Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!
Dịch Full Ma Thổi Đèn
Quyển 6 - Chương 17: Thủy triều


Tàu Chĩa Ba vốn được cải tạo từ một con tàu gỗ liễu biển tương đối cổ, tuy đã được người Anh thay đổi diện mạo bên ngoài, nhưng các phần chính trong kết cấu tàu thì vẫn dùng lại gỗ liễu biển trên tàu cũ. Nhóm trục vớt người Anh chuẩn bị con tàu này, tổng cộng có bảy thành viên, nhưng ngày chuẩn bị lên đường thì bỗng dưng chết tập thể mà chẳng rõ nguyên nhân tại sao. Địa điểm xảy ra sự kiện ấy, chính là khoang đáy của tàu Chĩa Ba.

Trước khi ra biển, chúng tôi cũng đã thăm dò nhiều nơi, nhưng dân chài và thương nhân trên đảo Miếu San Hô đa phần đều không rõ sự tình cụ thể thế nào. Lúc này, chợt nghe Nguyễn Hắc đề cập tới chuyện đó, bảo rằng trong khoang tàu chúng tôi đích thực có một tầng kép, có điều thứ ở bên trong bất luận ra sao cũng không thể xem được, bằng không ắt sẽ đại bất lợi cho người trên tàu, cả đám người Anh kia cũng vì vậy mà mất mạng.

Tôi đưa mắt nhìn Minh Thúc, thấy lão ta cũng lộ vẻ hoang mang, rõ ràng là chưa từng nghe qua sự việc nào tương tự như vậy. Thấy thế, tôi bắt đầu nghi ngờ Nguyễn Hắc giở trò yêu ngôn hoặc chúng, lại càng muốn xuống khoang đáy tra xét rõ ràng.

Nguyễn Hắc lại cầu xin Shirley Dương lên tiếng khuyên giúp. Ông ta có biết người chủ trước của con tàu này. Hồi đó, khi mấy người Anh cải tạo con tàu, ông ta cũng được thuê đến làm phụ giúp, vì vậy mới biết được một số điều bí ẩn bên trong. Thậm chí, ông ta còn thề độc, ở khoang kép phía trên khoang đáy đích thực có thứ gì đó, nhưng nhìn thấy thứ đó, đối với thành viên trên tàu chỉ có trăm cái hại mà chẳng được lợi gì, nếu cứ coi thứ ở khoang kép kia không tồn tại, thì mọi việc vẫn sẽ bình thường, cũng không ảnh hưởng gì đến con tàu hết. Đây tuyệt đối không phải lời lừa gạt hay muốn dọa dẫm gì mọi người, mà là bài học phải dùng rất nhiều nhân mạng đổi lấy.

Tôi thấy Nguyễn Hắc đã thề độc, biết rằng đám thủy thủ mê tín này mà đã thề độc thì ắt hẳn không có lòng giấu giếm gì, ông ta đã nói trong khoang đáy có thứ không thể kinh động đến được, vậy thì chỉ cần nó không ảnh hưởng đến hành trình của chúng tôi, chúng tôi cũng không nhất thiết phải phá hoại những phong tục và điều cấm kỵ đặc biệt ấy làm gì.

Nguyễn Hắc thấy tôi rốt cuộc cũng nhận lời, bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm nói: “Đợi khi mò được ngọc trở về, nhất định tôi sẽ nói điều bí mật này cho các vị nghe. Chỉ những người không ở trên con tàu này mới biết được, bằng không, nếu vô ý nhắc đến chuyện này lúc ở trên tàu thì sẽ chuốc họa vào thân đó. Lúc ấy, giữa chốn biển khơi mênh mông, muốn chạy cũng chẳng biết chạy vào đâu cả.”

Tôi gật đầu đồng ý, có điều lập tức nghĩ lại ngay, mấy trò giả thần giả quỷ này gặp tôi đều không linh hết, đợi khi nào trở về mới cho tôi biết nguyên nhân bên trong thì phỏng còn tác dụng gì nữa? Sớm muộn cũng phải kiếm cơ hội xem cho rõ ràng rồi tính sau, chứ cái kiểu bị bít bùng trong bụng trống thế này, tôi là tôi không thích chút nào hết.

Nghĩ đoạn, tôi không tỏ thái độ gì, tạm thời gác chuyện này sang một bên, rồi cùng những người khác bắt tay vào việc. Vì không gian trên thuyền có hạn, nên quách đá bên ngoài, cùng những khối gỗ chèn giữa hai lớp quan quách đành phải cho chìm xuống biển lần nữa, chúng tôi chỉ giữ lại quan tài đá bên trong. Kế đó, cả bọn lại nhét đầy các vật tư dưới khoang đáy vào trong quan tài, vậy là trong khoang liền thừa ra một khoảng không gian đủ nhét nó vào. Vả lại, bên trong quan tài này rất mát mẻ, bỏ dưa hấu vốn để trong khoang tàu vào trong, thậm chí còn giữ được tươi lâu hơn nữa.

Chúng tôi ở bên dưới khoang đáy sắp xếp, còn Nguyễn Hắc đi lên lái tàu, tranh thủ lúc ấy, tôi đặc biệt lưu ý đến cái tầng kép kia. Ngoài việc nó bị bít kín, khó lòng cạy ra được thì thực sự chẳng nhìn ra điểm gì đặc biệt cả. Tôi vừa áp tai vào nghe ngóng động tĩnh bên trong, liền bị Shirley Dương phát hiện, lập tức bước tới vỗ lên vai tôi một cái: “Anh làm cái gì thế?”

Tôi đang tập trung toàn bộ tinh thần lắng nghe xem bên trong tầng kép ấy có động tĩnh gì không, trong đầu cũng đang nghiền ngẫm xem rốt cuộc có thứ gì vừa không thể nhắc đến, lại không thể trông thấy, hoàn toàn không để ý phía sau lưng, bị Shirley Dương vỗ nhẹ một cái giật thót cả mình, vội vàng quay mặt về phía cô, chỉ tay vào lớp ván chắn bên ngoài tầng kép: “Tôi thăm dò một chút, cô cũng đến nghe thử xem, bên trong hình như có chứ gì đó đang chuyển động...”

Shirley Dương không cùng tôi thăm dò tầng kép ấy, dường như cô có chuyện muốn nói, chỉ đánh mắt ra hiệu, ý bảo tôi tìm nơi nào khác nói chuyện. Tôi bèn đi với cô lên boong phía sau, lúc này Nguyễn Hắc và Minh Thúc đã xác nhận lại hướng đi, đang tăng hết tốc lực tiến về phía vùng biển vực xoáy San Hô. Tàu Chĩa Ba cưỡi gió phá sóng lướt đi băng băng trên mặt biển, hai cái chuông lặn treo phía đuôi tàu cũng đung đưa lắc lư theo.

Sau cơn thủy triều đen, cả một vùng biển chẳng còn chút sinh khí nào. Lúc trước, thi thoảng còn có thể thấy lũ cá kết thành từng đàn bơi trên mặt biển, giờ thì sạch không, bốn phía chỉ có nước biển cuồn cuộn mênh mông vô cùng tận. Shirley Dương đứng trên boong tàu, ngước mắt nhìn về phía biển trời tiếp giáp, hồi lâu sau mới cất tiếng: “Giáo sư Trần là bạn thân của cha tôi lúc sinh tiền, tâm nguyện của bác ấy cũng là tâm nguyện của cha tôi, mạo hiểm thế nào tôi cũng đều không để tâm. Có điều, Nam Hải thực quá rộng lớn, Quy Khư trong vùng biển vực xoáy San Hô lại càng thần bí khó dò, tôi hơi lo, sợ chúng ta không thể thuận lợi tìm được Tần Vương Chiếu Cốt kính. Xét cho cùng, đội của chúng ta cũng ít người, thuyền lại nhỏ nữa.”

Tôi mỉm cười nói với cô: “Có gì mà phải lo lắng chứ, người ít thuyền nhỏ không phải là vấn đề, chúng ta tuy ít người, nhưng người nào cũng có bản lĩnh đặc biệt về một mặt nào đó. Thế này gọi là binh quý ở tinh chứ không quý ở nhiều. Thời xưa có Trần Thắng, Ngô Quảng[33] khởi nghĩa, ban đầu chỉ có tám chín trăm người. Bọn họ đã hét lên với toàn thế giới này rằng, Vương, hầu, tướng quân, thừa tướng, há phải có dòng dõi mới làm nên sao! rồi phát động khởi nghĩa vũ trang, cũng từng một độ quét ngang khắp thiên hạ. Thế nhưng, về sau tại sao cánh quân khởi nghĩa này lại thất bại chứ? Chính vì bọn họ càng về sau càng đông người, trở thành một đám quân ô hợp, mất đi tính chất thuần khiết của cách mạng và sự đoàn kết. Chúng ta cần phải học tập bài học kinh nghiệm từ sự thất bại của khởi nghĩa nông dân, đến cả ông già hướng đạo cho chúng ta hồi ở sa mạc cũng biết: người đời duy chỉ có đoàn kết mới giành được chiến thắng cơ mà. Ngoài ra, việc tiếp nạp thành viên cũng phải hết sức cẩn trọng, thà được một miếng đào ngon còn hơn cả một bồ táo thối. Người ít mà đồng lòng, không sợ không thành được đại sự.”

Shirley Dương cũng mỉm cười nói: “Sao chuyện gì anh cũng phải viện dẫn đến kinh điển thế? Có phải như vậy mới tỏ ra có sức thuyết phục không? Có điều, anh nói cũng có lý lắm, muốn có thể cùng hội cùng thuyền, đồng tâm hiệp lực thì phải đoàn kết chặt chẽ, tín nhiệm lẫn nhau, đó mới là điều quan trọng nhất. Anh có tin được Nguyễn Hắc không?” Tôi đã đoán trước sẽ bị cô hỏi câu này, nhưng vẫn hơi trầm ngâm, nghĩ ngợi giây lát rồi mới nói: “Nghe nói Nguyễn Hắc là người gốc Việt Nam, vì tránh nạn nên mới lưu lạc ra hải đảo, trước đây ông ta là người thế nào tôi hoàn toàn không biết, trong lòng ông ta nghĩ gì tôi cũng càng không thể biết được. Nhưng bản chất có thể biểu hiện ra thông qua hiện tượng, sau mấy ngày tiếp xúc, tôi cảm thấy ông ta... cũng có thể coi là một người đáng tin cậy. Tôi từng đi lao động cải tạo ở vùng núi, rồi hồi tham gia quân ngũ và đi làm ăn bên ngoài, đều đã tiếp xúc với vô số nhân dân lao động, tôi tin rằng mình không nhìn lầm người đâu.”

Shirley Dương gật đầu: “Vậy thì tốt quá rồi, nếu đã có thể tin tưởng ông ấy, vậy thì cũng nên có lòng độ lượng nghĩ cho người ta. Tôi nghĩ, Nguyễn Hắc có lý do của ông ấy, vì vậy anh cũng chớ nên đi thăm dò thứ ở trong tầng kép ấy làm gì, như vậy là phá hoại quy củ trên tàu. Tuy rằng tôi cũng rất tò mò, có điều, thiết nghĩ, chúng ta vẫn nên tôn trọng kiến nghị của Nguyễn Hắc thì hơn. Đây gọi là đã dùng người thì không nghi, mà đã nghi thì chớ dùng người.”

Nghe Shirley Dương khuyên giải, tôi đành cố nén hiếu kỳ, hứa với cô, nếu không đến lúc vạn bất đắc dĩ, sẽ không vi phạm điều cấm kỵ này. Nói chuyện xong, chúng tôi quay vào trong khoang ăn cơm do Đa Linh nấu. Một ngày ba bữa trên tàu đều do Đa Linh chuẩn bị, nhưng lượng nước ngọt được sử dụng trên tàu bị hạn chế một cách nghiêm khắc, nên bữa cơm nào cũng đều hết sức đơn điệu. Chúng tôi nhân bữa cơm, triệu tập tất cả mọi người lại, cùng bàn vài chuyện quan trọng để chuẩn bị tiến vào vực xoáy San Hô. Chúng tôi sẽ đi từ Tây sang Đông, sau khi vượt qua rãnh biển sâu không thấy đáy phía trước, địa thế đáy biển sẽ thình lình dâng cao. Lấy ranh giới là dãy núi dưới đáy biển, vùng biển phía Đông đã hoàn toàn nằm trong vực xoáy San Hô rồi. Nơi đó hình như là một quần đảo bị nhấn chìm.

Bên trong vực xoáy San Hô chia làm hai tầng đá san hô lớn, phạm vi rất rộng, đường kính ước khoảng cả trăm ki lô mét, hình dạng cụ thể thế nào hoàn toàn không thể thăm dò. Khu vực giữa hai dãy núi đá san hô đó võng xuống, đều là rừng san hô và khe rãnh biển chằng chịt. Vì dưới đáy vùng biển này có hai dây núi vây bọc, hải khí tích tụ mấy nghìn mấy vạn năm, nên quanh năm luôn có gió to bão lớn, các thiết bị điện tử thường hay mất tác dụng. Chẳng những thế, lại có các truyền thuyết về lửa ma, u linh dưới đáy biển v.v..., nên mấy trăm năm nay, rất ít người dám mạo hiểm tiến vào. Cũng có vài nhà thám hiểm và đội trục vớt có máu đầu cơ, liều chết xông vào, nhưng đều chỉ có đi mà chẳng thấy ai về, không rõ là vì tàu bè mất phương hướng, hay gặp phải sự cố gì trên biển. Một số dân chài vì kế sinh nhai phải lặn xuông biển mò ngọc, nhiều lắm cũng chỉ dám đến vùng ngoại vi của vực xoáy San Hô, chứ tuyệt đối không dám vượt qua lằn ranh nửa bước, đến cả Minh Thúc và cậu lão ta cũng chưa từng tiến vào đó bao giờ. Ông cậu ấy của Minh Thúc, chính là đang khi mò ngọc ở vùng ngoại vi vực xoáy San Hô, thì gặp phải lũ cá dữ nên mới tiêu đời, cái xác cũng không tìm về được.

Con tàu đắm mang theo Tần Vương Chiếu Cốt kính, tên là Mariana, là một du thuyền hạng sang của tư nhân, thuộc về một vị phú hào đất Nam Dương. Tàu này bị gió bão làm chệch hướng, đi vào vực xoáy San Hô, rồi va phải đá ngầm trong đó. Người sống sót duy nhất trên con tàu đã miêu tả lại nơi Mariana bị đắm rằng: ánh lửa hừng hực bên dưới chiếu sáng cả vùng đáy biển, trông như thể thủy tinh cung thoắt ẩn thoắt hiện vậy.

Trữ lượng dầu khí ở Nam Hải rất lớn, đáy biển có các núi lửa vẫn đang hoạt động. Nhưng dầu khí phun trào thì không thể có năng lượng lớn như vậy được, mà đáy biển vùng phụ cận vực xoáy San Hô cũng không có núi lửa nào. Chỉ có long hỏa hình thành từ hải khí được nhắc đến trong các sách phong thủy, cộng với ánh sáng hắt từ minh châu trong miệng lũ trai khổng lồ quanh đó, mới có thể chiếu sáng rực đáy biển như lời miêu tả của người thuyền viên kia. Có điều, kỳ quan ấy không phải ai cũng có duyên thấy được, một tháng đại khái chỉ có một hai lần mà thôi.

Dựa vào hai đầu mối độc nhất vô nhị là âm hỏa dưới đáy biển, và minh châu Nam Hải này, có thể suy đoán tàu Mariana ắt hẳn bị đắm ở đâu đó gần hải nhãn trong vực xoáy San Hô. Sau khi tiến vào vùng biển ấy, chỉ cần tìm được dư mạch của Nam Long dưới đáy biển, thì sẽ không khó tìm ra xác tàu đắm, cũng như khu rừng san hô dưới đáy biển nơi có lũ trai thành tinh ngậm ngọc.

Khó khăn lớn nhất mà nhóm người chúng tôi đang phải đối mặt lúc này, chính là làm thế nào để tiến vào vùng vực xoáy San Hô đầy rẫy đá ngầm; sau khi tiến vào đó rồi, nếu thời tiết không tốt, làm sao có thể phân biệt phương hướng mà không có la bàn? Đây cũng chính là chướng ngại chung lớn nhất của tất cả các nhà thám hiểm có ý đồ xà xẻo chấm mút kho báu khổng lồ ở Nam Hải. Nếu như không thể khắc phục được khó khăn ấy, thì chỉ còn biết nhìn bảo tàng rồi thở dài tiếc nuối mà thôi.

Cũng may là chúng tôi nắm được những kỳ thuật bí truyền của kẻ trộm mộ thời xưa. Tỉ như, bí thuật phong thủy của Mô Kim hiệu úy có ghi chép một cách chuẩn xác về các dư mạch của mạch Nam Long. Nam Long tuy khởi nguồn từ núi Nga My, cuối cùng nhập về biển ở Triết Giang, song dư mạch lớn nhất của nó ở dưới biển lại vươn tới tận Nam Hải. Khái niệm hải khí mà thuật phong thủy hay nhắc đến có một phần liên quan đến sự vận hành của thủy triều. Nếu xét trên nguyên lý của khoa học hiện đại ngày nay, thì đó chính là chỉ hiện tượng nước biển dâng lên hạ xuống mang tính chu kỳ dưới tác động sức hút của mặt trăng và mặt trời. Vì có quan hệ đến hiện tượng thiên văn, nên hiện tượng này có một tên gọi khác nữa, gọi là “thiên văn triều”. Hiện tượng nước biển dâng lên tuy cùng là một, nhưng để phân biệt, người ta gọi ban ngày là triều, ban đêm là tịch.

Vì khoảng cách từ mặt trời, mặt trăng đến trái đất khác nhau, nên lực thủy triều do mặt trăng gây ra lớn gấp đôi so với mặt trời. Nước triều lớn nhỏ, và thời khắc nước dâng lên không cố định, chủ yếu thay đổi theo sự vận hành của mặt trăng, đồng thời chịu ảnh hưởng của địa hình, độ sâu vùng biển, cùng với kinh độ, vĩ độ... Ngoài bán nhật triều, mỗi ngày lên xuống hai lần, còn có toàn nhật triều, mỗi ngày chỉ lên xuống một lần, hoặc hỗn hợp triều, một ngày lên xuống một hoặc hai lần.

Vùng biển vực xoáy San Hô ở cuối đoạn dư mạch của Nam Long này hải khí hỗn loạn, thường xuất hiện thủy triều hỗn hợp rất phức tạp, mỗi tháng vào khoảng mùng Một hay tiết rằm đều có triều lớn. Con tàu Mariana kia, chính là gặp phải mưa bão cộng với nước triều lớn tiết trăng tròn, nên mới bị sóng lớn cuốn vào vùng biển mà tàu lớn khó tiến vào.

Tối qua chúng tôi gặp phải long thượng thủy, suýt chút nữa thì đắm tàu. Có điều lần ra biển này có thể xem như may mắn, vì đã chuẩn bị đầy đủ, dẫu gặp trắc trở, cũng chỉ có kinh mà không có hiểm, chưa gì đã kiếm được một cỗ quan tài cổ hiếm thấy. Những kẻ biết hàng như bọn tôi đều cực kỳ hưng phấn. Lúc này, Nguyễn Hắc đã chỉnh hướng tàu chạy men theo vực biển, chạy đến lúc trời sắp sáng, bầu không vẫn mờ mịt mây đen, chẳng thấy trăng sao gì hết. Mặt biển sóng cao gió cả, la bàn bắt đầu mất tác dụng, đây chính là dấu hiệu tàu Chĩa Ba đã đến gần vực xoáy San Hô. Sau khi được Minh Thúc báo tin qua hệ thống truyền âm, tôi và Shirley Dương vội vàng chạy lên khoang lái, lấy cái tráp gỗ và cái vò đất màu đen chuẩn bị sẵn ra, chuẩn bị thi triển bí thuật Ban Sơn Trấn Hải ghi chép trong cuốn số của ông Gà Gô, chỉ đợi thời cơ đến, là sẽ mượn nước triều dâng lên buổi sáng, đi xuyên qua rặng đá ngầm ở ngoại vi vùng biển vực xoáy San Hô.
 
Quyển 6 - Chương 18: Xuống biển dò Nam Long


Ngoại vi vùng vực xoáy San Hô là rặng đá ngầm chằng chịt, tựa như một vách chắn thiên nhiên khổng lồ. Khi nước triều rút xuống mức thấp nhất, dải đá ngầm sẽ hiện lên một nửa, nước triều dâng lên thì hoàn toàn chìm xuống mặt nước, ngăn cản đường đi của những kẻ dòm ngó kho báu bên trong. Tàu lớn thì không qua nổi, thuyền nhỏ có qua cũng chẳng làm được gì, vì vậy vùng biển phía sau rặng đá ngầm này cho đến nay vẫn còn là một khu vực thần bí đối với thế nhân[34]. Minh Thúc và Nguyễn Hắc đều là hạng sói biển lão làng, hiểu được thông điệp của sóng và gió, có thể điều khiển tàu Chĩa Ba lợi dụng nước triều vượt qua tầng tầng lớp lớp đá ngầm. Nhưng hiềm nỗi, một khi lọt vào vùng biển này, la bàn và các thiết bị định vị đều mất tác dụng, dòng biển và hướng gió cũng cực kỳ phức tạp khó xác định rõ, muốn vượt qua khu vực đá ngầm dài mấy hải lý này trong tình trạng không biết phương hướng, thực sự còn khó hơn lên trời, chẳng khác nào bắt một vận động viên chạy cự ly ngắn ưu tú bịt mắt tham gia thi chạy vượt rào vậy, dù không ngã chổng mông lên trời thì cũng chạy vòng vòng tại chỗ, vĩnh viễn chẳng thể nào chạy đến đích được.

Bởi lẽ đó, hy vọng của cả bọn đều gửi gắm vào thuật Ban Sơn Phân Giáp của tổ sư Ban Sơn đạo nhân để lại. Chỉ cần biết được phương hướng để tham chiếu, đợi khi nước triều dâng lên là có thể vượt qua rặng đá ngầm tiến vào vực xoáy San Hô mò ngọc được rồi. Trước ánh mắt nhìn chằm chằm của chúng tôi, chỉ thấy Shirley Dương ung dung chậm rãi lấy ra mấy món đồ khác nhau. Trước tiên, cô mở cái tráp gỗ ra, bên trong tráp gỗ là một bình thủy tinh bọc vóc đỏ, thân bình trong suốt, bụng phình to, mỏng như cánh ve. Bên trong bình là nước sạch và một viên thuốc, nước trong veo, nên nhìn viên thuốc to bằng móng tay út trông rất nổi bật. Bọn Minh Thúc, Tuyền béo đều không biết đó là thứ gì, cảm thấy hết sức mù mờ khó hiểu.

Shirley Dương lại lấy ra một cái vại sành đen sì, bên trong đựng nước sạch, nuôi mấy con cá nhỏ. Mấy con cá dài bằng ngón tay, đầu rất to, thân đỏ rực như lửa, bộ dạng trông quái dị vô cùng, đang bơi lội rất hoan hỉ trong vại sành. Chỉ thấy Shirley Dương cẩn thận vớt ra một con cá, thả vào bình thủy tinh, sau đó đặt bình vào tráp, lấy vóc đỏ quấn lại để cố định. Con cá nhỏ bơi vòng quanh viên thuốc nọ vài vòng, rồi bắt đầu đẩy nó sang một phía, bất luận nước trong bình có dập dềnh dao động thế nào, vẫn ra sức đẩy viên thuốc về một hướng cố định.

Cả bọn đều trố mắt ra nhìn, nhìn bộ dạng xem chừng người nào người nấy đều muốn hỏi thế này là thế nào, tôi bèn giải thích: “Đây chính là Ti thiên ngư của Ban Sơn đạo nhân. Cá này đẩy Thái Âm hoàn về hướng nào, thì đó chính là hướng chính Đông, lần nào cũng ứng nghiệm hết. Tuy ngẩng đầu không thấy sao Bắc Đẩu, nhưng cúi đầu có thể xem Ti thiên ngư, có nó chỉ rõ phương vị cho chúng ta, các vị còn lo lắng điều gì nữa không?”

Ban Sơn đạo nhân từng ở miền duyên hải Giang Chiết một thời gian dài, không ngừng tìm kiếm Mộc Trần châu trong các mộ cổ ở khắp nơi, cũng có ý vượt biển tránh họa từ lời nguyền Động quỷ không đáy, đồng thời tìm kiếm tiên sơn linh được trên biển, trải bao năm tháng, đã sáng tạo ra một bộ phương thuật, người đời sau gọi là Ban Sơn Phân Giáp. Trong bộ kỳ thuật này, không chỉ có phương pháp tìm kiếm và khai quật mộ cổ, mà bao gồm cả những pháp môn và bí phương về sự sinh khắc biến hóa của vạn vật vạn tượng nữa.

Con người phàm làm việc gì, cũng đều phải dựa vào cảm giác phương hướng. Chỉ nói riêng trùng đạo phong thủy, những nhân tố quan trọng nhất như “long, sa, huyệt, thủy” đều không thể tách rời khỏi một “hướng” nhất định. Không có phương hướng chỉ dẫn, thì cũng vô phương tiến hành phân kim định huyệt. Thuở ban đầu, con người dựa vào mặt trăng, mặt trời và tinh tú để xác định phương vị, về sau lại phát minh ra la bàn dạng đơn giản, rồi dần dần tiến hóa lên thành loại xe chỉ Nam[35] chính xác hơn. Đến thời Minh, khi phái Phong thủy Hình Thế tông hình thành hoàn thiện, loại la bàn phong thủy chuyên dùng để xem đất tìm long mạch cũng theo đó mà hoàn thiện tối đa. La bàn có ghi rõ âm dương thái cực, ngũ hành bát quái, hà đồ lạc thư, cửu tinh, nhị thập bát tú, hai mươi bốn tiết khí, mười hai cung, hai mươi bốn núi, sáu mươi long mạch... ít nhất cũng phải có ba tầng hoặc hơn, nhiều khi lên đến hơn bốn chục tầng. Trên la bàn, quan trọng nhất là ba kim “chính, phùng, trung”.

Nguyên lý định vị của la bàn cổ đại không thể tách rời với từ trường mặt đất, người thời xưa cho rằng, kim la bàn và từ trường là đạo mẹ con. Nếu trong một số trường hợp đặc thù, la bàn mất hiệu lực thì chỉ còn cách dùng đến Ti thiên ngư. Phương pháp sử dụng loại cá này được giấu trong mộ Ngu Vương, vốn đã thất truyền trên thế gian, Ban Sơn đạo nhân cũng là tình cờ nên mới có được. Còn “Thái Âm hoàn”, kỳ thực chính là loại thuốc chống thối rữa ngậm bên trong miệng chủ mộ. Loại thuốc này tập hợp tinh khí của Thái Âm, người chết ngậm trong miệng, thì dù có phơi dưới ánh nắng mấy tháng cũng không bị thối rữa mục nát, cho đến khi khí âm trong viên thuốc tan hết thì mới hết tác dụng. Thời Tần Hán, thuật luyện đơn rất thịnh, nhưng từ thời Tống trở đi thì bắt đầu suy bại, phương pháp phối chế loại đơn hoàn này cũng theo đó mà thất truyền, không thể tìm lại được nữa.

Ban Sơn đạo nhân dùng nước thuốc đặc chế ngâm tẩm, có thể khiến Thái Âm hoàn tích tụ khí âm. Mặt trăng thuộc Thái Âm, đặt viên thuốc trong bình thủy tinh, là mô phỏng trăng sáng trên trời. Ti thiên ngư thấy trăng sáng, thì nhất định sẽ từ phía Tây bơi tới, đầu cá hướng về phía Đông hấp nạp tinh hoa của Thái Âm, đây là thuộc tính trời sinh của chúng, không chịu ảnh hưởng của bất cứ nhân tố nào bên ngoài, đầu cá luôn luôn hướng về phía Đông. Nếu là giống Ti thiên ngư to như con thuyền, gặp lúc trăng sáng nhất thì còn tỏa sáng tranh quang với ánh trăng nữa. Có điều, đây chỉ là một truyền thuyết ghi lại trong mộ Ngu Vương mà thôi. Thời nay, con Ti thiên ngư to nhất có thể tìm được cũng chỉ dài bằng ngón tay trỏ là cùng. Khi la bàn mất tác dụng, trăng sao bị mây mù che khuất, sử dụng Ti thiên ngư tham chiếu phương hướng tuy không phải là chuẩn xác trăm phần trăm, nhưng cũng tuyệt đối không đến nỗi để tàu phải đi vòng vòng rồi lạc phương hướng giữa biển khơi.

Ngoài ra, Shirley Dương còn có Khôi tinh bàn phụ trợ. Đây cũng là bảo khí do Ban Sơn đạo nhân đào được từ mộ Ngu Vương thời cổ đại, công dụng tương tự như một Quan tinh bàn trong thuật phong thủy, không bị ảnh hưởng của khí hậu, từ trường mặt đất và điện từ. Người xưa cho rằng, thiên địa nhân là một chỉnh thể, có thể dựa vào sự biến hóa ảo diệu của các dòng khí chảy giữa núi non sông ngòi để xem xét sao trời, thăm dò mạch đất và ngược lại. Tuy Ban Sơn đạo nhân không thông thạo việc xem sao trời, dò địa mạch cho lắm, nhưng cuốn Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật của tôi lại ghi chép rất kỹ về những lẽ nhiệm mầu này. Có Ti thiên ngư và Khôi tinh bàn, chúng tôi cơ hồ như được khai thiên nhãn, điều khiển tàu Chĩa Ba ra vào vực xoáy San Hô, thực cũng không còn khó khăn nhiều mấy.

Cả bọn nghe giải thích về công dụng của Ti thiên ngư và Khôi tinh bàn, đều kích động đến nỗi không biết phải nói gì, không ngờ chướng ngại tưởng chừng như không thể vượt qua ấy đã được cổ nhân nghĩ cách phá giải từ mấy trăm năm trước. Tuy khoa học kỹ thuật hiện đại ngày càng phát triển, nhưng cũng không thể không thừa nhận, nếu quá dựa dẫm vào khoa học kỹ thuật và các trang thiết bị, ở một phương diện nào đó, sẽ khiến người ta thoái hóa phần nào. Có điều, những chuyện này tốt nhất nên để cho mấy bác triết gia suy ngẫm, giờ đây, kho báu lớn nhất ở Nam Hải, cơ hồ như đã ở gần ngay trước mắt chúng nhân, chỉ đưa tay ra là chạm tới được. Tiền tài phú quý sắp ngập đầu đến nơi, còn ai tốn thời giờ lo lắng về mâu thuẫn giữa tiến bộ của xã hội và sự thoái hóa của con người nữa chứ.

Không bao lâu sau, liền nghe thấy phía xa vẳng lại tiếng sóng dữ cuồn cuộn, nước biển dâng trào, chỉ trong chớp mắt đã ngập cả rặng đá ngầm. Có bí thuật Ban Sơn Trấn Hải trợ giúp, tàu Chĩa Ba của chúng tôi dễ dàng cưỡi gió lướt sóng vượt qua rặng đá ngầm, chỉ thấy mặt biển phía trước xuất hiện một ráng mây màu sắc rực rỡ. Những người chạy tàu trên biển gọi thứ này là “núi tiên”. Núi tiên ở đây không phải để chỉ những đỉnh núi đá trồi lên mặt biển, mà chính là chỉ hiện tượng ráng mây sà xuống sát mặt biển. Những người quen đi tàu biển trông thấy cảnh tượng đặc biệt này, đều cho là điềm cực tốt.

Ở đằng xa thì thấy trên mặt biển có ráng mây che phủ, tàu đến gần lại không thấy đâu nữa, đoán chừng, có lẽ tại đáy biển có hai dãy núi quây lại, hải khí nồng đậm bốc lên, gặp không khí liền trở nên mông lung biến ảo. Cũng bởi hôm nay trời nhiều mây, bằng không ánh mặt trời chiếu vào, ở đây ắt hẳn sẽ xuất hiện ảo ảnh hải thị thần lâu trong truyền thuyết. Xem lại Ti thiên ngư và Khôi tinh bàn, thì thấy nơi này đại khái đã là khu vực có âm hỏa tiềm tàng của mạch Nam Long rồi.

Long mạch trong thiên hạ có Nam Long, Bắc Long và Trung Long. Bắc Long và Trung Long phát xuất từ núi Côn Luân tuy ổn định vững vàng, nghìn đời không suy suyển, nhưng duy chỉ có Nam Long là khí thế lớn nhất. Có điều, Nam Long hành tung phiêu hốt, vương khí không đủ, long mạch có đầu mà không có đuôi. Nam Long khởi phát từ núi Nga My, chạy song song với Trường Giang, rồi từ núi Hải Diêm - Chiết Giang đâm xuống biển, chạy ngoằn ngoèo qua eo biển giữa Triều Tiên và Nhật Bản, không biết kết cục thế nào, có thể nói là thần long thấy đầu mà chẳng thấy đuôi. Nếu không phải bậc chí thánh chí hiền, tuyệt đối không nên xây mộ ở mạch Nam Long này. Vùng biển vực xoáy San Hô ở Nam Hải cũng thuộc dư mạch của Nam Long, hình thế kỳ quái, thiên hạ hiếm thấy.

Có điều, đây chỉ là phán đoán sơ bộ, còn phải xác nhận thêm một bước nữa, sau đó mới sử dụng chuông lặn xuống nước trinh sát. Tôi bảo Minh Thúc dừng tàu, lấy gạo trắng và dầu đã chuẩn bị từ trước, lần lượt đổ xuống biển, chỉ thấy gạo trắng không chìm, dầu không nổi, đây chính là dấu hiệu được ghi trong sách cổ, nếu bên dưới có âm hỏa long hỏa gì, thì chắc chính là ở chỗ này đây. Kế đó, chúng tôi lại thăm dò mực nước nông sâu, thấy khoảng chưa đến bảy chục mét, bèn thả cục chì có gắn phao nổi xuống để định vị.

Tiếp sau đấy, cả bọn lập tức tụ tập trên boong tàu hội ý, thảo luận phương án hành động. Khu vực này gần như có thể coi là vùng trung tâm của vực xoáy San Hô rồi, trước mắt thì mọi việc đều thuận lợi, nhưng tình hình ở đây thế nào thì chẳng ai rõ được, có tìm được con tàu đắm hay không cũng vẫn là một ẩn số. Chúng tôi thống nhất kể từ giờ trở đi, nhất thiết phải tăng cường giới bị, cẩn thận gấp đôi, đi bước nào là chắc bước đó. Để không phải lưu lại chốn thị phi nguy hiểm này quá lâu, cả bọn quyết định nhân lúc sóng gió không lớn lắm, lập tức triển khai hành động, trước tiên xuống nước trinh sát, tìm kiếm vị trí của tàu đắm và ngọc trai Nam Hải, sau khi nắm được địa hình đáy biển rồi mới tùy cơ ứng biến, sắp xếp nhiệm vụ cho mỗi người.

Trên tàu chỉ có hai cái chuông lặn, mỗi cái chứa được một người, cuối cùng quyết định để tôi và Nguyễn Hắc xuống nước trinh sát. Nguyễn Hắc đã từng xuống nước mò ngọc, rất thông thuộc những việc này, vì vậy để ông ta xuống nước hỗ trợ cho tôi là thích hợp nhất. Sau khi sắp xếp xong xuôi, Tuyền béo dẫn bọn Cổ Thái và Đa Linh chuẩn bị chuông lặn, kiểm tra lại xem trang thiết bị có ổn định không.

Trước khi xuống nước, Shirley Dương dặn dò tôi: “Tuy chúng ta đã tiến vào vực xoáy San Hô, nhưng sự việc diễn ra quá thuận lợi, ngược lại khiến tôi không thể yên tâm. Nghe giáo sư Trần nói, hải nhãn trong vực xoáy San Hô này chính là Quy Khư vẫn được nhắc đến trong truyền thuyết xưa. Tương truyền, nước của tất cả sông hồ biển trên đời này cuối cùng đều đổ vào Quy Khư, nước chảy không bao giờ ngừng, vậy mà Quy Khư thủy chung cũng không đáy. Chuyện này xuất hiện rất nhiều lần trong các sách cổ, người chạy tàu nào cũng biết trên đời này có một hải nhãn như thế. Nhưng anh xem, mặt biển bốn bề trải ra tít tắp, đâu có thấy xoáy nước hay hải nhãn nào đâu? Đương nhiên, Quy Khư dù sao cũng chỉ là một truyền thuyết, chỉ mong là tôi đã quá lo nghĩ thôi. Có điều, sau khi anh xuống nước, vẫn phải hết sức cẩn thận, không được hành sự lỗ mãng.”

Tôi gật đầu nhận lời, dẫu sao thì chuông lặn cũng cực kỳ kiên cố, nếu dưới đáy biển có xảy ra chuyện gì bất trắc, ít nhất cũng đảm bảo cho người trinh sát có thể an toàn rút lui.

Bị óc hiếu kỳ mãnh liệt thôi thúc, tôi nôn nóng lặn xuống xem xét tình hình đáy biển, nên chỉ nói vài câu với Shirley Dương, rồi vội vàng chui vào trong chuông lặn bọn Tuyền béo đã chuẩn bị xong xuôi.

Chuông lặn đúc bằng đồng, bít kín, có thể lặn xuống độ sâu tối đa năm mươi lăm mét, bốn phía có cửa sổ quan sát, được lắp thiết bị chiếu sáng chuyên dụng có tên là “Con mắt của Poseidon” phát sáng cực mạnh, bên trong có gắn hệ thống điện thoại để liên lạc với chỉ huy trên boong tàu. Tuy đã có ống thông khí nối liền với hệ thống bơm trên tàu, nhưng chúng tôi vẫn mang theo bình dưỡng khí xuống để đề phòng bất trắc.

Tôi chui vào chuông lặn chuẩn bị xong xuôi, bèn vẫy tay ra hiệu với những người còn lại trên boong. Chiếc chuông lặn nước bắt đầu từ từ hạ xuống, lúc ở trên mặt biển vẫn chưa thấy gì, nhưng sau khi chuông đồng chìm xuống đáy nước, lập tức cảm giác chịu áp lực mạnh dấy lên, nỗi sợ bị cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài theo đó cũng bùng lên tự đáy lòng. Tôi gắng hết sức tập trung chú ý quan sát cảnh vật ngoài cửa sổ, tìm mọi cách để phân tán nỗi bất an khó xua đuổi hoàn toàn đó.

Tuy nói là chỉ lặn xuống sâu hơn năm chục mét, nhưng quá trình này diễn ra cực kỳ chậm chạp, tôi vừa nhìn nước biển bên ngoài ô cửa kính quan sát, vừa thầm đếm tiếng khí thể thoát ra cách quãng từ hệ thống van xả khí trong khoang đồng. Đếm đến mười lăm thì chuông lặn cũng được thả hết dây. Đương là ban ngày, nhưng trời nhiều mây, tầm nhìn xa dưới mặt nước chỉ ở mức độ vừa phải hoặc thấp hơn. Có điều, từ độ sâu hai mươi mét, xung quanh càng lúc càng tối đen, tạp chất trong nước biển nhiều hơn, tầm nhìn xa giảm xuống nhanh chóng, cũng may là bên trong bên ngoài khoang đồng này đều có thiết bị chiếu sáng. Trước tiên, tôi tìm vị trí chuông lặn của Nguyễn Hắc, giơ ngón tay cái lên với ông ta, biểu thị mọi việc đều bình thường. Nguyễn Hắc cũng ra dấu hồi đáp lại như vậy.

Tiếp sau đó, chúng tôi sử dụng “con mắt của Poseidon” chiếu sáng, bắt đầu trinh sát địa hình dưới đáy biển, rồi thông qua hệ thống điện thoại báo cáo tình hình với những người ở trên tàu. Vùng biển thần bí tương truyền có u linh ẩn hiện này, từ từ lộ ra diện mạo chân thực dưới ánh đèn. Mấy chục mét sâu dưới mặt nước, là một khu rừng đáy biển, xung quanh có núi non bao bọc, giữa vùng địa hình nhấp nhô trùng điệp ấy có một rãnh biển sâu thăm thẳm, bên trong chốc chốc lại cuộn lên những xoáy nước quái dị, chiếu đèn xuống cũng không thấy đáy. Sâu bên dưới, dường như có vật gì đó đen đúa thò đầu thò đuôi ra, nhưng không nhìn rõ là thứ gì, lũ cá dưới biển đều không dám lại gần.

Trong khu rừng san hô bên rìa khe vực ấy, có rất nhiều cây cao đến mấy chục mét, cực kỳ dị thường, gần như trong suốt giống đồi mồi. Đồi mồi, còn gọi là độc mồi, trên lưng có mười ba phiến giáp xếp chồng lên nhau như ngói úp, màu vàng nhạt hơi ngả sang đen, có đốm đen, lớp giáp này sau khi gia công sẽ trở nên mềm dẻo, dùng để chế tác các đồ trang sức quý giá. Những cây to dưới đáy biển ấy, màu sắc và hình dạng đều rất giống đồi mồi, ốc và trai lớn bám chi chít, con nhỏ nhất cũng phải to bằng cái thớt. Mỗi khi vỏ trai mở hé, dường như có ánh sáng như ánh trăng lấp lóa từ bên trong, khiến các loài thủy tộc chen nhau vây lại.

Tôi nuốt ực một ngụm nước bọt, thầm nhủ dưới đáy biển quả nhiên có ngọc quý, xem ra chuyến này không uổng công rồi. Nhưng ở xung quanh đấy lại không thấy xác con tàu Mariana đâu cả, đừng nói là không có con tàu đắm ấy, toàn bộ những nơi trong tầm nhìn của chúng tôi, chẳng có bóng dáng một con tàu đắm nào cả. Tôi đoán, nếu nghĩa địa tàu đắm trong truyền thuyết là có thực, thì chỉ có khả năng nằm dưới vực sâu trong rừng san hô. Nếu tàu Mariana chìm xuống đó, nếu độ sâu vượt quá hai trăm mét, với năng lực của chúng tôi thực không có cách nào để trục vớt.

Nghĩ tới đây, tôi ngoảnh lại nhìn xuống khe sâu bên dưới qua cửa sổ quan sát, không ngờ, vừa mới quay đầu, liền thấy một con cá to đại tướng toàn thân sần sùi chẳng biết đã xuất hiện bên cạnh chuông lặn nước từ lúc nào. Nó quẫy đuôi, quật cho khoang tàu lặn bằng đồng của tôi một cú trời giáng, làm bên trong khoang tàu ầm vang những tiếng đinh tai nhức óc. Tôi lảo đảo ngã nhào, đèn chiếu sáng bên ngoài lập tức tắt ngúm. Con cá ấy quật đuôi một cú, rồi lại vòng ngược trở lại, há ngoác miệng hung hăng lao đến, tựa hồ muốn nuốt chửng luôn cả cái chuông lặn.
 
Quyển 6 - Chương 19: Ốc ngậm ngọc


Các loài thủy tộc dưới biển đa số đều có tập quán trồi lên kiếm ăn vào những lúc sáng trăng, con cá to đại tướng bất thình lình ập đến này dường như chính là bị ánh đèn của chuông lặn thu hút mà tới. Cái chuông lặn bằng đồng mới bị quật cho một cú mà đã chao đảo liên hồi, hai ngọn đèn bên ngoài tắt ngúm. Tôi nghe tiếng lớp vỏ kim loại rung bần bật, sợ rằng nếu bị con cá ấy đụng cho cú nữa, quả chuông lặn sẽ không chịu nổi.

Cái chuông lặn đặc biệt này đã được người Anh cải tạo, chuyên dùng để trinh sát ở những khu vực đáy biển nguy hiểm. Để ứng phó với môi trường khắc nghiệt, ngoài thiết kế tinh vi chính xác ra, xung quanh chuông còn được gắn thêm các thiết bị phòng ngự tương đối hoàn thiện nữa. Ngoài cửa sổ quan sát có song sắt, đề phòng chuông bị các dòng hải lưu dưới đáy biển xô đẩy chạm đá ngầm. Nhưng đối phó với những con cá dữ có thể chuyển động linh hoạt thế này, tôi đành sử dụng biện pháp ứng cứu khẩn cấp, kéo chốt an toàn, khiến mười mấy mũi lao nhọn bên ngoài chĩa ngược ra. Cái chuông lặn lập tức biến thành một con nhím bằng kim loại.

Mười mấy mũi lao vừa bật ra khỏi rãnh ngầm bố trí ngoài vỏ chuông lặn thì con cá dài bảy tám mét, da sần sùi như đá vừa khéo quay đầu lao tới. Con cá dường như cũng biết sự lợi hại của những mũi lao nhọn hoắt, nhưng muốn tránh né cũng không kịp nữa rồi. Nó chỉ kịp ngoặt đầu sang một bên, nhưng thân mình thì lại bị mấy mũi lao đâm trúng, toạc ra cả vết thương dài trên lớp da dày chắc. Chỉ thấy, loáng một cái, con cá đại tướng ấy đã kéo theo một dòng máu đục ngầu lặn tít xuống đáy sâu.

Nguyễn Hắc ở trong chiếc chuông lặn còn lại xoay chuyển đèn chiếu sáng, lần theo vết máu ấy. Tôi cũng ngó qua cửa sổ quan sát nhìn xuống, chỉ thấy có mấy con cá mập lớn bị mùi máu tanh thu hút, từ trong rặng san hô quẫy mình bơi ra, lao bổ đến chỗ con cá bị thương kia hung hăng cắn xé. Nhất thời, lớp cát và bùn dưới đáy biển bị chúng quẫy tung, hòa với máu loang ra, khiến cảnh cá mập giành mồi bị hoàn toàn che khuất khỏi tầm nhìn của chúng tôi.

Tôi thầm nhủ “Nguy hiểm quá,” xem ra dân miền Nam Hải này mò ngọc mưu sinh cũng chẳng dễ dàng hơn Mô Kim hiệu úy chúng tôi trộm mộ là mấy. Lúc này, đèn chiếu sáng dùng để trinh sát địa hình đáy biển đã hỏng, những mũi lao nhọn chĩa lên cũng ngăn cản một phần tầm nhìn, tiếp tục ngồi trong chuông lặn thế này cũng không còn ý nghĩa gì nữa, tôi vội dùng hệ thống điện thoại báo với mấy người trên tàu, giảm áp suất trong khoang lặn rồi từ từ nâng chuông lặn lên mặt nước.

Hai cái chuông lặn lần lượt trồi lên, người trên tàu trông thấy vỏ đồng của chuông lặn bị cá dưới biển húc lõm cả vào, ai nấy không khỏi lắc đầu le lưỡi. Đồng thời, mỗi người đều ngầm hiểu rằng, hành động mò ngọc ở Nam Hải này, bây giờ mới coi như chính thức mở màn, nếu muốn mò được hàng tốt, thì còn phải mạo hiểm nhiều hơn nữa.

Nhưng cả bọn cũng đều hiểu rất rõ, không vào hang cọp thì không bắt được cọp con, không vượt sông cao trăm thước thì khó mà bắt được cá nghìn cân. Nay đã tìm được nơi lũ ốc lũ trai khổng lồ thành tinh ẩn nấp trong vực xoáy San Hô, vậy thì việc mò ngọc coi như cũng có một chút manh mối để bắt tay thực hiện. Chúng tôi thảy đều phấn chấn tinh thần, người nào cũng hết sức hưng phấn, bận rộn sửa soạn trên boong tàu, chuẩn bị chu toàn để xuống nước mò ngọc quý.

Tôi đứng trên boong tàu quan sát tình hình mặt biển, biển Nam Hải ba đào cuồn cuộn, dẫu không có gió thì sóng cũng dâng cao đến ba thước, nhưng chỉ cần nước triều rút đi thì vùng biển vực xoáy San Hô này sẽ lại bình lặng đến dị thường. Trời mù mịt mây, nhưng lại không có dấu hiệu gì của sóng to gió lớn. Nếu không phải trước đó hải khí tích tụ bùng phát, gây ra hiện tượng long thượng thủy đáng sợ nhường ấy, thì giờ đây, tình hình ở vực xoáy San Hô cũng chưa chắc đã ổn định được như vậy. Thật đúng là đến sớm không bằng đến đúng lúc, lúc này, mực nước đang xuống rất thấp, chính là thời cơ tuyệt vời để lặn xuống.

Tôi đưa mắt nhìn khắp bốn xung quanh, đột nhiên phát hiện mặt biển ở phía đuôi tàu lộ ra một hòn đảo đen trùi trũi, lúc nãy trước khi lặn xuống có thấy gì đâu, nó xuất hiện từ lúc nào vậy nhỉ? Nghĩ đoạn, tôi vội giơ ống nhòm lên quan sát kỹ hơn. Thường nghe nói, trên biển đột nhiên xuất hiện hòn đảo kiểu như vậy đa phần là sống lưng của con cá khổng lồ nào đấy, hoặc mai của một con rùa to đại bố tướng, những người không hiểu chuyện lại dừng tàu leo lên, khiến con vật khổng lồ giật mình lặn xuống, kéo cả người lẫn tàu theo xuống đáy nước sâu.

Shirley Dương nói, vừa nãy cô và bọn Minh Thúc đã dùng pháo Chấn hải để thử rồi, nó không phải thú biển khổng lồ trồi lên mặt nước, mà là một hòn đảo u linh xuất hiện do tác dụng của nước triều. Lúc nước triều dâng lên, hòn đảo đen kịt này sẽ hoàn toàn chìm xuống bên dưới mực nước, khi triều xuống, lại lộ ra một phần trên mặt biển, cũng bởi nó khi ẩn khi hiện như thế, nên mới gọi là “đảo u linh”.

Vùng biển vực xoáy San Hô này là nơi tập trung đủ các loại hiện tượng thần bí, một hòn đảo u linh cũng không có gì là lạ, lúc trước ở trên đảo Miếu San Hô tôi cũng từng nghe qua một số truyền thuyết về đảo u linh rồi. Dân chài và dân mò ngọc địa phương gọi nó là “cá voi đen”, cũng có khá nhiều lời đồn đại khác nhau, nhưng người thực sự nhìn thấy rồi thì lại chẳng có mấy ai. Nếu có đảo này làm vật tham chiếu, thì công việc mò vớt coi như thành công được một nửa rồi.

Tôi định bảo Minh Thúc lái thuyền về phía hòn đảo u linh ấy, lên trên xem xét coi sao, nhưng Shirley Dương nói, cô có dự cảm chẳng lành về hòn đảo đó, chắc đó chẳng phải là nơi tốt lành gì, tốt nhất không tiến lại gần thì hơn. Cô khuyên tôi từ bỏ ý định, chớ nên mạo hiểm vô vị làm gì, vả lại nước triều xuống quá thấp, địa thế xung quanh đảo u linh lại khá cao, tàu Chĩa Ba của chúng tôi khó lòng mà tiếp cận được.

Sau đó, Shirley Dương lại hỏi tôi có phát hiện dấu vết của tàu đắm dưới đáy biển không? Ở trên biển, chữ “đắm” cũng là chữ cấm kỵ, không được nhắc đến, nếu muốn nói tới tàu đắm, thì phải dùng ẩn ngữ, thay bằng chữ “bay”, nhưng tôi chẳng tin mấy chuyện bàng môn tà đạo ấy. Thời Cách mạng Văn hóa, Hồng vệ binh đả phá hủ tục mê tín, lên tàu lên thuyền ra sông ra hồ ra biển, lúc trên tàu trên thuyền còn ép nhà thuyền phải hét một nghìn lần chữ “đắm”, mà cùng chẳng thấy tàu thuyền nào bị chìm cả. Từ đó trở đi, tôi không tin mấy thứ kiểu này lắm, có thể là, nếu trên tàu có người mạng lớn, thì muốn tàu chìm cũng khó. Shirley Dương thì lại càng chẳng tin vào mấy thứ kỵ húy kiểu Trung Quốc này làm gì.

Tôi nhún vai với cô, dưới đáy biển chẳng có tàu chìm tàu đắm gì sất, có điều, cũng không thể vì vậy mà từ bỏ hy vọng, vì tôi phát hiện ra có mấy khe nứt rất sâu, trai ngọc và những cây san hô ở đó đều rất lớn, thuộc loại hiếm thấy trên đời. Nếu không phải sinh khí dưới đáy biển quá dồi dào thì khó lòng có được cảnh tượng như thế. Từ đây, có thể xác định nơi này một trăm phần trăm chính là điểm cuối của dư mạch Nam Long. Nếu dưới đáy biển thực sự có âm hỏa tiềm tàng, vậy thì nhất định thứ lửa ấy phun trào lên từ mấy rãnh sâu đó, nghĩa địa tàu đắm trong truyền thuyết hẳn cũng không xa đây lắm. Lúc xuống biển mò ngọc, tôi sẽ bảo mọi người lưu tâm hơn, nói không chừng lại có phát hiện đột phá cũng nên.

Shirley Dương gật đầu đồng ý. Lúc này Đa Linh lên boong tàu gọi mọi người vào ăn cơm, chúng tôi bèn vào trong khoang đánh chén, tiện thể bàn kế hoạch xuống biển mò ngọc luôn. Dựa trên thông tin tôi và Nguyễn Hắc thăm dò được dưới nước, địa hình đại thể của rừng san hô đã được vẽ lại thành một tấm bản đồ đơn giản.

Cơm Đa Linh nấu đa phần là món kiểu miền Nam Việt Nam, vừa chua vừa ngọt, thêm nữa là nguyên liệu trên tàu rất hạn chế, ngày lại qua ngày ăn uống đơn điệu, tôi ăn cơm mà cứ như uống thuốc vậy. Ăn vội ăn vàng mấy miếng cho qua bữa, rồi chỉ vào bản đồ miêu tả địa hình dưới đáy biển cho cả bọn. Vực xoáy San Hô, trên thực tế là một quần đảo hình bầu dục, các đảo quây lại thành một hình elip khép kín, vòng bên ngoài toàn là đá ngầm. Đây chính là vòng xoáy ngoài mà các thủy thủ giàu kinh nghiệm ở vùng này vẫn hay nhắc tới. Địa hình bên trong vòng xoáy ngoài rất phức tạp, càng vào giữa thì địa thế càng cao, điểm cao nhất ở giữa, có lẽ chính là hòn đảo u linh lộ ra trên mặt biển khi nước triều rút xuống. Khu vực này rất có thể là vùng đảo và núi non bị nhấn chìm cùng với sự hạ thấp của thềm lục địa. Dưới đáy biển, có mấy khe sâu không thấy đáy, nhiều khả năng thông ra vùng biển ngoài.

Giữa vòng xoáy ngoài và đảo u linh có một khu vực, địa thế hõm xuống như bồn địa, đáy biển mọc đầy san hô, hình thành một khoảnh rừng dưới đáy biển trải dài nhấp nhô, có những cây san hô cao đến mấy chục mét, trông sừng sững vững chãi vô cùng. Tuy dưới đáy biển, nhưng cảnh tượng vẫn hết sức hoành tráng. Trong khoảnh rừng ấy, nổi bật nhất là một cây lớn, trong suốt như thể bằng đồi mồi. Nơi đó phỏng chừng rất gần hải nhãn, cái cây ấy nhận được tinh hoa của hải khí và nhật nguyệt cả trăm nghìn năm, rốt cuộc mới thành ra như vậy. Cây đồi mồi ở độ sâu khoảng bảy tám chục mét đó chính là mục tiêu hàng đầu của hành động mò ngọc lần này.

Bên cạnh cây san hô lớn đó có một khe vực, độ sâu cụ thể không thể phán đoán được. Theo những gì tay thủy thủ sống sót trên tàu Mariana kể lại, tàu của bọn họ đã bị bão lốc cuốn vào vòng xoáy ngoài bình thường tàu bè khó có thể vượt qua, ở chỗ tàu đắm, mặt biển sáng như ban ngày. Đó là bằng chứng rõ ràng nhất chứng tỏ dưới đáy biển có long hỏa tiềm tàng. Tôi đoán, mấy khe sâu dưới đáy biển này, rất có thể chính là nơi âm hỏa của Nam Long phun trào. Nếu độ sâu vượt quá hai trăm mét, thì dù biết rõ tàu Mariana bị chìm vào đây, chúng tôi cũng chỉ biết nhìn mà thở dài tiếc nuối chứ chẳng làm được gì. Vả lại, trong khe vực sâu ấy còn có các dòng chảy ngầm, một khi đã rơi xuống đó, thì đúng là chỉ có trời mới biết xác tàu đã bị đẩy đến nơi nào rồi.

Sau khi tôi nói xong, Nguyễn Hắc bổ sung thêm một số chi tiết. Ông ta là dân chài lưới, lại có kinh nghiệm xuống biển mò ngọc. Trên đảo Miếu San Hô, ngoài mò ngọc dưới biển, một trong những cách quan trọng để duy trì sinh kế, chính là giúp đỡ các đội trục vớt xuống biển kiếm thanh đầu, vì bản thân người mò ngọc cũng có thể coi như thợ lặn bán chuyên nghiệp rồi. Với kinh nghiệm mò ngọc trai, cùng những hiểu biết trong việc vớt thanh đầu, Nguyễn Hắc có thể khẳng định chắc chắn một điều rằng, khoảnh rừng dưới đáy biển này cực kỳ nhiều cá dữ, mức độ nguy hiểm khi xuống nước mò ngọc cực lớn. Nhưng vừa nãy ở trong chuông lặn, ông ta cũng thấy rất rõ, lũ trai lớn dưới đáy nước sâu kia, con nào cũng ngậm ngọc, lấp lóa như ánh sáng trăng rằm, bản thân ông ta sống đến ngần này tuổi rồi cũng chưa thấy thứ nào giá trị đến thế. Đó là những sản phẩm diệu kỳ của tạo hóa, là linh khí dưới đáy biển tích tụ mà thành, sợ rằng trên thế gian này, chỉ vùng vực xoáy San Hô mới có mà thôi.

Từ bao đời nay, ở các đảo mạn Nam Hải này, dân mò ngọc là khổ nhất. Thảng như tổng kết những cảnh ngộ của họ lại, hoàn toàn có thể viết thành một bộ Huyết lệ sử của dân mò ngọc còn dày hơn cả cuốn Từ hải. Minh châu xưa nay vốn được phân thành “Đông châu” và “Nam châu”. Vùng ven sông Ninh Cổ Tháp thời Mãn Thanh có đặc sản Đông châu, mỗi hạt trung bình nặng khoảng hai đến ba chỉ[36], chủ yếu màu xanh da trời hoặc màu trắng, cũng có một số ít màu hồng phấn. Hạt Đông châu lớn nhất từ trước đến nay được ghi chép lại trong sử sách, là do một đứa trẻ địa phương bơi lội dưới sông, vô ý nhặt được trong miệng con trai, chuyện này xảy ra vào thời Khang Hy. Nghe nói, hạt Đông châu này đường kính khoảng một tấc rưỡi.

Nếu xét vẻ hoa mỹ quý hiếm của minh châu, Đông châu tuy cũng có chỗ hơn người, nhưng vẫn khó có thể so bì được với Nam châu cực phẩm. Thời trước, Nam châu là thứ phải tiến cống cho Hoàng đế sử dụng. Không có chiếu chỉ, dân mò ngọc cũng không được xuống nước. Lúc lặn xuống mò ngọc, trên tàu thuyền đều có quan binh giám quản. Dẫu cho biển động, không thể lặn xuống, quan binh cũng cưỡng ép, buộc dân mò ngọc phải đeo đá vào người cho chìm xuống, nếu để làm mất, hoặc quá kỳ hạn mà không tìm được ngọc quý, tất cả đều phải chịu hình phạt chặt chân tay. Từ cổ chí kim, thực không biết đã có bao nhiêu người mất mạng vì thứ này rồi, thi thoảng cũng có người ngẫu nhiên mò được Nam châu, nhưng đa phần đều bị đám gian thương lột mất, rốt cuộc, chỉ nhận được một phần nghìn giá trị của thứ mà họ phải đem tính mạng ra mạo hiểm mới mò được về ấy.

Dân mò ngọc đều biết, cho đến nay, viên Nam châu lớn nhất phát hiện được là từ thời Minh, khi Tam Bảo thái giám Trịnh Hòa ra biển đến Tây Dương. Tương truyền, trên tàu có thủy thủ vớt được một con ốc lớn, bỏ vào nồi nấu lên, vừa nổi lửa, nước trong nồi liền đột nhiên sôi sùng sục, nổ “oành” một tiếng, con ốc lớn bị đun cho dở sống dở chết trong nồi thình lình bắn vọt lên không trung. Khoang tàu trong chớp mắt mù mịt khói trắng như thể có sương mù, hai người ngồi đối diện cũng chẳng trông thấy nhau. Đám người nấu ốc ấy đều kinh hoảng tột cùng, vội tranh nhau chạy ra khỏi khoang. Hồi lâu sau, không thấy động tĩnh gì, họ mới dám trở vào xem xét, chỉ thấy con ốc lớn đã chết từ lâu, bên cạnh có một viên Nam châu to như mắt rồng, vì bị đun trên lửa nóng nên đã không còn phát sáng được, cũng không thể phục hồi.

Dưới đáy biển ở vực xoáy San Hô có suối nước ngọt phun trào, nước biển mặn vừa phải, lại tích tụ tinh hoa của hải khí và ánh trăng, nên Nam châu ở đây cơ hồ viên nào cũng to tướng. Lúc chúng tôi lặn xuống, mới thoạt nhìn qua đã thấy hạt châu tỏa sáng biến ảo, trên đời thật hiếm có thứ châu ngọc nào có thể sánh cùng. Chuyến này, nếu như thuận lợi, ít nhất cũng có thể mò được trăm viên ngọc chứ chẳng chơi. Từ hồi rời Việt Nam, cuộc sống của Nguyễn Hắc vẫn luôn khó khăn vất vả, rốt cuộc cũng đợi được cơ hội này, việc sang Pháp tìm người thân cho Đa Linh cuối cùng đã có hy vọng, nên ông ta có vẻ rất kích động, tỏ ý dù mạo hiểm mấy cũng đáng, làm được chuyến này thì chẳng uổng năm xưa liều mạng học nghề mò ngọc.

Nguyễn Hắc lại nói ra suy đoán của mình về tình hình dưới đáy biển. Khe sâu bên cạnh khu rừng san hô có dòng chảy ngầm và từng đợt từng đợt xoáy nước không ác liệt lắm, theo quan sát của ông ta, chỉ không hiểu tại sao thủy tộc ở vùng biển này thảy đều không dám lại gần. Lúc ở trong chuông lặn, ông ta đã dùng đèn công suất lớn chiếu xuống khe sâu, mơ hồ trông thấy cái bóng mờ mờ như của một con tàu lớn, có điều, Nguyễn Hắc cũng không dám khẳng định đó chính là tàu Mariana. Ở vùng biển nông gần đảo Miếu San Hô cũng có một nghĩa địa tàu đắm, nằm trong một khe sâu dưới đáy biển. Những con tàu đắm xung quanh, đều bị các dòng biển cuốn vào khe sâu đó, trải qua một thời gian dài, một phần khe sâu bị cát bùn và rong rêu che lấp, hình thành một tầng vỏ cứng, chỉ còn lại mấy lối có thể lặn ra lặn vào. Có rất nhiều đội trục vớt đến đó thử vận may, cũng có người tìm được khá nhiều món đồ tốt thật, nhưng cũng có kẻ đen đủi đi mấy chuyến liền, dốc hết tâm huyết tiền tài, cuối cùng tay trắng. Có khả năng, địa hình bên dưới vực xoáy San Hô cũng tương tự. Nơi này có cát biển trầm tích, đáy biển mà chúng tôi nhìn thấy có thể chính là một tầng vỏ xốp mềm hình thành từ cát bùn, tàu bè bị đắm sẽ lọt xuống, tạo ra những dấu vết thoạt trông tưởng như khe sâu dưới đáy biển. Những khe rãnh mà chúng tôi trông thấy khi lặn xuống, rất có thể chính là dấu vết của những con tàu đắm lưu lại.

Lời Nguyễn Hắc nói hoàn toàn chỉ là suy đoán, nhưng chúng tôi đều cảm thấy tương đối có lý, vậy là bèn lập tức xác định kế hoạch lặn xuống. Muốn lặn xuống, ít nhất cũng phải có một nhóm hai người để còn tiện hỗ trợ lẫn nhau. Có điều, người trên tàu đương nhiên không thể xuống nước hết một lượt, vì vậy, tôi quyết định chia thành ba nhóm A, B, và C. Tôi và Shirley Dương, Minh Thúc thuộc nhóm A, Nguyễn Hắc cùng đồ đệ Đa Linh là nhóm B, còn Tuyền béo và Cổ Thái là nhóm C.

Nhóm A và nhóm B sẽ đồng thời xuống nước, nhóm A sử dụng ba bộ trang bị lặn nước hạng nặng duy nhất mà chúng tôi có, lặn xuống gần khe vực, thăm dò xem bên dưới có tàu đắm hay không, sau khi xác định mục tiêu sẽ lập tức triển khai hành động. Có thể vớt được Tần Vương Chiếu Cốt kính lên hay không, chủ yếu là dựa vào hành động của nhóm này. Nhóm B và nhóm C thì sẽ luân lưu xuống mò ngọc ở rừng san hô. Cũng bởi các trang thiết bị và vật tư chúng tôi mang theo rất hạn chế, vả lại, thuật Ban Sơn Trấn Hải cũng có những giới hạn nhất định, nên nhân lúc thời tiết và tình hình mặt biển còn cho phép, hoàn thành công việc sớm phần nào là bớt mạo hiểm phần ấy.

Phân chia nhân lực như vậy, chủ yếu là do tôi nghĩ việc tìm xác tàu đắm rất cần nhân thủ, dù có ba người, thì lực lượng vẫn hơi mỏng một chút. Tuy nhiên, Minh Thúc có hiểu biết kha khá về kết cấu của các loại tàu thuyền, tương đối thành thạo việc dưới nước, để lão làm cố vấn kiêm trợ thủ, ít nhiều cũng có chút tác dụng. Ngoài ra, quan trọng nhất là phải có lão đi theo, tôi mới yên tâm lặn xuống vùng nước sâu, bằng không có trời mới biết lão già này sẽ lại giở trò quỷ quái gì. Thêm nữa, Shirley Dương là tinh anh trong Học viện Hảì quân Hoa Kỳ, cũng là một chuyên gia trinh sát dưới nước. Nhóm A lặn xuống khe sâu trong rừng san hô, dù có gặp phải chuyện gì ngoài ý muốn, cũng không khó rút lui an toàn.

Nguyễn Hắc, Đa Linh và Cổ Thái đều là dân mò ngọc chuyên nghiệp, bảo họ lặn xuống rừng san hô tìm ngọc, chính là làm những việc trước đây họ vẫn làm để sinh nhai, cũng có phần đảm bảo nhất định. Đồng thời, tách ba người nhà Nguyễn Hắc ra, để kẻ cực kỳ nhiệt tình hăm hở với sự nghiệp mò ngọc là Tuyền béo cùng làm với họ, còn có thể đề phòng ba người này thấy báu vật nổi lòng tham, bỏ lại ba người nhóm A chúng tôi mà lái tàu chạy nhất. Có điều, Nguyễn Hắc cũng không biết sử dụng Ti thiên ngư và Khôi tinh bàn, tôi sắp xếp như vậy chẳng qua cũng chỉ là đề phòng vạn nhất. Bởi lẽ, tôi hiểu rất rõ, một người nghèo túng quẫn bách rất dễ bị tiền bạc làm cho mờ mắt mà làm những chuyện họ căn bản không hề muốn làm. Dĩ nhiên, những tính toán này không thể nói ra với Shirley Dương được, tôi chỉ lẳng lặng tiến hành sắp xếp mà thôi.

Cả bọn đều hân hoan đồng ý, chỉ có Minh Thúc là lộ vẻ khó xử: “Đến cả lũ cá cũng không dám lại gần các khe sâu dưới đáy biển ở vực xoáy San Hô này, vì phần sâu bên dưới đều thông ra vùng biển bên ngoài, lũ quái vật khổng lồ dưới đáy đại dương thường chiếm cứ các nơi như thế làm sào huyệt, chúng ta tiến vào há chẳng phải tự đâm đầu vào chỗ chết à? Không nghe lời người già, thiệt thòi ngay trước mắt đấy, chú Nhất ơi, chú nghe Minh Thúc này nói đi. Dưới đáy biển, lợi hại nhất không phải bạch tuộc khổng lồ đâu, nghe đồn, tôm cua ở những vùng biển sâu thậm chí to ngang với cá voi đấy, trong đó lũ cua khổng lồ là khủng khiếp nhất, dẫu là loài hung ác như giao long thuồng luồng cũng không dám đụng vào bọn chúng. Các chú muốn đi thì tự mà đi với nhau, tôi... tôi thấy tôi hợp đi mò ngọc trai hơn.”

Tôi biết lão này muốn giở trò yêu ngôn hoặc chúng dọa dẫm mọi người, bèn nói thẳng vào mặt lão: “Nếu có con cua to như thế thật, vậy phải bán bao nhiêu tiền? Với lại, bác chẳng bảo bác là sói biển đánh không chết, quật không ngã đấy sao? Người dám cạo vàng trên mặt Phật, thọc tay vào chảo dầu sôi mò tiền như bác mà còn sợ hạng cua cáy ấy à? Vả lại, chuyến này chúng ta ra biển, đã nói trước là có tiền mọi người cùng chia, có nạn mọi người cùng gánh, nhưng giờ vừa mới định mạo hiểm một chút bác đã muốn né tránh rồi, sau này trở về chia tiền chia của, tôi cũng tránh bác, lúc ấy bác đừng có mà trách tôi đấy nhé.”

Minh Thúc vừa nghe đến chuyện chia tiền, liền đành im ỉm chấp nhận, dẫu có xuống biển lửa thì cũng phải xuống một phen. Lần này nếu thành được đại sự, thì bao nhiêu tổn thất mấy năm trước coi như bù đắp được hết, tỷ lệ thành công là năm ăn năm thua, lão thấy đánh liều cũng đáng, ai bảo tròng mắt đen ngòm của lão chỉ thấy bạc trắng ròng ròng thôi chứ.

Mọi người bàn bạc đã xong, liền dốc toàn lực ra bắt tay chuẩn bị, sắp đặt trên mặt biển mấy cái phao nổi dùng để định vị, tìm ra vị trí của cái cây lớn nhất dưới đáy biển kia, tiếp sau đấy, sẽ phải dùng đến thuật Ban Sơn Trấn Hải của Ban Sơn đạo nhân để đối phó với lũ cá dữ dưới nước. Tôi ra phía mũi thuyền, đốt cái lò hương cũ kỹ hình con vịt bằng đồng lên, chuẩn bị mời “Dưa thần” về.
 
Quyển 6 - Chương 20: Dưa trôi dụ cá


Ban Sơn đạo nhân có thuật “Dưa trôi dụ cá” mà theo truyền thống trước đây, chỉ được thực hiện sau khi đã tế “Dưa thần” và “Ngư chủ”. Đương nhiên, đây chỉ là một dạng nghi thức, có cũng được mà không cũng chẳng sao. Có điều, chúng tôi cũng cứ theo lệ cũ mà làm, chẳng ngại gì thêm một bước này, tránh để về sau xảy ra chuyện có hối cũng chẳng kịp. Thời xưa, dân chài nếu bắt được cá lớn dưới biển, đều phải tế Ngư chủ theo lệ, bởi trong mắt dân miền biển, lũ cá lớn ấy đều là con cháu của Long vương. Ngư chủ ở đây chính là Nam Hải Long vương. Thực tế là, dưới biển có những con cá lớn nặng đến cả tấn, nhìn đã thấy sợ rồi, hạ gục giống quái vật ấy, trong lòng ai mà chẳng có chút thấp thỏm không yên, mấy trò bái tế Ngư chủ gì gì đó, có thể chỉ là tìm một cái cớ để mình yên tâm mà thôi. Thuyền trưởng Nguyễn Hắc dẫn đầu cả bọn thắp hương, rồi lấy trong khoang ra một vò rượu ngon lâu năm đổ xuống biển, vậy là coi như đã bái tế Long vương.

Thời trước, dân mò ngọc lặn xuống nước, chỉ dựa vào một nắm sa thạch và dao găm, cùng với một cái bong bóng lợn để đổi hơi. Trước khi hành động, phải dùng nước lạnh tưới khắp toàn thân, gắng hết sức loại bỏ đi hơi nóng của người sống trên thân thể, hòng tránh bị lũ cá dữ dưới nước tấn công. Làm nghề này, có thể nói, gần như là đem tính mạng ra đổi lấy Nam châu.

Ban Sơn đạo nhân có hứng thú đối với tất cả các loại ngọc châu trên thế gian này, dù là loại ngọc ngậm trong miệng người chết hay là loại sinh ra trong tự nhiên, như loại còn nằm dưới đáy biển, chưa bị con người mò vớt. Bất kể thứ nào, họ cũng nghĩ trăm phương nghìn kế để lấy được về tay. Phương pháp mò vớt Nam châu của họ hoàn toàn đi theo một lối riêng, không giống bất kỳ ai. Tuy những bí pháp kỳ môn đa phần đều không được ghi chép trong kinh điển chính thống, song lại có hiệu quả rất kỳ diệu, thuật “Dưa trôi dụ cá” này là một trong số đó.

Trước khi lên đường ra biển, chúng tôi đã chất trong khoang hàng một lượng lớn dưa hấu còn xanh, và mấy bao tải vôi sống, lúc này, toàn bộ đều đem ra dùng hết. Chúng tôi bắc nồi ở mũi tàu, bỏ vôi sống vào nước cho sôi ùng ục, khoét lỗ to bằng nắm tay trên mấy quả dưa, móc hết ruột bên trong ra, đổ nước vôi sống vào, rồi lấy miếng vỏ bít lại như cũ, ở chỗ khe hở, dùng thứ keo chế từ cỏ Chiếu Hồ và nước sắc cua biển dính chặt, sau cùng thì thả từng quả, từng quả dưa nhồi vôi sống ấy xuống nước.

Quả dưa chứa đầy nước vôi sôi ùng ục, dập dềnh trôi nổi trên mặt biển. Khi quả dưa vẫn cứ dập dềnh chưa chìm xuống, trên mặt biển đột nhiên có hoa nước bắn tóe lên. Một con cá lớn dài khoảng hơn chục mét lao vút lên, đớp trọn cả quả dưa nhồi vôi đó vào miệng, theo đà vọt khỏi mặt biển, hơi dừng sững lại một chút, rồi mới rơi đánh “tũm” một tiếng, làm nước bắn tung ào ào.

Phàm là những loài thủy tộc bị minh châu thu hút, đều có cảm ứng với ánh trăng và âm tính, thiên tính thích âm mà ghét dương. Gặp phải quả dưa hấu tròn ung ủng nổi dập dềnh trên mặt biển, vỏ dưa lại có khí âm do thứ keo đặc biệt kia tiết ra, lũ cá này không con nào là không nhao lên giành ăn. Mặt biển nhất thời nổi sóng, các loại cá lớn đua nhau nhoi lên mặt nước nuốt dưa. Dưa hấu ngâm trong nước biển một chút là lạnh, nhưng là ngoài lạnh trong nóng, vôi sống bên trong vỏ dưa vẫn đang sôi, gặp nước lại càng sôi lên ùng ục. Bị lũ cá nuốt vào bụng, vỏ dưa lập tức vỡ toác ra, vôi sống tiếp xúc với nước, sinh ra nhiệt lượng cực lớn, dễ dàng đốt cháy nội tạng bọn chúng. Chỉ trong chớp mắt, đã có mấy con cá chết phơi bụng trắng hếu nổi trên mặt nước.

Dưa hấu thả xuống mỗi lúc một nhiều, con cá nào nuốt vào là đi đời con ấy, chỉ thấy trên mặt biển không ngừng xuất hiện những cái xác cá chết, ngửa bụng trắng phớ. Lũ cá đại tướng này trông vốn đã hung ác xấu xí, nay bị vôi sống thiêu đốt nội tạng mà chết, bộ dạng càng đau đớn khủng khiếp tột cùng. Hơn nữa, mắt cá trời sinh đã tròn xoe, nên lúc này nhìn càng giống như chết không nhắm mắt. Mấy người chúng tôi đứng trên boong quan sát, thảy đều kinh hãi. Từ đầu cả bọn đã có chuẩn bị tâm lý, nhưng vẫn không ngờ sử dụng bí thuật của Ban Sơn đạo nhân giết cá, lại có kết quả tàn bạo nhường này.

Tôi vẫy tay với Nguyễn Hắc, ra hiệu cho bọn họ chuẩn bị xuống nước. Nguyễn Hắc và Đa Linh lập tức thay đồ lặn, mang theo bình dưỡng khí, kính lặn và dụng cụ mò ngọc, ngồi trong xuồng cao su thả xuống bên mạn tàu đợi tín hiệu. Mấy người bọn Tuyền béo thì vẫn tiếp tục ném dưa xuống biển, lũ thủy tộc ẩn náu trong vùng biển này dường như đông vô hạn, chết một đám lại có một đám khác trồi lên, lồng lộn tranh ăn trên mặt biển. Tuyền béo cứ ngoác mồm ra than thở, lúc trước tính toán không chuẩn, cứ thế này thì dưa hấu với vôi sống không đủ dùng mất thôi.

Tôi bảo mấy người bọn họ, không nên ném dưa hấu nhanh quá, tránh để một con cá nuốt mất hai quả dưa, nhất định phải dùng tiết kiệm, đặt mục tiêu mỗi phát đạn hạ gục một tên địch, nếu không trừ hết lũ cá dữ cứ quanh quẩn xung quanh đám ngao sò ốc hến ngậm ngọc dưới đáy biển kia, lúc xuống nước mò ngọc thể nào cũng gặp bất trắc. Dẫu chúng không đớp người, thì chỉ cần bị mấy con cá to ấy húc cho một phát thôi cũng chẳng chịu nổi rồi. Chuyện đã đến nước này, chỉ còn cách dốc hết túi ra cược một phen, cá không chết thì lưới rách, nếu ném hết dưa hấu mà vẫn không diệt sạch được lũ cá lớn xung quanh mấy cây san hô đó, thì chỉ còn nước chọn lại ngày lành tháng tốt mà quay lại thôi. Có điều, sau này chưa chắc đã gặp được thời tiết trên biển thích hợp như lúc này, cũng không biết phải chờ tới lúc nào mới trở lại vực xoáy San Hô được.

Lúc này, Shirley Dương thấy việc giết chóc quá nặng nề, thời gian ăn chưa hết bữa cơm mà đã có gần hai trăm con cá lớn toi mạng, không khỏi hơi biến sắc mặt. Chỉ là, giờ cô có hối hận cũng đã quá muộn. Tôi thấy vậy, bèn cất tiếng khuyên giải, bảo rằng: “Đằng nào cũng đã đại khai sát giới rồi, tuyệt đối không thể mềm lòng, bây giờ mà dừng tay thì chẳng phải lũ cá này chết uổng hay sao? Vả lại, hãy nghĩ đến những thủy thủ và hành khách trên tàu gặp nạn, rồi cả dân mò ngọc nữa, một khi rơi xuống nước chẳng phải chỉ có kết cục chôn thây nơi bụng cá hay sao? Tuy bây giờ không còn trả thù giai cấp nữa, nhưng chúng ta làm vậy, cứ coi là báo thù cho những người mò ngọc bất hạnh kia cũng được mà.”

Thực ra, tôi chẳng để tâm đến bọn cá chết kia mấy, không diệt hết bọn chúng, lúc xuống nước chẳng khác nào tự hiến thân vào bụng cá, chỉ là, trong lòng không khỏi ngấm ngầm lo lắng giết không hết, sợ phải trở về tay không mà thôi. Cũng may, lúc còn khoảng gần ba mươi quả dưa hấu, dưới biển không có cá nổi lên nữa, có lẽ bọn cá đại tướng ấy đều chết tiệt hết cả rồi. Dưới đáy biển, các khu vực được phân chia bởi những dòng hải lưu ngầm, các loài thủy tộc rất ít khi chịu vượt qua ranh giới, nhưng cũng có một số ít con tham luyến tinh hoa của ngọc trai, vẫn lẩn khuất ở gần rừng rậm san hô, phải diệt trừ hết sạch thì lúc lặn xuống mò ngọc mới khỏi lo trước lo sau. Còn bọn cua cá thuồng luồng ở những vùng nước khác, thì ít nhất trong thời gian ngắn cũng sẽ không mạo muội tiến vào vùng biển trống này.

Nguyễn Hắc thuở trước đi mò ngọc, nhưng lần nào cũng phải chuẩn bị sẵn tinh thần lao đầu vào chỗ chết để tìm đường sống, nay thấy thuật “Dưa trôi dụ cá” lợi hại như vậy, chỉ trong chưa đầy nửa tiếng đồng hồ đã dẫn dụ toàn bộ lũ cá dữ tiềm phục ở xung quanh cây san hô lớn ra, hạ sát sạch sẽ, thủ đoạn thực là tàn độc hết sức, cũng không khỏi trợn mắt há hốc miệng ra. Tôi gọi mấy tiếng liền, ông ta mới giật mình sực tỉnh, giơ ngón tay cái lên nhắn xuống, ra hiệu với chúng tôi rằng mình sẽ lặn xuống ngay. Sau đó, ông ta liền cùng nữ đồ đệ mang hai dòng máu Pháp-Việt Đa Linh, gắn các trang thiết bị lặn vào, ngồi lên mép xuồng cao su, ngả người ra phía sau, lộn đầu xuống nước.

Thấy nhóm B đã xuống nước, Shirley Dương bèn gọi tôi và Minh Thúc: “Nhóm A vào khoang đáy chuẩn bị lặn.” Tuy đã tiêu diệt được khá nhiều con cá dữ có khả năng tấn công, nhưng tình hình dưới nước vẫn rất khó lường, có lẽ không yên bình được mấy chốc, thời gian rất có hạn, nhóm A chúng tôi cũng phải nhanh chóng hành động.

Trong các trang bị kèm theo tàu Chĩa Ba có ba bộ đồ lặn hạng nặng, chuyên dùng để thăm dò vùng biển sâu, chế tác từ vật liệu có thể chịu áp lực cao, trọng lượng lên tới một trăm bảy mươi lăm ki lô gam, mặc vào để xuống nước không dễ dàng như thợ lặn đeo trang bị bình thường được. Các nhà thiết kế người Anh đã khéo léo lợi dụng cấu tạo của con tàu cũ, đặt một khoang nhỏ ngập nước đặc biệt trong khoang đáy, trang bị lặn đặc cố định trong đó, chúng tôi phải chui vào bộ đồ lặn này, đợi nước dâng lên ngập khoang, mới lặn xuống được.

Sau khi chúng tôi xuống nước, trên tàu chỉ còn lại nhóm C đảm nhiệm việc chi viện, nên tôi phải dặn dò Tuyền béo mấy câu, rồi mới dẫn theo Cổ Thái xuống khoang đáy, nhờ cậu ta giúp một tay chuẩn bị thiết bị lặn, mở van xả nước vào khoang nhỏ. Cùng với nhịp hô hấp của chúng tôi, khí thể xì ra, tôi, Shirley Dương và Minh Thúc rời khoang đáy, bám theo dây thừng từ từ lặn xuống.

Tàu Chĩa Ba dừng ngay phía trên cây san hô cao to, trong nhờ nhờ như đồi mồi ấy. Tôi thấy giữa mấy tán cây có ánh đèn lấp lóa, chính là Nguyễn Hắc và Đa Linh đang lấy ngọc của một con ốc xanh rất lớn. Mấy con cá mập bơi lượn vòng xung quanh hai người họ. Cá mập không có tính háo trăng như các loài thủy tộc khác dưới đáy biển, thuật “Dưa trôi dụ cá” không hề có tác dụng với bọn chúng. Ở dưới biển, xét về các mối uy hiếp đối với dân mò ngọc, thì phải tính đến loài cá mập hung hãn vô địch này đầu tiên. Thời xưa, khi chưa có thiết bị đuổi cá mập bằng tín hiệu điện tử, Ban Sơn đạo nhân lặn xuống nước mò ngọc, thông thường đều dùng một loại thuốc đuổi cá mập phối chế theo phương pháp cổ xưa, nhưng lại cực kỳ hiệu quả. Lúc xuống nước, mang theo bên mình một cái bình thủng lỗ chỗ như cái sàng, bên trong nhét đầy thuốc đuổi cá mập dạng cao đặc. Mỗi khi cơ thể chuyển động dưới nước, thuốc đuổi cá mập trong bình sẽ hòa tan liên tục qua các lỗ nhỏ, có thể ngăn cản lũ cá mập đến gần người thợ lặn. Nguyễn Hắc và Đa Linh đã mang theo bình thuốc đuổi cá mập của Ban Sơn đạo nhân, nhưng cũng vẫn có những con cá tò mò, quây lấy hai người họ từ đằng xa.

Cũng may, thầy trò Nguyễn Hắc đã đi mò ngọc được mấy năm rồi, làm cái nghề này cực kỳ nguy hiểm, chẳng khác nào vuốt râu hùm, nên tố chất tâm lý của bọn họ tương đối ổn định, bị lũ cá mập vây quanh rình mò mà vẫn không hề rối loạn. Dân mò ngọc có ba cách lấy ngọc, nếu hoàn cảnh cho phép, thông thường họ trực tiếp phá vỏ ốc vỏ trai để lấy ngọc; giả như cây san hô kích thước không lớn lắm, thì có thể nhổ cả cây mang lên, vì san hô thượng phẩm cũng bán được giá rất cao; cuối cùng chính là kéo cả con trai lên mặt nước, chuyển lên tàu rồi mới đập vỡ vỏ trai lấy ngọc, thịt trai thì đem ăn. Có điều, làm theo cách này không thể chắc chắn bên trong con trai có ngọc hay không.

Hai người nhóm Nguyễn Hắc lặn xuống gốc cây san hô, lũ trai ngọc khổng lồ đã bám dưới đáy biển này không biết bao nhiêu năm tháng, cơ hồ đã nối liền thành một thể với rặng đá ngầm bên cạnh cây san hô, sẽ rất phiền phức nếu muốn tách chúng ra khỏi rặng đá để mang cả lên mặt nước, chỉ có thể lấy ngọc tại chỗ mà thôi. Họ dùng đèn lặn tụ quang hoặc cát mịn dẫn dụ con trai hé mở vỏ ra, rồi đâm lưỡi dao tẩm thuốc mê vào, nhân lúc con trai khổng lồ mất cảm giác, liền bạnh vỏ trai ra, thò tay vào móc lấy Nam châu.

Hai thầy trò Nguyễn Hắc không thích dùng dao găm lặn chuyên dụng, mà vẫn mang theo lưỡi dao phân thủy truyền thống của dân mò ngọc từ bao đời nay, nhưng để không cắt vào thịt trai, thịt ốc khiến lũ cá mập gần đấy ngửi mùi máu mò tới, ông ta hết sức cẩn chận chỉ rạch khẽ một chút rồi thò tay mò mẫm, lấy được Nam châu liền tức khắc bọc lại, giấu kín vào trong lòng, không dám để lộ ra ánh sáng.

Tôi và Shirley Dương, Minh Thúc lặn qua chỗ hai thầy trò Nguyễn Hắc, thấy bọn họ thực hiện đâu ra đó rất bài bản, cũng cảm thấy yên tâm phần nào, bèn vẫy tay ra hiệu, rồi tiếp tục lặn xuống sâu hơn. Gốc cây san hô cao mấy chục mét ấy mọc trên tầng cát mịn cùng cả một rừng san hô trải dài, chúng tôi chạm đất làm bùn cát cuộn lên, khiến nước biển đục ngầu. Đột nhiên có một dòng chảy ngầm cuốn xuống khe sâu cạnh đó, nhờ có trang bị nặng, thân thể chúng tôi chỉ bị lảo đảo mấy cái. Tôi bám vào một cây san hô, trụ vững thân mình, đoạn chỉ tay xuống phía dưới, ra hiệu cho Shirley Dương và Minh Thúc rằng đấy chính là khe sâu mà tôi trông thấy lúc ngồi trong chuông lặn.

Giả sử cái khe nứt đen ngòm trước mắt chúng tôi đây không phải khe sâu đáy biển, mà là một lớp vỏ cứng hình thành bởi các vật trầm tích dưới biển, thì con tàu đắm rất có thể đã lọt vào trong đó rồi. Có điều, trước khi xác nhận chắc chắn thì khó mà phán đoán được. Tôi cũng hiểu rất rõ, với trang bị của chúng tôi, và sự chuẩn bị vội vàng thế này, muốn vớt được Tần Vương Chiếu Cốt kính trong tàu Mariana thực sự còn khó hơn lên trời, nhưng dù sao tôi vẫn muốn thử vận may một chút xem sao, nếu vớt được đương nhiên là tốt nhất, bằng không thì chỉ cần tìm thấy xác tàu đắm là cũng tốt lắm rồi. Bởi lẽ, chỉ cần giơ ra một món di vật trong tàu, là có thể tuyên bố quyền sở hữu xác tàu đắm ấy là của chúng tôi, những đội trục vớt khác sẽ không có ý với nó nữa. Chỉ cần có đủ thời gian, có thể bảo Shirley Dương đi thuê một nhóm trục vớt chuyên nghiệp đến làm nốt những thứ còn lại.

Shirley Dương giơ đèn lặn lên, định thăm dò tình hình ở bên rìa mép cái khe nứt ấy, hiềm nỗi, đèn chiếu cường độ mạnh ở đây gần như mất tác dụng, không thể chiếu xuyên qua được nước biển có quá nhiều tạp chất, càng chẳng thể nào chiếu xa được.

Minh Thúc nghĩ ra một cách, ném ống khói phát sáng dưới nước xuống dưới, một luồng sáng chói mắt tức thì chiếu rọi xung quanh. Trong khoảnh khắc ánh sáng lóe lên ấy, chỉ thấy phía dưới có vô số cột đá sừng sững, tựa như di tích của một kiến trúc cổ đại nào đó, nhưng dưới đáy sâu, nước xoáy cuộn lên, lại có nhiều dòng chảy ngầm đan xen lẫn nhau, ống khói phát sáng nhanh chóng bị cuốn đi mất, không biết rơi vào góc chết nào, chẳng còn thấy chút ánh sáng nào nữa.

Nhưng trong một thoáng ấy, tôi phảng phất thấy dưới khe sâu có một cái bóng đen khổng lồ, tựa như xác tàu đắm, có điều vì khoảng cách quá xa, nên không dám chắc. Vả lại, điều làm chúng tôi kinh ngạc nhất là những khối đá khổng lồ kia, tuy bám đầy trầm tích, nhưng lại rất vuông vắn trật tự, không giống như sản phẩm của thiên nhiên. Trong khe sâu dưới đáy biển không ngờ lại có di tích thành cổ, sự việc này khiến tôi không khỏi liên tưởng đến bức phù điêu ngọc phát hiện trên đảo Miếu San Hô, cùng với cỗ quan tài nổi ở gần vực xoáy San Hô. Xem ra, nơi này quả nhiên từng xuất hiện một nền văn minh phồn thịnh, nhưng đã bị chôn vùi dưới đáy biển sâu, dù ngẫu nhiên có vài thứ sót lại được vớt lên, coi là hàng thanh đầu, thì đa phần đã bị nước biển xâm thực mà biến dạng nghiêm trọng, khó nhận ra, rốt cuộc cũng chỉ làm nên một trang thiếu khuyết trong lịch sử nhân loại. Nơi này, rất có thể chính là Quy Khư được ghi chép trong sách cổ, là hải nhãn ở Nam Hải, dẫu có đổ hết nước trong thiên hạ vào cũng không thể đầy, là lối thông đến cõi vĩnh hằng hư vô vô tận.

Tôi thấy sâu bên dưới dường như có tàu đắm, nhìn có vẻ hết sức thần bí; không sao nén nổi cảm giác tò mò, muốn tiến xuống xem cho rõ ràng, ngoảnh sang thấy Shirley Dương và Minh Thúc vẫn đang quan sát, bèn từ phía sau gõ gõ lên mũ lặn của họ, ý bảo hãy quay sang phía này. Tôi chỉ vào thiết bị đo độ sâu, rồi lại chỉ xuống khe vực. Bọn tôi có động cơ đẩy nước gắn trên đồ lặn, sẽ không dễ bị các dòng chảy ngầm cuốn đi, vả lại, còn mang theo súng bắn lao phòng thân, cậy vào mấy thứ trang bị này, chi bằng lặn sâu xuống quan sát thêm một chút.

Shirley Dương hơi do dự, còn Minh Thúc thì ngược lại, thấy tiền tài lại nổi lòng tham. Chắc hẳn lão nghĩ, mò được ngọc trai rồi, lại vớt thêm được ít hàng độc trong khu hoang phế dưới đáy biển này, chẳng phải càng trúng quả đậm hay sao, nên đồng ý mạo hiểm ngay lập tức. Một khi lòng tham đã nổi, rắn còn nuốt cả voi, chỉ cần có lợi lộc, trên đời chẳng có nơi nào mà lão già này không dám đi cả.
 
Quyển 6 - Chương 21: Quái vật biển


Dung lượng bình ô xy có hạn, đương nhiên không thể dây dưa trì hoãn quá lâu dưới nước được, Shirley Dương thấy tôi và Minh Thúc đều đồng ý tiếp tục lặn sâu xuống, bèn đưa tay ra dấu phải cẩn thận hơn nữa, rồi cả ba lấy dây thừng chuyên dụng nối nhau lại, bật hết thiết bị chiếu sáng trên người lên, đoạn cùng lúc lao xuống khe sâu tối om dưới đáy biển, van khí trên mũ lặn xả ra một chuỗi bọt nước trắng xóa.

Chúng tôi lặn xuống men theo vách đá, Shirley Dương rút con dao găm thợ lặn, cạy một mảng trầm tích màu trắng xám dày bự, chỉ thấy bên trong lộ ra bề mặt đá thô ráp sần sùi, lồi lồi lõm lõm như thể một tấm bia cổ. Tôi không kìm được, vươn tay vuốt nhẹ lên những dấu vết cổ xưa ấy, đang định tiếp tục lặn xuống, chợt cảm thấy trong vách đá truyền ra những chấn động dữ dội, khác thường. Tôi giật mình kinh hãi, thầm nhủ không hay rồi, lần này trước khi xuống nước lại quên không xem giờ hoàng đạo, sao không dưng lại gặp đúng lúc có địa chấn dưới đáy biển thế này cơ chứ? Ở lại trong khe sâu này rất có khả năng sẽ bị bùn đất chôn vùi hoặc đá lở đè chết, đến nước này tôi đâu còn dám do dự, người mà ngỏm củ tỏi thì tìm thấy bảo vật cũng chẳng ích gì, phải lập tức rút lên mặt biển thôi.

Tôi đang định bảo Minh Thúc và Shirley Dương mau chóng rút lui, bỗng thấy Shirley Dương đột nhiên giơ tay lên, ra hiệu “cẩn thận”, tôi thoáng ngẩn người, liền hiểu ra ngay, vách đá chấn động không phải do địa chấn, mà là có thứ gì đó trong khe sâu này đang chuyển động. Những dòng chảy ngầm xuống phía dưới bỗng chảy xiết hẳn lên, xem ra, thứ va chạm vào vách đá đang ở phía trên chúng tôi, trong tình hình chưa rõ ràng này, chắc chắn là không thể mạo hiểm trồi lên được. Shirley Dương kéo theo tôi và Minh Thúc, lợi dụng một dòng chảy ngầm, nấp vào phía sau một trụ đá bị đổ dưới đáy biển.

Cái khe này không sâu như chúng tôi tưởng tượng, bên trong có nhiều dòng chảy ngầm phức tạp, lại quá tối tăm, chiếu đèn pha không thể nhìn rõ được địa hình bên dưới, nhưng khi lặn xuống, sử dụng “Con mắt của Poseidon” với bóng đèn khí flo, cột ánh sáng chiếu tới đâu, cảnh vật trong khoảng mấy chục mét liền hiện lên rõ mồn một. Ba chúng tôi nấp sau tảng đá, giơ hai ngọn đèn pha công suất lớn quét khắp lượt, chăm chú quan sát động tĩnh bốn xung quanh.

Tôi đưa mắt theo cột ánh sáng đèn pha, phát hiện đây không phải một khe vực tự nhiên, những cột đá to lớn xếp thành hàng san sát kia chứng tỏ ở nơi này từng tồn tại một quần thể kiến trúc quy mô hùng vĩ, nhưng đã bị nhấn chìm xuống đáy biển sâu bởi một thiên tai khủng khiếp. Phần mái của quần thể kiến trúc bị bùn cát phủ lấp, trải qua nhiều năm tháng, tạo nên một tầng vỏ cứng nhưng giòn và dễ vỡ.

Cãi khe này bạo lộ, không phải do tàu đắm rơi xuống, vì xung quanh đây không thấy có bóng dáng của tàu bè hiện đại nào cả, bên cạnh chúng tôi chỉ có mỗi cái xác tàu kiểu cũ đã mục ruỗng đến trơ khung, không biết là bị đắm từ đời xa xưa nào nữa, nên rất có thể khe nứt hình thành do những cây cột đã chỗ chúng tôi đang náu mình đổ sập.

Vực xoáy San Hô chạy dài theo hướng Đông Tây, chiều Nam Bắc rất hẹp, những mảng rừng rậm dưới đáy biển tập trung nhiều ở mé Đông có địa hình hõm sâu xuống, địa thế cao dần theo hướng từ Đông sang Tây, khi nước triều xuống thấp sẽ có đảo u linh lộ ra trên mặt nước.

Cái khe mà chúng tôi lặn xuống thám hiểm này, chính là nằm giữa rừng san hô và đảo u linh. Lúc dùng chuông lặn xuống nước trinh sát địa hình lần đầu tiên, tôi từng phát hiện trong khu vực này có rất nhiều khe sâu tối om om, giờ nghĩ lại, có lẽ bên dưới đều là di tích của tòa thành cổ này, xem ra quy mô cũng khá lớn.

Tôi mải suy nghĩ, thoáng ngẩn ra mất một lúc, chợt cảm thấy Shirley Dương khẽ chạm vào tay phải mình. Thứ trên đầu kia cũng đã lặn xuống. Tôi không nén nổi tâm trạng hồi hộp, vội giơ súng bắn lao lên chuẩn bị nghênh địch. Minh Thúc vội vàng xua tay lia lịa, ra hiệu không thể lấy cứng chọi cứng được, trong cái khe dưới đáy biển này chắc chắn có loài hải quái khổng lồ nào đang ẩn náu, chưa chắc lúc này nó đã phát hiện ra chúng tôi. Kế đó, lão lại ra hiệu cho tôi và Shirley Dương mau chóng tắt hết các nguồn sáng trên người, tránh để bại lộ mục tiêu, đợi nó bơi đi rồi mới tìm cách trở lên mặt nước.

Shirley Dương cũng đồng ý với cách của Minh Thúc, chúng tôi vội vàng, tắt đèn, ngoài ngọn đèn pha “con mắt của Poseidon”, cùng với đèn đeo trên người và gắn bên ngoài mũ lặn, bên trong mũ kim loại cũng có hai ngọn đèn nhỏ. Loại đèn này gắn liền với công tắc giảm áp, khi lặn xuống dưới sâu ba mươi mét trở lên sẽ tự động bật sáng, không tắt bằng tay được. Hai ngọn đèn ấy có thể chiếu sáng trong phạm vi tầm nửa mét phía trước mặt trong môi trường tối tăm áp suất lớn, đồng thời cũng để những đồng bạn ở gần đó nhìn rõ gương mặt mình, giảm bớt áp lực về mặt tâm lý. Loại đèn gắn bên trong mũ này so với đèn pha công suất lớn thì chẳng đáng là gì, chính vì vậy, dù để bật sáng, chúng tôi cũng không lo bị lộ tung tích.

Nguồn sáng vừa tắt, đáy biển lập tức tối đen như mực, xung quanh chìm vào sự tĩnh lặng chết chóc. Tôi chợt nghĩ, tòa thành cổ này năm xưa gặp phải thiên tai hủy diệt, những người Hận Thiên trong thành, dẫu là già trẻ gái trai hay chó mèo gà lợn hẳn đều đã thành thức ăn cho cá, chỉ còn lại vong hồn vẩn vít quanh đây thôi. Mà nghe nói, dân mò ngọc Nam Hải lúc lặn xuống tìm ngọc không dám nhắc đến chữ “ngọc”, tương truyền chính là vì dưới đáy biển có u hồn ác quỷ bảo vệ ngọc trai, lũ ác quỷ ấy lẽ nào chính là những vong hồn trong tòa thành cổ này? Nghĩ tới đây, tôi rùng mình ớn lạnh, vội trấn tĩnh, cố không nghĩ ngợi lung tung nữa.

Nhưng môi trường đặc thù dưới đáy biển, cộng với áp lực nước ở độ sâu hơn trăm mét khiến người ta phải chịu đựng sức ép tâm lý rất lớn. Tôi cảm nhận được một nỗi sợ khó hiểu đang dâng lên trong lòng, không cách nào xua đi nổi. Có điều, nghĩ đến Shirley Dương ở bên cạnh, rốt cuộc tôi cũng khắc chế được tâm trạng bất an ấy. Đúng lúc đó, lại chợt cảm thấy dòng chảy ngầm bên cạnh đột nhiên chấn động! Tôi biết có thứ gì đó rất lớn đang lướt qua chỗ chúng tôi ẩn nấp, lại không sao đè nén nổi cảm giác căng thẳng cuộn dâng lên. Bấy giờ, tôi không hiểu, đây là hiện tượng tâm lý thường xuất hiện khi ở dưới biển sâu, cơ hồ tất cả các thợ lặn đều như vậy, mới thầm mắng mình quá vô dụng. “Năm đó thấy đao trắng đâm vào đao đỏ rút ra cũng không hề chớp mắt một cái, sao giờ xuống đáy biển lại biến ra kém cỏi thế này?” Nghĩ đoạn, tôi lại thầm nhủ, tuyệt đối không thể để Shirley Dương và Minh Thúc nhìn ra, bằng không thì đúng là chẳng còn mặt mũi nào mà lên tàu nữa.

Tuy tôi rất căng thẳng, nhưng có người còn căng thẳng hơn cả tôi. Minh Thúc ở bên cạnh như bị sứa biển đốt cho mấy phát, đớ người như có dòng điện chạy qua, một chuỗi bong bóng nước ùng ục tuôn từ mũ lặn. Tôi và Shirley Dương bị lão làm cho giật thót cả mình, nhưng nhanh chóng hiểu ra ngay, lão Minh Thúc chắc là bị thứ gì làm cho kinh hãi quá độ mà thôi. Đúng lúc đó, tôi thấy lão đưa tay lên định cởi mũ lặn ra, thầm chửi lão nông dân Hồng Kông này không hiểu uống lầm thuốc gì, vội đưa tay chụp vào vai, xoay người lão lại, mượn ánh đèn mờ mờ trong mũ quan sát, mới thấy không hiểu ở đâu chui ra một con mực đang xòe rộng xúc tu bám chặt lên kính quan sát trên mũ lặn của lão già. Con mực không lớn lắm, chỉ cỡ bằng hai nắm tay người lớn, toàn thân trắng nhợt, lốm đốm những vệt nâu nâu tím tím. Nó trợn trừng hai con mắt xám đục, nhích động liên tục trên mặt kính quan sát của cái mũ lặn.

Minh Thúc bị chắn mất tầm nhìn, đâu có biết đó chỉ là một con mực bé tẹo, còn tưởng đã bị quái thú đáy biển nào nuốt chửng, trước mắt toàn là ruột với dạ dày đang nhu động. Lão ta dẫu từng chạy tàu lâu năm, từng lặn xuống biển mò ngọc, cũng phải kinh hãi đến mức luống cuống cả chân tay. Tôi sợ Minh Thúc giật đứt ống thở, vội giữ chặt hai tay lão, Shirley Dương từ phía sau dùng dao thợ lặn khẽ hất cái vòi của con mực lên, nhẹ nhàng cạy nó ra khỏi mũ lặn của Minh Thúc. Cô ra tay rất khẽ khàng, con mực thậm chí không cảm thấy bị uy hiếp, từ đầu chí cuối không hề phun mực đen.

Đang mải quan sát, tôi đột nhiên cảm thấy dòng nước bỗng xao động, có xoáy nước dữ dội cuộn trào lên ngay cạnh. Một cái bóng mơ hồ màu trắng quẫy đuôi ló đầu tới, chỉ còn cách chúng tôi gang tấc. Tôi biết giờ có trốn cũng không nổi, cái khó ló cái khôn, vội giật lấy con mực Shirley Dương vừa tóm được, bóp mạnh một cái, rồi thả ra luôn. Con mực vừa đau vừa kinh hoảng, theo bản năng lập tức phun túa ra một đống mực đen hòng thoát thân.

Luồng mực phụt ra đen kìn kịt, tựa làn khói mù mịt từ đáy biển bốc lên. Thân con mực liền đó lao vọt đi. Quả nhiên, con hải quái trong bóng tối lập tức bị con mực bỏ chạy thu hút, quay đầu đuổi theo luôn trước mắt chúng tôi. Dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn gắn trong mũ, tôi không nhìn ra nổi nó rốt cuộc là giống gì, chỉ thấy một mảng trắng nhờ nhờ to đến phát hãi lướt qua. Dòng nước do thứ ấy quẫy động rất mãnh liệt, như thể lốc xoáy từ đáy biển trào dâng, nếu không phải chúng tôi ôm chặt lấy trụ đá, nói không chừng đã bị cuốn phăng rồi. Dòng xoáy ngầm đó còn xoáy đảo mãi hồi lâu mới lắng xuống. Tôi thầm kinh hãi, cái thứ vừa rồi rốt cuộc là gì mà to lớn nhường ấy? Lẽ nào, dưới đáy biển này có rồng thật?

Tôi mới vừa nghĩ tới đó, thì quầng mực đen trước mắt đã bị cuốn theo xoáy nước, chỉ thấy cái bóng to lớn dài thượt như dải lụa kia đã nuốt chửng con mực, rồi quay ngoắt lại, bơi về phía chúng tôi. Ba bọn tôi đang mặc bộ đồ lặn hạng nặng, dù dưới nước có lực đẩy, nhưng muốn cất tay nhấc chân vẫn khó, nên cực kỳ chậm chạp, căn bản không có khả năng chạy trốn, chỉ còn cách đánh liều một phen thôi vậy. Tôi giương súng bắn lao lên, định cho con quái vật kia một phát. Nhưng Shirley Dương nhanh hơn tôi nửa nhịp, bật luôn đèn pha công suất lớn, cột ánh sáng chói mắt trắng lòa bắn vút ra, rọi thẳng vào con hải quái đang bơi đến.

Chỉ thấy trong ánh đèn hiện ra một vật thể khổng lồ màu trắng, đầu như con trâu, thân như mãng xà, vừa có sừng vừa có vảy. Cả ba bọn tôi tái mặt, con này là rồng hay là gì đây? Nếu bảo nó là rồng, thì hình như thiếu móng vuốt. Còn bảo nó không phải rồng, vậy thì cặp sừng nhú ra trên cái đầu như đầu trâu kia, cùng với thân thể dài như dải lụa trắng, chỉ thấy đầu không thấy đuôi kia rốt cuộc là thuộc về giống gì? Tôi sững người, nhất thời quên cả bắn mũi lao ra.

Con quái vật bị luồng sáng mạnh chiếu phải, bất thình lình ngoặt cái đầu đang lao tới chỗ ba chúng tôi, vòng sang bên cạnh cột sáng trong gang tấc, thân thể dài thườn thượt lướt vèo qua. Luồng nước xiết khiến cả ba chúng tôi lảo đảo muốn ngã nhào. Con quái vật kia hình như rất sợ ánh sáng mạnh, thoắt cái đã quay đầu lặn sâu xuống bên dưới khu cổ thành hoang phế, khòng thấy động tĩnh gì nữa.

Chúng tôi còn chưa kịp vui mừng, thì mấy trụ đá sau lưng đã bị luồng nước ngầm cực xiết do con quái vật kia gây ra ập vào, rung rinh muốn đổ. Bản thân những trụ đá này đã bị các dòng chảy ngầm dưới đáy biển xối vào nhiều năm, không còn vững chắc nữa, có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Tôi chỉ cái xác tàu đắm cách không xa ở mé bên, phía sau hình như có một gian điện bằng đá, nấp vào bên trong may ra có thể tránh được những khối đá rơi xuống.

Trụ đá đã xiêu vẹo, nói đổ là có thể đổ ngay, mà không thể đoán được sẽ ập xuống theo hướng nào. Chúng tôi nhanh chóng tìm ra góc chết nơi các khối đá không rơi tới được, rồi vội né vào trong cái xác tàu. Đúng lúc đó, các trụ đá nứt gãy đổ sập xuống ngay sát sau lưng. Bùn đất dưới đáy biển cuộn lên tạo thành một vùng mờ mịt, che phủ cả khu vực chúng tôi vừa náu vào. Cũng may, chấn động ấy không gây ra phản ứng dây chuyền. Song, không ai dám chắc chắn những khu vực khác sẽ an toàn kiên cố hơn chỗ vừa rồi. Trong tòa thành cổ đã bị vùi lấp dưới đáy biển không biết mấy nghìn năm này, căn bản không có nơi nào an toàn cả.

Chúng tôi nấp vào trong khung giá của con tàu đắm, tranh thủ nghỉ ngơi giây lát. Minh Thúc liên tiếp bị mấy phen kinh hãi, bắt đầu không trấn tĩnh được nữa, tay chân luống cuống hết cả lên. Lão cầm cái bảng viết chữ dưới nước đeo bên người lên, ngoáy vội mấy chữ đưa cho chúng tôi xem. Loại bảng viết này chuyên dùng cho thợ lặn, trừ những người đã hợp tác với nhau lâu đến mức có thể hiểu hết mọi ám hiệu ra, thì khi có những điều phức tạp khó có thể dùng tay ra hiệu, ai cũng phải dùng đến loại bảng viết này.

Tôi vừa thấy Minh Thúc viết đến chữ “rồng”, biết ngay lão muốn nói con hải quái chúng tôi vừa gặp phải là rồng. Lần này đúng là phiền phức to rồi. Tôi chưa từng gặp rồng thật bao giờ, cũng không biết cái lão này trước đây đã đụng phải con rồng nào chưa. Có điều, chủ nghĩa Mác bao la rộng lớn, rốt cuộc cũng chỉ quy lại thành hai chữ “tạo phản”. Tạo phản là gì? Chính là dám làm những điều người trong thiên hạ không dám làm. Trong thế giới quan của tôi, rồng với cá chẳng khác quái gì nhau cả. Tôi giơ súng bắn lao trong tay lên ra hiệu với Minh Thúc, bảo đợi khi nào nổi lên mặt nước, con quái vật ấy mà còn dám lộ diện lần nữa, nhất định tôi phải cho nó ăn vài mũi lao, để cho nó biết thế nào là mùi vị mũi lao thấm đẫm máu và nước mắt của dân mò ngọc.

Shirley Dương xua xua tay, ý bảo chúng tôi không cần lo lắng, cô viết lên tấm bảng ba chữ “rắn biển lớn”, rồi lại chỉ chỉ vào ngọn đèn pha. Bấy giờ, tôi mới nhớ ra, hai hôm trước, ở trên tàu, cô từng nói với tôi về loài rắn sống ở vùng biển sâu. Người phương Tây gọi nó là “rắn biển”, còn người phương Đông thì gọi là “rồng”, trên thực tế là cùng một loài sinh vật biển. Loài này thoắt ẩn thoắt hiện, mỗi khi trời nổi gió bão, thường hay nổi lên tấn công tàu bè hòng ăn thịt người và gia súc, vì vậy, đám thủy thủ mỗi khi nhắc đến đều biến sắc. Thời xưa, các chùa miếu bên bờ biển đa phần đều có vẽ cảnh hải quái nuốt tàu lật thuyền, hình tượng rồng nhe nanh múa vuốt trong đó chính là lấy nguyên mẫu từ loài rắn biển này. Có điều, lũ rắn này sợ ánh sáng nên bình thường chỉ xuất hiện ở các vùng biển tối tăm, có mang theo thiết bị chiếu sáng công suất lớn rồi thì chẳng có gì phải sợ nó cả. Nếu sớm phát hiện ra là rắn biển, thì vừa nãy chẳng cần phải nghe theo chủ ý vớ vẩn của lão Minh Thúc kia tắt hết cả đèn đuốc đi, hại cho cả bọn suýt chút nữa bị tấn công.

Minh Thúc cũng biết lai lịch của giống rắn biển này, nếu không có tình huống gì đặc biệt, nó sẽ không lao ra vùng sáng tấn công tàu bè và thợ lặn. Lão cầm chắc ngọn đèn công suất lớn trong tay, sau một hồi, rốt cuộc cũng đã trấn tĩnh, hướng về phía chúng tôi giơ ngón cái lên, ý bảo không cần lo lắng, lão không có vấn đề gì nữa.

Tôi và Shirley Dương cầm đèn pin rọi khắp xung quanh, chỉ thấy con tàu cổ bị đắm này tuy chỉ còn lại phần khung, song vẫn có thể nhận ra kiểu dáng khác xa tàu Trung Quốc, đượm vẻ phong tình vùng Ả Rập. Thân tàu bị vùi lấp quá nửa trong cát biển, đã mục ruỗng gần hết. Đây rất có thể là một tàu buôn qua lại trên vùng biển này vào thời Nguyên Minh không biết gặp tai nạn gì trên biển mà bị cuốn vào trong vực xoáy San Hô.

Khu thành cổ hoang phế dưới đáy biển đã suy tàn đổ nát, không còn chút bóng dáng huy hoàng của thời phồn thịnh xa xưa, đối với các nhà khảo cổ học có lẽ là một phát hiện kinh người, nhưng trong mắt chúng tôi thì chẳng có giá trị quái gì cả. Bọn tôi bơi một vòng quanh con tàu đắm, không phát hiện ra xác tàu Mariana hay con tàu đắm nào khác. Quy mô của di tích dưới đáy biển này tuy lớn, nhưng những nơi thợ lặn có thể đến lại rất hạn chế, một là vì các bức tường và trụ đá đổ xuống chắn đường, hai là vì nguy cơ sụp đổ rình rập khắp nơi, rất dễ chỉ vô ý chạm phải thứ gì đó là lập tức khiến tường ngả cột nghiêng. Chừng như cả lũ thủy tộc dưới đáy biển này cũng biết mối nguy đó, nên xung quanh đây không hề thấy bóng dáng chúng xuất hiện, hoàn toàn là một khu vực chết chóc tử khí nặng nề.

Trong khu hoang phế ấy có mấy khe sâu tối om, con rắn biển kia đã rúc vào một trong số đó. Tôi muốn lại gần xem xét kỹ hơn, nhưng nước ở những chỗ ấy cuộn xoáy liên tục, các dòng chảy ngầm chằng chịt giao nhau, đến cả lũ cá cũng khó lòng lại gần, vậy là đành bỏ qua. Tôi vẫy tay ra hiệu với Shirley Dương, ý rằng, nơi này không có con tàu đắm chúng tôi muốn tìm rồi. Xem ra, cái Tần Vương Chiếu Cốt kính cũng không phải dễ dàng mà vớt lên được. Khu thành cổ hoang phế dưới đáy biển này đầy rẫy nguy cơ, không phải là chỗ tiện ở lâu, tốt nhất cứ trở lên mặt nước rồi tính kế sau vậy.
 
Quyển 6 - Chương 22: Xà cừ


Shirley Dương cũng đồng tình với ý kiến đó. Chúng tôi khởi động thiết bị đẩy, theo đường cũ nổi lên. Thấy Shirley Dương lấy máy ảnh dưới nước ra chụp hết xung quanh một lượt, tôi thầm nhủ: “Triều nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc chỉ giới hạn phát triển ở khu vực Trung Nguyên, so với bản đồ Trung Quốc hiện nay thì nhỏ hơn nhiều, nếu thực sự phát hiện ra một khu phế tích chịu ảnh hưởng sâu xa của triều đại này ở tận cùng Nam Hải, thì sẽ có ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với công tác nghiên cứu lịch sử hàng hải và lịch sử văn minh loài người, dẫu không tìm được Tần Vương Chiếu Cốt kính, chỉ riêng những tấm ảnh này thôi cũng đủ khiến giáo sư Trần kích động đến phải nhập viện lần nữa rồi.

Ba chúng tôi bật hết các thiết bị chiếu sáng, chầm chậm nổi lên đến chỗ khu rừng san hô. Nhưng vừa lên đến nơi lập tức phát hiện có điều không ổn, đội B ở chỗ cây san hô đại tướng mò ngọc đang vẫy đèn về phía chúng tôi, rõ ràng là cần chi viện khẩn cấp. Tôi chém tay về phía trước ra hiệu, kéo theo Shirley Dương và Minh Thúc nhanh chóng bơi đến tiếp cận cây san hô.

Bên dưới gốc cây san hô, Nguyễn Hắc và Đa Linh đang ra sức nạy một con trai khổng lồ. Con trai bám chặt vào rặng san hô đã vôi hóa ấy to hơn cái cối xay cỡ đại phải đến ba bốn vòng, vỏ khép chặt, mặc cho hai người bọn Nguyễn Hắc cạy thế nào cũng không nhúc nhích. Xem ra ít nhất nó cũng đã nghìn năm tuổi rồi, vỏ ngoài trắng muốt óng ánh, như gắn liền thành một với khối đá khổng lồ dưới đáy biển. Đây là giống trai ăn thịt, rất hay kẹp chân người, tên khoa học là xà cừ, nhưng ngư dân và dân mò ngọc hay gọi là “khám trắng”, không biết đã có bao nhiêu dân mò ngọc bị thứ này hại chết rồi. Tôi không hiểu tại sao Nguyễn Hắc lại muốn cạy nó ra, còn chưa kịp hỏi, ông ta đã vội vàng ra dấu tay báo cho chúng tôi biết, bên trong con trai này có người!

Tôi nhìn dấu tay ấy mà tưởng mình hiểu lầm ý của Nguyễn Hắc, ở vùng biển vực xoáy San Hô sóng gió rợp trời này ngoại trừ chúng tôi ra thì có còn ai khác nữa đâu, cho dù đây là một con xà cừ, tục gọi là trai ăn thịt người ở vùng biển sâu, thì trong vỏ nó sao lại có “người” được chứ? Người sống hay người chết? Minh Thúc dường như sực hiểu, liền giơ tay làm điệu bộ cá bơi ngoằn ngoèo, lần này thì phát tài to, bên trong con xà cừ này tám chín phần là có kẹp một con nhân ngư cực kỳ hiếm thấy, thịt nó còn đắt gấp đôi bạch kim chứ chẳng chơi đâu.

Minh Thúc ấn tay lên con trai ăn thịt người to như cái cối xay cỡ đại, kích động phun ra một chuỗi bọt khí dài, khua tay múa chân nói với chúng tôi, bên trong con trai này có thể đang kẹp một con nhân ngư dưới đáy biển. Có điều, đây chỉ là suy đoán một phía của lão mà thôi, bên trong con trai này có thứ gì, thì chỉ có hai người Nguyễn Hắc và đồ đệ Đa Linh của lão trông thấy. Ở dưới nước cũng khó mà miêu tả tỉ mỉ được.

Tôi thấy con trai lớn có vỏ ngoài lấp lánh rất hiếm gặp, rõ ràng là món hời to. Đằng nào thì dưa hấu ở khoang sau cũng đã ném xuống biển hết rồi, trên tàu còn ối chỗ trống, không làm thì thôi, đã làm thì phải làm cho trót, sao không mang cả vỏ lẫn ruột lên trên cho xong? Nghĩ đoạn, tôi bèn đánh tay ra hiệu, bảo hai thầy trò Nguyễn Hắc và Đa Linh ở dưới canh chừng, còn tôi và Shirley Dương lên tàu trước, để Tuyền béo mang đục và xà beng xuống giúp một tay, nạy con trai ngọc nghìn năm lên boong tàu.

Sắp xếp xong xuôi, chúng tôi liền nổi lên đến gần mực giảm áp, sau đó lần lượt trỏ vào khoang lặn như cái tủ lạnh ấy, tháo bỏ bộ trang bị nặng trịch như cái cùm trên người ra. Tôi kể sơ qua cho Tuyền béo và Cổ Thái nghe tình hình dưới nước. Tuyền béo ở trên tàu đợi đã sốt ruột lắm rồi, vừa nghe xong liền kéo Cổ Thái đổi ca lặn với chúng tôi, mang theo đục và thiết bị kích bằng áp lực chất lỏng lặn xuống bắt con trai lên.

Ba thầy trò Nguyễn Hắc đều là thợ bắt trai mò ngọc lành nghề, có dụng cụ trong tay, công việc càng thêm thuận lợi, nhưng cũng phải tốn khá nhiều công sức mới đục được con trai to tướng ra khỏi rặng đá ngầm. Mấy người họ lợi dụng lực đẩy của dòng nước ngầm, đưa nó lên mặt biển, rồi lấy dây thép buộc chặt lại. Minh Thúc khởi động tay cần cẩu trên tàu, rốt cuộc cũng kéo được con trai nghìn năm khổng lồ lên khỏi mặt nước.

Tuyền béo có ý khoe khoang, đứng trên vỏ trai đang lơ lửng giữa không trung, đẩy cặp kính râm lên trán, hét ầm ĩ: “Êu Nhất, cậu xem Tư lệnh Tuyền béo tôi bắt được cái gì này? Tính giá thị trường bây giờ, bứng cả con sang Mỹ, ít nhất cũng phải đổi được một quả du thuyền. Đến lúc ấy hai anh em mình ôm mấy cô em người Mỹ...” Cánh tay cẩu rời mặt biển lên mỗi lúc một cao, Tuyền béo còn chưa dứt lời đã bắt đầu hoa mắt chóng mặt, kêu “ái ôi” một tiếng, hai chân mềm nhũn ngã bổ ngửa xuống nước.

Tôi lo cậu ta hí hửng quá hóa rồ, gây động quá lớn làm bọn cá mập lại kéo đến, vội bảo Nguyễn Hắc kéo cu cậu lên tàu, đồng thời cũng nói Nguyễn Hắc mau chóng trở lên, xem chừng đến lúc thu dọn trở về rồi, nhưng Nguyễn Hắc lại cho rằng mặt biển đang phẳng lặng, nước triều xuống thấp, mà dưới đáy biển vẫn còn rất nhiều trai ngọc, cơ hội mò ngọc nghìn năm hiếm có này sao có thể dễ dàng bỏ qua như thế? Ông ta cũng chẳng buồn để ý đến nguy cơ mắc phải bệnh khí ép[37], sau khi thay bình dưỡng khí mới, nằng nặc đòi dẫn theo hai đồ đệ lặn xuống mò ngọc thêm lần nữa.

Minh Thúc cũng có ý này, lão khuyên tôi chớ nên ngăn cản mấy người nhà Nguyễn Hắc, nhìn thời tiết này có thể sẽ đổ mưa, nhưng không thấy có gió, ắt không thể nổi sóng được. Chỉ cần không có sóng dữ, dù trên biển đổ mưa to mấy, cũng chẳng thể ảnh hưởng gì đến việc lặn xuống cả. Có điều, Minh Thúc cũng không muốn đích thân lặn xuống nữa. Xét cho cùng, thầy trò nhà Nguyễn Hắc là trợ thủ dùng tiền thuê về, mà bọn chúng tôi đã ăn bớt phần tiền công nào của ba người đó đâu, bọn họ đã muốn ra sức kiếm thêm một mớ, cớ gì phải ngăn cản chứ? Cứ để cho họ thỏa sức làm có phải hơn không? Lúc này, bầu trời càng thêm u ám, mây dày đen như mực trùm cả mặt biển. Trong luồng gió vừa lùa tới, dường như ẩn chứa một thứ tín hiệu nguy hiểm. Tôi thoáng giật mình, thầm cầu khấn, xin ông trời tuyệt đối đừng nổi sóng to gió lớn đêm hôm nay. Có điều, tôi lại nghĩ Minh Thúc và Nguyễn Hắc đều là hạng sói biển lão luyện, hết sức quen thuộc thời tiết trên biển, bọn họ đã nói không sao thì có lo mấy cũng chẳng được tích sự gì.

Tương truyền vùng biển vực xoáy San Hô này một năm bốn mùa không lúc nào ngơi gió bão, chỉ vào những đêm trăng tròn mới trời quang mây tạnh, còn lại liên tục mây mù mờ mịt, không ngừng xuất hiện những luồng không khí hỗn loạn kèm theo tiếng sấm thứ thanh[38], nên máy bay khó lòng bay qua được. Sóng điện từ tần số thấp dưới đáy biển gây nhiễu loạn thiết bị điện tử, khiến hầu hết tàu thuyền không tránh khỏi lạc xa tuyến đường định sẵn. Vì thế, rất nhiều tai nạn khủng khiếp đã xảy ra ở đây, nhưng đến nay, hiện tượng này vẫn chưa có lời giải thích.

Trong lúc đó, Shirley Dương tò mò quan sát con trai ăn thịt người chúng tôi mới bắt lên. Trừ cô ra, cả bọn cứ mải lo việc tiếp tục xuống biển mò ngọc, không có thời gian để ý đến nó, chỉ lấy dây thép buộc lại quẳng ở một góc, định là khi nào rảnh tay sẽ xử lý sau. Shirley Dương nói với tôi: “Vỏ con trai này trắng bóng lấp lánh, vừa bồng bềnh như sóng cuộn, vừa hơi giống với bánh xe của chiến xa thời La Mã cổ đại, quả là một tạo vật kỳ diệu của thiên nhiên, đẹp đẽ vô cùng. Anh xem, những đường vân rất mảnh mà dày đặc, chứng tỏ ít nhất nó cũng phải sống dưới đáy biển kia mấy nghìn năm rồi. Mà nền văn minh của loài người chúng ta cũng chỉ có ngần ấy năm thôi... Điều này thật khiến những kẻ chỉ có thể sống vài chục năm như chúng ta đây phải bồi hồi cảm thán.”

Tôi lo Shirley Dương nổi lòng từ bi bất chợt, lại đòi thả con trai cụ cổ này về biển, há chẳng phải bao nhiêu công sức của mọi người từ nãy đến giờ thành ra công cốc, miếng thịt đã đến miệng rồi còn bị chó tha đi mất hay sao? Nó đã sống mấy nghìn năm thì chắc là cũng quá đủ, người thầy vĩ đại của chúng ta chẳng phải từng nói, ý nghĩa của cuộc sống không phải ở sự dài ngắn, mà là ở chỗ có giá trị hay không đó sao?

Nhưng suy nghĩ đứng đắn như thế chẳng thể nào rơi từ trên trời xuống được, tôi đành phải làm công tác tư tưởng cho cô nàng: “Sinh vật dưới đáy biển có rất nhiều loại sống dai sống lâu. Tôi thấy, nghìn năm vạn năm cũng chẳng có gì đặc biệt cả. Con trai này thực ra không ăn thịt ngươi, chẳng qua cái vỏ hình răng cưa của nó một khi đã kẹp phải chân người thì có chết cũng không chịu nhả, xưa nay đã không biết bao dân chài và dân mò ngọc mắc phải nạn này, nên người ta mới đặt cho nó cái tên nghe phát khiếp như thế thôi. Nghe Nguyễn Hắc nói, hình như ông ta trông thấy bên trong cái vỏ xà cừ này có một người chết. Cả trăm năm nay không ai dám đến trung tâm vực xoáy San Hô mò ngọc, thật không biết bên trong là xác nhân ngư ở Nam Hải hay là thủy thủ của con tàu bị nạn nào đấy nữa. Nhưng mà, nợ máu thì phải trả bằng máu, chúng ta cứ nạy con quái này ra xem thế nào rồi tính sau.”

Trong lúc chúng tôi nói chuyện, trời bắt đầu đổ mưa. Trời biển mênh mang thoắt cái đã tối tăm mù mịt, tuy đang giữa ban ngày ban mặt, nhưng chẳng khác nào lúc chập choạng tối cả. Mặt biển phía xa xa biến thành một khoảng mịt mùng, chỉ có mấy cái phao tiêu lập lòe chớp sáng. Khốn nỗi, chúng tôi còn phải đợi đến khi nước triều dâng lên cao nhất lần nữa mới có thể rời khỏi nơi này, thời tiết có ác liệt mấy cũng chẳng cách nào ứng phó. May thay, đúng như Minh Thúc nói, cơn mưa tuy lớn thật, nhưng ảnh hưởng không nhiều đến khí tượng trên biển, mặc biển vẫn phẳng lặng như cũ, điều này có lẽ ít nhiều liên quan đến hiện tượng hải khí bùng phát hôm trước. Thời tiết vùng biển vực xoáy San Hô này thật khó dùng lẽ thường để xét đoán, trời đổ mưa như trút, vậy mà mặt biển vẫn cứ sóng yên gió lặng lạ thường.

Chúng tôi cùng vào trong khoang lấy áo mưa mặc lên người, rồi quay ra xử lý con trai khổng lồ to như cái cối xay. Ánh sáng trong màn mưa rất mờ mịt, ảm đạm, tôi buộc phải cho chỉnh ngọn đèn pha công suất lớn gắn trên nóc khoang thuyền chiếu xuống, khiến màu trắng trên vỏ con trai ngọc càng ánh lên vẻ nhợt nhạt. Con trai lớn bị cẩu lên khỏi mặt nước vẫn chưa chết hẳn, nay được nước mưa tưới tắm lại rục rịch muốn động cựa, nhưng vỏ trai vẫn khép cứng, không lộ ra dù chỉ một khe hở nhỏ. Đứng trước cái giống đã sống mấy nghìn năm này, tôi với Tuyền béo loay hoay không biết nên bắt đầu từ đâu, chỉ lo không may làm hỏng cái vỏ đẹp đẽ của nó thì đúng là mất oan cả núi tiền.

Minh Thúc thấy bọn tôi định nạy vỏ con trai ra, cứ rối rít chạy xung quanh xem xem ngó ngó. Lão đoán chắc trong bụng con trai khổng lồ này đang kẹp một con nhân ngư cực kỳ giá trị. Tôi chưa từng nghe chuyện Nam Hải có nhân ngư bao giờ, cho rằng thứ này chắc cũng giống giao nhân vảy đen bị chế thành nến trường sinh trong mộ Hiến Vương, bèn hỏi Minh Thúc xem hai thứ này có phải là một hay không.

Minh Thúc lắc đầu, bảo giao nhân và nhân ngư là hai thứ hoàn toàn khác nhau, một ác một thiện, hình dáng lẫn tập tục sống cũng không giống nhau. Nhân ngư không thể phát ra âm thanh, thịt ăn được, còn giao nhân tính ác, có thể trồi lên mặt biển phát ra âm thanh hấp dẫn dụ hoặc người ta, thịt có độc không ăn được, duy chỉ có cao chế từ mỡ nó có tác dụng làm dầu đèn trường minh. Những người không biết rất dễ nhầm hai thứ này là một, có điều, giao nhân vảy đen tuy rất hiếm thấy, nhưng dù sao cũng từng có người bắt được, còn “nhân ngư”, hoặc “ngư nhân” thì thực sự là thứ cực hiếm lạ trên đời, trăm năm khó gặp. Tương truyền, thịt nó thơm ngon không gì sánh nổi, lại có thuyết nói, ăn thịt nhân ngư có thể trường sinh bất tử, chỉ có điều, bản thân Minh Thúc cũng chưa từng gặp ai được ăn thứ thịt ấy cả. Có một lần, thời lão còn chạy tàu ở Nam Dương, thủy thủ bắt sống được hai con nhân ngư, từ bụng trở lên là hình người, không khác gì người bình thường cả, thân dưới như đuôi cá, có thể dùng vây quẫy nước, ung dung bơi lội giữa sóng to gió lớn, lại gần xem, thấy toàn thân bao bọc trong một lớp nhầy nhầy, mùi tanh tưởi cực kỳ khó chịu. Cả hai con nhân ngư bị bỏ vào một thùng nước lớn, đám thủy thủ tò mò quây hết lại xem, nhưng chúng không hề kinh hãi, vẫn bình thản bơi vòng quanh trong cái thùng gỗ.

Bấy giờ Minh Thúc không biết hàng, gặp phải một tay thương nhân trên tàu muốn xuất tiền ra mua đôi nhân ngư phóng sinh, lão liền hạch một món tiền lớn, rồi để tay kia mang nhân ngư đi mất. Sau này, khi biết giá trị của nhân ngư ở chợ đen châu Âu và Bắc Mỹ còn đắt gấp ba lần giá bạch kim, Minh Thúc mới biết mình hố to, lúc ấy chỉ biết giẫm chân vỗ ngực hối hận vô cùng. Chuyện đã qua mười mấy năm mà giờ nhớ lại lão vẫn thấy tức ngực khó chịu, rủa xả không ngớt, tuôn ra hàng tràng những lời lảm nhảm kiểu như, năm đó mình tử tế quá, tốt quá, dễ tin người quá, bằng không sao lại bị tên gian thương khốn kiếp chết băm chết vằm đó lừa cơ chứ... Lúc này, thấy có cơ hội bắt được một con nhân ngư nữa, thử hỏi, Minh Thúc làm sao mà không bừng bừng nhiệt huyết cho được?

Minh Thúc vừa nói vừa chuẩn bị các thứ cần thiết, bảo, con trai này là sinh linh đã sống dưới đáy biển cả mấy nghìn năm, mấy nghìn năm là gì chứ? Dù là Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế chưa chết, sống một mạch đến bây giờ, chưa chắc đã hơn tuổi con trai này đâu. Vì vậy, trước khi giết nó dĩ nhiên phải làm lễ tế Ngư chủ, đây là quy củ ngàn đời của các thủy thủ trên biển, không làm theo trình tự thì cấm không ai được ra tay, bằng không tổn dương thọ thì chớ trách.

Tuyền béo không bỏ lỡ thời cơ xỉa xói Minh Thúc, vội lên tiếng bảo rằng: “Nguyễn Hắc chỉ nói trong vỏ con trai thấp thoáng thấy có người, chắc gì đã là nhân ngư. Dưới biển này có nhiều thứ hình dạng giống con người lắm. Những nơi gần biển gần hồ lớn ở trong nước, nơi nào chẳng hay diễn kịch về lũ trai lũ ốc thành tinh. Bọn yêu tinh này thường biến thành các cô con gái xinh đẹp, dụ dỗ đàn ông trai tráng bắt ăn thịt, về sau có một lão ngư ông đã vạch trần trò bịp của yêu tinh, bắt nó phải hàng phục khiến người người đều hoan hỉ. Vậy nên, bên trong con trai này tôi thấy mười phần chắc tám là không có nhân ngư rồi, có khi lại có yêu tinh náu mình cũng nên, ai nạy vỏ con trai ra, nó sẽ nhảy ra thơm người ấy một phát. Bác mau đi rửa cái bộ mặt già quắt queo của bác đi, đợi lát nữa là nó hôn bác đấy.”

Minh Thúc đang quỳ trước lò hương mỏ vịt bằng đồng, mặc kệ nước mưa làm tắt hết cả hương khói, vẫn làm bộ thành tâm khấn khấn khứa khứa, nghe Tuyền béo nói nhăng nói cuội, ngoảnh đầu lại mắng: “Cái thằng béo chết tiệt nhà cậu lại nói xằng, đám trộm mộ chúng ta đào không biết bao nhiêu cái mả rồi, chẳng lẽ còn tin mấy thứ ma quỷ đấy à? Các cậu không phải vẫn bảo mấy thứ đấy là mê tín sao?” Mắng dứt lời, lão chẳng buồn để ý đến Tuyền béo nữa, giơ con dao cong chuẩn bị dùng để lách qua khe vỏ giết con trai lên, cung kính dập đầu lẩm nhẩm khấn nguyện.

Tuyền béo thấy Minh Thúc không tin, bèn lôi tôi với Shirley Dương về hùa chứng thực lời mình. Tôi bảo: “Tôi chưa xem kịch có ngư ông bắt yêu tinh hóa thành thiếu phụ dâm ô ấy bao giờ. Cái loại kịch đó chẳng bao giờ được diễn chính thức cả đâu, toàn là đoàn hát rong đến các làng chài biểu diễn lúc dân chài nghỉ đánh bắt để lũ cá ngoài biển kịp sinh sôi nảy nở. Mấy cô đào hát đánh phấn tô son choe choét lên mặt, mỗi cánh tay buộc một cái chảo to sơn màu trắng, trông như con gà đập cánh ấy, lúc diễn thì nhảy qua nhảy lại, ưỡn ẹo cợt nhả với ngư ông và đám trai tráng, ảnh hưởng rất là không tốt, mà người xem còn có rất nhiều thiếu niên nhi đồng nữa…”

Shirley Dương chưa nghe chuyện trai hóa thành tinh bao giờ, hiếu kỳ hỏi tôi: “Anh chưa xem bao giờ sao lại biết rõ thế? Đến cả khán giả có nhiều trẻ con cũng biết, mà con trai thành tinh sao lại biến thành cô gái?”

Tôi đáp, chưa xem đâu có nghĩa là không hiểu biết. Những chuyện ở nhà quê, chuyện gì tôi chẳng biết. Hồi trước khi nhập ngũ, tôi đây từng có một lý tưởng thiêng liêng, chính là về nông thôn, nghiên cứu quy luật đấu tranh giai cấp để sau này khi triển khai cách mạng ra toàn thế giới mới có thể xây đựng đầy đủ nền móng chiến lược cho kế hoạch lấy nông thôn bao vây thành thị. Tại sao cách mạng thế giới phải đi theo con đường lấy nông thôn bao vây thành thị chứ? Bởi vì trong mắt chúng ta, Bắc Mỹ và Tây Âu chính là những thành thị lớn nhất, châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh đều là nông thôn... Có điều chuyện này nói ra thì dông dài lắm, ta đang nói chuyện tại sao trai thành tinh lại hóa ra cô gái cơ mà. Hồi xưa, ở bên hồ Động Đình có truyền thuyết về Nàng Ốc, kể rằng: có một gã ngốc lại còn nghèo rớt mồng tơi, nghèo đến nỗi nhà cửa không có gì, chỉ có sức trâu quần quật đi đánh cá nuôi dưỡng người mẹ già bị mù. Cũng bởi vì nghèo quá mà thường không đủ ăn, hai mẹ con chỉ được bữa đực bữa cái qua ngày.

Sau này, gã ngốc kia bắt được một con ốc lớn ở hồ Động Đình, thấy lạ bèn bỏ vào ang nước trong nhà nuôi. Té ra con ốc ấy đã thành tinh, biến thành một cô nàng mặt hoa da phấn xinh đẹp tuyệt trần, đã cho gã ngốc kia lương thực thực phẩm, lại cho cả tiền, rồi còn giúp gã ta quét dọn nhà cửa, chăm sóc mẹ già. Ốc thành tinh với trai thành tinh đại để cũng cùng một loại thôi. Nàng Ốc thành tinh ấy đã nhìn trúng gã ngư dân nghèo, cảm thấy gã ta thuần phác lương thiện cần lao dũng cảm gì gì đó, nói chung là con người có đầy đủ mọi mỹ đức của nhân dân lao động, cuối cùng đã quyết ý gả làm vợ gã. Cọc đi tìm trâu, chuyện tốt thế này, thì cả gã ngốc cũng biết nhận lời, vậy là từ đó trở đi hai người sống mãi bên nhau, cũng không biết là nhà ấy có sinh ra quái thai quái dị gì hay không nữa.

Shirley Dương phì cười nói: “Đây hình như là một truyền thuyết dân gian tuyệt đẹp mới đúng. Nhưng tôi cũng thật lấy làm lạ, nghe qua cái miệng anh kể thì lại chẳng thấy đẹp đẽ gì hết, ngược lại chỉ cảm thấy tức cười. Có phải anh thích châm chọc phá thối những thứ đẹp đẽ lắm phải không?”

Tôi vội bảo, cô nói thế là đổ oan tày trời cho tôi rồi còn gì? Truyền thuyết Nàng Ốc ấy thật sự đẹp đẽ lắm hay sao? Đẹp đẽ chỉ là cái vỏ bề ngoài, còn bản chất của sự vật thì sao? Bản chất thật sự phía sau truyền thuyết đẹp đẽ ấy không đáng để chúng ta đào sâu suy nghĩ hay sao? Những truyền thuyết đẹp đẽ kiểu như Nàng Ốc ấy thật nhiều không kể xiết, thời trước giải phóng, nhân dân đều rất thích nghe, tại sao lại như vậy chứ?

Đó là tại vì quần chúng lao khổ quanh năm ngày tháng đổ máu đổ mồ hôi, nhưng rốt cuộc tài sản làm ra đều thuộc về những kẻ khác, cả đời chăm chỉ cần mẫn, vậy mà vẫn phải lo ăn đói mặc rét, rốt cuộc vẫn phải sống cảnh nghèo, ăn không no mặc không ấm, dù có bệnh nặng bệnh nhẹ cũng không dám bỏ lỡ công việc, mồ hôi vừa ráo là đã không có cái ăn rồi. Những người số khổ ấy có ai không mong muốn tự dưng trên trời rơi xuống một người vợ tốt, vừa xinh đẹp lại vừa hiền thục, lý tưởng nhất là giống như Nàng Ốc kia, chẳng những biết phép thuật biến ra gạo, biến ra tiền, biến ra tem phiếu đổi lương thực trên toàn quốc, chàng muốn ăn gì là biến ra cái ấy cho chàng xơi, đã thế nàng dâu xinh đẹp tuyệt trần lại còn không có nhà mẹ đẻ, một lòng một dạ tòng phu sống đời thanh bần đạm bạc, có lấy chổi quét nhà ra đuổi cũng nhất quyết không chịu đi.

Bọn họ tất cả đều sẵn lòng tin những truyền thuyết mỹ miều ấy là sự thật, nhưng thực ra chỉ là sự dối trá, dối trá trần trụi trăm phần trăm, do đám vương tôn quý tộc cố ý bịa đặt để vẽ ra cho nhân dân lao động một tương lai tưởng như quá đỗi xán lạn huy hoàng. Cứ làm đi, làm hộc máu mồm ra cũng chớ kêu mệt, cứ từ từ nín nhịn khổ nhục nghèo hèn cho qua ngày tháng, nhưng phải thành thực, không được lười, không được trộm, không được cướp, lại càng không được tạo phản, cũng không được bất mãn với gốc gác gia thế và số phận mà ông trời đã sắp xếp cho ngươi. Ngươi cứ sống thành thật cần lao như vậy, tương lai nhất định sẽ có một người vợ xinh đẹp chui từ trong vỏ ốc ra, đợi ngươi ở nhà. Hỏi nàng ta hình dáng thế nào à? Phi tử của hoàng đế hẳn cũng không tồi rồi đúng không? Nhưng hồng phấn giai nhân khắp tam cung lục viện gộp lại cũng không bằng cái gấu quần của nàng tiên Ốc đấy đâu. Nàng Ốc không những xinh đẹp tuyệt trần, lại còn có gia tài khổng lồ, bảo bối dưới Long cung muốn lấy thứ gì cũng có, tấm lòng lại chỉ yêu nghèo yêu khó, ghét kẻ giàu sang, nhất tâm nhất ý muốn cùng tên ngốc nhà ngươi chịu khó chịu khổ, chắp cánh uyên ương. Thế chẳng phải gạt người ta thì là cái nước mẹ gì chứ?

Tuyền béo nghe tôi xổ ra một tràng toàn là cao kiến, không nhịn được vỗ tay bôm bốp: “Tư lệnh Nhất cậu nói hay quá đi mất, một phát là trúng phóc, mấy truyện cổ tích của nước ngoài không phải nói chuyện công chúa thì cũng là hoàng tử, mà chủ yếu toàn là theo nguyên tắc môn đăng hộ đối, từ đây có thể thấy tác dụng đầu độc của câu chuyện Nàng Ốc kia thật là khủng khiếp. Mao chủ tịch từng nói, năm xưa dẫu có quan cao chức trọng đến mấy, giờ cũng chỉ là phân thổ mà thôi, chúng ta nhất định phải đào mả mấy cái bánh tông xưa kia từng dùng lời ngon lẽ ngọt lừa dối quần chúng lao động lên, cho bọn chúng biết, lừa của ông cái gì sớm muộn cũng phải ọe ra cái ấy!”

Shirley Dương đã bị tôi làm cho tức nghẹt cả thở, giờ nghe Tuyền béo có ý rủ rê tôi trở lại nghề Mô Kim hiệu úy, vội lên tiếng nhắc nhở, bùa Mô Kim đã gỡ xuống rồi, làm sao làm Mô Kim hiệu úy được nữa? Sau này sang Mỹ, tốt nhất hãy nên chịu khó làm ăn thì hơn.

Tuyền béo cười hì hì nói: “Dương tiểu thư, xưa nay tôi vẫn nghĩ cô là người thông minh, nhưng giờ thì phát hiện cô so với tư lệnh Nhất nhà ta đúng là vẫn không cùng một cấp bậc rồi. Cứ nghĩ sau này cô phải sống với cậu ta, tôi đây lại không khỏi lấy làm lo lắng thay cho cô đấy. Cái danh dự thanh cao với cả niềm tin sâu sắc vào giá trị nước Mỹ đã làm cô lú lẫn không phát giác nổi cậu ta đang giở trò gì rồi. Tên Hồ Bát Nhất này mà là hạng thiện nam tín nữ ăn chay niệm Phật được sao? NO! Cậu ta chả phải ngọn đèn cạn dầu đâu, mà là hạng người mồm đầy lý lẽ, miệng trơn tuồn tuột như bôi mỡ đấy. Cậu ta mà muốn bỏ bùa Mô Kim đi thì Tuyền béo tôi đây mang đầu ra cho các vị đá bóng luôn nhé. Hừ đeo bùa Mô Kim lên cổ mà xem là rửa tay gác kiếm hả? Mà rửa tay rồi thì còn chân đã rửa đâu chứ...”

Tôi thầm mắng cái thằng Tuyền béo này nói gì không nói lại lôi chuyện này ra, phá hoại hình tượng tuân thủ kỷ cương phép nước mà tôi khó khăn lắm mới gây dựng được trong lòng Shirley Dương. Chuyện này vị tất cô đã không biết, chẳng qua là muốn để cho tôi chút thể diện nên mới không bươi móc ra thôi, cái thằng Tuyền béo kia cần gì phải lắm mồm chõ mõm vào. Nghĩ đoạn, tôi vội nói lảng đi, phân tán sự chú ý của cả bọn, vừa khéo lúc ấy Minh Thúc cũng đã bái tế Ngư chủ xong xuôi, đang định động thủ với con trai ăn thịt người, mới gọi chúng tôi lại giúp sức nên cũng tạm thời hàm hồ cho qua được cái vụ kia.

Chỉ thấy Minh Thúc bước lên hai bước, chúc ngược con dao lưỡi cong, liên tiếp dịch chuyển trên vỏ trai, phát ra những chuỗi âm thanh ken két chẳng lành. Lưỡi dao này dài không đến một thước, thân cong, phát ra ánh sáng lạnh ghê người ngay cả trong mưa, chỗ đốc dao khảm một đầu rồng mạ vàng, trên tay nắm có hoa văn dạng vảy. Món đồ này chúng tôi mua được từ tay Võ thọt trên đảo Miếu San Hô, là loại dao chuyên dùng giết trai lấy ngọc của các thủ lĩnh mò ngọc thời xưa, có lai lịch phải mấy chục đời rồi, số lượng trai ngọc chết dưới lưỡi dao cong bén ngọt ấy e khó mà tính nổi, nhưng dùng để xử lý thứ “xà cừ” nghìn năm tuổi này, thì hẳn mới là lần đầu.
 
Quyển 6 - Chương 23: Khinh núi chớ khinh biển


Cơn mưa lớn ầm ầm trút xuống mặt biển, bọn chúng tôi mặc áo mưa đứng trên boong tàu nhìn Minh Thúc tay cầm dao lưỡi cong chạm đầu rồng, xoèn xoẹt đưa qua đưa lại trên vỏ con trai khổng lồ. Dân mò ngọc thời xưa chỉ biết dựa vào nghề xuống biển tìm ngọc trai để mưu sinh, thường tự xem mình là đồng loại với giống ngư long, sở dĩ cũng vì nghề mò ngọc quá nguy hiểm, muốn ghép thêm chữ “long” vào để các loài cá dữ dưới biển không làm hại. Con dao này chuyên dùng giết trai lấy ngọc, cũng có tác dụng chiến đấu lúc lặn dưới nước, được gọi là “long hồ đao”, nhưng vì thời xưa chỉ có hoàng đế mới được ví với “long”, dân mò ngọc dùng chữ “long” là đã phạm húy, nên người bên ngoài đều không biết đến danh xưng này, mà bọn họ cũng không bao giờ dám cho người khác xem long hồ đao của mình.

Ông cậu của Minh Thúc năm xưa xuất thân từ dân mò ngọc, vì vậy lão ta rất quen thuộc với các loại tập tục cũng như tiếng lóng của hạng người này. Tôi và Tuyền béo thấy lão ta cứ cầm con dao chọc chọc cái vỏ trai, lẩm bà lẩm bẩm đọc bùa chú cứ như lão thầy cúng đang làm pháp sự siêu độ trước khi hành hình người ta, đều lấy làm tức cười.

Minh Thúc lại quở trách chúng tôi không hiểu cái sự lợi hại bên trong, đổ đấu và mò ngọc đều là nghề truyền thống, ngành nào chẳng có quy tắc riêng. Quy tắc hành nghề đổ đấu có vô số, chẳng ai tránh khỏi phạm phải một hai điều, nhưng, phạm thì cứ phạm, chỉ cần mạng lớn phước lớn, chưa chắc đã phải mất mạng. Riêng nguy hiểm mà dân mò ngọc phải đối mặt ở trên biển so với Mô Kim hiệu úy lên núi đào mồ trộm mả thì lớn hơn không biết bao nhiêu lần mà kể. Thường có câu, “khinh núi chớ khinh biển, lừa trời đừng dối biển”, mộ cổ trong núi niên đại cổ xưa đến mấy cũng chưa chắc đã bằng tuổi thọ của một số loài thủy tộc dưới đáy biển sâu. Nếu không có lòng kính sợ biển cả, ở trên biển mà cứ tùy tiện vọng động thì có mười cái mạng cũng không đủ mà chết. Trên đời này, kẻ làm nghề chạy tàu đánh cá mò ngọc nhiều như lông trâu, vậy mà nào có ai dám bất kính với hải thần đâu.

Tôi thì không cho là vậy, kinh nghiệm mấy năm làm Mô Kim hiệu úy cho tôi biết, quy củ “gà gáy đèn tắt không mò vàng” của Mô Kim hiệu úy tuyệt đối chẳng phải thứ mê tín dị đoan gì, chẳng qua là đám người phàm tục không hiểu được ý tứ cốt lõi của nó nên mới hiểu lầm mà thôi. Có điều, lúc này cũng không tiện nói nhiều, tôi chỉ nhắc Minh Thúc mau ra tay để mọi người xem thử, bên trong rốt cuộc có phải đang ẩn náu một con trai thành tinh đáng ghét chuyên lừa gạt những tình cảm tốt đẹp của nhân dân lao động hay không?

Shirley Dương không muốn nhìn thấy cảnh đổ máu, bèn đi ra phía mũi tàu tiếp ứng cho thầy trò nhà Nguyễn Hắc. Trước lúc đi, cô gọi tôi lại: “Anh Nhất, chúng ta ra chỗ mũi tàu kia được không? Tôi có mấy câu muốn nói với anh.”

Tôi thầm than không ổn, chắc chắn là thằng Tuyền béo vừa nãy nhỡ mồm, giờ Shirley Dương muốn truy vấn tôi xem rửa tay với rửa chân có gì khác biệt đây. Tôi sợ nhất cô nhắc đến chuyện này, vội tóm lấy một sợi dây trói con trai ăn thịt người trên boong sau, lắc đầu nguầy nguậy nói: “Minh Thúc với Tuyền béo làm sao xử lý được con trai to vật thế này? Tôi phải giúp bọn họ một tay, có nói gì thì nói ở đây cũng được, giờ có chết tôi cũng không đi đâu hết cả.”

Shirley Dương nhìn tôi với ánh mắt thất vọng, rồi một mình đội mưa ra chỗ mũi tàu. Tôi nhìn theo bóng lưng cô mà thở phào nhẹ nhõm, xem chừng cái bùa Mô Kim này của tôi rốt cuộc cũng không giữ được rồi, có điều, chỉ cần lần này kiếm được đủ vốn liếng, sang Mỹ làm ăn nghiêm chỉnh tử tế thật thà cũng được. Dù gì trên đời này cũng còn bao nhiêu người cần tôi nuôi sống, thiếu gì thì thiếu, chứ tuyệt không thể thiếu tiền, chỗ khó của mình cũng chỉ có mình biết mà thôi.

Nghĩ đến ánh mắt của những đồng đội hy sinh ngay bên cạnh mình nơi tiền tuyến, người nhà của họ ở quê vẫn sống nghèo sống khổ qua ngày, tôi làm sao an tâm mà đi cho đành? Đầu óc tôi rối loạn mất một lúc, đợi khi định thần lại thì Minh Thúc đã niệm xong bài chú dài dằng dặc của lão, giờ đang dùng lưỡi dao cong nạy khớp nối giữa hai mảnh vỏ trai, nghe phát ra những tiếng trong vắt, như thể theo một tiết tấu nhất định nào đó, con trai khổng lồ đã bị thôi miên, khe khẽ nhích động, không ngờ hai nửa vỏ lại có thể tự tách ra một khe hở nhỏ.

Tôi và Tuyền béo nhìn mà chỉ biết há hốc miệng, mãi hồi lâu mới ngậm lại được: “Chiêu này không ngờ lại có công dụng không khác gì bài ‘Khai quan chú’ đã thất truyền nhiều năm của Mô Kim hiệu úy, nghe nói, gặp phải quan đồng quách sắt gì cũng chỉ cần niệm đủ trăm lần bài ‘Khai quan chú’ ấy, không cần động tay động chân cũng có thể thăng quan phát tài rồi. Mà sao bác mới nạy nạy có vài cái, con trai nghìn năm đã tự buông súng đầu hàng rồi thế?”

Minh Thúc lộ vẻ đắc ý, phương pháp cổ này lão cũng mới dùng lần đầu tiên, không ngờ lại có hiệu quả kỳ diệu thế, xem ra đúng là có Long vương bảo hộ, con trai lớn này coi như phần thưởng cho dân mò ngọc rồi.

Tôi và Tuyền béo đều xuýt xoa tán thưởng Minh Thúc thủ đoạn cao minh: “Tiên sư nhà bác, bác làm chúng tôi phải thấy kính nể rồi đấy.” Xem chừng, các ngón nghề của dân mò ngọc thời xưa truyền lại, quả đều có đạo lý riêng cả.

Ba chúng tôi đều hết sức hưng phấn, trong màn mưa mù mịt, chỉ thấy từ khe hở trắng nhợt giữa hai miếng vỏ của con trai ăn thịt người bắn vọt ra một tia sáng vàng chói lóa, hoa hết cả mắt. Cũng may, Tuyền béo nhanh tay nhanh mắt, giơ ngay mũi kim tiêm có thuốc mê cực mạnh chọc vào khe hở ấy, làm con trai đau đớn run lên bần bật, chỉ trong chớp mắt đã tê liệt toàn thân, không nhúc nhích gì được nữa.

Chúng tôi vội dùng kích chống hai miếng vỏ trai lên, chỉ thấy mùi biển tanh nồng xộc vào mũi, dưới làn mưa u ám, ánh sáng bên trong vỏ trai lóe lên rực rỡ chói mắt, chiếu xa đến cả trăm bước trên mặt biển mênh mang. Chúng tôi chưa kịp nhìn rõ là cái gì, Minh Thúc đã cuống quýt giật bung áo mưa mặc trên người, che chắn luồng ánh sáng chói lòa đó, vẻ mặt hết sức phức tạp, vừa kinh hãi lại vừa mừng rỡ.

Tuyền béo sốt ruột hỏi: “Sao thế? Bên trong là nhân ngư hay là ốc yêu tinh vậy?” Minh Thúc vuốt mặt, tuy toàn thân ướt sũng nước mưa, nhưng trong lòng lão đang bốc hỏa, miệng khô khốc, phải nuốt mấy ngụm nước bọt mới thốt lên lời được: “Mỹ nhân ngư cánh ngọc vảy vàng, không thể sai được, xem chừng đã chết trong miệng con trai khổng lồ này nhiều năm lắm rồi. Quả này phát tài to con mẹ nó rồi, còn đáng tiền hơn một cục kim cương to đúng bằng nó ấy chứ...” Nói tới đây, lão nghẹn giọng nấc lên, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng: “Ngư chủ Long vương Thiên hậu nương nương trên cao có mắt, cho Lôi Hiển Minh có được ngày hôm nay, bắt được tổ của thanh đầu dưới biển sâu... đời này con sống đủ rồi, dẫu có chết ngay lập tức cũng không uổng...”

Tôi vội bịt ngay mõm lão ta lại, nói nhăng nói bậy, cái gì mà chết cũng đáng chứ? Vừa mới vớt được dị bảo dưới đáy biển, giờ mà chết mới gọi là ngàn vạn lần không đáng. Minh Thúc sực hiểu ra, cật lực tự vả luôn hai phát, không ngừng lẩm nhẩm khấn nguyện, bảo những lời vừa nói toàn là đánh rắm, không tính chữ nào cả.

Tôi và Tuyền béo chẳng buồn để ý đến cái lão Minh Thúc đang không kiểm soát nổi cảm xúc bản thân ấy làm gì, cùng chui đầu vào trong lớp áo mưa che con trai, định nhìn cho kỹ xem cái gọi là “tổ của thanh đầu” kia là gì. Nhưng vừa mở mắt, ngoại trừ kinh ngạc ra, thì bao nhiêu ý nghĩ có trong óc lập tức bay biến đi đằng nào. Tôi vốn tự cho rằng mình đã gặp vô số kỳ trân dị bảo trong các mộ cổ, nhưng tất cả những thứ ấy gộp lại, e cũng không cách gì so được với bảo vật trong cái vỏ trai trước mắt này.

Chỉ thấy trong đám thịt trai vẫn đang khe khẽ nhu động có một con quái ngư to như đứa trẻ. Con cá ấy đầu người, thân phủ vảy lấp lánh. Nói là “đầu người”, nhưng kỳ thực chẳng qua chỉ là một cách ví von hình tượng thôi, vì so với đầu người thật thì thật quá sức khác biệt. Con cá nhìn na ná một quái thai còn non, vây lưng và vây hai bên lườn cá tựa hai cánh tay ngọc trong vắt, sắc vàng của vảy cá sáng chói lóa cả mắt. Tôi phát hiện, con cá này đã hóa sừng từ nhiều năm trước, sở dĩ vẫn phát sáng được là bởi trong khuôn miệng he hé của cái đầu trông như đầu cô gái kia lộ ra nửa hạt minh châu, linh khí dạt dào, khiến vảy vàng vây ngọc sáng lòa, không ai có thể nhìn thẳng vào được.

Tôi chỉ nhìn thoáng một cái mà mắt hoa đầu váng, vội dụi dụi mắt, che áo mưa lại, hỏi Minh Thúc xem con quái ngư đầu người ấy sao lại thành ra như thế? Thật không thể nào tưởng tượng nổi, rốt cuộc giá trị của nó lớn chừng nào?

Minh Thúc nói thứ này quý giá lắm, thực sự là một món kỳ trân của thiên địa. Cứ thử nghĩ, con trai này phải mất bao nhiêu năm mới ngậm được viên ngọc hóa từ thứ vô hình thành thực thể như vậy chứ? Chúng tôi cũng từng nghe đến câu, trăng là tinh hoa của nước, ngọc châu là tinh hoa của mặt trăng, viên linh châu này chính là do con trai hấp thu tinh hoa của mặt trăng hàng bao nghìn vạn năm mới thành được. Ở dưới đáy biển, những đêm trời không trăng, lũ trai ốc đều ngậm ngọc khư khư không nhả, nhưng gặp lúc trăng tròn rạng rỡ, sẽ nhả ngọc giỡn trăng, khiến thủy tộc đua nhau kéo đến. Chắc chắn, một đêm trăng tròn của trăm năm trước, có con nhân ngư bị hạt minh châu của con trai này thu hút, đã lẳng lặng tiếp cận, lao vào khoang miệng con trai với tốc độ sét đánh không kịp bưng tai, đớp viên ngọc rồi quẫy đuôi định dông thẳng.

Dân mò ngọc gọi hành vi này của lũ thủy tộc là “đoạt đan”. Con nhân ngư tuy giỏi quẫy nước đạp sóng, nhưng dẫu nhanh đến mấy cũng không bì được với tốc độ con trai khép miệng, liền bị đối phương giữ lại cái mạng. Nhưng tại sao trải qua bao nhiêu năm như thế mà xác nhân ngư không tan, ngược lại còn hóa thành chất sừng trong suốt như ngọc? Chính là nhờ vào Nam châu trân quý vô ngần, từ xưa đã có tên gọi là “Trú nhan châu”, người chết ngậm vào, thi thể sẽ không thối rữa, ủ lâu ngày biến thành sáp khô. Thứ ngọc này mới chính là minh khí hàng đầu trong các mộ cổ.

Nhân ngư “đoạt đan” cướp linh châu, rồi bị chôn thây trong miệng con trai khổng lồ, con trai không nỡ bỏ hạt châu bao năm mới kết được thành hình, cuối cùng tạo nên cục diện “trai nuốt cá, cá nuốt ngọc”, chuyện cũng là lẽ thường tình, không hề khó suy đoán chút nào. Giống nhân ngư vảy vàng vây ngọc chỉ có ở trong hải nhãn này xưa nay hiếm gặp, lại được bảo tồn hoàn hảo như thế trong miệng con trai, trong miệng còn ngậm một viên Trú nhan châu, cứ thế tính ra, giá trị của nó hẳn phải bay vút lên mấy tầng trời cao ấy chứ.

Tôi và Tuyền béo cả mừng, chuyến này thì mười cái du thuyền cũng có, hai thằng vội lấy nệm dày cẩn thận bọc kín cái xác nhân ngư, khiêng vào khoang đáy cất thật kỹ. Lúc trở ra thì mấy người nhà Nguyễn Hắc từ dưới đáy biển đã nổi lên, nhìn nét mặt là biết thu hoạch của lần lặn xuống thứ hai không hề nhỏ. Minh Thúc còn muốn xẻo hết thịt trai, lấy hai mảnh vỏ xà cừ mang về bán. Nhưng tôi biết Shirley Dương không muốn chúng tôi sát hại con vật đã sống cả nghìn năm này, bèn ngăn lại, nói với cả bọn: “Con trai này sống nhiều năm như thế, không biết đã trải qua bao nhiêu biến cố long trời lở đất dưới biển rồi, sống được đến ngày nay không phải chuyện dễ dàng gì, chi bằng chúng ta phóng sinh cho nó thì hơn. Chính sách của chúng ta là khoan hồng độ lượng, nó đã hiến báu vật, ta hé một góc lưới tha cho nó cũng là lẽ thường tình. Vả lại, lần này vớt được rất nhiều đồ tốt, dẫu thiếu một cái vỏ trai, công sức coi như cũng đã được đền đáp hậu hĩnh rồi, chúng ta ra biển mò được không ít báu vật của Nam Hải, nhưng đồng thời cũng làm tổn hại đến linh khí của trời đất, làm gì cũng phải giữ một đường lui, chớ có tuyệt tình quá, tránh để sau này lại xảy ra việc gì ngoài ý muốn.”

Shirley Dương hết sức tán đồng, chỉ Tuyền béo và Minh Thúc là có vẻ không hoan hỉ lắm, đằng nào cũng đã bái tế Ngư chủ rồi, có lẽ nào lại thả nó về biển khơi chứ? Tuyền béo bèn nghĩ ra một chiêu độc, giật con dao lưỡi cong của Minh Thúc, khắc mấy hàng chữ lên vỏ trai, ghi rõ quyền sở hữu: “Mô Kim hiệu úy kiêm chuyên gia mò ngọc Vương Khải Tuyền dẫn theo các thuộc hạ đã đến nơi này, chúng ta đứng chỗ cao nhìn chỗ xa, lòng ôm tổ quốc mắt dối hoàn cầu, giờ đây có việc gấp phải bôn ba sang Mỹ kiếm tiền, tạm thời lưu con trai khổng lồ này lại đây, đợi khi cách mạng thế giới thành công sẽ quay về vớt lên bán lấy tiền, kẻ nào chưa được chúng ta cho phép mà vớt vật này lên, nhất định sẽ bị trời đánh, chết không chốn chôn thây giữa biển. Ngày... tháng... năm...” Bấy giờ mới ném con trai to bự chỉ còn thoi thóp chút hơi tàn ấy xuống nước, mặc cho nó tự tìm đường sống. Con trai đã mất linh châu, thực chẳng khác nào phượng hoàng bị vặt trụi lông, vội vàng lặn xuống đáy sâu lẩn đi mất.

Sau đấy, cả bọn bắt đầu kiểm lại thu hoạch sau hai lần lặn, tổng cộng được ba mươi hai viên minh châu, thêm một cái xác nhân ngư ngậm ngọc, một cỗ quan tài cổ bằng “thạch kính”. Mấy thứ ấy, đem bày trong khoang đáy, liền tỏa sáng lung linh, khiến người ta có cảm giác như thể đang ở chốn Long cung. Có điều bọn tôi cũng không dám ngắm nhìn lâu mà nhanh chóng cất giấu, thứ nhất là sợ những thứ châu báu này rời khỏi môi trường đáy biển sẽ mất linh khí, thứ hai là các bảo vật đó, thứ nào cũng là tinh hoa của biển, bảo khí xung thiên, bày lồ lộ ra, chỉ sợ kình ngư, hải thú dưới biển sẽ liều mạng nổi lên tranh đoạt. Khinh núi chớ khinh biển, những thứ dưới biển tốt nhất cố gắng không dây dưa vào thì hơn.

Lúc này, sắc trời đã ngả về hoàng hôn, Minh Thúc lên khoang lái quan sát tình hình mặt biển, những người khác thì vào trong khoang ăn cơm. Nguyễn Hắc và hai đồ đệ đều đã mệt rũ, nhưng Nguyễn Hắc bảo, những dân mò ngọc chuyên nghiệp như bọn họ vốn là cầm tinh con cá rồi, ở dưới nước lâu mấy cũng chịu được, chỉ cần nghỉ ngơi một chút là khỏe, đợt lát nữa ăn cơm xong nhân lúc không có sóng lớn, còn có thể xuống mò thêm một lần nữa, hai chuyến đầu tiên chẳng qua mới chỉ lấy ngọc của đám trai ốc xung quanh cây san hô thiết thụ kia, mà trong khu rừng đáy biển ấy còn rất nhiều cây như thế, thời cơ sau này khó mà gặp lại được không thể để lỡ, giờ nguồn cung Nam châu trên thế giới đã cạn kiệt từ thời nhà Thanh rồi, chúng ta đã gặp được đúng thời gian mức nước triều xuống thấp thế này, nhất định phải xuống mò cho sướng tay đã đời.

Tôi nghe ông ta nói mà không khỏi thầm kinh hãi, hồi trước vẫn cho rằng đám dân mò ngọc cũng dựa vào tay nghề đem tính mạng ra đánh cược này không khác gì Mô Kim hiệu úy chúng tôi cả, giờ thì coi như đã biết nhau rồi, xem ý tứ của Nguyễn Hắc thì chừng như không mò hết Nam châu, quyết không dừng tay, dẫu có mất mạng cũng chẳng để tâm. Thì ra, sự khác biệt giữa dân mò ngọc và Mô Kim hiệu úy chính là ở một chữ “tham” này.

Mô Kim hiệu úy tuy mạo hiểm cầu tài, nhưng vẫn có quy tắc “gà gáy đèn tắt không mò vàng” và “ba lấy ba không lấy”. Trên thực tế, những quy tắc ấy đặt ra chẳng phải vì tôn trọng vong linh mộ chủ hay gì gì cả, mà chẳng qua chỉ là cố gắng không để mình trở nên quá tham lam. Tự cổ chí kim, những kẻ xấu xa chuyên đi đào mồ quật mả người ta nhiều không kể xiết, thử hỏi có bao nhiêu tên trộm mộ chỉ vì một chữ “tham” này mà mất đi tính mạng chứ? Không phải vì không đủ trí tuệ, cũng chẳng phải vì kỹ thuật kém người, mà chỉ bởi một chữ “lợi” làm mê muội tâm thần. Lòng tham không đáy, chính là nguồn gốc của tai họa, là căn nguyên của thất bại. Mô Kim hiệu úy xưa nay vẫn luôn biết dừng đúng thời điểm, giữ cho mình một đường lui và đầu óc tỉnh táo, còn mạng thì mới hưởng được sự giàu sang, mất mạng rồi hết thảy chỉ là hư không mà thôi.

Nhưng dân mò ngọc trên biển, vốn là những người bị bóc lột tàn khốc nhất trong lịch sử thì khác. Thời xưa, bọn họ chịu sự giám sát cực kỳ nghiêm ngặt, nếu quan binh nghi ngờ kẻ nào nuốt Nam châu ở dưới nước hòng che giấu, lúc trồi lên thậm chí có thể bị rạch bụng moi ra. Sinh tồn trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế, dân mò ngọc thành ra toàn những kẻ sống chỉ biết hôm nay mà không biết ngày mai, trình độ giác ngộ đương nhiên không sánh được với các cao thủ đổ đấu mò vàng tinh thông Dịch lý, hiểu được lẽ “sinh sinh bát tức” như chúng tôi. Vì vậy, quy củ của dân mò ngọc chính là bất chấp tính mạng, chỉ cần mò được ngọc. Nhìn ánh mắt sôi sục nhiệt huyết mà mệt mỏi của Nguyễn Hắc, tôi có cảm giác dường như ông ta chẳng đếm xỉa gì đến những nguy cơ dưới nước, dù có mắc bệnh khí ép mà chết cũng chẳng hề tiếc cái mạng già chút nào thì phải. Xem ra mạng người tuy quan trọng, nhưng mò ngọc còn quan trọng hơn, vả lại đến giờ ông ta cũng chưa rõ số hàng trong khoang tàu của chúng tôi có thể đem lại biết bao nhiêu tiền. Có thể nói, Nguyễn Hắc này chưa từng thấy nhiều tiền bao giờ, chẳng có khái niệm gì về tiền bạc hết, không như Minh Thúc cáo già kia, rành rẽ giá cả thị trường, biết thứ nào giá trị thứ nào không. Tóm lại, Nguyễn Hắc chỉ biết mò được càng nhiều ngọc thì thu được càng nhiều tiền mà thôi.

Tôi thật không biết nên giải thích đạo lý không thể quá tham lam này với Nguyễn Hắc như thế nào, đành dùng biện pháp mạnh với ba thầy trò nhà họ, nói trong rãnh sâu dưới đáy biển có ngư long, lúc này trời mưa lớn, đến tối nước triều sẽ dâng cao, con rắn biển đang ẩn nấp dưới đáy sâu sẽ nhân lúc mây mù mà nổi lên mặt biển, lặn xuống mò ngọc chẳng phải là tự đâm đầu vào chỗ chết sao. Còn ai muốn tự tiện xuống nước, con bà nhà nó, đừng trách thằng Nhất này trở mặt không nhận người nhé. Chuyến này ra biển vật tư đều do chúng tôi cung cấp, phương pháp tiến vào vực xoáy San Hô cũng do chúng tôi nghĩ ra, nói trắng ra thì mấy tên Mô Kim hiệu úy bọn tôi mới là ông chủ, dân mò ngọc các ông chỉ đi làm thuê thôi, kể từ bây giờ trở đi, tôi nói gì, ông phải nghe đấy.

Có điều, cứ nghĩ đến chuyện tiền mua tàu là của Shirley Dương xuất ra, Ti thiên ngư, Khôi tinh bàn giúp chúng tôi có thể tiến vào vùng vực xoáy San Hô, rồi cả thuật “Dưa trôi dụ cá” cũng do tổ sư Ban Sơn đạo nhân của cô truyền xuống, tôi cũng hơi ngượng mồm khi nói ra mấy lời này, bèn liếc trộm Shirley Dương một cái. Thấy cô khe khẽ gật đầu với mình, tôi lập tức vững dạ hẳn lên, mắng cho ba thầy trò nhà Nguyễn Hắc một chặp, im thin thít không còn gì để nói, đành phải nghe theo sự sắp xếp của tôi, từ bỏ ý định mò ngọc khi tối trời.

Sóng gió vô tình, tôi định kiếm đủ rồi là đánh trống thu quân, nhưng lại chưa tìm thấy xác tàu Mariana, đâm ra rất khó xử. Nếu thời tiết ban đêm cho phép, tôi bàn với cả hội, định sử dụng chuông lặn thăm dò thêm mấy khe sâu dưới đáy biển nữa, chỉ cần chụp được một bức ảnh thôi là cũng có cái ăn nói với giáo sư Trần rồi. Đúng lúc này, Minh Thúc đang ở trên khoang lái đột nhiên phát tín hiệu qua ống đồng truyền âm: “Mau lên trên này, nguy cấp lắm rồi, âm hỏa cháy lên mặt biển rồi đây này!”
 
Quyển 6 - Chương 24: Không lối ra


Âm hỏa cuối cùng cũng xuất hiện rồi. Nghe thấy tiếng gọi của Minh Thúc trong ống truyền âm, tôi vội ba chân bốn cẳng chạy ra phía mũi tàu, chỉ thấy trên biển mù mịt mây đen, mưa lớn vẫn đổ sầm sập như trút, cách chỗ chúng tôi không xa lắm, nước biển đen nghịt bỗng nhiên sôi trào cuồn cuộn, đáy biển bừng lên, ánh sáng chói lóa cả mắt. Dưới đáy biển, ngọn lửa chia làm mấy đường, những cuộn khói đen nghìn nghịt xông lên tận trời cao. Nước biển ở những chỗ có âm hỏa bị đốt sôi sùng sục, bọn thủy tộc bị lửa thiêu đốt chết vô số, xác nổi lềnh phềnh trên mặt nước.

Khói đen của long hỏa dưới đáy biển làm bầu trời vốn đã u ám càng thêm tối tăm mù mịt. Trái lại, dưới mặt nước ánh lửa lấp lóa, từng quầng âm hỏa nóng bỏng, tựa như dưới đáy biển cùng lúc dâng lên mấy vầng trăng, chiếu sáng cả một vùng âm u tăm tối. Bọn tôi ở trên tàu, trông thấy cảnh tượng như thế giới sắp bị hủy diệt ấy, lông tóc dựng ngược hết cả, trong lòng dâng lên một cảm giác lạnh lẽo khôn cùng.

Để lợi dụng lúc nước triều dâng, tiến vào vực xoáy San Hô, chúng tôi đã chọn thời gian vào khoảng trước sau ngày mười lăm Âm lịch, chính là lúc trăng tròn, không ngờ thời cơ xảo hợp thế nào, lại được tận mắt trông thấy long hỏa như ngọn lửa chốn luyện ngục A Tỳ thiêu đốt đáy biển. Những quả cầu lửa dưới đáy biển dâng lên nuốt chửng mọi đàn cá ở xung quanh chúng, những con may mắn sống sót thì cũng bị bỏng rát, quằn quại nhảy lên khỏi mặt nước, cả một vùng biển chìm trong bóng đen chết chóc.

Long hỏa chỉ cháy dưới biển, rời nước là lập tức tắt ngay, vả lại, thứ âm hỏa còn được gọi là “long đăng” trong thuật phong thủy này, tuy thế lớn kinh người, nhưng xưa nay thoắt đến thoắt đi, trong nháy mắt là biến mất ngay. Tôi biết, loại dị tượng này chỉ có ở những nơi dư mạch của Nam Long, là do hải khí của Nam Long ngưng kết mà thành, những hiện tượng kiểu như núi lửa hay khí đốt phun trào dưới đáy biển không thể so sánh nổi. Cứ nhìn thế lửa dưới đáy biển này là biết người thủy thủ may mắn sống sót trên tàu Mariana kia nói không sai, con tàu đắm mang theo Tần Vương Chiếu Cốt kính ấy nhất định là chỉ ở quanh đây mà thôi.

Những điều chúng tôi biết về âm hỏa chẳng qua chỉ là cái vỏ bề ngoài, đấy mới là lần đầu tiên được tận mắt trông thấy, căn bản không biết nó lợi hại thế nào. Có điều, lúc này tuy tình thế kinh hiểm vạn phần, song cũng chính là cơ hội nghìn năm khó gặp, tôi vội lấy Ti thiên ngư Khôi tinh bàn ra, ghi lại vị trí của mấy ngọn âm hỏa, bên trên khoang lái, Minh Thúc cũng đang liều cái mạng già, cố gắng lái tàu tránh xa vùng biển lửa cháy rừng rực.

Âm hỏa ở vực xoáy San Hô này đa phần tập trung ở mé Đông đảo u linh, tàu chúng tôi ở mé phía Tây nên tương đối an toàn, mà rừng san hô cũng đều tập trung ở mé phía Tây này cả. Trải qua thăm dò sơ bộ, tình hình đáy biển bên mé Đông phức tạp hơn rất nhiều, độ sâu ít nhất cũng gấp đôi khu vực rừng san hô, lại có nhiều động biển, rãnh biển, chúng tôi vẫn chưa kịp dùng chuông lặn xuống thăm dò kỹ hơn, phỏng chừng, mười phần đã chắc đến tám chín là tàu Mariana bị đắm ở phía mé Đông đảo u linh rồi.

Ánh lửa cháy ngầm quả nhiên chỉ như hoa quỳnh thoáng nở đã tàn, vừa bùng lên được giây lát đã ảm đạm đi, rồi trở về với hư không. Một vùng trời nước mênh mang mất đi ánh lửa âm lạnh, lập tức trở nên tối đen như mực, chỉ có mưa lớn vẫn cứ trút rào rào. Tôi hỏi Minh Thúc và Nguyễn Hắc, nếu phán đoán dựa trên kinh nghiệm đi biển của họ thì hải tượng đêm nay sẽ thế nào?

Hai người đó đều là thủy thủ dạn dày kinh nghiệm, một mực khẳng định, đừng nhìn âm hỏa thiêu đốt đáy biển mà nhầm, tình hình không có dấu hiệu gì của gió thế này, đảm bảo trong hai ngày tuyệt đối không thể có sóng to gió lớn, tàu ở trong vùng biển này vẫn tương đối an toàn. Shirley Dương cũng nhận định tạm thời không sợ trời nổi gió lớn, không có gió dĩ nhiên không có sóng lớn, những con sóng khổng lồ có thể quật vỡ cả thân tàu là sát tinh của ngành hàng hải, nhưng vẫn phải đề phòng những hiện tượng đặc thù như nước biển đột nhiên dâng trào cục bộ, hay bắt gặp ảo ảnh do nhiệt độ nước và không khí chênh lệch quá lớn gây ra, chẳng hạn như nhìn thấy những hòn đảo và tàu bè lơ lửng trên không.

Tôi bàn bạc với cả hội một lúc, mọi người đều cho rằng đây là cơ hội cực tốt, cuối cùng quyết định cho tàu chạy vòng qua đảo u linh sang mé phía Đông vực xoáy San Hô thăm dò tung tích của con tàu đắm. Vậy là, toàn bộ đèn pha công suất lớn trên tàu Chĩa Ba được bật sáng rực, con tàu lừng lững tiến lên giữa vùng biển tối đen, chầm chậm vòng qua đảo đá ngầm màu đen. Hòn đảo này trông như cái bát úp, đỉnh núi hình chóp tù lộ lên khỏi mặt nước cao chưa đến mười mét, nhưng dốc nghiêng thì rất rộng, nhìn như sống lưng của một con cá voi khổng lồ đang nổi lên mặt nước. Khi tàu lại gần, ánh đèn pha chiếu lên, đảo đá trông càng uy thế bội phần, đè nặng lên tâm trí chúng tôi một cảm giác vô cùng tăm tối.

Tôi đang định kéo bọn Cổ Thái, Tuyền béo ra phía sau chuẩn bị chuông lặn thì đột nhiên thân tàu rung lên một chặp. Mặt biển lặng gió, không nổi sóng, đột nhiên lại rung lắc dữ dội thì thật bất bình thường. Minh Thúc và Nguyễn Hắc vội bỏ mũ áo mưa ra, thò đầu ra ngoài mạn thuyền, cầm đèn pin kiểm tra tình hình, lo nhất là nước triều xuống thấp quá, tàu va phải đám đá ngầm.

Bọn tôi còn chưa kịp xem rõ rốt cuộc xảy ra chuyện gì, phía trước bỗng sáng bừng, tầm nhìn rộng mở, cơn mưa lớn thình lình tạnh ngắt. Thì ra, long hỏa dưới đáy biển bốc lên đã làm tan biến mây mưa. Một vầng trăng rờ rỡ hiện giữa không trung, lơ lửng ngay trên đỉnh đầu chúng tôi. Trăng sáng như ban ngày, chiếu rọi khắp vùng biển lớn. Trong khu rừng dưới đáy biển phía sau tàu chúng tôi, hằng hà sa số con trai đã hé mở hai mảnh vỏ cứng, nhả minh châu, tranh thủ hấp thu khí âm tinh của ánh trăng.

Ánh trăng trên trời hòa lẫn cùng ánh sáng của minh châu dưới đáy biển. Trong ánh sáng bàng bạc thấm đẫm không gian ấy, vô số xác cá vừa bị long hỏa đốt cháy nổi lềnh phềnh trên mặt nước. Một bầu không khí kỳ dị bao trùm lên tất thảy. Tàu của chúng tôi vẫn lắc lư không ngừng, liên tục trồi lên hụp xuống khiến ai nấy càng thêm căng thẳng. Linh cảm sắp xảy ra tai họa dâng ngập trong tâm thức tôi. Shirley Dương phát hiện ra tình huống đầu tiên: “Mau lùi lại! Hải lưu ở đây rất dị thường!”

Shirley Dương vừa dứt lời, một cảnh tượng cực kỳ đáng sợ đã đập ngay vào mắt cả bọn. Hằng hà sa số hải động lớn nhỏ hiện trên mặt biển, vầng trăng sáng rực rỡ cũng không cách nào soi tỏ tận đáy những xoáy nước đen ngòm. Tàu Chĩa Ba đang đi giữa hai xoáy nước, rung lắc dữ dội do sức tác động của hai luồng nước ngầm từ hai hướng khác nhau xô tới.

“Hải động” hay còn được dân chài và dân mò ngọc gọi là “lỗ biển”, là hiện tượng những hố sâu lớn đột nhiên sinh ra dưới đáy biển, tạo thành các xoáy nước đổ ngược xuống dưới, tàu bè vô ý bị cuốn vào trong xưa nay đều khó thoát đại nạn.

Hải động và hải nhãn là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Tương truyền, hải nhãn, hay còn được gọi bằng tên “Quy Khư”, là một hang động khổng lồ giữa trời đất. Nước trong thiên hạ cuối cùng đều đổ về nơi này. Hải nhãn là thứ tồn tại cố định vĩnh hằng, nhưng không ai biết nó có thực đúng như mô tả trong truyền thuyết hay không. Còn hải động thì có thể lớn, có thể nhỏ, lúc có lúc không, là hiện tượng xoáy nước hình thành sau khi hải khí ngưng tụ bốc lên, nước biển dồn vào bù lấp khoảng chân không vừa sinh ra. Hải động cũng có thể sinh ra do động đất hay nứt lở, sụt lún dưới đáy biển.

Chúng tôi nhìn những xoáy nước liên tiếp xuất hiện trên mặt biển, hoa hết cả mắt, nào có thể đếm kỹ xem rốt cuộc trước mắt có mấy chục hay mấy trăm cái hải động, ai nấy đều như bị giội cho một thùng nước đá, toàn thân run lên một chặp, rồi mới sực tỉnh. Nhân lúc hải động vừa hình thành, xoáy nước vẫn chưa mạnh lắm, phải mau mau quay tàu lùi lại, bằng không, chỉ cần chậm nửa bước, đã bị cuốn vào hải động rồi thì đừng nói là tàu Chĩa Ba này, dẫu có là hàng không mẫu hạm cũng bị hút xuống vực sâu dưới đáy biển, xé nát tan tành.

Âm thanh ầm ầm dưới hải động tựa như từng hồi chuông báo tử vẳng lên từng đợt từng đợt, nước biển cuộn dữ dội, chỉ dựa vào các công cụ hàng hải do con người chế tạo này, chúng tôi thực sự không có một chút khả năng kháng cự nào trước sức mạnh hủy thiên diệt địa của thiên nhiên. Chúng tôi biết không thể lấy trứng chọi đá, nào còn dám nghĩ gì đến Tần Vương Chiếu Cốt kính nữa, vội vàng kéo cho động cơ chạy hết mức, liều mạng xoay mũi tàu chạy về mé Tây, chỉ mong rời khỏi những hải động đen ngòm ấy càng xa càng tốt, xa thêm một mét là thêm một phần hy vọng thoát khỏi tai họa bị biển lớn nuốt chửng. Dưới ánh trăng vằng vặc, mọi thứ rõ mồn một, chỉ thấy các dòng hải lưu xoay tròn, vô số xoáy nước vẫn đang hình thành, ầm ầm vang động điếc cả lỗ tai. Hải động và long thượng thủy là hai tai họa lớn trên biển, một do nước bị hút xuống, còn một do nước dâng trào. Có điều, chỉ nhìn những hiện tượng trước mắt cũng đủ thấy, uy lực của hải động còn đáng sợ hơn long thượng thủy nhiều. Cũng may, chúng tôi cũng kịp nhận ra, hải động thực sự vẫn chưa xuất hiện, tàu Chĩa Ba tuy bị dòng nước xô đập dữ dội, song vẫn còn khống chế được phương hướng. Trong giây phút sinh tử, điều duy nhất có thể làm chính là cấp tốc rời khỏi chốn hung hiểm này.

Chúng tôi không biết quy mô hải động sau khi hình thành lớn chừng nào, vì sự an toàn của cả bọn, lúc này chỉ có thể lựa chọn rời vùng biển vực xoáy San Hô, chờ dịp khác quay lại tìm xác tàu đắm. Tôi giương ống nhòm hướng về phía Đông, do tác động của mặt trăng, thủy triều hỗn hợp đang lên, vệt đen nơi đường chân trời lúc ban ngày vẫn còn lờ mờ trông thấy nay đã bị che khuất, hòn đảo u linh đen kịt từ từ biến mất, nước biển dâng trào. Đây chính là thời cơ tốt nhất để thoát ra khỏi vực xoáy San Hô.

Minh Thúc đang ở trên khoang lái, con tàu như mũi tên rời khỏi dây cung lao vút trên mặt biển. Nguyễn Hắc và hai đồ đệ đứng ở mũi tàu vẫy tay loạn xạ, miệng gào thét gì đó, nhưng âm thanh bị tiếng nước xung quanh át hết. Tôi không nghe ra bọn họ đang hét cái gì, còn tưởng mấy người họ bị hải động vừa xuất hiện làm cho kinh hoảng, nhưng ngay sau đó, lập tức phát giác ra có điều không ổn: dường như họ đang cố gắng nói với chúng tôi, trước mui tàu xuất hiện một thứ cực kỳ đáng sợ.

Tôi vội nhìn ra phía ấy, mồ hôi lạnh bất giác túa ra đầm đìa. Dưới nước đã lù lù hiện ra một vật thể khổng lồ nhờ nhờ trắng đang nhanh chóng áp sát đến tàu chúng tôi. Mặt biển bị vật kia dẫn động, liên tiếp cuộn sóng, rồi tan ngay trong nháy mắt. Chúng tôi chưa kịp phản ứng gì đã thấy hoa nước bắn tóe, vật ấy đã ở sát bên, con tàu đang lao hết tốc lực khựng lại như húc phải bức tường sắt.

Mũi tàu suýt vỡ toang. Đa Linh ở boong trước định chộp sợi thừng cố định thân thể, không ngờ mất thăng bằng, loạng choạng chộp vào khoảng không, tức khắc bị chấn động hất văng lên cao.

Mắt thấy cô bé sắp rơi xuống mặt biển sôi trào, Nguyễn Hắc vội bất chấp tất cả tóm lấy một sợi thừng nhảy vù ra ngoài mạn tàu. Đa Linh bị hất lên cao rồi mới rơi xuống, Nguyễn Hắc tranh thủ được khoảng chênh lệch độ cao, vừa nhảy ra khỏi tàu may là kịp chộp được trước khi cô chạm mặt nước. Song chính Nguyễn Hắc bị đà rơi của Đa Linh kéo theo, cũng rơi tòm xuống biển.

Nguyễn Hắc thu nạp Đa Linh làm đồ đệ từ trước khi rời khỏi Việt Nam, nhiều năm nay cùng nhau ra biển đánh cá mò ngọc, tình cảm thân thiết như cha con, thấy Đa Linh sắp rơi xuống biển, lập tức không nghĩ ngợi, liều mạng xông ra cứu. Mặc dù lúc nhảy ra khỏi tàu, Nguyễn Hắc tóm được sợi dây thừng, nhưng sợi thừng ấy lại không buộc cố định trên boong, bị hai thầy trò kéo, liền cứ thế tuồn tuột trượt khỏi tàu như một con rắn sống.

Lúc này chỉ có mình tôi đứng gần cuộn thừng nhất, trong lòng ngoại trừ ý nghĩ cứu người khẩn cấp ra thì không còn nghĩ đến gì khác. Tôi vội loạng choạng nhảy lên một bước, nắm chặt đoạn thừng còn chưa bị tuột, trong lúc cuống cuồng không biết quấn vào đâu, đành xoay người một vòng, quấn sợi thừng to bằng cánh tay trẻ con quanh eo hai vòng.

Đột nhiên, sợi thừng bị kéo giật một cái, khiến tôi cơ hồ muốn tắc thở, huyết khí trong lồng ngực cuộn trào lên, chân mềm nhũn, mắt tối đen, suýt chút nữa thì bị đà rơi của Nguyễn Hắc và Đa Linh kéo văng ra khỏi tàu. Đúng lúc ấy, Tuyền béo ở phía sau tôi xông lên, tóm sợi dây, giậm mạnh chân xuống sàn tàu. Thân thể như con bò mộng của cậu ta vận sức gồ hết cơ căng hết bắp, khó khăn lắm mới giữ được hai người đang sắp chìm xuống đáy biển kia lại.

Tôi như kẻ lĩnh án tử hình rồi được đại xá, vội lăn tròn một vòng dưới đất, gỡ sợi thừng khỏi phần eo hông đã bầm tím vết lằn, tranh thủ liếc xuống mặt biển một cái, thì ra tàu Chĩa Ba của chúng tôi vừa húc phải con rắn biển lớn gặp dưới đáy sâu lúc nãy. Con rắn biển trông như con rồng trắng này trời sinh đã sợ ánh sáng, vốn chỉ sống ở vùng biển sâu trên trăm mét, những lúc đêm tối, khi mây mờ trăng khuất mới nổi lên. Theo lý mà nói, trăng sáng đang lơ lửng giữa trời thế này không phải thời điểm nó hoạt động, khốn nỗi, vừa nãy âm hỏa bừng bừng dưới đáy nước, giờ lại thêm lũ trai nhả ngọc, ánh sáng phản chiếu, khiến đáy biển còn rạng rỡ hơn trên trời, mới làm nó không thể yên thân, buộc phải nổi lên mặt nước. Giờ con quái vật biển ấy đang nổi giận, định quẫy nước lật chìm tàu chúng tôi cho hả cơn tức đây.

Nếu tàu Chĩa Ba không được gia cố thêm ván đồng, e rằng chỉ cần bị con rắn tông cho một cú đã thủng toác. Đòn tấn công đầu tiên vừa qua, chỉ thấy dưới biển như thể có một dải lụa trắng cuồn cuộn lướt qua, thoắt cái con rắn đã quay đầu quật đuôi quét ngang thân thuyền. Tàu đóng bằng gỗ liễu biển tuy cực kỳ kiên cố, nhưng cái đuôi của con rắn biển khổng lồ phải to bằng thân cây san hô trong suốt dưới đáy biển, không phải mãnh long không quá giang, sức mạnh của cú quét đuôi ấy hoàn toàn có thể quật thân tàu vỡ tan thành mảnh vụn.

Con tàu trồi lên hụp xuống, tôi và Tuyền béo giữ chặt dây thừng không dám buông ra, Nguyễn Hắc thì ôm chặt Đa Linh, treo mình lơ lửng giữa không trung, văng qua văng lại theo chuyển động của thân tàu, tình thế hết sức nguy hiểm. Shirley Dương và Cổ Thái nhanh chóng chạy đến sau lưng tôi ôm chặt. Vậy là, từ trong khoang ra đến bên ngoài tàu, sáu người nối thành một chuỗi dài trên con tàu đang bị sóng dữ quăng quật như phiến lá mỏng manh, chỉ cần một người không chịu nổi buông tay, sẽ có người lập tức rơi xuống biển sâu làm mồi cho cá.

Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí, chúng tôi đang phải gắng gượng chống chọi trong hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan như thế, dưới biển lại cuộn lên một cơn sóng trắng xóa. Cái đuôi con rắn biển khổng lồ kia bất thình lình từ trên không quật ngược xuống thân tàu. Tôi đang nghiến răng nghiến lợi dồn hết sức vào sợi dây thừng, không dám lơ là dù chỉ một giây, chỉ còn biết mở mắt trừng trừng nhìn cái đuôi rắn to tướng cỡ bằng cả cái ang nước cuộn đến, ngoài ra chẳng có thể làm gì được nữa.

Vừa khéo đúng lúc ấy, sóng biển quăng con tàu của chúng tôi lên cao rồi đột ngột thả xuống, thân tàu rơi tận đáy ngọn sóng, một làn gió tanh tưởi ộc vào mặt, lồng ngực tôi tức nghẹn như bị giáng cho một cú, mắt thấy con rắn biển khổng lồ cuộn một vòng bay vọt trên không trung. Trong khoảnh khắc chỉ bằng một cái chớp mắt ấy, con tàu đã thoát khỏi một đòn trí mạng.

Con rắn đập xuống mặt biển làm hoa nước ào ào văng lên, rồi lặn mất hút vào tấm màn nước khổng lồ. Tôi biết, nó bị trăng tròn làm kinh động, tuyệt đối sẽ không chịu dừng lại ở đây. Quả nhiên, chỉ qua một thoáng, nước biển phía sau thân tàu đã cuộn sôi, con hải thú khổng lồ màu trắng lại nổi lên lần nữa. Tôi chẳng kịp thở lấy hơi, cũng chẳng kịp vui mừng vì con tàu không bị phá hỏng, vội dồn hết sức kéo sợi thừng, cứu hai thầy trò Nguyễn Hắc trở lại tàu. Nguyễn Hắc và Đa Linh ướt sũng, mặt tái nhợt vì kinh hãi quá độ, cắt không còn hột máu. Bọn tôi vội chia nhau vừa dìu vừa đẩy, đưa hai kẻ mò ngọc đại nạn không chết ấy vào trong khoang tàu.

Vì số trân châu và cái xác nhân ngư, Minh Thúc không ngờ lại kiên trì giữ vững vị trí, nghiến răng kèn kẹt quyết một lòng tranh đấu với trời cao biển rộng, sắc mặt cực kỳ hung hãn và kiên định, toát lên phong độ của gã sói biển hào hùng. Tôi chửi thầm trong bụng, tự nhủ: “Lão nông dân Hồng Kông chết tiệt, đúng là thấy tiền mới mở mắt, mơ phát tài mà quên cả chuyện sống chết. Có điều lúc nguy cấp này được như thế lại thành ra quý hóa.” Nghĩ đoạn, tôi khua tay múa chân, ra hiệu cho lão biết con rắn biển kia lại nổi lên rồi, mau lùi lại, cố gắng lách vào góc nào có thể nổ pháo được. Trong tình hình trước mắt, xem ra chỉ có thể nhờ cậy pháo Chấn hải đẩy con ôn vật kia trở về biển sâu mà thôi.

Mấy cú va đập vừa rồi khiến tàu Chĩa Ba dù tính năng ưu việt cũng tổn thương khá nặng, chưa đến nỗi thủng tàu, nhưng sự việc chết người nhất đã xảy ra rồi: bánh lái mất tác dụng, con tàu chỉ có thể không ngừng tiến lên theo một hướng nhất định. Con rắn biển vẫn cuồn cuộn bám riết không tha. Mặt biển vằng vặc ánh trăng, cuộc đuổi bắt sinh tử giữa con hải quái và tàu của chúng tôi càng lúc càng thêm quyết liệt.

Tôi đang cuống lên giúp Minh Thúc xử lý cái bánh lái, chợt phát hiện lão già Hồng Kông đang ngoác miệng chửi mắng bánh lái không điều khiển được bỗng im bặt, mặt đờ ra như phỗng đá, cũng ngẩng lên nhìn theo ánh mắt lão. Ngay lập tức, toàn thân tôi thoắt cũng lạnh cứng từ trong ra ngoài. Vừa nãy tình hình quá hỗn loạn, tàu Chĩa Ba của chúng tôi như thể bị quỷ thần sai khiến, đã quay ngoặt trở lại khu vực phía Đông vực xoáy San Hô, chỉ thấy vô số hải động đang từ từ hợp lại, hình thành một xoáy nước khổng lồ sâu không biết đâu mà kể... Có lẽ, đó chính là hải nhãn trong truyền thuyết... Quy Khư.

Biển lớn rốt cuộc cũng phơi ra gương mặt cuồng dại đáng sợ, nước biển vô cùng vô tận cuồn cuộn bị hút vào Quy Khư, cả con rắn biển lẫn tàu của chúng tôi cũng bị dòng loạn lưu cuốn tới. Nước trong hải động dựng đứng như vách tường, khí thế muốn hút cả trời đất vào trong. Tình hình đã đến nước này, e là có mọc thêm đôi cánh, sợ cũng khó lòng thoát nổi.
 
Quyển 6 - Chương 25: Cú nhảy kinh hoàng


Tàu Chĩa Ba bị xoáy nước khổng lồ hút tới, càng vào gần trung tâm lực hút càng lớn, dòng nước cuồn cuộn đổ vào vực sâu không đáy đen ngòm. Bọn tôi thấy bánh lái mất tác dụng, con tàu lao thẳng vào hải động tăm tối, lạnh toát hết cả người, hiểu rằng chỉ trong mấy phút đồng hồ nữa thôi, đại nạn sẽ ập xuống đầu hủy diệt hết thảy.

Đã quá muộn để bỏ thuyền tháo chạy, vả lại, nếu thả xuồng cứu sinh, trọng lượng quá nhẹ càng khiến nước biển dễ cuốn trôi xuồng đi mất. Trong bản hòa âm sầm sập đinh tai nhức óc của nước biển, tàu Chĩa Ba của chúng tôi chớp mắt đã tiến vào rìa xoáy nước vĩ đại, lập tức bị dòng nước dẫn động, mũi nghiêng đi, thân tàu chao đảo theo những dòng xoáy nhỏ xung quanh hải động.

Shirley Dương và Minh Thúc gắng hết sức kìm giữ con tàu đã mất lái, dứt khoát ném bớt một phần đồ đạc trong khoang, giảm nhẹ trọng lượng hòng hãm đà lao vào trọng tâm dòng xoáy, kế đó, nhân lúc sóng biển dập dềnh, đưa tàu dịch chuyển theo phương ngang, rồi mở hết động cơ lao vút tới, cuối cùng cũng ổn định được cái bánh lái vừa mất điều khiển, giành lại quyền kiểm soát tàu trong thời khắc quan trọng nhất.

Nhưng trước uy lực hủy thiên diệt địa của xoáy nước khổng lồ, tàu Chĩa Ba của chúng tôi chẳng khác nào một phiến lá khô trong cơn cuồng phong bão tố, đã bị dòng xoáy hút lại rồi, làm sao còn thoát ra được nữa. Minh Thúc thấy đại thế đã mất, chán nản ôm bánh lái gục xuống sàn tàu. Shirley Dương hét gọi tôi kéo lão ra, lập tức tiến lên tiếp lấy bánh lái, điều khiển tàu Chĩa Ba vượt gió phá sóng, sau mấy phen trồi hụp, không ngờ càng lúc càng rời xa khỏi trung tâm vòng xoáy.

Tôi và Tuyền béo thấy tàu Chĩa Ba phỏng chừng có thể thoát hiểm, tinh thần phấn chấn hẳn lên, nhưng ngay sau đó, tôi phát hiện ra, nước biển ở khu vực xung quanh hải động đen ngòm như mực, trong làn nước đen ẩn hiện một dải lụa trắng chập chờn theo sóng. Con rắn biển khổng lồ nhất định là lầm tàu của chúng tôi với cá voi hay một loài hải thú có thể bắt ăn thịt được, nên mới một mực bám riết không chịu buông tha như thế.

Tôi thầm than khổ, Nam châu quả nhiên là bảo vật của Nam hải, không phải thứ có thể tùy tiện mò vớt được. Câu “khinh núi chớ khinh biển” coi vậy mà lại ứng nghiệm thật. Núi và biển một tĩnh một động, lẽ thường của đạo phong thủy chính là “thiên địa hữu tình”, núi non sông biển cũng như con người, là linh khí có sinh mệnh, đến cả ngọn núi tĩnh lặng im lìm thực ra cũng có sinh mệnh, huống hồ là biển lớn mênh mông lúc nào cũng cuộn trào sóng dữ? Minh châu trong vực xoáy San Hô là linh vật do linh khí của mạch Nam Long kết tụ mà thành, giờ bị đám mò ngọc chúng tôi vớt đi một đống lớn, khiến hải khí mất cân bằng, gây ra âm hỏa thiêu đốt biển sâu. Con rắn biển hung tợn bị âm hỏa làm cho kinh hãi nổi lên mặt biển, bất chấp tất cả đuổi theo tàu của chúng tôi, xét cho cùng, mối họa này rất có thể chính là do hành động mò ngọc của chúng tôi gây nên.

Tôi biết trên đời này chẳng đâu có bán thuốc hối hận, giờ cũng không phải lúc nghĩ ngợi về nguyên nhân gây ra những hiện tượng dị thường này, vả lại tham ô lãng phí là tội lớn, vật đã vào tay Nhất này rồi chẳng có lý đâu mà ném trở lại cả. Giờ nếu muốn thoát khỏi tuyệt cảnh, thì phải đảm bảo Shirley Dương có thể đưa tàu an toàn rời phạm vi lực hút của hải động, đây chính là điểm mấu chốt quyết định sự sống chết của cả đoàn. Tàu Chĩa Ba bị ghìm chặt ở mép hải động, vùng vẫy mãi không thoát, muốn rời đi thật không phải chuyện dễ. Dòng nước xoáy cuộn như có nghìn vạn con ngựa sầm sập lao đi, tàu của chúng tôi xoay chuyển không ngừng trong vòng xoáy ở rìa ngoài hải động, tuy nhất thời khó lòng thoát ra ngay, song chỉ cần duy trì trạng thái hiện tại, không để tàu bị hút lại gần trung tâm hải động, cố gắng kéo dài thời gian cầm cự, đợi đến khi xoáy nước biến mất là được. Trước mắt, e rằng chỉ còn biện pháp ấy là khả thi nhất mà thôi.

Có điều, muốn kéo dài thời gian ở rìa ngoài hải động, nhất thiết không thể để con rắn biển đại tướng kia đến gần tàu chúng tôi được, lỡ bị nó đụng phải, cho dù thân tàu chịu được va đập, nhưng ngộ nhỡ bị lệch trọng tâm mất thăng bằng, chắc chắn sẽ bị cuốn vào xoáy nước sâu không thấy đáy kia ngay. Tôi vẫy tay ra hiệu bảo Tuyền béo xuống khoang dưới chuẩn bị thủy thần pháo, sử dụng đạn tử mẫu có nhồi tảo Bala đuổi con quái vật kia về đáy biển, hoặc không thì dùng luôn đạn nhồi mảnh sắt bắn chết cha nó đi. Tuyền béo thấy Nam châu vào tay rồi lại có nguy cơ không thể mang trở về, sớm đã tích đầy một bụng tức, cơ mặt giật giật không ngừng, hai tròng mắt đỏ vằn lên, thấy tôi bảo dùng đến súng pháo, kéo ngay Minh Thúc đi giúp một tay. Có điều, ba hồn bảy vía của Minh Thúc sớm đã bay đi đâu mất một nửa, Tuyền béo tát cho mấy cái liền chẳng thấy lão có phản ứng gì. Nguyễn Hắc và nữ đồ đệ Đa Linh của ông ta thì vừa thoát chết, chẳng rõ có bị thương gì không, Cổ Thái đang ở trong khoang chăm sóc cho họ. Không có nhân lực dư thừa để làm pháo thủ, Tuyền béo đành gọi Cổ Thái giúp vận chuyển đạn pháo.

Mặt biển lúc nửa đêm, trăng treo lơ lửng trên đầu, ánh sáng bàng bạc phủ khắp mặt nước. Cả đời này chúng tôi chưa từng thấy vầng trăng nào tròn và lớn đến thế, ai nấy đều nảy sinh ảo giác, không khỏi đặt câu hỏi chẳng rõ có phải lực hút vô cùng vô tận trong hải động đã kéo cả vầng trăng trên trời xuống gần mặt biển hơn hay không. Thời tiết trên biển quả đúng như Minh Thúc đã nói trước đó, không có lấy một cơn gió, nhưng bốn phía xung quanh hải động thì sóng lớn cuộn trào, thanh thế kinh người. Trên mặt biển kỳ dị khó tưởng tượng ấy, chúng tôi một mặt liều mạng điều khiển tàu Chĩa Ba thoát ra khỏi vòng xoáy khổng lồ do hải động sinh ra, mặt khác lại phải liên tục nổ pháo xạ kích con rắn biển khổng lồ lẵng nhẵng bám theo con tàu không chịu buông tha.

Lấy hải động đen ngòm đang không ngừng gầm rú, nước xoáy tròn cuồn cuộn làm trung tâm, tàu Chĩa Ba và con rắn biển hung dữ như đang chạy trên một cái mâm xoay. Thân tàu nhấp nhô lên xuống, lắc lư dữ dội, muốn đứng vững trong khoang tàu cũng hết sức khó khăn. Chỉ thấy con rắn biển vượt sóng xông tới, khoảng cách mỗi lúc một rút ngắn, vậy mà pháo Chấn hải lại không thể bắn trúng mục tiêu, từng viên đạn pháo mang theo những đóa hoa lửa rực sáng vạch trên bầu không một đường parabol rồi chìm nghỉm xuống mặt nước.

Cứ trồi lên rồi lại hụp xuống theo những ngọn sóng đen ngòm, con rắn biển cuối cùng cũng đuổi kịp tàu Chĩa Ba của chúng tôi, ló cái đầu rắn hình dạng như đầu trâu ở phía mạn trái tàu, nước biển lạnh buốt xô tới đổ ập xuống thân tàu. Tôi nhìn rõ mồn một, biết sự việc không hay, vội dồn sức rống to vào ống truyền thanh trong khoang tàu, ra lệnh cho Tuyền béo và Cổ Thái nhanh chóng khai hỏa. Nhưng trong tiếng sóng ầm ầm, chính tôi còn không nghe thấy mình đang hò hét gì, cứ như rát cổ bỏng họng mãi hồi lâu mà không phát ra bất cứ âm thanh nào vậy.

Đúng lúc ấy, một làn khói thình lình phụt ra nơi mạn tàu, đạn xuyên giáp như quả cầu lửa bắn vút về phía thân hình đang nhao lên giữa làn sóng của con rắn lớn. Khoảng cách rất gần, bàn tay tôi và Shirley Dương cùng ướt sũng mồ hôi lạnh, chỉ mong bọn Tuyền béo bắn trúng, nhưng viên đạn lại như sao băng lóe lên, xuyên qua màn nước, bay sượt qua cạnh con rắn.

Tôi thấy có cơ hội tốt như vậy mà bọn Tuyền béo còn bắn trượt, tức tối giẫm chân bình bịch. Có điều, phát đạn tuy không trúng đích, song cũng đủ khiến con rắn biển kinh hoảng xoay mình lặn xuống. Cái bóng trắng lấp lóa chìm giữa làn sóng dữ, nhưng thoắt cái đã vòng ra trước mũi tàu, tiến vào góc chết của họng pháo.

Tôi thầm nhủ, phen này thì toi đời, còn chưa bị xoáy nước hải động hút vào, đã bị con rắn biển đáng ghét đụng cho vỡ tàu chết đuối rồi, xem ra cái câu “không phải dân trong nghề thì không biết nghề” cấm chẳng có sai. Mô Kim hiệu úy lại học theo dân mò ngọc đi vớt thanh đầu, đích thực là không thể nào kham nổi, lần này nếu được Mẹ tổ phù hộ cho thoát nạn, sau này nhất định tôi sẽ không làm cái nghề buôn không giấy phép này nữa.

Vì thân tàu vẫn không ngừng xoay chuyển theo những xoáy nước ở ngoại vi hải động, bọn tôi thảy đều váng đầu hoa mắt, lồng ngực tắc nghẹn, chỉ muốn nôn thốc ra, giữa lúc sinh tử thế này mà đầu óc vẫn xoay mòng mòng hỗn loạn nghĩ toàn những thứ vẩn vơ đâu đâu. Trong lúc đó, con rắn khổng lồ đã cong mình chặn trước mũi tàu. Chúng tôi chưa kịp phản ứng gì, bỗng thấy nó đột nhiên quay đầu lao vút đi, bộ dạng như chớp từng khoảnh khắc lặn thật nhanh xuống đáy sâu chạy tháo mạng vậy. Tôi giật thót mình, biết ngay có chuyện chẳng lành rồi. Ngoảnh mặt nhìn lại, thì ra hải động đã thành hình, trong thoáng chốc, cả tàu Chĩa Ba và con rắn biển khổng lồ kia đều đang bị hút vào trong. Rắn biển dường như cũng hiểu được sự đáng sợ của trung tâm hải động, chẳng để ý gì đến con tàu của chúng tôi nữa, lập tức cướp đường bỏ chạy.

Bên tai tôi toàn nghe tiếng nước đổ ầm ầm, ngoài ra không còn bất cứ âm thanh nào khác nữa, nhưng dù sao cũng vẫn còn đôi mắt có thể sử dụng, vừa thấy con rắn biển có hành động dị thường, tôi liền phát hiện chân tàu đột nhiên không xoay theo xoáy nước nữa. Nước trong hải động dường như không có một chút sức nâng nào, tuy dòng chảy vẫn dữ dội đổ dồn xuống đáy sâu, nhưng con tàu của chúng tôi lại đứng yên một chỗ, bắt đầu từ từ chìm xuống, chân vịt phía đuôi tàu xoay tròn tại chỗ, bốn phía xung quanh nước đen ngòm như mực. Mắt thấy đại họa ập xuống đã như lửa sém lông mày, đến cả Shirley Dương cũng không khỏi tái mét.

Nhưng đám Mô Kim hiệu úy chúng tôi, chẳng ai chưa từng trải qua gian nan nguy hiểm, đều biết nếu thực sự có một cơ hội sống sót, thì cơ hội ấy thường xuất hiện vào những thời khắc nguy hiểm nhất. Dù họa ập xuống đầu cũng tuyệt đối không thể từ bỏ hy vọng cầu sinh, chỉ có bình tĩnh trấn định, mới có thể tìm được cơ hội thoát ra. Shirley Dương chắc cũng biết bánh lái đã không còn tác dụng, bèn xông ra ngoài khoang lái, đánh tay ra hiệu cho tôi xông ra theo, rồi co chân chạy về phía mũi tàu trước.

Tôi thấy tấm màn nước dựng đứng bên mạn tàu từ từ bị hút vào hải động, bên ngoài chỉ toàn là âm phong hắc thủy, cảm giác như thể cả tàu lẫn người đang rơi xuống vực sâu vạn trượng, thực không thể hiểu nổi Shirley Dương liều mạng chạy ra phía mũi tàu làm gì. Nhưng tôi cũng biết cô tuyệt đối không phải loại người sợ hãi quá độ thì hoảng loạn muốn nhảy xuống biển tự sát. Trên boong tàu kia dẫu là núi đao biển lửa gì, tôi cũng quyết cùng cô xông tới. Vừa chạy ra khỏi khoang tàu, tôi liền cảm thấy trong không khí dường như có một lực trường vô hình, dồn nén áp bức khiến người ta không thở nổi. Tàu của chúng tôi hóa ra không phải đứng yên, mà đang bị dòng nước đen ngòm từ từ mất đi sức nâng kia dẫn động cho xoay tròn chầm chậm. Dưới tác dụng của lực trường thần bí ấy, trong khoảnh khắc, dường như cả nước biển cũng đã ngưng kết trong bóng tối hư vô.

Tôi nín thở, bám dây thừng theo sau Shirley Dương. Đằng trước mũi tàu xuất hiện một cái bóng trắng mờ mờ, con rắn biển lớn đang liều mạng vùng vẫy tìm đường thoát khỏi hải động. Thì ra Shirley Dương muốn tìm đường sống trong cõi chết. Giờ đây động cơ trên tàu đã không còn tác dụng, nhưng ở mũi tàu còn có một khẩu súng phóng lao dùng để bắt cá voi, tuy con tàu này không thể bắt được cá voi, nhưng mấy người Anh kia lúc cải tạo vẫn lắp thêm thứ ấy vào để đề phòng những lúc cần thiết, bây giờ vừa khéo khẩu súng phóng lao ấy lại phát huy tác dụng. Shirley Dương nhét mũi lao có móc ngược dùng để săn cá voi vào nòng súng, nhắm về phía con rắn biển. Đằng sau mũi lao có gắn dây thừng lớn, chỉ cần móc được vào con rắn kia là có thể lợi dụng sức lực khôn cùng của nó, kéo tàu ra khỏi hải động.

Tốc độ chìm xuống đang tăng lên, ở trong lực trường kỳ bí của hải động này, không ai có thể mở miệng nói chuyện được, Shirley Dương chỉ tay vào con rắn biển cách chúng tôi không xa lắm. Cơ hội này rất có thể chỉ có một lần, tôi càng không dám chần chừ, vội điều chỉnh nòng súng bắn lao rồi bóp cò, mũi lao mang theo dây thừng cắm thẳng vào sống lưng con rắn lớn. Một vòi máu tươi bắn tóe từ tấm thân đầy vảy trắng của nó, sợi dây thừng gắn sau mũi lao lập tức bị kéo thẳng băng.

Không giống tàu Chĩa Ba chỉ có thể dựa vào động cơ chân vịt để chuyển động, con rắn biển kia toàn thân chứa đựng sức lực khủng khiếp của loài hải thú, vừa bị trúng lao vào sống lưng, đau đớn kịch liệt, liền lao vút về phía trước, kéo theo cả con tàu đang bị hải động hút chặt, vạch nên một đường thẳng cắt lìa dòng nước biển đen ngòm. Từng sợi nhỏ bện nên sợi thừng lớn gắn ở mũi tàu bị luồng sức mạnh cực độ kéo căng đến cực hạn. Tuy là loại đặc biệt chuyên dùng để bắt cá voi, cực kỳ bền chắc vì bện lẫn cả tóc người và sợi đay, nhưng căng ra giữa sức giằng co của hải động và con quái thú, sợi thừng dường như vẫn quá mỏng manh, có thể đứt lìa bất cứ lúc nào.

Con rắn biển cũng bị hải động hút xuống, hoàn toàn chỉ dựa vào sức mạnh cùng tài bơi lội trời sinh để gắng gượng vùng vẫy chống cự, không bị xoáy nước nhấn chìm ngay. Có điều, dù to lớn đến mấy, thân thể cũng chỉ là máu thịt, sức có mạnh đến đâu cũng nằm trong giới hạn, nó kéo tàu Chĩa Ba bơi mấy vòng trong dòng nước xoáy, sức đã cùng, lực đã kiệt, nếu bị cuốn vào hải động tối tăm kia, nhất định chỉ có con đường chết. Được thúc đẩy bởi khát vọng cầu sinh mãnh liệt, con rắn dồn hết toàn bộ sức mạnh cuối cùng còn sót lại, vặn vẹo thân mình tựa như rồng thần cởi giáp, thân mình cong lên như cây cung. Liền sau đó, chỉ thấy nó phá sóng lao vút lên, không ngờ lại vùng thoát được khỏi lực hút mãnh liệt của hải nhãn, trong khoảnh khắc đã vượt khỏi lằn ranh giới hạn giữa sinh tồn và tử vong. Thân hình nó vọt lên, liên tiếp xuyên qua mấy tấm màn nước, mang theo cả tàu Chĩa Ba vút cao hơn chục mét so với mặt nước biển, bay trên không trung.

Dưới ánh trăng vằng vặc, con rắn biển dài mấy chục mét tựa rồng bay giữa trời. Tôi và Shirley Dương ở mũi tàu bám chặt vào sợi thừng to nhất, căn bản không dám nhúc nhích, thình lình thấy gió lướt vù vù qua mặt, trước mắt thoắt sáng thoắt tối như thể đang cưỡi thuyền tiên bay lên cung Quảng Hàn ở chân trời xa tít tắp. Trong một thoáng ngẩn ngơ ấy, tôi thấy trăng treo trên đỉnh đầu, cung Thiềm thỏ ngọc tưởng chừng như chỉ vươn tay ra là chạm tới, còn ngỡ rằng mình ở trong ảo cảnh trước lúc lâm chung. Thật đúng là trời xoay đất chuyển, không hiểu sao tự dưng lại ở trên không trung, nhất thời tôi cũng không biết thần trí mình lơ lửng đến tận nơi nào. Nhưng chúng tôi còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì cú nhảy kinh hoàng của con rắn hết đà, cả tàu lẫn rắn rơi vèo xuống vực sâu vô tận dưới hải động.
 
Quyển 6 - Chương 26: Quy khư


Những dòng loạn lưu đen kịt trong hải động đang từ từ biến mất, có lẽ chỉ cần cầm cự thêm độ nửa phút, tàu Chĩa Ba sẽ thoát khỏi cái miệng khổng lồ đang nuốt hết mọi thứ xung quanh. Lúc này, con rắn biển đang kéo tàu đi bỗng uốn mình nhảy vọt trên mặt biển, nhưng thân thể dẫu sao cũng chỉ là máu thịt, tác động của lực kéo khủng khiếp không khỏi khiến gân cốt nó đứt lìa toàn bộ. Trong khoảnh khắc con rắn bỗng mềm oặt tựa tấm vải trắng phất phơ trong gió bão, rồi rơi thẳng xuống.

Sợi thừng bắt cá voi nối giữa mũi tàu Chĩa Ba và sống lưng con rắn biển tuy rất chắc chắn, song đã đến cực hạn chịu đựng, đứt lìa làm hai đoạn. Tôi và Shirley Dương bám vào đoạn thừng nối với mũi tàu, vừa nãy còn loáng thoáng thấy trăng sáng lấp lóa, thân thể như đang đằng vân giá vũ trên không trung. Thế mà nháy mắt con tàu đã rơi, thân tàu cơ hồ dựng ngược, hai chúng tôi bị hất văng ra ngoài, chỉ thấy trước mắt tối sầm, cùng nhau lao thẳng vào vực sâu không đáy.

Dòng loạn lưu do hải động sinh ra cũng đã đến hồi kết, song thanh thế còn lại vẫn hết sức kinh người, tôi cảm giác như đang rơi vào trung tâm một cơn lốc xoáy, dòng nước cuồn cuộn tạo ra áp lực không khí cơ hồ muốn xé toang thân thể tôi ra thành mấy mảnh. Cũng may, trong lúc hoảng loạn, tôi và Shirley Dương vẫn níu chặt lấy nhau, thể trọng hai người gộp lại chưa đến nỗi bị dòng xoáy cuốn bay. Có điều, lúc này đầu óc chúng tôi đã hoàn toàn mất tỉnh táo, bên tai ù ù tiếng sóng, lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo, căn bản không biết mình đang ở nơi nào nữa.

Thân thể đang rơi của chúng tôi đột nhiên va phải một luồng khí lưu nóng bỏng, đà rơi lập tức giảm xuống đáng kể, nhưng nhiệt độ của luồng gió nóng cực cao, chớp mắt đã khiến người ta muốn tắc thở mà chết. Thêm một chốc nữa thôi, cơ thể chúng tôi sẽ bị luồng gió nóng hun cho cạn sạch nước, hóa thành hai cái xác khô. Còn chưa kịp kinh hoảng, thì toàn thân chợt mát rượi, hóa ra chúng tôi đã rơi xuống nước. Tôi bị uống liền mấy ngụm nước biển, cuống quýt tìm bóng dáng Shirley Dương. Cũng may, cô bơi rất giỏi, vừa xuống nước đã tỉnh táo được ngay. Hai chúng tôi đều bị sặc, chẳng kịp nghĩ xem tại sao lại bị rơi vào nơi này, vội rẽ nước nổi lên.

Đầu vừa ló ra khỏi mặt nước, chúng tôi lập tức ho sặc sụa, há miệng tham lam hít lấy không khí trên mặt nước, mở mắt nhìn khắp xung quanh. Chỉ thấy ánh sáng lành lạnh tỏa chiếu, nhưng đó tuyệt đối không phải ánh trăng trên trời. Phỏng chừng chúng tôi đã bị hút vào trong hải nhãn, mà hải nhãn kỳ thực chính là một cái động không đáy trong mạch núi dưới đáy biển. Điều khiến người ta không khỏi kinh ngạc là, xung quanh toàn là nước, mênh mang vô tận, chúng tôi như lọt thỏm giữa một vùng biển lớn sâu không thấy đáy. Mấy chục mét trên cao, chính là hải nhãn đường kính rộng đến mấy dặm, gió nóng hừng hực bốc lên cao chặn đứng nước biển của vực xoáy San Hô đổ vào. Biển lớn dường như đang sử dụng một thứ sức mạnh thần bí để gìn giữ bí mật của mình. Sau khi hút con tàu vào trong, nước biển lập tức ùa tới lấp dấu tích, nếu không phải đã lọt vào trong, e rằng không ai có thể phát hiện ra cảnh tượng nước biển phân đôi thành hai tầng kỳ bí thế này.

Mãi lâu sau, tôi vẫn chưa tỉnh táo hẳn sau cơn xoay chuyển tựa như trời đất đảo lộn ấy, ngoảnh đầu lại thấy tàu Chĩa Ba thủng mấy lỗ lớn trên thân cũng rơi xuống cách chỗ mình không xa, đang chầm chậm chìm xuống. Con tàu gỗ liễu biển ấy vốn có mười sáu khoang ngăn nước nhỏ, thủng một hai chỗ căn bản không ảnh hưởng gì đến vận hành, nhưng lần này có thể thấy nó đã bị tàn phá nặng nề đến mức không thể không bỏ đi mất rồi. Tất cả người trên tàu cũng bị va đập không nhẹ, Tuyền béo đang chỉ huy Cổ Thái kéo mấy người bị thương từ trong khoang tàu ngập nước lên boong.

Tuyền béo thấy tôi và Shirley Dương bơi lên mặt nước, thở phào một hơi, vẫy lia vẫy lịa, chắc là muốn chúng tôi bơi lại chỗ con tàu, giúp một tay chuyển đồ đạc lên xuồng cứu sinh. Tôi đang định bơi đến thì Shirley Dương đột nhiên kéo tay giữ lại. Nhìn theo hướng ánh mắt cô, tôi bất giác hít vào một hơi không khí lạnh. Chỉ thấy cái xác con rắn biển đã đứt lìa gân cốt kia đang nổi dập dềnh ở mé bên, mặt nước phẳng lặng bên cạnh xác rắn ló lên mấy cái vây cá mập như mấy quả ngư lôi bắn sát mặt nước, lẳng lặng rẽ sóng tiến về phía này.

Tôi và Shirley Dương đều không mang theo thuốc xua cá mập đặc dụng, gặp phải bọn này, tuyệt đối không phải dễ đương đầu. Mặt nước ở vùng biển ngầm nhô lên rất nhiều trụ đá, người đồng, có lẽ đều là di tích cổ bị hải nhãn cuốn vào, chỉ lộ trên mặt nước một phần, còn lại hẳn phải chồng chất vô số ở bên dưới. Cũng may, tất cả những tượng đồng, trụ đá khổng lồ bị nước biển xối xuống quanh năm, đa phần dạt cả ra quanh khu vực bên dưới hải nhãn, nên vừa nãy khi chúng tôi rơi xuống không bị va vào, bằng không thì sớm đã vỡ đầu chảy máu chết ngay tại trận rồi.

Thấy lũ cá mập đến gần, Shirley Dương vội chỉ tay về phía trước, chỗ đó có một trụ đá lớn màu xanh nghiêng nghiêng, chỉ nhô lên trên mặt nước một đoạn chừng hai mét, có thể tạm thời leo lên tránh nạn. Tình thế khẩn cấp, tôi nào còn kịp nghĩ ngợi gì, lập tức cùng cô bơi đến, lần lượt leo lên, lập tức rút dao găm thợ lặn mang bên mình ra, đề phòng bọn cá mập bất thình lình nhảy lên khỏi mặt nước tấn công, đồng thời lớn tiếng hò hét bảo bọn Tuyền béo trên tàu chú ý đến động tĩnh dưới nước.

Lũ cá mập cứ lượn lờ bên dưới trụ đá không rời đi, phía bên kia thì tàu Chĩa Ba coi như đã xong đời, chúng tôi bị cuốn vào vực sâu dưới hải động tuy không chết, nhưng đã hỏng mất con tàu, chỉ dựa vào hai cái xuồng cứu sinh bằng cao su muốn cầu sinh giữa biển lớn mênh mang đâu phải chuyện dễ, huống hồ có thể trở lại mặt biển phía trên kia hay không là việc còn chưa nói đến, Shirley Dương không khỏi thở dài một tiếng khe khẽ, nói với tôi: “Anh Nhất à, tôi thấy lần này... chúng ta coi như tiêu rồi...”

Tình trạng của chúng tôi thật đúng là tứ bề khốn đốn, nhiều cá mập thế này thì đừng hòng bơi qua chỗ con tàu tụ họp với mấy người còn lại, chỉ còn biết đợi bọn Tuyền béo chèo xuồng cứu sinh đến tiếp ứng thôi vậy. Tôi nhìn từ xa, thấy cả năm người trên tàu đều đang hành động, xem ra dẫu có ai bị thương thì cũng không nặng lắm, lại nghe Shirley Dương thở vắn than dài vì tình cảnh trước mắt, bèn cất tiếng khuyên giải: “Ngay từ đầu tôi đã cảm thấy sự việc quá thuận lợi rồi mà, việc gì quá dễ dàng sẽ khiến người ta mất cảnh giác, người nào người nấy đều bị thắng lợi làm cho u mê đầu óc cả rồi, giờ như vậy cũng tốt, đặt mình vào chỗ chết để tìm đường sống, đây mới là cục diện mà Mô Kim hiệu úy chúng ta đã quen ứng phó. Cô xem, nơi này rốt cuộc là đâu thế nhỉ?”

Shirley Dương dõi mắt nhìn ra phía xa, giải thích: “Vùng nước này không biết rộng dài bao nhiêu, cũng chẳng rõ là hồ hay biển, nhưng nước ở đây có lẽ vẫn là nước biển. Lúc nãy, khi bị hải nhãn hút vào, nếu không nhờ luồng khí nóng bốc lên hạn chế một phần tốc độ rơi từ trên cao hơn trăm mét, mà cứ thế rơi thẳng xuống mặt biển, dẫu không chạm phải tảng đá nào, thì cũng chẳng khác gì húc thẳng vào bức tường bê tông, chúng ta chết là cái chắc. Hải nhãn dường như là một hiện tượng tự nhiên có quy luật thời gian, những khi trăng tròn có âm hỏa xuất hiện, hải động sẽ sụt xuống, nhưng không lâu sau sẽ lại được dòng nhiệt lưu bên dưới bốc lên khép kín. Nếu chúng ta rơi xuống chậm chỉ giây lát, luồng khí hừng hực mỗi lúc một nóng hơn kia sẽ thiêu cả người lẫn tàu ra tro, nhưng nếu sớm hơn một chút, sẽ không tránh khỏi bị dòng loạn lưu trong hải động xé toang. Thời điểm rơi xuống vừa khéo, không ngờ lại khiến chúng ta thoát được cái chết, cũng coi như là một kỳ tích.”

Tôi thầm nhủ, bị hút vào Quy Khư mà không chết cũng chẳng phải kỳ tích gì, nếu mò được ngọc mà không bị rơi xuống biển, có thể bình yên trở về thì mới gọi là kỳ tích, rơi xuống dưới này không chết, song cũng không ra ngoài được, thực ra phải gọi là đen đủi mới đúng. Có điều, tôi không nói vậy với Shirley Dương, chỉ bảo cô, trong Quy Khư này không có bầu trời, nhưng ánh trăng sao không khác gì thế giới bên ngoài kia cả, theo tôi, những hiện tượng này đều do hình thế của mạch Nam Long tạo nên. Hải khí trong long mạch ngưng kết sinh ra âm hỏa bám vào tầng nham thạch, ánh sáng của hải khí tựa ánh trăng, chính nguồn sáng đặc biệt ấy đã khiến nước bên trong Quy Khư có màu xanh mực, nhưng khum tay vớt lên vẫn trong vắt, có thể thấy là nước biển quá sâu, nên mới hắt lên màu xanh thẫm như thế.

Shirley Dương nghe tôi nói xong, lại lắc đầu: “Vùng nước hải nhãn thông đến, chắc chắn là Quy Khư rồi. Tương truyền, thời cổ ở Quy Khư có mấy tòa thành, cư dân trong đó nắm được bí mật của long hỏa, văn minh đồng thau phát triển đến trình độ rất cao, nhưng các văn vật và di tích để lại cho đời sau thật quá ít, đến nay vẫn chưa có mấy học giả chịu thừa nhận ở ngoài biển từng có một đất nước huyền bí tinh thông thuật chế luyện đồng thau như thế cả. Tôi thấy, cái gọi là long hỏa trong dư mạch Nam Long ấy, thực tế có lẽ là một ngọn núi quặng lớn dưới đáy biển thôi. Ánh sáng xanh mà chúng ta đang thấy, còn cả dòng nhiệt lưu bịt kín hải nhãn kia nữa, đều là hiệu ứng của lớp quặng gây ra cả. Quy Khư này, có lẽ là một mỏ quặng khổng lồ...”

Tôi kinh ngạc thốt lên: “Quả nhiên là sức mạnh của giai cấp công nhân, không đúng... thời đó làm gì đã có công nhân công nghiệp, chắc đều là nô lệ cả thôi. Bọn họ đào được cả một ngọn núi quặng lớn như vậy cơ à?” Có điều, ngay sau đó nghĩ lại, tôi cảm thấy Shirley Dương nói rất có lý. Đó là thời kỳ lực lượng sản xuất vẫn còn tương đối nguyên thủy, đồng thau là vật quý của quốc gia, có vai trò rất quan trọng trong các lĩnh vực như quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa. Để có nhiệt độ cao hòng chế luyện đồng thau, thời đó người ta phải chặt phá một lượng lớn các khu rừng nguyên thủy, chẳng hạn như muốn đúc được một cái đỉnh đồng giống như văn vật cấp quốc gia Tư Mẫu Mậu đỉnh mới được phát hiện gần đây, thì ít nhất cũng phải chặt cả một khu rừng nguyên sinh vạn năm có diện tích bằng Di Hòa viên ở Bắc Kinh mới đủ. Có lẽ, long hỏa sinh ra từ một loại khoáng thạch đặc biệt có thể cháy dưới nước ở trong nham tầng dưới đáy biển.

Tôi nói với Shirley Dương: “Các đảo trong vực xoáy San Hô bị nhấn chìm, nguyên nhân rất có thể là do hành vi khai thác khoáng sản quy mô lớn gây ra. Chúng ta đã xúi quẩy rơi vào tuyệt cảnh kêu trời không thấu, gọi đất chẳng linh, cứ ở chỗ này oán trời trách đất mãi cũng chỉ vô ích, muốn sống sót muốn phát tài thì phải dựa vào chính mình. Theo tôi, chúng ta cứ phải thu thập lại trang bị, kiểm điểm nhân số trước đã, sau đấy mới nghĩ cách tìm hiểu địa hình và hướng dòng chảy bên trong chốn Quy Khư này.”

Chúng tôi bàn bạc vài câu, kế sách đã định, bèn gọi bọn Tuyền béo, Minh Thúc trên tàu mau chóng chèo xuồng qua tiếp ứng. Nhưng bọn họ ở trên tàu Chĩa Ba hành động rất chậm chạp, một là vì thân tàu đã bị nước tràn vào làm nghiêng hẳn sang một phía, đi lại trên boong tương đối khó khăn, hai là vì ngoài các trang thiết bị cần thiết để sinh tồn, mấy người đó còn phải gánh gánh gồng gồng thêm đống thanh đầu mò được dưới biển, chẳng những thế, hình như Nguyễn Hắc còn bị thương khá nặng nữa, có lẽ là gãy xương tay rồi. Tuyền béo xử lý cấp cứu cho ông ta, nối đoạn xương gãy rồi dùng mảnh gỗ cố định lại. Có điều, thằng béo này ra tay không biết phân biệt nặng nhẹ, làm Nguyễn Hắc đau đến ngất lên ngất xuống mấy lần. Đa Linh gạt nước mắt tìm thuốc tê, trên đầu cô cũng đang máu chảy đầm đìa. Minh Thúc thì muốn lôi theo cả cỗ quan tài đá dưới khoang đáy, nhưng cuối cùng cũng đành phải bỏ lại vì không đủ sức, chỉ ôm theo được con nhân ngư ngậm ngọc, cùng với cái ba lô đựng đống ngọc trai, vội bò trở lại boong tàu, liền bị Tuyền béo đụng phải, vươn tay giật luôn cái túi, đeo lên vai mình.

Tôi thấy tình cảnh trên tàu rối loạn hết sức, tuy có lòng muốn giúp nhưng khốn nỗi lại bị đàn cá mập dưới nước ngăn cản, khó mà qua đó được, chỉ đành ngồi một chỗ trơ mắt ra nhìn, hy vọng tàu Chĩa Ba chìm chậm chậm một chút. Có lẽ tại nước biển phía trên đã ngừng đổ xuống, mực nước trong Quy Khư đang từ từ hạ thấp, phế tích thành cổ lộ trên mặt nước mỗi lúc một nhiều hơn, vô số tàn tích của các trụ đá, tượng người bằng đồng, đỉnh đồng... dần dần hiện lên, xa xa còn thấp thoáng một mảng xam xám mờ mờ như ngọn núi. Một tòa cung điện cổ xưa được xây dựa lưng vào núi mờ ảo hiện ra trước tầm mắt chúng tôi, thoạt gần thoạt xa, tựa như ảo ảnh.
 
Quyển 6 - Chương 27: Vực dưới biển - Bụng cá voi


Mực nước bên trong Quy Khư xuống thấp, một vùng cổ thành hoang phế bị nhấn chìm từ dưới mặt nước dần dần hiện lên phía xa. Thành trì xây dựa lưng vào núi, trải qua mấy nghìn năm, nhưng dường như vẫn chưa bị thời gian triệt phá hoàn toàn. Nhìn từ xa, kết cấu chung của tòa thành vẫn còn lưu giữ được nguyên vẹn, phía sau tòa thành, từng cột khói vàng pha lẫn sắc đỏ lững lờ bốc lên nơi đường chân trời. Tôi và Shirley Dương đứng trên tàn tích của một trụ đá đổ quan sát hồi lâu, đều thấy rằng vùng đất dưới biển sâu này thật hết sức kỳ quái ngụy dị, chặng đường phía trước vẫn còn chưa rõ hung cát thế nào.

Tôi thầm nghĩ, thứ bị hút vào bên trong Quy Khư này đều chỉ là những mảnh tàn tích của kiến trúc còn sót lại trên mặt biển, tuyệt đối không thể nào có chuyện cả tòa thành cổ bị sụt lún xuống đây được, trừ phi là bản thân nó đã được xây ở đây rồi. Nghĩ đoạn, tôi bèn bảo Shirley Dương: “Thành cổ của nước Hận Thiên sao lại ở bên dưới hải nhãn thế này nhỉ? Chỗ này cũng bí mật thật đấy, nếu không có Hán gian dẫn đường, bọn xâm lược chắc là chẳng thể nào tìm nổi đâu.”

Shirley Dương nhíu đôi hàng lông mày lại, dõi mắt nhìn tòa thành cổ lộ ra trên mặt nước, trầm ngâm nói: “Hồi nhỏ tôi có nghe một vị thuyền trưởng già kể chuyện cá voi khổng lồ nuốt cả một thành phố, từ đó trở đi, những người trong tòa thành ấy sinh sống bên trong bụng cá voi. Anh xem, địa hình bên trong Quy Khư này có phải rất giống bụng cá voi hay không? Sự kỳ diệu của thiên địa tạo hóa đúng thật là khiến người ta không thể nào tưởng tượng hết được. Sách cổ có ghi: tiến vào Quy Khư, thấy thiên tượng biến hóa theo sự tụ tan của gió âm, cảm giác như ngồi thuyền giữa biển U Minh, bánh lái lạc hướng, nước mênh mênh mang mang, không biết phải làm sao. Đoạn ghi chép này tuy không thể nói là hoàn toàn chính xác, nhưng có thể hiểu là, khi rơi vào chốn ấy, cảm giác như đang ở giữa chốn hỗn độn hư không, điều này ít nhiều cũng có chút trùng khớp với những gì các nhà địa lý học thời cổ đã nói.”

Nghe Shirley Dương nói thế, tôi mới phát giác ra địa hình nơi này đích thực là giống như ở bên trong bụng một con cá voi khổng lồ. Đồng thời, tôi cũng sực nghĩ, trong vùng hoang phế kia, nói không chừng lại có bí mật về chuyện người xưa đốt đèn bói mai rùa cũng nên. Nhất thời, tôi quên béng mất con tàu đã hư hại nặng nề, bản thân và những người đồng hành đang bị vây khốn giữa biển khơi mênh mông, còn muốn tiến vào đó tìm hiểu một phen. Có điều, trong lòng tôi cũng thầm hiểu, làm như vậy thực sự không hợp thời điểm chút nào. Phía trên chúng tôi còn có mấy cái hải nhãn lớn nhỏ không đều, nhiệt độ cao của âm hỏa khiến những hang động dưới đáy biển sinh ra luồng gió nóng xoáy dữ dội, như thể địa nhiệt phun trào, ngăn cản nước biển đổ xuống. Nhưng một khi hải khí hình thành, hải nhãn sẽ lại hút vào Quy Khư này thêm một lượng nước biển khổng lồ nữa. Chúng tôi không thể phán đoán hiện tượng này sẽ còn kéo dài bao lâu, có lẽ là một hai ngày, cũng có lẽ là một hai tháng, tóm lại là giống như có một quả bom hẹn giờ treo lơ lửng trên đỉnh đầu vậy, một khi nước biển đổ xuống, chúng tôi sẽ “người thành cá thành tôm”[39] mất. Việc cấp bách trước mắt, chính là tìm một khu vực tương đối an toàn để chỉnh đốn đội ngũ, suy nghĩ bước hành động tiếp theo.

Đột nhiên, tiếng ồn ào huyên náo trên tàu làm dòng suy nghĩ của tôi đứt đoạn. Tuyền béo và Minh Thúc cũng vừa nhìn thấy kỳ quan xuất hiện trên mặt nước, sau một thoáng ngạc nhiên đến ngẩn cả người, Minh Thúc lại nói, cái túi đựng Nam châu ấy là tính mạng của cả bọn, sao có thể để cho hạng người thô lỗ không biết nặng nhẹ cao thấp như Tuyền béo cầm được. Nói đoạn, liền vươn tay ra tính giật trở về. Tuyền béo dứ dứ cánh tay, làm bộ muốn thụi cho Minh Thúc một quả, khiến lão già Hồng Kông sợ quýnh lên, không dám nói năng gì nữa. Tuyền béo thấy mình có uy, không khỏi lấy làm đắc ý, nghênh ngang xách cái ba lô, quay lại chỉ huy bọn Cổ Thái và Đa Linh khiêng Nguyễn Hắc lên, chuẩn bị chuyển sang xuồng cứu sinh.

Lúc này, vì mực nước vẫn đang dần hạ xuống, tàu Chĩa Ba hư tổn nặng nề sau khi bị tràn nước, mắc kẹt vào một bức phù điêu đá khổng lồ màu xám, nhất thời cũng không lo phải chôn thây dưới đáy nước, nhưng thân tàu lệch hẳn sang một bên, khiến mấy người trên tàu hành động hết sức bất tiện. Cổ Thái và Đa Linh trước tiên khiêng Nguyễn Hắc đặt lên một phiến đá bên dưới thân tàu, sau đó lại chạy đi giúp Minh Thúc hạ thủy xuồng cứu sinh, còn Tuyền béo thì chạy đi chạy lại khuân vác các loại trang bị dùng khi khẩn cấp lên xuồng.

Đang chuyển một bộ đồ lặn, Tuyền béo thình lình bị trượt chân trên phiến đá. Phiến đá ấy có lẽ ngâm nước biển quá lâu, bám đầy các sinh vật nhỏ li ti, hết sức trơn trượt. Cu cậu chân giẫm không chắc, ngã bổ ngửa, cái ba lô trên vai bị đá nhọn cứa đứt, mấy hạt trân châu bên trong văng ra rơi tõm xuống nước, ánh sáng lấp lóa hết sức chói mắt. Tuyền béo vội vàng đứng dậy nhảy xuống nước toan nhặt lên.

Đống đổ nát dưới nước chồng chất lên nhau chẳng theo một quy luật nào cả, các khe hở hình thành bởi tượng đồng, những tảng đá và cả xác tàu đắm chằng chịt tựa như vô số con kênh đào ngang dọc khắp nơi. Tuyền béo thấy vùng nước xung quanh chỗ mình không có cá mập lượn lờ, bèn lội ra chỗ nước ngập đến thắt lưng để nhặt một viên Nam châu bị rơi. Nam châu chiếu sáng một khoảng chu vi trăm bước chân, sáng hơn cả đèn, rơi xuống vùng nước nông nên cũng không khó tìm lắm. Nhưng tôi ở phía xa lại trông rất rõ ràng, chỉ thấy đúng lúc Tuyền béo nhặt được viên ngọc, khoảng chừng mười mét phía trước cậu ta có bọt nước cuộn lên, lộ ra một cái lưng cá đen ngòm phải to bằng cái bàn tám người ăn, vây lưng dựng như lưỡi kiếm, xông thẳng về phía Tuyền béo.

Tôi không biết nó là giống cá dữ nào, cuống cuồng lớn tiếng quát Tuyền béo phải cẩn thận, dưới nước có gì đó. Cổ Thái và Đa Linh trên tàu cũng trông thấy con quái ngư, nháo nhào hét lên: “Hải quái! Hải quái!” đồng thời nhặt súng bắn lao nhắm xuống mặt nước mà bắn. Mũi lao xiên cá bay vút đi, nhưng cũng chỉ khiến đà lao của con quái vật kia bị ngưng lại một chút. Tuyền béo thấy tình thế không ổn, chộp lấy viên Nam châu, bò vội trở lại đống đổ nát phía sau lưng.

Cái lưng cá đen ngòm lộ ra trên mặt nước bơi tới chỗ Tuyền béo thì đã chậm mất nửa bước, bỗng nhiên chìm xuống, mất tăm mất tích. Chúng tôi thấy Tuyền béo thoát hiểm, đều thở phào nhẹ nhõm. Tuyền béo đưa tay sờ xuống mông đít thấy vẫn còn, cũng chẳng buồn nghĩ lại xem vừa nãy mình phải đối mặt với hiểm nguy gì, chỉ tiện tay bỏ viên Nam châu vào ba lô. Lần này cậu ta đã biết khôn, buộc vết rách trên ba lô thật chặt.

Shirley Dương khum tay lên miệng, lớn tiếng nhắc nhở mấy người trên tàu không được lơ là cảnh giác, rồi quay đầu lại hỏi tôi: “Anh Nhất, vừa nãy anh có nhìn rõ con hải quái dưới nước là giống gì không?”

Tôi thấy thần sắc cô có vẻ nghiêm trọng, cũng không dám nói bừa. Vừa nãy khoảng cách hơi xa, con cá dữ ấy lại chỉ lộ ra có cái sống lưng đen ngòm, thực tình không thể phân biệt được nó là giống quái ngư quái thú gì, có điều, nom thể hình ấy, có khả năng là một con cá mập cỡ đại cũng nên? Nhưng vây lưng cá mập làm sao rộng đến thế được chứ nhỉ?

Shirley Dương lắc đầu nói: “Ở vùng biển băng có một loài cá hổ kình, thiên tính hung ác tàn nhẫn, không chỉ có thể săn bắt các loài linh hoạt như cá heo, mà còn biết từ dưới đáy nước đột phá lớp băng, nuốt chửng người hay báo biển bên trên. Vùng Nam Hải cũng có một loài cá voi vây kiếm tương tự như thế, thể hình nhỏ hơn cá voi hổ kình, miệng rộng, lưng đen vây kiếm, bụng tròn dẹt, rất hay nhào lên mặt nước tấn công, có thể trực tiếp lao lên kéo thủy thủ trên tàu xuống nước, cùng với cá hổ kình nổi danh là đồ tể trên biển, hay còn được gọi là cá voi sát thủ. Tôi nhìn sống lưng của con cá kia, rất giống với loài cá voi sát thủ ở vùng nước sâu, nếu đúng là có thứ quái vật biển sâu đó ở đây, chúng ta ngồi xuồng cứu sinh quá gần với mặt nước, thực sự là rất nguy hiểm đấy.”

Chúng tôi vội vàng báo cho bọn Tuyền béo và Minh Thúc, dặn họ cố gắng rời xa mặt nước đề phòng con cá kia nhao lên tấn công. Mấy người bọn Tuyền béo vốn đã hạ xuồng cứu sinh, Nguyễn Hắc bị thương cũng đã được khiêng đến bên cạnh. Cả hội đang chuẩn bị chuyển xong đồ đạc là bỏ tàu lên xuồng, thấy tình hình có biến, đành chuyển người bị thương ra chỗ khác trước, đề phòng nằm gần mép nước quá lại bị con hải quái kia tấn công.

Minh Thúc và Cổ Thái vừa đặt chân lên dốc đá gần chỗ Nguyễn Hắc đang nằm, liền thấy mặt nước bất thình lình dập dềnh nổi sóng, một con cá voi toàn thân đen kịt lao vèo tới, cả nửa thân trên nhao lên bờ, há miệng đớp lấy Nguyễn Hắc rồi quẫy đuôi thoắt cái đã lặn xuống nước. Liền ngay sau đó, từng vệt máu đỏ tươi đã hòa cùng bọt nước trắng xóa nổi lên.

Sự việc diễn ra quá nhanh, trước đó lại hoàn toàn không có một dấu hiệu gì báo trước, cả bọn chỉ kịp kêu lên một tiếng kinh hoảng, không ai kịp ra tay cứu viện, cứ thế mở mắt trân trân nhìn Nguyễn Hắc bị con cá voi há miệng đớp xuống nước. Dẫu lúc này chúng tôi có nhảy theo liều mạng quyết chiến với con cá dữ thì cũng không kịp nữa rồi. Con cá voi lưng kiếm được mệnh danh là tên đồ tể trên biển ấy hung dữ nhường nào chứ? Một khi đã bị nó đớp xuống nước, Nguyễn Hắc lại chẳng phải La Hán kim thân, thử hỏi làm sao có thể sống sót nổi đây?

Chúng tôi còn đang bần thần thì đồ đệ Cổ Thái của Nguyễn Hắc đã ngậm con dao găm vào miệng, bổ nhào xuống nước liều mạng cứu sư phụ, Minh Thúc muốn kéo cậu ta lại cũng không kịp, chỉ giật được một mảnh áo. Thực tình Minh Thúc rất coi trọng nhân tài như Cổ Thái, thấy cậu ta xuống nước liều chết, cuống quýt mắng chửi loạn cả lên: “Cái thằng ngu si đổ đốn kia, không muốn sống à!” Chốn Quy Khư này vây khốn rất nhiều loài thủy tộc, ngoài con cá voi lưng kiếm kia, còn rất nhiều cá mập, tình hình hỗn loạn, cá lớn nuốt cá bé, so với vùng biển vực xoáy San Hô trên kia còn hung hiểm hơn gấp vạn phần.

Tôi đứng trên trụ đá nhìn mà sốt hết cả ruột, thấy sự việc đã đến nước này rồi, đành nghiến răng nói với Shirley Dương: “Chúng ta xuống nước cứu người.” Shirley Dương gật gật đầu: “Được!” Lúc này, chẳng còn ai để ý xem dưới nước có bao nhiêu nguy hiểm nữa, hai chúng tôi nhanh chóng rút dao cầm tay, chuẩn bị nhảy khỏi trụ đá. Phía đối diện, Tuyền béo cũng cầm khẩu súng bắn lao, chực nhảy xuống cứu Cổ Thái.

Cả mấy người đang định mạo hiểm một phen, chợt thấy mặt nước cuồn cuộn, máu đỏ trào lên, rõ ràng dưới nước sâu đang nổ ra một cuộc ác đấu sinh tử. Nước dập dềnh liên tục, chỉ thấy Cổ Thái miệng ngậm con dao găm, tay kéo Nguyễn Hắc toàn thân đẫm máu, mượn sức dòng nước trở lại trên phiến đá. Không biết cậu ta đã làm thế nào, không ngờ lại cứu được sư phụ khỏi miệng con cá voi hung ác.

Chúng tôi nhìn cảnh ấy chỉ biết há hốc miệng ra ngạc nhiên, tuy nói là dân mò ngọc toàn dựa vào bản lĩnh ở dưới nước để mưu sinh, nhưng cái nạn chôn thây trong bụng cá khó mà tránh được, xưa nay chưa từng nghe có kẻ mò ngọc nào thực sự có thể cùng lũ cá dữ chính diện giao đấu cả. Cổ Thái chẳng qua mới chỉ mười lăm mười sáu tuổi đầu, từ nhỏ đã sinh sống trên đảo Miếu San Hô, trông chẳng có gì đặc biệt cả. Chúng tôi thấy cậu ta cứu được Nguyên Hắc, đều khó lòng tin nổi, không khỏi phải nhìn cậu ta với ánh mắt hoàn toàn khác: tên tiểu tử này rốt cuộc có còn bản lĩnh gì mà chúng tôi chưa biết nữa hay không?

Cổ Thái dùng dao găm chém con cá voi lưng kiếm bị thương, cả đàn cá mập vốn đã đói đến đỏ mắt, bị mùi máu tanh kích thích, ồ ạt lao đến tấn công con cá voi, tình cảnh dưới nước hỗn loạn vô cùng. Tôi thấy thời cơ không thể để lỡ, vội gọi Tuyền béo mau đưa xuồng cứu sinh qua, đón tôi và Shirley Dương tụ hợp với cả bọn.

Trên boong tàu Chĩa Ba đã đổ nghiêng, Cổ Thái và Đa Linh ngồi bên Nguyễn Hắc khóc rống lên. Nguyễn Hắc bị con cá voi đớp gần đứt lìa cả hai chân, vết thương rất lớn, không có cách nào cầm máu, hơi thở yếu như đường tơ, xem chừng khó mà sống nổi. Lúc bọn tôi và Tuyền béo đến bên cạnh, Nguyễn Hắc đột nhiên mở bừng mắt. Tôi biết, đây là giây phút bùng sáng cuối cùng trước khi ngọn đèn phụt tắt, có thể ông ta muốn trăng trối điều gì đó, bèn vội nắm chặt bàn tay đã giá lạnh của ông ta, nói: “Ông Hắc, muốn nói gì thì ông cứ nói ra hết đi, chúng tôi nhất định sẽ cố gắng hết sức làm bằng được.”

Nguyễn Hắc hai mắt đã đờ đẫn vô thần, cực nhọc lắm miệng mới hơi mấp máy nói, mãi hồi lâu không thốt ra được nửa chữ. Ông ta chỉ hướng ánh mắt về phía Đa Linh, tôi đoán được tâm ý ấy, bèn bảo ông ta cứ yên tâm, tôi nhất định sẽ giúp Đa Linh tìm được người thân của cô ở bên Pháp.

Shirley Dương cũng rơi nước mắt, mấy thầy trò Nguyễn Hắc đều do cô thuê đến giúp, bằng không ba người họ giờ vẫn đang ở trên đảo đánh cá mò ngọc, cuộc sống tuy rất khó khăn túng thiếu, nhưng ít nhất thì cũng không đến nỗi phải mất mạng thế này.

Nguyễn Hắc dồn hết sức lực rặn ra âm thanh, nói bập bõm hồi lâu câu được câu mất. Bọn họ cả đời đi mò ngọc, cơ hồ như trúng phải tà, biết rõ là đáy biển nhiều hiểm nguy, sóng to gió cả, cá lớn nuốt thuyền, thập tử nhất sinh, nhưng vẫn cam tâm tình nguyện liều chết xông tới, hồi xưa nghĩ mãi cũng không thông, đến giờ hình như đã sực tỉnh ngộ, xét cho cùng, rốt cuộc cất cả cũng chỉ vì tiền mà thôi. Không hứng cơn sóng dữ thì chẳng thể mò được ngọc quý ngàn vàng, đã bước lên con đường này rồi, sống chết thế nào đều chỉ có thể trách bản thân, không quy trách nhiệm cho ai được, một khi đã đen đủi gặp nạn, thì cũng chính là lúc tổ sư gia Ngư chủ không cho bát cơm ăn nữa, khi ấy đành chỉ biết chấp nhận số mệnh thôi chứ chẳng làm gì được.

Nguyễn Hắc sống cả đời nghèo khổ, ngoài hai đồ đệ xưa nay vẫn nương tựa lẫn nhau thì không có mắc míu nào trên thế gian này nữa. Tuy nhiên, suốt một đời mò ngọc, khốn nỗi lại sinh không gặp thời, ông ta chưa từng mò được món thanh đầu thật sự nào cả, chỉ ao ước sau khi chết có thể ngậm một viên Trú nhan châu mà nhắm mắt. Từ thời cổ xưa, đây đã là phương thức mai táng vẻ vang nhất đối với dân mò ngọc, đi đến tận cùng của con đường nhân sinh, ngậm ngọc nhập thổ, coi như cũng có cái để ăn nói với chính bản thân mình, không uổng những gian nan bao năm nơi đầu sóng ngọn gió vào sinh ra tử xuống biển bắt trai mò ngọc.

Tôi nghe chỉ biết thầm thở dài, đã đến nước này rồi mà vẫn còn nhớ đến Nam châu, lẽ nào giá trị quan của đám dân mò ngọc chỉ có thế thôi? Người cũng chết rồi, miệng ngậm châu ngọc phỏng có tác dụng gì chứ? Lẽ nào lúc sống không được hưởng, sau khi chết có thể hưởng dụng được chắc? Có điều, có lẽ đây là tập tục từ ngàn xưa để lại của dân mò ngọc bọn họ, giờ Nguyễn Hắc đang hấp hối, chúng tôi cũng chỉ đành nhất nhất đồng ý, để ông ta được yên tâm mà lên đường.

Nguyễn Hắc thấy tôi đã nhận lời, ánh mắt liền nhìn chằm chằm vào cái ba lô trên lưng Tuyền béo, bên trong ấy chính là minh châu Nam Hải mà ông ta cả đời liều mạng mò kiếm. Bất thình lình, ông ta giơ cánh tay lên chụp vào khoảng không một cái, hơi thở đứt đoạn, cứ thế mà thõng tay về cõi Tây Thiên.

Tôi bảo Tuyền béo đưa một viên minh châu sáng nhất, đoạn dùng thủ pháp lấy ngọc trong miệng chủ mộ của Mô Kim hiệu úy, nâng xương chẩm sau ót Nguyễn Hắc lên, ấn vào xương quai hàm, rồi đặt viên Trú nhan châu vào miệng ông ta, cuối cùng nâng cằm lên, để hai môi Nguyễn Hắc khép lại. Ông ta vừa mới qua đời, thi thể vẫn chưa cứng, rất dễ dàng bỏ viên ngọc vào miệng. Tinh khí của những viên ngọc chúng tôi mò được ở vùng vực xoáy San Hô rất thịnh, để người chết ngậm trong miệng thì dù trăm năm sau, đám người chúng tôi có thành tro bụi hết cả, thi thể ông ta vẫn không bị hóa đi, mặt mũi sẽ hệt như lúc còn sống.

Theo tục lệ xưa, dân mò ngọc nếu được chết yên lành, thì nhất thiết không thể thủy táng. Ở trên biển, tập tục bọc xác người vào rồi thả chìm xuống biển tương đối phổ biến, một là vì để xác chết trên tàu không may mắn, hai là vì thời tiết nóng bức, xác chết thối rữa là nguồn gốc của dịch bệnh. Nhưng dân mò ngọc cả đời đều phải đối mặt với nguy cơ chôn thây trong bụng cá, lúc chết nếu được toàn thây, đa phần đều hy vọng có thể nhập thổ vi an. Tôi thấy ở gần đây chỉ có di tích tòa thành cổ kia là có thể an táng Nguyễn Hắc, bèn bảo Cổ Thái giúp sư phụ cậu ta thay một bộ đồ sạch sẽ, lau rửa vết máu trên người đi.

Cổ Thái và Đa Linh tuổi tác chưa lớn, ít giao thiệp bên ngoài, đột nhiên mất đi người thầy bao năm sớm tối có nhau, gần như sụp đổ, cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn thất thần, nước mắt đầm đìa mà tay chân luống cuống chẳng biết làm sao. Tôi phải khuyên bảo mãi cả hai mới tạm thời nén nỗi bi thương để chỉnh trang di thể cho Nguyễn Hắc.

Minh Thúc thấy tôi nhét viên Nam châu đẹp nhất vào miệng Nguyễn Hắc, hình như hơi xót của, cứ vòng đi vòng lại lượn lờ quanh xác chết, song lại không tiện nói trắng ra, chỉ đành nhẫn nhịn chịu đựng nỗi đau cắt da cắt thịt ấy. Có điều, dường như lão đột nhiên phát hiện ra chuyện gì đó không bình thường, thình lình chụp lấy cánh tay tôi, kéo ra phía sau lưng Cổ Thái: “Chú Nhất, chú xem thằng nhãi Cổ Thái kia... có gì... có gì không bình thường không?”

Tôi nhìn Cổ Thái quỳ dưới đất đang chỉnh trang cho Nguyễn Hắc, nửa thân trên để trần, vì áo đã bị Minh Thúc xé toạc lúc cậu ta nhảy xuống nước cứu người, để lộ ra những hình xăm chi chít. Những hình xăm này đủ màu sắc lại hết sức phức tạp, chủ yếu toàn là các hình sóng to gió lớn ngư long dưới biển đuổi theo hỏa châu..., khí thế ngập trời, toát lên một vẻ ảo diệu khó nói. Vùng Nam Dương rất phổ biến tục xăm mình, nhưng hình xăm toàn thân mà lại kỳ công tinh xảo như Cổ Thái thì thực sự hiếm thấy, song tôi cũng không hiểu ý tứ của Minh Thúc cho lắm. Có điều, tôi lại sực nghĩ: Gã thiếu niên này có thể xuống nước vật lộn với cá voi sát thủ, một dân mò ngọc tầm thường có thể làm được hay sao?

Nghĩ tới đây, tôi lập tức giật mình, vội hỏi Minh Thúc nói vậy là có ý gì? Lẽ nào Cổ Thái có gì không ổn? Minh Thúc liền ghé miệng sát tai tôi thấp giọng thì thầm: “Tôi thấy thằng nhóc Cổ Thái này thân thế không phải tầm thường, rất có thể là rồng trong biển...”
 
Quyển 6 - Chương 28: Rồng


Tôi nghe Minh Thúc nói thế, lại ngoảnh nhìn Cổ Thái, ý nghĩ xoay chuyển trong đầu, thầm nhủ làm gì có chuyện đó, bản lĩnh dưới nước của Cổ Thái mặc dù hơn người, dám quần nhau với cả cá voi cá mập, nhưng cậu ta dẫu sao cũng chỉ là người thường có máu có thịt, làm sao mà là rồng riếc gì được chứ? Rồng chẳng qua chỉ là truyền thuyết vô căn cứ lưu truyền trong đám dân chài và dân mò ngọc, lẽ nào trên đời này lại có rồng thật? Lão Minh Thúc xem chừng bốc phét hơi quá đà rồi Thằng nhóc này cùng lắm cũng chỉ là một người đến từ Atlantic[40] mà thôi, điểm này thì tôi đã phát hiện ra ngay từ đầu rồi. Có điều, so với thần tượng Mark Harris[41] năm đó nổi tiếng khắp Trung Quốc thì cậu ta kém xa, trông chẳng có vẻ gì là anh tuấn hào hoa phong nhã, mà vừa gầy vừa đen, trông như con lươn vậy. Tôi đoán Cổ Thái có thiên phú lặn nước, phỏng chừng cũng như anh Mark Harris kia vậy, đều là “một khúc gỗ từ biển Alantis trôi vào”.

Minh Thúc nói: “Tôi không bốc phét tí nào đâu, hai đứa nhóc Cổ Thái và Đa Linh này, thân thế trước đây của chúng nó thế nào chúng ta cũng chỉ biết đại khái qua loa thôi. Cổ Thái là cô nhi trên đảo Miếu San Hô, nhưng chú xem hình xăm trên người cậu ta có phải rất kỳ quái hay không? Tôi đã lăn lộn nửa đời ở vùng biển Nam Dương, cũng chưa từng thấy ai ở dưới nước gặp phải cá voi lưng kiếm mà vẫn có thể trở về, lại còn không sứt mẻ tẹo nào. Lấy kinh nghiệm của Minh Thúc này ra phán đoán, giờ chúng ta bị hút vào Quy Khư, có lẽ Cổ Thái này sẽ giúp đỡ được rất nhiều đấy. Nói không chừng, cậu ta còn có bản lĩnh nhìn sắc nước nhận huyệt rồng nữa cơ.”

Tôi và Shirley Dương đưa mắt nhìn nhau, mặc dù là thế, thì cũng không thể nói thằng nhóc Cổ Thái này là rồng không phải là người được. Shirley Dương nói, tương truyền Ban Sơn đạo nhân thuở trước biết nhìn sắc nước nhận huyệt rồng cực kỳ tinh thông, có điều phương pháp ấy giờ đã thất truyền quá lâu rồi, làm gì có cái lẽ Cổ Thái lại hiểu được kỳ thuật cổ xưa này? Từ trước đến nay, hình như cậu ta đều đi theo Nguyễn Hắc học nghề, bao ngón nghề mò ngọc tìm trai chỉ từ sư phụ này mà ra, những phương kỹ của Ban Sơn đạo nhân, Nguyễn Hắc sao có thể nắm được mà truyền thụ?

Minh Thúc thấy chúng tôi đều không tin, đành giải thích tường tận hơn, vén lộ một số truyền thuyết xưa hiếm người biết đến của dân mò ngọc. Minh Thúc hiểu rất rõ về các nghề nghiệp trên biển, nên mới nắm lai lịch xuất thân của cái nghề mò ngọc này. Mô Kim hiệu úy và dân mò ngọc, tuy đều thuộc bảy mươi hai nghề đã có từ thời cổ đại, nhưng giữa hai bên tồn tại một điểm khác biệt lớn, chính là Mô Kim hiệu úy biết quan sát tình thế đưa ra phán đoán, biết tiến biết lui, còn dân mò ngọc xưa nay vẫn luôn liều mạng, đem tính mạng ra đổi lấy trân châu, không chết không về. Tổ sư gia của họ chính là Long vương hay còn gọi là Ngư chủ. Tất cả những ngón nghề và quy tắc nghề nghiệp của dân mò ngọc đang nói tới ở đây hầu hết phải đến thời nhà Minh mới bắt đầu định hình. Nhưng trên thực tế, cái nghề mò ngọc trai này chính thức xuất hiện trước thời Minh rất xa, có truyền thống và lịch sử hết sức lâu đời. Tương truyền, thời Tần Hán, ở Nam Hải có tộc người gọi là Long nhân, đời đời đều sống trên thuyền nhỏ, để mình trần, tóc xõa. Bọn họ xuống biển dễ dàng như không, dũng mãnh tuyệt luân, cực giỏi lặn nước tìm ngọc, xăm hình rồng hình cá khắp thân thể. Họ tự cho mình là giống rồng, một mực không tuân theo sự quản chế của triều đình.

Về sau, vì môi trường sinh tồn ngày một khắc nghiệt, người tộc Long nhân không thể không thuận theo sự chiêu an của triều đình, bắt đầu được gọi là “Đản nhân”[42], chuyên trách mò châu tìm ngọc dưới biển. Đản nhân chính là tiền thân của dân mò ngọc sau này, từ nhỏ đã xăm hình rồng hình cá lên người, lúc lặn nước luôn để mình trần, nghe nói hình xăm ấy gọi là “Thấu hải trận”, có thể khiến các loài cá dữ dưới biển trông thấy ngỡ là thủy tộc mà không tấn công làm hại. Đản nhân có thể chất rất đặc biệt, những năm tháng đằng đẵng lặn dưới đáy biển mò ngọc bắt cá đã khiến các thế hệ đản nhân sau này sinh ra có đôi mắt phủ lớp màng mỏng, những vùng đáy biển đan xen vô số dòng chảy ngầm dữ dội đối với họ thật chẳng khác nào đường lớn thênh thang trên mặt đất.

Đản nhân thời xưa bị giai cấp thống trị bóc lột tàn khốc, bản tính lại tương đối dã man khát máu, trời sinh đã có tính cách phản nghịch, dù là săn bắt hải quái hay tìm châu mò ngọc, đều cực kỳ liều mạng, thản nhiên không coi cái chết ra gì, nên hễ bị áp bức quá độ là sẵn sàng nổi dậy giết quan tạo phản, hết đời này đến đời khác cứ phản rồi lại hàng, hàng rồi lại phản. Dân tộc cổ xưa sống trên biển này nhân số không đông, lực lượng có hạn, khó làm được chuyện gì lớn lao, cuối cùng bị quan phủ truy giết đến độ gần như tuyệt tích, dần dần biến mất khỏi dòng chảy lịch sử. Tuy nhiên, hoàng đế và các quan lại quý tộc vẫn cần rất nhiều minh châu, nên công việc của Đản nhân liền do các ngư dân nghèo khổ vùng duyên hải thay thế đảm nhiệm, dần dần mới hình thành nên tầng lớp dân mò ngọc hiện nay.

Dân mò ngọc có các ngón nghề và quy tắc hành nghề, về cơ bản cũng tương tự như của các Đản nhân thời cổ đại, có thể nói là trông mèo vẽ hổ, nắm được cái vỏ bề ngoài, nhưng bao nhiêu tuyệt chiêu của Đản nhân cổ đại họ đều không học được, hai bên cao thấp không thể đặt cạnh nhau mà so sánh. Chỉ là, cuộc sống của dân mò ngọc vẫn tàn khốc khắc nghiệt như Đản nhân thuở xưa, luôn bị quan binh giám sát nghiêm mật, như thể có thanh đao luôn lơ lửng trên đầu. Dẫu đáy biển hung hiểm đến đâu, họ vẫn phải buộc đá vào thân lặn xuống tìm ngọc, mười người ra đi đến chín kẻ không trở về. Cũng có kẻ không cam tâm đem Nam châu phải đổi bằng tính mạng đi cống nạp, giết trai lấy ngọc xong liền nuốt luôn vào bụng, nhưng một khi bị phát hiện, sẽ phải đối mặt với mối họa mổ bụng. Quan binh trói banh tứ chi kẻ phạm tội, rạch từ dạ dày xuống hậu môn, cắt ruột tìm tang vật xong, vứt xác xuống biển cho cá ăn. Dân mò ngọc đa phần đều là hạng khốn cùng không còn kế khác để sinh nhai, hoặc là tội phạm đi đày, nên dù có chết thảm thêm bao nhiêu nữa, cũng chẳng có ai buồn nhíu mày.

Shirley Dương nghe tới đây, không nén nổi một tiếng thở dài: “Đám vương công quý tộc sở dĩ yêu thích vật này chẳng qua cũng bởi xưa nay vật hiếm thì quý, càng hiếm lại càng quý, lại càng tôn địa vị, thân phận và tài sản của họ lên cao hơn nữa, nhưng chẳng ai biết, bao nhiêu châu ngọc ấy đều được đổi lấy bằng tính mạng của dân mò ngọc vùng Nam Hải này sao? Họ đeo những thứ phải đánh đổi bằng vô số sinh mạng trên người như thế, chẳng lẽ không sợ oan hồn bám theo hay sao?”

Minh Thúc nói, thế thì có gì là lạ, đấy chính là đặc quyền của hoàng đế thiên tử. Dưới gầm trời này, có chỗ nào không phải đất của vua đâu, vạn người luyện đan chỉ để một người thăng thiên, nếu chẳng phải vậy thì làm sao có nhiều kẻ muốn làm hoàng đế như thế? Đến cả những hạng đen đủi xúi quẩy, chẳng phải cũng thường tự an ủi mình rằng, hoàng đế là ghế luân phiên, phong thủy mỗi năm mỗi khác đấy hay sao? Có thể thấy, quyền và lợi, là những thứ mà đám phàm phu tục tử không ai không khao khát mong cầu.

Tôi thầm nhủ, cái lão Minh Thúc này chỉ cần nói năng vòng vo là chắc chắn có ý đồ chi đây, lải nhải suốt một lúc lâu về lai lịch nguồn gốc của dân mò ngọc với cái nghề này, không hiểu rốt cuộc là muốn nói gì nữa? Thời cổ đại, rồng có rất nhiều hàm nghĩa, ngoại trừ là tượng trưng cho thiên tử, với những người trong nghề phong thủy, rồng chính là mạch núi mạch sông, còn ra đến ngoài biển, ý nghĩa của nó lại đổi khác đi. Lẽ nào, Đản nhân thời Tần Hán lại là rồng ở trong biển? Nghĩ tới đây, tôi bèn nói với Minh Thúc và Shirley Dương, trong xã hội tại sao lại tồn tại hiện tượng người bóc lột người chứ? Muốn tìm hiểu nguyên nhân có thể tham khảo cuốn Luận về khởi nguyên và cơ sở của hiện tượng bất bình đẳng của loài người do Rousseau[43] trước tác, đó là vấn đề mà các nhà triết học và nhà xã hội học cần nghiên cứu, chúng ta cứ nói tiếp chuyện về Đản nhân thì hơn. Hình xăm trên người Cổ Thái đích thực là không phải tầm thường, lẽ nào cậu ta lại là hậu nhân của tộc người đó hả?

Minh Thúc nói lão cũng suy đoán thế, tuy hiện nay trên đảo vẫn còn rất nhiều người mưu sinh bằng nghề mò ngọc. Ngoài đánh cá và mò ngọc, thi thoảng bọn họ cũng đi vớt thanh đầu. Những người này dày dạn kinh nghiệm hoạt động dưới nước, chỉ cần mấy thứ trang thiết bị cổ lỗ thô sơ cũng có thể làm nghề được rồi, nên thường xuyên được các đội trục vớt thuê mướn. Tuy nhiên, Đản nhân đích thực gần như đã tuyệt tích mấy trăm năm rồi, dẫu có rơi rớt hậu duệ, sợ rằng cũng hiếm như sao buổi sớm. Theo lời Nguyễn Hắc lúc chưa thiệt mạng, hình ngư long hải thú trên người Cổ Thái đều do cha mẹ ruột của cậu ta xăm lên. Cổ Thái trời sinh đã có mắt cá, bơi lặn cực giỏi, những tố chất ấy, dân chài hay dân mò ngọc bình thường tuyệt đối không thể nào có được. Mới rồi cậu ta xuống nước cứu người, động tác cực kỳ nhanh nhẹn dũng mãnh, người thường sao có thể sánh kịp? Bởi thế, Minh Thúc mới dám phán đoán, Cổ Thái chính là hậu duệ của Đản nhân năm xưa.

Theo truyền thuyết xưa, Đản nhân thời Tần Hán quanh năm sinh sống trên biển, vật lộn với sóng gió để mưu sinh, nam nữ đều siêu giỏi mò ngọc. Trong bọn họ, những kẻ xuất chúng, toàn thân xăm Thấu hải trận, đàn ông gọi là “Long hộ”, đàn bà gọi là “Thát gia”, đều được coi là con cháu của Long vương Ngư chủ. Cổ Thái rất có khả năng chính là một Long hộ.

Minh Thúc phiêu bạt trên biển cả nửa đời người, vậy mà ngoài Cổ Thái, lão cũng chưa hề gặp được Long hộ nào khác. Hình xăm khắp người Cổ Thái trông tựa như một thứ bùa chú cổ xưa, rất có thể đã được xăm lên cùng một loại bí dược truyền dưới da, giúp cậu ta bơi lặn vượt sóng không khác nào người thường ở chốn đất bằng, không bị lũ hải quái làm hại khi ở dưới nước. Có điều cha mẹ Cổ Thái qua đời quá sớm, bộ hình xăm Thấu hải trận lưu truyền đã mấy nghìn năm cùng phương pháp xăm mình và bí dược tuyệt mật của Đản nhân e là đã chịu số phận hoàn toàn thất truyền rồi. Cổ Thái có thể là Long hộ cuối cùng trên thế giới này cũng nên.

Long hộ và Thát gia có sở trường “nhìn sắc nước nhận long huyệt”, “vào long cư cướp long châu”, toàn những kỹ năng cực khó trong nghề mò ngọc; đặc biệt với Long hộ, mấy ngón nghề như nhìn sắc nước, nhận huyệt, đoạt ngọc đều là bản lĩnh trời sinh cả rồi. “Long huyệt, long cư” ở đây là tiếng lóng chỉ những con trai già ngậm ngọc quý. Minh Thúc cho rằng, trong chốn Quy Khư này có rất nhiều dòng chảy hỗn loạn, địa hình phức tạp khôn cùng, cứ quờ quạng mò mẫm thì cầm chắc cái chết, nhưng nếu có Cổ Thái trợ giúp, cả bọn dù tiến hay lùi, ít nhiều cũng có thêm được mấy phần vững dạ.

Tôi nghe xong, lập tức không đồng ý với Minh Thúc. Cho dù Cổ Thái có đúng là Long hộ hậu duệ của Đản nhân, thiên phú hơn người, nhưng mới có mười sáu tuổi đầu, không thể để cậu ta mạo hiểm được, mà cũng tuyệt đối không thể đem tất cả hy vọng gửi gắm vào một mình cậu ta. Vả lại, lời lẽ của lão Minh Thúc này xem ra còn lấp ló một ý tứ khác, chính là sau này để cho lão dẫn dắt Đa Linh và Cổ Thái. Sư phụ họ đã chết, Minh Thúc hẳn rất muốn sau này bảo bọc hai kẻ mồ côi, rồi dẫn họ đi vớt thanh đầu với lão. Chuyện này thì cả tôi và Shirley Dương đều không thể chấp nhận. Cha đẻ của Đa Linh là một sĩ quan quân đội Pháp, sau chiến dịch Điện Biên Phủ[44], quân Pháp cuống cuồng rút khỏi Việt Nam, gia đình cô từ đó đã thất tán. Đối với Shirley Dương, việc tìm người thân của Đa Linh ở Pháp nào phải chuyện khó khăn gì. Còn Cổ Thái tất nhiên có thể theo sư tỉ của cậu ta cùng sang Pháp sống những ngày bình yên, việc quái gì phải theo lão giặc già Minh Thúc kia mạo hiểm lang thang trên biển vớt thanh đầu chứ.

Chúng tôi bàn bạc mấy câu, cuối cùng không đáp ứng thỉnh cầu của Minh Thúc. Thấy Tuyền béo đã dùng vải dầu bọc thi thể Nguyễn Hắc lại xong xuôi, cả bọn liền định nhân lúc bầy cá mập đang vây công con cá voi vây kiếm, tranh thủ chèo xuồng cứu sinh ra chỗ di tích thành cổ. Lúc này nước trong Quy Khư đã gần như bình ổn, mực nước không hạ thêm nữa, phế tích và xác tàu đắm phơi ra nhiều không đếm xuể, các loại xác tàu niên đại khác nhau chất chồng dưới nước, bất luận là tàu buồm lớn hay chiến hạm gắn động cơ, chỉ cần gặp tai nạn bị đắm ở phía Đông vùng biển vực xoáy San Hô, thì nhất loạt đều bị hải nhãn hút vào vùi xác trong Quy Khư.

Phóng mắt nhìn bốn phía, cảm giác như đã tiến vào nghĩa địa tàu đắm, dưới nước sâu lại càng không biết có bao nhiêu xác tàu và cả những đống đổ nát của nước Hận Thiên. Sau khi mực nước hạ xuống, bên cạnh tàu Chĩa Ba bị mắc cạn, trên một tảng đá lớn lù lù hiện ra phần mũi của một du thuyền màu trắng, xem chừng cũng mới bị đắm chưa lâu, không gỉ sét mục nát như những con tàu khác, thân tàu trắng hết sức nổi bật trên nền nước xanh đen. Từ lúc lên xuồng cứu sinh, chúng tôi đã chú ý đến cái mũi tàu ló lên mặt nước này rồi, thoạt nhìn đã có vẻ rất quen mắt, có thể đó chính là mục tiêu tìm kiếm chủ yếu của chúng tôi trong chuyến đi này, tàu Mariana.

Trước khi khởi hành ra biển, Shirley Dương đã chuẩn bị một số ảnh và tư liệu về tàu Mariana, lúc này vội vàng lấy ra đối chiếu, các đặc điểm đều trùng khớp. Con tàu này thuộc về một vị phú hào Nam Dương, không lớn lắm, lúc này đuôi tàu chĩa xuống dưới, chìm nghiêng nghiêng, dưới đáy tàu dường như có vật gì đó gồ lên chống đỡ.

Bọn tôi phát hiện ra con tàu đắm chỗ Tần Vương Chiếu Cốt kính, bất giác dừng hết công việc. Có lẽ đây chính là cơ hội duy nhất để vớt món hàng quý này, hiềm nỗi, ở trong hoàn cảnh này đến cái thân mình chúng tôi còn không lo nổi, mà nói không chừng hải nhãn sẽ lại hút nước vào Quy Khư, hoặc âm hỏa sẽ bùng lên lần nữa bất cứ lúc nào, địa hình bên dưới thì phức tạp vô cùng, dòng chảy ngầm hỗn loạn, cá mập thoắt ẩn thoắt hiện, muốn lặn xuống chui vào con tàu phải mạo hiểm rất lớn.

Tôi thầm tính toán trong đầu một chút, cảm thấy cũng có thể đánh liều thử một phen, mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, Quy Khư chống đỡ được toàn bộ đều nhờ vào hải khí ngưng tụ sau khi âm hỏa bùng cháy, nhưng nom hải tượng ở vùng biển vực xoáy San Hô hết sức bất thường, sợ rằng long khí của dư mạch Nam Long dưới biển sắp tận, nơi này sớm muộn cũng sẽ bị nhấn chìm. Để tới khi xác tàu bị vùi xuống đáy sâu, thì nó vĩnh viễn không bao giờ còn cơ hội thấy ánh mặt trời nữa, nếu đang lúc này mà vẫn do dự không dám tiến lên, tương lai nhất định sẽ phải hối hận. Nghĩ tới đây, tôi nghiến răng, khó khăn lớn bằng trời cũng phải liều mạng khắc phục, kết luận chỉ có một chữ: “Vớt!”

Việc không thể chậm trễ, đứng trước tình thế biến đổi bất ngờ, tôi nhanh chóng sắp xếp nhiệm vụ cho cả nhóm. Tôi vẫn luôn cảm thấy lão già Minh Thúc ôm bụng bất mãn với sự nghiệp mò ngọc, có ý đồ phá hoại những sắp xếp chiến lược của đội hình liên hợp giữa Mô Kim hiệu úy và dân mò ngọc, vì vậy quyết định lão phải xuống nước với tôi, tôi đi tới đâu thì lão theo tới đó.

Minh Thúc vừa nghe phải mạo hiểm lặn xuống nước, sém chút nữa thì quỳ xuống cầu xin. Lão già này cũng thật rất giảo quyệt, biết có van vỉ tôi và Tuyền béo cũng vô dụng, bèn nhắm vào Shirley Dương, lèo nhèo đòi ở lại trông thi thể Nguyễn Hắc và đống đồ quý, đảm bảo sẽ không có sai sót gì. Lão viện ra đủ thứ lý do, nào là nhà có người già như có bảo bối, đội trục vớt có thể thiếu ai chứ không thể thiếu được thuyền trưởng, mà đội trục vớt cũng tuyệt đối không thể không có cố vấn hàng hải dạn dày kinh nghiệm như lão được. Cố vấn cũng chính là chuyên gia, không nên gia nhập vào nhóm hành động mà cần phải ở khu vực an toàn, trợ giúp cho nhóm hành động về kỹ thuật và thông tin, giúp đỡ hoạch định ra các kế hoạch và chiến thuật.

Shirley Dương mềm lòng, thấy bộ dạng Minh Thúc cũng đáng thương, bèn nói với tôi: “Bỏ đi anh Nhất, Minh Thúc cũng lớn tuổi rồi, để ông ấy lại chăm sóc cho Đa Linh và Cổ Thái thì hơn. Dưới nước rất nguy hiểm, anh cần nhất là một trinh sát hải quân, tôi đi với anh là tốt nhất.”

Tôi đành đồng ý, dù sao thì Mô Kim hiệu úy cùng hành động, hô ứng phối hợp đều đã ngầm hiểu nhau, tình hình dưới nước có phức tạp mấy cũng ứng phó được, cùng lắm là rút lui rồi nghĩ cách khác. Quyết định xong, tôi và Tuyền béo liền đi sắp xếp trang bị, chuẩn bị lặn xuống vớt Tần Vương Chiếu Cốt kính.

Chúng tôi đang sắp xếp đồ đạc thì Cổ Thái đột nhiên đứng bật dậy, hỏi mượn con dao lưỡi cong của Minh Thúc. Cậu ta nói, dân mò ngọc bọn họ ngoài việc chính là mò ngọc trai ra thì còn vớt thanh đầu dưới đáy biển nữa, cậu ta tuy chỉ là lính mới, nhưng Nguyễn Hắc đã chết, cậu ta cũng không muốn bị mọi người coi như đứa trẻ mới lớn, hy vọng có thể thay thế sư phụ, ít nhiều giúp đỡ đội trục vớt được việc gì đó, cũng là để vong linh sư phụ trên trời được yên lòng.

Tôi nhìn hình xăm Thấu hải trận kỳ dị trên tấm lưng trần của Cổ Thái, biết rằng thủy tính của cậu nhóc này hết sức cao siêu, ở dưới nước, tôi với Tuyền béo đều không thể bì được. Cậu ta đã có gan đứng lên giúp sức, đối với chúng tôi, cũng là một trợ thủ rất tốt, vậy nên tôi lập tức đồng ý, đồng thời dặn dò cậu ta không được tự ý hành động, một khi xuống dưới nước, tiến hay lùi, tất cả đều do trinh sát hải quân Shirley Dương chỉ huy.

Bốn người chúng tôi đeo kính lặn, đang định xuống nước thì Shirley Dương chợt nhớ ra việc gì đó, lại dặn dò cả bọn một lượt. Cô bảo, nếu thực sự tìm được Tần Vương Chiếu Cốt kính bên trong xác tàu Mariana, thì ngàn vạn lần cũng không thể soi vào mặt sau của tấm gương ấy, bằng không ắt sẽ bị khí âm trong tấm gương xâm nhập, không chết cũng bị thương.
 
Quyển 6 - Chương 29: Nghĩa địa tàu đắm


Shirley Dương đột nhiên đề cập đến việc không thể soi vào mặt sau của tấm gương Tần Vương Chiếu Cốt kính, tôi mới nhớ ra lúc ở Bắc Kinh, giáo sư Trần đã từng đặc biệt gặp riêng tôi để dặn dò việc này. Có điều, sau khi ra khơi gặp phải khá nhiều chuyện, Nguyễn Hắc lại vừa qua đời, nên nhất thời tôi cũng không nghĩ tới, chỉ lo mau mau chóng chóng vớt món thanh đầu ấy lên khỏi con tàu đắm. Lúc này nghe Shirley Dương nói thế, tôi mới sực nhớ, tấm gương đồng ấy từng dùng để trấn trên người cương thi không dưới nghìn năm, bên trong tích tụ đầy hơi xác chết, vốn là một vật hết sức bất tường.

Nhưng Tần Vương Chiếu Cốt kính đồng thời cũng là một món quốc bảo quý giá vô cùng. Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc đến giai đoạn của Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Trung Quốc có đến mấy chục tấm gương cổ mang đầy sắc thái truyền kỳ thần bí, trong đó Tần Vương Bát kính là nổi tiếng nhất, đều là vật truyền từ thời Chiến Quốc. Trong tám tấm gương này, có một tấm gọi là Tam Thế kính, người đứng trước tấm gương đồng này có thể trông thấy hình dáng của mình ở kiếp trước, kiếp này và kiếp sau, vậy nên được gọi là Tam Thế kính. Vật này có tồn tại hay không, giờ các nhà khảo cổ học cũng chưa thể xác minh được, rất có thể cũng giống như chiếc Pháp Gia cổ kính, chỉ là một tấm gương cổ có ý nghĩa tượng trưng mà thôi. Trong thời đại của Bách gia chư tử ấy, các loại đồ vật đại diện cho tư tưởng học thuyết của một nhà hay một vị hiền nhân nào đó là hết sức phổ biến. Có điều, đó cũng chỉ là suy đoán của các nhà sử học, còn tấm gương Tam Thế đó thì sớm đã bị hủy trong cuộc chiến chư hầu cuối thời nhà Hán, không còn trên đời này nữa rồi.

Trong Tần Vương Bát kính, duy chỉ có Chiếu Cốt kính là có thể xét ngang hàng với Tam Thế kính. Tương truyền, thời xưa có một cái đầm, nước vừa sâu vừa lặng, trong nước thường có khí hồng biến ảo. Đầm nước ấy có rất nhiều cá, dân chúng quanh vùng đều sống bằng nghề đánh bắt cá, quanh năm không phải lo đói khổ. Đột nhiên, một hôm trời nổi cơn gió, sấm chớp đì đùng, một quầng sáng trắng từ trên trời chiếu thẳng xuống đầm, từ đó trở đi, cá trong đầm tuyệt tích, không còn một con nào nữa. Dân chúng bèn cử những người giỏi bơi lội nhất lặn xuống tìm kiếm tung tích đàn cá, nhưng bao nhiêu người đi là bấy nhiêu người không trở về, khiến cho ai nấy đều kinh hãi khôn cùng. Để tra rõ căn nguyên, mọi người đành tìm đủ mọi cách tát cạn nước đầm, cuối cùng phát hiện ra một con cá mè lớn ở đáy đầm, toàn thân phủ vảy ngọc, xem chừng có vẻ sắp thành tinh đến nơi. Các loài thủy tộc trong đầm, không phân lớn nhỏ, tất cả đều đã bị con cá mè này xơi tái.

Ngư dân giết con cá mè, mổ bụng ra liền phát hiện được vô số xác người xác cá đã thối rữa láo nháo bên trong. Lúc phân tách các thi thể, có người vô ý tìm thấy một tấm gương cổ, mặt sau có thể soi được cả xương cốt cùng lục phủ ngũ tạng, dòng máu lưu động trong cơ thể người ta, hình ảnh hiện lên hết sức rõ rệt. Mọi người cho là vật quý bèn hiến lên trên, về sau, nước Tần diệt sáu nước thống nhất thiên hạ, tấm gương Chiếu Cốt này được thu về cấm cung Đại Tần, sử sách gọi là Tần Vương Chiếu Cốt kính.

Ở Trung Quốc thời cổ, có một quan niệm truyền thống đã ăn sâu bén rễ vào tư tưởng mọi người, ấy chính là “tà bất thắng chính”. Hồi xưa, thường có người dùng đấu mực, dây mực của thợ thuyền làm vật khắc chế cương thi, thực ra không phải vì đấu mực, dây mực có thể trừ tà, mà bởi những thứ ấy, là vật các thợ thuyền dùng để đo lường, dùng làm tiêu chuẩn trong khi chế tác vật phẩm, cổ ngữ có câu “Dây mực thẳng, không thể bắt nó gấp khúc được”, chính là lẽ ấy. Bởi đấu mực, dây mực là vật mốc để có sự chính xác, nên có thể khắc tà trừ yêu. Còn gương đồng ở thời cổ đại có địa vị còn đặc biệt hơn nữa, vốn dùng để chỉnh trang y phục đầu tóc, cũng có ý nghĩa “tà khó có thể xâm nhập vào nẻo chính”, nên khi các nơi có hiện tượng yêu dị, hoàng đế thường hay thỉnh các loại cổ kính ra để trấn áp yêu tà, ngăn chặn những điềm bất tường khiến thiên hạ đại loạn.

Tần Thủy Hoàng đi tuần thú phương Nam, gặp cái xác đàn ông cao lớn uy vũ nổi dập dềnh trên biển, thịt cứng như sắt, râu dài phất phơ, cho là cương thi thượng cổ, bèn sai đám tội phạm đi đày đào hang vào núi chôn cất cương thi, sau đó dùng Tần Vương Chiếu Cốt kính trấn áp. Mãi đến nghìn năm sau, khi ngọn núi sụp đổ, tấm gương cổ mới được nhìn thấy ánh mặt trời lần nữa. Truyền thuyết Tần Vương Chiếu Cốt kính trấn áp cương thi này không thấy ghi chép trong chính sử, nhưng tấm gương cổ ấy thì đích thực có tồn tại trên đời, sau mấy phen luân chuyển, cuối cùng đã chìm theo tàu Mariana xuống chốn Quy Khư này. Nếu có thể vớt lên, nó sẽ là tấm gương duy nhất trong Tần Vương Bát kính còn bảo tồn được nguyên vẹn cho tới ngày nay, giá cả hẳn phải cao đến ngất trời.

Còn việc Tần Vương Chiếu Cốt kính đã trải qua nghìn năm chiếu lên mặt cương thi Nam Hải thì chúng tôi không dám đoán bừa, nhưng tấm gương cổ này dường như đúng là phải chịu một lời nguyền gì đó, sẽ mang đến tai họa khó bề tưởng tượng cho chủ nhân. Gần như bất cứ người nào có được nó cũng đều chẳng có kết quả tốt đẹp gì, không hiểu những vận đen đủi ấy có liên quan gì đến truyền thuyết nó đã trấn áp cương thi suốt cả nghìn năm hay không nữa.

Đầu óc tôi như cái máy chiếu phim video, nhanh chóng phát lại một lượt tất cả những truyền thuyết về Tần Vương Chiếu Cốt kính mà giáo sư Trần từng nhắc đến. Dù ra sao thì ra, lần này đã gặp được con tàu, cũng chỉ biết gắng hết sức vớt món đồ ấy lên thôi, bằng không tấm gương cổ này sẽ vĩnh viễn chẳng bao giờ có cơ hội thấy lại ánh mặt trời nữa.

Đây cũng coi như là chúng tôi trả lại một phần ân tình cho giáo sư Trần, còn việc ông già ấy có được Tần Vương Chiếu Cốt kính liệu có gặp phải vận rủi gì hay không thì không phải là chuyện cần nghĩ đến lúc này.

Tôi tóm tắt những chi tiết quan trọng nhất, nói lại một lượt cho Tuyền béo và Cổ Thái, bảo cả bọn chuẩn bị tâm lý để sẵn sàng ứng phó với những sự việc phát sinh ngoài ý muốn. Mấy người đều đã đeo đồ lặn, lưng cõng bình dưỡng khí, chỉ chờ lệnh là xuất phát. Tôi đưa mắt liếc Shirley Dương, hỏi cô xem đã có thể bắt đầu hành động chưa. Shirley Dương khẽ gật đầu, nói với các thành viên trong nhóm: “Mọi người phải nhớ kỹ ba việc, thứ nhất, tình hình bên dưới hết sức phức tạp, không được liều lĩnh nóng nảy; thứ hai, từng người tiến lên, xếp hàng một hành động, cách nhau từ nửa mét đến một mét; thứ ba, chú ý an toàn, không được cậy tài…”

Tôi khi ấy không nghĩ ra là Shirley Dương đang nói tôi và Tuyền béo không được cậy tài, còn tưởng cô không yên tâm về Cổ Thái, bèn vỗ vỗ lên đầu cậu ta, nhắc nhở rằng: “Nghe thấy chưa hả, nói cậu đấy, đừng có giở cái chủ nghĩa anh hùng cá nhân ấy ra nữa nhé, ngoan ngoãn mà đi theo Tuyèn béo, giúp vận chuyển đồ đạc dưới nước, cậu ta sẽ làm mẫu cho cậu, tóm lại là Tuyền béo làm cái gì thì cậu làm theo cái đó, cậu ta nhảy lầu thì cậu cũng nhảy theo luôn.”

Tuyền béo cũng nói: “Bản tư lệnh đã thường xuyên nhấn mạnh, cục bộ là phải phục tùng toàn thể, cá nhân dĩ nhiên phải phục tùng tập thể, đây là truyền thống tốt đẹp của tập thể quang vinh Mô Kim hiệu úy chúng ta. Thằng nhãi mò ngọc nhà cậu, đừng có mà làm xấu mặt đội ngũ quang vinh này của chúng tôi đấy nhé.”

Cổ Thái gãi gãi đầu, hình như không hiểu bọn chúng tôi đang nói gì cho lắm, chỉ gật lia gật lịa, tỏ ý cậu ta sẽ tuyệt đối không tự tiện hành động. Dặn dò xong xuôi, cả bọn liền đeo kính lặn, từng người từng người xuống nước. Trinh sát hải quân dạn dày kinh nghiệm Shirley Dương dẫn đầu, tôi cầm đèn pha chiếu dưới nước bám sát phía sau, kế đó là Cổ Thái và Tuyền béo, bốn người cứ thế men theo mạn tàu Mariana lặn xuống dưới sâu.

Theo sắp đặt, mỗi thành viên trong nhóm hành động chúng tôi đều có nhiệm vụ riêng. Shirley Dương cầm súng phóng lao đi trước dẫn đường, tôi ở phía sau dùng đèn pha chiếu sáng theo hướng tiến lên của cô. Tuyền béo ở sau lưng tôi thì xách theo cái kích thủy lực và một số công cụ phá dỡ dưới nước khác. Còn Cổ Thái, cậu ta không quen đeo bình dưỡng khí, để mình trần, mặc một cái quần đùi da bó sát người, cũng không cần kính lặn và chân nhái, miệng ngậm con dao lưỡi cong của Minh Thúc, tay xách hòm dụng cụ, thắt lưng đeo một bình thuốc xua cá mập và dụng cụ chuyên dùng để đổi hơi của dân mò ngọc, gọi là “khí loa”, chỉ dựa vào mấy thứ trang bị đơn giản này, cậu ta cũng có thể hoạt động dưới nước khoảng hai tiếng đồng hồ, thêm nữa, dù lặn xuống rất sâu, khi trở lên cũng không cần giảm áp. Cậu ta giống như cá kình dưới biển vậy, không bao giờ lo mắc căn bệnh khí ép của những người hay lặn nước.

Sau khi xuống nước, Shirley Dương dừng lại bên mạn tàu đắm một chút, tay vươn ra, lòng bàn tay úp xuống, khẽ phẩy phẩy một cái theo phương ngang. Tôi hiểu ý, liền vịn lên vai cô, từ phía sau chiếu cột sáng của “con mắt Poseidon” vào vùng nước tối om như mực. Chùm sáng chiếu tới, chỉ thấy dưới đáy nước la liệt đá phiến đá tảng, cả một đống hoang tàn đổ nát, cơ hồ như có một phần rất lớn không do hải nhãn hút vào. Nhìn tình hình, phỏng chừng có một phần tương đối của đống hoang phế ấy vốn được xây dựng trong Quy Khư này, có điều trải qua mấy nghìn năm, tất cả đã bị nước biển và những thứ hải nhãn cuốn vào xô ngã nghiêng ngả, hoàn toàn không còn diện mạo khi xưa nữa.

Tôi nghĩ những kiến trúc đá cổ xưa này có lẽ được xây dựng để phục vụ việc khai thác khoáng thạch trong Quy Khư. Trong di tích có rất nhiều mảnh xác tàu đắm, có những con tàu lớn chìm dưới nước, hoen gỉ toàn bộ, cũng có những xác tàu bám đầy san hô chết màu xám xịt. Nếu nói mỗi con tàu đắm ở đây là một mộ phần dưới đáy biển, thì những trụ đá, phiến đá đổ nát kia, chính là bia mộ không tên của những phần mộ ấy.

Giữa nghĩa địa dưới đáy biển hình thành từ những khối đá, tàu đắm và cây san hô gãy đổ chất chồng ấy bơi lội lượn lờ vô số loài cá kỳ dị. Mấy con cua và tôm lớn lấp ló ở những khe đá, khẽ nhúc nhích chuyển động. Trên người chúng tôi có mang thuốc xua cá mập đặc chế theo bí phương của Ban Sơn đạo nhân, không cần phải lo lắng gì đến lũ cá mập hung tàn, nhưng nghe Minh Thúc nói, trong các loài hung ác nhất dưới đáy biển, thì cua nhện ở vùng biển sâu đứng hàng đầu, bọn cá lớn có thể nuốt cả thuyền nhỏ hẵng còn kém nó một bậc. Loài này hết sức hung mãnh, dù là cá mập cá voi cũng không thể địch được. Đặc biệt là lũ cua nhện khổng lồ ở vùng biển sâu, con nào con đó to như cái xe, đến cả rắn biển khổng lồ vẫn được gọi là “Long vương gia” bị cặp càng của chúng kẹp chặt cũng khó lòng giữ nổi tính mạng, còn loại tàu ngầm cỡ nhỏ, ăn một phát kẹp đó coi như gãy lìa luôn.

Tôi chiếu đèn pha quét qua quét lại hai ba lượt, không thấy có cua nhện khổng lồ mà Minh Thúc nhắc đến, thầm chửi lão giặc già chỉ giỏi bốc phét dọa người, rồi đưa tay ra hiệu cho cả bọn tiếp tục lặn sâu xuống. Tàu Mariana đè ngang trên một đống đổ nát, thân lệch nghiêng, đuôi thúc vào thân một con tàu gỗ cổ xưa. Dựa theo thông tin từ bản vẽ kết cấu thân tàu, chúng tôi dự định lặn thẳng xuống khoang hàng ở phần đáy gần chỗ đuôi tàu, tìm kiếm Tần Vương Chiếu Cốt kính.

Nhưng khi đến quãng giữa con tàu đắm, chúng tôi cảm thấy dòng chảy ngầm bên cạnh bắt đầu mạnh dần, thân thể không tự chủ được bị cuốn xuống vùng nước sâu hơn. Con tàu gỗ cổ xưa là tàu chở hàng cỡ lớn, lúc chìm có thể đã bít vào một cửa hang có dòng nước xoáy hút xuống đáy biển. Tuy đóng bằng gỗ thượng hảo hạng, chìm dưới đáy biển bao nhiêu năm như thế mà vẫn không mục nát, nhưng bây giờ con tàu cổ này cũng sắp bị con tàu chở khách nặng nề kia đè cho vỡ toang ra rồi. Dòng chảy ngầm bên dưới rất mạnh, cuộn lên những xoáy nước đen ngòm, vô cùng khó chống đỡ. Chúng tôi vội bám chặt lan can sắt bên mạn tàu Mariana, gắng sức lắm mới trụ được.

Shirley Dương bảo tôi nhìn thử đồng hồ đo áp suất nước, độ sâu hiện tại là bảy mét rưỡi. Cô ngoảnh đầu lại, làm dấu tay ra hiệu “mười lăm”, ý nói sâu dưới mười lăm mét sẽ không an toàn nữa, phạm vi của nhóm lặn cần phải hạn chế trong khoảng mười lăm mét dưới mặt nước. Vậy là chúng tôi đành từ bỏ kế hoạch lặn thẳng xuống đuôi tàu chui vào khoang chứa hàng, điều chỉnh phương án tại chỗ, quyết định vào trong khoang ngay từ đoạn giữa thân tàu.

Chúng tôi bám lan can tàu lặn xuống độ sâu khoảng hơn mười mét thì phát hiện ra một nơi thích hợp để chui vào, mé bên thân tàu có một cửa khoang mở ra, bên trong ngập đầy nước đen kịt, ngay ở cửa kẹt cứng một cây san hô linh chi. San hô linh chi là một loại hoa đá biển, thường gặp còn có san hô mẫu đơn, san hô sừng hươu và san hô tường vi, loại nào cũng cực kỳ cứng chắc. Có điều, thứ này cũng không thể ngăn được lưỡi cưa kim cương chuyên dụng của chúng tôi. Tôi vẫy tay với Tuyền béo, bảo cậu ta đổi vị trí lên trước, lấy dụng cụ ra cắt đứt cây san hô linh chi chắn trước cửa khoang tàu. Những người khác dàn hàng ngang sau lưng cậu ta, đề phòng có con cá dữ nào thình lình tấn công.

Vì đã chuẩn bị đầy đủ từ trước, chỉ giây lát sau, nhóm chúng tôi đã phá thành công cửa khoang tàu. Hành lang bên trong con tàu chở khách này không hề chật hẹp, nhưng thân tàu đang nghiêng, vách tường trần sàn bên trong điên đảo lộn phộc, vật tham chiếu thay đổi, khiến người chui vào nảy sinh ảo giác, cứ như thể trời xoay đất chuyển, cảm giác chật hẹp khó chịu lạ thường.

Chúng tôi tiến vào bên trong con tàu đắm, tuy tránh được dòng chảy ngầm bên ngoài, nhưng cảm giác không gian đảo lộn trong khoang tàu khiến việc tìm kiếm vị trí của mục tiêu gặp khó khăn rất lớn, cứ chốc chốc lại buộc phải dừng, không ngừng đối chiếu với bản vẽ kết cấu tàu để phán đoán phương hướng. Bên trong con tàu có một số vị trí bị va đập và dồn ép, các bộ phận bằng kim loại gấp khúc biến dạng, đủ các loại tạp vật trôi nổi dập dềnh bên trong khiến tầm nhìn của chúng tôi càng bị rút ngắn.

Bên trong tàu Mariana ngập tràn bầu không khí âm u chết chóc, dăm con cá hình dáng kỳ dị bơi ra bơi vào, bộ dạng đờ đẫn vô hồn, dường như không hề biết sợ mấy người chúng tôi. Tôi vừa lần mò tìm đường trong hành lang, vừa suy nghĩ không biết trong khoang tàu này có còn thủy thủ hay hành khách nào chưa kịp thoát ra hay không? Lúc tàu gặp nạn, họ đã nhảy xuống biển hay cùng táng thân với con tàu nơi đáy biển này? Cả bọn đi một hồi lâu mà không thấy người chết nào, sợ rằng lúc tàu đắm, các thi thể bị dòng nước cuốn đi cả rồi.

Có Shirley Dương dẫn đường, tôi không phải tốn nhiều công sức, cứ vừa nghĩ ngợi lung tung vừa cùng cả nhóm tiến lên, vòng vèo đi lên đi xuống giữa mấy tầng trong khoang tàu, chầm chậm tiến về phía khoang chứa hàng. Đột nhiên, Tuyền béo ở phía sau vỗ lên vai tôi một cái, tôi tưởng đằng sau sự việc gì, vội vàng kéo Shirley Dương ở phía trước, cả nhóm dừng sững lại.

Bên trong khoang tàu không có tia sáng nào, chúng tôi không thể chỉ dựa vào một ngọn đèn pha công suất lớn, tất cả tự động bật đèn pin thợ lặn và bóng đèn đeo trên người lên. Bốn chúng tôi dựa vào bức vách bằng sắt, dàn hàng ngang đứng lại. Tôi ngoảnh đầu nhìn Tuyền béo, thấy cậu ta chỉ chỉ tay vào một cánh cửa ở mé bên hành lang. Cánh cửa ấy nửa đóng nửa mở, chỗ khe cửa kẹp một cánh tay người gần như chỉ còn xương, xung quanh có hai ba con cá nhỏ đang gặm nốt chút thịt thừa còn sót lại.

Nếu chỉ là một cánh tay người chết, hiển nhiên không thể thu hút ánh mắt Tuyền béo được. Trên khúc xương cổ tay trắng ơn ởn ấy còn đeo một quả đồng hồ vàng phản chiếu ánh sáng lấp lóa, mặt đồng hồ khảm rất nhiều kim cương, ở dưới nước tối om lại càng thêm rực rỡ bắt mắt. Cái đồng hồ này chắc đến tám chín phần là hàng hiệu do Thụy Sĩ sản xuất. Bấy giờ, cũng chỉ biết đồng hồ Thụy Sĩ rất đắt tiền, nom riêng chất liệu nếu đúng là vàng và kim cương thật, thì đã chắc mười mươi là giá trị bất phàm rồi, thủy thủ hay người làm công bình thường không thể đeo được, chắc rằng cánh tay này nếu không phải của thuyền trưởng thì cũng là của tay nhà giàu nào đó đi trên tàu.

Tôi thầm nhủ, cái đồng hồ vàng nạm kim cương này cũng có thể coi là một món thanh đầu, đằng nào phen này chúng tôi cũng đang làm dân mò ngọc, mà dân mò ngọc ngoài mò ngọc ra còn vớt cả thanh đầu và đánh cá nữa, không thể quên việc chính được, đâu có lý nào thấy thanh đầu trong tàu đắm mà lại không lấy? Lãng phí là tội nặng lắm, chúng tôi đương nhiên không thể nào đã biết sai lại còn cố tình vi phạm rồi.

Tuyền béo tính tình nóng nảy, không đợi chúng tôi phản ứng gì, vừa thấy cả bọn dừng lại, tự tiện bơi đến lột luôn cái đồng hồ vàng. Cậu ta giật một cái, cả cánh tay lẫn đồng hồ bị lôi tuột khỏi cánh cửa. Thì ra cánh tay ấy vốn đã lìa thân từ lâu, không rõ do tai nạn khi tàu gặp sự cố trên biển hay là bị lũ cá cắn đứt lìa sau lúc tàu chìm xuống nước nữa.

Nhân lúc Tuyền béo lấy cái đồng hồ khỏi khúc xương tay, tôi cúi đầu nhìn bản vẽ đặt trong túi plastic. Căn phòng có cánh tay hình như là phòng của thuyền trưởng. Nếu tìm được chìa khóa tủ chứa đồ trong khoang đáy, thì vừa khéo có thể bớt đi khá nhiều phiền phức. Con tàu nằm giữa đống đổ nát ở vị trí hết sức chênh vênh, nếu bị ngoại lực tác động quá lớn, rất có khả năng sẽ đổ sụp, thậm chí chìm sâu thêm, lúc ấy thì sẽ cực kỳ khó xử lý.

Nghĩ tới đây, tôi vẫy tay ra hiệu với Shirley Dương, dẫn đầu cả bọn lặn vào gian phòng đó trinh sát. Tôi đẩy cửa, các tạp chất dạng hạt lơ lửng dày đặc bên trong, đứng trước cửa dùng đèn pin chiếu vào không nhìn rõ được thứ gì, rốt cuộc tôi đành chống tay lên vách tường, cuộn người chui vào bên trong. Thân tàu bị hư tổn khiến bùn cát tràn vào ngập ngụa, phủ màu xám xịt khắp nơi. Tôi tiện tay quệt một cái vào bức vách chênh chếch bên dưới, liền thấy trên tường lờ mờ có bóng người lắc lư chuyển động, tim gan thoắt lạnh buốt, bên trong vách tường sao lại có bóng người chứ? Tôi đang định nhìn kỹ hơn, chợt cảm thấy dòng nước phía sau có dị động, vội vàng ngoảnh nhìn, chỉ thấy trên người bọn Tuyền béo máu tươi túa ra đặc quánh, hòa vào nước biển, cơ hồ sắp nhuộm đỏ toàn bộ khoang tàu.
 
Quyển 6 - Chương 30: Ma


Thân tàu Mariana nghiêng một góc khoảng bốn mươi lăm độ, chúng tôi muốn di chuyển về phía đuôi tàu thì sẽ phải tiếp tục lặn chếch xuống. Tôi đang lần mò tiến vào gian phòng của thuyền trưởng, bỗng phát hiện thân thể các bạn đồng hành ở phía sau túa máu tươi, nhìn lại mình cũng thế, cứ như thể trong lúc vô tri vô giác bị chém một đao ngang lưng, máu cuộn trào bốc lên như trận sương mù đồ. Gian phòng chật hẹp liền bị nhuộm đỏ quá nửa ngay tắp lự. Ở dưới nước vốn đã dễ ức chế, vừa thấy thân thể bị xuất huyết, cả bọn chúng tôi ai nấy đều hết sức kinh hãi. Kỳ quái nhất là tôi không hề nhận ra mình bị thương từ lúc nào, cũng không thấy đau đớn ở đâu, nếu bảo là tại mất máu quá nhiều đến tê liệt giác quan thì cũng tuyệt đối không thể nào nhanh như thế được. Huống hồ, chảy bao nhiêu máu, vậy mà đầu óc tôi vẫn tỉnh táo, không hề có cảm giác chóng mặt.

Bọn tôi hơi hoảng loạn một chút, sau đó liền nhận thấy máu tươi chảy từ cơ thể mình có điểm cổ quái, bèn trấn tĩnh lại ngay, mỗi người đều tự kiểm tra xem xét. Shirley Dương là người đầu tiên phát hiện ra nguyên nhân, cô tháo cái bình đựng thuốc xua cá mập đeo ở thắt lưng, dòng nước đỏ tươi đều chảy ra từ đó, chỉ một thoáng sau, thuốc xua cá mập tan hết thành chất lỏng đỏ như máu, trong bình hoàn toàn trống rỗng.

Tôi và Tuyền béo, Cổ Thái cũng tháo bình thuốc xua cá mập của mình ra, viên thuốc được phối chế theo bí phương của Ban Sơn đạo nhân bên trong cũng đã tan biến không còn gì nữa. Tình hình xem chừng hết sức bất lợi, không ngờ đang lặn dưới nước sâu lại mất lá chắn phòng chống cá mập quan trọng nhất, nhưng cả bọn chúng tôi đều chẳng rõ rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra. Ngoài Cổ Thái, ba chúng tôi đều đeo kính lặn và bình ô xy, không nhìn rõ nét mặt của nhau, nhưng chắc hẳn cảm giác của Tuyền béo và Shirley Dương không khác tôi là mấy, ba phần kinh hoảng, bảy phần ngạc nhiên.

Để đối phó với hoàn cảnh phức tạp và khắc nghiệt dưới nước khi xuống biển mò châu tìm ngọc, các thế hệ Ban Sơn đạo nhân đã dần tìm ra được một loạt các phương pháp “trấn hải”. Có những bí thuật này trợ giúp, họ ở trên biển sóng to gió lớn cũng không khác gì đang ở giữa vùng rừng núi mà họ quen thuộc nhất, vì vậy môn phương thuật này mới được gọi là Ban Sơn Trấn Hải. Đây là tên gọi chung của một loạt những bí thuật, pháp môn, khẩu quyết, đạo cụ, khí giới trong đó chỉ riêng thuật xua đuổi cá mập thôi cũng đã có vài loại pháp môn khác nhau. Tuy nhiên Shirley Dương chỉ tra tìm và vận dụng được một loại duy nhất, chính là dùng cóc tuyết và đan sa trộn với nhau, chế luyện ra thuốc xua cá mập. Cóc tuyết là loại cóc sinh trưởng trong núi, còn đan sa thì chính là chu sa, tức khoáng thủy ngân, màu đỏ. Hai thứ này trộn với các loại thuốc khác, phối chế thành dạng viên cứng, khi xuống nước sẽ tan dần, sinh ra một loại dịch thể màu đỏ sẫm. Bình thường, mỗi bình thuốc có thể duy trì khoảng hai canh giờ, dùng đơn vị thời gian hiện đại thì vào khoảng bốn tiếng đồng hồ. Nhưng lúc này bình thuốc bốn chúng tôi mang theo bên mình chỉ trong chớp mắt đã hòa tan vào nước biển. Tôi nhớ khi còn trên đảo Miếu San Hô chuẩn bị ra biển, mình từng lật xem qua cuốn sách ghi chép bí thuật Ban Sơn gia truyền của Shirley Dương, thấy viết nếu gặp phải tình huống như vậy, Ban Sơn đạo nhân cho là điềm “đan hóa huyết”, do oan hồn oán quỷ dưới đáy biển giở trò. Lẽ nào trong con tàu đắm này có ma thật?

Nước thuốc chảy ra hòa vào nước biển trong khoang tàu loãng dần rồi sạch biến, tôi vội ra dấu tay bảo ba người kia, nhân lúc mới lặn xuống chưa sâu, phải mau chóng theo lối cũ trở ra, quay lại chỗ tàu Chĩa Ba mắc cạn lấy thêm thuốc xua cá mập, rồi trở vào con tàu đắm vớt Tần Vương Chiếu Cốt kính sau.

Shirley Dương và Tuyền béo gật đầu hiểu ý, xoay người toan bơi ra khỏi phòng thuyền trưởng. Nhưng Cổ Thái thì không hiểu ý chúng tôi lắm, cậu ta ở sau cùng, vừa khéo chắn mất cánh cửa. Tôi đành đẩy cậu ta sang một bên, vừa ló nửa người ra, liền trông thấy một con cá mập to tướng trong hành lang bơi tới. Tôi “Á!” lên một tiếng, sém chút nữa là nhổ cả ống thở ngậm trong miệng ra, bọt khí sùi lên ùng ục. Đúng là ghét của nào trời trao của ấy, thuốc xua cá mập vừa mới hết tác dụng, cá mập liền lù lù xuất hiện ngay sát đít.

Cổ Thái chắc là vì sư phụ mới qua đời, tinh thần có chút ngẩn ngơ hốt hoảng, hoặc cũng có thể do tâm trạng uất ức kích động dã tính nguyên thủy của Đản nhân, đã xuống dưới biển là muốn thấy máu, lập tức hăm hở cầm con dao lưỡi cong, định nhao ra giết con cá mập. Tôi sao có thể để cậu ta làm bừa, ở trong hành lang chật hẹp của con tàu đắm này giết chết một con cá mập đối với cậu ta có lẽ không phải chuyện gì khó khăn, nhưng máu tanh sẽ dẫn dụ đến cả một bầy cá mập đói khát. Số lượng cá mập bị cuốn vào trong Quy Khư này hẳn không ít, đa phần bọn chúng đều kiếm ăn trong đống đổ nát và những mảnh xác tàu đắm này. Vả lại, cá mập không thích ánh trăng, ánh sáng do tầng khoáng thạch phát ra phía trên mặt nước kia khiến chúng luôn nôn nao bất an, chọc vào cái tổ ong bầu đó, phen này cả bọn chúng tôi thành mồi cho chúng là cái chắc.

Nghĩ đoạn, tôi chộp vội cánh tay Cổ Thái, kéo cậu ta trở lại phòng thuyền trưởng. Con cá mập trong hành lang bị dòng nước do chúng tôi quấy lên thu hút, quẫy đuôi một cái, lao thẳng về phía này. Tốc độ của cá mập rất nhanh, chẳng thua gì một quả ngư lôi, chớp mắt nó đã xuất hiện ngay trước mặt chúng tôi rồi. So sánh ra, động tác của mấy tên thợ lặn chúng tôi quả thật quá chậm chạp lề mề. Tôi muốn rụt trở lại trong phòng cũng không kịp nữa, đang định rút dao lặn ra liều mạng với nó thì Tuyền béo đã ở phía sau nắm chân tôi, kéo giật vào bên trong. Shirley Dương nhanh tay nhanh mắt, thừa dịp ấy đóng ngay cánh cửa lại. Nhất thời, bốn người chúng tôi đều bị nhốt bên trong căn phòng thuyền trưởng chật hẹp nghiêng ngả, muốn xoay người một cái cũng chật vật, cảm giác như chui vào trong một cái quan tài bằng sắt thép đổ đầy nước vậy. Có điều, chúng tôi vẫn còn đầy ô xy trong bình dưỡng khí và các trang bị phá dỡ rất tốt, mà Mô Kim hiệu úy trời sinh đã hoàn toàn miễn dịch với chứng sợ ở trong phòng kín, nên cũng không đến nỗi quá độ căng thẳng và tuyệt vọng, nhưng tâm trạng ức chế bực bội thì khó lòng tránh khỏi. Tôi dùng đèn pin chiếu xung quanh, định tìm xem trong gian phòng này có đường ra nào khác không. Lúc thân tàu chìm xuống đã bị toác ra một lỗ, có lẽ Cổ Thái chui lọt, nhưng ba người chúng tôi thì dù có không đeo bình dưỡng khí cũng khó lòng chui qua được. Tôi bảo Tuyền béo thử xem có dùng cái kích thủy lực để mở vết rách ấy ra thêm một chút được không, dòng chảy bên ngoài tuy rất xiết, nhưng chỉ cần bám chắc vào thân tàu thì vẫn có thể trở lên mặt nước.

Tuyền béo giơ tay đáp ứng, rồi cùng Cổ Thái bắt đầu tiến hành công việc, Lúc này, Shirley Dương vỗ nhẹ lên vai tôi hai cái, bảo tôi nhìn xuống bức tường nghiêng phía dưới. Bùn cát phủ bên trên đã bị Shirley Dương gạt đi, bên dưới không ngờ lại là một tấm gương rất lớn, một phần vỡ nát. Trên người chúng tôi đều có nguồn sáng, soi vào gương, bóng người và ánh đèn ở chỗ sóng nước trùng điệp trở nên vặn vẹo kỳ dị, thật khiến người ta không khỏi rùng mình.

Tôi thầm nhủ, có lẽ tại trong đầu mình lúc này toàn nghĩ đến việc tìm kiếm Tần Vương Chiếu Cốt kính, thành ra nhìn gương nhìn kính gì cũng đều cảm thấy cổ quái, nhưng trong phòng thuyền trưởng mà có một tấm gương lớn thế này thì đích thực cũng có gì đó không ổn thật. Chẳng lẽ vị thuyền trưởng đeo đồng hồ vàng ấy lúc sinh tiền rất thích soi gương à? Dù lênh đênh trên biển cũng phải liên tục soi gương chỉnh trang dung mạo hay sao?

Nhìn lại khung gương, thấy hết sức cổ phác, đều là loại gỗ đỏ chạm hình hoa, tuy rất cổ điển trang nhã nhưng hoàn toàn không phù hợp với đặc điểm hiện đại của con tàu này, đặt bên cạnh các thứ vật phẩm xa hoa khác trong phòng cũng rất lạc điệu. Tôi chẳng hiểu gì cả, bèn nghiêng đầu nhìn sang Shirley Dương bên cạnh. Cô lắc lắc đầu, tỏ ý cũng không hiểu. Tấm gương này tuy có vẻ cổ quái, nhưng tôi cũng không nhìn ra được rốt cuộc nó cổ quái ở điểm gì, trong lòng thầm nhủ, chỉ cần có nguy cơ thì phải loại trừ càng sớm càng tốt. Nghĩ đến đó là muốn đập cho cái gương nát bét ra luôn, nhưng đúng lúc này thì dòng nước lưu động trong phòng bỗng mạnh hẳn lên, hóa ra Tuyền béo đã mở rộng được vết rách trên vỏ tàu. Cậu ta vẫy tay với chúng tôi, đang định ra ngoài trước. Đột nhiên, một con cá mập từ bên ngoài chui vào. Con cá mập đó lao rất mạnh, húc thẳng vào người Cổ Thái, đẩy cậu ta từ chỗ sát lỗ hổng đến tận vách tường phía bên trong.

Minh Thúc nói Cổ Thái là Long hộ, trên người có xăm hình Thấu hải trận, tượng trưng cho dòng giống của rồng, các loài cá dữ dưới biển không thể xâm phạm, không ngờ vẫn bị cá mập tấn công như thường. Cũng may là vừa nãy tôi không để cậu ta một mình xông ra chiến đấu với con cá mập trong hành lang, bằng không nhân thủ đã tổn thất thêm một người nữa rồi.

May cho Cổ Thái là miệng cá mập ở bên dưới, vả lại nó chui qua lỗ hổng trên vách tàu xông vào, thân thể không được linh hoạt cho lắm, nên mới không bị đớp phải. Từ nhỏ Cổ Thái đã theo sư phụ Nguyễn Hắc bắt cá mò ngọc vớt thanh đầu dưới biển, hết sức quen thuộc với tình hình dưới nước, tuy sự việc diễn ra rất bất ngờ, nhưng cậu ta vẫn trấn định như thường, lưng vừa chạm phải cửa phòng, hai chân liền giẫm lên tường một cái, lắc mình linh hoạt như một chú cá heo, lách vèo vào góc chết mà con cá mập không thể tấn công tới.

Con cá mập thình lình tấn công, không đớp được người nào, ngược lại còn bị kẹt trong lỗ hổng trên vách. Có lẽ nó cũng không ngờ lại có kết quả này, thoáng bần thần, đầu cá quẫy qua quẫy lại không biết là muốn chui hẳn vào hay muốn rút trở ra nữa. Tuyền béo nấp ở mé bên, thấy cái đầu cá đung đưa trước mắt, vị trí hết sức thuận tay, vừa khéo vẫn chưa buông cái cưa xích trên tay xuống, bèn lập tức giở ngay ngón nghề chặt cây thời còn đi tham gia đội sản xuất ở Đại Hưng An Lĩnh ra, xem con cá mập hung tàn ấy như một khúc gỗ tròn đặt nằm ngang, cưa ngay một đường ở giữa, bộ dạng hết sức khoái trá.

Cái cưa ấy cắt được cả kim loại, con cá mập chỉ là thân máu thịt bình thường, làm sao chịu được nó du đi du lại mấy lượt chứ, cái đầu cá mập to tướng lập tức bị cắt lìa, lăn vào trong phòng. Phần thân phía sau mất đầu, liền như một khúc gỗ lớn trôi theo dòng chảy rơi vào đống hoang phế bên dưới, chỉ trong khoảnh khắc, trong phòng đã đầy máu tanh, tầm nhìn của chúng tôi cũng bị màn nước đục ngầu máu ấy chắn mất.

Nếu chẳng phải ở dưới nước không thể nói chuyện, tôi sớm đã ngoác miệng ra chửi bới om sòm rồi. Thằng béo ngu si này chỉ biết mình mình sướng tay, chứ không hề nghĩ con cá mập bị cậu ta cắt đầu sẽ chảy máu, mùi máu tanh nhất định sẽ dẫn dụ cả đàn cá mập ở quanh đây đến. Tôi nghĩ tới đây, vội vàng mò lấy cái đầu đó, ôm lên đẩy ra phía bên ngoài.

Cái đầu con cá mập vừa trôi ra ngoài, tức thì liền bị mấy con cá mập khác lao tới tranh nhau cắn xé. Dòng chảy bên trong Quy Khư này vô cùng hỗn loạn, các loài cá và thú biển bị hải nhãn cuốn vào đây hết sức phong phú, chủng quần và chuỗi thức ăn toàn bộ đều bị xáo trộn. Bọn cá mập đói kia thì càng điên cuồng hơn, thấy gì là liền lao vào đớp ngay. Tôi nhìn qua lỗ hổng, thấy đàn cá mập bên ngoài đã tụ về, giống này hung bạo tàn nhẫn thuộc vào hàng nhất đại dương, sức mấy người chúng tôi làm sao địch nổi? Tôi vội vàng cùng Shirley Dương gỡ mặt bàn làm việc trong phòng xuống, chắn vào lỗ hổng, tránh việc có con cá mập nào thình lình chui vào. Máu trong phòng cũng loãng dần, cả bọn tạm thời thở phào nhẹ nhõm, nhưng trước sau đều đã bị cá dữ chặn đường, nhóm chúng tôi có thể nói đã hoàn toàn rơi vào tuyệt cảnh, lên trời không có lối xuống đất chẳng có đường rồi. Con cá mập ở trong hành lang, bét ra cũng phải dài năm sáu mét, to đến phát khiếp, nhưng lúc nãy tôi cũng không kịp nhìn rõ xem nó là chủng loại gì nữa. Cá mập thời cổ còn được gọi là “giao”, thể hình như con thoi, đầu lớn đuôi nhỏ, từ đầu trở đi, các bộ phận dần nhỏ lại. Giống này xương mềm, da dày mà đen, hai vây ở ngực và bụng rộng và to như hai cánh, vây đuôi lại chênh lệch hẳn nhau, đa phần sinh sống ở các vùng biển nhiệt đới. Vùng Nam Hải này rất nhiều cá mập, vây của chúng đem phơi khô là món ăn quý trong các bữa yến tiệc, da cá có thể làm vỏ đao vỏ kiếm hoặc may trang phục, vì vậy trong đám dân mò ngọc cũng có kẻ chỉ chuyên bắt cá mập, đem ra chợ đổi lấy các nhu yếu phẩm.

Tôi và Shirley Dương vắt hết cả óc, cố nhớ lại các phép đuổi cá mập trong cuốn sổ ghi chép về thuật Ban Sơn Trấn Hải. Cá mập có rất nhiều chủng loại, lưng màu xám nhạt, bụng màu trắng như tuyết là cá mập trắng; thể hình thon dài, da thấp thoáng sắc lam là cá mập xanh; phần lưng màu đỏ như hồng trà, thân thể có đốm đỏ, gọi là cá mập hổ; hai bên eo gồ lên dạng răng cưa, là cá mập răng cưa, cũng chính là con vừa bị Tuyền béo chặt làm hai khúc; còn có một loại xương đầu gồ lên thành hình chữ “T” hai mắt mọc ở hai bên, bộ dạng cực kỳ cổ quái là cá mập đầu búa. Mấy loại đó là thường gặp nhất, ngoài ra còn rất nhiều dị loại, tuy tập tính khác nhau, nhưng trong Quy Khư này gần như đều có hết. Bọn chúng chiếm cứ các hang động và khe đá hình thành bởi xác tàu đắm và san hô chết, thấy con mồi là lập tức tấn công, không có thuốc xua cá mập đặc chế, quả thực khó mà đề phòng nổi.

Cổ Thái đưa tay ra dấu cho tôi, con cá mập đại tướng ngoài cửa có lẽ là cá mập hổ, trong hành lang chật hẹp, nó căn bản không thể làm gì được, lúc này có thể xông ra ngoài hạ sát nó. Nói đoạn, cậu ta giơ con dao lưỡi cong lên đâm đâm mấy cái trong nước, thần sắc toát lên một vẻ hung hãn khó tả, so với lúc ở trên đất liền thực như hai con người hoàn toàn khác biệt. Tôi thầm nhủ, nếu Cổ Thái đúng là Long hộ, cậy vào hình xăm Thấu hải trận, có thể tung hoành đáy biển, đến đi như không, hẳn có thể để cho cậu ta một mình trở lên mặt nước, lấy thuốc xua cá mập rồi quay trở lại tiếp ứng chúng tôi. Nhưng vừa nãy, cậu ta rõ ràng đã bị con cá mập kia tấn công, xem ra hình xăm thần bí của Đản nhân cổ xưa cũng chỉ lợi hại ở trong truyền thuyết mà thôi, vác vào hiện thực chưa chắc đã có hiệu quả gì. Lúc trước, Cổ Thái lao xuống nước cứu được Nguyễn Hắc, sợ là chỉ nhờ vào vận may nhất thời. Tôi biết rõ sự đáng sợ của lũ cá mập, làm sao có thể để cậu ta mạo hiểm ra ngoài được chứ?

Cổ Thái không hiểu cách nghĩ của tôi, thấy tôi không đồng ý, lại quay sang khua chân múa tay với Shirley Dương và Tuyền béo, vẫn muốn bơi ra bên ngoài. Tôi thầm chửi thằng nhãi dã nhân trên biển này sao lại thiếu kỷ luật như vậy cơ chứ, xem ra những lời tôi dặn trước khi xuống nước cậu ta đã quên bà nó rồi, đúng là đàn gảy tai trâu.

Đúng lúc này, tôi đột nhiên phát hiện trên người Cổ Thái hình như có dán một lớp gì đó, che hết cả hình xăm trên người cậu ta. Trong làn nước tối tăm không nhìn rõ lắm, tôi vội lại gần, quệt tay lên lưng cậu ta một cái. Trên găng tay không có gì cả, nhưng hình xăm trên lưng Cổ Thái quả thực đã bị một lớp vật chất màu đen che kín. Nước biển màu đen ấy như một loại keo dính, bám lên cơ thể Cổ Thái, hữu hình nhưng vô chất.

Tôi thầm kinh hãi trong lòng, ở vùng duyên hải Phúc Kiến cũng có truyền thuyết nước biển màu đen dính vào tàu đánh cá và dân biển, hình như đây chính là dấu hiệu bị ma nước ám. Nghĩ tới đây, tôi lại liên tưởng đến chuyện thuốc xua cá mập vừa tan hết trong nháy mắt lúc nãy, chẳng lẽ trong con tàu đắm này có ma thật sao? Tuy Mô Kim hiệu úy chúng tôi rất thoáng với những chuyện ma quỷ u minh, nhưng khi xuống biển vớt thanh đầu thì lại là vấn đề hoàn toàn khác. Câu nói “khinh núi chớ khinh biển, gạt trời đừng lừa biển” của dân mò ngọc thật hết sức có lý, hiểu biết của con người đối với biển sâu thậm chí còn không nhiều bằng đối với mặt trăng. Đáy biển là một thế giới thần bí khó lường, các ngón nghề của Mô Kim hiệu úy hoàn toàn không có tác dụng, có trời mới biết chúng tôi gặp phải thứ quái quỷ gì ở bên trong con tàu đắm này.

Tôi muốn cho Cổ Thái biết tình hình này, có thể con cá mập kia tấn công cậu ta, chính là vì hình xăm trên người đều đã bị thứ nước biển màu đen kỳ dị kia dính lên che mất, bèn kéo cậu ta lại trước tấm gương lớn, xoay lưng vào, đoạn bảo cậu ta ngoái đầu nhìn lưng mình trong gương. Nhưng Cổ Thái chưa kịp ngoảnh đầu, dưới ánh sáng đèn pin lặn, tôi đã thấy một cái bóng đàn ông cao lớn khôi vĩ, mặt xồm xoàm râu ria đứng lẫn giữa mấy người chúng tôi. Thân hình ông ta mờ mờ, nhìn không rõ lắm, nhưng cái đồng hồ lấp lánh ánh vàng trên tay thì hết sức nổi bật. Phải chăng, đây chính là bóng ma của thuyền trưởng?
 
Quyển 6 - Chương 31: Đàn cá mập


Nếu con tàu gặp nạn trên biển, sau khi hạ lệnh bắt buộc phải rời tàu, người duy nhất có quyền ở lại trên tàu chỉ có thuyền trưởng, ông ta có quyền lựa chọn đồng sinh cộng tử với con tàu của mình. Trước đây, tôi từng nghe kể nhiều câu chuyện về tàu ma, đa phần đều là do thuyền trưởng sau khi chết không chịu rời xa con tàu mà họ coi như mạng sống, sau nhiều năm, vong hồn vẫn ở đó, điều khiển con tàu ma ấy đi lòng vòng khắp nơi, vạch ra trên hải đồ những đường tròn trùng lặp. Thấy bảo, ở Nam Hải cũng từng xảy ra quái sự này, có điều, đây chỉ là tin đồn trong quân đội, chẳng ai dám chắc là thật hay giả. Vì vậy, khi tôi liếc thấy trong mặt gương lấp loáng ánh sáng và bóng nước ấy có thêm một người đàn ông râu ria xồm xoàm, tay đeo đồng hồ vàng, ý nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu chính là: “Trong xác tàu Mariana này quả nhiên có hồn ma của thuyền trưởng. Ông ta chính là chủ nhân của cánh tay bị cá cắn đứt lìa kia, đồng hồ vàng của ông ta vừa mới bị Tuyền béo lột mất.”

Bóng ma của thuyền trưởng hình như bám trên lưng Cổ Thái, che mất hình xăm của cậu ta. Cảnh tượng khiến người ta rởn hết tóc gáy trong gương ấy hết sức ngắn ngủi, chỉ loáng lên một cái, có lẽ ngoài tôi ra không còn người nào khác chú ý đến nữa. Tôi giật thót mình, không tự chủ được lùi lại, khiến làn nước xung quanh bị dẫn động, bóng ma trong gương cũng theo đó mà nhòa đi, không còn nhìn rõ nữa.

Thuốc xua cá mập nhanh chóng hòa tan vào nước biển, rồi chúng tôi đang ở trong tàu đắm vô duyên vô cớ bị cá mập tấn công, tất cả những sự việc ấy rất có thể đều liên quan đến hồn ma của thuyền trưởng tàu Mariana. Tôi đang định nhắc mấy người kia chú ý đến tình hình nguy cấp trước mắt, nhưng chưa kịp có hành động gì, thì đã có một con cá mập xanh thể hình thon dài chui qua lỗ hổng chỗ cái bàn bịt chưa kín hẳn, húc đầu vào người Shirley Dương. Cá mập xanh tuy nhỏ, nhưng bị nó đớp cho một phát thì không ai chịu nổi, Shirley Dương đang giữ tấm ván gỗ, thấy con cá mập xanh đã bơi đến gần sát, đành lách người né.

Con cá mập xanh kia lại bám đuổi Shirley Dương như hình với bóng, trong gian phòng chật hẹp này, bốn người chúng tôi gần như phải chen chúc, cọ xát vào nhau, tránh được cú đầu tiên thì cũng khó lòng tránh được đòn tiếp theo. Tôi và Tuyền béo đành lần lượt rút dao thợ lặn ra, nhằm vào con cá mập bơi lượn trước mắt đâm nhầu tới. Nhưng người ở dưới nước hành động chậm chạp, làm sao đâm trúng nổi giống cá mập xanh linh hoạt dị thường như thế. Con cá mập nhỏ kia nhanh như một tia chớp, thoắt cái đã xuyên qua thế công của hai con dao, há miệng chuẩn bị đớp vào vai Shirley Dương.

Shirley Dương lùi đến góc tường, trong gian phòng chật hẹp này không thể sử dụng súng bắn lao, đành rút dao thợ lặn ra cầm trong tay, chuẩn bị liều mạng lấy cứng chọi cứng với con cá mập xanh đang lao tới. Trong khoảnh khắc hung hiểm ấy, Cổ Thái bỗng nhiên vươn người lao tới, tốc độ bơi trong nước của con cá mập tuy nhanh, nhưng thân thủ của Long hộ còn nhanh hơn, con dao lưỡi cong trong tay đưa ra, lập tức chặn con cá dữ tấn công Shirley Dương lại. Long hồ đao bằng đồng xanh chạm đầy hoa văn vảy rồng tuy thuộc loại dao găm ngắn, nhưng thực tế cũng không nhỏ hơn trảm ngư đao là mấy, cả chuôi lẫn lưỡi cũng dài bằng nửa cánh tay người lớn. Phần đầu mũi dao có bản rộng cong cong, hết sức sắc bén, lưỡi dao lấp lóa ánh sáng lành lạnh, vừa đâm ra đã lút ngay vào cơ thể con cá mập xanh, máu tươi tanh lòm trào ra cuồn cuộn.

Con cá mập xanh ấy cũng thực hung hãn, đã bị lưỡi dao sắc bén chém phải mà vẫn không chết ngay tại trận. Sức lực vùng vẫy khi giãy chết của nó rất lớn, thân thể quẫy động dữ dội, cả tôi và Tuyền béo cộng thêm Cổ Thái cùng ra tay lúc này cũng không thể khống chế nổi con cá không lấy gì làm lớn lắm ấy. Cổ Thái không hổ là dã nhân vùng biển, đến lúc này vẫn không chịu buông tay khỏi con dao lưỡi cong, bị con cá mập kia quăng đi quật lại trong nước, cả người lẫn cá va đập liên tiếp vào tấm gương lớn, khiến nó vỡ vụn. Cổ Thái lợi dụng thời cơ chộp lấy vây cá, rút dao ra vung lên rồi lại hạ xuống, chém liền mấy dao vào mang cá. Từng dòng máu tươi tuôn ào ạt, con cá hung ác liều mình vùng vẫy mấy lượt nữa, rốt cuộc cũng sức cùng lực kiệt, mềm nhũn ra dưới lưỡi dao của Long hộ Cổ Thái.

Tôi thấy thủ đoạn giết cá mập của Cổ Thái hết sức nhanh nhẹn dứt khoát, tuyệt đối là thiên phú trời sinh, dân mò ngọc bình thường không thể bì được, trong lòng thầm nhủ: “Thằng nhãi này cũng gớm thật!” Lúc này, phía bên ngoài con tàu đắm càng lúc càng nhiều cá mập tụ tập, chỉ một tấm ván gỗ căn bản không thể ngăn được chúng, đành cứ ném cái xác cá chết này ra cho chúng tự tàn sát lẫn nhau trước vậy. Xem chừng, bốn người chúng tôi không thể ở trong gian phòng thuyền trưởng này nữa, vả lại, bị vây khốn ở đây càng lâu thì chúng tôi càng thêm bất lợi, nhân lúc ô xy trong bình vẫn còn đầy, phải tìm lối ra khác ở trong con thuyền này thôi.

Tấm gương trong phòng đã nát bét, tôi cũng không kịp nghĩ xem cái hồn ma của thuyền trưởng kia có tồn tại thực hay không, nhưng có thể khẳng định thứ nước đen dính trên hình xăm của Cổ Thái tuyệt đối chẳng phải thứ bình thường, nhất thiết phải nhanh chóng nghĩ cách giúp cậu ta thoát khỏi nó. Tôi chỉ tay về phía cửa phòng, cả bọn đều biết trong hành lang bên ngoài cánh cửa ấy, có một con cá mập hổ đại tướng đang bơi qua bơi lại, không biết là nó bị nhốt ở trong này, hay cố tình chui vào săn mồi nữa. Tóm lại, sự tồn tại của nó, chính là một chướng ngại mà chúng tôi không thể tránh đối đầu.

Cả bọn quyết định cướp đường xông ra, tôi nhặt súng bắn lao dưới sàn lên bơi tới trước cửa, Tuyền béo xách đèn pha công suất lớn và dụng cụ phá dỡ theo sau, Shirley Dương cũng cầm một khẩu súng bắn lao đoạn hậu. Mấy người Mô Kim hiệu úy chúng tôi vốn hiểu nhau sẵn, không cần trao đổi nhiều đã có thể triển khai đội hình, tiến cũng được mà lùi cũng xong, chỉ có mỗi Cổ Thái là không tìm được vị trí của mình, ngơ ngơ ngẩn ngẩn không biết nên làm gì. Shirley Dương đành kéo cậu ta ra phía sau lưng mình.

Tuyền béo ở sau lưng vỗ nhẹ lên vai tôi một cái. Tôi biết họ đã chuẩn bị đâu đấy xong xuôi, liền đưa vai thúc mở cánh cửa. Trước khi thò người ra, khẩu súng bắn lao đã nhô ra trước, nơi mũi lao chĩa tới chỉ toàn nước biển âm u. Con cá mập ở hành lang bên ngoài đã không thấy bóng dáng đâu nữa. Tôi nghiêng người ló đầu ra, Tuyền béo phía sau cũng giơ đèn pha lên, chiếu về phía đầu kia hành lang. Không thấy có động tĩnh gì.

Xem ra con cá mập ngoài hành lang đã bơi đi chỗ khác, cả bọn quan sát thật kỹ rồi mới yên tâm, lần lượt thoát ra, đóng chặt cánh cửa phòng của thuyền trưởng lại, bơi theo hành lang dốc nghiêng phía ngoài. Giờ chúng tôi phải đối mặt với hai lựa chọn, một là đi lên, rời khỏi tàu Mariana theo lối mũi tàu, trở về bổ sung thuốc xua cá mập, nhưng từ mũi tàu đến vị trí chúng tôi trồi lên mặt nước còn một khoảng cách nhất định, khó nói trong suốt quá trình ấy sẽ không bị cá mập tấn công; ngoài ra còn một lựa chọn nữa, chính là tiếp tục lặn xuống đuôi tàu, chúng tôi đã rất gần với mục tiêu rồi, nếu có thể vớt thành công Tần Vương Chiếu Cốt kính, thì đỡ phải phiền phức lặn xuống con tàu ma quỷ này lần thứ hai nữa.

Tôi cân nhắc thiệt hơn một lúc, thầm nhủ đằng nào cũng phải trở lên mặt nước, cần quái gì bỏ dở giữa chừng, chi bằng cứ tìm được Tần Vương Chiếu Cốt kính rồi trở lên cũng được, đỡ phải mạo hiểm thêm lần nữa. Trong hành lang này ít nhất cũng không bị lũ cá mập vây công, so với bên ngoài kia thì an toàn hơn nhiều, còn hồn ma của vị thuyền trưởng, ngoài tôi ra, những người khác hình như đều không thấy. Để hành động khỏi hỗn loạn, tôi tạm thời gác chuyện này sang một bên, định bụng là sẽ tùy cơ ứng biến. Nếu đúng là có oan hồn đeo bám, sợ là không dễ dàng thoát khỏi nó, vả lại với kinh nghiệm trước giờ của tôi, trước khi giúp Cổ Thái thoát khỏi tầng nước đen tựa bóng u linh bám trên lưng kia, mạo hiểm rời khỏi con tàu tuyệt đối không phải là lựa chọn sáng suốt.

Tôi liếc con số trên đồng hồ đo áp suất nước và khí áp trên bình ô xy, thấy điều kiện cho phép tiếp tục triển khai thêm một bước hành động, bèn lập tức hạ quyết tâm, hướng về phía ba bạn đồng hành chỉ tay xuống dưới. Cả nhóm liền men theo hành lang dốc nghiêng, tiếp tục tiến xuống sâu hơn bên trong con tàu đắm. Đi qua một cánh cửa sắt vặn vẹo vì va chạm, chúng tôi tiến vào một đại sảnh rộng rãi, chí ít cũng chiếm hai ba tầng khoang tàu. Nước trong đại sảnh nổi dập dềnh đủ thứ tạp vật, có cả những thẻ đánh bài sặc sỡ, rồi các loại bàn ghế đắt tiền, cây cảnh quý giá dùng để trang trí, và một cây dương cầm đổ vật ra trong góc. Hàng trăm con cá nhỏ xíu bơi trong làn nước, bị ánh đèn pin chiếu qua, nhao nhao chạy về phía những vùng nước tối tăm, rào rào lướt trước mắt chúng tôi, tựa như đang trốn tránh mối hiểm nguy nào đó. Không hiểu sao, lặn tới đây, chúng tôi chợt nảy sinh một cảm giác chẳng lành.

Gian đại sảnh có lẽ là khu vực trung tâm của con tàu chở khách tư nhân này, nơi có thể tiến hành đủ các loại hoạt động xã giao và giải trí của người lắm tiền như vũ hội, yến tiệc, đánh bạc... Theo ghi chú trên bản vẽ, chỉ cần xuyên qua đại sảnh trung tâm của con tàu, là xuống đến khoang để hàng ở tầng dưới cùng. Tuyền béo giơ bàn tay lật lên lật xuống với tôi, tôi biết cậu ta đại khái lại muốn kiếm cớ tiện tay dắt dê, càn quét vài món có giá trị trong gian đại sảnh này.

Tôi gõ lên đầu cậu ta một cái, giờ là lúc nào mà còn nghĩ đến chuyện vơ vét của nả chứ. Tôi chém tay về phía khoang đáy, ý bảo, tấm gương đồng kia mới là quan trọng nhất, rồi dẫn đầu cả bọn lặn sâu vào đại sảnh. Ba người còn lại bám sát theo. Vừa được một tẹo, Cổ Thái từ phía sau lại đột nhiên chụp lấy cánh tay tôi. Tôi thầm nhủ, thằng nhóc này lại giở trò rồi, đoạn ra hiệu cho Tuyền béo giơ đèn pha công suất lớn quét về phía sau, vừa khéo liền trông thấy một con cá mập trắng to đại tướng ở hành lang bên ngoài đang len vào đại sảnh.

Thân con cá mập trắng này to như cái tàu ngầm cỡ nhỏ, cả bọn chúng tôi thảy đều kinh hoảng, miệng tuôn ra một chùm bọt khí trắng xòa, lãng phí mất chút ô xy quý giá trong bình lặn. Đây chính là con cá mập lớn chúng tôi đã gặp trong hành lang chỗ cửa phòng thuyền trưởng khi nãy, mới đầu còn tưởng lầm là cá mập hổ, giờ có ánh đèn pha mới nhìn rõ, lưng xám bụng trắng, hóa ra nó lại là giống cá mập trắng hung hãn khát máu nhất. Cái miệng như chậu máu của con cá mập há to lộ ra hàm răng móc ngược sắc như dao. Phen này mà để nó đớp cho một phát, thì dẫu có là Kim cương La hán chỉ e cũng khó lòng chịu nổi.

Đến bấy giờ, bọn tôi mới bắt đầu thấy mình may mắn vì đã không bơi thẳng lên phía trên, nếu vậy chắc chắn sẽ gặp phải nó trong hành lang hẹp. Mũi lao chúng tôi mang theo có bôi chất kịch độc, có thể là một đòn trí mạng, hạ sát lũ thủy tộc hung dữ trong nháy mắt. Nhưng con cá mập trắng này to lớn nặng nề như thế, tôi cũng không dám chắc có thể dễ dàng bắn chết nó được. Nếu đụng độ mặt đối mặt, chất độc trên mũi lao chỉ cần phát tác chậm một chút, người dẫn đầu nhóm chắc chắn hứng đòn, bị nó đớp cho một phát thì mất nửa người.

Ngọn đèn pha trong tay Tuyền béo chiếu vào đầu con cá mập, tôi nhìn hết sức rõ ràng, biết rằng có thể nhân cơ hội con quái vật biển khơi đang chen vào đại sảnh, bắn cho nó một phát lao. Nghĩ đoạn, liền lập tức nắm bắt thời cơ, giơ súng bóp cò ngay tắp lự. Shirley Dương cũng cùng lúc bắn mũi lao về phía ấy. Hai mũi lao xiên cá có móc ngược vạch ra hai luồng hàn quang dưới nước, tựa như sao băng chớp lóe, bắn thẳng vào con cá mập trắng.

Nhưng con cá mập trắng này đang dồn sức chen vào đại sảnh, đối với nó, mấy tấm sắt thép trên tàu này đại khái cũng chỉ như bìa giấy bồi mà thôi. Thân thể sức lực nghìn cân ấy húc mạnh khiến cả con tàu đắm chấn động rung lên. Khéo thay, con tàu rung động dữ dội, cây đàn dương cầm kẹt ở góc sảnh kia liền trượt tới. Hai mũi lao đều bắn ghim lên cây đàn. Đúng lúc ấy, con cá mập cũng vừa chui vào trong, đập mạnh vào cây đàn dương cầm đang trượt tới. Cây đàn có vẻ rất quý giá tức thì bị con quái vật húc cho vỡ tan tành.

Tôi thấy lao xiên cá không trúng đích, dòng chảy bên trong gian đại sảnh bỗng xao động hỗn loạn, những mảnh vụn của cây đàn xoay tròn bắn đi khắp nơi. Con cá mập to tướng đã quẫy đuôi bơi xuống chỗ chúng tôi đến nơi rồi, tôi vội cùng ba người còn lại xoay người lặn xuống sâu hơn nữa. Cảm giác lúc này như thể đang chạy đua với thần Chết vậy. Nhưng với tốc độ này, bất luận thế nào chúng tôi cũng không thể đến được chỗ cửa khoang trước khi bị con cá mập đuổi kịp. Tôi để ý đến một khoang nhạc[45] nhỏ, định vòng qua đó, lợi dụng địa hình dẫn dụ con cá mập, hòng giúp những người khác chạy trước, sau đó sẽ nghĩ cách khác thoát thân. Nhưng ý nghĩ còn chưa kịp biến thành hành động, thân tàu nghiêng dốc lại đột nhiên rung chấn mạnh mẽ. Thì ra, sau cú va đập của con cá mập đại tướng, thân tàu đã mất cột chống, các bộ phận kim loại và cả dòng chảy bên trong rung lên kỳ dị. Xác tàu Mariana chầm chậm gãy lìa ra làm hai, bắt đầu từ chỗ đại sảnh trung tâm nơi chúng tôi đang ở.
 
Quyển 6 - Chương 32: Hộp báu


Chúng tôi lặn xuống xác tàu đắm này đều không đeo theo các khối chì để tăng trọng lượng, chỉ tóm lấy các vật cố định trong sảnh, gặp phải chỗ không có điểm tựa nào thì dùng dao đâm vào khe hở giữa tấm thép, mượn lực lặn xuống sâu hơn. Lúc này, con cá mập khổng lồ đuổi sát phía sau, thân tàu đột nhiên toác ra một mảng lớn, cả bọn chúng tôi thảy đều chấn động, thầm biết có chuyện không hay, ngoảnh đầu nhìn lại, liền thấy có thêm mấy con cá mập khác từ chỗ vỡ toác mới đó bơi vào trong gian đại sảnh xa hoa này.

Một con cá mập hổ hung hăng lao tới, cọ vào thân con cá mập trắng khổng lồ. Con cá mập trắng vừa bị chấn động của thân tàu làm cho kinh hãi, vốn đang tức giận vô cùng, thân thể bồ tượng hất mạnh một cái, dòng nước lưu động liền cuốn cho mấy con cá mập phía sau nghiêng ngả lảo đảo. Tôi nhận ra đây là cơ hội hiếm có, lúc này ngoài khoang hàng ở dưới đáy ra, trong con tàu này không còn nơi nào để đi nữa rồi. Nghĩ đoạn, tôi vội vẫy tay lia lịa với ba người còn lại, cả nhóm lập tức nhanh chóng xuyên qua đại sảnh trung tâm vòng một vòng, rồi lặn vào một chỗ có vẻ như kho chứa đồ của nhà bếp ở phía sau.

Đến cửa rồi nhưng Cổ Thái vẫn chưa cam lòng, cứ không ngừng ngoảnh đầu lại nhìn lũ cá mập phía sau, đại khái chắc muốn xông ra liều mạng một phen, không thấy máu chảy đầu rơi thì quyết không thôi. Tôi vội ấn đầu cậu ta, ép phải chui vào trong kho chứa đồ. Xưa có câu: “Một cây làm chẳng lên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, gặp phải tình hình nguy hiểm thế này, ai cũng phải tránh đi, chỉ một tên Long hộ mới mười lăm mười sáu tuổi như Cổ Thái thì làm sao đối phó được bao nhiêu cá mập hung dữ như vậy chứ? Giờ đâu phải là lúc cậy sức cậy tài?

Tôi nhớ trên bản vẽ, phòng kho này có hai lối ra vào, một ra đại sảnh trung tâm, một thông xuống khoang đáy, là đường tắt để đi xuống khoang chứa hàng bên dưới. Cả bọn vào bên trong, chỉ thấy đồ đạc hỗn loạn bừa bãi, nồi niêu xoong chảo và các loại đồ bếp rơi vãi bung bét. Tôi tính khóa trái cánh cửa kho đang mở toang, con cá mập đại tướng kia tuy rất lợi hại, song cũng không dễ dàng gì húc bật được cửa sắt khóa chặt. Khốn nỗi, khung cửa đã bị chấn động làm cho vặn vẹo, không thể nào đóng lại được nữa.

Một ý nghĩ khác lóe lên trong đầu, tôi và Tuyền béo vội đẩy cái tủ bếp to nhất nghiêng ra chặn vào cửa. Bọn cá mập bên ngoài đã đến nơi, húc ầm ầm làm bật tung cả cửa tủ, bát đĩa chồng chất vỡ đổ tung tóe, nhưng dù sao cái tủ bếp cũng đã chặn giữ được, nhất thời không để bọn cá mập phá cửa xông vào.

Tuyền béo tiện tay lật tung cả gian phòng lên, mở toang tủ đựng thịt, kéo ra một khay thịt lợn thối rữa, đẩy tới trước cửa. Có lẽ cậu ta hy vọng bọn cá mập tiến vào trông thấy thịt lợn sẽ không tấn công người nữa. Tôi thầm nhủ, tiên sư cha bố nhà cậu, đây có phải truyện nghìn lẻ một đêm đâu chứ, việc đã đến nước này rồi mà còn nghĩ được mấy cách tự gạt mình gạt người ấy, cậu cũng giỏi thật. Tôi đoán, lũ cá mập này hẳn có ý đồ bất thiện, rất có thể bị chính vật bám trên lưng Cổ Thái kia dẫn dụ, bằng không chẳng lý nào chúng lại truy sát mấy tên thợ lặn chúng tôi gắt đến thế.

Tôi vươn tay ra ngăn Tuyền béo lại, để cậu ta đừng có uổng phí tâm cơ. Xem chừng gian phòng này cũng không chắc chắn lắm, còn phải tiếp tục xuống sâu hơn nữa, kho hàng có lẽ là khu vực có kết cấu kiên cố nhất ở khu vực đuôi tàu, tốt nhất là nên tìm đường tới đó trước rồi mới tính sau.

Bốn người chúng tôi vòng vèo ở phía nửa cuối con tàu một lúc, cuối cùng cũng tìm thấy kho hàng ở hành lang hình chữ “T” bên dưới một cầu thang sắt. Tàu Mariana thuộc về một tay phú hào ở Nam Dương, khởi nghiệp bằng nghề buôn lậu ma túy, về sau dần dần chuyển sang buôn đồ cổ và văn vật. Y không phải hạng loại gì cũng buôn như Minh Thúc, mà không phải đồ giá trị liên thành thì đừng hòng thèm đụng tay vào. Thanh đầu dưới biển, minh khí trong mộ cổ, phàm là món nào đã qua tay y, gần như đều thuộc loại quốc bảo cả.

Con tàu này không giống các loại tàu chở khách chở hàng bình thường khác, ngoài việc dùng để hưởng lạc thú, cũng là công cụ vận chuyển lậu đồ cổ nữa. Vì vậy, kho chứa hàng không lớn, nhưng lại là nơi được phòng hộ nghiêm mật nhất con tàu. Vách tường kín mít, chống nước, chống lửa, chịu được áp lực cao, các món đồ cổ lớn như đỉnh đồng hay nhỏ như dạ minh châu, đều có những vị trí tương ứng để cất giữ, bảo tồn hết sức cẩn trọng.

Theo những gì kẻ duy nhất sống sót nhớ lại được, con tàu bị gió lốc làm mất phương hướng, sau khi gặp nạn, tàu chìm rất nhanh, thậm chí còn không kịp sơ tán hành khách và nhân viên, gần như tất cả mọi người đều chôn thân dưới biển. Đồ đạc trong kho hàng này, mười phần chắc đến tám chín là vẫn ở nguyên chỗ cũ chưa bị ai đụng tới. Giờ tàu đã chìm xuống Quy Khư, những thứ ấy cũng thành vật vô chủ, ai vớt lên được thì là của người ấy.

Hầu hết các vật trầm tích đều bị dồn về hành lang phía trước kho hàng, nước biển đục ngầu, phạm vi chiếu sáng của đèn pin lặn nước gần như có thể bỏ qua không tính đến, duy chỉ có ngọn đèn pha công suất lớn sử dụng khí krypton “Con mắt của Poseidon” mới có thể chiếu xuyên qua được bảy tám mét nước. Có điều, loại đèn pha này rất tốn năng lượng, nếu sử dụng liên tục, chẳng mấy sẽ phải thay ắc quy mới, nên chúng tôi chỉ xách theo một cái mà thôi.

Bọn chúng tôi đành hoàn toàn dựa vào ngọn đèn pha duy nhất, bốn người giữ khoảng cách gần như là sát sàn sạt nhau, nhìn rõ xung quanh rồi mới lần mò đến bên cánh cửa kho hàng kín mít. Cánh cửa bằng thép tấm vẫn khóa chặt, mé bên có sáu ổ khóa vẫn còn nguyên vẹn chưa suy suyển, kho hàng thoạt trông tựa như một cái quan tài lớn bằng kim loại.

Tuyền béo là chuyên gia bật nắp quan tài và phá cửa, sau khi rờ tay xem xét cẩn thận kích cỡ và độ kiên cố của mấy ổ khóa, liền giơ ngón tay cái lên với chúng tôi, tỏ ý phá cánh cửa này chỉ là chuyện vặt. Kho hàng giống như một cái két bảo hiểm, có điều két bảo hiểm chỉ để phòng vạn nhất, ngăn cản những tên trộm vặt phá khóa mà thôi, chủ tàu có nằm mơ cũng không thể ngờ lại có người sử dụng đến công cụ phá dỡ bằng thủy lực để nạy cửa. Với sự trợ giúp của lưỡi cưa máy, mấy cái ổ khóa kia căn bản không có tác dụng gì.

Tôi đánh tay ra hiệu, bảo Tuyền béo tranh thủ thời gian phá cửa, đồng thời dẫn theo Shirley Dương và Cổ Thái thiết lập phòng tuyến trong hành lang, súng phóng lao đã lên nòng sẵn sàng, một khi có cá mập xông tới, trong không gian chật hẹp này, hai khẩu súng phóng lao lần lượt bắn ra, ít nhất cũng có thể cầm cự được thêm giây lát.

Cổ Thái dùng “khí loa” đổi hơi, nắm chắc con dao lưỡi cong, cảnh giác chăm chú quan sát động tĩnh trong làn nước. Cậu ta không phát giác ra sau lưng mình có gì khác lạ, có điều, tôi thấy đám nước đen bám trên hình xăm của cậu ta vẫn còn nguyên, không biết có phải vì dưới khoang đáy này quá tối hay vì thứ nước đen ấy mỗi lúc một nhiều, toàn bộ tấm lưng Cổ Thái như bị bôi kín mực, so với lúc ở trong phòng thuyền trưởng thì nghiêm trọng hơn nhiều.

Shirley Dương cũng phát hiện ra tình trạng kỳ lạ này, tôi xua xua tay với cô, tỏ ý mình cũng chẳng có cách gì giải quyết, không biết trên lưng Cổ Thái rốt cuộc là thứ gì lau không hết, cọ không sạch, có lẽ là vong linh của những người chết trên tàu đã ám lên người cậu ta cũng nên. Trước khi xác định chân tướng, chúng tôi chỉ có thể lẳng lặng quan sát hoặc ít nhất cũng phải đợi khi quay trở lên trên rồi mới nghĩ cách được. Đáng tiếc, chuyến này ra biển vội vội vàng vàng, lại quên không mang theo móng lừa đen, bằng không thì dù ở dưới đáy biển, đem móng lừa ấn lên lưng cậu ta một cái là biết ngay có phải ma quỷ tác quái hay không.

Thời gian trôi qua từng giây, cuối cùng Tuyền béo cũng giải quyết xong ổ khóa cuối cùng, tôi thầm cảm tạ tổ sư gia phù hộ. Cả bọn cùng ra tay nạy bật cánh cửa kho hàng, tôi lập tức chiếu đèn pha vào. Bên trong kho hàng kín mít còn một cửa chấn song thép nữa, cửa ngoài vừa mở ra, nước biển tức khắc tràn vào.

Phần trong kho giống như một cái giá để hàng lớn, có ba cái thùng lớn bằng gỗ đàn, vẻ ngoài thoạt nhìn rất cổ phác. Không biết Tần Vương Chiếu Cốt kính để trong thùng nào. Tôi đưa ngọn đèn cho Cổ Thái, bảo cậu ta lo việc chiếu sáng. Shirley Dương thì cầm súng phóng lao đề phòng bọn cá mập xông vào. Tôi và Tuyền béo bắt tay cạy mấy cái thùng gỗ ra. Gỗ đàn có thể ngừa côn trùng và ẩm thấp, vì vậy các nhà chơi đồ cổ sành sỏi đều thích dùng làm hộp chứa đồ cổ, tôi cũng gặp khá nhiều rồi.

Tôi lần lượt nhấc lên lắc thử, nhận ra ba thùng gỗ đàn hương này có một cái trống rỗng, bèn tiện tay đẩy sang một bên, rồi bắt đầu bật nắp hai cái còn lại. Bên trong thùng thứ nhất là một bộ bảo y phỉ thúy, ánh đèn chiếu lên, nước biển đục ngầu cũng không thể che mờ được ánh sáng lấp lóa rực rỡ. Cả bộ y phục đính đầy ngọc ngà châu báu, kiểu dáng hết sức đặc biệt, mang nhiều đặc điểm tôn giáo, cực kỳ hiếm thấy.

Tôi ít nhiều cũng hiểu được một số điển cố Phật giáo, thầm đoán, có lẽ bộ bảo y phỉ thúy này là vật mặc trên tượng Phật kim thân của một ngôi chùa nào đó ở những vùng có Phật giáo hưng thịnh như Thái Lan. Thông thường, chỉ có những vị tăng lữ chức vị cực cao, vào ngày lễ truyền thống của Phật giáo mới có tư cách mặc bảo y này lên người cho tượng Phật vàng, để các bậc đế vương hoàng tộc đến triều bái dâng hương. Dân chúng bình thường sợ rằng cả đời cũng chẳng có cơ hội nhìn thấy nó một lần. Đây hoàn toàn có thể nói là một bộ thiên y cũng không có gì sai.

Tim tôi thoắt đã đập loạn cả nhịp, món hàng này thật đúng là nóng phỏng tay. Kỳ thực, Mô Kim hiệu úy đổ đấu trộm mộ, bảo bối tiếp xúc không phải là ít, những thứ được gọi là “bảo bối” trên đời có tới mấy đẳng cấp, minh khí bình thường giá đã không rẻ, giao dịch bán ra liền thu được lợi lớn về tay, nhưng vẫn còn ở dưới bậc một số thứ gọi là thần khí, cực kỳ hiếm thấy hiếm gặp, dù có lấy được về tay cũng chưa chắc bán đi được. Những thứ giá trị liên thành ấy, căn bản không nên lọt vào tay bọn phàm phu tục tử. Bộ thiên y này, chính là một thứ như thế, không biết là bảo vật trấn tự của ngôi chùa ngôi miếu nào ở khu vực Đông Nam Á nữa, chẳng ngờ gặp kết cục theo con tàu chìm xuống đáy nước như thế này.

Tôi và Tuyền béo đưa mắt nhìn nhau, thầm nhủ cùng là chơi minh khí, vớt thanh đầu, nhưng xem người ta chơi loại gì kia kìa? Đúng là tiên sư cha bọn tư bản lắm tiền, gan lớn hơn trời, cả báu vật nhà Phật cũng dám buôn lậu, không sợ trời tru đất diệt. Chẳng trách con tàu đang yên đang lành thì mất phương hướng rồi gặp nạn. Giờ đây, mấy Mô Kim hiệu úy chúng tôi tự dưng nhặt được mối lợi to oành này, lúc về nhất định phải thắp mấy nén hương đắt tiền cho tổ sư gia mới được.

Tuyền béo càng không sao nén nổi kích động, tay chân gần như múa loạn xạ, chẳng buồn nghĩ ngợi, mà cũng chẳng thấy ngại ngần, lập tức đưa tay cuốn lấy bộ phỉ thúy bảo y, nhét vào cái túi đeo bên người. Tôi kéo cái thùng thứ hai ra, Tuyền béo trong đầu hẳn vẫn toàn ánh sáng lấp lánh của châu ngọc khảm trên bộ thiên y, lập tức ra tay nạy nắp thùng lên luôn. Để đề phòng mặt sau của tấm gương hướng ra ngoài, mấy người chúng tôi né hết sang một phía. Thùng gỗ đàn hương vừa hé mở, làn nước u ám xung quanh đột nhiên lạnh buốt đến run người. Mặc dù bộ đồ lặn trên người chúng tôi có thể ngăn ngừa nhiệt độ cơ thể xuống thấp, nhưng cũng không ngăn được khí âm hàn tuôn ra từ bên trong cái hộp ấy, cảm giác tựa như giữa mùa đông giá lạnh mà uống một bát đầy nước đá vậy, toàn thân không khỏi run lên từng đợt. Cả ba người còn lại dường như cũng có cảm giác này. Ánh mắt chúng tôi cùng di chuyển theo cột sáng đèn pha, tập trung vào bên trong cái hộp gỗ. Chỉ thấy một tấm gương đồng cổ xưa nằm ngay ngắn chính giữa hộp. Mặt gương bị mòn tương đối nghiêm trọng, đã trở nên mờ đục, toàn bộ khung gương trang trí hoa văn hình rồng, phía dưới gắn con cá bốn chân, tương truyền chỉ vùng Đông Hải mới có. Thứ cá bốn chân này hình dạng như người, mặt mũi cực kỳ đáng sợ. Quan sát kỹ, chúng tôi phát hiện ra tấm gương đồng này không có cấu tạo đối xứng, song toát lên một vẻ đẹp khó tả, tựa như không phải vật do con người tạo ra, mà là của thần thánh vậy.

Hồi trước ở Phan Gia Viên, Răng Vàng từng nói với tôi, các món đồ cổ giá trị trên đời, gần như món nào cũng là độc nhất vô nhị, trải qua trăm ngàn năm tuế nguyệt, được vô số người sưu tầm cất giữ, hoặc hoàn toàn cách biệt với thế gian trong các mộ cổ, từ đó mà hình thành cốt cách và cá tính riêng biệt của từng món. Cầm món đồ thật trên tay, người ta đều có cảm giác hết sức đặc biệt, như thể “quá khứ vượt qua nghìn năm ùa về, thế sự đổi thay, bãi bể nương dâu biến ảo khôn lường”, nếu thường xuyên tiếp xúc với đồ cổ minh khí, cảm giác khó tả này sẽ càng thêm mãnh liệt. Trong các phương pháp giám định đồ cổ thật giả, phương pháp cốt yếu nhất lại chính là dựa theo trực giác, là thứ bản lĩnh khó nắm bắt nhất, thậm chí có thể nói không thể học được. Dẫu có lăn lộn trong đống đồ cổ mấy năm, thì căn bản cũng chỉ có thể được coi là hạng mới nhập môn, còn muốn đạt đến trình độ tinh túy, thì ngoài kinh nghiệm cá nhân tích lũy gian nan, tất cả chỉ có thể dựa vào ngộ tính của mỗi người mà thôi.

Tôi không biết mình có trực giác đặt biệt cùng với khả năng quan sát đồ cổ sắc bén như Răng Vàng hay không, nhưng nắp thùng gỗ đàn hương vừa mở ra, cảm giác bức bối vô hình dường như đến từ một cõi nào đấy khác, đã cho chúng tôi một thông tin xác định: “Không cần phải giám định, tấm gương cổ này, chắc chắn chính là Tần Vương Chiếu Cốt kính mà Tần Thủy Hoàng dùng để trấn áp cương thi trên biển.”

Tôi than thầm một tiếng, tiên sư cha bố nhà nó, đúng là đồ thật rồi, không ngờ “đi mòn hài sắt chẳng tìm thấy, đến khi tìm được chẳng tốn công”, bảo vật hàng thật giá thật bày ra trước mắt lại không khỏi hoảng hốt trong lòng. Tôi vẫn không dám tin đây là sự thật. Vì tấm gương đồng cổ này, chúng tôi đã mất một mạng người. Dựa trên giá trị quan của tôi, thì như vậy thực chẳng đáng chút nào, nói thực lòng, giữa một món quốc bảo quý giá và tính mạng của một người dân mò ngọc bình thường, tôi thà lựa chọn cái sau, nhưng cái giá đắt như vậy đã trả rồi, thì thứ này chắc chắn phải mang trở về, quyết không thể buông tha.

Nghĩ tới đây, tôi liền đưa tay định cầm cái gương lên, Shirley Dương đứng bên cạnh vội cản lại. Tôi biết cô sợ tôi quên mất chuyện mặt sau của Tần Vương Chiếu Cốt kính không được chiếu vào người. Truyền thuyết đến tai chúng tôi tuy chỉ là tà môn, nhưng trong vũ trụ còn biết bao hiện tượng kỳ dị mà con người chưa thể lý giải được, không thể không tin, mà cũng không thể chỉ biết mê muội tin tưởng mù quáng.

Tôi khẽ gật đầu với Shirley Dương, ý bảo cô không cần lo lắng. Tôi biết tấm gương cổ này nguy hiểm, nên hết sức cẩn thận nâng lên, chuẩn bị dùng vải gấm bọc lại để cho vào túi đựng đồ mang trở lên mặt nước. Chừng nào còn chưa trở về tới nơi tới chốn, cái túi này với tôi sẽ là vật bất ly thân, tấm gương cổ sẽ tuyệt đối nằm bên trong, không được lấy ra lần nào nữa, đợi đến khi giao vào tay giáo sư Trần thì gánh nặng này mới coi như được gỡ bỏ.

Mắt thấy mục tiêu của chuyến ra biển này sắp hoàn thành, thì con tàu đắm bỗng dưng gặp chuyện. Tàu Mariana được phế tích dưới đáy biển nâng giữ ở đoạn mũi tàu, sau khi vỡ ngang thân, phần đuôi tàu từ từ bị dòng chảy ngầm dìm sâu vào cái xác tàu cổ bên dưới. Khung con tàu cổ không chống đỡ nổi sức nặng đè xuống đó, thình lình gãy lìa ra, mở lối cho tàu Mariana trượt vào.

Bên trong kho hàng đột nhiên đảo lộn, mấy người bọn tôi đều thấy hoa mắt tức thở, không biết có phải bình lặn bị va đập thủng lỗ rồi hay không, chỉ thấy vô số bọt khí trắng xóa ùng ục ùng ục nổi lên. Ngọn đèn pha đập vào vách khoang, lỏng mối tiếp xúc, tắt phụt. Trong màn nước tối đen, Tần Vương Chiếu Cốt kính tuột khỏi tay tôi rơi mất. Đến khi con tàu đắm ngừng lắc, dừng lại trên một trụ đá giữa đống đổ nát bên cạnh, tôi vội khua tay mò tìm tấm gương cổ, cũng may nó chưa bị tổn hại gì.

Cổ Thái đập đập ngọn đèn pha, mối tiếp xúc may thay liền trở lại, ánh sáng bừng lên. Trong khoảnh khắc đó, tôi chẳng nghĩ ngợi gì, vô tình đưa mắt nhìn tấm gương trên tay. Lúc đèn đóm tắt tiệt, tôi chỉ lo tìm nhặt được nó lên, không chú ý xem mặt trước mặt sau thế nào, vừa cúi nhìn, da đầu lập tức ngứa ran, mặt sau của Tần Vương Chiếu Cốt kính lù lù đập vào mắt.
 
Quyển 6 - Chương 33: Mực khổng lồ


Sau một trận hỗn loạn, không hiểu quỷ thần xui khiến thế nào mà tôi lại giơ mặt sau của Tần Vương Chiếu Cốt kính lên trước mắt mình. Tấm gương này từng trấn lên cổ thi suốt cả nghìn năm, tương truyền thi khí do cương thi ngưng luyện đã bị hút hết vào trong, chuyện khác thì tôi không để ý, nhưng người sống sờ sờ mà soi vào đấy, thực sự là điều vô cùng không may mắn.

Dưới nước lúc này quá tối tăm, tôi không nhìn rõ mặt sau tấm gương hiện lên hình ảnh gì, chỉ thấy một vùng u tối mờ đục. Tôi thầm lấy làm cổ quái, mặt sau của Tần Vương Chiếu Cốt kính tại sao lại đen như bị hun khói than vậy? Muốn xem cho rõ, tôi tóm lấy cánh tay đang giơ đèn pha của Cổ Thái, rọi luôn vào tấm gương. Thì ra phần này của tấm gương đồng bị phong kín bằng muội than, trên lớp muội than còn có ấn phù trừ tà nữa.

Tôi thoáng động tâm, thầm nhủ: “Tay chủ tàu này quả cũng biết tấm gương cổ có điều tà môn, nên mới che kín mặt sau của nó lại, như thế, việc thu mua, giám thưởng hoặc vận chuyển lậu sẽ an toàn hơn nhiều. Thế này xem chừng đúng là ‘chúng khẩu đồng từ, ông sư cũng chết’, truyền thuyết Tần Vương Chiếu Cốt kính là tà vật bất tường quá nửa không phải giả rồi.” Nghĩ đoạn, tôi lại bỏ tấm gương cổ vào túi đựng đồ, hướng về phía mấy người kia vỗ vỗ lên miệng túi, ý bảo đã xong rồi, rút quân thôi.

Shirley Dương giúp tôi gỡ bỏ bình dưỡng khí bị rò trên lưng ra, nhiệm vụ đã gần hoàn thành, hai bình dưỡng khí bớt đi một cũng không quan trọng lắm. Có điều, cô vẫn đẩy khẽ tôi một cái, hình như trách tôi quá liều lĩnh lỗ mãng, lại dám lấy đèn chiếu vào mặt sau tấm gương, vạn nhất mặt ấy không bị che đi thì phải làm sao?

Tôi thầm nhủ, đằng nào cũng đã soi nguyên cả cái mặt vào rồi, dù không dùng đèn chiếu cho rõ thì cũng quá muộn. Tôi không phải loại chỉ biết trố mắt ra nhìn, xuống nước gặp ai cũng muốn động đao động kiếm như thằng nhãi Cổ Thái kia. Nếu không cân nhắc nặng nhẹ từ trước, tôi làm gì có chuyện tùy tiện chiếu đèn xem xét mặt sau tấm gương ấy. Tuy nhiên, ở dưới nước không tiện giải thích, tôi chỉ đành giơ tay hướng lên phía trên ra hiệu, chuẩn bị dẫn cả nhóm rời khỏi xác tàu Mariana. Lúc này, đuôi tàu đã rơi xuống một chỗ có dòng chảy ngầm, bị dòng nước xiết tấn công, thân tàu bằng sắt thép không ngừng rung bần bật, người ở trong khoang đáy cảm nhận được hết sức rõ ràng. Có điều, ở đại sảnh trung tâm ngoài kia lũ cá mập vẫn đang rình mò, bọn tôi đành phải tìm đường ra khác.

Bốn người vòng sang mé bên con tàu, vào một gian phòng có cửa sổ bị vỡ, nhìn thấy bên ngoài có một xác tàu buồm bằng gỗ, dòng nước ngầm có vẻ rất xiết. Tôi đang định chui ra xem có thể bơi lên từ chỗ này hay không thì Shirley Dương đã tranh trước, cô chui người qua cửa sổ, đoạn vẫy tay với chúng tôi, ý là có thể đi theo lối này.

Tôi bảo Tuyền béo và Cổ Thái bỏ lại hộp công cụ phá dỡ nặng nề, nắm chặt con dao thợ lặn bám theo Shirley Dương chui qua cửa sổ mạn tàu. Dòng loạn lưu bên ngoài xô tới, lực nổi của nước dường như đã mất tác dụng, chúng tôi chỉ có cách bám chặt vào những khe nứt trên thân tàu mới miễn cưỡng trồi dần lên trên được.

Tôi và Shirley Dương ra ngoài con tàu đắm, thấy các dòng chảy hỗn loạn tuy nhiều, song vẫn có thể miễn cưỡng vượt qua, mà nước cũng không nhiều tạp chất, khoảng tối tăm đục ngầu như ở trong khoang tàu, bèn lần lượt giúp Tuyền béo và Cổ Thái chui ra. Đúng lúc ấy, tôi chợt nhận ra dòng chảy dường như có điều kỳ lạ, bèn giật lấy đèn pha, cúi nhìn xuống chỗ nước sâu bên dưới. Chỉ thấy cái chân vịt khổng lồ của tàu Mariana đang xoay. Theo lý mà nói, động cơ tàu đã hỏng từ lúc gặp nạn, lúc ở bên trong xác tàu, chúng tôi cũng không hề cảm thấy động cơ đang hoạt động, thế quái nào lại như có ma làm, chân vịt ở đuôi tàu không hiểu sao lại xoay được thế.

Tôi lo bóng ma của thuyền trưởng vẫn bám riết theo, chỉ muốn nhanh nhanh chóng chóng rời xa khỏi con tàu này, nhưng các dòng chảy ngầm cứ không ngừng dồn đến, nếu không bám chặt lấy xác tàu thì khó lòng trồi lên mặt nước được. Chân vịt ở đuôi tàu giờ xoay vù vù, cuốn những mảnh vỡ của con tàu gỗ vào nghiến nát, vụn gỗ dập dềnh trôi nổi theo dòng chảy ngầm hỗn loạn. Tàu Mariana chấn động dữ dội, mấy kẻ chúng tôi bám vào thân tàu muốn giữ cho thân hình ổn định đã cực kỳ khó nhọc, đừng nói gì đến chuyện mon men trồi lên mặt nước.

Đột nhiên đợt chấn động bất ngờ đó ngưng bặt, chỗ chân vịt tàu tuôn ra một dòng nước xoáy. Dưới đáy nước tối om thò ra mấy cái xúc tu to tướng, tua tủa giác hút, tựa như một đàn rắn biển xám xịt đang bám theo thân tàu đắm trườn lên. Thì ra lúc chìm xuống Quy Khư, tàu Mariana khéo thế nào lại đè lên đúng hang ổ của một con mực khổng lồ, nhốt nó ở bên trong, khiến nó chỉ có thể vươn xúc tu ra bắt lũ thủy tộc bơi qua cửa hang làm thức ăn. Có lẽ vừa nãy nó cảm nhận được có vật sống vừa bò ra, lập tức thò xúc tu ra định cuốn vào miệng xơi tái, làm xoay chuyển chân vịt của con tàu.

Tôi thấy mấy cái xúc tu to tướng men theo thân con tàu đắm trườn tới tấn công, kinh hãi rùng cả mình. Nếu gặp phải cương thi hay dị thú ở trên mặt đất, chí ít cũng còn nghiến răng liều mình chạy tháo mạng, nhưng ở dưới nước sâu, áp lực khiến người ta hành động chậm chạp hẳn đi.

Giống mực khổng lồ dưới biển sâu này có thể kéo đắm cả tàu bè nhỏ, nếu chẳng phải cỡ con tàu chở khách bằng kim loại nặng nề này, đừng hòng đè nổi nó. Bốn chúng tôi đều biết tình thế nguy cấp, cuống quýt ra sức trồi lên phía trên.

Nhưng con người hành động nhanh đến mấy, ở dưới nước cũng không thể nhanh bằng lũ quái thú biển sâu, một cái xúc tu màu xám trắng to như cái lu đựng nước chỉ trong nháy mắt đã tới sát sau lưng chúng tôi rồi. Giữa dòng chảy hỗn loạn, tay tôi giữ không chặt, ngọn đèn pha “con mắt Poseidon” liền tuột tay rơi xuống, tức thì bị xúc tu của con mực khổng lồ kia cuốn lấy. Ánh đèn tắt phụt, ngọn đèn pha nặng mười mấy cân rơi vào cái xúc tu mọc đầy giác hút ấy, loáng một cái đã bị vo tròn như tờ giấy vụn.

Con mực khổng lồ ném vèo ngọn đèn công suất lớn đi, vươn dài xúc tu, nhằm Cổ Thái quật xuống, những giác hút lớn nhỏ chi chít tựa như vô số con mắt bất thình lình mở trừng ra. Cổ Thái bám tay vào thân tàu đắm ngoảnh đầu lại nhìn. Mặc dù ở dưới nước cậu ta là Long hộ dũng mãnh tuyệt luân, song dẫu sao cũng còn nhỏ tuổi, không khỏi kinh hãi đến đớ người ra, quên cả né tránh.

Vừa may lúc ấy, tôi đang ở bên cạnh, Cổ Thái tuy là hậu duệ của Đản nhân thời cổ, nhưng vẫn còn thuộc loại ếch ngồi đáy giếng, chưa biết trời cao đất dày, căn bản không biết phản ứng thế nào. Tôi nóng lòng cứu người, bèn thuận tay lấy trong túi ra một cây pháo hoa dưới nước, rút chốt rồi gắng sức ném về phía Cổ Thái. Ánh lửa màu trắng sáng bừng lên, vừa khéo chạm vào mặt bên trong xúc tu của con quái vật. Khói trắng bốc lên, những giác hút chi chít nhanh chóng co rút lại, rồi giật vụt trở về. Dòng nước cuộn lên tựa như gió thu quét lá, sém chút nữa hút cả chúng tôi xuống đáy nước.

Cây pháo hoa rơi xuống làm phần đuôi con tàu đắm sáng bừng lên, có thể thấy rất nhiều xác tàu cổ chồng chất bên dưới, giữa các cánh quạt chân vịt tàu Mariana thấp thoáng một vật thể mờ mờ, dường như đó chính là sào huyệt của con mực khổng lồ kia. Trong các xúc tu của nó, có hai cái dài nhất, bình thường toàn dùng để quơ bắt cá tôm làm thức ăn, lúc này một cái đã rụt về, cái còn lại vẫn men theo thân tàu vươn ra. Tôi và Tuyền béo vội đem mấy cây pháo hoa mang bên người để dùng báo hiệu khi khẩn cấp ném hết xuống chỗ đó. Con mực khổng lồ hình như rất sợ khói lửa, buộc phải tập trung khua động xúc tu chống đỡ.

Tôi hiểu rõ, những cái xúc tu của con mực khổng lồ đại tướng này có thể kéo được cả trâu bò dê ngựa xuống nước, một khi bị nó cuốn phải thì chẳng cần đợi đến lúc bị ăn thịt, lập tức xương cốt toàn thân đã bị vặn cho gãy lìa mà chết rồi. Nhưng con mực đang bị nhốt trong hang, khoảng cách vươn xúc tu ra cũng chỉ có hạn, chỉ cần nhanh chóng trồi lên đến khoảng giữa thân tàu là có thể thoát hiểm. Khốn nỗi, cả bọn chỉ riêng ứng phó với hai cái xúc tu to như hai con mãng xà kia đã mệt nhoài ra rồi, làm sao còn kịp trồi lên mặt nước chạy trốn.

Mắt thấy cái xúc tu đầy giác hút như những con mắt lại vươn tới, tôi thò tay vào túi lục tìm, nhưng pháo hoa đã dùng hết sạch, súng phóng lao tuy có chất độc, nhưng dùng để đối phó với lũ cá mập thể hình không lớn lắm còn hữu dụng chứ muốn bắn chết con mực khổng lồ da thô thịt dày, to thù lù như quả núi này thì chẳng ích gì. Một cái xúc tu to tướng đã vươn tới sau lưng, chỉ chớp mắt là sẽ quật xuống. Tuyền béo và Cổ Thái đều hốt hoảng cuống lên, định rút dao găm ra đâm nó. Tôi thầm nhủ, kiến khó lòng lay được chân voi, con dao lặn dùng để phòng thân này làm sao tổn thương nó được, nhưng lúc này, ngoài việc liều chết vùng vẫy ra, thử hỏi có còn cách nào khác nữa đâu?

Đột nhiên, một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, tôi lập tức đánh tay ra hiệu cho cả bọn lặn sâu xuống, rồi kéo tay Shirley Dương ở gần mình nhất, thuận theo một dòng nước xoáy lặn thẳng một mạch xuống chỗ đuôi tàu. Tuyền béo cũng níu Cổ Thái theo sát đằng sau. Mỗi nhóm hai người bám vào nhau có thể đề phòng bị dòng chảy ngầm cuốn đi, chỉ thoáng chốc, chúng tôi đã đến gần cái chân vịt ở đuôi tàu. Cả bọn bám vào cánh quạt to tướng để trụ vững, cùng lúc này, xúc tu của con mực khổng lồ vẫn đang vươn qua khe hở giữa các cánh quạt lần mò tìm con mồi ở vị trí chúng tôi dừng lại lúc nãy, khoảng không gian nhỏ đằng sau chân vịt ngược lại trở thành góc chết mà nó không thể chạm tới.

Tôi cất con dao găm đi, sử dụng ánh sáng của ngọn đèn treo trước ngực, chăm chú quan sát cái xúc tu đang không ngừng nhu động trước mắt, rồi hướng về phía ba người kia chỉ tay vào cánh quạt chân vịt, ý bảo cả bọn cùng hợp sức mà quay. Ba người bọn Tuyền béo lập tức hiểu ý đồ của tôi muốn lợi dụng cánh quạt chân vịt cắt đứt xúc tu mực.

Trục trước của chân vịt đã gãy, cánh quạt không còn chốt cố định, chỉ cần có dòng nước chảy qua là xoay tròn, muốn cho nó chuyển động cũng không tốn sức mấy. Có điều, chúng tôi biết con mực khổng lồ này cực khỏe, cánh quạt chân vịt chưa chắc đã cắt lìa được cái xúc tu to tướng kia, vì vậy ngay từ đầu phải dồn hết lực, đã ra tay thì không nương nhẹ, muốn nương nhẹ thì quyết chẳng ra tay. Con mực khổng lồ đại tướng trong hang sâu không hề phòng bị, cánh quạt chân vịt xoay tít, xúc tu của nó lập tức bị cuốn vào trong, từng đám từng đám máu bẩn chảy ra ào ạt. Con quái vật đau đớn quá đâm ra hoảng hốt, không dồn sức cự lại cái máy xay thịt ở đuôi tàu, ngược lại còn muốn nương theo đà xoay của cánh quạt để rụt cái xúc tu bị thương trở về, không ngờ lại bị cánh quạt cuốn lấy, một cái xúc tu cụt sát gốc, cái còn lại cũng chỉ còn một nửa. Đến khi nó hiểu ra thì quá muộn, mấy cái xúc tu ngắn hơn trong hang động vội vươn ra vặn chân vịt theo hướng ngược lại, cuối cùng cũng rút được cái xúc tu thương tích nặng nề vào trong.

Cả một vùng nước bên dưới đuôi tàu ngầu máu, con mực đau đớn phun nước mực đen ngòm khiến xung quanh tối om, giơ năm ngón tay trước mặt cũng chẳng thấy gì. Hai xúc tu chính của con quái vật đã đứt, mấy cái ngắn còn lại cũng không còn uy hiếp gì nhiều đến chúng tôi nữa. Tôi đưa tay lần mò mấy người trong nhóm, đẩy họ lên phía trên. Bọn Tuyền béo và Shirley Dương nhận được tín hiệu, liền nhanh chóng bám vào thân tàu Mariana bơi lên mặt nước giữa những dòng chảy hỗn loạn đen kịt.

Bọn tôi thoát khỏi nạn lớn, tên nào tên nấy đều hơi có chút ngẩn ngơ như kẻ mất hồn, tim tôi vẫn đang đập thình thịch không ngớt. Tôi bơi ra khỏi vùng nước nồng nặc máu tanh, thấy ba người còn lại đều không bị thương, vội đánh tay ra hiệu, bảo cả bọn nhanh chóng rời khỏi khu vực đầy rẫy hiểm nguy này. Nhưng muốn trở lên mặt nước, cần tiến hành theo kế hoạch một cách từ tốn và có bài bản, ít nhất cũng phải dừng lại một chút ở khu vực sát mặt nước nhằm giảm áp suất, bằng không chứng khí ép do áp lực đột ngột thay đổi sẽ khiến trong máu xuất hiện bọt khí, nếu nặng có thể gây mất mạng như chơi. Vì vậy, mặc dù như có lửa đốt trong lòng, bốn người bọn tôi cũng không dám tùy tiện nhô lên quá nhanh.

Chúng tôi lại vịn vào thân tàu đắm, bơi đến gần chỗ gãy ở đại sảnh trung tâm tàu. Những dòng chảy hỗn loạn sinh ra dưới đáy nước đã yếu dần, không biết lũ cá mập kia có còn bên trong tàu hay không, cũng có thể chúng đã bị mùi máu tanh phía dưới thu hút, song khe nứt lớn trên thân tàu khiến chúng có thể ra vào hết sức dễ dàng, nên bất luận thế nào, bơi qua chỗ hở ấy cũng cực kỳ nguy hiểm.

Tôi thấy bên trên lấp ló bóng cá mập, cách dăm mét có một đống trụ đá lớn chìm sâu, dựa theo vị trí của con tàu đắm, thì tàu Chĩa Ba của chúng tôi chính là bị mắc cạn ở chỗ di tích trụ đá ấy. Khoảng giữa các trụ đá rất hẹp, nếu có thể lợi dụng được thì sẽ là đường rút lui tương đối an toàn. Nghĩ tới đây, tôi liền dẫn theo cả nhóm bơi về phía các trụ đá.

Lúc này, ô xy trong bình lặn của tôi đã hết, đành phải thay phiên nhau sử dụng chung với Shirley Dương. Tôi giơ đèn pin lên soi rõ địa hình xung quanh, chỉ thấy phế tích này hùng vĩ khó bề tưởng tượng, thực không nghĩ nổi có công trình kiến trúc nào lắm cột đá lớn như thế, mà cũng không rõ làm cách nào người ta có thể xây dựng được nó ở cái thời nguyên thủy mông muội sản xuất lạc hậu xa xưa ấy. Cho dù ở dưới nước không thể nhìn rõ toàn bộ diện mạo của khu phế tích, song mấy người chúng tôi cũng cảm thấy một sự uy hiếp vô hình đến từ mấy nghìn năm lịch sử. Không hiểu rốt cuộc người Hận Thiên cư trú ở đây thuở trước muốn làm gì?

Tôi ra hiệu cho cả bọn lách vào khe hở giữa các trụ đá, chuẩn bị từ từ nổi lên mặt nước theo kế hoạch. Đúng lúc này, bỗng thấy Cổ Thái miệng ngậm dao, toàn thân run lên từng đợt, có lẽ tại vừa nãy bị căng thẳng quá độ. Đây không phải là biểu hiện sợ hãi, mà do hệ thần kinh căng thẳng quá mức khi gặp nguy hiểm và bị áp lực, khiến cho cơ bắp toàn thân run bần bật, không thể khống chế. Quân đội Mỹ cho rằng hiện tượng này không phải chứng bệnh tâm lý, mà là phản ứng ám thị nảy sinh khi thần kinh và cơ bắp đều căng thẳng, liên quan đến hệ thống điều hòa thần kinh trong cơ thể người. Một số người sau khi giết người lần đầu tiên, bàn tay cầm dao sẽ bị co giật, nguyên nhân chính là như vậy. Người Mỹ có thuốc phòng ngừa và trị liệu chứng này. Hồi tôi còn ở tiền tuyến, trong đại đội cũng có vài chiến sĩ trẻ mắc phải tình trạng này, lúc đó bọn tôi thông thường đều làm công tác tư tưởng để xoa dịu áp lực, chẳng hạn chửi bới mấy câu, hay kể chuyện cười gì đó cũng có thể giảm áp lực khá hiệu quả. Có điều, dưới nước đương nhiên không làm thế được, tôi lo Cổ Thái sẽ xảy ra chuyện, đành bảo Tuyền béo giữ chặt cậu ta, để đảm bảo an toàn.

Đến được chỗ này, cả nhóm chúng tôi gần như đã sức cùng lực kiệt, khó khăn lắm mới cầm cự được một lúc ở quãng giảm áp. Đột nhiên, dòng chảy bất thình lình trở nên hỗn loạn, con cá mập trắng lưng xám thoắt ẩn thoắt hiện như bóng ma hồi nãy tự dưng lù lù dẫn xác đến, định xông vào giữa mấy trụ đá đớp người, nhưng thân thể to lớn quá khó lòng chui lọt, đành phải quay đầu vòng lại, lượn điên đảo xung quanh. Thân thể to lớn cùng tốc độ bơi cực nhanh của nó làm các dòng nước cuộn xiết hẳn lên, khu phế tích chất chồng vốn đã nghiêng ngả lập tức lắc lư như muốn sập, những khối đá nhỏ phía trên lả tả rơi. Con cá mập trắng cũng bị mấy khối đá rơi làm giật mình kinh hãi, trông dường như hết sức cáu kỉnh, thân hình quét ngang va mạnh vào mép đống phế tích, cả trụ đá khổng lồ đung đưa một trận, rồi từ từ ngã vật.
 
Quyển 6 - Chương 34: Nước sâu lửa nóng


Con cá mập điên bất ngờ tập kích, thân thể bồ tượng của nó va phải một cây trụ đá. Mấy trụ đá dưới biển nơi chúng tôi đang náu mình vốn đã chông chênh như trứng để đầu đẳng, ngày đêm bị dòng nước ngầm xối vào, lúc này chấn động mạnh, một cây đứng ở rìa ngoài sập xuống, va phải thân tàu Mariana bên dưới, làm bùn cát nổi lên cuồn cuộn.

Màn sương khói xám xịt dâng lên từ đáy nước đen ngòm khiến bọn cá ẩn náu trong nghĩa địa tàu đắm đều kinh hãi tranh nhau bỏ chạy. Bọn chúng chẳng hề có mục đích gì, chỉ biết cắm đầu cắm cổ bơi vòng vòng một chỗ. Rất nhiều loài thủy tộc dựa vào địa hình phức tạp hình thành bởi các con tàu đắm và di tích để ẩn náu, lúc này bị chấn động xua hết ra khỏi chỗ nấp. Đàn cá mập lập tức thừa cơ lao tới thỏa sức săn bắt. Đáy biển như sôi sùng sục, hết đàn cá này đến đàn cá khác như sao băng, lướt chiu chiu qua xung quanh chúng tôi, khiến người ta nhìn mà hoa cả mắt.

Con cá mập trắng to nhất kia đảo một vòng, rồi lại bơi quành về phía đám trụ đá. Tôi ngước lên, chỉ thấy đà lao của con cá dữ có vẻ thập phần hung hãn, cái miệng đầy răng sắc đã gí sát trước mặt. Sau khi mấy cây trụ ở vòng ngoài đổ xuống, nhóm chúng tôi đã mất tấm lá chắn phòng ngự vững chắc, tôi đành phải đẩy Cổ Thái vào, đồng thời bảo hai người còn lại lách vào ẩn náp sâu bên trong khu di tích, đoạn bắn một mũi lao về phía con cá mập. Con cá mập trắng trúng ngay một mũi lao chính mõm, lộn hai vòng liền, rồi kéo theo một vệt máu tiếp tục nhào tới nữa.

Chúng tôi phát hiện chất độc trên mũi lao không thể giết ngay được con cá mập khổng lồ, đành chủ động lẩn tránh, chớp thời cơ bơi vào trung tâm của khu hoang phế đầy những trụ đá san sát, len lỏi xuyên qua khe hở giữa các tảng đá khổng lồ nằm ngả nghiêng, vòng lên phía trên mặt nước. Di tích đá khổng lồ này, càng vào sâu càng quanh co, ở giữa còn hỗn tạp rất nhiều mảnh vỡ xác tàu đắm và vỏ trai vỏ sò. Những vật thể vô hồn này tập hợp thành một khu rừng rậm dưới đáy biển, như một chướng ngại vật thiên nhiên nhằng nhịt, con cá mập khổng lồ kia nhất thời chưa thể làm gì chúng tôi.

Nhưng lũ cá mập xanh nhỏ hơn thì không chỗ nào là không luồn lách chui vào được. Tôi và Shirley Dương cứ phải luôn tay dùng súng bắn lao hạ sát chúng từ xa. Con nào bơi đến gần thì Cổ Thái dùng dao lưỡi cong xông lên chém giết, nước biển bốn phía xung quanh nhuộm máu đỏ ngầu. Rốt cuộc, chúng tôi lại bị đàn cá mập vây chặt bên trong rừng trụ đá, khó lòng trồi lên mặt nước cho nổi.

Chúng tôi dần bị lũ cá mập dồn ép, lùi vào một góc chết có mấy cây trụ đá đứng song song. Tôi giúp Shirley Dương nhét mũi lao vào nòng súng, còn cô lần lượt dùng hai khẩu súng bắn lao nén thủy lực luân phiên xạ kích, hạ sát những con cá mập bơi vào qua các khe hở. Chẳng mấy chốc mười mấy mũi lao đã dùng hết sạch. Tôi ném khẩu súng phóng lao đã thành vô dụng đi, đón lấy ống thở Shirley Dương đưa qua hít một hơi, chỉ thấy Cổ Thái đang nấp bên dưới một khe hở giữa hai tầng đá, đợi bọn cá mập bơi qua trên đầu mới thừa cơ thọc sâu lưỡi dao vào bụng. Bọn cá mập xanh bơi rất nhanh, lao vun vút, trúng dao rồi mà quán tính vẫn không giảm, hết con này đến con khác, lần lượt bị Cổ Thái rạch toác cả bụng.

Con dao lưỡi cong ấy của Cổ Thái đúng là một món lợi khí dưới nước, cán dao và lưỡi dao liền thành một thể, chạm khắc hoa văn vảy rồng cổ xưa, hình dạng như vầng trăng khuyết, mũi dao rộng và sắc bén dị thường, hình như khi luyện trong thành phần còn được bổ sung ba phần thép tinh luyện cộng với một phần vàng nung chảy nữa. Lịch sử của con dao hình dạng kỳ dị này, có thể truy về đến nghìn năm trước, có vẻ đây chính là vật chuyên dùng của các đời thủ lĩnh Đản nhân. Lúc này, Cổ Thái cầm nó trong tay, liên tục hạ sát mấy con cá mập hung hãn mà lưỡi dao vẫn không hề hư tổn, cũng không dính dù chỉ một vệt máu nhỏ. Nước biển xung quanh chỗ Cổ Thái đục ngầu, tanh tưởi máu cùng lòng ruột cá, nhưng lưỡi dao vẫn sáng lạnh rợn người, ánh đao quang không cách gì che khuất.

Tuyền béo thì đợi ở chỗ cách Cổ Thái không xa lắm, thấy có con cá mập nào chưa chết hẳn, liền vung dao găm lên tiễn nó về Tây Thiên nốt. Có điều, vẫn còn một vài con cực kỳ hung mãnh, bụng bị lưỡi dao rạch toác một vết dài mà vẫn xông đến cắn xé, tình hình hỗn loạn khôn tả, chẳng thể phân biệt nổi đâu là máu cá đâu là máu người nữa.

Tôi lấy ống thở của Shirley Dương hít một hơi dài, rồi cùng cô rút dao găm, gia nhập cuộc hỗn chiến giữa người và cá mập trước mắt. Thợ lặn dùng dao găm đối phó với cá mập dưới nước, tuyệt đối có thể xem là một hành vi điên cuồng, thật chẳng khác nào tự đâm đầu vào đường chết. Bình thường, với sức mấy người, khó mà cầm cự được dù chỉ trong giây lát, nhưng nhờ vào ưu thế địa hình, chúng tôi đã liên tiếp giết được mấy con cá mập hung hãn.

Cứ tiếp tục tử chiến thế này, tuy có thể miễn cưỡng ứng phó được một lúc, nhưng lại khiến mùi máu tanh trong nước càng lúc càng nồng nặc, dẫn dụ thêm càng nhiều cá mập vây tới. Những loài thủy tộc đang bị lũ cá mập điên cuồng truy sát như được đại xá, lại nhao nhao chui trở về chỗ náu mình bên trong khu nghĩa địa tàu đắm. Vậy là, mấy tên thợ lặn chúng tôi liền trở thành mục tiêu chung của lũ cá mập, buộc phải liều mạng chiến đấu với bọn chúng trong làn nước đỏ ngầu máu, chỉ hơi lơ là một chút dễ bị cạp cho một phát tiêu đời như chơi.

Nếu lúc này trực tiếp trồi thẳng lên mặt nước, ắt sẽ mất sự yểm hộ của các trụ đá, rơi vào tình cảnh trước sau cùng có kẻ địch. Nhưng cứ ác chiến dưới nước thế này cũng chỉ là hành vi uống máu mình cho đỡ cơn khát trong lúc không còn lựa chọn nào khác mà thôi. Ô xy trong bình lặn sẽ nhanh chóng dùng hết, vả lại sức người xét cho cùng cũng có giới hạn, e là sau vài phút nữa chúng tôi khó lòng tránh khỏi kết cục phải chôn thây trong miệng lũ cá mập hung tàn.

Nước biển bên trong Quy Khư không hề phẳng lặng, những trụ đá đổ xuống khiến sóng ngầm liên tiếp xuất hiện, nước chảy cuồn cuộn cuốn trôi từng mảng máu lớn, nhưng ngay sau đó lại có những dòng máu mới chảy ra nhuộm đỏ vùng nước biển xung quanh chúng tôi. Những con cá mập bị rạch toác bụng chưa chết ngay, kéo theo cỗ lòng dài thượt vùng vẫy, vừa ra đến bên ngoài góc chết của khu hư phế, lập tức bị đồng loại tranh nhau cắn xé. Dưới đáy nước cũng không ngừng có những vệt máu nổi lên. Chỗ này tuy rất gần mặt nước, nhưng máu tươi chảy ra quá nồng đậm, còn che khuất cả ánh sáng bên trên. Hiện tại, bốn người chúng tôi như đắm mình trong biển máu, trước mắt chỉ thấy toàn máu tanh và đàn cá mập ồ ạt xông tới.

Thấy cả bọn dần đuối sức, tôi không khỏi thầm kêu khổ trong lòng, nếu không đột phá được vòng vây thì sợ là phải chết ở chỗ này thật rồi. Đúng lúc ấy, một cơn sóng ngầm cuốn máu bẩn xung quanh đi, tôi tình cờ liếc thấy động tác của Cổ Thái bắt đầu trở nên chậm chạp. Một con cá mập xuyên qua khe hở giữa hai trụ đá như con thoi, lướt vèo trước mắt cậu ta. Cánh tay và bàn tay Cổ Thái nhầy nhụa dịch thể từ bụng cá, nước cuốn đi một lớp thì lại có lớp khác dính vào, khiến bàn tay cứ trơn tuồn tuột. Cậu ta định giơ dao lên đâm vào con cá dữ bơi qua bên cạnh, nhưng sức đã cùng, lực đã kiệt, cánh tay cầm con dao cơ hồ bị thoát lực, suýt chút nữa thì đánh rơi cả vũ khí, không sao nhấc lên nổi nữa. Cổ Thái vừa thoáng chậm lại, con cá mập vốn đã bị máu tanh kích thích đến điên cuồng kia liền không chút nương tình, lượn một nửa vòng rồi há miệng đớp lên thân hình để trần của cậu ta.

Tôi thầm kêu không ổn, tí nữa thì há miệng nuốt vào mấy ngụm nước tanh lòm mặn chát. Phen này Cổ Thái tiêu đời mất! Tuy tôi và Shirley Dương đều cách cậu ta không xa lắm, nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi chỉ như một cái chớp mắt thế này, muốn xông đến cứu người cũng không thể làm nổi. Mà người ở gần Cổ Thái nhất là Tuyền béo thì lúc này đang đâm lưỡi dao găm vào bụng một con cá mập xanh đang ngắc ngoải, trong lúc cấp bách cũng khó lòng rút ra được, còn bị con cá mập kéo cho xoay mòng mòng một chặp, bản thân còn lo chưa xong, nói gì đến chuyện cứu người.

Có lẽ là mạng Cổ Thái vẫn chưa đến lúc tuyệt, con cá mập chuẩn bị bập cái miệng há hốc vào người Cổ Thái thì lại đột nhiên quẫy đuôi quay đầu bơi ra xa, cuống cuồng bỏ chạy như thể đang chạy trốn tai họa gì đó. Tôi và ba người bọn Shirley Dương đều hơi ngẩn ra, không biết đã xảy ra biến hóa dị thường gì. Nhưng lũ cá ấy quanh năm đều cư trú dưới đáy biển, khả năng cảm nhận nguy hiểm trong nước của chúng vượt xa con người, chỉ thấy bốn phía xung quanh không hiểu từ lúc nào nhung nhúc xác cá phơi bụng trắng hếu, tất cả đều do dòng chảy ngầm đột nhiên đẩy từ dưới đáy nước lên. Tôi cúi xuống nhìn, liền thấy đáy nước đen ngòm bỗng phát ra những tia sáng ảm đạm, nước biển ở nơi cây trụ đá vừa đổ xuống đang sục sôi cuồn cuộn. Ở chỗ chúng tôi cũng bắt đầu cảm nhận được từng luồng nhiệt lưu nóng bỏng ập tới.

Đại để là trụ đá cùng với xác tàu đắm đã đè lên một nguồn suối nước nóng nào đấy. Nguyễn Hắc lúc còn sống đã nói, ông ta từng thấy suối nước nóng phun trào dưới đáy biển, hầu như toàn là phun bùng lên trong nháy mắt. Suối nước nóng ở đáy biển phân bố chủ yếu giữa các khe núi hay bên dưới vực sâu, nhiệt độ cao hơn suối nước nóng trên mặt đất cả trăm lần. Nói trăm lần thì có lẽ không chính xác lắm, nhưng nhìn từng đàn cá chết nổi lên cũng biết nhiệt độ bên dưới ấy cao đến nhường nào, nếu người ở gần đấy, thì dẫu có mặc đồ lặn bằng kim loại chịu áp lực hẳn cũng bị luộc chết ngay tại trận.

Nhiệt lượng của suối nước nóng dưới đáy biển tuy lợi hại, nhưng chỉ giới hạn ở mấy chỗ hang động trong nghĩa địa tàu đắm bên dưới, nước sôi bốc lên trên cũng giảm đi mấy phần độ nóng, còn dẫn động thêm mấy luồng chảy ngầm cực mạnh. Cả đàn cá mập cứ bám lấy chúng tôi nãy giờ chỉ chớp mắt bơi tản hết đi, trong lúc hoảng loạn còn có không ít con đâm đầu vào luồng nước nóng phun lên, phơi bụng trắng hếu.

Lúc này chúng tôi đã ở khá gần mặt nước, bị luồng nước nóng kia ập đến, lập tức cảm thấy mắt hoa đầu váng, thân thể không kiểm soát được bất giác đều tự trồi lên. Phía trên mấy trụ đá đổ chất chồng lên nhau ấy, chính là nơi tàu Chĩa Ba mắc cạn. Mấy tấm đồng gia cố nơi đáy tàu đã rơi rụng lung tung, thân tàu thủng mấy lỗ lớn vì va đập vào trụ đá. Cả bọn chúng tôi bị dòng nước ngầm nóng bỏng truy sát, cuống quýt chui tọt qua mấy lỗ thủng, vào hẳn bên trong khoang tàu đã ngập nước quá nửa.

Tôi ló đầu ra khỏi mặt nước, hít sâu mấy hơi liền trong khoang tàu tối om như mực, cảm giác thiếu dưỡng khí lên não rốt cuộc cũng bớt đi phần nào. Sau đó, tôi lần mò tìm thấy một rương hàng trong khoang, bèn cố sức bò lên. Trong khoang đáy tối om có mấy cột sáng đèn pin vung vẩy, tôi liền theo chùm sáng tìm tới, lần lượt thấy cả Tuyền béo và Shirley Dương. Ba chúng tôi đều như mới được vớt lên khỏi nồi nước sôi sùng sục, toàn thân còn nghi ngút khói, cũng may là vừa nãy ở cách khá xa chỗ nước nóng phun trào, lại mặc đồ lặn cách nhiệt mới không bị bỏng, nhưng ai nấy đều bị một phen kinh hoảng, leo lên rương chứa đồ xong là hồng hộc thở như muốn đứt cả hơi.

Tôi thấy cả nhóm chỉ thiếu có mình Cổ Thái, vội tập trung tinh thần, giật cái đèn pin treo trước ngực, chiếu loạn xuống mặt nước trong khoang đáy. Tôi và Tuyền béo, Shirley Dương đều hết sức lo lắng cho Cổ Thái, chỉ sợ cậu ta bị dòng nước cuốn trôi vào góc chết, rồi thành trứng gà luộc bên dưới đó. Đột nhiên, mặt nước nổi lên một cặp vai trần xăm hình rồng vờn sóng biển, chính là Cổ Thái. Tôi vội hét ầm ĩ, cùng Tuyền béo giơ tay ra kéo Cổ Thái lên, như thể kéo một con chó chết. Chỉ thấy toàn thân cậu ta đã rũ rượi, không còn chút sức lực nào, hai mắt nhắm nghiền, hơi thở cũng chỉ còn thoi thóp.

Tôi thấy sắc mặt Cổ Thái trắng bệch, không biết sống chết thế nào, cuống quýt chụp hai vai cậu ta lắc mạnh, định bụng sẽ lắc cho cậu ta tỉnh khỏi cơn hôn mê mới thôi. Tuyền béo vuốt nước ròng ròng trên mặt, ngồi bên cạnh há miệng thở hồng hộc. Cậu ta từ lúc lặn xuống đến giờ vẫn chưa được mở mồm ra nói chuyện, nín nhịn đã lâu, đang thở hồng hộc mà cũng ngoác mồm hét gọi Cổ Thái: “Cổ Thái ơi là Cổ Thái, cậu mà chết là Đản nhân coi như tuyệt chủng đấy, bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại[46], cậu có muốn chết thì cũng phải đợi sau này sang Pháp cưới cô vợ sinh vài đứa con rồi chết cũng chưa muộn mà...”

Shirley Dương cũng gần như không còn chút sức lực nào nữa, điều hòa hơi thở được một chút, vội lại chỗ chúng tôi xem xét tình hình Cổ Thái. Sau khi đưa tay thăm dò hơi thở và bắt mạch cậu ta, cô mới yên tâm thở phào nhẹ nhõm, nói với tôi và Tuyền béo: “Đừng lo lắng, hơi thở của cậu ta vẫn đều đặn, không bị sặc nước, chẳng qua chỉ là thần kinh và cơ bắp toàn thân căng thẳng quá độ, lại bị thoát lực nên mới thế thôi, không sao đâu, để cậu ta nghỉ ngơi một lát là ổn.”

Tôi nghe Shirley Dương nói Cổ Thái không sao, quả tim treo lơ lửng trên không rốt cuộc cũng hạ được xuống. Vừa nãy đúng là cuống quá hóa hồ đồ! Tôi mệt mỏi ngồi phịch xuống. Có điều, giờ vẫn chưa phải lúc có thể nghỉ ngơi. Dư mạch Nam Long phức tạp khó nắm bắt nhất trong thuật phong thủy cổ đại, “hình thế lý khí” cùng thấp thoáng ẩn tàng trong hỗn độn hư vô. Hôm nay hãm thân trong Quy Khư hải nhãn, tôi mới dần hiểu được tình cảnh nguy hiểm của nơi này, thực là trong đời chưa bao giờ gặp phải. Chốn Quy Khư nơi đáy biển này, toàn bộ đều nhờ hải khí của long mạch ngưng kết tạo thành, không thể đoán được lúc nào khối nước biển lơ lửng bên trên sẽ đổ ập xuống lấp đầy cả không gian. Đến lúc ấy, sẽ lại sinh ra xoáy nước một lần nữa. Giờ chúng tôi đã lấy được Tần Vương Chiếu Cốt kính, không thể chần chừ thêm một giây. Tạm thời nước biển chưa đổ xuống, nhưng chỉ cần di tích hoang phế bên dưới sập, bọn tôi ở trong khoang tàu sẽ đối mặt với nguy hiểm cực lớn.

Nghĩ tới đây, tôi nghiến răng nhổm người bò dậy, nói với Shirley Dương và Tuyền béo: “Các bác ơi, cơm no rượu say rồi, ta mau chuồn cho sớm!” rồi quay sang giục Tuyền béo hợp sức với mình nhấc Cổ Thái lên. Chúng tôi vừa đưa tay ra, bỗng thấy hoa nước bắn tóe bên dưới rương đồ. Thì ra, con cá mập trắng đã để ý chúng tôi từ lúc ở bên trong xác tàu Mariana, cũng bị dòng nhiệt lưu lùa cho phải chạy vòng vòng dưới nước, cuối cùng không ngờ lại theo sau chúng tôi chui vào khoang đáy tàu Chĩa Ba.

Bên trong khoang đáy tàu Chĩa Ba của chúng tôi nước vừa nông, không gian lại chật hẹp hơn tàu Mariana rất nhiều, con cá mập to tướng vừa bơi vào, mực nước liền dâng cao lên hẳn một quãng. Tôi đang khom lưng đứng trên rương đồ, thoắt cái đã thấy bị ngập qua mắt cá chân, cái rương lắc lư như muốn đổ vật xuống nước. Thật chẳng ngờ vừa dốc hết sức lực mới thoát thân được khỏi khu phế tích trùng trùng hiểm nguy dưới đáy nước, chưa nghỉ ngơi được chút nào, tôi đã lại phải đối mặt với khảo nghiệm sinh tử tồn vong tàn khốc.

Cái bóng màu trắng xám dưới làn nước đen lắc một cái, cả dãy rương hòm bị đầu con cá mập húc phải đổ rầm rầm. Tuyền béo đứng không vững, ngã bổ chửng xuống, tôi đứng trên nắp rương cũng hụt chân ngã theo. Lúc chạm mặt nước, tôi còn kịp quờ tay tóm được con dao lưỡi cong của Cổ Thái, đồng thời liếc thấy Shirley Dương đang níu chặt cậu ta, ra sức kéo về phía sau. Con cá mập quẫy mạnh, tảng thân nổi hẳn lên mặt nước, há mõm nhe hàm răng sắc nhọn nhằm thẳng Shirley Dương đớp tới.

Tôi thấy vị trí của Shirley Dương và Cổ Thái ở ngay trước miệng con cá mập, nửa thân dưới ngập trong nước, dưới chân đạp lên mấy rương hàng đổ nghiêng ngả, mặt đối mặt với con cá dữ, không thể tránh né đi đâu được. Con cá mập kia chỉ cần nhô đầu lên khỏi mặt nước là có thể dễ dàng đớp trúng họ rồi. Lúc này, tôi nào còn kịp nghĩ đến việc chạy trốn, vội vung dao, đâm thẳng vào con cá mập đang phát điên phát rồ. Con dao của các đời thủ lĩnh Đản nhân này cũng thật sắc bén, chỉ nghe “phập” một tiếng nhẹ, lưỡi dao cong cong đã găm thẳng vào lưng con quái vật bá chủ biển khơi, vạch một đường dài cả mét, dễ dàng như người ta cắt đậu phụ vậy, máu tươi bắn tóe ra dính khắp cả lên đầu lên mặt tôi.

Con cá mập trúng dao, máu tuôn như suối, nhưng vết thương không sâu lắm, không đến nỗi trí mạng, nên vẫn hết sức điên cuồng. Tôi thấy nhát dao của mình không thể giết chết nó, bèn tranh thủ vị trí đang thuận tay, lại vung dao đâm liên tiếp mấy phát nữa. Phía bên kia, Tuyền béo cũng đã rút dao đâm bừa vào phần bụng mại của con cá. Con cá mập này chắc cũng là loại bá vương dưới biển, chỉ tiếc gặp phải vận rủi, lại chui đầu vào trong khoang tàu chật hẹp này, thật chẳng khác nào cái ca nô mắc cạn, chưa kịp làm gì đã trúng mấy chục nhát dao, xem chừng khó mà sống nổi.

Chỉ là, cà cuống chết đến đít vẫn còn cay, con cá mập trắng to đại tướng, tuy bị dao đâm thủng lỗ chỗ như cái sàng, máu chảy như suối, song vẫn ra sức quẫy đầu quật đuôi ầm ầm, nghiền nát mấy cái rương chứa đồ trong khoang tàu, cuối cùng lại nhắm về phía Cổ Thái và Shirley Dương dồn sức bổ tới, may mà lao trượt mất. Chỉ nghe “ầm” một tiếng, đầu cá húc thủng cả vách khoang tàu, thân thể đẫm máu trượt xuống nước, bụng phơi ngửa ra, bất động hoàn toàn.

Shirley Dương vừa kéo được Cổ Thái tránh khỏi cú lao vọt khỏi mặt nước của con cá mập điên, thấy nó rốt cuộc cũng toi đời, lập tức loạng choạng, dẫu sao thể lực cô cũng đã cạn kiệt, tâm lý căng thẳng hơi chùng xuống được một chút đã bất giác lùi về sau một bước, dựa lưng vào vách tường vừa bị con quái vật húc vỡ thở lấy hơi. Tôi lo cô bị thương trong lúc hỗn loạn vừa rồi, bèn giơ đèn pin soi tới kiểm tra. Chỉ thấy máu ở khắp nơi, khó phân biệt được là máu cá mập hay máu của người bị thương chảy ra.

Shirley Dương đã nói không ra lời, lắc lắc đầu với tôi, ý bảo mình không bị thương. Tôi thấy cô không sao cũng thở phào nhẹ nhõm, đang định thu đèn pin lại bò lên khỏi mặt nước, bỗng sực nhớ ra một chuyện, trên nóc khoang đáy này có hai lớp ván, bên trong hình như ẩn giấu bí mật gì đó không thể tiết lộ. Lúc trước, khi đang lênh đênh trên biển, chúng tôi đã muốn xem rồi, nhưng bị Nguyễn Hắc sống chết đòi ngăn lại nên mới bỏ qua. Vị trí của tầng kép bí mật ấy, chẳng phải chính là chỗ bị con cá mập húc thủng kia hay sao?

Tôi thầm giật thót mình, đang định bảo Shirley Dương đừng dựa lưng vào đấy nữa, lời còn chưa thốt ra miệng thì Shirley Dương dường như đã phát hiện sau lưng mình có điều kỳ dị, bèn ngoảnh đầu lại. Một cánh tay dính đầy nước đen, như thể mục rữa xong mới khô quắt đi từ bên trong lỗ thủng thò ra, bất ngờ gác lên vai Shirley Dương, kế đó, trong tầng kép bí mật nổi lên tiếng trò chuyện rì rà rì rầm.
 
Quyển 6 - Chương 35: Mãnh quỷ sổ lồng


Khoang đáy ngập nước gần hai phần ba, bên trong có đủ thứ trang bị và vật tư bổ sung mà chúng tôi không thể mang theo. Ở trong này, nếu không leo lên nóc các rương chứa đồ, thì phải đứng dìm mình ngập nước đến tận vai, xoay cổ cực kỳ bất tiện. Lúc này, chỉ thấy trong tầng kép vừa vỡ bung thò ra một cánh tay đen đúa. Cánh tay khô queo gần như chỉ còn xương, hơi cử động đã rỉ nước đen ngòm. Bàn tay đó gác lên cái túi đựng đồ đeo trên người Shirley Dương. Bên trong tầng kép kia dường như có tới mấy người đang nói chuyện thì thào, âm thanh vang lên bên trong khoang tàu tối om om, nghe thật không thể nào không dựng hết cả tóc gáy.

Tôi chiếu đèn pin thợ lặn chiếu đúng vào cái tay gớm ghiếc, bản thân thiết bị chiếu sáng dưới nước vốn không thích hợp với môi trường không có nước, nhưng vẫn tạm nhìn được. Trong ánh sáng mờ mò, tôi kêu ré lên: “Cẩn thận!” chỉ để phát hiện ra là đã quá muộn, vội cùng Tuyền béo tấp ta tấp tểnh nhảy vọt khỏi chỗ nước ngập.

Bàn tay ma quái như móc chặt vào mỏm vai Shirley Dương, cô nhích người né vội, không ngờ ván sàn bên dưới đã hư hoại nghiêm trọng sau cú va chạm của con cá mập, chân Shirley Dương vừa giậm vào, thụt ngay xuống một rương chứa đồ, đau đến thấu xương, thân thể tự nhiên giật ngược về phía sau, vừa hay kẹt đúng vào cái hốc con cá mập húc thủng hồi nãy. Tưởng chừng như đã ngã vào tầng kép, song Shirley Dương phản ứng cũng cực nhanh nhẹn, lập tức vung ngược tay đâm lưỡi dao lên vách tường, ngăn đà ngã ngửa ra sau lại. Cô đang định vùng thoát, thì trong tầng kép lại vươn ra một bàn tay đen đúa đầm đìa nhớt dãi khác, gác lên cánh tay kia của cô. Sự việc xảy ra quá bất ngờ, Shirley Dương không khỏi cả kinh biến sắc, mấy thứ trang bị đeo trên người càng móc chặt hơn vào chỗ vỡ toác trên vách khoang tàu. Lúc này cô như người bước trên băng mỏng, không dám có cử động gì quá mạnh, song thân thể vẫn cứ nhích từng chút một về phía tầng kép phía sau bức vách.

Tôi thấy Cổ Thái ở bên cạnh Shirley Dương không hiểu đã hồi tỉnh từ lúc nào, trông có vẻ mù mờ chưa hiểu xảy ra chuyện gì, vội hét lên, bảo cậu ta giúp Shirley Dương giải vây. Vừa hét, tôi vừa nhào tới chỗ hai người họ. Cổ Thái nghe thấy tiếng hét của tôi, ngoảnh nhìn sang bên cạnh, bây giờ mới hiểu được một hai phần sự việc, cho là cương thi trong tầng kép muốn kéo Shirley Dương đi. Cậu Cổ Thái này ở trên bờ chẳng hề linh hoạt dũng mãnh như khi dưới nước, trên tay lại không có vũ khí gì, trong lúc cấp bách, không ngờ cứ thế há mồm cắn chặt cánh tay quái đản đang móc chặt vào vai Shirley Dương.

Cổ Thái vừa cắn vừa giằng, Shirley Dương nhân cơ hội ấy nhổm ngay dậy, dùng dao găm cắt đứt dây thừng và túi đựng đồ đeo trên người. Nhưng Cổ Thái dùng sức quá độ, một chân thụt hẳn vào tầng kép, dường như bị một sức mạnh nào đó níu chặt lấy, nhất thời khó mà thoát thân. Tôi và Tuyền béo đã kịp đến chỗ hai người. Tuyền béo ôm chặt Cổ Thái kéo ra ngoài, kêu lên với tôi: “Trong tầng kép dưới khoang đáy sao lại có bánh tông hả? Hay lão Nguyễn Hắc kia hồi trước làm dân mò ngọc sống không nổi, giở trò mưu tài hại mạng giấu xác người chết trên tàu? Giờ thì hay rồi, người ta biến thành cương thi bò ra đòi nợ máu, không ngờ lại để mấy tên xúi quẩy chúng ta gặp phải.”

Tôi thầm nhủ, ở trên biển nếu muốn xử lý xác chết thì quăng thẳng xuống biển cho cá ăn là xong, cần quái gì phải giấu vào trong tầng kép. Trong con tàu gỗ liễu biển này sợ rằng còn có thứ gì khác, chưa chắc đã là cương thi, vả lại, đám dân mò ngọc như Nguyễn Hắc mê tín đến vậy, tôi khẳng định ông ta tuyệt đối không dám giấu người chết trên tàu. Có điều, mặc xác nó là cái giống gì, cứ kéo ra xem thử rồi tính sau vậy.

Tôi và Tuyền béo luôn mồm suy đoán lung tung, song hai thằng bốn tay cũng không hề dừng lại. Chúng tôi hợp sức với Shirley Dương kéo Cổ Thái ra khỏi chỗ bị thụt chân. Sau đó, trong tầng kép không có động tĩnh gì nữa. Dòng chảy ngầm cuộn lên từ chỗ nước sâu bên dưới bỗng dưng biến mất. Mực nước trong khoang đáy cũng nhanh chóng hạ đáng kể. Tôi bảo Shirley Dương tập trung đèn pin và tất cả mọi trang bị có thể phát sáng lại, nhằm cả vào tầng kép, sau đó dùng con dao lưỡi cong đang cầm trên tay chém bừa vào vách khoang tàu. Thoáng chốc, nguyên bức vách chắn của tầng kép đã bị tôi cạy tung ra. Tầng kép này rất chật hẹp, bên trong chỉ rộng chưa đầy nửa mét. Vách chắn vừa mất, bên trong lộ ra một vật thể đen sì sì, bề mặt thô ráp, lỗ to lỗ nhỏ chi chít. Thì ra là một đóa hoa đá biển to tướng, mọc trên hóa thạch liễu biển cổ đại.

Bên trên đóa hoa đá biển ấy có một bộ xương người trắng hếu, không một mảnh vải, chắc tám chín phần là đã mục rữa hết cả rồi. Bộ xương trắng nằm trên hoa đá biển, không hề nhúc nhích. Ở các khớp xương và hốc mắt hốc mũi, không ngừng nhểu ra một thứ nước đen ngòm. Thứ chất lỏng màu đen đặc quánh này, rất giống với nước tích tụ bên trong quan quách mộ cổ, có điều lại không có mùi hôi thối, dường như là do đóa hoa đá biển kia tiết ra, tích tụ ở tầng kép khoang đáy này, rồi từ từ thấm vào gỗ liễu biển.

Trên đóa hoa đá biển đen còn có mấy chục sinh vật lạ, nửa giống cá nửa giống tôm đang bò ra bò vào. Nửa phần trên giống như cá, có vảy có vây, đầu cá tròn lẳn trơn bóng, nhưng nửa phần dưới thì lại giống tôm, có vỏ giáp và càng. Bọn chúng hình như sinh sống bên trong đóa hoa đá biển này, thỉnh thoảng lại chui ra liếm láp dịch đen trên bộ xương, phát ra những âm thanh xì xà xì xoạp, bộ dạng tham lam vô cùng. Ánh đèn vừa chiếu vào, lũ chúng liền rơi lả tả xuống đất, húc đầu xuống ván tàu, phát ra những âm thanh “cục cục cục”, nghe như hòa thượng gõ mõ trong chùa, miệng lầm bầm phát những tiếng rì rì như tụng kinh niệm chú, không hiểu có ý nghĩa gì.

Tôi và Shirley Dương ngơ ngác nhìn nhau, không ai biết cái thứ bên trong tầng kép ấy rốt cuộc là gì? Dưới ánh sáng của mấy cái đèn pin, trong đóa hoa đá biển ấy bỗng nhiên có bóng đen nhích động. Bốn chúng tôi đều giật mình lùi lại một bước, chỉ thấy có một cái bóng hình người dường như đang khe khẽ đung đưa trong hình ảnh phản chiếu dưới nước của đóa hoa đá biển kỳ dị, phảng phất như muốn nhao ra bên ngoài.

Tôi thầm nhủ: “Tàu Chĩa Ba được mấy người Anh thu mua cải tạo, Nguyễn Hắc ở trên tàu phụ giúp, Cổ Thái đã theo ông ta nhiều năm như vậy, có lẽ cũng biết cái thứ trông như một đóa hoa đá biển này rốt cuộc là gì.” Nhưng đưa mắt nhìn sang phía Cổ Thái, rõ ràng cậu ta cũng không biết gì, nét mặt còn hết sức kinh hoảng. Phỏng chừng, cậu ta ngỡ rằng trong đóa hoa đá biển kia có ma, run run chỉ tay vào trong tầng kép, lắp bắp nói với tôi: “Ma... ma kìa...”

Tôi vội đưa tay lên bịt miệng cậu ta lại, sư cha nhà cậu, đừng có nói nhảm, chẳng lẽ cậu không biết trên đời này có một số thứ không nên nhắc đến hay sao? Cậu cứ nhắc nhiều, thì dẫu không có ma quỷ, sớm muộn gì chúng nó cũng hiện về cho mà xem. Quy củ lề lối của cái nghề hàng hải này chỉ nhiều hơn chứ quyết chẳng thể ít hơn nghề trộm mộ chúng tôi, có lẽ đóa hoa đá biển giấu trong tầng kép cùng với lũ quái ngư biết đập đầu kia, là một loại khám thờ bí mật nào đó. Xưa nay, các thuyền trưởng cũng hay mang đủ thứ kỳ dị lên tàu, chỉ cần họ cho rằng thứ ấy may mắn thì đều lễ bái như đối với bài vị tổ tiên vậy. Có điều, tại sao lúc ở trên biển không thể nhắc đến, cũng không thể nhìn vào tầng kép này chứ? Cái chết của mấy nhà thám hiểm người Anh từng cải tạo lại con tàu này thực sự có liên quan đến thứ ở trong tầng kép kia sao?

Shirley Dương nói: “Chúng ta đều không rõ mấy thứ này rốt cuộc là gì, nhưng vừa nãy bộ xương hình như đã tóm chân Cổ Thái, giờ lại không thấy nhúc nhích gì nữa. Vả lại, cái bóng người mơ hồ trong đóa hoa đá biển kia cũng rất cổ quái, tôi thấy phàm chuyện gì cũng nên cẩn thận, giờ ta đã bỏ con tàu này rồi, tốt nhất đừng để ý đến thứ giấu bên trong tầng kép làm gì nữa, mau chóng rời đi thì hơn.”

Tôi nói với Shirley Dương: “Chúng ta lại nghĩ giống nhau rồi, tôi cũng cảm thấy đóa hoa đá biển này không ổn cho lắm. Nhưng đã làm thì làm cho trót, chi bằng chúng ta lên phía trên lấy ít thuốc nổ xuống đây, nổ cho nó banh xác pháo ra luôn, sau này đỡ phải nghĩ đến nó, đi đâu cũng thấy không yên tâm.” Nói đoạn, tôi liền kéo tay Cổ Thái, định dẫn cả bọn lên trên boong tàu, tập hợp với Minh Thúc và Đa Linh, rồi lấy thuốc nổ xuống cho nổ tung đóa hoa đá biển cổ quái trước mắt.

Nhưng chúng tôi chưa kịp xoay người đi lên, lũ quái ngư giống như đang đập đầu tụng kinh kia lại đột nhiên dừng phắt lại, miệng cá há ra rồi ngậm lại, phun ra những viên tròn tròn đen loáng. Mấy viên đó chỉ to bằng cái móng tay, viên nào viên nấy đen tuyền sáng bóng, chiếu đèn pin vào, lập tức ánh lên một quầng sáng kỳ dị. Tôi thầm kêu lên: “Màu đen ư!”

Minh châu Nam Hải giá trị bất phàm, đều do lũ trai ốc được âm tinh của mặt trăng cảm nhiễm, không ngừng tiết ra chất ngọc, mới có thể từ không hóa có, hoài thai ra kỳ trân ngưng tụ tinh hồn của biển cả. Trong các loại ngọc châu tích tụ tinh khí của nhật nguyệt ấy, cũng phân ra làm mấy loại, màu bạc, màu trắng, màu vàng nhạt và hồng phấn. Thượng phẩm của thượng phẩm, chính là loại dạ minh châu sáng hơn cả ánh trăng, khi tắt lửa tối đèn vẫn có thể chiếu xa trăm bước. Nhưng dạ minh châu đó vẫn còn thua loại hắc trân châu trân quý nhất đại dương một bậc. Chẳng ai ngờ, lũ quái ngư sống trong đóa hoa đá biển và bộ xương người này lại phun ra hắc trân châu, cả bốn chúng tôi bất giác đều dừng bước chân.

Có điều, đừng nói là mấy tên Mô Kim hiệu úy rất hiếm khi ra biển như tôi và Tuyền béo, đến cả đám dân mò ngọc chuyên nghiệp cũng chẳng có mấy người thực sự được may mắn trông thấy hắc trân châu bao giờ. Tôi chỉ từng nghe Minh Thúc nói, hắc trân châu được dân mò ngọc gọi là “Ô cù”, là loại dị bảo chỉ có thể gặp chứ không thể cầu. Nhưng tôi cũng lấy làm lạ, rất nhiều loài sinh vật trên thế gian này có nội đơn và kết thạch[47], chẳng hạn như ngưu hoàng, cẩu bảo, lạc thạch, tôi và Tuyền béo còn tận mắt chứng kiến trong cơ thể một con chồn lông vàng có nội đơn trông như cái bướu thịt màu đỏ. Những thứ ấy, đều hình thành khi các sinh vật ấy vô tình hay hữu ý hấp thu nhật nguyệt tinh hoa, có điều, tất cả đều không bằng minh châu do lũ trai, ốc dưới biển hấp thụ ánh trăng ngưng luyện mà thành. Những con cá sống lâu nơi biển lớn hồ to, cũng có thể vờn ngọc dưới trăng, có điều, thần vật như “Ô cù” thì không phải thứ bọn chúng ngưng kết được. Duy nhất chỉ có một loài trai cực kỳ đặc biệt có thể hóa ra được vật này. Song, nếu những viên đen tròn trước mắt chúng tôi không phải hắc trân châu “Ô cù”, vậy thì là thứ gì?

Tuyền béo nhìn chòng chọc mấy viên hắc trân châu dưới sàn, đưa tay lên dụi mạnh hai mắt, mừng quýnh: “Tư lệnh Nhất, tôi nhớ hồi xưa chúng ta nghèo khó, trông mong vớ được món bở phát tài to cứ như Bạch mao nữ[48] mong quân giải phóng ấy, gớm, cứ gọi là mòn cả con mắt. Giờ đám tiểu bảo bối này tự dâng đến tận miệng, đúng là số đã giàu thì thế nào cũng phất mà lại, còn khách khí gì nữa...” Cậu ta mồm nói tay thì tham lam thò ra nhặt “Ô cù”, nhặt được một viên là lại lẩm bẩm một câu: “Đây là du thuyền của ông ở Thái Bình Dương... đây là biệt thự ở Cali... cái này à... tiên sư cha bố... là cô em xinh đẹp của ông ở Mỹ...”

Nhìn bộ dạng tham tiền chảy rớt chảy dãi của Tuyền béo, tôi thoáng động tâm, như sực nghĩ ra điều gì đó. Trong khoảnh khắc ấy, hình ảnh Nguyễn Hắc lóe lên trong tâm trí. Dân mò ngọc bản tính vốn tham lam, có thể vì của cải tiền tài mà liều sống liều chết... có lẽ nói họ tham lam cũng không được thỏa đáng cho lắm, mà phải bảo là tuân theo một thứ tập tục hay quy tắc bất thành văn thì đúng hơn. Trong truyền thống của họ, phàm là gặp được long huyệt (tức con trai có ngọc), thì nhất định phải mò cho đến hết mới thôi, không bao giờ có quan niệm lưu lại chút gì, rặt một lũ thấy ngọc là mò đến chết. Nếu đã vậy, Nguyễn Hắc tại sao không lấy những viên “Ô cù” giấu trong tầng kép này ra? Trừ phi...

Đang nghĩ tới đây, trong đầu vẫn chưa tìm ra đầu mối thì Shirley Dương đã nhanh hơn tôi một bước, chỉ nghe cô kêu lên: “Tuyền béo, anh đừng nhặt nữa, thứ này sợ không phải là hắc trân châu đâu!” Nhưng Tuyền béo chẳng hề để ý, vẫn nhặt hết mấy viên đen đen còn lại lên.

Đột nhiên Cổ Thái chỉ tay vào tầng kép vừa bị bật tung ra: “Anh Nhất, có ma, tin tôi đi, có ma thật đấy...” Cậu ta nói tiếng Trung không được rõ ràng chuẩn xác như Nguyễn Hắc, vốn từ cũng ít ỏi, nhiều ý không biết diễn đạt ra sao, nên càng luống cuống hơn, tay chân khua loạn, một mực lắp bắp nói trong tầng kép có ma.

Tôi đang mải nhìn Tuyền béo, lo cậu ta cắm đầu cắm cổ nhặt hắc trân châu không khéo lại xảy ra chuyện, tiện mồm đáp: “Tôi tin cậu cái rắm ấy, chỉ nói lăng nhăng, ma quỷ cái gì? Dưới biển chỉ có cá không có ma. Tôi cũng chẳng nhớ lần cuối cùng gặp ma là khi nào nữa đây này. Nhắc đến mới nhớ, cũng lâu lắm tôi không ăn cơm với cá kho rồi...” Tuy đáp bừa như thế, nhưng do tác dụng của phản xạ thần kinh, tôi và Shirley Dương vẫn đưa mắt liếc về phía cánh tay cậu ta chỉ một cái. Cái bóng đen mơ hồ trong đóa hoa đá biển kia, không hiểu từ lúc nào đã hiện dần đường nét, nhìn rõ hơn chút, nhưng vẫn nhập nhòa tựa cái bóng soi dưới nước, không biết được là nam hay nữ, như thể một mảng nước đen, phiêu hốt chập chờn giữa đóa hoa đá biển và ván tàu, rồi đột nhiên chảy vào trong đống xương người chết. Hốc mắt của chiếc đầu lâu lập tức chảy nước, thoạt trông như có oan hồn than khóc, tuôn hai hàng nước mắt đen ngòm. Cả con tàu phút chốc cơ hồ đã bị bóng đen chết chóc bao trùm. Xem tình hình có vẻ rất bất lợi, dường như từ khi tầng kép bị phá tung, vận mệnh của chúng tôi đã được định đoạt. Chỉ trong chốc lát đây thôi, bốn người chúng tôi ắt sẽ phải giẫm lên vết xe đổ của toán người Anh, toàn đội không còn đường sống sót trở về.
 
Quyển 6 - Chương 36: Nước tù không có rồng


Tàu Chĩa Ba là một con tàu cổ, có thể xem như văn vật, nghe nói hồi trước còn từng bị bọn hải tặc trưng dụng. Thân tàu tuy trải qua mấy lần đại tu và cải tạo, nhưng kết cấu chính vẫn từ những khối gỗ liễu biển ban đầu. Hai năm trước, người Anh đã thu mua lại rồi tiến hành cải tạo thêm lần nữa. Trong khoảng thời gian con tàu này neo ở bến tàu đảo Miếu San Hô, Nguyễn Hắc và mấy dân chài trong vùng được thuê đến để tiến hành duy tu bảo dưỡng, đồng thời tham gia vào công tác cải tạo.

Đội trục vớt người Anh đã bỏ rất nhiều tâm huyết để cải tạo con tàu gỗ liễu biển, ý đồ muốn xâm nhập vùng biển vực xoáy San Hô mò thanh đầu, không ngờ còn chưa khởi hành thì đã chết cả bên trong khoang đáy. Dân trên đảo Miếu San Hô giấu kín như bưng chuyện này, hầu hết mọi người, kể cả gã lái buôn chợ đen Võ thọt đều không biết sự việc cụ thể thế nào, chỉ có Nguyễn Hắc là dường như biết được một vài chi tiết bên trong, nhưng giờ ông ta đã chết rồi, chẳng thể cạy miệng người chết để moi thông tin, gặp phải thứ gây chết người giấu trong tầng kép, chúng tôi thật hoàn toàn không biết phải ứng phó thế nào.

Nhưng ra biển vớt thanh đầu là công việc nguy hiểm nhường nào chứ? Ghét của nào trời trao của ấy, sau khi con cá mập húc vỡ tấm ván chắn tầng kép bí mật, một dòng nước đen ngòm không chút sinh khí từ hốc mắt bộ xương người chết trong tầng kép cứ thế tuôn ra. Tôi vội kéo Tuyền béo đang ngồi chồm hỗm dưới đất dậy, cuống cuồng lôi cậu ta lùi ra sau mấy bước.

Lúc này, nước trong khoang đáy đã rút bớt chỉ còn ngập trên mắt cá một chút, nhấc chân là có tiếng “ì oạp ì oạp” Tuy nhiên mực nước trong Quy Khư cực kỳ không ổn định, lúc lên lúc xuống, hoàn toàn không theo quy luật, nên rất khó lường trước được tình hình. Xem ra, nếu còn nấn ná ở đây, bọn tôi dám chắc cũng lại chết không minh bạch giống mấy người Anh kia thôi. Trong đội trục vớt người Anh có không ít chuyên gia thám hiểm và trục vớt hàng hải, kinh nghiệm phong phú, trang bị đầy đủ, vậy mà còn mất mạng, vậy thì sự việc diễn ra chắc phải rất bất ngờ, khiến họ không kịp phòng bị gì cả.

Tôi và bọn Tuyền béo lùi liền mấy bước, chỉ thấy cái bóng trong đóa hoa đá biển tan chảy dần thành nước đen trào ra qua hốc mắt xác chết, đèn pin trên tay chúng tôi cùng lúc chớp lóe mấy cái, nhiễu loạn, thoắt sáng thoắt tối, bên trong kêu “tạch tạch tè tè” không dứt. Không như pin lắp trong ngọn đèn pha đã vỡ, điện áp pin đèn lặn nước chỉ có “3,8 V 0.5 A”, thật khó tưởng tượng, tại sao đèn thạch anh lại có thể phát ra những âm thanh như vậy.

Đèn pin chớp tối chớp sáng hoa cả mắt, tôi vội đập đập cho nó mấy phát, luồng sáng mới ổn định trở lại, nhưng bóng đèn thạch anh bên trong thì hình như đã bị tiêu hao quá mức, ánh sáng chiếu ra ảm đạm hơn nhiều so với trước.

Trong thứ ánh sáng yếu ớt trong khoang đáy, tôi cảm giác làn nước dưới chân lạnh lẽo đến khó tả, dường như thứ trốn bên trong tầng kép kia đã lẩn xuống nước, bất cứ lúc nào cũng có thể vươn cánh tay ma quỷ ra tóm chặt gót chân tôi. Có lẽ vì nhìn không rõ là thứ quái quỷ gì, cảm giác buốt lạnh kia càng lúc càng thêm đè nặng. Phút chốc, tôi bỗng cảm thấy vô cùng kinh sợ nước.

Cả bốn người bọn tôi cùng hoảng hốt, lùi liền thêm mấy bước, chạm phải một đống rương chứa đồ chồng chất lên nhau ở sau lưng thì hết cả đường lùi. Cổ Thái vốn đã sợ ma, càng thêm cuống, chỉ chực cướp đường bỏ chạy. Tôi tóm chặt lấy cậu ta quát: “Không được vọng động.” Không đèn không đuốc tối om om thế này thì chạy đi đâu được? Đằng nào cũng đụng phải rồi, cứ cho là trong khoang đáy này thực sự có mãnh quỷ hung linh gì đó ẩn nấp, nếu không dứt điểm được nó ở đây, bốn chúng tôi dẫu có chạy thoát khỏi tàu Chĩa Ba cũng vẫn sẽ bị nó bám riết không tha. Giờ mà chạy loạn lên như chó nhà có tang, thì chắc chắn là u mê tự dẫn xác đi cống cái mạng mình rồi.

Kỳ thực, đối mặt với tình thế trước mắt, tôi cũng chưa thể đưa ra phán đoán nên chạy hay không, có điều phải giữ nguyên tắc không thấy thỏ không thả chim ưng, trước khi xác định có thể thoát khỏi khoang đáy này an toàn, không thể dễ dàng đem mạng của cả bọn ra mạo hiểm được. Ánh sáng đèn pin quá yếu, ở trong khoang tàu tối đen như mực này thực chẳng có tí tác dụng nào, không thể trông mong gì ở mấy cái đèn đó nữa. Tôi mò mò trong túi, cuối cùng moi ra được một ống lân quang cuối cùng còn sót lại.

Từ dạo hành nghề Mô Kim hiệu úy, do thói quen nghề nghiệp, tôi hết sức ỷ lại vào các thiết bị chiếu sáng, chỉ sợ mang không đủ nhiều. Ống lân quang chứa toàn phốt pho trắng, ánh sáng quá gắt, mạnh hơn ánh sáng huỳnh quang nhiều lần, không thích hợp sử dụng ở môi trường phía trên mặt nước. Giờ đèn pin đã vô dụng, tôi cần nguồn sáng gấp, liền mang ống lân quang ra kéo chốt, ném xuống chỗ nước sâu mấy mét trong khoang đáy.

Phốt pho trắng lập tức bùng lên sáng chói, tuy đã giảm đi phần nào qua làn nước cản, nhưng mắt tôi vẫn đau nhói. Trong ánh sáng trắng lòa, chỉ thấy nước đen chảy từ trong đóa hoa đá biển đang ngưng tụ dần thành một cái bóng thấp thoáng như hình người. Nước đen dập dềnh vừa khéo chặn con đường thông lên khoang trên, mấy con quái ngư vừa nãy vẫn đập đầu vào ván tàu bị dòng nước đen cuốn đến liền lặng lẽ gục chết.

Trong chớp mắt, mấy con quái ngư đang dập đầu như giã tỏi đã biến thành đám xác chết không hồn nằm lăn lóc. Lũ cá này rời nước vẫn sống nhăn, vậy mà vừa bị thứ nước đen ngòm dính vào liền lăn ra chết cả, khiến khoang tàu đột ngột trở nên tĩnh lặng như tờ. Quầng nước khủng khiếp kia vẫn tựa như một tấm vải đen nổi dập dềnh, trôi qua xác con cá mập trắng, chậm rãi tiến về phía chúng tôi.

Tôi thấy làn nước đen tràn qua xác con cá mập trắng lộ hẳn ra trên mặt nước, thầm than không ổn. Nếu nó chỉ tồn tại được dưới nước, chúng tôi may ra còn có con đường sống, ai dè nó lại còn trườn tiếp lên cả ván tàu và xác cá chết, thử hỏi chúng tôi chạy đi đâu được nữa đây? Bốn người chỉ kịp hét lên một tiếng, vội dạt hết ra tránh né. Trong ánh sáng trắng của phốt pho, mảng nước đen ngòm ấy bất thình lình dựng đứng, phóng vèo lên trần. Tất cả các bộ phận bằng liễu biển trong khoang tàu lập tức cũng tiết ra thứ nước đen như máu bầm ấy.

Tuyền béo nhảy lên một cái thùng gỗ chứa đồ dự trữ, kêu lên với tôi: “Tư lệnh Nhất, mau lấy tấm gương đồng ra chiếu nó!” Tôi nhảy bên này, né bên kia tránh, rồi cũng trèo lên được một cái hòm gỗ, nghe Tuyền béo nói thế, bèn thò tay vào cái túi cất Tần Vương Chiếu Cốt kính; tấm gương đồng lạnh lẽo ở ngay trong đó, nhưng thứ nước đen chảy ra từ đóa hoa đá biển không phải tầm thường, gương đồng chỉ có thể trấn áp cương thi, làm sao mà đối phó được thứ nước chết chóc tựa như bóng ma khủng khiếp kia chứ?

Tôi thấy nước đen đã bay lên trần, để lộ ra một khoảng trống trước cửa, bèn hướng về phía Shirley Dương chỉ tay vào cửa khoang tàu, bảo cô nhân cơ hội này dẫn theo Cổ Thái thoát ra ngoài, tôi và Tuyền béo sẽ nghĩ cách kéo dài thời gian. Shirley Dương không phải loại người thích kèo nhèo ỉ eo, chắc cũng biết khoang tàu hết sức chật hẹp, cả bốn người cùng nấn ná bên trong thực khó làm được gì, mà còn dễ sinh chuyện ngoài ý muốn, nên lập tức chụp lấy cánh tay Cổ Thái kéo cậu ta chạy về phía cửa.

Đám nước đen trên trần dường như có tri giác, biết được Shirley Dương và Cổ Thái muốn chạy trốn, liền lướt qua trần nhà, tựa như một lá cờ đen trong ngọn cuồng phong, đổ ập tới. Shirley Dương thấy tình thế không ổn, vội kéo tay Cổ Thái ngoặt gấp, giẫm nước bắn tung tóe chạy vào mé trong khoang. Vậy là bốn người vừa tản ra, lại bị ép ngược vào một bên khoang chứa hàng.

Bên cạnh chúng tôi chồng chất thùng hàng, dưới chân là xác con cá mập trắng, con đường thoát duy nhất chỉ có thể theo lỗ hổng ở đáy khoang xuống nước, cũng chỉ là tự nhảy vào miệng cá mập, không chết cách này thì chết cách khác mà thôi. Cái bóng đen kia như vô hình vô chất, phiêu hốt tựa loài quỷ mị, trong ánh sáng phốt pho, chỉ thấy trước mắt loáng lên, bóng ma đã lù lù trước mặt. Tôi biết, dù là ai, hễ chạm phải cái bóng này tim cũng sẽ ngừng đập, chết ngay tại chỗ, mà xem ra lúc này không còn thứ gì có thể cản nó được nữa rồi.

Cái chết đã ở ngay trước mặt, trong lòng tôi không khỏi trào dâng cảm giác sợ hãi, sống lưng lạnh buốt. Có điều, ngay sau đấy, tôi lại phát giác ra có gì đó không ổn lắm, cảm giác lạnh này không phải do hoảng sợ quá độ sinh ra. Tôi dường như đang dựa lưng vào một khối đá lớn lạnh như băng, cảm giác lạnh lẽo đều từ đó mà ra cả. Theo ấn tượng còn sót lại trong ký ức của tôi, khoang tàu này vốn hình như không có thứ gì lạnh lẽo âm hàn đến thế, tôi nhất thời cũng quên mất hiểm cảnh trước mắt, bất giác đưa tay sờ, mới sực nhớ. Trước khi tiến vào vực xoáy San Hô, bọn tôi vớt được một cỗ quách đá nổi trên mặt nước, quan tài đá bên trong vẫn hoàn hảo như mới, được làm từ “thạch kính”, thứ chất liệu cực hiếm trên thế gian này.

Thạch kính chính là do cổ mộc dưới đáy biển hóa thành, bề mặt trơn bóng như gương, tích tụ âm khí dưới biển, được sóng biển mài giũa nghìn vạn năm, bên trong gợn vân sóng trùng trùng điệp điệp, đường vân càng dày thì càng cứng chắc. Các sách về thuật phong thủy hay nhắc đến thứ đá này đá nọ trấn được quỷ được tà ma. Nhà thời cổ đều có dựng bình phong, một là để chặn giữ gia tài không cho thoát ra ngoài, hai là ngăn không cho ma quỷ vào nhà. Ban đầu, bình phong đều được xây bằng đá xanh, về sau mới dần chuyển sang dùng gạch, song những người hiểu được lẽ mầu nhiệm bên trong vẫn chôn đá dưới chân tường.

Nhân dân bị áp bức quá sẽ vùng lên làm cách mạng, chó cùng rứt giậu, phương pháp và đường sống sót trong tuyệt cảnh thường thường đều bị ép ra trong lúc vạn bất đắc dĩ, ý nghĩ vừa lóe lên trong đầu, tôi đã lập tức nảy ra phương án hành động. Người ta vẫn nói, trong đám nghệ nhân đổ đấu trộm mộ thì mạng Mô Kim hiệu úy là cứng nhất, nếu đúng là trời không tuyệt đường con người, thì cỗ quan tài thạch kính sau lưng này chính là cơ hội duy nhất để chúng tôi sống sót. Lúc mới vớt được, chúng tôi dùng nó để bảo quản những vật phẩm dễ biến chất trên tàu, sau khi tiến vào vùng biển vực xoáy San Hô, đã dùng vợi rất nhiều, quan tài giờ đã gần như rỗng, nắp để một bên. Tôi thấy bóng ma kia đã tới gần, bèn vội vàng cùng Tuyền béo bắt tay làm thang, để Shirley Dương cùng Cổ Thái giẫm vào mà leo lên đống thùng chứa đồ chồng chất bên cạnh.

Đám nước đen kia cũng thật nhanh, chỉ chớp mắt đã lướt tới dưới chân chúng tôi, khí lạnh âm u tỏa cuồn cuộn. Tôi kéo tay Tuyền béo một cái, cùng nhanh chóng nhún người nhảy vào trong quan tài đá. Đám nước đen cũng bám vách quan tài, chảy vào theo. Tôi và Tuyền béo cùng quát lên: “Mả cha nhà mày...” rồi vội nhảy tót ra ngoài. Ánh sáng lân quang trong góc không chiếu được vào lòng quan tài đá, khiến bên trong vốn đã âm u, nay lại càng ngập ngụa âm khí nặng nề.

Tôi phỏng đoán, đám nước đen nếu thực sự là hồn ma ám trên con tàu, thì chỉ cần đậy nắp quan tài lại, nó sẽ vĩnh viễn không thoát ra được nên nào dám chần chừ do dự. Không để nước đen kịp trào ra, hai thằng khiêng luôn cái nắp đậy ụp quan tài, rồi nhảy tót lên đó ngồi. Quan tài đá vừa đậy nắp, liền khít khịt không một khe hở, chỉ nghe bên trong có tiếng nước cuồn cuộn như thể mặt biển nổi sóng phẫn nộ, mãi hồi lâu mới bình lặng.

Tiếng sôi sục bên trong quan tài đá lặng đi, tôi mới đưa mắt quan sát xung quanh, thấy bốn bức vách lúc này khô kiệt không trào nước đen ra nữa. Gỗ liễu biển cứng chắc cả nghìn vạn năm tựa hồ mất đi tinh khí, chỉ chớp mắt đã hóa thành gỗ mục gần như rữa nát, con tàu từng bao phen lập nên kỳ công này coi như đã hỏng hẳn rồi. Tuy là mất con tàu, nhưng cả bọn chúng tôi tìm được nẻo sống giữa chốn tử vong, ai nấy đều cảm thấy vô cùng may mắn. Nếu lúc trước không vớt được cỗ quan tài cổ này, hoặc không đem nó bỏ vào khoang đáy, hôm nay sợ rằng kết cục của chúng tôi cũng chẳng khác gì mấy gã người Anh xấu số kia. Chỉ là, trong tầng kép kia rốt cuộc là thứ gì? Là ma hay thứ gì khác, đến giờ chúng tôi vẫn chưa biết được.

Thấy Shirley Dương từ đống thùng chứa đồ leo xuống, tôi liền bảo cô dẫn Cổ Thái lên trước, rồi gọi Tuyền béo tìm mấy sợi dây thừng buộc hàng. Loại thừng này bện bằng dây leo, xơ dừa và tóc người, ngâm dưới nước bao nhiêu năm cũng không đứt được. Bọn tôi đem dây thừng buộc mấy chục vòng xung quanh quan tài, thắt bảy tám cái nút chết, bấy giờ mới yên tâm thở phào nhẹ nhõm. Lúc này, con tàu cũng sắp phân rã, thân tàu phát ra những tiếng ken két rợn người, phỏng chừng chẳng mấy sẽ rơi khỏi chỗ mắc cạn chìm xuống nước, cỗ quan tài đá kia cũng sẽ chìm theo tàu xuống đáy Quy Khư.

Tôi đưa tay chạm vào Tần Vương Chiếu Cốt kính trong túi, rồi vẫy vẫy Tuyền béo. Hai thằng bèn bò ra khỏi khoang tàu đang lung lay như muốn sụp. Mặt nước vẫn phẳng lặng như lúc ban đầu, Shirley Dương đã tập hợp với hội Minh Thúc và thả xuống hai cái xuồng cao su. Minh Thúc, Cổ Thái và Đa Linh ngồi chung một xuồng, thi thể Nguyễn Hắc quấn vải trắng cũng đặt trên đó. Tôi và Tuyền béo bèn nhảy lên cái xuồng Shirley Dương đang ngồi còn lại.

Tôi vừa đặt chân lên xuồng cao su, tàu Chĩa Ba sau lưng liền bị lệch tâm, vỡ toác thân, các vật dụng cũng như mảnh tàu vỡ lả tả rơi, chỉ trong một thoáng, trên mặt nước chỉ còn lác đác dăm mảnh gỗ. Cả bọn chúng tôi cứ thế im lặng nhìn con tàu gỗ liễu biển vỡ vụn chìm xuống. Nghĩ đến nó từng cùng chúng tôi vào sinh ra tử, vượt qua bao sóng to gió lớn, giờ biến mất tăm trong chốn Quy Khư đáy biển này, trong lòng ai nấy không khỏi trào lên cảm giác khó tả nên lời.

Minh Thúc đã nghe Shirley Dương kể vắn tắt về quá trình chúng tôi tìm được Tần Vương Chiếu Cốt kính trong xác tàu đắm, nhưng khi thấy tàu Chĩa Ba chìm dần xuống đáy nước, sắc mặt lập tức trở nên rất khó coi: “Còn hy vọng có thể tìm được đồ sửa tàu... nhưng giờ cả tàu cũng mất rồi, chỉ còn lại hai cái xuồng nhỏ, chúng ta ở giữa biển, mấy trăm dặm xung quanh không có tí dấu vết nào của đất liền, giờ làm sao trở lại đảo Miếu San Hô được đây?”

Shirley Dương nói: “Vấn đề lớn nhất lúc này là chúng ta đang lạc lối bên trong Quy Khư, phải tìm cách trở lại mặt biển trên kia mới có khả năng tìm được cứu viện. Anh Nhất, anh xem chúng ta phải làm thế nào?”

Tôi đưa mắt nhìn xung quanh, chỉ thấy hải khí mờ mịt, trên cao, âm hỏa thoắt ẩn thoắt hiện trên tầng nham thạch, tựa như bầu trời đảo lộn, ngước mắt nhìn ra xa không thấy điểm tận cùng của chốn Quy Khư thần bí, Đông Tây Nam Bắc hướng nào cũng như hướng nào, thật khó lòng phán đoán đâu mới là nẻo đúng.

Nghe Shirley Dương hỏi, tôi đành nhe răng ra cười khổ: “Nơi này cũng lớn thật đấy, giá có cái xuồng máy thì tốt quá, chứ với sức hai cánh tay mà muốn chèo xuồng cứu sinh thoát ra ngoài thì đúng là mơ mộng hão huyền.” Tôi chỉ nói sự thực, trước mắt chúng tôi đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề. Làm sao có thể chỉ dựa vào xuồng cứu sinh để sống sót? Làm thế nào có thể trở về mặt biển phía trên kia? Làm thế nào có thể liên tục chèo xuồng trong một thời gian dài? Vả lại, hai cái xuồng nhỏ này làm sao chịu được những cơn sóng biển lúc có lúc không? Ai dám chắc dưới biển không có những con cá lớn nuốt được cả thuyền bè?

Minh Thúc nghe tôi nói thế lại càng ảo não hơn: “Quy Khư với cả quy khiếc cái gì? Kinh Phật có nói, ‘nhược thủy tam thiên, không chết khó vượt’, chắc chắn là chúng ta rơi xuống nhược thủy rồi. Nhược thủy chính là nước chết, không có cửa sống đâu, đừng có mơ sống sót trở về được nữa. A Hương nhà tôi thật tội nghiệp, bị các người lừa sang Mỹ, sau này ai chăm lo cho nó được đây?”

Thấy lão lại kêu gào, tôi bèn gắt lên: “Nhược thủy chỉ là một lời nói ví von thôi, trên đời này làm gì có nhược thủy chứ? Mọi người cũng đừng ủ rũ nữa, Mô Kim hiệu úy ngoài thuật Mô kim ra, còn có một bản lĩnh khác, chính là thuật phong thủy chuyên phân tích địa lý địa mạch. Hải nhãn chính là do hải khí của mạch Nam Long ngưng kết mà thành, trong các sách phong thủy đều nói, nước tù (nước chết) không có rồng, mà hải khí long hỏa nơi này thịnh vượng vô cùng, nếu là nước chết, tuyệt đối không thể có long khí nhường này được. Vì vậy, theo tôi thấy, nước ở Quy Khư này chắc chắn là nước chảy (nước sống). Có điều, đây là dòng chảy ngầm rất khó nắm bắt được, dưới nước ngoài rất nhiều xác tàu đắm và di tích kiến trúc cổ xưa, còn có suối nước nóng phun trào và những khe rãnh rất sâu. Bên dưới vùng biển vực xoáy San Hô hẳn phải có một nguồn địa nhiệt và nước ngọt rất lớn, bằng không, hàm lượng muối trong nước biển quá cao, lũ trai ngậm ngọc kia cũng không thể sinh tồn được. Nếu có thể tìm cách dò ra hướng chảy của mạch nước ngọt ấy, may ra có thể thoát khỏi rặng san hô như chốn mê cung này trở lên mặt biển. Có điều, chúng ta cũng không thể đi lung tung, trước tiên hãy đến chỗ di chỉ thành cổ an táng Nguyễn Hắc, nghỉ ngơi chỉnh đốn đội ngũ đã, rồi mới tính kế lâu dài sau. Nhìn hình nhìn thế, tìm đường tiến lui vốn là sở trường của Mô Kim hiệu úy, nửa cuốn Thập lục tự âm dương phong thủy bí thuật của tôi không phải trò đùa đâu.”

Tôi đem bí thuật của Mô Kim hiệu úy ra dọa người, song kỳ thực trong lòng cũng không nắm chắc gì hết. Có điều, Minh Thúc kia tuy khởi nghiệp bằng nghề chạy tàu ở Nam Dương, nhưng tổ thượng nhà lão cũng là quân trộm mộ đổ đấu, cõng xác lật quan tài ở phương Nam, bản thân lão ta cũng thường xuyên buôn bán các loại xác khô, thôi thì từ Vương tử Tây Vực, đại tướng quân trong sa mạc, công chúa Lâu Lan, xác thơm Thiên Sơn, hay xác ướp Tần Hán... chẳng có thứ gì mà lão chưa từng mua vào bán ra cả, đương nhiên, mấy cái danh hiệu của xác chết ấy quá nửa do lão bịa ra cả. Lão tự cho mình cũng có một nửa là nghệ nhân đổ đấu, mà trong mắt những kẻ trộm mộ thông thường, Mô Kim hiệu úy có thể nói là tướng soái trong nghề, bản lĩnh thông thiên, vì vậy khi tôi nhắc đến bí thuật Mô Kim, Minh Thúc cũng lập tức yên tâm phần nào. Mục tiêu giờ đã được xác định, cả bọn bèn chia nhau ra chèo xuồng, hai chiếc xuồng nhỏ chầm chậm dịch chuyển trên mặt nước.

Tuyền béo vừa khua mái chèo, vừa ngắm nghía cái đồng hồ vàng vớt được trong xác tàu Mariana. Cái đồng hồ ấy phản chiếu ánh sáng, lại càng thêm rực rỡ sáng lạn, Tuyền béo ngắm nghía hồi lâu cũng không nhận ra là hiệu gì, bèn đưa cho Shirley Dương giám định thử xem có phải đồng hồ Omega không.

Tôi vừa nhìn thấy cái đồng hồ vàng ấy, liền tức khắc nhớ ra lúc ở bên trong xác tàu Mariana, đã từng trông thấy sau lưng Cổ Thái có một cái bóng râu ria đeo đồng hồ vàng qua tấm gương vỡ. Đó chính là bóng ma của thuyền trưởng. Lúc bấy giờ, tình hình dưới nước rất hỗn loạn, ngoài tôi ra những người khác đều không phát hiện, có điều sau đấy Cổ Thái cũng không có gì bất thường, nên tôi cũng tạm thời gác chuyện này sang một bên. Nghĩ tới đây, tôi bất giác len lén đưa mắt nhìn sang phía Cổ Thái.

Cổ Thái bị thương nhẹ, sư tỉ Đa Linh của cậu ta đã xử lý cấp cứu cho rồi, lúc này tuy mệt mỏi, nhưng với sức khỏe và sự dẻo dai của mình, cậu ta vẫn kiên trì giúp mọi người chèo xuồng.

Lúc tôi nhìn sang, Cổ Thái đang không ngừng ngoảnh đầu nhìn mặt nước phía sau. Tôi thấy hành vi của cậu ta là lạ, bèn hỏi xem ngoảnh đầu lại làm gì. Cổ Thái nghe vậy, liền trợn mắt lên đáp: “Ma đấy, có ma đấy!”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top