Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!
Quyển 2 - Chương 30: Nước tự trôi


Ông Lục ngồi trên chiếc ghế đá tròn như cái trống làm bằng đá hoa cương. Trước mặt ông là người đàn bà đã khiến ông thần hồn mê mẩn suốt hai mươi năm nay. Người đàn bà lúc này vẫn giấu mặt sau tấm mặt nạ ly miêu vàng rực rỡ.

Phải khó khăn lắm ông Lục mới lên được vị trí này. Đây chính là phần trán rồng trong Ngự long cách, bố cục thực tế chính là ngôi đình trên hòn giả sơn. Để lên được đến đây, ông Lục đã phải trả một cái giá vô cùng đắt đỏ.

Sau khi ra khỏi hành lang râu rồng, ông đã chạm trán với một gã khổng lồ cao lớn dị thường, cơ bắp cuồn cuộn, một bàn tay của gã đã đủ chụp kín đầu ông. Sau đó, gã nâng cánh tay lên, ông Lục cũng bị nhấc bổng khỏi mặt đất. Gã khổng lồ đã chuẩn bị quật thẳng ông Lục vào hòn giả sơn bên cạnh, may mà ông Lục nhanh như chớp rút từ ống tay áo ra một cây bút, dứt khoát phóng thẳng cây bút xuyên từ tai trái sang tai phải gã khổng lồ. Đó là một cây bút “thiên sư điểm hồn về âm phủ” bằng đồng…

Khi đến hai cái đầm mắt rồng, mắt rồng đột nhiên chiếu rọi tinh quang. Tinh quang chín là vô số cây phi tiêu hình con người, găm chi chít lên tứ chi và hai bên sườn ông Lục, rất nhiều mũi phi tiêu đã nằm lại trong cơ thể ông. May mà ông đã kịp dùng hai tay che chắn trước mặt và cổ, trong người còn có bàn độn giáp bảo vệ cho tim, mới giữ được chút hơi tàn tiếp tục tiến lên…

Khi lần đến được cây cầu đá quái dị phía trước đình trán rống, ông đã chạm phải cơ quan ở đầu cầu, khiến khảm diện hoạt động. Từ trong miệng bốn pho tượng thú trên lan can cầu phóng vụt ra bốn con rắn hoàng vĩ. Ông đã gắng gượng né tránh, nhưng vẫn bị ba con cắn trúng cổ, rồi nhất quyết không chịu thả ra, thân rắn thẳng đơ treo lủng lẳng trông vô cùng gớm ghiếc.

Giờ đây, ông đã ở rất gần người đàn bà mang mặt nạ ly miêu. Người đàn bà nhìn ông Lục, trong lòng cảm thấy cực kỳ kinh dị. Một nắm xương già nua yếu ớt nhường kia, tại sao sức sống lại ngoan cường đến vậy.

Ông Lục không hề nhìn người đàn bà, mà nhìn vào chiếc bàn đá ở bên cạnh. Trên bàn đá bày một cái mâm đế bằng rất lớn, bên trong đựng rất nhiều thanh đá được gọt giũa vuông thành sắc cạnh. Nhìn vào độ nhẵn bóng và màu sắc của đá, có thể thấy rằng, đây là loại đá điền hoàng cực kỳ quý hiếm. Ở giữa mâm là một thỏi đá huyết thạch hình trụ tròn dựng đứng, sắc đỏ tươi nhuận như muốn tan chảy.

Chiếc mâm đế bằng này chính là “ý hình bàn” trong Phong thủy học, dùng một mâm đựng toàn châu báu cực hiếm quý, bố trí căn cứ theo các yếu huyệt, chủ điểm của tòa kiến trúc, sau đó tiến hành yểm bùa chú ý hình cho các bảo bối trong mâm và các cấu trúc tương ứng trong kiến trúc thực. Như vậy, nhìn vào ý hình bàn, có thể biết được tình trạng của các cấu trúc thực; mặt khác, cũng có thể thông qua ý hình bàn để điều khiển và khống chế các kết cấu trong thực tế.

Cột đá huyết thạch ở giữa mâm chính là cây cột bàn long mà ông Lục đang muốn tìm ra. Bên cạnh cây cột này, rất nhiều cột đá điền hoàng đã đổ xuống, cột này đè lên cột kia, chứng tỏ khá nhiều kết cấu chủ đạo trong khu vườn đã sụp đổ. Ông Lục nheo nheo mắt nhìn chăm chú, và phát hiện cây cột đá điền hoàng đè ở trên cùng có vẻ như chính là vị trí khung cửa tròn bên cạnh bức tường xương rồng. Có lẽ nó đã đổ xuống dưới sức công phá của khối thuốc nổ.

Giờ đây, khao khát lớn nhất của ông Lục chính là đẩy đổ cây cột đá huyết thạch kia. Nếu làm được như vậy, toàn bộ khu vườn sẽ bị hủy diệt hoàn toàn, người nhà họ Lỗ mới có cơ may sống sót. Nhưng việc đó đã nằm ngoài khả năng của ông. Lần này, ông phải giở mánh khóe nữa. Với chút ít sức lực còn lại, giữ cho bản thân ngồi yên mà không đổ xuống đã vô cùng chật vật. Cơ thể chao đảo của ông cứ chực trượt xuống hay ngã nhào khỏi chiếc ghế đá.

Người đàn bà đã lên tiếng, giọng nói vẫn ngọt lịm điệu đà đến nhàm tai, nhưng ông Lục lại thích. Giọng nói đã giúp ông tìm lại được cảm giác của hai mươi năm về trước.

- Gia tộc của ta là huyết mạch hoàng gia nào, ông hẳn cũng đã biết? – Trong giọng nói của người đàn bà tràn đầy vẻ cao ngạo.

Ông Lục hít một hơi thật nặng nề, khẽ gật cái đầu đang cúi gục.

- Gia tộc ta kiến tạo khu vườn này là muốn có được một thứ bảo bổi để phục hưng hoàng mạch. Điều này hẳn ông cũng đã biết? – Người đàn bà tiếp tục hỏi.

Ông Lục tiếp tục hít một hơi đầy khó nhọc, nhưng lại khẽ lắc đầu.

- Ồ! Vậy thì để ta nói cho ông nghe. Lão tổ tông của nhà chúng ta đã phải trải vô số gian nan, nếm muôn vàn cay đắng mới có được hai bảo bối. Có một vị cao nhân đắc đạo đã suy đoán rằng, nhờ hai bảo bối này, con cháu đời sau sẽ có thể giết rồng mà thành rồng. Nhưng lão tổ tông lại không nói rõ điều này với con cháu, chỉ để lại hai bảo bối và một bộ tổ huấn để con cháu đời sau tự mày mò. Vì vậy trong suốt mấy nghìn năm nay, dẫu rằng dòng họ của ta xuất hiện rất nhiều hiền tài danh sĩ, nhưng chẳng có ai làm nên bá nghiệp.

Ông Lục vẫn hít thở nặng nề, đầu cúi gục, nhưng lời người đàn bà vừa nói, ông không bỏ sót một chữ nào. Trí não ông đang xoay vần thần tốc. Ông nhớ đến bức tranh treo giữa chính sảnh, nhân vật trong tranh chính là lão tổ tông của gia tộc này ư? Nếu người đó đúng là lão tổ tông nhà họ, việc có một bảo bối là điều chắc chắn. Vậy bảo bối còn lại là thứ gì?

Người đàn bà không nhìn thấy khuôn mặt của ông Lục. Bà ta vẫn tiếp tục nhả giọng ngọt lịm như đường để kể lại một câu chuyện kinh thiên động địa:

- Mặt dù con cháu đời sau huyết thống phân chi rất rộng, nhưng hai bảo bối và bộ tổ huấn không hề thất lạc, vẫn luôn được bảo tồn nguyên vẹn. Cho đến cuối đời Nguyên, cuối cùng gia tộc ta cũng sinh ra được một vị hoàng đế. May mà vị hoàng tổ của ta đã mang hai bảo bối và bộ tổ huấn cho một cao nhân xem giúp, tìm ra được điều huyền diệu tàng ẩn bên trong, trợ giúp hoàng tổ nhà ta đoạt được thiên hạ.

Hơi thở của ông Lục càng thêm hào hển, các suy nghĩ xoay chuyển vùn vụt trong đầu. Các tin tức mà ông đã biết, qua lời nói của người đàn bà, đã được liên kết thành một chuỗi. Những gì Lỗ Thịnh Nghĩa từng nói với ông, nhưng ông vẫn đinh ninh chỉ là truyền thuyết hoặc bịa đặt, giờ đây đều đã được người đàn bà này chứng thực. Lời nói của người đàn bà đã rất rõ ràng, vị hoàng tổ mà bà ta vừa nói chính là Chu Nguyên Chương, còn vị cao nhân chắc chắn là Lưu Bá Ôn. Nếu không, khu vườn đã chẳng xuất hiện trên dòng sông Sơn Đường cổ kính vốn có rất nhiều mối liên hệ với Lưu Bá Ôn, lại nằm đúng vị trí long đảm trên dòng Sơn Đường hình rồng. Những lời nói vừa rồi không khỏi khiến ông Lục chấn động.

Đối phương là gia tộc họ Chu, đúng như Lỗ Thịnh Nghĩa đã nói với ông; đối phương là hậu duệ của hoàng thất nhà Minh, cũng đúng như lời Lỗ Thịnh Nghĩa; họ Chu nhờ vào bảo bối mới lên ngôi cửu ngũ chí tôn, tất cả đều đúng y như những gì Lỗ Thịnh Nghĩa đã nói.

Người nhà họ Lỗ đã từng nói với ông Lục, sỡ dĩ họ đối đầu với nhà họ Chu chính là vì những bảo bối thần diệu kia. Người nhà họ Lỗ phải đoạt lại bảo bối từ tay họ Chu để phá hung huyệt định phàm giới, tạo phúc cho nhân gian và con cháu đời sau. Nhưng nhà họ Lỗ có đủ khả năng để làm việc đó hay không? Ông Lục không biết. Họ có thể bình thản đối diện với sức cám dỗ ghê gớm của ngôi vị chí tôn hay không? Ông Lục cũng không biết.

Bị lừa gạt đến mức hoang mang, ông Lục giờ đây cảm thấy nghi ngờ tất cả, kể cả động cơ và khả năng của người nhà họ Lỗ. Nhưng có một số sự việc vẫn hết sức rõ ràng và chắc chắn, đó là cho đến lúc này, người nhà họ Lỗ chưa bao giờ lừa gạt ông, cũng chưa bao giờ giấu giếm ông một điều gì.

Ông Lục biết, những lời vừa rồi của người đàn bà cũng không hề dối trá. Vì giờ đây trong mắt bà ta, ông chẳng khác nào một người đã chết. Lừa dối một kẻ đã chết là hoàn toàn không cần thiết.

Tấm mặt nạ ly miêu ánh lên những tia sáng vàng kim mờ ảo. Trời đã bắt đầu sẫm tối. Người đàn bà vẫn ngồi trong một tư thế hết sức cao nhã, tiếp tục kể:

- Hoàng tổ nhà ta thực sự đã nhờ vào bảo bối mà có được thiên hạ, cai trị thiên hạ. Vị cao nhân xem trong tổ huấn và bảo vật của tổ tiên, đã ngộ ra huyền cơ trong đó và mách nước rằng, bảo khí và năng lượng ẩn chứa trong bảo bối là không đủ, và đang dần dần suy yếu. Nếu muốn tiếp tục nạp đủ bảo khí, cần phải tìm nơi cát địa để cất giữ trăm năm. Nhưng thiên hạ là của nhà ta, làm sao có thể để kẻ khác chiếm đoạt cả trăm năm được, nên đành phải tìm cách khác. Vị cao nhân đó tìm khắp trong sách vở, đi khắp cả thiên hạ, dốc hết toàn bộ tinh khí thần, cuối cùng đã ngộ ra được một cách, đồng thời cất giấu cách này vào trong một hộp ngọc, giao cho người tại vị trong gia tộc đời đời lưu truyền. Đợi đến khi khí vận đã suy, hãy làm theo cách đó.

Hơi thở của ông Lục càng lúc càng kéo dài và nặng nề hơn, hít hay thở đều phập phù không đều, dường như sắp đứt đoạn đến nơi. Thế nhưng trí não của ông càng lúc càng minh mẫn khác thường.

Ông rất thông thuộc lịch sử triều Minh, đó là một vương triều rối loạn và kỳ dị. Rất nhiều hiện tượng quái dị xuất hiện trong triều đại này và kết cục cuối cùng của nó đều ứng nghiệm với thuyết bảo vật suy khí. Như vậy, phương pháp của vị cao nhân kia hẳn là vẫn chưa được thực hiện, hoặc cơ bản là không hề linh nghiệm.

- Thành Tổ Đế đoạt ngai vàng của Kiến Văn Đế, sử sách đều nói rằng sau sự biến Tĩnh nạn, không biết kết cục của Kiến Văn Đế ra sao. Nhưng kỳ thực, không phải ông ta nhảy vào biển lửa tự sát như lời đồn đại, mà ông ta đã trốn thoát được ra ngoài.

Khi Thành Tổ Đế đánh vào Nam Kinh, có Vương Việt ở điện Phụng Tiên đã dâng lên Kiến Văn Đế một chiếc hòm. Đây chính là di vật mà Thái Tổ hoàng đế để lại cho người cháu yêu quý. Trong chiếc hòm có ba tấm độ điệp, ghi tên Ứng Văn, Ứng Hiền, Ứng Năng, ám chỉ Kiến Văn Đế Chu Doãn Văn, giám sát ngự sử Diệp Hy Hiền, giáo thụ của Ngô Vương là Dương Ứng Năng. Ngoài ra còn có ba bộ áo tăng, mười đĩnh bạc trắng, một chiếc hộp ngọc, còn có cả một di thư.

Trên di thư viết rằng: “Ứng Văn đi ra từ Quỷ Môn, những người thoát khỏi ra từ suối Thủy Quan, đến tối gặp nhau ở phía tây quán Thần Lạc!” – Lời nói của người đàn bà vô cùng mạch lạc, tựa như bà ta đã tận mắt chứng kiến sự kiện này – Kiến Văn Đế được chín người hộ tống, lên được chiếc thuyền do trù trị quán Thần Lạc là Vương Thăng chuẩn bị sẵn tại dòng kênh Quỷ Môn, thoát được ra ngoài. Từ lúc này rồng vào biển lớn, vân du nước mây, đến năm bốn mươi sáu tuổi quy tiên. Sau khi người qua đời, những thủ hạ tài giỏi đã tìm kiếm gỗ ngọc trân kỳ, làm thành một ngôi mộ di động ngầm ẩn dưới nước, để giúp người có thể tiếp tục ngao du sông nước như lúc sinh thời.

Ông Lục thở ra một hơi thật dài, dường như muốn biểu thị mình đã hiểu. Nhưng trong lòng ông vẫn còn rất nhiều nghi vấn, tại sao người đàn bà kia lại biết được những bí mật lịch sử này?

- Kiến Văn Đế đã mang theo hộp ngọc đi mất, trong đó có chứa đựng phương pháp đối phó khi bảo khí suy kiệt. Hộp ngọc đã bị mang đi, cục thế suy vong của hoàng triều họ Chu đã không thể cứu vãn. Nhưng các thế hệ hoàng tổ sau khi kế vị cũng đã nghĩ đủ mọi cách để phục hồi bảo khí. Trong đó, phương pháp linh nghiệm nhất chính là của Tuyên Tông Đế. Người đã nghiền ngẫm các bản chép tay của Thái Tổ và Lưu Cơ, rồi ngộ được huyền cơ từ trong đó. Nhưng chưa kịp thực hiện, đã bất ngờ mắc bệnh lạ mà đột ngột qua đời.

Trong lúc lâm chung, người chỉ để lại một bức tranh cá vàng và một câu di ngôn vẻn vẹn hai chữ: “Tìm thủy” – Người đàn bà ngừng lại một lát, không hiểu tại sao, thần thái của bà ta đột nhiên trở nên nôn nóng bất an – Sau này, các vị hoàng đế kế vị đều tiến hành tìm kiếm từ nước. Có vị cho rằng Thủy thuộc âm, có thể là phụ nữ, thậm chí còn tiến hành tìm kiếm manh mối từ cơ thể đàn bà, nhưng vẫn là vô vọng. Sau cùng, Hy Tông hoàng đế tìm kiếm trong tổ huấn, còn bỏ công nghiên cứu về nghề mộc vốn cũng có liên quan tới tổ tiên, thực là bệnh gấp loạn tìm thầy.

Ông Lục lại thở ra một hơi dài. Chẳng trách triều Minh có nhiều chuyện quái đản đến vậy. Minh Tuyên Tông thích vẽ tranh cá, đặc biệt là cá vàng. Nhưng cá vàng trong tranh vẽ của ông hình dáng rất khác thường, vô cùng quái lạ. Minh Vũ Tông xây dựng Báo Phòng, tập hợp đủ kiểu đàn bà vào trong đó, sai tám thủ hạ thân tín là Bát Hổ đi vơ vét đủ thứ điển tịch quý báu trong thiên hạ, thích ra ngoài ngao du, cuối cùng do đánh cá trên sông rơi xuống nước sinh bệnh mà chết. Minh Thế Tông bắt cung nữ thu thập nước sương, kết quả là dẫn đến “sự biến Nhâm Dần”, suýt chút nữa đã mất mạng trong tay cung nữ. Minh Hy Tông không màng chính sự, chỉ say mê nghề mộc, xây dựng hai xưởng Đông Tây, thu thập đủ loại sách cổ, nghiên cứu đủ loại kỹ thuật tinh xảo và bảo bối trân kỳ trong thiên hạ, cuối cùng cũng là trong một dịp ngao du trên sông, không may rơi xuống nước đổ bệnh mà chết. Những sự trùng hợp này tuyệt đối không hề đơn giản, trong đó có ẩn chứa bí mật gì, hẳn chỉ có người đã chết kia mới biết được. Nhưng hôm nay, theo như lời kể của người đàn bà, thì chí ít nhất họ cũng có một mục đích chung: “tìm thủy”.

Giọng điệu của người đàn bà càng trở nên nôn nóng bất an, tư thái thong dong cũng có phần biến dạng:

- Mười năm về trước, chúng ta đã vô tình tìm được hậu duệ của Diệp Hy Hiền, người đã đào tẩu cùng Kiến Văn Đế năm xưa, lấy được ba bảo bối trấn trạch từ ngôi nhà tổ của họ, tìm được manh mối về ngôi mộ di động của Kiến Văn Đế. Vì vậy, chúng ta mới xây dựng khu vườn này ở đây để giam giữ ngôi mộ di động. Nhưng thật không ngờ, ngôi mộ đó lại được ba giống quái vật là quỷ nước, chạch rồng khổng lồ và dây tơ hồng hút máu bảo vệ nghiêm ngặt, nhà chúng ta đã bỏ ra không biết bao nhiêu thời gian công sức mà vẫn không thể mở được ngôi mộ để lấy hộp ngọc ra.

Sau này nhờ cao nhân chỉ điểm, nên bên trên bố trí Ngự long cách, bên dưới thiết kế Tù long cục, dùng cột bàn long chặn lấy đuôi rồng, dùng bảy băng tinh thổ hàn phong kín thất khiếu của rồng, lấy trộm bảy con ly miêu yểm chú bản mệnh để tạo thành bức tường tỏa long, mục đích khiến cho con rồng chết kia long khí suy kiệt, sau đó đoạt lấy long bảo. – Người đàn bà bỗng thở dốc, không hiểu tại sao bà ta cảm thấy lồng ngực nghẹn tức, cổ họng khô khốc, trong giọng điệu đang gượng uốn ra vẻ ngọt ngào cũng đã pha lẫn ít nhiều dư âm kỳ quặc.

Nghe đến đây, trong lòng ông Lục cảm thấy vô cùng đắc ý. Những lời lẽ vừa rồi của bà ta đã cho thấy, những phân tích và phán đoán của ông về non nửa bức tranh còn lại trong tay người nhà họ Lỗ là hoàn toàn chính xác.

Nhưng khu trạch viện này quả thực không hề đơn giản, trong đó có rất nhiều tướng cách và bố cục ông đã không thể suy đoán ra được. Thì ra bên dưới Ngự long cách có một Tù long cục, bảy ly khóa thân rồng, bảy hàn phong thất khiếu, một trụ chặn đuôi rồng. Bố cục tinh diệu không tiền khoáng hậu, nhưng suốt bao nhiêu năm qua vẫn chưa thể lấy được một vật bé nhỏ cất giấu trong ngôi mộ. Xem ra chân long tuy đã chết nhưng vẫn rất mực ngoan cường, long khí không tán, thật là khó có thể tưởng tượng.

- Ta nói ra những bí mật của gia tộc cho ông hay, vì muốn ông giúp ta tính thử xem sao. Tình hình bây giờ đã không thể khống chế được nữa. Quỷ nước lên bờ, dây tơ hồng mọc, chạch rồng đục khoét, lớp băng tan vỡ, đất đá sụp đổ, rốt cuộc nguyên nhân là vì đâu? Phải chăng nhà họ Lỗ có tuyệt chiêu kỳ lạ nào mà chúng ta không biết đến, hôm nay mới đem ra thi triển? – Người đàn bà nhìn ông Lục như chờ đợi một câu trả lời.

Ông Lục không phải kẻ ngốc. Có thể trước đây có người coi ông là kẻ ngốc, nhưng một ông Lục đang ngồi tại chốn này tuyệt đối không phải. Ông biết sở dĩ người đàn bà kia chịu tiết lộ bí mật với ông, bởi vì ông sắp chết. Kể cả khi những thương tích hiện tại trên cơ thể vẫn không giết nổi ông, thì vị hồng nhan tri kỷ kia cũng sẽ tự tay tiễn ông về địa phủ.

Nhưng giờ đây, ông Lục đang khao khát được lên tiếng để nói ra những suy đoán và kết luận của mình. Đây rất có thể là cục thế lớn nhất mà ông đã phá giải được trong suốt đời cuộc đời mình, nó sẽ trở thành niềm kiêu hãnh suốt đời của ông. Niềm khao khát và kích động khiến làn khí trong lồng ngực ông đột ngột dâng trào. Khi luồng khí phun qua cổ họng, ông cũng liên tục ọe ra đến mười mấy búng máu ứ tím đen, hôi tanh khủng khiếp.

Người đàn bà đang cố gắng che giấu thái độ của mình, đôi mắt ma mỵ như mắt ly miêu hơi nheo lại, nhìn thẳng vào ông Lục, có điều trong ánh mắt vẫn có một số thứ không thể nào ngụy trang được.

Ông Lục từ từ ngẩng đầu lên, và nhanh chóng nhận ra điều đó. Ánh mắt đục ngầu của ông dễ dàng đọc được nổi hoang mang, thống khổ, cay đắng đang ẩn hiện trong ánh mắt của người đàn bà.

Nôn ra được máu ứ, ông Lục cảm thấy cổ họng nhẹ nhõm hẳn, thanh quản cũng thông suốt thêm nhiều. Ông thử đặng hắng khẽ một tiếng, và kỳ lạ thay, cổ họng đã phát ra được âm thanh.

Ông đưa mắt liếc xuống những con rắn hoàng vĩ đang lủng lẳng trên cổ, thân hình chúng thẳng đuỗn, thì ra đã chết từ lâu. Có vẻ như độc tính của phân chim cù thư còn mạnh hơn của lũ rắn, khiến cho chúng trúng độc mà chết. Nhưng độc tính của rắn hoàng vĩ cũng vô cùng mãnh liệt, nên đã có hiệu quả “lấy độc trị độc” với độc tố từ phân chim cù thư. Vì vậy, toàn bộ máu độc ứ đọng trong cổ họng ông đã được tống khứ ra ngoài.

- Khu nhà này đã mất đi vật trấn! – Ông Lục bật ra câu nói đầu tiên với giọng Bắc không thực chuẩn. Lời nói có phần kích động, nhưng cũng pha chút dương dương tự đắc.

- Khu vườn này dùng Ngự long cách để chèn lên Tù long cách, ở giữa dựng cột bàn long chặn đuôi rồng để cố định thân rồng. Không biết cách cục này là do ai bày ra, quả thực là tuyệt diệu vô song, xứng đáng là cục đệ nhất từ cổ chí kim. Nếu như dùng cách cục này để vây khốn, hàng phục một người có mệnh tướng giao long hay mãng xà, người đó cho dù thành thần tiên hay ma quỷ cũng khó mà thoát thân. Nhưng nếu dùng để vây khốn chân long, cần phải có thêm một vật trấn khiến chân long sợ hãi. – Tuy cơ thể ông Lục vẫn run lẩy bẩy, nhưng lời nói rất rõ ràng rành mạch.

- Ban nãy nghe lời nà nói, ngôi mộ kia đã được vây khốn từ rất lâu, nhưng chưa bao giờ xuất hiện tình cảnh như hiện nay, chứng tỏ nơi đây vốn dĩ có vật trấn. Phải chăng trong hia ngày nay nhà bà đã mất đi thứ bảo bối gì quý giá? – Ông Lục lại hít một hơi dài, sau đó từ từ thở ra.

- Bà vừa nói nhà họ Chu có hai bảo bối, con cháu nhờ vào đó mà giết rồng thành rồng, tôi đoán rằng tổ tông nhà họ Chu có liên quan tới sự tích chém rồng. Như vậy, có một bảo bối hẳn là thứ để giết rồng, bảo bối này có thể trấn áp được chân long. Phải chăng nhà họ Chu đã đánh mất bảo bối này?

Ông Lục phân tích rất chính xác, lời nói rõ ràng, hơi thở đều đặn. Nhưng người đàn bà không chú ý đến hiện tượng này, vì đang mải suy nghĩ về lời nói của ông Lục, đồng thời cũng đang phải gắng gượng chịu đựng cảm giác khó chịu trong cơ thể.

Thì ra là như vậy, người đàn bà cũng đã ngộ ra. Bảo bối không hề bị mất, mà con trai của bà ta đã mang đi đối phó với gã cao thủ trẻ tuổi đã đột phá trạch viện Bắc Bình. Bảo bối làm vật trấn đã không còn, vậy xem ra nơi này đã không thể giữ được nữa, bản thân cũng nên bỏ của chạy lấy người là hơn. Ngày tháng còn dài, sau này lo gì không thể dấy đất lại về. Chỉ cần phái người bám sát theo ngôi mộ kia là được.

- Không còn vật trấn, long khí ngùn ngụt bốc lên, chắc chắn sẽ xuất hiện tình trạng quỷ nước lên bờ, tơ hồng trồi khỏi mặt đất, trạch rồng đục khoét. Lớp đất đá phía dưới bị trạch rồng, dây tơ hồng đục ruỗng, mới có tình trạng thuốc nổ nổ ngược xuống dưới làm đổ cột trụ chống đỡ khu vườn. Tình cảnh hiện giờ của khu vườn là hoàn toàn nằm trong dự liệu! – Ông Lục vẫn tiếp tục phân tích và suy đoán. Mặc dù chân tay ông đã mềm nhũn rũ rượi, nhưng giọng nói càng lúc càng thêm sang sảng.

Người đàn bà biết rõ bước tiếp theo cần phải làm gì. Chính là phải khiến lão già sắp chết kia mang theo điều bí mật mà câm lặng vĩnh viễn, câm lặng như một xác chết. Bà ra nhìn ra xung quanh. Vì cuộc đối thoại này, bà ta đã đuổi hết bon tay chân đi rồi, xem ra bà ta sẽ phải đích thân ra tay.

Từ trong ánh mắt đầy nôn nóng, bất an, khổ sở của người đàn bà, ông Lục đã nhận ra một làn sát khí. Ông biết, nỗi đau khổ và bất an không phải vì cái chết sắp giáng xuống đầu ông. Nếu quả thật như vậy, ông sẵn sàng chết một cách cam tâm tình nguyện.

Đối với ông Lục, cái chết không hề đáng sợ. Khi tìm đến ngôi đình trán rồng, ông đã không còn nghĩ đến chuyện sống sót trở ra. Nhưng bây giờ chưa phải lúc để chết. Bất kể ra sao, ông vẫn phải tìm cách kéo dài mạng sống để đánh đổ cây cột bàn long chính giữa ý hình bàn.

- Cổ chú bản mệnh, thứ tà pháp này nếu mạnh hơn đối thủ sẽ thịnh, nếu yếu hơn đối thủ sẽ tự rước họa vào thân. Trong bảy con ly miêu, hẳn là không có con nào yểm bùa chú bản mệnh của bà chứ? – Ông Lục nói câu này cốt là để kéo dài thời gian, nhưng lời vừa nói xong, tự nhiên ông chợt sửng người. Tại sao lại không yểm bùa chú bản mệnh của người đàn bà này? Thứ bị vây khốn kia dù sao cũng là chân long, dẫu đã trở thành âm long, nhưng long khí chưa tán, vẫn cần phải có linh khí thánh âm khống chế. Bởi vậy, chắc chắn bảy con ly miêu đều được yểm bùa bản mệnh của đàn bà, hơn nữa, họ tuyệt đối không phải là hạng đàn bà tầm thường. Bà thái hậu này chắc chắn cũng là một trong số đó. Dù thật hay giả, bà ta ít nhiều cũng có thể được coi là phượng thế thánh âm.

Bà ta không đáp lại câu nói của ông Lục, nhưng thần thái trông càng thêm khổ sở.

Bà ta biết rõ, tình trạng của bản thân đã đến hồi nguy kịch. Với tình trạng hiện giờ, việc giết ông Lục lại càng trở nên bức thiết, nhưng cũng hết sức khó khăn.

Nhưng tình trạng của ông Lục còn tệ hơn nữa. Những hơi thở sâu rời rạc lúc nãy đã giúp tinh thần của ông khởi sắc đôi chút. Nhưng người luyện khí rất am hiểu bản thân, có khởi sắc chẳng qua cũng chỉ là hồi quang phản chiếu.

Sát khí của người đàn bà đang dần dần trở nên dữ dội. Sát khí được tích lũy một cách chậm rãi, với bà ta đó là một điều rất bất thường. Giết người với bà ta là một việc quá đỗi nhẹ nhàng, nhưng để giết người, ngoài ý muốn ra vẫn còn phải có đủ năng lực. Giờ đây, về cơ bản, bà ta đang tích lũy năng lực giết người.

Ông Lục cũng đang dịch chuyển thân mình, gắng gượng tiếp cận ý hình bàn. Hơi thở của ông trở nên dồn dập, nhưng trước mũi miệng không hề có khí trắng tỏa ra. Chân khí đã tận, ông Lục biết ông chỉ còn lại một hơi thở cuối cùng để duy trì sự sống.

Người đàn bà muốn đứng dậy. Nhìn vào những động tác khó nhọc của ông Lục, bà ta cũng đã nhận ra ý đồ của ông. Nhưng bà ta mới chỉ hơi đổ người về phía trước đã khựng ngay lại, thân người giữ nguyên tư thế nửa đứng nửa khom. Toàn bộ cơ thể run rẩy dữ dội, miệng hé mở, đôi môi khô khốc, nhưng trán và hai má lại ướt đẫm mồ hôi lạnh.

Cả hai người cùng nhìn sững vào đối phương. Trong khoảnh khắc này, họ hiểu nhau hơn bao giờ hết, họ đã nhìn thấu đến chân tơ kẻ tóc mọi tính toán của đối phương. Họ quả thực là một đôi tri kỷ. Không biết mối tình tri kỷ trước đây của họ là thật hay giả, nhưng lúc này, họ thực sự là một đôi tri kỷ.

Người đàn bà hẳn vô cùng hối hận. Con người kia bà ta đã từng nắm giữ trong tay, nhưng lại không biết lợi dụng cho thấu đáo, nếu không hôm nay đã chẳng phải chuốc lấy kết cục này. Còn ông Lục chắc chắn cũng cảm khái muôn phần. Nếu như không có người đàn bà kia, chắc hẳn giờ đây ông vẫn chỉ là một thầy phong thủy tầm thường ôm chút tài năng vô dụng mà lang thang nơi chợ phố.

Gần như cùng một lúc, cả hai người đều kêu lên một tiếng khẽ, rồi lập tức ôm chầm lấy nhau.

Ông Lục vòng hai cánh tay ôm chặt lấy gáy người đàn bà, ghì sát khuôn mặt bà ta vào bên cổ, hệt như buổi tối của hai mươi năm về trước. Chỉ có điều bên cổ ông giờ đây có thêm ba con rắn hoàng vĩ thẳng đơ. Chóp đuôi rắn cứng như thép nhọn xuyên thẳng vào con mắt trái còn lộ ra dưới tấm mặt nạ, thấu vào tận óc. Trước mắt người đàn bà lòa lòa máu đỏ, sắc đỏ thẫm dần, sau cùng chỉ còn lại một màu đen thẳm.

Tay trái của người đàn bà ôm chặt quanh lưng ông Lục, ngón cái bên tay phải chĩa ra như một mũi khoan, dùi thẳng vào tâm mạch của ông. Tim ông vỡ ra trong nỗi đau buốt choáng váng, máu trong cơ thể như túa ra khắp các lỗ chân lông, không còn quay về tim được nữa.

Chút hơi tàn của ông Lục đã tận, vai phải thõng chùng, cánh tay đặt trên gáy người đàn bà rơi phịch xuống. Nhưng chút tâm lực cuối cùng của ông vẫn hướng về ý hình bàn, cánh tay ông thuận theo đà rơi gắng gượng vươn về phía đó. Đầu ngón tay thoáng lươt qua trụ đá huyết thạch, chỉ nghe “keng” một tiếng, nó đã đổ nhào.

Cột bàn long sập xuống, mặt đất chấn động đảo điên, toàn bộ khu vườn rộng lớn đã đến hồi tàn cục.

Nhà cửa thay nhau đổ xuống, cây cối bật gốc ngả nghiêng, đất đá rùng rùng sạt lở. Cả một khu vườn kéo theo nhà cửa, cầu cống xung quanh, từ từ chìm vào trong nước…

Ngũ Lang và Lỗ Ân ở dưới nước, trên đầu họ, những khối đất đá khổng lồ đen ngòm đang trút xuống, trước mặt là hàng rào thép kiên cố không thể lay chuyển, sau lưng là dòng nước tối đen không biết đã bị đất đá vùi lấp hay chưa. Tiến thoái đều là đường chết.

Lỗ Thiên Liễu mặc dù đã chui qua được hàng rào, nhưng trước mặt là một vực nước đen ngòm thăm thẳm, không biết phải bơi về hướng nào. Ngôi mộ di động không lọt qua được hàng rào, lũ quỷ nước cũng không chịu chui qua. Không có quỷ nước dẫn đường, cũng có nghĩa là không thể tìm ra con đường sống.

Chỉ có một người duy nhất có thể cứu được họ, một người vẫn lưu lại ở phía trên, chính là Lỗ Thịnh Nghĩa. Một bên đầu gối của ông đã vỡ nát, vì vậy ông phải sử dụng cả tay lẫn chân để bò đi. Bức tường đổ nát phía trước chắc chắn là tường rào đoạn long, nhưng trên mặt đất hiển nhiên không hề có rồng để chặn. Vậy dựng tường rào đoạn long ở đây làm gì? Tường đã sụp đổ, hàng rào không thấy, vậy chỉ có một khả năng duy nhất, đó là hàng rào đã chạy xuống phía dưới, thứ nó muốn chặn lại là con rồng ở dưới mặt đất.

Nhưng bất kể thế nào, ông cũng phải kéo hàng rào này lên, giải được khảm diện, không cho phép đối phương triển khai thêm thủ đoạn nào nữa. Vì chí ít vẫn còn Ngũ Lang đang kẹt ở phía dưới. Không biết tại sao, ý thức của ông đã gần như quên bẵng mất sự tồn tại của Lỗ Ân.

Đây là một quá trình vô cùng thống khổ. Vừa cử động, đầu gối đã đau đớn kịch liệt, giống như vô số mũi kim dài nhọn hoắt xuyên thẳng vào não tủy. Ông nghiến răng lê lết được bốn năm chục bước, rồi từ trong đống gạch vụn, tìm ra được một trụ đèn có phần đỉnh hình nóc đình sáu mái bằng đá hoa cương nằm sát bức tường bao. Lúc này, nỗi đau đớn dữ dội từ đầu gối vỡ nát đá khiến ông muốn lịm đi, nhưng ông vẫn gắng gượng vực mình dậy, bắt đầu lần sờ trên trụ đèn.

Ông không hề tìm thấy dấu vết của lẫy khảm, lẽ nào cây trụ đèn lại không phải là then cài của tường đoạn long? Chắc là không phải, khảm diện có dạng hàng rào thường được thiết kế nhiều điểm chốt, vì loại khảm diện này có phạm vi tương đối rộng, khoảng cách khá dài, nên khi nguy cấp không thể lập tức di chuyển đến một vị trí đặc định, bởi vậy phải thiết kế nhiều điểm chốt khác nhau. Mặt khác, còn là một chốt động, toàn bộ khảm đều động. Trước khi di chuyển về hướng này, ông đã quan sát hướng đối diện, chí ít trong vòng hai mươi bước không phát hiện thấy điểm then chốt. Ông lết về phía này cũng chừng bốn năm mươi bước, hai bên cộng lại khoảng sáu bảy chục bước, theo lý mà nói, trong khoảng cách này chắc chắn sẽ có điểm chốt.

Ông tiếp tục quan sát thật kỹ toàn bộ trụ đèn, và đột nhiên chú ý đến ngọn nến ở phía dưới mái đình. Ông bèn đưa tay kéo ngọn nến ra ngoài. Cột đèn không có phản ứng gì, khảm diện cũng không hề nhúc nhích.

Đúng, cách bố trí của khảm diện này không hề đơn giản như vậy. Lỗ Thịnh Nghĩa lại tiếp tục áp sát nóc đình sáu mái. Lần này, ông đã phát hiện ra tại vị trí đặt nến có một lỗ nhỏ. Vừa nãy, do ngọn nến che khuất cái lỗ nên ông không nhìn ra được. Lẫy khảm rất có thể ở trong cái lỗ này!

Lỗ Thịnh Nghĩa mở ngăn kéo hòm gỗ, lấy ra một ống trúc, rồi đổ từ bên trong ra mấy cây kim thép. Mỗi cây một hình thù, lớn, nhỏ, dài, ngắn, cứng, mềm, cong, thẳng, trơn, móc, kiểu gì cũng có. Đây là bộ dụng cụ chuyên dùng để kéo lẫy bày khảm của khảm tử gia. Lỗ Thịnh Nghĩa chọn ra một chiếc kim thép mảnh, mềm, vô cùng dẻo dai, rồi chọc vào trong lỗ.

Mũi kim chỉ xuyên vào được một chút. Lỗ Thịnh Nghĩa bèn nhẹ nhàng xoay chuyển cán kim, thay đổi phương hướng, mũi kim tiếp tục xuyên xuống một chút nữa. Nhưng sau đó, dù ông đã cố gắng đủ cách, nó cũng không thể xuống thêm.

Lỗ Thịnh Nghĩa thở dài thườn thượt rồi rút mũi kim ra. Đây là kiểu lỗ đặt lẫy “quanh co chín khúc” được thiết kế chuyên để đối phó với bộ kim của nhà họ Lỗ. Kim không xuyên xuống được, lẫy không thể nén, khảm diện cũng sẽ không giải được.

Lúc này, toàn bộ khu vườn đang rung lắc dữ dội, cây cối, cột kèo rầm rầm đổ xuống. Nhà cửa xung quanh xô vẹo ngả nghiêng, ngói trên mái nhà xô nhau tuốt xuống từng mảng lớn.

Lỗ Thịnh Nghĩa như kẻ mất hồn, giương mắt nhìn trân trân vào cái lỗ trước mặt. Cây kim của ông không thể gảy được lẫy khảm, bây giờ biết tìm thứ gì đủ nặng để xuyên qua cái lỗ chín khúc kia, chạm tới nút lẫy?

Một cây long não bỗng đổ ngang xuống ngay bên cạnh Lỗ Thịnh Nghĩa, cành cây đập trúng đầu gối, khiến ông đau đến chết điếng, vội xoay người dùng tay kéo cái chân bị thương bên dưới cành cây ra. Vừa xoay người, một quả cầu bỗng rơi ra từ trong áo. Vừa nhìn thấy quả cầu, mọi nỗi đau đớn như vụt tan biến, ông mừng rỡ đến nỗi chỉ muốn nhảy cẫng lên.

Đó chính là quả cầu tìm dốc. Quả cầu không có tác dụng gì, nhưng thủy ngân chứa đựng bên trong thì có. Nó chính là thứ có thể di chuyển qua chín khúc cong bên trong lỗ đặt lẫy.

Lỗ Thịnh Nghĩa không kịp nghĩ gì thêm, lập tức cầm con dao khắc gỗ rạch vào lớp vỏ của quả cầu tìm dốc. Sau đó, ông giữ chặt quả cầu trong đôi tay to lớn, ghé sát chỗ rạch vào miệng lỗ.

Lại một cây bao đồng bật gốc đổ ào xuống, một cành cây rất lớn đã quật trúng đùi Lỗ Thịnh Nghĩa. Ông rú lên một tiếng thê thảm, nhưng bàn tay đang giữ quả cầu vẫn không hề rung động, dòng thủy ngân đã được đổ gọn gàng vào trong lỗ.

Cuối cùng, tường đoạn long đã được kéo lên. Nửa thân trên của Lỗ Thịnh Nghĩa cũng đổ vật xuống đất, chìm khuất hẳn dưới đám cành lá rậm rạp của cây bao đồng cổ thụ.

Bầy quỹ nước ào ào kéo theo ngôi mộ tiến về phía trước, đám chạch rồng xúm xít bám theo sau, chúng di chuyển về phía vực nước tối đen với tốc độ cực nhanh. Lỗ Thiên Liễu đứng trên ngôi mộ, chỉ một lát sau đã nghe thấy tiếng nước chảy phía trên đầu, và cũng đã ngửi thấy một thứ mùi sống động. Cô lập tức dậm mạnh hai chân, nhanh chóng bơi lên phía trên.

Khi Lỗ Thiên Liễu ngoi lên khỏi mặt nước, sắc trời đã lờ mờ tối. Trước mặt cô, khu vườn đã biến mất hoàn toàn, chỉ còn thấy một dòng nước xanh đen đang chảy qua những đống đổ nát.

Ở phía xa xa, chỉ còn lại nửa khối giả sơn trơ trọi bên trên mặt nước. Trên đỉnh giả sơn là một ngôi đình nhỏ, mái ngói đã biến mất, chỉ còn lại cây cột đình xiêu vẹo. Cùng đứng đó với cây cột còn có hai người, hai người đang ôm chặt lấy nhau, tựa như không thể chia lìa.

Mặc dù trời đã sẩm tối, nhưng Lỗ Thiên Liễu vẫn có thể nhận ra, một trong hai người đó chính là ông Lục. Cô cất tiếng gọi, nhưng ông Lục không hề nhúc nhích.

Một con thuyền nhỏ đang xuôi theo dòng nước đến gần. Lỗ Thiên Liễu nhận ra người chèo thuyền là Ngũ Lang, liền lập tức bơi lại gần, bám lấy mép thuyền rồi tung người lên trên. Trong khoang thuyền đã đốt sẵn một lò than, Lỗ Ân nửa thân trên để trần, phơi ra vô số vết thương đẫm máu, đang ngồi cạnh bếp lò run lập cập.

Lỗ Thiên Liễu vừa lên thuyền, lập tức cảm thấy lạnh buốt thấu xương. Nhưng cô không vội bước vào trong khoang, cũng không nói tiếng nào, chỉ hít lấy hai hơi thật sâu, hơi thở ngưng tụ thành một làn sương trắng mờ trước mũi. Các giác quan dị thường của cô lại bắt đầu đi vào cảnh giới thoát phàm.

Hai người trên ngôi đình đã không còn hơi thở. Hai hàng nước mắt chảy dài trên khuôn mặt Lỗ Thiên Liễu, cô âm thầm đem hình bóng ông Lục khắc sâu vào ký ức.

Tiếng rên rỉ vang lên khắp nơi trong những đống đổ nát, mặc dù chìm lẫn trong âm thanh sạt lở và tiếng nước phun trào xối xả, rất khó nhận ra, nhưng Lỗ Thiên Liễu không hề bỏ sót một vị trí nào.

Tiếng rên vọng ra bên dưới tán lá lòa xòa của một cây bao đồng đổ gục phía trước nghe rất đỗi quen thuộc, chắc chắn là tiếng của cha cô. Lỗ Thiên Liễu vội vã nhún mình nhảy vụt lên đống đổ nát, lật tung đám cành lá. Ngũ Lang đang đứng trên thuyền cũng lập tức cắm sào dừng lại, tung mình nhảy lên.

Cành cây cào xước khắp cơ thể khiến Lỗ Thịnh Nghĩa toàn thân máu thịt chan hòa, nghiêm trọng nhất là phần đùi đã bị một cành cây lớn đè ngang, không thể cử động.

Ngũ Lang chặt đứt cành cây, rồi nhanh chóng cõng Lỗ Thịnh Nghĩa lên thuyền, đưa vào trong khoang.

Con thuyền tiếp tục trôi theo dòng nước. Lỗ Thịnh Nghĩa vẫn nằm hôn mê bên cạnh Lỗ Ân, trông chẳng khác nào đã chết. Lỗ Thiên Liễu thử kiểm tra hơi thở của ông, thấy ông vẫn thở đều, trái tim đang muốn treo ngược của cô mới yên tâm chút ít.

Thoáng chốc, con thuyền đã ra đến sông Sơn Đường, rồi đi thẳng ra phía ngoài thành Cô Tô.

Bấy giờ mới nghe phía xa văng vẳng có tiếng người hô hoán. Đó là những dân cư chòm xóm xung quanh đang gọi nhau đến cứu người.

Bên cạnh một vũng nước trong đám gạch đá tan hoang, có một pho tượng ly miêu bằng đá đổ nghiêng ngửa đầu nhìn trời, tựa như đang mải miết suy tư(*).

(*) Pho tượng ly miêu này đến nay vẫn được bảo tồn ơ bảo tàng Tô Châu.

Trong lúc khu vườn sạt lở, ngôi mộ di động đã bị gạch đá va phải, khiến gõ ngọc trên mộ lung lay bong tróc mà nổi dần lên trên mặt nước. Về sau, ngôi mộ dạt vào bên một bờ sông ở Ngô Huyện, được người dân phát hiện ra, đưa về an táng tại một sườn núi nhỏ phía sau am Hoàng Giá trên núi Khung Long.

Ngày hôm đó, trong “Cô Tô thành chí”(*) có chép rằng: “Một nhánh của sông Sơn Đường đột nhiên phun ra dòng nước quái lạ, mặt đất nứt vỡ ngở rằng nước ngầm dưới lòng đất trào lên. Phá hủy một khu vườn lớn và vô số nhà cửa xung quanh”.

(*) Một bộ sách ghi chép lại các sự kiện quan trọng từ cổ chí kim của Tô Châu, tương truyền có tổng cộng hơn năm mươi cuốn, vốn được lưu giữ tại đền Tử Tư trong Tư Môn. Trong kháng chiến chống Nhật, đền Tử Tư bị máy bay Nhật oanh tạc bốc cháy, cả bộ sách đều bị thiêu hủy.

Nhân lúc trời tối, một lá thuyền con lao ra mặt nước Thái Hồ, đi thẳng về hướng Vô Tích.

Lỗ Thịnh Nghĩa không hề tỉnh lại một lần. Ngũ Lang thay cho ông bộ quần áo khô ráo, Lỗ Ân giúp ông cố định những chỗ xương gãy, nhưng ông cũng không có phản ứng gì.

Lỗ Thiên Liễu ngồi trước mũi thuyền, cô đã thay một bộ quần áo bông màu huyết dụ. Gió đêm thổi từng cơn buốt giá, nhưng cô không hề cảm thấy lạnh, có lẽ là do đã phải ngâm mình trong nước lạnh giá quá lâu. Thậm chí cô còn cảm thấy nóng ran trên hai má.

Trên tay cô đang giữ chiếc hộp ngọc lấy ra từ trên nắp mộ. Cô không biết đây có phải là thứ mà cha cô đang tìm kiếm hay không, cũng không biết nó có tác dụng gì. Nhưng cảm giác trơn tru ấm áp từ hộp ngọc lan tỏa trên lòng bàn tay khiến cô cảm thấy vô cùng dễ chịu.

Có người đang len lén nhìn chiếc hộp ngọc trong tay cô. Không phải chỉ có một người. Ba giác mẫn cảm dị thường của cô đã cảm nhận được điều đó. Những ánh nhìn lén lút khiến cô cảm thấy hết sức nhột nhạt.

Họ đang ở trong khu vực Thập Bát Vịnh của Thái Hồ. Trong màn đêm đen đặc, đã thấy bóng núi Long Sơn thấp thoáng ven bờ. Sắp đến nhà rồi, chỉ đi thêm chút nữa là tới địa giới Dương Sơn.

Đột nhiên, trước mặt vọng đến một tiếng huýt gió chói tai, từ trong đám lau sậy khô héo nhô ra một ngư thuyền nhỏ, lao thẳng đến trước mũi thuyền của họ.

Gần như cùng lúc đó, từ mé bên cạnh, một con thuyền lớn hơn vụt ra từ trong sương mù, lừ lừ tiến thẳng về phía mạn thuyền.

Lỗ Thiên Liễu lập tức đứng bật dậy, từ cô toát lên một vẻ trấn tĩnh khác thường chỉ có ở những người vừa thoát ra khỏi một trường ác chiến sinh tử tấc gang.

Nhưng lại một tiếng huýt gió nữa đã khiến tim cô thắt lại. Tiếng huýt gió quá gần, ở ngay trên chiếc thuyền, ở ngay sát sau lưng…
 
Quyển 3 - Chương 1: Như tỉnh mộng


Cách phía tây thành Bắc Bình chừng hai trăm dặm, có một sơn cốc nguyên sinh vô cùng thần bí: khe Long Môn. Nơi này núi bao ba mặt, địa thế hiểm yếu khác thường, xưa kia vẫn luôn là nơi tranh chấp kịch liệt của binh gia. Ngày nay, nơi đó gần như không dấu chân người. Dân địa phương đồn rằng, sâu trong sơn cốc có một ngọn núi lửa phun, là nơi ẩn chứa Kim bảo, một trong tám bảo vật của trời.Thế nhưng, trong sơn cốc nguyên sơ muôn đời u tịch kia, kỳ thực lại ẩn tàng vô số cơ quan cạm bẫy mà Lỗ Ban và hậu duệ của ông đã thiết lập nên. Chúng hòa thành một thể với núi non cây cối, mỗi một cơ quan đều xứng danh khéo đoạt hóa công, hung hiểm dị thường… Lỗ Nhất Khí và những người đi cùng đang đi sâu vào khe núi thâm u tuyết phủ, mà hoàn toàn không biết được rằng, con đường phía trước mới thực sự là thiên la địa võng, đã bước chân vào là không thể trở ra…

Mây thiết ưng - Cỗ máy mây đen tàn sátTuy thiết ưng đã bị chém vỡ toác đầu, song vẫn không thể ngăn chặn được nó tiếp tục tấn công. Nó là một cỗ máy, nên chỉ bị hỏng chứ không thể chết. Thế là sau khi lui lại hơn một trượng, đám mây ô sao lập tức tiếp tục đợt tấn công thứ hai, song khác ở chỗ con dẫn đầu đã không phải là con thiết ưng bị chém toác đầu khi nãy, mà là ba con thiết ưng. Vào lúc con thiết ưng vỡ đầu nhào xuống, thì hai con thiết ưng ở ngay sau nó đã lao vụt lên, đâm sầm vào từ hai bên trái phải, chớp mắt đã hợp thành một con chim ưng to lớn hơn nhiều. Con thiết ưng mới được tổ hợp có sáu bàn chân mang vuốt sắt, và có thêm một đôi cánh lủng lẳng phía dưới bụng, tất cả đều sắc bén vô cùng.

Lão Mạc đã không còn đủ thời gian để khép lại cái miệng đang há ra vì kinh ngạc, vội vã vung tay xoay kiếm, dồn hết sức lực nhắm thẳng vào tổ hợp thiết Ưng khổng lồ đang lao đến.

Một con thuyền mui đen vội vã băng ra Thái Hồ, chỉ còn vẳng lại tiếng nước vỗ mạn thuyền oàm oạp khuất sau đám lau sậy dập dờn.

Bỗng vang lên một tiếng huýt sáo chói tai, rồi từ trong màn sương mù dày dặc phía trước bất chợt nhô ra hai con thuyền đánh cá. Cùng lúc đó, trên chính con thuyền mui đen cũng bật lên một tiếng huýt lanh lảnh đáp lời.

Tiếng huýt sáo vang lên ngay sát sau lưng khiến Lỗ Thiên Liễu chết sững. Hai con thuyền đánh cá vừa xuất hiện mang theo sát khí chết chóc và áp lực vô hình lừ lừ ập lại gần.

Khi ba con thuyền sắp đâm sầm vào nhau đến nơi, chúng chợt khựng cả lại, sau đó đều xoay mạnh sang một bên.

Những người chèo thuyền đều thuộc hàng cao thủ, cả ba con thuyền cùng dừng lại bất động ở một vị trí chỉ cách nhau chưa đầy một thước, đấu đầu đuôi với nhau thành một hình dích dắc, con thuyền của Lỗ gia bị chắn ở giữa bởi một đầu thuyền và một đuôi thuyền.

Trên con thuyền đánh cá lớn hơn đang đứng sừng sững một gã to béo vạm vỡ, nước da đen đúa, nét mặt lầm lì, nhìn chằm chằm vào hộp ngọc trên tay Lỗ Thiên Liễu, con mắt loé ra những tia sáng rực lửa.

Lỗ Thiên Liễu tay trái giữ chặt hộp ngọc, tay phải rũ Phi nhứ bạc ra khỏi tay áo. Gã béo đen xem ra rất đáng gờm, Lỗ Thiên Liễu đã cảm nhận được tầng tầng sát khí ngùn ngụt bốc lên quanh gã, luồng sát khí như một bức tường đè ập lên cơ thể cô, khiến cô ngộp thở. Thế nhưng điều đáng sợ hơn cả lại không phải là gã cao thủ trước mặt, mà là kẻ vừa huýt sáo đáp trả khi nãy. Kẻ đó đang ở đuôi thuyền, đang ở ngay sát phía sau cô.

- Đưa đây!

Gã béo đen vừa giơ cánh tay về phía Lỗ Thiên Liễu, vừa gằn ra hai chữ từ trong cổ họng.

- Không dược!

Hai giọng nói vang lên cùng một lúc, một giọng nói phát ra từ phía con thuyền nhỏ vừa tới cản đường; giọng nói còn lại Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra, là tiếng của Lỗ Ân.

Lời còn chưa dứt, Lỗ Ân đã từ đuôi thuyền vọt lên đầu thuyền, xoay ngang đao đứng chắn trước mặt Lỗ Thiên Liễu.

Đứng trên con thuyền nhỏ vừa nhô ra từ trong đám lau sậy là một lão già đỉnh đầu trọc lóc, cơ thể tráng kiện, tuổi chừng ngoài năm chục. Tiếng huýt sáo khi con thuyền vừa rẽ lau xuất hiện chính là của lão. Hai tiếng “không được” bật ra từ miệng lão cũng chói tai không kém gì tiếng huýt sáo vừa rồi. Lời vừa phát ra, lão đã lập tức tung người nhảy lên con thuyền của Lỗ gia.

Một ánh chớp sáng trắng loé lên, chính là đao quang đang xoay tròn trong tay Ngũ Lang. Đao quang vụt đến chặn mất điểm đặt chân của lão hói, lão đành phải vội vã ép người rơi ngay xuống, khi sắp chạm mặt nước, lão bèn tung mũi chân đá vào mạn thuyền của Lỗ gia, mượn lực để bật ngược trở về con thuyền của lão.

Trước cú đạp của lão hói, con thuyền của Lỗ gia lập tức chòng chành nghiêng ngả. Song đao quang vẫn xoay tròn trong tay Ngũ Lang hết sức vững vàng, không hề loạng choạng, còn tiếp tục đi thêm hai vòng nữa mới dừng lại.

Lão hói hơi ngạc nhiên, cảm thấy trụ lực từ thắt lưng tới đùi chân của người này quả thực không phải tầm thường. Song lão không vì thế mà từ bỏ, vì mục tiêu của lão đang ở trên con thuyền của Lỗ gia. Sứ mệnh của lão trong đêm nay chính là chặn đứng tất cả những người vừa chạy ra khỏi vườn Cô Tô, tuyệt đối không để cho bí mật trong vườn bị tiết lộ ra ngoài.

Con thuyền sau một hồi chòng chành đã thăng bằng trở lại. Ngũ Lang không đợi lão hói kịp có bất kỳ hành động nào, đã lập tức xoay tròn cây phác đao quét thành một cơn lốc trắng cuồn cuộn xông thẳng về phía lão hói. Lão hói đang lao về phía con thuyền của Lỗ gia, thấy đao phong quét tới, vội nghiêng người lùi lại tránh được. Nhưng lão còn chưa kịp đứng thẳng, thì nhát đao thứ hai đã vùn vụt cuốn tới, đao phong càng thêm dữ dội, tốc độ càng thêm đáng sợ hơn nữa, lão hói đành phải tiếp tục thoái lui.

Nhưng khi vòng đao thứ ba vụt tới, lão hói không né tránh nữa. Trong tay lão đã xuất hiện một thanh sắt đen trùi trũi, trông giống như cây thước sắt mà trước kia sai dịch ở nha môn vẫn thường dùng.

Lưỡi đao của Ngũ Lang chém trúng cây thước sắt, vang lên một tiếng “choang” chói tai, hoa lửa bắn tung toé ngang dọc trong màn đêm đen đặc.

Đà xoay của cây đao trên tay Ngũ Lang lập tức bị chặn đứng, chỉ bởi một cây thước sắt nhỏ bé.

Ngũ Lang là kẻ liều lĩnh không biết sợ hãi, bởi vậy khi hoa lửa còn chưa kịp tắt, anh ta đã chụp lấy phần cuối của chuôi phác đao, tiếp tục một cách xoay vòng mới, phạm vi rộng hơn, lực đạo cũng lớn hơn.

Lưỡi đao lại va phải cây thước sắt, nhưng lần va chạm này khác hẳn lần trước, tiếng đao thước giao phong càng chói óc, hoa lửa bắn ra càng dày đặc, nhưng kết quả vẫn không có gì khác, cây đao của Ngũ Lang lại bị chặn dứng.

Nhưng Ngũ Lang không chịu dừng, mà thuận theo phản lực từ cây thước sắt, lập tức xoay ngược đao trở lại, song anh ta không tiếp tục tấn công, mà lại lùi liền hai bước, tới sát mạn bên kia của đuôi thuyền, hạ thấp người xuống tấn. Lúc này, cây đao trên tay anh ta đã xoay lên vùn vụt, sượt qua nóc mui thuyền lợp cỏ lau, đao phong lập tức cuốn theo vô số mảnh lau vụn nát bay tơi tả.

Đột nhiên, đao phong bỗng vụt trở ngang lao về phía trước. Ngũ Lang bước liền hai bước nhỏ, rồi tung người nhảy vọt lên, cả người lẫn đao cùng xoay tít lao về phía mũi con thuyền nhỏ, nhằm thẳng vào lão hói.

- Cẩn thận! – Lỗ Ân kêu lớn nhắc nhở.

Trận giao tranh dữ dội tại đuôi thuyền đã bắt đầu được một lúc, nhưng hai người ở đầu thuyền và gã béo đen trên ngư thuyền lớn vẫn không hề quay đầu liếc lại lấy một lần. Hai bên vẫn đứng nguyên tại chỗ nhìn trừng trừng vào đối phương, mặc cho con thuyền lắc lư chao đảo, mặc cho đao thước loảng xoảng chớp lửa tứ tung. Chỉ tới khi Ngũ Lang cả người lẫn đao lao vụt đi trong thế tấn công liều lĩnh, Lỗ Ân mới khẽ đảo mắt liếc qua mà kịp kêu lên hai tiếng.

Ngũ Lang đột ngột lao bổ tới khiến lão hói bất ngờ, song lão vẫn bình tĩnh như không, đứng trơ trơ trước mũi thuyền, không hề xê dịch. Lão đã bắt thóp được đòn thế của Ngũ Lang, lão biết rằng cú tấn công sẽ kéo gần khoảng cách giữa hai người, lão sẽ lợi dụng cơ hội này để trừ khử Ngũ Lang chóng vánh.

Cây thước sắt trên tay lão đã vung ngược lên, đánh vào đầu trên của chuôi đao. Bán kính xoay tròn tại vị trí chuôi đao nhỏ hơn mũi đao nhiều, nên sức công phá cũng sẽ yếu hơn, như vậy sẽ đảm bảo được cho đòn phản kích tiếp theo của cây thước sắt. Lão hói hiểu rõ, Ngũ Lang sức mạnh phi thường, muốn phản kích thành công, phải nhờ vào kỹ xảo.

Quả đúng như lão dự liệu, cây thước sắt đã chặn đứng được chuôi đao, sau đó thuận theo chuôi đao trượt về phía trước lao thẳng tới trước ngực Ngũ Lang. Lão không cần vận quá nhiều sức mạnh, bởi vì lực đạo chém tới của Ngũ Lang đã quá đủ. Hai luồng lực đạo giao nhau, Ngũ Lang chạy trời không khỏi chết.

Nhưng khi cây thước chạy đến đoạn cuôl cùng của chuôi đao, lão hói đột nhiên cảm thấy lực đạo tiêu biến, khí mạch buông chùng, huyết mạch trống trải…

Ngũ Lang đã tung ra chiêu cuối cùng, bật cơ quát vào đúng thời khắc then chốt nhất. Cây phác đao lập tức đứt thành ba đoạn biến thành cây côn tam khúc, lưỡi đao lập tức đổi hướng, mũi đao sắc bén lia ngang qua nửa cần cổ lão hói.

Nhưng đòn phản kích của lão hói cũng đã trúng đích. Ngũ Lang bắn ngược trở lại, rơi đánh phịch xuống sàn thuyền.

Lỗ Ân vừa kêu lên được hai tiếng “cẩn thận”, đã ngã bật về phía sau, đè sập gần nửa mui thuyền kết bằng cỏ lau.

Lão hói cũng đổ vật xuống, máu phun ra tung toé từ cần cổ. Ngũ Lang và Lỗ Ân cũng đồng thời miệng vọt máu tươi.

Gã béo đen vẫn đứng nguyên chỗ cũ, không hề xê dịch. Lỗ Thiên Liễu cũng đứng bất động trước mũi thuyền, song có điều giữa hai người họ đã thiếu mất Lỗ Ân, chỉ còn lại cây khảm đao cắm nghiêng trên sàn thuyền đang rung lên bần bật.

Trong bãi lau, một bầu im lặng chết chóc bao trùm.

Lỗ Thiên Liễu căng thẳng tột độ. Từ lúc Lỗ Ân bị đánh bật đi, cô thậm chí chưa dám thở ra.

- Đưa đây! – Vẫn là hai tiếng gằn ra từ trong họng của gã béo đen, song có vẻ đã thiếu chút tự tm.

Lỗ Thiên Liễu từ từ thở ra, rất khẽ, khẽ tới mức như là không thở.

- Nếu không đưa thì ông làm gì tôi? – Lỗ Thiên Liễu đã lên tiếng, cô cố gắng giữ hơi thở thật bình ổn, nói giọng Quan Thoại thật tròn vành rõ chữ – Có phải giống như vừa rồi không? Đề khí từ bụng lên ngực, sau đó chân trái bật lên, vung bàn tay phải quét qua mắt đối thủ, tay trái nắm hờ thành quyền rỗng đấm vào ngực dối thủ, chân trái vừa chạm đất lập tức lùi về, trở lại chỗ cũ? Còn nữa, vừa rồi khi tay trái nắm quyền, khớp xương trên ngón giữa còn kêu lên răng rắc.

Lỗ Thiên Liễu không phải là cao thủ võ lâm, những chiêu thức chớp nhoáng như bóng ma vừa rồi cô hoàn toàn không thể tránh né, song ba giác mẫn cảm dị thường của cô đã kịp ghi nhớ từng chi tiết vào trong não bộ.

Gã béo đen vẫn mặt lạnh như tiền, cơ thể im lìm không nhúc nhích. Tuy nhiên, Lỗ Thiên Liễu đã cảm nhận thấy gã đang chuyển động, cơ thể gã đang có sự thay đổi rất lớn.

- Ông đang đề khí tới thắt lưng, hai chân và vai đều đang ngầm vận lực, cần cổ đã kéo căng. Ông đang muốn đến cướp lấy món đồ, hay là muốn bỏ đi? – Khí thế của Lỗ Thiên Liễu đã chiếm được thế thượng phong.

Gã béo đen vẫn mặt không đổi sắc, nhưng trong tâm đã mười phần kinh sợ. Gã không biết mình đang phải đối mặt với một đối thủ ra sao, nhưng từ lúc bắt đầu chạm trán với cô gái này, gã không hề nghe thấy tiếng cô thở. Hơn nữa, trên người cô ta dường như có một khí tướng hết sức khác lạ, phong toả gã bằng một áp lực vô hình, khiến gã lúc càng mất tự tin. Chiêu thức “minh phàm ám miêu”(*) vốn là niềm kiêu hãnh rất mực của gã, thế mà giờ đây ngay cả đốt ngón tay khống chế chưa tốt mà kêu lên một tiếng cũng bị cô ta phát hiện ra. Vừa rồi gã không hề cử động, chỉ âm thầm vận khí vận lực, mà cô ta dã nhìn thấu không sót chỗ nào. Cô ta quả thực công lực siêu phàm, ngay cả khi đồng bọn bị tập kích vẫn thản nhiên như không, tư thế cảnh giác cao độ không hề sơ sểnh. Định lực nhường này chỉ những cao thủ thực sự mới có được, làm sao gã dám so bì.

(*) Có nghĩa là buồm rõ neo ngầm.

Bây giờ phải làm thế nào đây? Gã béo đen nhẩm tính trong lòng, cho dù mình có liều cả tính mạng cũng không thể ngăn cản được đám người này, tìm đường tháo lui vẫn là sáng suốt hơn cả…

Lỗ Thiên Liễu khép mắt lại. Cô đã nghe thấy tiếng thuyền rẽ sóng lao đi, sát khí dần dần tiêu biến, áp lực đang đè nặng trên người cô cũng đã xa dần. Khi cô mở mắt ra, con thuyền kia đã chỉ còn là một cái bóng lờ mờ chìm trong trời sương mù mịt.

Con thuyền nhỏ chui ra từ bãi sậy vẫn còn nguyên đó, không hề xê dịch, lặng phắc y như cơ thể lão hói đang vắt ngang đầu thuyền, hình như đang chờ đợi một điều gì đó.

- Đưa đây!

Hai tiếng này, giọng nói tuy quen thuộc, nhưng ngữ điệu lại xa lạ vô cùng. Lỗ Thiên Liễu không quay đầu lại. Tuy giọng nói có phần ấm ớ, có chút hụt hơi, song cô vẫn nhận ra, chính là người đó…

- Tại sao? – Dẫu rằng bản thân cô cũng cảm thấy câu hỏi đó là dư thừa, song vẫn không nhịn nổi mà bật ra tiếng hỏi.

- Ta cũng vì vạn bất đắc dĩ! Con của ta đang nằm trong tay kẻ khác. Ta cũng mong con cháu đời sau được thịnh vượng giàu sang.

- Ông chắc chắn thứ ông muốn có ở trong chiếc hộp này ư? – Lỗ Thiên Liễu lại hỏi, giọng Quan Thoại của cô nghe khí thế khác thường, tỏ rõ một phong thái lấn lướt người đối diện.

- Ta không biết, song lấy được chiếc hộp đó về, chí ít cũng coi như đã hoàn thành nhiệm vụ. Gần hai mươi năm lao tâm lao lực, cho dù không thể vinh hoa phú quý, ít ra cũng bảo toàn được tính mạng cả nhà.

- Vậy thì ông lấy đi!

- Không được!

Một giọng nói đột ngột vọng lên từ trong khoang thuyền, là giọng nói mà Lỗ Thiên Liễu vẫn luôn mong ngóng từ sau khi thoát khỏi khu vườn. Cô vội vàng quay người lại, đúng là giọng của cha rồi! Lỗ Thịnh Nghĩa vẻ như đã tỉnh dậy từ cơn hôn mê. Lỗ Ân đang bị trọng thương, vừa nghe thấy tiếng quát, thì khác nào phát hiện ra bảo bối, lập tức tung người lao về phía Lỗ Thịnh Nghĩa.

Trong màn đêm loé lên ánh sáng xanh lạnh lẽo của con dao nhỏ cán cong dài bảy tấc, đầu mũi dao đã gí sát vào cổ Lỗ Thịnh Nghĩa, máu đã bật ra. Người cầm dao chính là Lỗ Ân.

- Ta biết ngươi từ nãy đến giờ vẫn tỉnh, chiêu này của ngươi ta đã thuộc làu cả hai chục năm rồi! – Lỗ Ân mấp máy khuôn miệng đầy máu tươi, gằn giọng hằn học mà nói.

- Còn ta mãi đến hôm nay mới nhận ra bộ mặt thật của ngươi, song cũng chưa muộn! – Đối mặt với mũi dao nhọn, Lỗ Thịnh Nghĩa vẫn vô cùng điềm tĩnh.

- Trong vườn nhà họ Chu, ngươi cố tình tháo nút dây thừng của ta phải không? – Lỗ Ân hỏi.

- Khi đó tuy chưa có chứng cứ đích xác, song ta cũng đã đoán được bảy tám phần về ngươi. Giờ đây, sự thể đã chứng minh phán đoán của ta hoàn toàn chính xác! – Lỗ Thịnh Nghĩa giọng đầy đắc ý.

- Hình như ta đâu có điều gì sơ hở, ngươi dựa vào đâu mà đoán? – Lỗ Ân vẫn không cam lòng, ông ta nhất định phải hỏi cho ra nhẽ. Cũng như một tác phẩm nổi tiếng bị người ta chỉ ra khuyết điểm chết người, bất luận ra sao cũng phải tìm hiểu đến nơi đến chốn. Mà “tác phẩm” của ông ta chính là thân phận “Lỗ Ân”.

Lỗ Thịnh Nghĩa khẽ nhếch mép cười khẩy:

- Chính là cái nút thắt xỏ thừng mà ngươi đã buộc. Ngươi lúc nào cũng buộc ngược dây, cho thấy trước đây ngươi đã biết cách thắt kiểu nút thường dùng của nhà thuyền, thói quen thắt ngược không thể sửa được. Thế nhưng khi ngươi học cách thắt nút, lại cố tình ra vẻ không biết, hẳn là có ý muốn che giấu điều gì. Hơn nữa trước đó, ở trong Tạc quỷ hào, ta đã gặp đại sư phong thuỷ Định Vô Nghi, người đã dẫn ta tới nhà tuần phủ giải cứu ngươi hai mươi năm về trước. Sự xuất hiện của ông ta ở đây chính là sơ hở lớn nhất khiến thân phận của ngươi bị bại lộ.

Lỗ Thịnh Nghĩa dừng lại một lát rồi tiếp:

- Thế là rất nhiều khúc mắc đã được tháo gỡ. Bức tranh vừa mới lấy được về, ngay tối hôm đó đã có người đến cướp. Làm sao bọn chúng lại biết được nơi ẩn thân của Lỗ gia? Làm sao bọn chúng lại có thể phá giải dễ dàng các khảm diện, nút lẫy bảo vệ quanh nhà? Ngươi đến ứng cứu mà không mang theo đao, lại dùng rìu là thứ mà ngươi ít khi dùng tới. Một đao khách lão luyện tại sao lại có thể khinh suất như vậy? Hôm nay, khi vừa bước chân vào khu vườn của Chu gia, ngươi đã đi một mạch thẳng đến gác Quan Minh bên bờ ao, người đi sau xảy ra biến cố, ngươi cũng chẳng thèm đếm xỉa tới, rõ ràng là có mục đích riêng. Ở gác Quan Minh, ngươi đi qua lan can, vào phòng rồi lên lầu, không hề có một chút đề phòng cảnh giác, là vì những nơi này trước đó đã có người mở đường giúp ngươi rồi, ta nghĩ chắc hẳn là bọn Định Vô Nghi không sai. Gần đây trong giang hồ đỗn đại, Lỗ gia làm mưa làm gió ở Giang Nam, kỳ thực chính là đã ngộ nhận đám người đó là người của Lỗ gia.

Lỗ Thiên Liễu xen ngang một câu:

- Khi tôi cầm hộp ngọc ngồi ở đầu thuyền, ông cứ nhìn lén liên tục. Vẻ mặt và động tác của ông đều bộc lộ rõ dã tâm chiếm hữu.

Lỗ Thịnh Nghĩa lại nói tiếp:

- Khi ngươi cho rằng báu vật chắc chắn đã nằm trong tầm tay, ngươi đã trắng trợn huýt gió phát ám hiệu cho đồng bọn. Tới lúc này ta đã hoàn toàn tin chắc mọi suy đoán của ta đều là chính xác!

- Khi Ngữ Lang liều lĩnh xuất chiêu, ông đã kêu lên “cẩn thận”, nhưng không phải là lo cho Ngũ Lang, mà là muốn nhắc nhở đồng bọn! – Lỗ Thiên Liễu lại xen vào.

Không chỉ có một mình Lỗ Thiên Liễu muốn xen ngang, Ngũ Lang ở cuối thuyền cũng gắng gượng ngồi dậy, vẻ mặt đờ đẫn mà cất tiếng hỏi:

- Sư phụ, vậy lúc sư phụ bảo con một mình đi đóng mấy cái hũ hàn khí kia, phải chăng là muốn biến con thành vật thăm dò?

- Kỳ thực, hắn thu nạp cậu làm đồ đệ, mục đích chỉ là để che đậy thân phận được kín kẽ hơn, phân tán sự chú ý của mọi người mà thôi. Cho nên bao nhiêu đứa thông minh lanh lợi đều từ chối, lại đi chọn một người như cậu! – Lỗ Thịnh Nghĩa thay Lỗ Ân trả lời câu hỏi của Ngũ Lang.

- Ha ha! Ha ha! – Lỗ Ân cười nhạt mấy tiếng, rồi nói – Giỏi lắm! Đúng là không thể qua mặt được các ngươi! Người làm thợ quả thực tinh tế! Nhưng giờ đây, các ngươi vẫn phải giao cái hộp đó cho ta, một thứ quý giá như vậy mà để cho các ngươi thì thật lãng phí. Con ranh Liễu kia, dùng nó để đổi lấy cái mạng già cho cha ngươi dù sao cũng là đáng giá phải không?

- Vụ đổi chác này thật không hề công bằng! Tôi muốn hỏi thêm hai câu, nếu ông chịu trả lời, tôi sẽ lập tức giao cho ông! – Lỗ Thiên Liễu vẫn còn rất nhiều thắc mắc chưa hiểu rõ, nên khó mà kìm nổi nỗi tò mò đang trỗi dậy trong lòng.

- Nói đi!

- Ai cử ông tới nhà chúng tôi? Để làm gì?

- Là tuần phủ Chiết Giang triều Thanh Trương Tằng Dương! Tổ tiên của ông ta có truyền lại một bí mật, nói rằng có bảo bối sẽ có được thiên hạ. Nghe nói ông ta vốn họ Dương, sau đổi theo họ mẹ, có lẽ là muốn che giấu thân phận.

- Tổ tiên của ông ta là vị hiền tài nào? – Lỗ Thiên Liễu hỏi tiếp.

- Hình như là Dương Ứng Năng, giáo thụ của Ngô Vương, năm xưa từng phò tá Kiến Văn Đế triều Minh.

- Ô! – Lỗ Thiên Liễu và Lỗ Thịnh Nghĩa đều đã hiểu. Thì ra là vị thầy giáo của hoàng đế nhà Chu, người đã có cơ hội xem được mật văn điển tịch mà họ Chu để lại, và lĩnh ngộ được lẽ huyền vi ẩn tàng trong đó.

- Con thuyền lớn kia tại sao lại bỏ đi? – Thấy Lỗ Ân vẫn chưa có vẻ gì bực bội, Lỗ Thiên Liễu tranh thủ hỏi tiếp.

- Không biết! Con thuyền đó không cùng bọn với ta, có lẽ là trợ thủ của Chu gia.

- Thảo nào mà ông sốt sắng chạy lên phía trước tôi để bảo vệ, hoá ra là sợ bị người khác cướp mất hộp ngọc!

Lỗ Ân nghe Lỗ Thiên Liễu nói vậy, hình như chợt ý thức được điều gì, lập tức gằn giọng mà nói:

- Mau đưa cái hộp cho ta!

- Không được! – Lỗ Thịnh Nghĩa quát lên dứt khoát. Mũi dao nhọn hoắt lập tức ấn sâu vào cổ ông, nỗi đau đớn và sức ép từ mũi dao đã khiến ông không thể nói thêm lời nào nữa.

- Dừng tay! Cầm lấy! – Lỗ Thiên Liễu vung tay trái lên ném hộp ngọc đi.

Hộp ngọc vụt lên không trung, quét thành một đường vòng cung rực rỡ sắc màu, bay về phía đuôi thuyền. Nó đang hạ xuống phía sau, nên Lỗ Ân chỉ còn cách buông Lỗ Thịnh Nghĩa ra, vội vã lùi lại, giơ cao hai tay đón lấy hộp ngọc.

Lỗ Thịnh Nghĩa phản ứng vô cùng mau lẹ, song vì đôi chân không thể cử động được, nên chỉ có thể gắng sức vung mạnh cánh tay về phía mặt Lỗ Ân. Trong tay ông đang nắm chặt một ống trúc bên trong có chứa những mũi kim thép đủ loại hình thù chuyên dùng để phá lẫy tháo nút.

Tay trái của Lỗ Thiên Liễu vừa tung hộp ngọc đi, Phi nhứ bạc bên tay phải chớp mắt đã bay vụt ra như một con vật sống, đầu dây xích lập tức quấn chặt lấy khảm đao của Lỗ Ân. Cô vận chiêu “cánh tay xích” quấn chặt lấy cây khảm đao, quăng đi chém thẳng về phía Lỗ Ân

Lỗ Ân vẫn bắt được hộp ngọc. Dẫu rằng vô số kim thép đã găm chi chít trên nửa khuôn mặt, đâm mù mắt trái của ông ta; dẫu rằng mũi đao được sợi xích quăng đi đã chém xéo qua sườn trái, đâm sâu vào đùi phải của ông ta, song ông ta vẫn nắm chắc hộp ngọc không chịu buông tay. Nhưng ông ta đã mất thăng bằng, cả người đổ nghiêng về bên phải. Bên đó cũng chính là mũi thuyền của lão hói. Ông ta ngã sóng sọài bên cạnh tên đồng bọn đã chết.

Con thuyền lập tức tách khỏi thuyền của Lỗ gia, lao đi băng băng, mỗi lúc một xa.

Thuyền của Lỗ gia không đuổi theo. Ngũ Lang ngồi chết trân như khúc gỗ ở đuôi thuyền. Anh ta đang phải chịu một tổn thương quá lớn, vị sư phụ mà anh ta kính yêu không khác gì cha ruột, không ngờ chỉ là lợi dụng anh ta.

Lỗ Thịnh Nghĩa đập mạnh tay xuống sàn thuyền, vẻ đầy tuyệt vọng, mắt hằn lên những tia giận dữ nhìn theo bóng con thuyền nhỏ.

Lỗ Thiên Liễu vẫn đứng trước mũi thuyền, nét mặt bình thản như không, mắt dõi theo con thuyền nhỏ xa dần rồi mất dạng. Lúc này, bên khoé miệng cô mới lộ ra một nét cười chế nhạo. Cô quay trở vào, từ từ ngồi xuống bên cạnh Lỗ Thịnh Nghĩa, rồi nói khẽ:

- Thứ ở trong hộp con đã lấy ra rồi!

Lỗ Thịnh Nghĩa lập tức trợn tròn hai mắt, miệng hơi mở ra nhưng phản ứng của ông chỉ diễn ra trong nháy mắt. Ông lập tức ý thức được hiện tại nên làm gì.

- Mau đi thôi, xuống phía nam, không thể về nhà được nữa!

Ngũ Lang lúc này vẫn chưa hồi phục, nên đổi sang Lỗ Thiên Liễu cầm chèo. Lá thuyền con lướt đi không thực nhanh, song chỉ một lát sau đã biến mất trên mặt nước Thái Hồ đen thẳm…
 
Quyển 3 - Chương 2: Hai lão kể


Khe Long Môn vốn dĩ cách thành Bắc Bình không xa, song ba người Lỗ Nhất Khí lại đi lòng vòng về hướng nam, sau đó còn mất cả xe ngựa, nên khi họ tới được đây, trời đã sẩm tối.

Địa thế của khe Long Môn vô cùng hiểm trở, vốn là chiến trường xưa nơi Vu Khiêm từng bảo vệ kinh sư. Tương truyền vào thời cổ đại, anh em Xuy Vưu đã từng kịch chiến tại nơi đây. Chốn này đỉnh núi chót vót, đá tảng gập ghềnh, suối biếc quanh co, song giờ đang lúc đầu đông, khắp nơi đã băng phong tuyết phủ. Đặc biêt là bên trong khe Quỷ Cốc, lại càng tịch mịch hoang lương, thâm u khó đoán, tuyền là một màn tuyết phủ mảng xanh mảng trắng, toát lên vẻ kỳ bí đến rợn người.

Cách khe Quỷ Cốc không xa có một Đạo quán, vốn do Doãn Chí Bình(*) phái Toàn Chân đốc công xây dựng, do năm tháng xa xôi, giờ đây đã sạt lở tiêu điều. Bên ngoài Đạo quán đứng lố nhố hơn chục người đàn ông mặc áo chẽn màu xanh sẫm, súng đeo đạn vác, tư thế cảnh giác sẵn sàng. Người chỉ huy mình mặc áo dài, đầu đội mũ phớt, chính là phó quan Ngô, người đã từng đưa Lỗ Nhất Khí đi săn cùng.

(*) Doãn Chí Binh là đạo sĩ nổi tiếng của phái Toàn Chân, sống vào đầu đời Nguyên. Nguyên quán ở Thương Châu, Hà Bắc, đến đời Tống di cư tới Lai Châu (nay là huyện Dịch, Sơn Đông), sinh vào năm Đại Định thứ 9 nhà Kim (năm 1169). Khi Khâu Xử Cơ qua đời, để lại di mệnh cho ông làm người kế nghiệp, trở thành vị chưởng giáo tông sư đời thứ 6 của đạo Toàn Chân.

Lỗ Nhất Khí đã chạm mặt nhóm người này ở trấn Môn Đầu. Sở dĩ chú Tư bảo cậu đi về phía tây, chính là vì ở đây đã có nhóm phó quan Ngô tiếp ứng. Lỗ gia hiện đang thế đơn lực mỏng, nếu muốn hoàn thành đại sự, nhất định phải cần đến người ngoài trợ giúp. Chú Tư sực nhớ tới phó quan Ngô, vốn say mê đồ cổ như điếu đổ, nên đã bảo với ông ta rằng, cậu cháu của mình đang dẫn người đi khai quật một kho tàng bí mật có niên đại hơn hai nghìn năm để tìm mấy món đồ quý giá, song đã có kẻ phát hiện được hành tung, muốn tới tranh cướp. Nếu phó quan Ngô có thể điều vài người tới bảo vệ, thì sau khi mở được kho báu, cậu cháu sẽ chỉ lấy một vài món đồ mình cần, còn lại giao hết cho ông ta xử lý.

Một kho báu có niên đại hơn hai nghìn năm! Khoan chưa nói tới những thứ cất giấu bên trong, mà ngay bản thân kho báu đã chính là một bảo bối vô giá! Chuyên béo bở như vậy phó quan Ngô sao có thể bỏ qua. Không những thế, ông ta còn cảm kích chú Tư vô vàn, hết vỗ ngực lại hứa hẹn, thề lên thề xuống sẽ bảo vệ Lỗ Nhất Khí hành trình thông thuận.

Những người mặc áo chẽn màu xanh đều thuộc đội cảnh vệ dưới quyền phó quan Ngô. Phó quan Ngô đã thực thà kể hết với họ, kết quả là cả bọn chẳng ai cầm lòng cho đặng trước một cơ hội làm giàu cho cả mấy đời, nên lũ lượt thay thường phục, mang súng đạn theo phó quan Ngô lặng lẽ lẻn khỏi phủ đại soái.

Trời đã tối mịt, mưa tuyết vừa ngưng, đường đất vô cùng khó đi. Trong hoàn cảnh này, rất dễ bị đối phương tập kích, bởi vậy Lỗ Nhất Khí quyết định tìm chỗ nghỉ ngơi, đợi trời sáng mới đi tiếp. Lỗ Nhất Khí không biết rằng ở đây có ngôi Đạo quán, là lão già mặt đỏ hồi nãy đuổi theo đồng hành với họ đã đưa họ tới nơi đây.

Khu vực này cả Lỗ Nhất Khí, lão mù và Quỷ Nhãn Tam đều không thông thạo, bởi vậy chỉ có thể đi theo lão mặt đỏ. Họ sẵn sàng đi theo lão ta còn vì một nguyên nhân khác, nếu suy đoán từ sự việc vừa mới xảy ra, hẳn là gã cao gầy bắn nỏ đã bị trấn áp trước khí thế của lão ta. Lão già này là cao thủ, một cao thủ công lực khó lường, nhìn vào làn khí tướng linh động ngời ngời toả ra quanh lão đã có thể đoán được, Lão muốn giết Lỗ Nhất Khí còn dễ dàng hơn trở bàn tay, việc gì phải mất công lừa họ đến nơi khác để dàn mưu bày kế cho nhọc sức?

Chính điện của Đạo quán trống trơn thông thống ngay đến một pho tượng cũng không có, chỉ có độc một chiếc bàn thờ kê sát tường, trên tường treo bức chân dung Tam Thanh(*).

(*) Tam Thanh tức là Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Thái Thanh, là ba vị thần tiên tối cao trong thiên giới của Đạo giáo; đồng thời, cũng chính là tên gọi chung của Đạo giáo đối với Nguyên Thuỷ Thái Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn, Đạo Đức Thiên Tôn trong Đạo giáo.

Lúc này, trên ba tấm đệm cói cũ kỹ rách nát trước bàn thờ, có ba người đang ngồi xếp bằng, đó là Lỗ Nhất Khí, lão già mặt đỏ và một vị đạo sĩ già. Vị đạo sĩ già chính là quán chủ ở đây, ông ta đang nhìn hai người một già một trẻ ngồi trước mặt mình với ánh mắt vô cùng kinh ngạc.

Lỗ Nhất Khí đang ngồi xếp bằng, tư thái còn đoan chính chuẩn mực hơn cả vị đạo trưởng một đời tu luyện kia, đích xác là ngũ tâm vấn thiên, tam mạch hội lưu. Nghe nói cậu thanh niên trẻ tuổi kia đến từ Ban môn họ Lỗ, điều đó khiến lão đạo trưởng hết sức tò mò. Nói tới Ban môn, ông ta có biết sơ qua, đó là hậu duệ của tổ sư nghề mộc. Song công pháp của họ dường như không liên quan gì tới Đạo giáo, tại sao lại có thể sinh ra một chàng trẻ tuổi có đạo cốt phi phàm đến vậy?

Tư thế ngồi của lão già mặt đỏ có phần tuỳ tiện, trong Phật môn, thế ngồi này được gọi là “La Hán tu”. Thế nhưng lão lại không phải là người trong Phật môn, cứ nhìn vào đám râu tóc bù xù và những vết dầu mỡ dính đầy trên y phục của lão ta là biết.

Lỗ Nhất Khí khẽ nhắm hờ đôi mắt. Tuy cậu ngồi trong tư thế đúng kiểu Đạo gia, song lại không hề mang tâm cảnh của Đạo gia, mà đang âm thầm đánh giá về hai kẻ đang ngồi trước mặt.

Vị đạo trưởng trông rất đỗi bình thường, không có gì khác so với những đạo trưởng mà cậu từng gặp ở núi Thiên Giám thuở nhỏ. Còn lão già mặt đỏ lại hoàn toàn không phải một lão già bình thường, trong cảm giác của Lỗ Nhất Khí, thanh kiếm phía sau lưng lão ta chẳng khác gì một vật sống, với hào quang xanh biếc lớp lớp lan toả. Làn khí màu xanh mà đám Lỗ Nhất Khí nhìn thấy trên cánh đồng tuyết phủ chính là ánh hào quang toả ra từ thanh kiếm. Thanh kiếm là một bảo bối, một bảo bối cổ xưa sắc bén dị thường. Bởi vậy, người chế ngự được nó chắc chắn không phải là một kẻ tầm thường, đó là một cao thủ mà gã bắn nỏ cao gầy không thể địch nổi. Lỗ Nhất Khí thực tâm hy vọng vị cao thủ này là bạn chứ không phải là thù.

Lão già mặt đỏ bỗng cười khẽ một tiếng phá tan bầu không khí tĩnh lặng:

- Ba người chúng ta đều không thể nhập định, chi bằng nói chuyện là hơn. Huống chi mục đích chuyến đi lần này của tôi cũng chính là để nói ra sự việc. Tôi nói, ông cũng phải nói! – Lão nói rồi chỉ tay vào đạo trưởng.

- Còn tôi nghe!

Lỗ Nhất Khí cảm thấy mình chỉ có thể ngồi nghe mà thôi. Những điều cậu biết quá ít ỏi, có lẽ không có chuyện gì gợi được cảm hứng của hai người kia. Thứ duy nhất mà họ có hứng thú có lẽ chính là “Cơ xảo tập” ở trong ngực áo cậu, song cậu không thể nói ra.

Lão già mặt đỏ nghe cậu nói vậy, bèn gật gật đầu mà cười.

- Tôi phải nói ư? Tôi biết nói gì? – Đạo trưởng cũng cười. Căn miếu vắng vẻ của ông ta hiếm khi có người ghé đến, những nhân sĩ kỳ dị như hai người này lại càng hiếm hoi.

- Thì nói về chuyện phái Toàn Chân các ông khai quật Thổ bảo đi! – Lão già mặt đỏ vẫn giữ vẻ tươi cười, ngữ điệu không hề thay đối, song câu nói vừa rồi khác nào một tràng đạn nổ trong tai đạo trưởng và Lỗ Nhất Khí. Đôi mắt đang khép hờ của Lỗ Nhất Khí bỗng mở choàng, đôi môi đang mím chặt cũng hé ra, vẻ kinh ngạc lộ rõ trên nét mặt. Còn lão đạo trưởng, những nếp nhăn chằng chịt khắp mặt mày chốc lát đã xô nhau tụm về giữa mặt, vẻ khổ sở xen lẫn âu sầu.

Đạo trưởng ngồi đờ ra một hồi lâu, hết nhìn lão già mặt đỏ, lại liếc nhìn Lỗ Nhất Khí. Ông ta đã cảm nhận thấy làn khí tướng hồn hậu đoan chính rất mực phảng phất toả ra từ hai người họ. Đặc biệt là cậu trai trẻ, tư thái và khí thế của cậu ta thực khiến người khác phải ngưỡng mộ. Đương nhiên, những điều này phải là bậc đạo hạnh cao thâm như ông mới có thể cảm nhận thấy. Ông nghĩ thầm, cuối cùng thì mình cũng chờ được đến ngày để bộc bạch điều cơ mật. Thế nhưng hai người đang ngồi trước mặt ông kia rốt cục là thần thánh phương nào?

- Trong hai vị ai là chủ nhân thực sự của Thổ bảo? – Vị đạo trưởng không nén nổi tò mò hỏi.

- Là tôi! Thế nhưng cậu ta cần được biết hơn tôi, bởi vì từ hôm nay trở đi, tôi sẽ nhường lại tư cách chủ nhân cho cậu ta! – Lão mặt đỏ vừa cười vừa chỉ tay về phía Lỗ Nhất Khí.

Nghe đoạn đối thoại giữa lão mặt đỏ và đạo trưởng, Lỗ Nhất Khí ngơ ngác không hiểu, cậu chỉ muốn nhanh chóng đi thẳng vào chủ đề Thổ bảo. Bởi lẽ theo những ghi chép trong phần “Thiên cơ” của “Cơ xảo tập” thì Thổ bảo được chôn giấu ở phía chính bắc, là bảo bối cách đây gần nhất.

- Tôn giá đây là truyền nhân của Mặc môn ư? – Đạo trưởng dường như khó khăn lắm mới thoát ra khỏi cảm giác khổ sở và bất lực, hỏi khẽ một câu.

- Đúng vậy!

Lão mặt đỏ vừa đáp lời, Lỗ Nhất Khí lập tức giật mình kinh ngạc, bụng dưới thót căng, toàn thân vô thức vận kình, một luồng khí cuộn lên xoay vòng hai lượt quanh ngực bụng, rồi vọt ra ngoài qua bách khiếu trên tứ chi.

Khi sa vào quỷ khảm trong tứ hợp viện Bắc Bình, Lỗ Nhất Khí đã biết, kỹ nghệ của phe đối thủ xuất phát từ bậc “luận quỷ đệ nhất” Mặc Địch, bởi lẽ áng văn “Minh quỷ” của Mặc Tử chính là trước tác đầu tiên hệ thống nhất bàn về ma quỷ còn được bảo tồn tới ngày nay. Hơn nữa, trong giấc mộng khi ở trong căn nhà tổ, cậu cũng nhìn thấy Mặc Địch và tổ sư Lỗ Ban của gia tộc mình, giữa hai dòng họ chắc chắn có mối quan hệ vô cùng mật thiết, song không hiểu vì sao lại trở thành thù địch. Giờ đây, cậu đang ngồi đối diện với cao thủ truyền nhân của kẻ thù, tại sao lại không căng thẳng cho được?

Lão mặt đỏ và đạo trưởng đều kinh ngạc ngoảnh nhìn Lỗ Nhất Khí, bởi lẽ trong lúc căng thẳng và phòng bị một cách vô thức, xung quanh cơ thể cậu bỗng nhiên khí toả như mây, hào quang rực rỡ, trông chẳng khác gì tiên nhân hạ phàm.

Lão mặt đỏ nhìn dáng điệu của Lỗ Nhất Khí, có vẻ như đã nhận ra điều gì nên vội hỏi:

- Các trưởng bối trong nhà cậu vẫn chưa nói cho cậu biết địch thủ của cậu là ai ư?

Lỗ Nhất Khí lắc đầu. Lão mặt đỏ liền thở ra một hơi, vẻ mặt lại tươi cười như cũ:

- Vậy thì hãy để bọn ta nói cho cậu nghe, bọn ta sẽ cho cậu biết những điều mà các trưởng bối của cậu vẫn chưa kịp kể. Đạo trưởng, xin hãy tiếp tục! – Giọng nói của lão mặt đỏ lại trở nên ung dung thong thả.

- Thảo nào còn trẻ tuổi như vậy đã đảm đương được vị trí chủ nhân. Xem ra hôm nay ta thực sự đã tìm được đúng người để thuật lại sự tình. Nhưng ông là Nam Mặc hay Bắc Mặc? – Trong lời lẽ của vị đạo trưởng vẫn không giấu nổi vẻ kinh ngạc.

- Ha ha! Đáng lẽ ông nên hỏi tôi là người họ Mặc hay họ Chu mới phải chứ! – Lão mặt đỏ cười thành tiếng mà nói – Đạo phái Toàn Chân các ông đọc “Nam hoa kinh” mà biết được Mặc gia phân thành hai phái Bắc và Nam, nhưng kỳ thực chính là từ trong Mặc gia phân ra một chi nhánh là Chu môn. Người đời thường nói “gần Chu thì đỏ, gần Mặc thì đen”(*), ý nghĩa thực sự của câu này có nghĩa là Chu môn dựa vào bảo bối để sát phạt, những mong thống trị thiên hạ; còn Mặc gia lại yêu cầu đệ tử phải dưỡng tâm tĩnh khí, ẩn thân nơi sơn dã ruộng đồng.

(*) “Chu” nguyên nghĩa là son, “Mặc” nguyên nghĩa là mực, câu thành ngữ này cùng tương tự với câu “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

- Ồ, hoá ra là thế! Những hiểu biết của chúng tôi về Mặc gia đa phần là nghe giang hồ đồn đại, thất thiệt khó tránh. Còn chuyện Mặc môn phân Nam Bắc, đúng là chúng tôi đã phán đoán dựa vào “Nam hoa kinh“, trong sách quả thực có viết phân thành hai phái! – Xem chừng những lời giải thích của lão mặt đỏ vẫn chưa đủ để xoá tan nỗi hoài nghi trong lòng đạo trưởng. Âu cũng là đương nhiên, chỉ qua vài câu nói, bảo một người gần hết cuộc đời tu đạo như ông ta phủ định kinh điển chí thánh trong Đạo giáo là điều không thể.

- Chuyện này tôi sẽ giải thích sau. Giờ đạo trưởng hãy thuật lại chuyện Đạo gia của các vị trước đã. Đạo gia trước dây hai phái Bắc Nam cùng hưng vượng, chỉ có điều sự hưng vượng của phái Bắc Toàn Chân có mối quan hệ mật thiết với Thổ bảo, chúng tôi đang rất muốn được biết chuyện này.

Vị đạo trưởng nhăn tít đôi mày, nói:

- Ồ, biết nói thế nào đây? Đạo giáo từ thời Tống Nguyên đã bắt đầu hưng vượng, phái Nam là phái Long Hổ Thiên Sư, phái Bắc là phái Toàn Chân chúng tôi. Vào lúc phái Bắc hưng thịnh nhất, đã xuất hiện tổ sư Khâu Xử Cơ, ông từng dẫn theo mười tám đệ tử ngược lên phương bắc truyền đạo, được Thành Cát Tư Hãn trọng dụng phong làm Quốc sư. Sau đó Thành Cát Tư Hãn càn quét Trung Nguyên, công chiếm vô số lãnh thổ trên khắp đại lục Âu Á, tất cả những sự kiện này đều có mối liên quan mật thiết với mục đích bắc tiến của Khâu tổ sư. Trong môn phái của tôi, bí mật này chỉ được phép khẩu truyền qua các đời chưởng giáo, nên ít nhiều cũng có rò rỉ và thất thoát. Đến đời của tôi, còn sót lại chẳng là bao, song vẫn không thể tuỳ tiện nói cho người ngoài biết.

Năm xưa khi Doãn tổ sư xây đạo quán này đã để lại lời dặn rằng, phải đời đời kế tục, chờ đợi ở đây, đợi đến khi chủ nhân của Thổ bảo xuất hiện, hãy kể lại với người đó nguyên uỷ của sự việc. Hôm nay các vị đã tìm đến được đây, tôi cũng không giấu nữa. Năm xưa khi sư phụ truyền lại bí mật cho tôi, có nói rằng Khâu tổ sư từng dày công nghiên cứu “Nam hoa kinh“, cảm thấy hết sức tò mò với một nhân vật được nhắc tới trong kinh điển, nên đã tìm khắp trong điển tịch văn chương, những muốn tìm ra chân tướng, cuối cùng đã tìm ra hậu duệ của người đó mà kết giao bằng hữu. May sao, sau khi tìm tòi nghiền ngẫm trong gia huấn mà hậu duệ của người đó vẫn bảo tồn, mới phát giác được nơi cất giấu Thổ bảo. Bởi vậy mới dẫn theo đệ tử ngược lên phương bắc, mục đích là đi tìm Thổ bảo.

Thế nhưng hơn chục người bọn họ đã không thể đủ sức để phá giải công trình kiến trúc cất giấu bảo bối của tiền bối cao nhân, may được Thành Cát Tư Hãn phái người trợ giúp. Để phá được các luỹ đất được bố cục theo sáu mươi tư đường tinh đạo có các hào ngầm nối liền, đã tử thương hơn ba nghìn dũng sĩ Mông cổ, cuối cùng cũng đã tìm ra điểm thực, khai quật được bảo bối. Nghe nói sau này huyệt mộ của Thành Cát Tư Hãn cũng được xây dựng phỏng theo kiểu luỹ đất với bố cục sáu mươi tư đường tinh đạo như vậy. Sau khi lấy được bảo bối, Thành Cát Tư Hãn đã xây đài thờ cúng Thổ bảo, nhờ vào phúc trạch của Thổ bảo mà động đao binh tung hoành thiên hạ, cướp đoạt lãnh thổ vạn ức.

- Vậy sau đó Thổ bảo đã đi đâu? – Tuy Lỗ Nhất Khí đang rất nóng lòng muốn biết sự thực, song giọng nói của cậu vẫn rất mực điềm nhiên, tựa như tiếng rủ rỉ trong giấc ngủ.

Nghe cậu hỏi, lão đạo trưởng đã lập tức đáp lời:

- Sau đó, dị tộc Nguyên Mông quá đỗi ngang ngược bạo tàn, khiến Khâu tổ sư trong lòng hối hận, nhưng lại không thể trực tiếp đối đầu với Thành Cát Tư Hãn, bởi vậy đã âm thầm ra đi, trở về phái Toàn Chân, sau đó phái đệ tử tìm cơ hội trộm lại Thổ bảo. Để bảo vệ cho sự bình yên của Trung Nguyên, họ đã chôn báu vật này ở vị trí trung tâm của lãnh thổ Trung Nguyên, nghe nói là trong một địa cung ở phía bắc Hàm Dương thời cổ.

- Trời! Di chuyển vị trí Thổ bảo? Hậu quả sẽ rất khó lường! – Lỗ Nhất Khí kinh hãi kêu lên, nỗi kinh sợ trong lòng càng khiến luồng khí quanh người cậu bừng bừng như sóng. Có lẽ là do khí tướng của Lỗ Nhất Khí, cũng có lẽ là do câu nói vừa rồi của cậu, đã khiến vị đạo trưởng kinh ngạc đến há hốc miệng, còn lão mặt đỏ lại càng cười híp cả mắt.

Sở dĩ Lỗ Nhất Khí quả quyết như vậy, là vì trong “Cơ xảo tập” đã đặc biệt nhấn mạnh đến điều này.

- Quả đúng là như vậy! Làm trái ý trời, tất gặp tai ương. Thổ bảo dịch chuyển chưa lâu, Trung Nguyên đã sông nước cạn khô, thổ nhưỡng suy sụp, cây cối úa tàn, đất vàng tích tụ tầng tầng lớp lớp. Trong “Thủy kinh chú“(*) thời Bắc Ngụy có miêu tả về cảnh tượng Trung Nguyên trước đây: “Cây cối um tùm, sương khói liền mây, tùng biếc non xanh, sông trong tưới mát”. Nhưng giờ đây cảnh tượng đó đã hoàn toàn biến mất, chỉ còn lại một vùng cao nguyên hoàng thổ mênh mông. Địa cung cất giữ bảo vật cũng bị chôn vùi dưới lớp lớp đất vàng, không còn tông tích, còn nói gì tới dấu vết của Thổ bảo nữa! – Nói tới đây, vị đạo trưởng thở ra một hơi dài, khuôn mặt đang nhăn nhó bắt đầu giãn ra.

(*) “Thuỷ kinh chú” là trước tác của Lệ Đạo Nguyên thời Bắc Ngụy, tức thế kỷ 6, đây là một bộ trước tác về địa lý mang tính tổng hợp tương đối hoàn chỉnh thời cổ đại của Trung Quốc, chủ yếu ghi chép về hệ thống sông ngòi.

- Thổ bảo mất dấu? Kết cục này khiến Lỗ Nhất Khí vô cùng bất ngờ, song nhìn vào thần thái của vị đạo trưởng lại không hề giống như đang nói dối.

- Đúng Vậy, phái Toàn Chân đã động đến Thổ bảo! Mặc gia chúng tôi cũng đã cố gắng tìm cách ngăn chặn, song nhân lực quá ít ỏi. Người theo học kỹ thuật của Mặc gia vốn dĩ không nhiều, hơn nữa trong đó cũng không thiếu kẻ mong nhờ kỹ nghệ để kiếm chác vinh hoa phú quý, nên những bí mật về Bát bảo mà Mặc gia nắm giữ tuyệt không thể lộ cho loại người này biết, bởi vậy lũ môn nhân đệ tử đó có cũng như không. Còn những người hiền tài trong Mặc môn đều sống ẩn dật, phần lớn đều tuân theo di huấn của tổ tông, dạy dỗ tài bồi những môn đồ ưu tú để đảm bảo có thể hoàn thành trọng trách sau khi số Bát cực mãn vòng, nên đầu óc đã trở nên cứng nhắc. Cuối cùng, chỉ tập hợp được mười bốn người, đi lên phía bắc, thu nạp thêm các hậu duệ của Mặc môn đảm đương nhiệm vụ bảo vệ bảo vật ở phương bắc, tổng cộng vẫn chưa tới hai mươi người, về cơ bản không thể địch nổi quân thiết kỵ nghìn người của Mông Cổ, đành phải giương mắt đứng nhìn Thổ bảo bị khai quật.

Song để Lỗ Nhất Khí tin vào những lời này, vẫn phải cần thêm một vài bằng chứng khác. Dẫu rằng khu vực phía bắc Hàm Dương ngày nay quả thực là vùng cao nguyên hoàng thổ, đất vàng mênh mông, song không có bât cứ cuốn sách nào có thể chứng thực rằng, tình trạng này chỉ xuất hiện sau khi Thổ bảo chuyển dời vị trí. Vô số sự việc còn khó bề xác định rõ ràng, những lời kẻ xướng người hoạ của hai con người trước mặt kia, cùng lắm cũng chỉ khiến Lỗ Nhất Khí cảm thấy bất ngờ kinh ngạc, mà không thể hoàn toàn tin tưởng.
 
Quyển 3 - Chương 3: Chợt thức tỉnh


Vẻ hoài nghi trong lòng Lỗ Nhất Khí, cả hai người kia đều đã nhìn thấy. Thế là lão mặt đỏ quyết định dùng một bằng chứng trực tiếp hơn để chứng minh, đó chính là bản thân lão. Đúng vậy, để đối phương tin vào lời nói của mình, thì bản thân mình phải là người đáng tin cậy. Bởi vậy, trước hết lão phải khiến Lỗ Nhất Khí tin rằng mình là một người đáng tin cậy.

- Tuy người trong Mặc môn phần lớn đã sớm lánh xa thế tục, song sau khi Thổ bảo bị khai quật và chuyển dời, những cái đầu cứng nhắc kia cũng không thể ngồi yên được nữa, họ ý thức được rằng bí mật của Bát bảo đã bị tiết lộ. Họ liền nghĩ tới Chu môn đầu tiên, thế nhưng người trong Chu môn tuy cũng học kỹ thuật của Mặc gia, song Mặc gia lại chưa từng tiết lộ bí mật về Bát bảo với họ. Thế là họ chuyển hướng sang Ban môn, nhưng mặc dù Ban môn cũng biết bí mật của Bát bảo, song việc cất giấu tam bảo là Mặc gia tự mình thực hiện, Ban môn không hề can dự vào.

Ngược lại, khi Ban môn chôn giấu Mộc bảo tại phía tây nam, Mặc môn lại phái người tới giúp. Nhưng giờ đây, bảo bối bị đào lại là Thổ bảo do Mặc gia cất giấu, nên hẳn là không liên quan gì đến Ban môn. Để làm rõ nguồn cơn mối hoạ, Mặc môn đã ngầm phái cao thủ liên tục giám sát Ban môn và các phân chi thuộc cấp của Mặc môn. Mãi vài thế hệ sau, Chu môn vốn dĩ từ lâu im hơi lặng tiếng, đột nhiên lại có người dựa vào bảo bối mà đoạt được thiên hạ. Lúc này, chúng tôi mới ý thức được rằng, bí mật có thể đã bị tiết lộ từ thế hệ tổ tông. Nhưng nghiêm trọng hơn nữa, đó là bảo bối mà Chu môn nương tựa cũng đã bị quật lên! – Lão mặt đỏ nói rất nhanh, lão đang muốn cấp tốc đi vào chủ đề khiến cho Lỗ Nhất Khí hoàn toàn tin tưởng.

- Xuất hiện tượng lạ quả ác phải không? – Tuy lão mặt đỏ nói rất nhanh, song vẫn có một giọng nói khác cắt ngang lời ông. Lão đạo trưởng đã lên tiếng, nét mặt đầy hiếu kỳ.

- Đương nhiên rồi! Trước khi Chu Nguyên Chương lên ngôi hoàng đế, quê nhà Phượng Dương quanh năm hạn hán, mất mùa triền miên, chính là do Chu gia đã lấy mất Hoả bảo. Chu gia đã không tìm nơi định bảo giống như phái Toàn Chân các ông, bởi lẽ bảo bối này về cơ bản không thể định vị. Họ mang bảo bối này tới đâu, nơi đó lập tức khô cằn hoang hoá, không thể sinh tồn. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến Chu môn suy vượng thất thường không thể hưng thịnh. Chu gia dùng bảo bối tranh đoạt thiên hạ, Mặc môn cảm thấy sự việc kỳ quặc khác thường, bèn âm thầm tra tìm trong tổ huấn của Chu gia mới biết được nguyên do. Thì ra tổ huấn của Chu gia phần lớn lại là “Mặc môn thập bát thiên“(*)cực kỳ bí mật của Mặc môn, vốn dĩ không thể truyền ra ngoài, trong đó ẩn chứa bí mật về Bát bảo định phàm cương.

Khi Chu gia phát triển hưng thịnh, người đời đã ngộ nhận rằng Chu gia và Mặc gia là hai phái Nam Bắc của Mặc môn, cũng chính vì họ đã nắm giữ được kỹ thuật bí mật của Mặc gia, nên đã đủ cơ để sánh ngang với Mặc gia. Tổ huấn của Chu gia tuy sao chép không nhiều, nhưng cũng không phải là ít, gặp những kẻ sĩ tài năng xuất chúng, đạo hạnh cao thâm chắc hẳn cũng sẽ ngộ ra được vài điều từ trong đó, như Khâu tổ sư của phái Toàn Chân các ông. Bởi vậy, truyền nhân của Mặc môn đã huy động toàn bộ lực lượng tiêu huỷ các bộ tổ huấn trong tay hậu duệ của Chu môn, tìm kiếm thời cơ cướp lại Hoả bảo từ trong tay Chu Nguyên Chương. Cùng lúc này, Lỗ gia cũng phát hiện ra Hoả bảo đã bị khai quật chuyển đi, nên đã triển khai một loạt hành động nhằm giành lại bảo bối.

(*) Tức mười tám thiên trước tác của Mặc môn. Mặc Tử cả đời có tổng cộng 71 thiên trước tác, song chỉ còn 53 thiên được lưu truyền đến đời sau, 18 thiên còn lại không phải là thất lạc trong quá trình lưu truyền, mà do bản thân chúng là những bí mật không thể truyền ra ngoài. 18 thiên này ghi chép về các kỹ thuật tinh xảo nhất, và ẩn chứa bí mật về Bát bảo.

Trong khi thuật lại, lão mặt đỏ không rời mắt khỏi Lỗ Nhất Khí. Lão ta muốn phán đoán xem trong những gì mình đã kể, có thông tin nào Lỗ Nhất Khí đã biết, để nhân theo đó mà tiếp tục chứng thực cho mình. Song lão phát hiện trong ánh mắt của Lỗ Nhất Khí tràn ngập hiếu kỳ, còn vẻ mặt từ đầu tới cuối vẫn không hề đổi sắc. Lão đành nói tiếp:

- Lúc đó, Chu Nguyên Chương đã xưng đế thành công, thuộc hạ có vô số nhân tài hào kiệt. Tuy Mặc môn cũng có nhiều bậc dũng sĩ, song số lượng quá ít ỏi, qua vài cuộc tranh cướp báu vật đã tử thương gần hết. Khi đó môn trưởng vào lúc lâm chung, nhìn môn nhân chỉ còn thưa thớt mấy người, nên đã lệnh cho môn nhân không được tranh giành trực diện với Chu gia nữa, mà tạm thời âm thầm trợ giúp Lỗ gia hành động.

Lỗ Nhất Khí vẫn không chút phản ứng. Nét cười của lão mặt đỏ đã bắt đầu có vẻ gượng gạo:

- Tuy người Lỗ gia đều là thợ mộc, song lại có thể tranh đấu với Chu gia lâu dài hơn so với Mặc gia chúng tôi, bởi lẽ đệ tử đích truyền của Ban môn nhân đinh không vượng, song kỹ thuật của Lỗ gia lại lưu truyền rộng khắp, làm lợi cho thiên hạ, nên được rất nhiều người trợ giúp. Hơn nữa, Lỗ gia có một điểm quan trọng mà Mặc môn chúng tôi không thể sánh bằng, đó là Lỗ gia là người nhập thế, am hiểu quan hệ giao thiệp và các mánh khoé trong giang hồ, cũng biết cách lợi dụng ân huệ tình thù trong nhân tính, từ đó biết cách phát huy tối đa tài năng của đủ loại nhân tài cao thủ để giúp ích cho mình. Mặc môn lánh đời ẩn dật quá lâu, nên về mặt này có nhiều khiếm khuyết. Song dù là như vậy, Ban môn vẫn có hai lần suýt bị Chu gia đuổi cùng giết tận.

Vẻ mặt Lỗ Nhất Khí vẫn không hề thay đổi, chỉ có đôi mắt từ từ khép lại, càng khép càng nhỏ, tựa như sắp ngủ đến nơi. Lời nói của lão mặt đỏ bắt đầu có chút căng thẳng.

- Một lần là vào năm Tuyên Đức đời Minh, tại địa giới Phật Sơn tỉnh Quảng Đông, môn trưởng Lỗ gia cùng với anh em con cháu tổng cộng bảy người bị vây khôn trong cục diện “Mây rủ che trời”(*) do cao thủ cẩm y vệ phía Chu gia bày ra, suốt bốn ngày vẫn không thoát được, trong bảy người đã ba người chết, bốn người bị thương. Nhờ có cao thủ Mặc môn âm thầm trợ giúp, bày ra cục “Bảy cầu vồng cứu âm dương“(**), phá vỡ cục diện “Mây rủ che trời”, giúp người họ Lỗ chạy thoát.

(*) Nguyên văn là “thùy vân tế nhật”, là một loại bố cục cạm bẫy kết hợp giữa chốt lẫy và thuật mê hồn, sử dụng loại khói “tế nhật” (che mặt trời) trộn lẫn thuốc gây ảo giác để thay đổi ánh sáng, rồi dùng “màn mây rủ” để che chắn những thứ có thể dùng để định vị tại môi trường xung quanh, đồng thời liên tục thay đổi vị trí theo một quy luật nhất định, khiến đối phương không thể nhận biết được phương hướng.

(**) Một kỹ pháp chuyên dùng để phá giải những bố cục dùng khói sương mịt mù che mắt. Từ bên ngoài khảm diện, dùng đèn chuyên dụng chiếu ra bảy luồng sáng với bảy sắc màu, chiếu thẳng vào vị trí quan trọng trong khảm diện, và sẽ di chuyển theo sự biến hoá của vị trí này. Như vậy sẽ chỉ ra được toàn bộ những biến hoá trong khảm diện, giúp người bị vây khốn bên trong tìm ra lối thoát.

Lỗ Nhất Khí tựa như đã chìm vào giấc ngủ, hơi thở chỉ hơi khe khẽ phả ra từ cánh mũi. Nụ cười đã hoàn toàn biến mất khỏi khuôn mặt lão mặt đỏ, trong giọng nói lộ rõ vẻ nôn nóng.

- Còn có một lần nữa là cách đây hai mươi mốt năm, môn trưởng Ban môn bị cao thủ Chu gia bức bách phải dẫn theo anh em và người nhà rời khỏi ngôi nhà tổ ở Bắc Bình, bị vây khôn trong Mắt cá dương. Khi đó, người trong Mặc môn chúng tôi đã âm thầm ra tay, dùng quạt “tất linh hoả phong”(*) thổi cháy một tấm vải che chắn bên ngoài, lại thổi nó quấn lên một trụ di động tại đuôi cá dương, chỉ dường cho ba người nhà họ Lỗ thoát ra.

(*) Dụng cụ này giống như một thiết bị phun sơn, là một cái hộp có hình rẻ quạt, cán quạt là đầu phun, thân quạt là chỗ thổi gió. Nó có hai tác dụng, thứ nhất là có thể phun ra lông vũ giấu bên trong, lông vũ gặp gió liền bốc cháy, tốc độ cực nhanh; hơn nữa, gió rất mạnh thổi thành tia mảnh, có thể thổi tung một vật cần thiết lẫn trong rất nhiều đồ vật khác mà không ảnh hưởng tới những thứ xung quanh. Kết hợp sử dụng nhiều cây quạt hoả phong, hiệu quả càng thần kỳ hơn nữa, chúng có thể đồng thời tác dụng lực vào nhiều điểm để trải phẳng cả một tấm vải lớn trong không trung.

Mí mắt Lỗ Nhất Khí giật mạnh liền hai cái, he hé mở ra. Phản ứng rất nhỏ này của cậu đã không lọt khỏi đôi mắt của lão mặt đỏ. Cơ mặt ở hai bên gò má của lão lập tức dồn lại, khoé miệng kéo sang hai bên thành một nét cười. Cuối cùng thì lão cũng đã tìm ra trọng điểm. Lời nói của lão lại chậm rãi như cũ, ngữ điệu đã nhẹ nhõm bớt, song nội dung lại trầm trọng khác thường.

- Người trợ giúp Lỗ gia thoát khỏi Mắt cá dương năm đó chính là tôi. Chúng tôi cả thảy có bốn người. Khi Lỗ gia thoát ra khỏi Mắt cá dương, chúng tôi vẫn phải giao đấu với Chu gia. Song đến khi Lỗ gia đều đã chạy thoát an toàn, chúng tôi lại không đi được nữa. Quân chi viện của Chu gia kéo tới vây khốn bốn người chúng tôi. Sau một trận huyết chiến, chỉ còn mình tôi thoát thân với đầy người thương tích. Từ đó về sau, truyền nhân Mặc gia đã không còn cao thủ. Vài năm sau đó, môn trưởng lại đột nhiên bệnh nặng qua đời, ngay cả chức môn trưởng cũng chưa kịp chỉ định người kế vị.

Tôi đành phải cho những đệ tử mới nhập môn phân tán khắp nơi tu luyện, đợi đến khi cần sẽ gọi về. Còn tôi suốt hai chục năm qua vẫn chờ ở Bắc Bình, tôi biết người Lỗ gia sớm muộn gì cũng sẽ quay lại. Nửa đêm hôm qua, nhìn thấy lửa cháy trong Mắt cá dương trong viện, tôi lập tức đột nhập vào trong, ngoài mấy con mèo hoang chó dại, không gặp phải thứ gì đáng nói. Song còn chưa kịp bước vào nhà chính, đã thấy bọn người lớn kẻ bé giữ nhà đang lùi cả ra ngoài, tiếp tục tìm nơi đặt bẫy. Tôi liền đoán ngay rằng người tới lần này hẳn là cao thủ, khiến bọn giữ nhà không thể ngăn chặn.

Lỗ Nhất Khí mở to đôi mắt. Cuối cùng cậu đã biết ai là người đã kết liễu con linh miêu đầu đồng lưng sắt tại cổng thuỳ hoa, ai là người đã đẵn cây phá tường trong viện. Lão mặt đỏ đã lấy lại bộ dạng ung dung tự tại của người tu luyện, tiếp tục kể:

- Gã cao gầy bắn nỏ đuổi gấp theo sau cậu, tuy tôi biết cậu và mọi người có thể ứng phó với hắn, song tôi vẫn muốn giúp mọi người một tay. Dù gì mọi người cũng đã lao lực suốt cả một đêm, hơn nữa tôi cũng muốn tìm lý do để tiếp cận mọi người.

- Vậy Chu gia nhờ đâu mà có được bảo vật? Tại sao họ lại có được mười tám thiên mật truyền của Mặc môn? Tại sao ông biết được bí mật đã bị tiết lộ từ đời tổ tông của các ông? – Đạo trưởng liên tiếp đưa ra ba câu hỏi. Xem ra ông ta cũng là kẻ tách biệt với đời, nên không biết rằng hỏi về bí mật của người khác là điều tối kỵ.

Lão mặt đỏ vẫn cười, song là quay sang nhìn đạo trưởng mà cười. Đạo trưởng cũng đã nhận ra điều luống cuống có vẻ ngượng ngùng, vội vã chỉnh lại thế ngồi cho ngay ngắn, điều hoà hơi thở. Quả thực, những lời vừa rồi của lão mặt đỏ đã khiến ông ta tâm tư chấn động.

Không biết lão mặt đỏ muốn trả lời câu hỏi của đạo trưởng, hay là muốn tiếp tục chứng minh sự thực với Lỗ Nhất Khí, nên đã ho khẽ một tiếng rồi nói tiếp:

- Kỳ thực Chu gia làm cách nào có được bảo bối, chúng tôi không hề hay biết. Họ quật Hoả bảo lên từ lúc nào, chúng tôi cũng không rõ. Tại sao họ lại có được mười tám thiên mật truyền của Mặc môn, có phải tổ tông chúng tôi đã để lộ bí mật hay không, chúng tôi cũng chịu không thể biết được.

Câu trả lời đã khiến cho vị dạo trưởng phải ngẩn tò te. Còn Lỗ Nhất Khí không hề phản ứng, dường như cậu đã đoán ra lão mặt đỏ vẫn còn lời để nói tiếp.

- Tuy nhiên, về việc Chu gia dựa vào Hoả bảo để cướp đoạt thiên hạ, một số tiền bối của chúng tôi vì muốn làm rõ chuyện này đã rà soát lại toàn bộ trước tác của Mặc môn, cuối cùng đã tìm ra manh mối trên một cuốn sách thẻ tre không chữ do tổ tông để lại. Trên thẻ tre không có chữ, chỉ thấy ở mặt sau khắc hai đồ hình, phong cách hoàn toàn khác biệt. Chẳng ai hiểu được những tấm thẻ tre này có tác dụng gì. Khi đó trong Mặc môn có một vị cao nhân kỳ tài xuất chúng đã thọ hơn trăm tuổi, vào lúc lâm chung, đã xem cuốn sách thẻ tre rồi trăng trối lại hai câu: “Là lão tổ tông để lại! Là lão tổ tông nói ra”. Nói xong thì tắt thở về trời. Ẩn ý trong câu nói, cho tới nay vẫn chưa có ai hiểu được.

- Ồ!

Rõ ràng câu trả lời này đã không khiến đạo trưởng thoả mãn. Không chỉ có đạo trưởng, mà Lỗ Nhất Khí cũng cảm thấy câu trả lời quá mơ hồ.

Lão mặt đỏ cũng biết sự tình mà mình vừa kể thật chẳng rõ ràng, song lão vẫn giữ vẻ tươi cười, cười một cách thật vô duyên. Tư thế ngồi của lão cũng đã thay đổi, không còn vẻ thư thái như khi nãy, mà đã trở nên hết sức ngay ngắn và nghiêm túc:

- Từ đó về sau, các thế hệ môn trưởng của Mặc gia đời đời truyền nhau cuốn sách thẻ tre đó. Giờ đây tuy Mặc môn đã tan rã, song thẻ tre vẫn được bảo toàn nguyên vẹn, lúc nào tôi cũng mang theo bên mình. Hôm nay, tôi sẽ đánh liều giở nó ra đây cho hai vị xem qua, không chừng hai vị cao nhân đây có thể nhận ra được chỗ huyền diệu nào từ trong đó.

Lời vừa thốt ra, đạo trưởng lập tức ngạc nhiên sửng sốt. Từ miệng Lỗ Nhất Khí cũng bật ra một tiếng:

- Không!

Không phải vì cậu quá kinh ngạc, mà vì cậu muốn phủ định khi lão mặt đỏ quy cậu vào hàng “cao nhân”.

Lão mặt đỏ không để tâm tới phản ứng của hai người, thận trọng lấy từ túi vải đeo bên hông ra một cuộn vải màu xanh sẫm, tháo dây buộc ra. Bên trong lại có một lớp da dê bao bọc, mở lớp da dê ra, quả nhiên có một cuộn thẻ tre đã ngả màu đen thẫm.

Lão mặt đỏ đặt cuộn thẻ tre lên trên tấm da dê đã trải sẵn, bàn tay nhẹ nhàng vận lực. Tấm da dê kéo cuộn thẻ tre trượt trên nền gạch xanh, dừng lại trước mặt Lỗ Nhất Khí. Dường như lão không hề để ý tới ánh mắt hiếu kỳ và kinh ngạc của đạo trưởng, chỉ nhìn Lỗ Nhất Khí mỉm cười, giống như một con bạc tràn đầy tự tin đang đợi nhà cái mở kèo.

Lỗ Nhất Khí nhắm hờ đôi mắt, khiến người khác không biết cậu đang nhìn vào đâu, cũng không rõ cậu đang nghĩ gì. Khi bó thẻ tre trượt tới trước mặt, mười đầu ngón tay đang đặt trên đầu gối của cậu bỗng giật lên khe khẽ.

Rất lâu, rất lâu, cả ba người không ai lên tiếng, vẻ bình thản của Lỗ Nhất Khí khi đối mặt với một bí mật hệ trọng nhường kia thật khiến người khác không tài nào hiểu nổi. Mặt khác, định lực bất phàm của cậu càng khiến vị đạo trưởng cảm thấy hổ thẹn.

Cuối cùng, Lỗ Nhất Khí đã lên tiếng, khí phách và phong thái trong lời nói đã hoàn toàn vượt xa dáng vẻ bề ngoài và lứa tuổi của cậu:

- Mục đích của ông là gì?

Lão mặt đỏ nghe vậy, toàn thân ngây thộn, nét cười trên khuôn mặt thoắt đã đóng băng.

- Tôi không hề có hứng thú với bí mật của Mặc gia các ông. Với tôi, biết thêm một bí mật, khác gì lại thêm một gánh nặng! Bởi vậy, trước hết ông hãy nói xem tai sao tôi lại phải biết bí mật này? – Trong giọng điệu của cậu có xen lẫn vẻ bất đắc dĩ, song lại khiến nụ cười đã tắt ngấm trên mặt lão mặt đỏ sống động trở lại.

Lỗ Nhất Khí nói năng tuy bình thản, song trong giọng nói dường như có chứa đựng một sức mạnh vô hình, khiến hai người ngồi trước mặt cảm thấy vô cùng chấn động.

- Dù tôi không nói ra, hẳn cậu cũng đã đoán được, Mặc môn chúng tôi đã hết người rồi! Lời thề nguyền dùng tam bảo phong hung huyệt định phàm cương năm xưa, Mặc gia đã khó lòng thực hiện. Bởi vậy, chúng tôi muốn uỷ thác trọng trách này cho người khác, những người còn sót lại của dòng họ Mặc quyết tận tâm tận lực trự giúp đến cùng! – Lão mặt đỏ đã thôi không cười nữa, vẻ mặt vô cùng trịnh trọng – Năm xưa khi Lỗ gia giấu một bảo bối ở phía tây nam, đó là chốn rừng thiêng nước độc, nên Mặc gia đã phái dũng sĩ tới trợ giúp. Đến nay Mặc môn đã sức tàn lực kiệt, đặc biệt là thiếu một người đủ linh tính có duyên với bảo bối. Phong hung huyệt định phàm cương là đại sự tạo phúc cho con cháu đời sau, nhất thiết không thể lơ là. Đây là một trọng trách làm lợi thế nhân, tin rằng Lỗ gia chắc chắn sẽ không từ chối! – Nói tới đây, lời lẽ và biểu cảm của lão bỗng trở nên sôi nổi.

Mí mắt của Lỗ Nhất Khí vẫn rủ xuống, không biết cậu đang nhìn về phía nào. Song lời nói của cậu lại vô cùng rành mạch, vừa hào khí dạt dào, cũng vừa xen lẫn chút bất lực:

- Cuộn thẻ tre này đã ẩn chứa bí mật liên quan tới bát bảo, có lẽ cũng nên xem thử. Nếu Mặc gia thực sự đã không còn nhân lực để hoàn thành trọng trách, Lỗ gia chúng tôi cũng xin nguyện đảm đương, chỉ sợ sức lực có hạn, sự việc khó thành.

Vừa nghe vậy, khoé miệng của lão mặt đỏ lập tức giãn rộng, gò má nhô cao, đôi mắt nhắm tít lại trong một nụ cười rạng rỡ.

Còn vị đạo trưởng ngồi bên cạnh lại đang ôm một bầu nghi hoặc, lẽ nào cậu thanh niên kia không suy xét tới một điều kiện rất quan trọng trong lời nói của lão già mặt đỏ, đó là “người đủ linh tính có duyên với bảo bối”.

Lỗ Nhất Khí hé mở đôi mắt, với tay cầm lấy cuộn thẻ tre, mân mê một lát. Cậu đã cảm nhận được làn khí thuần phác cổ xưa có màu xanh thẫm lan toả quanh những tấm thẻ tre, tuy không rực rỡ linh động, song thâm trầm mạnh mẽ. Một bảo khí như vậy chỉ có thể xuất hiện ở những báu vật rất lâu đời và chứa đựng trong mình một hàm nghĩa cực kỳ thâm thuý.

Lỗ Nhất Khí lập tức lật mặt sau của tấm thẻ tre, muốn xem hai đồ hình khắc trên đó. Vì vừa nãy, từ một góc đồ hình hơi hé lộ, cậu đã cảm giác được một điều gì.

Ánh mắt của cậu nhanh chóng hoà nhập vào trong đồ hình. Cậu đã cảm nhận thấy đồ hình đang xoay tròn, đang nhảy nhót. Đột nhiên, nó bỗng vỡ vụn thành muôn mảnh, bay tung trong trí não của cậu, nhanh chóng trộn lẫn và kết tụ với những ký hiệu, những đồ hình đã đọng trong trí nhớ, sắp xếp lại thành một số thứ mà cậu có thể hiểu được…

Một hồi lâu sau đó, Lỗ Nhất Khí mới như chợt bừng tỉnh sau một giấc mơ. Cậu không nói câu nào, chỉ cuộn tấm thẻ tre lại một cách chậm rãi và vô cùng thận trọng. Nhưng khác ở chỗ, cậu đã cuộn mặt có khắc dồ hình vào phía trong, rồi nhẹ nhàng đặt lại nó vào trong mảnh da dê.

Lão mặt đỏ và đạo trưởng chăm chú theo dõi nhất cử nhất động của Lỗ Nhất Khí với vẻ mặt vô cùng nghiêm trọng.

- Hai bức đồ hình này không phải là để trang trí cho mặt sau cuốn sách, mà chúng là nội dung chính. Chúng là một kiểu chữ tượng hình cổ xưa đã được phân tách và tổ hợp lại, các người đã lẫn lộn mặt sau và mặt trước của sách thẻ tre rồi! – Lỗ Nhất Khí vừa dứt lời, lão mặt đỏ đã cười tít mắt, còn đạo trưởng ngây người kinh ngạc.

Lỗ Nhất Khí nói tiếp:

- Bí mật của Hoả bảo là do tổ sư Mặc môn nói cho Chu gia biết, còn mười tám thiên bí mật của Mặc môn cũng là do tổ sư Mặc môn tặng cho họ Chu. Tổ tiên họ Chu xưa kia vốn là giúp đỡ Mặc gia cất giấu bảo vật, nhưng vì sao bảo vật lại rơi vào tay họ thì trên thẻ tre không thấy nói tới.

-Tổ tiên của Chu gia là ai? – Lão già mặt đỏ đột nhiên hỏi lại, kỳ thực là muốn xác nhận xem Lỗ Nhất Khí có thực sự hiểu được nội dung trên thẻ tre hay không, hay là chỉ đoán mò dựa vào những thông tin mà lão vừa cung cấp.

Lỗ Nhất Khí nhìn đạo trưởng, rồi lại quay sang nhìn lão mặt đỏ. Lão mặt đỏ hiểu rõ cậu đang lo lắng điều gì, bèn nói:

- Đạo trưởng đã biết lâu rồi. Đạo sĩ Toàn Chân chính vì cảm thấy tò mò về tổ tiên Chu gia nên mới rà soát trong tổ huấn họ Chu, tìm ra manh mối của Thổ bảo.

Nghe vậy, Lỗ Nhất Khí bèn bật ra bốn chữ:

- Là người giết rồng!

Lão mặt đỏ đến lúc này mới phô ra hai hàm răng vàng xỉn. Chỉ cần bốn chữ này, lão đã hoàn toàn tin chắc rằng, chàng thanh niên đang ngồi trước mặt mình chính là người đủ linh tính có duyên với bảo bối.

Không đợi Lỗ Nhất Khí nói thêm lời nào, lão mặt đỏ đã chỉnh lại tư thế ngồi, vươn lưng thật thẳng, dáng vẻ vô cùng trịnh trọng. Rồi lão gập khuỷu, đưa cánh tay phải ra, bàn tay nắm hờ thành quyền, ngón cái chĩa xuống phía dưới, dùng động tác hành lễ đơn giản này dể biểu thị sự kính trọng đối với Lỗ Nhất Khí. Sau đó, lão đằng hắng một tiếng rồi nói:

- Truyền nhân của Mặc môn Mạc Thiên Quy, nguyện dốc hết sức mình phò trợ cao nhân của Lỗ gia hoàn thành trọng trách phong huyệt định phàm cương.

Tới lúc này, Lỗ Nhất Khí mới biết tên của lão mặt đỏ là Mạc Thiên Quy.

- Cảm phiền đạo trưởng lánh đi một lát, tôi có vài sự việc muốn thương lượng với người anh em của Lỗ gia! – Lão mặt đỏ nói với đạo trưởng.

Đạo trưởng chắp tay lại, đứng dậy rồi đi ra phía cửa sau. Dáng đi của ông ta rất mực ung dung tự tại. Cuối cùng thì bí mật bấy lâu giấu kín trong lòng giờ đã được trao lại cho người cần biết, ông ta cảm thấy như trút bỏ được gánh nặng trong lòng.

Không chỉ có mình đạo trưởng, mà còn một người nữa cũng cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm, đó chính là lão mặt đỏ Mạc Thiên Quy. Di mệnh tổ tiên truyền lại cuối cùng đã tìm được người đồng ý đảm đương, khác nào đã tháo bỏ được chiếc gông vô hình đang mang trên cổ.

Chỉ có Lỗ Nhất Khí là khác. Mặc dù ngay từ thời khắc tìm ra “Cơ xảo tập“, cậu đã lập tức ý thức được rằng, cho dù là bảo bối do gia tộc nào cất giấu, bản thân cậu vẫn phải toàn lực tiếp nhận trọng trách tìm bảo bối, phong hung huyệt. Song giờ đây, khi ba bảo bối của Mặc gia đều đã dồn cả lên vai cậu, cậu vẫn cảm thấy áp lực càng nặng nề gấp bội.

- Tiểu huynh đây là người thế nào trong Lỗ gia? Có quan hệ ra sao với môn trưởng Ban môn Lỗ Thịnh Hiếu, người đã chạy khỏi Bắc Bình hai mươi năm về trước? – Mạc Thiên Quy hạ giọng hỏi khẽ.

Một khối đau thương bỗng nghẹn lại trong lòng Lỗ Nhất Khí, Vừa mới hôm qua thôi cậu phải tận mắt chứng kiến cái chết của người bác thân yêu, còn chưa kịp khóc thương. Vậy nên lúc này cậu không nói nên lời, chỉ lẳng lặng kéo lưỡi rìu ngọc đeo trên cổ ra. Cậu nghĩ, nếu lão Mạc hai mươi năm về trước đã biết ai là môn trưởng của Ban môn, chắc chắn sẽ nhận ra tín phù của môn trưởng.

- Ồ! Giờ đây cậu chính môn trưởng của Ban môn ư? – Mạc Thiên Quy vô cùng kinh ngạc. Tuy lão biết chàng thanh niên trước mặt kia là một bậc kỳ tài hiếm có, song lão không hề nghĩ đến chuyên cậu có mối liên hệ gì với địa vị môn trưởng Ban môn.

Lỗ Nhất Khí mỉm cười, khẽ gật đầu. Phong thái thoát phàm nhường kia khiến Mạc Thiên Quy hoàn toàn không còn chút nghi ngờ về thân phận môn trưởng của chàng thanh niên trước mặt.

- Lỗ môn trưởng…

- Tôi là Lỗ Nhất Khí. Lão Mạc đừng nên khách khí, cứ gọi tên tôi là được!

- Không được, phải gọi là Lỗ môn trưởng mới phải. Chúng ta không cùng môn phái, nếu xưng hô tùy tiện sẽ khiến cho người trong Ban môn phản cảm.

Lỗ Nhất Khí xưa nay chưa từng bước chân vào chốn giang hồ, chẳng hiểu gì về lề lối giang hồ. Nên nghe lão Mạc nói vậy, cậu cũng thôi không phản đối nữa.

- Lỗ môn trưởng! – Vẻ mặt của Mạc Thiên Quy bỗng trở nên vô cùng nghiêm nghị – Giờ đây tôi sẽ nói cho cậu nghe về việc cất giấu tam bảo của Mặc gia năm xưa. Kỳ thực, cậu đã biết được hai thứ rồi, Thổ bảo ở phía chính bắc đã bị dịch chuyển, Hoả bảo ở tây bắc đã bị Chu gia cướp đi, chỉ còn lại Thiên bảo ở phía chính tây. Tôi đã gửi thư cho một vài đệ tử được việc ít ỏi còn lại của Mặc môn gấp rút đi về phía tây, thứ nhất là để tìm kiếm những truyền nhân của Mặc môn năm xưa lưu lại canh giữ bảo bối, thứ hai là thử xem liệu có thể tìm ra vị trí đại khái của bảo cấu hay không, đợi khi chúng ta tới đó thì có thể thu hẹp được phạm vi tìm kiếm.

- Chỉ cần Thiên bảo vẫn còn ở đúng vị trí, chắc hẳn sẽ tìm thấy được. – Lỗ Nhất Khí đã có được “Cơ xảo tập” và thẻ ngọc ghi chép vị trí của tám hung huyệt, nên cậu tỏ ra rất tự tin – Nhưng Thổ bảo đã bị chôn vùi dưới tầng tầng lớp lớp đất vàng, nếu muốn tìm ra vị trí của nó, khai quật lên để phong hung huyệt, định cương giới là một việc không phải dễ dàng. Song khó nhất vẫn là Hoả bảo, ông nói Hoả bảo nằm trong tay Chu gia, sau cuộc tranh đấu với người của Chu gia hôm qua, tôi tự thấy nếu muốn cướp lại Hoả bảo từ trong tay họ, quả là khó khăn muôn vàn.

- Lỗ môn trưởng, cậu chớ nên lo lắng chuyện này. Chúng ta chỉ cần tìm ra chỗ cất giấu bảo bối phong hung huyệt mà thôi. Còn Hoả bảo chúng ta không phải đi cướp về nữa, bởi lẽ Hoả bảo đang ở… Ai? – Mạc Thiên Quy đột ngột quát lớn, bật người nhảy vụt lên, rút kiếm lao thẳng ra phía cửa.

Lỗ Nhất Khí chỉ thấy trước mắt hào quang sáng loà, một vầng sáng xanh biếc thâm trầm vụt nhanh về phía cánh cổng cổ kính của chính điện.
 
Quyển 3 - Chương 4: Kẻ săn đêm


Phản ứng của Lỗ Nhất Khí chậm chạp hơn rất nhiều so với lão Mạc. Khi lão Mạc như một chùm sáng màu xanh lao vụt ra khỏi chính điện trong dư âm văng vẳng của tiếng quát và tiếng phần phật của vạt áo tung bay, Lỗ Nhất Khí mới chỉ kịp đứng lên khỏi tấm đệm cói.

Từ phía xa xa bên ngoài vọng lại vài tiếng rú thảm thiết. Ngoài cửa có hai người một trước một sau lao vụt vào đại điện, hét lớn:

– Cậu cả, bên ngoài có móng vuốt của đối phương đang tác quái, đừng chạy ra!

Người vào trước là lão mù, theo sau là Quỷ Nhãn Tam. Hai người họ vốn đang nghỉ ngơi ở gian phòng bên cạnh, giờ trên tay lăm lăm vũ khí, chạy vào chính điện.

Hai người vừa kịp nhảy qua bậu cửa, bỗng dội lên một tràng súng nổ rất đanh, xé toang màn đêm tĩnh mịch, vang vọng ong ong trong khe núi.

Sát sau lưng Quỷ Nhãn Tam còn có vài người nữa cuống cuồng chạy tới, gào thét đến lạc cả giọng:

– Ma bay! Là ma biết bay!

Họ chính là đám cảnh vệ do phó quan Ngô dẫn đến, vốn là những binh sĩ dạn dày chinh chiến, từng dọc ngang trăm trận, không hiểu tại sao giờ đây lại kinh hãi đến mức này.

Bên ngoài còn có vài người nữa, đều đang cuống quýt nằm rạp cả xuống đất, vừa nã đạn lên trời, vừa vội vã trườn về phía cửa.

Lão Mạc dường như đã phát hiện ra điều gì, lập tức tung người nhảy xuống bậc thềm trước đại điện, sải bước chạy vùn vụt ra bên ngoài đạo quán, biến thành một cái bóng xanh mờ thoắt ẩn thoắt hiện trong màn đêm tối mịt.

Lỗ Nhất Khí cũng đã bước tới trước cửa, cậu hất nhẹ mũi chân, một khẩu súng trường Mauser Đức đã bay vào trong tay. Cậu khép hờ hai mắt, nhanh chóng nhập vào trạng thái siêu nhiên. Ngay lập tức, cậu không còn nghe thấy tiếng súng nổ, tiếng gào rú nữa, cũng không còn nhìn thấy những con người đang kinh hoàng tột độ xung quanh. Trong cảm giác của cậu chỉ còn màn đêm đen đặc trước mắt, cậu đang cảm nhận về những biến đổi vi tế nhất trong bóng tối.

Có một cái bóng tối đen giống hệt như màn đêm đang lơ lửng giữa không trung, lúc lên lúc xuống, lúc sang trái lúc sang phải, biên độ di chuyển rất nhỏ, song tốc độ cực nhanh. Lỗ Nhất Khí phải ngưng thần tĩnh khí cao độ mới có thể cảm nhận được điều này. Nếu là người bình thường, cho dù giữa ban ngày cũng khó quan sát thấy sự dịch chuyển của nó.

Lỗ Nhất Khí còn cảm nhận được vị trí của lão Mạc, vầng bảo khí trong trẻo linh động toả ra từ thanh kiếm trong tay lão đã giúp cậu định vị dễ dàng. Lão Mạc mau chóng tiếp cận với bóng đen, song nó lại ở một độ cao ngoài tầm với của lão. Lão bèn cắm phập thanh kiếm xuống đất, thủ thế trong một tư thế vô cùng kỳ quái, đồng thời thò tay vào túi vải lần tìm một thứ gì đó. Đúng lức này, bóng đen lao vụt xuống theo một đường xéo.

Tất nhiên, mục tiêu của nó không phải là lão Mạc, mà là đám cảnh vệ của phó quan Ngô. Bóng đen giống hệt như một con cú mèo đã phát hiện ra bầy chuột đồng đang cuống cuồng chạy trốn, bèn vỗ mạnh đôi cánh đen tuyền, không chút chần chừ lao bổ xuống những con mồi đang hoảng loạn.

Người chạy cuối cùng chính là phó quan Ngô. Ông ta mặc một chiếc áo dài chần bông, nên hành động có phần chậm chạp. Bóng đen sà xuống rất nhanh, tuy lão Mạc đã vung kiếm đuổi ngược trở lại, song muốn cứu phó quan Ngô cũng muộn mất rồi.

Cái bóng bắt đầu trùm lên người phó quan Ngô, Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy khuôn mặt phó quan Ngô đang biến dạng vì sợ hãi, và cũng cảm nhận thấy tốc độ và lực đạo trong cú tấn công của bóng đen, thậm chí cậu đã cảm nhận được sức nặng đang ập xuống.

Tiếng súng vang lên. Bóng đen khựng lại trong chốc lát. May thay, nhờ vào khoảnh khắc đấy, nên thứ bị phạt đứt chỉ là một nửa chiếc mũ phớt dạ chứ không phải là hộp sọ của phó quan Ngô.

Lỗ Nhất Khí mau chóng lên đạn, tiếp tục bắn phát thứ hai. Cậu không biết bóng đen đó là thứ quái quỷ gì, càng không biết chỗ yếu hại của nó nằm ở đâu, bởi vậy chỉ biết tiếp tục nhắm bắn vào cùng một điểm. Có lẽ do khoảng cách đã gần hơn chút ít, nên phát súng thứ hai có thể cản trở hiệu quả hơn hẳn phát thứ nhất.

Phát đạn thứ ba cũng đã được bắn ra, vẫn nhắm vào cùng một điểm, tiếp tục cản trở thành công.

Bóng đen đã cách phó quan Ngô xa hơn chút ít song không hề có ý định dừng tấn công. Trong khi súng của Lỗ Nhất Khí đã hết đạn.

Phó quan Ngô chỉ còn cách cổng chính điện hơn chục bước chân, nhưng xem ra vẫn không thể thoát khỏi cái bóng ma đen trũi đang lao tới với tốc độ chóng mặt. Khẩu súng vứt ra khỏi tay vừa chạm đất, Lỗ Nhất Khí đã vọt đi được bốn, năm bước. Cậu biết rõ phó quan Ngô không thể chạy thoát khỏi bóng đen, chỉ bảy tám bước nữa thôi sẽ bị nó đuổi kịp. Thế là cậu lập tức lao ra, cậu muốn tóm được phó quan Ngô trước bóng đen ma quái.

Khi bóng đen trên không vừa in xuống người phó quan Ngô thì Lỗ Nhất Khí đã lao tới kịp. Cậu ôm chặt lấy phó quan Ngô rồi ngã lăn sang một bên, tay cậu chụp lấy bàn tay phải đang cầm súng của ông ta, hướng thẳng lên trên xiết mạnh cò súng.

Bóng đen đã ở cách họ rất gần, nhưng lại không thể nhào xuống được. Khẩu súng trong tay phó quan Ngô là khẩu pạc hoọc sáng bóng, còn được gọi là Mauser C96 hay mặt gương hai mươi phát, ổ đạn có thể nạp được hai mươi viên. Lỗ Nhất Khí bắn một lèo mười lăm viên, cuối cùng thì từ trong khối đen đã rơi xuống một thứ gì đó. Bóng đen tức tốc chuyển hướng, bay vụt ra xa, rồi biến mất tăm trong sơn cốc.

Khi lão Mạc chạy tới nơi, Lỗ Nhất Khí và phó quan Ngô đã chật vật ngồi được dậy. Phó quan Ngô vẫn chưa hết bàng hoàng kinh sợ, còn Lỗ Nhất Khí tuy ngoài mặt vẫn bình thản, song trong lòng cũng hết sức hãi hùng.

Mười lăm phát đạn liên hồi, cộng thêm ba viên đạn súng trường ban đầu đều nhắm vào cùng một điểm trên mình bóng đen. Nhưng một loạt những cú tấn công ác liệt liên hồi chỉ có thể xua nó bay đi, còn cơ thể nó xem ra không hề hấn gì.

Khi Lỗ Nhất Khí xông ra ngoài, có một người nữa cũng chạy theo sát sau lưng cậu. Người đó có thể nhìn ra bóng đen đó là thứ gì, và cũng nhìn thấy thứ vừa rớt xuống từ mình nó là thứ gì. Hắn chính là người sở hữu đôi mắt cú vọ – Quỷ Nhãn Tam.

Quỷ Nhãn Tam chạy tới bên cạnh Lỗ Nhất Khí, lập tức cúi xuống nhặt lấy một thứ gì đó trên mặt đất tối thui, rồi đưa ngay cho Lỗ Nhất Khí, nói:

– Quái điểu! Đây là lông của nó!

Tuy lão Mạc không nhìn rõ hình thù của bóng đen, song lại biết rõ nó là giống gì. Bởi vậy, chưa đợi Lỗ Nhất Khí nhìn kỹ cọng lông vũ nặng trình trịch trên tay, đã nói ngay cho cậu biết:

– Đó là chim ưng sắt, toàn thân đều được làm bằng sắt, bụng và ngực trống rỗng, bên trong có lắp cơ quát. Tổ tiên của tôi và cậu đã từng đẽo gỗ thành chim sẻ, còn chế tác cả diều hâu gỗ có thể chở người bay liệng trên không. Con chim sắt này được chế tạo chính là dựa vào những kỹ thuật đó.

Lúc này, lại có thêm mấy người nữa bước ra từ trong đại điện, cầm theo đèn đuốc. Nhờ ánh lửa đuốc Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy rõ thứ đang ở trên tay mình là một cọng lông vũ to bản bằng sắt sống, chế tạo vô cùng tinh xảo, mỏng tựa lưỡi dao. Đáng kinh ngạc hơn nữa là từng đường vân trên cọng lông đều rất rõ ràng, nếu không nói ra chắc hẳn mọi người đều cho rằng đây là một sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo.

Xem ra đối thủ đã phát hiện được tung tích của họ. Vừa nghĩ đến đối thủ đang truy đuổi, Lỗ Nhất Khí bỗng nhớ tới Dưỡng Quỷ Tỳ. Cô đã lẽo đẽo theo sau họ suốt cả ngày, song trời vừa tối lại biến mất tăm. Trong lòng cậu chợt dấy lên một cảm xúc vô cùng khó tả.

Đội cảnh vệ của phó quan Ngô đã tổn thất mất hai người. Một người bị cào rách cổ họng, ngay cả người ngoại đạo như Lỗ Nhất Khí khẽ liếc mắt cũng có thể nhận ra, đó là vết thương do sợi lông vũ mỏng như dao sắc cứa đứt. Người còn lại hộp sọ bị mổ vỡ toác, máu tươi lẫn óc nhễ nhại trào ra ngoài qua lỗ thủng.

Quỷ Nhãn Tam xác nhận hai người đều đã chết, bèn tháo bỏ súng ống đạn dược trên người họ. Mỗi cảnh vệ đều mang theo người một khẩu Mauser, một khẩu pạc hoọc và bốn quả lựu đạn trứng vịt. Quỷ Nhãn Tam không hào hứng với những thứ này, song hắn biết Lỗ Nhất Khí sẽ cần đến chúng.

– Tuy sức tấn công của chim ưng sắt vô cùng đáng sợ song chúng thân thể nặng nề, trên người lắp đầy cơ quát nên không thể bay xa, người điều khiển chúng có lẽ ở rất gần đây, chúng ta phải rời đi càng nhanh càng tốt!

Lão Mạc vừa nói vừa bước vào đại điện. Lão nhanh chóng cuộn cuốn sách thẻ tre lại, cất kỹ, rồi đi về cửa nách phía sau chính điện.

Nhìn những hành động của lão Mạc, Lỗ Nhất Khí đột nhiên cảm thấy có gì đó bất thường. Song giờ đây đã không còn thời gian để suy nghĩ kỹ hơn, cần phải lên đường gấp rút.

Nhưng còn chưa kịp bước tới cửa nách, đã chạm mặt với vị đạo trưởng, có lẽ là nghe động nên mới chạy tới. Lão Mạc chụp lấy cổ tay đạo trưởng, nói gấp gáp:

– Bên ngoài có địch thủ đang đến tìm chủ nhân của chúng tôi, không liên quan gì tới đạo trưởng, ông đừng nên lo lắng. Hãy chỉ cho chúng tôi một con đường kín đáo, chúng tôi đi rồi, cũng là bớt phiền phức cho ông!

Đạo trưởng có vẻ như đã biết trước được tình hình, chẳng kịp nghĩ ngợi đã nói luôn:

– Ra khỏi cổng sau, đi theo đường mòn, đi qua dốc Đá Lăn, vượt qua đỉnh núi Thông Vẹo và dốc Cỏ Tóc, tiếp tục qua sông núi Phân Thuỷ, sẽ tới con đường cái quan ở phía tây bắc của khe núi. Khi đó, mọi người muốn đi về hướng tây, lên phía bắc hay sang phía đông đều được. Đây là con đường thoát thân gần nhất, rất ít người biết được, duy có sống núi Phân Thuỷ giờ đây không rõ liệu còn đi qua được nữa hay không, sống núi này quanh năm có nước chảy tràn, trong thời tiết này hẳn đã đóng băng rồi.

– Dù sao thì cũng phải đi. Phó quan Ngô, ông đã thấy rõ sự nguy hiểm mà chúng ta phải đối mặt lần này rồi phải không? Chúng ta còn cách bảo cấu rất xa, mà ông đã thiệt hại mất hai chiến hữu. Hay là thế này đi mục đích của đối thủ chỉ nhắm vào mấy người chúng tôi ông hãy dẫn người của ông đi theo con đường từ cổng trước, sau đó chạy về phía tây. Nếu chúng tôi có thể thoát thân, chúng ta sẽ hẹn gặp lại nhau ở Hàm Dương, tại, tại… – Lỗ Nhất Khí không biết Hàm Dương có những nơi nào.

– Tại trại Mười Tám Dặm bên sông Vị Thuỷ ngoài thành Hàm Dương! – Lão mù đứng cạnh đã kịp lên tiếng. Cả đời lão tung hoành ngang dọc khắp vùng tây bắc, nên thông thạo khu vực này còn hơn cả cơ thể của chính mình.

– Phải! Chúng ta sẽ hẹn gặp nhau ở trại Mười Tám Dặm bên sông Vị Thuỷ ngoài thành Hàm Dương. Khi đó, chúng ta sẽ cùng khai quật bảo cấu ở phía chính tây và tây bắc, chuyện chia chác vẫn tiến hành như cũ! – Trải qua những giây phút vào sinh ra tử vừa qua, suy nghĩ của Lỗ Nhất Khí càng trở nên rành mạch, giọng điệu cũng khí thế phi phàm, khó bề phản bác.

Phó quan Ngô vẫn chưa hết kinh hoàng, phản ứng có phần chậm chạp. Bởi vậy ông ta chẳng kịp suy nghĩ gì nhiều, còn cảm thấy may mắn vì có được lời hứa từ cậu thanh niên phi phàm kia. Đối với ông ta, lời hứa này còn đáng tin cậy gấp trăm lần so với lời nói của chú Tư. Thế là bọn họ chia hai đường chạy trốn…

Lỗ Nhất Khí đã gặp lại Dưỡng Quỷ Tỳ sau khi bọn họ băng qua dốc Đá Lăn. Cái bóng trắng như tuyết của cô nép dưới một gốc thông lẻ loi giữa lưng chừng dốc, tay dắt một con la màu trắng. Lỗ Nhất Khí đi ngang qua trước mặt cô, mỉm cười với cô như với một người quen cũ. Dưỡng Quỷ Tỳ vội vã nhìn đi chỗ khác, hai má bỗng chốc ửng hồng.

Dưỡng Quỷ Tỳ không phải tới để chặn đường bọn họ điều này khiến Lỗ Nhất Khí thở phào nhẹ nhõm. Nhưng tại sao cô lại bám theo họ suốt cả ngày hôm trước? Tại sao giờ đây lại xuất hiện ở chốn này? Song vẫn có một điểm rất rõ ràng, đó là con đường kín đáo mà đạo trưởng chỉ cho họ không phải là hoàn toàn bí mật, chí ít Dưỡng Quỷ Tỳ cũng biết, hơn nữa, cô còn đến trước cả bọn họ mà chờ sẵn nơi đây.

– Lão Mạc, lý luận của Mặc gia các vị cho rằng trên thế gian này có ma, cô Dưỡng Quỷ Tỳ kia hẳn cũng là một bằng chứng! – Dưỡng Quỷ Tỳ đã khơi dậy một mối khúc mắc rất khó giải đáp trong lòng Lỗ Nhất Khí.

– Ha ha… Thực ra người đời đều đã hiểu sai về thiên “Minh quỷ” của Mặc gia chúng tôi. Khái niệm ma quỷ trong lý luận của Mặc gia không liên quan gì tới khái niệm ma quỷ hiện nay. Ý của lão tổ tông gia tộc chúng tôi là muốn người đời hiểu rõ rằng, ma quỷ kỳ thực là một thứ năng lượng, một thứ năng lượng mà người ta có được khi còn sống, sau khi chết vẫn tiếp tục tồn tại.

Thứ năng lượng này nương náu trên cơ thể con người, có mối liên hệ vô cùng mật thiết tới tình trạng sức khoẻ của con người. Có điều thứ năng lượng này không thể sử dụng được, nó chỉ bột phát khi bị kích thích trong những trường hợp vô cùng cấp bách ở một số ít người, chẳng hạn như một đứa trẻ năm tuổi vì muốn cứu mẹ mình mà có thể đẩy cả một cây xà nặng nghìn cân. Nói một cách nôm na, đó chính là một dạng tiềm năng cực lớn mà đôi khi con người có thể bộc phát được. Đương nhiên, cũng có người nhờ biết tu luyện mà điều khiển được thứ năng lượng này, hơn nữa còn tôi luyện nó, phát triển nó. Song để làm được điều này thì hẳn đã không còn là người thường nữa, mà đã thành thần tiên.

– Ồ! Không biết dạng năng lượng này có hình thái tồn tại ra sao, hẳn là sẽ có cách để vận dụng nó! – Lỗ Nhất Khí cảm thấy quan điểm về ma quỷ của lão Mạc vô cùng lý thú, cách lý giải như thế này cậu mới nghe thấy lần đầu.

– Nó có lẽ là một loại trường, giống như đạo trường tu luyện của Bồ Tát, huyền trường tu luyện của thần tiên. Chỉ có điều trường ma quỷ là nhờ con người mới được sinh ra, không thể tu luyện đến mức độ lớn lao như các trường kia. Cũng chính vì ma quỷ do con người sinh ra, nên thông thường những người sống hết tuổi trời chết nhẹ nhàng sẽ không để lại hồn ma, còn những người chết oan ức, chết bất đắc kỳ tử, chết không nhắm mắt, trước khi chết sẽ để lại những ý niệm vô cùng mãnh liệt. Những ý niệm này sẽ trở thành một trung tâm mới để năng lượng kia dựa vào, tức là vô hình trung đã xuất hiện một trường chứa đầy năng lượng. Một số trường có thể di chuyển khắp nơi, một số trường lại bị hạn chế trong một khu vực nhất định. Đương nhiên, cùng với thời gian, năng lượng sẽ dần dần suy yếu cho tới khi tiêu tán hoàn toàn.

– Vậy liệu nó có giống như từ trường, điện trường trong vật lý không? – Lỗ Nhất Khí không nén nổi tò mò, lại hỏi. Những kiến thức học được ở trường Tây học đã cho cậu ít nhiều gợi ý.

– Cái này thì tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng, sở dĩ có chuyện ma quỷ hại người, là vì người đã chết để lại trường lực quá lớn, tác động và gây rối loạn tới trường khí trên cơ thể người sống; hoặc là cơ thể người sống quá yếu ớt, không đủ sức chống chọi lại với trường lực mà người chết để lại, bởi vậy mới có hiện tượng người gặp ma rồi phát điên hoặc hồn bay phách tán. Tôi cho rằng đây chính là điều mà người đời vẫn thường nói, người hào quang cao(*) không sợ ma, người hào quang thấp dễ bị ma nhập.

(*) Theo cách nói của Mật tông, đây chính là luân xa đỉnh đầu hay luân xa Phạn huyệt trong bảy luân xa trên cơ thể. Đây là vầng hào quang nằm ở bên ngoài cơ thể, phía trên đỉnh đầu, được con người phát hiện ra từ khi có kỹ thuật chụp ảnh bằng tia hồng ngoại, được quy về lĩnh vực mà khoa học chưa thể nhận thức được. Kỳ thực, quầng sáng này người nào cũng có, chỉ khác nhau về mức độ mạnh yếu, có liên quan mật thiết tới tình trạng sức khoẻ của cơ thể. Con người càng khoẻ mạnh cường tráng thì vầng hào quang càng rõ rệt.

Thông thường, khi một người đã nói đến suy đoán của mình trước một một sự việc nào đó, cho thấy những gì mà họ biết, họ đã nói hết rồi. Lão Mạc cũng không ngoại lệ.

– Ồ! – Lỗ Nhất Khí đang nghĩ ngợi, cậu suy nghĩ còn nhiều hơn những gì lão Mạc vừa nói. Mạch tư duy của cậu học sinh được đào tạo từ trường Tây học này luôn gắn liền với khoa học, đối với cậu “ma” chính là một loại trường sinh vật không bị phân tán, hình thái của nó cũng tương tự như điện trường hoặc từ trường vô hình. Dạng trường lực như vậy sẽ gây ảnh hưởng tới hệ thống sinh lý của người sống ở một mức độ nhất định, từ đó gây nên tổn thương đến tinh thần và cơ thể của người sống. Những đạo sĩ chuyên trừ ma đuổi quỷ có lẽ đã dùng một số công cụ đặc biệt như bảo kiếm, kim bạc, bột lân thạch chứa sắt để phá hoại các loại từ trường, điện trường. Còn việc Dưỡng Quỷ Tỳ nuôi ma, kỳ thực là dùng một phương thức nào đó để tích trữ và kiểm soát trường lực này.

Tuy Lỗ Nhất Khí không ngừng suy nghĩ và phân tích, nhưng đôi chân đã tăng tốc chạy nhanh hơn. Sự xuất hiện của Dưỡng Quỷ Tỳ cho thấy con đường dưới chân không hề an toàn, họ cần phải tẩu thoát nhanh chóng trước khi đối thủ kịp bố trí khảm tử và nút lẫy.

Đợt tấn công tiếp theo của đối thủ đã ập đến nhanh hơn so với dự liệu. Họ còn chưa kịp tới đỉnh Thông Vẹo, từ trong màn đêm mịt mù bỗng xuất hiện một bóng đen ma quái tựa u hồn, đuổi gấp theo sau, chính là thiết ưng!

Muốn né tránh những cú tấn công từ trên không trung, tốt nhất phải tìm được một vật cản nào đó không cho thiết ưng lại gần hay sà xuống. Mà trên đỉnh núi Thông Vẹo trước mặt quả thực có một đám thông mọc cong queo vẹo vọ, bởi vậy lão Mạc kêu lớn:

– Mau lên, chạy vào rừng thông!

Tốc độ của Quỷ Nhãn Tam và lão mù cực kỳ nhanh chóng, dù gì họ cũng có nền tảng công phu võ học. Quỷ Nhãn Tam còn có con mắt tựu dạ nhìn thấu đêm đen, chướng ngại trên đường đi nhìn rõ như ban ngày, nên lao đi vùn vụt như mèo luồn chó nhảy. Lão mù từng là tặc vương, ngày cướp đêm trộm tung hoành, tuy không nhìn thấy gì, song lão có thể nghe rất rõ tiếng bước chân của Quỷ Nhãn Tam, bởi vậy cứ thế bám theo sát gót.

So với họ, hành động của Lỗ Nhất Khí chậm chạp vụng về hơn rất nhiều. Cậu va vấp liên tục, mấy ỉần loạng choạng suýt ngã bổ chửng. Cậu chậm chạp nên lão Mạc cũng không thể nhanh được, bởi lão có nhiệm vụ đi sau đoạn hậu, lão tự thấy mình có trách nhiệm bảo đảm sự an toàn cho Lỗ Nhất Khí. Tuy nhiên lão cũng cảm thấy có chút hoài nghi, chàng cao thủ tuyệt đỉnh phi phàm kia sao lúc này lại có vẻ bê bối đến thế, liệu cảm giác của mình có sai lầm gì hay không?

Tuy tình thế vô cùng cấp bách, song vào đúng lúc thiết ưng bay lướt ngang qua đỉnh đầu, thì họ đã tới sát rừng thông. Bởi vậy, thiết ưng buộc phải điều chỉnh góc độ bay để lượn lên trên, nếu không dù có túm được con mồi, nó cũng sẽ bị vướng vào cành cây. Muốn ngăn chặn bốn người họ lại, chỉ có cách tấn công từ bên cạnh.

Khi họ đã lao đến sát rừng thông, đột ngột xuất hiện thêm một con thiết ưng khác lao vụt xuống từ mé bên của con đường, mục tiêu nhắm vào Quỷ Nhãn Tam. Bởi lẽ chặn được người đầu tiên thì sẽ chặn được những người ở sau.

Quỷ Nhãn Tam bị đánh trúng, cả thân người lộn nhào liền mấy vòng. Tuy bộ cánh sắt, vuốt sắt và mỏ sắt của thiết ưng đều không chạm dến da thịt, nhưng cú tấn công như vũ bão từ trên ập xuống đã giáng trúng cây Vũ Kim Cương trong tay hắn, phát ra những tiếng choang choảng như đánh cồng. Quỷ Nhãn Tam không dám gồng mình chống đỡ, mà thuận theo đà của cú tấn công, cả người lộn nhào lăn đi lông lốc, bộ dạng tuy rất lôi thôi, song cơ thể không đến nỗi bị nội thương.

Sau cú tấn công đầu tiên, thiết ưng khẽ vẫy đôi cánh một cái, vụt lên cao hơn ba thước rồi lại tiếp tục bổ nhào xuống. Cách tấn công liên tiếp với tốc độ chóng mặt nhường đấy, đến cả lão tặc vương cũng không thể ngờ đến. Lão bám sát sau lưng Quỷ Nhãn Tam, nên Quỷ Nhãn Tam vừa ngã nhào, lão lập tức trở thành mục tiêu tiếp theo.

Lão mù cũng không thể chống đỡ nổi, bởi lẽ lão vốn không hề có ý định chống đỡ. Luồng kình phong dữ dội ào tới từ đôi cánh của thiết ưng đã khiến lão ý thức được rằng lão không đủ khả năng chống cự, nên lão lập tức ngã nhào. Nói chính xác hơn, là lão tự quăng người đi. Do không nhìn thấy gì, nên ngã đúng vào một bãi đá vụn lởm chởm, cây bụi rối nùi, trông bộ dạng còn thảm hại hơn cả Quỷ Nhãn Tam. Lão mù còn hơi đâu mà để ý tới hình tượng, vừa tiếp đất lập tức lăn người đi một quãng xa. Đối với một người giang hồ như lão, bảo vệ tính mạng vẫn là quan trọng hàng đầu.

Thiết ưng lại đánh hụt mục tiêu, cơ thể là là sát đất mà bay vụt qua.

Khi Lỗ Nhất Khí và lão Mạc đuổi tới nơi, lão mù và Quỷ Nhãn Tam đã lồm cồm bò dậy. Lúc này, họ cần phải cấp tốc vượt qua quãng đường còn lại, lao vào trong rừng thông, mới có thể tạm thời thoát nạn.

Thế nhưng đã muộn. Hành động của họ vẫn chậm một bước. Con thiết ưng đầu tiên đã kịp lượn nửa vòng tròn quay trở lại, lần này góc độ tấn công đã thấp hơn nhiều, nên càng khó tránh.
 
Quyển 3 - Chương 5: Tiếng thét gầm


Lão Mạc rút soạt thanh kiếm, đây là một thanh bảo kiếm thô nặng, kiểu cách cổ xưa, từ thanh kiếm vụt ra hai đạo linh quang sắc bén, kèm theo luồng hào quang xanh thẳm chiếu rọi tứ bề. Lão Mạc vung thanh kiếm chém thẳng về phía thiết ưng, quét thành một vệt sáng loà hình rẻ quạt, khác nào ráng xanh lao thẳng lên không, kèm theo tiếng gió rít như nhạc trời trong trẻo. Cảnh tượng trước mắt lập tức dâng lên trong lòng Lỗ Nhất Khí một niềm hào khí ngút trời.

Khi bảo kiếm trong tay lão Mạc va chạm với vuốt sắt của thiết ưng, khẩu súng trong tay Lỗ Nhất Khí cũng đồng thời khai hoả, viên đạn bắn thẳng vào đầu của con chim sắt. Thiết ưng bật ngược lên trên, rồi lại lập tức lao bổ xuống.

Lần này không đợi lão Mạc vung kiếm, Lỗ Nhất Khí đã bắn tiếp phát súng thứ hai, vẫn nhắm đúng đầu chim. Thiết ưng lại bật ngược lên trên. Đương nhiên nó vẫn tiếp tục lao xuống, cho dù có bắn nát đầu nó thì nó cũng không chết, nó vẫn có thể tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tàn sát. Hơn nữa, đợi đến khi con thiết Ưng thứ hai kịp quay trở lại, trái phải giáp công, trên dưới bao vây, hậu quả sẽ khó mà tưởng tượng.

Lỗ Nhất Khí đã hết cách, nhưng không có nghĩa là những người khác cũng hết cách. Mạc Thiên Quy là truyền nhân chính tông của Mặc môn, đã từng tranh đấu giằng co với Chu gia suốt mấy chục năm, nếu đến lão cũng không nghĩ ra được cách gì ứng phó, thì mấy chục năm lăn lộn giang hồ kể như cũng uổng công. Tuy nhiên, cách ứng phó thiết ưng của lão không phải chỉ vung tay là thực hiện được, mà cần có sự chuẩn bị từ trước, hoặc là phải có người yểm trợ, chẳng hạn lúc này đây có Lỗ Nhất Khí liên tiếp nã đạn bắn trúng đầu thiết ưng, khiến nó không thể lao xuống.

Khi Lỗ Nhất Khí đã bắn được năm phát đạn, lão Mạc cũng đã kịp lôi ra một hộp gỗ dẹt, bật nắp hộp ra. Khi Lỗ Nhất Khí bắn tới phát đạn thứ mười, đôi bàn tay thô kệch rắn rỏi song không kém phần khéo léo của lão đã kịp bấm lướt kéo gạt một hồi, từ trong hộp vụt ra một vật gì trắng loá, đã bay được nửa đường.

Đạn trong ổ còn chưa bắn hết, con thiết ưng đã xoay tít thân người, lao vụt xuống theo sườn núi, phạt đứt ngang một cây thông đuôi ngựa to bằng miệng bát, sau đó lăn lông lốc xuống dưới, cuốn theo vô số đá vụn, cành gãy, cỏ dại, tuyết đọng, rồi mất hút vào trong màn đêm đen thẳm bên dưới sườn núi, một lát sau chỉ thấy vẳng lại một tiếng va đập rúng động.

Con thiết ưng thứ hai quả nhiên đã quay trở lại. Nhưng thứ mà lão Mạc phóng ra vẫn còn một nửa đang lượn vòng trong không trung, lập tức chìm vào trong phạm vi che phủ của thiết ưng. Bất thình lình, con chim sắt lạng nghiêng người, đâm sầm vào mé bên kia của khu rừng, mau chóng mất tăm phía sau rừng thông. Vào thời khắc nó biến mất, cơ thể xoay nghiêng của nó đã chúc ngược trở xuống.

Lỗ Nhất Khí chẳng buồn xem hai con thiết ưng rơi xuống như thế nào, mà cậu thấy tò mò hết sức với thứ vừa phóng ra từ hộp gỗ của lão Mạc.

Bản thân chiếc hộp gỗ đã là một món đồ quý giá hiếm thấy, bề mặt gỗ lên nước đen bóng, với những đường vân vàng óng, thì ra được làm từ gỗ đàn hương “mặc vân kim vũ”* đã gần như tuyệt chủng. Nghe nói chất gỗ của loài cây này bền cứng khác thường, nhưng trọng lượng lại nhẹ xốp như mây.

* Có nghĩa là: vân mực mưa vàng. (Nd)

Thứ chứa trong hộp đã được phóng ra hết sạch, không sót lại một chút nào. Nhưng trước đó, Lỗ Nhất Khí cảm giác những thứ vừa bay vòng vèo trong không trung với tốc độ chóng mặt vừa nãy rất giống côn trùng, song vật đó làm thế nào để chế phục được con thiết ưng khổng lồ kia, cậu lại không nhận ra được.

- Mau đi thôi!

Lão Mạc thúc giục, nụ cười quen thuộc đã biến mất khỏi khuôn mặt, thay vào đó là vẻ căng thẳng cực độ.

Cả bốn người chạy thục mạng đến vạt rừng thông nghiêng ngả, vội vã băng qua khu rừng. Đột nhiên, lão Mạc đang chạy ở cuối cùng bỗng tung mình nhảy liền mấy bước, vụt đến bên cạnh Quỷ Nhãn Tam, chụp ngay lấy bả vai hắn.

Hành động này khiến cả ba người đều giật mình thất kinh. Lão mù lùi vội một bước, phóng chếch cây gậy thép lên trên, đầu gậy nhọn hoắt nhắm thẳng vào đầu lão Mạc. Lỗ Nhất Khí không kịp dừng lại, còn bước dấn thêm hai bước nữa.

Quỷ Nhãn Tam và Mạc Thiên Quy đều khựng cả lại, giống như hai thân cây đột nhiên mọc lên ở giữa rừng.

Quỷ Nhãn Tam đứng yên bất động, không phải là hắn không muốn cử động, mà do cú chụp của lão Mạc đã khiến hắn không thể nhúc nhích.

Lão Mạc đã cử động, song chỉ cử động phần miệng:

- Cậu có biết định bùa chú “lãnh huyết định tức”* của Nghê gia không? – Nói đoạn, bàn tay lão nới lỏng ra một chút.

* Có nghĩa là “máu lạnh định hơi thở”,loại bùa chú này có thể khiến nhịp tim của con người trở nên cực chậm, hô hấp yếu tới mức gần như ngừng thở. Đây một loại bùa chú gần như đã thất truyền trong đạo pháp Mao Sơn. Nếu giải theo khoa học hiện đại thì đây kỳ thực là hiện tượng chết giả dưới tác động của ám thị tâm lý và sự trợ giúp của dược liệu.

Quỷ Nhãn Tam cảm thấy bả vai đã được thả lỏng, bèn gật đầu một cái.

- Vậy hãy mau mau vẽ bùa điểm chú cho bốn người chúng ta! – Lão Mạc vội vã hối thúc.

- Ồ! Đây là bùa chú dùng dể định cương thi không cho hoạt huyết mọc lông, nếu dùng để định người sống, thời gian kéo dài, phủ tạng trí não sẽ bị tổn thương! – Quỷ Nhãn Tam đáp.

- Vậy cậu hãy tính toán thời gian để giải định! Muốn sống thì phải nhanh lên! – Giọng nói của lão Mạc lần đầu tiên trở nên hung hãn bá đạo đến vậy.

Quỷ Nhãn Tam vội ngoái đầu nhìn Lỗ Nhất Khí, Lỗ Nhất Khí khẽ gật đầu với hắn.

Bùa định cương thi không cần vẽ, bởi lẽ Quỷ Nhãn Tam lúc nào cũng mang sẵn bên mình. Bốn người lập tức ngồi xuống, xếp bằng dưới một đám thông cao lớn cành lá rậm rạp, đối diện với nhau. Quỷ Nhãn Tam cấp bách rắc tro thơm vẽ đàn vị, cắm lệnh bài phân ranh giới âm dương.

Lúc này, lão mù đột nhiên kêu khẽ:

- Có âm thanh lạ!

Ngay sau đó, ba người còn lại cũng đều nghe thấy. Nó giống như tiếng gió mạnh gào rú, tiếng thú dữ thét gầm, tiếng ma quỷ gào khóc, còn xen lẫn cả những tiếng ken két trèo trẹo tựa như tiếng mài răng, nhai xương.

Vẻ mặt luôn tươi cười của Mạc Thiên Quy đã chìm ngập trong một nỗi khiếp hãi tột độ. Có thể khiến một cao thủ như lão cũng phải khiếp sợ, không biết thứ quái vật kia khủng khiếp đến mức độ nào?

- Mau! – Lão Mạc đã căng thẳng đến tột cùng, chỉ bật ra được một chữ.

Quỷ Nhãn Tam vội vàng dán bùa chú lên trán bốn người, lầm rầm trong miệng:

- Không thở máu tự lạnh, quay mình về phòng âm, linh quang dưới mi tâm, thân thể chìm chín suối…

Vừa niệm xong câu cuối cùng, Quỷ Nhãn Tam liền thè dài đầu lưỡi, liếm vào phía dưới lá bùa dán trên trán mình, rồi lập tức bất động như một pho tượng đất.

Trong khi hắn lầm rầm tụng niệm, Lỗ Nhất Khí từ từ chìm vào ảo giác. Cậu thấy mình bước vào một thế giới tối tăm lạnh lẽo, đầy rẫy ma quỷ âm hồn, nhập vào địa ngục thâm u, bị đẩy xuống dòng nước tối đen buốt giá dưới chân cầu Nại Hà. Từ trong dòng nước đen ngòm, vươn ra vô số cánh tay gầy gò xương xẩu túm chặt lấy cậu lôi xuống dưới. Cậu càng chìm càng sâu, xung quanh chỉ còn một màu đen thăm thẳm…

Cậu bất giác rùng mình ớn lạnh, rồi bừng tỉnh. Khoảnh khắc vừa rồi đã khiến cậu bải hoải rã rời, mệt mỏi như thể vừa băng qua mấy trùng núi cao vực thẳm. Vừa mở mắt ra, cậu liền nhìn thấy lão Mạc và lão mù cũng người mở mắt kẻ ngẩng đầu. Nhìn vào bộ dạng và thần thái của họ, cậu biết họ cũng không khá khẩm hơn mình là bao.

Quỷ Nhãn Tam vẫn chưa tỉnh, song lá bùa trên trán hắn đã rớt xuống, dính lủng lẳng trên đầu lưỡi thè lè của hắn, chẳng khác nào một thây ma chết treo.

Lỗ Nhất Khí đang định vươn tay giật lá bùa xuống cho hắn, thì Quỷ Nhãn Tam đã phụt ra một hơi thật mạnh, thổi bay lá bùa trên lưỡi rồi bừng tỉnh dậy.

Họ đều không biết bản thân đã bị định chú bao lâu, song không còn nghe thấy những âm thanh quái dị ban nãy nữa.

Vừa bừng tỉnh dậy, Quỷ Nhãn Tam đã lập tức quay sang hỏi lão mù:

- Lão mù, nghe xem, đi chưa?

Lão mù không nói gì. Kỳ thực ngay sau khi tỉnh dậy, lão đã lập tức dỏng tai nghe ngóng xung quanh. Cuối cùng, da thịt trên gò má lão cũng đã rung lên, từ đôi môi mỏng dính ẩn dưới hàng ria nhọn bật ra vài tiếng:

- Đi rồi, nhưng chưa xa!

Lão Mạc dường như cũng đã đoán ra được sự tình, vội nói:

- Cứ đi đã rồi tính tiếp, hẳn sẽ có cách lừa chúng biến đi!

Thế là bốn người đều đứng cả dậy, tiếp tục tiến lên, song lần này họ không chạy nữa, mà thận trọng lần dò từng bước một.

Lỗ Nhất Khí rất muốn hỏi xem đó là thứ gì, song dù sao Mạc Thiên Quy cũng thuộc môn phái khác, nếu hỏi trực tiếp e rằng không thích hợp. Cậu bèn ngoảnh sang Quỷ Nhãn Tam hỏi khẽ:

- Anh Tam, thời gian anh định chú hơi nhanh phải không, nên thứ đó vẫn chưa thể đi xa?

- Lưỡi của tôi chỉ có thể dựng lên được trong chừng đấy, chỉ có chiêu này thôi, nếu không sẽ không định chú nổi cho tôi! – Quỷ Nhãn Tam có vẻ bất lực.

Thì ra Quỷ Nhãn Tam chưa bao giờ sử dụng bùa chú “lãnh huyết định tức” cho cùng một lúc bốn người, bao gồm cả hắn trong đó, lại phải định sẵn thời gian để gỡ bỏ. Sau khi bùa chú đã định, bản thân hắn sẽ không thể kiểm soát được hành vi của tay chân nữa, bởi vậy buộc phải dùng lưỡi giữ chặt lá bùa. Lá bùa chính được định trên mặt hắn, sau đó thè lưỡi dựng lên. Một lức sau, cơ bắp và thần kinh tự nhiên sẽ kéo lưỡi hạ xuống, như vậy sẽ kéo được lá bùa chính xuống, giải định chú cho ba người.

- Như vậy chúng ta mới chỉ được định trong một khoảnh khắc lưỡi của anh dựng lên thôi hay sao? Vậy mà tôi cảm thấy dài dằng dặc cứ như mình đã chết đủ một lần rồi! – Lỗ Nhất Khí không giấu nổi vẻ ngạc nhiên.

- Thế cũng là lâu lắm rồi! Thứ dựng lên được lâu nhất trên người hắn chính là cái lưỡi kia đấy! Hờ hờ! – Lão mù xen ngang châm chọc, nhưng hai tiếng cười của lão rõ là nhạt nhẽo vô duyên.

- Lỗ môn trưởng nói đúng đấy, vừa rồi chúng ta đã đi hết một vòng quanh Quỷ Môn quan, may mà bùa chú có hiệu lực, nếu không giờ đây có lẽ trên người chúng ta chỉ còn bàn chân là dựng được lên thôi! – Nụ cười vẫn chưa thể trở lại trên khuôn mặt của Mạc Thiên Quy, khiến người khác bất giác cũng thấy tim gan thắt lại theo.

- Mọi người nhìn này! – Lão Mạc vừa nói vừa đưa tay vỗ lên một cây thông. Thân cây vừa rung khẽ, cành cây, lá cây bỗng chốc rơi xuống tơi tả như mưa.

- Lần này xem chừng Chu gia quyết một đòn tận diệt, nên ngoài thiết ưng, còn có cả mây thiết ưng! – Lão Mạc nói, ngữ điệu đầy vẻ bàng hoàng.

- Mây thiết ưng? Cũng là thiết ưng ư? Vừa rồi chẳng phải ông đã dễ dàng đuổi được hai con đi hay sao? Dù không thể đuổi được hết, hẳn là vẫn có thể trốn được phải không? – Rõ ràng Lỗ Nhất Khí vẫn chưa thể phán đoán dược mức độ lợi hại của mây thiết ưng qua các hiện tượng trước mắt. Đây chính là điểm yếu của cậu, trước những thứ không có linh khí, cảm giác của cậu rất kém. Còn lão mù và Quỷ Nhãn Tam đều là những tay giang hồ lão luyện, vừa nhìn thấy những cành thông, lá thông rơi xuống, dựa vào cảm giác của mắt và tai, lại thêm một điều kiện tối quan trọng nữa, đó là kinh nghiệm giang hồ, họ lập tức đã phán đoán được tình hình. Đáng sợ, quả là quá đáng sợ! Mây thiết ưng bay qua, thế gió của nó đã chặt chém tan tác toàn bộ khu rừng.

- Khác chứ Lỗ môn trưởng! Suốt bấy nhiêu năm tôi đã chết đi sống lại trong tay Chu môn không biết bao nhiêu lần, tận mắt chứng kiến không biết bao nhiêu cao thủ phải bỏ mạng dưới mây thiết ưng. Mây thiết ưng do rất nhiều thiết ưng tổ hợp lại, hình thức rất đa dạng, như mây vảy cá, mây cuốn đuôi, mây xếp lớp, mây ô sao*… tổng cộng không dưới hai mươi loại. Thân hình của chúng nhỏ hơn thiết ưng đơn độc một chút, song tốc độ nhanh hơn rất nhiều.

Cánh, móng vuốt và mỏ của chúng sắc nhọn vô cùng, tuyệt đối không hề thua kém vũ khí thực thụ. Lỗ môn trưởng hãy nhìn vệt cắt trên những cành lá kia, chúng đều do luồng gió từ cánh của thiết ưng phạt đứt khi chúng bay qua! – Lão Mạc ngưng lại một thoáng, dường như là để Lỗ Nhất Khí có thời gian quan sát. Nhưng Lỗ Nhất Khí lại không nhìn, mà chỉ chờ lão Mạc nói tiếp – Đáng sợ nhất là phương pháp tấn công tổ hợp của chúng. Chúng sẽ kết hợp với nhau thành mây thiết ưng, uy lực của chúng đủ để băm nát toàn bộ khu rừng này thành một đống củi đun trong nháy mắt. Mỗi kiểu tổ hợp khác nhau lại có những đặc trưng sát thương khác nhau, chúng có thể căn cứ vào từng địa thế và hoàn cảnh để biến đổi hình thù trong nháy mắt nhằm tấn công kẻ địch. Còn chúng biến hoá bằng cách nào, không ai biết được, vì những người từng nhìn thấy chưa có ai toàn mạng trở về.

* Là một dạng mây đen mỏng xuất hiện sau cơn mưa, dân gian Trung Quốc cho rằng trông nó giống tán cây ô sao, nên đặt cho cái tên này.

- Nhưng vừa rồi ông đã có cách phá huỷ thiết ưng kia mà? – Quỷ Nhãn Tam đột nhiên lên tiếng.

- Đó là giống ong gỗ đá, Mặc môn chúng tôi chuyên dùng nó để đối phó với thiết ưng của Chu gia. Trong người thiết ưng có hai nhược điểm, thứ nhất là cơ quát trong người chúng xoay chuyển thuận chiều, một khi bị kẹt cứng hoặc phá hoại, thiết ưng sẽ không thể chuyển động được nữa; thứ hai là hệ thống điều khiển trong người chúng. Ở đây có hai giả thuyết, một thuyết cho rằng thiết ưng được điều khiển bởi lá bùa “tìm nhiệt khát máu”*, cũng có thuyết cho rằng bên trong thiết ưng có chứa một loại linh trùng quái dị có thể ngửi thấy máu của người sống. Với cả hai thứ này, đều có thể dùng bùa chú “lãnh huyết định tức” để giấu đi hơi thở và huyết khí của người sống, che mắt được thiết ưng. Ong gỗ đá thân mình nhẹ mà cứng như đá, gặp khe hở lập tức chui vào. Khi thiết ưng bay một mình, luồng gió do nó thổi ra sẽ giúp ong gỗ đá chui theo khe hở khá lớn tại gốc cánh và gốc chân của thiết ưng xâm nhập vào trong, kẹt cứng trong cơ quát, hoặc là bị cơ quát nghiền nát, mảnh vụn của nó sẽ phá huỷ được bùa chú hoặc giết chết linh trùng ẩn náu bên trong.

* Còn gọi là thú tử vu, là một dạng vu thuật, ban đầu thịnh hành trong phường thợ săn ở vùng Vân Nam. Vận dụng vu thuật này có thể vẽ ra bùa chú có khả năng bám theo hơi máu và hơi ấm của cơ thể sống, dán lên mũi sẽ giúp tên bắn trúng mục tiêu; dán lên mình chó săn, sẽ giúp chúng phát hiện ra con mồi nhanh chóng chính xác hơn.

Mạc Thiên Quy dừng lại một lát, rồi nói tiếp, trong giọng nói chất chứa đau thương:

- Thế nhưng ong gỗ đá không thể chui vào trong mây thiết ưng được. Sư thúc của tôi từng dẫn bốn đệ tử, mang theo một nghìn hai trăm con ong gỗ đá quyết đấu với mây thiết ưng, nhằm tranh giành một chiếc khánh đá khắc huyền văn từ đời Chu. Kết quả là cả năm người không ai có thể trở về. Mãi về sau, tôi lợi dụng một vị cô nương hoa khôi của lầu Ngọc Phượng để moi tin từ một gã tay chân trong Chu gia mới biết được tình hình về trận quyết chiến năm đó. Thì ra sau khi mây thiết ưng hình thành tổ hợp, luồng gió mà chúng quạt ra đã tạo thành những làn gió xoáy quái dị, khiến ong gỗ đá vốn thân thể nhỏ nhẹ không thể lại gần.

Lão Mạc dứt lời, không ai nói thêm gì nữa. Mọi người lặng lẽ thận trọng bước về phía trước. Chỉ một tiếng sỏi lăn cũng khiến cả mấy cao thủ giật mình cảnh giác.

Cuối cùng, họ cũng đã bước tới bên rìa cánh rừng, song không lập tức bước ra ngay. Tất cả đều giữ im lặng, để cho lão mù nghe ngóng động tĩnh xung quanh, rồi mới đưa ra quyết định.

Lão mù nghe ngóng một lát, chỉ thấy hai tròng mắt trắng dã đảo liền hai cái, cần cổ gầy nhẳng rướn sang một bên bất động. Rồi lão lên tiếng:

- Bây giờ thì không sao, nhưng lát nữa không chắc, muốn đi phải mau chân lên!

- Phải đấy! Mau lên!

Lão Mạc nói xong, lập tức dẫn đầu đoàn người, chạy ra khỏi rừng thông xiêu vẹo.

Thấy mọi người đều đã nhanh chóng bám theo, lão Mạc quay đầu lại nói:

- Chúng ta mau tới phía trước tìm thứ gì đó làm mồi nhử để lừa mây thiết ưng tụ lại ở đó, có vậy chúng ta mới vượt qua được sống núi Phân Thuỷ. Qua được sống núi Phân Thuỷ, chạy lên đường lớn nối thông mọi ngả, khi đó nếu chúng có muốn tóm được chúng ta cũng khó.

Song muốn qua sống núi Phân Thuỷ, trước hết phải vượt qua dốc cỏ Tóc. Trên dốc cỏ Tóc mọc đầy một loại cỏ tranh dài và mảnh, rủ xuống dọc theo triền dốc, tựa như một mái tóc dài rậm um tùm. Song vào mùa này cỏ tranh đều khô úa, hẳn là đã chìm sâu dưới tuyết cả rồi.

Lão Mạc vừa đến đầu dốc, đột nhiên dừng bước, rút thanh trường kiếm múa lên tít mù, tựa như một đám mây xanh vần vũ.

- Có vị nào biết tết hình nhân không? – Lão Mạc quay đầu lại hỏi.

Lỗ Nhất Khí và Quỷ Nhãn Tam đều quay sang nhìn nhau. Rất rõ ràng, cả hai người đều không biết. Lão mù mắt không thấy gì, chẳng cần hỏi đến. Xem ra việc này chỉ còn biết trông vào lão Mạc.

Nhưng thật bất ngờ, lão mù đã đột nhiên lên tiếng:

- Để tôi!

Nói đoạn, cắm ngay cây gậy vào khe đá trên sườn dốc, xắn ống tay áo lên, gom cỏ vê thừng, động tác vô cùng điêu luyện, thật khó tưởng tượng đó là một người mù.

Lão mù năm xưa tung hoành khắp vùng Tây Bắc, tết cỏ xe thừng với lão chỉ là chuyện vặt. Sau khi bị mù, lão náu mình trong ngôi mộ nghìn xác, nghiền ngẫm “Ban kinh” của Lỗ gia, tìm cách phục hồi công lực. Trong thời gian đó, hầu như ngày nào lão cũng loay hoay với cả đống hài cốt, nên thuộc làu làu đặc trưng kết cấu của cơ thể con người. Bảo lão tết một hình nhân bằng cỏ thực dễ dàng như trở bàn tay.

Một loáng sau, bốn con người cỏ đã đứng lù lù trên sườn dốc. Thật khó tưởng tượng, đám hình nhân mà lão mù vừa tết ra không những đầu mình tay chân đủ cả, mà còn tinh tươm gọn ghẽ, không một cọng cỏ nào bị lòi ra phía ngoài.

Lão Mạc lại lôi từ trong túi ra mấy sợi dây đàn rất đàn hồi, kéo thật thẳng thật căng, rồi buộc lên mình người cỏ.

- Nghê Tam, cậu có biết bùa chú “phù thân hình ý”* không? Nếu không biết thì tôi chỉ còn cách sử dụng “hoạt khí hoàn”** vậy – Lão Mạc vừa nói vừa bước lên phía trước đám người cỏ, móc ra viên “hoạt khí hoàn”.

* Đây là một loại bùa chú trong thuật Mao Sơn, dùng khí huyết của người sống tương ứng để điều khiển, khiến cho hình nhân có thể mô phỏng động tác của người thật, kỳ diệu vô cùng. Thông thường được giới trộm mộ dùng để dẫn dụ cương thi mọc lông, bởi lẽ có thể đánh lừa được ma quỷ trốn ra từ âm phủ tìm người thế thân chui nhầm vào hình nhân giả.

** Một loại thuốc viên sau khi bóc bỏ lớp vỏ bên ngoài sẽ toả ra hơi khí như sương, cách thức lan toả lên xuống giống hệt như hơi thở của con người. Đặt bên trong hình nhân, có thể đánh lừa được khảm sống chuyên nương theo hơi thở để tìm kiếm con mồi.

Quỷ Nhãn Tam không nói tiếng nào, chỉ lẳng lặng rứt từ trong túi ra mấy tờ bùa chú, rồi lầm rầm một thôi một hồi:

- Một hồn không phân đôi, ngươi chỉ là hình bóng, ngươi huỷ ta không sao, ta mất ngươi tự hỏng… – Vừa niệm vừa lần lượt dán bùa lên trên bốn người cỏ, sau đó đi tới bên lão mù.

Quỷ Nhãn Tam đứng trước mặt lão mù, miệng vẫn ra rả không ngơi. Lão mù dường như đã hiểu bước tiếp theo cần phải làm gì, lập tức cắn vào đầu ngón giữa cho chảy máu, bắn một giọt máu trúng phóc lá bùa dán trên một người cỏ, rồi lại nhỏ tiếp một giọt máu nữa vào lá bùa trên tay Quỷ Nhãn Tam.

Quỷ Nhãn Tam gấp lá bùa có dính máu của lão mù thành hình tam giác, rồi để lão mù dùng ngón cái và ngón trỏ vừa cắn rách kẹp lấy thật chặt.

Tiếp đó, những người còn lại gồm cả Quỷ Nhãn Tam cũng đều cắn rách ngón tay giữa điểm bùa giống như lão mù, rồi người nào giữ chặt lá bùa của người nấy.

Trước khi tới lượt mình, lão Mạc còn nhét vào bụng mỗi người cỏ một viên gì đó hơi trong suốt. Khi mọi người đã điểm bùa xong, trên mình bốn người cỏ bắt đầu toả ra làn khí mờ mờ.

- Phả hơi sương hệt như người thật, lái mười thuyền khéo mượn vạn tên. – Lỗ Nhất Khí buột miệng thốt lên, vì cậu chợt nhớ lại một điển cố lịch sử mà bác cậu đã từng kể cho cậu nghe, đó là câu chuyện Gia Cát Lượng thời Tam Quốc dùng thuyền cỏ mượn tên của quân Tào Tháo. Bác cậu nói rằng, sở dĩ kế sách của Gia Cát Lượng thành công không phải là nhờ vào sương mù trên sông, bởi lẽ nếu đúng là sương mù, thì thuyền bên phía họ cũng không thể đi lại bình thường. Chính là nhờ Gia Cát Lượng đã đặt vào trong người cỏ một loại thuốc viên có thể toả ra hơi khí tựa sương mù, khiến bên Tào Tháo nhầm tưởng đó là người thật, lại có thể che khuất hình thù của người cỏ. Chẳng lẽ loại thuốc đó chính là hoạt khí hoàn?

Câu nói của Lỗ Nhất Khí, mọi người đều nghe rõ, song chỉ có lão Mạc mỉm cười, trong nét cười xen lẫn sự đắc ý và cả niềm kính trọng. Từ biểu cảm của lão, Lỗ Nhất Khí đã biết suy luận của mình hoàn toàn chính xác.

Mọi việc xong xuôi, bốn người tiếp tục leo lên trên dốc. Vừa bước được vài bước, Lỗ Nhất Khí đã phát hiện ra một sự việc rất kỳ quái song vô cùng thú vị. Khi họ vừa chuyển động, đám người cỏ cũng nhúc nhích theo. Lỗ Nhất Khi cố ý vung tay lên, thì người cỏ có dán bùa thấm máu cậu cũng lập tức vung tay lên theo.

Hẳn là bùa chú “phù thân hình ý” đã phát huy tác dụng. Một lá bùa vẽ trên giấy bồi vàng quạch và mấy câu thần chú hàm hồ từ miệng Quỷ Nhãn Tam đã mang lại hiệu quả thần kỳ đến thế, quả là ngoài sức tưởng tượng.

Trong cuốn “Uấn trần thập độc pháp ký”* thời Bắc Tống có viết về vụ án có người yểm bùa chú lên hình nhân, bị hình nhân không chế đi giết người rồi tự sát, không rõ có điểm gì tương tự với bùa chú “phù thân hình ý” hay không.

* Đây là một bộ dật sử, tác giả là Thanh Đình Nhàn Nhân, chắc chắn chỉ là bút danh. Trong sách ghi chép lại mười câu chuyện quái đản, liệu có phải do tác giả tự tưởng tượng ra hay không, chưa thể khảo chứng. Nhưng nội dung vô cùng hấp dẫn, nên thường được sửa sang biên soạn lại và đưa vào các trước tác khác. Bản in cuối cùng của cuốn sách là vào năm Ung Chính đời Thanh, đến nay một số nhà sưu tập sách cổ vẫn còn giữ được.
 
Quyển 3 - Chương 6: Vượt cầu băng


Bốn người không leo thẳng lên dốc cỏ Tóc, mà đi vòng sang bên phải sườn đồi. Đây là lời khuyên của lão mù, cũng là kinh nghiệm lâu năm của lão. Lão kể rằng khi còn là Tây Bắc tặc vương, lão không bao giờ đi thẳng lên đỉnh dốc, vì như vậy sẽ không thể biết được tình hình ở phía sườn dốc bên kia. Hơn nữa đó lại là một vị trí tiến thoái lưỡng nan, nếu như đối thủ bài binh bố trận ở sườn dốc bên kia, bản thân sẽ trở tay không kịp, khó bề chạy thoát. Nên đi vòng sang một bên, vì nếu có mai phục cũng có thể phát hiện kịp thời, hơn nữa ở lưng chừng dốc, muốn lên xuống tiến lùi cũng dễ dàng hơn.

Tiếp đó, bốn người không gặp phải bất kỳ trở ngại nào, con đường cũng rất dễ đi. Không nhìn thấy mây thiết ưng, cũng không nghe thấy âm thanh quái đản khi nó bay qua. Thế nhưng trong lòng Lỗ Nhất Khí lại không ngớt lo lắng bồn chồn, song sau một cơn choáng váng kịch liệt, cảm giác này đột nhiên tan biến.

Chính vào lúc đó, trên dốc cỏ Tóc, sau một trận kình phong dồn dập, cả bốn hình nhân đã biến thành một đám cỏ vụn bay tung toé kín trời…

Vị trí của sống núi Phân Thuỷ vô cùng đặc biệt. Nó là một sống núi thẳng tắp như một cây cầu đá, xung quanh đều là đỉnh núi cao vút, nên trông nó giống hệt như một cây đũa gác ngang qua miệng bát. Mặt “cầu đá” chỉ rộng chừng một thước, nhưng chiều dài có tới ba bốn chục mét, hai bên là vách đá dốc đứng sâu thẳm.

Mặt “cầu đá” thẳng băng, song lại không hề bằng phẳng, mà có độ dốc nhất định. Bình thường, tại đầu cao hơn của sống núi là một nguồn suối, nước chảy ngày đêm, men theo sống núi chảy xuống phía dưới, từ trên mặt sống núi phân thành hai nửa, men theo hai bên vách đá dựng đứng mà chảy xuống, chính vì vậy mới có tên là Phân Thuỷ.

Nhưng lúc này, trên sống núi Phân Thuỷ không có nước chảy, chỉ thấy từng lớp băng giá nhấp nhô, mặt băng trong suốt, lấp lánh một sắc trắng lạnh lẽo, khiến người ta nhìn mà mắt run chân buốt, ớn lạnh trong lòng.

Mạc Thiên Quy chẳng hề bận tâm tới việc mặt “cầu đá” đóng băng có đi nổi hay không, vì đã đến nước này, dù không qua được cũng phải liều mạng mà đi. Nhưng địa thế nơi đây hiểm trở hiếm thấy, nếu đối phương lại bày thêm khảm chết, nút sống đến giáp công, thì cơ hội thoát thân quả là mù mịt.

- Lão mù, lão nghe kỹ xem! Nếu đã bước lên cầu mà lại có sự biến gì, chúng ta coi như đi đứt! – Lão Mạc nói.

- Không sao, đi thôi! Cứ lần lữa ở đây có mà đến mai cũng chưa qua nổi! – Lão mù khẳng định chắc nịch, nhưng không biết lời khẳng định này có thực sự xuất phát từ thính giác của lão hay không.

Lỗ Nhất Khí là người đầu tiên bước lên mặt “cầu đá” đóng băng, bước chân dò dẫm, vô cùng thận trọng. Quả thực, từ thưở cha sinh mẹ đẻ đến giờ, cậu chưa bao giờ đặt chân lên một con đường nào nguy hiểm đến vậy. Tuy trong lòng cậu run sợ đến hồn vía lộn nhào, song ngoài mặt vẫn bình thản như không. Bàn chân tuy chậm rãỉ bước từng bước một, song vẫn hiển lộ phong thái thận trọng hiếm thấy của bậc đại tông sư.

Quỷ Nhãn Tam lập tức bám sát sau lưng. Không biết từ lúc nào, hắn đã coi việc bảo vệ Lỗ Nhất Khí là nhiệm vụ quan trọng nhất của mình.

Lão mù theo sau Quỷ Nhãn Tam, lão Mạc vừa giơ tay định đỡ, đã bị lão mù gạt phăng đi, cứ thế bước thẳng lên cầu, phong thái vững vàng như một con diều hâu lão luyện.

Lão Mạc nhìn theo tấm lưng của lão mù, khoé mắt khẽ giật một cái, song lập tức ngoảnh đầu lại, thận trọng quan sát kỹ lưỡng xung quanh một lần nữa, không thấy có gì khác lạ, mới bước chân lên mặt “cầu đá”.

Bọn họ di chuyển không hề chậm, chỉ một lát sau, cả bốn người đã vượt qua quá nửa sống núi. Thế nhưng càng đến gần bờ bên kia lại càng khó đi, bởi lẽ phía đó là đỉnh dốc, vốn là nơi nước suối chảy xuống. Bởi vậy, lớp băng mỗi lúc một dày thêm, mặt đá cũng càng thêm dốc.

Lỗ Nhất Khí đi đầu tiên, cậu ngẩng đầu lên quan sát. Không còn bao xa nữa, tuy đoạn đường trước mặt hết sức khó đi, song chỉ cần cố thêm vài bước sẽ vượt qua được.

Thế nhưng đúng vào lúc này, bỗng vọng đến hàng tràng những âm thanh quái dị, hệt như tiếng ma hờn quỷ khóc, lại hệt như tiếng sói tru thú gầm.

Mây thiết ưng! Mây thiết ưng đã ập đến đúng vào thời điểm rất rất không nên xuất hiện.

- Mau lên, mây thiết ưng tới rồi! – Lão Mạc hốt hoảng kêu lên, giọng nói tràn đầy kinh hãi.

Lão mù cũng vội hối thúc Quỷ Nhãn Tam:

- Nghê Tam, đi mau chân lên!

Không phải Quỷ Nhãn Tam không muốn đi nhanh, mà hắn có muốn nhanh cũng không được. Lỗ Nhất Khí đang đi phía trước hắn, cậu không hề biết võ công, đi trên con đường trơn trượt nguy hiểm thế này quả là vô cùng chật vật.

- Lão giặc mù, chê chậm thì nhảy qua đi! – Ý của Quỷ Nhãn Tam là nếu lão mù thích nhanh thì cứ nhảy qua đầu họ mà đi.

Nhảy vọt qua đầu họ đối với lão mù không phải là chuyện khó khăn, song giờ đây lão đang ở trên một sống núi chật hẹp lại đóng băng dày trơn trượt, mặt băng lại lồi lõm gập ghềnh, lão có bạo gan đến dâu cũng không dám mạo hiểm.

- Một mình ta qua thì cũng làm được trò khỉ gì, ngươi lề mề thế không kịp yểm bùa chú “lãnh huyết định tức”, cả bọn cũng tiêu tùng cả nút! – Lão mù hét lên.

- Cậu cả đang đi phía trước, tôi yểm bùa chú bảo vệ mạng sống cho cậu cả rồi quay lại cùng lão liều mạng với thiết ưng! – Quỷ Nhãn Tam chỉ là tức khí nói bừa, chứ yểm bùa chú “lãnh huyết định tức” cho người khác ngay trên sống đá hẹp đóng băng, trong khi bản thân không giữ được cái mạng để hoá giải, người bị yểm bùa không rớt xuống vực tan xương, thì cũng chết cóng ở đây.

Trước tình thế nguy cấp, Lỗ Nhất Khí cảm thấy cũng nên nói một điều gì, bèn lên tiếng:

- Chắc là vẫn còn cách khác để đối phó với mây thiết ưng. Chẳng phải tôi đã bắn rụng một cọng lông sắt của thiết ưng hay sao, rồi con chim đấy cũng bay đi luôn.

Tiếng gầm rú của mây thiết ưng mỗi lúc một gần, nguy hiểm đã cận kề trong gang tấc. Song câu nói bâng quơ của Lỗ Nhất Khí đã khiến đôi mắt của lão Mạc bỗng nhiên sáng rực, chỗ bế tắc suốt bấy nhiêu năm qua trong chớp mắt đã được khai thông. Lão gấp gáp hỏi vội một câu:

- Mọi người có biết kiểu “sắp hàng nhân đôi” không?

- Tôi biết! – Lỗ Nhất Khí đã đọc được khái niệm này từ trong “Cơ xảo tập“, nói một cách đơn giản, chính là lấy một điểm làm chủ điểm, sau đó ở phía sau nó tiến hành sắp xếp kiểu nhân đôi theo một trình tự nhất định, giống như xếp quân bài Đô mi nô, đẩy đổ một quân sẽ khiến cả dãy phía sau theo nhau đổ rạp.

Khoé miệng Mạc Thiên Quy lập tức nhành ra, lão nói thật nhanh:

- Trước hết, hãy tìm ra con thiết ưng ở vị trí chủ điểm của kiểu hàng nhân đôi trong mây thiết ưng, sau đó lại tìm ra vị trí chủ điểm của kiểu hàng nhân đôi trong dãy lông cánh của chim ưng. Phá được chủ điểm trên cánh chim ưng, con chim ưng đó coi như đã bị tiêu diệt. Con chim ưng chủ điểm đã xử xong, thì mây thiết ưng cũng sẽ lập tức rã đám.

Lỗ Nhất Khí còn chưa kịp hiểu hết ý nghĩa trong lời nói của lão, thì một tiếng rít chói tai đã xé toạc bầu không tĩnh mịch, vùn vụt ập xuông, mang theo tiếng gió hú và những tiếng ken két vô cùng quái đản.

Lão Mạc sầm mặt lại, xoay người rút kiếm, một luồng sáng xanh lập tức vụt ra. Lão Mạc đã không còn là một ông già lùn béo lôi thôi nữa, mà chớp mắt đã trở thành một cao thủ chân thực trong làn kiếm quang sáng rực sắc xanh.

Chỉ cần là người, ai ai cũng cảm nhận được sự biến hóa này, bởi lẽ uy lực toả ra từ trung tâm làn kiếm quang là vô cùng ghê gớm và chấn động. Song đáng tiếc đối thủ lại không phải là người, mà chỉ là một cỗ máy, một công cụ, một khối sắt hình chim, không có sinh mệnh, lại càng không có cảm giác, bất kỳ sức mạnh nào đều không có khả năng uy hiếp được chúng.

Mây thiết ưng là một quần thể đồ sộ, chúng đang ồ ạt tràn qua từ mé bên kia của đỉnh núi, giống hệt như mây đen vần vũ, tầng tầng lớp lớp kéo về, thoáng chốc đã phong kín toàn bộ khoảng trời như miệng giếng được quây quanh bởi núi non trùng điệp.

Cũng chính vì địa hình ở đây giống như miệng giếng nên mây thiết Ưng không thể đồng loạt ập xuống. Cây cối và núi non xung quanh đã cản trở đến cách sắp xếp đội hình của chúng, lại thêm khe núi rất hẹp, nếu thiết ưng hạ xuống quá nhiều, sự biến hoá của các luồng khí lưu sẽ khiến chúng không thể vận hành một cách bình thường.

Phần lớn thiết ưng chỉ lơ lửng giữa không trung, xếp thành hình mây vảy cá, trông giống hệt như một lớp vảy đen trùi trũi treo ngang bầu trời, phát ra những âm thanh quái đản chói tai, văng vẳng trong khe núi kín mít như miệng giếng, nghe ghê sợ khôn tả.

Chỉ có một số ít thiết ưng nhào xuống, song cũng là một tổ hợp, đầu đuôi hô ứng, tuần tự trước sau, là mây ô sao. Do tốc độ của chúng rất nhanh, cự ly giữa chúng lại rất gần, bởi vậy nhất thời không thể nhận ra số lượng cụ thể là bao nhiêu, ước chừng khoảng hơn chục con.

Lão Mạc vung kiếm bổ ngay vào đầu con thiết ưng bay đầu tiên, cái đầu sắt lập tức toác thành hai nửa. Đòn tấn công dữ dội đã khiến nó thoái lui hơn một trượng, đám thiết ưng phía sau cũng nhất loạt bật lên hơn một trượng, quả là một sự kết hợp nhịp nhàng tựa như một cơ thể hoàn chỉnh.

Tuy thiết ưng đã bị chém vỡ toác đầu, song vẫn không thể ngăn chặn được nó tiếp tục tấn công. Nó là một cỗ máy, nên chỉ bị hỏng chứ không thể chết. Thế là sau khi lui lại hơn một trượng, đám mây ô sao lập tức tiếp tục đợt tấn công thứ hai, song khác ở chỗ con dẫn đầu đã không phải là con thiết ưng bị chém toác đầu khi nãy, mà là ba con thiết ưng. Vào lúc con thiết ưng vỡ đầu nhào xuống, thì hai con thiết ưng ở ngay sau nó đã lao vụt lên, đâm sầm vào từ hai bên trái phải, chớp mắt đã hợp thành một con chim ưng to lớn hơn nhiều. Con thiết ưng mới được tổ hợp có sáu bàn chân mang vuốt sắt, và thêm một đôi cánh lủng lẳng phía dưới bụng, tất cả đều sắc bén vô cùng.

Lão Mạc đã không còn đủ thời gian để khép lại cái miệng đang há ra vì kinh ngạc, vội vã vung tay xoay kiếm, dồn hết sức lực nhắm thẳng vào tổ hợp thiết ưng khổng lồ đang lao đến.

Kình lực tấn công lần này dữ dội hơn rất nhiều so với tưởng tượng của lão Mạc. Trọng lượng của ba con chim sắt chỉ dùng đến hai cặp cánh để nâng đỡ, nên khi lao xuống, xung lực mạnh hơn rất nhiều so với ba con chim đơn độc tấn công. Trong khi lão Mạc đang đứng trên mặt băng trơn trượt, hạ bàn không đủ vững, cho dù có sức mạnh bá vương cũng không thể phát huy. Hơn nữa, lão lại không thể sử dụng phương pháp tiết lực qua thân người hay giậm chân mượn lực để đối phó trước cú tấn công của thiết ưng, vì rất dễ khiến lớp băng nứt vỡ trượt đi, kéo theo cả bốn người cùng rớt xuống vực thẳm.

Hạ bàn không vững, lại không thể mượn lực hay tiết lực, điều đó đã biến một cao thủ trở thành một kẻ vũ phu chỉ biết dùng sức mạnh. Lại một cú va chạm khủng khiếp hơn nữa, những tia lửa bắn tung toé rạch nát đêm đen. Tổ hợp thiết ưng rụng mất hai chân, lập tức vẫy cánh bay vọt lên, song động tác đã chậm lại rõ ràng, có vẻ nặng nề khó nhọc, bởi lẽ giờ đây đã trở thành hai đôi cánh nâng đỡ ba con thiết ưng.

Tuy đã chặt đứt được hai cẳng chân sắt, song cú va chạm dữ dội này đã khiến cho lão Mạc trượt thẳng về phía sau. Hai chân lão không thể trụ vững, nên cứ thế trượt đi trên mặt băng trơn tuột chỉ một thước rộng. Đến cả hướng trượt lão cũng không thể khống chế nổi, lúc này chỉ cần lệch lạc một chút, sẽ lập tức rơi xuống hai bên vách sâu ngàn trượng như chơi.

Song lão Mạc chỉ trượt đi một đoạn bằng khoảng chiều dài hai bàn chân đã dừng lại được, bởi lẽ tuy mặt băng trên sống núi không thể giúp lão bám trụ, song đã có người ở phía sau chặn lão lại.

Lão Mạc đã va vào tấm lưng xương xẩu của lão mù, nhờ vậy mà có thể đứng vững, nhưng đổi thành lão mù nghiêng ngả muốn ngã.

Trên mặt băng trơn tuột và nhỏ hẹp, cộng thêm cú va đập kịch liệt nhường kia, chẳng ai có thể đảm bảo mình có thể đứng vững được, huống hồ lão mù lại không thể nhìn rõ mặt băng dưới chân, lão không dám giẫm chân lên phía trước để tiêu bớt lực, chỉ biết gắng gượng ghìm lại cơ thể đang chao đảo, cố giữ vững bước chân và thân hình.

May sao Quỷ Nhãn Tam đã kịp chụp lấy một đầu gậy của lão mù. Quỷ Nhãn Tam đã xoay người lại rất đúng lúc, thế nhưng động tác chụp lấy đầu gậy lại có phần bộp chộp. Cơn ngả nghiêng của lão mù lập tức truyền sang hắn, khiến Quỷ Nhãn Tam cũng chao đảo theo. Trong khi mặt băng nơi hắn đang đứng lại dốc hơn, trơn trượt hơn nhiều so với vị trí của lão mù.

Lỗ Nhất Khí cũng đã kịp xoay người, cậu lập tức thụp người xuống, đưa hai tay giữ chặt lấy thắt lưng Quỷ Nhãn Tam, giúp cho thân thể hắn ổn định trở lại.

Cuôi cùng cả bốn người đều đã đứng vững, song không ai dám cử động một ly.

Thiết ưng tiếp tục bổ xuống, nhưng lần này đã biến thành tổ hợp sáu con. Ba con chim sắt phía sau đã lao lên, kết hợp với ba con phía trước hợp thành một thể, ập xuống một lượt khác gì nửa vách núi đang lở xuống.

Khuôn mặt lão Mạc đã trở nên xám ngoét, lão nghiến răng nghiến lợi mà rít lên:

- Mau lên, mau phá vỡ chủ điểm!

Lỗ Nhất Khí hiểu rằng lão đang nói với mình, song trong lúc cấp bách nhường này, cậu thực sự không thể nhận ra được vị trí của con chim ưng then chốt trong kiểu sắp hàng nhân đôi của mây thiết ưng, lại càng không thể tìm ra chủ điểm của những cọng lông cánh.

Tổ hợp sáu con chim ưng đã lao xuống, lúc này không còn giống như chim ưng vồ mồi nữa, mà giống như một cú phang đập sấm sét.

Dù Lỗ Nhất Khí có tìm thấy chủ điểm hay không, có thể phá vỡ chủ điểm hay không, cũng đã muộn mất rồi. Lúc này chỉ còn trông chờ vào sự chống trả quyết liệt của lão Mạc, một cao thủ hiếm hoi còn sót lại của Mặc gia.

Mạc Thiên Quy đã chuyển sang thế hai tay cầm kiếm, lưng tựa sát lưng lão mù, tì chặt gót chân vào sau gót lão mù, rồi múa tít hai tay, thanh kiếm vạch thành một vòng hào quang bán nguyệt sáng chói. Đôi môi tái nhợt hé mở, một luồng khí đẩy thẳng từ đan điền lên giữa ngực, lão gầm lên một tiếng như sấm dậy, vang động cả đêm đen.

Tiếp đó là tiếng kim loại va vào nhau chát chúa và tiếng gãy vỡ choang choảng đinh tai, không biết là đã chém trúng thiết ưng nào, cũng không biết đã chém vào vị trí nào của thiết ưng, song lần này lão Mạc đã không thể khiến tổ hợp thiết ưng bay trở lên được nữa, mà chỉ có thể khiến góc độ lao xuống của chúng bật lên cao hơn một chút. Tổ hợp thiết ưng vẫn tiếp tục đâm xéo xuống dưới, lao đánh vèo qua sát đỉnh đầu bốn người.

Phản ứng của lão Mạc vô cùng đơn điệu, cả thân người lão đổ nghiêng xuống. Trong lần đọ sức này, có chỗ lão lường trước được, song vẫn có chỗ nằm ngoài dự liệu. Lão biết mình sẽ ngã xuống, song lại không ngờ rằng lão lại ngã một cách thẳng cánh, hoàn toàn không chỗ dựa như vậy.

Vào khoảnh khắc lão Mạc đổ người xuống, chiếc mũ dạ trên đầu lão mù đã bị hớt bay phần đỉnh, chỏm tóc cháy vàng tổ quạ trên đầu Quỷ Nhãn Tam chớp mắt đã bị xén phẳng đầu đinh, may sao Lỗ Nhất Khí đang cúi lom khom nên không hề hấn gì, chỉ có nòng súng Mauser trên lưng cậu bị quẹt phải rít lên ken két.

Mạc Thiên Quy bị hất tung khỏi sống núi hệt như một bó rạ khô bị gió thốc, rơi lộn nhào xuống vách núi cheo leo. Từ dưới vực sâu không thấy đáy vọng lên tiếng rú thảm thiết đứt đoạn của lão Mạc, ngay cả những âm thanh chói tai hỗn loạn của đám mây chim ưng rợp kín bầu trời cũng không át nổi.

Tới khi Lỗ Nhât Khí phát hiện thấy có thứ gì rơi xuống vực, cậu chỉ còn loáng thoáng nhìn thấy chỏm mũ dạ của lão mù đang xoay tít bên vách đá cheo leo.

Tổ hợp mây thiết ưng sau khi vụt qua đầu họ đã không quay vòng trở lại, mà bay thẳng tới sườn núi bên kia, đột ngột đổi hướng ngoặt sang bên cạnh, rồi lập tức tan rã, sáu con thiết ưng men theo đỉnh núi bay ngược lên trên. Lũ thiết ưng còn lại trong đám mây ô sao cũng thôi không tấn công ba người họ nữa mà nhất tề vẫy cánh bay theo sáu con thiết ưng phía trên, hội hợp với đám mây vảy cá đang che rợp lưng trời.

Kiểu mây ô sao trong giới tự nhiên một khi đã bay qua thì không bao giờ quay lại, mây ô sao do thiết ưng tổ hợp thành cũng tương tự như vậy, chỉ cần bay lướt qua sẽ lập tức phân tán, tiếp tục sắp xếp thành tổ hợp khác. Để đối phó với mây ô sao, điểm mâu chốt là phải có cao thủ đánh bạt được đám mây đi. Mạc Thiên Quy chính là một cao thủ như vậy, tuy rằng phương cách của lão không chính xác, song hành động vô tình của lão vẫn đạt được hiệu quả tương tự.

Từ trong đám mây vảy cá dày đặc lại tách ra một dải mây dài, giống như là dải lụa tung bay trên tay tiên nữ. Là mây dải lụa, lại một dạng tổ hợp khác của thiết ưng. Không ai biết được làm thế nào để phá tổ hợp này, cũng không ai biết phải tránh né ra sao, lại càng không còn một ai có đủ khả năng chống cự lại tổ hợp thiết ưng dẫu chỉ là phản kháng yếu ớt.

Ba người đứng trên sống núi có lẽ vẫn chưa hết bàng hoàng sau khi thấy lão Mạc rơi xuống vực sâu, cũng có lẽ đang kinh động trước sự xuất hiện của dải mây đang gầm rú uốn lượn mà tới, nên đều đứng chết lặng không dám cử động.

Lỗ Nhất Khí kêu lớn, tiếng kêu tràn ngập nỗi đau đớn vì sự ra đi chóng vánh của lão Mạc:

- Trời ơi, biết tìm chủ điểm của kiểu hàng nhân đôi thế nào đây?

Đúng vậy, nếu Lỗ Nhất Khí biết cách ứng dụng của kiểu sắp hàng nhân đôi, nếu cậu tìm ra được quy luật sắp xếp của mây thiết ưng, nếu cậu kịp thời phá được chủ điểm trong mây thiết ưng, lão Mạc đã không phải chết.

Nhưng giờ đây, họ đã không còn cả thời gian để tiếc thương lão Mạc, họ cần phải trấn tĩnh, cần phải tìm ra chỗ khuyết của mây thiết ưng.

- Có phải là cách sắp xếp một ngói treo trăm rãnh trên nóc nhà tam giác của Lỗ gia hay không? – Câu hỏi của Quỷ Nhãn Tam khiến Lỗ Nhất Khí và lão mù bỗng chốc đều im bặt.

Lão mù cũng lên tiếng:

- Lẽ nào chính là “một điểm treo nghìn cân, xà đơn treo sóng đến”?

Quỷ Nhãn Tam lại cướp lời:

- Nhà tam giác sống nóc không có rãnh ngói, lợp hai ngói thành một rãnh, lại lợp bốn ngói thành ba rãnh, cứ thế mà suy. Ngói vỡ nhà dột, vỡ ngói dưới, dột nhỏ giọt; vỡ ngói giữa, dột thành mảng; vỡ ngói đầu, dột cả mái.

Lão mù cũng xen vào:

- Điểm cố định tuy nhỏ bé, song vững chãi vô cùng, có thể treo được cả nghìn cân, song nếu là một cây vươn ra thì lại không thể treo được như vậy. Ví dụ như một cây xà vươn ra dùng để treo các thanh rui, vị trí đầu tiên có thể treo được hai cây dài trượng hai, vị trí tiếp theo có thể treo hai cây dài trượng mốt, càng về cuối thì càng ngắn, điểm cuối cùng chỉ treo một cây dài vài tấc.

Nói tới đây, đám mây thiết ưng như dải lụa tung bay đã uốn lượn ngay trên đỉnh đầu ba người, vài con thiết ưng bay đầu tiên đã bắt đầu lượn vòng tròn. Càng xuống thấp, vòng bay càng mở rộng. Có thể nhận ra, trong đợt tấn công này, đám mây thiết ưng sẽ được tổ hợp thành hình xoáy ốc chụp xuống. Và như vậy, cả ba con người đang đứng trên sống núi sẽ bị bóp chết trong một vòng xoáy khổng lồ từ trên không trung chụp xuống, một vòng xoáy được kết thành bởi vô số cánh sắt sắc nhọn như dao đang xoay tít không ngừng.
 
Quyển 3 - Chương 7: Phá trời mây


Nghe những lời giảng giải của hai người, Lỗ Nhất Khí chợt nhớ ra một vật: “Nghe ma đến”. Vào thời Nam Tống, hoà thượng Thiên Mục ở thiền viện Kiến Tính, Hà Nam có viết một cuốn sách có tên “Thế sự quái dị chư ban“, trong đó có nhắc đến một đồ vật có khả năng nhận biết được hồn ma đi tới, có tên là “Nghe ma đến”. Trong sách có viết: “Lá vàng tám mươi mốt phiến, không to hơn móng tay, mỏng như vảy cá. Xuyên với nhau bằng sợi dây bạc giống như quạt xếp, treo dưới mái hiên. Ma tới, kêu lên như chuông. Ma lại gần, dây đứt lá rơi. Ma yếu, chỉ bay vài lá. Ma dữ, lá vàng rụng hết”.

Trước kia, khi đọc được đoạn này, Lỗ Nhất Khí cảm thấy vô cùng khó tin. Sau đó, chú Tư giải thích qua loa rằng, “Nghe ma đến” tức là dùng một sợi dây bạc khéo léo xâu tám mươi mốt phiến lá vàng lại với nhau thành chuỗi. Khi có một nguồn năng lượng quái dị bất thường xuất hiện, các phiến lá sẽ va chạm vào nhau phát ra những tiếng leng keng như lục lạc. Nếu nguồn năng lượng đó đến gần, dây bạc sẽ đứt, lá vàng rụng xuống. Nếu nguồn năng lượng không quá mạnh, chỉ có thể khiến một vài phiến lá phía dưới cùng rơi xuống. Nếu nguồn năng lượng ma quái quá mạnh, nó có thể lan theo dây bạc đến tận đầu xâu chuỗi, khiến phiến lá vàng tại vị trí này rụng xuông, kéo theo toàn bộ lá vàng ở phía dưới rơi rụng hàng loạt.

Như vậy, xem ra vị trí đầu tiên trong chuỗi lá vàng “Nghe ma đến” chính là chủ điểm của xâu chuỗi, cách xâu chuỗi lá vàng hẳn là cũng giống như cách xâu chuỗi những cọng lông vũ trên cánh thiết ưng, và cũng giống như trật tự sắp xếp của đám mây thiết ưng.

Lúc này, xung quanh sống núi bỗng chốc tối sầm, vì mây thiết ưng đã ập xuống sát sạt. Vòng xoáy khổng lồ đã phủ trùm lên cả ba người.

Con mắt cú đêm của Quỷ Nhãn Tam đã nhìn rõ mồn một những con thiết ưng đang lượn vòng quanh họ, thậm chí hắn còn nhìn rõ ánh hàn quang lạnh lẽo loé ra từ mỏ sắt, móng vuốt và đầu cánh sắc bén như dao. Thế nhưng, đôi khi nhãn lực quá tinh tường chưa hẳn đã là chuyện tốt, như Quỷ Nhãn Tam lúc này, điều đó chỉ càng khiến hắn thêm khiếp hãi trước cái chết cận kề.

Lão mù tuy không nhìn thấy gì, song lão lại có đôi tai vô cùng nhạy bén. Lão đã nghe thấy tiếng xé gió của vô số vật sắc nhọn với kình lực khủng khiếp, mà tiếng gió rít, tiếng gầm rú và vô số tạp âm rối loạn khác vẫn không thể át đi.

Trong lúc đó, Lỗ Nhất Khí lại bình tĩnh đến dị thường, giống như là đang nhập định, trí não bỗng chốc trở nên thênh thang hun hút. Trong bầu tư duy tỉnh táo và trống trải hoàn toàn, chỉ có một cọng lông vũ bằng sắt đang trôi nổi…

“Ma dữ, lực đạo dồn đến phần gốc chuỗi lá… Ngói đầu vỡ, cả mái dột… Xà nóc đỡ rui, đầu nặng đuôi nhẹ”…Tất cả những khái niệm mỗi lúc càng hiển hiện rõ ràng trong trí não của Lỗ Nhất Khí, khiến tâm tư của cậu càng thêm tĩnh tại. Cậu ngưng thần nghiêng mặt, chăm chú quan sát đám mây thiết ưng ngay bên cạnh mình. Đám thiết ưng đang lao đi vùn vụt, bỗng chốc trở nên vô cùng chậm rãi trong cảm giác của cậu. Đám mây thiết ưng đồ sộ kín trời phút chốc đã bị kéo sát lại gần trong tầm mắt cậu, gần tới mức cậu có thể nhìn rõ mồn một từng cọng lông vũ ken trên đôi cánh, từng đường vân cực mảnh trên mỗi cọng lông.

Đây là một khớp chuyển động! Đây là một khớp chuyên động để vỗ cánh chim! Đây là một trục khớp gắn với một cọng lông cánh, từ đó treo đỡ cả một bộ cánh sắt!

Lúc này, vòng xoáy được tạo thành bởi đám mây thiết ưng bắt đầu thu hẹp phạm vi, ép dần vào giữa, luồng gió sắc lạnh quất mạnh vào mặt ba người đau rát. Nhưng dù sao nỗi đau đớn này sẽ chẳng kéo dài bao lâu. Khi sự sống kết thúc, cũng có nghĩa là nỗi đau chấm dứt, mà kết cục này đã cận kề trước mặt.

Lỗ Nhất Khí đã rút khẩu pạc hoọc ra. Một tiếng nổ rất đanh. Xen lẫn trong một mớ hỗn tạp những tiếng gầm rú náo loạn của mây thiết ưng, tiếng súng càng thêm giòn giã.

Một cánh chim đã rụng rời tan tác, con thiết ưng chỉ còn lại một cánh giống như bị hất văng ra khỏi vòng xoáy, va đánh sầm vào một sườn núi rồi rơi xuống. Rất nhiều cọng lông vũ bằng sắt bay tan tác trong vòng xoáy, trong nháy mắt đã không biết mất hút nơi đâu.

Lỗ Nhất Khí chỉ nổ một phát súng, bởi lẽ giờ đây, cậu đã không phải bắn bạt mạng đến đứt gãy lông chim như khi ở trước Đạo quán nữa, mà cậu đã nhằm vào trục khớp. Trục khớp không cần bắn đứt, mà chỉ cần bắn cho rời ra là được. Khi cánh chim giương lên đến độ cao tối đa, cũng chính là lúc trục khớp xoay chuyển tới cực điểm, Lỗ Nhất Khí đã nhằm đúng khoảnh khắc đó để bắn trúng phần gốc của trục khớp. Và như vậy, trục khớp lập tức đứt rời, cánh chim tan rã, thiết ưng cũng nhanh chóng rơi rụng.

Tiếng súng tiếp tục vang lên, thiết ưng theo nhau rơi xuống, va đập chát chúa vào sườn núi, lăn lông lốc xuống vực sâu. Từ đáy vực vọng lên những tiếng “uỳnh uỳnh” vang động, dội trong khe núi từng hồi không dứt.

Đám thiết ưng chỉ là những cỗ máy vô tri, bởi vậy chúng cũng không biết hoảng sợ thoái lui khi nhìn thấy đồng loại bị trừ khử. Chúng vẫn tiếp tục thu hẹp vòng vây một cách máy móc. Mây dải lụa còn chưa tan rã, thì thiết ưng này vừa bị bắn hạ, đã lập tức có thiết ưng phía sau lao lên lấp vào chỗ trống. Hơn nữa, trong đám mây vảy cá vẫn lơ lửng ngang trời liên tục có thiết ưng bay xuống bổ sung. Nên thành ra đám mây dải lụa vây quanh ba người bọn họ đã nối liền với đám mây vảy cá trên cao, kéo dài như bất tận.

Lỗ Nhất Khí cũng hiểu rõ, nếu bắn hết số đạn trong ổ, cậu sẽ không còn thời gian để nạp thêm đạn nữa. Mặt khác, với cách bắn hiện nay, nếu thời gian kéo dài, rất khó đảm bảo được độ chính xác. Trong khi hoàn cảnh trước mắt không cho phép cậu được mắc sai lầm.

Cách sắp xếp của mây dải lụa không phải là từng cặp nối nhau, mà theo kiểu một dãy hai con, tiếp đến là ba con, bốn con, rồi lại ba con, hai con. Tức là bố trí theo hình sóng lượn hai bên, thế nhưng khoảng cách giữa các cá thể lại không giống nhau, đó là vì chúng đang chuyển động theo hình xoắn ốc. Với hình thái này, các hàng với số cá thể khác nhau sẽ không thể đảm bảo được một cự ly thống nhất, nếu không, chúng sẽ không thể di chuyển bình thường. Trình tự sắp xếp máy móc của đám mây thiết ưng cần phải dựa vào một thiết ưng chủ đạo, tác dụng của nó là khống chế toàn bộ tổ hợp. Tìm được con thiết ưng này, tức là đã tìm ra chủ điểm của đám mây thiết ưng.

Lỗ Nhất Khí thuận thế bắn rơi thêm một con thiết ưng, tranh thủ khoảnh khắc hoà hoãn tạm thời, cậu đã kịp nhìn ra sợi mây dải lụa từ trên xuống dưới có tổng cộng bốn khúc gợn sóng hai hướng. Là cách sắp hàng nhân đôi đối xứng! Lỗ Nhất Khí tính toán rất nhanh: sóng thứ nhất, thứ hai nối liền đỉnh, tìm ra điểm trung tâm của đoạn thẳng nối liền; sóng thứ ba, thứ tư cũng nối liền đỉnh, tìm ra trung điểm, sau đó nối liền hai trung điểm, tiếp tục tìm ra trung điểm của đoạn thẳng mới. Trung điểm này tương ứng với một con thiết ưng ở gần nhất trong đám mây dải lụa. Chính là nó! Lỗ Nhất Khí thầm reo lên trong dạ, cậu vung tay bắn ba phát súng rụng liền ba con thiết ưng, tạo ra một khoảng trống giữa cậu và con thiết ưng đã nhằm sẵn. Như vậy, sẽ loại trừ được nguy cơ có con thiết ưng khác đột ngột cản trở đường đạn của khẩu pạc hoọc vốn dĩ uy lực nhỏ tốc độ chậm.

Không để cho lũ thiết ưng kịp có thời gian bổ sung vào chỗ trống, Lỗ Nhất Khí đã chĩa súng nhằm thẳng vào con thiết ưng chủ đạo. Súng đã nổ, song chỉ nghe “cạch” một tiếng, không phải là kẹt đạn, mà là súng hết đạn.

Khốn thật rồi! Mây thiết ưng đã không chừa cho Lỗ Nhất Khí chút thời gian để nạp đạn, vòng xoáy mau chóng thu hẹp, luồng kình phong dữ dội ập tới khiến ba con người đứng trên sống núi chật hẹp đóng băng bắt đầu chòng chành chao đảo.

Ba người lắc lư dữ dội trong cơn kinh hãi tột cùng, cây gậy thép trong tay lão mù khua khoắng loạn xạ, nên đầu gậy bên kia đã bật khỏi tay Quỷ Nhãn Tam. Quỷ Nhãn Tam đột ngột mất đi cây gậy, tức là đã mất đi điểm bám víu với lão mù. Hắn đứng trên mặt băng trơn truội, lảo đảo trong gió dữ, có thể trượt chân rơi xuống vực sâu bất cứ lúc nào. Lúc này muốn giữ vững thân mình, chỉ còn cách khom lưng, chống hai tay xuống. Thế nhưng hắn không được gập gối, vì nếu như vậy sẽ khiến Lỗ Nhất Khí mất đi điểm tựa mà ngã nhào về phía trước.

Thân người Quỷ Nhãn Tam lúc này hệt như một chiếc ghế băng, hai tay hai chân thẳng đuột chống lên mặt đất. Với tư thế này, Lỗ Nhất Khí vẫn có thể vịn một tay lên lưng Quỷ Nhãn Tam để đứng vững; cũng giúp cho cây súng trường mà Quỷ Nhãn Tam đang mang hộ Lỗ Nhất Khí hướng nòng chếch lên trên; hơn nữa, lại có thể biến cơ thể Quỷ Nhãn Tam thành bệ súng, giúp Lỗ Nhất Khí chỉ cần một tay cũng bắn trúng mục tiêu.

Tiếng súng tiếp tục vang lên, còn đanh giòn hơn hắn tiếng súng trước đó, bởi lẽ đây là khẩu súng trường có uy lực mạnh hơn rất nhiều so với súng pạc hoọc.

Những chỗ trống vừa mới “dọn dẹp” trước đó đã có thiết ưng khác bổ sung, song nhờ cảm giác siêu phàm, Lỗ Nhất Khí vẫn tìm ra được khe hở giữa cả bầy thiết ưng ken kín, để tìm ra con thiết ưng chủ đạo. Viên đạn súng trường uy lực cực mạnh đã bắn trúng phóc trục dưới cánh vào lúc cánh chim giương lên tối đa. Đám lông vũ lập tức rụng rời tan tác, bay tán loạn giữa không trung.

Thiết ưng chủ đạo đã bị phá, song vẫn chưa rơi ngay xuống vực sâu, bởi lẽ trên dưới trái phải quanh nó đều có thiết ưng, bởi lẽ nó là chủ điểm khống chế toàn bộ mây dải lụa. Nó liên tục đâm sầm vào những con thiết ưng khác, đám thiết ưng bị va phải liền chuyển hướng, lại va vào những con thiết ưng khác. Giống như một phản ứng dây chuyền, dải mây thiết ưng bắt đầu rối loạn, thiết ưng liên tục văng ra khỏi dải mây hoặc rơi rụng xuống phía dưới. Từ phía trên, thiết ưng rào rào bay xuống bổ sung vào các chỗ trống, khiến cho đám thiết ưng trong dải mây càng thêm loạn xạ, va đập nháo nhào thành một đám rối bời. Mây dải lụa đã bị phá huỷ hoàn toàn, chúng ào ào trút xuống vực sâu tựa như một dòng thác sắt.

Cả vùng sơn cốc ầm ầm vang động, núi non rung chuyển, tuyết tung mù mịt như sương, cành gãy lá khô bay vùn vụt như roi quất.

Lỗ Nhất Khí đã ngồi thụp xuống, đưa một tay chống lên mặt băng. Đây một phản ứng theo bản năng. Bất kể là ai khi đối diện với tình thế trời long đất lở, núi non rúng động, cũng phải rạp mình đến mức thấp nhất có thể.

Lão mù nhảy vọt qua đầu Quỷ Nhãn Tam và Lỗ Nhất Khí, bởi lẽ lão đã nghe thấy xen lẫn trong những tiếng rơi vùn vụt của đám thiết ưng đang trút xuống vực sâu, có một chuỗi những tiếng cót két quái dị đang lao thẳng xuống đỉnh đầu, nếu không tránh kịp, hẳn thân thể khô đét của lão sẽ bị băm nhừ đập nhuyễn.

Lão mù đã vọt đi, song chưa thể đáp xuống sườn núi, mà lại rơi xuống mặt băng, hơn nữa lại đúng vào vị trí đầu nguồn nước, mặt băng nhô cao tròn nhẵn, chỉ cần hơi trượt chân, sẽ lập tức lao xuống vách núi hun hút dựng đứng.

Nhưng đúng vào thời khắc cuối cùng, lão mù đã bật mở cơ quát trên cây gậy, cây gậy lập tức dài vụt ra, đâm thẳng vào vách núi, cắm ngập vào một thân cây chết khô. Cây gậy đã giữ được lão mù, giúp lão trụ vững trên mặt băng trơn trượt. Một tặc vương đã oán thán nửa đời người vì nông nỗi mù loà, giờ đây hẳn đang thầm thấy bản thân thật may mắn vì là người chống gậy.

Con thiết ưng vừa nãy tuy không đập phải lão mù, song đã nện xuống mặt băng trên sống núi. Chỉ nghe thấy tiếng băng nứt toác, băng kết ở hai bên mép bong ra từng mảng lớn, rơi tuột xuống vực sâu.

Lỗ Nhất Khí và Quỷ Nhãn Tam đều cảm thấy mặt băng dưới chân rung động. Con mắt cú vọ của Quỷ Nhãn Tam còn trông thấy cả nước, dòng nước đang chảy bên dưới lớp băng. Sau cú va đập, giữa lớp băng và mặt đá đã xuất hiện khe hở, khiến cho các lớp băng chồng chất không còn chặn nổi dòng nước suối.

Nhưng một chuyện còn đáng sợ hơn nữa đã xảy ra. Lại thêm một con thiết ưng sau những cú va đập loạn xạ đã rơi xuống sát sạt chỗ lão mù đang đứng, nện trúng lớp băng dày đặc tròn u như một cái bánh bao khổng lồ ngay đầu nguồn nước. Cả một tảng băng phía đầu sống núi vỡ toác, dòng nước chảy dưới mặt băng lập tức cuốn theo cả tảng băng lớn trượt dần xuống phía dưới theo chiều dốc của sông núi, trong khi Lỗ Nhất Khí và Quỷ Nhãn Tam vẫn đang bò rạp trên lớp băng.

Lỗ Nhất Khí và Quỷ Nhãn Tam đã không còn đường thoát, chỉ biết trôi theo tảng băng nhích dần về phía vực sâu.
 
Quyển 3 - Chương 8: Đánh giữa chợ


Người Đông Bắc khẩu vị nặng, món ăn của họ nhiều muối, nhiều dầu và nhiều ớt. Khi một đĩa tướng thức ăn được đưa đến trước mặt, mùi dầu mỡ, mùi ớt cay xộc lên điếc mũi. Nhưng ở một nơi đất trời lạnh lẽo, băng phong tuyết phủ như nơi đây, phải ăn những món thế này kèm với rượu Thiêu Đao Tử*, mì chua mặn mới có thể khiến toàn thân nóng sực như ngồi bên bếp lò.

* Có nghĩa là “con dao đốt nóng”,là một loại rượu rất mạnh thịnh hành vùng Đông Bắc Trung Quốc. Do nồng độ rượu cực cao, gặp lửa là cháy, vị rất mạnh, uống vào cảm thấy nóng rát như lưỡi dao nóng đỏ nên mới có tên này. (Nd)

Trong quán cơm chẳng có mấy người, song bên ngoài người qua kẻ lại tấp nập. Trong chốn rừng núi thuộc dãy Đại Hưng An, những thị trấn kiểu này vốn dĩ không nhiều, lại càng hiếm khi náo nhiệt như hôm nay. Nếu hôm nay không phải ngày Đông chí, lại đúng lúc sắp đến phiên chợ mua bán hàng rừng cuối năm thì e rằng nơi đây chỉ rặt tuyết dày rừng thẳm, hoạ chăng chỉ có thú hoang chịu lượn lờ ở chốn này.

Tục ngữ có câu, “Đông chí tết nhỏ”, kỳ thực thị trấn này có vào tết cũng không thể náo nhiệt bằng hôm nay. Năm hết tết đến, hầu hết những người buôn chuyến hay gom hàng đều xuống núi trở về quê nhà, khiến nơi đây còn vắng lặng hơn cả ngày thường. Còn hôm nay không những là một ngày lễ lớn, mà còn là dịp thu hoạch tổng kết. Đám thợ đi rừng đã bận rộn suốt một năm ròng, đến hôm nay mới được cầm đến tiền bạc.

Còn vắng vẻ đìu hiu hơn cả quán cơm là gánh hàng của ông thợ rèn ở sát mé tây của quán. Thợ rèn nơi đây không mở tiệm, vì như vậy sẽ chẳng có việc gì mà làm. Họ thường quảy gánh lò rèn đi theo sau những đám thợ rừng như vậy mới có thể kiếm được việc rèn sửa đồ lề cho bọn họ. Giờ đây đã đến thời điểm thu hoạch cuối năm, nên chẳng ai có nhu cầu rèn đúc sửa sang, thường là phải đợi tới mùa xuân năm sau khi vụ săn mới bắt đầu. Bởi vậy dù lò rèn lửa cháy rừng rực, song lại chẳng có việc gì.

Phía đông của quán cơm là một bãi đất trống, không thấy ai bày bán gì ở đó, bởi lẽ phía bên kia của bãi đất trống chồng chất một đống gỗ thô cao ngất như núi. Tuy đống gỗ được ràng buộc chắc chắn bởi những sợi thừng rất lớn, song người buôn bán trong núi đều biết đó là nơi nguy hiểm, nên không ai dám nấn ná ở lâu.

Phía trước quán cơm khoảng bảy, tám chục bước là một sân khấu thô sơ, một đám kẻ thổi người đàn đã ngồi choán mất nửa sân khấu, ở giữa là một đôi nam nữ phất khăn đỏ vẫy quạt hoa đang hát nhị nhân chuyển*.

* Một hình thức ca kịch của vùng Đông Bắc Trung Quốc, người biểu diễn là một nam một nữ, ăn mặc sặc sỡ, tay cầm quạt và khăn tay, vừa đi vừa múa vừa hát, thường là kể lại một cốt truyện. (Nd)

Người xem kịch không nhiều, bên dưới sân khấu người ta còn đang bận bịu xem hàng, bán hàng, mặc cả, cân đong. Chỉ có một sổ ít người đã bán hết hàng, lại được giá hời là còn hứng thú ngồi khểnh ngắm cô đào mặt mũi dễ coi giọng ca lảnh lót mà tưởng tượng nọ kia.

Chỗ náo nhiệt nhất lại là phía đông của sân khấu, nơi đó có một đám đông nghịt đang quây kín xung quanh kêu la ỏm tỏi, thì ra là hàng bán gỗ. Chủ hàng xắn cao tay áo, tay cầm một cây cưa to dài uốn cong như cánh cung, trông chẳng khác nào gã đồ tể bán thịt. Hàng hoá của gã tính giá theo cân, bởi lẽ chỉ có hai loại là gỗ lê thiết tuyến kim hoa và gỗ thông lùn nhựa hồng ngọc. Cả hai đều là những giống gỗ cực kỳ quý hiếm, thời trước chuyên dùng để khắc tượng Phật, khám thờ Phật hoặc đồ trang trí treo tường để tiến cống cho hoàng cung.

Những người trong quán cơm đều không xem kịch, mà đang cắm cúi ăn uống, dường như tất cả cảnh tượng náo nhiệt ngoài kia đều không hề liên quan tới họ.

Lão mù bưng chiếc bát sành thô lên uống liền ba ngụm Thiêu Đao Tử lớn, đây là thói quen từ thời còn là Tây Bắc tặc vương mà lão vẫn chưa bỏ được, mỗi khi uống rượu trước hết phải nốc liền ba ngụm lớn cho đã cơn thèm, rồi mới từ từ nhâm nhi. Nhìn vào nụ cười thoả mãn trên khuôn mặt, có thể biết được rằng thứ rượu cực mạnh nơi đây rất hợp khẩu vị của lão.

Nụ cười của Quỷ Nhãn Tam có phần gớm ghiếc, vì trên mặt hắn có hai vết sẹo dài ngoằng, trông hắn cười còn khó coi hơn cả khóc. Ngoài vết cứa trên mặt, trên tay hắn còn có một vết thương quái dị, khoanh thành đúng một vòng tròn quanh mu bàn tay trái. Tuy những vết thương không đến nỗi trí mạng, song vẫn đủ để thức dậy trong hắn những hồi tưởng thấm thía về trận giao tranh kinh tâm động phách với mây thiết ưng đêm đó.

Lỗ Nhất Khí cũng bị thương, song không nhìn thấy, bởi lẽ vết thương nằm ở trên lưng. Hai cọng lông vũ sắc lạnh như dao đã xuyên qua lần áo bông cắm ngập vào da thịt cậu. Cọng lông sắt đâm rất sâu, nhưng còn may là đâm xiên chứ không đâm thẳng, nếu không hẳn đã xuyên thấu đến tận tim.

Đêm hôm đó trên sống núi Phân Thuỷ, lớp băng dưới chân cậu và Quỷ Nhãn Tam đã trồi ra khỏi mép đá đến phân nửa. Thế nhưng lúc đó, họ không thể đứng dậy, cũng không dám cử động, bởi họ biết bất cứ động tác nào cũng đều có thể khiến mặt băng trượt nhanh hơn ra khỏi mép đá.

Tình thế đã trở nên cực kỳ nguy cấp, song Lỗ Nhất Khí vẫn không chút hoang mang, cậu đang hết sức trấn tĩnh để tìm kiếm cơ hội. Cậu đang mang trên người trọng trách nặng nề, tuyệt đối không thể chết vào lúc này.

Quỷ Nhãn Tam đã quỳ xuống, một tay đang vội vã lần mò thứ gì đó ở phía trước cơ thể. Đúng vào khoảnh khắc lớp băng trượt hẳn khỏi mép đá, hắn lập tức quăng mạnh cây Vũ Kim Cương đang đặt ngang phía trước đi. Vũ Kim Cương bay vụt tới sườn núi ở phía đầu “cầu đá”, xuyên qua giữa một chạc lớn trên một gốc cây to, trên cán dù hình như có buộc một thứ gì đó. Đúng lúc Quỷ Nhãn Tam rơi xuống vách núi bên phải, tay trái hắn đã kịp lắc một cái. Vũ Kim Cương lập tức bật tung, kẹt lại giữa chạc cây to lớn.

Quỷ Nhãn Tam vẫn không quên Lỗ Nhất Khí, thân người vừa rơi xuống, hắn lập tức quặt tay chụp ngay lấy ngực áo cậu. Lỗ Nhất Khí cũng túm thật chặt vào thắt lưng của Quỷ Nhãn Tam.

Lỗ Nhất Khí và Quỷ Nhãn Tam kẻ lôi người túm cùng trượt đánh vèo xuống vách núi cheo leo. Quỷ Nhãn Tam rú lên một tràng thảm thiết, suýt nữa thì chọc thủng cả màng nhĩ của Lỗ Nhất Khí. Không phải là hắn khiếp hãi trước cái chết cận kề, mà bởi vì hắn đang đau đớn thấu xương tuỷ.

Trên cán dù có buộc một sợi tơ rất mảnh, chính là Thiên Hồ giao liên. Lỗ Thịnh Hiếu đã gỡ lấy hai sợi từ con thú năm chân ở trước cổng thuỳ hoa, đưa cho Lỗ Nhất Khí và Quỷ Nhãn Tam mỗi người một sợi, nói rằng có thể dùng khi cần thiết. Quả nhiên mới qua một ngày, thứ này đã cứu sống hai người bọn họ.

Quỷ Nhãn Tam đã quấn Thiên Hồ giao liên một vòng quanh bàn tay trái, sợi tơ cực mảnh phải kéo theo trọng lượng của hai người, chớp mắt đã cứa sâu vào da thịt, máu lập tức tứa ra đầm đìa. Còn may là Thiên Hồ giao liên có độ đàn hồi nhất định, bằng không chắc đã nghiến đứt đến xương, nửa bàn tay của Quỷ Nhãn Tam hẳn đã đứt lìa.

Thiết ưng vẫn ào ào lao xuống, vô số lông vũ bằng sắt bay tả tơi xung quanh sống núi. Mặt Quỷ Nhãn Tam bị cứa dọc một đường, da thịt toang hoác. Lỗ Nhất Khí cũng bị hai cọng lông, xuyên lút vào lưng, thương thế xem ra nặng hơn Quỷ Nhãn Tam rất nhiều. Cọng lông dường như đã xuyên thấu đến tận phổi, Lỗ Nhất Khí ho bật máu tươi, ánh mắt dần trở nên mụ mị, rồi cậu ngất đi không biết trời trăng gì nữa…

Quỷ Nhãn Tam cõng Lỗ Nhất Khí trên lưng, lão mù đỡ ở phía sau, họ trèo qua đỉnh núi phía trước, cuối cùng đã tới ngã ba đường cái quan. Họ vừa dừng bước trước ngã ba, Lỗ Nhất Khí đột nhiên tỉnh lại, nói liền:

- Đừng di đường lớn, sang phía đông bắc tìm đường nhỏ mà đi…

Quỷ Nhãn Tam và lão mù đều nghe rõ lời Lỗ Nhất Khí, song họ không hiểu vì sao, nên vẫn đứng yên tại chỗ.

- Mây thiết ưng của đối thủ tuy vô cùng lợi hại, song bọn họ chắc chắn không chỉ dùng một khảm diện đó để đối phó với chúng ta. Có điều đối phương tuyệt đối không thể ngờ được rằng chúng ta lại chia hai đường tẩu thoát, muốn điều động thêm lực lượng cũng đã muộn mất rồi, đành phải phân chia những khảm diện và lực lượng hiện có thành hai đường để tấn công. Bởi vậy phía phó quan Ngô hẳn dã dụ được một khảm diện khác của đối phương rồi, cũng không rõ giờ đây lành dữ ra sao!

Lỗ Nhất Khí ho lên một tiếng, nhưng không còn thấy máu.

- Nhưng đối phương sẽ mau chóng phát hiện ra nhóm phó quan Ngô không phải là đối thủ chính, và ngay sau đó sẽ tập hợp lực lượng dồn sức đối phó với chúng ta. Đối phương có đầy đủ lý do để phán đoán rằng chúng ta sẽ đi về phía tây để hội hợp với phó quan Ngô; hoặc cũng có thể chúng sẽ cho rằng chúng ta cố tình tung đám phó quan Ngô làm mồi nhử để dụ họ đuổi về phía tây, và chúng ta sẽ đi ngược sang phía đông. Và đương nhiên, họ càng có lý do để nghĩ rằng chúng ta sẽ đi lên phía bắc để tìm Thổ bảo gần nhất. Bởi vậy, cả ba con đường này chúng ta đều không đi dược, chỉ có chạy lên hướng đông bắc tìm đường nhỏ mà đi, mới có thể thoát khỏi sự truy đuổi của đối phương.

Quỷ Nhãn Tam im lặng không nói tiếng nào, trầm ngâm suy tính một hồi, cuối cùng nghiến chặt răng, giậm mạnh bàn chân, quay người đi thẳng về phía sườn đồi phủ đầy tuyết trắng.

Lão mù vẫn chưa hết ngỡ ngàng, dường như lão rất không đồng tình trước quyết định thay đổi đường đi đột ngột của Lỗ Nhất Khí. Có vẻ như quyết định này đã phá hỏng kế hoạch nào đó của lão, khiến lão rất đỗi buồn bực, bước chân xem chừng còn nặng nề hơn cả Quỷ Nhãn Tam đang cõng Lỗ Nhất Khí trên lưng.

Tính toán của Lỗ Nhất Khí vô cùng thấu đáo, song có một điểm cậu đã không tính tới. Chính vì cậu quyết định đi về hướng đông bắc, nên đối phương đã phải ngừng truy sát. Nhưng chỉ trong vòng hai ngày, Chu gia đã gửi thư đi khắp Băng Phong đường, Hắc Lưu đường, Bạch Lâm đường và tất cả mọi đàn khẩu dưới quyền tại vùng đông bắc, trong thư mô tả tỉ mỉ đặc điểm nhận dạng của ba người, lệnh cho các nơi theo dõi họ thật sát sao, hành động tiếp theo sẽ đợi môn chủ đưa ra quyết định.

Khi họ tới thị trấn nhỏ trong dãy Đại Hưng An, thời gian đã trải qua hơn một tháng. Họ đã phải liên tục vựợt núi băng rừng, hết đi xe ngựa, ngồi xe trượt tuyết, lai đi xe trượt băng, tốc độ có thể nói là khá nhanh, song Lỗ Nhất Khí vẫn luôn cảm thấy sau lưng có người đang truy đuổi.

Từ thị trấn hẻo lánh này đi tiếp về hướng bắc sẽ gặp một con sông lớn hình dáng giống hệt như con rồng đen. Tương truyền cách nơi đây không bao xa là chốn quần cư của tổ tiên người Mãn thuở xưa. Không hiểu tại sao, đến đây Lỗ Nhất Khí cảm thấy không nên đi tiếp nữa, bởi lẽ trong người cậu vô cùng khó chịu. Cảm giác này thật khó diễn tả, dường như là điềm báo sắp có mối nguy ập đến.

Trong khoảng thời gian này, Lỗ Nhất Khí đã nghiên cứu kỹ tấm thẻ ngọc được tìm thấy cùng “Cơ xảo tập“, nhưng chữ nghĩa trên tấm thẻ ngọc thực sự vô cùng khó hiểu, hơn nữa những văn tự kỳ quái này lại không thể tự động sắp xếp lại trong trí não như những lần trước đó. Cậu chỉ có thể dựa vào vốn hiểu biết của mình về văn tự và ký hiệu cổ xưa để suy đoán lần dò từng chữ một.

Trước mỗi hàng chữ trên tấm thẻ đều có một ký hiệu, rất dễ dàng để nhận ra rằng chúng đều là hào tượng Bát quái. Lỗ Nhất Khí tìm ra phương Tốn, trong Thái cực Bát quái, phương Tốn tượng trưng cho hướng đông nam. Thế nhưng trong Tiên thiên Bát quái, nó lại tượng trưng cho hướng đông bắc, điều này đến nay rất ít người hiểu dược. Lỗ Nhất Khí vốn dĩ cũng không biết, song vừa nhìn vào hình quẻ Tốn, trong đầu cậu lập tức hiện ra phương đông bắc. Thế là cậu nghiền ngẫm lại từng ký hiệu văn tự trong hàng chữ này, cuối cùng cũng nhận ra được vài chữ “kim”, “hắc” (đen) và “mẫu tính” (mẹ). Hơn nữa, nhìn vào vị trí xuất hiện của các văn tự trên, hai chữ “mẫu tính” có lẽ là một địa danh ở cuối cùng. Song ba người họ đã loanh quanh trong vùng núi rừng này suốt mấy ngày trời, mà vẫn chưa phát hiện ra địa danh hay kiến trúc nào có liên quan tới những chữ này.

Quỷ Nhãn Tam nhấp một ngụm rượu, nét mặt đầy hí hửng. Trong những ngày qua hắn vô cùng phấn khởi, bởi lẽ trứng tam canh hàn trong cơ thể hắn vẫn chưa thấy phát tác; cũng bởi lẽ trong lúc loanh quanh trong rừng núi, hắn đã dễ dàng quật được vài ngôi mộ, thu về một mớ gia tài kha khá, đủ cho ba người bọn họ tiêu xài xênh xang không phải lo lắng chuyện ăn mặc.

Kỳ thực đêm đó, khi Lỗ Nhất Khí quyết định đi về phía đông bắc, trong lòng Quỷ Nhãn Tam cũng mâu thuẫn vô cùng. Đi về hướng tây hay hướng đông vẫn còn có thể quành lại vòng xuống Thương Châu, như vậy hắn sẽ có cơ hội gặp Vĩ Kinh Đạo để nhờ khêu bỏ đám trứng tò vò. Nhưng nếu đi về hướng đông bắc, hy vọng sống sót của hắn đã trở nên mờ mịt. Suốt mấy hôm đầu, đêm nào hắn cũng bảo lão mù dùng Thiên Hồ giao liên trói chặt hắn lại. Song thật kỳ lạ, trứng tam canh hàn trong cơ thể hắn lại không hề phát tác, thậm chí ngay cả một chút triệu chứng cũng không có. Hắn bắt đầu cảm thấy vui mừng, và ngày càng phấn khởi ra mặt.

Lỗ Nhất Khí không uống rượu, cậu đang cắm cúi với một tô mì lớn. Tuy tay đũa lùa rất nhanh, song đến miệng lại chẳng còn vài sợi. Bởi lẽ bộ dạng của cậu có vẻ như đang chuyên chú ăn uống, song kỳ thực lại dồn toàn bộ sức chú ý vào người qua kẻ lại bên ngoài. Lưỡi rìu Lộng phủ bằng ngọc màu đang khẽ đung đưa trước ngực áo, vốn dĩ không có điểm gì thực thu hút ánh nhìn, song nó chắc chắn sẽ không thoát khỏi cặp mắt của những người cần biết.

Lỗ Nhất Khí đột nhiên buông bát mì trong tay xuống, đứng bật dậy.

Quỷ Nhãn Tam thấy Lỗ Nhất Khí đứng lên, cũng vội vội vàng vàng nuốt ực cả một miệng đầy mì xuống họng, đứng ngay dậy, bàn tay chụp vội cây Vũ Kim Cương đang dựng bên người.

Lão mù không đứng dậy, song lão cũng đã ngừng nhai, dỏng tai nghe ngóng xem liệu có động tĩnh nào bất thường.

Lỗ Nhất Khí đã cảm thấy trong đám người xuôi ngược ngoài kia có một luồng khí linh động rất hiếm thấy, miên man bất tận, tầng tầng lớp lớp, bừng bừng lan toả, mỗi nhịp lên xuống đều vô cùng mạnh mẽ. Thấp thoáng trong luồng khí vàng rực rỡ còn xen lẫn sắc hào quang xanh thẳm. Rất khó phán đoán đó là thứ bảo bối gì, bởi lẽ nhìn vào khí tướng, dường như là một vật trong vật. Song dù vật bên ngoài hay vật bên trong, niên đại chắc chắn cũng không dưới nghìn năm.

Tại nơi rừng thiêng nước độc hiểm trở nhường này lại xuất hiện thứ cổ vật nghìn năm, rất có thể sẽ liên quan tới ám cấu đang cất giấu bảo bối của Lỗ gia.

Lỗ Nhất Khí vội vã bước ra khỏi quán, rẽ đám đông đi theo hướng luồng khí đang lan toả. Song cậu chỉ chú ý tới làn khí tướng linh động lạ kỳ mà quên bẵng tất cả những thứ khác. Cũng vì làn khí tướng quá thịnh nên đã che khuất cả những thứ mà đáng ra cậu cần lưu tâm đến.

Cậu cứ đi thẳng đến chỗ phát ra làn khí. Khi đã tới rất gần, cậu mới đột nhiên cảm thấy có gì đó bất thường. Xung quanh làn khí tướng linh kỳ còn có những luồng khí kỳ quái khác cũng bừng bừng lan toả. Chúng rất mực lạnh lẽo và dữ dội. Nói chúng kỳ quái, là vì chúng khác hẳn với làn khí phát ra từ cổ vật mà cậu có thể cảm nhận được. Chúng sặc sụa mùi máu tanh, mùi nguy hiểm và tàn sát. Thứ mùi này chỉ xuất hiện trên những vũ khí đã dính máu người, chúng chính là huyết khí, là nhẫn khí, là sát khí.

Lỗ Nhất Khí còn phát hiện ra rằng, những làn khí quái dị được phân bố theo một quy luật nhất định, chính là “ngũ trùng đăng nguyên hội”* được nhắc tới trong “Đạo tạng tinh hoa“** cổ vật nghìn năm giống như một trụ đăng nguyên, xung quanh ngấm ngầm bố trí năm tầng hai mươi lăm thứ vũ khí sát nhân, khác nào rắc thóc gạo bên trong lồng bẫy để dụ chim sẻ chui vào.

* Là một trạng thái tu luyện trong Đạo gia, khiến tâm nguyên hoá thành một ngọn đèn sáng, sau đó từ một ngọn hoá thành năm ngọn đèn, bốn ngọn xoay tròn xung quanh một ngọn. Tiếp đó, năm ngọn đèn này mỗi ngọn lại tự hoá thành năm ngọn nữa, vẫn là bốn ngọn xoay tròn xung quanh một ngọn. Trạng thái tu luyện này rất giống với trạng thái “tâm sinh hoa sen, trong sen sinh sen” trong Phật giáo, cũng có điểm tương đồng với phương thức vận hành của các hành tinh.

** Là trước tác của Đạo gia, ra đời vào cuối Minh đầu Thanh, do đạo trưởng Vô Chuyết của đạo quán Huyền Diệu tại Cô Tô thu thập chỉnh lý. Tuy nhiên người sau chỉ ra rằng, Cô Tô Huyền Diệu quán ngày một lụn bại, trở thành đạo quán hữu danh vô thực. Bởi vây, rất có thể do người khác mượn danh đao quán Huyền Diệu để viết.

Lỗ Nhất Khí lập tức khựng lại, vội vã trở lui, bởi cậu đã nhận ra, khi cậu tới gần hơn, thì luồng huyết khí, nhẫn khí và sát khí kia lại càng thêm hung hãn.

- Đi mau!

Hai tiếng này là nói với Quỷ Nhãn Tam đang bám sát phía sau. Quỷ Nhãn Tam phản ứng rất mau lẹ, song hắn không hành động ngay mà đợi Lỗ Nhất Khí lùi về phía sau hắn, hắn mới vội vã thoái lui, vừa lùi vừa giơ Vũ Kim Cương lên, tư thế cảnh giác cao độ.

Đám đông bỗng trở nên hỗn loạn. Từ trong đám người bỗng xông ra hơn chục kẻ tay lăm lăm đao nhọn, đều là kiểu đao hộ vệ chuẩn mực đời Minh, phần lưỡi phía trước rộng bản lượn tròn, đoạn phía sau hẹp thẳng. Động tác của những kẻ cầm đao rất giống nhau, bàn tay nắm đao trầm ổn vững vàng, dưới ánh nắng chiếu và tuyết rọi, có thể nhìn thấy rõ từng đường vân tinh xảo cầu kỳ trên thân đao.

Đao, dù có đẹp đẽ tới đâu, cũng phải đợi đến khi giao chiến mới bộc lộ được hết giá trị của nó. Động tác của Lỗ Nhất Khí rõ ràng không thể nhanh bằng đám đao thủ, lại thêm cục diện hỗn loạn, đám đông cuống cuồng tháo chạy tứ tán đã ngăn cản tốc độ thoái lui của cậu. Những lưỡi đao hung tàn đã đuổi sát tới nơi.

Lỗ Nhất Khí không thể lui nhanh, Quỷ Nhãn Tam cũng không nhanh được, hắn vẫn che chắn trước mặt Lỗ Nhất Khí, hắn phải làm bức tường ngăn cách giữa Lỗ Nhất Khí và mọi mối hiểm nguy.

Đám đao thủ hành động rất nhanh, bởi vì chúng có kế hoạch, có mục đích, hơn nữa, chúng chẳng thèm đếm xỉa tới đám đông hỗn loạn xung quanh. Để dọn quang đường tấn công, chúng đã thẳng tay chém giết tất cả những ai làm vướng chân chúng.

Quỷ Nhãn Tam đã bắt đầu giao chiến với đám đao thủ đang truy kích, nhưng cây Vũ Kim Cương trong tay hắn chỉ có thể ngăn cản được hai tên, những đao thủ khác lập tức vòng qua Quỷ Nhãn Tam tiếp tục đuổi theo Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí đã giấu khẩu pạc hoọc trong lớp áo bông, lúc này muốn lấy ra cũng không phải dễ dàng. Một khẩu pạc hoọc khác để trong túi sau lưng Quỷ Nhãn Tam, song lúc này Quỷ Nhãn Tam cũng chẳng còn rảnh rang để lấy ra cho cậu. Còn hai khẩu súng trường vẫn để trong quán cơm, bọc trong hai tấm vải thô. Lỗ Nhất Khí vội vã chạy về, mục đích cũng là để lấy được hai khẩu súng.

Lão mù vẫn ở trong quán cơm, song lão lại không nghĩ ra phải quăng súng cho Lỗ Nhất Khí. Lão chỉ biết vội vã lao vụt ra khỏi quán, cây gậy trong tay vung ra như một con rắn độc đen trũi, lao thẳng về đám sát thủ. Gã đao thủ phía trước vội vã né mình tránh được, song đao thủ ở phía sau lập tức ra đòn kìm chân lão lại. Thế là kẻ truy đuổi tiếp tục truy đuổi, kẻ kìm chân tiếp tục giao tranh.

Không còn ai có thể bảo vệ Lỗ Nhất Khí nữa, cứ theo tốc độ này Lỗ Nhất Khí chắc chắn sẽ không kịp chạy được đến quán cơm. Mấy gã đao thủ đã hợp thành hình bán nguyệt, áp sát phía sau Lỗ Nhất Khí, giống như một bầy sói dữ đang chuẩn bị lao tới xâu xé con mồi yếu ớt. Đúng trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc, trời bỗng đột ngột đổ mưa, những giọt mưa rắn đanh và nóng bỏng, nhưng chỉ có đám đao thủ mới may mắn được cơn mưa thần kỳ tắm tưới.

Đám đao thủ quả là thân thủ bất phàm, chúng không muốn chạm phải những giọt mưa bỏng giãy bất thường, nên nhất loạt múa đao che chắn. Trong phút chốc, lửa bắn ngút trời, không gian khét lẹt.

Những giọt mưa loảng xoảng rơi xuống, thì ra đều là những món đồ sắt đỏ hồng, dao, giũa, xẻng, bào đủ cả. Tuy không dày đặc, song đều kềnh càng nóng giãy. Đám đao thủ tuy che chắn lanh lẹ, song dù đám sắt nóng đã bị đánh văng, nhưng vẫn toé ra vô số đốm lửa nóng rực, khiến chúng đầu tóc cháy khét áo quần thủng lỗ, mặt mày chốc đã rộp đầy nốt bỏng.

Đám đao thủ đã bị cản lại, song chúng không hề lùi bước. Trận mưa vừa tạnh, chúng lại tiếp tục ào lên với tốc độ còn chóng vánh hơn nữa.

Và cơn mưa thứ hai đã ập đến. Giữa không trung dội xuống vô số hòn than cháy đỏ, mật độ dày hơn khiến việc che chắn càng thêm khó khăn. Lại thêm đám than lửa vừa động là vỡ, tung toé thành vô số vụn lửa rừng rực, dính đâu cháy đấy.

Trận mưa than vừa trút xuống, đám đao thủ đã không còn thảnh thơi như khi nãy nữa, vài kẻ đã bắt đầu bén lửa. Song chúng đều là những cao thủ lão luyện trong giang hồ, lửa vừa kịp bắt, đã lập tức lao người lăn tròn về phía trước, vừa dập lửa vừa khéo léo né tránh những hòn than rơi vãi trên mặt đất, khả năng ứng biến quả thực phi phàm.

Đáng lẽ Lỗ Nhất Khí đã có đủ thời gian để chạy vào trong quán nhờ sự cản trở của cơn mưa lửa, thế nhưng vẫn có hai đao thủ chạy ở trên đầu đã tránh được trận mưa. Chúng chạy quá sát, nên khi đợt than lửa vụt tới, chúng chỉ cần cúi đầu tung bước, vung đao che mặt đã dễ dàng tránh được.

Lỗ Nhât Khí nhìn thấy trên mặt bàn phía trước quán cơm có bày một nồi canh đầy dầu mỡ, là món canh miễn phí tặng kèm cho khách mua bánh mì. Nồi canh không thấy bốc khói, song không có nghĩa là nó không còn nóng, người dân nơi đây thích đổ một lớp dầu dày lên bề mặt để giữ độ nóng cho canh.

Đao thủ đã ở sát sau lưng, bên tai Lỗ Nhất Khí đã vùn vụt tiếng lưỡi đao xé gió. Cậu không còn kịp nghĩ ngợi, lập tức giơ tay túm lấy quai nồi, ráng sức quăng mạnh về phía sau lưng. Chỉ thấy nước canh nóng bỏng và mảnh nồi vỡ văng tung toé, tiếng xé gió phía sau đã chậm lại một thoáng.

Lỗ Nhất Khí không biết chuyện gì đã xảy ra, cậu thậm chí không kịp cả ngoảnh đầu, bởi vì sát khí đã lại ập đến sát sạt. Đám đao thủ phía sau đã vượt qua trận mưa lửa, đang ào ào xông đến.

Mũi đao nhọn của đao thủ gần nhất đã sắp chạm vào lưng Lỗ Nhất Khí đến nơi, trong khi cậu còn cách khẩu súng trường vài bước chân nữa. Mà cho dù lúc này cậu có lấy được túi đựng súng cũng vô ích, bởi đã không kịp nữa rồi.

Mũi dao đi vào cơ thể Lỗ Nhất Khí hẳn rất dễ dàng, bởi lẽ đao thủ tốc độ cực nhanh, lực đạo cực lớn, mũi đao lại sắc bén vô song. Nhưng gã đao thủ đã thình lình khựng lại, rồi cấp tập thoái lui hai bước. Phải có bản lĩnh rất mực phi thường mới có thể làm được như vậy; trong lúc tấn công với tốc độ chóng mặt, bọn chúng vẫn biết chừa lại một phần dư lực, đảm bảo bản thân có thể tiến lui chớp nhoáng.

Đao thủ đã khựng lại thoái lui, vì trước mặt hắn bỗng đột ngột lao ra một cây dùi sắt chắn ngang dài hơn trượng, đã nung đỏ rực. Còn chưa chạm vào dùi sắt, hắn đã ngửi thấy mùi cháy khét bốc ra từ tấm áo bông trên người.

Đao thủ phía sau cũng đã phát hiện ra dùi sắt, lập tức bật tung người định nhảy vụt qua. Dùi sắt đột nhiên lia thành một hình vòng cung, tựa như một cánh quạt xếp đỏ rừng rực chớp nhoáng mở xoè. Đao thủ vừa bật lên đã biết mình không thể lọt qua, lập tức trở đao chém thẳng vào “cây quạt xếp”, mượn sức bật ngược trở xuống. Sau cú va chạm dữ dội, hoa lửa bắn tứ tung, văng đầy người hắn.

Dùi sắt đỏ rực tiếp tục chuyển động, quét thành một hình bán nguyệt thật lớn, vì đám đao thủ kia đã mau chóng thay đổi hướng tấn công, chúng từ bỏ ý định tấn công chính diện, mà rẽ sang hai bên đồng thời tập kích. Dùi sắt đã kịp thời chuyển động, che chắn cho Lỗ Nhất Khí ở bên trong, khiến ý đồ tập kích của đám đao thủ nhanh chóng thất bại.

Vòng cung bán nguyệt rừng rực lửa hồng được vẽ nên bởi một cánh tay đang cầm một đầu dùi sắt, nhờ vậy mà phạm vi che chắn đã được mở rộng hơn. Song một cánh tay có thể xoay tròn dùi sắt nhưng lại không thể giữ nổi nó, bởi dùi sắt quá dài và nặng. Vòng cung vừa kết thúc, đầu nhọn của dùi sắt lập tức rơi xuống nền đất. Để vẽ được vòng cung thứ hai, cần tiếp tục vận lực để quăng dùi sắt vụt lên.

Hai gã đao thủ đã nhận ra sơ hở. Khi nửa vòng tròn thứ hai còn chưa kết thúc, dùi sắt mới bắt đầu trĩu xuống, bọn chúng lập tức nhảy vọt lên, một tên lao thẳng về phía Lỗ Nhất Khí, tên còn lại nhảy xổ vào người đang cầm dùi sắt.

Gã đao thủ lao vào Lỗ Nhất Khí lập tức hối hận, vì hắn đã phải đối mặt với một thứ vũ khí chưa từng thấy bao giờ. Đó là một cái túi vải dài ngoằng, giống như một súc vải sắp xổ đến lõi. Những đao thủ dày dạn giang hồ không sợ giáo mác gươm đao, chỉ sợ gặp phải thứ vũ khí chưa từng biết đến, vì chúng không biết phải ứng phó bằng cách nào.

Đao thủ còn chưa kịp quyết định nên tiến hay lùi, thân hình đã đổ vật xuống như khúc gỗ đốn ngang. Lỗ Nhất Khí đã thẳng cánh siết cò, một phát đạn xuyên trúng ấn đường của đao thủ.

Khẩu súng được cuộn chặt trong tấm vải, không thể lôi ra, cũng không thể kéo chốt lên đạn, nên cậu không tiếp tục bắn phát thứ hai được. Cậu chỉ còn cách cầm lấy khẩu súng còn lại, nhằm thẳng vào một đao thủ đang lao tới từ bên cạnh.

Vẫn là một phát đạn thẳng giữa ấn đường, đao thủ ngã lăn trong một tư thế vô cùng hoa mỹ, cả thân người lộn nhào một vòng sang bên cạnh, hệt như thế ngã của vai lão sinh đánh võ trong tuồng cổ.

Dùi sắt nung đã không còn đỏ rực như lúc nãy, song sức nóng vẫn chưa giảm bớt là bao. Lúc này người cầm dùi sắt đã bị bảy tám đao thủ vây kín xung quanh.

Dùi sắt vùn vụt vẽ thành một vòng tròn đỏ thẫm khiến đám đao thủ không thể lại gần, song chúng vẫn có thể tiếp cận Lỗ Nhất Khí. Lại thêm hai đao thủ lách qua dùi sắt, lao về phía Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí tay cầm súng nhanh chóng di chuyển về phía đông, bởi lẽ phía sau lưng là vách gỗ cản đường, còn bên mé tây lò lửa thợ rèn đã đổ chổng kềnh chắn ngang, trên mặt đất than lửa vung vãi.

Lỗ Nhất Khí vốn định chạy về phía đống gỗ thô ở phía đông, lợi dụng đống gỗ chồng chất như núi để tiếp tục giằng co với đám đao thủ. Song cậu đã chậm một bước, đao thủ vòng qua phía đông đánh bọc sườn đã lù lù ngay trước mặt. Trước tình thế bất ngờ, Lỗ Nhất Khí chỉ biết quăng mạnh khẩu súng trường về phía đao thủ. Gã đao thủ vẫn cảnh giác cao độ với cục vải dài ngoẵng đang bay tới nhẹ tênh, nên không dám đón đỡ, cũng không dám vung đao chém gạt, chỉ thụp người xuống tránh. Trong lúc thụp người, hắn không hề dừng lại một giây, mà vẫn tiếp tục lao lên, tốc độ không hề suy giảm, mũi đao vụt tới, đâm chếch vào giữa ngực Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí vốn không có khả năng ghìm lại bước chân hay thay đổi tư thế trong giây lát, nên chỉ biết mắt mở trân trân lao thẳng vào mũi đao nhọn hoắt.

Trong tình huống này, với thân thủ của Lỗ Nhât Khí chắc chắn sẽ không kịp né tránh, song cậu lại sở hữu được một cảm giác rất mực siêu phàm, có thể quan sát chi tiết tốc độ di chuyển chớp nhoáng của vật thể, bao gồm cả mũi đao đang đâm tới. Thế là cậu đã kịp thời giơ tay trái ra kẹp chặt lấy mũi nhọn vào đúng khoảnh khắc trước khi cơ thể lao trúng mũi đao.

Mũi đao đã không đâm trúng Lỗ Nhất Khí, bởi lẽ tay trái cậu đã mượn được lực đạo đâm tới của mũi dao để ghìm cơ thể dừng lại, sau đó bật lui về phía sau, giữ được khoảng cách giữa mũi đao và cơ thể. Song đao thủ là kẻ dạn dày chinh chiến, nên hắn vẫn tiếp tục đâm tới, đồng thời nhanh chóng xoay mạnh thân đao, chớp mắt lai xoay về chỗ cũ, cứ liên tục xoay vặn như thế mấy lần. Các ngón tay của Lỗ Nhất Khí chỉ trụ nổi một nhịp xoay, sau đó không thể giữ thêm được nữa, buộc phải buông ra.

Lưỡi đao vẫn xoay tít trong tay đao thủ, hệt như một mũi khoan nhọn hoắt xuyên thẳng đến trước bụng Lỗ Nhất Khí.
 
Quyển 3 - Chương 9: Quân chi viện


Mũi đao đã xuyên qua lớp áo bông của Lỗ Nhất Khí, song không thể đi sâu hơn, bởi lẽ đã bị một vật cứng cản lại. Vật đó giấu ở phía trước bụng Lỗ Nhất Khí, đã được cậu dùng dây lưng bằng vải quấn chặt lại với tấm áo bông, chính là một khẩu pạc hoọc.

Mũi đao không thể xuyên sâu hơn còn vì một nguyên nhân nữa, đó là nửa thân trên của đao thủ đã bị giữ chặt, lập tức khựng lại không thể tiến thêm dù chỉ một tấc. Song hai chân hắn vẫn tiếp tục lao lên, thành ra thân dưới văng về phía trước, cả thân người bật ngửa ngã nhào.

Cổ của đao thủ đã bị giữ chặt bởi tay cầm của một chiếc cưa thợ mộc cỡ lớn. Một bàn tay đang nắm chắc tay cầm còn lại, đó là một bàn tay vô cùng mạnh mẽ, từ khoảnh khắc chiếc cưa được lồng vào cần cổ đao thủ bàn tay không hề nhúc nhích, cả cơ thể đang lao vùn vụt về phía trước của đao thủ không hề khiến bàn tay lay chuyển lấy một ly.

Chiếc cưa lớn vừa giữ được đao thủ, từ phía đông bỗng vọng lại hàng tràng những tiếng rầm rầm vang động. Vừa mới đây thôi khu chợ đã phải hứng chịu một cơn mưa lửa, giờ đây lại đến nước lũ tràn về. Là một cơn lũ gỗ. Đống gỗ thô cao chất ngất đã đổ ập, vô số thân gỗ to ngang chum vại sầm sập lao xuống, lăn lông lốc về phía quán cơm.

Trong cơn lũ gỗ, có hai thân hình phì nộn lông lá xồm xoàm đang nhảy loi choi, bọn họ nhẹ nhàng giẫm lên điểm cao nhất trong dòng gỗ, tựa như hai quả thông nhẹ xốp nhấp nhô trên đỉnh sóng. Hai thân hình kia không những luôn chọn đúng điểm cao nhất để giậm chân tung mình, không bị cuốn vào dòng lũ, mà còn liên tục di chuyển đến sát mép ngoài. Rất nhanh chóng, bọn họ đã tìm được một thời cơ tuyệt hảo để ung dung thoát khỏi dòng gỗ, nhảy lên mặt đất và lao nhanh tới bên Lỗ Nhất Khí.

Đám đao thủ nhanh chóng tung mình nhảy bật lên, vừa nhảy vừa chạy trối chết, song vẫn có vài kẻ bị cuốn vào dòng lũ. Tuy bị những khối gỗ khổng lồ phang đập đè nghiến, song chúng không hề bật lên một tiếng kêu gào. Vì trong quá trình tập kích, những tiếng thét gào đau đớn sẽ ảnh hưởng tới đồng bọn, khiến khí thế chùn nhụt, thậm chí trở nên nao núng.

Gã đao thủ suýt nữa hạ sát Lỗ Nhất Khí thành công sau khi bị cán cưa giật ngã bổ chửng, mũi đao đã xuyên qua lớp áo bông của Lỗ Nhất Khí cũng theo đà rạch thẳng xuống, cứa rách toạc vạt áo bông, cũng cứa đứt dải thắt lưng buộc bên ngoài áo. Khẩu pạc hoọc đang giấu trước bụng lập tức lộ ra.

Lúc này, đám đao thủ bên mé tây đã kịp ào tới. Một tên nhảy vọt lên cao, lao bổ về phía Lỗ Nhất Khí. Hai kẻ khác cũng tung người lên xông thẳng vào người cầm cưa.

Chỉ thấy người cầm cưa vung mạnh tay trái, một vật thể tròn như chiếc đĩa bay vụt về phía đao thủ đang tấn công Lỗ Nhất Khí. Hắn chưa kịp né tránh hay đánh đỡ, chiếc đĩa đã xẹt thẳng đến mạng sườn. Chỉ nghe hắn “hự” lên một tiếng, cả thân người đã rơi đánh huỵch lên một khúc gỗ vừa lăn tới sau lưng. Lúc này, một miếng gỗ thông lùn nhựa hồng ngọc tròn xoe mới lăn ra, xoay tít một hồi mới dừng lại.

Hai đao thủ đang xông về phía người cầm cưa cũng đã ngã nhào cả xuống, vì có hai chiếc rìu cán dài đã lao về phía chúng. Hai chiếc rìu bay ra từ hai cơ thể lông lá xồm xoàm khi nãy, trông khác hẳn với rìu thợ mộc thông thường, phần cán dài hơn rất nhiều, có lẽ chừng ba thước. Lưỡi rìu không lớn, trông vuông vức đày dặn, có lẽ là loại rìu chuyên dùng để đốn cây, chẻ củi.

Nhìn vào đường bay của hai chiếc rìu, có thể đoán rằng đây không phải cách xuất chiêu của cao thủ võ công, song nghe tiếng gió rít khi lưỡi rìu bay đi, đủ biết chúng mang theo một lực đạo kinh người. Hai đao thủ vừa lơ lửng trên không đã rơi phịch xuống, ngã nhào trên đống gỗ lăn hỗn độn. Chúng không bị lưỡi rìu chém phải, song đã bị cán rìu xoay tít quật trúng.

Dòng thác gỗ tuy vô cùng hung hãn, song chỉ duy trì trong một thời gian ngắn ngủi. Bởi vậy cục diện vừa hơi lắng dịu, những đao thủ không bị thương lập tức ồ ạt lao lên, chớp mắt đã dàn thành một trận ngũ trùng nhỏ hơn, nhưng chặt chẽ nghiêm mật y hệt như khi mới bắt đầu triển khai tập kích.

Nhưng đám đao thủ còn chưa kịp hành dộng, hai thân người xồm xoàm đã lập tức ra tay. Họ đã không còn rìu làm vũ khí, nên hợp sức cùng nhấc bổng lên một súc gỗ to như cái chum, động tác của họ vô cùng ăn ý, lấy mũi chân, đầu gối, hông, sườn làm điểm tựa, thoắt cái đã gác được súc gỗ lên vai, rồi quăng vụt ra.

Súc gỗ rơi xuống, vụn gỗ tung toé tứ bề, nhưng đám đao thủ chỉ hơi rẽ ra, rồi ngay lập tức lại trở về vị trí.

Hai người kia vừa định tiếp tục nhấc một cây gỗ khác, song đám đao thủ đã không cho họ cơ hội ra tay, từ trong trận hình ngũ trùng tàn sát đã có một nhóm tách ra, lao sang vây kín lấy họ, mấy luồng đao quang đồng thời giáng xuống.

Lúc này Lỗ Nhất Khí đã lôi được khẩu pạc hoọc ra, chốt an toàn đã mở, từng viên đạn khạc khỏi nòng súng một cách lạnh lùng và chuẩn xác tuyệt đối. Đầu tiên, cậu nhằm đến đám đao thủ đang tấn công hai thân người lông lá, mỗi phát đạn đều xuyên trúng ấn đường.

Khi Lỗ Nhất Khí bắn ra phát đạn thứ năm, đám đao thủ đã ào ào bỏ chạy tháo thân với một tốc độ điên cuồng tựa như bầy khỉ khiếp đảm lao vào rừng rậm.

Mấy tên đao thủ đang vây đánh thợ rèn ở gần đó nhất chứng kiến cảnh tượng này, đã cuống cuồng tháo chạy trước tiên.

Cây gậy của lão mù vừa đâm xuyên cổ họng một gã đao thủ, bị hai bàn tay của kẻ giãy chết túm chặt, nhất thời không thể rút về. Một đao thủ khác thấy thời cơ quá tốt, lập tức tấn công, nhưng thanh đao vừa mới vung lên, một phát đạn đã xuyên ngay giữa trán, cả thân người đổ ập xuống đất như bao gạo. Những đao thủ khác mắt vừa liếc thấy, chân đã nhảy vọt ra xa, sau vài cú nhún mình, đã biến mất tăm phía sau dãy nhà gỗ.

Đám đao thủ vây đánh Quỷ Nhãn Tam cũng đã quay đầu chạy thục mạng, nhanh tới mức cây Vũ Kim Cương vụt ra từ tay Quỷ Nhãn Tam cũng không đuổi kịp, chỉ đâm trúng đầu vai một tên, rồi rơi ngay xuống đất. Tên đao thủ đầu vai toé máu, thân hình vùn vụt lao đi như một con chim sẻ bị thương, thoắt cái đã mất dạng phía sau một đống gỗ thù lù.

Cả một khu chợ vừa mới đây thôi náo nhiệt là thế, bỗng chốc trở nên im ắng rợn người, nồi vỡ chum mẻ lăn lóc ngổn ngang, phát ra những tiếng lọc cọc đơn điệu. Lều che quán cơm rách bươm, những mảnh vải bạt bay phần phật trong gió lạnh.

Người cầm dùi sắt nhặt thanh đao bên xác một đao thủ lên, lật qua lật lại xem xét một hồi rồi lên tiếng:

- Loại đại đao giải uyển của cẩm y vệ đời Minh, rèn từ thép Đông Cát tôi kỹ, cán dao bọc sợi da hươu, thời gian đúc từ tám mươi lăm năm đến chín mươi năm, là binh khí của “Minh tử tiêm đao hội”*.Tể chức này đã bặt tích mấy chục năm nay, không hiểu vì sao lại tái xuất.

* Có nghĩa là “hội đao nhọn của con cháu nhà Minh”, thành lập vào những năm Thuận Trị đời Thanh, giống như Bạch Liên giáo, Thiên Địa hội, đều là những tổ chức phản Thanh phục Minh. Tương truyền phần lớn thành viên là hậu duệ của các quan lại triều Minh. Song tổ chức này chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn, cũng không gây ảnh hưởng nhiểu đến xã hội. Nghe nói nó đã mau chóng tan rã do mâu thuẫn nội bộ.

Lỗ Nhất Khí không nói gì, cậu đang lùng sục trong cảm giác để tìm kiếm cổ vật ở trung tâm “ngũ trùng đăng nguyên hội” khi nãy. Thứ này đang ở rất gần đây, bởi lẽ cậu vẫn mơ hồ cảm giác thấy có làn linh khí đang lẩn khuất.

Những người khác cũng đang tìm kiếm, song không phải là bằng cảm giác giống như Lỗ Nhất Khí. Chẳng hạn như ông thợ rèn tay cầm dùi sắt đang không ngừng hít ngửi. Ông ta suốt ngày làm bạn với bếp lò, nên khứu giác đặc biệt nhạy cảm với mùi khói lửa. Lúc này ông ta đã ngửi thấy mùi cháy, song không dám chắc hoàn toàn, bèn lên tiếng hỏi:

- Mọi người thử ngửi xem, phải chăng có thứ gì đang cháy?

Câu hỏi này đã thức tỉnh lão mù, lão đã nghe thấy những âm thanh mà trước đó không hề có, là những tiếng lách tách rất khẽ.

Thời còn là tặc vương, lão đã rất nhiều lần nghe thấy âm thanh này. Lão vội kêu lên:

- Chúng ta mau rời khỏi đây, gỗ đã bén lửa rồi!

Lời lão mù vừa thốt ra, người có phản ứng mạnh nhất chính là người đang cầm cưa. Gã là người kiếm sống nhờ rừng núi, nên hiểu rõ một khi cả đống gỗ lớn bén lửa sẽ gây nên tai hoạ khủng khiếp nhường nào. Nhẹ thì thiêu trụi cả thị trấn, còn nặng thì toàn bộ vùng rừng núi quanh đây đều sẽ ra tro.

Thế là cả đám người vội vã thu gom đồ đạc bỏ chạy ra ngoài. Song lúc này cả thị trấn đã chìm trong màn khói, không thể nhận ra hướng nào với hướng nào.

- Mau chạy theo tôi! – Người cầm cưa hét lớn, rồi dùng một món đồ sắt gõ mạnh lên lưỡi cưa, vừa gõ vừa dẫn đầu đoàn người chạy về một hướng. Họ phải tháo chạy thật nhanh, nếu không muốn bị thiêu sống hoặc chết sặc trong màn khói.

Khói bủa mịt mù, không nhìn rõ hình người, song mọi người đều nghe thấy tiếng gõ cưa choang choảng, nên cứ theo đó mà chạy. Tiếng gõ giờ đây khác nào nhạc tiên dẫn lối, dẫn dắt đoàn người chạy ra khỏi địa ngục tối tăm.

Khi đoàn người chạy lên được ngọn núi nhỏ bên cạnh, toàn bộ thị trấn đã chìm trong biển lửa, những cột khói đen bốc lên ngùn ngụt che kín một khoảng trời. May mà xung quanh thị trấn có đào sẵn những hào rãnh phòng hoả hoạn nên lửa mới không cháy lan sang khu rừng rậm.

Nhưng thật quái lạ, từ lúc ngọn lửa bốc lên đến giờ, không hề thấy một người chạy ra khỏi trấn, cũng không hề nghe thấy một tiếng kêu gào. Cả một phiên chợ đông nghịt những người khi nãy cứ như đã đột ngột biến mất.

Sự thể quái lạ chính là điềm báo nguy hiểm, thế nên chốn này không thể ở lâu, nhanh chóng rời đi chính là quyết định sáng suốt nhất.

Trèo đèo vượt núi liền chân không nghỉ quả là vô cùng mệt mỏi, điều này thể hiện rõ nhất ở Lỗ Nhất Khí. Cậu đã thở hổn hển như muốn đứt hơi, và cuối cùng quyết định dừng bước. Không phải là cậu không đi nổi nữa, mà vì cậu muốn làm rõ một số việc quan trọng hơn nhiều.

Trước hết, cậu muốn biết những người vừa liều mạng giúp mình là ai, họ đến đậy có mục đích gì.

Ông thợ rèn tầm năm mươi tuổi, dáng người tầm thước, khuôn mặt đen bóng, qua lần áo khoác mỏng manh, có thể nhận ra một thân thể vô cùng cường tráng. “Nhậm Hoả Cuồng”, cái tên vừa được xướng lên, lão mù bỗng ngây người, còn Quỷ Nhãn Tam “ối” lên một tiếng. Nhìn vào phản ứng của họ, Lỗ Nhất Khí có thể đoán ra ông thợ rèn hẳn rất có danh vọng trong giang hồ. Nhưng ba người còn lại không có phản ứng gì, họ đều quen biết ông ta, cũng như quen biết những thợ rèn khác kiếm sống ở vùng rừng núi quanh đây. Họ không hề biết ông ta có danh tiếng giang hồ ra sao, lại càng chưa thấy ông ta có tài cán gì khác biệt.

Nhậm Hoả Cuồng nói với Lỗ Nhất Khí, ông là bạn thân của Lỗ Thịnh Nghĩa, hai người đã từng vào sinh ra tử khi xây dựng lọng trấn ma thân gỗ đỉnh sắt* ở sông Muội Đài tỉnh Sơn Đông. Hồi đó, may mà Lỗ Thịnh Nghĩa đã giúp ông ta nhể được con sâu mười chân trăm gai** ra khỏi sợi gân sau gáy, nên ông mới tránh khỏi kiếp nạn bị người ta không chế rồi toàn thân bại liệt. Ông cũng đã từng gặp Lỗ Thịnh Hiếu, vì thế mà nhận ra được lưỡi rìu Lộng phủ của Ban môn.

* Đây là vật trấn vô cùng kỳ diệu, khác hẳn với lọng kinh được xây bằng gạch đá thông thường. Nó gổm một đỉnh lọng làm bằng sắt thép có đúc sẵn kinh văn. Thân lọng làm bằng gỗ với kết cấu cực kỳ tinh xảo, vừa chắc chắn lại vừa yếu ớt. Bình thường chục người cùng xô đẩy cũng không thể lay chuyển được nó, song chỉ cần có luồng gió âm tà thổi qua, toàn bộ khung gỗ sẽ lập tức đổ sập, phần đỉnh bằng sắt có đúc kinh văn cũng rơi xuống, trấn áp yêu ma quỷ quái mang theo âm phong phía dưới.

** Là một loài côn trùng thần kỳ, còn gọi là mười vuốt trăm gai. Giống trùng này muốn thâm nhập vào cơ thể người tương đối khó khăn, người bị xâm nhập phải có thương tích trên người và đang trong tình trạng vô thức thì chúng mới xâm nhập được. Nhưng một khi vào được cơ thể, mười móng vuốt của con trùng sẽ xuyên thẳng vào tuỷ sống, toàn bộ một trăm chiếc gai trên người nó sẽ ăn sâu vào thần kinh và huyết quản. Như vậy, nó sẽ thông qua tuỷ sống và dây thần kinh để nối liền với não bộ, cùng với thời gian, sự liên kết ngày càng bền chắc. Người khống chế có thể dùng âm thanh để điều khiển con trùng chuyển động, mỗi một hình thức chuyển động khác nhau, sẽ lôi kéo những dây thần kinh và huyết quản khác nhau. Người khống chế sẽ dùng cách này để điều khiển hành động và suy nghĩ của người bị hại.

Người cầm cưa biệt hiệu là “sài đầu” hay “lái gỗ”, đều có nghĩa là người trung gian trong buôn bán gỗ. Gỗ mang từ rừng về sẽ được bọn họ cưa cắt sơ qua, sau đó phân loại, phân hạng rồi bán cho người khác, hoặc thậm chí cưa gỗ thành súc bán theo cân như trong phiên chợ vừa rồi.

Gã lái gỗ tên gọi Phó Lợi Khai, tầm tuổi trung niên, là người tháo vát, thân hình cao lớn vạm vỡ, song vẻ mặt có phần thô tục. Ngũ quan trên mặt vẹo vọ không cân xứng tẹo nào, một mắt bình thường, con mắt còn lại híp tịt như một khe hở, nhưng ánh nhìn chiếu ra từ hai con mắt bên to bên bé lại tinh khôn xảo quyệt khác thường.

Gã nói gã không quen bất kỳ ai trong nhà họ Lỗ, cũng chưa từng nhìn thấy Lộng phủ thực sự, song gã có biết về Lộng phủ, nhờ sư phụ có để lại một cuốn “Ban kinh” và một tranh vẽ tô màu, chính là vẽ hình Lộng phủ. Trước lúc lâm chung, sư phụ có trăng trối lại, dặn gã phải lưu lại nơi này, đợi đến khi có người mang Lộng phủ tới thì trao lại bức tranh cho người đó, đồng thời phải trợ giúp người đó hoàn thành đại sự. Nếu đời này không thấy người đó xuất hiện, phải tìm một hai đệ tử tiếp tục truyền lại nhiệm vụ.

Nghe những lời trên, Lỗ Nhất Khí vô cùng xúc động, tựa như vừa gặp lại người thân thích. Thì ra gã lái gỗ chính là truyền nhân của Lỗ gia lưu lại nơi này, cũng là đệ tử thực thụ của Ban môn.

Những người khác, trong đó có cả Nhậm Hoả Cuồng, nghe được điều này đều “ồ” lên một tiếng, họ đều hiểu rõ sự tình hơn gã lái gỗ.

- Hoá ra cũng là đệ tử của Ban môn! Nhưng tại sao bản thân ngươi lại không biết?

- Sư phụ chưa từng nói đến! – Phó Lợi Khai thành thật nói.

- Vậy sư phụ của ngươi danh tính là gì? Ông ta có nói với ngươi tại sao lại phải chờ đợi ở chốn núi rừng này hay không? – Nhậm Hoả Cuồng cũng hỏi rất thực tình.

- Tôi không biết! Khi sư phụ lôi được tôi ra từ trong đống tuyết, tôi vẫn còn là một đứa trẻ sơ sinh. Ông một tay nuôi tôi khôn lớn, dạy tôi kỹ nghệ, song lại chỉ bảo tôi gọi ông là sư phụ, họ Phó của tôi cũng là lấy từ chữ “sư phó” (tức sư phụ) mà ra. Không có sư phụ cũng không có tôi, bởi vậy những điều sư phụ dặn dò, tôi dù phải mất mạng cũng tuân thủ đến cùng! – Lời nói của Phó Lợi Khai đã khiến lão mù bồi hồi xúc động, bởi lẽ cũng ít nhiều giống với cảnh ngộ cuộc đời lão.

- Vậy việc ngươi thu nạp đồ đệ hẳn cũng có nguyên nhân gì khác biệt? – Lão mù chỉ về phía hai kẻ lông lá xồm xoàm rồi hỏi.

- Ông nói hai người kia ư? Họ không phải là đồ đệ của tôi, chỉ là thợ phụ. Họ theo tôi kiếm ăn, song không học kỹ nghệ của tôi. Tôi vẫn chưa tới tuổi thu đồ đệ để lưu truyền di mệnh! – Phó Lợi Khai đáp.

Hai kẻ kia kỳ thực đã mặc lộn ngược lớp lót lông thú của tấm áo bông ra bên ngoài, như vậy có thể giúp họ cử động tay chân thoải mái hơn. Họ là hai anh em ruột. Người mặc áo lông nhiều màu là anh cả, tên Tùng Đắc Lễ; người mặc áo lông tuyền một màu nâu là em tên Tùng Đắc Kim. Nhà họ vốn có bốn anh em, nhưng hai người em đã bị đống gỗ thô đổ sập đè chết khi đang buôn bán ở chợ. Đó là một nỗi mất mát đau thương cho hai người còn lại, và cũng là một bài học xương máu. Bởi vậy họ đã quyết chí khổ luyện được một sức khoẻ phi thường và công phu nhảy trên đống gỗ lăn. Cho nên, khi Phó Lợi Khai tới cứu viện Lỗ Nhất Khí, hai người họ đã chặt dứt dây thừng buộc gỗ, khiến gỗ thô ào ào đổ xuống tấn công đám đao thủ sát nhân.

Nhậm Hoả Cuồng biết Lộng phủ là tín vật do môn trưởng Ban môn nắm giữ, song ông không hiểu chức vị môn trưởng Ban môn đã được chuyển cho cậu thanh niên tướng mạo tầm thường kia từ lúc nào. Ông ta vô cùng kinh ngạc, nhưng kể cũng khó trách, vì nơi đây núi non hẻo lánh tách biệt với bên ngoài, tin tức trong giang hồ khó mà truyền tới. Thứ nữa, cả Lỗ gia và Chu môn đều không phải là những môn phái giang hồ thực thụ. Ví như Chu môn, hành vi của họ người ngoài thường không thể biết được. Thành Bắc Bình, thành Cô Tô xảy ra sự biến, mà họ đều ém nhẹm kín bưng, không để cho người giang hồ hay quan chức phát hiện ra một dấu vết gì. Lỗ gia lại càng không để người khác biết những sự biến xảy ra có liên quan gì đến họ. Xưa nay hành động bí mật vẫn luôn là nguyên tắc của Lỗ gia.

Nhậm Hoả Cuồng chăm chú lắng nghe ba người Lỗ Nhất Khí thay nhau thuật lại những chuyện xảy ra trong suốt hơn một tháng vừa qua, trong lòng bàng hoàng chấn động, bất chợt trào dâng một niềm kính trọng đối với Lỗ Nhất Khí. Cậu thanh niên này là con trai của người bạn chí thân, tuy thuộc hàng tiểu bối, song giờ đây đã là môn trưởng, lại có tài năng thực thụ, bởi vậy quan hệ giữa ông và cậu ta không thể đi ngược với quy củ giang hồ yêu cầu phải tôn trọng môn trưởng của môn phái khác. Nếu không, cho dù Lỗ Nhất Khí không để bụng, cũng khó tránh kẻ khác thừa cơ châm chọc. Đặc biệt, sau khi biết Phó Lợi Khai kỳ thực cũng được coi là đệ tử Ban môn, ông ta càng thấy phải chú trọng đến điều này.

Trái ngược với Nhậm Hoả Cuồng, Phó Lợi Khai lại chẳng bận tâm đến chuyện Lỗ Nhất Khí là môn trưởng, bởi lẽ gã chẳng biết Ban môn là thứ gì, lại càng không biết môn trưởng là nhân vật ra sao. Gã chỉ biết rằng mình cần phải giúp đỡ cậu thanh niên này hoàn thành trọng trách theo đúng di nguyên của sư phụ mà thôi.

Nhậm Hoả Cuồng nói với Lỗ Nhất Khí, ngữ điệu đầy khách khí:

- Lỗ môn trưởng, cậu tới vùng đất khỉ ho cò gáy này chắc hẳn là có việc cần kíp. Năm xưa tôi đã chịu ơn của bậc tiền bối trong nhà cậu. Nếu như cậu không chê, tôi sẵn sàng trợ giúp cậu san sẻ trọng trách nặng nề.

Lỗ Nhất Khí còn chưa kịp cảm ơn, Phó Lợi Khai cũng lên tiếng:

- Phải! Việc của cậu tôi cũng sẵn sàng giúp đỡ để mau chóng hoàn thành. Như vậy, tôi sẽ có thể rời khỏi chốn rừng sâu núi thẳm này, thoải mái ngao du trong thế giới nhộn nhịp ngoài kia.

Nghe lời gã nói, niềm cảm kích đang trào dâng trong lòng Lỗ Nhất Khí bỗng chốc đã biến thành một nụ cười khổ sở:

- Tôi cũng muốn mau chóng hoàn thành nhiệm vụ, chỉ có điều giờ đây, đến địa điểm chính xác ở đâu tôi còn chưa biết rõ!

Câu nói của cậu khiến ông thợ rèn và gã lái gỗ lập tức ỉu xìu. Quỷ Nhãn Tam vốn không thích nói nhiều, đột nhiên bật ra một câu:

- Bức tranh sư phụ để lại không chừng lại là chỉ dẫn!

Cả mấy người mắt đều vụt sáng. Không sai! Phó Lợi Khai lập tức lôi từ trong tay nải to kềnh khoác chéo vai ra một túi vải thô, rồi lại mở tiếp ba lớp túi nữa mới lộ ra một cuốn sách đã ố vàng, đó chính là bản “Ban kinh” chép tay. Những ngón tay dài mà cứng cáp của Phó Lợi Khai nhẹ nhàng lật giở vài trang sách, liền lộ ra một bức tranh tô màu được kẹp ở giữa sách. Bức vẽ sống động như thật, Lộng phủ trong tranh hầu như không có một chút khác biệt so với rìu ngọc ở bên ngoài.

Lỗ Nhất Khí nhẹ nhàng nâng bức tranh trên tay, bắt đầu cảm giác. Cậu cảm thấy chất giấy khá nặng, đặc biệt dai bền, có lẽ là loại giấy Ngọc Lâm đã được trộn lẫn bột lá gai và lông tơ cừu. Làn khí toả ra từ tờ giấy đã mách bảo với Lỗ Nhất Khí rằng, niên đại của nó không thực cổ xưa, chắc hẳn không quá một trăm năm.

Hiển nhiên là giấy có trước, tranh vẽ có sau, bởi vậy tuổi thọ của bức tranh càng ngắn hơn nữa. Thế nhưng Lỗ Nhất Khí vẫn cảm nhận thấy chút hơi hướng cổ xưa toả ra từ bức vẽ, bởi vì chất liệu dùng để vẽ rất cổ, có lẽ là thứ màu “Cung hội thái” từ thời Nguyên. Khi tô màu Cung hội thái, cần phải pha chế với dầu băng tinh, nếu không sau khi tô màu xong, màu sẽ khô lại và bong tróc. Nếu pha với thứ dầu mỡ khác, màu sắc sẽ mờ nhạt, không được tươi tắn. Nhưng màu Cung hội thái có rực rỡ tới đâu, sau vài chục năm cũng sẽ dần dần sạm đi mà phai nhạt. Nếu không biết cách bảo quản, màu sắc còn phai nhanh hơn nữa. Bức tranh này màu sắc vẫn rất tươi, lại nhìn vào cách bảo quản sơ sài của Phó Lợi Khai, chắc hẳn tuổi đời của nó không quá ba chục năm.

Ngoài những điều trên, Lỗ Nhất Khí không còn nhận ra điểm gì khác ở bức tranh nữa. Cậu lật lên lật xuống một hồi, quan sát vô cùng tỉ mỉ, song vẫn không tìm ra được manh mối hay điểm nào khác lạ.
 
Quyển 3 - Chương 10: Nghi ngờ khởi


Nhậm Hỏa Cuồng ngồi bên cạnh không hề nhìn vào bức tranh trên tay Lỗ Nhất Khí, bởi lẽ đây là bí mật của môn phái khác. Song ông ta lại rất tò mò với cuốn “Ban kinh” trong tay Phó Lợi Khai. Bản thân Nhậm Hỏa Cuồng cũng có một cuốn “Ban kinh” do Lỗ Thịnh Nghĩa tặng cho, với mong muốn ông ta hãy dành thời gian nghiên cứu những kỹ nghệ bên trong, để sau này có thể trợ giúp Lỗ gia khi cần thiết.

Lúc này, ông phát hiện thấy cuốn “Ban kinh” trong tay Phó Lợi Khai có vẻ dày dặn hơn của mình rất nhiều, bèn vươn cổ liếc xem, thấy nét chữ trong sách cũng nhỏ hơn, thì cảm thấy rất lạ lùng, không hiểu nguyên nhân là do đâu.

Có người đã nhìn thấu nỗi thắc mắc trong lòng ông ta. Quỷ Nhãn Tam đang ngồi trên một gốc cây bên cạnh bèn lên tiếng:

– Lão Nhậm, đừng nhìn nữa, đó là toàn bộ sáu công phu, còn chúng ta chỉ có phần tổng quát và một công phu thôi! – Quỷ Nhãn Tam đi theo Lỗ Nhất Khí đã hơn một tháng, bởi vậy khi Lỗ Nhất Khí giở cuốn “Ban kinh” do Lỗ Thịnh Hiếu để lại, hắn đã nhìn ra sự khác biệt ở trong đó.

– Vậy mà hắn còn nói mình không phải là đệ tử Ban môn! – Trong suốt những năm qua, Nhậm Hoả Cuồng vẫn đi theo những nhóm đi rừng để kiếm kế sinh nhai, đã quen biết lái gỗ Phó từ trước. Nhưng ông ta chưa bao giờ nghĩ rằng gã thợ giống như lái buôn này lại có liên quan gì tới Ban môn. Giờ nghe Quỷ Nhãn Tam nói vậy, ông ta đã chắc chắn gã lái gỗ kia đích thị là Ban môn đệ tử.

Đầu óc tinh nhanh của Phó Lợi Khai lập tức ý thức được rằng hai người kia đang nói tới cuốn sách trong tay mình, khuôn mặt lệch vẹo bỗng thoáng ửng dó, thần thái cũng trở nên thiếu tự nhiên. Chợt bắt gặp ánh mắt nghi ngờ của Nhậm Hoả Cuồng và Quỷ Nhãn Tam, lại thấy cơ mặt lão mù khẽ giật giật như cảnh giác, thì gã vội vàng giải thích, vì nếu còn không nói e rằng sẽ có hiểu lầm:

- Sư phụ nuôi tôi khôn lớn, có dạy tôi một số kỹ thuật nghề mộc, song rất nhiều kỹ nghệ không cho phép tôi sử dụng trong lúc bình thường. Sư phụ không dạy chữ cho tôi, cũng không cho tôi đi học, nên cuốn sách này viết gì tôi đâu có biết.

Lời giải thích rất hợp lý, song xem ra có phần khiên cưỡng. Mọi người đều trầm ngâm, không ai nói câu nào.

Cuối cùng vẫn là Lỗ Nhất Khí lên tiếng trước, song giống như đang tự nhủ với chính mình:

– Tôi không phát hiện được điều gì từ bức tranh này cả. Nếu tìm được đến vùng đất mẹ, chưa biết chừng sẽ phát hiện được manh mối nào chăng.

Cậu vừa dứt lời, cả Nhậm Hoả Cuồng và Phó Lợi Khai gần như đồng thanh thốt lên:

– Kim gia trại!

Kim gia trại chính là trại đàn bà, trại chủ cũng chính là bà chủ, là một người đàn bà tháo vát và xinh đẹp, tên gọi Thuỷ Băng Hoa. Trong vòng vài trăm dặm quanh đây, không ai không biết tiếng Thuỷ đại nương – ba chủ trại đàn bà. Năm xưa, cô ta mới kết hôn được ba ngày, người chồng đã theo anh em chú bác ra Quan Ngoại làm ăn, hơn hai năm trời bặt vô âm tín. Thuỷ đại nương bèn một thân một mình lặn lội đến tận Quan Ngoại tìm chồng, mới hay tin người chồng vừa tới Quan Ngoại đã bị cây đổ đè chết. Cô ta không quay về nữa, mà dẫn theo vài chục quả phụ và những người phụ nữ chưa tìm thấy chồng có nguy cơ thành quả phụ tìm đến một thung lũng dựng trại trú lại. Trại này chính là một điểm nghỉ chân, cũng là một tổ ấm cho những kẻ cô đơn. Cánh đàn ông đói khát trong rừng có thể tìm tới đây để thoả mãn mọi nhu cầu.

Phó Lợi Khai lập tức nghĩ ngay tới Kim gia trại, bởi vì mấy chữ “vùng đất mẹ” đã khiến gã chợt nhớ đến cái trại đầy những người đàn bà phốp pháp trắng trẻo, nhớ tới vài ả nhân tình đã lâu không gặp, bất giác trên khuôn mặt thiếu tự nhiên của gã lộ ra một nét cười khả ố.

Nhậm Hoả Cuồng nghĩ tới Kim gia trại, vì ở đấy ngoài đàn bà, còn có thể thu lượm được tin tức. Tất cả mọi tin tức sốt dẻo, quái lạ, mọi thông tin về địa giới hay đường đi trong vùng rừng núi quanh đây đều có thể lấy được từ trại đàn bà. Những gã đàn ông ra vào nơi đây không bao giờ hà tiện về những điều họ mắt thấy tai nghe với những cô nhân tình ngọt ngào.

Đường tới Kim gia trại khá xa, đoàn người vẫn phải dò dẫm băng qua ngút ngàn rừng sâu tuyết phủ. Nhậm Hoả Cuồng quảy gánh lò rèn dẫn đầu đoàn người, hai anh em Tùng Đắc Lễ và Tùng Đắc Kim đi sau rốt. Hai gã thanh niên to cao lực lưỡng, rìu giắt sau lưng, vác theo hai chạc thông lá kim thật lớn, kéo lê theo sau để xoá dấu chân. Tùng Đắc Lễ chốc chốc lại vung khúc cây gõ vào những cây nhỏ ven đường, khiến tuyết phủ trên tán cây rơi xuống lả tả, phủ kín vết kéo của cành thông.

Trời đã sẩm tối, bọn họ vẫn ở trong rừng sâu, phóng mắt nhìn quanh không thấy một nóc nhà. Nhậm Hoả Cuồng nói rằng với tốc độ như thế này, chí ít cũng phải quá nửa đêm mới tới được Kim gia trại. Lại thêm đêm đen rừng thẳm, núi dốc đường trơn, chi bằng tìm chỗ nghỉ ngơi, đợi sáng hôm sau đi tiếp.

Mọi người đều đồng ý. Hai anh em Tùng Đắc Lễ nhanh chóng tìm ra một được một sườn dốc đứng cao hơn một trượng, hai cây rìu vung lên loang loáng, thoắt một cái đã đốn đổ hai cây thông tuyết cao lớn phía trước sườn dốc. Cây thông đổ xuống, thuận thế gác lên đỉnh dốc, tán lá um tùm che rợp giống như một mái nhà lớn. Hai anh em Tùng Đắc Lễ lại lom khom chui xuống phía dưới tán cây, một lúc sau hì hục lôi ra hàng bó lớn cành thông. Bọn họ đã dọn dẹp xong những cành cây chìa ra phía dưới, giờ đây cây thông đổ đã thực sự giống như một mái nhà.

Quỷ Nhãn Tam nện cho chắc nền tuyết phía dưới tán cây, còn Phó Lợi Khai dẫn anh em họ Tùng mang mớ cành thông mới chặt cắm ở xung quanh thành một hàng rào, nói rằng để đề phòng thú dữ tấn công. Nếu quả thực có thú dữ tới gần, khi vượt qua hàng rào hẳn sẽ gây ra tiếng động.

Lỗ Nhất Khí cũng ôm một mớ cành cây đem cho ba người họ, tiện thể liếc mắt quan sát cách họ cắm rào. Không hề có bất cứ quy luật hay khảm tướng nào, xem ra đúng như những gì Phó Lợi Khai đã nói, gã chưa từng học“Ban kinh”.

Bên dưới tán cây, Nhậm Hoả Cuồng đã bắt đầu nhóm bếp lò, rồi lôi ra một túi nhỏ khoai lang trong hòm mây bên đầu gánh còn lại, cho lên bếp nướng.

Trong vùng núi rừng phương Bắc, đêm tối ập đến rất nhanh. Trong cả khu rừng chỉ còn lại một đốm sáng duy nhất bập bùng ẩn hiện dưới tán lá thông rậm rạp. Gió Bắc rít lên thành tiếng, tựa như ma quỷ gào rít, chốc chốc lại thổi bạt một đám tuyết từ trên tán lá rơi xuống rào rào, nghe như tiếng bước chân đang từ từ tiến lại.

Mọi người đều túm tụm với nhau bên dưới tán cây, vây quanh lò lửa, cùng ăn khoai lang nướng, chẳng phải bận tâm đến cái giá buốt của đêm tối rừng sâu, cũng không hề sợ hãi trước những âm thanh rờn rợn ở bên ngoài. Họ đều là những cao thủ giang hồ hoặc thợ rừng lão luyện, có thể phân biệt rõ từng loại âm thanh.

Lỗ Nhất Khí vừa chậm rãi ăn khoai, vừa kín dáo quan sát những người xung quanh. Có thể nhận ra, bọn họ hoặc là bản tính thô lỗ, hoặc là đang đói ngấu, nên ai nấy đều nhai nuốt nhồm nhoàm.

Song Lỗ Nhất Khí vẫn nhận ra một vài điểm bất thường. Thứ nhất là lão mù, lão ăn khoai mà cứ như nhai rơm, bộ dạng nửa như trầm tư nghĩ ngợi, nửa như đang nghe ngóng điều gì.

Người bất thường thứ hai lại càng dễ nhận, đó là Quỷ Nhãn Tam. Hắn đang cắn một miếng khoai, có lẽ là do quá nóng, nên hắn há vội miệng ra mà hít hà, lưỡi thè cả ra ngoài. Mới đầu cậu cũng không để ý, song khi ánh mắt lướt qua, dường như có lờ mờ hai chữ “khả nghi” xuất hiện. Cậu vội lia ánh mắt trở lại, và đã nhìn thấy rõ ràng. Quỷ Nhãn Tam đang mấp máy với cậu mấy chữ: “Cẩn thận, người khả nghi!”

Lỗ Nhất Khí không đáp lại, cậu không biết phải ra hiệu thế nào trong khi miệng lúng búng đầy những khoai lang. Cậu chỉ biết nhìn thẳng vào con mắt có thể nhìn thấu đêm đen, rồi chớp mạnh một cái.

Đêm đã về khuya, xung quanh tối đen như mực. Trước khi đi ngủ, Nhậm Hoả Cuồng đã dùng tro than ủ kỹ bếp lò để lửa cháy liu riu. Nhưng giờ đây, trong bếp lò tới một đốm lửa cũng không nhìn thấy.

Bỗng vọng lên một tiếng lách tách khe khẽ. Lỗ Nhất Khí choàng tỉnh từ trong giấc ngủ chập chờn đầy cảnh giác. Gió đã ngừng thổi, không gian lặng phắc như tờ.

Mới đầu, Lỗ Nhất Khí ngỡ rằng âm thanh mơ hồ khi nãy là tiếng than lửa nổ trong lò. Nhưng ngay sau đó lại thêm một tiếng nữa, nghe rõ hơn nhiều, mà trong lò không hề có hoa lửa bắn ra. Cậu đã nhận ra, âm thanh vọng lại từ một chỗ xa hơn rất nhiều so với bếp lò, hình như xuất phát từ hàng rào cành thông ở bên ngoài.

Những tiếng lách tách khe khẽ càng khiến cho không gian xung quanh tĩnh lặng đến đông cứng. Lỗ Nhất Khí cảm thấy quái lạ, tại sao những cao thủ đang nằm ngay bên cạnh đều không hề phản ứng? Lúc này cậu mới cảm thấy một mình đối mặt với nguy hiểm là đáng sợ nhường nào.

Lỗ Nhất Khí từ từ quay đầu lại, cũng từ từ rút khẩu pạc hoọc đang giấu dưới thân mình ra.

Bên ngoài tán cây rậm rạp loáng thoáng có một bóng đen to xù đang lay động, hệt như ác quỷ hắc ám đang múa vuốt nhe nanh. Bóng đen không hề phát ra một tiếng động, chỉ liên tục vừa lắc lư vừa nhích dần về phía Lỗ Nhất Khí từng chút một.

Lỗ Nhất Khí nằm xuống, không dám cử động mạnh, chỉ khẽ khàng rút chốt an toàn của khẩu súng, rồi chầm chậm dịch chuyển nòng súng nhằm về phía bóng đen. Do không biết bóng đen đó là thứ gì, điểm yếu hại ở đâu, nên cậu chỉnh súng về chế độ bắn liên tục.

Những cao thủ nằm bên vẫn không chút động tĩnh. Lỗ Nhất Khí khẽ với tay trái sang bên cạnh, đó là vị trí của lão mù, song tay cậu chỉ chạm vào khoảng không, lão mù đã biến mất! Lỗ Nhất Khí vội duỗi chân trái vươn ra phía ngoài, Quỷ Nhãn Tam lẽ ra phải nằm ở đó, thói quen của hắn chính là luôn che chắn cho Lỗ Nhât Khí an toàn ở bên trong. Song lúc này, Quỷ Nhãn Tam cũng không thấy đâu nữa.

Bóng đen đã tới sát tán cây, đã có thể nghe rõ tiếng lào xào do bóng đen quẹt qua cành lá. Lỗ Nhất Khí tựa sát lưng vào đá núi lạnh buốt, cầm chắc khẩu pạc hoọc trong tay.

Bỗng đột ngột vọng lên một rú ghê rợn, vang dội và rất đỗi chói tai, tựa như một mũi kiếm lạnh buốt đâm toac màn đêm tĩnh mịch trong rừng thẳm. Trong tiếng rú còn xen lẫn cả những tiếng ken két vô cùng quái dị, tựa như thú dữ mài vuốt, ma quỷ gặm xương.

Tiếng rú chỉ vang lên trong khoảnh khắc, nhưng những âm thanh quái dị vẫn tiếp tục không ngừng. Nhưng rất nhanh, tiếng rú lại dội lên, khoảnh khắc gián đoạn vừa nãy tựa như chỉ là dừng lại lấy hơi.

Bóng đen khựng lại hồi lâu, cuối cùng không nhịn nổi nữa, gầm lên một tiếng trầm dục, rồi nửa thân trên đổ ập xuống, nằm sấp lên phía trên hai cây thông tuyết đổ nghiêng, ra sức tìm cách lách qua những khe hở rất hẹp giữa những cành cây và thân cây rậm rạp để chui xuống phía dưới. Hai thân cây oằn hẳn xuống dưới sức nặng của bóng đen, phát ra những tiếng răng rắc ghê tai

Chính vào lúc này, lại thêm hai tiếng gầm rú vọng lên, hoà lẫn với tiếng rú ban đầu và những tiếng cọt kẹt ghê rợn, tiếp tục vang dội trong rừng thẳm núi sâu, trước sau tiếp nối, trận trận gần xa, liên hồi không dứt.

Những tiếng gầm rú đột ngột dường như đã khiến bóng đen kinh hãi, nó đâm sầm về phía trước một cú, chỉ nghe “rắc” một tiếng, một cây thông tuyết đã bị đè gay gập. Song vừa đâm gãy thân cây, bóng đen lập tức quay đầu, quăng mình lăn lông lốc xuống sườn dốc. Thân hình tuy đồ sộ song di chuyển cực nhanh, trong nháy mắt đã mất hút trong rừng sâu đen thẳm.

Có bóng người xuất hiện trên đỉnh dốc ngay trên đầu Lỗ Nhất Khí, đó là anh em họ Tùng. Hai anh em tung người nhảy thẳng xuống, rơi lên đống tuyết. Khi Lỗ Nhất Khí chui ra khỏi tán cây, Tùng Đắc Lễ đã châm lên một ngọn đuốc. Trong ánh lửa, họ nhìn thấy Phó Lợi Khai đứng bên sườn dốc cạnh đó, nét mặt thiếu tự nhiên giờ đây tràn đầy nghi hoặc, miệng lẩm bẩm không ngừng:

- Sao thế nhỉ? Sao thế nhỉ? Không thể như vậy được!

Không cần nói cũng biết, những âm thanh quái dị vừa rồi là do ba người họ tạo ra để xua đuổi quái thú. Không hiểu Phó Lợi Khai đã dùng thứ gì mài vào lưỡi cưa để phát ra những tiếng cọt kẹt ghê rợn nhường đó.

Lỗ Nhất Khí không hỏi Phó Lợi Khai đang nghi hoặc điều gì, bởi trong cậu còn rất nhiều thắc mắc chưa được giải đáp. Quỷ Nhãn Tam và lão mù đã đi đâu? Cả Nhậm Hoả Cuồng cũng không thấy đâu nữa?

- Ai?

Tùng Đắc Kim đột ngột quát lên, hạ thấp thân người, cây rìu cán dài đưa ngang trước ngực. Tùng Đắc Lễ vội cắm phập ngọn đuốc đang cầm trong tay phải vào đống tuyết để dập lửa, tay trái lập tức rút rìu, ở trong tư thế sẵn sàng tựa như con báo chuẩn bị vồ mồi.

Động tác của Phó Lợi Khai rõ ràng không nhanh nhẹn bằng hai gã thợ, tư thế phòng bị cũng đầy rẫy sơ hở. Gã đứng dang cả tay chân như hình chữ đại, hai tay giơ ngang, lưỡi cưa bên tay phải chắn trước mặt Lỗ Nhất Khí. Tuy làm như vậy có thể che chắn cho Lỗ Nhất Khí đang đứng cách gã ba bước, song bản thân gã lại trở thành mục tiêu lộ liễu, cửa ngõ tênh hênh.

Từ phía sau một cây sam tuyết cao lớn ở phía nam bỗng hiện ra hai cái bóng lênh khênh hệt như hồn quỷ, một là lão mù thân thể tong teo như cây gậy, một là cây gậy thép mảnh khảnh dài nghêu như thân người lão. Lão mù dường như đang hổn hển. Với tuyệt kỹ khinh công thượng đẳng như của lão mà phải hào hển như vậy, chắc chắn là vừa phải chạy gấp một đoạn đường rất xa.

Tùng Đắc Lễ lại châm bó đuốc vào bếp lò, những đốm lửa yếu ớt mau chóng bén vào thân cây cháy bùng thành ngọn, xem ra trên thân cây đã được bôi một loại dầu đặc biệt, hoặc là bản thân chất gỗ cực dễ bắt lửa.

Lỗ Nhất Khí lại quay sang quan sát lão mù. Lão đã thôi hổn hển. Bộ quần áo trên người lão vẫn đen trũi như màn đêm trong rừng thẳm, không có lấy một đốm tuyết dính vào.

Lại một bộ mặt bóng nhẫy thò ra từ phía sau bụi cây rậm rạp cách lão mù hơn chục bước chân, chính là Nhậm Hoả Cuồng. Có thể nhận ra, thứ bóng ướt nhễ nhại trên khuôn mặt ông ta chính là mồ hôi. Thợ rèn vốn cả ngày làm việc bên bếp lò hừng hực lửa, vốn dĩ chịu nóng rất giỏi, không dễ vã mồ hôi, nhưng tại sao ông ta lại mồ hôi lút mặt trong một đêm đông buốt giá nhường này?

Người xuất hiện cuối cùng là Quỷ Nhãn Tam. Đã thấy cái bóng của hắn lững thững đi lại từ vạt rừng cây ở phía nam, cùng một hướng với lão mù, dáng vẻ vô cùng thận trọng nhảy qua hố trũng, vòng qua đống tuyết, tốc độ chậm rãi hệt như đang tản bộ sau bữa ăn chiều. Song thế đi có phần quái lạ, đầu cúi gục, lầm lũi mà bước, tựa như một kẻ mất hồn, lại giống như một bóng ma không mặt. Nếu trong tay hắn không có cây Vũ Kim Cương, trên lưng không khoác khẩu súng trường, hẳn Lỗ Nhất Khí đã chĩa nòng súng về phía hắn.

Lỗ Nhất Khí cau mày nhíu trán, bộ óc bắt đầu cảm thấy bất lực. Trong khoảnh khắc, vô số hoài nghi và thắc mắc đã như một mớ bòng bong quấn chặt lấy cậu, nhất thời không thể gỡ ra.

Cặp mắt bên to bên nhỏ của Phó Lợi Khai liên tục hấp háy theo ánh đuốc bập bùng, quét lên quét xuống trên những người vừa xuất hiện. Gã cười hai tiếng gượng gạo, rồi hỏi:

- Các người đi đâu thế? Mộng du à?

Cơ thịt trên gò má lão mù giật lên vài cái. Lão lên tiếng, giọng nói thâm trầm khác thường:

- Ta ra đấy làm một bãi. Muốn không?

Quỷ Nhãn Tam đã dừng lại ngay sau lưng lão mù, lúc này mới chịu ngẩng cái đầu cúi gục lên, vẻ mặt thản nhiên như không, buông một câu gọn lỏn:

- Tôi cũng thế!

Nhậm Hoả Cuồng bật cười ha hả, chừng như vô cùng đắc ý:

- Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi ăn khoai lang thông phân nhuận ruột, té ra hai người cũng vậy!

Tùng Đắc Kim đứng cạnh, nhìn điệu cười đắc ý của Nhậm Hoả Cuồng, bốp chát luôn một câu:

- Đi cầu mà mặt toé đầy mồ hôi, không đến nỗi máu toé đầy mông đít đây chứ?

- Hờ hờ! – Nhậm Hoả Cuồng tuy không tỏ ý phật lòng, song tiếng cười đã nhỏ đi một chút, trở nên âm trầm khó hiểu.

- Chúng ta đi thôi, ở đây rất nguy hiểm! – Lão mù đột ngột lên tiếng, giọng đầy kích động xen lẫn vẻ kinh hãi.

- Sao ông biết? Chúng tôi vừa mới bị một con gấu rất lớn tấn công đấy! – Phó Lợi Khai hấp háy đôi mắt giảo hoạt, nhìn chằm chằm vào mặt lão mù.

- Phó Lợi Khai, ngươi mộng du à! Thời tiết này gấu ngủ đông hết rồi, làm gì có chuyện chui khỏi hang mà vồ ngươi? Chả nhẽ có con gấu cái ngửi thấy mùi đực từ ngươi mà mò đến? – Nhậm Hoả Cuồng cao giọng, xem ra ông ta không thể tin vào lời lẽ của Phó Lợi Khai.

- Vậy ông lại mà xem, nó vừa đập gãy cả cây thông kìa! Nếu chúng tôi không gây tiếng động để doạ nó chạy đi, không khéo lúc này nó đã nằm khểnh ở đây rồi!

Nghe gã nói vậy, Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng đều tiến lại gần thân cây bị đè gãy.

Lão mù không đi lên cùng họ, mà tiến thẳng tới hang rào cành thông, ngồi thụp xuống mò mẫm một hồi.

- Không phải là gấu, dấu chân to hơn chân gấu rất nhiều! – Lão mù thận trọng đưa tay sờ khẽ vào một dấu chân to đùng trên tuyết. Lão vừa lên tiếng, tất cả mọi người đều kinh sợ, vội cúi xuống quan sát trên nền tuyết. Nhưng các dấu chân xung quanh đều đã bị mọi người xéo nát, nên nhìn không rõ. Duy chỉ nơi lối vào của hàng rào là còn một hàng dấu chân rất rõ ràng, nên bọn họ đều chạy đến vây xung quanh lão mù.

- Thì tôi vừa nói đấy thôi, con gấu rất lớn! – Thấy mọi người không tin, Phó Lợi Khai có vẻ hơi bực bội.

- Nhưng dấu chân không hề có vết móng, có vẻ giống dấu chân người đi ủng. Nhưng nếu là người, hình như lại to lớn thái quá! – Nhậm Hoả Cuồng nói.

Đúng vậy, dấu chân trên tuyết thực sự không giống chân gấu, có hình bầu dục tròn trịa không một góc cạnh, và quan trọng nhất là không hề có vết móng nhọn.

- Nếu nó là dấu chân gấu, hẳn là con gấu biết đi ủng! – Quỷ Nhãn Tam lên tiếng, vẻ mặt rất mực nghiêm túc.

- Đúng là gấu thực! Không tin cứ hỏi Tùng anh và Tùng em! – Lái gỗ Phó bắt đầu cuống. Cũng dễ hiểu thôi, khi người khác không tin vào điều mình tận mắt chứng kiến, bất kỳ ai cũng có phản ứng như vậy.

- Chúng tôi cũng không nhìn rõ, chỉ biết đó là một con vật rất to lớn.

Câu trả lời của hai anh em họ Tùng nằm ngoài dự liệu của Phó Lợi Khai, gã đứng ngẩn tò te, không nói được lời nào. Lẽ nào gã đã sợ quá mà hoa mắt?

- Mặc kệ nó là giống gì, chúng ta vẫn phải rời khỏi nơi đây ngay lập tức! – Lỗ Nhất Khí cũng đã lên tiếng.

- Hay là tìm một chỗ khác để nghỉ vậy. Tôi biết gần đây có một hốc đá kín gió, đủ chỗ cho tất cả chúng ta! – Tùng Đắc Lễ đề nghị. Gã có vẻ ngại ngần không dám băng rừng ngay trong đêm hôm khuya khoắt.

- Không được! Bây giờ thứ đáng sợ không phải là dã thú, mà là người! Đúng ra ngay từ lúc trời vừa tối chúng ta đã không nên dừng lại! – Nhậm Hoả Cuồng nói xong, lập tức quảy quang gánh lên vai, dẫn đầu đi luôn. Hai anh em họ Tùng chỉ còn biết cầm đuốc, đi song song ở phía sau.

Lỗ Nhất Khí đi sau hai anh em họ Tùng. Nhìn vào dáng đi của họ, cậu có phần cảm khái, khẽ nói với Quỷ Nhãn Tam đang đi bên cạnh:

- Anh nhìn xem, đúng là hai anh em ruột có khác, đến dáng đi cũng đối xứng đều tăm tắp!

Họ đã đi lên sườn dốc được khoảng hơn chục bước, Lô Nhất Khí bèn quay đầu lại quan sát. Rõ ràng sự thể có phần quái lạ, con người cũng rất khả nghi. Song cụ thể là người nào, là tình tiết nào, cậu lại không thể đoán ra. Đi trên đường rừng ngập tuyết giữa đêm đen thăm thẳm, thật khó có thể suy nghĩ cho thấu đáo kỹ càng. Cậu chỉ còn biết ghi nhớ kỹ từng tiểu tiết trong đầu, giống như đã từng ghi nhớ những kí hiệu văn tự chưa thể phá giải. Cậu tin rằng những tiểu tiết đó cũng giống những ký hiệu văn tự bí hiểm, đến khi cần thiết chắc chắn sẽ hiện lên trong trí não, để xác nhận hay giải thích cho một sự thực sau này.

Khi mặt trời vừa ló rạng, những dãy nhà gỗ ngang dọc của Kim gia trại cũng đã hiện ra trước mắt. Khu trại nằm gọn trong một thung lũng, núi non xung quanh không quá gập ghềnh, cũng không cao lắm. Mặt trời đã leo lên một sườn núi thoai thoải, dát lên toàn bộ khu trại một ánh vàng kim mờ ảo.
 
Quyển 3 - Chương 11: Tìm quy tắc


Kim gia trại to lớn và kín kẽ hơn so với tưởng tượng của Lỗ Nhất Khí. Bao quanh khu trại là hai vành cây rậm, tạo thành bức tường chắn gió rất tốt. Cây cối rất cao lớn, tuổi cây ước chừng phải hơn năm chục năm. Có lẽ người ta đã đốn hạ cả vạt rừng ở đây, chỉ chừa lại hai vành cây dùng để chắn gió.

Bên trong vành cây chắn gió, còn có một bức tường rào cao lớn vững chãi được dựng từ những súc gỗ thô to, có lẽ dùng để ngăn chặn thú hoang hoặc những loài động vật hung tợn hơn cả thú hoang xâm nhập. Trong chốn thâm sơn cùng cốc này, thú hoang là đối tượng để đám đàn ông đi rừng truy bắt, còn đàn bà chính là con mồi chung để đàn ông và thú hoang tấn công. Đã không đủ khả năng phản kích, hiển nhiên chỉ còn cách tăng cường phòng vệ.

Trong trại toàn là nhà gỗ lúp xúp, mọc lên lộn xộn chẳng theo hàng lối gì. Từ trên sườn dốc, Lỗ Nhất Khí quan sát kỹ lưỡng cách sắp xếp của nhà cửa trong trại, còn giơ ngón cái, ngón trỏ và ngón út lên tạo thành một tư thế gì đó, sau đó áp dụng phương pháp tìm cục biện tướng vừa học được trong “Ban kinh” để đo đạc đối chiếu đám nhà cửa lộn xộn khắp một lượt phải trái ngược xuôi, song không tìm ra một quy tắc bố cục nào.

Tuy nhiên, lúc này Lỗ Nhất Khí có thể khẳng định chắc chắn một điều, đây không phải là “vùng đất mẹ” mà cậu cần tìm. Cảm giác đã mách bảo cậu rằng, dù ở đây có nhiều đàn bà đến đâu đi nữa, nó cũng không phải là nơi để xây dựng bảo cấu.

Trong lúc Lỗ Nhất Khí không ngừng chỉ trỏ, vẽ vạch về phía khu trại, những người bên cạnh đều im lặng, không ai lên tiếng quấy rầy, cũng không ai tỏ vẻ ngạc nhiên hay quái lạ, song trong ánh mắt họ đều thấp thoáng một niềm kính phục. Cậu đứng đó trong ánh bình minh rạng rỡ, thong dong điểm vạch sơn hà, khí thế bất phàm khác nào thần nhân.

Nhìn vào ánh mắt thất vọng của Lỗ Nhất Khí, Nhậm Hoả Cuồng đã đoán ra cậu không tìm thấy thứ gì đặc biệt ở nơi đây. Điều này cũng nằm trong dự đoán của ông ta. Ông nói:

- Nơi đây vôn dĩ hiếm người qua lại, cộng thêm núi non hiểm trở trùng trùng, rừng phủ tuyết che, nên vốn dĩ không cần coi trọng phương hướng vị trí, lại càng không tính đến cục tướng phong thuỷ. Chỉ cần đường đi thuận lợi, tránh được tuyết lở đá lăn đã được coi là cát địa rồi!

Lái gỗ Phó tiếp lời:

- Như Kim gia trại cũng là tốt lắm rồi! Còn như thị trấn bị thiêu rụi hôm qua, nhà cửa ở đấy lộn xộn hơn nhiều, thường là đến trước mùa đông mới dựng vội để ở. Sang mùa xuân hạ, gỗ lạt hiếm hoi, đến nhà cửa cũng dơ sạch mang bán, rồi dựng lều ở tạm. Mùa đông gần đến lại lo dựng nhà. Bởi vậy, năm nào họ cũng được ở nhà mới, địa điểm xây dựng mỗi năm một khác. Năm nay anh quen được một nhà, năm sau lại tới chưa chắc đã tìm ra. Như chúng tôi sống ở đây đã lâu năm, muốn đến đó tìm người cũng phải hỏi thăm gần chết.

Lỗ Nhất Khí bỗng “ồ” lên một tiếng. Những lời gã lái gỗ vừa nói đã khiến thần kinh não bộ của cậu giật lên một cái, một vài ký ức mau chóng kết nối với nhau, đám mây đen ngờ vực thoáng chốc lại bủa vây lấy cậu. Nếu đúng là như vậy, trong thị trấn mịt mù khói lửa hôm qua, Phó Lợi Khai làm thế nào để nhận ra phương hướng mà dẫn mọi người tẩu thoát?

Trại thì lớn mà lũng núi lại hẹp, nên vừa xuống tới chân dốc, đã đến sát cổng trại. Anh em họ Tùng đã chạy lên phía trước, bước chân có phần hấp tấp, tựa như người lữ khách đã khát cháy họng đột nhiên nhìn thấy nguồn nước mát lành.

Ngay phía sau họ là Phó Lợi Khai, gã đang rất gắng gượng kiềm chế, song nhìn vào tốc độ của đôi chân và nhịp vung vẩy của hai cánh tay, có thể nhận ra tuy gã đang đi nhưng còn nhanh hơn cả chạy.

Nhịp chân của Nhậm Hoả Cuồng vẫn không hề thay đổi, thậm chí khi tới gần cổng trại, ông còn đi chậm hẳn lại. Ông xoay ngang đòn gánh, che chắn cho ba người Lỗ Nhất Khí ở phía sau.

Tuy cổng trại đã mở toang, song hoàn toàn vắng vẻ. Cũng vì họ tới đây quá sớm, những chốn mua vui thế này thường chỉ tấp nập về đêm; lại thêm vào mùa này đám đàn ông đi rừng đều xuống núi về quê hết sạch, chỉ còn một số ít kẻ vài năm trời chẳng thu hoạch được gì, hoặc mất trắng toàn bộ thành quả trên chiếu bạc là còn lưu lại nơi đây. Đón tết ở chốn này không cần phải quan tâm xem có tiền hay không, bởi lẽ năm hết tết đến chính là thời khắc những người đàn bà khổ mệnh kia dễ cảm thấy cô đơn tủi phận nhất. Vớ được một gã đàn ông không về quê sum vầy với vợ con mà chịu ở lại nơi xó rừng hoang vắng này bầu bạn, đám đàn bà kia liệu còn mong muốn gì hơn?

Anh em họ Tùng chạy bổ vào trong trại, hú hét ầm ĩ. Liền sau đó ào ra một đám đàn bà đầu tóc rối bù, mắt còn ngái ngủ, da thịt phập phồng dưới những tấm áo bông hờ hững, dải yếm xộc xệch. Chốc lát, bọn họ đã quây kín lấy ba người đi đầu, vừa léo nhéo nói cười trách mắng, vừa lôi kéo anh em họ Tùng và Phó Lợi Khai. Một vài tấm áo bông đã rơi xuống đất, lộ ra những mảng da thịt trắng loà loà, còn nhức mắt hơn cả tuyết buổi sáng.

Nhậm Hoả Cuồng chưa vội bước vào trong trại, mà dừng lại trước cổng, quang gánh vẫn xoay ngang chắn lấy ba người phía sau.

Anh em họ Tùng và Phó Lợi Khai nhanh chóng bị đám đàn bà co kéo lôi đi, mất tích bên trong những căn nhà gỗ. Còn lại một đám đàn bà đứng nguyên tại chỗ, không đi ra cổng, vừa cười nói nhao nhao, vừa liếc mắt quan sát mấy con người trước cổng với vẻ hiếu kỳ, tựa như nhìn thấy quái vật.

Lại thêm một mụ đàn bà béo tốt phốp pháp tuổi gần năm chục từ một gian nhà gỗ khá lớn xô cửa bước ra, vừa đi vừa lớn tiếng quát nạt:

- Chuyện gì! Chuyện gì! Mới sáng ra đã om sòm như vỡ chợ, khai xuân cho lũ đàn ông thối tha kia đè chết các ngươi đi!

Vừa nhìn thấy mụ đàn bà, Nhậm Hoả Cuồng đã toét miệng cười, đòn gánh vụt một cái đã xoay dọc lại, xong xóc chạy về phía mụ. Mụ béo nhìn thấy Nhậm Hoả Cuồng, bộ mặt đang cong cớn lập tức hớn ha hớn hở, tung tăng chạy lại, bộ ngực đồ sộ nảy lên tưng tưng.

Lỗ Nhất Khí nhìn mụ đàn bà béo trắng, nghĩ thầm trong bụng: “Đây là Thuỷ đại nương ư? Thật phí hoài cho cái tên Thuỷ Băng Hoa!”.

Mụ béo vừa chạy về phía Nhậm Hoả Cuồng, đám đàn bà phía sau lập tức ùa ra như bầy gà sà sân thóc, chí cha chí choé lao về phía ba người Lỗ Nhất Khí, vây kín lấy họ.

Lỗ Nhất Khí bị giằng giật, co kéo đến xây xẩm cả đầu óc, sau một hồi xô đẩy, không hiểu thế nào đã bị lôi vào một gian nhà gỗ ấm sực đến muốn để mồ hôi. Hai người đàn bà cùng theo cậu vào phòng đã kịp lột tấm áo bông khoác hờ ra khỏi người, trên tấm thân trắng trẻo chỉ còn độc một mảnh yếm phong phanh, lao tới ôm chầm lấy Lỗ Nhất Khí khiến cậu muốn ngộp thở, mồ hôi túa ra ròng ròng.

Phải vất vả lắm Lỗ Nhất Khí mới giãy ra được khỏi vòng tay của hai người đàn bà, vừa thở hổn hển vừa vội vàng đưa ra nén bạc mà Quỷ Nhãn Tam đã kịp nhét cho cậu trong lúc giằng co hỗn loạn khi nãy mà xua được họ đi. Hai người đàn bà khoác lại áo xống, hỉ hả đi ra, vừa đi vừa nói cười chọc ghẹo, nghe loáng thoáng vài câu đối phương non quá, không nỡ ăn thịt.

Hai người đàn bà đã đi hẳn, trong phòng chỉ còn lại một mình Lỗ Nhất Khí. Cậu ngồi phịch xuống một cái đôn gỗ khá to phía trước bếp lò, khắp người bải hoải. Trận giằng co với đám đàn bà vừa rồi đã khơi dậy trong cậu một cảm giác vô cùng khó tả, quái lạ vô cùng. Cả người cậu căng cứng, tim đập loạn nhịp, không biết là thư thái hay khó chịu. Cảm giác dó trước đây cũng đã xuất hiện trong cậu vài lần, song chắc chắn không thể dữ dội mãnh liệt như hôm nay.

Cậu đột nhiên bình tĩnh trở lại, bất giác ý thức được rằng nhóm của cậu đã bị xé lẻ mỗi người một nơi. Cậu vội chạy lại bên cửa sổ, muốn tìm xem bọn họ đi đến phòng nào, để lỡ có chuyện gì bất trắc còn nhanh chóng tìm ra được.

Cửa sổ là một tấm đẩy được ghép bằng vỏ cây, Lỗ Nhất Khí đẩy vào mép dưới cùng để mở cánh cửa ra phía ngoài, rồi liếc qua khe hở bên cạnh nhìn ra.

Vừa đẩy cửa ra, một chùm nắng lập tức ùa vào sáng loá. Khi mắt đã quen với ánh sáng, cậu bèn liếc ra phía ngoài, thì không thấy Quỷ Nhãn Tam và lão mù đâu nữa. Song cậu đã nhìn thấy Nhậm Hoả Cuồng tay ôm mụ đàn bà béo trắng bước vào căn nhà gỗ ngay bên cạnh căn nhà nơi cậu đang đứng.

Căn nhà tuy ở bên cạnh, nhưng không sát vách, song căn nhà cậu đang ở có một góc nhà tì vào một măt tường gỗ của ngôi nhà bên đó. Lỗ Nhất Khí lại nhìn sang hướng còn lại, vẫn không thấy những người khác đâu cả, chỉ nhìn thấy một căn nhà khác có một góc nhà tiếp giáp với góc nhà của mình. Chỉ nhìn vào ba căn nhà gỗ tiếp giáp này, có thể biết rằng bố cục bên trong khu trại vô cùng rối loạn, đã không ngay ngắn lại chẳng mỹ quan, cách sắp xếp xem chừng rất không hợp lý. Muốn đi lại tìm người cũng khó, phải quanh co vòng vèo rất tốn công.

Đúng vào lúc đó, Lỗ Nhất Khí cảm giác có một hơi thở yếu ớt ở ngay trước cửa, tim cậu bất giác nảy lên một cái, vội đưa tay nắm chặt khẩu súng giắt ở thắt lưng, rón rén bước về phía cửa, rồi thình lình đẩy mạnh cánh cửa ra ngoài.

Ngoài cửa quả nhiên có một người đang đứng, song người đó không hề giật mình luống cuống như cậu đã dự liệu, cô ta dường như vừa vặn đi ngang qua trước cửa. Thấy Lỗ Nhât Khí đột nhiên mở tung cánh cửa, cô ta chỉ hơi tỏ vẻ ngạc nhiên, vẻ như thắc mắc không hiểu vì sao người thanh niên trong nhà lại biết được mình đang đi tới.

Người phụ nữ này mặt mày thanh tú, nhan sắc cũng khá, chỉ liếc qua đã thấy cô ta khác hẳn những người đàn bà vừa nãy. Cô ta khoác trên người một tấm áo bông chần vải gai dày dặn, mép cổ áo và ống tay có những sợi lông thú thò ra, hẳn là tấm áo được lót bằng da thú. Thân dưới mặc một chiếc quần bông rộng, mặt ngoài do nhiều mảnh da thú nhỏ đã thuộc với đủ mọi màu sắc ghép thành. Dưới chân đi một đôi ủng da hươu may bằng da hươu nguyên tấm có lót lông cừu. Điểm tương đồng duy nhất giữa cô ta và những người đàn bà khác chính là gấu dưới của áo yếm không giắt vào trong quần, mà buông thõng dưới lớp áo bông.

Lỗ Nhất Khí thận trọng quan sát người phụ nữ đứng trước cửa. Nếu là ở nơi khác, đây là một điều cấm kỵ, song dường như cô ta đã quá quen với những ánh mắt săm soi kiểu này, nên chẳng hề phật ý, trái lại còn cười khẽ một tiếng, chủ động lên tiếng hỏi:

- Tôi nghe nói có người muốn mua tin tức, có phải là cậu không?

Lỗ Nhất Khí khẽ chau mày, không biết ai đã để lộ ra điều này? Mình mới tới đây một loáng, chưa đủ thời gian để uống một ly trà, vậy mà đã có người tìm đến tận cửa.

Người phụ nữ nhận ra vẻ hoài nghi của Lỗ Nhất Khí, bèn nói:

- Hẳn là tôi nhầm rồi, cậu nghỉ ngơi đi. Nếu có hứng thú thì đến chơi với bà chị này nhé, tôi ở gian nhà góc đông bắc kia!

- Vậy chị là…

- Mọi người đều gọi tôi là Thuỷ đại nương, cậu cứ gọi tôi là chị Thuỷ được rồi! – Nói xong, chị ta quay người đi liền, cặp mông săn chắc đung đưa uyển chuyển theo từng nhịp bước, nhanh chóng khuất sau đám nhà cửa lộn xộn.

“Ồ, thì ra đây mới là Thuỷ đại nương” – Lỗ Nhất Khí nghĩ thầm – “Thế mà mới đầu mình cứ ngỡ là môt người đàn bà luống tuổi, hoá ra cũng mới chỉ hai bảy hai tám là cùng. Nhưng cái tên cũng không hợp với chị ta lắm, chị ta đâu có vẻ gì giống băng giá, trông chị ta hệt như ánh nắng ban mai ấm áp!”.

Sau đó, không thấy ai tới làm phiền Lỗ Nhất Khí nữa. Không chỉ có vậy, đám đàn bà lúc nãy và những bạn đồng hành với cậu dường như cũng đã biến mất tích khỏi thế gian. Toàn bộ khu trại vắng tanh vắng ngắt đến một con chó cũng không có. Trong lòng Lỗ Nhất Khí cũng trống trải khó tả, cảm giác này chỉ bắt đầu xuất hiện từ khi cậu gặp Thuỷ đại nương.

Lỗ Nhất Khí chống cửa sổ lên một chút, rồi ngồi luôn phía trước cửa sổ, như vậy cậu có thể quan sát được căn nhà mà Nhậm Hoả Cuồng vừa bước vào. Đó là căn nhà ở gần cậu nhất. Nắng sớm ấm áp chiếu tràn lên người cậu khiến cậu thấy buồn ngủ. Nhưng khi cậu bắt đầu lin dim đôi mắt, đột nhiên từ căn nhà gỗ bên cạnh vang lên tiếng kêu thất thanh của mụ đàn bà béo mập khi nãy. Tiếng kêu tiếp tục vang lên từng chặp liên hồi, song hình như chẳng có ai ngó ngàng gì đến.

Lỗ Nhất Khí bắt đầu kinh sợ, nhảy bật khỏi đôn gỗ. Song ngay lập tức, cậu nhận ra trong tiếng kêu rên hình như không có vẻ gì đau khổ, mà trái lại rất sung sướng thoả mãn. Cậu đã hiểu đó là chuyện gì, mặt cậu bất giác đỏ bừng lên.

Lỗ Nhất Khí ngượng ngùng hạ cánh cửa sổ xuống, mãc dù trông cánh cửa gỗ có vẻ như khó mà ngăn chặn nổi những âm thanh kỳ quặc kia. Song cậu đã lầm, cánh cửa vừa hạ xuống, tiếng kêu rên cũng lập tức im bặt. Lỗ Nhất Khí vô cùng ngạc nhiên, phải chăng đúng lúc cậu hạ cửa xuống thì bọn họ cũng xong chuyện? Thế là cậu lai đẩy cửa ra. Không phải, tiếng rên rỉ của mụ đàn bà vẫn đang tiếp tục, hơn nữa còn to hơn, cuồng loạn hơn cả khi nãy.

Như thế là thế nào? Căn nhà kề ngay bên cạnh ồn ào như thế, mà căn nhà này chỉ cần che chắn chút ít đã tuyệt không nghe thấy một động tĩnh gì. Là căn nhà! Nguyên nhân chắc chắn là ở căn nhà. Nhà cửa ở đây không lộn xộn rối ren như cậu nghĩ, mà được bố trí theo quy luật, một quy luật cao siêu tinh diệu hơn nhiều!

Lỗ Nhất Khí nhìn qua cửa chính và cửa sổ, quan sát một lượt những căn nhà khác. Cậu lại phát hiện ra một hiện tượng vô cùng xảo diệu, đó chính là quỹ đạo vận hành của mặt trời tại nơi đây. Khu trại ở trong thung lũng, có rừng cây và núi non bao bọc xung quanh. Thế nhưng từ khi mặt trời bắt đầu nhô lên khỏi đường chân trời, lúc nào nó cũng ở một vị trí cao hơn so với hình vòng cung được tạo thành bởi các đỉnh núi và rừng cây. Sau đó từ thấp tới cao, rồi lại từ cao tới thấp, ánh nắng áp lúc nào cũng được phân bố đều đặn tới từng căn nhà gỗ trong trại cho tới khi mặt trời xuống núi. Hơn nữa, những căn nhà xem chừng có vẻ lộn xộn không hàng không lối lại không hề che khuất lẫn nhau.

Nơi đây chắc chắn có cao nhân! Nơi đây không chỉ đơn giản là nơi tụ tập của đám đàn bà. Nhà có nắng chiếu là chuyện tốt, vách nhà cách âm cũng là chuyện tốt, song nếu rất nhiều chuyện tốt cùng hội tụ lại một nơi, thì chắc chắn phải có bàn tay thiết kế của bậc cao thủ về kiến trúc.

Đặc biệt là khả năng cách âm giữa các căn nhà… Mà không đúng, ai bảo là giữa các căn nhà đã được cách âm? Lúc này cậu không nghe thấy âm thanh từ các căn nhà khác, song chưa biết chừng từ các căn nhà khác lại nghe rõ mồn một âm thanh từ căn nhà này. Những góc nhà nối liền với nhau rất giống như ống nghe của bác sĩ. Phải chăng vừa bước chân vào nhà, cậu đã trở thành một tên ngốc bị người khác theo dõi sát sao?

Lỗ Nhất Khí vội kéo sập cánh cửa sổ xuống, rồi mau chóng kiểm tra khẩu súng mang theo người, súng vẫn đầy đạn. Cậu giắt khẩu pạc hoọc vào thắt lưng, đây là vị trí thuận tiện nhất để rút súng. Trong tay cậu lăm lăm khẩu súng trường Mauser.

Lỗ Nhẩt Khí bước lại bên giường, trên giường sực mùi đàn bà. Cậu lật hai lớp chăn lên, thứ mùi kia càng xộc lên nồng nặc, xen lẫn cả mùi đàn ông tanh tanh. Cậu nhấc hẳn tấm chăn lên, giũ thật mạnh vài cái, rồi ngồi xuống mép giường gắng sức đung đưa thật mạnh, khiến nó kêu lên cọt kẹt từng hồi. Sau đó, cậu nói to:

- Ngủ một lát đi!

Song Lỗ Nhất Khí không ngủ, mà khẽ khàng ngồi dậy trải tấm chăn bông xuống sàn gỗ, như vậy có thể giấu được tiếng bước chân. Cậu rón rén đi về phía cửa không một tiếng động.

Đã đến trước cửa, cậu đứng lại điều hoà nhịp thở đang trở nên dồn dập vì căng thẳng. Cậu đã tìm được mục tiêu, đó là một căn nhà gỗ xoay nghiêng ở dãy phía sau. Căn nhà này cũng giống như căn nhà liền kề với cậu, có một mặt tường tì vào góc nhà bên cạnh.

Lỗ Nhất Khí gần như đã nhìn thấy được vẻ hoảng loạn của những người bên trong khi cậu đạp cửa xông vào, gần như đã chứng minh được suy luận của mình thông qua những âm thanh vọng đến.

Cậu dứt khoát đẩy bật cánh cửa, tung người lao vọt ra ngoài.

Căn nhà kia cách chỗ cậu chừng mười hai bước chân, song cậu chỉ lao đi được sáu bước. Bởi lẫn trong ánh nắng ấm áp chan hoà, cậu chợt cảm nhận thấy một luồng hàn khí, lạnh lẽo hệt như đến từ cõi âm hồn.

Bên ngoài bức tường rào của khu trại có một bóng người thướt tha áo trắng. Chính là Dưỡng Quỷ Tỳ! Song khuôn mặt xinh đẹp của cô dường như có phần tiều tụy.

Mới đi được sáu bước, Lỗ Nhất Khí đã dừng ngay lại. Cậu đã cảm nhận được luồng khí âm hàn đang ập tới từ bên ngoài hàng rào gỗ mộc. Nhưng cậu không quay người lại, cảm giác mách bảo cậu, đã không còn kịp nữa rồi.

Đúng vậy, cậu đã không còn kịp để quay người nửa lại càng không kịp chạy trốn hay tránh né. Song mối đe doạ không phải đến từ làn khí âm hàn ở phía sau lưng mà phía sau làn khí lạnh lẽo kia, còn có một luồng khí khác. Phạm vi bao trùm của nó không lớn, tựa như môt đốm, một chấm, một đầu mũi nhọn hoắt. Thế nhưng chính hình thù đó đã khiến nó càng thêm sắc bén rơn người, sát khí và uy lực tích tụ trong một chấm nhọn tinh vi kia lại càng không gì cản nổi.

Mồ hôi lập tức túa ra trên lưng Lỗ Nhất Khí, chỉ tích tắc nữa thôi, thứ chảy ra hẳn sẽ là dòng máu!

Dưỡng Quỷ Tỳ trước nay chưa bao giờ nói một lời, lúc này chợt hét lên lanh lảnh:

- Đi!

Cùng lúc đó, từ trong tấm áo choàng bỗng vụt ra một luồng gió trắng toát, thổi thốc về phía Lỗ Nhất Khí.

Lúc này Lỗ Nhất Khí đã thực sự ngửi thấy mùi chết chóc, tử khí tràn đến bủa vây lấy cậu. Và cậu quyết định di chuyển trong tuyệt vọng. Đúng lúc Dưỡng Quỷ Tỳ thổi ra luồng gió quái dị, cậu đã quay đầu lại. Cậu chỉ muốn nhìn xem kẻ giết mình là ai trong thời khắc sau rốt của cuộc đời.

Vừa quay đầu lại, cậu không những tuyệt vọng, mà còn vô cùng thất vọng. Vì cậu chỉ nhìn thấy khuôn mặt kiều diễm và ánh mắt hốt hoảng của Dưỡng Quỷ Tỳ. Nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi này, cậu không thể đọc thấy được bất cứ thứ gì trong đó.

Một âm thanh trầm bổng mơ hồ từ phía xa vụt lại, tưa như một tiếng thở dài, nhẹ nhàng xuyên qua tường rào gỗ mộc, để lại trên thân cây to ngang miệng bát một lỗ thủng gọn gàng hình bán nguyệt, xuyên vào trong luồng gió trắng của Dưỡng Quỷ Tỳ, khựng lại một thoáng rồi lập tức vùng ra, ngân lên khe khẽ mà tiếp tục lao về phía Lỗ Nhất Khí.

Chính vào khoảnh khắc Lỗ Nhất Khí vừa khép mắt lại, bỗng một luồng sức mạnh đẩy bật cậu ra, khiến cậu văng đi đến tận mái hiên cách đó sáu bước.

Tiếng ngân mơ hồ đã im bặt, thay vào đó là tiếng rú thê thảm của một người sắp chết.

Lỗ Nhất Khí mở choàng mắt, và nhìn thấy một viên kẹo hồ lô. Đúng vậy, chỉ có một viên chứ không phải một xiên, vì trên que xiên chỉ có một thân người! Một thân người bị xuyên suốt qua bởi một thanh sắt dài ngang tâm người lớn. Chính là Tùng Đắc Lễ! Gã vừa lao vụt ra từ căn nhà gỗ bên cạnh, đẩy Lỗ Nhất Khí bật đi, trong khi bản thân hứng trọn cây sắt nhọn, xuyên thấu qua người, đúng vị trí tim bên ngực trái.

Lỗ Nhất Khí một bước lao vọt đến bên Tùng Đắc Lễ, chụp ngay lấy cây sắt đinh nhổ ra.

- Không được nhổ!

Cùng với tiếng quát, một bóng người nhảy vụt từ trên mái nhà xuống, là Tùng Đắc Kim.

Bàn tay Lỗ Nhất Khí vừa chạm vào thanh sắt, cảm giác mẫn tiệp của cậu đã nhận ra rằng đây là một cây mâu, một cây mâu thép nguyên khối cần đến máy móc mới có thể bắn đi, chính là loại mâu “sương sớm thâm tóc”. Trong “Bách binh kỷ tự” có viết: “Sương sớm khẽ than tóc phai bạc, niệm chưa kịp tỉnh người đã già” là nói về loại mâu “sương sớm thấm tóc” này. Đây là một loại ám khí vô cùng bá đạo, cần có kệ bắn hoặc nỏ kéo mới có thể bắn ra, hơn nữa đường đi rất khó kiểm soát, cần phải tính toán kỹ càng mọi điều kiện như môi trường, thời tiết để tiến hành điều chỉnh. Loại mâu này có một đặc điểm rất nổi bật, chính là đường kính và chu vi của mỗi tấc trên thân mâu không đồng đều, từ đó sẽ có tác dụng đạo dẫn trong khi bắn.

Tuy Tùng Đắc Kim hét lên rất lớn, song vẫn không át được một tiếng ngân ảo não. Lại một hơi thở dài tương tự thoảng đến, mục tiêu vẫn là Lỗ Nhất Khí.
 
Quyển 3 - Chương 12: Muôn trùng bắn


Một đám mây đen vùn vụt hạ xuống, chặn ngang đường tiến của hơi thở. Chính là một tán dù tinh xảo đánh bằng thép ròng.

Quỷ Nhãn Tam tay cầm Vũ Kim Cương lao từ trên mái nhà xuống, hắn chẳng còn kịp nghĩ xem liệu mình có đủ khả năng để ngăn cản được tiếng thở dài kia hay không, hắn chỉ biết không được phép để Lỗ Nhất Khí gặp phải điều gì bất trắc.

Thanh trường mâu lao thẳng vào tán Vũ Kim Cương, Quỷ Nhãn Tam lập tức bật lui năm, sáu bước, bàn chân rạch trên nền tuyết hai rãnh dài sâu hoắm, hổ khẩu hai tay rách toạc, máu tươi túa đầy xuống các ngón tay, hai cánh tay cũng run lên lên bần bật.

Tùng Đắc Lễ gượng nhấc bàn tay đầm đìa những máu, vươn về phía Lỗ Nhất Khí, thều thào:

- Cậu Lỗ… tôi không giúp được… cậu nữa rồi! Cậu hãy… đi theo… em trai tôi… nó sẽ đưa cậu… tới một nơi… kỳ lạ…

Lời vừa dứt, cánh tay liền rơi phịch xuống đất, nhuộm lên tuyết trắng một mảng đỏ tươi.

Nhìn thấy Tùng Đắc Lễ vì mình mà chết thảm, Lỗ Nhất Khí phẫn hận ngút trời, đứng vụt ngay dậy, cây súng trường giương ngang trên tay. Một luồng khí hừng hực mang theo hào quang rực rỡ từ trong người cậu bùng lên dữ dội, không chút kiêng dè, bừng bừng ngạo nghễ. Núi xanh rừng thẳm xung quanh bỗng chốc trở nên nhỏ bé tầm thường trước luồng khí như muốn nuốt chửng sơn hà, rạch đến trời xanh. Tất cả những cao thủ có khả năng nhận ra khí tướng đang có mặt trong sơn cốc, ai nấy đều bàng hoàng sửng sốt, kinh sự thất thần.

Lỗ Nhất Khí đã động sát tâm. Cho đến tận lúc này, đây là lần đầu tiên trong cậu có một nỗi hối thúc muốn giết người dữ dội đến thế.

Họng súng chĩa thẳng vào Dưỡng Quỷ Tỳ, rồi khẽ nhích qua một chút. Đây là một cách tìm kiếm cực kỳ đơn giản mà hiệu quả, trước hết tìm ra một điểm trung gian, sau đó xuất phát từ điểm này để tìm ra mục tiêu.

Và cậu đã phát hiện ra, mục tiêu bị phát hiện lập tức được kéo gần và phóng đại trong cảm giác của cậu. Trong mắt cậu xuất hiện một khối trắng toát, trắng như một đống tuyết lớn.

Đống tuyết trắng không có vẻ muốn né tránh, mà ngược lại còn nhảy vụt lên lao về phía trước, mau lẹ như một tia chớp. Tốc độ cực nhanh, cự ly lại không xa, chớp mắt đã ào đến và dừng lại ở vị trí gần như ngang hàng với Dưỡng Quỷ Tỳ.

Cảm giác của Lỗ Nhất Khí đang thông qua thước ngắm để tìm kiếm trên đông tuyết đang nhảy nhót kia, cậu muốn tìm ra một vị trí có thể một đòn kết liễu.

Đã tìm ra bộ mặt, một bộ mặt gần như bị phủ kín dưới đám râu tóc trắng như tuyết. Trên bộ mặt có hai hố mắt sâu hoắm như miệng giếng. Vừa phát giác ra, Lỗ Nhất Khí lập tức cảm giác như nhìn thấy quái vật. Bởi lẽ hai con mắt không toả ra những tia sắc nhọn thường thấy ở cao thủ, mà ngược lại, nó mang một sức hút quái dị, một sức mạnh có khả năng hớp hồn những kẻ ý chí bạc nhược, khiến họ tự động dẫn xác lại gần chờ hắn ra tay.

Đống tuyết cũng đã nhìn thấy Lỗ Nhất Khí, từ vị trí của hắn, có lẽ trước tiên sẽ thấy được họng súng trường trong tay cậu. Hắn đã bất động, mặc dù thế tấn công đã chuẩn bị xong xuôi, mặc dù trường mâu “sương sớm thấm tóc” đã tụ lực sẵn sàng nhằm thẳng vào Lỗ Nhất Khí, song hắn vẫn đứng im bất động.

Thời gian như đóng băng, vạn vật đều khựng lại.

Mọi người xung quanh dường như đều bị đè nặng dưới một áp lực vô hình, khiến họ tức ngực, buồn nôn, nghẹn thở. Tất cả đều cấp thiết cầu mong cục diện này mau chóng kết thúc.

Cục diện thủ thế chờ cơ vô cùng căng thẳng đã bị Dưỡng Quỷ Tỳ phá vỡ. Tâm áo choàng trắng muốt trên người cô đột ngột bay thốc lên trên, một luồng cuồng phong cổ quái cuồn cuộn lao ra, làn tuyết phủ trên mặt đất bị thổi tung lên thành một bức tường tuyết mịt mù trắng xoá.

Súng đã nổ. Phi mâu cũng đã ngân rền.

Cảm giác của Lỗ Nhất Khí lập tức từ trên khuôn mặt tuyết vùn vụt thu về tựa như người ta điều chỉnh tiêu cự. Khi đã thu về đến độ có thể nhìn thấy toàn bộ cơ thể hắn, cậu bỗng giật mình kinh hãi, vì cậu đã nhìn thấy một cánh cung, một cánh cung rất lớn trắng toát được giữ trong tay của đống tuyết.

Kẻ này có thể dùng cung để bắn ra mũi phi mâu “sương sớm thấm tóc”? Thực không biết đó có phải là người hay không?

Những cảm giác rối ren đã khiến Lỗ Nhất Khí nhất thời quên phắt mũi phi mâu đang lao tới, cậu đứng trơ trơ tại chỗ không hề né tránh. Nhưng kỳ thực, với tốc độ và sức mạnh nhường kia, dù cậu muốn tránh cũng không thể kịp.

May thay Dưỡng Quỷ Tỳ đã kịp tung lên một bức tường tuyết giảm bớt tốc độ của phi mâu. May thay Quỷ Nhãn Tam đã kịp thời xoay Vũ Kim Cương chắn ngay trước mặt Lỗ Nhất Khí. Cây Vũ Kim Cương xoay lên vùn vụt, đã tản bớt được xung lực dữ dội từ mũi phi mâu. Thế nhưng Quỷ Nhãn Tam vẫn không thể trụ vững, cả thân người bật đi va vào Lỗ Nhất Khí, khiến cả hai cũng ngã dúi dụi.

Lỗ Nhất Khí không né tránh phi mâu, nhờ thế mà trong lúc ngã xuống, cảm giác nhạy bén của cậu đã phát hiện ra, viên đạn vừa bắn đã lao trúng đống tuyết, song không phải là chỗ hiểm. Hơn nữa, nếu không vì đống tuyết phải dồn hết sức lực để đảm bảo mũi phi mâu được bắn ra chính xác, hắn hoàn toàn có thể né tránh đường đạn một cách dễ dàng.

Bên rìa đông tuyết văng ra một vài chấm đỏ, rồi lập tức mất hút vào trong tuyết trắng không thấy đâu nữa.

Quỷ Nhãn Tam vội vã chồm dậy, nhặt lấy Vũ Kim Cương che chắn trước mặt Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí cũng vùng đậy, lập tức tập trung toàn bộ tinh khí thần, dùng cảm giác siêu phàm rà soát kỹ lưỡng trên mặt tuyết mênh mông bên ngoài khu trại. Song cậu không tìm thấy mục tiêu đâu nữa. Bên ngoài tường rào cao lớn chỉ có khuôn mặt tuyệt đẹp song xanh xao của Dưỡng Quỷ Tỳ đang lặng thinh nhìn cậu.

Quỷ Nhãn Tam tay giương dù thép, từ từ lùi vè phía sau. Hắn không cần biết Lỗ Nhất Khí đang làm gì, chỉ biết vừa xuống tấn thủ thế, vừa kéo Lỗ Nhất Khí cùng lui lại.

Hai người đã lùi tới bên cạnh thi thể Tùng Đắc Lễ. Quỷ Nhãn Tam vừa chạm vào thân hình bất động của gã, Tùng Đắc Kim đang ngồi rũ bên cạnh bỗng đứng phắt dậy, vẻ quyết liệt vô cùng, chụp lấy tay Quỷ Nhân Tam và Lỗ Nhất Khí mà nói:

– Không được để anh tôi chết uổng! Mau tránh đi!

Cú lôi đầy sức lực đã khiến Lỗ Nhất Khí bừng tỉnh khỏi trạng thái ngưng thần, nghe thấy tiếng gọi lớn cửa Tùng Đắc Kim, lập tức xoay người theo phản xạ, chạy vội theo gã.

Tùng Đắc Kim lôi tuột hai người chạy vòng qua vài căn nhà gỗ nối liền, gặp ngay Phó Lợi Khai xồng xộc chạy đến ngay trước mặt. Gã vừa nhảy ra từ trong chăn ấm, thắt lưng còn vắt vẻo trên cổ, lưỡi cưa treo lủng lắng trên khuỷu tay. Dẫu là như vậy, tay gã vẫn túm chặt lấy một người đàn bà, một người đàn bà gầy gò cũng đang trong bộ dạng áo quần xộc xệch như gã.

– Chuyện gì? Chuyện gì? – Phó Lợỉ Khai mặt mũi hốt hoảng, những dãy nhà gỗ lộn xộn chồng chéo khiến gã chóng cả đầu óc.

– Chạy mau!

Tùng Đắc Kim vẫn không dừng bước, vội vã lao theo một con đường hẹp dẫn đến gian nhà gỗ phía tây, Phó Lợi Khai đành phải bám theo, nhưng vẫn không chịu bỏ lại người đàn bà kia, mà ôm chặt lấy chị ta lôi đi theo cùng.

Chạy qua được hai đầu hồi nhà, Lỗ Nhất Khí đột nhiên giật mạnh tay khỏi bàn tay Tùng Đắc Kim đứng lại mà nói:

- Tôi phải tới góc tây bắc tìm một người!

Nói đoạn, không đợi mọi người kịp phản ứng, cậu đã chạy vụt về phía tây bắc. Cậu muốn đi tìm Thuỷ đại nương, bởi lẽ cậu còn rất nhiều thắc mắc chưa tìm ra lời giải.

Tùng Đắc Kim đứng ngẩn ra tại chỗ. Vẫn là Quỷ Nhãn Tam phản ứng nhanh nhất, hắn cũng hất tay Tùng Đắc Kim ra, chỉ vài cú tung mình đã lao lên phía trước Lỗ Nhất Khí. Phó Lợi Khai tuy phải dắt theo người đàn bà, nhưng hành động cũng không hề chậm chạp, lập tức bám sát theo sau Lỗ Nhất Khí. Người đàn bà bước chân chệnh choạng, thi thoảng lại kêu lên choe choé hàng tràng điếc cả tai:

- Đồ chết tiệt! Đừng lôi nữa! Đừng lôi nữa! Nhẹ thôi!

Lỗ Nhất Khí nghe tiếng la lối của người đàn bà ở sát sau lưng, bất giác chau mày, nghĩ thầm gã Phó Lợi Khai kia dù gì cũng là đệ tử Ban môn, sao lại vô dụng đến thế, đến nước này còn lôi đàn bà theo, không sợ vướng víu chân tay hay sao.

Mọi người mới chạy qua được vài gian nhà, bỗng một tiếng rít chói tai xé gió mà đến, khác nào tiếng ma hú. Tiếng rít lao thẳng về phía người chạy đầu tiên là Quỷ Nhãn Tam. Quỷ Nhãn Tam nghe thấy âm thanh, không hề né tránh, cây Vũ Kim Cương xoay tít trên tay lao thẳng về phía trước.

Tiếng rít buốt óc nghe rất quen tai. Quỷ Nhãn Tam lập tức nhận ra, đó chính là mũi tên ống sáo không lông vũ. Cảnh tượng mũi tên xuyên suốt qua cần cổ con ngựa phi nước đại để lại một lỗ thủng dẫm máu bằng nắm tay vẫn thường xuyên trở đi trở lại trong cơn ác mộng của hắn. Nhưng Quỷ Nhãn Tam biết mình không thể tránh né, mà phải dồn hết sức để đón đỡ, nếu không Lỗ Nhất Khí ở ngay phía sau sẽ phải hứng trọn cú tấn công sấm sét này.

Mũi tên trượt trên mặt dù thép, bay tạt sang bên cạnh, cắm phập vào vách nhà bằng gỗ, rung lên “u u”. Quỷ Nhãn Tam bật mạnh về phía sau, song chỉ thoái lui hai bước đã trụ vững được, chưa đến nỗi ngã bổ nhào.

Lỗ Nhất Khí đương nhiên cũng đã nghe được tiếng rít kinh hồn, cậu chẳng kịp nghĩ ngợi lập tức nổ súng về hướng phát ra tiếng rít, rồi cùng những người phía sau nép sát vào vách gỗ, núp dưới mái hiên.

Lại một mũi tên lớn bay vụt qua. Mũi tên vừa vụt đi, Lỗ Nhất Khí lập tức vươn cổ ra ngoài quan sát một thoáng, tụ khí ngưng thần để tìm ra vị trí mũi tên được bắn ra. Song vào lúc cậu định ra tay phản kích, thì phát hiện ra gã cao thủ đã nấp kín sau một gốc thông không thấy thò mặt ra nữa.

Thế là đoàn người núp dưới mái hiên lại vô cùng thận trọng di chuyển về phía trước, cảnh giác quan sát kỹ mọi phương hướng có khả năng phát động tấn công.

Khi họ phải băng qua một góc nhà, Quỷ Nhãn Tam đi đầu vừa lộ ra tại khe hở giữa hai căn nhà, tiếng rít lai vụt đến. Một mũi tên lao trúng vào viền mép của cây dù trên tay hắn, cú chấn dộng dữ dội suýt nữa đã đánh bật cây dù khỏi tay Quỷ Nhãn Tam, hai chân hắn không thể trụ vững loạng choạng bật sang ngang hai bước chệch ra khỏi tầm che chắn của mái hiên. Lại một mũi tên nữa lao trực diện vào tán thép của Vũ Kim Cương đẩy Quỷ Nhãn Tam ngã huỵch xuống đất với một tư thế rất khó coi, mông cày trên tuyết thành một rãnh dài.

- Không chỉ có một chiếc nỏ! Không chỉ có một! – Quỷ Nhãn Tam còn chưa kịp thở đã kêu lên kinh hãi, vừa kêu vừa vội vã lăn trở vào dưới mái hiên.

Thì ra rất nhiều tay nỏ đã vây kín lấy họ, cộng thêm một cây cung lớn có thể bắn ra phi mâu còn nguy hiểm gấp bội, xem ra đối phương đã quyết chí truy sát đến cùng. Lỗ Nhất Khí hít ngược một hơi khí lạnh, lẽ nào hôm nay đã thực sự hết đường?

Luồng hơi còn chưa kịp thở ra, trên vách gỗ của căn nhà đối diện đột ngột xuất hiện một lỗ thủng tròn xoe, một tiếng thở dài vụt ra từ lỗ thủng, xuyên qua giữa bọn họ, rồi mất hút trong vách gỗ sau lưng.

Phi mâu sương sớm thấm tóc! Đúng là ghét của nào trời trao của nấy, vừa nghĩ đến lập tức hiện ra. Người đàn bà trong tay Phó Lợi Khai cuối cùng đã phải câm bặt. Phó Lợi Khai cũng đã buông chị ta ra để vuốt vội đám máu óc bầy nhầy bắn đầy trên mặt.

Mũi phi mâu đã xuyên thấu qua ba bức tường ghép bằng gỗ tròn và một đầu người sống! Lực đạo khủng khiếp nhường này lại được tạo ra từ một cánh cung khổng lồ trong tay một lão già đầu râu tóc bạc! Cây cung hẳn là loại cung cứng nghìn thạch, kẻ giương được cây cung này hẳn phải là thần thánh!

- Mau đi theo tôi là hơn! Tôi biết một con đường mòn! – Giọng Tùng Đắc Kim vô cùng gấp gáp.

Lỗ Nhất Khí cũng cảm thấy áy náy vì sự cố chấp thiếu suy nghĩ vừa rồi đã vô tình hại chết một người phụ nữ vô tội, nên cũng từ bỏ luôn ý đinh, lập tức quay người chạy theo Tùng Đắc Kim, rẽ vào một con đường hẹp giữa hai căn nhà gỗ.

Bốn người chạy ra khỏi đám nhà gỗ, tiến sát tới dãy hàng rào ở mé tây. Theo lý mà nói, tình thế hiện giờ của họ càng thêm nguy hiểm, vì đã không còn đám nhà gỗ lộn xộn che chắn, đám xạ thủ sẽ dễ dàng bắn hạ bọn họ. Thế nhưng trong suốt cả đoạn đường không phải là quá ngắn, bọn họ lại không hề gặp phải đòn tập kích nào.

Tường rào ở mé tây không hề có cổng cửa như Lỗ Nhất Khí đã nghĩ, song bọn họ vẫn có thể chạy thoát ra khỏi khu trại. Đai sắt nối liền các cọc rào to lớn từ trên xuống dưới có đến hai ba chục cái đã đứt rời, khiến hơn chục cây gỗ đổ rạp cả xuống, tạo thành một lỗ hổng toang hoác, phải rộng bằng cánh cổng lớn tám đinh đồng*.

* Trước đây người ta căn cứ vào số lượng đinh đồng đóng trên cánh cổng để xác định kích thước, cổng tám đinh đồng bề ngang rộng khoảng trên dưới 3 mét.

Lỗ Nhất Khí và Quỷ Nhãn Tam khựng lại ngay trước chỗ hổng, trong lòng có chút ngần ngừ. Cửa đã được mở ở một nơi đáng ra không thể có cửa, nói không chừng đây chính là phần rìa của khảm điện. Tuy trong ngoài lỗ hổng chi chít các dấu chân hỗn loạn, nhưng rất có thể chính là mồi nhử để “mời ngài vào vò”. Nhưng Tùng Đắc Kim chẳng mảy may do dự, cứ thế xông bừa qua chỗ hổng.

Lỗ Nhất Khí vẫn chưa chịu bước qua. Quỷ Nhãn Tam vội vã đưa mắt quan sát những đai sắt bị đứt, vết cắt sáng bóng phẳng phiu, giống như bị chặt bằng đao sắc.

“Lưu hoạ!” Trong đầu Lỗ Nhất Khí chợt bật ra hai chữ. Tuyệt đối không được phép lưu lại mối hậu hoạ nào trong mọi hành động, nên cậu muốn tìm ra lời giải thích hợp lý trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể.

Từ trong cánh rừng trên sườn dốc bên ngoài tường rào bỗng vọt ra mấy bóng người. Quỷ Nhãn Tam vẫn trong cơn cảnh giác cao độ, lập tức xoay Vũ Kim Cương chắn trước mặt mình và Lỗ Nhất Khí. Song Lỗ Nhất Khí không hề phản ứng, nòng súng vẫn buông thõng, bởi lẽ cậu đã nhận ra họ là ai.

Đám người đó chính là Nhậm Hoả Cuồng, lão mù cùng người đàn bà béo mập. Và cả Thuỷ đại nương Thuỷ Băng Hoa, người mà cậu vừa cố sống cố chết đi tìm cũng đi cùng trong bọn.

Nhìn thấy Nhậm Hoả Cuồng, Lỗ Nhất Khí lập tức thấy vững dạ. Với một thợ rèn cao thủ như ông, đám đai sắt cũng chẳng khác gì gỗ mục, chặt gãy vài chục cái hẳn cũng dễ dàng như trở bàn tay.

Lại nghe một tiếng rít rợn người của mũi tên ống sáo không lông vũ từ xa vụt lại, âm thanh chói tai khiến Phó Lợi Khai ở phía sau cuống cuồng lao lên hai bước, hai tay vội đưa lên như muốn ôm chặt lấy đầu, lưỡi cưa đang vắt ở khuỷu tay đánh mạnh sang ngang, vạch thành một vệt sáng đen trên nền tuyết trắng xoá. Vệt đen đã đập mạnh vào tiếng rít khủng khiếp, hoa lửa bắn toé, lưỡi cứa bật tung. Tiếng rít cũng run lên như tiếng nghẹn ngào. Mũi tên ống sáo không lông vũ bá đạo ngang tàng là thế, giờ đây đã ngoan ngoãn đáp xuống đất, nằm im trên tuyết như một con rắn chết cứng.

Lỗ Nhất Khí và Quỷ Nhãn Tam đã lao ra khỏi lỗ hổng hơn chục bước, Phó Lợi Khai mới từ từ đi giật lùi qua lỗ hổng. Không nhìn thấy vẻ mặt của gã, nên không biết gã đang đề phòng cảnh giác, hay vẫn chưa kịp định thần sau cơn khiếp đảm.

Trong phong thuỷ có câu: “Núi liền hình rồng cuộn, vực sâu ẩn huyệt thiêng”, ý nói những, nơi núi non tập trung sẽ có nhiều vị trí phong thuỷ tốt. Sâu trong dãy Đại Hưng An, dân cư thưa thớt, âm dương trạch cũng không chú trọng tới việc chọn huyệt, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là trong chốn rừng sâu núi thẳm này không có huyệt tốt linh thiêng. Cứ nhìn vào nơi cư trú của tổ tiên nhà Thanh khắc rõ, nếu không có cục tướng long mạch của bậc quân vương, e rằng người Mãn khó mà đoạt được thiên hạ.

Những người đi rừng ở đây đều biết tới một truyền thuyết, đó là trong vùng rừng núi thâm u có một nơi gọi là đất tổ của tộc Mãn, có lẽ đây là nơi cư trú và tế lễ của tổ tiên người Mãn. Nơi đây nhân sâm vô số, châu báu chất chồng, đã có rất nhiều người mạo hiểm đi tìm bảo địa, song hoặc là không tìm được, hoặc là không thấy quay về. Cũng có một số ít người vì lạc đường mà tới chốn này, song khi trở ra cũng thân tàn ma dại, không sống thêm nổi vài ngày, càng không thể nhớ nổi đường đi tới đó.

Thuỷ đại nương cũng không rõ nếu đi theo con đường mình biết cuối cùng sẽ dẫn tới chốn nào, liệu có phải là một kho báu khổng lồ giống như đất tổ của tộc Mãn hay không? Chỉ biết rằng người thợ săn sâm kia khi lết tới Kim gia trại, sắp chết đến nơi còn nắm chặt một tấm da dê trong tay, miệng không ngừng lải nhải: “Mả mẹ! Bảo bối! Mả mẹ! Bảo bối!”.

Trong vụ làm ăn này, Thuỷ đại nương đã đưa ra một điều kiện trao đổi rất đặc biệt, đó là phải dẫn cô ta đi cùng tới vùng đất đó. Kỳ thực, đối với Lỗ Nhất Khí, điều kiện này xem ra rất dễ dàng, vì nếu Thuỷ đại nương đưa ra một cái giá khác, cậu cũng chẳng có thứ gì có thể mang ra trao đổi. Nhưng Lỗ Nhất Khí vẫn cảm thấy do dự bởi lẽ cậu chưa biết cô ta là người thế nào. Ky thực tâm địa của tất cả những người khác cậu cũng đều chưa thực rõ, song bọn họ chí ít cũng có một vài bằng chứng khiến người khác tin phục.

Chúng tôi có thể mất mạng bất cứ lúc nào. Hơn nữa tới được nơi đó chưa chắc đã thu hoạch được gì! – Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm như là tự nói với mình.

- Các người không được gì, không có nghĩa là tôi cũng không được! – Thuỷ đại nương khẽ hất cằm lên đáp.

- Vì sao chị lại muốn thực hiện vụ trao đổi này với tôi?

- Sau khi tôi biết được con đường bí mật này, các người là nhóm đầu tiên tới tìm bảo địa! – Tuy giọng của cô ta rất thành thực, song lý do dường như có phần khiên cưỡng.

- Còn nữa, ông thợ rèn kia nói cậu là người đáng tin! – Thuỷ đại nương vừa nói vừa đưa mắt về phía Nhậm Hoả Cuồng.

Nhậm Hoả Cuồng và những người khác đang đứng dưới một gốc cây to phía xa, đợi Lỗ Nhất Khí và Thuỷ đại nương thương lượng.
 
Quyển 3 - Chương 13: Đường khả nghi


Lỗ Nhất Khí vẫn không chịu đồng ý với điều kiện của Thuỷ đại nương, không phải là cậu không muốn biết con đường dẫn tới vùng đất thần kỳ kia, mà là cậu muốn bàn bạc với mọi người. Dù gì họ cũng là những người đã bảo vệ và giúp đỡ cậu suốt dọc đường đi, giờ đây tự dưng lại dẫn thêm hai người đàn bà, thêm một gánh nặng cũng tức là tăng thêm nguy hiểm. Hơn nữa trước khi chết, Tùng Đắc Lễ đã nhắc tới một nơi thần bí và nói rằng Tùng Đắc Kim có thể dẫn cậu đi. “Không được tin bất kỳ ai, trừ phi người đó đã hy sinh tính mạng vì con”, lời trăng trối của bác cậu lại văng vẳng bên tai. Người đã vì mình mà chết chắc chắn sẽ không lừa dối mình, bởi vậy cậu không có lý do gì để từ chối đi theo Tùng Đắc Kim tìm đến bảo địa. Song cậu cũng không muốn bỏ lại Thuỷ đại nương. Không hiểu tại sao, ngay từ lúc chạm mặt người phụ nữ này, cậu đã cảm thấy giữa mình và chị ta sẽ có rất nhiều sự tình ràng buộc.

Nhậm Hoả Cuồng chắc chắn sẽ đồng ý lập tức. Xem ra dù không có phi vụ làm ăn kia, ông ta cũng đã dự định dẫn mụ béo đi theo.

Phó Lợi Khai đang cắm cúi vốc tuyết lau chùi những vết máu trên mặt, chưa kịp ngẩng lên đã gật đầu lia lịa. Anh mắt thô thiển đục ngầu của gã đã cho thấy gã rất hào hứng nếu có đàn bà đi cùng.

Vừa nghe đến việc dẫn đàn bà theo, Tùng Đắc Kim đã nhảy dựng lên, luôn miệng “Không được!” đến mấy lần. Nhất là chốn đó bản thân Thuỷ đại nương cũng mơ hồ không rõ, khiến gã càng cảm thấy khó tin. Còn vùng đất mà gã biết được lại là bí mật mà các thế hệ tổ tiên của dòng họ Tùng đời đời truyền lại.

Lão mù từ đầu tới cuối chỉ im lặng, dường như đang chăm chú lắng nghe tiếng gió Bắc vi vút thổi trong rừng.

Quỷ Nhãn Tam nhoài người sang đẩy khẽ lão mù một cái, lão vẫn đứng trơ trơ, nhưng đám da thịt nhăn nheo trên mặt rung giật một hồi, và ngay sau đó là một cái lắc đầu quả quyết.

Thế là mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía Quỷ Nhãn Tam. Đã có hai người đồng ý, hai người phản đối, chỉ còn Quỷ Nhãn Tam chưa đưa ra ý kiến.

Quỷ Nhãn Tam vốn là tay đào mồ trộm mả chuyên nghiệp không sợ quỷ thần, song trong lúc này lại tỏ vẻ ngần ngừ do dự. Hắn đưa mắt nhìn Lỗ Nhất Khí, nhưng vẻ mặt của cậu thản nhiên như không. Hắn lại quay nhìn Thuỷ đại nương, khuôn mặt xinh đẹp của cô ta cũng không lộ chút cảm xúc. Điều này khiến hắn hơi bất an, cô ta hẳn không phải tay vừa, cho cô ta đi cùng không chừng lại thêm phiền phức.

- Dẫn cô ta theo! Sẽ có ích!

Cuối cùng thì Quỷ Nhãn Tam cũng đã đưa ra một quyết định gọn lỏn. Sở dĩ hắn đồng ý, vì hắn vừa nhìn thấy một hành động rất nhỏ của Thuỷ đại nương. Cô ta vừa khẽ xoay lưng sang bên, và Quỷ Nhãn Tam đã nhìn thấy một nửa bộ mông tròn trịa.

Cô ta đang mặc một chiếc quần bông với mặt ngoài được ghép bằng nhiều mảnh da thú, bên nửa mông trái có một mảnh da hình dạng hơi giống đồng tiền xu, có khác ở chỗ đồng tiền xu hình tròn giữa có lỗ vuông, còn mảnh da này hình bầu dục ở giữa có lỗ hình chữ nhật. Quỷ Nhãn Tam biết đây là biểu tượng của phái Một tay trong giới trộm mộ. Phái Một tay có kỹ thuật tìm huyệt vô cùng độc đáo, có thể xác định được vị trí của huyệt mộ chính, thậm chí là vị trí của quan tài chính ngay từ trên mặt đất, bởi vậy họ chỉ cần dùng dụng cụ đặc biệt để đào một lỗ nhỏ xuyên thẳng tới huyệt chính, sau đó dùng một tay để nhặt lấy báu vật. Kỹ thuật của phái này là đơn giản nhất, cũng là an toàn nhất trong giới trộm mộ. Biểu tượng hình đồng xu kia kỳ thực chính là một kiểu gương có tên gọi “gương thoắt biến”, là một loại gương có hình ống, cũng là một dụng cụ đặc biệt chỉ có trong môn phái của họ, có thể dùng để so sánh cục tướng xa gần khi đo đạc phong thuỷ xác định huyệt vị.

Và sự việc đã định, tất cả mọi người mau chóng thu dọn hành lý lên đường. Lần chần quá lâu ở một nơi, nguy hiểm sẽ càng áp sát.

Nhưng vừa đặt chân lên con đường tiến về phía bắc, Lỗ Nhất Khí đột nhiên quay đầu lại. Một luồng khí tướng quen thuộc như đang phảng phất tại một nơi nào đó không xa trong khu rừng, song khi cậu ngoảnh đầu, lại chẳng phát hiện thấy gì, chỉ cảm thấy một nỗi bất an rất khó diễn tả.

Trên một đỉnh núi xa xa, có một người áo xanh đang đứng giữa rừng cây, ánh mắt khó đoán xuyên qua các khe hở của cây cối rậm rạp, nhìn chằm chằm vào Lỗ Nhất Khí. Vẻ mặt hắn bình thản như không, chỉ có làn khí bao bọc quanh người khẽ chập chờn một thoáng.

Một người mắt đỏ hình dung cổ quái xuyên qua rừng cây, tiến tới sát bên người áo xanh, hơi cúi người xuống mà nói:

- Tất cả đang được tiến hành theo đúng kế hoạch!

Người mặc áo xanh không có phản ứng gì, chỉ thu lại làn khí quanh mình cho thật bình ổn.

Một đoàn người men theo đường núi quanh co mà đi, tốc độ rất chậm chạp, vì càng đi sâu vào trong rừng, tuyết phủ càng dày, di chuyển vô cùng khó khăn, đặc biệt là Lỗ Nhất Khí và hai người đàn bà.

Nhậm Hoả Cuồng đã rút dây thừng ở hai bên đòn gánh đến mức ngắn nhất, vậy mà đáy sọt và bếp lò vẫn liên tục quét xuống nền tuyết.

Suốt dọc đường di Quỷ Nhãn Tam không lúc nào rời mắt khỏi Thuỷ Băng Hoa. Hắn không nói cho ai biết phát hiện của mình, bởi vì mối liên hệ giữa cô ta và mảnh da kia không phải nhìn thoáng qua là biết ngay được. Hắn phải quan sát kỹ từng hành vi cử chỉ của cô ta để phán đoán xem cô ta có bản lĩnh gì ghê gớm.

Tùng Đắc Kim đẵn một chạc cây lớn, đi ở phía sau cùng, xoá sạch các dấu chân trên tuyết.

Cho tới tận buổi trưa ngày hôm sau, bọn họ không gặp phải bất cứ rắc rối nào, chỉ cảm thấy đường đi càng lúc càng thêm gian nan. Tuy nhiên đến chập tối, Thuỷ Băng Hoa và Tùng Đắc Kim bắt đầu tranh cãi về đường đi, bởi vậy đêm đó họ đành tìm một hang núi nông để nghỉ tạm. Khi chạy khỏi Kim gia trại, không ai kịp mang theo thứ gì, chỉ có Thuỷ đại nương là chuẩn bị được chút đồ ăn, nhờ vậy mà mọi người cũng ấm bụng đôi chút. Tùng Đắc Kim ra ngoài kiếm chác một vòng, khi quay về cũng được kha khá hạt khô.

Lỗ Nhất Khí hầu như chẳng ăn gì, chỉ cắm cúi nghiền ngẫm “Ban kinh”. “Cơ xảo tập” cậu đã đọc hết rồi, nhưng kỳ thực không hiểu được bao nhiêu, chỉ có thể cố gắng thuộc lòng nội dung trong đó để có thể dễ dàng vận dụng khi cần thiết. Song “Ban kinh” lại khá dễ hiểu, hơn nữa còn có rất nhiều công pháp có thể chứng minh cho lý luận trong “Cơ xảo tập”.

Sáu công phu của Lỗ gia gồm Bố cát, Định cơ, Tịch trần, Lập trụ, Cố lương, Phô thạch. Cậu đã biết Quỷ Nhãn Tam học được nguyên tắc tổng và Phô thạch, chính là công phu xây tường lợp ngói san nền; lão mù học được nguyên tắc tổng và Tịch trần. Thế nhưng bọn họ đều học không thực đến nơi đến chốn, đa phần chỉ dựa vào công phu mà bản thân đã thành thạo để thay thế cho công phu Lục hợp.

Lúc này Lỗ Nhất Khí tay cầm “Ban kinh”, song mắt lại nhìn ra ngoài cửa hang, miệng lẩm bà lẩm bẩm: “Đối xảo, đối xảo”.

“Đối xảo” chính là quan hệ tiếp nối giữa các khe gạch khe tường và khe gạch lát nền trong công phu Phô thach, vừa phải đảm bảo kết cấu vững chắc, kiên cố, lại phải đảm bảo mỹ quan, trong các kiến trúc lớn còn phải đat được yêu cầu phong thuỷ “đường tụ thành dòng, nạp tài tụ phúc”.

Nhậm Hoả Cuồng cũng không ăn, chỉ ngồi bóc hạt cho bà béo, dường như đang ngẫm ngợi điều gì.

Phó Lợi Khai và Quỷ Nhãn Tam đều nhìn Thuỷ Băng Hoa không chớp mắt, song khác ở chỗ Phó Lợi Khai săm soi cô ta từ đầu tới chân, còn Quỷ Nhãn Tam chỉ nhìn dán mắt vào bên mông của cô ta.

Thuỷ Băng Hoa và Tùng Đắc Kim tranh luận không lâu, bởi lẽ Thuỷ Băng Hoa đã thôi không đôi co nữa. Cũng dễ hiểu thôi, vì bản thân cô ta cũng không thực sự chắc chắn, rất có thể tay thợ săn kia đã dùng một mảnh da vô dụng để lừa lấy chút ít thức ăn và cảm giác ấm áp trong cơn hấp hối. Hơn nữa, cô ta cũng đã đạt được mục đích, giờ dây dù là đi theo đường của ai, cô ta vẫn được theo cùng. Cô ta đâu cần phải tốn nước bọt để đấu khẩu với cái gã cứng đầu họ Tùng, cứ để cho anh chàng môn trưởng Ban môn trẻ tuổi song điềm tĩnh khác thường kia đưa ra quyết định cuối cùng.

Tùng Đắc Kim rõ ràng rất mực tự tin với bí mật mà tổ tiên truyền lại. Nhìn vào bộ mặt phừng phừng nộ khí của gã trong khi tranh cãi với Thuỷ Băng Hoa, đủ để biết rằng gã rất muốn mọi người lựa chọn con đường của mình.

Đã quá nửa đêm, song khu rừng lại có vẻ không được yên tĩnh như buổi ban ngày, chốc chốc lại vẳng lên những âm thanh kỳ quái. Đám người lần lượt tỉnh dậy, song đều nằm im không động cựa, chỉ có những bàn tay nắm chặt hơn vào vũ khí.

Nếu Nhậm Hoả Cuồng không vươn tay vào trong sọt với lấy cái búa đánh sắt, thì bà béo đã không giật mình choàng tỉnh. Sau khi thức dậy, bà ta bèn làu bàu đi ra khỏi hang. Cũng giống như những người đàn bà đứng tuổi khác, cứ nửa đêm tỉnh dậy là mót tiểu, bà ta phải đi tìm chỗ để giải phóng.

Bà béo chỉ đi khỏi hang một đoạn ngắn, đã tụt quần ngồi xuống, con mắt cú vọ của Quỷ Nhãn Tam vẫn nhìn thấy bộ mông phốp pháp lộ ra trắng loà.

Do khoảng cách rất gần nên mọi người đều nghe thấy giọng nói ấm ớ của bà ta:

- Là ông ư? Mới tới à?

Ai? Trong khu rừng đêm tối đen như mực này, ngoài họ ra còn có ai nữa? Chả nhẽ bà ta đang nói mơ?

Nhưng ngay lập tức, bà béo đứng phắt dậy, quần còn chưa kịp kéo đã hét lên the thé:

- Ai? Ngươi là ai?

Người đầu tiên vụt ra khỏi hang là lão mù. Quả không hổ danh là tặc vương, thân thủ động tác khác hẳn người thường. Theo sát sau lão là Tùng Đắc Kim, bước chân của gã trai cực kỳ nhanh nhẹn, dù sao gã cũng đã luyện được tuyệt kỹ di chuyển trên gỗ lăn.

Lão mù đã nghe thấy rõ tiếng bước chân chạy trên tuyết bước chân di chuyển rất nhanh, không những có công phu của người luyện võ, mà cách thức chạy nhảy cũng rất thích hợp với việc di chuyển trên tuyết. Song dù là vậy, lão mù vẫn chắc chắn lão có thể đuổi kịp.

- Đừng đuổi, cẩn thận có mai phục! – Tùng Đắc Kim ở phía sau hét lớn.

Lão mù không đuổi, không phải vì nghe lời Tùng Đắc Kim, mà vì lão đã nghe thấy những tiếng bước chân khác. Không chỉ có một người.

Nhậm Hoả Cuồng tay xách chiếc búa rèn lớn, chỉ vài bước đã chạy đến bên mụ béo.

- Không phải đâu! – Bà béo tuy vẫn chưa hết kinh hoàng, nhưng vẫn không quên hạ giọng thật thấp nói với Nhậm Hoả Cuồng. Và cũng chỉ có đôi tai cực thính của lão mù mới nghe thấy tiếng thì thầm của bà ta.

- Cái gì không phải? – Cơ bắp trên nửa khuôn mặt lão mù co giật dữ dội, khoé miệng bị kéo lên lộ ra hai chiếc răng trắng ởn.

- Không phải người! Là ma, một con ma! – Câu trả lơi lập tức bật ra khỏi miệng bà béo.

Mọi người đều im lặng, những âm thanh quái đản khi nãy cũng đột nhiên biến mất tăm, chỉ thi thoảng mới vọng lên vài tiếng loạt soạt khi đám tuyết đọng trên cành cây trút ào xuống đất.

Lỗ Nhất Khí bỗng cảm thấy vô cùng khó chịu, trong bóng đêm dường như hiện ra một lồng thép lớn úp chụp lên người cậu, và đang dần dần thu hẹp lại. Cậu bắt đầu cảm thấy khó thở, buồn nôn, ruột gan như lộn ngược. Lỗ Nhất Khí từng nghe bác sĩ Tây y nói rằng, triệu chứng này là do tâm lý gây ra, gọi là chứng sợ bóng đêm hay là chứng sợ hãi không lý do. Song Lỗ Nhất Khí mau chóng thoát khỏi cảm giác đó, trở lại trạng thái bình thường, và buông một lời bình thản:

- Đi! Đi ngay bây giờ!

Đi trong rừng sâu lúc nửa đêm vô cùng vất vả, lại thêm phương hướng rất khó xác định. Có người đã bắt đầu cảm thấy vị môn trưởng Ban môn trẻ tuổi này thật thiếu kinh nghiệm.

- Tối mò mò như thế này, làm sao nhận ra đường mà đi? – Phó Lợi Khai làu bàu một câu, rụt tay vào trong tay áo, đi sát sau lưng Thuỷ đại nương,

- Tôi nhận ra đường, đi theo tôi! – Tùng Đắc Kim tuy không nói nhiều, song lời nói vô cùng chắc chắn.

Không ai nói gì, ngay cả Thuỷ Băng Hoa cũng không lên tiếng. Cũng phải thôi, cô ta chỉ có một tấm bản dồ da dê, chỉ biết được một con đường mà bản thân chưa từng đi qua, cũng không biết cách đi rừng, biết dựa vào cái gì để tranh cãi với Tùng Đắc Kim? Cuộc tranh cãi còn chưa đợi đến lúc Lỗ Nhất Khí đứng ra phân giải, giờ tự nhiên đã được quyết định.

Thế là họ tiếp tục dò dẫm bước đi trong đêm tối như bưng. Tùng Đắc Kim đi đầu, xem ra gã rất thông thạo đường đi lối lại nơi đây, tuy đi trong đêm tối song cũng chẳng chậm hơn so với ban ngày là mấy.

Đi ngay sau gã là Nhậm Hoả Cuồng và bà béo. Họ không cần nhìn đường, chỉ cần đi theo cái bóng đen thù lù của Tùng Đắc Kim phía trước.

Đi thêm một đoạn nữa, trước mặt họ hiện ra một khoảng trống nhỏ, ở đây không có tán cây che phủ, ít nhiều vẫn lọt xuống chút ánh sáng trời. Màn đêm đen quánh như mực đến đây đã ngả sang màu xám sẫm.

Vừa bước vào khoảng đất trống, bà béo bỗng “ồ” lên một tiếng.

Cả Nhậm Hoả Cuồng và lão mù đều nghe thấy, song không ai hỏi gì. Nhậm Hoả Cuồng biết tính người đàn bà này, chuyện gì mà bà ta chắc chắn, thế nào cũng quang quác lên rồi. Còn chỉ kêu lên một tiếng thế này, chứng tỏ bà ta vẫn chưa biết đó là chuyện gì, có hỏi cũng vô ích. Còn lão mù không hỏi, là vì lão cảm thấy người đàn bà này sẽ không nói thực với lão, nên lão chỉ lăng lặng tập trung tinh thần để kịp thời nghe ngóng những lời thì thào giữa bà béo và Nhậm Hoả Cuồng.

- Dừng lại! Im lặng!

Lão mù đột ngột quát khẽ khiến cả đám suýt vỡ mật, khựng lại tại chỗ, đến thở cũng không dám thở mạnh.

Và tất cả mọi người đều nghe thấy những âm thanh quái đản lúc thưa lúc nhặt, lúc có lúc không, cách họ không xa, trái phải đều có, tựa như đang đi song hành với họ.

- Đi mau!

Tùng Đắc Kim nói xong, lập tức rảo nhanh chân bước đi vùn vụt. Những người còn lại chỉ còn cách bám theo nếu không muốn bị bỏ lại phía sau. Người khác còn đỡ, nhưng bà béo và Thuỷ Băng Hoa rõ ràng khó lòng theo kịp, tiếng thở bắt đầu hổn hển nặng nề.

Đến lúc tờ mờ sáng, cuối cùng bọn họ cũng ra khỏi cánh rừng, đến bên một sườn đồi trọc lóc. Tùng Đắc Kim lúc này mới dừng bước mà nói:

- Nghỉ chân một chút, chỗ này có vẻ an toàn!

Mọi người dường như chỉ chờ có thế, lập tức dừng ngay lại. Bà béo và Thuỷ Băng Hoa quăng người ngã phịch luôn xuống đất.

Nghỉ thở được một hồi, bà béo liền đứng dậy, đi sang vạt rừng bên cạnh.

- Đi đâu? – Nhậm Hoả Cuồng hỏi.

Bà béo không trả lời, cứ thế ngoay ngoảy bước đi, đưa tay vỗ vỗ vào bộ mông đồ sộ.

- Mụ già khỉ gió, lấy đâu mà nhiều phân nhiều nước thế không biết. Rồi có ngày chết vì đi bậy cho xem! – Nhậm Hoả Cuồng làu bàu.

Nhưng thoắt một cái bà ta đã quay trở lại, nhanh tới mức gần như chưa đủ thời gian tháo dây quần. Bước đi vẫn ngoay ngoảy lắc lư, nhưng nét mặt không hề có vẻ thoải mái sau khi đã bài tiết xong xuôi.

Khi còn cách vài bước chân, bà ta chợt khựng lại, giơ cánh tay lên chỉ thẳng vào mọi người, đôi mắt trợn trừng ngây dại hệt như trúng tà. Một đốm máu ứa ra đỏ loè phía dưới ngực trái, rồi nhanh chóng loang rộng, ướt sũng cả một mảng áo. Chốc lát, từ gấu áo viền lông thú máu đã nhỏ xuống tong tỏng như mưa rào, khoảng tuyết dưới chân thoắt đã nhuộm thành một vũng đỏ chói.

Bà ta đổ gục xuống tuyết, cánh tay vẫn duỗi thẳng đơ, không nói nổi một lời. Nếu được nói một câu, liệu bà ta có hối hận mà rằng: “Có mót đến đâu thì tôi cũng nhịn”.

Lão mù, Nhậm Hoả Cuồng và Tùng Đắc Kim gần như nhảy lên một lượt, cùng lao bổ về phía trước. Khi vụt qua bên cạnh bà béo, bà ta vẫn chưa gục xuống hẳn, song không ai đưa tay ra dỡ, mà đều lao thẳng vào trong rừng.

Lão mù cố tình ghìm bước chân chậm lại để đợi hai người kia. Những trải nghiệm trong mấy ngày qua đã khiến lão không dám liều mạng, đúng là giang hồ càng già gan càng nhỏ, câu nói này quả thực không sai. Cả ba người cùng lao vào rừng, song vừa tiến lên hai bước, lại chẳng ai bảo ai cùng khựng cả lại. Xem ra dù họ có ba người, nhưng vẫn khó tránh kinh sợ.

- Không có dấu chân! – Giọng Tùng Đắc Kim có phần run rẩy. Không có dấu chân không có nghĩa là không hề có một dấu chân nào. Trên tuyết chỉ có dấu chân của bà béo, song bà béo chắc chắn không thể tự giết mình. Lẽ nào kẻ giết bà ta có thể lướt đi trên tuyết không để lại dấu vết?

Lão mù nhăn tít đôi mày, giơ gậy gõ gõ vào thân cây. Nhậm Hoả Cuồng lập tức hiểu ý, lập tức quay người sờ soạng trên thân cây.

Sau một hồi lần mò, Nhậm Hoả Cuồng lên tiếng:

- Chỗ cao trượng ba có vết cọ xát, cao trượng mốt có ít vết đạp.

Lão mù đảo ngược tròng mắt trắng dã, nói chắc như đinh đóng cột:

- Treo dây trên không, phi thân đoạt mệnh, tiếp tục đi về phía trước, sẽ thấy trên thân cây có nhiều dấu tích hơn nữa!

- Thôi đừng, hãy quay lại đi, mọi người tụ lại một chỗ sẽ an toàn hơn! – Tùng Đắc Kim dường như vô cùng sợ hãi, song gã nói nghe cũng có lý.

Cả ba người bèn quay lại. Lão mù rất chuẩn xác đi thẳng tới bên thi thể của bà béo, ngồi thụp xuống, đưa tay cởi tấm áo bông trên người bà ta ra, rồi dùng ngón út và ngón áp út vạch bầu vú đồ sộ lên, đưa ngón trỏ và ngón giữa luồn vào miệng vết thương.

- Mũi đao xuyên vào từ mé dưới bên trái, hơi chếch lên trên, cứa thủng tim, cắt đứt xương ức. Đao cầm bên tay trái, thế đao cắt ngược từ dưới lên trên! – Lão mù vừa kiểm tra đã lập tức đưa ra kết luận.

Lão nói là cắt chứ không phải là đâm? Đến cả ương ức cũng bị cắt rời ư? – Nhậm Hoả Cuồng kinh ngạc hỏi.

- Đúng vậy! Lão già mù này có thể chắc chắn! – Xem ra quãng thời gian lão tu luyện trong ngôi mộ nghìn xác không hề uổng phí.

Nhậm Hoả Cuồng cũng cúi xuống xem xét vết thương, rồi thở dài một tiếng, nói:

- Lưỡi mỏng như tờ giấy, sống đao như thẻ tre, mũi sắc nhọn như kim, dài không quá hai thước, rộng hơn ba tấc, cắt xương đứt thành khe, cứa thịt tự dính liền, đi hơn chục bước huyết mạch tuôn trào, phá vỡ vết thương mà chết.

- Một lưỡi đao như vậy hẳn là có thể cắt đứt dễ dàng những đai sắt ở hàng rào quanh Kim gia trại? – Lỗ Nhất Khí buột miệng hỏi một câu.

- Được chứ! Chắc chắn là được! – Câu trả lời của Nhậm Hoả Cuồng khiến Lỗ Nhất Khí bất chợt nhớ ra rất nhiều tiểu tiết, cậu lập tức cảm thấy lợm giọng như vừa nhai nuốt phải dòi. Bản thân đã thận trọng hết nước, vậy mà vẫn trúng phải mồi nhử. Nhưng ai là kẻ quăng mồi? Vì lý do gì?

Giờ đây, cậu đang hồi tưởng thật kỹ lưỡng từng tình tiết xảy ra trong Kim gia trại. Dường như sức mạnh và độ chuẩn xác của đám phi mâu và mũi tên có gì đó bất thường, mục tiêu cũng không rõ rệt, dường như chỉ nhằm vào cây Vũ Kim Cương của Quỷ Nhãn Tam và những người không liên can như Tùng Đắc Lễ và người đàn bà mà Phó Lợi Khai lôi đi cùng. Đặc biệt là mũi tên ống sáo không lông vũ cuối cùng đã bị Phó Lợi Khai đánh rơi, nếu không phải lực đạo của nó quá yếu, hẳn là Phó Lợi Khai phải có một bản lĩnh phi thường, thế nhưng trông gã không có vẻ gì giống như cao thủ. Còn nữa, khi cậu chạy tới góc tây bắc, sự tấn công lập tức trở nên dữ dội, tên mâu cùng bắn như mưa, cứ như cố tình muốn ép cậu chạy về phía lỗ hổng. Tại sao nhất thiết phải theo hướng này? Phải chăng là muốn cậu gặp được đám Thuỷ Băng Hoa ở hướng đó.

Lỗ Nhất Khí nhìn khắp lượt tất cả mọi người với con mắt dò xét. Quỷ Nhãn Tam đã cùng cậu liều mạng chạy Khỏi Kim gia trại, lại sẵn sàng hy sinh cả tính mạng vì cậu, có lẽ không vấn đề gì. Lão mù tuy có chút xích mích với Quỷ Nhãn Tam, hành vi ít nhiều kỳ quặc, song hẳn cũng đáng tin, dù sao lão ta cũng đã từng sẵn sàng liều chết nhảy lên khối đá Thái Hồ để cứu sống bọn họ.

Tiếp theo là những người mới quen hai hôm về trước.

Nhậm Hoả Cuồng nói rằng, ông ta là bạn của cha cậu, cũng từng được Lỗ gia uỷ thác đại sự, song những hành động của ông ta trong hai ngày qua vẫn có những điểm bất thường khó mà giải thích cho thoả đáng.

Phó Lợi Khai, một đệ tử Ban môn nhưng thậm chí còn không biết mình là đệ tử Ban môn, con người này có rất nhiều điểm khó lường, thật khó kết luận gã là người như thế nào. Chỉ biết trên con người gã toát ra vẻ nhát gan háo sắc của phường du đãng và sự tham lam giảo hoạt của con buôn.

Tùng Đắc Kim không có điểm gì đáng ngờ, ngoài viêc gã là thợ phụ cùng làm ăn với Phó Lợi Khai. Song kỳ thực, dù gã có là một tay thợ đáng ngờ cũng chẳng nói lên được điều gì. Dùng những người khù khờ chất phác để che giấu thân phận cũng là một chiêu thường thấy trong giang hồ.

Còn Thuỷ đại nương Thuỷ Băng Hoa, thoạt tiên nghe qua thân thế của cô ta, đã thấy đó là một người đàn bà khác thường. Song trong vụ giao dịch này, tại sao cô ta lại nhất quyết đòi đi cùng? Cô ta rút cục là người như thế nào?

- Chị Thuỷ, người của chị đã chết rồi, chị có muốn căn dặn gì không để chúng tôi giúp một tay chôn cất cho chị ta? – Lỗ Nhất Khí biết dù Thuỷ Băng Hoa không nói, Nhậm Hoả Cuồng cũng tự biết thu xếp hậu sự đàng hoàng, cậu chỉ muốn xem phản ứng của cô ta mà thôi.

- Bà ta không phải người của tôi, tôi không quản đến! – Câu trả lời của Thuỷ Băng Hoa khiến Lỗ Nhất Khí ngây ra một thoáng – Bà ta sống gần Kim gia trại, thường xuvên tới trại bán mấy thứ son phấn, kim chỉ. Hôm trước quá nửa đêm mới tới trại thuê một phòng để nghỉ chân.

- Bà ta là người của tôi, là tôi bảo bà ta tới Kim gia trại! – Nhậm Hoả Cuồng lên tiếng, trong ánh mắt thoáng qua một nỗi đau xót – Kim gia trại là một điểm dừng chân trên chặng đường mà chúng ta buộc phải đi qua, dù để ăn uống hay nghỉ chân, đều phải tìm tới đó. Tôi sợ đối thủ đã mai phục sẵn, nên đã bảo bà bạn già của tôi đến trước nghe ngóng thăm dò, bởi lẽ trong thời điểm này, chỉ có đàn bà đến trại mới không bị nghi ngờ!
 
Quyển 3 - Chương 14: Đột nhiên tỉnh


Quỷ Nhãn Tam mau chóng đào xong một cái hố nông trên mặt đất sỏi đá lổn nhổn. Nền đất nơi đây đầy đá tảng và chằng chịt rễ cây, đào được một cái hố như vậy đã là không hề đơn giản.

Chôn cất xong bà béo, trời đã sáng bạch. Sau cùng Nhậm Hoả Cuồng vốc một vốc đất đắp lên đỉnh mộ, cất giọng đầy căm phẫn:

- Bà thế này cũng là may mắn rồi! Mấy người chúng tôi nếu có chết, không biết có kiếm được cái lỗ mà chôn hay không. Nhưng tôi đảm bảo với bà một câu, nếu tôi tìm ra được kẻ giết bà, chắc chắn hắn sẽ không có nơi vùi xác!

Nói đến câu cuối cùng, hai hàm răng của ông nghiến vào nhau ken két.

Cho đến tận trưa, họ vẫn chưa đi được bao xa, tiếp tục tiến thêm một đoạn về phía bắc. Họ đã ra khỏi khu vực thâm sâu của dãy Đại Hưng An, và bắt đầu tiến đến bên rìa vùng Đông Bắc. Tùng Đắc Kim nói với mọi gười chỗ chôn giấu bảo bối mà gã biết không còn bao xa nữa. Kỳ thực dù gã không nói, Lỗ Nhất Khí cũng đã ý thức được điều này. Ở hai bên con đường nhỏ băng qua sơn cốc lần lượt xuất hiện hai cột gỗ đen bóng, thoạt nhìn đã biết chúng có tuổi thọ rất lâu đời, trên bề mặt gỗ còn lờ mờ những đường vân khắc, tựa như đồ hình vật tổ dùng trong tế lễ của các thị tộc cổ xưa. Mặt khác, cậu cũng bắt đầu cảm giác thấy làn khí ở phía trước có phần phức tạp, biến hoá khôn lường, có thứ may mắn, có thứ hung hiểm, cũng có thứ không thể phán đoán được lành dữ.

Đúng là đã không còn xa nữa. Dù phía trước có phải là ám cấu cất giấu bảo bối hay không, chí ít cũng có thể khẳng định đây là một nơi chốn vô cùng thần bí. Thế là Lỗ Nhất Khí quyết định dừng lại nghỉ ngơi, nhân tiện ăn uống chút ít.

Lương khô không nhiều, mỗi người chỉ được chia một miếng bánh mì nhỏ. May mà Tùng Đắc Kim lại kiếm về được một ít hạt khô.

Phó Lợi Khai lầm bầm chửi rủa:

- Mả mẹ nó! Sớm biết thế này thì lùa cả bầy dê lên núi cho xong. Nhạt mồm nhạt miệng đến chỉ muốn gặm cả thịt mình!

Nghe gã lái gỗ liên miệng chửi đổng, Thuỷ Băng Hoa cũng phải phì cười:

- Cánh đàn ông các người cứ mở miệng là lôi mẹ ra chửi. Tay thợ săn sâm đã đưa tấm bản đồ cho tôi sắp chết đến nơi còn làm nhảm: “Mả mẹ! Bảo bối! Mả mẹ! Bảo bối!”, chẳng biết là muốn bảo bối hay hận bảo bối nữa!

- Mả mẹ! Bảo bối! Mả mẹ! Bảo bối! – Lỗ Nhất Khí lầm bầm trong miệng.

Đột nhiên cậu nhảy bật dậy, quăng vụt đám hạt khô trong tay đi, chụp vội lấy cánh tay Thuỷ Băng Hoa nói gấp:

- Chị Thuỷ, chị hãy dẫn chúng tôi quay về con đường mà chị biết!

Hành động đột ngột của cậu đã khiến Thuỷ Băng Hoa sợ hãi, bởi lẽ bàn tay cậu siết vào cánh tay cô ta quá chặt, chặt tới mức cô ta bắt đầu phát run. Giọng nói của cô ta cũng run lên theo:

- Tôi không biết… nếu xuất phát từ đây… phải đi như thế nào… chỉ biết nếu muốn… đi tới đó, trước hết phải tới… đường mòn Sam Đỏ… rồi tìm lối đi bí mật…

Thuỷ Băng Hoa không hề nói dốì, cô ta vốn không thông thạo đi rừng, lại thêm đêm qua phải băng rừng trong đêm đen tối mịt, giờ đây đến cả phương hướng cũng chẳng thể nhận ra.

- Không xa lắm đâu, từ đây đi qua nửa sườn dốc, đi đường tắt vượt qua rãnh Gấu Đen, rồi vượt qua dãy núi Sam Đỏ sẽ tới đầu đường mòn Sam Đỏ! – Giọng Phó Lợi Khai đầy hào hứng, không biết có phải vì giúp được Thuỷ Băng Hoa nên gã cảm thấy vui vẻ hay không.

- Vậy chúng ta hãy lên đường! Ngay bây giờ, tới đường mòn Sam Đỏ! – Lỗ Nhất Khí dừng lại một lát rồi nói tiếp – Nơi mà anh Tùng sắp dẫn đến chắc chắn cũng 1à nơi cất giữ bảo bối, song có lẽ không phải là thứ chúng ta cần tìm. Đợi sau khi hoàn thành việc lớn, chúng ta vẫn có thể đến đó tìm kiếm.

Khẩu khí và phong thái của Lỗ Nhất Khí rất mực uy phong khiến mọi người không ai tỏ vẻ phản đối. Cậu cũng không quên an ủi Tùng Đắc Kim đang đứng ngây thộn tại chỗ.

Từ lúc đó, Phó Lợi Khai đột nhiên tích cực hẳn lên. Gã vác cưa trên vai, tranh phần đi trước dẫn đường.

Tùng Đắc Kim tuy hơi buồn bực thất vọng, song vẻ mặt cũng không tỏ ra quá bất mãn. Gã lặng lẽ chuyển từ vị trí dẫn đầu sang vị trí doạn hậu, vẫn không quên nhiệm vụ kéo chạc cây xoá vết chân trên tuyết.

Nhậm Hoả Cuồng đột nhiên ngồi thụp xuống, rút giày ra dốc ngược xuống đổ đám cát bụi kẹt ở bên trong ra ngoài. Tùng Đắc Kim cầm chạc cây đứng bên cạnh ông ta, kiên nhẫn đợi đến khi ông ta đứng lên đi tiếp, mới cẩn thận san bằng mọi dấu vết và tiếp tục tiến về phía trước. Nhậm Hoả Cuồng quay đầu nhìn chạc cây trong tay Tùng Đắc Kim, cặp lông mày khẽ chau lại.

Lỗ Nhất Khí tâm tư có phần rối loạn. Cậu bất giác nhớ tới kỹ pháp “đối xảo” trong công phu Phô thạch: “Trước tiên tìm chỗ khuyết, sau đó định khuôn thước, mới có thể đối xảo”. Song trong tình hình hiện tại, ngay cả chỗ khuyết cậu cũng chưa thể tìm ra.

Đi được một quãng ngắn, Quỷ Nhãn Tam chợt rảo bước tới bên Lỗ Nhất Khí, đỡ lấy cánh tay cậu kéo về phía trước. Kỳ thực động tác này là để một bên đầu vai của Lỗ Nhất Khí nhô cao lên, nhằm che bớt một phần vành tai của Lỗ Nhất Khí và tiếng thì thầm của hắn:

- Bếp lò lọt tàn tro, song cậu Tùng quét sạch rồi!

Nói thì nghe đơn giản, nhưng kỳ thực để phát hiện ra tàn tro rơi trên tuyết lại hoàn toàn không phải là chuyện dễ dàng, bởi lẽ gánh lò rèn của Nhậm Hoả Cuồng đa phần là rê đáy trên mặt tuyết, khó mà nhìn thấy những vệt tro xám trắng còn nhẹ hơn cả tuyết kín đáo lọt ra khỏi đáy bếp lò.

Trong đầu Lỗ Nhát Khí như có thứ gì nổ vang. Cậu chợt nhớ trong tiết vật lý ở trường Tây học, cậu đã được nghe rằng, tàn tro dù đã nguội, nhưng khả năng hút nhiệt và độ chênh lệch nhiệt độ với băng tuyết vẫn sẽ khiến nó mau chóng để lại những dấu tích li ti trên mặt tuyết bằng phẳng. Cậu còn nhớ trong cuốn “Biện tích mịch tông bách sắc hội bản“* đời Minh cũng có ghi chép chuyện này. Đây là một cuốn sách bí mật do người trong Công môn nghiên cứu về các kỹ xảo bí mật dùng trong điều tra vụ án, trong đó có ghi chép câu chuyện “Giả đầu bếp tìm phỉ trên tuyết”, kể về chuyên cao thủ Công môn rắc tàn tro trên tuyết làm dấu để chỉ đường truy sát giặc cướp.

* Có nghĩa là tập bản vẽ về các phương pháp tìm kiếm tung tích. (Nd)

Lỗ Nhất Khí đột nhiên cảm thấy mình đã sơ suất một điều, Nhậm Hoả Cuồng là một nhân vật nổi tiếng trong giang hồ, Quỷ Nhãn Tam và lão mù tuy có nghe danh song trước đó chưa từng gặp mặt ông ta; còn Phó Lợi Khai và anh em họ Tùng tuy có quen ông ta, song lại không hề biết đến danh tiếng của Nhậm Hoả Cuồng. Tức là ông thợ rèn đi cùng đường với họ liệu có phải là viên thợ rèn Quan Ngoại nức tiếng giang hồ thực sự hay không, ở đây không ai có thể khẳng định, cũng không có bất cứ bằng chứng nào có thể chứng minh.

- Tiếp tục nhìn kỹ, xem có phải là cố ý rắc tro hay không! – Lỗ Nhất Khí nói nhỏ với Quỷ Nhãn Tam. Cậu cần phải thận trọng, bởi rất có thể tàn tro chỉ rơi xuống một cách ngẫu nhiên. Và thế là Quỷ Nhãn Tam lại từ từ tụt lại, đi phía sau Nhậm Hoả Cuồng.

Hai bên khe Gấu Đen cây cối rậm rạp ken dày, dưới khe không thấy ánh mặt trời, tối như bưng. Địa hình dưới khe lại phức tạp rối rắm, vô cùng nguy hiểm, giống như một khảm diện thiên nhiên khổng lồ. Đây hẳn là một địa điểm tuyệt vời cho việc tập kích, thậm chí không cần dùng tới nhân khảm vây giết, chỉ cần bố trí vài nút lẫy sống hay chết, đã có thể tiêu diệt toàn bộ những người đang dò dẫm dưới khe.

Lỗ Nhất Khí đã bắt đầu hối hận, càng đi cậu lại càng cảm thấy lo lắng bất an. Đặc biệt là sau khi Quỷ Nhãn Tam phát hiện ra Nhậm Hoả Cuồng rắc tàn tro chỉ lối, cậu càng cảm thấy quyết định vượt khe của mình có phần thiếu suy nghĩ.

Nhưng nỗi lo lắng của cậu đã không phải kéo dài quá lâu. Họ đã đi dưới khe núi tối om om được chừng một canh giờ, Phó Lợi Khai dừng lại trước một ngã ba để quan sát và xác định phương hướng, sau đó ngoảnh đầu lại hớn hở nói:

- Sắp ra được rồi!

Đoạn dẫn ra phía ngoài của khe Gấu Đen rất hẹp, nằm lọt thỏm giữa hai vách đá. Hai vách đá không quá dốc, bên trên trụi lủi không một bụi cây, mặt đá trơn bóng, băng tuyết phủ dày.

Lỗ Nhất Khí chui ra khỏi vùng tối đen, ánh mặt trời đột ngột ập đến khiến cậu loá mắt. Tuy lúc này mặt trời đã ngả về tây, ánh nắng không quá chói chang, song cậu vẫn phải nheo mắt một lúc mới có thể thích ứng để nhìn rõ tình hình phía trước.

Và tình huống đáng sợ đã xuất hiện! Lối ra của khe núi đã bị phong kín.

Mặt trời hoàng hôn phủ ánh hồng rực rỡ trên một đống gỗ tròn, súc nào súc nấy to bằng miệng bát. Gỗ tròn khác với gỗ thô. Gỗ thô là những thân cây đã được đẵn hạ và cắt bỏ cành lá gốc rễ, còn gỗ tròn là gỗ thô đã qua gia công cắt gọt, bóc bỏ lớp vỏ, bề mặt nhẵn nhụi hơn, quy cách cũng đồng đều hơn.

Đám gỗ tròn phong kín cửa khe không nhiều lắm, chỉ khoảng hơn hai chục súc, song chúng được chồng xếp một cách vô cùng lộn xộn, súc thì dựng thẳng trên đất, súc thì gác ở bên trên, lại có súc cắm ngang hoặc xiên chéo vào đống gỗ. Hơn nữa, chúng không có điểm cố định vào vách đá, mà hoàn toàn dựa dẫm vào nhau, xếp thành một đống cheo leo hờ hững. Khe hở giữa các súc gỗ với nhau và với vách núi rất lớn, khổ người gày gò như lão mù có thể dễ dàng lách qua mà đi.

Nếu chỉ đơn giản là một đống gỗ như thế, thì khó lòng giữ chân đám Lỗ Nhất Khí trong khe núi. Nhưng trên đỉnh đống gỗ ngả nghiêng chực sập, còn chồng chất vô số tảng đá ngoại cỡ, tổng cộng phải tới mấy nghìn cân.

Toàn cảnh trông vô cùng hoành tráng, lại xảo diệu vô cùng. Một đám gỗ tròn xiêu vẹo chất chồng rối loạn lên nhau, không đổ sập đã là sự lạ lắm rồi, vậy mà còn cõng trên mình hàng nghìn cân đá tảng, quả là khó tưởng tượng hết sức.

Đây là một khảm diện! Lỗ Nhất Khí đang hối hả lục soát trong trí nhớ. Trong “Cơ xảo tập” hình như có một vài nguyên lý tương tự với khảm diện này, song quá sâu xa, bản thân cậu cũng chưa hiểu nổi. Trong “Ban kinh”cũng có chép về phương pháp tương tự, song đều là những kỹ thuật ứng dụng trong bắc cầu dựng gác, nên không hề có phương pháp phá giải.

Cậu lại sực nhớ tới một bộ sách được lưu truyền trong thời Tiền Tần có tên “Binh cụ bách kế”*, trong đó có ghi chép về một loại vũ khí giữ thành cổ xưa tên gọi “giá gỗ ném đá”. Trong “giá gỗ ném đá” có một súc gỗ có thể di chuyển, nếu súc gỗ này chuyển động, toàn bộ các khớp chống của giá gỗ sẽ lỏng ra, giống với nguyên lý của cơ cấu bốn khâu bản lề** trong máy móc hiện đại. Loại giá gỗ này có thể đưa đá tảng hoặc dầu nóng nhô ra bên ngoài tường thành một đoạn, sau đó di chuyển một súc gỗ, khiến toàn bộ các khớp chống sập xuống những thứ chất trên giá sẽ rơi cả xuống dưới thành, tiêu diệt quân tấn công thành trong phạm vi rộng, hiệu quả lớn hơn rất nhiều so với cách trực tiếp quăng gạch đá và đổ dầu nóng từ trên tường thành xuống.

* Chưa có bằng chứng xác thực chứng minh về sự tồn tại của cuốn sách này, nó chỉ được đề cập hai lần trong sách dạy học do giảng võ đường Giang Nam biên soạn trong đời Thanh, có viết rằng trong cuốn sách ghi chép về một số máy móc dùng trong phòng thủ tấn công của binh gia thời cổ. Giá gỗ ném đá thực chất không được ghi chép trong cuốn sách này, mà đó là một thiết kế dùng để giữ thành cổ xưa của các nước phương Tây. Tác giả đã mượn thiết kế này để đưa vào trong truyện.

** Thiết bị chống đỡ và xếp dỡ đơn giản nhất, là một hình thái kết cấu được vận dụng phổ biến nhất, thiết thực nhất trong kết cấu của máy móc hiện đại. Nhưng đây cũng là một loại thiết kế vô cùng chuyên nghiệp, giải thích cụ thể về nguyên lý của nó tương đối phức tạp, trong các sách giáo trình về máy móc hiện đại đều có nội dung giải thích chuyên sâu về kiểu kết cấu này.

Kỳ thực khảm diện này có tên là “xếp gỗ chồng đá”, hay còn gọi là “xếp giếng phóng đá”, nguyên lý của nó còn kỳ diệu hơn nhiều so với “giá gỗ ném đá”, rất có thể “giá gỗ ném đá” đã mô phỏng theo nguyên lý này.

Lỗ Nhất Khí đi tới gần đống gỗ, quan sát kỹ lưỡng cách thức chồng xếp của những súc gỗ, đặc biệt là những súc chống dưới đất. Và kết quả đã khiến cậu phải thất vọng và kinh ngạc.

Tất cả các súc gỗ đều có thể chuyển động, song đều không thể chuyển động. Đúng vậy! Có thể dễ dàng dịch chuyển bất kỳ một súc gỗ nào, thế nhưng chỉ cần một súc gỗ bị dịch chuyển, cả đống gỗ sẽ đổ sập ngay xuống, kéo theo nghìn cân đá tảng chồng chất bên trên. Tuy khe hở giữa các súc gỗ rất rộng, song cách bố trí lại giảo hoạt dị thường. Sau khi lách qua mỗi khe hở, cần lập tức chuyển hướng mới có thể tiếp tục lách lên. Đừng nói là lão mù, mà ngay cả một đứa trẻ gầy gò nếu muốn đổi hướng trong những khe hở như thế này, chắc chắn sẽ phải chạm vào súc gỗ ở một bên. Đương nhiên, bất kể là cú chạm mạnh hay khẽ, kết quả vẫn là gỗ đổ đá đè.

Nhìn vào thần thái của Lỗ Nhất Khí, Thuỷ Băng Hoa cũng đã nhận ra mối nguy hiểm lớn lao trước mắt, bèn an ủi mà nói:

- Đừng lo, chúng ta vẫn có thể vòng sang bên vách núi trèo qua.

Chẳng ai thèm tiếp lời, bởi suy nghĩ đó quá ư ngờ nghệch, họ thấy chẳng cần thiết phải phí lời qua lại với cô ta.

Chỉ có Lỗ Nhất Khí cười gượng gạo mà nói:

- Khảm diện đã bày, chỗ không có đường chính là đường chết. Đống gỗ đá này chắc chắn có cách giải, chỉ có điều chúng ta chưa thể biết được. Nếu không giải được, vẫn có thể rút lui để bảo toàn tính mạng, hoặc dựa vào may mắn và kinh nghiệm để đánh liều phá vỡ nó đi, đây là con đường sống chết ngang cơ. Nhưng nếu cố tìm một lối khác bên ngoài đường đi, chắc chắn sẽ phải đụng đầu với khảm khấu không chết không dừng.

- Cái gì cơ? Đó là cục tướng sắp xếp, khảm diện liên hoàn mới có hậu quả như vậy. Nếu muốn lợi dụng môi trường thiên nhiên để làm ra cái gọi là “chỗ không có đường chính là đường chết” tuyệt đối không dễ dàng như tưởng tượng, hoặc là phải chọn được địa hình kỳ diệu phù hợp, hoặc là phải bỏ công sức xây dựng tu tạo trong rất nhiều năm! – Thuỷ Băng Hoa khẽ cười mà nói.

Lời vừa thốt ra, tất cả mọi người đều kinh ngạc đến sững sờ. Cứ tưởng cô ta ngờ nghệch chẳng biết gì, nào ngờ cô ta lại thông thạo nguyên lý bố cục khảm diện đến thế, kiến giải lại độc đáo khác người.

Phó Lợi Khai nãy giờ ngồi thu lu một góc như thể sợ người khác chú ý tới mình, lúc này cũng lên tiếng:

- Nơi khác có lẽ là khó khăn, nhưng ở đây lại rất dễ dàng. Mọi người có nhìn thấy đám tuyết đọng ở hai bên vách đá không? Chỉ cần đào một cái hố đạp lở* trên sườn phía dưới hai vách đá, hoặc chôn những thứ đại loại như địa lôi lẫy giẫm, hoả pháo giật dây trên vách, thì khi băng ngang qua, chỉ cần một nút lẫy động, lập tức tuyết lở vách sập, tất cả đều đi đứt!

* Tức chỉ cần giẫm chân lên, đất đá, tuyết đọng sẽ đổ sập xuống.

Không ai nói lời nào, bởi lẽ họ đều hiểu một khi tuyết lở đá lăn, hậu quả sẽ khủng khiếp đến đâu. Bầu không khí nặng nề kéo dài rất lâu, cho tới khi ánh tà dương đỏ máu ngả sang màu lam nhợt.

Đột nhiên, từ phía sâu xa trong khe Gấu Đen vọng đến những tiếng gầm ngắn mà dữ dội, văng vẳng trong khe núi liên hồi không dứt, khiến vách đá cũng ong ong rung chuyển. Tiếng gầm còn chưa kịp dứt, tiếng chim ưng gào rít đã lướt ngang đỉnh đầu.

- Tiếng gì vậy? Nghe có vẻ giống tiếng gấu gầm! – Vẻ mặt của Nhậm Hoả Cuồng rất đỗi băn khoăn – Nhưng mùa này thì làm gì có gấu? Nếu đúng là có, thì đêm hôm trước Phó Lợi Khai hẳn đã không nhìn lầm!

- Có phải gấu hay không thì chưa biết, nhưng tiếng rít kia chắc chắn là của chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch! – Lão mù mặt mũi đã tái nhợt tự lúc nào. Lão biết, loài chim này đã xuất hiện, thế nào cũng sẽ kèm theo mũi tên ống sáo không lông vũ. Đối thủ đã đuổi sát đến nơi, giờ đây họ đã lâm vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan.

Quỷ Nhãn Tam cũng biết chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch sẽ mang đến thứ gì, song hắn cũng đã hết cách. Hắn vốn dĩ định đào một đường hầm ở bên cạnh hoặc phía dưới đống gỗ, song sau khi sờ soạng một hồi, liền phát hiện ra bên dưới là đá núi nguyên khối, rất khó đục thủng, hơn nữa bản thân cũng không có dụng cụ thích hợp. Cuốc mỏ hạc và xẻng lưỡi cày đều đã rơi rụng trong tứ hợp viện Bắc Bình cả rồi.

Lỗ Nhất Khí mặt mũi đăm chiêu. Tình thế trước mắt thực vô cùng bất lợi, phía trước có khảm diện cản đường, phía sau có đối thủ truy sát. Giải khảm diện đương nhiên không dễ, song muốn quay trở lại vượt qua khe núi e rằng còn khó khăn hơn.

- Khảm diện của đối phương dựa vào hình mà bố trí như vậy, liệu chúng ta có thể biến hình để phá hay không? – Lời của Thuỷ Băng Hoa trong tai Lỗ Nhất Khí khác nào một tia chớp rạch ngang trời, lập tức đả thông suy nghĩ đang bế tắc của Lỗ Nhất Khí.

- Để tôi nghĩ xem! Để tôi nghĩ thêm đã!

Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm như tự nói với mình, rồi tiến sát tới bên đống gỗ đá cheo leo, ngồi xếp bằng trên mặt đất, nheo mắt quan sát kết cấu phức tạp của đống gỗ tròn.

Trời đã sẩm tối, muốn quan sát kỹ lưỡng quả thực không dễ dàng. Lỗ Nhất Khí bèn dứt khoát nhắm hẳn mắt lại, không ai biết cậu đang làm gì, cũng không ai dám quấy rầy cậu. Không hiểu tại sao, phong thái của cậu càng điềm tĩnh, càng khiến mọi người cảm thấy bị trấn áp.

Lỗ Nhất Khí đang chắp nối lại tất cả những gì cậu đã biết trong “Cơ xảo tập” và “Ban kinh”, lần lượt đối chiếu kỹ lưỡng những lý thuyết đó với bố cục của đống gỗ trước mặt. Trong trí não cậu dường như đang diễn ra một ván cờ, và các quân cờ chính là hơn hai chục súc gỗ ngả nghiêng đang chống đỡ những tảng đá khổng lồ. Cách thức sắp xếp của các súc gỗ đang được điều chỉnh, đang được hoán đổi một cách chóng vánh trong não bộ. Cậu tính toán đến tất cả những khả năng sắp xếp nhiều nhất có thể. Tính toán càng nhiều phương án, sẽ càng nâng cao được tỷ lệ thành công; sau cùng sẽ chỉ chọn được một phương án khả thi duy nhất, và đó nhất thiết phải là phương án mà đối thủ không thể ngờ tới.

Lỗ Nhất Khí đột ngột mở choàng hai mắt, nói:

- Chúng ta sẽ đi ra từ đây!

Đôi mắt cậu bừng lên ánh tinh quang rực rỡ, khiến hững người đang đổ dồn ánh mắt về phía cậu chợt chấn động trong lòng.

- Tôi cần ba người để làm việc này. Chưa thực chắc chắn mười phần, rất nguy hiểm, không chừng sẽ bị gỗ đá đè chết! – Lỗ Nhất Khí nói, vẻ mặt vô cùng nghiêm trọng.
 
Quyển 3 - Chương 15: Người khó nhận


Cần ba người. Đàn bà chắc chắn sẽ bị loại, nên còn lại sáu người nữa. Lỗ Nhất Khí lại loại tiếp một người nữa:

- Chú Hạ cũng không được, nói ra chú đừng giận, vì chú không thể nhìn ra khe hở! – Khi nói những lời này, Lỗ Nhất Khí có phần áy náy, khơi ra khuyết điểm của người khác là một việc không hề dễ chịu đối với bản thân và cả đối phương.

Song lão mù lại không hề bận tâm:

- May quá, ta đang sợ sự việc hệ trọng này sẽ khiến ta phải khó xử.

Những người khác đưa mắt nhìn nhau. Quỷ Nhãn Tam lên tiếng trước tiên:

- Để tôi!

Vẻ mặt thiếu tự nhiên của Phó Lợi Khai thoắt đổi sắc, không rõ là đang gượng cười tỏ vẻ yêng hùng, hay đang khổ sở khi phải đưa ra quyết định cuối cùng:

- Tôi nữa!

- Cả tôi nữa! – Tùng Đắc Kim bước dần lên mà nói.

Lỗ Nhất Khí cười mà nói:

- Hai người bọn họ và tôi nữa là đủ rồi, sức lực của anh quá mạnh, chẳng may lực đạo không đồng đều, động chạm đến cột chống thì coi như hỏng bét.

- Vậy thì để tôi! Ba người chúng tôi hành động có lẽ sẽ ổn thoả hơn, hơn nữa cậu đứng bên cạnh có thể quan sát được rõ ràng, nếu có biến cố gì, còn có thể kịp thời nhắc nhở chúng tôi! – Nhậm Hoả Cuồng vừa nói vừa quăng gánh rèn xuống, bước lên phía trước.

“Nếu có biến cố gì, còn có thể kịp thời nhắc nhở”, Lỗ Nhất Khí biết, nếu như phương pháp của cậu không thành công, hoặc trong quá trình thực hiện có gì sơ suất, sẽ không còn cơ hội để nhắc nhở, ba người kia không chết cũng phải trọng thương.

Tiếng gấu gầm, tiếng chim ưng rít lại dội lên phía sau lưng, đối thủ đang nhanh chóng áp sát.

- Lỗ môn trưởng, bắt đầu thôi! Cậu nói đi, phải làm gì?

Lời nói của Nhậm Hoả Cuồng mang vẻ hào sảng của một hán tử không màng sống chết.

Lỗ Nhất Khí chỉ vào một súc gỗ tròn đâm ngang vào đống gỗ, nói với Nhậm Hoả Cuồng:

- Chú hãy nắm lấy súc gỗ kia, khi nào tôi đếm đến “một” chú hãy rút nó ra, cầm ở trên tay!

Sau đó chỉ vào một súc gỗ xiên chéo, nói với Phó Lợi Khai:

- Anh Phó, sau khi chú Nhậm rút súc gỗ kia ra, tôi sẽ đếm đến “hai”, anh hãy lập tức đẩy khúc gỗ này vào bên trong một thước hai.

Rồi quay sang Quỷ Nhãn Tam, nói:

- Anh Tam, anh hãy cầm sẵn súc gỗ này, khi anh Phó đẩy xong súc gỗ, tôi sẽ đếm đến “ba”, anh hãy rút súc gỗ này ra!

Quỷ Nhãn Tam chăm chú lắng nghe lời căn dặn của Lỗ Nhất Khí, hai tay lập tức nắm chặt lấy súc gỗ.

- Sau khi anh Tam rút súc gỗ này ra, ở đây sẽ xuất hiện một lỗ hổng xiên chéo xuống phía dưới. Tôi đếm đến “bốn”, chú Nhậm lập tức cắm ngay súc gỗ cầm trong tay xuống đó. Chú Nhậm cắm xong, tôi sẽ đếm đến “năm”, lúc này anh Phó lại rút súc gỗ kia ra phía ngoài hai thước ba, như vậy chỗ chịu áp lực phía bên trái sẽ xuất hiện một lỗ hổng. Tôi đếm đến “sáu”, anh Tam lập tức cắm súc gỗ trong tay qua lỗ hổng từ dưới lên trên, cho tới khi toàn bộ súc gỗ xuyên hẳn vào bên trong, như vậy sẽ đẩy dược súc gỗ cắm thẳng từ trên xuống ra xa một thước sáu.

- Đây là kỹ pháp “trộm xà đổi trụ” phải không? Lỗ Nhất Khí vừa dứt lời, Phó Lợi Khai buột miệng hỏi

- Tôi cũng không rõ, tôi chỉ biết nguyên lý của phương pháp này xuất phát từ “thay số đổi hình”*, có lẽ giống với thuật “trộm xà đổi trụ” mà anh vừa nói! – Lỗ Nhất Khí thuận miệng trả lời, nhưng ngay lập tức cậu cảm thấy bất ổn, lập tức đưa mắt nhìn sững vào Phó Lợi Khai. Đúng vậy, “trộm xà đổi trụ” là một kỹ pháp chép trong “Ban kinh”, nhưng chẳng phải gã lái gỗ kia đã nói gã không biết chữ, chưa từng đọc qua “Ban kinh“ hay sao? Vậy tại sao gã lại biết được tên gọi của kỹ pháp này?

* Phương pháp này xuất hiện sớm nhất vào đầu đời Đường, chính là một kỹ thuật dùng để thay đổi kết cấu. Tương truyền kỹ thuật này có liên quan tơi thuật số chiêm tinh của Viên Thiên Cương, nếu muốn thay đổi kết cấu trong đó, cần phải tính toán vô cùng thấu đáo kín kẽ. Là kỹ nghệ trời ban chép trong “Cơ xảo tập”.

Nhưng Phó Lợi Khai đã quay mặt đi, chỉ cắm đầu nhìn chằm chằm vào sức gỗ trong tay, vẻ mặt thô thiển lúc này có phần căng thẳng, hai con mắt to nhỏ càng lệch lạc đến dị dạng. Gã buộc phải tập trung hết sức, vì trong ba người, nhiệm vụ của gã là nặng nề nhất, không những cần thay đổi vị trí của súc gỗ, mà còn cần đảm bảo đúng yêu cầu về biên độ ra vào.

Sở dĩ Lỗ Nhất Khí quyết định để Phó Lợi Khai đảm đương vị trí trọng yếu nhất, bởi vì không rõ từ khi nào, trong tiềm thức cậu đã xuất hiện một nhận đinh: “Tay lái gỗ này tuyệt đối không hề đơn giản”. Phó Lợi Khai dường như luôn cố ý che giấu điều gì, mà những điều gã che giấu dường như đã lộ liễu ít nhiều kể từ khi bọn họ thay đổi hướng đi. Con đường mà Lỗ Nhất Khí lựa chọn đã dồn gã tới bước không thể tiếp tục né tránh, đẩy gã vào vị trí buộc phải bộc lộ bản lĩnh của mình.

Quá trình “thay số đổi hình” đòi hỏi phải phối hợp hết sức nhịp nhàng, chỉ cần chậm một chút sẽ khiến cả khối gỗ đá theo nhau đổ sập. Từ miệng Lỗ Nhất Khí, sáu con số đã bật ra một lèo, ba cao thủ lập tức răm rắp hành động theo đúng hiệu lệnh của Lỗ Nhất Khí, kiểm soát rất khéo lực đạo và vị trí của các súc gỗ trong tay. Đăc biệt là Phó Lợi Khai, vị trí một thước hai và hai thước ba của gã chính xác tới từng ly từng lai, thật không hiểu tại sao gã có thể làm được như vậy.

Đá tảng vẫn ở phía trên đống gỗ, đống gỗ vẫn chồng chất cheo leo ở đó, song ở giữa đống gỗ đã xuất hiện một chỗ khuyết, đủ cho một người thoải mái vào ra.

“Kẻ ngốc xem náo nhiệt, cao thủ xem tay nghề”, đây là một câu ngạn ngữ trong giới Khảm tử. Bởi vậy, chứng kiến sự biến đổi sau khi thực hiện “thay số đổi hình”, có một kẻ đã kinh ngạc đến há hốc miệng mồm, mặt đờ cổ vẹo, là ai vậy? Chính là Phó Lợi Khai! Gã hết tiến lại lùi, hết quỳ lại đứng, xem đi xem lại đống gỗ đến mấy lần. Phương pháp mà Lỗ Nhất Khí vừa sử dụng quả thực cao siêu hơn kỹ pháp “trộm xà đổi trụ” không biết bao nhiêu lần mà kể. Với khảm diện này, nếu dùng phương pháp “trộm xà đổi trụ” để hoá giải, không những phải lợi dụng dịa hình xung quanh, mà còn cần thêm nhiều vật liệu khác, và khó khăn nhất là những vật liệu đưa vào không được đụng chạm tới những lỗ hổng được mở

- Đường đi có đúng không? – Lỗ Nhất Khí hỏi một cách thản nhiên như thể tiện miệng chuyện phiếm.

Phó Lợi Khai không ngờ Lỗ Nhất Khí chỉ hỏi một câu như thế. Gã bật cười, điệu cười khiến bộ mặt của gã càng méo mó thảm hại – Cậu yên tâm, cái này thì tôi chắc chắn! – Nói tới đây, gã liền dừng lại, xem ra gã đang muốn khơi gợi sự tò mò của Lỗ Nhất Khí, sau đó tha hồ mà một tấc đến trời.

Lỗ Nhất Khí không nói lời nào, vẫn nhìn gã chăm chú, đôi mắt như mặt băng đang tan chảy, lấp lánh những tia sáng rất khó thăm dò.

Anh mắt của Lỗ Nhất Khí khiến gã hơi chợn rợn, mất hết cả ý định khoe khoang khoác lác ban đầu, bất giác thành thực một cách không điều kiện:

- Tôi phán đoán dựa vào mùi vị. Mỗi loại gỗ đều có mùi vị đặc trưng, đặc biệt khi chúng là cả một rừng cây thì mùi vị đó càng đậm đặc. Như gỗ thông đen có vị chát; gỗ du có hương thơm của đại mạch; gỗ sồi lá rộng có mùi vị giống như thịt bò luộc. Tôi vừa ngửi thấy mùi gỗ sam đỏ nên đã xác định được phương hướng. Cậu thử ngửi mà xem, có giống mùi rượu lên men không? Từ đây tới đường mòn Sam Đỏ không còn bao xa nữa, băng qua sườn núi này coi như sắp tới nơi.

Lỗ Nhất Khí phập phồng cánh mũi, hít hít ngửi ngửi một hồi, song chẳng thấy có mùi gì. Cậu mỉm cười tự chế giễu bản thân, nhủ thầm trong bụng, đây là công phu không thể luyện trong một sớm một chiều.

- Nếu không phải là một rừng cây, mà chỉ là một gốc cây, một cành cây, thậm chí là vài chiếc lá rụng dưới đất, ngươi có ngửi ra không? – Nhậm Hỏa Cuồng đang đi sau Phó Lợi Khai bỗng lên tiếng hỏi, thì ra ông ta đã nghe thấy lời của Phó Lợi Khai.

- Lão thợ rèn chết tiệt, lão nghĩ tôi là thú vật à? Kiểu đấy thì chỉ có loài thú mới ngửi ra được!

- Ai biết ngươi có phải là thú vật đầu thai hay không! Hôm trước trong thị trấn, khi khói lửa bốc lên, ta dám chắc đến tám phần là do ngươi đánh hơi tìm đường đưa bọn ta chạy thoát! – Nhậm Hỏa Cuồng không hề nói đùa, bởi lẽ bản thân ông đặc biệt mẫn cảm với mùi khói lửa.

- Lão Nhậm, lão già quá đâm lú phỏng? Nhà cửa trong thị trấn đầu năm cuối năm đã thay đổi cả lượt, đường đi lối lại mỗi năm mỗi khác, năm nay tôi còn chưa kịp thông thuộc đường đi ở đấy. Hôm đó nếu không nhờ vào mấy đống gỗ phỉ lá nhỏ mà thôi vừa thu mua, e rằng đã chết cháy cả nút rồi! – Gã lái gỗ nói đến đây, vẻ mặt rõ là dương dương tự đắc, nước bọt bắn ra như mưa qua khóe miệng méo lệch:

- Bình thường mùi vi của gỗ phỉ lá nhỏ rất nhạt, mấy đống gỗ nhỏ xếp lẫn lộn vào các loại củi gỗ khác khó mà ngửi ra mùi. Nhưng nếu gỗ phỉ bắt lửa, sẽ tỏa ra mùi giống như hong phân trâu. Hơn nữa loại gỗ này phơi nắng sẽ biến dạng, nên người ta thường không dùng nó làm đồ gia dụng, lại càng không chọn nó làm củi để sưởi ấm trong mùa đông. Chỉ có mình tôi dám mua chúng, dự tính năm sau tìm mấy kẻ gà mờ từ phương nam tới, nói dối là gỗ phỉ loan văn rồi bán với giá hời. Vị trí xếp gỗ đều do tôi chỉ định, từ cổng trấn tới chợ có tới mấy đống, tôi đã ngửi mùi toả ra từ mấy đống gỗ đó mà thoát khỏi thị trấn.

Quả là cao thủ trong nghề, dù lĩnh vực nào, chỉ cần chịu khó động não động lực, cần cù luyện tập, chắc chắn sẽ trở thành cao thủ. Có lẽ mọi đặc trưng, tính chất mùi vị của tất cả những loại gỗ quý hiếm trong cánh rừng già Quan Ngoại này, Phó Lợi Khai đều thông thuộc đến nằm lòng.

- Anh Phó, anh võ thuật cao cường, kiến thức lại uyên thâm. Trong nghề lái gỗ hẳn anh là số một! – Lỗ Nhất Khí tán dương Phó Lợi Khai một cách thật lòng, song cậu cũng hy vọng gã có thể thuận đà nói tiếp, để khai thác thêm những bí mật còn chưa biết.

Phó Lợi Khai cười ngượng nghịu, bộ mặt càng méo vẹo đến mức có phần quái đản. Gã thừa thông minh để hiểu Lỗ Nhất Khí muốn gì, tuy nhiên…

Phó Lợi Khai kéo Lỗ Nhất Khí sang một bên, động tác có phần lộ liễu, rồi ghé sát vào tai cậu thì thầm:

- Tôi biết cậu muốn hỏi gì, song giờ chưa nói được. Nếu không, tôi sẽ giống như con mụ béo kia…

Khi Phó Lợi Khai kéo Lỗ Nhất Khí sang một bên, những người khác đều dừng cả lại, đổ dồn ánh mắt về phía hai con người đang thậm thà thậm thụt. Nhìn vào phản ứng của họ, Lỗ Nhất Khí hiểu ngay rằng tất cả mọi người đều đang chăm chú theo dõi câu chuyện giữa cậu và tay lái gỗ. Hơn nữa, hành động lộ liễu của Phó Lợi Khai rõ ràng có một dụng ý khác. Khi gã ghé miệng thì thào với cậu, đôi mắt to nhỏ của gã loé lên những tia sắc nhọn và gian xảo, chớp mắt đã thâu tóm toàn bộ hành động và sắc mặt của những người còn lại.

Lỗ Nhất Khí vốn dĩ định đi lên phía trước, song khi ngang qua lão mù, liền bị lão lôi giật lại. Nhưng lão không nói gì, đợi đến khi tiếng bước chân của mọi người đã cách xa khoảng hơn chục bước, lão mới nói nhỏ vào tai Lỗ Nhất Khí:

- Cậu cả, chú ý cô ả kia! Bước chân của cô ả có tiếng vật cứng, có vẻ giống như chiêu “đế sắt lưu dấu” trong giang hồ. Tức là giấu thiết bị cứng dưới đế giày, trực tiếp lưu lại vết hằn trên đất đá, dù tuyết đã bị cào bằng, người đuổi theo phía sau chỉ cần gạt bỏ lớp tuyết, vẫn tìm ra dấu vết!

Lỗ Nhất Khí im lặng hồi lâu không nói gì, lão mù lại tiếp:

- Tay họ Phó kia rất kỳ quặc, có lẽ là cao thủ lão luyện, song dường như đang che giấu điều gì.

- Đúng vậy! – Lỗ Nhất Khí đã dứt ra khỏi dòng suy nghĩ. Lão mù đã nhắc tới Phó Lợi Khai, cũng vừa lúc cậu đang muốn tìm một người giúp cậu phán đoán về con người đó. Cậu hạ giọng thật thấp mà nói – Gã Phó Lợi Khai kia, quả thực tôi không thể hiểu nổi. Có lúc gã rất giống một cao thủ, thận trọng và chu đáo; có lúc lại như một kẻ thô tục tham lam háo sắc. Bản lĩnh của gã rõ ràng là chiêu pháp của Lỗ gia, song lại không thừa nhân mình là đệ tử của Ban môn.

- Không! Theo tôi, gã rõ ràng là một cao thủ, tham lam chỉ là ngụy trang, còn háo sắc thì tôi không nhìn ra, có lẽ tôi mù nên không nhận thấy chăng? Còn cậu cả cậu có nhìn thấy không? – Lão mù nói thật khẽ, song không giấu vẻ sốt sắng.

- Tôi ư? – Lỗ Nhất Khí ngẫm nghĩ kỹ lưỡng một hồi những chuyện đã xảy ra, quả thực không có bằng chứng nào cho thấy Phó Lợi Khai là kẻ tham lam, mà đó chỉ là suy đoán thông qua lời lẽ của gã mà thôi. Cậu bèn nói – Chú Hạ, hôm trước khi chạy khỏi Kim gia trại, gã đã kéo một người đàn bà chạy cùng, nhất quyết không chịu bỏ lại! – Mỗi lần nhớ tới chuyện này, Lỗ Nhất Khí lại cảm thấy tay lái gỗ này vừa đáng giận lại vừa nực cười.

- Vậy ả ta đâu? – Lão mù hỏi.

- Chết rồi! Bị bắn chết rồi!

- Hừm, là “khiên di động”. Chiêu pháp này được dùng sớm nhất trong phái Bắt thú ở Quan Ngoại, về sau đám thổ phỉ Quan Ngoại thường sử dụng chiêu trò này để chạy trốn. Khi vây bắt thú hoang, phái Bắt thú đều mang theo một động vật nhỏ. Nếu phát hiện con thú quá lớn, bắt không bắt được, chạy không chạy được, sẽ thả vật sống kia ra làm mồi nhử thú lớn chạy đi. về sau mới phát triển thành trò bắt cóc con tin mang theo khi chạy trốn kẻ địch, để đánh lạc hướng truy đuổi của địch thủ, cũng có thể dùng làm khiên chắn đòn.

Nghe lão mù nói vậy, Lỗ Nhất Khí chỉ biết than thầm bản thân hiểu biết quá hẹp hòi, những kỹ xảo trong giang hồ kiểu này thực không dễ tìm thấy trong sách vở.

- Chú Hạ, nhưng hình như gã rất quan tâm tới tôi. Đêm đó mọi người đều biến mất, sau đó lại đột nhiên xuất hiện, phản ứng đầu tiên của gã chính là giơ ngang lưỡi cưa che chắn cho tôi, chẳng ngó ngàng gì đến bản thân! – Lỗ Nhất Khí vẫn mặc định Phó Lợi Khai là đệ tử của Ban môn, nên lời lẽ cũng có ý bênh vực ít nhiều.

- Đúng là trò mèo! Gã làm như vậy không phải để bảo vệ cậu. Nếu thực sự gặp nguy hiểm, hành động đó của gã sẽ mách bảo với sát thủ rằng, cậu mới thực sự là nhân vật trọng yếu, mực tiêu tấn công nên nhắm vào cậu!

- Lão mù càng nói càng giận dữ, nước bọt bắn cả ra ngoài.

Lỗ Nhất Khí ngẩn ra, chẳng biết nói gì.

- Hai người còn rì rà rì rầm gì thế? Mau lên, sắp tới đỉnh rồi! – Thuỷ Băng Hoa đi trước bỗng lên tiếng gọi, giọng nhí nhảnh hân hoan như thiếu nữ.

- Ôi! Không đi vòng qua đỉnh ư? – Lão mù khựng lại, không hiểu tại sao vừa rồi lão không phát hiện ra sai lầm này. Không biết là vì lớp tuyết dưới chân quá dày khiến lão không cảm thấy độ dốc của sườn núi, hay do lão đã quá chú ý tới bước chân của Thuỷ Băng Hoa và mải giảng giải cho Lỗ Nhất Khí mà không kịp nhận ra.

Xung quanh đỉnh núi không có cây cối, độ dốc chỉ thoai thoải, là một bãi đất trống giống như chiếc bánh bao khổng lồ, có thể cảm nhận rất rõ ràng bên dưới lớp tuyết dày là vạt cỏ héo. Nghe tiếng gọi của Thuỷ Băng Hoa, những người phía sau vội vàng rảo bước vượt lên.

Quỷ Nhãn Tam là người đầu tiên băng qua đỉnh núi và hắn đã nhìn thấy một mảnh trăng lưỡi liềm lơ lửng bên trên khu rừng đen thẫm, toả ánh sáng lung linh trong trẻo khác thường.

Những người phía sau cũng lục tục kéo lên. Vừa vượt qua đỉnh núi, Phó Lợi Khai đã chỉ tay vào một khu rừng cách đó không xa, cất giọng đầy đắc ý:

- Nhìn kìa! Rừng sam đỏ!

Gió trên đỉnh núi thổi rất mạnh. Trong một đêm thế này, chẳng ai muốn đứng trên đỉnh cao trơ trụi mà hứng gió. Ở đây ngay cả một bụi cây nhỏ để chắn gió cũng không có. Bởi vậy, mọi người đều rụt cổ khoanh tay vội vã bước xuống sườn dốc.

Bắt đầu xuống dốc, bước chân của họ có phần xiêu vẹo, có lẽ là xuống dốc khó đi hơn leo dốc, cũng có lẽ là mỗi người dều có nỗi niềm riêng chất chứa trong lòng. Đặc biệt là lão mù, bước chân của lão không còn nhanh nhẹn như trước, tròng mắt trắng dã đảo chớp liên hồi, cơ thịt trên mặt cũng không ngớt rung giật, miệng liên tục làu bàu:

- Sao lại không di vòng qua sườn nhỉ? Sao lại không đi vòng qua sườn nhỉ?

Đi vòng qua sườn sẽ không phải giáp mặt với đối thủ, cho dù có đụng đầu, thì vẫn có thể lên xuống mà tránh né. Song giờ đây họ đã leo thẳng lên đỉnh, qua đỉnh núi lại là một bãi đất trống trải, nếu ở đây có mai phục, tất cả bọn họ đều sẽ lao đầu vào khảm diện.

Mới đi qua một nửa bãi đất trống, nỗi lo sợ của lão mù đã trở thành hiện thực. Tiếng chim ưng rít chói tai vút đến từ đỉnh núi sau lưng, nhanh chóng lao nhanh xuống theo đường dốc của sườn núi. Dư âm tiếng rít còn chưa dứt, lại có thêm hai tiếng rít tương tự vụt đến từ hai bên trái phải sườn dốc, rồi đan chéo vào nhau trên đỉnh đầu bọn họ, giống như là vẽ một chữ thập giữa không trung.

Trong rừng cây ngay phía dưới bãi đất trống đột ngột bùng lên ba đống lửa.

- Mau lùi lại! – Nhậm Hoả Cuồng vốn đặc biệt nhạy cảm với khói lửa, nên lửa vừa mới bén, ông ta đã trầm giọng kêu lên một tiếng, rồi vội vã quay người lại chạy lên đỉnh núi.

Những người khác còn chưa kịp quay người, Nhậm Hoả Cuồng đã lập tức khựng ngay lại, vì ông ta đã phát hiện ra trên đỉnh núi cũng đã xuất hiện những thứ vô cùng quen mắt, song không phải là lửa.

Những thứ quen thuộc nhất với người thợ rèn nức tiếng vùng Quan Ngoại còn có thể là gì ngoài lửa, với những vật liệu và dụng cụ khác nhau cũng cần độ lửa khác nhau; sắt thép, căn cứ vào từng loại sắt thép để chế ra những vật dụng khác nhau; và một thứ nữa, đó chính là những thành phẩm tuyệt hảo được dụng công chế tạo từ thứ thép thượng đẳng với độ lửa thích hợp.

Thứ đang hiện diện trên đỉnh núi chính là những thành phẩm tuyệt hảo, những món đồ thượng phẩm chế từ thép cực tốt với lưỡi mỏng tang, hình sắc nhọn. Chúng đang ngạo mạn hiển lộ một cách thách thức trên nền tuyết, giống như là hàm răng sắc nhọn của ma quỷ khát máu, song những kẻ đang cầm giữ chúng trông lại mơ hồ không rõ hình thù.
 
Quyển 3 - Chương 16: Bày sát trận


Đến tận khi thế bao vây đã hình thành, Lỗ Nhất Khí mới có một chút cảm giác, dù là chỗ không nhìn thấy phía bên kia rừng cây, hay chỗ phản chiếu ánh trăng thấp thoáng trên đỉnh núi, đều trùng trùng khí sắc, loang loáng hàn quang, khí thế hung hãn như sẵn sàng cắt xương lóc thịt. Nhìn vào cách thức màn nhẫn khí kia đang trập trùng lên xuống, có thể nhận ra những kẻ đang nắm giữ chúng sở hữu sức mạnh hùng hậu vô song và một nội tâm thâm trầm kín kẽ khác thường.

Lỗ Nhất Khí không nhận ra ba đống lửa kia là khảm diện gì, song để bày ra được một trận thế như thế này, vũ khí được dùng hẳn là tên nỏ, kết hợp với đám chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch vừa bay qua, chắc đến tám phần là mũi tên ống sáo không lông vũ.

Lỗ Nhất Khí không quay đầu lại quan sát tình hình trên đỉnh núi, song căn cứ vào phương thức sắp xếp của các luồng nhẫn khí mà cậu cảm giác được, hẳn là đội hình được sắp xếp theo kiểu ba – hai – tám. Nhìn kiểu nhân khảm này, Lỗ Nhất Khí lập tức nghĩ rằng nó được biến hoá từ kiểu “Công tập vi”* trong “Vũ Mục binh pháp”** Có ba người đi đầu tấn công, hai người phía sau tập kích chọc khe, tám người sau cùng xếp thành hình cánh bao vây và đánh bọc sườn. Lỗ Nhất Khí biết cách phá giải khảm diện này, nhưng cũng chính vì biết cách phá giải mà cậu chắc chắn rằng giờ đây đã không thể phá được nữa. Trừ phi tiêu diệt được nhân khảm tại ba đống lửa kia trước, mới có thể quay đầu hợp lực ứng phó với khảm diện Công tập vi.

* Có nghĩa là: tấn công, tập kích, bao vây. (Nd)

** Theo truyền thuyết trong dân gian, đây là cuốn binh pháp do Nhạc Phi biên soạn, song chưa có bằng chứng xác thực. Có ý kiến khác cho rằng đó là tổng kết của người đời sau vể binh pháp của Nhạc Phi. Song cuốn sách này có rất nhiều phiên bản, nội dung của mỗi phiên bản nhìn chung đều không giống nhau, chưa biết được đâu mới là phiên bản chính xác.

Quỷ Nhãn Tam không quay người lại, mà trước tiên bật ngay cây Vũ Kim Cương che chắn quá nửa thân người, sau đó thận trọng quan sát tình hình phía sau ba đống lửa qua mép trên của tán dù. Song hắn không nhìn thấy gì. Con mắt cú đêm của hắn có thể nhìn rõ những thứ tàng ẩn trong đêm tối, song lại không thể nhìn thấy cảnh tượng phía sau đống lửa.

Lỗ Nhất Khí cũng không quay người lại, một tay cầm chắc khẩu pạc hoọc, tay còn lại gỡ khẩu súng trường Mauser trên vai xuống. Khi cây súng trường đã cầm ngang trên tay, cậu liền chuyển khẩu pạc hoọc cho Thuỷ Băng Hoa đang đứng phía sau. Khẩu súng có vẻ hơi quá cỡ so với bàn tay của Thuỷ Băng Hoa, song cô ta rất thông minh, dùng cả hai tay cầm chắc lấy báng súng, chỉ nghe “cạch” một tiếng, chốt an toàn đã mở.

Tiếng bật mở của chốt an toàn khiến Lỗ Nhất Khí giật mình kinh ngạc, cậu nhận ra người phụ nữ kia quả thực không hề đơn giản, cô ta biết sử dụng súng! Cô ta cũng giống như Phó Lợi Khai, đều là kiểu người ẩn thân không lộ.

Song hiện tại không phải là lúc suy xét chuyện này, Lỗ Nhất Khí kéo chốt khoá của cây súng trường, đứng ở bên trái Quỷ Nhãn Tam, hơi lui về sau một chút, để Vũ Kim Cương che chắn cho một phần cơ thể.

Gã lái gỗ thở hắt ra một tiếng rõ to, có phần khoa trương thái quá, không rõ là tiếng thở dài hay đang vận khí. Sau đó, gã quả quyết sải lên vài bước, vượt qua lão mù, đứng ở bên phải Quỷ Nhãn Tam, dựng đứng lưỡi cưa phía trước, tay phải rút ra một cây loan đao với phần lưỡi uốn vào trong, tập trung toàn lực nhìn chằm chằm về phía trước.

Lão mù cũng hành động nhưng trái ngược với Phó Lợi Khai, lão không bước lên phía trước, mà quay người lại đi về phía sau với vẻ mặt vô cùng khổ sở, đứng ở vị trí sau cùng, tay cầm hờ cây gậy, dường như đang nghe ngóng điều gì, cũng giống như đang chờ đợi điều gì. Tùng Đắc Kim đứng cạnh lão mù, hai tay giữ chặt cán rìu, tư thế quyết liệt và tràn đầy sức lực, song đáng tiếc lại không phải chiêu thức tiêu chuẩn của người học võ; nửa như chuẩn bị tấn công, lại nửa như muốn tránh né.

Trong bọn, chỉ có Nhậm Hoả Cuồng là bận rộn. Ông đặt quang gánh xuống, cởi tấm áo khoác da thú ra khỏi một bên vai, chọc mũi dùi sắt vào lò lửa cho than cháy bùng lên, rồi trút hết những món đồ sắt đã hoàn thiện và chưa hoàn thiện từ trong sọt vào lò lửa.

Lò rèn đã cháy bùng lên. Bếp lò tuy bé nhỏ, song không ngờ ngọn lửa bốc lên lại không hề kém thế hơn ba đống lửa phía trước. Một tay ông cầm chiếc kìm gắp than tay còn lại cầm búa rèn sắt, chốc chốc lại nện lên chiếc đe sắt bên cạnh bếp lò.

Tiếng búa rời rạc nện trên đe sắt đã khiến rừng đêm vốn âm u lại càng thêm tĩnh mịch, ngay cả tiếng gió luồn qua ngọn cây cũng bị át đi bởi những tiếng choang choang vang vọng. Củi than trong đống lửa thi thoảng lai nổ bùng lên thành đám khiến cả bọn thót tim.

Lò lửa nhỏ bé của Nhậm Hoả Cuồng càng cháy càng mạnh, tiếng búa nện đe liên tục không dừng, tất cả dường như đang muốn truyền đi một thông tin gì đó.

Không ai hành động. Không ai dám hành động. Không chỉ những người bị bao vây, mà nút sống của khảm diện cũng đều không dám hành động.

Lò lửa đã bùng cháy rất đúng lúc, đối thủ cũng giống như họ, đều không nhìn rõ những người ở phía sau ngọn lửa đang làm gì. Khảm diện Công tập vi chỉ nhìn thấy lão mù và Tùng Đắc Kim, nên không dám hành động. Khảm diện ba đống lửa chỉ nhìn thấy vài người quanh Lỗ Nhất Khí, mà không nhìn thấy những người phía sau ngọn lửa, hơn nữa đằng sau tán dù ẩn giấu thứ gì, họ cũng không nhìn rõ, bởi vậy càng không dám hành động. Lò lửa rừng rực cháy còn có một lợi ích khác, đó là ánh lửa khiến chim ưng trên trời không dám lao xuống tập kích, đồng thời xua tan cảm giác lạnh lẽo, khiến những người đang cận kề cái chết kia thân thủ được hoạt bát hơn.

Trong phong thuỷ học có phái hai mươi tư sơn đầu, nguyên lý của phái phong thuỷ này lấy núi làm gốc, sau đó phân tích kỹ lưỡng từ hình núi, hình sườn dốc, cho tới từng viên đá, gốc cây. Theo lý thuyết của phái này, thì giờ đây đám Lỗ Nhất Khí đang ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, gió thổi nước chảy, không tụ tài, nền móng khó vững chãi. Địa hình này còn được gọi là “nền khổ bại”.

Nếu nói theo binh pháp, địa hình này là nơi lưỡng bại “xông lên như lũ, đánh xuống như thành”. Bước lên một bước chỉ được ba phần, lùi bước về sau không chỗ đặt chân. Ở vào địa hình như vậy, nếu gặp kẻ địch, tốt nhất nên tĩnh lặng chờ đợi đối phương hành động trước, tức là để đối phương đến tấn công mình, đợi đối phương tiến vào phạm vi công kích hiệu quả của mình, sau đó tìm ra kẽ hở để ra đòn quyết định.

Lỗ Nhất Khí đã rất sáng suốt khi quyết định trì hoãn bất động, hy vọng rằng đối thủ sẽ chủ động tấn công trước. Kỳ thực đây cũng là cách vạn bất đắc dĩ trong tình cảnh không còn phương pháp nào khả thi.

Đối thủ cũng rất thông minh, cả hai khảm diện cũng đều bất động. Tình thế trì hoãn kéo dài đã hơn nửa canh giờ mà cả hai bên vẫn không hề có vẻ gì manh động nôn nóng.

Hai bàn chân Lỗ Nhất Khí đã bắt đầu lạnh đến tê dại. Đúng vậy, sức nóng từ lò lửa không thể sưởi ấm được hai bàn chân lún sâu trong tuyết, song cậu hiểu rằng mình buộc phải kiên trì. Không còn cách nào khác để giải quyết được khảm sống trước mặt, chỉ còn cách thi gan cùng đám nút lẫy trong khảm diện, xem cuối cùng ai kiên nhẫn hơn ai, ai để lộ sơ hở trước. Tình hình hiện tại của đối thủ chưa hẳn đã dễ chịu hơn mình, hơn nữa Thuỷ Băng Hoa là phụ nữ còn chưa ca thán lấy nửa lời thì kẻ nam nhi như cậu bất luận thế nào cũng phải trụ vững.

Nửa canh giờ. Một canh giờ. Hai canh giờ. Lẽ nào họ sẽ phải đứng trơ trơ thủ thế như vậy cho đến hết đêm?

- Không thể tiếp tục trì hoãn, phải nghĩ cách thoát thân! Đối phương rất có thể có quân chi viện, nhưng chúng ta thì không! – Thuỷ Băng Hoa chợt lên tiếng, chỉ ra một sự thực rất đỗi hiển nhiên.

Câu nói này khác nào một luồng khí lạnh xuyên thẳng vào não bộ tất cả mọi người. Thuỷ Băng Hoa rất có lý, tình thế đối đầu kéo dài sẽ rất bất lợi cho bọn họ, nhất thiết phải tìm biện pháp để thoát thân.

Lúc này, nội tâm của Lỗ Nhất Khí đang giằng xé dữ dội. Cảm giác! cần phải tìm ra cảm giác! Hai khảm diện trước sau vây ráp đã khiến cậu toàn thân căng thẳng, không thể trở về trạng thái điềm nhiên vô ngã, bởi vậy cậu chỉ cảm nhận được những luồng khí sắc bén lạnh người, mà không thể cảm nhận dược những làn khí khác.

Thuỷ Băng Hoa khẽ tựa bờ vai vào sau lưng Lỗ Nhât Khí. Một niềm dịu dàng ấm áp như tình mẫu tử tan toả dọc sống lưng cậu, tan chảy vào cơ thể, tựa như vòng tay của người mẹ trong mơ, yên ổn và nồng ấm làm sao. Những bó cơ đang căng cứng tựa dây dàn bỗng nhiên chùng xuống, thư thái vô cùng; tinh thần nhanh chóng ngưng tụ, toàn bộ thân thể thanh thản như chan hoà cùng tự nhiên. Lỗ Nhất Khí đã chìm trong trạng thái vô ngã, cậu mơ hồ thấy mình đang bay lên, đang tan chảy vào trong tuyết, vào rừng cây, vào từng viên đá ngọn cỏ, đang hoà mình vào mọi ngóc ngách vi tế của núi rừng. Và đương nhiên, cậu đã nhận ra những gì đang được ẩn giấu phía sau ba đống lửa kia.

Ở đó có ba cây nỏ lớn, được gác lên những thanh gỗ chống trên mặt đất. Song những kẻ đang giữ nỏ có vẻ đang bấn loạn, dường như chúng đang bồn chồn bất an vì một điều gì đó.

Những nút sống của khảm diện Công tập vi trên đỉnh núi vẫn không hề biến đổi, chúng vẫn đang nấp kín trong tuyết, rình đợi thời cơ sẵn sàng xung trận. Tuy nhiên, Lỗ Nhất Khí vẫn cảm thấy lưỡi đao trong tay chúng có một tơ hào run rẩy, khiến cho khí thế của toàn bộ khảm diện không thực bình ổn vững vàng.

Lỗ Nhất Khí từ từ thu cảm giác lại, trong quá trình này cậu đã nảy ra một phương pháp để biến đổi cục diện hiện tại: tất cả cùng chậm rãi tiến về phía trước để bức bách ba tay nỏ, khiến chúng hoặc là phải ra tay trước, hoặc là sẽ phải rút lui. Do hơi thở của chúng không ổn định, nên chắc hẳn ở đây phải có thứ gì khiến chúng kiêng dè.

Song cảm giác còn chưa kịp thu về hoàn toàn, thì từ mé trái của sườn đồi, lại xuất hiện một luồng khí xộc thẳng vào thần kinh của cậu. Đó là một luồng sát khí, tuy không quá hung tàn, song rất mực thâm trầm vững chãi hệt như núi cao, rừng rậm.

Cảm giác của Lỗ Nhất Khí thậm chí không dám tiến sang phía đó, luồng sát khí đã khiến cậu hoảng sợ. Trong khoảnh khắc, cậu cảm thấy mình đang bị người khác bóp nghẹt trong lòng bàn tay.

Quân chi viện của đối phương đã tới!

Một tiếng sói tru rợn óc xé toang rừng đêm tịch mịch. Lại tiếng tru thứ hai, thứ ba… Từ sườn đồi bên trái, loé lên hơn hai chục đốm sáng xanh lục lạnh lẽo.

- Sói! – Tùng Đắc Kim hét toáng lên, giọng điệu tràn đầy khiếp đảm.

- Là sói! Một bầy sói! – Thuỷ Băng Hoa cũng kêu lên, tuy cũng kinh hãi song xem ra ít hơn nhiều so với gã trai cao to lực lưỡng kia.

Nhậm Hoả Cuồng đã dừng gõ búa, nhanh chóng móc từ trong ngực áo ra một chiếc túi da hươu, tháo miệng túi, đổ ra một thứ hình thù kỳ quặc, ném tọt vào bếp lò. Ngọn lửa lập tức bùng lên, bốc cao cả trượng, rồi cứ thế thẳng đứng ở đó, không lay động lấy một ly, tựa như một cột ánh sáng xanh vàng. Lò lửa rừng rực đã nung toàn bộ những món đồ sắt mà ông vừa ném vào thành những khối sắt cháy đỏ. Ông ta dùng kìm gắp ngay ra khỏi lò, đặt lên đe sắt, vung cao búa rèn nện xuống choang choảng, tiết tấu phân minh, lên xuống nhịp nhàng.

Thủ pháp rèn sắt rất đa dạng, thường có nện gõ đập, tán, quăng, kéo, thủ pháp khác nhau sẽ phát ra âm thanh khác nhau. Chỉ nhìn thấy chiếc búa rèn vùn vút như bay múa, tiếng gõ đập bổng trầm như tấu nhạc. Trong tiếng nhạc gấp gáp, những khối sắt đỏ nhanh chóng thành hình, rồi lại bị ném vào trong lò lửa,

Lỗ Nhất Khí không hề cử động, cậu vẫn đứng đó thanh thản điềm nhiên, song cảm giác của cậu đã dịch chuyển tới bên bếp lò. Khác với mọi người, Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy trong cột lửa bất động kia có một khí thế hoạt bát đang nhảy nhót, toả ra những tia sáng vàng đen khác hẳn với ánh lửa. Thứ mà Nhậm Hoả Cuồng vừa cho vào lò liên tục phun ra những hoa lửa li ti chói vàng rực rỡ, phủ đầy trên khối sắt cháy đỏ, khảm lên trên nó một lớp vàng kim lóng lánh.

Đây chính là thiên thạch Kim Cang! Lỗ Nhất Khí đã mau chóng nhớ ra tên gọi của nó.

Trong “Dị vật chí” có chép rằng: “Trên trời rơi xuống đá lạ, khiến núi vỡ sông tràn. Độ cứng của nó không gì sánh nổi, cho vào lửa, lửa bùng dữ dội, phun ánh vàng không dứt, thứ luyện cùng cũng trở nên cứng rắn siêu phàm”.

Lỗ Nhât Khí quả quyêt loại đá lạ này cũng chính là thiên thạch mà cậu đã được học trong trường Tây học, có điều thành phần chất liệu của loại thiên thạch này đặc biệt hơn nhiều.

Nhậm Hoả Cuồng đã ngừng gõ đập, bởi lẽ những khối sắt đỏ trong lò đều đã thành hình, vẻ mặt ông ta trở nên trịnh trọng khác thường, ông gắp thiên thạch Kim Cang khỏi lò, rồi cắn vào ngón giữa bên tay phải. Đầu ngón tay ứa ra một giọt máu lớn đỏ tươi. Ông búng mạnh ngón tay, giọt máu kéo thành một chuỗi hạt đỏ rực, lao vào trong lò.

Không còn thiên thạch Kim Cang, ngọn lửa trong lò mau chóng thu nhỏ lại. Khi chuỗi máu tươi bắn vào trong lò, ngọn lửa lập tức chuyển từ xanh lam sang đỏ rực rỡ. Ánh lửa phản chiếu lên những người đứng đó, khiến toàn thân họ như thể tưới đẫm máu tươi.

- A… a… a…

Nhậm Hoả Cuồng gầm lên một tiếng vang động khắp núi rừng.

- U… u… u…

Bầy sói cũng tru lên một lượt, tiếng tru hoà lẫn vào tiếng gầm của Nhậm Hoả Cuồng, vang vọng không dứt.

Trận trận âm thanh đã phá vỡ hoàn toàn bầu không khí tĩnh lặng của núi rừng. Ngay cả mảnh trăng lưỡi liềm lơ lửng giữa trời cũng như chấn động mà run rẩy.

Người đã hành động, nhanh như chớp xẹt.

Lão mù hành động trước tiên. Lão lao vụt tới một bên của khảm diện Công tập vi, mục tiêu là nhắm vào đầu mút của hàng “vây” tám người. Đây là một vị trí rất thích hợp, nếu “công” và “tập” muốn lao tới cản lão lại, thì mé bên kia của nút “vây” sẽ trực tiếp dối mặt với Tùng Đắc Kim. Như vậy toàn bộ khảm diện sẽ bị kéo giãn, khảm tướng cũng trở nên tán loạn, đặc biệt là uy lực của “công” và “tập” không thể phát huy triệt để.

Kỳ thực lão mù không hề biết cách phá giải Công tập vi. Song năm xưa lão từng là thủ lĩnh băng mã tặc. Khi đội ngựa giao chiến, kỵ nhất là tấn công vào giữa đội ngựa của đối phương, mà thông thường sẽ tấn công vào một đầu của đội ngựa. Góc độ tấn công như thế có thể tiến lui dễ dàng, đánh được thì đánh, không đánh được vẫn có thể nhanh chóng tẩu thoát trước khi bị bao vây.

Khảm diện không hề phản ứng, chúng không thèm đếm xỉa tới lão mù đã bắt đầu hành động, lại càng không để mắt tới Tùng Đắc Kim đang không biết phải hành động ra sao. Thứ khiến chúng sợ hãi chính là người ở phía sau ánh lửa. Không chỉ vì ánh lửa quá đỗi kỳ dị, cũng không chỉ vì tiếng gầm quá đỗi hung hãn, mà là vì khí thế! Ở đó đang bừng bừng một luồng khí thế, khiến chúng bất giác cảm thấy bản thân trở nên nhỏ bé và yếu ớt.

Những nút sống trên đỉnh núi đều là cao thủ kinh qua trăm trận, song trong thời gian gần đây, tâm tư của chúng đã có phần rối loạn. Viện trong viện ở Bắc Bình bị phá, chúng đã tiếp nhận mệnh lệnh truy sát người của Lỗ gia, cướp lại bảo bối đã mất. Song mới có hơn một ngày, nhiệm vụ của chúng đã trở thành theo dõi sát sao người của Lỗ gia. Sau khi tới cánh rừng này, chúng không những phải bám sát đối phương, mà còn phải tìm cách doạ dẫm quấy rối, ngăn cản đối phương tiến bước.

Nhưng đến chiều hôm qua, chúng lại nhận được chỉ thị mới nhất là phải bắt sống toàn bộ. Mệnh lệnh liên tục thay đổi đã khiến chúng cảm thấy mệt mỏi, khó mà thích ứng. Đúng trong lúc hoang mang không biết phải làm gì, thì ba tay nỏ lại mang đến một chỉ thị mới: nếu không bắt sống được, phải tìm cách cầm chân, càng lâu càng tốt, để những đồng môn kịp vượt lên trước có đủ thời gian bố trí khảm diện, và những cao thủ sừng sỏ trong bản phái vượt lên trước dò la. Ý đồ đã rất rõ ràng, trước hết xem phe mình có đủ sức tìm ra ám cấu, khai quật bảo vật hay không. Nếu thực sự hết cách, sẽ thả đám người bên Lỗ gia ra cho họ đi tìm bảo vật, rồi cướp đoạt sau.

Bởi vậy khi nãy chúng chỉ bao vây, không có ý hành động. Công bằng mà nói, giữ chân đơn giản hơn rất nhiều so với bắt sống. Thế nhưng tình hình trước mắt đã trở nên phức tạp, bầy sói đột ngột xuất hiện, đối thủ lại chủ động tấn công, bởi vậy chúng chỉ còn biết thuận thế đánh trả, thực hiện mệnh lệnh bắt sống.

Nhậm Hoả Cuồng đột ngột quăng cả bếp lò về phía đỉnh núi, một lò than cháy và sắt nóng đỏ bay ra tung toé, phủ kín một vùng rộng lớn. Phạm vi đã được tính toán rất kỹ lưỡng, vừa hay chắn ngang con đường bắt buộc phải qua khi khảm diện Công tập vi đánh thẳng từ trên xuống. Than cháy và sắt nóng rừng rực rơi đầy xuống tuyết, hơi nước lập tức bốc lên mù mịt như sương. Than và sắt nóng gặp tuyết tuy giảm bớt nhiệt, song những bàn chân đi giày vẫn không thể trực tiếp giẫm lên, bởi vậy khảm diện muốn bao vây công kích, buộc phải đi vòng, như vậy hình khảm cũng sẽ tan rã.

Khảm diện trên đỉnh núi vừa động, ba cây nỏ lớn trong rừng cũng động theo. Mũi tên cuốn gió lao đi khiến đống lửa dạt sang một phía.

Lỗ Nhất Khí đã cảm nhận được hành động từ hai bên, mà không, còn có thêm một vị trí khác, đó là sát khí từ bầy sói cũng đã động, từ trạng thái thâm trầm bỗng chốc trở nên hoạt bát, vùn vụt lao thẳng tới.

Không hề xuất hiện tiếng gầm rít rền vang của mũi tên ông sáo không lông vũ như dự liệu của Quỷ Nhãn Tam và Lỗ Nhất Khí, mà thay vào đó là một tiếng súng nổ giòn tan, kết thúc bằng một tiếng va chạm và cọ xát đinh tai nhức óc, tựa như đã bắn trúng thứ gì.

Lỗ Nhất Khí vẫn chưa nổ súng, cậu vẫn đang đứng ung dung ở đó, tay nâng cây súng trường một cách thảnh thơi. Bởi vậy cậu đã nhận ra, phát súng được bắn ra từ một lùm cây bên cạnh bầy sói. Phát súng sát khí ngút trời, nhưng không hướng về phía họ, cũng không lao về đống lửa, mà chỉ bắn trúng một thứ đang bay vụt trên không.

Ngay sau đó là phát súng thứ hai. Dư âm chói tai của nó chấm dứt ở vị trí cách Quỷ Nhãn Tam không xa.

Tiếng súng thứ ba càng gần hơn nữa, vì nó phát ra từ tay Lỗ Nhất Khí, đón đường thứ đang vụt đến trong không trung. Cùng lúc đó, Vũ Kim Cương trong tay Quỷ Nhãn Tam bật lên một tiếng “choang” nhức óc, như thể đánh vào chiêng lớn, dội thẳng vào lỗ tai những người xung quanh khiến màng nhĩ long lên như muốn rách.

Sau cú va đập chấn động, lại thêm hai tiếng va chạm khác yếu hơn dội trên tán dù. Quỷ Nhãn Tam đã ngăn cản thành công ba cú tấn công liên tiếp. Lực đạo của ba cú tấn công không quá mạnh, không hề tương xứng với luồng khí vừa thổi dạt cả ba đống lửa.

Rơi phía trước Vũ Kim Cương có ba vật. Vật thứ nhất là một khối thiết lăng* góc cạnh sắc bén, hai bên có hai lưỡi dao sắc nhọn như đuôi én, phía sau rất dày, chính giữa đuôi có một cái máng lõm hình tròn. Trên thiết lăng có hai điểm bị va đập: một lưỡi dao đã mẻ, và trên đỉnh nhọn của phần đuôi én có một vệt lõm. Lỗ Nhất Khí vừa nhìn đã biết hai vết tích này là do đạn bắn vào.

* Thiết lăng tức một khối sắt có nhiều góc cạnh sắc nhọn chĩa ra như củ ấu, thường dùng làm ám khí rải trên đường hoặc bắn, ném đi gây tổn thương cho địch thủ” (Nd)

Lỗ Nhất Khí đã hiểu ra, quân chi viện của đối thủ chưa tới, trong khi phe mình đã bất ngờ gặp được trợ thủ. Luồng sát khí thâm trầm phía bầy sói chính là tới để giúp đỡ họ, thảo nào hơi thở của ba tay nỏ cao thủ có phần rối loạn. Thế nhưng nhân vật phía sau bầy sói kia rốt cục là ai? Tại sao lại muốn giúp đỡ họ?

Vật thứ hai là một mũi tên sắt. Đầu tên, thân tên và đuôi tên đều được chế tạo từ thép ròng. Vật thứ ba còn kỳ quái hơn, là một thanh sắt hơi cong, trên đầu chẽ ra thành hai nhánh nhọn hoắt, giống như một cây đinh ba đơn giản, còn phần đuôi lại được gắn một sợi lông rất đẹp và đúng kiểu.

Đây là thứ gì?

Lỗ Nhất Khí còn chưa kịp quan sát kỹ, ba đống lửa đã bắt đầu một đợt tấn công mới. Mục tiêu nhằm vào phía lùm cây bên sườn đồi. Ba cây nỏ cùng tấn công với tốc độ cực kỳ chóng vánh. Khoảng cách giữa hai đợt tấn công rất ngắn, chỉ đủ cho Lỗ Nhất Khí kịp liếc qua thứ vũ khí kỳ quái rơi trên mặt đất và lên đạn vào nòng súng.
 
Quyển 3 - Chương 17: Giẫm thành đường


Tiếng súng lại vang lên. Tiếng súng từ hai phía gần như nổ cùng một lúc. Lỗ Nhất Khí cũng đã khai hoả trợ giúp cho tay súng phía sau bầy sói. Súng vừa nổ, Lỗ Nhất Khí lại nghe thấy một tiếng súng khác, vẫn là vọng ra từ mé bên sườn núi. Phát súng thứ hai được bắn nhanh đến thế, có lẽ là súng liên thanh chăng? Không phải, nghe tiếng súng, có thể đoán rằng hẳn cũng là một loại súng trường, không thể bắn liên tiếp. Vậy thì… lẽ nào họ có hai người?

Phát súng thứ hai vừa nổ, lập tức kèm theo tiếng sói tru thê thảm. Trong cảm giác của Lỗ Nhất Khí lập tức vụt lên cảnh tượng máu thịt tan tành…

Ba tay nỏ đều đã bắn trúng, song đám máu thịt tả tơi trên sườn núi lại không phải là của người bắn súng.

Chính vào lúc hung khí bắn ra từ cây nỏ sắp lao vào lùm cây, từ bên cạnh đột nhiên nhảy vọt lên vài con sói dữ. Khối thiết lăng cạnh góc lởm chởm lao trúng vào con sói bờm nâu lao lên đầu tiên, con sói lập tức toàn thân tan nát thành một đống máu thịt bầy nhầy. Mũi tên sắt bay sát phía sau xuyên suốt qua mình một con sói cổ trắng, nhưng dư lực chưa tiêu, tiếp tục cứa toạc sống lưng của một con sói nữa. Chạc sắt uốn cong lao đến sau cùng đâm xuyên qua đầu một con sói đuôi xám, rồi xẻ thành một rãnh sâu đẫm máu trên mông của một con sói khác.

Nhìn vào đợt tấn công này, Lỗ Nhất Khí đã biết ba cây nỏ quái dị kia đã kết hợp với nhau như thế nào.

Khối thiết lăng tua tủa gai nhọn được bắn ra đầu tiên, song do trọng lượng nặng nề, hình dạng lại không thích hợp để bay ở trên không, bởi vậy tốc độ chậm chạp nhất. Mũi tên sắt tuy bắn ra chậm hơn một chút, song tốc độ nhanh hơn thiết lăng rất nhiều. Chạc sắt cán cong bắn ra sau cùng, song trọng lượng nhẹ nhất, tốc độ nhanh nhất, lại thêm lực bắn cực mạnh nên sau khi vọt đi, đã bị uốn cong.

Lực đạo bắn ra từ cây nỏ theo một quá trình từ yếu tới mạnh rồi lại từ mạnh tới yếu. Trong trạng thái đầu tiên, chạc sắt gập lại để tích tụ năng lượng; bắt đầu chuyển sang trạng thái thứ hai, chạc sắt lập tức duỗi thẳng, năng lượng tích tụ được giải phóng đột ngột.

Trong khoảnh khắc năng lượng được giải phóng, chạc sắt sẽ đuổi kịp mũi tên, đầu chạc sắt mang theo năng lượng và sức bật dữ dội sẽ lao thẳng vào đuôi của mũi tên sắt. Dưới tác dụng của lực đạo này, mũi tên sắt khác nào được bắn đi lần thứ hai, vùn vụt lao lên đuổi kịp thiết lăng, đâm mạnh vào máng lõm hình tròn trên đuoi thiết lăng. Và như vậy, phần lớn lực đạo đều đã được truyền sang thiết lăng. Thiết lăng mang theo một sức công phá khủng khiếp không gì cản nổi, phá tan mọi rào cản chắn đường. Còn mũi tên sắt và chạc sắt dư lực chưa tiêu, tiếp tục hành trình tàn sát.

Chính là Yêu cung xạ nguyệt trong “Sát khí biệt sách“! Cái tên vừa bật ra trong đầu Lỗ Nhất Khí, cậu lập tức thở ra làn khí đục nén trong lồng ngực, ngưng thần núi thở, nâng ngang súng trường, đưa cảm giác thuận theo họng súng vươn đến phía sau đống lửa, lùng sục tìm kiếm. Cậu đã hiểu ra, trong lần tấn công vừa rồi, viên đạn mà cậu bắn ra thuận theo quỹ đạo bay của thiết lăng đã hoàn toàn vô hiệu! Bây giờ, nhất thiết phải tiêu diệt bằng được một nút sống trong khảm diện trước khi nó tiếp tục hoạt động, như vậy mới có thể giảm bớt uy lực tấn công khi ba cây nỏ liên hợp lại.

Tiếng súng từ phía bầy sói lại vang lên, vẫn là hai tiếng liền nhau. Tay súng bí ẩn kia nãy giờ chỉ bắn vào một điểm duy nhất mà không hề thay đổi vị trí. Đối với một tay súng đang ẩn nấp, điểm bắn đầu tiên thường là điểm công kích tốt nhất, hơn nữa sau vài lần bắn, sẽ càng quen thuộc với đặc trưng của đường đạn tại vị trí đó, nên càng bắn càng chuẩn. Lại thêm mỗi lần bắn đều là hai phát đạn liên tiếp, cho dù nhân khảm đang sử nỏ có khả năng né tránh trong chớp mắt như gã cao thủ hộ pháp trong tứ hợp viện Bắc Bình, cũng khó bề tránh đươc một trong hai viên đạn. Đương nhiên, cứ đứng nguyên một chỗ mà khai hoả, trước hết phải đảm bảo bản thân không bị đối thủ bắn trúng.

Thế là Lỗ Nhất Khí cũng nhập cuộc, nhằm thẳng họng súng vào tay nỏ bắn mũi tên sắt. Cậu hy vọng tay súng bên kia cũng có cùng suy nghĩ với mình, như vậy ba phát súng sẽ cùng tập trung vào một nhân khảm, tỉ lệ thành công sẽ tăng lên gấp đôi. Mặt khác, phá được mũi tên sắt, chạc sắt và thiết lăng sẽ mất di một nhịp cầu truyền lực, khiến uy lực của Yêu cung xạ nguyệt suy giảm đáng kể.

Lỗ Nhất Khí không ngắm vào cơ thể của nhân khảm, mà nhằm vào một vị trí bên ngoài cơ thể hắn chừng nửa bước. Cuối cùng, hắn đã tự lao đầu vào đường đạn. Nhân khảm không phải là kẻ ngốc, song hắn cũng không còn cách nào khác; muốn tránh né hai viên đạn bắn ra liên tiếp, chỉ còn cách lao vào đường đạn bắn ra từ một phía khác.

Viên đạn xuyên qua lườn trái của nhân khảm, cảm giác của Lỗ Nhất Khí cũng lao theo viên đạn, xuyên qua thân thể của hắn, rồi vụt ra ngoài cùng một làn hoa máu.

Đòn công kích từ bên sườn núi không hề dừng lại. Tay súng kia lại bắn thêm hai phát, liền sát nhau như một tổ hợp thống nhất.

Nhân khảm bắn mũi tên sắt lại dính thêm một phát đạn nữa vào bả vai, thiếu một chút nữa là đã xuyên qua yết hầu. Xem ra tay súng kia đã quyết tâm tận diệt.

Hai nhân khảm còn lại đột ngột lao vụt lên, bộ pháp cực nhẹ nhàng mà thần tốc. Nhân khảm bắn thiết lăng lao về mé bên sườn núi, nhân khấu bắn chạc sắt phi thẳng đến chỗ Lỗ Nhất Khí.

Khảm diện tan rã, nút lẫy rời khỏi khảm diện truy sát đối thủ, đây là bước biến hoá cuối cùng của tất cả mọi loại nhân khảm. Cũng có nghĩa là khảm diện đã không thể trụ vững, thà chia nhau tấn công trước còn hơn đợi đối phương tới tiêu diệt. Như vậy vừa có cơ hội cùng liều một chết với đối phương, vừa có thể yểm trợ cho những nhân khảm khác rút lui an toàn.

Nhân khảm lao tới cuốn theo sát khí ngất trời, một sát khí nãy giờ ẩn kín chưa hề bộc lộ khi ba kẻ còn kết hợp với nhau. Dường như bọn chúng đã nhìn thấu từng đường xương thớ mạch của đối phương, thậm chí đã nhẩm sẵn trong đầu sẽ đâm vũ khí vào điểm nào trên người đối thủ.

Luồng sát khí bên cạnh bầy sói càng bùng lên dữ dội, tình thế lúc này đã không còn có thể ngăn cản hay lùi bước, mà chỉ có thể đối đầu, lấy cứng chọi cứng. Hai luồng sát khí chạm nhau kịch liệt, bầy sói lại tru lên thống thiết.

Lỗ Nhất Khí vẫn đứng yên tại chỗ, tư thái điềm nhiên, như vậy cậu sẽ càng có thể quan sát rõ hơn từng chi tiết tinh vi trong mỗi nhịp chuyển động của đối thủ.

Đối thủ đang lao thẳng tới với một tư thế gần như cuồng dại, dường như toàn bộ ý nghĩa cuộc đời hắn đã dồn vào một cú tấn công này. Trước luồng sát khí hung hãn ập đến như thác đổ, Quỷ Nhãn Tam choáng váng, phó Lợi Khai và Thuỷ Băng Hoa cũng choáng váng.

Quỷ Nhãn Tam lao lên vài bước, không phải để né tránh, mà là xông thẳng vào luồng sát khí. Hắn biết hắn càng tiến gần tới gần nhân khảm, góc độ ngăn trở của Vũ Kim Cương đối với cú tấn công của cây nỏ sẽ càng lớn, phạm vi bảo vệ Lỗ Nhất Khí cũng được mở rộng.

Phó Lợi Khai và Thuỷ Băng Hoa cũng đã hành động, cả hai người cùng quay người chạy về phía sau. Không phải là né tránh nhân khảm, mà vì họ đã nghe thấy tiếng binh khí va chạm chát chúa và tiếng hô giết từ phía lão mù đằng sau đã ở rất gần, điều đó sẽ ảnh hưởng tới Lỗ Nhất Khí đang ngưng thần tĩnh khí để đối phó với tay nỏ. Bởi vậy, họ phải ngăn cản khảm diện Công tập vi đang ập đến sau lưng.

Những tiếng sói tru đột nhiên lặng phắc. Từ mé bên sườn núi, tiếng súng lại dội lên, kèm theo một luồng hàn quang lạnh lẽo từ khối thiết lăng hình trăng khuyết. Trong nháy mắt, hai luồng sát khí vô hình như hai đám mây vần vũ lao thẳng vào nhau, không gian xung quanh chợt như đông cứng.

Một cú va chạm khủng khiếp, sát khí ngùn ngụt tuôn trào, khiến cho đám Nhậm Hoả Cuồng và bọn nhân khảm Công tập vi rùng mình ớn lạnh, hành động bất giác cũng có phần trì trệ.

Chỉ có ba người không hề bị ảnh hưởng. Quỷ Nhãn Tam xoay tít cây Vũ Kim Cương, những mong có thể gây nhiễu loạn thị giác và tinh thần của nhân khẩu, mặt khác cũng do lo sợ bản thân không chống đỡ nổi lực đao bắn ra từ cây nỏ, nên phải dùng lực xoay để tiết bớt ít nhiều sức công kích.

Tay nỏ muốn một đòn trúng đích không phải dễ dàng, bởi Vũ Kim Cương đã ở rất gần, hắn chỉ nhìn thấy cẳng chân và chỏm đầu của Lỗ Nhất Khí. Muốn bắn trúng, chỉ còn cách di chuyển bước chân ra khỏi tầm chắn của Vũ Kim Cương.

Tay nỏ vừa di chuyển, Quỷ Nhãn Tam đã lập tức phát hiện ra ý đồ, nên cũng di chuyển theo. Tuy tốc độ của Quỷ Nhãn Tam không nhanh bằng gã, song bán kính di chuyển lại ngắn hơn, bởi vậy gã vẫn không thể di chuyển ra ngoài tầm chắn của Vũ Kim Cương.

Lỗ Nhất Khí ung dung xoay người theo, cậu không cần phải dịch chuyển bước chân, bởi lẽ cậu chính là điểm trung tâm.

Đối thủ vô cùng nguy hiểm, sát khí đã bức bách đến nơi. Song đối mặt với tình thế đó, bên khoé miệng Lỗ Nhất Khí vẫn thoáng một nụ cười, “tâm tính theo tự nhiên, núi đổ tựa vô hình, vực sâu ngàn trượng lở, vẫn giữ một hơi thở”.

Súng đã nổ. Cao thủ bắn nỏ đang di chuyển một cách thần tốc sững sờ không hiểu tại sao viên đạn lại có thể tìm được đúng ấn dường của hắn. Quỷ Nhãn Tam cũng kinh ngạc không kém. Vũ Kim Cương trong tay hắn chặn đứng đường tấn công của tay nỏ, song cũng chắn luôn tầm nhìn của Lỗ Nhất Khí. Nhưng hắn đã quên mất rằng trên tán Vũ Kim Cương có một lỗ thủng do bị cúc ma thiên hoả nung chảy trong Mắt cá dương tại tứ hợp viên Bắc Bình, nhờ vậy mà với cảm nhận siêu phàm, Lỗ Nhất Khí đã bắn xuyên qua lỗ thủng, viên đạn lạnh lùng lao thẳng vào giữa trán cao thủ không chút lưu tình.

Khảm diện Công tập vi sát khí mãnh liệt dị thường, dù Nhậm Hoả Cuồng đã rắc than nóng và sắt nung nóng bỏng chặn đường tấn công của chúng, khiến chúng phải vòng qua hai bên, nhưng vẫn cao thấp nhịp nhàng, tầng bậc tuần tự. Hơn nữa, khảm diện này còn có một pháp bảo tất thắng, chính là những thanh đao trong tay chúng, những thanh đao sắc bén vô song, chém sắt cắt vàng chỉ trong chớp mắt.

Lão mù vừa giao thủ, đã bị đánh đến rối loạn chân tay. Nguyên nhân chủ yếu là lão đã nghe thấy tiếng gió rít từ lưỡi đao rất mực dị thường. Năm xưa khi lão mới bị mù dưới địa cung Hàm Dương, một tiếng gió rít sắc lạnh bất thường y như vậy đã nhẹ nhàng cắt dứt cây mã tấu của lão thành ba đoạn.

Tùng Đắc Kim còn thê thảm hơn, vừa mới xông lên, lưỡi rìu đã bị phạt bay mất một góc. Có lẽ do lưỡi rìu quá dày nặng, đối thủ lại quá yêu quý lưỡi đao, bởi vậy sau vài chiêu nữa đã chớp được cơ hội chặt đứt phăng cán rìu của Tùng Đắc Kim. Trong tay Tùng Đắc Kim chỉ còn lại một thanh gỗ cứng, nhưng cũng chỉ một lát sau, thanh gỗ dài ba thước cũng chỉ còn chưa đầy gang tay.

Khảm diện Công tập vi chỉ chấp hành mệnh lệnh bắt sống, bởi vậy tuy khảm diện đã mở, song không hề xuống tay chém giết. Nếu không, Tùng Đắc Kim sớm đã tay chân đứt cụt.

Nhậm Hoả Cuồng đột ngột tung bước vụt lên, ông ta không vòng sang hai bên, mà lao thẳng vào khu vực la liệt than bỏng và sắt nóng. Bỗng một cây dùi nhọn màu vàng kim long lanh một đường đỏ chói đột ngột vụt lên từ mặt tuyết tựa như một con quái xà, lao thẳng về phía khảm diện.

Rõ ràng ông ta không hề sợ đám than sắt nóng bỏng! Hai bàn tay trần của ông sục vào trong tuyết nắm lấy cây dùi sắt dài nhấc bổng lên, đây là điều không ai có thể ngờ tới.

Mục tiêu của cây dùi sắt chính là đao thủ phía trước lão mù, vị trí tấn công là sau lưng gã. Đao thủ là tay giang hồ lão luyện, tuy bị đột kích bất ngờ, song không hề hoảng loạn, lập tức lùi bước về sau, đưa lưng đón lấy mũi dùi, đồng thời tay phải vung lên, lưỡi đao trong tay quét một cung tròn, chém thẳng vào mũi dùi sắt nóng.

Chỉ thấy da thịt rách toang,

Chỉ thấy vết thương lập tức khép miệng,

Chỉ thấy vết thương vừa khép miệng lại tiếp tục nứt toác…

Gã đao thủ vừa vung đao đã từ nút sống biến thành nút chết một cách hết sức tự nhiên. Lưỡi đao sắc bén dị thường không thể nhẹ nhàng chém đứt thanh sắt chỉ to bằng ngón cái như đao thủ đã tưởng tượng. Cảm giác đau đớn và bỏng rát lập tức xuyên suốt cơ thể, tiếng rú thê thảm bật lên cùng lúc với tiếng thịt cháy xèo xèo.

Dùi sắt nóng bỏng đã nướng cháy và hàn kín miệng vết đâm. Song khi mũi dùi rút khỏi cơ thể, vết thương lai vỡ ra, nhưng máu chảy không nhiều, bởi lẽ nhiệt độ cực cao đã thiêu đốt da thịt thành than đen bịt kín, mùi thịt cháy khét lan toả quá nửa sườn đồi.

Đao thủ trúng đòn còn chưa kịp ngã xuống, phía sau đã có hai đao thủ vụt tới điền vào chỗ trống. Nhậm Hoả Cuồng không đếm xỉa tới chúng, mà lập tức xoay người, vung dùi sắt đâm tới một đao thủ khác đang vây tới từ bên cạnh.

Mùi thịt da cháy khét đã thức tỉnh toàn bộ đao thủ trong khảm diện, bọn sát thủ dày dạn kinh nghiệm sẽ không dễ dàng cho ông thợ rèn có thêm cơ hội ra tay. Hai lưỡi đao sắc bén kỳ dị không dám tiến vào trong vòng tròn đang mịt mù toả khói, cũng không thể chặt đứt cây dùi sắt vàng long lanh sắc đỏ, song chúng dư sức ngăn chặn đường tấn công của Nhậm Hoả Cuồng.

Mới đâm được hai chiêu, Nhậm Hoả Cuồng đã biết võ nghệ của mình còn lâu mới địch nổi hai gã đao thủ đang cản đường, trong cuộc chiến này, ông không hề có lấy một chút hy vọng.

Tùng Đắc Kim quãng vụt khúc gỗ chưa đầy gang tay về phía đám đao thủ đang lao tới, những mong tạm thời ngăn cản thế tấn công của chúng, để bản thân có thể lùi lại phía saư vài bước. Đương nhiên chiêu này là hoàn toàn vô dụng đối với đám đao thủ chinh chiến dạn dày. Còn Tùng Đắc Kim do lui bước quá vội vàng mà vấp chân ngã ngửa, bèn thuận thế lăn vội về phía sau đến bảy tám bước như một khối tuyết, né được vô số trận đao phong tối tăm mặt mũi.

Tùng Đắc Kim vừa thoái lui, đao thủ lập tức áp sát đến sau lưng Lỗ Nhất Khí, khoảng cách chỉ còn vài bước.

Phó Lợi Khai và Thuỷ Băng Hoa lập tức xoay người lao lên.

Phó Lợi Khai không kịp suy nghĩ đã quăng ngay thanh loan đao về phía trước. Đó là thanh loan đao cong vút có lưỡi ở mặt trong, chuyên dùng để róc vỏ cây nhận biết sắc gỗ, song nếu dùng làm vũ khí lại giống như phi tiêu tam giác ném đi rồi lại bay về. Cây loan đao xé gió vụt đi đã khiến đám đao thủ phải dừng bước, rạp người né tránh. Loan đao chém hụt, vạch thành một đường vòng cung trong không gian rồi quay về tay Phó Lợi Khai.

Thuỷ Băng Hoa cũng thẳng tay siết cò, song lại chẳng bắn trúng được mấy người. Ngoại trừ phát súng đầu tiên khiến một đao thủ ôm bụng ngã nhào, còn những phát sau đó đều chỉ cày xới vào tuyết hoặc mất hút trong không trung, do súng giật quá mạnh, cô ta không thể kiểm soát nổi.

Phó Lợi Khai lại tiếp tục quăng loan đao đi, song đường bay đã hạ thấp hơn. Gã hy vọng dù không lấy được mạng đối thủ, chí ít cũng có thể đả thương vài tên.

Đao thủ tấn công hay phòng ngự đều vô cùng nghiêm mật. Loan đao vừa bay ra, chúng biết lần này không né được, nên một đao thủ từ trong khảm diện tung người vụt ra, thanh đao trong tay huơ lên chém thẳng vào loan đao.

Loan đao lập tức đứt ngang thành hai đoạn, song hướng bay của hai khúc loan đao càng trở nên quái dị. Mũi đao đứt đoạn lập tức xoay lại xuyên ngang vào một bên cổ của đao thủ. Đao thủ chỉ kịp vung tay chụp lấy mẩu lưỡi dao còn lòi ra, hai mắt trợn ngược, đổ phịch xuống tuyết. Máu nóng phun ra thành vòi, đổ vào đầy tràn một dấu chân đã cứng trên nền tuyết.

Thuỷ Băng Hoa liên tục nổ súng, vừa bắn vừa cố gắng kiểm soát khẩu súng. Cuối cùng phải đến phát đạn thứ mười lăm mới bắn trúng cánh tay của một đao thủ.

Tùng Đắc Kim đang lăn tròn như khối tuyết trên mặt đất đột ngột hét lên như vỡ giọng, tay không lao thẳng về phía đao thủ. Đúng là người đến đường cùng không còn lý trí, huống hồ Tùng Đắc Kim thường ngày đầu óc đã chẳng mấy linh hoạt. Gã tay không lao bổ về phía dịch, không những bản thân nguy hiểm, mà còn cản mất đường đạn của Thuỷ Băng Hoa, khiến Thuỷ Băng Hoa vừa ngắm được mục tiêu đã phải dừng tay không dám bóp cò.

– Đón lấy! Nắm cán!

Nhậm Hoả Cuồng nhìn thấy Tùng Đắc Kim lao lên bèn gọi lớn, rồi chọc dùi sắt vào trong tuyết, hất lên một thứ đỏ vàng lấp lánh y hệt cây dùi, bay hướng về phía Tùng Đắc Kim.

Tùng Đắc Kim vô cùng quen thuộc với những thứ có hình dạng này, bèn vội vàng đưa tay chụp ngay lấy phần cán dài của vật đó.
 
Quyển 3 - Chương 18: Đọ sắc bén


Đó là một cây rìu, chính là cục sắt nóng vừa được Nhậm Hoả Cuồng rèn xong. Cây rìu kích thước tương đương với lưỡi rìu sắt của Tùng Đắc Kim, khác chăng là phần cán cũng rèn từ sắt, sờ vào không bỏng, chỉ cảm thấy âm ấm ở tay. Trong khi phần lưỡi rìu giống hệt cây dùi sắt trong tay Nhậm Hoả Cuồng, toả màu vàng sẫm lấp loáng một vệt đỏ như máu, toả nhiệt phừng phừng.

Một đao thủ nhào tới, định ngăn cản đường bay của lưỡi rìu, song đã muộn. Thế là gã thuận đà đưa lưỡi đao đang vung giữa không trung chém về phía đỉnh đầu Tùng Đắc Kim. Tùng Đắc Kim chỉ còn biết cuống cuồng vung rìu lên đỡ. Đao rìu chạm nhau, kêu lên chát chúa. Đao thủ rớt xuống đất, suýt nữa thì ngã nhào, thanh đao cũng sém bật khỏi tay. Trong khi lưỡi rìu không hề suy suyển, đòn lấy cứng chọi cứng vừa rồi đã bộc lộ rõ rệt ưu thế về sức mạnh của Tùng Đắc Kim.

Lưỡi rìu vẫn chưa chịu dừng lại, mà xoay trên đầu Tùng Đắc Kim một vòng nhỏ, rồi chém về phía đao thủ. Đao thủ vừa khó khăn lắm mới đứng vững được, nên khi lưỡi rìu bổ tới, có muốn thoái lui cũng không kịp nữa. Huống chi địa hình nơi đây dốc tuột, khó mà lùi bước lên trên. Đao thủ chỉ còn biết vung tay trái lên đỡ theo phản xạ, lập tức một cẳng tay rơi phịch xuống nền tuyết trắng. Vết chém chỉ hơi rỉ máu do lưỡi rìu nóng bỏng đã hàn kín vết thương. Máu dính trên lưỡi rìu bốc cháy xèo xèo, khói bốc mù mịt, mùi máu tanh lợm.

Vết cắt để lại trên cánh tay bị đứt đã khiến bọn đao thủ kinh tâm động phách. Bọn chúng đều đã nhận ra, lưỡi rìu kia sắc bén bội phần so với lưỡi đao trong tay chúng. Nếu là một loại binh khí nào khác thì không có gì ngạc nhiên, song đây chỉ là một lưỡi rìu mới được rèn xong, tôi trong tuyết lạnh, chưa từng mài lưỡi.

Khảm diện Công tập vi đã thoái lui, song trong khi lùi vẫn giữ đúng chiêu pháp, không hề rối loạn. Chúng vừa lùi vừa tung chân đá tuyết, khiến tuyết bay mù mịt thành một bức tường trắng xoá che chắn cho thân hình cũng một màu trắng của chúng. Trước khi rút đi, chúng không quên tặng cho tên đồng bọn trúng đạn ở bụng đang nằm thoi thóp trên sườn núi một phi tiêu tròn hình cánh mai.

Tay súng và bầy sói ở mé bên sườn núi không biết đã lặng lẽ rút lui tự lúc nào. Ngoài vài xác sói to lớn nằm ngổn ngang trên tuyết, không hề lưu lại bất cứ một vết tích nào có khả năng hé lộ thân phận. Song quan sát dấu vết tại nơi ẩn phục, có thể khẳng định rằng chỉ có một người. Điều này khiến Lỗ Nhất Khí vừa cảm kích lai vừa khâm phục, người này có thể liền lúc bắn hai phát súng, cho thấy tốc độ đã đạt tới mức xuất thần nhập hoá. Song vẫn còn một điều rất khó lý giải, không hiểu tay súng kia đã lắp đạn như thế nào, bởi lẽ trong toàn bộ quá trình, người đó đã bắn liền mười phát súng rnà không hề có lúc nào ngừng ngắt để nạp đạn. Hẳn là người này sử dụng hai khẩu súng liền một lúc, hoặc là khẩu súng có cấu tạo đặc biệt.

Tay nỏ nằm gục trên tuyết, một bên cánh nỏ gãy rời, dây nỏ bằng sắt siết sâu vào cổ họng.

Nhậm Hoả Cuồng cúi xuống nhặt thanh đao bên cạnh một xác chết lên, đưa cho lão mù. Lão mù hiểu ý, đưa ngón tay vuốt nhẹ lên thân đao, sau đó nói chắc như đinh đóng cột:

– Không phải là đao này! Lưỡi đao này nhọn và hẹp hơn. Lưỡi đao đâm chết bà nhà ông rộng hơn lưỡi đao này hai ngón tay, và ngắn hơn một chút.

– Loại này là đao bạt phong*, nếu rộng hơn hai ngón tay và ngắn hơn một chút, có lẽ chỉ có thể là hai loại đao lang nha và đao kích ca** không có vòng che tay. Đao không đúng, chứng tỏ vẫn còn kẻ bám theo chưa xuất đầu lộ diện! – Kết luận của Nhậm Hoả Cuồng khiến mọi người có phần căng thẳng. Khảm diện của đối phương chỉ vừa mới mở, người trong bóng tối còn chưa thấy mặt, mà cả bọn đã phải chống đỡ giao tranh đến hồn kinh phách tán.

* Hình đao thân rộng mũi nhọn, lưỡi đao hơi uốn cong, có thể chém, đâm với tốc độ cực nhanh. Đặc biệt là khi xuất đao thình lình rất khó phát giác, tựa như luồng gió vụt đến, bởi vậy có tên là đao bạt phong (gió thổi).

** Một loại đao của người Hung Nô, cán đao và thân đao liền thành một khối, tạo hình khá đơn giản sơ sài. Cũng chính vi tạo hình đơn giản, nên khi gõ đập vào nó sẽ phát ra âm thanh trong vang, người Hung Nô thường dùng nó để gõ nhịp ca hát, nên mới có tên là đao kích ca.

Phó Lợi Khai có vẻ tiếc rẻ khi nhặt lấy thanh loan đao đã bị chém đứt thành hai đoạn đang nằm trong tuyết. Gã xem xét kỹ lưỡng đường cắt một lúc, rồi lẩm bẩm một mình:

– Đao bạt phong của lũ đồ tể này quả nhiên lợi hại, đám đai sắt ở Kim gia trại có phải bị thứ này cứa đứt không nhỉ?

Lỗ Nhất Khí nghe vậy, không hề cảm thấy ngạc nhiên. Đúng như cậu đã dự đoán, lỗ hổng trên hàng rào của Kim gia trại là do đối thủ mở ra. Mở sẵn một lối ra thênh thang như thế, còn mục đích nào khác là dụ bọn họ đi đúng theo lộ trình mà bọn chúng đang mong đợi.

Nhậm Hoả Cuồng lần mò trong tuyết, nhặt lên vài món đồ ông vừa rèn thành khi nãy, đưa cho Phó Lợi Khai một thanh loan đao với phần lưỡi ở bên trong, rồi đưa cho Quỷ Nhãn Tam một cây xẻng lưỡi cày. Cũng giống như lưỡi rìu trong tay Tùng Đắc Kim, chúng hoàn toàn được rèn từ sắt, loé lên sắc vàng trầm bóng bẩy, Xen kẽ vài tia đỏ tươi như máu.

– Tôi vừa rèn theo những món đồ lề trong tay mọi người. Thiết nghĩ con cháu họ Nghê làm sao có thể thiếu được lưỡi xẻng, nên tiện tay đánh luôn một cái. Tôi đã cho thiên thạch pha trộn vào trong chất liệu, nên sau khi chế thành, không thể mài phần lưỡi được. Bởi vậy tôi đã khống chế độ lửa ở mức ba lớp xanh, trực tiếp rèn ra phần lưỡi đao, sau đó lợi dụng tuyết lạnh để tôi, như vậy thành phẩm không những cứng rắn sắc bén tuyệt luân, mà còn bền vững rất mực. Đám quang gánh kia tôi chẳng muốn quẩy theo nữa, nên thứ này cho cậu, không chừng về sau hữu dụng cũng nên! – Nhậm Hoả Cuồng nói xong, nét mặt bình thản, trao lại miếng thiên thạch Kim Cang cho Lỗ Nhất Khí, khiến cậu không khỏi ngại ngần. Bảo bối vừa đặt trong tay, Lỗ Nhất Khí lập tức cảm nhận thấy làn khí tướng trầm vàng lóng lánh bừng bừng lan toả, xoay tròn như một hình xoáy ốc rực rỡ giữa lòng bàn tay.

Lỗ Nhất Khí cũng không khách sáo chối từ, cẩn thận cho viên thiên thạch vào trong túi da hươu mà Nhậm Hoả Cuồng đưa cho, cất vào trong ngực áo, rồi nói:

– Cảm ơn chú, chú Nhậm! Tôi sẽ giữ tạm, lúc nào chú cần dùng, tôi sẽ trả lại cho chú!

Nhậm Hoả Cuồng chỉ cười, khẽ lắc đầu một cải, rồi quay đi thu dọn đồ đạc. Ông ta không quẩy gánh rèn theo nữa, nên chỉ nhặt nhạnh búa rèn, kìm lửa và cây đao bạt phong mà đối thủ để lại, cho tất vào sọt, rồi xiên dùi sắt qua miệng sọt, gác lên vai, đi thẳng xuống sườn núi.

Cuộc giằng co kéo dài vừa qua đã khiến mọi người thân tâm rệu rã, song không ai đề nghị nghỉ ngơi, bởi lẽ họ đều ý thức được mức độ nguy hiểm của chốn này.

Đi tới bên rìa rừng sam đỏ, ba đống lửa gần như đã lụi tàn. Đáng lẽ còn có một tay nỏ bị bắn trọng thương tai chỗ, song cao thủ đạt đến tầm cỡ này, chỉ cần chưa chết chắc chắn sẽ không chịu ở nguyên một chỗ chờ người tới bắt.

– Bọn người này có thể vây bọc chúng ta từ hai phía, chứng tỏ đối phương đã vượt lên trước chúng ta! – Thuỷ Băng Hoa lên tiếng. Điều này thì tất cả mọi người đều đã nghĩ tới.

– Nếu lần ra được vết tích của thằng khốn kia rồi bám theo sau, sẽ dễ dàng đến được đúng nơi, tiết kiệm bao nhiêu sức lực! – Phó Lợi Khai vừa nói vừa láo liên đôi mắt bên to bên bé quan sát xung quanh.

Quỷ Nhãn Tam cầm lấy chiếc xẻng lưỡi cày, ngồi thụp xuống thận trọng gạt nhẹ lớp tuyết từng chút một, mong tìm được dấu vết nào đó dưới lớp tuyết dày.

Nhậm Hoả Cuồng quét mắt sục sạo về phía cánh rừng xa hơn, rồi nói chắc như đinh đóng cột:

– Đi theo tôi! Thằng khốn kia chắc chắn đã chạy theo lối đó!

Lần này Tùng Đắc Kim xách rìu đi ngay phía sau Nhậm Hoả Cuồng. Giờ đây đối thủ đã xuất đầu lộ diện, nên không cần thiết phải kéo chạc cây xoá dấu chân trên tuyết nữa.

Quỷ Nhãn Tam tụt lại sau cùng, đi trước hắn là Lỗ Nhất Khí và lão mù. Hai người vừa đi vừa thậm thà thậm thụt.

– Chú Hạ! Ông Nhậm kia quả thực không phải tầm thường! – Lỗ Nhất Khí nói.

– Đương nhiên rồi! Còn nhớ năm xưa hắn một đêm đánh ba sợi xích trăm mắt bằng thép cứng, phong trấn quái thú bốn vây tại cảng Cổ Mã; nung chảy nước đồng đỏ bí mật của Đạo gia, phá vỡ khoá Lung linh phong hồn; chế tác chuỳ lá vàng móc ngược, mở lọng kinh trụ thẳng khung xương… Nhờ vào một tay kỹ nghệ, giành được biệt danh “Thiết thủ kỳ công” trong chốn giang hồ!

– Giọng nói của lão mù tràn đầy niềm khâm phục.

“Trông ông ta chẳng khác gì một thợ rèn bình thường, thật không ngờ bản lĩnh lại cao siêu đến vậy!” – Lỗ Nhât Khí thầm nghĩ trong lòng.

– Hắn vốn là người Quan Nội, giang hồ đồn đại lúc hắn mới sinh ra là một quái thai, lòng bàn tay lòng bàn chân phủ lớp sừng dày, từ nhỏ đã có thể chọc tay vào lửa, giẫm chân lên than. Chính vì điểm đó nên sau này đã được một cao nhân nhận làm đồ đệ, dạy cho nghề rèn mà trở thành một thợ sắt kỳ tài. Nhưng về sau không hiểu tại sao lại đột nhiên chạy tới Quan Đông, mai danh ẩn tích chốn núi rừng, danh tiếng lẫy lừng trong giang hồ cũng dần dần mai một.

– Ồ! Lòng bàn tay và bàn chân ông ta có lớp sừng dày ư? Sao tôi không nhìn thấy nhỉ? – Lỗ Nhất Khí rất đỗi ngạc nhiên.

– Không còn nữa rồi! Nghe nói theo nghề rèn lâu năm nên lớp sừng đã bị mài mòn, song tay chân hắn chịu nóng rất tài, không rõ là do rèn luyện hay là bẩm sinh đã thế.

– Sắt nóng đỏ còn không sợ, vậy tay ông ta khác gì tay thần! – Lỗ Nhất Khí càng nghe càng cảm thấy tò mò.

– Không đến mức thế đâu! Lời đồn đại trong giang hồ thường thổi phồng thái quá. Hắn là bạn của cha cậu, có lần ta đã nhờ người nhà cậu xin hắn rèn giúp một món binh khí cổ quái, bác cậu đã kể thực cho ta hay. Hắn giỏi chịu nóng là có thật, nhưng cũng chỉ có giới hạn, song sức chịu nóng của hắn cao hơn gấp nhiều lần so với người bình thường. Kỹ nghệ rèn của hắn quả thực cao siêu đến dị thường, cùng một khối nguyên liệu nhưng mỗi bộ phận lại có thể tôi rèn ở những nhiệt độ khác nhau, nhiệt độ tại vị trí mà hắn nắm vào sẽ được khống chế trong phạm vi mà hắn có thể chịu đựng.

– Chú Hạ! Trước kia chú đã từng gặp mặt ông ta chưa? – Lỗ Nhất Khí đột nhiên đưa ra câu hỏi.

– Biết nói thế nào nhỉ, khi gặp hắn thì ta đã mù rồi. Hơn nữa lúc đó khi ta nói ra yêu cầu chế tác, hắn chỉ nghe mà không nói một lời, cầm nguyên liệu rồi đi ngay. Bởi vậy có gặp cũng như chưa gặp.

– Vậy thì chí ít ông ta cũng biết mặt chú! Mà chú Hạ, sau khi gặp lại, ông ta có chào hỏi chú tiếng nào không?

– Không! Có lẽ số người nhờ hắn rèn đồ quá nhiều, hắn đã quên ta rồi. Mà kể cũng lạ, thứ ta nhờ hắn rèn cho có lẽ trên đời này chỉ có một không hai, đáng lẽ hắn phải nhớ mới phải chứ! – Lão mù cũng cảm thấy có chút ngạc nhiên, song lời nói của lão càng khiến Lỗ Nhất Khí kinh ngạc hơn nữa. Tạm chưa nói đến thứ lão mù nhờ rèn quái dị đến dâu, chỉ riêng diện mạo bất thường và biệt danh Tây Bắc tặc vương của lão, dù thời gian đã qua vài chục năm hẳn vẫn phải nhận ra mới đúng, ở đây chắc hẳn có gì đó bất thường.

– Cậu cả, cậu đang nghi ngờ thân phận của hắn đúng không? Nhưng ngay cả thiên thạch hắn cũng mang tặng cậu rồi! – Nhìn vào nét mặt của lão mù, có thể thấy lão không muốn tin vào điều này.

Quỷ Nhãn Tam đang theo sát phía sau bỗng chen vào một câu:

– Đáng ngờ! Đến thiên thạch cũng cho, kỳ công Quan Ngoại mà không xem trọng món này? Hoang đường! Nghĩ xem, làm như vậy có ích gì? Xoá bỏ nghi ngờ của người khác!

Lời nói của Quỷ Nhãn Tam khiến Lỗ Nhất Khí và lão mù cũng cảm thấy có lý.

Một canh giờ nữa lại trôi qua, bầu trời bắt đầu lờ mờ sắc trắng, mảnh trăng lưỡi liềm nhoà nhạt chênh chếch phía trời tây.

Phó Lợi Khai từ đầu chí cuối luôn bám sát phía sau Thuỷ Băng Hoa. Lúc này tư thế bước đi của gã cũng thiếu tự nhiên hệt như vẻ mặt gã, người cúi gập về phía trước, mặt ghé sát vào chỗ eo thắt mông nhô của Thuỷ Băng Hoa, thi thoảng lại đưa tay vịn vào hông eo cô ta. Trông thì có vẻ rất quan tâm đến Thuỷ Băng Hoa, sợ cô ta trượt ngã, song những người đi sau đều biết gã ta đang lợi dụng để sờ soạng. Thuỷ Băng Hoa dường như đã quá quen với việc bị đàn ông cố tình đụng chạm, nên cũng chẳng có phản ứng gì.

Song có người lại cảm thấy Phó Lợi Khai có ý đồ khác, bởi lẽ những hành động đó có thể kéo gần khoảng cách giữa khuôn mặt gã và bộ mông của Thuỷ Băng Hoa. Trên mông của Thuỷ Băng Hoa có một mảnh da, một mảnh da mà Quỷ Nhãn Tam đã để ý từ trước đó. Bởi vậy, đương nhiên Quỷ Nhãn Tam cũng nghĩ rằng gã lái gỗ kia hẳn đang tò mò với mảnh da trên mông cô ta.

– Đường mòn Sam Đỏ!

Nhậm Hoả Cuồng đột ngột bật kêu lên. Đúng vậy, sau vượt qua một ngọn núi nhỏ, con đường mòn phủ dày tuyết trắng len lỏi qua rừng sâu đã hiện ra trước mặt họ. Con đường rất hẹp, chỉ đủ cho một người một ngựa băng qua. Đây là con đường tắt do những đoàn ngựa buôn chở hàng lên phía bắc buôn bán với bọn Nga La Tư giẫm đạp lâu ngày mà thành.

– Thằng khốn què mẻ kia đã chạy theo lối này, xem ra đối thủ quả thực đã đi trước ta một bước! – Giọng nói của Nhậm Hoả Cuồng đầy vẻ lo lắng.

– Ông thợ rèn, sao ông biết? – Tùng Đắc Kim đúng là một gã ngờ nghệch, chẳng biết thế nào là kỵ huý giang hồ, mở miệng hỏi thẳng.

Nhậm Hoả Cuồng không trả lời, làm như không hề nghe thấy câu hỏi của gã, chỉ lẳng lặng đi về phía đường mòn. Thái độ của ông ta càng dễ gợi lên trong lòng người khác một mối hoài nghi.

Đường mòn Sam Đỏ không phải là một con đường thẳng, mà quanh co lên xuống men theo các rừng cây sườn núi. Sau khi vòng qua một khúc ngoặt gấp, tầm mắt bỗng nhiên mở rộng thênh thang, bởi lẽ phía trước mặt họ là một vùng thấp bằng phẳng, phóng mắt nhìn ra, thấy núi non trùng điệp chạy dài, rừng cây bạt ngàn ngút mắt.

Quang cảnh trước mắt khiến Lỗ Nhất Khí đột nhiên khựng lại, ánh mắt chợt trở nên mông lung lơ đãng, dõi theo con đường quanh co uốn lượn kéo dài đến tận phương nào, trong miệng lẩm bẩm điều gì không rõ.

Phó Lợi Khai nhìn thấy ánh mắt kinh ngạc của Thuỷ Băng Hoa phía trước, mới quay đầu lại nhìn bộ dạng của Lỗ Nhất Khí. Gã bèn lùi lại hai bước, ghé sát vào Lỗ Nhất Khí, không nói câu nào, chỉ chăm chú nghe xem Lỗ Nhất Khí đang lẩm bẩm điều gì.

– Mả mẹ! Mả mẹ!

Phó Lợi Khai ngạc nhiên, không ngờ từ miệng Lỗ Nhất Khí có thể thốt ra những lời bất nhã đến vậy.

Đột nhiên, Lỗ Nhất Khí nhãn thần ngưng tụ, nhãn quang rạng ngời chiếu bừng tứ phía, khiến Phó Lợi Khai giật bắn cả người.

– Ở đây! Tôi cảm giác đã gần đến đích rồi! – Không chỉ ánh mắt mà giọng nói của cậu cũng hưng phấn khác thường. Cảm giác mách bảo cậu rằng, vùng “đất mẹ” ghi trên thẻ ngọc đang ẩn sau những đỉnh núi nhấp nhô cách đó không xa.

Suy đoán rất chính xác, quyết định cũng sáng suốt. Theo lời Thuỷ Băng Hoa, tay thợ sâm có tấm bản đồ trước khi chết luôn miệng lảm nhảm “Mả mẹ! Mả mẹ!”. Nghe cô ta kể lại, Lỗ Nhất Khí đã cảm thấy có chút bất thường. Có câu “con người sắp chết, lời nói thiện lành”, nên gã thợ sâm lúc gần tắt thở không thể lại lôi mẹ ra chửi, mà hẳn đang nhớ đến thứ đã khiến gã lưu luyến khó quên không nỡ từ bỏ nhất. “Mả mẹ” liệu có phải là “đất mẹ” không? Mà đất mẹ chẳng phải chính là “đất mẫu tính” hay sao?

– Tiếp tục đi về phía trước hẳn sẽ gặp một địa danh liên quan tới mẹ! – Lỗ Nhất Khí quay sang Nhậm Hoả Cuồng mà nói. Ông ta là người dẫn đường, đương nhiên sẽ phải thông thạo nơi này.

Vẻ mặt Nhậm Hoả Cuồng lộ rõ sự ngỡ ngàng. Quỷ Nhãn Tam đã nhận ra, ông ta dẫn dường không phải vì thông thạo vùng này, mà dường như đang lần theo một dấu hiệu nào đó, dường như phía trước có người chỉ đường dẫn lối cho ông ta.

– Ở đây có một truyền thuyết kể rằng, có một thiếu nữ xinh đẹp sau khi xuống sông tắm, về nhà bỗng mang thai, tròn mười tháng sau sinh ra một con rồng đen. Cô gái khó sinh, sau khi sinh hạ rồng con thì qua đời, hoá thành một dãy núi trùng điệp. Rồng đen không có mẹ dạy dỗ, nên tác oai tác quái thổi gió phun mưa. Cho tới một ngày kia, người mẹ hoá thành núi bỗng hồi sinh, cảm hoá được con rồng, khiến nó ẩn mình dưới dòng sông cả nghìn năm. Theo như tôi biết, dãy núi mà người mẹ hoá thành trong truyền thuyết ở cách đây không xa, nhưng cụ thể là nơi nào thì tôi không rõ! – Thuỷ Băng Hoa khi ở Kim gia trại đã nghe được rất nhiều truyền thuyết và sự tích, nên những hiểu biết của cô ta về vùng núi Đại Hưng An rất phong phú song cũng có phần quái đản. Lỗ Nhất Khí vừa khơi ra một câu, cô ta đã thao thao bất tuyệt hàng tràng.

Một nụ cười nhăn nhở khiến khuôn mặt vẹo vọ của Phó Lợi Khai càng thêm phần khả ố, bên mép còn nhễu cả bọt trắng:

– Gần đây có một dãy núi gọi là núi Hai Gối, kỳ thực gồm hai ngọn núi là núi Gối Trái và núi Gối Phải. Từ núi Hai Gối đi tiếp về phía trước, sẽ đến núi Hai Vú, một dãy hai đỉnh, giống hệt như ngực đàn bà. Từ xa nhìn lại, mấy dãy núi trông chẳng khác gì một người đàn bà loã thể nằm ngửa gập gối dạng chân, vừa giống như đang sinh con, vừa giống như đang chờ đợi… – Nói chưa dứt câu, gã lái gỗ đã bật cười khùng khục.

Không những có “mẫu tính”, mà còn có “hắc long”, Lỗ Nhất Khí vô cùng phấn chấn, đưa ánh mắt khẩn thiết nhìn Thuỷ Băng Hoa. Đúng vậy, giờ đây họ cần đi theo con đường mà Thuỷ Băng Hoa biết, nên đã đến lúc cô ta phải chỉ đường cho họ.
 
Quyển 3 - Chương 19: Lâm thế túng


Thuỷ Băng Hoa nét mặt lộ vẻ bối rối, nói:

– Đường mòn Sam Đỏ dài hàng trăm dặm, song lối vào nơi cần đến chỉ ở trên mười dặm đường đầu tiên. Nhưng lối vào ẩn trong rừng sam đỏ, không có dấu hiệu gì nhận biết, rất khó tìm ra.

– Chúng ta cứ đi từ từ về phía trước, mọi người hãy lưu ý đến tình hình hai bên đường, xem có chỗ nào đặc biệt hay không! Thằng khốn bị thương kia cũng đã chạy về phía trước rồi! – Nhậm Hoả Cuồng nói, lời lẽ tỏ rõ phong độ tiền bối.

Lúc này, Quỷ Nhãn Tam cảm thấy cần phải nói cho Lỗ Nhất Khí biết về mảnh da mà hắn đã phát hiện ra, không chừng Lỗ Nhất Khí sẽ cảm giác được điều gì. Mà cho dù không phát hiện được gì thêm, chí ít cũng giúp Lỗ Nhất Khí nhận ra người phụ nữ này không hề đơn giản.

– Bọn người kia ai dùng được hãy cho đi cùng, không thì bỏ đi! – Lão mù đã dấn lên trước mặt Quỷ Nhãn Tam, tới sau lưng Lỗ Nhất Khí, ghé miệng sát bên cổ cậu thì thầm.

Lỗ Nhất Khí còn chưa kịp hiểu hết ý của lão mù, đã bị Quỷ Nhãn Tam kéo xuống cuối đoàn người. Hai người bước chậm lại, cố gắng tách xa những người phía trước, rồi Quỷ Nhãn Tam thuật lại tỉ mỉ cho Lỗ Nhất Khí những gì hắn đã phát hiện được từ Thuỷ Băng Hoa.

Nghe xong, ve mat cua Lỗ Nhất Khí vẫn không hề biến sắc. Ngay từ đầu cậu đã cảm thấy Nhậm Hỏa Cuồng và Thủy Băng Hoa là khả nghi nhất. Giờ đây, sau một chặng đường dài, rất nhiều hiện tượng dường như đã chứng minh suy luận này là chính xác. Song Nhậm Hỏa Cuồng đã hy sinh mất nhân tình, lại còn tặng cậu bảo bối thiên thạch, nên trước mắt chỉ còn hai điểm đáng ngờ, đó là lén lút rắc tàn trò đánh dấu và không chịu nói cho mọi người biết ông ta đã bám theo tay nỏ bị thương bằng cách nào. Còn về Thủy Băng Hoa, cô ta có quá nhiều điểm đáng ngờ. Trước tiên, khi bắt đầu vụ giao dịch, cô ta khẳng định mình biết đường, song giờ đây lại nói là không biết. Lại them biểu tượng của phái Một tay trên người cô ta là thế nào đây? Một bà chủ ổ chứa, làm sao lại biết được nguyên lý “bố trí theo hình” của Khảm tử gia? Lại còn vật cứng đang giấu giếm dưới đế giày…

Có lẽ do không tìm thấy đường vào nên Thủy Băng Hoa cảm thấy ngại ngùng, chỉ im lặng mà không nói câu nào, đầu cúi thấp lầm lũi mà bước. Nhưng khi Lỗ Nhất Khí đi ngang qua chỗ cô ta, cô ta lai chủ động tiến sát phía cậu, rồi đột nhiên nắm chặt lấy bàn tay cậu.

– Lỗ Nhất Khí tuy ngoài mặt bình thản như không, song tim đập dồn đến loạn nhịp. Bàn tay Thủy Băng Hoa mềm ấm như bông, thoáng chút ẩm ướt êm mịn. Một cảm giác tê rần lan khắp lòng bàn tay, chạy thẳng đến ngực, chờn vờn quanh tim khiến buồng tim phát ngứa râm ran, gãi không tới, tránh không đi.

Quỷ Nhãn Tam đi sau cùng đang định rảo bước đến bên Lỗ Nhất Khí, hắn đã rất quen với vị trí đó, vì như vậy mới có thể bảo vệ Lỗ Nhất Khí bất cứ lúc nào.

Phó Lợi Khai bước phăng phăng, thần trí ngơ ngáo, chiếc cưa ngoại cỡ lắc lư trên vai, vừa hay chặn ngang đường tiến của Quỷ Nhãn Tam.

Thuỷ Băng Hoa đi sát vào Lỗ Nhất Khí, kéo lấy tay cậu áp lên cơ thể mình. Ngay dưới mu bàn tay cậu là làn da thịt phập phồng, căng tròn mà mềm mại, đang rung động khe khẽ theo nhịp chân bước. Trong người cậu từng cơn chấn động chạy khắp toàn thân, lúc lên lúc xuống, hơi thở bất giác trở nên gấp gáp.

Lỗ Nhất Khí định hất tay Thuỷ Băng Hoa ra, song cánh tay bủn rủn không thể giật ra nổi. Cậu bắt đầu lờ mờ nhận ra, không phải cậu không giật ra được, mà tự bàn tay cậu không nỡ rời đi. Cậu xấu hổ sợ người khác phát hiện ra, bèn ngoái đầu lại nhìn. Phía sau cậu còn có Phó Lợi Khai, Quỷ Nhãn Tam và lão mù. Lão mù chắc chắn không nhìn thấy, Quỷ Nhãn Tam đã bị Phó Lợi Khai chắn mất tầm nhìn hẳn cũng không nhìn thấy. Còn Phó Lợi Khai không nhìn xuống, hai con mắt bên to bên bé của gã chỉ nhìn chằm chằm vào mặt Lỗ Nhất Khí, khuôn mặt chìm trong một nỗi căng thẳng chưa từng thấy. Vẻ mặt của gã đã khiến Lỗ Nhất Khí sửng sốt, vội vã cúi đầu nhìn xuống bàn tay đang bị Thuỷ Băng Hoa giữ chặt.

Thuỷ Băng Hoa đang áp bàn tay Lỗ Nhất Khí lên một bên mông của cô ta, thảo nào dưới tay cậu có cảm giác căng tròn và chắc nảy. Mu bàn tay cậu được đặt đúng vào miếng da mà Quỷ Nhãn Tam vừa nói. Cậu lập tức hiểu ra, bèn nhanh chóng tụ khí ngưng thần, vứt bỏ tất cả mọi nỗi hoang mang và kích động, trong trí não chỉ còn lại những cảm giác mẫn tiệp tinh tường trên mu bàn tay, lần theo từng nét vân vi, từng chỗ lên xuống tinh tế nhất. Và cậu đã thấy chữ viết, đã hiểu được đường vân, và nhận ra được đường đi, tìm ra được ngọn núi.

– Ở đây!

– Đi phía này!

Lỗ Nhất Khí và Nhậm Hoả Cuồng gần như lên tiếng cùng một lúc.

Mọi người đều kinh ngạc đứng khựng lại, nhìn về phía rừng cây mênh mông bên cạnh đường mòn.

Thuỷ Băng Hoa đã buông tay Lỗ Nhất Khí ra, và bàn tay cậu đã dứt khoát chỉ về một phía của con đường. Lúc này, Nhậm Hoả Cuồng đã sải bước tiến thẳng vào rừng, nhanh chóng bị che rợp dưới bóng cây âm u.

– Chậm thôi, anh Nhậm! Để tôi đi trước cùng ông anh! – Lão mù gọi với theo sau. Thân người đã chìm khuất dưới bóng cầy liền dừng bước, đợi lão mù di đến bên cạnh mới tiếp tục tiến lên, cùng thận trọng di chuyển chậm rãi vào sâu trong rừng thẳm.

Sau khi đi qua mấy khóm rừng, trước mặt họ lại hiện ra một con đường mòn, còn hẹp hơn cả đường mòn Sam Đỏ. Con đường chật hẹp chạy dài trong rừng rậm, hai bên cây lớn ken dày đặc, khiến người đi đường cảm thấy ngột ngạt như bị đè nặng dưới một áp lực vô hình. Khu rừng già yên tĩnh dị thường, khiến tiếng chân đạp tuyết lạo xạo và tiếng thở hổn hển nghe rõ mồn một. Trong rừng thi thoảng lại vẳng đến tiếng kêu không rõ của giống chim gì, nghe vô cùng rùng rợn.

Lỗ Nhất Khí không rõ khu rừng giữa ban ngày mà tịch mịch đến vậy liệu có bình thường hay không, song trong cậu đã trỗi lên một cảm giác rất lạ kỳ, một sự pha trộn giằng co giữa hy vọng và nguy hiểm, càng lúc càng rõ rệt, càng lúc càng áp sát. Đột nhiên, nguy hiểm bỗng bật ra khỏi khối giằng co, lao vụt đi như một lưỡi dao sắc nhọn. Cậu giật mình kinh sợ, lập tức dừng chân.

Thuỷ Băng Hoa quay người lại, hỏi nhỏ một câu:

– Sao thế?

Lỗ Nhất Khí mỉm cười, khẽ lắc đầu, rồi ngửa mặt, thở ra một hơi nặng nề lên mảnh trời xanh biếc chật hẹp chạy dài trên phía đỉnh đầu.

– Sát khí! Nguy hiểm! – Lỗ Nhất Khí đột ngột hét lên. Ngay lúc đó, từ trong rừng vọng lại một tiếng huýt gió chói tai. Sau đó, giống hệt như những gì Lỗ Nhất Khí vừa cảm giác, vô số mũi đao sáng loà như tuyết vùn vụt lao đến.

Đám sát thủ lao từ trên cao xuống, bọn chúng đã náu mình trong những tán cây rậm rạp. Khi Lỗ Nhất Khí ngửa mặt lên trời để thở ra khí uất, cậu đã cảm thấy luồng sát khí từ trên đó.

Lỗ Nhất Khí đột nhiên khựng lại khiến Quỷ Nhãn Tam và Phó Lợi Khai lập tức ở trong tư thế cảnh giác cao độ, nên sát thủ vừa lao tới, hai người lập tức lao lên tiếp chiêu. Bởi vậy, Lỗ Nhất Khí đã có đủ thời gian rút súng.

Tiếng súng đã vang lên, song không phải là từ khẩu súng trường của Lỗ Nhất Khí, mà là từ khẩu pạc hoọc trong tay Thuỷ Băng Hoa. Lúc này Lỗ Nhất Khí mới chợt nhớ ra mình quên chưa lấy lại khẩu súng sau cuộc chiến trên sườn núi.

Thuỷ Băng Hoa bóp cò rất nhanh, song kỹ thuật lại quá vụng về, đạn lao bừa vào tán lá khiến lá cây rào rào trút xuống. Tuy nhiên phát súng của cô ta cũng đã khiến cho đám sát thủ đang định tấn công chớp nhoáng đã phải thu mình lại nấp sau thân cây.

Sát thủ lại tiếp tục lao xuống ngay sau khi Thuỷ Băng Hoa vừa bắn hết đạn. Cô ta chẳng kịp nghĩ ngợi, lập tức ném ngay khẩu súng về phía một tên sát thủ. Sát thủ vung đao, khẩu súng lập tức vỡ tan tành, đủ thứ linh kiện văng vãi tứ tung.

Cây súng trên tay Lỗ Nhất Khí cũng bắt đầu khai hoả. Lập tức có một kẻ lộn nhào xuống đất, cùng chung số phận với khẩu pạc hoọc vỡ tan khi nãy.

Súng trường Mauser mỗi lần chỉ nạp được năm viên đạn, bởi vậy khi số thân người rụng xuống đã đủ năm, cây súng trên tay Lỗ Nhất Khí đã chẳng khác gì một que sắt cời lò vô dụng.

Lỗ Nhất Khí không kịp lắp đạn, bởi vậy khi một sát thủ vung đao chém tới, cậu chỉ còn cách vung súng lên chắn đỡ.

Lưỡi đao chém đứt phăng khẩu súng trường, song lại không chạm đến người Lỗ Nhất Khí. Lưỡi dao trong tay sát thú đột nhiên biến mất, cả cánh tay cũng bay mất tăm. Đúng vào khoảnh khắc thân súng đứt rời, một luồng sáng màu vàng sẫm đà vụt tới, cả cánh tay lẫn đao chớp mắt đã rơi phịch nền tuyết. Luổng sáng trầm vàng lượn thành một vòng cung, trở về tay Phó Lợi Khai.

Tùng Đắc Kim đã hiểu rõ uy lực của cây rìu mới, nên chỉ nhăm vào đao của địch thù mà chém tới. Khi dao đã đứt, gã liền nhường lại cho ông thợ rèn xử lý, còn mình lại tiếp tục chém hạ những thanh đao khác.

Đám sát thủ chắc chắn không thế ngờ tới tình huống này, độ sắc bén kinh người cùa các loại vũ khí đã nhanh chóng phá tan niềm tin sát phạt trong chúng. Tiếng huýt gió lại vang lên lộng óc, đám sát thù lập tức rút lui, chớp mắt đã mất hút trong rừng sam đỏ rậm rạp.

Đường mòn Sam Đỏ lại tịch mịch như chưa hề có chuyện gì. Mọi người vừa nghiêng ngó dè chừng, vừa tiến sát vào nhau. Trong lúc di chuyển, Nhậm Hoả Cuồng tiện chân đá vàng một xác chết ra, đưa mũi chân lật lên lật xuống thanh đao cùa hắn, rồi khẳng định:

– Đây là chính là nhừng kẻ trong hội Minh tử tiêm đao dà vây giết chúng ta trong thị trấn

Lô Nhất Khí không đi về phía mọi người, mà ngồi thụp xuống, hết nhìn cây súng đứt cụt trên tay, lại quan sát đám linh kiện của khấu pạc hoọc đang vương vãi trên mặt tuyết, không biết đang nghĩ ngợi điều gì. Song chắc chắn không phải là đang tiếc rẻ.

– Đi thôi, lần đột kích nàv chứng tỏ chúng ta đã ở rất gần mục tiêu, cùng cho thấy đối phương rất tự tin có thể tự khai quật dược bảo bối. Mọi người phải nhanh lên! Một khi bảo bối rơi vào tay chúng, muốn cướp lại còn khó hơn lên trời! – Lỗ Nhất Khí giục giã với giọng điệu và thần thái điềm tình lạ kỳ, song trong thâm tâm giằng xé muôn mối, gân mạch trên trán co giật liên hồi. Vừa nhìn vào khẩu súng vỡ tan tành, cậu lập tức nhận ra, ngay từ đầu mình đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Suy nghĩ của cậu chỉ dừng lại ở Kim gia trại, song thực chất đối phương đã giáng bẫy cậu ngay từ trong thị trấn.

Trong cuộc vây giết trong thị trấn, đối thú kỳ thực không hề có ý đồ lấy mạng cậu, mà có một dụng ý sâu xa khác. Trong cuộc tấn công đó, đao thủ đã chém vào khấu súng trường, và cũng đâm trúng khẩu pạc hoọc ở trong lần áo bông, nhưng lúc đó cậu chỉ cảm thấy có gì đó bất thường, đặc biệt là khi chạm tay vào bề mặt trơn bóng của khẩu pạc hoọc. Song trong vụ giao đấu vừa rồi, có thể thấy súng trường hay súng lục đều bị phá huỷ dễ dàng trước dường đao sắc bén của đối thủ. Vậy lần trước tại sao cậu vẫn được bình an vô sự? Trên khâu pạc hoọc bóng loáng như gương thậm chí không có lấy một vết trây xước? Chỉ có một cách giải thích duy nhất, đó là màn tập kích hôm đó chỉ là diễn kịch, nhằm mục đích để một người hoặc vài người nào đó có đầy đủ lý do nhập bọn đi cùng.

Đoàn người đã di chuyển nhanh hơn. Khu rừng càng vào sâu càng rậm rạp âm u. Chẳng bao lâu, con đường mòn cũng biến mất, họ chỉ còn cách luồn lách giữa các gốc cây mà đi. Song cũng không thể len lỏi quá xa, giữa những gốc cây to bắt đầu xuất hiện rất nhiều cây bụi mỗi lúc một rậm, đan xen chằng chịt, bịt kín mọi khoảng trống. Cuối cùng, đến cả chỗ đặt chân cũng không thể tìm ra.

May mà còn có Tùng Đắc Kim và cây rìu trong tay gã. Gã vốn có sức khoẻ phi thường, lại thêm lưỡi rìu sắc bén vô song, nên dễ dàng phạt quang đám cây rối cản đường.

Nhậm Hoả Cuồng chau tít đôi mày, dường như bắt đầu hoài nghi con đường mà ông ta đã chỉ. Nếu không phải Lỗ Nhất Khí cũng quyết định chọn hướng này, có lẽ ông ta đã bỏ cuộc. Nhưng ông ta đang thắc mắc không hiểu tại sao Lỗ Nhất Khí lại biết được lối này? Ông ta quay đầu nhìn Thuỷ Băng Hoa đang đi sát sau lưng Lỗ Nhất Khí, nghĩ thầm trong bụng: “Cô ả này trước mặt mọi người bảo là không biết đường, nhưng sau lưng chắc chắn đã âm thầm mách nước cho Lỗ Nhất Khí!”.

Họ vừa phát quang cây bụi vừa tiến lên khoảng hơn một dặm nữa thì cánh rừng kết thúc, trước mặt họ thoắt nhiên bừng sáng, một con dốc rộng rãi trải dài ngay phía trước, dọc hai bên dốc núi rặt một loại cây bụi um tùm rậm rạp cao hơn đầu người, mọc đan xen kín mít tới mức một con thỏ cũng không chui lọt. Ngược lại với cảnh tượng này, trên dốc núi hoàn toàn trơ trụi, chỉ lác đác vài cây sam to lớn mọc thừng thững ở đó. Chúng cao lớn một cách dị thường, tuổi cây hẳn củng vài trăm năm.

Từ đây phóng mắt nhìn ra xa, trong những dãy núi nhấp nhô trùng điệp trước mặt có một vài ngọn núi nổi bật khác thường, bởi lẽ chúng không có cây cối rậm dày như những ngọn núi bên cạnh, mà trọc lốc, phủ đầy tuyết trắng xoá, thoạt nhìn chẳng khác gì một người đàn bà loã thể nằm gập gối tênh hênh ở đó.

– Chính là chỗ đó! Mẹ nó chứ, sao mà giống thế! – Phó Lợi Khai kêu toáng lên, vẻ phấn khích khác thường, không hiểu là do tìm thấy nơi chôn giấu bảo bối, hay vì hình thù ngọn núi quá truyền thần.

Lỗ Nhất Khí cũng rất đỗi vui mừng. Cậu đã cảm nhận được ở giữa những ngọn núi đặc biệt kia có một làn khí đang vấn vít vu hồi, lớp lớp lan toả, tràn trề ánh vàng rực rỡ đủ mọi sắc độ. Có sắc vàng thẫm, có sắc vàng trắng, có sắc vàng chói, có sắc vàng đỏ, có sắc vàng tía, dào dạt phun trào như suối nguồn. Trong làn khí đó, trong ánh vàng kia, Lỗ Nhất Khí đã nhận ra một thứ rất đỗi quen thuộc đang chờ đợi cậu.

Dốc núi rất dài, trải rộng thênh thang, dốc nọ nối hên dốc kia, chạy thẳng tới giữa hai ngọn núi Đầu Gối, chỉ cần di theo đó là có thể tới nơi.

Không biết thứ gì đã kích thích Phó Lợi Khai khiê’n gã chợt trở nên lắm chuyện:

– Chúng ta men theo dốc núi mà đi! Nhìn rõ chưa? Chúng ta sắp đi vào cái lỗ ấy của cô ả đấy! Hề hề! – Gã vừa nói, vừa ti hí đôi mắt liếc về phía Thuỷ Băng Hoa bộ mặt càng méo mó đến quái dị.

– Ngươi muốn chui vào lỗ đít phải không? Nếu còn muốn đi, hãy ngậm ngay cái lỗ miệng y như lỗ đít của ngươi lại! – Nhậm Hoả Cuồng trừng mắt chửi Phó Lợi Khai.

Phó Lợi Khai bị chửi đến mất mặt, cũng giận dữ mà trả đũa:

– Ta không đi là được chứ gì! Nơi đó là nhà của ông, nơi đó có mồi của ông, ông không phải khư khư mà giữ! Ở đây cũng chỉ có mình ông là thích thụt thò rúc lỗ thôi!

Nhậm Hoả Cuồng không thèm đếm xỉa tới Phó Lợi Khai nữa, ông ta biết mình chửi không lại tay lái gỗ. Trong khu rừng này, chỉ có đám lái gỗ suốt ngày hò hét bán mua là chửi ngoa nhất. Bọn họ tiếp xúc với đủ dạng con buôn đến từ khắp chốn, kiểu chửi của vùng nào cũng học dược vài câu.

Phó Lợi Khai cũng chỉ chửi một câu rồi thôi, không phải là vì Nhậm Hoả Cuồng không tiếp tục đôi co, mà vì ông ta đang có một hành động kỳ lạ khiến gã nổi trí tò mò. Nhậm Hoả Cuồng đang quan sát kỹ lưỡng một thứ gì đó trong cánh rừng phía sau, hết đứng lên lại ngồi xuống, còn đưa tay vạch vẽ rối loạn.

Lỗ Nhất Khí cũng bị thu hút, bởi động tác của ông ta rất giống với kỹ pháp Định cơ trong Lục công của Ban môn.

– Đã có người tới đây trước chúng ta. Họ đi theo con đường khác chúng ta, phương pháp cũng khác, song chắc chắn họ đã tới trước! – Nhậm Hoả Cuồng nói.

– Ông không phải là thần tiên, làm sao chỉ vạch vài nhát mà biết được sự việc trước đó? – Tùng Đắc Kim đương nhiên không tin, gã cảm thấy ngoài cách phạt cây mở đường, không còn cách nào khác để tới đây được.

– Ngươi thì hiểu cái gì! Hạt cây sam đỏ rụng xuống, đương nhiên mọc nhiều nhất bên dưới phải là cây sam đỏ con đúng không? Nhưng ngươi nhìn trong đám cỏ dại giữa các gốc sam đỏ xem, có được mấy cây sam đỏ con? Cây bụi chắc chắn do con người cố ý trồng, nhưng chỉ là chướng ngại vật chứ không phải là khảm diện, bởi lẽ người trồng cũng biết rằng, chỉ cần có người đến phá, e rằng vật cản này về sau sẽ không cần dùng đến nữa.

Nghe lời Nhậm Hoả Cuồng phân tích, mọi người đều gật đầu lia lịa. Đúng vậy, dù là bọn họ hay đối phương, một khi đã đến đây, chừng nào chưa lấy được bảo bối thì quyết không bỏ cuộc. Nên về sau, đám cỏ rối này cũng sẽ trở nên vô dụng.

– Nhưng đám cây bụi mọc kín rừng sam đỏ chỉ có thể ngăn cản được thợ rừng, ngựa buôn bình thường, chứ không thể ngăn cản được cao thủ. Tức là chỉ có thể ngăn cản được con đường bên dưới mà không thể ngăn

cản được con đường phía trên. Mọi người nhìn mà xem, trên ngọn cây kia gãy mất hai cành nhỏ, đoạn giữa thân cây bên cạnh tróc mất một mảng vỏ, cho thấy đã có người tới đây bằng con đường đó.

– Lại là treo dây phi thân? – Lão mù lập tức đưa ra suy đoán.

– Còn nữa, hãy nhìn xuống bên dưới, những gốc cây nhỏ được sắp xếp theo cách cục “rào trúc cắm nghiêng” tiêu chuẩn, tuy có thể ngăn cản con người, song không ngăn cản được các loài động vật nhỏ. Bởi vậy không loại trừ động vật nhỏ và những người hình thể gầy gò có thể luồn qua mà vào được.

Lỗ Nhất Khí lập tức phát giác Nhậm Hoả Cuồng vừa nói ra một từ rất chuyên nghiệp – cách cục “rào trúc cắm nghiêng”. Đây là một khái niệm có liên quan đến bài trí không gian trong kỹ nghệ của nhà họ Lỗ, vận dụng một cách tổng hợp mối quan hệ tương hỗ giữa phải trái trước sau, khiến tường rào thoạt nhìn có vẻ dày đặc kín mít, hoặc khe hở rất nhỏ, song trên thực tế, giữa chúng vẫn có khoảng cách nhất định.

Nhưng kỳ lạ là ở chỗ không có ai tỏ ý thắc mắc về khái niệm này, mà đều theo phản xạ đưa mắt nhìn về phía những gốc cây bụi rối loạn phía sau. Như thế có nghĩa là tất cả những người có mặt đều hiểu rõ khái niệm này. Hiểu được khái niệm này chỉ có hai loại người, thứ nhất là đệ tử của Ban môn; thứ hai là những môn nhân của họ Chu đã nghiên cứu kỹ nghệ trong “Ban môn” nhằm đối phó với người của Ban môn.

Mớ bòng bong rối loạn trong đầu Lỗ Nhất Khí nhanh chóng được sắp xếp ngay ngắn, phạm vi hoài nghi cũng mau chóng thu hẹp lại. Giờ đây cho dù chưa thể nhổ được cái gai chính xác, song chí ít cũng biết được bước tiếp theo nên làm gì. Cậu quay đầu nhìn về phía ông thợ rèn, và phát hiện ông ta cũng đang nhìn mình, hai người bèn nhìn nhau mà cười.

Họ vẫn phải tiếp tục tiến về phía trước. Song vừa bước xuống sườn dốc vài bước, Thuỷ Băng Hoa đột nhiên biến sắc mặt, kêu lên một tiếng đầy kinh sợ:

– Dừng lại! Sườn núi có khảm diện!

Tất cả lập tức khựng ngay lại, đứng yên bất động.

Quỷ Nhãn Tam từ từ ngồi thụp xuống, rút cây xẻng sau lưng ra, hớt từng lớp tuyết ở phía trước sang một bên, song chẳng nhìn thấy gì ngoài tuyết. Hắn cứ xúc gạt cho tới khi chạm đến tận mặt cỏ, nền đá, nhưng vẫn không phát hiện ra điều gì khác thường.

– Làm gì có! Bà chị bị bẫy thú kẹp phải chân à? – Quỷ Nhãn Tam quay người nói với Thuỷ Băng Hoa.

Thuỷ Băng Hoa cũng ngồi thụp xuống, đưa tay mò mẫm xung quanh bàn chân, vừa sục sạo trong tuyết, vừa đáp lời Quỷ Nhãn Tam:

– Không phải là đồ vật! Anh nhìn kỹ lại mà xem, hình như có chừng non nửa lớp tuyết bên dưới cứng rắn khác thường?

Quỷ Nhãn Tam lại chăm chú quan sát lần nữa, Lỗ Nhất Khí và những người khác cũng đều thụp cả xuống lần dò kỹ lưỡng. Quả nhiên lớp tuyết phía dưới đặc biệt cứng rắn, cũng không phải do tuyết tan thành nước rồi sau đó tiếp tục đông cứng lại thành băng, mà có vẻ như tuyết xốp đã bị người ta cố ý nện thật chắc.

– Đây là…

Lỗ Nhất Khí đang đứng sát Thuỷ Băng Hoa, câu chậm rãi nói ra hai chữ, ý muốn để Thuỷ Băng Hoa tiếp tục nói ra những gì cô ta đã phát hiện.

– Bố trí theo hình! – Thuỷ Băng Hoa còn chưa kịp lên tiếng, Phó Lợi Khai ở phía sau đã lập tức cướp lời.

– Đúng vậy, sườn dốc không có bậc, bước thứ nhất đập, bước thứ hai xoay, bước thứ ba trượt, bước thứ tư lăn, lực lăn ở bước cuối sẽ khiến người ta ngã lăn trên sườn dốc, lăn một vòng lại đứng dậy, tiếp tục một vòng tuần hoàn đập, xoay, trượt, lăn mới, càng ngã càng nhanh, càng ngã càng nặng. Cứ thế hết ngã lại lăn đến tận chân dốc, cho đến chết cũng chưa kịp hiểu có chuyện gì xảy ra! – Thuỷ Băng Hoa vẫn chưa kịp lên tiếng, lại đến lượt Nhậm Hoả Cuồng thao thao một thôi một hồi. Trong lúc nói, Lỗ Nhất Khí nhìn thấy trong mắt ông lấp loé những tia sáng đầy hưng phấn.

– Điên phốc đạo?

Lão mù và Quỷ Nhãn Tam gần như đồng thanh kêu lên.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom