị lạm dụng tình dục, bạo hành về tinh thần, thể xác, gia đình không hạnh phúc, hay không nhận được sự quan tâm chăm sóc trong thời thơ ấu.

Yếu tố sinh học: Nghiên cứu các cặp sinh đôi cho thấy gien đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của BPD. Tỷ lệ di truyền chiếm khoảng 40. Các đặc điểm đặc biệt như gây hấn và bốc đồng thì đều có thể dây truyền được. Các gien có chức năng điều tiết cảm xúc và sự bốc đồng có thể góp phần vào nguy cơ gây BPD (NIMH). Những người có thân nhân đời đầu (cha mẹ, anh chị em ruột) mắc BPD thì sẽ có nguy cơ mắc bệnh nhiều hơn so với những người khác (Gunderson, Zanarini, Choi-Kahn, và al, 2011).

Sự bất thường của các chất dẫn truyền thần kinh như serotonin, norepinephrine, dopamine hay các loại khác có thể đóng vai trò trong việc hình thành sự bốc đồng và các triệu chứng khác của BPD. Sự trao đổi chất bất thường hay sự thay đổi trong cấu trúc não cũng có sự liên quan với BPD (Kreisman & Straus, 2010).

Hạch hạnh nhân và hệ viền của não là trung tâm quy định cảm xúc, đặc biệt là sự sợ hãi, giận dữ hay sự bộc phát một cách tự động của những cơn bốc đồng. Hạch hạnh nhân và hệ viền đều liên quan đến sự phát triển của BPD. Những trải nghiệm đau thương có thể dẫn đến thay đổi cấu trúc thần kinh và các nghiên cứu đã chỉ ra vùng hồi hải mã và hạch hạnh nhân ở những người mắc BDP nhỏ hơn những người khác. PET scan – chụp cắt lớp phát xạ, cho thấy sự suy giảm quá trình chuyển hóa glucozơ trong vỏ não trước trán, một phần của não chịu trách nhiệm cho việc hình thành lý luận, suy nghĩ và quyết định, có thể dẫn đến việc lý trí ở "vỏ não trước trán" không thể kiểm soát "sự bốc đồng" ở hệ viền, và rối loạn này phát triển như một hệ quả (Lis, Greenfield, Henry, Guile, & Dougherty, 2007).

Yếu tố tâm lý: Theo phân tâm học, những người mắc BPD phụ thuộc nhiều vào sự cân bằng của các cơ chế tự vệ phân tách. Sự phân tách trong suy nghĩ, đặc trưng bởi sự phân cực trong niềm tin, hành động, đối tượng hoặc con người, một là tốt hai là xấu, trắng hoặc đen, không có sự tồn tại của màu xám, (Zanarini, Weingeroff, & Frankenburg, 2009). Sử dụng của cơ chế này trong một thời gian dài sẽ dẫn đến hình ảnh bị bóp méo và bệnh tâm thần ranh giới như sự phủ nhận, quyền tuyệt đối hoặc giảm giá trị. Sự phủ nhận có nghĩa là bệnh nhân biết được nhận thức, suy nghĩ và cảm giác về bản thân hoặc người khác một cách hoàn toàn, trái ngược với nhận thức, suy nghĩ và cảm giác mà mình có lúc trước, nhưng nó không liên quan hoặc ảnh hưởng đến cách nhìn nhận hiện tại (Stone, 1986).

Yếu tố xã hội: Sang chấn kéo dài như mất cha mẹ, bị từ chối, bạo hành hay lạm dụng tình dục trong độ tuổi mới phát triển có thể làm tăng nguy cơ bị BPD ở thanh niên (Kreisman & Straus, 2010). Điều này dẫn đến một loạt các hành vi cố gắng tự điều chỉnh cảm xúc và trấn an bản thân như tự gây tổn thương cho bản thân, phụ thuộc, lạm dụng thuốc, hay kết hợp của những loại trên (van der Kolk, Hostetler, Herron, & Fisler, 1994). Tuy nhiên, không phải tất cả trẻ em có tuổi thơ đau buồn sẽ có BPD hay những người có BPD chắc chắn sẽ có sang chấn thời thơ ấu (Kreisman & Straus, 2010).

Điều trị và can thiệp


Cũng giống như các rối loạn nhân cách khác, rối loạn nhân cách ranh giới trước kia cũng từng được coi là không thể chữa khỏi. Những người có BPD thường tìm kiếm sư giúp đỡ chuyên nghiệp nhưng họ thường có xu hướng bỏ dở quá trình trị liệu. Tỷ lệ từ bỏ trị liệu giữa chừng lên đến 70%. Tuy nhiên, những nghiên cứu về rối loạn nhân cách phát triển, việc áp dụng các liệu pháp tâm lý cùng với việc sử dụng thuốc có thể giúp đỡ bệnh nhân làm chủ được các triệu chứng của họ và họ có thể có một cuộc sống bình thường với nhiều niềm vui và ít gây tổn hại nhiều nhất có thể.

Liệu pháp hành vi biện chứng (DBT) là một trong những liệu pháp tâm lý điều trị BPD hiệu quả nhất. DBT tập trung xây dựng những kĩ năng như quản lý stress, tương tác cá nhân một cách hiệu quả, và quản lý cảm xúc. Bệnh nhân mắc BPD cần phải chấp nhận cảm xúc của mình và họ luôn được khuyến khích tự tìm cách đối phó với những cảm xúc, cảm giác rối ren và stress một cách lành mạnh. Ví dụ, bác sĩ chuyên khoa có thể dạy cho họ về chánh niệm, điều đó giúp họ nhận biết và quan sát cảm xúc của mình mà không cần đến sự can thiệp và những hành vi giải thoát tạm thời như tự hoại.

Các nghiên cứu đã chứng minh tính hiệu quả của DBT. Trong một nghiên cứu, một nhóm phụ nữ được áp dụng liệu pháp DBT và một nhóm phụ nữ khác với các phương pháp điều trị chung. Sau 7 tháng điều trị, những người với liệu pháp DBT cho thấy sự thuyên giảm trong các hành vi tự hại, tự tử và tỉ lệ muốn tiếp tục điều trị xấp xỉ 2 lần so với những phương pháp khác (Dingfelder, 2004)

Nếu như DBT nghiêng về điều chỉnh cảm xúc thì CBT tập trung vào việc thay đổi niềm tin cốt lõi về bản thân, người khác và thế giới. Liệu pháp này giúp làm thuyên giảm hành vi tự tử, niềm tin phi lý, trạng thái lo âu, căng thẳng tâm thần. Khi áp dụng liệu pháp CBT trong thời gian dài, có thể thấy người bệnh có sự cải thiện nhưng không nhiều lắm. (Davidson, Norrie, Tyrer, & al, 2006)

STEPPS (A System Training for Emotional Predictability and Problem Solving – Rèn luyện phỏng đoán cảm xúc và giải quyết vấn đề có hệ thống) là một loại của trị liệu nhóm. Đã có báo cáo rằng khi được áp dụng cùng lúc với các hình thức điều trị khác như thuốc hoặc liệu pháp tâm lý, STEPPS giúp làm giảm mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng BPD, làm giảm các triệu chứng của trầm cảm, và cải thiện chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, hiệu quả của liệu pháp này chưa được nghiên cứu rộng rãi.

Cho đến nay, không có bất kỳ loại thuốc nào được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) ở Mỹ chấp thuận để điều trị BPD. Mặc dù vậy, ngoài các liệu pháp tâm lý, trong một số trưởng hợp các bác sĩ tâm thần cũng sử dụng thuốc để điều trị bệnh nhân BPD. Mặc dù thuốc không thể chữa lành BPD, nhưng nó giúp kiểm soát một số triệu chứng cụ thể, chẳng hạn như lo âu, trầm cảm hoặc giận dữ (NIMH). Ví dụ, các thuốc SSRI có thể được sử dụng để cải thiện các triệu chứng bốc đồng và hung hăng (Korkeila, Koivisto, Karlsson, và al, 2015). Tuy nhiên, không nên dùng thuốc an thần benzodiazepines vì nó có thể dẫn đến nhiều rối loạn cảm xúc và sự ức chế hơn nữa (Levounis, Zerbo, & Aggarwal, 2016).

Axit béo Omega 3, có thể được sử dụng nhằm giảm các triệu chứng giận dữ và trầm cảm. Một nghiên cứu cho thấy rằng những phụ nữ sử dụng axit béo omega 3 khó có khả năng từ bỏ giữa chừng trong lúc điều trị so với các cách điều trị nhóm khác. Nếu so sánh axit béo Omega 3 với các chất giúp ổn định tâm trạng khác thì omega 3 có ít tác dụng phụ hơn và được hấp thụ tốt hơn (NIMH).



Cre: Hiroshimi.wordpress.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: C23: 23. Nhận Thức, Ám Thị, Thôi Miên


Cognition - Nhận Thức, Suggestion - Ám Thị và Hypnotizing - Thôi Miên


Bài này mình đã từng viết hồi cách đây 2 năm. Nhưng giờ mình viết lại vì có những thông tin hồi xưa mình viết chưa đủ và chưa được chính xác lắm. Có những đoạn là mình cop từ bài cũ, có những đoạn mình viết mới hẳn luôn. Dành cho ai muốn tìm hiểu sâu thêm.

Trước khi nói về ám thị thì hãy để tôi nói về cơ chế của nhận thức và suy nghĩ. Đây là một khái niệm rất thông thường nhưng đồng thời cũng rất quan trọng. Với cách phân tích này thì ám thị và thôi miên đều dựa trên nền tảng khái niệm đó.

Như mọi người đều biết, con người có năm giác quan, Thính giác (nghe), Thị giác (nhìn), Xúc giác ( cảm giác qua da thông qua tiếp xúc, đụng chạm), Vị giác ( mùi vị), Khứu giác (mùi hương). Khi kích thích các giác quan trên sẽ tạo ra tín hiệu truyền đến bộ não, từ đó quyết định ra phản ứng, suy nghĩ, hành động. Trong tâm lý học có một khái niệm gọi là Absolute Threshold , tôi xin tạm dịch là Ngưỡng tuyệt đối . Không phải bất kỳ kích thích nào cũng có thể tạo ra tín hiệu truyền đến bộ não, kích thích phải đạt được một mức độ nhất định để bộ não có thể nhận ra tín hiệu và phân tích. Nói một cách dễ hiểu thì Ngưỡng tuyệt đối là giới hạn thấp nhất mà kích thích phải đạt được để não bộ có thể nhận ra, phân tích và quyết định. Mỗi người có một Ngưỡng tuyệt đối khác nhau và phải thông qua thí nghiệm mới xác định được Ngưỡng tuyệt đối của từng người. Quá trình phân tích và xếp loại thông tin chính là "suy nghĩ". Thông tin qua các giác quan được truyền đến não bộ, được não bộ "nhận thức" sau đó tiến hành quy trình sàng lọc.

Bài này mình đã từng viết hồi cách đây 2 năm. Nhưng giờ mình viết lại vì có những thông tin hồi xưa mình viết chưa đủ và chưa được chính xác lắm. Có những đoạn là mình cop từ bài cũ, có những đoạn mình viết mới hẳn luôn. Dành cho ai muốn tìm hiểu sâu thêm.


Trước khi nói về ám thị thì hãy để tôi nói về cơ chế của nhận thức và suy nghĩ. Đây là một khái niệm rất thông thường nhưng đồng thời cũng rất quan trọng. Với cách phân tích này thì ám thị và thôi miên đều dựa trên nền tảng khái niệm đó.

Như mọi người đều biết, con người có năm giác quan, Thính giác (nghe), Thị giác (nhìn), Xúc giác ( cảm giác qua da thông qua tiếp xúc, đụng chạm), Vị giác ( mùi vị), Khứu giác (mùi hương). Khi kích thích các giác quan trên sẽ tạo ra tín hiệu truyền đến bộ não, từ đó quyết định ra phản ứng, suy nghĩ, hành động. Trong tâm lý học có một khái niệm gọi là Absolute Threshold , tôi xin tạm dịch là Ngưỡng tuyệt đối . Không phải bất kỳ kích thích nào cũng có thể tạo ra tín hiệu truyền đến bộ não, kích thích phải đạt được một mức độ nhất định để bộ não có thể nhận ra tín hiệu và phân tích. Nói một cách dễ hiểu thì Ngưỡng tuyệt đối là giới hạn thấp nhất mà kích thích phải đạt được để não bộ có thể nhận ra, phân tích và quyết định. Mỗi người có một Ngưỡng tuyệt đối khác nhau và phải thông qua thí nghiệm mới xác định được Ngưỡng tuyệt đối của từng người. Quá trình phân tích và xếp loại thông tin chính là "suy nghĩ". Thông tin qua các giác quan được truyền đến não bộ, được não bộ "nhận thức" sau đó tiến hành quy trình sàng lọc.


Nhận thức và tiềm thức giống như tảng băng trôi với phần chúng ta thấy đuợc chính là nhận thức – Quá trình suy nghĩ, sàng lọc thông tin. Nhưng phần tiềm thức giống như là một "bãi rác" với đủ loại thông tin chúng ta tiếp nhận hằng ngày qua các giác quan.
Có thể so sánh quá trình suy nghĩ nhận thức của con nguời như tảng băng trôi ở hình bên trên. Tất cả những kích thích vượt qua khỏi mặt nước và, được "nhận thức" tiếp nhận đưa vào quá trình suy nghĩ và phân loại thông tin. Còn lại những kích thích không vuợt qua khỏi nguỡng tuyệt đối, tức ở dưới mực nước, không hề biến đi mà vẫn tồn tại trong tiềm thức. Có thể nói tiềm thức là không giới hạn, nhưng nó có vai trò quan trọng, ảnh hưởng lên hành vi và suy nghĩ.


Ám thị, theo tôi, chính là tạo ra những kích thích dưới Ngưỡng tuyệt đối, đưa thông tin vào não bộ để lưu trữ nhưng do kích thích chưa chạm đế Ngưỡng tuyệt đối nên não bộ không kịp phân tích, liệt kê và so sánh. Thế nên ám thị nguy hiểm ở chỗ là não bộ không thể phân loại thông tin xấu, tốt mà cứ lưu trữ nó, liên tục, ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, tín hiệu chồng lên tín hiệu, tạo ra hiệu quả khó lý giải.

Ám thị và nhận thức liên quan tới ý tuởng điều khiển trí óc. Điều này có nghĩa là một cá nhân hay một nhóm nguời nào đó có thể bị điều khiển mà họ không hề hay biết. Thông điệp được tiếp nhận dưới nguỡng tuyệt đối.

Ám thị xảy ra khi thông điệp, hoặc ý nghĩ ở dưới ngưỡng tuyệt đối, ngưỡng kích thích của nhận thức, ảnh hưởng đến suy nghĩ, cảm xúc và hành động. Một tin nhắn, một ý tưởng hay sự kích thích nào khác đều nằm dưới ngưỡng tuyệt đối và trong tiềm thức khi nó chỉ ở mức độ cảm giác mà không có quá trình nhận thức. Khi những kích thích từ môi trường (từ ngữ, ký hiệu, âm thanh) được cảm nhận và ghi dấu, thì phần "đại diện" của não bộ sẽ bắt đầu hoạt động, khiến cho những thứ có liên quan đến nó như hệ thống, mục tiêu, hành vi có xu hướng tăng dần, thâm nhập dễ dàng vào trí nhớ. Như hệ quả, những thông điệp dưới ngưỡng tuyệt đối có thể "ám thị" những hành vi được khởi động trong tâm trí bởi vì nó làm nâng cao khả năng ảnh hưởng và làm tăng tỷ lệ hành động.

Có hai cách cơ bản để ám thị đó là thông qua từ ngữ và âm thanh. Bằng việc trộn lẫn một chút ít thông tin thuyết phục trí não, con người bị điều khiển bởi chính ngôn ngữ họ dùng. Một ví dụ ám thị thông qua âm thanh ngược về những năm 1920s khi đài BBC bắt đầu phát sóng radio lần đầu tiên. Người dân thời đó cho rằng radio là điềm xấu và coi đó là giọng nói của quỷ. Đài BBC dĩ nhiên muốn thay đổi suy nghĩ này. Cho nên họ để lẫn một cụm từ nói ngược ẩn dưới một đoạn tuyên truyền ngắn. Khi phát sóng, đoạn tuyên truyền này nghe rất rõ và có vẻ chẳng có gì khác biệt cả. Nhưng khi được quay nguợc lại, nó mang một thông điệp đúng nghĩa "Đây không phải là thòng lọng của quỷ dữ, không, nó không phải." Đài BBC tin rằng tiềm thức tiếp nhận thông tin này theo cách nói thuận thông thường. Và hiển nhiên BBC vẫn còn tồn tại đến ngày nay, vậy ắt hẳn đoạn tuyên truyền đó đã làm tốt nhiệm vụ của mình chứ?

Những kích thích dưới dạng âm thanh và hình ảnh có thể được tiếp thu ở tiềm thức dưới các loại điều kiện khác nhau. Hình ảnh được ẩn dưới những thiết kế phức phạp, lời nói bị che phủ bỡi âm thanh ồn ào có thể sẽ không dễ dàng nhận ra được, nhưng những bài test về những thông điệp hay tín hiệu này cho thấy nó được ghi vào tiềm thức. Những nghiên cứu về mức độ ảnh hưởng của ám thị lên những hành vi chính thường thực hiện bằng cách lướt nhanh qua từ ngữ hoặc hình ảnh trên màn hình vi tinh trong 100 đến 300 phần nghìn giây- quá nhanh để có thể đạt được đến tầm nhận thức.


Trong những năm 1970s, nhà tâm lý học của trường đại học Cambridge, Anthony Marcel đã đi truớc và thực hiện thí nghiệm về ám thị và điều khiển. Trong lúc thực hiện thí nghiệm, ông cho lướt qua, rất nhanh một số từ ngữ chỉ màu sắc như màu đỏ, xanh da trời dưới nguỡng tuyệt đối. Bằng cách này, ông đạt được sự vô hình hoàn toàn: mỗi người tham gia thí nghiệm đều nói rằng họ thật sự không thấy từ nào. Ngay cả khi được nói là có từ ẩn, họ vẫn không nhận ra. Khi được hỏi, những người ấy vẫn không thể trả lời được rằng đó là từ tiếng anh, hay là từ ngữ vô nghĩa nào đó. Tuy nhiên, Marcel vẫn có thể chứng minh được rằng não bộ của những người tham gia thí nghiệm đã tiếp thu toàn bộ thông tin. Sau khi nháy những từ ngữ về màu sắc ấy, ông yêu cầu những người tham gia thí nghiệm chọn mảnh vải có màu sắc tương ứng. Với những người đã được nháy từ về màu sắc, chọn màu 1/20 giây nhanh hơn những người bị nháy những từ không liên quan (ví dụ dưa hấu, bàn...). Vì thế, từ ngữ màu sắc mà họ không thấy, có thể khiến cho họ có xu hướng chọn màu tương đồng. Điều này dường như là minh chứng cho thấy tiềm thức có thể tiếp thu hết thông tin ẩn giấu.

Vào năm 1922, Đại tuớng George Squier sáng chế ra Muzak, nhạc được truyề từ đĩa than đến nơi làm việc thông qua dây điện. Muzak được viết chương trình rất cẩn thận, và được chứng minh rằng nó có tác dụng thúc đẩy khả năng làm việc, luợng hàng bán ra cao, và ngăn ngừa trộm cắp. Hơn hai mươi năm về trước, nhiều cửa hàng văn phòng ở US và Canada đã lắp đặt một thứ gọi là "hộp đen nhỏ" , đó là âm nhạc pha lẫn một số thông điệp chống trộm. Những thông điệp "Tôi là người trung thực, tôi sẽ không trộm cắp"được lặp đi lặp lại 9000 lần trong 1 giờ với âm lượng khó có thể nghe ra đã giúp cho tỷ lệ trộm cắp ở một cửa hàng giảm đến 37% trong vòng 9 tháng thử nghiệm.

Vào năm 1973, cuốn sách "Sự quyến rũ của tiềm thức" của Wilson Bryan Key khiến cả cộng đồng bắt đầu quan tâm về việc ám thị được dùng rộng rãi trong các quảng cáo ở U.S. Kết quả là, ban phát ngôn của Liên bang khẳng định rằng việc dùng những thông điệp ẩn trong quảng cáo là hình thức của việc chủ động lừa dối, đi ngược lại với mong muốn của đồng. Vì thế, những nhà quảng cáo đều tán thành việc sử dụng ám thị trong quảng cáo là không hợp với quy cách và có thể có những hệ quả đáng lo ngại lên xã hội nếu không được phát hiện.

Ngoại trừ những thứ này, các nghiên cứu còn chỉ ra, mức độ gợi ý của ám thị chỉ giới hạn vào từ ngữ, hình ảnh hoặc âm thanh cực kỳ quen thuộc , đơn giản và trừu tượng.

Ý nghĩa của thông điệp nhận được không thể hoạt động ở mức tiềm thức trừ khi có "đại diện" trong não bộ hoạt động sẵn. Vì thế, những từ ngữ, hình ảnh, hay khái niệm khó có thể ảnh hưởng lên suy nghĩ và hành vi khi nó vẫn còn ở mức tiềm thức. Ví dụ như một nhãn hiệu lạ hoắc nào đó sẽ khó có thể "ám thị" bạn mua hàng nếu như bạn không biết gì về nó. Nghĩa là hình ảnh/ khái niệm/ thông điệp phải tồn tại sẵn, thì ám thị mới có thể làm tăng khả năng bạn làm ra các hành vi liên quan tới nó. Nếu không thì nó sẽ mãi nằm ở tầng tiềm thức và không được nhận biết.


Ám thị và thôi miên đều dựa trên cách nắm bắt Ngưỡng giới hạn và đưa ra những kích thích dưới mức đó. Thôi miên là khiến cho bạn hạ rào chắn tâm lý xuống, bỏ đi phòng bị, để cho những mệnh lệnh của người thôi miên đi thẳng vào trong não bộ và làm theo chúng. Đây chính là ám thị bằng thôi miên, mà theo tôi cũng là kiểu ám thị trực tiếp, mệnh lệnh được đưa ra rõ ràng, thời gian cần để hoàn thành ám thị trực tiếp nhanh hơn ám thị gián tiếp nhưng với điều kiện người bị ám thị phải hoàn toàn tuyệt đối tin tưởng người ám thị.

Tuy nhiên, ám thị chỉ có thể ảnh hưởng người ta làm ra những hành động có liên quan. Ví dụ như thông điệp tiềm thức của hãng Coca có thể đưa suy nghĩ "uống" hoặc "khát" lên nhận thức của não bộ, nhưng loại thức uống mà bạn mua không nhất thiết phải là Coca. Vì thế nên ám thị mang tính "gợi ý" nhưng không bao giờ bắt buộc.

Một nhà tâm lý học nổi tiếng người Anh, Derren Brown, đã thực hiện một thực nghiệm cho thấy mối liên quan giữa Ngưỡng tuyệt đối và ám thị, cách mà anh đưa thông điệp vào não bộ người khác, vô hình điều khiển, khiến cho người ta làm theo và cho ra kết quả giống như ý muốn của anh. Derren mời hai người làm trong ngành quảng cáo đến từ Mỹ để thiết kế tấm poster quảng cáo cho bất kỳ cửa hàng, công ty nào mà họ thích. Tấm áp phích phải có bảng hiệu, tiêu đề tượng trưng cho sản phẩm hay slogan, nhãn hiệu. Khi hai người hỏi Derren sản phẩm mà họ phải dựa trên để làm poster là gì thì Derren chỉ một loạt tượng gấu, đầu hươu, con mèo chết được nhồi bông... Derren đã có bản thiết kế riêng của mình. Và anh đoan chắc là ý tưởng của hai nguoi nọ sẽ giống mình. Thật vậy, khi hai nhà quảng cáo so sánh bản vẽ của mình với Derren, họ ngỡ ngàng thì thấy bản vẽ trùng ý tưởng đến 90%. Cả hai cùng làm tấm poster cho một nơi lo chuyên lo hậu sự cho thú cưng của bạn khi chúng mất. Cả hai bản vẽ đều có hình ảnh con gấu đang ôm đàn hạc, đôi cánh thiên thần, cánh cổng với bảng hiệu Zoo và dòng chữ Heaven (best place for dead animal). Chỉ khác ở chỗ vị trí của các hình ảnh. Họ không hiểu vì sao Derren có thể đọc được suy nghĩ của họ mà làm ra một bản vẽ y chang đến thế. Thưc sự thì Derren dùng khái niệm Ngưỡng tuyệt đối để lồng thông điệp vào trong não bộ họ. Khi đón hai người từ sân bay, anh cố ý lái xe đi vòng vòng quanh phố, này thì một đoàn người mặc áo xanh in hình cánh cổng với chứ Zoo làm bảng hiệu, này thì cửa hàng trưng bày một cây đàn hạc ngay bên cửa kiếng, này thì hình ảnh đôi cánh với dòng chữ heaven bên dưới, này hình nguyên một bức tượng gấu ở trong văn phòng. Derren cố ý để những bức hình đó ở nơi dễ thấy nhất nhưng không quá nổi bật, chỉ đủ để họ có hình ảnh đó trong khu dữ liệu và tạo ra kết quả như anh mong muốn.

Nhà thần kinh học James Fallon có nói trong cuốn tự truyện của ông, "Kẻ thái nhân cách bên trong", "Trong khi chúng ta nghĩ rằng mình lên kế hoạch cho mọi hành động của mình và rồi tự làm nó, trong một số trường hợp, phần nào đó của thùy trước não đã quyết định trước chuyện muốn làm, trong tiềm thức, rồi khi chúng ta hành động, chúng ta tự lừa dối bản thân bằng việc nghĩ rằng mình quyết định nó. Nói cách khác, chúng ta tự lừa chính mình rằng chúng ta nắm quyền điều khiển mọi hành động của bản thân. Đây là lý do vì sao sự cần thiết về mặt an ủi, logic, tự nói chuyện có thể đánh lừa sự tồn tại của nhận thức. Cơ thể và bộ não chúng ta hoạt động hài hòa và quyết định cần phải làm gì, và sau đó, chúng ta có thể tự kể một câu chuyện thuyết phục bản thân rằng chúng ta muốn làm điều đó.



Cre: Hiroshimi.wordpress.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: C24: 24. Tội Phạm Có Tổ Chức Và Tội Phạm Không Có Tổ Chức


Xác định được bản chất của tội phạm là một cách tốt để lập hồ sơ. Với nhiều năm nghiên cứu, FBI đã phát triển một phương thức để phân loại tội phạm thành hai dạng: có tổ chức và không tổ chức. Những phân loại này giúp vạch rõ ra những thể loại, tính cách của tội phạm, những thứ rất cần thiết trong việc thiết lập hồ sơ tội phạm.


Việc phân loại tội ác và tội phạm giữa có tổ chức và không tổ chức lần đầu tiên được giới thiệu dưới dạng là một phân loại cho "ham muốn sát hại" bởi đặc vụ FBI Hazelwood và Douglass vào năm 1980. Tuy nhiên, sau đó nó còn bao rộng cả những yếu tố khác ví dụ như "chọn lựa nạn nhân, phương thức khống chế nạn nhân, và hệ quả của tội ác." Bây giờ, nó còn dùng trong nhiều loại tội ác khác như phóng hoả và cuỡng bức.



Trong nghiên cứu của FBI về một số tội phạm có tổ chức và không có tổ chức, có bốn điểm khác biệt đáng chú ý nhất được liệt kê ra. Đó l:

Hành vi của kẻ sát nhân trong khi lúc thực hiện tội ác.
Đặc điểm của nạn nhân,
Loại phương tiện giao thông được sử dụng trong vụ án.
Loại bằng chứng có ở hiện trường vụ án. Bảng dưới đây liệt ra những đặc thù có thể có của tội ác có tổ chức và không tổ chức.


Bảng 1: Những điểm khác biệt ở hiện trường vụ án giữa có tổ chức và không tổ chức (Lấy từ Thông báo tới các cơ quan pháp lý FBI, năm 1985)



Có tổ chức


Không tổ chức



Vụ án được lên kế hoạch từ trước    Tội ác bộc phát
Tội phạm lừa bịp, dụ dỗ một người lạ mặt mà hắn đã nhắm là mục tiêu    Thường thì nạn nhân chỉ ngẫu nhiên có mặt ở tại địa điểm khi vụ án xảy ra
Thấu hiểu nạn nhân, cảm nhận được cảm xúc của nạn nhân    Dùng bạo lực quá mức để không nghĩ nhiều về nạn nhân


Tạo nên một cuộc đối thoại có khống chế với nạn nhân trước khi hành động    Không đối thoại hoặc đối thoại rất ít với nạn nhân
Hiện trường vụ án phán ánh sự khống chế toàn cuộc của hung thủ    Hiện trường vụ án khá lộn xộn và ngẫu nhiên
Đòi hỏi sự phục tùng từ nạn nhân    Đột ngột bạo lực với nạn nhân
Đồ vật dùng để kiềm chế nạn nhân được sử dụng (ví dụ dây trói, băng gạc...etc)    Sử dụng ít đồ vật để khống chế nạn nhân
Có một số hành động hung bạo trước khi giết nạn nhân    Hành vi tình dục có thể diễn ra sau khi nạn nhân chết
Thi thể nạn nhân bị giấu đi    Thi thể dễ bị phát hiện
Không bỏ sót hung khí / vật chứng ở hiện trường    Bằng chứng / vũ khí bị bỏ lại ở hiện trường
Vận chuyển hoặc phi tang thi thể nạn nhân ở nơi khác    Thi thể bị bỏ ở hiện trường vụ án




Tội ác có tổ chứ thường có nhiều phương pháp học hơn: Tính ám ảnh, hành vi cuỡng chế thường thấy theo nhiều kiểu khác nhau tại hiện trường vụ án; bằng chứng được dọn dẹp để gây cản trở các nhà điều tra; và thi thể thường được quăng ở nơi khác. Ngược lại, với tội ác không tổ chức thì hiện trường vụ án thường xáo trộn, tội phạm tránh thấu cảm với nạn nhân bằng cách sử dụng quá nhiều vũ lực không cần thiết và tội ác xảy ra khá ngẫu nhiên và không hề có kế hoạch nào để che dấu danh tính tội phạm.



Sau khi phân loại tội ác thành có tổ chức và không tổ chức, thì việc thiết lập hồ sơ chi tiết về tội phạm sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Dữ liệu nghiên cứu từ FBI

cũng cung cấp thông tin về những đặc điểm có thể có về các loại hành vi sau khi thực hiện tội ác của tội phạm có tổ chức và không tổ chức.



Tội phạm có tổ chức:



Đặc điểm cá nhân:

Tội phạm có tổ chức thường có IQ cao (từ 105-125). Có thể thấy được từ hiện trường vụ án, một tội phạm có tổ chức thường có lối sống khá lành mạnh, và ăn mặc theo thời. Hắn đồng thời cũng có hình ảnh tích cực tốt đẹp và tốt trong các mối quan hệ xã hội.



Khi còn nhỏ, hắn trải qua lối giáo dục khe khắt từ cha mẹ, và hắn thường là con đầu hay con thứ hai trong gia đình và có một hình ảnh khá nam tính.




Hành vi sau khi thực hiện tội ác:

Sau khi thực hiện tội ác, tội phạm có tổ chức thường theo dõi diễn biến vụ án thông qua các phương tiện truyền thông. Hắn có thể rời khỏi địa phương, đến một nơi rất xa để tránh bị bắt giữ. Tội phạm có tổ chức thường khó bị bắt hơn.



Phương pháp thẩm vấn:

Tội phạm có tổ chức rất thông minh nên họ có thể đoán được những câu hỏi của nhà điều tra và chuẩn bị những câu trả lời sao cho thích hợp với tình huống của họ từ trước. Thẩm vấn một đối một tốt hơn và cũng tốt hơn nếu nhà điều tra hỏi thẳng và trực tiếp khi thẩm vấn.



Tội phạm không tổ chức:



Đặc điểm cá nhân:

Hầu hết tội phạm không tổ chức là nam giới. Bản chất của hiện trường vụ án phản ánh các hoạt động thường ngày của hắn và môi trường xung quanh hắn, bao gồm nghề nghiệp (nếu hắn có đi làm), nhà cửa, tài sản, quần áo, cách ăn ở cũng thường không tổ chức. Nói một cách ngắn gọn hơn, hắn ta là kẻ không có tổ chức trong mọi mặt, từ hình dáng bên ngoài, cho đến lối sống cũng như trạng thái tâm lý.



Một tội phạm không tổ chức điển hình thường có IQ duới mức trung bình (từ 80-95). Họ cũng thường là người hướng nội và không vận động nhiều. Thời thơ ấu, nhiều tội phạm loại này bị bạo hành thể xác lẫn tinh thần. Cha của họ (nếu có mặt) thường thất nghiệp hay có công việc không ổn định. Bạn bè và hàng xóm thường nhận xét về họ như là "kỳ quái", hình ảnh về người đàn ông cô độc, không phải bởi vì anh ta thật sự muốn ở một mình mà bởi vì sự cách ly của xã hội. Anh ta có trí thông minh hạn chế và thường có những công việc không đòi hỏi kỹ năng cao.




Tội phạm dạng này thường không có khả năng lên kế hoạch phạm tội. Thường thì hành vi tội ác của hắn thường xảy ra trong lúc nóng giận không kiềm chế được cảm xúc hay đại loại như thế. Hắn không có thời gian hay chuẩn bị sẵn kế hoạch nào để phạm tội.



Hành vi sau khi phạm tội:

Sau khi phạm tội, tội phạm không tổ chức thường đổi địa chỉ hoặc công việc, nhưng hắn không thể dời đi quá xa bởi vì hắn chỉ cảm thấy thoải mái với những nơi mà hắn quen thuộc.



Phương pháp thẩm vấn:

Tốt nhất nên dùng cách tiếp cận thông qua khơi gợi quan hệ đối với tội phạm loại này. Đây là bước khởi điểm rất tốt cho nhà điều tra thấu cảm với tội phạm và xây dựng một mối quan hệ cá nhân tích cực để lấy được lời khai vụ án. tội phạm không tổ chức thường có xu hướng là người về đêm nên buổi thẩm vấn tốt nhất nên diễn ra vào lúc tối.



Tuy nhiên, vào năm 2012, Petherick và Turvey cũng chỉ ra những bất lợi trong việc áp dụng phương pháp này. Họ quan tâm về việc phân loại hung thủ chỉ dựa trên hình ảnh từ hiện trường vụ án. Điều này có thể khiến việc điều tra đi lạc hướng. Họ cũng chỉ ra hiện trường vụ án có thể bị sắp xếp như thể đây là vụ án không tổ chức, đặc biệt là khi tội phạm bị cản trở hoặc nóng giận.



Cre: Hiroshimi.wordpress.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: C25: 25. Điều Tra Hiện Trường (1)


Công việc điều tra hiện trường - Kỳ 1: Từ phim ảnh đến đời thực

Với những fan hâm mộ series Crime Scene Investigation, hẳn các bạn đã quen thuộc với cảnh những nhà điều tra tìm kiếm, thu thập bằng chứng tại hiện trường tội ác, làm những vết máu bất chợt xuất hiện, vạch mồm từng cái xác một và nhiều người cho rằng, những tên tội phạm chỉ cần nghiên cứu kỹ lưỡng quy trình này là đã có thể dễ dàng qua mặt những nhà điều tra.
Nhưng liệu Hollywood có mô tả chính xác những gì vẫn đang diễn ra? Liệu các nhà điều tra có luôn đi theo những mẫu DNA của mình tới tận phòng xét nghiệm? Liệu họ có hỏi cung từng nghi can một và bắt lấy kẻ tội phạm, hay công việc của họ chỉ đơn giản là thu thập chứng cứ tại hiện trường? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu sự thực qua bài viết dưới đây.

Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 1: Từ phim ảnh đến đời thật
Điều tra hiện trường là sự kết hợp giữa khoa học, suy luận và pháp luật. Đó là một quá trình nhàm chán, vô vị và kéo dài dường như bất tận. Bằng chứng là mục đích chính của cả quá trình này, bất cứ thứ gì có thể hé mở một chút ánh sáng về những gì đã diễn ra – đó sẽ là mấu chốt để lật tẩy toàn bộ vụ việc. Không có hiện trường nào là điển hình, không có bằng chứng nào là điển hình, và cũng chẳng có cách tiếp cận nào là điển hình.

Ai sẽ có mặt tại hiện trường vụ án?

Cảnh sát: Thường là người đầu tiên có mặt tại hiện trường. Họ sẽ bắt giữ thủ phạm, nếu hắn vẫn còn ở đó và gọi xe cứu thương nếu cần thiết. Họ chịu trách nhiệm đảm bảo an ninh tại hiện trường để các bằng chứng không bị hủy hoại.

Đội điều tra hiện trường: Phác thảo lại hiện trường và thu thập bất cứ bằng chứng nào họ có thể tìm được.


Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 1: Từ phim ảnh đến đời thật

Công tố viên: Thường có mặt để giúp xác định xem việc điều tra có cần bất cứ thứ giấy tờ khám xét nào, và nếu có, họ sẽ giúp đội điều tra lấy được nó trong thời gian sớm nhất có thể.

Người giám định y khoa: Có thể có hoặc không, họ giúp xác định nguyên nhân cái chết.

Các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác nhau (nhà côn trùng học, tâm thần học..): họ sẽ được gọi đến, nếu bằng chứng cần sự thẩm định của chuyên gia.

Thanh tra: có nhiệm vụ thẩm vấn nhân chứng và hội ý cùng đội điều tra hiện trường. Thông qua việc lần theo lời khai của nhân chứng và dấu vết của các bằng chứng, họ sẽ tìm được lời giải cho vụ án.

Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 1: Từ phim ảnh đến đời thật
Lúc nào cũng vậy, bằng chứng chỉ là một phần của phương trình. Mục đích tối cao của toàn bộ quá trình điều tra là lời thú tội của thủ phạm. Đội điều tra hiện trường sẽ làm mọi thứ: lấy mẫu máu đã đông mà không để lại bất cứ nhiễu vân tay nào, nhặt lấy một vài cọng tóc, đục thủng 1 vài bức tường – họ sẽ làm mọi thứ đều thu thập được những bằng chứng và quan trọng hơn, giữ nó ở trạng thái nguyên vẹn. Từ những thứ này, phòng xét nghiệm sẽ tạo dựng lại hiện trường vụ án, hoặc lạc quan hơn, nhận diện được hung thủ. Nhiệm vụ của họ là khiến những bằng chứng ấy đủ sức nặng trước tòa án.


Công việc điều tra thực sự bắt đầu khi đội điều tra hiện trường nhận được cuộc gọi từ cảnh sát. Toàn bộ quá trình diễn ra như sau:

Đội điều tra hiện trường xuất hiện và đảm bảo hiện trường được phong tỏa chặt chẽ. Họ bước vào hiện trường, có những cảm nhận đầu tiên về nơi này, tìm kiếm bất cứ dấu vết nào cho thấy đã có người dịch chuyển bất cứ thứ nào đó trước khi họ đến. Họ bắt đầu đưa ra những giả thuyết, chỉ dựa trên việc quan sát. Từ những giả thuyết này, họ bắt đầu tìm kiếm những thứ có khả năng sẽ là bằng chứng. Tại thời điểm này, họ chưa hề động vào bất cứ thứ gì tại hiện trường.

Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 1: Từ phim ảnh đến đời thật

Tiếp đó, họ ghi chép lại toàn bộ hiện trường vụ án thông qua việc chụp ảnh. Đôi khi, họ làm điều đó bằng cách quay phim. Họ ghi nhận lại tổng thể hiện trường, và chú ý rất kỹ đến những thứ có thể là bằng chứng. Vẫn chưa có thứ gì được chạm vào.
Giờ mới là lúc cho chuyện đó – bạn phải rất, rất cẩn thận. Mọi thao tác, đánh dấu, ghi số, bao bọc, chỉ 1 sai lầm nhỏ cũng có thể hủy hoại một bằng chứng trị giá ngàn vàng. Bằng chứng này sẽ ngay lập tức được gửi đến phòng thí nghiệm, nơi nó được phân tích về mọi mặt và kết quả trả về sẽ giúp đội điều tra có được hướng đi chính xác nhất.

Sự phân chia công việc tại hiện trường và phòng thí nghiệm khác nhau tùy theo từng đơn vị. Đó là hai công việc hoàn toàn khác nhau – điều tra hiện trường (crime scene investigation) và khoa học pháp y (forensic science). Không phải chuyên gia điều tra hiện trường nào cũng thành thạo mảng khoa học pháp y, và ngược lại, tuy nhiên, cả 2 bên cũng cần có những hiểu biết cơ bản về mảng còn lại, để có được những thao tác đúng đắn, những thao tác để giữ nguyên giá trị của những bằng chứng có lợi.


Điều tra hiện trường là một công việc đồ sộ. Hãy cùng khởi đầu từ giai đoạn 1: Nhận diện hiện trường.

Nhận diện hiện trường

Khi một nhà điều tra được cử đến hiện trường, anh ta sẽ không lập tức cắm đầu cắm cổ đi tìm bằng chứng. Mục tiêu duy nhất trong giai đoạn này là trả lời được câu hỏi: Cuộc điều tra này sẽ đi đến đâu? Từ đó, nhà điều tra sẽ có được cách tiếp cận để tìm và thu thập chứng cứ. Tại thời điểm này, anh ta chỉ sử dụng tai, mắt, mũi, một cái bút và một vài tờ giấy.

Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 1: Từ phim ảnh đến đời thật

Bước đầu tiên, bạn cần xác định được quy mô của hiện trường. Nếu đó là một vụ giết người, chỉ có duy nhất một nạn nhân trong ngôi nhà của anh ta, hiện trường có thể chính là ngôi nhà và khu vực lân cận xung quanh đó. Liệu có chiếc xe nào lảng vảng ở xung quanh? Liệu có vết máu còn rơi rớt dọc con phố? Nếu có, hiện trường sẽ bao gồm tất cả những ngôi nhà ở khu vực lân cận.
Phong tỏa toàn bộ hiện trường, hay bất cứ địa điểm nào khác có tiềm năng trở thành hiện trường – đó là bước tối quan trọng. Hiện trường có còn nguyên vẹn hay không, tất cả đều phụ thuộc vào bước này. Bằng không, đồ đạc sẽ bị dịch chuyển, mưa và gió sẽ gột sạch mọi thứ, những dấu vân tay sẽ bị làm nhiễu, và mọi công lao sau đó của đội phân tích tại phòng xét nghiệm sẽ bị đổ xuống sông xuống bể.

Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 1: Từ phim ảnh đến đời thật

Thông thường, những nhân viên cảnh sát đầu tiên có mặt sẽ phong tỏa khu vực trung tâm hiện trường, nơi mà hiển nhiên toàn bộ vụ việc đã diễn ra. Khi đội điều tra hiện trường tới, họ sẽ nới rộng vành đai phong tỏa. Công việc này bao gồm việc lập ra một vành đai bằng bất cứ thứ gì họ có thể huy động được: barrier, xe cảnh sát..., đồng thời, di tản toàn bộ những người không có liên quan ra khỏi hiện trường. Một vùng an toàn sẽ được lập ra, nơi những nhà điều tra có thể thoải mái thảo luận mà không lo những bằng chứng có thể "vô tình" bị phá hủy.

Bước tiếp theo sau khi đã đảm bảo an toàn cho hiện trường, đó là huy động sự trợ giúp của công tố viên. Bởi quyền tự do riêng tư được tôn trọng khá cao tại các nước phương Tây, bạn không thể tự do khám xét nhà bất cứ ai mà không có trát từ phía tòa án. Những bằng chứng thu được lúc này rất ít có giá trị, nếu không muốn nói là sẽ hoàn toàn bị bác bỏ trước tòa án.

Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 1: Từ phim ảnh đến đời thật
Sau khi đã có trong mình trát khám xét, nhà điều tra sẽ vạch ra một lộ trình trên hiện trường, nơi có ít khả năng có bằng chứng nhất để đề phòng nguy cơ chúng bị phá hủy do việc di chuyển. Với màn dạo mát khởi động này, anh ta sẽ ngay lập tức chú ý đến những yếu tố có thể thay đổi theo thời gian: Thời tiết ra sao? Đây là thời điểm nào trong ngày? Có mùi gì khác thường? Khí gas? Mùi tử thi phân hủy? Có âm thanh nào khác thường? Tiếng nước chảy? Tiếng còi báo động gào rú? Có gì đó dường như không ở đúng chỗ? Hay đã biến mất? Chiếc ghế được dựa vào tường? Một chiếc gối biến mất khỏi giường? Tất cả những chi tiết này cần ngay lập tức được ghi nhận

Họ cũng có thể cần đến sự trợ giúp của các chuyên gia, tùy thuộc vào tính chất của bằng chứng. Vết máu trên trần nhà, hay giòi bọ trên xác chết cần sự phân tích ngay lập tức tại hiện trường – bởi mỗi phút trôi qua, những bằng chứng này sẽ biến đổi.

Đây cũng là lúc những nhà điều tra cần nói chuyện với người đầu tiên phát hiện ra vụ việc. Họ cần biết xem liệu anh ta đã chạm vào thứ gì chưa, cũng như thu thập thêm 1 số thông tin có thể có giá trị. Đây chính là lúc thu hẹp phạm vi hiện trường. Liệu nạn nhân có cãi cọ với ai đó khoảng nửa giờ trước khi cảnh sát tới? Nếu có, cuộc điện thoại đó rất có thể sẽ là một bằng chứng có giá trị. Có tiếng vật lộn nào, sau đó là tiếng nước róc rách chảy xuống? Đây rất có thể là nỗ lực gột sạch dấu vết, và đội điều tra sẽ lập tức tập trung sự chú ý vào phòng tắm, hoặc nhà bếp. Tuy nhiên, đây cũng chính là sai lầm của Hollywood. Phần lớn các nhà điều tra hiện trường KHỐNG nói chuyện với nhân chứng. Họ không được đào tạo chuyên nghiệp về mảng này. Thu thập và xử lý bằng chứng – đó là nghiệp vụ của họ, và nhân chứng là phần việc của các thanh tra cảnh sát.

Những người điều tra hiện trường sẽ dùng những thông tin họ thu thập được để phác thảo ra một cách tiếp cận cụ thể. Không có phương thức nào là điển hình – hiện trường một vụ sát hại 13 người trong một trường trung học và hiện trường một vụ cưỡng hiếp trong xe là hoàn toàn khác nhau. Một khi kế hoạch đã được lập ra, họ sẽ thu thập, ghi hình lại toàn bộ mọi bằng chứng có thể có liên quan – tất cả mọi thứ, để đảm bảo rằng không ai có thể thay đổi được chúng.



Cre: tamlyhoctoipham.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26: C26: 26. Điều Tra Hiện Trường (2)


Công việc điều tra hiện trường - Kỳ 2: Khi bằng chứng là sinh mạng

Mục tiêu tối cao của toàn bộ quá trình điều tra, và đó cũng là tất cả những gì bạn cần để tống 1 tên tội phạm vào tù.

Trong phần trước của bài viết, chúng ta đã tìm hiểu những quy trình cơ bản cũng như những thành phần quan trọng nhất trong một cuộc điều tra hiện trường vụ án. Trong phần tiếp theo này, chúng ta sẽ điểm qua những công việc thu thập bằng chứng, một trong những công việc vô cùng quan trọng giúp cơ quan điều tra có chứng cứ để phá án cũng như buộc tội thủ phạm.

Ghi nhận bằng chứng

Sau màn khởi động đầu tiên, những nhà điều tra hiện trường sẽ tiếp tục lộ trình giống hệt vậy, nhưng lần này là ghi nhận lại các bằng chứng: chụp ảnh, phác họa, ghi chép và có thể là cả quay phim. Công việc sẽ được phân chia đồng đều cho từng người trong đội. Nếu chỉ có một người, đương nhiên anh ta sẽ phải đảm nhận tất cả việc này.

Ghi chép

Điều tra hiện trường - Kỳ 2: Khi bằng chứng là sinh mạng

Công việc này không hề đơn giản như tên gọi của nó. Khoa học quan sát là một trong những mảng họ cần phải được đào tạo thành thục trước khi được cử ra hiện trường. Một người bình thường quan sát thấy một vết màu nâu đỏ trên tấm thoảng, dây ra từ phía tử thi và ghi nhận "máu chảy ra ngoài từ dưới cái xác", nhưng một chuyên viên điều tra hiện trường sẽ có ghi chép khách quan hơn "chất dịch màu nâu đỏ, lượng nhiều, loang ra ngoài từ dưới tử thi". Chất dịch này có thể là máu, hoặc dịch phân hủy tử thi. Trong giai đoạn này, những phỏng đoán vô căn cứ là vô cùng nguy hiểm. Công việc của bạn là ghi nhận lại những sự việc khách quan – bạn không được phép đưa ra bất cứ kết luận nào.

Chụp ảnh

Họ chụp ảnh mọi thứ trước khi di chuyển bất cứ đồ vật nào. Ngay cả người giám định y khoa cũng không được phép động vào xác chết chừng nào đội điều tra hiện trường chưa hoàn thành xong thao tác này. Những bức ảnh sẽ được phân làm 3 loại: Tổng thể, trung gian và cận cảnh.


Điều tra hiện trường - Kỳ 2: Khi bằng chứng là sinh mạng

Những bức ảnh tổng thể cung cấp cái nhìn rộng nhất có thể về toàn bộ hiện trường. Ví dụ, nếu vụ án xảy ra trong nhà, nó sẽ bao gồm:
Những bức ảnh chụp toàn bộ tất cả các căn phòng, không chỉ căn phòng nơi xảy ra vụ việc, với những tấm ảnh được chụp ở cả 4 góc. Nếu đã có tiếng nổ xảy ra, bạn sẽ cần chụp cả trần nhà.

Những bức ảnh chụp bên ngoài căn nhà, trong đó quan trọng nhất là những bức chụp lối vào và lối ra.

Những bức ảnh cho thấy mối liên hệ của căn nhà đó với khu vực xung quanh

Điều tra hiện trường - Kỳ 2: Khi bằng chứng là sinh mạng

Những bức ảnh đó có thể cung cấp thêm 1 vài nhân chứng, hoặc thậm chí là cả nghi phạm.

Trung gian: Đây là những tấm ảnh then chốt – nó không chỉ chỉ ra bằng chứng, mà còn cho thấy địa điểm và khoảng cách của nó với những bằng chứng khác

Cuối cùng, đội điều tra hiện trường chụp những bức cận cảnh với từng bằng chứng một, chỉ ra số series hoặc bất cứ thứ đặc trưng nhận dạng nào khác. Với những bức ảnh này, họ sẽ cần sử dụng chân máy và công nghệ chụp ảnh tốt nhất họ có thể chuẩn bị được, nhằm làm bức ảnh cụ thể, càng chi tiết và rõ ràng – chính những bức ảnh này sẽ cung cấp tư liệu cho các đồng nghiệp ở phòng xét nghiệm làm công tác phân tích. Một series ảnh cận cảnh sẽ được chụp lại một lần nữa, lần thứ 2 này bao gồm 1 chiếc thước kẻ nhằm mục đích đo đạc.

Điều tra hiện trường - Kỳ 2: Khi bằng chứng là sinh mạng



Những bức ảnh này sẽ được đưa vào một quyển sổ. Quyển sổ này ghi lại từng chi tiết của từng tấm ảnh một, bao gồm số ký hiệu, mô tả vật thể trong tấm ảnh, địa điểm của vật đó, thời gian chụp ảnh và toàn bộ những chi tiết có thể có liên quan. Quyển sổ đóng vai trò hệ thống lại toàn bộ những bức ảnh chụp – không có nó, công việc này sẽ mất đi rất nhiều giá trị. Trong vụ ám sát John J. Kenedy, người chụp ảnh phía FBI đã không ghi chép gì về những bức ảnh của mình, và kết quả là nhà điều tra đã không làm cách nào phân biệt được đâu là đầu vào, đâu là đầu ra của viên đạn trên xác vị tổng thống.

Phác họa

Đây cũng là một phần trong quá trình ghi hình hiện trường. So với chụp ảnh, việc phác họa sẽ dễ dàng mô tả hiện trường trên quy mô toàn cảnh hơn, bởi một bức vẽ có thể lược qua một vài căn phòng và tập trung vào nơi xảy ra vụ việc. Mục đích chính của bức ảnh là chỉ ra được vị trí của bằng chứng và mỗi bằng chứng có liên quan thế nào đến phần còn lại của hiện trường. Người phác họa cũng có thể chỉ ra những chi tiết như chiều cao của cánh cửa, kích cỡ chính xác của căn phòng, khoảng cách từ cửa sổ đến cửa phòng hay đường kính cái lỗ ở trần nhà ngay trên đầu nạn nhân.

Điều tra hiện trường - Kỳ 2: Khi bằng chứng là sinh mạng

Quay phim

Việc ghi lại hiện trường bằng cách quay phim cho phép người phân tích có được hình dung cụ thể về cách tiếp cận hiện trường – đặc biệt là trong những vụ giết người hàng loạt. Nó giúp người quan sát có được cảm nhận về cách bố trí hiện trường – sẽ mất bao lâu để đi từ phòng này đến phòng khác? Quãng đường nào sẽ là lộ trình mà hung thủ vạch ra? Và chúng sẽ tẩu thoát như thế nào? Không kém phần quan trọng, việc quay phim rất có thể sẽ hé lộ những chi tiết mà những người làm phần việc chụp ảnh đã bỏ sót.

Thu thập bằng chứng

Sau khi đã có được những dữ liệu đầy đủ về hiện trường, giờ là lúc chạm tay vào bằng chứng. Mục tiêu tối cao của giai đoạn này là tìm kiếm, thu thập và bảo quản toàn bộ những thứ có thể giúp tái tạo tội ác và chỉ ra nghi phạm. Bằng chứng có thể xuất hiện dưới bất kỳ dạng nào:

Những vết tích còn sót lại: Thuốc sung, bụi sơn, mảnh kính vỡ, thuốc hay hóa chất còn vương lại...

Những vệt in: vân tay, vết dày...


Điều tra hiện trường - Kỳ 2: Khi bằng chứng là sinh mạng

Dịch cơ thể: máu, tinh dịch, nước bọt, chất nôn...

Tóc và các loại sợi quần áo

Hung khí và các chứng cứ có liên quan: dao, súng, lỗ đạn...

Các tài liệu có nghi vấn: nhật ký, thư tuyệt mệnh, danh bạ, điện thoại...

Điều tra hiện trường - Kỳ 2: Khi bằng chứng là sinh mạng

Lúc này, bạn cần đặt mình vào vị trí tên tội phạm. Hãy tư duy như một kẻ đang chuẩn bị gây án – bạn sẽ đột nhập vào lối nào? Lộ trình của bạn là gì? Bạn sẽ làm gì? Đâu là đường tẩu thoát? Những câu hỏi đó sẽ cung cấp cho bạn một phương hướng rõ ràng trong việc thu thập chứng cứ giữa một rừng những vết tích.

Khám nghiệm tử thi

Đây là phần việc của chuyên viên y khoa. Bạn có thể chạm vào tử thi trước khi họ đến, nhưng nếu không được phép làm việc này – bạn cần ít nhất QUAN SÁT.

Có bất kỳ vết ố, hay dấu vết nào trên quần áo?

Quần áo có xộc xệch về một hướng cụ thể nào không? Nếu có, cái xác hẳn đã bị kéo đi.


Điều tra hiện trường - Kỳ 2: Khi bằng chứng là sinh mạng

Có vết bầm, vết cắt nào trên cơ thể? Có vết thương nào chỉ ra đã có sự chống cự? Bất cứ thương tích nào phù hợp hoặc không phù hợp với nguyên nhân cái chết?

Có thứ gì đó dường như đã biến mất? Vệt da sáng màu nơi đeo đồng hồ hay đeo nhẫn?

Nếu có quá nhiều máu, liệu chiều máu chảy có đúng theo hướng trọng lực? Nếu không, cái xác hẳn đã bị dịch chuyển.

Nếu không hề có máu xung quanh cơ thể nạn nhân, liệu điều đó có phù hợp với nguyên nhân cái chết?

Có dịch cơ thể nào khác ngoại trừ máu?

Có sự hiện diện của ký sinh trùng trên tử thi? Nếu có, một chuyên viên sẽ được cử đến – đây là yếu tố rất quan trọng trong việc xác định thời gian tử vong.

Điều tra hiện trường - Kỳ 2: Khi bằng chứng là sinh mạng

Sau khi tử thi đã được phép dịch chuyển, hãy quan sát những góc còn lại. Lúc này, họ cũng có thể lấy thân nhiệt tử thi, đồng thời so sánh với nhiệt độ phòng để đưa ra thời gian ước tính tử vong. Dấu vân tay cũng có thể được ghi nhận, nhằm nhận diện chính xác nạn nhân.

Sau khi đã hoàn thành công việc với tử thi tại hiện trường, một vài kỹ thuật viên sẽ được cử đến, đóng gói xác chết, trùm kín quá mặt và chân rồi chuyển thẳng đến nhà xác để thực hiện công tác giải phẫu tử thi. Công việc này cần được tiến hành rất thận trọng, bởi, một lần nữa, sự toàn vẹn của các bằng chứng tại hiện trường luôn là ưu tiên số 1.


Cre: tamlyhoctoipham.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27: C27: 27. Điều Tra Hiện Trường (3)


Công việc điều tra hiện trường - Kỳ 3: Những Công Đoạn Cuối Cùng

Trong hai phần trước của bài viết, chúng ta đã được tìm hiểu những bước cơ bản trong một cuộc điều tra hiện trường vụ án, các nhân viên khám nghiệm hiện trường phải thực hiện những công việc gì. Trong phần kết của loạt bài viết, chúng ta sẽ tìm hiểu những công đoạn cuối cùng giúp đưa vụ án ra ánh sáng, cũng như so sánh với những gì được thấy trên các bộ phim hình sự, hành động của Hollywood với những gì thực sự diễn ra trong khi điều tra hiện trường.

Khám nghiệm hiện trường

Có khá nhiều cách tiến hành công việc này:

Tìm kiếm theo hướng xoắn trôn ốc hướng vào trong: Nhà điều tra bắt đầu ở rìa ngoài hiện trường và đi theo hình vòng cung vào trong. Đây là giải pháp tốt nếu chỉ có một mình bạn tại hiện trường.

Hoàn toàn tương tự với vòng xoắn trôn ốc hướng ra ngoài.

Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 3: Những công đoạn cuối cùng

Tìm kiếm theo hướng song song: Những thành viên của đội điều tra di chuyển theo những đường thẳng song song, từ đầu đến cuối hiện trường vụ án


Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 3: Những công đoạn cuối cùng

Tìm kiếm theo kiểu kẻ ô: Đơn giản là những hướng song song vuông góc với nhau. Hướng này sẽ được tiến hành sau khi bạn hoàn thành xong hướng kia.

Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 3: Những công đoạn cuối cùng

Tìm kiếm theo khu vực: Hiện trường vụ án được chia thành những vùng nhỏ. Mỗi thành viên trong đội phụ trách từng vùng.

Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 3: Những công đoạn cuối cùng

Khi tìm kiếm, hãy luôn để tâm đến mọi dấu vết.

Cửa ra vào và cửa sổ có khóa hay không? Đóng hay mở? Có dấu vết nào cho thấy việc phá cửa?Căn phòng có gọn gàng ngăn nắp hay không? Nếu không, đó là do hung thủ hay thói quen của nạn nhân?

Có bức thư nào vương vãi xung quanh? Nó đã được mở ra chưa?

Bếp có gọn gàng ngăn nắp hay không? Có thức ăn nào còn dang dở? Bàn ăn đã được chuẩn bị chưa? Nếu có, bữa ăn đó được ước tính cho bao nhiêu người?

Có dấu hiệu nào của một bữa tiệc vừa diễn ra hay không? Những chiếc ly còn vết rượu, những chai bia dang dở?

Nếu gạt tàn còn sót lại vài chiếc đầu lọc, loại thuốc lá nào còn sót lại đó? Có vệt son môi, hay vết răng trên đầu lọc hay không?

Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 3: Những công đoạn cuối cùng

Có thứ nào dường như không nằm đúng chỗ của nó? Một chiếc kính còn vết trang điểm trong căn hộ của một người đàn ông độc thân, hay nắp bồn cầu được lật lên ở căn hộ của một người phụ nữ? Một chiếc ghế chặn ngang lối ra vào?

Có rác trong thùng rác hay không? Có dấu vết gì chứng tỏ có người vừa lục tung thùng rác lên hay không?


Đồng hồ có chỉ đúng giờ hay không?

Phòng tắm có ẩm ướt hay không? Có gì cho thấy vừa có người sử dụng chúng hay không? Có dấu vết của một cuộc dọn dẹp ở đây hay không?

Nếu tay tội phạm đã nổ súng, chính xác hắn đã bắn bao nhiêu lần? Khẩu súng, viên đạn, vỏ đạn và lỗ đạn đều phải được định vị.

Có vết máu nào loang trên tường, sàn hay trần nhà?

Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 3: Những công đoạn cuối cùng

Đây là một quá trình cần được tiến hành với sự thận trọng tối đa. Những giác quan của bạn cần được huy động hết công suất – vì vấn đề đặt ra ở đây không phải là việc bạn tìm thấy gì, mà là bạn có thể đã BỎ SÓT những gì.

Đối mặt với tòa án

Công việc của một nhà điều tra hiện trường chưa dừng lại ở việc thu thập bằng chứng. Nó thậm chí chưa dừng lại khi đã có kết quả từ phòng xét nghiệm. Một phần công việc không thể không kể đến, đó chính là sự góp mặt của anh ta trước tòa án, về bằng chứng mà anh ta đã thu thập được, về phương pháp anh ta đã sử dụng, về tất cả những ai đã có tiếp xúc với nó. Và công việc của luật sư bên bị đơn là phản bác chứng cứ, đồng nghĩa với việc nhắm vào người đã thu thập nó. Đây cũng chính là lý do tại sao những thứ như trát khám xét, sổ ghi chép bằng chứng, những bức ảnh và những báo cáo cực kỳ chi tiết lại hệ trọng đến như thế trong quá trình điều tra hiện trường. Bên bị đơn sẽ tìm mọi cách để gạt những bằng chứng đó ra khỏi phiên xét xử. Tính hợp pháp của vụ khám xét, mức độ bảo quản bằng chứng, những tài liệu không thể bị bác bỏ – đó là những yêu cầu tối cao của đơn vị điều tra hiện trường.

Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 3: Những công đoạn cuối cùng

Điều tra hiện trường – từ phim đến đời thực


Khi được hỏi về tính chân thực của series Crime Scene Investigations, Joe Clayton, sĩ quan đã có 14 năm làm việc tại đơn vị điều tra hiện trường thuộc cục điều tra liên bang trả lời ngắn gọn "Không". Nó không hoàn toàn diễn tả chính xác những khía cạnh của công việc tại hiện trường – đó là điều dễ hiểu – sự thật 100% hoàn toàn không tồn tại ở Hollywood. Người xem chắc chắn không thể thỏa mãn với cảnh tượng một đống nhân viên điều tra vô công rồi nghề chỉ để ngồi chờ 1 tờ trát khám xét. Họ cũng sẽ vô cùng thất vọng nếu như không được đối diện với các nhân chứng.

Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 3: Những công đoạn cuối cùng

Nói một cách chính xác, series này đã làm sai lệch nhiều chi tiết quan trọng. Trong thực tế, bạn không thể có mặt tại hiện trường trong khoảng thời gian chỉ 2 tiếng sau tử vong. Bạn cũng không đơn giản chỉ ném một dấu vân tay vào máy tính và chờ nó phun ra bức ảnh nghi phạm. Thực tế, phần mềm nhận diện dấu vân tay chỉ có thể cho ra vài nghi can thích hợp nhất, sau đó các chuyên gia sẽ phải ngồi lại và thống nhất xem đâu là mẫu vân tay phù hợp.

Trong thực tế, không bao giờ có chuyện bạn có thể ập vào khám xét nhà một ai đó mà không có trát từ tòa án. Ngoại lệ duy nhất, đó là khi chủ nhân căn nhà chính là nạn nhân, sống một mình, không ở chung với bất cứ ai, tại bất cứ thời điểm nào. Điều này đồng nghĩa với hàng đống thời gian chờ đợi vô ích – bạn cần liên hệ với công tố viên, người sẽ liên hệ với thẩm phán, người sẽ ký công văn cho phép việc khám xét diễn ra. Chỉ khi giấy khám xét có mặt tại hiện trường, đó mới là lúc công việc bắt đầu.

Khám phá công việc điều tra hiện trường - Kỳ 3: Những công đoạn cuối cùng

Và công việc của họ hầu hết chỉ liên quan đến các bằng chứng. Nhân chứng, nghi phạm, những người hàng xóm, những người vô tình hay cố ý có mặt tại hiện trường không nằm trong phạm vi này. Họ không thẩm vấn, không hỏi cung bất cứ ai – đó là công việc của các thanh tra. Và cũng rất hiếm khi một nhân viên điều tra hiện trường thực hiện công việc từ đầu đến cuối – dù là công việc với bằng chứng. Có một đội, với nhiều nhân viên chuyên biệt sẽ đảm trách công việc này – nhân viên điều tra hiện trường, nhân viên pháp y, thanh tra, các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Không một ai có thể thông thạo tất cả các lĩnh vực trên.


Cre: tamlyhoctoipham.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28: C28: 28. Những Vụ Án Giết Người Vì Phim Ảnh


Những tiếng thét

Trong bộ phim Scream (Tiếng thét) của đạo diễn Wes Craven có một nhân vật mang mặt nạ trắng dài với đôi mắt rỗng và áo choàng đen, rất phổ biến trong những dịp hóa trang Halloween. Được công chiếu vào năm 1996, bộ phim châm biếm rất nhiều phim kinh dị đâm chém trong quá khứ, với nội dung xoay quanh một cô gái thiếu niên trở thành mục tiêu của một kẻ giết người điên loạn (Ghostface), cô phải tìm hiểu những bí mật trong thị trấn nơi mình ở để giải cứu bản thân. Nhưng ngay cả hình thức châm biếm cũng có thể kích thích những tâm hồn lệch lạc bắt chước theo. Mọi hành động đều được thể hiện trên phim.

Scream mở đường cho hai bộ phim phần tiếp theo rất ăn khách, và cũng khơi nguồn cảm hứng cho tội phạm. Trong vòng ba đến bốn năm sau khi bộ phim được công chiếu, rất nhiều thanh thiếu niên được truyền cảm hứng giết người: một cậu trai và em họ của cậu ở Los Angeles bị ám ảnh bởi bộ phim và đã giết chết mẹ của mình với 45 nhát đâm, một người đàn ông đeo mặt nạ bắn chết một phụ nữ ở Florida, một cậu bé ở Pháp đã giết ba mẹ của mình khi đang đóng giả Ghostface, và ở Anh, hai bé trai liên tục đâm một bé trai khác, bảo rằng bộ phim đã thôi thúc chúng làm điều này.

Kết quả hình ảnh cho ghostface

Daniel Gill, 14 tuổi, và Robert Fuller, 15 tuổi, đến từ Bắc Yorkshire, bị kết tội vào ngày 22 tháng 10 năm 1999 vì tội cố ý giết Ashley Murray và bị xử phạt ở trại cải tạo trong sáu năm. Chúng đâm Murray mười tám lần và bỏ mặc cho nạn nhân chết, nhưng một ngày rưỡi sau đó có một người đàn ông dắt chó đi dạo tìm thấy cậu và cậu đã được bình phục.

Ngay trước cuộc tấn công, hai cậu bé đã xem phim Scream ở nhà của một tay buôn ma túy, người đã cho chúng xem những món đồ liên quan đến tâm linh và vũ khí, và nằng nặc bảo rằng thần linh muốn Murray chết. Hai cậu bé được bào chữa rằng điều này đã làm mờ đi ranh giới giữa hư và thực, cũng như ranh giới giữa đúng và sai. Theo BBC, trong sách học của một trong hai cậu bé có những hình vẽ Ghostface và những con dao.

Nhưng chúng là bạn của Murray, và ngay cả cậu bé cũng thừa nhận rằng bộ phim đã điều khiển hành vi của chúng. Đó là lời khai cậu bé trình bày với cảnh sát. Cậu kể rằng chúng dụ cậu đến một chỗ hoang vắng, rồi Gill liên tục đâm vào má và đầu của cậu. Fuller giữ người cậu và đâm vào tay. Chỉ khi Murray giả vờ chết thì hai đứa bé kia mới bỏ đi, nhưng lúc ấy cậu bé cũng bị thương quá nặng nên không thể tự mình đến bệnh viện.

Fuller tố cáo Gill mới là kẻ đầu têu, trong khi Gill ban đầu không chịu thừa nhận điều mà sau này cậu mới chịu khai là tên buôn ma túy đã cho cậu bé dùng ma túy và xúi giục cậu giết Murray. Cậu đã tin đó là một mệnh lệnh siêu nhiên.

Dù có vẻ đúng là một số người đắm chìm vào phim ảnh kinh dị sẽ cảm thấy bị kích thích thực hiện hành vi phạm tội tàn nhẫn mà họ vừa xem, nhưng trên thực tế vẫn không có chứng cứ xác thực về nguyên nhân dẫn đến điều này, và có hàng triệu người khác cũng xem những bộ phim ấy mà không bị ảnh hưởng. Một số người chuyển hóa những hình ảnh bên ngoài thành những hành vi công kích, số khác cảm thấy hưng phấn, và vẫn có một số khác không hề bị ảnh hưởng gì. Một số ít còn trở thành nhà sản xuất phim kinh dị hay nhà văn. Không dễ để biết một bộ phim có thể gây ra ảnh hưởng gì. Dù kết quả có ra sao, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng vấn đề nằm ở người xem nhiều hơn là ở bộ phim.

Bạo lực và não bộ

Trong ấn phẩm tháng 12 năm 2006 của Scientific American Mind, Daniel Strueber, Monica Luek và Gerhard Roth viết về dự án mới nhất của các nhà nghiên cứu não bộ về chủ đề bạo lực. Họ tập trung chủ yếu vào những kẻ tâm thần không có chút trắc ẩn với nạn nhân hay hối hận sau khi gây án. Họ vạch kế hoạch và giết người mà không theo trình tự nào cả. Kết quả là "bạo lực không bao giờ phát sinh từ một nguyên do", mà là từ nhiều yếu tố rủi ro kết hợp lại.

Debra Niehoff, nhà thần kinh học, có nhắc đến điều này trong quyển sách của mình, The Biology of Violence (Bạo lực dưới góc nhìn sinh học), xuất bản năm 1999, sau hai mươi năm nghiên cứu. Cụ thể, bà muốn biết liệu bạo lực có phải là kết quả của các gen hay chủ yếu là do ảnh hưởng bởi môi trường. Theo quan niệm của bà, cả những yếu tố sinh học lẫn môi trường đều có liên quan, và chúng tương tác lẫn nhau khiến việc giải quyết một tình huống theo hướng bao lực ở mỗi người mỗi khác. Nói cách khác, một dạng kích thích giống như phim ảnh sẽ không khơi mào bạo lực với tất cả những người xem. Cùng xem một bộ phim, người này có thể có phản ứng, nhưng người kia có thể hoàn toàn không bị ảnh hưởng.


Lý giải cho điều này, Niehoff nói, rằng não bộ lưu giữ những trải nghiệm thông qua những bộ mã hóa học. Khi ta tương tác với một người ta chưa gặp bao giờ, ta sẽ có một sơ lược phác thảo về người đó dưới dạng hóa học thần kinh, dựa trên thái độ của bản thân ta đối với việc thế giới có an toàn hay không, con người có đáng tin hay không, và ta có tin vào trực giác hay không. Cách ta cảm nhận về những điều này tạo ra phản ứng cảm xúc nhất định và phản ứng hóa học của những cảm xúc ấy được chuyển thành phản ứng của chính chúng ta. "Và rồi người đó phản ứng lại chúng ta," Niehoff nói, "và phản ứng cảm xúc của chúng ta cũng sẽ phần nào thay đổi phản ứng hóa học não bộ. Vậy nên sau mỗi lần tương tác, chúng ta cập nhật lại phác thảo hóa thần kinh về thế giới."

Kết quả hình ảnh cho violence and brain

Theo đó, Strueber và đồng nghiệp tập trung vào những trải nghiệm tiêu cực mà con người ta có. Những yếu tố rủi ro bao gồm khuynh hướng di truyền, tuổi thơ bất hạnh, và những kỷ niệm tiêu cực khác, khi chúng tương tác thì sẽ càng trở nên trầm trọng. Là nam giới cũng là một yếu tố rủi ro, vì nam giới có hình mẫu bạo lực và ở vỏ não trước có những dị biệt làm tăng xung lực. Những người có mức rủi ro cao còn có thể ít có khả năng chịu đựng đả kích và không thể học được những nguyên tắc xã hội. Ở nam giới, nồng độ testosterone cao cũng có liên hệ đến bạo lực. (Một nghiên cứu cho thấy ở phụ nữ bạo lực cũng có đặc điểm này.) Thêm vào đó, một số chấn thương đầu có thể khiến con người trở nên bạo lực.

Có một nghiên cứu khác thú vị hơn nhưng với số lượng nhỏ và chỉ trên nam giới được thực hiện bởi Tiến sĩ Adrian Raine và đồng nghiệp tại Đại học Nam California, so sánh 23 kẻ giết người tâm thần đã bị bắt với 13 kẻ giết người tâm thần vẫn còn tự do. Với giả thuyết đặt ra là những kẻ chưa bị bắt giỏi lên kế hoạch giết người hơn, quét MRI cho thấy "những kẻ giết người thành công" có nhiều chất xám ở vỏ não trước hơn những kẻ đã bị bắt. Ngoài ra, những kẻ giết người không thành công có hồi hải mã không đối xứng. Một số nhà nghiên cứu khác chỉ ra những dị thường ở hạch hạnh nhân cũng có liên quan đến khả năng cảm nhận được (hoặc không cảm nhận được) lòng trắc ẩn ở người. Sự cân bằng hóa học thần kinh cũng có vai trò trong vấn đề này, và bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp giữa di truyền và môi trường.

Có thể nói rằng trong những nền văn hóa dung túng và có khi là khuyến khích phim ảnh bạo lực, vẫn tồn tại một khuynh hướng khiến giới trẻ và những người có bệnh tâm thần bị ảnh hưởng dẫn đến việc họ thực hiện những gì mình trông thấy. Nếu những lựa chọn để giải quyết xung đột bị bó hẹp lại quanh bạo lực, họ sẽ dần dần trở nên bạo lực. Một số nhà nghiên cứu ước lượng rằng khi một đứa trẻ lên mười tám tuổi, cậu bé hay cô bé đó đã xem khoảng 100,000 hình ảnh bạo lực trên TV, phim hoặc trò chơi điện tử. Rất ngớ ngẩn nếu tin rằng chừng đó không hề có một chút ảnh hưởng nào.

Trong The cat Effect (Hiệu ứng bắt chước), Loren Coleman nói rằng bất kỳ hình thức truyền thông thị giác nào có nội dung là một vụ giết người đều có thể phát sinh ra hành vi bắt chước. Những vụ án tương tự như thế sẽ diễn ra vào một vài tuần sau đó. Chúng ta sẽ đề cập đến hành vi bắt chước ở phần sau.

Tâm thần Ma trận

Một trong những bộ phim được nhắc đến nhiều nhất trên phiên tòa án mạng những năm gần đây là The Matrix (Ma trận), công chiếu năm 1999 (với hai phần nối tiếp), nam diễn viên chính là Keanu Reeves trong vai "Neo". Nhân vật chính lạc vào một thế giới khác sau khi bị "bất tỉnh" trong một thực tế ảo được tạo bởi máy tính, và ở đây anh bị những kẻ giết người truy đuổi. Anh phải dùng đến rất nhiều món võ và bạo lực để giải cứu thế giới. Tất cả những gì anh từng tin tưởng đều trở nên sai trái khi anh được chỉ định làm người hùng và biết được siêu năng lực bí mật của mình. Những điều Neo làm phục vụ cho mục đich cao cả hơn, cũng khiến cho những bạo lực của anh trở nên đúng đắn. Nhưng đó chỉ là phim thôi.

Hay có đúng là vậy không? Một số bị cáo đã tin rằng họ đang ở trong ma trận và việc giết người là lẽ phải.

Kết quả hình ảnh cho the matrix

Nhiều người tin rằng Dylan Klebold và Eric Harris, hai kẻ giết người của trường trung học Columbine năm 1999, lấy cảm hứng từ bộ phim ấy, nhưng không như những trường hợp khác, họ không sống sót để nói rõ điều này. Nhưng có một điều là họ mặc áo khoác dài màu đen như Neo.


Một người trong nhóm Bắn tỉa vùng vành đai năm 2002, Lee Boyd Malvo, rất cuồng bộ phim này. Trong tù hắn đã ghi lại bộ phim này rất nhiều lần, và còn nằng nặc bảo rằng con người phải thoát khỏi Ma trận. Theo lời kể của Mark Shone trên Boston Globe, hắn bảo FBI xem bộ phim nếu như muốn hiểu tâm lý hắn hoạt động ra sao.

Ở San Francisco, Vadim Mieseges, 27 tuổi, đã giết và chặt chân tay của bà chủ nhà. Khi bị bắt, hắn bảo rằng mình bị "hút" vào Ma trận. Hắn là một học sinh trao đổi người Thụy Điển, đã thừa nhận lột da nạn nhân và vứt nửa thân trên của nạn nhân ở bãi rác vì hắn cảm nhận được "mùi độc ác" tỏa ra từ bà. Vì hắn được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần, vụ án không được đưa ra tòa. Lời bào chữa vì chứng loạn tinh thần của hắn được chấp nhận.

Ở Ohio, Tonda Lynn Ansley cũng tấn công bà chủ nhà của mình như trong vụ án trên, nhưng lại khăng khăng rằng mình không thực sự làm điều đó: đó chỉ là một giấc mơ. Bà cũng tấn công ba người khác để giải thoát chính mình vì cho rằng họ đang điều khiển tâm trí bà. Lời bào chữa vì chứng loạn tinh thần của bà cũng được chấp nhận.

Tờ Boston Globe lên danh sách những người cho rằng The Matrix đã thôi thúc họ giết người trong năm 2003. Có một vụ án ở Virginia, Joe Cook, 19 tuổi, cho rằng hắn không nhận thức được mình đang làm gì khi ăn mặc như Neo, cầm chiếc súng săn 12 gauge (hắn mua nó vì nó trông giống cây súng trong phim), và bắn chết bố mẹ nuôi của mình. Luật sư của Cooke ban đầu muốn dùng chứng loạn thần kinh để bào chữa nhưng sau đó từ bỏ. Hắn quyết định nhận trách nhiệm.

Thế nhưng trong hồ sơ hộ sinh thì bố mẹ ruột của hắn được chẩn đoán mắc chứng tâm thần phân liệt hoang tưởng. Kiểm tra cho thấy hắn có thể bị ảnh hưởng bởi ý nghĩ rằng mình đang ở trong một thế giới ảo, và yếu tố di truyền biến chúng thành nhận thức về thực tế. Thêm vào đó, thói quen chơi trò chơi điện tử bạo lực nhiều giờ liền trong một ngày cũng góp phần không nhỏ, cũng như việc hắn bị bắt nạt khi còn bé và nhiều cảm xúc dồn nén ứ đọng cho đến khi hắn nổ tung. Cuối cùng, hắn nhận mức án bốn mươi năm tù.

Nguồn cảm hứng

Có rất nhiều vụ trọng án bị ảnh hưởng bởi nội dung và cảnh quay trong phim, nhưng bộ phim tác động đến hệ thống luật pháp trên khắp cả nước, và được trình chiếu tại tòa, là Taxi Driver (Tài xế taxi), công chiếu vào năm 1976.

John Hinkley Jr bị ám ảnh bởi bộ phim, cụ thể là với nữ diễn viên trẻ đóng vai chính tên Jodie Foster. Hắn đọc tiểu thuyết và xem đi xem lại bộ phim rất nhiều lần, coi đó như lời chỉ dẫn cho những hành động của mình. Robert DeNiro đóng vai Travis Bickle, một tài xế taxi bệnh hoạn quyết định ám sát ứng viên tổng thống để thu hút sự chú ý của một nữ chính trị gia mà hắn để mắt đến. Tuy nhiên, hắn thất bại và quen biết với một gái mại dâm tên Iris (Jodie Foster). Hắn giết ba mạng người để giải cứu cô và trở thành người hùng của cô, bằng bạo lực tội phạm.

Kết quả hình ảnh cho taxi driver 1976

Hinkley, một nhạc sĩ thất bại và tơ tưởng trong đầu một cô bạn gái tưởng tượng, bị ấn tượng bởi những tình tiết này, và để thu hút sự chú ý của Jodie Foster (hắn đã bám đuôi cô đến tận Yale), hắn theo dõi Tổng thống Jimmy Carter một thời gian và rồi, sau một vài trị liệu tâm thần cho chứng trầm cảm, hắn dùng súng bắn Ronald Reagan, tổng thống kế nhiệm Carter. Vào ngày 30 tháng 3 năm 1981, bên ngoài khách sạn Hilton Washington D.C, Hinkley dùng một khẩu súng lục làm bị thương Reagan, cùng với ba người khác, trước khi bị khống chế và bắt giữ. Foster khi nghe tin đã rất khiếp sợ.

Trong phiên tòa, Hinkley bị truy tố với mười ba vụ tấn công, bác sĩ William Carpenter Jr. đã trình bày việc Hinkley tự coi mình là Travis Bickle, ăn mặc như hắn và bắt chước hắn theo nhiều cách khác nhau. Hắn cô lập bản thân và dành phần lớn thời gian sống trong thế giới ảo của mình, dần dần tin rằng mình thực sự chính là Bickle.


Kết quả hình ảnh cho john hinckley jr

Bộ phim được trình chiếu trước tòa để khiến quan tòa hiểu cách Hinkley "hóa thân" thành nhân vật này như thế nào, và hắn ngưỡng mộ người hùng của mình ra sao. Hắn ngồi xem chăm chú, tuy có vẻ hắn không chịu đựng được khi xem cảnh Iris ôm người đàn ông ma cô của mình, người sau đó bị Bickle giết chết.

Phiên tòa diễn ra trong bảy tuần. Sau khi được phán không có tội vì tâm lý không ổn định vào năm 1982, Hinkley bị giam tại bệnh viện St. Elizabeth ở Washington, D.C. Hắn tiếp tục bị ám ảnh bởi Foster trong suốt hai thập kỷ tiếp theo. Lời phán quyết này khiến cộng đồng người Mỹ phẫn nộ, vì vậy chính quyền liên bang, cùng với một số bang khác, sửa lại luật pháp liên quan đến tâm lý không ổn định. Có bốn bang bãi bỏ hình thức biện hộ này.

Tế bào não biết bắt chước

Nghiên cứu gần đây về sinh học phân tử cho thấy chúng ta được lập trình sẵn để bắt chước lẫn nhau trong quá trình tiến hóa. Sandra Blakeslee viết về vấn đề này trong tờ New York Times. Các nhà nghiên cứu lần đầu tiên phát hiện ra hiện tượng này khoảng mười lăm năm trước ở Ý. Dây điện được cấy vào não của một con khỉ để quan sát những chuyển động khi nó thực hiện thao tác với một đồ vật, và một sinh viên tốt nghiệp nhận thấy não phản ứng ngay cả khi con khỉ không làm được hành động. Tác nhân kích thích là nhìn hành vi của người khác. Trong trường hợp này, người sinh viên đang đưa cây kem lên miệng.

Giacomo Rizzolatti, nhà thần kinh học của Đại học Parma, hướng nghiên cứu đến việc tìm hiểu xem điều gì diễn ra trong não bộ khi con khỉ (cũng như con người) khi nó quan sát hành vi của người khác. Có vẻ như có cùng một loại tế bào não hoạt động cả khi quan sát hành vi lẫn thực hiện hành vi. Rizzolatti gọi loại tế bào này là "neuron gương". Qua đó, ông cho rằng một số tế bào nhất định bên trong não bắt đầu hoạt động khi con người nhìn thấy hoặc nghe thấy một hành động mà chính bản thân cơ thể họ có thể thực hiện được. Nghiên cứu này được xuất bản năm 1996.

Kết quả hình ảnh cho mirror neuron

Tuy nhiên, gần đây hơn, nghiên cứu cho thấy neuron gương ở người vừa thông minh vừa linh hoạt. Trên thực tế, theo lời Blakeslee, con người có "nhiều hệ thống phản chiếu chuyên biệt để thực hiện và hiểu cả hành động lẫn dự định, ý nghĩa xã hội của hành vi và cảm xúc của người khác". Những neuron này nắm bắt được ẩn ý đằng sau hành vi mà chúng tiếp nhận thông qua giả định trực tiếp. Một người trải nghiệm hoàn toàn hành vi của một người khác, chứ không chỉ đơn giản là quan sát. Điều này giải thích cho khả năng học hỏi của trẻ em và tại sao ở những nền văn hóa khác nhau lại có một số trải nghiệm giống nhau. Con người phản ứng lại với những gì người khác thực hiện nếu hành vi ấy là bình thường đối với họ. Điều này có thể cũng giải thích tại sao các phương tiện truyền thông bạo lực ảnh hưởng đến những người nhất định.

Một nghiên cứu xuất bản năm 2006 trên Media Psychology cho thấy neuron gương được kích hoạt ở những trẻ em xem chương trình bạo lực trên TV, và họ dự đoán là những đứa trẻ này cũng có nhiều khả năng sau đó sẽ cư xử thô bạo hơn so với những đứa trẻ không xem.

Tuy nhiên người ta cũng chứng minh được rằng neuron gương càng hoạt động tích cực, ta càng có nhiều sự thấu cảm. Điều này có thể giải thích cho trường hợp trẻ em có neuron gương bị "vỡ" hoặc hoạt động ít tích cực hơn khi xem chương trình bạo lực sẽ hành xử thô bạo vì chúng không có những ức chế hành vi đến từ sự thấu cảm. Nhưng mối liên hệ này chỉ mang tính gợi ý và chưa được nghiên cứu khoa học chứng minh.

Kết quả hình ảnh cho mirror neuron

Neuron gương xuất hiện ở rất nhiều vùng trong não bộ con người. Chúng kích hoạt trên những hành động có liên hệ đến những dự định, với những neuron khác nhau hoạt động ở những phần khác nhau trong suốt quá trình. Chúng giả định lại hành động như thể người quan sát đang thực hiện nó, cũng là cách một người hiểu được hành động và điều gì thúc đẩy hành động đó, có một dạng "khuôn mẫu" cho điều này bên trong não bộ. Việc này ảnh hưởng đến mức độ thấu cảm và khả năng tiếp nhận ngôn ngữ, cũng như khả năng dự đoán và tiên liệu. Tuy nhiên não bộ cũng có những hệ thống ức chế khiến con người không thực hiện hành động đó.

"Neuron gương cung cấp một nền tảng sinh học cho sự phát triển của văn hóa," theo lời Tiến sĩ Patricia Greenfield, nhà tâm lý học phát triển của UCLA. Nghiên cứu về bạo lực sẽ vẫn còn được tiếp diễn.


Tự sát

Bộ phim thường được lấy làm tư liệu nhất vì khơi gợi người ta tự sát chính là bộ phim The Deer Hunter (Thợ săn hươu), công chiếu vào năm 1978 với sự tham gia của các diễn viên Robert DeNiro, Meryl Streep, Christopher Walken, và John Voight. Bộ phim nói về ba người bạn đến từ Pennsylvania là Michael, Nick và Steven bị triệu tập tham chiến ở Việt Nam. Cả ba bị Việt Cộng tra tấn bằng trò chơi roulette Nga. Nick bị tổn thương tâm lý nặng nề nên đã ở lại Việt Nam, kiếm tiền bằng việc chơi trò chơi tự sát ấy. Cuối cùng, anh đã tự giết chính mình.

Kết quả hình ảnh cho the deer hunter

Nhà nghiên cứu Loren Coleman thu thập nhiều vụ án tự sát được trình báo là lấy cảm hứng từ bộ phim này, dựa trên cách nạn nhân bắt chước cảnh phim nổi tiếng khi Nick diễn lại màn tra tấn của mình. Thêm vào đó, Coleman trích dẫn từ một nghiên cứu khác về việc phim ảnh ở rạp phim, quầy băng đĩa, hoặc chương trình TV có liên quan đến những vụ tự sát.

Trẻ em bắt chước cảnh roulette Nga nhiều khả năng chỉ là tò mò, nhưng những thiếu niên lớn hơn thường là do trầm cảm hoặc làm trò ra oai. Có một cảnh sát đã thực hiện cảnh phim ấy vào năm 1979. Rất nhiều nạn nhân đã tự bắn mình trước mặt người khác, thường là bạn bè hoặc người thân. Đa phần họ đều nhắc đến việc bộ phim đã ảnh hưởng đến mình.

Ví dụ, một bài viết năm 1980 trên báo Times-Picayune ở New Orleans có viết về việc một người đàn ông hai mươi ba tuổi Mickey Culpepper nói với người bạn, "Tớ sẽ đóng vai Deer Hunter" trước khi tự bắn vào đầu mình với một khẩu súng .38.

Tệ hơn, vào ngày 8 tháng 10 năm 1980, một người đàn ông bị bắt cóc gần Trung tâm Thương mại Thế giới và bị tra tấn bởi những kẻ dự định cướp tiền ông, chúng diễn lại cảnh tra tấn của Việt Cộng.

Kết quả hình ảnh cho the deer hunter

Những vụ tự sát liên quan đến phim ảnh cũng xảy ra ở những nước khác, được ghi nhận ở Phillippines, Phần Lan, Lebanon, và một số nơi khác, ngay cả một Đặc vụ Gián điệp đã tự bắn mình khi xem bộ phim này trên HBO. Anh ta vẫn sống sót sau đó.

Thường thì những vụ án này xảy ra khi nạn nhân uống rượu hoặc ra oai với người khác, nhưng một số vụ tai nạn xảy ra khi nạn nhân chỉ muốn trình bày một điều gì đó về cảnh phim ấy. Nhưng có một vụ án rõ ràng là giết người: một cai ngục ở Rhode Island bắn một tù nhân khi họ đang bàn luận về cảnh phim đó và hắn cũng đã lôi kéo những cai ngục khác chơi trò chơi với mình. Vậy nên dù là bạo lực với bản thân hay với người khác, bộ phim rõ ràng đã gây ảnh hưởng.

Việc phim ảnh bạo lực ảnh hưởng đến một số người nhất định và thôi thúc họ hành động là khá hợp lý. Từ câu chuyện gây ảnh hưởng đến mình, họ tiếp nhận những khuôn mẫu và hướng dẫn từ bộ phim, và đôi khi xem bộ phim là kim bài để giết người. Không phải ai cũng bị ảnh hưởng, nhưng trong số những người chịu ảnh hưởng, ta có thể khẳng định rằng có một "Hiệu ứng Bắt chước" khi hình ảnh bạo lực đeo bám một người quá dai đẳng đến mức họ quyết định làm theo những chi tiết khuôn mẫu ấy. Có phải bộ phim đã khiến họ giết người? Không, nhưng nó đã gợi cho họ ý tưởng và cách thức và cả nạn nhân? Ta có thể thấy rằng chuyện như vậy đã xảy ra và rất có thể sẽ tiếp tục xảy ra.



Cre: tamlyhoctoipham.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29: C29: 29. Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt (1)


Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt - Kỳ 1: Jack Đồ Tể


Những ác thú đầu tiên

Rất nhiều người vẫn cho rằng Jack Đồ Tể_tên sát nhân nổi tiếng ở Luân Đôn_chính là kẻ giết người hàng loạt đầu tiên trên thế giới. Quan niệm sai lầm này xuất phát từ việc điều tra và xâu chuỗi lại một loạt án mạng xảy ra tại thời điểm đó. Năm tội ác được quy cho "Jack bất trị" trong suốt sáu tuần lễ kinh hoàng của hắn ở Whitechapel, Luân Đôn; đây cũng là loạt tội ác liên hoàn đầu tiên diễn ra ở một thành phố lớn một cách quá nổi bật khiến nó thu hút sự chú ý của truyền thông trên toàn thế giới. Tuy nhiên, hãy đặt nó trong một bối cảnh phù hợp, có vậy chúng ta mới nhận thức đúng đắn về sự phổ biến của những tên sát nhân liên hoàn cũng như mức độ đa dạng trong phương thức và động cơ của chúng xuyên suốt chiều dài lịch sử. Một điểm chắc chắn là yếu tố văn hóa có ảnh hưởng nhất định đến biểu hiện của sát nhân liên hoàn, vì vậy việc nghiên cứu bối cảnh xảy ra vụ việc là vô cùng quan trọng.

Một trong những tên sát nhân liên hoàn đầu tiên mà sử sách lưu lại là Locusta, một phụ nữ chuyên giết người bằng độc dược_kẻ đã góp phần đưa bạo chúa Nero lên ngai vàng của đế chế La Mã. Năm 54 sau công nguyên, mẹ ruột của Nero thuê ả đầu độc hoàng đế Claudius, và Nero trở thành tân đế. Hắn cho phép Locusta tiếp tục những hành vi ác độc của mình, và ả ngày một điêu luyện, trở thành một ác thú giết người vì lợi ích cá nhân. Mãi tới khi Nero băng hà, ả mới nhận án tử hình thích đáng. Sau giai đoạn đó, quyền lực của các hoàng đế La Mã suy tàn dần, Cơ Đốc giáo lên ngôi và lan rộng khắp Châu Âu trung cổ. Rome và Constantinople đưa ra nhiệm vụ to lớn đầu tiên là đối đầu với những cuộc tấn công của tín đồ Hồi giáo quanh vùng Địa Trung Hải. Những quý tộc khát máu đã lợi dụng sự thiếu hụt trách nhiệm hình sự dành cho những con người đẳng cấp thấp để thỏa mãn những khao khát khủng khiếp của mình. Trong thời kì này, lãnh chúa phong kiến nắm toàn quyền và không ai dám thắc mắc gì về hành động của họ.

Gilles de Rais là một trong những người đàn ông giàu có bậc nhất nước Pháp giai đoạn nửa đầu thế kỉ 15.Hắn là một kẻ ủng hộ cuồng nhiệt của Joan of Arc, đồng thời cũng là cố vấn quân sự và bạn tâm giao. Hắn tin tưởng mạnh mẽ vào phép màu hiển nhiên của bà. Sau khi bà bị thiêu chết năm 1431, sự cuồng tín dành cho những điều huyền bí của hắn chuyển sang một hướng mới: hắn ta bị cuốn hút vào việc thực hiện những nghi lễ ma thuật liên quan tới hiến tế trẻ em. Hắn ta rõ ràng đã rất thích thú, và hắn cho người hầu thu thập trẻ em từ những gia đình nông nô để cưỡng bức và giết hại_phần lớn những hoạt động này diễn ra trong những bữa tiệc tối của hắn. Sau khi bị tra tấn và đe dọa khai trừ, hắn thừa nhận đã giết hại hơn 100 nạn nhân. Mặc dù những lời thú tội thu được khi tra tấn không quá đáng tin, sự thật là rất nhiều xương cốt được tìm thấy dưới các lâu đài của hắn.

De Rais có một bản sao, lần này là nữ giới, sau hắn hơn 100 năm. Đó là nữ bá tước Hungary Erzebet Bathory, sinh năm 1560. Mụ ta, cũng như De Rais, được ban một quyền hạn to lớn vì phẩm cấp quý tộc của mình. Khi mới 15 tuổi, ả được gả cho bá tước Nadasty, một kẻ tàn bạo nổi danh với cái tên "hiệp sĩ đen". Chính gã đã dạy cho ả cách đánh đập người hầu đến ranh giới sống chết. Sau khi gã chết năm 1604, Erzebet lại đưa những trận đòn tàn bạo và độc đoán đã học được tới một cấp độ mới: mụ ta bắt đầu tra tấn và xẻ thịt những thiếu nữ. Mụ ra lệnh cho hầu nữ quyến rũ trẻ con và phụ nữ trẻ đến để mụ có thể thỏa mãn ham muốn này. Mụ ta cắm ghim vào những phần nhạy cảm của cơ thể, cắt lìa từng ngón tay, lột da những cô gái đó bằng dao, hoặc đập nát khuôn mặt. Trong ngục tối, có những người còn bị trói trên những bức tường, nuôi béo rồi "vắt" lấy máu.


Truyền thuyết kể lại rằng Bathory từng tát một hầu nữ và bị dính máu lên tay. Mụ thấy chỗ da dính máu trông có trẻ trung lại hẳn. Để lấy lại tuổi trẻ, mụ ta thường xuyên tắm máu các thiếu nữ đồng trinh. Cho dù câu chuyện này có thật hay không, nữ bá tước luôn được biết đến rộng rãi như kẻ đầu tiên giết người với động cơ là máu. Nếu những ghi nhận trong hồ sơ là đáng tin cậy, mụ ta cũng là kẻ giết người có thủ pháp phong phú nhất.

Khi những kẻ giàu có, khát máu thưởng thức đặc quyền dành riêng cho đẳng cấp của mình; những điều mê tín lan truyền trong giai cấp nông nô Châu Âu lại cung cấp ý tưởng cho hành động tàn bạo của tầng lớp thấp. Nhà thờ Công giáo thống trị Châu Âu qua nhiều thế kỉ; mặc cho sự thật là khoa học đã phát hiện ra cách trái đất quay quanh mặt trời, cách cơ thể vận hành, cách trọng lực hoạt động; triết học mới được phát hành trong Kỉ Nguyên Khai Sáng, Luther dẫn đầu cuộc nổi dậy của đạo Tin Lành... Trong những khoảng thời gian đậm chất tôn giáo như thế_khoảng giữa 1573 và 1600_rất nhiều người đã bị truy tố vì tội là một "lycanthropy"_người sói.

Suốt một thời kì, 30000 vụ án như vậy được trình báo với nhà cầm quyền. Một số người còn tự cho rằng bọn họ bị nguyền rủa bởi sức mạnh của một loài vật; và các vụ án ăn thịt đồng loại hay quan hệ tình dục với xác chết, hoặc cả hai, đều rất phổ biến. Trong số những "người sói", đáng chú ý nhất là trường hợp của Gilles Garnier_kẻ đã biện bạch tại phiên xử là hắn ta nhận được một loại thuốc mỡ để biến thân thành sói, và khi đó hắn ta cảm thấy bị thôi thúc bởi khát khao đeo bám và giết hại trẻ em. Hắn xé xác bọn trẻ bằng răng và đem thịt về cho vợ mình nấu nướng. Năm 1573, hắn ta nhận hình phạt thiêu sống.

Người Đức cũng gặp vấn đề tương tự với Peter Stubbe, kẻ đã gieo rắc sợ hãi khắp đất nước suốt 25 năm dài. Theo những tài liệu để lại, hắn khai có sở hữu một cái chuông ma thuật hỗ trợ cho việc biến hình, và hắn cũng bám đuôi những đứa trẻ, bao gồm cả con trai ruột của hắn. Vợ và con gái của hắn cũng cùng tham gia, và cả ba đều bị kết tội giết người.

Một thế kỉ sau đó, trong suốt một thập kỉ, Marie de Brinvilliers ở Paris thuốc chết hơn 50 người. Năm 1680, Catherine la Voison, tình nhân của vua Louis 14 bị bắt với một thầy tu trong một nghi lễ đầy tai tiếng bao gồm hành vi hiến tế trẻ sơ sinh và uống máu. Số lượng nạn nhân của họ được cho là hàng trăm, cũng có thể lên tới hơn một ngàn.

Thủ pháp hạ độc rất thịnh hành suốt thời kì trung cổ. Năm 1719 ở Ý, La Tofania được cho là dính líu tới cái chết của hơn 600 nạn nhân. Ở Đức có Gessina Gottfried, kẻ đã hạ độc trót lọt trong suốt 13 năm. Có thể đã có rất nhiều tên sát nhân liên hoàn bằng độc chưa bao giờ bị bắt hay thống kê, bởi một số kẻ đã nâng kĩ năng hạ độc thành một loại nghệ thuật và đi làm thuê cho những giai cấp thượng lưu_những người luôn có nhu cầu xử tử bất cứ ai cản trở bọn họ hưởng thụ. Mãi đến thế kỉ 19, ngành độc chất học pháp y mới phát triển đủ để tìm ra dấu vết chất Arsenic trên thi thể. Nhưng hạ độc vẫn luôn là một cách giết người dễ dàng. Dù đã có thể phát hiện được Arsenic, vẫn còn rất nhiều chất độc khác nữa. Chính vì đặc điểm này mà sát nhân liên hoàn và độc chất học đã phát triển một mối quan hệ vô cùng phức tạp.

Sát nhân hàng loạt xuất hiện ở Mỹ trong hình thức nhóm anh em. Micajah và Wiley Harpe là hai kẻ chuyên đồ sát cả họ hàng lẫn người xa lạ ở cùng chúng trong hai vùng Kentucky và Tennesse. Số nạn nhân của chúng được cho là vào đâu đó giữa 20 và 40 người, bao gồm cả con ruột của chúng_bị giết hại ngay sau khi sinh_ trước khi chúng bị bắt và hành hình.


Sát nhân trong bối cảnh hiện đại:

Trở lại Châu Âu, cùng với sự phát triển tinh vi của những phát minh khoa học, công nghệ công nghiệp, phát minh y tế... xảy ra song song với những báo động về nguy cơ khi tôn giáo thống trị một cách độc tôn; một làn sóng nghiên cứu, thực nghiệm nổi lên trong cộng đồng y khoa tạo cơ hội cho một thể loại sát nhân hàng loạt mới ra đời. Y sĩ cần tử thi cho những cuộc thí nghiệm nhằm mở rộng hiểu biết về bệnh tật và giảng dạy bộ môn cấu tạo cơ thể cho sinh viên, vì vậy bọn họ ngầm khuyến khích hành vi đào trộm mộ. Những kẻ trộm mộ đã dần lão luyện kĩ năng làm "bốc hơi" một thi thể khỏi nấm mồ, nhưng một số kẻ còn năng nổ tiến một bước xa hơn nữa. Ở Scotland, William Burke và William Hare tìm ra một cách để cung cấp những thi thể trong điều kiện nguyên vẹn, hoàn hảo không dấu vết. Chúng kinh doanh một nhà nghỉ, rồi chuốt say khách trọ và đưa bọn họ vào một dụng cụ khóa họng, hoặc trực tiếp ngồi trên ngực nạn nhân trong lúc bịt chặt mũi họ. Trong 9 tháng, bọn chúng giết hại 16 nạn nhân, bán thi thể cho những bác sĩ cho tới khi bị bắt giữ năm 1828.

Trong khoảng thời gian này, nhiều kẻ hạ độc dần bị vạch trần: Helene Jegado_kẻ đã giết 23 người ở Pháp, trong khi ở vùng Channel, bác sĩ người Anh William Palmer hạ độc 14, và ở Đức Anna Zwanzinger giết chết 8. Mary Cotton mỹ miều dùng Arsenic để hạ sát con ruột, con riêng, chồng và mẹ. Đây cũng là thời kì nhiều người thường chết vì một căn bệnh mơ hồ gọi là "sốt dạ dày", và người thân có thể nhận tiền bảo hiểm. Vì thế, Mary Cotton dần nâng cao địa vị xã hội của mình bằng cách trục lợi hết gia đình này đến gia đình khác.

Cả trẻ con cũng có thể trở thành sát nhân máu lạnh. Toàn nước Mỹ đã thật sự kinh hãi bởi trường hợp của Jesse Pomeroy, 14 tuổi, bị bắt năm 1874 và được đặc biệt danh " Cậu bé quỷ dữ ở Boston". Sự tàn bạo của tội ác bao gồm tra tấn, cắt xẻ và giết hại những đứa trẻ khác. Cũng ở Boston, năm 1876, một kẻ tạp dịch ở nhà thờ tên Thomas Piper_sau này được đặt tên "Sát thủ gác chuông ở Boston"_ bị kết án. Hắn khai nhận 4 vụ giết người tàn bạo, một trong số nạn nhân là một đứa trẻ mới lên 5. Hắn tự bào chữa rằng hắn đã thực hiện tất cả dưới sự ảnh hưởng của loại thuốc gây ảo giác và thuốc phiện phổ biến thời đó. Lý do đó không đủ để gỡ tội cho hắn, và Piper bị treo cổ.

Cùng thời gian đó, "Ác quỷ Nebraska" cướp đi 9 mạng sống trước khi hắn bị vạch trần, bắt giữ và được biết đến với tên Stephen Richards năm 1879. Năm năm sau, ở Austin, Texas, 7 phụ nữ bị giết trong vòng một năm. Hung thủ chưa từng được tìm ra, và những bằng chứng, khi được xem xét lại, chỉ ra hung thủ có thể là một chính trị gia đầy quyền lực, kẻ tới nay chỉ được biết đến với biệt danh "Kẻ giết hại những cô hầu". Ba năm sau đó, một hiệp hội được thành lập chỉ để đối phó với một tên sát nhân khét tiếng khi những án mạng liên hoàn hắn gây ra được đưa ra ánh sáng. Những tác phẩm của Jack Đồ Tể.

Jack


Như ta đã thấy, rõ ràng là chàng "Jack đẫm máu" chẳng phải kẻ giết người hàng loạt đầu tiên. Tuy nhiên, theo các nhà "Jack Đồ Tể học", loạt án mạng được quy cho Jack là chuỗi án đầu tiên xảy ra ở một thành phố lớn một các rất thu hút sự chú ý của cảnh sát cũng như phương tiện truyền thông. Hơn 300 đầu báo khắp thế giới đã đưa tin về nó. Hắn có thể cũng là sát nhân liên hoàn đầu tiên có hành động giao tiếp với giới điều tra về tội ác của mình (nếu hắn thật sự là tác giả của những bức thư, điều mà cũng không ai chắc chắn). Vì chuỗi án mạng liên hoàn này khắc họa một cách súc tích hình ảnh một kẻ bị ham muốn cưỡng ép và liên tục lặp lại hành vi giết chóc_mà chúng ta sẽ có dịp nghiên cứu kĩ hơn ở các chương sau_bây giờ hãy xem xét kĩ chi tiết của trường hợp này.

Tại vùng Whitechapel, tận mút phía Đông của Luân Đôn, vụ việc bắt đầu vào một ngày thứ 6 , 31/8/1888, độ sau 1 giờ sáng. Polly Nichols, 42 tuổi, ra ngoài vì 4 xu lẻ. Xác cô được tìm thấy với cổ họng bị cắt đứt, váy kéo cao, chân đứt lìa và rất nhiều vết cắt ở bụng dưới. Trên cơ quan sinh dục của cô cũng có hai vết thương nhỏ. Dù vụ án rất tàn bạo, nhưng nạn nhân chỉ là gái điếm nên không thu hút sự chú ý nhiều.

Nạn nhân tiếp theo là Annie Chapman, 45 tuổi, được phát hiện một tuần sau đó vào buổi sáng 8/9. Váy cô cũng bị kéo qua đầu, dạ dày bị mổ toang, ruột quấn lên vai trái. Chân cô bị kéo banh, đầu gối bẻ ngoặc ra ngoài. Hung thủ dùng một vũ khí sắc bén, như dao mổ, để cắt họng cô gái tới gần đứt lìa. Những đồng xu và phong bì được sắp quanh cái xác, một nửa âm đạo và tử cung bị tên sát nhân cắt mang đi.

Sau đó, rất nhiều là thư được gửi đến văn phòng cảnh sát vào khoảng thời gian từ 17 đến 29 tháng 9, kí tên là "Jack Đồ Tể". Kẻ viết thư kêu ca rằng hắn "thất vọng vì gái điếm" và sẽ tiếp tục sát hại họ. Những lá thư đó có thể đến từ những phóng viên muốn thêm kịch tính cho bài viết, mặc dù vài chuyên gia cho rằng chúng là những đầu mối xác thực liên kết tới hung thủ. Dù sao đi nữa, biệt danh đó cũng được công nhận rộng rãi. Và cũng từ đó vụ việc bế tắc do không có vụ án nào xảy ra nữa.

Cuối tháng đó, vào ngày 30/9, hai nạn nhân bị tấn công vào cùng một đêm. Đồ Tể rạch đứt họng Elizabeth Stride, 45 tuổi, chỉ vài phút trước khi xác cô được tìm thấy, và chỉ trong chưa tới 1 giờ sau đó hắn giết và mổ bụng Catherine Eddowes, 43 tuổi, xác cô này cũng nhanh chóng được tìm thấy (cô chỉ cách nơi Stride bị hạ sát có 5 phút đi bộ). Rõ ràng là trong đêm đó, kẻ sát nhân đã trở nên táo bạo hơn, cũng như những biểu hiện bệnh lý tâm thần của hắn càng rõ rệt. Ở trường hợp của Eddowes, ruột bị lôi ra ngoài đặt ở vai phải; tử cung, một quả thật bị cắt rời mang đi và gương mặt bị khắc hình tam giác với vết dao khứa sâu vào hai bên má. Mí mắt cô cũng bị khía dọc, chóp mũi bị cắt rời.

Sau đó một lá thư "từ địa ngục" được gửi tới cục cảnh vệ Whitechapel cùng một chứng tích rùng rợn: nửa quả thận có dấu hiệu bị bệnh Brights disease_một chứng rối loạn mà Eddowes mắc phải. Trong thư, hung thủ nói rằng hắn đã rán và ăn phần còn lại. Lá thư này được cho là của tên sát nhân, hắn thậm chí còn đề nghị sẽ gửi "con dao đẫm máu" cho giới điều tra trong thời gian sắp tới. Hắn kết thư bằng một lời chế nhạo:"Bắt tao nếu chúng mày có thể."

Cảnh sát nhận ra bọn họ có một tên sát nhân đã nổi cơn thịnh nộ. Bọn họ lúng túng. Đoán rằng sẽ có biến cố xảy ra vào cả hai ngày 8 và 30 tháng 10_vì đây là hai ngày trong tháng 9 mà hung thủ gây án_họ tăng cường tuần tra. Tuy nhiên không có vụ án nào xảy ra vào tháng đó. Tuy vậy, suy đoán về thời gian của bọn họ không sai. Họ chỉ quá sớm.

Nạn nhân cuối cùng của Jack, cũng là người trẻ nhất, là Mary Kelly, 24 tuổi_ người phải hứng chịu cơn điên cuồng của tên sát nhân với mức độ nặng nề nhất. Ngày 8/11, người ta thấy cô mời một người đàn ông vào phòng. Mary kéo rèm để chuẩn bị, và tên hung thủ kéo ga giường phủ lên đầu cô, rồi đánh cô qua lớp vải. Hắn rạch toác cổ họng cô gái, xẻ dọc phần thân dưới, moi ruột ra, lột da chân và ngực. Máu văng tung tóe khắp phòng. Khi cảnh sát tới, họ tìm thấy một bên ngực của cô bị xẻo ra đặt trên bàn cạnh giường, cùng chóp mũi và đôi tai. Bụng cô bị khoét sạch, nội tạng vương vãi khắp giường, có những thứ bị ném vào tường. Quả tim bị cắt mang đi, thịt đùi và mông bị xẻo tới tận xương. Những bác sĩ ước tính cơn cuồng loạn này đã kéo dài tận hai giờ đồng hồ.


Cảnh sát điều tra rất nhiều nghi phạm, nhưng cuối cùng không ai bị kết án. Vài chuyên gia tin rằng có ít nhất hai nhân cách khác nhau trong tên sát nhân, một trước cái chết của Nichols, và một sau cái chết của Mary. Bất kể kết quả cuối cùng là thế nào, sự tàn bạo của Jack Đồ Tể cũng ghi dấu hắn như một tên sát nhân nguy hiểm, loạn trí và không biết ngừng nghỉ, trừ phi bị bắt giữ hoặc tự sát (vài nghi can đã thật sự tự sát hoặc bị tống giam). Tuy vậy, những vụ thảm sát có vẻ thật sự đã dừng. Cho dù Jack là ai, hắn cũng đã trốn thoát, và sự bí ẩn về danh tính của hắn đã khiến hắn nổi tiếng liên tục trong một thế kỉ sau đó.

Jack đẫm máu cũng gợi cảm hứng cho rất nhiều kẻ bắt chước ở khắp nơi, như Moscow, Nicaragua, Vienna. Có nhà nghiên cứu tin rằng Jack đã tới Mỹ và trở thành một trong hai "Quái vật tháp chuông" ở San Francisco. Cũng vì vụ việc này, sinh viên y khoa Theodore Durrant bị bắt và kết án.

Sau khi cơn sốt Đồ Tể lắng dịu, câu chuyện về một tên sát nhân khác lại nổi lên. H.H.Holmes bị bắt vì tội ác ở Philadelphia, và cũng từ đây một chuỗi án mạng liên hoàn do hắn gây ra bị vạch trần. Herman Webster Mudgett, được biết đến với cái tên H.H.Holmes, đã xây dựng một "lâu đài" ở Chicago vào năm 1893_thời gian hội chợ thế giới đang phát triển. Hắn cho những phụ nữ trẻ thuê phòng, nhốt bọn họ bên trong rồi xông hơi gas cho tới chết trong khi hắn quan sát toàn bộ sự việc. Sau đó, hắn trượt thi thể kẻ bất hạnh trên những cái máng đặc biệt xuống hầm, nơi hắn sắp đặt sẵn một lò mổ khủng khiếp. Tại đó, hắn hoặc thiêu bọn họ ra tro, hoặc phân hủy họ trong những vại axit lớn, hoặc lọc thịt khỏi xương rồi bán hài cốt cho những trường y. Hắn tự thú đã giết 27 người, dù sau đó lại hắn chối bỏ, nhưng vài chuyên gia tin rằng số nạn nhân của hắn lên tới hơn một trăm.

Điểm đặc biệt nhất về H.H.Holmes nằm ở "lâu đài" mà hắn xây dựng. Trong đó, những nhân viên điều tra tìm thấy những buồng ngủ với lỗ nhìn trộm, tường đệm, ống gas, vách trượt, lỗ thông hơi mà Holmes có thể điều khiển từ phòng mình. Tòa nhà có những lối đi bí mật, hành lang xoay vòng, tầng giả, phòng với những công cụ tra tấn và dụng cụ phẫu thuật đặc biệt. Nhiều khách tham quan muốn mua vé để tham quan nơi này, nhưng căn nhà đã bị đốt trụi. Holmes bị xử tử.

Jack thuộc nhóm mà ngày nay chúng ta gọi là những tên sát nhân ham muốn_những kẻ bị kích thích bởi việc giết chóc.



Cre: ver1.tamlyhoctoipham.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30: C30: 30. Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt (2)


Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt - Kỳ 2: Dục Vọng

Sát nhân dục vọng là những kẻ cảm thấy hưng phấn bởi hành vi hoặc sự kiện mang tính giết chóc, một số nhà tội phạm học gọi họ là những tên sát nhân sung sướng. Động cơ của họ thường được hình thành từ ảo tưởng diễn ra ở lứa tuổi dậy thì với bất kỳ đồ vật gì từ quần lót đến xác chết động vật hoặc bộ phận cơ thể. Ví dụ, Jerome Brudos ở bang Oregon, bị hấp dẫn bởi bàn chân của phụ nữ, giày đế cao và đồ lót nữ giới. Anh ta cảm thấy thỏa mãn với việc đánh cắp giày, áo ngực, và quần lót từ những người hàng xóm, nhưng anh ta thậm chí rình mò cơ hội để thỏa mãn trí tưởng tượng của mình hơn nữa – bằng việc giết người và giấu xác chết chỉ còn một chân. Một trong những tên sát nhân dục vọng kỳ lạ nhất là Sylvestre Matushka, kẻ đã dàn dựng nên vụ lật tàu hỏa ở Hungary vào những năm 1930, nhằm mục đích duy nhất là để thỏa mãn nhục dục. Hắn ta cảm thấy thích thú với hình ảnh cơ thể người bị tàn phá bởi máy móc, nhưng hắn ta bị bắt trước khi kịp hoàn thành một kế hoạch lộ liễu là tạo một vụ lật tàu mỗi tháng.

Chúng ta đã từng xem cách mà Jack the Ripper tìm kiếm thú vui bằng việc đâm chém và cắt xẻo. Hãy cùng phân tích một số trường hợp tìm sự thỏa mãn bằng cách hãm hại người khác, cùng với những giả thuyết giải thích tại sao họ lại hành động như vậy.

NÔ LỆ TÌNH DỤC

Elizabeth Kenyon, một giáo viên ở Miami, Florida, mất tích vào ngày 4 tháng 3 năm 1984. Cô không phải là loại người vô trách nhiệm và nếu cô ấy có lên kế hoạch để đi đâu đó thì cô hẳn đã thông báo với ai khác. Bố mẹ cô ấy soạn một bản thông cáo mất tích, nhưng họ nghi ngờ một người bạn trai cũ của Elizabeth mà cô đã từng từ chối kết hôn-Christopher Wilder, một doanh nhân với một xí nghiệp xây dựng đồng thời là nhiếp ảnh gia. Có người nhìn thấy anh ta và Elizabeth gặp nhau tại một trạm xăng. Anh ta cũng có tiền án về lệch lạc tình dục. Thật vậy, anh ta có liên quan đến một vụ phụ nữ mất tích khác, Rosario Gonzales, trong chính khu vực đó. Cô ấy biến mất vào ngày 26 tháng 1 và được nhìn thấy tại công ty tại một trường đua.

Wilder, 39 tuổi, nhận ra rằng anh ta đang bị điều tra. Anh ta rút tiền, nhảy lên chiếc xe mui kín 1973 Chrysler New Yorker, lấy trộm thẻ tín dụng của đối tác, và trốn đi. Nhưng anh ta không chỉ chạy trốn. Trên đường đi, anh ta ám sát những phụ nữ trẻ.

Thời thơ ấu của Wilder tại Úc khá an ổn, nhưng hắn đã thực hiện hành vi nhìn trộm qua cửa sổ ở tuổi vị thành niên sớm và bị bắt cùng với một nhóm các bạn tuổi teen tham gia băng đảng hiếp dâm của một cô gái trên bãi biển Sydney. Kinh nghiệm đó dường như tăng thêm một số ý tưởng cho trí tưởng tượng, không giống như sự kiện lần trước, lần này anh ta tưởng tượng những cô gái đang bị sốc điện trong khi hắn đang quan hệ tình dục với họ. Nhà trị liệu lưu ý về nhu cầu thống trị phụ nữ và ao ước khiến phụ nữ trở thành nô lệ cho anh ta.

Năm 1969, Wilder chuyển đến Florida, nơi anh ta đã làm rất tốt cho bản thân mình
trong thời kỳ bùng nổ ngành điện và xây dựng. Anh ta gặp vấn đề vì bị cáo buộc ép một cô gái quan hệ tình dục bằng miệng và sau khi đến tòa án, một bác sĩ thẩm vấn anh ta và đưa ra ý kiến rằng anh ta không an toàn trong một môi trường làm việc thiếu trật tự. Nhà tâm thần học đề nghị chữa trị có giám sát, nhưng sau đó ban chủ tọa tòa án tuyên bố trắng án. Ba năm sau, anh ta hãm hiếp một cô gái. Cô đã kiện anh ta, nhưng luật sư bào chữa đã giảm hình án xuống hình thức quản chế kết hợp với điều trị.

Trên đường chạy trốn, Wilder dừng lại đủ lâu để bắt một cô gái từ một cửa hàng shopping, dụ dỗ cô với lời hứa về một sự nghiệp người mẫu. Cuối cùng, cô đã bị giết chết. Đến khi họ tìm thấy cơ thể của cô, Wilder đã bắt cóc và giam giữ một cô gái khác trong một căn phòng khách sạn. Tại đó, hắn đã tra tấn cô ta bằng cách gây sốc điện. Hắn yêu cầu cô thực hiện nhiệm vụ của mình là khỏa thân đứng trước mặt hắn và khi cô ấy không làm đúng điều đó, cô sẽ bị cảnh cáo, và chịu hình phạt sốc điện. Cô gái tìm cách trốn vào một phòng tắm, khóa trái cửa và tạo ra tiếng ồn khiến Wilder bỏ chạy.


Tuy nhiên, khi đang trên đường chạy trốn, anh ta đã sử dụng thẻ tín dụng của đối tác để đặt phòng và đôi khi giết chết vài phụ nữ chỉ để ăn cắp chiếc xe của họ.

Anh ta cũng tiếp tục tìm các cô gái trẻ hấp dẫn để chọn nạn nhân của mình. Trong một sự cố tại một show thời trang, anh ta chọn một cô gái, tự cho mình là một thợ chụp ảnh, và bắt cóc cô. Ngày 03 tháng 4 năm 1984, FBI đặt Wilder vào danh sách "Mười Kẻ Truy Nã" và ban hành một lệnh cảnh báo trên toàn quốc.

Wilder bị ám ảnh cưỡng chế thực hiện hành vi giết chóc.. Đó là một dạng của chứng nghiện tình dục. Anh ta là một gã đàn ông da trắng quyến rũ ở tuổi ba mươi, được thúc đẩy bởi những tưởng tượng tình dục và bị kích thích bởi một loại nạn nhân duy nhất, trong trường hợp này là phụ nữ trẻ đẹp những người có tiềm năng trở thành người mẫu. Do đó, hắn được mệnh danh là "The Beauty Queen Killer."

Một người nào đó đã công bố hình ảnh mà Wilder để lại để nghiên cứu, trong đó bao gồm phụ nữ anh không biết và trẻ em tuổi xuân thì.

Anh ta nói với bạn gái sở thích chụp ảnh của anh là một căn bệnh, nhưng anh đã phải làm điều đó.

Nhưng kỳ lạ, Wilder chọn một cô gái mười bảy tuổi, Tina Marie, từ một cửa hàng và buộc cô phải giúp hắn ta thu hút người khác. Họ bắt cóc một cô gái tại bang Indiana và đưa cô ta đến New York, nơi hắn đã cố gắng giết và để mặc cô ta tới chết, nhưng cô ấy vẫn sống sót. Hắn giết một người phụ nữ khác vì muốn cướp chiếc xe của cô ta. Sau đó, hắn đưa Tina Marie tới sân bay và lái xe đi một mình. Một thời gian ngắn sau, hắn đã bị cáo buộc bởi một cảnh sát tiểu bang New Hampshire, và trong một cuộc đấu súng, Wilder đã chết. Một cô gái mà anh ta đã bắt cóc vừa kịp trốn thoát bằng cách nhảy ra khỏi cửa xe.

Người ta phát hiện ra vật dụng của hắn gồm còng tay, những cuộn băng keo, dây thừng, túi ngủ, một loại dây được thiết kế đặc biệt và cuốn tiểu thuyết của nhà văn người Anh John Fowles có tên là Kẻ sưu tập (The Collector). Xuất bản năm 1963, truyện khắc họa một nhà côn trùng học cô đơn không chỉ sưu tập các loài bướm mà còn bắt giữ và giam cầm một sinh viên mĩ thuật xinh xắn tên là Miranda. Hắn giữ cô trong tầng hầm của chính mình. Thấy việc mình làm không có gì sai trái, hắn đối xử với cô rất tốt, hi vọng cuối cùng cũng giành được tình yêu của cô, sẵn sàng cho cô bất cứ thứ gì cô muốn, ngoại trừ sự tự do. Trong khi gia tăng mong muốn được hắn chú ý, vì hắn là người duy nhất cô thấy, cô đồng thời cũng xem hắn như là một quái vật đang giam cầm mình. Tuy nhiên, cô thuộc về hắn, và sự tưởng tượng về quyền sở hữu này không phải là hiếm ở những kẻ bạo dâm tàn ác. Những nhà trị liệu qua khoảng thời gian điều trị cho Wilder đã nhận thấy rằng hắn rất yêu cuốn sách này và thậm chí đã thuộc lòng nó.

Bên cạnh các nạn nhân hắn đã giết trong cuộc vui của mình, họ đã liên kết Wilder với nhiều vụ án cưỡng hiếp và giết người, bao gồm cả những vụ tại Úc. Hắn ghi nhận 8 nạn nhân chính thức nhưng hắn có liên quan đến rất nhiều nạn nhân mà con số cuối cùng không ai có thể biết.


Hắn là một minh chứng sống cho thực tế là có một số kẻ sát nhân hàng loạt sử dụng nhiều cách giết người khác nhau. Hắn làm nạn nhân nghẹt thở, đâm bằng dao hay dùng súng bắn. Nhiều người bị hành hạ tra tấn nhưng một số thì lại bị giết nhanh chóng để hắn có thể cướp đi ô tô.

Robert Hansen ở Alaska không giống như Wilder có lẽ vì Hansen tưởng tượng phong phú hơn. Vào tháng 6 năm 1983, một gái mại dâm ở Anchorage đã đến sở cảnh sát để khai báo rằng một khách làng chơi có mái tóc đỏ đã tra tấn và hãm hiếp cô, hắn còn lên kế hoạch cho việc đưa cô đến một cái cabin biệt lập nhưng may mắn rằng cô đã trốn thoát được. Cô khẳng định đó là nhà của thợ làm bánh ở địa phương Robert Hansen, nhưng hắn khăng khăng rằng cô đã nói dối. Tuy nhiên, phần còn lại của một số phụ nữ xuất hiện ở các vùng bỏ hoang, bị bắn hay bị đâm, hầu hết đều là gái mại dâm. Khi cảnh sát khám xét nhà hắn, họ đã phát hiện ra khẩu súng mà đạn của nó trùng khớp với những viên đạn được lấy ra ở những phụ nữ đã chết, cũng như các đồ trang sức và ID bị mất của họ. Hansen đã thú tội và thừa nhận sử dụng các nạn nhân như là trò chơi. Phục vụ cho ham muốn tình dục, hắn sẽ thả họ ra, trần truồng trong các vùng hoang vu và săn lùng họ. Mặc dù hắn thừa nhận 17 vụ giết người nhưng hắn chỉ bào chữa cho 4 vụ.

Làm thế nào kẻ giết người phát triển được ý tưởng như những hành vi bạo lực ghê tởm?

SỰ VÔ TẬN CỦA BÓNG TỐI

Trong Những giấc mơ đen tối (Dark Dreams), cựu hồ sơ viên của FBI Roy Hazelwood, người dùng toàn bộ thời gian của mình làm việc tại Đơn vị nghiên cứu hành vi (Behavioral Science Unit) về tội phạm tình dục, đã có bài thảo luận về sự hình thành của các tưởng tượng bạo lực. Ông tin rằng điều quan trọng là phải đánh giá cao trí tưởng tượng vô hạn của con người, tức là những kẻ phạm tội có thể có thể mơ tưởng không giới hạn. Vì vậy, như Hazelwood đã nói, đó là sự pha trộn vô hạn về số lượng kiểu tội phậm tình dục. Một số kẻ phạm tội bị thu hút bởi các đứa trẻ tuổi dậy thì, một số là thanh thiếu niên hoặc người già, một số khác thì không có sở thích gì đặc biệt. Một số kẻ muốn có nạn nhân phải chết trước khi thực hiện tiếp hành vi, một số thì thích nạn nhân bất tỉnh hoặc muốn thấy họ tỉnh táo, đấu tranh hoặc sợ hãi. Không có chuẩn mực đúng hoàn toàn trong mọi trường hợp.

Hazelwood thấy rằng tội phạm tình dục bắt nguồn từ trong tâm trí, nhưng một khi tầm quan trọng của việc hiện thực hóa trí tưởng tượng được cân nhắc, quan tâm thì kẻ phạm tội sẽ quyết định thực hiện điều đó khi có cơ hội. Chúng cũng có thể tìm kiếm hoặc tự mình tạo ra cơ hội. Sau khi thực hiện hành vi, chúng thường hợp lý hóa lý do tại sao hành vi đó được chấp nhận.

Tấn công tình dục thường được thúc đẩy bởi sự gây hấn, quan hệ tình dục, hoặc quyền lực và trí tưởng tượng mà thông qua đó những ham muốn mạnh mẽ này được biểu lộ phát triển ở tuổi dậy thì, ảnh hưởng được tạo ra từ việc nỗ lực phát triển tình dục. Chúng tác động đến kiểu nạn nhận mà kẻ phạm tội lựa chọn, cách tiếp cận, hoạt động tình dục ưa thích, nghi thức đặc biệt và quyết định có hoàn tất hành vi giết người hay không.

Hazelwood xem tội phạm giết người là tội phạm nhất thời hoặc là nghi thức. Những kẻ tội phạm nhất thời là kẻ cơ hội và có trí thông minh và tiềm lực kinh tế thấp hơn và hành vi tình dục của chúng thường phục vụ cho nhu cầu cung cấp năng lượng và giải tỏa giận dữ. Mặt khác, những kẻ tội phạm giết người mang tính nghi thức tự cho phép mình hưởng thụ sự vui sướng của lệch lạc tình dục (hành vi tình dục bất thường) và hành vi cưỡng bức để đáp ứng cho một số nhu cầu tâm lý. Chúng có sở thích tình dục cụ thể và sẵn sàng dành thời gian, tiền bạc và năng lượng để theo đuổi mục đích tình dục của chúng. Khi trung tâm cuộc sống của chúng xoay quanh việc làm này, chúng học cách nói dối và ngụy tạo để giữ cho nó hoạt động một cách bí mật và che giấu khỏi mọi người xung quanh. Những kiểu người này có xu hướng ghi lại những tưởng tượng và/ hoặc các hành vi của mình để có thể hồi tưởng lại. Chúng có khả năng tưởng tượng phong phú, phức tạp và đầy tính tương tác.


Ham muốn tình dục bất thường đã được xếp vào loại bệnh tâm thần được gọi là lệch lạc tình dục và là những ham muốn mãnh liệt tái diễn đều đặn hoặc những hành vi liên quan tới các đối tượng, tình huống hoặc hành động bất thường. Cẩm nang các biểu hiện và thống kê (The Diagnostic and Statistical Manual), hoặc DSM-IV-TR đã liệt kê và miêu tả các biểu hiện của chúng. Trong số đó có khuynh hướng thích phô trương (cố tình để lộ bộ phận sinh dục), tôn sùng đồ vật (bị kích thích tình dục bởi một vật nào đó, ví dụ một con búp bê), gây ra hoặc thèm muốn sự đau khổ hay sự nhục mạ và khuynh hướng thích quan hệ tình dục với trẻ em (bị kích thích tình dục bởi trẻ em). Mặc dù đây là những rối loạn tâm lý tình dục, không phải tội phạm nhưng họ thường liên kết chúng với loại tội phạm tình dục, nhất là khi người ta tin là thế. Chúng ta sẽ nghiên cứu chi tiết những điều này ở chương 9 nhưng cách mà tưởng tượng thôi thúc thực hiện hành vi giết người, chúng ta sẽ xét ở một trường hợp giết người hàng loạt theo nghi thức sau.

Vào năm 1995, một phụ nữ trẻ ở Douglas County, tiểu bang Washington, gọi điện cho mẹ và em gái mười bốn tuổi của mình nhưng họ không hề trả lời cuộc gọi nào. Cô đi kiểm tra và thấy cả hai đều bị sát hại. Amanda, e gái của cô, bị đâm bằng dao và đầu bị đánh bằng dùi cui, rồi bị cưỡng hiếp và sau đó kẻ giết người còn nhét một cây gậy bóng chày sâu vào trong âm đạo của cô. Không những thế hắn còn moi ruột của cô, đặt lớp da từ cơ quan sinh dục lên phía mặt cô. Người mẹ, tên là Rita, đã bị đâm ba mươi mốt lần, bị cắt xén một cách đồi bại, ngực của bà bị cắt rời và đặt cạnh đứa con gái nằm ở một phòng khác. Vùng sinh dục của bà bị cắt và nhét đầy miệng. Cả hai nạn nhân đều bị đặt ở tư thế kích dục.

Khi các nhà điều tra kiểm tra một báo cáo có liên quan, họ biết được rằng có một người đàn ông tên là Jack Owen Spillman III đã bị bắt vào sáng hôm đó cách không xa hiện trường vụ án và hắn bị nghi ngờ là một tên trộm. Trong hồ sơ ghi chép, hắn có tiền án về tội hiếp dâm và trộm cắp. Trong thời gian bị giám sát, Spillman đã tung ra các sản phẩm mà khi thu hồi người ta phát hiện hóa ra đó là 1 chiếc mặt nạ trùm đầu (dành cho người trượt tuyết) dính đầy máu. Máu trên đó khớp với máu của một trong số các nạn nhân. Có máu ở gần khu vực miệng, như thể hắn muốn đặt miệng mình vết thương của nạn nhân. Sau khi thu thập thêm thông tin, họ phát hiện bằng chứng cho thấy Spillman đã theo dõi Amanda hàng tuần liền. Hắn bị bắt và sau đó lại xuất hiện thêm các bằng chứng chứng mới tỏ hắn có liên quan đến vụ việc. Là một kẻ làm nghề mổ thịt, hắn không có bằng chứng ngoại phạm. Hắn dường như có lịch sử về việc tra tấn và giết mổ động vật.

Spillman đã thú nhận việc giết người kép và nạn nhân thứ ba là một cô gái bị mất tích. Khi nạn nhân được tìm thấy, người ta phát hiện cô bị chôn vùi ở tư thế tương tự như vị trí Spillman đã đặt Amanda trên giường. Spillman đã nghiên cứu về các tên giết người khác và học được cách tránh bị bắt, như cạo lông trên cơ thể mình. Hắn tưởng tượng ra cách tra tấn những cô gái và hắn muốn cắt rời tim của nạn nhân ra để ăn. Hắn nghĩ mình là một người sói, vì vậy hắn theo dõi "con mồi" như cách một con quái thú đói khát có thể làm. Hắn từng kể với bạn tù rằng hắn đã đào bới tìm thi thể nạn nhân đầu tiên của mình và quan hệ tình dục nhiều lần với cái xác. Hắn phải nhận 3 tội danh giết người nghiêm trọng và chịu án tù chung thân.

Spillman hoàn toàn không phải là kẻ duy nhất như vậy. Hắn giống một số sát nhân ở thế kỉ XIX được ghi chép lại bởi Richard von Krafft Ebing – một nhà thần kinh học người Đức, bác sĩ tâm lí tại Feldhof Asylum và giáo sư ngành tâm thần học tại Strasbourg. Ông đã công bố các trường hợp của lệch lạc tình dục trong cuốn Tâm lý tình dục (Psychopathia Sexualis) và Tham khảo đặc biệt cho khuynh hướng tình dục gây ra các các triệu chứng trái ngược (Especial Reference to the Antipathic Sexual Instinct) : Nghiên cứu tư duy pháp y (A Medico-Forensic Study).

Có một khắc họa về Vincenz Verzeni, hắn 22 tuổi, bị buộc tội vào năm 1872 vì tội danh giết người và cố ý giết người không thành. Vụ án của hắn bắt đầu từ việc hắn cắt xẻo một cô gái 14 tuổi ở dọc một đường mòn ở vùng quê. Ruột của cô bị cắt rời và ném ra xa, một phần chân bị cắt ra và miệng của cô bị nhét đầy đất. Một phụ nữ khác ở vùng đó cũng bị hành hạ tương tự vậy và một phần ba phụ nữ cũng chung số phận nhưng may mắn sống sót trước bàn tay của Verzeni. Hắn thừa nhận tội lỗi của mình, và nói rằng việc giết người và cắt rời nạn nhân đã kích thích tình dục nơi hắn. Hắn rất thích cảm giác được đặt tay quanh cổ một ai đó. Hắn thừa nhận nếu hắn đạt đến cực điểm của khoái cảm trước khi họ chết thì họ được phép sống. Nếu không, họ phải chết. Hắn còn nói rằng hắn đã hút máu từ thi thể và các bộ phận trên cơ thể mà hắn đã cắt rời và đem đi, bởi vì, như hắn nói, hắn rút được cảm giác mạnh mẽ từ việc làm đó.

Tình dục tưởng tượng có nhiều hình thức nhưng mãnh liệt và cực đoan nhất là khi liên quan tới việc giết người. Khi gắn vào cuộc chạy đua tâm lí thì nhu cầu được đáp ứng cứ lặp đi lặp lại, tạo ra một loại động cơ giết người hàng loạt cưỡng bức.

NHU CẦU HÃM HẠI

Nhà tâm thần học Ethel Person nói rằng chúng ta dựa vào sự ảo tưởng để tạo ra cuộc sống của chính bản thân. Sự ảo tưởng là một phương tiện để chúng ta chọn cách ứng xử, cách nhìn về bản thân mình và mọi vật xung quanh, nghiệm thử các khả năng và xoa dịu bản thân khi cần thiết. Chúng ta còn dùng nó để "thay đổi" quá khứ và tạo lại tiểu sử bản thân. Sự ảo tưởng vốn đã được phác họa từ những trải nghiệm đầu đời, bao gồm cả trải nghiệm từ gia đình và sự ảnh hưởng của nền văn hóa đặc thù của chúng ta. Chúng cung cấp một thứ " ngôn ngữ của sự khát khao " qua hình ảnh, hành động và cả khát vọng. Một số là " ảo tưởng có tổ chức ", nó giúp giải quyết các mâu thuẫn và vạch ra thân phận của ta. Ảo tưởng sát hại, thật ra lại là bình thường khi chúng ta mâu thuẫn với ai đó, nhưng với một số ít, việc sát hại có thể trở thành một phương án chính để giải quyết tất cả các vấn đề. Khi kết hợp với các liên tưởng khiêu dâm, một tên tội phạm xâm hại tình dục được tạo ra.

Nạn nhân của thể loại sát nhân này được lần đầu biết đến vào ngày 13 tháng 5 năm 1984, tại Đông Nam Tampa, Florida. Người nạn nhân nữ được phát hiện trong tình trạng lõa thể, mặt úp xuống đất, cổ tay cô bị trói sau lưng và một dây thòng lọng được quấn ba lần quanh cổ cô ấy. Bị đánh vào mặt trước khi chết, khớp háng bị gãy để đặt chân cô ta khớp với xác, điều đó chỉ ra rằng sau khi hạ sát, kẻ sát nhân đã giao cấu với nạn nhân. Khi nạn nhân được xác nhận là Ngeun Thi Long, giới chức trách đã điều tra được cô ta là một vũ nữ nghiện ma túy ở Tampa.


Hai tuần sau, Micelle Simms, một gái điếm nghiện ma túy, được tìm thấy đã chết với sau lưng chỉ được che bởi một áo thun xanh bị xé toát ra và vén lên, tay thì bị trói lại bởi tay áo, cổ tay bị trói chặt và được đặt đằng sau, một sợi dây được quấn ba vòng quanh cổ. Cô ấy đã bị đâm, bị bóp cổ, bị hiếp và bị đánh đến chết. Cả hai hiện trường đều phát hiện cùng một cách thắt cổ và sợi vải thảm đỏ ?, điều này dẫn đến kết luận cả hai vụ án đều cùng một tên gây ra. Mẫu tinh dịch đã xác định được nhóm máu của hắn và tóc được tìm thấy ở xác nạn nhân thứ hai cho biết hắn là người gốc Âu.

Vào ngày tám tháng sau, một vụ giết người với các đặc điểm trên lại xảy ra, một vụ nữa vào tháng chín, 4 án mạng liên tiếp vào tháng mười và một vụ vào tháng mười một. Những nạn nhân sau có mối liên hệ đến sê-ri giết người hàng loạt này đã chết rất lâu trước khi họ được tìm thấy nên không thể tìm xác định được nguyên nhân chết, nhưng tất cả các nạn nhân đều có sợi thảm đỏ hoặc cùng một cách trói tay, sắp xếp xác và bóp cổ. Hầu hết nạn nhân là vũ nữ hoặc gái mại dâm.

Người ta thấy rằng sợi dây thừng ở cổ đã được quấn vào khi người nạn nhân còn sống, cùng với các cú đánh chết người, đã giết chết họ, điều đó cho thấy một lối sống tình dục lệch lạc, bệnh hoạn. Kẻ sát nhân này được tin là có ảo tưởng về việc thống trị phụ nữ. Dường như hắn là một tên hiếp dâm ham mang quyền lực quyết đoán cần phải làm vậy nhằm tự trấn an bản thân. Sự thoải mái thấy rõ với các xác chết, dựa trên cách hắn sắp đặt chúng và bẻ gãy xương khi khám nghiệm tử thi, chỉ ra một lịch sử dài các hành vi tách biệt với xã hội. Hắn được đoán là sẽ tiếp tục giết người, nhưng kẻ bệnh hoạn này đã phạm phải sai lầm khi để một nạn nhân sống sót, cô ấy đã cung cấp các thông tin cho cảnh sát đủ để tiến hành một cuộc bắt giữ.

Robert "Boby" Joe Long, ba mươi mốt tuổi và là người gốc Âu, biết rằng các bằng chứng đều chống lại hắn, nên hắn đã không chần chừ thú nhận mười cuộc giết người, cung cấp cho cảnh sát nơi giấu các xác chết chưa được phát hiện. Trước khi thú nhận tội ác, tên sát nhân nói rằng, hắn thường hay hồi đáp các quảng cáo rao vặt để tìm các nạn nhân ở nhà một mình nhằm hiếp dâm họ. Hắn được tin rằng đã hiếp dâm ít nhất năm mươi phụ nữ. Hắn biết cách làm sao để quyến rũ phụ nữ, mặc dù hắn thích làm chủ họ. Các nhà điều tra phát hiện rằng hắn đã bị nhiều cú đánh vào đầu, và một nhiễm sắc thể X dư ra đã tạo thêm một lượng estrogen bất thường trong khi giai đoạn dậy thì của tên bệnh hoạn này. Hắn đã phải chịu đựng những cơn đau đầu không rõ nguyên nhân và bị ám ảnh bởi tình dục. Khi tòa án Florida hoàn thành việc truy tố Bobby Joe Long, hắn đã phải chịu hai bản tử hình, ba mươi bốn án tù chung thân cộng với 693 năm tù. Nếu hắn không bị bắt, có lẽ hắn đã tiếp tục giết, hiếp và tra tấn.

Phái "yếu"

Mặc dù phần đông các nhà tội phạm học đều nói rằng phụ nữ không giết người để thỏa mãn tình dục cho nên không thể là tội phạm giết người vì tình dục, sự thật thì vẫn có một số tội phạm như vậy. Nannie Doss, "Giggling Grandma", đã sát hại bốn người chồng từ năm 1929 đến 1953, hai người con, hai chị em, một người cháu và mẹ ả. Ả nói rằng ả thích làm việc đó.Karla Homolka và Rosemary West, người đã giết chồng của chúng, theo hồ sơ vụ án thì cả hai đều có "experience erotic". Để biết rõ thêm, chúng ta hãy nhìn vào những nữ sát nhân vì tình dục tiêu biểu sau.

Chiều ngày 5/4/1905, một phụ nữ đi vào bệnh viện Paris với một đứa bé có vẻ như bị nghẹt thở. Đứa trẻ bị bỏ lại trong sự chăm sóc của người thân, Jeanne Weber. Trên thực tế, đã có bốn đứa trẻ bị chết rõ ràng do ngạt thở nằm trong số người thân của gia đình này, và tất cả trong số chúng đều có dấu đỏ ở cổ. Không chỉ có vậy, ba đứa con của Weber đã chết, và hai trẻ em đã thực sự qua đời trong khi cô ta chăm sóc chúng. Vì vậy, cô ta bị buộc tội giết người. Tuy nhiên, không có bằng chứng chứng minh hành vi sai trái, cho nên cô ta đã được trả tự do. Không lâu sau đó, một đứa trẻ khác đã chết vì "co giật" trong sự chăm sóc của cô ta. Một lần nữa, Weber bị bắt, và một lần nữa được tuyên bố trắng án. Tuy nhiên, cô ta không thể giữ kín được đôi tay tội lỗi của mình. Năm 1908, cô ta thực sự bị bắt vì tấn công con trai của một chủ quán trọ. Các bác sĩ đã chuyển cô ta đến một bệnh viện tâm thần, và lưu ý rằng động cơ giết người của cô ta xem ra là bắt nguồn từ sự mất tự chủ, kích thích tình dục. Kì lạ thay, Weber đã chết bằng cách cố gắng tự siết cổ chính mình.

Có thể coi cô ta là một bệnh nhân tâm thần, nhưng một tên sát nhân khác, Jane Toppan, rõ ràng rất thích thú với cái chết của những nạn nhân. Từ khi còn là một đứa trẻ, cô ta đã là một kẻ dối trá và chuyên gây rắc rối, nhanh đổ lỗi cho người khác và đầy ắp sự ghen tỵ. Cô ta trở thành một y tá và sử dụng vị trí đó để thử nghiệm trên các bệnh nhân. Cô ta sử dụng morphine để làm chậm nhịp thở và kết giao với trẻ em, sau đó cô ta dùng atropine tạo ra các phản ứng ngược lại, gồm cả co giật.

Vào năm 1891, khi Toppan đã 34 tuổi, cô thành y tá riêng theo yêu cầu, nhưng có một bệnh nhân đã nhớ lại một trải nghiệm kì lạ. Amelia Phinney đã bị ngấm thuốc của Toppan và đi vào trạng thái gần như ngẩn ngơ trong vô thức. Y tá Toppan sau đó bước vào giường cô ấy và ôm chặt cô khi cô đang trong trạng thái mơ hồ. Toppan cố gắng đưa cho cô thêm thuốc nhưng cô từ chối. Rồi có chuyện gì đó khiến Toppan phải rời đi nhanh chóng. Sau này người ta mới biết đó là cách làm việc hiệu quả của Toppan. Cô ta đã đạt được khoái cảm tình dục từ trải nghiệm cái chết của nạn nhân khi cô cho họ dùng thuốc và ôm chặt họ.

Năm 1899, Toppan trở nên cẩu thả. Cô ta đầu độc em gái, em rể, một người bạn và toàn bộ gia đình Alden Davis. Tuy nhiên, với người cuối cùng trong bốn nạn nhân, cô ta hành động khác trước đây. Thay vì nằm và ôm nạn nhân trên giường, Toppan đánh thức đứa con trai 10 tuổi của nạn nhân và ôm cậu bé trong vòng tay mình trong khi người mẹ từ từ trút hơi thở cuối cùng. Những cái chết đó khi được điều tra đã chỉ ra Jane chính là điểm chung. Trong suốt thời gian đó, cô ta đầu độc thêm 2 người và cố gắng đầu độc người thứ 3. Vào ngày 29/10/1901, Jane bị bắt khi gần như đầu độc thêm 2 người.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31: C31: 31. Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt (3)


Chương 3: QUYỀN VÔ HẠN

Hãy bắt đầu với một lá thư gửi các nhà cầm quyền đang theo dõi vụ "Beltway Spiners" năm 2002. Nó là cuộc nói chuyện thứ hai yêu cầu sự thừa nhận quyền lực vô hạn của chúng trong suốt 3 tuần cuồng sát từ Rockville, Maryland đến Washington, DC và xa hơn nữa. 13 người bị bắn ngẫu nhiên với một khẩu Bushmaster .223 và 10 người trong số họ đã chết, trong đó một cậu bé ở sân trường bị thương nặng. Những kẻ cuồng sát đã yêu cầu 10 triệu đôla để dừng bắn trước khi bị phát hiện đnag ngủ trong một chiếc Chevy Caprice dọc đường I-95 vào ngày 24/10. Đạn đạo học của họ có liên quan đến tất cả 13 cuộc tấn công cũng như 6 cuộc bắn súng khác, 3 trong số chúng gây chết người, ở các bang khác.

Sau 7h thẩm vấn, Lee Boyd Malvo, 17 tuổi, thú nhận là người dùng súng giết người trong nhiều cuộc bắn, và anh ta đang cố gắng trở thành một người lớn. Y nói kế hoạch được tổ chức tốt, với John Allen Muhammad 45 tuổi dạy y và serving as a lookout. Họ đã dùng xe hơi để có thể bắn từ bên trong mà không bị phát hiện, sử dụng radio 2 chiều để liên lạc và nghe tin tức báo cáo tình hình cho phép họ tạo ta sự lo sợ và hoang mang cao độ.

Muhammad, một cựu thiện xạ quân đội có vấn đề với vợ cũ trong vùng và đã dụ cậu bé hành động theo kế hoạch của y. Ở Virginia y đã bị khởi tố, kết tội và nhận án tử hình, còn Malvo nhận án chung thân. Họ từng có một lần cảm thấy mình là vô địch, nhưng cuối cùng, sai lầm tầm thường của họ tiết lộ trí tuệ hạn chế của họ. Họ không phải Chúa.

Sự phấn khích cao độ

Một số tên sát nhân nói rằng việc cướp đi một sinh mạng con người làm y cảm thấy mình như Chúa, có quyền lực đối với sự sống và cái chết. Còn một tội phạm khác thì đồng nhất bản thân y với Christ. Trong một số trường hợp, một tên sát nhân chỉ đơn giản là khinh thị đối với một kiểu người cụ thể nào đó và tin rằng đó là bổn phận tôn giáo của y phải giải thoát thế giới khỏi chúng. Động cơ đằng sau những vụ giết người đó là nhu cầu kiểm soát toàn bộ và niềm tin của kẻ sát nhân rằng y đặc biệt theo một số cách vượt trội, cao hơn người thường. Nhìn chung, những kẻ sát nhân đó là những người có tính tự yêu mình (narcissist) hoặc psychopath.

Sổ tay chẩn đoán và thống kê các bệnh tâm thần lần thứ 4 đưa chứng rối loạn nhân cách yêu bản thân (NPD) vào nhóm B trên Axis II cùng với 3 chứng rối loạn khác có thể bộc lộ trong những hình thức hành vi vị kỷ cực đoan. Một chứng rối loạn nhân cách là một kiểu hành vi kém thích nghi kéo dài gây ra sự loạn chức năng trong các mối quan hệ hoặc trong công việc. Dù không phải tất cả những người mắc NPD đều là tội phạm thì NPD là chứng rối loạn được phát hiện thấy phổ biến nhất trong số các tội phạm tình dục. Họ cảm thấy có quyền lực đối với những nạn nhân của họ, và sự kiêu ngạo xoay quanh bản thân của họ góp phần vào cảm giác về tầm quan trọng cá nhân của họ. Những tên giết người hàng loạt như John Wayne Gacy và Ted Bundy dường như thực sự tin rằng dù chúng bị bắt giam vì chịu trách nhiệm cho nhiều vụ giết người và bằng chứng quan trọng chống lại chúng, thì chúng vẫn thoát khỏi sự trừng phạt.

DSM-IV liệt kê một số đặc điểm của NPD, một kiểu vĩ đại đáng chú ý nhất và nhu cầu được mọi người ngưỡng mộ quá mức. Người mắc NPD phải là trung tâm của sự chú ý và sẽ hy sinh việc "được người khác yêu thích" để "được người khác ngưỡng mộ". Người như vậy sở hữu một mức độ quan tâm bản thân cao, nhưng họ lại đối xử với những người khác như những sinh vật thấp kém.

Người được chẩn đoán là có NPD có thể bộc lộ những đặc điểm sau

Tự cao tự đại về tầm quan trọng của mình
Ám ảnh với sức mạnh và thành công

Đòi hỏi sự ngưỡng mộ
Lợi dụng người khác để phục vụ cho những tham vọng của riêng họ
Ít quan tâm đến nhu cầu và cảm nhận của người khác
Tin rằng người khác ghen tỵ với họ
Bộc lộ những hành vi hoặc thái độ ngạo mạn

Dù nó không đúng khi chẩn đoán bất kì ai mà không trải qua những phương pháp đánh giá bao quát, thì ta cũng không khó để nhận ra trong những câu chuyện về những tội phạm mà chúng bộc lộ nhiều đặc điểm NPD. Chúng tự cho mình là trung tâm, bất an, không có khả năng học hỏi từ những góp ý có ích của người khác, và chúng biết làm thế nào để tìm thấy những phương tiện ghi nhận cho bất kì việc gì chúng làm. Những tên tội phạm yêu bản thân khi bị tóm sẽ nỗ lực để thu hút sự chú ý để làm bản thân trở thành tội phạm tài giỏi nhất trong lịch sử được chú ý. Thường thì chúng sẽ tự bào chữa cho bản thân vì không ai đủ năng lực để làm việc đó. Hoặc chúng sẽ chọn bất kì vai nào trong toà sẽ làm chúng được nổi bật nhất.

Trong Dark Dreams, Robert R. Hazelwood thảo luận làm thế nào mà những tên tội phạm yêu bản thân thường ghi lại những tội ác của chúng như một cách để hồi sinh chúng, nhắc nhở bản thân y về những việc y đã làm và y chế ngự người khác như thế nào. Tên tội phạm Paul John Knowles thì tin rằng ai đó nên viết một cuốn sách về y.

CASSANOVA

Năm 1974, FBI lùng bắt một người đàn ông dường như đang gây ra một loạt vụ giết người ở miền đông nam Mĩ. Kẻ bị tình nghi là Paul John Knowles, được thả khỏi tù ở Florida nhờ luật sư của một trong những nữ phóng viên của Knowles- giờ là vị hôn thê của y. Nhanh sau đó, y tìm gặp cô ở San Francisco và bị cô huỷ hôn. Điều này làm Knowles nổi giận và sau đó y chọn 3 người ngẫu nhiên và giết họ. Sau đó y rời California.

Trong tháng tiếp theo ở Florida có thêm 3 người chết và y nhanh chóng giết 5 người, đôi lúc là cá nhân, lúc khác là các đôi vợ chồng. Y chọn trẻ em, phụ nữ lớn tuổi, đàn ông trẻ tuổi, già...Kiểu nạn nhân có vẻ không quan trọng đối với y. Từ Connecticut đến Georgia, y tiếp tục giết và cướp, đâm một người đàn ông bằng kéo và cướp quần áo và xe hơi của anh ta. Sau đó ở Atlanta, y gặp một nữ phóng viên người Anh tên Sandy Fawkes. Vì cô ấy là một nhà văn nên y đề cập chuyện ý có thể trở thành một chủ đề thú vị cho một cuốn sách. Qua nhiều ngày với cô, y bóng gió về việc y từng làm khiến y nổi bật, nhưng không thú nhận giết người. Y kể với cô là y muốn để lại một dấu ấn trong cuộc sống để y có thể được mọi người nhớ đến vì một điều gì đó.

Ý tưởng viết một cuốn sách về một người đàn ông xa lạ này có vẻ lố bịch đối với Fawkes, nhưng cô chiều theo y, nói y thử tìm hiểu tại sao y lại quá tự mãn. Y nói với cô y sẽ sớm bị giết vì một việc gì đó mà y từng làm. Y tin vào số phận và nói có những dấu ấn trên cơ thể y khẳng định là y sẽ chết trẻ. Y nói về thiên văn học và bài tarot và nói về quyển sách yêu thích của y là Jonathan Livingston Seagull kể về một con chim hải âu trở thành một nhân vật Christ, được tôn sùng và chửi rủa. Nhân vật chính đem đến thông điệp sống trọn vẹn với một nguyên tắc sống trẻ trước khi anh ta hoà vào hư vô.

Knowles đồng nhất bản thân với con chim này, cùng với những nhân vật siêu việt quan trọng khác và tin rằng y phải trở nên nổi tiếng như họ. Sau đó y và Fawkes chia tay và sau đó cô phát hiện ra nguồn gốc của sự chắc chắn của y về số phận của y. Chẳng có gì bí ẩn về nó cả. Trong thực tế, Knowles là đối tượng bị tình nghi trong nhiều vụ giết người và sau đó y bị tóm. Fawkes phát hiện y đã nói dối cô về nhiều chuyện, đáng chú ý nhất là độ tuổi của y. Y 28 tuổi, dù y từng nói với cô y 33 tuổi, độ tuổi mà Jesus Christ bị đóng đinh vào giá chữ thập. Rõ ràng là y đã đồng nhất bản thân với Christ và trong thực tế cha của Knowles là một thợ mộc như cha của Jesus.


Đối với hậu thế, như thể y chắc chắn rằng mọi người sẽ quan tâm, Knowles đã giao phó cho luật sư của y thu âm lại đoạn thú nhận về những tội ác của y. Trong cuốn băng, y khẳng định đã giết 35 người, nhưng chỉ có 18 vụ giết người qua 4 tháng được chính thức xác nhận là do y gây ra.

Knowles là một trong những tên sát nhân sử dụng hành vi giết người để cố vượt qua địa vị của họ như là "người vô giá trị." Không giết chóc thì họ xem là không làm được gì và có thể bị xem như kẻ thất bại, nhưng khi họ được lên bìa báo thì họ tin họ bây giờ đã là "một ai đó", một người đáng để được viết thành sách hoặc dựng phim.

Knowles thúc giục Fawkes lấy những băng ghi âm mà y đã làm và y đảm bảo với cô rằng nó sẽ trở thành cuốn sách quan trọng nhất cô từng viết. Trong thực tế, cuốn Killing time năm 1977 của Fawkes được tái bản năm 2005 và in lại là Natural born Killer. Mô tả của Fawkes về 6 ngày của cô với Knowles khẳng định y xem mình đặc biệt như thế nào, mặc cho tất cả bằng chứng cho thấy điều ngược lại. Thật không khó để xem y như một người mắc NPD.

Một điều gì đó còn thiếu

Tiến sỹ Robert Hare đã dành gần 4 thập kỷ cho nghiên cứu về bản chất và những ngụ ý của chứng thái nhân cách. Ông phát triển danh sách kiểm tra chứng thái nhân cách (PCL) và phiên bản được sửa lại của nó (PCL-R) để có đánh giá đáng tin và hợp lệ của chứng rối loạn thái nhân cách. PCL-R và những phái sinh của nó từng được xác nhận như một trong những công cụ chính xác nhất cho việc đánh giá nguy cơ những tên tội phạm lặp lại những tội ác của chúng. Hare là giáo sư danh dự ở đại học British Colombia và là thành viên của Hội đồng nghiên cứu về việc bắt cóc trẻ em và Trung tâm nguồn lực điều tra vè éast nhân hàng loạt của FBI (CASMIRC). Ông tư vấn về sự mất tích của trẻ, bắt cóc trẻ,sát hại trẻ và những điều tra về sát nhân hàng loạt. Ông đã xuất bản và đồng xuất bản nhiều bài báo về chứng thái nhân cách cũng như những chương sách và 2 cuốn sách Psychopathy: theory and research và Without conscience: the disturbing world of the psychopaths among us.

Hare tiếp xúc với những tên thái nhân cách với tư cách là nhà tâm lý nhà laocho British Colombia Penitentiary, một nhà tù có an ninh tối cao gần Vancouver. Tù nhân đầu tiên ông gặp là "Ray", kẻ đã rút ra một con dao và doạ y sẽ dùng nó với một tù nhân khác (nhưng đã không làm). Hành vi đó đã đặt Hare vào một tình thế khó xử: ông có thể thông báo nó hoặc giữ im lặng và do đó vi phạm các quy tắc. Ông quyết định không thông báo, điều đó đem lại cho Ray lợi thế mà y đang tìm kiếm. Trong suốt phần việc còn lại của Hare ở nhà tù, Ray làm phiền Hare với những yêu cầu giúp đỡ, y thường nói dối về lí do tại sao y cần chúng và không tỏ ra xấu hổ khi bị phát hiện nói dối. Trong thực tế, y luôn sẵn sàng bảo vệ bản thân bằng một lời nói dối khác. Hare phát hiện tháy Ray thất vọng rất nhiều và y trở nên hứng thú với kiểu người có sức quyến rũ, nói dối dễ dàng, không chịu trách nhiệm và thích thao túng người khác.

Ông đọc tác phẩm về chứng thái nhân cách, đặc biệt là tác phẩm của Hervey Cleckley, cuốn sách The mask of sanity năm 1941 đã đúc kết 16 đặc điểm của kiểu người mà Ray là. Hare bị ấn tượng, do đó ông dùng những quan điểm của cleckley như một nền tảng cho những dự án của ông, và trong những năm 1970, 1980 ông trở thành một nhân vật trung tâm cho các nhà nghiên cứu nỗ lực hệ thống hoá nghiên cứu về chứng thái nhân cách. Hare và các cộng sự của ông cung cấp phiên bản đầu tiên của PCL vào năm 1980.

Ông viết trong cuốn Without conscience, "Chứng thái nhân cách là một chứng rối loạn nhân cách, được định nghĩa bởi một nhóm các hành vi phân biệt và những nét tính cách theo đó, đa số chúng bị xã hội xem là xấu." Cùng với các nhà nghiên cứu khác, Hare chỉ ra, đặc điểm có tính tàn phá nhất của chứng thái nhân cách là một sự không quan tâm một cách tàn nhẫn đến những quyền lợi của những người khác và một thiên hướng cướp bóc và những hành vi bạo lực. Không có sự ăn năn, những tên thái nhân cách dụ dỗ và lợi dụng người khác để đạt mục đích của riêng chúng. Chúng thiếu thấu cảm hoặc một cảm giác trách nhiệm, và chúng thao túng, nói dối và lừa gạt người khác mà không quan tâm đến cảm giác của bất kì ai. Chúng là những tên săn mồi và kẻ ăn bám.

Bác sỹ tâm thần Adolf Guggenbuhl-Craig bổ sung sự hiểu biết của ông về chứng thái nhân cách trong cuốn The emptied soul. Theo ông, những người đó là psychic invalids. Họ thiếu khả năng yêu thương, nuôi dưỡng cuộc sống và cộng đồng, và hình thành những mối quan hệ lâu dài với những người khác. Họ có thể tiến hành những cuộc trò chuyện nhưng nhanh chóng quên mất chủ đề và con người. Những mối quan hệ là hoàn toàn trong hiện tại, không có những yêu cầu. Những người đó thiếu cảm giác xấu hổ, ngay cả khi họ đã làm tổn thương một ai đó. Họ không có khái niệm về việc nói sự thật, giữ lời hứa hoặc trả nợ. Nhưng họ có khả năng thuyết phục người khác rằng họ là người đạo đức vì họ biết làm thế nào để thực hiện những hành vi thích hợp khi cần thiết. Thay vì yêu thương, họ bị hấp dẫn bởi quyền lực, sự thống trị, kiểm soát và thao túng.


Tiến sỹ Robert Rieber viết trong cuốn Psychopaths in everyday life rằng người thái nhân cách trải nghiệm một sự phân ly sâu sắc, ảnh hưởng đến việc họ xử lý ngôn ngữ, hành vi và thiết lập các mục tiêu. Nó cũng giúp họ không trở nên bị loạn thần. Ông nhận thấy tất cả mọi người sở hữu một số khả năng phớt lờ những đòi hỏi về xã hội hoặc đạo đức, nhưng người thái nhân cách dùng khả năng này đến mức cực đoan. Họ đánh mất sự kiểm soát đối với ý thức của họ và do đó không phát triển được bất kì chiều sâu nào của mối quan tâm con người. Họ có thể đánh lừa người khác với một nhân cách xã hội bên ngoài cho đến khi họ vướng vào một vấn đề nghiêm trọng với pháp luật. Rieber cũng chỉ ra, đôi lúc những người thái nhân cách tạo ra những tình huống nguy hiểm để cảm thấy còn sống.

Các nhà nghiên cứu Yaling Yang, Adriane Raine và các cộng sự sử dụng fMRI để nghiên cứu vỏ não trước trán trong bộ não của 12 đàn ông được biết đến về khả năng nói dối, lừa gạt và kiểm soát tới mức bị xem là bệnh lý – một đặc điểm của chứng thái nhân cách. Khi so sánh với những người bình thường và thậm chí với những kiểu người chống đối xã hội khác (antisocial) , ông và các cộng sự phát hiện thấy những người nói dối có sự gia tăng 22-26% trong vùng chất trắng trước trán và một sự giảm sút 36-42% trong tỷ lệ chất xám/chất trắng trước trán. Những trẻ tự kỷ gặp khó khăn trong việc nói dối thì cho thấy một kiểu ngược lại, các nhà nghiên cứu cho rằng những kẻ nói dối có một cấu trúc não thiếu hụt cho phép họ (1) một khả năng nhận thức gia tăng để nghĩ ra những câu chuyện phức tạp và (2) một sự kiềm chế xu hướng chống đối xã hội giảm sút.

Trong số những kẻ sát nhân hàng loạt thái nhân cách nhất, kẻ bộc lộ tất cả những hành vi đã kể ở trên là Ted Bundy, lôi cuốn và nổi danh.

Dù Theodore Robert Bundy đã nói trong một bài thú nhận nổi tiếng rằng việc giết người đầu tiên của y xảy ra vào năm 1973, nhưng đến tận năm sau thì việc làm của y mới bị chú ý. Một số phụ nữ trẻ biến mất ở bang Oregon và Washington, nhưng chỉ khi hai phụ nữ mất tích vào cùng ngày đó vào tháng 7 từ hồ Sammamish ở Washington thì những nhân chứng mới đưa ra một số chỉ dẫn. Họ mô tả một người đàn ông mảnh khảnh tên là "Ted" đã lái một chiếc Volkswagen Beetle màu nâu hoặc vàng. Điều không may là, trong suốt thời gian đó, có nhiều chiếc xe hơi giống với mô tả đó. Nhiều tháng sau, cách hồ 1 dặm, thi thể của hai phụ nữ được phát hiện, và các nhà cầm quyền ở Washington nhận ra họ có một kẻ săn mồi trong khu vực.

Điều họ không biết là y đã đi đến Utah và Colorado, nơi mà có nhiều thi thể của phụ nữ trẻ được phát hiện. Nhưng sau đó tên sát nhân chọn một phụ nữ ở Colorado tên là Carol Da Ronch, người đã tìm cách chống trả và chạy trốn. Cô giúp cảnh sát thực hiện một cuộc bắt giữ khi cô xác định Ted Bundy, một sinh viên luật từ Washington, người đã lái một chiếc xe Volkswagen màu nâu. Điều đó đã cảnh báo chính quyền ở Pacific Northwest.

Nhưng Colorado đã có được y. Khi họ khởi tố y trong vụ giết Caryn Cambell, y đã trốn thoát. Bị bắt lại, y dụ dỗ một viên chức khác và trốn thoát được lần nữa bằng cách giả vờ rằng y cần nghiên cứu pháp luật cho trường hợp của y, đi vào thư viện và nhảy ra ngoài từ một cửa sổ. Hắn đi khắp đất nước, tìm kiếm ở nhiều điểm và kết thúc ở Tallahassee, Florida. Nhưng mọi chuyện đã rõ ràng vào ngày 15/1/1978, khi Bundy mất bình tĩnh. Nói ngắn gọn, hắn mắc quá nhiều sai lầm quan trọng và những sai lầm đó không phải là đặc điểm thường thấy ở tính cách nhìn chung là rất bình tĩnh của hắn.

Đầu tiên, y đột nhập vào khu nhà nữ sinh Chi Omega ở trường đại học Florida, cưỡng hiếp và đánh bằng dùi cui 4 cô gái trên giường của họ. Lisa Levy và Martha Bowman đã chết, nhưng 2 người kia còn sống. Một cô gái khác trong khu nhà ở đã nhìn thấy y. Cũng vào đêm đó, Bundy tấn công một cô gái ở nhà nữ sinh khác. Trong cơn điên cuồng tàn sát, Bundy cũng cắn một trong các nạn nhân của y, để lại một vết thâm và vết hằn da. Dù y đã bỏ trốn vào đêm đó và thậm chí tìm cách bắt một bé gái 12 tuổi giữa thanh thiên bạch nhật một tháng sau, cuối cùng y đã thu huý được sự chú ý từ cảnh sát vì vi phạm giao thông. Khi bị bắt giam, y nói với cảnh sát y là ai. Y sử dụng cơ hội để nhận được càng nhiều sự chú ý càng tốt. Khi các camera chĩa vào y, y đảm bảo với các phóng viên rằng y sẽ thoát khỏi sự buộc tội này và tự do trở lại. Y rõ ràng là quá ảo tưởng về bản thân và có lẽ tin rằng y có thể trốn thoát được một lần nữa. Nhưng lần này y đã sai.

Khi phiên xét xử của Bundy bắt đầu, y quyết định tự bào chữa cho bản thân. Do đó y có thể cho thế giới thấy kĩ năng bất ngờ của y cũng như kiểm soát vụ kiện.

Trong các phiên toà, y tán tỉnh với các cô gái tụ tập lại để nhìn y, và nháy mắt với những người y biết, như thể muốn nói "Tôi sẽ cho họ thấy." Tuy nhiên, hắn cảm thấy thích thú trong việc lợi dụng các quan chức cảnh sát trong lúc xét xử để đưa ra những chi tiết của tội ác mà hắn đã làm để khiến cho các vị bồi thẩm cảm thấy giận dữ. Hắn cũng lầm lẫn xác định hắn là tên tội phạm khi hỏi một nhân chứng.

Ban bồi thẩm không mất nhiều thời gian để kết tội Bundy về 3 vụ giết người (kể cả thi thể của bé gái 12 tuổi được phát hiện bị cưỡng hiếp và bóp cổ trong rừng). Nhưng y vẫn tính toán để ít ra có thể thoát khỏi án tử và một lần nữa y lại sai. Y bị kết án tử hình 3 lần. Nhưng y có nhiều quân bài để chơi.

Y không chỉ đưa đơn chống án lên toà án tối cao Mĩ, y cũng cố gắng thu hút các nhà khoa học vào ý tưởng rằng y quá độc đáo nên y phải được sống và được nghiên cứu. Y tiết lộ thêm nhiều tội ác của y, cuối cùng y thú nhận về 30 vụ giết người ở 6 bang khác nhau. Y thảo luận về những cơn thôi thúc có tính cưỡng bách của y như một kẻ săn mồi với các điều tra viên đến phỏng vấn y, mô tả về nhu cầu muốn sở hữu hoàn toàn nạn nhân của y. Y thường bóp cổ họ, nhưng đôi lúc y đánh họ bằng dùi cui. Đối với y họ chỉ là những đồ vật, để thoả mãn những khao khát của y và sau đó y không cảm thấy hối hận. Tại sao y phải hối hận? Họ từng thuộc về y. Y không thể hiểu được tại sao gia đình của các nạn nhân lại quá đau buồn về chuyện đó.

Thêm nữa, trong lúc một nhiệm vụ điều tra về hơn 40 vụ giết người được quy cho Sát thủ sông Xanh ở bang Washington trong những năm 1980, Bundy viết từ Death Row ở Florida để cung cấp cho các cảnh sát ở Washington một sự "thấu hiểu" về tâm lý của "người đàn ông sông Xanh". Y biết tường tận khu vực đó và y đề xuất "đoán được" tên săn mồi mới này hoạt động như thế nào. Một nhóm đi đến hỏi y, điều đó ladm cho lòng kiêu ngạo của y thích thú, nhưng họ sớm nhận ra khi Bundy nói với họ, y chỉ đang mô tả về phương thức hoạt động của riêng y. Họ chấp nhận "sự giúp đỡ" của y và giữ liên lạc, cho phép Bundy tin vào sự phi thường của y như là tên giết người hàng loạt hàng đầu nước Mĩ. Nói cách khác, họ đã dẫn dụ y bằng cách đánh vào tính kiêu ngạo của y và với thông tin họ thu được, họ tìm cách kết thúc một vài vụ ở vùng Seattle.


Chính quyền phát hiện thấy Bundy đang cố gắng để trì hoacn án tử của y nhưng cuối cùng sự giúp đỡ của y không giúp được bất kì ai, kể cả y. Trước khi bundy chết ở Florida, y bóng gió về nhiều nạn nhân còn chưa được phát hiện và sau đó cố gắng nói vẫn còn một khu vực có lợi để khám phá: ảnh hưởng của tranh khiêu dâm lên hành vi của y. Y mời một bộ trưởng nổi tiếng để nói làm thế nào mà việc đọc về bạo lực tình dục của y đã khiến y lệch lạc, nhưng chỉ có người ngây thơ mới bị lừa bởi thủ đoạn mới của y. Ngày 24 tháng 2 năm 1989 Bundy bị tử hình.

Dù không có sự giúp đỡ của Bundy, các nhà điều tra cuối cùng đã xác định được nhân dạng của sát thủ sông Xanh, một người đàn ông quyết định hành động như chúa, nhưng theo cách khác. Y quyết định rằng y nên cải thiện thế giới bằng cách giết các cô gái mại dâm: dù hành động làm y phấn khích ở mức độ cá nhân, nhưng y nói về một cảm giác có mục đích làm cho thôi thúc giết người mang tinh hoa một sứ mệnh thần thánh. Cuối cùng, giết người là cách để đạt được sự kiểm soát hoàn toàn của y.

Một nhiệm vụ

Trong khoảng thời gian 2 năm từ 1982-1984, nhiều nạn nhân nữ bị phát hiện bị bóp cổ hoặc bị đâm hoặc bị vứt quanh khu vực sông Green ở bang Washington. Riêng năm 1983, 27 phụ nữ mất tích và 9 đã chết. Nhiều nạn nhân từng là gái bán dâm hoặc người lang thang, và các nhân chứng mô tả nhìn thấy một người đàn ông da trắng cùng với một vài người trong số họ. Họ bị vứt ở một trong bốn bãi rác. Một vài người bị nhét đá vào âm đạo và một nạn nhân bị đặt trong tư thế ngồi cùng một chai rượu và một con cá chết, như thể việc giết cô là một trò đùa hoặc là một thông điệp kì lạ. Một tờ báo địa phương the Seattle post intelligencer nhận được một lá thư vào năm 1984 với tiêu đề "điều bạn cần biết về người đàn ông sông Green" và tác giả khẳng định là kẻ sát nhân. Một điều tra viên FBI đánh giá là nó không liên quan đến các vụ giết người, dù nó đưa ra những sự kiện chưa được công bố trên báo chí. Vì người đàn ông có tiếp xúc tình dục với các nạn nhân sau khi họ chết nên các điều tra viên biết y đã quay lại nơi xảy ra vụ án. Nhưng họ vẫn chưa thể bắt được y.

Cuộc điều tra được trang bị máy điện toán tiêu tốn hơn 15 triệu đola, với 55 cảnh sát làm nhiệm vụ. Dù các mẫu DNA được lấy từ nhiều đối tượng bị tình nghi trong khu vực địa phương, một số bị loại ra thông qua những bài kiểm tra phát hiện nói dối và những người khác failed to pan out with evidence. Công việc cuối cùng phải giải tán nhưng nhiều thám tử kiên trì tiếp tục điều tra vụ án. Cuối cùng vào năm 2001, Gary Leon Ridgway (đã kết hôn 3 lần) có liên kết với mẫu phân tích DNA với nhiều nạn nhân và việc xét xử tiến hành năm 2003, y nhận tội, chỉ cho các nhà chức trách 48 phần mộ. (Một số người tin là nó có thể nhiều hơn, và bản thân y ước tính con số nạn nhân là khoảng 60, dù y không thể nhớ tên một số nạn nhân).

Y nói đã từng thử liên lạc với báo chí nhưng lá thư của y bị phớt lờ. Tuy nhiên, y trở thành một đối tượng bị tình nghi nhiều lần. Y thoát khỏi vòng nghi vấn khi được thẩm vấn bằng máy phát hiện nói dối và vào năm 1987 (trước khi phân tích DNA được dùng rộng rãi), sự thiếu bằng chứng liên kết y với bất kì nạn nhân nào đã giải thoát y khỏi tình thế khó khăn. Dù y sẽ không nói lần cuối cùng y giết người là khi nào, thì y bóng gió rằng nó có thể là năm 1998. Khi y bị điều tra trong suốt những năm 1980, y đã giảm bớt số cuộc tấn công của y. Y nói, nhiều nạn nhân từng bị giết ở nhà y. Việc thay thảm đã loại bỏ bằng chứng.

Trong tự thú của y, bao gồm một loạt cuộc phỏng vấn qua 5 tháng, y nói với cảnh sát là y thích chọn các cô gái mại dâm và những kẻ lang thang vì họ sẽ không có ai nhớ tới họ. Sẽ không ai đi thông báo tìm người mất tích trong trường hợp của những phụ nữ như thế, không đời nào." Trong một cuộc thẩm tra trước, y từng nói các cô gái mại dâm đối với y giống như rượu đối với một kẻ nghiện rượu. Không có ai thông báo về những phụ nữ mất tích như thế. Y thường theo dõi những nạn nhân đó, đôi lúc chỉ ngủ vài tiếng để y có thể dùng thời gian ban đêm để dụ dỗ họ. Y thích phụ nữ trẻ vì họ nói nhiều khi họ sắp chết. Y nghĩ về những người y đã giết như những vật sở hữu của y và y thích cảm giác kiểm soát mà y có đối với họ. Thậm chí y từng giết một phụ nữ khi đứa con trai của y đang đợi y trong xe tải, và y không nghĩ gì về điều đó. Trong thực tế, nếu cậu bé nhìn thấy bất cứ điều gì, Ridgway nói, y sẽ giết nhân chứng. Y làm những gì y cần làm để tiếp tục những hành vi đồi bại của y.

Y không thích việc những nạn nhân bị phát hiện, vì khi đó y "mất" họ. Y thường nói về một nạn nhân bằng từ "nó" hơn là "cô ấy". Y nói với cảnh sát là y xem bản thân đang giúp họ thoát khỏi thế giới của những cô gái mại dâm. Y có thể kiểm soát họ bằng cách giết họ, hết người này đến người khác. Khi cảnh sát yêu cầu y tự đánh giá bản thân theo một thang điểm từ 1- 5, 5 là kiểu người độc ác nhất, thì y cho bản thân 3 điểm.

Hoá ra nhiều chi tiết mà Ted Bundy đã cung cấp về cách thức hoạt động của sát thủ sông Green là chính xác, có lẽ họ có một sự lệch lạc giống nhau. Những mô tả của Bundy không hỗ trợ trong một cuộc truy bắt nhưng chúng cho thấy một sự giống nhau rõ rệt giữa hai tên sát nhân thích xem bản thân như Chúa, cả hai đều cẩn thận, có tổ chức, yêu thích hành động giết chóc và cần chế ngự.



Cre: ver1.tamlyhoctoipham.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32: C32: 32. Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt (4)


CHƯƠNG 4: BÀI TẬP TRÍ TUỆ

Năm 1924, Nathan Leopold và Richard Loeb nảy ra một ý tưởng, chúng muốn thực hiện "vụ giết người hoàn hảo". Chúng trở nên nổi tiếng không chỉ vì tội ác mà còn vì lý do giết người của chúng. Leopold là một độc giả của nhà triết học người Đức thế kỷ 19, Friedrich Nietzsche, và đặc biệt say mê với bài miêu tả của Nietzsche về người đàn ông tài giỏi hơn người, tự do không bị ràng buộc bởi các quy tắc đạo đức của bất kì ai. Leopold xem bản thân y là cao hơn người và y tìm ra một lí do cho sự ngạo mạn của y trong bài thảo luận về người đàn ông siêu nhân của Nietzsche (ubermensch). Y thuyết phục đồng phạm của y Loeb (cũng ngạo mạn và thông minh) rằng họ có thể chứng minh phẩm chất đặc biệt của họ bằng cách thực hiện tội ác hoàn hảo.

Chúng bắt đầu với việc đốt phá và ăn trộm. Khi sự phấn khích mất đi, chúng lên kế hoạch cho một tội ác ngoạn mục hơn: chúng sẽ bắt cóc và sát hại một bé trai, và chúng chọn Bobby Franks. Giết bé xong, chúng dùng acid để che giấu những đặc điểm của bé trước khi vứt xác và viết một tờ giấy đòi tiền chuộc. Nhưng chúng bị tóm...

Năm 1948, Alfred Hitchcock được truyền cảm hứng bởi tội ác của chúng để sản xuất bộ phim Rope về hai người đàn ông trẻ tin rằng họ chứng minh được sự phi thường của họ bằng cách giết một ai đó, và nhiều tên sát nhân hàng loạt trong những "thập kỷ hiện sinh" lựa chọn những khía cạnh của quan điểm của Nietzsche có vẻ ủng hộ sự ngạo mạn bằng cách tiêu diệt cuộc sống của những người khác. Điều quan trọng là nhận thấy khía cạnh của triết lý của Nietzsche có thể ủng hộ cho những hành động chống phá xã hội một cách cực đoan.

Đến giữa thế kỷ 19, khi Nietzsche ra đời, nhiều triết lý cấp tiến mới như chủ nghĩa nhân văn và học thuyết tiến hoá của Darwin có một ảnh hưởng lên những quan điểm về kinh nghiệm con người. Đến cuối thế kỷ, Nietzsche cho rằng con người nên học cách chân thực để sống cuộc sống từ sự cởi mở của người Hi Lạp, trước khoa học hoặc đạo cơ đốc đã làm đần độn những bản năng tự nhiên của con người. Nietzsche đã đọc về Dionysus nửa người nửa thần và bị ấn tượng bởi những nghi lễ tôn thờ điên cuồng Dionysus. Dionysus là thần nho, nên những người tìm kiếm một sự hợp nhất thần bí với thần nho đã làm việc này thông qua những cuộc chè chén hoan lạc. Do đó Nietzsche xem Dionysus như một liên minh tối cao của những sức mạnh văn hoá và bản năng, cho thấy làm thế nào con người có thể vừa trở nên nguyên thuỷ thô sơ và tinh tế tao nhã. Theo thần thoại, Dionysus đã hy sinh thân mình vì lạc thú của loài người và bị xé thành nhiều mảnh, nhưng hành động của người đã làm cho việc hồi phục từ cuộc suy tàn tâm linh diễn ra rõ ràng trong nền văn hoá cuối thế kỷ 19 trở nên khả dĩ"

Nietzsche cũng tuyên bố về cái chết của Chúa, kêu gọi mọi người tự nghĩ ra ý nghĩa cuộc sống cho bản thân họ. Tuy nhiên, theo ông thì dường như phần lớn mọi người không dũng cảm hoặc thông minh hơn con cừu, chỉ có thiểu số xuất sắc mới có thể phát minh ra bộ quy tắc đạo đức chân thật. Nietzsche tuyên bố rằng, một bậc kì tài đạo đức sẽ lật đổ những giá trị hiện đại tôn thờ đạo cơ đốc và tâm lý "bầy đàn" để mở đường cho việc tạo ra những giá trị mới dựa trên sự thống trị và sự phi thường.

Năm 1886, ông xuất bản cuốn Beyond good and evil, trong đó ông nói rằng quan điểm về một đạo đức tuyệt đối dựa vào tôn giáo là sự ảo tưởng. Ông cho rằng tội ác có thể được xem như một điều kiện tiếp thêm sinh lực, làm loài người mạnh mẽ hơn. Sự bóc lột xã hội là bình thường. Vì cuộc sống là dựa vào sự chế ngự kẻ yếu. Nói cách khác, cuộc sống là một Ý muốn Quyền lực (will to power), tựa đề của ông cho một cuốn sách đầy sức thuyết phục hơn mà trong đó ông mô tả hình mẫu con người lý tưởng như một sự khẳng định bản chất Dionysian mạnh mẽ của sự tồn tại của loài người như nó thực sự là, bao gồm cả bạo lực và sự phô diễn sức mạnh. Ông viết, có tồn tại một đạo đức của người chủ và một đạo đức nô lệ, và những người có thể đồng hoá với Ý muốn quyền lực sẽ tồn tại, sống trung thực với bản năng xung hấn, trở thành nhà lãnh đạo và quyết định điều gì là tốt và điều gì xấu cho toàn xã hội. Nietzsche nói, niềm vui lớn nhất là "sống nguy hiểm", tức là sống theo những quy tắc của riêng người đó.

Không ngạc nhiên khi quan điểm của Nietzsche về những phần thưởng của sự thống trị có thể truyền cảm hứng cho một số tên tội phạm thông minh, đặc biệt khi ông nhấn mạnh trí tuệ hơn người và tính cách của những cá nhân đủ khả năng đương đầu với thách thức, và họ nhìn chung ủng hộ tác phẩm của ông như một phần của sự giáo dục của họ. Những cuốn sách của Nietzsche trở thành một phần của chương trình học đại học, được xếp trong nhóm các nhà triết học hiện sinh. Trong những năm 1950, triết học hiện sinh trở thành một phương tiện để cho những người sống ở châu Âu và Mĩ làm bản thân họ tách biệt khỏi những người khác. Các nhạc sỹ, hoạ sỹ, nhà thơ và các fan hâm mộ của họ đã học thứ ngôn ngữ phức tạp của ngôi trường triết học này. Dù những quan điểm hiện sinh được bắt nguồn bởi nhà tư tưởng Đan Mạch Soren Kierkegaard...và những người quan tâm nhiều nhất đến tình trạng của linh hồn, nhiều nhà triết học châu Âu then chốt áp dụng chúng vào những nỗi lo lắng hậu chiến tranh đối với khả năng hạt nhân của một số quốc gia trong việc kết thúc sự tồn tại của loài người. Đối với họ, dường như khó khăn để quan tâm về ý nghĩa khi đối mặt với sự huỷ diệt, nhưng các nhà triết học Pháp đã nỗ lực để làm điều đó. Nhà triết học đáng chú ý nhất là Jean-Paul Sartre và Albert Camus, thường xuyên thảo luận về các quan điểm hiện sinh trong các quán cafe ở khu phố Latin ở Paris, tạo nên hình ảnh của những nghệ sỹ uống cafe, hút thuốc, có học thức. Các nhà tư tưởng hiện sinh thời đó khá quyến rũ đối với những người mong ước chống lại những chuẩn tắc và tạo ra một bản sắc tâm lý cho bản thân họ là người phi thường.


Sartre đặc biệt cấp tiến; ông cho rằng con người hoàn toàn tự do để lựa chọn việc họ sống như thế nào và những lựa chọn của họ định nghĩa về họ: Bạn là những gì bạn làm. Sự tự do nào cũng có những cái giá của nó, ông nói, và mỗi cá nhân về cơ bản chịu trách nhiệm về chính bản thân họ. Mọi người chỉ lợi dụng người khác như một thứ không thể hiểu thấu được và Sartree viết rằng mối gắn bó đích thực trong thực tế là bất khả thi.

Không bi quan nhưng lại lạnh lùng, Camus xuất bản cuốn The stranger và The Myth of sisyphus năm 1942. The stranger mô tả một nhân vật nam phản diện, Meursault vô cảm với mọi thứ, kể cả cái chết của mẹ anh, một vụ giết người bừa bãi do anh làm và ngày tử hình đang gần kề. Cuốn sách thật đau buồn nhưng nó bộc lộ thái độ bị huỷ hoại bởi chiến tranh của một thế hệ người cảm thấy mất mát và lạc lõng.

Cả 4 triết gia trên có một ảnh hưởng quan trọng lên các tiểu văn hoá trí tuệ của những năm 1950 và 1960, và trong số chúng, những tên sát nhân có học tìm thấy nguồn cảm hứng kinh khủng.

Nhạc Jazz, tình dục và cái chết

Ngày 11 tháng 1 năm 1959, Carroll và Mildred Jackson cũng với hai con gái của họ có một cuộc đi chơi ngày chủ nhật, và họ bị bắt cóc trong chiếc xe hơi của họ gần Apple Grove, Virginia. Người ta phát hiện chiếc xe hơi bị bỏ lại nhưng gia đình Jackson đã biến mất. Cảnh sát lùng sục trong khu vực nhưng không tìm thấy manh mối để điều tra thêm. Sau nhiều tuần, họ không tìm được gì cả. Gia đình Jackson là những người tử tế không có kẻ thù, vì vậy sự mất tích của họ là một bí ẩn gây lo lắng.

Sau đó một cặp vợ chồng tìm đến cảnh sát nói về một việc tình cờ xảy ra với họ rất khả nghi vào ngày đó. Suốt buổi chiều một chiếc xe Chevrolet kiểu cũ màu xanh bật đèn buộc họ phải tạt vào lề đường. Sau khi họ lái xe về phía bờ đường, người lái xe bước ra và tiến lại gần họ, nhưng vì cách cư xử của anh ta nên họ đã nhanh chóng lùi xe lại và chạy thoát. Họ mô tả rằng người đàn ông đó cao, gây đe doạ với một khuôn mặt mỏng, lông mày rậm, tóc đen, dáng đi kỳ cục và cánh tay dài khác thường.

2 tháng sau vụ bắt cóc, vào ngày 4 tháng 3, thi hài của Carroll Jackson được phát hiện trong một cái mương dưới bụi rậm. Anh bị bắn sau đầu. Khi cảnh sát di dời thi thể anh, họ phát hiện thi thể của con gái anh ở dưới anh. Một thám tử tiết lộ rằng cô bé đã bị bóp cổ tới chết. Các nhà điều tra phỏng đoán rằng kẻ bắt cóc gia đình Jackson buộc họ lái xe vào lề đường theo cách mà đôi vợ chồng đó đã mô tả, và sau đó buộc họ vào xe của y.


Hơn 2 tuần sau, thi thể của Mildred và bé Susan 5 tuổi được tìm thấy trong rừng sâu, được chôn trong một cái mồ nông, bé Susan nằm ở trên. Bọn họ đều bị cưỡng hiếp và Mildred đã bị tra tấn trước khi cô bị đánh bằng dùi cui tới chết. Một chiếc bít tất được cột lỏng quanh cổ của cô, như thể y buộc cô thực hiện những hành động tình dục khác. Susan thì bị đánh tới chết với một dụng cụ cùn, có thể là một báng súng. Trong vài trăm thước Anh, cảnh sát vào một toà nhà khối than và phát hiện thấy một chiếc cúc áo màu đỏ bên trong giống với những chiếc cúc áo trên váy của Mildred bị thiếu mất một chiếc. Điều đó đem đến cho họ một số manh mối về nơi kẻ sát nhân giết hai nữ nạn nhân. Có thể y đã bắt cóc gia đình Jackson chỉ để sở hữu người phụ nữ và bé gái vì lạc thú của y. Người cha và em bé sơ sinh thì bị giết và vứt xác một cách nhanh chóng.

Cảnh sát sớm nhận được một lá thư vô danh từ một người đàn ông với những nghi ngờ về người quen của anh, Melvin David Rees, 26 tuổi, nhà triết học hiện sinh tự phong và nhạc sỹ nhạc jazz. Anh ta đã đi đến vùng đó rất nhiều để chơi saxophone hoặc piano ở nhiều câu lạc bộ. Những cuộc trò chuyện của họ đầy những bình luận về sự sống, cái chết và ý nghĩa sống, và vào một buổi tối, chủ đề nói chuyện chuyển sang việc giết người. Rees khăng khăng cho rằng việc giết người không hẳn là sai trái; chỉ có những chuẩn mực xã hội mới cho rằng giết người là sai. Bị ảnh hưởng bởi Benzedrine, Rees tâm sự rằng anh ta khao khát có được những trải nghiệm mãnh liệt nhất có thể, từ tình yêu cho đến bạo lực rồi cái chết. Vào cái ngày sau buổi nói chuyện đó, gia đình Jackson bị bắt cóc.

Người viết thư vô danh nói rằng Rees từng bị bắt vào năm 1955 vì tấn công một phụ nữ 36 tuổi và y cũng đã cố buộc cô vào xe hơi của y. Tuy nhiên nạn nhân không buộc tội y nên vụ việc bị bỏ qua. Người viết thư nghi ngờ y có dính líu đến một vụ giết một phụ nữ vào năm 1957, cho biết anh ấy từng đối chất với Rees sau khi hay tin gia đình Jackson bị giết, và Rees có vẻ lảng tránh.

Được truyền cảm hứng bởi lá thư này, cảnh sát mở cuộc điều tra, biết được Rees từng hẹn hò với một nữ sinh trường đại học Maryland người từng bị nghi ngờ trong cuộc điều tra năm 1957, vì vậy họ kiểm tra lại vụ việc. Vào ngày 26 tháng 6 năm 1957, Margaret Harold đang ở trong xe hơi với bạn trai cô, một trung sỹ quân đội. Một người đàn ông bước ra từ một chiếc Chrysler màu xanh, và ra hiệu cho bọn họ hạ cửa kính xe hơi xuống. Trước sự ngạc nhiên của họ, y rút ra một khẩu súng và đòi tiền. Họ từ chối, do đó y bắn vào mặt Margaret. Người lính chạy đến giúp, và khi anh đến nơi thì Margaret đã bị tấn công về tình dục. Mô tả của người trung sỹ về người đàn ông này giống với đôi vợ chồng đã gặp một người lái xe hơi vào ngày Chủ nhật mà gia đình Jackson bị bắt cóc: cao, tóc đen, cạo râu nhẵn nhụi, và khuôn mặt mỏng. Những điểm tương đồng ở các vụ việc đó dường như không chỉ là sự trùng hợp. Và còn nhiều hơn thế.

Để tìm kiếm bằng chứng trong vụ Harold, các nhà điều tra đã phát hiện một toà nhà khối than với một cửa sổ bị vỡ. Bên trong, taped to the walls là một bộ sưu tập hình khiêu dâm bạo lực cùng với các bức ảnh tư liệu của những phụ nữ từng bị giết. Cùng với nó là một bức ảnh kỷ yếu của đại học Maryland của Wanda Tipton. Nhưng khi được hỏi, Tipton khẳng định là không quen biết bất kì ai giống như bản mô tả mà cảnh sát đưa cho cô. Rõ ràng là cô biết Rees vì y từng hẹn hò với cô, nhưng cô không muốn thú nhận điều đó vào lúc đó. ...

Nhưng 1 năm sau, "bạn" người viết thư, là Glenn L. Moser ở Norfolk, Virginia, đến gặp cảnh sát. Anh nghe được tin tức từ Rees, y hiện đang sống ở Hyattsville, Arkansas và đang hành nghề bán đàn piano ở một cửa hàng âm nhạc ở West Memphis, Moser cung cấp một địa chỉ. ...FBI rất cảnh giác và nhiều nhân viên tham gia vào vụ án. Họ đến Arkansas, bắt Rees ở cửa hàng và dẫn theo người trung sỹ quân đội từ Annapolis ...Anh xác nhận Rees là người đàn ông đã tiếp cận họ vào cái đêm định mệnh năm 1957 và đã giết Margaret Harold.

Các nhân viên điều tra sau đó lục soát nhà của Rees và họ nhanh chóng tìm thấy thứ họ đang muốn tìm: những bằng chứng liên quan đến những vụ giết người. Bên trong một chiếc saxophone là một khẩu súng cầm tay a.38 – ở cả hai trường hợp hung thủ đã bắn các nạn nhân bằng một khẩu a.38 – cùng với những bài ghi chép mô tả một số hành động ác dâm. Một bản ghi chép được đính kèm với một bài báo đăng một tấm ảnh của Mildred Jackson. Nó mô tả việc giết một người đàn ông và một em bé trên một con đường vắng, và có một câu làm người đọc ớn lạnh: "bây giờ người mẹ và đứa con gái là của tôi." Y cho biết y đã tra tấn người phụ nữ, gây ra cái chết của cô. Y đã "trói và bịt miệng cô, kéo cô ta đến nơi xử quyết và treo cổ cô ấy."


Báo chí nhanh chóng gọi y là "ác thú tình dục". Y đã từng thử làm việc đó ở Virginia và Maryland: Mary Shomette, 16, Ann Ryan, 14, Mary Fellers, 18, và Shelby Venable, 16. Vào tháng 2 năm 1961, ở Maryland, Rees bị kết tội giết Margaret Harold và nhận án chung thân. Sau đó ở Virginia vào tháng 9, y giết bốn người trong gia đình Jackson và bị kết án tử hình. Điều đó có thể đem lại cho y lý do để xem xét những suy nghĩ của nhân vật Meursault của Camus, khi anh ta suy nghĩ về bản án tử hình của anh sau khi phạm tội giết người.

Nhưng khi toà án tối cao Mĩ hoãn việc thực hiện tất cả những án tử hình vào năm 1972 để đánh giá hiến pháp của hình phạt tử hình thì trường hợp của Rees nằm trong số chúng. Y sống thêm 2 thập kỷ nữa trước khi chết trong tù vì những nguyên nhân tự nhiên. Y đã thú nhận thêm nhiều vụ giết người nữa, và chúng ta chỉ có thể tự hỏi sự ngạo mạn/sự giả vờ hiện có của hắn có thể kéo dài bao lâu khi hắn bị tống giam

Sự thèm khát

Rees muốn giết người chỉ đơn thuần vì niềm vui sưu tập các trải nghiệm...Nhà phân tâm học Carl Goldberg, tác giả cuốn sách Speaking with the devil nói về những hành động tội ác vô nghĩa, chỉ ra sự phát triển của kiểu xung hấn này ban đầu được truyền cảm hứng bởi sự xấu hổ. Khi nó xây dựng, nó đi qua 6 giai đoạn mà ở đó một người cảm thấy khinh thường những người khác (như Rees đã làm), hợp lý hoá và biện minh cho những hành động của y (Rees sử dụng triết học hiện sinh để thực hiện việc này), không nghĩ đến những hậu quả hoặc những hành động của y (hoặc không quan tâm đủ để làm vậy), và phát triển một kiểu suy nghĩ mà y tự thuyết phục bản thân rằng y là hoàn hảo. Do đó y đã phát triển cái mà Goldberg gọi là "suy nghĩ mầu nhiệm độc ác" bao gồm quyền lực có được đối với nguồn sống bằng cách tạo ra "khoảng cách đạo đức và cảm xúc giữa thủ phạm và nạn nhân." Khoảng cách này là một hình thức của sự vĩ đại mà người đó tin rằng những người khác không nhận thấy những phẩm chất độc nhất vô nhị của y và do đó y buộc họ phải nhìn thấy. "Sự xem xét kỹ bản thân là bất khả thi", Goldberg nói, "vì nó được tin là không có lý do xác đáng".

Phân tích của ông chắc chắn phù hợp với những tên sát nhân xem chúng là cao hơn người khác và do đó có quyền giết họ. Một quan điểm tương tự ủng hộ một loạt kẻ sát nhân tiếp theo, được thực hiện bởi một nhóm người đồng nhất với con người giỏi giang vượt trội về mặt đạo đức của Nietzsche.

Say mê

Ian Brady và Myra Hindley là những tên sát nhân nổi danh người Anh. Được gọi là "người đàn ông độc ác nhất còn sống", Brady viết một cuốn sách khi ở trong tù, The gates of Janus, cung cấp những hiểu biết của y về những tên sát nhân khác. Y diễn giải hành động giết người như một sự thể hiện chủ nghĩa hư vô một cách sáng tạo, xem hành vi chống đối xã hội của y như một sự mở rộng của trí tuệ của y. Brady từng là một fan lâu dài của tác giả người Nga Fyodor Dostoevsky, người viết những tác phẩm như Crime and Punishment và The Possessed. Cả hai cuốn sách phác hoạ một nhân vật lên kế hoạch cho một vụ phạm tội ...Raskolnikov trong Crime and Punishment bị ám ảnh với việc chứng minh rằng anh ta nằm ngoài luật pháp xã hội vì anh ta "phi thường." Điều này với anh ta có nghĩa là anh ta có thể tuỳ hứng giết một ai đó mà không chịu hậu quả. Anh ta chọn một phụ nữ có tuổi mà anh ta tin rằng không gây tổn thất cho xã hội và thực hiện kế hoạch của anh, và cũng sát hại một phụ nữ khác mà anh tình cờ gặp.

Trong khi Raskolnikov kết thúc bị...làm hao mòn sự ngạo mạn về trí tuệ của anh ta, thì Brady chấp nhận kế hoạch của Raskolnikov cùng với triết lý của nó như một điều khả thi đối với y. Y xác định rằng phạm tội là một phương pháp chấp nhận được để làm cuộc đời có ý nghĩa và y muốn trải nghiệm quyền lực đối với những người khác qua việc giết người.


Lớn lên ở Glasgow, Scotland, Brady trở thành một kẻ cô đơn thích phạm những tội lặt vặt khiến y phải vào tù. Ở tuổi 17 y tiếp xúc với những tên tội phạm tàn nhẫn đã kích thích trong y một cơn thịnh nộ đối với xã hội. Trong tù, y tưởng tượng việc tích luỹ được càng nhiều tiền càng nhanh càng tốt, và khi y ra tù, y tìm kiếm những cơ hội đó. Y cũng tiếp tục đọc và trở thành fan của Hitler và chủ nghĩa quốc xã. Sau đó y gặp kẻ đồng loã tương lai của y.

Myra Hindley lần đầu gặp Brady vào năm 1961 khi cô 18 tuổi. Họ làm cùng công ty ở Manchester, Anh và cô trở nên say mê y. Về sau Brady mô tả mối quan hệ của họ là gần như cảm từ xa. Y nhanh chóng thuyết phục cô đồng ý với những triết lý của y, bao gồm những quan điểm của Nietzsche rằng không có Chúa và đạo đức chỉ có tính tương đối. Brady cũng dạy cho Hindley về chủ nghĩa quốc xã và những triết lý chủ nghĩa khoái lạc bạo lực của Marquis de Sade. Cuối cùng y đã thay đổi cô từ một cô gái yêu thương trẻ em thành một phụ nữ trẻ hay hoài nghi, khinh bỉ con người nhiều như y. Y nói rằng họ sẽ làm bản thân có ý nghĩa bằng việc phạm tội, đến mức cô tán thành và giúp y cưỡng hiếp trẻ em và chôn chúng ở những cánh đồng hoang.

Nạn nhân đầu tiên của họ năm 1963 là một bé gáu 16 tuổi. Nạn nhân tiếp theo là một bé trai 12 tuổi. Brady hy vọng có được sự đồng loã từ anh rể của Mỷa, David Smith, nhưng khi y cố gắng làm cho Smith hỗ trợ y bí mật di chuyển một cái xác từ nhà của bà ngoại Myra thì Smith đã đi báo cảnh sát. Họ đã bắt hai kẻ giết người và năm 1966, cả hai bị kết án tù chung thân. Brady đã giải tội cho Hindley nhưng ban bồi thẩm cho rằng họ chịu trách nhiệm ngang nhau. Họ tiếp tục viết thư cho nhau từ những xà lim riêng biệt, nhưng cuối cùng Hindley chuyển sang đạo Thiên chúa. Để chuộc lỗi, cô viết một tài liệu kể lại chi tiết Brady chịu trách nhiệm hoàn toàn cho những vụ giết người như thế nào. Khi nghe được điều này, Brady đã thay đổi câu chuyện của y, đưa cô vào mọi việc mà họ đã làm, nói rằng một số lần tra tấn là khởi xướng của cô.

Hindley nói rằng Brady được truyền cảm hứng để thực hiện vụ giết người hoàn hảo, và dù cô thú nhận đã giúp y kiếm được nạn nhân thì cô phủ nhận việc có mặt tại nơi gây án. Tuy cô đã thú nhận tất cả, thì Brady mới là người tiết lộ những động cơ giết người thật sự. Trong cuốn sách của y, y cho rằng phạm tội là một cuộc phiêu lưu thú vị cho các nhà thám hiểm đơn độc, thèm muốn một cách tự thức những trải nghiệm điều mà đa phần mọi người chưa từng làm hay không dám làm. Bản chất con người, hắn nói, khi không bị giới hạn theo quy ước xã hội, là có xu hướng nghiêng về phía "gian dối." Tuy nhiên, phạm tội không phải là cực điểm; trên thực tế, sự thiếu thoả mãn mà một người có được từ việc phạm tội có thể là một nỗi thất vọng thực sự. Tên tội phạm thường quá lo lắng về khả năng bị phát hiện nên không thể trải nghiệm được hết niềm vui của việc mà y làm.

Y nói, bản thân việc giết người "được nhìn ở góc độ khoa học, thì cái chết của một con người không quan trọng hơn cái chết của bất kỳ con vật nào khác trên trái đất". Những kẻ giết người hàng loạt là những người "không tránh khỏi việc gặp một thất bại trong nhiều bước đi bình thường của cuộc sống." Điều này sẽ miêu tả về bản thân y và Hindley. Y nói, một người như vậy là thiếu kiên nhẫn và tránh kiểu buồn chán mà đa số mọi người chấp nhận nó. "Kẻ giết người hàng loạt thà sống một ngày như sư tử còn hơn sống hàng chục năm như một con cừu". Một khi anh ta phạm tội giết người thì anh ta chấp nhận những hành động của anh như là bình thường, và phần còn lại của loài người bị xem là dưới bình thường, kém thông minh.

Myra Hindley từng nói rằng Brady sở hữu một sức quyến rũ nào đó làm cô tin vào bất kì điều gì và muốn làm bất kì việc gì cho y (một quan điểm mà chúng ta thường được nghe từ những người bạn đời của những kẻ thái nhân cách.



Cre: ver1.tamlyhoctoipham.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33: C33: 33. Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt (5)


Chương 5: Danh tiếng

Những tên sát nhân hàng loạt thu hút sự chú ý của mọi người vào bản thân chúng thông qua nhiều cách khác nhau. Cách chủ yếu – cách mà chúng có thể thích thú trong khi không có ai biết được chúng thực sự là ai – bao gồm những cách liên lạc vô danh hoặc bút danh đến giới báo chí. Zodiac, BTK, Son of Sam, Jack the Ripper, và nhiều tên khác đã dùng con đường này để chế nhạo và giày vò. Chúng tìm kiếm danh tiếng cho bản thân và những hành động mà chúng đã thực hiện, duy trì tuyên bố của chúng về trí tuệ phi thường bằng cách tránh bị phát hiện. Nhưng một khi những tên sát nhân bị bắt thì một số tên hành xử theo những cách khác. Trong những năm 1980, một vài tên thậm chí tìm cách để xuất hiện trên các talk shows. Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, một số tên nói rằng chúng giết hại nhiều nạn nhân hơn thực tế.

Đầu tiên hãy xem xét về những tên sát nhân liên lạc với báo chí.

GỬI MẬT MÃ

Trong số các cách liên lạc nổi tiếng nhất là một người đàn ông tự xem bản thân là Zodiac và bộc lộ một sự ưa thích với các mật mã và những ám chỉ khó hiểu. Giữa tháng 12 năm 1968 và tháng bảy năm 1969 ở Vallejo, California, y bắn hai cặp vợ chồng tại hai vụ riêng biệt. 3 nạn nhân đã chết, chỉ có 1 người đàn ông sống sót. Nhưng nạn nhân này không thể giúp cảnh sát nhận dạng hung thủ. Khoảng đầu tháng tám 1969, các biên tập viên của ba tờ báo địa phương tại thành phố San Francisco, mỗi người nhận được lá thư và 1/3 của một mật mã kỳ lạ, ý là cần cho đăng cả 3 đoạn mật mã để chúng được ráp lại với nhau. Tác giả của mật mã này nói y là kẻ sát nhân Vallejo. Y đã dùng bưu phí quá mức cần thiết, giúp xác thực cách liên lạc của y, và hiểu "thông điệp" của y bao gồm việc giải được tài liệu viết bằng mật mã. Y ký ở mỗi phần bằng một biểu tượng vòng tròn gạch ngang.


Các báo đã công bố những phần của chúng, hy vọng có ai đó sẽ giúp giải mã. Cuối cùng một thầy giáo trung học địa phương, Donald Harden, và vợ của ông đã làm việc đó, cung cấp thông điệp sau, tất cả là những chữ viết hoa, và có những lỗi chính tả và ngữ pháp:

"Ta thích giết người vì việc đó rất thú vị, thú vị hơn hẳn so với việc giết chết những con thú to lớn trong những cánh rừng vì người là con thú nguy hiểm nhất. Việc giết một con vật gì đó làm cho ta cảm giác rất thú vị. nó còn thú vị hơn cả việc được ngủ với một cô gái đẹp. Điều hay ho nhất là khi ta chết ta sẽ được tái sinh trên thiên đàng và tất cả những kẻ ta đã giết sẽ trở thành nô lệ cho ta. Ta sẽ không cho các ngươi biết tên của ta vì các người sẽ tìm cách ngăn cản việc tìm thêm nô lệ cho cuộc sống vĩnh hằng của ta EBEORIETEMETHHPITI". (Những chữ cái đó chưa bao giờ được giải mã, và nhân dạng của kẻ sát nhân vẫn chưa được tiết lộ trong mật mã của y, như y từng nói nó sẽ tiết lộ.)

Các thám tử nhận ra tên sát nhân đang chơi một trò chơi, và tin rằng y có một số kiến thức về mật mã hải quân và những biểu tượng thần thoại. Cảnh sát yêu cầu bức thư khác và họ nhận được một bức vào một tuần sau. Từ nó, họ biết rằng y xem bản thân y là "Zodiac", y sử dụng một small penlight taped onto his weapon, và y dường như thích thú với những việc y đang làm. Điều đó cho rằng y sẽ thực hiện một cuộc tấn công khác, và nó xảy ra vào ngày 27 tháng 9 năm1969. Ở hồ Berryessa, Cecelia Ann Shepard và bạn của cô, Bryan Hartnell, ngồi cạnh nhau trên một tấm chăn. Một người đàn ông bè bè chắc nịch, đội mũ đao phủ màu đen tiến lại gần họ, lôi vũ khí của y ra và yêu cầu Bryan trói Cecelia Ann. Sau đó người lạ mặt đội mũ trùm đầu đâm cả hai người một cách điên cuồng. Cô gái bị đâm 10 lần, chết ngay tại hiện trường, nhưng Bryan còn sống để miêu tả về kẻ tấn công họ. Anh nói người đàn ông đó đã đi xe về đường. Trong thực tế, nó là lần cuối y đã dừng gọi điện cho cảnh sát để thông báo về cuộc tấn công của y và đòi sự ghi nhận.

2 tuần sau, chính người này đã giết tài xế taxi Paul Stine ở San Francisco, để lại hai dấu vân tay máu trong xe. Nhanh sau đó, báo San Francisco nhận được một lá thư trong một phong bì (với quá nhiều bưu phí) chứa một mảnh áo của Stine bị xé rách và đưa ra một đe doạ úp mở sẽ tấn công trẻ em ở trường học. Nó là một lá thư ngạo mạn, đầy sự chỉ trích cảnh sát và ra vẻ can đảm. Zodiac yêu cầu được nói chuyện với một luật sư địa phương nổi tiếng, và một cuộc gặp qua điện thoại được thiết lập, nhưng khi các cuộc gọi đến, chúng không hẳn là từ Zodiac. Nhưng y (hoặc một ai đó) tiếp tục gửi các bức thư, thường với các mật mã. Y cũng liên quan đến một vụ giết người trước đây ở đại học ở Riverside, California, nơi một ai đó đã viết một thông điệp lên một cái bàn trong thư viện và gửi các bức thư yêu cầu công nhận vụ tàn sát. (Không phải tất cả mọi người đều đồng ý rằng vụ sát nhân này là do Zodiac gây ra.)


Đến năm 1984, Zodiac (hoặc một ai đó sử dụng phong cách của y) liên lạc với cảnh sát và Chronicle, nhưng mặc dù tuyên bố đã giết 37 nạn nhân, thì sự cuồng sát của y chấm dứt với 6 hoặc 7 người. Nhân dạng của y vẫn còn là một bí ẩn, điều đó có nghĩa là y thoát khỏi tội giết người, thích thú trước những bài báo và những cuốn sách viết về y, và lẩn trốn. Y đã thao túng thành công giới truyền thông – báo chí và tivi – để đáp lại những yêu cầu của y và y khiến cảnh sát thực hiện một cuộc theo đuổi chẳng đi đến đâu.

NHỮNG MỤC TIÊU DANH VỌNG

Trong suốt những năm 1980 và 1990, việc các phương tiện truyền thông được chú ý đặc biệt đã khiến một số người có thêm động cơ mới lạ, khác thường để thực hiện lặp đi lặp lại việc giết người mong được biết đến với tư cách là kẻ sát nhân hàng loạt. Jason Massey đã giữ lại các tạp chí chuyên đề để giúp hắn tìm ra cách trở thành kẻ sát nhân hàng loạt xấu xa nhất thế giới, và ở tuổi 19, hắn ta đã bắt đầu "sự nghiệp" của mình bằng việc tiến hành một vụ giết người kép ở Texas. Nhanh chóng bị bắt sau đó, hắn bị kết tội và bị kết án tử hình nên hắn đã không thể tạo dựng được cái tiếng tăm mà hắn hằng khao khát hay thậm chí chỉ là thân phận của một kẻ sát nhân hàng loạt. Nhưng một người đàn ông khác cùng chung động cơ với hắn đã đạt được thành công.

Ở Anh, Corin Ireland đã tuyên bố rằng hắn ta muốn được biết đến như là một tên giết người hàng loạt. Từ lúc thành niên cho tới thanh niên, Ireland đã thực hiện một chuỗi các tội ác nhỏ nhặt. Khi hắn cảm thấy mình đủ liều lĩnh cho những việc táo bạo hơn, hắn chuẩn bị một bộ dụng cụ giết người gồm còng tay, thêm quần áo, dây thừng, găng tay và một ít túi nhựa. Sau đó, vào khoảng giữa tháng 3 và tháng 6 năm 1993, hắn trà trộn vào vài câu lạc bộ đồng tính nam ở Lodon để lựa chọn những người đàn ông sẵn sàng cho phép bản thân bị ràng buộc vào sự phóng túng tình dục lập dị, và do đó họ dễ dàng bị làm hại. Hắn ta xem họ là những nạn nhân "dễ dãi".


Người đầu tiên mà Ireland tiếp cận là giám đốc nhà hát West End, Peter Walker, 45 tuổi. Ireland đã trói và tra tấn Walker trong căn hộ của chính Walker ở phía Nam London, và sau đó làm ngạt thở nạn nhân với một chiếc túi nhựa. Sau khi đã hành động xong, hắn dành thời gian đặt bao cao su vào miệng và lỗ mũi của nạn nhân rồi đặt hai chú gấu teddy ở một vị trí khiêu dâm trước thi thể. Rõ ràng, hắn ta rất thích thú với những gì mình đã làm. Hắn không thể chờ đợi tới lúc các tin tức được đăng tải, nhưng trước sự ngạc nhiên của hắn, không hề có bất cứ mẩu tin nào viết về tên giết người . Quyết tâm bắt đầu công cuộc gây sự chú ý cho hành động tàn ác của mình, Ireland gọi điện nặc danh cho tờ báo The Sun, để "tiết lộ" thông tin. Hắn tuyên bố rằng vụ giết người là kết quả của sự chuyển giao sang năm mới.

Hai tháng sau, hắn lại khiến Christopher Dunn chết ngạt bằng cách nhét vải xuống cổ họng nạn nhân. Cũng giống như Walker, Dunn bị bỏ lại trong tư thế kích thích tình dục, tay bị còng và mặc trên người chiếc áo khoác da màu đen cùng với bằng chứng về việc đã bị thiêu rụi khu vực lông mu. Tuy nhiên, khi tội ác này được phát hiện, cảnh sát đã không thể liên kết nó với vụ giết người đầu tiên của Ireland, việc này khiến hắn vô cùng thất vọng. Không thể hi vọng sẽ nổi tiếng, Ireland nhận thấy mình nên thực hiện một cuộc gọi nặc danh khác. Cảnh sát bắt tay vào điều tra, nhưng Ireland không để lại bất kỳ dấu vân tay nào và không hề có dấu vết nào có thể dùng để tìm ra những vật dụng hắn đã sử dụng với các nạn nhân. Hắn ta còn tiếp tục siết cổ nạn nhân thứ 3 tên là Perry Bradley III ở Kensington vào tháng 6. Sau đó, hắn lại nặc danh nói với cảnh sát rằng hắn đã để lại hai đầu mối quan trọng tại hiện trường.

Lúng túng bởi các tin nhắn khó hiểu, đội điều tra đã liên lạc với Robert Ressler, người lưu trữ từ Đơn vị nghiên cứu về hành vi (Behavioral Science Unit) của FBI, và ông đã đồng ý tiến hành kiểm tra hiện trường 3 vụ án. Ông chú ý thấy rằng các nạn nhân đều hay lui tới một quán bar ở phía đông London, quán Coleherne Pub, nơi mà trong suốt những năm 80 kẻ đồng tính giết người hàng loạt Michael Lupo đã lựa chọn một vài nạn nhân của mình. Ressler cũng đã suy đoán rằng có lẽ tên sát nhân này thật sự thích thú với việc nhận được sự chú ý của truyền thông hơn là giết người. Các tội ác gần như y hệt nhau và theo sau đều là các cuộc điện thoại. Dường như rõ ràng rằng tên sát nhân muốn được nhận dạng và được trao sự công nhận cho các vụ án mạng này.

Sau đó, nạn nhân thứ tư tiếp tục được tìm thấy. Andrew Collier, 33 tuổi, được phát hiện trong căn hộ của chính mình cùng con mèo bị gẫy cổ đặt ngay bên cạnh, miệng của con mèo đặt lên cơ quan sinh dục của chủ mình. Trong thời gian này, một dấu vân tay từ một nguồn không rõ đã được bảo quản. Tên sát nhân đã thực hiện một vài cuộc gọi cho cảnh sát, thông báo rằng hắn đã mất kiểm soát. Hắn cảnh báo cảnh sát rằng hắn sẽ giết mỗi tuần một người nếu họ không thể ngăn hắn lại được, và còn bày tỏ nỗi thất vọng trước sự bất lực của cảnh sát trong việc liên kết bốn vụ án với nhau. Có vẻ rõ ràng cuối cùng hắn cũng phạm sai lầm.


Vào ngày 15 tháng 6, Ireland siết cổ nạn nhân thứ 5, Emanuel Spiteri, 41 tuổi, ở đông nam London. Dường như không một ai chú ý, nên Ireland lại gọi cho cảnh sát để dẫn họ đến hiện trường vụ án. Trong một tin nhắn điện thoại khác, hắn thừa nhận mình đã đọc rất nhiều sách về những tên sát nhân hàng loạt và hắn biết rằng bây giờ hắn đã được coi là một đối tượng như thế (thật sai lầm khi tin rằng cần phải có ít nhất 4 nạn nhân), nên hắn sẽ dừng lại. "Tôi sẽ không bao giờ tiếp tục giết người nữa". Có vẻ hắn gần như không chỉ tạo ra được một tội ác hoàn hảo mà còn là 5 tội ác như thế.

Các thám tử từ Scotland Yard đã kiểm tra các camera giám sát ghi lại hoạt động trên các lối đi của hành lang tại ga Charing Cross. Họ phát hiện ra hình ảnh của nạn nhân thứ năm qua những đoạn băng hình bị mờ, trong công ty của một người đàn ông. Hình ảnh của người đó được công khai và những người đàn ông khác đã tới để nhận diện anh ta. Sau khi điều đó xảy ra, vào ngày 19 tháng 7 hắn đã tới tìm gặp luật sư của mình và nói rằng hắn là người đàn ông trong đoạn băng nhưng hắn không phải là kẻ giết Spiteri. Tuy nhiên, cảnh sát đã có dấu vân tay của hắn từ vụ giết Collier, vậy nên khi họ tra khảo hắn ta về chứng cứ này thì Ireland cuối cùng cũng thú nhận một cách chi tiết 5 vụ giết người. Hắn ta bị kết án và nhận mức xử phạt là 5 án tù chung thân. Ireland đã chứng tỏ rằng mình trở thành người cô độc trong những năm của tuổi 30, 2 lần kết hôn và 2 lần li dị, thất nghiệp, và một lịch sử của sự bất ổn định về tinh thần và bạo lực.

Hắn đã đặt rất nhiều tâm huyết vào mục tiêu của mình và vào việc sát hại các nạn nhân vì vậy Ressler đã bị thuyết phục rằng áp lực từ những tưởng tượng được xây dựng trong suốt một thời gian dài đã thúc đẩy hắn tạo nên các tội ác. Tuy nhiên, Ireland đổ lỗi cho sự ngược đãi hắn nhận được lúc còn nhỏ vì là "một cậu nhóc cao gầy" .Hắn ngày càng bộc lộ rõ sự ám ảnh hoang tưởng và bị thay đổi tâm trạng một cách đầy kịch tính. Khi hắn quyết định trở thành một tay giết người hàng loạt vào năm 1993, hắn cho biết chỉ là vì hắn không thích con người nói chung và đã bị mất kiểm soát. Nhưng với những nỗ lực mà hắn đã tạo ra được đề cập trong các báo cáo, hắn rõ ràng mong muốn được "nổi tiếng" bởi các tội ác của mình. Đôi khi những người hành động, vì bất cứ động cơ nào được đề cập từ trước cho đến nay, biết chính xác những gì họ đang làm, nhưng trong một vài trường hợp, họ bị tâm thần và ảo tưởng. Bất kỳ bản báo cáo nào của tên sát nhân hàng loạt đều cẩu thả để mô tả tất cả bọn họ – những kẻ săn mồi – đều sáng suốt. Một số trường hợp đặt ra sự phân loại kỳ quặc để giải thích cho lý do vì sao họ phải giết người.



Cre: ver1.tamlytoipham.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34: C34: 34. Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt (6)


Chương 6: ẢO TƯỞNG

BÀI CA CHẾT CHÓC

Từ tháng 10 năm 1972 đến tháng 2 năm 1973, một loạt vụ giết người diễn ra ở Santa Cruz, California. Trong số các nạn nhân có bốn người đi cắm trại (bị đồ sát), một thầy tế, một người đàn ông đang đào đất trong vườn, một cô gái trẻ đi nhờ xe, một người quen và vợ của anh ta, cùng một bà mẹ với hai đứa con (cũng bị giết chung). Cảnh sát bắt được tên tội phạm ngay sau khi hắn giết chết nạn nhân thứ mười ba; hắn là Herbert Mullin (ở nhiều nguồn cũng có đọc là Mullen), 25 tuổi.

Sau đó người ta điều tra được hắn đã từng phải nhập viện vào năm 1969 vì hắn đã cạo đầu và tự đốt mình sau khi nghe thấy những giọng nói nhưng đã được thả ra. Nhập viện và xuất viện lần nữa, hắn trở thành kẻ vô gia cư. Theo như lời của hắn, hắn đã ngừng sử dụng thuốc kháng thần và rồi "nghe thấy" một giọng nói thúc giục hắn giết người. Hắn tin rằng Trái Đất "hiểu" rằng tỉ lệ tử quá thấp và đã kích hoạt một thảm họa tự nhiên để chỉnh đốn tình hình. Vì vậy, việc cứu người dân ở California tránh khỏi một siêu động đất nổ ra và nhấn chìm cả bang xuống biển trở thành nhiệm vụ của Mullin. (Đôi lúc hắn còn gọi là "lục địa của tôi") Hắn có thể làm điều đó bằng cách tạo ra "những thảm họa nhỏ". Hắn quyết định mình phải "hát bài ca chết chóc" để thuyết phục mười ba người hoặc tự kết liễu hoặc đưa bản thân trở thành vật tế (hắn nói họ truyền đạt ý nghĩ bằng linh cảm tương thông). Với một co dao, một khẩu súng trường, một khẩu súng lục, và một chiếc gậy bóng chày, hắn tấn công nạn nhân một cách ngẫu nhiên cho đến khi cảnh sát bắt được hắn. Được chẩn đoán với bệnh tâm thần phân liệt hoang tưởng, hắn được biện hộ vô tội vì gây án trong tình trạng mất lý trí. Tuy nhiên, bồi thẩm đoàn xét hắn hoàn toàn bình thường về mặt pháp lý và kết án hắn với hai điểm buộc tội ở điều một và tám điểm buộc tội ở điều hai về tội sát nhân (và thêm một điểm buộc tội nữa được thêm vào sau đó).

Rất nhiều kẻ giết người bị loạn tinh thần khi họ thực hiện giết người hàng loạt, nhưng hiếm khi một bồi thầm viên phán họ vô tội vì lý do mất lý trí. Điều đó có thể là do trong một số trường hợp lo ngại liệu khi tội phạm được thả họ có nên được đưa đến giam ở bệnh viện tâm thần hay không. Bên cạnh đó chứng loạn tinh thần, một tình trạng tâm lý, đúng là hông nhất thiết nghĩa là mất lý trí, một định nghĩa hợp pháp. Một người có thể bị ảo tưởng khi phạm tội nhưng vẫn nhận thức được việc mình làm là sai. Đó là lý do luật sư ở cả hai phía đều dựa vào các chuyên gia sức khỏe tâm thần để chứng minh chính xác tội phạm đang có tình trạng tâm lý như thế nào khi phạm tội.

LƯƠNG TÂM CẮN RỨT

Hệ thống hợp pháp là dựa vào việc con người là các tác nhân có lý trí có thể đa phần tự do lựa chọn hành động, và do đó đều có trách nhiệm và có thể bị trừng phạt. Tuy nhiên, các chuyên gia sức khỏe tâm thần cũng chắc chắn rằng phần lớn hành vi của con người được quy định bởi các nhân tố vượt ngoài tầm kiểm soát về nhận thức của họ. Do đó, hành vi phạm tội cũng được giảm nhẹ đi phần nào đó, nếu không hoàn toàn. Dù cho một người có thể có actus reus (thực sự thực hiện hành vi), họ có thể không có mens rea (khả năng dự định hành vi, nhận thức cái sai, và nhìn thấy trước được hậu quá). Cả hai tình trạng đều có điều kiện cần là một người phạm tôi.

Chìa khóa tìm thấy trong một vụ khởi tố tội phạm óc liên quan đến yếu tố lý trí là ở tình trạng tâm thần của bị cáo tại thời điểm phạm tội và liệu những bệnh tật mà họ mắc phải có tác động gì đến tội ác được thực hiện hay không. Ý tưởng này là từ người Hy Lạp, nhưng chính xác hơn, từ ngữ biện hộ lý trí của người Mỹ có nguồn gốc từ một vụ án ở Anh vào năm 1843. Daniel MNaghten cảm thấy bị khủng bố bởi những điệp viên tưởng tượng và như một đòn đánh úp, hắn bắn thư ký của Thủ tướng (người nhầm tưởng hắn là Thủ tướng). Hắn đúng là có ý định giết người, nhưng sự sút kém về mặt nhận thức quá lớn nên tòa đã quyết định hắn không nhận thức được hành vi của mình là sai. Đáp trả sự kinh động ngay lập tức đến truyền thông, mệnh lệnh hoàng gia xét lại vụ án và lập ra một tiêu chuẩn về lý trí : "trong thời điểm gây án, bên bị cáo chịu đựng một thiếu sót về lý lẽ, đến từ một bệnh tật trong tâm trí, nên không biết được bản chất và đặc tính của hành vi mình đang làm ; hoặc nếu như họ biết, họ cũng không biết rằng việc mình làm là sai". Bệnh tật hoặc khiếm khuyết đã lấy đi của con người quyền năng để có thể tự do lựa chọn, và họ không nhận thức được hành vi phạm tội để ngăn chặn.

Ở nước Mỹ, mấy năm qua đã có nhiều lần thử cải cách, bao gồm cả việc thêm khái niệm rằng dù một người có thể nhận thực tính chất tội lỗi của hành vi, họ lại buộc phải thực hiện hành vi. Nói cách khác, khả năng kiểm soát hành vi của một người có thể có vấn đề, điều có thể phát sinh do vài tình trạnh tâm lý nhất định. Một số kẻ giết người hàng loạt vì thế mà được bào chữa là không có khả năng nhận thức hành động sai trái hoặc không có khả năng kiểm soát hành vi. Các chứng rối loạn nhất định thường liên quan đến khiếm khuyết này. Trước khi chúng ta mô tả chúng, hãy so sách một vụ án đã thắng được tuyên án lý trí với một số vụ không thắng được.


LẦM ĐƯỜNG LẠC LỐI

Khi cảnh sát đến cánh đồng 195 héc ta ở ngoại ô Plainfield, Wisconsin, vào năm 1957 để nói chuyện với kẻ cô độc lập dị Edward Gein vì hắn bị nghi ngờ ăn cướp, hắn không có nhà. Họ tìm xung quanh và vào một nhà bếp ngoài trời và phát hiện một xác chết mặc quần áo được treo trên rui mái nhà. Quan sát gần hơn, họ ngạc nhiên khi thấy đó là một cái xác không đầu, thân thể phụ nữ bị rút hết nội tạng, bị treo ngược lên mái nhà. Họ tự hỏi liệu người này có phải người chủ tiệm bị mất tích Bernice Worden. Họ cũng nghĩ về vụ án Mary Hogan, bị bắn và mang đi, mất tích ba năm trước.

Bên trong căn nhà, người ta thấy một cảnh tượng kinh khủng : ghế ngồi được làm bằng da người, một hộp cơ quan sinh dục ngoài của phụ nữ được bảo quản, một hộp khác chưa bốn cái mũi của phụ nữ, một cái dây nịt được làm bằng núm vú, một quả tim ở trong cái túi gần bếp, hộp sọ từ một số đầu lâu, ruột người trong tủ lạnh, mặt nạ da người chết của chín phụ nữ được bảo quản, một bộ da phụ nữ phủ đầy dịch sinh dục, một khuôn mặt và da đầu với tóc đen (sau đó được xác định là của Mary Hogan), đầu của Worden giữa hai tấm nệm, và một đôi môi được treo trên sợi dây. Khi mọi thứ đều được thu thập, có vẻ như là Gein, một người sống ẩn dật được cho là vô hại, có các bộ phận của ít nhất mười lăm người phụ nữ trong nhà hắn. Hắn cũng dùng phòng ngủ của người mẹ quá cố làm điện thờ được giữ gìn hoàn hảo để tưởng nhớ về bà.

Khi bị chất vấn, Gein sẵn sàng thừa nhận lấy trộm các bộ phận trong suốt mười năm qua từ những thi thể phụ nữ vừa chết ở nghĩa trang. Hắn cũng đã giết cả Bernice Worden và Mary Horgan vì họ trông có kích cỡ phù hợp mà hắn cần để làm bộ áo da người (bộ áo hắn mặc để nhảy dưới ánh trăng). Hắn có vẻ như không nhận thức được điều mình làm là sai. Vụ án kì lạ này đã thu hút sự quan tâm của quốc tế, đặc biệt là với những người nghiên cứu tâm lý học tội phạm, và họ tin rằng Gein được nuôi lớn bởi một người mẹ độc đoán, theo đạo đức chủ nghĩa, nay đã qua đời, sau khi người cha rượu chè và người anh trai đã chết vài năm trước. Bà đã dạy hắn tình dục là điều sai trái và tội lỗi, gây ra sự mất cn6 bằng tâm lý. Vì vậy, hắn rất mơ hồ về vấn đề giới tính. Gein thèm khát đọc những cuốn sách về giải phẫu thi thể người, tục ăn thịt người, và thí nghiệm Đức Quốc xã, và dùng những cái đầu bị teo nhỏ để trang trí nhà cửa (hắn còn cho trẻ em xem chúng).

Tại phiên điều trần vào năm 1958, Gein được phán có bệnh về tâm thần và được ủy thác cho viện tâm thần vô thời hạn. Mười hai năm trôi qua và hắn đinh ninh rằng mình có đủ khả năng để đứng trước phiên tòa về vụ án sát hại Bernice Worden. Thầm phán Tuần tra Robert Gollman phán hắn có tội theo điều một của án sát nhân, nhưng trong thời gian nhận án phạt, hắn lại được phán vô tội do tình trạng mất lý trí và lại nhập viên. Vào năm 1974, hắn làm đơn kiến nghị, nói rằng hắn đã bình phục và nên được trả tự do. Kiến nghị của hắn bị từ chối. Hắn chết do suy hô hấp vào năm 1984 và được chôn cất bên cạnh mẹ mình.

Peter William Sutcliffe không may mắn như vậy. Hắn bị bắt vào năm 1981 sau một cuộc điều tra kéo dài sáu năm ở Vương quốc Anh với tội danh giết người cùng cái tên "Kẻ Đồ tể Yorkshire" (Yorkshire Ripper). Chuyện bắt đầu với một gái mại dâm, và những lá thư được ký tên "Jack Đồ tể" được gửi đến cảnh sát với những lời chế nhạo tương tự. Nhưng những vụ giết người này còn tàn bạo hơn những vụ của Red Jack (tên của Jack Đồ tể), và ít thường xuyên hơn. Một xác phụ nữ tìm thấy ở thành phố Leeds vào năm 1975 được xác định là bị đánh đập vào đầu bằng một cây búa cho đến chết, còn bị đâm ở khắp cổ họng, ngực và bộ phận sinh dục mười bốn lần. Một nạn nhân khác được tìm thấy vào ba tháng sau, rồi thấm thoát đã khoảng một năm khi có bảy vụ giết người trong vòng mười lăm tháng. Tất cả đều bị chém và đánh bằng dùi cui. Trong một số vụ, kẻ giết người cắt bộ phận sinh dục của nạn nhân, và dù những nạn nhân đầu tiên là gái mại dâm, phạm vi nhanh sau đó lại gồm cả các nữ nhân viên và sinh viên đại học. Kẻ Đồ tể cũng chuyển sang dùng tua vít, đâm vào mắt nạn nhân. Có những nạn nhân thoát chết nhưng lại hứng chịu một vẻ ngoài bị biến dạng nặng nề.

Khi bị chất vấn vì bị tình nghi bắt các gái mại dâm, Peter Sutcliffe, 35 tuổi, đã kết hôn, và từng là một nhân viên nhà xác, có sở hữu một búa đầu tròn và hai con dao (hắn đã cố giấu chúng ở các bụi cỏ). Dưới sự thẩm tra của Đội điều tra Sát nhân Đồ tể (Ripper Murder Squad), hắn đã chịu cúi đầu và thừa nhận đã thực hiện hai mươi vụ chém người và mười ba vụ giết người trong vòng mười sáu tiếng hồng hồ. Trong xe tải của hắn, cảnh sát tìm được một lời nhắn : "Trong xe tải này là người đàn ông có một tài năng tiềm tàng mà nếu được giải phóng sẽ có thể làm rung chuyển cả đất nước, cùng với năng lượng sôi sục sẽ khuất phục những ai xung quanh hắn". Lời biện hộ cho "tình tiết giảm nhẹ" của hắn dựa trên lời khẳng định rằng giọng nói của Thánh thần phát ra từ một ngôi mộ mà hắn đào để giết các cô gái mại dâm : Hắn có một "nhiệm vụ thiêng liêng" (cùng với những viẹc phải làm để trả thù một cô gái mại dâm đã lừa hắn). Cả hai bên đều đồng tình rằng hắn mắc bệnh tâm thần phân liệt thể hoang tưởng, nhưng hắn vẫn khăng khăng rằng mình hoàn toàn tỉnh táo khi gây án. Hắn bị phán tội giết người với án tù chung thân.

Một trường hợp có vẻ dễ xét xử hơn là loạt vụ giết người có liên quan đến Richard Trenton Chase, "Ma cà rồng ở Sacramento" (the Vampire of Sacramento). Hắn nói rằng mình uống máu người, vì hắn sợ sự phân hủy. Hắn đã phải nhập viện nhiều lần, được chẩn đoán mắc chứng tâm thần phân liệt, và có một tiền sử với cảm giác bận tâm về một điều gì đó không đúng xảy ra với hắn ; ví dụ, hắn đã một lần vào phòng cấp cứu, tìm người đã ăn trộm động mạch phổi của hắn. Hắn cũng từng phàn nàn rằng có xương lòi ra phía sau đầu và dạ dày của hắn bị ngược. Hắn được chẩn đoán mắc chứng rối loạn tâm thần do sử dụng ma túy, vì hắn lạm dụng loại độc dược này.

Chase bắt đầu bắt và hành hạ mèo, chó, và thỏ, giết để uống máu của chúng. Rồi đến đầu năm 1978, sau khi bắn một người đàn ông chỉ để biết cảm giác như thế nào, hắn bước vào nhà của Teresa Wallin, 22 tuổi, mang bầu ba tháng. Hắn bắn cô ấy hai phát và lôi thi thể cô vào phòng ngủ. Với một con dao, hắn cắt bỏ núm vú cô ấy, mổ xẻ thân trên, và liên tục đâm cô ấy. Hắn cũng cắt bỏ thận và xẻ tụy của cô ấy ra làm đôi. Rổi hắn đặt thận lại vào trong cơ thể người phụ nữ. Sau đó hắn lấy một hộp sữa chua trong thùng rác để có thể uống máu cô gái.


Vào ngày 27 tháng 1, Chase đến một nhà khác và giết chết Evelyn Miroth, 38 tuổi, một anh bạn của cô ấy, và đứa con trai sáu tuổi. Chase cũng lấy đứa con trai sơ sinh của cô ấy khỏi nôi, đập vỡ đầu đứa bé, và mang đứa bé đi với hắn. Trở về nhà, hắn cắt đầu em bé và có thể đã sử dụng một số nội tạng.

Cảnh sát tiếp cận và bắt được hắn khi hắn rời khỏi căn hộ của mình. Trong tù, hắn nói với một tù nhân khác rằng hắn cần máu của các nạn nhân bởi vì sợ bị ngộ độc máu, và hắn cũng đã ngán bắt động vật. Một người có thể nghĩ, với tiền sử bệnh hoang tưởng dày đặc và những mối quan hệ bị lẫn lộn với thực tế, sẽ rất dể để được trắng án do tình trạng mất lý trí, nhưng với vụ án này thì không. Chase bị phán sáu tội ở điều một án sát nhân với án phạt tử hình. Nhưng thay vào đó vài năm sau hắn chết trong tù do dùng thuốc quá liều.

Một vụ án khác còn hiển nhiên hơn, đó là vụ án ở Philadelphia có liên quan đến Harrison "Marty" Graham. Sau khi hắn bị đuổi khỏi căn hộ do có mùi lạ, cảnh sát tìm thấy sáu cái xác phụ nữ đang phân hủy, và một bộ xương thứ bảy đã bị rời các khớp nối. Ban đầu, Graham, 28 tuổi, nói rằng những cái xác đã ở đó khi mà hắn chuyển tới, nhưng sau đó thừa nhận đã vô tình bóp cổ họ đến chết khi quan hệ tình dục. Hắn thường dùng ma túy liều cao. Dù hắn có lời biện hộ về tình trạng mất lý trí và luật sư liên tục nhấn mạnh rằng hắn không có khả năng pháp lý khi từ bỏ quyền lợi của mình, thú nhận, hay đứng trước tòa, nhưng thẩm phán kết án hắn ở tất cả vụ án, bao gồm bảy tội về làm dụng xác chết. Án tử của hắn sau đó cũng được giảm nhẹ thành tù chung thân.

Nhưng Graham thực sự đã có một tiền sử dài với những khiếm khuyết về tâm thần, được công nhận bởi mẹ của hắn và một người mẹ nuôi đã chăm sóc hắn khi hắn hai tuổi đến khi bảy tuổi. Cả hai đinh ninh rằng hắn thường không nắm bắt được điều gì. Hắn không có khả năng học được nhiều, đặc biệt là điều đúng với sai. Một người bạn gái cũ cho rằng hắn thường nói chuyện với những con rối rách rưới, dơ bẩn.

Nhưng bởi vì hắn là một người biết đọc biết viết, hắn có đọc Kinh thánh (và về sau khi ở tù hắn trở thành mục sư được phong chức), tòa cho rằng hắn thông minh hơn là những người xung quanh hắn nói. Mặc dù hắn có khả năng kỳ quái có thể ở chung phòng với những cái xác thối rữa, hắn trông có vẻ hiểu được những việc làm của mình là sai.

RỐI LOẠN TÂM THẦN

Chứng bệnh tâm thần cực độ bao gồm những cảm xúc, hành vi, suy nghĩ, niềm tin kỳ lạ và rối loạn có thể ảnh hưởng đến khả năng thực hiện chức năng trong công việc và các mối quan hệ của con người ; nó thường cô lập họ. Ở những dạng nghiêm trọng, nó có thể làm người đó trở nên nguy hiểm đối với người khác và/hoặc với chính họ. Từ giữa thế kỷ mười chín, ngành tâm thần học đã thử phân loại các kiểu bệnh tâm thần có ở các cá nhân, và đã được chính thức hóa bằng một số văn bản, đáng chú ý là Phân loại Bệnh tật Quốc tế (International Classification of Diseases – ICD) và Sổ tay Triệu chứng và Thống kê Rối loạn Tâm thần (The Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders), hiện tại được gọi là DSM-IV-TR. Các chứng bệnh được mã hóa trong cuốn sổ tay này cho các công ty bảo hiểm y tế và các triệu chứng được rút gọn để thuận tiện cho các cuộc đối thoại chuyên môn.

Một chứng thường thấy nhất của rối loạn tâm thần, tâm thần phân liệt (schizophrenia), biểu hiện ở sự rối loạn trong suy nghĩ và lời nói, có lúc khá mãn tính. Bệnh này xảy ra ở nam và nữ như nhau, và thường biểu hiện rõ ở độ tuổi mười lăm đến ba mươi lăm. Người ta cho rằng có một cấu trúc gene quan trọng, cấu trúc quy định khuynh hướng bị bệnh mà một người có thể có và cấu trúc này có khả năng bị gây ra bởi tác nhân ứng suất bên ngoài.

Bệnh tâm thần phân liệt thường làm người bệnh trốn tránh vào những ảo giác và tưởng tượng làm xáo trộn mối quan hệ với thực tế. Ví dụ, "Sát nhân Đường sắt" (Railway Killer) Angel Maturino Resendez, 40 tuổi, cho rằng cưỡng hiếp và giết chín người ở ba bang là nghĩa vụ của hắn, vì họ đều độc ác. Resendez cũng tin rằng hắn có thể đi lại khi đang ngủ, trở nên vô hình, và gây ảnh hưởng đến kiểu khí hậu. Hắn nghĩ rằng lý do hắn tránh được cảnh sát trong hai năm là nhờ tốc độ phi thường và sự bảo vệ từ Thần thánh. Hắn nói chó đánh hơi của cảnh sát không muốn đối diện với "thiên thần nửa sói nửa hổ với bộ dạng của khủng long". Bồi thẩm đoàn từ chối lời biện hộ với tình trạng mất lý trí và hắn bị phán tội ở điều một án giết người.


Bằng chứng nghiên cứu cho thấy nguyên nhân của tâm thần phân liệt là sự không bình thường về hóa học hoặc kết cấu của não bộ. Những triệu chứng ban đầu bao gồm cảm giác căng thẳng, rối loạn giấc ngủ, và mất hứng thú với thứ gì đó. Trong giai đoạn tồi tệ nhất, con người sẽ trải qua những hoang tưởng, ảo giác, hoặc rối loạn lời nói. Có vài người mắc bệnh ngày càng bộc lộ rõ khuynh hướng bạo lực, đặc biệt là những người gặp những lời chỉ đạo ảo giác như Mullen và Sutcliffe nói là đã nghe thấy.

Một kẻ giết người tàn ác vào những năm 1930, Albert Fish, được lực lượng luật pháp chú ý đến khi hắn bắt cóc một cô bé, Grace Budd, người mà hắn đứa đến một "bữa tiệc sinh nhật". Họ không hề trở về, nhưng sáu năm sau, nhà Budd nhận được một lời nhắn nặc danh, trong đó đó người viết đã mô tả hắn đã giết và nấu Grace thành món súp như thế nào. Fish bị bắt và một cuộc thẩm tra đã vén lên một lịch sử tâm lý học kỳ quái. Hắn từ lâu đã là kẻ cuồng tín mộ đạo với một niềm ham mê trừng phạt. Hắn bí mật đánh bản thân bằng những cái mái chèo có mấu nhọn, đâm kim sâu vào trong háng (và để yên ở đấy), và châm lửa vào một miếng bông tẩm ướt bằng cồn nhét trong hậu môn. Hắn mong muốn tháo rời các ngón tay một cách dữ dội nhưng không chịu đựng được cơn đau. Hắn tin rằng hắn là Abraham của Kinh thánh, và như Chúa đã gọi Abraham hy sinh đứa con trai của mình, Fish quyết định hắn cần phải giết trẻ em. Người ta ước lưỡng rằng hắn đã quấy rối hơn một trăm trẻ em ở hai mươi ba bang (hắn bảo là bốn trăm) và uống máu của một bé trai sau khi thiến em bé. Hắn cũng chém chết một bé trai bằng một con dao, ăn một số bộ phận, nhưng vụ giết Grace Budd mới chính là vụ hắn bị buộc tội và lãnh án tử hình (điều này làm hắn rộn ràng vui sướng) vào năm 1936.

Tâm thần phân liệt là một căn bệnh kéo dài cả đời mà chưa có ai biết cách chữa trị. Thuốc kháng thần có thể giúp làm ổn định hóa học thần kinh não, nhưng phải được dùng dưới sự giám sát chặt chẽ. Có rất nhiều vụ án mà một người đã dừng việc dùng thuốc. Trên thực tế, một số người mắc bệnh tâm thần phân liệt được coi là đủ khả năng để tiếp tục những giai đoạn của quá trịnh phạm tội, bao gồm biện hộ cho bản thân. Colin Ferguson, một người đàn ông với tội giết người hàng loạt trong một giờ cao điểm của một buổi tối ở trên tuyến Đường sắt Long Island, là một ví dụ. Một người khác, một người không đến mức biện hộ cho bản thân là "Kẻ đánh bom Đại học và Hàng không" (Unabomber – đọc tắt của University and Airline Bomber) Theodore John Kaczynski, người đã giết ba người và làm bị thương hơn hai muoi người khác với một loạt bom thư. Hắn cũng sáng tác mtộ bản tuyên ngôn huyên thuyên dài 35,000 chữ chống lại thế giới hiện đại và bị bắt vào năm 1996.

Đầu năm 1998, Kaczynski có ý kiến khác với nhóm biện hộ. Họ mong muốn có thể thêm vào lời biện hộ về tình trạng tâm thần, vì Kaczynski được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần phân liệt, nhưng hắn không nghe theo. Hắn muốn tự bào chữa. Mặc dù hắn được cho là đủ khả năng để đứng trước tòa, yêu cầu tự bào chữa của hắn được cho là kế trì hoãn và đã bị từ chối. Kaczynski không còn cách nào khác phải nhận lời biện hộ về tình trạng mất lý trí, vậy nên hắn cầu xin được nhận tội với mười ba vụ phạm tội đổi lại là án tù chung thân và miễn ra tù sớm.

Nhưng hắn vẫn tìm cách giữ lại lời cầu xin được tự bào chữa. Vào năm 1999, với một sự trợ giúp hợp pháp, Kaczynski lập một bản kháng án tự bào chữa. Hắn cãi rằng hắn đã bị "thúc ép phải xin nhận tội" và thỉnh cầu của hắn là "không chủ tâm vì bên biện hộ đe dọa là sẽ thêm vào lời bào chữa về tình trạng mất lý trí". Tòa án Thượng chẩm Liên bang khu vực số 9 cân nhắc lý do của hắn nhưng chưa đủ thuyết phục nên đã từ chối kháng án.

Một dạng rối loạn tâm thần cũng có những giai đoạn loạn tinh thần chứng rối loạn tính khí lưỡng cực (bipolar affective disorder), từng được gọi là rối loạn vui buồn (manic-depressive disorder). Đó là một chứng rối loạn có chu kỳ biểu hiện ở sự thay đổi tâm trạng đột ngột giữa hưng cảm và trầm cảm, và người bị bệnh có thể có những giai đoạn năng lượng mãnh liệt mà họ có vẻ siêu phàm. Họ đi không ngừng nghỉ trong một thời gian dài, có những sáng kiến lớn lao, và hoàn thành một lượng lớn việc họ làm. Tuy nhiên, họ sau đó có thể chuyển sang trầm cảm nghiêm trọng, có lúc kèm theo ảo giác và ý nghĩ tự tử. Họ có thể nghe thấy những tiếng nói trong một trong hai giai đoạn, nhưng giữa hai giai đoạn, họ lại thấy bình thường.

LÀ NGƯỜI KHÁC LÀM

Trong các chuyên gia về sức khỏe tâm thần, chẩn đoán về rối loạn đa nhân cách (dissociative identity disorder – DID) là tên được ghi trong DSM-IV cho thứ trước năm 1994 được gọi là rối loạn đa tính cách (multiple personality disorder – MPD). Nó thường bị lẫn lộn với tâm thần phân liệt dưới dạng chia nhân cách. Ý tưởng là khi một người bị chia ra thành vài nhân cách khác nhau và hai nhân cách phụ hoặc nhiều hơn có chung một cơ thể, mỗi nhân cách có một con người riêng và thay phiên nhau điều khiền tính cách và hành vi. Người ta tin chúng xuất hiện là do chấn thương tâm lý (ngay cả ý kiến này cũng đang gây tranh cãi), ví dụ như ngược đãi tình dục, và thường xuất hiện trước năm tuổi. Tới một giới hạn nào đó, như các chuyên gia đã viết, sự "biến đổi" phát sinh để bảo vệ "nhân cách nòng cốt" khỏi những ký ức lấn át. Một số biến đổi cũng phát sinh để hình hành những thôi thúc bị cấm.

Thường vào khoảng những năm 1980 đến đầu những năm 1990, DID phát sinh khi điều trị trong lúc đối phó với những ký ức dồn nén. Chuyên gia chỉ ra rằng một ký ức đau buồn không được nhớ tới vẫn có thể có khả năng để bộc phát thành các triệu chứng như trầm cảm, tê liệt, đa cảm, và phản ứng với các tác nhân nhất định từ môi trường có thể động đến ký ức đó. Cũng có những hồi tưởng mơ hồ. Những người này có thể "hôn mê", cảm thấy không thể động chạm gì đến thực tế, không màng đến những nỗi đau, và trải qua các cơn hoảng sợ đột ngột. Họ cũng có thể bộc phát những rối loạn ăn uống cùng các thói nghiện khác, và ngược đãi người khác hoặc chính họ. Thông thường, họ gặp rắc rối trong chuyện ăn nằm và có thể trải qua các hoạt động khác thường về tình dục và rối loạn giấc ngủ.

Dù tính chính xác của DID vẫn còn đang được tranh luận, có rất nhiều tội phạm đã tìm được cách giảm nhẹ tội, và cả thoát được tội. Một số kẻ giết người hàn loạt cho rằng mình có nhiều nhân cách để tìm cách chối tội. Ví dụ như John Wayne Gacy, người đã giết ba mươi ba chàng trai trẻ, đã cố quy tội giết người cho "Jack Hanley", một nhân cách khác. Sau khi hắn nhận tội và vẽ bản đồ đường hầm bên dưới nhà, nơi mà hắn để hơn hai mươi xác nạn nhân, hắn "ngất đi" và giả vờ rằng Hanley đã vẽ bản đồ. Tuy nhiên, mánh khóe của hắn không có tác dụng và hắn nhanh chóng bỏ ý định, hơn là một chẩn đoán tâm thần học khác – ngất đi khi uống rượu đã tạo điều kiện cho một "cơn bốc đồng không thể cưỡng lại" mỗi lần hắn giết người. Điều đó cũng không có tác dụng với hắn.


"Đổ tể Gainesville" Danny Rolling cho rằng hắn chịu ảnh hưởng bởi "Gemini" khi hắn thực hiện năm vụ án giết người ở Florida. Tuy nhiên, những người có thẩm quyền tìm hiểu được rằng Rolling hâm mộ bộ phim Quỷ ám III (Exorcist III), trong phim "Gemini" được phóng thích bởi một thầy tế không nơi nương tựa trong một viện tâm thần học và chỉ đạo một số vụ giết người tàn bạo. Rolling đã bị kết tội.

Một kẻ giết người thường có liên quan nhất đến việc làm giả một nhân cách "xấu" đã làm hắn giết người là Kenneth Bianchi, thành viên của một nhóm được gọi là "Những kẻ bóp cổ nơi sườn đồi" (Hillside Stranglers). Họ xuất hiện từ năm 1977, và sau một vài tháng, chín phụ nữ đã bị sát hạt và vứt xác dọc đường hoặc trên sườn đồi. Nhân chứng đã phát hiện hai đàn ông với một nạn nhân, có nghĩa là có nhiều hơn một kẻ giết người gây án. Người phụ nữ thứ mười bị bỏ trong cốp xe của cô ấy, nhưng phải đến khi phá được vụ án giết hai người ở Bellevue, Washington, cảnh sát mới gắn kết các đầu mối lại và chỉ điểm được đến Kenneth Bianchi và người anh em họ của hắn, Angelo Buono.

Khi Bianchi trong tù, luật sư của hắn nhờ nhà tâm thần học John Watkins kiểm tra hắn. Watkins thôi miên Bianchi, làm hắn thừa nhận đã thực hiện một số vụ giết người và khai ra em họ của hắn, sau đó nói rằng hắn mắc chứng MPD. Vì hắn giết người dưới tên "Steve Walker", hắn không đủ điều kiện hầu tòa. Ba chuyên gia khác cũng bị thuyết phục bởi tình trạng của Bianchi.

Công tố viên thuê chuyên gia riêng, bác sĩ Martin Orne, người biết rằng cảnh sát đã tìm hiểu được "Steve Walker" là tên một sinh viên đại học, người mà Bianchi đã ăn trộm danh tính để làm kiểm tra tâm thần giả. Để bẫy hắn, bác sĩ Orne đã nghĩ ra một kế : hắn nói với Bianchi rằng đa phần những người bị MPD có hơn hai nhân cách, và không lâu sau "Billy" xuất hiện. Bianchi cũng giả vờ chạm vào một ai đó không có thật, nhưng ảo giác không phải là một triệu chứng của MPD, và đến lúc đó các nhà chức trách biết rằng Bianchi đang giả bệnh. Dưới sức ép, hắn thừa nhận đã nói dối. Điều đó đã tạo đòn bẩy cho công tố viên khiến hắn thừa nhận thực hiện bảy vụ giết người và làm chứng chống lại em họ mình. Vào năm 1983, tòa tuyên án Buono với chín vụ giết người và phán hắn chín bản án tù chung thân.

Vấn đề phát sinh trong phiên tòa của Arthur Shawcross, bị buộc tội với vụ giết mười phụ nữ ở Rochester, New York, từ năm 1988 đến 1989. Dù hắn đã thú nhận chi tiết, các luật sư của hắn đã cho lời biện hộ "không có tội do tình trạng mất lý trí". Để được cho là mất trí ở bang New York, Shawcross phải chứng minh vào mỗi lần gây án, hắn chịu ảnh hưởng của một chứng bệnh hoặc khiếm khuyết về tâm thần như là không biết hắn đang làm gì hoặc không nhận thức được việc làm đó là sai.

Luật sư bào chữa thuê tiến sĩ Dorothy Lewis, một nhà tâm thần học và chuyên gia về những rối loạn có tổ chức trong bạo lực. Lewis tin là Shawcross đã bị tổn thương nghiêm trọng khi còn nhỏ và mắc chứng tai biến mạch máu tùy thái dương không hoàn toàn làm trở ngại trí nhớ của hắn. Những cơn tai biến chỉ xảy ra vào những hoàn cảnh nhất định, như là khi hắn một mình với các cô gái mại dâm trong đêm. Shawcross trợ giúp cô ấy bằng cách chấp nhận bị thôi miên, và cô ấy đã quay phim lại quá trình để đưa ra tòa. Lewis bực tức khi đội bào chữa không thể lấy bản chụp não mà cô ấy cần để chứng minh vụ án này trên khía cạnh thần kinh. Cô ấy cũng không biết rằng một chuyên gia bào chữa khác đã chất vấn Shawcross cùng thời điểm đó – điều này có lẽ đã ảnh hưởng đến những gì Shawcross nói với cô ấy. Vì vậy, hy vọng sử dụng hắn làm ví dụ cho giả thuyết của cô ấy trở nên mơ hồ.

Tiến sĩ Park Dietz, bên nguyên, nhận định rằng Shawcross mắc chứng rối loạn nhân cách chống xã hội (antisocial personality disorder), một chứng không được coi là bệnh hay khiếm khuyết tâm thần cản trở nhận thức. Hắn nhớ đầy đủ những vụ án của mình và đưa ra các chi tiết và đầu mối cho cảnh sát về hai nạn nhân khác. Hắn cũng đã cố tránh bị phát hiện hay bị bắt, vậy nên hắn biết những gì làm là sai và hắn có thể bị bắt vì những việc làm ấy. Trên thực tế, hắn trước đó đã từng ngồi tù vì tội giết người liên quan đến tình dục. Sau phiên tòa kéo dài năm tuần, bồi thẩm đoàn cho rằng Shawcross hoàn toàn tỉnh táo và phán hán có tội với mười tội sát nhân trong điều hai. Hắn lãnh mười án phạt từ hai mươi lăm năm đến chung thân.

Cho dù một người có bị hoang tưởng, tự cao tự đại, hay giết vì thú vui, giết người hàng loạt thường được có động cơ là do sự tức giận và trả thù. Hãy cùng kiểm chứng một số vụ án có chứa những động cơ này.



Cre: ver1.tamlytoipham.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35: C35: 35. Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt (7)


Chương 7: CƠN THỊNH NỘ

Có thể tranh cãi rằng một kẻ giết người vì cơn thịnh nộ hay giận dữ có thể được phân loại là một kiểu kẻ giết người liên hoàn mở rộng, vì cơn giận của một kẻ giết người liên hoàn thường liên quan đến một sự việc khinh suất nào đó. Tuy nhiên đối với một vài người trong số những kẻ giết người này, yếu tố "săn mồi" đã xâm lấn hành động của họ đến mức họ có thể dễ dàng bị phân loại thành kẻ giết người hàng loạt. Các hạng mục về bản chất con người không bao giờ có thể chắc chắn hay tuyệt đối.

Những kẻ giết người được mô tả và khảo sát trong chương này rõ ràng đều có tiến trình bắt nguồn từ sự giận dữ, cho dù động cơ khác của họ, ví dụ như khoái lạc tình dục, quyền lực, hay lợi nhuận, cũng rất hiển nhiên. Giống như một kẻ giết người theo số đông, người không thể chịu đựng được những lời lăng mạ trong đời và vì thế làm cho cơn giận dữ bùng lên đến một điểm khi anh ta (hoặc cô ta) cuối cùng sẽ cầm lấy khẩu súng với ý định trừng phạt những người lăng mạ anh ta, một số kẻ giết người hàng loạt cũng giữ cho tàn tro của cơn giận vẫn còn nóng để họ có thể kích lửa hành động khi cần thiết, và đối với họ, điều đó thường rất thỏa mãn, hay là cả khiêu gợi.

KHIẾN HỌ PHẢI TRẢ GIÁ

Khi cảnh sát Pakistan gạt bỏ thư phàn nàn tội phạm lập bởi Javed Iqbal chống lại hai nô lệ đã đánh hắn, hắn đã lên kế hoạch trả thù. Hắn tực giận không chỉ vì hành vi tấn công không bị trừng phạt mà là do ngay cả cảnh sát cũng buộc tội hắn khơi mào cho sự kê gian (quan hệ tình dục giữa nam và nam). Iqbal là người giàu có, với thời gian và của cải trong tay để có thể vẽ ra một kế hoạch khá tinh vi, vậy nên hắn bắt đầu tìm những tiếp tế và đồng phạm mà hắn cần. Dù hắn phải bỏ bao nhiêu sức lực vào dự án này, quyết tâm của hắn vẫn không hề giảm sút. Đó là bởi vì sức mạnh của cơn giận dữ trong hắn không hề bị mai một.

Khi hắn sẵn sàng báo thù cái thế giới mà hắn ghét bỏ, hắn áp dụng kế hoạch vào hành động.

Năm 1999, hơn sáu tháng sau, một lái buôn ba mươi bảy tuổi dụ dỗ những đứa trẻ đường phố về căn hộ của hắn ở Lahore với lời hứa sẽ đãi một bữa ăn và một chỗ ngủ. Ba đồng phạm, trong đó có một cậu bé mười ba tuổi, hỗ trợ hắn. Khi một đứa bé mục tiêu vào thế yếu đuối, Iqbal làm ngạt nó bằng cyanide.

Sau đó hắn làm rã thi thể trong một bể acid và đổ thứ chất lỏng sền sệt ấy vào cống rãnh gần đó. Hắn ghi chú kỹ lưỡng tất cả sự việc, kể cả chi phí phải trả. Hắn còn thêm cả ảnh của từng nạn nhân và giữ lại quần áo cùng vật dụng cá nhân, để khi đến lúc hắn có thể chứng minh việc hắn đã làm. Hắn biết tên và tuổi của từng nạn nhân vị thành niên, và hắn đều đặn kiểm tra lại thống kê của mình. Rồi hắn đạt đến con số một trăm. Vào thời điểm đó, hắn đã đạt được mục tiêu.

Iqbal tự thú với cơ quan thẩm quyền Pakistan. Trong một lá thư, hắn giải thích rằng hắn muốn một trăm bà mẹ phải khóc thương con của mình. Sau đó hắn nói rằng hắn có thể dễ dàng giết năm trăm người mà không thất bại một lần, nhưng hắn đã tự hứa với lòng chính xác hắn sẽ giết bao nhiêu người. Cảnh sát không tốn tí thời gian nào trong việc bắt giữ kẻ săn người nguy hiểm này.

Ngày 16 tháng 3 năm 2000, phiên tòa ở Lahore, Pakistan, phán Iqbal với hình phạt bị bóp ngạt đến chết trước mặt các gia đình nạn nhân và thi thể cắt thành 100 mảnh cho 100 nạn nhân, sau đó được làm rã trong acid – nợ máu trả bằng máu. Đồng phạm của hắn nhận án phạt từ bốn mươi hai năm tù đến tử hình. Iqbal kháng án tử hình của mình, và tòa án Hồi giáo tối cao đồng ý nghe hắn nói, nhưng bốn ngày sau, ngày 25 tháng 10 năm 2001, Iqbal dùng thuốc độc tự tử trong nhà giam. Đồng phạm mười ba tuổi của hắn cũng làm điều tương tự.

Với lý do là sự giận dữ, nhục nhã, và cơn thịnh nộ, Saeed Hanaei giết mười sáu cô gái bán dâm ở Iran trong vòng hai năm, bóp ngạt họ bằng chính khăn quàng của họ và vứt xác họ trên đường. Sau khi Hanaei bị bắt, hắn chối việc hắn chống lại các gái điếm. Thay vào đó, hắn nói rằng hắn đang trả thù cho vợ mình, người bị nhầm là một gái điếm – một lời cáo buộc đầy nhục nhã có thể có ở bất kỳ đâu, trừ chính cái xã hội này, nơi danh dự đứng trên tất cả. Hanaei đinh ninh sai sót xảy ra là do một số lượng lớn các ả đàn bà rẻ rúng ở Mashad, had decided that the error had occurred due to the large number of loose women available in Mashad, nên hắn quyết định giết một số trong họ để vì họ là tiền đề cho sự nhục nhã của vợ mình. Hắn không chỉ không hề ăn năn mà còn nói rằng nếu hắn không giết đủ, hắn sẽ không ngủ được. (Kỳ lạ là hắn đã sử dụng dịch vụ của họ trước khi bóp chết họ.) Tòa phán hắn hình phạt treo cổ, thực thi vào ngày 18 tháng 4 năm 2002.

THIẾU THỐN ĐIỀU GÌ ĐÓ

Cơn giận dữ bộc phát không chỉ là phản ứng với điều gì đó người khác làm mà còn là kết quả của sự đố kỵ và thù oán. Một bị cáo ở Ukraine đã đột nhập vào một số nhà và đồ sát cả gia đình họ, bắt họ ngồi cạnh nhau và xả đạn vào họ bằng một khẩu súng săn. Người ta gọi hắn là "Kẻ Hủy diệt", Anatoly Onoprienko đe dọa cả khu vực, giết chết hàng chục phụ nữ và vô số người lạ mặt ngẫu nhiên trước khi hắn thực hiện đồ sát với quy mô lớn trong bốn tháng đầu năm 1995. Sau khi lấy đi bất cứ thứ gì có thể từ của cải của gia đình đó, hắn sẽ thiêu rụi căn nhà. Thỉnh thoảng hắn xé nát những bức ảnh gia đình, cứ như bất cứ cái gì liên quan đến tình thân đều làm hắn nổi điên, và một số chuyên gia tin rằng điều này là do Onoprienko đã bị bỏ rơi ở cô nhi viện khi hắn mới một tuổi. Mẹ của hắn đã chết bố hắn đã có sự lựa chọn: giữ lại đứa con trai lớn và bỏ đứa bé hơn. Onoprienko cũng đã giết những người ở gần hắn hay trong các nhà hàng xóm, như là để xóa sạch những người có thể là nhân chứng. Một số bị bắn, một số bị đánh bằng dùi cui tới chết, một số bị tấn công bằng rìu, và bốn người bị thiêu chết.

Trong vòng bảy năm, Onoprienko giết chết khoảng năm mươi hai người, và hắn có lẽ đã tiếp tục nếu như em họ của hắn, lo sợ cho gia đình của mình sau khi cãi nhau với Onoprienko, không báo cảnh sát. Họ tìm thấy tài sản của nạn nhân trong nhà bạn gái hắn. Onoprienko không hề ăn năn trong khi thú tội. Trên thực tế, hắn nghĩ rằng cơ quan thẩm quyền phải học tập hắn, bởi vì hắn có "quyền năng". Hắn nói rằng "lời nói từ cõi trên" đã ra lệnh cho hắn giết người, nhưng với bản chất thịnh nộ của hắn trong những tháng cuối cùng và bản tính gai góc và thù địch trong nhân cách, có vẻ nhiều khả năng hắn giết người vì sự tức giận.


Những nghiên cứu chỉ ra những kẻ giết người hàng loạt xuất phát từ những gia đình có tính ngược đãi có quá ít chủ đề để biểu diễn, vậy nên rất khó để nói liệu sự ngược đãi và thờ ơ quan hệ nhân quả mạnh mẽ đến việc giết người có xu hướng ép buộc hay không. Nhưng có rất nhiều trường hợp có thể phá hỏng một con người – ngược đãi và bỏ rơi nằm trong số đó – vậy nên hãy khảo sát một số nghiên cứu tìm hiểu về mối liên quan giữa sự giận dữ với tội giết người.

SỰ KHUÂY KHOẢ CỦA CƠN GIẬN

Nhiều kẻ sát nhân hàng loạt (nếu không nói là đa số) bắt đầu trong đời sống tưởng tượng của chúng, đây là cái vạc pha trộn các quá trình cảm xúc, nhận thức và hành động. Những huyễn tưởng bạo lực bắt nguồn từ cơn giận, đó là một phản ứng xung hấn trước một tình huống gây khó chịu, phục vụ nhiều mục đích. Chúng:

– Đem đến một thế giới bí mật của sự ham mê có tính khuây khoả và tự yêu bản thân

– Nuôi dưỡng nhu cầu bộc phát thành hành động

– Cung cấp những kịch bản cho việc bộc phát thành hành động

– Cung cấp một phương tiện để phục hồi cơn giận và sự thất vọng thành những hình ảnh khiến họ cảm thấy tốt hơn

– Phát triển lòng tự tôn riêng từ những hành động làm ra vẻ là can đảm, kiểm soát hoặc trả thù.

– Củng cố một cảm giác đặc quyền

– Cho phép nuông chiều trong những sự đồi truỵ cực đoan nhất

– Tăng thêm động lực khi cơ hội đến

– Củng cố những hành động giết người và chuẩn bị cách thức cho việc thực hiện thêm nhiều hành vi đó

– Phương thức làm việc hoàn hảo


– Cung cấp một cách thức để âm thầm làm hồi sinh tội ác

Vì chương này tập trung vào cơn thịnh nộ, hãy xem xét quan điểm cho rằng những tên sát nhân tìm thấy trong cuộc sống tưởng tượng bí mật của chúng một nơi để tái sinh nỗi thất vọng. Với cảm giác có đặc quyền và tự yêu bản thân của chúng, chúng sẽ không dễ dàng mà xử lý được cơn giận của chúng – chúng không muốn làm việc đó. Đối với một số tên, việc đó tương đương với sự yếu đuối hoặc kém nam tính. Thay vào đó, chúng có nhiều khả năng duy trì sự tức giận và thậm chí chất chứa sự tức giận. Chúng nghiền ngẫm, bị trầm cảm, cảm thấy bị bạc đãi, chìm đắm vào trải nghiệm trong quá khứ và có lẽ tối giảm vai trò của chúng trong kinh nghiệm đó, nhưng lại phóng đại vai trò của những người khác. Sự đổ lỗi là một yếu tố mạnh mẽ trong việc duy trì sự tồn tại của cơn giận. "Những người khác" đã gây ra hoàn cảnh đau khổ cho chúng thì bây giờ sẽ trở thành đối tượng trong huyễn tưởng của chúng, để chúng trút giận. Kiểu tức giận này trở thành kinh niên, mãn tính và hình thành nên những kịch bản trả thù, những sứ mệnh tôn giáo hoặc những trò chơi quyền lực.

Những con người bất an này có thể tưởng tượng việc bộc phát thành hành động chống lại một đối tượng rõ ràng – những cô gái mại dâm không giúp chúng quan hệ tình dục, những phụ nữ trông giống như các bà mẹ hay cằn nhằn của chúng, những đứa trẻ ở độ tuổi mà khi xưa chúng từng bị bạo hành, những bệnh nhân trong bệnh viện đại diện cho tính dễ tổn thương gây sợ hại của riêng chúng. Do đó, khi chúng hành động dưới sự ảnh hưởng của những động lực thôi thúc đó, thì các nạn nhân thường là các túi đấm. Họ chịu đựng mũi dùi của nhu cầu của kẻ sát nhân và họ bị buộc phải cảm nhận nỗi đau mà những kẻ sát nhân đã chất chứa từ lâu trong lòng chúng.

Anthony Beech, Dawn Fisher, và Tony Ward phát hiện thấy những tên sát nhân tình dục chia sẻ những lý thuyết tương tự như những kẻ hiếp dâm, nhưng bản thân việc giết người lại xuất phát từ một sự kết hợp nhất định. Các nhà nghiên cứu đó đã phỏng vấn 28 tên sát nhân tình dục và xác định 5 quan điểm dường như là động cơ thúc đẩy ở mức độ này hay mức độ khác của những vụ phạm tội cực đoan: thế giới là nguy hiểm, động lực tình dục của đàn ông là không thể kiểm soát được, phụ nữ là những đồ vật tình dục, phụ nữ là không thể hiểu được, và đặc quyền cá nhân. Cả 5 niềm tin đó được tìm thấy ở những tên hiếp dâm, nhưng chỉ khi 2 niềm tin đầu tiên được kết hợp với nhau – thế giới là nguy hiểm và động lực tình dục ở đàn ông là không thể kiểm soát được – là một động lực cá nhân cụ thể thúc đẩy việc hiếp dâm và giết người. Nếu chúng tin rằng thế giới này là nguy hiểm nhưng không tin rằng động lực tình dục là không thể kiểm soát được, thì chúng bị thúc đẩy giết người chủ yếu do cơn giận và thịnh nộ chống lại phụ nữ, và nếu chúng không xem thế giới là nguy hiểm nhưng lại nghĩ rằng động lực tình dục là ngoài tầm kiểm soát của chúng, thì chúng bị thúc đẩy để hiếp dâm, nhưng thường chỉ giết người để có được sự hợp tác an toàn hoặc để loại bỏ một nhân chứng. Vì vậy, bản thân sự tức giận có thể là một yếu tố nguyên nhân trong những vụ phạm tội hiếp dâm giết người.

Khi được phỏng vấn, những tên giết người hàng loạt đã bộc lộ cơn giận trước giới phụ nữ nói chung hoặc những cô gái mại dâm nói riêng. Đối với chúng, giết người hàng loạt là một tuyên ngôn cũng như một cách để bộc lộ nỗi thất vọng của chúng, và có được sự giải toả từ việc giết người. Mặc dù thực tế là các nạn nhân của chúng là không quan trọng đối với những hoàn cảnh của chúng, chúng chọn những người tượng trưng cho cơn giận của chúng, hoặc là do ngoại hình, nghề nghiệp, tuổi tác của các nạn nhân hoặc cách mà nạn nhân đối xử với chúng. Cơn giận đem lại một sự gia tăng adrenaline và khi nó đi cùng với khả năng kiểm soát cơn bốc đồng kém, thì có ít thứ để cản trở ý định giết người do cơn giận thúc đẩy của một người. Vào lúc đó, chúng cảm thấy tốt. Chúng diễn tập lại giải pháp này cho nỗi thất vọng trong những huyễn tưởng của chúng, do đó niềm vui từ việc giết người đã tở nên ăn sâu trong chúng như một đáp ứng thuộc thói quen.

Duncan Cartwright nghiên cứu về khuynh hướng tính cách của tội giết người do tức giận, dựa trên một nghiên cứu về 9 tên tội phạm, và phát hiện thấy chúng có khả năng phân chia thực tế thành một thế giới bên ngoài và một thế giới bên trong. Một mức độ phân tách xuất hiện trong suốt hành động tàn sát, bị thôi thúc bởi một sự kiện bên ngoài vô thưởng vô phạt. Nói cách khác, cường độ mạnh mẽ của việc giết người do tức giận đã vượt quá kích thích kích hoạt. Trong khi Cartwright tập trung vào tội giết người đột ngột không phải do tính cách của tên tội phạm, thì ông vẫn đem lại những hiểu biết sâu sắc mà chúng ta có thể áp dụng cho tội phạm giết người hàng loạt.

Ông mô tả về căn nguyên của những thôi thúc giết người là từ cảm giác của mối đe doạ nội tâm, và người đó quyết định tiêu diệt mối đe doạ. Dễ phạm phải các tội giết người đó bắt nguồn từ những phẩm chất nội tâm lý; nói cách khác, nó là một sự phòng vệ chống lại sự tổn thương cho một nhân cách vốn đã dễ tổn thương hoặc khiếm khuyết. Sự gây hấn có chức năng bảo vệ thế giới nội tâm. Những vấn đề từ thời thơ ấu, chúng bắt nguồn từ sự bạo hành hoặc sự không có khả năng thích nghi với thế giới, có thể làm cho người đó không linh hoạt, với một xu hướng kiểm soát (thậm chí kiểm soát quá mức) các tình huống. Nhưng sự thù địch và sự cứng nhắc của họ khiến họ gặp thất bại, điều đó lại làm tăng thêm nỗi tuyệt vọng của họ để giữ cho thế giới nội tâm của họ không bị đụng chạm đến. Nếu họ không thể kiểm soát thì họ sẽ bị người khác kiểm soát, điều đó làm họ hoảng sợ. Khi các kích thích là phù hợp, họ có thể phản ứng nhanh, với hành vi bạo lực cực đoan.

Sự tức giận có thể phát triển sớm, do những hoàn cảnh và sự thiếu khả năng kiểm soát những hoàn cảnh xung quanh của một người. Carl Panzram, tự miêu tả bản thân là "người đàn ông xấu xa nhất còn sống" là một ví dụ hay.

Cơn cuồng phạm tội của Panzram đầu thế kỷ 20 kéo dài 18 năm, xảy ra ở ít nhất là 2 châu lục. Từng bị bắt vì chứng nghiện rượu khi y mới 8 tuổi, Panzram đã sống một cuộc đời khó khăn. Sau khi đi học ở một trường cải tạo ở đó y chịu nhiều trận đòn và "học được sự vô nhân tính của con người đối với con người", y quyết định sống tiêu cực bất cứ khi nào y có thể. Y thường trả thù cho những hành động mà y ghét bằng việc thiêu huỷ các toà nhà.

Trong nhật ký của y, Panzram xem bản thân y như "hiện thân của linh hồn xấu xa" và đổ lỗi cho tính cách xấu xa của y là do sự bạo hành bất tận từ gia đình, tôn giáo và những cai ngục. Khi y trải qua một khoảng thời gian hiếm hoi được chăm sóc chu đáo, y viết, "Nếu ngay từ đầu tôi được đối xử như bây giờ thì khi đó sẽ không có quá nhiều người trên thế giới này bị cướp bóc, bị cưỡng hiếp và giết chết." Y đã giết, hiếp và giao cấu bừa bãi sau khi dụ dỗ các nạn nhân vào những tình huống dễ bị tổn thương. Y cho rằng việc giết người là vui vẻ, thú nhận về 21 vụ giết người và bổ sung thêm rằng y đã giao hợp với hơn một ngàn đàn ông.

Tại phiên toà xử tội trộm cắp, y nói trước toà là nếu y được phóng thích thì y sẽ giết quan toà và ban bồi thẩm. Panzram tự bào chữa cho y tại phiên toà, hy vọng truyền cảm hứng cho ban bồi thẩm ban cho y án tử hình. Cho đến khi y bị hành hình, y dành thời gian để đọc các triết lý của Friedrich Nietzsche. Y ghét toàn bộ nhân loại, y tuyên bố thế, và muốn giết tất cả mọi người.

Năm 1930, y bị hành hình.

Khi việc giết chóc có tính thanh tẩy thì nó ít liên quan đến đối tượng nạn nhân trong thực tế và sẽ có thể tiếp tục dưới những hoàn cảnh tương tự. Hãy xem xét một trường hợp ở đó việc giết người dường như là một nghi lễ cứng rắn.


SỰ TỨC GIẬN VÀ NGHI LỄ

Nhà điều tra Robert R. Keppel nói, "Hầu hết tất cả những tên tội phạm tình dục, đặc biệt là những tên sát nhân để lại chữ ký, cần chứng tỏ ở một mức độ nào đó đã kiểm soát được hoàn toàn nạn nhân, dù cô ta còn sống hay đã chết. Cơn giận điều khiển họ làm việc đó." Ông mô tả về một tên sát nhân để lại chữ ký (người để lại một dấu vết hành vi cá nhân ở một hiện trường phạm tội) mà ông hỗ trợ cho cuộc điều tra ở Claremont, California, gần San Diego, đã tấn công các phụ nữ da trắng. Đầu năm 1990, người đàn ông này vào các căn hộ của 3 phụ nữ khác nhau và giết chết họ. Nạn nhân thứ tư xuất hiện trong nhà của cô, và vào khoảng tháng 9 "Sát thủ Claremont" đã tấn công một bà mẹ và đứa con gái trong nhà họ, giết cả hai người đó. Không khó để liên kết các vụ phạm tội đó, vì thủ phạm đã để lại một chữ ký rõ ràng – piquerism. Đó là, y thích đâm bằng dao và đục khoét bằng một dụng cụ sắc nhọn. Cụ thể là, y nhắm đến tim và ngực trái, đâm sâu vào vùng đó nhiều lần. Phân tích chữ ký, nhận thấy nó bao gồm sự hành hung quá mức và nghi lễ, cho thấy người đàn ông này đang tức giận và cảm thấy có một nhu cầu kiểm soát các nạn nhân của y.

Sát thủ Claremont lột hết quần áo của các nạn nhân và đâm họ nhiều lần và để họ ở tư thế khiêu khích. Y cũng ra vào nhà của một nạn nhân tương đối dễ dàng, để lại các đồ vật rải rác và thường vứt bỏ con dao mà y đã dùng ngay tại đó như là một tuyên bố thách thức các nhà điều tra. Từ kiểu hành hung các nạn nhân quá mức cần thiết để giết họ và từ kiểu đâm sâu mà y ưa thích (đặc biệt trên ngực phụ nữ), có vẻ như y bị kích thích bởi bạo lực, và vì chỉ có duy nhất một nạn nhân bị cưỡng hiếp, con dao được xem là một vật thay thế cho sự xâm nhập dương vật.

Một cuộc tấn công vào ngân hàng thất bại dẫn đến việc bắt giữ một người đàn ông da đen, Cleophus Prince, Jr., 25, sống trong khu vực. Anh ta đã tham gia câu lạc bộ sức khoẻ của một số nạn nhân của anh ta, dẫn đến suy đoán rằng anh ta đã đi theo họ từ đó đến nhà của họ. Anh ta thường lấy một mảnh trang sức từ họ như một vật kỷ niệm chiến công.

Keppel tin rằng tên sát nhân là người thích những trò tàn ác. Anh ta không đâm các nạn nhân một cách điên cuồng, mà đâm con dao từ từ, với sự thoả mãn. Anh ta đâm vào sâu như của một cái dương vật thẳng đứng. "Kẻ sát nhân bị ám ảnh bởi kích thích đâm các nạn nhân." Anh ta bỏ lại con dao ở 3 hiện trường như thể để "chứng tỏ" với cảnh sát sự dũng cảm của y. Dù Keppel không tiết lộ Prince đã thú nhận điều gì, ông cho biết niềm vui chủ yếu của Prince đến từ việc nhìn thấy dòng máu chảy ra từ ngực của các phụ nữ.

Nhưng đôi lúc kẻ sát nhân muốn nói chuyện, và tiết lộ nguyên nhân của cơn giận của y.

NHỮNG NGƯỜI ĐÓNG VAI PHỤ

Edmund Kemper III đã giết ông bà nội của y ở tuổi 15 vào năm1964. Bà nội của y đã làm y nổi giận, sau này y nói, vì vậy y đã bắn và đâm bà và giết ông nội của y. Kemper sau đó gọi cho mẹ của y, người giục y đi đầu thú. Y bị giam ở California, nhưng được thả năm 1969 với một hồ sơ sạch sẽ. Anh chàng khổng lồ cao 6f9 này có một chỉ số IQ thiên tài đã sẵn sàng giết chóc lại, cơn giận của y chưa được thoả mãn ở 2 vụ giết người đầu tiên.

Năm 1972 và 1973, Kemper thấy 2 phụ nữ trẻ xin đi nhờ xe và tưởng tượng những chuyện y có thể làm với họ. Y làm quen với họ. Y thường chơi một trò chơi với bản thân y, cho phép một số người được tự do, còn những người khác thì bị bắn, bị đâm hoặc bóp cổ. "Tôi chọn những phụ nữ trẻ," Kemper giải thích với cảnh sát trong một buổi thú nhận sau này, "và tôi mỗi lần sẽ đi xa hơn một chút. Nó là một việc phiêu lưu...Chúng tôi đi đến một nơi dễ bị tổn thương, nơi không có ai nhìn thấy nơi tôi có thể hành động và tôi nói, Không, tôi không thể.... Và khao khát này, cơn thịnh nộ khủng khiếp này gặm nhấm cảm xúc bên trong, sự đam mê kỳ quái này. Nó ngập tràn trong tôi? Nó giống như ma tuý. Nó giống như rượu. Một chút là không đủ."

Vụ giết người đầu tiên của y gồm có 2 cô gái vào ngày 7 tháng 5 năm 1972. Mary A. Pesce và Anita Luchessa, cả hai đều 18, bị đâm, bị chặt đầu và chặt ra từng khúc. Kemper đi khỏi và âm thầm thích thú khi đọc các tin tức báo cáo những bộ phận cơ thể được tìm thấy. Cơ hội tiếp theo của y đến từ một nữ sinh học nhảy 15 tuổi, Aiko Koo, vào ngày 14 tháng 9. Kemper làm quen với cô và bóp cổ cô. Sau đó, y cắt đầu và tứ chi của cô. 4 tháng tiếp theo trôi qua mà không có bất kì vụ giết người nào, nhưng sau đó giữa tháng 1 và tháng 4, Kemper giết thêm 3 phụ nữ trẻ. Tất cả đều bị bắn và chặt đầu. Cuối cùng Kemper tranh cãi với mẹ của y (người làm y mất giá trị) và y quyết định bà ấy là người y muốn giết từ lúc đầu. Ngày 20 tháng 4, 1973, y nói chuyện với Clarnell Kemper một lúc và sau đó đánh bà bằng dùi cui, chặt đầu và chặt chân tay bà, cắt bỏ thanh quản của bà. Y cũng mời bạn của mẹ y là Sara Hallett rồi giết bà ấy. Y trốn sang Colorado, nhưng sau đó ra đầu thú. Một lần với cảnh sát y bắt đầu nói chuyện, mô tả về sự tức giận mà y có với mẹ y qua nhiều năm như thế nào và mỗi vụ giết người là một sự mở rộng cơn giận đó ra sao.

Ngày 8 tháng 11, 1973, Kemper, 24, bị tuyên án trong 8 phiên toà là mưu sát cáp độ cao nhất. Dù y hy vọng nhận được án tử hình, nhưng do y bị kết án tại thời điểm mà toà án tối cao của Mĩ ban hành lệnh cấm án tử hình, nên y được sống.

Đa số những gì được biết về Kemper đến từ những lời giải thích của y, vì vậy không rõ bao nhiêu phần chính xác, nhưng có thông tin được chứng thực là ba mẹ của y đã bỏ mặc y. Mẹ y nói rằng y ngủ ở tầng hầm, khiến y sợ hãi, và cha y từ chối đưa y vào nhà khi y yêu cầu. Khi còn là một đứa trẻ, Kemper ao ước rằng tất cả mọi người trên thế giới sẽ chết, và y tưởng tượng bản thân đang giết họ. Y cũng thích hành hạ những con mèo. Y từng chôn sống một con mèo, sau đó đào nó lên và cắt đầu nó.

Kemper lấy ý tưởng làm thế nào để giết các nữ sinh đại học từ những tượng tượng của y và sưu tập những tình tiết hay từ các tiểu thuyết về tội phạm, như làm thế nào để tạo cho các nạn nhân của y ấn tượng rằng họ được an toàn. Thỉnh thoảng y làm quen với các cô gái và để họ đi. Nhưng cuối cùng y cảm nhận cái mà y gọi là "những niềm vui nhỏ" của y và hành động.

Donald Lunde, một bác sỹ tâm thần đã phỏng vấn Kemper vào thời điểm y bị bắt
, cho rằng y đã bộc lộ nhận thức đầy đủ và ưa thích những trò đồi bại mà y đã thú nhận, bao gồm tục ăn thịt người và bệnh hoạn, quan hệ tình dục với xác chết. Lunde tin rằng sự xung hấn tình dục của Kemper bắt nguồn từ một sự kết hợp của cơn giận thời thơ ấu và những huyễn tưởng bạo lực. Mối quan hệ mâu thuẫn của y với mẹ y là phổ biến ở những kẻ thích những trò tàn ác tình dục, Lunde nói; họ giết các bà mẹ của họ trong thế giới tưởng tượng của họ.

Tất nhiên, không phải tất cả các kẻ sát nhân vì tức giận đều là đàn ông. Ít nhất đã có một kẻ cuồng sát là một phụ nữ, Sylvia Seegrist, và thị giết người vì tức giận trước cách đối xử của họ đối với thị.


Tháng một, 2006, cảnh sát ở Mexico City cho biết một tay đô vật nữ, bị buộc tội trong những vụ bóp cổ giết hại ít nhất là 10 phụ nữ lớn tuổi, đã bộc phát thành hành động do tức giận người mẹ đã bỏ rơi thị và nhắm đến một người chăm sóc đã tấn công tình dục đối với thị. Juana Barazza, 48, bị bắt khi đang bỏ chạy từ một hiện trường phạm tội và dấu vân tay liên kết thị với những người khác.

Thị đã lấy những đồ vật nhỏ từ các nạn nhân như là vật kỷ niệm chiến công.

Dù Aileen Wuornos thường được phân loại như một kẻ sát nhân thèm khát, thì không có lý do gì để cho rằng thị giết người để đạt được sự thoả mãn tình dục. Thị nói liến thoắng về các động cơ của thị, từ việc giết người để phòng về cho đến cướp của, nhưng bằng chứng từ những vụ giết người của thị cho thấy thị là một phụ nữ căm phẫn nhắm vào những người đàn ông. Từng bị bạo hành bởi nhiều người đàn ông trong cuộc đời thị, dường như những vụ phạm tội của thị được tiếp thêm năng lượng bởi cơn thịnh nộ. Nếu thị chỉ đơn thuần muốn có lợi ích tiền bạc thì thị có thể cướp của họ. Nhưng cách thị nói về những vụ phạm tội của thị và thái độ của thị trước toà cho thấy cơn giận đã điều khiển thị, và sự thích thú là kết quả của việc làm nguôi cơn giận đó.

CƠN THỊNH NỘ CỦA ĐỊA NGỤC

Wuornos là chủ đề của vô số cuốn sách, bài báo và phim ảnh – thậm chí một vở opera. Thị nói trong một cuộc phỏng vấn trước khi bị tử hình vào năm 2003 là nếu thị được thả, thị sẽ giết người trở lại, và thị đã lên kế hoạch cướp và giết 7 nạn nhân của thị hơn là chỉ chống trả lại sự bạo hành của họ đối với thị, như thị đã khai lúc đầu.

Nó bắt đầu vào tháng 12, 1989 khi một chiếc xe hơi bị bỏ lại được phát hiện thấy không xa Daytona Beach, Florida, với những chiếc ghế đầy máu. Các giấy tờ cho thấy chiếc xe thuộc về Richard Mallory, được biết là đã đón những cô gái mại dâm. 2 tuần sau, thi thể của Mallory được phát hiện trong rừng, bị bắn 4 lần vào ngực với một khẩu súng a.22-caliber.

Dù đây là vụ sát nhân đầu tiên của Wuornos, thì không hẳn đó là người đàn ông đầu tiên thị muốn giết. Theo câu chuyện mà thị kể cho các nhà tâm lý sau này, mẹ của thị đã bỏ rơi thị khi thị còn là đứa trẻ sơ sinh và người cha bị bệnh tâm thần phân liệt của thị từng bị bỏ tù vì tội cưỡng hiếp một bé gái 7 tuổi. Với một cuộc điều tra về tội gết người, ông bị tống giam. Aileen và anh trai của thị buộc phải sống với ông bà ngoại, và ông ngoại của thị là một người nghiện rượu bạo hành. Khi một người bạn của ông ngoại làm thị có thai khi thị chỉ mới 14 tuổi, thị buộc phải sinh con và cho bé làm con nuôi. Ông ngoại sau đó đuổi thị ra khỏi nhà, vì vậy thị làm gái điếm để sinh tồn.

17 tuổi, thị đi nhờ xe đến Denver và sau đó là Florida. Trên đường, thị bị đánh đập và cưỡng hiếp nhiều lần. Thị gặp Tyria Moore ở Florida, người trở thành tình nhân của thị, và Wuornos cũng kiếm được một khẩu súng. Sau khi giết Mallory, thị đợi 5 tháng trước khi giết con mồi tiếp theo. Vào tháng năm 1991, xe tải của David Spears được phát hiện trên đường quốc lộ Florida và thi thể loã lồ của anh được tìm thấy cách đó khoảng 60 dặm. Anh cũng bị bắn vào ngực với một khẩu a .22. Dù không tìm thấy dấu vân tay trong xe hơi, họ vẫn tìm được một sợi tóc vàng

5 ngày sau, một thi thể đàn ông khác được phát hiện, cũng bị bắn với một khẩu a .22 và chiếc xe hơi của anh ta bị bỏ lại cách đó 60 dặm. Lúc này cảnh sát chưa nhận ra họ đang có một kẻ sát nhân hàng loạt, họ biết hai phụ nữ bị phát hiện là kéo và vứt biển số của một chiếc xe Sunbird màu bạc rồi họ chạy vào rừng. Sau đó có thêm 3 xác đàn ông được phát hiện, tất cả đều bị bắn bởi cùng vũ khí.

Tổng hợp lại các bức tranh được tạo thành từ các nhân chứng thông báo về hai phụ nữ, và được công khai cho thiên hạ biết. Nhiều người xác định các bức tranh như một cặp đồng tính nữ, Tyria Moore và "Lee"—Aileen Wuornos. Thị bị bắt ở một quán bar

Cảnh sát tiếp cận Moore, người thú nhận rằng Wuornos là kẻ giết người và đồng ý thuyết phục cô khai ra. Ngày 16 tháng 1, 1991, Wuornos thú nhận về các vụ giết 7 người đàn ông. Thị khăng khăng cho rằng thị chỉ đang tự bảo vệ bản thân. Thị từng xin đi nhờ xe và họ làm quen với thị và gạ thị ăn nằm với họ. Khi họ hành hung, thị bắn họ.

Wuornos đã cố gắng, và nhà tâm lý Elizabeth McMahon giải thích rằng hoàn cảnh của thị đã làm thị mắc bệnh hoang tưởng về đàn ông, nhưng công tố viên cho rằng thị đã dụ dỗ đàn ông với khả năng làm tình và sau đó giết họ để lấy tiền và tài sản của họ. Thị là một kẻ săn mồi. Ông hỏi Wuornos về những động cơ của thị và thị khăng khăng rằng thị là nạn nhân.

Tuy nhiên, Wuornos bị kết tội và ban bồi thẩm đề nghị bản án tử hình. Khi thị hầu toà vào năm 2001 để sa thải luật sư của thị và dừng kháng cáo của thị, thẩm phán nói với thị là thị bây giờ sẽ sớm ngồi ghế điện. Vào lúc đó thị nói rằng công tố viên đã đúng: thị là một kẻ giết người máu lạnh.

Nhà viết tiểu sử Sue Russell chỉ ra rằng trong suốt cuộc đời của Wuornos, thị bị chối bỏ, bị làm bẽ mặt và bỏ rơi. "Thế giới của thị đầy nỗi đau, phẫn nộ và nghiện rượu." Thị tìm cách để được yêu thương bởi một ai đó, nhưng thị chỉ tìm thấy sự phản bội và lợi dụng "Bằng cách làm cho một người đàn ông đau khổ, Aileen biến bản thân thị từ một nạn nhân thành người đối xử tàn nhẫn với người khác." Thị thích cảm giác quyền lực mà thị có từ việc chế ngự họ, dí súng vào họ, và lấy đi tài sản của họ khi họ chết. Russell cũng chỉ ra trước những ngày giết chóc của Wuornos là những yếu tố gây ra stress ở thị, khiến thị cảm thấy không có sức mạnh, quyền lực, vì vậy thị phản ứng lại và giành lại ít nhất là một chút cảm giác quyền lực. Thị cũng có thể khám phá ra việc giết người là một cách dễ dàng để kiếm tiền. Nên biết rằng việc buộc Wuornos đồng ý bằng một lời giải thích đơn giản là rất khó, không ai thực sự biết, nhưng chúng ta biết rằng Wuornos đã cảm thấy phẫn nộ với đàn ông và chống lại một xã hội mà thị phải vật lộn để kiếm sống và tìm được một người bầu bạn đáng tin. Thị có thể cảm thấy thị có quyền với những gì thị lấy được để bù đắp cho tất cả những gì thị phải chịu đựng. Điều đó rõ ràng là bắt nguồn từ sự bất chấp, đã nuôi dưỡng sự tức giận.



Cre: ver1.tamlytoipham.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36: C36: 36. Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt (8)


Chương 8: LỢI ÍCH

Trong thập niên 30 tại Philadenphia, Tiến sĩ Morris Bolber từng cầm đầu một đường dây lừa đảo bảo hiểm có liên quan đến những vụ giết người hàng loạt với con số nạn nhân ước tính lên đến 50 người – tất cả đều là đàn ông. Bolber và hai tên anh em họ – Paul và Harman Petrillo, đã dựng ra một kế hoạch hiển nhiên đến mức những kẻ ngu ngốc nhất cũng làm được, và thực sự là như vậy. Một tên sẽ dụ dỗ nữ khách hàng tiềm năng – người đang bất mãn với cuộc hôn nhân của mình, thuyết phục ả ta dụ chồng mua một khoản bảo hiểm nhân thọ thật lớn. Những kẻ còn lại sẽ thủ tiêu người chồng, rồi ăn chia khoản bồi thường với bà quả phụ nọ. Về sau, nhóm này kết nạp thêm nhiều thành viên khác, bao gồm cả một phụ nữ biết dùng độc. Chúng đã thực hiện chót lọt các phi vụ của mình trong vòng năm năm, trước khi có một kẻ trong nhóm khoe khoang về các chiến tích khiến cả nhóm bị bắt vào năm 1937 cùng với những bà quả phụ đồng lõa. Một số trong những bà quả phụ này đã trở thành nhân chứng vạch tội, số còn lại thì chịu chung số phận với những kẻ chủ mưu. Hai tên trong nhóm đã bị kết án tử hình.

Trong suốt những thế kỉ qua, một trong số các động cơ của những tên giết người hàng loạt thường là tiền bạc, đặc biệt là trong những thời điểm kinh tế khó khăn, mặc dù chúng cũng đạt được những khoái cảm nhất định khi thực hiện tội ác. Một ví dụ cụ thể cho vấn đề này, Aileen Wuornos rất thích thú khi thực hiện hành vi giết người, nhưng đó đồng thời cũng là phương thức để thị kiếm tiền và những thứ khác. Những ả đàn bà giết người hàng loạt thường làm vậy để "nâng giá" bản thân, rất nhiều trong số chúng được gọi là "Góa phụ đen", và một ả giết người còn có trước cả khi đồ tể Jack là một minh chứng rõ ràng.

GÓA PHỤ ĐEN

Một bác sĩ nghi ngờ rằng Mary Ann Cotton gây ra cái chết của đứa bé mới chỉ 7 tuổi – Charlie Cotton. Thị là một trong số những người sử dụng chất Asen để đầu độc nạn nhân trong thời kì mà việc chẩn đoán việc đầu độc bị nhầm lẫn với những cơn đau dạ dày – loại bệnh vốn không tránh được, và thường bị các bác sĩ bỏ qua khi khám cho người nghèo tại Anh. Nhưng cái chết của Charlie bé bóng thì khác bởi nó là một trong rất nhiều vụ án có liên quan đến Mary Ann Cotton, và khi cậu bé chết, một vị bác sĩ đã nghi ngờ và tiến hành khám nghiệm tử thi. Trong khi khám nghiệm, ông ta phát hiện cậu bé có dấu hiện bị thiếu dinh dưỡng và ông nghi ngờ đến chuyện cậu bé có thể bị đầu độc. Tuy niên, tại thời điểm đó vẫn chưa có phương pháp để kiểm tra phát hiện ra chất Asen, ngoài ra thì trong những thứ được tìm thấy trong dạ dày cậu bé cũng không có chất Asen. Vì vậy, ông không có bằng chứng chống lại người mẹ kế của cậu bé.

Tuy vậy, người dân ở vùng West Auckland vẫn biết chuyện. Mary Ann Cotton đã từng đầu độc lợn của nhà hàng xóm, và người ta cũng biết có rất nhiều người xung quanh thị đã chết. Vậy nhưng, thị vẫn tiếp tục nhận được tiền bảo hiểm nhân thọ, giống như cách thị vẫn nhận khi bố Charlie qua đời. Những người thân cũng biết Mary Ann đã có nhân tình – thị thậm chí còn mang thai với hắn – và họ cũng ghê sợ hắn.

Vị bác sĩ nọ vẫn luôn bị ám ảnh với những gì ông phát hiện, vì thế, ông quyết định kiểm tra lại dạ dày của Charlie, phòng khi ông đã nhầm. Lần này, ông đã tìm được bằng chứng về chất Asen trong dạ dày cậu bé, và báo với cảnh sát. Họ bắt giữ Marry Ann ngay trước khi thị tới được lễ đường lần thứ năm, cuộc điều tra về quá khứ của thị đã hé mở về một chuỗi các vụ giết người, phần lớn được thực hiện để thị có thể thoát khỏi gánh nặng gia đình đang có, thu được một khoản tiền lớn, và chuẩn bị cho lần "lên xe hoa" kế tiếp. Mỗi người tình hay chồng mới lại "đắp" thêm vào khối tài sản thị đang có. Bằng cách nào đó, thị đã hình thành quan điểm cho rằng thị có quyền, và để đạt được cái thị xứng đáng, thì giết người cũng không sao cả.

Mary Ann là con gái một người thợ mỏ, cha mất trước khi thị tròn 15 tuổi. Ở tuổi 19, thị cưới William Mowbray và nhanh chóng có mang. Sau đó vài năm, họ có với nhau một bé gái và bốn bé trai, nhưng tất cả con trai của họ đều chết vì "đau dạ dày". Không lâu sau đó, Mary Ann có thêm hai bé gái, nhưng cả hai đều mất vì cùng một căn bệnh đó. Lại một bé gái và một bé trai nữa ra đời, và bé trai đã mất trước khi tròn một tuổi. Sau đó, Mary Ann tìm mọi cách đảm bảo rằng Mowbray phải chết, sau cùng, thị nhảy múa trước gương trong bộ cánh mới.


Thêm một đứa bé nữa qua đời, chỉ còn lại duy nhất một bé gái trong số tám đứa con của thị còn sống sót (cho tới thời điểm đó). Để có thể tái giá, Mary Ann bỏ lại con gái cho mẹ mình nuôi dưỡng, rồi trở thành một y tá. Thị gặp George Ward, một bệnh nhân, rồi kết hôn với anh ta. Nhưng cuộc đời người đàn ông này cũng sớm kết thúc khi anh ta làm thị thất vọng. Và như thế, ở tuổi 33, Mary Ann đã sát hại cả thảy 10 người. Thị cũng kiếm được kha khá tiền bảo hiểm nhân thọ. Nhưng thế vẫn chưa hết.

Làm người giúp việc cho James Robinson, một người đàn ông góa vợ, cùng năm đứa con của ông ta, Mary Ann đã đầu độc một bé trai trong số đó. Vì quá đau khổ, Robinson dễ dàng rơi vào vòng tay của Mary Ann, rồi thị nhanh chóng có thai. Đang chuẩn bị cho cuộc sống mới khá khẩm hơn, thị nhận được tin mẹ mình báo sẽ không nuôi đứa con gái 9 tuổi của thị nữa. Trong tâm trí của Mary Ann, chỉ có duy nhất một biện pháp có thể giải quyết gánh nặng này: chất Asen, cho cả hai bà cháu cũng như hai đứa con khác của Robinson. Tất cả bọn họ đều bị cùng một căn bệnh đau dạ dày. Mary Ann sinh hạ đứa bé, nhưng chỉ trong vòng chưa đầy hai tuần thì đứa bé qua đời. Khi thị la hét với chồng nhằm đòi hưởng bảo hiểm nhân thọ của ông, thì người chồng bắt đầu nghi ngờ. Vì vậy, Mary Ann đã cố gắng mua bảo hiểm cho chồng một cách bí mật. Người chồng cuối cùng đã phát hiện ra điều này, cùng với việc tài khoản của ông ở ngân hàng đã bị rút sạch, đã đuổi thị đi, rất có thể là nhờ vậy mà ông đã giữ được tính mạng của mình.

Không lâu sau đó, Mary Ann xinh đẹp gặp Frederick Cotton, một người đàn ông góa vợ, cùng hai đứa con trai bé bỏng ông đang nuôi dưỡng. Frederick có một người chị sống cùng để giúp đỡ gia đình ông, sau khi Mary Ann quyến rũ được ông, thị đã đầu độc người chị gái kia. Sau đó, thị có thai, nhưng thay vì lấy Cotton, thị tới làm việc cho tiến sĩ Heffernan. Sau khi bị ông này phát hiện khi đang tìm cách hạ độc ông ta, thị bỏ trốn, mang theo một số tài sản có giá trị. Trở về nhà Cotton, mang trong mình đứa con của ông, thị lấy ông ta dù chưa thực hiện thủ tục li hôn với Robinson. Rất nhanh sau đó, thị mua bảo hiểm nhân thọ cho cả nhà Cotton, và khi có người đàn ông khác lọt vào mắt thị, thì người chồng thứ tư của thị cũng qua đời một cách bí ẩn.

Nhân tình mới của thị dọn vào nhà và trở thành chủ gia đình, nhưng ngay sau đó Mary Ann đã nhắm được một người đàn ông khác có địa vị cao hơn. John Quick-Manning, một cán bộ thuế, sau đó đã trở thành người tình của thị. Rất nhanh sau đó, con trai cả nhà Cotton và con ruột của Mary Ann qua đời chỉ cách cái chết của Cotton có vài tuần, ngay cả nhân tình mới chuyển đến sống cùng của thị cũng chịu chung số phận, tất cả đều qua đời vì sau một cơn co giật kinh hoàng. Giờ thì thị chỉ còn lại Charlie bé bỏng và đứa con chưa ra đời của Quick-Manning.

Có vẻ rất lạ khi không ai chú ý đến những "kiểu mẫu" như Mary Ann, nhưng thị được miêu tả là một người có sự quyến rũ nữ tính mạnh mẽ, có thể làm mờ mắt mọi gã đàn ông bằng bản năng của người phụ nữ. Thị đã tận dụng được lợi thế của mình, cuối cùng thì thị cũng sát hại bé Charlie, dẫn đến việc bị vị bác sĩ nọ phát hiện. Khi thị đã vào tù, người ta phát hiện thêm ba xác nạn nhân khác, tất cả đều có dấu hiệu bị đầu độc bằng chất Asen.

Mặc dù Mary Ann chỉ bị xử vì đã đầu độc bé Charlie, nhưng những cái chết vì bị đầu độc trước đó vẫn được đưa ra và sử dụng như những chứng cứ khác. Luật sư biện hộ cho thị thuyết phục bên quan tòa rằng: chất Asen được tìm thấy thực ra xuất phát từ giấy dán tường tường được sử dụng tại căn nhà Mary Ann sinh sống, nhưng luận điểm ngớ ngẩn ấy không thể giúp thị thoát tội. Bồi thẩm đoàn tuyên thị phạm tội giết người và phán tử hình. Ngày 20/03/1873, Mary Ann Cotton bị treo cổ, kết thúc một chuỗi 20 năm "miệt mài" giết người, "năng suất", với mục đích làm giàu cho bản thân của thị.

"KIỂU NÔNG TRẠI"


Những ả đàn bà khác cũng tìm cách kiếm lời từ các vụ giết người hàng loạt, lại tìm cách giữ khoảng cách với những con mồi của mình. Dorothea Helen Puente điều hành một nhà trọ ở Sacranento, California, thường được biết đến là người chăm chút vô cùng tỉ mỉ cho khu vườn của mình. Thị cũng nổi danh là hung tinh của những người đàn ông lớn tuổi (bởi nhiều người còn chưa biết rằng trước đó thị thường đưa đẩy những gã trai ở các quán bar, đánh thuốc mê rồi cướp tài sản của họ). Trong suốt những năm giữa thập niên 80, người đàn bà 59 tuổi này đã hạ giá thuê phòng, cung cấp những bữa ăn ngon để hỗ trợ cho 80 người nhận phúc lợi xã hội. Nhà trọ của thị có thể được xem như là nơi đáng sống, nhưng những người hàng xóm của thị lại thấy kì lạ khi nhà trọ của thị vẫn có doanh thu rất cao. Nhưng họ lại không biết được rằng: các khoản tiền trợ cấp cho những khách trọ (những người được cho là đã "chuyển" sang nơi khác) từ chính quyền địa phương vẫn đều đều được rót vào nhà trọ. Puente thì vẫn tiếp tục nhận các khoản tiền này trên danh nghĩa của những "vị khách trọ" nọ, làm tăng số dư trong tài khoản của thị.

Tuy nhiên, thị đã "tính toán sai" với một nạn nhân, tất cả là bởi có một nhân viên xã hội đã ghé thăm nhà trọ của thị. Người phụ nữ này đã nghe kể về những mùi độc hại thải ra từ nhà trọ và tới kiểm tra. Khi bà không nhận được câu trả lời thỏa đáng từ phía Puente về sự mất tích của một người đàn ông, bà đã nộp một bản tường trình về vụ mất tích này cho phía cảnh sát. Thực tế thì, có bảy người cao tuổi đã biến mất khỏi nhà trọ đó. Ngày 07/11/1988, cảnh sát tới nhà trọ của thị, trong khi một viên cảnh sát thẩm vấn Puente, những người khác kiểm tra sân vườn của thị. Họ đào bới lên được những mảnh quần áo, xương cẳng chân, và xương ngón chân vẫn còn trong một chiếc giày. Puente tỏ ra đau khổ khi thấy những gì cảnh sát tìm được, thị xin được tới ở cùng một người họ hàng trong khi cảnh sát tiếp tục đào bới mảnh vườn nó. Họ đồng ý, và thị đã nhân cơ hội đó bỏ trốn.

Cảnh sát tiếp tục đào bới bãi cỏ và khu vườn của thị, và nhanh chóng phát hiện ra những gì còn lại của bảy người mất tích, họ bị chôn vùi trong vôi vữa và túi nhựa. Trong số đó, có một người phũ nữ bị chặt đầu, cắt rời tứ chi, và bị chôn trong tư thế ngồi. Những cái xác đã bị phân hủy đến mức khó lòng tìm ra nguyên nhân cái chết, nhưng các xét nghiệm tinh vi hơn cho thấy các nạn nhân chết vì sử dụng thuốc quá liều.

Trong lúc chạy trốn, Puente đã tìm cách lừa một người đàn ông khác trong quán bar tại Los Angeles, nhưng ông ta nhận ra thị trong bản thông báo và gọi cho cảnh sát. Một cuộc điều tra sau đó cho thấy người phụ nữ "trung niên ngọt ngào" này đã giả mạo chữ kí trên hơn sáu mươi tờ séc. Điều này cũng không mấy ngạc nhiên khi người ta phát hiện trước đây Puente đã từng ngồi tù vì tội trộm cắp và lừa đảo, và sau khi mãn hạn tù, thị bị cho là sẽ gây nguy hiểm cho những người lớn tuổi. Cho đến thời điểm đó, việc phát hiện hai cái chết trước đó có liên quan đến thị đã khiến thị rơi vào vòng nghi vấn. Thị cho rằng mình chỉ phạm tội lừa đảo và giả mạo chữ kí. Tuy vậy, Puente bị đưa ra tòa với tội danh giết chín người nhưng chỉ bị kết án là đã giết ba nạn nhân, bởi một hội thẩm nam không đồng thuận với việc thị có thể đã sát hại nhiều hơn số đó. Thị bị tuyên án chung thân.

Thậm chí còn khéo léo, tài tình hơn là Belle Gunnes, một phụ nữ người Norwegian-Mĩ, kẻ đã sát hại hai người chồng và một vài trong số những đứa con của mình để nhận tiền bảo hiêm nhân thọ. Bằng số tiền đó, thị đã mua một trang trại nuôi lợn ở Indiana, và vạch ra một kế hoạch làm giàu thông minh: thị đặt một quảng cáo cổ điển để lừa phỉnh đàn ông tham gia dự án của mình, thuyết phục họ không nói với ai về nơi sắp tới, và rồi, không còn ai gặp được họ nữa. Nhưng sau đó, Belle phát hiện ra anh trai của trong số những người đàn ông thị lừa gạt – Andrew Helaglein, đã quyết tâm tìm ra nguyên nhân tại sao mình không nhận được tin tức gì từ phía em trai trong suốt ba tháng. Andrew đã cho anh mình một cái tên và địa chỉ, và người anh này đang trên đường đến trang trại. Bí mật của Belle dường như sắp bị phát hiện.

Sáng sớm ngày 28/04/1908, một ngọn lửa lớn đã san bằng ngôi nhà nơi Belle sống, và được cho là đã thiêu cháy Belle cùng ba đứa con của thị, dù vậy, xác người lớn tìm được có vẻ như quá nhỏ... và cái xác đó còn bị mất đầu. Người từng phụ việc vặt ở trang trại trước đó – Ray Lamphere bị bắt, nhưng anh ta khai rằng mình vô tội và Belle vẫn còn sống. Anh ta thậm chí còn tiễn cô ta ở nhà ga.

Phía điều tra sau đó đã thu thập những vật dụng được cho có liên quan đến Andrew Heleglein, họ phát hiện ra Belle đã viết một lá thư van nài anh bán mọi thứ và đến với thị. Họ đào bới ở một khu đất mềm và không lâu sau đó phát hiện một túi cói của chứa các mảnh thi thể bị cắt rời của Heleglein. Chân nạn nhân bị cưa ra từ phía trên đầu gối một cách thành thạo, tay bị tháo rời,đầu bị chặt lìa khỏi xác, những phần còn lại bị nhét một cách thô bạo vào một một cái lỗ cùng với phần thân của nạn nhân.


Phần còn lại của những nạn nhân khác được tìm thấy ở những khu đất mềm khác, và trước khi việc khai quật kết thúc, người ta tìm thấy khoảng mười hai đến mười ba bộ hài cốt khác. Đến lúc đó thì cái chết bí ẩn của người chồng đầu tiên của Belle – M Sorensen(người có mức bảo hiểm nhân thọ lên tới $8,500) vào năm 1900 hóa ra là bị sát hại. Sau mất mát đó, Belle đã tái hôn với Peter Gunness, người đàn ông này đã mất sau đó tám tháng, theo tường trình của Belle, ông bị cối xay thịt và bình nước nóng rơi vào đầu (mặc dù người ta không tìm thấy vết bỏng nào trên người nạn nhân, và miệng vết thương trên đầu nạn nhân không khớp với dấu vết cối xay để lại). Mọi thứ trở nên mơ hồ, khó hiểu, bởi không ai dám đảm bảo cái xác chết cháy tìm thấy trong nhà Belle là của Belle Gunness. Ả ta có phải nạn nhân hay lại chính là sát thủ đã sát hại bốn người trong biển lửa và bỏ trốn?

Lamphere bị đưa ra xét xử, nhưng chỉ bị bồi thẩm đoàn buộc tội cố ý phóng hỏa. Trong thời hạn chịu án tù, hắn tiết lộ rằng hắn biết kế hoạch làm giàu từ các nạn nhân của Belle. Riêng với Belle, dù cho thị được cho là đã xuất hiện ở nhiều nơi nhưng chưa bao giờ bị bắt. Năm 1931, ở Los Angeles, một người phụ nữ cao tuổi tên là Esther Carlson bị buộc tội đã giết một người đàn ông vì tiền, nhưng bà ta đã chết trước khi phiên xét xử diễn ra. Hai trong số những người từng biết Belle Gunnes nhận ra thị từ ảnh chụp Carlson trên báo. Nhưng Không ai dám khẳng định Carlson chính là Belle.

TỰ CHO MÌNH QUYỀN ĐỂ GIẾT NGƯỜI

Michael và C.L. Kelleher tranh luận về động cơ thu lời trong cuốn "Murder Most Rare" (những vụ giết người hiếm thấy), và có rất nhiều những vụ tương tự. Tuy nhiên, bởi phụ nữ thường lựa chọn những người họ biết hoặc có quan hệ, vì vậy mà không khó xác định được "mẫu" lòng tham của họ. (Ngay cả như vậy thì không phải lúc nào họ cũng bị bắt). Thường thì những thành viên khác trong gia đình sẽ bắt đầu nghi ngờ họ, nhưng vẫn kín miệng vì sợ hãi hoặc trung thành. Vụ Kellehers là điển hình cho thấy những tên giết người hàng loạt vẫn có thể thoát tội hàng năm trời, một phần vì phía điều tra còn phải dựa vào các phiên bản của những gì đã xảy ra, và phần khác là bởi định kiến lâu đời của xã hội phản bác lại việc xem phụ nữ là kẻ giết người. Vẫn còn đó hàng loạt các vụ giết người, Góa phụ đen là một trong những dạng tội phạm "chủ động nhất, kiên trì nhất và đông đảo nhất". Những phụ nữ như vậy sẽ kết hôn vô số lần nhằm mục đích làm giàu cho bản thân.

Candice Skrapec, một chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý tội phạm, nhắc đến "tự cho mình quyền làm gì đó" với tư cách một dạng động cơ trong nghiên cứu về các loại động cơ của mình, và điều đó giải thích phần nào nguyên nhiên khiến những kẻ giết người cho rằng đó là cách để đạt được điều gì đó cho mình. Cảm thấy rằng chúng đáng ra phải có thứ gì đó, chúng xác định những con mồi nhất định nhằm "phục vụ những nhu cầu khó nói của con người". Thường thì chúng duy trì nhận thức méo mó đối với bản thân trong mối quan hệ với những người khác. Ví dụ điển hình là Belle Gunness đã chọn phương thức giết người và cướp của là tốt cho thị. Thực tế thì, thị tin rằng thị xứng đáng lấy được tất cả những gì trong khả năng của mình, bởi thị từng là nạn nhân của thế giới bất công này. Thị chỉ đơn giản là thay đổi vị trí và lấy đi những gì thị đáng ra phải có. Các nạn nhân là đại biểu cho những kẻ đáng bị trừng phạt, vì vậy mà ngay cả khi họ vô tội, vì những tên sát nhân vẫn nhận ra những tình huống mà nạn nhân đáng bị như thế. Cho dù là với quy chuẩn đạo đức nào mà những con quỷ đội lốt người này tuân theo, chúng "áp đặt" lên người này khác hẳn với người khác, đặc biệt là khi kết quả cuối cùng làm lợi cho chúng.

Những tên giết người hàng loạt thường có chung một cách nhìn nhận đó là coi nạn nhân như mục tiêu, nhưng phương thức chúng dùng để "khai thác" nạn nhân để đạt được và duy trì quan niệm về quyền lực của chúng dường như bị ảnh hưởng ít nhiều bởi văn hóa. Một so sánh giữa 82 tên giết người hàng loạt người Nhật và 402 tên người Mĩ được thực hiện bởi Kaori Aki cho thấy rằng: trong khi những tên người Mĩ thường có động cơ liên quan đến tình dục, thì những tên người Nhật lại thường hướng tới động cơ về tiền bạc, có vẻ như chúng thấy có được thành tựu nhiều hơn nếu nạn nhân là nam giới.

Một vài tên giết người hàng loạt lại tận dụng những thời điểm khó khăn để giết người hòng kiếm lời, đặc biệt là trong thời kì chiến tranh thế giới. Chúng không chỉ thoát khỏi tầm chú ý, lại có sự hỗn loạn của thời cuộc đồng lõa và sự thiếu hụt về mặt nhân sự trong giới cảnh sát hỗ trợ, chúng thậm chỉ có thể thỏa thuận "nguyên nhân" hay gợi ý các hướng biện hộ khác để các lực lượng chức năng có thể bỏ qua chúng.

THANH TOÁN VIÊN

Năm 1944, Paris bị Đức quốc xã khống chế, chịu sự thống trị bởi đế chế Đức khiến những người Pháp cảm thấy vô cùng cay đắng, ngắn gọn là như vậy. Trong lúc điều tra một vụ hỏa hoạn, tại tầng hầm của một tòa nhà bỏ hoang, cảnh sát tìm được một stack (đơn vị đo thể tích của gỗ, khoảng 3 mét khối) gồm khoảng hai mươi bảy thi thể bị chặt ra và đang thối rữa, với những phần còn lại đã cháy đen trong một cái lò. Họ xác định được Tiến sĩ Marcel Petiot là chủ của tòa nhà này và tiến hành thẩm vấn y. Y điềm nhiên giải thích rằng số xác chết đó là do Đức quốc xã và phe cánh của chúng để lại. Các nhà chức trách thả y đi, đánh giá cao nỗ lực của y trong việc chống lại Đức quốc xã. Rất có thể đã vừa cười thầm vừa tiếp tục tiến hành việc giết chóc. Nhưng cảnh sát tiếp tục điều tra sâu thêm về y và họ nhận ra câu chuyện kia của y rất có thể che giấu những tội ác khinh khủng. Họ tin rằng y đã lừa đảo gia đình Jews giàu có với lời hứa về một chuyến di tản an toàn, và khi họ mang theo va-li chứa đầy những tài sản quý giá, thì hắn "tận dụng" chúng.


Bị bắt lần thứ hai, Petiot thừa nhận đã giết chết 63 người, nhưng chối rằng y không lừa tiền hay cướp của. Giới cầm quyền tuyên bố rằng y đã thực hiện "tiêm chủng" cho nạn nhân bằng thuốc độc và cũng đặt giả thiết rằng các nạn nhân đã phải trải qua những điều rất kinh khủng, dựa theo các bằng chứng về căn phòng tra tấn của y. Sau khi chứng kiến bộ sưu tập xương người ở tòa nhà của Petiot, các thành viên bồi thẩm đoàn đã nhanh chóng kết tội y vào năm 1946, sau đó, y đã bị hành quyết. Vì y đã thiêu chết rất nhiều nạn nhân, không ai biết con số chính xác về số nạn nhận của y, trừ số tìm được tại bất động sản của y. Người ta chưa bao giờ tìm thấy số tiền nửa triệu đô – số tiền bị nghi là y đã kiếm chác được.

Không lâu sau đó ở Anh, một tên côn đồ khác, John George Haigh bị bắt vì lừa đảo, giết và trộm tài sản của nạn nhân. Thực tế, y từng tuyên bố rằng: thế giời này đầy đầy rẫy những kẻ sinh ra là để bị "khai thác" bởi những người như y, và không có chút ăn năn, thương xót nào, y sẽ "khai thác" triệt để họ.

Năm 1949, Haigh bị hỏi về một phụ nữ bị mất tích – bà Durand-Deacon, người được biết là đang trên đường đến một cuộc hẹn với y. Câu hỏi đầu tiên của Haigh cho phía cảnh sát khi họ bắt giữ hắn là liệu hắn có cơ may được đưa tới viện tâm thần ở địa phương không. Không lâu sau đó, y thừa nhận và khai chi tiết rằng đã tham gia vào sáu vụ giết người để có thể uống máu của họ. Y khai rằng đã lừa các nạn nhân tới khu vực một nhà kho, rồi đập mạnh vào đầu nạn nhân để sát hại họ. Sau đó, y có thể cắt động mạch ở cổ nạn nhân, đựng máu của họ trong một cái cốc và uống chúng. Uống máu tươi giúp y cảm thấy khỏe hơn. Khi đối mặt với việc giải quyết thi thể nạn nhân, y đã "rã" chúng ra bằng cách nhét vào một cái thùng chứa đầy acid. Y biện hộ rằng y không thể ngừng được việc đó, và y cho rằng ham muốn bệnh hoạn của bản thân là do y từng bị chấn thương ở đầu.

Tuy vậy, có chứng cứ rõ ràng cho thấy mỗi khi phạm tội thì Haigh đều đang cần tiền, và không có bằng chứng nào cho thấy y phạm tội do vấn đề về thần kinh. Mười hai bác sĩ đã được cử để kiểm tra y khi y ở trong tù, và chỉ có một trong số đó tin rằng y có vấn đề về mặt tâm thần – chứng hoang tưởng vị kỉ (egocentric paranoia). Những người còn lại cho rằng y đang bịa chuyện. Thực tế, câu hỏi của y đặt ra khi bị bắt về viện tâm thần là dấu hiệu cho thấy y dự định sẽ giả vờ như bị bệnh về mặt tâm thần để thoát tội tử hình.

Haigh là một tên tội phạm lừa đảo khét tiếng. Trong quá khứ, y từng giả dạng là bác sĩ, luật sư, kĩ sư tùy vào mục đích của y. Một cuộc điều tra cho thấy các chứng cứ vững chắc về việc hắn đã nhắm vào những nạn nhân có tiền trong khoảng thời gian y lâm vào cảnh nợ nần. Trong vụ giết một gia đình ba người, hắn đã giả mạo chữ ký của luật sư, nhờ vậy mà hắn có thể thừa hưởng di sản của họ. Hai năm sau đó, hắn giết một cặp đôi khác, rồi bán hết tài sản của họ. Tuy nhiên, hắn đã nướng toàn bộ số tiền có được vào bài bạc, rồi tiếp tục tìm kiếm nạn nhân khác. Y nhắm tới bà Durand-Deacon, lừa bà đến "xưởng" của y, đề nghị bà đầu tư, rồi bắn chết và xử lý cái xác của bà. Người ta tìm thấy bùn phân hủy từ xác người trên bất động sản của hắn, đồng thời đã chứng minh được Haigh chính là kẻ đã mang số nữ trang của bà này đi cầm đồ. Do vậy, những vụ lừa đảo của y đã bị đưa ra ánh sáng, quan điểm biện hộ cho rằng y bị tâm thần đã bị bác bỏ, y bị hành hình vào ngày 10/08/1949.

Không phụ thuộc vào động cơ là gì, vẫn có những tên sát nhân có thiên hướng tai quái, khát máu, thèm thịt người hay thích phanh thây nạn nhân. Chúng ta tìm hiểu ở chương tiếp theo về những vụ án khác còn sốc hơn để biết những kẻ lầm đường lạc lối này khao khát bộc lộ.



Cre: ver1.tamlyhoctoipham.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37: C37: 37. Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt (9)


chương 9 MÁU VÀ CƠ THỂ

Joachim Kroll, 43 tuổi, đã hãm hiếp, giết chết và cắt các bộ phận cơ thể của hơn 12 người trong khoảng hai thập kỷ ở Tây Đức. Trong cơn bốc đồng, hắn đã nếm thịt được cắt ra từ mông của một người phụ nữ bị hắn sát hại và cảm thấy thích mùi vị đó. Về sau, hắn rình rập những phụ nữ ở những độ tuổi khác nhau mà theo hắn nghĩ sẽ mang lại cho hắn những miếng thịt mềm (hắn khai rằng mình chỉ giết duy nhất một người đàn ông). Một trong những nạn nhân của hắn chỉ mới bốn tuổi. Cuối cùng cảnh sát cũng tóm được hắn vào năm 1976, khi đó họ đã tìm thấy một ấm nước đang được đun sôi cùng với cà rốt, khoai tây và một bàn tay nhỏ của phụ nữ. Nhà vệ sinh bị nghẽn bởi các cơ quan nội tạng của người phụ nữ này. Trong tủ lạnh của Kroll, trên dĩa có rất nhiều phần thi thể nạn nhân và các bộ phận lớn thì được bọc lại và đông lạnh.

Sau khi bị bắt, Kroll khai rằng thịt rất đắt tiền, nên thế hắn đã đi tìm chúng một mình. Hắn cũng nói sự đồi bại của mình xuất phát từ lúc hắn đã chứng kiến việc một con lợn đang bị làm thịt khi còn là thiếu niên và thừa nhận ngay sau khi giết một người phụ nữ, ông sẽ dùng một con búp bê để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình. Hắn cũng dùng những con búp bê để tự làm mình nghẹt thở và làm mồi dẫn dụ trẻ em.

Bên cạnh việc giết người, một số người bao gồm có thêm một sự lệch lạc, xuất phát chủ yếu từ sự lệch lạc tình dục hoặc lệch lạc tưởng tượng. Việc xử lý các thi thể hoặc những dung dịch được sắp xếp sẵn trong danh mục ngoại trừ người tiếp cận đến vụ án giết người cho thấy sự tham lam, ham muốn quyền lực hoặc các mục đích tàn bạo. Những vụ án này được xem là những trường hợp khó lí giải, rất phức tạp, và đối với những nhà tội phạm học, nhà nghiên cứu tâm lí tội phạm thì lại mang đến cho họ sự hấp dẫn lôi cuốn nhất.

Lệnh lạc về tình dục

Lệnh lạc về tình dục là những rối loạn bắt đầu ở trẻ em hoặc thanh thiếu niên và kéo dài cho đến tuổi trưởng thành, phổ biến nhất là nam giới. Họ trở thành những khuôn mẫu hành vi mang tính bền vững mạnh mẽ dựa trên một mối bận tâm đối với kích thích tình dục ở các đối tượng, các hoạt động bất thường, hoặc các tình huống lệch lạc, và được điều khiển bởi sự lặp đi lặp lại của trí não. Nguyên nhân của sự lệch lạc tình dục thường không rõ ràng, các lý thuyết tâm lý khác nhau lại có sự thừa nhận những giả thuyết khác nhau. Ví dụ như theo lý thuyết Phân tâm học cho rằng: một số cá nhân với điều kiện nhất định có thể hình thành một thói quen tình dục sớm phát triển, trong khi việc giải thích cho hành vi ấy lại nhìn vào quá trình tạo điều kiện, có nghĩa là, một đối tượng hoặc một hành động cụ thể được lặp đi lặp lại sẽ tác động đến sự thích thú về tình dục trong khi hoạt động tình dục của cá nhân đang dần được định hình. Họ đi đến việc thích đối tượng hoặc hành vi đó, đôi khi để loại trừ các loại khác của các hoạt động tình dục và hiếm khi tìm cách điều trị, không có nhiều mối đe dọa từ việc bị bắt hoặc sự tiếp xúc và tình trạng bị làm nhục. Ít ai biết rằng, những cảm giác khoái lạc từ các đối tượng hay hoạt động với cường độ cao và có thể gây ra hành vi ép buộc và sự phụ thuộc rất lớn về chúng để nhằm sự thỏa mãn nhu cầu tình dục.

Các loại hình lệch lạc tình dục phổ biến nhất được liệt kê trong DSM – IV, và bao gồm một số trường hợp được mô tả trong một tác phẩm cổ điển về tội phạm, The Sexual Criminal, được viết bởi Tiến sỹ J.Paul de River:

Fetishism – Kích thích tình dục từ các đối tượng không phải con người, chẳng hạn như giày, đồ lót, nến hoặc dây thừng.

Adamism – Mong muốn thể hiện bản thân mình trong lúc khỏa thân.

Exhibitionism – Mong muốn để lộ bộ phận sinh dục của mình với người khác.


Auto-Eroticism – tự thõa mãn tình dục cho chính mình.

Frotteurism – Chạm hoặc cọ xát cơ thể của một người nào đó một cách lén lút, thường là với một người lạ ở nơi công cộng.

Telephone scatology – Kích thích từ việc thực hiện cuộc điện thoại khiêu dâm cho người lạ để nghe phản ứng từ họ.

Pedophilia/Hebephilia – Trọng tâm của tình dục liên quan đến trẻ em, hoặc là nội dung khiêu dâm, hoặc lạm dụng tình dục hoặc là sự tấn công của các nạn nhân trên thực tế;

Hebephilia đặc trưng ở các cô gái tuổi đang trong giai đoạn dậy thì.

Masochism – Thõa mãn tình dục từ việc bị tổn thương hoặc làm nhục, thông qua lời nói, lạm dụng, nô lệ và thậm chí bị đánh đập, hoặc cắt.

Necrophilia – Đạt được sự kích thích từ việc xử lý hoặc làm tình với xác chết.

Necrofetishism – Được đánh thức bởi những xác chết theo sự tôn sùng.

Partialism – kích thích tình dục từ một số bộ phận cơ thể, chẳng hạn như phần vòm của bàn chân.

Piquerism – Kích thích từ việc đâm bằng một công cụ sắc bén.


Pygmalionism – Ham muốn tình dục bởi những bức tượng hoặc những con búp bê.

Zoophilia – Kích thích tình dục với động vật là chủ yếu.

Apotemnophilia—lôi cuốn tình dục với những người tàn tật.

Scoptophilia (thói quen nhìn lén)- có sự hứng thú tình dục từ việc theo dõi người khác từ vị trí bí mật, ví như nhìn trộm qua cửa sổ vào nơi mà ai đó có lẽ đang thay quần áo hoặc đang ngủ.

Fire-water Complex- sau khi thắp lên ngọn lửa, một cuộc trình diễn của chính mình và sau đó có sự thèm muốn mãnh liệt (khao khát mạnh mẽ) đi tiểu.

Đây là những loại đối tượng, hình ảnh hoặc các tình huống thúc đẩy mọi người hành động và khi hoạt động đòi hỏi lại nhận sự không ưng thuận của bên đối tác hoặc gây thiệt hại đến tài sản của một người nào khác, thì đó trở thành một tội phạm. Những kẻ giết người hàng loạt bị thúc đẩy bởi những sự lệch lạc về tình dục, và họ buộc các nạn nhân phải làm những điều mà thông qua đó thể hiện sự tưởng tượng và những ham muốn của chính bản thân họ. Tất cả những trường hợp liên quan bao gồm trong đó là những dạng lệch lạc về tình dục, nhưng trước tiên hãy nhìn vào vật được tôn sùng một cách lập dị dể dẫn đến hành vi giết người nhiều nguời tại bang Texas.

Từ những năm 1990 đến năm 1991, ba gái mại dâm bị giết và đôi mắt của họ đã bị lấy đi một cách khéo léo. Nhờ vào mánh khóe từ một phụ nữ đã trốn thoát, phân tích từ mẫu tóc và sợi dính trên mảnh vỡ trong máy hút bụi, trong tấm thảm, và từ các nạn nhân có liên quan, Charles Albright, 57 tuổi và có gia đình, đã bị bắt giữ. Tuy nhiên ở hắn có đầy đủ những đặc điểm đặc trưng của một kẻ giết người hàng loạt. Rất thông minh và thân thiện, Albright thông thạo rất nhiều thứ tiếng, từng là huấn luyện viên bóng chày và giảng dạy môn sinh học. Không một ai từng biết về hắn lại có thể tin rằng hắn nguy hiểm như thế. Hắn cũng có thể vẽ, chơi nhạc cụ và có tay nghề cao trong việc nhồi thú bông. Mặc dù vậy, ông đã có một hồ sơ phạm tội diện rộng thậm chí vợ hắn không hề biết về điều đó, thường xuyên gặp gái mại dâm và thừa nhận có cảm giác thích thú khi dùng dùi cui đánh phụ nữ. Hắn là người có khả năng nói dối rất tốt và có một sự ám ảnh mạnh mẽ với những đôi mắt, theo một số báo cáo, ngay cả khi ở trong tù hắn vẫn duy trì việc vẽ mắt và treo chúng trên những ô nhỏ trong phòng giam của hắn. Albright cũng đã đặt dài hạn tạp chí chuyên về khoa học về thị giác và có những ấn phẩm số đầu tiên của tạp chí Omni từ năm 1978, trang bìa về những đặc điểm đặc trưng về một nhãn cầu lớn. Hành vi này dường như kì lạ hơn khi mà không có chuyên gia về sự lệnh lạc tình dục nào có thể xác định chính xác Albright (hoặc ai khác) đã từng làm cách nào để trở nên ám ảnh với các bộ phận cơ thể đến mức giết người để có được chúng.

Chúng ta sẽ xem xét một thứ tương tự với những kẻ sát nhân đó, kẻ có một khao khát ăn thịt người mãnh liệt.

Cannibals


Ở Barcelona, Tây Ban Nha, một đứa trẻ đã dẫn công an tới chỗ của một "phù thủy", người đã giam và buộc bé ăn các bộ phận của tử thi. Họ ngay lập tức ra lệnh bắt Marti Enriqueta, y đã bắt cóc nhiều trẻ em rồi giết và cắt ra từng mảnh. Y cũng đã ăn các bộ phận đó. Vẫn chưa rõ số nạn nhân, nhưng đến năm 1912 ít nhất 6 đứa trẻ đã phải điều trị tâm lý vì chứng kiến những tội ác trên. Suốt chiến tranh thế giới thứ I, Georg Karl Grossmann, kẻ bán thịt của Berlin, bị bắt vì đã mổ xẻ bốn người phụ nữ. Cơ quan điều tra cho biết y đưa gái mại dâm về nhà (chỉ những người phụ nữ đầy đặn), và giết họ. Y bán các mảnh tử thi này cho người nghèo và chính bản thân cũng ăn số thịt trên. Hắn bị bắt khi hàng xóm phát hiện tiếng vật lộn giữa hắn và nạn nhân. Người ta cho rằng Grossmann giết khoảng 50 phụ nữa, dù thực tế hắn chỉ bị buộc tội giết 14 người.

Karl Denke, "kẻ giết người hàng loạt ở Munsterberg ", giết người vô gia cư ở Silesia (Ba Lan) và khách tới trọ (người thường không còn chỗ nào để đi). Y nấu thịt của họ và tiêu hủy phần còn lại. Điều kỳ lạ là hắn lại ghi chi tiết cân nặng của họ. Sự thật được phơi bày sau khi y bị bắt, sau khi hàng xóm thấy hắn đổ xô máu ở một sân rộng, nhưng không ai có thể nghĩ rằng đó là vụ giết người và thậm chí là ăn thịt người, vì y sống ôn hòa và có đức tin. Năm 1924, hắn tấn công một người đàn ông bằng rìu nhưng anh này vẫn còn sống sót và nhận dạng được hắn, sau đó Denke bị bắt và thừa nhận hắn sống bằng cách ăn thịt người ít nhất ba năm và ăn thịt của 31 người. Qua điều tra thực tế, công an đã tìm thấy nhiều bộ phận ở nhà kho. Y nhận thức được rằng cơ quan điều tra có thể tìm thấy bằng chứng thuyết phục như dây đeo quần bằng da người nên đã tự tử trong tù. Những kẻ ăn thịt người có thể vì hoàn cảnh khó khăn đưa đảy, một số khác thi do bị kích động, nhưng hầu như đều gắn liền với chứng hoang tưởng hóa sói.

MA SÓI

Những cô gái chăn cừu ở miền Nam nước Pháp đã bắt gặp một cậu bé 13 tuổi như ma đói. Cậu ta tự giới thiệu là Jean Blood và Bodies Grenier, con trai một linh mục, nhưng lại nói rằng cậu đã bán linh hồn cho Quỷ. Hắn cho rằng hắn có mũi bằng da sói và nó làm biến đổi cậu ta thành sói trong khảong một tiếng lúc hoàng hôn. Grenier kể câu chuyện tương tự cho những người khác ở quanh làng. Sau đó, cậu ta ám chỉ rằng mình đã tấn công và ăn thịt các bé gái, cơ quan điều tra liền mở cuộc điều tra, kết quả cho thấy Grenier không phải là con của tu sĩ, mà chỉ là con của lao động nghèo. Y được thuê để chăn cừu nhưng thương xao lãng nhiệm vụ của mình. Trước tòa, Grenier tiếp tục hoang tưởng hắn có thể biến đổi thành sói. Y kể rằng một người hàng xóm đã giới thiệu y cho M. de la Forest, một người đàn ông da đen cho mỗi người một nô lệ và một mũi bằng da sói ở trong rừng. Sau đó, theo ảo tưởng của mình, Grenier nhận thấy khả năng hóa sói của mình. Y thừa nhận đã vào một ngôi nhà, bắt cóc một đứa bé và giết nạn nhân để ăn thịt. Trong hai ngôi làng khác, y đã giết và ăn các bộ phận của các bé gái. Lời khai của Grenier khớp với báo cáo mất tích, và cha và mẹ kế của y bị tra hỏi. Họ cũng biết hằng Grenier tin mình là một con sói. Vài đứa trẻ bị tấn công nhưng vẫn sống sót như Grenier khai. Ngày hôm sau, Grenier kể chuyện của mình cho cha, nhưng cũng chẳng thay đổi điều gì. Tòa quyết định hắn là kẻ tâm thần, và cần chuyển hắn đến chỗ các tu sĩ của một tu viện ở Bordeaux. Ở đó, hắn vẫn tiếp tục lảnh vảng như một con sói. 7 năm sau, một điều tra viên tới kiểm tra và Grenier thừa nhận hắn vẫn ăn thịt sống và hai lần nhìn thấy Chúa tể khu rừng. Hắn bị cho là tâm thần, và chết ở tu viện nàm 20 tuổi. R. E. L. Masters, cựu giám đốc thư viện về nghiên cứu giới tình, cùng với nhà văn Eduard Lea tổng hợp một cách toàn diện về bạo lực tình dục về tội ác Perverse trong lịch sử.: sự phát triển của khái niệm về ác dâm, giết người Lust, và xác chết – từ cổ chí kim. Các tác giả cũng thảo luận các trường hợp của ma cà rồng và hóa sói trong khái niệm về xác sống, hay như khiêu dâm liên quan xác chết hoặc tưởng tượng. Ví dụ, họ mô tả một người phụ nữ Pháp năm 1890 phát hiện đã chết tại nhà, trong khi con trai nằm ngủ bên cạnh. Cô ta bị cưỡng hiếp và sau đó bị xẻ ra từ âm đạo lên, cắt đứt nội tạng và ruột. Y ném các bộ phận này qua vai nạn nhân và ngủ ngay bên cạnh. Khám nghiệm tử thi cho thấy người mẹ đã chết trước khi bị mổ xẻ. Còn y có vẻ đã làm nốt phần còn lại sau khi giết nạn nhân.

Tiến sĩ Richard Noll, một nhà tâm lý lâm sàng, chuyên nghiên cứu về ma cà rổng, người sói và quái vật, đã tổng hợp trong báo cáo lầm sàng về hoang tưởng hóa sói từ các bài nghiên cứu. Noll đã chỉ ra từ năm 1975 có 18 trường hợp được đề cập. Sáu trong số đó được báo cáo về ảo tưởng hóa sói và phần còn lại biến thành các con vật khác. Chuẩn đoán thông thường nhất đều ghi nhận hành vi của những người này là rối loạn lưỡng cực , nhưng vài chuẩn đoán cho là trầm cảm và tâm thần phân liệt hoang tưởng. Noll tin rằng hoang tưởng hóa sói gần với bệnh tưởng hóa thú, "chứng hoàng tưởng biến thành động vật", ông ta cho rằng nó tốt hơn nên được mô tả như một rối loạn.

Một người kết hợp chứng ảo tưởng hóa sói với danh sách tình dục đồi trụy từ bọn ăn thịt người có thể trở thành kẻ giết người hàng loạt tiếp theo, một trong số trường hợp lệch lạc đó đã được ghi nhận. Năm 1990, Chính phủ Nga thông báo việc bắt giữ một đối tượng truy nã sau gần một thập kỷ vì tội giết người và thực hiện hàng tá vụ mổ xẻ phụ nữ và trẻ em. Tội ác của tên giết người Lesopolosa, hay Maniac, bắt đầu được chú ý từ 1982 khi ba xác chết liên tiếp được tìm thấy trong rừng. Nạn nhân đầu tiên là một cô gái trẻ, và được ghi nhận là chống cự kẻ tấn công đến chết. Hai xương sườn bị gãy, và có nhiều vết dao đam vào xương. Bên cạnh đó còn có vết dao đâm vào hốc mắt và vùng xương chậu. Mặc dù cơ quan điều tra cho rằng các vụ giết người này chỉ ngẫu nhiên và tuyên bố các vụ giết người hàng loạt này không tồn tại ở Liên bang Xô Viết, nhưng các nhà điều tra hiểu rõ điều đó nhất. Tên giết người đưa ra bằng chứng việc ám ảnh giết người và tính dục lạch lệch thông qua các vết mổ xẻ cơ thể và vứt bỏ một số bộ phận. Khi Viktor Burakov chịu trách nhiệm vụ điều tra, và càng nhiều tử thi bị phát hiện. Một bé gái bị đông cứng trong điều kiện thời tiết mùa đông đã thể hiện rõ rang các vết dao đâm. Hộp sọ bị thủng, cũng như ở ngực và bụng. Hung thủ điên cuồng dùng dao đâm hàng chục nhát, văng nội tạng ra khắp cơ thể. Hung thủ đặc biệt tập trung vào tim, phổi và cơ quan sinh dục. Cũng như các trường hợp khác, hắn cũng tấn công vào mắt.

Buraknov nhận ra gã hung thủ này có thể ở lại thời gian tương đối dài với các nạn nhân của hắn khi họ đang hấp hối và sau khi họ chết. Với bé gái và phụ nữ, hắn đâm nát ngực cũng như âm đạo, tử cung, bang quang. Với đàn ông, hắn thường cắt dương vật, bìu và hậu môn, thậm chí còn ăn lưỡi. Đội điều tra Nga xác định tên giết người có nhóm máu AB, điều này giúp loại bỏ các nghi ngờ (nhưng lại là sai lầm khi xác định hung thủ thực sự). Burakov nhờ bác sĩ tâm thần và Tiến sĩ Alexandr Bukhanovsky đồng ý nghiên cứu hành vi tên giết người để báo cáo, và ông đề xuất: tên giết người khảong 25 đến 50 tuổi. Ông cho rằng y bị ám ảnh tình dục và đâm mù mắt nạn nhân để họ không nhìn chằm chằm vào hắn. Hắn là kẻ tàn bạo và khó đạt được khoái cảm nếu không tra tấn người khác. Hắn thường bị ức chế và chán nản nên hắn muốn giết người. Y không phải là người chậm phát triển hay bị tâm thần phân liệt, nhưng là một kẻ có tổ chức cô độc, bình thường và khiêm tốn, không lệch lạc tình dục, đồng tính hay biến thái. Vết máu và tử thi suốt 8 năm trước khi được điều tra đã tạo ra một bước ngoặt. Giả định rằng tên giết người đã đưa nạn nhân từ những sân ga tàu lửa. Burakov đã cử đội công an ngầm để theo dõi Andrei Romanovich Chikatilo, 54, một kẻ đã từng bị tình nghi nhưng đã loại ra khỏi danh sách, ở vùng ga tàu hỏa Donleskhoz. Hắn bị nhìn thấy đi ra khỏi cánh rừng, nơi các nạn nhân được tìm thấy. ĐỘi của Burakov khai thác được Chikatilo từng là giáo viên và đã bị sa thải do bị tố cáo lạm dụng tình dục hoc sinh. Hắn cũng bị sa thải ra khỏi công việc khác, trong khoảng thời gian thất nghiệp, hắn cảm thấy được an ủi khi ở ga tàu hỏa. Trong khoảng gian hắn bị bắt giam vào năm 1984, không hề có vụ giết người nào được báo cáo, và các ghi chép những chuyến đi của hắn lại trùng khớp với địa điểm các vụ giết người. Lúc Chikatilo bị tra khảo, các thám tử đã tìm ra trong túi của hắn có Vaseline, dây thừng, mấy khăn bẩn, và một con dao làm bếp. Họ cần một lời tự thú, theo cách Sô Viết, nhưng Chikatilo nhất định không khai điều gì. Mọi chuyện thay đổi khi họ sắp buộc phải thả hắn ra, họ để tiến sĩ Bukhanovksy đọc báo cáo về hằn. Sau khi nghe, Chikatilo suy sụp và thừa nhận 36 vụ ác của mình. Vụ đầu tiên vào năm 1978, sớm hơn nhận định của cơ quan điều tra.

Hắn bắt cóc một bé gái chin tuổi và đã cố cưỡng hiếp bé. Nhưng sự việc bất thành, hắn liền dùng dao giết nạn nhân. Hắn bịt mắt nạn nhận vì sợ nhìn thấy hình ảnh của mình sót lại trên đôi mắt – một dạng mê tín thông thường. Sau đó, hắn nhanh chóng tìm thấy khoái cảm thực hiện lại các hành vi này. Năm 1981, hắn giết một gái mại dâm, cắn và nuốt núm vú của cô ta. Khi phanh thây, hắn cảm thấy xúc cảm tính dục. Hắn lấy các bộ phận sinh dục ra. Với trường hợp này và nhiều trường hợp sau đó, Chikatilo lặp lại một cách chi tiết các việc làm trên.

Hắn thậm chí còn thực hiện lại các hành động trên với các nạn nhân bằng ma-nơ-canh cho công an. Vài trường hợp hắn theo dõi cẩn thận nhưng hầu hết cơ hội của nạn nhân thường ít vì họ đều ở thế yếu. Nạnn nhân thông thường là những đứa trẻ đi bộ quanh ga tàu lửa. Hắn nói hắn đâm vào những vùng giao cấu; hắn cần bạo lực và sự vùng vẫy mãnh liệt. Với nạn nhân nam, Chikatilo sẽ tưởng tượng nạn nhân như tù nhân của hắn. Hắn cũng thừa nhận hành vi ăn thịt người. Ít nhất một lần, hắn lấy tử cung và bắn tinh dịch vào bên trong đó, và sau khi nhai xong thì hắn bỏ mặc nạn nhân. Hoặc hắn đã thử cắn một phần và nuốt nó. Hắn thích cái cách các nạn nhân la hét, sủi bọt và hấp hối. Thậm chí điều này còn làm hắn dễ chịu, và làm hắn khao khát hơn thế. Trong tất cả các trường hợp, Chikatilo thừa nhận 56 vụ giết người, mặc dù chỉ bị buộc tội 53 vụ. Để cố hiểu được tội ác man rợn này, các nhà tâm lý học tiến hành nghiên cứu thông qua nhiều khía cạnh như thời thơ ấu của tên giết người để tìm ra một mối liên kết tính dục đặc biệt, cũng như xuất phát của sự giận dữ và lòng hận thù. Hắn không có gì thực sự nổi bật. Hắn là một đứa trẻ cô đơn, bị chế giễu vì sự vụng về và nhạy cảm của mình. Kết quả, trong thâm tâm hắn sôi lên một sự giận dữ.

Trải niệm tình dục đầu tiên của hắn khi còn thanh niên là với bạn của em gái hắn đang mới 10 tuổi. Sau này trong cuộc đời, hắn khó có thể đạt được điều này, những tưởng tượng về đấu tranh tính dục này giúp hắn thức tỉnh. Sau đó, khi là một người trưởng thành, hắn thực hiện nhiều vụ giết người. Xuất phát thực sự từ những mong muốn của hắn có vẻ như tăng lên do bị làm nhục, hắn ám ảnh điều đó và thường xuyên lặp lại trên bàn tay của phụ nữ.

Khi là một chàng trai trẻ, hắn gia nhập quân đội, nhưng khi hắn trở về nhà và cố gắng phát triển mối quan hệ, nhưng hắn không thể quan hệ được và cô gái hắn yêu đã kể điều này cho mọi người; vì thế, chính cô đã gây cho hắn cảm giác hận thù mà hắn muốn cắn và xé toạc ra. Sự khinh miệt đến tận cùng về cô ta và mẹ cô, hắn vút bỏ luôn hy vọng kết hôn.

Do đó, nỗi đau khổ trong thâm tâm của hắn trở nên bùng phát cùng với tâm lý hận thù phụ nữ. Chikatilo trở thành giáo viên, em gái hắn thương xót và cố gắng người phù hợp cho hắn, mặc dù sau khi cưới, vợ hắn cũng coi thường hắn trong suốt hôn nhân của họ. Có báo cáo rằng, hắn có thể đã thuyết phục bé gái để hắn thủ dâm bên ngoài và bắn tinh dịch trong bàn tay. Sau khi mẹ hắn chết năm 1973 năm hắn 37 tuổi, Chikatilo bắt đầu quấy nhiễu các cô gái trẻ. Điều này làm hắn cảm thấy mình quyền lực hơn, và khi có những rắc rối báo cáo lên, thành viên trong Đảng bảo vệ hắn khỏi cuộc điều tra. Để thỏa mãn thực sự, hắn cần bạo lực, và từ đó hắn chuyển sang giết người. Bản năng hoang dã và ăn thịt người của hắn thường thể hiện qua các rắc rối của CHikatilo bị phơi bày tăng lên. Những năm đầu của thể kỷ 20, sau khi Stalin "crushed private agricultural concerns", liên bang Xô Viết rơi vào tình trạng đói kém. Hàng nghìn người chết vì thiếu ăn và nhiều người khác liều lĩnh ăn xác mới chết. Mẹ hắn bảo rằng hắn đã từng có một người anh trai, nhưng khi cậu bé mới 10 tuổi, những kẻ đói trong long ăn đã giết và ăn thịt em.


Sự kiện này đã lặp đi lặp lại trog đầu hắn, cùng với sự chứng kiến cảnh chiếm giữ của quân Nazi và bom của quân Đức, các xác chết la liệt trong những con đường, và những điều này đã làm hắn hoảng sợ và thích thú. Giữa sự nhục nhã, bắt nạt và xa lánh, thâm tâm hắn nổi lên sự giận dữ âm ỉ, thầm lặng. Để tự tán thưởng bản thân, hắn nói với cơ quan điều tra, hắn tưởng tượng cảnh tra tấn, và những điều này đã làm nền cho các giết chóc của hắn sau này. Chikatilo bị gửi tới viện Serbsky của Moscow trong 2 tháng đánh giá tâm lý và hệ thần kinh, và họ xác định rằng hắn có những tổn thương trong não từ khi mới sinh ra, điều này làm ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát ruột và sự xuất tinh. Hắn cũng bị ảo tưởng sai lệch.

Tuy nhiên, hắn vẫn chuẩn đoán là bình thường và ra hầu tòa. Khi bị buộc tội, Chikatilo la to "Swindlers!". Hắn kháng cáo nhưng đã bị bác bỏ. Vì thế một gã từng là giáo viên với bằng đại học về ngành văn học Nga, một vợ và đàn con, không có biểu hiện tâm lý cụ thể, nhưng lại có trái tim bản năng hoang dã. Hắn mô tả băn thân như một sai lầm của tạo hóa. Không may thay, không có chuẩn đoán tâm lý tâm thần nào tốt hơn cho bản cáo trạng của hắn và hắn mất hoàn toàn hy vong vào 15 tháng 2 năm 1994, bản án được thi hành. Bên cạnh thịt người, vài kẻ sát nhân tìm thấy niềm thích thú tính dục từ máu và các chất lỏng khác từ cơ thể nên hắn tìm cách giết người để đạt được điều đó.

Máu của chính bọn sát nhân không làm được điều đó, mặc dù chúng cũng thử giết động vật. Hầu hết, trải niệm cuối cùng của chúng là tìm kiếm chất lỏng sống của một người nào đó, và để thỏa mãn hoàn toàn, họ thậm chí có thể uống nó luôn. Đó chính là lý do tại sao chúng được biết đến như là ma cà rồng.

MA CÀ RỒNG

Ma cà rồng Ahmad Suradji, đồ tể người Indonesia với khả năng ban cho điều ước. Năm 1997, hắn bị bắt sau khi một điều tra viên tìm thấy 26 bộ xương trong vườn mía của hắn. Các nạn nhân bán rẻ bản thân với hy vọng đẹp hơn. Suradji tự thú 42 vụ giết người, nói rằng hắn đã lên kế hoạch hơn 30 vụ từ mệnh lệnh của người cha đã mất, cũng là đồ tể, thần tượng của hắn. Nhưng chính hắn cũng có sở thích lạ: sau khi bóp cổ phụ nữa, hắn uống nước bọt của họ.

Ý tưởng của những kẻ phạm tội với những ám ảnh rằng lấy chất lỏng của các nạn nhân sẽ cho chúng khả năng điểu khiên người khác, vì thế họ uống nước hay máu của một người để tồn tại. Sự trao đổi bí mật này có thể đòi hỏi hơn. Với Suradji, ít nhất nạn nân của hắn chết trước. Một ma cà rồng khác đã không chờ được. Fritz Haarmann, tên bán thịt ở Hanover, Đức, và một tên gạ gẫm con nít, chú ý rằng có rất nhiều chàng trai trẻ biến mất không lý do trong suốt chiến tranh thế giới I, vì thế hắn lên kế hoạch bắt cóc họ. Hắn dụ những người này về nhà mình. Hắn cùng với một gã mãi dâm đẹp trai dụ dỗ những gã đàn ông khác về nhà hắn. Hắn đối đãi họ và chờ cho các nạn nhân của mình buồn ngủ và dùng sức cưỡng hiếp họ. Sau này Haarmann mô tả cách hắn mất lý trí và điên cuồng thế nào khi cắn cổ của nạn nhân và thỉnh thoảng còn ngấu nghiến cổ họng cho đến khi cái đầu muốn rớt ra khỏi cơ thể. Khi hắn nếm máu, hắn đạt được khoái cảm. hắn mổ xẻ nạn nhân, ăn vài phần và bán phần còn lại trong cửa hàng. Bất cứ thứ gì còn lại, hắn đổ xuống kênh đào. Thực tế, vẫn còn những mảnh xương còn xót lại đã làm công an nghi ngờ và gõ cửa nhà hắn năm 1924. Những tia máu ở trên tường và quần áo của các người mất tích đã tố cáo Haarmann. Hắn tự thú và thừa nhận 50 vụ, mặc dù cơ quan điều tra buộc tội tên ma cà rổng hanover chỉ với 27 vụ. Haarmann không bối rối trước bản án tử hình. Thay vào đó, hắn rất điềm nhiên tường thuật lại. Haarmann cũng thích thú viết chiến công của mình trên giấy, như cách hắn mô tả dòng máu tội phạm của hắn đến chi tiết một cách tỉ mỉ. Trước khi hắn chết, hắn tuyên bố ngày thi án là ngày cưới của hắn.

Một ma cà rồng khác là Peter Kurten, kẻ quyến rũ người khác bằng sự tinh tế, nhẹ nhàng, mhưng khi bị kích động, hắn cũng có thể đánh một người trưởng thành với một cái búa hay uống máu trẻ em. Khi hắn 9 tuổi, hắn đã dàn cảnh tai nạn cho cái chết của hai bé trai. Năm 1913, hắn đột nhập vào một nhà trọ ở Koln-Mulheim tại thung lũng sông Rhine và giết một bé gái 10 tuổi. Có hai vết cắn ở cổ họng bé gái, một nông và một sâu, và giám định viên tìm thấy máu còn rất ít trong cơ thể nạn nhận. Mặc dù nỗ lực tìm kiếm nhưng vẫn không tìm thấy kẻ giết người. Thực tế, Kurten bị tống giam 16 năm vì phạm một số tội vụn vặt, và khi hắn ra tù, các rắc rối lại xuất hiện. Một bá gái 8 tuổi bị đâm 13 lần và nhét vào hàng rào. Một tuần sau, một thợ cơ khí 45 tuổi tìm thấy dẫ chết cạnh một con đường với 20 vết dao đâm. Một bé gái 5 tuổi thì bị bóp cổ và bị cắt cổ họng. Một đứa trẻ 14 tuổi cũng bị bóp cổ và chém đầu.

Với những người sống sót cũng không thể nhận diện kẻ tấn công, nhưng khi một cô gái trẻ bị cưỡng hiếp và bị đánh đến chết bằng búa. Sáu tuần sau, một đứa trẻ 5 tuổi mất tích và tòa soạn nhận được một lá thư, được cho là của hung thủ. Hắn đưa ra một bản đồ và công an ngay lập tức tìm thấy một cơ thể bị bóp cổ, bị đánh và bị đâm đến 36 lần. Lá thư cũng mô tả vị trí xác của một cô gái mất tích khác đã vài tháng. Sau đó, Kurten giải thoát cho nạn nhân bị cường hiếp và cô đã báo công an vị trí của hắn và hắn tự thú. Hắn thừa nhận hàng ta vụ tấn công và 13 vụ giết người, và cũng đã uống máu của nhiều nạn nhân vì nó làm hắn kích thích. Về những năm trước ở phòng trọ, Kurten mô tả cách hắn phá khóa, làm ngạt và cắt của cổ cô ta. Máu phun ra thành tia qua đầu hắn, làm hắn cảm thấy bị kích động mà uống máu nạn nhân.

Tại phiên xét xử, các nhà tâm lý biện hộ rằng hắn bị mất trí, nhưng ban bồi thẩm phản đối. Hắn bị kết án, dựa vào 9 vụ giết người, bị hành hình băm 1931. Trước khi chết, Kurten diễn đạt khoái cảm của hắn khi nghe chính máu hắn nổi tăm sau khi lưỡi dao hạ xuống. Hắn không thể tưởng tượng một trải niệm tốt hơn. Có thể kể đến những kẻ uống máu ít nổi hơn là Martin Dumollard, đã giết rất nhiều cô gái ở Pháp năm 1861; Joseph Vacher ở Pháp bị bắt năm 1897 đã mô tả việc hắn uống máu từ cổ của hàng tá nạn nhân và Marcello de Andrade, 25 tuổi, và giết những câu trai trẻ, cũng thừa nhận uống máu nạn nhân như cách để nắm lấy vẻ đẹp của họ. Một người đàn bà cũng làm tội ác này là Magdalena Solis, tế lễ bằng cách uống máu Mexico. Cô ta thuyết phục dân làng ở Yerba Buena rằng cô ta là chúa trời và tế lễ bằng máu của rất nhiều nạn nhân. Hầu hết những kẻ giết người đều mô tả không nhiều về phần còn lại một khi chúng xé toặc tử thi, ăn thịt hay uống máu. Một âm mưu lạc lối bao gồm việc giữ cơ thể bên cạnh để cảm thấy dễ chịu, tiêu khiên hay thoản mãn, và đó là điều chúng ta nghiên cứu thấy từ những kẻ phạm tội nổi tiếng.



Cre: ver1.tamlyhoctoipham.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38: C38: 38. Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt (10)


Chương 10: SỐNG CHUNG VỚI XÁC CHẾT

Không phải tất cả những tên giết người đều có thể lập ra những bản kế hoạch hoàn hảo như những gì chúng tưởng tượng ra để trả đũa, có đủ quyền lực để chúng tự thỏa mãn cơn thịnh nộ cũng như cái tôi của chính chúng, hoặc chỉ để bộc lộ phần thú tính. Một số tên do lớn lên trong hoàn cảnh cô độc nên đơn giản chúng chỉ muốn được quan tâm, và chúng chọn biện pháp cực đoan (giết người) để ràng buộc mọi người lại với chúng. Số còn lại do có những mong muốn bệnh hoạn về cái chết, chúng cho rằng những nạn nhân của chúng là những người bị xã hội lên án, và chúng tin rằng chỉ có một cách duy nhất để đáp trả những mong muốn đó chính là giết họ hoặc họ đã chết. Tuy động cơ gây án là điểm mấu chốt trong bất cứ trường hợp nào, nhưng việc giữ cho cơ thể người chết khỏi bị phát hiện bằng cách hoàn toàn cách ly, hoặc che giấu dưới bức màn bí mật của chúng cũng rất cần thiết. Thông thường tất cả những tên cầm thú đó đều có khả năng chịu đựng được mùi vị, việc di chuyển, cũng như hiện tượng thối rữa của xác chết. Xuất phát từ nguyên nhân nào đó trong sự thỏa mãn, tình dục, hoặc tâm lý, chúng sẽ cất giữ những nạn nhân tại chính căn nhà của chúng càng lâu càng tốt.

Tuy không có dấu hiệu rõ ràng để thấu hiểu những tên giết người thích sưu tầm xác chết, nhưng mong muốn của chúng là được mọi người công nhận về tội ác của chúng gây ra. Dưới đây là cách mà một nhà lý thuyết đưa ra khái niệm "Bệnh thích xác chết" (necrophilous character), bao gồm nhiều dấu hiệu khác nhau. Một số tên man rợ bắt đầu từ việc bị cuốn hút về mặt tình dục với xác chết, do đó chúng muốn được chiêm ngưỡng xác chết một các toàn vẹn (trong danh sách kết hợp bệnh lý mang tính dục trong chương trước). Trong khi những tên khác thích trải nghiệm cảm giác làm tình với xác chết và giữ những xác chết đó như nguồn gợi nhắc khiêu dâm. Chúng ta đã thảo luận về việc tuy những tên sát nhân mắc chứng rối loạn thần kinh không biết gì về những nạn nhân của mình, nhưng chúng lại tìm thấy đặc điểm thích hợp và hoàn hảo trên người những nạn nhân. Trước tiên, chúng ta hãy tìm hiểu về tên giết người chuyên sử dụng yếu tố bạo lực như chất kích dục, và nhà của hắn – giữa những vách ngăn là nơi cất giấu những tội ác khủng khiếp của chính hắn.

BÊN TRONG NHỮNG VÁCH TƯỜNG

Không một ai biết những gì đã xảy ra tại ngôi nhà số 10 đường Rillington Place, Luân Đôn cho đến năm 1953, khi mà Beresford Brown thuê lại nơi này. Brown không thích cái mùi đến từ vách tường, vì vậy ông ta xé bỏ lớp giấy dán tường. Trong quá trình xử lý, ông ta đã mở cái hốc trong góc tường, và ông ta rất sốc khi nhìn thấy bộ thi thể đang phân hủy của một người phụ nữ khỏa thân. Ông ta lập tức trình báo cho cảnh sát và họ đã cẩn thận lấy cái xác ra, trong lúc đó họ lại phát hiện thêm hai xác phụ nữ khác cũng bị nhét chung vào nơi nhỏ hẹp đó. Tất cả các cái xác đều bị đặt trong tư thế kỳ quái, một cái có đầu hướng xuống , trong khi hai cái còn lại bị buộc vào cổ của nạn nhân thứ ba. Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy cả ba đều bị xâm hại tình dục và bị bóp cổ cho đến chết.

Cảnh sát đã tìm đến Christie, chủ sở hữu nhà, nhưng hắn ta đã biến mất. Tại thời điểm đó, họ phát hiện ra trong nhà của hắn có thêm dấu tích của những nạn nhân khác bao gồm Ethel người vợ quá cố của hắn bị chôn dưới sàn nhà. Ở sau vườn thì tìm được hai bộ xương phụ nữ, trong đó có một chiếc xương đùi được dùng để chống đỡ cho giàn dây leo. Đó là một bộ sưu tập kinh dị và là bằng chứng cho sự tồn tại lâu dài của hàng loạt vụ giết người, trong khi chính quyền được thành lập chỉ để tìm hiểu về danh tính của những nạn nhân. Mặc dù những dòng chữ giật tít trên những trang báo về "Ngôi nhà kinh dị" của Christie, thì hắn vẫn còn lang thang trên phố trong tình trạng say xỉn. Cuối cùng, cảnh sát cũng tóm cổ được hắn và hắn đã thú nhận toàn bộ vụ giết người. Hắn thừa nhận để tạo hứng thú trong quá trình làm tình, hắn cần những người phụ nữ trong tình trạng bất tỉnh, do đó hắn sử dụng những công cụ có sẵn tại nhà để thực hiện hành vi đầu độc họ bằng khí ga. Khi họ chết, hắn cưỡng hiếp và bóp cổ họ. Sau đó, hắn sưu tập lông mu của họ trong một cái hộp thiếc. (1)

Christie sống với những cái xác trong chính ngôi nhà của hắn (một điều đáng kinh ngạc là hắn đã kể với vợ mình về sự xuất hiện của mùi hôi thối khi mà cô ấy là nạn nhân cuối cùng), và thậm chí hắn đã tự tay chôn những thi thể trong vườn nhà mình. Khác với những tên giết người đã đề cập ở Chương 9, Christie không tìm kiếm hương vị của máu hoặc nhu cầu xé xác nạn nhân. Hắn ta cũng không bị kích thích bởi ý tưởng, hình ảnh hay sự trải nghiệm với những cái xác. Thay vào đó, cái hắn tìm kiếm là khả năng kiểm soát những người phụ nữ đó, hắn ta đã đạt được điều đó thông qua những thủ đoạn gian trá. Khi những nạn nhân của hắn chết, hắn ý thức được quyền lực của mình đối với mỗi một nạn nhân, điều đó đã kích thích dục vọng trong hắn. Đó rõ ràng là một nhận thức méo mó về cái chết, cảm giác hung phấn hơn khi kết thúc sinh mệnh của ai đó. Trong khi nhiều tên sát nhân mô tả lại những trải nghiệm thì Christies gia tăng quá trình trải nghiêm bằng cách giữ xác những nạn nhân trong nhà để hồi tưởng lại những gì mình đã làm.

Điều đó không giống với những tên có hứng thú tình dục với xác chết.

HỘI CHỨNG THÍCH XÁC CHẾT_NOCROPHILE

Necrophilia là sự hấp dẫn về mặt tình dục đối với xác chết, theo các nhà tâm lý học thì động cơ phổ biến nhất là nỗ lực để chiếm hữu nạn nhân không có khả năng chống đối hoặc từ chối. Hành động này phù hợp với chẩn đoán chứng tâm thần DSM-IV thuộc "Tính Ham Muốn Tình Dục Bất Thuờng, Không Có Sự Phân Biệt Cụ Thể"_"Paraphilia, Not Otherwise Specified". Nhà xã hội học và phân tâm học-Erich Fromm tin rằng "bệnh thích xác chết" là hậu quả của sự tiến bộ xã hội, xuất hiện khi xã hội phát triển theo hướng hủy hoại tinh thần của đại bộ phận cơ chế. Trong cuốn Giải Phẫu Sự Phá Hoại Của Con Người (The Anatomy of Human Destructiveness), tác giả khẳng định rằng những người chịu khổ vì "tính thích xác chết" bị dẫn dắt bởi một loạt các giá trị bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh xã hội mà họ sẽ hướng tới bắt lấy hình ảnh của cái chết và sự hủy diệt. Những người này tỏ rõ khát vọng kiểm soát tuyệt đối, mong muốn này bắt nguồn từ một tuổi thơ hỗn loạn. Họ càng tìm kiếm điều đó thì họ càng ít có khả năng đánh giá sự phát triển cũng như mất đi bản năng dự đoán trong cuộc sống. Fromm tạo ra sự khác biệt giữa bản năng tấn công tự nhiên, phát triển từ nhu cầu tự động tự vệ, và hành động tấn công mang tính thù địch, đó là do sự hỏng hóc trong tính cách. Từ đó hình thành mong muốn tạo nên điểm khác biệt trong thế giới riêng của họ bằng cách thức phá hoại. Những sự bộc lộ cực đoan này gọi là tính bạo dâm-niềm đam mê quyền lực vô biên trên người khác-và bệnh thích xác chết-sự hấp dẫn tuyệt đối với cái chết.


Bệnh thích xác chết trong học thuyết của Fromm có thể mang tính tình dục (như trong bảng liệt kê về tính ham muốn tình dục bất thường) hoặc không mang tính tình dụ. Dạng mong muốn liên quan đến việc làm tình với xác chết và sau đó chỉ đơn giản là có nhu cầu được gần gũi, hoặc xử lý, hoặc cắt rời xác chết vì những lý do tâm lý. Theo cách nói của Fromm, bệnh thích xác chết có thể là hiện thực hoặc đó chỉ là hiện tượng. Những biểu hiện ban đầu phát triển từ bệnh thích xác chết như là niềm đam mê được bám rễ từ trong tính cách, và trong biểu tượng tinh thần, "những kẻ thích xác chết" khao khát đựơc kết thúc sinh mệnh; chúng thường có những ảo tưởng về việc cắt rời các bộ phận hoặc tách rời các phần còn lại. Khi chúng thèm muốn cái thế giới mà nơi đó không có sự sống, sự săn đuổi của chúng về quyền kiểm soát có thể làm chúng trở nên nguy hiểm. Fromm dẫn chứng Hitler như một ví dụ điển hình.

Một vài đặc điểm của kẻ thích xác chết là mất khả năng tạo dựng quan hệ với người sống, vô cảm trong các cuộc giao tiếp, có xu hướng mặc những màu tối ít gây chú ý và không thích màu sắc sặc sỡ, tin rằng cách giải quyết các mâu thuẫn đều dùng đến sức mạnh hoặc bạo lực, hứng thú với bệnh tật, thiếu tính tự giác, và sự phân chia giữa cảm xúc và ý chí, với một kết thúc vô cảm dẫn đến bi kịch thiệt hại về mạng người. (2)

Kể từ khi Christie sống trong thời đại năng lượng hạt nhân, chứng kiến 2 cuộc chiến tranh thế giới , có lẽ hắn bắt đầu tìm kiếm một phương thức kiểm soát, điều đó dẩn đến sức cám dỗ đối với việc sát hại phụ nữ và giữ họ lại với hắn. Chỉ đến khi hắn mất hết mọi thứ và sự tuyệt vọng làm cho hắn ta ký vào giấy chứng tử của mình bằng việc trao trả ngôi nhà của mình và chờ cảnh sát đến bắt giữ. Đến lúc đó, hắn không còn tiếp tục hại ai được nữa.

Theo bác sĩ Johnathan Roman và bác sĩ Phillip Resnick, trong lý thuyết của ngành tâm lý học thì có 3 dạng cơ bản về bệnh thích xác chết "đích thực":

1. Necrophilic homicide, giết người để có xác chết.
2. Regular necrophilia, dùng xác chết để thỏa mãn tình dục.
3. Necrophilic fantasy, hình dung các hành vi nhưng không thực hiện trên các xác chết.

Trong 122 trường hợp được khảo sát, phần lớn chúng phù hợp với mục thứ 2, và hơn một nửa trong số chúng làm việc trong nhà xác hoặc một số lĩnh vực khác trong ngành công nghiệp tang lễ. Giả sử (nếu ai đó có thể đánh giá như một hoạt động bí mật), những kẻ thích xác chết chủ yếu là nam giới (khoảng 90%), nhưng một nữ thực tập sinh về việc ướp xác đã thừa nhận rằng trong suốt 4 tháng đầu của công việc, cô ta đã sáng tạo ra một thiết bị bơm để phục vụ cho việc quan hệ tình dục với một số xác chết.

Ngược lại với quan điểm thông thường, Rosman và Resnick phát biểu rằng phần lớn những kẻ thích xác chết là dị tính, mặc dù khoảng một nửa những kẻ thích xác chết được biết đến về tội giết người đều là đồng tính. Chỉ khoảng 60% được chẩn đoán là mắc chứng rối loạn nhân cách, với 10% mắc bệnh tâm thần.

Những công việc phổ biến nhất mà qua đó những kẻ thích xác chết trong cuộc nghiên cứu của họ, được tiếp xúc những cái xác bao gồm nhân viên trong bệnh viện thuộc quân đội, phụ vụ cho nhà xác, trợ lý cho phòng tang lễ, mục sư, nhân viên nghĩa trang, và quân nhân-mặc dù đa số những người phục tùng như họ không bị cám dỗ đối với việc xâm hại xác chết. (3)


Masters và Lea, tác giả cuốn Những Tên Tội Phạm Ngoan Cố Trong Lịch Sử (Perverse Crimes in History), mô tả một "kẻ thuần túy thích xác chết" là kẻ không bao giờ chạm vào xác chết nhưng lại tìm thấy sự thỏa mãn tình dục duy nhất từ việc nhìn thấy những cái xác. Nhưng những kẻ khác có thể trở nên nguy hiểm. Sự ảo tưởng của chúng có thể chuyển từ việc mổ xẻ xác chết cho đến việc dứt khoát giết người để có xác chết mổ xẻ. Tuy nhiên khát vọng của những kẻ giết người có cùng ham muốn trong những hành vi tình dục đối với xác chết thì không được công nhận là kẻ thích xác chết đích thực, Masters khẳng định. Ông cho rằng sự xâm hại tình dục chỉ là sự mở rộng dục vọng mà những kẻ sát nhân sẽ thực hiện như một phần của toàn bộ tội ác. Kẻ thích xác chết đích thực sẽ chỉ hứng thú với xác chết, mà không phải người sống. Nếu hắn giết người, đó chỉ đơn giản là cần xác chết. Hắn ta thường không có khả năng cùng người sống tiến hành quan hệ tình dục. Đó chắc chắn là là một cách phân biệt tốt, nhưng điều đó rất quan trọng trong trường hợp chúng ta buộc phải lập tức đưa ra những suy đoán về động cơ giết người.

Masters và Lea cho biết điều đáng ngạc nhiên chính là những xác chết thường bị những kẻ thích xác chết xâm hại không phải những cái xác mới mà là những cái được đào lên từ những ngôi mộ và trong tình trạng thối rữa hoặc được ướp. Thậm chí một vài trong số đó chỉ còn lại bộ xương. Những kẻ thực sự ăn những cái xác đã bị phân hủy được biết đến như kẻ ăn xác-necrophagists, nhưng trái ngược với kẻ ăn thịt người, những kẻ thích thịt tươi hoặc những kẻ tiêu thụ di thể của những người chúng yêu thương vì mục đích tâm linh (tục ăn thịt người-anthropophagy). Một người đàn ông chỉ duy nhất muốn được ăn những vật trang trí trên móng của người chết, tên khác thì muốn liếm những bộ phận sinh dục. Một người phụ nữ sống trong gia đình mà đa số các thành viên đều đã chết, đã đi đến hầm mộ gia đình để ăn tươi nuốt sống bộ phận sinh dục nam của những người cô ấy yêu thương.

Với những kẻ như vậy, khái niệm về tình dục là ấu trĩ. Những người có tâm lý khỏe mạnh tham gia các mối quan hệ giữa người với người bằng cách tiếp nhận và cho đi niềm vui, nhưng đối với cái chết, chỉ có một loại người nhận được niềm vui, đó là triệu chứng tự yêu bản thân (4). Tuy nhiên đôi khi hắn giữ xác chết gần mình để hưởng thụ sự tra tấn trong khi người đó còn sống và thi thể sau khi người đó chết. Dường như không một ai có thể đưa ra một đáp án thích hợp cho việc đó.

NHỮNG GÓC TỐI

Tháng 12 năm 1978, một nhóm các nhân viên cảnh sát bắt đầu đào bới một nơi khủng khiếp nằm bên dưới gác xép của ngôi nhà ngụ tại số 8213 đại lộ Summerdale ở Des Plainers, Illinois. Sau khi một nhân viên chú ý đến mùi hôi thối của xác chết phát ra từ một ống dẫn nhiệt trong ngôi nhà của John Wayne Gacy, một chủ thầu có dính líu đến vụ mất tích của một thiếu niên, Rob Piest, hắn ta đã bị yêu cầu cho một cuộc khám xét. Các nhà điều tra đưa ra 28 thi thể riêng biệt của những thanh niên trong tất cả các bang khác nhau đang trong tình trạng phân hủy-một số bộ phận trong số họ thậm chí còn bị trộn lẫn với những người khác. Nhiều người được vớt lên từ cùng một con sông, bao gồm Piest, và Gacy bị buộc tội với mức độ nghiêm trọng về tội giết người thuộc cấp độ số 1. Bảng công bố cuối cùng về tổng số nạn nhân của hắn là 33 người. Hắn là 1 ví dụ cho kẻ gần như có thể chịu đựng một bộ sưu tập các xác chết hôi thối trong tình trạng đang phân hủy. Hắn không hẳn bị kích thích bởi những cái xác, nhưng hắn yêu cái cảm giác quyền lực mà hắn nhận được bắt nguồn từ thời điểm tra tấn về mặt tình dục và giết người. Cũng như Christie, hắn hưởng thụ sự hài lòng khi biết rằng những thanh niên đó chết dưới tay hắn, nhưng hắn cũng đã có quan hệ tình dục với ít nhất một vài cái xác trong số các xác chết. Một số nhà phân tích chỉ ra rằng hắn bị kích thích về mặt tình dục đối với các thanh niên khỏe mạnh nhưng có vẻ hắn ghét sự thúc đẩy tình yêu đồng giới bên trong chính hắn, vì vậy hắn giết những nạn nhân của mình như một sự trừng phạt cho tội lỗi của họ cũng như chính hắn.

Đặt cùng một trường hợp đồng dạng và giới hạn những gia đình có cùng hoàn cảnh đã phải chờ đợi tin tức về người thân bị mất tích trong 6 năm trời, các nhà điều tra thì chăm chỉ thực hiện nhiệm vụ của mình là nhận dạng các nạn nhân. Một số gia đình tuyệt vọng cung cấp những bức ảnh, những bức chụp X quang, và hồ sơ nha khoa, và trong các trường hợp khác, giấy phép lái xe và các loại giấy tờ nhận dạng khác để tìm kiếm người thân bị mất tích của họ, người đang là một trong số những nạn nhân. Tuy nhiên do hành vi đồng tính luyến ái được thảo luận quá nhiều trên phương tiện truyền thông, nên người ta nghĩ rằng các gia đình do dự trong việc đến nhận dạng và do đó một số thi thể vẫn chưa được xác nhận. Sau 6 tuần, các quan chức đã thành công trong việc nhận dạng ít hơn một nửa các thi thể, họ thuê nhà nhân chủng học tội phạm Charles P. Warren và Clyde C. Snow để hỗ trợ, và họ xoay quanh trong việc phác họa tội phạm, Betty Pat. Gatiliff tái tạo lại những hộp sọ bị biến dạng thành những khuôn mặt có thể nhận diện. Những pháp y chuyên về răng sẵn sang hỗ trợ trong việc xác định những cái răng. Bởi vì Gacy chồng chất các thi thể lên nhau dưới sàn nhà mình, nên nhiệm vụ đầu tiên của đội cảnh sát là phải sắp xếp và phân loại xương của từng người. Cuối cùng, điều đó đã khẳng định rằng nạn nhân điển hình của Gacy thuộc nam giới, da trắng, ở độ tuổi thiếu niên hoặc đôi mươi, một người trong đó là lính thủy đánh bộ và một người khác đã kết hôn. Những người tham gia trong nhóm điều tra này cảm thấy buồn nôn và ghê tởm bởi ý nghĩ rằng một người có thể sống với tất cả đống thịt hôi thối này.

Gacy bị xét xử và kết án về tội giết người, và bị xử tử hình. Năm 1994, hắn thực hiện bản án. Nhưng nhiều câu hỏi vẫn còn đó. Trong khi hắn ta giết các chàng trai và chôn họ ở gác xép nhà mình, những mùi hôi thôi này xuất hiện ngay cả trong nhà láng giềng. Thậm chí người vợ thứ hai và mẹ của hắn đã từng sống trong ngôi nhà này một thời gian trước khi hắn giết người. Hắn giết người khi họ rời khỏi. Gacy đã đảm bảo với mọi người rằng hắn chỉ gặp vấn đề về nhiễm trùng, không có gì mà một chút ít vôi không thể sửa được. nhưng nó không bao giờ được sửa, và không một ai báo với các nhà chức trách cả.

Đôi khi, Gacy giết 2 nạn nhân chỉ trong 1 đêm, và hắn luôn phải đối mặt với việc xử lý các thi thể. Chỉ đến khi hắn ta thoát ra khỏi không gian dưới ngôi nhà của mình và bắt đầu ném các thi thể xuống dòng sông Des Plaines. Khi Gacy nói về việc hắn đã giết những nạn nhân của mình như thế nào, hắn đã thừa nhận đôi khi hắn giữ những cái xác bên cạnh trong một vài giờ. "Sau giấc ngủ trên chiếc giường bên cạnh cái xác cả đêm, Gacy thức dậy vào lúc 6 giờ sáng và chuyển xác chết lên gác mái". (5)

Cũng như vụ tai tiếng của Gacy về sự đồi bại của hắn, hắn ta không giữ lại nguồn sáng cho 2 kẻ giết người đã chia sẻ cách làm việc chung. Chúng tin rằng cách tốt nhất để giữ người bạn đồng hành bên cạnh mình là giết chết anh ta. Cả hai đều thể hiện dạng bệnh thích xác chết, nhưng theo những cách khác nhau.


GIỮ HỌ BÊN CẠNH

​Jeffrey Dahmer và Dennis Nilsen đều là những chành trai trẻ bình thuờng, kiệm lời, những người trở thành những tên giết người. Dahmer mơ ước tạo ra một zombie sống như một nô lệ tình dục-người mà lúc nào cũng vâng lời và ở bên cạnh hắn ta-và Nilsen cũng khát khao một ai đó không bao giờ rời khỏi hắn ta. Giống như nhiều tên giết người khác, chúng xem những người khác như các đối tượng được sử dụng cho mục đích của riêng chúng. Hãy xem xét Nilsen trước.

​Hắn ta sống tại Luân Đôn và tìm được những nạn nhân của mình trong các câu lại bộ đêm. Trước đó hắn chưa từng giết người, hắn chỉ trải qua sự cám dỗ về mặt tình dục với người chết, vì vậy hắn ta nằm dài trước gương hàng tiếng đồng hồ, tự huyễn hoặc giả sử chính mình là xác chết. Đây là một điều gì đó về trạng thái bị tổn thương, trong chính hắn và trong những người khác, nó khuấy động cao độ sự thèm muốn trong hắn. Hắn mời một vài người tình đến đóng vai tưởng tượng của mình khi có cơ hội, nhưng hắn thấy khó khăn khi yêu cầu mọi người làm điều này. Như tất cả dạng ham muốn tình dục khác, hắn cảm thấy xấu hổ.

​Năm 1978, Nilsen mời một người đàn ông gặp ở hộp đêm về căn hộ của mình. Họ đã uống một ít bia và khi Nilsen nhận thấy người đàn ông này cuối cùng cũng chịu rời khỏi, hắn đi đến phía sau ông ta và siết cổ ông ta bằng một chiếc cà vạt. Trước sự ngạc nhiên của mình, hắn tìm thấy lạc thú tình dục thông qua hành vi giết người, cảm giác đặc biệt đối với việc hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát. Hắn giữ thi thể này một khoảng thời gian ngắn đến khi nó bắt đầu bốc mùi, sau đó hắn chôn thi thể bên dười sàn nhà trong căn hộ của mình.

​Nilsen tiếp tục mời những người đàn ông về nhà. Một số hắn thả đi, nhưng phần đông hắn bóp cổ cho đến chết. Từ lúc hắn có những thi thể này xung quanh, hắn thích cái cảm giác tuyệt vời khi hoàn toàn có được bọn họ bằng sức mạnh của mình. Thậm chí khi đi tắm, hắn còn đặt họ vào bồn tắm. Thỉnh thoảng hắn đặt họ trên chiếc giường của mình. Hắn thú nhận đã từng cố gắng làm tình với các thi thể, nhưng nói rằng hắn thường nhận thấy việc đó rất khó. Khi có dịp, hắn chỉ muốn đem các thi thể đặt khắp nơi trong căn hộ của mình, như vậy hắn không còn cảm thấy cô đơn nữa. Cuối cùng, khi sự phân hủy gây khó chịu, Nilsen cắt rời các thi thể trong phòng khách của hắn ta. Vài bộ phận hắn giữ bên cạnh, và hắn vứt những phần còn lại vào xó xỉnh nào đó trong ga-ra hoặc thiêu hủy trong vưòn nhà mình. Trong lời thú tội sau này, hắn cho biết giai đoạn yêu thích nhất của hắn trong các trình tự này là đêm đầu tiên khi thi thể còn tươi mới. Hắn ta khoái trá với sự thực rằng họ không thể đứng dậy và rời khỏi. Hắn thích chơi đùa với họ như thể họ là những con búp bê: hắn cất giữ họ trong tủ chén, đặt họ ngồi trên ghế, trưng diện cho họ, hoặc làm đau họ-bất cứ điều gì hắn nghĩ ra trong thời điểm đó. Với kinh ngiệm của một đồ tể, Nilsen không gặp khó khăn trong việc chặt khúc cái xác chết và nấu các thớ thịt lấy từ phần đầu của họ trong một nồi súp lớn. Đối với hắn ta, toàn bộ quy trình đó là một hành động yêu thương, người cuối cùng mà những người đàn ông đó biết đến là hắn, và ý nghĩ đó làm hắn hài lòng. Tuy nhiên, sau cùng hắn đã chuyển đến một căn hộ khác mà nơi đó không có sân vườn, vì vậy hắn nghĩ ra một cách tốt hơn để xử lý các nạn nhân của mình. Hắn cắt nhỏ những thớ thịt từ họ và ném chúng vào bồn cầu rồi xả nước, nhưng khi hệ thống ống thải bị tắt nghẽn trong toàn thể tòa nhà, một cuộc điều tra nhắm thẳng đến Nilsen. Ý thức được những gì họ đang tìm, hắn vạch tủ quần áo ra nơi mà cảnh sát đã tìm thấy những bộ phận bị cắt rời của 2 người đàn ông khác nhau. Những đoạn thân thể khác được tìm thấy trong tủ đựng trà của hắn, cùng với một số khúc xương cũ khác, và hắn đã bị bắt. Sau khi hắn thú nhận đã giết 15 người trong vòng 5 năm. Trong tù, hắn tự tiêu khiển với các bản vẽ thi thể của những nạn nhân và các bộ phận cơ thể.

​Nilsen tin rằng những vấn đề của hắn được hình thành từ những trải nghiệm trước đó. Bởi cha của hắn đã rời bỏ hắn khi hắn còn là một đứa trẻ, hắn được ông ngoại-Andrew Whyte nuôi dưỡng, nhưng khi Nilsen lên 6, Whyte qua đời. Mẹ Nilsen để hắn nhìn thấy cái xác, và trải nghiệm đó đã mở đầu cho cái cảm giác mất mát khủng khiếp. 2 năm sau đó, hắn suýt chết đuối ở biển, và được cứu sống bởi một cậu bé lớn hơn. Cậu bé đó bị kích thích bởi cơ thể suy nhược của Nilsen, cậu cởi bỏ quần áo của mình và đã lộ liễu thủ dâm trên người hắn. Nilsen tỉnh dậy và tìm thấy một chất dính màu trắng trên bên mặt khu vực dạy dày của mình.

Năm 1961, Nilsen tham gia vào quân ngũ và trở thành đầu bếp, đó là cách mà hắn học nghề đồ tể. Hắn dựa vào rượu để ngăn chặn nỗi cô đơn, và trong những năm đó, hắn nằm dài trước gương với tư thế không nhìn thấy đầu của chính mình và giả vờ bất tỉnh. Cái "cơ thể khác" đó kích thích hắn, và hắn thủ dâm. Vào khoảng thời gian này, hắn phát triển tình bạn thân thiết với một người đàn ông không phải gay, nhưng anh ta đồng ý giả vờ chết trong khi Nilsen chọn vai diễn trong những bộ phim gia đình để hắn tự mình thưởng thức sau đó. Khi hắn ta trở lại làm một dân thường, Nilsen rơi vào cuộc sống với những người quen biết bình thường, nhưng hắn muốn cái gì đó bền vững và lâu dài hơn. Những hành động trước gương của hắn phát triển với mức độ kỳ dị càng lúc càng cao, như lúc bấy giờ hắn xem cơ thể "khác" đó đã chết. Hắn thậm chí còn sử dụng đồ hóa trang để đạt được hiệu quả tốt hơn, bao gồm việc ứng dụng máu giả để làm hiện ra cảnh hắn bị sát hại. Nilsen cố gắng bào chữa cho sự điên rồ, nhưng hắn vẫn bị kết án và nhận lấy cuộc sống trong tù. Hắn giữ một cuốn tạp chí về nhà tù và nỗ lực xuất bản một cuốn sách, nhưng cho đến nay hắn vẫn bị cấm cho hoạt động đó. Nilsen là một ví dụ cho những người dần dần trở nên yêu thích người chết và bị cám dỗ về mặt tình dục với các xác chết, nhưng lại là người mong muốn có được một bạn tri kỷ. Trong lúc giết người, hắn ta có thể pha trộn giữa mong muốn-giữ lại một người bạn "mãi mãi" và có quan hệ tình dục với xác chết-nhưng kỳ lạ là hắn ta từ chối giao du với những nạn nhân bị hắn sát hại. Dường như hắn ta chỉ thích có được họ trong một khoảng thời gian (6). Tham gia quan hệ tình dục với những xác chết càng nhiều thì tính thích xác chết càng lộ rõ, đó là Jeffrey Dahmer, kẻ muốn có một zombie sống thực hiện những gì hắn yêu cầu.

CÁC THÍ NGHIỆM

​Richarch von Krafft-Ebing, nhà thần kinh học người Đức đã xuất bản cuốn Rối Loạn Tình Dục-Psychopathia Sexualis năm 1886, là người đầu tiên mô tả định dạng bệnh thích xác chết. Trong nhiều ca nghiên cứu của mình, ông tính cả Trung Sĩ Francois Bertrand, kẻ mà lúc nhỏ thích mổ xẻ các động vật và là kẻ trưởng thành trong những ảo tưởng tra tấn bạo lực khi lớn lên. Năm 1849, hắn đào những cái xác còn mới với đôi tay trần của mình từ các mảng đất thuộc nghĩa trang Pere Lachaise và Montparnasse ở Paris để làm tình với họ. Mỗi khi nhìn thấy xác chết, hắn đều trở nên điên cuồng. Hắn muốn mổ bụng họ, băm nhỏ họ bằng cái thuổng, đôi khi nhai họ, and để các bộ phận nằm rải rải khắp nghĩa trang. Mặc dù hắn bị bắt và kết án 15 năm tù, nhưng hắn chỉ ở 1 năm trong tù. Hắn khẳng định rằng hắn không thể khống chế hành vi của mình (7).

Von Kraff-Ebing tin rằng xác chết đơn giản chỉ là một vật thể không có tính trở ngại dùng để thỏa mãn tình dục. Sự chinh phục hoàn toàn, ví như kẻ có thể trải nghiệm với 1 xác chết, đối với 1 số người là sự khiêu dâm, và đó gần như chắc chắn là cơ sở ảo tưởng đối với kẻ giết người khét tiếng vùng Milwaukee, Jeffrey Dahmer.

Hắn thu hút sự chú ý của cộng đồng vào tháng 7 năm 1991, khi thú nhận với cảnh sát rằng hắn đã giết 27 người đàn ông trước khi nạn nhân gần đây nhất của hắn trốn thoát và đưa hắn vào đồn cảnh sát. Họ xông vào căn hộ của hắn và nhận thấy mùi hôi thối, sau khi phát hiện những tấm ảnh nhựa của những người đàn ông đã chết, bị cắt xẻo và chặt khúc. Nhìn vào bên trong tủ lạnh nơi hiện ra những cái đầu người, những khúc ruột, những quả tim, và những quả thận. Xung quanh căn hộ các điều tra viên tìm thấy những cái đầu lâu, đoạn xương, những bộ phận cơ thể đang mục rữa, và máu vương vãi khắp nơi. Trên hết, các điều tra viên có thể tìm thấy những phần còn lại của 11 người đàn ông khác nhau. Dahmer nói với họ là còn thêm 6 người nữa.


​Vụ giết người đầu tiên của hắn diễn ra khi hắn 18 tuổi. Cha mẹ hắn bỏ mặc gia đình, đi theo những hướng riêng của họ, và vài tuần sau đó Dahmer có được chỗ ở cho riêng mình. Trong khi lái xe ra ngoài, hắn phát hiện một anh chàng hấp dẫn muốn đi nhờ xe tên Steve Hicks. Hắn quyến rũ người đàn ông này về nhà với lời hứa sẽ làm anh ta hưng phấn. Hicks ở lại với hắn vài giờ và khi anh ta đứng dậy rời đi, Dahmer đập quả tạ vào sau đầu anh ta và sau đó bóp cổ anh ta. "Tôi không biết làm cách nào để giữ anh ta lại", sau này hắn khai với cựu nhân viên FBI, Robert Ressler (8). Sau đó hắn phát hiện ra rằng hắn bị kích thích mạnh mẽ bởi việc giam cầm người khác, và khi hắn cắt rời thi thể thành những mảnh nhỏ để tiện xử lý, hành động này cũng kích thích hắn, vì vậy hắn thủ dâm trên nó.

​Sau này khi chuyển đến sống cùng bà của hắn, nhưng cái cảm giác bức bách lại ép chặt hắn một lần nữa. Khi tham gia tang lễ của một người đàn ông trẻ, hắn lên kế hoạch đi đến nghĩa trang vào buổi tối và đào thi thể lên, nhưng lại gặp trở ngại trong việc đó, hắn bắt đầu quay lại đón những người đàn ông trên đường. Hắn chuốc thuốc và bóp cổ họ, và làm tình với xác chết. Sau đó hắn cắt họ ra. Trong thời gian sống với bà của mình, hắn đã giết chết 4 người và cắt rời họ dưới tầng hầm nhà bà. Bà đã 2 lần phàn nàn với cha của hắn về mùi hôi thối, và cha của Dalmer đã lục soát ngôi nhà, nhưng Dalmer luôn chống chế bằng cách nói hắn sẽ tìm cách phát hiện. (9)

​Đến khi hắn có được căn hộ của riêng mình. Trong nỗ lực tạo ra những con zombie để hắn sai bảo, hắn thử khoan những cái lỗ vào đầu của những nạn nhân đang bất tỉnh và tiêm axít vào hộp sọ của họ. Một nạn nhân thực sự đã sống sót trong 2 ngày sau thí nghiệm này. Dahmer cũng thử cắt bỏ phần mặt của những nạn nhân và cất giữ chúng như những chiếc mặt nạ, nhưng chúng bị hỏng quá nhanh. Như một số nghi lễ để tỏ lòng tôn kính đối với những ảo tưởng của hắn, Dahmer thiết kế một bệ thờ làm từ những cái đầu lâu, mà hắn sẽ xây dựng vào ngày mà hắn giết đủ số người đàn ông. Hắn tin rằng từ đó hắn sẽ đạt được những quyền năng đặc biệt mà chúng sẽ giúp hắn có được đời sống xã hội và tài chính tốt hơn. Trong những lần hắn bất cẩn, những nạn nhân được phép rời khỏi và những người bên ngoài có thể nhận thấy mùi hôi và tế phẩm đến từ bên trong, vậy là cảnh sát có được những câu chuyện về hắn tại những thời điểm khác nhau khi mà nạn nhân cố gắng tìm kiếm sự giúp đỡ. Điều đó cho phép Dahmer liên tục thoát khỏi tội giết người (10).

​Robert Ressler trò chuyện với Dahmer trong 2 ngày để tìm hiểu những động cơ của hắn. Dahmer diễn tả rõ ràng và sẵn sàng cung cấp thông tin chi tiết, và Ressle có nhớ rõ rằng những điều hắn tự thú đã khiến ông sốc. Ông nhận thấy rằng Dahmer bình thường hóa mạng sống của những nạn nhân và chỉ nghĩ về nhu cầu của hắn, thậm chí hắn ta dường như lấy làm tự hào về khả năng giết người của chính mình. Trong suốt thời gian hắn kháng án rằng hắn muốn thay đổi và chỉ dùng ma đơ canh để thỏa mãn hắn vì vậy hắn sẽ không làm tổn thương bất kỳ ai nữa-thứ mà cha hắn phát hiện được trong tủ quần áo của hắn. Sự bào chữa này được xem là phần trả lời dối trá trong lời thú nhận của Dahmer.

​"Đó là hành vi giết người và đó là tội giết người", Ressle nói. "Đó là một kiểu giết người mà tôi nghĩ một người bình thường có thể cho là không được tha thứ nhưng dù sao vẫn có thể hiểu được. Ví dụ, một người đàn ông giết chết ai đó trong lúc tức giận. Hắn ta chỉ muốn trốn thoát. Hoặc 2 gã đàn ông đánh nhau ở quán bar và một con dao xuất hiện. Tất cả các tình huống giết người đều theo những đường lối đó. Nhưng khi bạn nhận được ý muốn giết người thuần túy không bị trộn lẫn với bất kỳ động cơ đặc biệt nào được lặp đi lặp lại trong tâm trí và không có điều gì làm cho nó dễ hiểu như là lợi ích, điều đó chỉ ra rằng bạn có một động lực mà nó vượt xa ra khỏi lý trí. Bạn chỉ cần có động cơ tà ác những chí hướng tà ác. Tôi vẫn luôn có cái cảm giác trong các buổi phỏng vấn với những kẻ như vậy rằng có điều gì đó vượt xa những gì chúng ta có thể lĩnh hội".

​"Không có động cơ hợp lý và khi chúng rình rập mọi người để tìm kiếm nạn nhân, và bắt họ, đưa họ đi và nhốt họ lại-một số kẻ trong chúng sẽ giữ những nạn nhân trong vài ngày hoặc vài tuần-khi cảm xúc biến mất. Cần có một quyết định bình tĩnh để làm tất cả điều này. Điều đó rất có phương pháp. Không có mức độ và mục đích, chỉ đơn giản bắt nạn nhân và sử dụng họ theo nhiều cách khác nhau và rồi thủ tiêu họ. Dahmer giết người vì hắn ta cô đơn. Vâng, rất nhiều người cô đơn và họ không giết người khác. Giải pháp của hắn cho vấn đề cô đơn của mình là đưa ai đó về nhà hắn, chuốc thuốc anh ta, giết anh ta, và cất giữ thi thể đó trong vài ngày tại thời điểm đó. Mặc dù lời bào chữa của hắn theo những hướng điên rồ, nhưng tôi nghĩ thực tế hắn đã hiểu rất nhiều điều đúng đắn từ cách nghĩ sai trái. Hắn có thời gian dài để che giấu những gì hắn đã làm. Hắn làm điều đó như một giải pháp được trù tính sẵn, nhằm giữ hắn thoát khỏi chế tài của pháp luật. Điều đó hiển nhiên cho thấy rằng Dahmer biết hắn đang làm gì và biết điều đó là sai trái, nhưng đồng thời hắn cũng có yếu tố hoang tưởng, điều mà dẫn đến việc hắn chặt xẻ những nạn nhân của mình và làm thí nghiệm trên người họ bằng cách tiêm axít vào não họ. Hắn đã vượt xa ra khỏi lĩnh vực mà người thường có thể hiểu được." (11)

​Luật sư của Dahmer, Gerald Boyle, trong một cuộc nỗ lực chứng minh tình trạng mất trí của hắn, đã trình bày trường hợp của hắn như sau, "Jeffrey Dahmer muốn có một cơ thể. Một cơ thể. Đó là sự tưởng tượng của anh ta. Một cơ thể." Nó dường như cho thấy hắn ta không thể lĩnh hội được cách mà bất kỳ một ai có thể đánh giá bất cứ điều gì, ngoại trừ kẻ tâm thần. Nhưng rõ ràng trong tâm trí của Dahmer ý thức được việc nói dối cảnh sát và hắn không quan tâm đến việc bị bắt, điều đó đã chỉ ra rằng thay vì là kẻ điển hình của bệnh paraphilia (thỏa mãn tình dục bằng cách tưởng tượng đang tham gia hành động tình dục đó), bị cưỡng bách theo đuổi tình dục, thì Dahmer là không phải là một kẻ rối loạn, vô tổ chức. Hắn ta ý thức được việc mình đang làm gì và điều đó là sai trái. Bằng chứng là hắn ta đã thay đổi lời biện hộ của mình trước khi phiên tòa bắt đầu, để mặc cho bồi thẩm đoàn đưa ra lời phán quyết thỏa đáng-nhà tù hay viện tâm thần. Đó là lý do hắn nghĩ chính quyền đối với hắn có liên quan.

​Quan tòa được biết ở tuổi 14, Dahmer đã suy tính về việc sử dụng xác chết để quan hệ tình dục. Hắn ta sẽ lái xe đi xung quanh với một người bạn có cùng sở thích đánh chó, và hắn xem vụ giết người đầu tiên của mình theo cách mà những người đàn ông khác nghĩ về cuộc chinh phục về mặt tình dục đầu tiên của họ. Khi hắn đến tang lễ của một người đàn ông trẻ, hắn đã tưởng tượng việc đánh cắp thi thể ra khỏi nghĩa trang, và hắn ta học được cách bảo quản xác động vật từ một chuyên viên nhồi xác động vật. Hắn nói hắn chỉ có thể cương cứng, nếu bạn tình của hắn bất tỉnh. Hắn cần cảm giác hoàn toàn kiểm soát nhưng không muốn nhận được bằng cách lệ thuộc vào mong muốn của những người khác. Hắn khẳng định việc ăn những bộ phận cơ thể vì hắn tin rằng những nạn nhân sẽ sống lại thông qua hắn. Vì vậy hắn có thể tiếp tục quan hệ với họ, hắn để những nạn nhân của mình nằm xung quanh càng lâu càng tốt (thậm chí đôi khi tắm chung với họ trong cùng bồn tắm) và cuối cùng khi hắn vứt bỏ họ, hắn cảm thấy mất mát. Hắn không thích nhìn thấy cuộc sống của họ kết thúc trong những túi rác. Có những lúc hắn cảm thấy tội lỗi, nhưng cuối cùng cảm giác đó biến mất, đặc biệt khi hắn có được nạn nhận mới dưới sự kiểm soát của hắn. (12)

​Ressler, cùng với các chuyên gia sức khỏe thần kinh khác, tin rằng đó sẽ là tư liệu tốt nhất để nghiên cứu những người rơi vào vùng xám giữa rối loạn tâm thần mất kiểm soát và trạng thái tinh thần rõ ràng. Vài người biết rằng những gì họ đang làm là sai, và họ thậm chí có thể thực hiện việc kiểm soát khi bị đe dọa mà không được che chắn, tuy nhiên có lẽ điều đó quá yếu nên nhận thức của họ về vấn đề đúng sai là do sự sai lầm trong chính nhận thức đó. Một số nhà tâm lý học làm chứng cho khả năng này xảy ra với Dahmer. Tuy nhiên, tòa án, cũng như bồi thẩm đoàn, muốn những thứ đơn giản, vì vậy các sắc thái của bệnh tâm thần thuờng không được đánh giá đúng mức. Không chỉ vậy, hệ thống tư pháp vẫn chấp nhận khái niệm về bệnh tâm thần trong thời kỳ trở lại của những tiêu chuẩn MNaughten năm 1843. Đối với tất cả số tiền mà vài tiểu bang bỏ ra để hành hình những kẻ giết người đó, thì xã hội có lẽ sẽ được phục vụ tốt hơn bằng cách đào tạo mọi người về kiến thức và nhận định rõ ràng hơn về cách đánh dấu những biểu hiện kỳ lạ của những kẻ giết người hàng loạt. Một số nhà nghiên cứu hi vọng câu trả lời nằm ở đâu đó trong não bộ, nhưng cho đến nay, không ai thực sự biết. Nếu họ biết, họ sẽ có thể công bố tại sao một vài kẻ giết người hành động không vì lý do nào cả.



Cre: ver1.tamlyhoctoipham.com
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39: C39: 39. Tâm Lý Những Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt (11)


Chương 11: GIẾT NGƯỜI KHÔNG VÌ LÝ DO GÌ

Những kế hoạch ngắn hạn

Vào cuối năm 1950, tội đồ cũ William "Cockeyed" Cook, cùng với chiếc áo khoác da đen và những hình xăm đầy sự bất hạnh, đã thoát khỏi nhà lao ở Bang Missouri và quay về Joplin. Một lần nữa hắn ta bị bỏ rơi bởi chính cha ruột mình (người đã từng nuôi dưỡng hắn và 7 anh em cùng mồ côi mẹ khác của hắn trong một đường hầm than bỏ hoang), 21 tuổi hắn đã khởi sự cho một bữa tiệc vô đạo đức khác, nhưng đây là quãng thời gian đáng bận tâm nhất. Gần Joplin, hắn ta cưỡng đoạt một chiếc ô tô nhưng khi người lái xe tháo chạy, hắn đã bỏ lại chiếc xe vì một cái mới trong đó có cả gia đình đang tham gia giao thông. Hắn khiến người bố lái xe sang Bang kế cận. Dường như, hắn chỉ là thích thú với việc có thể cưỡng ép người khác phải thực hiện những việc hắn muốn. Trong lúc đấy, chủ chiếc xe đầu tiên đã báo cáo vụ việc chiếm đoạt xe và cảnh sát đã truy tìm ra một hóa đơn với tên của Cook.

Quay trở lại Missouri sau một chặng lái dài, Cook tiếp tục kiểm soát gia đình con tin nhưng khi cảnh sát tấn công, hắn đã hoảng loạn và nã súng vào ba đứa bé, bố mẹ chúng lẫn như chú chó họ nuôi. Tiếp đó hắn lái xe vòng quanh một lúc cùng với các tử thi, như là hắn đã không có bất kỳ suy tính gì cho kế hoạch. Cuối cùng, hắn mang các thi thể về đường hầm than bỏ hoang, không giống như con người mà hắn đã được nuôi dạy, rồi hắn bốc dỡ họ xuống.

Mặc dù Cook bây giờ đã có chiếc xe với toàn quyền sử dụng nhưng hắn đã bỏ lại nó, cung cấp cho cảnh sát cách để theo vết, và để họ có thể liên kết 2 vụ cưỡng đoạt xe, mặc dù cảnh sát nghi ngờ về vết máu được tìm thấy ở trong chiếc xe thứ 2. Vì hắn ta đã bỏ lại cả 2 chiếc xe, rõ ràng Cook không có ý đồ ăn trộm những chiếc xe. Cảnh sát nhận ra rằng họ có lẽ đã tuột thứ gì đó trên tay với không quá nhiều thứ để tiến hành nhưng lại phiền nhiễu mọi người ... có lẽ nó thật tồi tệ. Họ tìm kiếm ai đó người khớp với sự mô tả.

Nhưng Cook đã khống chế người bán hàng lái xe đưa hắn ta đến California, nơi mà sau đó hắn đã giết anh ta không cần lý do. Hắn không nhận thức được rằng, thông tin về hắn đã lan truyền khắp nơi và sự truy nã hắn đã được thiết lập đến Đông nam. Hắn ta bắt cóc vài người khác, rồi thả họ đi, và bắt 2 người đàn ông làm con tin ở Mexico, nhưng các nhà chức trách ở đây đã nhận ra Cook bởi lệnh truy nã họ được nhận từ các Bang khác. Họ đã bắt giữ hắn trước khi hắn có thể làm hại những con nạn nhân tiếp theo. Cook bị kết án ở Missouri với tội giết hại gia đình 5 người, ngoài ra California cũng đã kết tội hắn vì tội giết người bán hàng xấu số vào ngày 12 tháng 9 năm 1952, hắn đã phải thực thi án ở buồng khí gas. Cook đã không bao giờ cung cấp lý do vì sao hắn lại giết người, và mẫu nạn nhân của hắn dường như là ngẫu nhiên và cũng không ai có thể chỉ ra được một lý do hợp lý cho việc này, không một ai.

Rất nhiều lý do, hoặc là không gì cả

Số lượng rất lớn các kẻ đi săn đã thực hiện hành vi giết người từ nhiều động cơ và không dễ để tất cả được tái hiện như một xu hướng rõ ràng, như Jeffrey Dahmer đã làm, hay là một mục tiêu duy nhất, giống Dennis Rader đã thể hiện. Ví dụ, H.H.Holmes giết người vì sự hưng phấn tình dục, tính bản ngã gia tăng, và để khiến cho những nhân chứng phải im lặng, cũng giống Pee Wee Gaskins, kẻ đã giết chết hàng trăm nạn nhân dọc suốt các Bang bờ biển đông nam nước Mỹ. Khi các lý do bọn chúng nêu ra rõ ràng là các công cụ, ví thử như để loại trừ nhân chứng, thật không biết nói gì hơn. Một lý do hiển nhiên: chúng muốn biến mất cùng với tất thảy những gì chúng đã làm và không để lại bất kỳ dấu vết nào. Ngoài ra, những kẻ sát nhân tâm trí hoảng loạn thường là những kẻ hành động bộc phát, không vì mục đích rõ ràng nào cả, và hành động giết người được diễn ra nhiều lần. Gary Gilmore, là một ví dụ, dễ dàng giết chết 2 người đàn ông ở Utah vì hắn ta đã không hòa đồng được dễ dàng khi bước chân ra khỏi nhà tù, hắn đã cảm thấy bất lực và hoàn toàn mất phương hướng, và hình như rõ ràng cuối cùng ý tưởng hay ho đã đến. Trong khi một số các chuyên gia không bao gồm Gilmore như là một tên sát nhân hàng loạt, lý do duy nhất hắn ta đã không tiến hành giết người lần thứ 3 (và hơn thế), bởi chính hắn thú nhận, là do hắn bị bắt ngay sau lần giết người thứ 2. Hắn đã tuyên bố trong nhà tù rằng nếu hắn được tự do, hắn sẽ lại tiếp tục giết người. Theo đúng nghĩa này thì tâm lý từ sự gây hấn của hắn ta có liên quan đến học thuyết.

Vào thứ 2, ngày 19 tháng 7 năm 1976, Gilmore đã ghé qua một của hàng bán phụ tùng và không thấy bất kỳ ai xung quanh ngoại trừ một người phục vụ. Gil tiến lại phía người đàn ông, với biển tên "Max Jensen" và rút ra một khẩu a .22 Browning Automatic. Gil chỉ cho Jensen thấy những chiếc túi rỗng của anh ta, nhanh chóng như những thứ mà các tín đồ trẻ tuổi của Mormon vẫn làm. Sau đó, hắn bảo Jensen đi vào phòng tắm và nằm áp vào cánh cửa với 2 cánh tay vòng qua sau lưng. Jensen chỉ biết vâng lời. Không ngờ được, Gil đặt họng súng thẳng diện với đầu sọ Jensen rồi bắn liền 2 phát – 1 cho Jensen và 1 cho bạn gái cũ của anh ấy. Gil rời khỏi trạm xăng với không mảy may sự chú ý nào cùng một lượng tiền mặt từ quầy thanh toán. Hắn ta sau đó đi tới rạp chiếu phim, và không bị phiền nhiễu bởi những gì mà hắn đã gây ra.


Ngày hôm sau, Gil hắn gặp rắc rối với chiếc xe tải mới, nên phải mang nó đến trạm sửa chữa. Trong khoảng thời gian 20 phút sửa xe, Gil bước dạo trên phố và đã để ý đến Trung tâm Thương mại Thành phố. Một lần nữa, hắn lại nảy ra ý tưởng, hắn tiến vào tiền sảnh. Ben Bushnell đã hỏi Gil rằng hắn cần gì, và Gil đã để nghị Bushnell giao nộp hộp tiền cũng như nằm yên xuống sàn. Trước khi Bushnell kịp tuân theo thì hắn đã cho thẳng viên đạn vào đầu anh ấy.

Không khó khăn trong việc theo vết Gil, và chính cháu họ của Gil đã giao nộp hắn. Ban đầu, Gil phủ nhận việc đã giết người, nhưng vợ của Bushnell đã trông thấy sự việc vậy nên cuối cùng hắn ta cũng phải nhận tội. Hắn nói rằng hắn không biết tại sao lại giết chết 2 tín đồ kia. Hắn không có bất kỳ lý do nào, và thừa nhận rằng thực sự không phải hắn đang bị giam giữ, cũng như chắc chắn rằng hắn sẽ tiếp tục việc giết chóc.

Gilmore là một ví dụ điển hình của loại người với sự thôi thúc muốn tấn công người khác để cấu thành nên một tên giết người hàng loạt, như với mỗi định nghĩa cơ bản của tối thiểu 3 kiểu sát nhân với 3 kiểu sự việc xảy ra bất ngờ nhưng hắn đã bị bắt trước khi kịp tiến hành kiểu thứ 3. Hắn cho thấy những sự thiếu kiềm chế với cách xoa dịu cùng với việc hắn có khả năng để bắn hại 2 người đàn ông một cách không thương tiếc, hắn có lẽ đã đúng về việc sẽ giết người ngay khi ý muốn chợt nảy ra, từ lần này sang lần khác. Gilmore bị kết án tử hình và phải đấu tranh để được Bang Utah tiến hành bản án. Bản tuyên án của hắn ta trở nên nổi tiếng trong thực tế rằng hắn là người đầu tiên được thi hành án ngay khi Mỹ tiến hành phục hồi lại bản án tử hình sau một thời gian dài tạm ngừng. Lời cuối hắn đã nói, "Hãy thực hiện án thôi!"

Một kẻ giết người khác đã cho thấy không có bất kỳ sự thấu hiểu nào trong động cơ của hắn là David Edward Maust, 51 tuổi, người đã bị kết án tại Ấn Độ vào ngày 18 tháng 12 năm 2005. Hắn ta đã sát hại 3 bé trai, và sau khi tuyên án, hắn đồng ý nói về tất cả 5 vụ án mạng mà hắn đã hứa trước đó. Hắn ta đã biết ít nhiều về những nạn nhân và tình huống dẫn đến cái chết của họ khi được hỏi, nhưng lại không thể nói ra nguyên do hắn lại có hành động như vậy. Hắn đã so sánh cảm giác giết người như khi mẹ hắn sẽ phạt hắn bằng cách lấy đi những đồ vật của hắn những thứ mà hắn thích nhất.

"Họ là những người trẻ ngây thơ, không bạo lực và tử tế những người không xứng để phải chết" Maust nói hộ lời cho những nạn nhân của ông trong nhà giam ở các bài viết đang được in ấn xuất bản. "Không ai trong số họ làm điều gì sai. Họ không có gì hết, ngọai trừ việc tôi muốn họ trở thành bạn tôi, và họ cũng không muốn gì từ tôi. Nhưng tôi vẫn giết họ không vì lý do gì hết... Tôi không thể đổ lỗi cho nơi tôi đã khôn lớn, sự sa ngã từ lúc 4 tuổi, hoàn cảnh, tính di truyền hay bố mẹ."

Không có gì đáng nói về Nicholas James, 19 tuổi, người gây ấn tượng với Maust. Họ đã làm việc cùng nhau ở một cửa hàng trưng bày. Vào ngày 2 tháng 5 năm 2003, Maust đã mời James ghé qua nhà trọ của hắn và tấn công James trong nhà bếp bằng cây gậy đánh bóng chày. Hắn sau đó phủ một lớp sơn bên ngoài thi thể nạn nhân và đặt nó vào đống bê tông ướt dưới nền móng ngôi nhà. Ngay sau năm đó, vào tháng 9, Maust lại siết cổ James Raganyi, 16 tuổi, và Michael Dennis 13 tuổi. Ban đầu hắn mang họ về nhà từ hồ bơi từ 2 tháng trước đó, tháng 7, việc đó đã tiêu tốn của hắn một đêm. Trong suốt khoảng thời gian đó họ đã ở nhà hắn, Maust tưởng tượng về việc đâm giết họ nhưng hắn đã kiềm chế lại vì hắn muốn có ai đó để ở cùng. Nhưng sau đó, vài ngày trước khi bước sang tháng 9, Maust đào một cái hố ở nền móng nhà. Hai cậu bé có ý bỏ trốn, Maust đã bảo rằng, ai đã tìm chỗ ẩn nấp hắn ta. (Những người kia khăng khăng rằng hắn đã dụ họ đến đấy.) Hắn ta cho các nạn nhân uống rượu uýt-xki, dành ra 3 tiếng đồng hồ để giết một người, tiếp theo là gói các thi thể vào túi bóng và cuối cùng là phủ lên một lớp bê tông.

Maust cũng đã sát hại 2 cậu bé trai khác trước năm đó. Năm 1972, khi hắn đang thực hiện nghĩa vụ quân sự ở Đức, hắn đã giết chết Jimmy McClister, 13 tuổi. Quân đội kết ắn hắn tội ngộ sát và hắn phải đưa ra xét xử ở tòa án quân sự. Maust đã phải nhận bản án 3 năm tù giam. Sau đó hắn thừa nhận rằng hắn đã nghĩ đến những con mồi tuổi thiếu niên khác trong đầu, nhưng trong khoảng thời gian đấy thì McClister chỉ là nạn nhân duy nhất. Điều đó thật tội lỗi, hắn đã nói như vậy trong sự tuyệt vọng.

Năm 1981, trở về Illinois, hắn ta lại đâm và dìm chết một cậu bé 15 tuổi, Donald Jones. Bị kết tội, hắn lãnh 35 năm tù, nhưng chỉ phải chịu giam 17 năm. Năm 1999 hắn được thả, hắn mong muốn được xếp loại như một tên tội đồ bạo hành tình dục nên hắn xin được cư trú ở Sheridan Correctional Center, nhưng lời đề nghị của hắn đều bị từ chối hoặc lơ đi.


Bị bắt vào tháng 12 năm 2003 sau khi 3 thi thể được tìm thấy dưới nền nhà, Maust đã giữ im lặng trong 2 năm. Luật sư đại diện đã đổi lỗi cho việc hành xử như một đứa trẻ của Maust là do sự sao lãng của bố mẹ hắn, những người đã đưa Maust vào viện tâm thần khi hắn mới 9 tuổi. Hắn đã ở tại đây 4 năm (mặc dù Maust nói rằng hắn đã rất thích nơi này). Giả sử là dựa vào những hoàn cảnh như trên, Maust dường như ngày càng căm ghét chính bản thân mình, và hắn cũng tự thấy thù hằn với tất thảy mọi người xung quanh. Khi được hỏi để cung cấp thêm các lý do tại sao hắn đưa ra quyết định cái chết cho những đứa trẻ, hắn đáp, "Tôi nghĩ câu trả lời rằng bạn phải bắt đầu với việc ghép toàn bộ cuộc đời tôi lại với nhau và xem xét chuỗi các sự kiện". Nó, dĩ nhiên, chẳng phải là một câu trả lời. Hắn ta đã đề cập rằng nếu như hắn biết trước được nạn nhân cuối cùng của hắn ở tuổi 13, thì hắn đã không ở cùng cậu bé, bởi "Tôi đã giết một đứa trẻ 13 tuổi trước đó rồi.". Những nhận xét giống như thế, cùng với sự bất lực chung của Maust đã xẩy đến động cơ, điều đó có ý rằng hắn đã giết người trên sự thôi thúc, có lẽ cũng dựa trên sự tưởng tượng nhắc lại. "Trở nên cô đơn chính nó đã hủy hoại tôi," hắn đã nói. Không bất kỳ nạn nhân nào phải chịu sự tấn công tình dục, bởi, như Maust đã nói, hắn đang tìm kiếm tình cảm yêu mến, chứ không chỉ là tình dục. Không lâu sau phán quyết dành cho hắn, hắn đã nói bóng gió rằng hắn có thể sẽ chết sớm, và sẽ tự sát trong tù bởi việc tự treo cổ với chiếc ga giường.

Chỉ đơn giản là hành động

Khi 3 thành viên của gia đình Groene – Mckenzie bị đánh bằng dùi cui cho đến chết trong chính ngôi nhà của họ ở Idaho vào ngày 15 tháng 5 năm 2005, đứa trẻ Shasta và Dylan Groene đã bị bắt cóc, điều đó trở thành bản tin quốc gia. Nhờ chương trình Amber Alert toàn quốc gia, vài người đã nhận ra Shasta trong một nhà hàng và gọi cho cảnh sát. Đứa bé nói với mọi người rằng trong liên tiếp vài ngày, cô ta và đứa em trai 9 tuổi đã liên tục bị tiến hành bạo lực tình dục. Liền sau vụ bắt coc Dylan Groene đã xảy ra, Dylan bị tra tấn và bị bắn cũng như bị thiêu cháy phần còn lại của cơ thể, rồi bỏ trốn cùng bé gái. (Phần còn lại của Dylan được tìm thấy ở Montana.)

Kẻ bắt cóc của bọn họ là James Edward Duncan III, kẻ với tội danh quấy rối trẻ em. Tiền sử phạm tội của hắn bao gồm một chuỗi các cuộc tấn công trẻ em, ít ra cũng giống như một tên giết người, chỉ ra với hắn ta tổng cộng 6 vụ sát nhân trong 3 vụ động chạm khác nhau, dù rằng hắn là nghi phạm trong vài vụ giết người chưa có lời giải (trên trang mạng cá nhân, hắn đã ám chỉ về việc có thêm các vụ phạm tội nữa). Duncan, 42 tuổi, bắt đầu nghề nghiệp phạm tội của hắn một cách chính thức vào năm 1978 khi hắn mới 15 tuổi bằng việc hiếp dâm tàn bạo một bé trai 9 tuổi ngay trước họng súng. Hình như hắn đã nói với nhà trị liệu rằng hắn đã hành hung chí ít một tá các bé trai với một cách tương tự, 6 trong số các đứa trẻ đã bị hắn trói cột. Chỉ 2 năm sau đó, hắn bị tống vào tù vì tội cưỡng hiếp một bé trai 14 tuổi. Duncan đã ở trong tù 14 năm, và điều khoản cam kết được đặt ra cho hắn rằng hắn phải giữ khoảng cách với trẻ em khi được thả. Hắn vẫn chưa tự tường trình cho văn phòng FBI rằng hắn có liên quan đến vụ bắt cóc và sát hại Anthony Martinez tại bờ sông ở California, năm 1997. Hắn nỗ lực để tóm lấy em trai của Anthony nhưng cậu bé đã trốn thoát.

Vào mùa xuân năm 2005, Duncan bị buộc tội quấy rầy Minnesota, bé trai 6 tuổi cùng nỗ lực quấy rối bạn của cậu bé. Bản cáo trạng đã được thành lập, như là một sự trả đũa, Duncan đã tậu một khẩu súng lục, một chiếc búa và một ít đạn dược. Hắn ăn trộm chiếc xe Jeep Grand Cherokee, rời bang để tới Idaho. Hắn ta hình như theo vết những đứa trẻ nhà Groene trong sân nhà và giám sát ngôi nhà trong vòng vài ngày sau đó cho tới khi hắn xác định chính xác thời gian để bắt lấy bọn trẻ. Mặc dù hắn đã không thú nhận thực hiện điều này, nhưng việc dựng lại tội ác đã cho thấy rõ nó đúng như kịch bản của hắn.

Nhưng thay vì bắt cóc bọn trẻ đi xa khu sân nhà khi có cơ hội, Duncan nảy ra quyết định thâm nhập vào ngôi nhà và giết hại 3 người ở bên trong. Hắn không chỉ bắn họ, mà hắn chọn cách trói các nạn nhân cùng nhau và dùng chiếc búa cầm tay đánh từng người tới chết. Hắn như đã tái hiện lại sự việc của Shasta và Dylan, sau khi mang những đứa trẻ đi, hắn xử lý nốt mọi việc và ghi lại tất cả những gì hắn đã đối xử với họ để phục vụ cho sự giải trí hàn mạt sau này. Có vẻ vì vậy nên hắn đã đi đến quyết định rằng giết nốt toàn bộ thành viên còn lại của gia đình chỉ vì hắn muốn thế, không phải vì thực sự hắn phải làm vậy hay vì hắn đã trót trộm đồ, và hắn đã trở nên hèn hạ trái ngược với Dylan. Shasta chắc là nạn nhân tiếp theo của hắn nhưng cô bé đã được cứu đúng lúc.

Duncan, 42 tuổi, đã than vãn về cách cư xử như người có tội về tình dục trên blog du lịch online với tiêu đề "Chiếc móng tay thứ 15", tham khảo từ chiếc móng tay bị dùng để đóng đinh Chúa Jesus trên cây thánh giá. Các dòng đầu, hắn nói về những ý tưởng đúng sai và các thứ nhận thức mà hắn chưa thấy được sự khác biệt. Hắn đổ lỗi cho quỷ dữ vì những thứ khát khao của hắn. "Mục đích của tôi," hắn viết, "là để làm hại xã hội nhiều chừng nào tôi có thể và để chết đi."


Lý do căn bản như là lời giải thích đến sau

Đôi khi, động cơ phát triển sau khi kẻ săn mồi đã thấy các mẫu vật của hắn xuất hiện quá các phương tiện truyền thông. Vào năm 1984, Richard Ramirez đột nhập vào nhà của một bà cụ già 79 tuổi ở Glassell Park, California. Hắn ta cắt cổ bà lão và tiếp tục đâm bà một cơ số nhát sau khi bà lão đã chết. Hắn tiếp tục tiến hành giết người 2 lần nữa trong vòng 8 tháng tiếp theo trước khi cảnh sát có được miêu tả từ những người sống sót của hành đồng giết người có chủ ý gấp đôi. Người đàn ông đột nhập vào condominium cô ta đã tâm sự với người bạn sát nhân của cô ta. Cô ta chỉ ra đặc điểm của tên sát nhân, mặc bộ đồ màu đen, có đôi mắt lồi, mặt hẹp, tóc xoăn đen, có mùi khó chịu và hàm răng xấu tệ.

Việc giết người và hãm hiếp lại tiếp tục, với một số người phải đang chịu đựng hơn những số khác. Vincent Zazzara đã bị tấn công và bị giết ngay trong nhà, trong khi vợi của anh ấy bị bắn và sau đó bị đâm cho đến chết. Kẻ tấn công cắt bỏ mí mắt, đục lấy đôi mắt của người vợ và mang chúng đi. Không lâu sau đó, hai người phụ nữ già hơn bị tấn công bằng dùi cui và tên tấn công đã để lại các biểu tượng của quỷ Xa-tăng trên đùi của một trong 2 thi thể, với mẫu ngôi sao năm cánh. Trong khi những kẻ sát nhân ở Los Angeles tiến hành một cách ngẫu nhiên, thì "Night Stalker" đã giết hại một cặp đôi ở San Francisco. Nhưng hắn đã để lại một dấu vân tay. Kiểm tra qua dữ liệu, cảnh sát thu được cái tên Richard Ramirez, được cho là con chiên của quỷ Xa-tăng kẻ đã có một danh sách dài về các vi phạm giao thông và ma túy.

Ảnh của Ramirez được cáo thị trên các báo và khi hắn cố để trộm chiếc xe hơi vào 30 tháng 8, hắn đã bị nhận diện và bị tấn công bởi một nhóm thường dân, những người sau đó giao nộp hắn cho cảnh sát. Hắn rút cuộc bị kết tội với việc giết hại những đứa trẻ 13 tuổi và cùng 30 tội trạng khác được đưa ra, bao gồm tội hiếp dâm và trộm cắp. Về các động cơ, hắn nêu ra rằng một trong những người bảo vệ của hắn người hắn từng yêu đã đứng nhìn mọi người chết dần.

Ramirez thích thú khi tường trình lại về tất cả những kiến thức của đạo Xa-tăng và thiên hướng của hắn về Mặt tối, và thật mơ hồ về việc hắn thực sự hành động như các mục đích Xa-tăng hay chỉ đơn giản là hắn tự nhận các tính cách như là cách để nổi bật, thu nhận ý kiến từ những báo cáo được viết cho hắn ta. Trong phiên tòa sơ bộ, hắn ca tụng quỷ Xa-tăng và làm rực sáng biểu tượng ngôi sao năm cánh hình hắn đã xăm vào lòng bàn tay. Khi hắn bị kết án, các luật sư biện hộ cảnh báo hắn rằng hắn có thể phải chịu án tử hình. Và hắn không mấy quan tâm. "Tôi sẽ xuống địa ngục với quỷ Xa-tăng" hắn nói. Hắn bị kết án tử hình và bây giờ hắn đang ngồi trong khu tử tù California. Dù hắn có bất kỳ động cơ nào khác kẻ hắn đã chọn để tâng bốc cho sự tai tiếng của hắn đền không được biết đến, mặc dù một vài chuyên gia người đã nghiên cứu rất nhiều về tội phạm cho rằng sự thôi thúc trong hắn để giết người là vì động cơ tôn giáo và/hoặc vì kinh nghiệm hắn có lúc còn nhỏ.

Lúc còn bé, Ramirez đã tôn thờ người anh họ tên Mike của mình, người đã trở thành vai trò hình mẫu. Mike thích thể hiện sự thô bạo mà hắn có. Vì Richard đã ở cùng hắn, tiếp thu các triết lý cuộc sống của Mike, hắn đã học được cách làm cho vẻ ngoài trở nên hung bạo hơn. Mike đã sống sót trong hoàn cảnh khắc nghiệt của Việt Nam, và khi hắn trở về với những câu chuyện đầy thú tính, hắn trở nên vĩ đại hơn trong mắt Richard. Mike đã nói với Richard rằng việc giết người khiến hắn cảm thấy như mình là chúa tể. Hắn khoe khoang việc hắn đã cưỡng hiếp và giết hại rất nhiều phụ nữ. Richard đã xem những bức ảnh Polaroid về hoạt động tình dục của Mike với cô gái, một nạn nhân bất lực và sau đó bị giết giống như những cô gái khác. Mike còn khoác loác và các nạn nhân, và thời niên thiếu của Richard không nghi ngờ gì nữa đã rất hào hứng với các phụ nữ suy đồi. Thêm vào đó, Mike đã dạy Richard rằng nghệ thuật của việc truy đuổi như là động vật săn mồi, và trong một dịp đặc biệt, Mike đã bắt giết hại vợ của hắn ta trước mặt Richard. Vậy nên sự tiếp xúc của Richard tới bạo lực đã liên đới tới tuổi trưởng thành có thể đã ảnh hưởng tới sự phát triển những suy điễn kỳ quặc của Richard.

Tuy vậy, không ai biết thành phần chính xác những thứ biến đổi một cậu bé thành một tên sát nhân khát máu. Kẻ giết người khác nghĩ rằng để có thể đặt toàn tâm trí vào việc luyện tập thần kỳ phải biết chối bỏ tất cả những thứ các tên sát nhân khác nói về hắn, và biểu thị rằng hắn ta thực sự không có lý do gì để giết người. Điều này bắt đầu không lâu sau khi Richard bị bắt và chỉ trước sự cố gắng để bắt đầu của hắn.

Tác dụng phụ gây tử vong

Vào tháng tư 1988, Chris Bryson đã nhảy ra khỏi nhà của Robert Berdella từ tầng thứ hai và chạy đi kêu cứu. Anh ta chỉ đeo một cái vòng cổ cho chó và gặp khó khăn khi mở mắt. Câu chuyện anh kể thật khó để chấp nhận, nhưng nó lại là sự thật. Anh ta bị đánh gục trong nhà của Berdella và thấy mình tỉnh dậy trên một chiếc giường, bị trói vào cột theo kiểu đại bàng sải cánh. Không một mảnh áo và khi anh ta sắp ngất lần nữa anh ta cảm thấy Berdella đang đeo cái vòng cổ cho chó xung quanh cổ của mình. Khi anh ta vừa mới tỉnh lại thì Berdella đã nhỏ một dung dịch có mùi nồng nặc vào trong mắt của anh ta. Nó có cảm giác rất là nhức nhối nhưng Bryson không còn cách nào khác là phải chịu đựng. Berdella sau đó dùng một thanh sắt đập vào tay bị trói của Bryson và gắn một thiết bị điện tử vào tinh hoàn và đùi của anh ấy. Bryson liền cảm thấy choáng mạnh bởi một dòng điện, truyền cơn đau từ cánh tay của anh lan khắp cơ thể. Trong cơn đau đớn, anh ta thấy một luồng ánh sáng chớp nhoáng và tiếng kêu vù vù. Berdella đang chụp hình. Sự tra tấn Bryson vẫn tiếp diễn trong quá trình nhiều ngày, bao gồm cả việc tiêm vào cổ họng anh ta dung dịch tẩy rửa cống, nhưng vào một ngày nọ Berdella rời khỏi nhà và Bryson đã đốt sợi dây trói để tự giải thoát mình bằng những que diêm bị bỏ đi và anh ta đã trốn thoát.

Những người khác thì không được may mắn như vậy. Bằng hình thức tra tấn tâm lý, Berdella đã cho Bryson xem những tấm hình của nhửng người đàn ông khác đã chết. Thực tế đã có tất cả 6 người bọn họ. Trong khi khám xét nhà của Berdella, cảnh sát phát hiện ra một mảnh ghi chú đầy đủ trong đó Berdella đã mô tả những gì mà hắn ta đã làm đối với nạn nhân và đã ghi lại cách họ phản ứng. Trong một bản viết tay riêng, hắn đã rút ngắn thời gian, ghi chép vắn tắt những chuyển động nhỏ nhất của một nạn nhân, liệu rằng nạn nhân có nhận thức được những việc đang được thực hiện trên người của anh ta, và thỉnh thoảng có những ký hiệu đáng ngờ, "DD" hay "86". Sau đó không còn ghi chép gì về người này. 3 năm trước, Berdella đã bị tra hỏi về vụ mất tích của 2 người đàn ông trẻ, Jerry Howell, 19, bị mất tích vào tháng tư năm 1984, và James Ferris, 25, biến mất vào tháng 9 năm 1985. Một người đàn ông tên Todd Stoops đã báo với cảnh sát rằng anh ta đã nhìn thấy cả 2 người đàn ông này đi cùng với Berdella. Cuối cùng ngay cả ông ta cũng biến mất. vào thời diểm hiện tại không có bất kỳ chứng cứ nào liên kết giữa những người đàn ông này với Berdella, nhưng bây giờ vụ án đã chuyển hướng. Xác người được tìm thấy ở sân sau khiến Berdella không còn gì để chối cãi.


Berdella đồng ý khai báo tường tận để đổi lấy bản án chung thân và hắn ta đã cung cấp chi tiết về những cuộc tra tấn bạo dâm của mình. Trong một căn phòng hội nghị nhỏ của tầng hầm nhà tù thành phố Kansas, hắn ta bắt đầu khai báo và bảng báo cáo cuối cùng lên đến 717 trang. Berdella đã nghĩ đến những ảnh hưởng trong đó có một bộ phim có thể là nhân tố tác động, phim The Collector, hắn ta đã xem lúc còn trẻ (đã được đề cập trước đó thông qua một tên sát nhân khác như một ảnh hưởng cực kỳ nghiêm trọng). Dựa trên tiểu thuyết của John Fowles, bộ phim nói về một nhân vật bị thôi thúc bởi nhu cầu bắt giam một người phụ nữ trong căn hộ của mình và cùng lúc phát triển mối quan hệ với cô gái này. Cô ta chống cự hắn, nhưng khi cô ấy biết rằng không thể trôn thoát, cô ta cố gắng chấp nhận. Cuối cùng cô ta chết và hắn ta cho rằng sự cố không may này là lỗi của cô ta. Hắn ta tính toán những việc cần làm để biến vụ bắt cóc tiếp theo trở thành một cuộc thử nghiệm hoàn hảo hơn và sau đó bắt đầu theo dõi đối tượng. Berdella khai báo rằng bộ phim này đã cho hắn ta nguồn cảm hứng về việc kiểm soát người khác cho mục đích tình dục, và tạo cảm hứng cho hắn ta thử làm tương tự.

Tuy nhiên chính sự tra tấn mới đem lại cho Berdella cảm giác hưng phấn chứ không phải là việc thực sự giết người, hắn ta đã được hỏi tại sao lại giết những người đàn ông khác. Hắn ta khai báo rằng hắn ta không thật sự có một lý do nào cả, ít nhất không phải không biết mình đang làm gì. Hắn ta chỉ nghĩ rằng vì hắn ta không bị bắt sau vụ giết người đầu tiên nên có gì khác biệt đâu nếu như hằn ta giết người một lần nữa? Thái độ của hắn ta đã quá rõ ràng khi để những phần còn lại của nạn nhân trong những chiếc túi bên ngoài trên lề đường cho những người thu gom rác.

Những Ảnh Hưởng Tiềm Ẩn

Adrian Raine, Đại học Nam California, nghiên cứu những tương quan thần kinh của bạo lực. Anh và đồng nghiệp đã nhận diện một số trường hợp tổn thương não để đóng góp, chính xác là hệ viền (được biết đến như là trung tâm cảm xúc) và vùng vỏ não trước trán. Những tổn thương này có thể làm con người trở nên bốc đồng, bạo dạn, ít phản ứng với kích thích tránh né, và giảm khả năng đưa ra quyết định đúng đắn về những tấn công với người khác. Họ cũng tìm những hoạt đông kích thích cảm giác. Nghiên cứu này cho thấy một số người hay thiên về bạo lực bốc đồng hơn người khác dưới tác dụng của cấu trúc não, và điều này cũng có thể ảnh hưởng đến cuộc sống tưởng tượng của họ.

Đi tìm một câu trả lời mang tính triết học hơn, giáo sư pháp lý hình sự Candice Skrapec của Đại học Bang California tại Fresno chỉ ra từ nghiên cứu định tính rằng những kẻ giết người hàng loạt sử dụng hành vi phạm tội của mình để đưa ra ý nghĩa và mục đích sống của họ. Cô tìm dẫn chứng về những nhu cầu cơ bản con người trong những gì họ làm, dù bị xuyên tạc hay phóng đại. Từ những cuộc tham vấn, cô phát hiện ra rằng những kẻ giết người hàng loạt thuộc dạng lợi dụng người khác mà là nam giới thường cảm thấy mình như là một nạn nhân, nên họ vùng dậy và bắt người khác phải trả giá. Điều này có vẻ là trường hợp của Duncan trong ví dụ trên. Hắn, như những kẻ khác, có vẻ như xem bản thân là một người được miễn khỏi bất kỳ luân lý đạo đức nào và được trao quyền làm bất cứ điều gì hắn muốn. Khi những kẻ giết người hàng loạt có được cái đà từ những tưởng tượng bạo lực của mình, họ có thể cảm thấy mình có khả năng giết người hơn. Nghĩ đến những hình ảnh đó bảo vệ họ bằng cách nhắc họ về cảm giác điều khiển. Điều này cũng làm họ cảm thấy đặc biệt, vì họ đang đạt được những thứ mà hiếm ai có thể làm được.

Vì vậy viếc giết người mang lại cảm giác sinh khí, gây trạng thái phởn phơ và theo sau đó là cảm giác bình tĩnh và nhẹ nhõm trước áp lực. Rồi khi những vụ giết người lan ra giới truyền thông, cảm giác quyền lực của họ được khẳng định. Không khó để tình dục hóa bạo lực, ngay cả khi việc lợi dụng tình dục không phải là động cơ ban đầu. Với tầm hạn chế của tiến hóa – mọi thứ chỉ có thể là trắng hoặc đen mà không có khoảng ở giữa – hành động của họ hoặc là tất thảy hoặc là không có gì. Việc giết người làm họ cảm thấy trọn vẹn. "Đến cuối cùng," Skrapec nói, "thứ bề ngoài có vẻ là hành vi tấn công về cơ bản lại chính là phòng thủ."

Dù điều này không lý giải hoàn toàn tại sao một người lại có thể gây ra những vụ giết người điên rồ như vậy, nó vẫn khiến ta hiểu rõ hơn vì sao họ lại tiếp tục. Nó cũng khai sáng việc tại sao một số lại bắt đầu khi còn rất trẻ. Những kẻ gắn với việc hành hạ, ngược lại với kiểu giết người chớp nhoáng, đã cho thấy những tổn thương về khả năng cảm nhận bất cứ điều gì về nạn nhân, làm ngăn chặn sự đau khổ và dằn vặt với những gì họ đang làm. Vì vậy, nếu họ khao khát quyền lực, điều khiển, và sự chi phối, họ sẽ tiếp tục tìm kiếm cơ hội sau khi hết hiệu ứng của lần phạm tội trước. Tương tự, nếu họ tìm kiếm một cảm giác cấp cao hơn, họ sẽ cần phải đổi mới liên tục. Một số bắt đầu điều đó ở tuổi dậy thì. Vậy nên chúng ta sẽ đến với những đứa trẻ bạo lực đã từng giết người nhiều hơn một lần.



Cre: ver1.tamlyhoctoipham.com
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom