Cập nhật mới

Dịch Full Mật Mã Tây Tạng

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: Lửa địa ngục


Đầu tiên, Trác Mộc Cường Ba nghĩ tới con vật lợn không ra lợn, trâu không ra trâu, mình gặp phải trong rừng, lẽ nào trong địa cung này cũng có thứ ấy? Giáo sư Phương Tân nói: "Chuẩn bị sẵn sàng ứng phó, nếu nó chặn đường tiến của chúng ta rồi xông tới, mọi người phải kịp thời nhảy tránh." Ông đưa một khẩu súng lục cho Trác Mộc Cường Ba, và nói: "Chỉ có hai viên đạn, bất kể là thứ gì, nếu nó xông tới phải nhắm vào chỗ yếu hại mà bắn." Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu.

Giáo sư Phương Tân điều chỉnh lại quầng sáng của đèn pha, thở hắt ra một tiếng: "Hy vọng nó không lao tới."

Trụ ánh sáng chiếu ra, mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy trong bóng tối lấp lóa chớp nháy một đôi mắt sáng rực, to như cái bóng đèn. Con vật khổng lồ kia rõ ràng cũng bị chùm sáng bất ngờ đó làm cho giật bắn mình, quay đầu bỏ chạy làm cả đường hầm rung lên bình bịch. Giáo sư Phương Tân thấy vậy, vội vàng lấy máy quay ra, chỉ tiếc đã quá muộn, màn hình máy tính chỉ hiện ra một cái mông to như mông voi và chiếc đuôi vừa to vừa dài.

Nhưng trong khoảng khắc chùm sáng hắt ra ấy, Trác Mộc Cường Ba vẫn cảm nhận được một cách vô cùng rõ rệt, đôi mắt chớp chớp như bóng đèn ấy, ánh mắt đỏ toát lên vẻ "tham lam, đói khát, thù hận, oán độc", gã biết rõ, chỉ có một loài vật mới sở hữu cặp mắt và thứ ánh mắt ấy, bọn chúng tồn tại trước khi con người xuất hiện, và luôn bị con người coi là kẻ thù, trong mấy triệu năm lịch sử tiến hóa của nhân loại, cuộc chiến giữa loài người và bọn chúng chưa bao giờ từng gián đoạn. Hơn nữa, ở Khả Khả Tây Lý, loài động vật này đã dạy cho Trác Mộc Cường Ba một bài về môn sinh vật học. Trong hang động tối tăm sâu hút ấy, bọn chúng cọ quậy thân mình béo múp, đuổi theo mọi sinh vật sống với tốc độ không tưởng, ăn sạch tất cả sinh vật chúng bắt gặp trên đường đi. Trác Mộc Cường Ba không dám tưởng tượng ra cảnh một con chuột có thể hình của loài voi, nhưng đôi mắt gã trông thấy ấy, đích thực mười mươi là đôi mắt ti hí chỉ loài chuột mới có.

Giáo sư Phương Tân nói: "Được rồi, nếu nó đã sợ ánh sáng, chúng ta cứ đi tiếp con đường này, nhưng phải hết sức cảnh giác mới được. Cường Ba à, Cường Ba, có nghe tôi nói gì không? Cậu đang nghĩ gì thế? Cậu phụ trách sự an toàn cho cả đội chúng ta đấy, cậu cần phải cảnh giác hơn nữa mới được."

Theo chân con vậtt không rõ tên kia, bốn người dè dặt tiến lên phía trước, bỗng nhiên Đường Mẫn thấp giọng hô: "Phía trước có ánh sáng."

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Cẩn thận, mọi người tắt hết đèn đi, có lẽ có người khác tiến vào đây nữa."

Bốn người càng đi về phía trước, ánh sáng càng rõ hơn, nhưng trông thế nào cũng không giống ánh sáng phát ra từ các loại đèn pha đèn chiếu. Cùng với ánh sáng mỗi lúc một mạnh, luồn khí nóng càng lúc càng rõ rệt hầm hập phả tới mặt mọi người, lạt ma Á La kêu lên: "Chỉ sợ không phải có người nào, mà là ánh sáng vốn có ở tầng địa ngục này thôi."

Ba người giờ mới sực nhớ ra, tầng này là địa ngục của nước và lửa, thế nhưng, ngọn lửa nào có thể cháy suốt ngàn năm cũng không tắt? Trác Mộc Cường Ba cũng sực nhớ ra bài hát của Babatou: "Bọn họ đốt lên ngọn lửa thiêng cháy vạn năm không tắt, để cung điện ** Puh được ánh sáng chiếu rọi."

Giáo sư Phương Tân bật máy tính lên: "Để tôi tra cứu dữ liệu." Trong cuốn sổ ghi chép, Pieri đã miêu tả như sau, "Tôi như bị nướng trong địa ngục (thiếu), quả thực hết sức khâm phục trí tuệ của người Maya (thiếu), tôi nghĩ, tầng này chắc có một cách đặc biệt nào đấy để đi lên, bởi vì lúc trượt xuống, tôi suýt nữa thì ngã gãy xương. Họ không thể không để lại thứ gì đó, nếu không, chính họ cũng không có cách gì mà lên được."

Lạt ma Á La thấp giọng nói: "Xem ra, chính Pieri cũng không tìm được cách lên trên. Chỉ e chính vì ở tầng này không thể leo lên được nữa, ông ấy mới tiếp tục lần tìm xuống dưới cũng nên."

Trác Mộc Cường Ba không đồng ý: "Chưa chắc, bọn dơi vừa nãy đấy, chẳng lẽ không phải chúng cũng bay từ đây ra hay sao?"

Lạt ma Á La mỉm cười: "Có một điểm không thể quên, bọn dơi bay vào, còn chúng ta thì đi ra đấy."

Đường Mẫn vội lên tiếng: "Được rồi, mọi người đừng tranh cãi nữa, đi xem thì biết thôi."

Đi thêm mấy bước nữa, bước chân bốn người liền chậm lại, giáo sư Phương Tân vội lấy máy quay ra, hướng về phía cửa đường hầm. Lạt ma Á La cảm thán: "Kỳ tích, kỳ tích ở đây đúng là vô cùng vô tận. Thật không thể tưởng tượng nổi, sao mà họ làm được thế nhỉ?"

Một ngọn lửa bập bùng cháy phía trên cửa đường hầm, tựa như một tinh linh có mạng sống đang nhảy múa. Không phải một ngọn lửa nhỏ như ngọn nến, mà là ngọn lửa bừng bừng, cháy cao hơn bốn mét, đứng cách mấy trăm mét cũng cảm thấy luồng nhiệt hầm hập tới. Càng đến gần cửa hầm, bốn người càng ngây ngẩn si mê. Tòa chính điện này chạm trổ hoa lệ, vách tường đầy bích họa, bài trí huy hoàng thế nào không cần nói, nhưng chỉ liếc một cái là đã trông thấy ngay bốn bức tượng lực sĩ thân hình khổng lồ đang đứng thẳng. Bốn vị lực sĩ này cao phải hơn hai chục mét, trên đầu đội một cái mũ trông giống như lỗ châu mai trên Vạn Lý Trường Thành, hai mắt hình thoi, con ngươi nghiêng vào trong, miệng há to, khóe miệng xoắn lại trông như hàm râu quai nón, tai như quai ấm, trên người mặc chiến giáp, dáng vẻ uy phong lẫm liệt vô cùng, không nộ mà oai, nhưng điều làm người ta liếc thấy họ ngay, chính là chậu lửa cháy sáng trên tay họ. Cả bốn lực sĩ cùng giơ cao hai tay, nâng một cái chậu khổng lồ bằng kim loại, đường kính mỗi chậu đều khoảng chừng ba mét, lửa cháy rừng rực bên trong, chiếu sáng cả không gian tầng thứ sáu này.

Trác Mộc Cường Ba bước tới dưới chân mấy lực sĩ, trông gã còn chưa cao bằng chiếc giày của họ nữa, chăm chú nhìn chiếc chậu tròn khổng lồ bên trên, thốt lên với giọng tựa như không dám tin là thật: "Là thứ gì mà cháy được lâu thế?"

Vì đã có ánh lửa, mũ chiếu sáng của bốn người đều không cần thiết nữa, cả bọn cất hết đi, rồi quan sát kỹ lại một lượt tầng địa ngục thứ sáu này. Đại sảnh họ đang đứng đây có lẽ là khu vực trung tâm của tầng Địa ngục thứ sáu, bởi giữa đại sảnh là một bức tượng khổng lồ của nữ thần Mặt trăng. Vị nữ thần hung dữ này của chốn địa ngục này rõ ràng là đã được mỹ hóa, mặc dù trên đầu nàng vẫn có vô số rắn độc đang bò nhung nhúc, nhưng tướng mạo thì không hề xấu xí, mà toát lên vẻ đạm nhã dịu dàng như ánh trăng, đôi mắt hiền hòa hơi hướng xuống dưới, tựa như Quan Thế m Bồ Tát, khiến người ở dưới ngước lên có cảm giác như nữ thần đang chăm chú nhìn mình. Má rộng mũi cao, đây là vẻ đẹp truyền thống nhất của người Maya. Một bàn tay nữ thần cầm bình nước chứa đại hồng thủy, tay kia cầm Song đầu trượng, trên vai trái của nữ thần, còn có một con chim đang đậu, nhưng nhìn kỹ lại, thì đó là một bức tượng thần đầu người thân chim. Trọn bức tượng nữ thần Mặt trăng có lẽ cao hơn bức mười lăm mét, vì thể hình của nàng trông thấp hơn bốn bức tượng lực sĩ ở xung quanh. Đỉnh đầu lực sĩ vẫn còn cách mái vòm chừng mười mét, ngọn lửa cháy hừng hực như thế, vậy mà không thấy trên mái vòm có dấu hiệu bị hun khói nào. Phần đầu của tượng nữ thần chiếm tới một phần ba cả bức tượng, bởi mái tóc do búi rắn độc cuộn thành kia, mỗi con đều vặn vẹo như chuyển động, mỗi con đều lớn như mãng xà, dưới ánh sáng của ngọn lửa, toàn bộ đều như đang còn sống vậy. Khi nhìn tượng nữ thần, rất tự nhiên sẽ chú ý đến mái vòm phía trên đám tượng rắn khổng lồ, bên trên còn có một miệng hố lớn hình vuông, có vẻ như là thông lên tầng trên.

Ba người còn lại đều kinh ngạc nhìn bốn bức tượng lực sĩ khổng lồ và nữ thần Mặt trăng, duy chỉ mình lạt ma Á La là kinh hãi trước bức tượng đầu người mình chim trên vai nữ thần Mặt trăng, cũng chỉ có thị lực của ông mới nhìn ra được, đầu của bức tượng đầu người mình chim ấy có tới hai bộ mặt. Cộng mệnh điểu(1)… hỏa thần của người Maya và cộng mệnh điểu giống nhau như vậy hay sao? Không, không lầm được, tòa địa cung này trăm phần trăm chính là nơi chúng ta muốn tìm rồi.

Giáo sư Phương Tân nhanh chóng tìm được thông tin trong máy tính, quả nhiên Pieri có miêu tả… "Tôi rơi vào đám rắn khổng lồ, lúc ấy sợ suýt chết, còn tưởng rằng mình rơi đúng vào ổ trăn lớn. Sau đó mới phát hiện, thì ra tất cả đều là tượng đá. Tôi rơi đầu vào một bức tượng nữ thần, bốn phía lửa cháy hừng hực, tất cả đều như chốn luyện ngục vậy…"

Đọc tới đoạn này, lạt ma Á La chợt thốt lên: "Hỏng rồi, cao như vậy, chúng ta làm sao lên được bây giờ?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Tạm thời cũng chưa gấp lắm. Để xem xét nơi này trước rồi bàn chuyện đó sau." Tượng nữ thần Mặt trăng ở ngay giữa đại sảnh, bốn lực sĩ đứng dựa vào bốn bức tường. Còn ở ngay trước mặt bức tượng nữ thần, là năm mục bái tế hình thang cao chừng ba mét, dài rộng đều hơn chục mét, trông rất giống phần nền của một kim tự tháp Maya nhỏ. Trên bốn bục bái tế xung quanh còn có bốn tượng người cao chừng ba bốn mét, trang sức trên đầu rất đơn giản, bộ mặt trông như chim cú, tất cả đều hướng mặt về phía bục bái tế ở giữa. Bốn người bước lên bục, liền phát hiện ở giữa bục lại có các bậc thang hướng xuống dưới, hình thành nên một hình kim tự tháp ngược, sâu tới cả chục mét. Giáo sư Phương Tân xuống đến tận cùng, rồi lấy chổi lông làm sạch phần mép của mặt phẳng rộng chừng bốn mét vuông ấy, sau đó phân tích: "Nhìn này, phần nền này tách ra với bốn vách, chắc là cơ quan bẫy chốt gì đó, nhớ kỹ, chớ có giẫm lên đấy, chúng ta xem tiếp những nơi khác thế nào đã."

Lạt ma Á La cũng phát hiện ra điều gì đó. Ông lấy cái nhíp kẹp lên một nhúm giống như sợi bông: "Đây có lẽ là thực vật gì đấy, bị khô hết cả rồi, chỉ còn lại một ít vật chất dạng sợi." Đường Mẫn nói: "Trên bậc thang cũng có này."

Chẳng mấy chốc đã thăm dò xong cả tòa đại sảnh, ngoài chốt bẫy ở bục bái tế chính giữa tạm thời chưa ai dám động tới ra, bốn người đều không có phát hiện gì khác. Lạt ma Á La nói không hề sai, lũ dơi biết bay, vì vậy nên chúng có thể bay qua cái lỗ to tướng trên trẫn dẫn lên tâng trên kia một cách dễ dàng. Còn bốn người bọn họ thì chỉ biết trợn mắt lên nhìn, dù có đứng lên đỉnh đầu tượng nữ thần, cũng không thể nhảy một cú cao mười mấy mét được.

Hai phía Đông Tây của sảnh mỗi bên có một cánh cửa lớn, hành lang cũng dài rộng như con đường dẫn vào đây, đại sảnh ở giữa cách hai gian sảnh hai bên chừng trăm bước chân; hai gian sảnh hai bên cũng to lớn hùng vĩ như đại sảnh ở giữa, trên khung cửa đá hình vòm khắc đầy hoa văn uốn lượn ngoằn nghèo, khiến người ta không sao nén nổi tiếng thốt kinh ngạc song lại cũng không thể nào hiểu được ý nghĩa chúng. Trong hành lang cũng có các đĩa đèn nhỏ như ngọn đuốc, lửa cháy bập bùng, Trác Mộc Cường Ba muốn xem cho rõ rốt cuộc là thứ gì đang cháy, nhưng suýt nữa thì bỏng cả tay. Hai gian sảnh hai bên này cũng cũng vẫn có tượng lực sĩ ở các bên tường, tay bưng chậu lửa lớn, nhưng giữa sảnh thì có một tượng đá cao chừng ba mét, tay cầm một loại vũ khí giống cây giáo mà không phải giáo, giống đinh ba nhưng cũng không phải đinh ba. Ở phía nam thì hai giang sảnh hai bên Đông Tây, mỗi bên cũng có một gian sảnh khác, bức tượng đặt giữa sảnh của hai gian này đã biến đổi, từ tượng đứng chuyển thành tượng nằm, trông giống một phụ nữ, kỳ lạ một điều là, trong lòng họ cũng vẫn ôm thứ vũ khí quái dị kia, nhìn chẳng hài hòa chút nào. Tiếp tục hướng về phía Nam, vẫn còn đường hầm tối om như mực, vì trong đường hầm không có ánh đèn lửa nữa, nên giáo sư Phương Tân cho rằng không gian ấy có lẽ là không lớn lắm, vì tầng này ít nhất đã phải phân ra một nửa không gian chia cho bốn con đường tượng trưng cho tử vong ở gian sảnh hình bán nguyệt rồi. Hơn nữa, bên trong rất có khả năng có con vật khổng lồ không biết tên kia, tạm thời chớ nên kinh động đến nó, giờ tốt nhất là cứ kiếm cho kỹ trong năm gian sảnh này đã, nếu quả thực không phát hiện gì cả đội mới tiệp tục tiến vào con đường tối tăm ấy.

Sau một hồi tìm kiếm kỹ lưỡng, họ phát hiện ra, ngoài gian đại sảnh ở giữa, hai phần ba phía trước mặt sàn của bốn gian sảnh còn lại đều có dấu vết đứt gãy rõ rệt. Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La nghiên cứu cẩn thận, cho rằng vết đứt gãy này chính là một chiếc van khổng lồ, chỉ cần khởi động chốt bật, bốn chiếc van này sẽ bị mở ra, nhưng cái chốt đó ở đâu, bốn cánh cửa này có tác dụng gì thì không ai rõ hết.

Theo ý của giáo sư Phương Tân, cái chốt này chắc phải ở trong gian đại sảnh ở giữa, vì người Maya cổ đại không thể làm cho cơ quan bẫy chốt quá đỗi rườm rà phức tạp, nơi đóng mở chắc cũng là nơi nổi bật. Vì vậy, bốn người lại trở về gian đại sảnh ở giữa. Kết cấu ở đây hơi phức tạp một chút, bốn vách tường là bốn chục lực sĩ khổng lồ đang dựa lưng, năm cái bục bái tế thì trên bốn bục có tượng người, phía trước bục bái tế còn có một bức tượng nữ thần Mặt trăng nữa. Giáo sư Phương Tân bảo với mọi người, chốt khởi động cơ quan có lẽ ở ngay trên những bức tượng này, chỉ có điều là đám tượng này đều hơi to quá, muốn tìm được chốt mở quả thực không hề dễ chút nào. Mọi người liền phân công công việc, mỗi người kiểm tra kỹ lưỡng một bức tượng. Trác Mộc Cường Ba cậy mình tài cao gan lớn, đã bám vào vạt áo tượng nữ thần Mặt trăng, trèo lên cao.

Gã trèo một mạch lên vai nữ thần, thử lay động pho tượng mặt người thân chim, nhưng hai bức tượng đẽo liền khối, làm sao lay động được. Trác Mộc Cường Ba thấy vậy vẫn chưa đủ, lại giẫm lên tai nữ thần trèo lên đỉnh đầu nàng, đứng trên vô số hình tượng rắn độc to như con trăn gió, đảo mắt quan sát bốn phía. Phát hiện đầu tiên của gã là vị thần Đầu trâu Mặt ngựa trên bích họa giờ đã được tạc thành đá, đứng ngay trên đầu nữ thần, thần thái như thể mình ta độc tôn trong cõi trời đất này vậy. Hai tai pho tượng này hình vuông, trông cũng giống sừng trâu bị cưa đứt, mắt lồi ra như mắt trâu, phần bụng tròn to như thùng nước, đôi chân thì từ bàn chân tới bắp chân to đều như nhau, giống như hai cái đôn bằng đá hơn. Bức tượng này chỉ cao bằng người thường, lại ẩn giữa đám tượng rắn, lũ rắn uốn lượn xung quanh, khom mình như thể hết sức cung kính.

Trác Mộc Cường Ba ngây người quan sát trong giây lát, lấy làm khó hiểu trước vị thần còn tôn quý hơn cả thần cai quản địa ngục này, nền văn minh Maya đó tàn lụi quá sớm, khiến cho ngày nay tất cả đều chỉ có thể dựa vào suy đoán. Gã lắc đầu thở dài, sau đó cúi nhìn xuống dưới, chỉ thấy mấy người bọn giáo sư Phương Tân đều nhỏ như hạt đậu, vẫn đang tỉ mỉ kiểm tra những bức tượng đá còn lại, cũng không ai để ý thấy gã trèo cao đến vậy; lại quan sát bốn phía quanh đấy, lửa nóng cháy phừng phừng, tựa hồ đang trực tiếp nướng gã lên vậy, vị trí này ngang tầm ngực bốn lực sĩ, nhìn bốn cái đầu to tướng của họ, gã có cảm giác khoảng cách vô cùng gần, tưởng chừng chỉ cần nhắc chân thôi là đã bước qua rồi vậy; ngẩng đầu nhìn lên, miệng hố hình vuông trên đỉnh trông to lớn khác thường, cái hố này cũng phải đến bảy tám mét vuông, từ khoảng cách này ngước nhìn, vách bên của hố dường như rất mỏng, ước chừng chưa được một centimet. Trác Mộc Cường Ba nheo mắt quan sát, phát hiện chỗ miệng hố có thả xuống một đoạn dây leo, lại hơi giống như dây thừng, trong lòng thầm kinh ngạc tự nhủ: "Chẳng lẽ khi trước từ trên miệng hố này có thang dây thả xuống? Thời gian lâu quá nên mục rữa hết cả rồi? nếu quả là vậy, chúng ta làm sao lên được?" Sau đó gã lại nghĩ: "Không đúng, nếu như có thang dây, bất kể là thứ gì, ít nhất nó có mục rữa thì cũng phải rơi xuống bên dưới, nhưng bọn ta có phát hiện gì dưới đó đâu, chẳng qua cũng chỉ tìm được một vài sợi thực vật ở giữa bục bái tế kia, mà nếu rơi từ đây xuống, không thể nào rơi vào trong bục bái tế được, rốt cuộc là thế nào đây?"

Trác Mộc Cường Ba lại lay lay cái này, động động cái kia trên mái tóc hình rắn của nữ thần Mặt trăng, xong cũng không phát hiện được gì. Gã lấy làm thất vọng, lúc này Đường Mẫn bên dưới cũng đã nhận ra gã đã biến mất, đang lo lắng lớn tiếng hò gọi. Trác Mộc Cường Ba thở dài một tiếng, vỗ tay vào một con rắn đá, chuẩn bị leo xuống. Không ngờ, tay vừa chạn vào con rắn này, cảm giác mát lạnh, da rắn thô ráp hơn những con rắn khác rất nhiều, lại còn hơi đàn hồi nữa. Trác Mộc Cường Ba lấy làm kỳ quái, lại vỗ mạnh thêm hai phát nữa, con rắn đá kia đột nhiên ngoảnh đầu qua, đôi mắt âm trầm lạnh lẽo nhìn chằm chằm vào mặt gã. Hóa ra đây là một con rắn thật!

Trác Mộc Cường Ba làm sao ngờ được, giữa bao nhiêu con rắn đá này, lại có một con trăn thật ẩn núp. Gã quên cả sợ hãi, cũng quên luôn bỏ chạy, cứ bần thần ngây ra tại chỗ, đầu óc xuất hiện hiện tượng tạm thời trống rỗng. Con trăn này không hiểu có phải đã mê con rắn đá nào, đang biểu lộ tình cảm thì bị Trác Mộc Cường Ba phá mất chuyện tốt, lấy làm tức giận, miệng há lớn, chuẩn bị lao bổ về phía gã, nhưng hiềm nỗi thể hình nó quá lớn, nhất thời lửa giận cũng che mờ cả đầu óc, cái đầu to tướng lại kẹt giữa hai con rắn đá khác, cách mặt Trác Mộc Cường Ba chỉ có mấy centimet, hơi thở tanh lòm phả ra làm gã đung đưa như muốn ngã. Lúc này, Trác Mộc Cường Ba mới có phản ứng, gã run cả người, ra sức lùi về phía sau mà quên béng mất mình đang ở đâu, kết quả thân dưới lùi một bước, thân trên cũng kẹt cứng giữa các con rắn đá, không thể cử động. Con trăn kia ra sức vặn vẹo thân mình, toan rút đầu ra khỏi chỗ kẹt, Trác Mộc Cường Ba cũng xoay chuyển thân trên hòng len ra trước, một người một trăn đều đang lay lắc phần hông, hai gương mặt chỉ cách nhau có vài centimet, cứ như là đang nhảy điệu rumba. Truyện Sắc Hiệp - http://truyenfull.vn

Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba cũng giằng ra được trước. Gã lựa theo khe hở giữa những con rắn đá leo xuống phần rìa đầu nữ thần, bám vào một thân con rắn đá trượt xuống tai, rồi từ tai lại trượt xuống bờ vai bức tượng, kế đó bám vào vạt áo nhanh nhẹn tụt tiếp xuống dưới, vừa tụt vừa kêu lên: "Đừng tìm nữa, tôi ở đây! Mẫn Mẫn, thầy giáo, chạy nhanh lên! Có con trăn! Nó, nó, nó xuống đến nơi bây giờ!"

Trác Mộc Cường Ba leo một mạch xuống đất, kéo tay giáo sư Phương Tân nói: "Chạy mau, chạy mau, nó tới rồi…"

Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đánh mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, rồi lại ngẩng đầu nhìn lên cao, sau đó hỏi: "Cậu…cậu không nhìn lầm đấy chứ?" "Cậu có hoa mắt không?" "Anh, hay là anh vẫn chưa khỏi hẳn?" Người hỏi câu cuối cùng, chính là Đường Mẫn.

Trác Mộc Cường Ba dè dặt ngoảnh đầu lại, tượng nữ thần vẫn đứng đó, khoan thai mà nghiêm trang, ánh mắt dường như giễu cợt, nào có trăn có rắn gì nữa. Gã lẩm bẩm nói: "Không thể nào, anh không thể nhầm được, nó nhìn chằm chằm vào anh một lúc lâu, ở ngay bên trên đó ấy. Trong đám tượng rắn ấy, có một con là thật…" Gã còn chưa dứt lời, Đường Mẫn đá đưa tay sờ lên trán. Trác Mộc Cường Ba cảm thấy rõ ràng, bàn tay cô lạnh toát, hơn nữa còn đang run rẩy khe khẽ.

Trác Mộc Cường Ba gạt tay Đường Mẫn ra, trách móc: "Mọi người… không tin tôi sao?"

Giáo sư Phương Tân thở dài: "Cường Ba à, chỉ có điều, cậu lúc này, so với phản ứng lúc trúng độc lần đầu tiên, gần như giống hệt đó."

Trác Mộc Cường Ba vò đầu bức tai, lần đầu tiên trúng độc là như thế nào, gã hoàn toàn không còn ấn tượng gì nữa. Đường Mẫn đành an ủi: "Em… em tin anh mà." Nhưng giọng cô cũng hết sức miễn cưỡng. Bởi lúc Trác Mộc Cường Ba có phản ứng trúng độc, ba người họ phải tốn rất nhiều sức lực mới giữ chặt được gã lại, lúc ấy gã cứ hét ầm hét ĩ lên, hay tay khua loạn, không ngừng gào thét: "Lũ xác ướp kia muốn ăn thịt tôi! Chúng nó muốn ăn thịt tôi! Chúng nó đến rồi, chạy mau, chạy mau, đến rồi…"

Giáo sư Phương Tân nói: "Được rồi, chúng ta cứ chuẩn bị điện cao áp đi, nếu đúng là thật thì còn đối phó được." Nghe ông nói vậy, Đường Mẫn liền lấy trong ba lô ra một cái hộp nhỏ trông như roi điện phòng bọn sàm sỡ của các cô gái, chỉ to hơn bao thuốc lá một chút. Cô liếc nhìn tín hiệu trên hộp, đoạn nói: "Chỉ dùng được một lần, hết pin rồi."

Giáo sư Phương Tân nói: "Đủ rồi. Đến giờ chúng ta vẫn chưa có phát hiện gì mới, tôi định thử cái kia xem thế nào." Ông chỉ tay vào bục bái tế, đoạn nói tiếp: "Ở đó không có xương cốt hay những dấu vết khác, chắc là chốt tổng. Cậu tuổi trẻ lại khỏe mạnh nhất trong bốn người chúng ta, hãy thử giẫm lên đó, chúng tôi sẽ buộc dây an toàn cho cậu, nếu có gì không ổn thì hãy chạy lên thật nhanh. Tôi đã nghiên cứu kỹ rồi, xung quanh không có vẻ gì là có bẫy rập nguy hiểm chết người cả, cùng lắm cũng chỉ là dưới sàn nhà phát ra ám khí công kích thôi, chỉ cần cậu chạy ra khỏi bục bái tế được thì sẽ không còn nguy hiểm nữa."

Về đầu lâu xương cốt, Trác Mộc Cường Ba đã nghe mấy người giáo sư Phương Tân giải thích, đây là kinh nghiệm tích lũy được ở hai tầng dưới, phàm là nơi nào có xương người, quá nữa là chỗ ấy có cơ quan chốt bẫy chí mạng, những bộ xương ấy chính là tiêu chí cảnh báo nơi nào nguy hiểm. Xung quanh cơ quan có thể đạp lên bên trong bục bái tế kia không có xương cốt gì, độ an toàn của nó có thể nâng lên tới năm mươi phần trăm, mặc dù là thế, song bọn giáo sư Phương Tân cũng chuẩn bị hết sức chu đáo, trước đó đã dùng ba lô để thử, nhưng chắc là không đủ trọng lượng, nên mới định để Trác Mộc Cường Ba mạo hiểm một lần.

Sau khi buộc dây an toàn, Đường Mẫn dặn dò gã vài câu, rồi giáo sư Phương Tân hỏi: "Chuẩn bị xong chưa?"

Trác Mộc Cường Ba đứng ở bậc thang cuối cùng bên trong bục bái tế, gật gật đầu, rồi theo lời giáo sư Phương Tân, trước tiên thò một chân ra giẫm thử, không có phản ứng gì; sau đó gã táo gan hơn, giẫm cả hai chân lên phiến đã, cũng không phản ứng gì; nhảy tại chỗ mấy lượt, cũng không phản ứng; gã dùng sức giẫm chân, vẫn không có phản ứng. Trác Mộc Cường Ba chìa hai tay, nhún vai chán nản. Giáo sư Phương Tân cẩn thận bước xuống, để lại lạt ma Á La và Đường Mẫn giữ dây thừng, rồi ôm Trác Mộc Cường Ba cùng nhảy lên trên sàn, song nền nhà vẫn chỉ là nền nhà, không hề nhích động chút nào.

Giáo sư Phương Tân buông Trác Mộc Cường Ba ra, ngồi thụp xuống, gõ bên này rồi nhìn bên kia, nghi hoặc thốt lên: "Lẽ nào chúng ta đã đoán sai?" Sau đó, cả lạt ma Á La và Đường Mẫn cũng xuống, bốn người cùng đứng trên phiến đá ấy, song vẫn không hề cảm giác ra được có cơ quan máy móc nào được khởi động cả.

Lạt ma Á La ngồi xổm bên mép phiến đá, nói: "không, không sai đâu, nhìn vết tích của phiến đá này và các mép xung quanh, nó phải chìm xuống mới đúng, chẳng lẽ là trọng lượng của bốn người chúng ta vẫn chưa đủ ư? Hay là bị gỉ sét ở đâu đó mất rồi?"

Giáo sư Phương Tân đứng dậy phủi tay nói: "Thôi bỏ đi, xem ra chúng ta chỉ còn lại đường hầm tối tăm kia để đi thôi, hình như là đi về phía Nam gian sảnh phía Đông, phải không nhỉ?"

"Đợi chút đã," lạt ma Á La lên tiếng, "cho tôi xem máy tính xách tay được không?" Giáo sư Phương Tân liền đưa máy tính cho ông. Lạt ma Á La lại nói: "Phía Nam gian sảnh phía Đông và gian sảnh phía Tây, đều có một gian sảnh khác, trong đó có hai bức tượng nằm, có thể mở ra xếp chung một chỗ được không?" Giáo sư Phương Tân liền nhanh nhẹn sắp xếp cho hai bức tượng cùng hiện lên trên màn hình. Lạt ma Á La nói: "Xem xem có gì khác không!"

Giáo sư Phương Tân thốt lên: "Không đặt vào một chỗ so sánh thì thật không thể nhìn ra được, phương hướng và vị trí ôm vũ khí của hai bức tượng năm này chẳng hài hòa chút nào, sao lại như vậy chứ nhỉ?"

1. dịch nghĩa theo từ tiếng Phạn Jtvaj ĩ vaka, còn gọi mệnh mệnh điểu hay sinh sinh điểu là chim thần trong truyền thuyết Phật giáo; trong kinh Phật gọi là tuyết sơn thần điểu, một thân hai đầu, mặt người mình chim. Đời sau khi dịch văn tiếng Phạn thường dùng hai chữ "cộng mệnh" (cùng mạng) để dịch nghĩa. Trong nhạc lộc sơn đạo lâm nhị tự hành của Đỗ Phủ có viết "Liên hoa giao hưởng cộng mệnh điểu/kim bảng song hồi tam túc ô." Nghĩa là: "Con chim cộng mệnh cùng hót đài sen/Ba chân, vỗ cánh hai phen phạ vàng."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: Nước địa ngục


Lạt ma Á La gật đầu nói: "Ngay lúc đầu trông thấy hai bức tượng nằm này tôi đã thấy không ổn rồi, nhưng không nói ra được chỗ nào bất bình thường, cho tới khi nãy, nghe Cường Ba hò hét trượt từ trên tượng nữ thần xuống, tôi mới để ý tới một vấn đề. Mọi người nhìn xem, bức tượng trên vai nữ thần ấy, đã chú ý thấy chưa?"

Giáo sư Phương Tân đáp: "Là hỏa thần đúng không, hỏa tần Tava, phò tá nữ thần Mặt trăng cai quản tầng địa ngục thứ sáu, đầu người mình chim, là cánh tay đắc lực của nữ thần."

Lạt ma Á La lại nói: "Nếu đã là cánh tay đắc lực, tay trái có rồi, vậy còn tay phải đâu?"

Giáo sư Phương Tân trầm ngâm: "Ý của đại sư là, thủy thần, không thấy thủy thần có phải không?"

Lạt ma Á La chỉ vào ngọn lửa đang cháy: "Đây là địa ngục của nước và lửa, lửa – chúng ta đều trông thấy rồi, vậy thì còn nước đâu?" Nói đoạn, ông ta lại liếc mắt nhìn tượng đá trên màn hình máy tính.

Giáo sư Phương Tân liền hiểu ra: "Bức tượng đá này, lẽ nào chính là thủy thần? À, phải rồi, tôi nhớ ra rồi, từng khai quật được một bức tượng thủy thần, tượng tạc thành hình một phụ nữ lấy tay gạt nước trong hồ."

Lạt ma Á La nói: "Không chỉ tượng nằm, cả hai bức tượng đàn ông đứng trong hai gian sảnh còn lại cũng là thủy thần, những thủy thần có giới tính khác nhau."

Giáo sư Phương Tân reo lên: "Vậy thì có thể hiểu được rồi, nếu là thủy thần, đáng lẽ trong tay họ phải không có vũ khí mới đúng, chính là những thứ vũ khí ấy làm chúng ta hiểu lầm, có người cố ý sắp xếp như vậy!"

Lạt ma Á La gật đầu: "Nếu mấy món vũ khí này không phải của thủy thần…" Ông ngước lên nhìn bốn bức tượng đá trước mặt, vừa hay cũng là bốn bức, chiều cao kích cỡ cũng ngang nhau. Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La liền lập tức kiểm tra lại một lượt cả bốn bức tượng ấy.

Chỉ thoáng sau đó, giáo sư Phương Tân đã phát hiện trên tay đặt sát người của mấy bức tượng trông như vệ sĩ đó có một lỗ nhỏ, bị bùn đất bít kín nên vừa nãy kiểm tra không nhận ra được. Cái lỗ này tròn vành vạnh. Lạt ma Á La thò ngón tay vào, bên trong như có bánh răng bằng kim loại. Ông cả mừng reo lên: "Không sai đâu, đây chính là chốt khởi động cơ quan rồi." Giáo sư Phương Tân liền nói ngay: "Chúng ta mang bốn món vũ khí kia lại đây cắm vào trong lỗ thử xem, nhanh lên."

Bốn người liền chia ra hành động, Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La mang về trước tiên, quả nhiên chỗ tay cầm của thứ vũ khí ấy có kết cấu răng cưa chìa ra ngoài, hoàn toàn khớp với lỗ trên tay tượng thần. Trác Mộc Cường Ba định vặn thử, nhưng bị lạt ma Á La ngăn lại: "Đợi chút đã, phải vặn cả bốn thanh một lúc mới được."

Giáo sư Phương Tân cũng mang vũ khí kia về, cắm vào một bức tường khác, mãi sau Đường Mẫn mới hì hục trở lại, nửa kéo nửa lê thứ vũ khí dài thượt ấy, trông vô cùng vất vả. Trác Mộc Cường Ba vội chạy tới giúp cô một tay. Vừa đỡ lấy món vũ khí từ tay Đường Mẫn, gã chợt nghe lạt ma phía sau kêu lên: "Cẩn thận trên đầu có thứ gì rơi xuống!" Trác Mộc Cường Ba không hiểu gì cả, giờ luôn thanh vũ khí đó lên, cánh tay trầm xuống, hình như vừa gạt một vật gì đó vừa lớn vừa dài sang một bên. Đến giờ gã mới nhìn rõ, hóa ra lại chính là con trăn trên đầu bức tượng nữ thần khi nãy, hai tay không tự chủ được mà khẽ run lên. Cũng may lạt ma Á La chỉ nói cẩn thận trên đầu, chứ không nói cẩn thận con trăn, bằng không, lúc này gã đã bị con quái vật kia cuốn lấy rồi. Đường Mẫn nấp sau lưng Trác Mộc Cường Ba, rú lên sợ hãi.

Thì ra, con trăn kia bị kẹt giữa búi rắn đá chặt quá, vùng vẫy mãi từ nãy giờ mới thoát ra được, liền tức khắc trườn theo cánh tay tượng nữ thần bò xuống, bị Trác Mộc Cường Ba gạt văng xuống đất, lăn một vòng, rồi lại nhanh chóng ngóc cái đầu to tướng lên. Đôi mắt rắn lạnh lùng hằn học nhìn chằm chằm vào Trác Mộc Cường Ba, không ngừng lè lè cái lưỡi, cần cổ không ngừng đung đưa ra trước rồi lại về phía sau, sẵn sàng xổ tới đớp một phát bất cứ lúc nào. Con trăn khổng lồ này dài tới gần tám mét, cả lạt ma Á La lẫn giáo sư Phương Tân đều ngây người ra tại chỗ, cũng chưa có kinh nghiệm đối phó với con quái vật này bao giờ.

Giáo sư Phương Tân cẩn trọng mở khóa kéo ba lô, chuẩn bị lấy chiếc đèn pha bên trong ra, lạt ma Á La chợt nói khẽ: "Dùng Derter ấy." Giáo sư Phương Tân lấy làm khó hiểu, đó là một loạt thuốc khử mùi, bọn họ thường dùng để giết một số loại côn trùng nhỏ mà thôi

Con trăn cũng không lường trước được bên dưới lại có bốn động vật nhỏ đứng thẳng trên hai chân như thế, đôi mắt rắn nghi hoặc đảo tròn, thầm nhủ: "Rốt cuộc nên ăn con nào trước đây?" Song phương đều chưa có sự chuẩn bị, lúc này trong đại sảnh lại vẳng lên tiếng rít the thé sắc nhọn, bên trái một tiếng, bên phải một tiếng, nghe tựa như lưỡi cưa rít trên sắt gỉ, khiến cả bốn người đều đau nhói cả tai, lông tóc dựng ngược hết cả lên. Con trăn lớn vừa nghe thấy âm thanh đó, cũng như gặp phải cường địch, đột nhiên cuộn thân lại, tạo thành mấy vòng tròn đồng tâm, ngóc đầu lên cao, miệng há to hết cỡ, phát ra những âm thanh thị uy đặc thù.

Kế đó, cả tòa đại sảnh vang lên những âm thanh "bịch bịch bịch", bốn người vừa nghe âm thanh này liền hiểu ra ngay, cảm giác này giống hệt như lúc họ trông thấy con vật khổng lồ khi nãy di động. Hai đường hầm cao lớn ở hai bên, cùng lúc xuất hiện hai con quái thú vĩ đại, mà cũng không thể nói là quái thú được, đôi mắt tròn đen nhỏ xíu lấp lánh như hai viên trân châu, cái miệng nhòn nhọn, trên mũi có mấy sợi râu, đôi tai tròn, thân thể múp míp, tứ chi ngắn ngủn, kéo lê sau lưng một cái đuôi vừa to vừa dài, rõ mười mươi là một con chuột, chỉ có điều…con chuột này có thể hình so được với… con voi!

Hai con chuột khổng lồ chẳng buồn để mắt tới bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba, chúng chỉ nhìn chòng chọc vào con trăn khổng lồ, xét về mặt thể hình, con trăn khổng lồ kia dường như không chiếm được chút ưu thế nào. Nhân lúc bọn quái thú đang gầm ghè giằng co, Trác Mộc Cường Ba kéo tay Đường Mẫn cẩn thận nhích về phía chỗ giáo sư Phương Tân, khe khẽ hỏi lạt ma Á La: "Đại sư, cái…cái thứ ấy…đó là hai con chuột à?"

Lạt ma Á La sửa lại: "Không, không phải hai con, mà là hai "ông" chuột mới đúng." Giáo sư Phương Tân điều chỉnh ống kính máy quay hướng về chỗ hai con chuột khổng lồ, lẩm bẩm nói: "Thật không thể ngờ, không ngờ còn có thể nhìn thấy những sinh vật lẽ ra đã tuyệt chủng rồi, tin tức này mà truyền ra ngoài đảm bảo sẽ làm cả thế giới phải chấn động."

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt: "Sao hả? Thầy giáo nhận ra bọn này à? Chúng không phải là kết quả của đột biến gien ư?"

Lạt ma Á La nói: "Làm sao mà đột biến gien thế được. Đây là chuột khổng lồ châu Mỹ, theo các nhà khoa học, bọn chúng đã biến mất trên bề mặt địa cầu này từ bảy mươi triệu năm trước rồi, đến nay chỉ phát hiện được hóa thạch thôi. Một con chuột khổng lồ trưởng thành, thể hình hơi lớn hơn con tê giác một chút, nhưng hơi nhỏ hơn so với voi châu Phi. Sao hả, các cậu không nghiên cứu về các loài động vật từng sinh sống trên đại lục Nam Mỹ này hả?"

Trác Mộc Cường Ba ngây người ra nói: "Các loài động vật từng sinh sống ở đây, chúng tôi làm sao mà nghiên cứu được?"

Lạt ma Á La thở dài nói: "Xem ra các cậu đúng là học hành chẳng ra gì. Không nghiên cứu về văn hóa khu vực Nam Mỹ, cũng không nghiên cứu về các sự kiện tiền sử, vậy khi gặp phải chuyện gì bất ngờ, các cậu chỉ biết hoang mang cuống quýt là phải rồi."

Đường Mẫn dựa vào sau lưng Trác Mộc Cường Ba, nói: "Chúng ta, chúng ta đi khỏi đây đi, em sợ quá."

Trác Mộc Cường Ba an ủi: "Anh cũng sợ lắm, nhưng làm sao mà đi đây? Nhưng anh nghĩ, thầy giáo thế nào cũng có cách."

Lúc này, ba con thú khổng lồ kia đã lao vào quần nhau. Vì thân hình chuột khổng lồ châu Mỹ quá to lớn, khiến con trăn chỉ quấn được trên mình nó có một vòng, không thể nào dùng sức được, mà muốn há miệng nuốt chửng nó, thì thật chẳng khác nào chuyện rắn nuốt voi cả; còn bọn chuột khổng lồ lại có hàm răng và móng vuốt sắc nhọn, chỉ thấy hai con chuột ngược lại còn dùng chi trước ôm chặt lấy thân trăn, há miệng cắn vào lớp vảy kiên cố của đối thủ, con trăn đau đớn cuộn chặt lấy cổ một con chuột, con chuột kia vội nhao tới giúp đồng loại. Chỉ thoáng chốc, hai con chuột đã một đầu một đuôi, ấn con trăn khổng lồ xuống đất, khiến nó không thể cuộn xoắn lại nữa. Con trăn Anaconda khổng lồ Nam Mỹ bị kéo thẳng đơ, trông chẳng khác gì con cá trạch nằm chờ chết trên thớt cả. Lúc này, trong đường hầm phía Đông gian sảnh lớn lại có thêm một con chuột châu Mỹ khổng lồ lao ra. Lạt ma Á La giờ mới nói với giáo sư Phương Tân: "Tình hình không ổn rồi, giờ chỗ này như là ổ của chúng thì phải."

Giáo sư Phương Tân cũng hiểu rõ, nếu con trăn lớn bị ăn hết, tiếp theo sẽ đến lượt bọn họ làm món tráng miệng sau bữa của mấy con quái vật này, vội nói nhanh: "Mau lên, cắm cái cuối cùng vào. Tôi đếm một, hai, ba, chúng ta cùng lúc dùng sức, chuyển động tay cầm theo chiều kim đồng hồ, xoay tới khi nào không thể tiếp tục nữa thì thôi, hiểu chưa hả?" Nói đoạn, ông ngước nhìn tượng nữ thần Mặt trăng, rồi tiếp lời: "Sau đó, bất kể là xảy ra chuyện gì, cũng phải lập tức trèo lên trên kia."

Bên dưới bục bái tế, bốn con thú khổng lồ vẫn giằng co kịch liệt, bên trên, bốn người đều đã đứng ở vị trí của mình. Nghe giáo sư Phương Tân phát lệnh, bốn thanh vũ khí dài bắt đầu từ từ xoay chuyển, xoay hết bốn vòng mới dừng lại, sau đó là một khoảng lặng ngắn ngủi, ngoài tiếng "chít chít" của lũ chuột và tiếng "sì sì" của con trăn khổng lồ, trong sảnh không còn âm thanh nào khác. Bốn người không kịp dừng lại, cũng không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, cùng nhào tới bám vào tượng nữ thần Mặt trăng, bắt đầu trèo lên cao. Leo được chừng một nửa, giáo sư Phương Tân mới sực nhớ ra một vấn đề vô cùng nghiêm trọng, liền quay sang hỏi Trác Mộc Cường Ba: "Bên trên có còn nữa hay không?" Vừa nghe hỏi vậy, tim Trác Mộc Cường Ba như trầm xuống một nhịp, gã thẩn thờ trả lời: "Ai mà biết được chứ!"

Lúc này, hệ thống đã bắt đầu khởi động, mặt đất chấn động, sàn nhà rung lên, những lực sĩ cao hơn hai chục mét kia há to miệng, tựa hồ như đang gào lên đau đớn, ngọn lửa rực rỡ cháy càng mạnh hơn bội phần, nữ thần Mặt trăng… phẫn nộ rồi! Bốn người treo lơ lửng trên cao, bám chặt vào vạt áo của bức tượng nữ thần, khó nhọc đợi cho cơn địa chấn cấp độ nhẹ này qua đi. Thấy lạt ma Á La cúi đầu nhìn xuống dưới, Trác Mộc Cường Ba liền hỏi: "Đại sư, bên dưới có biến đổi gì không?"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Không thấy gì! Hình như không có gì cả." Lời ông chưa dứt, mặt đất lại bắt đầu rung lên bần bật, dường như có chốt cơ quan ở nơi nào khác cũng bị mở ra. Sau đợt chấn động thứ hai, giáo sư Phương Tân nói: "Hết cách rồi, liều một phen vậy, trèo lên đỉnh đầu bức tượng này rồi tính tiếp." Đợt chấn động thứ hai này tương đối ngắn, thời gian ngưng lại khá dài. Trác Mộc Cường Ba sắp leo lên tới vai nữ thần thì đợt chấn động thứ ba lại bắt đầu. Lần này cảm giác yếu hơn một chút, dường như ở một nơi cách tầng này rất xa có một cơ quan nào đấy bị mở ra. Lạt ma Á La đột nhiên kêu lên: "Nhìn kìa! Là nước!" Trong miệng của bốn lực sĩ, nước phun ào ào, trông như bốn dòng thác lớn sầm sập đổ xuống địa ngục của nước và lửa này.

Nơi lối thông giữa tầng bốn và tầng năm, một đám du kích đang hoang mang nhìn quanh. Giờ quân số của chúng chỉ còn một phần tư so với lúc tiến vào địa cung, cả bọn như chim sợ cành cong, bất cứ tiếng động nào cũng đều khiến chúng run bắn cả thân mình. Gonzales túm tóc Basaka lắc mạnh: "Phải bình tĩnh! Phải bình tĩnh! Bảo với chúng nó không được làm loạn lên… lại có thằng khốn nào giẫm phải bẫy rồi hả?"

Một tên lính du kích run rẩy nói: "Hình như, hình như không phải bẫy của tầng này."

Gonzales lơi tay ra, thở phào nhẹ nhõm: "Không phải thì tốt, không phải thì tốt…"

Tầng năm, Soares đang đứng lại phía trước một vật khổng lồ bằng đá. Đồ vật này nhìn chỉnh thể thì hơi giống một cái nghiên mực khổng lồ, dài rộng đều hơn chục mét, ở giữa có vô số hố trũng, có cầu vòm, có cả đường thoát nước, xem chừng như là mô hình hệ thống nước ngầm của một thành trì phồn vinh. Đợt chấn động vừa rồi cũng làm kinh động đến y, Soares ngẩng đầu lên, lẩm bẩm: "Ai mở cơ quan tầng thứ sáu vậy nhỉ, sao lại có người đi từ dưới lên? Thật là lạ. Hắc hắc, từ tầng sáu mà muốn lên tầng năm, chỉ e là hơi hung hiểm. Phải vượt qua chỗ đó…" Y lắc mạnh đầu: "Không thể nào, người bình thường không thể nào đi qua đó được."

Cuối cùng họ cũng leo lên được đỉnh đầu tượng nữ thần. Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng một lượt trong đám rắn đá, xác định không còn con trăn nào khác nữa, bốn người mới thở phào nhẹ nhõm, tạm thời nghỉ ngơi được giây lát. Lạt ma Á La chăm chú quan sát phần miệng các lực sĩ, chỉ thấy nước tuôn xối xả, ông nhìn một lúc, bỗng nhiên thốt lên: "Là hồ nước trên đỉnh, người Maya đã nối liền hồ nước khổng lồ trên đỉnh với tầng này." Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: "Sao đại sư biết?"

Lạt ma Á La chỉ tay xuống nước: "Dưới nước kìa, có cá!" "Hả!" Trác Mộc Cường Ba kêu lên, lũ cá trong cái hồ ấy không phải thứ tốt lành gì, tình hình lúc này trở nên càng thêm bê bết. Gã cúi người xuống nhìn, chỉ thấy mấy con chuột châu Mỹ khổng lồ đã chạy biến từ lúc nào, cả con trăn cũng thừa cơ trốn mất, nó vốn là cao thủ bơi lội mà. Lạt ma Á La cũng cúi đầu nhìn xuống, nước đang không ngừng nuốt lấy từng bậc thang dẫn lên bục bái tế, lũ cá ăn thịt người không ngừng nhảy vọt lên khỏi mặt nước. Ông chau mày nói: "Tại sao nước dâng nhanh thế nhỉ? Chỗ phun nước có lẽ không chỉ ở bốn bức tượng lực sĩ này, những nơi khác cũng đang phun nước thì phải."

Giáo sư Phương Tân nói: "Còn nhớ vị trí giữa bốn gian sảnh còn lại không, tôi nghĩ chấn động vừa rồi chính là do bốn cánh cửa ấy bị mở ra đấy."

"Chẳng trách." Lạt ma Á La đột nhiên vỗ tay một cái: "Cơ quan khéo léo thật! Thiết kế tinh tế thật, tôi nghĩ mình đã hiểu ra rồi! Thì ra là như vậy!"

Giáo sư Phương Tân hỏi: "Ngài nghĩ ra điều gì vậy?"

Lạt ma Á La nói: "Ông còn nhớ khi chúng ta từ tầng thứ bảy đi lên, không gian bán nguyệt ở tầng này bị một cánh cửa đá bịt chặt lại không, lúc ấy tôi đã ngờ vực, tại sao tầng này lại đóng chặt đến thế, giờ thì coi như đã hiểu rồi."

Giáo sư Phương Tân cũng tỉnh ngộ: "Thì ra tầng này vốn là để tích nước, bằng không thì đã không gọi là địa ngục của nước và lửa rồi."

Lạt ma Á La bổ sung thêm: "Chẳng những như vậy, đây là một kết cấu liên hoàn. Khi nước tích tụ đến một mức độ nhất định, áp lực khổng lồ đè nặng xuống sàn, cơ quan ở giữa hai bục bái tế mà sức chúng ta không thể ấn xuống kia sẽ bị nước đè xuống. Nếu tôi đoán không lầm, chốt cơ quan phải dùng đến áp lực nước khổng lồ ấn xuống ấy, chính là dùng để mở cánh cửa dá và nâng tấm lưới tấm lưới kim loại có mũi nhọn nặng nề kia lên, chỉ có sức mạnh lớn như thế mới có khả năng đưa cửa đá và tấm lưới kim loại ấy trở về vị trí ban đầu mà thôi."

Giáo sư Phương Tân gật gật đầu: "Hiểu rồi, tôi đã hiểu rồi, quả thực là rất khéo léo tinh diệu, họ đã lợi dụng sức mạnh của tự nhiên để hoàn thành công việc con người không thể làm nổi, khiến cho cả bộ máy khổng lồ này có thể sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần."

Trác Mộc Cường Ba nhìn giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đang thảo luận hết sức hưng phấn, nắm chặt bàn tay Đường Mẫn, lo lắng hỏi: "Thế nhưng, làm sao mới lên được trên kia đây? Nếu nước dâng cao nữa, chúng ta sẽ bị chết chìm ở đây cả đó." Lúc này, mực nước đã ngập cả bục bái tế, đang dần dần nhấn chìm bốn bức tượng thần nhỏ kia.

Giáo sư Phương Tân nói: "Đây đúng là một vấn đề. A, có rồi, Mẫn Mẫn, chiếc bè da của chúng ta đâu, mở ra, nếu nước dâng cao tới đây, chúng ta có thể sử dụng bè da để nổi lên theo, như vậy, có thể lợi dụng sức nâng của nước mà lên thẳng tầng trên luôn rồi."

Lạt ma Á La lắc đầu: "Không thể được, nước không dâng cao tới vậy đâu." Ông chỉ vào ngọn lửa đang cháy, nói: "Phần đáy của bốn chiếc chậu lớn kia có vết nước, chỉ sợ mọi người khó mà nhận ra được, nhưng ngọn lửa đó tới giờ vẫn không hề tắt lụi, từ điểm này cũng nên nghĩ ra, mực nước sẽ không dâng lên cao quá ngọn lửa. Chỉ cần áp lực nước đủ mức, cửa đá sẽ mở ra, nước liền theo đó mà chảy đi, đồng thời cánh cửa nối liền với hồ nước trên đỉnh sẽ đóng lại. Cuối cùng, nước ở tầng này sẽ chảy đi bằng hết, chỉ còn lại một ít đọng ở giữa bục bái tế, có lẽ từng có thủy tảo rong rêu trong ấy nữa, vì vậy chúng ta mới phát hiện ra thực vật dạng sợi."

Giáo sư Phương Tân nói: "Vậy thì, người Maya cổ đại làm sao lên trên được?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Có thể họ dùng thang dây." Gã chỉ tay vào đoạn dây leo đứt bên mép cái hố hình vuông trên đầu.

Lạt ma Á La nheo mắt quan sát thật kỹ, rồi đáp: "Ừm, Cường Ba đoán không sai đâu, nhưng đây không phải dây thừng thời cổ đại, mà chắc là thang dây từ mấy năm trước. Dây thừng là loại dễ mục nát nhất, mặc dù chỉ mấy năm nhưng nửa đoạn dây kia đã hỏng hết cả, phần còn lại e đã rơi xuống và bị nước cuốn đi rồi."

Cuối cùng, lần này thì cả giáo sư Phương Tân cũng không còn chủ ý gì nữa, ông hỏi: "Vậy phải làm sao bây giờ? Đợi nước rút? Chỉ sợ chúng ta không thể cầm cự trong nước lâu như thế, hơn nữa, dù nước rút đi cũng không thể lên trên đó được."

Lạt ma Á La nói: "Vẫn còn một con đường khác, nhưng sợ rằng phải mạo hiểm một chút." Ông nhìn xuống dưới, nước đã ngập bốn pho tượng thần nhỏ, đang dâng dần lên tới phần hông của tượng nữ thần. Nguồn: http://truyenfull.vn

Đường Mẫn nói: "Lạt ma Á La, đại sư, đại sư muốn nói, dưới nước…"

Lạt ma Á La gật đầu: "Không sai, giờ cánh cửa thông ra thế giới bên ngoài đã mở ra rồi, mặc dù nước đang dồn vào đây, mức nước không ngừng dâng cao, còn nước trong hồ phía trên lại giảm đi đáng kể, áp suất giảm xuống, chúng ta có thể bơi qua từ cửa trượt ngầm dưới lòng đất kia."

Giáo sư Phương Tân lo lắng nói: "Mạo hiểm quá, chúng ta không hề biết bốn cánh cửa trượt kia thông đi đâu, nếu hai bên đều bị đóng lại…"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Không, tôi đã nghĩ kỹ rồi, Mọi người thử nghĩ xem, lúc chúng ta ở tầng địa ngục thứ 7, không chỉ có mê cung phức tạp, hơn nữa còn có rất nhiều cơ quan bẫy rập, đến cuối cùng khi ra khỏi mê cung rồi, vẫn còn phán quyết cuối cùng, một cái bẫy gần như khiến người ta không thể nào thoát ra nổi. Nhưng còn ở tầng này thì sao? Sau lần đầu tiên chọn đúng hướng, thì dọc đường đều hết sức bình an, không hề có cơ quan bẫy rập gì, hoàn toàn không phù hợp với cái tên địa ngục của nước và lửa gì cả, còn hiện nay, nước và lửa đều có rồi, địa ngục…" Ông lại nhìn xuống dưới 1 lần nữa.

Giáo sư Phương Tân đã hiểu ra, khẽ kêu lên: "Trời ơi, ý của đại sư là, bây giờ, Cánh cửa Địa ngục mới bắt đầu mở ra, còn chúng ta phải vượt qua dòng nước, mới có thể coi như chính thức tiếp nhận vào khảo nghiệm của địa ngục? Đây mới là mục đích thực sự mà người Maya xây dựng tầng địa ngục này ư?" Lạt ma Á La chỉ gật gật đầu, không nói thêm gì nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: địa ngục của nước và lửa


Khi nước dâng tới tay nữ thần Mặt trăng, bỗng nghe "ùm" một tiếng, bệ đá dưới chân họ xuất hiện một cuộn xoáy, kế đó bốn người thấy rung rinh, cả bức tượng nữ thần tựa hồ như đang dịch chuyển. Lạt ma Á La thốt lên: "Thì ra còn hai tầng cơ quan nữa, cái đầu tiên khiến tượng nữ thần dâng lên, cái thứ hai mới mở cửa đá ra."

Giáo sư Phương Tân nói với tâm lý của người gặp vận may: "Tượng nữ thần này liệu có nâng lên cao tới lối thoát kia không?"

Lạt ma Á La lắc đầu đáp: "Không, không thể nào. Phiến đá dưới chân nữ thần là đá nguyên phiến, diện tích lớn lắm, nếu diện tích nhỏ hơn thì e còn nâng lên cao thêm nữa. Đừng quên địa ngục của nước và lửa này là thiết kế cho những hồn ma, nhưng kẻ tham sân vĩnh viễn không thể ra khỏi tầng địa ngục này đâu. Giáo sư, ông là đội trưởng, cần phải quyết đoán ngay, nếu tầng cơ quan thứ hai mở ra, tất cả sẽ quá muộn đó."

Giáo sư Phương Tân liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn. Lần này ánh mắt của tất cả những người còn lại đều tập trung vào ông, áp lực ông phải chịu vô cùng lớn. Trác Mộc Cường Ba thầm thở phào nhẹ nhõm, cũng may là gã không phải nhóm trưởng của nhóm này. Có điều gã càng lo lắng cho thầy giáo của mình nhiều hơn.

Tượng nữ thần dâng lên đến độ cao ngang với chậu lửa, đột nhiên trầm xuống, rồi dừng lại, theo đó, tim của cả bốn người cũng đều chùng xuống. Còn mười mét nữa, lối thông đó thoạt nhìn thì ngay trước mắt, nhưng sao lại xa xôi đến thế. Giáo sư Phương Tân cuối cùng cũng đưa ra quyết định: "Tất cả đội mũ chiếu sáng lên đầu, chuẩn bị lặn xuống nước! Mẫn Mẫn, chúng ta chỉ chuẩn bị một bình dưỡng khí thôi đúng không?"

Đường Mẫn cắn môi nói: "Vâng, chỉ có một bình năm trăm mililit oxy lỏng." Giáo sư Phương Tân nhìn bình oxy lỏng chỉ bằng bình thuốc diệt côn trùng, trong lòng lấy làm lo lắng: bốn người chúng ta, mà chỉ có một bình oxy nhỏ thế này thôi.

Trong lúc Đường Mẫn lắp ráp thiệt bị cung cấp oxy, Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La đều đã đội xong mũ chiếu sáng. Nhìn ngọn lửa cháy phừng phừng, Trác Mộc Cường Ba nói: "Rốt cuộc là cái gì cháy vậy nhỉ? Tôi thấy trong bốn cái chậu lớn đó hình như không phải nước đâu."

Lạt ma Á La nói: "Không phải nước, mà là dầu thô, bên trong đều là dầu thô. Những người Maya thông minh đã bịt nơi này bằng tường đá, sau đó dẫn dầu thô dưới lòng đất sâu lên cho vào bốn cái chậu lớn này, cứ đổ từng chút từng chút một vào, ngọn lửa trong chậu sẽ không bao giờ tắt lụi cả."

Trác Mộc Cường Ba kêu toáng lên: "Dầu thô? Dầu thô không phải màu đen hay sao?"

Giáo sư Phương Tân cũng chú ý đến, vừa ghi hình vừa đáp: "Dầu thô không phải lúc nào cũng đen cả đâu, có màu đỏ, màu da cam, màu nâu, màu xanh nữa. Ở đây là dầu thô tốt nhất, nguyên chất nhất, loại dầu thô không màu này gần như không cần lọc qua nữa, có thể trực tiếp sử dụng luôn như xăng. Suy nghĩ của tổ tiên người Maya, quả thực là tuyệt diệu quá."

Một bình oxy lỏng, một van giảm áp, một mặt nạ thở, nút nhấn phun khí, vậy là xong một bộ đồ cung cấp dưỡng khí dưới nước đơn giản, Đường Mẫn giao nó cho giáo sư Phương Tân. Thu dọn xong hành trang, giáo sư Phương Tân nhìn dòng nước cuồn cuộn dâng lên bên dưới, cảm khái thốt: "Đây mới đúng là địa ngục đây!"

Bốn người đứng bên mép đầu tượng thần, nước đã lên tới cằm bức tượng, giáo sư Phương Tân nói: "Chuẩn bị xong chưa? Chúng ta xuống nước thôi. Nhất định phải theo sát tôi, ở dưới nước không có đường ra cũng không có dưỡng khí, hậu quả thế nào chắc mọi người cũng biết rồi." Nói xong, ông liền nhảy luôn xuống nước.

Lạt ma Á La nhắc nhở: "Cẩn thận có bẫy!"

Đường Mẫn đưa ánh mắt chan chứa tình cảm nhìn Trác Mộc Cường Ba, rồi nhảy xuống thứ hai. Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: "Dưới ấy vừa có trăn khổng lồ vừa có cá ăn thịt người, còn cần bẫy rập gì nữa đây?"

Lạt ma Á La nói: "Dưới nước là địa bàn của cá ăn thịt người, con trăn khổng lồ kia chỉ còn đường bỏ chạy thôi, nhưng giờ dòng nước không ổn định, bọn cá ăn thịt người khó mà tập kết thành đàn lớn được, chúng ta vẫn còn cơ may." Nói xong, ông và Trác Mộc Cường Ba cũng trước sau nhảy xuống nước.

Bốn người bơi thành một hàng dọc, mắt nhìn chăm chăm vào ánh sáng của chiếc mũ chiếu sáng phía trước, chỉ sợ bị bỏ lại, đến lúc ấy sẽ sặc nước mà chết một cách vô cùng đau khổ. Ánh sáng trong nước rất mờ mịt, phạm vi chiếu sáng của mũ bị thu hẹp lại trong khoảng cách dưới năm mét. Khi giáo sư Phương Tân tìm thấy cánh cửa khồng lồ dước sàn nhà kia, chuyển bình dưỡng khí một vòng, bốn người mới tiếp tục tiến tới. Đi qua cánh của ấy xuống dưới chừng năm mét, mới có thể tiến tiếp theo phương ngang, dòng nước đều chảy cả về một hướng, muốn thoát ra được, bốn người phải lặn ngược dòng nước ấy. Độ sâu này, lại một lần nữa thể hiện trí tuệ của người Maya, hai mươi mét chiều sâu, chính là cực hạn của con người khi lặn không thiết bị. Áp lực nước cực lớn ép chặt lên cơ thể, khiến người ta hô hấp khó khăn, nến không chuẩn bị sẵn nút tai để cân bằng lại áp lực, tai người sẽ bị áp lực ở độ sâu này làm mất đi cảm giác phương hướng và cân bằng.

Giáo sư Phương Tân đi trước dẫn đường, bơi ngược dòng được chừng hai chục mét, lại không thể không cho mọi người thở thêm một lần. Bỗng nhiên, đường hầm phía trước hiện ra rất nhiều vật thể trông như những xúc tu của một con quái vật, mấy người bơi lại gần mới phát hiện, thì ra là vô số dây xích kim loại cuộn thành từng cuộn. Lạt ma Á La vội xua tay ra hiệu cảnh báo, bảo những người còn lại tuyệt đối không được lại gần dây xích, làm động những sợi xích này rất có khả năng sẽ khởi động bẫy chốt gì đó cũng nên.

Bơi thêm năm mươi mét nữa, phía trước đột nhiên xuất hiện đường rẽ, một đường hầm hình vuông hướng lên trên, một hình tròn hướng về bên trái. Giáo sư Phương Tân muốn đột phá qua cửa hầm hướng lên phía trên, nhưng dòng chảy bên trên áp xuống, mấy lần ông đều bị dòng chảy xối trở lại vị trí cũ. Lạt ma Á La quan sát cửa hầm hình tròn giây lát, rồi ra hiệu đường này có thể thông, bốn người lại hướng vào cửa hầm hình tròn. Trong thời gian đó, họ lại phải đổi hơi cho nhau hai lần, nhìn nét mặt ngiêm trọng của giáo sư Phương Tân có thể nhìn ra ngay, lượng oxy lỏng đã tiêu hao rất nhiều. Bên trong đường hầm, vách đá có tượng khắc mặt người, ước chừng lớn hơn hai hoặc ba lần đầu người thật, cả phía trên cũng có tượng mặt người hướng xuống. Trong làn nước đục ngầu tối om chỉ có chút ánh sáng mờ mờ, có vô số cặp mắt đang nhìn, kẻ cười người giận, kẻ sợ hãi người mừng vui… Đường hầm dài dằng dặc, cảm giác tựa như bị nhìn chằm chằm ở tất cả các góc độ, cơ hồ buộc người ta phải trải qua hết cái gì gọi là thế gian ấm lạnh, nhân sinh bách thái.

Một con cá ăn thịt người bỗng nhiên bơi ra từ miệng một bức tượng, vút qua trước mặt Đường Mẫn. Dưới ánh sáng của chiếc mũ, hàm răng sắc nhọn chìa hẳn ra ngoài ấy ánh lên đầy yêu dị. Đường Mẫn thoáng giật mình, tốc độ hơi chậm lại. Trác Mộc Cường Ba trông thấy một lượng khí lớn thoát ra khỏi miệng cô, còn giáo sư Phương Tân thì đã đi phía trước mất rồi, gã vội vàng bơi lại, ôm lấy Đường Mẫn, dùng miệng tiếp thêm cho cô chút dưỡng khí. Trác Mộc Cường Ba ôm Đường Mẫn, cả hai cuộn chặt lấy nhau trong làn nước, đồng thời gã cũng lấy tay ra hiệu cho cô: "Có mỗi con cá nhỏ, việc gì phải sợ chứ." Khóe mắt Đường Mẫn hơi nhướng lên, không ngờ đã cười ngay được. Lúc này, lạt ma Á La bơi qua chỗ họ, ông vỗ nhẹ lên người Trác Mộc Cường Ba, ra dấu dọa nạt, ý bảo hai người: "Giờ không phải là lúc quấn lấy nhau như thế, còn không chạy đi cho mau!"

Trác Mộc Cường Ba còn chưa lĩnh hội được ý lạt ma Á La, bỗng thấy Đường Mẫn hít mạnh một hơi, suýt chút nữa thì hút hết cả dưỡng khí của gã, gương mặt hai người cách nhau chỉ trong gang tấc, chỉ thấy Đường Mẫn có vẻ hết sức hoảng loạn, đôi mắt trợn tròn lên to hết cỡ, gần như lồi hẳn ra ngoài, nhìn chằm chằm ra phía sau lưng gã. Trác Mộc Cường Ba vội ngoảnh đầu lại, dưới ánh đèn lờ mờ, một bóng đen khổng lồ đang từ xa bơi tới, nhất thời gã cũng không nhìn rõ đó là thứ gì, nhưng có thế khẳng định mười mươi đó không phải là con trăn, cũng không phải chuột khổng lồ Nam Mỹ, càng không phải bóng của đàn cá ăn thịt người, đó chính là một con cá lớn!

Hai người vội tách ra, đuổi theo giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La ở phía trước. Trác Mộc Cường Ba thấy lồng ngực hơi tưng tức, gã biết, đó là tín hiệu dưỡng khí trong cơ thể đã tiêu hao hết do nín thở quá lâu, giờ thân thể đang cực kỳ cần được hít thở, gã từ từ chậm lại. Bỗng nhiên cảm thấy một xung lực vô cùng lớn. Trác Mộc Cường Ba vội nghiêng người chìm xuống, con cá lớn kia vừa hay lướt vù qua đầu gã, Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy da đầu lạnh toát, chỗ tay gã chạm phải, vừa mềm lại vừa trơn, con cá lớn này dường như không có xương. Thân thể con cá linh hoạt dị thường, vừa lướt qua trên đầu Trác Mộc Cường Ba, cái đuôi liền quẫy mạnh, nửa thân trước liền ngoặt trở lại. Nhờ ánh sáng ngọn đèn trên đầu, Trác Mộc Cường Ba trông thấy một cái miệng khổng lồ rộng tới nửa mét, hai môi trên dưới banh ra trông như hai cái thớt gỗ, bên trong đầy răng lởm chởm. Vừa nhìn thấy cái miệng này, Trác Mộc Cường Ba đã lập tức ý thức được, bọn họ đang gặp phải thứ gì… loài cá nước ngọt lớn nhất, hung hãn nhất thế giới, cá trê ăn thịt người!

Cá trê ăn thịt người có cơ thể dài trên ba mét, là loại cá nước ngọt ăn thịt tàn bạo nhất, khả năng tấn công và mức độ nguy hiểm của nó hoàn toàn không hề thua kém cá mập trắng, cái đầu tròn ủng như thủy quái và cái miệng thớt gắn đầy dao nhọn, khiến tên nó được đứng đầu trong danh sách các loài cá đáng sợ nhất vùng Nam Mỹ này. Cá ăn thịt người Piranha mà gặp phải con quái vật bụng to này cũng phải chạy cho thật xa, vì chỉ cần nó há miệng ra là đã nuốt trọn cả đàn Piranha rồi, nhưng loài cá này cũng giống như loài cá nheo có họ gần với nó, thịt ăn rất ngon, kết quả có thể đoán ra được, giờ trên thế giới chỉ còn lại mấy con, có thể nói là đang bên bờ tuyệt chủng.

Cái miệng khổng lồ nhằm vào Trác Mộc Cường Ba xông tới, ở dưới nước lại không còn bao nhiêu hơi sức, quả thực Trác Mộc Cường Ba không có sức mà tránh né nữa, đúng lúc ấy, con cá trê ăn thịt người lại đột nhiên chuyển hướng, phía bên dưới nó lao ra một bóng người, thì ra chính là lạt ma Á La đã tung chân đá văng nó đi. Lạt ma Á La nhanh chóng úp mặt nạ thở vào miệng Trác Mộc Cường Ba, gã hít liên tiếp mấy hơi, cuối cùng cũng hồi phục. Lạt ma Á La đẩy Trác Mộc Cường Ba một cái, gã đang đưa lại bình dưỡng khí cho ông, thì con cá trê ăn thịt người đã bơi vòng trở lại, xem ra không xơi được thịt người nó cũng quyết không chịu bỏ cuộc rồi. Lạt ma Á La ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba chạy cho nhanh, rồi bỗng mở bao chống nước, lấy roi điện cao áp ra, nhằm thẳng vào đầu con cá trê khổng lồ ấn xuống.

Trác Mộc Cường Ba đã cách đạt ma Á La gần hai mét, vậy mà vẫn cảm thấy hai chân tê rần, thân thể không tự chủ được giật bắn lên một cái. Con cá trê ăn thịt người rung lên bần bật, quẫy đuôi một cái, hất lạt ma Á La trở lại, thoắt cái đã lủi ra xa. Lạt ma Á La lại càng thảm hơn, nửa thân người tê cứng, chỉ có thể dùng cánh tay trái quạt nước, Trác Mộc Cường Ba vội để ông hít một hơi dưỡng khí. Bỗng nhiên có bọt nước "ọc ọc" nổi lên, một mũi giáo đen ngòm đột nhiên từ phía dưới chọc vút lên ngay trước mắt hai người. Với tốc độ như thế, dù trên đất bằng cũng khó tránh, huống hồ là ở dưới nước, lạt ma Á La cởi mũ chiếu sáng xuống, ra sức vùng vẫy, đánh lệch mấy mũi giáo bên cạnh Đường Mẫn đi, đồng thời dùng cánh tay đang hồi dần hồi phục ra hiệu cảnh báo: "Bên trên mũi giáo có độc, không thể chạm vào."

Bộ thiết bị thở lại được luân chuyển đến tay giáo sư Phương Tân, ông lắc mạnh bình dưỡng khí, báo cho mọi người biết bên trong không còn bao nhiêu nữa, rồi ra hiệu cho cả nhóm tăng tốc theo mình. Trong đường hầm ngập nước khi thì ngoặt sang trái lúc lại ngoặt sang phải, họ cũng mấy lần sơ ý chạm vào chốt bẫy, có cái thì không phản ứng gì, cũng không biết có chỗ nào chuyển động hay đóng lại hay không, có cái thì khiến đá rơi, giáo đâm, mấy lần đều vừa kinh vừa hiểm, cũng may hợp tác nhịp nhàng nên mới tránh được thương vong về người. Trác Mộc Cường Ba có ấn tượng sâu sắc nhất, là một lần không hiểu giáo sư Phương Tân hay Đường Mẫn chạm phải chốt bẫy, từ miệng tượng mặt người trong đường hầm đột nhiên phun ra một lượng lớn chất lỏng màu đen như mực tàu, không rõ là có độc hay không, cũng may cả bọn bơi nhanh, bằng không đã bị vây lại trong đó, thì không thể nhìn thấy gì hết. Bạn đang đọc truyện được lấy tại Truyenyy chấm cơm.

Giáo sư Phương Tân vẫn đi trước dẫn đầu, nhìn vẻ mặt càng lúc càng bối rối của ông có thể nhận ra, bình oxy lỏng nhỏ xíu của họ sắp cạn đến nơi, còn lối ra thì vẫn ở mãi chỗ nào không ai hay biết, thậm chí bọn họ vẫn đang quanh quẩn ở tầng địa ngục thứ sáu, không đột phá được lên trên một chút xíu nào. Đường Mẫn theo sát sau lưng ông, Trác Mộc Cường Ba và đạt ma Á La đoạn hậu. Trác Mộc Cường Ba bỗng nhiên cảm giác có thứ gì đó quất qua mặt mình, giống như đụng phải đám thủy tảo, gã chưa kịp nghiêng đầu, cái thứ ấy đã lướt qua mặt. Trong một thoáng kinh hoảng, Trác Mộc Cường Ba lại phun ra một lượng lớn dưỡng khí. Gã vội bịt chặt miệng mình lại. Không ngờ vật ấy là một cái đầu lâu tóc tai rũ rượi, xương trắng phớ, trên đầu vẫn còn mái tóc bạc phơ, đung đưa qua lại trong làn nước như một con sứa lớn, trông quái dị khó tả nổi bằng lời. Cái đầu lâu đảo lượn mấy vòng trong nước, rồi lao thẳng vào lạt ma Á La. Trác Mộc Cường Ba vội vẫy mạnh chiếc mũ phát sáng, ra hiệu cho lạt ma Á La phải cẩn thận.

Đang lặn dưới nước, đột nhiên xuất hiện sự kiện phi tự nhiên như vậy, đổi lại là ai cũng đều phải giật bắn mình lên vì hoảng hốt. Nhưng lạt ma Á La hoàn toàn không hề rung động, ông nhằm thẳng vào cái đầu lâu đang lao tới đấm ra một quyền, kế đó tung ra ba cú đá liên hoàn hất văng nó sang bên. Cái đầu lâu xoay một vòng, lại hậm hực truy tới. Lạt ma Á La vươn tay ra chộp lấy tóc nó, vừa lắc vừa giật, chỉ hai ba cái đã giật tung cả mái tóc ấy ra. Cuối cùng, ông lại bồi thêm một cú móc cực mạnh, đánh cho cái đầu lâu ấy văng cả xương hàm. Trong miệng đầu lâu đột nhiên lao vút ra một con cá Piranha. Lạt ma Á La nhanh tay nhanh mắt, tay trái vươn ra chộp một phát, dùng sức bóp mạnh, con cá nhỏ liền bị bóp thành "cá khô", cái đầu lâu kia cũng chầm chậm rơi xuống đáy nước.

Trác Mộc Cường Ba chỉ biết trố mắt ra nhìn. Lạt ma Á La lại đưa ra hiệu, hỏi gã đờ ra đấy làm gì, còn không mau đi nhanh. Phía trước lại có lối rẽ, giáo sư Phương Tân không thể không ngoảnh đầu lại hỏi ý kiến mọi người. Trong thời khắc sinh tử, không ai có thể đưa ra đưa ra chủ ý được cả. Lúc này, Đường Mẫn chợt cuống cuồng chỉ về phía sau, trong nước xuất hiện vô số đốm đen nhỏ, là cá Paranha. Lạt ma Á La vừa bóp chết một con, mùi máu tanh đã làm những con khác theo tới đây, cùng lúc tụ thành một đàn lớn. Không còn thời gian suy nghĩ, chỗ nào thông là bơi ngay vào đấy, mọi người chỉ biết bám theo giáo sư Phương Tân chui luôn vào một lối rẽ, không còn kịp suy tính hậu quả thế nào nữa. Không ngờ, phía trước lại có một hàng rào kim loại chắn mất lối đi, đang lúc hoang mang không biết xử trí ra sao, lạt ma Á La lay lay, phát hiện ra hàng rào này có thể nhích động, ông liền không chút do dự đẩy nó ra, bỗng nghe "cạch", một cánh cửa đá đã bít luôn đường ngầm lại, ngăn cách lũ cá sau lưng mọi người.

Bốn người nở nụ cười hân hoan, nhưng cũng không mừng rỡ được bao lâu. Đường hầm nước này dường như là hướng lên trên, Trác Mộc Cường Ba tưởng đã tìm thấy lối ra, liền xông lên trước nhất, quả nhiên đã nhao lên được mặt nước, gã hít mạnh mấy hơi, bỗng nhận ra trong không khí có mùi dầu nồng nặc, ngẩng đầu lên quan sát, mới thấy đây là một không gian mái vòm bít kín, cả gian phòng chưa được mười mét vuông, không có chỗ nào để leo lên, bốn bức vách bốc khói đen mù mịt. Gã còn chưa kịp nhìn cho kỹ thì đã bị người thứ hai là lạt ma Á La nhô lên khỏi mặt nước ấn đầu gã xuống suýt chút nữa thì sặc, vừa lặn xuống dưới Trác Mộc Cường Ba đã thấy đỉnh đầu nóng ran, xoay người lại, liền chứng kiến cảnh tượng khắp bốn phương tám hướng trên mái vòm đều phun ra những tia dầu thô cháy bừng bừng, làm toàn bộ mặt nước phía trên biến thành một biển lửa hừng hực.

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, bày tỏ sự cảm kích với lạt ma Á La, không còn cách nào hơn, bốn người đành lặn xuống lần nữa, nhưng trong đoạn đường hầm ngắn cũn này, ngoài phía trên kia, dường như không còn lối ra nào khác nữa. Một phút sau, nhiệt độ nước nhanh chóng tăng lên, lúc Trác Mộc Cường Ba lặn sâu xuống đáy vô ý chạm phải nền đá bên dưới, không ngờ nóng giãy cả tay! Đến giờ gã mới hiểu ra, cả bốn phía xung quanh đoạn đường hầm bít kín đều có lửa thiêu đốt, nếu không tìm được lối thoát, bốn người sẽ biến thành món cá trạch hấp ở trong này.

Lạt ma Á La, cũng may là có lạt ma Á La, ông tìm được chốt cơ quan trong một bức tượng mặt người. Lúc này, nhiệt độ vách đá đã cao đến mức đáng sợ, ba người bọn Trác Mộc Cường Ba đều trợn tròn mắt lên nhìn lạt ma Á La, chỉ thấy ông như đang quyết tâm "ta không vào địa ngục thì còn ai vào địa ngục", chọc cả cánh tay vào mặt người đá kia. Tiếng "lách cách" vang lên, vách đá phía trước liền mở ra, bốn người như được đại xá, vội nhao ra khỏi cỗ quan tài nước bị lửa thiêu này, nhưng cơ hội sống sót thì vẫn chưa thấy đâu, bởi đây cũng là một ngõ cụt!

Giáo sư Phương Tân đưa mặt nạ dưỡng khí cho Đường Mẫn, tuyệt vọng nhắm nghiền hai mắt lại. Đường Mẫn hít mạnh một hơi, nhưng không hít vào được chút oxy nào, bình oxy lỏng đã cạn kiệt. Lạt ma Á La gõ dọc theo vách đá, hy vọng tìm được điểm đột phá. Trác Mộc Cường Ba cảm tưởng như trên ngực mình bị đè một khối đá nặng mấy trăm cân, mỗi lúc một khó chịu hơn, ngột ngạt đến mức gã chỉ muốn phụt hết chút không khí cuối cùng trong cơ thể ra.

Trên tầng năm, Soares đang ngồi xổm bên cạnh một chốt bẫy, trầm tư lẩm bẩm: "Có thể đến được lò thiêu dưới nước cũng là không đơn giản rồi, chuột con, địa ngục dưới nước cũng có thể tùy tiện đi bừa đi bãi vậy à, có cần kéo chúng lên không nhỉ? Merkin xem trọng mấy người này như vậy, nếu để chúng toi mạng ở đây, chắc hắn sẽ tức đến phát điên lên mất. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, đám người này hình như chẳng liên quan gì đến ta cả, không cần thiết phải tự tăng thêm cho mình những địch thủ vô vị làm gì, cứ để chúng tự sinh tự diệt thì hơn." Cách đầu y chừng chưa đầy hai mét, một con trăn Anaconda đang cuộn tròn, lưỡi thè ra ngoài, Soares đã nhận ra từ trước, y vung tay một cái, cũng không biết đã dùng thứ gì, con trăn lập tức hoảng hốt lẩn đi. "Uỳnh uỳnh…" Soares nhận ra dưới chân mình đang rung động, lấy làm kinh ngạc, "Kẻ nào đã kéo chốt rồi? Không ngờ ở nơi khác cũng mở được đường hầm dưới nước ư?"

Người đầu tiên không nhịn thở nổi là Đường Mẫn, gương mặt nhỏ nhắn của cô phình lên đỏ ửng, thân thể đã tới mức cực hạn chịu đựng. Trác Mộc Cường Ba biết rõ, Đường Mẫn có thể ngừng thở bất cứ lúc nào, nếu vậy sẽ không thể nào vãn hồi được nữa, gã chỉ còn cách dùng ánh mắt không ngừng cổ vũ cô, cố gắng lên, cố gắng lên! Đường Mẫn dùng hết chút sức lực cuối cùng bóp chặt bàn tay Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt ai oán tựa hồ như đang nói lời ly biệt, tựa như muốn nói có thể chết bên nhau đã là một hạnh phúc lớn của đời người rồi. Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba kiên định mà cố chấp, đem lòng tin của mình truyền cho người yêu dấu… không thể chết ở đây được, chúng ta còn rất nhiều việc phải làm, nhất định có cách ra khỏi đây mà.

Trong thời khắc gần như không còn bất cứ hy vọng nào ấy, vách đá trên đầu họ bỗng nhiên lộ ra một lỗ hổng, nước trào lên theo lỗ hổng đó, cuốn theo cả bốn người. Đứng lên trong làn nước, lần đầu tiên hít lại thứ không khí trong lành mới mẻ, phảng phất như đã ở dưới địa ngục mấy vạn năm, giờ lại được hồi sinh trở về dương thế, Trác Mộc Cường Ba ho rũ rượi sặc sụa. Đường Mẫn nằm vật ra bên cạnh, miệng thở dốc, nhất thời chẳng còn sức đứng nổi lên. Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La, một người ngồi trong làn nước, một người chống tay vào tường, cũng không ngừng thở hổn hển và ọe ra nước. Vẫn còn sống, vẫn còn sống, Trác Mộc Cường Ba lúc này chẳng muốn nói gì hết, chỉ nghe loáng thoáng như giáo sư Phương Tân đang hỏi lạt ma Á La làm sao tìm thấy chốt mở, lạt ma Á La lắc đầu bảo, không phải ông, chính ông cũng không hiểu đây là chuyện gì nữa. Trác Mộc Cường Ba đỡ Đường Mẫn lên, để cô dựa vào đùi mình, Đường Mẫn thì thào hỏi: "Chúng ta đang ở đâu đây?"

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn vị giáo sư già bên cạnh. Giáo sư Phương Tân thở hắt ra đáp: "Tầng thứ năm, cung điện của Tử thần, vua chốn m ty."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: Huyết trì


Tương truyền người Maya tổng cộng có 13 chiếc đầu lâu pha lê từ thời viễn cổ, người nào có thể thu thập cả bộ mười ba chiếc đầu lâu này sẽ nhìn thấy kỳ tích của thần. Giờ đây trên thế giới đã xuất hiện tổng cộng ba chiếc đầu lâu pha lê thật, một chiếc ở bảo tàng Anh quốc, một chiếc ở Paris, còn một chiếc bị mất trộm ở Mỹ, đến giờ vẫn không biết tung tích, ngoài ra còn có vô số đồ giả mạo. Tôi nghĩ, chiếc đầu lâu pha lê trước mắt chúng ta đây, chắc là một trong số đó.

Cung điện của Tử thần

Bò lên khỏi đường hầm lầy lội, giáo sư Phương Tân thở phào một hơi nhẹ nhõm, nói với Trác Mộc Cường Ba "Giờ cậu đã hiểu tại sao ông Pieri phải tốn nhiều tâm tư như vậy chưa, ở dưới đường hầm có nhiều bẫy rập thế cơ mà. Nếu ngay cả bẫy đơn giản của ông ấy mà chúng ta cũng không thể phá giả được, vậy thì chúng ta cũng không thể phá giả được, vậy thì chúng ta căn bản không có cơ hội ra khỏi tòa cung điện ngầm này, ông ấy cũng không cần thiết phải chỉ đường cho chúng ta làm gì nữa, cứ ở dưới lòng đất mà chờ chết còn thoải mái hơn bây giờ cả trăm lần."

Trác Mộc Cường Ba không khỏi dâng lên niềm kính phục đối với vị thám hiểm gia tiền bối. Gã đưa mắt nhìn xung quanh, lúc này bọn họ đang ở trong một thông đạo vừa nhỏ vừa hẹp, giống như một đường ống thông gió nhiều hơn, nước đã rút hết. Gã kinh ngạc thốt lên: "Kỳ quái thật, mới rồi nước còn lớn thế, sao đã chảy đâu hết mất rồi?"

Lạt ma Á La đứng ở chỗ bọn họ bị đẩy lên nói: "Cậu đến đây xem thì biết." Trác Mộc Cường Ba thò đầu ra nhìn, chỉ thấy nước bên dưới giống như 1 dòng chảy ngầm, đang ào ạt về phía trước, liền hỏi: "Sao lại thế?" Hỏi xong mới đột nhiên tỉnh ngộ, "Cửa đá bị mở ra rồi, nước ở tầng dưới đang rút đi!"

Lạt ma Á La nói: "Đúng vậy, nếu chúng ta lên chậm hơn dù chỉ 1 phút thì sẽ bị dòng nước rút đi này xối trở xuống tầng thứ 8, hơn nữa còn không có cơ hội trở lên nữa đâu."

Trác Mộc Cường Ba đưa ra 1 nghi vấn nãy h vẫn thắc mắc: "Đại sư, lúc ở dưới nước gặp phải cái đầu lâu, sao ông không sợ gì hết vậy?"

Lạt ma Á la mỉm cười, nói ra 1 câu thiền ngữ: "Trong lòng không có quỷ, tất không phải sợ gì."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Đây cũng là thành quả của việc mật tu hay sao?"

Lạt ma Á La không trả lời, không hiểu là vẫn chưa định thần lại hay đã cạn kiệt sức lực, thân hình ông hơi lảo đảo 1 cái.

Trác Mộc Cường Ba không để ý, vẫn chưa hết kinh hoảng: "Đúng là hung hiểm quá, thật không ngờ vẫn còn 1 nơi như vậy."

Đường Mẫn cũng đã đứng lên. Cô mở to đôi mắt nói với Trác Mộc Cường Ba: "So với 2 tầng trước thì đỡ hơn nhiều rồi, tòa địa cung này càng xuống dưới thì càng đáng sợ mà."

Trác Mộc Cường Ba không tin: "Làm sao thế được? Chúng ta phải thập tử nhất sinh mới lên đến được tầng này đó." Đường Mẫn ấm ức nói: "Tầng nào mà chẳng thập tử nhất sinh, anh chẳng qua là kẻ ngốc gặp phúc đó thôi."

Giáo sư Phương Tân nói: "Thật đó. Chín tầng địa ngục của người Maya, đáng lẽ phải là hình kim tự tháp ngược, nhưng theo như chúng tôi nghiên cứu và phân tích, cung điện dưới lòng đất này lại là cả 1 tòa kim tự tháp, phần lộ ra bên trên mặt đất chiếm 1 phần 3, cũng chính là kim tự tháp lớn chúng ta nhìn thấy ở Bạch thành, dưới lòng đất còn hai phần ba nữa. Tầng dưới nguy hiểm hơn tầng trên, rõ ràng là lợi dụng tâm lý tham lam của những kẻ tìm báu vật, ai mà không muốn tìm thấy càng nhiều báu vật hơn chứ, bẫy rập càng nguy hiểm, thì càng dễ khiến người ta cảm thấy bên dưới có kho báu lớn hơn, kết quả là những kẻ xuống dưới đó, không còn ai trở lên được nữa. Từ những bộ xương khô mà chúng ta trông thấy, tòa địa cung này chắc đã bị người ta vơ vét sạch sẽ, sót lại không gì ngoài mấy cãi bẫy này, giờ chỉ là 1 ngôi mộ hại người không hơn không kém. Chắc là vậy rồi, đại sư? Đại sư?"

Lạt ma Á La gượng nở 1 nụ cười, rồi khuỵu xuống, bất ngờ ngã lăn ra, hôn mê bất tỉnh. Trác Mộc Cường Ba đứng gần đó nhất, vội ôm xốc dậy. Đường Mẫn kéo cánh tay lạt ma Á La, kêu "Ối" 1 tiếng: "Trúng độc rồi!" Vết thương trên cánh tay lạt ma Á La đã biến thành màu đen, dịch thể vàng sữa không ngừng rỉ ra ngoài. Có lẽ ông bị thương trong lúc giúp bọn Trác Mộc Cường Ba tránh mấy mũi giáo, rồi sau đó còn chọc tay vào vách đá nóng bỏng kéo chốt mở của quan, chất độc đã ngấm sâu vào cơ thể.

Giáo sư Phương Tân nói: "Cũng may là chất độc từ ngàn năm trước, rất nhiều thứ đã thoái biến, bằng không đây chắc hẳn đã là thứ kịch độc chạm vào lập tức mất mạng ngay rồi. Thế nào hả? Có cách gì giúp được đại sư không?" Ông hỏi Đường Mẫn.

Đường Mẫn nói: "Không biết là chất độc gì, dựa vào phản ứng của vết thương thì rất giống với nọc rắn, có lẽ là chất độc lấy trên cơ thể ếch tên độc hoặc rắn độc. Nhưng chúng ta không có huyết thanh giải độc, cháu chỉ có thể tiêm cho ông ấy 1 mũi thuốc trung hòa độc tố, rồi dùng thêm chút gel trị rắn cắn xem có hiệu quả không, nhưng cũng chẳng thể nào trị tận gốc, sợ rằng phải dựa vào bản thân đại sư để giải độc thôi."

Đường Mẫn sơ cứu cho lạt ma Á La rồi đeo ba lô lên vai. Trác Mộc Cường Ba cõng ông trên lưng, tiếp tục tiến lên. Đường hầm nhỏ hẹp này chỉ dài chưa đầy 10 mét, lối ra là 2 lỗ tròn đường kính chưa đầy 1 mét., ở giữa ngăn cách bằng 1 trụ đá thẳng đứng bên ngoài cũng giống như tầng thứ 6, đèn đuốc sáng rực, những ngọn đuốc trông như chén sừng trâu cắm ở khắp mọi nơi. Lối ra cao cách mặt sàn chừng 3 mét. Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn xuống trước, sau đó đỡ lấy lạt ma Á La, đợi giáo sư Phương Tân cùng xuống tới nơi. Lúc này họ mới nhìn rõ, lối ra của thông đạo là một cái đầu lâu đá nhân tạo khổng lồ, cửa ra chính là hai hốc mắt của nó.

Tử thần Ah Puch, anh trai của nữ thần Mặt trăng, hóa thân của thần Mặt trời dưới địa ngục, vị chúa tể địa ngục trong lòng người Maya, đồng thời cũng là thống lĩnh của 9 vị dạ thần chốn m ty, vị thần xuất hiện nhiều thứ 2 chỉ sau thần Kukulkan trong nền văn minh Maya. Hình tượng của thần có lúc là 1 ông già còng lưng, có lúc là 1 bà già móm mém, tay chân như vuốt chim ưng, nhưng nhiều nhất vẫn là hình ảnh giống như trong giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới, chính là bộ xương khô. Tay thần cầm cây trượng phán quyết của thần thánh, trên người đeo đầy chuông, bên cạnh có trợ thủ đắc lực là thần Báo. Đây là những tư liệu Trác Mộc Cường Ba biết được qua buổi học "bổ súng" dưới tầng thứ 7, nhưng phải đến tận lúc này, khi thực sự đứng trước cung điện của Tử thần, gã mới cảm nhận được sự kính sợ của người Maya đối với Tử thần Ah Puch, tất cả những điều đó đều được họ thể hiện qua kiến trúc của mình.

Các ngọn đuốc trong đại sảnh đều ở độ cao dưới 5 mét, còn mái vòm thì ẩn trong 1 vùng tối sâu thẳm. Khắp gian đại sảnh, ở những nơi mắt thường có thể trông thấy, tất cả tượng điêu khắc, tranh vẽ, trang trí, đều liên quan đến xương người. Mỗi ngọn đuốc trông như chén sừng trâu kia đều do 1 bộ xương người nâng trên tay; phù điêu trên tường đều tạc hình đầu lâu khổng lồ, hoàn chỉnh hoặc chỉ có nửa trên, từng chiếc răng được chạm tỉa rất công phu; trong những bích họa màu đen có thể thấy các bộ xương người đứng hoặc ngồi, tả thực có, trừu tượng có, hình thái sinh động đến mức như đều có sinh mạng vậy; các lối vào đều được tạo hình là những đầu lâu xương sọ miệng há to cho người ta phải chui vào; cột chống đại sảnh là những chiếc xương sườn được xếp thành hàng lối, gây cho người ta cảm giác như đang đi lại trong lồng ngực của 1 người khổng lồ; mỡi phiến đá lát sàn rộng chừng 15 mét vuông, bên trên chạm nổi toàn những nô lệ chỉ còn là bộ xương bị đánh đập, tra tấn man rợ.

Giáo sư Phương Tân ghi lại tất cả vào máy tính, bảo rằng đây là cung điện duy nhất trong những cung điện ông từng thấy sử dụng xương cốt để trang trí. Bọn họ đi rất lâu, trông thấy rất nhiều bức tượng xương cốt lớn nhỏ khác nhau. Tầng này còn lớn hơn rất nhiều so với tưởng tượng của họ. Pieri đã viết thế trong cuốn sổ ghi chép: "Không nghi ngờ gì nữa, cung điện Tử thần chính là cung điện hùng vĩ, tráng lệ nhất trong cả tòa cung điện này, trước nay tôi chưa bao h dám tưởng tượng, dùng xương cốt lại có thể xây dựng nên 1 tác phẩm nghệ thuật khiến người ta phải khâm phục…(thiếu). Ở đây có mấy nơi để lại ấn tượng rất sâu sắc, tôi có thể liệt kê bên dưới…(thiếu), khung xương quái dị của loài sinh vật khổng lồ (hay là tượng đá?)… hố tuẫn táng… bầu trời sao…(Không thể đọc được). Khoảng cách giữa chúng rất xa, tôi nghĩ, lối lên có lẽ là ở 1 trong những nơi này, hoặc cũng có thể, tầng này vẫn còn nơi tôi chưa thăm dò tới. Vì lúc xuống tới đây tâm trạng tôi rất kích động, chạy qua rất nhiều căn phòng mới nghĩ tới việc nhớ lại đường lên trên, nhưng tôi không tìm được vị trí nào để xuống tiếp nữa…"

Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ trong bụng: "Cái ông Pieri này không lấy chúng ta ra làm trò đùa đấy chứ, mỗi lần tới chỗ quan trọng, không phải bỗng nhiên bỏ sót, thì là không nhớ được, đúng thật là."

Giáo sư Phương Tân cho máy tính hiển thị nhưng nơi họ đã đi qua, mà hình liền hiện lên 1 hình vẽ 2D, ông chỉ tay nói: "Có trông thấy không, cả bức vách đều là 1 đưòng thẳng, chúng ta giống như đang đi trong 1 gian phòng khổng lồ, không thể nào đo đếm được dài rộng bao nhiêu, người Maya đã chia nó thành các gian phòng nhỏ hơn, mỗi gian cao chừng mấy chục mét, rộng dài độ trăm mét gì đó, mà những thứ Pieri nhắc tới trong cuốn sổ, chúng ta còn chưa thấy cái nào cả. Điều làm tôi khâm phục nhất chính là trí tưởng tượng của người Maya, không ngờ họ có thể tạo ra nhiều hình tượng xương cốt tạo hình tương đồng mà lại có phong cách riêng biệt đến thế." Trác Mộc Cường Ba cõng lạt ma Á La trên lưng, gật gật đầu. Đường Mẫn buông cánh tay lạt ma ra, nói: "Hơi thở, nhiệt độ, mạch đập đều vẫn bình thường, tạm thời không có gì đáng ngại."

Họ băng qua thêm 1 gian phòng nữa, cuối cùng cũng phát hiện ra 1 gian phòng đặc biệt. Xung quanh gian phòng cũng trang trí không khác gì những phòng khác, chỉ có bức tượng khổng lồ ở giữa gian phòng khiến người ta phải sửng sốt. Trong mắt người hiện đại thì bức tượng này không lạ chút nào. Đó là 1 bộ xương thuộc về loài khủng long nào đó, đứng thẳng cao tới bốn năm mét, chiều dài mười mấy mét. Nhưng loại hóa thạch này xuất hiện trong địa cung người Maya, thật không thể không khiến người ta thấy kinh ngạc. Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn hóa thạch khủng long, nói: "Đây là…khủng long bạo chúa à?" Gã đã nhìn thấy 1 lần trong viện bảo tàng.

Giáo sư Phương Tân bước tới gần ngắm kỹ 1 hồi, rồi nói: "Đúng là hóa thạch, cụ thể là chủng loại nào thì không rõ lắm. Nhưng mà kỳ quái thật, người Maya làm sao mà được thứ này dưới lòng đất nhỉ? Mọi người nhìn xem, mặc dù chỗ nào cũng có dấu vết bị tổn hại, nhưng về tổng thể thì rất hoàn chỉnh. Bọn họ đã tìm đủ mọi cách đào lên đồng thời lắp ghép hoàn chỉnh bộ xương hóa thạch này, đây…" Ông bỗng hiểu ra, thốt lên: "Đây nhất định là bộ xương sinh vật kỳ quái mà Pieri trông thấy, vì ông ấy không hiểu hóa thạch là gì, vậy nên mới không thể phán đoán được là tượng đá hay xương cốt."

"Đây là khủng long mà, Pieri không đến nỗi cả khủng long cũng không biết chứ." Trác Mộc Cường Ba hiểu, các nhà thám hiểm mấy thế kỷ trước đều là những người có học thức uyên bác, mà theo gã, những vấn đề thuộc về thường thức như là khủng long, giờ cả học sinh tiểu học cũng còn biết nữa là.

Giáo sư Phương Tân kiểm tra lại tư liệu rồi nói: "Không có gì là lạ, cậu xem này, mãi đến năm 1841 từ "khủng long" mới được đưa ra, mà lúc ấy thì Pieri đã qua đời lâu rồi. Theo như ông ấy nói, nơi tiếp theo cách đây rất xa, chúng ta vừa đi vừa để ý tìm kiếm cẩn thận, thử coi có thể tìm được đường lên trên không."

Trác Mộc Cường Ba dịch người lạt ma Á La lên trên một chút cho dễ cõng hơn. Đang chuẩn bị đi tiếp, bỗng nghe tiếng "cách cách" vang lên, gã cẩn thận ngoái đầu, nửa căng thẳng nửa hoài nghi nhìn chằm chằm vao bộ xương khủng long hóa thạch, bước mấy bước rồi lại quay đầu nhìn, sau khi đã xác định hóa thạch ấy không có biểu hiện gì lạ thường, mới bắt đầu đi xung quanh đại sảnh tìm kiếm đường thông lên trên.

Ba người đều mệt mỏi rã rời, gần như là lật tung cả nền nhà lên, kiểm tra hết từng bức tượng xương người, từng góc cột, không phát hiện ra bất cứ đường nào có thể lên trên, nhưng bẫy thì đụng phải không ít. Một lần Đường Mẫn chạm phải chốt bẫy dưới chân, bức tượng bộ xương trước mặt cô đột nhiên mở bung lồng ngực, suýt chút nữa đã kéo cả Đường Mẫn vào trong, làm Đường Mẫn sợ hãi kêu rú lên. Sau lần đó, Đường Mẫn cứ bám sát sau lưng Trác Mộc Cường Ba mà tìm kiếm, tự nhiên thành lãng phí mất 1 nhân lực.

Cuối cùng giáo sư Phương Tân cũng lên tiếng: "Xem ra không phải ở đây rồi, đi thôi, đến nơi tiếp theo. Nhưng trên đường đi cũng phải cẩn thận xem xét, có khi ở ngay bên đường cũng không chừng. Nội dung cuốn sổ của ông Pieri quả thật rất kỳ lạ, bầu trời sao? Mọi người biết trong tiếng Anh, bầu trời sao còn có ngĩa nào khác nữa không?"

Ở 1 nơi khác trên cùng tầng kim tự tháp đó, mười mấy tên du kích đang vây quanh bệ đá màu trắng mà lúc nãy Soares đứng cạnh. Bệ đá này cao hơn đầu người, trông giống như 1 cái nắp quan tài khổng lồ, bên trong bệ có nhiều bột vụn màu nâu đất, trông rất giống máu khô. Đám du kích chỉ biết gãi đầu gãi tai, không ai nói ra được rốt cục thứ này dùng để làm gì. Bạn đang đọc truyện được copy tại Truyện FULL

Một tiếng kêu thảm thiết vang lên, Gonzales giật thót mình, không hiểu lại có thằng ngu đen đủi nào giẫm phải bẫy rồi, hắn xoay phắt người lại ngoác miệng ra chửi bới: "Không phải đã xếp hàng rồi à? Sao còn giẫm phải bẫy nữa vậy?"

Một gã lính du kích đứng sau lưng hắn tái mặt nói: "Không phải bẫy, Buck…Buck…hắn bị chuột tha đi rồi! Chuột, chuột, lớn, lớn, lớn lắm! Tôi chưa baogiờ thấy con nào lớn như thế cả!"

Gonzales cho hắnmột bợp tai, giận dữ quát lên: "Chuột thì to thế nào được chứ? Kéo được cả người đi hay sao?" Tên lính du kích kia uất ức ôm bộ mặt sưng vù lí nhí biện bạch: "Chuột, đúng là chuột mà, chưa baogiờ tôi thấy con chuột nào lớn đến thế. Là chuột, đúng là chuột…"

Gonzales chửi bới ầm ĩ, rít mạnhmột hơi thuốc cho bớt căng thẳng, nhưng mới bước được hai bước, đã nghe tiếng "xì xì", trước mặt bỗng trườn ramột con trăn khổng lồ. Gonzales giật bắn mình, rơi cả điếu thuốc xuống đất. Bốn tên thủ hạ sau lưng hắn cùng nổ súng bắn loạn xạ, cuối cùng coi như cũng bắn chết được con vật, đồng thời trong góc lại thấp thoáng 1 cái bóng, dường như là 1 con trăn khác vừa chui vào trong vùng tối.

Basaka nhắc nhở: "Sếp, hình như tầng này không chỉ có bẫy rập, mà còn có rất nhiều động vật cỡ lớn, trăn khổng lồ, đó là trăn khổng lồ đấy. Hơn nữa, còn 1 số đứa đi vào lối rẽ, giờ vẫn chưa tìm thấy, quá nửa là đã…"

Gonzales hằn học giậm mạnh lên điếu thuốc dưới đất, nói: " Con mẹ nó, cái chỗ quỷ tha ma bắt này, nếu tầng này còn không tìm thấy thứ gì, vậy chúng ta … chúng ta … đếch tìm nữa!" Hắn đã nhẫn nại hết sức có thể, không thể tiếp tục cứ nhằm hướng có nguy hiểm mà tiến lên nữa. " Đằng nào cũng đã tìm được tới đây rồi, lần sau mang theo nhiều người hơn nữa tới đây, tao không tin là không phá hết được dốn bẫy này!" Trong đầu Gonzales thầm nhủ.

" Trở về là một lựa chọn sáng suốt, chúng mày nên về từ lâu rồi mới phải, giờ thì đã muộn mất rồi". Trong bóng tối vọng lại một âm thanh xa lạ, họng súng của tất cả đám du kích đều hướng về phiá có âm thanh cất lên ấy.

" Kẻ nào?" Gonzales rít lên, cơ thịt khắp người đều giật giật.

Soares từ trong bóng tối bước ra dưới ánh đèn, nửa gương mặt như chim ưng ma quỷ của y khiến đám du kích giật thót mình, thầm nhủ, chẳng lẽ lại là xác ướp vạn năm đội mồ sống dậy! Soares cười cười nói: "Dùng huyết trì để khởi dộng cung điện của Tử thần là một quá trình rất dài và phức tạp. Ta cần 3 cái xác sống, 3 cái xác chết, 3 bộ da người, ba túi mật, rất vui vì bọn mày có thể cung cấp các thứ ây."

Mặc dù Gonzales không hiểu ý đối phương lắm, nhưng sát khí trong tiếng cười ấy thì hắn nhận ra được, tên béo vung tay lên quát: " Mặc cha mày là ai, không thằng nào dám cản trước mặt bọn tao đâu, chết đi!" Lệnh vừa hạ xuống, tiếng súng lập tức vang lên, Soares bật cười khùng khục lách người biến mất vào trong bóng tối. Gonzales vung tay lên nói: " Mày, mày, lên xem sao."

Hai têm tròn đội du kích cầm súng, dè dặt tiến lại gần chỗ Soares vừa biến mất sau đó cũng biến mật luôn vào bóng tối, đã 10 phụt trôi qua mà không thấy động tĩnh gì cũng không có hồi âm. Basaka lớn tiếng gọi: " Này, chúng mày đâu rồi? Scoter, Landark, trả lời đi!" 4 phía xung quanh ánh đuốc bập bùng, tĩnh lặng đến đáng sợ.

Basaka đích thân dẫn theo 4 tên thuộc hạ, phập phồng lo sợ lần tìm về hướng 2 người kia biến mất. Gonzales thình lình thấy hết sức rõ ràng, 5 người chìm vào bóng tối. Chợt có tiếng súng vang lên. Trong ánh lửa, Gonzales trông thấy 1 bóng đen khổng lồ và bóng người nhỏ bé chồng lên nhau. Sau đó tiếng súng im bặt, tiếng người cũng im bặt. Gonzales giương khẩu súng máy lên, quét 1 loạt đan vào bóng tối nhưng không có gì hết, hắn run run giọng nói: "Con mẹ nó, quái vật"

"A!" sau lưng Gonzales chợt vang lên tiếng kếu thảm thiết, tên béo vừa xoay người lại, tức khắc sợ đờ người ra…

Ba người bọn Trác Mộc Cường Ba vừa đi vừa tìm kiếm. Không biết bao nhiêu lâu sau, giáo sư Phương Tân đột nhiên chỉ tay vào màn hình máy tính: " Chúng ta chuyển hướng rồi."

"Gì cơ ạ?" Trác Mộc Cường ba hỏi. Giáo sư Phương Tân đáp: "Cậu nhìn đi, trước đó chúng ta đi theo hướng đông tây, kể từ gian đại sảnh này, h chuyển thành hướng nam bắc rồi."

Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Vậy nghĩa là thế nào?"

Giáo sư Phương Tân giải thích: "Tôi nghĩ rằng là tổng cộng được chia làm 4 khu vực lớn, tất cả các gian sảnh chúng ta vừa đi qua chắc có lẽ thuộc khu phía nam, gian phòng chứa bộ xương khủng long hóa thạch là trung tâm, 2 bên phân bố đối xứng, số lượng và tạo hình các gian sảnh đều tương tự như nhau."

"Cái gì cơ!" Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng kêu lên: "Ý của thầy giáo là, chúng ta đi lâu như vây mới chỉ đi được một phần tư của tầng này thôi sao?"

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Chỉ sợ là thế thôi, tôi nghĩ, muốn tìm đường lên trên phải ít nhất chúng ta cũng mất trọn 1 ngày để tìm kiếm hết tất cả các gian sảnh mất."

Nghe giáo sư Phương Tân nói, Đường Mẫn mệt mỏi nghiêng người dựa vào

Trác Mộc Cường Ba. Từ mê cung tầng thứ 7 họ đã không ăn tí gì, sau đó lại phải trèo thang, leo tượng nữ thần, lặn dưới nước 1 thời gian dài, thể lực quả thực đã tiêu hao gần hết. Giáo sư Phương Tân cũng chú ý đến vấn đề này. Ông nói: "Hay là như vậy đi, đối với các gian sảnh dọc đường, chúng ta không cần tìm quá tỉ mỉ, chủ yếu cứ nhằm vào mấy nơi Pieri nhắc đến ấy, Tôi cho rằng, 4 gian sảnh này chắc hẳn đều là vị trí trung tâm của 4 khu vực. Chúng ta đến gian sảnh thứ 2 thì dừng lại nghỉ 1 chút, thể lực tiêu hao nhiều quá rồi, nếu không nghỉ ngơi chỉnh đốn lại, cơ thể không chịu nổi đâu."

Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn gật đầu đồng ý. 3 người lại tiếp tục hướng về phía Bắc. Máy gian sảnh hướng Nam bắc và những gian hướng Đông tây khi nãy khác với nhau khá rõ rêt, tất cả các gian sảnh hướng Đông tây đều lấy phù điêu hình đầu lâu tạc trên tường làm chủ đạo, trang trí bằng các nét chạm bộ xương nô lệ màu đen; còn các gian sảnh lúc nãy lại lấy tượng đá hình đầu lâu lớn làm chủ đạo. Bọn họ nhìn thấy 1 bức tượng đầu lâu cao tới 5 mét, nặng dễ chừng cả trăm tấn trong 1 gian sảnh lớn. Người Maya tạc bức tượng này giống y như thật, bên trong thì đặc ruột, rõ là được làm từ nguyên 1 tảng đá trắng lớn, thật khó mà tưởng tượng được người Maya cổ đại làm thế nào để đưa tảng đá nặng như vậy xuống được đến tang này.

Cuối cùng khi họ đi qua 1 cái đầu lâu đá, tới gian sảnh tiếp sau, trước mắt liền xuất hiện 1 cái hố tuẫn táng song lịa hoàn toàn khác hẳn với những gì họ đã tưởng tượng trong đầu.

Hỗ tuẫn táng

Gian đại sảnh ở giữa gấp hơn ba lần các gian xung quanh, mặt sàn vốn phẳng lỳ trơn tuột, bốn bề đều lõm xuống như đường xe điện ngầm, hình thành nên các đường rãnh dài hình chữ nhật. Giáo sư Phương Tân lấy máy dò ra quan trắc sơ bộ một chút. Những đường rãnh này rộng ba mét, sâu năm mét, chiều dài không đều, nằm trong khoảng từ một trăm đến một trăm năm mươi mét. Trong các hố tuẫn táng cần phải có xương cốt, điều này không hề sai, nhưng hố tuẫn táng mà họ trông thấy lại khác với tất cả những chỗ khác, các bộ xương khô bên trong không xếp thành hàng thành lối mấy chục bộ hay mấy trăm bộ một, mà là vô số khúc xương chất chồng lên nhau, giống như một đống đồ chơi xếp hình gỗ ném lung tung xuống ấy vậy. Trong những đống xương ấy, có xương người, có xương thú, hệt như những bức tường xung quanh, mỗi khúc xương đều ánh lên một sắc trắng thảm thương, một màu trắng quái dị, rõ là không có tạp chất, tựa hồ như mỗi khúc xương trong ấy đều được người ta cạo rửa sạch sẽ hoàn toàn, sau đó mới ném xuống hố tuẫn táng vậy.

Đường Mẫn cúi đầu xuống, không dám nhìn tác phẩm nghệ thuật khủng bố theo trường phái siêu thực này. Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: "Giáo sư, những bộ xương trong này dường như rất không bình thường, theo tôi thì thi cốt bên trong hố tuẫn táng lẽ ra không nên sạch như vậy mới đúng chứ."

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Cậu nói không hề sai, hố tuẫn táng ở đây không phải hố tuẫn táng theo nghĩa truyền thống. Hố tuẫn táng theo nghĩa truyền thống, tức là đem người và gia súc còn sống cùng lúc giết chết khi hạ táng các quý nhân, rồi chôn xuống các hố các rãnh đã đào sẵn trong mộ. Người sau khi chết thi thể mới rữa ra, cộng với một loạt những phản ứng hóa học sinh học, xương cốt phải gần như màu bùn đất mới đúng, còn xương cốt ở trong này, quả thực là quá trắng. Hơn nữa, đã có trận thế âm binh rồi, tại sao còn phải đào hố tuẫn táng lớn thế này làm gì nữa nhỉ?" Ông thử giậm chân xuống hố tuẫn táng, dùng sức dận xuống, rồi nói: "Các khúc xương lèn chặt lắm, số lượng xương cốt chôn ở đây khẳng định là nhiều khủng khiếp!"

Đường Mẫn kéo kéo cánh tay Trác Mộc Cường Ba, mặt ủ mày chau nói: "Chúng ta, chúng ta ăn ở đây hay sao? Em, em không nuốt nổi đâu."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Giáo sư, chúng ta trở lại gian sảnh trước, ăn uống nghỉ ngơi rồi quay lại tra tìm những hố tuẫn táng này được không?"

Giáo sư Phương Tân gật đầu đồng ý. Ba người liền vòng trở lại ăn uống. Đây cũng là số thức ăn cuối cùng còn lại của họ rồi. Đường Mẫn lấy thuốc ra truyền qua đường tĩnh mạch cho lạt ma Á La.

Lúc này, cơ mặt Gonzales không ngừng co giật, toàn thân bị một bầu không khí băng lạnh thấm đẫm mùi máu tanh bao phủ. Mỡ trên người hắn giờ đây có nhiều thêm mấy chăng nữa cũng không ngăn nổi cảm giác lạnh lẽo ấy. Trước mặt hắn, bảy con trăn khổng lồ Nam Mỹ đang nghếch cao đầu, trông tựa như bảy chiếc cột. Dưới ánh đuốc, đầu trăn khổng lồ càng thêm âm lạnh ghê rợn. Sáu tên thuộc hạ còn sót lại của hắn đã bị sáu con trăn kia siết chặt, lúc này đã thở ra nhiều hít vào ít, e rằng khó mà sống nổi. Gonzales sống ngần này tuổi rồi mà cũng chưa từng trải qua tình cảnh nào hung hiểm tới nhường này, hắn giơ khẩu súng máy trong tay lên, song khí thế thì đã bị đè bẹp từ lâu, ai mà biết sáu con trăn khác liệu có cùng bổ tới chỗ hắn hay không, cứ nghĩ đến cảm giác bị năm con trăn phây thây là toàn thân Gonzales run lên bần bật.

"Tầng này có rất nhiều trăn khổng lồ Nam Mỹ và loài chuột khổng lồ mà con người xếp vào hàng động vật tiến sử, đều là do người Maya cổ đại nuôi thả trong đây để bảo vệ lăng mộ cho vị vua tôn quý nhất của họ - vị vua duy nhất tự xưng là Tử thần Ahezt." Hình bóng Soares lại hiện ra trong tối tăm như 1 bóng ma. Không cần phải nói, tất cả thủ hạ còn lại của Gonzales đều đã gặp phải tình trạng tương tự rồi. Soares nở 1 nụ cười đáng sợ, chỉ vào ngực mình: "Ở tầng này, lời tao tức là mệnh lệnh." Soares mỉm cười bước về phía Gonzales, 1 con trăn khổng lồ cỡ bự nằm vắt vẻo ngay trước mặt, không ngừng vặn vẹo thân mình mở đường cho Soares, đồng thời cũng có thể chắn đạn cho y. Soares đi sau con rắn, gương mặt sứt sẹo nham nhở của y trông còn dữ tợn hơn mặt rắn gấp bội, ánh đuốc bập bùng không ngừng, khi mờ khi tỏ, khiến cho gương mặt đó tựa hồ như vô số con sâu thịt bò nhung nhúc bên trên.

Gonzales nhìn Soares, tựa như một tên chuyên làm việc xấu nhìn thấy ma quỷ, hắn không dám tin trên đời này lại có chuyện như vậy, lại có người như vậy. "Đừng qua đây! Tao bảo là đừng qua đây!" Tên béo khản giọng ra sức hét lớn, hắn ném khẩu súng máy trong tay ra, xé toang vạt áo, đặt tay lên nút ấn kích nổ, hóa ra bên trong người hắn quấn đầy thuốc nổ. Soares dừng lại, y biết rõ uy lực của đống thuốc nổ ấy, 1 khi đã kích hoạt, chỗ đó thừa sức hủy diệt cả tầng thứ năm này, cả y cũng không ngờ tên béo này lại đeo thuốc nổ bên mình như thế. Bọn trăn phía trước Soares cẩn trọng vây lấy y, đầu rắn ngóc lên sau lưng, khiến loạt nhìn cứ như thể Soares đang ngồi trên 1 chiếc ngai kết bằng lũ trăn khổng lồ Nam Mỹ ấy vậy.

Gonzales nghiêng đầu, khóe miệng giật giật rất không tự nhiên, toàn thân cứng đờ: "Mày đừng có qua đây! Qua đây là tao sẽ cho nổ chết chung 1 lượt luôn! Mày thả tao đi, tao không cần cái gì ở đây nữa, nhường cho mày hết! Cho mày hết toàn bộ!"

Soares thoải lái ngả người ra sau, dựa lưng vào thân thể cuộn tròn của con trăn, mỉm cười nói: "Các thứ ở đây? Ở đây thì có thứ gì? Mày cho tao được cái gì? Đừng, đừng kích động, mày không cần phải căng thẳng quá, nguyên liệu tao cần cũng đã đủ rồi, đối với tao mày không còn giá trị nữa. Mày muốn đi thì cứ đi, lúc nào cũng được…" Giọng y đột nhiên biến đổi, lạnh lùng buông một câu: "Chỉ có điều, e rằng mày không thể ra khỏi đây được thôi!"

Gonzales đã dần dần hồi lại sau 1 lúc kinh hoảng ban đầu, thấy bọn trăn khổng lồ Nam Mỹ này hoàn toàn phục tùng trước đối phương chẳng khác gì mấy con trăn trong rạp xiếc, đồng thời cũng nhớ lại vô số bẫy rập nơi đây, hắn chỉ có mình, đích thực là không có năng lực tránh né những cơ quan bẫy rập được che giấu hoàn hảo đó. Chỉ nghe Soares nói tiếp: "Ở đây còn có vô số chuột khổng lồ Nam Mỹ, bọn sinh vật tiền sử ấy, cả tao cũng không có cách nào điều khiển được chúng, cứ thử giơ nút bấm ra hươ hươ trước mặt chúng xem có con nào ngồi xuống đàm phán với mày hay không." Y vươn người 1 cái, rồi đứng dậy. Gonzales vội lùi lại 2 bước. Soares thong thả nói: "Tao phải làm việc, mày không còn việc gì thì cứ đi đi. Ừm, đúng rồi, quên bảo với mày 1 việc, thức ăn của lũ chuột ấy là trăn khổng lồ Anaconda đấy, tự nghĩ xem rốt cuộc chúng lớn thế nào đi."

Gonzales khép lại vạt áo, tay vẫn không dám buông nút bấm ra, lẩm bẩm hỏi: "Rốt cuộc mày là ai?"

"Tao hả?" Soares nở nụ cười khinh miệt: "Tao là người khai quật cổ mộ, đã nghiên cứu cái địa cung Ah Puch này mấy năm rồi. Cơ quan bẫy rập và các sinh vật ở đây tao đều rõ như lòng bàn tay. Bây h, chỉ cần kích hoạt huyết trì, mở ra lăng tẩm của quốc vương, là có thể trực tiếp đối diện với cánh cửa cấm kị cuối cùng rồi."

"Lăng tẩm của quốc vương?" Đây là lần đầu tiên Gonnzales nghe thấy có người nói đến tầng này thực sự là cái gì.

Soares hỏi: "Sao vậy, mày không biết à? Tòa kim tự tháp lớn này, chính là xây nên để an táng vị quân chủ cuối cùng của Bạch thành - quốc vương vĩ đại quân chủ cuối cùng của Bạch thành - quốc vương vĩ đại bách chiến bách thắng Ah Puch. Ông ấy chọn cái tên trùng với tên Tử thần, để biểu thị mình chính là Tử thần. Vì vậy sau khi chết, quốc vương sẽ cai quản tầng địa ngục thứ 5, thống lĩnh cả 9 tầng địa ngục. Thế nào, chúng ta trao đổi điều kiện đi, mày giúp tao làm việc, tao sẽ dẫn mày ra khỏi đây, 1 mình tao khởi động huyết trì thì tốn thời gian quá."

Gonzales như kẻ chết đuối vớ được cọc, vội cúi đầu khom lưng nói: "Vâng, vâng, xin ngài cứ ra lệnh, tôi nhất định sẽ làm tốt." Hắn biết cách làm thế nào khiến kẻ khác khuất phục, đương nhiên cũng biết phải khuất phục trước kẻ mạnh như thế nào.

Soares gật đầu:"Tốt lắm, mày lột da 3 tên ra trước đã, xùy…" Y chúm miệng huýt gió 1 tiếng, 3 con trăn khổng lồ lập tức cuộn chặt lại, 3 tên du kích gãy hết xương cốt, nội tạng bị ép phòi qua miệng. Soares làm ra vẻ ái ngại: "Ấy, thật là, bọn trăn này không biết khống chế sức mạnh gì hết, làm gãy hết cả xương rồi, xem ra công đoạn lột da của mày tốn công hơn 1 chút rồi."

Da mặt Gonzales giật giật, lạnh lùng nói: "Không vấn đề gì, cứ giao cho tôi đi."

Số thức ăn cuối cùng cũng bị 3 người dùng hết, h thành ra ba lô trên lưng nhẹ đi phần nào, nhưng gánh nặng tâm lý lại tăng thêm 1 bậc. Trác Mộc Cường Ba khích lệ Đường Mẫn khắc phục nỗi sợ, rồi 3 người lại quay về về chỗ hố tuẫn tang tìm kiếm cơ quan và đường thông lên tầng trên. Đi qua mấy cái hố, giáo sư Phương Tân nói: "Cường Ba à, cậu phát hiện ra gì chưa, xương cốt trong đây được phân loại đấy."

Trác Mộc Cường Ba "ừm" một tiếng, gã cũng đã phát hiện ra, xương trắng trong hố tuẫn táng này, nếu là xương sườn thì đều đạt chung trong 1 hố, xương tay hoặc xương chi trước được đặt chung 1 hố, xương sọ lại được đạt chung 1 hố khác, không hiểu dụng ý của người Maya là gì nữa.

Sau khi nhảy qua cái hố thứ 10, giáo sư Phương Tân lớn tiếng gọi: "Mau qua đây, Cường Ba! Ở đây có cánh cửa."

Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn vội chạy theo giáo sư Phương Tân, phát hiện ra cánh cửa này kề sát với vách tường đá phía Tây, vì tạo hình rất giống với cột đá xương sườn, nhìn từ xa rất khó phân biệt. Chặn trước mặt họ là cái hố tuẫn táng dài chừng trăm mét, bên trong trống huơ trống hoác, chỉ sâu chừng bằng chiều cao một người. Ba người nhảy xuống dưới hố, quan sát ở khoảng cách gần cho thật kỹ.

Khe cửa hướng thẳng lên trên, cuối cùng biến mất trong bóng tối. Hình dạng cánh cửa này trông như khoang ngực người ta, giữa các xương sườn là hoa văn dọc, rất giống cơ thịt, giữa những cơ thịt điểm xuyết bởi các hình tượng xương người. Còn có rất nhiều hình bộ xương nhỏ bằng bàn tay đang đau đớn lăn lộn trên cửa, bị lửa thiêu, bị sét đánh, bị búa đá đập, vùng vẫy hòng thoát thân, nhưng đều toát lên vẻ tuyệt vọng trước cánh cửa đóng kín. Máy người bọn Tác Mộc Cường Ba đứng trước cánh cửa này, lập tức dâng lên cảm giác thật nhỏ bé. Đường Mẫn thở dài thốt lên: "Cánh cửa lớn quá!"

Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: "Cửa địa ngục trong truyền thuyết, có lẽ chính là như vậy đây."

Giáo sư Phương Tân nói: "Nhưng tìm khắp xung quanh mà cũng chưa thấy chốt mở cửa ở đâu. Cậu nhìn những xương sườn này mà xem, là kết cấu nằm ngang, không hiểu có phải là thang treo hướng lên trên hay không."

Đường Mẫn không dám bám lên đó, giáo sư Phương Tân thì tuổi tác đã cao. Trác Mộc Cường Ba bèn đặt lạt ma Á La xuống: "tôi đi thử xem có trèo lên được không."

Giáo sư Phương Tân đưa đèn pha chiếu sáng cho gã, dặn dò: "Cẩn thận đấy."

Trác Mộc Cường Ba đeo mũ chiếu sáng lên, giắt đèn vào thắt lưng, rồi bắt đầu trèo lên từ góc phía Nam cảnh cửa lớn. Khoảng cách giữa các khúc xương sườn khổng lồ chưa đến nửa mét, ở giữa lại có rất nhiều hình đầu lâu xương cốt nhỏ gồ ra, trèo lên không tốn sức chút nào. Chẳng mấy chốc, Trác Mộc Cường Ba đã không còn nhìn thấy giáo sư Phương Tân và Đường Mẫn bên dưới nữa. Lúc này gã mới phát hiện ra, cánh cửa này không thẳng mà hình cong, giống như cái thùng gỗ, hai đầu nhỏ, ở giữa phình to. Trác Mộc Cường Ba dùng cả tay lẫn chân, nhanh chóng bò lên tới đỉnh, tính toán sơ sơ, cánh cổng này cao chừng năm chục mét gì đó, nhưng dường như vẫn còn cách tầng trên 1 khoảng không nhỏ chút nào. Gã bắt đầu dịch chuyển theo phương ngang ra giữa cánh cửa, vì ở giữa cao hơn 1 chút. Chỉ thấy bên trên khe cửa có ba đầu lâu xếp thành hình chữ "phẩm" ngược, mỗi đầu lâu đều có 3 mặt, một mặt hướng phía trước, 2 mặt ngoảnh sang 2 bên trái phải, hốc mắt của các đầu lâu đã bị hủy hoại 1 cách nghiêm trọng, tựa như có người cố ý đung dao chọc khoét vào trong đó vậy. Trác Mộc Cường Ba tự hiểu, có lẽ trước đây trong các hốc mắt này là ngọc hay đá quý gì đó, giờ thì đã bị bọn trộm mộ lấy đi rồi. Để nhìn xem cánh cửa này còn cách tầng trên bao xa, gã bật đèn pha lên, nhưng cảnh tượng hiện ra trước mắt, lại 1 lần nữa khiến gã kinh ngạc sững người.

Trác Mộc Cường Ba không thể ngờ, trần của tầng địa ngục thứ năm này lại không hề trơn nhẵn thẳng thớm, mà được người Maya dùng vô số các rường đá, kèo đã gác chồng lên nhau. Nơi này trông như tổ kiến hay tổ ong, hoạc có thể nói là giống động Bàn Tơ trong Tây Du Ký cũng không quá đáng, các kèo đá rường đá ấy nối liền với nhau, cuối cùng hình thành mạng lưới khổng lồ. Mà tác dụng của mạng lưới này lại là… bên trên đó chỗ nào cũng thấy trăn Nam Mỹ, bọn chúng lười nhác cuốn mình bên trên rường kèo, dường như đang say ngủ, thi thoảng mới nhúc nhích thân hình 1 chút, cuộn thêm một vòng. Dưới ánh sáng ngọn đèn pha, mạng lưới rường kèo quấn đầy trăn Nam Mỹ trông hệt như con quái vật có vô số cơ thịt có thể nhu động nhung nhúc.

Trác Mộc Cường Ba chỉ chiếu đèn 1 lần, ngước mắt nhìn lên, trăn nhiều vô kể, tựa hồ không thể đếm hết, gã nhân lúc lũ quái vật ấy còn chưa bị đánh thức, vội vàng leo xuống. Giáo sư Phương Tân đang thấp thỏm chờ đợi phía dưới, vừa thấy Trác Mộc Cường Ba xuống liền hỏi ngay: "Thế nào hả? Có lên được không?"

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu quầy quậy: "Không, không thể lên trên đó. Trèo lên tới đỉnh cánh cửa là hết đường, hơn nữa, bên trên còn có rất nhiều trăn Nam Mỹ."

" Trăn Nam Mỹ? Bên trên có rất nhiều?" giáo sư Phương Tân hỏi. Đường Mẫn cũng kêu lên 1 tiếng khe khẽ.

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: "Bọn chúng đều ở trên rường đá phía trên, hình như họ cố ý xây như vậy để lũ trăn có chỗ nghỉ ngơi."

Giáo sư Phương Tân nói: "Nói như vậy, tầng này mới là sào huyệt của lũ trăn khổng lồ Nam Mỹ, còn ở dưới tầng dưới chẳng qua là bị rơi xuống qua miệng hố kia thôi." Trác Mộc Cường Ba gật đầu: "E là như vậy." Giáo sư Phương Tân chợt nhíu mày: "Vậy bọn chuột khổng lồ thì sao? Lúc ở tầng dưới khởi động chốt mở cơ quan, cả tầng đều bị nhấn chìm trong nước, sợ rằng đó cũng không phải sào huyệt của chúng đâu."

Đương Mẫn bát đầu thấy căng thẳng, lí nhí hỏi: "Vậy…vậy tầng này, không phải còn nhiều hơn…" Trong đại sảnh chợt vang lên tiếng động lạ, làm Đường Mẫn sợ quá kêu rú lên.

Phía xa xa vang lên những âm thanh không ai hiểu nổi. Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân đồng thanh kêu lên: "Quân du kích!"

Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu nhìn ra xa, chỉ thấy 3 tên du kích đầu hoẵng mặt chuột, hai tay nắm chắc báng súng đang tiến về phía họ, bước đi một bước toàn thân lại run lên 1 chập, liêng biêng lảo đảo.

Trác Mộc Cường Ba phục người xuống: "Chúng đều có súng cả, làm sao đây?" Gã rút súng lục ra, bên trong chỉ còn hai viên đạn, sau đó lại liếc mắt nhìn lại ma Á La, thầm nhủ: "Giá đại sư tỉnh lại được thì tốt rồi."

Giáo sư Phương Tân nói: "Chúng không biết chúng ta đang ở đâu, đó là ưu thế của chúng ta, thịt 2 tên trước, còn lại 1 tên sẽ dễ đối phó hơn."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Nhưng, súng nổ 1 tiếng chỉ bắn được 1 tên, chắc chắn sẽ làm kinh động đến 2 tên kia."

Giáo sư Phương Tân nói: "Vì thế, sau khi bắn trúng 1 tên, cậu phải nhanh chóng chuyển hướng, bắn chết tên thứ 2. Như cậu quan sát lúc nãy, vị trí của 3 bọn chúng bây h ở chỗ nào rồi?"

Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi 1 thoáng, rồi đáp: " Một tên đang tiến về phía chúng ta." Lời vừa mới dứt, trên đầu 3 người đã vang lên tiếng lẩy chốt súng, kế đó là 1 tràng tiếng gì không hiểu. Giáo sư Phương Tân ngẩng đầu nhìn tên lính du kích mặc quân phục đang chĩa súng vào mình, hỏi Trác Mộc Cường Ba: "Sao, sao cậu không nói sớm?"

Tên lính du lích kia cũng đã sợ đến hồn phiêu phách tán từ lâu, thấy đối phương có 4 người, lại có 1 người đang nằm, 1 người là phụ nữ, liền lập tức quay đầu lại lớn tiếng gọi đồng bọn. Trác Mộc Cường Ba đã trải qua huấn luyện đặc biệt, sao có thể bỏ qua cơ hội tốt như vậy, nhân 1 thoáng lúc tên du kích quay đầu, gã thuận thế kéo mạnh, lôi cả người hắn xuống hố tuẫn táng.

Trác Mộc Cường Ba cầm khẩu M4 trong tay hắn lên: "Giờ chúng ta có 2 khẩu súng rồi."

"Vậy sao?" Giáo sư Phương Tân đón lấy khẩu súng, tháo hộp đạn ra, đưa cho Trác Mộc Cường Ba xem. Trác Mộc Cường Ba giận dữ quát: "Không có đạn còn cầm súng ra dọa, đúng là thật chẳng ra sao!"

Giáo sư Phương Tân cười khổ: "Vừa rồi lúc hắn gạt chốt tôi đã thấy không ổn rồi. Vì nét mặt hắn vẫn như đang bị áp lực kinh khủng lắm, người dã quen khi cầm súng, khi có súng trên tay sẽ vững vàng hơn 1 chút. Xem ra bọn chúng cũng hoảng sợ không kém gì chúng ta đâu."

Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên nhìn lần nữa, thấy 2 tên du kích còn lại biến mất, rõ ràng là chúng đã mai phục ở 1 trong các hố tuẫn táng chứa đầy xương người kia rồi. Trác Mộc Cường Ba nói: "Như vậy không phải là cách, chúng ta không thể bị chúng giữ chân lịau chỗ này mãi được, hơn nữa ở đây còn có các sinh vật nguy hiểm, cần phải làm thịt chúng trước, rồi kịp thời tìm lối ra. Để tôi đi xử lý chúng cho."

Giáo sư Phương Tân cũng đòng tình: "Được, vậy chúng tôi sẽ yểm hộ cho cậu." Đường Mẫn nói: "Cẩn thận nhé anh." Trác Mộc Cường Ba ưỡn ngực anh dũng đáp" "Yên tâm đi, anh sẽ cẩn trọng mà."

Giáo sư Phương Tân và Đường Mẫn gây tiếng động lớn ở hố tuẫn táng. Trác Mộc Cường Ba ở phía bên kia trèo lên, khom người bò tới trước. Không có ánh sáng, phần giữa đại sảnh rối tăm mờ mịt, chỉ có từng dải từng dải xương trắng chất đầy các hố tuẫn táng trông cực lỳ nổi bật, 2 tên du kích nằm trong hố, ngược lại càng dễ để lộ vị trí. Trác Mộc Cường Ba bò rạp người xuống đất, nhích dần ra phía sau lưng bọn chúng, khi đã vào tầm bắn, gã liền rút súng ra ngắm chuẩn, chỉ nghe 2 tiếng "cách cách", không ngờ lại kẹt đạn, Trác Mộc Cường Ba giờ mới sực nhớ ra, ở tầng dưới gã quên không cho súng lục vào ba lô, nên đã bị vào nước. Tiếng động kia rất nhỏ, song cũng làm 2 tên du kích giật mình, chúng lập tức quay đầu lại, chĩa họng súng vào Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba biết đã hư chuyện, nhưng cũng không thể đầu hàng như vậy được, gã định lợi dụng khí thế áp đảo 2 tên du kích vốn đã như chim sợ cành cong này, liền giả bộ hết sức bình tĩnh, lớn tiếng quát lên: "Không được cử động, tên nào động đậy ta bắn tên ấy! Không được cử động! Ngoan ngoãn đứng yên cho tao!" Hai tên du kích đối diện với gã cũng lớn tiếng quát mắng xí xa xí xô, xem ra ý đồ cũng không khác Trác Mộc Cường Ba là mấy.

Có điều, cả 2 bên đều giơ súng chĩa vào đối phương song không hề có ý định nổ súng, chỉ không ngừng quát nạt, dọa dẫm, uy hiếp phe bên kia. Chỉ 1 thoáng sau, Trác Mộc Cường Ba đã nhìn ra vấn đề, gã vứt súng sang 1 bên, vòng tay ra sau thắt lưng: "Hết đạn rồi hả? Sao không nói sớm đi." Gã vòng tay mò mò một lúc, thầm than không ổn: "Hỏng bét! Con dao đi săn của mình đâu rồi? Chẳng lẽ rơi mất lúc ở dưới nước? Hay là bị thầy giáo lấy đi mất lúc mình đang hôn mê? Thôi toi, lần này đúng là sơ ý mất Kinh Châu rồi."

Hai tên du kích thấy thế liền hiêu ngay, nhìn nhau cười cười, gọn gàng chỉn chu tháo súng vứt sang 1 bên, sau đó cũng gọn gàng chỉn chu cho tay vào chỗ thắt lưng rút soạt, 2 con dao săn sáng loáng đã cầm trên tay rồi.

Bầu trời sao

Đối mặt với 2 con dao sáng loáng, Trác Mộc Cường Ba hướng ánh mắt nhìn chằm chằm vào hố tuẫn táng, bên dưới chất đầy những khúc xương sườn cong cong, thầm đọc đi đọc lại câu thiền ngữ của lạt ma Á La, tự nhắc nhở mình: "Trong lòng không có quỷ, tất không phải sợ gì…" đoạn nhìn xoáy vào 2 tên du kích, chầm chậm khom người xuống, bới móc trong hố tuẫn táng, thoắt cái trong tay đã có khúc xương sườn dài gần 1 mét của lòai thú khổng lồ nào đó. Khúc xương này hình dáng như thanh đao cong, có góc cạnh, Trác Mộc Cường Ba tay phải cầm khúc xương, tay trái chống nạnh, đứng thẳng người, vẽ trên không 1 đường cong hết sức đẹp mắt, rồi dựng đứng khúc xương trước ngực mình.

Hai tên du kích đưa mắt nhìn nhau, tên bên phải vung dao xông lên trước. Trác Mộc Cường Ba nhanh nhẹn sải chân bước lên 1 bước dài, đâm thẳng tới như 1 tuyển thủ kiếm đạo chuyên nghiệp, khúc xương sừơn đam 1 cách vô cùng chuẩn xác vào giữa ngực tên du kích. Tên kia tựa như không dám tin vào sự thật, cúi đầu nhìn xuống ngực, mặc dù cánh tay hắn đã duỗi thẳng hết mức rồi, nhưng con dao vẫn còn cách Trác Mộc Cường Ba tới hơn ba chục phân.

Trác Mộc Cường Ba thu khúc xương về, lại đứng thẳng lưng, khúc xương dựng đứng trước ngực. Tên du kích kia thấy tình thế không ổn, nhìn lại con dao ngắn trong tay, vội vàng vứt sang 1 bên, vừa nhìn chằm chằm vào Trác Mộc Cường ba bắt chước gã cúi xuống moi móc hố tuẫn táng. Chẳng mấy chốc, hắn đã mò được một khúc xương còn lớn hơn khúc của Trác Mộc Cường Ba đang cầm trên tay, ít nhất cũng phải 2 tay mới cầm được. Tên du kích cười gằn mấy tiếng, dùng sức kéo mạnh, nhưng khúc xương không lay chuyển, hắn lại kéo tiếp, nó vẫn không động đậy, hắn liền cuống lên, vận hết sức lực mắm môi mắm lợi mà lôi.

Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên nhận ra, tên du kích kia mắt cứ nhìn mình chòng chọc, hai tay ôm một cái đuôi trăn ra sức mà kéo, lại còn không ngừng cười gằn lạnh lung với gã nữa, sắc mặt trông hết sức quái dị. Trác Mộc Cường Ba liền nhắc nhở: "Ấy, này này…" Tên du kích hét lớn 1 tiếng, không ngờ đã kéo cả con trăn ra khỏi đống xương cốt. Con trăn đang ngủ say bừng bừng tức giận, cái đuôi cuộn 1 cái, tên du kích còn chưa kịp kêu lên thảm thiết đã bị dúi xuống, chỉ thấy đống xương nhấp nhô cuộn sóng, 1 cái ụ nhỏ lúc trồi lên lúc hụp xuống chạy lan sang phía bên kia hố tuẫn táng, rồi 4 bề lại trở nên tĩnh lặng. Trác Mộc Cường Ba vội vàng vứt khúc xương đầy máu trong tay đi, làm dấu chữ thập trước ngực, rồi quay người trở lại.

Thấy giáo sư Phương Tân và Đường Mẫn, gã không đợi cho 2 người kịp hỏi, nói luôn: "Xong hết rồi, đi thôi. Thầy giáo, Mẫn Mẫn, chúng ta nhanh đi khỏi đây thôi, chỗ này nguy hiểm quá, khắp nơi đâu cũng thấy trăn Nam Mỹ. Trong hố tuẫn táng cũng có nữa." Đường Mẫn nghe mà mặt hoa thất sắc.

Giáo sư Phương Tân nói: "Cung điện của Tử thần, thông thường các vị quân vương khi chết đều tự xưng là Tử thần, đáng tiếc quá, chúng ta không tìm được cách mở cánh cửa này." Đứng trước một cánh cửa khổng lồ như vậy mà không thể tiến vào, giáo sư Phương Tân lấy làm tiếc nuối, cứ thở vắn than dài mãi không thôi. Trác Mộc Cường Ba cõng lạt ma Á La lên, 4 người lại tiếp tục tiến về phía gian sảnh trung tâm tiếp theo. Bọn họ không hề để ý thấy chỗ thấp nhất của cánh cửa khổng lồ kia đang ngả dần sang sắc đỏ, còn những đường hoa văn chạy dọc như bó cơ bó thịt thì lien tục hút cái sắc đỏ lòm đó - màu của máu tươi - đưa lên cao.

Soares bận rộn khác thường, cứ đi đi lại lại trong huyết trì, trong đầu không ngừng hồi tưởng lại: "Lần trước là đặt gan ở vị trí này, bên dưới là mật, một cái, hai cái, ba cái; quá tốt rồi, máu chảy theo đường này xuống bên dưới rồi. Để nhớ lại xem nào, lần trước đặt thận ở chỗ nào nhỉ? Chỗ này à? Không phải, chắc là chỗ để bàng quang mới phải chứ? Để nghĩ lại xem nào? Con mẹ nó! Tại sao cái thứ này lại phức tạp thế nhỉ? Thằng khỉ kia có nói, nghi thức này không phải của người Maya, rốt cuộc là của dân tộc nào nhỉ? Phức tạp lộn xộn thế!" Y ngoảnh đầu lại kiểm tra xem Gonzales làm đến đâu, rồi lớn tiếng gọi: "Này, thằng béo! Nhớ cho kỹ, tấm da của người ở giữa phải căng ra đấy, nếu không máu chảy qua sẽ lệch đường, đến lúc ấy thì của không mở ra đâu!"

Gonzales hoài nghi hỏi: "Trong cánh cửa này, đúng là lăng mộ của quốc vương thật hay sao?"

Soares nói: "Chẳng lẽ mày vẫn còn nghi ngờ? Tao đã tốn bao nhiêu năm nghiên cứu ở đây rồi. Mày nghĩ cho kỹ mà xem, cả địa cung này có tầng nào nhiều cơ quan bẫy rập như vậy không, hơn nữa còn bao nhiêu động vật nguy hiểm canh giữ, ngoài lăng mộ ra, còn nơi nào khác cần bảo vệ nghiêm ngặt như vậy không."

Cặp mắt ti hí của Gonzales sáng lóe lên, hỏi: "Bên trong ấy, chắc là có nhiều đồ tùy táng lắm phải không?"

Soares vốn đã định nói: "Thằng béo chết tiệt, mày đến muộn mất mấy năm, bọn tao đã lấy đi hết rồi," nhưng bất chợt trông thấy cái trán nhễ nhại mồ hôi dầu của Gonzales, liền đổi ý: "Đúng vậy, bên trong là những thứ vị quốc vương này ưa thích nhất khi còn sống, còn có rất nhiều đồ vật được các chủ nô lệ tiến cống, theo tính toán sơ bộ của tao, đồ bên trong ấy phải tính bằng tấn ấy, hơn nữa còn không thể đếm hết có bao nhiêu thứ nữa." Y nhìn bộ dạng hơi run rẩy của Gonzales, thầm nhủ: "Chuyện này thì tao không lừa mày nhé, chỉ có điều h các thứ ấy không còn bên trong nữa rồi." Nghĩ đoạn, y lại bảo Gonazales, "Tao nghĩ, 1 mình tao chắc chắn không thể lấy hết được chỗ ấy, vào trong đó rồi, chúng ta chỉ lấy những thứ tốt nhất thôi."

"Đây, đây…" Gonzales vừa kinh ngạc lại vừa mừng rỡ, kích động đến mức không biết nói gì cho phải.

"Theo những gì ghi chép trong sổ tay của Pieri, gian đại sảnh trung tâm chính là "bầu trời sao" rồi, rốt cuộc "bầu trời sao" là gì vậy nhỉ? Tại sao lại là "bầu trời sao" chứ?" Dọc đường đi, không biết giáo sư Phương Tân đã suy nghĩ về vấn đề này bao nhiêu lần. Tính toán dựa theo tốc độ đi bộ của họ, ông biết, họ đã càng lúc càng đến gần gian đại sảnh gọi là "bầu trời sao" rồi. Sau khi hướng Nam Bắc chuyển thành hướng Đông Tây, bố cục chỉnh thể của các gian sảnh cũng dần có thay đổi. Khi đi qua gian sảnh thứ mười, lần đầu tiên giáo sư Phương Tân bắt đầu trông thấy trần nhà. Trần các gian sảnh đang thấp dần xuống, nhưng ai mà biết được bên trên kia còn có gì nữa? Các bức tượng thần khổng lồ biến mất, tranh trên tường chủ yếu vẽ hình ảnh nô lệ xương khô, ý nghĩa thế nào nhất thời chưa thể lý giải được. Nhưng dù sao giáo sư Phương Tân cũng ghi toàn bộ hình vào máy tính, trở về rồi sẽ từ từ nghiên cứu hoặc thỉnh giáo bạn bè. Đầu lâu cũng có thể trông thấy đồ trang sức nhỏ hình đầu lâu, thậm chí có cái chỉ nhỏ bằng bàn tay, trông rất giống các món đồ bày biện treo trong nhà, nhưng lại không thể chạm bừa bãi, bởi bất cứ lúc nào cũng có khả năng động tới chốt khởi động các loại bẫy nguy hiểm chết người.

"Đến rồi." Bốn người dừng lại trước cửa. Cánh cửa gian đại sảnh trung tâm này khác hẳn cửa các gian sảnh xung quanh và cả những nơi khác nữa. Khung cửa thuôn tròn, trông như đoạn ống nước xuyên qua 1 bức tường, khoảng cách giữa 2 mặt tường phải tới mười mấy mét. 4 người đứng ở đầu này nhòm sang phía có gian sảnh chính được gọi là "bầu trời sao" ở đầu kia, nhưng chỉ thấy 1 vùng tối đen như mực.

Trác Mộc Cường Ba cảnh giác nói: "Bên trong không có cánh cửa, sao lại như vậy nhỉ? Thế nghĩa là thế nào?"

Giáo sư Phương Tân nhìn vào lòng ống tròn, nói: "Đây không hẳn là hình tròn, có vẻ đoạn đường người Maya đục mô phỏng theo hình khúc xương đùi người thì phải."

Đường Mẫn dựa người vào Trác Mộc Cường Ba lí nhí: "Bên trong hình như rất nguy hiểm, em cảm giác được mà, em sợ, sợ, em sợ lắm."

Trác Mộc Cường Ba nói với giáo sư Phương Tân: "Chúng ta xem trong cuốn sổ kia có ghi chép gì không?"

Giáo sư Phương Tân bật hình ảnh cuốn sổ của Pieri lên. Ba người chăm chú đọc lần lượt từng trang, cuối cùng cũng tìm thấy đoạn miêu tả tường tận về thứ gọi là "bầu trời sao": "… thật sự quá đẹp, trong tòa địa cung tăm tối âm u tràn ngập mùi máu tanh và hơi thở của cái chết này, đây là gian phòng đẹp nhất tôi phát hiện ra. Người Maya cổ đại đã dùng trí tuệ của mình sáng tạo nên hết kỳ tích này tới kỳ tích khác, khiến tôi hoàn toàn chìm đắm say sưa trong ảo giác mê ly tuyệt vời ấy, thậm chí tôi còn trở nên ích kỷ, không muốn người đến sau cùng chia sẻ cảnh tượng tuyệt đẹp này, tôi đã lấy…(thiếu). Đúng lúc này, nguy hiểm đột nhiên nảy sinh…(thiếu), đúng là ngàn cân treo sợi tóc, đến h hồi tưởng lại, tôi vẫn còn chưa hết sợ…"

Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt, quỳ vái cái máy tính xách tay, gào lên tức tối: "Tại sao? Tại sao lại không có nữa? Tại sao lại không có? Tại sao cứ đến chỗ nào quan trọng là lại như vậy chứ?!"

Giáo sư Phương Tân sợ gã nhất thời tức giận đập vỡ mất chiếc máy tính, vội vàng cầm lên, đồng thời an ủi: "Yên tâm đi, nơi nguy hiểm hơn, khó khăn hơn nhiều mà chúng ta còn vượt qua được cơ mà. Mặc dù cuốn sổ có chỗ thiếu sót, nhưng cũng không thể trách người ta, ý trời đã thế, chúng ta đã có rất nhiều lợi ích từ cuốn sổ này rồi, không thể đòi hỏi nhiều thêm nữa. Đi vào xem sao đi, dù nguy hiểm thế nào chúng ta vẫn phải đi qua đó thôi."

Đội mũ chiếu sáng, cầm đèn pha trong tay, 3 người đi xuyên qua ống tròn, bước vào gian đại sảnh "bầu trời sao". Kỳ lạ 1 điều là, trong gian sảnh này hoàn toàn không có gì. Một mùi hôi thối quái dị lan tỏa trong không khí, dưới chân chỉ là sàn đá bình thường, vách tường trống không. Đèn pha quét qua, ngoài phát hiện ra 1 mái vòm rất thấp, không thấy gì thêm nữa. Mái vòm gian sảnh này tuyệt đối không có gì đặc sắc. Cảm giác của họ lúc này hệt như vừa bước từ 1 cung điện chứa đầy các tác phẩm nghệ thuật sang cái kho đá trống huếch trống hoác, nặng mùi tử khí vậy. Đương Mẫn bất mãn thốt lên: "Thế này mà gọi là đẹp à? Đây là gian đại sảnh xấu nhất em từng thấy thì có, hơn nữa…" Cô chun chun mũi: "Mùi ở đây khó ngửi quá."

Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân cũng lấy làm khó hiểu, chỗ này trong miêu tả của Pieri quả thật khác biệt quá lớn. Mái vòm thấp kia thỉnh thoảng lại phát ra những tiếng "cục cục cục", tưa như bên trên đang có vô số người đi đi lại lại vậy. Trác Mộc Cường Ba hỏi giáo sư Phương Tân, liệu có phải đó là đoàn khảo sát của chính phủ nước sở tại phái đến hay không. Câu trả lời của giáo sư Phương Tân là không thể nào, vì tất cả các âm thanh đều chỉ hạn chế ở trong gian sảnh này. Ông suy đoán, ở đây có lẽ là khu vực then chốt của cỗ máy điều khiển, tiếng động bên trên, chính là do chuyển động từ đó phát ra.

Bọn họ đi vòng quanh đai sảnh nhưng không phát hiện ra bất cứ khe hở hở đường hầm nào, chỉ tìm thấy giữa đại sảnh có 1 cái trụ đá, cao bằng nửa người. Giáo sư Phương Tân cho rằng đây chắc là người xưa sùng bái sinh thực khí mà tạo ra, nhưng Đường Mẫn lại tỏ ý phản đối, vì giữa trụ đá này lại có 1 vết khía lõm xuống, dường như là để thứ gì khác nữa, xem ra thứ đó đã bị người ta lấy đi mất rồi.

Tìm kiếm 1 hồi lâu, 3 người vô cùng thất vọng chuẩn bị rời đi, chỉ biết trách trình độ thưởng thức nghệ thuật của mình kém quá, người ta là nhà thám hiểm tiền bối đã bảo đó là gian đại sảnh đẹp nhất, vậy mà bọn họ lại chẳng thấy đẹp ở chỗ nào. Đúng lúc đó, Đường Mẫn chợt chỉ tay lên chỗ tiếp giáp giữa tường và mái vòm kêu lên: "Mọi người nhìn kìa, hình như có ánh sáng, hình như có ánh sáng kìa!"

Quả nhiên, ở 4 bức tường tiếp giáp ấy, ánh sáng lóe lên chói mắt, tựa hồ như vách đá khảm vô số bảo thạch đang phát ra những tia sáng dụ dỗ người ta. Trác Mộc Cường Ba nói: "Quái lạ thật, vừa nãy làm gì có ánh sáng nào nhỉ."

Giáo sư Phương Tân giơ tay lên: "Gượm đã, để tôi nghĩ xem nào, hình như người Maya cổ đại có 1 kỹ thuật, phải, dùng cái gì ấy nhỉ? Đá vân mẫu, đúng rồi! Chính là đá vân mẫu! Người Maya chèn đá vân mẫu vào tường trước, sau đó họ sử dụng một loại kỹ xảo phản xạ và chiết xạ, dẫn ánh sáng vào trong phòng, khiến các góc tường đều sáng rực rỡ huy hoàng, ngỡ như phép màu vậy."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Nói như vậy, vừa rồi còn tối mù tối mịt, giờ lại thấy ánh sáng, nguồn ánh sáng đó là…"

Giáo sư Phương Tân gật đầu đáp: "Ánh trăng, họ lợi dụng quỹ đạo vận hành của mặt trăng, khi trăng lên tới 1 độ cao nhất định, thông qua sự chiết xạ và phản xạ khéo léo, ánh trăng sẽ đến được tầng địa ngục thứ năm này. Trí tuệ của người Maya quả đã vượt xa những gì chúng ta tưởng tượng về họ."

Đường Mẫn nhìn 4 bức tường lấp lóa ánh sáng như trân châu bảo ngọc, không nén nổi buột miệng thốt lên: "Đẹp quá!"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Nhưng không thể coi là đẹp tuyệt trần được, cùng lắm chỉ là châu ngọc bình thường mà thôi."

Giáo sư Phương Tân nhẫn nại nói: "Đợi chút đi, mặt trăng đang di chuyển, còn có biến hóa nữa."

Dải sáng láp lánh trên tường đã dần dần thu lại, trước tiên như chiếc thắt lưng lụa đá quý, rồi thu lại tựa như 2 sợi dây chuyền bằng đá quý ở 2 bên trái phải, dây chuyền vẫn tiếp tục rút lại, cuối cùng tụ thành vật thể phát quang hình cầu nom giống viên ngọc minh châu. Giáo sư Phương Tân ra hiệu mọi người lùi lại 2 bước, nói: "Nguồn sáng đang tụ lại, quá trình này quả là đẹp thật!"

Chỉ thấy 2 viên minh châu ở 2 bên càng lúc càng sáng, tựa như viên nội đơn trong miệng rồng sắp thoát thai thành hình tới nơi. Cuối cùng, ánh sáng thoát khỏi phạm vi của 2 viên minh châu, hình thành nên 2 chùm tia chiếu lên trụ đá ở giữa đại sảnh, dịch chuyển dần từ đế trụ lên trên, mỗi lúc 1 tỏa rộng và sáng chói lọi hơn.

Dâng cao đến đỉnh trụ, chum sáng lại chụm vào thành 1 khối trắng dịu nhẹ. Ba người không ai bảo ai đều bất giác tắt hết mũ chiếu sáng. Những biến hóa vừa rồi khiến cả ba người đều cảm than mãi không thôi. Đừng nói là người Maya cỗ đại, dù là người hiện đại cũng nhất định coi đây là 1 phép màu. Luồng ánh sáng tựa như từ chốn thiên đình chiếu rọi, khiến những người chứng kiến đều có cảm giác như bên trong đó hiển hiện 1 vị thiên thần đang hạ xuống chốn nhân gian.

Thấy luồng sáng trắng tụ lại gần rãnh trên trụ đá, hình dạng vết lõm rất giống ảnh chụp CT xương sọ người, đột nhiên giáo sư Phương Tân bừng tỉnh ngộ kêu lên: "Cái đầu lâu pha lê kia đâu? Trong túi hành lý của ông Pieri không phải có 1 cái đầu lâu pha lê hay sao?"

Đường Mẫn vội lục tìm lấy chiếc đầu lâu pha lê trong ba lô ra. Giáo sư Phương Tân như 1 giáo đồ thành khẩn, nín thở cung kính đặt nó vào vị trí cũ. Chiếc đầu lâu và vết lõm hoàn toàn trùng khít lên nhau.

Đúng khoảnh khắc đó, ánh sáng bùng lên, chùm sáng tựa như sao băng rơi xuống nham thạch, hoa lửa bắn tung tóe. Nhưng những đóa hoa lửa ấy lại ánh lên sắc lam nhàn nhạt dịu nhẹ, nở bung trên mặt đất, rồi ngoàn ngoèo, bắn tóe cả lên 3 người, sượt qua thân thể họ như những ngôi sao băng xanh ngăn ngắt, đẹp lạ lùng, mà không lưu lại dấu tích gì. Dần dà, tất cả tụ hết lên mái vòm. Khi các tia sáng xanh lam sáng rực lên hết cỡ, chiếc đầu lâu pha lê liền phát ra sắc lam bảo thạch, óng ánh lung linh.

Trong khoảnh khắc ấy, thời gian lưu chuyển, bầu trời hiện ra, những ngôi sao màu lam dịu trải khắp mái vòm, không ngừng chuyển dịch, toàn bộ quang cảnh hệt như vũ trụ mênh mang, hư ảo vô cùng vô tận. Cả mấy người đều kinh ngạc đến ngơ ngẩn. Dải sao kia còn đẹp hơn cả các vì sao thật, còn mênh mông hơn cả Ngân hà. Nhất thời, không ai thốt ra được nỗi cảm thán trong lòng, không ai miêu tả nổi mình đang nhìn thấy thứ gì, tựa như đang ngồi trên tàu vũ trụ, nhìn qua của kính thấy 1 bầu trời sao hoàn toàn xa lạ, đẹp tuyệt trần mà tràn trề cảm giác mê ảo, khiến người ta chìm đắm say mê, quên mất mình đang ở chốn nào. Bọn họ đều mê man chìm đắm, phảng phất như đang đợi chờ được trở về vòng tay của thần, bỗng chốc cảm ngộ được thân phận quá ư nhỏ bé của con người, kiếp người quá ư ngắn ngủi, mọi điều huyền diệu của thế gian này làm sao có thể phân định rõ, nhìn cho xác thực được.

Toàn bộ quá trình kéo dài chừng mười mấy phút, cuối cùng ánh sáng mờ dần, rồi tan biến. Trác Mộc Cường Ba thậm chí còn dạt dào khích động muốn đuổi theo ánh sáng ấy, tựa như 1 đứa trẻ bị thần bỏ rơi, trong lòng tràn ngập uất ức và bất mãn. Giáo sư Phương Tân thì đứng ngây ngẩn, quên cả ghi lại kỳ quan khiến người ta rung cảm tới tận đáy lòng. Đợi tới khi ông nhớ ra, thì bầu trời sao đã biến mất không còn tăm tích. Ông thấp giọng thì thầm: "Bầu trời sao, bầu trời sao! Không ngờ lại như vậy… như vậy…" Mỹ lệ, từ này không thể dùng để hình dung cảnh tượng họ vừa nhìn thấy. Đường Mẫn không nghĩ nổi được gì, chỉ muốn khóc. Vẻ đẹp vượt quá giới hạn khiến người ta say mê nó, dường như chính là thứ loài người vẫn luôn theo đuổi từ thời thái cổ - sự tồn tại của thần thánh. Đúng vậy, bầu trời sao xoay chuyển ấy khiến người ta phải tin rằng, trong vũ trụ này, thật sự có Chúa Trời tồn tại.

Trác Mộc Cường Ba si mê nhìn chiếc đầu lâu pha lê, hồi lâu sau mới cất tiếng: "Thật không thể nào tin nổi, đích thực, đây đích thực là gian đại sảnh đẹp nhất." Cả tòa địa cung có vô số gian đại sảnh, có thể hùng vĩ, có thể tráng lệ, nhưng ngoài gian đại sảnh lấp lánh phát sáng trong bóng đêm này, quả thật là không nơi nào xứng đáng với 2 chữ "mỹ lệ" nữa.

Giáo sư Phương Tân ngần ngừ, không biết nên cất chiếc đầu lâu pha lê vào ba lô hay để nó lại đây. Tất cả đều quá đỗi hoàn mỹ, vẻ đẹp khiến người ta mê đắm, phải nên để càng nhiều người biết đến mới đúng, chẳng trách Pieri không muốn chia sẻ cùng người khác. Ông cầm chiếc đầu lâu lên, nói: "Trong các tư liệu chúng tôi đã nghiên cứu, tương truyền người Maya tổng cộng có 13 chiếc đầu lâu pha lê từ thời viễn cổ, người nào có thê thu thập cả bộ 13 chiếc đầu lâu này sẽ nhìn thấy kỳ tích của thần. Giờ đây trên thế giới đã xuất hiện tổng cộng ba chiếc đầu lâu pha lê thật, 1 chiếc ở bảo tang Anh quốc, 1 chiếc ở Paris, còn 1 chiếc bị mất trộm ở Mỹ, đến h vẫn không biết tung tích, ngoài ra còn có vô số đồ giả mạo. Tôi nghĩ, chiếc đầu lâu pha lê trước mắt chúng ta đây, chắc là 1 trong số đó."

"Ừm, nhất định là vậy," Đường Mẫn gật mạnh đầu. "Cảnh tượng vừa rồi, tưởng như không phải thứ con người có thể tạo ra được."

Giáo sư Phương Tân nói: "Giờ tôi đã hiểu tai sao lối vào này phải xây thành hình ống rồi, chính là để tránh ánh sáng, chỉ có vậy, ánh sáng trong gian đại sảnh này mới được giữ lại hết bên trong chứ."

Trác Mộc Cường Ba lại cảm thấy có gì đó bất ổn, sự mẫn cảm trời sinh khiến gã phát hiện ra đang tồn tại mối nguy hiểm. Từ lúc bầu trời sao xuất hiện, tất cả tiếng động trên đầu đều ngưng lại, còn lúc này, tiếng động lại lớn hơn bất cứ lúc nào, rầm rập phức tạp, không giống như tiếng chuyenr động của máy móc, mà đích thực là tiếng bước chân của loài động vật nào đó. Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn lại cánh cửa hình ống dẫn sang đại sảnh khác kia, hỏi: "Tai sao Pieri lại cảnh cáo chúng tan guy hiểm sẽ đột nhiên xuất hiện? Thầy giáo, thầy nhìn đường ống kia xem có giống hang động gì không?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Hang động? Đường ống tối om như vậy, nếu nói giống hang động, thì chỉ giống hang chuột thôi…hả, chuột!"

Ba người lập tức tỉnh ngộ, thứ mùi kỳ quái trong gian đại sảnh này, tiếng bước chân hỗn tạp trên đầu, cửa hình ống, ảo giác khiến người ta thấy bất an, tất cả đều đã có 1 lời giải thích hợp lý. Nhưng 1 điều mà họ không biết, đó là bầu trời sao vừa rồi phát ra 1 loại tín hiệu ngàn năm bất biến đã in sâu vào ký ức của những động vật khổng lồ ấy, chẳng hạn như là có…ăn!

Ba người vội co giò bỏ chạy, vừa qua khỏi của hình ống, chợt nghe "chí" 1 tiếng, một cái mông khổng lồ đã bịt kín lối vào gian sảnh, thật đúng là ngàn cân treo sợi tóc. Giáo sư Phương Tân lặp lại: "Nguy hiểm đột ngột xuất hiện, hóa ra là như vậy…"

Huyết trì

Soares hài lòng vỗ vỗ tay, nhảy xuống khỏi huyết trì, nói với Gonzales: "Đi thôi, huyết trì khởi động rồi, cánh cửa ấy nằm đối diện với gian đại sảnh này, chúng ta đi nhanh thì chỉ mất nửa tiếng, mà thời gian để huyết trì khởi động còn lâu hơn thế nữa."

Gonzales cung kính đáp: "Vâng."

Soares không khỏi đưa mắt nhìn tên béo thêm lần nữa, "Thằng tên Basaka vừa nãy là trợ thủ đắc lực của thằng béo này thì phải, vậy mà lúc lột da hắn, thằng béo cứ như đang lột da một con chó hoang vậy, thái độ hung tàn ấy khiến tên béo này càng tỏ ra cung kính thì lại càng nguy hiểm, có điều, chỉ cần mình luôn mạnh hơn hắn, hắn cũng không dám làm bừa đâu. Vẫn còn chỗ phải dùng đến tên mập này, tạm thời chưa thể giết hắn được."

Hai mươi phút sau khi Soares và Gonzales rời khỏi huyết trì, bọn Trác Mộc Cường Ba cũng đến đây. Vừa trông thấy bố cục và kết cấu của đại sảnh, mấy người liền biết ngay chỗ này khác với những nơi khác. Trác Mộc Cường Ba đứng trước cửa nói: "Thầy giáo, đây chắc là gian đại sảnh trung tâm cuối cùng rồi, chúng ta đã đi qua hết cả bốn gian đại sảnh, đi nữa, thì thành một vòng tròn đó."

Giáo sư Phương Tân mở bản đồ 2D trong máy tính ra: "Để tôi xem nào, hả? Trời đất!"

Trác Mộc Cường Ba vội hỏi: "Sao vậy?"

Giáo sư Phương Tân thảng thốt nói: "Hai người xem, lộ tuyến mà chúng ta vừa đi, thực ra chỉ là bốn đường biên bên rìa tầng thứ năm này thôi, dù đi hết thì cũng chỉ được chừng một phần ba cả tầng là cùng."

Chỉ thấy trên bản đồ 2D máy tính vẽ ra, bốn đường thẳng kéo dài tạo nên một hình vuông, còn các gian sảnh họ đi qua đều chỉ nằm ở ngoại vi hình vuông đó mà thôi, cả một khu vực lớn ở giữa vẫn còn trống không. Đường Mẫn nói: "Ồ, cả một khu vực lớn này đều nằm bên trong cánh cửa khổng lồ kia."

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Có lẽ vậy."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tạm thời kệ nó đã, xem trong cuốn sổ coi gian đại sảnh này có gì hung hiểm không."

Giáo sư Phương Tân kiểm tra lại rồi nói: "Không có gì, ông Pieri bảo, ở đây có một thứ ông ấy hoàn toàn không hiểu là cái gì, không biết có bẫy rập cơ quan gì không, trông giống như một tảng phô mai khổng lồ bằng đá. Chúng ta thử qua xem là phô mai gì."

Ba người bước vào gian đại sảnh, thứ đầu tiên đập vào mắt, là một tảng đá trắng khổng lồ. Tảng đá trắng hình chữ nhật đó chiếm hết một nửa không gian đại sảnh, phía trước có ba trụ thẳng đứng, phía trên chừng ba mét lại vươn ra một thanh ngang, bên trên thanh ngang treo ngược ba cỗ thi thể, tư thế chúc đầu xuống đất, chân chổng lên trời với những vết thương lồ lộ trên cổ, khiến người ta dễ dàng nhận ra mấy người này vừa bị ai đó cắt tiết. Đường Mẫn bật kêu lên khe khẽ. Trác Mộc Cường Ba vội bịt mắt cô lại. Cảnh tượng này thật quá kinh khủng, là kẻ nào đã dùng cách thức tàn nhẫn này, rốt cuộc hắn muốn gì?

Giáo sư Phương Tân cũng quan sát tảng phô mai khổng lồ trước mặt. Nó cao chừng ngang đầu người, dài khoảng trên hai chục mét, rộng mười lăm mét, cả một khối lập phương sặc mùi máu tanh lợm. Ông nghi hoặc thốt lên: "Đây là thứ gì vậy? Trong tư liệu của chúng ta chưa từng nhắc tới một vật thể nào như vậy cả."

Trác Mộc Cường Ba cũng hết sức nghi hoặc: "Thầy giáo, thầy có biết đây là cái gì không?"

Giáo sư Phương Tân lắc đầu: "Không biết, chưa có tư liệu nào về người Maya nhắc đến thứ kỳ quá này, không hiểu bên trên là cái gì nữa."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Để tôi trèo lên xem sao." Vừa lúc đó, gã chợt nghe thấy một âm thanh vừa xa xôi mù mịt lại tựa như ở ngay sát bên tai: "Là huyết trì, đây là huyết trì mà!" m thanh ấy tựa hồ như vang lên từ dưới địa ngục. Trác Mộc Cường Ba giật thót mình, "chẳng lẽ mình bị ma ám?"

Giọng nói ấy lại cất lên: "Nhanh lên, nhanh lên, lại gần một chút, để tôi xem rõ hơn."

Trác Mộc Cường Ba toát hết cả mồ hôi lạnh, lại nghe giọng nói kia trách móc: "Còn ngẩn ra đấy làm gì, lại gần một chút đi, chẳng lẽ cả ông già gầy yếu như tôi cậu cũng không cõng được nữa sao?"

Trác Mộc Cường Ba vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ reo lên: "À, Á La đại sư, ngài tỉnh rồi! Ngày, vẫn khỏe chứ, không sao chứ." Gã giờ mới sực nhớ, thì ra trên lưng mình còn đang cõng một người, trong lòng tự nhủ: "Chà, thần kinh kém quá, thành ra tự mình nghi thần nghi quỷ."

Đường Mẫn vội bắt mạch cho lạt ma Á La, đo nhiệt độ rồi mừng rỡ thốt: "Đại sư, ông hồi phục nhanh thật."

Lạt ma Á La nói: "Tác dụng của thuốc đó, tôi chỉ mới hồi phục thần trí thôi, phiền mọi người quá."

Giáo sư Phương Tân nói: "Chớ nói vậy chứ, chúng ta là một tập thể cơ mà."

Lạt ma Á La lại giục giã: "Nhanh lên, đưa tôi lại gần đó xem nào."

Trác Mộc Cường Ba liền cõng lạt ma Á La tới gần huyết trì. Nhà sư già nhìn thấy ba xác chết treo ngược, trầm ngâm nói: "Không biết ai đã khởi động huyết trì rồi. Cường Ba thiếu gia, cậu lên trên xem thứ có những thứ gì, rồi bảo lại với tôi. Nhớ cho kỹ, bắt đầu từ bên trái, bên trên có nhiều rãnh nhỏ, trong các rãnh ấy có thứ gì, không được bỏ sót thứ nào cả." Lạt ma Á La giấu kín nỗi vui mừng trong lòng, tâm trí không ngừng reo lên: "Chính là đây rồi, chỉ có nơi đây mới có thể có huyết trì. Tòa thánh được ánh sáng tỏa chiếu nhất định ở gần đây thôi. Đại Tự Tại Phật vĩ đại tuyệt đối, xin Người phù hộ cho con tìm ra và mang được Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu trở về."

Trác Mộc Cường Ba trèo lên phía trên huyết trì. Cảnh tượng trước mắt khiến gã được một phen kinh hồn tán đởm. Ngay phía bên dưới ba cỗ thi thể treo ngược ấy, còn có ba cỗ thi thể khác. Máu từ mấy thi thể treo ngược chảy xuống qua ba cỗ thi thể đặt trên huyết trì đã ngập quá nửa một cái hố hình vuông bên dưới.

Lúc Trác Mộc Cường Ba đứng trên huyết trì quan sát, lạt ma Á La cũng không dừng lại. Ông nhờ Đường Mẫn và giáo sư Phương Tân đỡ hai bên, đi thẳng vào mép trong đại sảnh, vừa tìm kiếm vừa nói: "Thông thường mà nói, huyết trì sẽ khởi động cánh cửa đối diện với bốn khu vực hình vuông này."

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Chính là cánh cửa khổng lồ ở chỗ hố tuẫn tán rồi."

Lạt ma Á La nói: "Thế nhưng khi xây dựng công trình, người thợ sẽ để lại một con đường khác, vì khi chôn dây nối lúc nào cũng có sai lệch, cần phải điều chỉnh lại nhiều lần, vòng qua cả một khu vực rộng lớn như vậy để điều chỉnh sẽ rất phiền phức. Bức tường này hẳn cũng có một cánh cửa, khuất lấp… ở đây!" Chỉ thấy sau khi cơ quan khởi động, chân tường liền lộ ra một cửa hang có thể chui vào. Giáo sư Phương Tân bật đèn chiếu rọi vào, nói: "Bên trong bị tường bịt kín rồi."

Lạt ma Á La gõ gõ xuống đất, đáp: "Đã chôn ống ngầm rồi, bên trong có một cánh cửa nhỏ, vẫn phải dùng huyết trì mới được, rồi cất tiếng gọi Trác Mộc Cường Ba, "Tôi muốn lên trên đó, giúp tôi một tay." Giáo sư Phương Tân và Đường Mẫn ở dưới đẩy, Trác Mộc Cường Ba bên trên kéo, cuối cùng cũng đưa được lạt ma Á La lên trên huyết trì. Ông đứng bên mép huyết trì, quan sát một lúc rồi lắc đầu: "Kỹ thuật thô lậu quá, chất đá ở dây không hợp để chế tạo huyết trì, có nhiều chỗ còn làm sai nữa, nhưng cũng tạm được, phương hướng đại thể vẫn đúng."

Chỉ thấy lạt ma Á La chậm rãi bước tới, chỉnh lý một chút trong huyết trì. Điều chỉnh xong xuôi, dòng máu ở giữa ba dòng lập tức đổi hướng, đoạn cuối chảy xuống đáy huyết trì, không hiểu còn chảy đi tiếp tới đâu.

Lạt ma Á La đảo một vòng quanh huyết trì, sau đó tỏ vẻ hài lòng gật đầu: "Được rồi, chúng ta xuống thôi, cả quá trình khởi động cần mấy phút thời gian." Thân thể ông lảo đảo muốn ngã. Trác Mộc Cường Ba vội đỡ lấy, đồng thời hỏi: "Rốt cuộc cái huyết trì này dùng để làm gì vậy?"

Trác Mộc Cường Ba cùng giáo sư Phương Tân đưa lạt ma Á La xuống đất, Đường Mẫn tới giúp lạt ma Á La xử lý vết thương, chỉ nghe vị sư già điềm đạm nói: "Từ lúc ở tầng cuối cùng đến bây giờ, đây mới có thể coi như là một cơ quan chân chính."

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt: "Chân chính? Vậy những cái trước đó là gì?"

Lạt ma Á La mỉm cười đáp: "Những thứ trước đó, nhiều nhất cũng chỉ có thể coi cạm bẫy thôi. Cơ quan chân chính là để đối phó riêng với con người, lợi dụng sự lầm lẫn trong hành vi và suy nghĩ của con người, ở những nơi con người hoàn toàn không thể nghĩ tới, dần dần dẫn người ta tiến đến cái chết, hoặc khiến con người vĩnh viễn chìm đắm bên trong, hoặc làm cho người ta không sao hiểu nổi, về cơ bản là càng lạc càng xa. Những cạm bẫy chúng ta gặp trước đó, mặc dù cũng có cái được sắp đặt rất khéo léo, cũng có cái liên hoàn nối nhau, nhưng hoàn toàn nằm trong phạm vi suy nghĩ của người bình thường, bất kể là ai, chỉ cần hơi động não một chút là đều nghĩ ra là có tác dụng gì. Hơn nữa phương thức khởi động cả chúng chẳng qua chỉ là kéo một cái chốt là xong. Loại cạm bẫy như vậy chỉ có thể dùng để bắt dã thú mà thôi."

Trác Mộc Cường Ba ngây người, thầm nhủ: "Lẽ nào mình giống dã thú lắm sao?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Vậy tại sao huyết trì này lại có thể coi là cơ quan chân chính?"

Lạt ma Á La suy nghĩ giây lát rồi đáp: "Ừm, đây là một cơ quan khởi động mở cửa. Giờ muốn nói cho kỹ càng thì e không được mất rồi. Tóm lại là nó hơi giống với hệ thống nhận diện vân tay đang được sử dụng hiện nay. Có thể nói là một kết tinh của trí tuệ cổ đại, chỉ có điều quá nhiều nghi thức thờ cúng tế bái làm cho huyết trì có vẻ như khiến người ta không sao chịu nổi. Trong mắt của người hiện đại chúng ta, đấy là thứ vô đạo đức và phi nhân tính."

Giáo sư Phương Tân lấy làm ngạc nhiên thốt lên: "Sao trong tư liệu của tôi không thấy nhắc đến nhỉ?"

Lạt ma Á La gượng cười: "Có lẽ là vì thứ này vô cùng hiếm gặp." Bỗng nghe "cách" một tiếng, lạt ma Á La vội vàng nói: "Cửa mở rồi, chúng ta vào trong đó thôi."

Hố tuẫn táng, Soares và Gonzales một trước một sau vừa bước vào gian đại sảnh đã lập tức trông thấy cảnh tượng: Trong ánh lửa mù mịt chập chờn, vô số bóng đen khổng lồ đang chạy qua chạy lại, rất nhiều trăn Nam Mỹ to bằng người ôm, trông như cái cột nhà liên tục bị ném từ trần nhà tối om xuống, bên dưới là những cái miệng đói khát hả to, thỉnh thoảng lại có vài cái bóng khổng lồ và bóng trăn quấn chặt lấy nhau rơi xuống. Gonzales bị cảnh tượng ấy làm cho hãi đến tái mặt. Soares cũng nhíu chặt hàng lông mày: "Lẽ nào đến giờ ăn của chúng rồi? Chỉ cần đừng cản đường ta là được."

"Đó…đó là… là cái gì vậy?" Gonzales run run hỏi.

Soares đáp: "Chuột khổng lồ châu Mỹ, một loài động vật cùng thời đại với khủng long, bị cho là đã tuyệt chủng từ hàng triệu năm về trước, nhưng ở đây thì có khá nhiều. Người Maya cố ý nuôi thả chúng trong tầng này. Đây là một hệ sinh thái tự cấp tự túc hoàn chỉnh. Ở tầng thứ chín của địa cung có hàng chục triệu con dơi, bọn chúng có thể tự do bay ra ngoài tìm kiếm thức ăn. Còn bọn động vật lớn như trăn Nam Mỹ và chuột khổng lồ thì bị giam cầm vĩnh viễn ở tầng thứ năm. Ở gần đây có một cái lỗ lớn, lũ dơi muốn ra vào địa cung phải chui qua đó. Bọn trăn canh ở miệng lỗ bắt dơi làm thức ăn, còn bọn chuột khổng lồ lấy trăn ra làm thức ăn. Không cần phải sợ hãi quá, tao tự có cách." Nói đoạn, y liền lấy ra một bình chất lỏng, động tác nhanh như đang diễn trò ảo thuật, bắt đầu phun lên người mình, rồi phun luôn cho cả Gonzales.

Gonzales ngửi thấy một mùi khai khai như mùi nước tiểu, không nén nổi tò mò hỏi: "Đây là cái gì vậy?" Soares mỉm cười đáp: "Một loại tín hiệu khiến chúng nhận ra đồng loại, ít nhất cũng có thể đảm bảo chúng không ăn thịt bọn ta."

Hai người bắt đầu đi xuyên qua đàn chuột khổng lồ lúc nhúc vô số kể. Gonzales không thể ung dung nhàn tản như Soares. Cứ hễ có con chuột nào hơi động đậy là toàn thân hắn lại run lên bần bật, chỉ sợ khó giữ nổi mạng mình. Soares vừa đi vừa nghĩ: "Thực ra, nếu chỉ để bảo vệ tầng địa cung thứ năm này, chỉ cần bọn trăn Nam Mỹ là đủ rồi, cần gì phải thả thêm cả chuột khổng lồ nữa? Theo hiểu biết về sinh học của chúng ta thông thường có sinh vật cỡ lớn tồn tại thì mới có khả năng xuất hiện chủng loài còn lớn hơn. Xem ra người kia nói không sai chút nào, khả năng ấy rất lớn, rất có thể trong cánh cửa cầm kỵ còn chưa mở ra được kia còn có loài động vật nào lớn hơn nữa!"

Hai người bước lại gần cánh cửa khổng lồ. Soares cười cười bảo: "Nhìn thấy chưa, cánh cửa đang từ từ chuyển sang màu đỏ, khi hoàn toàn biến thành màu đỏ, nó sẽ mở ra." Lúc này phần cửa nhuốm sắc máu đã cao tới gần ba mét.

Tới cái rãnh phía trước cánh cửa, hai người phát hiện ra thi thể tên du kích nằm trên mặt đất đã bị chuột gặm mất một nửa. Soares kinh hãi kêu lên: "Chúng mày còn bao nhiêu người ở đây nữa?"

Gonzales lắc đầu: "Không, không biết. Chúng tôi bị bẫy rập giết mất khá nhiều, lại có khá nhiều người đi lạc vào đường rẽ nữa."

Soares lập tức ra lệnh: "Mày chạy ngay về chỗ huyết trì đi! Không thể để người khác thay đổi vị trí các thứ trong ấy, chỉ cần theo đường thẳng giữa các đại sảnh là sẽ không gặp nguy hiểm gì hết đâu." Nhìn ánh mắt tham lam của tên béo nhìn xoáy chòng chọc vào cánh cửa khổng lồ, Soares lại nói tiếp: "Cánh cửa này ít nhất cũng phải nửa tiếng nữa mới nhích động được, nếu huyết trì bị phá hoại, cửa sẽ không mở ra được nữa! Mùi trên người mày sẽ khiến lũ chuột khổng lồ không động chạm đến, còn lũ trăn ngửi thấy cũng chỉ né mày đi thôi, nhanh lên!"

Gonzales vẫn rụt rè thấp thỏm, bước đi hết sức ngần ngại. Soares liền nói thêm: "À, phải rồi, tao quên không nói cho mày biết, khí thể trên người mày sẽ tan hết trong một giờ đồng hồ, đến lúc ấy, hắc hắc…" Hai tiếng cười gằn cuối cùng của y làm Gonzales đầm đìa mồ hôi. Hắn vội lê tấm thân béo nhẫy chạy ra cửa. Soares nhìn xác chết dưới đất, thầm suy tư: "không phải tranh chấp nội bộ của bọn du kích, là kẻ nào nhỉ? Chẳng lẽ lại là… mấy con chuột bạch kia? Hừm, suýt chút nữa thì quên mất bọn chúng rồi, trở về thằng cha Merkin kia mà hỏi, mình thật không biết trả lời sao nữa. Ừm… khốn nạn!" Màu đỏ ở giữa cánh cửa đã ngừng lại, riêng ở hai mé bên vẫn tiếp tục dâng cao.

Bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba bò qua lối thông nhỏ hẹp, vào gian sảnh bên trong, chỉ thấy bốn bức tường vẫn có ánh lửa. Nếu nói những ngọn đuốc cắm trên vách đều lợi dụng áp lực tự nhiên của mỏ dầu để dẫn dầu thô vào, vậy bằng cách nào để châm lửa trong nội sảnh này lên, lại là một vấn đề khiến người ta khó hiểu nữa.

Vừa bò ra khỏi đường hầm, giáo sư Phương Tân chưa kịp đứng thẳng người lên đã kêu lớn: "Đây là lăng mộ! Không ngờ đây lại là một lăng mộ!" Nội sảnh không lớn lắm, so với đại sảnh bên ngoài thì nhỏ hơn rất nhiều, ước chừng chỉ khoảng hai ngàn mét vuông, cạnh tường có vô số các tượng thần khổng lồ, đứng vây thành một vòng như quân đội xếp hàng. Bốn bức tường đều là những tác phẩm hội họa cỡ lớn, lần này không phải hình nô lệ xương khô nữa, mà là tranh vẽ hiện thực, có cảnh chỉ huy binh lính, cảnh đi săn, cảnh tế lễ. Càng khiến người ta thấy kích động hơn nữa là, bên dưới các bức tranh là những hàng văn tự Maya cổ, tính toán sơ bộ đã chừng mấy ngàn chữ rồi. Đây là lần thứ hai Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy chữ viết của người Maya, những hình vẽ đầu người đầu thú ấy, mỗi hình đều có ý nghĩa khác nhau. Chính giữa nội sảnh là một cỗ quách đá, cao ba mét, dài rộng đều hơn năm mét, bên cạnh có một đống xương vụn, đáng tiếc là nắp đã bị lật sang một bên. Lạt ma Á La vừa vào trong đó đã chạy thẳng tới đó. Cảnh tượng nhìn thấy làm trái tim ông trĩu xuống, trĩu xuống mãi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: Trở lại tây tạng


Vì vậy nếu nói sinh vật nào có thể sống một ngàn năm, rắn tuyệt đối có thể nằm trong phạm vi tuyển trạch. Theo như tao đoán, bên trong chắc là đang nhốt một con trăn cực lớn, vốn đã tuyệt tích từ lâu, vị đại thần cực kỳ tôn quý, cũng chính là vị thần người Maya sùng bái nhất… thần Kukulkan! Một con trăn khổng lồ có lông vũ…

Cánh cửa cấm kỵ

Trong cỗ quách đá là một quan tài nhỏ, đã bật mất nắp, chứa một bộ xương khô nằm xô lệch lộn xộn, tựa như bị ném vào máy xay xát, mỗi thứ văng một chỗ. Xương mu bàn tay, xương cằm đều bị hư hại vì ngoại lực phá hoại. Xem ra ngọc bích đeo tay và minh châu trong miệng đều đã bị lấy đi, đồ gốm sứ đựng trong quách đá vỡ nát, các thứ bên trong cỗ áo quan cũng mất sạch. Lạt ma Á La chán chường ngồi bên cạnh cỗ quan tài nhỏ, đau lòng gần như muốn khóc: "Hết rồi, chẳng còn gì nữa cả! Lũ trộm mộ đáng chết, bọn chúng đã trộm hết các thứ rồi! Không, chúng có hiểu biết như vậy về huyết trì, không thể là bọn trộm mộ thông thường được, nhất định là bọn chúng, ngoài bọn chúng ra…"

Giáo sư Phương Tânlại đang hưng phấn không sao tả xiết. Máy quay trong tay ông giơ lên không ngừng nghỉ, như sợ bỏ sót mất chỉ một chút thông tin. Ông hiểu rõ, phàm là lăng mộ lớn, chủ nhân đều có để lại văn bia ghi chép các sự tích huy hoàng của mình lúc còn sống ở một nơi nào đấy. Những văn tự này không chỉ có tác dụng cực kỳ quan trọng đối với việc giải đáp nhiều câu hỏi về nền văn minh Maya, mà cao hơn thế nữa, bản thân nó đã là một pho lịch sử giúp hậu thế biết được chủ nhân của thành trì này, nguồn gốc của kim tự tháp này, cùng rất nhiều việc mà người ta không thể nào nghĩ tới. Trên vách đá có rất nhiều chỗ bong tróc, cả phiến đá khắc văn tự cũng đã rơi xuống đất vỡ tan tành. Giáo sư Phương Tân tỉ mỉ ghi hình từng mảnh vỡ một, dự định sau khi trở về sẽ dùng chương trình máy tính phục hồi nguyên trạng.

Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn nắm tay nhau đi quanh, như đang tham quan một viện bảo tàng vậy. Những bức họa tinh xảo như thật, các văn tự cổ xưa bí hiểm, cỗ quách khổng lồ, lẫn nền đá dưới chân, bước mỗi bước ở đây dường như đều là đi trên lịch sử, dưới mỗi dấu chân đều là một di tích từ ngàn xưa. Trên sàn nội sảnh là hai người khổng lồ vẽ theo tư thế đứng thẳng, góc nhìn nghiêng, một nam một nữ, phần đầu bị kéo ra vừa dài vừa dẹt. Người đàn ông gắn trang sức bằng lông chim nhô cao, áo ngắn có đinh mũ ở cầu vai và phiến giáp, trước ngực đeo một sợi dây chuyền xâu bằng ngọc phỉ thúy, ngoài ra còn đeo khuyên tai, vòng tay bằng ngọc, mình quấn da báo, tay cầm pháp trượng. Người đàn bà cũng trang điểm rực rỡ, thần sắc cung kính mà chan chứa tình cảm, dường như đang mỉm cười ngắm nhìn người đàn ông. Người nghệ sĩ đã dùng đường nét lưu loát trôi chảy mà điêu luyện của mình khắc họa nên nét mặt và tâm trạng khác nhau của hai nhân vật: người đàn ông ung dung, trầm tĩnh, uy nghiêm, người đàn bà cẩn trọng, hèn mọn, cung kính, trong ánh mắt cùng toát lên tình yêu sâu sắc. Xem ra đây hẳn là quốc vương tôn quý và ái phi của ông ta. Đường Mẫn nói: "Đúng là một đôi hạnh phúc khiến người ta phải ngưỡng mộ nhỉ."

Trác Mộc Cường Ba không nỡ phá hoại tưởng tượng lãng mạn của Đường Mẫn, bởi vì trong nội sảnh này chỉ có quan quách của một mình quốc vương, chứ không có của vị ái phi. Không hiểu biết lắm về văn tự và hình vẽ, gã quay sang nhìn cỗ quách đá khổng lồ. Nắp quách bị đập vỡ đôi, hai mặt trên dưới đều có khắc hình. Mặt trên bị đè lên, chỉ có thể nhìn thấy một ít vân hoa bên rìa, trông rất giống với hoa văn rồng của Trung Quốc cổ đại. Mặt dưới chạm khắc những hình ảnh khác của quốc vương, đang ngồi trên một cái mặt nạ khổng lồ, người ngả ra sau, mặt hướng lên trời cầu nguyện, hoặc quỳ gối khom lưng, hai tay một sấp một ngửa, dáng vẻ tựa như đang chìm đắm trong một cảnh giới siêu nhiên nào đấy. Nhìn đến bốn mặt cỗ quách đá, bên ngoài chạm khắc vô số hình tượng, có cây, có chim, có hoa văn, có thú, lại thêm thần minh ẩn hiện, tổng thể vô cùng phức tạp, thể hiện nghệ thuật cao siêu của những nhà điêu khắc Maya cổ đại; bên trong là hình phù điêu chín vị thần, có lẽ là chín vị dạ thần, để vị quốc vương nằm trong có thể thống soái chín vị thần của địa ngục này, nên để cho chín vị vây xung quanh quan tài bên trong. Bạn đang đọc truyện được copy tại Truyện FULL

Cỗ quan tài nhỏ lạt ma Á La đang dựa vào bên ngoài cũng trang trí những hình hết sức tinh xảo, nhưng bên trong tuyệt nhiên không có gì, có lẽ vốn được lót bằng loại vải trơn láng. Trác Mộc Cường Ba thấy lạt ma Á La ngây ngây ngồi cạnh chiếc quan tài, mắt ngước lên trần nhà như đã xuất thần, buộc miệng hỏi: "Sao vậy ạ? Đại sư?"

Lạt ma Á La trầm giọng đáp: "Không có gì, ừm… chắc là mệt quá, để tôi nghỉ ngơi một chút là đỡ ngay."

Đường Mẫn khẽ nói: "Nhìn bên kia kìa, những bức bích họa ấy…"

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu về phía bức tường dày đặc bích họa. Bức tranh Đường Mẫn chỉ vẽ vô số nô lệ bảo vệ một tảng đá khổng lồ hình vuông, bên cạnh có một thầy tế ăn mặc lòe loẹt đang hành lễ với mấy nô lệ đứng trước mặt. Tảng đá vuông trông rất giống huyết trì. Trác Mộc Cường Ba đã hiểu ra, đây là nghi thức đóng lăng mộ của người Maya. Nhưng giữa bức tranh dường như có những đường vân li ti chia nó thành vô số ô vuông nhỏ, dưới mỗi ô đều có ký hiệu là những chấm đen, ô ba chấm, cũng có ô một chấm, hai chấm. Trác Mộc Cường Ba không hiểu ý nghĩa của các ký hiệu, phỏng đoán có lẽ là dấu hiệu chỉ dẫn dùng để ghép bức tranh tường lớn này. Đúng lúc đó, giáo sư Phương Tân nói với Trác Mộc Cường Ba: "Cường Ba à, cậu cẩn thận nhấc cái nắp này lên, tôi muốn ghi lại các hình khắc, không thể bỏ sót thứ nào được."

Trác Mộc Cường Ba gồng hết sức lực, bắp thịt gồ lên, chống nửa phiến đá lên cho giáo sư Phương Tân ghi hình. Hình khắc trên nắp quách đá hết sức quái dị, chỉ một nửa thì tạm thời chưa nhìn ra là cái gì, nên phải nhập đủ cả vào ổ dữ liệu máy tính. Giáo sư Phương Tân hầu như đã nhập xong toàn bộ các hình vẽ tranh khắc trong gian nội sảnh này vào máy tính, liền thử ghép chúng lại với nhau. Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn chụm đầu xem. Dần dần, hình dáng cỗ quách đá đã được phục dựng, một nửa có hình con rắn mọc lông vũ quấn quanh, dáng vẻ sống động như thật, nửa còn lại khắc hình vị thần linh Đầu trâu Mặt ngựa. Giáo sư Phương Tân nói: "Không ngờ địa vị lại ngang với cả thần Kukulkan nữa này!"

Vừa lúc đó, lạt ma Á La đang chìm trong ảo não đã dần tỉnh táo trở lại. Ông đứng lên, lẩm bẩm: "Không đúng, sao gian nội sảnh này lại nhỏ như vậy, ở đây không đúng rồi."

Giáo sư Phương Tân ngẩng đầu: "Ừm, phải đấy, bên kia còn một cánh cửa lớn, tôi cũng không hiểu trong lăng mộ này còn thứ gì nữa, xem ra còn quan trọng hơn cả chính nó nữa."

Lạt ma Á La vừa vào đây đã xông thẳng tới chỗ quan tài, giáo sư Phương Tân bận rộn ghi hình cả gian đại sảnh, Đường Mẫn từ đầu đến cuối mê mẩn ngắm các tuyệt tác bích họa, còn Trác Mộc Cường Ba thì không hiểu biết lắm về những thứ này, không ai để ý tới cánh cửa bên trong lăng mộ. Nghe giáo sư Phương Tân nhắc, cả bốn người không ai bảo ai bất giác cùng bước tới đo. Chính giữa bức tượng đá gồ lên một cánh cửa tam giác, nhô khỏi tường đến hơn một mét, trông có vẻ rất dày và nặng. Hai bên cửa vẽ chi chít ký hiệu, giữa cửa chạm nổi hình người dắt con quái thú. Về ý nghĩa của những hình ảnh đó, không ngờ cả giáo sư Phương Tân lẫn lạt ma Á La đều không nói gì được. Nhưng lạt ma Á La đã phát hiện ra tấm cửa đá có hai lỗ nhỏ và năm măng đá nhô ra.

Lạt ma Á La nói: "Xem ra phải có chìa khóa mới mở được cánh cửa này rồi, tổng cộng có bảy chìa thì phải." Trong khoảng khắc, ông liền trở nên hưng phấn: "Bọn trộm mộ không mở được cánh cửa cuối cùng này, vì không đủ chìa khóa, chỉ có năm chiếc, vẫn còn thiếu hai."

Trác Mộc Cường Ba nhìn các măng đá hình cánh chim, hỏi: "Đây là chìa khóa hay sao?" Gã cảm thấy năm măng đá này trông hết sức quen mắt.

Lạt ma Á La đáp: "Không sai, đây là chìa khóa mài bằng đá, nhìn dáng của cái lỗ này, chắc là tựa như quả trứng vậy." Ông thầm nhủ: "Cả chìa khóa cũng giống nhau như vậy, nhất định không thể sai được, tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu nhất định đang ở trong kia."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi…hình như tôi có một chiếc chìa khóa," rồi vội lấy viên thánh thạch của người Kukuer trong ba lô ra.

"A!" Tâm trạng lạt ma Á La như thể vù một cái từ dưới địa ngục bay thẳng lên thiên đường. Quả là có Đức Phật vạn năng chỉ đường dẫn hướng, chuyện như vậy không thể ngờ cũng xảy ra được. Hai tay ông run run nâng viên thánh thạch lên, nhìn những đường rãnh trên đó, kích động nói: "Đúng rồi, đúng rồi, đây đúng là chìa khóa mở cánh cửa này, đối ứng dấu hiệu trên cánh chim với hình vẽ trên lỗ tròn, chắc là… đây là chìa khóa cuối cùng, cắm vào cái lỗ thứ bảy." Lạt ma Á La giơ viên thánh thạch lên ngang với lỗ tròn, chỉ nghe "cách" một tiếng, chìa khóa chui khớp vào lỗ. Nhà sư già chầm chậm ấn chìa khóa, nói: "Phải thuận theo đường rãnh mà tra chìa, bằng không sẽ không thể cắm lút vào được, cánh cửa này cũng không thể mở ra." Sau mấy tiếng "cách cách" liên tiếp, chìa mới hoàn toàn cắm vào lỗ khóa, viên thánh thạch lúc này nhìn chẳng khác gì những chiếc chìa khóa khác, chỉ còn lại một phần nhỏ hình cánh chim bên ngoài. Lạt ma Á La giờ mới bắt đầu vặn chìa khóa, tất cả đều nín thở chăm chú quan sát, chờ đợi nghe cánh cửa đá phát ra những âm thanh khiến người ta khích động.

Chìa khóa vừa xoay, cánh cửa hình tam giác cũng bắt đầu nhích động, không ngờ lại nhô ra ngoài thêm mấy chục centimet nữa. Lạt ma Á La gật đầu nói: "Giờ chỉ còn chiếc chìa khóa cuối cùng nữa thôi." Nói xong ông đưa mắt nhìn ba người, như thể hy vọng lại có ai đó đột nhiên lên tiếng "tôi có chìa khóa," nhưng lần này thì không ai trả lời nữa. Bốn người đều lấy làm thất vọng. Đường Mẫn thắc mắc: "Đại sư, bên trong có gì vậy?"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Không biết, nhưng cánh cửa này chưa từng được mở ra lần nào, mà bên trong là một không gian rất lớn nữa, không phải vậy sao?"

Đường Mẫn lại hỏi: "Sao ngài biết là cửa này chưa bao giờ mở ra?"

Lạt ma Á La chỉ vào hàng chìa khóa giải thích: "Những chiếc chìa khóa này đều khắc rãnh hoa văn móc ngược, chúng được thiết kế để chỉ có thể sử dụng một lần, một khi đã cắm vào lỗ khóa thì không thể nào rút ra được nữa, vì vậy mới có năm chiếc chìa khóa bị bỏ lại đây, hiểu chưa hả? Có điều cũng phải hỏi lại, Cường Ba thiếu gia, cậu lấy đâu ra chiếc chìa khóa ấy thế?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Chuyện này à, nói ra thì dài lắm!" Lúc này, cánh cửa khung xương khổng lồ lại phát ra tiếng động, giáo sư Phương Tân kêu lên: "Cánh cửa kia sắp mở ra rồi, chúng ta mau nấp đi." Lạt ma Á La dường như chạm vào thứ gì đó trên cánh cửa đá hình tam giác, sau đó mới theo chân ba người nấp vào chỗ tối.

Cánh cửa đá lớn cuối cùng cũng mở ra một khe nhỏ, Soares vội vàng lách người len vào. Vừa vào bên trong, trông thấy nắp đá dựng nghiêng dựa vào quan tài, y lập tức hiểu ra, đã có người vào đây rồi. Song Soares vẫn cứ lẳng lặng đi thẳng tới chỗ cánh cửa đá hình tam giác, đồng thời hết sức cẩn thận quan sát xung quanh, thầm tự nhủ: "Sao lại thế được, chúng vào bằng đường nào chứ nhỉ? Giờ lại nấp đi đâu rồi?"

Đi tới trước cánh cửa đá, cảnh tượng trước mắt gần như làm y quên mọi nguy hiểm xung quanh… trên cửa rõ ràng có cắm sáu chiếc chìa khóa, cũng có nghĩa là, y sẽ trở thành người đầu tiên mở được cánh cửa đá này! Soares không sao kiềm chế nổi mà bật cười thành tiếng: "Ha ha, ha ha ha! Ha ha ha ha…"

Soarese lấy chiếc chìa khóa cuối cùng ra, trước khi cắm vào lỗ khóa, trong đầu y chợt vang lên lời cảnh cáo của người đó: "Những totem và ký hiệu tượng hình này nói cho chúng ta biết, bên trong là nơi trú ngụ của vị thần linh cao quý nhất, ngay cả quốc vương cũng chỉ có thể là kẻ hầu hạ ngủ cùng với Người. Để vị thần vĩ đại này có thể sống thoải mái trong địa cung, bọn họ (tức người Maya) đã chuẩn bị cho thần một lượng thức ăn phong phú, họ gọi đấy là thần Dakanua, tao nghĩ chắc chính là lũ chuột khổng lồ châu Mỹ kia. Chúng mày thử nghĩ xem, sinh vật dùng chuột khổng lồ châu Mỹ làm thức ăn, thể hình phải lớn đến nhường nào chứ?"

Lúc ấy y đã hỏi: "Đã hơn một ngàn năm rồi, chẳng lẽ sinh vật kia vẫn còn sống hay sao?"

Đôi mắt u uất kia quét lướt qua người y, làm y hoảng hốt bất an, chỉ biết cúi gằm mặt xuống lau mồ hôi. Một thoáng sau mới nghe người kia nói: "Ở tổ quốc của tao có một câu ngạn ngữ nói rằng, linh xà ngàn tuổi rùa vạn tuổi. Vì vậy, nếu nói sinh vật nào có thể sống một ngàn năm, rắn tuyệt đối có thể nằm trong phạm vi tuyển trạch. Theo như tao đoán, bên trong chắc là đang nhốt một con trăn cực lớn, vốn đã tuyệt tích từ lâu, vị đại thần cực kỳ tôn quý, cũng chính là vị thần người Maya sùng bái nhất… thần Kukulkan! Một con trăn khổng lồ có lông vũ! Cũng chính vì vậy, lần này chúng ta không thu thập đủ chìa khóa nói không chừng còn là một chuyện may mắn nữa, camera thả từ trên hố hiến tế ở tầng trên đã cho chúng ta thấy bên trong này không có gì hết, thứ duy nhất tồn tại được, chỉ có thể là loại sinh vật đáng sợ ấy thôi. Cánh cửa cấm này, chúng ta đừng mở ra nữa thì hơn."

Soares chà xát mồ hôi trong lòng bàn tay vào chiếc quần bó, hạ quyết tâm cắm chiếc chìa khóa cuối cùng vào mở cánh cửa cấm kỵ, y thầm nhủ: "Có lẽ đối với những người khác trong đội, cánh cửa cấm kỵ này chỉ đem lại nguy hiểm mà không hề có ích lợi gì, nhưng với ta, loài sinh vật chưa biết tên ấy sẽ thay đổi cuộc đời của ta. Chuyến này ta băng rừng vượt suối tới đây, mục đích cuối cùng chính là để mở cánh cửa này ra. Bất kể lũ chuột hay quân du kích, không kẻ nào có thể ngăn ta được!" Nghĩ đến đây, chiếc chìa khóa đã chuyển động, Soares cảm thấy toàn thân mình ướt đẫm mồ hôi. Bốn người đang nấp trong bóng tối quan sát y cũng vã mồ hôi, ai nấy đều chăm chú mở mắt trừng trừng nhìn cánh cửa hình tam giác. Rốt cuộc sau cánh cửa đó là gì vậy?

Kỳ quái, Soares xoay chìa khóa rồi, nhưng cửa đá không dịch chuyển như lúc lạt ma Á La xoay chìa khóa, mà cũng không có động tĩnh gì, Soares tiếp tục vặn, nhưng chiếc chìa khóa bằng đá không hề nhúc nhích. Nét mặt y lúc này hệt như một bà mẹ vừa lạc mất con, cuống cuồng kiểm tra khắp cánh cửa đá, nhưng hoàn toàn không thể phát hiện ra được điều gì. Y nôn nóng đi đi lại lại trong gian nội sảnh, đột nhiên phát hiện ra lối vào nhỏ kia, liền cả giận gằn giọng nói: "Khốn kiếp, phá hoại huyết trì làm hỏng chuyện tốt của tao!" Nói đoạn, thân hình y đã biến mất trong cửa hang ấy.

Lạt ma Á La nhảy xồ ra, hết sức nhanh nhẹn gạt một cơ quan chỗ góc tường. Cửa hang lập tức đóng chặt lại, ngăn cách Soares và bốn người ở hai phía. Sau đó, lạt ma Á La lại bắt đầu điều chỉnh bên cạnh cánh cửa hình tam giác. Không hiểu ông đã đụng phải chỗ nào, cánh cửa đột nhiên bắt đầu nhích động. Lạt ma Á La thở phào một tiếng: "Được rồi, giờ người kia đã tạm thời cũng không thể trở lại đây. Dựa theo những gì chúng ta đã trải qua, hắn muốn chạy từ chỗ đại sảnh tới cánh cửa lớn, ít nhất cũng phải tốn nửa tiếng đồng hồ."

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt: "Đại sư, ngài, sao ngài biết ở đây có cơ quan vậy?"

Lạt ma Á La mắt sáng long lanh, không nói gì mà chỉ nhìn xoáy vào cánh cửa đá khổng lồ. Sự chú ý của Trác Mộc Cường Ba cũng nhanh chóng bị cánh cửa hình tam giác đang từ từ mở thu hút.

Soares nấp sau một bức tượng đá, vừa rồi y chỉ giả bộ chui vào đường hầm chứ thực ra đã nhanh nhẹn nấp vào một bên, thầm nhủ: "Giờ thì sáng tối đảo chiều rồi, chuột nhắt vẫn là chuột nhắt, trò như vậy làm sao mà lừa được tao chứ."

Tưởng chừng như vừa mở ra một lỗ thông gió, tất cả đèn lửa đều lay động bạt về phía cánh cửa đá hình tam giác. Cánh cửa từ từ dịch mở, trái tim bốn người và cả Soares đang ở trong bóng tối quan sát cùng nhảy vọt lên tới tận miệng. Lớp bụi dưới chân cửa bị thổi bay, cả cánh cửa mở tung. Bốn người đứng trước cửa cũng hoàn toàn đờ đẫn, hết sức kinh ngạc nhìn thứ ở bên trong. Dù có là một con khủng long thời tiền sử trong cửa nhao ra, e cũng không thể khiến họ kinh ngạc đến mức ấy.

Bên trong cánh cửa có một người!

Hơn nữa còn là một người châu Á da vàng mắt đen luống cuống nhìn bốn người đang đứng trước cửa, ngây ra một lúc lâu, mới lắp bắp nói: "Ai em, ai em chai ma ri."

Bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba như nhìn thấy quái vật thời tiền sử, một lúc sau mới hiểu ra, người kia đang nói tiếng Anh, ý là: "Tôi là người Trung Quốc!" liền ngay sau đó là cảm giác chóng mặt choáng váng, đến cả Soares cũng có ý định đập đầu vào tường cho xong. Một cánh cửa ngàn năm nay chưa từng được mở, bên trong không ngờ lại là một người Trung Quốc. Đây chính là thứ bao nhiêu năm nay y tìm kiếm khổ sở đấy hay sao? Soares thật chỉ muốn tìm một miếng đậu phụ đập đầu vào mà tự tử.

Nhưng gian trong cánh cửa nhỏ hơn nội sảnh rất nhiều, ngoài người tự xưng là "chai ma ri" kia thì không có gì nữa. Chừng năm trăm mét không gian hình bán nguyệt có vô số lỗ tròn đường kính trên chục mét đục thông ra, bên trong tối đen như mực, nhưng nhìn có vẻ không phải để chứa đồ đạc, mà ngược lại trông rất giống với hầm chuột chui trong gian đại sảnh "bầu trời sao".

Trác Mộc Cường Ba cẩn thận quan sát "chai ma ri", thấy anh ta cao chừng mét bảy, khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, đầu cắt theo kiểu Đặng Tiểu Bình, tướng mạo Trung Quốc điển hình không sai vào đâu được, mặt chữ điền, mắt vuông mày rậm, mũi tẹt môi dày, để ria con kiến, nhìn bề ngoài có vẻ trung hậu thật thà, trên người đeo chéo một cái ba lô vải buồm, quần áo rách bươm rách bướp, chân dính đầy bùn, trông cũng khá giống một ông nông dân. Một lúc lâu sau, gã mới lên tiếng trả lời: "Chúng tôi, cũng là người Trung Quốc!"

Người kia vừa nghe thấy thế, không nói nổi một câu đã khuỵu xuống đổ vật vào lòng Trác Mộc Cường Ba như Đường Mẫn vậy, nước mắt đầm đìa nghẹn ngào kêu lên: "Ôi, ôi cha ơi, tôi tưởng mình không bao giờ ra đây được nữa chứ, hức hức…"

Người kia rõ ràng gần như kiệt sức, cần thức ăn và nước. Đã hết thức ăn, Đường Mẫn đành cho anh ta uống một ít nước đường gluco. Bốn người tốn mất một lúc lâu mới biết được, người này tên là Vương Hựu.

Thang treo di động

Roman, serif; 13.5pt; mso-ansi-language: DE" lang=DE>"Đợi chút đã, anh nói cái gì cơ? Nhóm phượt hả? Tôi có nghe nói đến các anh rồi! Hả, trời ơi, anh là thành viên nhóm phượt, có biết người nào tên là Sean không?" Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra anh chàng tóc bạch kim.

Vương Hựu gật đầu: "Sean, quý ông người Anh lịch sự nhã nhặn ấy hả? Ừm, anh ta đúng là có phong độ của quý ông. Tôi cứ nghĩ là anh ta không phù hợp tham gia nhóm phượt này cơ đấy, không ngờ kinh nghiệm của anh chàng ấy cũng phong phú lắm. Các anh cũng gặp họ rồi à? Giờ họ thế nào rồi?"

Lạt ma Á La nói: "Được rồi, bây giờ không phải lúc kể chuyện xưa, làm thế nào mà cậu lại rơi xuống đó được? Bên trong đúng là không có gì hết cả à?"

Vương Hựu vắt óc suy nghĩ rồi đáp: "Lúc ấy, chúng tôi xuống đến tầng thứ ba, tôi đang ở cạnh một miệng hang, đột nhiên thấy choáng váng, giống như cửa hang có gió, bên trong dường như có một sức hút lạ kỳ, chẳng hiểu sao mà tôi lại rơi xuống dưới đó, sau rồi thì không còn biết gì nữa cả. Đợi chút đã, tôi nhớ Ricky có kéo tôi lại, hình như là hai chúng tôi cùng rơi xuống đây, nhưng lúc tỉnh lại tôi đã tìm khắp nơi mà không thấy anh ta đâu. Còn cả Sasaki và Khải Đặc nữa, cũng không biết bọn họ thế nào rồi."

"Bình", một con chuột khổng lồ đang húc mạnh vào cửa đá. Vương Hựu kinh ngạc nhìn ra bên ngoài: "Hả, trời đất ơi, đây là cái gì vậy? Động vật gì mà lớn thế?"

Giáo sư Phương Tân nói nhanh: "Có vẻ như bọn chúng đã chú ý tới chúng ta rồi, cần phải nhanh chóng tìm đường lên trên. Tốc độ của chúng rất nhanh, nếu cả ai bên đều bị chặn đường thì chúng ta đúng là không còn hy vọng sống sót nữa đâu."

Lạt ma Á La dường như vẫn không cam lòng, ông kiểm tra từng miệng hố trong gian đại sảnh sau cánh cửa hình tam giác, rồi thất vọng nói: "Bên trong cánh cửa cuối cùng này lại chẳng có thứ gì hết, sao lại như vậy được nhỉ?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Nhìn cấu tạo bên trong này, trông giống một nơi để hiến tế, dường như người Maya nuôi dưỡng thứ gì đó trong này, và có thể thả đồ ăn từ trên kia xuống. Nhưng nếu bảo là có động vật, bên trong phải có rất nhiều xương cốt hoặc thứ khác nữa mới đúng, nhưng ở đây lại không có gì. Nếu cả lũ trăn Nam Mỹ, chuột khổng lồ cũng đều do họ nuôi thả cả, vậy thì sao phải nuôi nhiều động vật lớn ở tầng này như thế, rốt cuộc là có dụng ý gì vậy nhỉ?"

Đường Mẫn nhìn cửa hầm nhỏ lúc họ đi vào: "Nhưng người vừa nãy cũng đi đường này ra, nếu chúng ta đi ra gặp phải hắn ta thì làm thế nào?"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Chắc không đâu, hắn phát hiện ra cửa hầm đã bị bịt lại, sẽ biết ngay chúng ta vẫn còn chưa đi, nhất định sẽ liều mạng mà chạy trở lại đây, đi thôi, để tôi dẫn mọi người tìm đường lên phía trên. Vách tường của các gian đại sảnh ấy rất cổ quái, mọi người không nhận ra à?"

Năm người lại bò ra qua đường hầm nhỏ. Soares bước ra khỏi bóng tối, nhìn những đường hầm tối tăm sau cánh cửa hình tam giác, lẩm bẩm: "Không thể nào, cho dù đã chết rồi thì cũng phải còn lại xương cốt chứ, nhất định ta phải tìm bằng được thần Kukulkan của người Maya." Nói đoạn y liền bước vào một trong những đường hầm tối om ấy.

Năm người vừa chui ra khỏi đầu bên kia, bỗng nghe thấy tiếng thở hổn hển. Có người đang lớn tiếng quát tháo. Thấy họ hình như không hiểu, người kia liền nhanh chóng chuyển sang tiếng Anh: "Đứng yên, không tao bắn."

Trác Mộc Cường Ba không khỏi luống cuống, rốt cuộc là tầng này có bao nhiêu tên du kích vậy. Bọn họ xoay người qua, liền trông thấy Gonzales đang cầm súng máy thở phì phò, thân hình trông như trái bóng thịt lắc lư dưới ánh lửa.

"Là mày, mày là thằng người Trung Quốc ấy, Thác Mộc Tượng!" Trác Mộc Cường Ba chưa từng gặp Gonzales lần nào, bị hắn gọi tên thì lấy làm kinh ngạc, liền hỏi: "Sao lại biết tên tôi?"

Gonzales cười gằn, chỉ chỉ nòng súng, nói: "Nói ít thôi, mở ba lô ra!" Hắn đã thấy Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn đeo hai cái ba lô to tướng, chắc mẩm bên trong đựng rất nhiều đồ cổ. Trác Mộc Cường Ba thoáng động tâm, chuẩn bị lợi dụng lúc mở ba lô sẽ khống chế tên du kích này. Ai ngờ ý định vừa nảy ra trong đầu, Gonzales như lập tức nhìn thấu, giương súng lên bắn chỉ thiên một loạt đạn, làm Đường Mẫn và Vương Hựu cùng kêu rú lên, ba người còn lại cũng rụt đầu theo phản xạ tự nhiên. Gonzales nói: "Mày, mày, cả mày nữa, ném ba lô xuống đất, tất cả lùi lại hết cho ta, đừng có mà giở trò trước mặt thằng này." Cả chiếc ba lô leo núi dẹp lép trên lưng Vương Hựu hắn cũng không chịu bỏ qua.

Trác Mộc Cường Ba không ngờ tên béo này lại ranh mãnh như vậy, song trước họng súng của hắn, ba người đành miễn cưỡng bỏ ba lô xuống đất, sau đó lùi lại phía sau mười mấy bước, đứng dựa lưng vào huyết trì. Gonzales vừa nhìn chằm chằm vào bọn họ, vừa cẩn thận mở ba lô Trác Mộc Cường Ba đeo ra, lục lọi một lúc, thấy bên trong toàn là thiết bị giám trắc không khí, máy giám trắc thủy văn, dây an toàn, đèn chiếu sáng, thì nổi giận bừng bừng nói: "Toàn những thứ vứt đi!"

Y lại hung hăng mở cái ba lô Đường Mẫn đeo ra, kết quả lại càng thất vọng hơn, liền lớn tiếng hỏi: "Tao thấy mấy đứa chúng mày bò ra khỏi miệng hầm đó cơ mà, chúng mày, chúng mày bò bên trong ấy ra, tại sao lại không có thứ gì? Tại sao chúng mày không lấy thứ gì hết?"

Nhìn vẻ mặt Gonzales năm người đều có thể nhận ra tâm trạng lúc này của hắn. Vương Hựu chế giễu: "Bên trong mà có thứ gì chẳng lẽ chúng tôi lại không lấy. Mộ thất trong ấy sớm đã bị người ta vơ vét sạch sẽ rồi, bây giờ ngoài một cỗ quan tài ra, chẳng còn gì sất."

Trác Mộc Cường Ba định ngăn Vương Hựu, không để anh ta chọc giận tên du kích có vũ khí trong tay này, chẳng ngờ Vương Hựu lên tiếng bất ngờ lại còn nói nhanh nữa. Quả nhiên, sắc mặt Gonzales vụt biến đổi, thoạt đầu lẩm bẩm: "Bên trong không có gì hết? Bị trộm sạch rồi? Hắn lừa tao! Hắn lại dám lừa tao chứ!" Sau đó hắn đanh mặt, cuối cùng giẫm giẫm lên ba lô leo núi của Vương Hựu mấy cái. Cái ba lô xẹp lép ấy không phải mở ra, chỉ cần đụng vào là biết ngay bên trong chẳng có cái gì rồi. Gonzales bỗng dưng phát cuồng, rút dao săn ra đâm loạn xạ vào cái ba lô của Vương Hựu, hét: "Tao phải giết chúng mày! Tao phải giết chúng mày!" đồng thời giương súng lên bắn loạn xạ.

Năm người vội hoảng hốt chạy dạt ra. Trác Mộc Cường Ba chộp được vật gì đó, theo bản năng, ném luôn về phía Gonzales. Té ra là đầu lâu của một tên du kích bị Soares bỏ đi không dùng đến. Cái đầu này do chính tay Gonzales đã cắt. Gonzales nhất thời đầu óc hoảng loạn, đánh rơi cả súng, đang định nhặt lên, nhưng lạt ma Á La đã không cho hắn cơ hội đó, đá bay một khúc xương tới, kế đó phi thân lao vút vào, đá văng thân thể béo ung ủng củng Gonzales. Gonzales lăn lốc mấy vòng, vội lẩn sang một bên ẩn náu. Diện tích đại sảnh này rất lớn, muốn nhanh chóng tìm ra hắn cũng thật không dễ dàng chút nào. Trác Mộc Cường Ba nhấc ba lô lên vai nói: "Chúng ta đi thôi, rời khỏi đây trước đã, chúng ta không có thứ hắn muốn đâu." Kế đó gã lại lớn tiếng nói, "Này, chúng tôi không có thứ anh muốn, đừng gây phiền phức nữa, chúng tôi chỉ muốn rời khỏi chỗ này cho nhanh thôi!"

Ở phía sau, giáo sư Phương Tân đang lên lớp cho Vương Hựu một bài: "Đáng lẽ anh không nên nói vậy với hắn, lần sau gặp phải chuyện gì, anh đừng lên tiếng nữa, để chúng tôi giải quyết, OK?" Vương Hựu khàn khàn giọng nói: "Tôi biết rồi".

Lạt ma Á La nói: "Đi thôi, tôi cũng vừa mới nghĩ ra, để tôi dẫn mọi người đi xem các trụ ở vách tường kia có gì lạ."

Đợi cho năm người đi hẳn, Gonzales mới từ bóng tối bước ra, bất chấp tất cả, hai chân hắn chụm lại, dồn hết sức chui vào đường hầm nhỏ mà lạt ma Á La mở ra.

Năm người do lạt ma Á La dẫn đầu đi tới góc tường. Ở đây toàn là những trụ đá hơi cong cong hướng lên trên mô phỏng xương sườn của con người. Ông vuốt tay lên một trụ đá nói: "Ở đây có khía lõm vào này, có phát hiện ra không, hai bên cột đá đều có khía lõm vào đấy."

Trác Mộc Cường Ba sờ sờ vào những đường khía: "Như vậy nghĩa là sao?"

Giáo sư Phương Tân chợt kêu lên: "Tôi hiểu rồi, có biết giường gỗ trước đóng thế nào không? Hai mảnh gỗ, ở giữa đục khía, sau đó hai đầu thanh gỗ gá vót thành hình chêm, nhét vào. Nếu chúng ta kiếm được vài thứ đồ vật dài chừng một mét, gác vào trong các rãnh, như vậy, như vậy thì thành một cái thang treo rồi."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Nhưng kiếm đâu ra những đồ vật dài một mét ấy bây giờ? Hơn nữa, các trụ đá này đều có thể gá vào được, rốt cuộc ở đâu mới là lối ra đây?"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Không, không phải vậy. Trong những rãnh này có chốt gá sẵn, ấn xuống nó lại bật lên, đây là một loại công nghệ khảm đá nổi, giống như ấn một quả bóng da xuống nước ấy, dù đè sâu thế nào nó cũng tự nổi lên. Kỹ thuật này dùng để tạo một loại lẫy di động đơn hướng, để tôi nghĩ xem nên giải thích thế nào với mọi người cho dễ hiểu nào. Đúng rồi, hồi trước trên các đồng hồ cơ, có một kết cấu rãnh chốt, không biết mọi người có biết không."

Ngoài Đường Mẫn, ba người còn lại đều tỏ ý đã hiểu. Lạt ma Á La nói: "Loại rãnh đá này, hoạt động cùng một nguyên lý với rãnh của đồng hồ cơ, giống như còng tay vậy, có thể ấn vào, nhưng lại không thể rút ngược ra, như vậy, sẽ đảm bảo được phương hướng vận hành đồng nhất cho thang treo gắn trên đó. Nói cách khác, thang treo phía trên của tầng này sẽ tự di động, chứ không đứng yên một chỗ."

"Tự di động?" Trác Mộc Cường Ba không thể nào hiểu nổi.

Lạt ma Á La đáp: "Những rãnh đá này dường như là đường ray, còn thang treo thì giống như xe lửa, mãi mãi chuyển theo một hướng cậu hiểu chưa?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Còn động lực ở đâu? Có động lực gì đẩy nó tiến lên không?"

"Có chứ." Lạt ma Á La nói: "Nước xối từ trên tầng đỉnh xuống, chênh lệch chiều cao thẳng đứng lên tới mấy trăm mét, có thể cung cấp đủ động năng, hơn nữa còn vĩnh viễn không bao giờ cạn kiệt."

Trác Mộc Cường Ba kêu: "Không thể tin nổi, đây đúng là trí tuệ của người cổ đại hay sao?"

Giáo sư Phương Tân chợt lên tiếng: "Nói nhiều như vậy, giờ chúng ta biết tìm chỗ thang treo hiện ra ở đâu bây giờ?"

Lạt ma Á La đáp: "Chú ý ở góc tường, muốn xuất hiện được thang treo, góc tường nhất định phải có khe hở, hơn nữa khe đó còn phải đủ rộng nữa. Thông thường loại thang treo này sẽ đồng bộ với thời gian, tôi nghĩ, chúng ta cứ đi về phía Nam, chắc là sẽ phát hiện thôi."

Mới đi được chưa bao xa, họ đã phát hiện ra thang treo ở đại sảnh cách huyết trì ba gian về phía Nam. Thang treo toàn là những khúc xương gác vào giữa các trụ đá, quả nhiên đúng như lạt ma Á La nói, đang chầm chậm dịch chuyển lên trên với tốc độ mà mắt thường không dễ gì nhận ra được. Lúc năm người họ tới nơi, phần đáy thang treo đã lộ ra một khoảng trống. Trác Mộc Cường Ba vừa nhìn ra đã lập tức hiểu, lạt ma Á La nói lâu như vậy, thì ra nguyên lý hoạt động của thang treo này giống như băng chuyền, chỉ có điều là từ phương ngang chuyển thành phương thẳng đứng mà thôi.

Lạt ma Á La nằm lấy thang treo, nghiêng đầu nói: "Khi nó người giữ lại, sức nặng của cơ thể sẽ làm cả hệ thống ngừng vận động, sau khi treo lên rồi, thang treo sẽ lại tiếp tục chầm chậm chuyển động. Đây, chính là trí tuệ của người xưa." Nói đoạn, ông dẫn đầu trèo lên. Giáo sư Phương Tân sợ lạt ma Á La rơi xuống, vội vàng lên theo sau. Đường Mẫn ở giữa. Vương Hựu theo sau. Trác Mộc Cường Ba là người cuối cùng leo lên thang treo.

Lúc lên được chừng hai ba chục mét, trong cái ba lô bị thủng của Vương Hựu rơi ra một vật tròn tròn. Trác Mộc Cường Ba nhanh tay nhanh mắt, một tay bám thang, một tay bắt lấy, đưa mắt nhìn thử, thì ra là một cái gương đồng nhỏ, trông còn rất mới. Gã gọi Vương Hựu: "Này, đồ của anh rơi ra này." Vương Hựu ngoảnh đầu xuống, đón chiếc gương đồng trong tay Trác Mộc Cường Ba, nhét bừa vào túi áo, khàn khàn giọng nói: "Cám ơn." Trác Mộc Cường Ba thoáng liếc thấy mặt sau tấm gương đồng hình như có khắc tiếng Tạng, bèn hỏi: "Lấy ở đâu ra thế?"

Vương Hựu đáp: "Ồ, mua trong một chợ đồ thủ công ở Bogata, lúc ấy đã đến giờ xuất phát rồi nên bỏ luôn trong ba lô." Trác Mộc Cường Ba không hỏi gì thêm nữa. Gã cũng biết, gương đồng như vậy bây giờ đào được rất nhiều. Không chỉ ở Trung Quốc, mà các quốc gia lân cận Trung Quốc cũng có. Giá thị trường không cao lắm. Hơn nữa chiếc gương đồng này còn khá mới, có thể là do người đời sau làm giả cũng nên.

Năm người lên đến tầng thứ tư của địa cung. Từ đây trở đi hành trình bất ngờ trở nên thuận lợi, cuốn sổ ghi chép của Pieri dần đầy đủ hơn, số lượng bẫy rập và diện tích địa cung không ngừng thu nhỏ lại. Từ tầng ba trở đi thì Vương Hựu lại càng quen đường thuộc lối, đi trước dẫn đầu. Theo như anh ta nói, tâng một tầng hai hoàn toàn không có cạm bẫy gì hết, có thể dễ dàng đi thẳng lên trên. Dọc đường giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La hỏi han Vương Hựu rất nhiều. Anh chàng họ Vương phát âm không suôn sẻ lắm, nhưng để xóa bỏ mối hiềm nghi của những người này, đành nhất nhất trả lời, kể đại khái từ đầu chí cuối về chuyến du hành trong rừng nguyên sinh này một lượt.

Anh ta vốn là tổng giám đốc một công ty phát triển địa ốc, xưa nay rất thích thàm hiểm. Mới đầu mọi người thường vào một trang web chuyên về du lịch phượt, chỉ gửi thư mời qua mạng. Hành trình lần này là do một người Trung Quốc tên là Khải Đặc đề xướng, mục đích là băng qua khu rừng nguyên sinh nguyên vẹn cuối cùng ở Nam Mỹ. Các việc báo danh trên mạng, ký hợp đồng và lập di chúc, tất cả đều được thực hiện theo quy củ thông thường của các đoàn thám hiểm tự túc kinh phí. Sau đó cả đoàn ước định thời gian, từ khắp nơi trên thế giới tụ tập về Bogota. Anh ta và Khải Đặc là hai người Trung Quốc, Ricky là Hoa kiều Singapore, Sasaki là người Nhật Bản. Bốn bọn họ cùng ngồi một con thuyền nhỏ, lúc gặp phải đám du kích, không hiểu đã làm chuyện gì mà chọc giận bọn chúng, kết quả là phải bỏ chạy thục mạng, thuyền của họ đã lạc mất cả đoàn. Sau đó lại trải qua vô số những chuyện hung hiểm giống như bọn Trác Mộc Cường Ba đã gặp phải, cuối cùng thì tới được di tích này. Bọn họ vào trong từ lối thần miếu trên đỉnh kim tự tháp, hai tầng trên không có cạm bẫy gì, nhưng đến tầng thứ ba thì đột nhiên đụng phải chốt bẫy, luống cuống chân tay không biết phải làm sao, đang định ra khỏi kim tự tháp thì anh ta vì tò mò mà rơi vào cái hố ở tầng ba, sau đó bất tỉnh nhân sự. Lúc tỉnh lại, anh ta liền phát hiện ra mình đang ở trong một hang động tối om như mực, đã tìm kiếm khắp nơi mà không làm sao tìm được lối ra, cuối cùng phát hiện ra khe đá có ánh sáng, cũng đã dùng hết cách mà không mở được cửa đá. Ban đầu Vương Hựu còn có chút hi vọng những người đi cùng sẽ tìm thấy mình, kết quả chờ suốt một ngày một đêm, nước và thức ăn đều đã hết sạch, cổ họng gào thét đến khản đi, mà trước sau cũng không ai trả lời. Anh ta đã ngỡ mình sẽ bị chết trong cái hang tối ấy, đang mơ mơ hồ hồ thiếp đi thì bị tiếng động rầm rầm làm cho giật bắn mình tỉnh lại, cuối cùng trông thấy bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba.

Như Vương Hựu kể, anh ta đến sớm hơn mấy người bọn giáo sư Phương Tân một ngày. Nhân đó, giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba cũng kể lại những chuyện đã gặp phải. Lúc ở dưới kim tự tháp, mỗi giây mỗi phút họ đều phải hoảng loạn chạy trốn, quả thật chưa lúc nào có cơ hội để kể lại hành trình của mình. Trong cơn lũ, giáo sư Phương Tân và Đường Mẫn bị lạc mất lạt ma Á La và Ngải Lực Khắc, sau đó, giáo sư Phương Tân phải để lại ký hiệu ở gần thạch trận. Kết quả là vừa để lại ký hiệu xong, cả hai liền bị thổ dân ăn thịt người phát hiện, phải chạy thục mạng trong rừng một trận, mãi tới khi đám thổ dân bị một tổ du kích thu hút sự chú ý mới thoát khỏi truy đuổi, lại đi trong rừng mất hai ngày, chẳng hiểu đầu cua tai nheo thế nào mà tới được Bạch thành. Bọn họ cũng bị kỳ tích này thu hút cả tâm trí. Sau đó hai người vào một gian nhà trong thành nghỉ một đêm, hôm sau tỉnh lại, thì gặp bọn Trác Mộc Cường Ba và quân du kích chạy tới.

Trong lúc nói chuyện, bọn họ không ngờ đã lần lượt tìm thấy thi thể của Khải Đặc và Sasaki trong đám thây cốt tàn khuyết của quân du kích. Cả hai bị dã thú cắn cho nát bấy người, đầu mặt tay chân đều không còn nguyên vẹn. Vương Hựu cố nén đau thương thu nhặt di vật của họ vào ba lô, định sau này sẽ trao lại cho người thân. Năm người lại tiếp tục đi lên, trong lòng cảm thấy hết sức nặng nề, bởi dù có ra khỏi được kim tự tháp này, trong rừng rậm mênh mông như thế, họ không biết sẽ còn phải làm gì đây. Trác Mộc Cường Ba không nhịn nổi ngoác miệng chửi Lữ Cánh Nam, bảo đáng lẽ nên để cô tự thưởng thức và cảm nhận chuyến đi nguy hiểm này mới phải. Giáo sư Phương Tân cũng mở miệng, cơ hồ muốn nói điều gì đó, nhưng cuối cùng ghìm lại được.

Soares chán nản cực độ, cảm giác toàn thân không còn chút sức lực nào, tựa như đột ngột bị hạ đường huyết vậy. Y đã vào tất cả các miệng hang, thảy đều không có gì, vật sống, xương cốt, hoặc những mảnh xác không lành lặn bị động vật ăn còn thừa lại, vật bài tiết, trong hang không có gì hết. y nhiếc mắng bản thân mình quá ngu dốt, biết rõ là không thể hoàn toàn tin vào những gì người đó nói, nhưng tại sao y lại không thể kiềm chế được mà cứ tín nhiệm hắn cơ chứ? Vất vả cực nhọc kiếm được chìa khóa, suýt chút nữa còn chết dưới mũi giáo của bọn thổ dân ăn thịt người, vậy mà kết quả chẳng có chút ý nghĩa gì, công toi một bận. Y ôm trong lòng ngọn lửa phẫn nộ bừng bừng đi ra nội sảnh, liền trông thấy thân thể mập ú của Gonzales đang bò toài ra trên nắp quan tài đá, trông chẳng khác gì một con sâu rau núc ních đang ra sức trèo lên một chiếc lá cây, nhưng chiếc lá ấy lại không chịu được trọng lượng của nó, cứ rung rinh chực rụng, nhìn thật vô cùng hài hước.

Gonzales ngoảnh đầu lại, trông thấy Soares, liền nghiến răng kèn kẹt hỏi: "Bên trong chẳng có thứ gì cả! Ông đã biết trước rồi đúng không? Tại sao lại gạt tôi! Tại sao lại gạt tôi!"

Soares hoàn toàn có thể chối, nhưng lúc này tâm trạng y đang cực kỳ tồi tệ, lời ra đến cửa miệng rồi lại đột nhiên biến đổi: "Đúng vậy, tao lừa mày đấy, vậy thì sao! Tự mày ngu xuẩn thôi, còn trách ai được nữ! Cái đồ đầu lợn!"

"Được lắm!" Gonzales lăn từ trên tấm đá xuống, nhìn cánh cửa hình khung xương mới chỉ hé ra một khe nhỏ và đường hầm không lớn lắm kia, cầm súng lên gằn giọng nói: "Ở đây, mày không thể gọi lũ động vật ấy đến đúng không, tao muốn… phân thây mày ra!" Hăn chuẩn bị bắn tàn phế tứ chi Soares trước, sau đó từ từ giày vò y, hòng phát tiết phần nào mối hận bị ép phải làm tên đồ tể.

Sống sót trở về

Roman, serif; 13.5pt; mso-ansi-language: DE" lang=DE>Chẳng ngờ tiếng súng vừa nổ vang, Soares đã lăn xuống đất, không hiểu rút đâu ra một sợi roi dài, từ khoảng cách mười hai mét vung tay quật một phát, đầu roi lập tức quấn lấy khẩu súng trong tay Gonzales, giật mạnh một cú, hất văng ra xa đằng xa, kế đó là hết roi này đến roi khác quật xuống cơ thể phì nộn của Gonzales không chút thương tiếc, đánh cho tên béo phải gào thét thảm thiết. Cuối cùng, Soares quấn sợi roi vào cổ Gonzales, kéo hắn lại gần, rồi đập mạnh cho hôn mê bất tỉnh, ném vào bên trong cánh cửa tam giác, lạnh lùng nói: "Mày không nên chọc giận tao vào những lúc thế này mới phải, cho dù không có động vật, thằng béo chết tiệt mày cũng không đáng để tao coi vào mắt đâu. Cho mày thành một phần của địa cung ** Puch này vậy!"

Soares gạt chốt trên cửa đá, đẩy cánh cửa hình tam giác trở lại chỗ cũ. Cơ quan trên cánh cửa này đã không thể tái sử dụng được nữa, cửa đóng lại, thì sẽ không bao giờ mở ra được. Nhìn cánh cửa đang chầm chậm khép chặt, Soares nở một nụ cười lạnh lùng tàn khốc. "Tầng ba hình như có chỗ bị người ta phá hoại rồi, vẫn còn kẻ nào khác muốn vào đây hay sao, mình phải lên đó xem mới được." Soares cúi đầu ủ rũ thầm tính toán, song lại chẳng có chút nhiệt tình hăng hái nào. Đúng lúc này bỗng nghe "bộp" một tiếng, có thứ gì đó mềm mềm rơi xuống đất. Soares ngước nhìn về phía cánh cửa hình tam giác, thứ đó chính là rơi từ trên đỉnh nhọn của tam giác xuống. Nếu không có người mở cửa, vật đó sẽ không dịch chuyển ra, nếu không có người đóng cửa đá lại, vật đó cũng sẽ không rơi xuống, không hiểu thứ gì mà được giấu khéo léo đến nhường ấy. Soares nhặt nó lên, phủi bụi đất bám trên bề mặt, thì ra một mảnh da thú đã được xử lý bằng phương pháp đặc biệt, trông có vẻ rất chắc chắn. Soares cẩn thận quan sát tấm da thú thật kỹ lưỡng, "Đây… đây… nơi được vẽ trên tấm bản đồ này… hình như là Trung Quốc mà!"

Lại đi thêm một lúc lâu nữa, dưới sự chỉ dẫn trong cuốn sổ ghi chép của ông Pieri, năm người nấp trong một không gian kín ở tầng hai, tránh được đoàn quân dơi về ổ, sau đó lại tiếp tục lên trên, cuối cùng, cũng trông thấy cánh cửa lớn thông ra phía ánh sáng. Không hiểu tại sao, mọi người đều không hề vui mừng hớn hở. Giáo sư Phương Tân hỏi Vương Hựu: "Sau khi ra ngoài anh tính thế nào, đi với chúng tôi hay là…" "Đương nhiên là đi cùng mọi người rồi." Vương Hựu không nghĩ ngợi gì đã trả lời luôn, anh ta hiểu rất rõ, ở một nơi thế này, đơn thương độc mã cũng gần như đồng nghĩa với cái chết.

Giáo sư Phương Tân nói: "Nhưng tôi phải nói cho anh biết một điều, cả chúng tôi cũng không hề tự tin có thể ra khỏi khu rừng này, mà khả năng lớn nhất chính là, mọi người chết chung một chỗ." Điều giáo sư Phương Tân vừa nói, cũng chính là điều mỗi người đang nghĩ trong đầu. Mọi người đều bị hoàn cảnh bức bách trong rừng mà chạy tới nơi đây, không có thức ăn cũng chẳng có phương hướng, không ai biết cánh rừng này là ở đâu, muốn ra khỏi chốn này không dễ, trừ phi xuất hiện kỳ tích. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cả năm người đều không thể nào mừng vui cho nổi.

Vương Hựu nói: "Tôi biết chứ, nhóm phượt bọn tôi, mỗi lần tổ chức đoàn thám hiểm, trước khi xuất phát đều phải ký tên trong bản tuyên bố trách nhiệm và viết di chúc, tâm lý chúng tôi đều đã được chuẩn bị. Dù sao, nơi nguy hiểm nhất khó khăn nhất chúng ta cũng đã vượt qua, sẽ không có thứ gì có thể cản bước chân cầu sinh của chúng ta nữa đâu." Một câu nói này có tác dụng cổ vũ rất lớn. Giáo sư Phương Tân hít sâu một hơi, nói: "Nếu anh đã nghĩ như vậy, chúng ta đi thôi." Nói đoạn, ông ưỡn ngực bước về phía cánh cửa sáng người kia.

Ánh dương lại một lần nữa tưới tắm cho mặt đất, không khí vẫn thanh tân khôn tả, năm con người mệt mỏi rã rời, quần áo rách rưới đứng lên đỉnh kim tự tháp, tay nắm chặt tay, vai kề sát vai, kiêu ngạo nhìn vầng dương mới lên. Bạch thành, đang ở dưới gót chân họ. Mặt đất mênh mang, cũng đang ở dưới chân họ. Cuối cùng, họ cũng ra khỏi tòa cung điện ngầm dưới lòng đất ấy, đi ra từ tầng sâu nhất của chốn m ty, bước ra từ vô số khảo nghiệm của sự sống và cái chết. Sau đây, bất kể là đối diện với khảo nghiệm gì, trải qua nguy nan hiểm trở thế nào, bọn họ cũng thản nhiên tiếp nhận. Địa ngục đã từng cho họ biết một điều: sinh mạng, vĩnh viễn không bao giờ cúi đầu.

Khi họ đứng trên đỉnh kim tự tháp, kỳ tích thật sự đã xuất hiện. Cả năm người đều nhìn thấy rất rõ, trên quảng trường lớn đối diện với kim tự tháp có ba chiếc trực thăng xếp hàng ngay ngắn, lặng lẽ khoan thai chờ đợi, tựa hồ như đang long trọng hoan nghênh họ trở về. "Trực thăng…" Giáo sư Phương Tân đột nhiên cảm thấy không thể khống chế nổi mình, chỉ thốt lên hai chữ ấy, nước mắt đã lã chã rơi trên gương mặt từng trải bao bể dâu dâu bể. Đường Mẫn thấy sống mũi cay cay, nước mắt liền như những hạt châu đứt dây rơi xuống thánh thót.

Trong mắt lạt ma Á La cũng long lanh ánh lệ. Vương Hựu khóc òa lên, Trác Mộc Cường Ba nghẹn ngào thổn thức. Khoảng khắc ấy, bọn họ mặc cho nước mắt thỏa sức rơi xuống, thật lòng chỉ muốn trở lại thời thơ trẻ mà khóc òa lên. Không phải họ không dũng cảm, cũng càng không phải họ không đủ kiên cường, mà chỉ là tâm trạng kích động lúc ấy không thể nào biểu đạt nổi, ngoại trừ nước mắt ra, quả thật không còn thứ gì có thể xoa dịu được tâm tình của năm người họ trong thời khắc ấy.

Một góc tầng thứ ba của địa cung, ở đây đã bị người ta đào bới khoét một cái lỗ lớn, nên nói là vết tích của một vụ nổ nhân tạo để lại thì đúng hơn. Merkin mặt mũi sầm sì, cứ đi đi lại lại bên trên miệng hố, sau lưng y là một đường ống dẫn dầu cỡ lớn đã lắp ráp xong và mấy chiếc xe điện, một số công nhân kỹ sư của bên thi công đang bận rộn chạy qua chạy lại. Khi Max hăng hái chạy tới báo cáo với ông chủ rằng đã sắp xếp ổn thỏa, không ngờ lại ăn ngay một trận chửi rát mày rát mặt: "Mày là thằng ngu xuẩn, tốn bao nhiêu tiền, phí bao nhiêu thời gian như vậy, vậy mà chẳng tìm hiểu được chút gì. Chỉ cần mày nghe ngóng được một chút tin tức thì tao đã biết ngay chỗ này chính là nơi chúng tao đã đến đây một lần rồi. Chỗ này còn cái đếch gì mà xem nữa chứ? Mày xem chỗ kia, đấy, còn chỗ kia nữa, chẳng lẽ tao chưa kể với mày bao giờ chắc! Tao thường kể với mày về nơi này, chẳng lẽ mày không có chút ấn tượng nào hả? Ôi trời, đầu mày làm bằng cái gì thế? Lãng phí thời gian sức lực của tao! Ngu xuẩn!"

Max run rẩy lẩy bẩy, không dám cãi lại câu nào. Thật không ngờ nơi này lại chính là tòa kim tự tháp Maya hung hiểm mà ông chủ thường hay nhắc tới, khó khăn lắm mới có được giấy phép thông hành, thế mà lại chẳng được tích sự gì.

"Bala, Bala!" Kỹ thuật viên bên trong hét ầm ĩ. Họ phát hiện ra có người trong kim tự tháp. Mấy gã bảo vệ vũ trang nhảy vào trước tiên, bên trong cũng có giọng nói lạnh lùng cất lên, đối phương cũng dùng tiếng Tây Ban Nha hỏi: "Bên ngoài là ai vậy? Tổ chức Cách Mạng Thánh chiến à?"

Merkin bảo với teen chỉ huy: "Không cần lo lắng, người của mình." Đoạn liền cao giọng nói: "Soares!"

Một người có bộ mặt khiến người ta không dám nhìn thẳng bước ra từ kim tự tháp, đích thị là Soares!" Merkin ôm thật chặt rồi hỏi: "Không phải anh theo dõi bọn chúng à? Sao lại ở đây?"

Soares đáp: "Chúng cũng vừa mới ở đây đi ra thôi."

Merkin ngạc nhiên: "Ủa, vậy sao? Chúng còn hành động được không?"

"Yên tâm, tôi để lại đồ cho chúng rồi." Soares đưa mắt nhìn xung quanh, nói: "Rời khỏi đây trước đã, tôi có thứ này hay lắm."

Tên chỉ huy vội cất tiếng: "Này, ông không thể rời khỏi đây được, phải để chúng tôi kiểm tra đã." Soares xòe rộng hai tay nói: "Cứ tự nhiên."

Gonzales mơ màng bò dậy trong bóng tối mịt mùng, đưa tay sờ sờ lên cái đầu vẫn còn đau như búa bổ của mình: "Đây là chỗ nào vậy? Khốn kiếp! Lại còn bỏ tao vào đây nữa! Có ai không! Có ai không!" Hắn bắt đầu ngoác họng ra kêu gào.

Xung quanh không có một làn gió nhẹ, cũng không có chút ánh sáng nào, tiếng kêu của Gonzales vọng lại ong ong trong khoảng không đen tối. Hắn hoang mang bước đi mấy bước, chợt đá phải thứ gì đó, thò tay lần thử, thì ra là một chiếc đèn pin không hiểu ai đánh rơi trong này. Hắn bật đèn lên, vẫn còn một chút ánh sáng vàng vọt, dưới ánh đèn, Gonzales bắt đầu nhìn rõ được hoàn cảnh xung quanh mình, hắn lập tức hiểu ra mình đang ở đâu. Gonzales bổ tới chỗ cánh cửa hình tam giác đóng im ỉm, lớn tiếng chửi mắng: "Khốn kiếp, khốn kiếp, thả tao ra! Khốn kiếp, khốn kiếp!"

Một cơn gió sặc mùi tanh thối thổi tới, Gonzales cảm thấy không ổn lắm, vội quay đầu lại, chỉ thấy trong hang động tối tăm khổng lồ ấy bỗng xuất hiện hai đốm sáng, chúng dịch chuyển, càng lúc càng lớn dần, ánh lên sắc vàng nhạt, tựa như có người đang dùng cây sào tre rất cao treo hai ngọn đèn lồng đang đi tới vậy. Gonzales trợn trừng mắt nhìn đốm sáng đang nhanh chóng tiến lại gần mình, cơ hồ không dám tin đây là sự thật, hoang mang không biết phải làm sao. Cuối cùng, khi nhìn thấy chân tướng của hai ngọn đèn lồng kia, tên béo đã dùng hết sức lực toàn thân phát ra có tiếng kêu có âm độ cao nhất từ thuở hắn lọt lòng tới giờ, kế đó, hắn bất chấp tất cả mà ấn nút kích hoạt đống thuốc nổ quấn quanh người! Ánh lửa lóe lên trong bóng đêm tăm tối, khí áp nén lại cực độ, rồi cuồng loạn bùng ra xung quanh, luồng sức mạnh đánh bật cánh cửa hình tam giác, đánh bật cả cánh cửa dạng khung xương khổng lồ, kế đó dễ dàng biến cả tầng địa ngục thứ năm này thành bình địa, biến mọi vật chạm phải nó nát vụn thành bột! Dầu mỏ ở tầng dưới cùng cũng bị kích dẫn tạo ra phản ứng dây chuyền, những tiếng nổ lớn vang lên liên tiếp, tựa hồ như muốn lộn phộc tất cả cả mọi thứ lên!

Năm người nước mắt lưng tròng chạy tới trước trực thăng. Cả ba chiếc đều không hề hư hại chút nào. Thêm một điều khiến họ mừng rỡ hơn nữa là trên máy bay vẫn còn đủ cả nước lẫn đồ ăn. Trác Mộc Cường Ba kiểm tra bình xăng máy bay, nói: Đều có bình xăng đôi, bay cả ngày cũng không vấn đề gì."

Họ mang hết vật phẩm tập trung lên một chiếc trực thăng, đổ đầy bình xăng. Sau đó Trác Mộc Cường Ba chầm chậm kéo cần điều khiển, một loạt tiếng "tạch tạch tạch" vang lên mang tới cho cả năm người niền hy vọng vô cùng vô tận. Chiếc trực thăng đảo một vòng trên tòa kim tự tháp. Từ trên cao giáo sư Phương Tân lấy máy quay ghi lại toàn bộ quang cảnh Bạch thành. Vừa lúc ấy một tiếng nổ khủng khiếp vang lên dưới lòng đất, kim tự tháp dần chìm xuống, đất vụn và bụi cát mù mịt tung bay, bao phủ cả tòa thành trong một sắc xám mông lung mờ mịt. Giáo sư Phương Tân tiếc nuối than: "Chúng cho nổ kim tự tháp rồi, ai lại làm vậy nhỉ, đây rõ ràng là phạm tội mà."

Không bao lâu sau, ở vùng rìa Bạch thành, một cột lửa khổng lồ bốc lên, lưỡi lửa mang theo dầu bốc cao mấy chục mét, chỉ thoắt cái cả tòa thành khổng lồ đã bốc lửa phừng phừng. Năm người nhìn tro tàn khỏi tỏa bên dưới, cảm giác tựa hồ như vừa trải qua một giấc Nam Kha.

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Bạch thành, nơi mang đến cả sự kích động lẫn nỗi kinh hồn lần cuối cùng, rồi nói: "Tôi nghĩ, tôi sẽ không bao giờ trở lại đây nữa, giữ nó lại trong hồi ức thì vẫn tốt hơn. Đi được chưa, thầy giáo?" Trực thăng bắt đầu lên cao, rời xa Bạch thành, thẳng tiến về phía mặt trời.

Soares để đám người kia kiểm tra xong, liền cùng Merkin ngồi lên xe điện rời đi. Không được bao xa, đột nhiên chiếc xe điện rung lên, tựa như bị thứ gì đó quẳng lên cao rồi lại rơi bịch xuống đất. Merkin hỏi: "Động đất hả?"

Soares vội hét: "Chó chết, thằng béo kia đã cho nổ mìn. Mau rời khỏi đây, chỗ này sắp sập hết rồi!" Y nhảy xuống khỏi xe điện, lao vút như bay ra đầu kia của đường hầm.

Trực thăng bay về phía Bắc, dọc đường có đi qua khu tập trung của quân du kích, song không gặp phải cản trở gì. Sau cùng họ dừng lại ở một nơi gọi là Boye, rốt cuộc cũng đã trở về thành thị văn minh, đồng thời liên lạc được với Lữ Cánh Nam, nhờ đại sứ quán giúp đỡ tới Saint Mary. Vương Hựu tạm biệt bọn Trác Mộc Cường Ba, lên đường về nước luôn.

Trên một con đèo cách Bạch thành không xa lắm, Merkin và Soares lặng lẽ nhìn tòa thành hùng vĩ nay đã biến thành biển lửa. Max khúm núm đứng sau lưng hai người. Nếu vừa rồi chỉ đi chậm mười phút, bọn họ cũng sẽ giống như đám công nhân thi công kia, chôn thây nơi biển lửa. Cả ba đều biết rõ, lửa sẽ còn tiếp tục cháy nữa, chính phủ sẽ không hỏi tới đây, quân du kích cũng mặc kệ không lo, nếu như có người quan tâm đến, e là chỉ có đám thổ dân ăn thịt người như đang gặp phải ngày tận thế kia là cùng. Nghe Soares kể lại toàn bộ những việc đã trải qua, Merkin vỡ lẽ thốt: "Thì ra là Gonzales."

Soares hỏi: "Sao vậy, anh biết hắn à?"

Merkin gật đầu: "Ừm, hồi trước có qua lại. Có điều không sao cả, hắn cũng không còn được việc gì nữa rồi."

Soares lại nói: "Hà, Bạch thành đã không còn tồn tại nữa rồi, có còn nhớ tình cảnh của chúng ta khi tới đây lần đầu tiên không?"

Merkin gật đầu: "Cả đời này cũng khó mà quên được, mặc dù đã tổn thất bọn thằng Nam Tước, nhưng lúc ấy đội chúng ta còn hoàn thiện lắm, đâu có giống bây giờ."

Soares sực nhớ ra gì đó: "Phải rồi, tôi hỏi anh, chuyện này… tôi đang nói tới chuyện Bạc Ba La thần miếu, ngoài tôi ra, anh không nói với ai khác chứ, đặc biệt là… người đó."

Merkin giật mình thốt: "Anh muốn nói… Chồn." Soares vội xua tay ngăn y lại, tên của người đó cũng không thể nhắc đến được. Merkin lắc đầu: "Làm sao thế được! Tôi đã tìm đến anh, cũng có nghĩa là chắc chắn không muốn để người đó biết, bằng không, tôi đã không tìm đến anh rồi."

Soares nói: "Anh biết vậy thì tốt, anh cũng biết rồi đấy, người đó xưa nay đều đòi chiếm phần lớn, nếu hắn biết được chuyện này, tôi và anh cả khúc xương cũng không có mà gặm đâu.

Merkin băn khoăn: "Sao đột nhiên anh lại nhớ ra chuyện này vậy?"

Soares trầm ngâm đáp: "Bởi vì có một số chuyện rất lạ, tên Trác Mộc Cường Ba lại có chìa khóa mở cánh cửa cầm kỵ, điểm này làm tôi lấy làm nghi hoặc." Y không có ý định nói với Merkin chuyện bọn Trác Mộc Cường Ba suýt chút nữa thì bị nước dìm chết, nhưng cơ quan bỗng nhiên bị mở ra, mà người mở chắc chắn không phải là y.

Merkin nói: "Có lẽ là trùng hợp thôi, mặc dù thánh thạch của người Kukuer đã bị chúng ta lấy đi và sử dụng trên cửa đá rồi, nhưng cũng có khả năng bọn họ cướp được của một bộ lạc khác về. Anh biết đấy, mấy cục đá đó cục nào chẳng giống cục nào, bọn ấy làm sao phân biệt được chứ. Phải rồi, nói đến Trác Mộc Cường Ba, đến giờ cách nhìn của anh đối với bọn chúng thế nào rồi?"

Soares bực bội gắt: "Nói ra anh chớ giận, tôi chẳng có một chút lòng tin nào với đám ấy cả. Với thực lực như thế, có thể trèo lên đỉnh Tuyết sơn đã là cực hạn của chúng rồi, mong chúng tìm thấy Bạc Ba La thần miếu ư, hừ, trừ khi mặt trời mọc đằng Tây đi."

Merkin nói: "Cũng làm gì đến nỗi tệ thế, chung quy chúng cũng băng được qua rừng Than Thở đến Bạch thành mà."

"Hừ, dựa vào chúng hả!" Soares cười gằn nói: "Có cao thủ khác nữa. Lúc bọn chúng vừa đặt chân vào rừng Than Thở, đã gặp một tên tóc bạch kim, thằng cha này khá là lợi hại, hắn dẫn cả bọn tránh né những nơi nguy hiểm nhất, vòng qua hang ổ của những loài dã thú hung hiểm nhất mà mấy tên kia thì không hiểu đầu cua tai nheo gì, gần như là chúng đã tiến thẳng đến Bạch thành bằng con đường an toàn nhất đó. Đây cũng là nguyên nhân tại sao tôi hỏi anh có người nào khác biết chuyện này hay không. Trong địa cung, tôi còn gặp phải một kẻ đáng sợ hơn nữa, mặc dù không biết là ai, nhưng hiểu biết của kẻ ấy về huyết trì thậm chí còn sâu sắc hơn cả người đó nữa."

"Ừm." Sắc mặt Merkin trở nên nghiêm trọng nói: "Đó nhất định là người của Mật tông Tây Tạng."

Soares hỏi: "Mật tông Tây Tạng?"

Merkin gật đầu giải thích: "Khi tôi nghe người đó nhắc đến huyết trì lần đầu tiên, đã bắt đầu chú ý đến thứ này rồi, tôi nghĩ rằng, nên bắt đầu tra xét từ quốc gia của y. Cuối cùng tôi cũng điều tra được, cái huyết trì nguyên vẹn đầu tiên được phát hiện, thì ra là khai quật ở huyện Mặc Thoát, Tây Tạng vào năm 1915. Thứ này, là pháp khí dùng để tế lễ của một tôn giáo đã bị tiêu diệt."

"Ồ, vậy anh xem cái này…" Soares lấy trong túi của Merkin ra một cuộn da, ban nãy y lợi dụng lúc ôm nhau mà nhét luôn vào. Merkin cũng biết, nhưng từ bấy đến giờ chưa kịp mở ra xem.

Cuộn da mở ra, phần mép chắc là biển, sau đó đại khái có một hình cong như ức gà, một đường màu đỏ nhạt chạy dọc theo xương ức gà về phía Tây, rồi chia ra làm ba, lần lượt ký hiệu bằng hình ảnh thác nước, tượng Phật và bộ xương, có rất nhiều địa danh đánh dấu nhỏ li ti, thoạt nhìn giống Tạng văn nhưng nhìn kỹ lại thì hơi khác. Có điều, điểm khiến Merkin chú ý nhất, là ký hiệu kỳ quái ở góc bản đồ, phần trên giống như đầu trâu, phần dưới lại nối liền với một hình chữ Vạn ngược ()

Merkin kinh ngạc thốt lên: "Hả! Đây là… là bản đồ của Mật tông?"

"Anh nói cái gì? Sao biết đây là bản đồ của Mật tông?" Soares đã xem tấm bản đồ này không chỉ một lần, nhưng trừ cảm giác giống Trung Quốc ra, y cũng không dám khẳng định đây chính là bản đồ Trung Quốc. Vậy mà Merkin vừa thoáng nhìn đã ra ngay là bản đồ của Mật tông Tây Tạng. Max cũng vội rướn đầu lên ngó một cái, có điều như vậy là chen vào giữa Merkin với Soares rồi, nhân lúc ông chủ còn chưa trừng mắt lên, hắn tự giác lùi về phía sau.

Merkin chỉ tay vào bản đồ nói: "Ký hiệu này không phải văn tự Phật giáo, mà gọi là ký hiệu "ung trọng", ký hiệu cổ xưa nhất của Tây Tạng, hiện nay mọi người đều cho rằng nó tượng trưng cho mặt trời. Còn ký hiệu trông giống chữ "¥" trên đồng tiền này chắc là ký hiệu giản hóa biểu thị chó sói, cũng có thuyết bảo đây là ký hiệu giản hóa chỉ một loại chó chiến đấu đặc biệt chỉ Tây Tạng mới có. Hai ký hiệu này từ thời kỳ Đồ đá cũ đã xuất hiện ở Tây Tạng rồi, có rất nhiều dấu vết về chúng trên các bức nham họa của người cổ đại. Khi hai ký hiệu này xuất hiện cùng một lúc, liền trở thành ký hiệu đặc hữu của phải Mật tông đã biến mất kia. Nghe nói đây là một loại ký hiệu tượng trưng tinh thần mà các giáo đồ Mật tông xăm lên mình." Thấy ánh mắt Soares lại toát lên vẻ hoài nghi, Merkin vội giải thích: "Tôi cũng vừa mới điều tra được chuyện này trong chuyến đi Tây Tạng lần trước thôi." Nói tới đây, y chợt nhớ lại tình huống khi lần đầu tiên tiếp xúc với ký hiệu này…

"Ông chủ, tìm thấy rồi, những trục quyển ấy được vận chuyển đến Lhasa ở Trung Quốc."

"Ừm, trở về tổ quốc hả? Tốt lắm, chuẩn bị nhanh lên, chúng ta sẽ đến Lhasa."

"Vâng, ông chủ."

"Vào Bố Đạt La cung rồi hả? Mày điều tra rõ chưa đấy?" Merkin đứng trên phố Barkhor 1, ngây ra nhìn những sạp hàng sặc sỡ màu mè bày ven đường trong suốt một phút liền.

"Ông chủ, mặc xác cung với chẳng điện đi, không phải đang mở cửa đón khách hay sao? Chúng ta phái mấy thằng giả làm du khách vào trộm ra là được mà?" Max hiến kế.

"Đồ ngu." Merkin trước mắt nhìn bức tường biên mã 2 đỏ rực của Đại Chiêu tự ở phía xa xa nói: "Mày định trộm đồ ở nơi thế này hay sao? Hừ, chỉ sợ vào đấy chưa kịp làm gì thì đã chết mẹ rồi."

"Vậy, thứ đó vào Bố Đạt La cung thì chúng ta hết cách rồi sao?" Max lẩm bẩm.

Merkin thở dài nói: "Hà… ủa? Ánh mắt y đột nhiên bị một mảnh kim loại hình dáng kỳ lạ thu hút. Thứ đó dường như là một món trang sức, nửa trên giống như đầu trâu, nửa dưới lại là một chữ thập. Merkin có cảm giác rất thân thuộc, liền nhặt mảnh kim loại lên khỏi đống hàng hóa bừa bãi trên sạp, hỏi: "Đây là cái gì vậy? Phần trên này không phải đầu lâu đúng không, là… ký hiệu con bọ cạp hả?"

"Không, không, không…" Anh chàng người Tạng bán đồ nghe hiểu xong, vội vàng nói: "Đây không phải bọ cạp, đây là sói… há cái miệng to…" Sợ Merkin không hiểu, anh chàng còn ngửa mặt lên trời bắt chước kiểu sói tru, rồi lại nói: "Há cái miệng to…" Hai tay anh ta giơ lên thành hình tượng sói há miệng, rồi lại bảo Merkin thò ngón tay vào trong cái miệng sói kia, bên trong quả nhiên có một hàng gai nhỏ, có điều đã mòn gần hết rồi; "Răng sói, răng soi…" anh chàng bán hàng người Tạng cứ lặp đi lặp lại.

"Sói!" Merkin dường như bị thứ gì đó làm cho xúc động, không hỏi bao nhiêu tiền, mà lại hỏi: "Thứ này ở đâu ra vậy?"

Anh chàng người Tạng bán đồ nghe Merkin hỏi vậy, cho là y muốn mua, vội vàng giới thiệu: "Cái vòng tay này là đồ tốt đó nha, cũng cổ ra phết đấy, ông xem này, thủ công…"

Merkin chụp lấy cổ áo tròn của anh ta, gằn giọng hỏi: "Tao không nói thủ công thủ kiếc gì cả, tao hỏi mày cái này ở đâu ra?"

Hành động này lập tức làm đám người Tạng quanh đó nổi giận, đã có mấy người Tạng bán hàng gần đó đứng lên quát hỏi. Anh chàng kia vội dùng tiếng Tạng giải thích với mấy người buôn bán vài câu, mới làm cơn giạn của họ lắng xuống. Xong xuôi, anh ta làm bộ thần bí nói với Merkin: "Thứ này, nghe đâu là La Trát lấy được trên người một gã thần kinh không bình thường người Khang Ba, đương nhiên tôi cũng không được rõ lắm, nhưng mà đây chắc chắn là đồ tốt, ông xem…"



Nhìn Merkin trầm ngâm suy tư điều gì đó, Soares "hừ" khẽ một tiếng, đột nhiên rút tấm bản đồ da trong tay Merkin lại, quay đầu bỏ đi, nói vọng lại: "Xem ra, chúng ta vẫn chưa thể tin tưởng lẫn nhau được rồi, rốt cuộc anh còn bao nhiêu chuyện chưa nói với tôi nữa?"

Merkin vội thanh minh: "Chuyện này thực sự là do tôi không nghĩ tới. Ngoài những điều tôi biết, cũng đều đã nói cho anh cả rồi. Phái Mật tông ấy tiêu vong từ rất sớm. Theo tôi biết thì từ trước khi Thổ Phồn bị diệt vong nó đã biến mất rồi. Thông tin tôi điều tra được chẳng qua chỉ là những thứ vụn vặt liên quan tới tông phái ấy mà thôi. Chuyện này, chúng ta cần phải hợp tác điều tra… Này! Anh đi đâu đấy?"

Soares đáp: "Tôi đi nhận diện khuôn mặt! Nhất định phải tra ra lai lịch tên tóc bạch kim. Thằng đó thật sự rất đáng nghi!"

Merkin hỏi: "Anh dựa vào gì mà khẳng định vậy?"

Soares lắc đầu: "Tới lúc ấy anh sẽ tự biết. Này, chúng ta đã hợp tác nhiều năm nay rồi, tôi nhắc anh một lần nữa, đừng hy vọng quá nhiều vào đám người ấy, bọn chúng không thể thành công được đâu, tự chúng ta làm đi."

Merkin nhìn theo bóng lưng Soares, lẩm bẩm nói: "Anh không hiểu được đâu." Y đưa tay nắm cổ áo mình, bên trong, dường như có thứ gì đó. Max nhắc nhỏ: "Ông chủ, Soares đã đi rồi, chúng ta cũng lên đường thôi."

Merkin gật gật đầu, đột nhiên điện thoại di động đổ chuông, y mở máy, mới nghe một câu đã lớn tiếng quát: "Nói cái gì hả!" Sau khi gác máy, y còn ngây ra một lúc lâu. Max thấy ông chủ của hắn cứ nhìn chằm chằm theo hướng Soares biến mất, thầm đoán thâm tư của Merkin: "Ông chủ, thằng cha Soares ấy thật cứng đầu cứng cổ, tôi thấy, cho hắn nếm mùi…"

Hắn còn chưa dứt lời, Merkin đã tát cho một bạt tai nổ đom đóm mắt: "Mày là cái thằng ngu xuẩn! Loại người như mày, thành công chẳng thấy đâu, mà thất bại thì liên tiếp!" Nói xong liền quay đầu bỏ đi thẳng, bên tai vang lên tiếng người nói trong điện thoại lúc nãy: "Ông Merkin, thật vô cùng xin lỗi khi phải thông báo với ông, người Trung Quốc mắc bệnh thần kinh ấy, đã qua đời lúc năm giờ ba muwoi phút sáng nay, nhờ ông thông báo với người nhà của anh ta đến xử lý mai táng." Merkin thầm nhủ: "Nếu mình học được tiếng Tạng cổ sớm hơn một chút, biết đâu có thể biết được điều gì đó từ miệng tên điên ấy, bây giờ… có điều bỏ đi vậy, dù sao trong tay ta cũng còn một tên điên khác, hừ!"

Không dưng bị Merkin cho một bạt tai, Max ôm mặt quỳ dưới đất, cho tới khi bóng dáng Merkin khuất hẳn, trong mắt hắn mới lóe lên một tia hằn học, nhủ thầm trong bụng: "Nếu Soares và Merkin quyết chiến với nhau, không hiểu kết quả sẽ thế nào?" Suy nghĩ miên man, hắn không khỏi bật cười.

Tổng kết

Tình hình còn tốt hơn cả mong đợi. Không ngờ Trương Lập và Nhạc Dương đã đến Saint Mary trước cả bọn Trác Mộc Cường Ba. Ngải Lực Khắc còn sớm hơn nữa. Chỉ có Ba Tang chưa thấy đâu. Tình cảnh của Trương Lập và Nhạc Dương tương đối tệ hại. Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba gặp lại hai anh chàng này trong bệnh viện của tổ chức Chữ Thập Đỏ. Sinh ly tử biệt, ba người ôm chặt lấy nhau cảm thán không thôi. Trương Lập và Nhạc Dương đều xúc động đến rơi nước mắt. Trong rừng sâu, hai người đã nếm đủ mọi điều khổ sở, may mà có Sean giúp đỡ, nhưng Nhạc Dương cũng vẫn bị một loài muỗi không biết tên trong rừng Mãng Xà đốt phải, sau đó cứ sốt cao mãi không dứt. Trương Lập phai không ngừng nói vào tai anh chàng: Babatou, cô Babatou, cô Babatou đang đợi cậu kìa, phải cố lên!" Cứ nói như vậy cả ngàn lần, cuối cùng mới kéo được Nhạc Dương ở chỗ thần Chết trở về. Rồi ba người vì phải chạy liên tục cuối cùng cơ thể đều không chịu nổi, cộng với việc thiếu dinh dưỡng nhiều ngày, kiệt sức ngã lăn ra. Nghe các bác sĩ nói, trong ngày đầu tiên nhập viện, Trương Lập cứ gào mãi cái tên "Babatou", làm họ đoán là cô Babatou gì đó nợ tiền của anh chàng.

Còn rốt cuộc làm thế nào họ ra khỏi rừng rậm được thì cả Trương Lập và Nhạc Dương đều ấp úng không chịu nói, nghe đâu vì muốn bịt miệng ai đấy lại. Còn thể lực của Sean thì phục hồi rất nhanh, chỉ ở bệnh viện theo dõi một ngày là đi luôn, trước khi đi không ngờ cũng không chào hỏi ai tiếng nào, làm Trương Lập và Nhạc Dương đều lấy làm áy náy không yên.

Lưu lạc hơn nửa tháng trong rừng nguyên sinh Nam Mỹ, mình mẩy đầy thương tích, cuối cùng đọi ngũ được huấn luyện đặc biệt này cũng trở về với tổ quốc. Lại được hít thở làn gió thanh tân mát mẻ, cảm giác tựa hồ được trở về cõi tiên, theo yêu cầu gần như là hà khắc của Lữ Cánh Nam, tất cả thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt đều phải tiến hành tổng kết kinh nghiệm về thất bại lần này. Lữ Cánh Nam đứng trên bục giảng, trông thật giống một cô giáo dạy tiểu học hung ác, khoa trương vung cánh tay lên nói: "Trước khi xuất phát, có ai đó từng nói với tôi… anh ta nói, anh ta cho rằng huấn luyện như vậy đã đủ rồi, giờ anh ta đã mạnh lắm rồi, cảm giác như chưa bao giờ mạnh đến thế, có thể chiến thắng bất cứ khảo ngiệm khó khăn nào, có thể đi tới bất cứ vùng đất chết chóc nguy hiểm nào. Tôi đã đáp ứng người đó, chỉ cần anh ta hoàn thành nội dung huấn luyện trong thời gian quy định, chúng ta sẽ lập đội lên đường, tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Kết quả… kết quả thế nào chứ!" Ánh mắt cô trở nên sắc bén ghê gớm. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh mặt sang một bên, cố ý không nhìn nét mặt đối phương.

Lữ Cánh Nam lại không chịu bỏ qua cho gã, hỏi thẳng vào mặt gã: "Cường Ba thiếu gia, anh nói trước đi, cảm tưởng của anh về lần huấn luyện này thế nào?"

"Tôi thì có cảm tưởng gì chứ!" Trác Mộc Cường Ba nhảy dựng lên, hét lớn, "Suýt chút nữa thì chúng tôi chết sạch trong rừng, câu trả lời như vậy cô đã hài lòng chưa! Không sai! Chúng tôi không thể vượt qua lần huấn luyện này! Vậy thì sao chứ! Bị quân du kích truy đuổi, bọn động vật bình thường một con cũng khó gặp, thường xuyên tập trung thành cả quân đoàn lớn cho chúng tôi tham quan! Sấm sét, nước lũ! Còn ngôi mộ kia thì càng không cần nói nữa, nói xong rồi chỉ sợ cô không dám tin thôi! Cô nói đi, cô nói đi! Thế có thể coi là huấn luyện được không? Cho dù đi đánh trận, cũng không đến nỗi phải đối mặt với hoàn cảnh hung hiểm như vậy đâu!" Nói hết một tràng, gã đứng chống nạnh mà thở hồng hộc.

Lữ Cánh Nam cũng không tranh cãi với gã, chỉ mỉm cười nói: "Ôi cha, không hoàn thành nhiệm vụ mà còn lý lẽ hùng hồn nhỉ, hiệu quả huấn luyện đâu tôi vẫn chưa thấy, nhưng tính khí thì ghê gớm thấy rõ đó."

Lữ Cánh Nam không tranh luận với gã, Trác Mộc Cường Ba cũng không tiện nổi cáu nữa, bực tức đáp trả một câu: "Tình huống lúc đó cô không hiểu, đổi lại là cô thì cũng không thể hoàn thành được!" Không ngờ, câu này vừa thốt lên, Trương Lập, Nhạc Dương và cả nhóm người tổ giáo sư Phương Tân, tất cả mặt mày biến sắc, bộ dạng đều như muốn nói: "Hỏng bét, Cường Ba thiếu gia sắp gặp họa rồi."

Quả nhiên, gương mặt mới rồi còn rạng rỡ như tắm trong làn gió xuân, thoắt cái đã như phủ một lớp băng lạnh lẽo, Lữ Cánh Nam lạnh lùng hỏi: "Vậy sao? Sao anh biết tôi không đi chứ!"

Trác Mộc Cường Ba đờ người, vẫn còn cứng đầu cứng cổ không chịu thua, nhìn những người xung quanh, thấy ai nấy đều cúi gằm mặt xuống, xem ra Lữ Cánh Nam không hề nói dối. Lữ Cánh Nam nói: "Bởi vì tôi cảm thấy băng qua cánh rừng đó có lẽ vẫn còn hơi khó đối với mấy người, nên đã quyết định tự mình đi thử trước một lần. Tôi mang theo một con dao săn cá mập, tốn mất bảy ngày, đã hoàn thành quãng đường ấy. Vốn tưởng rằng với năng lực hiện tại của các người, chắc là có thể hoàn thành được nhiệm vụ, thật không ngờ… Biểu hiện của mọi người làm tôi quá thất vọng! Sao hả, anh không tin? Tôi xuất phát muộn hơn các người hai ngày, đến ngày thứ ba đã đuổi kịp tổ của giáo sư Phương Tân, không tin thì cứ hỏi."

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh lại phía giáo sư Phương Tân, chỉ trợn tròn đôi mắt lên, ngây ngây hỏi: "Không mang theo thứ gì?"

Giáo sư Phương Tân cúi gằm mặt xuống: "Không mang theo thứ gì, cả đồ ăn, lều bạt, cả nước cũng không có."

Lữ Cánh Nam lại nói: "Khi các người không thể đến đích đúng thời hạn, không kịp chờ chi viện tới, tôi đành phải một mình quay trở lại tìm kiếm các người. Tìm mất hai ngày trong rừng Mãng Xà mới thấy hai tên chỉ còn thoi hơi thở! Để tìm kiếm rồi cứu chúng ra, tôi đã giết hơn trăm con trăn Nam Mỹ, chỉ sợ đã giết sạch cả giống loài nhà chúng mất rồi!"

Trác Mộc Cường Ba cả kinh, chẳng trách hai tên phản đồ ấy cứ lắp ba lắp bắp không chịu nói rõ chuyện gì, "để bịt miệng ai đó", thì ra chính là để bịt miệng gã lại. Gã hoảng hốt bất an quay đầu lại, dùng đôi mắt kinh khủng ấy nói với Nhạc Dương: "Con mụ này không phải là người!" Nhạc Dương rụt rè làm ra vẻ không biết phải làm gì hơn… "Đã bảo là giáo quan ma quỷ rồi, vậy mà anh vẫn không tin!"

"Bình," Lữ Cánh Nam vỗ mạnh xuống bàn, chén trà nhảy tung lên, Trác Mộc Cường Ba cũng giật mình đánh thót, suýt chút nữa thì đá đổ cả ghế. Lại nghe Lữ Cánh Nam nghiêm giọng nói: "Theo tôi được biết, lần hành động này có một nhóm, khi học tập nghiên cứu, chỉ chăm chăm vào phạm vi nhỏ hẹp, nhãn quang thấp kém, hơn nữa khi xuất phát còn nôn nóng mạo hiểm, không hề có tinh thần hợp tác đồng đội, cũng thiếu cả kế hoạch khảo sát một cách khoa học, bao nhiêu công lao huấn luyện hơn nửa năm nay đều uổng phí hết cả rồi còn gì!" Kế đó lại vỗ bàn đánh "rầm" cái nữa, Trác Mộc Cường Ba lại giật thót mình, khó khăn ngoảnh đầu lại nhìn lạt ma Á La, ánh mắt thảm thương vô cùng: "Đại sư, ngài bán đứng tôi!" Nét mặt lạt ma Á La thờ ơ hờ hững, liếc nhìn Lữ Cánh Nam một cái, không nói không rằng biểu thị: "Tôi cũng chẳng còn cách nào khác cả."

Chỉ nghe Lữ Cánh Nam tiếp tục: "Cũng may tôi không phải là tổng chỉ huy hành động lần này, bằng không, tôi tuyệt đối không cho phép trong nhóm của mình một đám người vô dụng như thế! Nguyên nhân thất bại của hành động, cùng những điểm các người tự cảm thấy mình còn chưa đủ, tất cả viết hết ra bản kiểm điểm cho tôi, ai cũng phải viết, tôi cảnh cáo trước, không được chép bài của nhau, không được trao đổi, nếu không… phạt chép một vạn lần! Đặc biệt là… các anh!" Lữ Cánh Nam chỉ thẳng vào mặt Trác Mộc Cường Ba, cũng may là còn thêm vào một chữ "các".

Mồ hôi Trác Mộc Cường Ba vã ra như tắm.Từ sau khi tốt nghiệp tiểu học, gã đã không còn bị ai chỉ vào mặt mắng chửi như vậy nữa. Trong phút chốc, cả gian phòng trở nên tĩnh lặng, chỉ nghe tiếng bút soạt soạt, già có trẻ có, mọi người đều ngồi thẳng đờ, bút ngoáy không ngừng, cảnh tượng hệt như trong một kỳ thi đại học vậy.

Mười phút sau, Lữ Cánh Nam uống hết chén trà, đứng lên lạnh lùng nói: "Tôi ở phòng làm việc, viết xong thì mang tới đó. Nhớ cho kỹ, trong nhóm các người có một người phụ trách giám sát toàn bộ quá trình viết kiểm điểm này, nếu muốn thì thầm bán tán thì cứ tự tiện, đến lúc ấy chớ có trách tôi không nể mặt." Lúc ra đến cửa, cô nàng lại buông thêm một câu: "Còn nữa, chưa viết xong thì không được ra ngoài, bằng không…"

Sau khi Lữ Cánh Nam đi khỏi, căn phòng rất giống với lớp học này lại càng trở nên yên tĩnh, người trong phòng thỉnh thoảng lại trao đổi bằng ánh mắt, nhưng không ai dám lên tiếng nói chuyện, mặc dù đều biết có lẽ giáo quan nói vậy chỉ để dọa nạt họ mà thôi, nhưng ai có thể đảm bảo được điều ấy chứ?

Trác Mộc Cường Ba dần trở nên bình tĩnh, trong lòng lấy làm uất ức: "Thật vô lý, một cô con gái bé tẹo như vậy, sao có thể cầm một con dao mà băng qua khu rừng ấy được chứ, vậy chẳng phải là còn lợi hai hơn cả lạt ma Á La hay sao? Bà chằn này rốt cuộc lai lịch thế nào nhỉ!" Gã viết bậy mấy chữ lên giấy, rồi lại nghĩ: "Có điều nói đi cũng phải nói lại, lần hành động này đúng là đã làm lộ ra rất nhiều điểm thiếu sót. Không tìm hiểu kỹ lưỡng đầy đủ về văn hóa và phong thổ nhân tình khu vực xung quanh Nam Mỹ, cái này coi như sơ ý đi, còn về động vật tiền sử, chuyện này hoàn toàn nằm ngoài sự tưởng tượng của mình, nếu gặp phải một loài động vật mà mình không có chút hiểu biết nào về nó, vậy thì biết làm sao bây giờ? Tạm thời không nói động vật tiền sử, chỉ riêng đám động vật đã tìm hiểu rồi, như trăn Nam Mỹ ấy, rõ là mình đã nghiên cứu thói quen tập tính và đặc điểm sinh lý của chúng, vậy thì sao chứ, khi gặp phải trăn Nam Mỹ ấy, đừng nói là nghĩ cách khống chế nó, đến cả dũng khí để bỏ chạy cũng chẳng còn nữa rồi. Ôi, dữ liệu tra được trên máy tính và tình hình thực tế đúng là hai chuyện hoàn toàn khác nhau! Lại còn cả các mật mã, ý nghĩa tượng hình kia nữa, về mặt này có thể nói là mình hoàn toàn không hiểu gì, cả cơ quan bẫy rập trong địa cung nữa, đấy lại càng là lĩnh vực trống, cả thời tiết tự nhiên… Chà, tại sao không hề giống như mới đầu mình nghĩ, sao còn nhiều chuyện mình chưa nắm bắt được thế nhỉ?"

Trác Mộc Cường Ba một lúc phát hiện ra mình có quá nhiều khuyết điểm, ngược lại thành ra không thể hạ bút. Đợt huấn luyện này có rất nhiều điểm mà gã vắt óc nghĩ mãi cũng không sao hiểu nổi, chẳng hạn như việc bị quân du kích truy sát, chính xác! Vô duyên vô cớ bị truy sát, điểm này con mụ chằn tinh Lữ Cánh Nam kia phải giải thích thế nào đây! Còn cả lạt ma Á La nữa, đối phó cạm bẫy là nội dung của giai đoạn cuối cùng, thực tế họ chưa từng được dạy qua, tại sao lạt ma Á La lại biết nhiều như thế! Người Kukuer và người Tạng có những tập tục giống nhau đến lạ thường, chiến ngao không sủa, suy luận của Nhạc Dương… Đột nhiên, Trác Mộc Cường Ba đem tất cả liên hệ lại với nhau, mặc dù gã cũng cảm thấy không thể nào tin nổi, nhưng ngoài cách giải thích ấy ra, dường như rất khó đưa ra phương pháp lý giải nào khác nữa. Nơi đó, và Tây Tạng, và cả Bạc Ba La thần miếu nữa, lẽ nào thực sự có quan hệ gì với nhau? Thật đúng như những gì Nhạc Dương nói? Chuyện này thật quá khó tin, rốt cuộc là liên hệ với nhau thế nào đây? Đúng, nhất định họ còn giấu mình chuyện gì đó! Điểm này là chắc chắn rồi! Trác Mộc Cường Ba càng nghĩ càng thấy tức, Trương Lập ngồi đằng xa nhướng mắt lên nhìn, chỉ chỉ vào bản kiểm điểm của mình, rồi lại trợn mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, ý bảo tôi đã viết được ngần này rồi, sao anh vẫn để giấy trắng thế Cường Ba thiếu gia. Trác Mộc Cường Ba phẫn nộ đứng phắt lên, thầm nhủ: "Sao mình phải viết kiểm điểm chứ. Hừ, cô ta không giải thích rõ ràng, mình sẽ cãi vụ này đến cùng."

Trác Mộc Cường Ba ôm một bụng bất bình, đẩy bật cánh cửa phòng làm việc của Lữ Cánh Nam ra.

Lữ Cánh Nam thấy hai tay Trác Mộc Cường Ba trống không, nét mặt bừng bừng nộ khí, bèn hỏi: "Có chuyện gì? Có chuyện thì vào rồi nói, đóng cửa lại."

Trác Mộc Cường Ba đóng sầm cửa lại, bước tới trước mặt Lữ Cánh Nam nói: "Giáo quan, vừa nãy cô nói chuyện rất lớn tiếng, hỏi những câu tôi không trả lời được, nhưng bây giờ, tôi cũng có mấy câu muốn hỏi cô đây!"

Lữ Cánh Nam khảng khái gật đầu: "Anh cứ nói."

Trác Mộc Cường Ba chống tay xuống bàn làm việc: "Lần huấn luyện băng rừng nguyên sinh này, không đơn giản chỉ là huấn luyện thôi có đúng không? Cô còn chuyện gì đó vẫn giấu chúng tôi chưa nói ra, có đúng không?"

Lữ Cánh Nam chẳng tỏ thái độ gì, chỉ nói: "Tại sao lại nói vậy?"

Trác Mộc Cường Ba đáp ngay: "Chẳng lẽ giáo quan không còn nhớ gì nữa? Nhưng tôi thì chưa quên đâu, lúc đích đến của hành động lần này vừa mới quyết định xong, cô đã nói với chúng tôi thế nào chứ, sợ rằng đối thủ cạnh tranh của chúng tôi đã đi trước một bước? Bọn chúng đi trước một bước làm cái gì chứ? Tôi nhớ lúc ấy giáo quan cũng không cho chúng tôi câu trả lời thì phải. Kết quả, nhóm chúng tôi vừa bắt đầu thì đã bị quân du kích truy đuổi, cản trở, sau đó mới biết có người tung tin đồn bảo chúng tôi biết lối vào Thành phố Vàng, rõ ràng là để cầm chân chúng tôi lại, hoặc là không để chúng tôi băng qua khu rừng ấy. Ở đó có gì chứ? Cô không hề nhắc đến một chút nào!" Trác Mộc Cường Ba giơ ngón tay lên trước mặt, lắc lắc đầu, "Tôi nghĩ mãi mà không hiểu rốt cuộc đây là chuyện gì, cho tới khi tôi gặp lạt ma Á La!"

"Lạt ma Á La!" Trong mắt LC ánh lên thần tình hoảng hốt. Trác Mộc Cường Ba biết ngay là mình đã đoán đúng, liền tiếp tục tấn công: "Hừ, không sai, là lạt ma Á La. Khi tôi gặp ông ấy, ông ấy không hề hoang mang hoảng loạn chỉ muốn tìm lối ra như bọn chúng tôi, cũng không nôn nóng ra khỏi khu rừng ấy, tôi rõ ràng là ông ấy đang… đang tìm một… thứ… gì đó…" Trác Mộc Cường Ba cố ý kéo dài mấy chữ cuối cùng ra hòng tăng áp lực cho Lữ Cánh Nam, "Bạch thành… đúng không! Địa cung ** Puch! Đúng không! Các người đã sớm biết đến nơi ấy rồi, đúng không!" Thực ra, Trác Mộc Cường Ba cũng chỉ vừa mới lóe lên ý nghĩ này trong đầu, đột nhiên nghĩ tới, những gã lại cố ý càng lúc càng lớn tiếng hơn, tựa hồ như đã biết hết mọi chuyện từ trước rồi vậy. Gã gần như gí sát đầu mình vào đầu Lữ Cánh Nam hỏi tiếp: "Bên trong rốt cuộc là có thứ gì? Mặc dù cuối cùng lạt ma Á La không tìm được gì hết, nhưng tại sao ông ấy lại quen thuộc các cơ quan cạm bẫy, cách bố cục trong kim tự tháp như vậy? Ông ấy đã nghiên cứu về nơi đó, đây không phải là chuyện ngày một ngày hai nữa rồi, tôi nói không sai chứ? Không ngại đường xa ngàn dặm bảo chúng tôi đến chỗ ấy, rốt cuộc là muốn bọn tôi làm gì? Mục đích của các người, có phải là lợi dụng danh nghĩa huấn luyện đặc biệt, thực ra là để chúng tôi làm mồi câu, thu hút sự chú ý của quân du kích hay không? Có phải chính các người đã phao tin đồn hay không?"

Lữ Cánh Nam hoảng hốt nói: "Không! Không phải như vậy. Không phải như vậy." Khí thế của cô nàng đã không còn cứng rắn như lúc nãy nữa.

Trác Mộc Cường Ba tiếp tục tăng thêm áp lực cho đối phương, vừa tiến lại gần vừa nói: "Giờ thì coi như tôi hiểu rồi, chúng tôi chỉ là con cờ trong tay các người, là công cụ của các người, huấn luyện đặc biệt cái gì chứ, tất cả đều là giả dối hết! Các người chẳng qua lấy danh nghĩa khảo sát khoa học, ra nước ngoài trộm mộ thôi!" Từ lâu gã đi nghi ngờ lạt ma Á La là thành viên của một tổ chức trộm mộ, giờ thì cả Lữ Cánh Nam cũng rơi vào diện nghi vấn của gã nốt.

Tội danh này quá lớn, cả Lữ Cánh Nam cũng nổi giận, đập bàn đứng dậy quát: "Anh nói bậy cái gì đấy! Anh chẳng biết cái quái gì hết!"

Trác Mộc Cường Ba thì ngược lại, thái độ rất đỗi ung dung, gã thong thả ngồi xuống, vẫy tay nói: "Được rồi, cô biết, vậy cô nói đi, nói cho tôi biết những chuyện này là thế nào."

Lữ Cánh Nam có chút hoảng loạn, cô cũng không ngờ lại bị Trác Mộc Cường Ba ép tới nước này. Cô nhanh chóng điều chỉnh lại tâm thái của mình, trấn tĩnh trở lại, ngồi xuống đối diện với Trác Mộc Cường Ba, dáng vẻ trầm tư một lúc lâu mới nói: "Tôi đã bảo rồi, nếu các anh có thể vượt qua khảo hạch giữa kỳ này, tôi sẽ giao số tư liệu được các chuyên gia nghiên cứu tìm ra cho các anh xem, có điều, các anh đâu có hoàn thành lần khảo hạch lần này, không đúng sao?"

"Cô…" Vốn ngỡ rằng Lữ Cánh Nam ít nhiều lộ ra chút gì đó, không ngờ cô nàng này lại đột nhiên đổi giọng, chặn ngược trở lại, Trác Mộc Cường Ba ấn tay xuống mặt bàn, trợn mắt lên, tựa như muốn lập tức đứng phắt dậy bỏ đi, có điều rốt cuộc gã cũng không đứng lên, cứ ngồi yên như vậy đọ mắt với Lữ Cánh Nam, con ngươi cơ hồ như muốn tóe lửa. Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: "Con mụ gái già này, muốn lấy tôi ra làm trò đùa chắc? Rốt cuộc tôi đã đắc tội gì với cô chứ?"

Lữ Cánh Nam nhìn Trác Mộc Cường Ba, trong lòng cũng đang lấy làm phiền muộn: "Tại sao, tại sao không thể đối đãi với gã đàn ông đáng ghét này như những binh sĩ thông thường chứ! Cường Ba thiếu gia, vì anh nên tôi mới làm vậy, anh chẳng biết gì hết cả…" Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh lại, dựa vào ghế, chậm rãi nói: "Cô nói như vậy, ý là chuyến đi châu Mỹ này của chúng tôi có liên quan đến các tư liệu mà chuyên gia nghiên cứu tìm ra phải không?"

Lữ Cánh Nam trừng mắt lên lườm gã, vẫn giữ im lặng. Trác Mộc Cường Ba cho rằng cô đã mặc nhiên thừa nhận, trong lòng lại càng thêm nhiều nghi vấn mới. Gã ngồi thẳng người lên, ngạc nhiên hỏi: "Nói vậy thì, cánh rừng mà chúng tôi đã băng qua đó, thực sự có quan hệ với Tây Tạng hay sao? Những hoạt động tế bái tương tự trong các bộ lạc nguyên thủy của đám thổ dân ăn thịt người nữa, đó không phải là ngẫu nhiên? Cô nói đi? Tại sao lại không nói gì?"

Lữ Cánh Nam vùng vằng đáp: "Anh đừng quên, anh đang nói chuyện với sĩ quan chỉ huy đấy, như thế này, thật không xứng đáng làm một binh sĩ đạt chuẩn."

Trác Mộc Cường Ba liền giễu lại: "Tôi có bao giờ bảo mình là binh sĩ đâu? Tôi đang lấy tư cách nhà đầu tư, nói chuyện với chủ thầu, tôi chỉ muốn biết những gì tôi cần phải biết thôi. Cứ tiếp tục thế này, chỉ sợ tôi chết rồi vẫn không hiểu mình chết thế nào, tại sao lại chết, đã vậy thì cần gì phải hợp tác nữa! Tôi quyết định rồi, tôi muốn chấm dứt hợp tác tại đây!" Phát tiết xong cả khối bất mãn trong lòng, Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh đứng lên, gã đã chịu đựng đủ rồi, gã quyết định sẽ dựa vào sức mình đi tìm kiếm Tử Kỳ Lân của gã.

"Đợi đã!" Lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba trông thấy Lữ Cánh Nam cắn môi, đồng thời không dám nhìn thẳng vào ánh mắt của mình, "Trước khi nhận được lệnh của cấp trên, tôi không thể tiết lộ cho anh các nội dung liên quan tới chuyện này, có điều, tôi nghĩ cấp trên sẽ nhanh chóng có câu trả lời thôi. Cá nhân tôi hy vọng anh, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, chớ nên dễ dàng chấm dứt sự hợp tác này như vậy." Nói đến đoạn cuối, giọng cô nhỏ dần nhỏ dần.

"Đây đã tính là thỏa hiệp chưa?" Trác Mộc Cường Ba mừng thầm trong bụng, thực ra gã vẫn rất quan tâm tới số tư liệu được các chuyên gia của nhà nước thu thập kia. "Vậy thì, tôi nghĩ, ngày mai, ngày mai cô hãy cho tôi một câu trả lời đi." Trác Mộc Cường Ba nghiêm túc nói, rồi quay người đi ra.

Thỏa hiệp

Đêm dài đằng đẵng, tiết xuân se se lạnh, Trác Mộc Cường Ba không ngủ được đứng khoanh tay trước ngực, ngắm nhìn cảnh đêm phía xa xa. Thoắt cái, gã đã tới đây được gần một năm rồi, núi đá cỏ cây ở đây đều đã vô cùng thân thuộc, huống chi là những đồng đội sớm chiều ở cùng nhau kia.

"Cường Ba thiếu gia, nghe nói, anh đá bà chằn kia rồi hả?" Không hiểu từ lúc nào, Nhạc Dương đã xuất hiện sau lưng Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba ấn đầu anh chàng xuống, đẩy về phía sau: "Thằng khỉ này, khá năm, còn dám đùa cả giáo quan của cậu nữa."

Nhạc Dương lại nhổm đầu lên, lần này thì làm ra vẻ nghiêm túc một chút nói: "Cường Ba thiếu gia, tôi nghĩ, anh vẫn không nỡ rời khỏi đội của chúng ta đâu, chỉ muốn dằn mặt thượng cấp một phen thôi đúng không?"

Trác Mộc Cường Ba ngước nhìn ra xa, cười cười: "Cậu đến thăm dò tôi à?"

Nhạc Dương cười ha hả: "Nhìn tôi cũng đâu có giống phản đồ chứ? Tôi nói thật đấy, Cường Ba thiếu gia, không phải anh thật sự muốn rời khỏi đây hành động một mình đấy chứ? Tư liệu anh đang có trong tay không phải rất có hạn hay sao?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Nhưng công tác bảo mật của họi hơi bị tốt quá thì phải! Xưa nay tôi làm việc đều tự đặt ra cho mình kế hoạch và chương trình riêng, như vậy tôi mới biết rõ được mình muốn làm gì, và mình đang làm gì. Còn như lúc này… hừ!" Trác Mộc Cường Ba lắc đầu thở dài, nói tiếp: "Có lẽ, tôi thật sự không phải một người lính tốt. Tôi đã quen tự mình nắm bắt vận mệnh của mình, chứ không phải nghe theo sự sắp xếp của vận mệnh, làm chuyện gì cũng nhất định phải có mục tiêu, bằng không vĩnh viễn không thể thành công được. Như bây giờ, cả mục tiêu cũng không có, chỉ bảo chúng ta làm theo yêu cầu, tôi thực không làm được."

Nhạc Dương nhìn ra xa thở dài một tiếng, chừng giây lát sau mới nói: "Lần này, lãnh đạo cấp trên sẽ thỏa hiệp thôi."

"Sao cậu biết được?"

"Rất đơn giản, vì nhóm chúng ta từ khi được huấn luyện đến giờ, vẫn chưa từng tham gia thực địa tác chiến lần nào. Tôi nghĩ, một đội ngũ được huấn luyện đặc biệt để ra chiến trường, những tưởng sắp đạt tiêu chuẩn tới nơi, giải tán trong lúc này thật không có lợi đó." Nhạc Dương cười cười nói.

Trác Mộc Cường Ba nghiêng mặt chăm chú nhìn Nhạc Dương, anh chàng này nói cũng khá có lý. Bất giác gã cũng thở dài: "Hy vọng được như cậu nói."

Nhạc Dương lập tức nói: "Tôi đã bảo Cường Ba thiếu gia cũng không muốn bỏ cuộc như vậy mà, tư liệu tổ chuyên gia thu thập được vẫn có sức hấp dẫn rất lớn đúng không?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Cậu ấy à, đùng là cái gì cũng không giấu nổi cậu. Phải rồi, tôi lấy làm kỳ quái, tại sao cậu được chọn vào nhóm này? Chỉ là cấp trên sắp xếp thôi hả?"

Nhạc Dương nhún vai đáp: "Bởi vì trong đám lính trinh sát, tôi là người giỏi nhất."

Trác Mộc Cường Ba bật cười. Nhạc Dương kêu toáng lên: "Đây là ý gì vậy? Chẳng lẽ Cường Ba thiếu gia anh không nhìn ra sự ưu tú của tôi hay sao?"

"Cậu bốc phét vừa vừa thôi…"

"Anh không thể lấy bà chằn đó ra so được, cô ta là giáo quan cơ mà. Được rồi được rồi, tôi sửa lại, trong đám lính trinh sát trẻ, tôi là người giỏi nhất."

"Ha!"…

Bên kia, trong phòng làm việc của Lữ Cánh Nam, cô đang nôn nóng đi đi lại lại: "Ngài xem, như vậy được không? Á La đại nhân?"

Lạt ma Á La nói: "Cấp trên có phản ứng gì không?"

Lữ Cánh Nam nói: "Về điểm này thì xin Á La đại nhân yên tâm. Mệnh lệnh của cấp trên là, trước khi sĩ quan chỉ huy cao nhất tới đây, tất cả đều do con toàn quyền phụ trách. Năng lực của Nhạc Dương con biết rất rõ, chỉ cần gọt giũa thêm chút nữa là sẽ trở thành một viên ngọc sáng; Trương Lập tuy không phải người ưu tú nhất trong các học sinh của con, song cũng có thể coi là một trong những người đứng đầu, quan trọng nhất là ở bộ đội địa phương họ cũng không phải xuất chúng lắm, biểu hiện tương đối bình thường. Bọn họ cũng không hề biết nguyên nhân mình được lựa chọn, vì vậy đội ngũ lần này tuyệt đối không làm người ngoài hiềm nghi chút nào. Tất cả đều theo yêu cầu của Hội đồng Trưởng lão, tuyệt đối âm thầm hành động."

Lạt ma Á La nói: "Nhạc Dương khá nguy hiểm đấy. Theo như Cường Ba thiếu gia nói, Nhạc Dương đã suy luận ra hầu hết các nghi vấn trong chuyến đi châu Mỹ này của họ đấy, liệu cậu ta có nghi ngờ nguyên nhân thực sự của việc tham gia nhóm này hay không?"

Lữ Cánh Nam lắc đầu: "Chắc là không, lúc mới gặp mặt, con đã cố ý làm ra vẻ không quen biết bọn họ, hơn nữa, Nhạc Dương không có thói quen nghi ngờ giáo quan của mình đâu. Cường Ba thiếu gia thì chẳng biết chuyện gì, những người anh ấy tìm tới, giáo sư Phương Tân, cô Đường Mẫn, thậm chí cả anh chàng Ba Tang trong tù kia, cũng đều chẳng biết chút gì. Có lẽ chính vì nguyên nhân này, Cường Ba thiếu gia mới nôn nóng tìm hiểu thêm về Bạc Ba La thần miếu."

"Ừm, tính cách Cường Ba thiếu gia rất độc lập, cứ tiếp tục giấu giếm thế này cậu ấy sẽ bỏ đi thật đấy, đã đến lúc cho họ biết về các tư liệu lịch sử kia rồi. Đối với Cường Ba thiếu gia, chúng ta cũng nên thay đổi thái đô, cố gắng khiến cậu ấy nghĩ rằng, là cậu ấy tự nỗ lực tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu chứ không phải vì chúng ta mới tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Trong những người này, kẻ duy nhất đáng nghi ngờ chính là anh chàng Ba Tang vừa mới ra tù kia. Có điều, nghe mấy người bọn Cường Ba thiếu gia kể về biểu hiện của Ba Tang trong chuyến đi châu Mỹ vừa rồi, nói không chừng anh ta thật sự có thể cung cấp một số đầu mối đặt biệt cho việc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, có điều Ba Tang lại bị nước lũ cuốn đi mất rồi, không biết có còn sống trở về được hay không nữa. Nếu Ba Tang sống trở về, chúng ta không thể không tăng thêm mối hoài nghi với anh ta, đồng thời, cũng phải lợi dụng anh ta triệt để hơn."

"Vâng, Á La đại nhân."

"Còn nữa, Ngải Lực Khắc kia hình như là một nhân vật có thừa, có phải cấp trên phái tới giám sát chúng ta hay không?"

"Không, chỉ là trợ thủ. Anh ấy sẽ đi ngay thôi, nhà nước nói còn có một nhiệm vụ khác cho anh ấy, có điều như vậy, ngược lại còn khiến con lo lắng hơn. Có lẽ, cái nhóm chưa làm nên chuyện gì này sắp phải giải tán đến nơi, vậy mà lúc này Cường Ba thiếu gia lại còn đưa ra những yêu cầu đó nữa." Lữ Cánh Nam nói với vẻ khó xử.

"Ừm," lạt ma Á La gật gật đầu: "Giờ còn một việc nữa phải lo lắng, chính là kẻ địch của chúng ta, suốt cả hành trình này, ta đều không cảm nhận được sự tồn tại của bọn chúng, có lẽ đúng là đã qua mặt được đối phương. Nhưng những chuyện bọn Cường Ba thiếu gia gặp phải lại khiến người ta phải nghi ngờ. Cả một khu vực lớn như vậy, chỉ có chừng bảy tám bộ lạc nguyên thủy, đi qua đó, tỷ lệ gặp đám người nguyên thủy ấy không quá một phần ngàn, vậy mà bọn Cường Ba thiếu gia lại gặp phải những hai lần; còn chuyện cả bọn buôn ma túy lẫn quân du kích địa phương đều truy đuổi bọn họ là thế nào? Ta luôn có cảm giác, sự việc này không hề đơn giản như bề ngoài, đằng sau dường như có âm mưu gì đó, nhưng chúng ta lại chẳng nhìn ra chút sơ hở nào, thật là khiến người ta phải lo lắng."

"Á La đại nhân, liệu chúng ta có quá đa nghi hay không?"

"Không, con không hiểu đâu, kẻ địch của chúng ta hết sức giảo hoạt và nguy hiểm. Từ khi Thánh giáo chúng ta tiếp xúc với bọn chúng, trên phương diện điều tra các đầu mối về Bạc Ba La thần miếu, hai bên đã bị chúng chiếm mất tiên cơ, lần này nói thế nào cũng không để xảy ra bất cứ điều gì sơ sót."

Lữ Cánh Nam hỏi: "Á La đại nhân, theo ngài thì Merkin có phải một trong số những kẻ ấy hay không?"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Không biết, ta cũng không cảm thấy sự tồn tại của hắn. Có lẽ hắn không đi Bạch thành, lần này rời khỏi Trung Quốc trước chỉ là trùng hợp."

Lữ Cánh Nam nói: "Không biết cái nhìn của đại nhân về hành trình lần này như thế nào?"

Lạt ma Á La thở dài: "Nguồn tin chuẩn xác, chỉ có điều chúng ta đã tới chậm một bước, để kẻ khác nhanh chân hơn. Chắc là món đồ trong địa cung ** Puch đã bị trộm đi từ bảy năm trước rồi."

Lữ Cánh Nam nhíu mày lên nói: "Nếu đúng là sự thật, vậy thì trong tay chúng ít nhất cũng có bản đồ và tòa thành ánh sáng tỏa chiếu rồi. Vậy thì tại sao bọn chúng vẫn cứ chần chừ chưa hành động?"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Không biết nữa, có lẽ chúng vẫn chưa phá giải được thông tin ẩn chứa trong tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu cũng nên, dù thế nào thì chúng cũng không có khả năng diễn dịch được thông tin trên bản đồ đâu." Lạt ma Á La để lộ vẻ mặt nặng nề, lẩm bẩm nói, "Nếu những gì người ở trong rừng Mãng Xà nói là sự thật, vậy thì bọn họ là một nhóm mười ba người. Trước khi đến địa cung ** Puch đã chết mất bốn người, thêm anh ta vào nữa thì là năm, có lẽ còn lại tám người, trong địa cung không thể nào không có người mất mạng, vậy thì rốt cuộc đám người ấy còn bao nhiêu người nữa? Nếu Merkin là một trong số đó, vậy những kẻ khác giờ đang ở đâu?" Cuối cùng, ông thở dài một tiếng: "Đám người này quả là đáng sợ, trên đường tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, bọn chúng đã dẫn trước chúng ta. Đây đúng là một chuyện hết sức gay go, chúng ta không còn thời gian nữa rồi!"

Lữ Cánh Nam đặt tay trái lên vai phải, cúi thấp người xuống: "Đại nhân, xin ngài yên tâm, chúng ta sẽ cố gắng hết sức vượt lên trước bọn chúng, ánh sáng của thần miếu mãi mãi soi đường cho chúng ta. Với sự chỉ dẫn của thần Trí tuệ, chúng ta nhất định sẽ có được ánh sáng."

Lạt ma Á La nói: "Phải rồi, nghe nói cuối cùng con đã cứu ba người ra khỏi rừng sâu, trong đó có một người tóc bạch kim phải không?"

Lữ Cánh Nam gật đầu: "Vâng, Sean, làm một người Anh."

Lạt ma Á La nói: "Con thấy người này thế nào?"

Lữ Cánh Nam nghĩ ngợi giây lát rồi đáp: "Khi nhìn thấy anh ta, con có cảm giác người này giống một kẻ lang bạt phóng khoáng tự do, ấn tượng mà anh ta mang tới cho con là, một quý ông người Anh rỗi việc buồn đời, không biết trời cao đất dày tham gia đoàn du lịch tự túc tới rừng nguyên sinh mạo hiểm."

Lạt ma Á La nói: "Không, con nhầm rồi. Khi nghe Cường Ba thiếu gia kể về con người này, ấn tượng của ta là, kinh nghiệm sống trong rừng nguyên sinh của anh ta cao hơn bọn Cường Ba thiếu gia thật không biết bao nhiêu lần. Người này rất đáng nghi, phải nhận diện khuôn mặt, nhất định phải tra ra lai lịch của anh ta."

Lữ Cánh Nam băn khoăn: "Làm vậy liệu có hơi quá…"

Lạt ma Á La xua tay nói: "không thể sơ ý, không thể để tình huống nào nằm ngoài dự liệu của chúng ta xảy ra." Lữ Cánh Nam vội vâng dạ đáp lời. Lạt ma Á La lại ngước mắt nhìn lên bầu trời xanh thẳm, chậm rãi nói tiếp: "không thể sơ suất được nữa, hai mươi năm trước, vì một phút sơ sẩy, đã khiến một cô bé vô tội rơi vào địa ngục. Sai lầm tương tự như vậy, tuyệt đối không thể tái diễn lần nữa."

Cuối cùng, lạt ma Á La nói: "Vậy thì cứ quyết định vậy đi, ngày mai ta và con sẽ cùng nói cho Cường Ba thiếu gia những tư liệu mà cậu ấy hứng thú. Con phải báo cáo ổn thỏa chuyến đi châu Mỹ này lên thượng cấp, ta cũng mang toàn bộ nội dung của hành động lần này báo cáo với hội đồng Trưởng lão, họa may các vị trưởng lão có thể nhìn ra âm mưu của kẻ địch trong lần hành động này. Hà…"

Sáng sớm hôm sau, Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân tới phòng làm việc của Lữ Cánh Nam. Gã vốn định kéo cả Nhạc Dương, Trương Lập cùng đi cho người đông thế mạnh, như vậy mới gây áp lực được với Lữ Cánh Nam. Trác Mộc Cường Ba nói hai người bọn họ cũng có quyền được biết mình đang chấp hành nhiệm vụ gì, nhưng hai tên nhát gan ấy vừa nghe nhắc tới chuyện kiếm giáo quan đàm phán đã rụt lại, nói thế nào cũng không chịu đi. Còn về Mẫn Mẫn, Trác Mộc Cường Ba vốn không có ý định để cô dính dáng đến chuyện này. Gã cũng tìm tới lạt ma Á La, không ngờ nhà sư già nói mình là người của phía tôn giáo, cũng biết chuyện rồi. Trác Mộc Cường Ba tròn mắt lên nhìn ông một lúc lâu, không thể nào vị sư già này đã biết hết mọi chuyện, gã còn tưởng đâu chỉ có Lữ Cánh Nam với Ngải Lực Khắc là hiểu rõ chuyện này thôi.

Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đã ở trong văn phòng đợi họ từ trước, chỉ có Ngải Lực Khắc là không thấy đâu.

"Cấp trên đã có câu trả lời chưa?" Trác Mộc Cường Ba vừa bước vào đã mở miệng hỏi ngay.

"Ngồi đi." Lữ Cánh Nam đưa tay ra hiệu mời ngồi. Bên tay phải của cô đặt hai chồng tư liệu dày cộp. Trác Mộc Cường Ba thấy có hy vọng, thầm nhủ xem ra lần này Nhạc Dương đã đoán trúng rồi.

Đợi hai người ngồi xuống xong xuôi, Lữ Cánh Nam đan chéo mười đầu ngón tay vào nhau, chậm rãi thong thả nói: "Còn nhớ trước khi xuất phát, tôi đã nhắc với anh về Cổ Cách kim thư mới từ hải ngoại mang về hay không?"

"Đương nhiên."

Lữ Cánh Nam nói: "Tin rằng hai người đều có hiểu biết rất sâu về vương triều Cổ Cách phải không?"

Giáo sư Phương Tân lấy làm lạ nói: "Không hiểu rõ lắm."

Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên nói: "Tại sao tôi phải hiểu rất rõ chứ? Tôi chỉ biết vương triều ấy ở phía Tây, hình như thuộc khu vực A Lý thì phải?"

"Vậy còn vương triều Tượng Hùng? Nó được kiến lập trước vương triều Cổ Cách, có thể nói là tiền thân của vương triều Cổ Cách."

"Có nghe nói, nhưng cũng không hiểu biết gì hết."

Lữ Cánh Nam ngầm liếc mắt nhìn lạt ma Á La, lạt ma Á La cũng lẳng lặng ra ám hiệu ngầm, biểu thị Trác Mộc Cường Ba đích thực không biết gì về chuyện này. Lữ Cánh Nam lại nói tiếp: "Không biết cũng không sao, hai người xem qua các tư liệu này sẽ hiểu thôi. Tôi sẽ nói vắn tắt tầm quan trọng của nó. Sau khi Tán thổ Lăng Đạt Mã chết, chiến tranh diễn ra liên tiếp. Năm 877 sau Công nguyên, vương triều Thổ Phồn diệt vong, đồng thời bị chia cắt thành mấy vương quốc nhỏ. Giai đoạn này đã hoàn toàn bị quên lãng trong lịch sử. Từ sau trở đi, tư liệu có thể tra cứu trong lịch sử chỉ có A Để Hiệp 3 đại sư vào đất Tạng năm 1042 sau Công nguyên, có điều đây cũng không hoàn toàn là tư liệu lịch sử. Trong những vương quốc nhỏ ấy, chỉ có một vương quốc duy nhất có được hòa bình và nhanh chóng hồi phục, rồi tồn tại kéo dài đến mấy trăm năm sau, chính là vương quốc của vương triều Cổ Cách. Bọn họ là con cháu của Lăng Đạt Mã thuộc nhánh của Duy Tùng. Nếu như tình từ Duy Tùng, lịch sử của vương triều này bắt đầu từ năm 842 trước Công nguyên cho tới tận thế kỷ mười bảy, vừa hay bao gồm cả giai đoạn "tịch diệt" kia. Vì vậy, các văn kiện lịch sử của vương triều Cổ Cách có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu giai đoạn lịch sử thất lạc sau khi Lãng Đạt Mã diệt Phật giáo. Trước mắt, các chuyên gia đã có nhận định sơ bộ, số Cổ Cách kim thư này, chính là các văn kiện lịch sử của Cổ Cách đã bị mất tích, nếu được chứng thực, giá trị của chúng sẽ cực kỳ trân quý. Hơn nữa, theo nguồn tin đáng tin cậy của chúng ta, số Cổ Cách kim thư này chính là một trong những đầu mối quan trọng mà năm xưa Stanley phát hiện được ở Tây Tạng. Tóm lại, Cổ Cách kim thư chính là sử liệu đáng tin cậy nhất về giai đoạn Phật diệt, đầu mối mà nó cung cấp cũng là đáng tin cậy nhất. Những vấn đề liên quan đến phương diện lịch sử tôi không rườm rà nhắc lại nữa, ở đây chỉ nhấn mạnh vào một số vấn đề trong Cổ Cách kim thư có liên quan tới châu Mỹ thôi. Thực ra, chuyến đi châu Mỹ lần này của mọi người, cũng liên quan tới số Cổ Cách kim thư vừa mới được mang trở về tổ quốc kia."

Trác Mộc Cường Ba càng nghe càng thấy mơ hồ khó hiểu: "Chuyến đi châu Mỹ? Liên quan gì đến Cổ Cách kim thư chứ?"

Lữ Cánh Nam nói: "Anh nghe tôi nói hết đã. Theo những tư liệu chúng tôi nắm được, sau giai đoạn diệt Phật, để bảo vệ kinh điển của Phật gia thời đó, những vị cao tăng lánh đời ẩn thế có thể nói đã mang đi số kinh điển hoàn chỉnh nhất và các công nghệ phẩm xa hoa nhất của vương triều Thổ Phồn thời kỳ thịnh vượng. Bọn họ trải qua vô số hiểm nguy, cuối cùng đã tìm được một nơi an toàn. Có lẽ bọn họ cũng biết, không thể để những báu vật nghệ thuật ấy vĩnh viễn chôn vùi ở một nơi không ai hay biết được, rồi sẽ có một ngày, cần phải để cho chúng xuất hiện trở lại dưới ánh mặt trời; hoặc cũng có thể là các vị cao tăng ấy có tranh chấp nội bộ, nảy sinh nghi ngờ đối với quyền sở hữu các vật phẩm trong thần miếu. Tóm lại, mấy chục năm sau khi thần miếu được xây dựng xong, những người đó đã phái sứ giả đi, tổng cộng mang theo ba món đồ, chính là tín vật để chỉ dẫn người đời sau tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Theo những thông tin mà chúng ta nắm được hiện nay, một trong ba thứ đó, chắc là một tấm bản đồ, ghi chép cách vượt qua bóng đêm và nguy hiểm, tìm đến được nơi họ xây dựng thần miếu. Về thứ này, chúng tôi đã từng tổ chức điều tra toàn diện, lát nữa sẽ nói tường tận với anh sau. Một thứ nữa, gọi là tòa thành ánh sáng tỏa chiếu, cụ thể là thứ gì, thì đến giờ chúng tôi cũng chưa làm rõ, thế nhưng, chúng tôi đã tìm thấy trong Cổ Cách kim thư một số vết tích lịch sử liên quan đến món vật này."

Đây mới là lần thứ hai Trác Mộc Cường Ba tiếp xúc với chuyện liên quan tới Bạc Ba La thần miếu, hoàn toàn không ngờ ngôi miếu này lại có nhiều chuyện đến thế

--------------------------------

1 Một điểm du lịch nổi tiếng của thành phố Lhasa.

2 Tường biên mã là kiến trúc rất phổ biến trong các chùa miếu Tây Tạng; tên gọi này là do màu đỏ đặc trưng của nó được nhuộm bằng một loại cây bụi, tiếng Tạng gọi là cây biên mã.

3 Atisas (942-1054), nhà Phật học Ấn Độ cổ đại, ông là người có công rất lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo Tây Tạng hồi thế kỷ X sau công nguyên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: Maya: biến chủng chu mỹ của văn minh hoa hạ


Totem mà người Maya sùng bái là thần Kukulkan và thần Báo châu Mỹ, gần với tín ngưỡng sùng bái long hổ của Trung Quốc; người Maya tôn sùng đồ bằng ngọc, hoàn toàn phù hợp với quan niệm của người Trung Quốc; kim tự tháp Maya hình dáng cấu tạo hoàn toàn khác với kim tự tháp Ai Cập, giống mộ hình đấu ngược của người Trung Quốc hơn, tác dụng chủ yếu là để tế trời, hình thức khác nhau mà công dụng thì như đàn tế của Trung Quốc; văn tự Maya có cùng phương thức tổ hợp và ký hiệu với Kim văn ở Ba Thục.

Giải thích nghi ngờ

Lữ Cánh Nam sắp xếp lại ý nghĩ trong đầu, chậm rãi nói: "Vị sứ giả vĩ đại nhất mang theo tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu. Quốc vương đã dùng nghi lễ tôn giáo cao nhất để nghênh tiếp ngài. Đồng thời sau khi trai tịnh chín ngày, đã thỉnh được sứ giả đưa thánh vật. Quốc Vương kinh ngạc vô cùng, liền hỏi mục đích của sứ giả. Sứ giả nói với quốc vương rằng ông muốn mang thánh vật tới tận cùng của thế giới. Quốc vương khẩn thỉnh xin được giữ lại bản tranh khắc của thánh vật và đã được sứ giả đồng ý. Sau đó, quốc vương cung cấp cho sứ giả rất nhiều tiền lộ phí, phái binh sĩ và chiến ngao cùng ngài tới nơi tận cùng thế giới. Bọn họ đi một chuyến, mất mười ba năm ròng rã, vượt qua hết ngọn núi này tới ngọn núi khác, băng qua biển lớn vô biên, tới một quốc gia vừa xa lạ lại vừa thần bí. Cây ở đó cao chọc trời, liền thành một khoảng lớn, trong rừng sâu, hiểm họa bốn bề, khắp nơi đều là các loài động vật và thực vật ăn thịt người mà họ chưa từng biết đến, kiến trúc ở nơi ấy cao lớn hùng vĩ, lớn hơn bất cứ tòa cung điện nào họ từng trông thấy; thần miếu ở đó giống như một ngôi tháp, là những hình tam giác khổng lồ ghép lại với nhau, cao đến tít chân mây, bậc thang thông thẳng lên giữa làn mây, văn tự ở đấy là tổ hợp của hình đầu người và hình vẽ các loại động thực vật…"

Vừa nghe đến câu chuyện chiến ngao và sứ giả, Trác Mộc Cường Ba lập tức liên hệ những mắt xích then chốt đó lại với nhau. Ở trong rừng Mãng Xà gã hoàn toàn sơ xuất không nghĩ tới. Yinawea, một vị thần đi khắp thế gian, phân thân của thần Chó bảo vệ ngài… sao mình lại quên mất được nhỉ! Trời ơi, như vậy thì, tất cả các phong tục gần giống với của Tây Tạng mà gã từng được thấy trong rừng rậm châu Mỹ đã có một lời giải thích hoàn toàn hợp lý. Chỉ có một điều, hơn một ngàn năm trước đã vượt qua Thái Bình Dương, thật sự bọn họ có thể làm được sao?

"Đợi chút đã…" Giáo sư Phương Tân khàn khàn giọng kêu lên: "Cô muốn nói là, một ngàn năm trước! Người dân tộc Tạng của chúng ta đã vượt qua biển lớn, đến tận châu Mỹ?!" Xem ra ông còn kinh ngạc hơn Trác Mộc Cường Ba gấp bội phần.

Lữ Cánh Nam mỉm cười: "Giáo sư không cần phải kinh ngạc như vậy đâu, hai người có biết theo kết luận mới nhất mà các chuyên gia nghiên cứu về Maya mới đưa ra, tổ tiên người Maya là ai không?"

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu như cái trống bỏi, thầm nhủ: "Chắc không thể nào là người dân tộc Tạng đấy chứ?" Giáo sư Phương Tân dường như đã nhớ ra điều gì đó, ngược lại trở nên trầm tư mặc tưởng. Truyện Sắc Hiệp - http://truyenfull.vn

Lữ Cánh Nam liền trả lời luôn: "Là người Mông Cổ. Cách đây một vạn năm, người Mông Cổ ở châu Á đã đến châu Mỹ rồi."

Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: "Chẳng phải Colombo phát hiện ra châu Mỹ hay sao?"

Lữ Cánh Nam gật đầu: "Chuyện ấy không sai, nhưng Colombo chỉ là người đầu tiên tuyên bố với thế giới rằng có một nơi gọi là châu Mỹ, không phải là người đầu tiên đặt chân lên mảnh đất đó. Trong nền văn hóa Maya, có rất nhiều tác phẩm nghệ thuật có thể phản ánh vấn đề này." Lữ Cánh Nam lại lấy ra một số tư liệu liên quan, nói: "Trong các tác phẩm điêu khắc của người Maya có sắc thái châu Á, châu Phi rất rõ rệt, các tác phẩm nghệ thuật tinh xảo này đã lột tả rõ ràng một chủng người từng tới nơi đây. Nhìn tấm ảnh này xem, theo kết quả khảo chứng của các chuyên gia, tạo hình và phục sức của tượng người gốm này đều có đặc điểm của tượng người đời Tùy, đây không phải tướng mạo và cách ăn mặc của người Maya bản địa."

Lữ Cánh Nam bước trở lại phía sau bàn làm việc, ngồi xuống ghế: "Còn quan hệ giữa Maya và Trung Quốc cũng là vấn đề được giới học thuật tranh luận nhiều nhất. Ở khu vực văn minh Olmec 1 mà văn minh Maya là một trong các đại diện, đã đào được rất nhiều ngọc khuê, tượng ngọc, và rất nhiều chế phẩm từ xương cốt nữa, và bên trên những thứ này, lại khắc Giáp cốt văn của Trung Quốc, nước ta từng có chuyên gia Giáp cốt văn đã nhận ra trên một chiếc ngọc khuê nguyên vẹn những ký hiệu có ý nghĩa là… "Quốc vương và thủ lĩnh khai sáng vương quốc"; ở Mexico, đào được mấy trăm bức tượng người bằng đất, tướng mạo không khác gì người Hoa, y phục cũng khá giống với các niên đại kể từ đời Tùy trở về trước; ở Honduras, phát hiện tác phẩm điêu khắc tương tự với rùa thần Huyền Vũ của Trung Quốc, ở Guatemala, đào được tiền giấy từ thời Tiên Tần; nếu vẫn thấy chưa đủ, thì còn nhiều lắm…" Lữ Cánh Nam nói cứ như bắn súng liên thanh. "Totem mà người Maya sùng bái là thần Kukulkan và thần Báo châu Mỹ, gần với tín ngưỡng sùng bái long hổ của Trung Quốc; người Maya tôn sùng đồ bằng ngọc, hoàn toàn phù hợp với quan niệm của người Trung Quốc; kim tự tháp Maya hình dáng cấu tạo hoàn toàn khác với kim tự tháp Ai Cập, giống mộ hình đấu ngược của người Trung Quốc hơn, tác dụng chủ yếu là để tế trời, hình thức khác nhau mà công dụng thì như đàn tế của Trung Quốc; văn tự Maya có cùng phương thức tổ hợp và ký hiệu với Kim văn ở Ba thục. Dựa theo các ghi chép trong văn vật, văn hiến liên quan đến quan hệ giữa người đất Thục và Trung Nguyên, và châu Mỹ, mối quan hệ này tuyệt đối không thể chỉ là trùng hợp. Hoàng Đế và con cháu của ông liên hôn với người Thục. Thiếu Hạo, Chuyên Húc đều sống ở đất Ba Thục, sau đó cùng đi châu Mỹ, khả năng văn tự cổ cùng được bảo tồn ở đất Thục và Trung Mỹ là hoàn toàn có thể xảy ra. Tiếng Maya đã có phát triển, còn Kim văn Ba Thục thì tương đối đơn giản một chút. Các học giả đã so sánh từ vựng cơ bản trong tiếng Maya và tiếng Hán, phát hiện ra rất nhiều từ tương đồng, chẳng hạn như "người", "trời", rộng lớn", thời gian phân ly của hai thứ tiếng này có lẽ cách đây chừng 5.000 năm. Đến cả tục tế người sống cũng…" Lữ Cánh Nam đột nhiên dừng lại, tựa hồ như không muốn đề cập đến chủ đề này vậy.

Nhưng Trác Mộc Cường Ba đã nghe thấy, vội truy vấn: "Tục tế người sống! Cô nói tục tế người sống phải không?" Giáo sư Phương Tân ngồi bên cạnh khẽ gật đầu, hiển nhiên là đã tra cứu tư liệu về mặt này rồi.

Lữ Cánh Nam mấp máy miệng, cuối cùng cũng nói ra: "Không sai, người Maya lấy tim người hiến tế, còn ở Trung Quốc cổ đại, tục hiến người sống… còn… còn phức tạp hơn nhiều. Như trong sách Lễ Ký, chương Minh Đường Vị có viết, "Hữu Ngu dân tế thủ, Hạ Hậu dân tế tâm…"" trong Hậu Quán Thư, ghi rằng thủ lĩnh Lẫm Quân của người Ba ở Ba Quận tôn sùng totem hổ, cho hổ uống máu người. Còn chuyện tế người sống ký tải trong Giáp cốt văn thì cả ngàn cả vạn! Đến đời Chu 2 chính là chỉ tục tế người sống. Bất cứ dân tộc nguyên thủy nào cũng đều có các nghi lễ tương tự như tế người sống. Trong mắt người hiện đại chúng ta, có thể đây là biểu hiện chưa khai hóa, thực ra chỉ một cách để người xưa phát tiết cảm xúc mà thôi." có tượng người thay thế, mới chấm dứt được tục lệ bắt người sống tuẫn táng. Thực ra ý nghĩa đầu tiên của "Sử tác dõng giả"

Thấy sắc mặt Trác Mộc Cường Ba biến đổi, Lữ Cánh Nam liền nói sang chủ đề khác: "Lại nói về Trung Quốc chúng ta, sách Hán Thư, chương Đông Di truyện có viết: "Cách Oa quốc 3 bốn vạn dặm về phía Đông, có Lõa quốc, cách Đông Nam Lõa quốc có Hắc Xỉ quốc, thuyền đi một năm mới tới nơi." Hắc Xỉ quốc là hậu duệ của Thiếu Hạo, ở Trung Mỹ. Ghi chép trong Hán Thư đã chứng thực từ thời Hán đã có thể đi thuyền tới châu Mỹ rồi. Sách Liệt Tử, chương Thang Vấn viết: "Phía Đông Bột Hải, không biết cách mấy ức vạn dặm, có Đại Hách, thực ra là hang động không đấy, bên dưới không có đáy, tên gọi Quy Hư." Đại Hách, Thang Cốc ở Trung Mỹ. Cổ nhân đã biết "phía Đông Bột Hải" chứng tỏ từ thời Chiến Quốc người Trung Quốc đã biết phương vị của Trung Mỹ ở đâu. Điều này chỉ có thể làm được khi họ đã hiểu rằng trái đất hình cầu, và có tuyến đường hàng hải thực tế. Lui về mấy thế kỷ trước, chuyện người Trung Quốc đi thuyền sang Mỹ cũng là có khả năng. Trong Sơn Hải kinh có nhiều đoạn viết từ thời Thiếu Hạo đã có thuyền tre, đến thời nhà Thương hơn hai ngàn năm sau đó chắc cũng phải có cơ sở vật chất tương đối rồi. Cuốn Tổ tiên Trung Hoa khẩn hoang châu Mỹ của ông Vương Đại Hữu, đã phân tích một cách chi tiết chuyện cuối thời n, hai mươi vạn quân dân đã vượt biển đến châu Mỹ. Gần đây đã có học giả phát hiện, trong bản đồ hàng hải của Trịnh Hòa có đánh dấu châu Mỹ rất rõ ràng, so với Colombo còn sớm hơn rất nhiều năm."

Lữ Cánh Nam nói một tràng dài, rồi đưa nước cho Trác Mộc Cường Ba để gã bình tĩnh lại phần nào. Trong đầu Trác Mộc Cường Ba giờ là một mớ bòng bong, suy đi nghĩ lại sự việc tưởng chừng như hoàn toàn không có chút khả năng kia - người Trung Quốc đã biết đến châu Mỹ từ rất lâu về trước? Đồng thời còn thường xuyên tới đó? Người Maya và người Trung Quốc có chung tổ tiên? Nhưng nghe Lữ Cánh Nam nói một hồi, rồi thêm cả những tư liệu hàng thật giá thật kia, dường như đúng là có chuyện như vậy thật.

Đợi sắc mặt Trác Mộc Cường Ba bớt tái, Lữ Cánh Nam mới nói tiếp: "Được rồi, nói nhiều như vậy, mục đích cũng chỉ để anh tin rằng, hơn một ngàn năm trước, người Tạng đã vượt biển đến châu Mỹ cũng không phải là chuyện gì ghê gớm lắm. Bởi vì từ năm nghìn năm trước, người Trung Quốc chúng ta đã đến châu Mỹ rồi, mà hơn nữa, rất có khả năng vùng đất châu Mỹ ấy chính là do người Trung Quốc chúng ta khai phá cũng nên."

"Không thể nào tin nổi." Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm nói. Gã là người từng đến Bạch thành, nhìn thấy vương quốc bằng đá hùng vĩ, nhìn thấy những bức tranh, những pho tượng tinh xảo tuyệt mỹ, những văn tự phức tạp rối ren. Gã chưa từng thấy nền văn minh nào như vậy, nhưng có thể khẳng định, đây chắc chắn là một nền văn minh huy hoàng rực rỡ. Nhưng lúc này đây, lại có người nói với gã rằng nền văn minh ấy, rất có khả năng chính là biến chủng châu Mỹ của nền văn minh Hoa Hạ, thật sự là gã khó có thể chấp nhận được.

Lữ Cánh Nam nói: "Chúng ta tiếp tục nhé? Tốt lắm, thái độ mọi chuyện đều có khả năng xảy ra này mới chính là thái độ khoa học của một người làm công tác khảo sát đạt tiêu chuẩn. Theo thông tin dịch được trên trục quyển, bọn họ mang tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu trao cho quốc vương bảo vệ, quốc vương đã đáp ứng, sẽ để tòa thành được ánh sáng tảo chiếu vĩnh viễn cách ly với ánh mặt trời. Và ngay sau đó, ngài bắt đầu xây dựng tòa kim tự tháp lớn nhất trong lịch sử, tương truyền trên có thể thông tới tận thiên đình, dưới đào sâu xuống tận địa ngục âm ty."

"Vậy tại sao vị quốc vương kia tốn nhiều tinh lực thỏa mãn yêu cầu của một người ngoại tộc làm gì?" Trác Mộc Cường Ba đột nhiên hỏi.

Lữ Cánh Nam nói: "Chuyện này hả? Ai mà biết được chứ, có rất nhiều thông tin trong trục quyển còn đang đợi giải nghĩa, có rất nhiều điểm chúng tôi vẫn chưa hiểu được. Nhưng có một điểm chúng tôi biết, đó là tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu ấy chắc là ở trong một kim tự tháp Maya."

Cuối cùng Trác Mộc Cường Ba cũng đã hiểu, gã thấp giọng nói: "Vì vậy, chuyến diễn tập băng rừng nguyên sinh lần này của chúng tôi, mục đích chính là để tìm kiếm tòa thành ánh sáng tỏa chiếu kia. Thế nhưng, tại sao lúc xuất hành lại giấu giếm chúng tôi, cô có thể giải thích được không?"

Lữ Cánh Nam đáp: "Có ba nguyên nhân. Thứ nhất, tòa Bạch thành ấy vừa được một công ty dầu mỏ xuyên quốc gia phát hiện ra, nghe nói là đã vô tình tìm thấy trong khi lắp đặt đường ống dẫn dầu xuyên quốc gia, vẫn hoàn toàn phong tỏa tin tức đối với thế giới bên ngoài. Đương nhiên, chúng tôi sử dụng cách riêng của mình để có được tin tức, nhưng không thể công khai rộng rãi được. Thứ hai, cái gọi là tòa thành ánh sáng tỏa chiếu này, chúng tôi chỉ biết được cái tên, còn rốt cuộc nó là thứ gì, đến giờ chúng tôi vẫn chưa làm rõ được, vì thế, rốt cuộc là các anh đi đâu tìm, tìm cái gì, tôi cũng không thể nói cho cụ thể tận tường được. Thứ ba, cũng là điểm quan trọng nhất, chúng tôi có nghi ngờ, trong những người tham gia tập huấn lần này, có người qua lại với thế lực nước ngoài, tất nhiên cụ thể là ai thì chúng tôi vẫn còn chưa biết."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Ý của cô là, trong chúng tôi có nội gian ư?"

Lữ Cánh Nam gật đầu: "Nội gian thì không đến nỗi, gọi là người bắn tin đi. Tóm lại, chính những nguyên nhân này đã khiến tôi không thể cho các anh biết nội dung cụ thể của hành động lần này, tất cả chỉ còn cách nghe theo mệnh trời, nhưng đồng thời…" Lữ Cánh Nam cao giọng, "Hành động lần này cũng có thể coi như một lần diễn thử cho chuyến đi tới Bạc Ba La thần miếu của mọi người, chỉ tiếc là tình hình diễn thử quá đỗi tệ hại. Với trình độ của mọi người lúc này, chỉ sợ cả con đường tới Bạc Ba La thần miếu còn tìm chẳng ra, tất cả đã, đã…"

Lữ Cánh Nam không nói "đã thế nào", nhưng Trác Mộc Cường Ba nhìn ra được, cô muốn nói rằng "tất cả đã chết sạch hết cả rồi." Ánh mắt gã lộ rõ vẻ ngờ vực, thầm nhủ: "Chúng tôi không đến nỗi kém cỏi vậy chứ?"

Lữ Cánh Nam như nhìn thấy được tâm tư gã, liền nói: "Được rồi, anh vẫn còn nghi ngờ phải không. Vậy chúng ta có thể làm một so sánh bình đẳng nhé, lần này các anh gặp phải một đám du kích rời rã như nắm cát khô, hơn nữa còn mạnh ai nấy làm, chứ không phải quân đoàn có quy mô và tổ chức. Còn nếu như xuất phát tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, mọi người sẽ phải đối mặt với…" Lữ Cánh Nam đứng dậy, mở một ngăn bảo hiểm trên tủ sắt ra, lấy ra một tập văn kiện tuyệt mật, ném xuống trước mặt Trác Mộc Cường Ba: "…bọn chúng!"

Trác Mộc Cường Ba nhìn tấm ảnh đầu tiên trên tập tư liệu, lập tức thất thanh kêu toáng lên: "Là hắn, chính là hắn! Ở Khả Khả Tây Lý…"

Lữ Cánh Nam nói: "Người này tên là Ben Heinz Merkin, anh quen hắn à?"

Trác Mộc Cường Ba lướt qua hồ sơ của Merkin, suy nghĩ rất lâu. "Ben Heinz Merkin?" Dường như gã có ấn tượng gì đó với cái tên này, song nhất thời cũng không nhớ ra nổi, nhưng có thể chắc chắn người đàn ông này chính là người gã gặp ở Tây Tạng và Khả Khả Tây Lý. Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Giờ hắn ta đang ở đâu?"

Lữ Cánh Nam nói: "Không biết, trước khi chúng ta tới Ecuador, hắn đã một mình rời khỏi Trung Quốc, cho đến giờ vẫn chưa thấy xuất hiện."

Giáo sư Phương Tân nhổm người đứng lên, Lữ Cánh Nam nói: "Ông cũng xem đi, giáo sư, có lẽ những người này là đối thủ đáng sợ nhất mà mọi người sắp phải đối mặt đấy."

Giáo sư nhìn cái tên trên tập tư liệu - Ben Heinz Merkin, hỏi Trác Mộc Cường Ba: "Hắn chính là người cậu đã nhắc đến phải không?" Tấm ảnh y mặc quân phục, tóc vàng mắt xanh, lồ lộ cả một thể hình cao lớn, khí thế hừng hực khiến người ta đều phải sợ hãi.

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: "Chính là hắn, ánh mắt của tên này như rắn độc vậy."

Lữ Cánh Nam nói: "Chúng tôi đã dựa trên tư liệu của anh cung cấp tiến hành phân tích khuôn mặt và sắp xếp ghép hình, cho rằng đây chính là người anh đã nói tới, đồng thời triển khai điều tra về hắn luôn. Ben Heinz Merkin, đồng thời có ba quốc tịch Mỹ, Anh, Pháp, có quan hệ mật thiết với yếu nhân trong chính trường mười ba quốc gia châu u, từng đảm nhiệm chức cố vấn cho quân đoàn đặc chủng của các nước như Mỹ, Nga, Ý. Thân thế người này là một bí ẩn, không thể điều tra được bất cứ tư liệu nào về y trước năm ba mươi lăm tuổi, cứ như thế ba mươi lăm tuổi là y tự nhiên có mặt trên đời này vậy, hơn nữa còn có mặt với địa vị rất cao nữa, ngoài ra, y có hạn ngạch tín dụng thấu chi vô hạn của ngân hàng Liên bang. Kết quả điều tra cho biết, trong năm đầu tiên y xuất hiện trên thế giới này, đã có ba mươi mấy quan chức cấp cao u Mỹ nhận lời mời của y, tham gia bữa tiệc do y tổ chức. Cùng một năm đó, y trở thành cố vấn của quân đoàn đặc chủng thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, kiêm nhiệm thêm giáo quan đội đặc nhiệm Hải Báo (Navy SEALs). Y chưa từng có quân hàm, nhưng bất luận là trong trường hợp nào, cũng đều xuất hiện với một bộ quân trang…"

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên ngắt lời: "Quân trang? Hình như tôi đã nghe thấy chuyện về người này ở đâu rồi thì phải, để tôi nghĩ lại xem nào? Merkin, quân trang, quái thật, chắc là tôi nghe nói rồi mà, sao lại không thể nhớ được nhỉ…"

Lữ Cánh Nam mỉm cười: "Vậy sao, xem tiếp cái này đi."

Nhưng Trác Mộc Cường Ba lại không nhận ra được người trên phần tư liệu này. Lữ Cánh Nam liền nói: "Kovsky, từng là cố vấn trong quân đội Nga, thân phận trước mặt của người này có lẽ là thủ lĩnh của một nhóm lính đánh thuê nào đó ở Nga. Hai người này từng gặp nhau trên lãnh thổ Trung Quốc, và bị người của chúng tôi phát hiện. Giờ chắc hai người biết, đối thủ của chúng ta là người như thế nào rồi chứ."

Trác Mộc Cường Ba như được nghe thiên thư, kêu lên: "Trời ơi, giáo quan của lính đặc chủng Mỹ và lính đánh thuê Nga, sao bọn họ cũng có hứng thú với món này vậy?"

Lữ Cánh Nam gật đầu: "Phải, với thân phận và địa vị của họ, không nên là người hứng thú với Bạc Ba La mới phải, nhưng theo tin tức chúng tôi thu được, chính là người tên Merkin, đã tỏ ra có mối quan tâm rất lớn đến việc này." Cô đưa tay xếp gọn lại đống tư liệu ở giữa, vừa sắp xếp vừa nói, "Chỗ này là tư liệu của những người từng tiếp xúc với Ben, trong đó có rất nhiều nội dung mọi người không thể biết được, chỉ có thể cho hai người xem chừng này mà thôi."

Lúc này, trang tài liệu cuối cùng rơi xuống mặt bàn, trên trang giấy trống trơn một khoảng lớn, chỉ có ảnh chụp sau lưng của một người. Lữ Cánh Nam nói: "Người này là kẻ có thân phận thần bí nhất trong tất cả những người từng tiếp xúc với Ben, khả năng thoát khỏi sự theo dõi của y cực cao, nhân viên của chúng tôi theo dõi nhiều ngày, cũng chỉ có thể chụp được một tấm ảnh sau lưng thế này, các tư liệu khác hoàn toàn không có."

Không ngờ, cả Trác Mộc Cường Ba lẫn giáo sư Phương Tân cùng đồng thanh thốt lên: "Cái bóng lưng này sao quen quá!"

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn giáo sư Phương Tân, nói: "Tôi thấy rất giống cái bóng chúng ta từng gặp ở kim tự tháp."

Giáo sư Phương Tân lắc đầu: "Không, tôi thấy giống bóng lưng một người khác hơn, nhưng không thể nào là người ấy được." Ông nhìn bức ảnh thêm một lần nữa, rồi lắc đầu cười cười, "Thật sự là rất giống."

Trác Mộc Cường Ba tò mò hỏi: "Là ai vậy, thầy giáo?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Đó là một người có danh tiếng rất lớn trong giới nghiên cứu sinh vật học, y từng ba lần liên tiếp giành giải thưởng Polytex ở diễn đàn sinh vật học Matthew Liya đó."

"Chà. Lợi hại vậy sao!" Trác Mộc Cường Ba há hốc miệng, gã biết rõ, giải thưởng Polytex ở diễn đàn Matthew Liya này giống như là giải Nobel trong giới động vật học vậy. Danh tiếng của giáo sư Phương Tân cao như thế mà cũng chưa một lần được nhận. Năm nay diễn đàn vốn đã chuẩn bị trao cho ông giải thưởng này rồi, nhưng giáo sư lại bị gã ép tham gia cái kế hoạch tìm chó ngao này, vậy là không thể không bỏ qua giải thưởng Polytex. Gã thật không thể ngờ, lại có người liên tiếp được giải này ba lần liền.

Giáo sư Phương Tân nói: "Ừm, phạm vi nghiên cứu của tôi chủ yếu tập trung vào loài chó, nhưng y thì có nghiên cứu rất sâu đối với cả giới động vật. Có điều, nên bình luận về người này thế nào nhỉ, trong giới nghiên cứu sinh vật chúng tôi, mọi người đều gọi y là tên điên, trong phạm vi nghiên cứu của y, có rất nhiều lĩnh vực đã vượt quá tư tưởng bình thường. Chẳng hạn như, y cho rằng hiện nay động vật và thực vật hoàn toàn phân rõ giới hạn, lẽ ra phải có một vật chủng quá độ mới đúng, vậy là cứ dốc sức nuôi trồng một loại vật chủng ở giữa động vật và thực vật, đó không phải những loại thực vật ăn thịt như cây nắp ấm đâu, mà là một loại vật chủng hoàn toàn mới, có thể chạy nhảy, săn mồi tìm thức ăn như động vật, đồng thời cũng có thể dựa vào quang hợp để sinh tồn như thực vật nữa. Để đạt được mục đích này, y đã cho gen của động vật và thực vật tạp giao với nhau, thậm chí đưa lên vũ trụ để làm biến dị bằng bức xạ yếu, hình như cuối cùng cũng chưa thành công. Hơn nữa, có tin đồn, để bồi dưỡng được một số gen ưu tú, y còn thụ tinh cho một số loại động vật hoàn toàn khác nhau, thậm chí bao gồm cả con người. Nhưng ngoài ra y cũng tham gia nghiên cứu về thực phẩm biến đổi gien, phương pháp dùng sinh vật khống chế sâu bệnh cũng có liên quan nhiều tới lý luận của y, và cũng chính y là người đưa ra liệu pháp chữa bệnh bằng gien. Tóm lại, con người này công tội ngang nhau, là một quái nhân, tôi rất khâm phục."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Không ngờ lại có người như vậy, người này tên là gì thế?"

"Soares Kahn." Giáo sư Phương Tân không cần nghĩ ngợi gì đã đáp ngay.

Bí mật về bộ tộc Qua Ba

Lữ Cánh Nam thu lại những tư liệu tuyệt mật trên bàn, rồi nói: "Giờ thì anh đã hiểu tại sao tôi không vội cho các anh xuất phát chưa. Các hạng mục huấn luyện của các anh vẫn chưa hoàn thành, chúng tôi cũng chưa nắm bắt được một số tư liệu hết sức then chốt, mà quan trọng nhất là, năng lực hiện tại của mọi người vẫn chưa thích hợp tham gia hành động khảo sát lần này."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Nhưng mà, địa phương chúng ta cần khảo sát ở trong lãnh thổ Trung Quốc, ở Trung Quốc và ở nước khác, là hai chuyện hoàn toàn khác nhau đó."

Lữ Cánh Nam lắc đầu: "Có gì khác chứ? Nhiều nhất cũng chỉ là anh có thêm vũ khí và một số trang bị cao cấp hơn thôi, mà khảo sát chân chính hoàn toàn không phải dựa vào những thứ ấy, thứ có thể dựa vào, chỉ có năng lực bản thân thôi, mọi người cần phải nâng cao năng lực của mình lên một cấp độ nữa. Chẳng hạn như tại sao lần này tôi có thể dễ dàng băng qua rừng rậm, còn mọi người lại không làm được? Không phải là tôi biết nhiều hơn mọi người bao nhiêu loài động vật, tôi cũng như anh thôi, có rất nhiều loài sinh vật tôi chưa từng gặp bao giờ, nhưng điểm khác biệt giữa chúng ta là tôi có thể thấy bản chất của sinh vật qua bề ngoài của chúng. Loài động vật này tiến hóa ra các cơ quan như vậy, chúng sẽ có công dụng gì, màu sắc trên da của chúng, những màu nào là để cảnh cáo, những màu nào chứng tỏ có độc, kết hợp với toàn bộ quần thể sinh vật và các loài thực vật xung quanh, anh sẽ hiểu được đó là một sinh vật có tính chất như thế nào, thiên địch của nó là gì, nguồn thức ăn của nó ở đâu. Một ví dụ khác, loài thực vật nào ăn được, đây không phải thuộc lòng là xong, trên thế giới này có cả ngàn cả vạn loài thực vật, anh mãn đời cũng nhớ không hết, chúng ta có thể học theo các loài động vật, hoặc có thể dùng cách nhịn đói tám tiếng để trắc lượng. Còn cả thời tiết nữa, thời tiết trong giới tự nhiên biến hóa khôn lường, cho dù là nhà khoa học nghiên cứu khí tượng cả đời cũng không thể dự báo chính xác trong hai mươi tư tiếng đồng hồ tiếp theo sẽ xuất hiện biến đổi thế nào, nhưng chỉ cần anh nắm bắt được phương hướng chủ đạo, biết được quan hệ giữa khí áp, tốc độ gió, độ ẩm không khí, anh có thể đưa ra phán đoán đại thể. Tất cả những thứ này, tôi đều chưa dạy cho mọi người, mọi người mới chỉ có cơ sở, vẫn cần phải nâng cao thêm một bước nữa đã."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi nghĩ là môi trường tự nhiên ở chỗ Bạc Ba La thần miếu không đến nỗi hung hiểm hơn cả rừng nguyên sinh châu Mỹ đâu."

Lữ Cánh Nam lắc đầu: "Sai rồi! Tôi cho anh xem thứ này, là một thứ vô cùng quen thuộc với anh." Cô mở máy tính, tìm trong kho dữ liệu mã hóa ra một bản ảnh quét của trục quyển, văn tự trên đó gần giống cả Tạng văn cổ lẫn Tạng văn hiện đại. Trác Mộc Cường Ba vừa liếc một cái đã nhận ra ngay, đây chính là Cổ kinh Ninh Mã mà gã đã đọc từ nhỏ tới lớn, đến cuối cùng chỉ cần trông thấy thôi là đã gật gà muốn ngủ.

Giáo sư Phương Tân nhìn màn hình máy tính nói: "Đây là một bộ kinh cổ phải không, văn tự trên đó cũng không phải tiếng Tạng cổ, viết gì vậy?"

Lữ Cánh Nam nói: "Cường Ba thiếu gia, anh nói cho giáo sư Phương Tân đi."

Trác Mộc Cường Ba nhìn những ký hiệu trên màn hình, dở khóc dở cười, đây là đoạn khai diễn thần thoại trong Cổ kinh Ninh Mã, gần như chuyện các vị thần khai thiên lập địa vậy. Trác Mộc Cường Ba thực tình không thể nào hiểu nổi, các nhà nghiên cứu này đang nghiên cứu cái gì mà lại lôi chuyện thần thoại ra coi là thật nữa. Gã đành miễn cưỡng giải thích: "Đây là một đoạn kể câu chuyện chúng thần sáng tạo ra trời đất mới, đại khái là những vị thần minh muốn mang ánh sáng đến, chôn vùi bóng đêm, bọn họ đã tìm thấy cửa vào địa ngục, phiêu bạt mấy vạn năm trên dòng Minh hà đen như mực, lại vượt qua địa ngục man hoang, quái thú ở đó cao bằng tòa nhà ba tầng, da dày như giáp xe tăng, chim ở đó ăn thịt người và bò dê như chim sâu mổ thóc vậy, côn trùng ở đó cao bằng người, con muỗi to hơn con bò…" Nói miên nói mang, rồi Trác Mộc Cường Ba không khỏi bật cười nói: "Tôi thật không hiểu nổi, giáo quan, chẳng lẽ cô cho rằng, đây… kha kha… những ghi chép này thì có liên quan gì đến Bạc Ba La thần miếu chứ?"

Lữ Cánh Nam nói với vẻ hết sức nghiêm túc: "Theo kết quả phân tích tổng hợp từ nhiều nguồn tư liệu, chúng tôi cho rằng những ghi chép này rất có khả năng chính là miêu tả chân thực câu chuyện tổ tiên bộ tộc Qua Ba khai phá vùng đất xây dựng Bạc Ba La thần miếu."

"Hả," Trác Mộc Cường Ba suýt chút nữa thì phun nước trà trong miệng ra, lại nghe Lữ Cánh Nam nói tiếp: "Tất nhiên, cũng không loại trừ khả năng có chỗ phóng đại trong đây, nhưng cũng đủ để chúng ta thấy hoàn cảnh tự nhiên ở đó hiểm ác thế nào rồi."

Trác Mộc Cường Ba cười cười: "Nói như vậy thì thân thế của tôi có quan hệ rất lớn với Bạc Ba La thần miếu kia rồi, đúng là Phật tổ hiển linh để cho tôi đi kiếm kiếp trước của mình à?"

Lữ Cánh Nam nói: "Giờ cũng chưa tiện đưa ra phán đoán, có điều cũng không phải là không có khả năng ấy xảy ra. Phải có…"

"Thái độ khoa học rằng tất cả mọi khả năng mọi khả năng đều có thể xảy ra, tôi biết rồi," Trác Mộc Cường Ba tiếp lời, "nhưng cô cũng biết, thần thoại và tình hình thực tế rốt cuộc khác nhau nhiều như thế nào chứ, động vật cao bằng tòa nhà ba tầng, cô đã thấy bao giờ chưa vậy, giáo quan?"

Lữ Cánh Nam đáp: "Chưa từng thấy không có nghĩa là không có. Truyền thuyết Tử Kỳ Lân của anh, chẳng phải cũng từ trong cuốn cổ kinh này mà ra hay sao? Tại sao anh có thể tin tưởng chắc chắn vào Tử Kỳ Lân mà dè bỉu coi thường những nội dung khác trong cùng một quyển kinh như vậy?"

Nụ cười trên mặt Trác Mộc Cường Ba lập tức đông cứng, gã nghiền đi ngẫm lại lời Lữ Cánh Nam vừa nói, song vẫn không thể nào chấp nhận được giả thuyết của cô. Những điều Lữ Cánh Nam nói hôm nay đều vượt quá phạm vi cảm tri của gã, thật tình là Trác Mộc Cường Ba không sao chấp nhận được.

Lữ Cánh Nam lại nói: "Đúng rồi, lạt ma Á La có kể cho tôi về những việc mọi người trải qua ở Bạch thành."

Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm hỏi: "Thì sao chứ?"

Lữ Cánh Nam gật đầu: "Thực ra đây cũng là vấn đề mà lần này chúng tôi tương đối lo lắng. Vì đến giai đoạn thứ ba mọi người mới bắt đầu tiếp xúc với cơ quan cạm bẫy, lần này có thể may mắn sống sót, một nửa là nhờ lạt ma Á La giúp đỡ, nửa còn lại có thể coi như ông trời có mắt đi, may mà mọi người mới chỉ gặp phải những thứ đơn giản thôi."

Trác Mộc Cường Ba đã nhớ ra, lạt ma Á La nói những cơ quan chí mạng đó, chỉ có thể coi như cạm bẫy, vẫn chưa thể tính là cơ quan được, khi ấy gã đã ngẩn ra mất một lúc, lần này đến cả Lữ Cánh Nam cũng nói như vậy nữa, gã bèn hỏi: "Phải rồi, tôi cũng đang muốn hỏi đại sư Á La đây, tại sao ngài lại hiểu biết về cơ quan học như thế?"

Lữ Cánh Nam đáp: "Bởi vì bản thân đại sư, chính là một cao thủ cơ quan học." Nói đoạn, cô đưa mắt nhìn sang phía ông.

Lạt ma Á La mỉm cười nói: "Cách nói "cơ quan" này xuất phát từ Trung Nguyên, từ trước khi Lỗ Ban chế tạo đồ vật, đã có một từ gọi là "cơ quan" chỉ thứ này rồi, sau đó trải qua ngàn năm, ngành học thuật về cơ quan được diễn dịch nhiều lần ở Trung Nguyên, và đạt đến trình độ bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng không thể bì kịp, vô số người tài trong lịch sử đều rất tinh thông môn cơ quan học này. Văn vương diễn giải Chu dịch, Khương Tử Nha giỏi chế tạo đồ, thực ra bắt đầu đề cập đến các học thuyết về cơ quan, thời Xuân Thu có các danh gia như Công Thâu Ban (tức Lỗ Ban), Mặc Địch, Tôn Vũ, Tiên Chẩn; thời Chiến Quốc có Quỷ Cốc Tử, Ngô Khởi, Tôn Tẫn và Cam Thạch; thời Tần có Lã Bất Vi, thời Hán Sở tranh hùng có Phạm Tăng, Trương Lương, Hàn Tín; thời Hán có Ban Siêu, Đinh Hoãn, Trương Hoành, Ngụy Bá Dương; thời Tam Quốc có Gia Các Lượng, Chu Công Uẩn, Mã Quân; thời Nam Bắc triều có Tổ Xung Chi, Vô Hoài Văn; còn đến đời Tùy Đường, hậu nhân có cơ sở của các danh gia như Lý Tịnh, Tôn Tư Mạc, Lý Thuần Phong, Tăng Nhất Hành, lại càng phát huy cơ quan học đến mức đỉnh cao, chỉ kém chút nữa thôi là đã hoàn thành bước đột phá từ thời đại binh khí lạnh đến thời đại binh khí nóng. Mà Bạc Ba La thần miếu chúng ta đang muốn tìm kiếm đây, chính là được xây dựng trong thời kỳ cơ quan học phát triển đỉnh cao này. Thời đó Đại Đường và Thổ Phồn qua lại rất mật thiết, kinh tế, tôn giáo, văn hóa đều có sự giao lưu, những cơ quan lần này mọi người gặp phải trong địa cung Maya so với cơ quan trong kiến trúc thời kỳ Thổ Phồn… ôi, sau này anh học sẽ biết, từ từ có dịp chúng ta sẽ trao đổi sau."

Trác Mộc Cường Ba tò mò hỏi: "Trong nội dung mật tu của đại sư, cũng có cả cơ quan học nữa sao?"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Không, đó là chuyện từ trước khi mật tu, văn hóa Trung Nguyên mênh mông như biển lớn, tôi chẳng qua chỉ là hạt muối giữa biển cả. Hôm nay tôi tạm không nhắc đến cơ quan học, tôi có mặt ở đây là để nói cho Cường Ba thiếu gia biết chuyện liên quan đến bộ tộc Qua Ba."

"Bộ tộc Qua Ba?" Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người, tò mò nhìn lạt ma Á La với vẻ dò xét.

Lạt ma Á La gật đầu nói: "Đúng thế. Vừa rồi Cường Ba thiếu gia phản ứng rất mạnh với chuyện tổ tiên bộ tộc Qua Ba đã khai phá vùng đất để xây dựng Bạc Ba La thần miếu mà Lữ giáo quan nhắc tới, có điều tôi muốn hỏi Cường Ba thiếu gia một câu, rốt cuộc cậu hiểu gì về bộ tộc Qua Ba?"

"Bộ tộc Qua Ba…" Trác Mộc Cường Ba lặp lại từ một lượt, đồng thời ngẫm nghĩ trong đầu. Bộ tộc Qua Ba mà gã biết, nghe đồn là một dân tộc sống trong hãy Himalaya, đốt nương làm rẫy, bện thừng ghi chép sự việc vì không có văn tự. Người ta biết đến họ nhiều nhất là qua lối sống chung với sói, nhưng rất ít người được trông thấy họ. So ra thì bọn họ giống với những người nguyên thủy cách ly khỏi thế giới này, tương tự như các cư dân Kukuer vậy. Toàn bộ hiểu biết của Trác Mộc Cường Ba về bộ tộc Qua Ba, bao gồm cả Tử Kỳ Lân, đều bắt nguồn từ đủ các truyền thuyết trong ngôi làng gã sinh ra, và những lời giải thích của cha gã.

Lạt ma Á La nở một nụ cười như thể đang cố tỏ ra cao thâm khó lường, đến khi cả giáo sư Phương Tân cũng bị làm cho tò mò, cho tới khi Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: "Tôi biết ít lắm." Ông mới bắt đầu lên tiếng: "Bộ tộc Qua Ba, từng là đội quân mạnh nhất của Thổ Phồn!"

"Hả?" "Cái gì?" "Không phải là bộ tộc bảo vệ Tứ Phương thần miếu hay sao?" Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân gần như cùng lúc kêu lên. Một dân tộc nguyên thủy như vậy, quả thực bọn họ không thể nào tìm ra bất cứ mối liên hệ nào với quân đội Thổ Phồn cả.

Nhìn bộ dạng khoan thai và nụ cười mỉm thần bí trên gương mặt lạt ma Á La, Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân tức khắc cảm thấy tâm trạng đang sôi sục của mình từ từ lắng lại, chỉ lặng lẽ đợi ông nói tiếp.

"Bộ tộc Qua Ba có tổng cộng ba nhánh, nhưng cùng chung một cội rễ, nếu nói kỹ càng, chỉ sợ không thể nói hết được, Ở đây tôi chỉ đề cập đến những vấn đề chính yếu thôi. Mọi người cũng đừng hỏi gì, đợi tôi nói xong đã." Giọng lạt ma Á La vang vang trong phòng, khiến người nghe cảm thấy bình tâm tĩnh trí, "Bộ tộc Qua Ba khởi nguồn từ nước Tượng Hùng, là một nhánh nhỏ trong mười hai tiểu bang của nước Tượng Hùng cổ. Tập tục sống chung với sói của họ tương truyền đã có từ thời cổ. Bộ tộc này dân số rất đông, sống trong hang núi, tính cách mạnh mẽ, háo võ, háo đấu, tính cách như loài sói. Nhưng trước đó Tượng Hùng hùng mạnh vô song, bộ tộc Qua Ba hoàn toàn không nổi bật. Khi Tượng Hùng thất thế trước Thổ Phồn, cánh quân mạnh nhất của Thổ Phồn chủ yếu là người của bộ tộc Qua Ba, bấy giờ đã đánh cho nước Tượng hùng thất bại liểng xiểng, lịch sử gọi là Đạo quân Ánh sáng. Về sau biên chế trong cánh quân này chỉ còn toàn là người bộ tộc Qua Ba. Đạo quân Ánh sáng được bậc nhân tài kiệt xuất nhất Thổ Phồn, Tùng Tán Can Bố xây dựng, mới đầu chỉ có chưa đầy vạn người, khi đông đảo nhất cũng không quá hai vạn. Tương truyền Tùng Tán Can Bố có được người Qua Ba trợ giúp, lấy làm mừng rỡ, liền di chuyển toàn bộ bộ tộc đến gần Vương đô. Để sắp xếp chỗ ở cho họ, ngài đã phái người đào đá làm hang động, tổng cộng đào được tám hang, mỗi hang chứa hơn vạn người, trong sử sách gọi là Lang Cương. Thời kỳ đầu, gần như không ai biết đến sự tồn tại của cánh quân này. Nhưng tới thời Xích Tùng Đức Tán, quân Hóa Thân của Thổ Phồn đã danh chấn Tây Vực, uy danh vang đến tận Đại Đường. Mà quân Hóa Thân chính là tên gọi Đạo quân Ánh sáng do một vương quốc nhỏ bị nó đánh bại đặt cho. Có thể nói như thế này, Thổ Phồn phía Đông giáp với Đại Đường, phía Bắc giáp Đột Quyết, phía Tây lấy Đại Bột Luật, Tiểu Bột Luật 4, phía Nam chiếm Ni Bà La 5, mở ra một cương thổ rộng lớn, truyền đời thống trị được hơn hai trăm năm có dư, phần lớn cũng nhờ vào sức mạnh có tính quyết định nhất của Đạo quân Ánh sáng, kể từ ngày được thành lập đã hùng cứ cao nguyên, hơn hai trăm năm chưa từng biết mùi thất bại. Các chiến tướng nổi tiếng thời Tùy Đường như Hầu Quân Tập, Tiết Nhân Quý đều thua to dưới tay bọn họ. Họ chính là con át chủ bài của quân đội Thổ Phồn, cũng chính là nên móng giữ vững vương triều Thổ Phồn."

Điều này… Trong lòng giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba đều vô cùng nôn nao muốn hỏi. Có một cánh quân mạnh mẽ nhường ấy, nhưng sao cả hai bọn họ đều chưa từng nghe nhắc tới bao giờ? Có điều lạt ma Á La đã nhắc nhở, hai người đều cố nín nhịn mà nghe ông nói tiếp.

"Đó là nhánh đầu tiên. Nhánh thứ hai, lập ra sau khi Đạo quân Ánh sáng thu thậm thêm người bộ tộc Qua Ba vào huấn luyện. Khi ấy Trấn Biên miếu hay còn gọi là Tứ Phương miếu của Tùng Tán Can Bố đại vương đã xây dựng xong. Để giữ những bảo vật quý giá nhất, ngài đã điều ra bốn đội hộ vệ trong Đạo quân Ánh sáng canh Tứ Phương miếu. Đây chính là nguồn gốc của bộ tộc Qua Ba bảo vệ Tứ Phương miếu mà mọi người đã biết. Bọn họ không chỉ bảo vệ có một ngôi miếu ở Cực Nam, mà toàn bộ Tứ Phương miếu. Nhánh cuối cùng, là một số người Qua Ba còn lại, được biên chế vào các đội quân bình thường, theo quân đội dần dần di chuyển đến địa giới Tứ Xuyên ngày nay. Trên thực tế, đến nay có rất nhiều người Tạng là hậu duệ của quân đội Thổ Phồn ngày ấy, vốn trên đường hành quân đánh trận có thể đã nhận lệnh đồn trú tại nhiều nơi khác nhau. Như Cao Át, Anh Cách, còn cả bộ tộc Nạp Tây khá nổi tiếng nữa, đều có tổ tiên quân Thổ Phồn cả. Tại sao tôi lại kể cho hai người nghe về Đạo quân Ánh sáng thành viên toàn là người Qua Ba này chứ? Nguyên nhân hết sức đơn giản, bọn họ không chỉ bảo vệ Tứ Phương miếu, mà còn có quan hệ trực tiếp với Bạc Ba La thần miếu. Có một sự thật lịch sử mà chúng ta không thể không nhìn thẳng vào: Mặc dù các Tán thổ của Thổ Phồn có nhiều người từng bị ám sát, nhưng hầu hết đều chết dưới tay những đại thần thân tín ở ngay bên cạnh hoặc do một chuỗi các âm mưu ám hại, song ở giữa chốn thanh thiên bạch nhật, bị kẻ bên ngoài ám sát thành công, duy chỉ có Tán thổ Lãng Đạt Mã mà thôi. Còn nữa, trong lịch sử Thổ Phồn, chuyện xuất hiện hai triều đình một lúc, cũng chỉ có ngoại lệ duy nhất đó, bao đời Thổ Phồn lúc nào cũng chỉ có một vị. Ngoài ra trong lịch sử Thổ Phồn không phải không có khởi nghĩa của thường dân, thậm chí có thể nói rằng chúng xảy ra liên miên, nhưng thành công thì chưa hề có cuộc nào. Chỉ có Lãng Đạt Mã sau khi diệt Phật, bị nghĩa quân tấn công tiêu diệt, cả vương triều mới theo đó mà sụp đổ hoàn toàn. Nguyên nhân chính là… sau khi Lãng Đạt Mã tuyên bố diệt Phật không được bao lâu, đạo quân Ánh sáng thất bại, bỗng đột nhiên biến mất cùng với toàn bộ bảo vật giấu trong Tứ Phương miếu! Không ai biết bọn họ đi đâu, bởi vì đó là một giai đoạn lịch sử hoàn toàn kín bưng, chúng tôi chỉ biết rằng vệ sĩ bên cạnh Lãng Đạt Mã không còn là người của Đạo quân Ánh sáng nữa. Vị Tán thổ sau này cũng không còn khống chế được Đạo quân Ánh sáng, kẻ địch mà các nông nô khởi nghĩa phải đối mặt cũng không phải là Đạo quân Ánh sáng vô địch nữa. Rốt cuộc bọn họ đã đi đâu, theo ý kiến tranh cãi của các chuyên gia, rất có khả năng Đạo quân Ánh sáng đó chính là đội bảo vệ đã đưa báu vật trong Tứ Phương miếu vận chuyển đến Bạc Ba La thần miếu. Bọn họ có lẽ đã ở lại Bạc Ba La, và bộ tộc Qua Ba mà chúng ta sắp phải giáp mặt có lẽ chính là hậu duệ của họ. Được rồi, hai người có thể đặt câu hỏi."

"Ừm, ừm," Trác Mộc Cường Ba cổ họng giật giật, vội hỏi: "Sao tôi chưa từng nghe nói đến một đội quân hùng mạnh như vậy nhỉ?"

Lạt ma Á La thản nhiên đáp: "Đương nhiên, đội quân này…" ông chỉ vào đống tư liệu nói, "trong các tư liệu không có, trong sử sách cũng chưa từng ghi chép, bằng không, đâu cần tôi ngồi đây giải thích với hai người lai lịch của nó. Trên thực tế, sự tồn tại của đạo quân này, mỗi triều đại Thổ Phồn cũng chỉ có hai người được biết, một chính là Tán thổ, người còn lại chính là thống soái tối cao của Đạo quân Ánh sáng. Vị thống soái tối cao này, thông thường đều do quý tộc người Tượng Hùng đảm nhiệm."

"Nhưng đó đâu phải một hai người, đó là cả một đạo quân trên vạn người cơ mà, không lẽ nào không có chút vết tích gì trong lịch sử?" Câu hỏi của giáo sư Phương Tân trực tiếp cụ thể hơn nhiều.

Lạt ma Á La gật đầu: "Đúng thế, trong sử sách cũng có nhiều chỗ nhắc tới, chẳng qua là chưa bao giờ được người ta chú ý đến mà thôi. Binh sĩ trong Đạo quân Ánh sáng đều được gọi là quân Hóa Thân. Nói cách này, ban đầu có lẽ là do nhà Đường hoặc một vài vương quốc nhỏ bị Thổ Phồn thôn tính lưu truyền ra ngoài. Về sau trong các thư tịch, đều dùng tên này để gọi quân Thổ Phồn luôn. Kỳ thực ý nghĩa ban đầu của nó ý là để chỉ đạo quân này quá đỗi mạnh mẽ, không giống người phàm, đều do quỷ thần hóa thân mà thành. Trong Tây Tạng vương thống ký có nhắc đến chuyện Tùng Tán Can Bố cầu thân với Nepal, Đại Đường, từng viết trong thư rằng, nếu không gả công chúa cho ta, ta sẽ dùng quân Hóa Thân đánh các người, cướp công chúa về. Còn về tính chân thực của thư tín thời ấy, các nhà nghiên cứu sử học đã từng nhiều bận tranh cãi, thực ra cái tên quân Hóa Thân, phải đến đời Xích Đức Tùng Tán mới có, chỉ vì cái tên này quá nổi bật, nên Tây Tạng vương thống ký sau đó mới lấy sử dụng luôn. Có điều chúng tôi cho rằng hành vi lấy vũ lực uy hiếp nhắc đến trong thư là chính xác. Dù sao thì lúc lập nên Đạo quân Ánh sáng này Tùng Tán Can Bố hãy còn trẻ, chưa đầy hai mươi. Tuổi trẻ khí thịnh, cầu thân với nước lớn, muốn khoe khoang một chút cũng là điều có thể lý giải được. Có điều đâu đâu cũng vậy, trong sử sách các nước đều chỉ nhắc đến đạo quân này một cách rất lẻ tẻ vụn vặt, cùng lắm là nhắc đến mấy chữ "quân Hóa Thân", còn về nhân số, vũ khí trang bị, áo giáp, dàn trận, cờ chiến, chủ soái… nhất loạt đều chưa từng có ghi chép."

"Tại sao?"

"Bởi vì Đạo quân Ánh sáng khác với những đạo quân bình thường. Mỗi trận chiến, họ nhất định đều phải tế huyết kỳ." Lạt ma Á La dường như đã đoán trước Trác Mộc Cường Ba sẽ hỏi câu này.

"Tế huyết kỳ?" Trác Mộc Cường Ba lại không hiểu gì, nhưng giáo sư Phương Tân thì không khỏi lạnh sống lưng, đưa tay khẽ vuốt những hạt mồ hôi li ti trên trán.

Lạt ma Á La gật đầu: "Nói một cách đơn giản, chính là không có tù binh… nói cách khác, chính là không để lại người sống." Nhìn vẻ mặt nghi hoặc của Trác Mộc Cường Ba, cuối cùng lạt ma Á La cũng nói rõ ra, rồi giải thích tiếp, "Thực ra, cách làm này cũng là học ở Trung Nguyên thôi, thời Chiến Quốc, nước Tần có một vị danh tướng tên là Bạch Khởi, mỗi trận chiến đều tế huyết kỳ, trên chiến trường chỉ để lại quân sĩ của mình còn đứng, còn kẻ địch thì đều nhất loạt chặt hết đầu. Chỉ riêng nước Sở thôi đã có không dưới một triệu binh sĩ bị Bạch Khởi trảm thủ rồi, thời đó, như vậy gần như đã là thảm họa diệt quốc rồi. Có nhà sử học còn nói, nếu không có Bạch Khởi, nước Tần muốn thống nhất Trung Nguyên ít nhất cũng phải tốn thêm một trăm năm nữa. Còn Đạo quân Ánh sáng, vốn được lập nên để đối phó với vương triều Tượng Hùng, Tùng Tán Can Bố lúc nào cũng cảm thấy đạo quân này vẫn còn có gì đó chưa đầy đủ. Về sau khi hai vị công chúa Nepal và Đại Đường vào Tây Tạng, mang theo rất nhiều tri thức quân sự và trang bị tác chiến, Đạo quân Ánh sáng mới ngày một hoàn thiện, cuối cùng đánh bại Tượng Hùng, chỉ trong một trận chiến đã lưu danh, xác lập địa vị bá chủ cao nguyên mới của nước Thổ Phồn."

Trác Mộc Cường Ba hít sau một hơi khí lạnh, cố hỏi tiếp: "Nếu đạo quân đó bí mật như vậy, tại sao đại sư…"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Không phải tôi biết, mà là kết quả mấy chục năm khảo chứng của tổ chuyên gia đó. Muốn đưa ra được kết luận này, không chỉ nghiên cứu Tạng văn, còn phải đi sâu nghiên cứu cả lịch sử các vương quốc, thành bang, bộ lạc lớn nhỏ ở khu vực cao nguyên và Tây vực thời bấy giờ, cùng với rất nhiều bằng chứng phụ khác như sử thi, truyền thuyết, ca khúc và các tranh vẽ, tỷ như trong sử thi Cách Tát Nhĩ vương có hàm ẩn câu chuyện thu nhận và biên chế người Qua Ta thành quân đội chẳng hạn."

Trác Mộc Cường Ba nghe mà á khẩu không nói năng được gì, cả giáo sư Phương Tân cũng không khỏi trợn mắt ngạc nhiên.

Đến lúc này Lữ Cánh Nam mới lên tiếng: "Giờ thì anh đã biết mọi người sắp đến nơi nào chưa? Đối thủ của các anh mạnh mẽ hơn quân du kích, còn dân tộc ở đó thì đáng sợ gấp bội các bộ lạc ăn thịt người. Một dân tộc sống chung với chó sói, được gọi là Đạo quân Ánh sáng bất bại, anh thử nghĩ xem: môi trường tự nhiên còn ác liệt hơn rừng nguyên sinh Nam Mỹ, cơ quan cạm bẫy hung hiểm hơn bất cứ nơi nào. Các anh thậm chí cả rừng nguyên sinh còn không thể băng qua được, dựa vào cái gì để tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu và Tử Kỳ Lân đây? Chỉ dựa vào vận may thôi hả?"

--------------------------------

1 Olmec là nền văn minh lớn đầu tiên tại châu Mỹ thời tiền Colombo, kéo dài từ năm 1200 tr. CN đến năm 300 tr. CN.

2 Dõng là người đất hay người gỗ tuẫn táng theo người chết thời cổ; thành ngữ này nghĩa là "người khởi xướng ra việc làm dõng", ý chỉ người đầu têu ra những tật xấu thói hư.

3 Nhật Bản ngày nay.

4 Quốc gia cổ nằm ở vùng phía Bắc Kashmir trên lưu vực sông Ấn.

5 Nepal ngày nay.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26: Bí mật về nhà thám hiểm stanley: biến chủng chu mỹ của văn minh hoa hạ


Lữ Cánh Nam nhìn Trác Mộc Cường Ba ngần ngừ do dự, lại nhắc nhở lần nữa: "Nếu giờ muốn rút lui thì vẫn chưa muộn đâu."

Trác Mộc Cường Ba đứng phắt dậy nói: "Ai bảo rút lui chứ? Ai bảo muốn rút lui chứ?"

Lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân đưa mắt nhìn nhau cười cười. Tính cách của Trác Mộc Cường Ba quả thực quá dễ nhìn thấu, gần như ai cũng biết nhược điểm của gã ở đâu.

Giáo sư Phương Tân thầm nhủ: "Cái cô Lữ Cánh Nam này giỏi thuật công tâm thật, trước tiên dùng một đống số liệu làm Cường Ba đầu váng mắt hoa, sau đó lại dùng tư liệu làm mồi nhử, từng chút từng chút hút lấy hứng thú của Trác Mộc Cường Ba. Giờ thì tình thế đã đảo ngược rồi. Vốn là định dạo rút lui để uy hiếp đối phương, giờ thì… Có điều, Cường Ba không phải người dễ chịu thua, tiếp tục hợp tác không biết sẽ xảy ra chuyện gì nữa."

Lữ Cánh Nam nói: "Tốt lắm, nếu anh đã không muốn rút lui, và nếu không có vấn đề gì khác nữa, theo như tôi nói hôm qua, có phải là nên đưa bản tổng kết của anh cho tôi xem rồi không?"

Trác Mộc Cường Ba ngẩng cao đầu ưỡn ngực lên: "Chưa viết!"

Lữ Cánh Nam nói: "Vậy thì, tôi đã nói là…"

Trác Mộc Cường Ba thẳng thắn đáp: "Phạt chép một vạn lần thôi mà, không vấn đề. Tôi đi chép một vạn lần là xong."

Lữ Cánh Nam vân vê cây bút trên tay, gật gật đầu nói: "Vậy thì đi làm đi. Sau khi ra khỏi đây anh có thể đem chuyện này đi nói rõ đầu đuôi với mọi người, vì đằng nào thì cũng kết thúc rồi. Tới lúc thích hợp, tôi sẽ đích thân nói một tiếng xin lỗi. Có điều, khuyết điểm của mọi người thì vẫn là khuyết điểm, đã hiểu chưa?"

Trác Mộc Cường Ba chỉ hai chồng tư liệu trên bàn, ngần ngừ hỏi: "Vậy, còn…tư liệu thì sao?"

Lữ Cánh Nam giờ mới nói hẳn ra: "Còn nhớ trước khi tới châu Mỹ, anh đến phòng làm việc của tôi làm toáng lên bao nhiêu lần không? Lúc đó tôi đã giải thích với anh thế nào? Không phải là không cho mọi người số tư liệu này, mà là thực lực hiện nay của mọi người không đạt yêu cầu của tôi đặt ra. Nếu anh tự nhận thấy sau khi xem qua số tư liệu này, anh vẫn có thể khắc chế mình không đi tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, thì anh cứ lấy đi, chẳng sao cả. Thực ra, căn bản không có cái gì gọi là lệnh của cấp trên. Ở đây, tôi chính là chỉ huy tối cao. Tôi đã nói rồi, tôi huấn luyện mọi người như vậy, không phải vì mọi người có thể tìm kiếm ra cái gì đó cho đất nước, mà chỉ là để mọi người có thể sống sót, bất kể là ở nơi nào, bất kể là trong hoàn cảnh nào cũng đều có thể sống sót! Nhưng anh một mực không hiểu được dụng ý của tôi, nếu cứ nằng nặc muốn xem những tư liệu này, anh cứ lấy đi. Có điều từ sau trở đi, không bao giờ còn có tư liệu gì xuất hiện trước mặt anh nữa đâu…" Nói đoạn, vẻ mặt Lữ Cánh Nam như thể đang hận không thể rèn thành sắt thép, trong mắt toát lên vẻ thất vọng vô cùng, ánh nhìn cũng dịch dần khỏi người Trác Mộc Cường Ba, hướng xuống mặt bàn.

Gian phòng chìm vào yên lặng trong giây lát. Trác Mộc Cường Ba nhìn nét mặt Lữ Cánh Nam, đột nhiên cảm thấy những gì cô nói dường như rất có lý, dường như cô thật sự đang nghĩ cho bọn gã. Ếch ngồi đáy giếng, chưa học bò đã muốn chạy rồi, đây chính là điều Lữ Cánh Nam muốn nói chăng? Nhưng mà… Trác Mộc Cường Ba nhìn chồng tư liệu dày cộp trước mặt, thật tình không nỡ, gã lắc đầu rồi quả quyết, sau khi trở nên mạnh mẽ hơn, gã mới trở lại đây xem tư liệu, tới lúc ấy nhất định phải khiến Lữ Cánh Nam không còn gì để nói nữa. Gã lại đưa mắt nhìn sang giáo sư Phương Tân, trong lòng chán chường thầm nhủ: "Tại sao kết quả cuối cùng vẫn là chép một vạn lần bản tổng kết vậy? Mục đích chúng ta đến đây không phải là vì cái thứ này hay sao?"

"Được, tôi biết rồi, tôi sẽ cố gắng hoàn thành kế hoạch huấn luyện cô đặt ra trong thời gian sớm nhất, tạm thời không hỏi đến số tư liệu này nữa." Nói đoạn, liền quay người đi ra.

Nghe câu trả lời "khẩu thị tâm phi" của Trác Mộc Cường Ba, khóe mắt Lữ Cánh Nam hiện ra một nét cười cười không dễ gì nhận ra được, chỉ thoáng cái đã biến mất. Cô cất tiếng: "Đợi chút đã." Vừa nói, Lữ Cánh Nam vừa rút ra một tập tư liệu, "Tối qua sau khi anh đưa ra vấn đề này, tôi cũng đã suy nghĩ rất lâu. Chính xác, không công khai tư liệu gì thì thật bất công với mọi người. Vì vậy, tôi đã tốn mất thời gian một đêm, chọn lựa ra một phần. Đây là những tư liệu trước mắt mọi người nên biết, sẽ rất có ích cho việc tìm hiểu lịch sử Cổ Cách và một số chuyện liên quan tới Bạc Ba La nữa, anh có thể mang đi."

Trác Mộc Cường Ba lập tức đổi buồn làm vui, điều này gã không hề nghĩ tới. Giáo sư Phương Tân cố nhịn cười, không ngờ Lữ Cánh Nam cũng dùng phương pháp vừa đánh vừa xoa hết sức điển hình này. Cường Ba ơi là Cường Ba, đụng phải cô nàng Lữ Cánh Nam này, ngày tháng về sau của cậu…

Trác Mộc Cường Ba ôm tư liệu lên, đột nhiên nói: "Còn nữa, cả tấm bản đồ nữa, không phải cô đã nói sẽ cho tôi biết chuyện tấm bản đồ nữa, không phải cô đã nói sẽ cho tôi biết chuyện tấm bản đồ hay sao?"

Lữ Cánh Nam gật đầu: "À, đúng thế, thực ra trong các tư liệu kia cũng có rồi, nhưng mà, tôi vẫn cứ nói qua một chút vậy. Chuyện về tấm bản đồ này, phải bắt đầu kể từ năm 1844, trong đó có một nhân vật rất quan trọng, ông ta tên là Henry Morton Stanley…"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Ừm, chúng tôi cũng biết người này."

Lữ Cánh Nam ra hiệu cho gã chớ nôn nóng: "Người biết chân tướng sự việc này không hề nhiều. Anh có biết rằng vào năm 1843, Stanly gần như còn không biết trên thế giới này có một cao nguyên tên là Thanh Tạng. Vào thời của họ, nội dung được quan tâm nhiều nhất chính là… Maya! Năm 1842, khi nhà khoa học đầu tiên khảo sát văn minh Maya, Stevenson ra tác phẩm nổi tiếng Trung Mỹ - ký sự Sebastian và Yucatan, phong trào thám hiểm Maya trở nên hừng hực khắp toàn cầu. Cuốn sách đó được dịch sang mười bảy thứ tiếng, trong một năm tái bản bảy lần, sau đó tổng cộng đã tái bản mấy chục lần, trở thành cuốn sách bán chạy nhất thế kỷ mười chín, làm cho các nhà thám hiểm trên thế giới đều nhiệt huyết phừng phừng, vô số nhà thám hiểm đều khao khát được đến rừng rậm nhiệt đới, tìm kiếm những di tích hùng vĩ khuất lấp dưới rừng cây. Khi khảo sát ở Trung Mỹ, Stanley là người đầu tiên đưa ra luận đề "người Maya từ châu Á di cư tới đây". Để chứng thực quan điểm của mình là chính xác, ông ta mới đến châu Á, và lên bờ ở bán đảo China. Thế nhưng, trên đường ông ta đã gặp phải một bước ngoặt lớn trong đời. Từ miệng một nghệ nhân hát rong kể chuyện, Stanley biết được một nơi gọi là Bạc Ba La thần miếu. Cũng chính từ giờ khắc đó trở đi, tòa miếu của nhà Phật ấy trở thành mục tiêu cả đời Stanley khát khao theo đuổi."

Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: "Nhưng không phải năm 1844, ông ta đã mất tích ở Đại Tuyết sơn hay sao?"

Lữ Cánh Nam lắc đầu: "Sai rồi, năm 1844 chỉ là bắt đầu. Stanley không hề mất tích trong núi, chết ở Đại Tuyết sơn là chuyện của mười mấy năm sau. Sự kiện năm 1844 chỉ là Stanley bắt đầu cố ý che giấu hành tung của mình. Ông ta không muốn bị báo chí viết về mình nữa, nhưng vẫn bí mật kiên trì không ngừng nghỉ tìm kiếm, hơn nữa thu hoạch cũng rất phong phú. Nghe đồn, với số bảo vật chuyển về nước Anh, ông đủ sức mua lại cả đất nước này. Những thứ đó, đều chuyển từ Tây Tạng đi cả."

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc kêu lên: "Ông ta đã tìm thấy rồi?"

Lữ Cánh Nam lắc đầu đáp: "Không, cho đến hết đời ông ta cũng không tìm thấy. Chẳng qua là trong quá trình tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, ông ta không ngừng đào bới các di tích và kiến trúc cổ, mang trân châu, vàng bạc nhiều như lông trâu không ngừng chuyển về nước Anh. Nhưng đồng thời, đào bới được càng nhiều kiến trúc và di tích cổ, ông ta lại càng kỳ vọng nhiều hơn vào Bạc Ba La thần miếu. Một người bạn thân của Stanley đã ghi thế này trong cuốn sổ ghi chép của mình, "Tôi hỏi Stanley, anh ta đã có tài sản tiêu mấy đời cũng không hết rồi, tại sao vẫn ủ rũ không vui, vẫn muốn đến cái nơi bất cứ lúc nào cũng có thể mất mạng kia. Stanley lần nào cũng chỉ lắc đầu thở dài, cứ lẩm bẩm, Tôi chưa tìm thấy, tôi vẫn còn thiếu một số đầu mối, tôi chưa tìm thấy nó. Điều tôi đang làm bây giờ, chẳng qua cũng chỉ là mang cát bên bờ biển về thôi, còn ngọc trai, thì vẫn bị chôn lấp dưới đó." Theo tự liệu của chúng tôi, Stanley có lẽ chết trong khu vực Đại Tuyết sơn ở Tây Tạng vào khoảng năm 1860 đến năm 1870. Lần đó, ông ta có mang theo bản đồ."

Trác Mộc Cường Ba nôn nóng hỏi: "Tấm bản đồ ấy về sau sao lại rơi vào tay người Anh được?"

Lữ Cánh Nam mỉm cười gật gật đầu: "Đáng lẽ Stanley đã vĩnh viễn chôn vùi tấm bản đồ kia ở Tây Tạng. Nhưng năm 1914, ông Michael đại biểu chính phủ Anh phân giới tuyến cho Tây Tạng và Ấn Độ. Trên đường đo đạc giới tuyến, ông ta vô tình phát hiện ra lều bạt và thi thể của Stanley vốn đã bị băng tuyết chôn vùi. Còn về việc họ lấy được những gì trong đống di vật của Stanley thì chúng tôi cũng không thể biết được. Sự việc về sau tương đối phức tạp. Nghe nói chính xác bấy giờ có tìm được một tấm bản đồ, và đã bị chính phủ Anh coi là bí mật tối cao rồi cất giấu đi. Nhưng không lâu sau đó, đại chiến Thế giới lần thứ nhất bùng nổ, tấm bản đồ thần bí ấy cũng theo đó mà biến mất. Nghe đồn người giữ tấm bản đồ đã dựa vào ký ức vẽ lại một tấm khác. Người Anh căn cứ theo tấm bẩn đồ vẽ bằng trí nhớ này phán đoán rằng Bạc Ba La thần miếu hình như ở gần đỉnh núi cao nhất của dãy Himalaya, đỉnh Chomolungma. Từ năm 1921 đến năm 1938, người Anh đã độc lập tổ chức bảy lần thám hiểm đỉnh Chomolungma, nhưng không tìm được đầu mối gì. Cho tới năm 1938, nghe đồn tấm bản đồ gốc lọt vào tay đảng Nazi, tuy rằng chuyện này không hề có chứng cớ nào xác thực. Nhưng từ năm 1939 đến năm 1942, Hitler đã hai lần hạ lệnh cho trợ thủ đắc lực nhất của mình là Himler đích thân tổ chức hai nhóm thám hiểm đi sâu vào đất Tây Tạng, đây là sự thực mười mươi. Còn rốt cuộc bọn chúng tìm kiếm tổ tiên của người German hay là có mục đích gì khác, chúng ta không thể nào biết được. Chuyện xảy ra sau này, có lẽ mọi người đều biết một chút. Trong trận Berlin kết thúc Thế chiến II, lúc đầu vốn định sẵn kế hoạch hoàn chỉnh là vây công tiêu diệt, nhưng quân Mỹ và quân Nga đều liều chết tấn công vào trong thành, cuối cùng đã chia đôi Berlin, mục đích thực sự của họ, dường như cũng vì tấm bản đồ đó. Theo tin tức chúng tôi nhận được, trong lúc họ đang tranh giành một nhà khoa học nghiên cứu phát triển bom nguyên tử, đã vô tình nghe được thông tin liên quan tới bản đồ, còn rốt cuộc đó là thông tin gì, thì chúng tôi cũng không biết. Nhưng chính thông tin ấy đã khiến quan hệ đồng minh xuất hiện xung đột lợi ích trực tiếp. Sau thì cả Liên Xô và Mỹ đều tranh nhau đến Tây Tạng, Trung Quốc. Cho đến tận bây giờ, họ vẫn chưa dừng bước. Có điều từ bấy đến nay, những người đi theo tấm bản đồ này tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu đều không sống sót trở về. Nghe đâu, giờ đây nó được gọi là bản đồ chỉ đường đến chỗ chết."

Trác Mộc Cường Ba yên lặng nghe hết, thấy cũng tương tự như nội dung giáo sư Phương Tân điều tra được trước đó, chỉ là tường tận hơn một chút. Lữ Cánh Nam lại nói: "Được rồi, những điều anh muốn biết, tôi đã nói cho anh hết cả rồi, giờ anh có thể đi làm chuyện cần làm kia đi."

Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân vừa đi khỏi, nét mặt Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đều biến đổi. Lữ Cánh Nam đặt tay dọc đường chỉ quần, đứng thẳng lưng, hơi cúi đầu hỏi: "Con xử lý như vậy đã được chưa, đại nhân?"

Lạt ma Á La hiền từ nói: "Cũng chỉ có thể như vậy thôi, Cường Ba thiếu gia vẫn hoàn toàn chưa hay biết gì về toàn bộ sự việc, cứ để cậu ấy giữ nguyên hiện trạng đi, để cậu ấy tiếp tục lấy chó ngao làm mục đích, như thế, đối với chúng ta, đối với cậu ấy, đều có lợi cả." Lạt ma Á La thầm nhủ: "Cường Ba thiếu gia, đây chính là số mệnh của cậu, muốn thoát ra cũng không thoát nổi…"

Ra khỏi cửa phòng, Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Đúng rồi, thầy giáo, không phải thầy đã quay phim toàn bộ hành trình trong địa cung của chúng ta hay sao?"

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Ừm, đúng vậy, ngoài lúc ở dưới nước không thể quay chụp, những nơi khác đều có ghi chép, giờ đã trao hết cho họ nghiên cứu rồi."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Nhưng mà…" Gã nhìn tập tư liệu trong tay, trong đó dường như không có thứ nào giống như đĩa CD cả.

"Yên tâm, tôi có chuẩn bị riêng rồi." Ánh mắt giáo sư trở nên sâu sắc: "Dù sao cũng là thứ phải dùng mạng đổi về. Hơn nữa các thứ trong đó, không có một năm nửa năm thì không nghiên cứu ra được gì đâu. Thu hoạch hôm nay thực ra cũng không tệ, ít nhất chúng ta cũng biết được phương hướng một đầu mối rõ rệt nhất mà lại bị chúng ta bỏ sót."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Thầy muốn nói đến Cổ Cách?"

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Ừm, mặc dù nói tôi không biết rõ lịch sử Cổ Cách cho lắm, nhưng tôi vẫn biết một ít về cái vương triều đã tiêu vong ấy. Trong khi nghiên cứu về Bạc Ba La thần miếu, chúng ta chỉ chú trọng đến điều tra nguồn gốc và tính thực của nó, ngược lại bỏ quên mất quá trình tìm kiếm đầu mối của Stanley."

Trác Mộc Cường Ba nhìn ông với ánh mắt thắc mắc, giáo sư Phương Tân liền mỉm cười nói: "Sử thi A Lý vương, A Lý vương, không phải là Cổ Cách vương hay sao? Hơn nữa tôi nhớ Lữ Cánh Nam nói vương triều Cổ Cách đến tận thế kỷ mười bảy mới bị diệt vong. Thời đại mà Stanley điều tra về Bạc Ba La thần miếu chỉ cách thời gian Cổ Cách vương triều bị tiêu diệt có hơn hai trăm năm, những nghệ nhân hát nói truyền miệng kia hoàn toàn có thể nhớ được một lượng lớn nội dung liên quan tới sử thi Cổ Cách."

Nghe giáo sư Phương Tân nhắc nhở, Trác Mộc Cường Ba cũng sực nhớ ra. Gã thốt lên một tiếng: "Ái cha, tôi thật ngu quá, thầy giáo, đáng lẽ tôi cũng phải nghĩ tới rồi chứ, chẳng phải đã nói tiền thân của vương triều Cổ Cách chính là vương triều Tượng Hùng hay sao? Vương triều Tượng Hùng chính là nơi chiến ngao sinh ra. Thầy giáo cũng từng nói, tất cả các sự kiện lịch sử đều có liên quan đến nhau cả. Tôi đúng là hồ đồ, tại sao lúc nãy không nghĩ ra chứ."

Giáo sư Phương Tân thoáng ngẩn người, bản thân ông cũng từng tranh luận với Trác Mộc Cường Ba về vấn đề vùng đất sinh ra chiến ngao. Dựa vào các tư liệu mà giáo sư Phương Tân đang có trong tay, ngoại trừ các vùng nổi tiếng về chó ngao như Hà Khúc, Đảng Hạng, Ngọc Thụ, khắp cao nguyên Thanh Tạng rải rác những giống ngao của riêng từng vùng cùng với các truyền thuyết liên quan đến chó ngao nữa. Nhưng trong những truyền thuyết mà ông đã khảo sát, chưa từng nghe nhắc đến chó ngao Tượng Hùng bao giờ. Có lẽ nó đã bị lịch sử hoàn toàn nuốt chửng, hoặc có khả năng đã bị đại kim điêu trong tín ngưỡng của người Tượng Hùng che khuất, cũng có thể ở đó không hề có chó ngao. Giáo sư Phương Tân có phần nghiêng về giả thuyết cuối cùng hơn, bởi vì ông từng đến Trát Đạt, ở đó toàn đất là đất, cát bay đá chạy, nhìn chẳng khác gì vùng biển chết La Bố Bạc 1 cả. Theo như một đồng nghiệp của ông, thì đó là một nơi đến cỏ cũng chẳng thể mọc được, nên rốt cuộc con người bỏ đi hết, vô số pháo đài nằm giữa vùng đồi gò đều trở thành những pháo đài chết, trống rỗng. Mặc dù giáo sư Phương Tân cũng biết vương triều Cổ Cách bị diệt vong bởi một trận chiến, song ông cũng cho rằng người đồng nghiệp của mình nói rất có lý, hoàn cảnh tự nhiên ác nghiệt nơi đây có lẽ mới là nguyên nhân thật sự các thành bang trở nên hoang phế sau chiến tranh như vậy.

Thế nhưng, khi Trác Mộc Cường Ba tràn trề hứng khởi nói với giáo sư rằng Tượng Hùng là nơi sinh ra chiến ngao trong truyền thuyết, giáo sư Phương Tân ngẩn người ra ngay từ câu đầu tiên: "Thầy giáo, thầy có biết không, hai ngàn năm trước, Tượng Hùng là một nơi vô cùng tươi đẹp, đất đai màu mỡ, cây cối um tùm, hồ và biển điểm xuyết trên khắp cả vương quốc như những vì sao trên trời. Chỗ chúng tôi có một truyền thuyết, nói rằng chính vùng đất tuyệt đẹp ấy là nơi chiến ngao lần đầu bước chân lên vũ đài lịch sử…"

Về truyền thuyết chiến ngao, Trác Mộc Cường Ba đã mở đầu bằng một câu như thế. Từ khi còn rất nhỏ gã đã nghe một ông già trong làng kể rồi, nhưng đến khi gã thực sự muốn tìm hiểu truyền thuyết về vùng đất sinh ra chiến ngao này, ông già kia đã qua đời từ lâu. Vì vậy, Trác Mộc Cường Ba cũng không biết tại sao lại bảo Tượng Hùng là nơi sản sinh ra chiến ngao. Giáo sư Phương Tân cho rằng gã nhớ nhầm, hai người vì chuyện này mà tranh luận mãi không ra được kết quả gì. Đọc Truyện Kiếm Hiệp Hay Nhất: http://truyenfull.vn

Giáo sư Phương Tân lắc lắc đầu, đây lại là một truyền thuyết vĩnh viễn không thể nào xác định được. Ông nói với Trác Mộc Cường Ba: "Để tôi nghiên cứu đống tư liệu này thật kỹ đã. Trong đây nhất định có thể tìm được những thứ hữu dụng cho chúng ta."

Mật tu (1)

Trác Mộc Cường Ba đưa tư liệu cho giáo sư Phương Tân, rồi hỏi: "Thầy giáo, lần này trở về, tôi cứ cảm thấy có gì đó không ổn, nhưng lại không biết là chuyện gì không ổn, thầy có thể giải thích được không?"

Giáo sư Phương Tân hiền từ vỗ nhẹ lên vai gã, nói: "Tôi biết tâm trạng hiện tại của cậu như thế nào rồi. Trong lòng cậu đang chất chứa nghi hoặc đấy thôi."

Trác Mộc Cường Ba thở dài: "Đúng vậy, toàn bộ sự việc này đã trở nên hoàn toàn khác hẳn những gì tôi nghĩ lúc ban đầu. Trở về từ châu Mỹ, tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Sao lại như vậy nhỉ?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Bởi vì vai trò của cậu đã biến chuyển. Từ khi cậu cầm tấm ảnh kia đến tìm tôi, tất cả đều là chúng ta tự thăm dò, phát hiện, tìm kiếm. Thế nhưng, kể từ khi tôi và cậu gia nhập đội ngũ được huấn luyện đặc biệt này, vai trò của cậu đã từ chủ động biến thành bị động. Từ đó đến giờ chúng ta đều tiếp nhận những bài huấn luyện với độ khó rất cao, còn việc tìm kiếm phát hiện Bạc Ba La thần miếu ở đâu đã giao hết cho người khác thực hiện. Chúng ta chỉ là một phần tử trong cả cái tổ chức này, cũng giống như Trương Lập, Nhạc Dương, Ba Tang và cả Mẫn Mẫn nữa, đồng thời quyền quyết sách và quyền chủ động đã chấm dứt không còn nằm trong tay cậu nữa rồi. Có rất nhiều chuyện bọn họ không hề nói cho chúng ta biết, như vậy, chúng ta lại càng bị động hơn, cảm giác như thể mình là con rối bị người khác điều khiển trong tay vậy. Chẳng hạn lấy hành động trong rừng nguyên sinh lần này làm ví dụ, nếu cậu không bảo tôi, thì tôi cũng không khác gì cậu, đi hết cả hành trình cũng không biết được mục đích thật sự của chuyến đi, cảm thấy ù ù cạc cạc không hiểu gì hết."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Giờ còn đỡ, cô ta đã nói hết với chúng ta rồi."

Giáo sư Phương Tân ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt rất diễn cảm: "Vậy cậu cho rằng cậu đã nghe được những gì rồi?" Giáo sư vỗ vỗ lên đống tư liệu, "Cậu nghĩ rằng đống tư liệu này, tính luôn cả phần cậu không lấy được kia, có bao nhiêu phần trăm là không thể tìm được trên truyenfull.vn? Còn thứ chúng ta thực sự cần phải biết, là Cổ Cách kim thư và thông tin trong trục quyển, cô Lữ Cánh Nam đó nói được bao nhiêu? Thực ra, cậu ở trên thương trường nhiều năm như vậy rồi, chắc cũng phải hiểu được điểm này chứ, lòng người khó dò, đặc biệt là một nhóm như chúng ta đây, muốn tiếp xúc với bí mật tầm cỡ như Bạc Ba La thần miếu, tôi có thể khẳng định là họ vẫn giữ thái độ hoài nghi một cách một cách thiện ý với tất cả các thành viên trong nhóm chúng ta. Đối với bất cứ ai cũng không thể tin hoàn toàn, nhưng cũng không thể không tin, quan hệ giữa người với người chính là như vậy đó, không giống như thái độ xử sự lúc bình thường của cậu đâu. Cậu quá dễ dàng tín nhiệm một người nào đó, đây chính là nhược điểm lớn của cậu đấy, Cường Ba à."

Trác Mộc Cường Ba buồn bực nói: "Nhưng mà, tôi vẫn cho rằng nếu đã để chúng ta tham gia vào tập thể này, ít nhiều họ cũng sẽ cho chúng ta biết một số chuyện. Không phải vậy sao? Nếu nghi ngờ hiềm kỵ cả chúng ta, vậy thì làm sao chúng ta có thể đạt được yêu cầu và mục đích của họ chứ? Tôi nhớ Sean đã từng nói, trong hoàn cảnh hiểm nguy, con người cần phải liều mạng vì nhau thì mới sống sót được, nếu tất cả cứ khư khưu giữ lấy mạng mình, mọi người bó chặt lại với nhau, rồi cuối cùng chẳng ai sống sót nổi đâu."

Giáo sư Phương Tân lắc đầu: "Trong hoàn cảnh hiểm nguy thì như vậy, nhưng mà, sau khi ra khỏi hiểm cảnh thì sao chứ? Con người, ai chẳng có tâm tư, giống như nhóm chúng ta vậy, cậu, muốn tìm Tử Kỳ Lân, còn bọn họ, muốn tìm Bạc Ba La thần miếu, mục đích hai bên khác nhau, song phương hướng thì tương đồng, vì vậy nên mới đi cùng với nhau. Nếu nói ở khu vực phụ cận Bạc Ba La thần miếu không thể tìm được Tử Kỳ Lân, hoặc là nơi có Tử Kỳ Lân không thể nào có Bạc Ba La thần miếu, vậy thì, cậu và họ có đi chung một đường nữa hay không?"

Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: "Vậy thì bây giờ phải làm sao? Tôi cảm thấy thực sự rất khó chịu."

Giáo sư Phương Tân chân thành nói: "Lòng người, thảy đều hướng về cái thiện cả, nếu cậu không thể phán đoán một người là tốt hay xấu, vậy thì hãy thử tin ở bọn họ đi, trừ phi họ thực sự gây những chuyện vô cùng bất lợi với cậu. Xét tình hình trước mắt, với tư liệu chúng ta nắm trong tay và năng lực của cả nhóm, đích thực là không đủ để tìm kiếm Tử Kỳ Lân. Vì vậy, điều chúng ta nên làm lúc này, chính là học hỏi nhiều hơn, quan sát nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn. Ít nhất giờ chúng ta cũng đã biết rằng cso một nhóm người chuyên nghiệp cung cấp cho chúng ta những nguồn tin nhanh nhạy nhất, đáng tin cậy nhất, có sự giúp đỡ này của họ, chúng ta sẽ giống như đứng trên vai người khổng lồ thu thập thông tin vậy, tiến lên trên con đường đã được người đi trước lát sẵn gạch đá, chuyện này chỉ có lợi chứ không có hại. Thực ra, từ lúc gia nhập vào nhóm huấn luyện đặc biệt này, có hai chuyện đã nằm ngoài dự liệu của tôi. Thứ nhất, chính là tôi không ngờ cậu lại đáp ứng nhanh và dễ dàng như vậy, mà tôi còn cho rằng nếu cậu đã đáp ứng, vậy thì chắc cũng biết sau đó cục diện sẽ như thế nào, giờ xem ra thì lúc ấy cậu cũng không suy nghĩ nhiều đến thế. Thứ hai, tôi không ngờ nhà nước ta lại chấp thuận chuyện này nhanh như vậy, giờ nghĩ lại, thì ra đây chỉ là trùng hợp mà thôi, nếu chẳng phải lúc ấy nhà nước cũng có ý này, tài liệu chúng ta trình lên kia, chỉ sợ nửa năm một năm cũng không được xem xét đâu." Giáo sư Phương Tân vuốt vuốt tóc, trầm ngâm nói tiếp, "Còn nữa, đối với nhóm huấn luyện đặc biệt của chúng ta, tôi luôn có một dự cảm chẳng lành, có lẽ một ngày nào đó… đương nhiên, tốt nhất là ngày ấy đừng bao giờ đến thì hơn."

Trác Mộc Cường Ba biết, ý giáo sư Phương Tân muốn nói là, có lẽ một ngày nào đó trong tương lai, bọn họ còn chưa đủ khả năng đi tìm Bạc Ba La thần miếu, cái nhóm này đã bất ngờ giải tán rồi, còn bọn họ thì bị đá đít đuổi đi giống như người ta vứt thứ xỉ than vô dụng. Giáo sư Phương Tân lại nói tiếp: "Thế nào thì thế, những thứ học được ở đây chung quy vẫn có ích cho cậu, đợi khi chúng ta thật sự nắm được các kỹ xảo đó, cho dù ngày ấy có đến thật, chúng ta cũng có thể tự mình đi tìm kiếm mà." Giáo sư ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba, lại giải thích, "Từ khi biết đến Bạc Ba La thần miếu, chúng ta đã chuẩn bị như vậy rồi, chúng ta bắt đầu từ thần miếu trước, tìm một nơi như vậy, so với trực tiếp điều tra về Tử Kỳ Lân thì dễ hơn nhiều, thông tin cũng có được nhiều hơn. Bấy giờ, đã đến lúc thực hiện kế hoạch này rồi đây, tôi sẽ thảo luận với các chuyên gia trong hội nghiên cứu. Tôi nghĩ, sau sự kiện lần này, bọn họ cũng không tiện giấu giếm tất cả thông tin như trước nữa đâu."

Trác Mộc Cường Ba lại nói: "Phải rồi, về thông tin liên quan tới tấm bản đồ đó, tôi thấy có vẻ hơi khoa trương quá thì phải. Không hiểu tôi nghe làm sao mà cứ cảm thấy, theo như giáo quan nói, hình như thế chiến I, thế chiến II, rồi chiến tranh Lạnh Xô Mỹ, đều có quan hệ mật thiết với tấm bản đồ ấy, điều này…"

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Đừng nói là cậu, cả tôi cũng không thể hoàn toàn tin tưởng được, quá nửa là nghe sai đồn sai, dẫn đến sau này càng lúc càng khoa trương. Có điều chúng ta cũng có thể nghiên cứu theo hướng này, chẳng hạn như ông Haln gì đó, nếu có thể tìm được bản đồ… Ngoài ra, dựa trên những thông tin hiện nay, Ben Merkin và người của hắn dường như không đơn giản là chỉ tìm kiếm báu vật đâu, với khả năng tài chính của hắn, không cần gì phải mạo hiểm đích thân tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, bên trong nhất định còn có nguyên nhân gì khác." Ánh mắt giáo sư Phương Tân hiện lên vẻ lạnh lẽo, chậm rãi nói: "Một nguyên nhân, mà chúng ta còn chưa biết…"

Trác Mộc Cường Ba lại không nghĩ vậy, hy vọng tìm được tư liệu về Haln và bản đồ gì gì đó thật quá mong manh, hơn nữa dường như cũng quá xa vời so với mục tiêu của họ. Gã bèn nói lảng sang chủ đề khác: "Đúng rồi, thầy giáo, thầy nói xem, chúng ta tự cho rằng mình đã học được rất nhiều khả năng sinh tồn nơi hoang dã rồi, nhưng tại sao khoảng cách với giáo quan lại vẫn lớn đến thế?"

Giáo sư Phương Tân lắc lắc đầu: "Không biết, có lẽ là cô ấy đã được huấn luyện đặc biệt thế nào đó chăng."

"Huấn luyện đặc biệt…" Trác Mộc Cường Ba lặp lại hai lần, đột nhiên kêu lên, "A, nhất định là như vậy!"

Khi lạt ma Á La ra khỏi phòng làm việc của Lữ Cánh Nam, ông nhận ra Trác Mộc Cường Ba đang đứng ở bãi tập, vẫy vẫy tay chào mình. Ông liền bước tới, Trác Mộc Cường Ba trực tiếp hỏi luôn: "Đại sư, giáo quan từng tiếp nhận huấn luyện mật tu phải không?"

Lạt ma Á La có chút kinh ngạc, hỏi: "Sao đột nhiên cậu lại nghĩ đến vấn đề này?"

Trác Mộc Cường Ba khẳng định: "Bởi vì trong lần huấn luyện băng rừng nguyên sinh lần này, cá nhân tôi cho rằng một con người bình thường, có huấn luyện thế nào chăng nữa, khả năng chịu đựng và ý chí cũng đủ để một mình vượt qua rừng sâu. Mà tôi còn nhớ tiến sĩ Cổ Tuấn Nhân từng nói, ông ấy chỉ dạy giáo quan một số kỹ năng cơ bản về sinh tồn nơi hoang dã và khảo sát khoa học thôi, khả năng chiến đấu và các bản lĩnh khác của giáo quan là học của danh sư khác, mà đại sư ngài cũng không giống người thường, cộng với thường ngày đại sư và giáo quan tiếp xúc tương đối nhiều, vì vậy tôi cho rằng, giáo quan cũng từng tiếp nhận huấn luyện mật tu giống như đại sư vậy. Có phải thế không? Đại sư Á La?"

Lạt ma Á La ngước mặt lên thở dài: "Cánh Nam là đệ tử do đích thân Chu Cổ đại sư truyền dạy, nếu nghiêm khắc xét bối phận, tôi là sư điệt của cô ấy. Cô ấy là Cách tây2 kiệt xuất nhất trong thế hệ mật tu trẻ tuổi đó."

Trác Mộc Cường Ba cả mừng, nào biết mật tu phân cấp thế nào, lập tức thành khẩn nói: "Xin hãy cho tôi tiếp nhận huấn luyện mật tu đi, đại sư, tôi có thể chấp nhận bất cứ khảo nghiệm nào."

"Hả! Cậu ư?" Lạt ma Á La có ung dung đến mấy cũng không khỏi thoáng biến sắc. Đã qua bốn mươi tuổi rồi còn đòi mật tu, xem ra Trác Mộc Cường Ba thiếu gia này chẳng biết gì về mật tu rồi. Lạt ma Á La lấy làm khó xử hỏi, "Cậu có biết mật tu rốt cuộc là thế nào không? Cường Ba thiếu gia?"

Trác Mộc Cường Ba thản nhiên đáp: "Không biết, nhưng tôi biết nó có thể khiến tôi trở nên mạnh mẽ hơn, khiến tôi có khả năng chịu đựng và nghị lực hơn người."

Lạt ma Á La phì cười thốt lên: "Tất nhiên rồi, khả năng chịu đựng và nghị lực vốn đã là thứ cơ sở nhất của mật tu mà, ừm… nếu Cường Ba thiếu gia có hứng thú với mật tu, tôi có thể cho cậu biết một số việc liên quan đến mật tu. Mật tu tuyển lựa nhân tài hết sức nghiêm khắc, người có tư cách mật tu chúng tôi gọi là Bối Ca, Bối Ca có tư cách tiến hành mật tu. Các tăng nhân Cách Lỗ phái của ba ngôi chùa lớn ở Lhasa cần phải tu hết Ngũ bộ đại luận của Hiển tông 3, hoàn thành khảo hạch mới có thể tiến hành mật tu. Khảo hạch dựa theo đẳng cấp mà chia thành Lạt nhiên ba, Thổ nhiên ba, Lâm trại và Đa nhiên ba (hoặc gọi là Nhật nhiên ba). Bốn đẳng cấp này gọi chung là Cách tây, các tăng nhân đã đạt được học vị Cách tây nếu tiếp tục học tập tại học viện Mật tông, thì gọi là Trác nhân ba, từ đây dần dần tăng lên Cách quả, Ông tắc, Kham bố, Kham tô, Hạ tư khước kiệt hoặc Giáng tư khước kiệt, hai cái sau thuộc về Cam đơn trì ba (giáo chủ của Cách Lỗ phái) sau khi xuất thế có thể luân lưu thăng nhiệm, được hưởng vinh dự tối cao, sau khi chết còn có tư cách làm Hoạt Phật chuyển thế."

Đây là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba nghe nói, trong mật tu còn có phân biệt đẳng cấp nghiêm khắc như vậy, bèn hỏi: "Vậy đại sư ở đẳng cấp nào?"

Lạt ma Á La mỉm cười: "Nói ra thật hổ thẹn, tôi mật tu đã năm mươi bảy năm, đến giờ vẫn chỉ là Cách quả thôi."

Trác Mộc Cường Ba ngơ ngẩn xuất thần, Cách quả đã lợi hại như vậy rồi, nếu tu đến Kham bố gì gì đó, vậy thì sẽ thế nào nữa.

Lạt ma Á La nghiêm mặt nói: "Mật tu, thực chất chính là khiêu chiến với cực hạn của bản thân, không ngừng khiêu chiến cực hạn, không ngừng vượt qua chính mình, phát huy ý chí và khả năng chịu đựng đến cực hạn. Nói ra thì có vẻ huyền ảo khó giải thích, thực ra nếu giải thích theo tri thức khoa học hiện đại, chính là thông qua mật tu, để điều chỉnh nội hoàn cảnh, tức môi trường bên trong cơ thể mình."

Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ hoang mang. Lạt ma Á La lại giải thích: "Khác với y học, những người tu luyện mật tu như chúng tôi gọi phần bên trong cơ thể mình là nội hoàn cảnh. Thần kinh con người, đại thể chia thành hai hệ thống lớn, y học hiện đại gọi là thần kinh động vật và thần kinh thực vật. Thần kinh động vật khiến cho ý thức của cậu có thể khống chế các động tác toàn thân, chẳng hạn nói chuyện, động tay động chân, đảo tròng mắt, tất cả những thứ này đều thuộc phạm vi khống chế của thần kinh động vật; còn thần kinh thực vật, lại là hệ thống tự thân của các khí quan trong cơ thể, không chịu sự khống chế của ý chí, chẳng hạn như tim đập, dạ dày tiêu hóa, tiết kích thích tố, bất kể là cậu có ý thức hay vô ý thức, thần kinh thực vật đều đảm bảo cho những khí quan ấy tiếp tục vận hành, chúng khống chế các khí quan trong cơ thể cậu. Trên thực tế, hai hệ thống này không phải hoàn toàn tách rời, chúng liên hệ với nhau để tạo thành một chỉnh thể. Lấy một ví dụ nhé, trong bóng đêm, nếu cảm giác thấy chuyện gì đáng sợ lắm, khi cậu truyền những thông tin về thứ mình nhìn thấy, thứ mình nghe thấy, thứ làn da cảm nhận thấy về đại não, đại não sẽ lập tức khiến cơ thể có phản ứng, thần kinh thực vật bắt đầu vận hành, hormon tuyến thượng thận (adrenalin) sẽ tiết ra nhiều hơn, khiến tim cậu đập nhanh hơn, đồng tử dãn lớn. Đồng tử dãn lớn, là để giúp cậu có thể thu nhận nhiều ánh sáng hơn trong bóng tối, nhìn thấy nhiều thứ hơn; tim đập nhanh hơn, để cho máu tràn đầy dưỡng khí, đưa đến khắp các vị trí toàn thân, khiến cơ bắp của cậu đầy xung lực, bất cứ lúc nào cũng có thể xuất ra một lượng động năng lớn để chạy trốn hoặc phản kháng, thần kinh động vật và thực vật đã điều tiết với nhau như vậy để khiến thân thể cậu có phản ứng tốt nhất trong các môi trường khác nhau."

Trác Mộc Cường Ba có vẻ nửa hiểu nữa không, lắng nghe rất chăm chú. Lạt ma Á La thở dài nói: "Đáng tiếc, con người lại quá ỷ lại vào thần kinh động vật, mà bỏ mặc cho thần kinh thực vật tư hoạt động, chẳng bao giờ quan tâm đến sự hài hòa giữa các nội quan trong cơ thể, chỉ khi nào gặp vấn đề thì mới đến gặp bác sĩ. Cái gọi là mật tu, chính là thông qua sự biến đổi hoàn cảnh của con người và sự thay đổi hô hấp, mở ra cánh cửa giữa ý thức và thần kinh thực vật, khiến ý thức của cậu có thể trực tiếp khống chế thần kinh thực vật của cậu. Có rất nhiều thứ để tu tâm dưỡng tính, thực ra đều cùng một nguyên lý, chẳng hạn như khí công, yoga, đều thông qua tiếp xúc với tự nhiên và điều chỉnh hô hấp để đạt được mục đích thay đổi nội hoàn cảnh, thông qua cải thiện nội hoàn cảnh mà khiến thân thể đạt được hài hòa bên trong và bên ngoài, tiến đến hoàn thiện, đây mới là khỏe mạnh thực sự. Có rất nhiều người nhìn bề ngoài có vẻ cường tráng, thực ra nội hoàn cảnh lại là một mớ hồ đồ, lúc nào cũng ở trong trạng thái nửa khỏe mạnh mà chính họ cũng không hề hay biết, bất cứ lúc nào cũng có thể bị bệnh tật quấy nhiễu. Bây giờ, cậu hãy làm theo tôi nói, hít vào… tiếp tục hít vào… cảm giác lồng ngực cậu mở rộng, cậu còn hít được nhiều không khí hơn nữa… tiếp tục, không được ngừng… được rồi, nín thở đi… cố lên… cố lên nữa…"

Theo yêu cầu của lạt ma Á La, Trác Mộc Cường Ba hít vào đầy một bụng không khí, nửa phút sau thì bắt đầu đỏ mặt tía tai. Lạt ma Á La lại nói: "Được rồi… giờ bắt đầu thở ra, chầm chậm… chầm chậm thôi… cố gắng giảm tốc độ thở ra của cậu, giống như cảm giác cơn gió nhẹ mùa xuân thổi qua miệng cậu vậy, từ từ thôi, không ngừng…" Trác Mộc Cường Ba vươn cổ ra, thở một cách khó nhọc, cuối cùng cũng không thể gượng được, tắc nghẹn nói: "Tôi sắp, không được rồi!"

Lạt ma Á La lại nói: "Tốt, dùng hết sức lực của cậu, hít mạnh vào một hơi, thở ra nhanh, thở ra nhanh, thở ra toàn bộ thật nhanh. Lại một lần nữa, hít mạnh, lập tức thở ra, được rồi, giờ cậu đã hồi phục lại hô hấp bình thường rồi đấy." Lạt ma Á La mỉm cười hỏi Trác Mộc Cường Ba: "Cảm giác lúc này thế nào?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Đầu hơi váng một chút." Lạt ma Á La lại hỏi: "Còn gì nữa?" Trác Mộc Cường Ba nói: "Tim đập nhanh hơn!"

Lạt ma Á La nói: "Đây chính là một kỹ thuật căn bản của mật tu, giống như yoga hay khí công vậy, thông qua hít thở khiến nội hoàn cảnh của con người thay đổi. Đương nhiên, thứ tôi vừa dạy cậu không phải thuật Thổ nạp thực sự, chẳng qua chỉ là một ví dụ đơn giản để cậu biết rằng, bằng cách thay đổi thần kinh động vật có thể điều chỉnh thần kinh thực vật đưa ra những thay đổi tương ứng mà thôi, sau này không cần phải thử nữa đâu. Mật tu của chúng tôi, chính là kháng cự lại tất cả những mê hoặc ngoại tại, điều chỉnh thâm tâm tới cảnh giới ý thức có thể khống chế được. Nói một cách đơn giản, chính là học cách khống chế nhịp tim và mạch đập của mình, không chế nhu động dạ dày, khống chế hướng và tốc độ huyết mạch; tu luyện đến trình độ tương đối cao, có thể tự khống chế các khớp xương tách rời hoặc kết hợp, khống chế chất dịch trong cơ thể bài tiết hay hấp thụ, khống chế tất cả các cảm giác mà kích thích bên ngoài gây ra đối với thân thể."

Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Vậy còn tu luyện tới tầng cao hơn nữa thì sao?"

Lạt ma Á La thoáng giật mình, lẩm bẩm: "Không biết, tôi chỉ nghe nói đến trình độ tương đối cao mà thôi, còn cao hơn nữa… tôi chưa từng nghe đến bao giờ!" Đồng thời ông cũng thầm nhủ: "Hình như mình cũng chưa từng nghĩ đến vấn đề này thì phải, rốt cuộc Cường Ba thiếu gia đang nghĩ gì vậy?"

Trác Mộc Cường Ba mừng rỡ thốt: "Tốt quá rồi, tôi cảm thấy mật tu đúng là hết sức cần thiết với mình đấy."

Lạt ma Á La nói: "Khí công thổ nạp để dưỡng sinh, giống như quá trình từ dễ đến khó, từ nhẹ đến nặng, dần dà tăng cường rèn luyện cường hóa cơ thể, hòng kháng cự lại bệnh tật, yoga lấy hô hấp để di dưỡng tinh thần, thông qua sự tiếp xúc với tự nhiên của tâm linh khiến lòng người rộng mở, tâm tình vui vẻ, hòng tiêu trừ mệt mỏi, khiến thân thể khó mắc bệnh hơn; còn mật tu chúng tôi, lại thông qua những phương cách tàn khốc, dùng thân xác khiên chiến với tự nhiên không ngừng thay đổi, tựa như một liều thuốc mạnh, hòng một dao cắt hết những nhân tố nguy hiểm dễ gây bệnh tật trong cơ thể đi. Khí công và yoga là những thứ ai cũng luyện được, bởi vì luyện tập chúng đều từ dễ đến phức tạp, tuần tự nhi tiến, luyện được thì dễ, nhưng luyện thành thì khó; còn mật tu lại là thứ không phải người nào cũng có thể luyện được, môn này là dùng thủ đoạn sấm sét, vừa bắt đầu đã thông qua đào thải tự nhiên để lựa chọn người có thể đủ tiêu chuẩn, người nào không đạt yêu cầu, thường thì từ lúc nhập môn chọn lựa đã mắc đầy mình bệnh tật, cả đời cũng khó khỏi, hơn nữa, còn nguy hiểm tới tính mạng nữa. Cho dù có thể vượt qua chọn lựa, các bài huấn luyện sau này cũng đều theo phương thức bậc thang, bất cứ lúc nào cũng có khả năng ngã tan xương nát thịt đấy."

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: "Nguy hiểm thế cơ à?"

Lạt ma Á La nói: "Thần kinh thực vật tuân theo tự nhiên, còn người mật tu chúng tôi, để đạt đến cảnh giới dùng ý thức khống chế thần kinh thực vật, bước đầu tiên phải làm chính là đi ngược lại với tự nhiên, có rất nhiều người không thể vượt qua được cửa này, hậu quả vô cùng đáng sợ. Tôi lấy một ví dụ đơn giản nhé, từng có một thanh niên khỏe mạnh muốn tham gia mật tu, chúng tôi tiến hành khảo nghiệm Ngạ quỷ đạo với anh ta, cậu cũng biết rồi đấy, con người đói thì muốn ăn, đây là một phản ứng sinh lý tự nhiên, cái gọi là Ngạ quỷ đạo, chính là chống lại cơn đói. Ai ngờ được, mới có bốn tiếng đồng hồ, anh ta đã không chịu nổi mà lăn ra chết, mặc dù chúng tôi đã toàn lực cấp cứu, song cuối cùng cũng không thể nào cứu nổi."

Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc hỏi: "Sao mà thế được? Chống lại cơn đói thì đơn giản thôi mà, dù là người bình thường nhịn ăn bốn năm tiếng đồng hồ cũng không có vấn đề gì lớn mà?"

Lạt ma Á La cười khổ một tiếng: "Cậu cho rằng khảo nghiệm Ngạ quỷ đạo đơn giản như cậu tưởng tượng hay sao?"

--------------------------------
Chú thích:
1 Lop Nur hay La Bố Bạc là một nhóm các hố, hồ muối nhỏ nằm giữa sa mạc Taklamakan và sa mạc Taklamakan và sa mạc Kuruktag ở phía Đông khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, Trung Quốc. Đây là nơi Trung Quốc thử bom hạt nhân.

2 Cách tây, viết tắt của Cách uy tây liên trong tiếng Tạng, dịch ra thành Thiện trí thức, là một học vị trong hệ thống Tạng truyền Phật giáo.

3 Một trong các tông phái của Phật giáo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27: Mật tu (2): biến chủng chu mỹ của văn minh hoa hạ


Trước ánh mắt hoài nghi của Trác Mộc Cường Ba, lạt ma Á La chậm rãi giải thích: "Bản năng đói khát hoàn toàn không phải bắt nguồn thói quen mấy tiếng đồng hồ ăn một bữa. Cảm giác đói khát của con người là một quá trình sinh lý hết sức phức tạp. Cậu cũng biết đấy, con người không ngừng vận động, cho dù là cậu ngồi, cậu nằm yên bất động, tim cậu cũng vẫn đập, máu cậu vẫn chảy… Vận động của chúng ta cần những gì chứ? Cần năng lượng. Còn những thứ chúng ta ăn, một phần sẽ chuyển hóa thành năng lượng cần thiết cho các cơ quan kia. Trước tiên là từ lớn thành nhỏ, rồi nhỏ hơn nữa, cuối cùng thành carbohydrate và đưa tới các các cơ quan trong cơ thể. Do hoạt động của tế bào, carbohydrate sẽ phân giải thành các vật chất như carbon, hydro, oxy để cơ thể đốt cháy, giải phóng nhiệt năng. Khi cơ thể dùng hết năng lượng do thức ăn cung cấp, nó sẽ nhờ thần kinh thực vật phát tín hiệu với đại não, báo hiệu đói. Lúc ấy, các cơ quan trong khắp cơ thể sẽ phát ra tín hiệu mệt mỏi, hết động lực, dạ dày trống không ngừng phát ra tín hiệu đòi lấp đầy chỗ trống, ruột không ngừng nhu động cũng phát ra tín hiệu kiếm việc. Vì vậy, cậu sẽ thấy toàn thân không còn chút sức lực nào, vì vậy, cậu sẽ thấy đói bụng, vì vậy, cậu sẽ thấy bụng dạ sôi lên ùng ục. Mà khảo nghiệm Ngạ quỷ đạo của người tham gia mật tu chúng tôi chính là, trong khi cậu đang đói, yêu cầu cậu chầm chậm chạy xung quanh một cái bàn tròn, trên mặt bàn, lại không ngừng đặt lên các món ăn vừa mới ra lò mà cậu thích ăn nhất…"

"Hả…" Trác Mộc Cường Ba kêu toáng lên. Khảo nghiệm như vậy không phải hơi quá tàn khốc hay sao? Nhịn đói chạy bộ, lại còn phải nhìn những món ăn thơm ngon nhất, hơn nữa chỉ cần với tay ra là lấy được. Yêu cầu đối với ý chí quả thật quá cao, có thể kiên trì bốn tiếng đồng hồ, đích thực là đã đạt đến cực hạn sinh lý rồi, thế nhưng, làm sao mà lại chết được cơ chứ?"

Lạt ma Á La lại nói tiếp: "Thức ăn sẽ liên tục thay đổi để đảm bảo tính tươi ngon và cảm giác kích thích đối với thị giác và vị giác của cậu. Mà người đang đói, do phản ứng sinh lý bản năng, dạ dày sẽ tiết ra dịch vị, đó là một loại acid có độ pH bằng 1. Trong dạ dày có một lớp niêm mạc sẽ bảo vệ cho dạ dày của cậu không bị loại acid này ăn mòn, thế nhưng, nếu cứ nhịn đói mãi, làm dạ dày tiếp tục tiết ra nhiều acid hơn…"

Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt lên, giờ gã đã biết lạt ma Á La muốn nói gì với mình. Lạt ma Á La nói với giọng tiếc thương vô hạn: "Than ôi, chàng thanh niên đó mặc dù có sức chịu đựng rất tốt, nhưng lại không thể nào khống chế được nội tạng của mình. Khi chúng tôi mổ khoang bụng của cậu ấy, nội tạng của cậu ấy đã có một phần ba bị acid do dạ dày cậu ấy tiết ra ăn mòn hết rồi. Nguyên nhân cái chết của cậu ấy, có thể nói là… chết vì đói khát, tự cậu ấy đã ăn chính mình!"

Lạt ma Á La nhìn thẳng vào gương mặt tái xanh chìm trong nỗi sợ của Trác Mộc Cường Ba, chậm rãi buông từng chữ một: "Cho dù như vậy, cậu vẫn còn muốn tiếp nhận huấn luyện mật tu phải không?"

Một hồi lâu sau, Trác Mộc Cường Ba mới ngần ngừ mà kiên quyết: "Tôi chấp nhận!"

Lạt ma Á La nhíu đôi lông mày, lưỡng lự nói: "Nếu Cường Ba thiếu gia vẫn kiên trì… chúng tôi có thể tiến hành một thực nghiệm nhỏ, thử xem nghị lực của cậu, cậu thấy thế nào?"

Nghe Trác Mộc Cường Ba nói muốn tham gia mật tu, mấy người bọn Trương Lập, Nhạc Dương đều cổ vũ nhiệt tình, còn Lữ Cánh Nam thì ngay từ đầu đã lắc đầu thở dài. Nội dung lạt ma Á La chuẩn bị cho Trác Mộc Cường Ba khảo nghiệm là một bài khảo sát nhập môn của mật tu, chống lại cơn buồn ngủ.

Theo yeu cầu của ông, Trác Mộc Cường Ba phải thức trắng một đêm, hơn nữa còn phải bổ củi suốt cả đêm ấy, sáng sớm ngày hôm sau, trong ánh mắt dõi theo của mọi người, gã bước vào một gian nhà đá mà lạt ma Á La đã chọn sẵn.

Lạt ma Á La nói: "Con người ai cũng cần phải ngủ, nếu không ngủ sẽ dẫn đến một loạt các rối loạn công năng sinh lý. Bài kiểm tra này không thể giúp cơ thể cậu trở nên không biết mệt mỏi là gì, mà chỉ kiểm tra xem cơ thể của cậu trong trạng thái mệt mỏi có thể giữ tỉnh táo được bao nhiêu lâu mà thôi."

Đây là một gian nhà đá, lạt ma Á La đã sử dụng thủ pháp đặc biệt trên các cửa sổ, trong phòng vẫn có không khí lưu thông, nhưng tuyệt không có chút ánh sáng nào, đóng cửa lại, thì cả một âm thanh rất nhỏ cũng không nghe thấy được. Trác Mộc Cường Ba bị trói vào một cột đá giữa phòng, nghe nói cảm giác bức bách này có thể khiến người ta tỉnh táo hơn. Trên đỉnh đầu gã, lạt ma Á La đã đặt một cục nước đá, còn giữa gã và cây cột đá, lại cách một lớp chăn bông dày mà vô cùng êm ái.

Lạt ma Á La dặn dò Trác Mộc Cường Ba: "Sau khi tôi đóng cửa, ở đây sẽ trở thành một không gian kín tối om và không có tiếng động, trong hoàn cảnh như vậy, cơn buồn ngủ của cậu sẽ dâng lên mạnh nhất, nhưng vì cậu đang đứng lại còn bị trói nữa, nên cũng vẫn có thể điều chỉnh mức độ căng thẳng của thân thể để kháng cự. Hơn nữa, bên trên chiếc cột đá này còn có một cục nước đá, ước chừng cứ nửa tiếng lại có một giọt nước lạnh ta ra, chảy xuống đỉnh đầu cậu để giúp cậu hưng phấn tinh thần. Ngoài ra, cậu cũng có thể dùng cách đếm giọt nước chảy xuống để xác định thời gian cậu ở đây. Trên tay trái của cậu có đeo một thiết bị cảm ứng, cậu không cần phải dùng sức, chỉ cần để ngón tay chạm vào thiết bị ấy là được rồi. Khi nào cậu hoàn toàn mất ý thức, cũng có nghĩa là đã rơi vào trạng thái ngủ sâu, ngón tay rời khỏi thiết bị cảm ứng một thời gian, chúng tôi sẽ biết ngay, cánh cửa cũng tự động mở ra, để xem cậu có thể kiên trì được bao lâu nhé, Cường Ba thiếu gia, chúc cậu may mắn."

Cánh cửa đã đóng lại, trong không gian bít kín như bưng ấy, không có âm thanh, không có ánh sáng, chỉ có tiếng thở khoan thai của chính bản thân mình. Lúc mới bắt đầu, Trác Mộc Cường Ba vẫn còn giữ được sự tỉnh táo, thế nhưng cặp mắt gã nhìn vào bóng tối chưa được bao lâu đã thấy mệt mỏi vô ngần, mí mắt nặng nề như muốn sụp xuống.

Trác Mộc Cường Ba không khỏi nhớ đến lời lạt ma Á La đã nói: "Mắt người ta một khi mở ra, sẽ không ngừng làm việc, nó sẽ không ngừng tìm kiếm, thu thập các thông tin có thể truyền về cho đại não, trong bóng tối tuyệt đối và khi chói lòa, không thể tìm được bất cứ tín hiệu nào, nó sẽ bãi công. Khi ở trong bóng tối, đến lúc cặp mắt mệt mỏi tới độ không thể mở ra được, hãy nhắm mắt lại, bằng không, có thể sẽ gây ra mù lòa đó."

Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt lại, mặc dù vẫn đang đứng, nhưng gã đã hoàn toàn sẵn sàng để ngủ. Trong tình thế này, giữ cho được thần trí tỉnh táo thật còn khó khăn gấp bội. Gã vẫn còn cảm giác, ngón tay cái vẫn đặt lên thiết bị cảm ứng dạng tiếp xúc kia, nhưng cơn buồn ngủ nặng nề không ngừng ập tới, cảm giác của gã với môi trường xung quanh đang dần dần biến mất. Trác Mộc Cường Ba tựa hồ như lại trở về rừng Mãnh Xà, trong khu rừng vắng lặng tăm tối ấy, u ám, lạnh lẽo, không một chút ánh sáng, cả gió cũng ngừng thổi. Thế nhưng, cảm giác sợ hãi kinh hoàng ập tới, gã không ngừng cảnh cáo chính mình: "Không được ngủ, nhất định phải ra khỏi đây, nhất định không được ngủ." Đúng, phải kiên trì đến cùng, nhất định không được ngủ." Đúng, phải kiên trì đến cùng, nhất định không được ngủ, Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu, đã thấy ngâm ngẩm đau, đầu óc nặng nề khó tả.

Cũng không biết bao lâu sau, Trác Mộc Cường Ba lại mở mắt ra, bốn bề vẫn tối đen như mực, không khí mát rượi, một chút khí lạnh từ lỗ mũi hít xộc vào phổi, hơi nóng lại từ phổi thở ra, bây giờ Trác Mộc Cường Ba mới hiểu ra, dụng ý thật sự khi lạt ma Á La trói gã vào cột đá là gì. Nếu còn có thể cử động tay chân, hoạt động cho thư giãn gân cốt, tự tạo ra cảm giác đau đớn cho cơ thể, nhất định sẽ kháng cự lại được với cơn buồn ngủ, nhưng cái tư thế không thể nhúc nhích như thế này, vừa hay lại thõa mãn yêu cầu của giấc ngủ. Gã ngẩng đầu lên, trên đầu cũng tối tăm mù mịt, không nhìn thấy gì hết, Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: "Chẳng phải đã nói là cứ nửa tiếng là có một giọt nước lạnh rỏ xuống cơ mà? Sao lâu như thế rồi mà vẫn chẳng có động tĩnh gì vậy?" Bỗng nhiên, gã sực nhớ ra một câu khác cũng do lạt ma Á La nói: "Trong bóng tối, người ta sẽ mau chóng mất đi cảm giác về thời gian, bóng tối sẽ nói với cậu, trên thế giới này, vốn là chẳng có thời gian." Trác Mộc Cường Ba thầm kinh hoảng trong lòng: "Lẽ nào mình cảm thấy đã rất lâu rồi, thực ra mới chỉ có mười mấy phút, còn chưa tới nửa tiếng đồng hồ thôi sao?" Lời lạt ma Á La vẫn văng vẳng bên tai: "Với một giấc ngủ ngon, cậu sẽ thấy vừa mới nhắm mắt vào, mở mắt ra trời đã sáng; còn một giấc ngủ mệt mỏi, cậu sẽ trằn trọc không yên, tưởng chừng như đã lâu lắm rồi, nhưng sao trên bầu trời đêm vẫn nhấp nháy, tựa hồ như thời gian và không gian đang đông đặc vậy."

Trác Mộc Cường Ba lại chán nản nhắm mắt lại, thật không ngờ, cái gọi là khiêu chiến với cực hạn của con người, chưa nói đến nhịn ăn nhịn uống, chỉ đơn giản là khiêu chiến với giấc ngủ thôi đã khó khăn như vậy rồi. Đây cũng chỉ mới là một bài kiểm tra chứng nhận tư cách mang tính thử nghiệm, nếu cả một bài kiểm tra nhỏ này mà cũng không thể kiên trì vượt qua, nói đến mật tu làm gì nữa? Qua kinh nghiệm trong rừng Mãng Xà, Trác Mộc Cường Ba biết, cần phải dựa vào cảm giác đau đớn mới xoa dịu được cơn buồn ngủ, nhưng bây giờ hai tay gã đã bị trói chặt, sau lưng còn lót một lớp chăn bông dày, làm sao mà tạo ra được cảm giác đau đớn bây giờ? Trác Mộc Cường Ba cắn chặt môi dưới, trong miệng xộc lên một mùi máu tanh nồng nồng, vị mằn mặn, nuốt vào hơi ngòn ngọt đặc thù ấy, bất cứ ai cũng nhận ra được. Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt trầm tư: "Chảy máu rồi, mình đã cắn môi đến chảy máu rồi à? Nhưng sao không có cảm giác đau đớn, sao mà nhẹ nhàng, hả, chẳng lẽ mình sắp ngủ thật rồi?" Lạt ma Á La từng nói, "Người đang ngủ sâu, cho dù lấy kim châm cũng không tỉnh lại, vì ý thức của người đó đã tự đóng lại, tín hiệu truyền qua thần kinh thực vật đến đại não bị ngăn trở, sẽ không còn cảm thấy đau đớn nữa. Một giấc ngủ ngon, cũng bằng tự tiêm cho mình một liều thuốc tê vậy."

Trác Mộc Cường Ba bắt đầu gật lia lịa, bản thân gã cũng biết, cứ tiếp tục như vậy không được, thế nhưng, tay chân và toàn bộ cơ thể bắt đầu không còn nghe theo sự điều khiển của gã nữa, ý thức đang dần mơ hồ mờ nhạt. Đúng lúc này, tựa như một mũi kim đâm thẳng vào cột sống, cảm giác lạnh thấu xương ngay sau đó lan tỏa đi khắp toàn thân, Trác Mộc Cường Ba giật thót mình, đột nhiên khôi phục lại sự tỉnh táo, nhớ lại cảm giác vừa rồi, gã biết, gọt nước lạnh ấy đã rơi xuống gần huyệt Đại trùy của mình. Nhưng chẳng bao lâu sau, nhiệt độ cơ thể nhanh chóng xua sạch hơi lạnh, lớp chăn mềm ấm tạo ra độ ma sát nhẹ nhàng cho làn da, Trác Mộc Cường Ba đã dùng hết mọi cách, song ý thức vẫn cứ biến mất từng chút từng chút một. Thật không ngờ, kiểu bất ngờ dùng nước lạnh cho tỉnh người này lại giống như đem thể lực ra tiêu hao hết một lượt, ngược lại càng dễ mệt mỏi buồn ngủ hơn.

Kháng cự lại cảm giác buồn ngủ này, giống như đang dùng hết sức lực toàn thân giữ thăng bằng trên một sợi dây thép, có điều bên dưới dây thép kia không phải là vực sâu thăm thẳm, mà là lớp chăn bông dày ấm, vô số gái đẹp, thức ăn ê hề, muốn cầm cự được lâu trên một sợi dây thép như thế, quả thực là còn khó khăn hơn lên trời gấp bội.

Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba cũng lĩnh hội được ý nghĩa thâm ảo của mật tu, đồng thời cũng hiểu ra tại sao lạt ma Á La nói không phải ai cũng có thể tham gia huấn luyện mật tu được. Muốn kháng cự lại đau đớn không hề khó, mà chỉ cần một trái tim kiên định dũng cảm là được, vậy nhưng, muốn chống lại sự ấm áp dịu dàng, sức nhẫn nại ấy đúng là không phải người nào cũng làm nổi. Không biết đã là lúc nào, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy phía trước lấp lóa nhập nhòa, phải một lúc lâu sau mới hồi phục thị lực, cánh cửa đá kia, hóa ra đã bị mở ra rồi! Trác Mộc Cường Ba mệt mỏi gục đầu xuống, một cảm giác mệt mỏi xưa nay chưa từng có xâm chiếm khắp cơ thể.

Trác Mộc Cường Ba được Trương Lập và Nhạc Dương khiêng ra khỏi gian nhà đá, chính bản thân gã cũng không thể nào tin nổi, chỉ vì chống lại cơn buồn ngủ mà gã đã tiêu hao hết cả thể lực. Nhìn nét mặt hai người Trương, Nhạc có thể nhận thấy, bọn họ rất thất vọng trước biểu hiện của Trác Mộc Cường Ba. Dưới ánh mặt trời, lạt ma Á La cười tủm tỉm nhìn gã, cầm đồng hồ tính giờ trong tay nói: "Năm mươi sáu phút, khá lắm, đã là khá lắm rồi."

Đường Mẫn giúp Trác Mộc Cường Ba lau vết máu trên khóe miệng, xót xa hỏi: "Sao lại đến nông nổi này?" Trác Mộc Cường Ba không trả lời cô, chỉ thầm nghĩ bụng: "Không ngờ chỉ cầm cự được có năm mươi sáu phút, sao cảm giác cứ như đã ở dưới địa ngục mấy năm rồi vậy." Gã đột nhiên nhìn thấy ở phía xa xa, Lữ Cánh Nam đang đi ngược lại, bèn hỏi: "Đại sư, giáo quan cũng từng tiếp nhận thử nghiệm tương tự như vậy rồi à?"

Lạt ma Á La lắc đầu: "À, không có. Đây là một phương pháp chứng nhận tư cách do tôi tự nghĩ ra khi mới bắt đầu mật tu, vì không được các vị đại sư đồng ý, nên tôi mới gọi nó là một bài kiểm tra thử nghiệm. Ngoài tôi ra, cậu là người đầu tiên thử nghiệm theo cách này."

Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Vậy năm đó, đại sư cầm cự được bao nhiêu lâu vậy?"

Lạt ma Á La mỉm cười: "Vì lúc ấy tôi đã có tư cách mật tu rồi, đồng thời cũng đã chính thức bắt đầu mật tu, vì vậy thời gian cầm cự phải dài hơn một chút…" Ông giơ lên ba ngón tay.

"Ba tiếng đồng hồ?" Trác Mộc Cường Ba hỏi.

"Không, ba ngày."

Trác Mộc Cường Ba lập tức cảm thấy choáng váng, đầu gục xuống, không còn sức lực ngước lên nữa; gã đã ngủ thiếp đi rồi.

Lúc Trác Mộc Cường Ba tỉnh lại, trời đã ngả hoàng hôn. Gã trầm ngâm nhớ lại, trời đã ngả hoàng hôn. Gã trầm ngâm nhớ lại, đúng như lạt ma Á La đã nói: "Có một số việc phải cần đến khả năng thiên phú, sức người không thể cưỡng cầu." Trác Mộc Cường Ba cũng tự biết mình, nếu nói rèn luyện sức mạnh cơ bắp bên ngoài, có lẽ gã có thể đạt tới mức khá, còn mật tu, tư chất của gã chỉ có thể nói là tầm thường, thậm chí thuộc loại thấp, nhưng gã không hề có ý định bỏ cuộc ở đây. Lạt ma Á La vào phòng thăm hỏi: "Cường Ba thiếu gia, giờ cậu có muốn nói gì với tôi không?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Ừm." Gã ngước nhìn vào mắt lạt ma Á La, gương mặt toát lên vẻ tự tin mà cố chấp: "Tôi muốn thử một lần nữa."

Lạt ma Á La nghẹn lời, hồi lâu sau mới nói: "Bây giờ, trước tiên cứ học hết các môn học cơ bản đi đã, đây mới là những thứ cậu cần phải học. Nếu sau khi kết thúc lần khảo sát này, nếu Cường Ba thiếu gia vẫn muốn tiến hành mật tu, cậu có thể đến Sắc Lạp tự, thiền phòng số một lẻ chín, tìm Đan Chu đại sư, cứ nói là tôi bảo cậu đến. Đan chu đại sư không thể coi là người giỏi nhất trong những người mật tu, song ông ấy tuyệt đối là người hướng dẫn mật tu giỏi nhất đó."

Trác Mộc Cường Ba không biết là mừng hay lo, trong lòng thầm cảm kích lạt ma Á La. Sau đó mấy ngày, bọn họ bắt đầu đợt huấn luyện mang tính chất phục hồi, đồng thời tiếp nhận đợt trị liệu phục hồi thân thể ở bệnh viện trong vòng một tháng, cứ vào các thứ Hai, thứ Tư, thứ Năm, và Chủ Nhật, đều phải đến gặp bác sĩ tâm lý chuyên nghiệp để điều trị phục hồi tâm lý, yêu cầu phải kiên trì nửa năm hoặc thậm chí lâu hơn.

Trong mấy ngày bắt đầu hồi phục, khi mọi người ăn cơm, phát hiện ra Trác Mộc Cường Ba cầm đũa cứ run lẩy bẩy, có lúc gắp thức ăn cũng không gắp nổi. Nhạc Dương tò mò hỏi: "Cường Ba thiếu gia, tay anh bị làm sao vậy?"

Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh trả lời: "Tay bị chuột rút."

Nhạc Dương lại càng ngạc nhiên hơn, liền hỏi tiếp: "Sao mà lại bị chuột rút được?"

Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ oán hờn, gằn giọng nhá từng chữ một: "Phạt, chép, một, vạn, lần!" Hai người Nhạc Dương, Trương Lập không ngờ lại hân hoan cổ vũ, tỏ ra hết sức vui mừng, còn Trác Mộc Cường Ba thì chỉ biết mếu méo dở khóc dở cười.

Lúc này, ở ngoại ô Philadelphia, có một tòa kiến trúc nguy nga lộng lẫy như lâu đài, đây là một trong rất nhiều nơi ở của Merkin trên đất Mỹ. Cá nhân y tương đối thích nơi này, tất cả nội thất ở đây đều do y đích thân bài trí, nhưng Soares lại hết sức chán ghét, chỗ này quá ư là tối tăm, không giống như chỗ cho con người ở, mà ngược lại giống một ngôi mộ cổ hơn, thậm chỉ cả gió ở đây cũng lạnh hơn bình thường. Hơn nữa Merkin lại còn mang về đây các thứ y đào được trong mộ cổ và các món đồ tìm được trên thị trường đồ cổ, tất cả bày ở những chỗ nổi bật nhất, khiến nơi này lại càng thêm nặng nề âm khí. Soares tin rằng, những thứ ở trong mộ cổ, vì chôn vùi ở nơi u ám không có ánh mặt trời đã quá lâu, các âm hồn bất tán đều tụ hết cả trên đó, ai giữ các thứ ấy một thời gian dài, rồi thế nào cũng bị nó làm hại. Nhưng để cùng nghiên cứu tấm bản đồ giống như bản đồ Trung Quốc ấy với Merkin, y không thể không dọn đến đây. Bây giờ tòa cung điện lạnh lẽo này có thêm mấy con vật nhỏ đáng yêu của Soares, lại càng trở nên giống một pháo đài của thầy mo hơn. Bạn đang đọc truyện tại Truyện FULL - www.Truyện FULL

Giữa phòng khách đặt một chiếc bàn lớn, trông như bàn bóng bàn, tấm bản đồ cổ để ở giữa, bên cạnh có tờ giấy vẽ bản đồ rộng gần hai mét trải rộng, bên trên đánh dấu chi chít địa danh. Merkin một tay cầm thước một tay cầm bút, chấm chấm vạch vạch bên trên như một kiến trúc sư thực thụ. Trên tấm bản đồ lấy được trong địa cung Maya này vẽ toàn những ký hiệu khiến người ta nhìn mà hoa mắt chóng mặt. Trong mắt Soares, những ký hiệu ấy khá giống với ký hiệu một nét thời cổ đại, hình ngực, hình củ hành, hình thang, hình mũi tên…, đều dùng một nét vẽ nên. Soares nhìn chúng, cảm thấy tối nghĩa khó hiểu chẳng khác gì những ký hiệu trong địa cung Maya cả. Còn Merkin thì ra bộ trầm tư suy nghĩ rất lung. Soares bèn hỏi: "Đây là cái gì? Tạng văn hả?"

Merkin cắn cắn bút, nói: "Ừm, những ký hiệu này chắc là văn tự, anh xem, đại đa số được sắp xếp rất thẳng thớm, hơn nữa còn có chỗ lặp lại nữa, đây chắc là văn tự rồi. Ngoài ra còn một số khác, nhìn trông như vẽ thứ gì đó, có lẽ là biểu thị ký hiệu hình núi thì phải?"

Soares nghi hoặc: "Anh… anh khẳng định đây là Tạng văn à? Hình như tôi chưa thấy loại Tạng văn này bao giờ."

Merkin nói: "Chuyện này không có gì là lạ, Tạng văn anh chưa từng nhìn thấy thì nhiều lắm. Tạng văn phát triển từ hơn ngàn năm trước, nếu tính từ tiếng Mã Nhĩ của Tượng Hùng thì cũng cả hai ngàn năm rồi, thời kỳ khác nhau, giáo phái khác nhau, đều có những kiểu chữ khác nhau. Cùng là tiếng Tạng, nhưng cũng có đến hơn trăm kiểu chữ, có những kiểu hoàn toàn khác nhau, không thể dùng thay cho nhau được."

Sắc mặt Soares sa sầm, muốn khó coi bao nhiêu thì có bấy nhiêu. Y chỉ vào bản đồ, hỏi: "Có hơn trăm kiểu chữ? Anh, anh biết được mấy kiểu? Còn nữa, trong đám ký hiệu này, anh có phân biệt được đâu là văn tự, đâu là hình vẽ không?" Soares hiểu rõ, nếu không biết, một văn tự cổ hoàn toàn có thể trở thành thứ mật mã tương đối phức tạp; bằng như chỉ biết được dăm ba ký hiệu mà muốn khám phá văn tự, e còn khó hơn cả lên trời nữa.

Merkin chớp chớp mắt, nói: "Không sao, chúng ta có chuyên gia rồi…" Y dụi dụi, quả là đã rối hết cả mắt.

Bí mật về Sáng chế thần của người Inca

Một tháng sau, chính phủ lại có hoạt động khảo sát khoa học khác, Ngải Lực Khắc phải trở về đoàn của nhà nước. Buổi từ biệt, mọi người tụ tập lại một chỗ, lưu luyến không rời. Sau bữa cơm, ai nấy trở về đi ngủ, Trác Mộc Cường Ba lại ra chỗ gã và Ngải Lực Khắc lần đầu tiên nói chuyện. Sao trời vẫn long lanh như thế, Ngải Lực Khắc vẫn đứng sừng sững trong cơn gió se se lạnh, nhìn ánh đèn doanh trại lập lòe phía xa xa. "Anh cũng ở đây hả, anh Mao Lạp." Trác Mộc Cường Ba nói.

Ngải Lực Khắc khẽ thở dài: "Phải, ở với nhau lâu như vậy, đột nhiên phải đi, thế nào thì cũng thấy hơi quyến luyến. Có điều tôi cũng phải đi, những thứ có thể dạy tôi đã dạy hết cho mọi người rồi, con đường còn lại, mọi người phải dựa vào mình tự đi thôi."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Cám ơn anh, cám ơn anh đã dạy cho chúng tôi rất nhiều điều bổ ích."

Ngải Lực Khắc ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba ra chỗ cái đôn đá phía trước, hai người sánh vai ngồi xuống. Chỉ nghe Ngải Lực Khắc nói: "Cường Ba thiếu gia, ở chung một thời gian dài như vậy, tôi cảm thấy, thứ anh thực sự muốn tìm kiếm, dường như không chỉ có Tạng ngao thôi đâu."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Ừm, tại sao anh lại nghĩ thế?"

Ngải Lực Khắc đáp: "Anh là người khắc khổ nhất trong các học viên huấn luyện đặc biệt lần này, anh rất nỗ lực, thậm chí có thể nói là liều mạng. Mỗi khi hoàn thành một bài huấn luyện, trong mắt anh lại toát lên vẻ mừng rỡ vô cùng, nhưng đồng thời cũng thoáng hiện ra vẻ u uất, có chuyện gì đó anh tự trách mình, có phải không? Vì vậy, có lúc tôi nghĩ, hình như anh không thực sự muốn tìm kiếm chó ngao Tây Tạng, mà chỉ coi việc tìm kiếm ấy như một cơ hội, một hy vọng. Nếu tìm được Ngao vương… liệu đó có phải là anh đang tự ám thị mình rằng như vậy thì sẽ có hy vọng tìm thấy thứ anh thực sự muốn tìm hay không?"

Những lời của Ngải Lực Khắc dường như đã mở ra một cánh cửa phủ đầy bụi bặm. Sắc mặt Trác Mộc Cường Ba tái đi, toàn thân lạnh toát, trong lòng chấn động: "Là vậy sao? Lẽ nào mình thật sự nghĩ như vậy? Thật sự là như vậy hay sao?"

Ngải Lực Khắc đứng lên nói: "Cường Ba thiếu gia, anh nên hiểu rằng, điều quan trọng nhất trong đời người, chính là biết mình muốn gì. Anh là người có mục đích, vì thế cuộc sống của anh phong phú diệu kỳ hơn những người khác. Là một người làm công tác khảo sát khoa học nhiều năm, tôi nghĩ, con đường tìm tòi này là một con đường vĩnh viễn không có điểm dừng. Trên con đường ấy, anh có thể không ngừng học hỏi và thu hoạch. Lâu dần lâu dần anh sẽ phát hiện ra, nó không hề khô khan vô vị chút nào, bởi vì niềm vui nó mang đến cho anh nằm ở sâu thẳm trong lòng. Tôi nghĩ, đời người cũng chỉ có thế mà thôi, không ngừng tìm tòi và phát hiện, tìm kiếm những thứ mình muốn tìm." Ngải Lực Khắc vỗ vỗ lên vai Trác Mộc Cường Ba, thở dài đầy ý nghĩa, "Thực ra, tôi cảm thấy Cường Ba thiếu gia rất hợp với công tác khảo sát khoa học đấy, anh có nghị lực bền bỉ mà người thường không thể có, hơn nữa, khả năng nhìn thấu suốt của anh mạnh hơn người bình thường rất nhiều, chỉ cần anh nghĩ đến, nhất định là sẽ có phát hiện gì đó. Vấn đề là, bây giờ anh vẫn chưa chịu nghĩ ngợi suy tính nhiều hơn, mà thích đơn giản hóa sự việc đi. Nhưng tôi nghĩ, rồi sẽ có một ngày anh tỉnh ngộ ra thôi."

Nhìn theo cái bóng của Ngải Lực Khắc, Trác Mộc Cường Ba thần người ra giữa bãi đất trống. Ngày hôm nay, phảng phất như tan vào làn gió se lạnh, mỗi câu nói của Ngải Lực Khắc đều đáng cho gã suy nghĩ cả. Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ, đêm nay lại là một đêm không ngủ nữa rồi.

Dường như để quên đi những lời Ngải Lực Khắc nói, Trác Mộc Cường Ba lại quay trở về phòng của mình trong doanh trại. Từ khi bọn họ lấy được một phần tư liệu kia, cả tháng nay gã đã nghiên cứu không ngừng. Ban đầu Trác Mộc Cường Ba định để Trương Lập, Nhạc Dương, thêm cả Mẫn Mẫn và giáo sư, năm người bọn họ cùng tập trung nghiên cứu, nhưng hai tên láu báu Trương Lập và Nhạc Dương vừa thấy tập tư liệu dày bịch đã kêu đau đầu ầm ĩ, chỉ có Mẫn Mẫn là hết sức chăm chỉ cẩn thận giúp giáo sư Phương Tân phân loại và chỉnh lý.

Vì trước khi đi châu Mỹ giáo sư Phương Tân đã nghiên cứu về nền văn minh Maya, thêm nữa ông cũng nói, rèn sắt phải rèn lúc nóng, đặc biệt là vị thần đi lại giữa thế gian mà Trác Mộc Cường Ba nhắc đến kia đã làm cho giáo sư hết sức chú ý, vì vậy, bọn họ quyết định bắt đầu tra xét từ mối quan hệ giữa người Kukuer và vị sứ giả kia.

Chẳng ngờ phần liên quan đến Maya trong tập tư liệu rất ít. Theo như Nhạc Dương phân tích thì có hai nguyên nhân: thứ nhất vì nhà nước cũng mới diễn dịch được Cổ Cách kim thư mà biết sứ giả có quan hệ với châu Mỹ, trước đó chưa có đủ những tư liệu liên quan, vì vậy nên chuẩn bị chưa đầy đủ; thứ hai là ở trong tổ chuyên gia, số chuyên về Maya ít thê thảm, mà thậm chí đã thực có chuyên gia về Maya chưa cũng là vấn đề nữa, đương nhiên là không thể chuẩn bị ra được bao nhiêu tư liệu chính xác và đầy đủ. Nhưng nhờ giáo sư Phương Tân thông qua bạn bè, hoặc lên mạng liên hệ với một số chuyên gia về Maya của nước ngoài, họ tìm được rất nhiều thông tin bất ngờ từ nhiều con đường khác nhau.

Có điều những tư liệu ấy, ngược lại còn khiến cả mấy người càng thêm nghi hoặc. Chủ yếu có ba điểm, trước tiên là vị trí địa lý, người Kukuer ở cách bán đảo Yucatan là trung tâm của nền văn minh Maya quá xa, nhưng thôn làng và tòa Bạch thành do tổ tiên họ xây nên, trăm phần trăm chính là kiến trúc điển hình của nền văn minh Maya. Không nghi ngờ gì nữa, đó chính là nền văn minh từng có thời kỳ huy hoàng khiến cả thế giới phải chấn động, văn minh Maya. Tại sao người Kukuer lại đi tới đó, đi như thế nào, nền văn minh của họ từng huy hoàng tới mức nào, tại sao lại tàn lụi như vậy?

Kế đó là tập tục nuôi chó. Nền văn minh Maya dường như cũng sùng bái chó. Người Kukuer có thần Chó, nhưng chuyện chó sau khi chết được hợp táng với chủ nhân thì cả nhóm không tra cứu được trong các tư liệu khác về văn minh này. Ngay cả người Inca cũng không có tập tục nào tương tự.

Điểm cuối cùng, chính là vị thần Yinawea kia. Đây chính là điều khiến người ta kỳ quái nhất ở người Kukuer, bởi vì Yinawea không phải là thần của người Maya, mà của người Inca. Nhưng nếu nói vì ở gần nhau mà văn minh Inca và văn minh Maya của người Kukuer pha trộn, thì lại không tìm thấy bất cứ dấu vết nào khác của các vị thần Inca ở chỗ người Kukuer. Ngoài ra còn rất nhiều nghi vấn nhỏ khác, mà câu trả lời phụ thuộc vào hai việc. Thứ nhất phải dịch được minh văn (chữ khắc trên đồ vật, bia đá) của người Maya. Việc này giáo sư Phương Tân sẽ nghĩ cách nhờ chuyên gia trong và ngoài nước giúp đỡ. Thứ hai, quan trọng hơn là làm thế nào để Trác Mộc Cường Ba nhớ lại được bài sử ca của Babatou. Điều này thì đã làm khó gã, đếm đi đếm lại gã cũng chỉ nhớ có mỗi hai câu, nhiều hơn đành lắc đầu chịu chết.

Việc thứ nhất phạm vi liên quan quá rộng, việc thứ hai kết quả thu được quá ít ỏi, vì vậy bọn họ tập trung vào một hướng mới. Trong tư liệu còn nhắc đến việc sứ giả sang châu Mỹ, nên giáo sư Phương Tân cho rằng hướng thứ ba này e còn quan trọng hơn. Xác minh được vị sứ giả kia rốt cuộc có đặt chân tới châu Mỹ hay không, mục đích đến đó là gì, các phát hiện này có giá trị rất quan trọng đối với việc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Trong quá trình tra cứu tư liệu, họ phát hiện ra Sáng chế thần của người Inca. Vị này có rất nhiều tên, hơn nữa bộ lạc thiểu số nào cũng tin rằng tên của bộ lạc mình gọi mới chính là tên thật của vị thần đi khắp nơi thế gian ấy. Những cái tên Viracocha, hay Huiracocha, hay như Sean gọi là Wiraqutra và Yinawea của người Kukuer đều chỉ là phát âm hơi khác nhau một chút, ngoài ra còn có những cái tên nghe khác hẳn nhau như Halacocha, Kaen Sisi, Susuba, Chakalakapi, Yla…

"Cường Ba thiếu gia, có phát hiện mới," vừa thấy Trác Mộc Cường Ba quay lại, Nhạc Dương đã hoan hỉ báo cáo. "Là tôi phát hiện ra đấy nhé, lịch sử của cái nền văn Maya và văn minh Inca này, và cả của người Kukuer nữa, có một giai đoạn trùng hợp cực kỳ luôn."

"Ô, là chuyện gì vậy?" Trác Mộc Cường Ba quay sang nhìn giáo sư Phương Tân. Ông mỉm cười nói: "Nhạc Dương phát hiện ra, để cậu ấy nói đi."

Nhạc Dương nói: "Anh xem, bây giờ hầu hết mọi người đều cho rằng nền văn minh Maya ở châu Mỹ đại khái là phát triển đến cuối thế kỷ thứ chín thì đột nhiên đi từ phồn thịnh đến diệt vong. Chứng cứ rõ ràng nhất của luận điểm này chính là một tấm bia kỷ niên có khắc thời gian là năm 899 phát hiện ra gần đây nhất. Trong khoảng thời gian ấy, tất cả các thành trì lớn đều ngừng xây dựng, hơn nữa còn phát hiện ra vết tích của nhiều trận đồ sát lớn, có nhà khảo cổ học đã chỉ ra đây có lẽ là chiến tranh bùng nổ trên diện lớn. Còn bài sử ca của người Kukuer không phải cũng nói, chiến tranh ở phương Bắc làm tổ tiên của họ phải chạy về phương Nam hay sao? Nếu Cường Ba thiếu gia nhớ không nhầm, thì bốn năm katun bằng tám mười năm lịch của chúng ta, đại khái bọn họ đã đi được chừng ấy thời gian, bọn họ đến nơi và xây dựng Bạch thành đại khái vào khoảng cuối thế kỷ thứ mười. Mà trên thực tế, chính trong thời gian này đế quốc Inca từ một bộ lạc nguyên thủy không có bất cứ ghi chép gì trong lịch sử bỗng đột nhiên trở nên phồn thịnh. Đối với vị hoàng đế Manco Cápac của đế quốc Inca, đến tận bây giờ người ta vẫn còn tranh luận, có người nói khoảng chừng năm 1200 ông ta mới bắt đầu xây dựng một quốc gia lớn mạnh, cũng có người nói khoảng năm 1000 ông ta đã bắt đầu biến Inca thành một đế quốc hùng cường. Tôi phát hiện ra chỗ này có một điểm nghi vấn, chính là vua Inca thứ nhất và vua Inca thứ tám dùng chung một tên, có lẽ đây là lý do gây ra hai trăm năm sai biệt này. Tôi thì tán đồng quan điểm đầu tiên, bởi vì ở đây có một vấn đề, văn minh của người Inca và người Maya không giống nhau, không phải là tích lũy phát triển dần dần, mà đột nhiên rơi từ trên trời xuống. Trong thần thoại truyền thuyết của bọn họ cũng miêu tả đúng như vậy. Tổ tiên của người Inca khi ấy vẫn đang trong tình trạng hỗn loạn mông muội, ăn lông ở lỗ, hàng ngày cứ trời sáng là lại tỏa ra khắp núi rừng tìm kiếm thức ăn. Và thần Yinawea (tức Viracocha) đã đến nhân gian, dạy cho họ tất cả mọi điều. Cũng trong thời kỳ này, vị thần Yinawea đó, cũng đến làm khách ở chỗ người Kukuer, chính là vị Yinawea đã nhắc nhở bọn họ ấy, chỉ tiếc là Cường Ba thiếu gia không nhớ được nội dung khúc giữa, bằng không, chúng ta đã liên hệ các sự kiện này với nhau được rồi. Thế nào, đoạn lịch sử này được chắp vá lại cũng hoàn chỉnh ra phết phải không?"

Đường Mẫn ngẩng lên khỏi đống sách vở, vuốt qua loa mái tóc rối, bổ sung thêm: "Thực ra Nhạc Dương chưa nói vào trọng điểm, kết quả nghiên cứu của bọn em là, nền văn minh Maya đột nhiên tiêu vong vào khoảng thế kỷ thứ mười. Sự thực là khi người Tây Ban Nha đến châu Mỹ, những người Maya đó đã quên mất nền văn minh của tổ tiên mình mà đang sống cuộc sống của người nguyên thủy rồi. Còn nền văn minh Inca thì đột ngột nổi lên từ thế kỷ thứ mười. Trước thời gian đó, lịch sử của họ gần như là không thể nào khảo cứu được. Vì vậy những tri thức văn minh của thời kỳ này thành ra rất giống như người ngoài hành tinh đã dạy cho bọn họ. Dựa theo thần thoại và truyền thuyết của người Inca, thần Viracocha là một nhân vĩ đại gần như Thần Nông của Trung Quốc chúng ta vậy, ngài đã đến Nam Mỹ vào thời điểm đó, đồng thời để lại thần tích ở khắp nơi trên đại lục."

Nhìn cặp mắt vằn lên những tia máu của Đường Mẫn, Trác Mộc Cường Ba lấy làm áy náy không yên. Gã từng khuyên Mẫn Mẫn đừng lao tâm quá sức, giờ họ vẫn còn đang trong thời kỳ hồi phục, cần phải chú ý đến sức khỏe của mình trước nhất, nhưng Đường Mẫn đã trả lời: "Sức em yếu, lúc lên đường không thể giúp gì cho mọi người, nhưng tra cứu tư liệu thì em vẫn làm được. Với lại, cả giáo sư cũng không nghỉ ngơi, em trẻ hơn ông nhiều, nói gì thì em cũng học qua lớp y tá rồi mà…"

Trác Mộc Cường Ba cười cười, nói: "Theo như mọi người nói, vậy thì vị thần Yinawea kia, chính là sứ giả Tây Tạng của chúng ta vượt biển đến Nam Mỹ rồi."

"Chẳng lẽ lại không à?" Nhạc Dương vội nói: "Anh xem những đoạn miêu tả về thần Viracocha đi: có một đám tín đồ trung thành luôn đi theo ngài, còn có một con mãnh thú kỳ lạ lúc nào cũng ở bên cạnh ngài, mãnh thú có đầu lớn, bốn chân như sư tử… Cường Ba thiếu gia, đây rõ ràng chính là hộ vệ của Cổ Cách và Chiến ngao còn gì."

Trác Mộc Cường Ba cười khẽ: "Vậy người Tây Ban Nha đã miêu tả vị thần này như thế nào? Những gì họ nói có liên quan chút gì đến Tạng tộc đâu, trong ghi chép của họ thì thần Viracocha phải là người châu u có làn da trắng bóc, sống mũi cao, tóc xanh, hơn nữa còn có thuyết còn cho rằng, thần Viracocha rất giống với Thánh tông đồ Bartholomew 1 và Thánh Thomas, cậu giải thích thế nào đây?"

"Tôi cho rằng Nhạc Dương nói không sai đâu." Lúc này, giáo sư Phương Tân mới đứng lên nói, "Chớ quên câu danh ngôn này, lịch sử do kẻ chiến thắng viết nên, người Tây Ban Nha miêu tả thần Viracocha giống như Thượng đế người da trắng, đó là vì họ là những kẻ xâm lược đầu tiên chinh phục nền văn minh Inca, nhưng sự thực thì, chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều sơ hở trong những chi tiết nhỏ nhặt này. Chẳng hạn, về tượng thần Viracocha, người Tây Ban Nhà đã miêu tả thế này, "Thân hình ngài cao lớn, râu dài hơn một gang tay, áo dài rộng rãi, dạng như áo bành tô hoặc áo cha xứ, phủ kín hai chân. Tượng thần dắt theo một con dị thú, dáng hình kỳ lạ xưa nay chưa từng thấy bao giờ, bốn chân như chân sư tử; bức tượng thần này rất giống với hình tượng Thánh tông đồ của chúng ta (người Tây Ban Nha), nói một cách chính xác thì giống với Thánh tông đồ Bartholomew, bởi vì trong hình tượng của thành có ma quỷ bám dưới chân, mà thần Viracocha này thì lại dắt theo một con dị thú chưa ai trông thấy bao giờ." Lạ một điều là những bức tượng thần và các kiến trúc này đã bị người Tây Ban Nha phá hoại hết, nghe đâu là để triệt để tiêu diệt tín ngưỡng của người Inca, sau đó truyền bá đạo Cơ Đốc. Nếu vị thần đó rất giống với Thánh tông đồ của họ, vậy thì đây có thể nói là thần tích hết sức có lợi cho việc cho việc truyền giáo, cớ sao phải hủy đi làm gì? Còn nữa, một nguyên nhân rất quan trọng khiến người Tây Ban Nha cho rằng vị thần đi lại chốn thế tục này là một tín đồ Cơ Đốc giáo, chính là vì họ tìm thấy rất nhiều chứ thập trong các điện thờ thần Viracocha, họ cho rằng đây là dấu tích thần lưu lại khi truyền bá giáo lý Cơ Đốc, chỉ có điều kỹ thuật thủ công người bản địa quá tệ, chữ thập nào cũng bị vặn vẹo không ngay ngắn. Cậu xem thử những chữ thập mà họ phát hiện coi, đây là hình chụp vật thực mà Chính phủ Peru còn lưu giữ đấy."

Trác Mộc Cường Ba ngó vào màn hình máy tính của giáo sư Phương Tân, chữ thập ngoặc đó rõ ràng là lệch sang một phía, gã kinh ngạc kêu lên: "Đây là… chứ Vạn ngược mà!"

Giáo sư Phương Tân cười cười: "Đây là ký hiệu "ung trọng", tít nhất thì so với chữ thập, cái vật này giống ký hiệu "ung trọng" hơn đúng không. Nếu cái này vẫn chưa nói lên điều gì, cậu xem thêm cái này nữa, đây cũng là vật Chính phủ Peru cất giữ, là dao phẫu thuật hình chữ "T" của nền văn minh Inca, nghe nói thuật mổ đầu của người Inca hết sức tiên tiến, cậu xem thêm tấm ảnh này đi…"

Trên màn hình hiện ra hai tấm ảnh đen trắng đặt cạnh nhau, con dao hình chữ "T" trong hai tấm ảnh, ngoài kích cỡ và độ nét ra thì gần như là giống y hệt, Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc hỏi: "Đây là…"

Giáo sư Phương Tân giải thích: "Trong tấm ảnh này là dụng cụ phẫu thuật đã được sử dụng ở Tây Tạng cổ từ hơn một nghìn năm trước, giờ được cất giữ trong Bố Đạt La cung. Thực tế là một bộ dụng cụ phẫu thuật hoàn chỉnh nghe đâu có hơn một trăm loại dao khác nhau, đây chỉ là một trong số đó. Mặc dù tôi không hiểu biết nhiều lắm về kỹ thuật y học của Tây Tạng cổ đại, nhưng nhìn những dụng cụ phẫu thuật này, có thể thấy thành tựu y học thời ấy không hề đơn giản. Còn y học phương Tây lúc ấy thì sao? Bọn họ bị tôn giáo đè nén áp bức, trải qua hơn một ngàn năm trong bóng tối, y học châu u phải mãi đến thời kỳ Phục hưng thế kỷ mười lăm, mười sáu mới bắt đầu phục hồi và phát triển."

Đến giờ Trác Mộc Cường Ba mới bắt đầu nghiêm túc để ý. Gã nhìn chằm chằm vào hai cái gọi là dao phẫu thuật trên màn hình. Gã không hề biết Tây Tạng thời xưa rốt cuộc có kỹ thuật chữa bệnh gì, nhưng hai con dao này quả thực là rất giống nhau. Chỉ nghe giáo sư Phương Tân ở bên cạnh chậm rãi nói tiếp: "Thực ra, chúng ta còn có thể tìm thấy một số đầu mối trong truyện thần thoại nữa. Thần tích của vị thần vĩ đại này được lưu lại trong rất nhiều phiên bản truyện thần thoại khác nhau, mà phổ biến nhất là sự tích thần Viracocha có thể thao túng ngọn lửa. Ngài gần như có thể triệu ra ngọn lửa bất cứ lúc nào, bất cứ ở nơi đâu, cậu xem đi, ở đây có một câu chuyện thần thoại kể thế này…"

Trác Mộc Cường Ba nhìn tư liệu giáo sư Phương Tân vừa cho hiện lên màn hình máy tính, đây là một bản ghi chép của người Tây Ban Nha, bên cạnh có bản dịch: "Một hôm, ngài đến một ngôi làng nhỏ tên là Kacha ở vùng Kanashu… Những người sống quanh đó chống đối ngài, đồng thời uy hiếp sẽ dùng đá đập chết. Bọn họ thấy ngài quỳ xuống, giơ hai tay lên trời, dường như đang cầu xin đấng Cao xanh cứu mình thoát khỏi hiểm nguy. Người Anh điêng kể rằng, đúng vào lúc ấy, họ trông thấy một quầng lửa từ trên trời giáng xuống, vây xung quanh họ. Tất thảy đều sợ run bắn, chạy đến trước mặt người họ vừa muốn giết hại, cầu xin được khoan dung tha thứ… Ngài liền ra lệnh một tiếng, lửa trời lập tức tắt ngúm."

Giáo sư Phương Tân ngước mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba: "Có rất nhiều miêu tả tương tự như vậy ở các phiên bản khác nhau. Có thể nói vị thần vĩ đại này điều khiển ngọn lửa vô cùng tài tình. Nhưng nếu nghĩ theo một hướng khác, chúng ta không tin là có thần linh, nếu nói đó không phải là thần tích, vậy thì có thể là gì chứ?"

Trác Mộc Cường Ba nghiêng nghiêng đầu, phải nghĩ ngợi một lúc mới hiểu ra, kinh ngạc kêu lên: "Thuốc súng, thuốc súng!"

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Đúng vậy, phải biết là, đến thế kỷ mười hai, mười ba, kỹ thuật chế tạo thuốc súng mới được người Ả rập truyền bá đến phương Tây, khi vị thần vĩ đại kia đặt chân lên đại lục châu Mỹ, người phương Tây còn chưa biết thuốc súng là cái gì nữa cơ. Mà lúc ấy kỹ thuật chế thuốc súng đã được Văn Thành công chúa truyền đến Tây Tạng hơn một trăm năm rồi, hoàn toàn có thể được cải tiến mà biến thành kỳ tích trong tay vị thần kia. Ngoài ra còn một số chứng tích thần thoại khác nữa. Chẳng hạn, người Inca khăng khăng nói rằng, vị thần vĩ đại đã dạy họ viết chữ, chỉ là sau này quên đi mất thôi, tổ tiên của họ cũng từng viết chữ lên lá cây và vỏ cây, nhưng kết quả cũng giống như các di sản văn hiến của Maya, toàn bộ đều bị giáo sĩ Tây Ban Nha cho một mồi lửa đốt sạch sẽ. Khi ấy ở phương Tây dùng phương thức viết chữ lên cuộn da dê, còn loại phương thức giản tiện viết lên vỏ cây là cây này mặc dù không phải khởi nguồn từ Tây Tạng, nhưng lúc ấy đang rất thịnh hành ở Tây Tạng chúng ta."

Trác Mộc Cường Ba lại thêm một phen kinh ngạc nữa: "Bối diệp kinh!" Đó là phương thức sao chép từ Ấn Độ truyền qua, kinh văn được chép lên lá cây và vỏ cây. Phương thức này được một số tôn giáo bảo tồn, vẫn còn sử dụng mãi đến tận thế kỷ mười sáu, thậm chí là đến ngày nay ở một số nơi.

"Còn nữa, từ phương thức sinh hoạt và tập tục của cư dân, chúng ta cũng có thể nhận ra mối quan hệ giữa họ với Tây Tạng. Tôi nghĩ chắc cậu cũng chưa quên lễ tế và những chi tiết trong cung cách sinh hoạt của người Kukuer đúng không. Thực tế là, hầu hết các dân tộc ở châu Mỹ đều sùng bái linh vật, đều thờ cúng những tảng đá màu trắng…" Trác Mộc Cường Ba đương nhiên không thể nào quên được, những ngày sống ở làng của người Kukuer là những ngày gã nhớ rõ nhất.

"Phải rồi, còn cái kia nữa, giáo sư, cho Cường Ba thiếu gia xem đi." Nhạc Dương sực nhớ ra điều gì đó, liền kêu lên. Nhìn Trác Mộc Cường Ba đang ngẩn người ra, anh chàng và Đường Mẫn cùng mỉm cười, dường như đã tìm thấy tư liệu gì đó rất đặc biệt. Chỉ thấy giáo sư Phương Tân click chuột một cái, trên màn hình máy tính liền xuất hiện một bức họa vẽ hình chiến sĩ Anh điêng, đầu cắm lông chim ưng, mặc tô đỏ thẫm, chỉ có điều phục sức không giống người Anh điêng lắm, trước ngực đeo vòng cổ bằng lam ngọc, tay cầm một thứ vũ khí kỳ dị, bên dưới dường như có ngựa, nhưng đã bị hỏng mất, hơn nữa ngoài diềm bức họa này đen kịt, như có dấu vết bị đốt cháy vậy.

"Cường Ba thiếu gia. Cậu nghĩ bức bích họa này ở đâu ra vậy?" Dường như muốn đánh đố Trác Mộc Cường Ba, Nhạc Dương không đợi giáo sư Phương Tân lên tiếng, đã nhanh nhảu hỏi trước.

"Đây… đây không phải người Anh điêng sao?" Trác Mộc Cường Ba đáp, dù sao thì gã cũng trông thấy nhiều lần trên tivi rồi.

"Ha ha." Dường như biết Trác Mộc Cường Ba sẽ trả lời sai, Nhạc Dương cười cười nói, "Quả nhiên đúng như tôi nghĩ."

Giáo sư Phương Tân ở bên cạnh mỉm cười: "Đây là bích họa trong Bố Đạt La cung."

"Bố… Bố, Bố Đạt La cung!" Trác Mộc Cường Ba đờ người ra.

"Cậu cũng biết Bố Đạt La cung từng bị ngọn lửa chiến tranh hủy hoại hai lần, bức bích họa này chính là đào lên được trong đống hoang phế khi trùng tu Bố Đạt La cung lần thứ hai. Bức vẽ này, là chiến binh Thổ Phồn cổ đại." Nhìn Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn đờ đẫn, giáo sư Phương Tân lại bổ sung, "tấm ảnh này do tổ chuyên gia cung cấp, tuyệt đối có thể tin tưởng được. Hơn nữa trong các sách sử cũng viết rất rõ ràng rồi, chiến binh Thổ Phồn cổ đại thích dùng màu đỏ sẫm bôi mặt, thích cắm lông chim ưng lên đầu để tỏ uy võ, đây mới là dáng vẻ nguyên bản của họ. Khi Văn Thành công chúa vào đất Tạng còn bị dáng vẻ này của họ dọa cho khóc toáng lên. Đường thư viết là công chúa không thích, làm Tán thổ phải ra lệnh thay đổi; về sau khi trùng tu Bố Đạt La cung, chiến sĩ Thổ Phồn trên bích họa đều mặc áo giáp, lông chim cũng cắm trên mũ giáp, nhìn bề ngoài trông như binh sĩ nhà Đường vậy."

Chiến huy

Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra mất cả phút đồng hồ mới tỉnh táo trở lại, vội hỏi ngay: "Đây, đây chính là chiến binh Thổ Phồn, có, có phải Đạo quân Ánh sáng không?"

"Ừm, chắc là không phải đâu, Đạo quân Ánh sáng mà lạt ma Á La nói bí ẩn như vậy, chắc là không xuất hiện trên những nơi công chúng đều thấy như là bích họa đâu." Giáo sư Phương Tân giải thích, rồi nói tiếp, "À, phải rồi, chúng ta bỏ quên đi mất, chính là ở trong lăng tẩm của quốc vương dưới địa cung Maya ấy…" Giáo sư vừa nói, vừa cho hiện lên các tư liệu chụp được dưới địa cung. Rất nhanh chóng, màn hình dừng lại ở hình ảnh cánh cửa đá hình tam giác. Bức phù điêu trên cửa đá kia, là một người dắt con quái thú. Lúc đó không ai chú ý đến, nhưng bây giờ, khi đã biết đến thần Viracocha và quái thú ngài dắt theo, biết đến sứ giả vượt đường xa sang tận châu Mỹ và chiến ngao của ông ta, tất cả những thứ này, đều đã thành ra khác hẳn rồi.

Vị thần vĩ đại này không hề mặc trang phục ẩn sĩ như tông đồ trong truyền thuyết, mà chỉ khoát một chiếc áo choàng rộng thùng thình bên ngoài, không hoàn toàn giống với Tạng bào ngày nay. Ngài có râu rậm, có điều nếu là một người đã vượt qua Thái Bình Dương, hình dong như vậy cũng có thể coi là tinh thần quắc thước lắm rồi. Quan trọng nhất chính là, hình người trên bức phù điêu này tuyệt đối không giống người Tây Ban Nha miêu tả. Cái gì mà người da trắng mũi cao, trán cao, mắt sâu? Nhìn bức họa này, ngài giống với một người Trung Á nhiều hơn. Rất hiển nhiên, lúc ấy các nghệ nhân điêu khắc người Maya vẫn chưa làm đạt đến trình độ hoàn mỹ, thể hiện cả hình vóc lẫn thần thái.

Còn một chi tiết nữa là quái thú trong tay thần. Đích thực, lúc ấy nó không thu hút được sự chú ý của Trác Mộc Cường Ba, bởi vì quả là nó không giống với chó ngao Tây Tạng cho lắm. Nhìn kỹ lại, nó còn giống với kỳ lân trong truyền thuyết của Trung Quốc cổ đại hoặc sư tử Trung Quốc hơn nhiều. Đầu con quái thú này hơi vuông, hai mắt lồi hẳn ra ngoài, miệng gần như chiếm đến một nửa cái đầu, trong miệng lởm chởm răng nanh sắc nhọn, so sánh ra thì tai và mũi đều không rõ ràng lắm. Người thợ thủ công không tạc quái thú có bộ lông dài giống chó ngao Tây Tạng ngày nay, nhưng bộ da lông giống như áo bó sát mình kia lại càng làm nổi đường nét thân thể của nó. Phương pháp điêu khắc này khiến người thợ đương nhiên tốn công sức nhiều hơn. Tất cả, những cơ thịt chắc nịch như trâu bò, đường cong ưu mỹ như báo săn, đều được thể hiện kỹ càng vô kể. Con quái thú đứng bên cạnh, cao chừng ngang hông người, nói bốn chân như chân sư tử thật không sai chút nào, dưới bàn tay gọt giũa khéo léo của người thợ, trông có cảm giác như bất cứ lúc nào nó cũng có thể đằng vân giá vũ vút lên trời vậy. Trác Mộc Cường Ba không sao kiềm chế nổi cho ngón tay khỏi run lên bần bật, đây chính là chiến ngao hay sao? Chiến ngao trong truyền thuyết đó sao?

Nhạc Dương ngồi bên cạnh cũng bình luận: "Hình khắc này nhìn thế nào cũng không giống người da trắng đúng không? Đúng không, giáo sư?"

Trác Mộc Cường Ba định thần lại, hỏi tiếp: "Còn thời gian, có trùng hợp với thời gian trong lịch sử Cổ Cách không?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Đây cũng chính là việc chúng ta đang phải kiểm chứng. Trong các tư liệu chúng ta có được thì tư liệu liên quan đến Cổ Cách là nhiều nhất, vì vậy tôi dự định thời gian tới đây, tạm thời gác vấn đề lịch sử di cư và thói quên nuôi chó của bộ tộc Kukuer sang một bên, chú trọng nghiên cứu lịch sử Cổ Cách. Xét cho cùng thì Tây Tạng cũng là nơi chúng ta cần tra xét. Liên quan đến vị thần này, chúng tôi còn tra được khá nhiều tư liệu nữa, đều hoàn toàn có thể đi đến kết luận rằng ngài ấy liên quan đến Tây Tạng hoặc có thể nói là văn minh Trung Nguyên, chẳng hạn như cơ quan công trình học, y học, chăn nuôi gia súc, thuật luyện kim. Tư liệu đều ở đây, cậu có thể tự xem lấy cũng được."

Màn hình máy tính bắt đầu ùn ùn xuất hiện các loại bút tích và văn bản chép tay. Mỗi đoạn chép tay đều là những mẩu thần thoại Inca khác nhau…

"Tai họa khủng khiếp tựa đại hồng thủy nhấn chìm cả mặt đất, vầng dương biến mất, thế giới chìm vào bóng đêm. Đất trời đại loạn, con người sống giữa hỗn mang, ở mình trần như loài dã nhân. Ngoài các hang núi, bọn họ không còn bất cứ chốn nào dung thân. Hàng ngày họ bò ra khỏi hang động, tản đi khắp vùng núi rừng tìm kiếm thức ăn. Đúng lúc ấy, đột nhiên có một người từ phương Nam xuất hiện, thân hình cao lớn, trang trọng mà uy nghiêm, pháp lực vô cùng, có thể biến núi non thành sông suối, giữa sông suối dựng núi dựng non…

"Viracocha thay đổi tất cả. Ngài khai sáng ra một thời đại hoàng kim kéo dài bền vững để con cháu đời đời mãi ghi ơn. Không chỉ có vậy, tất cả truyền thuyết đều nhất trí cho rằng, ngài mang trái tim trách trời thương dân mà thực hiện sứ mệnh truyền bá văn minh của mình, trừ khi gặp phải trường hợp vạn bất đắc dĩ, bằng không ngài tuyệt đối không dùng đến võ lực. Ngài dẫn dắt từng bước, dốc sức thực hiện, truyền thụ tri thức và kỹ năng cho trăm họ, cho họ một cuộc sống văn minh giàu có. Đặc biệt không thể nào quên là ngài đã mang đến cho Peru các kỹ năng trị bệnh, thuật luyện kim, canh nông, chăn nuôi gia súc, văn tự (người Inca nói thần Viracocha từng dạy họ, nhưng đời sau đã quên mất). Ngài còn dạy cho bọn họ nguyên lý kiến trúc và công trình…

"Người này đi từ Nam đến Bắc, dọc đường không ngừng sáng tạo ra các kỳ tích, sau này không còn ai nhìn thấy ngài nữa. Dấu chân ngài để lại rất nhiều nơi. Ngài dạy mọi người phải sống ra sao, lời ngài nói lúc nào cũng tràn trề tình yêu và thiện chí. Ngài khuyên bảo con người phải yêu thương lẫn nhau, chứ không được tàn hại lẫn nhau, đối với vạn vật treen thế gian đều phải từ bi bác ái. Người ở khắp mọi nơi đều gọi ngài là Viracocha…

"Ngài là nhà khoa học, là kiến trúc sư có kỹ thuật cao siêu, là nhà điêu khắc, là công trình sư. Ngài khai hóa ruộng bậc thang ở lưng chừng núi, tu bổ các con đê để giữ vững ruộng đồng; ngài đào kênh đào mương dẫn nước tưới đồng… đồng thời ngài cũng là thầy giáo và thầy lang, ngài là cứu tinh của trăm dân trong cơn hoạn nạn. Tương truyền, ngài chỉ cần dùng cỏ và lá cây cũng chữa được tất cả bệnh tật, ngài dùng một thứ công cụ kỳ quái làm cho người mù thấy lại ánh sáng…"

Vô số những câu chuyện thần thoại ấy đã vẽ nên trong tâm trí Trác Mộc Cường Ba một nhân vật hết sức rõ ràng mới mẻ. Ngài đến từ biển lớn, được gọi là Bọt sóng của biển khơi, cuối cùng ngài lại trở về với biển, không ai biết ngài đã đi đâu. Tất cả thần tích mà ngài thể hiện, dần dần đã chuyển biến thành một nền văn minh cổ đại huy hoàng trong tâm hưởng của Trác Mộc Cường Ba. Những kỹ thuật văn minh ấy, có thứ bắt nguồn từ Trung Nguyên, có thứ ngọn nguồn ở nước Ấn Độ, song chung quy lại đều gắn với Viracocha. Các dấu tích chứng tỏ một điều rằng, sứ giả đến từ một nền văn minh phát triển bậc cao, mang theo những kiến thức khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất thời bấy giờ, đủ để khiến người Inca nguyên thủy gọi là thần tích. Mà trong giai đoạn ấy, văn minh phương Tây đang trong một mớ hồ đồ lạc hậu, chỉ có phương Đông xa xôi thần bí có một vương triều vĩ đại đang đứng trên đỉnh cao phát triển của thế giới, lại tồn tại thêm một vương triều khác đủ sức sánh vai với vương triều kia. Hai vương triều lớn ấy dung hợp với nhau một cách hoàn mỹ về các mặt văn hóa và kiến thức khoa học kỹ thuật, tạo ra một vùng đất tưởng như chỉ có trong thần thoại, được gọi là… Bạc Ba La! Song những điều nghi hoặc mà vị thần vĩ đại mà thần bí này mang đến cho Trác Mộc Cường Ba cũng nhiều y như như thần tích của ngài vậy. Ngài đến châu Mỹ vào thời gian nào, biến mất tự bao giờ? Sứ mệnh của ngài là gì? Trong mười ba năm ấy ngài đã làm những gì? Sự suy bại của nền văn minh Maya và sự nổi lên của văn minh Inca có thật sự liên quan đến ngài hay không? Tại sao ngài lại làm như vậy? Một mình ngài bằng cách nào mà làm hết tất cả những điều ấy? Quan trọng nhất chính là, tại sao ngài lại mang Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu đến châu Mỹ rồi chôn vùi trong địa cung? Rốt cuộc là vì lý do gì? Trác Mộc Cường Ba chìm vào suy tư.

Trong biệt thự ở ngoại ô Philadenphia, tấm giấy vẽ bản đồ của Merkin đã có thêm khá nhiều từ tiếng Tạng được dịch ra. Bọn y đã xác minh được kiểu chữ này là kiểu chữ "chuỗi hạt" trong tiếng Tạng, thoạt nhìn giống như một chuỗi hạt; chuyên gia nói, đây có lẽ là kiểu chữ chuỗi hạt nhỏ. Kiểu chữ này giản tiện rất thích hợp để viết tốc ký, sau khi được sáng tạo ra vào cuối thế kỷ thứ tám, từng một độ rất được các nhà dịch thuật thời đó hoan nghênh. Có điều nó cũng biến mất sau sự kiện diệt Phật, đến giờ người hiểu được không còn nhiều nữa.

Merkin cầu cứu khắp nơi, cuối cùng cũng coi như đã bóc tách được những nét ấy ra, coi như đã giải được mật mã, vì tiếng Tạng là loại văn tự có chữ cái, chỉ cần tìm được các mẫu tự tương ứng với từng ký hiệu, việc giải mã sau đó rất dễ dàng rồi. Nhưng lúc này, Merkin đang nhìn các địa danh trên tấm giấy vẽ bản đồ mà phát rầu rĩ. Y thở dài nói với Soares: "Văn tự thì không vấn đề gì, xem ra người vẽ bản đồ không hề có ý giấu giếm, mấu chốt nằm ở các địa danh trên đây kia. Dịch ra… chà… sao lại thế được nhỉ, dường như tôi chưa nghe nói đến địa danh nào cả."

Tấm bản đồ này có thể nói là hết sức tỉ mỉ. Merkin và Soares đã đặc biệt tham khảo qua các chuyên gia ký hiệu học và chuyên gia bản đồ. Bọn họ đều nói tấm bản đồ này thể hiện hết sức đầy đủ trí tuệ của người xưa. Sông ngòi, núi non, thành trấn, đều vẽ hết sức rõ ràng chi tiết, lại còn có ký hiệu để biểu thị lớn nhỏ: một chấm tròn chắc là đơn vị nhỏ nhất, vòng tròn lớn hơn một chút, hình tam giác lại càng lớn nữa, khung vuông là lớn nhất, chữ "vạn" ngược là biểu thị thần thánh. Sau những ký hiệu ấy là một hàng địa danh được nối liền với nhau bằng đường chỉ mảnh màu đen.

Ngay từ đầu bọn y đã nhận ra đường chỉ đen ở giữa ấy dấn đến một nơi gọi là "đỉnh thần sơn". Nguyên nhân Merkin và Soares có thể nhận ra ngay lập tức là bởi một nhánh của sông Nhã Lỗ Tạng Bố vươn tới đây, ở đầu nguồn đánh dấu là "nước trên đỉnh núi chảy xuống", đến gần đường chỉ đen thì thành "nước chảy ra trong miệng con ngựa tốt"; phía trên bên phải là một nơi gọi là "đến chỗ này thì rất vui", xung quanh có mấy ngọn núi tên gọi lần lượt là "Tuyết Lạp Câu Tuyết Sơn", "Đại Mẫu Lộc Tuyết sơn" (núi Hươu Cái Lớn), "Mã Diện Điểu Chủy thần sơn" (núi Mặt Ngựa Mỏ Chim); phía dưới bên trái là "Núi Nhỏ Đo m Thanh", xuống nữa là "Thần Nữ Phong", cái này thì Merkin biết, chính là Chomolungma và sông Nhã Lỗ Tạng Bố mà Merkin có thể xác định nơi này đại khái là vùng phụ cận huyện Định Kết của Trung Quốc ngày nay, nhưng đường đánh dấu trên bản đồ cuối cùng chỉ dẫn đến những địa danh khá xa lạ, Merkin nhìn cũng đành bó tay không biết phải làm sao.

Soares lại cho rằng trình độ phiên dịch của Merkin có vấn đề. Nhìn bộ dạng mặt ủ mày chau của đồng bọn, y nhắc nhở: "Đừng chỉ chú ý đến những nơi heo hút ấy, trước tiên làm rõ phương vị đã, phải rồi, cái ký hiệu ở góc trên cùng bên phải kia, liệu có phải ngụ ý chỉ phương hướng hay không?"

"Không, không phải," Merkin khẳng định, "tôi đã hỏi chuyên gia ký hiệu học, họ bảo rằng ký hiệu này, cũng giống như logo của Benz, hay BMW thời nay thôi, chỉ là một tiêu chí, một thứ logo." Nói thì nói vậy, nhưng y vẫn lục lại trong óc những gì chuyên gia kia giải thích…

"Ông Merkin, ông cũng biết, lĩnh vực tôi nghiên cứu là ký hiệu học của Tây u và châu Mỹ, cho nên tôi chỉ có thể dựa theo những gì tìm hiểu được trong lĩnh vực của mình mà đưa ra giải thích cho những ký hiệu phương Đông cổ xưa này thôi nhé."

"Ông là chuyên gia có uy tín nhất, tôi tin rằng cách giải thích của ông nhất định có sự hợp lý và chắc chắn của riêng nó."

"Chúng ta bắt đầu từ chữ Vạn ngược này. Ở phương Tây chúng ta, chữ Vạn tượng trưng cho ánh sáng, chính nghĩa và Bạch ma thuật. Bạch ma thuật tức là loại sức mạnh ma pháp mang đến hy vọng, cứu vớt chúng sinh nhân loại ấy. Biểu tượng đơn giản nhất chính là chữ vạn xuôi theo chiều kim đồng hồ. Ý nghĩa thực của nó chính là tuân theo quy luật tự nhiên, chẳng hạn thiên nhiên có bốn mùa xuân hạ thu đông, con người phải trải qua sinh lão bệnh tử. Còn chữ Vạn thì trái ngược lại, chính là hiện thân của bóng tối, tà ác và Hắc ma thuật, được sáng tạo ra để đi ngược lại quy luật của tự nhiên. Hắc ma thuật là sức mạnh ma pháp đại biểu cho sự phá hoại, hủy diệt và thôn tính tất cả. Hắc ma thuật với biểu tượng xoay ngược chiều kim đồng hồ, đi từ ánh sáng trụy lạc xuống bóng đêm âm u, từ cốt khô biến thành ông già, từ ông già biến thành trẻ nhỏ, rồi lại từ trẻ nhỏ biến thành đứa bé sơ sinh, cuối cùng trở về trạng thái chưa sinh ra trên đời trong bụng mẹ. Ẩn ý mà người thiết kế muốn gửi gắm vào biểu tượng chính là khát vọng có được linh hồn vĩnh sinh bất diệt, đồng thời vĩnh viễn sở hữu cảm tri, vĩnh viễn đi lại trên nhân thế, loại trừ tất cả các nhân tố tiêu cực như đau đớn, tuổi tác, già yếu, bi thương. Đây là hàm nghĩa của ký hiệu chữ Vạn ngược theo phương Tây chúng ta, mục tiêu là tìm kiếm sở hữu sức mạnh có thể hủy diệt tất cả bên trong một thân thể mãi mãi trẻ trung mạnh khỏe. Ở phương Tây chúng ta, có một số tôn giáo cực đoan thờ phụng chữ Vạn ngược, chính vì theo đuổi ý nghĩa tượng trưng mơ hồ của ký hiệu này mà họ tôn Satan lên làm chủ thần, ăn thịt uống máu trẻ sơ sinh, giao tạp với các loại mãnh thú, đưa các trinh nữ thuần khiết hoặc người làm công trong nhà thờ lên bàn tế. Nhưng để cho ký hiệu này gây chấn động khắp năm châu bốn biển, lại là một vị nguyên thủ thời Thế chiến II…"

"Chúng ta nói tiếp về ký hiệu bên trên nhé. Mặc kệ nó là đầu dê, đầu bò hay đầu sói, đúng như ông thấy đấy, nó trông có vẻ rất hung ác, thoạt nhìn rất cuồng dại. Mà nếu đây đúng là đầu sói thì… đặc tính của sói là gì chứ? Hung tàn - chắc hẳn là từ ngữ đầu tiên mà chúng ta nghĩ đến rồi phải không, chẳng những vẻ bề ngoài hung hăng, mà cả bản tính của chúng cũng hết sức tàn bạo, hung hăng càng thêm hung hăng còn gì… Tôi có biết một số dân tộc nguyên thủy Tây u chọn sói làm vật tổ (totem), những thứ họ dùng totem này truyền dạy lại cho con cháu đời sau chẳng gì khác ngoài chiến tranh, cướp đoạt và chém giết. Trên thực tế, thời cổ có rất nhiều đảng cướp khiến người ta nghe mà kinh hồn táng đởm, đều sử dụng sói làm biểu tượng cả. Thế nhưng, một cái đầu sói, bên dưới thêm một cái ký hiệu chữ Vạn ngược gắn liền thì sao? Suy đoán dựa trên ý nghĩa bề ngoài của ký hiệu, thì đó chính là chỉ… chúa tể hung tàn của bóng đêm đen tối, sở hữu sức mạnh hủy diệt, phá hoại, lấn át nuốt chửng tất cả, đồng thời, còn mang sức mạnh này lưu lại chốn nhân gian một thời gian dài!"

"Kha kha, ông Merkin, ông căng thẳng quá rồi đấy, chớ nôn nóng, nghe tôi nói hết đã nào, vừa nãy tôi mới nói đến ý nghĩa bên ngoài. Trên thực tế, ký hiệu này còn một tầng nghĩa nữa. Trước tiên, hình đầu một loài động vật nào đó trong thời kỳ viễn cổ xa xưa, thường tượng trưng cho một dân tộc. Con người thời cổ đại rất yếu ớt, thường khát khao có được sức mạnh lớn hơn, nên nhận luôn các loài động vật có sức mạnh làm tổ tiên của mình. Vì thế mới sinh ra các bộ lạc Sói, bộ lạc Hổ, thờ phụng vật tổ là đầu sói, đầu hổ. Khi các bộ lạc chinh phạt lẫn nhau, các totem cũng theo đó mà pha trộn, làm xuất hiện rất nhiều hình tượng kỳ quái. Tuy nhiên, có một số loài động vật bị coi là kẻ thù đáng gờm của con người từ thời viễn cổ, các hình vẽ chúng đến giờ vẫn còn được sử dụng. Mà sói, thì chính là một trong số đó, được rồi, tóm lại đầu sói có thể coi như biểu tượng của bộ tộc, đó là một. Ngoài ra còn một ý nghĩa nữa, anh xem góc há của cái miệng sói này, chắc phải đến hơn bốn mươi lăm độ đúng không? Rõ ràng là người vẽ đã khoa trương phóng đại, làm nổi bật vũ khí sắc bén nhất của lũ sói là hàm răng khủng khiếp. Tại sao phải làm như vậy chứ? Trong đó dường như có một sức mạnh đe dọa, ý tôi là khiến người ta vừa trông thấy đã cảm thấy không rét mà run luôn rồi. Vấn đề chính là ở đây này, người vẽ muốn dọa khiếp kẻ nào? Trong hoàn cảnh và điều kiện như thế nào mới nhất định khiến đối phương vừa trông thấy đã cảm thấy khiếp sợ rồi?"

"Kẻ thù?"

"Rất chính xác! Trên thực tế, ký hiệu này ý nghĩa bên ngoài như tôi vừa nói ban nãy, thoạt nghe có vẻ tàn bạo bất nhân, nhưng nếu đem đặt vào một hoàn cảnh khác, lại trở nên rất hợp tình hợp lý, ấy chính là trên chiến trường đó! Trên chiến trường, thứ quân đội cần chính là sức mạnh này, phải làm cho kẻ thù vừa nghe thấy tên họ là đã sợ vỡ mật, vừa thấy bóng họ xuất hiện là tim đập chân run. Một đạo quân như vậy, gần như là một đạo quân bất bại rồi còn gì. Thực ra, nói là cướp đường hay thổ phỉ cũng vậy, khi chúng tụ tập lại với nhau thành một nhóm và có cả thống soái chỉ huy, tức là đã thành ra một đội quân rồi, còn cái kiểu chia thành mười người một tiểu đội đi cướp của quân đội, nào có khác gì cướp đường thổ phỉ đâu, hai thứ ấy tuy hai mà một, tuy một mà hai. Khi bộ lạc và thị tộc dần dần tiêu vong, nhường chỗ cho một vương quốc thống nhất hình thành, những totem tượng trưng cho bộ lạc và thị tộc ấy cũng dần dần có ý nghĩa mới, chuyển sang đại biểu cho một khu vực nào đó, hoặc một cánh quân nào đó. Bây giờ chúng quay lại với ký hiệu này, sẽ thấy rất dễ hiểu là nó giống như gia huy mà các gia tộc hiển hách thời Trung cổ ở châu u chúng ta sử dụng vậy. Động vật tượng trưng cho tinh thần và tính cách của gia tộc, còn ký hiệu mang ý nghĩa tôn giáo thì tượng trưng cho mức độ tín ngưỡng và cống hiến của gia tộc đối với tôn giáo. Có gia tộc còn lấy địa danh và đặc sản của địa phương ấy làm biểu tượng gia huy. Vì vậy, tôi chắc đến tám mươi phần trăm rằng, đây là ký hiệu của một gia tộc hoặc đội quân nào đó ở phương Đông cổ đại, trong đó khả năng là của đội quân chiếm đến bảy mươi phần trăm."

"Có… có khả năng là ký hiệu của giáo phái nào đó không?"

"Khả năng này hả? Ừm, theo tôi, bản thân ký hiệu này đã tà ác như thế, chỉ có ở trên chiến trường nó mới phát huy được toàn bộ tác dụng. Còn về việc sử dụng các hình tượng tà ác làm huy hiệu biểu tượng cho giáo phái là chuyện của sau này, khi đời sống tinh thần của một số người bị hủ hóa trụy lạc với mức cực độ thì mới xuất hiện. Ít nhất là theo như những gì tôi biết, gần như tất cả các tôn giáo thời cổ đại đều hướng thiện, bất kể thủ đoạn của bọn họ tàn nhẫn tanh mùi máu thế nào chăng nữa, nhưng bản ý của họ, lại không giống như những gì người hiện đại vẫn tưởng tượng đâu. Nói đi cũng phải nói lại, nếu đây là huy hiệu của một đội quân, vậy thì chắc hẳn đội quân ấy cũng từng có một độ huy hoàng chói lọi rồi, chiến huy này, rất đáng sợ đấy."

"Tại sao vậy?"

"Nếu ông tin vào sức mạnh siêu tự nhiên ắt sẽ không thấy kỳ quái gì nữa. Hitler năm ấy, chính là một kẻ cuống tín vào sức mạnh siêu tự nhiên, huy hiệu của đảng Nazi chính là được chọn ra từ các loại ký hiệu tôn giáo cổ xưa, và được coi là chiến huy có sức mạnh lớn nhất. Trên thực tế, chắc ông cũng biết, lúc chiến tranh mới bắt đầu quân Đức có thực lực đáng sợ có thể quét sạch bách mọi lực lượng cản đường. Vì vậy mới nói, nếu ký hiệu này từng xuất hiện trên chiến trường, vậy thì, đội quân tụ tập bên dưới lá cờ ấy, chắc hẳn là một đội quân bất bại! Trên thực tế, nếu nói theo quan điểm của tâm lý học hiện đại, ý nghĩa tượng trưng và đặc tính dân tộc của đất nước ấy, một ký hiệu tốt cho quốc kỳ, thậm chí còn có thể thay đổi vả vận mệnh dân tộc theo cách nào đó. Đây, cũng chính là ý nghĩa tồn tại của bộ môn ký hiệu học chúng tôi đó."

--------------------------------

1 Hay còn gọi là Thánh Nathanael, một trong 12 tông đồ của Jesus.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28: Tây tạng - mặc thoát: vùng đất bí mật cuối cùng


Ở dải đất sâu trong trung tâm, nguy hiểm nhất đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, chính là đoạn sông dài gần trăm cây số từ Bạch Mã Cẩu Hùng đi xuống. Khe núi sâu thẳm u tối, nước chảy cuồn cuộn, đến giờ vẫn chưa ai có thể đi qua được. Chính vì sự khó khăn và nguy hiểm ấy, nên nơi này gọi là "vùng đất bí mật cuối cùng của nhân loại". Theo sự chỉ dẫn của tấm bản đồ kia, bọn Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị đến chính nơi đó thử vận may.

Bí mật lịch sử Cổ Cách

Lại thêm ba tuần nữa trôi qua, Ba Tang sau khi điều trị hồi phục và xuất viện ở Colombia đã liên lạc với Lữ Cánh Nam, chẳng mấy hôm đã thông qua bộ Ngoại giao trở về Trung Quốc. Mọi người vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Mặc dù chuyên băng rừng nguyên sinh này có thể xem như là một thất bại lớn, song dù sao các thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt cũng không ai hy sinh vì nhiệm vụ cả. Trải qua sự việc nơi rừng hoang núi thẳm lần này, quan hệ giữa Ba Tang và các thành viên khác trong nhóm của Trác Mộc Cường Ba cũng bắt đầu trở nên hòa hợp hơn. Chỉ có Trác Mộc Cường Ba là có vẻ khó xử rõ rệt. Những lời của Lữ Cánh Nam, giống như mũi dao sắc đâm thẳng vào lồng ngực gã, "Chúng tôi nghi ngờ, trong các anh có một kẻ mật báo tin tức ra ngoài." Sau khi nghe được điều này, trong lòng Trác Mộc Cường Ba đã ngấm ngầm xếp hạng mức độ tin cậy cho tất cả các thành viên trong nhóm. Bản thân gã cho rằng mình sẽ xếp Đường Mẫn đứng đầu tiên, nhưng khi xếp như thế rồi gã mới nhận ra, dù thế nào, vị trí đầu tiên vẫn nhất định thuộc về thầy giáo của gã, giáo sư Phương Tân. Mẫn Mẫn chỉ có thể xếp thứ hai. Nhạc Dương và Trương Lập đều là người trong quân đội, bản thân gã cũng hết sức tín nhiệm hai người này. Chỉ có mình anh chàng Ba Tang này là đáng nghi nhất. Một khi đã nghi ngờ người nào đó, Trác Mộc Cường Ba sẽ không thể nào rặn ra được một nụ cười giả vờ thiện chí với kẻ ấy được nữa. Khi bắt tay với Ba Tang, ánh mắt gã lộ rõ vẻ hoài nghi. Gã miễn cưỡng gượng cười nói: "Tôi biết là anh không dễ dàng hy sinh như vậy được mà."

Ba Tang cũng nói: "Không ngờ rốt cuộc các cậu cũng đi trước tôi một bước."

Theo lời kể của Ba Tang, anh ta bị cơn lũ cuốn về phía Bắc, vì đụng phải cây lớn bị thương nên mất hết tri giác, phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng trong bệnh viện hơn một tháng trời. Bệnh án và một loạt bản báo cáo về anh ta cũng được Bộ Ngoại giao chuyển hết đến tay Lữ Cánh Nam. Những Trác Mộc Cường Ba lại phát hiện ra một điều, chính là da Ba Tang đã đen sạm đi, trên người dường như còn mang theo vị mằn mặn ẩm ướt của gió biển, nhanh nhác mùi của một loại nước hoa cao cấp nào đó. Nói là nghỉ ngơi trong bệnh viện hơn 1 tháng, chi bằng bảo đi du lịch đâu đó hơn một tháng thì giống hơn. Nếu suy đoán của gã mà chính xác, vậy thì kinh phí đi du lịch của Ba Tang lấy từ đâu ra?

Nhìn hai người Trương Lập, Nhạc Dương tíu tít kể cho Ba Tang những chuyện xảy ra sau khi họ lạc nhau, Trác Mộc Cường Ba không muốn tiến đến quá gần, chỉ lặng lẽ đứng dưới một tán cây. Giáo sư Phương Tân nhận ra vẻ lo âu của gã, bèn hỏi: "Cậu nghi ngờ Ba Tang?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi không biết, nếu trong chúng ta thật sự có một người đáng nghi ngờ, thì cũng chỉ có thể là anh ta mà thôi. Song tôi cũng rất mâu thuẫn, tôi có nên vô duyên vô cớ đem lòng nghi ngờ người khác không nhỉ?"

Giáo sư Phương Tân mỉm cười khuyên giải: "Đường dài mới hay sức ngựa, ngày lâu mới thấy lòng người, hà tất phải dồn tâm trí nghi ngờ ai làm gì? Nếu thực làm chuyện trái với lương tâm, sớm muộn gì anh ta cũng phải lộ ra thôi. Hơn nữa, tại sao chỉ có chúng ta mới bị nghi ngờ, bọn họ, chẳng lẽ không có điểm nào đáng nghi hay sao?" Trác Mộc Cường Ba hiểu được, "bọn họ" mà giáo sư Phương Tân nhắc đến chính là chỉ ba người đến sau, bao gồm Lữ Cánh Nam, Ngải Lực Khắc và lạt ma Á La. Không thể hoàn toàn tin tưởng bất cứ người nào khác hay sao? Gã lắc đầu, chỉ vì thái độ đối với người khác của ai đấy mà làm cả một nhóm người thành ra nghi ngờ lẫn nhau thế này, rốt cuộc là đúng hay sai đây?

Trác Mộc Cường Ba cố gạt những ý nghĩ khiến người ta phải đau đầu ấy ra khỏi tâm trí, chuyển sang chủ đề khác: "Phải rồi, thầy giáo, có phát hiện gì mới về giai đoạn lịch sử ấy của vương triều Cổ Cách chưa?"

Theo những tư liệu điều tra được, lịch sử Cổ Cách đại khái cũng đã hiện lên khá rõ ràng. Giáo sư Phương Tân từng buông lời cảm thán thế này: "Cổ Cách đúng là một vương triếu sinh ra vì Phật giáo, rồi cũng vì Phật giáo mà diệt vong."

Cổ Cách vương là hậu duệ trực hệ của vị Tạng vương đã ra lệnh diệt Phật giáo Lãng Đạt Mã. Tạng vương Lãng Đạt Mã diệt Phật chỉ mới hai năm, đã bị La Long Bối Cát Đa Kiệt của Phật giáo giết chết. Sau sự kiện ấy, triều đình Thổ Phồn bắt đầu phân hóa. Duy Tùng là con côi do thứ phi của Lãng Đạt Mã sinh ra, được gia tộc Vĩ thị ủng hộ tôn làm Tán thổ. Còn chính phi cũng không cam chịu để mất quyền lớn trong tay. Tương truyền bà ta đã lén lút mua về một đứa trẻ sơ sinh, rồi cũng lập đứa con mua về này làm Tán thổ, gọi là Vân Đơn. Kể từ đó trở đi, vương triều Thổ Phồn xuất hiện hai vị Tán thổ cùng một lúc, chia thành hai phái đều tự nhận Tán thổ của mình lập nên mới là Tán thổ thực sự, tranh đấu không ngừng nghỉ. Chiến tranh vì thế bùng nổ và không ngừng lan rộng, nên giai đoạn này người đời sau gọi là Loạn ngũ như.

Chiến tranh kéo dài trong nhiều năm liền khiến trăm họ lầm than, khổ sở không sao tả xiết, cuối cùng đã vùng lên dưới sự lãnh đạo của các quý tộc và một số quân sĩ. Cả hai vị tán thổ, một người bỏ trốn, một người bị giết. Phụ thân của Cổ Cách vương đời thứ nhất, chính là cháu nội của vị Tán thổ Duy Tùng kia, gọi là Cát Đức Ni Mã Cổn, chạy đến vùng A Lý, thông hôn với tù trưởng địa phương, sinh được ba người con là Bối Cát Nhật Ba Cổn, Trát Tây Cổn và Đức Tổ Cổn, lần lượt chiếm cứ Mang Vực (Ladakh 1 ngày nay), Bố Nhượng (khu vực huyện Phổ Lan) và Tang Cát Nhĩ (phía Nam Ladakh. Ba người con này được xưng là "Thượng Bộ tam Cổn", "Thượng Bộ" ý chỉ vùng A Lý, vì là thổ vương của một vùng nhỏ, nên gọi là Cổn, Cổn có nghĩa là Đấng cứu thế.

Trong các pho Tạng sử chính thức mà họ tra cứu, gần như đều nói Cổ Cách vương đầu tiên là Trát Tây Cổn, nhưng trong tư liệu của Lữ Cánh Nam cung cấp lại có phần dã sử và ghi chép trong dân gian trực tiếp gọi Cát Đức Ni Mã Cổn là Cổ Cách vương đời thứ nhất, vì ông ta đã kế thừa gia nghiệp của vị tù trưởng kia, Cổ Cách cũng nằm trong lãnh địa trị vì ấy. Chỉ có điều nếu như vậy, vị quốc vương nghênh tiếp sứ giả kia phải tính từ Cát Đức Ni Mã Cổn hay tính từ Đức Tổ Cổn, trước mắt bọn họ vẫn chưa thể đưa ra được một kết luận, khoảng thời gian chênh lệch đó ước cũng phải khoảng chừng ba bốn chục năm 2.

Giáo sư Phương Tân nói: "Trước mắt chúng tôi tạm thời nghiêng về giả thiết cho rằng vị Quốc vương nghênh đón sứ giả kia là Cổ Cách vương đời thứ hai Tùng Ngang, bởi vị Quốc vương này có thể nói là đã tận tâm tận lực đối với sự nghiệp hoằng dương Tạng truyền Phật giáo. Tương truyền trong khoảng thời gian từ năm 975 đến 981 sau Công nguyên, ông ta đã phái hai mươi mốt thanh niên bao gồm cả Đại dịch sư Thiết Tang Bố sang Thiên Trúc học Phật (cũng có tài liệu nói là hai mươi bảy người). Hành trình của họ gian khổ khó khăn không bút nào tả xiết, cuối cùng chỉ có hai người sống sót trở về, nghe nói chính là Đại dịch sư và Tiểu dịch sư sau này. Hơn nữa, không lâu sau khi phái đi các thanh niên cầu Phật, vị Quốc vương này thoái vị nhường ngôi, quy y Phật pháp, về sau xây chùa Thác Lâm, đến những năm cuối đời còn gom góp tiền của đích thân đi mời A Để Hiệp đại sư, nhưng dọc đường đã bị quân đội nước khác bắt cóc, cuối cùng thì chết giữa đường. Thằng nhóc Nhạc Dương kia suy đoán, vị Cổ Cách vương này nhiệt tâm với Phật giáo như vậy, quá nửa là do nhìn thấy thần tích mà vị sứ giả kia mang tới, song có điều là, trước khi nhìn thấy Cổ Cách kim thư, tất cả cũng chỉ là suy đoán mà thôi." Nói tới đây, giáo sư Phương Tân không nén nổi mà gượng cười lắc lắc đầu, "Lịch sử của Cổ Cách, quả thực là… cậu có biết không, chỉ riêng chuyện cuối cùng vị Cổ Cách vương ấy Tây du cầu Phật bị bắt cóc, chúng tôi đã tra ra bảy phiên bản khác nhau, địa điểm, thời gian, quân đội nước ngoài, quá trình sự kiện xảy ra, số tiền chuộc đều khác nhau, thực sự là không thể nào phán đoán xem phiên bản nào mới là sự thực đã xảy ra trong lịch sử cả."

Nhìn vẻ mặt chua chát của giáo sư Phương Tân, Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ, đây là một vấn đề rất lớn khác mà bọn họ gặp phải khi tra cứu lịch sử của vương triều Cổ Cách. Vương triều này tuy rằng kéo dài đến cả mấy trăm năm, song lại nằm ở miền biên viễn xa xôi. Ngoại trừ các văn bản lịch sử của bản thân nó ra, toàn bộ các tư liệu khác đều chỉ là những thông tin vụn vặt. Đến cả bộ sử thuộc về giai đoạn đầu như Tây Tạng vương thống ký cũng chỉ ghi chép có chín đời Cổ Cách vương, từ sau đó trở đi là không rõ, bọn họ cũng chưa thể đưa ra kết luận cuối cùng về thời gian trong lịch sử. Mà vương triều Cổ Cách này lại còn bị chiến tranh hủy diệt. Bản thân sự biến mất của nó có thể nói đến nay vẫn còn là một câu đó. Mãi đến thế kỷ mười chín, trước khi các nhà thám hiểm nước ngoài bắt đầu tiến vào vùng đất hoang vu không người sinh sống này, mọi người gần như đã hoàn toàn quên lãng rằng từng có một vương triều như vậy trong lịch sử.

Giáo sư Phương Tân thở dài nói: "Lịch sử Cổ Cách và nền văn minh Maya không ngờ lại giống nhau đến kinh người. Cả hai vương triều này đều đột nhiên gặp phải đại họa khi đang trong thời kỳ phát triển rực rỡ huy hoàng nhất. Chính vì biến cố bất ngờ mà tất cả đều được bảo tồn, đều được lưu giữ lại. Mấy thế kỷ sau đó, nhân loại dường như không biết đến sự tồn tại của chúng, kiến trúc và đường phố của chúng không bị hoạt động của con người phá hoại, văn tự và tôn giáo không bị sửa sang, phong cách nghệ thuật và bích họa không bị bóp méo, thậm chí hiện trường lúc gặp phải tai họa hủy diệt của chúng cũng được bảo tồn nữa kia."

Trong đầu Trác Mộc Cường Ba lúc này, tự nhiên lại nghe thấy tiếng Babatou ngâm nga bài sử ca: "Một khi để máu tanh xâm phạm đến bậc thang của thánh miếu, vô số tai họa sẽ như cơn mưa đá đáng sợ liên hồi kéo đến giáng xuống tất cả mọi nơi, tòa thành sẽ biến thành nơi hoang phế chết chóc, một hoang mạc không người."

Trong biệt thự của Merkin, giữa chiếc bàn vứt bừa bãi ngồn ngộn giấy bút, hai đầu bàn chồng chất sách vở thành hai bức tường. Merkin vùi đầu vào giữa hai bức tường ấy, gần như bò toài ra trên tấm bản đồ, giơ kính lúp lên soi từng đường chỉ mảnh trên đó. Đôi mắt của y nhìn tựa hồ như thuộc về một loài dã thú đói khát nào đó chứ không phải của con người nữa. Soares thì ngồi ôm một cuốn từ điển khổng lồ, dài tới ba mươi centimet, dài rộng sáu mươi centimet, chúi mũi lật lật giở giở.

Những nét đen mảnh trên bản đồ cuối cùng dẫn đến ba nơi khác nhau, dường như ý của người vẽ tấm bản đồ này là muốn người ta đến ba nơi ấy kiếm ba thứ gì đó. Đầu tiên là một viên bảo thạch sáng lấp lánh, phần chú thích bằng tiếng Tạng dịch ra nghĩa là: "Màu đỏ, mở ra món lễ vật tán dương sự sống"; món thứ hai là một cuốn sách dày cộp, bên cạnh có chú thích: "Lý lẽ huyền ảo đều ở trong đây"; còn một món nữa đã bị xóa nhòa đi mất, có lẽ để chứng tỏ không cần thiết, nhưng lờ mờ có thể nhận ra những nét chữ mơ hồ dịch nghĩ là: "Bảo khí, cuối cùng". Ngoài ra, trên bản đồ còn có vô số mũi tên, trỏ đi trỏ lại giữa ba nơi này, dựa vào những vết xóa có thể nhận ra, người vẽ vốn hy vọng ai có được bản đồ sẽ đến nơi ở giữa trước tiên, nhưng sau tính toán thế nào lại xóa mờ thứ ở giữa và đầu mũi tên đi, ý nói không cần phải đến nơi ấy nữa. Mới đầu bọn y còn nghi ngờ không hiểu có ai đã đụng tay đụng chân vào tấm bản đồ này hay chưa, nhưng sau khi kiểm tra bằng các phương tiện khoa học kỹ thuật, phát hiện ra vết xóa và các dấu hằn được tạo ra cùng một thời gian với những đường nét khác, hơn nữa thủ pháp và phong cách là của cùng một người, vì vậy chỉ có thể phán đoán là chính người vẽ bản đồ đã thay đổi ý kiến mà thôi.

Bọn y nhận ra được đường chỉ thứ hai dẫn đến một nơi gọi là "đóa hoa". Địa danh ở khu vực phía trên dịch nghĩa là "sáu ngọn núi", bên dưới "sáu ngọn núi" là "đại đài địa" và một địa danh được dịch thành "tổ tiên", bên phải là "bảo tọa mặt trời", kế đó là hai nơi có tên phát âm thành "liangbu", "tabu", ba nơi này ở sát cạnh nhau.

"Tìm thấy rồi, là ở đây, vùng đất hoa sen nở rộ, chính là Mặc Thoát chứ còn đâu nữa, hại tôi tốn bao nhiêu thời gian tìm kiếm…" Merkin hưng phấn kêu lên.

Soares bỏ chiếc kính xuống, ngả người dựa vào sofa, hé miệng thở hắt ra "phì" một tiếng. Mấy tháng vừa rồi, bọn y gần như đã hoàn thành được cả một đại công trình. Các địa danh được chú thích trên bản đồ toàn bộ đều là địa danh cổ từ hơn ngàn năm trước, có rất nhiều tên từ thời Thổ Phồn vương triều hoặc thậm chí là trước đó, thể chữ chuỗi hạt này lại khác hẳn với Tạng văn ngày nay, bọn y phải dò từng con sông, từng ngọn núi một. Hơn thế, Merkin không tin tưởng vào người khác, tất cả công việc tìm kiếm tư liệu đều phải do bọn y tự thực hiện. Tuy nhiên cũng rất may là, tấm bản đồ này dường như được chuẩn bị cho người không thể tìm được đường, người vẽ ra nó đã chú thích rất tường tận từng địa danh, tên núi, tên sông, chỉ còn mỗi ba nơi cuối cùng kia là đều vẽ ra một ký hiệu Ung Trọng trông như vòng xoáy, dịch ra tiếng hiện đại thì không phải Bạc Ba La, mà là… cái rốn!

Sau khi khôi phục thể lực chừng một tháng, Lữ Cánh Nam đem những điều tâm đắc mọi người viết ra để tổng kết một cách tường tận, đồng thời bắt đầu tiến hành huấn luyện có tính định hướng. Lại một tháng nữa trôi qua, Lữ Cánh Nam đứng trên bục giảng, tay cầm một vật bằng gỗ gần giống như cục rubik, nói với các học viên: "Kể từ hôm nay, mọi người sẽ học môn cuối cùng, và cũng là môn nguy hiểm nhất - cơ quan học!"

Các học viên đều lộ ra vẻ hoan hỉ mừng rỡ. Trác Mộc Cường Ba rõ là có nhu cầu bức thiết muốn biết các tri thức liên quan tới cơ quan học, nhưng người hưng phấn nhất thì phải là Trương Lập. Anh chàng này từ lâu đã ngưỡng mộ môn học này, đồng thời cũng đã tìm hiểu sơ bộ về máy móc trang bị và cách chế tạo một số cạm bẫy đơn giản rồi.

"Thử cho tôi biết xem, mọi người hiểu thế nào về "cơ quan"?" Lữ Cánh Nam bình thản nói.

"Cạm bẫy", "vũ khí giết người", "vũ khí có thể tự động giết người", bên dưới lập tức vang lên nhiều đáp án khác nhau.

Lữ Cánh Nam lại nói: "Thứ gọi là cơ quan, hoàn toàn không chỉ có nghĩa hẹp là cạm bẫy giết người, vũ khí tự động tấn công như mọi người vẫn tưởng, mà chỉ là tất cả các thứ có kết cấu bằng lẫy chốt, lớn thì như mộng, như chốt, rường xà cột kèo trong các công trình kiến trúc, nhỏ thì là một ổ khóa sắt, còng sắt, tất cả đều có quan hệ với cơ quan học cả. Trong số mọi người ở đây, ngoài lạt ma Á La và chú Mao Lạp ra, những người còn lại e rằng đều rất lạ lẫm với môn học này. Nếu muốn tinh thông cơ quan học, chỉ sợ nghiên cứu cả đời cũng khó hoàn thành được hết các hạng mục, vì vậy, thứ chúng ta cần học, chỉ là tư duy phát hiện mấu chốt của cơ quan, đồng thời phán đoán được cấu tạo của nó mà thôi, cũng chính là tránh cạm bẫy giết người, phát hiện cửa ngầm bí mật mà người ta vẫn thường nói tới. Chỉ riêng khoản này, cũng đủ cho mọi người học hết hơn nửa năm rồi đấy." Đến đây, cô giơ tay lên nói: "Đây chính là một cơ quan, mỗi người một chiếc, tự lên lấy xuống đi."

Mỗi người bước lên nhặt một khối lập phương bằng gỗ, rồi lại trở về chỗ ngồi của mình. Trác Mộc Cường Ba cầm khối gỗ trên tay, phát hiện ra hình lập phương này do những khối gỗ nhỏ bề ngang, chiều dày đều một centimet, chiều dài mười centimet ghép lại mà thành, đan xen chằng chịt, bên ngoài trơn nhẵn tựa như là một khối chỉnh thể, rất khó tách rời. Xoay xoay vặn vặn một lúc lâu mà cũng không phát hiện ra lẫy chốt gì bên trong, gã nhủ thầm trong bụng: "Cái này thì là cơ quan gì chứ? Có phải định bịp người ta không đây?"

Lữ Cánh Nam nói: "Thứ mọi người đang cầm trong tay lúc này, chính là cơ quan nguyên thủy nhất, và cũng đơn giản nhất, gọi là khóa gỗ, ở cửa hàng đồ chơi cho người lớn hay đồ chơi trí tuệ đều có bán, hai nhân dân tệ một cái."

Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: "Quả nhiên là gạt người."

Lữ Cánh Nam lại mỉm cười nói tiếp: "Mọi người đừng coi thường thứ này không có gì đặc biệt, thực ra bên trong nó là kết tinh trí tuệ của cổ nhân đó. Nhìn bề ngoài thì các khối gỗ nhỏ đều giống hệt nhau cả, kỳ thực chỉ có mặt ngoài mọi người mới nhìn thấy giống nhau thôi, còn bên trong thì hết sức chằng chịt phức tạp, có hình móc, có hình vòng, có khối gồ lên ở giữa, có khối hõm vào. Tổng cộng có sáu mươi tư khối gỗ nhỏ, có thể tách rời hẳn ra, bây giờ mọi người bắt đầu chia tách chúng ra đi, xem thử khả năng thiên phú về cơ quan học của từng người đến đâu."

Tất cả học viên đều bắt đầu tách khóa gỗ. Trác Mộc Cường Ba lần mò một lúc, ngoảnh đầu nhìn về phía giáo sư Phương Tân, thấy ông đang ấn một khối gỗ nhỏ ở giữa khối lập phương ra một đoạn, lập tức được gợi ý, vội dùng sức ấn vào giữa hình lập phương, nhưng đã ấn cả sáu mặt rồi cũng không thấy khối lập phương ấy lơi lỏng ra một chút nào. Mười phút trôi qua, Trác Mộc Cường Ba mặt đẫm mồ hôi, Nhạc Dương và Trương Lập thì chúi đầu vào một chỗ rì rầm bàn tán, Ba Tang ngấm ngầm nhíu chặt đôi mày, đến cả Đường Mẫn cũng rầu rĩ không làm được gì, chỉ có hai ông già là vẫn ung dung thoải mái, lạt ma Á La thậm chí còn rút hẳn một khối gỗ nhỏ ra ngoài, kế đó thì như Bào Đinh mổ trâu 3, càng làm càng nhanh.

Lữ Cánh Nam nhìn mọi người mà thầm thấy tức cười, bèn lên tiếng nhắc nhở: "Không cần phải trao đổi kinh nghiệm đâu, mỗi cái khóa gỗ đó đều có kết cấu bên trong khác nhau. Mấu chốt của việc mở khóa gỗ, chính là thuận theo kết cấu bên trong của nó, từng bước từng bước một tách ra. Điểm khó ở đây là mọi người không nhìn thấy kết cấu bên trong của khóa như thế nào, chỉ có thể tự lần mò thôi."

Nghe Lữ Cánh Nam nhắc nhở, Trương Lập dường như đã tìm ra được bí quyết gì đó, anh kéo khối gỗ này ra một chút, rồi lại ấn khối kia xuống một chút, nhấc khối bên trái lên, kéo khối bên phải xuống, lúc không di động được nữa, thì đẩy ngược trở về theo quỹ đạo ban đầu, thử nghiệm một phương cách di động khác. Còn Trác Mộc Cường Ba cuối cùng cũng tìm ra được một khối gỗ có thể di động, hóa ra là ở góc phía trên bên phải của một mặt hình lập phương, nhưng sau khi ấn nó ra, thì các khối gỗ khác lại không động cựa gì được nữa, gã đành phải thử đi thử lại từng khối một. Riêng lạt ma Á La thì đã tháo hết cái khóa gỗ của mình ra, sáu mươi tư khối gỗ nhỏ khác nhau xếp ngay ngắn trên mặt bàn.

Kế đó, Trương Lập, giáo sư Phương Tân, Ba Tang, Đường Mẫn, Nhạc Dương cũng đều tháo được khóa gỗ, chỉ còn mỗi Trác Mộc Cường Ba, trên trán gân xanh nổi chằng chịt, hai mắt đỏ ngầu, cơ bắp gồ lên, nghiến răng nghiến lợi ấn ấn xoay xoay. Chỉ nghe "cạch" một tiếng khe khẽ, miếng gỗ tưởng chừng như sắp rút ra được tới nơi, đến cuối cùng lại kẹt ở bên trong khối lập phương. Trác Mộc Cường Ba kéo hai ba lượt vẫn không ra, liền dùng sức, làm gãy luôn.

Tất cả mọi người đều đổ dồn ánh mắt về phía gã. Nhạc Dương và Trương Lập lập tức phát ra một tiếng kêu đầy tiếc nuối. Trác Mộc Cường Ba đập cái khóa gỗ xuống bàn, thở hồng hộc. Đường Mẫn vội lên tiếng: "Anh nôn nóng quá." "Phải đấy, Cường Ba thiếu gia, cái thứ này muốn nhanh cũng không nhanh được đâu." Nhạc Dương cũng lên tiếng chia sẻ kinh nghiệm.

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam: "Năng khiếu của tôi không đủ, cho tôi thử lại lần nữa."

Lữ Cánh Nam mỉm cười giơ một ngón tay lên nói: "Đừng nóng, sớm đã chuẩn bị rồi." Nói đoạn, không ngờ lại lấy ra một khối lập phương bằng thép ròng, nhìn bề ngoài giống hệt như khóa gỗ…

Ba giờ sáng, Nhạc Dương trằn trọc mãi vẫn chưa ngủ được, đành bò dậy dụi dụi mắt nói: "Cường Ba thiếu gia, sáng mai anh làm tiếp có được không, tôi nghe cái tiếng động ấy cứ thấy như có chuột vậy đó."

Trác Mộc Cường Ba tập trung toàn bộ tinh thần vặn vẹo khối lập phương bằng sắt trên tay, lơ đễnh nói: "Chuột thì sợ gì chứ, nhắm mắt vào nghĩ mình là mèo tự nhiên sẽ ngủ được thôi." Trương Lập ở bên cạnh mở mắt ra nói: "Cường Ba thiếu gia, hay là, để chúng tôi làm giúp anh nhé."

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Thế làm sao được, các cậu mặc kệ tôi đi, nhất định tôi phải tháo được nó ra."

Lăn qua lăn lại mãi đến hơn bốn giờ sáng, hai người Nhạc Dương và Trương Lập mới thiêm thiếp ngủ. Ngày hôm sau, khi hai người bò dậy, đã thấy Trác Mộc Cường Ba ngồi ngắm vầng dương mới lên. Dưới ánh nắng rực rỡ, gương mặt cương nghị đường nét rõ ràng ấy toát lên vẻ tự tin vô tận. Trên mặt bàn, xếp gọn ghẽ chỉnh tề tám tám sáu mươi tư khối thép.

Lữ Cánh Nam nhìn thành quả Trác Mộc Cường Ba giao lên, nhận thức đối với gã lại tăng thêm mấy phần nữa. Gã là một người đàn ông biết sợ hãi. Nghe lạt ma Á La kể, trong rừng Mãng Xà và ở dưới địa cung, Trác Mộc Cường Ba đã để lộ ra nỗi sợ hãi đằng sau ngoại hình cao lớn mạnh mẽ ấy. Nhưng gã sợ hãi, mà không hề có ý thoái lui. Gã có sự dẻo dai giống như của cao su vậy, bất kể bị đả kích nặng nề ra sao, thế nào cũng dần hồi phục lại nguyên hình trạng. Chỉ cần không đạt tới yêu cầu của chính bản thân mình đặt ra, gã sẽ mãi mãi không bao giờ bỏ cuộc. Tính cách này đúng là hết sức kỳ quái, nếu là người bình thường, sợ hãi ắt sẽ trốn tránh, khi tin chắc mình không phải là đối thủ của người khác, ắt sẽ lảng tránh; nhưng Trác Mộc Cường Ba vừa hay lại trái ngược hoàn toàn, gã sợ hãi ắt sẽ bước thẳng tới mà nghênh đón, biết rõ mình không đánh lại người ta cũng vẫn muốn xông tới, thoạt nhìn bề ngoài thì có vẻ hơi ngốc nghếch, tính cách gì mà như vậy chứ! Lữ Cánh Nam nhớ lại từ khi quen biết Trác Mộc Cường Ba đến giờ, nhất cử nhất động của gã đều gây cho cô một cảm giác không thể đoán biết. "Hừ, đại trí giả ngu, đây cũng là đại trí giả ngu hay sao?" Nhớ lại lời lạt ma Á La đã nói, cô không khỏi khe khẽ mỉm cười.

Mấy tháng tiếp sau đó, các thành viên trong nhóm đều trải qua một đợt huấn luyện đặc biệt về các kiến thức liên quan đến cơ quan học, bắt đầu học từ loại cạm bẫy nhi đồng đơn giản nhất, tức là đào hố dưới đất, lót tờ báo rồi vùi cát lên trên, kế đó là tới trận xe gỗ ngựa gỗ của Gia Cát Lượng, Cứu Lưu Bàn Long Thần của Quỷ Cốc Tử, càng học lại càng thấy môn cơ quan học này đúng là cao thâm khó dò.

Bí mật huyết trì

Trải qua khảo nghiệm trong rừng sâu Nam Mỹ, các thành viên trong nhóm đều nhận ra điểm yếu của mình, ai cũng gần như điên cuồng tham gia huấn luyện, ban ngày vượt qua khảo nghiệm của đủ loại các cơ quan cạm bẫy, tối về lại thường đọc sách đến tận đêm khuya. Mỗi người đều rèn luyện bản thân bằng ý chí của một mật tu giả, gắng sức đột phá cực hạn năng lực cơ thể.

Trong thời gian này, Lữ Cánh Nam đồng thời để các đội viên tiến hành phát triển cá nhân, thực hiện vận động cực hạn, hay nghiên cứu các tác phẩm học thuật nổi tiếng như Thuyết tiến hóa…, ngoài ra còn dạy họ sử dụng mấy loại công cụ mới. Ví dụ như lắp thêm dây quăng vào đồng hồ nguyên tử đeo trên tay mỗi người, quấn vào mặt bên trong áp với cổ tay, kích thướt chừng bằng một hộp diêm, bên trong có hai mươi lăm mét dây hợp kim, phát xạ dựa trên nguyên lý của pháo điện từ, một đầu trước có đầu mũi khoan nhỏ bằng kim cương, có thể đâm sâu mười phân vào bề mặt kim loại, sau đó tự động dãn nở bắt chặt vào mục tiêu, thứ này thuộc loại dụng cụ cứu sinh, trong rừng sâu mà dùng loại này thì tiện hơn dây leo rất nhiều. Ngoài ra còn có loại giày dính chặt được vào mặt tường trơn nhẵn, ứng dụng nguyên lý bàn chân con thằn lằn: đế giày có rất nhiều lông cứng theo nguyên lý ống siphon, khiến lực ma sát có thể chịu được trọng lượng của cơ thể người, ngoài ra còn lắp thêm lò xo giảm xóc hình cung, khiến một cú nhảy có thể cao ngang tầm người bình thường, còn xung lực lúc rơi xuống hoàn toàn có thể vận dụng để thực hiện các vận động cực hạn, cộng thêm với áo cánh dơi thiết kế dựa theo cánh thịt của sóc bay, vậy là có thể tránh được trường hợp độ cao mười tầng nhà gây khó cho anh hùng rồi. Hoặc là bình sắt siêu cường hóa mặc dù thể thể tích chưa đầy lọ mực, nhưng thời gian cung cấp dưỡng khí từ ba tiếng đồng hồ ban đầu đã kéo dài lên một trăm linh tám tiếng đồng hồ.

Khoảng thời gian này, Trác Mộc Cường Ba cũng không còn thúc giục đòi xuất phát nữa. "Anh dựa vào cái gì mà đi tìm Bạc Ba La thần miếu, vận may hả?" "Điều anh cần làm lúc này, chính là xem nhiều, học nhiều, nghĩ nhiều…" "Chúng ta đứng trên vai người khổng lồ để thu thập thông tin." "Nếu ngày đó đến thật, chúng ta có thể tự mình đi mà…" Những lời Lữ Cánh Nam và giáo sư Phương Tân nói hết lần này đến lần khác vang vọng bên tai, không ngừng nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba. Những lúc nghỉ ngơi, gã thường ở bên Đường Mẫn, nhưng gã cũng thường xuyên cảm nhận được, có một bóng hình yểu điệu đang đứng ở mãi đằng xa chăm chú nhìn mình. Trương Lập, Nhạc Dương và Ba Tang đã trở nên thân thiện hơn rất nhiều, thường xuyên nghe thấy hai người Trương, Nhạc cất tiếng cười sảng khoái, cả Ba Tang thỉnh thoảng cũng nở ra một nụ cười lạnh lùng. Còn giáo sư Phương Tân thì mải mê nghiên cứu băng video ông quay được dưới địa cung Ah Puch. Theo giáo sư, nếu đã cho rằng địa cung Ah Puch và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu có liên quan với nhau, vậy thì các bức bích họa, tượng điêu khắc trong địa cung Ah Puch, tất cả đều có thể gợi ra những thông tin có liên quan tới Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia. Phía nhóm nghiên cứu cũng cung cấp cho giáo sư rất nhiều đầu mối. Cùng nghiên cứu thông qua mạng truyenfull.vn, tác phong cẩn trọng và thái độ làm việc không biết mệt mỏi đó của giáo sư khiến cả lạt ma Á La và Lữ Cánh Nam đều hết sức nể phục. Có điều, câu đố lịch sử mà hai nền văn minh Cổ Cách và Maya để lại có thể nói là một cái hang không đáy, giáo sư Phương Tân bước chân vào đó, càng đi càng thấy sâu, khiến hai trợ thủ của ông là Trương Lập và Nhạc Dương cứ kêu trời kêu đất, phàn nàn rằng làm việc này còn khổ hơn cả huấn luyện nữa. Mỗi lần như vậy, giáo sư Phương Tân lại lấy Đường Mẫn ra làm tấm gương giáo dục hai chàng thanh niên này phải có lòng nhẫn nại, có lòng tin, có trái tim yêu thương…

Núi Đường Cổ Lạp, bên bờ sông Đà, một chiếc xe tải lớn nhìn bề ngoài như sắp muốn long ra xong xọc đến nơi tròng trành đi giữa dải núi non trập trùng.

Tây Mễ ngồi bên ghế lái phụ thưởng ngoạn phong cảnh trước mắt. Hắn thích vùng đất này, thích núi non ở đây, thích mây trời ở đây. Không thể không thừa nhận, nơi này đích thực là một vùng đất có thể khiến người ta vui ngắm cảnh mà quên cả đường về. Một điều càng hay hơn nữa là, khi nhìn những đám mây trắng muốt bay qua bầu trời, cảm giác tội lỗi trong lòng hắn sẽ bị đè nén xuống. Năm ấy Tây Mễ chọn Khả Khả Tây Lý, có lẽ cũng chính là một dải tuyết trắng mênh mang ở đây mênh mang ở đấy hấp dẫn cũng nên.

Gã đang lái xe kia tên là Dakis, cao một mét bảy lăm, hơi gầy, dưới cặp lông mày thẳng như hai chữ "nhất" là đôi mắt giống hình thang. Có người nói, kẻ có đôi mắt này thì rất hung hăng, cảm giác như đang miệt thị người khác vậy, mà tên Dakis này đích thực là cũng rất hung hăng. Hắn gia nhập Hồ Lang chưa được hai năm, vậy mà đã không kẻ nào dám đụng đến hắn nữa. "Lôi Ba khỏe, Dakis ác", câu này từ lâu đã lan truyền trong nội bộ Hồ Lang. Số đội viên đội tuần tra núi Khả Khả Tây Lý bị tên Dakis này giết trong hai năm còn nhiều hơn tổng số đội viên bị toàn bộ Hồ Lang giết trong mười năm về trước. Hồ Tử nói, da của Dakis lột là bán được giá tốt nhất, nếu không phải hắn có một chút tác dụng này, thì từ khi Hồ Lang bị quân đội bao vây sào huyệt, Tây Mễ đã thịt hắn luôn rồi. Bởi chính vì tên này hung tàn thành tính mới khiến quân đội phải bao vây tiễu trừ toàn bộ tổ chức của bọn hắn.

Niềm đam mê lột da của Dakis là một loại bệnh thái. Mỗi khi lóc thịt linh dương Tây Tạng, hai mắt y sáng rực lên, miệng ngâm nga một điệu nhạc nào đó, dáng điệu vô cùng thỏa mãn. Tây Mễ hiểu rõ, từ hồi còn trong đội đặc nhiệm Nhện Xanh hắn đã được dạy rằng, loại người này có vấn đề về tâm lý, ở phương Tây còn có thuật ngữ y học chuyên dụng, gọi là "hội chứng thích phân tách", bọn họ thích phân tách tất cả các thứ mình nhìn thấy ra, không tách ra một cách triệt để thì trong lòng không thể nào thỏa mãn được. Loại người này mỗi khi giết người, bao giờ cũng chặt xác nạn nhân ra làm bảy tám chín mảnh. Mấy tên giết người hàng loạt nổi tiếng nhất ở phương Tây gần như đều mắc phải chứng bệnh này.

Dakis bảo mình là người Tạng ở Thanh Hải, Tây Mễ thấy không giống lắm. Không giống người Tạng, gương mặt hắn không có vẻ chân chất mộc mạc của dân Tạng, cũng không giống người Mông Cổ. Có điều cũng không ai truy vấn hắn, sau khi hắn giết đội viên đội tuần tra núi cũng như giết linh dương Tây Tạng, thì không còn ai dám nghi ngờ hắn là nội gián nằm vùng nữa.

Tây Mễ thu ánh mắt lại, quay sang nhìn bàn tay Dakis. Tay hắn rất vững, trên con đường núi tròng trành rung lắc, bàn tay nắm vô lăng không hề động đậy, cẳng tay phải hồi trước có lẽ có một hình xăm, có điều giờ chỗ đó là một vết sẹo thịt dài, song không giống đốt bằng tia laze. Thấy Tây Mễ chú ý nhìn mình, Dakis giơ tay lên quẹt quẹt mũi, nói: "Không đẹp được như hình xăm của đại ca đâu, hồi trước xăm con thằn lằn, về sau sợ bị truy nã, sợ bị người ta nhận ra, liền lấy dao cắt luôn chỗ thịt ấy đi." Tây Mễ không nói gì, tiếp tục ngắm nhìn trời xanh mây trắng và dòng sông Đà Đà như dải ngọc kia.

Sau xe ngồi chật người, Max cũng ở trong đám này. Khi ông chủ không có mặt, hắn cũng không dám làm ra vẻ khâm sai đại thần trước mặt cái đám liều mạng này. Hắn cẩn thận khuyên nhủ để Tây Mễ lên ngồi ghế lái phụ, còn mình thì ở phía sau với Thiết Quân, dù sao thì hắn cũng quen Thiết Quân một thời gian rồi. Ngồi trong thùng xe lắc lư, Max nhớ lại nhiệm vụ ông chủ đã giao cho hắn nửa tháng trước, "Max, mày mang tấm bản đồ này đến Trung Quốc trước, chuyện này phải làm cho tốt."

"Ông chủ, sao không fax về cho xong, không thì scan lên máy tính cũng được, cần gì…"

"Đồ ngu, mày biết cái gì chứ? Mày tưởng Cục tình báo Trung ương Mỹ ăn phân mà sống hả, tấm bản đồ này chỉ cần dùng phương tiện điện tử truyền đi, nói không chừng đã lập tức bị bọn ấy biết ngay rồi."

"Nhưng mà, nếu trên đường…"

"Thế nên mới phải để mày đích thân mang đi, mày phải đảm bảo với ta không được để xảy ra sơ xuất…"

"Tôi…"

"Yên tâm, tấm bản đồ này là do đích thân tao vẽ, tao đã giở chút thủ đoạn lên đó rồi, cho dù có lọt vào tay cảnh sát Trung Quốc, bọn chúng chưa chắc đã hiểu được đâu. Có điều để đề phòng vạn nhất, mày vẫn phải đảm bảo tuyệt đối không để nó rơi vào tay bọn chúng. Con mẹ nó, nếu cả tấm bản đồ mà cũng không mang đi nổi thì mày còn được việc gì nữa chứ!"

"Vâng."

"Còn nữa, đám người kia huấn luyện cũng kha khá rồi phải không, đã đến lúc cho chúng ra ngoài hoạt động một chút rồi. Sau khi mang tấm bản đồ này tới Trung Quốc, mày hãy nghỉ cách đưa chúng đến khu vực Lâm Chi, nhớ kỹ, ngàn vạn lần không được thu hút sự chú ý của cảnh sát Trung Quốc…"

"Ha ha ha…" Một tràng cười lớn làm Max giật mình sực tỉnh. Đám người này đã bị giữ chân trong khe núi hoang vu không bóng người suốt hơn nửa năm ròng, từ lâu đã sắp phát điên lên rồi. Mặc dù Max cũng sắp xếp một số trò vui, nhưng dù sao thì thế giới bên ngoài cũng đặc sắc hơn nhiều. So với đám lính đánh thuê của Merkin, bọn Hồ Lang còn đỡ hơn một chút, nói thế nào thì bọn chúng cũng đã quen phải lẩn trốn rồi. Nghe ông chủ kể, vào lúc không phải mùa săn, hay thời điểm bị truy đuổi gắt gao, bọn Hồ Lang này không có chỗ nào để đi, vậy là liền trốn trong hang động trên núi trong suốt nửa năm liền khiến đội điều tra lần nào cũng trở về tay trắng. Vì vậy Max đặc biệt cẩn thận với tên Tây Mễ đứng đầu băng săn trộm này. Có thể khiến một đám liều mạng nằm yên trong hang núi lâu như vậy, sự nhẫn nại đó, uy thế đó, chính xác là chỉ có bộ đội đặc chủng siêu cấp mới làm nổi mà thôi.

Đến giờ rốt cuộc cũng có thể ra khỏi khe núi đó, đám liều mạng này chen chúc trong thùng xe chật chội, râm ran kể cho nhau những truyện cười dâm tục nghe mãi cũng không biết chán, làm ra đủ thứ động tác tục tĩu, cố hết sức phát tiết tâm trạng được ra khỏi núi rừng trở về với nhân loại. Người cười lớn nhất là Ivan, còn cái tên giọng eo éo the thé, cứ nhảy qua nhảy lại trong thùng xe kia là nói nhiều nhất. Đầu hắn trông nhọn nhọn như quả trám, mặt gầy mà đen, mắt rất nhỏ, cằm nhọn hoắt, bất kể là nhìn từ góc nào, cái miệng hắn trông cũng to một cách quá đáng. Hơn nữa trong miệng hắn dường như lúc nào cũng đang nhai nhóp nhép thứ gì đó, mỗi khi cười liền lộ ra hàm răng đen đen vàng vàng khấp khểnh. Không hiểu tại sao, khi nhìn vào cái miệng đầy những răng của hắn, Max tưởng như đang nhìn vào cặp mắt ông chủ. Cả hai đều gây cho người khác cảm giác lạnh buốt trong tận đáy lòng.

"Bồ câu hoang, món ngon đấy, nướng hay hầm đều ngon cả!" Dọc đường, tên đó cứ huyên thuyên bất tuyệt chỉ cho đám người trong xe biết thứ nọ thứ kia nên ăn thế nào, như thể là đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng về các món ăn vậy.

"Con bò Yak hoang kia nướng lên đảm bảo là cực ngon!" "Con la hoang này mà tùng xẻo thì ngon nhất luôn!" "Vịt Thu Sa, bọn vịt Thu Sa dưới sông kia mà hấp cách thủy thì ngon tuyệt! Còn cả cá nhảy sông nữa chứ, nhất định là mấy người chưa ăn bao giờ rồi!" "Nhạn đầu đốm, nấu canh ngon lắm!" "Sao không thấy con rắn nào nhỉ, không thì có thể làm bát canh rắn được rồi!" Tóm lại là các loài động vật hoang dã dọc đường đều bị hắn sắp xếp thành đủ các món ăn, cả chim sẻ và chuột núi cũng không bỏ qua. Max nhủ thầm trong bụng, giả như Soares mà ở đây, không chừng đã giết luôn cái thằng lắm mồm này đi rồi. Ông chủ từng nói với hắn, người điều khiển thú vật là một nghề nghiệp hết sức kỳ quái. Bọn họ có thể ở chung một chỗ, hòa mình vào giữa đàn thú, song ngược lại, cũng không hề nương tay chút nào khi dùng các loại động vật thảm sát con người.

Thấy tên kia vẫn đang hưng phấn tưởng tượng các loài động vật cả đám gặp trên đường thành các món cao lương mỹ vị, Max không nhịn được hỏi Thiết Quân: "Thằng kia là ai đấy? Chính là cái thằng vẫn nói từ nãy đến giờ ấy."

Thiết Quân cười cười đáp: "Hắn tên là Lâm Nhân, quê Quảng Đông, là thành viên cấp cao của Hồ Lang, đừng nhìn bề ngoài hắn gầy đét ra như thế, lúc ra tay thì không hàm hồ chút nào đâu. Nghe nói trước khi gia nhập Hồ Lang hắn đã đi khắp toàn quốc săn trộm động vật hoang dã rồi. Hắn từng tự nhận rằng, ở Trung Quốc, chỉ cần là động vật người ta biết đến, tất thảy đều vào miệng gã cả rồi, chẳng hạn cái gì mà gấu trúc, vượn đen tơ vàng, hổ Đông Bắc, cá tầm Trung Hoa…"

Lâm Nhân nghe bọn hắn nói chuyện, liền nhảy vù tới, dương dương đắc ý nói: "Thế có đáng gì, toàn món bình thường cả, tôi còn ăn kiến ở Vân Nam, ăn rết ở Nghi Xương, đổ rượu, ăn sống, ăn xong còn cảm thấy nó bò qua bò lại trong dạ dày nữa cơ. Ở Quý Châu thì ăn ốc sên, đặc sản vùng ấy là một loài ốc sên không có vỏ, toàn thân đen bóng, đại khái to bằng đầu ngón tay này, thịt nó thì…"

Nghe những loại món ăn ly kỳ cổ quái tuôn ra từ cái miệng toàn răng vàng răng đen ấy, Max chợt cảm thấy buồn nôn.

Mấy tháng sau, Trác Mộc Cường Ba đến tìm gặp Lạt ma Á La.

Mặc dù đã nắm bắt được các đặc trưng cơ bản của cơ quan học, nhưng Trác Mộc Cường Ba trước sau vẫn không thể quên được huyết trì mà họ trông thấy trong địa cung Ah Puch. Gã còn nhớ lạt ma Á La đã từng nói, đó mới là cơ quan chân chính. Đến bây giờ, đã học được rất nhiều kiến thức lý thuyết, đồng thời cũng có không ít kinh nghiệm thực tiễn, gã vẫn không thể hiểu thấu huyết trì rốt cuộc là thứ gì. Nhưng cảnh tượng đầy máu tanh và tàn nhẫn đó quả thật khiến người ta kinh hồn bạt vía. Vì vậy, hôm nay gã định tìm ông hỏi cho rõ ngọn ngành.

Trên bãi huấn luyện, Trương Lập và Nhạc Dương đang bố trí một cạm bẫy liên hoàn vừa mới học được. Ba Tang đứng bên cạnh góp ý. Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La ngồi trên hai cái đôn đá nhìn họ từ đằng xa. Gã nói: "Đại sư, ngài còn nhớ huyết trì ở tầng năm trong địa cung Ah Puch không?"

Lạt ma Á La nhìn Trương Lập đang lắp giá đỡ, "ờ" một tiếng, đoạn hỏi: "Cậu muốn hỏi gì vậy?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi muốn biết biết huyết trì rốt cuộc là thứ gì?"

Lạt ma Á La giờ mới quay đầu nhìn gã, ngạc nhiên thốt lên: "Tại sao đột nhiên lại muốn hỏi vấn đề này?"

Trác Mộc Cường Ba đáp: "Chúng tôi đã học cơ quan học từ rất lâu rồi, nhưng đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa có khái niệm gì về huyết trì cả. Tôi còn nhớ đại sư đã từng nói, chỉ huyết trì mới có thể coi là cơ quan chân chính, vậy nguyên lý của nó là thế nào? Rốt cuộc là nó dùng để làm gì?"

Lạt ma Á La nói: "Với những gì cậu nắm được lúc này, cậu cảm thấy tác dụng chủ yếu của các loại cơ quan hàm nghĩa hẹp mà chúng ta học tập là gì?"

Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát rồi nói: "Hình như vẫn là để giết người, à không, chủ yếu là để vây khốn hoặc làm tổn thương vật săn chạm phải chốt lẫy thì đúng hơn."

Lạt ma Á La lắc đầu nói: "Không hẳn thế, các loại cơ quan mang nghĩa hẹp hiện nay, chúng ta đã học được có hai tác dụng chủ yếu. Thứ nhất, chính là điều cậu vừa nói, người chạm phải cơ quan sẽ gặp phải phiền phức, còn thứ hai, chính là để bảo vệ một số đồ vật không bị kẻ khác lấy đi hoặc hủy hoại, tác dụng như một ổ khóa vậy. Huyết trì, chính là loại cơ quan có tác dụng này. Tôi có thể cho cậu biết một điều, hệ thống khóa của huyết trì tuyệt đối không kém hệ thống nhận dạng vân tay hiện đại bây giờ đâu, thậm chí còn đạt đến mức độ tinh vi như hệ thống nhận dạng gien nữa cơ."

"Hả," Trác Mộc Cường Ba khẽ kêu lên một tiếng, "ghê gớm vậy cơ à!"

Lạt ma Á La gật đầu: "Cậu còn nhớ cánh cửa đó mở ra thế nào đấy chứ? Những tảng đá vốn là màu trắng cuối cùng toàn bộ thành màu đỏ, sau đó cửa liền mở ra, có đúng không?" Trác Mộc Cường Ba khẽ gật đầu.

Lạt ma Á La lại nói tiếp: "Thực ra bên ngoài cánh cửa đá đó còn một tầng vật chất khác nữa, thứ đó là cái gì thì tạm thời tôi không thể cho cậu biết được, cậu cứ coi nó như một loại sợi có thể co dãn cũng được. Lực co dãn của loại sợi này rất lớn, giống như bắp thịt của con người vậy. Khi chúng co lại hết cỡ, một sợi to như sợi mì có thể nhấc được tảng đá nặng mấy chục kologram, cánh cửa khổng lồ đó, chính là được mở ra bằng cách ấy."

Trác Mộc Cường Ba chỉ gật đầu không nói. Cánh cửa khổng lồ hình khung xương ấy kiên cố dị thường, chỉ sợ xe tải cũng chưa chắc có thể một lần húc đổ luôn, vậy mà lại bị thứ sợi đó sơi sơi kéo ra như vậy, lực co dãn ấy quả là kinh người.

Lạt ma Á La nói tiếp: "Thế nhưng, muốn làm thứ sợi co giãn ấy, chất lỏng bình thường không có tác dụng, cần phải dùng…"

Trác Mộc Cường Ba thốt lên: "Máu? Chẳng trách nó được gọi là huyết trì."

Lạt ma Á La sửa lại: "Máu người. Nhưng không phải toàn bộ. Cậu có biết trong máu người có bao nhiêu loại vật chất không?"

Trác Mộc Cường Ba đáp: "Hồng cầu, còn có, còn có… có gì nữa nhỉ?"

Lạt ma Á La mỉm cười: "Nhiều lắm, tôi nói như thế này nhé, số lượng các vật chất trong máu người nhiều không kể xiết, chỉ riêng các loại y học hiện đại thường dùng đã có tới mấy chục rồi, hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, mấy chục loại protein làm đông máu, protein chống đông máu cũng có mấy chục loại, ngoài ra còn các nguyên tố vi lượng, kháng nguyên thể, mấy thứ này thì còn nhiều hơn nữa. Còn huyết trì, chính là dùng các cơ quan khác nhau trong cơ thể người, tiến hành lọc máu, cuối cùng sẽ có được một loại dịch thể màu đỏ, bởi vì chưa phân tích cụ thể bao giờ, nên tôi chỉ đoán có lẽ trong đó chứa hồng cầu và một số loại protein chống đông máu, mà chỉ có loại dịch thể màu đỏ này mới có thể khiến thứ sợi kia co rút hết cỡ mà thôi."

Trác Mộc Cường Ba nghe mà đần thối mặt, vội hỏi: "Đại sư sao lại hiểu rõ về huyết trì vậy?"

Lạt ma Á La điềm đạm mỉm cười: "Cậu có biết cái huyết trì nguyên vẹn đầu tiên được khai quật ở đâu không? Huyện Mặc Thoát ở Tây Tạng đấy. Vì vậy, tôi có thể khẳng định địa cung Ah Puch và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia có quan hệ tất yếu. Dựa theo kết quả khảo chứng trước mắt, huyết trì rất có thể là dụng cụ tế lễ của một số giáo phái cổ xưa đã tiêu vong rất lâu ở Tây Tạng."

Lạt ma Á La nhổm người dứng dậy, nhìn ra phía bãi huấn luyện nói: "Hiểu biết của tôi về huyết trì cũng chỉ giới hạn ở bề ngoài thế thôi, toàn bộ chỉ có vậy. Có điều đã nói tới đây, đã học môn cơ quan học này một thời gian dài như vậy, cậu cho rằng chỗ lợi hại của cơ quan nằm ở đâu, Cường Ba thiếu gia?"

Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn ra bãi huấn luyện phía xa, mấy người bọn Trương Lập đã bố trí xong cạm bẫy, chỉ thấy giữa bãi cỏ là một lùm cây bụi, hoàn toàn không hề có dấu tích của sự nguy hiểm chút nào.

Nhạc Dương mở cửa lồng, thả con thỏ hoang làm thí nghiệm ra. Con thỏ vừa ra khỏi lồng, liền nhanh chóng chạy vào chỗ kín ẩn nấp, không ngờ bên dưới bóng cây nhân tạo kia chính là chốt lẫy của cơ quan, cả bụi cây đổ sập xuống. Con thỏ cũng cực kỳ nhanh nhẹn, lập tức đảo sang bên trái, lưới thép phía trước liền "tưng" một tiếng bung vọt lên, thỏ hoang tức khắc dừng chân, lăn tròn một vòng dưới đất, đảo ngược đường lao sang bên phải. Phía bãi cỏ bỗng đâu bật lên một miếng ván gỗ chặn ngay trước mặt con thỏ, con vật không kịp dừng bước, húc thẳng vào đấy. Cú va chạm làm con thỏ hoang váng đầu váng mặt, lảo đảo mấy lượt, thấy ván gỗ đổ ụp xuống, vội chạy đi, nào ngờ cọc gỗ dưới đất lại liên tiếp nhô lên, chặn đứng đường lui của nó. Con thỏ hoang cũng khá nhanh nhẹn, lách bên trái né bên phải, vừa mới thoát được vòng vây của cọc gỗ thì đã thấy phía trước một cái hang, liền không nghĩ ngợi gì đã chui tọt vào trong ấy.

Cửa sắt đóng sập lại, con thỏ lại trở về lồng của nó, Nhạc Dương, Trương Lập và cả Ba Tang cười cười bàn luận, xem ra cơ quan tổ hợp này đã thiết kế thành công rồi.

Trác Mộc Cường Ba hồi tưởng lại cả quá trình ấy, đột nhiên thốt lên: "A, tôi hiểu rồi, chỗ đáng sợ nhất của cơ quan, chính là ở tính bí mật của nó!"

Lạt ma Á La hài lòng gật gật đầu: "Đúng vậy, Cường Ba thiếu gia, cậu đã nắm được yếu quyết của cơ quan học rồi đó. Chỗ đáng sợ của cơ quan, chính là cậu không nhìn thấy nó. Khi cậu phát hiện ra đó là một cơ quan, thì nguy hiểm cũng theo đó mà giảm xuống đáng kể rồi. Quá trình phá giải cơ quan, thực chất chính là quá trình đấu trí đấu lực với người thiết kế nên cơ quan ấy. Hai bên đều không nhìn thấy đối thủ, nhưng lại phải suy nghĩ xem đối phương có thể nghĩ tới những vấn đề gì, hay có vấn đề gì y không nghĩ tới. Giống như lúc ở tầng sáu địa cung Ah Puch, chúng ta lặn xuống nước như vậy thực ra là rất mạo hiểm, nhưng lúc ấy thì chúng ta hết cách rồi, đó là đường ra duy nhất của mọi người, nên đành liều đánh cược một phen. Được rồi, hôm nay nói tới đây thôi, mấy người trong nhóm gọi cậu kìa." Trương Lập đang đứng phía xa vẫy vẫy tay gọi Trác Mộc Cường Ba tới.

Bước ngoặt mới

Trác Mộc Cường Ba đứng ngẩn người ra một lúc, nghiền ngẫm lại những lời lạt ma Á La vừa nói, "Chỗ đáng sợ của cơ quan, chính là cậu không nhìn thấy nó," đồng thời lời cảnh báo của Babatou cũng vọng lại bên tai gã, "Kẻ thù đáng sợ thực sự, là những thứ ta không nhìn thấy," điểm chung của hai thứ này, chính là phát hiện. Những lời này không hiểu sao gã cảm thấy rất quen thuộc, tựa hồ như trong một thời gian, ngày nào cũng có người nhắc nhở gã vậy.

Trương Lập chạy tới, cười cười nói: "Cường Ba thiếu gia, có thấy cơ quan tổ hợp của chúng tôi không? Coi là thành công được chưa nhỉ?"

"Ừm." Trác Mộc Cường Ba khẽ đáp một tiếng, trong lòng bỗng nhiên dâng lên cảm giác sợ hãi vô cùng mạnh mẽ. Rất nhiều sự việc xảy ra trong quá khứ, rất nhiều điều đến nay gã không thể nào lý giải nổi, từng sự kiện một hiện lên trong tâm trí, nỗi sợ ấy còn đáng sợ hơn cả khi gã đối diện với người đàn ông có đôi mắt như của loài rắn độc và tên thổi rắn ở Putumayo kia, bởi bản thân gã xưa nay chưa từng có cảm giác như vậy bao giờ cả. Rốt cuộc là chuyện gì đây? Tại sao có thể khiến gã trào dâng một nỗi phát xuất từ sâu thẳm nội tâm? Đầu óc Trác Mộc Cường Ba tức khắc chìm vào u mê hỗn độn, muốn bình tâm tĩnh trí lại thì chỉ càng thêm rối loạn.

Lúc này, Lữ Cánh Nam bước qua bên cạnh hai người, Trương Lập vội đứng thẳng người, cung kính nói: "Giáo quan." Mọi lần thì Lữ Cánh Nam bao giờ cũng đáp lại, nhưng lần này dường như cô không hề nghe thấy, thậm chí cả nét mặt bần thần hỗn loạn của Trác Mộc Cường Ba cô cũng không chú ý đến, mà rảo bước đi thẳng qua.

Lữ Cánh Nam nhanh chóng đuổi theo lạt ma Á La, đánh mắt ra hiệu, vị sư già hiểu ý, liền đi theo vào văn phòng của cô.

Lạt ma Á La vừa bước vào cửa, Lữ Cánh Nam đã không sao kìm nén nổi cảm giác kích động trong lòng, trực tiếp nói luôn: "Đại nhân, có hai việc hết sức quan trọng. Merkin đến Trung Quốc rồi!"

"Hả!" Lạt ma Á La cũng lập tức trở nên nghiêm túc, mặc dù không biết khoảng thời gian này Merkin đã đi đâu, làm những chuyện gì, nhưng một khi y đã xuất hiện ở Trung Quốc, chắc chắn là tên này sẽ có hành động gì đó. Lạt ma Á La điềm tĩnh hỏi tiếp: "Còn một chuyện nữa là gì?"

Lữ Cánh Nam gật đầu đáp: "Hôm kia có người báo cáo, ở biên giới Thanh Tạng có kẻ khả nghi, đoán là một băng săn trộm, thế nên công an của chúng ta đã tiến hành tấn công đột kích. Một đám người thân phận bất minh hoảng loạn bỏ chạy, không phát hiện ra động vật hoang dã nào, nhưng đã tìm thấy một tấm bản đồ. Các chuyên gia cho rằng, bản đồ này có liên quan đến Tây Tạng cổ đại, nên đã giao cho nhóm nghiên cứu, con có mang theo bản sao đây, đại nhân xem."

Lạt ma Á La cầm tấm bản đồ lên, lẩm bẩm nói: "Hình như là một tấm bản đồ hàng hải cổ, chú thích này là… ồ… hả! Đây là…" Cánh tay vị sư già đột nhiên run lẩy bẩy, kinh ngạc thốt lên, "Không thể nào, không thể nào như vậy được! Tấm bản đồ này sao lại đột nhiên xuất hiện chứ? Chẳng lẽ đúng là ý trời hay sao?"

Lữ Cánh Nam nói: "Đại nhân, ngài cho rằng việc tấm bản đồ này đột nhiên xuất hiện liệu có liên quan gì đến chuyện Merkin bất ngờ trở về nước hay không?"

Lạt ma Á La nói: "Ý của con là?"

Lữ Cánh Nam nói: "Trong báo cáo của nhóm nghiên cứu gửi đến, trong tay bọn họ là tấm bản đồ gốc, một tấm bản đồ hàng hải được dân Tạng cổ vẽ trên da sói từ trên một ngàn năm trước. Theo phán đoán của con, Merkin không dám mạo hiểm mang tấm bản đồ này xuất hiện, mà thông qua phương thức khác, trước tiên là chuyển bản đồ đến đất nước chúng ta, sau đó y mới tới, chỉ là y không ngờ được mình đã ủy thác sai người, cho nên…"

Lạt ma Á La vỗ tay nói: "Không sai được đâu! Tấm bản đồ này nhất định đã được lấy ra từ trong địa cung Ah Puch, chính là kẻ xuất hiện cuối cùng đó, mặc dù ta chỉ trông thấy bóng lưng hắn thôi, nhưng kẻ ấy thật vô cùng đáng sợ, toàn thân toát ra một thứ mùi vị tà quái khó hiểu. Hắn là người của tổ chức kia, một trong mười ba người, hắn là người ở trong lăng tẩm ấy lâu nhất, chắc chắn là đã phát hiện ra điểm gì mà chúng ta sơ suất bỏ qua. Đáng lẽ ta phải nghĩ ra lâu rồi mới phải, kẻ ấy tuyệt đối không thể là quân du kích, chẳng trách Merkin lại không xuất hiện, thì ra đã có kẻ khác đến địa cung Ah Puch rồi, mục đích chính là mở cánh cửa lần trước bọn chúng chưa mở ra được kia."

Lữ Cánh Nam liền hỏi: "Có lẽ nào, tấm bản đồ ấy chính là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu hay sao?"

Lạt ma Á La đáp: "Chuyện này khó nói lắm, nhưng tin tức xuất hiện bất ngờ này sẽ lấp đầy rất nhiều điểm còn trống trong điều tra của chúng ta, nói thể nào thì nói, chúng ta cũng càng lúc càng đến gần mục tiêu rồi. Bây giờ thì ta đã hoàn toàn minh bạch. Chính kẻ kia đã đưa bản đồ cho Merkin, hoặc là bọn y cùng vùi đầu nghiên cứu, hơn nửa năm nay, sau khi đã hiểu được bản đồ nói gì, bọn y mới đến Trung Quốc. Thật đúng là lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt, bọn y có năng lực mấy cũng chẳng thể nào ngờ nổi, tấm bản đồ ấy cuối cùng lại lọt vào tay chúng ta."

Lữ Cánh Nam nói: "Dưới sự chỉ dẫn của đức Phật toàn năng, ánh sáng mãi mãi ở phía chúng ta."

Lạt ma Á La nói: "Không thể do dự được nữa, nói với nhóm nghiên cứu, cần phải lập tức làm rõ xem rốt cuộc trên bản đồ ẩn chứa thông tin gì. Lần này chúng ta đã bị chúng bỏ lại sau lưng rồi, à, báo với các thành viên trong nhóm, cần chuẩn bị sẵn sàng để xuất phát bất cứ lúc nào."

"Vâng!"

Cùng thời điểm đó, ở một nơi hoang vắng không bóng người, Merkin lớn tiếng chửi vào điện thoại: "Max! Mày là đồ ngu xuẩn! Tao phải lột da mày! Một chuyện bí mật như vậy, không ngờ lại để mày làm lộ ra hết cả! Tao thật không thể nào hiểu nổi tại sao mình lại cho một thằng ngu như mày đi theo lâu như thế nữa.

Trong ống nghe vang lên giọng sợ sệt của Max: "Chính… chính vì ẩn mật quá… bọn họ cũng làm rất cẩn thận, lúc đi trên đường luôn quan sát xem có ai theo dõi không. Không ngờ… không ngờ… lại khiến cảnh sát Trung Quốc chú ý đến… ông chủ…"

"Cạch," Merkin dập mạnh ống nghe xuống. Nhìn điệu bộ y, như thể muốn đấm một phát cho nát bấy cái điện thoại ra vậy.

"Sao vậy hả?" Giọng Soares lành lạnh như băng cất lên trong một góc u ám.

Merkin hằn học nói: "Mất bản đồ rồi. Tấm bản đồ ấy đã rơi vào tay cảnh sát Trung Quốc. Cái thằng Max ấy đã theo tôi bao nhiêu năm, vậy mà một chút chuyện nhỏ vậy cũng không làm cho xong, thật đúng là ngu xuẩn hết chỗ nói. Còn cả đám lợn Trung Quốc được huấn luyện đặc biệt kia nữa chứ, đúng là một thằng ngu lớn dắt theo một lũ ngu nhỏ!"

Soares phì cười thành tiếng, thầm nhủ, "Không hiểu thằng cha Merkin này đang nói đám thuộc hạ hay nói chính hắn nữa." Chỉ nghe y chậm rãi nói: "Không can hệ gì, chúng ta đã nghiên cứu đi nghiên cứu lại tấm bản đồ đó bao nhiêu lần rồi, không có thì cũng vẫn tìm được thôi."

Merkin nói: "Tôi không lo chuyện này, vấn đề là, tấm bản đồ đó sẽ nhanh chóng rơi vào tay bọn người ở Tây Tạng kia ấy chứ."

Soares bật cười: "Thế thì sao chứ? Bọn chúng cũng phải làm rõ được ý nghĩa của tấm bản đồ trước đã, chỉ sợ cũng phải mất một thời gian, mà trong khoảng thời gian đó, chúng ta đã sớm lấy được thứ mình cần, nếu đúng là có thứ ấy. Sau đó, chúng ta sẽ có thể… trực tiếp đến Bạc Ba La thần miếu rồi!"

Merkin vẫn lo lắng nói: "Vấn đề là, số lượng thông tin mà chúng nắm giữ trong tay lớn hơn của chúng ta rất nhiều. Nói ngay lần này thôi, nếu không phải tôi nhận được tin tức, biết chuyện Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia đã được người Tạng cổ mang đến châu Mỹ, e là đến giờ chúng ta cũng không thể nào lý giải được, tại sao trong địa cung người Maya lại xuất hiện bản đồ do người Tây Tạng vẽ ra nữa."

Soares trầm ngâm nói: "Ừm, anh nói cũng phải, xem ra phán đoán đầu tiên của chúng ta đã sai lầm, đám người đó nghiên cứu Bạc Ba La thần miếu không chỉ mới một hai năm, mà đã nghiên cứu cả một thời gian dài rồi. Nói không chừng, chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi chúng đã dịch được thông tin trên tấm bản đồ ấy cũng nên. Có điều như vậy đâu có sao, đằng nào cũng có mấy nơi khác nhau cơ mà, chúng ta cứ đánh cược một phen đi, xem bên nào tìm được chìa khóa cuối cùng dẫn đến Bạc Ba La thần miếu trước." Y nhổm dậy hít một hơi dài, cái bóng màu xám trong góc tối toát lên vẻ lạnh lùng cô độc, chỉ nghe y chầm chậm nói: "Ben, thời gian nghiên cứu về Tây Tạng của anh dài hơn tôi, anh cho rằng chỗ nào là nơi có khả năng cất giấu bản đồ nhất?"

Khóe miệng Merkin nhếch lên, lộ ra một nụ cười: "Mặc Thoát!" đồng thời lấy di động ra báo cho Max, "Gọi cho bọn ngu xuẩn đã được huấn luyện kia đi, chúng ta xuất phát!"

Lần này Lữ Cánh Nam không giấu các thành viên trong nhóm nữa, tin tức mau chóng thông qua con đường truyền miệng đến tai từng người một. Hai ngày sau, khi Trác Mộc Cường Ba nghe được tin tức từ chỗ Nhạc Dương, liền lập tức báo ngay cho giáo sư Phương Tân vẫn đang vùi đầu nghiên cứu về địa cung của người Maya. Đẩy cánh cửa phòng giáo sư, Trác Mộc Cường Ba cao giọng nói: "Thầy giáo, có tin tức mới, có thể chúng ta sắp xuất phát đến nơi rồi!"

Gian phòng hết sức bừa bộn, giáo sư đang ngồi trước màn hình máy tính, nhìn lướt qua đâu đâu cũng thấy các tài liệu về văn minh Maya. Ông ngoảnh đầu, chỉnh lại gọng kính trên mũi, những nếp nhăn trên trán và mái tóc điểm bạc khiến Trác Mộc Cường Ba không khỏi bồi hồi xúc động. Gã hiểu được, vì gã, người thầy này đã bỏ ra quá nhiều công sức, tình nghĩa giữa gã và giáo sư Phương Tân, một chữ "cảm kích" thôi thật không thể biểu đạt nổi.

Giáo sư Phương Tân gỡ chiếc kính xuống, hỏi: "Ừm, lần này lại có tin gì thế?"

Trác Mộc Cường Ba không giấu nổi niềm hân hoan: "Nghe nói, là có đầu mối mới rồi, hình như là một tấm bản đồ hay gì đó thì phải."

"Ồ!" Giáo sư Phương Tân trầm tư nói, "Cường Ba à, khoảng thời gian này, tôi có trao đổi kinh nghiệm với mấy người bên nhóm nghiên cứu, đồng thời cũng cùng một số người bạn nghiên cứu thêm, chúng tôi phát hiện ra, cái nơi gọi là Bạc Ba La thần miếu này, thật không hề đơn giản như chúng ta hằng tưởng tượng đâu."

Trác Mộc Cường Ba ngồi xuống trước bàn, nhìn gương mặt già nua đi rõ rết của ông, nói: "Thầy giáo, thầy mệt mỏi quá rồi, cứ như vậy sức khỏe không trụ nổi đâu, mà cũng làm tôi thấy áy náy trong lòng nữa."

Giáo sư Phương Tân dụi dụi dử ở khóe mắt: "Cũng hết cách rồi, Cường Ba ạ, cậu vẫn chưa nắm được toàn bộ biến hóa của sự kiện này à?" Ông ngoảnh đầu lại nghiêm túc nói, "Ngải Lực Khắc đi rồi, ông ta không chỉ là giáo quan huấn luyện chúng ta, mà còn là thành phần cốt cán cùng cả nhóm lên đường; anh ta đi khỏi đây, chứng tỏ cấp trên đã truyền đạt xuống đây một tín hiệu rồi. Thời gian kéo dài quá lâu, sự nhẫn nại của cấp trên cũng có hạn thôi, thứ họ muốn nhìn thấy không phải là sự trưởng thành của mấy người chúng ta đây, mà là một thứ có thể khiến người ta phấn chấn thực sự, thế nhưng cho đến tận bây giờ, chúng ta vẫn cứ mãi giậm chân tại chỗ. Vì vậy, trước mắt là nguy khốn trùng trùng, phải tận dụng hết mọi thời gian, nhân lúc còn có thể lợi dụng được nguồn tư liệu quý giá này, chúng ta cần tranh thủ trao đổi nhiều hơn với đám chuyên gia kia, hòng có được những tài liệu muốn có. Những thứ ấy, ở nơi khác chúng ta không thể nào tra ra được đâu."

Trác Mộc Cường Ba đặt tay lên vai giáo sư, gật đầu nói: "Tôi biết, tôi biết, kể từ khi bắt đầu tìm kiếm Tử Kỳ Lân, toàn bộ sự việc đều trở nên phức tạp, hơn nữa lại còn càng ngày càng phức tạp hơn. Thế nhưng, chúng ta… vẫn đề đang sống khỏe mạnh mà, chẳng phải vậy sao? Vả lại, chúng ta cũng đang ngày một tiến gần mục tiêu hơn rồi còn gì." Trải qua một đợt huấn luyện địa ngục, khó khăn lắm mới thoát ra được, cuối cùng cũng coi như có một bước tiến mới, tâm trạng Trác Mộc Cường Ba đương nhiên là hết sức tốt.

Giáo sư Phương Tân thầm tán thưởng trong lòng: "Kiên nhẫn bền bỉ, đây mới chính là Cường Ba mà tôi biết chứ." Ông mở máy tính ra nói: "Trước mắt, đối với việc nghiên cứu văn hóa Maya, phía nhóm nghiên cứu không có tiến triển gì lớn lắm, dù sao họ cũng là chuyên gia về Tạng học chứ không phải chuyên gia về văn minh Maya. Bạn bè tôi giúp liên hệ với một số người chuyên nghiên cứu văn hóa Maya, mỗi người đã nhận được một phần của băng video ấy, và đều gặp phải trở ngại khi xem những chữ khắc trong hầm mộ. Đầu tiên là văn tự ấy không phải là văn tự Maya truyền thống mà đã có một số biến đổi, tệ hơn nữa là, trong số ấy còn xuất hiện gần một trăm ký hiệu bọn họ chưa từng trông thấy bao giờ, vì vậy muốn giải dịch ra cũng có độ khó nhất định. Có điều, tư liệu hình ảnh tôi chụp lại ở chỗ thạch trận khổng lồ thì đã được dịch ra một phần rồi, cậu xem này."

Trác Mộc Cường Ba nhận lấy phần tư liệu, chỉ thấy trên các ký hiệu chi chít những đoạn chú thích, phần văn bản dịch ra ở dưới là: vầng dương đỏ như máu chìm xuống trời Tây, bên trên cánh rừng sâu xanh thẳm như mực là những áng mây xám xịt, tộc trưởng đã sắp qua đời, ông hạ lệnh: "Xây cho ta một căn phòng bằng đá dưới đất sâu, nhỏ thôi nhưng phải kiên cố, mặc cho ta chiếc áo lớn tượng trưng cho vương quyền, rồi đặt ta vào đó, giống như ta vẫn sống, chẳng qua chỉ là ngủ thiếp một giấc dài mà thôi. Bên cạnh hãy đặt chiếc bát đá, bàn ăn và con dao bằng đá lửa, rồi hãy đóng hầm mộ lại theo đúng tập tục của chúng ta, tiếp tục đi con đường của các người, mong rằng các người sẽ tìm thấy Thánh thành trong năm katun tới đây. Ta sẽ mãi ở trên bầu trời quan sát các người, vĩnh viễn chúc phúc cho các người."

Tất cả đều được làm theo mệnh lệnh của ông. Người ta đào một cái hố lớn, xây một căn nhà đá mái tròn dưới đó, bên ngoài nhà đá dựng một tấm bảng đá trên khắc hình chim quyên xanh và rất nhiều động vật khác, từ chỗ thấp nhất lên đỉnh, xây thành ba bậc bình đài, mỗi bậc đều có cầu thang xoáy xung quanh. Ở giữa gian nhà đá, những bức tường trắng và cây cột được điêu khắc tinh tế tỉ mỉ tạo thành một gian phòng đá kín, trên tường có vẽ những sự tích vĩ đại của tộc trưởng, người đã lãnh đạo bộ tộc của mình tìm kiếm quê hương mới. Chính nhờ sự anh minh và dũng cảm của ông, bộ tộc họ mới được sinh sôi phát triển. Trong gian phòng đá này, mọi người trong bộ tộc y theo mệnh lệnh cuối cùng của người, mặc cho ông chiếc áo lớn tượng trưng cho vương quyền, đặt ông nằm giữa hầm mộ, sau đó cử hành nghi thức cổ xưa rồi đóng cửa hầm mộ lại, trên hầm mộ ném cây giáo gãy, cuộn lại và xé rách lá chiến kỳ nổi danh lừng lẫy của ông, để tiếng quát mạnh mẽ của tộc trưởng mãi mãi bầu bạn bên người. Sau đó, mọi người san lấp hố, xây bên trên một ngôi đền bằng đá, có trụ đá ghi niên kỷ và những bức tường đá trắng sáng bóng. Sau khi hoàn tất mọi việc, dân tộc kiên cường bất khuất này lại tiếp tục tiến vào rừng sâu thăm thẳm dưới sự lãnh đạo của một thủ lĩnh mới…

Trác Mộc Cường Ba đọc tới đây, lẩm bẩm nói: "Giống như thánh ca của người Kukuer, nhưng lại khác với những gì chúng ta nhìn thấy."

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Ừm, đây chỉ là nội dung trên ba cây trụ đá trắng thôi, những nội dung khác vẫn đang được gấp rút tiến hành giải mã và dịch ra, tin rằng không lâu nữa sẽ có kết quả thôi. Còn một thứ nữa, còn nhớ loài động vật trâu không ra trâu lợn không ra lợn mà cậu nhìn thấy trong cấm địa Ah Puch không?"

Trác Mộc Cường Ba nói ngay: "Đương nhiên là nhớ, hình như không phải động vật ăn thịt đúng không?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Đối với những nhà nghiên cứu Nam Mỹ, đó đã không còn là bí mật nữa rồi. Loài động vật ấy gọi là trâu lợn, từ những năm ba mươi của thế kỷ trước đã có người phát hiện ra, cũng là một loại động vật mà các nhà khoa học cho rằng đã tuyệt chủng từ bảy đến mười ngàn năm trước, cùng thời với voi ma mút, thổ dân bản địa thường săn bắn làm thức ăn. Về sau đội khảo sát vào rừng tìm kiếm, nhưng không có kết quả gì, cho đến nay vẫn còn một số nhà động vật học đang tìm kiếm nó đấy."

Lúc này, Trương Lập mừng vui khấp khởi chạy vào, cuống quýt nói: "Giáo sư, Cường Ba thiếu gia, mau ra đây, giáo quan sắp tuyên bố rồi, tin tức tốt đấy!"

Mọi người tập trung cả về gian phòng học lớn. Lữ Cánh Nam nói với học viên bằng giọng hòa nhã nhất có thể: "Có lẽ trong các bạn cũng có người biết rồi. Mấy hôm trước, đối thủ của chúng ta, Ben đã đến Trung Quốc, đồng thời, công an Trung Quốc chúng ta cũng tìm được một tấm bản đồ chú thích bằng tiếng Tạng cổ, nói chính xác hơn, đó là một tấm bản đồ hàng hải, sau khi được các chuyên gia trong nhóm nghiên cứu ngày đêm không ngừng tìm hiểu, cuối cùng chúng ta đã phát hiện ra được vấn đề quan trọng nhất."

Lữ Cánh Nam dừng lời, chỉ nghe thấy tiếng thở gấp gáp bên dưới, lại tiếp tục nói: "Nếu kết quả của nhóm nghiên cứu là chính xác, thì tấm bản đồ đó là do vị sứ giả có nhiệm vụ mang Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu đến châu Mỹ chôn giấu, trong thời gian ở Maya, dựa vào trí nhớ siêu phàm của mình vẽ nên con đường ông đã đi qua. Vị sứ giả ấy thuở sinh tiền ắt hẳn là một vị trí giả, ông đã vẽ bản đồ của vùng Tây Tạng-Vệ hết sức tường tận rạch ròi, mặc dù không thể so với bản đồ ngày nay, nhưng cũng đủ cho chúng ta hiểu được đại khái. Còn hình dạng của các quốc gia châu Á khác và châu Mỹ thì lại hết sức cổ quái, làm các chuyên gia của chúng ta phải vắt hết tâm tư mới nhận ra rằng, đây là hình tượng của hai châu lục lớn này trong mắt người xưa. Nhưng nếu những suy đoán về tấm bản đồ hàng hải này là đúng, thì các địa điểm quan trọng chú thích trên đó lại khiến người ta thật không sao hiểu nổi. Kết hợp với rất nhiều tư liệu khác, nhóm nghiên cứu của chúng ta đưa ra kết luận rằng, vị sứ giả kia sau khi đến Bạch thành lo rằng mình không thể trở về Tây Tạng lấy thành vật khác đi, nên đã dùng trí tuệ của mình vẽ nên tấm bản đồ này. Chắc ông ta giao cho người mình tin cậy nhất trong Bạch thành, sau đó mới trở về Tây Tạng, nhất định đã dặn dò người ở lại rằng, bao nhiêu năm sau đó, nếu có đủ năng lực, hãy đến Tây Tạng xem thử những thứ này thứ kia có còn ở đấy hay không, nếu không còn thì phải làm thế nào. Trong đó có ba nơi cực kỳ quan trọng, sau nhiều tranh luận, chúng tôi cho rằng, một là di chỉ Cổ Cách ở khu vực A Lý hiện nay, một là quần thể cổ mộ ở huyện Lạp Tư, khu vực Xigaze ngày nay, còn nơi cuối cùng, thì nằm ở Mặc Thoát, khu vực Lâm Chi ngày nay."

"Gì hả?" Cặp mắt Trác Mộc Cường Ba như muốn lồi hẳn ra ngoài, gã kinh ngạc thốt lên, "Vậy chẳng phải là đánh dấu cả ba vùng Tạng-Vệ vào rồi hay sao?" Khu vực A Lý nằm ở phía Tây đất Tạng, trên biên giới Trung-Ấn, Xiaze thì ở miền Trung Tây Tạng, còn Lâm Chi thì ở phía Đông, như vậy, phạm vi đánh dấu của tấm bản đồ này đã bao trùm cả Tây Tạng mấy ngàn cây số vuông rồi.

Nhạc Dương cũng nói: "Nhưng vị sứ giả năm ấy chẳng phải đã bình an trở về rồi hay sao? Vậy chắc ông ta đã mang đi những tín vật còn lại rồi, cho dù không phải ông ta, thì những nhà thám hiểm trước chúng ta có lẽ cũng mang đi mất rồi. Chúng ta còn đi…"

Lữ Cánh Nam ngắt lời: "Đúng vậy, trong Cổ Cách kim thư chép là vị sứ giả kia có trở về thật, nhưng sau hi trở về lại không hề rời khỏi Cổ Cách, hơn nữa chẳng bao lâu sau thì đã qua đời, sách chép rằng u uất bi thương mà chết. Vì vậy, có thể đoán rằng ông ta vẫn chưa kịp đến những nơi khác. Có điều, chúng ta không còn thời gian nữa rồi, đám người của Ben đã xuất phát trước chúng ta mấy ngày, mặc dù những người chuyên trách theo sát chúng cho rằng tên Ben đó đã biến mất ở khu vực Khả Khả Tây Lý, song chúng tôi nghi ngờ đó chỉ là trò che mắt thôi, vì vậy, chúng ta cũng phải nhanh chóng lên đường. Mặc dù không có chú thích nào chỉ ra ba nơi ấy có những gì, nhưng dựa trên những tư liệu khác của chúng ta đã có, các chuyên gia suy đoán đó có lẽ là một tấm bản đồ vẽ trên da sói."

Trương Lập thắc mắc: "Nhưng tấm bản đồ ấy chẳng phải là đã bị người ta lấy đi rồi hay sao?"

Lữ Cánh Nam cười cười: "Đúng thế, có một tấm bản đồ đã bị người ta lấy đi, nhưng ai có thể khẳng định rằng chỉ có một tấm bản đồ thôi chứ. Vị quốc vương năm đó, đến cả Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu còn phục chế được, vậy thì… tại sao không thể có hai tấm bản đồ chứ? Còn nữa, những người có tấm bản đồ kia, cho đến nay vẫn chưa thể tìm được Bạc Ba La thần miếu, tấm bản đồ bị lấy đi ấy là thật hay giả, giờ cũng chưa thể xác định được. Tóm lại, chúng ta không thể bỏ qua bất cứ đầu mối nào, hơn nữa, đây còn là đầu mối có thế khiến đối thủ của chúng ta hết sức hứng thú nữa!"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Vậy nên chúng tôi phải lập tức đi luyện tập, phải vậy không giáo quan?"

Lữ Cánh Nam lắc đầu: "Đợi chút đã, hôm nay gọi mọi người đến đây chính là vì còn có bài học mới nữa. Có câu, biết mình biết người, trăm trận trăm thắng, lần này chúng ta lên đường chỉ sợ sẽ phải đối mặt với quân đội đặc chủng chính quy của nước ngoài, mặc dù không biết đối phương có thể mang vũ khí vào lãnh thổ Trung Quốc hay không, nhưng tôi vẫn phải nói cho mọi người biết về một số vũ khí loại mới mà bọn họ sử dụng."

Rèm cửa đều hạ xuống, đèn phòng tắt hết, trên màn hình máy chiếu, bọn Trác Mộc Cường Ba lần lượt tìm hiểu các loại vũ khí mà đối thủ sử dụng. Ngoài các loại vũ khí thông thường của lính đặc chủng, còn có những loại vũ khí hoàn toàn mới mà mấy người nhóm Trác Mộc Cường Ba chưa từng thấy bao giờ, bao gốm súng lắp ống kính camera có thể xoay ngoặt, còn có một loại lựu đạn sáng khiến người ta cũng lúc mất cả thị giác lẫn thính giác, thuốc nổ hẹn giờ dạng dính hình cúc áo, một loại thuốc giảm đau tác động đến trung khu thần kinh, khiến người ta dù tổn thương đến vỡ xương gãy xương cũng không hề thấy đau đớn… Loạt vũ khí mới đó khiến bọn Trác Mộc Cường Ba hoa hết cả mắt, càng nghe lại càng thấy rợn người, nói thế nào cũng thấy giống như mình sắp đi đánh trận…

Thời gian không còn nhiều, chỉ có một ngày để thu thập tư liệu, ngày thứ hai cả nhóm đã sắp xếp hành trang lên đường, đích đến của họ lần này là… Mặc Thoát!

Vùng đất bí mật cuối cùng

Mặc Thoát, ở triền Nam dãy Himalaya, tiếp giáp với Ấn Độ, dịch nghĩa ra là "đóa sen bí ẩn", từ "Mặc Thoát" trong tiếng Tạng được dùng để chỉ hoa. Nơi này là huyện duy nhất trong toàn quốc không thông với đường quốc lộ, gọi là "hòn đảo cô độc trên cao nguyên", địa thế Nam thấp Bắc cao, diện tích khoảng ba mươi ngàn kilomet vuông, thuộc vùng lòng chảo hạ du sông Nhã Lỗ Tạng Bố, độ cao trung bình một ngàn mét so với mực nước biển. Mặc Thoát nằm trên vùng đứt gãy Himalaya và vùng đứt gãy Mặc Thoát, hoạt động địa chất rất phức tạp, thường xuyên xảy ra động đất, sụt lở, đất đá trôi, cộng thêm khí hậu ẩm thấp nhiều mưa. Chính phủ cũng từng đầu tư một khoản tiền lớn để xây đường, song gần như không thấy hiệu quả gì. Tương truyền, chính A Quỳnh Kết Ba bảo hộ cho thánh địa cuối cùng của Tạng giáo nguyên thủy này, không để người khác xâm hại; cũng có người nói đây là kết quả năm xưa A Quỳnh Kết Ba đấu ghép với Liên Hoa Sinh đại sư, khiến nơi này núi cao lởm chởm, khe núi sâu dài, lấy sông Nhã Lỗ Tạng Bố làm ranh giới, vạch ra một quan ải thiên nhiên hiểm trở khó thể vượt qua..

Vùng đất núi non bao bọc, lúc nào cũng có nước chảy qua này được các tôn giáo trên đất Tạng coi là thánh địa, Phật giáo cũng vậy, mà các tôn giáo khác cũng vậy. Vì có đại hiệp cốc 4 Nhã Lỗ Tạng Bố, đặc trưng của vùng này chính là "một núi bốn mùa, mười dặm khác thời tiết"; đứng ở chân núi cao mấy trăm mét so với mực nước biển, sẽ được hưởng khí hậu cũng như cảnh sắc của vùng á nhiệt đời, nhưng khi tốn nửa ngày thời gian trèo lên đỉnh núi cao mấy ngàn mét, khí hậu đã chuyển sang thành khí hậu địa cực rồi.

Di tích sông băng cổ nơi này khá phổ biến. Từ sông băng cổ đến lòng chảo sông hiện đại, địa hình đã chuyển từ khe hình chữ "U" tương đối rộng rãi thành khe hẹp và sâu hình chữ "V", sức ăn mòn của dòng chảy cực lớn, thường hình thành nên những "khe trong khe", độ cao chênh lệch lên tới 7.000 mét. Mặc Thoát dựa vào khe núi Nam Ca Ba Ngõa cao 7.766 mét so với mực nước biển, bên cạnh là ngọn Gia La Bạch Lũy cao 7.151 mét, vùng đất thấp nhất trong huyện cũng cao 750 mét so với mực nước biển, giữa hai khe có sông treo, và các thác nước lớn nhỏ nối liền, tạo nên một khung cảnh cực kỳ tráng lệ của thiên nhiên.

Mặc Thoát ban đầu gọi là "Lạc Du", tức là nơi người Lạc Ba sinh sống, về sau các dân tộc hay quần tộc Môn Ba, Hạ Nhĩ Ba, Tạng, Tranh cũng chuyển đến, từ đó đến nay vẫn sống tự túc tự cấp, phương thức sản xuất và phong tục rất độc đáo. Vì đường đi gồ ghề khúc khuỷu, những dân tộc này đã quen với cách sống "lên núi giữa ngàn mây, xuống núi ra bờ sông, nói phải nghe ra tiếng, đi đường phải một ngày" rồi.

Ở dải đất sâu trong trung tâm, nguy hiểm nhất đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, chính là đoạn sông dài gần trăm cây số từ Bạch Mã Cẩu Hùng đi xuống, khe núi sâu thẳm u tối, nước chảy cuồn cuộn, đến giờ vẫn chưa ai có thể đi qua được. Chính vì sự khó khăn và nguy hiểm ấy, nên nơi này được gọi là "vùng đất bí mật cuối cùng của nhân loại". Theo sự chỉ dẫn của tấm bản đồ kia, bọn Trác Mộc Cường Ba, đang chuẩn bị đến chính nơi đó thử vận may.

"Tại sao chúng ta lại chọn Mặc Thoát vậy?"

"Bởi vì nơi đó là có khả năng tìm thấy nhất. Cậu nghĩ xem, năm 1985, sau khi nhà nước thành lập đội khảo cổ chuyên trách khảo sát, di chỉ Cổ Cách đã được xếp hạng di tích được bảo hộ, nếu trong đó có thứ gì thì cũng đã bị khai quật lên hết cả rồi. Hơn nữa lối vào đánh dấu trên bản đồ cách di chỉ Cổ Cách ngày nay tới mấy chục cây số, chỉ e vị trí không được chính xác cho lắm. Còn quẩn thể mộ cổ La Tư bây giờ cũng được liệt vào hàng văn vật quốc gia, chúng ta có đi chắc cũng chẳng thu hoạch được gì đâu. Chỉ có Mặc Thoát, đến năm 1993 mới lần đầu tiên thông đường, nhưng chưa được nửa năm đã sụt lở nên không thể sử dụng, cho đến nay, những người từng đi Mặc Thoát và người từ Mặc Thoát trở ra đều có thể dùng đầu ngón tay là đã đếm hết, mà quan trọng hơn cả là… thực ra nơi đó, có mối liên hệ rất lớn với Bạc Ba La thần miếu mà chúng ta đang tìm kiếm."

"Quan hệ rất lớn?"

"Đúng vậy, Mặc Thoát núi non trùng điệp, riêng thần sơn với thánh đồ đã có mấy chục chỗ, mặc dù không thông với đường quốc lộ, nhưng nơi này không chỉ là thánh địa của Phật giáo, mà còn là thánh địa và nơi khởi nguồn của Tạng giáo nguyên thủy và Bản giáo cổ nữa. Đến ngày nay ở đó vẫn còn tín đồ Bản giáo, lưu truyền rất nhiều câu chuyện đại tôn sư của Bản giáo và đại tôn sư Phật giáo đấu phép. Mà Bạc Ba La thần miếu chúng ta đang tìm kiếm dường như có liên hệ rất sâu xa với Bản giáo thì phải."

"Gì cơ? Có liên hệ rất sâu xa với Bản giáo? Chẳng phải đó là nơi các tăng lữ dời đến trong thời kỳ diệt Phật hay sao?"

"Không sai, nhưng dựa trên những tư liệu chúng ta có, vì khi ấy đang nổi lên làn sóng diệt Phật, tất cả các tăng lữ Phật giáo đều gặp nạn, bọn họ cần nhờ đến lực lượng của các tôn giáo khác để hoàn thành nhiệm vụ che giấu và vận chuyển một lượng lớn các vật phẩm. Mà trong thời kỳ ấy, sợ rằng cũng chỉ có các tín đồ Bản giáo là chấp nhận bỏ qua hiềm khích trong quá khứ thôi. Hơn nữa, như vị sứ giả mang tín vật kia, bản thân cũng chính là một giáo đồ Bản giáo thì phải."

"À, tôi nhớ ra rồi, không phải đại sư đã nói, cái huyết trì còn nguyên dạng đầu tiên được khai quật ở Mặc Thoát hay sao, nói như vậy thì đúng là có quan hệ rất lớn với nơi này rồi. Huyết trì có phải dụng cụ tế lễ của Bản giáo không?"

"Cũng chưa chắc, khi Phật giáo dần dần đi sâu vào lòng người, có rất nhiều tín ngưỡng nguyên thủy đã bị nó đồng hóa, mà ban đầu vùng Tây Tạng này rốt cuộc có bao nhiêu tôn giáo, đến giờ cũng không ai nói chắc được. Lấy Mật giáo của chúng tôi làm ví dụ nhé, tương truyền trước đây Mật giáo cũng không phải một nhánh của Phật giáo, mà là một tôn giáo hoàn toàn độc lập, nhưng bây giờ, chúng tôi và Tạng truyền Phật giáo đã dung hợp lại thành một và không thể tách rời rồi."

"Sao chúng ta không chia tổ ra? Như vậy có thể cùng lúc tìm ở hai nơi khác nhau, nói không chừng còn phát hiện ra điều gì đó trước tên Ben kia ấy."

"Không được, chúng tôi đã suy tính rất kỹ về vấn đề này. Nếu không có đối thủ nào, chúng ta tất nhiên có thể chia làm hai tổ lên đường, nhưng tên Ben Merkin kia quả thực là ghê gớm, trước khi chúng ta làm rõ gốc gác của bọn chúng, cần phải hợp lại mới đối kháng được. Hơn nữa, lần này cứ coi như là kỳ sát hạch nhóm cuối cùng đi, tôi lần đầu tiên dẫn mọi người lên đường, một là có thể quan sát hiệu quả huấn luyện của mọi người, hai là đồng thời cũng có thể sửa chữa những sai sót lệch lạc cho từng người nữa."

"A, không biết lần này đến Mặc Thoát có kinh khủng như rừng rậm châu Mỹ không nhỉ?"

"Tuyệt đối là không, có mấy tuyến đường khác nhau để đi Mặc Thoát, trong đó lộ tuyến truyền thống là từ huyện Mê Lâm - Đa Hùng Lạp - Nã Cách - Hãn Mật - Mã Ni Ông - Bối Đăng, lộ tuyến của chúng ta là từ huyện Mê Lâm, qua Đại Độ Ca, Cách Ca, sau đó tới Gia Lạp, đi dọc dòng sông tiến vào đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố. Vì từ Gia Lạp trở đi là khu vực không người, đi dọc theo bờ sông đại khái mất khoảng hai, ba ngày là tới được Bạch Mã Cẩu Hùng. Chúng ta đi nhanh, có lẽ chỉ cần hai ngày là đến rồi. Có thể đảm bảo, đây là một con đường hết sức an toàn!"

"Chậc, sao tôi nghe trong ngữ điệu như có sự uy hiếp thì phải?"

"Suỵt… nhỏ thôi, tai giáo quan thính lắm đấy."

Cả đoàn người rì rầm nói chuyện, cùng xuất phát tiến về hướng vùng đất bí mật cuối cùng của nhân loại. Vừa tới bờ sông, các thành viên tron đội đều ngớ mặt ra. Con đường nhỏ mà Lữ Cánh Nam bảo là cực kỳ an toàn ấy, hóa ra chỉ là một dải hẹp chìa ra lơ lửng trên vách núi, rộng chưa đến một thước, so với sạn đạo vào đất Ba Thục thời cổ còn hẹp hơn nhiều, vách đá thì trơn nhẵn như bị một đường búa xẻ ra, bên dưới là sông Nhã Lỗ Tạng Bố cuồn cuộn sóng cồn, tiếng sóng vang động như sấm. Con đường nhỏ lơ lửng này không cao lắm, cách sông Nhã Lỗ Tạng Bố chừng ba tới năm trăm mét, nếu lỡ rơi xuống có bị lộn nhào mấy vòng trên không cũng vẫn kịp hô gọi cứu mạng, có điều muốn leo trở lên thì e không dễ dàng gì cho lắm.

Nhạc Dương khó khăn nuốt nước bọt đánh ực, nghẹn lời lẩm bẩm: "Đây chính là cực kỳ an toàn à!"

Trương Lập làm bộ khoa trương, ấn hai tay lên ngực nói: "Tôi mắc chứng sợ độ cao rất nặng, Cường Ba thiếu gia có thể làm chứng. Giáo quan, chúng ta là đội khảo sát cấp quốc gia cơ mà, tại sao không phái một chiếc trực thăng…" Lữ Cánh Nam lừ mắt nhìn qua, Trương Lập vội vàng nói: "Ờ hớ, tôi nói… nói là… cái kia… kia…, tôi đang nói gì ấy nhỉ?" Anh chàng đánh mắt sang hỏi Nhạc Dương.

Lữ Cánh Nam đáp: "Không được, dòng xoáy không khí trong hiệp cốc rất mạnh, trực thăng không thể tác nghiệp ở độ cao thấp được. Chứng sợ độ cao hả? Lúc huấn luyện sao không thấy cậu sợ độ cao?"

Nhạc Dương đầu óc linh hoạt, liền phát biểu ý kiến khác: "Có thể nhảy dù mà."

Trương Lập cũng thẽ thọt nói: "Lúc huấn luyện chỉ cao có mấy chục mét, sao mà so với chỗ này được."

Lữ Cánh Nam nói: "Các cậu tưởng tôi chưa nghĩ đến sao? Sử dụng phương tiện giao thông đúng là có thể tiết kiệm được thời gian, nhưng các cậu có thử nghĩ chưa, trực thăng là mục tiêu lớn thế nào, nếu bọn chúng cũng ở gần đấy hơn nữa lại có vũ khí… nhớ cho kỹ, không được có bất cứ sai sót nào. Kể từ bây giờ, chúng ta phải giữ tốc độ mỗi ngày đi một trăm cây số, trong hai ngày sẽ đến được Bạch Mã Cẩu Hùng. Ở đó có đường lớn, có thể vượt sông, sau đó chúng ta sẽ đi thẳng tới đích đến của lần này, một nơi tên gọi là Lạp Mẫu Bạc Quả."

Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn Ba Tang, thấy anh ta vẫn lạnh lùng như trước, không để lộ chút cảm xúc gì ra mặt.

Đi trên con đường nhỏ lơ lửng nơi vách núi, mặc dù đều trải qua huấn luyện đặc biệt, mọi người vẫn hết sức cẩn thận, dù sao thì bên dưới cũng là dòng sông cuồn cuộn sóng, rơi xuống tuyệt đối không phải trò đùa. Đi được chừng mười dặm, Lữ Cánh Nam đi đầu tiên đột nhiên chậm lại, cả đoàn cũng cùng lúc dừng lại theo, mọi người nhất loạt trụ vững thân hình. Chỉ riêng một động tác dừng lại đơn giản thế này thôi, cũng đã phải trải qua nhiều lần tập luyện mới đạt tới mức đồng điệu nhịp nhàng thế này, bằng không đang đi với tốc độ cao, phía trước bất ngờ xuất hiện đoạn gãy đứt, nếu người phía sau không kịp dừng bước, khẽ huých vào người đi trước một cái, người phía trước rất có thể sẽ rơi xuống. Mà ở trên vách núi nhô ra rộng chưa đầy một mét này, hai người đụng vào nhau, nguy cơ cả hai cùng rơi xuống là rất lớn. Bạn đang đọc truyện được lấy tại Truyenyy chấm cơm.

Lữ Cánh Nam dẫn đầu, lạt ma Á La đi sau cùng đoạn hậu. Nhân lúc dừng lại, Trương Lập đi ở giữa hỏi Nhạc Dương đứng trước mình: "Sao thế hả?"

Đường Mẫn đứng trước Nhạc Dương nói: "Đất sụt."

Mặc dù Trác Mộc Cường Ba đứng giữa, nhưng thân hình cao lớn, chỉ lờ mờ trông thấy đoạn đường hẹp phía trước bị bùn đất ở trên sụt xuống lấp mất, phần nhô ra trên vách đá chỉ rộng bằng lòng bàn tay. Đoạn đường hẹp không đủ chỗ đặt chân này dài tới mười bảy mười tám mét, Lữ Cánh Nam nghĩ ngợi giây lát, rồi đặt ba lô xuống, ép lưng sát vào vách đá, hai chân giạng ra hình chữ bát, hai tay bám ngược vào đá, nhích người qua từng bước một. Đi qua đoạn ấy, cánh tay liền vung lên kéo chiếc ba lô qua, thì ra từ nãy cô đã quấn sợi dây thép mảnh trên cổ tay vào quai lô rồi. Mọi người liền làm theo cách đó, từng người đều đi qua được. Tới lượt Trác Mộc Cường Ba, gã hít sâu một hơi, áp lưng vào vách đá, hai mắt nhìn thẳng về phía trước, nhìn thấy phía đối diện hiệp cốc núi xanh mơn mởn, lũ chim bay lượn trên cao, nghe thấy tiếng nước chảy ầm ầm, khoảng cách có mười mấy mét mà gã dù được huấn luyện đặc biệt rồi cũng mất gần hai phút mới qua được. Dọc đường cũng hơi thấy nền đá dưới chân lơi ra, tựa hồ như có đá vụn rơi xuống lả tả, có điều cuối cùng cũng qua được bình an.

Người cuối cùng là lạt ma Á La nghệ cao gan lớn, không cần cởi ba lô, mà xoay người úp mặt vào vách đá, ba lô lơ lửng giữa không trung. Trác Mộc Cường Ba biết rõ, đi qua như vậy, trọng tâm hoàn toàn lệch về phía ngoài vách đá, bản thân gã tự nhủ mình không có bản lĩnh ấy. Gã đang nghĩ ngợi, bỗng thấy đá dưới chân lạt ma Á La sụt, cả người ông đã thụt hẳn xuống, trái tim gã như muốn nhảy tót ra khỏi lồng ngực. Chợt thấy ông vươn tay ấn vào một kẽ nứt cạnh đó, cả người bốc hẳn lên cao, tựa như cánh ưng chao liệng. Lúc đó gã ngước lên nhìn lại, vị sư già đã đứng vững vàng phía bên này đoạn đường hẹp ấy rồi.

Nhạc Dương gần như không hiểu nổi, người bộ tộc Môn Ba làm sao mà đi đi lại lại trên con đường này được. Có điều anh chàng cũng biết, người đi được trên con đường này quả thực là ít càng thêm ít, ở đây mười mấy hai mươi ngày không thấy bóng người cũng là chuyện hết sức bình thường.

Cùng lúc ấy, Merkin dẫn theo một đám người đang ở trong gian đại sảnh màu vàng rộng lớn. Bọn họ cắm những ống phun lửa nhỏ vào bốn bức tường, sau đó đứng ngắm nghía gian đại điện rộng rãi. Merkin mặc bộ rằn ri của lục quân Anh quốc, chiếc thắt lưng bản lớn bó chặt làm thân hình khôi vĩ của y thêm phần cao lớn mạnh mẽ. Soares vẫn mặc chiếc áo xám trông như thầy mo, chỉ đệ lộ ra nửa gương mặt quỷ trông chẳng khác nào quả quýt nát nhừ.

Một người thân hình gầy gò nhỏ bé dùng thứ tiếng từa tựa như tiếng Tạng cổ nói: "Xin Thánh sứ đi theo tôi, bên này có lẽ có thứ các vị muốn tìm." Soares đưa mắt nhìn Merkin, khóe miệng nhếch lên tựa hồ như cười mà không phải cười. Merkin bừng bừng nổi giận, nhấc cái người nhỏ bé cao chưa tới mét rưỡi kia lắc mạnh: "Ta đã bảo với ngươi rồi, ở bên ngoài không cần gọi ta là Thánh sứ thánh siếc gì cả! Ngươi không hiểu à!"

Người nhỏ bé kia không phản kháng, vẫn gượng cười nói: "Vâng, Thánh sứ đại nhân."

Merkin chán nản thở dài, đành dặn dò đám thủ hạ canh gác cẩn thận, rồi cùng Soares theo chân người nhỏ con kia đi qua cánh cửa đá khổng lồ, xuống những bậc thang rộng tới một gian phòng giống như gian thờ Phật. Giữa căn phòng đặt một cái đài cao hình tròn có hàng lan can gỗ mục nát, trên đài đặt một pho tượng đá lớn tạc hình hai người đứng ôm chặt nhau. Merkin không khỏi bật lên tiếng cười lạnh lẽo: "Hoan Hỉ Phật, giáo phái này thờ toàn tà Phật hả, hừ… lý thú lắm."

Soares nói: "Chỗ này còn tà dị hơn những gì chúng ta tưởng tượng nữa, cả tôi và anh đều không hề biết gì về giáo phái nguyên thủy này. Chẳng hạn những thứ động vật bọn họ đặt trong các vò vại kia cả tôi cũng chưa từng thấy bao giờ, hình như vừa giống cá, lại vừa như động vật có vú. Còn các thi thể bên ngoài kia nữa, ở đây e là còn tà quái hơn địa cung Ah Puch nhiều."

Người đàn ông nhỏ bé kia dường như vừa hoàn thành việc gì đó, quay sang cung kính nói với Merkin: "Thánh sứ, mời ngài xem…" Chỉ nghe "rầm" một tiếng, bức tượng đá khổng lồ không ngờ đã tách ra!

Buổi sáng đi được ba mươi kilomet, dọc đường gặp phải sáu chỗ đất sụt, có nơi thậm chí hoàn toàn không thể đi được, chỉ còn cách bám vào vách đá trèo qua. Lữ Cánh Nam nói, có thể trận mưa lớn ba ngày trước chính là nguyên nhân gây nên sụp lở đất trên phạm vi lớn. Buổi trưa, họ tìm thấy một chỗ tương đối rộng rãi, vách đá lõm vào trong một chút, hình thành nên một hang động bán thiên nhiên, liền dừng lại chuẩn bị dùng bữa. Cũng may là dọc đường còn có một số hang hốc nhân tạo này nên người đi đường mới có một số chỗ nghỉ ngơi. Lữ Cánh Nam đột nhiên nói: "Giáo sư, đại sư, mọi người xem ở trong này…"

Trác Mộc Cường Ba cũng hen vào, chỉ thấy dưới đất có một mẩu thuốc, màu sắc phai hết, cách đó không xa còn có hai mẩu nữa, những chỗ khác cũng có vài thứ linh tinh. Giáo sư Phương Tân nói: "Xem ra, bọn chúng đã qua đây rồi, giờ đang ở ngay phía trước chúng ta thôi."

Lạt ma Á La gật đầu: "Đúng thế, dân Tạng không hút thứ thuốc này."

Lữ Cánh Nam nhìn mặt đất khô ráo, nói: "Đầu mẩu thuốc này chưa bị ngâm nước thì không mất màu đên mức này đâu, ít nhất chúng cũng đi qua đây từ ba hôm trước rồi." Nói đoạn, cô xoay người lại, "Ăn nhanh lên, ăn xong chúng ta còn phải lên đường cho sớm."

Lạt ma Á La lắc đầu: "Chỉ e đã muộn mất rồi."

Lữ Cánh Nam nói: "Dù thế nào, chúng ta cũng phải đến xem thử một phen, hơn nữa…" cô ngẩng đầu lên, "chỉ có hai ngày tới đây trời mới không mưa, nếu sau hai ngày mà vẫn chưa qua được đoạn đường trên vách núi này, muốn tiến lên lại càng khó khăn hơn gấp bội đấy."

Sau đó đoàn người lại phát hiện ra nhiều bao bì thực phẩm vương vãi bên đường, mỗi thứ dường như đều cố tình chọc vào mắt bọn họ, khiến ai nấy càng thêm nôn nóng hơn. Qua các dấu vết đối phương để lại, có thể phán đoán sơ bộ như sau, nhân số của chúng khoảng từ mười đến hai mươi người, đều được huấn luyện kỹ càng. Ở những chỗ đất sụt sau cơn mưa ba hôm trước, còn phát hiện dấu vết sử dụng đinh tán và dây trượt. Ngoài ra đám người này thích dùng các đồ ăn có nhiệt lượng cao, có lẽ là đến từ một vùng đất lạnh lẽo. Thói quen thường ngày của chúng rất tệ, túi bọc đều bị xé rách toang, đầu mẩu thuốc vứt lung tung, đại tiểu tiện bừa bãi, lại còn hút cả thuốc phiện nữa. Lữ Cánh Nam cho rằng, những thói quen này rất giống của đám lính đánh thuê. Vì giờ phút nào cũng phải lượn lờ qua mặt tử thần, nên tính tình chúng hầu hết đều hết sức lưu manh. Còn có một số dấu vết chỉ ra rằng, thân hình bọn chúng không cao lớn lắm - đây là một điểm không khỏi khiến người ta phải sinh nghi.

Thấy Lữ Cánh Nam phân tích hết sức rõ ràng, Trác Mộc Cường Ba dần dần cũng lĩnh hội được một số cách tư duy của Lữ Cánh Nam. Cả đoàn người cứ hành quân như vậy, cũng phải tới hoàng hôn ngày thứ ba mới đến được con đường lớn mà Lữ Cánh Nam nói ban đầu.

Nhạc Dương là người đầu tiên kêu ca: "Giáo quan à, cô có thể dùng con mắt của người bình thường mà nói với chúng tôi, con đường này rốt cuộc là thế nào không? Đừng có dùng con mắt của cô nhìn vấn đề có được không hả, cái này… cái này mà gọi là đường lớn ư? Rõ ràng là dây trượt Đại Lưu Tố mà."

Đại Lưu Tố là một điểm đặc sắc của đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, cũng là con đường duy nhất để người các bộ tộc như Môn Ba, Lạc Ba vào ra Mặc Thoát, là một sợi dây sắt to như cột đèn dài mấy trăm mét, vắt ngang hai bên vách núi. Khi trượt qua, người bản địa sử dụng giá gỗ tự chế gá lên xích sắt, rồi quấn một sợi thừng ở eo hông, sau đó buộc chặt hai đầu giá gỗ, hai chân giơ lên cao, kẹp hờ vào dây xích, rồi thuận theo độ cong của xích sắt mà trượt xuống, khi trượt tới mấy chục mét cuối cùng, phải dùng cả tay lẫn chân để bám leo lên.

Nếu không đủ kỹ thuật và tài nghệ, lúc sắp đến bờ bên kia không kịp thời bám lấy dây xích, sẽ bị trượt ngược trở lại, cuối cùng lơ lửng ở chính giữa dây xích, bên dưới mấy trăm mét là dòng Nhã Lỗ Tạng Bố sóng cuộn ầm ầm như sấm động, giữa hiệp cốc lại thường có gió buốt thổi qua, nghe nói mùi vị ấy thật vô cùng khó chịu, đã từng có trường hợp bị hãi hùng mà mắc phải bệnh thần kinh. Khi ấy, cách duy nhất chính là có người giỏi kỹ thuật trượt qua, đẩy người phía trước sang bờ đối diện, ngoài ra số người ở trên xích sắt cùng một lúc không thể quá nhiều, một là đụng chạm vào nhau sẽ cực kỳ nguy hiểm, hai là dây xích cũng không thể chịu được trọng lượng quá lớn, có thể đứt đoạn.

Bọn Trác Mộc Cường Ba sử dụng bánh xe trượt, tốc độ di chuyển lớn hơn giá gỗ nhiều lần, hơn nữa chỉ cần leo lên là có thể trượt đi ngay, có điều đến đoạn cuối cùng thì vẫn phải dùng cả tay lẫn chân bò lên.

Mấy người đi trước đều đã an toàn sang bờ bên kia, riêng Đường Mẫn bỗng dưng sợ hãi. Trác Mộc Cường Ba khuyên mấy lần, nhưng cô vẫn không dám treo mình lên. Không còn cách nào khác, gã đành để những người khác qua trước, cuối cùng chỉ còn lại hai người, gã và Đường Mẫn, phải cổ vũ mãi, cuối cùng Đường Mẫn mới chịu đồng ý thử một lần.

Ở đầu bên kia, Lữ Cánh Nam hỏi: "Đường Mẫn sợ dây thừng hả?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Ừm, lúc leo lưới thì không sợ, nhưng lúc trượt dây hình như hơi sợ một chút, có điều chưa lần nào sợ đến mức này cả, mỗi lần cũng đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ."

Lữ Cánh Nam nắm sợi xích trong tay, trầm ngâm giây lát rồi nói: "Có thể cô ấy từng bị rắn cắn. Trương Lập, Nhạc Dương, hai người lại gần đây một chút, đợi lát nữa nếu cô ấy không trèo lên được thì giúp một tay kéo lên."

Trương Lập và Nhạc Dương chia nhau đứng hai bên dây xích. Chỉ thấy Đường Mẫn cắn môi trượt qua, vừa tới đầu bên này, thân hình dừng sững lại, đáng lẽ phải lập tức kẹp chặt hai chân, đồng thời dùng cả hai tay ôm lấy dây xích leo lên, nhưng không hiểu tại sao, tay Đường Mẫn vẫn nắm chặt lấy bánh xe trượt, không dám ôm lấy xích sắt. Trương Lập vội hét lớn: "Bám lấy xích sắt, bám lấy xích sắt đi!" Đồng thời cùng Nhạc Dương tiến lên trước một bước, đến sát mép vách đá, chuẩn bị tóm lấy chân Đường Mẫn kéo lên.

Lúc này, Đường Mẫn đột nhiên trượt ngược về phía sau, Trương Lập và Nhạc Dương đều không kịp tóm lấy, chỉ biết trơ mắt ra nhìn Đường Mẫn trượt đi càng lúc càng xa, kế đó trượt đi trượt lại trên dây xích mấy lượt, cuối cùng dừng lại ở chính giữa sợi xích sắt.

Lữ Cánh Nam nói: "Cô ấy không qua được rồi, lúc huấn luyện sao không phát hiện ra vậy?"

Lạt ma Á La nói: "Có lẽ khi huấn luyện làm tương đối ít, dù sao trượt dây cũng là một hạng mục rất đơn giản, hơn nữa bên dưới bãi huấn luyện là cát, hoàn cảnh không giống như bây giờ."

"Hình như cô ấy không chịu được nữa rồi!" Trương Lập và Nhạc Dương cùng lúc kêu lên, chỉ thấy hai chân Đường Mẫn không hiểu tại sao đột nhiên tuột ra, cả người lơ lửng trên sợi xích sắt, hơn nữa, còn đung đưa dữ dội giữa không trung!

"Không xong rồi, có âm phong!" Đôi lông mày lá liễu của Lữ Cánh Nam nhướng lên, lẩm bẩm nói, "Đành xem có qua nổi cửa ải này không vậy."

Thụ táng

Khu vực không người trên hoang mạc, phóng mắt nhìn ra chỉ thấy một dải cát dài tít tắp, tháp cao san sát, gió thổi đá chạy, một đoàn người xếp hàng một, trông tựa như một con sâu dài nhiều chân lặc lè bò trên cao nguyên hoàng thổ. Leo lên ngọn đồi cao nhất khu vực, bốn ngàn mét so với mực nước biển, gió lạnh thổi qua, tinh thần con người cũng thêm phần phấn chấn, Merkin bít một hơi khí lạnh: "Con đường quỷ quái này, rốt cuộc còn bao xa nữa đây?"

Soares cười gằn lạnh lẽo: "Thánh sứ, không tìm được đường nữa à?"

Merkin nổi giận nói: "Tôi đã bảo bao nhiêu lần rồi, tôi cũng không biết tại sao mình lại thành thánh cái gì sứ cái gì đó, thật sự là họ không hề nói gì với tôi cả. Giờ không có cái đám người ấy, đừng gọi tôi như vậy nữa." Y ngoảnh sang nhìn Soares, hết sức thành khẩn nói. "Tin tôi đi, Soares, ngoài chuyện huyết trì lần trước, tôi không hề giấu giếm anh bất cứ việc gì nữa."

Soares chỉ cười cười không tỏ thái độ gì, tiếp tục tiến lên. Max đi sau thấy vậy, khẽ nhếch mép lên cười.

Vì không có đường, hơn nữa đâu đâu cũng thấy đồi gò đất san sát như rừng, người không quen đường thuộc lối căn bản không thể điều khiển xe đi trong khu vực này được. Năm chiếc xe của bọn Merkin đều hỏng dọc đường, cả bọn đều phải đeo những chiếc ba lô nặng nề cuốc bộ tiến lên. Đây là vùng Tây Nam khu vực A Lý, trong vòng hai trăm kilomet vuông không thấy một bóng người sinh sống, cách di chỉ Cổ Cách chừng hơn trăm kilomet, kết cấu địa lý cực kỳ đặc biệt, được gọi là "thổ lâm" (rừng đất).

Địa mạo "núi rừng bằng đất" đặc biệt này, là do tầng trầm tích dưới đáy hồ nơi đây từ thời viễn cổ bị ảnh hưởng bởi quá trình tạo sơn của dãy Himalaya, mực nước hạ xuống, đáy hồ nâng lên, đồng thời bị khí hậu biến đổi và nước sông xói mòn cắt xẻ mà hình thành nên. Vách núi dựng đứng hiểm trở thoạt nhìn tựa như những tòa thành, tháp canh, tháp Phật nguy nga hùng vĩ, muôn hình vạn trạng, tráng lệ vô cùng.

Soares lấy bản đồ ra, nói: "Theo lời tên nhỏ con kia, chắc là ở ngay gần đây thôi, A Nam Tháp đang ngủ say, A Nam Tháp, bên kia…" Ở hướng Soares chỉ tay, chỉ thấy rừng đất cao lớn tựa như vô số tòa linh tháp khổng lồ đứng san sát cạnh nhau, xoáy thành hình rồng, nếu không phải lên cao nhìn xa, ở giữa nơi ấy thì căn bản không thể phân biệt được.

Merkin vung tay lên ra lệnh: "Chạy tới đó!"

Hai tiếng đồng hồ sau, đám người này cũng đến được dưới chân khu rừng đất, trong mắt đều lộ ra vẻ kinh ngạc. Merkin nhếch mép lên nói: "A, khó mà tin nổi."

Phía trước gò đất nhô cao, mặt đất nứt nẻ, sườn dốc san sát nối nhau như bát úp, hang đất trùng trùng điệp điệp như tổ ong, từ trái sang phải, nhìn ngút tầm mắt mà cũng không thấy hết, khiến người ta có cảm giác nơi này chẳng phải cao nguyên Tây Tạng, mà như hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng vậy. "Trái tim của A Nam Tháp, ẩn chứa ánh sáng màu bạc…" Merkin lẩm bẩm nói, rồi nhìn theo hướng chạy của khu rừng đất. Chỉ thấy những gò những đồi san sát nhau nhấp nhô trải dài từ hướng Tây sang hướng Bắc, ngoằn ngoèo uốn khúc, tựa như một con rồng khổng lồ đang ngóc đầu lên cao, muốn xé toang không gian mà đi. Bọn y lúc này chính là đang đứng ở đuôi rồng. Merkin búng ngón tay đánh "tách" một tiếng: "Hướng Bắc, hướng Bắc."

Vì hai bên đại hiệp cốc đều là cao nguyên cao mấy ngàn mét so với mực nước biển, địa hình sông kẹp giữa núi thế này sẽ khiến không khí bị thổi vào hiệp cốc sẽ chỉ có thể tiến ra theo một hướng duy nhất. Gió giống như nước triều, từng đợt từng đợt hết sức mãnh liệt, gió lớn có thể thổi cho sợi xích nặng nề đung đưa không ngớt, người ở trên dây cũng gian nguy chẳng kém gì gặp phải cơn sóng thần trên biển lớn.

Cơn gió lạnh làm Đường Mẫn chao đảo trên dây xích như con diều đứt dây, liên tiếp đảo lộn mấy vòng, mắt trợn ngược lên, bàn tay bám vào sợi thừng mỗi lúc một lơi dần. Nhìn Đường Mẫn rơi vào tình cảnh ấy, Lữ Cánh Nam nôn nóng kêu lên: "Không được rồi, cô ấy không trụ được đâu, tôi phải đi kéo cô ấy về. Gió đã ngừng chưa?"

Bỗng chợt nghe Nhạc Dương kêu toáng lên: "Cường Ba thiếu gia, Cường Ba thiếu gia qua rồi!"

Chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba quấn chặt sợi dây nối với bánh xe trượt vào cổ tay, một tay giữ dây trượt, nhanh chóng lướt về phía Đường Mẫn, đúng trong khoảnh khắc gió vừa ngừng, người vừa rơi xuống, gã đã tựa như chim éo điểm nước, ôm Đường Mẫn vào lòng, rồi lao vút về phía bên này. Trương Lập lẩm bẩm nói: "Chà, thân thủ Cường Ba thiếu gia khá thật, nếu đến đoàn xiếc diễn tạp kỹ, đảm bảo là có nhiều người đến xem lắm." Lữ Cánh Nam chỉ khẽ hừ một tiếng, hàng lông mày càng nhíu chặt lại.

Trác Mộc Cường Ba cởi ba lô, đặt Đường Mẫn xuống đất, chỉ thấy sắc mặt cô trắng bệch như tờ giấy trắng, môi tái xanh đen, ý thức mơ hồ, không ngờ đến cả hơi thở cũng đã ngưng lại, gã vội vàng giúp cô hô hấp nhân tạo. Đè bốn thở một, chính là ấn ngực bốn lần, rồi miệng áp miệng hô hấp một lần, làm như vậy mấy lượt liền, Đường Mẫn mới khẽ khục khặc ho một tiếng, cuối cùng cũng coi như hô hấp được bình thường trở lại.

Cô từ từ mở mắt ra, trông thấy gương mặt mơ hồ cùng đôi mắt chan chứa sự quan tâm của Trác Mộc Cường Ba, khẽ thở hắt ra một hơi: "Em… không phải em… cố ý đâu."

Trác Mộc Cường Ba ôm chặt Đường Mẫn, nhẹ nhàng an ủi: "Anh biết mà, anh biết, không ai trách em đâu."

Nhạc Dương và Trương Lập đứng bên cạnh thấp giọng rì rầm: "Khóc, khóc, lại khóc rồi…" Đến giờ thì tính hay khóc của Đường Mẫn đã được thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt quen thuộc hết, chỉ cần miệng cô hơi dẩu lên, mắt ươn ướt đỏ, là đã đủ khiến các thành viên trong nhóm phải đề cao cảnh giác rồi, đến cả lạt ma Á La cũng phải nói cô bé này nước mắt nhiều như nước suối, có trời mới hiểu cô lấy đâu ra nhiều nước mắt đến thế, cứ như thể mãi mãi không hết, dùng mãi không kiệt vậy. Tiếng khóc của Đường Mẫn gần như đã thành vũ khí tối thượng của nhóm học viên, cộng với cô là người nhỏ tuổi nhất ở đây, Trương Lập và Nhạc Dương đã lén đặt cho cô một cái biệt danh, gọi là "công chúa nước mũi".

Giáo sư Phương Tân cốc vào sau gáy mỗi người một cái, đùa cợt thế nào thì cũng có giới hạn của nó.

Không ngờ, lần này biểu hiện của Đường Mẫn lại khác hẳn dự đoán của hai anh chàng Trương, Nhạc, cô không rơi lấy một giọt nước mắt nào. Trương Lập thầm nhủ: "Chẳng lẽ là vì giáo quan cũng ở đây?" Anh chàng quay đầu lại nhìn Lữ Cánh Nam, không biết cô đã tách ra khỏi nhóm từ lúc nào, một mình đứng bên bờ vực cho gió thổi. Ba Tang thì đứng ở một phía khác của vách đá ngẩng đầu lên nhìn sắc trời. Trương Lập cũng ngước nhìn lên bầu không; chỉ thấy từng đóa mây trắng lững lờ trôi quá, vươn tay ra là có thể chạm tới, nhưng vừa trông thấy điệu bộ của Ba Tang, anh liền không khỏi lạnh hết cả người: "Thời tiết quỷ quái này, bảo thay đổi là thay đổi luôn, chắc là không xuất hiện thiên tai gì nữa đấy chứ?"

Vì sự việc của Đường Mẫn, tốc độ của cả đoàn đã chậm lại. Sau khi vượt qua đại hiệp cốc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, mấy người cứ nhắm hướng Đông Nam thẳng tiến. Dọc đường núi non trùng trùng điệp điệp, đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa, lưng chừng núi cây xanh rợp bóng, chân núi hoa tươi nở rộ, hồng tím đủ màu. Đây chính là cảnh quan đặc hữu của vùng này… một ngọn núi có đủ bốn mùa, mỗi núi một phong cảnh riêng. Đường núi dốc ngược, rừng sâu cây cối um tùm, thi thoảng lại có vài cánh chim chao liệng ngang trời, chốc chốc lại có dã thú chạy cắt ngang đường, bọn họ đi một mạch đến lúc trời tối, không khí mờ mịt sương mù, trời lại rải xuống một cơn mưa lất phất, đường trơn khó đi, cả đoàn liền dừng lại ở một chỗ bằng phẳng bên cạnh khe núi dựng trại qua đêm. Bốn phía xung quanh cây cối cao lớn, che kín cả bầu trời, giáo sư Phương Tân phóng mắt nhìn qua, không giấu nổi niềm cảm khái dâng trào: "Rừng bách lớn quá!"

Cây bách ở khu vực Lâm Chi khác với vân sam, hay cây bạch đàn ở rừng già Nam Mỹ, nếu cùng cao bốn mươi mét, thì cây ở châu Mỹ có thể nói là thẳng tắp mà thanh tú, còn bách khổng lồ ở Lâm Chi lại to lớn hùng vĩ. Tán cây xòe rộng như một chiếc ô khổng lồ, chiếm tới quá nửa thân cây, cành và rẽ cũng rất to lớn, trên cành cây có vô số những u những bướu hình dạng khác nhau, chính nhờ vậy mà cây bách ở đây rất dễ trèo.

Sau khi chọn xong nơi cắm trại, mọi người chia nhau làm việc. Hai người Trương Lập, Nhạc Dương phụ trách thăm dò xung quanh, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang khỏe mạnh lo việc cắm trại, chặt cây đốt lửa, giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La thì dựa vào kinh nghiệm cũng như tri thức phong phú của mình tiến hành trao đổi nghiên cứu khoa học, còn Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn thì phụ trách việc hậu cần. Đường Mẫn chỉ bị kinh hoảng một lúc chứ không tổn thương gì nên hồi phục rất nhanh.

Trương Lập than vãn với Nhạc Dương: "Phải thăm dò đến tít cái gò cao kia, xa quá đi mất, còn việc của giáo quan thì nhẹ nhàng quá, chỉ cần sắp xếp mấy cái ba lô, lấy đồ ăn ra là xong rồi."

Lữ Cánh Nam đứng sau lưng anh chàng cất tiếng: "Chưa từng nghe nói phải tôn trọng phụ nữ bao giờ hả?"

Trương Lập tức khắc run như cầy sấy, đến thở mạnh cũng không dám. Nhạc Dương thấy vậy thì cười thầm trong bụng, tiện miệng hỏi luôn: "Giáo quan, gần đây chắc không có loại dã thú nào nguy hiểm đấy chứ? Đừng có giống như lần trước…"

Lữ Cánh Nam ngắt lời anh chàng: "Sử dụng những gì các cậu học được, tự trả lời câu hỏi này đi."

Nhạc Dương le lưỡi, lần này thời gian chuẩn bị không được đầy đủ lắm, cả bọn đều nghĩ đến chiếc máy tính chứa đủ thứ thông tin bao la vạn tượng của giáo sư Phương Tân, đoán chắc có mượn tra cứu một chút cũng không sao, chẳng ngờ hòn đảo cô độc trên cao nguyên này có hoàn cảnh địa lý hết sức đặc thù, nên đã sản sinh ra đủ các loại sinh vật kỳ quái hiếm thấy trên đời, chỉ nhìn lướt qua một lượt, các loại sinh vật nguy hiểm đã phải dùng con số hàng trăm làm đơn vị tính rồi. Trương Lập và Nhạc Dương cúi đầu ủ rũ, xem ra lần này hai người họ phải tập trung một trăm hai mươi phần trăm tinh thần đi thăm dò địa hình xung quanh đây rồi. Lữ Cánh Nam vẫn chưa yên tâm, trước khi họ đi lại nhắc nhở phải chú ý quan sát lực bám đất của cây cỏ, và mức độ xốp của thổ nhưỡng vùng này. Cô ngước mắt nhìn lên không trung lẩm bẩm: "Mưa mà lớn hơn nữa, các cậu cũng biết tình huống tệ nhất sẽ là như thế nào rồi đấy."

Một lát sau, Trương Lập và Nhạc Dương quay lại, không phát hiện ra dã thú gì nguy hiểm, cũng không tìm được xung quanh có dấu vết của con người sinh sống.

Lữ Cánh Nam nói: "Chỗ này ở sâu trong núi, rất khó phát hiện được người sinh sống ở đây. Ăn cơm xong mọi người nghỉ ngơi cho tốt, ngày mai còn phải đi hết một ngày đường mới đến đích đó."

Sau bữa cơm, Lữ Cánh Nam có vẻ rất thần bí kéo Đường Mẫn vào lều, Nhạc Dương tinh mắt đã ngấm ngầm lưu ý, không hiểu ra sao, vì chuyện này trừ trước đến giờ chưa từng xảy ra lần nào. Anh chàng thầm nhủ, có lẽ nào là do giáo quan ghen tuông, muốn nhân lúc hạ trại nghỉ ngơi mà báo thù Đường Mẫn chăng?

Mưa lớn dần, lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân thu dọn các thứ máy móc, cả hai đều chau mày lại. Giáo sư Phương Tân nói: "Độ dốc sườn núi phía Bắc lớn quá, thổ nhưỡng có tính acid yếu, một phần là sa thạch, rất dễ vỡ vụn. Nếu mưa lớn thêm chút nữa, chỉ sợ sẽ có đất đá trôi, hơn nữa chỗ này rừng bách phân bố rất thưa thớt, có lẽ trước đây đã từng xảy ra rồi. Đại sư xem, dời chỗ cắm trại ra phía Tây ba trăm mét liệu có tốt hơn một chút không?"

Lạt ma Á La nói: "Thế nhưng chỗ này đã là nơi bằng phẳng cao nhất trong khu vực gần đây rồi, từ lưng chừng núi xuống đến triền núi, có hai rãnh sâu tạo thành hình chữ bát, có lẽ nếu có đất đá trôi thì sẽ trôi qua hai bên trái phải của chúng ta mới đúng. Nếu dịch sang phía Tây, chẳng phải là chúng ta sẽ ở giữa quần thể thụ tán kia hay sao?

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Nói chuyện với Cánh Nam, nghe ý kiến của cô ấy thế nào đã."

Trong lều, Đường Mẫn ngạc nhiên hỏi: "Có chuyện gì vậy, giáo quan?"

Lữ Cánh Nam ngần ngừ do dự một lúc, rồi mới miễn cưỡng nói: "Mẫn Mẫn, có thể nhờ cô giúp tôi một chuyện nhỏ không?"

Đường Mẫn nói: "Hả?"

Lữ Cánh Nam nói: "Là… là thế này, cúc áo lót của tôi không hiểu sao lại kẹt cứng lại, tôi không cởi ra được, cứ côm côm ở lưng thế nào ấy, tôi muốn nhờ cô…"

Đường Mẫn nói: "Chậc, tôi còn tưởng là vấn đề gì lớn lắm chứ, nào, để tôi giúp cô cởi áo ngoài ra đã…"

Đang chuẩn bị đứng lên, chợt nghe lạt ma Á La ở bên ngoài lều hỏi: "Có thể vào được không?"

"À… được ạ, mời đại sư vào."

Lạt ma Á La vào trong lều, nói với Lữ Cánh Nam: "Theo kết quả quan sát của bọn Trác Mộc Cường Ba, và kết quả trắc định thổ nhưỡng của chúng tôi, nếu trận mưa này tiếp tục, chúng ta cần phải đề phòng có đất đá trôi."

Lữ Cánh Nam nói: "Ừm, tôi biết rồi. Lúc bắt đầu cắm trại, tôi đã chọn kỹ rồi, nhìn thế núi này, nếu xảy ra đất đá trôi, chắc là sẽ xối qua hai bên chúng ta thôi. Nếu đại sư đã nói thế, tôi nay phái người trực đem đi, lưu ý quan sát cẩn thận, như vậy là cũng tương đối ổn thỏa rồi."

Lạt ma Á La đưa mắt nhìn vẻ mặt kỳ quái của Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn, gật đầu bước ra. Mới đi được không xa mấy, đã thấy Nhạc Dương làm bộ thần bí chạy tới, hỏi: "Đại sư, hai người bọn họ trong ấy không có chuyện gì chứ?"

Lạt ma Á La nói: "Chuyện gì là sao?"

Nhạc Dương nói: "Chỉ là tôi hơi ngạc nhiên, trước đây chưa từng thấy giáo quan và cô Mẫn Mẫn thân thiết với nhau như vậy, hôm nay cô Mẫn Mẫn sợ dây thừng làm chậm trễ hành trình của chúng ta, tôi sợ giáo quan sẽ…"

Lạt ma Á La mỉm cười nói: "Giáo quan Cánh Nam không nhỏ nhen như vậy đâu. Ừm, có điều nghe cậu nói, vừa rồi tôi ở trong lều thấy nét mặt hai người bọn họ, cũng hơi kỳ quái thật."

--------------------------------

1 Một vùng thuộc tỉnh Kashmir của Ấn Độ.

2 Đoạn này tác giả viết không rõ ràng, dịch giả trung thành với nguyên tác - (ND)

3 Bào Đinh là một đầu bếp rất giỏi nghề mổ trâu, ông chỉ cần một đường dao là đã có thể mổ phanh cả con trâu ra. (Nam Hoa Kinh, Trang Tử).

4 Địa hình nơi có con sông chảy qua khe hẹp giữa hai ngọn núi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29: Cánh cửa sinh mệnh: vùng đất bí mật cuối cùng


Cổ cách cơ quan Phật

Hai mắt Nhạc Dương sáng lên, vội rối rít hỏi: "Ôi cha, vậy sao? Tình hình lúc đó thế nào vậy?"

Lạt ma Á La và Nhạc Dương nói được hai ba câu, giáo sư Phương Tân đi qua liền hỏi: "Hai người đang nói chuyện gì mà cứ phải thì thà thì thầm vậy?"

Á La chỉ khẽ cười cười, lắc đầu quay đi. Nhạc Dương lại thấp giọng nói với giáo sư Phương Tân: "Giáo sư, ông có cảm thấy hôm nay thái độ của giáo quan cới cô Mẫn Mẫn không ổn lắm không, đặc biệt là sau khi ăn cơm ấy. Lạt Ma Á La nói, vẻ mặt họ lúc ở trong lều rất kỳ quái, tôi lo là có chuyện gì xảy ra mất"

Giáo sư Phương Tân nói: "Chắc không đâu, mà cậu lo cái gì cơ chứ?"

Nhạc Dương liền khoa tay múa chân nói: "Chính là cái vấn đề ấy ấy, mọi người đều biết cả rồi. chắc không cần tôi phải nói ra chứ" Anh chàng nghiêng nghiêng đầu về phía lều của Trác Mộc Cường Ba gật gật mấy cái.

Giáo sư Phương Tân cười cười vỗ nhẹ lên vai Nhạc Dương: "Mấy người trẻ các cậu ấy à…"

Nhạc Dương vội thầm cãi: "Không phải đâu, cả lạt ma Á la cũng tận mắt trông thấy rồi mà, ông ấy nói họ ở trong lều thế này…thế kia…"

Vừa hay lúc ấy Ba Tang ở trong lều đi ra, thấy giáo sư Phương Tân chỉ lắc lắc đầu không nói gì, bèn hỏi: "Sao thế, giáo sư? Có cần tôi giúp gì không?"

Giáo sư Phương Tân mỉm cười: "Nghe Nhạc Dương nói, giáo quan Lữ Cánh Nam và cô Đường Mẫn hình như đang bạt kiếm giương cung ở trong lều kia kìa, không biết có phải thật không nữa…"

Mấy phút sau. Trương lập xông vào lều của Trác Mộc Cường Ba kêu toáng lên: "Không xong rồi, Cường Ba thiếu gia, giáo quan và cô Mẫn Mẫn đang đánh nhau trong lều rồi! Giống mấy bà đanh đá đánh nhau ngoài chợ ấy, giật tóc xé áo đối phương, nhốn nháo hết cả lên rồi!"

Trác Mộc Cường Ba vội đứng phắt dậy, lớn tiếng nói: "Hả? Sao lại thế cơ chứ?"

Bên trong lều, Đường Mẫn đưa tay quệt mấy giọt mồ hôi li ti trên trán, hoan hỉ nói: "Được rồi, cuối cùng cũng tháo được ra"

Lữ Cánh Nam ngoảnh đầu lại nói: "Cám ơn…" Đột nhiên, Trác Mộc Cường Ba sùng sục như con bò mộng thò đầu vào trong lều: ""Các cô…

Trương Lập cà Nhạc Dương đứng đằng xa nhìn bóng Trác Mộc Cường Ba khuất sau chiếc lều. Anh chàng họ Trương thì thào hỏi: "Tin tức có đáng tin cậy không đấy, Cường Ba thiếu gia đã xông vào rồi…"

Chỉ nghe một tiếng "Á…" sắc nhọn rạch ngang bầu trời đêm đang mưa lâm thâm, rõ ràng là tiếng hét của một cô gái nhưng lại không giống tiếng của Mẫn Mẫn…

Trác Mộc Cường Ba ôm nửa gương mặt rát bỏng lủi thủi ra khỏi căn lều, đi tìm Trương Lập và Nhạc Dương, chỉ mặt hai anh chàng lắm chuyện nói: "Các cậu…ai bảo bọn họ đánh nhau hả! Là ai?"

Trương Lập vội vàng giải thích: "Tôi nghe anh Ba Tang nói thế mà"

Nhạc Dương cũng xua tay lia lịa: "Tôi không nói, tôi không có nói mà!"

Sự việc nhanh chóng được làm rõ, Lữ Cánh Nam đanh mặt tuyên bố, hôm nay Trương Lập và Nhạc Dương trực đêm. Cả hai anh chàng không hiểu sao mình lại chọc giận giáo quan đến thế, cũng không hỏi được rốt cuộc Cường Ba thiếu gia đã phát hiện ra chuyện gì. Đêm về khuya, hai người ngồi bên cạnh lều Trác Mộc Cường Ba giơ tấm bạt lên che mưa, lửa vẫn cháy nhưng gió lạnh thổi vù vù, mưa dường như lại lớn hơn một chút. Vì Ba Tang đã lạnh lùng nhắc nhở từ trước rằng: "Cẩn thận một chút, đêm nay dốc núi đối diện có thể bị sụt lở đấy!" Nên hai người đều không dám đi ngủ. Trương Lập run lên một cái, làu bàu oán trách: "Đều tại cái thằng ngốc nhà cậu, hại tôi phải trực đêm theo"

Nhạc Dương nói: "Làm sao trách tôi chứ, tôi làm sao biết được họ làm gì trong đó, tôi cũng làm sao biết được Cường Ba thiếu gia lại dễ kích động như thế, với cả tôi làm sao biết được sau khi Cường Ba thiếu gia vào trong ấy…giáo quan bỗng hét lên the thé như thế. Tôi lại chẳng tưởng mọi người sẽ cùng đi ra, không thể vì chút chuyện nhỏ này mà gây lộn với nhau được, chuyện giáo quan có ý với Cường Ba thiếu gia anh xũng biết rồi còn gì, đúng là hiếm có, bà già ấy lại nảy nở mầm tình, vốn là tôi cũng rất hi vọng vào giáo quan…chậc, nhưng tiếc nỗi Cường Ba thiếu gia lại yêu cô Mẫn Mẫn đến chết đi sống lại như thế, tôi thấy hy vọng của giáo quan không lớn rồi"

Trương Lập vội đặt tay lên môi: "Suỵt…nghe thấy tiếng gì không?"

Nhạc Dương vểnh tai lắng nghe: "Chỉ có tiếng mưa thôi mà?"

Trương Lập nói: "Không phải…" Anh nheo mắt lại, tựa hồ muốn nhìn xa hơn chút nữa, rồi đột nhiên đứng phắt dậy, chỉ về phía xa kêu lên, "những cái cây kia hình như đang chuyển động"

"A" Nhạc Dương dựa hẳn sang bên trái, cả người trượt chân đổ sập vào chiếc lều, Trác Mộc Cường Ba nằm bên trong lập tức bị giật mình tỉnh giấc, vội hỏi: "Chuyện gì thế?"

Nhạc Dương còn chưa kịp trả lời, Trác Mộc Cường Ba đã ở trong chui ra, Trương Lập chỉ tay về phía xa nói: "Anh xem đám cây kia có phải đang di động không?"

Đằng xa tối đen như mực, bóng cây khổng lồ kéo dài hình thành nên sống lưng con quái vật, không nhìn kỹ quả nhiên khó phát hiện được những cây ấy dường như đang khẽ chuyển động, không phải, tốc độ di động đang dần tăng lên! Lúc Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn, sự chuyển động của cây cối đã hết sức rõ rệt rồi,gã thấp giọng nói: "Sụt lở rồi, triền núi bị sụt"

Đất đá trôi ầm ầm đổ xuống, từng cây rồi lại từng cây cổ thụ đổ rạp. Dòng lũ vốn chảy thàn hai đường rãnh hai bên trái phải, đột nhiên lại tuôn thêm một dòng đất cát chảy vào chính giữa, nhằm thẳng hướng lều trại lao tới. Trương Lập kêu toáng lên: "Đất đá trôi tới rồi, mọi người mau ra đi!"

Trác Mộc Cường Ba thốt: "Không kịp mất rồi!" Thấy dòng đất đá trôi thẳng về phía lều trại của Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam, gã vội rút con dao săn cá sấu ở bắp vế, vung lên chém đứt sợi dây thừng cố định lều bạt, cũng không kịp tìm người, chỉ cách một lớp chăn mò thấy hai người, vội ôm chặt, lăn sang một bên. Ba Tang người vừa mới lăn đi, dòng đất đá trôi lệch hướng kia đã nuốt chửng chiếc lều bạt rồi chảy tiếp chừng gần 500m nữa mới dừng lại.

Lúc này giáo sư Phương Tân và mấy người khác mới ra khỏi lều. Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thò đầu ra khỏi đống vải chăn lùng nhùng, chỉ thấy Trương Lập và Nhạc Dương sắc mặt tái mét đứng bên cạnh, một người đưa tay lau mồ hôi thốt lên: "Nguy hiểm quá!"

Giáo sư Phương Tân nói: "Nhìn trên kia kìa, dòng đất đá thứ hai lại sắp hình thành rồi, chúng ta phải lập tức rời khỏi đây thôi"

Tám người vội vàng thu dọn hành trang, rời khỏi khoảnh đất bằng với tốc đọ nhanh nhất có thể, rồi theo ý kiến ban đầu của giáo sư Phương Tân, dịch sang phía Tây chừng hơn 300m, chuyển tới vị trí trung tâm của khu rừng. Dòng đất đá trôi hoành hành hung hãn bên ngoài, nhưng đều bị những gốc cây quái dị này chặn lại, chỉ trôi thêm được mấy mét là đã bị chia cắt thành dòng nhỏ, không còn cuồn cuộn hung dữ nữa.

Trương Lập ngạc nhiên nói: "Tại sao giáo sư Phương Tân lại biết đây là vùng an toàn?"

Giáo sư Phương Tân điềm đạm giải thích: "Đoạn này vốn là khu vực thường xuyên xảy ra đất đá trôi, nham thể và núi đều dễ xuất hiện hiện tượng đất trôi đá lở, nhưng rừng cây này chắc cũng mấy trăm tuổi rồi, có thể giữ được tình trạng không bị phá hoại cho tới tận bây giờ, chứng tỏ bộ rễ của những thực vật kỳ lạ này còn bám đất chặt hơn bộ rễ của cây bách, vì vậy nơi này có lẽ là tương đối an toàn"

Nhìn dòng đất đá xối vào khoảnh đất bằng phẳng phía trên kia, đồng thời chất chồng chất đống lên đó, nơi ấy dần dần trở nên rộng hơn, phẳng hơn, Nhạc Dương lè lưỡi nói: "Mẹ của tôi ơi, thì ra là chỗ đó là do đất đá trôi tích tụ mà thành, suýt chút nữa chúng ta tự chui đầu vào rọ rồi"

Lữ Cánh Nam nói: "Lần này tôi sơ suất, cũng may đã phát hiện kịp thời, đành để mọi người tạm nghỉ ngơi trong khu rừng này vậy"

Lạt ma Á La lắc đầu nói: "Địa điểm vốn không chọn sai, chỉ là không ngờ hai dòng đất đá trôi ấy lại va chạm tác động lẫn nhau, dẫn đến chuyển hướng xối thẳng vào giữa, đây là tự nhiên biến hóa khôn lường, chúng ta không thể dự đoán một cách hoàn toàn chính xác được đâu, sắp xếp người canh phòng ban đêm, giữ cảnh giác bất cứ lúc nào là hành động đúng đắn"

Trong khu rừng đầy những cây cối quái dị đó, trời lại mưa gió ầm ầm, muốn bình yên ngủ một giấc nào có dễ dàng gì, mọi người đều mở mắt thao láo cả đêm dài, ngày hôm sau lại tiếp tục dựa theo chú thích trên bản đồ, nhằm hướng Đông Nam thẳng tiến.

"Đinh…..đinh đinh…." giữa khu vực hoang vu không người lạnh lẽo mênh mông vang lên tiếng đục đẽo chát chúa, bên cạnh mấy chiếc lều bạt là một pho tượng Quan m cao đến mười bốn mười lăm mét đứng nghiêm trang trong hang động. Không, đây dường như không phải Quan Thế m Bồ Tát ngàn tay ngàn mắt truyền thống, trước tiên là tạo hình của phần đầu pho tượng có tới ba mắt, đông thời người thợ tay nghề hết sức uyên thâm ấy đã tạo cho bức tượng một vẻ mặt mỉm cười đầy vẻ từ bi, nhưng khóe miệng lại nhếch lên lạnh lùng ngạo nghễ; kế đó là, ngàn tay ngàn mắt, biến thành ngàn tay ngàn miệng, giữa lòng bàn tay, không phải con mắt quan sát thế sự mà là những cái miệng hình dạng khác nhau, có cái nhếch mép, cười gằn, có cái nghiến răng nghiến lợi, có cái há to như chậu máu, tượng Phật như vậy, thật khiến người ta phải kinh hãi, lạnh người.

Lúc này bên ngoài pho tượng đá đã lắp xong giàn giáo, bên trên người bước qua bước lại hết sức bận rộn, họ cẩn trọng đục từng nhát lên đó, nhưng đám người này không phải đang tạc tượng mà đang….

"Rầm" Một mảng lớn trước ngực tượng Phật tróc ra rơi xuống, dưới đất bụi bay mù mịt. Merkin huýt sáo, thái độ vô cùng ung dung. Y cầm bộ đàm lên hỏi: "Đã thấy chưa?"

Soares đứng trên giàn giáo đáp lời: "Chưa thấy, chắc còn phải đục sâu thêm chút nữa, chất đá ở đây không tốt, rất dễ bong tróc, chắc chỉ lát nữa là xong thôi" Vừa dứt lời, lại một tiếng động nữa vang lên, kế đó là một mảng đá lớn hơn tróc xuống, trước ngực bức tượng đá khổng lồ liền lộ ra một mảng kim loại, Soares mừng rỡ nói: "Xong rồi, để tôi khởi động cơ quan xem"

Merkin ngẩng đầu lên nhìn vầng trán của tượng Quan m, nơi đó, phía trên đôi mắt Phật từ bi hiền hòa, có một con mắt lớn phát ra những tia sáng bàng bạc. Chỉ cần Soares cắm bốn cây quyền trượng vào bản kim loại nơi ngực tượng Phật, con mắt bạc ấy sẽ rơi xuống, mà con mắt này, tương truyền có thể mở ra một bí mật còn lớn hơn gấp bội.

Soares lấy ra bốn cây gậy dài chừng một thước (khoảng 30cm), một đầu hình thoi, bên trên hình thoi khảm một phiến tròn bằng kim loại to như đồng tiền có hình vẽ. Soares quan sát bảng kim loại, rồi cắm đầu có đồng tiền vào lỗ tương ứng, từ từ cắm sâu vào, mỗi khi một cây quyền trượng dấn vào, con mắt lớn trên trán tượng đá lại lơi ra một chút, bụi đá lả tả rải xuống như mưa.

Soares dặn dò: "Xong rồi, một đứa chúng mày lên lấy nó xuống đi"

Một tên trong đám thủ hạ liền xắn tay áo bám vào cánh tay tượng Phật trèo lên, vừa mới leo được hai ba mét, đột nhiên kêu "Á…" một tiếng lớn, trượt chân rơi khỏi giàn giáo cao mười mét. Soares liền vung roi ra, quấn chặt tên đó, kéo trở lại giàn giáo rồi hỏi: "Chuyện gì vậy?"

Tên kia đáp: " Không biết nữa, hình như có con gì đó cắn tôi một cái"

Soares xoay xoay cổ tay tên đó, vừa trông thấy vết thương liền nói luôn: "Ồ? Bò cạp, mày chạm phải chỗ nào rồi?"

Tên kia lắc đầu: "Đâu có đâu, tôi bám vào cánh tay tượng Phật trèo lên thôi, vết thương bắt đầu tê đi rồi"

Soares chỉ vào hai tên khác nói: "Hai thằng chúng mày, đỡ nó xuống dưới, tiêm huyết thanh vào"

Vừa dứt lời, dưới chân bỗng rung lên dữ dội, cả giàn giáo phát ra những tiếng "rắc rắc lách cách", một cánh tay pho tượng cơ hồ như muốn nhấc lên. Merkin bên dưới nhìn thấy tượng đá biến đồi, vội vàng với lên hỏi: "Sao vậy? Xảy ra chuyện gì à?"

Soares đáp: "Không sao, pho tượng này là tượng cơ quan Phật, giờ tôi đã khởi động cơ quan, chỉ sợ tượng Phật sắp sụp xuống rồi. Tôi sẽ đích thân đi lấy con mắt bạc, anh tổ chức cho người bên dưới rút đi" Kế đó y lại quay sang bảo đám người đang lao động trên giàn giáo, "Chúng mày lập tức rời khỏi đây, sắp sập tới nơi rồi"

Thân hình Soares lắc nhẹ, trèo lên với tốc độ nhanh hơn tên vừa nãy không biết bao nhiêu lần. Lúc leo tới gần chỗ cánh tay quả nhiên trong cái miệng nơi lòng bàn tay bò ra một con bọ cạp dài chừng 10cm, toàn thân trắng như tuyết, chỉ có mũi kim nơi đuôi là màu đen. Soares lấy làm hứng thú, ngạc nhiên thốt lên: "Không ngờ lại là bọ cạp trắng" Y vươn tay ra, thành thạo bắt lấy con bọ cạp, rồi ném xuống dưới eo, vậy là đã cho con vật vừa bắt được vào một chiếc lọ thủy tinh.

Đột nhiên nơi đốc nách của cánh tay đó có đá vụn rơi xuống, cả cánh tay lập tức gãy lìa, Soares suýt chút nữa cũng rơi xuống theo, may mà kịp bám vào một cánh tay khác. Lúc này, trong chỗ gãy kia, dường như có gì đó nhúc nhích, đưa mắt nhìn lại, thì thấy vô số bọ cạp trắng đang tràn ra, bò loạn lung tung khắp nơi. Soares cũng không khỏi kinh ngạc, nhủ thầm: "Nhiều vậy sao!" Song y cũng không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, lại tiếp tục nhanh nhẹn leo lên. Bên trên lại có một cánh tay gãy khác rơi xuống giữa đầu. Soares vội lách người né tránh, cánh tay y đặt chân cũng rơi, cả người y thụt xuống. Y liền bám tay vào một cánh tay khác, gắng sức áp sát thân tượng Phật, đột nhiên bỗng nghe thấy một tiếng "cạch"

Soares là người kinh nghiệm phong phú, vừa nghe tiếng động là biết ngay đây chính là âm thanh phát ra trước khi cơ quan khởi động, liền không chút ngần ngừ vung cây roi dài trong tay ra, quấn lấy một cánh tay đu từ bên trái sang bên phải tượng Phật, mấy mũi lao đen ngòm sượt qua vai. Lúc đu qua bảng kim loại chỗ ngực tượng Phật, chỉ nghe bên trong vang lên những tiếng "cách cách cách cách" không ngừng, Soares thầm than "hỏng rồi", vội đạp chân vào bảng kim loại hòng tănng thêm tốc độ. Quả nhiên, vừa lướt qua đó, tên và mũi lao liền bắn ra vù vù, chỉ hơi chậm một chút là lão đã bị bắn lỗ chỗ như tổ ong rồi.

Soares đu sang cánh tay bên phải, không dám ngừng lại, thu roi lại rồi tiếp tục vung ra quấn vào một cánh tay khác, mượn lực đó nhảy lên cánh tay, đoạn nhanh chóng leo lến mây mét như leo thang tre, kế đó đã tới vai tượng Phật. Không ngờ chất đá chỗ vai tượng chỉ là một lớp mỏng dính, Soares vừa giấm lên đã đạp vỡ một khoảng lớn, chân thụt vào trong, Y lâm nguy mà không rối loạn, ứng biến tức thì, hau tay bám được tai tượng Phật, tức khắc rút chân lên, lộn ngược người một vòng, đã đứng lên trến tai tượng Phật. Soares vươn tay ra lấy con mắt bạc xuống, lầm bầm mắng chửi: "Tượng Phật quỷ quái này, còn ghê hơn cơ quan của người Maya nữa". Ngoảnh đầu nhìn lại y mới nhận ra chỗ mình vừa đập vỡ lại tràn ra vô số bò cạp trắng nhỏ, còn chỗ đặt con mắt bạc không hiểu đã sắp xếp cơ quan gì mà cũng bắt đầu chảy ra rất nhiều chất dịch màu đỏ.

Lũ bọ cạp trắng đã tràn ra rất nhiều, chiếm cứ hết gần nửa vai tượng Phật và hầu hết các cánh tay, Soares trong một thoáng cũng không tìm thấy chỗ nào đặt chân, mà tai tượng Phật cũng đã bị vô số bọ cạp trắng khác tràn lên. Lúc này, y lại nghe bên dưới chân có tiếng "lạch cạch", cúi đầu quan sát, thấy gốc tai cũng bắt đầu có vụn đá rơi lả tả, Soares nhíu chặt hai hàng lông mày, lầm bẩm chửi: "Chó chết" Y ngầng đầu lên, bám lấy tóc xoắn ốc của tượng Phật, trèo lên đỉnh đầu. Chỉ nghe một tiếng "bục", tựa hồ như có tấm màng chắn bị phá vỡ, kế đố một lượng lớn dịch đỏ tràn ra nơi lỗ tai tượng Phật, tai Phật tựa hồ như làm bằng đất bột, vừa đổ nước vào là tan ra ngay, cái cái tai rơi luôn xuống dưới,. Vậy còn chưa hết, lại nghe "xì" một tiếng nữa, trên đỉnh đầu tượng Phật cũng bắt đầu rỉ ra thứ dịch đỏ kia, Soares không còn đường nào để đi, chỉ biết mở mắt nhìn trân trân chỗ đứng của mình bắt đầu đung đưa dao động, cuối cùng cũng không nhịn nỗi mà ngoác miệng ra chửi: "Chó chết! Khốn nạn! Bọn người Cổ Cách trời đánh!..." Lời còn chưa dứt, cả đầu tượng Phật đã rơi khỏi thân tượng, Soares cũng theo đó mà rơi xuống.

Cùng lúc ấy, Merkin ở dưới đất cũng kinh hoảng luống cuống cả tay chân. Y không tài nào ngờ được một pho tượng lớn như thế, vậy mà bảo sụp là sụp xuống ngay được. Hiện trường loạn như bầy ong vỡ tổ,căn bản không thế nào chỉ huy được, đành ai có mạng người ấy chạy thôi vậy. Merkin vừa mới tránh ra một bên, đã thấy đầu tượng Phật khổng lồ rơi uỳnh xuống đất, vỡ làm bốn năm mảnh, chất dịch màu đỏ bắn ra tung tóe, lan khắp mặt đất, quả giống như máu chảy thành sông. Merkin và đám thủ hạ đều bị dính khá nhiều chất dịch này lên người. Bọn bọ cạp trắng kia, không hiểu nhân được thông tin gì từ chất dịch, liền như bầy sói đói thấy thịt tươi, gấu chó ngửi được mùi mật, tức khắc ào đến như thác lũ. Merkin thấy tình thế không hay, ngoác miệng chửi một tiếng: "Chó chết", rồi xoay người co giò bỏ chạy. Cả đám thủ hạ cũng luống cuống chạy theo.

Soares lơ lửng trên không, thì ra lúc từ trên trời cao rơi xuống, rốt cuộc y cũng nhờ vào tài nghệ dùng roi của mình kịp thời quấn vào giàn giáo, nhặt lại tính mạng từ tay tử thần. Nhân lúc đám bò cạp trắng chưa kịp vây kín, y lập tức rút roi rồi lại ném ra, liên tiếp bốn lần cuối cùng cũng hạ chân xuống đất, chay lao theo đám người Merkin.

Cả đám người chạy một mạch nửa tiếng đồng hồ, trèo lên một cái tháp đất tương đối cao. Merkin thở hổn hến nói: "Không đuổi. không đuổi theo nữa rồi". Điểm lại quân số y phát hiện ra thiếu bốn người, mà cũng không phải quay lại tìm làm gì nữa, ai nấy đều rõ số phận của bốn tên đó thế nào rồi. Merkin nhìn con mắt bạc trong tay Soares, vừa thở vừa mỉm cười nói: "Chúng mày, đây chính là di tích Cổ Cách treo ngược giữa không trung đấy"

Soares nghiến răng nói: "Nhan lên, đưa tôi hai ống huyết thanh, chó má thật"

Merkin kinh ngạc thốt lên: "Sao cơ? Cả anh mà cũng…?"

Soares nói: "Ừm, lúc đạp lên vai pho tượng. Những cơ quan chết tiệt này toàn thiết kế ở những chỗ người ta không thể tưởng tượng ra nổi" Merkin trầm giọng nói: "Trung Quốc dù sao cũng có đến năm ngàn năm lịch sử, kỹ thuật cơ quan của họ phát triển cũng tương đối kinh người, chúng ta không thể có tâm lý cầu may được. Cái hang Thiên Phật này chẳng qua chỉ là một pho tượng cơ quan Phật bình thường mà đã đáng sợ nhường này, Đảo Huyền Không tự chỉ sợ còn nguy hiểm nhiều hơn nữa đấy"

Thôn Công Bố

Đường núi dốc đứng, hơn nữa lại vừa dứt cơn mua nên rất trơn, dù mọi người đã đi giày đinh chuyên leo núi cũng vẫn lên được một bước lại trượt về nửa bước. Càng đi sâu vào trong lại càng không thấy bóng dáng dấu tích gì của con người. Song nơi này sơn thanh thủy tú, sau cơn mưa cây cối đều xanh mướt mát, bầy chim chao liệng trên không lại càng tăng thêm phần sinh động, đoàn người bọn Trác Mộc Cường Ba đi đường vất vả, mà không ai cảm thấy khổ sở gì. Họ đi hết một ngày đường gian khổ, tới gần buổi xế chiều, phía trước bỗng hiện ra một làn khói mờ. Nhạc Dương mừng rỡ reo vang: "Có người, phía trước có người"

Đi tới dưới chân một ngọn núi không biết tên, quả nhiên trong sơn cốc có một thôn làng hiện lên trước mắt, sống hơn trăm hộ dân trông rất giống với phong cách dân Tạng. Một con đường nhỏ quanh co đi xuyên qua khu làng, dẫn thẳng tới sâu trong khe núi. Cả nhóm người mừng vui ra mặt, chạy thẳng tới khu làng ấy, tinh thần ai nấy đều phấn chấn hẳn lên. Người đầu tiện họ gặp được là một cô bé chăn gia súc. Cô bé dựa người vào sát cánh cổng làng, chiếc roi da trong tay vung vẩy nhè nhẹ, chiếc áo Phổ Lỗ dệ bằng lông cừu và tấm khăn đầu đỏ tực như lửa ánh lên cùng ráng chiều rực rỡ nơi trời Tây và lũ cừu trắng toát dưới làn mây khói lững lờ. Cảnh tượng hiện lên như một bức tranh sơn thủy khó tả nổi bằng lời. Đàn cừu đã ngoan ngoãn trở về thôn trang, nhưng cô bé vẫn lưu luyến nhìn về phương Đông, tựa hồ như đang đợi ai đó. Trương Lập mắt sáng lên, đang chuẩn bị bước lên chào hỏi, cô bé kia thốt nhiên trông thấy người lạ, vội kêu lên một tiếng rồi vung roi đuổi đàn cừu chạy đi, chỉ để lại trong mắt nhóm khách phương xa một bóng hình yểu điệu mỏng manh.

Đi vào giữa làng, chỉ thấy già trẻ gái trai, hầu hết đều dừng chân nhìn ngó mấy du khách lạ mặt. Trang phục của họ đậm nét đặc trưng của người Tạng, song lại có phong cách rất riêng, tựa hồ như phục sức của người Môn Ba, nhưng lại không hoàn toàn là thế.

Trác Mộc Cường Ba sải chân lên trước, dùng tiếng Tạng hỏi một ông già trông giống người Tạng: "Ông ơi, chúng tôi ở ngoài núi vào đây, muốn tá túc một đêm, ở đây có chỗ nào trú tạm không ạ?"

Giọng ông già kia vang lên gắt gỏng: "Cậu nói cái gì? Tôi không hiểu?"

Trác Mộc Cường Ba thoạt nghe, nhận ra đây là một kiểu phát âm chẳng giống tiếng Tạng bình thường cũng không giống tiếng Tạng cổ, mà dường như là giữa hai thứ tiếng ấy, nghe nửa hiểu nửa không, gã liền dứt khoát dùng tiếng Tạng cổ hỏi một lượt. Ông già kia liền lộ vẻ ngạc nhiên ra mặt, rõ ràng là cảm thấy kinh ngạc trước chuyện Trác Mộc Cường Ba biết nói tiếng Tạng cổ; thế nhưng, ông ta cũng chỉ lạnh lùng đáo một câu: "Không biết", rồi quay người đi thẳng.

Trác Mộc Cường Ba lấy làm ngạc nhiên. Gã hiểu rõ, đồng bào của mình đều là những người nhiệt tình hiếu khách, nhưng dân tộc trong núi này sao lại lạnh lùng như nước đá thế kia? Lạt ma Á La và Trác Mộc Cường Ba lại chia nhau đi hỏi mấy người khác, tử tế một chút thì trả lời "Không biết", còn đâu thì thấy họ lại gần là đã tránh ra xa, đi được mấy bước lại dừng, ngoảnh đầu quan sát. Thẳng thừng hơn nữa, có người thậm chí còn lớn tiếng quát đuổi: "Đi đi, đi đi, chỗ chúng tôi đây không tiếp khách vùng ngoài. Mặc xác các anh là người gì thì người! Mời các anh mau mau đi khỏi đây cho"

Đã đến giờ cơm tối, người trong làng dường như đã hẹn nhau trước, đột nhiên tản đi hết, nhà nhà cửa kín như bưng, đường làng bỗng dưng trở nên hoang vắng thê lương. Tám ngượi chán nản tụ lại giữa làng, nhìn gió thổi lá bay xào xạc, cây cỏ đung đưa, tâm tình trĩu hẳn xuống. Đường Mẫn dầu môi lên nói: "Người ở đây sao lại như thế chứ?" Trương Lập và Nhạc Dương ngơ ngác nhìn nhau không biết trả lời thế nào.

Giáo sư Phương Tân nói: "Có lẽ là mỗi nơi mỗi phong tục thôi" Ba Tang chỉ cười gằn không ra tiếng.

Lạt ma Á La nói: "Theo bản đồ, thì nơi kia cũng gần ở đây thôi, không biết người trong làng này có biết gì không nhỉ"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Không thể nào đây, chuyện từ hơn ngàn năm trước, ai nhớ nổi chứ"

Giáo sư Phương Tân lắc đầu phản đối: "Không, có rất nhiều nơi đã mất hết văn tự và hình vẽ ghi chép sự kiện, nhưng người dân địa phương vẫn dùng hình thức truyền thuyết hoặc câu chuyện thần thoại để lưu truyền cho đời sau. chẳng hạn như dân cư ở Song Nhũ Sơn, Hán Vương mộ đều biết truyền thuyết nói về mộ cổ"

Lữ Cánh Nam nói: "Người ta đã không hoan nghênh, vậy chúng ra ra ngoài thông dựng lều hạ trại đi. Đằng nào cũng không thiếu nước với thức ăn. Sáng sớm mai sẽ lên đường, không làm phiền tới họ nữa"

Vậy là cả nhóm chọn một khoảng đất trống phía Đông làng, cắm lều hạ trại, đốt lửa nấu cơm. Trác Mộc Cường Ba giúp Đường Mẫn nhen lửa, bị cô trêu chọc, hun cho muội khói dính đen sì cả mặt. Nước còn chưa sôi, bỗng nghe sau lều có tiếng cãi vã. Trác Mộc Cường Ba chạy ra xem thử, thì thấy Ba Tang đang lạnh lùng nhìn một đứa bé trai chừng tám chín tuổi, Trương Lập và Nhạc Dương đang mỗi người nói một câu gì đó. Vừa thấy Trác Mộc Cường Ba tới, cả hau vội tranh nhau nói: "Cường Ba thiếu gia, thằng nhỏ này ăn trộm đồ của chúng ta"

Mặt mũi thằng bé lấm lem bùn đất, hình như vừa chơi đùa thỏa thích ở đâu về, đôi mắt sáng cứ nhìn chằm chặp vào người ta không chịu chớp, bàn tay nhỏ nắm chặt lại, điệu bộ vẻ như oan ức lắm. Trác Mộc Cường Ba thân thiện hỏi: "Bé con, tên cháu là gì?"

Đứa bé cũng lấy làm ngạc nhiên trước người đàn ông biết nói tiếng Tạng cổ này, ngước lên nhìn thân hình cao lớn của Trác Mộc Cường Ba: "Tôi tên Thứ Cát"

Trác Mộc Cường Ba lại nói: "Tốt lắm, Thứ Cát, có thể cho chú biết tại sao cháu lại trộm đồ ăn của chúng ta không?"

Sắc mặt Thứ Cát lập tức đầy vẻ phẫn nộ, bàn tay nhỏ lại càng nắm chặt hơn: "Không có! Tôi không có!" Điệu bộ thằng nhóc như thể đang nói, có đánh chết tôi cũng không thừa nhận.

Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên: ""Nó bảo không ăn trộm"

Trương Lập và Nhạc Dương cùng lúc kêu lên: "Nói bậy đấy!" Trương Lập nói: "Tôi tận mặt chứng kiến nó đang lục balo của chúng ta. Anh Ba Tang cũng trông thấy nữa, nếu không phải anh ấy bắt nó lại, thằng nhóc này đã lỉnh mất từ lâu rồi"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Trong balo có thiếu thứ gì không"

Ba Tang lạnh lùng đáp: "Phát hiện ra sớm, nên không để nó lấy mất thứ gì"

Trác Mộc Cường Ba xoa xoa đầu Thứ Cát, nghĩ ngợi một chút rồi nói: "Bỏ qua đi, trẻ con nơi rừng sâu núi thẳm, chưa thấy balo to như thế bao giờ, hiếu kỳ một chút cũng là thường thôi. Đằng nào chúng ta cũng không mất gì cả, các cậu nghĩ sao?"

Trương Lập nói: "Thằng nhóc này ở trong làng kia, lúc nãy tôi đã thấy nó rồi"

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: "Tôi biết, tôi cũng thấy nó rồi" Lúc ở trong làng thằng bé này đứng cạnh một phụ nữ trung niên, quần áo khi ấy vẫn còn sạch sẽ. Ba Tang hơi lỏng tay ra, tay kia hất về phía thằng bé, ra hiệu nó có thể đi được rồi.

Không ngờ, Thứ Cát lại hiểu lầm, nó lớn tiếng rống lên: "Các người giết tôi, anh Đa Cát nhất định sẽ báo thù!"

Trác Mộc Cường Ba mỉm cười ngồi xổm xuống, quệt quệt muội than trên mặt, vẽ một cái vòng trên má Thứ Cát, cười cười bảo: "Ai nói chúng ta sẽ giết cháu? Cháu về nhà được rồi, lần sau muốn xem gì thì bảo với chúng ta, trong cái túi này có nhiều thứ thú vị lắm"

Thứ Cát nghi hoặc tròn mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, lùi lại mấy bước rồi mới quay người bỏ chạy. Chạy được vài bước, thằng bé quay đầu lại ngó xem bọn họ có đuổi theo không. Thấy đám Trác Mộc Cường Ba không đuổi theo, cậu nhóc mới hét lớn: "Kẻ Cướp! Ăn trộm…" rồi chạy tót vào làng.

Lạt ma Á La và Giáo sư Phương Tân cùng Lữ Cánh Nam đi quan trắc địa hình quay trở lại, báo cho những người còn lại biết, vị trí đánh dấu trên bản đồ chắc là ở phía Đông làng, lệch về phía Nam chừng ba mươi độ, cách khoảng 30km, nhưng đó là đường chim bay, còn vượt núi băng rừng thì thật khó nói là phải đi mất bao lâu nữa. Trác Mộc Cường Ba kế sơ qua chuyện về Thứ Cát cho mấy người. Lúc này, một phụ nữ trung tuổi đang ngại ngần đứng cạnh lều trại của họ, thấp giọng nói: "Này…"

Cả bọn quay lại, liền thấy người phụ nữ người Tạng chừng bốn mươi tuổi đang khom mình cúi đầu nói: "Thằng bé đó, thật là ngại quá. Thứ Cát bướng bỉnh quá, thật là làm phiền các vị, tôi dẫn nó đến xin lỗi đây" Thứ Cát lấp ló phía sau vạt áo mẹ nó, vẻ mặt xem chừng không phục.

Trác Mộc Cường Ba đứng dậy nói: "Không có gì, Thứ Cát là đứa trẻ ngoan. Nó hiểu chuyện lắm"

Người phụ nữ trung niên kia nói: "Thực sự hết sức xin lỗi chuyện vừa rồi trong làng, cả làng chúng tôi, mọi người đều thờ ơ với khách từ phương xa đến quá. Nếu mọi người không ngại, xin mời đến nhà tôi"

Lời mời này khiến mọi người đều mừng ra mặt, dù sao thì nước vẫn chưa đun sôi, sau mấy câu khách sáo, cả nhóm Trác Mộc Cường Ba liền thu dọn đồ đạc, dọn vào nhà Trác Mã. Phòng ốc rất rộng rãi, thừa đủ chỗ cho tắm người nghỉ ngơi. Chồng Trác Mã vào núi săn bắn, phải muộn hơn nữa mới về. Mọi người trò chuyện được đôi ba câu, khay trà sữa nóng hôi hổi đã được bưng lên bàn.

Trương Lập ăn uống nhồm nhoàm, rồi rối rít khen: "Bánh xốp của chị Trác Mã ngon thật đấy. Đây mới là điểm tâm kiều Tạng chính gốc chứ lại"

Trác Mã cười cười: "Ngon thì ăn nhiều một chút đi, nhà chúng tôi cũng lâu lắm rồi không có nhiều khách thế này"

Lữ Cánh Nam hỏi: "Phải rồi chị Trác Mã, vừa nãy trong làng xảy ra chuyện gì vậy? Sao mọi người đều lạnh lùng như vậy?"

Trác Mã ngượng ngùng đáp: "Chuyện này…đã là tập tục từ rất nhiều năm trước rồi, tất cả đều là quy củ tổ tiên truyền lại. Chúng tôi sống trong chốn rừng sâu núi thẳm này, cũng ít khi gặp được người nơi khác đến, nên không biết đạo đãi khách, có chỗ nào không phải, mong các vị bỏ quá cho"

Lạt ma Á La hỏi: "Vậy người ở đây thuộc bộ tộc nào thế?"

Trac Mã nói: "Chúng tôi à, chúng tôi là người Công Bố Ba"

Lạt ma Á La chau mày: "Công Bố Ba? Trước nay hình như chưa nghe nói có một dân tộc nào như vậy cả"

Trác Mã đứng lên nói: "Chúng tôi sinh sống mãi sâu trong núi, người biết đến không nhiều lắm đâu. Xin lỗi, tôi phải ra ngoài một chút, các vị cứ tự nhiên"

Sau khi Trác Mã đi khỏi, tám người vừa thưởng thức đồ ăn thức uống, rồi sôi nổi bàn luận, cho rằng mình vẫn số đã chuyển. Lạt ma Á La đột nhiên cảm thấy vùng bụng có gì đó không ổn, đầu óc nặng nề như đã uống rất nhiều rượu, ông nhổm đứng lên: "Không ổn, những thứ này không ổn" Vừa mới đứng lên, lập tức cảm thấy trời xoay đất chuyển, ngã huỵch xuống đất. Mọi người thảy đều kinh hãi, nhưng quá muộn, người nào người nấy đều đổ nghiêng đổ ngã, chẳng mấy đã ngủ thiếp đi.

Trác Mộc Cường Ba tỉnh lại, phát hiện mình đang nằm trên một chiếc giường lớn, đầu giường đặt một chiếc hộp Bát Bảo, bên trên khắc đại bàng và mây lành, màn trướng buông rũ, nệm giường vừa mềm mại vừa dễ chịu, toàn bộ đều làm bằng tơ lụa thượng hạng, vách tường bên trái có am thờ Phật, đèn lửa sáng rõ, khói xanh vấn vít tỏa bay. Trác Mộc Cường Ba lắc lắc cái đầu nặng như đá, thầm nhủ: "Mình đang ở đâu đây? Trong mơ chăng?"

Trác Mộc Cường Ba nhổm người xuống giường, quần áo vẫn còn nguyện vẹn, ba lô đặt trên bàn, đồ đạc không thiếu thứ nào, chỉ là không biết những người khác đã đi đâu mất. Đầu óc gã lúc này mê man, không cẩn thận chạm tay vào làm đổ chiếc ghế, bên ngoài liền có người bước vào, cung kính nói: "Ngài tỉnh rồi ạ. Thánh sứ đại nhân"

Trác Mộc Cường Ba luống ca luống cuống, hoang mang hỏi: "Cái gì...cái gì sứ?"

Người kia quỳ một chân xuống, nói: "Thánh sứ đại nhân, ngài là Thánh sứ đại nhân của bộ tộc Công Bố chúng tôi"

Thị lực Trác Mộc Cường Ba đã dần dần khôi phục, thấy trước mắt mình có một thanh niên cao lớn khỏe mạnh đang quỳ một chân, sắc da hơi ngăm đen, trán rộng mũi cao, đôi mắt sáng rỡ. Gã lẩm bẩm nói: "Các người, các người có nhầm lẫn gì không?" Gã sống bằng này tuổi đầu, đây là lần đầu tiên nghe thấy tộc Tạng có một nhánh gọi là Công Bố, làm sao gã có thể trở thành cái gì sứ của bộ tộc này cho được?

Thanh niên kia nói: "Không thể lầm được, ba vị trưởng lão xưa nay chưa bao giờ nói sai. Ngài chính là Thánh sứ đại nhân của chúng tôi, đây là sự thật đã được Thần khâm định từ mấy ngàn năm trước rồi"

Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: "Cậu tên gì?"

Thanh niên cúi đầu đáp: "Tiểu nhân là Na Thâm"

Trác Mộc Cường Ba liền dịu giọng nói tiếp: "Na Thâm, Na Thâm, những người bạn của tôi đâu rồi?"

Na Thâm cung kính đáp: "Bạn của Thánh sứ đại nhân đều đang ngủ ở một căn phòng khác"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tại sao Trác Mã lại đánh thuốc mê chúng tôi?"

Na Thâm đáp: "Là để xác đinh thân phận của Thánh sứ đại nhân"

Trác Mộc Cường Ba hoang mang đáp: "Trưởng lão xác định thân phận của tôi bằng cách nào? Bọn họ dựa vào cái gì mà nói tôi là Thánh sứ? Cậu dẫn tôi đi gặp trưởng lão xem?"

Na Thâm sợ hãi nói: "Chỉ có người trưởng lão muốn gặp mới có thể gặp mặt trưởng lão, bây giờ thánh sứ đại nhân ngài không thể đi gặp trưởng lão được"

Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu, cầm ly nước lạnh trên bàn uống ừng ực cho bản thân tỉnh táo thêm chút nữa rồi hỏi tiếp: "Vậy Thánh sứ đại nhân này có thể làm những gì?"

Na Thâm đáp: "Ba bị trưởng lão nói, Thánh sứ đại nhân xũng phải tới Cánh cửa sinh mệnh, chúng tôi sẽ dốc hết sức giúp Thánh sứ đại nhân và các bạn của ngài đến Nạp Bạc Thác"

Trác Mộc Cường Ba ngẩn người: "Cánh cửa sinh mệnh?" Gã dường như hiểu ra gì đó, lại như mù mờ không hiểu, hoàn toàn bỏ sót mất chữ "cũng"kia.

Trong bóng tối mù mịt, những ngọn đuốc như ánh đom đóm lập lòe, ghép thành một đường dài ngoằn ngoèo khúc khuỷu. Mỗi người đều ở trong trạng thái cảnh giác cao độ. Trong ánh sáng của ngọn đuốc trên tay, bên phải là vách đá, bên trái trống không mờ mịt, thi thoảng lại có đá vụn rơi xuống, song lại không có bất cứ tiếng vọng nào. Thì ra, con đượng bọn họ đi không ngờ lại giống hệt như con đường nhỏ tiến vào Mặc Thoát bên sông Nhã Lỗ Tạng Bố, trên dưới là bầu không thăm thẳm, con đường ở giữa nhô ra rộng chưa đến một mét, mà lúc này còn tối om như mực, trên không thấy trời, dưới không thấy đất. Soares ngoảnh đầu nói: "Đáng lẽ phải mang thằng oắt kia đến, có khi bây giờ đã qua chỗ này rồi ấy chứ"

Merkin nói: "Mang hắn đi cũng vô dụng, thằng oắt ấy cả đời cũng chưa ra khỏi Mặc Thoát, hắn chỉ nghe theo những gì tổ tiên hắn truyền lại mà thôi, còn chúng ta mới có bản đồ. Thật không ngờ địa hình ở đây lại phức tạp thế này, cái chỗ quỷ này làm sao mà hình thành được nhỉ?"

Soares nói: "Chắc là cao nguyên đá vôi, nhưng chất đá ở đây và nham thạch trên mặt đất hoàn toàn không giống nhau. Để tôi nghĩ lại xem no, tàừ đầu đến giờ vẫn đi xuống dốc. Từ trên mặt đất xuống đây chắc khoảng một ngàn mét, đã đi qua tầng nham thạch trầm tích rồi. Vách đá ở chỗ này dường nhự đều do nham thạch cứng cấu thành, hơi giống đá rhyolite, có lẽ là một khe ngầm hoàn toàn bít kín hình thành từ những vân động tạo sơn ban đầu của địa cầu"

Merkin nói: "Bây giờ bốn phía đều tối đen như mực, chẳng nhìn thấy gì cả, làm sao mà tìm kiếm đây?"

Soares đáp: "Cứ men theo con đường này tiếp tục đi đi. Tôi nghĩ thằng oắt ấy nói cái gì mà như dây thừng nhà trời sẽ nối tới cánh tay của Thủ la, chắc là phải có cầu mới đúng"

Merkin lẩm bẩm: "Bao nhiêu năm như vậy, có trời mới biết còn hay không"

Hai người vừa nói vừa tiếp tục tiến lên, đột nhiên Soares dừng bước, Merkin cũng dừng lại theo, đám người phía sau cũng đều đứng lại, người thứ năm không kịp dừng bước, bất cẩn đụng vào người đứng trước. Người thứ tư đi trên con đường nguy hiềm này suốt một quãng thời gian dài, vốn đã mỏi gối chùn chân, bị chạm vào một cái, liền "loạt soạt" nghiêng đầu sang bên không có vách đá. Merkin vươn tay ra, không cần quay đầu lai đã kéo người thứ tư về, đồng thời nói: "Rơi xuống là chết chắc đấy, tự chú ý đi"

Soares nói: "Xem ra đã tới rồi"

Merkin ngoảnh đầu: "Lần này thì đúng là thê thảm"

Chỉ thấy phía trước cái khe khổng lồ tăm tối, hai cây trụ sắt cắm sâu vào vách đá, nhưng xích sắt bên trên đứt từ đời nào, không biết đã rơi đi đâu mất. Soares sờ soạng cây trụ sắt nói: "Những đồ sắt này chắc là đã phết lên một lớp vật liệu chồng gỉ nhân tạo, một ngàn năm ròi mà vẫn không thay đổi gì cả, ừm, vết cắt phẳng lắm, xem ra sợi dây xích duy nhất nối liền đại hiệp cốc này đã bị người ta phá hoại rồi. Nhìn dấu vết chỗ đứt đoạn, có lẽ là cổ nhân từ ngàn năm trước gây ra, khi ấy rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?" Merkin nói với người đứng sau lưng: "Max, bắn một quả pháo tín hiệu đi, xem tình thế xung quanh thế nào"

Pháo sáng lập lòe bay lên, chiếu rọi đại hiệp cốc tối tăm rõ như ban ngày, nhưng phạm vi chiếu sáng cũng rất có hạn, nên đại hiệp cốc không rõ sâu rộng thế nào này vẫn ẩn dung mạo của mình trong bức màn đen tối. Merkin không nén nổi kinh ngạc thốt lên: "Khe nứt rộng quá, không ngờ lại chẳng nhìn được bờ đối diện nữa"

Soares đề nghị: "Bắn thêm mấy phát nữa xem, hình như tôi vừa thấy cái gì đó"

Lại có mấy quả pháo sáng nữa được bắn ra, Merkin lắc đầu: "Vẫn chẳng thấy gì cả mà"

Soares cố giữ bình tĩnh, nói: "Tôi thấy rồi"

Merkin vội hỏi: "Anh trông thấy gì?" Y hiểu rõ, Soares có đôi mắt cảu loài cú vọ, thị lực trong bóng tối tốt hơn người bình thường rất nhiều. Giọng Soares như thể chính y cũng không tin vào những điều mình nói: "Đối diện, phía chính diện có nhà"

"Nhà!" Merkin kinh ngạc thốt lên thành tiếng, trên vách đá cao ngất, dốc đứng này không ngờ lại có một ngôi nhà, cứ nghe như truyện cổ tích ngàn lẻ một đêm vậy. Soares khẳng định chắc chắn: "Đúng, nói một cách chính xác, phải nói là chùa hay miếu mới đúng. Tôi thấy rồi, có chùa chiền miếu mạo, không chỉ một ngôi đâu, chúng bám dính trên vách đá đối diện, Đảo Huyền Không, không sai, chính là ở đây, Đảo Huyền Không tự!"

Merkin kích động kêu lên: "Nhanh, dùng tia laze đo khoảng cách xem bao xa"

Max lấy máy đo ra, loay hoay một lúc rồi nói: "Ông... ông chủ, hai,hai trăm linh bảy mét"

Soares nói: "Xa vậy làm sao qua được?" Giờ đây cầu dây sắt đã đứt, cho dù có một sợi dây thừng dài đến thế, cũng không thể nào ném qua bờ đối diện được.

Merkin trầm ngâm giây lát rồi nói ngay: "Đo thử bên dưới..."

Soares nói: "Anh muốn trèo xuống vách đá, sau đó lại bò từ dưới lên à?" Merkin khẽ gật đầu.

Max giở máy đo ra, rồi còn kinh ngạc gấp bội: "Ông... ông chủ, không...không đo được"

"Hả?" Merkin giật lấy cái máy đo, đích thân thao tác lại một lượt, quả nhiên không có con số nào hiển thị lên màn hình, liền bực tức chửi một tiếng: "Làm thế chó nào vậy?"

Soares lắc đầu: "Không có gì là lạ, bên dưới chỗ này quá nửa là có hệ thống nước ngầm, giống như sông Nhã Lỗ Tạng Bố ấy, cũng chỉ có một dòng sông như thế ngày đem xối xả, mới có thể mài được một khe ngầm sâu thế này thôi"

Merkin phản đối: "Cho dù có hệ thống nước ngầm thì tia laze vẫn xuyên qua được chứ"

Soares gật đầu: "Đúng vậy, nhưng có nước thì sẽ có bụi nước, chỉ cần tầng bụi nước đủ dày thì sẽ có thể hấp thu và chiết xạ tia laze giống như tầng khí quyển, tín hiệu truyền về quá yếu, không thể làm vật liệu mẫn cảm với ánh sáng trong thiết bị này phản ứng. Tốt nhất cứ dùng mắt trực tiếp quan sát còn hơn, bắn pháo sáng đi"

Lại một quả pháo sáng nữa bắn thẳng xuống dưới, chỉ thấy luồng sáng chói lòa biến thành một điểm sáng nhỏ trong màn đêm, sau đó chìm dần chìm dần....cuối cùng thì biến mất không còn tăm tích. Soares hít một hơi khí lạnh thốt lên: "Khá lắm, ít nhất cũng phải trên một ngàn mét, hơn nữa dù có xuống được bên dưới, chúng ta cũng không qua được con sông đó đâu, xem ra cách này của anh không thực hiện được rồi"

Merkin vẫn không cam tâm nói: "Đo bên trên cho tao xem nào"

Soares lắc đầu: "Vô dụng thôi, vừa nãy không phải đã nói rồi sai, ở đây cách lối vào khe nứt ít nhất cũng hơn một ngàn mét, bên trên quá nửa không phải là đỉnh vòm như quy tắc thông thường, cấu tạo như vậy căn bản là không trèo lên được đâu"

Max đo kết quả rồi nói: "Một ngàn hai trăm ba lăm mét, ông chủ, chúng ta không lên nổi đâu"

Soares nói: "Bây giờ chỉ có thể nghĩ cách trực tiếp nối liền hai bờ vực lại thôi, có khả năng này không nhỉ?"

Rõ ràng biết đích đến đã ở ngay trước mắt, vậy mà lại bị vực sâu hiểm yếu ngăn cách, quả thực khiến người ta phải nôn nóng bựa bội. Merkin cũng không giữ nổi trầm tĩnh, cứ gãi đầu liên tục, cuối cùng bật ra một tiếng: "Có cách rồi, có thể dùng ống phóng hỏa tiễn bắn dây thừng móc câu hoặc dây thép sang bờ đối diện"

Soares tức khắc phản đối: "Không được. Chúng ta đi xuống ở chỗ cách di chỉ Cổ Cách chừng 20km, sau đó là đi thẳng một mạch theo hướng Đông bắc, bầy giờ e là đang ở độ sâu 1000m bên dưới di chỉ Cổ Cách rồi, gây tiếng động quá lớn, chỉ sợ kinh động người ở bên trên"

Merkin nói: "Vậy thì có thể sử dụng thiết bị phát xạ lực từ"

Soares nói: "Nhưng theo tôi được biết, những thiết bị ấy đều rất lớn, làm sao mang xuống tận dưới này được"

Merkin đáp: "Tôi có thể kiếm được thiết bị bắn dây thừng xách tay, ở Mỹ, những người làm địa chất thường xuyên sử dụng thứ này, giờ Trung Quốc cũng đã có sản phẩm cùng loại. Lập tức trở ra đi, tôi gọi điện liên hệ với đám người ấy, muộn nhất là ngày mai là có thể cho máy bay ném đồ xuống khu vực gần đây rồi"

Soares bổ sung thêm: "Còn dây thừng dài nữa" Y thoáng nghĩ ngợi giây lát rồi lại nói: "Còn mấy món đồ thí nghiệm kia nữa"

Merkin hơi nhếch mép cười: "Có thể dùng được rồi sao? Vậy thì..."

Thánh hồ Nạp Bạc Thác

Ngày hôm sau, mọi người lại tụ tập ở phía Đông thôn làng, lần này có khác biệt là, ba lô hành lý đều do người trong bộ tộc Công Bố gánh thay. Mỗi người trong nhóm có một con ngựa để cưỡi, song cho đến giờ, ai nấy vẫn lờ mờ không hiểu nỏi tối qua rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chăng hiểu sao mới ngủ qua một đêm, Trác Mộc Cường Ba đã thành Thánh sứ đại nhân của người Công Bố rồi. Có điều có một chuyện đã làm rõ được, nơi họ muốn đến lần này, cũng chính là Cánh cửa sinh mệnh dược ghi chú trên bản đồ, là nơi người bộ tộc Công Bố hết sức quen thuộc, bởi vì cánh cửa ấy là thánh địa mà bọn họ đời đời canh giữ bảo vệ. Tương truyền, Cánh cửa sinh mệnh ấy nằm ở trung tâm một cái hồ, họi là Hồ Nạp Bạc Thác, ngoài Thánh sứ đại nhân ra, những người khác đều không thể tiến vào. Người bộ tộc Công Bố bào đời nay đều nghiêm cẩn tuân thủ quy tắc đó, đợi chờ Thánh sứ đại nhân xuất hiện.

Sự phân biệt đẳng cấp nghiêm ngặt ở đây khiến tấc cả đều cảm thấy không quen mắt. Bọn họ không thể cưỡi trên ngựa, rồi hò hét với đám người Công Bố đang giúp mình vác balo như quát nô lệ được. Cuối cùng đành thõa hiệp, để ba lô đồ đạc trên lưng ngựa, chỉ c ân một mình Na Thâm dẫn đường, cả đoàn bắt đầu tiến vể phía Cánh cửa sinh mệnh. Trên đường, mọi người đều rôm rả hỏi han Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Thế này thì đúng là đã làm khó cho gã, đừng nói là bản thân gã không hiểu gì, đến cả Na Thâm cũng không hiểu rõ ngọn ngành, chỉ biết là ba vị trưởng lão đã tuyên bố với cả làng rằng, Trác Mộc Cường Ba chính là Thánh sứ đại nhân mà bộ tộc Công Bố bọn họ đợi chờ đã mấy ngàn năm nay, vậy là Trác Mộc Cường Ba liền trở thành Thánh sứ đại nhân. Mọi người không hỏi được nguyên nhân đều lấy làm thất vọng, song chỉ thoáng sau đó lại nhao nhao hỏi những vấn đề khác, Trương Lập láu táu hỏi: "Nạp Bạc thác sao lại ở chỗ này nhỉ? Tôi còn nhớ...."

Câu trả lời của Na Thâm là: "Nạp Bạc Thác xưa nay vẫn ở chỗ này, mấy vạn năm trước, nữ thần Nila xinh đẹp từ trên thiên giới..."

Trương Lập vội xua tay nói: "Được rồi, được rồi, tôi không phải muốn hỏi chuyện này"

Lạt ma Á La lên tiếng: "Tôi biết cậu muốn hỏi gì rồi, có phải muốn hỏi một cái hồ khác cũng có tên này phải không. Thực ra Nạp Bạc Thác vốn có nghĩa là cái hồ ở phía sau khu rừng, phàm là hồ hay biển ở sau rừng rậm, bất kể lớn nhỏ ra sao, chúng ta đều có thể gọi là Nạp Bạc Thác. Những hồ cùng tên như vậy, ở khu vực A lý cũng có, Thanh hải cũng có, Vân Nam cũng có"

Lữ Cánh Nam hỏi: "Phải rồi, người trong làng bị sao vậy? Lúc nào họ cũng lạnh lùng với người nơi khác đến như vậy à?" Tối hôm trước, Trác Mã chỉ đáp cho qua chuyện, Lữ Cánh Nam vẫn thấy đáp án đó không được thõa mãn cho lắm.

Na Thâm nói: "Đó là quy củ trong thôn, đối với người nơi khac đến nhất định phải hững hờ lạnh lùng, không được tùy tiện ngênh đón những kẻ ngoại lai"

Đường Mẫn tò mò hỏi: "Vậy ư? Tại sao vậy?"

Na Thâm đáp: "Thực ra chuyện này đã phai nhạt đi trong ký ức nhiều người rồi, vì vậy mọi người cũng không biết tai sao như vậy đâu. Tôi từng được nghe các bị trưởng lão kể về nguyên nhân của sự việc này. Tương truyền, hơn trăm năm về trước, thôn làng của chúng tôi cũng giống những nơi khác, người trong làng đều hết sức nhiệt tình hiếu khách. Cũng tại làng ở nơi xa xôi cách trở, hiếm hoi lắm mới có một vị khách từ nơi khác đến, khi ấy có lẽ chúng tôi còn nhiệt tình hơn những làng khác nữa cũng nên. Rồi đến một ngày, có một quái nhân tóc vàng mắt xanh xuất hiện. Điều khiến người ta kinh ngạc là hắn nói tiếng Tạng rất lưu loát, hoàn toàn có thể trao đổi voeis người trong thôn. Mọi người đều chiêu đãi hắn rất nhiệt tình, coi hắn như anh em ruột thịt của mình vậy, còn quái nhân ấy cũng kể cho dân làng nge rất nhiều chuyện ở thế giới bên ngoài. Về sau, hắn lân la dò hỏi về Cánh cửa sinh mệnh..."

Sợi cương ngựa Trác Mộc Cường Ba đang kéo bỗng rung lên, con ngựa tức khắc dừng lại, tìm gã dường như cũng giật đánh thót một cái. Chỉ nghe Na Thâm chậm rãi kể tiếp: "Chúng tôi cũng không biết hắn ta nghe ở đâu tin tức này, nhưng thời đó dân phong thuần phác, mọi người đều sẵn lòng chia sẻ bị mật sâu thẳm nhất trong lòng mình với hắn, nên đã nói cho hắn biết..."

Na Thâm ngưng lại một chút để lấy hơi. Nhạc Dương và Trác Mộc Cường Ba đều không nén được buột miệng thốt lên: "Về sau đó thì như thế nào?"

Sắc mặc Na Thâm đượm vẻ bi thương, buồn bã nói: "Về sau, sau khi kẻ ấy từ biệt dân làng, không ngờ đã tự tìm đến Nạp Bạc Thác, lại còn thuê rất nhiều công nhân gánh đồ, đến khi người làng phát hiện được thì bọn cũng đã vào trong Cánh cửa sinh mệnh rồi"

Trác Mộc Cường Ba lạnh toát cả người, thầm nhủ: "Vậy là những chỗ có thể đi được, đều đã bị người khác đi mất rồi. Hơn 100 năm trước, Stanley! Nhất định là ông ta!" Gã nhớ lại cảnh tượng ở đại cung ** Puch, chỉ có tượng đá, cơ quan, các bức bích họa khổng lồ, còn đâu mọi thứ đáng tiền đã bị cướp phá sạch, lẽ nào lần này đi Cánh cửa sinh mệnh cũng lại gặp phải kết cục như thế sao? Trong đầu Trác Mộc Cường Ba vang lên những lời Lữ Cánh Nam từng nói: "Châu báu của cải nhiều như lông trâu, được ào ạt vận chuyển về nước Anh" trong lòng lại không khỏi ngấm ngầm run rẩy.

Lạt ma Á La điềm đạm hỏi: "Vậy người làng không ngăn ông ta lại à?"

Na Thâm cúi đầu ói: "Cánh cửa sinh mệnh là cánh cửa cấm của người Công Bố chúng tôi, toàn bộ dân làng đều không được phép bước vào"

Lạt ma Á La giận dữ gắt lên: "Ngu xuẩn, vậy các người cứ mở mắt trân trân ra nhìn đám trộm cướp đó đi vào thánh địa tổ tiên để lại, giao cho các người nhiệm vụ đời đời canh giữ ấy hay sao?, " So với Trác Mộc Cường Ba, trong lòng ông lúc này còn lo âu gấp bội.

Na Thâm cúi đầu không đáp. Giáo sư Phương Tân khẽ thở dài nói: "Xem ra nơi chúng ta tới quá nửa lại là một cái hang không rồi"

Lữ Cánh Nam nói: "Để xem rồi hãy nói"

Đột nhiên ngựa không chịu đi tiếp nữa, cứ thấp giọng hí lên khe khẽ. Rừng phong dường như đã hết, xa xa vọng lại tiếng gầm rú của loài động vật nào đó. Na Thâm giải thích: "Phía trước có mãnh thú, lũ ngựa đã cảm giác thấy nguy hiểm"

Lữ Cánh Nam liền phân chia: "Trương Lập, đại sư, giáo sư và Mẫn Mẫn, mấy người ở lại trông ngựa, chúng tôi đi lên trước xem thế nào"

Năm người tiến về phía trước được chừng trăm mét, thấy ở bìa khu rừng có một hang động đi vào lòng núi. Trên bãi cỏ phẳng rộng chừng năm chục mét vuông ngoài cửa hang, có một người đàn ông dân tộc Tạng, tay cầm chiếc xiên hai lưỡi, đang quần nhau với một con báo lớn. Na Thâm vừa thấy vội nói: "Na Nhật đấy, tôi qua giúp chú ấy mộ tay đã" Dứt lời liền vẫy tay chào Na Nhật, cứ thế tay không lao thẳng vào trận chiến.

Nhạc Dương kêu lên: "Chà, có phải báo hoa không nhỉ?"

Na Thâm xông vào con báo hoa. Con báo đã quần nhau với Na Nhật hồi lâu, giằng co dền dứ không phân cao thấp, đột nhiên lại thấy kẻ lạ mặt xuất hiện, liền gầm lên một tiếng với Na Thâm, rồi lao bổ tới. Na Thâm không buồn tránh né, đấm thẳng vào giữa trán con báo hoa đang nhào tới một cú mạnh như búa bổ, khôn ngờ hất ngược cả con vật về phía sau. Con báo lăn tròn dưới đất mấy vòng, biết kẻ mới đến này rất lợi hại, liền xoay người định chạy vào hang động, song lại thấy Na Nhật cầm xiên sắt chặn trước cửa hang như một pho tượng Kim Cương giữ cửa. Na Nhật nói: "Con báo này giảo quyệt lắm, lần trước suýt chút nữa thì bắt được nó rồi, kết quả vẫn để nó chạt mất. Tối qua chú ở đây canh trước cửa hang tròn một đêm mới đợi được nó ra ngoài kiếm mồi đấy"

Na Thâm cười nới: "Chú Na Nhật", thân thủ hình như hơi chậm thì phải, đối phó với một con báo này cần gì tốn thời gian thế.

Na Nhật tỏ vẻ không phục: "Nếu không phải sợ làm hỏng mất bộ da thì chú giết nó từ lâu rồi, cần gì phải lâu la mất thời giờ"

Na Thâm nói: "Nhìn cháu đây này, đảm bảo không làm rụng cả một sợi lông" Dứt lời liền lao bổ tới chỗ con báo hoa. Bạn đang đọc truyện tại Truyện YY - http://truyenfull.vn

Nhạc Dương hỏi: "Động vật được nhà nước xếp hạng bảo vệ cấp hai đấy, chúng ta có nên ngăn họ lại không nhỉ?"

....

Na Thâm đáp: "À, phải rồi, nói ra mới nhớ, bốn hôm trước Đa Cát dẫn một vị Thánh sứ khác đến Cánh cửa sinh mệnh rồi, từ hôm đấy đã về đâu"

"Hả?" Trác Mộc Cường Ba giật bắn mình kinh ngạc, vội hỏi: "Cậu nói cái gì? Một vị...thánh sứ đại nhân khác?"

Na Thâm gật đầu: "Vâng, tôi không thích cái vị thánh sứ đại nhân đó, vì ông ta giống hệt cái kẻ mà các vị trưởng lão vẫn kể, tóc vàng, mắt xanh, mũi lõ"

Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ hoảng sợ ngước nhìn ra phía sau, mọi người đều có cảm xúc tương tự. Ben, đối thủ lớn nhất của họ đã đến Cánh cửa sinh mệnh trước đó những bốn ngà, nhóm của họ lại một lần nữa bị bỏ lại phía sau. Na Thâm thấy thần sắc mấy người có vẻ không ổn vội vàng giải thích: "Tôi không có ý nghĩ gì bất kính với thánh sứ đại nhân cả, chỉ là....chỉ là..."

Trác Mộc Cường Ba vội hỏi: "Bọn họ có bao nhiêu người? Đã đi được bốn hom trước hả?"

Na Thâm đáp: "Người và trang bị của bọn họ nhiều hơn các ngài nhiều, chắc khoảng hai ba chục người gì đấy, xuất phát từ giờ Chuột bốn hôm trước. Sao vậy hả, thánh sứ đại nhân cũng không biết có một vị thánh sứ khác cũng đến ư?"

Trác Mộc Cường Ba thấy da đầu ngưa ran, nếu nói một trăm năm trước người kia chưa phát hiện, cũng chưa lấy được thứ gì, nhưng nhóm của Ben cũng đã tới đó rồi, hai ba chục người và các trang thiết bị hiện đại nhất, vậy thì còn lại thứ gì nữa đây? Giờ đây điều mà gã kỳ vọng nhất, ngược lại chính là bọn người của Ben cũng như gã, không phát hiện được điều gì trong Cánh cửa sinh mệnh kia.

"Còn...con đu nữa không? Chúng ta có cần đi tới đó nữa không? Giáo quan?" Nhạc Dương cất tiếng hỏi. Tất cả những người còn lại đều tập trung vào Lữ Cánh Nam với ánh mắt dò hỏi. Cô liền hỏi Na Thâm xem đường còn bao xa. Na Thâm chỉ về phía xa đáp: "Qua ngọn núi này là tới rồi"

Lữ Cánh Nam nghiến răng đáp: "Đi, dù thế nào cũng phải qua xem sao. Hi vọng có thể tìm đươc chút đầu mối gì đó. Bọn chúng không dám mang theo vũ khí, công nhiên ngồi các phương tiện giao thông trên không, không thể đi nhanh quá được, chúng ta vẫn có thể đuổi được"

Cứ nghĩ đến lần này lại đến một nơi bị càn quét hai lần, không còn thứ gì, mọi người lại bắt đầu mồm năm miệng mười bàn luận xôn xao.

Mọi người đang trò chuyện, Na Thâm đã dừng bước nói: "Đến nơi rồi"

Nhóm Trác Mộc Cường Ba ngước nhìn khắp núi xanh ngắt màu cây lá, không hiều Na Thâm nói đến đâu rồi, chỉ thấy anh ta sải bước chân lên đỉnh dốc, đoạn nói: "Nạp Bạc Thác, Cánh cửa sinh mệnh, chính là ở chỗ này đây"

Trác Mộc Cường Ba liền theo Na Thâm trèo lên đỉnh dốc, vạch tán cây và bụi cỏ ra, phía trước liền hiện lên một quầng xanh biếc, làn nước trong vắt lăn tăn gợn sóng, cơn gió hồ thổi tới mát rượi. Hai mạt núi hai bên tựa như một chiếc thuyền đong đầy nước sạch, Nạp Bạc Thác, hồ nước nhỏ ẩn sau rừng cây này hình dáng tựa như một con mắt, hoặc có thể coi là hình thoi cũng được, nước hồ xanh ngắt như ngọc phỉ thúy. Giữa hồ có hai hòn đảo một lớn, một nhỏ, cây cối chằng chịt, tựa như hai tròng mắt vậy, bên trên lũ chim ríu rít chao liệng, lại càng khiến vẻ đẹp của hồ nước xanh ngăn ngắt thêm mấy phần.

"A, đẹp quá!" Đường Mẫn ngạc nhiên thốt lên.

Khi gió dừng sóng lặng, toàn bộ mặt hồ tựa như một chiếc gương làm từ ngọc bích, sắc xanh mơn mởn, khiến người ta không sao nén nổi tiếng thở dài cảm thán trước vẻ đẹp của sắc màu ấy. Chẳng rõ nước hồ sâu bao nhiêu, nhưng thoạt nhìn đã thấy tận đáy, đếm được cả lũ cá đang lững lờ bơi, lúc đúng lúc tĩnh, lúc giương vây lên hoan vũ, giôgns một thiếu nữ đang hất vạt áo xanh biếc lên nhảy múa, bước chân nhẹ nhàng lướt trên mặt sóng, khói mù tỏa lan, vấn vít quanh hồ nước và núi non, làm khung cảnh trở nên như ảo mộng. Nhóm người của Trác Mộc Cường Ba đa phần đều đã đi Cửu Trại Câu, cũng biết nước ở đó như th ếnào, cũng biết đến thứ màu sắc lung linh đến độ khó thể hình dung ở nơi ấy, màu ngọc bích của cái hồ này cũng giống như nước ở Cửu Trại câu vậy, nhưng hồ ở Cửu Trại câu không lớn bằng, không có hồn bằng, không có cái vẻ linh động và thánh khiết như nơi đây. Bước lại gần hồ, mọi người gần như nín thở, phảng phất như thể thông qua mặt hồ mà nhìn thấy tiền thế kim sinh, Cánh cửa sinh mệnh, có thể cho con người ta một cuộc sống mới.

Lạt ma Á La tuyên niệm Phật hiệu, ngồi xuống nhập định. Mọi người khác đều chìm đắm trong khung cảnh tuyệt mỹ, quên hết mọi vinh nhục ở đời. Bầu không xanh màu ngọc bích ở trên, hồ nước như phỉ thúy bên dưới, thi thoảng lại có bầy chim bay vụt qua, hình bóng phản chiếu xuống mặt nước, hoàn với làn mây tím trên trời cao, tất cả đều thật tự nhiên, trong lòng mỗi người đều không khỏi dâng trào lên dòng cảm xúc "đúng là phải như thế" Mây nước mênh mang biến hoá phức tạp, nhìn ngắm sao cũng không thấy đủ, chẳng những đôi mắt, mà cả thân thể mỗi người cũng đều được hân thưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, linh hồn như tắm trong sự yên bình tĩnh lặng.

Nhạc Dương khẽ hỏi Na Thâm: "Cánh cửa sinh mệnh ở đâu thế?"

Na Thâm chỉ vào hòn đải lớn hơn ở giữa hồ: "Ở đó chính là cánh cửa sinh mệnh"

Trương Lập nói: "Hòn đảo ấy nhìn không lớn lắm thì phải, đúng không? Tại sao lại gọi là Cánh cửa sinh mệnh "

Na Thâm đáp: "Chuyện này...nghe các vị trưởng lão nói, chỗ chúng tôi ở là hoác thân của Thắng Phật Mẫu, dòng Bố Tạng Bố chính là một chân của Thắng Phật Mẫu, chúng ta men theo đùi đi dọc lên, vì thế, ở đây chính là Cánh cửa sinh mệnh "

Giáo sư Phương Tân nói: "Thắng Phật Mẫu? Lạ thật, cái tên này nghe quen quá, cậu có biết không?"

Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu, nhưng những chuyện trong Phật điển gã biết rất ít. Lạt ma Á La mở mắt ra, chậm rãi nói: "Thắng Phật Mẫu, chính là Minh phi của Thắng Lạc Phật, còn gọi là Đa Cát Cát Bạc Mẫu cũng chính là Kim Cương Hạch Mẫu. Kim Cương Hạch Mẫu, đầu đội mũ Ngũ Khô Lâu, có ba mắt, biểu thị người có thể quan sát được tam thế, quá khứ, hiện tại và tương lai. Ngoài chính diện, bên cạnh còn có thêm một đầu hình đầu lợn nữa, đại biểu trí tuệ song thành. Trên cổ Phật mẫu đeo chuỗi niệm châu làm từ năm mươi cái đầu lâu người, đại biều cho toàn bộ kinh điển của Phật giáo. Tu luyện Hạch Mẫu pháp có thể tương ứng với Thượng Sư, đoạn tuyệt phiền não, sở tri, khởi phát trí tuệ, tu đến đẳng cấp Chuyết Hỏa, sẽ luyện được thân bất tử, giáng yêu phục ma, uy chấn Thập Pháp giới, hiều được Pháp môn độc nhất vô nhị, thắng sinh thoát tử"

Giáo sư Phương Tân vỗ tay lên trán nói: "Tôi nhớ ra rồi, có một chuyện thế này. Trong truyền thuyết, toàn cảnh Mặc thoát thời cổ đại, nếu dựa theo thế núi thì vừa hay tạo thành một bức ngọa đồ (tranh nằm) của nữ thần Đa Cát Cát Bạc Mẫu. Nói như vậy, vị trí của chúng ta lúc này chính là ở giữa đùi của nữ thần. Cánh cửa sinh mệnh, chà, đây quả nhiên là Cánh cửa sinh mệnh còn gì! "

Giữa hai đùi nữ thần? Đến giờ Trác Mộc Cường Ba mới hiểu, nhìn lại hồ Nạp Bạc Thác, quả nhiên, bề ngoài hình thoi và hai hòn đảo một lớn, một nhỏ giữa hồ, vừa hay hình thành nên một cái ngoại sinh thực khí khổng lồ của phụ nữ, Cánh cửa sinh mệnh, thì ra là nơi sinh mệnh được sinh ra.

Lữ Cánh Nam thoáng đỏ mặt, thấp giọng lẩm bẩm: "Không ngờ lại liên tưởng đến chuyện ấy, những người này thật là…."

Lạt ma Á La bình tĩnh thong dong nói: "Từ khi ý thức của nhân loại manh nha xuất hiện đã có sự sùng bái rất mạnh đối với sinh thực rồi, sinh mệnh từ khi thai nghén, tới lúc sinh ra không nghi ngờ gì nữa, đây là sự việc thần bí nhất và cũng thần thánh nhất. Sinh sôi nảy nở, có nghĩa là chủng tộc có thể tiếp diễn kéo dài, trong mắt cổ nhân, không còn gì quan trọng hơn việc này cả. Hơn nữa, hợp thể giao hoan, nam nữ giao cấu, chẳng những mang đến niềm sung sướng về mặt cảm quan, mà đồng thời còn thăng hoa tinh túy, khiến con người hướng đến thần Phật, tâm trí linh đài giữ được thư thái. Đây chẳng phải chuyện cấm kỵ gì mà không thể bàn luận tới, mà nơi sinh mệnh được sinh ra, cũng chẳng phải chỗ ô uế gì hết, từ cổ tới kim vẫn có vô số tao nhân mặc khách viết thơ, vẽ tranh tán tụng, gọi nó là Cánh cửa sinh mệnh... "

Hoang phếNa Thâm nói: "Được rồi, tôi chỉ có thể đưa các vị tới đây, con đường tiếp sau đây, phải dựa vào Thánh sứ đại nhân tự tìm kiếm rồi"

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba chặt cây đóng bè, ngồi thuyền đi tới Cánh cửa sinh mệnh. Chèo bè trên sóng biếc lăn tăn, tự nhiên là cảm giác rất đặc biệt.

Na Thâm từ chối lời mời nhiệt tình của bọn Trác Mộc Cường Ba, kiên quyết không đặt một bước vào Cánh cửa sinh mệnh. Anh ta nói với Trác Mộc Cường Ba: "Từ rất lâu trước đây Đa Cát đã lên đảo xem một lần. Lần này quá nửa là anh ta đã đi theo vị thánh sứ đại nhân kia lên đảo rồi. Nếu các vị gặp anh ta, xin hãy bảo anh ta về làng nhanh lên, hãy nói là Ca Ca rất nhớ anh ta"

Trên bè, nhìn bóng Na Thâm xa dần, xa dần, Trương Lập nói: "Tên của Công Bố tộc này sao tôi cứ cảm thấy quen nhỉ"

Lạt ma Á La nói: "Công Bố là một trong những nơi phát nguyên của Bản giáo, không hiểu bên trong có quan hệ gì không"

"Đến nơi rồi" Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đưa đầy chiếc mái chèo đơn giản, cho thuyền đi một vòng quanh hòn đảo có Cánh cửa sinh mệnh, song cũng không phát hiện ra nơi nào có thể cập bờ, cách duy nhất là bám vào vách đá mà trèo lên. Mọi người thả neo bè lại, rồi lần lượt trèo vách đá, giờ đây những vách đá dốc đứng chín mươi độ này đối với họ mà nói chẳng khác gì mặt đất bằng phẳng cả, chỉ thoáng cái cả nhóm người đã lên trên đỉnh vách đá của hòn đảo nhỏ.

Trèo lên vách đá, phóng mắt nhìn quanh bốn phía, chỉ thẩy cổ thụ chọc trời, chim hót líu lo, hương hoa thơm ngát, vừa nãy là đứng ngoài xem tranh, giờ đây đã ở trong tranh nhìn ra phía ngoài, lại là một phong cảnh khác khiến người ta phải chìm đắm say mê. Sóng hồ lăn tăn, chim bay cá lội tự nhiên là không cần nhắc đến, khi ở trên đỉnh vách đá, phóng tầm mắt nhìn ra xa, chỉ thấy bốn phía núi non trùng trùng điệp điệp trải dài, xanh biếc âm u, kéo ra vô tận. Càng khiến người ta phải xúc động hơn nữa là, đỉnh núi phủ tuyết phía xa xa nhô lên nhọn hoắt, non cao đâm thẳng lên bầu trời, làm ai nấy đều sinh lòng kính phục. Thật đúng là: núi xa xanh ngắt liền một dải, đỉnh tuyết trắng xóa ánh dương hồng. Trương Lập kích động thốt lên: "Đó... đó có phải là núi Nam Ca Ba Ngõa không? Chúng ta có thể trông thấy núi Nam Ca Ba Ngõa không nhỉ?"

Lạt ma Á La nheo nheo mắt nhìn: "Ừm, không chắc lắm, cũng có thể là núi tuyết Lạp Gia Bạch Lũy, có điều nhìn từ phía này, hình như giống đỉnh Nam Ca Ba Ngõa hơn"

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên chỉ tay về phía đỉnh núi tuyết xa tít tắp kêu lên: "Mây cờ! Mây cờ kìa!"

Lạt ma Á La lập tức chắp tay tụng niệm, lầm bẩm cầu phúc trước cảnh tượng thiên nhiêm hiếm thấy này. Chỉ thấy một đóa mây trắng mềm mại như nhúm bông bay qua đỉnh núi tuyết, bị đỉnh núi chặn lại, nhưng vẫn kiên cường tiếp tục hành trình của mình, đã bị núi tuyết kéo thành một lá cờ trắng muốt khổng lồ, lại tựa hồ như một vị nữ thần thánh khiết đang giơ cao tấm vải sa màu trắng phấp phới trong gió, cảnh tượng hình tráng phi thường. Ở đất Tạng có một truyền thuyết thế này, thấy cờ mây cũng như thấy hào quang của Phật, hai Hải thị thần lâu, đều là điềm đại cát, đại phúc, trong đó nổi tiếng nhất là cờ mây trên đỉnh Chomolungma, khí thế vời vợi, quả là tác phẩm tuyệt thế của đấng tạo hóa vậy.

Nhạc Dương nói: "Hay lắm, xem ra ông trời cũng chúc chúng ta kỳ khai đắc thắng đó"

Lữ Cánh Nam cũng nhoẻn miệng cười, phát lệnh: "Lên đường thôi"

Đeo trên lưng những chiếc balo to tướng, đoàn người đi một vòng quanh đảo. Đảo này không lớn lắm, đứng trên vách đá là có thể quan sát được toàn cảnh, khắp nơi đâu đau cũng thấy cổ thụ um tùm, song cũng chưa phát hiện được điểm gì đặc biệt, cũng không có công trình kiến trúc nhân tạo nào lớn cả. Giáo sư Phương Tân và Lạt ma Á La đều cho rắng có lẽ có các kiến trúc kiều như hang động ngầm, ẩn khuất dưới tán cây, cực khó phát hiện. Lữ Cánh Nam lệnh cho mọi người tản ra tìm kiếm, chỉ một lát sau, Nhạc Dương và Trương Lập đã phát hiện lối vào hang động.

Lúc Trác Mộc Cường Ba chạy tới, chỉ thấy dưới gốc cây có một vật thể bằng đá được mài nhẵn, dài ba mét rộng hai mét, mặc dù bị phá hoại, song vẫn lờ mờ nhận ra được đường rãnh hình vòm có mái cong. Trác Mộc Cường Ba hít sâu một hơi không khí, nói: "Huyết trì"

Lạt ma Á La gật đầu nói: "Ừm, chỉ là đã không dùng được nữa rồi"

Ở ngay bên cạnh huyết trì, mặt đất như tấm vải bị chuột gặm, toác ra một hố lớn, bên trong tối đen như mực không thấy gì hết. Giáo sư Phương Tân quan sát cửa hang, nói: "Miệng hố này bung ra ngoài, chắc do thuốc nổ gây ra"

Lữ Cánh Nam mở ba lo lấy ra các thứ dụng cụ, đồng thời nói: "Chúng ta xuống dưới đó xem sao"

Mũ phát sáng đã bật, máy bộ đàm của mọi người đều mở, vũ khí giắt ở thắt lưng, dụng cụ cầm trên tay. Sau khi Trác Mộc Cường Ba nhảy xuống hố, đại khái cũng nhìn rõ được cấu tạo của hang động này. Đây là một đường hầm dốc xuống dưới, vách tường đều ốp những phiến đá dài chừng một mét, dốc chừng ba mươi độ, sâu không thấy đáy. Đi được chừng trăm bước, phía trước liền ngoặt chín mươi độ, xem ra cả đường hầm này có lẽ chạy xuống lòng đất theo hình xoáy ốc. Cứ vậy càng đi càng xuống sâu hơn, sau khoảng bảy tám lần rẽ ngoặt, cuối cùng cũng đi hết đường hầm, thế nhưng cảnh tượng trước mắt, lại khiến tất cả đều sôi trào phẫn nộ.

Đường hầm đã trở nên bằng phẳng, hơn nữa còn đột ngột rộng lớn hơn nhiều, có lẽ là do khoét lòng núi tạp thành, cao chừng bốn năm mét, rộng bốn mét, nhìn đường hầm dốc dài như vậy và hang ngầm lớn bên trong lòng núi này, là có thể tưởng tượng được công trình khi ấy quy mô đến nhường nào, sau khi hoàn thành, căn hầm ngầm này ắt hẳn phải mỹ lệ đường hoàng, hùng vĩ rực rỡ. Thế nhưng, giờ đây, những gì đập vào mắt bọn Trác Mộc Cường Ba, lại là vô số những vết đục khoét chằng chịt, lôi thôi nhếch nhác, dưới đất toàn là những mảnh sứ vỡ vụn, cả bốn bức tường đều bong tróc như da người dán thuốc cao bị mưng mủ, đâu đâu cũng thấy vết khói đen kịt do lửa hun.

Mấy người Trác Mộc Cường Ba rờ tay lên bốn bức vách, trên tường còn để lại những vết cắt thẳng thớm gọn gàng, lớp đá vôi gần những vết cắt này dày chừng ba xentimet, có thể tưởng tượng được, trước đây bốn bức tường này đều được quét vôi trát vữa, rồi vẽ lên những bức bích họa tuyệt mỹ. Sau khi bọn trộm phát hiện ra, liền vạch lên những đường phân cách trên bích họa, sau đó dùng dao cắt thành từng mảng một, rồi áp giấy da trâu lên, dán keo siêu dính, bóc cả mảng tường có bích họa xuống mang đi.

Mấy người Trác Mộc Cường Ba giẫm chân lên nền sàn như đá cuội của căn hầm, nhặt những mảnh sứ vụn, phủi đi bụi đất và muội than bám lên trên, mảnh sứ liền lộ ra những hoa văn rực rỡ, từ độ cong của mãnh vỡ có thể suy đoán, lúc còn hoàn chỉnh, những đồ sứ này chắc là rất lớn. Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn quanh khắp chốn, giờ đây, chỗ này chẳng khác gì một căn nhà cũ sau cơn hỏa hoạn, gã bỗng nhớ đến trường hợp của vườn Viên Minh, thứ gì mang đi được thì bị mang đi, không mang đi được thì đập phá xong lại cho thêm mồi lửa, ngoài muội than ra, không còn gì để lại cho những người đời đời canh giữ những thứ đó nữa cả. Từ vết tích của những mảnh vỡ còn sót lại để suy đoán, nơi này ít nhất cũng đã bị phá hủy gần một trăm năm rồi, giờ chỉ còn lại vài mảnh vun và bốn bức tường trống không, đang âm thầm kể lại câu chuyện của chúng mà thôi.

"Châu báu nhiều như lông trâu ùn ùn vận chuyển về Anh quốc…" Ngón tay Trác Mộc Cường Ba run lên bần bật, chỉ muốn tìm thứ gì đó đấm cho xả cơn tức trong lòng. Nhà thám hiềm lớn, xem ra nhà thám hiểm lơn cũng chẳng hề đáng cho người ta tôn kính chút nào.

"Bốp bốp" chỉ nghe Lữ Cánh Nam vỗ tay hai tiếng, thu hút sự chú ý của mọi người về phía mình, đoạn nói: "Đi thôi, tiếp tục tiến về phía trước, chúng ta không có thời gian ở đây tưởng nhớ quá khứ đâu, phải xem xem có nơi nào người khác chưa phát hiện hay không"

Nhạc Dương thấp giọng lẩm bẩm: "Thành ra thế này rồi, thì còn lại gì được nữa chứ"

Đại điện đã không còn nữa, khắp nơi đổ nát tan hoang, bước đi giữa đống hoang phế này, tâm trạng mọi người càng thêm trĩu xuống. Rất nhiều nơi có xương người rải rác, những người chết này đều là lao công người Trung Quốc, vì bị cưỡng ép xông vào cơ quan mà mất mạng, đồng thời bên cạnh quá nửa là có một đống đá vụn, mấy lưỡi dao hình trăng khuyết hoặc đinh sắt. Chắc là sau khi những lao công Trung Quốc đi trước dò đường bị cơ quan giết chết, bọn trộm đã dùng thuốc nổ phá cơ quan nên mới gây ra những tổn hại như vậy, một số cánh cửa lớn bằng đá cũng bị nổ thành đống đá vụn, càng đi vào trong lại c àng có nhiều xương người chết.

Nhạc Dương nói: "Tôi nghĩ, chỗ này đã bị hủy hoại tan hoang thế này rồi, mà đám người của tên Ben kia cũng đã đi qua, chắc là không còn cơ quan gì nữa đâu nhỉ?"

Trương Lập than van: "Đúng là không sao chịu nổi, lần nào cũng bị người ta bỏ lại sau lưng"

Nhạc Dương thở dài: "Đám người Công Bố đó cũng thật là, chẳng hiểu có phải họ gặp ai ở nơi khác đến cũng cho là thánh sứ cái gì không nữa"

Trương Lập nói: "Không phải đâu, nếu thế tại sao cậu không được làm thánh sứ hả?"

Lạt ma Á La nói: "Chắc là có nguyên nhân gì đó, nhưng bọn họ dựa vào điều kiện gì để đoán đinh thánh sứ thì chúng ta cũng không thể nào biết được"

Giáo sư Phương Tân lắc đầu: "Giờ không phải lúc thảo luận vấn đề này. Chỗ này đã biến thành một đống đổ nát, nhưng các sảnh các điện đã gần như tan hoang này vẫn có quy mô, nhánh rẽ lại nhiều, e là một chốc một nhát cũng khó mà đi hết được, chúng ta có cần kiểm tra tiếp không nhỉ?"

Lữ Cánh Nam khẽ nghiến răng, nói: "Nếu đã thế, vậy thì hai người một tổ, chia nhau kiểm tra đống tan hoang dưới lòng đất này đi, bật máy bộ đàm lên, chỉnh tần số 16.135, lúc n ào cũng phải giữ liên lạc"

Trương Lập và Nhạc Dương lập tức thốt lên: "Chúng tôi là một tổ"

Lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân nhìn nhau mỉm cười, nói: "Vậy thì hai chúng tôi một tổ"

Trác Mộc Cường Ba giành nói trước: "Tôi...tôi muốn chung tổ với Mẫn Mẫn"

Lữ Cánh Nam gật đầu: "Được rồi, tôi và Ba Tang một tổ, mọi người chia nhau hành động đi"

Trên đường đi, Trác Mộc Cường Ba càng nhìn lại càng thấy phẫn nộ. Đây mà là nhà thám hiểm lớn cái nỗi gì chứ? Còn chẳng bằng cả hành vi của lũ trộm cướp, còn những gì ở trước mắt gã đây, gần như dã là bi thảm nhất trần gian này rồi. Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt lại, tựa hồ như đã thấy vương triều phong kiến đang lung lay muốn sụp đổ giữa cơn mưa bão kia, các cường quốc thi nhau tranh bá, dân chúng khổ sở lầm than, đã bao người vì một bát cơm ăn, mà phải bán vợ bán con, sinh ra giữa thời loạn thế, mạng người không bằng cỏ rác, kẻ đến đây đào bới báu vật năm ấy, chỉ e cũng chẳng bỏ bao nhiêu tiền để thuê cả đám người này đâu. Phải trả giá bằng chính mạng sống của mình, mang những thứ tổ tiên để lại tặng cho kẻ khác bị sai khiến như nô lệ, chỉ vì một chút tiền nhỏ nhoi mà khom lưng cúi đầu, đây là nỗi xót xa ở tận sâu thẳm linh hồn. Trác Mộc Cường Ba nắm chặt hai bàn tay lại, thầm thề với bản thân mình: "Bất kể là thế nào, không thể đê chuyện tương tự thế này xảy ra nữa! Ben! Cho dù các ngươi muốn gì, chỉ cần là thứ mà tổ tiên người Trung Quốc để lại trên lãnh thổ Trung Quốc, cho dù một cây kim, ta cũng không cho phép các ngươi mang đi"

Hai người đi chừng ba tiếng đồng hồ trong đống đổ nát dưới lòng đất. Vẫn không ngừng đi sâu xuống dưới, vẻ huy hoàng năm xưa của kiến trúc ngầm càng lúc càng khiến người ta ngưỡng mộ say mê, còn những gì trước mắt, cũng càng lúc càng khiến người ta thấy xót xa tiếc nuối. Dọc đường có một chỗ vương vãi đầy những lá thép vụn quăn queo, xung quanh có gần ma mươi bộ xương người. Có thể thấy khi đi qua đao trận ở đây, nhà thám hiểm kia đã dùng máu thịt của đám lao công mở ra một con đường tiến tới. Còn có một chỗ dốc, dưới nền rải rác xương vỡ, đều là xương của kẻ bị xấu số bị đá đè, không ngờ đã ohur lên thành một tấng dày trên con dốc.

Trác Mộc Cường Ba không ngừng lắc đầu, tâm trạng hết sức kích động,phẫn nộ. Đến cả Đường Mẫn cũng không sao nén nổi, cất tiếng mắng chửi: "Thật đúng là, quá đáng quá, đúng là vô nhân tính"

Cuối cùng hai người dừng lại trong một gian đại sảnh, thoạt nhìn như có thể sập xuống bất cứ lúc nào. Xét về số lượng xương cốt, thì ở đây là nhiều nhất, tám chín mươi bộ xương cốt chất ngồn ngộn một đống lên nhau, tư thế mỗi bộ một khác, có những bộ xương tay còn mắc vào nhau, tư thế mỗi bộ một khác,

, tựa như là ẩu đả đến chết vậy. Ở góc Đông bắc gian đại sảnh, chồng chất một đống vại sành vại sứ vỡ nát. Hiếm có nhất là, trong đống đổ nát ấy vẫn còn một hai chiếc vại giữ được hoàn chỉnh, miệng vại như vừa mới mở chưa lâu, có một chiếc lăn sang bên cạnh, dịch thể không mai không mùi bên trong chảy ra lan thành một mảng dưới sàn. Bức tường phía trước đống xương cốt và đại sảnh khác biệt rõ rệt, hình như vẫn chưa bị động tới. Đường Mẫn nói: "Có lẽ chỗ này có cơ quan gì đó ghê gớm lắm, kiểm tra kỹ một chút rồi hãy đi tiếp"

Dựa vào trực giác, Trác Mộc Cường Ba đi thẳng tới đống vại. Đường Mẫn cũng muốn đi theo gã xem thử thế nào, song lại thấy hơi sờ sợ, bèn dứt khoát dừng lại tìm kiếm ở khu vực giữa đại sảnh.

Trác Mộc Cường Ba đi tới góc chất đầy vại sành vại sứ phía đông bắc gian đại sảnh, chỉ thấy đám vại gốm sứ vỡ nát ít nhất cũng phải tới vài trăm chiếc, hầu hết đã bị đập cho vỡ tan tành, chỉ còn lại một hai cái nguyên vẹn. Dịch thể trong chiếc vại gốm cổ dưới đất kia vẫn chưa chảy hết, rõ ràng là vừa mới bị mở ra không lâu. Trác Mộc Cường Ba đoán chắc là do nhóm người của Ben mở. Bên cạnh chiếc vại có một vật như cục thịt màu trắng, đã bắt đầu bốc mùi tanh tanh, Trác Mộc Cường Ba bước lại gần nhìn kỹ hơn, cục thịt trắng toát ấy chẳng ra hình thù gì cả, nhưng có lẽ còn nguyên vẹn, hơi giống con chó sơ sinh, to bằng nắm tay. Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát rồi ôm một vại sứ còn nguyên vẹn lắc thử bên trong vang lên tiếng ục ục, gã nhìn chỗ niêm phong trên miệng vại, người xưa đã dùng nắp gốm úp ngược lên trên miệng vại, sau đó lại bịt kín bằng một thứ tương tự như vôi, chẳng trách đã bao nhiêu năm như thế mà vẫn giữ được dịch thể bên trong. Trác Mộc Cường Ba lấy một dụng cụ hơi giống cái vòng số tám kê vào, dùng sức nạy khẽ, "cách" một tiếng, cái nắp đã nứt ra một đường, sau đó nhấc ra, không ngờ bên trong lạic òn có một nắp đá bịt kín miệng. Trác Mộc Cường Ba lại làm theo cách cũ, bật cái nắp đá đó ra, chỉ thấy bên trong cnò hơn nửa vại chất lỏng, tỏa ra một thứ mùi kỳ quái. Bảo là thơm, thì vị cay cay, chua chua lại hơi gắt, bảo là khó ngửi thì lúc xộc vào mũi lại để lại vị ngọt ngào khó tả.

Lúc này Đường Mẫn gần đó kêu lên: "Anh lại đây mà xem"

Trác Mộc Cường Ba lập tức đặt cái vại xuống, đi về phía Đường Mẫn

Cô chỉ tay vào một cọc gỗ dưới đất nói: "Anh thấy chưa, đây là dấu hiệu của các nhà thám hiểm thời kỳ đâu của thế kỷ trước rất thích sử dụng. Khi họ phát hiện ra điều gì đó hoặc đi tới chỗ nào không thể đi tiếp về phía trước được nữa, đều để lại một dấu hiệu như thế này"

Trác Mộc Cường Ba bước tới: "Nói như vậy nghĩa là kẻ vào đây hơn một trăm năm về trước đã không thể qua được cơ quan ở đâ, và đành phải bỏ cuộc để lần sau đến tiếp"

Đường Mẫn chỉ tay vào đầu kia của thông đạo: "Nhưng bọn người Ben chắc chắn đã đi qua rồi. Bên kia có ánh lửa, chúng ta cũng tới xem đi"

"Đừng, đừng vội" Trác Mộc Cường Ba nói "không biết sau khi chúng đi qua có khôi phục lại cơ quan không nữa" Lần trước ở địa cung ** Puch, bọn gã đã phát hiện rất nhiều cơ quan mà trong cuốn sổ tay ghi là đã bị phá hoại, lại được người nào đó khôi phục công năng ban đầu, đã mấy lần suýt mất mạng.

Đường Mẫn nói: "Đường đi rất hẹp, chỉ cho một người qua thôi, bất kể là có cơ quan ở phía trước hay hai bên cũng đều khó để tránh né. Mà chốt lẫy để cơ quan phát động, thông thường đều lợi dụng trọng lực để bật lên, cũng chính là mặt sàn mà chúng ta đặt chân lên ấy"

Trác Mộc Cường Ba nhìn sàn nhà dưới chân, ước chừng một mét vuông ghép lại. Kết cấu sàn nhà thế này khá phổ biến trong địa cung ** Puch, là loại kết cấu dễ đặt cơ quan bẫy rập nhất. Có điều Trác Mộc Cường Ba bây giờ đã không còn là gã Trác Mộc Cường Ba ở địa cung ** Puch nữa rồi. Gã mỉm cười, tràn đầy tự tin nói: "Đã đến lúc kiểm tra hiệu quả huấn luyện của chúng ta rồi. Anh lên thử trước xem sao, em đừng đi theo đấy nhé"

Đường Mẫn gật đầu: "Anh cẩn thận đấy"

Trác Mộc Cường Ba giẫm lên phiến đá đầu tiên, cảm thấy hơi lún xuống, gã liền nhanh chóng giật ngược lại, chỉ nghe "đinh" một tiếng, một vật thể đã bắn trúng bức tường đối diện lối đi. Trác Mộc Cường Ba lại gần nhìn kỹ, hóa ra là một cây đinh ba màu xanh lam. Đường Mẫn tái mặt thốt lên: "Tầm thuốc độc rồi, đinh độc đấy"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Ừm, có điều chắc là không bắn ra liên tiếp được, anh thử lần nữa xem nào" Gã lại giẫm chân lên phiến đá, quả nhiên không thấy điều dị thường nữa. Trác Mộc Cường Ba giờ mới cẩn thận giẫm lên phiến đá thứ hai, đột nhiên cả người thụt xuống. Gã liền lộn ngược một vòng, lăn tròn sang bên, lại trở về bên cạnh Đường Mẫn. Chỉ nghe tiếng sột soạt vang liên liên tiếp, không có thứ gì bắn ra. Nhìn lại phía lỗi đi, mới thấy hai bên vách tường lóe lên những tia sáng lành lạnh rồi biến mất, thoắt sau lại lóe lên. Trac lẩm bẩm nói: "Đao trận, đây là lần đầu tiên anh tận mắt thấy đao trận do cổ nhân thiết kế đấy" Đặc điểm của loại cơ quan truyền thống này chính là giấu lưỡi đao sắc bén bên trong vách tường, lợi dụng khe hở trên tường che giấu, một khi phát động, sẽ như xoay chuyển như cưa máy, vị trí trên dưới khác nhau, người bình thường khó mà tránh nổi.

Trác Mộc Cường Ba lại bước tới trước lối đi đó, quan sát vị trí cụ thể của đao trận. Chỉ thấy ở hai phiến đá thứ năm, thứ sáu đao trần đều sắp đặt ở khoảng dưới đầu gối sau đó độ cao bắt đầu lên đến đùi non, rồi đỉnh đầu đan xen lẫn nhau, người bình thường tuyệt đối khó có thể vượt qua nổi. Trác Mộc Cường Ba ngấm ngầm tính toán, chỉ cần nắm chắc thời gian, nhảy qua chỗ đao thấp, sau đó trượt người sát mặt đất, vậy là có thể tránh được toàn bộ đao trận. Gã suy tính xong xuôi, liền bắt đầu chạy đà, song lại quên mất tác dụng của hai phiến đá thứ ba và thứ tư. Vừa giẫm lên phiến đá thứ tư, Trác Mộc Cường Ba liền lập tức cảm thấy không ổn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30: Cánh cửa địa ngục: vùng đất bí mật cuối cùng


Cánh cửa Địa ngục, Hương Ba La, khi những từ ngữ quen thuộc ấy một lần nữa vang lên bên tai nhóm người ngày, tinh thần ai nấy đều phấn chấn hẳn lên. Đây mới là lần thứ hai Trác Mộc Cường Ba nghe nhắc đến Cánh cửa Địa ngục, song theo những gì đã biết, hình nhưng cánh cửa này mở ra con đường xuyên dãy Himalaya. Thật không ngờ, ở nơi xa xăm hẻo lánh như Mặc Thoát này lại được nghe truyền thuyết về Cánh cửa Địa ngục. Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Cậu biết Cánh cửa Địa ngục ở đâu không?"

Chư Phật Mật giáo

Trác Mộc Cường Ba bước hụt một bước, thân thể mất thăng bằng, ngã xuống hố sâu. Ánh sang lóe lên, gã đã trông thấy trông thấy lưỡi đao sáng lấp lánh trong hố. Trong khoảng khắc sinh tử ấy, Trác Mộc Cường Ba bỗng nhiên vươn cả hai tay ra, hai chân đạp mạnh, cả người kẹt lại giữa hai bức tường đá, thân thể lúc này gần như song song với mặt đất, đầu mũi chỉ còn kém chút xíu là chạm phải lưỡi đao. Thì ra, hai phiến đá lát nền thứ ba và thứ tư vốn chỉ là một phiến đá hình chữ nhật hài hai mét rộng một mét, đục lỗ ở giữa, xuyên gậy sắt qua là thành một cái cửa xoay đơn giản, bất kể là giẫm lên phiến đá thứ ba hay thứ tư, cả phiến đá cũng đều lập tức xoay chuyển. Loại cơ quan này, trong cơ quan học gọi là "hoạt bản", vừa đơn giản lại dễ thực hiện, đặc biệt là những nơi nền sàn được lát bằng những phiến đá quy chuẩn mà sắp đặt một vài cơ quan như vậy, bên dưới lại đào hố sâu hai mét, bố trí cọc nhọn hoặc lưỡi đao, thì tỷ lệ sát nhân thành công sẽ cực lớn.

Hai tay hai chân Trác Mộc Cường Ba chống vào hai bên bức tường, chầm chậm leo lên trên, đồng thời dịch chuyển lên phía trên đao trận, tránh khỏi hai lưỡi đao xoáy đầu tiên, sau đó mới từ từ nhích xuống dưới, rồi dùng ba lô ném sang đầu bên kia lối đi, sau khi xác định an toàn, gã mới áp người sát đất trượt qua.

Đường Mẫn đã quan sát từ đầu đến cuối toàn bộ quá trình này, vậy nên lúc cô đi qua thì nhẹ nhàng hơn rất nhiều.

"Lạ thật!" Đường Mẫn nghi hoặc nói, "Những cơ quan này mặc dù có tổ hợp hoàn chỉnh, nhưng kẻ đến trước chúng ta có thuốc nổ, hoàn toàn có thể phá hủy được chúng, tại sao hắn lại quay trở ra nhỉ?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Những bộ xương ngoài kia rải rác khắp đại sảnh, nhưng không có bộ xương nào chết bên cạnh lối đi, cũng có nghĩa là bọn họ còn chưa tiếp xúc với lối đi này thì đã rút lui rồi. Có lẽ là đã chạm phải cơ quan nào khác, một loại cơ quan không thể giải quyết bằng thuốc nổ, chẳng hạn như khí độc, sương độc gì đó. Xem ra chỗ này đích thực là chưa bị phá hoại, phải báo cho những người khác mới được."

Trác Mộc Cường Ba ấn nút chiếc đồng hồ nguyên tử đeo trên tay, bắt đầu gọi những người khác trong nhóm. Trong vòng ba phút, đại khái đã nói rõ vị trí của mình, để những thành viên chưa có phát hiện gì đặc biệt nhanh chóng tới đây.

Trác Mộc Cường Ba giơ cổ tay lên nói: "Vậy nhé, chúng tôi đã qua trước rồi. Mọi người nhớ cẩn thận, lối đi hẹp này là một tổ hợp cơ quan, mặc dù cơ quan tổng đã bị phá hoại, song các cơ quan phân tổ thì vẫn vận hành. Phiến đá đầu tiên là đinh độc bắn vào chính diện, phiến đá thứ hai khởi động đao trận, phiến đá thứ ba và thứ tư là cửa lật, bên dưới sắp đặt cọc nhọn, từ phiến thứ năm đến phiến thứ mười lăm là đao xoáy, mọi người phải cẩn thận."

Giáo sư Phương Tân nhắn qua máy liên lạc: "Chúng tôi biết rồi, đến ngay đây, hai người cũng nhớ cẩn thận đấy."

Đi qua lối hẹp ấy, cảnh tượng trước mắt liền mở rộng sáng bừng. Tận cùng của lối đi tựa như một bàn đạp nhô ra khỏi vách đá dựng đứng, đưa hai người bọn Trác Mộc Cường Ba vào vị trí trung tâm của một gian đại sảnh màu vàng. Đứng trên bàn đạp lơ lửng giữa không trung, cách trên, dưới, trái, phải mỗi phía chừng hai chục mét, bốn vách là những bó đuốc như những chẻ cây, chiếu sáng rực rỡ cả gian đại sảnh. Trác Mộc Cường Ba nhận ra những bó đuốc phun lửa lớn bằng ngón tay cái, dài khoảng ba mươi centimet, chính là những ống ankyl lỏng. Mỗi ống như vậy, cho dù ở môi trường không có dưỡng khí cũng vẫn cháy được một trăm giờ đồng hồ, hơn nữa còn vừa nhỏ vừa nhẹ, một người mang theo một trăm ống cũng không vấn đề gì. Loại ống ankyl lỏng này các nhà thám hiểm hiện đại chuyên dùng để chiếu sáng và đánh dấu đường, xem ra chắc là nhóm người của Ben để lại.

Đối diện với bọn họ, là một pho tượng ngồi của Nộ Mục Kim Cương, có sáu cánh tay, treo lơ lửng giữa không trung bằng tám sợi dây sắt to cỡ cánh tay người thả từ trần nhà xuống. Pho tượng này cao khoảng ba mét, toàn thân đen thui, dường như là đúc bằng thép ròng, sáu cánh tay đều cầm pháp khí, mắt trợn lên giận dữ, răng nhe ra ngoài, tướng mạo hung tợn, thoạt nhìn trông như Kim Cương của Phật giáo, nhưng lại có chút không giống với những pho Kim Cương mà Trác Mộc Cường Ba thường ngày vẫn thấy. Nét mặt như cười mà chẳng phải cười ấy, kết hợp với ánh mắt phẫn nộ kia, toát lên mấy phần kỳ dị, mấy phần tà ác, Trác Mộc Cường Ba chỉ có thể tạm gọi đó là tượng Kim Cương chứ cũng không dám chắc. Chỗ rốn của Kim Cương có lỗ thủng, trên đỉnh đầu có mối buộc, xem ra đinh độc bắn ra lúc giẫm lên phiến đá đầu tiên là bắn ra từ cái lỗ này. Lối thông này dính sát vào tượng Kim Cương, xem ra cổ nhân đã đặc biệt thiết kế như vậy để tiện cho việc lau chùi tượng Phật và lắp ráp các cơ quan.

Đường Mẫn nhìn độ cao hai chục mét, băn khoăn hỏi: "Cao như vậy, chúng ta xuống bằng cách nào bây giờ?"

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn quanh, đích xác là không có đường nào đi xuống, nhưng các ống ankyl lỏng cắm trên bốn vách tường đã chứng tỏ đám người của Ben đã xuống bên dưới rồi. Gã cẩn thận quan sát một lần nữa, phát hiện ra trên đùi tượng Kim Cương còn một mẩu thừng nhỏ, bèn nói: "Bọn chúng buộc dây thừng vào đùi Kim Cương leo xuống, nào, lấy dây thừng an toàn ra đây, chúng ta cùng xuống từ chỗ này thôi."

Trác Mộc Cường Ba buộc chắc dây thừng, rồi bảo Đường Mẫn: "Anh xuống trước, tới nơi sẽ gọi em, không được làm bừa đâu đấy." Đường Mẫn khẽ gật đầu.

Trác Mộc Cường Ba quấn một vòng dây vào cổ tay trái, rồi lại quấn một vòng vào hông, tay phải kéo đầu kia sợi dây, tung mình nhảy lên, tính thuận theo sợi dây mà trượt xuống. Nào ngờ vừa mới nhảy lên, gã đã nghe thấy tiếng hô kinh hãi của Đường Mẫn. Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy thân thể rơi xuống, căn bản không hề có cảm giác bị lực tác động nào, kế đó nghe thấy tiếng "rầm rầm rầm" vang lên. Cũng may Trác Mộc Cường Ba lâm nguy bất loạn, không hề do dự, đã dứt khoát cởi ngay sợi dây thừng ra, hai tay dang rộng, mở chiếc áo cánh dơi ra, sau khi giữ được thăng bằng liền vung tay, bắn dây thép, "kích" một tiếng, đầu dây đã xuyên vào vách đá, Trác Mộc Cường Ba cũng lập tức đu người qua. Vừa mới áp sát bức tường, đã nghe thấy "uỳnh" một tiếng, ngoảnh đầu nhìn lại, cả pho tượng Kim Cương đã như một quả chùy sắt khổng lồ dận mạnh vào vị trí vỗ gã định leo xuống. Kế đó, một tràng những tiếng "cạch cạch cạch" vang lên, cơ quan vận hành lại kéo pho tượng nặng mấy tấn trở về vị trí ban đầu. Trác Mộc Cường Ba nhìn mà toát hết mồ hôi lạnh. Không ngờ đó cũng là cơ quan, sợi thừng đứt còn sót lại ấy hóa ra là vật để dụ người ta mắc bẫy. Đường Mẫn ở bên trên lớn tiếng gọi vọng xuống: "Không sao chứ? Anh Cường Ba?"

Trác Mộc Cường Ba đưa tay rờ mó, bốn vách tường đều trơn tuột, muốn bò từ đây xuống là không thể. Gã liền hét lên trả lời: "Không sao, giờ em nèm cho anh một sợi thừng khác, rồi em xuống theo hướng kia, Mẫn Mẫn, em có nghe thấy không?" Kế đó, gã lại khởi động máy liên lạc trên đồng hồ, nói cho giáo sư Phương Tân và mấy người khác chuyện pho tượng Phật bằng sắt. Cả mấy người kia đều dặn dò Trác Mộc Cường Ba phải hết sức cẩn thận.

Đường Mẫn buộc một đầu dây thừng vào một vật thể tương đối nặng có hình dạng như cây đèn pin rồi nèm cho Trác Mộc Cường Ba vươn tay bắt lấy, sau đó quấn sợi dây quanh người hai vòng, vẫy tay nói: "Được rồi." Đường Mẫn liền tung mình nhảy từ phía bên kia chỗ con đường nhô ra, trượt xuống bên dưới, sau đó lại kéo căng sợi dây. Trác Mộc Cường Ba khi ấy mới thu sợi thép lại, đu người xuống mặt đất. Hai người nhìn cái hố khổng lồ trước mũi chân, và những đốm đỏ lấm chấm bên trong, không hiểu pho tượng Phật sắt rốt cuộc đã giết chết bao nhiêu kẻ lỡ bước đến chốn này rồi nữa.

Trác Mộc Cường Ba thu dây thừng lại, trong lòng vẫn còn chưa hết kinh hãi: "Đi thôi, xem xem dưới đây còn có đường nào nữa không?"

Đứng bên dưới nhìn lên đỉnh, cả gian đại sảnh màu vàng kim này trông huếch trống hoác, bốn vách tường cũng không có những bức tranh cầu kỳ đẹp đẽ, chỉ có pho tượng Phật sắt hung ác kia treo lơ lửng giữa không trung. Từ góc này nhìn lên, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn mới phát hiện, thì ra tượng Phật sắt này có ba đầu sáu tay, bất kể là nhìn từ hướng nào, trông cũng như thể hung thần ác sát đang nhìn chòng chọc vào người ta, hình dáng sáu cánh tay thì mười phần quái dị, cho dù chuyển sang hướng nào chăng nữa, người xem cũng có cảm giác như sáu cánh tay cầm vũ khí kia đang hướng vào phía mình vậy.

Đường Mẫn không nén nổi buột miệng hỏi: "Đây là Phật gì vậy? Nhìn đáng sợ quá đi mất."

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Anh cũng không biết, pho tượng này không hề giống tượng phật nào mà anh từng thấy trước đây cả."

Gian đại sảnh này có bốn cửa lớn ở bốn phía trước sau trái phải. Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba lấy la bàn ra kiểm tra, thấy ở bốn hướng Đông Tây Nam Bắc lại có bốn cửa ngách tương đối nhỏ. Giữa đại sảnh có một miệng hố hình tròn, đường kính khoảng ba mét, bên trên bịt kín bằng những phiến đá hình dạng như cánh hoa, nhìn khác hẳn với những phiến đá lát sàn khác ở xung quanh, ở chính giữa đều có một thứ vật chất màu đỏ, chạm vào thấy mềm mềm. Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người ra, cửa hầm này giống hệt như cánh cửa đá ở địa cung Ah Puch - cánh cửa phải dùng đến huyết trì mới mở ra được! Nhưng vật chất màu đỏ này không phải dạng sợi như lạt ma Á La đã hình dung, mà giống hệ như tổ chức mô cơ vẫn còn đang sống. Trác Mộc Cường Ba dịch chuyển dần ánh mắt khỏi cửa hầm, chỉ thấy bốn đường rãnh thông thẳng đến bốn cửa ngách, khéo léo đan xem nào những khe hở giữa các phiến đá lát sàn, khiến người ta khó mà phát hiện ra được. Trác Mộc Cường Ba gõ gõ tay lên phiến đá, tiếng động trầm đục, xem ra là rất dày và nặng, nhất thời không thể tìm được cách mở cửa hầm. Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn liền đi vòng vòng xung quanh một lượt.

Đường Mẫn nói: "Gian đại sảnh này thật kỳ lạ, tại sao không hướng đúng theo bốn phía Đông Tây Nam Bắc mà lại kẹt giữa bốn phương vị này làm gì chứ."

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên sực nhớ ra cha gã từng nói rằng Tứ Phương miếu "không phải ở bốn phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc mà ở chỗ ngoặt nét của chữ Vạn luân hồi". Gã lại nghĩ đến thân phận Thánh sứ của mình, không khỏi ngấm ngầm hoài nghi: "Có lẽ nào, nơi này thật sự có liên quan rất lớn tới mình và gia tộc của mình hay sao? Nhưng xưa nay có nghe cha mình nhắc tới bao giờ đâu, đây rốt cuộc là chuyện gì vậy?" Trác Mộc Cường Ba âm thầm quyết định, sau khi hành động này kết thúc, nhất định phải trở về tìm gặp cha gã hỏi cho rõ ngọn ngành.

Nghĩ vậy, gã không trả lời ngay câu hỏi của Đường Mẫn, mà dẫn cô tới trước cánh cửa ngách ở hướng chính Bắc, chỉ thấy một dải bậc thang đá lớn trải dài xuống dưới, ánh sáng vàng vọt của các ống lửa cắm bên vách tường tựa hồ như đang chiêu dẫn vong hồn trở về chốn hoàng tuyền. Trác Mộc Cường Ba nói: "Xuống dưới xem sao đi."

Cuối cầu thang là một gian phòng nhỏ, rộng chừng năm sáu chục mét vuông, chính giữa là một bệ đá hình vuông, bốn phía có các giá cũng bằng đá. Trên nền đá và giá treo bằng đá đều không tránh nổi lưu lại những vết nâu sậm, khiến hai người vừa bước vào phòng đã cảm thấy một trận gió âm thổi tới, tựa hồ có vô số oan hồn chưa tan vẫn đang đảo lượn giữa không trung. Xung quanh bệ đá còn sắp đặt vài món đồ bày biện đã mục nát, có lẽ là các thứ pháp khí, bàn thờ, lò lửa ngày xưa vẫn dùng để tế bái cầu khẩn, có điều tất cả giờ đã không còn hình dạng ban đầu nữa rồi. Hai người đi xung quanh một vòng, không có phát hiện gì đặc biệt, nghĩ rằng mấy gian phòng sau những cánh cửa mé còn lại cũng đều như vậy cả, Trác Mộc Cường Ba quyết định vào thử cửa chính xem thế nào.

Cửa chính cao lớn hơn cửa mé bên rất nhiều, bậc thang rộng rãi, hai người bước xuống cầu thang, liền tới một gian đại sảnh khác. Chính giữa sảnh là bệ tam cấp dùng để cúng tế, bên trên là một tượng Phật đá tạo hình nữ giới, cao năm mét, chân trái quấn quanh chân phải, sau lưng dựa vào một cái bệ trông như vỏ sò. Phật có ba mắt, khóe miệng cười gằn, từ ngực tới bụng có sáu bầu vú, hai tay vòng trước ngực ôm một đứa trẻ sơ sinh, đầu đã đứt lìa, chỉ còn lại một cánh tay. Tượng Phật đang há rộng cái miệng to như chậu máu, răng nhuộm đỏ rực, phảng phất như máu vẫn cô đặc trên đó, từng giọt từng giọt nhểu xuống. Tà dị hơn nữa là, trong miệng tượng Phật có một cánh tay trẻ sơ sinh trắng muốt như tuyết thò ra, tựa hồ như vẫn còn muốn nắm lấy thứ gì đó. Đường Mẫn chỉ nhìn lướt qua đã vội ngoảnh mặt sang hướng khác, không dám nhìn tiếp. Đây cũng là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba thấy thứ gì tà ác như vậy. Phía trước tượng Phật có một chiếc đỉnh bằng kim loại, rõ ràng là để đốt hương cúng tế, bốn phía xung quanh còn có các cột gỗ, chắc là dùng để treo phướn rủ màn che, giờ màn phướn đều đã hóa thành tro bụi, chỉ còn lại những chiếc cột gỗ này mà thôi.

Đường Mẫn nói: "Đi thôi, ở đây không còn thứ gì nữa rồi, em nhìn thấy khó chịu lắm."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Đợi chút đã Mẫn Mẫn, em xem kìa, vết chân dưới đất tán loạn, còn nữa, lớp bụi đất ở hai bên tượng Phật rất dày, e là chỗ giữa kia có bí mật gì đó. Để anh lại xem thế nào đã." Trác Mộc Cường Ba lấy hết can đảm, dấn từng bước lại gần tượng Phật nữ, càng lại gần càng cảm thấy lạnh lẽo rùng mình. Cái miệng há rộng như chậu máu kia, tựa hồ như sẵn sàng cúi xuống cắn xé người ta, ba con mắt xếp trên trán thành hình cánh quạt, đều toát lên vẻ đói khát, thèm muốn giành giật lấy thức ăn.

Trác Mộc Cường Ba điều chỉnh lại hơi thở, cuối cùng nhích lại dưới chân pho tượng Phật, chỉ thấy bức tượng đá khổng lồ từ trên cao nhòm xuống, ba con mắt trợn trừng không rời, ánh mắt nửa mừng vui lại mang theo nỗi thèm khát ấy được người xưa điêu khắc hết sức có hồn. Trác Mộc Cường Ba càng nhìn lại càng thấy kinh hãi trong lòng. Gương mặt cười cười nhe hàm răng nhỏ máu ấy, thật khiến người ta phải rởn hết cả gai ốc. Trác Mộc Cường Ba thu ánh mắt lại, nhìn thẳng về phía trước, liền phát hiện ra, chân phải cong xuống của tượng Phật có khắc một thứ như giáp bảo vệ đầu gối, vừa hay hình thành nên một cái bậc, bề mặt bằng phẳng, có lẽ để cho người ta leo lên. Gã nghĩ ngợi trong thoáng chốc, rồi cận thận leo lên chỗ khớp gối tượng Phật. Đường Mẫn ở bên dưới run giọng nói: "Anh Cường Ba, anh làm gì thế?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Đừng lo, anh lên trên xem sao thôi." Từ hướng này nhìn ra, chỉ thấy đứa trẻ đứt đầu kia, dường như là một bức tượng rỗng, bên trong hẳn là phải có thứ gì đó. Trác Mộc Cường Ba men theo đùi tượng Phật một bước, vừa hay lại giẫm lên điểm đặt chân tiếp theo, tự nhủ thầm trong bụng: "Trong lòng không có ma quỷ thì sẽ không sợ gì hết," kế đó liền táo gan thọc tay vào trong cổ bức tượng trẻ sơ sinh lần mò.

Trong bụng bức tượng dường như có một tay nắm. Trác Mộc Cường Ba quan sát kỹ lưỡng xung quanh, sau khi xác thực đây không phải là cơ quan phát động công kích, mới kéo tay nắm đó một cái. Chỉ nghe "rầm" một tiếng, Trác Mộc Cường Ba vội tung người nhảy xuống khỏi tượng Phật, lộn nhào trên không một vòng, rồi bình ổn hạ xuống. Giờ mới nhìn rõ tượng Phật đã tách ra làm đôi, trong bụng là một cái đài sen có rắn quấn quanh. Đường Mẫn giơ hai tay lên bụm miệng, suýt chút nữa thì kêu rú lên.

Trác Mộc Cường Ba lại bước lên bệ thờ, quan sát đài sen: "Quả nhiên!" Chỉ thấy chính giữa đài sen lộ ra một lỗ nhỏ, bên trong chắc là từng có thứ gì đó cắm vào, nhìn dấu vết trên lỗ nhỏ ấy, thứ đó chắc là có một mẩu hình thoi nhô lên, ngoài ra còn có tay nắm, Trác Mộc Cường Ba nhét sợi dây thừng vào lỗ dò thử, thấy bên trong dài chừng ba mươi centimet. Trác Mộc Cường Ba kiểm tra xong xuôi, bước xuống bậc thang, đúng lúc bước xuống bậc thang cuối cùng, tượng Phật liền như cái bẫy chuột, chập đánh "rầm" một cái vào nhau, tiếng vang rất lớn, bụi đá rơi xuống lả tả như mưa. Đường Mẫn lại run bắn mình lên một chặp, mặt hoa thất sắc. Trác Mộc Cường Ba bước tới ôm lấy cô, cảm nhận được đôi vai cô đang rung lên nhè nhẹ như một chú thỏ nhỏ đang run sợ, liền thì thầm an ủi: "Đi thôi, chúng ta tới những gian sảnh khác xem sao."

Bên trái là một quái thú ba mắt, trên vai mọc sáu cánh tay, bụng to như trống, đầu người mình rắn, có điều con mắt thứ ba của nó lại tròn vành vạnh chứu không phải hình thoi dựng lên như tượng Phật nữ. Bên phải là một đôi đầu voi mình người đang hợp thể giao hoan, có đực có cái, nhưng ở đây, tượng giống cái đang ngồi to hơn rõ rệt, tượng giống đực ngược lại tương đối nhỏ, tựa như một đứa trẻ bổ vào lòng bức tượng giống cái, không thấy mặt mũi thế nào, chỉ lộ ra cặp ngà dài và cái vòi voi. Gian đại sảnh sau cánh cửa lớn cuối cùng là một bức tượng nữ Phật có bốn cánh tay, cũng có ba mắt, tướng mạo hung ác, cơ thể đen đúa, ngực đeo vòng xâu chuỗi đầu lâu, eo hông đeo tay người làm vật trang trí; hai cánh tay bên trái chia ra cầm búa và câu liêm, tay phải thì cầm đồ đựng bằng đầu lâu người và một trái tim đang nhỏ máu ròng ròng. Những bước tượng hung Phật này tạo hình hết sức đặc thù, nét mặt đáng sợ, không ngờ Trác Mộc Cường Ba lại chẳng nhận ra được pho tượng nào.

Các bức tượng trong bốn gian sảnh đều có cơ quan, Trác Mộc Cường Ba đã lần lượt mở ra, bên trong đều trống không. Đường Mẫn hỏi: "Nếu chưa có ai tới chỗ này, vậy tại sao ngoài tượng Phật ra thì chẳng còn thứ gì nữa vậy?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Làm sao anh biết được chứ? Có lẽ đã bị người nào đó tinh thông cơ quan học lấy đi mất rồi, hoặc là đã có biến cố gì đó, nên toàn bộ đồ đạc đã được chuyển đi, hoặc cũng có thể… ở đây căn bản không có pháp khí hay tế vật gì, để những kẻ tìm kiếm báu vật bỏ qua những gian phòng này hòng bảo vệ bí mật cuối cùng giấu bên trong tượng Phật."

Cùng lúc ấy, Trương Lập và Nhạc Dương đã tới căn phòng chất đầy vại sành vại sứ. Trương Lập nhìn lối đi nhỏ hẹp nói: "Ở đây rồi."

Nhạc Dương mắt tinh, vừa liếc cái đã thấy cục bầy nhầy giống thịt nằm dưới đất, nói: "Xem kìa, cái gì thế?"

Trương Lập lắc đầu: "Không biết nữa."

Nhạc Dương chặc lưỡi: "Đây có lẽ nào là thái tuế trong truyền thuyết không nhỉ?"

Trương Lập liền hỏi: "Thái tuế là cái gì?"

Nhạc Dương đáp: "Một thứ nghe đồn là ăn vào sẽ kéo dài tuổi thọ, cường thân kiện thể. Thoạt nhìn giống thịt, nhưng thực ra là một loại nấm, ngoài ra, khi cắt một phần đi, nó sẽ tự mọc lại được, chỉ cần ngâm trong nước là sẽ giữ được không bị thối rữa. Hồi ở Thanh Hải tôi có nghe người ta kể về thứ này rồi." Nói đoạn, anh chàng liền nhấc cái vại Trác Mộc Cường Ba đã mở ra lên, lắc lắc mấy cái rồi bảo Trương Lập, "Anh xem đi, trong này cũng ngâm đây này."

Trương Lập ghé mắt vào nhìn kỹ hơn, "Không phải đấy chứ, chỉ là một cục thịt trắng to bằng con chó con mới đẻ thôi mà, trong vại cũng đang ngâm một cục như thế." Nhạc Dương nói: "Chẳng lẽ ở đây lại có nhiều thái tuế thế cơ à?"

Trương Lập trầm trồ: "Chà, ăn vào có thể trường sinh bất lão, vậy thì chúng ta phát to rồi!"

Nhạc Dương thò tay vào trong vại vớt cục thịt trăng trắng ấy lên, gí sát miệng Trương Lập nói: "Anh nếm thử xem mùi vị thế nào?"

Trương Lập vội vàng lắc đầu quầy quậy, cái thứ này nghe thì có vẻ rất hay, nhưng khi đặt ở trước mặt, chỉ nhìn thôi cũng thấy buồn nôn lắm rồi, hơn nữa lại còn có một thứ mùi hết sức quái đản, ngửi còn chẳng muốn ngửi nói gì đến ăn. Nhạc Dương cười hì hì chế giễu: "Đúng là chẳng biết gì hết, đồ tốt thế mà lại." Nhưng lúc anh chàng đưa lên miệng, bị khí vị quái dị ấy xộc vào mũi thì cũng không sao há miệng ra nổi. Trương Lập lo lắng hỏi: "Được không đấy, cái thứ này có lẽ đã ngâm cả ngàn năm rồi đó, cho dù có là đồ tốt thật thì cũng bị ngâm rữa ra rồi, chúng ta mau mau qua kiếm Cường Ba thiếu gia thì hơn."

Trác Mộc Cường Ba vừa bước xuống khỏi bệ thờ, bức tượng Phật bốn tay liền khôi phục lại hình dáng ban đầu, chỉ nghe bên ngoài đại sảnh có tiếng "cạch cạch" khe khẽ. Trác Mộc Cường Ba chợt nghĩ: "Chẳng lẽ cánh cửa trong dưới đất đã mở ra rồi? Đi, đi xem sao." Nghĩ đoạn, gã liền dắt tay Đường Mẫn nhanh nhanh chạy vù về gian đại sảnh sắc vàng. Đường Mẫn lẩm bẩm nói: "Không phải là huyết trì à, sao lại dễ mở ra như thế nhỉ?"

Quả nhiên, các phiến đá giống như cánh hoa trong đại sảnh đã xoay cả về phía gần tường đá, để lộ ra một cửa hầm trơn nhẵn hình tròn, đường hầm hình xoáy tròn xuống dưới, bên trong trơn như gương, rất giống một cái vỏ ốc biển khổng lồ. Đường Mẫn lo lắng nói: "Bên trong này trơn như thế, xuống rồi là không lên được đâu." Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi lấy dụng cụ ra, đóng đinh sắt vào mặt đá, rồi lại dùng ba cái chốt an toàn chặn mấy cánh hoa lại, thắt dây an toàn vào đinh sắt, cài móc thả xuống đường hầm. Xong xuôi đâu đó, gã nói với Đường Mẫn: "Để anh xuống trước, em ở trên này đừng để cửa đóng lại đấy."

Trác Mộc Cường Ba đội mũ phát sáng lên, một tay bám dây thừng, ngồi trong rãnh trượt xuống, giống hệt như trẻ con ngồi cầu trượt vậy, vừa trượt gã vừa không khỏi nghĩ thầm trong bụng: "Sao trơn vậy, rốt cuộc là đã dùng công nghệ gì nhỉ?" Gã rờ tay lên vách, thấy lạnh buốt xương, gõ gõ lên, thì thấy không phải tiếng trầm đục của đá, Trác Mộc Cường Ba liền điều chỉnh cho mũ sáng hẳn lên, liền thấy vách tường đen sì sì như làm từ thép ròng, thầm nhủ: "Chẳng lẽ tường bên trong lối đi này toàn bộ đều ghép từ vật liệu kim loại chắc? Bọn họ dùng cách gì mà giữ được kim loại cả ngàn năm cũng không gỉ sét nhỉ?"

Đang suy nghĩ, dưới chân gã hình như đạp rơi thứ gì đó, thân thể hơi chùng lại, đoạn liền nghe thấy tiếng "cục cục cục" bên dưới vọng lên. Trác Mộc Cường Ba không kịp nhìn cho kỹ, nhưng đã càng thêm cẩn trọng, bám chặt dây thừng chầm chậm trượt xuống, quả nhiên không ngoài suy đoán của gã, cách đó chưa đầy ba mét, ở phía trước bỗng nhiên nhô ra một lưỡi đao sắc, mũi đao hướng thẳng về phía Trác Mộc Cường Ba, nếu gã mà không bám vào dây an toàn, nói không chừng lưỡi đao ấy đã xẻ người gã ra làm hai mảnh rồi. Trác Mộc Cường Ba còn chưa kịp thở phào nhẹ nhõm, đã nghe "soạt soạt soạt" mấy tiếng nữa vang lên, trong đường hầm trơn tuột ấy lại xẹt ra mấy lưỡi đao nữa. Những lưỡi đao này rõ là vô cùng sắc bén, sợi thừng chắc đến mức có thể treo cả con voi lên, bị lưỡi đao cọ vào hai ba lượt đã không chịu nổi trọng lượng của Trác Mộc Cường Ba, "bưng" một tiếng rồi đứt lìa. Trác Mộc Cường Ba chỉ kịp hét vọng lên phía cửa đường hầm một tiếng: "Không được xuống đây," thân thể đã trượt vù xuống dưới.

Đường hầm

Trương Lập và Nhạc Dương ung dung đi qua lối đi hẹp. Nhạc Dương không khỏi dương dương đắc ý nói: "Vượt qua mấy cái cơ quan này dễ quá đi."

Trương Lập liền châm chọc: "Không có Cường Ba thiếu gia nhắc nhở, cậu qua được dễ dàng thế không hả? Phải rồi, bây giờ đi tiếp sao đây? Mấy người đám Cường Ba thiếu gia đâu rồi nhỉ?"

Đi thêm mấy bước nữa, Nhạc Dương nhìn pho tượng Phật sáu tay, kinh ngạc thốt lên: "Oa, đây là Phật gì thế, nhìn cứ như hung thần ác sát ấy."

Trương Lập nói: "Dạ xoa phải không? Hay chẳng lẽ là tượng Diêm vương?"

Hai anh chàng đi tới phía trước tượng Phật sắt, liền nhìn thấy gian đại sảnh màu vàng và Đường Mẫn ở bên dưới.

Trương Lập vẫy chào, rồi cùng Nhạc Dương mỗi người giữ một đầu dây, gá lên phần nhô ra của lối đi, cùng lúc trượt xuống. Hai người chạy tới bên cạnh Đường Mẫn, trông thấy cửa hầm hình tròn dưới đất, Trương Lập bèn hỏi: "Sao cô không xuống đó luôn?"

Đường Mẫn đáp: "Anh Cường Ba vừa mới xuống. Anh ấy nói để thăm dò xem có nguy hiểm gì không…" Cô vừa nói tới đây, chợt nghe trong đường hầm vọng tới giọng Trác Mộc Cường Ba: "Không được xuống đây!" kế đó sợi dây thừng buộc vào đinh sắt bên trên giật nảy lên. Cả ba người đang đứng trong đại sảnh đều ý thức được một điều, dây thừng đã đứt!

Đường Mẫn cuống hết cả lên, thò đầu quan sát rồi định trượt xuống đường hầm, nhưng đã bị Trương Lập kéo lại. Nhạc Dương nói: "Mấy công chuyện nặng nhọc này để đàn ông chúng tôi làm cho." Nói xong liền cầm sợi thừng lên thắt bốn cái nút liền nhau, rồi bám dây xuống luôn đường hầm. Trương Lập cũng nói: "Yên tâm, công chúa, chúng tôi nhất định trả lại cho cô một Cường Ba thiếu gia hoàn chỉnh nguyên vẹn." Dứt lời cũng trượt xuống theo luôn.

Trác Mộc Cường Ba gào lên cảnh báo, đồng thời hay tay vươn ra, ấn vào hai núm xoay ở cạnh đế giày. Đôi giày leo núi đặc chế liền tự động bơm khí xuống đế, hình thành nên những giác hút và các sợi lông cong lớn nhỏ khác nhau, Trác Mộc Cường Ba lợi dụng chút lực hút này mà áp chặt người vào vách đường hầm trơn tuột, từ từ giảm tốc độ, cuối cùng cũng coi như dừng lại được. Một thanh đao sắc lẻm kê ngay dưới nách gã, lưỡi đao gần như đã cắt rách lớp áo bên ngoài. Trác Mộc Cường Ba cẩn thận vòng tay qua tránh lưỡi đao, rồi dùng sức phần hông, từ từ trườn xuống dưới, trông hệt như một con sâu đang uốn éo bò đi.

Lại vòng thêm ba vòng nữa, phía trước hình như đã xuất hiện mặt đất bằng phẳng, nhưng ở ngay chính diện lại xuất hiện một thanh đao dựng đứng. Từ góc độ của Trác Mộc Cường Ba, thoạt nhìn nó như một sợi tơ bạc, phía sau sợi tơ đột nhiên phình to ra như quản bút. Gã thầm nhủ, xung quanh chắc chắn phải có chốt lẫy nào để đóng cái cơ quan bật lưỡi đao này mới phải, vừa nãy trượt từ trên xuống dưới, những lưỡi đao này đều dựng đứng ở ngay phía dưới lối thông, nếu thả cho trượt tự do xuống thì người sẽ áp sát vào một bên vách do quan tính, thành ra lại không hề nguy hiểm, chỉ có điều khi trượt tới đoạn dốc cuối cùng này, chắc chắn sẽ bị lưỡi đao sắc phía trước xẻ ra làm đôi.

Khi sắp lại gần lưỡi đao, Trác Mộc Cường Ba liền phát hiện ra ở mé bên đường hầm hình tròn này có một kết cấu mộng ghép nhô ra, lẽ nào đây chính là chốt để đóng mở cơ quan?

Đang suy nghĩ, đột nhiên nghe "kịch" một tiếng, lưỡi đao kia bỗng rụt trở lại, kế đó nghe "phăng" một tiếng nữa, lưỡi đao lại bật trở ra. Trác Mộc Cường Ba còn chưa hiểu ra chuyện gì, đã nghe bên trên có người hét lớn: "Cường Ba thiếu gia, anh ở đâu? Tôi xuống đây!" Tiếng Nhạc Dương từ xa thành gần, đến thật là nhanh!

Trác Mộc Cường Ba thầm than không xong, hai chân ấn chặt vào đường hầm. Chỉ thấy hai vai trầm xuống, cả hai người cùng lúc bị một xung lực mạnh mẽ kéo trượt xuống. Lưỡi đao kia cách tầm mắt Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng gần, càng lúc càng gần. Trác Mộc Cường Ba định thay đổi phương hướng, nhưng muốn trụ vững được thân hình ở chỗ này một mình đã không phải chuyện dễ rồi, làm sao gã được như ý. Thành ra hai người cùng lúc cứ thế trượt thẳng về phía lưỡi đao sắc bén.

Cuối cùng coi như nhờ đôi giày leo núi đặc chế chất lượng cao, không ngờ cũng giữ ổn được thân hình của cả hai người. Song lưỡi đao kia đã kề vào giữa hai đùi Trác Mộc Cường Ba, cọ xát vào đũng quần. Gã lần này đúng là được một phen toát mồ hôi lạnh, không ngờ còn chưa kịp định thần, bên trên đã có tiếng vọng xuống: "Tôi cũng đến rồi đấy!"

Trác Mộc Cường Ba cả kinh thất sắc. May là trong lúc loạn cũng không mất đi sự bình tĩnh, vào khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc đó gã đã vươn tay phải ra ấn xuống kết cấu hình mộng kia, còn kế đó thế nào thì đành nghe theo mệnh trời thôi vậy. Trác Mộc Cường Ba vừa mới làm xong, trọng lượng trên vai đột nhiên tăng lên gấp mấy lần, ba người như một đoàn xe lửa, trượt ngồi xuống tận cùng của đường hầm.

"Khốn kiếp! Rõ ràng đã nghe thấy tôi bảo đừng có xuống, thế tức là chắc chắn có cơ quan rồi, vậy mà vẫn còn mạo hiểm như vậy nữa!" Trác Mộc Cường Ba có tốt tính đến mấy cũng không thể nhịn nổi, lớn tiếng trách móc các thành viên trong nhóm.

Nhạc Dương trừng mắt lên nhìn Trương Lập, giọng đầy trách móc: "Đều tại cậu cả, suýt chút nữa là làm Cường Ba thiếu gia tuyệt đường con cháu rồi." Hai người áp vào vách tường trượt xuống, thành ra không chạm phải lưỡi đao nào hết.

Trương Lập vội biện bạch: "Sao lại trách tôi, rõ ràng là cậu xuống trước cơ mà, cậu không đạp phải cái cơ quan ấy, những lưỡi đao đó liệu có bật ra làm đứt dây thừng hay không chứ?"

Trác Mộc Cường Ba ôm đầy một bụng tức, có điều cũng không muốn lằng nhằn mãi với hai anh chàng lắm điều này, liền lấy thiết bị ra liên lạc với Đường Mẫn, báo cho cô biết tạm thời họ chưa gặp nguy hiểm gì, nhưng trong thông đạo có cơ quan, tốt nhất là đừng có xuống vội, cứ ở trên đó đợi mấy người nhóm lạt ma Á La tới đã. Kế đó, gã lại liên lạc với giáo sư Phương Tân, từ vị trí của giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La, rõ ràng là đã sắp tới gian đại sảnh màu vàng kim kia rồi. Chỉ có Lữ Cánh Nam và Ba Tang là đã phát hiện ra một lối đi lạ, giờ đang thăm dò. Hơn nữa lối đi mà họ phát hiện ra đó, hình như cả nhóm người của Ben cũng chưa phát hiện ra, bên trong vẫn còn giữ được nguyên vẹn trạng thái mấy trăm năm không hề có người lai vãng.

Thông đạo bí mật mà Lữ Cánh Nam và Ba Tang đi nghe nói còn nguy hiểm kỳ bí gấp bội, nói chuyện qua thiết bị liên lạc nhất thời cũng khó có thể nói rõ ràng được, Lữ Cánh Nam chỉ dặn dò bọn Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng điều tra rõ lối đi bọn gã phát hiện, sau đó xem xem có thể liên hệ và giúp đỡ gì nhau không.

Trác Mộc Cường Ba ấn nút trên đồng hồ, chấm dứt cuộc tranh luận từ nãy vẫn chưa hề ngừng lại của Trương Lập và Nhạc Dương, đoạn nói: "Tôi còn chưa nói cái gì, hai cậu tranh cãi gì mà tranh cãi? Bây giờ chúng ta hãy kiểm tra rõ tình hình dưới này trước, rồi sau đó tìm cách leo lên trên kia."

Con đường này nối liền với ống trượt hình xoáy ốc mà mấy người vừa trượt xuống, độ võng dưới mặt đất tương đối nhỏ, cao hơn hai mét một chút, Trác Mộc Cường Ba chỉ cần vươn tay lên là đã chạm tới đỉnh vòm rồi, chiều rộng đâu chừng hai ba mét, đi bên trong cảm tưởng như đang bước trong một đường hầm thời không cổ kính vậy. Gã cảm thấy con đường này hơi giống lối đi hình ống xương ở địa cung Ah Puch, nơi ra ra vào vào của bọn chuột khổng lồ, không khỏi thầm nhủ: "Ở đây chắc không có cái thứ ấy chứ nhỉ."

Đi được chừng mười bước, phía trước liền xuất hiện lối rẽ, ba người đứng lại nhìn quanh ngó quất, chỉ thấy cả hai lối đều có phân nhánh. Trương Lập không ghìm nổi buột miệng thốt lên: "Không phải chứ, mê cung hả?" Nhạc Dương "Ô" lên một tiếng. Trong ngành cơ quan học, hai vị nhân huynh này sợ nhất chính là môn mê cung, cái gì mà mê cung vòng, mê cung vuông, mê cung pháp trận, mê cung lập thể… dù là loại mê cung gì cũng khiến cả hai đầu váng mắt hoa. Thế nhưng cổ nhân lại cứ xếp mê cung vào loại dễ xây dựng mà hiệu quả lại cao nhất trong cơ quan thuật. Các loại mê cung, chẳng hạn như Kỳ môn độn giáp, Bát trận đồ, Mê hồn trận… đều từng nổi tiếng hiển hách một thời, lập công lớn trên chiến trường và còn nhiều nơi khác. Trong cơ quan học, riêng kiến thức về mê cung lập nên hẳn một ngành chuyên biệt. Những gì bọn Trác Mộc Cường Ba đã học và nắm bắt, có thể nói đều là những kiến thức đơn giản và tinh yếu nhất về mê cung.

Trác Mộc Cường Ba nói: "Không giống, làm gì có mê cung nào cứ đi bốn năm bước đã thấy rẽ nhánh rồi, hơn nữa tường ở đây đều trơn nhẵn thế này, chẳng giống như có bố trí cơ quan lớn gì cả."

Nhạc Dương lẩm bẩm: "Cũng cần gì cơ quan cỡ lớn chứ, chỉ như cái vừa nãy…" Trương Lập vội nhéo mạnh lên lưng anh chàng một cái, ý bảo Nhạc Dương đừng có nhắc chuyện vừa nãy làm gì nữa.

Trác Mộc Cường Ba nói: "Chúng ta đi thêm mấy bước nữa xem thế nào, dù sao cũng còn hơn đứng mãi ở đây."

Không có máy tính của giáo sư Phương Tân, đi trong đường hầm phân nhánh chằng chịt thế này đúng là tương đối khó khăn. Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đánh dấu điểm đang đứng lại, sau đó bắt đầu đi về phía trước. Trong mê cung mà không có bản đồ, thì nên tuân theo nguyên tắc dựa phía trái. Đây là một nguyên tắc rất cơ bản, chính là đi thế nào cũng được, nhưng bao giờ cũng phải bám sát vào bức tường bên trái, như vậy thì từ đầu chí cuối vẫn luôn tiến lên phía trước. Nếu như mê cung có dạng thức một vòng tuần hoàn, thì họ đã đánh dấu ở điểm khởi đầu, khi nào quay lại đây sẽ phát hiện ra được ngay.

Lúc này, giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đã tới gian phòng chất đầy vại sành sứ và xương người chết, cũng nhìn thấy cả lối đi chật hẹp kia. Giáo sư Phương Tân nói: "Đến nơi rồi," đoạn liền cởi ba lô xuống chuẩn bị đi qua. Lạt ma Á La liền ngăn lại: "Đợi đã, để tôi xem mấy cái vại này một chút."

Giống như Nhạc Dương lúc nãy, lạt ma Á La nhấc chiếc vại lên, nhìn cục thịt và chất lỏng bên trong, ánh mắt hấp háy bất định. Giáo sư Phương Tân thấy thế liền hỏi: "Bên trong có gì thế?"

Lạt ma Á La như người bừng tỉnh cơn mộng, giật mình đáp: "À, gì hả? Ồ, không biết nữa, đúng là kỳ quái thật, nhiều vại như vậy, bên trong này rốt cuộc là ngầm thứ gì đây nhỉ? Chụp ảnh lại đã, rồi chúng ta nhanh qua xem bọn Cường Ba thiếu gia thế nào." Miệng thì nói vậy, nhưng trong lòng ông lại thầm kinh hãi: "Trời đất, lẽ nào đây lại chính là Thánh đàn năm đó?"

Từ sau khi máy tính của giáo sư Phương Tân ghi lại được rất nhiều thông tin trong địa cung Ah Puch, lãnh đạo của tổ huấn luyện đặc biệt tỏ ra rất hứng thú với phương thức ghi hình này. Sau khi được nhóm nghiên cứu cải tiến, máy quay của giáo sư Phương Tân đã đổi thành loại ống kính có độ phân giải cao, gắn trực tiếp vào mắt kính của ông, chỉ cần kéo sợi dây truyền số liệu trong ba lô ra gắn vào là có thể dùng được luôn, lại có chức năng quay chụp dưới nước, còn máy tính xách tay được giữ trong ba lô, giải phóng cho đôi tay tự do hoạt động.

Mới được khoảng ba phút mà mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đã đi qua vô số đường rẽ nhánh, nếu phải gượng ép đi theo trí nhớ, lúc này họ khẳng định là đã lạc đường. Đột nhiên, chiếc đồng hồ trên cổ tay Nhạc Dương sáng đỏ lên, báo có tín hiệu liên lạc. Thì ra giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đã tới nơi, sau khi nghe Đường Mẫn kể lại mọi chuyện liền liên lạc với ba người bên dưới. Nhạc Dương trả lời rằng trước mắt coi như vẫn an toàn, cả bọn đang ở trong mê cung, bên dưới này ngoài đường hầm ra thì chẳng phát hiện được gì khác nữa, nếu tìm thấy gì sẽ liên lạc với bên trên sau. Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La dặn dò ba người cẩn thận, bọn họ cũng phải ở trên này quan sát mấy tượng Phật kia một chút.

Đường Mẫn dẫn đường cho hai ông già tham quan hết cả mấy gian sảnh sau bốn cánh cửa chính và bốn cánh cửa ngách, cũng xem cả những cơ quan bên trong, rồi giáo sư Phương Tân sắp xếp lại các tư liệu trong máy tính, cùng Đường Mẫn thảo luận những gì hai người trông thấy trong đống hoang tàn đổ nát. Lạt ma Á La thì nhìn chằm chằm vào pho tượng Phật đen treo lơ lửng giữa không trung, tâm trạng nặng nề mà phức tạp, nhủ thầm trong bụng: "Đại Hộ Pháp thần Ma Kha Ca La, Trì Thiên Hộ Pháp thần Kha Lợi Đế Mẫu, Địa Linh tôn Na Ca, Đại thánh Tỳ Na Dạ Ca, Địa Mẫu thần Ca Lợi… thần Phật cõi trời đều tụ tập cả về đây, không thể sai được, thứ chúng ta vừa trông thấy… đó là rượu tế! Chỗ này đúng là Thánh đàn rồi! Đức Ma Hê Thủ La tôn kính vạn năng, xin hãy thứ tha cho kẻ tội đồ thành kính này, chúng con đến muộn mất rồi, nhưng chúng con không bỏ cuộc, không bao giờ ngừng nỗ lực để Tự Tại Mạn Đà La trùng hiện quang minh."

Giáo sư Phương Tân nhìn màn hình máy tính rồi nói với Đường Mẫn: "Thứ giáo lý cổ xưa hoặc có lẽ đã biến mất này, bọn họ toàn sùng bái tà Phật và ác ma. Chẳng hạn pho tượng Phật sắt trên đầu chúng ta đây, nếu tôi không lầm, đó chắc là Đại Hắc Thiên (Mahakala). Đại Hắc Thiên là một trong những vị thần bảo hộ được nhiều người biết đến nhất ở Tây Tạng. Tương truyền Đại Hắc Thiên đã bị Quan m thu phục, có lúc còn được coi là hóa thân Phẫn Oán của Bồ Tát. Còn bức tượng hai con voi ôm lấy nhau đó chắc là Đại Thánh Hoan Hỉ Thiên, ngài thường xuất hiện dưới hình tượng chiến thần, còn gọi là Đại Thánh Thiên, Thánh Thiên. Hình tượng hai vợ chồng đầu voi mình người ôm nhau hợp thể này chính là bản tôn (hình tượng thật) của ngài. Nam Thiên là con trai trưởng của Đại Tự Thiên, là Đại Hoang thần tàn hại thế giới; Nữ Thiên là Quan m hóa ra, ôm chặt lấy nhau như vậy là để Nam Thiên hoan tâm, dồn nén cơn hung bạo xuống, vậy nên mới gọi là Hoan Hỉ Thiên. Còn bức tượng Phật nữ mà cháu cho là đáng sợ nhất ấy có lẽ chính là Quỷ Tử Mẫu trong truyền thuyết. Quỷ Tử Mẫu trong truyền thuyết. Quỷ Tử Mẫu còn gọi là Hoan Hỉ Mẫu, tiếng Phạn là Kha Lợi Đế Mẫu. Quỷ Tử Mẫu vồn là một vị ác thần trong Bà La Môn giáo, chuyên ăn lũ trẻ con ở chốn nhân gian, gọi là Mẫu Dạ Xoa. Sau khi được Phật pháp giáo hóa, liền trở thành thần hộ pháp chuyên trách bảo vệ trẻ con. Hai bức tượng còn lại thì tôi không nhận ra, nhưng quá nữa cũng là loại tượng Phật này. Những vị thần Phật này sau khi quy hồi Phật giáo thì đều là Đại Hộ Pháp, Đại Kim Cương, là các thần Phật chính nghĩa chuyên trách tiêu diệt tà ma ác đạo, nhưng những bức tượng được khắc tạc ở đây, rất rõ ràng đều thể hiện hình tượng trước khi quy y Phật giáo của họ, đều là đại hung thần, đại sát tinh, thần Phật bình thường đều không thể làm gì nổi họ. Những thần Phật mà giáo phái này thờ phụng chính là những vị tà Phật này đó. Tôi nghĩ, lạt ma Á La chắc biết về việc này nhiều hơn chúng tôi đúng không, Á La đại sư?"

Lạt ma Á La giật mình: "Gì hả?"

Đường Mẫn nói: "Ông kể cho chúng cháu nghe về lai lịch những tượng Phật này đi, đại sư."

Lạt ma Á La nói: "Những tượng Phật này hả? Chậc, những tượng Phật này hả? Những bức tượng này đều xuất hiện dưới dạng tướng mạo bản tôn, chắc là thuộc về một chi bên lề của Mật tông Tây Tạng. Nói đến Mật tông Tây Tạng, chỉ e sẽ dài đấy, nhất thời ta cũng không biết nên nói từ đâu nữa."

Đường Mẫn nghĩ ngợi một thoáng rồi đáp: "Vậy đại sư đừng nói chuyện này vội, nói chuyện huyết trì đi, tại sao không đổ máu vào mà cửa cũng mở ra được vậy? Có phải mấy ngày trước đã có người sử dụng huyết trì, nên nó vẫn giữ được trạng thái đó không?"

Lạt ma Á La lắc đầu: "À, huyết trì cũng có nhiều loại khác nhau, trường hợp này không thể gọi là huyết trì, nó là bạch trì."

Đường Mẫn nhắc lại: "Bạch trì?"

Lạt ma Á La nói: "Ừm, bạch trì không cần máu, chỉ cần dùng nước sạch bình thường là có thể tác động mở cửa được rồi. Sau đó đúng như cháu nói đấy, chỉ cần lượng nước đầy đủ thì có thể dùng mấy ngày liền."

Đường Mẫn chỉ vào một cánh cửa mé, nói: "Nhưng mà, những cái chúng ta thấy bên trong các căn phòng kia, không phải là giống hệt như huyết trì hay sao ạ?"

Lạt ma Á La mỉm cười đáp: "Đó chỉ là hình thức mô phỏng thôi. Dựa vào ý đồ của cánh cửa đá này mà suy đoán, bên dưới có lẽ là hệ thống nước thải ngầm, cơ quan mà mấy người Cường Ba thiếu gia nhắc tới, ta nghĩ có lẽ là đao cắt."

"Đây hình như là một hệ thống thoát nước ngầm." Trác Mộc Cường Ba cũng đưa ra một kết luận tương tự. Gã nói: "Đường hầm ở đây rộng rãi chằng chịt như mạng nhện, bốn vách lại trơn nhẵn thế này, dùng để xử lý nước thải rất hợp, chắc chắn không phải mê cung đâu."

Nhạc Dương nói: "Tôi cũng thấy không giống mê cung lắm. Chỗ này một là không có cơ quan, hai là không có trang trí gì cả."

Trác Mộc Cường Ba càng thêm chắc chắn hơn về suy luận của mình, gật đầu nói: "Ừm, khi mưa lớn nước dâng lên, có lẽ hòn đảo này sẽ bị nhấn chìm, đợi khi nước rút đi, sẽ nhờ vào hệ thống thoát bớt nước. Trí tuệ của cổ nhân đúng là vô cùng vô tận."

Trương Lập nói: "Vậy những lối thông này thông đi đâu chứ?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Ra bên ngoài đảo, hoặc là… đáy hồ."

Nhạc Dương đề nghị: "Chúng ta lại trở về chỗ ban đầu xem, được không? Ủa, chỗ đánh dấu đâu rồi? Sao chẳng thấy đâu nữa nhỉ?"

Trác Mộc Cường Ba xem thử, quả nhiên chỗ này nối liền với một đường hầm hướng thẳng lên trên, nhưng thông đạo hình như lại hơi khác với đường bọn họ đi xuống. Trác Mộc Cường Ba nói: "Không phải lối chúng ta đi xuống, đây là lối thông từ chỗ khác xuống, các cậu xem, đây là một đường dốc thẳng, không có rẽ ngoặt. Ừm? Bên trên có ánh sáng kìa, chác là cửa mở đấy, chúng ta lên trên xem sao nhỉ!"

Trương Lập băn khoăn: "Trơn thế này thì làm sao mà lên?"

Trác Mộc Cường Ba giẫm giẫm chân nói: "Leo lên chứ còn sao." Lúc này lòng tin của gã đối với giày hấp lực đã khôi phục phần nào. Vừa nãy trọng lực ba người còn chịu nổi, huống hồ giờ chỉ có một người.

Nhạc Dương gật đầu: "Ồ, bình thường ít khi dùng tới, không ngờ đã quên béng mất cái công năng này rồi. Leo lên trên xem một chút cũng được."

Trương Lập cảnh giác nói: "Cẩn thận lại có lưỡi đao bật ra như vừa nãy đấy."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi tính toán rồi, loại lưỡi đao đó dài không quá ba mươi centimet, vừa nãy là trượt xuống, giờ nếu chúng ta đi thẳng lên, không giẫm vào khe ở giữa thì lưỡi đao đó không gây nguy hại gì đâu."

Ba người cẩn trọng dè dặt leo lên đường hầm trơn tuồn tuột, phía trước có ánh lửa thấp thoáng, chỉ chốc lát đã ở trong một động đá. Chỗ này và đại sảnh ban nãy hoàn toàn khác biệt, dường như chỉ là một hang đá được đục đẽo thô sơ, không có bất cứ trang trí gì, bốn bức tường và trần vẫn còn lởm chởm, chính giữa có một pho tượng đá, miệng hang ba người leo lên ở ngay sau lưng tượng. Trương Lập và Nhạc Dương vòng qua phía trước tượng Phật, rồi hét toáng lên: "Ối chà, yêu nữ lông dài!"

Trác Mộc Cường Ba đi tới phía trước tượng đá, cũng phải thầm ngạc nhiên. Bức tượng đá này không hiểu là chưa hoàn thành hay là cố ý tạc như vậy, chỉ thấy toàn thân trần truồng, mang đặc điểm của nữ giới, song lại có lông dài phủ khắp người, mặt mũi bị lông che kín, đến trước ngực tượng cũng có lông dài, bảo là một con tinh tinh lớn thì không phải, ngược lại có lẽ giống với một cái rễ cây hình người hơn. Trác Mộc Cường Ba lờ mờ nhớ lại câu chuyện về Mao yêu nữ vương mà cha gã từng kể cho nghe hồi nhỏ, nhưng trước giờ gã cũng chưa bao giờ trông thấy bức tượng nào tương tự như thế này, không rõ đây có phải là Mao yêu nữ vương hay không nữa. Trên bàn tế trước mặt bức tượng Phật là một tượng xác người, dưới chân có ba ác quỷ, bên cạnh có một ác quỷ nữa, đều giơ tay, chân, thân thể của xác chết lên há miệng định cắn, còn tay phải tượng đá giơ trái tim người lên quá miệng như muốn ăn, tay trái cầm một thứ giống như hòn đá cuội đặt vào lồng ngực người nằm trên bàn.

Ba người đi một vòng quanh hang đá, không tìm thấy cơ quan gì, cũng không thấy lối đi nào khác, cảm thấy hết sức kỳ quái. Tại sao lại là một cái động đá hoàn toàn bít kín, chỉ thông với lối thoát nước ngầm chứ? Song tìm kiếm khắp cả hang, cuối cùng cũng không thu hoạch được gì, ba người đành chuẩn bị theo đường cũ trở lại. Đến cửa đường hầm, Trác Mộc Cường Ba bỗng dừng phắt lại, nói: "Bên trong có người."

Đa Cát Điệt Bất

Trương Lập vừa mới nhìn qua tượng hung Phật, tim đã đập thình thịch không thôi, Trác Mộc Cường Ba lại còn đột nhiên buông ra một câu bên trong có người, lập tức làm anh chàng giật thót cả mình, vội hỏi: "Cái gì? Ở đâu có người cơ?"

Trác Mộc Cường Ba ra hiệu cho mọi người không lên tiếng, nghiêng tai lắng nghe, chỉ thấy bên trong hang đá kín mít trống huếch hoác này quả nhiên có những âm thanh kỳ dị vang lên, tự như tiếng gì gõ đập, đều đặn mà có tiết tấu, chậm nhanh mạnh nhẹ liên tục thay đổi, hơi xa xăm và yếu ớt, không chú ý lắng nghe thì hoàn toàn không thể phát hiện ra được, có vẻ như phát ra từ một góc hang đá, nhưng lại không thể phân biệt được chính xác ở đâu, cứ như cả bốn vách hang đều đang phát ra tiếng động. Trác Mộc Cường Ba lạnh giọng thì thầm: "m thanh vừa nãy tôi nghe thấy không phải thế này, hình như là có người đang kêu cứu, mà còn bằng tiếng Tạng cổ nữa."

Trương Lập và Nhạc Dương làm bộ khoa trương ôm lấy nhau, đồng thanh thốt lên: "Cường Ba thiếu gia, anh đừng có mà dọa chúng tôi đấy, chẳng lẽ ở đây có mà?"

Trác Mộc Cường Ba vung tay lên, nói: "Tìm lại xem, nói không chừng ở đâu đó có cơ quan đã bị chúng ta sơ ý bỏ qua. Cái hang này không thể nào không có lối ra vào được."

"Đao cắt là gì ạ?" Đường Mẫn vẫn chưa hiểu.

Lạt ma Á La giải thích: "Hòn đảo này nằm ở giữa hồ, nếu nước hồ dâng lên nhấn chìm, toàn bộ kiến trúc ngầm dưới lòng đất sẽ bị ngâm trong nước, vì vậy ở tầng dưới này mới có một loại Bạch trì hễ gặp nước là mở ra. Nhưng nếu nước xối ra cuốn theo những vật thể lớn, chẳng hạn như màn che, phướn trong đại điện, bàn thờ và một số tạp vật khác, làm tắc lối thoát nước thì sao? Lúc đó, lối thông hình loa kèn và đao cắt bên trong liền phát huy tác dụng, cắt những vật thể lớn thành miếng nhỏ, khơi thông hệ thống thoát nước thải ngầm. Các lưỡi đao thình lình bật ra như có lò xo, sau một khoảng thời gian lại đột nhiên rụt về, rồi bật ra, liên tục băm cắt."

Đường Mẫn ngạc nhiên thốt lên: "Thật là khéo léo, không thể nào tin nổi."

Lạt ma Á La điềm đạm nói: "Đây chính là trí tuệ tích lũy từ thực tiễn lao động và đời sống của cổ nhân đó."

Ba người lại nói chuyện phím một lúc, lạt ma Á La kể một số chuyện liên quan tới các thần Phật của Mật giáo, rồi nói: "À, không hiểu mấy người Cường Ba thiếu gia giờ ra sao rồi, thử liên lạc với họ xem."

Giáo sư Phương Tân lại liên lạc với nhóm của Trác Mộc Cường Ba. Ba người bọn họ lúc này đang bới tung hang đá kín kia lên để tìm cơ quan hay đường ngầm chỉ vì Trác Mộc Cường Ba cho rằng bên trong có người. Trác Mộc Cường Ba tả lại bức tượng yêu nữ lông dài mà bọn gã thấy ở đây cho giáo sư Phương Tân nghe. Lạt ma Á La lại thêm một phen chấn động trong lòng, thầm nhủ: "Đà Chi Ni Độ Hóa Thần Mẫu, trời ơi, ở đây rốt cuộc còn bao nhiêu bí mật nữa? Không ngờ chúng ta lại hoàn toàn không hay biết gì về sự tồn tại của Thánh đàn nơi đây, đúng là không thể tưởng tượng nổi, đúng là không thể tưởng tượng nổi!"

Nghĩ đoạn, ông liền nói: "Xuống đó đi, ở đây còn rất nhiều thứ chúng ta chưa hề hay biết."

Đường Mẫn lộ vẻ do dự: "Nhưng mà, đao cắt trong lối thông này không phải rất nguy hiểm hay sao?"

Lạt ma Á La mỉm cười: "Cứ đi theo ta, không có vấn đề gì đâu."

Giáo sư Phương Tân cũng muốn xuống thăm dò từ đầu, liền vui vẻ đồng ý. Vậy là ba người liền cùng nhau trượt xuống hệ thống nước thải bên dưới.

Trác Mộc Cường Ba và hai người Trương Lập, Nhạc Dương lại tìm kiếm khắp hang đá thêm một lượt nữa, song vẫn không phát hiện ra cơ quan hay đường ngầm nào, mồ hôi đầm đìa ướt đẫm người. m thanh yếu ớt kia thật giống như đang có người kêu lên: "Cứu mạng!" hơn nữa còn là tiếng Tạng cổ. Nhạc Dương lại còn nghe ra được, đó là tiếng của một người đàn ông, sắc mặt lập tức tái dại đi. Hang đá vốn trống hoác trống hơ, âm thanh vang lên quá bất ngờ. Ánh mắt ba người dần tập trung cả vào bức tượng Phật cao năm mét ở giữa. Có phải bức tượng này vừa hét lên? Hay là người đàn ông nằm trên bàn kia? Hay là bốn con quỷ? Trương Lập, Nhạc Dương càng thêm nghi hoặc, không hiểu có phải đã đụng phải yêu tinh ngàn năm gì đó rồi hay không? Không thì tại sao lại nói tiếng Tạng cổ cơ chứ?"

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên vỗ đùi đánh đét một tiếng: "Ôi cha, chúng ta ngu thật!" Trương Lập, Nhạc Dương lại giật thót mình, nhảy ngược về phía sau một bước.

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tượng đá! Là tượng đá chứ còn gì nữa! Chúng ta tìm cơ quan khắp nơi, mà sao lại bỏ qua cái ở lù lù trước mắt thế này!" Gã bước lên cái bệ tròn hình áng mây, đến bên dưới chỗ ngồi của nữ Phật lông dài, chỉ vào khe hở nhỏ nói: "Bức tượng đá này chắc chắn là có thể di động, đây này, vừa rõ ràng lại vừa đơn giản, vậy mà chúng ta đều không nghĩ tới."

Ba người liền hợp sức lại đẩy tượng Phật ra, không ngờ nó nhẹ hơn hẳn so với họ tưởng, xem ra bên trong chưa chắc đã đặc ruột. Quả nhiên, bên dưới bệ ngồi của bức tượng lộ ra một vách ngăn vuông vắn mỗi bề khoảng một mét, mở vách ngăn ra, bên dưới hóa ra là một hồ nước, đầy nước trong vắt, ở giữa có một thứ trông như cái bệ đá nhô cao lên khỏi mặt nước, nhưng bên trên không có người. Trương Lập thò đầu quan sát, dưới nước cũng thấy có bóng người nào đâu, anh chàng đang nghi thần nghi quỷ, đột nhiên từ trong làn nước nhô lên một cái đầu tóc tai bù xù, mặt mày bợt bạt, Trương Lập lập tức giật nảy người ngã ngửa ra đằng sau. Cái đầu đó vung vẩy mạnh, bọt nước bắn tung tóe, một gương mặt vuông vắn, mắt to mày rậm, mũi vuông môi dày xuất hiện trước mặt mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba, phun ra một búng nước, nhanh nhẹn leo lên bờ, nói: "Coi như được cứu rồi."

Vừa nghe anh ta cất tiếng, cả ba liền tức khắc hiểu ra ngay, đây là người ở thôn Công Bố, tiếng cứu mạng ban nãy phát âm giống như tiếng Tạng cổ, nhưng câu sau lại là thứ ngữ âm kỳ quái nằm ở giữa tiếng Tạng cổ và tiếng Tạng hiện đại thời kỳ đầu. Người này nhỏ bé lạ thường, chiều cao chưa được mét rưỡi, tứ chi nhỏ, da ngăm đen, còn cái đầu lại to tướng ra, đứng trước mặt Trác Mộc Cường Ba, trông cứ như một đứa nhỏ châu Phi suy dinh dưỡng vậy, chắc tại ngâm nước quá lâu, nên thân thể ánh lên một thứ sắc trắng không tự nhiên của thịt nữa. Người này mặc áo Phổ Lỗ, đi ủng ống cao, hông buộc dây lưng Phổ Lỗ, giắt một con dao đi rừng, cổ tay đeo chuỗi hạt Bồ đề, trước ngực có một chuỗi Phật châu bằng mã não, chính giữa là một viên mã não hình thoi có hoa văn đen trắng. Trác Mộc Cường Ba vừa nhìn đã nhận ra ngay là Thất Nhãn Thạch.

Người kia vung vẩy lắc nước trên đầu văng ra, tự giới thiệu bằng giọng kiêu ngạo và tự hào: "Tôi là Đa Cát, cảm ơn các vị đã cứu mạng."

"Đa Cát? Anh là Đa Cát Điệt Bất?" Trác Mộc Cường Ba hỏi như vậy, làm Nhạc Dương và Trương Lập đều giật mình ngạc nhiên. Trước đó hai người và Trác Mộc Cường Ba đều nghĩ giống nhau, đã là thợ săn giỏi nhất thôn Công Bố, chắc chắn là phải cao lớn khôi vĩ, lực lưỡng như bò mộng, làm sao anh chàng nhỏ con loắt choắt này lại là Đa Cát Điệt Bất được?

Không ngờ anh chàng nhỏ con kia lại hiên ngang ngẩng đầu lên đáp lời: "Đúng vậy, sao anh biết tên tôi thế? Tôi rất cảm ơn các anh đã cứu mạng, nhưng… các anh là ai? Tại sao lại đến chỗ này? Còn nữa, sao các anh biết nói ngôn ngữ này?"

Trác Mộc Cường Ba đáp: "Na Thâm đưa chúng tôi tới đây." Kế đó gã lại nói với Đa Cát những lời Na Thâm nhờ chuyển giúp.

Đa Cát há hốc miệng, hai mắt sáng ngời lên, như thể nước mắt sắp trào ra đến nơi, hồi lâu sau mới cất tiếng: "Na Thâm, ôi, trời xanh ơi! Đức Phật vạn năng ơi! Cảm tạ Người đã ban cho con hạnh phúc này! Trong đời Đa Cát Điệt Bất, không ngờ có thể cùng lúc gặp được hai vị Thánh sứ đại nhân." Anh ta lại hoan hỉ chạy tới quỳ lạy trước bức tượng Phật nữ lông dài, miệng lẩm bẩm: "Không Hành Mẫu đại nhân từ bi, con xin được cảm tạ các thần Phật chốn Thiên giới đã chiếu cố, con muốn cảm tạ, muốn dùng linh hồn trong sạch nhất của mình tiếp nhận sự độ hóa của Người."

Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương, Trương Lập lấy làm kinh ngạc, Không Hành Mẫu thì bọn họ đều biết, đó là một trong những vị Phật từ bi có tiếng ở Tây Tạng, cứu khổ cứu nạn giống như Quan Thế m bồ tát vậy, tượng Không Hành Mẫu ở đây sao lại tạc ra hình dạng thế này cho được?

Thấy Đa Cát đứng lên, Trương Lập liền hỏi: "Cái này, sao các anh lại gọi là Không Hành Mẫu đại nhân?"

Đa Cát ngạc nhiên hỏi: "Đây chính là Không Hành Mẫu đại nhân mà, sao vậy? Thánh sứ đại nhân có pháp danh khác để gọi Người ạ?"

"Thánh sứ?" Trác Mộc Cường Ba bản thân cũng không tinh thông Phật học cho lắm, vội nói "Ừm… không có."

Đa Cát nói: "Thánh sứ đại nhân, ngài đúng là Thánh sứ đại nhân thật rồi." Nói đoạn, liền quỳ xuống trước mặt Trác Mộc Cường Ba. Nhạc Dương đứng cạnh nói: "Lại còn không phải nữa à, ba vị trưởng lão của các anh đã nói rồi, đây chính là Thánh sứ đại nhân. Nhưng làm sao anh biết anh ấy chính là Thánh sứ thế?"

Đa Cát đáp: "Không có người Công Bố chúng tôi dẫn đường, muốn đến được đây không dễ dàng chút nào đâu, gò đỉa, khe bọ cạp, núi rắn, thung lũng người chết, thung lũng chướng khí, đầm đen, đó đều là những nơi người thường không thể vượt qua được. Muốn tìm Cánh cửa Sinh mệnh lại khó càng thêm khó, có Na Thâm dẫn đường, lại vào được Cánh cửa Sinh mệnh, vậy thì chỉ có Thánh sứ đại nhân và thôi."

Đa Cát quỳ dưới đất, đột nhiên lấy tay lần khắp người tìm kiếm thứ gì đó, cuối cùng cũng móc trong lần áo ướt sũng ra một vật màu đỏ to bằng cái cúc áo, hai tay dâng lên quá đầu cung kính nói: "Đa Cát tôi đã thề rằng, ai cứu tôi ra khỏi Hôi Hà địa ngục thì sẽ tặng viên Trích Huyết hồng thạch này cho người ấy; không ngờ lại chính là Thánh sứ đại nhân ngài giải cứu Đa Cát ra khỏi địa ngục, xem ra đúng là trời cao có pháp nhãn, thần thông quảng đại, xin Thánh sứ đại nhân tiếp nhận."

Trác Mộc Cường Ba mỉm cười nói: "Sao tôi lại lấy đồ của anh được?"

Đa Cát liền cuống cuồng nói: "Viên Trích Huyết hồng thạch này vốn là thánh vật cuối cùng ở đây, Đa Cát liều chết trong Thụ Kiếm địa ngục mới lấy được để dâng lên cho Thánh sứ đại nhân. Đa Cát giữ vật này bên người, tức là đã đại bất kính với Trời đó!" Nói dứt lời, không ngờ anh ta còn đập đầu "bốp bốp" xuống đất nữa.

Trác Mộc Cường Ba thấy Đa Cát kiên quyết như vậy, đầu đập xuống nền đá mà phát ra tiếng như thế, nếu còn đập tiếp e sẽ chảy máu mất, đành miễn cưỡng nhận lấy, cầm lên quan sát, không ngờ lại là một viên hồng ngọc không chút tì vết, tròn như cái khuy áo. Trác Mộc Cường Ba áp viên ngọc sát người, tỏ ý tôn kính, bấy giờ Đa Cát mới mừng rỡ đứng lên. Trương Lập, Nhạc Dương cầm viên hồng ngọc quan sát kỹ lưỡng, chỉ thấy long lanh trong suốt, đỏ như giọt máu, biết chắc chắn là đồ tốt, song rốt cuộc là tốt thế nào thì hai người đều không nói ra được.

Trác Mộc Cường Ba nói: "Viên ngọc này anh tìm được ở đâu vậy?"

Đa Cát đáp: "Thụ Kiếm địa ngục, lá cây như kiếm, gió thổi lá rụng, kiếm đâm khắp người, chạm tay tay gãy, chạm chân chân lìa, thân thể đầu mặt, không sao thoát nạn."

Trác Mộc Cường Ba nghe chỉ hiều lờ mờ, nhưng gã biết, Thụ Kiếm địa ngục mà Đa Cát nói chắc chắn là cơ quan, xem ra bên trong vẫn còn những nơi bọn gã chưa phát hiện ra, nghĩ đoạn liền nói: "Đưa chúng tôi tới đó xem xem."

Đa Cát nói: "Xin tuân lệnh." Anh ta không xuống lối thoát nước, mà quay người lại đi ra chỗ cái hồ.

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt quan sát hồ nước, nói ra cũng thật kỳ lạ, sau khi tượng Không Hành Mẫu được dời đi, mực nước trong hồ không ngờ lại chầm chậm rút xuống, để lộ ra những bậc thang. Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Sao anh lại bị nhốt trong hồ nước này?"

Đa Cát đã nhảy xuống dưới, nước lúc này đã rút đi gần hết, không ướt cả giày, anh ta do dự một lát rồi mới trả lời: "Chuyện này, có lẽ là tại tôi chưa hoàn thành chức trách của mình, hoặc có lẽ vì tôi đã làm trái lời răn của tổ tiên, một mình đi vào Cánh cửa Sinh mệnh, nên Thánh sứ đã phạt tôi tịnh thân tẩy trừ mọi lỗi lầm trong Át Ca trì cũng nên. Tôi vốn đã lấy được Trích Huyết hồng thạch chuẩn bị dâng lên cho Thánh sứ, nhưng họ lại bảo tôi đợi ở đây…"

Trác Mộc Cường Ba nhảy xuống theo Đa Cát, thấy bốn vách đều ẩm ướt, nhưng trên nóc vẫn khô ráo, đoán rằng lúc trước ở đây cũng không có nước, đồng thời hỏi: "Thánh sứ mà anh nói, có phải người anh dẫn tới đây phải không?"

Đa Cát Điệt Bất bước xuống cầu thang: "Vâng, Thánh sứ ngài ấy…"

Trương Lập và Nhạc Dương trước sau nhảy xuống. Nhạc Dương phì phì nói: "Thánh với chẳng sứ cái gì, bọn chúng muốn giết anh đấy! Bọn chúng đến lúc nào? Đã lấy gì ở đây đi rồi? Giờ chúng ở đâu?" Anh đưa mắt liếc sang phía Trác Mộc Cường Ba một cái, hai người đều hiểu rõ trong lòng, đám người của Merkin vì sợ Đa Cát tiết lộ hướng đi của chúng, nên đã nảy ý muốn giết người diệt khẩu.

Nước ngập không quá đầu gối, Đa Cát ở bậc thang phía dưới nói lên: "Tôi đợi trong Át Ca trì không biết bao nhiêu lâu nữa, Thánh sứ kia đã lấy đi bộ Tứ pháp trượng để khai mở Thiên thủ Phật, giờ chắc đã đến lãnh địa của Tượng Hùng vương rồi."

"Tượng Hùng vương?" Trác Mộc Cường Ba, Trương Lập và Nhạc Dương đưa mắt nhìn nhau, cùng đồng thanh thốt lên: "Cổ Cách?"

Đa Cát gật đầu: "Vị Thánh sứ đại nhân kia cũng nói y như vậy. Thực ra, như các vị trưởng lão nói, Cổ Cách vương vốn là người đến sau…"

Trương Lập gật đầu: "Sao bọn chúng lại đi Cổ Cách? Phải chăng bọn chúng biết điều gì mà chúng ta chưa biết?"

Đa Cát lại nói: "Vì người Công Bố chúng tôi đời đời bảo vệ ba nơi thánh địa - Cánh cửa Sinh mệnh, mở ra con đường tìm đến Hy vọng; Đảo Huyền Không tự, tìm thấy Pháp môn chỉ lối vào; cuối cùng sẽ đến được miền cực lạc Hương Ba La, tất cả mọi phiền não sẽ tan biến, chúng sinh chuyên tâm tu hành, dễ được vãng sinh. Cổ Cách vương phát hiện ra Đảo Huyền Không tự của chúng tôi, ngỡ là thần tích, vì vậy đã dời đô đến đó, xây cung điện bên trên, cho là bí bảo."

Nhạc Dương nghe mà như người đi giữa đám sương mù, hỏi: "Thế là ý gì?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Có nghĩa là, ở Cổ Cách có một ngôi chùa gọi là Đảo Huyền Không tự, cũng là thánh địa giống như Cánh cửa Sinh mệnh này, nơi đó có Pháp môn dẫn đến Hương Ba La; Pháp môn, chính là chỉ…"

"Bản đồ!" Trương Lập reo lên.

"Vậy thì Hương Ba La chính là nơi có Bạc Ba La thần miếu rồi, lẽ nào nơi chúng ta vẫn tìm kiếm chính là Hương Ba La? Hương Ba La trong truyền thuyết?" Cả Nhạc Dương cũng kinh ngạc thốt lên.

Trác Mộc Cường Ba nói: "Mau liên lạc với đại sư và thầy giáo, xem bọn họ có thể đến hội hợp với chúng ta không, bảo là có phát hiện lớn."

Nhạc Dương liền liên lạc với mầy người nhóm của giáo sư Phương Tân. Đa Cát chỉ tấm vách ngăn trên đầu nói: "Bên trên cũng có vật nặng, nhưng cảm giác không nặng lắm, vừa nãy một mình Đa Cát cũng dịch chuyển được, chỉ thiếu chút nữa là mở ra rồi."

Trác Mộc Cường Ba giơ tay đẩy lên, biết bên ngoài có vật nặng đè xuống, liền gọi Trương Lập lại giúp. Ba người cùng vận sức đẩy, lật nhào thứ ở bên trên, chỉ nghe tiếng lục cục không ngớt, cuối cùng tấm vách ngăn cũng được mở ra. Mấy người bước vào gian đại sảnh phía trên, ở đây cũng có một pho tượng Phật, trông khá giống với tượng Bát Tí Kim Cương đang ngồi, tay trái cầm một thanh kiếm hai lưỡi, tay phải cầm một thứ giống như dây thừng, ba con mắt trợn lên, răng nhanh nhe ra, tướng mạo phẫn nộ, sau lưng là vầng Phật quang hình ngọn lửa, bên cạnh có hai đồng tử đang đứng, thứ chặn lên tấm vách ngăn là ba cái đôn bằng đá, giờ đã lăn lông lốc ra xa. Gian sảnh này có bốn cánh cửa mở, làm theo hình tượng của Phật, bên ngoài cửa lại có cửa nữa, không hiểu là bao nhiêu tầng lớp.

Đa Cát quỳ xuống bái lạy: "Thánh sứ niệm thập tứ căn bản ấn, chân ngôn chú, tiến về vãng sinh, dẹp mọi tai chướng…" niệm dứt, liền quay đầu lại nhìn Trác Mộc Cường Ba, băn khoăn không hiểu sao vị Thánh sứ này lại không quỳ bái bản tôn 1. Thấy vẻ hoang mang trên mặt gã, anh ta bèn thầm nhủ không hiểu có phải vì bản tôn ở đây khác, nên Thánh sứ không nhận ra hay không, liền vội giải thích: "Đây là Bất Động bản tôn, Thánh sứ đại nhân."

Trác Mộc Cường Ba "ừm" một tiếng, thầm nhủ: "Mặc kệ bất động hay di động, tóm lại là binh pháp đã viết, địch bất động, ta bất động."

Đa Cát thoáng lộ vẻ thương tâm, vị Bất Động bản tôn này chính là đại bản tôn được sùng bái nhất, Trung Ương Minh Vương trong Ngũ Phương Đại Minh Vương, vậy mà Thánh sứ đại nhân này dường như lại không biết đến vậy. Trương Lập thấy thế liền nói bằng tiếng phổ thông: "Vị thần này cũng ra hình ra dáng đấy, đẹp trai hơn mấy cái lúc nãy nhiều, nào, bái thì bái."

Trác Mộc Cường Ba giờ mới có phản ứng, vội nói: "Ừm, đúng, bái thì bái." Nói rồi liền mô phỏng theo tư thế của Đa Cát, quỳ bái Bất Động Minh Vương, Đa Cát thấy thể nở một nụ cười, vui vẻ tựa như đứa trẻ được người lớn cho kẹo vậy. Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Đa Cát, nơi anh định đưa chúng tôi đến còn xa nữa không?"

Đa Cát đi trước nói: "Thỉnh xong Ngũ Đại Minh Vương, Ngũ Đại Hư Không Tạng Bồ Tát là đến."

Có người dẫn đường, tự nhiên là không cần phải vào từng gian Phật điện một. Bọn họ còn thấy mấy pho tượng khác nữa, có pho toàn thân xanh đen, tướng mạo giận dữ, sáu mặt sáu tay sáu chân, ngồi trên một con trâu, lưng đeo bao cung, roi, kiếm, tên, gậy, Đa Cát gọi là Uy Đức Tôn Giả; có pho màu xanh, đầu đội mũ ngọc, tóc dựng đứng như ngọn lửa, có ba mắt, tướng mạo giận dữ, răng nanh chìa ra ngoài, tay phải cầm một mũi kích ba lưỡi, cánh tay cong lại, tay trái cầm ba cái chùy, xung quanh mình có lửa cháy, ngồi trên hòn đá, Đa Cát gọi đấy là Giáng Tam Thế Tôn Giả; có tượng Phật cưỡi chim công, thân màu đỏ, bàn tay phải dựng lên, ngón trỏ gấp lại, ngón giữa giữ một chiếc phất trần trắng, tay trái lật ngửa đặt trên bụng, cầm đóa hoa sen đỏ, trên hoa sen có hạt châu màu xanh, Đa Cát gọi là Hồng Liên Hư Không Bồ Tát; còn có một tượng Phật trắng, đầu đội ba lớp mũ, sau gáy có khay bạch ngọc hình tròn, tay trái cầm móc câu, tay phải cầm hộp báu đậy nắp hoa năm cánh, Đa Cát gọi là Pháp Hư Không Bồ Tát.

Các tượng Phật ở đây đều có ba mắt, hoặc một mặt, hoặc ba mặt sáu tay, hoặc bốn mặt tám tay, bốn mặt bốn tay, tướng mạo phẫn nộ, chân đạo thi thể yêu ma, phục quái sát nhân, ba người càng nhìn lại càng kinh ngạc, đồng thời cũng đều ý thức được những gì tôn giáo cổ xưa này sùng bái không phải là thứ họ có thể lý giải được.

Bước đến gian điện cuối cùng, Đa Cát dừng lại, cánh cửa bên trái bức tượng Phật, cúi đầu không nói gì, dường như đang do dự.

Đại điện cao lớn rộng rãi, ánh lửa bập bùng, bốn bề trống không, ngoài tiếng bước chân lạo xạo của bốn người ra, đều tĩnh mịch như tờ, chính giữa gian có một bức tượng giận dữ. Tượng Phật này màu thịt, đầu đội mũ có bảy con rắn, tay cầm kiếm như đang chực nuốt vào, thân kiếm có một con rắn cuộn tròn, phía trên con mắt thứ ba ở chính giữa có góc cạnh, sau lưng có quầng lửa, trên mình đeo bảy chiếc mặt quỷ, ngực một chiếc, ngoài hai mặt quỷ ở vai hóa thành hình đầu rắn le lưỡi, năm mặt quỷ còn lại đều vặn vẹo xoắn xuýt như sáp chảy, hình dạng quái đản ghê rợn. Trương Lập và Nhạc Dương nhủ thầm trong bụng: "Đây là thần Phật gì đây? Sao mà tà ác thế?"

Đa Cát nói: "Phía trước chính là Kiếm Thụ địa ngục rồi, nơi này cực kỳ nguy hiểm, Đa Cát phải thập tử nhất sinh mới xông qua được đấy, nhưng thực sự là Đa Cát không biết phải làm thế nào mới đưa được Thánh sứ đại nhân qua đâu."

Trác Mộc Cường Ba mỉm cười nói: "Chuyện này không cần phải lo lắng. Qua đây là đến phải không? Vậy anh hãy kể lại tình hình lúc đó cho tôi xem, sau đó chúng tôi sẽ tự khắc có cách."

Đa Cát nói: "Vừa bước vào là gặp ngay tên bay loạn xạ, tôi chỉ biết né tránh, nào có kịp nhìn rõ thứ gì đâu, dọc đường vừa lăn vừa chạy, bên trong có hình chiếc hồ lô, trên tường có rất nhiều mũi đinh nhô lên, còn có cả chữ nữa, chính giữa có đài hoa báu, trên đài có mõ, viên Trích Huyết hồng thạch này chính là lấy ở bên trong mõ ấy ra, lúc đi ra thì không có tên bắn nữa."

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Trương Lập, Nhạc Dương, rồi lại nhìn về phía bọn họ sắp phải đi qua. Đó là một gian sảnh hình chữ nhật, ở giữa là lối đi, hai bên đều là bệ để đồ cúng cao hơn mặt đất chừng một mét, bên trên đáng lẽ phải có tượng Phật, chuông, bình bát, mõ gỗ…, nhưng giờ cũng đều trống hoác cả, còn ở chính diện chỉ có một cánh cửa nhỏ cao ba mét, chỗ tường phía trên cánh cửa khắc một chữ Vạn, sàn nhà thì lát bằng đá phiến, trên mỗi viên đều khắc một ký hiệu.

Trương Lập nói: "Chốt bẫy ở dưới sàn nhà, giẫm lên là khởi động cơ quan. Những ký hiệu này đều là Phạn văn, chỉ tiếc là chúng ta không đọc được."

Nhạc Dương nói: "Ừm, hai bên tường có rất nhiều rãnh, chắc là tên bắn từ tường đá mfa không trúng ai sẽ rơi ngược vào vách tường bên kia."

Trương Lập lại ngẩng đầu nói: "Trần nhà cao thế này, chắc là không có thứ gì rơi từ bên trên xuống đâu nhỉ."

Nhạc Dương nói: "Gian phòng này nhiều lắm cũng chẳng hơn được hai chục mét, có cơ quan thì xông qua cũng được mà."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Vậy được, chúng ta thử xem sao." Trác Mộc Cường Ba đứng phía trước tấm đá lát sàn, xem những chữ Phạn béo gầy bất nhất, trông giống những con sâu vặn vẹo, tức thời cũng không biết nên giẫm vào viên nào, thứ đưa một chân lên trước dò, thấy không có gì khác biệt, mới giậm hẳn xuống, sau đó bước đi như bình thường. Trương Lập, Nhạc Dương thì bước theo sau gã, cũng giẫm lên những viên đá gã đã giẫm. Đa Cát chẳng hiểu mô tê gì, cũng bị yêu cầu làm như vậy.

Bốn người dò dẫm từng bước một, đến cánh cửa ở phía bên kia lối đi, chỉ thấy hình dạng những viên đá lát sàn trong căn phòng hình tròn này không theo một quy tắc nào cả, hoàn toàn khác với hình cành cây ở phía bên này, song từng viên vẫn đều có khắc Phạn văn.

Trác Mộc Cường Ba bước qua cánh cửa chữ Vạn, thở phào nhẹ nhõm nói: "Không hiểu tại may mắn hay vì cơ quan đã mất tác dụng rồi nữa."

Trương Lập lên tiếng: "Ừm, cơ quan cần động lực, xem ra Đa Cát xông vào lần trước đã làm tiêu hao hết động lực của cơ quan này rồi."

Vừa đi qua cánh cửa, Đa Cát đã cho là không còn nguy hiểm gì nữa, liền nhảy ra giữa căn phòng hình tròn, chỉ vào cái mõ trên bệ cao: "Chính là ở chỗ này, tôi lấy Trích Huyết hồng thạch ở đây này." Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba muốn ngăn anh ta lại nhưng đã muộn, cũng may mà anh ta không hề có hành động gì bất thường.

Trác Mộc Cường Ba giẫm giẫm chân, đá lát sàn bên dưới rất chắc chắn, gã lại bước thêm hai bước nữa, gắng sức men theo những nơi Đa Cát vừa nhảy qua mà tiến lên. Trương Lập và Nhạc Dương cũng thầm nghĩ đá lát sàn ở đây hình dáng như thế này, chắc chắn mười mươi là có vấn đề. Mọi người lên trên bệ cao, giờ mới nhìn rõ toàn cảnh gian phòng, quả nhiên là có hình chiếc hồ lô, chính giữa mái vòm có một lỗ nhỏ, bên trên lại xây một hình cầu lên trên, phần đỉnh hình cầu bên trên nhỏ dần, không nhìn rõ là có lỗ hay không. Những chữ Đa Cát nói, chính là khắc trên tường của hình cầu nhỏ ở trên, ánh sáng mờ mịt, cộng với chữ viết trên đó quá nhỏ, khó mà nhìn cho rõ được. Trác Mộc Cường Ba lấy ống nhòm điện tử ra, Nhạc Dương giơ đèn pha lên, ngửa đầu quan sát, lẩm bẩm nói: "Còn đỡ, là tiếng Tạng cổ."

Trương Lập nói: "Viết gì vậy?"

Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: "Quỷ… quỷ vu kim… ngưu, hồng… Đại hồng… liên diệu, Văn… Thù… Bồ Tát, cầm… cầm đồng thủy trước ngực… mở… mở ra Vô Lượng Minh? Đây là ý gì? Hai cậu xem thử xem."

Trương Lập đón lấy chiếc ống nhòm, lẩm bẩm nói: "Dịch theo chữ thì chắc là như vậy đấy, không sai đâu."

Nhạc Dương đưa đèn pha cho Trác Mộc Cường Ba, nói: "Để tôi xem nào." Anh chàng nhìn một lúc lâu, cuối cùng cũng chẳng nhìn ra được manh mối nào, các chữ thì đều đều biết hết, nhưng ghép lại thì lại không hiểu là ý gì. Đa Cát hoàn toàn không hay biết gì về thứ sản phẩm công nghệ hiện đại này, nghe nói dùng nó có thể nhìn thấy những nơi xa mà mắt thường không thấy được, liền lấy làm hứng thú. Nhạc Dương bèn chỉ cho anh ta cách sử dụng ống nhòm. Đa Cát mừng rõ như đứa trẻ được món đồ chơi mới vậy.

Trác Mộc Cường Ba thở dài nói: "Chà, xem ra chúng ta không thể hiểu được ý nghĩa của những dòng này rồi, đành đợi nhóm của giáo sư Phương Tân đến coi sao vậy."

Lời còn chưa dứt, đã nghe giọng giáo sư Phương Tân vang lên bên ngoài: "Ồ? Đây là Phật gì vậy? Đại sư Á La, đại sư lại đây mà xem này."

Trác Mộc Cường Ba kêu lên: "Thầy giáo, thầy giáo, chúng tôi ở trong đây, mọi người vào đi, cẩn thận cơ quan dưới nền nhà, chúng tôi bước vào trên phiến đá thứ hai, thứ năm…" Mấy người trong nhóm của giáo sư Phương Tân liền theo lời đi qua gian sảnh mé bên, bước vào gian phòng hình tròn, Trác Mộc Cường Ba nói: "Thầy giáo, thầy xem trên kia viết những gì?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Đợi chút đã, để tôi chụp lại những chữ Phạn trên nền nhà nước. Vừa nãy vội quá, còn bao nhiêu thứ vẫn chưa kịp ghi lại."

Trương Lập lên tiếng nhắc nhở: "Cô Mẫn Mẫn, đừng giẫm lên đó vừa nãy chúng tôi chưa đi qua chỗ ấy đâu."

Lạt ma Á La vừa vào đã hỏi ngay: "Đa Cát đâu, Đa Cát ở đâu?"

Đa Cát đứng sau lưng Nhạc Dương lách người bước ra, nhìn lạt ma Á La hỏi: "Ông là?"

Đường Mẫn nói: "Hả, anh ấy chính là Đa Cát?"

Nhạc Dương nói: "Đa Cát, trả tôi cái ống nhòm…"

Nhất thời mỗi người góp một câu, gian phòng nhỏ liền ầm ĩ hét cả lên.

Giáo sư Phương Tân cùng mấy người khác cũng lên bệ hình tròn. Trác Mộc Cường Ba lấy viên hồng ngọc của Đa Cát đưa cho ông xem, đồng thời chỉ lên không gian hình cầu phía trên, cho ông biết là có chữ. Đường Mẫn đón chiếc ống nhòm từ tay Nhạc Dương, bắt đầu quan sát. Lạt ma Á La thì vẫn không ngừng hỏi han Đa Cát về các tượng Phật.

Giáo sư Phương Tân quan sát viên ngọc giây lát, đoạn nói: "Thủ công tương đối tinh xảo, đây là hồng ngọc loại thượng hạng, khẳng định là có tác dụng rất quan trọng trong lễ tế của cổ nhân." Kế đó, ông lại điều chỉnh tiêu cự của ống kính máy quay, nhìn những chữ Tạng cổ phía trên, đoạn lẩm bẩm: "Tôi chỉ biết Văn Thù Bồ Tát là một vị Bồ Tát tương đối quan trọng trong Phật giáo, còn những thứ khác chỉ e là chỉ có đại sư Á La mới giải thích được."

Lạt ma Á La đang hỏi: "Vậy các tượng thần Phật ở đây đều do tổ tiên của cậu tạc nên, hay đã có từ trước rồi, tổ tiên của cậu chỉ phụ trách bảo vệ nơi đây thôi?" thì giáo sư Phương Tân đã giơ màn hình máy tính ra, chỉ những chữ bên trên.

Đa Cát nói: "Theo như các trưởng lão nói, thì chúng tôi chỉ phụ trách bảo vệ nơi này thôi."

Lạt ma Á La gật gật đầu, sau đó ngoảnh sang nhìn màn hình: "Ừm? Cái này, là ý gì đây?"

Giáo sư Phương Tân ngẩng đầu lên nhìn đỉnh vòm, sau đó lại nhìn cái mõ, bảo Đa Cát để viên hồng ngọc về vị trí ban đầu, quan sát một lượt, sau đó nói: "Tôi hiểu rồi, chắc là dựa trên nguyên lý chiết xạ của tia sáng đây." Ông chỉ lên đỉnh đầu nói, "Miệng hồ lô này chính là nơi để lấy ánh sáng, thực ra tổ tiên người Tạng chúng ta đã nghiên cứu âm thanh, ánh sáng, hình ảnh đạt tới trình độ tương đối cao, trong đó Vô Lượng Phật Bích chính là một ví dụ rất điển hình."

Vô Lượng Phật Bích thì Trác Mộc Cường Ba đã nghe nói đến, chính là một vách đá lớn trơn nhẵn như gương, nghe nói mỗi khi có sấm chớp sẽ xuất hiện pháp thân của Phật tổ, khiến vô số tín đồ quỳ lạy cúng bái, cho là thánh tích. Nhưng Vô Lượng Phật Bích và viên hồng ngọc ở đây có quan hệ gì chứ? Lại nghe lạt ma Á La nói tiếp: "Thực ra, nội dung khắc trên tường, chắc là một phương pháp để xuất hiện hình ảnh. Quỷ ở đây không phải quỷ quái theo nghĩa truyền thống, mà là một trong Nhị thập bát tú. Kim ngưu là thời gian, ý tức là vào thời gian "kim ngưu", sao Quỷ sẽ ở chính giữa phá trên Cánh cửa Sinh mệnh; Đại hồng liên diệu, rất rõ ràng chính là ánh sáng sẽ chiết xạ qua viên hồng ngọc này, Đại hồng liên đồng thời cũng chính là thánh vật ở nơi sâu thẳm nhất trong Bát Đại Băng Đông địa ngục, mấy thứ này đều không quan trọng. Ừm… Văn Thù Bồ Tát… phải rồi, mọi người nhìn xuống sàn nhà xem, có mấy nơi hình dáng không theo quy tắc, mà có hình lá sen."

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn theo hướng chỉ của lạt ma Á La, quả nhiên, không chỉ một chỗ, dưới đất có tới mấy nơi được cố ý làm thành hình lá sen, đếm thì tổng cộng có tám lá sen, đều đặn vây quanh bệ tròn ở giữa. Lạt ma Á La nói: "Đây là Bát Diệp Lão Sư, lần lượt tượng trưng cho tám phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, còn Văn Thù Bồ Tát thì ở phía Tây Nam…"

Giáo sư Phương Tân chợt ngắt lời: "Đợi chút đã, Bát Diệp Lão Sư mà đại sư nói, là Mạn Đà La đúng không!"

Lạt ma Á La gật đầu: "Không sai." Giáo sư Phương Tân không lên tiếng hỏi nữa, chỉ thấp giọng lẩm bẩm: "Mạn Đà La, Mạn Đà La, thì ra là Mật giáo, chẳng trách những tượng Phật kia đều có ba mắt, tướng mạo phẫn nộ, nhiều tượng còn không nhận ra được nữa."

Lạt ma Á La lại nói tiếp: "Đồng và thủy là gì thì tạm thời chưa biết, còn Vô Lượng Minh là tên Phật ở Tây phương Tịnh thổ, cũng là Tây phương Cực lạc Thế giới mà người ta vẫn nói tới. Ghép tất cả lại với nhau, ý nghĩa đại khái chắc là, đến giờ Kim ngưu, sao Quỷ sẽ ở phía trên đỉnh, ánh sáng chiếu vào viên hồng ngọc này chiết xạ đến thánh vật gì đó ở phía Tây Nam, chiếu lên hình ảnh Thế giới Cực lạc. Còn nơi đặt viên ngọc này cũng không phải mõ miếc gì, mà chắc là trung tâm vũ trụ của Mật giáo, Tu Di sơn… Bát Diệp Liên Hoa Tu Di sơn."

Nghe lạt ma Á La giải thích xong, Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân, Đường Mẫn đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều dâng lên một cảm giác quái lạ, hình như trên thế giới này có rất nhiều thứ liên hệ với nhau một cách vô cùng chặt chẽ. Quá trình mà lạt ma Á La vừa nói, gần như giống hệt với quá trình họ trông thấy trong địa cung Ah Puch, chỉ là chiếc đầu lâu pha lê thay bằng viên hồng ngọc nhỏ hơn, có lẽ nào, thần tích mà chiếc đầu lâu pha lê ấy làm hiển hiện, cũng là truyền đến từ đất Tạng này?

Giáo sư Phương Tân hỏi lạt ma Á La: "Chẳng lẽ nơi này là do Mật giáo xây dựng?"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Chưa chắc, thực ra trong cả quá trình từ trước khi Tán thổ đời thứ ba mươi hai chính thức cho du nhập Phật giáo, đến khi Tán thổ thứ bốn mươi hai diệt phật, sau đó Phật giáo tái hưng khởi, các tôn giáo ở Tây Tạng đều ở trong tình trạng ám đấu, có rất nhiều tôn giáo đã diệt vong, đồng thời cũng có rất nhiều giáo phái mới tách ra từ các giáo phái vốn có. Mạn Đà La mà chúng ta trông thây ở đây dường như có liên quan tới Mật giáo. Mật giáo cũng là một nhánh của Phật giáo, nhưng bức tượng Không Hành Mẫu lúc nãy chúng ta thấy lại bắt nguồn từ các truyền thuyết cổ xưa của Tây Tạng, hình như là Cửu Nguyên Tằm Mẫu và Mao Yêu Nữ Vương thì phải. Hai bức tượng sau đó, theo kinh nghiệm của tôi thì có lẽ liên quan tới Bản giáo cổ xưa. Chắc là mọi người còn chưa biết, Bản giáo là tôn giáo nguyên thủy ở Tây Tạng, song thực ra khi mới hình thành, ngoại trừ các giáo lsy cảu bản thân nó, giáo phái này còn hấp thu rất nhiều từ các tôn giáo cổ đại khác, chẳng hạn như Bà La Môn giáo ở Ấn Độ, Vu giáo ở Ba Thục cổ, và các tín ngưỡng sùng bái tự nhiên của những bộ lạc nguyên thủy xung quanh. Vì vậy, thứ chúng ta nhìn thấy đây, rốt cuộc là một giáo phái thế nào, vì thời gian đã qua quá lâu rồi, nên rất khó đưa ra một kết luận chuẩn xác, có lẽ là một giáo phái đã dung hợp nhiều loại giáo lý khác nhau, hình thành trong thời Phật giáo và Bản giáo đang tranh chấp."

Nói tới đây, giọng lạt ma Á La khàn đi. Mọi người tưởng đó là vì ông nói một mạch dài quá, nhưng không ai để ý khóe mắt vị sư già đã thấp thoáng ánh lệ xúc động, trong lòng ông đang thầm gào hét: "Đức Ma Hê Thủ La chí cao vô thượng vạn năng, ngài có thể cho con biết, rốt cuộc Thánh giáo, Thánh giáo bị nhấn chìm trong dòng thời gian của chúng ta tên là gì? Tại sao cả một cái tên cũng không thể lưu lại? Tại sao!"

Đa Cát giật chiếc ống nhòm trong tay Đường Mẫn, nhìn ngó ngắm nghía một lúc, rồi chỉ tay vào thứ gì đó hỏi Nhạc Dương. Nhạc Dương nhìn thử, liền cất tiếng hỏi lạt ma Á La: "Đại sư, ngài xem đó là cái gì, hình như chính giữa chỗ nhô lên trên tường kia kìa."

Lạt ma Á La ngước nhìn những chỗ gồ lên khắp tường. Mặc dù vừa vào gian phòng hình tròn này mọi người đều đã phát hiện ra, nhưng không ai để ý đến cả, cho tới khi Nhạc Dương nhắc, giơ ống nhòm lên xem thử mới kinh ngạc nhận thấy chính giữa chỗ gồ lên ấy là một ống đồng. Ông liền hỏi Đa Cát: "Nơi đây là chỗ sâu nhất trong cung điện dưới đất này phải không? Ở đây anh đã đụng phải cơ quan lợi hại nhất, có phải không?"

Thấy Đa Cát gật đầu hai lần liên tiếp, lạt ma Á La vội nói: "Không xong rồi, cơ quan ở đây rất lợi hại, nhân lúc còn chưa khởi động, tất cả mọi người hãy lập tức rút đi, bằng không sẽ nguy đến tính mạng đó. Những chỗ gồ lên kia sẽ phun nước ra, tuyệt đối không thể chạm vào thứ nước ấy." Ông sợ hãi nhìn những chỗ gồ lên chi chít khắp tường, lòng thầm nhủ: "Không ngờ lại là Ni Thích Bộ Đà, đây… đây là cơ quan chỉ có trong truyền thuyết thôi mà!"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Kỳ quái thật, nhưng lúc vào đây chugns ta có giẫm phải cơ quan đâu nhỉ?"

Mọi người thu dọn đồ đạc, chuẩn bị rút ra. Trương Lập, Nhạc Dương, giáo sư Phương Tân trước sau lần lượt ra khỏi gian phòng hình tròn, đều không xảy ra chuyện gì kỳ lạ. Kế đó là Đa Cát cũng ra tới cửa. Đúng lúc đó, chợt nghe "cách" một tiếng, ống đồng hai bên cửa dường như có gì biến đổi, chỉ thấy hai vật trông như chiếc quản bút nhô lên phần mỏm của núm gồ, lạt ma Á La vội kêu lên: "Mau xông ra, không thể để nó phun nước! Bằng không thì không thoát được đâu." Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người, lập tức nghĩ đến Đường Mẫn vẫn còn ở sau lưng mình!

Nhưng ống đồng đã bắt đầu phun nước, Đa Cát sững người, Trác Mộc Cường Ba ở sau lưng liền đẩy mạnh một cái, hất anh ta khỏi phòng, hai tay vươn lên nắm lấy ống đồng trên cửa, ngón cái bịt chặt miệng ống. Lạt ma Á La kinh hãi thốt lên: "Cường Ba thiếu gia, cậu…"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Chẳng phải là không thể để nó phun nước sao, đi mau!"

Đường Mẫn thảng thốt kêu lên: "Anh, Cường Ba…" Trác Mộc Cường Ba cao giọng quát: "Đi, đi nhanh lên!" Đường Mẫn và lạt ma Á La vội luồn qua dưới nách Trác Mộc Cường Ba, nhưng vẫn còn trong phạm vi phun nước, Trác Mộc Cường Ba nói: "Đuổi theo bọn họ! Anh theo sau!" Lạt ma Á La ánh mắt đầy vẻ sợ hãi liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba một cái, thầm nhủ: "Cường Ba thiếu gia hoàn toàn không hiểu gì về Bản giáo cổ đại, thứ… này làm sao có thể dùng tay bịt lại chứ…"

Lúc này, gian sảnh phía ngoài cũng chợt có tiếng động lạ, Trương Lập hoảng hốt cúi đầu, liền bị một thứ gì không rõ lướt sát qua đầu, làm rơi cả một nắm tóc. Chỉ nghe Nhạc Dương ở sau kêu lên: "Hả, cái gì thế?" Giáo sư Phương Tân quát lên: "Cúi đầu xuống!" Trương Lập nói: "Chúng ta vẫn đi theo đường cũ cơ mà, có chạm phải gì đâu?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Không lo được nhiều chuyện thế nữa đâu, cứ xông qua rồi hãy tính." Trương Lập tránh một vật thể bay vù qua từ bên trái, kinh hãi kêu lên: "Ghê thật." Nhạc Dương kêu lên: "Cẩn thận sau lưng." Lời vừa dứt, Trương Lập liền "ôi cha" lên một tiếng, phần vai đã trúng thương. Anh ta nhịn đau rút thứ ám khí cắm vào vai ra, không ngờ lại là một chữ Vạn bằng kim loại mỏng dẹt, to như bàn tay, bốn cạnh đều có lưỡi dao, lúc xoay tròn trên không thì như chiếc boomerang, có thể tự bay ngược trở lại.

Sáu người cuống cuồng xông ra khỏi gian sảnh. Trương Lập bị thương nhẹ ở vai. Những người khác đa phần bị quẹt phải mặt hoặc tay. Cả lạt ma Á La cũng không tránh được. Đa Cát vóc người nhỏ bé thành ra lại không bị thương. Lúc ngoảnh đầu nhìn lại, mới thấy cả gian sảnh bên đó giờ toàn là các chữ Vạn bay qua bay lại vù vù, nhất thời mọi người đều kinh hãi không thốt nên lời. Đường Mẫn giờ mới hỏi: "Anh Cường Ba đâu?"

Mọi người đều giật mình hoảng hốt, chỉ có lạt ma Á La và Đa Cát là biết Trác Mộc Cường Ba ở lại bên trong bít hai cái ống đã bắt đầu phun nước, sau đó mọi người đều cuống lên tránh né chữ Vạn bay, thành ra không ai để ý Trác Mộc Cường Ba đã không chạy theo. Đa Cát đột nhiên chỉ tay nói: "Nhìn kìa, Thánh sứ đại nhân ở đó! Chính là ở đó!"

Chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba ngã nhào bên cửa. Trong căn phòng mù mù một màn sương nước, không ngừng rơi xuống người gã. Thì ra đúng lúc mọi người xông ra khỏi phòng, Trác Mộc Cường Ba cũng chuẩn bị buông tay lao theo, đột nhiên thấy trên đầu mát rượi, gã liền biết ngay những núm gỗ khác cũng bắt đầu phun nước. Cảm giác man mát qua đi, đỉnh đầu gã đột nhiên ngứa ran lên, vậy còn chưa hết, kế đó cơn ngứa lan đi khắp toàn thân, rồi thêm đau đớn không sao chịu nổi, nhưng cảm giác ngứa vẫn không giảm bớt chút nào, ngứa ran từ ngoài vào đến tận trong, tựa hồ như có vô số con kiến nhỏ li ti đang bò vào xương tủy. Toàn thân gã run lên bần bật, hai bàn tay đang ấn lên ống phun tự nhiên lỏng ra, cánh tay thõng xuống. Mọi ống phun đều đã phun nước, từng đợt sương mù lan khắp gian phòng, bao bọc hết xung quanh Trác Mộc Cường Ba. Gã đau đớn lăn lộn dưới đất kêu lên hai tiếng, song âm thanh đó đã bị những chữ Vạn bay vù vù bên ngoài nhấn chìm đi mất.

Lạt ma Á La nhìn những chữ Vạn bắn qua bắn lại vù vù liên tiếp, nhìn bức tượng đeo bảy chiếc mặt nạ quỷ, bộ dạng như đang nuốt kiếm ở chính giữa đại điện, rồi đưa mắt nhìn những người còn lại, chỉ thấy Đường Mẫn mấy lần định xông trở vào nhưng đều bị Trương Lập, Nhạc Dương giữ rịt, giáo sư Phương Tân ủ rũ nhíu chặt hai hàng lông mày, còn Đa Cát thì đang định nhao vào kéo Trác Mộc Cường Ba ra. Lạt ma Á La vội kéo anh ta lại, nói: "Không thể trở vào, giờ không thể chạm vào người cậu ấy được đâu. Chúng ta phải dùng dây thừng kéo ra vậy." Nói đoạn, ông vung tay lên, sợi dây thừng liền móc đúng vào ba lô của Trác Mộc Cường Ba, kéo gã qua lối đi chính giữa gian sảnh mé bên. Lúc qua khu vực có chữ Vạn bay đi bay lại, ba lô bị cắm chi chít như lông nhím, Trác Mộc Cường Ba may không bị dính vết thương nào.

Nhưng thân thể Trác Mộc Cường Ba đã dần có biến đổi. Đường Mẫn giơ tay bụm miệng, như muốn thất thanh khóc òa ngay lên vậy. Giáo sư Phương Tân và Trương Lập đều thoáng lạnh người. Trương Lập nói: "Sao lại như vậy chứ?" Khắp người Trác Mộc Cường Ba, cứ hễ chỗ nào bị thứ nước kia dính vào đều đã biến thành màu xanh lục cả. Hơn nữa, trên bề mặt da màu xanh lục ấy chỉ thoáng sau đã nổi lên những vết lở loét lớn nhỏ, y như các vết rộp bỏng.

Cơ quan của Mật giáo

Lạt ma Á La không cho mọi người lại gần, đồng thời chỉ vào bức tượng đeo mặt quỷ nuốt kiếm hỏi Đa Cát: "Vị thần này, vừa nãy có phải cậu gọi là Cụ Lợi Ca La Bất Động Tôn, đúng vậy không?" Đa Cát gật gật đầu nói: "Kiếm có hắc long quấn quanh là bản tôn, Cụ Lợi Ca La đại long, nuốt thanh kiếm sắc."

Lạt ma Á La nói: "Không, không phải, đây là Đức Xoa Ca Long Vương, nhìn đâu độc đấy. Trong Tạng giáo cổ đại và trong cả dân gian, là hóa thân của Ôn thần. Nhanh lên, tìm nơi nào có nước, vừa nãy không phải chúng ta có đi qua một hồ nước sao, khiêng cậu ấy đến đó, không được chạm vào bất cứ chỗ nào trên cơ thể cậu ấy đấy."

Bốn người Trương Lập, Nhạc Dương, giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đeo găng tay, bỏ ba lô xuống, rồi chia nhau nắm chân tay Trác Mộc Cường Ba, chạy như bay về phía có hồ nước. Đường Mẫn và Đa Cát theo phía sau. Lúc này ở gian phòng Đa Cát bị nhốt nước đã rút gần hết để lộ ra mép hồ. Lạt ma Á La bước lại gần hồ nước, nói: "Cởi hết quần áo trên người cậu ấy ra, không được để lại thứ nào cả."

Đằng nào Đường Mẫn cũng không phải người ngoài, mấy người liền nhanh nhẹn lột sạch quần áo trên người Trác Mộc Cường Ba. Lạt ma Á La chỉ đạo: "Ném xuống hồ nước, trước tiên bịt mũi miệng ngâm cả đầu cậu ấy xuống, làm mấy lần vào. Sau đó một người nâng đầu cậu ấy lên, đừng để ngập, cứ ngâm trong nước như thế đi." Thân thể Trác Mộc Cường Ba vừa chìm xuống hồ, trên mặt nước liền nổi lên một tầng váng máu xanh lục, càng lúc càng lan rộng, trở nên dày đặc, nhưng chỉ thoáng sau đã rã ra, rồi trôi theo dòng nước, không biết là chảy đi đâu.

Nhạc Dương nhấc đầu Trác Mộc Cường Ba lên nói: "Đây… đây là cái gì vậy?"

Lạt ma Á La giải thích: "Nói theo quan điểm hiện đại, đây có lẽ là một loại vi sinh vật thuộc họ nấm hoặc tảo, bột phấn phơi khô của chúng gây dị ứng rất mạnh cho da người, hơn nữa hình thức bào tử đặc biệt này khiến chúng luôn ở trạng thái ngủ, gặp nước mới tỉnh lại, nhưng chu kỳ sống rất ngắn, chỉ cần có đủ nước, bọn chúng sẽ chết rất nhanh. Tác động của cái thứ màu xanh này rất ghê gớm, trong nửa tiếng đồng hồ mà không có phương pháp trị liệu hiệu quả, sẽ khiến nạn nhân toàn thân lở loét mà chết. Cường Ba thiếu gia cũng coi như là mạng lớn…"

Giáo sư Phương Tân nói: "Loại cơ quan phun nước này hình như trước nay chúng ta chưa từng thấy bao giờ thì phải."

Lạt ma Á La gật đầu: "Ừm, thứ cơ quan này có lẽ là bắt nguồn từ Bản giáo." Nói tới đây, ánh mắt lạt ma Á La quét qua từng người một, một lần nữa hỏi lại câu chính ông từng hỏi Lữ Cánh Nam: "Mọi người hiểu được bao nhiêu về Bản giáo cổ ở khu vực Tây Tạng này?"

Vấn đề này… quả thực không ai trả lời được. Bị ánh mắt lạnh lẽo của lạt ma Á La quét qua, người nào người nấy đều không khỏi run lên.

Lạt ma Á La chậm rãi nói tiếp: "Bản giáo cổ đại là một trong những tôn giáo của loài người sản sinh ra từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên nguyên thủy, sớm hơn rất nhiều sơ với các giáo phái nổi tiếng như Phật giáo, Đạo giáo, Cơ Đốc giáo…, tôn sùng tự nhiên, tôn sùng tất cả các lực lượng không thể kháng cự mà bấy giờ con người còn chưa hiểu biết, mưa gió sấm chớp, chim thú hoa lá, cây cỏ đất đá, không thứ nào không phải là đối tượng tôn sùng. Bản giáo cũng như rất nhiều tôn giáo nguyên thủy khác, cũng có thầy mo cầu phúc, dùng người sống tế trời; đối với tất cả các sự vật chưa biết, cổ nhân đều phải dùng thân thể mình để cảm nhận; tất cả các loại động thực vật, loại nào ăn được, loại nào không ăn được đều phải dùng miệng nếm thử; tất cả các hiện tượng kỳ lạ, chẳng hạn như lửa cháy, nước chảy, gió thổi, sét đánh, đều phải dùng thân thể tiếp xúc; thực vật sinh trưởng, chim chóc bay lượn, cá bơi dưới nước, cổ nhân đều tìm cách mô phỏng, đây là giai đoạn tất yếu mà tất cả mọi nền văn minh đều phải trải qua. Chính trong những thử nghiệm, thí nghiệm không ngừng lặp đi lặp lại ấy, trải qua tích tụ lịch sử, Bản giáo cổ đại đã hình thành cho mình một hệ thống phòng ngự hoàn chỉnh riêng biệt để chống lại kẻ địch bên ngoài. Đó là họ đã phát minh ra… Cổ độc (Sâu độc)!"

"Cổ độc!" Vừa nghe thấy từ này, ngoại trừ Đa Cát, tất cả mọi người đều giật mình đánh thót. Từ ngữ này vốn đã toát lên vẻ âm hiểm vô cùng, thoạt nghe là người ta đã liên tưởng đến những thứ đáng sợ quái đản, kiểu như Ngũ Độc giáo hay đập hình nhân vậy. Nguồn truyện: Truyện FULL

Lạt ma Á La nói tiếp: "Đất Tạng thuở xưa, đặc biệt là vùng phía Đông Lâm Chi, nhất là khu vực Mặc Thoát này, môi trường cực kỳ khắc nghiệt, có rất nhiều loại sâu kiến, nhiều nơi còn có chướng khí, xuất hiện độc trùng, gây ra bệnh dịch cho con người, lại không biết phải đề phòng thế nào… Chính những điều này đã tạo ra hoàn cảnh rất thuận lợi cho Cổ độc được sản sinh và phát triển. Sau đó, trong khi giao chiến với Phật giáo, Bản giáo cổ đại dần dịch chuyển, về sau thứ Cổ độc này mới truyền vào vùng Vân Nam, Quý Châu và phát triển rực rỡ ở đó. Trong tiếng Tạng nó vốn không gọi là Cổ độc, đây là tên do người Hán sau này đặt ra. Thực ra Cổ và Độc là hai ý tách rời nhau, vốn cùng thuộc về phạm trù độc. Cổ là dùng các loại sâu kiến cho đánh nhau để chế độc, còn độc là dùng cây, cỏ, thuốc, đất đá chế độc. Chữ Cổ gồm chữ "trùng" và chữ "vại", ý là chỉ việc dùng vại nuôi trùng, sau đó đặt trùng vào bụng cho ăn gan ruột nạn nhân gọi là "cổ". Chữ độc chiết tự ra gồm chữ "thanh" và chữ "mẫu", chỉ việc lấy cỏ cây đất đá trị bệnh, về sau chữ "trị" trong trị liệu bệnh tật biến thành chữ "trí" (đến) trong "đạo trí" (dẫn đến), thành ra nghĩa là "dùng cỏ cây đất đá gây bệnh". Đây chính là ý nghĩa ban đầu của cổ độc. Về sau thì phạm vi của cổ độc trở nên rộng hơn, phàm hễ nuôi sâu nuôi trùng lấy độc, không nhất thiết phải cho lũ sâu trùng ấy vào bụng người khác mới gọi là cổ, còn bất kể là trùng độc hay độc chất từ thực vật, chỉ cần là loại thuốc khiến thân thể người khó chịu, thì đều gọi là độc hết. Thứ mà lần này Cường Ba thiếu gia trúng phải, cũng có thể nói là một loại cổ độc."

Trương Lập như sực hiểu ra, nói: "Tôi hiểu rồi, cái lối đi hẹp ở ngoài kia có nhiều xác chết như vậy, khẳng định là bị trúng độc mà chết rồi, vì vậy mới không có vết thương, hơn nữa lại còn chết nhiều như thế, chẳng trách kẻ hơn trăm năm trước đã không thể vượt qua đó được."

Đường Mẫn lo lắng nói: "Vậy, vậy có cách gì giải độc không?"

Lạt ma Á La nói: "Cổ độc vô cùng quái lạ, cách gieo độc lại nhiều không kể xiết, không thể biết cách giải toàn bộ các loại độc được. Loại Ni Thích Bộ Đà này, vốn bắt nguồn từ danh tự nơi địa ngục, cũng may ta từng đọc thấy trong các thư tịch cổ. Nếu như phương pháp không đúng, hậu quả thật không thể nào tưởng tượng được. Được rồi, hơi thở rất bình ổn, các vết lở loét trên người cũng bắt đầu bớt đi, giờ chắc là đã ổn định rồi, một lát nữa Cường Ba thiếu gia sẽ tỉnh lại thôi, nhưng ít nhất phải ngâm thêm nửa tiếng đồng hồ nữa. Theo những gì chép trong sách cổ, chỉ cần rửa sạch chất độc bám trên người, nửa tiếng sau sẽ hồi phục bình thường. Giờ tôi quay lại chỗ Đức Xoa Ca Long Vương xem một chút. Đúng rồi, sau khi Cường Ba thiếu gia tỉnh lại, hãy ngâm quần áo đồ đạc của cậu ấy xuống nước một lúc, đề phòng hậu họa."

Nhạc Dương nói: "Gì cơ, đại sư còn muốn quay lại đó nữa ư?"

Lạt ma Á La gật đầu: "Ừm, ta phải quay lại xem một chút. Mặc dù chúng ta đã thoát thân, nhưng không ai biết cơ quan khởi động như thế nào cả, nếu lần sau mà gặp phải cơ quan tương tự như vậy, chẳng phải là cả cơ hội giữ mạng cũng không có hay sao. Đa Cát đi cùng với ta."

Đa Cát nhìn Thánh sứ đại nhân, rồi lại ngước nhìn lạt ma Á La, cuối cùng cũng hoang mang theo ông rời khỏi. Nhìn vị đại sư hiểu biết về tín ngưỡng của mình còn sâu rộng hơn chính mình, trong lòng Đa Cát chợt dâng lên một thứ cảm giác kính sợ như đối với các bậc trưởng lão trong thôn.

Sau khi lạt ma Á La rời khỏi, Trương Lập liền y lời đi dọn lại đống quần áo vứt vung vãi của Trác Mộc Cường Ba, lấy mấy thứ quan trọng ra dồn vào một chỗ, chuẩn bị đợi gã tỉnh lại sẽ ngâm xuống nước.

Đường Mẫn thấy Nhạc Dương đỡ Trác Mộc Cường Ba vất vả, liền đeo găng tay vào xuống nước đòi thay ca. Nhạc Dương không nỡ từ chối, đành nhường lại cho cô. Nhìn người yêu yên bình nằm trong vòng tay mình tựa như đứa trẻ sơ sinh, Đường Mẫn chợt thấy dâng lên một cảm giác kỳ lạ, cô hân hoan thầm nhủ: "Cuối cùng, em cũng có thể làm chút gì đó cho anh rồi, anh Cường Ba, anh phải bình an vô sự tỉnh lại đấy nhé, nếu anh gặp phải chuyện gì, em làm sao…"

Giáo sư Phương Tân nhìn Trác Mộc Cường Ba gặp đại nạn không chết trong hồ nước, không khỏi thở dài một tiếng. Để cô bé Đường Mẫn và Trác Mộc Cường Ba ở riêng với nhau, ông bèn quay ra sắp xếp lại đồ đạc cho gã. Nhạc Dương cũng tới giúp một tay.

Lúc Trương Lập sắp dọn quần áo cho Trác Mộc Cường Ba, phát hiện ra trong áo có một cái túi ngầm, liền lấy các thứ bên trong ra. Ba người sáu con mắt vừa nhìn đã trợn tròn hết cả lên, Nhạc Dương không nhịn nổi ngoảnh đầu lại liếc Đường Mẫn một cái, chỉ thấy Đường Mẫn vẫn đang tha thiết nhìn Trác Mộc Cường Ba, như không còn biết mình đang ở nơi nào. Trong túi ngầm có bốn món vật nhỏ, thứ đầu tiên là một thanh kiếm chữ thập bằng đồng mạ vàng, to cỡ bàn tay. Đó là tín vật gia truyền Đức Nhân lão gia đưa cho Trác Mộc Cường Ba lúc gã mới tham gia nhóm huấn luyện đặc biệt. Ngoại trừ giáo sư Phương Tân, những người khác đều chưa thấy bao giờ. Món thứ hai là một viên đá hình ovan dài có hoa văn đen trắng. Giáo sư Phương Tân nhận ra thứ này gọi là Thiên châu, tín vật có giá trị cao vô thượng trong lòng người dân tộc Tạng, mức độ trân quý được xác định dựa vào số lượng hoa văn giống như con mắt của nó, nếu có chín mắt thì gọi là Cữu Nhãn thạch, đã là tương đối quý giá rồi, thế mà cái Thiên châu này lại khắc tới mười tám con mắt, chính giữa còn có hình một chiếc bảo bình. Chỉ cần liếc qua số lượng mắt giáo sư Phương Tân cũng biết ngay đây tuyệt đối không phải Thiên châu bình thường, nhưng là loại gì thì ông cũng không biết. Đây có lẽ là một trong những bí mật ít ỏi của Trác Mộc Cường Ba cũng nên. Vật thứ ba là chiếc sáo xương mà ba anh em sói xám ở Khả Khả Tây Lý tặng Trác Mộc Cường Ba. Trương Lập cũng không ngờ Cường Ba thiếu gia lại coi trọng tình bạn với ba anh em nhà sói xám đó đến thế.

Nhưng thứ khiến mọi người tròn mắt chính là món cuối cùng, và cũng chính là cái cớ để Nhạc Dương phải ngoảnh đầu lại nhìn Đường Mẫn. Đó là một tấm ảnh nhỏ bằng lóng tay, đã hơi ngả vàng, chụp một cô bé xinh xắn như thiên sứ đang nhoẻn miệng mỉm cười ngây thơ, đôi lông mày, đôi mắt ấy, rõ ràng chính là một cô Đường Mẫn nhỏ. Trương Lập len lén đưa mắt nhìn Đường Mẫn, hạ giọng thì thầm: "Thật không ngờ Cường Ba thiếu gia yêu Mẫn Mẫn đến tận xương tủy rồi, cả ảnh hồi nhỏ của người ta cũng giấu áp vào ngực. Chà, xem ra Thạch Quan m nương nương 2 của chúng ta…"

Nhạc Dương cũng thì thào đáp lại: "Không phải chỉ đơn giản là ăn vào xương tủy thôi đâu, tôi thấy là yêu đến mức tẩu hỏa nhập ma rồi đấy. Người lớn sống sờ sờ ra trước mắt, tại sao lại phải giữ một tấm ảnh hồi nhỏ của người ta làm gì chứ?"

Giáo sư Phương Tân đột nhiên thấp giọng nói: "Không, không phải, đây không phải là ảnh của Mẫn Mẫn." Trương Lập và Nhạc Dương đều "í" một tiếng. Giáo sư Phương Tân giải thích: "Nhìn công nghệ cắt riềm hoa này mà xem, còn cả mức độ cũ kỹ của bức ảnh này nữa, hai cậu xem, bức ảnh này ít nhất cũng phải chụp từ hai mươi năm trước, lúc ấy Mẫn Mẫn còn chưa ra đời cơ đó."

Trương Lập kinh ngạc kêu lên khe khẽ: "Chà, vậy là ai nhỉ?"

Tâm tình giáo sư Phương Tân trong thoáng chốc như trĩu xuống, ông thì thào nói: "Tôi biết rồi, đây có lẽ là nỗi đau lớn nhất trong lòng Cường Ba đó. Sự việc này, e cũng là nỗi đau lớn nhất của gia đình họ, xưa nay chưa từng được nói ra với người ngoài bao giờ, tôi cũng chỉ biết được loáng thoáng qua những câu chuyện thường ngày thôi. Cường Ba… cậu ấy vốn còn một em gái nhỏ hơn mình mười mấy tuổi…"

Giáo sư Phương Tân khẽ thở dài. Trương Lập và Nhạc Dương ghé sát đầu lại, chỉ nghe giọng giáo sư Phương Tân vo ve như tiếng muỗi kêu: "Khi em gái cậu ấy còn rất nhỏ, Cường Ba dẫn em gái ra ngoài chơi, không ngờ để người ta bắt cóc mất. Mở mắt trân trân nhìn em gái mình bị người ta cướp đi ngay bên cạnh, vết thương lòng ấy chỉ sợ cả đời này cũng khó mà liền được."

Nhạc Dương lí nhí nói: "Sao lại thế chứ?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Hình như vì bộ Ninh Mã cổ kinh của gia tộc họ. Đức Nhân lão gia cũng thật kiên quyết, ngày thứ hai sau khi nhận được yêu cầu của bọn bắt cóc đã tuyên bố rằng sẽ hiến tặng bộ kinh cho nhà nước. Hình như kể từ hôm đó trở đi, hai cha con họ mười mấy năm trời không nói với nhau một câu nào thì phải."

Trương Lập thở dài nói: "Người vốn không có tội, chỉ có tội mang của báu trong mình, hà…"

Giáo sư Phương Tân như sực tỉnh ra, nói: "Lạ thật, tại sao tôi lại nói những chuyện này với hai cậu nhỉ? Nhớ kỹ đấy, chuyện này Cường Ba không muốn nhắc lại, các cậu không được nói với bất cứ ai, đến đây là chấm dứt, coi như chưa từng nghe thấy, OK?"

Trương Lập, Nhạc Dương vội vàng cam đoan, một người nói "hiểu rồi, hiểu rồi", một người nói "đã hiểu, đã hiểu". Nhạc Dương ngoảnh đầu lại nhìn Đường Mẫn và Trác Mộc Cường Ba, thầm nhủ: "Thì ra là thế, vậy thì không khó lý giải tình yêu của Cường Ba thiếu gia với cô Mẫn Mẫn nữa rồi, không ngờ trong ấy lại bao hàm ba tầng tình ái, vì cách biệt tuổi tác, nên có tình yêu giữa cha và con gái, vì hấp dẫn lẫn nhau nên nảy sinh tình cảm lứa đôi, đồng thời lại vì ký ức đau thương, lại còn thêm tình yêu của anh trai dành cho em gái nữa. Trời đất, chẳng trách Cường Ba thiếu gia lại yêu cô Mẫn Mẫn đến hồ đồ, lung tung xà bần lên như vậy."

Đường Mẫn đột nhiên reo lên: "Tỉnh rồi, anh ấy tỉnh rồi!"

Mấy người vội chạy tới bên cạnh Trác Mộc Cường Ba. Gã mở mắt ra nói: "Tôi, tôi vẫn sống à?"

Cùng lúc đó, lạt ma Á La dẫn theo Đa Cát trở lại gian đại điện có bức tượng Đức Xoa Ca Long Vương. Bức tượng nộ tướng uy nghi sừng sững đó khiến gian đại điện trống không trông hơi lạnh lẽo. Đến trước cánh cửa sang gian sảnh ở mé bên, chỉ thấy các chữ Vạn bay mù trời khi nãy đã cắm trở lại vách tường, một vài chiếc do bắn trúng người nên đổi quỹ đạo, rơi tản mát trên hai bên bệ cao trong sảnh. Lạt ma Á La quan sát những tấm đá lát sàn viết chữ Phạn, và cả hai bức tường hai bên, ngẫm nghĩ liệu có phải giẫm lên sàn sẽ làm cơ quan phát động? Nhưng Đa Cát rõ ràng đã cùng mọi người chạy ra một lượt, thứ tự bước chân cũng không có gì sai cơ mà? Xung quanh không có xác chết nào, nghĩa là gian sảnh điện này từ lúc bị bịt kín đến giờ chưa từng có người lai vãng, chi tiết này cũng gợi lên một nghi vấn không nhỏ, loại trừ đi tiền lệ có thể tham khảo. Lạt ma Á La lại hỏi Đa Cát lần nữa: "Lần đầu tiên cậu đến đây, vừa bước qua cánh cửa này lập tức đã có rất nhiều chữ Vạn từ trong bay ra phải không? Sau đó khi vào đến căn phòng bên trong, cơ quan lại tự động ngắt đi, lúc đi ra cũng không phát động nữa?" Đa Cát nghe xong gật đầu lia lịa.

Lạt ma Á La lại nói: "Lần thứ hai vào đây, cơ quan cũng không hề khởi động, lúc ra mới có, rốt cuộc là chuyện gì đây nhỉ? Lần thứ hai cũng là do cậu dẫn đường đi đúng không?"

Đa Cát lắc đầu nói: "Không, là Thánh sứ đại nhân đi trước dẫn đường."

Lạt ma Á La chau mày lên nói: "Sao lại thế được? Ừm, thử lại lần nữa xem sao."

"A!" Đa Cát nuốt nước bọt, làm vẻ khó khăn ngước nhìn lạt ma Á La. Ông liền nói: "Không cần lo lắng, ta đi thử trước xem sao."

Lạt ma Á La giẫm lên sàn nhà, quả nhiên, mấy bước đầu tiên đều hoàn toàn bình thường. Đúng lúc lạt ma Á La cho rằng mình có thể an toàn đi qua gian sảnh mé bên này, thì đến giữa sảnh đột nhiên phiến đá dưới chân thụt xuống. Lạt ma Á La tùy cơ ứng biến, tay phải ấn lên bệ cao bên phải, lúc này các tấm đá lát sàn đã tách hết cả ra, toàn bộ lối đi biến thành một cái hào sâu mười mét, dài hai chục mét, dưới tua tủa chông nhọn cắm đầy xác chết. Lạt ma Á La đang ở giữa gian sảnh, cách hai cánh cửa trước sau đều mười mét, mà lối đi rộng ít nhất cũng khoảng hai tới ba mét, hai tay choãi thẳng cũng không thể giữ thân thể kẹt lại phía trên, nếu không phải ông đã nhanh tay ấn lên bệ cao, e là một chút cơ hội sống sót cũng không có nữa.

Lạt ma Á La còn chưa hết kinh hãi, đã nghe "cạch cạch" mấy tiếng, biết ngay là không xong, lại thêm một cơ quan nữa đã khởi động, đồng thời ngón tay cũng cảm thấy có chấn động nhè nhẹ, vội vận sức ấn mạnh xuống, bật cả người lên cao, thân thể lơ lửng giữa không trung. Bàn tay vừa rời khỏi mép bệ đá, đã thấy bụi đất cuốn lên, hai bên mép bệ cao đâm thẳng lên một hàng đinh nhỏ, nếu tay vẫn còn bám trên mép bệ, lúc này e là đã bị thương rồi. Thế nhưng đó mới chỉ là bắt đầu, đột nhiên hai bên bệ đá dịch chuyển, để lộ ra một hàng lỗ nhỏ, kế đó là vô số lưỡi giáo mang theo xích sắt bắn qua bắn lại vù vù. Cũng may là lực tay của lạt ma Á La mạnh, thân hình vọt lên khá cao, bằng không đã bị bắn treo lơ lửng rồi.

Vậy còn chưa hết, những chữ Vạn trên vách tường cũng bắt đầu bắn vọt ra, đất bụi bên trên lả tả rơi xuống, miếng ghép trần bằng đá mở ra, để lộ vô số ống đồng nhỏ như quản bút. Lạt ma Á La thầm kinh hãi, đây không phải chính là ống phun sương hay sao? Hào sâu bên dưới lại vang lên một tiếng "cạch", tất cả đầu chông đều thụt xuống một chút, lạt ma Á La lập tức hồn phi phách tán. Tiếng động ấy có nghĩa là tất cả những mũi chông bên dưới sắp bắn vọt lên, lúc này ông dang ở giữa không trung, không có chỗ nào mượn lực, cho dù thân thủ có giỏi đến mấy cũng hỉ là con chim trong lồng mà thôi. Đồng thời lại có tiếng "xạch xạch", hai cánh cửa phía trước phía sau không ngờ lại có một tấm ván đồng hạ xuống, lạt ma Á La có cảm giác mình như một con hổ bị nhốt trong chuồng, vô số họng súng đang chĩa ra từ các chấn song sắt, song bản thân lại không thể phản kháng được gì.

Đúng vào khoảnh khắc vạn niệm tiêu tán ấy, trong đầu ông đột nhiên lóe lên một tia sáng… Không, giờ vẫn chưa đến lúc tuyệt vọng, vẫn còn Đa Cát, Đa Cát đang ở bên ngoài. Vị sư già nhìn rõ vị trí của Đa Cát, vung tay lên một cái, sợi dây liền bắn vọt ra. Đa Cát cũng không hổ là thợ săn ưu tú nhất của bộ tộc Công Bố, sớm đã trông thấy lạt ma Á La đang vùng vẫy cầu cứu bên trong gian sảnh mé bên ấy, chỉ tiếc lòng như lửa đốt mà không thể giúp gì được. Anh ta đứng yên ở cửa, chính là vì biết nhất định có lúc vị đại sư kia cần đến mình. Giờ thấy vị lạt ma vung tay lên ném ra thứ gì đó, Đa Cát liền biết ngay nhất định là thứ gì đó giống như dây thừng, vội đưa tay bắt lấy, chẳng ngờ sợi dây của lạt ma Á La quá lợi hại, đã dễ dàng xuyên qua bàn tay Đa Cát, cắm thẳng vào mặt sàn bằng đá mấy mét sau lưng. Đa Cát bất chấp đau đớn, quấn một vòng dây quanh cánh tay, xoay người chạy thẳng một mạch, lạt ma Á La ở bên trong liền như con diều trên dây, được anh ta kéo thẳng ra cửa.

"Rầm", cánh cửa đồng hạ xuống, cả gian sảnh mé bên giờ đã hoàn toàn nằm trong vòng vây của các cơ quan. Lạt ma Á La mình đầy thương tích nằm dưới đất, hai chân vừa sát bên ngoài cánh cửa đồng, một lúc sau vẫn chưa định thần lại được, tựa hồ như vừa từ một thế giới khác trở về, quả vậy, vừa nãy thật chẳng khác gì mới vòng qua cửa địa ngục một chuyến. Lạt ma Á La đi tới giữa gian sảnh, cơ quan phát động, cho tới khi cánh cửa đồng hạ xuống, toàn bộ quá trình diễn ra trong vòng chưa đầy ba mươi giây, nếu không nhờ vào sợi dây thừng được chế tạo theo công nghệ mới nhất, cùng với Đa Cát, lúc này chỉ e lạt ma Á La đã trở thành "lạt ma lông nhím" rồi. Cho dù là vậy, trên người ông vẫn bị các chữ Vạn bay làm bị thương nhiều chỗ, trên vai còn bị hai chiếc Vạn tự luân cắm thẳng vào, vừa nãy lúc Đa Cát kéo ông qua cửa đã bị gờ cửa chặn lại làm rơi mất.

Lạt ma Á La ngẩng mặt lên nhìn trần nhà, thầm nhủ: "Thì ra khi xông ra lần đầu tiên, căn bản chưa phải là toàn bộ các cơ quan đồng loạt phát động, bộ tổ hợp cơ quan này so với các cơ quan ở lối đi hẹp phía trước lợi hại hơn cả trăm lần, nơi này căn bản là không cho phép người nào đi qua cả. Lắp đặt cơ quan bẫy rập ở những nơi người ta không ngờ đến nhất, rồi lại đặt các cơ quan đáng sợ hơn gấp bội ở những nơi đối phương có thể nghĩ đến hòng cầu sinh, càng về sau lại càng hung hiểm, chớp mắt đã đồng loạt phát động, không để lọt một kẽ hở. Thế nhưng, vừa nãy làm sao mọi người lại vào đó được?"

Lạt ma Á La lật người bò dậy, thấy Đa Cát đang cẩn thận kéo sợi dây có mũi dao của ông ra khỏi lòng bàn tay, toàn thân ướt đẫm mồ hôi vì đâu đớn. Ông liền lấy thuốc tê dạng phun sương trong túi ra, vừa giúp Đa Cát rút dây, vừa hỏi: "Trên người cậu có những gì? Trên người cậu có thứ gì quý giá và có ý nghĩa đặc biệt không?"

Phải mất một lúc, Đa Cát mới hiểu được ý lạt ma Á La nói gì, ngẩn ra giây lát, rồi giơ viên Thất Nhãn Thạch nơi ngực lên, lẩm bẩm nói: "Thánh vật." Lạt ma Á La nắm lấy viên mã não Đa Cát đeo trên cổ, thấp giọng nói: "Thiên châu, chẳng lẽ có liên quan đến nó?" Ông lẩm nhẩm tụng niệm, rồi tháo chuỗi Phật châu trên cổ Đa Cát xuống, để anh ta từ từu sợi dây ra, còn mình cầm chuỗi hạt tới trước cửa, cũng chưa có động tác gì, đột nhiên nghe "cạch" một tiếng, cách cửa đồng đã tự động nâng lên, ẩn vào trong khe trên cửa đá. Những hình chữ Vạn bay chíu chíu qua lại trong phòng cũng không còn nữa, hai bên tường vách trần đều đã trở về nguyên trạng, còn sàn nhà tách ra làm đôi dưới chân cũng đang "lạch cạch" trở về vị trí ban đầu, trông như một chiếc cầu treo vậy, gian sảnh đã trở lại vẻ yên tĩnh ban đầu, không còn nhận ra bất cứ biểu hiện gì khác thường nữa. Nhìn hai miếng kim loại dài chưa đến mười centimet trên cửa, lạt ma Á La lẩm bẩm nói: "Ta hiểu rồi!"

Cánh cửa Địa ngục

Khi lạt ma Á La và Đa Cát cùng lúc bị thương quay trở lại, Trác Mộc Cường Ba đã tỉnh táo, đang ngâm mình dưới nước trò chuyện với Đường Mẫn. Thứ cổ độc này đến nhanh mà đi cũng nhanh, giờ gã đã như chưa gặp phải chuyện gì vậy, chỉ có mực nước trong hồ đã lại rút đi thêm một chút nữa. Thấy lạt ma Á La khắp người toàn vết thương, Trương Lập và Nhạc Dương đều kinh hoảng thốt lên: "Đại sư, ông bị thương không nhẹ đâu!"

Lạt ma Á La không để ý tới hai người, bảo Đường Mẫn giúp Đa Cát xử lý sát trùng vết thương ở tay, đoạn ngoảnh đầu lại nhìn Trác Mộc Cường Ba, thấy ở môi ở mũi xuất hiện một vệt xanh lục mờ mờ, không khỏi kinh hãi trong lòng: "Lẽ nào đã trúng phải rồi? Việc này… phải làm sao bây giờ? Hy vọng người trong thôn Công Bố biết cách giải trừ…" Nhưng ông cũng không dám mạo muội hỏi ngay, mà chỉ cầm Thiên châu giơ lên hỏi gã, "Trên người cậu có thứ nào giống món đồ này không?"

Trác Mộc Cường Ba ngây người: "Hả? Viên Thất Nhãn Thiên châu này không phải của Đa Cát à? Tại sao đại sư lại đột nhiên hỏi chuyện này?"

Nhạc Dương đã nhanh miệng đáp lời: "Ồ, Thiên châu của Cường Ba thiếu gia to hơn cái này một chút."

Giọng Trác Mộc Cường Ba lập tức biến đổi, gắt lên: "Mấy người… mấy người đã xem đồ của tôi hả!"

Nhạc Dương le le đầu lưỡi, không dám nói gì thêm. Lạt ma Á La nói: "Vậy tức là có rồi."

Trác Mộc Cường Ba đành thừa nhận: "Phải, có một cái, đó là truyền thống của gia tộc chúng tôi, từ nhỏ đã đeo rồi, là con gái thì được truyền cho một viên Thiên châu, còn là con trai thì được một thanh kiếm đồng nhỏ." Nói tới đây, gã như đột nhiên nhớ ra điều gì đó, im lặng không thốt thêm tiếng nào nữa, thần sắc đượm vẻ bi thương.

Ba người giáo sư Phương Tân, Nhạc Dương, Trương Lập giờ mới hiểu ra mọi chuyện.

Lạt ma Á La nói: "Tôi có thể xem được không?"

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu nhìn Trương Lập. Gã biết thứ mà Nhạc Dương đã trông thấy thì anh chàng này cũng không thể thiếu phần. Trương Lập vội lấy Thiên châu ra, đồng thời cười gượng gạo giải thích: "Chúng tôi muốn giặt sạch quần áo cho anh nên mới sắp xếp lại những thứ quan trọng trong đó, tuyệt đối không có ý xem trộm đâu."

"A! Đây là…" Tiếng kêu kinh ngạc ấy đồng thời phát ra từ miệng lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân, kế đó Đa Cát đếm lên thành tiếng: "Mười, mười một, mười hai… mười bảy, mười tám! Thập bát Nhãn thạch, đến cả trưởng lão cũng chưa từng nhìn thấy thánh thạch này bao giờ đâu!"

Trương Lập và Nhạc Dương lại đồng thời ngẫm nghĩ: "Nói không chừng đây chính là nguyên nhân các vị trưởng lão xác nhận Cường Ba thiếu gia là Thánh sứ cũng nên. Nghe nói Thiên châu này ở Tây Tạng chỗ nào cũng có bán, tên Ben kia có khi đã mua một viên nên mới giả mạo làm Thánh sứ được một lần."

Sau tiếng kêu kinh ngạc, Lạt ma Á La không nói gì, chỉ ngoảnh đầu sang phía khác. Ông không muốn để người khác nhìn thấy những giọt lệ xúc động đang trào lên nơi khóe mắt. Trong lòng vị sư già như có một tiếng nói đang gào thét: "Cường Ba thiếu gia à, cậu có biết đây chính là vật tượng trưng chí cao vô thượng hay không? Thập bát Nhãn Bảo bình Thiên châu, Thập bát chính là Thập bát trùng thiên của đức Ma Hê Thủ La, Bảo bình là vật chứa đựng mọi điều thanh tịnh của đại thiên thế giới, có Bảo bình, ánh sáng chói ngời! Ánh sáng chói ngời đó!"

Lạt ma Á La cố nén cảm giác xúc động, quay đầu lại, bình thản nói: "Cơ quan vừa nãy, chính là do viên Thiên châu này khởi động."

Mọi người liền hỏi rốt cuộc là thế nào, lạt ma Á La giờ mới giải thích: "Theo suy đoán của ta, trên hai cánh cửa gian sảnh mé bên đó, có một thứ cảm ứng được Thiên châu. Nguyên lý cụ thể ra sao thì ta không được rõ lắm, nhưng khi Đa Cát vào lần đầu tiên, thiết bị cảm ứng nhận ra được Thiên châu, cho là hậu nhân đến lấy đồ của mình, thế nên đã khởi động Vạn tự luân để khảo nghiệm, nếu không qua được khảo nghiệm này, thì không đủ tư cách lấy được viên hồng ngọc. Khi Cường Ba thiếu gia lần thứ hai bước vào bước vào gian sảnh đó, thiết bị cảm ứng ở cánh cửa phía trước đã nhận ra rồi, khi chúng ta rời khỏi đó, thiết bị cảm ứng trên cánh cửa thứ hai lại bắt được tín hiệu Thiên châu trên người Đa Cát. Vì vậy cơ quan chúng ta gặp phải lúc rời khỏi đó, thực ra không phải là cơ quan để dồn chúng ta vào chỗ chết, mà chỉ là một hình phạt nho nhỏ, ý là sau khi lấy viên Trích Huyết hồng thạch kia thì không nên quay lại, chớ tham lam quá đáng. Đây chính là điều mà những người xây dựng nên nơi này muốn nói với chúng ta…"

Mọi người thảy đều xôn xao bàn tán, trong đó Trương Lập và Nhạc Dương là to mồm nhất. Trương Lập nói: "Không phải chứ, trừng phạt cũng không cần bắt người ta phải liều mạng thế chứ!" Nhạc Dương cũng lên tiếng: "Cơ quan ấy rõ là muốn lấy mạng người ta còn gì. Cường Ba thiếu gia ra nông nỗi này, còn không phải dồn chúng ta vào chỗ chết rồi ư?"

Lạt ma Á La để họ nói hết, mới điềm đạm kể lại toàn bộ quá trình thử cơ quan vừa nãy, làm ai nấy đều trợn mắt há hốc miệng ra. Không tin ư, Đa Cát ở bên cạnh vừa gật đầu lại vừa khoa chân múa tay, ánh mắt vẫn còn tràn ngập vẻ kinh khiếp. Cuối cùng, lạt ma Á La nói: "Vì vậy, chuyện này cũng coi như là ý trời, nếu chúng ta không có Thiên châu, căn bản là không thể bước vào gian phòng hình tròn, chứ đừng nói gì đến chuyện có ra khỏi đó được hay không?"

Trác Mộc Cường Ba cử động tay chân, hỏi: "Tôi có thể đứng dậy được chưa?" Nói đoạn lại đưa mắt nhìn Đường Mẫn, làm cô đỏ bừng mặt.

Lạt ma Á La nói: "Được rồi, kiếm cho cậu ấy bộ quần áo, còn đống này thì ném xuống nước ngâm giặt, rồi cất cẩn thận, mang trở về đốt đi."

Đa Cát đã xử lý xong vết thương, cung kính đến trước mặt Trác Mộc Cường Ba, cúi đầu nói: "Thật không ngờ, Đa Cát Điệt Bất lại được Thánh sứ đại nhân cứu mạng lần nữa. Kể từ hôm nay, tính mạng này của Đa Cát chính là của Thánh sứ đại nhân, Đa Cát sẽ đi theo Thánh sứ đại nhân đi khắp đại thiên thế giới. Cho dù Đa Cát phải xuống địa ngục A Tỳ, chịu đủ mười tám nỗi khổ đau cũng phải bảo vệ đại nhân được bình an."

Trác Mộc Cường Ba nhìn anh chàng nhỏ con cao chưa đến ngực mình đang nghiêm túc thề sẽ bảo vệ gã đến cùng, không khỏi thương hại đưa tay vuốt lên đầu Đa Cát. Đa Cát tỏ ra hết sức mừng rỡ, được Thánh sứ đặt tay lên đầu ban phúc là vinh dự cực cao đối với người Công Bố bọn họ.

Thân hình Trác Mộc Cường Ba cao lớn vạm vỡ, muốn tìm một bộ quần áo thích hợp không hề dễ dàng, Đa Cát liền cởi chiếc áo Phổ Lỗ trên người cho gã khoác bên trên, rồi lại dùng tấm phướn sửa lại một chút, quấn quanh hông như cái tạp dề. Trương Lập đang chuẩn bị ném đống quần áo cũ của gã xuống nước, đột nhiên có tiếng động lạ vọng tới, tựa hồ như cả khu hoang phế dưới lòng đất này đang rung lên, đồng thời nước trong hồ cũng đột nhiên biến mất, đá vụn rơi xuống lả tả như mưa.

Trương Lập, Trác Mộc Cường Ba vội hỏi: "Xảy ra chuyện gì thế!" Đường Mẫn ôm chặt Trác Mộc Cường Ba nói: "Mau rời khỏi đây thôi!"

Giáo sư Phương Tân nói: "Chỗ này sắp sập rồi à?" Lạt ma Á La cũng kêu lên: "Chuyện gì vậy?" Nhạc Dương kêu lên: "Có phải chỗ giáo quan đã xảy ra chuyện gì không?" Kế đó liền thử liên lạc, nhưng không có hồi âm, mãi lâu sau mới có tín hiệu màu da cam nhấp nháy, nghĩa là bên kia đang bận, không có thời gian liên lạc.

Chỉ có Đa Cát không bị cơn chấn động làm kinh hoảng, đang thò tay xuống hồ kiểm tra, phát hiện nước hồ quả nhiên không còn một giọt, cuối cùng mới hướng về phía Tây quỳ bái. Mọi người hỏi rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Đa Cát nói: "Át Ca trì xưa nay chưa từng cạn nước. Cửa mở rồi, cửa mở rồi, Nạp Bạc Thác cạn khô rồi, vì vậy nước trong Át Ca trì mới chảy hết. Cửa đã bị mở ra rồi!"

"Rốt cuộc là thế nào? Nói kỹ hơn nữa đi?" Nhưng Đa Cát đã bắt đầu tụng niệm một bài kinh văn của bộ tộc Công Bố, không nói thêm câu nào nữa. Lạt ma Á La biết rõ quy tắc khi niệm chú, ra hiệu cho mọi người không được quấy rầy. Cơn chấn động này không đến nỗi dữ dội lắm, cả quần thể kiến trúc ngầm dưới lòng đất này dường như không có vẻ gì là muốn sụp đổ. Mọi người liền lặng lẽ chờ đợi bên bờ hồ. Chấn động không ngừng, bên ngoài tiếng ầm ầm vang lên không ngớt, mãi nửa tiếng đồng hồ sau mới từ từ tan biến, đồng thời Đa Cát cũng ngưng tụng niệm. Lúc này, những người khác đã thu dọn xong quần áo khí giới, đeo sẵn ba lô, chỉ chờ Đa Cát xong là cùng rời đi.

Trương Lập lại hỏi thêm lần nữa. Đa Cát nói: "Trong làng chúng tôi có truyền thuyết kể rằng, một khi Cánh cửa Sinh mệnh bị đóng, toàn bộ nước trong hồ Nạp Bạc Thác sẽ khô kiệt. Chỉ cần trong hồ Nạp Bạc Thác còn một giọt nước, thì giọt nước ấy nhất định ở trong Át Ca trì, nhưng giờ trong đó không còn một giọt nước nào, đã chảy hết cả rồi."

Nhạc Dương nói: "Không phải chứ, vừa mới nói là cửa mở rồi, giờ lại bảo cửa đóng rồi, rốt cuộc là cửa đóng hay là cửa mở đây?"

Đa Cát đột nhiên nói: "Theo tôi, mọi người đi theo tôi." Kế đó liền dẫn mọi người chui xuống đường ống thoát nước bên dưới, loanh quanh trong đó một lúc thì đến một ngõ cụt. Trương Lập nói: "Hết đường rồi."

Đa Cát nói: "Ở đó có cánh cửa, trước đây thì bất kể thế nào cũng không đẩy ra được, bây giờ, mọi người hãy đẩy cánh cửa đó ra đi."

Trương Lập đẩy cửa, trong đường ống thoát nước vốn chỉ có ánh sáng lờ mờ từ mũ phát sáng, cánh cửa vừa mở ra, đột nhiên có ánh mặt trời bên ngoài chiếu thẳng vào, nhất thời không ai mở mắt ra được. Đợi khi thị lực khôi phục, Trương Lập mới kêu toáng lên: "A, đúng là khô cạn thật rồi! Nước hồ cạn thật rồi!"

Mọi người đứng dồn lại ở cửa ra, phát hiện hệ thống thoát nước này được thiết kế dưới đáy hồ. Những giọt nước nơi cửa ra rỏ xuống tong tỏng, bên ngoài đáy hồ cạn, vô số cá các loại giãy đành đạch trong đống bùn, vùng vẫy cầu sinh. Trời xanh mây trắng vẫn bình yên che phủ ngọn núi phía xa. Chỉ trong nửa tiếng đồng hồ, một hồ nước lớn như thế không ngờ đã biến thành một đầm bùn cạn, thật biến thái đến mức người ta khó có thể nào chấp nhận được.

Giáo sư Phương Tân nhìn cánh cửa bị đẩy ra nói: "Ồ, cánh cửa này mượn sức nước ép xuống, chỉ có thể đẩy từ bên trong, lúc nước hồ còn đầy, đương nhiên là không thể nào mở được rồi."

Đa Cát sải chân bước ra, giẫm trong lớp bùn đọng dưới đáy hồ, ngập đến đầu gối, khẽ lẩm bẩm hát: "Cánh cửa Sinh mệnh đã khép lại, Cánh cửa Địa ngục sẽ mở ra, Cánh cửa Địa ngục đã mở ra, các sứ giả dũng cảm phải lên đường. Họ băng qua Minh hà, vượt qua hoang mạc, lội qua đầm lầy có vô số trùng độc, trải qua tất cả gian nan khổ nạn, đến được Thánh điện trên trời, tiên cảnh chốn nhân gian… Hương Ba La!" Đa Cát ngoảnh đầu lại, "Đây chính là bài ca dao người làng chúng tôi hay hát, cả đứa trẻ ba tuổi cũng biết, là do các vị trưởng lão dạy cho đấy."

Cánh cửa Địa ngục, Hương Ba La, khi những từ ngữ quen thuộc ấy một lần nữa bên tai mọi người, tinh thần ai nấy đều phấn chấn hẳn lên. Đây mới là lần thứ hai Trác Mộc Cường Ba nghe nhắc đến Cánh cửa Địa ngục, song theo những gì gã biết, hình như nó mở ra con đường xuyên dãy Himalaya. Thật không ngờ, ở nơi xa xăm hẻo lánh như Mặc Thoát này lại được nghe truyền thuyết về Cánh cửa Địa ngục. Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Cậu biết Cánh cửa Địa ngục ở đâu không?"

Đa Cát gật đầu: "Đương nhiên." Anh ta chỉ về ngọn núi phía xa, nói: "Cánh cửa Địa ngục ở phía Tây Cánh cửa Sinh mệnh, vốn cũng là một trong ba thánh địa người Công Bố chúng tôi bảo vệ, nhưng vì ở đó thực sự chẳng có gì cả, nên về sau đã bỏ qua."

"Hả?" Trương Lập nghi hoặc nói: "Ngọn núi ấy hả, xem ra cũng không xa lắm phải không? Cánh cửa Địa ngục thật sự ở đó chứ?"

Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: "Không có gì cả? Đây là ý gì?"

Đa Cát đáp: "Mọi người nhìn thì biết ngay, đúng là không có gì cả, chỗ ấy chính là Ứng Kháp Bố Tạng Bố."

Đường Mẫn nói: "Cái tên Ứng gì gì đó này hình như rất quen, trước đây đã nghe nói đến rồi thì phải?"

Lạt ma Á La nói: "Là tên gọi cổ của sông Nhã Lỗ Tạng Bố. Na Thâm đã từng nhắc đến rồi."

Nhạc Dương chỉ ra phía xa nói: "Nhìn kìa, giáo quan, giáo quan đang ở ngoài kia."

Chỉ thấy Lữ Cánh Nam và Ba Tang đang bước trên đáy hồ cạn, dường như đang tìm kiếm gì đó. Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba liền chạy lại chỗ họ.

Khi tới gần, bọn Trác Mộc Cường Ba đều không khỏi thầm kinh hãi. Mặt mũi chân tay Ba Tang chi chít vết thương, từ trán tới mũi hóa thành xanh đen. Cả Lữ Cánh Nam cũng đầu tóc rối bù, hơi có vẻ tiều tụy. Trương Lập chào một tiếng, nói: "Ồ, giáo quan, anh Ba Tang, chúng tôi ở đây, chúng tôi đến đây."

Lữ Cánh Nam nói: "Ừm, mọi người cũng phát hiện ra lối ra ngầm bên dưới ư?"

Nhạc Dương nói: "Làm sao mà ra nông nỗi này vậy anh Ba Tang?"

Ba Tang lạnh lùng nói: "Cửu tử nhất sinh." Đám người Trác Mộc Cường Ba đã quen với tính cách của Ba Tang, biết rằng để anh ta phải thốt ra bốn chữ này, quả là họ đã trải qua không biết bao nhiêu nguy hiểm rồi. Ba Tang lại bổ sung thêm một câu, "Mấy người cũng vậy hả?"

Mọi người nghe hỏi mới sực nhớ ra, bản thân mình cũng chẳng khá hơn được bao nhiêu, đặc biệt là Trác Mộc Cường Ba đang mặc một bộ đồ kỳ quái và lạt ma Á La bị thương khắp mình mẩy. Trương Lập gật đầu nói: "Chậc, cơ quan ở đây lợi hại hơn lúc huấn luyện nhiều, suýt chút nữa là không ra được rồi. À phải, anh Ba Tang, rốt cuộc là chuyện gì vậy? Có phải hai người đã chạm phải cơ quan không? Hồ nước này sao lại đột nhiên cạn kiệt thế?" Ba Tang gật gật đầu.

Lữ Cánh Nam lạnh lùng nói: "Cơ quan chẳng có gì lợi hại, quan trọng là các cậu có nghĩ đến những điều cổ nhân nghĩ hay không. Tất cả đều là người được huấn luyện chuyên môn, một chút cơ quan này mà còn không đối phó nổi hay sao? Hử? Người này là ai?"

Trác Mộc Cường Ba đáp: "Đây là Đa Cát, Đa Cát của làng Công Bố, anh ta bị bọn tên Ben kia nhốt trong hồ nước ngầm, được chúng tôi cứu ra. Phải rồi, Đa Cát biết rất nhiều chuyện liên quan đến nơi này, còn cả Cánh cửa Địa ngục nữa, phải không Đa Cát?"

Đa Cát ngẩng cao đầu, hỏi ngược lại Trác Mộc Cường Ba: "Thánh sứ đại nhân, người đàn bà này là ai?"

Trác Mộc Cường Ba lại giới thiệu Lữ Cánh Nam với Đa Cát: "Cô ấy là giáo quan của chúng tôi, cũng là người phụ trách hành động lần này." Giải thích một lượt, để Đa Cát biết người phụ trách là gì, song anh ta vẫn không thể nào hiểu nổi. Trong thế giới của anh ta, phụ nữ chỉ phụ trách sinh con và lo liệu việc nhà, làm gì có lý nào cả một đám người lại nghe hiệu lệnh của một người đàn bà? Trác Mộc Cường Ba bất đắc dĩ phải dùng thân phận Thánh sứ đại nhân, hỏi lại câu hỏi Lữ Cánh Nam muốn hỏi một lần, Đa Cát mới miễn cưỡng trả lời, song vẫn không ngớt lẩm bẩm: "Ở chỗ chúng tôi, đàn bà như thế chắc chắn chẳng ai thèm đâu. Đàn ông nói chuyện, đàn bà sao có thể chõ miệng vào chứ, lại còn đòi có ý kiến nữa, đúng là không được!" làm Lữ Cánh Nam tức đến lỗ mũi xịt khói, chỉ muốn mổ bụng moi tim anh ta ra ngay tại chỗ.

Trong khi Lữ Cánh Nam hỏi han Đa Cát, mấy người bọn Trương Lập cũng cật vấn Ba Tang rốt cuộc đã chạm phải cơ quan gì, lợi hại thế nào. Ba Tang nói vắn tắt một lượt, chỉ vậy cũng đủ biết mức độ kinh hồn bạt vía không hề thua kém những gì họ đã trải qua. Nghe xong chuyện của Ba Tang, Nhạc Dương nói: "Vậy thì nước hồ rốt cuộc đã chảy đi đâu rồi nhỉ?"

Ba Tang giẫm chân nói: "Ở bên dưới."

"Vẫn ở bên dưới?" Trương Lập ngạc nhiên thốt lên.

Ba Tang gật gật đầu: "Ừm, giáo quan có nói, hệ thống nước ngầm trên cao nguyên này lúc nào cũng là vấn đề các nhà khoa học muốn nghiên cứu cho tận tường. Kết cấu địa chất vùng này cực kỳ phức tạp, ước chừng có rất nhiều hang đá vôi và sông ngầm. Dải cao nguyên Thanh Tạng này có rất nhiều truyền thuyết nói rằng biển một đêm đã khô cạn, mà lại được chứng thực khá nhiều lần nữa. Tất cả đều do các dòng sông ngầm đột nhiên liên thông, rồi nước hồ theo đó mà chảy đi. Tôi và giáo quan vừa nãy chính là đang tìm xem có lối thông nào bị mở ra hay không."

Đường Mẫn nói: "Có thấy gì không ạ?"

Ba Tang lắc đầu nói: "Cái hồ này vốn không lớn lắm, chắc chỉ khoảng mười kilomet vuông, chúng tôi đi hết một vòng cũng không có phát hiện gì. Giáo quan nói, có thể sau khi nước hồ rút cạn, đất bùn dưới đáy hồ đã lại bịt miệng lối thông ấy lại rồi, nên chúng tôi mới không tìm được."

Giáo sư Phương Tân dùng ống kính quay một vòng, chỉ thấy hai hòn đảo nhỏ kia đã thành hai ngọn núi đứng sừng sững, núi non quanh đó cũng cao lớn sừng sững hơn rất nhiều.

Lữ Cánh Nam nghe Đa Cát nói xong, liền dặn dò: "Đi thôi, ở đây không còn thông tin gì chúng ta cần nữa rồi, lên bờ rồi tính sau."

Bùn lắng dưới đáy hồ chỗ sâu chỗ nông, chỗ nông chưa tới mắt cá chân, chỗ sâu thì ngập lút cả chân, bước đi vô cùng khó khăn, song họ cũng không còn đường nào khác nữa cả. Trác Mộc Cường Ba để ý thấy hai người Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La bước đi trong đầm bùn mà bùn đất không lúc nào ngập quá mu bàn chân, trong lòng lấy làm ngưỡng mộ, thầm nghĩ đây chính là thành quả của Mật tu rồi, có cơ hội, mình nhất định phải luyện tập mới được.

Lên đến bờ, thấy đấy hồ bùn đầy bùn lắng, cá giãy đành đạch khắp nơi, thật khác một trời một vực với khi nãy, trong lòng mọi người đều dâng lên một cảm giác khó tả. Lữ Cánh Nam ngước mắt nhìn bầu trời, nhìn ngọn núi xa xa, sau đó hỏi: "Đi từ đây, cần bao nhiêu lâu mới đến được Cánh cửa Địa ngục?" Đa Cát coi như không nghe thấy, Trác Mộc Cường Ba đành phải lặp lại một lượt, Đa Cát mới nói: "Từ làng của chúng tôi, thời gian cần để đến Cánh cửa Sinh mệnh và Cánh cửa Địa ngục là như nhau, nếu trực tiếp từ Cánh cửa Sinh mệnh đến Cánh cửa Địa ngục… nhìn mọi người đều khỏe mạnh thế này, chắc chỉ cần bốn tiếng đồng hồ là tới được, có điều, nếu mang theo đàn bà, chỉ sợ là…"

Lữ Cánh Nam ngắt lời: "Biết rồi. Giờ trời đã tối muộn, chúng ta trở về thôn Công Bố trước, sáng sớm mai sẽ tới Cánh cửa Địa ngục xem thử, sau đó đi thẳng đến Cổ Cách. Giờ đã biết lộ tuyến của đối phương, chúng ta phải nhanh lên mới được." Nói đoạn, cô lấy điện thoại di động ra. Quả nhiên không có tín hiệu, vậy là cô lại lấy một bộ máy truyền tin đặc chế và thiết bị tiếp nhận tín hiệu vệ tinh cỡ nhỏ, bắt đầu liên lạc với thế giới bên ngoài.

Trương Lập tò mò hỏi: "Đa Cát, sao anh biết nhiều chuyện thế? Không phải là đang gạt chúng tôi đấy chứ?"

Đa Cát tỏ ý không hài lòng nói: "Sao tôi lại không biết được? Tôi là thợ săn giỏi nhất trong làng, tương lai sẽ kế thừa chức vị trưởng lão, những chuyện này các trưởng lão tự nhiên phải nói cho tôi rồi, tôi còn biết nhiều hơn Na Thâm nữa đấy. Mọi người muốn đi đến chỗ Tượng Hùng vương triều thật đấy à?"

Nhạc Dương nói: "Đương nhiên, không phải một Thánh sứ khác cũng đã đi rồi hay sao, chúng tôi cũng phải đến đó."

Đa Cát nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt thành khẩn: "Tôi cũng muốn đi."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Anh?" Đa Cát gật đầu: "Dù sao chúng tôi cũng là những người đời đời bảo vệ thánh địa, làm sao có thể cả thánh địa như thế nào cũng chưa từng thấy cho được? Tôi cảm thấy hết sức bất mãn trước cách làm của các vị trưởng lão trong làng, nếu một trăm năm trước có Đa Cát này, tuyệt đối sẽ không chấp nhận để người ngoài xông vào thánh địa mà chỉ nhìn thôi không làm gì đâu."

Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi chỉ Lữ Cánh Nam nói: "Vậy cậu đi hỏi giáo quan, cô ấy nói được là được."

Đa Cát ngạc nhiên: "Cô ta? Không, tôi chỉ cần Thánh sứ đại nhân đồng ý là được rồi."

Sự cố của Đa Cát làm Trác Mộc Cường Ba lấy làm khó xử, nếu để Lữ Cánh Nam nghe thấy Đa Cát nói vậy, thì thật không biết là như thế nào nữa. Đang định giải thích, Lữ Cánh Nam đã nói: "Đi thôi, chúng ta về thôn Công Bố, trực thăng cần thời gian điều phối, ít nhất cũng phải sớm mai mới tới đây được."

Trương Lập bắt ngay chỗ sơ hở của Lữ Cánh Nam, nói: "Giáo quan? Không phải nói dùng trực thăng rất nguy hiểm à? Tại sao lần này lại sử dụng vậy?"

--------------------------------

1 Bản tôn ở đây là dụng ngữ của Mật giáo, chỉ các vị thần Phật, chẳng hạn như Quan Thế m Bồ Tát, Văn Thủ Bồ Tát…

2 Trong truyện Sở Lưu Hương của Cổ Long, Thạch Quan m là một người đàn bà rất mạnh mẽ và độc ác.

HẾT TẬP 3
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31: Trưởng lão thôn công bố: vùng đất bí mật cuối cùng


Tập 4
Trác Mộc Cường Ba vốn vẫn đinh ninh rằng sói tuyết cao nguyên không hề có mối liên hệ trực tiếp nào với chiến ngao, mà gã cũng chưa bao giờ thấy một bức vẽ thế này. Gã vươn tay ra, ngón tay tưởng chứng như chạm được vào bộ lông mềm mượt và các cơ bắp căng cứng.

Lữ Cánh Nam điềm tĩnh giải thích:" khu vực Cổ Cách có địa hình thổ lâm, nơi ấy ngoài các đụn đất ra thì toàn là bình địa, tầm nhìn của trực thăng rất rộng, cho dù bên dưới có phục binh cũng vẫn tránh được, không giống như Mặc Thoát nhiều rừng cây, rất dễ bị phục kích. Hơn nữa, chúng ta đã biết đích đến của bọn tên Ben kia rồi, nhất thiết phải tranh cướp thời gian với chúng. Theo như Đa Cát nói, bọn chúng muốn đến hang đá có tượng Phật ở Cổ Cách ít nhất phải mất thời gian 2 ngày, mà muốn mở cơ quan Phật, lấy được con mắt màu bạc cũng phải mất thêm một ngày, chúng ta vừa hay bù lại được ba ngày thời gian sai lệch. Khi đến Đảo Huyền Không tự bọn người ấy còn bị nhiều cơ quan cạm bẫy cản đường, không thể tiến lên nhanh được, vậy nên chúng ta sẽ có cơ hội bắt kịp chúng thôi."

Nhạc Dương huýt sáo một tiếng:"Ối chà chà, vậy chẳng phải là muốn đại khai sát giới hay sao?"

Lữ Cánh Nam gật đầu:" Ừm, biết được sĩ số và các vũ khí trang bị của bọn chúng rồi, chúgn ta cũng cần chỉnh đốn lại vũ khí trong tay một chút, ngày mai sẽ nhất loạt vận chuyển đến đây luôn thể. Tất nhiên, có thể không giao chiến là tốt nhất, dù sao thì trong chỗ đó cũng toàn là di tích cổ đại, đi thôi nào. Ba Tang, thời tiết ngày mai thế nào?"

Ba Tang đáp gọn lỏn:"Tốt"

Trác Mộc Cường Ba chợt lên tiếng:"Phải rồi, Đa Cát, tôi muốn gặp trưởng lão của các cậu."

Đa Cát vừa bước đi vừa nói:"Trưởng lão hả, ba lão già ấy cố cháp lắm, nhưng mà...để tôi nghĩ cách đã."

Trên đường, mọi người vây lấy Đa Cát hỏi han không ngớt. Vì nể mặt Thánh Sứ đại nhân, Đa Cát đem hết tất cả những gì mình biết ra nói hết sức tường tận, đến lúc ấy mọi người mới hiểu được đại khái sự tình, theo quy củ của thôn Công Bố này, chỉ có thợ săn ưu tú nhất trong thôn mới được làm người dẫn đường cho Thánh Sứ. nghe nói trước đây cũng đã có Thánh Sứ đến thôn làng rồi, thậm chí từ trước khi Đa Cát ra đời đã có Thánh Sứ xuất hiện ở đây, nhưng bọn họ hoặc là bỏ cuộc, hoặc là sau khi vào Cánh cửa sinh mệnh rồi thì không bao giờ trở ra nữa. Mọi người nghe kể như vậy thảy đều ngơ ngác nhìn nhau - không ngờ Thánh Sứ của thôn Công Bố này cũng không ít chút nào! Trác Mộc Cường Ba vốn biết gia tộc nhà gã xưa nay chưa nghe nói có người nào làm qua cái chức Thánh Sứ này, ít nhất thì gã biết trong bốn mươi năm nay là chưa có ai, cha gã cũng chưa từng rời khỏi làng Đạt Ngõa Nô Thố, bởi vậy bản thân gã tại sao lại được chọn làm Thánh sứ, cho đến giờ gã vẫn thấy hết sức mờ hồ khó hiểu. Truyện Sắc Hiệp - http://truyenfull.vn

Về sau khi Đa Cát nói đến vị Thánh sứ kia và người áo xám tướng mạo đáng sợ đi cùng với y, Trác Mộc Cường Ba lập tức nghĩ đến người thổi rắn ở Putumayo, cái bóng đáng sợ đã theo chân bọn gã vào tận địa cung Ahezt. Con người ấy, hễ ai đã thoáng trông thấy một lần thì tuyệt đối không thể nào quên được. Cứ như lời Đa Cát miêu tả, chắc chắn kẻ áo xám ấy chính là y chứ chẳng sai. Sau đó Đa Cát hình như còn nói loáng thoáng thêm về tình hình trang bị của nhóm người do Ben dẫn đầu đó, chỉ có điều là nói theo cách của anh ta, cái gì mà ống thổi lửa bằng sắt, gậy sắt rỗng ruột treo thêm cái hộp kim loại trông như quả chuối tiêu...Trác Mộc Cường Ba không còn để ý lắng nghe nữa.

Còn về chuyện tại sao lại khẳng định đám người của Ben đã đi Cổ Cách, Đa Cát dùng một bài ca dài gần như sư thi để trả lời. Theo như anh ta quả quyết, mấy người bọn Ben Merkin chính là nghe xong bài ca này thì lập tức chuyển hướng đi về phía Tây. Nội dung bái ca này rất dài, suốt quãng đường, Đa Cát hầu như lúc nào cũng ngâm nga, trong đó có mấy câu thu hút được sự chú ý của Trác Mộc Cường Ba..."Một khi để máu tanh vấy bẩn bậc thang Thánh miếu, vô số tai ương sẽ ùn ùn kéo đến như tuyết lở, giáng xuống khắp nơi nơi. Tất cả thành thị đều sẽ biến thành nơi hoang phế không một bóng người, giống sài lang an cư bên dưới Thánh đàn, lũ độc xà phơi nắng trên bậc cấp, lưới nhện bịt kín khung cửa, loài hoa chết chóc nở khắp mặt đất mênh mông..." Trác Mộc Cường Ba cứ lờ mờ cảm giác như đã nghe đoạn ca từ này ở đâu đó, nhưng xới tung cả ký ức lên gã cũng không thể nhớ ra nổi.

Còn những đoạn sau đó như "Vạn tự luân thần thánh trở về phương Bắc, trong miệng sói tuyết cao nguyên rơi ra..." "Trái tim Nạp Nam Tháp phóng ra hào quang ánh bạc..." " Khi vùng đất nơi tổ tiên yên nghỉ tắm trong ánh dương vàng rực rỡ, Đức Phật vạn năng sẽ chỉ đường dẫn lối cho kẻ một lòng thành kính..." " Bọn họ giáu đi một mặt trăng, con mặt màu bạc có thể mang đến cho mặt trăng sức mạnh mới..." " Nhún nhường quỳ xuống, mở ra cung điện của dũng sĩ..." " Trời đất ảm đạm vô quang, thần thoại do chư thần kiến tạo..." " Trải qua mười tám vong khải nghiệm, tiếp nhận hào quang của bậc dũng sĩ..." dường như đều dùng một phương thức cực kỳ khó hiểu để diễn đạt lại phương pháp khai mở cơ quan thông đạo và các khảo nghiệm họ sẽ phải vượt qua. Lạt Ma Á La và Lữ Cánh Nam lắng nghe rất kỹ, hy vọng có thể nghe ra chút đầu mối gì đó trong những lời ca này, song cả hai đều lộ vẻ mơ hồ khó hiểu. Trương Lập và Nhạc Dương thì lại phát hiện ra, anh chàng Đa Cát này dường như vô cùng sùng bái Trác Mộc Cường ba, cứ hát một hai câu, là lại phải liếc mặt nhìn Thánh sứ của anh ta bốn năm bận, ánh mắt kiểu đó, chỉ có thể thấy ở đám fan cuồng nhìn thần tượng của mình mà thôi.

Đợi đến khi Đa Cát hát trọn bài ca đó thì cả đoàn người đã gần về đến thôn Công Bố rồi. Lạt Ma Á La hỏi: Đa Cát, bài ca này xưa nay vẫn lưu truyền trong thôn làng của các cậu hả, tôi nghe nội dung ca từ và các vần chân, thấy lẽ ra ở giữa còn phải có mấy đoạn nữa mới đúng chứ."

Đa Cát đáp:" Đúng vậy ạ, ở giữa không chỉ thiếu mấy đoạn thôi đâu, mà là thiếu cả một phần lớn. Nghe nói bài ca này ban đầu vốn hoàn chỉnh, được chép lại trong một cuốn sách, về sau…" Đa Cát ngưng lại giây lát, kế đó nói, "về sau tên mắt xanh đó mượn, rồi không đòi về được. Lúc ấy, trưởng lão trong thôn đã dựa vào ký ức của mình để viết lại, nhưng vị trưởng lão đó già lắm lắm rồi, thế nên để sót mất rất nhiều."

Mấy người bọn Trác Mộc Cường ba đều cảm thấy vô cùng đáng tiếc, ấn tượng về Stanley theo đó cũng càng thêm xấu đi.

Gần về đến thôn Công Bố, bóng người đỏ rực như ngọn lửa và đàn cừu trắng muốt ấy lại một lần nữa khắc họa giữa trời đất bức tranh đẹp mê hồn. Đa Cát nhìn thấy cái bóng đỏ như ráng mây chiều, dường như hơi ngẩn người ra trong thoáng chốc. Cái bóng đỏ cũng đã trông thấy Đa Cát, cô gái vung vẩy ngọn roi cừu hân hoan chạy tới, niềm vui lộ rõ trong ánh mắt, khiến ai nấy đều lấy làm ngưỡng mộ.

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ:" Xem ra cô gái này chính là Ca Ca rồi."

Cô gái trẻ ấy cao hơn Đa Cát hẳn một cái đầu, đôi mày lá liễu cong cong, khuôn mặt thon dài như trái trứng ngỗng, nước da hồng háo khỏe mạnh, nụ cười hết sức đáng yêu, xét về bất cứ khía cạnh nào cũng đều là một tiểu mỹ nhân hàng tiêu chuẩn. Vậy mà tên tiểu tử Đa Cát kia cứ vênh mặt lên câu được câu mất, làm bộ làm tịch, còn cô gái duyên dáng yêu kiều thi đứng mân mê vạt áo, ánh mắt chan chứa niềm vui. Trương Lập nhìn mà tức muốn xịt khói ra mồm, đến cả Trác Mộc Cường Ba cũng không khỏi thầm lắc đầu.

Không hiểu Đa Cát dùng cách gì mà khiến cô gái trẻ ấy ngoan ngoãn xua đàn dê về trước, còn anh ta thì dẫn Thánh sứ đại nhân vào thôn, trông như cáo mượn oai hùm, rất lấy làm vênh vang đắc ý. Trác Mộc Cường ba nói: " Đó là Ca Ca phải không? Cô bé ấy đối với cậu cũng tốt lắm mà, sao vừa gặp mặt đã quở trách người ta rồi?"

Đa Cát làu bàu: " Cái con bé đần ấy, tôi là thợ săn ưu tú nhất trong thôn cơ mà, còn cô ta chẳng qua chỉ biết chăn cừu với dệt vải thôi, bọn nha đầu trong thôn đứa nào mà chẳng biết làm mấy việc ấy. Nếu bây giờ mà nói chuyện tử tế ôn tồn với thị, sau này làm sao dạy dỗ được. Nhiệm vụ chủ yếu của đàn bà là sinh con đẻ cái với cả phục vụ đàn ông, tôi thật chẳng thể hiểu nổi, sao lại có loại đàn bà có thể đi khắp mọi nơi với các bậc lão gia thế cơ chứ." Trác Mộc Cường Ba vội cảnh giác đưa mắt liếc nhìn, cũng may là Lữ Cánh Nam đứng ở phía sau không nghe thấy, bằng không nắm đấm của bà mợ giáo quan này mà giáng xuống, e rằng sẽ khiến chàng lùn này lại lùn thêm một mẩu nữa mất.

Trở về thôn Công Bố, có không ít dân làng chen nhau ra phía trước xem Thánh sứ, tự nhiên cả đoàn lại được sắp xếp về gian phòng lớn đêm qua để nghỉ ngời, được dâng lên dê nướng cả con và bánh rán thượng hảo hạng. Cũng không hiểu Đa Cát nói gì mà thuyết phục được ba vị trưởng lão đồng ý với yêu cầu của Trác Mộc Cường ban, nhưng họ chỉ chịu gặp một mình gã thôi.

Căn phòng rất lớn, rất trống trải, sàn nhà trải thảm lông cừu Phổ Lỗ màu đỏ, bốn vách sáng đèn, trần nhà vẽ hình báo bảo cát tường; chính giữa có một cái lò, khói hương vấn vít, phía sau lò đặt một hương án bày các loại pháp khí và đồ thờ, sau lưng hương án là một bệ đá, một pho tượng thần ba mặt mười tám tay từ trên cao nhìn xuống, dõi mắt quan sát chúng sinh; các bức tường chính hai bên đều có cửa ngách, rèm buông che kín. Ba vị trưởng lão trong cửa ngách bước ra, Trác Mộc Cường Ba đứng giữa sảnh chăm chú quan sát, chỉ thấy cả ba trưởng lão đều là bậc cao niên, râu tóc bạc trắng, trên người khoác áo choàng Phổ Lỗ, đeo Phật châu pháp khí, tay cầm chuyển luân. Nhờ có Đa Cát, Trác Mộc Cường Ba biết được vị trưởng lão có vầng trán rộng đứng giữa tên là Niết Trát Tây Đơn Ba, người mũi sư tử đứng bên phải tên là Côn Giang Anh Đạt Kiệt, người lông mi dài đứng bên trái gọi là Nương Đa Cát Cách Liệt. Ba vị trưởng lão trông thấy Trác Mộc Cường Ba chẳng buồn nói năng gì, cứ thế người cầm tay, kẻ sờ trán, lại vạch mí mắt lên xem nữa, làm như đang kiểm tra toàn bộ thân thể gã vậy. Trác Mộc Cường Ba cho rằng đây là lễ tiết đặc thù của địa phương, bản thân gã lại chẳng biết trả lễ thế nào, chỉ đành đờ ra như người gỗ mặc ba vị trưởng lão điều khiển. Nghi lễ gần như là kiểm tra sức khỏe này diễn ra gần ba mươi phút đồng hồ mới kết thúc, vị trưởng lão tên là Đơn Ba cất tiếng hỏi: " Không biết Thánh sứ hẹn gặp ba lão già chúng tôi có chuyện gì vậy?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi muốn làm rõ thân phận Thánh sứ này của mình. Dám hỏi ba vị đại sư tại sao lại phán đoán tôi là Thánh sứ vậy?"

Cách Liệt trưởng lão nói: " Tại sao Thánh sứ lại hỏi vấn đề này? Phải chăng ngài hoài nghi bọn lão?"

Trác Mộc Cường Ba vội nói: " Không, không phải. Tôi chỉ muốn biết thôi, vì xưa nay tôi chưa từng nghe nói chuyện này bao giờ, liệu có liên quan đến Thiên Châu trên người tôi hay không?"

Đơn Ba trưởng lão lắc đầu: " Thiên châu này đích thực là một món thánh vật tột cùng quý giá, nhưng không liên quan đến thân phận Thánh sứ của ngài, mong rằng Thánh sứ hãy bảo quản cho tốt, chớ nên tùy tiện cho người ta thấy."

Trác Mộc Cường Ba lại nói gần xa vòng vo hỏi thêm mấy câu nữa, từ đầu đến cuối nhất nhất đều do Đơn Ba trưởng lão và Cách Liệt trưởng lão trả lời, Đạt Kiệt trưởng lão không hề hé môi, nét mặt nghiêm trang như một vị phán quan quyền uy. Mà hai vị trưởng lão kia mồm miệng cũng hết sức kín kẽ, nếu không phải nói những chuyện không liên quan thì đều cố ý lảng tránh, tuyệt đối ngậm miệng không nhắc đến nguồn gốc thân phận Thánh sứ của Trác Mộc Cường Ba chút nào.

Liên tiếp mấy lần đều không hỏi ra được, Trác Mộc Cường Ba đã hơi sốt suột, lời lẽ dần trở nên đanh sắc hơn. Lúc này, Đạt Kiệt trưởng lão từ đầu đến giờ vẫn chưa nói lời nào mới lên tiếng: " Vấn đề xác nhận thân phận của Thánh sứ đại nhân, chúng tôi tuyệt đối sẽ không để lộ ra chút gì đâu, bởi ở thê giới ngoài kia, rốt cuộc có bao nhiều kẻ muốn tìm kiếm Hương Ba La, ấy là điều chúng tôi không thể xác định được. Nếu cách thức xác nhận thân phận Thánh sứ bị tiết lộ ra ngoài, đám người tham lam ấy sẽ lấy chiêu bài Thánh sứ đi khắp nơi lừa gạt. Thôn làng chúng tôi vì dễ dãi tin người mà đã phải chịu tổn thất nặng nề không sao bù đắp nổi, vì thế…chắc chắn ngài có thể hiểu cho chúng tôi phải không, Thánh sứ đại nhân?".

Trác Mộc Cường Ba chỉ muốn biết tại sao Merkin lại trở thành Thánh sứ, nghe Đạt Kiệt trưởng lão nói thế, đoán chừng là không có khả năng hỏi ra được rồi, nặng nề "hừ" khẽ một tiếng, gật gật đầu.

Đạt Kiệt trưởng lão lại tức thì hỏi ngay: " Có điều, tôi muốn hỏi Thánh sứ một vấn đề, không hiểu có được hay chăng?"

Trác Mộc Cường Ba lại gật gật đầu. Đạt Kiệt trưởng lão bèn nói: " Thánh sứ đại nhân từ Châu Mỹ xa xôi ngàn dặm về đất Tạng này, kết nên mối duyên không thể tháo gỡ với Bạc Ba La thần miếu, ngài có cảm thấy rằng, một loạt những chuyện xảy ra với mình chỉ là một sự trùng hợp hay không?"

Trác Mộc Cường Ba đã đoán biết ý của Đạt Kiệt trưởng lão, gã mỉm cười hỏi: " Không biết đại sư muốn nói với tôi chuyện gì vậy?"

Đạt Kiệt trưởng lão chậm rãi nói: " Thánh sứ đại nhân có bao giờ nghĩ rằng tất cả mọi chuyện này đều không ngẫu nhiên, mà do Phật tổ vạn năng đã sắp đặt từ ngàn năm về trước hay không? Đời này Thánh sứ đại nhân đã được định sẵn là gắn liền với Bạc Ba La thần miếu, mặc dù ngài ở đâu, mặc cho ngài là thân phận gì,rốt cuộc ngài vẫn sẽ biết về sự tồn tại của thần miếu và lên đường tìm kiếm. Không phải ngài đi tìm nó, mà là nó đang gọi ngài, đây là một con đường trở về." Nhìn điệu bộ nghiêm túc lại như cố tình làm ra vẻ thần bí của Đạt Kiệt trưởng lão, Trác Mộc Cường Ba thản nhiên cười đáp: " Xin lỗi, đã vô ý mạo phạm đến địa vị của Thần hay Phật trong lòng đại sư rồi, nhưng tôi là kẻ theo thuyết vô thần, tôi chỉ tin vào khoa học. Tôi tin rằng, trên thế gian này không có Thần mà cũng chẳng có Phật, tất cả đều do chính con người sáng tạo ra thôi." Nói xong, gã im lặng chăm chú quan sát nét mặt Đạt Kiệt trưởng lão.

Nằm ngoài dự đoán của Trác Mộc Cường Ba, Đạt Kiệt trưởng lão dường như đã biết trước gã sẽ trả lời như vậy, lại tiếp tục nói: " Không, không phải Thánh sứ đại nhân không tin, mà chỉ là thời cơ chưa tới. ngài vẫn còn chưa thức tỉnh, khi ngài thức tỉnh, ngài sẽ tin vài Đức Phật toàn năng. Người ở ngay bên cạnh ta, người quan tâm săn sóc hết thảy chúng sinh, đồng thời chủ đường dẫn lối cho ta. Thế giới bên ngoài kia không như ngài nhìn thấy đâu, có những sự thật đã bị che đậy đi rồi, càng đến gần Bạc ba La, Thánh sứ đại nhân sẽ càng đến gần chân tướng sự thật. Cuối cùng rồi sẽ đến một ngày, ngài sẽ thức tỉnh."

Trước ánh mắt chằm chặp của ba vị trưởng lão, Trác Mộc Cường Ba hờ hững nói: "Ba vị đại sư, với Thánh sứ nào các vị cũng đều nói như vậy phải không?"

"Không" Đạt Kiệt trưởng lão khẳng định chắc chắn:" chỉ có ngài. Bởi vì ngài là vị Thánh sứ có pháp tướng và huệ căn nhất mà chúng tôi từng gặp, Phật Tổ vạn năng đã minh thị, cửa lớn của Thánh miếu sẽ được bàn tay ngài mở ra" Nói xong, ba vị trưởng lão đều hơi cúi đầu về phía trước, ánh mắt nghiêm trang nhìn Trác Mộc Cường Ba chằm chằm, nửa như dò xét, lại nửa như đang khẳng định những lời vừa nói ra.

Bị ba ông già nhìn xoáy chòng chọc, Trác Mộc Cường Ba hơi có chút lúng túng không biết phải làm sao, ngượng ngập cười, chuyển sang hỏi câu khác: " Vậy các vị trưởng lão biết được bao nhiêu chuyện về Thánh địa mà các vị bảo vệ? Ví dụ Đảo huyền Không tự và Hương ba La là gì chẳng hạn?"

Đơn Ba trưởng lão nói: "Khởi nguyên và vị trí địch xác của Thánh địa thì chúng tôi không rõ tường tận, chúng tôi chỉ là người canh gác, tất thảy những chuyện liên quan tới Thánh địa đều chỉ biết được qua lời kể của đời trước và ghi chép trong thôn. Đảo Huyền Không tự là nơi tu hành của thánh nhân thời xưa, một nơi quanh năm không thấy ánh mặt trời, thuở trước tất cả mọi ôn dịch, bệnh tật, yêu ma quỷ quái đều sinh sôi nảy nở ở chốn ấy. Các thánh nhân đã lấy thân mình xua đuổi bóng đêm, mang đại đức đại trí đối kháng với loài ma quỷ, xây dựng ở đó tượng Thần Thông thông thiên triệt địa, trấn áp tất cả mọi yêu ma, từ đó đất Tây tạng mới được bình yên. Còn Bạc Ba La mà Thánh sứ đại nhân đang tìm kiếm, chúng tôi chắc chắn chính là Thánh địa Hương Ba La trong ghi chép của thông Công Bố này, nơi ấy là chốn tịnh địa cuối cùng của nhân gian. Nhưng các vị thần minh không chịu dễ dàng để con người đạt đến, vì vậy đã đem đặt vào trung tâm địa ngục A Tỳ, chỉ có vị dũng sĩ dám vượt qua địa ngục mới có thể tìm thấy…" Mặc dù các vị trưởng lão không nói gì về bộ tộc Qua Ba và Đạo quân Ánh sáng, mà từ đầu chí cuối câu chuyện truyền thuyết chỉ nhắc tới thánh nhân và tiên tổ,song Trác Mộc Cường ba vẫn phảng phất nhận ra bóng dáng của bộ tộc Qua Ba qua lời kể. Hương Ba La trong lời các vị trưởng lão và trong truyền thuyết không khác nhau nhiều lắm, đều là chốn thiêng liêng thanh khiết, muốn đến được phải vượt trùng trùng hiểm nguy và có thần minh phù hộ nữa. Lần này đúng là Trác Mộc Cường ba không tìm hiểu được mấy thông tin hữu dụng, mà ngược lại còn phải nghe thêm một đống chuyện thần thoại khác.

Trác Mộc Cường Ba biết có hỏi nữa cũng không được thêm cái gì hữu ích, chuẩn bị đứng dậy rời đi. Trước khi cáo từ ba vị trưởng lão, gã làm như vô tình hỏi một câu: "Ba vị trưởng lão dường như biết rất nhiều truyền thuyết và thần thoại Tây Tạng cổ, không rõ các vị có từng nghe nói đén truyền thuyết về Tử kỳ lân bao giờ chưa?"

Có lẽ ngôn ngữ có sự sai biệt, nên ba vị trưởng lão không hiểu ra ngay lập tức. Trác Mộc Cường Ba cũng ý thức được vấn đề này, liền vội càng giải thích: "Chiến ngao, Tạng ngao, chó lớn, lông dài, con chó lớn cao ngần này này." Gã vừa nói vừa khua tay múa chân diễn tả.

Cuối cùng, Đơn ba trưởng lão là người đầu tiên hiểu ra, lập tức bật ra một tràng âm thanh dài liên miên. Trác Mộc Cường Ba nghe lơ mơ chữ được chữ mất, chỉ biết đại khái nghĩa là: "bảo hộ, canh giữ", "linh hồn kiên định", "chí cao vô thượng"…nhưng rốt cuộc là để biểu đạt điều gì thì gã lại không hiểu cho lắm.

Nhìn vẻ mặt hoang mang của Trác Mộc Cường Ba, Cách Liệt trưởng lão liền bật ra một từ mà dường như tất cả dân Tạng đều đã nghe mãi quen tai: "Sói tuyết cao nguyên."

"Hả, không, không phải" Trác Mộc Cường Ba lắc đầu. "Không, sói tuyết cao nguyên tôi cũng biết, nhưng đó là một loại thần thú khác trong truyền thuyết, không phải là chiến ngao," Dứt lời, gã dợm đứng lên định bỏ đi. Nhưng câu hỏi của gã dường như đã khiến ba vị trưởng lão hết sức hứng thú, chỉ nghe Cách liệt trưởng lão nói: "Thánh sứ đại nhân đợi một lát." Ông già nói xong quay người đi vào nhà trong luôn, không lâu sau run rẩy bưng ra một tấm thang- ka (tranh thờ) cuộn tròn, mở ra thấy có vô số hình am thờ Phật nho nhỏ được vẽ trên các đường quỹ đạo hình vuông và hình tròn, trong mỗi am thờ lại có vẽ một tượng Phật hình thù quái dị. Trác Mộc Cường Ba chưa bao giờ trông thấy những hình vẽ tượng Phật như thế, tất cả đều mặt xanh ba mắt trợn trừng răng nhe ra giận dữ, nhiều đầu nhiều tay, cầm các loại pháp khí bằng xương người, dáng dấp rất giống các tượng Phật gã gặp ở Cánh cửa sinh mệnh. Ở chính giữa bức thangka, có vô số am thờ Phật bao vây chung quanh, là một bức vẽ tượng Phật lớn màu đỏ rực, ba mắt giận dữ, mình khoác giáp trụ, bốn cánh tay dang ra, tay trên cầm pháp khí đầu lâu, xâu chuỗi đầu người, tay dưới cầm đao và rìu chiến bằng xương, hai bên tả hữu có hai đồng tử tướng mạo phẫn nộ, tay đao tay gậy, cưỡi trên tọa kỵ là một con tuyết ngao toàn thân trắng toát.

Túm lông bờm trắng như tuyết xõa tung, bốn chân thô chắc bám vững chãi trên mặt đất, những đường nét của cơ thịt được người họa sĩ vẽ thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện dưới lớp lông trắng khiến thân thể con tuyết ngao lồ lộ tất cả mọi vẻ tráng kiện. Đặc biệt là đôi mắt, nhãn châu trong suốt sáng như viên ngọc lưu ly, tàng ẩn sát khí hừng hực, ánh nhìn dõi khắp bốn phương, khiến người đối diện không ai dám nhìn thẳng. Nhưng điều làm Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc nhất, chính là trên mình con tuyết ngao này, ngoài tấm nệm ngồi của tượng Phật, từ đầu đến đuôi còn phủ thêm một lớp giáp mềm ánh kim nữa. Lớp giáp mềm mại bằng sợi tơ vàng chói mắt và màu lông trắng như tuyết đó tương phản nhau rất mạnh, khiến con tuyết ngao càng thêm giống một vị đại tướng quân chuẩn bị xông ra trận tiền, khí phách phi phàm thừa đủ để trấn áp tất thảy mọi loài yêu ma quỷ quái.

Vì con tuyết ngao được vẽ rõ mồn một như thế, Trác Mộc Cường Ba gần như không cần nhìn kỹ đã tức khắc kêu lên: "Chiến ngao!" Gã từng nghe vô số truyền thuyết về chiến ngao, nhưng rốt cuộc chiến ngao hình dáng như thế nào gã thật khó mà tưởng tượng nổi. Giờ được thấy con tuyết ngao mình phủ áo giáp oai phong lẫm liệt, rạng rỡ uy nghi trên bức thangka này, Trác Mộc Cường Ba lập tức hiểu ngay đây không phải là tuyết ngao thông thường mà là một con chiến ngao, đấu sĩ nắm giữ vận mệnh của cả chiến trường trong truyền thuyết cổ đại.

Cách Liệt trưởng lão đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói với giọng khẳng định: "Sói tuyết cao nguyên."

"Chuyện này rốt cuộc là sao?" Trác Mộc Cường Ba vỗn vẫn đinh ninh rằng sói tuyết cao nguyên không hề có mối liên hệ trực tiếp nào với chiến ngao, mà gã cũng chưa bao giờ thấy một bức vẽ thế này. Gã vươn tay ra, ngón tay tưởng chừng như chạm được vào bộ lông mềm mượt và các cơ bắp căng cứng.

Đơn Ba trưởng lão nói: "Đây là di vật của tổ tiên để lại. Vị này là Quỷ Vương Liệt Lệ Để, bảo vệ phía Tây Nam, tọa kỵ của ngài chính là sói tuyết cao nguyên."

"Sói tuyết cao nguyên chính là chiến ngao?" Trác Mộc Cường Ba nhíu mày suy nghĩ, đây là lần đầu tiên gã nghe nói vậy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32: Sói tuyết cao nguyên: vùng đất bí mật cuối cùng


Đạt Kiệt trưởng lão chậm rãi nói: "Chúng tôi không rõ chiến ngao mà Thánh sứ đại nhân nói đến là thứ gì, nhưng sói tuyết cao nguyên và Hương Ba La có quan hệ vô cùng mật thiết, không thể tách rời được."

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc lắng nghe, mỗi chữ thốt ra từ miệng Đạt Kiệt trưởng lão đều khiến tim gã nảy lên: "Ngài biết đó, các vị thánh nhân đã kiến tạo nên Hương Ba La, miền cực lạc tịnh thổ truyền thừa ngàn vạn năm của Mật giáo, mà sói tuyết cao nguyên và các vị thánh nhân là một thể thống nhất, không khi nào phân ly, sói…chúng là người bảo vệ cuối cùng của Hương Ba La đấy."

Đạt Kiệt trưởng lão lại nói một từ mà Trác Mộc Cường Ba nghe không hiểu, gã chỉ biết âm tiết trước từ đó có lẽ là chỉ sói, còn chuối âm tiết sau đấy, hình như ý là cao quý, hay ở trên cái gì đó vậy. Gã không dám ngắt lời Đạt Kiệt trưởng lão, chỉ lặng lẽ nghe ông già nói tiếp: "Trong truyền thuyết lịch sử của chúng tôi, sói tuyết cao nguyên đã cùng các bậc tiên hiền làm nên sự huy hoàng của tuyết vực chỉ quốc, chúng là thụy thú canh giữ bốn phương, không có chúng…"

"Đợi chút đã…" Trác Mộc Cường Ba giật mình cắt ngang, "vừa rồi dường như tôi nghe thấy đại sư nói, thụy thú canh giữ bốn phương?" Gã đột nhiên nhớ lại đoạn Bất động minh vương chú mà người Qua Ba điên ngâm nga. "Có thể nói cụ thể hơn một chút những chuyện liên quan tới tứ phương thụy thú được không?" Trác Mộc Cường Ba biết rõ, bốn động vật này vẫn xuất hiện trong các loại totem và cờ phướn khác nhau, đại diện cho những hàm nghĩa khác nhau. Nhưng dù đều đã đi vào truyền thuyết thần thoại, hình như bọn chúng chưa bao giờ cùng lúc xuất hiện cả, nhất là cách gọi "tứ phương thụy thú" này Trác Mộc Cường Ba lại càng chưa nghe nói đến bao giờ. Đạt Kiệt trưởng lão đưa mắt nhìn hai vị trưởng lão còn lại. Đơn Ba trưởng lão liền bằng những ngôn từ ngắn gọn mạch lạc nhất, kể ra rất nhiều truyền thuyết về tứ phương thụy thú, nhưng thảy đều không có khác biệt gì so với các truyền thuyết lưu truyền ở nhiều vùng khác nhau mà Trác Mộc Cường Ba đã biết, thành ra gã cũng không thu thêm được thông tin gì hữu dụng. Sau đó Cách Liệt trưởng lão lại kể thêm một số câu chuyện về sói tuyết cùng thánh nhân giáng yêu trừ ma, trải qua muôn vàn gian khổ đạt thành thiện quả…Trong lòng Trác Mộc Cường Ba vẫn đầy ắp nghi vấn, vô cùng mong có được lời giản đáp, nhưng không phát hiện được gì trong những câu chuyện thần thoại ấy, bèn nôn nóng định đi tìm giáo sư Phương Tân để thỉnh giáo, mới lựa lời khéo léo bày tỏ lòng biết ơn đồng thời cáo từ ba vị trưởng lão lui ra.

Trác Mộc Cường Ba vưà ra đến cửa, Đạt Kiệt trưởng lão bỗng cất tiếng hỏi: "Xin thứ cho sự hiếu kỳ của chúng tôi, Thánh sứ đại nhân có thể cho chúng tôi biết tại sao ngài lại quan tâm đến sói tuyết cao nguyên thế hay không?"

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại đáp: "Nếu tôi nói chuyến đi tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu lần này vốn bắt đầu từ một con chó ngao Tây Tạng, không biết ba vị đại sư có tin không?"

Chẳng ngờ, cả ba vị trưởng lão đều tỏ vẻ "thì tất nhiên rồi". Đơn Ba trưởng lão nói: "Sói tuyết cao nguyên và Hương Ba La quả thực là không thể tách rời mà."

Cách Liệt trưởng lão cũng nói: "Lần theo dấu chân sói tuyết cao nguyên, nhất định là có thể tìm thấy Hương Ba La."

Trác Mộc Cường Ba xoay người bước đi, chỉ nghe Đạt Kiệt trưởng lão ở sau lưng nói với theo: "Thánh sứ đại nhân vẫn không chịu tin đây chính là sự sắp xếp của Đức Phật vạn năng dành cho số mệnh của ngài hay sao? Ngài đến đây vì cớ gì, sẽ đi tới phương nào, tất cả đều đã được định sẵn từ muôn ngàn năm trước rồi!"

Trác Mộc Cường Ba cười cười: "Đại sư nói vậy, nếu giờ tôi buông tay bỏ mặc, thế chẳng phải là lời tiên đoán của các vị sẽ trật lất hay sao?"

Đạt Kiệt trưởng lão điềm nhiên đáp: "Ngài sẽ không bỏ cuộc, bởi vì ngài chính là Thánh sứ, ngài có thể cảm nhận được sự vẫy gọi của Bạc Ba La."

Trác Mộc Cường Ba hơi chột dạ, khẽ lắc đầu, sải chân bước đi.

Trác Mộc Cường Ba vừa đi khỏi, Lạt Ma Á La ở sau tấm màn bước ra, cất tiếng hỏi: "Thế nào?" Ba vị trưởng lão có người lắc đầu, có người gật đầu, nhưng đều nhíu chặt hai hàng lông mày, như đang suy tư một vấn đề cực kỳ khó quyết, chỉ nghe Đạt Kiệt trưởng lão hạ giọng: "Đại Thanh Liên." Sắc mặt Lạt ma Á La tối sầm đi.

Trên đường Trác Mộc Cường Ba gặp Đa Cát, liền kéo anh chàng thợ săn nhỏ con lại hỏi: "Mới đầu nghe Na Thâm nói người trưởng lão không muốn gặp thì không thể gặp được trưởng lão, cậu làm thế nào mà thuyết phục được họ vậy?"

Đa Cát gãi đầu nói: "Tôi cũng không biết, vốn là các trưởng lão đều không đồng ý, nhưng sau đó vị đại pháp sư cùng đi với mọi người nói chuyện với các vị ấy, vậy là các trưởng lão đều nhận lời."

"Đại pháp sư! Cậu nói là vị đi cùng với chúng tôi ấy à? Lạt Ma Á La?" Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra đã nghe Đường Mẫn nói Lạt ma Á La hết sức quen thuộc với các thần Phật và cơ quan cạm bẫy trong khu hoang phế, bản thân gã khi trúng độc hôn mê cũng nhờ vị sư già ấy tìm ra cách giải cứu, nhất định là lạt ma biết chuyện gì đó. Đúng, phải đi hỏi ông mới được.

Trác Mộc Cường Ba đi tìm lạt ma Á La, liền hỏi ngay: "Đại sư, nghe nói sau khi ngài và các trưởng lão thôn Công Bố nói chuyện, bọn họ mới đồng ý gặp tôi."

Lạt ma Á La lắc đầu: "Tôi nghĩ cậu hiểu lầm rồi, Cường Ba thiếu gia, tôi và ba vị trưởng lão chỉ đàm luận những vấn đề liên quan đến tôn giáo của chúng tôi thôi, còn về chuyện tại sao họ lại đồng ý gặp mặt cậu, e là có liên quan tới thân phận Thánh sứ của cậu đấy."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Vậy ạ, đại sư, lúc tôi nói chuyện với ba vị trưởng lão, nghe được một số chuyện, những chuyện này trước đây tôi chưa bao giờ nghe nói đến cả, không biết ngài có thể chỉ bảo cho một chút được chăng."

Lạt ma Á La gật đầu nói: "Cậu nói ra nghe xem nào."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Ba vị trưởng lão bảo tôi rằng, chiến ngao chính là sói tuyết cao nguyên."

"Đúng thế." Lạt ma Á La gật đầu, sau đó nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt hết sức kỳ quặc, tựa hồ như đang hỏi ngược lại, chẳng lẽ cậu không biết điều ấy à?"

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: "Nhưng tôi đã nghiên cứu Tạng ngao gần hai mươi năm nay rồi, chưa bao giờ xem qua văn bản nào có ghi chép Tạng ngao và sói tuyết cao nguyên có liên hệ trực tiếp."

Lạt ma Á La thoáng ngẩn người, rồi tức khắc lộ vẻ hiểu ra, mỉm cười nói: "Tôi hiểu rồi, hiểu biết của Cường Ba thiếu gia đối với Tạng ngao đều bắt nguồn từ truyền thuyết dân gian và các tri thức sinh vật học, chứ cậu chưa bao giờ bắt gay tìm hiểu từ phương diện tôn giáo, vì vậy, cậu mới không biết. Sự thực thì không chỉ có cậu không biết, mà còn rất nhiều chuyên gia kinh nghiệm dày dạn cả đời nghiên cứu Tạng ngao cũng chưa chắc đã biết Tạng ngao và sói tuyết cao nguyên có quan hệ như thế nào. Chuyện này mà giải thích ra thì phức tạp lắm, có lẽ phải mất nửa ngày chứ chẳng đùa đâu, nhưng tôi có thể khẳng định với cậu rằng, sói tuyết cao nguyên chính là chỉ Tạng ngao, hơn nữa còn không phải Tạng ngao thông thường mà chính là chiến ngao.

Trác Mộc Cường Ba lắp bắp: "Có…có thể giải thích sơ qua một chút cho tôi được không?"

Lạt ma Á La nghĩ ngợi giây lát, rồi đáp: "Chắc là Cường Ba thiếu gia không xa lạ gì với truyền thuyết về sói tuyết cao nguyên. Theo chuyện kể lưu truyền, Tây Tạng cổ quả thực là có một loài động vật sống trên đỉnh núi tuyết, thường cứu giúp các cao tăng ngộ nạn hoặc những người đáng được cứu giúp. Còn trong mắt một số chuyên gia và nhà nghiên cứu hiện đại, sói tuyết cao nguyên chính là loài động vật sinh tồn ở vùng cao nguyên băng tuyết được dân Tạng cổ thuần hóa mà thành. Thực ra, sói tuyết cao nguyên chính là tên gọi chiến ngao của người Tạng cổ. Cậu phải biết rằng, chó ngao Tây Tạng thời ấy không được người ta biết đến nhiều như ngày nay đâu, người bình dân nói chung không thể có được khả năng lại gần hay trông thấy một con Tạng ngao, đến cả quý tộc cũng chưa có tư cách ấy, vì đó là vật nuôi đặc biệt chỉ hoàng tộc mới được sở hữu. Mãi cho đến khi vương triều Thổ Phồn suy bại, Tạng ngao mới rời khỏi chốn thâm cung hậu viện, tản mác đi khắp cao nguyên. Còn về chuyện tại sao chó ngao Tây Tạng lại là vật nuôi riêng của hoàng tộc, rồi tại sao phải sau khi vương triều Thổ Phồn suy bại mới tỏa ra rải rác trong dân gian, đó là một giai đoạn lịch sử dài cả mấy trăm năm, hơn nữa còn liên quan trực tiếp tới Đạo quân Ánh sáng. Nếu cậu muốn biết, sau này chúng ta có thể dành riêng một lúc nào đó, tôi sẽ nói tường tận hơn."

Trác Mộc Cường Ba nghe mà máu nóng bừng bừng, bởi gã chợt ý thức được, hiểu biết về chiến ngao của mình quả tình chưa hề dính dáng tới, hoặc có thể nói là dính dáng cực kỳ ít ỏi tới một lĩnh vực, đó chính là tôn giáo! Những nhân sỹ tôn giáo mà gã từng tiếp xúc trước đây dường như đều không hề biết giữa Tạng ngao và tôn giáo có quan hệ mật thiết như thế nào, nhưng những điều lạt ma Á La nói hôm nay đã vạch ra một nét nối liền Tạng ngao và sói tuyết cao nguyên lại cùng nhau. Vậy thì nếu dựa vào các thần thích của sói tuyết cao nguyên, nói không chứng lại có thể tìm được đầu mối về Tử Kỳ Lân nữ, đây chính là điều mà gã vẫn hằng khát khao mong mỏi.

Trác Mộc Cường Ba lại nói: "có mấy từ, đọc là sói…" Gã cố hết sức nhại lại các âm của trưởng lão, nghĩ rằng nhất quyết không thể sai được.

Lạt ma Á La khẽ cười nói: "Sói thống lĩnh, đây là cách dịch thông thường, muốn cặn kẽ hơn chút nữa thì có thể gọi là sói thống lĩnh trời sinh. Nếu truy đến nghĩa gốc cỉa cổ văn thì có rất nhiều thuật ngữ của tôn giáo cổ đại cực kỳ khó lý giải, nhưng ý nghĩa chính của từ này đại khái có thẻ dịch là sói thống lĩnh cũng không sai đâu."

"Sói thống lĩnh? Sói tuyết cao nguyên là sói thống lĩnh? Những chuyện này có can hệ gì với nhau chứ?" Trác Mộc Cường ba lại thêm một phen mù mờ khó hiểu. Truyện Tiên Hiệp - Truyện FULL

Lạt ma Á La điềm đạm nói: "Điều đó thì rất dễ giải thích, sói thống lĩnh, chính là chỉ bọn chúng có thể thống lĩnh bầy sói…" Nhìn nét mặt đột nhiên ngây ra của Trác Mộc Cường Ba, lạt ma Á La mỉm cười nói tiếp: "Chuyện này nghe ra thì dường như khó có thể tưởng tượng nổi. Nhưng tôi muốn hỏi cậu một câu, Cường Ba thiếu gia, trong suốt quá trình nghiên cứu cho ngao Tây Tạng của mình, cậu đã theo dấu bao nhiêu con Tạng ngao hoang dã rồi, hay có thể nói, cậu đã bao giờ trông thấy Tạng ngao hoang dã hay chưa? Cậu có biết chúng sinh tồn trên cao nguyên thế nào hay không? Hơn nữa, cậu đã thấy chó ngao Tây Tạng hoang dã sống chung với bầy sói bao giờ chưa?"

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu tiếc nuối. Chính xác, trong đời nghiên cứu chó ngao Tây Tạng của mình, gã chưa từng tiếp xúc với Tạng ngao hoang dã, thậm chí có một độ gã còn băn khoăn không rõ trên cao nguyên ngày nay có tồn tại Tạng ngao hoang dã nữa hay không, đây quả là phần thiếu khuyết đáng tiếc nuối trong sự nghiệp nghiên cứu Tạng ngao của gã, nhưng theo gã được biết, giáo sư Phương Tân đã từng lùng theo dấu một con Tạng ngao hoang dã. Mà trong những lời đánh giá của ông dành cho Tạng ngao hoang dã ấy, nhiều nhất chính là hai chữ " Thần kỳ!" Nhưng cả giáo sư Phương Tân cũng chưa từng trông thấy Tạng ngao hoang dã sống chung với bầy sói bao giờ, cảnh tượng ấy có thể ra sao, Trác Mộc Cường Ba gã thực sự không thể nào tưởng tượng nổi. Lạt ma Á La nói với giọng pha chút tiếc nuối: "Cậu chưa bao giờ gặp Tạng ngao hoang dã, phải không? Hừm, có lẽ tại ngày nay chúng ta không còn dễ trông thấy Tạng ngao hoang dã nữa rồi. Sở dĩ tôi hỏi cậu câu này, là bởi vì thời trẻ tôi từng quen một chuyên gia nghiên cứu cho ngao Tây Tạng vào bậc lão làng. Ông ta từng có lời bình phẩm về quan hệ giữa Tạng ngao và chó sói - bảo rằng, người ta thường vẫn cho là chính sự trung thành và hung mãnh của Tạng ngao đã khiến chúng trở thành giống chó chăn cừu xuất sắc nhất và rằng chúng là khắc tinh trời sinh của lũ chó sói bắt trộm dê cừu. Bản thân ông ta đã quan sát rất nhiều trận chiến giữa sói và Tạng ngao, và cũng phát hiện ra nỗi sợ của lũ sói đói với bọn chó ngao Tây Tạng ấy. Khi gặp phải bầy dê có Tạng ngao bảo vệ, dù số lượng sói có đông gấp mười lần Tạng ngao, bọn chúng cũng không dám tùy tiện tấn công, trừ phi là đàn sói đã đói sắp chết đến nơi, hoặc là trong đàn có một con sói mẹ cực kỳ uy nghiêm. Nhưng ông ta lại nói, ông ta cảm thấy nỗi sợ mà bầy sói thể hiện khi đối mặt với Tạng ngao không phải là nỗi sợ kẻ thù trời sinh, mà giống một sự kính sợ nhiều hơn, tựa như những kẻ nô lệ hay dân thường thời cổ trông thấy bậc quân vương tối cao xuất hiện vậy.?

Trác Mộc Cường Ba càng thêm kinh hãi: "Ý, ý của đại sư là…"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Không phải ý của tôi, mà là của vị tiền bối kia. Nghiên cứu về chó ngao Tây Tạng của ông ta sâu hơn mọi người nhiều lắm, các phương diện đề cập đến cũng rộng hơn nhiều. Ông ta từng nhốt một con sói và một con chó ngao Tây Tạng vào hai chiếc lồng sắt kê sát cạnh nhau, kết quả phát hiện ra một số chuyện rất thú vị. ông ta kể, con sói kia không dám đối diện với ánh mắt của con Tạng ngao, khi bị Tạng ngao nhìn, nó chỉ biết cúi gằm mặt xuống đất, đuôi cúp lại, những lúc Tạng ngao bước lại phía gần lồng nhốt chó sói, con sói sẽ rúc vào một góc ở cuối lồng, không dám lại gần. Vị chuyên gia đó nói, thứ mà ông ta nhìn thấy nơi con sói ấy không phải vẻ khiếp đảm và run rẩy, mà là nỗi căng thẳng pha lẫn bất an, một sự hèn mọn ti tiện. Ông ta còn nói, ấy là bởi trên mình Tạng ngao toát lên khí thế của bậc vương giả trời sinh, khiến linh hồn của con sói kia phải thần phục. Tất nhiên, tôi cũng không biết liệu đây có phải chỉ là chuyện đùa hay không. Ngoài ra, ông ta còn làm một chuyện kinh người nữa, đó là đã từng lần theo dấu vết của một con Tạng ngao sinh sống giữa bầy sói.

Trác Mộc Cường Ba không ghìm được buột miệng hỏi: "Ông ta đã thấy chưa?"

Lạt ma Á La nói: "Chính kết quả quan sát lần đó đã khiến ông ta thay đổi triệt để cách nhìn của mình đối với chó ngao Tây Tạng. Ông ta nói, nhìn những con Tạng ngao đeo xích sắt bên cạnh đàn dê đàn cừu chẳng khác gì lũ sư tử và hổ trong chuồng ở vườn bách thú, chỉ khi nhìn thấy con Tạng ngao kia giữa bầy sói, ông ta mới cảm thụ được cảm giác trở về, tựa như thấy giao long về với biển lớn, datị bàng sải cánh giữa trời xanh. Được chứng kiến nó dẫn theo bầy sói tự do tự tại tung hoành trên cao nguyên, ông ta nghĩ mình rất sẵn sàng cam tâm tình nguyện trở thành một trong những con sói ấy. Ngoài ra, vị tiền bối đó còn bắt tay nghiên cứu từ một phương diện khác nữa. Mọi người ai cũng biết, chó và sói là hai loài chung một tổ tiên, đều thuộc họ chó, nhưng Cường Ba thiếu gia cậu có biết rằng, trong tất cả các động vật thuộc họ chó, duy chỉ có chó ngao Tây Tạng và sói là có bộ gien khác biệt nhiều nhất, gần như đã vượt quá tỉ lệ tương ứng trên chín mươi phần trăm cần thiết để có thể quy về chung một họ, vì thế cũng có học giả dựa vào căn cứ này để đưa ra quan điểm Tạng ngao không phải do loài sói tiến hóa thành. Nhưng vị tiền bối kia lại nêu một quan điểm khác hẳn với mọi người. Ông ta cho rằng từ mấy triệu năm về trước, trong quá trình tiến hóa thành sói hiện đại của tổ tiên loài sói, có một bộ phận rất nhỏ đã phát sinh biến dị, khiến chúng trở thành những cá thể mạnh mẽ nhất của loài sói thời thượng cổ, và để sinh tồn, bọn chúng cần phải theo đuổi sức mạnh lớn hơn thế nữa. Trải qua mấy triệu năm tiến hóa, những cá thể đặc biệt ấy đã trở thành Tạng ngao của ngày hôm nay. So với lũ sõi, bọn chúng sở hữu thân thể cường tráng hơn, tốc độ cao hơn, nanh vuốt sắc bén hơn, đầu óc tinh minh hơn, chính là các bậc vương giả trời sinh trong học nhà sói. Vị tiền bối kia còn cho rằng, sói hay rộng hơn là cả quần thể họ chó, trong gien của chúng đã in sẵn dấu hiệu thần phục trước Tạng ngao, không phải vì Tạng ngao cường tráng mạnh mẽ hơn, mà bởi vì, chúng mang trong mình thứ huyết thống cao quý. Đương nhiên, một loạt thực nghiệm sau này đã chứng minh lý luận của ông ta không chính xác cho lắm, nhưng vị tiền bối ấy lại là người hiện đại đầu tiên đã đi kiểm chứng sói thống lĩnh trời sinh là gì."

"Nhưng đại sư vừa nói kết luận của ông ta là sai lầm mà?"

Lạt ma Á La gật đầu: "Ừm, đúng vậy, nhưng cũng không phải là sai lầm hoàn toàn. Cuối cùng vị tiền bối đó đã cải cách chính lại kết luận của mình: đó là loài sói ở cao nguyên Thanh Tạng có một mối liên hệ đặc biệt nào đó với chó ngao Tây Tạng, còn có các động vật thuộc họ chó ở những nơi khác dường như không có cái vẻ nhún nhường thần phục ấy. Trên thực tế, vị tiền bối ấy đã đến rất gần chân tướng rồi, chỉ có điều vẫn chưa thể lý giải hàm nghĩa thực sụ của sói thống lĩnh mà thôi, nếu ông ta bắt tay từ lịch sử, biết đâu lại điều tra ra được manh mối gì đó. Được rồi, Cường Ba thiếu gia, tôi đã giới thiệu cho cậu một cách ngắn gọn quan điểm của một số học giả, còn chúng có chính xác hay không, bản thân tôi cũng không rõ lắm đâu."

"Đợi chút đã." Trác Mộc Cường Ba nói: "Sao đại sư lại biết những chuyện này? Sói thống lĩnh rốt cuộc là như thế nào?"

Lạt ma Á La nói: "Chúng tôi đương nhiên biết nguyên nhân tại sao Cường Ba thiếu gia lại đi tìm Bạc Ba La thần miếu, vì vậy trước khi vào việc đã tìm hiểu một chút về chó ngao Tây Tạng, nhưng những điều tôi biết quả thực không nhiều đâu."

"Vị tiền bối kia tên là gì vậy?" Trác Mộc Cường Ba hỏi tiếp. Gã hiểu rõ, có lẽ những điều lạt ma Á La biết về Tạng ngao đúng là không nhiều, nhưng những điều ông biết gã đều chưa từng biết đến, vậy nên gã tuyệt đối không thể bỏ qua bất cứ cơ hội đặt câu hỏi nào.

Lạt ma Á La khẽ ngẩng đầu lên, nói: "Tôi không biết, hồi tôi còn trẻ vị tiền bối ấy đã cao tuổi lắm rồi, giờ thì sớm đã thành ra người thiên cổ rồi, tôi chỉ biết ông ấy họ Trại thôi…"Nói tới đây, vị sư già lia mắt quan sát phản ứng của Trác Mộc Cường Ba, thấy gã không có bất cứ phản ứng nào, không nén nổi phải truy vấn thêm một câu, " Cường Ba thiếu gia dường như không cảm thấy cái họ này có gì đặc biệt thì phải?"

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Họ Trại, tìm, rất hiếm gặp, chưa nghe thấy bao giờ, có phải họ của dân tộc thiểu số nào đó không?"

Lạt ma Á La mỉm cười nói: "Thì ra là chưa nghe qua bao giờ, đó là họ của người Tạng chúng ta, một cái họ tương đối cổ, thậm chí còn lâu đời hơn cả thời gian tồn tại của các vương triều Thổ Phồn và Tượng Tùng. Được rồi, sắc trời đã tối, tôi biết Cường Ba thiếu gia vẫn còn rất nhiều nghi vấn, nhưng giờ chưa phải lúc, cần đi nghỉ sớm để đảm bảo thể lực dồi dào, ngày mai là một khảo nghiệm đối với chúng ta đấy. Những hoài nghi trong lòng Cường Ba thiếu gia cậu chờ tới khi chúng ta từ Đảo Huyền Không tự trở về rồi nói tiếp có được không? Tôi nhất định sẽ nói với cậu tất cả những gì mình biết. Mà những chuyện này cũng nhất thiết phải nói cho cậu biết, bởi vì tất cả, chuyện bốn con thú cánh giữ bốn ơhương, danh xưng sói tuyết cao nguyên và sói thống lĩnh, thảy đều liên quan đến sự hưng thịnh và diệt vong của vương triểu Thổ Phồn, liên quan đến Đạo quân Ánh sáng, liên quan đến …Bạc Ba La."

Trác Mộc Cường Ba nhìn nụ cười mỉm thần bí của Lạt ma Á La, trong lòng càng thêm mê hoặc khó hiểu. Quan hệ giữa chó ngao Tây Tạng và sói làm sao lại dính dáng đến cả Bạc Ba La? Sói thống lĩnh kia rốt cuộc là chỉ thứ gì?

Đi ra đến cửa, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên lại nhớ đến sự thức tỉnh mà ba vị trưởng lão nói, gã ngoảnh đầu lại: "Đại sư, còn một chuyện nữa…"

"Hả?" lạt ma Á La đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba.

"Thôi bỏ đi, không có gì." Trác Mộc Cường Ba xoay người đi, trong lòng thầm tự chế giễu: "Chuyện gì thế này, không ngờ lại còn đi chất vấn cả những chuyện huyền ảo mơ hồ ấy nữa, rốt cuộc là mày đang nghĩ gì thế hả Trác Mộc Cường Ba!"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33: Mối ưu tư của lạt ma á la: vùng đất bí mật cuối cùng


Trác Mộc Cường Ba không đi nghỉ ngơi như lạt ma Á La nói, mà vội vàng mang những thông tin này tới nói với giáo sư Phương Tân. Về những chuyện liên quan tới Tạng ngao mà Lạt ma Á La đề cập, giáo sư cũng cảm thấy hết sức khó tin. Đem sói tuyết cao nguyên gắn với cho ngao Tây Tạng, đây thực là một khía cạnh hoàn toàn mới mà trước đây bọn họ chưa từng nghĩ đến bao giờ.

Lúc nói đến sói thống lĩnh, Trác Mộc Cường Ba thử hỏi ý kiến giáo sư Phương Tân: "Tạng ngao sống chung với bầy sói, thầy giáo, thầy cảm thấy có khả năng này hay không?"

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Về mặt lý luận thì có thể được. Phải biết rằng, sói sống quần thể kiểu gia tộc, không giống với những loài khác, chúng có tập tục tiếp nhận những con sói lưu lãng từ nơi khác đến. Các loài động vật họ chó đều sở hữu cơ quan phát và tiếp nhận tín hiệu gần giống nhau, điểm này rất quan trọng đối với chuyện xác nhận thân phận và giao lưu. Hơn nữa dựa trên kết quả nghiên cứu của tôi, đại đa số động vật họ chó đều có ngôn ngữ cơ thể cực kỳ giống nhau, chẳng hạn hướng trỏ của cái đuôi, ánh mắt, khóe miệng, cách phát âm, lăn lộn…cũng giống như những động tác ra hiệu bằng tay thường dùng của con người mà cả thế giới đều hiểu vậy. Yếu tố tương đồng này chính là nền tảng vững chắc để chúng tiến thêm một bước trong khả năng giao lưu giữa các cá thể. Không biết cậu đã xem qua một cuốn tiểu thuyết tên là Tiếng gọi nơi hoang dã chưa. Cuốn sách đó viết về một con chó được con người thuần dưỡng, đã trải qua rất nhiều sự kiện trong xã hội loài người, cuối cùng quay trở về với đàn sói, và trở thành sói đầu đàn. Bỏ qua không nói đến ý nghĩa xã hội của câu chuyện, trong tác phẩm tác giả miêu tả tương đối sinh động quá trình một con chó săn đã trở thành sói đầu đàn. Do vậy, mặc dù nói chó săn gần với sói hơn chó ngao Tây Tạng, nhưng chúng ta cũng không thể loại trừ khả năng Tạng ngao sống chung với bầy sói được. Sở dĩ chúng ta chưa từng nhìn tháy bao giờ là vì ngày nay cả sói lẫn Tạng ngao hoang dã đều còn lại quá ít. Nhưng kiến giải về sói thống lĩnh trời sinh thì hình như hơi quá khoa trương, tôi sẽ giữ thái độ hoài nghi. Phân tích từ những điều lạt ma Á La nói, tôi khẳng định là vẫn còn nội tình gì đó ở đây."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Lạt ma Á La kể, ông ấy biết được những thông tin này từ một vị tiền bối…" Kế đó, gã thuật lại các điều tra nghiên cứu mà vị tiền bối lạt ma Á La nhắc đến đã thực hiện. Mới kể được một nửa, đã nghe giáo sư Phương Tân ngắt lời nói: "Vị tiền bối mà lạt ma Á La nói ấy, có phải là một vị họ Trại, người dân tộc Tạng hay không?"

"Ồ." Trác Mộc Cường Ba ngớ người ra giây lát, gật đầu.

"Thầy giáo cũng biết người này?"

"Ừm." giáo sư Phương Tân nói, "hồi tối học đại học, thầy giáo của tôi từng nhắc đến con người này. Ông ấy nói, thời kỳ trước giải phóng, vị họ Trại này chính là người yêu thích nghiên cứu Tạng ngao cuồng nhiệt nhất, nếu không có người đó, thầy giáo của tôi thậm chí còn không biết trên thế giới này còn có loài chó ngao Tây Tạng ấy nữa, chính là vị tiền bối ấy đã thay đổi phương hướng cũng như đề tài nghiên cứu của thầy giáo dạy tôi đó."

Nói tới đây, giáo sư Phương Tân ngưng lại một chút, cơ hồ đang hồi tưởng lại chuyện quá khứ. Trác Mộc Cường Ba hỏi thêm một câu: "Thầy giáo, thầy của thầy trước đó nghiên cứu đề tài gì vậy?"

Giáo sư Phương Tân tiện miệng đáp luôn: "Nhân giống gấu trúc nhân tạo." Ông định thần lại, ngước mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba mỉm cười, rồi nói tiếp: "Vào thời ấy thì đây là hạng mục nghiên cứu khoa học trọng điểm. Có điều vị Trại tiên sinh kia, thực ra không thể noi là một học giả được, ông ấy chỉ chuyên chú vào Tạng ngao mà thôi, vì vậy thầy giáo của tôi mới gọi ông ta là người yêu thích chó ngao Tây Tạng."

"Vậy thầy giáo của thầy nhất định là biết rất nhiều chuyện về vị Trại tiên sinh ấy rồi? Ông ấy tên là gì? Là người vùng nào ở Tây Tạng? Giờ còn có thể tìm được ông ấy nữa không…" Trác Mộc Cường Ba hỏi liền một hơi dài.

Giáo sư Phương Tân lắc đầu nói: "Không, không, thực ra thầy giáo của tôi hết sức ngẫu nhiên có gặp mặt ông ấy một lần, sau này bọn họ đều chỉ thư từ qua lại. Thầy giáo của tôi luôn gọi ông ấy là Trại tiên sinh, tôi cũng không biết ông ta tên là gì nữa, chỉ nhớ thầy giáo tôi từng rói rằng, Trại tiên sinh có thân phận hết sức đặc biệt, đó là một chức nghiệp liên quan đến động vật, nghe nói đó cũng là một chức nghiệp cực kỳ đặc biệt ở Tây Tạng, gọi là gì thì tôi cũng quên mất rồi." Giáo sư Phương Tân đẩy gọng kính lên sống mũi, đoạn nói tiếp "tóm lại là, thầy giáo tôi đánh giá Trại tiên sinh đó rất cao, nói rằng thời kỳ trước và đầu giải phóng, ông ấy là người am hiểu nhất về chó ngao Tây Tạng, hơn nữa con người này còn tinh thông nhiều thứ ngôn ngữ, có học thức rất sâu rộng, vậy nên đến giờ tôi vẫn còn chút ấn tượng về ông ấy. Nhưng vị Trại tiên sinh này trước nay chưa từng xuất hiện trên bất xứ báo, tạp chí hay ấn phẩm học thuật nào, có lẽ ông ấy là người độc lai độc vãng, điều này chắc có liên quan đến chức nghiệp thần bí kia của ông ấy cũng nên."

Vốn tưởng rằng giáo sư Phương Tân biết nhiều hơn, Trác Mộc Cường Ba không khỏi có chút thất vọng. Giáo sư Phương Tân thấy vậy, mỉm cười nói: "Được rồi, thu hoạch của chúng ta hôm nay cũng đủ rồi, những đầu mối này thoạt nhìn thì có vẻ không ra đâu vào đâu, nhưng lại là một phương hướng hoàn toàn mới mẻ, thêm một chút thời gian nữa, nhất định chúng ta sẽ có bước đột phá lớn. Giờ đã muộn lắm rồi, lạt ma Á La nói đúng đấy, ngày mai có lẽ sẽ rất nguy hiểm, chúng ta cần phải chuẩn bị cho tốt, giờ chưa phải thời cơ thích đáng để thảo luận những vấn đề này đâu. Trở về nghỉ ngơi trước đã, OK?"

Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm giây lát rồi nặng nề gật đầu bước đi.

Gió đêm u uất, tường đá im lìm dưới bầu trời sao lồng lộng, một cánh chim ưng lướt về phía vầng trăng non. Lữ Cánh Nam bước ra hậu viện khu nhà, nói với bóng đen đứng phía trước: "Á La đại nhân."

Bóng đen quay đầu lại, điềm đạm nói: "Ừm, con biết không, thôn Công Bố này là hậu duệ của Ngoại Kim Cương viện ở Phương Nam của chúng ta, Cánh cửa sinh mệnh chính là Thánh đàn của giáo ta."

Lữ Cánh Nam khẽ kêu lên: " Á, điều…điều này thì con không hề nghĩ đến, chỉ cảm thấy có chút quen thuộc thôi."

Lạt ma Á La nói: "Lần này có thể liên hệ được với họ đúng là thu hoạch bất ngờ, đã xa cách cả nghìn năm rồi, bọn họ vẫn kiên trì với sứ mệnh của mình. Nếu không phải nhìn thấy những thứ bên trong Thánh đàn, ta cũng không ngờ bọn họ lại chính là hậu duệ của Ngoại Kim Cương viện đâu."

Lữ Cánh Nam nhìn theo bóng chim ưng đã biến thành một chấm đen trên nền trời, nói: "Báo với Trưởng lão hội rồi ạ?"

Lạt ma Á La gật đầu: "Ừm, chuyện ở đây vẫn phải để Trưởng lão hội cân nhắc đưa ra quyết định, ta không thể làm chủ được."

Lữ Cánh Nam nói: "Vậy, còn thân phận Thánh sứ đại nhân của Cường Ba thiếu gia…"

Lạt ma Á La đáp: "Chuyện này thì ta cũng không biết. Thân phận Thánh sứ là gì, Thánh sứ phụ trách sứ mệnh gì, bọn họ đều không hé môi nửa lời. Bọn họ cũng tuân thủ theo quy tắc giống như chúng ta, chỉ trung thành với lời thề, chứ không trung thành với bất cứ người nào, tuyệt đối không nói chuyện này với người ngoài đâu, cho dù là người cùng giáo phái cũng không thể. Có điều theo ta thì trải quan một nghìn năm, phương pháp xác nhận thân phậ Thánh sứ của họ e là đã có vấn đề. Nói thế nào thì Merkin cũng không thể là Thánh sứ mới ohải, hắn là người ngoại quốc cơ mà."

Lữ Cánh Nam trầm ngâm: "Liệu có khả năng không phải Merkin, mà một người nào đó trong đám lính đánh thuê của hắn?"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Không, ta đã xác nhận lại rồi, chính là Merkin. Hơn nữa, con cũng biết đấy, Thánh sứ không chỉ có mình Merkin và Cường Ba thiếu gia,còn có những Thánh sứ khác nữa…"

Lữ Cánh Nam ngạc nhiên thốt lên: "Đây…rốt cuộc là chuyện thế nào vậy? Thánh sứ này rốt cuộc là để làm gì? Con nghe cách nói của Đa Cát, hình như Thánh sứ có quan hệ trực tiếp với Bạc Ba La thần miếu thì phải?"

Lạt ma Á La gật đầu: "Ừm, Thánh sứ hình như là người có thể đi thẳng đến Bạc ba La thần miếu, hoặc là người có thể nảy sinh một mối liên hệ gì đó với Bạc Ba La thần miếu, còn những người khác thì đều không có tư cách này. Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, cho dù không có thôn Công Bố xác nhận thân phận Thánh sứ của Cường Ba thiếu gia, thì chẳng phải là chúng ta cũng nghĩ như vậy hay sao, trong cơ thể của Cường Ba thiếu gia, chẳng phải đang chảy dòng máu cao quý thần thánh đó hay sao?" Ông hướng ánh mắt nhìn lên bầu trời đêm xa thẳm, một chút ưu tư thấp thoáng hiện lên vầng trán, thầm nhủ: "Nhưng mà sức khỏe của Cường Ba thiếu gia cũng khiến người ta thật hết sức lo lắng, lần sơ suất này…thật không biết phải ăn nói với Trưởng lão hội thế nào…"

Lữ Cánh Nam dường như đã nhìn thấu tâm tư của lạt ma Á La, liền truy vấn: "Á la đại nhân, con muốn biết, sức khỏe của Cường Ba thiếu gia, rốt cuộc…"

Lạt ma Á La lắc đầu nói: "Còn nhớ chuyện ta từng nhắc nhở con không, chớ nên đánh giá thấp người bộ tộc Qua Ba, chớ nên coi thường vu thuật của người Tạng cổ. Lần này, Cường Ba thiếu gia chính là trúng phải cổ độc Đại Thanh Liên, ba vị trưởng lão đó đã chứng thực rồi."

Lữ Cánh Nam vội nói: "Cũng có nghĩa là lúc ấy ngâm trong nước sạch chỉ giải trừ được đau đớn bên ngoài, chứ không thể trừ tận gốc cổ độc?"

Lạt ma Á La gật đầu xác nhận. Lữ Cánh Nam lolắng nói: "Vậy thì sẽ ra sao?"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Không nói được, ba vị trưởng lão chỉ khẳng định trong khoảng thời gian tới đây sẽ không xuất hiện bất cứ vấn đề gì, lâu nhất cũng không quá hai ba năm, sau đó thì không rõ, ta còn phải thỉnh giáo Trưởng lão hội, xem các vị đại nhân ở đó có cách gì không. Phải rồi, chuyện này ngàn vạn lần không được để Cường Ba thiếu gia biết, trừ phi là chúng ta đã tìm được phương cách giải quyết."

Lữ Cánh Nam không nói gì.

Lạt ma Á La đột nhiên gằn giọng: "Ở đây có quá nhiều chuyện cần chúng ta phải làm rõ đầu mối, một nghìn năm chờ đợi mòn mỏi có lẽ chính là vì ngày hôm nay đây! Con nhất định phải nhớ rõ thân phận và sứ mệnh của mình, trên danh nghĩa con là chỉ huy của đội ngũ này, chúng ta không cho phép con phạm bất cứ sai lầm nào, đặc biệt là đối với Cường Ba thiếu gia, con hiểu chưa?"

Lữ Cánh Nam cúi gằm mặt: "Con hiểu rồi."

Lạt ma Á La thấp giọng xuống: "Đúng rồi, còn hai chuyện nữa con cần phải biết, con còn nhớ bài ca Đa Cát đã đọc thuộc lòng đó không?"

Lữ Cánh Nam đáp: "Con nhớ"

Lạt ma Á La nói: "Đó chính là Tụng ca, ta đã xác nhận được ở chỗ ba vị trưởng lão. Thôn Công Bố hiện giờ chỉ còn lại mười một phần Tụng, tất cả đều tách rời độc lập, ngay cả trước kia, họ cũng có chừng không quá ba mươi phần Tụng đâu, nhưng những điều họ nắm giữ hẳn phải có một phần rất lớn có giá trị then chốt. Ta cũng đã báo thông tin này cho Trưởng lão hội, hy vọng họ có thể tìm ra nguồn gốc và xuất xứ bài Tụng ca này, nếu có các kinh văn liên quan nữa, nói không chừng đây sẽ là một đầu mối vô cùng đắc dụng đó."

Lữ Cánh Nam thắc mắc: "Con không hiểu, dựa theo nội dung đã dịch ra được của Cổ Cách kim thư thì bấy giờ cổ nhân đã cố ý phân tán các đầu mối, tại sao lại để những người trong thôn Công Bố này ở lại nơi đây? Lại còn bảo vệ đầu mối quan trọng tới nhường này nữa?"

"Đó chính là đáp án mà cả nghìn năm nay chúng ta vẫn đang tìm kiếm đấy." Lạt ma Á La ngẩng đầu lên nhìn bầu trời đêm, trầm mặc hồi lâu, rồi mới đổi giọng nói "Phải rồi, lần trước ta có nhắc đến mười ba người muốn đến địa cung Ahezt trộm mộ, theo tin tức Trưởng lão hội gửi đến, bước đầu phỏng đoán rằng đó chính là 13 Kỵ sĩ Bàn Tròn, nếu Merkin và người áo xám đó…"

"Kỵ sĩ Bàn Tròn?" Lữ Cánh Nam lặp lại danh từ xa lạ ấy.

"Ừm" Lạt ma Á La nói: "13 Kỵ sĩ Bàn Tròn, là tổ chức trỗi dậy nhanh nhất, thực lực mạnh nhất, nguồn gốc thần bí nhất trong rất nhiều cơ quan, tổ chức tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu khoảng một hai chục năm gần đây, đồng thời cũng là đối thủ đáng sợ nhất trong các kẻ địch mà Thánh giáo ta từng phải đụng đầu. Trước đây, trong các cuộc chiến giành giật đầu mối đề tìm kiếm Thánh miếu, bọn chúng là thế lực hung hăng càn quấy nhất, không chỉ đối địch với Thánh giáo chúng ta, mà còn không bỏ qua cho bất cứ tổ chức nào muốn dính dáng đến Thánh miếu. Nhưng mấy năm gần đây, đột nhiên tổ chức này ẩn hình giấu tích, tin đồn thì có đủ loại, đoán chừng là do chúng tổn thất nặng nề trong địa cung của ngườu Maya, không thể nào gượng dậy được nữa."

Lữ Cánh Nam nghi hoặc nói: "Tại sao con không hề biết chuyện này nhỉ?"

Lạt ma Á La nói: "Lúc con tiếp xúc với trận chiến đưa Thánh miếu trở về, tổ chức này đã biến mất được một thời gian rồi, mà kẻ địch của chúng ta thì nhiều lắm, tất cả những kẻ nào đã biến mất thì đều không cần nghĩ đến nữa. Con có biết không, số mười ba này ở phương Tây là biểu trưng cho địa ngục, 13 Kỵ sĩ Bàn Tròn chính là nói đến những kỵ sĩ sa đọa trốn địa ngục. Mới đầu chúng ta cũng chỉ biết có một nhóm người tự xưng là 13 Kỵ sĩ Bàn Tròn, chuyên đi trộm các lăng mộ thuộc hàng quốc bảo của các nước trên thế giới, không ngờ bọn chúng đúng là có mười ba người thật."

Lữ Cánh Nam trầm ngâm suy tư, 13 Kỵ sĩ Bàn Tròn, những kỵ sĩ sa đọa trốn địa ngục, cái tên này mang đến cho cô dự cảm hết sức bất thường.

Sáng sớm ngày hôm sau, tất cả bị tiếng cánh quạt của máy bay trực thăng đánh thức, đổi xong hành trang, cả đoàn lại vội vã lên đường. Đa Cát là người có thể ra khỏi thôn Công Bố, lại có khả năng tìm được Cánh cửa địa ngục, đồng thời được Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La cùng ra sức tiến cử, anh chàng đắc ý dương dương ngồi lên máy bay trực thăng. Nhưng ánh mắt cô nàng giáo quan kia thì trông như vẻ bất cứ lúc nào cũng có thể giơ chân đạp văng tên tiểu tử lùn một mẩu cuồng vọng tự đại này xuống khỏi máy bay. Sau khi trực thăng cất cánh, mọi người mới trông thấy một cái bóng đỏ rực ở tít đằng xa chạy theo máy bay một quãng dài nhưng cuối cùng vẫn không thể đuổi kịp. Các thành viên trong đội trên máy bay đều cười thầm trong bụng, tên nhãi Đa Cát này giả bộ không để ý, vậy mà khóe mắt lại cứ liếc về phía sau.

Bay về phía Tây được nửa tiếng đồng hồ là đến Cánh cửa Địa ngục mà Đa Cát nói đến. Xuống máy bay, xung quanh núi non vây bọc cây cối rậm rạp thâm u, vách đá hun hút, bên dưới là dòng Nhã Lỗ Tạng Bố thét gào gầm rú, nước chảy rất xiết, thế tựa như ngàn vạn thớt ngựa cùng tung vó lao đi. Chỉ thấy có một bình đài khá thông thoáng, xa xa núi non nhấp nhô, trùng trùng điệp điệp, kéo dài liên miên không dứt. Gần đó là vực sâu, xung quan toàn vách núi, một dòng sông cuồn cuộn chảy không ngừng, thung sâu u tĩnh, nếu có thêm một gian nhà cỏ thì tưởng chừng như nơi đây chính là lựa chọn tuyệt vời cho bậc ẩn sĩ chốn thâm sơn.

Dòng sông như một đường lạch trời rạch phá núi xanh; sông dài tuôn chảy, tựa một con rắn bạc hay một dải lụa trắng quấn quanh khối ngọc bích. Mấy ngọn thác dạng bậc thang lao thẳng xuống từ chín tầng trời cao, bắn tóe ra những quầng hơi nước mịt mùng, lại như hoa bay tơi tả trong đêm tuyết, sương mù vẩn vít mờ mờ, tiếng vang vẳng tới mây xanh, tựa rồng ngâm hổ hú, như chim kêu vượn hót. Hơi ẩm bốc lên, ập vào mát rượi, thêm nữa lại có mặt trời rực rỡ, ánh lên giữa thác nước những quầng sáng bảy màu, từng cây cầu vồng bắc qua dải nước biêc giữa những ngọn linh sơn. Đếm dần từ dưới lên trên, tổng cộng có năm đạo cầu vồng, ánh sáng mê ly huyền ảo, hòa cùng ảo ảnh do hơi nước mù mịt tạo ra, cảnh tượng tựa hồ như chốn tiên cảnh vậy. Ở tầng mây bay thác đổ trên cùng, cầu vồng khúc khủyu, không ngờ lại đã hình thành một vòng ánh sáng lấp lánh, hệt như Phật quang, khiến người ta sinh niềm kính ngưỡng từ tận đáy tim, dấy lên cảm xúc bồi hồi rung động.

Mọi người đều không kìm nén nổi cảm giác xúc động sâu sắc, lạt ma Á La thậm chí còn nước mắt lưng tròng. Quang cảnh này, là biết bao nhiêu bậc tu sĩ hồng hóa(1) mà thành, phải mất mấy ngàn năm mới có được. Nhạc Dương, Trương Lập thì bừng bừng phẫn nộ, cảnh tượng nhường này mà lại bị gọi là Cánh cửa Địa ngục, thế thì chẳng phải là ảnh hưởng đến cả phong cảnh tuyệt trần nơi đây hay không!

Trương Lập đưa mắt quan sát bốn phía xung quan, không tin tưởng hỏi lại: "Đa Cát, chỗ này đúng là Cánh cửa địa ngục đấy chứ? Có giống đâu." Đa Cát gật đầu chắc như đinh đóng cột. Nhưng nơi đây đến cả một chút dấu vết nhân tạo cũng không hề có, hoàn toàn là cảnh sắc tự nhiên, xung quan chỉ có núi, có nước, có cây, đừng nói là cửa, mà đến cả một thứ giống cái cửa cũng chẳng có luôn. Theo như Đa Cát nói, nơi này không hề có một ký hiệu nhân tạo nào, phải hoàn toàn dựa vào ký ức về hình thể núi non cây cối xung quan thì mới có một nơi thế này ở đây. Nói như vậy đúng là có cảm giác hết sức bí mật thật, một nơi mãi mãi chỉ tồn tại trong ký ức của mấy con người, thế nhưng ở đây một là không có cửa, hai là không có lối thông, hỏi Đa Cát thì anh ta cũng chẳng biết gì, chỉ biết nơi này chính là Cánh cửa Địa ngục trong truyền thuyết mà thôi.

Nhạc Dương hỏi: "Cánh cửa Địa ngục đã mở, các dũng sĩ phải xuất phát lên đường. Cửa mở ở chỗ nào thế?" Anh chàng chỉ xuống dòng sông cuộn chảy ầm ầm hàng trăm mét bên dưới nói, "Chẳng lẽ bảo chúng ta phải đi dọc theo sông Nhã Lỗ Tạng Bố này chắc?" Hai mắt Đa Cát sáng bừng lên nói: "À, chuyện này cũng rất có khả năng đấy. Không biết cẳng chân này của Thánh mẫu rốt cuộc là đuổi đến tận đâu nữa." Nhạc Dương nghe vậy liền cốc mạnh vào đầu Đa Cát một cú.

Lữ Cánh Nam vẫy tay nói: "Đi thôi, xem ra ở đây chẳng có đầu mối gì hết. Đa Cát, anh ở đây tự quay về hay là để chúng tôi phái người đưa anh về?"

Đa Cát trợn tròn mắt lên nói: "Tôi…tôi đi Tượng Hùng với mọi người."

Lữ Cánh Nam tỏ ra khinh miệt: "Anh đi làm gì? Nơi chúng tôi sắp đi đây vô cùng nguy hiểm, đội ngũ này đều là những người đã trải qua huấn luyện đặc biệt cả rồi, chúng tôi không thể lo cho sự an toàn của anh được, mà anh lại còn làm chậm tiến độ tiến lên của chúng tôi nữa."

Gương mặt Đa Cát đỏ bừng lên, trong thôn còn chưa có người nào dám nói với anh ta những lời ấy, anh chàng uất ức kêu lên: "Tôi, tôi là thợ săn giỏi nhất trong thôn Công Bố, tôi sẽ không làm liên lụy mọi người đâu! Hơn nữa…hơn nữa còn có thể giúp mọi người rất nhiều nữa!"

Lữ Cánh Nam nhìn Đa Cát như thể nhìn một chú bé, mỉm cười nói: "Anh có thể giúp chúng tôi làm gì chứ?"

Đa Cát nói: "Tôi…tôi…có thể dẫn mọi người tìm đến lối vào Đảo Huyền Không tự." Lữ Cánh Nam lắc đầu: "Chúng tôi có bản đồ rồi"

Đa Cát nói: "Tôi, tôi biết các cơ quan bẫy rập mà người xưa đã bố trí, tôi có thế phá giải chúng nữa." Lữ Cánh Nam vẫn lắc đầu: "Về mặt này thì chúng tôi đều là chuyên gia, không cần anh giúp đỡ."

Đa Cát nói: "Tôi, tôi còn biết rất nhiều chuyện liên quan đến Thánh địa, toàn là những chuyện chỉ có Trưởng lão thôn Công Bố chúng tôi chúng tôi mới biết thôi."

Lữ Cánh Nam liếc mắt nhìn Đa Cát, đến khi trán chàng lùn túa mồ hôi ra, cô mới nói: "Thế này đi, để chứng minh anh không phải là cục nợ gây liên lụy cho chúng tôi, hãy chọn bất cứ người nào trong những người ở đây, nếu anh thắng được, tôi sẽ cho anh đi cùng."

Nhìn anh chàng Đa Cát cao chưa đến mét rưỡi, Trác Mộc Cường Ba thầm lắc đầu, đoạn ngoảnh sang nhìn Đường Mẫn, thẩm nhủ: "Nếu chọn Mẫn Mẫn thì may ra còn có cơ hội giành chiến thắng."

Nhưng sự tự tôn và kiêu ngạo của Đa Cát không cho phép anh ta lựa chọn một đối thủ nữ giới. ngoại trừ Thánh sứ Trác Mộc Cường ba, Đa Cát quét ánh mắt qua người từng đội viên đã được huấn luyện đặc biệt, chỉ tay vào Ba Tang nói: "Vậy thì chọn anh Ba Tang đi!"

Giải nghĩa: Hồng hóa: Theo thư tịch của Phật giáo Tây Tạng ghi chép, hồng hóa là hiện tượng cao tăng đắc đạo khi viên tịch thân thể không ngừng thu nhỏ lại trong nháy mắt hoặc vài ngày, cuối cùng tan biến, hóa thành đạo cầu vồng. Tương truyền, những tu sĩ phái Ninh Mã cổ tu luyện đến mức đại viên mãn thì sẽ hồng hóa

Cùng thời điểm ấy, trong đại sảnh của thôn Công Bố, vị trưởng lão có vầng trán rộng lên tiếng hỏi: "Đi rồi à?" Na Thâm gật đầu: "Vâng, bọn họ ngồi lên con chim sắt, bay đi rồi."

Trưởng lão nghe xong gật đầu vẫy tay ra hiệu cho na Thâm có thể lui đi, đồng thời ngỏanh sang nhìn vị trưởng lão mi dài, tựa hồ như đang hỏi ý. Trưởng lão mi dài nói: "Vị Thánh sứ đầu tiên đã đi rồi, vị Thánh sứ thứ hai cũng đi rồi, vòng Luân hồi đã khởi động, những người còn sót lại trên mảnh đất này cũng phải theo vết chân của các vị tiền bối, đi tìm nơi Thánh địa ấy. Chung quy thì vẫn là số mệnh, chung quy thì vẫn là số mệnh!"

Vị trưởng lão mũi sư tử hỏi: "Vậy còn vị Thánh sứ thứ ba? Vị thánh sứ đại nhân thứ ba có còn đến chỗ chúng ta nữa hay không? "

Trưởng lão mi dài lắc đầu: "Không có nữa đâu. Vị Thánh sứ đầu tiên đã mang chìa khóa đi, vị Thánh sứ thứ hai đã mang Hồng thạch đi, Cánh cửa sinh mệnh đã đóng lại, không còn thứ mà các vị Thánh sứ cần nữa rồi, vị Thánh sứ thứ ba sẽ không đến đâu. Có điều, lần này Nam phương Ngoại Kim Cương viện của chúng ta có thể bắt liên lạc được với Bắc phương Ngoại Kim Cương viên, thì cũng coi như không uổng công cay đăng khổ sở ở chốn không người này suốt một nghìn năm, rồi sẽ đến một ngày, Mạn Đà La sẽ trùng hiện lên ánh sáng chói ngời."

Vị trưởng lão trán rộng nói: "Tôi có linh cảm rất mãnh liệt, hai vị Thánh sứ lần này khác hẳn với những vị trước đây, bọn họ chắc chắn sẽ tìm được Thần miếu cuối cùng, đại thần Ma Hê Thủ La ở trên trời cao quan sát, nhất định sẽ phù hộ cho họ."

Trưởng lão mũi sư tử lo lắng nói: "Nhưng trong các ghi chép để lại, trong thần miếu cuối cùng ngoài giáo lý của chúng ta ra còn có lời nguyền đáng sợ đó nữa, nếu lỡ bất cẩn…hậu quả sẽ khó mà tưởng tượng nổi."

Vị trưởng lão trán rộng thấp giọng ngâm nga: "Một khi để máu tanh vấy bẩn bậc thang Thánh miếu, vô số tai ương sẽ ùn ùn kéo đến như tuyết lở, giáng xuống tất thảy mọi nơi. Tất cả thành thị đều sẽ biến thành nơi hoang phế không một bóng người, giống như sài lang an cư bên dưới Thánh đàn, lũ độc xà phơi nắng trên bậc cấp, lưới nhện bịt kín khung cửa, lòai hoa chết chóc nở khắp mặt đất mênh mông…" Không sai, trong sổ sách nghìn năm trước của thôn làng chúng ta có ghi lại như vậy, nhưng chúng ta phải tin rằng các Thánh sứ có đủ năng lực để giáng phục tất thảy mọi điều tà ác trên đời,:

Vị trưởng lạo mũi sư tử bất an thở dài: "Nhưng mà các vị Thánh sứ đại nhân đều đã quên đi thân phận của mình, vả lại còn cổ độc trên người vị Thánh sứ thứ hai nữa…Nhiều nhất chỉ còn sống được hai năm nữa thôi."

Vị trưởng lão mi dài nói: "Cát Tường Thiên Mẫu, Đại Cát Tường Thiên mẫu, Lục Độ Mẫu(1), các vị ấy đều sẽ chiếu cố lo lắng đến người gánh vác sứ mệnh, đây không phải chuyện mà chúng ta có thể lo lắng được."

Chú giải: Cát Tường Thiên Mẫu, Đại Cát Tường Thiên Mẫu còn gọi là Đại Cát Tường Thiên Nữ, Thiện nữ, là vị nữ thần hộ pháp trong Phật giáo Tây Tạng, thần bảo vệ cho thành Lhasa và Đạt Lai Lạt Ma, có ảnh hưởng rất sâu rộng trong Mật tông Tây Tạng.

Lục Độ Mẫu: Một trong hai mươi mốt hóa thân của Quan Thế m Bồ Tát.

Trong khe sâu không nhìn thấy ánh mặt trời dưới lòng đất…

"Hừm, làm được lắm, Lôi Ba." Merkin tán thưởng. Trừ một sợi bị bắn chệch, năm sợi thừng đã được bắn hết sức chuẩn xác từ bờ bên này sang vách đá đối diện, khoảng cách không gian hơn hai trăm mét đã được nối liền.

Hai mắt Lôi Ba nheo lại thành một khe hở hẹp, cười cười nói: "Ông chủ quá khen rồi."

Sau khi trải quan đợt huấn luyện quân sự của Merkin, quan hệ của cả đám người này và hắn đã không chỉ là giữa chủ thuê và người làm thuê nữa, mà hầu hết là những thành viên đã được huấn luyện đều nảy sinh thêm cảm giác kính sợ đối với Merkin, khiến bọn chúng không dám phản kháng hắn.

Merkin ngoảnh lại nhìn Tây Mễ, thấy tên này đang lạnh lùng quan sát, cặp mắt tam giác thoáng lộ một tia nhìn khiến người ta phải rùng mình ớn lạnh. Y hiểu rất rõ mục đích của Merkin, nhưng đối phương lại nắm trong tay quân bài chốt khiến y không thể nào mở miệng được.

Soares nói: "Để tôi qua xem trước thế nào, nói không chừng còn có cơ quan cạm bẫy." Nói đoạn, y đã bám dây thừng biến mất trong bóng tối mịt mùng.

Mười phút sau, không thấy hồi âm, bọn Merkin đứng bên bờ khe vực sốt ruột chờ đợi. Lại thêm mười phút nữa trôi qua, vẫn không có tín hiệu gì, Merkin không kìm được nữa, giật lấy bộ đàm nói: "Soares!Soares! Anh nghe thấy gì không? Có phải đã đến rồi chưa? Soares…"

Lát sau, một quả pháo sáng bắn vọt lên bầu không đen kịt, chứng tỏ Soares đã sang bờ bên kia an toàn, sau đó là tiếng rẹt rẹt khi Soares mở máy bộ đàm: "Mau qua đây mà xem, bọn người phương Đông này biết phép thuật…Trời đất ơi, anh không biết được đâu…hùng vĩ quá!"

Hết quả pháo sáng này lại đến quả pháo sáng khác từ từ bay lên, Merkin đang bám ở đoạn giữa sợi dây thừng biết đây là do Soares đang quan sát toàn bộ Đảo Huyền Không tự bắn lên. Y hơi ngẩng đầu, liền trông thấy một kiến trúc dạng Phật tháp cao khoảng chín tầng nhưng được xây lộn ngược. Cả tòa Phật tháp lộn ngược treo lơ lửng trên không trung, trông như núi Tiên trong Đạo giáo truyền thống của Trung Quốc vậy. Cảm giác đầu tiên hiện ra trong đầu Merkin là…không thể tin nổi, đây là ảo giác. Kiến trúc lớn như thế, sao có thể treo ngược trên không trung được!

Quả pháo sáng tiếp theo bắn lên, Merkin lại nhìn thấy rõ ràng, thì ra không chỉ có một tòa, mà là vô số những tòa tháp bảy tầng, mười hai tầng, lớn nhỏ lộn ngược tựa nh những ngọn núi úp ngược trôi lơ lửng giữa không trung, trong bóng tối thâm u kia lại còn có không biết bao nhiêu tòa tháp náu mình nữa. Nếu như nơi này không ẩn mình trong bóng tối, lại có thêm hạc tiên mây trôi, thì những thứ Tiên điện, hay Lăng Tiêu bảo các (1)

Merkin bám dây thừng bò đến chỗ Soares đứng, Soares đang ngẩng đầu nhìn trong tư thái hết sức xuất thần. Chỗ này là phẩn đỉnh của một ngôi Đảo Huyền Không tự, một dạng tế đàn hình bát giác rộng hơn trăm mét vuông, có lan can đá vây quanh, chính giữa sừng sững một tượng Phật cao ba mét, xung quan tượng Phật là tám vị bồ tát, hiền giả. Dây thừng có gắn móc câu của bọn y bắn từ bên kia sang đều găm bào những tượng đá này.

Đến bên mép lan can, cúi đầu ngó xuống, là vực sâu hun hút không nhìn thấy đáy. Vì tầng trên cùng này có diện tích lớn nhất, càng xuống dưới càng thu hẹp lại, thành ra dù đứng ở tầng nào nhìn xuống dưới đều chỉ thấy vực sâu tối tăm, khiến người ta không khỏi rùng mình kinh sợ.

Merkin đến cạnh Soares, cất tiếng hỏi: "Bọn họ làm thế nào vậy?"

Soares lại bắn một quả pháo sáng nữa lên, trỏ vào phần bệ của một ngôi Đảo Huyền Không tự, chỉ thấy trong bóng đêm có một cánh tay vươn ra, tựa như Thác Tháp Thiên Vương nâng tòa bảo tháp lộn ngược, chống đỡ cho ngôi chùa. Merkin lẩm bẩm: "Thế này…thế này thì trái lẽ thường quá rồi. Phần bệ nhỏ như vậy chống đỡ cả đỉnh tháp khổng lồ nhường này, không thể nào giữ được thăng bằng một cách chuẩn xác, mà cũng không thể chịu nổi trọng lực, một cánh tay bằng đá như vậy vươn ra không trung, làm sao mà đỡ được cả một vật thể khổng lồ như thế này chứ?"

Soares lắc đầu: "Không biết. Có điều, tòa tháp ngược này cũng do một cánh tay bằng đá chống đỡ, đây là tòa tháp lộn ngược gần bờ vực bên kia nhất, những tòa tháp khác đều ở phía sau nó, còn bên đầu kia khe vực thì còn cách tòa tháp này ít nhất cũng phải hơn trăm mét nữa. Nói cách khác, chiều rộng thực sự của khe vực này chắc chắn phải trên bốn trăm mét."

Lúc này, những người khác trong đội của bọn y cũng đã lần lượt sang đến bình đài bát giác. Merkin ra lệnh cho thủ hạ đốt ống cháy sáng, bình đài lập tức sáng bừng lên. Soares nói: "Phải tìm đường xuống dưới thôi, chúng ta phải từ mặt tháp lớn nhất này xuống đến tầng dưới đáy tháp, sau đó đi men theo cái rường đá khổng lồ mà sang bờ bên kia của khe vực, nhưng ở đây dường như không có đường nào đi được. Người Cổ Cách cổ đại làm sao ra vào được nhỉ? Có lẽ phải tìm lối ra trên thân mấy tượng Phật này thôi." Y bước đến trước mặt pho tượng Phật ở giữa, nhìn chằm chặp vào cái móc sắt bị oằn ra nằm trên mặt đất. Loại móc câu bắn ra bằng pháo từ lực này uy lực kinh người, cho dù đá hoa cương cũng có thể xuyên vào được sâu đến mấy mét, nhưng cái móc sắt này không ngờ lại bị oằn đi. Ánh mắt Soares dần dịch chuyển lên cao, cuối cùng cũng phát hiện ra một vết hằn rất nhạt trên thân pho tượng Phật, y gọi Merkin lại nói: "Anh nhìn xem, móc câu hợp kim sắt của chúng ta lại không ghim vào nổi tượng Phật này…tượng Phật này không ngờ là hợp kim đồng. Một pho tượng lớn thế này, toàn bộ đều đúc bằng hợp kim đồng cả đấy."

Merkin lấy ra thứ vũ khí dạng búa trông như cái cuốc chim leo núi, dùng sức đập mạnh vào pho tượng Phật lực phản chấn khiến cánh tay hắn tê rần rần, tượng Phật không phát ra tiếng động nào, Merkin tặc lưỡi nói: "Đặc ruột, khá lắm."

Soares tìm khắp một lượt trên thân tượng Phật đồng, phát hiện một cái chốt lẫy, bèn bảo tất cả lùi lại, sau đó chuyển động cơ quan, chỉ nghe tiếng "két két" vang lên, một phiến đá ở sát mép đài bát giác bật tung, để lộ ra dãy bậc thang đi xuống dưới. Một thành viên khác trong đội dùng máy đo kiểm tra xong báo cáo chất lượng không khí bên trong cho phép con người tiến vào.

Soares gật đầu: "Giờ có đường rồi, nhưng rốt cuộc là chúng ta phải đi tới đâu để tìm cái Pháp môn kia chứ hả?"

Merkin đáp: "Tên nhỏ con ấy không biết, trưởng lão trong làng cũng không biết, chúng ta chỉ còn cách cứ thẳng đường mà tiến, nến có lối rẽ thì tách ra tìm kiếm thôi."

Soares châm chích: "Anh là vị Thánh sứ có pháp tướng và huệ căn nhất, cánh cửa của Bạc Ba La chỉ có mình anh mở ra được mà thôi."

Merkin giận giữ đáp: "Tôi đã bảo đừng bao giờ nhắc lại lời của ba lão già điên ấy nữa!" Nói đoạn, y xoay người lại dặn dò đám thủ hạ, "Chắc là một tấm bản đồ khác cùng chất liệu với tấm bản đồ trước đây của chúng ta, chúng mày nhớ cả rồi chứ. Bây giờ chúng ta sẽ xuống dưới đó, nhớ cho kỹ, cứ hai mươi mét lại đốt một ống pháo sáng." Dứt lời, hắn quay lại bảo Soares, "Mở đường đi, cho chúng tôi xem thành quả của anh thế nào."

Soares gật đầu: "Không vấn đề." Y rút ra một cái hộp nhỏ, bên trong không ngờ lại có một con bồ câu trắng, nhưng phần đầu của con chim này đã bị người ta dùng thủ thuật gắn lên một cái máy nhỏ như hộp diêm. Soares thả con bồ câu trắng xuống phía trước lối vào, lấy ra một bộ điều khiển nhỏ như chiếc điện thoại di động, đèn xanh ở cái hộp diêm trên đầu con bồ câu sáng lóe lên, trên màn hình điện thoại di động của Soares liền xuất hiện hình ảnh, dưới sự điều khiển của y, con bồ câu đập cánh bay thẳng vào trong ngọn Phật tháp đảo ngược.

Tình hình bên trong được truyền ra một cách rõ nét trên màn hình điện thoại di động của Soares, chỉ thấy bên trong tòa Phật tháp này là một không gian chỉnh thể, không có phân tầng, cầu thang vòng quanh tường Phật tháp theo hình xoáy trôn ốc đi xuống dưới đến tận bệ tháp, chính giữa tòa tháp là một cột trụ lớn, xem ra chính cột trụ này chống đỡ cho cả tòa Phật tháp, vì sử dụng kỹ thuật dạ quang nên hình ảnh hiện lên màn hình toàn một màu xanh lét, không nhìn rõ được những nội dung khác. Soares nói: "có thể đi xuống, xem ra không có vấn đề gì hết, kỳ lạ thật, không ngờ lại là một tòa tháp rỗng, sao lại xây những công trình kiến trúc thế này nhỉ?"

Đoàn người đi theo hàng một tiến vào, bồ càu trắng bay trước mở đường, người đi đầu phụ trách đốt ống phát sáng. Những bậc thang xây trên vách tường tòa Phật tháp lộn ngược sử dụng công nghệ tương tự công nghệ sạn đạo (1), đục mắt trên tường đá vào, hoặc từ lúc xây tháp đã để lại hốc trống, rồi cắm vào các thanh xà đá, kế đó nghép ván gỗ này cũng không biết là dùng chất liệu gì mà cả ngàn năm rồi vẫn chưa mục nát, khi đi hết một vòng thang, có thể nhìn thấy các xà đá trên đỉnh đầu đều có rất nhiều hình khắc trang trí. Đó là hình tượng Phi Thiên Dạ Xoa và các lọai tiểu quỷ, như thể chúng đang ở trên đầu dõi theo quan sát người đi bên dưới. Trên vách tường còn vẽ vô số hình ảnh trong các câu chuyện Phật giáo, một phần đã bong tróc nham nhở, cả Merkin và Soares đều không thể đoán được hàm nghĩa của chúng. Một đoạn sạn đạo có lan can bằng gỗ, đi bên trên cảm giác rất an toàn, có điều trên lan can gỗ ấy còn có rất nhiều vòng sắt, có những vòng còn treo cả một sợi xích sắt gỉ đến không còn hình dạng gì nữa, khẽ chạm vào một cái là liền kêu lên "đinh đang đinh đang". Bên trên cột trụ lớn ở giữa đường như có rất nhiều thứ, nhưng hiềm nỗi khoảng cách quá xa, nên từ lúc xuống đến giờ vẫn không thể nhìn cho rõ được. Soares đoàn là hình khắc tượng Phật, còn Merkin thì cho rằng đấy là cơ quan bẫy rập gì đó.

Soares nhìn tòa tháp tro ngược hết sức phân vân, tại sao phải xây kiểu như thế? Hơn nữa lại còn rỗng ở bên trong. Nhưng cả người nghiên cứu rất sâu về Tây Tạng như Merkin cũng không biết gì về vấn đề này.

Mãi đến khi cả bọn đi được nửa đường thì mời nhìn rõ, bên trên cột trụ khổng lồ ở giữa ấy chi chít vết gỉ màu xanh lét, còn có những chỗ không bị gỉ lại ánh lên sắc tựa vàng kim. Soares kinh hãi thốt lên: "Là trụ đồng, hợp kim đồng có pha thêm kim loại khác nữa, cột trụ đường kính năm mét, cao hơn trăm mét này không ngờ lại là trụ bằng đồng! Chẳng trách nó có thể chống đỡ được cả tòa tháp lộn ngược, cái bọn người ấy, cái bọn người ấy, họ lấy đâu ra mà nhiều đồng thế nhỉ, trời ơi!"

Còn Merkin lại chú ý đến vô số vòng lớn trên thân trụ đồng, nhìn có vẻ như hợp kim sắt hoặc là kim koại gì đấy khác, nhiều vòng còn lủng lẳng thêm những sợi xích sắt gỉ hoen gì hoét ra, có vẻ giống hệt những vòng sắt xích sắt ở lan can gỗ bên cạnh bọn y. Merkin nuốt một ngụm nước bọt: "Tôi…tôi nghĩ…tôi nghĩ là tôi biết những tòa tháp ngược này dùng để làm gì rồi."

Soares hỏi ngay: "Dùng để làm gì?"

Merkin nói: "Có thấy những vòng sắt trên trụ đồng kia không? Chúng được bố trí thẳng hàng với những vòng sắt ở lan can bên này của chúng ta, sau đó gắn xích sắt vào. Một nghìn năm trước đây, trong tòa tháp lộn ngược này hẳn là phải có vô số sợi xích sắt như thế vắt ngang trên không>"

Soares hỏi: "Làm thế để làm gì?"

Merkin run giọng đáp: "Tu luyện."

Soares không hiểu bèn hỏi lại: "Tu luyện?"

Merkin gật đầu: "Tôi từng nghe nói Tây Tạng cổ đại có một tôn giáo đã biến mất. Đó không phải là Phật giáo đích truyền, cũng không thuần úy là Bản giáo cổ, mà là một thứ tôn giáo tiếp nạp Phật giáo Mật Tông, đồng thời cũng bao dung cả giáo lý Bản giáo cổ đại. Bọn họ đề ra khẩu hiệu "Phật bình đẳng với chúng sinh, ta tức là Phật". Cũng không rõ bắt đầu từ đời nào, các giáo đồ của tôn giáo này biết được một phương pháp rèn luyện thân thể đặc biệt. Bọn họ có thể tự do khống chế nhịp tim, hô hấp, sự bài tiết chất dịch, thậm chí là bất cứ cơ quan nào liên quan đế sự trao đổi chất trong cơ thể mình. Tôi tin rằng anh cũng từng nghe qua khá nhiều những chuyện như thế, chẳng hạn như vị đại sư Yoga nào đấy bị chôn dưới đất, chỉ dùng một cái ống để hít thở, hai tháng sau đào lên vẫn hoàn toàn khỏe mạnh; hay bậc kỳ nhân nào đó tự xưng cả đời không tiểu tiện lấy một lần; ngoài ra còn có rất nhiều tin bên lề tương tự như vậy nữa, thực ra đó chỉ là một số phương thức đặc thù đó mà thôi. Tôn giáo này chính là Mật tông mà trước đây tôi từng nhắc với anh! Giáo đồ của tôn giáo này tôi gọi là Mật giáo đồ! Đây vốn là một tôn giáo không biết ra đời vào thời điểm nào, cũng đã biến mất trong một giai đoạn nào đó của lịch sử, nhưng trong quá trình điều tra nghiên cứu, tôi lại phát hiện ra không phải tôn giáo này đã hoàn toàn tuyệt diệt, mà giáo đồ của nó đã như nước chảy lan nhập vào các tôn giáo khác ở Tây Tạng và các khu vực xung quan như Phật giao, Bản giáo, phải Yoga, Tạng Mật, Đường Mật, Ấn Mật, Nhật Bản Mật (1), đâu đâu cũng có người của bọn họ."

Soares nhìn cột trụ đồng khổng lồ hỏi: "Vậy những sợi xích sắt kia chính là để bọn họ dùng tu luyện à?"

Merkin đột nhiên kêu lên: "Tôi đúng là ngu thật! Bắt đầu từ huyết trì, bắt đầu từ lúc chúng ta nhìn thấy cái huyết trì ở Cánh cửa sinh mệnh tại Mặc Thoát, tôi đã phải nghĩ ra rồi mới đúng, từ đầu đến giờ chúng ta vẫn đang điều tra về cái tôn giáo đáng sợ không hiểu vì nguyên nhân gì mà đã đột nhiên biến mất trong lịch sử ấy. Những tượng Phật ở Cánh cửa sinh mệnh, những cơ quan bẫy rập và cả tượng Thiên thủ cơ quan Phật ở Cổ Cách kia nữa, tất cả đều là sản phẩm của tôn giáo đáng sợ đó. Nói như vậy, chắc chắn là có quan hệ trực tiếp với nhau. Không hiểu là sự kiện tôn giáo này đột nhiên biến mất trong lịch sử có liên quan gì với Bạc Ba La hay không nữa."

Soares lại hỏi: "Thế những sợi xích sắt này thì dùng để tu luyện gì vậy?"

Merkin lắc đầu: "Tôi cũng không rõ nữa, có đieùe những sợi xích này chắc chắn là để tu luyện một loại công pháp gần như là đi trên dây thép ấy. Lúc tìm hieủe tôi từng nghe nói rằng, trong Mật tông có rất nhiều loại phương pháp tu luyện cổ quái mà chúng ta không thể nào lý giải nổi, trong đó có một loại tu luyện là ăn uống ngủ hay bài tiết tất cả đều chỉ trên một sợi dây thép nhỏ như đầu ngón tay. Tương truyền người tu luyện phải ở trên dây thép mấy ngày liền, những sợi dây thông thường đều cách mặt đất cả hơn trăm mét hoặc bên dưới toàn là lưỡi đao nhọn, tóm lại hễ rơi xuống thì chỉ có một con đường chết." Merkin chỉ vào trụ đồng nói tiếp: "Anh nhìn mà xem, từ phần giữa này trở xuống không còn vòng sắt nữa, cách dưới bệ ít nhất cũng phải năm mươi mét, tự độ cao này rơi xuống chết là cái chắc."

Soares lẩm bẩm nói: "Đây là tôn giáo quái gì vậy, huấn luyện còn tàn khốc hơn chúng ta năm đó nữa."

Merkin nói: "Cứ vừa đi vừa xem thôi, không biết phía trước còn gì nữa đây."

Chú giải: Sạn đạo: Là đường xây bằng cầu treo hoặc ván gỗ xếp bên sườn núi đá, dùng để đi quan các vùng núi non hiểm trở

Tạng Mật, Đường Mật, Ấn Mật, Nhật Bản Mật: các nhánh của Phật giáo Đại Thừa tại Tây Tạng (hay còn gọi là Tạng truyền Phật giáo), nước Đại Đường (Trung Quốc cổ đại), Ấn độ và Nhật Bản.

5. TRUYỀN THUYẾT VỀ NÚI THẦN

Trực thăng bay qua dãy núi Cương Để Tư và núi Đường Cổ Lạp, đổi máy bay ở Lhasa rồi bay thẳng đến Cổ Cách. Theo yêu cầu của Lữ Cánh Nam, trên máy bay đã chuẩn bị mới chín bộ vũ khí trang bị hoàn chỉnh. Trên trực thăng, Đa Cát đã học cách sử dụng mũ chiếu sáng và đèn pha, cũng như các thao tác đơn giản như kết thừng…Nhưng anh chàng lùn rõ ràng là hứng thú với con chim sắt biết bay này hơn nhiều, ngồi trên trực thăng mà không lúc nào chịu yên. Anh ta đã không còn cảm giác mất tự nhiên lúc mới lên máy bay lần đầu tiên nữa, cứ hết nhìn cái nọ lại sờ cái kia, cũng có lúc những hành động kỳ quái của anh ta khiến cho mọi người bật cười, nhất là những lúc Đa Cát nhìn qua cửa ổ xuống bên dưới – đối với anh ta, đây nhất định là một chuyện không thể nào tin nổi.

Lúc trực thăng bay qua huyện Phổ Lan, Đa Cát đột nhiên chỉ ra ngoài cửa sổ kêu toáng lên: "Đó là núi gì thế? Đó là núi gì thế?"

Bên ngoài cửa sổ khoang máy bay, ở phía xa xa, giữa dải núi dài nhấp nhô, một ngọn núi tuyết hiện lên sừng sững, nổi bật trắng tóat một màu, tựa như ngọn kim tự tháp tạc bằng ngọc, toát lên một vẻ hoàn toàn khác biệt với những ngọn núi xung quanh, thánh khiết, tĩnh lặng, trang nghiêm. Ngọn núi khoan thai quan sát mỗi một con người đi qua nó, nói với ngàn vạn chúng sinh bằng phương thức duy chỉ nó mới có, và từ trăm vạn năm nay, nó vẫn tĩnh lặngdõi nhìn phong vân biến ảo, đẩu chuyển tinh dời như thế. Vầng dương chênh chếch chiếu trên những góc cạnh khắc tạc tinh xảp lại càng phủ lên tòa tạo vật của thế giới tự nhiên này một sắc màu hoa lệ tuyệt trần, dù cho cách xa bao nhiêu chăng nữa, người ta cũng vẫn cảm nhận được mê lực độc đáo toát lên từ ngọn núi.

Ngoài Đa Cát hay kêu toáng lên ra, những người còn lại trên máy bay chìm đắm vào tĩnh lặng. Mặc dù tín ngưỡng của mỗi người không giống nhau, nhưng ngắm nhìn ngọn núi phía xa đó. Trong lòng ai nấy đều dâng lên cùng một cảm xúc. Trước sự thần kỳ của tự nhiên vĩ đại, cơ hồ có một thứ sức mạnh khiến người ta vứt bỏ hết mọi dục niệm trong đầu, quên đi hết thảy công danh, linh hồn thoáng bỗng bình yên tĩnh lặng, phảng phất như được một lần rửa tội. trước sức mạnh thần thánh đó, cho dù chỉ một chút âm thanh, cũng sẽ phá hoại cả bầu trời không khí trong lành tinh khiết mà cao nhã ấy.

Giâi lát sau, thấy Đa Cát vẫn còn hỏi mãi, Nhạc Dương mới lên tiếng: "Đó là núi Cương Để Tư, trong làng các anh hẳn phải có truyền thuyết về nó chứ chỉ?"

" Núi Cương Để Tư?" Đa Cát gắng sức suy nghĩ, rồi lắc đầu, "Không có đâu, nhưng chắc chắn đấy là một ngọn núi thần, giống như núi Thiên Mâu ấy."

"Không phải chứ, núi Cương Để Tư nổi tiếng thế cơ mà, sao các anh ở đó lại không biết? Đỉnh Cương Nhân Ba Tề, hồ Mã bàng Ung Thác, anh chưa nghe qua bao giờ hả?"

Đa Cát lắc đầu: "Ngọn núi thần này, xem ra còn thanh khiết thiêng liêng hơn cả đỉnh Thiên Mâu nữa, có phải là núi thần không? Nhất định là núi thần đúng không?"

Nhạc Dương nói: "Không chỉ là núi thần thôi, mà còn là ngọn núi thần thánh nhất nữa đó."

"Được rồi." Lạt ma Á La lên tiếng dừng cuộc đối thoại của hai người lại, nói ngắn gọn với Đa Cát, "Đó chính là Cửu Trùng Vạn tự sơn!"

"A" Đa Cát lập tức tắc lời, khóe miệng run run, nước mắt đột nhiên trào ra từng giọt lớn lã chả tuôn rơi, ngây ngây ngẩn ngẩn lẩm bẩm mấy câu, "Đó…đó..chính là Cửu Trùng Vạn Tự sơn? Nơi ở của thần? Thật không vậy? Đại, đại pháp sư? Đa Cát tôi lại có thể nhìn thấy Cửu Trùng Vạn Tự sơn hay sao?" Đoạn anh ta liền hướng về phía núi thần mà dập đầu bái lạy.

"Cửu Trùng Vạn Tự sơn?" Nhạc Dương lục tìm trong ký ức một hồi, cuối cùng cũng nhớ ra đó là cách gọi đỉnh Cương Nhân Ba Tề của người Tượng Hùng. Ngọn núi thần này được vô số tôn giáo, phái hệ công nhận là núi thần đứng đầu trong các ngọn núi thần: trong Bản giáo, nó là trung tâm của thế giới, trong Phật giáo nó là trung tâm của vũ trụ, là nơi giải thoát của người sáng lập ra đạo Jaina(1), cũng là thiên đường của vị thần chí cao vô thượng trong Ấn độ giáo, Shiva. Đỉnh núi chính Cương Nhân Ba Tề chính là vương miện của quốc vương, quanh năm tuyết phủ lấp lánh, đi một vòng xung quanh nó có thể tẩy rửa hết sạch mọi tội nghiệt, đi mười vòng thì có thể miễn chịu nỗi khổ luân hồi chốn địa ngục A Tỳ, đi một trăm vòng thì thăng thiên thành Phật. Truyền thuyết và thần tích về ngọc núi này nhiều như sao trên trời, tin đồ của nó rải khắp mọi nơi trên thế giới. Trăm nhìn năm nay, vô số tín đồ đã đi vòng quanh sườn núi này, bất kể là nghịch chiều hay thuận chiều kim đồng hồ, bọn họ đều thông qua nghi thức quỳ bái và ngưỡng vọng núi thần để thu về sự an ủi nơi tâm hồn.

Ở phía Đông Nam ngọn núi thần thánh chính là hồ thần đứng đầu trong các hồ thần,hồ Mã bàng Ưng Thác, mỗi khi mây tan mù tạnh, ảnh phản chiếu của núi thần sẽ hiện lên trong hồ một cách thần kỳ, kết hợp bên nhau, núi ấy hồ ấy cũng được rất nhiều tín đồ thờ phụng, coi là một đôi vợ chồng. Tên của hồ thần luôn sánh vai bên cạnh núi thần, hồ Mã Bàng Ưng Thác chính là Tây Thiên Dao Trì trong Đại Đường Tây vực ký của Đường huyền Trang, cũng là nơi ở của Thiên Nga trong sử thi Ấn Độ. Thần hồ chi chủ (hồ chúa tể của các hồ thần) là cách gọi trong kinh Phật. Trong mắt các tín đồ, nước thánh trong hồ có thể rửa sạch ngũ độc, tham, sân, si, sãi, đố của con người, thanh tẩy mọi phiền não trong tâm, uống nước ở đây còn có thể trị bệnh, kéo dài tuổi thọ, còn người nào đến bái tế đi vòng quanh hồ một vòng, nhặt bất cứ thứ gì thuộc về cái hồ này thì đều là ân huệ của Quảng Tài long vương ban cho, ắt sẽ mang đến sự giàu có cả một đời.

Nhạc Dương vẫn còn đang hồi tưởng lại, thì Đa Cát đã thực hiện xong nghi thức bái dài chín cái, quay sang hỏi lạt ma Á La: "Vậy có phải giống như trong truyền thuyết, trên Cửu Trùng Vạn Tự sơn có hai biển lớn tượng trưng cho sinh mệnh và tử vong? Còn cả thụy thú canh giữ bốn phương vây quanh Vạn Tự sơn nữa?

"Hả" Người phát ra âm thanh ấy là Trác Mộc Cường Ba, thậm chí gã còn không tự chủ được mà nhổm đứng dậy, mắt trợn trừng trừng nhìn Đa Cát. Gã căn bản không thể ngờ rằng, thụy thú bảo vệ bốn phương lại xuất hiện một lần nữa, chẳng những thế lại còn liên hệ với cả núi Cương Để Tư. Lại còn cả biển lớn tượng trưng cho sinh mệnh và Cánh cửa Địa ngục mà người làng Đa Cát canh giữ. Bạn đang đọc truyện được copy tại Truyện FULL

Sau khi cơn chấn động qua đi, Trác Mộc Cường Ba phát hiện Đường mẫ đang nhéo nhéo tay mình, còn những người khác thì đều nhìn chằm chằm, mới nhận ra mình đã thất thố, bèn chầm chậm ngồi xuống. Lại nghe lạt ma Á La nói: "Đúng vậy, biển tạo sinh mệnh và biển kết thúc sinh mệnh đều vẫn ở trong núi thần, thụy thú canh giữ bốn phương cũng chưa từng rời đi một bước, chỉ có điều…tên của chúng đã không còn như nghìn năm trước nữa rồi."

"Đây rốt cuộc là chuyện gì thế? Sao chúng tôi chưa bao giờ nghe nói đến nhỉ?" Nhạc Dương thay Trác Mộc Cường Ba cướp lời lên tiếng hỏi.

Lạt ma Á La nói: "Hồ thần và một hồ khác đối xứng với nó trên núi Cương Để tư đều nổi tiếng cả, chắc mọi người đều biết chứ?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Có phải đại sư nói đến hồ thần Mã Bàng Ưng Thác và hổ quỷ Lạp Ngang Thác?"

Nhạc Dương cũng sực nhớ ra, cách hồ thần Mã Bàng Ưng Thác không xa, ước chừng một đường vạch, còn có một hồ nước được mệnh danh là hồ quỷ Nạp Ngang Thác. Có truyền thuyết nói hai hồ này vốn là một cặp vợ chồng, cũng có truyền thuyết nói hồ Nạp Ngang Thác như vầng nguyệt ở phương Tây, còn hồ thần Mã Bàng Ưng Thác là mặt trời ở phương Đông. Theo các chuyên gia khảo cứu, hai hồ này trước đây thông nhau, về sau bị tách rời do vận động địa chất, nhưng cũng từng có sông đào nối liền lại, về sau mực nước thay đổi nên lòng sông đào khô cạn, đến ngày nay có kẽ hai đáy hồ vẫn còn thông với nhau. Điều khiến người ta không thể tin được là nước trong hồ thần thì trong veo, mát ngọt, còn nước hồ quỷ lại chát xít đắng ngắt; hồ thần những khi trời trong thường phản chiếu phật quang trên đỉnh thần sơn, còn hồ quỷ thì quanh năm mây mù mờ mịt, mặt hồ vừa u ám vừa kỳ bí, tương truyền màu sắc nước hồ ấy cũng biến ảo bất định giữa ba màu xanh, đen, trắng. Ngày nay, người ta vẫn đi qua khoảng giữa hai hồ để tiến vào Phổ Lam.

"Mã Bàng Ưng Thác, Nạp Ngang Thác? Đây là tên gì vậy?" Đa Cát ngược lại tỏ ra hết sức mù mờ đối với những cái tên tưởng chừng ai cũng biết này.

Lạt ma Á La nói: "Đây chính là tên ngày nay của chúng đấy, nơi sinh mệnh sinh ra và nơi sinh mệnh kết thúc sớm đã bị người ta cho vào quên lãng rồi, ta nghĩ, sau này, có lẽ không còn ai nhớ đến nữa đâu."

Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: "Đại sư, người có thể cho chúng tôi biết những cái tên này rốt cuộc là thế nào hay không? Tại sao tên mà Đa Cát nhắc đến lại khác xa tên mà chúng tôi biết đến thế?"

Lạt ma Á La nói: "Cường ba thiếu gia, chắc là cậu cũng biết núi thần Cương Nhân Ba Tề được vô số tôn giáo nhận là Thánh địa tối cao của tôn giáo mình. Cuộc tranh đấu giành giật quyền phát hiện và chủ quyền đối với núi thần chưa bao giờ gián đoạn trong lịch sử cả, mỗi giáo phải đều nói rằng núi thần Cương Nhân Ba Tề là Thánh địa duy nhất của họ, đồng thời mỗi giáo phái đều đặt cho núi thần những cái tên khác nhau, trong đó cũng bao gồm cả hồ thần và hồ quỷ. Trong cuộc tranh đấu ấy, kịch liệt và lợi hại nhất chính là Bản giáo nguyên thủy ở cao nguyên Tây Tạng và Tạng truyền Phật giáo, tên mà ngày nay chúng ta biết, chính là do người chiến thắng đặt ra, còn tên mà Đa Cát nhắc đến, có lẽ là tên cổ từ thời vương triều Tượng Hùng."

Giáo sư Phương Tân lúc này cũng lên tiếng: "Tôi hiểu rồi, tương truyền Mã Bàng Ưng Thác là tên do giáo đồ Phật giáo đặt sau khi chiến thắng giáo đồ Bản giáo, ý nghĩa là hồ Bất Bại, trong tư liệu cũng có nhắc đến chuyện này."

Lạt ma Á La đưa mắt nhìn giáo sư Phương Tân, rồi tiếp tục nói: "Mã Bàng Ưng Thác thực ra là tên có từ thời vương triều Thổ Phồn, nhưng không phải là tên do các giáo đồ Phật giáo chiến thắng Bản giáo đặt ra đâu, còn cái tên từ thời vương triều Tượng Hùng để lại thì chính xác là đã bị lịch sử nhấn chìm từ lâu lắm rồi. Trong lịch sử có một quãng thời gian rất dài, các giáo đồ Bản giáo đi ngược chiều kim đồng hồ vòng quanh núi thực ra để không cho phép người khác dùng bất cứ phương thức nào tiếp cận ngọn núi thần này. Cho đến ngày nay, núi thần mới mở rộng vòng tay rộng lớn của nó, tiếp nhận tín đồ với đủ loại tín ngưỡng khác nhau từ khắp nơi trên thế giới đến đây. Thực ra, trong giáo phái mà tôi tu hành, ý nghĩa của núi thần và hai cái hồ lớn này là: Cửu trùng Vạn Tự Sơn tượng trưng cho luân hồi liên miên không dứt, còn hồ thần tức là nơi sự sống sinh ra, hồ quỷ là nơi sự sống chấm dứt, vạn sự vạn vật trong đại thiên thế giới đều không ngừng luân hồ xoay chuyển giữa sống và chế. Nếu mọi người có chút hiểu biết về tôn giáo thì chắc sẽ biết ý nghĩa tượng trưng này bao hàm cả lý luận về Bản giáo lẫn lý luận luân hồ của Phật giáo, khi mà hai bên vẫn còn chưa phân cao thấp rõ rệt."

Ngoài miệng nói vậy nhưng trong lòng lạt ma Á La lại đang thầm gào thét: "Hồ Bất Bại, đó là cái tên vương triều Thổ Phồn đặt để kỷ niệm Đạo quân Ánh sáng! Quên rồi, thế nhân này đều quên hết cả rồi!"

"Ồ" Trương Lập nói, "biển nơi sự sống sinh ra, không phải rất giống với cách nói hiện đại hay sao?"

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Chúng ta không biết tư tưởng triết học của cổ nhân thế nào, nhưng ở Tây Tạng đúng là có rất nhiều cách nói cực kỳ ăn khớp với khoa học hiện đại ngày nay, chẳng hạn như nói người từ khỉ tiến hóa mà thành, dãy Himalaya từng là đại dương, sự sống bắt nguồn từ biển…"

Nhạc Dương đột nhiên nói: "Vậy thụy thú canh giữ bốn phương đó, liệu có phải chính là...

Lạt ma Á La gật đầu đáp: "Đỉnh Cương Nhân Ba Tề còn một tên khác, gọi là chúa tể của mọi dòng nước, là nơi bắt nguồn của bốn con sông thánh có tên lần lượt được đặt tên theo bồn loài động vật."

Trác Mộc Cường Ba thấp giọng nói: "Sông Sư Tuyền, sông Tượng Tuyền, sông Mã Tuyền, sông Khổng Tước…Đây…đây chính là thụy thú canh giữ bốn phương ư?"

Lạt ma Á La điềm tĩnh nói: "Không giống như mọi người nghĩ cho lắm, thực ra bốn cái tên này cũng như tên mã Bàng Ưng Thác vậy, đều là tên do người chiến thắng đặt ra, bọn họ giữ lại cách đặt tên trước đó, nhưng lại không biết ý nghĩa bên trong những cái tên ấy. Thời Vương triều Thổ Phồn trị vì, tên bốn dòng sông này dịch nghĩa nguyên bản phảo là từ miệng sư tử chảy ra", "từ miệng voi chảy ra…"Người ta không biết tại sao lại đặt tên như vậy, liền cho rằng những nơi ấy rất giống với mấy loài động vật này. Nếu có cơ hội đến tận nơi xem, mọi người sẽ thấy thực ra rất khó tìm ra mối liên hệ giữa tên gọi với các địa phương đó. Nếu dựa theo một số ghi chép còn sót lại của giáo phái chúng tôi, trong lịch sử từng xuất hiện cách đặt tên thế này, Nanh sói bảo vệ phương Tây Bắc, Vuốt đại bàng uy chấn phương Tây Nam, thân thể của voi lớn và Sừng bò Yak lần lượt ở phương Đông Bắc và Đông Nam. Hơn nữa, bốn cái tên này vốn cũng không phải để chỉ bốn mặt của đỉnh Cương Nhân Ba Tề, tượng trưng cho bốn loại sức mạnh và bốn nguyên tố lớn mà đời người phải có. Sói tượng trưng cho sức sống, voi tượng trưng cho thân thể, bò Yak tượng trưng cho sự phồn vinh, đại kim bằng tượng trưng cho linh hồn. Đồng thời, bốn loài động vật này cũng chính là tứ đại thụy thú bảo vệ bốn phương."

"Không giống lời kể của các vị trưởng lão thôn Công Bố lắm."Trác Mộc Cường Ba nói.

Lạt ma Á La đưa mắt nhìn Đa Cát hỏi: "Ở chỗ các cậu người ta nói như thế nào?"

Đa Cát nói: "Ừm, lẽ ra là tiếng gầm cuả sói tuyết cao nguyên, nanh vuốt của mãnh hổ, mắt của đại bàng, sừng của bò Yak mới đúng."

Lạt ma Á La gật đầu với Trác Mộc Cường Ba: "Có cách nói ấy, là do cùng với dòng thời gian thay đổi, thế giới trong lòng cổ nhân cũng nảy sinh biến đổi. Tứ phương thụy thú mà tôi nói có lẽ là của thời kỳ Phật giáo mới lên cao nguyên Thanh Tạng này, khi ấy vương triều Tượng Hùng sắp diệt vong nhưng cũng chưa hoàn toàn diệt vong. Người Tượng Hùng coi Cửu Trùng Vạn Tự sơn là trung tâm thế giới, thụy thú bảo vệ tứ phương của họ chính là sói, voi, đại bàng và bò Yak Tây Tạng. Còn bốn loài thú mà Đa Cát nói, đó là thụy thú của thời kỳ vương triều Thổ Phồn, lấy Lhasa làm trung tâm. Chiến ngao, mãnh hổ, đại bàng và bò Yak Tây Tạng chính là thụy thú bảo vệ cho bốn phương của nước Thổ Phồn. Có một điều chắc giáo sư Phươgn Tân cũng biết là mỗi quốc gia mỗi dân tộc đều có totem và tìn ngưỡng riêng của mình, khi chiến tranh khiến các vùng lãnh thổ thôn tính lẫn nhau, những văn hóa và tín ngưỡng đó cũng dung hợp lại, không có thứ gì là bất biến vĩnh viễn cả. Thực ra cả hai cách đặt tên này đều đã có bóng dáng của thần thú bảo vệ trong Phật giáo, chỉ có điều không giống tên của bốn con sông mà ngày nay mọi người đều biết rõ đấy thôi, tên ngày nay thì đã hoàn toàn là tên trong Phật giáo rồi. Tạm gác những tên khác sang một bên không nói, chỉ nói riêng tên sông Khổng tước thôi, trước khi Phật giáo thâm nhập vào cao nguyên Thanh Tạng, người Tượng Hùng tuyệt đối không bao giờ lấy Khổng Tước ra để đặt tên cho sông đâu."

Giáo sư Phương Tân thắc mắc: "Nhưng trong Phật giáo thì đại bàng cũng là một loài thụy thú mà, hà tất phải thay bằng tên Khổng Tước?"

Lạt ma Á La đáp lời: "Không sai. Thực ra ở thời kỳ đầu của vương triều Thổ Phồn, có lẽ vẫn đặt tên dòng sông đó là Đại Bàng, sở dĩ dùng Khổng Tước minh vương trong Phật giáo để thay thế đại bàng là bởi vì vương triều Thổ Phồn sau khi hoàn toàn chinh phục Tượng Hùng đã cố ý đổi tên dòng sông ấy. Đương nhiên, ở đây có một phần rất lớn là quan điểm cá nhân của tôi, chúng tôi vẫn chưa có chứng cứ trực tiếp, dù sao thì ngày nay những tư lieụe văn bản cổ xưa nhất cũng chỉ có thể truy ngược về những ghi chép ở Đôn Hoàng, hầu hết là tư liẹu từ sau khi vương triều Thổ Phồn thành lập, còn các tư liệu thời vương Triều Tượng Hùng thì đã biến mất hoàn toàn. Mà chúng ta muốn tìm Bạc Ba La thần miếu, có một phần rất lớn nội dung canà phải truy ngược về thời vương triều Tượng Hùng mới được. Đây là thách thức lớn nhất trong công tác thu thập tư liệu của chúng ta đấy."

"Đợi chút đã," Nhạc Dương nói, "Bạc Ba La thần miếu ấy biến mất trước khi vương triều Thổ phồn bị diệt vong cơ mà nhỉ, có liên quan gì đến vương triều Tượng Hùng đâu chứ."

Lạt ma Á La lắc đầu: "Nhưng cậu chớ có quên, mấu chốt để tìm kiếm Bạc ba La thần miếu là người bộ tộc Qua Ba, là Đạo quan Ánh sáng, muốn tìm hiểu về bọn họ buộc phải truy tìm về thời kỳ trước vương triều Tượng Hùng. Cũng như chuyến đi Cổ Cách lần này cả chúng ta vậy, có liên quan rất lớn tới vương triều Tượng Hùng, có thể nói là nối liền một mạch cũng không ngoa; huyện Phổ Lam này,chẳng phải cũng chính là nơi phát tích của Cổ cách vương đấy hay sao?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Đại sư, thụy thú canh giữ bốn phương này rốt cuộc là chỉ gì vậy? Chúng không chỉ là một thứ văn hóa và tín ngưỡng mà thôi đúng không?"

Lạt ma Á La nói: "Còn nhớ những gì tôi nói với cậu tối hôm qua không? Tứ đại thánh thú canh giữ bốn phương này tuyệt đối không đơn giản chỉ là một loại totem. Trên cao nguyên cổ đại, mỗi quốc gia đều có thụy thú của riêng mình, chúng không phải totem, mà là những vị thần bảo hộ thực sự tồn tại. Tôi đã bảo trở về tôi sẽ nói chuyện với cậu rồi mà."

Trong lúc mội người trò chuyện, trực thăng đã bay vào địa giới Trát Đạt. Thổ lâm tựa như ảo ảnh đập vào mắt những người ngồi trên máy bay, mặt đất biến thành sắc vàng, quái thú và thành trì xen lẫn vào nhau, con rồng khổng lồ đang cuộn tròn ngẩng đầu lên gầm rú, trong không trung phảng phất vang lên tiếng tù và đồng văng vẳng. Bay qua vùng đất hoang vu cằn cỗi này cảm giác tựa hổ đi xuyên lịch sử, trở về thời đại hồng hpang vậy. Mặt trồ lặn ở Trát Đạt tròn, to, đẹp một vẻ thê lương mà cổ phác, sắc tựa như màu đỏ vẽ trên giấy trắng tuyền. Gió buốt lạnh thổi qua, cuộn lên lớp cát từ ức vạn năm trước, lũ cỏ duy nhất có thể sinh tồn ở vùng đất này rạp cúi xuống, run rẩy rập rình theo cơn gió. Nơi này, nơi này chính là Cổ Cách đây rồi, nó cũng như tất cả những vương quốc đã bị lịch sử lãng quên khác, đã bị vùi lấp trong phong trần tuế nguyệt, lặng lẽ nằm giữa dãy Himalaya và đỉnh Cương Nhân Ba Tề, cung điện huy hoàng thuở nào đã hóa thành cát bụi, gió thổi cát bay, vô số truyền thuyết đẹp thê lương cũng bay trong gió cát, cảnh vật lướt qua, chuyện xưa tựa như mây như khói.

Đi đường cả một ngày trời, mặc dù không phải đi bộ, nhưng vẫn khiến mọi người cảm thấy hơi mệt mỏi uể oải, khi dòng sông Tượng Tuyền như một dải lụa bạc vắt qua mặt đất vàng sệt, cả đoàn người mới cảm thấy thư giãn phần nào. Mặt trời hoàng hôn hắt lên sông Tượng Tuyền ngoằn ngoèo uốn khúc một lớp màu vàng đỏ rực rỡ lấp lánh, lầu tháp và tượng điêu khắc phản chiếu dưới mặt sông đều trở nên lung linh sinh động. Giáo sư Phương Tân nhớ đến một bài thơ cổ, "Đại mạc cô yên trực, trường hà lạc nhật viên", cảnh vật trước mắt đại để chính là như vậy đấy, một sự hoang vụ đắm chìm trong dòng sông lịch sử. Mặc Thoát là ốc đảo cô độc trên cao nguyên, nơi ấy có thảm thực vật phong phú và những cây đạ thụ rợp tán; còn vùng đất Trát Đạt này lại là gò hoang của cao nguyên Thanh Tạng, chỉ có một thứ đất vàng trải dài ngút tầm mắt, có cát bay mù mịt khắp trời. Nhìn cảnh sắc ấy, trong lòng người bỗng dâng lên nỗi quạnh hiu cô tịch của các vị độc hành hiệp khách thời cổ, lãng đãng khắp trốn giang hồ, trời đất bao la rộng lớn, phía trước là số mệnh không thể đoán biết, không thể do bản thân mình quyết định, điều duy nhất có thể làm chỉ là nắm cho chắc thanh kiếm trong tay.

Nhìn xuống, những cánh rừng đất giống như thành trì, như quái thú trải ngút mắt dưới cửa khoang máy bay, mảnh đất cằn cỗi bạc màu hoang vu không cỏ cây hoa lá trong ánh tàn dương toát lên vẻ đẹp bi tráng lạ thường khiến mọi người cảm giác như đang theo bước chân vương tử A Lý tiến về phía Tây, lại càng có cảm giác hào hùng như Khoa Phụ đuổi mặt trời vậy. Người ta thường nói, đến A Lý mà không thấy thổ lâm coi như là chưa từng đến A Lý. Vùng thổ lâm cao thấp lô nhô này đã trở thành biểu tượng đặc biệt của vùng cao nguyên phía Tây, từ trên cao nhìn xuống, có chỗ giống như thành quách phương Tây, có chỗ lại giống điện đường phương Đông, long cung loạn các, lầu quỳnh tháp ngọc, tòa này nối liền tòa kia, liên miên không dứt; mở rộng tầm mắt ra xa dần, vệt đỏ hồng kéo dài dưới vầng tịch dương kia mỗi lúc một lan rộng, hòa lẫn vào vùng thổ lâm cao thấp nhấp nhô bên dưới, vừa giống như sa mạc mênh mông ào ạt, lại như mây đỏ chất chồng. Chăm chú nhìn thật lâu, sẽ sinh ra ảo giác không biết mình đang ở chỗ nào, không phải đang đứng trên mặt đất, mà cũng chẳng phải lơ lửng trên không, phảng phất như cảnh đẹp mơ hồ biến ảo kia đã bị kéo lại gần ngay trước mắt, muốn hòa nhập với thân ta thành một thể vậy.

Trong cảm nhận thẩm mỹ kỳ dị ấy, các đội viên vừa bay lên cao vừa tìm kiếm mục tiêu. Lữ Cánh Nam nói với mọi người, Nạp Nam Tháp là thần Rắn sáng tạo thế giới của Mật Tông, thổ lâm tuy lớn nhưng các chuyên gia khảo sát thực địa đã đánh dấu mấy chỗ tương tự nhau trên bản dodò, trong Đos những chỗ hình dáng giống rắn khổng lồ rất ít ỏi. Hơn nữa, dựa trên tư liệu mà Đa Cát và thôn Công Bố cung cấp, hình dáng đại thể của thổ lâm hình rắn đã được vẽ ra, điều bọn họ cần làm bây giờ chỉ là lần lượt nhận diện mà thôi.

Đa Cát chỉ ngón tay, trong rãnh sâu phía trước, một con rắn khổng lồ uốn khúc ngoằn ngoéo, đầu ngẩng ngực rộng, dương dương tự đắc, dòng sông Tượng Tuyền chảy bên dưới nó liền trở thành con sâu nhỏ hiên flành. Ở đầu bên kia của con rắn khổng lồ, bất ngờ hiện lên mờ mờ mấy nếp nhà. Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đưa mắt nhìn nhau, quả nhiên đúng như bọn họ nghĩ, ở nơi này, nhà nước đang tiến hành nghiên cứu khảo sát khoa học.

"Đến nơi rồi" Lữ Cánh Nam ra lệnh, trực thăng liên từ từ hạ xuống. Vừa xuống khỏi máy bay, Đa Cát đã phấn khích lộn nhào mấy vòng liền. trực thăng hạ cánh xuống phần đuôi của Nạp Nam Tháp. Nhìn từ dưới mặt đất, Nạp Nam Tháp về cơ bản là một quả núi đất khổng lồ, thổ lâm từ từ cao dần lên dọc theo một con dốc kéo dài, lỗ chỗ có đến trăm ngàn lỗ thủng, trông không khác gì một cái tổ ong bắp cày phóng to lên vô số lần cả. Nhưng rất rõ ràng, những hang động ấy tất cả đều là hang Phật; tượng Phật bên trong tắm ánh tà dương, tuy chỉ hiện lên lờ mờ nhưng vẫn nhìn rõ tư thái. Nhạc Dương ngẩng đầu lên nói: "Đây…đây là nơi nào thế?"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34: Gặp lại trận đồ đá khổng lồ: vùng đất bí mật cuối cùng


Những đốm lửa nhỏ kết thành một vệt dài ấy khiến Lạt ma Á La nhớ đến hình ảnh ông từng nhìn thấy trong quá khứ: tượng thần Ma Hê Thủ La khổng lồ vươn ra mười tám cánh tay, mỗi cánh tay nâng một tòa Phạt tháp đảo ngược. Tương truyền, đó chính là thiền phòng để người xưa tu luyện. Rất lâu rất lâu trước đây, những Mật tu giả vượt qua cấp cách tây sẽ có vinh dự tiến vào Thánh địa tu hành ở cáp độ cao hơn này. Lẽ nào…lẽ nào…đây chính là Thánh luyện đường của Mật tu giả đã bị chôn vùi trong lịch sử hay sao?!

Lữ Cánh Nam nói: "Đây là di chỉ của vương triều Cổ Cách do đoàn khảo sát khoa học của Nhà nước phát hiện vào thập niên chín mươi của thế kỷ trước, hoặc có thể nói là di chỉ của Tượng Hùng cũng được. Theo tư liệu khảo sát hiện nay, tổng cộng có ba trăm bảy mươi chín hang, bảo tồn hoàn hảo đến khoảng năm mươi phần trăm thì chỉ có bảy hang, bên trong có vô số tượng điêu khắc, bích họa bị thời gian hủy hoại, vẫn chưa thể khảo chứng được niên đại lịch sử là từ khi nào. Vì cả khu vực A Lý này còn rất nhiều di chỉ chờ được khảo sát nghiên cứu, thế nên di chỉ này mặc dù trước nay vẫn chưa mở cửa với thế giới bên ngoài, nhưng cũng không hề được đưa vào dạng mục bảo vệ."

Trương Lập đếm sơ qua một lượt nghi hoặc nói: "Có hơn ba trăm hang thôi sao? Ít thế thôi à?"

Lữ Cánh Nam lắc đầu: "Nếu cộng thêm cả những hang động hoàn toàn trống rỗng, không có chút giá trị khảo sát khoa học nào, ước chừng có khoảng hơn ba nghìn hang…"

Nhạc Dương khó khăn nuốt nước bọt đánh ực một tiếng, nói: "Hơn ba nghìn hang! Vậy chúng ta cứ tìm từng cái từng cái một, thế chẳng phải cả ngày trời cũng không tìm thấy hay sao?"

"Vậy nên đừng mất thời gian ở đây nữa, chúng ta chia làm hai nhóm. Trác Mộc Cường Ba, Nhạc Dương, Trương Lập, Ba Tang, mấy anh cao lớn cường tráng, mau lên phần đầu của Nạp Nam Tháp; chúng tôi bắt đầu từ phần đuôi, tìm từng hang một, không được bỏ qua bất cứ dấu vết nào, máy bay trực thăng sẽ ở trên cao hiệp đồng quan sát."

Đa Cát nói: "Tôi…tôi cũng muốn đi với Thánh sứ đại nhân!"

"Không được!" Lữ Cánh Nam biết rõ, sau khi Đa Cát rời khỏi thôn Công Bố liền như con khỉ thoát khỏi lồng mà cô chẳng yên tâm chút nào với anh càng lùn tịt này. "Lập tức xuất phát, nhớ giữ liên lạc."

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Đường Mẫn, hai người khẽ mỉm cười, rồi tách ra. Trác Mộc Cường Ba và mấy người Ba Tang, Trương Lập đeo những chiếuc ba lô lớn trên lưng, bắt đầu đi vòng lên phần đầu của con rồng khổng lồ uốn khúc.

"Lúc nãy ở trên không nhìn xuống, sơ bộ ước tính con rắn khổng lồ này dài khoảng năm kilômet, chúng tôi sẽ đến trong mười phút nữa." Trác Mộc Cường Ba vừa chạy vừa báo cáo.

"Biết rồi, chúng tôi bắt đầu kiểm tra các hang động đây. Khi nào đến nơi báo lại cho tôi."

"Đã hiểu"

"Đợi chút đã, Cường Ba thiếu gia," Vừa ra khỏi tầm nhìn của mấy người nhóm Lữ Cánh Nam, Nhạc Dương liền gọi mọi người đứng lại. Anh chàng chỉ vào đoạn đường đầy khe rãnh chằng chịt phía trước nói với Trác Mộc Cường Ba: "Nạp Nam Tháp chỉ là một ngọn trong rất nhiều ngọn núi đất ở vùng thổ lâm này, một khi đã bước vào thổ lâm, hai bên đều là vách cao ngất, nhìn thì có vẻ khác nhau, hình thái muôn vẻ, nhưng chỉ đi mấy bước thôi là sẽ phát hiện ra, ta không thể nào xác định được phương hướng chính xác đâu."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Ý cậu là con đường này không phải đường tắt đi thẳng lên phần đầu Nạp nam Tháp như chúng ta nghĩ à?"

Nhạc Dương nói: "Tôi đề nghị chúng ta vòng xa thêm chút nữa, dọc theo con sông ấy. Vừa nãy trên máy bay tôi đã quan sát rồi, mặc dù đi đường vòng hơi xa, nhưng nó là mốc chỉ đường chính xác duy nhất đấy."

Trương Lập tán thành: "Đúng thế, con sông này không phân nhánh, cứ men theo đó mà đi ắt không lạc đường. Có phải vậy không anh Ba Tạng? Anh Ba Tang?"

Chỉ thấy Ba Tang đang nghi hoặc quan sát thổ lâm vây quanh họ, có lúc lại đột nhiên xoay ngoắt người một trăm tám mươi độ, tựa như có điều phát hiện gì. Trác Mộc Cường Ba nói với Trương Lập và Nhạc Dương: "Đừng quấy rầy, hình như anh ta đang nhớ ra điều gì đó."

Trong ký ức của Ba Tang thổ lâm biến hóa muôn hình muôn vẻ kia đang không ngừng trùng lặp lên một đoạn ký ức nào đó. Thành trì, đúng rồi, anh ta đã thấy một tòa thành trì, cũng giống như thổ lâm ở đây vậy, nguy nga hùng vĩ, khí thế phi phàm, nhưng kết cấu không phải đất cát, mà là nham thạch kia. Còn màu sắc! Phải rồi, màu sắc chính là thứ màu vầng tịch dương đang lặn xuống sau rặng núi hắt lên thổ lâm, đỏ…đỏ như máu vậy!

Thế nhưng, ngay sau đó liền xuất hiện một hình ảnh khhiến người ta phải rùng mình run rẩy, đó là vô số cánh tay và cẳng chân người trắng ởn, tua tủa vươn lên trời cao, không ngừng chuyển động nhung nhúc hệt như một con sâu thịt nhiều chân. Những cánh tay cẳng chân không ngừng nhu động, chắc chắn là cánh tay và cẳng chân của con người chứ không sai!

"A" Ba Tang như bị thứ gì đó đẩy bật ra, giật bắn mình lùi về sau một bước, không thể nào nhớ nổi gì nữa. Trác Mộc Cường Ba đứng cạnh đó đỡ lấy anh ta, hạ giọng hỏi: "Nhớ ra điều gì hả, anh Ba Tang?"

"Màu sắc, màu sắc giống hệt nó." Ba Tang chỉ vào thổ lâm xung quanh: "Ngoài ra không còn gì nữa, chúng ta đi thôi."

Nói đoạn anh ta thầm nhủ: "Những cánh tay cẳng chân ấy, rốt cuộc là chuyện gì nhỉ?" Đang nghĩ vậy, đột nhiên bỗng thấy sống lưng lành lạnh.

Trên đường, Nhạc Dương hỏi Trương Lập: "Anh nói xem, con sông này là dòng chính hay nhánh phụ của sông Thượng Tuyền?"

Trương Lập nói: "Chắc là nhánh phụ thôi, nhỏ thế này, cưỡi ngựa là lội qua được rồi."

Nhạc Dương nói: "Tôi thấy không giống, trong sa mạc sông như thế này đã được coi là sông lớn rồi đấy."

"Ở đây không phải sa mạc mà là thổ lâm." Trương Lập sửa lại.

"Cường Ba thiếu gia, anh nói xem, nếu chúng ta đến thôn làng ở phía sau Nạp Nam Tháp kia, liệu có thu hoạch được gì không nhỉ?" Nhạc Dương lại hỏi Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Chắc là không đâu. Người thôn Công Bố vốn đã canh giũ ở đó từ một nghìn năm trước, còn Cổ Cách thì một thời gian rất dài đã trở thành vùng đất hoang, cư dân đều mãi về sau mới di cư tới, nếu có liên hệ gì, Lữ Cánh Nam nhất định đã nói với chúng ta rồi, dù sao thì đội khảo sát khoa học của nhà nước cũng từng đến đây khảo sát mà."

Trương Lập hỏi: "Thế dân cư trước đây của Cổ Cách đi đâu cả rồi?"

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Không biết, có giả thuyết cho rằng sau khi chiến bại họ đã bị giết hết, cũng có thuyết nói cả dân tộc đã rời đi, nhưng đi đâu thì không thể biết được."

Nhạc Dương quay sang nhìn Trương Lập: "Anh nghiên cứu cái kiểu gì thế? Chuyện này mà cũng phải hỏi?"

Trương Lập cãi chày cãi chối: "Tất nhiên là tôi biết rồi, tôi chỉ nghĩ là, nghĩ là không hiểu Cường Ba thiếu gia có biết thêm gì hay không mà thôi."

Đi được nửa đường mới thấy bên bờ sông thấp thoáng xuất hiện mấy con dê đang vục đầu uống nước. Nhìn thấy có người đến, bọn chúng không tránh cũng không nhường lối. Trương Lập ngạc nhiên hỏi: "Ở đây sao lại có dê thế nhỉ?"

Nhạc Dương nói: "Phía trước còn nhiều hơn nữa."

Trương Lập hỏi: "Sao cậu biết?"

Nhạc Dương dương dương đắc ý không đáp lời. Vòng qua một khúc ngoặt, quả nhiên phía trước xuất hiện cả một đàn dê lớn, Trương Lập nắm ba lô Nhạc Dương giật lại hỏi: "Sao cậu biết?"

Nhạc Dương vừa chạy vừa trả lời: "Vấn đề đơn giản vậy mà cũng hỏi. Bọn dê ấy không sợ người, thêm nữa quanh đây còn có thôn làng, thêm nữa lúc chúng ta đến đây, phía Tây Nam liên thẳng một mạch đến dải đồng cỏ ở chỗ núi tuyết, chẳng khó gì cũng nghĩ ra đây là dê của dân cư sống gần đây nuôi, mà dân cư ở đây đã nuôi dê thì không thể nào chỉ nuôi hai ba con, cũng không thể nào bọn dê đi xa quá được, vì thế…"

Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đang chạy đầu tiên bỗng thả bước chậm lại, cuối cùng thì dứt khoát dừng hẳn luôn. Nhạc Dương và Trương Lập đều dừng lại nhìn gã. Ba Tang chạy quá mấy bước, cũng ngoảnh đầu lại nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt kỳ quái.

"Sao vậy? Cường Ba thiếu gia?" Nhạc Dương hỏi.

Trác Mộc Cường Ba chỉ phía trước lắp bắp nói: "Đó…đó là trận đồ đá khổng lồ kìa!"

Nhìn theo hướng ngón tay Trác Mộc Cường Ba, một vùng cỏ xanh mướt như tấm thảm trải rộng, đàn dê trắng muốt đang ung dung gặm cỏ dưới ánh chiều tà, có con nghịch ngợm vầy nước bên bờ sông Tượng Tuyền, mấy cột đá khổng lồ quây thành hình tròn, nước lặng, gió yên…Cảnh tượng ấy thật không khác nào một khu vườn địa đàng mà thần linh sơ ý bỏ quên lại giữa chốn thổ lâm rặt một sắc đỏ rực này vậy. Mấy người bọn Nhạc Dương chưa thấy trận đồ đá khổng lồ ở Nam Mỹ bao giờ. Đối với bọn họ, mấy cây cột đá cao cao này ngoài tác dụng tăng thêm vẻ đẹp cho toàn thể cảnh tượng trước mắt ra, thì không còn ý nghĩa gì hết. Nhưng cảm giác mà trận đồ đá khổng lồ này mang đến cho Trác Mộc Cường Ba lại hoàn toàn khác. Những tảng đá khổng lồ được dựng đứng, sắp xếp gần như giống hệt trận đồ đá khổng lồ nơi yên nghỉ của tổ tiên người Kukuer trong rừng già châu Mỹ. nếu xung quanh không phải là thổ lâm rộng lởm chởm, Trác Mộc Cường Ba có lẽ ngỡ rằng mình đã lại trở lại rừng rậm châu Mỹ mất rồi.

"Cái này, quan trọng lắm hả?" Nhạc Dương hỏi. Bạn đang đọc truyện được copy tại Truyện FULL

Trác Mộc Cường Ba đáp: "Không biết nữa, chúng ta qua xem thế nào. Tôi có một cảm giác rất kỳ quái."

Trương Lập gật đầu: "Được thôi, thì qua xem thế nào."

Ba Tạng có vẻ phản đối: "Không cần thiết phải mất thời gian thế chứ."

Nhạc Dương nói: "Xem qua một chút cũng đâu can hệ gì." Đoạn bốn người liền đi về phía đàn dê.

Càng lại gần, trận đồ đá khổng lồ ấy càng khiến người ta thấy lạ kỳ. Những tảng đá to tướng ấy sao tự dưng lại được dựng ở đây làm gì? Hơn nữa bên trên lại còn chất tảng đá lớn khác, tựa như đặt một quả trứng gà lên trên cái đũa cắm thẳng đứng, cơ hồ một trận gió cũng có thể thổi cho đổ ngã dúi dụi. Những tảng đá này cao thì khoảng ba bốn mét, thấp thì cũng chừng hpn hai trăm mét, bên trên quấn một số kinh phướn và khăn hada, bên dưới thì có đá MaNi và sừng bò phủ một lớp cát dày màu sắc giống hệt như thổ lâm xung quanh, từ trên cao nhìn xuống nói chung không thể phát hiện ra được. Một người chăn dê đang nằm ngửa bên cạnh trận đồ đá khổng lồ, gối đầu lên một tảng đá nhỏ. Đột nhiên thấy có người lạ đến, anh ta liền vỗ vỗ bụi cát trên người, chậm rãi đứng lên.

Chỉ thấy người chăn dê này mặc áo da dê non màu xanh đen, đeo một cái Thiên châu hai mắt làm trang sức, tuổi khoảng trên dưới bốn mươi, gương mặt đen đúa đã hằn sâu nếp nhăn, nhỏen miệng cười lộ ra hàm răng trắng xóa. Anh ta quan sát bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba một hồi, đoạn hỏi bằng thứ tiếng phổ thông không được lưu loát cho lắm: "Các ông…đến du lịch hở?"

Trác Mộc Cường Ba dùng tiếng Tạng trả lời: Không"

"Ad" Người chăn dê nhe răng cười cười: "Tôi biết rồi, đến khảo sát phỏng! Tôi tên là Khúc địa Xương Ba, nhà tôi ở ngay gần đây thôi, dê của tôi đi cả một ngày rồi, đến đây nghỉ một lúc. Các ông có muốn về nhà tôi ngồi nói chuyện không?

Trác Mộc Cường Ba cảm ơn rồi nhã nhặn từ chối. Sau khi giới thiệu qua các thành viên trong đội, gã mới hỏi "Xương Ba, chúng tôi chỉ muốn hỏi một chút, anh có biết lai lịch các trụ đá này không?"

Xương Ba nhìn mấy trụ đá sau lưng mình, đáp: "Ông nói cái Tư Bối Đa Nhân này hả? Nghe nói là đã dựng ở đây từ rất lâu rất lâu rồi, tôi nhớ là đi về phía Nam cũng có các trụ đá giống thế này, nhưng không lớn thế này đâu, mà cũng không hoàn chỉnh như ở đây nữa."

"Tư Bối Đa Nhân?" Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm suy nghĩ, không có ấn tượng gì hết. ba Tạng giơ cổ tay lên, vỗ vỗ vào chiếc đồng hồ nguyên tử đang đeo, ý là thời gian không còn nữa. Trác Mộc Cường Ba hiểu ý, gật đầu nói với Xương Ba: "Cám ơn anh Xương ba, chúng tôi còn có việc phải đi trước đây."

Xương Ba nói: "Ồ, đi luôn hả? Tôi tưởng các ông đến để nghiên cứu Tư Bối Đa Nhân nữa kia, thế thì hôm nay mấy trụ đá này không phải do các ông di chuyển à? Kỳ quái thật đấy nhỉ?"

"Anh nói gì hả?" Trác Mộc Cường Ba quay phắt người lại, tức tốc hỏi: "Anh nói mấy trụ đá này hôm nay đã bị di chuyển hả?"

"Không phải hôm nay thì là hôm qua, tối hôm kia tôi đến đây đâu có giống thế này đâu, ông xem chỗ này, còn cả chỗ này nữa, vốn là không phải thế đâu, là ai đấy đã sắp đặt lại đấy." Xương ba nói.

Trác Mộc Cường Ba quăng luôn ba lô xuống đất, bất ngờ chạy đến kiểm tra những tảng đá có người di chuyển ấy.

Ba Tang nhíu mày. Trương Lập thì lấy làm khó hiểu: "Chuyện gì thế này?"

Nhạc Dương cũng bỏ ba lô xuống, nói: "Trực giác của Cương Ba thiếu gia mạnh lắm. Khu vực quanh đây không thể có nhiều du khách đi quan, hơn nữa đội khảo sát khoa học cũng không ở đây, những tảng đá lớn thế này cũng không phải hai ba người có thể nâng lên được. Rõ ràng là người làm chuyện ấy có mục đích gì đó."

Trương Lập hiểu ra: "Ý cậu là, có khả năng do bọn Merkin làm hả?"

Nhạc Dương đến cạnh Trác Mộc Cường Ba, cùng quan sát dấu vết tảng đá để lại trên mặt đất. Nhưng vết tích này chứng tỏ Xương Ba không nói dối. Có mấy tảng đá vốn ngã đổ dưới đất đã bị di chuyển, bên cạnh các dấu tích cũ còn có thêm vết lún tròn của giá đỡ. Nhạc Dương nói: "Dùng con đội, tại sao họ phải di chuyển những tảng đá này nhỉ?"

Trác Mộc Cường Ba vừa lấy trang bị trong ba lô ra vừa nói: "Chắc chắn là có liên hệ gì đấy, chúng ta phải báo lại với Lữ Cánh Nam đã. Nhạc Dương, cậu kiểm tra xem rốt cuộc có bao nhiêu tảng đá bị di chuyển, có thể tìm xem tảng nào dịch chuyển tới chỗ nào không. Trương Lập, cậu giúp Nhạc Dương một tay, xem xem có phát hiện được đối phương sử dụng những công cụ gì, ngoài ra, còn để lại dấu vết gì khác không. Anh Ba Tang cảnh giới, anh và Xương Ba lùa đàn dê ra chỗ nào xa xa một chút, để chỗ này trống trải thông thoáng, được không, Xương Ba…"

Lời gã còn chưa dứt, Lữ Cánh Nam đã phát tín hiệu liên lạc: "Thế nào vậy? Gần mười lăm phút rồi, các anh vẫn chưa tới nơi à?"

Trác Mộc Cường Ba hồi đáp: "Chúng tôi có phát hiện mới, có lẽ là đã tìm thấy một nơi Merkin đi qua. Ở bên bờ sông Tượng Tuyền có một trận đồ đá rất lớn, sớm hôm nay hoặc hôm qua đã bị người ta di chuyển, hiện giờ chúng tôi vẫn chưa biết rốt cuộc là chúng tôi có liên hệ gì với lối vào hay không."

Lữ Cánh Nam hỏi: "Các anh cần gì?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Cho tôi nói chuyện với thầy giáo, chúng tôi cần tư liệu trong máy tính của thầy ấy."

Giây lát sau, đã nghe giáo sư Phương Tân nói: "nghe bảo các cậu có phát hiện mới hả?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Vâng, thầy giáo, thầy tra giúp tôi Tư Bối Đa Nhân, xem có tìm được gì không. Lúc chúng ta học tập nghiên cứu chưa có tra đến cái này."

Giáo sư Phương Tân đáp: "Tư Bối Đa Nhân? Chỉ có bốn chữ ấy thôi à? Như vậy thì máy tính tìm kiếm sẽ cho ra rất nhiều kết quả đó."

Lạt ma Á La đứng bên cạnh lên tiếng: "Đấy là Bia Vũ trụ, là di tích viễn cổ từ thời vương triều Tượng Hùng hoặc trước cả vương triều Tượng Hùng còn lưu lại. Ông có thể tìm trận đồ đá khổng lồ ở A Lý, như vậy thì dễ tìm hơn một chút đấy."

Chỉ lát sau đã nghe giáo sư Phương Tân nói: "Tìm thấy rồi. Đa Bối Tư Nhân là cách gọi của dân du mục địa phương. Tư Bối có nghĩa là xa xưa đến nỗi bị lãng quên, các chuyên gia dịch lại tên đầy đủ là Bia vũ trụ."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Dùng để làm gì thế?"

Giáo sư Phương Tân ngừng lại một chút, hình như đang hỏi Lạt ma Á La, sau đó đáp: "Đợi một chút, máy tính đang tìm kiếm."

Rõ ràng lạt ma Á La cũng không thể xác định chuyện này. Giáo sư Phương Tân hỏi: "Cường Ba à, trận đồ bằng đá này rất quan trọng với lối vào mà chúng ta cần tìm phải không?"

Trác Mộc Cường Ba đáp lại: "Tôi cũng không biết nữa. Nhưng trận đồ đá này về mọi mặt đều gần như giống hệt cái trận đồ đá chúng ta thấy trong rừng rậm châu Mỹ, đây tuyệt đối không thể nào là trùng hợp ngẫu nhiên được."

Lúc này, Xương Ba đã hò hét xua đàn dê tản đi, Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Xương Ba, anh có biết Tư Bối Đa Nhân này dùng để làm gì không?"

Xương Ba lắc đầu đáp: "Chúng tôi chỉ biết nó rất cổ xưa rồi thôi, những chuyện khác thì chịu." Anh ta sờ sờ vành tai bên trái, đột nhiên nói, "Hình như mấy năm trước cũng có chuyên gia của đội khảo sát khoa học đên đây. Họ bảo thì ra là mộ của vị quốc vương cư trú ở vùng gần đây."

"Mộ táng" Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: "Quả nhiên…"

Bên phía giáo sư Phương Tân có tín hiệu truyền đến: "Vì lịch sử của nó quá xa xưa, nên hiện nay vẫn chưa rõ mục đích xây dựng là gì. Tuy nhiên, có chuyên gia nhận định rằng chúng khá giống với những mộ táng ghi chép trong các thư tịch cổ đại từ thời Thất Xích thiên vương."

Nhạc Dương và Trương Lập đã hoàn thành công tác thăm dò trắc địa, cũng quay lại báo cáo: "Có ba tảng đá bị dịch chuyển, nếu chúng tôi đoán không lầm, thì bọn họ định khôi phục nguyên trạng trận đồ bằng đá này, nhưng chưa xong. Trận đồ đá này có vẻ giống như một cánh cửa, một cánh cửa giải đáp cho câu đố tìm lối vào vậy."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tư liệu cho thấy đây là mộ táng tổ tiên của người Tượng Hùng hoặc người thời trước đó nữa, cậu có nhận ra mối liên hệ nào không?"

Nhạc Dương trầm ngâm: "Nơi mai táng tổ tiên…À, tôi nghĩ ra rồi, Đa Cát từng nói, "khi vùng đất nơi tổ tiên yên nghỉ tắm trong ánh dương vàng rực rỡ, Đức Phật vạn năng sẽ chỉ đường dẫn lối cho kẻ một lòng thành kính!" Đúng là nói như vậy đấy."

Trác Mộc Cường Ba chợt hiểu ra, liền ngẩng đầu nhìn về phía đông, chỉ thấy thổ lâm Nạp Nam Tháp đang hướng về phía trận đồ đá khổng lồ. Trương Lập nói: "Ý cậu là, bọn Merkin đã hoàn toàn giải nghĩa được bài ca của Đa Cát…"

Nhạc Dương nói: "Bọn chúng dư dả thời gian hơn chúng ta, hoàn toàn có khả năng này. Đợt chút đã, nếu mà là như vậy, trên đường đến đây, có rất nhiều điểm mốc đều đang từng bước từng bước kiểm chứng lại bài ca của Đa Cát. Vạn tự luân trở về phương Bắc, chính là chỉ Cửu Trùng Vạn tự sơn, chảy ra từ miệng sói tuyết cao nguyên, chẳng lẽ là sông Sư Tuyền…"

"Không" Trác Mộc Cường Ba cất tiếng, "Trong tứ phương thụy thú của thôn Công Bố, sói tuyết cao nguyên ở phía Đông Bắc, còn theo như tên mà lạt ma Á La nói, phía Đông Bắc là thân hình của voi lớn, mới là dòng nước chảy ra từ miệng sói tuyết cao nguyên mà Đa Cát nhắc tới."

Trương Lập gật đầu nói: "Tôi hiểu ý hai người rồi, trận đồ đá khổng lồ này đối diện với các hang động ở Nạp Nam Tháp, khi ánh mặt trời chiếu vào, quan sát từ vị trí riêng biệt nào đấy, sẽ có thể tìm được…cái hang động có lối vào kia."

Nhưng chỉ giây lát sau anh chàng đã trở nên nghi hoặc: "Nhưng mà, ánh mặt trời chiếu hướng xuống dưới, thổ lâm lại còn cao hơn cả trận đồ đá này cơ mà. Chẳng lẽ, cái bóng của những tảng đá ấy chỉ được phương hướng chắc?"

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Không, khoảng cách xa quá, bóng không thể nào vươn xa thế được. Hơn nữa, các cậu nhìn trận đồ đá này mà xem, trụ đá gần bờ sông thấp hơn, còn trụ ở phía Nạp Nam Tháp lại cao hơn, rõ ràng là điểm quan sát phải là từ dưới nhìn lên trên mới đúng, ánh mặt trời không thể nào chiếu theo góc độ ấy được."

Nhạc Dương nói: "Nhất định là có quan hệ gì đó, phía sau sông Tượng Tuyền cũng có thổ lâm, mặt trời phải lên đến một độ cao nhất định mới chiếu đến đây được, cũng có nghĩa là góc khúc xạ hàng ngày là cố định bất biến, sông Tượng Tuyền…góc khúc xạ? Là…"

Trác Mộc Cường Ba cũng nói: "Là phản xạ, lợi dụng mặt sông Tượng Tuyền để thực hiện quá trình phản xạ ánh sáng."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35: đảo huyền không tự: vùng đất bí mật cuối cùng


Nhạc Dương bổ sung thêm: "Vị trí của người quan sát có quan hệ với hình dáng chỉnh thể của trận đồ bằng đá, cần phải đứng ở một vị trí đặc biệt đã đặt từ trước, sau đó nhìn theo hướng ánh sáng phản xạ."

Trương Lập nói: "Khi vùng đất nơi tổ tiên yên nghỉ tắm trong ánh dương vàng rực rỡ, đó là chỉ bình minh mà bây giờ lại là hoàng hôn, làm thế nào bây giờ?"

Nhạc Dương đáp: "Chúng ta không nhất thiết phải đợi đến bình minh, trận đồ đá này và Nạp Nam Tháp đã có liên hệ chặt chẽ với nhau, vậy thì cần biết góc độ chiếu xạ của tia sáng mặt trời và vị trí của người quan sát, cũng vẫn có thể tìm ra."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Thầy giáo, thấy nghe rõ chưa? Giờ chúng tôi sẽ xuống sông tiến hành đo góc khúc xạ của ánh sáng. Trương Lập sẽ lắp máy phát tín hiệu lên trụ đá. Giáo quan, nhờ cô cho trực thăng ở trên không tiếp nhận tín hiệu, chụp ảnh trận đồ đá này, sau đó chuyển hình dạng và kết cấu của trận đồ đá tới máy tính xách tay của giáo sư Phương Tân. Chúng tôi cần phân tích cầu tạo của nó để tìm ra vị trí của người quan sát."

Năm phút sau, bọn Trác Mộc Cường Ba đã đưa ra được kết luận: góc khúc xạ của ánh mặt trời là 15 độ 46 phút, máy tính của giáo sư Phương Tân phân tích ra toàn bộ trận đồ bằng đá này có kết cấu hình trứng, đầu lớn hướng về phía thổ lâm, đầu nhỏ hướng về sông Tượng Tuyền, vị trí của người quan sát rất có thể chính là góc hẹp do hai bên kết cấu hình trứng giao nhau hình thành. Nhạc Dương mang theo máy phát tín hiệu, với sự phối hợp của giáo sư Phương Tân, lần từng bước di chuyển đến vị trí của người quan sát, Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập lần lượt dùng máy đo thăng bằng và thước đo góc dựng cho Nhạc Dương một bệ quan sát có góc ngắm 15 độ 46 phút. Nhạc Dương thuận theo góc nghiêng của bệ quan sát nhìn lên trên, tầm nhìn xuyên thẳng qua một trụ đá thấp, kế đó là một trụ đá cao, hai điểm nối liền thành một đường thẳng, cuối cùng ánh mắt khóa chặt vào một trong mấy hang đá phía đối diện.

"Tìm thấy rồi" Nhạc Dương dằn cảm giác kích động trong lòng xuống, gắng hết sức bình tĩnh nói. Đồng thời anh chàng cũng kinh ngạc nhận thấy, khi đứng ở vị trí này, cố định góc ngắm 15 độ 46 phút, không ngờ lại chỉ nhìn thấy được một cái hang đó, toàn bộ những hang còn lại đều biến mất, nhưng chỉ cần hơi ngửa về phía sau hoặc nhìn nghiêng, những hang khác sẽ lập tức xuất hiện trong tầm mắt, tất cả như ảo giác vậy.

Xương Ba tò mò hỏi: "Mọi người đang làm gì vậy? Đo đạc núi Rắn phải không?"

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: "Đúng vậy, chúng tôi phải đi đây. Anh Xương Ba, hết sức cảm ơn anh nhé, cảm ơn."

Đoạn gã quay sang bảo Nhạc Dương: "Nhạc Dương, chúng tôi cần cậu ở lại đây để khóa chặt mục tiêu lại."

Nhạc Dương đáp: "Hiểu rồi."

Xương Ba lại hỏi Trương Lập: "Mọi người muốn lên núi Rắn hả?"

Trương Lập gật đầu: "Đúng thế."

Anh ta quay sang bảo với Trác Mộc Cường Ba: "Tôi biết có con đường tắt, từ đây có thể đi thẳng lên luôn. Có cần tôi dẫn đường cho không?"

Trác Mộc Cường Ba nắm tay Xương Ba nói: "Cám ơn. Cảm ơn anh nhiều lắm, chúng ta mau đi thôi."

Lúc này thứ họ thiếu nhất chính là thời gian.

Trác Mộc Cường Ba báo cáo với Lữ Cánh Nam: "Chúng tôi ở phía này gần hơn các cô bên đấy, cửa hang cách chỗ cô chừng ba cây số, chúng ta sẽ gặp nhau ở đó. Nhạc Dương ở đây khóa vị trí, rồi sẽ đến gặp chúng ta sau."

Lữ Cánh Nam đáp: "Tôi biết rồi."

Trên đường, Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Trương Lập, các cậu còn có phát hiện ra dấu vết gì nữa không?"

Trương Lập đáp: "Không có, chỉ biết bọn chúng có công cụ nâng vật nặng. Còn nữa, Nhạc Dương nói có lẽ là bọn chúng ngồi xe đến đây, nhưng không phát hiện ra dấu vết gì, chắc là đã ngụy trang rồi."

Bọn họ từ lưng chừng núi đất Nạp Nam Tháp đi lên một con đường ruột dê thẳng tới cửa hang động kia, Nhạc Dương vẫn liên tục giữ liên lạc. Mắt đã thấy sắp đến được cửa hang động tới nơi thì trong núi bỗng nổi lên một cơn gió, cơ hồ tất cả các hang động đều vẳng ra tiếng vọng hoàn toàn khác với tiếng gió lúc nãy họ nghe trong hẻm núi, rít cao vút, chói tai, toán lên một vẻ dữ tợn mà kỳ dị. Xương Ba lúc đầu vẫn còn nói nói cười cười, vừa nghe thấy tiếng gió này, đột nhiên sắc mặt biến đổi, đồng thời cũng dừng luôn chân lại.

"Sao vậy, Xương Ba?" Trác Mộc Cường Ba quay qua hỏi.

Xương Ba nói: "Mọi người không nghe thấy gì hả? m thanh đó."

Trương Lập hồn nhiên đáp: "Tiếng gió mà."

"Không…" Sắc mặt Xương ba trắng bệch, "không phải, đó là Hắc Miêu hoàng hậu, đó là lời nguyền của Hắc Miêu hoàng hậu! Tôi, tôi chỉ có thể đưa mọi người tới đây thôi, tôi phải về đây." Nói rồi không ngờ lập tức quay đầu đi về luôn.

"Xương ba, Xương Ba!" Trác Mộc Cường Ba gọi liền hai tiếng, Xương ba mới quay đầu lại cảnh cáo: "Trước nay tôi vẫn luôn cho rằng, núi Rắn chỉ là núi Rắn, ở đấy chẳng có gì hết. Nhưng hôm nay xem ra người già nói cấm có sai, trong núi Rắng có kho tàng của người Cổ Cách, Hắc miêu hoàng hậu không cho phéo bất cứ kẻ nào chạm vào kho tàng đó cả, bà ta sẽ nguyền rủa tất cả những kẻ nào lại gần, các ông phải cẩn thận đấy."

Trác Mộc Cường Ba ngần người ra giây lát, rồi mới nói: "Cám ơn anh." Trong khoảnh khắc Xương Ba ngoảnh đầu lại ấy, gã chợt cảm thấy lóe lên một tia quen thuộc. Ánh mắt đó, thật bất ngờ lại có vẻ gì đó giống với cha già của gã. Đó là ánh nhìn xa trông giộng, dường như có thể nhìn thấu vạn vật. Nhưng gã lập tức nhanh chóng phủ định ý nghĩ này của mình.

Bọn Trác Mộc Cường Ba vào hang. Đây đúng là một cái hang trống huếch trông hoác, tuyệt đối không có gì. Tuy nhiên trong hang bị người ta đào một cái lỗ lớn, nhìn chất đất có thể nhận thấy là mới được đào lên chưa lâu.

Sau khi tìm được cửa hang, Xương Ba đưa Nhạc Dương tới chỗ giao lộ dẫn lên núi, sau đó Nhạc Dương và mấy người bọn Lữ Cánh Nam cùng lúc đến nơi.

"Em sao vậy Mẫn Mẫn?" Trác Mộc Cường Ba vừa nhìn đã phát hiện ra sắc mặt Đường Mẫn hơi khó coi.

Lữ Cánh Nam nói: "Vừa nãy đi giữa đường, sắc mặt cô ấy chợt tái nhợt đi, nhưng mà hình như đã không sao rồi."

Đường Mẫn gật đầu: "Em khỏe lắm, không sao đâu, chắc là lúc lên núi chạy nhanh quá thôi."

Lữ Cánh Nam nói: "Vậy, chúng ta xuống đó thôi, tôi đi trước dò đường, mọi người theo phía sau, xuống từng người một."

Lữ Cánh Nam buộc dây thừng vào người, chầm chậm thả mình xuống dưới. Giáo sư Phương Tân nhìn Trác Mộc Cường Ba nói: "Hình như cậu vẫn còn điều gì ghi hoặc?"

Trác Mộc Cường Ba đáp: "Vừa nãy anh Xương Ba đó nói, chỗ này là kho tàng của Cổ Cách vương, bên trong có lời nguyền của Hắc Miêu hoàng hậu. Tôi nhớ khi chúng ta điều tra tư liệu, đâu có câu chuyện về Hắc miêu hoàng hậu đâu nhỉ."

Giáo sư Phương Tân nghĩ ngợi giây lát, đoạn quay sang hỏi mấy người bọn Trương Lập: "Các cậu có biết chuyện về Hắc Miêu hoàng hậu không?"

Trương Lập lắc đầu quầy quậy, Nhạc Dương nói: "Tôi chỉ biết chuyện cảnh sát trưởng Hắc Miêu thôi."

Giáo sư Phương Tân nói: "Những câu chuyện thần thoại lưu truyền trong dân gian nhiều như lông trâu lông bò, chúng ta không thể chuyện nào cũng tra ra hết được."

Lạt ma Á La cũng lên tiếng: "Không cần phải quá lo lắng. Dựa vào bích họa trong các hang động trước đó chúng tôi đã thấy cộng với tư liệu của chuyên gia mà Lữ Cánh Nam đang nắm trong tay, có thể khẳng định rằng di chỉ này còn lâu đời hơn vương triều Cổ Cách rất nhiều. Mục dân hiện nay đều là dân di cư cả, chắc chắn là họ đã đem một số câu chuyện về vương triều Cổ Cách mà mình nghe được gượng ép đặt vào khu di tích này thôi."

Lữ Cánh Nam đã an toàn xuống bên dưới, Ba Tang cũng đã xuống hang. Lạt ma Á La nói: "Câu chuyện về Hắc miêu hoàng hậu thì tôi có biết một chút. Chuyện kể rằng trước khi vương triều Cổ Cách diệt vong. Cổ Cách vương muốn quyết tử với kẻ thù, nhưng lại không nỡ hy sinh hoàng hậu mà mình yêu thương. Vậy là ngài liền triệu vu sư đến, biến hoàng hậu thành mèo đen, hy vọng bà ta có thể chạy trốn khỏi Cổ Cách trước khi kẻ thù phá thành. Nhưng sau khi biến thành mèo đen, hoàng hậu lại không chịu chạy trốn. Quốc vương cố nén niềm đau, vuốtg ve mèo đen mà rằng: "Kể từ nay, kẻ nào có được mèo đen, kẻ ấy sẽ là chủ nhân của Cổ Cách." Sau khi Cổ Cách bị diệt, Hắc miêu hoàng hậu sống sót, bà vẫn ở trong hình hài meo đen ấy để bảo vệ tất cả vàng bạc châu báu của Cổ Cách vương lưu lại, bất cứ kẻ nào muốn cướp báu vật, đều bị Hắc Miêu hoàng hậu nguyền rủa. Ít nhất thì một trong các phiên bản của câu chuyện này là như vậy đấy."

Mọi người nghe câu chuyện sơ lược đã cảm thấy chẳng liên quan gì đến họ, duy chỉ có mình Trác Mộc Cường Ba là không nghĩ như thế.

Đường Mẫn là người xuống thứ ba. Trác Mộc Cường Ba nắm chắc dây thừng, đồng thời cũng tạm gác chuyện kia sang một bên, cùng với những người khác trèo xuống hang. Gã không thể nào tránh nổi cảm giác là câu chuyện về Hắc Miêu hoàng hậu ấy khơi gợi cho mình một điều gì đó.

Toàn bộ lối vào xuyên qua tâng đất đặc, trượt xuống dưới chừng bảy tám chục mét thì đến vùng bụng rộng mở của gò núi thổ lâm. Đoạn lối vào cũng kéo dài đến mười mấy mét, nếu không tìm được chính xác, cố đào bừa ở chỗ khác để xuyên vào lòng núi thì cho dù có các công cụ đào đất hiện đại e là cũng phải mất thời gian mười mấy ngày mới xuống được đến nơi. Nếu không có bản đồ, chắc không thể nào phát hiện ra nơi này được, e là có thêm một nghìn năm nữa, ở đây vẫn cứ như thế này chứ không hề suy suyển.

Chín người tập trung dưới lòng đất, nhìn lối thông tối om hẹp như trong hang động đá vôi, không khỏi có chút thấp thỏm bất an trong lòng. Đường hầm nhân tạo bên trong thổ lâm này giống như địa đạo ngầm thời chiến, đường đi gập ghềnh, rất nhiều chỗ ngoặt, lòng hang không cao, phải khom người mới tiến lên được, nhưng không có nhánh rẽ hay cạm bẫy cơ quan gì. Tuy vậy, chỉ riêng chuyện phát hiện được lối vào này đã là khó khăn lắm rồi. Bạn đang đọc truyện được copy tại Truyện FULL

Đi được hơn nửa tiếng, Trác Mộc Cường Ba để ý thấy mặt đất dưới chân bắt đầu xuất hiện vết nứt không ngừng gió thổi ra, thoang thoảng có thể nghe thấy tiếng gió luồn lách rít gào, tựa như âm thanh ta nghe thấy khi bịt chặt cả hai tai lại vậy. Mới đầu, vết nứt ấy chẳng qua chỉ là một cái khe nhỏ, về sau đường hầm càng đi sâu xuống dưới vết nứt càng rộng thêm, bằng bàn tay rồi dần bằng eo hông người, rõ ràng khe nứt cũng thuộc loại trên nhỏ dưới lớn. Trương Lập thử ném một cục đá xuống, rất lâu sau không nghe thấy tiếng vọng, không hiểu rốt cuộc là sâu bao nhiêu mét nữa.

Đa Cát đắc ý dẫn ra truyền thuyết trong thôn nhà anh ta: "Không cần thử nữa, khe nứt này thông thẳng xuống suối vàng, rơi xuống là vào chuyển thế luân hồi luôn, căn bản không có đáy đâu."

Lữ Cánh Nam nhấn mạnh: "Cẩn thận chút, khe nứt này có thể thông với sông ngầm dưới lòng đất, rơi xuống đó thì cơ hội leo lên là rất nhỏ đây,"

Tiếp tục đi xuống, khe nứt ấy không ngờ lại càng lúc càng lớn dần, con đường dưới chân bọn Trác Mộc Cường Ba thì càng thắt lại, xung quanh trở nên tối đen như mực, cả bọn đoán rằng mình đã ở sâu hơn trăm mét dưới lòng đất. Giáo sư Phương Tân nhận thấy chất đất xung quanh đã khác, đã từ đất sa mạc hóa ban đầu chuyển thành nham thạch núi lửa, nếu tiếp tục đi sâu xuống, đoán chừng sẽ còn có thay đổi nữa.

Cả đoàn cứ thế đi mãi, đột nhiên ánh sáng trên mũ của Lữ Cánh Nam đi đầu tiên tắt phụt. Mọi người đang tưởng có chuyện bất ngờ xảy ra, chợt nghe Lữ Cánh Nam nói: "Cẩn thận, phía trước là khe nứt lớn. Dán sát người vào vách đá, ở đây toàn là đường nhỏ lơ lửng giữa tâng không thôi."

Mọi người ra khỏi thông đạo mới nhận thấy cả bọn đi ra một khe nứt hẹp. Vừa đi ra, khe nứt bên trái đột nhiên tăng từ một mét chiều rộng lên đến mấy mét, thậm chí còn rộng hơn, còn không gian trên đỉnh đầu trong chốc lát cũng tăng lên mấy chục mét.

Không gian tối đen như mực đột nhiên khác hẳn, ánh sáng của mũ phát sáng bỗng chốc chỉ còn như ngọn lửa đom đóm, thậm chí cả con đường dưới chân cũng không thể nhìn rõ được nữa.

Trương Lập bước hụt chân, suýt chút nữa thì ngã, ngọn đèn pha đang cầm tay rơi tuột xuống, anh chàng lầm bầm chửi: "Đường…đường kiểu gì thế này, sao hẹp thế, gần như là con đường ở bên bờ song Nhã Lỗ Tạng Bố rồi còn gì."

Nhạc Dương nói: "Lại còn phải nói nữa à, ở đây chẳng còn chút ánh sáng nào, so với con đường bên sông còn nguy hiểm hơn ấy chứ."

Lữ Cánh Nam gật đầu: "Không sai, đây là một hẻm núi sâu nằm hoàn toàn bên dưới lòng đất. Dựa theo những gì chúng ta có thể nhìn thấy lúc này, quy mô của nó chỉ sợ không nhỏ hơn sông Nhã Lỗ Tạng Bố đâu."

Mọi người đều chăm chú nhìn ánh sáng ngọn đèn pha yếu dần yếu dân, cuối cùng rồi chỉ còn một chấm nhấp nháy rồi biến mất, giáo sư Phương Tân rùng mình thốt lên: "Trong không gian hoàn toàn tối tăm, ánh sáng đèn pha này ngoài nghìn mét vẫn có thể nhìn thấy, cái khe…khe vực này không ngờ lại sâu như thế…đúng là, đúng là gặp ma rồi."

Lạt ma Á La nghi hoặc: "Chẳng lẽ lại thông xuống suối vàng thật…"

Ba Tang lạnh lùng nói: "Cho dù là suối vàng, đi thêm một lần nữa cũng ngại gì nữa đâu."

Lữ Cánh Nam nghiêm giọng: "Mấy người có biết khe vực ở sông Nhã Lỗ Tạng Bố sâu bao nhiêu không? Độ sâu trung bình đã hơn năm nghìn mét rồi, nếu tính thêm cả đỉnh Nam Ca ba Ngõa hay đỉnh Gia La Bạch Lũy, độ sâu của khe núiphải vượt quá bảy nghìn mét.. Mặc dù độ cao trung bình so với mặt nước biển của thổ lâm Cổ Cách thấp hơn hai ngọn núi cao kia, nhưng khả năng khe núi dưới lòng đất này sâu hai ba nghìn mét cũng không phải là không có."

Mọi người tiếp tục đi sâu xuống, cuối cùng cũng đến được tận cùng con đường nhỏ thì trông thấy dây thừng của bọn merkin để lại. Phía bên đối diện thấp thoáng ánh sáng, đó là ống phát sáng của bọn Merkin đốt lên. Trương Lập nói: "Bọn chúng đi trước rồi, chúng ta cũng mau qua đó thôi."

Nhạc Dương nói: "Đám thừng móc này cũng vừa buộc vào, bọn chúng mới qua chưa lâu đâu, chúng ta vẫn còn có thể đuổi kịp đấy."

Lữ Cánh Nam xua tay nói: "Không vội, nếu bờ bên kia có để lại một người canh giữ, chúng ta muốn quan đó thật không dễ dàng chút nào đâu. Ai! Ai đã lên dây thừng rồi?"

Liền đó nghe tiếng Trương Lập kêu lên: "Ấy, Đa Cát! Trở lại đây!" Chỉ thấy cái bóng đen gầy gò ấy đã khuất xa mất. Nhạc Dương chậc lưỡi: "Bò nhanh thật đấy."

Lạt ma Á La nói: "Người suốt ngày đi lại trên dây xích vắt ngang sông thì bò dây thừng này chẳng lẽ còn không dễ ư?"

Lữ Cánh Nam lập tức quyết định: "Đa Cát không thể liên hệ với chúng ta được, lại không có cả vũ khí nữa. Trương Lập theo anh ta. Những người còn lại ở đây đợi hồi âm của họ."

Bóng tối lặng im lừng lững, thời gian trôi đi như chậm hẳn lại, Trác Mộc Cường Ba cảm tưởng như đang trở lại nơi gã lần đầu tiên thực nghiệm Mật tu. Đường Mẫn hạ giọng thì thầm: "Những ánh lửa bên kia trông cũng đẹp mắt thật đấy nhỉ."

Giáo sư Phương Tân nói: "Mọi người có phát hiện ra không, những đốm lửa ấy rất có quy luật.Giống như những hình tam giác ngược nối liền bằng một đường kẻ chỉ vậy"

Lạt ma Á La có thị lực tốt nhất, nhanh chóng nhìn ngay ra quy luật của đám lửa ấy: không chỉ có một đường, số đường nét được thắp sáng ít nhất có tới mười ba, vài đường phân bố đối xứng, ở giữa có một khoảng tối rất lớn, xét theo độ sáng, các hình tam giác có cái ở gần, có cái lại ở rất xa. Những đốm lửa nhỏ kết thành một vệt dài ấy khiến lạt ma Á La nhớ đến hình ảnh ông từng nhìn thấy trong quá khứ: Tượng thần Ma Hê Thủ La khổng lồ vươn ra mười tám cánh tay, mỗi cánh tay nâng một tòa Phật tháp đảo ngược. Tương truyền, đó chính là thiền phòng để người xưa tu luyện. Rất lâu rất lâu trước đây, những Mật tu giả vượt qua cấp cách tây sẽ có vinh dự tiến vào Thánh địa tu hành ở cấp độ cao hơn này. Lẽ nào…lẽ nào…đây chính là Thánh luyện đường của Mật tu giả đã bị chôn vùi trong lịch sử hay sao?!

Đường Mẫn nói với Trác Mộc Cường Ba: "Anh xem kìa, mất đường sáng nối liền những hình tam giác lại với nhau cứ như con nhện vươn tám cái chân ra ấy nhỉ."

Ánh mắt Lạt ma Á La lóe lên một tia sắc lạnh, thầm nhủ: "Cô bé này quan sát nhanh nhạy thật."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Ừm? Nghe Mẫn Mẫn nói vậy, giờ nhìn cũng giống thật đấy."

Nhạc Dương cũng lên tiếng: "Vậy thì cái chỗ tối đen ở giữa ấy là gì thế, thân hình à?"

Mọi người trầm ngâm quan sát, quả thật nhìn kỹ thấy rất giống, thêm nữa những vệt sáng loang lổ lờ mờ còn tạo thành một hình người có mấy cánh tay.

Ba Tang nói: "Nếu đây đúng là một pho tượng Phật, vậy thì e là hơi to quá."

Lạt ma Á La nghĩ thầm: "Người chưa từng trải sự đời sao biết được! Đại thần Ma Hê Thủ La trấn áp cõi u minh địa phủ, chân đạp suối vàng, đầu đội trời xanh, thân cao vạn nhẫn, đâu phải lọai như ngươi có thể biết đến."

Giáo sư Phương Tân hỏi Nhạc Dương: "Tượng Phật lớn nhất cậu từng trông thấy bằng chừng nào?"

Nhạc Dương nói luôn: "Lạc Sơn Đại Phật chứ còn gì nữa, đấy mới gọi là to! Một cái vai tượng Phật đủ làm sân bóng rổ…bệ bên dưới chân tượng cũng phải bằng cái sân bóng đá ấy."

Giáo sư Phương Tân nói: "Á, Lạc Sơn Đại Phật đúng là tượng Phật đá hàng đầu, có điều đến giờ thì cũng không còn là tượng Phật cao nhất nữa rồi. Tổng chiều cao của Lạc Sơn Đại Phật hình như chỉ khoảng hơn 70 mét, mà Linh Sơn Đại Phật mới xây dựng mấy năm trước nếu tính cả bệ bên dưới đã cao đến trăm mét, gần đây lại nghe nói có Lỗ Sơn Đại Phật tính chiều cao cả bệ thì lên đến một trăm năm mươi mét, hiện nay là tượng Phật cao nhất thế giới."

Lạt ma Á La kinh ngạc thốt lên: "Không ngờ mới đây lại có thêm tượng Phật lớn đến thế, nếu có cơ hội tôi phải đi bái tế mới được."

Ba Tang đã đoán được ẩn ý của giáo sư Phương Tân, đột nhiên cười gằn một tiếng hỏi: "Mấy người đã thấy qua bức tượng Phật khổng lồ nào cao hơn một nghìn mét chưa?"

Ngoài giáo sư Phương Tân và Lạt ma Á La, những người khác đều ngẩn ra, tiếp đó giật mình kinh hãi. Nhạc Dương kêu lên: "Làm gì có chuyện ấy?! Một nghìn mét là khái niệm gì chứ? Công trình kiến trúc cao nhất thế giới hiện nay cũng chưa quá năm trăm mét đó."

Đường Mẫn cũng lên tiếng: "Một nghìn mét là bằng nhà chọc trời hơn hai trăm đến gần ba trăm tầng rồi, tượng Phật gì mà xây cao thế được."

Trác Mộc Cường Ba cũng nói: "Chuyện khác chưa nói, chỉ riêng nguyên liệu đá thôi cũng chẳng kiếm đâu ra được tảng đá nào to thế cả."

Lữ Cánh Nam im lặng không lên tiếng, chỉ nhìn Lạt ma Á La. Ánh mắt vị sư già hướng về phía xa xa, nhìn chằm chằm vào những điểm sáng kia không chớp.

Giáo sư Phương Tân chỉ tay về phía ánh sáng, điềm đạm nói: "Trước mặt mọi người đây, nếu đúng là một pho tượng Phật, vậy thì chính là pho tượng khổng lồ cao hơn một nghìn mét đó. Một pho tượng bị chôn sâu dưới lòng đất không thấy ánh sáng mặt trời, một vật thể khổng lồ, một kỳ tích của nhân loại."

Trác Mộc Cường Ba thoáng ngây người: "Sao cơ, tượng phật cao hơn nghìn mét à?"

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Tôi suy đoán theo tỉ lệ, cứ dựa vào trọng lượng và độ võng của dây thừng, cùng với khoảng cách tối đa mà ánh đèn pha có thể chiếu đến, thì từ chỗ chúng ta bên này sang tới bên kia cách nhau chừng trên hai trăm mét. Dùng một phép tóan đơn giản so sánh tỉ lệ giữa kích cỡ vật thể khi nhìn thấy cách xa hai trăm mét và kích cỡ thực tế của nó, tôi có thể khẳng định rằng hình tam giác ngược ở gần chúng ta nhất định cũng phải cao từ một trăm mét trở lên. Căn cứ vào tỉ lệ giữa vệt sáng tượng trưng cho cánh tay và hình tam giác ngược cũng có thể tính ra được nó rất dài, kế đó lại dựa vào tỉ lệ giữa các hình tam giác với vệt sáng, chỉ riêng phần cánh tay nhô ra khỏi vách đá đã phải dài hai trăm mét rồi, vì vậy tôi ước tính cả cánh tay này dài khoảng bốn trăm mét gì đấy. Nếu đúng là một pho tượng Phật, mà chỉ riêng chiều dài cánh tay đã lên đến bốn trăm mét, thì chiều cao của cả pho tượng suy ra phải rất lớn. Hơn nữa, nham thạch núi lửa ở vùng này thuộc loại có cấu trúc chắc nhất và rắn nhất, khe vực dưới lòng đất này sâu cũng quá nghìn mét, nên đục đẽo trên vách đá một pho tượng Phật khổng lồ cao khoảng nghìn mét là rất có thể."

Lữ Cánh Nam thắc mắc: "Vậy còn trọng lực thì sao? Làm sao họ giải quyết được được vấn đề trọng lực? Độ dài tới bốn trăm mét, nham thạch phải gánh chịu trọng lượng tự thân nó đã là cực hạn rồi, làm sao có thể nâng thêm một kết cấu hình tam giác ngược cao đến cả trăm mét nữa?"

Giáo sư Phương Tân lắc đầu: "Chuyện này thì tôi không biết, có điều nhất định là có cách làm được thôi. Nếu có thể đục đẽo ra một bức tượng Phật lớn như thế, thì cũng đâu phải chuyện mấy trăm người làm trong mấy chục năm là xong được đâu."

Lúc này Trương Lập đã baá tin lại: "Bên này không có kẻ địch, chúng tôi đã chiếm được vị trí có lợi rồi, mọi người mau qua đi. Qua đây mà xem kỳ tích! Trời ơi là trời, kỳ quan thứ chín của thế giới đây rồi. Đảo Huyền Không tự! Đảo Huyền Không tự!"

Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều cảm thấy thắc mắc khó hiểu: "Chuyện này là sao, sao lại không phái người canh giữ? Ở bên kia chỉ cần để lại một người canh giữ, những kẻ đi sau căn bản là không thể qua được mấy sợi dây thừng này. Merkin là chuyên gia của binh đoàn đặc chủng, hắn không thể nào phạm phải sai lầm thế này được, chẳng lẽ bọn chúng nhận định chúng ta không thể đến đây trong thời gian ngắn như thế hay sao? Hay là đã bố trí mai phục ở chỗ nào đó khác?"

Trèo qua dây thừng đến đầu bên kia, Lữ Cánh Nam liền nhìn thấy cảnh ]ợng như trong một quả cầu thủy tinh, bèn nhủ thầm trong bụng: "Thì ra là thế…"

Toàn thể các đội viên đều leo qua dây thừng thuận lợi, lúc ấy mới thấy cả một thế giới hoàn toàn khác trải ra trước mắt.

Merkin đang bôi thuốc mỡ lên chỗ mí mắt sưng phù, mình mẩy trên dưới thâm xanh thâm tím cả. Soares cũng không hơn được bao nhiêu, trên trán có một vệt đen to tướng. Merkin thở hồng hộc nói: "Coi như là sống, tình hình tử thương ra sao?

Max liền báo cáo: "Chết ba thằng, bảy thằng bị thương khá nặng, đã tiêm thuốc giảm đau rồi, miễn cưỡng thì vẫn có thể hành động."

Merkin nói: "Đợi chút đã, chúng ta còn bao nhiêu thuốc giảm đau?"

Max đáp: "Thứ này, còn lại cũng không nhiều nữa…"

Merkin lo lắng thầm nhủ: "Thật không ngờ, mới tới tòa thứ mười hai mà đã…Thôi bỏ đi, đằng nào cũng dùng chúng làm vật hy sinh thôi mà."

Soares cầm trên tay chiếc máy điều khiển từ xa như cái điện thoại di động, chăm chú quan sát màn hình hiển thị. Cần phải hết sức cẩn trọng, đã tổn thất mười ba con bồ câu, hai mươi con chuột bạch, ngoài ra còn mất bốn mạng người nữa. Y thầm chửi rủa sao cái nơi chó chết này lại lắm cơ quan cạm bẫy đến thế. Lần đầu tiên đến địa cung Ahezt, y đã cảm thấy nơi đó thật sự là nguy hiểm tột cùng rồi, đâu đâu cũng có nguy cơ, mỗi bước đi đều là cạm bẫy, nhưng đem so với cái Đảo Huyền Không tự này, gần như là đệ tử gặp sư phụ vậy. Ở đây có rất nhiều cơ quan khiến người ta chẳng thể nào mà lần, căn bản không biết làm sao mà bị khởi động. Chẳng lẽ đúng như Mekin nói, chỗ này vốn được xây dựng để huấn luyện cho cái đám Mật tu giả đáng sợ ấy hay sao? Đang nghĩ ngợi, chợt thấy ánh đỏ nhấp nháy một cái, Soares liền cười cười nói: "Ê Ben, bọn chuột nhắt vào rồi. Có chín con."

Merkin hình như hơi ngạc nhiên nói: "Nhanh thế kia à?"

Max vội cuống lên: "Ông chủ, để tôi dẫn người đi thịt chúng nó."

Merkin lập tức mắng phủ đầu: "Cái đầu mày làm bằg gỗ hả,suốt ngày chỉ muốn chém chém giết giết! Mày biết chúng nó có vũ khí gì không? Mày định dẫn bao nhiêu thằng đi? Vậy ở đây bọn tao có cần người nữa hay không? Tìm thấy bản đồ quan trọng hơn hay là làm thịt bọn chúng quan trọng hơn hả?"

Y ngừng một chút, đoạn nói tiếp: "Chúng nó không dễ gì đuổi kịp chúng ta đâu, cứ tìm bản đồ trước quan trọng hơn, đầu óc không thể phân tán được, đi thôi! Thằng ngu!"

"Đợi chút đã." Merkin mới đi được hai bước, liền quay sang bảo hai tên trong đám thuộc hạ: "Thái, Hoàng, hai chúng mày ở lại canh giữ tầng này, nếu bọn chúng nó có thể đến được đây, ha ha…"

Ngưu Nhị Oa chủ động xung phong giết giặc: "Tôi muốn ở lại, ông chủ."

Merkin xua tay nói: "Không được, mày đi theo bọn tao, lần sau đi, để thù hận của mày lên đến cực điểm đã."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36: Thánh luyện đường: vùng đất bí mật cuối cùng


Phải đến gần, cả bọn mới nhìn rõ diện mạo thật của Đảo Huyền Không tự. Cung khuyết trên trời, thành lũy dưới màn đêm, những ngọn đuốc đó sáng rực rỡ như vô số ngọn đèn kéo quân phiêu diêu bất định trong bóng tối đen kịt, lấp lánh hiện lên thành những quầng sáng khiến người ta phải chói mắt. Xa xa, gần gần, những tòa tháp ngược thấp thoáng ẩn hiện dưới ánh lửa, lờ mờ trông thấy cả hình vẽ màu bên ngoài cửa sổ, nếu dưới ánh mặt trời đó nhất định sẽ là một cảnh tượng khiến người ta phải sững lại ngất ngây, trầm trồ ngưỡng mộ. Chỉ tiếc nỗi tất cả lại ở trong chốn đêm đen vĩnh cửu này!

Đứng trên bình đài, nhìn những ngôi Đảo Huyền Không tự nhấp nháy như các vì tinh tú, người ta chợt có cảm tưởng như chìm trong ảo giác mà lạc bước chốn Thiên đình. Nếu không có những ngọn lửa thắp trên thông đạo nối liền ở giữa, Đảo Huyền Không tự thật chẳng khác gì những ngọn đèn Khổng Minh lửng lơ trôi giữa trời. Mọi người đều vịn lan can mải ngắm nhìn, dõi mắt ra tận tít xa, trong giây lát bất giác quên đi cả mục đích của chuyến đi.

Lữ Cánh Nam vốn định mắng cho Đa Cát một trận nên hồn, nhưng tên tiểu tử ngày cứ lè lưỡi trợn mắt không ngừng làm trò quỷ. Cũng may tối qua trò chuyện với mọi người, Đa Cát đã biết bà cô già này tương đối bá đạo ngang ngược, anh chàng lùn mới không giở cái lý luận "đàn bà sao lại giáo huấn ngược lại đàn ông thế này, thế chẳng phải trời đất đảo lộn rồi sao" của mình ra, bằng không Lữ Cánh Nam cũng thật lo lắng mình sẽ không khắc chế được bản thân, chỉ e sẽ nhảy lên tung cước đá văng cái tên lùn ấy xuống vực sâu không đáy luôn.

Nhạc Dương nhìn những ngọn đèn tựa như dẫn đường trải tít tắp ra xa ở phía dưới cho tới lúc ánh sáng biến mất trong màn đêm đen mù mịt, lẩm bẩm nói một mình: "Nhìn hình dáng dải đèn ấy thì đúng là cánh tay rồi, đây đúng là một pho tượng Phật lớn đấy. Ối trời ơi, to thật, những ngôi chùa ngược lớn có nhỏ có này đều được ngài ấy nâng trên tay đấy, chúng ta chẳng qua chỉ là một con kiến trên tay tượng Phật này mà thôi."

Giáo sư Phương Tân nói: "Tượng Phật lớn thế này…tượng phật lớn thế này…Đây không phải là công trình một sớm một chiều mà hoàn thành được đâu. Khối…khối lượng công việc của nó, gần như có thể so với Vạn Lý Trường Thành chứ chẳng chơi. Ít nhất cũng phải cần đến cả vạn người thợ, tốn hết trăm năm thời gian mới hoàn thành được."

Ba Tang lạnh lùng buông một câu: "Chỉ tiếc một điều, cái thứ xây dưới lòng đất không thấy ánh mặt trời này là điềm bất thường, pho tượng đồng ở giữa thì mặt mày hung ác, nơi này xem ra quả nhiên là cùng một mạch với Cánh cửa Sinh mệnh kia, vừa âm u lại vừa đáng sợ."

Trác Mộc Cường Ba và Đừơng Mẫn đứng ở phía Tây đàn tế. Đường Mẫn tung tăng như cô bé gái, vui vẻ thốt lên: "Đẹp quá, đẹp quá, giống như bầu trời sao trong địa cung Ahezt ấy nhỉ, chỗ này cứ như là nơi ở của các vị thần tiên ấy."

Trác Mộc Cường Ba đùa đùa nói: "Theo kinh nghiệm của anh, càng là nơi đẹp đẽ mê lu thì lại càng nguy hiểm đấy. Chỗ này cũng là Thánh địa của thôn Công Bố, nếu chưa từng có người đi vào, cơ quan cạm bẫy bên trong…" nói đến đây gã đưa mắt liếc sang phía Đường Mẫn.

Đường Mẫn lúc này cũng đang quay sang nhìn Trác Mộc Cường Ba: bốn mắt nhìn nhau, đôi bàn tay bé nhỏ của cô nắm chặt bàn tay to tướng của Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt toát lên vẻ kiên nghị của người sẵn sáng trả giá để bảo vệ hạnh phúc của mình, giọng nói nghe như vẳng từ nơi chân trời, lại sao như ở gần ngay trước mặt: "Anh đi đâu, em theo đó."

Trác Mộc Cường Ba buông tay Đường Mẫn, ôm chặt cô vào lòng, gió thổi áo bay phất phơ, hai người hòa vào nhau làm một.

Lạt ma á La và Lữ Cánh Nam vô tình chạm mặt ở hành lang phía Bắc. Lạt ma Á La thở dài nói: "Con đường lần này không dễ đi đâu, ta đề nghị để họ ở lại đây hết, chỉ hai người chúng ta tiến vào trong thôi. Than ôi, dù là hai chúng ta, chỉ sợ cũng chưa chắc đã có thể…"

Lữ Cánh Nam lắp bắp nói: "Tại…tại sao? Thế nào mà…"

Lạt ma Á La thấp giọng hỏi: "Lẽ nào con chưa nhìn ra đâu mối gì hay sao?"

Lữ Cánh Nam không hiểu: "Đầu mối? Đại nhân, người muốn chỉ…"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Lẽ nào sư phụ con chưa từng nhắc đến Thánh…luyện…đường?"

Lữ Cánh Nam suýt chút nữa thì kêu lên thành tiếng, nơi từng khiến cô không biết bao ngày đêm mong muốn khát khao được đến lại ở ngay trước mắt đây sao? Lại ở ngay dưới chân cô đây hay sao? Đệ tử Mật tông sau khi tu thành cấp cách tây liền có tư cách trác nhân ba để tiến hành tu luyện ở tầng cao hơn, trong tất cả các trác nhân ba sẽ có một người ưu tú nhất được chọn ra, sau này sẽ có tư cách kế thừa tôn hiệu Cam Châu Ba đại lạt ma, tiến vào Thánh luyện đường tu hành. Sư phụ đã từng hết sức ngưỡng mộ nói với cô rằng, đó là nơi khiến không biết bao nhiêu Mật tu giả hướng về, chỉ hiềm một nỗi, Thánh luyện đường đã bị vùi lấp trong con sông dài lịch sử, cánh cửa lớn mở đến đẳng cấp tu hành cao hơn đã vĩnh viễn bị đóng lại rồi.

Lạt ma Á La nói: "Nếu đơn thuần chỉ là Thánh địa giấu bản đồ, dù có cơ quan cạm bẫy thì cũng có hạn, nhưng nơi này là Thánh luyện đường, vốn là chỗ được xây nên để các Mật tu giả hành lên cấp độ cao hơn. Cơ quan trong Cánh cửa Sinh mệnh chỉ là để bảo vệ chìa khóa mở nơi này ra thôi mà đã là lợi hại nhường ấy rồi, cơ quan cạm bẫy ở đây thế nào chắc có thể đoán biết ra được. Ta và con có tự lo cho mình được hay không hãy còn chưa biết, bọn họ sao có thể qua nổi chứ?"

Lữ Cánh Nam ngần ngừ nói: "Nhưng con nên nói thế nào đây? Đã tới chỗ này rồi, nhất định bọn họ sẽ không đồng ý đâu."

Lạt ma Á La thoáng chần chứ, nhất thời cũng vô kế khả thi, hồi lâu mới nói: "Cứ nói thực ra, nghe ý kiến của họ xem thế nào, người khác thì không ngại, chỉ là, nhất thiết phải bảo vệ cho…"

Lữ Cánh Nam gật đầu tỏ ra hiểu ý.

Lữ Cánh Nam gọi mọi người tập trung lại, nói: "Khả năng quan sát của mọi người đều rất nhạy bén, cũng đều nhìn thấy cả rồi, đây là một pho tượng Phật khổng lồ cao đến cả nghìn mét, chúng ta đang ở trên một ngọn tháp ngược được pho tượng này nâng trên bàn tay. Vừa nãy nhất thời sơ suất nên tôi quên mất, giờ mới nhớ ra, nơi này đã từng được đề cập đến trong tư liệu của nhóm nghiên cứu cung cấp, chính là nơi để giáo đồ của tông phái bảo vệ Thánh miếu tiến hành huấn luyện. Cơ quan cạm bẫy ở đây nhiều hơn ở Cánh cửa Sinh mệnh gấp cả chục lần chứ không ít hơn, mà mức độ nguy hiểm cũng cao hơn cơ quan cạm bẫy ở Cánh cửa Sinh mệnh kia nhiều. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi cho rằng với trình độ trước mắt của mọi người vẫn chưa thích hợp với hành động lần này. Tôi quyết đinh, tôi và Lạt ma Á La sẽ đi tranh đoạt bản đồ, còn mọi người ở lại đây đợi tin tức của chúng tôi…"

"Thế làm sao được!" Lữ Cánh Nam còn chưa có cơ hội nói hết câu, mọi người đã xôn xao nhốn nháo. Lạt ma Á La cũng biết chuyện này không dễ làm, chỉ trầm ngâm im lặng. Bây giờ, những khiếm khuyết của huấn luyện phi quân sự hóa mới hoàn toàn lộ ra, nhìn đích đến đã ở ngay trước mắt, các đội viên hết thảy đều mồm năm miệng mười, chẳng hề chịu phục tùng giáo quan. Lữ Cánh Nam yếu ớt giải thích: "Tôi làm vậy đều là vì nghĩ cho mọi người tôi, chớ nên hy sinh vô ích, vì cả tôi và Lạt ma Á La cũng không đủ tự tin có thể vượt qua được chỗ này đâu."

"Phản đối, phản đối"

"Không đồng ý, không đồng ý"

"Nhìn thấy những ngọn đèn sáng lên kia không? Giáo quan? Đó chính là bọn Ben đấy, bọn chúng còn qua được, sao chúng tôi lại không?

"Chúng tôi cùng đến đây. Từ lúc bước vào doanh trại huấn luyện, chuyện sinh tử chúng tôi đã gạt ra khỏi đầu óc rồi. Sao giáo quan lại có thể nói ra những lời như thế, chẳng phải là khiến người ta chạnh lòng lắm hay sao?"

"Mặc dù làm vậy có thể là mạo hiểm, nhưng dù sao chúng ta cũng đâu phải là người làm công tác khảo sát khoa học, nếu chuyện gì cũng phải chuẩn bị chu toàn thì vĩnh viễn chẳng tìm thấy cái gì đâu."

Lữ Cánh Nam liếc mắt nhìn sang phía lạt ma Á La. Vị sư già cũng không biết phải làm sao, chỉ khe khẽ lắc đầu. Lữ Cánh Nam nói: "Được rồi, nếu đã vậy, mọi người phải đi sát phía sau, nhớ kỹ là phải hết sức cẩn thận. Đây là một pho tượng Phật mười tám tay, cũng tức là có mười tám tóa nhà phật tháp lộn ngược, muốn vào tòa nhà chính, thì buộc phải lần lượt đi qua mười tám tòa nhà tháp ngược này, mỗi tháp đều có các cơ quan cạm bẫy khác nhau. Nếu không đi được thì đừng cố, đợi cả nhóm quay lại rồi sẽ cùng rút lui, đã hiểu hết cả chưa? Còn nữa, trên mấy sợi dây thừng kia có lắp đặt thiết bị cảm ứng, cũng có nghĩa là, bọn tên Ben đã biết chúng ta đến đây rồi."

Mọi người hứa hẹn đảm bảo, rồi lập tức xuất phát. Từ chỗ sàn bị lật lên đi vào trong tháp dựng ngược, nhìn thấy quang cảnh mà bọn Merkin đã thấy, có điều lúc này trong tháp đã sáng rực ánh đèn, từ trên xuống dưới khiến người ta lạnh hết cả người, ở giữa lại có một cây trụ đồng tựa như cây Kim Cang bổng của Tề Thiên đại thánh từ Thiên đình đâm xuyên xuống địa phủ. Trương Lập rùng mình sởn gai ốc, vừa mới bước vào, đã cảm thấy bên trong tòa tháp lớn trống huếch trông hoác này âm phong gào rít, quỷ khí mù mịt bốc lên dưới ánh lửa, trong lòng chợt trào dâng cảm giác sợ hãi khó hiểu trước nơi được gọi là Thánh luyện đường tôn giáo này, nơi tất cả các kiến trúc, tất cả các tượng Phật đều không giống với những gì anh từng thấy trước đây, hoàn toàn không hề giống.

Bước vào trong tháp, lạt ma Á La khom người quan sát, đoạn nói: "Ồ, ván này là thiết mộc, lại phết thêm sơn keo, ngàn năm cũng không mục nát đâu."

Trương Lập thắc mắc: "Cái gậy đen kìn kịt ở giữa kia là gì thế nhỉ?"

Lạt ma Á La đáp: "Nếu tôi đoán không lầm, đấy là đồng, chống đỡ tòa tháp ngược này và cả cánh tay toàn là trụ đồng đặc ruột thôi."

Nhạc Dương lè lưỡi thốt lên: "Uầy, cây trụ đồng to thế này thì phải dùng bao nhiêu là đồng mới đủ chứ."

Giáo sư Phương Tân lên tiếng: "Tây Tạng là vùng có mỏ đồng, trụ đồng này tuy lớn, nhưng so với cả pho tượng Phật khổng lồ này thì rõ là chẳng đáng gì rồi."

Cả bọn theo cầu thang gỗ xuống dần bên dưới. Đi được mấy vòng, Đường Mẫn không nén nổi tò mò lên tiếng hỏi: "Lạ thật đấy, những cái vòng gỉ sét trên lan can và cả chông chọn dưới kia dùng để làm gì thế nhỉ?"

Lạt ma Á La nói: "Có lẽ chính là dùng để huấn luyện, vòng sắt gắn xích sắt nối liền với trụ đồng ở giữa, vắt ngang qua không trung, những người tu hành tu luyện trên sợi xích này. Còn những chông nhọn dưới kia hả, nếu như rơi từ trên xích sắt xuống, thì sẽ bị chông nhọn đâm chết, tuyệt đối không có khả năng sống sót."

Nhạc Dương kêu lên: "Phương pháp huấn luyện tàn nhẫn quá đi."

Ba Tạng thầm nhủ: "Thì ra phương pháp huấn luyện bằng cách đem tính mạng ra đánh liều này từ thời cổ đại đã có rồi, chứ không phải phát minh của người ngày nay."

Lại đi thêm mấy vòng nữa, Nhạc Dương chợt kêu lên: "Mọi người nhìn phía dưới kia xem, hình như có người."

Lữ Cánh Nam lấy ống nhòm ra, lợi dụng ánh lửa quan sát phía dưới, quả nhiên đúng là có một xác chết năm ngang trên hàng chông nhọn, mũi chông đâm lút qua thân thể hắn, chỉ ló một chút ra bên ngoài. Cô điềm đạm nói: "Là lính đánh thuê, sao hắn lại chết nhỉ? Chẳng lẽ bị người ta ném xuống?"

Lạt ma Á La nói: "Vậy thì phải cẩn thận đấy, nói không chừng phía trước có cơ quan cạm bẫy gì đó cũng nên."

Càng đi xuống dưới, vòng xoáy ốc càng nhỏ, giờ thì mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba có thể nhìn rõ trụ đồng khổng lồ ấy, đã gỉ hoen gỉ hoét, đứng sừng sững trước mặt chúng nhân, cao thâm khó dò. Đang đi, bỗng nhiên Trác Mộc Cường Ba hét lớn: "Cẩn thận", chỉ thấy cánh tay gã vươn ra, chộp lấy Nhạc Dương, cả hai đột nhiên tung người lên, bị hất về phía giữa tòa tháp. Trong lúc nguy cấp, Trác Mộc Cường Ba vội vung tay lên, dây móc bắn phập vào vách tường. Nhạc Dương mặc dù chậm mất nửa nhịp, nhưng cũng nhanh chóng định thần lại, dây móc cũng bắn vù ra quấn vào lan can. Hai người cùng đáp xuống tầng cầu thang gỗ bên dưới, tuy kinh hãi nhưng cũng không gặp nguy hiểm gì.

Lữ Cánh Nam cả kinh hỏi: "Chuyện gì vậy?"

Bọn họ đi phía trước không phát hiện ra bất cứ vấn đề gì, Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương đi giữa lại bị hất văng ra ngòai, mà lúc sự việc xảy ra, chỉ có mỗi giáo sư Phương Tân ở sau lưng Trác Mộc Cường Ba là nhìn thấy. Giáo sư chỉ phía trước mình nói: "Tấm ván gỗ này đột nhiên bật tung lên, hất văng bọn họ ra ngoài."

Trương Lập đi trước quay người lại, giẫm giẫm hai cái lên tấm gỗ, lại không có phản ứng gì, lấy làm ngạc nhiên nói: "Quái đản thật."

Giáo sư Phương Tân cũng giẫm lên hai cái, rồi sải chân bước qua chỗ đó, không thấy vấn đề gì. Kế đó là Đường Mẫn, Đa Cát đi quan. Lúc Ba Tang đặt chân lên tấm gỗ, đột nhiên "bậc" một tiếng, tấm ván gỗ bật tung lên chừng nửa mét, giống như một cỗ máy bắn đá vậy, rồi ngay lập tức rụt về vị trí cũ. Cũng may Ba Tang mới chỉ đặt một chân trái lên, vậy mà cũng bị chấn động đến tê rần, lực hất đó ít nhất cũng có thể hất văng được vật thể nặng hai trăm cân.

Lạt ma Á La đang ở chỗ góc quanh nhìn hết sức rõ ràng, liền nói: "Tôi hiểu rồi, tấm ván gỗ này hoạt động theo nguyên tắc bánh răng lò xo, mỗi người giẫm lên đó một cái, bánh răng sẽ ấn lò xo rút xuống một chút, khí nén đủ lực, sẽ đột nhiên bật tung ra, vì vậy lực hất rất lớn."

Lữ Cánh Nam nói: "Nếu như vậy, nhưng tấm ván gỗ có thể bật lên này không biết lúc nào sẽ bật lên cả, chẳng trách tên lính đánh thuê ấy lại chết ở kia. Xem ra chúng ta cần phải cẩn thận hơn nữa mới được." Nói đoạn cô ngó đầu xuống dưới nói: "Trác Mộc Cường Ba, Nhạc Dương, hai người đi phía trước cẩn thận một chút."

Đi hết cầu thang xoáy trôn ốc xuống đến chân tháp, trụ đồng khổng lồ ở gần ngay trước mắt. Sau khi trải qua một cánh cửa vòm nhỏ, liền xuất hiện một con đường lớn trải thẳng về phía trước, hai bên cắm đầy ống cháy sáng, con đường ở giữa chính là cánh tay mà bọn họ trông thấy lúc ở trên đỉnh tháp, còn trụ đồng xuống đến đáy tháp thì cũng bẻ ngang ra theo chiều cánh tay. Xem ra đúng như Lạt ma Á La đã nói, cả cánh tay và các tòa tháp lộn ngược này đều do trụ đồng khổng lồ nối liền chống đỡ, chẳng trách lại có thể chịu được trọng lượng nhường ấy. trục đồng ở đoạn cánh tay nhập vào làm một với con đường lớn bằng phẳng, dường như còn rộng và to hơn. Giáo sư Phương Tân nói: "Có lẽ là khoét rãnh trân cánhh tay này trước, sau đó đổ đồng lỏng vào, đợi cho cứng lại, rồi mới đẽo thành hình dáng cánh tay, các vị cổ nhân quả là thông minh thật."

Nhạc Dương nói: "Nhưng mà, nhỡ cánh tay đã và trục đồng rời nhau ra thì làm thế nào?"

Giáo sư Phương Tân liền giải thích: "Người xưa sớm đã nghĩ đến chuyện này rồi, rãnh đá này chắc chắn là hình thang trên nhỏ dưới to hoặc hình nhữ T ngược. Đồng thời trong rãnh còn có thể đục ra các lỗ nhỏ như lỗ châu mai, trụ đồng do đồng lỏng đông đặc lại sẽ bán chặt vào cánh tay đá, không bao giờ tách rời ra được."

Trương Lập nói: "Kỳ quái thật, cánh tay này rõ ràng là đã thông thẳng đến lồng ngực pho tượng rồi, sao bọn tên Ben kia còn phải châm đuốc cắm ở những cánh tay khác nữa thế nhỉ?"

Lạt ma Á La nói: "Đi tới tận cùng cánh tay này thì biết ngay mà."

Còn chưa đi hết cánh tay đã nhìn thấy trên vách đá khổng lồ, ở nơi có lẽ là vị trí lồng ngực của bức tượng Phật khổng lồ, đền chùa miếu mạo tựa như cung điện xây dựa vào vách núi lờ mờ hiện ra trong chỗ tối, khi ẩn khi hiện, mặc dù chỉ có thể nhìn thấy được chút ít ở bên ngoài, nhưng cả nhóm đã cảm thấy bị khí thế đó dồn ép, hơi thở dồn dập, tim đập nhanh hơn bình thường, hơn nữa còn có thể cảm nhận được huyết dịch đang chảy rần rật, trảo dâng lên dữ dội chưa từng thấy trong cơ thể. Lầu quỳnh điện ngọc cung khuyết trên trời, cảnh này chỉ có ở trên chốn Thiên cung mà thôi!

Cũng giống như mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba khi lần đầu tiên nhìn thấy Bạch thành, trong lòng mỗi người lúc này đều dấy lên cảm giác thôi thúc nôn nóng, đi, đi nhanh lên, nhanh nhanh đi tới đó, đừng dừng bước lại, chỉ ở ngay phía trước ta đây thôi! Nhưng không ngờ, càng đi dọc theo cánh tay đá ấy bọn họ lại càng lúc càng rời ra khỏi cung điện thần bí ẩn hiện thấp thoáng kia hơn. Lên tới bả vai pho tượng thì ngôi chùa đẹp đẽ như tòa cung điện ấy đã biến mất trong tầm mắt, chỉ thấy một đoạn vách núi vươn thẳng ra, trong bóng tối mịt mùng không biết cách bao xa, với tay ra vách đá liền chạm vào một mảng trơn nhẵn, không thể trèo qua, còn con đường duy nhất thì được đục thẳng lên vách đá, giống như thang treo trong địa cung Ahezt vậy, muốn leo lên chỉ có cách bò.

Kiểu leo trèo theo chiều thẳng đứng này chắc hẳn cũng là một phương pháp tu luyện của cổ nhân, có điều chuyện này không thể làm khó những người hiện đại đã trải qua huấn luyện leo vách đá được nữa. Chỉ đến đoạn cuối cùng mới hơi có chút khó khăn, cánh tay và thang treo cách nhau chừng một mét, bám vách núi leo lên, đến nửa chừng phải xoay người nhảy lên thì mới bám tiếp vào mép cánh tay đá thứ hai được. Theo cánh tay này tiến lên phía trước sẽ lại gặp một tòa tháp ngược, nhưng nếu không đi con đường này, Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn xung quanh: mỗi cánh tay có đường kính chừng hơn năm mươi mét, cộng với khoảng cách ở giữa chúng, có thể xác định hai cánh tay cách nhau khoảng từ một trăm năm mươi mét đến hai trăm mét, tuyệt đối không có sợi thừng buông rủ hay công cụ gì khác, mà vách đá lại rắn dị thường, dùng cuốc chim leo núi để mở đường e là vô vọng. Cách duy nhất chính là men theo cánh tay mà tiến lên, chỉ không biết là lên đến bình đài trên đỉnh tháp rồi thì làm cách nào để đi xuống chố thấp hơn. Truyện Sắc Hiệp - http://truyenfull.vn

Tòa tháp ngược thứ hai hoàn toàn khác với tòa tháp đầu tiên, bên trong phân tầng bằng ván gỗ, mỗi tầng lại chia ra làm sáu hình tam giác, tầng trên tầng dưới nối với nhau bằng thang gỗ kiểu gấp ngược giống như trong các kiến trúc lầu tháp bình thường, không hiểu có tác dụng gì, nhưng vọn họ không hề gặp phải cơ quan cạm bẫy nào. Lữ Cánh Nam thầm ngạc nhiên, chỗ này rốt cuộc là dùng để tu luyện môn gì mà cô chưa từng thấy qua bao giờ, mấy lần đưa mắt nhìn lạt ma Á La, nhưng vị sư già cũng khe khẽ lắc đầu, tỏ ý hoàn toàn không hề hay biết. Mấy chỗ có vết tích bị đốt cháy, còn cả lỗ hổng do vũ khí gây ra, chắc hẳn là do bọn Merkin phá hủy chốt bẫy gây ra. Đoàn người lên đến đỉnh tháp, chỉ thấy pho tượng Phật bằng đồng ở giữa giang tay, kéo căng chín sợi xích sắt, thông thẳng đến một cõi tối tăm âm u mù mịt. Chín sợi xích sắt to như cánh tay trẻ con, đen sì sì mà không sáng bóng, không biết đã được thoa thứ gì, hai sợi căng ở hai bên, chính sợi căng song song dưới chân bọn họ, xem ra muốn sang bình đài khác thì phải đi qua mấy sợi xích sắt này. Đồng thời tòa tháp ngược được dây xích nối liền ấy, một ở tay bên trải, một ở tay bên phải của pho tượng Phật khổng lồ, cứ lần lượt đi lên như vậy, khoảng cách giữa hai cánh tay của tượng phật sẽ càng lúc càng lớn, xem ra buộc phải đi hết cả mười tám cánh tay thì mới tìm được đường đi tiếp theo.

Dây xích sắt chịu được tải trọng, bọn họ đi qua không khó, kế đó là xuống chân tháp,rồi lại vin vách đá trèo lên một cánh tay khác, cứ vậy lặp đi lặp lại. Thi thoảng trong bóng đêm lại có ánh sáng lóe lên, đó là bọn người của Ben đang dùng pháo sáng dò đường. Trên đường, những chỗ có cơ quan cạm bẫy đều còn vệt máu hoặc lưu lại dấu vết bị phá hoại, thành ra họ không gặp nguy hiểm gì nhiều, cho đến khi tòa tháp ngược thứ sáu hiện ra trước mắt. Khó khăn bắt đầu xuất hiện ngay từ lúc vin vách núi nhảy sang cánh tay tượng Phật, thang treo chỉ lên được chừng năm chục mét là hết đường. Lạt ma Á La với tay ra, chạm vào toàn vách đá trơn nhẵn nhụi, trong lòng lấy làm kỳ quái, bèn lên tiếng: "Chẳng lẽ chúng ta đi nhầm đường? Phía trước không có rãnh để vin bám nữa rồi."

Lữ Cánh Nam vòng một tay ra rút đèn pin bật lên, chỉ thấy ở tận cùng chỗ nguồn sáng chiếu tới lại xuất hiện thang treo, chỉ có điều cách vị trí hiện tại của lạt ma Á La tới hơn hai chục mét, cho dù công lực của ông có cao hơn nữa cũng không thể nhảy lên nổi. Những người phía sau xôn xao hỏi: "Sao vậy?", "Sao lại không đi nữa vậy?", "Phía trước xuất hiện chuyện gì vậy?"

Lữ Cánh Nam nói vọng xuống: "Đừng hoảng hốt, đang tìm đường."

Nói rồi cô lại hỏi với lên: "Chẳng lẽ bị đám người phía trước phá hủy rồi?"

Lạt ma Á La lắc đầu đáp: "Không đâu, vách đa này cực kỳ kiên cố, dùng búa cũng chưa chắc gì phá hoại nổi, hơn nữa lại trơn nhẵn, rõ ràng là từ lúc xây dựng cổ nhân đã làm ra như thế này rồi. Quái lạ thật, làm sao mà chúng qua được nhỉ."

Ông ngoảnh đầu lại nhìn, mới phát hiện ra mình đang ở vị trí song song với mép dưới của một cánh tay tượng Phật, cách khoảng một mét rưỡi đến hai mét, Lạt ma Á La tâm cơ máy động, nói với Lữ Cánh Nam: "Mau chiếu đèn vào cánh tay đó."

Ánh đèn lướt qua, lạt ma Á La liền nói: "Quả là như vậy, cứ chiếu đèn đấy nhé." Nói đoạn, cánh tay ông gấp lại, hai chân đạp mạnh, cả người liền bật ngược lộn nửa vòng trên không, sau đó hai tay vươn ra bám chặt vào rãnh thang treo bên dưới cánh tay khổng lồ. Leo lên mấy bước, lạt ma Á La lại bật đèn chiếu sáng, nói với những người phía sau: "Đã nhìn thấy chưa, đến đây thì phải nhảy qua để tiếp tục leo lên, nếu không qua được đừng cố, rơi xuống là không phải trò đùa đâu."

Leo lên những đoạn thang treo trước đó đều là lên hết vách đá rồ mới bật ngược người nhảy ra, hoặc còn có thể nhảy ngay xuống cánh tay khổng lồ, giờ phải nhảy bật qua giữa hai bức tường. Khoảng cách xa hơn, bên dưới là một khoảng trống, độ cao năm mươi mét, nếu rơi xuống vị trí không "đẹp" thậm chí có thể lao thẳng xuống vực sâu không đáy. Trên vách đá dốc đứng phải buông tay nhảy bật ngược bán lấy một mỏm đá khác, cho dù chỉ là động tác leo vách núi đơn thuần cũng thuộc loại có độ nguy hiểm cao cực khó thực hiện, huống hồ còn đòi hỏi thêm kỹ xảo bật người bám vào vách đá ở phía sau lưng mình. Mọi người đã trải qua huấn luyện đặc biệt còn đỡ, chỉ lo Đa Cát không thể qua được, nào ngờ anh ta ung dung nhảy qua như con khỉ leo cây, khiến tất cả thở phào nhẹ người.

Leo thang treo bên này được mười mấy mét, phía trước không ngờ lại hết đường, lạt ma Á La không hề do dự ánh đèn lướt qua, đoạn lại bật người nhảy sang phía vách núi.

Trương Lập kêu toáng lên: "Có lầm lẫn gì không đấy! Thế này không phải là cố ý làm trò hả?"

Lữ Cánh Nam gật đầu: "Cậu nói đúng rồi đấy. Tôi đã bảo từ trước, ở đây là nơi cổ nhận rèn luyện, đầu tiên là những bài tập sơ cấp, càng về sau độ khó sẽ càng cao hơn."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37: Thánh luyện đường (2)


Quả nhiên, leo vách đá chưa được bao lâu, bọn họ lại phải tung mình nhảy lên bám vào thang treo trên cánh tay Phật, mà khoảng cách giữa cánh tay khổng lồ và vách đá mỗi lúc một dãn rộng hơn. Lần cuối cùng nhảy từ cánh tay sang vách đá, khoảng không ở giữa xa đến gần ba mét, Đường Mẫn sức yếu, nhảy một cú, bàn tay vẫn còn cách thang treo một chút, cũng may giáo sư Phương Tân kịp thời đưa tay lôi lại, nhưng tất cả được một phen toát hết mồ hôi lạnh.

Vất vả một hồi, cuối cùng cũng đến được chân tháp. Tòa tháp này chỉ có sáu tầng, mọi người đều cảm thấy có lẽ sẽ dễ dàng đi qua. Chẳng ngờ mới bước vào trong tháp cả nhóm cứ đờ hết cả người ra. Kết cấu bên trong tòa tháp ngược này về cơ bản giống như tòa tháp đầu tiên, trống rỗng, chỉ khác là không thấy cầu thang xoắn ốc đâu nữa. Bọn họ cảnm giác như lọt vào lòng một quả trứng gà khổng lồ, vách tường xung quanh đều là đá được mài nhẵn bóng cực kỳ trơn, không hề có đường lên. Ngoài ra trụ đồng khổng lồ ở giữa cũng hơi thay đổi, chia thành hơn ba mươi cây trụ đồng nhỏ đường kính chừng bảy mươi centimet, cùng thông thẳng lên đỉnh tháp. Trong tháp không có ánh sáng, bật đèn chiếu lên chỉ thấy ngoài bán kính ba mươi mét là một vùng tối đen như mực, không nhìn rõ lối ra ở đâu. Nhạc Dương ngẩng đầu lên hỏi: "Thế này, thế này thì làm sao mà lên được?"

Lạt ma Á La bước đến trung tâm tháp, đưa tay sờ thử trụ đồng đã hoen gỉ, sau đó nhìn vết máu lấm tấm đã chuyển thành sắc đen trên nền đá dưới chân, trầm giọng nói: "Tầng này chúng ta phải trèo lên thôi."

Trương Lập cũng bước đến giữa tháp, ngẩng đầu lên: "Đùa…đùa cái trò gì thế này, leo lên đấy! Mấy cái trụ đồng này tuy đã gỉ rồi nhưng cũng vẫn trơn trượt, ít nhất cũng cao trên sáu chục mét, ở giữa lại chẳng có khe hở, cho dù là người nhện chuyên leo trèo nhà cao tầng kia cũng chẳng leo nổi lên đâu."

Giáo sư Phương Tân lên tiếng: "Chúng ta leo lên vách tường thì sao? Vách tường có độ cong, chắc là dễ hơn."

Lữ Cánh Nam lắc đầu: "Nhìn bên ngoài và bên trong tòa tháp ngược này chắc là có hai tầng đá lồng vào nhau, giữa hai tầng tường đá ấy chính là cơ quan. nếu leo lên tường, chắc chắn sẽ chạm phải cơ quan cạm bẫy. Đây là trụ động dùng để huấn luyện, nhất định leo lên trụ đồng mới đúng."

Lạt ma Á La bổ sung: "Hơn nữa, phần đỉnh chắc chắn đã bị bịt kín rồi, muốn lên trên chỉ có cách bò ở giữa này mà thôi."

Lữ Cánh Nam lấy ra một đôi găng tay, nói: "Không sao cả, chúng ta có găng tay và giày mô phỏng giác hút của thằn lằn, trụ đồng tuy trơn thật nhưng leo lên chắc cũng không có vấn đề gì đâu."

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt quan sát cái vỏ trứng gà khổng lồ, trong lòng không khỏi tầm kinh hãi, không hiểu đám người cổ đại ấy đã leo lên như thế nào nhỉ? Các trụ đồng cách nhau khoảng hai mét, quây thành một vòng tròn, nếu trèo lên được một nửa tuột tay rơi xuống, gần như chắc chắn không thể tung người bám sang cây trụ khác.

Mọi người đeo găng tay rồi chia nhau chọn lấy trụ đồng bắt đầu trèo lên. Những cây trụ đồng này được thiết kế hết sức tinh xảo, vừa khéo để một người trưởng thành có thể ôm trọn vòng tay, nhưng muốn đan hai tay vào nhau để ôm cho chặt thì lại không được. Tuy đã có giày và găng tay giác hút, nhưng leo cột cực kỳ vất vả, khó khăn, ở những chỗ ít hoen gỉ giữa trụ lực bám của găng tay không đều, chỉ cần hơi khẽ nhúc nhích là sẽ trượt xuống dưới ngay, cả chín người hầu như cứ leo được năm mét lại trượt xuống ba, nhất thời cứ anh lên thì tôi xuống, tôi lên anh lại xuống, nhìn thật hài hước tức cười. Duy chỉ có Đa Cát, thân hình nhỏ bé, thể trọng nhẹ, sau khi học cách sử dụng găng tay giác hút thì càng lúc càng thuận tay, càng leo càng lên cao hơn mọi người, chẳng mấy chốc đã ở tít phía trên.

Trương Lập mừng rỡ reo lên: "Có cách rồi, bảo Đa Cát trèo lên đến đỉnh rồi thì thả dây thừng xuống."

Ba Tang lắc đầu: "Không đủ dài."

Trương Lập nhanh nhảu: "Chúng ta có thể leo nửa chừng rồi mới bám dây thừng lên tiếp cũng được mà, dì sao cũng đỡ hơn là leo trèo cái kiểu này."

Lạt ma Á La phản đối: "Chỉ sợ không đơn giản như vậy đâu. Đây là nơi huấn luyện, chắc chắn sẽ có hình phạt đối với kẻ nào gian lận, tốt nhất là cứ thành thực mà leo lên thì hơn."

Chỉ nghe Đa Cát ở bên trên hét toáng lên: "Tôi thấy rồi, tôi thấy ánh sáng rồi, có lối ra."

Trương Lập ở bên dưới gọi với lên: "Đa Cát giỏi lắm! Lên trên ấy rồi tìm chỗ nào chắc chắn buộc dây an toàn thả xuống dưới này cho chúng tôi."

Dù sao thì Đa Cát cũng sắp trèo lên đến đỉnh tháp, Nhạc Dương và Trương Lập bèn dứt khoát tìm một chỗ tương đối thô ráp rồi dừng hẳn lại, Đường Mẫn leo thêm chút nữa cũng dừng lại nghỉ ngơi. Mặc dù nói là nghỉ ngơi nhưng phải bám trên trụ đồng nên rất tốn sức. Lát sau, giáo sư Phương Tân cũng không thể không dừng lại nghỉ, chỉ có Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang, lạt ma Á la và Lữ Cánh Nam là vẫn tiếp tục kiên trì leo được năm mét lại trượt xuống ba mét.

Lại thêm một lúc lâu nữa, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang cùng lúc dừng lại nghỉ ngơi, bên trên vẫn không có động tĩnh gì. Bọn Nhạc Dương và Trác Mộc Cường Ba cách nhau phải đến hai chục mét. Đa Cát thì đã biến mất trong bóng tối một lúc rất lâu rồi. Nhạc Dương không đợi được nữa lớn tiếng gọi: "Đa Cát, anh leo đến đâu rồi? Sao không thấy nói gì?"

Một thoáng im lặng, rồi nghe tiếng Đa Cát khó nhọc trả lời: "Tôi…tôi …trên này khó leo lắm, cái trụ này, cái trụ này không thẳng đâu."

Nghe giọng anh ta hình như vẫn ở chỗ lúc nãy. Trương Lập lầm bầm: "Thế là thế nào?"

Chỉ nghe lạt ma Á La nói: "Tôi thấy cậu rồi, Đa Cát. Ồ? Kỳ lạ thật, hình dáng trên này quả là có khác, hỏng bét hết rồi, thế này…thế này làm sao mà leo lên được?"

Giáo sư Phương Tân hỏi: "Rốt cuộc là sao rồi? Đại sư Á La?"

Lạt ma Á La nói: "Ở đây, ở bên trên này trụ đồng biến thành gấp khúc như rắn vậy, tôi cũng không biết nên nói thế nào cho phải, mọi người tự lên đây xem thì biết."

Thì ra Lạt ma Á La trông thấy những cây trụ đồng này không thẳng một mạch từ dưới lên trên mà có trụ ngoặt sang trái, có trụ nghiêng sang phải, có trụ gấp sang trái rồi lại ngoặt sang bên phải, còn có trụ xoắn như cái quẩy, phần trên mỗi trụ đồng ấy không ngờ hết sức khác nhau, nhưng ở dưới ngước lên thì nói chung không thể nhìn thấy bên trên kết cấu thế nào. Đa Cát đang leo lên trên một cây trụ vòng qua phần đỉnh, hình dáng như đường ray xe lửa siêu tốc trong công viên, cứ phải trèo lên rồi trượt xuống, sau đó lại phải tiếp tục trèo lên, rõ ràng là hết sức vất vả. Còn cây trụ đồng của Lạt ma Á La thì phía trên lại xuất hiện một chỗ phình ra hình quả trám, thân trụ đột nhiên to hẳn, vòng tay không thể nào ôm được nữa mà chỉ có thể bám chặt người lên trên trái bóng bầu dục ấy như một con thằn lằn, nếu như để trượt tay thì…

Lạt ma Á La lại nhìn sang bên cạnh, hình như đó là cây trụ của Trác Mộc Cường Ba, hai tròng mắt ông như muốn lồi cả ra ngòai, càng không biết phải làm thế nào. Phần trên cây trụ Trác Mộc Cường Ba đang leo, ở giữa đột nhiên bành ra, tựa như một cái chiêng đồng úp lên trụ, cắt đứt đường tiếp tục leo lên trên, cho dù thân thể Trác Mộc Cường Ba có dài hơn nữa thì cũng không thể nào rời khỏi trụ đồng để với ra mép cái chiêng đồng ấy được, thế này thì căn bản không thể leo lên nữa rồi.

Vừa nghe nói Đa Cát cũng không leo lên nổi, Trương Lập lấy làm kinh hãi, ngoác miệng ra chửi: "Con bà nhà nó chứ, nghĩ mình là võ lâm chí tôn chắc, thách thức kiểu chó gì thế này?"

Lữ Cánh Nam thầm nhủ: "Mới tầng thứ sáu mà đã khó thế này rồi, tiếp tục đi thì sẽ thế nào, trời đất ơi, thực lực của chúng ta vốn không đủ để đến nơi này, chỉ không ngờ là đã mượn sức cả khoa học kỹ thuật hiện đại cũng không thể đi qua được thế này."

Ba Tang nói: "Kỳ lạ thật, vậy bọn tên Ben đó lên bằng cách nào nhỉ?"

Lữ Cánh Nam đáp: "Vừa nãy khi đến ngọn tháp ngược đầu tiên anh không chú ý thấy à, bọn chúng bắn được dây thừng dài hơn hai trăm mét qua khe vực sâu, chắc chắn là có thiết bị phát xạ mạnh giống như pháo từ lực, chỉ cần bắn một sợi dây móc dài hơn trăm mét lên đỉnh tháp là có thể dễ dàng trèo lên đó được rồi, nhưng chúng ta ở đây không có thiết bị ấy. Xạ trình xa nhất của dây móc chỉ có hai mươi lăm mét thôi."

Lúc này, Đa Cát đã leo qua được chỗ khó nhất, bắt đầu bò tiếp lên phía trên. Nhưng Lạt ma Á La phát hiện thấy Đa Cát đang rất khó nhọc, phía tên ấy trụ đồng bắt đầu to dần ra như cái loa kèn vậy. Vị sư già ở dưới chỉ còn biết thầm cổ vũ cho chàng thợ săn ấy mà thôi.

Lữ Cánh Nam cũng đã leo lên đến độ cao tương đương với Lạt ma Á La, trụ đồng phía trên cô lúc này phình ra và biến thành hình vuông, cực kỳ khó leo, vì vậy Lữ Cánh Nam chỉ có thể dán người vào một mặt bên của trụ hình vuông để bò lên như con thằn lằn trên mặt kính. Cô đảo mắt nhìn quanh nói: "Ồ? Thì ra leo tường vách lên cũng được."

Tường bên trong tháp không giống như họ tưởng tượng, đúng là được xây thành hình quả trứng dựng đứng, phần trên thu nhỏ dần lại, cuối cùng cũng thông đến lối ra ở đỉnh tháp. Lạt ma Á La lắc đầu nói: "Ừm, có điều tường vách còn khó hơn trụ đồng nhiều ấy chứ. Thử nghĩ xem, mới ban đầu còn uốn thoai thoải, sau đó thì độ cong càng lúc càng lớn, đến giữa thì đã vuông góc với mặt đất, mà đến phần vòm thì hoàn toàn lơ lửng trên không, không có chỗ nào để bám tay, căn bản là không thể leo lên đến lối ra kia được đâu. Mà chắc chắn là trên vách tường còn có cơ quan, độ khó cao hơn trụ đồng này nhiều. Ồ, Đa Cát, tốt lắm."

Đa Cát đã trèo được ra ngoài, bọn Trương Lập ở dưới nghe thấy tiếng lạt ma Á La liền lớn tiếng gọi lên: "Đa Cát, Đa Cát, anh lên được rồi à? Thả dây xuống, thả dây xuống đây."

Đa Cát ậm ờ đáp một tiếng, cả cái vỏ trứng khổng lồ liền kêu ong ong, nghe không rõ lắm.

Lạt ma Á La cách lối ra gần nhất, nghe thấy: "cạch" một tiếng, sau đó trên đầu vang lên một lọat tiếng "vù vù vù", vội vàng cất tiếng hỏi: "Đa Cát, cậu đang làm gì đấy? Chạm phải gì rồi hả?"

Đa Cát thò đầu xuống nói: "Làm gì có, tôi đang buộc dây thừng này, sắp xong rồi đây."

Nhưng rõ ràng là lạt ma Á La cảm thấy hơi bất ổn. Trong bóng tối dường như có thứ gì đó đang tiến về phía ông, lờ mờ không thể nhìn rõ, nhưng…tựa như xúc tu của loài quái thú, nó chầm chậm, nhung nhúc lan xuống.

Lạt ma Á La không ngửi thấy mùi gì, định lấy đèn pin soi, nhưng cả hai tay đều không thể rút ra nổi, ánh sáng của mũ lại không đủ, đành chờ vậy. Cảm giác nghe được cả nhịp đập của tim mình khi phải chờ đợi trong bóng tối ấy, chính là một khảo nghiệm về ý chí. Cho tới khi thứ đó sát tận mặt lạt ma Á La, ông mới nhận ra chẳng phái xúc tu của quái vật gì, mà là một loại dịch thể kỳ quái không mùi khong vị đang chầm chậm chảy xuống trụ đồng. Không chỉ trên trụ đồng của ông có, mà cả những trụ khác cũng có. Lạt ma Á La cố vươn một ngón tay chạm vào chất dịch, vội lớn tiếng kêu lên: "Dầu, là dầu, bên trên bắt đầu phun dầu ra rồi. Đa Cát, đã buộc xong dây thừng chưa, nhanh lên."

Tình hình lúc này là Trương Lập và Nhạc Dương đang lần lượt leo lên được đến độ cao mười ba mười bốn mét, Đường Mẫn dừng lại ở khoảng hai mươi lăm mét, giáo sư Phương Tân ở khoảng ba mươi ba mét, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đều dừng ở vị trí cao khoảng bốn mốt bốn hai mét, còn Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đã lên được gần năm mươi mét, hai người này cách lối ra chỉ khoảng mười mét, nhưng đều ở trong tình trạng tiến lên dù chỉ một chút thôi cũng cực kỳ khó khăn.

Tay trái của lạt ma Á La đã không thể nào bám vào trụ đồng được nữa, mà dòng dầu đang chảy xuống đã đến chỗ bàn tay phải ông. Trương Lập lầm bẩm: "Dầu? Dầu hả? Cái gì? Là dầu hả! Tiên sư, cái trụ này còn chưa đủ trơn hay sao? Lại còn đổ cả dầu xuống nữa."

Nhạc Dương ngơ ngác: "Dầu gì cơ?"

Trương Lập chỉ thiếu chút nữa là giậm chân nhảy lên cuống cuồng nói: "Dầu ấy, dầu bôi trơn ấy! Bên trên đang có dầu chảy xuống."

Nhạc Dương kinh hoảng kêu lên: "Có cần phải khoa trương vậy không, chúng ta làm sao mà lên được."

Lúc này, Đa Cát đã ném xuống một cuộn dây thừng: "Có dây rồi đây."

Tay phải lạt ma Á La vừa hay cũng bị lơi ra, không sao bám chặt vào trụ đồng được nữa, ông ngắm chuẩn hướng sợi dây được thả xuống, lật tay đập mạnh vào trụ đồng một cái, kế đó bật tung người ra, bắt lấy sợi dây một cách chuẩn xác. Sợi dây trĩu xuống, bên trên lại nghe "cách" một tiếng, kế đo là một tiếng "rầm", cánh cửa bên dưới tòa tháp ngược đã đóng lại rồi. Lữ Cánh Nam cũng đã không kiên trì được thêm nữa, nhưng khoảng cách giữa vị trí của cô và sợi dây rất xa, không thể bật người nhảy một cái tới nơi như Lạt ma Á La được, Lữ Cánh Nam nhắm hướng rồi co hai chân đạp mạnh, bật người nhảy sang bám một cây trụ khác, trượt xuống dưới chừng mười mét nữa, cách Trác Mộc Cường ba khoảng mười lăm mét. Cây trụ đồng Trác Mộc Cường Ba đang leo tựa như có một chiếc chiêng bằng dồng chặn ở phía trên, thành ra dầu chỉ nhỏ xuống ở riềm cái chiêng chứ không chảy dọc theo thân trụ, tạm thời vẫn an toàn. Còn ở phía của Ba Tang lại hoàn toàn khác, tốc độ dầu chay xuống tăng nhanh, chẳng mấy chốc đã đến chỗ anh ta đang bám rồi. Ba Tang nhìn khoảng cách giữa mình và sợi dây, quyết liều một phen, cũng bật ngửa người ra, bắt lấy sợi dây rồi lại trượt xuống mấy mét, cuối cùng ổn định được thân hình. Kế đó bên ngoài lối ra lại vang lên một tiếng "rắc" tựa như vừa có một quả ngư lôi bị đổ, mọi người đều nín thở nghe nó lăn lông lốc về phía góc tường, bất cứ lúc nào cũng có thể nổ tung.

Lạt ma Á La đã lên đến gần mép cửa ra, xem chừng sắp ra được bên ngoài rồi. Giáo sư Phương Tân ở dưới lúc này đang phải đối mặt với nguy cơ chỗ đặt tay chân bị dầu xâm chiếm, không thể nhảy sang cây trụ của Trác Mộc Cường Ba mà vẫn ôm chặt được trụ đồng trơn tuột giống Lữ Cánh Nam, cũng không với đến được chỗ dây thừng, chỉ còn cách trượt xuống dưới. Cũng may dầu chảy tương dối chậm, vị giáo sư già trượt đến vị trí cùng độ cao với Đường Mẫn, Lữ Cánh Nam thì dừng lại.

Đường Mẫn thì có thể bắt được dây thừng, nhưng tải trọng của sợi dây an toàn này có hạn, hơn nữa Đa Cát mới tập thắt nút chưa được bao lâu, nút thắt có nguy cơ bị lỏng bất cứ lúc nào, khi ấy thì tất cả người trên dây đều rơi xuống đất, vì vậy trước khi lạt ma Á La leo lên đến nơi, cô không dám mạo hiểm bám lấy dây thừng. Tình hình của Trương Lập và Nhạc Dương thì tương đối thảm. Bọn họ còn cách đầu mút sợi dây chừng mấy mét, lúc này đang dồn hết sức lực leo lên trên, có điều hầu như là trèo được bao nhiêu thì lại trượt xuống bấy nhiêu. Lạt ma Á La đã leo ra được bên ngoài, nhanh chóng thả xuống một sợi dây an toán khác, vừa hay đúng vào giữa Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân. Giáo sư Phương Tân không thể đợi thêm được nữa, vội chộp lấy sợi dây trước, dòng dầu chảy theo trụ đồng vừa lúc ấy cũng chảy sượt qua ngừơi ông. Bên này Đường Mẫn cũng đã tóm được dây thừng, Ba Tang bắt đầu leo lên trên, Nhạc Dương và Trương Lập trợn mắt nhìn lên đầu mút sợi dây vẫn còn cách đến hai ba mét, cả hai anh chàng cũng đã nhìn thấy dầu rồi.

Trên đỉnh đầu lại vàng lên một tiếng "cách" khác. Tựa như nhát búa gõ vào lồng ngực mỗi người, âm thanh này khiến những kẻ đang ở bên trong cái vỏ trứng khổng lồ khiếp vía. Lữ Cánh Nam nói: "Không thể đợi thêm được nữa, anh Cường Ba, anh leo lên trên một chút nữa, xem có thể trực tiếp leo ra không."

Trác Mộc Cường Ba y lời bò lên, lờ mờ có thể trông thấy lạt ma Á La đang quấn sợi dây thừng quanh hông, vừa kéo giáo sư Phương Tân lên vừa nghĩ cách buộc một đầu sợi dây thừng vào pho tượng đá bên cạnh lối ra, còn Đường Mẫn cũng đã lên cao quá chỗ Trác Mộc Cường Ba, cô liếc sang phía gã, ánh mắt tràn ngập sự quan tâm. Trác Mộc Cường Ba ngước nhìn lên cô cổ vũ, hai người lòng đã hiểu lòng, đoạn Đường Mẫn cũng leo lên trước.

Lúc này chỉ còn lại bốn người Trác Mộc Cường Ba, Lữ Cánh Nam, Trương Lập và Nhạc Dương. Từ trụ đồng chỗ Trác Mộc Cường Ba đang bám, có thể với tới được cả hai sợi dây thừng bên trái bên phải, gã đưa mắt xuống Lữ Cánh Nam bên dưới, liếc nhìn một cái, hai người chia nhau nhảy sang hai phía, mỗi người chụp lấy một sợi dây, lại nghe "cách, cách" hai tiếng nữa, chuẩn xác như thể đồng hồ bấm giờ của thần chết. Lúc này chợt nghe Nhạc Dương và Trương Lập ở bên dưới nói vống lên: "Cường Ba thiếu gia, giáo quan, chúng tôi không lên được rồi, ở dưới này chờ mọi người thôi."

Thì ra dầu đã trôi xuống đến chỗ họ, mà hai anh chàng còn cách một chút nữa mới với tới đến được đầu mút sợi dây thừng. Trác Mộc Cường Ba không nén nổi đang mắng thầm trong dạ: "Hai thằng nhóc này," đã chợt nghe Lữ Cánh Nam mắng luôn: "Hai tên khốn nhà các anh! Mau lên đây cho tôi!"

Cả hai người Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam không hẹn mà cùng lúc trượt dây thừng xuống. Lữ Cánh Nam sử dụng lỹ thuật trượt dây của bộ đội đặc chủng, quấn sợi dây quanh cánh tay một vòng, quanh eo một vòng, một tay giữ đoạn phía trên, một tay giữ đoạn phía dưới, có thể tự do khống chế tốc độ trượt. Chỉ nghe cô nói: "Bắt lấy tay tôi!" Trương Lập hoảng hốt vội bắt lấy cánh tay Lữ Cánh Nam, kế đó cô liên hất tay lên phía trên, Trương Lập đạp chân một cái, Lữ Cánh Nam liền đẩy đầu gối lên, bước thứ hai của Trương Lập giẫm lên vai Lữ Cánh Nam, tiếp đó là nhảy lên bám đoạn dây thừng phía trên, những động tác này họ đều đã thực hiện trong quá trình huấn luyện đặc biệt rồi. Nhưng lúc Trác Mộc Cường Ba tuột dây xuống thì Nhạc Dương cũng bắt đầu bị trượt xuống trụ đồng, mặc dù anh càng đã ra sức giữ nguyên vị trí song hai tay dính đầy dầu trơn, không thể nào khống chế được nữa. Có điều Trác Mộc Cường Ba đã tính toán từ trước, ngả ngược người trượt xuống, dây quấn một vòng quanh eo, dùng thắt lưng cố định rồi lại quấn thêm một vòng nữa quanh chân, như vậy là thêm được hơn một mét nữa, trượt đến cuối mới dây vừa hay tóm được cái ba lô to đùng của Nhạc Dương. Nhạc Dương bỏ găng tay ra, hai tay bám chặt lấy cánh tay Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba buông bàn tay tóm ba lô của Nhạc Dương ra, hai người cùng vận sức vào cánh tay, làm động tác như lăng một vật trên không, hất Nhạc Dương lên cao một đoạn, rồi dùng lúc buông tay. Nhạc Dương nắm lấy thắt lưng Trác Mộc Cường Ba, Trác Mộc Cường Ba cũng nắm chặt thắt lưng đối phương, sau đó Nhạc Dương bám dây thừng tiếp tục trèo lên, còn Trác Mộc Cường Ba thì đảo người ngược trở lại. Nguồn: http://truyenfull.vn

Mới leo được một nửa, bỗng nghe tiếng "ầm" vang động, cả phần bên trong vỏ trứng khổng lồ như bị nứt toác ra, để lộ rất nhiều khe rãnh, không cần phải nghĩ cũng biết đấy chẳng phải chuyện tốt đẹp gì. Lữ Cánh Nam và Trác Mộc Cường Ba ở dưới vội vàng lên theo Trương Lập, Nhạc Dương, cả bốn người đều vận hết sức lực mà leo. Mấy người giáo sư Phương Tân ở phía trên cũng bắt đầu kéo dây. Còn chưa lên đến đỉnh tháp đã nghe thấy "vù" một tiếng, một vật như mũi tên bắn vèo qua không trung. Kế đó những âm thanh tương tự càng lúc càng dày đặc, về sau lại nghe "tưng" một tiếng tựa như đứt dây đàn. Trong lúc hoảng loạn không ai kịp nhìn kỹ, chỉ muốn nhanh nhanh chóng chóng thoát khỏi chỗ này rồi tính sau.

Khó khăn lắm mới trèo lên được lối ra, Trương Lập không thể nén nổi nữa, kêu toáng lên ầm ĩ: "Ối giời ơi là giời, tôi bị bắn trúng rồi."

Nhạc Dương thì ngồi phịch xuống, Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam không nói tiếng nào, nhưng nét mặt cũng không dễ coi cho lắm. Ám khí găm vào ba lô nhiều nhất. Trương Lập bị trúng một mũi vào vai trái, vết thương không lớn nhưng có hình thoi, máu chảy không ngừng, phải bôi thuốc băng bó thật chặt lại mới đỡ. Nhạc Dương bị quẹt trúng mặt, trên đùi xước một mảng lớn, cũng đã được sơ cứu qua loa. Trác Mộc Cường Ba bị thương ngay bàn tọa, cũng may gã thuộc loại da thô thịt dày, không ảnh hưởng gì nhiều đến việc đi lại. Lữ Cánh Nam nói chỉ bị xước sát sơ sơ, nhưng Trác Mộc Cường Ba có cảm giác chắc chắn cô bị thương ở đâu đó, chỉ là không nói ra mà thôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38: Tòa tháp ngược thứ mười hai


Max dọn sạch đám đá vụn vừa nổ văng ra, dây thừng đã buộc sẵn, trái phải mỗi bên mười người cùng dồn sức kéo dây, chỉ nghe cánh cửa khổng lồ vang lên những âm thanh trầm đục "cạch, cạch". Đã một nghìn năm rồi, nó lại được mở ra lần nữa. Merkin và Soares đứng phía trước, ngước lên nhìn cánh cửa khổng lồ cao ngất. Trước mắt bọn y, đây tựa hồ như cánh cửa Thiên cung đang từ từ mở, khiến cả hai đều hết sức hồi hộp. Vừa hé ra một khe hẹp, hai cánh cửa đã bị một lực cực lớn tự động tách hẳn ra. Rồi Merkin và Soares cùng lúc kêu lên!

Khi ánh đèn chiếu xuống dưới, chỉ thấy từ các khe nứt trên vách, những mũi phi tiêu hình thoi mang theo một sợi dây thép cực mảnh không ngừng bắn ra vun vút. Khoảng cách được khống chế rất chuẩn xác, vừa chạm tới trụ đồng lạ sợi thép phía sau mũi phi tiêu cũng hết, tự động rũ xuống, cơ quan trong vách tường sẽ quấn day kéo phi tiêu vào trong. Dưới chỗ họ đứng chừng bốn năm mét chính là chỗ phun dầu, lúc này dầu tràn ra rất nhiều, bắn tung tóe chứ không chảy chậm như lúc đầu nữa. Giáo sư phương Tân hỏi: "Dầu ở đâu ra thế nhỉ? "

Lạt ma Á La gõ vào tượng Phật đồng bên cạnh, không ngờ phát ra tiếng vang "keng, keng". Giáo sư Phương Tân lập tức hiểu ra: "pho tượng Phật lớn thế này. Ít nhất cũng phải chứa được bốn năm tấn dầu."

Lạt ma Á La nói: "Người ta đổ dầu vào đỉnh pho tượng Phật, rồi bịt kín lại. Chỉ cần chạm phải cơ quan, nắp bịt ở phần đáy pho tượng sẽ bật ra, khiến một lượng lớn dầu chảy xuống. Đây hình như là dầu thực vật, mà có lẽ cũng không phải, vì độ nhớt của nó rất lớn. Mà dây thừng của Đa Cát buộc ngay trên cánh tay tượng Phật đồng này, dù nói thế nào thì sống sót được cũng là may mắn lắm rồi."

Đường Mẫn đột nhiên nói: "Mọi người nhìn kìa." Chỉ thấy vách tường ở bốn phía đột nhiên bắn ra bốn thanh đao to đùng ngã ngửa, không ngừng xoay chuyển xung quanh các trụ đồng ở giữa. Đột nhiên nghe "choang" một tiếng, như sống đao chém mạnh vào trụ đồng tóe lửa. Liền đó không hiểu có thứ gì bị đốt cháy rơi thẳng xuống đáy quả trứng khổng lồ, dầu bên dưới lập tức bùng lên thành ngọn lửa phừng phừng. Các vách đá khép lại, phần ruột quả trứng phút chốc bị thiêu đốt hừng hực.

Lữ Cánh Nam gắt lên: "Hai người các cậu không phải muốn ở bên dưới đợi chúng tôi à?"

Trương Lập và Nhạc Dương sắc mặt tái mét, tự hiểu lần này nếu không có Cường Ba thiếu gia và giáo quan, hai người bọn họ sớm đã cùng nhau đi chào hỏi Tử thần rồi.

Ba Tang chợt lên tiếng: "Giờ đường lui đã bị phong tỏa, muốn trở lại cũng không được nữa rồi."

Lạt ma A La nói: "Chưa chắc, sau khi dầu bốc cháy, chắc là cửa đá sẽ tự động mở ra, hoặc không thì cơ quan để mở cửa cũng ở chỗ bức tượng Phật này. Đây là nơi dùng để huấn luyện chứ không phải loại cơ quan đóng chặt bịt kín một lần dứt khoát để phòng trộm."

Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Đúng rồi đại sư, nói ra mới nhớ, những cơ quan cạm bẫy này thảy đều uy lực kinh người hết, thế động lực của chúng ở đâu ra thế nhỉ?"

Lạt ma Á La điềm đạm mỉm cười, nói: "Cậu quên rồi sao? Động lực của các cơ quan trong địa cung Ahezt là ở đâu ra?"

Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên nói: "Sức nước?"

Lạt ma Á La gật đầu: "Trong các loại năng lượng tự nhiên, sức gío và sức nước là động lực vĩnh cửu tuần hoàn được cổ nhân sử dụng sớm nhất. Nếu tôi không lầm ở sâu dưới đáy khe nứt khổng lồ trong lòng đất này là một dòng sông lớn đang cuộn chảy, chỉ có điều khoảng cách giữa dòng sông ấy và chúng ta quá xa, nên không nghe thấy tiếng nước chảy thôi. Cổ nhân hoàn toàn có thể sử dụng các thiết bị giống như bánh xe nước, không ngừng truyền động lực đến các bộ phận bên trong tượng Phật khổng lồ."

Đường Mẫn nói: "Nhưng mà, đã hơn một nghìn năm rồi đấy."

Lữ Cánh Nam thở dài: "Phải đó, hơn một nghìn năm rồi, cả cỗ máy khổng lồ này vẫn đang không ngừng vận hành liên tục."

Lạt ma á La đưa mắt nhìn mọi người, cười mà như không cười nói: "Kỹ thuật cơ khí thật đáng sợ, trí tuệ của cổ nhân cũng thật đáng kính đáng phục, không phải vậy sao?"

Nhạc Dương nói: "Nhìn kìa, có ánh sáng, bọn chúng đã lên đến tòa tháp ngược thứ mười bảy rồi."

Lữ Cánh Nam vỗ tay nói: "đứng lên, đứng lên, không được dừng lại,chúng ta vẫn chưa thể dừng lại, tiếp tục tiến lên."

Từ bình đài trên đỉnh tòa tháp ngược thứ sáu sang bình đài trên đỉnh tòa tháp ngược thứ bảy chỉ còn một sợi xích sắt nối liền. Lạt ma Á La nói với giọng đầy kính nể: "Cổ nhân có lẽ là bước đi trên sợi xích sắt này, chúng ta không làm nổi, nhưng bò qua thì vẫn có thể làm được."

Giữa tòa tháp thứ mười bảy và tháp thứ mười tám là một cây trụ đồng đường kính chừng bảy mươi centimet. Trụ đồng trơn tuột này khá giống với trụ đồng bên trong tòa tháp thứ sáu, không thể dùng hai tay ôm hết, nhưng ở đây nó vắt ngang giữa không trung tăm tối, so với bò lên theo chiều thẳng đứng còn khó bộ phần, mà rơi xuống dưới là không có cơ hội lần thứ hai. Soares nói: "Thế nào? cũng giống tầng mười hai hả?"

Merkin lẩm bẩm: "Không, không đúng, anh nhìn xem, một đầu trụ đồng gác vào trong tháp, bọn họ đã đẽo một cái rãnh hình chữ nhật, trụ đồng có thể xoay chuyển bên trong ấy, Như thế này, đặt chân lên đó cũng giống như bước trên con lăn gỗ trên mặt nước ấy, trơn trượt như vậy, so với đi dây thép còn khó hơn ấy chứ."

Soares nói: "Không qua được à? Xem ra lại phải dùng pháo từ lực rồi."

"Không." Merkin đứng trong bóng tối kiên quyết nói: "Cho dù sang được bên ấy chúng ta cũng không thể vượt qua được tòa tháp ngược thứ mừơi tám. Tôi nhớ bên dưới hình như còn có đường ra khác nữa, bắn pháo sáng lên."

Pháo sáng từ từ dâng lên trong màn tăm tối. Nhờ luồng ánh sáng cực mạnh ấy, bọn Merkin đã nhìn rõ được tình hình xung quanh. Ở bên phía vách núi, bọn y đang dối diện với một cái hang khổng lồ, tối om như mực, đáy tháp có một vạch đen thẳng vươn dài xuống phía dưới vách núi. Merlin hỏi Soares: "có bay xuống đấy xem được không?"

Soares lắc đầu: "Không được, phạm vi khống chế chỉ trong vòng năm mươi mét thôi, nham thể dưới lòng đất này có nhiều khoáng chất, làm nhiễu tín hiệu vô tuyến, khoảng cách vượt quá năm mươi mét là tôi không thể điều khiển được chúng nữa."

Merkin nói: "Thôi vậy, tôi sang sơn động đối diện xem thử, nếu không được thì sẽ nghĩ cách khác, thực tình là tôi không muốn mất mạng trong tòa tháp cuối cùng này chút nào cả."

Soares cười khùng khục nói: " Ben Merkin mà cũng có lúc sợ hả?"

Dây móc bắn qua, có vẻ như đã ghim vào vật gì đó. Merkin giật giật sợi dây, thử xem độ chịu lực của nó tới đâu, đoạn nói: "Được rồi, Ngưu Nhị Oa, mày qua đó xem sao."

Tín hiệu có thể đi qua an toàn bắn lên, merkin nói: "Tốt lắm, chúng ta sẽ đi theo hướng này."

Đúng lúc ấy, Max lên tiếng: "Ông chủ, có mấy thằng thực sự không thể đi được nữa rồi."

Merkin nói: "Ừm, mấy thằng?"

Max đáp: "Năm"

Merkin gật đầu: "Vậy thì bảo chúng nó ở lại bên này canh gác, nếu bọn Trác Mộc Cường Ba may mắn qua được chốt chặn ở tòa tháp thứ mười hai, thì vẫn có thể ngăn chặn chúng thêm một lần nữa."

Max nhận lệnh xong liền đi sắp xếp ngay.

Đi qua dây xích vào các tòa tháp ngược thứ bảy, thứ tám lại không khó khăn nguy hiểm như tòa tháp thứ sáu, một phần cơ quan ở đây đã bị đám người đi trước phá hoại, chỉ còn lại những đồ vật ly kỳ cổ quái trong các ô ngăn bằng ván gỗ. Lạt ma Á La cũng không biết mấy thứ này dùng để làm gì, trong thâm tâm thầm đoán đây là công cụ để người xưa tiến hành tu luyện. Từ đây trở đi, giữa vách đá và cánh tay tượng Phật lại có thang treo, đồng thời cầu dây xích giữa hai bình đài cũng trở về nguyên dạng như lúc ban đầu. Đến tòa tháp ngược thứ mười một, lạt ma Á La bỗng sực hiểu ra: "Tôi hiểu rồi. Năm tòa tháp trước đó là dùng để tu hành, đến tòa tháp thứ sáu là để khảo hạch, qua được khảo hạch thì sẽ được bước vào tầng tu luyện cao hơn, tiếp tục tu hành trong năm tòa tháp ngược khác…"

Nhạc Dương kêu lên: "Vậy thì tòa tháp thứ mười hai này cũng là để khảo hạch rồi. Ối trời, tòa tháp thứ sáu chúng ta cũng suýt chút nữa là không qua nổi rồi. Tòa tháp thứ mười hai này, tòa tháp thứ mười hai…"Anh ngẩng đầu lên đếm: "Ồ, tháp cao đúng mười hai tầng."

Lữ Cánh Nam lườm anh ta một cái, nói: "Chẳng có gì đáng sợ cả, bọn Merkin có thể đi qua được, thì chúng ta cũng qua được, câu này hình như là cậu nói thì phải. Giờ chúng ta chỉ có thể hy vọng bọn chúng đã phá hoại một phần nào cơ quan cạm bẫy, để chúng ta dễ dàng qua hơn một chút mà thôi."

Đi tới khoảng trống giữa cánh tay và vách đá, mọi người trong nhóm đều đã chuẩn bị tinh thần để liên tiếp xoay người bật ngược, nào ngờ ở đây lại không như thế nữa. Đoạn dưới vách đá không có thang treo, chiếu đèn lên trên cũng không thấy có gì cả. Mấy ngườu tập trung quan sát kỹ mới phát hiện ra trên vách đá chỉ có mấy chỗ gồ lên bằng nắm tay, mà khoảng cách gần nhất giữa hai chỗ gồ ấy cũng phải đến hai mét, còn xa nhất phải đến sáu bảy mét,mà phía trên hình như vẫn còn một khoảng vách trống không trơn nhẵn nữa. Cả bọn Trác Mộc Cường ba cứ đần thối mặt ra nhìn.

Lạt ma á La tháo ba lô xuống, chỉ đeo một cuộn dây an toàn, trầm giọng nói: "Để tôi thử, nếu lên được sẽ thắt dây an toàn thả xuống kéo mọi người lên."

Lữ Cánh Nam cũng bỏ đồ nặng xuống, chuẩn bị leo lên chiếu sáng cho vị sư già.

Chỗ mẩu đá gồ lên bằng nắm tay ấy chỉ đủ để vin ba ngón tay. Chỉ dùng ba ngón tay mà giữ được trọng lượng thân thể, đối với người bình thường quả thực đã quá khó khăn, huống hồ còn phải dịch chuyển nhảy nhót trên vách đá dựng ngược, đây gần như là một nhiệm vụ không thể hoàn thành. Chỉ thấy bóng lạt ma Á La và Lữ Cánh Nam tựa như hai con dê rừng đang nhảy nhót trên triền núi dốc đứng, từ từ leo lên cao, thân hình mỗi lúc mọt nhỏ dần. Có mấy chỗ đường cụt không thể xoay nhích gì được, họ đều dựa vào thân thủ siêu phàm của mình đột phá vượt qua. Những người đứng bên dưới chỉ nhìn thôi mà cơ bắp cũng căng cứng hết cả ra.

Nhạc Dương thấp giọng thì thầm: "Không cần phải nói, bọn tên Ben chắc chắn là lại dùng dây móc mới lên được thôi."

Trương Lập căng thẳng lắp bắp: "Nhìn đại sư kìa, ối trời, nguy hiểm quá…y dà, tôi sắp không thở được nữa rồi. y ây bên trái không đúng rồi, xa quá, nhưng mà đi bên phải thì không chụp được chỗ gỗ tiếp theo đâu. Ôi! Ối…cuối cùng cũng chụp được rồi."

Đường Mẫn bịt mắt lại không dám nhìn, một hồi lâu sau mới hé nhìn qua kẽ ngón tay, hỏi Trác Mộc Cường Ba: "Bên trên đã hết đường rồi phải không anh?"

Lòng bàn tay Trác Mộc Cường Ba đã đẫm mồ hôi lạnh, nói: "Ừ, bước tiếp theo, đại sư sẽ phải xoay người chụp lấy chỗ gồ để lên cánh tay tượng Phật. Nếu chụp không trúng, ông sẽ rơi xuống, chúng ta phải chuẩn bị để đỡ ông mới phải."

Giáo sư Phương Tân giở lều bạt, cùng Nhạc Dương, Ba Tang, Trương Lập mối người nắm lấy một góc kéo căng ra đề phòng bất trắc. Chỉ thấy trong bóng đêm như thể có một con dơi xám vút qua tầng không, trái tim mọi người đều lơ lửng trên cao theo thân thể lạt ma Á La. Cả quá trình chỉ diễn ra trong hai giây đồng hồ ngắn ngủi, vậy mà cảm giác dài dằng dặc như thể thời gian đông cứng không trôi vậy. Cho đến khi lạt ma Á La bám chặt được vào chỗ gồ lên trên cánh tay tượng Phật khổng lồ, trái tim như căng phồng lên vì sợ hãi của mọi người mới yên trở lại. Đa Cát kinh ngạc đến nỗi không ghìm nổi buột miệng thốt lên: "Ối, lợi…lợi hại quá!"

Nhạc Dương cũng nói: "Thấy chưa hả, đây chính là thực lực của đại tôn sư Mật tu đấy."

Nhưng bọn họ ở dưới không hề trông thấy Lạt ma Á La đang không ngừng thở dốc trên vách đá. Lữ Cánh Nam cũng cảm thấy tương đối mệt mỏi, chỉ dùng ba ngón tay để giữ trọng lượng toàn thân, lại còn phải treo lên cao đâu phải chuyện dễ dàng. Lạt ma Á La vận hết sức lực kéo thân thể mình lên, cuối cùng cũng tùm được một chỗ đặt chân, giẫm lên một mẩu đá gồ ra tranh thủ nghỉ ngơi một chút. Ông ngẩng đầu nhìn lên trên, vẫn còn phải bật ngược người như vậy hai lần nữa, mà khoảng cách giữa vách đá và cánh tay mỗi lúc lại tăng lên, sao có thể làm được đây? Ông tự biết, tỷ lệ thành công của lần nhảy sang vách đá đối diện chỉ có ba mươi phần trăm, còn lần cuối cùng thì ông căn bản không thể nhảy ngược trở lại cánh tay này được, như vậy là đã vượt quá cực hạn của ban thân, không phải cứ liều mạng mà có thể hoàn thành được.

Ở bên dưới không còn nhìn rõ thân hình lạt ma Á La nữa, mọi người chỉ có thể dựa vào ánh đèn của Lữ Cánh Nam để dõi theo một vệt sáng đang di động trong bóng tối, chỉ cần Lữ Cánh Nam không kêu lên, tức là lạt ma Á La vẫn còn an toàn. Cả bọn đang nghĩ như vậy, bỗng nghe Lữ Cánh Nam kêu khe khẽ: "Á La đại nhân." Giọng cô gấp gáp căng thẳng, mặc dù rất khẽ, nhưng trong không gian yên tĩnh đến nỗi cách mười mét cũng có thể nghe thấy tiếng thở của người khác, ai nấy đều nghe thấy rõ mồn một.

Thì ra trong lần xoay người bật ngược cuối cùng lạt ma Á La rốt cuộc không thể tới được cánh tay Phật khổng lồ, cố lắm cũng chỉ gần tới thôi, mà xung quanh chỗ đó lại không có cục gồ nào để bám. Thấy ông tưởng chừng như sắp rơi xuống đến nơi, Lữ Cánh Nam mới hoảng hốt kêu lên thành tiếng. Nhưng lạt ma Á La đã tính đến tình huống này từ trước, ông vung cánh tay lên, dây móc lập tức bắn ra xuyên qua cánh tay đá một cách chuẩn xác, đầu móc câu xòe ra, giữ thân hình lạt ma Á La lại trên không. Lạt ma Á La treo người trên mép cánh tay khổng lồ, thở phào một hơi nhẹ nhõm, rồi mượn lực đu đưa của sợi dây tìm một chỗ gồ lên để đặt chân. Truyện Tiên Hiệp - Truyện FULL

Vị sư già vất vả trèo lên cánh tay thứ mười hai, kết ba sợi dây an toàn thả xuống cho hai người nhẹ nhất là Đường Mẫn và Đa Cát lên trước, kế đó ba người cùng hợp sức kéo những đội viên khác lên theo.

Nhạc Dương thở hồng hộc đứng lên: "Cuối cùng, cuối cùng thì cũng lên được rồi."

Lạt ma Á La lo sợ nhìn tòa tháp ngược thứ mười hai cao sừng sững thầm nhủ: "Đây mới chỉ là bắt đầu leo lên cánh tay thứ mười hai thôi mà đã thế này rồi. Con đường phía trước kia chúng ta làm sao vượt qua được đây?"

Đến chân tòa tháp ngược thứ mười hai, vẻ nguy hiểm trùng trùng toát lên bội phần, đáy tháp cực nhỏ, đỉnh tháp lại cực lớn, tựa hồ chỉ một cơn gió nhẹ thổi qua cả tòa tháp ngược sẽ đổ sập xuống luôn vậy. Tòa tháp này có kết cấu bít kín, đường thông lên đỉnh tháp men theo các mảnh ván chìa ra theo hình xoắn ốc bên ngoài. Vì diện tích tầng trên lớn hơn tầng dưới rất nhiều, nên các tấm ván cứ như lơ lửng trên không. Nhìn qua cảnh tượng có thể đoán là bên trong tháp sẽ có các loại cơ quạn cạm bẫy để khảo nghiệm khả năng tránh né của các cổ nhân tới đây tu luyện.

Điều khiến người ra sợ hãi là những mảnh ván sàn chìa ra ngoài khoảng không theo hình xoắn ốc này không có bất cứ biện pháp phòng hộ gì, chỉ dần bước sai một bước là sẽ rơi thẳng xuống vực sâu không đáy. Mấy người bọn Trác Mộc Cường ba đứng dưới chân tháp chiếu đèn lên quan sát một hồi, thấy khắp nơi lấm tấm vết máu còn tương đối mới, dấu vết bị phá hoại la liệt, thậm chí trên thân tháp cũng có chỗ bị cho nổ một lỗ lớn, xem ra bọn tên Ben kia đã nếm không ít thiệt thòi ở đây rồi.

Lạt ma Á La nói: "Nhìn kỹ ván sàn này mà xem, toàn là những khối gỗ chiều rộng ba mười phân ghép lại, có ngang có dọc, rất có khả năng ẩn giấu cơ quan, mà mỗi bức tường giữa các cột hành lang đều có khe nứt, có lỗ hổng, chứng tỏ trong tường cũng có cơ quan, chiều dày sàn ngăn cách giữa các tầng lên đến hơn một mét, có nghĩa là, ngoài mặt hướng ra khoảng không, toàn bộ ba mặt còn lại của hàng hiên này đều có cơ quan cạm bẫy, không cẩn thận là sẽ rơi xuống ngay. Tôi cảnh báo mọi người trước, mỗi một bước đều phải đề phòng cơ quan cạm bẫy đến từ mọi hướng đấy nhé."

Nhạc Dương nghe lạt ma Á La nói xong, cẩn thận quay sang thì thầm với Trác Mộc Cường Ba: "Tôi đã giác ngộ, một lòng liều chết rồi, anh thì sao?"

Trương Lập chỉ khịt mũi đầy vẻ coi thường.

Trác Mộc Cường Ba nắm chặt bàn tay Đường Mẫn, cô tiểu thư nhõng nhẽo ngước lên nhìn gã, ánh mắt tràn ngập niềm hạnh phúc, cả hai đều chung một ý nghĩ, sống cùng sống, chết cũng chết chung.

Lạt ma Á La giẫm lên ván gỗ trước, những người phía sau tuần tự làm theo, có điều khoảng cách giữa mỗi người đã tăng lên để nếu người phía trước có gặp phải cơ quan cạm bẫy thì cũng có không gian mà xoay chuyển. Lạt ma Á La vừa đi được nửa vòng tấm ván gỗ đặt theo chiều dọc mà ông đặt chân xuống bỗng lật ngược, một chân bước hẫng vào chỗ trống, kể đó trên vách tường đâm ra một hàng mũi giáo dài. Lạt ma Á La lập tức không lui lại mà còn tiến lên phía trước, dùng sức nhấn cả chân trước vào tấm ván bị hụt, cả người đổ hẳn về phía trước hợp với chân sau thành hình chữ nhất, tránh khỏi mấy mũi giáo. Những người phía sau trông thấy đều tự động tránh không giẫm lên tấm ván gỗ đó nữa. Mới đi được vài bước nữa, lạt ma Á La đang đứng trên một tấm ván ngang đột nhiên cả tấm ván gỗ ấy trượt hẳn ra ngoài, rồi rung rung giật giật như cái sàng, cũng may là đại sư đứng vững mới không bị lắc cho ngã xuống vực sâu không đáy bên dưới.

Càng đi về sau, dây móc giáo dài, tên bắn, phi tiêu xoáy, đinh độc, gần như là tất cả các loại cơ quan cạm bẫy mà thời đại đó có thể sử dụng được đều có ở trong tòa tháp ngược này, ván gỗ dưới chân có thể lật ngửa bất cứ lúc nào, hơn nữa còn lật ngược ra trước ra sau, xoay một vòng sang trái hoặc sang phải, bắn tung lên, rung lắc, có chỗ lại tự động rụt vào trong tháp; trên đỉnh đầu có chùy, sập hẳn xuống, nhìn vết tích để lại, chắc hản bên trên vốn từng có đá lăn, gỗ lăn, bàn chông…có điều đều đã "được" đám tên Ben hưởng thụ cả rồi.

Cứ như vậy, cả đoàn vất vả tiến lên, chưa được nửa đường thì tất cả đều đã bị thương. Thương nặng thì có Trương Lập, bị chày gỗ đột nhiên bắn ra theo chiều ngang đập vào khớp vai trái, cả cánh tay không sao cử động được nữa. lên đến tầng thứ tám, bước chân của lạt ma Á La đã chậm hơn trước rất nhiều, ông thầm kinh ngạc tự nhủ: "Ở đoạn phía trước có đường ray sắt, trò gì thế này?"

Vừa bước lên tấm ván gỗ có gắn đường ray sắt, chỉ thấy bức tường tháp bên trái mở ra, từng pho tượng người sắt sắp xếp hàng sẵn lần lượt trượt ra, vung quyền giơ cước, không ngờ vẫn còn có phong thái của bậc danh gia. Lạt ma Á La tránh khỏi cú đấm của người sắt đầu tiên, xoay người né một bàn chân sắt tung ra, nhưng lại bị người sắt phía trước móc một cú trúng cằm, bay mất cảm một cái răng cửa, trước mắt tối sầm lại. Trong cơn hoảng loạn, ông ngã người lăn vào trong bức tường, không ngờ người sắt trượt trên đường ray còn nhanh hơn đại sư, hai cánh tay sắt trước sau tấn ra, lạt ma Á La vội đưa tay cản lại, ba cánh tay giao nhau, nhưng lực của người sắt mạnh hơn, hất văng vị sư già ra ngoài mép ván. Lạt ma Á La vội hất tay lên, bắn dây móc vào ván gỗ, treo mình lơ lửng bên dưới, khi ấy đám người sắt mới rụt trở vào, đồng thời vách tường cũng đóng lại.

Người sắt chạy ra, lạt ma Á La trúng đòn, lăn vào trong rồi lại bị hất văng ra ngoài, sự việc xảy ra chỉ trong một cái nháy mắt, đợi khi mọi người kịp phản ứng lại, đại sư đã treo lơ lửng bên dưới ván gỗ rồi, mấy người chứng kiến từ đầu chí cuối đều chỉ biết trợn mắt há hốc miệng ra. Trương Lập lẩm bẩm nói: "Đây là cơ quan kiểu gì vậy?"

Lữ Cánh Nam thấy lạt ma Á La vẫn an toàn, cất tiếng đáp: "Đây chắc là công nghệ trâu gỗ ngựa gỗ được cải tiến, gíông như đồng nhân ở Thiếu Lâm Tư vậy."

Nhạc Dương thốt lên: "Không phải vậy chứ, chúng ta có phải cao thủ gì đâu, Thiếu lâm tự đồng nhân cơ à…"

Giáo sư Phương Tân đề nghị: "Tôi có cách này, chúng ta bám ở mép ngoài ván gỗ mà đu qua, vậy thì đám người sắt ấy chắc là không làm gì được."

lạt ma Á La ở bên dưới lên tiếng: "Không được! Bên dưới ván gỗ có hai trục tải trọng ở giữa, ngoài những nơi có đường ray, các tấm ván khác đều có thể lật tung ra theo phươmg mgamg, thế nên không thể bám vào được, chỉ có cách đi giữa hai trục ấy mới là bình ổn nhất. Hơn nữa, treo lơ lửng bên ngoài như thế cũng vẫn có nguy cơ khởi động cơ quan bẫy rập."

Chỉ thấy lạt ma Á La đeo mình lơ lửng giữa không trung đang phải khó nhọc tránh né các loại ám khí phi tiêu bắn ra từ vách tường ở tầng bên dưới, muốn leo lên trên thì lại sợ người sắt tấn công.

Trác Mộc Cường Ba nói: "Vậy bọn tên Ben kia qua chỗ này bằng cách nào? Đu người bên ngoài ván gỗ cũng vẫn có thể khởi động cơ quan, mà ở đây cũng không có cách nào để sử dụng các loại móc câu chứ nhỉ?"

Trương Lập đưa ý kiến: "Liệu có phải chúng giở trò gì trên đường ray không?"

Lữ Cánh Nam lập tức hiểu ra, chỉ thấy trên đường ray vẫn còn một vài vết tích mới, cô lấy ra một cái móc sắt, cắm nó vào đường ray hình cái chêm ở chỗ góc tường. Vách tường mở ra, người sắt lại trượt theo quỹ đạo, gặp phải cái móc sắt ngăn cản, đẩy cho móc sắt và đường ray cọ vào nhau đi một đoạn dài chừng mười centimet mới dừng lại, hoa lửa bắn tung tóe. Lữ Cánh Nam đứng giữa ván gỗ, người sắt tay đấm chân đá một lúc, nhưng trước sau đều không chạm tới được người cô, cuối cùng lại rụt trở về, vách tường đóng lại. Lạt ma Á La giờ mới leo lên, đưa mắt nhìn sang phía Lữ Cánh Nam, cả hai người đều đang suy nghĩ lại về trí tuệ cũng như thân thủ của bọn tên Ben và Soares.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39: Mạo hiểm


Tìm được cách tiến lên phía trước, cả nhóm người bọn Trác Mộc Cường Ba mới có thể đi qua nửa đầu của trận địa người sắt, chưa kịp định thần thì đã thấy động tác của những người sắt phía sau càng lúc càng nhanh, quyền cước cũng mạnh mẽ bội phần. Mấy người còn đang nhìn mà hoảng hồn khiếp vía, bỗng nghe lạt ma Á La hét lớn "cẩn thận", chỉ thấy người sắt bên trái vung tay không tới chỗ đại sư, bỗng nhiên nắm đấm kéo theo dây xích bắn vọt ra như phóng đạn, lạt ma Á La vội cuống cuồng né tránh, một người sắt khác ở phía trước lại phi ra một cái chân, đại sư liền ngửa mặt theo thế "thiết bản kiều" tránh đòn, cái chân sắt ấy đá trúng ngay nắm đấm sắt, nắm đấm liền lập tức thay đổi phương hướng, bắn về phía sau, khí thế hùng hậu phi thường. Lữ Cánh Nam vừa nghe được chữ "cẩn" đã thấy một vật thể bay tới, căn bản không kịp tránh né, bội giao hai tay lại chăn trước ngực. Nhưng lực phóng của nắm đấm sắt ấy quá lớn, ép chặt hai cánh tay giao nhau của Lữ Cánh nam vào sát lồng ngực, đẩy cô lui về sau một bước, há miệng phun ra một búng máu lớn.

Lạt ma Á La lộn một vòng về phía trước, chưa kịp thấy vật gì bay đến, đã nghe tiếng gió bên tai, vội lăn sang một bên tránh đòn, bên phải chợt nghe tiếng gió vù vù, lại thêm một nắm đấm sắt bay vọt đến như ánh sao băng, vị sư già liền ngửa người ra sau né tránh, toàn thân đầm đìa mồ hôi lạnh, cùng lúc ấy, phía trước không biết có thứ gì đã bắn vù tới, mặt thấy không thể tránh kịp, lạt ma Á La lập tức xoay người rạp xuống đất theo tư thế chó rúc bùn, cuối cùng cũng tránh khỏi, trước mắt đột nhiên lóe sáng trong rãnh trên ván gỗ có thứ gì đó bị rơi…

"Tất cả dừng lại" Lạt ma Á La đột nhiên hét lớn, kêu mọi người dừng lại ở chỗ đường ray có người sắt không bắn được nắm đấm sắt ra, đồng thời ông và Lữ Cánh Nam cũng lùi trở lại. Lạt ma Á La lăn lộn mấy vòng ở giữa đám người sắt có thể bắn được tay chân ra xa ấy, khắp người đã có thêm mấy vết thương, hơi thở vẫn còn gấp gáp chưa ổn định trở lại.

Cả nhóm xếp thành một hàng dừng lại ở chính giữa đường ray sắt, bên cạnh mỗi người đều có một người sắt đang vung tay múa chân, rít gió vù vù, mặc dù không chạm đến người, nhưng chỉ nhìn thôi cũng đủ khiến người ta phải hãi hùng khiếp vía rồi. Lạt ma Á La nói: "Chân tay của đám người sắt phía trước kia đều có thể bắn ra khỏi thân thể, dù thế nào chúng ta cũng không tránh né được đâu."

Nhạc Dương đang ở chỗ góc ngoặt hình cung, không nhìn thấy lạt ma Á La được, anh lớn giọng hỏi: "Bọn tên Ben ấy lại cùng cách đặc biệt nào để qua đây thế nhỉ?"

Lạt ma Á La đáp: "Tôi phát hiện ra cái này." Ông giơ lên một ống tiêm cỡ nhỏ dài chừng năm centimet, chỉ có Lữ Cánh Nam và Trương Lập ở phía trước là nhìn thấy. Trương Lập nói với về phía sau: "Bọn chúng dùng thuộc giảm đau tiêm vào trung khu thần kinh."

Lúc này lạt ma Á La cất tiếng: "Giờ chúng ta có hai lựa chọn, một là dừng lại ở đây và quay trở lại, hai là cũng học theo bọn chúng, sử dụng thuốc giảm đau tiếp tục tiến lên, mọi người tự chọn đi."

Không nghi ngờ gì, tất cả đều chọn cách thứ hai, thuốc giảm đau mà họ dùng khác với loại bọn Merkin, không tiêm mà uống, thời gian từ lúc uống vào đến lúc có tác dụng lâu hơn một chút, nhưng hiệu quả lại kéo dài hơn. Loại thuốc giảm đau tác dụng đến trung khu thần kinh này có thể ngăn các bộ phận trên thân thể truyền cảm giác về cho đại não, gần như là một loại giảm đau tuyệt đối, nhưng cũng có khá nhiều điểm tai hại, vì dù thế nào thì cảm giác đau đớn cũng là phản ứng bình thường của cơ thể con người đối với những chỗ bị tổn thương, cảm giác đau đớn bị ngăn trở, đại não sẽ không thể đưa ra phán đoán chính xác về tình trạng các bộ phận trên cơ thể, thường sẽ gây ra thiệt lại còn nặng nề hơn. Mặc dù các thành viên trong nhóm đều đã mặc áo giáp chống đạn, nhưng đối mặt với những cú đòn nặng nề như vậy, tác dụng của áo chống đạn đã nhỏ nay lại còn nhỏ hơn, bọn họ chỉ có thể dựa vào thị giác của mình mà đưa ra phán đoán bảo vệ những vị trí quan trọng nhất trên cơ thể mà thôi. Hơn nữa, loại thuốc giảm đau tác động vào trung khu thần kinh này có tác dụng phụ rất lớn lên đại não, chỉ có thể sử dụng một lượng cực nhỏ, uống thuốc xong, sau mười lăm phút sẽ bắt đầu có tác dụng, thời gian công hiệu chỉ có hai mươi phút. Mấy người uống thuốc giảm đau vào, rồi tự tiêm cho mình một mũi thuốc trợ tim, đoạn vừa bảo vệ các vị trí quan trọng trên cơ thể giữa vô số nắm đấm và bàn chân sắt, vừa dốc hết khả năng của mình, từng bước từng bước một khó nhọc xông lên phía trước. Cứ như vậy, cả đoàn người liều mạng một phen thập tử nhất sinh lao qua đám người sắt tay đấm chân đá, cuối cùng cũng hoàn thành vòng cuối cùng quanh tầng tháp thứ mười hai, lên đến bình đài hình bát giác trên đỉnh tháp.

Không ai là không bị thương, Trương Lập, Nhạc Dương, Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang, giáo sư Phương Tân đều mấy lần suýt nữa rơi xuống khỏi ván gỗ, dùng hai chữ "nguy hiểm" cũng khó mà hình dung được một phần vạn tình cảnh lúc ấy. Lên đến bình đài kiểm tra lại tình hình thương tích, cánh tay trái của Trương Lập, tay phải của Nhạc Dương đều gần như không thể nhúc nhích, từ mắt cá chân lên đến bả vai Ba Tang chỗ nào cũng xanh xanh tím tím; Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La hình như không bị thương đến xương cốt, nhưng bị dính đòn nhiều nhất, đều đã bị nội thương không nhẹ; Đa Cát bị đánh cho vẹo cả cằm, lạt ma Á La đang chuẩn bị giúp anh ta nắn lại; giáo sư Phương Tân bước đi hơi khập khiễng, xem ra đùi non đã bị trúng đòn khá nặng; trên người Trác Mộc Cường ba như thể đang mở tiệm nhuộm vải, đen, xanh, tím, đỏ, chẳng thiếu màu gì; nhưng Đường Mẫn đi phía trước gã thì hình như không bị thương nặng lắm, chỉ hơn có vẻ nhếch nhác tiều tụy thấp thỏm bất an mà thôi. Trác Mộc Cường Ba cũng không có vẻ mệt mỏi gì, ngược lại còn tỏ ra rất bình thản. Trong mắt gã chỉ có một mình Đường Mẫn, cái miệng yêu kiều đang thở hổn hển, vầng trán lấm tấm chút mồ hôi, nhưng người vẫn bình an, không bị thương nặng. Trong mắt Lữ Cánh Nam cũng có một người, toàn thân người này trên dưới không chỗ nào là không đổi sắc nhưng lại cố làm ra vẻ bình thản tự nhiên như thể ta đây bị thương nhẹ lắm. Cô biết rõ, gã là người dính đòn nhiều nhất nặng nhất, không biết là có bao nhiêu chỗ xương lệch gần lìa ra nữa, cô biết rất rõ, vì từ đầu chí cuối cô đều nhìn thấy mồn một. Đến giờ hiệu lực của thuốc giảm đau đã hết, mọi người đau đến nỗi phải nghiến răng nghiến lợi chịu đựng, vậy mà cái con người kia lại vẫn cố gượng nhịn đau, khóe miệng còn nhếch lên nở nụ cười hờ hững. Trong lòng Lữ Cánh Nam lấy làm phẫn nộ: "Hừ, diễn cho ai xem chứ." Đột nhiên cô thấy sống mũi cay cay, vội quay ngoặt đi, đến khi quay đầu trở lại, trên mặt đã phủ lên vẻ lạnh lùng. Diễn cho ai xem đây? Bản thân cô cũng không biết nữa.

Lên đến đỉnh tháp trên tầng thứ mười hai, Trương Lập và Nhạc Dương thật sự không thể bò dậy nổi nữa, toàn thân từ trên xuống dưới chẳng có chỗ nào không đau nhức, chỉ muốn tìm chỗ lót sẵn nệm bông chui vào nghỉ ngơi một trận cho thật đã. Cảm giác đau đớn di thuốc hết công hiệu gây ra trực tiếp kích thích vào hệ thần kinh, khó chịu vô cùng. Lữ Cánh Nam không thể không tuyên bố: "Nghỉ ngơi tại chỗ một lát rồi đi tiếp."

Trác Mộc Cường Ba đứng cạnh chỗ nối liền toà tháp ngược thứ mười hai với tòa tháp ngược thứ mười ba đau đớn đến rã rời xương cốt, chốc chốc cơ bắt lại không chịu sự khống chế của bản thân mà co rút một hồi, nhưng gã vẫn cố nhẫn nhịn. Con đường nổi giữa hai tòa tháp này lại là một cuộc khảo nghiệm không thể vượt qua nữa. Hai tòa tháp được một trụ đồng đường kính chừng bảy mươi centimét nối liền: "Ừm, không dễ qua đâu.", không biết từ khi nào lạt ma Á La đã đến sau lưng gã.

Trác Mộc Cường Ba gật đầu nói: "Thế này còn khó hơn cả đi trên dây thép nữa, đại sư."

Lạt ma Á La không trả lời gã, còn nói: "Ôm thì ôm không hết, không thể bò qua được, chỉ có thể đứng thẳng người mà đi trên đó thôi. Nhìn khoảng cáhc giữa hai tòa tháp này cũng phải đến hai ba trăm mét, đấy. Đối với bọn tên Ben ấy thì không vấn đề gì, nhưng với chúng ta thì rất khó khăn đó."

Ông ngừng lại giây lát rồi tiếp lời: "Nghỉ ngơi chút đi, rồi nghĩ đối sách sau."

Đang chuẩn bị nghỉ ngơi trên bình đài bát giác, bỗng nhiên nghe "keng" một tiếng, nhóm người vừa mới cửu tử nhất sinh ấy lại lập tức căng thẳng như dây đàn. Ngoài Đa Cát ra, tất cả những người còn lại đều biết đó là âm thanh đạn bắn vào tượng đồng. Sau khi xác định được âm thanh phát ra từ đâu, chín người đều nấp hết ra sau lưng tượng đồng, chỉ thấy đạn bay vèo vèo, vạch lên không trung một đường lửa.

Cũng may tượng Phật đồng này đủ lớn, chín người mới có thể nấp hết ra sau lưng. Ba Tang làu bàu chửi: "Khốn thật, chẳng trách không để người canh giữ ở lối vào, bọn chúng chọn đúng lúc chúng ta mệt mỏi nhất để ra tay. Ở đây chỗ nào cũng là nơi dễ thủ khó công, làm sao mà qua được đây."

"Ghét thật, trụ đồng này đã khó qua lắm rồi, giờ chúng lại còn để người chặn bên bờ đối diện nữa chứ, chung ta không thể tiến thêm bước nào nữa rồi." Trương Lập cũng hằn học nói. Giờ mọi người đều đã cầm vũ khí trong tay, nhưng ngay cả cơ hội bước ra khỏi sau lưng tượng Phật đồng cũng chẳng có, phía bên kia đã ngắm chuẩn vào đây rồi.

Ba Tang nói: "Hai tòa tháp ngược này cách nhau khoảng hai ba trăm mét, bọn chúng dùng súng trường bắn tỉa gắn kính ngắm ban đêm, đối phó với chúng ta thực quá dễ dàng. Những thứ đố chúng ta không hề có, đến cả năng lực phản kích cũng còn không đủ…Con đường này không thể đi tiếp được nữa rồi."

Nhạc Dương nói: "Nhưng cũng không thể lui về nghĩ cách khác được mà."

Mọi người đều im thin thít không nói lới nào…Lúc này mà rút lui chẳng khác nào bảo họ chết thêm một lần nữa.

…trầm mặc.

…trầm mặc.

Lữ Cánh Nam đột nhiên cất tiếng: "Mọi người nghĩ cách quấy nhiễu sự chú ý của chúng, tôi có thể dùng dây thừng móc đu qua."

Trác Mộc Cường Ba lập tức phản đối: "Không được, làm thế nguy hiểm quá! Cô đu người giữa không trung, vậy có khác gì cái bia sống đâu chứ."

Lữ Cánh Nam nói: "Đành mạo hiểm một phen vậy. Nếu chúng dùng ống ngắm tầm nhìn sẽ rất hẹp, chỉ cần không chú ý đến bên dưới trụ đồng là không thể nào phát hiện ra tôi được." Cô vừa đứng lên vừa lấy ra một quả lựu đạn dạng chai, đấy chính là thứ lựu đạn sáng khiến người ta đồng thời mất cả thiín giác kẫn thị giác mà bọn Trác Mộc Cường Ba đã được giới thiệu trước khi lên đường đến Mặc Thoát, là vũ khí chuyên dụng để chống khủng bố. Ba Tạng dột nhiên giật quả lựu đạn trên tay Lữ Cánh Nam, rút chốt, rồi ngênh ngang bước ra khỏi chỗ nấp sau lưng tượng phật đồng.

Nhạc Dương kêu lên: "Không được, nguy hiểm quá, sẽ thành cái bia sống đấy anh Ba Tạng."

Ba Tang đáp: "Không sao, có áo chống đạn rồi."

Trương Lập nói: "Nhỡ chúng bắn vào đầu thì sao?"

Ba Tang cười nhạt một tiếng: "Cược một ván chứ sao." Đoạn anh ta quay sang bảo Lữ Cánh Nam, "Còn lại thì phải nhờ vào cô thôi, giáo quan." Lời vừa mới dứt, một viên đạn đã bắn trúng ngay ngực anh ta, mặc dù không đến nỗi ngã xuống, nhưng lồng ngực chịu lực nặng nề, hơi thở tắc nghẽn trong giây lát. Ba Tang vung vẩy hai tay để thu hút sự chú ý của tên bắn tỉa bên bờ đối diện, đồng thời quả lựu đạn sáng cũng lăn ngay phía trước mặt.

Thái Đình và Hoàng Mao vốn là loại tép riu trong tổ chức săn trộm Hồ lang ở Khả khả Tây Lý. Lần này bọn chúng cũng không hiểu sao lại may mắn được cho ở lại canh giữ chỗ hiểm yếu này, gần như không cần phải mạo hiểm chút nào. Chỉ thấy trong ống ngắm ban đêm, gã đàn ông kia trúng đạn rồi mà vẫn vung vẩy hai tay, Thái Đình thẩm nhủ: "Thằng này mạng lớn thật, lần này mà không bắn vỡ đầu mày ra thì có lỗi với khẩu súng của tao quá." Đột nhiên, hắn thấy gã đàn ông kia bất ngờ quay ngoắt người lại, quay lưng về phía mình, đồng thời còn đưa hai tay ôm đầu nữa, đây là tư thế quái quỷ gì vậy? Hai tên còn chưa kịp nhận ra chuyện gì, hốt nhiên đã thấy trong kính ngắm trắng xóa một màu, ánh sáng chói lòa, cả hai đều vứt súng sang một bên, ôm mắt kêu ầm gĩ, nhất thời chẳng nhìn thấy gì nữa. Bạn đang đọc truyện được copy tại Truyện FULL

Khi ánh sáng chói lòa tan đi, Lữ Caán Nam tức khắc lao ra khỏi tượng Phật, ngắm chuẩn phương hướng rồi móc tung mình nhảy vút leê, đồng thời tay trái vung ra, dây móc quấn mấy vòng quanh trụ đồng, cả người Lữ Cánh nam đung đưa một cái, trong nháy mắt đã tiến lên mười mấy mét, kế đó tay phải cô hất lên, một sợi dây khác cùng lúc quấn quanh trụ đồng, dây móc bên tay trái lơi ra, bắt đầu tự đồng quấn trở lại. Cứ như vậy mọt dây tay trái một dây tay phải quấn lấy trụ đồng mà tiến lên. Nhìn có vẻ đơn giản những thực hiện một loạt động tác liên tục ấy trong bóng đêm, Lữ Cánh Nam buộc phải dựa vào ký ức mới có thể văng dây quấn trụ đồng một cách chuẩn xác, hễ thân thể hơi nghiêng lệch đi một chút, dây móc sẽ bay trượt ngay tắp lự.

Đồng thời trên đỉnh tháp, những người yểm hộ lần lượt nổ súng phản kích, mặc dù không nhìn thấy mục tiêu ở đâu, độ chuẩn xác không thể so với súng bắn tỉa, nhưng tiếng súng ầm vang cũng đủ khiến hai tên mù dở kia phải ôm đầu lủi như chuột.

Merkin và Soares không hề nhận ra đây chính là bên trong miệng của tượng Phật khổng lồ. Bọn y chỉ cảm thấy chỗ hổng này tựa như một cái giếng trời lớn, nơi cả đám đang đứng là một quảng trường bằng phẳng rộng cỡ bốn cái sân bóng đá gộp lại, vùng tối tăm không nhìn thấy gì phía trên vách đá hình mái hiên chìa ra. Quảng trường được đục đẽo mài nhẵn phẳng lỳ bằng sức người, đứng giữa chốn đây, dù là người hay máy móc cơ giới gì cũng đều lập tức trở nên nhỏ bé. Ở cuối quảng trường là một tòa kiến trúc cung điện trông như ngọn tháp ba tầng. Khi pháo sáng bắn lên chiếu rọi chói lòa trong hang động, tòa cung điện cao ngất kia liền phô ra vẻ rực rỡ muôn màu vô cùng huy hoàng lộng lẫy. Những mảnh ngói như ngọc lưu ly khiến cả phần mái cung điện ánh lên sắc hoàng kim chói lọi, những con thú lành gắn trên mái ngói phát tia sáng như bạch ngân, trên tường cung điện màu tím đỏ trang trí những mẩu đá lân tinh lấp lánh như bảo thạch lại còn chạm nổi vô số phi thiên dạ xoa, mây lành thú quý, ở chính giữa bức tường là bức phù điêu khổng lồ chạm hình Phật ba mắt mười tám tay đang ngồi, cửa cung điện nằm ở phần bụng Phật. Bước lại gần, ngẩng đầu lên không thấy mái cung điện, đảo mắt nhìn quanh không thấy góc tường, chỉ thấy có một cánh cửa đỏ bọc đồng vĩ đại phía trên đóng những hàng đinh đồng to bằng miệng bát chắn sừng sững trước mặt. Nhìn thấy cánh cửa này, trong óc Merkin và Soares cùng lúc bất giác nghĩ đến một từ: nguy nga.

Hai bên cửa cung điện vẫn còn giá đỡ bằng đá cao ngất, then cửa gài cách mặt đất chừng mười lăm mét, dùng nguyên một cây gỗ lớn gác ngang trên chốt bằng đồng. Cây gỗ nay đã mục nát rơi rụng, nhưng năm xưa, một cây gỗ to tướng thế này tuổi cây ít nhất cũng phải đến nghìn năm trở lên.

Merkin nói: "Xem ra năm ấy người ở đây ra đi rất vội vã, đến vả giá đỡ bằng đá kia cũng chưa kịp đẩy ra nữa."

Soares nói: "Ừm, cả cây gỗ nguyên khối đường kính tầm hai mét, nếu không phải nó đã mục nát ra rồi, muốn nhấc xuống cũng không phải là chuyện dễ dàng gì đầu. Năm xưa đám người Cổ Cách ấy làm cách nào mà đưa nó lên đó được nhỉ? Treo lên à? Nhưng nhìn hướng bậc thang của hai cái giá bằng đá này, thì hình như là họ vác lên hay sao vậy, thế thì cần đến bao nhiêu người mới nhấc nó lên được đây.

Lúc này, Max bước đến báo cáo: "Đã kiểm tra xong xung quanh không có cơ quan cạm bẫy nào. Xem ra chỉ cần cho nổ hai cái bệ đá kia, rồi buộc dây thừng vào tay nắm cửa bằng đồng là có thể kéo cửa ra được."

Đợi bọn Merkin đi ra phía chỗ quản trường thoáng rộng. Max hạ lệnh: "Cho nổ đi."

Xa xa chợt có tiếng súng vang lên, Merkin mỉm cười nói: "Xem ra bọn chúng gặp phải phục kích ở tâng mười hai rồi. Cây trụ đồng ấy gần như là không thể qua nổi, bọn chúng có thể đột phá cửa ải của chúng ta không nhỉ? Chà, kết quả thật khiến người ta chờ đợi quá đi."

Soares cười khùng khục nói: "Tôi lại chỉ muốn biết xem rốt cuộc anh đang chơi trò gì thôi."

Merkin cúi đầu nhìn xuống mũi chân mình: "Rồi anh sẽ biết thôi."

Hai phút trôi qua, thị lực của Thái Đình và Hoàng Mao dần dần hồi phục. Bọn chúng cũng nghiêng người nấp phía sau một pho tượng Phật đồng, nhìn ánh lửa xẹt lóe trên không trung, lập tức biết ngay đám người trên tòa tháp bên kia chỉ là bắn vu vơ cho bõ tức. Hoàng Mao cầm súng bắn tỉa lên, từ sau lưng tượng phật đồng bước ra, hằn học nói: "Tưởng thế có thể bắn trúng bọn tao à, lại dùng cả lựu đạn sáng nữa đấy, để tao cho chúng mày biết mặt."

Thái Đình cũng gác súng bắn tỉa lên lan can trở lại, bật ống ngắm ban đêm lên nói: "tao với mày xem thằng nào bắn trúng nhiều hơn. Khà khà, ừm? Kỳ quái thật, chúng nó nấp đâu rồi?"

Hoàng Mao đáp: "Có đứa nấp dưới lan can, có đứa nấp sau tượng Phật, chỉ để lộ nòng súng ra bắn vung vãi một chập thôi, chắc chúng nó cũng biết bọn mình hồi phục thị lực rồi, thế nên mới cúp đuôi nấp đi hết."

Thái Đình nói: "Chắc là không dùng lựu đạn sáng nữa đâu nhỉ?"

Hoàng Mao gật đầu: "Chúng nó chắc cũng biết dùng nữa thì cũng chẳng có hiệu quả nữa rồi. Bắn trúng một đứa." Hắn hướng họng súng ngắm chuẩn bên dưới lan can, bên trong kính ngắm thấy hoa máu bắn tóe lên.

"Á" Trương Lập giật mình lăn sang một bên, cái vai trái còn chưa lành lại bị thương thêm lần nữa, đồng thời kêu lên: "Tránh khỏi lan can ngay. Bọn chúng bắn xuyên qua phiến đá đấy."

Nhạc Dương đỡ Trương Lập trở về sau tượng Phật đồng. Đường Mẫn đã chuẩn bị sẵn dụng cụ giúp anh chàng khử độc, băng bó cầm máu. Nhạc Dương nói: "Không ngờ còn biết bắn xuyên qua vách nữa, xem ra bọn chúng cũng khá hiểu biết tính năng của súng bắn tỉa đấy. Ghét thật, để tôi dùng thêm một quả lựu đạn sáng cho chúng mù luôn."

Ba Tang lắc đầu ngăn lại: "không được, sẽ làm lộ giáo quan đấy. Hơn nữa, bọn chúng đã có đề phòng, lần thứ hai rất khó hiệu quả."

Trác Mộc Cường Ba giơ họng súng ra bên dưới nách tượng Phật, lại bắn thêm một loạt đạn: "Giáo quan còn cần bao lâu nữa mới sang được phía bên kia?"

Lạt ma Á La nói: "Đi qua trụ đồng ít nhất cũng cần năm phút, sau đó cô ấy còn phải tiến vào tầng bên dưới của tòa tháp, vòng ra sau chúng. Chuyện này cũng cần một chút thời gian, mười lăm phút có lẽ là đủ."

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: "Vậy thì kiên trì thêm mấy phút nữa đi." Trong lòng gã thầm nhủ: "Giáo quan à, cô phải thành công đấy nhé, cái loại đàn bà chẳng khác gì ma quỷ như cô chắc là không thất thủ đâu nhỉ."

Kiên trì giữ trận địa thêm mấy phút nữa, ước đoán Lữ Cánh nam đã sang đến tòa tháp bên kia, Nhạc Dương đột nhiên nảy ra ý tưởng lạ, lấy một mảnh vải trắng dùng băng vết thương buộc vào nòng súng giơ lên. Quả nhiên, ánh mắt hai tên Thái Đình và Hoàng Mao đều bị mảnh vải ấy thu hút. Thái Đình nói: "Thế này là ý gì đây? Muốn đầu hàng à?"

Hoàng Mao nói: "Cũng được đấy, hay là tao với mày dừng lại một chút, nhưng cứ ngắm trước, đợi chúng nó ra một đứa thì bắn một đứa."

Thái Đình phá lên cười hô hố. Tiếng cười còn chưa dứt, hắn bỗng cảm thấy sau gáy bị vật gì đó đập tới, lập tức không nghĩ ngợi vung tay hất súng ngược lại. Đồng thời Hoàng Mai cũng đột nhiên cảm giác bị một cú giật mạnh tựa như có người định bóp chặt bỗng bất ngờ chuyển sang giật ngược cánh tay hắn lên. Người đánh lén chính là Lữ Cánh Nam. Được tiếng súng yểm hộ, cô tiến vào tầng dưới tòa tháp, rồi vòng ra sau lưng hai tên này, bất ngờ ra tay đột kích, vốn định đánh hôn mê một tên, bắt sống tên còn lại, không ngờ tên bị chém vào cổ kia lại không hôn mê, còn vung súng phản kích. Lữ Cánh Nam liền tức khắc thay đổi chiến thuật, chuẩn bị nhấc một tên lên hất văng ra phía trước, kế đó sẽ chế phục tên còn lại. Như vậy, tên vị hất văng lên kia cho dù không bị rơi khỏi đỉnh tháp cũng nhất thời hoang mang không tự làm chủ được bản thân. Không ngờ, thân thể Hoàng Mao vừa mới nghiêng về phía trước, hắn đã đột nhiên buông súng, hai tay vin vào lan can, kế đó cả người nhảy tung lên, định dùng hai chân kẹp lấy kẻ tấn công lén phía sau. Nhưng sau lưng hắn không phải ai khác mà chính là Lữ Cánh Nam. Cô thuận thế ngửa người ra sau, tung chân tống cho hắn một cước. Hoàng mao liền mượn đà ấy đảo một vòng trên không, vội bám chặt lấy thành lan can, treo lơ lửng bên ngoài tòa tháp. Đồng thời Lữ Cánh Nam cũng vươn tay đẩy họng súng đi, tiếng "tạch" vang lên, một viên đạn chếch khỏi quỹ đạo, không biết đã bắn về phía nào. Thái Đình giật vùi chỏ đánh một cú về sau. Lữ Cánh Nam giơ tay bắt lấy. Hắn lại hất chân tung cú đá hậu. Nhưng Lữ Cánh Nam giẫm mạnh một phát, tên họ Thái liền ngửa bật ra sau. Lữ Cánh Nam liền buông tay rồi giật luôn tóc hắn kéo ra một phát ra sau. Thái Đình tức khắc mất thăng bằng, vội ưỡn mình nhao lên trước. Lữ Cánh Nam nhân đà ấy đẩy nhẹ một cú. Thái Đình đứng không vững được, chân đạp vội vào lan can, kế đó định quay đầu lại xem thử coi, rốt cuộc cái kẻ lợi hại ấy là ai.

Đúng lúc ấy trong bóng tối vang lên một tiếng "ầm" như sấm nổ giữa trời đêm, như thiên thạch lao xuống đất, ánh sáng còn mạnh hơn pháo sang bội phần. Tiếp đó là cả pho tượng Phật khổng lồ rung lên một chập, mà tòa tháp đứng trên mép cánh tay đá là rung lắc dữ dội nhất. Cú đạp kia của Thái Đình cùng lúc không ngờ đạp gãy luôn cả phiến đá lan can, cả người hắn lộn phộc lao xuống không gian tối đen thăm thẳm, đến khoảnh khắc cuối cùng cũng không nhìn rõ được rốt cuộc là đã bị ai tập kích. Cùng với cơn chấn động dữ dội đó, Hoàng Mao cũng bị hất bay khỏi tháp, chỉ để lại một tiếng kêu dài thảm thiết, nhưng âm thanh đã bị tiếng nổ ầm vang kia nhấn chìm hoàn toàn.

Chấn động mãnh liệt ấy cũng khiến bọn Trác Mộc Cường Ba một phen thất kinh. Lúc ngó đầu ra nhìn, vửa hay phía trên bùng lên ánh sáng chói lòa, chỉ thấy hiện ra một cái đầu ba mặt, chín con mắt, ba cái miệng, sáu lỗ mũi to lớn xưa nay chưa từng thấy bao giờ. Trong bóng tối, cái đầu bằng đá ấy há to miệng ngẩng lên nhìn trời, khuôn mặt toát ra vẻ tuyệt vọng, biết rõ là xa không thể với, lại tựa như ở gần ngay trước mắt, trông đáng sợ vô cùng. Ánh sáng đã tắt ngúm, nhưng gương mặt hung tợn ấy vẫn khiến những người trên đỉnh tòa tháp ngược sợ hãi trong lòng. Cái đầu vĩ đại tới mức tòa tháp cao lớn này ở trước mặt nó trông cùng lắm chỉ như miếng chả giò hay que kem, cái miệng khổng lồ kia chỉ cần cắn một miếng là mất tiêu một nửa rồi.

Max dọn sạch đám đá vụn vừa nổ văng ra, dây thừng đã buộc sẵn, trái phải mỗi bên mười người cùng dồn sức kéo dây, chỉ nghe cánh cửa khổng lồ vang lên những âm thành trầm đục "cạch, cạch". Đã hơn một nghìn năm rồi, nó lại được mở ra lần nữa. Merkin và Soares đứng phía trước, ngước lên nhìn cánh cửa khổng lồ cao ngất. Trước mắt bọn y, đây tựa như cánh cửa Thiên cung đang từ từ mở, khiến cả hai đều hết sức hồi hộp. Vừa hé ra một khe hẹp, hai cánh cửa đã bị một lực cực lớn tự động tách hẳn ra. Rồi Merkin và Soares cùng lúc kêu lên!
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom