Cập nhật mới

Dịch Full Chuyện Tình Vịnh Cedar 5: Vẫn Mãi Yêu Anh

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Chuyện Tình Vịnh Cedar 5: Vẫn Mãi Yêu Anh

Chuyện Tình Vịnh Cedar 5: Vẫn Mãi Yêu Anh
Tác giả: Debbie Macomber
Tình trạng: Đã hoàn thành




Tác giả: Debbie Macomber

Thể loại: Truyện Khác

Giới thiệu:

Debbie Mber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạnvà Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật.
Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến.
Vẫn mãi yêu anh chứa đựng sự tương giao giữa rộng mở và bí ẩn. Lần đầu tiên trong cả series, người đọc thấy mình bị thách thức chứ không chỉ tận hưởng. Bởi khói ám của sự nghi ngờ bỗng nhen nhóm trong không gian tươi tắn thường thấy của Vịnh Cedar. Mọi việc bắt đầu khi những giỏ quà và bưu thiếp nặc danh thình lình xuất hiện một cách khó hiểu trước thềm nhà McAfee. Dò theo dấu vết của sự thách thức, Roy bị dẫn vào miền ký ức, với bao giằng co giữa hiện tại ấm áp và quá khứ chông chênh, với bao trăn trở giữa con người hưởng thụ và con người phấn đấu. Tình yêu và dũng khí – hai chi lưu mãnh liệt đó ào ạt đổ vào không gian Vẫn mãi yêu anh, như một dòng sông vừa nhận được thác nguồn bỗng phải đối mặt với một địa thế hiểm nghèo. Liệu Roy có vượt lên được dòng cuồng lưu nguy hiểm mà đầy cám dỗ ấy không?
“Như mọi khi, Mber trao tặng bạn đọc món quà dạt dào tình cảm… làm hài lòng độc giả trung thành cũng như những độc giả mới.”
Publishers Weekly
Những lời ca ngợi dành cho tiểu thuyết của Debie Mber
“Đây là một câu chuyện đẹp, sâu sắc và hết sức cảm động trong mỗi cửa hiệu và cửa hàng ở vịnh Cedar. Và, luôn có bạn mới để gặp, còn những người bạn cũ thì hân hoan chào đón khi ta lang thang trên vỉa hè thơm ngát hương hoa, bóng cây tỏa rợp. Chúng tôi, những vị khách đến với thế giới kỳ diệu này, rất biết ơn người hướng dẫn viên tuyệt vời, Debbie Mber, vì đã kể cho chúng tôi nghe về những người bạn của bà, và những câu chuyện về cuộc đời họ. VẪN MÃI YÊU ANH chứa đựng vừa đủ tình yêu và tiếng cười, nỗi buồn và sự thanh thản của tâm hồn, sự lãng mạn và nồng nàn, thấm đẫm tình cảm gia đình. Mỗi quyển sách của Mber đều là một tuyệt tác, và “Vẫn mãi yêu anh” cũng không ngoại lệ”.
- ReaderToReader
“Debbie Mber tặng những độc giả trung thành của mình một chiến thắng khác”.
- Armchair Interview
“Câu chuyện kể của Mber luôn được chào đón như một người bạn thân thiết”.
- Publishers Weekly
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: Chương 01





1
Corrie McAfee đang lo lắng và chị biết rằng Roy, chồng mình cũng vậy.
Không biết đó là ai nhỉ? Từ tháng Bảy, thám tử Roy bắt đầu nhận được một loạt các tấm thiệp không đề tên người gửi mà nội dung không hẳn là những lời đe dọa, song rõ ràng nó khiến người nhận phải ăn không ngon ngủ không yên.
Đầu tiên là thông điệp được gửi đến văn phòng nói về sự ăn năn hối tiếc. Tiếp theo là một vài thông điệp khác rải rác suốt tuần. Corrie đã đọc kỹ không sót một tấm thiệp nào đến mức chị có thể nhớ nội dung từng chiếc một. Tấm thiệp đầu tiên viết: “Ai cũng có điều gì đó phải ăn năn. Có điều gì anh đã làm và ước mình có thể làm lại không? Hãy nghĩ về điều đó”. Không bao giờ có chữ ký người gửi trên những tấm thiệp này và chúng được gửi rải rác từ các địa điểm khác nhau. Những thông điệp bí ẩn cứ vẩn vơ trong tâm trí chị. Thời gian trôi qua mà vẫn chẳng đi đến đâu, Corrie thấy mình dần chìm vào mông lung, y như hồi mới nhận tấm thiệp đầu tiên, dù bây giờ đã là tháng Mười.
Tiếng những giọt cà phê tí tách rơi xuống cốc làm Corrie giật mình, tạm quên những lo âu - chị đưa mắt nhìn qua ô cửa rộng trông ra vịnh Cedar, Washington. Làm thư ký và trợ lý của Roy cũng có cái lợi riêng, nhưng trường hợp này lại có những bất lợi. Có những chuyện không biết lại tốt hơn, và điều đó đúng với Corrie lúc này. Hẳn chị đã không phải thao thức hằng đêm nếu không biết gì về những tấm thiệp bí ẩn kia.
Cho dù Roy cố giấu thì chị vẫn có thể biết, vì tấm thiệp mới rồi được đưa tới tận cửa nhà của hai vợ chồng thay vì gửi tới văn phòng như mọi khi. Một buổi tối muộn, có người đã tới tận cửa nhà khi Roy và Corrie đang mời khách dùng cơm tối. Họ mở cửa và thấy có người nào đó đã để một giỏ hoa quả cùng lời nhắn. Một cảm giác lành lạnh chạy dọc sống lưng Corrie khi chị nghĩ rằng kẻ giấu mặt đã biết nơi ở của hai vợ chồng.
“Cà phê đã pha xong chưa em?”. Roy hỏi vọng ra từ trong văn phòng. Tất nhiên chị chưa thể pha xong nhanh như vậy.
“Anh chờ chút đi chứ!”. Corrie không muốn gắt với chồng và chị vốn không phải người nóng nảy, song những điều bí ẩn gần đây khiến chị không khỏi bồn chồn. Corrie thở dài, rót cà phê ra tách và mang vào cho Roy, những làn khói bay lên nghi ngút.
“Thôi được, chuyện là thế này”, chị vừa nói, vừa đặt tách cà phê lên góc bàn. “Chúng ta cần phải nói chuyện”.
Như thể chẳng có gì phải lo nghĩ, Roy dựa vào ghế, tay đan vào nhau, đặt ở sau đầu. Họ đã cưới nhau được 27 năm, cho đến giờ Corrie vẫn thấy Roy hấp dẫn như hồi chị gặp anh ở trường đại học. Hồi đó Roy ở trong đội bóng của trường Đại học Washington và mọi người thường ca ngợi anh là chàng sinh viên của khu ký túc. Anh cao to, vai rộng, cơ bắp săn chắc và dáng người cứng cáp. Corrie cảm thấy hơi ghen tị vì dường như anh luôn giữ được vóc dáng như vậy mà chẳng cần chút nỗ lực kiêng khem gì. Mái tóc đen, mỏng của anh đã điểm bạc, nhưng điều đó càng làm tăng thêm vẻ đạo mạo cho người đàn ông điển trai này.
Trong số tất cả những cô gái anh hẹn hò hồi ở đại học, anh đã phải lòng Corrie. Tuy vậy, chưa hề có một cuộc tán tỉnh dễ dãi nào. Họ chia tay hơn một năm và khi quay lại, cả hai đã nhận ra rằng họ yêu nhau và tình cảm của họ bền chặt biết nhường nào. Không lâu sau khi tốt nghiệp, hai người đã kết hôn và sau nhiều năm, tình yêu của họ đã nếm trải đủ cả thử thách lẫn niềm vui hạnh phúc.
“Nói về điều gì cơ?”. Roy thờ ơ hỏi.
Sự thờ ơ đó không làm Corrie nản chí. Chồng chị đã biết rõ chị đang nghĩ gì. “Tin nhắn QUÁ KHỨ CÓ CÁCH ĐỂ SONG HÀNH CÙNG HIỆN TẠI có gợi cho anh điều gì không?”. Corrie ậm ừ, vừa nói vừa ngối xuống chiếc ghế dành cho khách hàng. Chị muốn chồng biết rằng mình không bỏ cuộc dễ dàng. Chị sợ rằng anh sẽ giả vờ tỏ ra không quan tâm lắm đến những tấm thiệp. Có vẻ như anh muốn ra sức làm chị nhụt chí, ngừng tìm hiểu về những rắc rối đang diễn ra. Roy nhíu mày:
“Những thông điệp đó chẳng có gì liên quan đến em nên đừng để ý đến chúng làm gì”.
Câu trả lời của chồng làm Corrie bực mình.
“Sao anh có thể nói thế được chứ. Những gì xảy ra với anh đều ảnh hưởng tới em”.
Anh định tranh cãi với vợ, nhưng sau từng ấy năm chung sống, anh biết rằng Corrie không dễ thỏa hiệp.

“Anh không biết phải nói với em thế nào. Anh đã có kẻ thù, đúng, anh rất tiếc vì điều đó, nhưng ai mà chẳng có kẻ ghen ghét hả em?”.
Roy đã từng là thám tử của Cục Cảnh sát Seattle song phải về hưu sớm vì chấn thương ở lưng. Lúc đầu Corrie rất vui sướng vì chồng được ở nhà, chị hy vọng họ có thể đi du lịch và thực hiện những dự định của mình, song mọi thứ không diễn ra như vậy. Roy đã có thời gian rảnh nhưng tài chính gia đình lại gặp khó khăn khi Roy về hưu non. Thu nhập của họ đã bị giảm đi ít nhất 20%. Để tiết kiệm chi tiêu, họ đã chuyển từ Seattle qua Puget Sound về khu dân cư của vịnh Cedar. Giá cả ở hạt Kitsap ở mức vừa phải, và cuộc sống ở đây cũng bớt hối hả hơn. Khi công ty nhà đất giới thiệu cho họ ngôi nhà ở số 50 đường Harbor, với ngọn đèn lớn trước cửa và không gian thoáng rộng, Corrie biết chắc rằng ngôi nhà này sẽ là sự lựa chọn của mình.
Từ một thành phố sầm uất chuyển đến nơi tĩnh lặng hơn không đến nỗi khó thích nghi như Corrie lo lắng. Người dân trong khu phố cũng dễ chịu và Roy cùng Corrie cũng kết thân được với vài người bạn - đặc biệt là nhà Beldon - nhưng chủ yếu họ vẫn sống khép kín, mức độ thân thiết cũng chỉ dừng lại ở chỗ biết tên hàng xóm và vài lời chào hỏi.
Corrie thất vọng vì từ khi về hưu, Roy trở nên thao thức không yên. Tâm trạng của anh nói lên sự chán chường và anh thường hay gắt gỏng hơn. Mọi thứ bắt đầu thay đổi khi sau khi được Corrie khuyến khích, anh quyết định thuê văn phòng và hành nghề thám tử tư. Công việc khiến chồng cô bận rộn và thấy ngày ngắn lại. Anh chỉ nhận những vụ án phù hợp với mình. Corrie tự hào về khả năng của chồng cũng như thành công của anh và cách anh quan tâm tới khách hàng. Cả cô lẫn chồng cô đều không ai nghĩ rằng một ngày, chính anh lại phải điều tra những bí ẩn của chính mình.
“Có lẽ anh đang gặp nguy hiểm”, Corrie ậm ừ lộ rõ vẻ lo lắng. Cô không che giấu cảm xúc của mình, không tự đánh lừa rằng mọi thứ vẫn ổn khi thật sự không phải vậy.
Roy nhún vai:
“Anh không nghĩ vậy. Nếu ai muốn hại anh thì họ đã làm từ lâu rồi”.
“Sao anh có thể nói như vậy?” Cô cao giọng. “Bob đang bị theo dõi và chúng ta đều biết Bob không phải mục tiêu của chúng. Bob đang lái xe của anh. Chúng nghĩ chúng đang theo dõi anh.
Bob Beldon cùng vợ là Peggy đang làm chủ cửa hàng Thyme - Tide. Bob đang mượn xe của Roy và gọi điện báo cho anh rằng chắc chắn mình đang bị theo dõi. Roy khuyên anh hãy chạy xe thẳng đến văn phòng cảnh sát trưởng. Ngay khi Bob lái đến văn phòng cảnh sát, cái đuôi đã bỏ cuộc. Mãi sau đó, Roy và Corrie mới hiểu ra rằng kẻ theo dõi Bob đã tưởng nhầm đó là Roy.
“Bức thư nói rằng chúng ta sẽ chẳng gặp nguy hiểm gì cả!”. Roy nhắc nhở vợ.
“Tất nhiên! Chúng muốn chúng ta nghĩ như vậy”, Corrie lý luận. “Kẻ đang làm điều này muốn chúng ta chủ quan mất cảnh giác mà”.
“Này, Corrie...”.
Nhưng chị đã cắt ngang lời chồng, không cho chồng có thêm cơ hội trấn an:
“Chiếc giỏ đó được đưa tới tận cửa nhà ta. Kẻ lạ mặt đã đi đến tận cửa nhà ta và để nó lại và giờ anh cho rằng không có gì phải lo lắng sao?”. Corrie cao giọng và nhận ra rằng mình khó mà kiểm soát được cảm xúc. Chị mệt mỏi vì lo âu, vì chờ đợi tin nhắn tiếp theo, hoặc những gì tồi tệ hơn nữa, mệt mỏi vì mỗi sáng đôi mắt thâm quầng cay xè vì mất ngủ. Cảm giác đầu tiên vào mỗi sáng của chị là lo sợ điều gì sẽ xảy ra trong ngày hôm nay.
Chiếc giỏ đã được gửi đến một tuần rồi, và chúng ta không thấy gì tiếp theo”. Roy nói với hy vọng làm vợ nguôi ngoai. Nhưng cũng chẳng ăn thua gì.
“Không có thư mới trong hộp thư, đúng không?”. Anh hỏi, và chị cảm nhận được sự căng thẳng ẩn sau đó.
“Không ạ”, Corrie đã thu thập các thư từ, xem qua mọi thứ và đặt xấp hóa đơn cùng giấy tờ lên bàn.

Roy gật đầu như thế muốn nói. “Vậy thì có gì mà em phải lo lắng nữa nào?” “Anh Roy!”. Corrie nói, cố giữ bình tĩnh. “Em không nhớ đêm cuối cùng mình được ngủ ngon giấc là lúc nào. Cả anh cũng có ngủ được đâu!”.
Anh không đồng tình cũng chẳng phản đối.
“Chúng ta không thể tiếp tục giả vờ rằng mọi thứ vẫn ổn”. Khuôn mặt điển trai của Roy cau lại, anh nói cộc lốc: “Làm được gì, anh đã làm rồi”.
“Em biết, nhưng bấy nhiêu chưa đủ. Phải làm một cái gì đó”.
Corrie không phải chuyên gia trong lĩnh vực điều tra nhưng chị biết đã đến lúc họ phải nhờ sự giúp đỡ từ ai đó.
“Anh cần nói chuyện này với ai đó”. “Ai?”. Anh hỏi.
Người duy nhất Corrie có thể gợi ý là Cảnh sát trưởng khu vực. “Troy Davis...”.
“Đó không phải là ý kiến hay đâu”. Roy nói. “Mọi thứ diễn ra trước khi chúng ta chuyển tới vịnh Cedar kia mà”.
“Sao anh có thế chắc chắn thế?”
“Hối tiếc. Mọi tấm thiệp đều nhắc đến sự ăn năn, hối tiếc. Không một thám tử nào không có điều phải hối tiếc - về những việc đã làm và những gì chưa làm được hoặc đáng lý ra phải xử lý theo kiểu khác”
Corrie nghĩ. “Ai chẳng có những điều hối tiếc, không cứ phải là thám tử”. Tuy nhiên, chị im lặng không nói.
“Thông điệp cuối cùng nói rằng: TÔI CHỈ MUỐN ÔNG NGHĨ VỀ NHỮNG GÌ ÔNG ĐÃ LÀM. ÔNG KHÔNG CÓ CHÚT HỐI HẬN NÀO SAO? Anh đoán nó liên quan đến những việc anh đã làm - bắt người, tìm bằng chứng chống lại ai đó - khi anh còn làm thám tử ở Seattle”.
Giọng Corrie trầm xuống. “Anh đã từng trong quân ngũ nhiều năm. Chắc chắn có một hoặc hai vụ án nào đó làm anh nhớ nhất”.
Roy lắc đầu. “Em à, anh cũng nghĩ đến vấn đề đó rồi? Em đọc qua các ghi chép của anh, trở lại những năm đầu trong nghề của anh sẽ thấy chẳng có gì cả”.
“Em không biết... Anh chưa kể gì với em. Anh gạt em ra khỏi công việc”. “Anh muốn tốt cho em”.
“Đừng?” Corrie nghẹn ngào cố kìm nén cơn giận. “Em cần được biết – em phải biết. Anh không thấy những điều này khiến em trở nên thế nào sao?”.
Roy cúi người về phía trước, chống khuỷu tay xuống mặt bàn, đưa tay ôm trán. Anh thì thầm. “Anh xin lỗi, anh đã cố nghĩ nát óc nhưng không thể nghĩ ra được ai đang theo dõi mình”.

“Nhưng chắc chắn phải có một vụ nào đó... Một vụ án anh đã quên chăng?”. Lộ rõ vẻ bỏ cuộc, Roy lại lắc đầu.
“Rõ ràng anh có một vụ nào đó. Anh đã trừ khử nhiều tên giết người, và trong nhiều năm cũng có những nỗi sợ hãi tương tự nhưng anh không thể nghĩ ra ai đang làm những điều này. Là ai cơ chứ?”. Anh nói như tự hỏi chính mình.
“Ý anh là sao?”. Corrie đã bình tĩnh hơn. Vo viên mảnh giấy trong tay, chị hít một hơi lấy lại bình tĩnh.
“Những hạng người anh đã từng đụng độ không phải là những kẻ chữ nghĩa. Nếu muốn trả thù, chúng đã không gây phiền phức bằng những tấm thiệp”.
“Họ hàng của những tội phạm anh đã tống vào tù thì sao? Hay... một nạn nhân?”. Những ý nghĩ khiến chị chợt bừng tỉnh.
Anh khẽ nhún vai. “Có thể”.
“Vậy chúng ta nên làm gì bây giờ?”. Tình trạng luôn sống trong cảnh bị rình rập, không biết mọi thứ sẽ thế nào khiến cho Corrie bồn chồn không yên.
“Chẳng làm gì cả”.
“Chẳng làm gì là sao?”. Cô không mong chờ câu trả lời đó. “Sao chúng ta sống như vậy được?”.
“Chúng ta phải chịu như vậy, tạm thời vào lúc này, đợi cho đến khi chúng mắc sai lầm. Sẽ có lúc đó em yêu ạ, anh hứa đấy. Đến lúc đó cơn ác mộng này sẽ chấm dứt”.
“Anh hứa nhé”. Corrie nhắc lại.
Roy âu yếm khẽ gật đầu. Để vợ thêm yên tâm, anh dang cánh tay ra để Corrie nắm lấy. Đôi mắt anh nhìn sâu vào mắt vợ, để chị cảm nhận được tình yêu và sự an ủi của chồng. Với cô lúc này, thế là quá đủ. Corrie nghĩ mình bị xúc động mạnh là do quá căng thẳng, mệt mỏi. Mọi thứ sẽ trở nên nhẹ nhõm hơn sau một giấc ngủ ngon.
Cánh cửa văn phòng hé mở, Roy đứng dậy khỏi bàn. Kinh nghiệm nhiều năm làm thám tử khiến anh có những phản ứng tức thì.
“Bố, mẹ?”. Tiếng con gái chị vang lên phía ngoài văn phòng.
“Linnette”. Corrie thốt lên, trong niềm vui sướng dường như vẫn phảng phất nét căng thẳng. “Bố mẹ ở trong này”.
Linnette đi vào phòng rồi dừng bước, vẻ thảng thốt hiện trên khuôn mặt. Cô có dáng người nhỏ nhắn cùng mái tóc và cặp mắt đen giống mẹ. Cũng giống Corrie, Linnette luôn là học sinh xuất sắc trong trường. Vì là con gái của một thám tử, cô luôn được bao bọc, bảo vệ một cách kỹ lưỡng. Việc học hành khiến cô không tiếp xúc nhiều với cuộc sống xã hội, nhưng Corrie hy vọng rằng điều đó sẽ thay đổi. Linnette chưa bao giờ thực sự có người yêu.
“Con không quầy rầy bố mẹ đấy chứ?”. Linnette đưa ánh nhìn thăm dò về phía Corrie và Roy. “Mọi thứ đều ổn chứ ạ?”.
“Ổn cả mà con”, Corrie vỗ về ôm lấy con. “Con của mẹ, sao lại không ổn nào?”.
Linnette rất nhạy cảm và hầu hết chẳng điều gì có thể qua mắt cô, nhưng may thay lần này dường như cô đã không để ý.
“Con đã tìm được một căn hộ”. Linnette vừa thông báo vừa nhảy tung tăng quanh căn phòng.

“Ở đâu vậy?” Corrie hỏi, hy vọng rằng nó ở trung tâm khu phố. Khi Linnette được nhận vào làm y tá ở Phòng khám vịnh Cedar, Corrie đã vô cùng vui mừng vì có con gái ở gần.
“Căn nhà đó ở lối rẽ ngay gần công viên Bến cảng”, cô tiếp tục. “Nó ở ngay cạnh nhà nghỉ Holiday”.
Corrie biết căn hộ này, vì ngày nào chị cũng qua đó khi đi bộ buổi chiều. Tòa nhà gần bến du thuyền, chỉ cách thư viện một quãng. Từ khu nhà hai tầng đó có thể ngắm ngọn đèn hải đăng và mặt nước tuyệt đẹp. Đối với Corrie, vị trí đó thật mỹ mãn.
“Bố hy vọng con không phải trả một khoản cao ngất ngưởng cho chỗ ở đó”. Roy thận trọng, nhưng Corrie có thể thấy được vẻ hài lòng ở chồng.
“Giá thuê ở đây so với giá ở Seattle vẫn còn rẻ chán mà bố”.
“Tốt”, Roy vẫn có thói quen bao bọc con gái. Tuy nhiên đã có lúc anh không biết thể hiện tình cảm của mình với các con thế nào, đặc biệt là với cậu con trai. Trong suy nghĩ của Corrie, hai bố con rất giống nhau. Mack thường làm bố phát cáu còn Roy thì thường chẳng trách mắng nổi con trai. Do sự căng thẳng giữa hai bố con nên họ thường tránh mặt nhau. Corrie không thích điều đó, đôi khi chị như mắc kẹt giữa hai bố con. May mà với Linnette - cô chị gái hơn hai tuổi thì tình hình lại ngược lại.
Linnette đang nói về căn nhà, ngày chuyển đến và công việc của mình tại phòng khám. Corrie cứ gật đầu tán thành nhưng thật ra chị chỉ nghe câu được câu chăng. Roy quay trở lại với công việc còn Corrie đã trở lại bàn, theo sau là Linnette.
Khi hai mẹ con sang phòng khác, Linnette nói với vẻ mặt trầm ngâm. “Mẹ, mẹ có chắc giữa bố mẹ mọi chuyện vẫn ổn chứ?”.
“Tất nhiên rồi, sao con lại hỏi vậy?”.
Cô con gái ngần ngừ. “Vừa rồi, khi con vào phòng, con thấy mẹ như sắp khóc, còn bố... đôi mắt bố rất đăm chiêu. Con chưa bao giờ thấy bố căng thẳng đến thế. Con không biết bố mẹ có chuyện gì”.
Corrie khẳng định. “Con đang tưởng tượng đấy thôi”. “Con thấy vậy thật mà”.
“Không có gì đâu con ạ. Chúng ta sẽ nói về điều này sau nhé”.
Cô con gái thừa hưởng sự bướng bỉnh của bố và Corrie không hề muốn nói cho con gái biết chuyện này. Có lẽ khi nào những chuyện này kết thúc, họ sẽ ngồi kể lại, cười đùa về nó trong những bữa ăn. Còn bây giờ, những tấm thiệp trêu ngươi kia không hề là chuyện bông lơn chút nào.
“Mẹ đánh rơi một bức thư kìa”, Linnette vừa nói vừa đánh mặt về phía mặt bàn.
Corrie khựng lại. “Đâu?”.
“Vâng, có một tấm thiệp rơi trên sàn nhà khi con bước vào. Con đặt nó trên bàn mẹ đó”.
Roy dường như đã nghe thấy câu chuyện và bước vào căn phòng. Ánh mắt anh gặp Corrie. “Đưa cho anh”, anh nói quả quyết như ra lệnh.
Một chút nghẹn ngào, Corrie bước tới nhặt tấm thiệp. Cô từ từ mở bức thư và đọc lời nhắn trong đó trước khi đưa cho Roy.
Lời nhắn được viết bằng chữ in hoa. “ANH ĐÃ NGHĨ KỸ CHƯA?”.
“Mẹ”. Linnette nài nỉ. “Mẹ hãy nói cho con chuyện gì đang xảy ra đi”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2: Chương 02





2
Bà Charlotte Jefferson Rhodes vừa làm bếp vừa vui vẻ hát, đằng sau lưng bà là một ổ bánh quế - món ưa thích của ông già Ben chồng bà. 60 năm sống độc thân khiến bà vẫn ngỡ ngàng khi ngẫm ra rằng mình đã kết hôn. Ở tuổi của bà, chẳng ai còn mong chờ tình yêu nữa, vậy mà vài năm trước, tình yêu đã gõ cửa trái tim bà như một bất ngờ thú vị.
“Có gì trong bếp mà thơm thế”, ông lão Ben hỏi vọng vào từ trong phòng khách. Ông gập tờ Bremerton vào sau khi đã hoàn thành phần trò chơi ô chữ. Chính khiếu ngôn ngữ và kiến thức rộng của ông đã gây ấn tượng với bà Charlotte. Bà còn yêu mến tính khiêm nhường của chống ở chỗ dù có năng khiếu như vậy nhưng ông luôn dùng bút chì để điền các ô chữ.
“Mẻ bánh đầu tiên sắp xong rồi đây”. Bà nói. Bà thích làm bánh, nhất là khi có ai đó ca ngợi tài nội trợ của mình. Ông lão Ben vẫn thường khen ngợi tài năng của vợ, nhưng ông thích bánh quế không có nho khô, trong khi bà Charlotte và con rể thì ngược lại. Để dung hòa sở thích của mọi người, bà thường chia chiếc bánh làm hai nửa.
Chồng bà là một người đàn ông điển trai, vẻ mặt có nét giống tài tử điện ảnh Romero và trẻ hơn bà bốn tuổi. Nhưng khoảng cách tuổi tác đó không hề ảnh hưởng đến hạnh phúc của đôi vợ chồng. Bà lão Charlott trông trẻ hơn cái tuổi 77 của mình. Khi còn trẻ, bà đã kết hôn với Clyde Jefferson vào những năm cuối của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ II. Vào thời đó, phụ nữ lấy chồng khi còn rất trẻ. Họ đã cùng nhau nuôi những đứa con khôn lớn ở vịnh Cedar. Con gái bà, Olivia là một thẩm phán và vẫn sống tại đây, còn cậu con trai, Will, đã chuyển tới Atlanta.
Cedar, nơi bà đã sống phần lớn cuộc đời mình, là một nơi khá náo nhiệt. Với dân số trên 7 nghìn người, thị trấn này đủ nhỏ để mọi người luôn thân thiện với nhau và đủ lớn để có đầy đủ cơ sở y tế.
Phòng khám vịnh Cedar sắp sửa khai trương vào giữa tháng Mười một. Bà Charlotte cảm thấy khá tự hào vì sự ra đời của trung tâm y tế này có sự giúp sức rất lớn của hai vợ chồng bà cùng những người bạn.
Ngay cả cô con gái Olivia cũng không nhận thấy nhu cầu về một trung tâm y tế vì bệnh viện thành phố Bremerton chỉ cách đó nửa giờ chạy xe với nhiều bác sĩ có tay nghề. Điều đó cũng đúng, nhưng bà Charlotte nhận thấy rằng vịnh Cedar cần phải có một trung tâm y tế với đầy đủ cơ sở vật chất để có thể giải quyết được những ca cấp cứu. Nửa giờ chạy xe có thể là cả một vấn đề sống còn với một ca mắc bệnh tim. Chồng bà cũng có cùng quan điểm đó và chính điều này đã nối kết họ với nhau, đặc biệt là sau khi họ bị bắt trong một cuộc biểu tình hòa bình. Khi ấy, trong phiên toà xét xử, cả thị trấn đều đứng ra ủng hộ việc làm của họ. Chỉ nghĩ lại cảnh mọi người và bạn bè vây quanh để bảo vệ mình cũng khiến mắt bà Charlotte ngân ngấn nước.
Nhưng bà tự nhắc nhở bản thân rằng dù gì đi nữa thì phòng khám cũng đã xây dựng xong với đội ngũ nhân viên trong đó có trợ lý là con gái của McAfee, Linnette.
Điện thoại reo vang, bà Charlotte liếc nhìn chiếc đồng hồ trong bếp, thoáng chút không hài lòng vì nghe ai đó lại gọi điện sớm như vậy vào một buổi sáng thứ Bảy cuối tuần êm đềm thế này, nhưng bà giật mình vì thấy rằng đã gần 10 giờ.
“Để em nghe máy”, bà vừa nói vừa với tay nghe điện thoại khi thấy con mèo đen Harry của mình đang nằm cuộn tròn trong lòng chồng. Biểu hiện đó của chú mèo cho thấy nó đã quen với ông chủ mới vì trước kia nó như vệ sĩ lúc nào cũng kè kè bên bà Charlotte và không thích một người khách nào viếng thăm. Phải mất nửa tháng nó mới quen với sự hiện diện của Ben và cũng phải qua từng ấy thời gian Ben và nó mới có thể trở thành người một nhà.
“Alô”, bà vui vẻ thưa máy. Clyde thường nói rằng bà Charlotte là con người của sự vui vẻ, bản chất con người bà là luôn hướng tới sự lạc quan. Khi mọi người có vẻ nhìn thế giới đầy một màu xám xịt, u buồn thì bà vẫn có thiên hướng tìm đến những điều tích cực trong cuộc sống. Tuy vậy, cũng như mọi người, bà đã từng nếm trải nhiều nỗi buồn chất ngất.
“Có bố cháu ở đấy không ạ?”. Tiếng một người đàn ông nhẹ nhàng cất lên. Và như để nói rõ hơn, anh ta tiếp. “Ông Ben Rhodes đấy ạ”.
“À, ông ấy đang ở đây. Stephen đó à?”. Bà vừa hỏi vừa cười dí dỏm.

“Không, cháu là David, cháu gọi từ California”.
“Chào David”, bà hồ hởi. “Dì lấy làm tiếc vì cháu không tham gia được tiệc cưới của dì và bố cháu. Mọi người ai cũng nhắc cháu”.
Con trai út của ông già Ben dường như chùn lại trước vẻ hồ hởi thân thiện của bà mẹ kế.
“Cháu ước gì mình đã có thể tham gia cuộc vui đó nhưng chắc là bố cháu cũng đã nói với dì là hôm đó cháu bận công việc quá”.
Ben chưa bao giờ nói với bà về sự vắng mặt của con trai và bà cũng chẳng bao giờ gây áp lực với ông bằng những câu hỏi về chuyện này. Bà chưa hiểu rõ lắm về mối quan hệ giữa ông và các con.
Ông hiếm khi đề cập đến vấn đề này và thường xuyên lái sang các chủ đề khác khi bà nhắc đến, vẫn bằng những cách rất từ tốn và lịch thiệp vốn là bản chất của ông.
“David à, cháu không biết là dì mong gặp cháu biết chừng nào đâu”.
“Cháu cũng rất mong được gặp dì đấy, dì Charlotte. Cháu cũng không ngờ về bố cháu. Ngay khi chuyến đến vịnh Cedar, ông đã có cơ hội ở gần với các con hơn, thế mà ông lại kết hôn. Cháu phải nói rằng đây đúng là một bất ngờ cho cả gia đình, và là một bất ngờ thú vị”
“Dì vô cùng hạnh phúc khi gặp được bố cháu”, Charlotte vui mừng thổ lộ với David Rhode. Khi cả Stephen và David đều không đến dự bữa tiệc cưới, bà đã sợ có rạn nứt gì đó trong mối quan hệ cha con - nỗi e sợ ấy càng hiện rõ khi ông Ben chẳng bao giờ muốn kể chuyện về hai đứa con. Nhưng trước những tình cảm hiện thời, có lẽ giữa họ không có vấn đề gì. David cũng đã tỏ ra là một thanh niên dễ chịu.
“Có bố cháu ở đấy không dì?”, anh hỏi lại
“À, có đây. Dì lại sa đà rồi. Dì sẽ gọi ông ấy ngay”. Charlotte đặt ông nghe xuống, Ben đã nhìn bà từ bao giờ.
“David gọi anh này”.
Ben nhẹ nhàng thả Harry cùng tờ báo xuống và ra nghe máy. “Nó có nói nó muốn gì không?”.
Cái nhíu mày của chồng làm bà bối rối. Cung cách của David rất lịch thiệp và không có điều gì biểu lộ sự căng thẳng trong gia đình.

Khi quay lại bếp, những điều khó hiểu khiến bà Charlotte dù không muốn tọc mạch cũng phải tò mò nghe lén câu chuyện của hai bố con.
“David à!”.
Giọng nói lạnh lùng của Ben khiến bà chột dạ vì nghe có vẻ như hai bố con là những người hoàn toàn xa lạ. Bà băn khoăn không biết có uẩn khúc gì ở đây. Một hiều lầm? Hay ác cảm đeo đẳng? Hay đơn giản chỉ sự xa cách quá lâu khiến câu chuyện của họ cũng nhạt nhẽo? Và tại sao chồng bà không nói gì với bà?
Sau câu chào hỏi không lấy gì làm mặn mà với con, ông im lặng một lúc. Charlotte chỉ nghe được một chiều của câu chuyện, có vậy thôi.
“Bố nghĩ rằng chúng ta đã chấm dứt chuyện này lâu rồi. Và câu trả lời là không, do vậy con đừng nói gì thêm nữa”.
Tiếp sau câu nói lại là một chuỗi im lặng kéo dài. Charlotte đến bên Ben, vòng tay qua ông bày tỏ sự ủng hộ và động viên. Chồng bà lẽ ra phải thấy vui vì David đã hỏi thăm và giờ đây bà có cơ hội được gặp gia đình chồng, mặc dù mới chỉ là qua điện thoại. Trước lễ cưới bà vẫn luôn lo lắng về sự phản đối của các con chồng. Trước đây, sự phản đối của Olivia đã trở thành rào cản lớn trong mối quan hệ của họ. Bà Charlotte đã bị tổn thương sâu sắc khi Olivia tỏ ra không tin tưởng bà. Tuy nhiên, hai cậu con trai dường như không có sự phản đối nào về mối quan hệ của bà.
“Để bố xem đã”. Ben vừa nói vừa gác ống nghe qua vai.
“Tháng tới David sẽ có chuyến công tác ở Seattle, nó có ý mời chúng ta bữa tối”.
Charlotte vui mừng. “Thế thì tốt quá!”.
Ben lại nhíu mày như thể ông chưa biết nói với con như thế nào, ông đáp với giọng thờ ơ.
“Chắc là được”.
Charlotte tỏ vẻ không hài lòng bằng cách thúc khuỷu tay vào mạng sườn chồng. Cho dù hai bố con không có quan hệ thắm thiết nhưng rõ ràng David cũng đang cố gắng xây dựng, ít nhất Ben cũng nên ủng hộ những nỗ lực đó.
Ben với tay lấy chiếc bút chì treo cạnh lịch và đánh dấu ngày giờ cuộc hẹn. “Chúng ta sẽ đi bộ tới bến phà Bremerton sau đó bắt tắc-xi tới nhà hàng”. Ben gác máy và không nói gì thêm nữa. Ben quay lại nói với vợ.
“Có thể em đã thấy rồi đấy, anh và con trai có một số điểm không hợp nhau”.

“Nó có vẻ là một thanh niên tốt dấy chứ”.
“Có thể”. Ben ậm ừ, vẻ mặt ông thật khó hiểu “Nhất là khi nó đòi hỏi một
điều gì đó”.
“Ồ”. Có thể David có ý đồ gì đó khi liên hệ với bố. “Anh có biết được nó muốn gì không?”. Bà sốt sắng. Nhưng Ben tỏ ra né tránh câu hỏi và Charlotte cũng biết rằng khó mà tìm hiểu thêm được.
Ben lắc đầu.
“Anh không hay hỏi David quá nhiều – Ngay khi nó bỏ mặc vợ và đứa con nhỏ cả năm trời để theo thư ký riêng. Cuộc hôn nhân thứ hai cũng chẳng bền lâu”. Ông trầm ngâm.
“Nói thẳng ra, anh thất vọng về David”. “Em rất tiếc”.
Tuy không nói ra nhưng con trai ruột của bà cũng là một nỗi thất vọng. Dù cả Olivia và Grace Sherman, bạn thân của con gái bà không hề nói điều gì nhưng bà cũng nghe cô cháu gái Justine bóng gió về những việc Will làm. Bà có nghe loáng thoáng về tình cảm của Grace với Cliff sau cuộc tình trên mạng với Will. Rõ ràng đây cũng không phải là lần đầu tiên bà nghe được những điều này. Georgia vợ Will đã nhiều lần nghi ngờ lòng chung thủy của chồng. Bà Charlotte không rõ con trai có tình cảm ong bướm thật hay chỉ là quan hệ làm ăn qua mạng. Bà không hay biết điều gì đang diễn ra để lý giải về hành vi của con mình. Ông Clyde chắc sẽ không thể ngậm cười nơi chín suối nếu biết con trai mình phản bội lại lời thề với vợ trong đám cưới.
Ben ậm ừ:
“Giá mà anh đã nói với nó là chúng ta không thể tham dự”.
“Nhưng chúng ta có thể mà. Em muốn gặp các con của anh”.
“Nó lúc nào cũng coi mình là trung tâm. Nó đâu còn ở cái tuổi đó nữa, đã trên 40 rồi chứ có ít đâu. Thế nên anh chỉ biết đổ cho là do nó ích kỷ. Con hư tại mẹ, bà Joan đã nuông chiều chúng quá. Khi chúng đang tuổi ăn tuổi lớn thì công việc thủy thủ lại choán hết thời gian, lúc anh nhận ra thì đã quá muộn. Đáng tiếc là cả hai đứa con trai của anh đều thiếu tính kỷ luật và tự chủ. Khi anh nhận ra điều đó thì chúng đã lớn hết cả rồi”.
Bằng giọng êm dịu, Bà Charlotte vỗ về chồng:
“Em chắc chắn chúng ta sẽ có một bữa tối thật vui vẻ và đầm ấm”.
“Anh không nghĩ như vậy”, Ben ủ rũ bác lại. “Nhưng chúng ta sẽ thực hiện điều đã hứa với David và cùng đến Seattle. Anh muốn em gặp các con, nhưng nếu em biết đôi nét về chúng chắc sẽ tốt hơn”.
“Các con em cũng nhiều lúc làm em phiền lòng mà”. Bà Charlotte thú nhận với chồng. Bà đã cảm thấy mất mặt khi biết rằng con gái bà đã thuê thám tử Roy MacAfee điều tra về lý lịch của ông.

Ben đưa mắt qua ô cửa số nhìn xa xăm. Ông nói với giọng trầm ngâm:
“Đôi lúc anh tự hỏi liệu có phải các con đang ganh tị với hạnh phúc của bố chúng không. Anh nghĩ, chúng cho rằng anh không nên tồn tại trên cõi đời này”. Mặc cho vẻ thảng thốt của Charlotte, ông tiếp. Anh biết và anh chắc rằng nó đang nhẩm đếm những tài sản sẽ được thừa kế để giúp nó thoát khỏi mớ bòng bong của những khoản nợ”.
“Nhưng Ben, anh không nên nói với con thế...”. Trước đám cưới, họ đã sửa lại di chúc rằng sẽ để lại phần lớn gia sản của mình cho những người còn lại. Ben sẽ để lại một phần ba số đó chia đều cho hai con trai và một phần ba còn lại ông dành cho việc từ thiện.
Bà Charlotte nhắc nhở chồng:
“Nhưng điều quan trọng là chúng ta sẽ đến dự bữa tối với một tâm trạng thật vui vẻ nhé”.
“Anh biết”. Ben thở dài và vòng tay ôm vợ. Bà thì thầm bên tai chồng:
“Rồi mọi việc sẽ ổn thôi mà”. Bà háo hức được gặp David. Bà muốn góp phần hòa giải gia đình, đưa Ben và các con trai đến gần nhau hơn, xóa đi khoảng cách giữa ba bố con và hy vọng tràn trề rằng rồi cuối cùng David cũng sẽ yêu quý mình.
Tiếng đồng hồ hẹn giờ kêu vang, Ben ngẩng đầu hỏi:
“Có phải nó báo anh sắp được thưởng thức gì đó phải không nhỉ?”.
“Khi nào ổ bánh nguội em sẽ cho anh thử một miếng nhỏ nhé”.
“Một miếng nhỏ thôi sao?”. Ông gặng hỏi.
Bà Charlotte nhướn mày. “Em không muốn làm mất bữa trưa của anh thôi mà”.
“Không mà. Anh hứa đấy”, Ben nói như nũng nịu vợ.
“Nhiều lúc em tưởng anh cưới tài nướng bánh của em chứ không phải cưới em nữa”, Charlotte đùa vui.
Mắt Ben ánh lên niềm vui khi ông cúi xuống ngắm vợ trìu mến.
“Không phải vậy đâu em yêu. Anh cưới em vì anh chưa bao giờ biết yêu một người nào như yêu em”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3: Chương 03





3
Sáng thứ Hai, Cecilia Randall đến Công ty Kế toán Smith, Cox và Jefferson sớm hơn 10 phút vì hôm này là ngày làm việc đầu tiên của cô. Không có chồng ở bên, cô luôn cảm thấy lủi thủi cô đơn cho dù vẫn luôn có bạn bè thăm hỏi. Những ngày nghỉ cuối tuần còn buồn hơn, nhất là lúc này khi cô đang mang bầu. Ian, chồng cô là một hải quân đang làm việc trên tàu hàng không mẫu hạm George Washington. Mặc cho cô khăng khăng với ý mình, Ian vẫn lo lắng với những lý lẽ riêng của anh. Mọi vấn đề xảy ra với họ đều y hệt như hồi họ có đứa con đầu tiên - bé Allison - cô con gái bé bỏng bị bệnh tim bẩm sinh.
Ian đã không ở bên Cecilia khi bé Allison cất tiếng khóc đầu tiên cũng như khi bé từ giã cõi đời. Đứng một mình bên ngôi mộ bé nhỏ đơn côi, cô gần như muốn hủy hoại bản thân mình và cả cuộc hôn nhân này. Nếu không có sự hòa giải khôn khéo của một vị thẩm phán thì chắc giờ này họ đã không còn bên nhau.
Đặt tay lên bụng, Cecilia muốn truyền cho đứa bé trong bụng tình cảm yêu thương và trấn an mình rằng lần này sẽ được mẹ tròn con vuông. Nhưng trước đây, khi mang thai Allison, cô cũng không thấy bất kì điều bất thường nào. Nghĩ đến đây, Cecilia vội vàng gạt ngay mối lo âu đang ập đến. Ian đã có quá đủ những suy nghĩ đó rồi.
Cecilia đã có bầu đến tháng thứ năm và cô hạnh phúc vì cô không thấy quãng thời gian mang bầu quá vất vả đằng đẵng. Cô thật sự mong mỏi có đứa bé này. Nếu cứ theo Ian thì có lẽ họ sẽ chẳng bao giờ có con nữa. Anh sợ bi kịch sẽ lặp lại, Cecilia cũng vậy, nhưng ước muốn về một mái ấm gia đình với tiếng trẻ thơ rộn ràng đã giúp cô vượt qua được nỗi sợ hãi đó.
“Xin chào”, Zach Cox, ông chủ lơ đãng chào cô. Anh xem qua các thư gửi đến khi đi qua bàn làm việc của cô ở ngoài phòng làm việc.
“Chào ông ạ”, cô đáp.
“Chiều nay Allison sẽ đến”. Anh vừa nói vừa nhìn lướt qua bức thư. “Nó đang kiếm tiền để mua ôtô. Mẹ nó và tôi đã nói chúng tôi sẽ đáp ứng tất cả, nó không phải tiết kiệm. Tôi hy vọng rằng nó sẽ có việc gì đó để làm ở đây trong vài tháng tới”.
Cecilia gật đầu và cảm thấy hào hứng vì sắp được gặp lại cô con gái nhỏ của ông Cox. Cecilia đến làm khi ông bà Cox đang làm thủ tục ly dị. Cũng lại chính vị thẩm phán xử vụ ly dị của hai vợ chồng cô trước đây lại hòa giải cặp vợ chồng ông chủ. Thẩm phán. Olivia Lockhart đã tuyên bố rằng chính những đứa trẻ chứ không phải người lớn cần một cuộc sống ổn định. Thay vì phải thay đổi chỗ ổ, những đứa trẻ phải được ở nguyên tại ngôi nhà quen thuộc của chúng còn vợ chồng anh phải đi đi về về trong những ngày sau đó. Và giải pháp này đã mang lại hiệu quả ngoài sức mong đợi, đó là không lâu sau, Zach và Rosie Cox đã quay trở lại với nhau.
Không lâu sau khi Cecilia bắt đầu làm việc cho ông chủ Cox, anh gửi cô con gái nhiều chuyện của mình đên làm tại đây. Việc làm ngoài giờ là một cách để anh quản lý cô con gái 15 tuổi đầy cá tính, và cũng để cô bé bớt giao du với nhóm bạn khó bảo vẫn thường hay lui tới. Dù vậy, Cecilia gần như bị cô bé cuốn hút ngay lập tức. Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa tên cô bé và tên đứa con đầu của cô đã gắn kết hai người với nhau.
Họ nhanh chóng trở nên thân thiết như những người bạn và Allison thường tâm sự mọi khúc mắc với cô. Cecillia đã chứng kiến cô bạn nhỏ chuyển biến dần dần từ một cô nhóc ngỗ ngược thành một thiếu nữ 17 dịu dàng đáng yêu. Đó quả là một sự khác biệt một trời một vực. Cecillia thỉnh thoảng lại mơ màng tưởng tượng rằng, nếu còn sống, bé Allison của cô cũng trải qua những biển đối tâm sinh lý như vậy.

“Tôi sẽ rất vui nếu cô bé làm việc ở đây”, Cecilia trấn an ông chủ. Còn rất nhiều công việc vặt vãnh có khi Allison làm đến tối cũng không hết, hơn thế nữa, điều này càng tạo điều kiện để cô thu xếp mọi thứ trước khi nghĩ sinh.
“Thế thì tuyệt”. Cox đi vào văn phòng, mắt vẫn cắm cúi nhìn vào bức thư. “Cảm ơn Cecilia”.
Cả buổi sáng Cecilia bận túi bụi, chỉ kịp giải lao một chút với một cuộc điện thoại cho người bạn thân Cathy Lackey - người có chồng công tác cùng Ian. Cùng hoàn cảnh chồng đi công tác xa nhà nên cả hai đã trở thành đôi bạn đồng cảm và giúp đỡ lẫn nhau. Hầu như ngày nào họ cũng liên lạc, nói chuyện.
Ba giờ chiều hôm đó, Allison đến văn phòng lúc đó bố cô bé đã đi gặp khách hàng. Allison xuất hiện thướt tha yểu điệu và thật đáng yêu với mái tóc đen dài ngang lưng. Khi cô bé cởi bỏ chiếc áo khoác len màu xám, Cecilia có thể ngắm nghía bộ váy công sở màu xanh và chiếc áo len trắng cao cổ. Thật khác biệt, vì trước đây, màu ưa thích của cô bé này vốn là màu đen ngổ ngáo. Cô nổi loạn vì sự đổ vỡ của gia đình và xa lánh mọi thứ xung quanh. Cecilia rất vui với ý nghĩ rằng chính tình cảm của cô đã giúp Allison thay đổi tích cực như vậy. Thực tế đôi khi cô vẫn cho rằng chính sự hàn gắn của bố mẹ đã giúp Allison có những thay đổi về diện mạo và tính cách. Tuy vậy cô vẫn có phần tự hào khi nghĩ rằng cô đã có ảnh hưởng tốt tới cô bé và ông Cox vẫn thường ca tụng điều này.
Đó là hai năm về trước, và Allison giờ đây đã là một nữ sinh cấp ba.
“Gặp lại cô cháu vui quá”, Allison vừa nói vừa ôm chầm lấy Cecilia, hai người tỏ ra rất thắm thiết dù mới chỉ xa nhau có nửa tháng. “Em bé của cô thế nào rồi?”.
Cecilia vui vẻ đặt tay lên bụng. “Em bé đang đạp đây này, cháu có muốn sờ thử không?”.
Mắt Allison mở to. “Có ạ”.
Cecilia cầm tay cô bé đặt lên bụng mình, còn Allison thì chăm chú lắng nghe, nhưng sau một hồi lâu cô bé đành lắc đầu. “Sao cháu chẳng thấy gì thế”.
Cecilia ậm ừ. “Có thể vẫn hơi sớm”. Cô cố nhớ lại lần trước, thai nhi bé bỏng được mấy tháng thì Ian bắt đầu cảm nhận được cử động đầu tiên của đứa bé.
Hơi thất vọng, Allison buông tay chịu thua. “Ôi, có lẽ cháu nên quay lại làm việc”.

Cecilia thu dọn lại chiếc bàn trước mặt cô. Năm nào cũng vậy từ tháng Một đến tháng Tư, trong thời gian quyết toán thuế, công ty thuê thêm người làm việc thời vụ thì nơi làm việc luôn trong tình trạng bừa bộn.
Allison vừa làm được khoảng một giờ thì Mary Lou vội vã trở lại bàn làm việc và không quên nhắc Allison. “Có một cậu muốn gặp em đó”. Cô đưa ánh nhìn ái ngại về phía Cecilia như thể không biết có nên cho Allison biết không.
“Anh ấy có nói tên gì không chị?”. Allison hỏi.
“Không, nhưng cậu ta nói em biết cậu ta”.
“Anh ấy ăn mặc thế nào ạ?”.
Mary Lou dựa người về trước và thấp giọng. “Cậu ta có chòm râu dê, mặc áo khoác đen có dây sắt dính trên áo. Cậu ấy còn đeo một hình thánh giá lớn. Chị phải nói thật là trông hơi đáng sợ”.
“Đó là Anson” Allison đứng dậy và ra ngoài khoảng muời phút. Cô bé trở lại với vẻ mặt thoải mái, thậm chí phải nói là lộ rõ vẻ vui mừng rạng rỡ mới đúng.
Cecilia lộ rõ vẻ tò mò. Cô hỏi. “Có chuyện gì thế?”
Không để lộ cảm xúc, cô cố gắng tìm hiêu nhân vật Anson bí mật kia là ai bằng cách nhìn qua cửa văn phòng. Cecilia hiểu được nỗi lo của Mary Lou. Cậu con trai có mái tóc dài và bết. Áo khoác cậu phồng lên như thể đang giấu một món vũ khí nào đó bên trong. Có lẽ không đến nỗi đó, nhưng dù sao thì anh ta cũng không phải là hạng người mà Cecilia muốn Allison giao du.
“Cháu biết anh ấy”. Allison giải thích. “Anh ấy học cùng lớp tiếng Pháp với cháu, ngồi ngay cạnh cháu. Chúng cháu có nói chuyện với nhau vài lần. Chỉ có vậy thôi”.
“Sao cậu ấy biết cháu ở đây?”.

Allison nhún vai. “Chắc bạn bè của cháu nói”. “Cậu ấy có nói gặp cháu có việc gì không?”.
“Không hẳn, anh ấy hỏi về bài tập tiếng Pháp thôi”. Cô bé cúi mặt cười bẽn lẽn. “Chắc chỉ là cái cớ thôi vì sau đó anh ta hỏi cháu có bận gì tối nay không?”.
Cecilia lắc đầu, một chút lo lắng chợt tới khi thấy cô bé có vẻ quan tâm tới kiểu thanh niên ngỗ ngược kia.
Allison kể thêm. “Anh ấy ở với mẹ”.
“Vậy sao?”.
“Cháu cho rằng họ không hợp nhau lắm”, cô bé trầm ngâm.
Cecilia không biết phải nói gì. “Nếu cậu ấy rủ đi chơi, cháu có đi cùng không?”.
Cô bé ậm ừ. Cho dù Allison có từ chối hay nhận lời thì toàn bộ biểu hiện cho thấy cô bé đã bị cậu trai đó hớp hồn rồi.
“Cháu... cháu không biết, nhưng điều này chẳng liên quan gì cả. Anson không rủ, mà cháu nghĩ anh ấy sẽ không làm thế đâu. Tuýp người như Anson không hẹn hò đâu, chỉ giao du, đi chơi vui vẻ thôi”.
Chắc chắn ông Cox chưa gặp người cậu trai trẻ kia nhưng Cecilia cũng đã có thể tưởng tượng được ông sẽ phản ứng thế nào nếu bắt gặp con gái đi cùng với Anson.
Cecilia nhắc nhở. “Cháu nên cẩn thận”.
“Tại sao ạ?”.
“Những đứa con trai hư thường có diện mạo rất bắt mắt, nhưng đó là vẻ đẹp chết người đấy”.

Allison cười. “Cô đừng lo. Cháu đã nói rồi, chúng cháu ít giao tiếp với nhau mà”.
Cecilia không muốn nghi ngờ cô bé nhưng cô cảm thấy có điều gì đó bất ổn, chỉ hy vọng sao Allison ý thức được việc mình đang làm.
Cuộc hẹn với Cathy và cậu con trai 3 tuổi khiến Cecilia tạm quên vấn đề của Allison. Sau giờ làm, cô đi thẳng đến nhà bạn. Cả hai đang háo hức gói những món quà giáng sinh để gửi cho hai ông chồng yêu quý Ian và Andrew. Những món quà Cecilia tặng Ian được chất đầy trong cốp xe. Cô đang háo hức chờ đón bữa tối với những món ăn Trung Quốc mà cô và Cathy đã lên kế hoạch từ trước.
“Cậu có nhận được thư điện tử của Ian sáng nay không?”, Cathy hỏi.
Cecilia lắc đầu, “Có thể khi về, mở hộp thư tớ sẽ nhận được”. Ian không bao giờ nói về công việc của mình. Chỉ biết rằng nó liên quan đến việc định hướng hệ thông tên lửa, đến máy tính cùng công nghệ hiện đại. Anh không thể nói cụ thể công việc của mình vì lý do bí mật quốc gia. Cô cũng không quan tâm anh làm gì, chỉ cần anh trở về an toàn sau mỗi chuyến di. Gần đây tàu của anh đến khu vực vịnh Ba Tư, nhưng chính xác ở đâu thì không ai biết.
Ngày nào Ian cũng viết thư cho cô, ít nhất là một lần. Anh không có thời gian viết dài, thông thường chỉ là những đoạn ngắn để Cecilia bớt cô đơn. Anh muốn được quan tâm tới cô mỗi ngày.
Cathy chỉ nội trợ ở nhà nên cô thường xuyên kiểm tra thư từ. Khi cậu nhóc Andy đang bò trên sàn chơi ô chữ, hai người phụ nữ vui vẻ gói những món quà chất đầy tình cảm yêu thương để gửi tới người chồng phương xa.
“Cậu không thể đoán được món quà này là gì đâu”, Cathy vừa nói vừa đưa lên một chiếc hộp đựng trang sức nhỏ.
“Cậu tặng nhẫn cho Andrew ư?”. Cecilia tỏ ra khó hiểu.
“Không, chỉ là một chiếc áo mặc ở nhà với lời hứa mình sẽ mặc cho anh ấy mỗi khi anh ấy về nhà”.
Cecilia cười khúc khích. “Cậu chơi khó anh ấy rồi, thế thì có khác nào một sự tra tấn êm dịu?”. Cô vừa nói vừa nhớ lại rằng chính mình cũng đã làm những chiêu thức tương tự như vậy...
Cathy cũng bật cười. “Tớ cá rằng Andrew cũng sẽ nghĩ như vậy. Tớ đã chuẩn bị tinh thần để có đứa con thứ hai rồi. Tớ nghĩ rằng đã đến lúc Andy cần có một em bé gái”.
Cecilia cố gượng cười nhưng cô nhanh chóng quay đi và trở lại với công việc gói quà. Cuộc sống của cô chắc chắn đã đi theo một hướng khác nếu Allison còn sống. Không có gì đảm bảo được rằng bệnh tim quái ác đã cướp đi cô con gái đầu lòng bé bỏng sẽ không đe dọa đứa bé trong bụng cô. Cecilia chỉ biết cầu trời ban phước cho đứa bé cô đang mang thai được khỏe mạnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: Chương 04 - 05





4
Bowman trở về nhà sau giờ làm việc tại Phòng Tranh phố Harbor và vui mừng khi thấy Jon bước ra đón cô. Lòng cô dâng tràn hạnh phúc khi thấy bóng dáng chồng. Cô con gái Katie 2 tuổi đang ngồi cạnh mẹ cũng lao ra sung sướng gọi bố. Cô bé hào hứng vì sắp được sà vào vòng tay của bố.
“Mẹ biết rồi cưng ạ”, Maryellen cười. “Thấy bố ra đón mẹ cũng vui không kém gì con đâu”.
Maryellen vừa đỗ xe, Jon đã đợi ngay ở ngoài, mở cửa ra cho cô bé Katie nhào ra khỏi xe. Vừa bế Katie trên tay, Jon vừa đi vòng qua phía trước xe để đến ôm Maryellen vào lòng.
“Hai mẹ con đã về”. Anh nói và hôn nhẹ lên môi Maryellen, bàn tay dịu dàng lùa vào mái tóc óng đen của vợ.
Cô con gái khoe chuyện liến thoắng để bố mẹ không quên sự có mặt của nó. Nhưng Maryellen đang ngập tràn hạnh phúc nên hầu như không để ý đến sự phản đối của đứa con gái bé bỏng.
“Anh làm em thấy cảm giác được trở về nhà thật tuyệt vời”, Cô thì thầm khẽ khép đôi mi để cảm nhận mềm hạnh phúc. Có lẽ nếu có một cuộc thi hôn nhau thì chồng cô sẽ giành giải nhất.
Vòng tay ôm lấy vợ, Jon dẫn vợ bước vào ngôi nhà do anh tự tay xây dựng. Ngôi nhà anh được thừa hưởng từ ông nội, từ đó có thể nhìn ra đường chân trời tít tắp nơi giao cắt giữa Seattle và Puget Sound, và Jon đã phải bỏ ra nhiều giờ để tạo đựng quang cảnh cho khu sân vườn. Ngôi nhà đúng là niềm mơ ước của Maryellen với những căn phòng cao rộng, lò sưởi và ban công, đó là còn chưa kể đến những bậc cầu thang bằng gỗ sồi dẫn lên tầng hai. Tuyệt vời hơn, từ mọi căn phòng đều có thể nhìn được toàn cảnh thành phố. Người chồng với chất nghệ sĩ bẩm sinh đã tự thiết kế và không quản vất vả bỏ công xây dựng căn nhà. Không chỉ vậy, mỗi nơi trong căn nhà đều thể hiện dấu ấn của một nhiếp ảnh gia. Maryellen yêu tâm hồn và trái tim nghệ sĩ của chồng thể hiện qua những tài lẻ của anh.
“Anh đã chuẩn bị xong bữa tối”. Jon nói với vợ khi cô vừa bước vào trong ngôi nhà và ngửi thấy ngay mùi gà quay thơm phức. Jon quả là một người đa tài, vì ngoài tố chất nghệ sĩ về thiết kế, anh còn có tài nấu nướng. Maryellen vẫn luôn đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác mỗi ngày, vừa vui sướng vừa ngỡ ngàng vì được làm bạn đời với một người đàn ông xuất chúng.
“Công việc của em thế nào?”, anh hỏi khi Maryellen treo áo khoác của mình và quay sang Katie.
“Bận lắm anh ạ”.
“Anh thích em ở nhà với anh hơn”
“Em biết. Em cũng rất thích ở nhà”. Số tiền Jon kiếm được từ việc chụp ảnh cũng rất khá nhưng vẫn không đủ để chi tiêu cho cả gia đình. Vì ngoài những khoản thường ngày, họ còn phải đối mặt với bảo hiểm y tế, khoản này thường chi trả từ lương của Maryellen. Đầu năm, họ vừa có một quyết định táo bạo khi Jon thôi công việc bếp trưởng tại nhà hàng Hải Đăng. Maryellen đã quản lý phòng tranh phố Harbor được 10 năm và đã chiếm được lòng tin của khách hàng. Cô đang muốn đào tạo thêm trợ lý Lois Habbersmith để đảm nhận các công việc của cô, nhưng xem ra mọi việc không diễn ra như cô mong muốn. Lois là một nhân viên tốt nhưng lại không muốn nhận trách nhiệm quản lý. Phải sau vài tháng đắn đo cô ấy mới quyết định nhận lời.
“Em đang định thôi việc vào cuối năm tới”, Maryellen nói trong khi với tay lấy bức thư Jon đặt trên tủ bếp.
Jon thốt lên. “Tận năm tới ư?”.
“Em biết. Em cũng thất vọng nhưng thời gian sẽ trôi nhanh thôi mà. Đã sắp sang thu rồi mà”. Ngón tay cô vẫn mân mê phong bì thư để tên người nhận “Ông bà Jon Bowman”. Thoáng nhìn qua địa chỉ nguời gửi, cô biết được bức thư là của bố đẻ và mẹ kế của Jon. Bì thư vẫn còn nguyên.
Khi nhìn lên, cô bắt gặp ánh mắt chồng như thể anh đang muốn đoán phản ứng của cô.
“Thư của người nhà mình đó anh”, cô nói bâng quơ. “Anh biết”.
“Anh chưa mở thư à”. Cô hỏi dù biết đó là câu hỏi thừa.
“Chưa”, giọng anh đầy xúc động, “và anh cũng sẽ không mở đâu. Nếu anh được toàn quyền quyết định anh sẽ quăng vào sọt rác, nhưng người nhận lại có cả em”. Đôi mắt anh ánh lên vẻ tức giận. Vài năm về trước, bố mẹ Jon đã bán đứng anh đẽ cứu đứa em khỏi tù tội. Trong khi Jon vô tội phải chịu bóc lịch bảy năm trong tù thì Jim, đứa em trai cùng cha khác mẹ, lại được tự do, tiếp tục nghiện ngập và chết vì một lần sốc thuốc.
Sau khi mãn hạn tù, Jon đã tự kiếm sống bằng công việc đầu bếp ngắn hạn. Ngoài giờ làm, anh đi chụp ảnh phong cảnh; dần dà, những bức ảnh của anh cũng thu hút được rất nhiều sự quan tâm của người mua. Phòng tranh phố Harbor là một trong những nơi anh trưng bày sản phẩm của mình và cũng là nơi anh đã gặp người bạn đời Maryellen. Họ đã có những cuộc hẹn hò nóng bỏng trong suốt một thời gian dài và lễ cưới được tổ chức sau khi Katie ra đời.
Khi con gái ra đời, Maryellen vẫn còn cảm giác không cần, đúng hơn là không muốn, có một người chồng ở bên. Hồi còn đi học cô đã có một cuộc hôn nhân bồng bột và ngu ngốc kết thúc trong bất hạnh. Sau khi biết mình có mang Katie, cô đã quyết định xoay xở nuôi con một mình. Vẫn có nhũng bà mẹ độc thân nuôi con, và cô nghĩ cô cũng có thể làm như vậy. Cô đã nhanh chóng nhận ra sai lầm của mình. Katie cần có bố và Maryellen cũng nhận ra rằng cô cần Jon biết bao. Sau khi kết hôn họ đã có một khoảng thời gian ngắn ngủi hạnh phúc tràn trề. Rồi Maryellen vấp phải vấn đề ẩn sau những lá thư chưa bao giờ được mở từ bố mẹ Jon gửi đến.
Dù biết chồng sẽ không đồng ý, cô vẫn âm thầm liên hệ với bố mẹ chồng, cô cảm thấy họ cần được biết về sự có mặt của Katie - đứa cháu nội duy nhất của họ. Nhưng những nỗ lực ấy lại đem lại những kết quả không như cô mong muốn, khi hai ông bà càng muốn làm hòa với con trai thì anh lại càng cảm thấy tức giận. Anh chấm dứt mọi quan hệ với họ, thậm chí anh còn nhìn nhận hành động vợ cố tình giữ liên lạc với bố mẹ chồng là một biểu hiện của sự phản bội. Mỗi bất đồng gay gắt giữa thiện ý của vợ và quan điểm cứng rắn của chồng đã gần như giết chết cuộc hôn nhân của họ.
Lúc ấy, Maryellen đã biết mình đang có mang nhưng cô không nói cho Jon biết. Làm sao cô có thể tâm sự với chồng khi anh loại cô ra khỏi cuộc sống riêng của anh, bất chấp những việc cô đã làm, những điều cô đã nói? Đã vấp ngã một lần trong hôn nhân cô biết rằng hành động của cô đang dần giết chết tình yêu anh dành cho cô và đẩy cuộc hôn nhân thứ hai này vào ngõ cụt. Nỗi đau và mất mát quá lớn đã khiến cô sảy thai.
Đã sáu tuần trôi qua, sáu tuần kể từ khi họ luôn cố gắng ý thức tránh đề cập tới đề tài bố mẹ của Jon. Họ thống nhất cùng nhau vượt qua sóng gió gia đình và nỗi mất mát đứa con thứ hai, tuy nhiên, niềm tin vào nhau đã ít nhiều lung lay và khó lấy lại như thuở ban đầu.
Maryellen xem kỹ chiếc phong bì. Jon không ném nó vào thùng rác hay giấu nó đi như anh vẫn làm với những bức thư trước. Dù sao đó cũng là dấu hiệu biến chuyển tích cực, cô nghĩ như vậy. Suốt may ngày, họ đã nói nhiều đến sự vị tha và cô thấy nhẹ nhõm vì cuối cùng chồng cô cũng đã muốn lắng nghe mọi chuyện. Và bức thư này có thể là nền tảng đầu tiên.
“Anh bảo em phải làm gì với nó bây giờ?”. Cô hỏi.

Jon đút tay vào túi quần, đưa măt nhìn lên trần nhà: “Em không muốn nghe câu trả lời của anh đâu”.
“Có, em vẫn muốn biết”, cô điềm tĩnh.
“Đốt đi”.
Cô hy vọng và cầu mong rằng anh sẽ phải chấp nhận sự thật cay đắng. “Nhưng anh đã không đốt nó đi mà”.
“Đúng”, anh miễn cưỡng trả lời.
Maryellen nhận ra rằng anh đã cố tình đứng xa cô. “Tại sao ư? Anh cầu trời cho mình đừng bao giờ thấy bức thư đó. Cho dù tên anh ở trên đó”.
Anh cười, nhưng tiếng cười chất chứa đầy sự cay đắng uất hận. “Em biết rồi mà. Anh có giấu em được cái gì đâu”.
Maryellen đi từ căn bếp ra nhẹ nhàng đến bên chồng, vẫn một giọng điềm tĩnh. “Jon, anh bảo em nên làm gì với nó đây”.
Anh nói như cầu xin. “Em đừng nhìn anh như thế”.
Cô khựng lại. “Như thế là thế nào cơ?”.
“Như thể anh là gánh nặng cho em ấy”.
“Không bao giờ em coi anh như vậy”, cô khẽ nói rồi vòng tay ôm chồng, gục đầu vào ngục anh. Cô biết không cần phải nói gì thêm để chứng tỏ tình yêu thương trân trọng cô dành cho anh. Anh là cả thế giới là cả cuộc đời này với cô và không có gì, ngay cả rắc rối của gia đình có thể khiến cô đánh đổi niềm hạnh phúc cô đã tìm thấy khi ở bên anh.
Jon vòng tay ôm lấy cô. Vòng tay siết chặt như muốn nói với Maryellen rằng anh cũng không muốn mất cô. Sau những cái ôm siết đến lặng người, Jon hít một hơi sâu.
“Em mở ra đọc thư đi. Anh biết em muốn làm thế mà”.
“Vâng”, cô thì thầm.
“Nhưng đừng nói với anh nội dung”.
Câu trả lời của anh làm cô không hài lòng, nhưng cô biết cần có thời gian cho mọi việc. Đó là điều cô học được từ những sai lầm trước.
Khi cô con gái Katie lẫm chẫm đi vào bếp, Maryellen để Jon đặt con lên tay mình. Cô đặt con ngồi lên chiếc ghế cao, đưa cho nó một chiếc bánh rồi lấy bức thư.
Jon quay đi vì anh biết anh không thể chịu được những giọt nước mắt lăn dài trên má Maryellen khi đọc bức thư.
Bức thư khá ngắn. Bố Jon đang bị đột quỵ, may thay ông đã được điều trị kịp thời nên không có biết chứng xảy ra. Mẹ kế Jon nghĩ rằng Maryellen cần được biết và có lẽ sẽ thông báo tình hình cho Jon.
“Bức thư thông báo tình hình bố anh đó”, cô vừa nói vừa đặt bức thư xuống.
Jon rít lên. “Anh đã bảo anh không muốn nghe mà”.
“Nhưng ông vừa bị đột quỵ”.
“Maryellen, anh phải nói với em bao nhiêu lần nữa. Anh không quan tâm. Ông ấy không còn trong cuộc đời anh nữa. Với anh ông ấy đã chết. Từ cái ngày ông ấy tự truất quyền làm cha anh bằng những lời làm chứng giả dối để đẩy anh xuống địa ngục suốt bảy năm trời”.
Katie buông chiếc bánh xuống đĩa, tròn mắt nhìn bố nó.
“Với em, chuyện tha thứ quá dễ vì em có ở trong cảnh khốn cùng đó đâu. Em không phải chịu đựng nỗi đau đớn tủi nhục ấy”. Anh dằn mạnh từng từ khiến cô bé Katie oà khóc.
Jon chùng vai xuống, anh vội đến bên con, bế cô bé ra khỏi ghế và vỗ về. “Bố xin lỗi con gái, bố không có ý quát con đâu”.

Bữa tối của gia đình chìm trong không khí im lặng và căng thẳng, nhưng cả Maryellen và Jon đều cố gắng làm cho không khí thoải mái hơn. Sau khi tắm cho con, Maryellen ru con ngủ bằng câu chuyện cổ tích, Katie mút ngón tay và chìm vào giấc ngủ trẻ thơ ềm đềm.
Jon đang xem tivi dưới nhà, Maryellen xuống và bước đến bên anh. Cô ngồi xuống ghế sofa cạnh chồng, ngả đầu vào vai anh, dường như chỉ đợi hơi ấm của vợ, anh quàng tay siết chặt, dụi đầu vào cổ cô.
Maryellen cười mãn nguyện... Như muốn chồng tiến xa hơn nữa, Maryellen lần tay sau cổ chồng để môi kề gần môi. Bàn tay Jon như bị ma lực của thân thể vợ cuốn hút cứ tự nhiên lần xuống bên dưới lớp áo của Maryellen để vuốt ve bộ ngực cô. Đôi nhũ hoa cương lên như mời gọi và một cảm giác mãnh liệt ngay lập tức dâng tràn trong nguời Jon.
“Có phải em đang cương lên để sẵn sàng không?”. Anh hỏi giữa nụ hôn nồng nàn như muốn uống từng giọt mật nơi Maryellen.
“Anh thì chắc chắn cũng thế rồi”.
Anh cười âu yếm trước câu trả lời đầy ẩn ý vợ.
Hai vợ chồng cùng dìu nhau lên phòng ngủ trong men say tình ái. Họ ùa vào nhau – gấp gáp, cuồng nhiệt và mạnh mẽ. Khi cả hai cùng đê mê hòa làm một, Maryellen lần tay xuống lưng chồng, siết chặt cho những cái cọ xát thêm nóng bỏng và cuồng si. Cô hy vọng rằng cuối cùng Jon cũng có thể nối lại tình cảm với bố mẹ, nhưng cô biết không thể bắt anh thay đổi một khi anh chưa sẵn sàng cho việc gì.
Jon nằm chống tay cạnh vợ, bàn tay kia của anh luồn qua mái tóc cô, vuốt những lọn tóc còn vương trên khuôn mặt lấm tấm mồ hôi, anh hôn cô lần nữa và vuốt ve âu yếm.
“Tình hình ông ấy thế nào?”. Trong bóng tối, tiếng anh trầm hỏi. Anh muốn hỏi về bố mình.
Câu hỏi khiến Maryellen thấy nhẹ nhõm. “Không có biến chứng trầm trọng gì anh ạ”.
Tiếng Jon thở phào nghe rõ mồn một. “Tốt”.
Có lẽ anh đã thay đổi nhiều hơn cả những gì cô mong đợi.
5
Linnette McAffe đứng giữa căn nhà mới, nhìn ngắm mọi thứ. Từ cửa sổ, cô có thể nhìn ra khung cảnh tuyệt đẹp của vịnh với ngọn hải đăng ở xa xa. Bến tàu Bremerton với bao nhiêu là tàu thuyền đậu ngổn ngang nổi bật trên mặt nước lấp lánh trong ánh chiều tà, cả chiếc tàu chiến màu xám lừng lững giữa nền trời xanh trong. Chuyển đến ở trong một thị trấn nhỏ khiến người ta phải điều chỉnh nhiều về cách sống nhưng có lẽ bởi bố mẹ cô đã thích nghi khá dễ dàng với cuộc sống mới nên không có lý do gì cô lại không thích nghi được – cô nghĩ vậy.
“Có ai ở à không?”. Sau tiếng gõ cửa, mẹ cô bước vào.
“Ôi, con chào mẹ”.
“Mẹ thấy xe của con đậu ở ngoài nên quyết định vào thăm”.
“Sao mẹ tìm được nhà con?”.
Corrie cười khúc khích. “Từng ấy năm sống với bố, mẹ cũng phải học được chút kỹ năng thám tử chứ”. Bà mẹ đi dạo quanh ngôi nhà. “Mẹ thấy cửa mở nên vào thử thôi”.
Linnette dang rộng tay. “Thế mẹ thấy căn nhà thế nào?”. Cô hỏi, giọng chứa đầy niềm ưng ý với căn nhà mới. Hồi còn học Đại học Washington, cô sống trong ký túc xá, rồi sau khi chuyển lên học cao hơn lại thuê nhà với bạn nên giờ cô tỏ ra rất hào hứng với cuộc sống mới độc lập.
“Mẹ thấy tuyệt đấy”, Corrie nói vừa đi vào bếp, một căn bếp sắp xếp rất khéo và tiện lợi.
“Con rất thích vì có hai phòng ngủ mẹ ạ”. Linnette nói và dắt thẳng mẹ đến khoe hai căn phòng cả hai phòng đều rộng hơn phòng ngủ của cô Seattle. Căn hộ mới khang trang rộng gấp đôi mà giá thuê chỉ rẻ bằng một nửa. Tất nhiên nếu làm việc ở Seattle, cô đã có thể kiếm được nhiều hơn, nhưng cô lại chưa bao giờ có ý định ở lại Seattle. Từ khi quyết định trở thành trợ lý bác sĩ, Linnette đã tính sẽ làm việc tại một khu vực ngoại ô nhỏ bé.
Dù vịnh Cedar không hoàn toàn là một vùng thôn quê nhưng nó lại là một nơi thân thiện, yên bình – và hơn nữa, cô lại được sống gần bố mẹ, chắc chắn đó một phần thưởng cho cuộc đời cô vì Linnette chưa bao giờ phải xa họ.
“Con đang tính sắp xếp phòng này thành nơi làm việc”. Linnette nói khi hai mẹ con đang đứng trước phòng ngủ nhỏ hơn.
“Khi nào con bắt đầu chuyển đến?”.
“Đầu tháng mẹ ạ. Mack sẽ giúp con một tay”.

“Bố cũng sẽ tới giúp con nhé và cả mẹ cũng chắc chắn sẽ tới rồi”.
Linnette lắc đầu vẻ không đồng tình. “Bố không làm được những việc này đâu mẹ, bố bị đau lưng mà. Với lại, mẹ cũng thừa biết là tốt nhất không nên để Mack và bố làm việc cùng nhau”.
Đôi mắt bà mẹ chùng xuống. “Mẹ cũng chẳng biết hai bố con thế nào nữa”. Linnette mắt sáng ngời. “Con biết. Cả hai đều bướng bỉnh và cá tính nhưng đều là những người tốt tính”.
Corrie đồng tình. “Mack cũng rất cố gắng trong suốt kỳ nghỉ nhưng nó cũng phải rất khó khăn mới giữ mồm giữ miệng được”.
Theo Linnette, vấn đề là bố cô thường không công nhận Mack. Em trai cô đã bỏ học và đi làm nhân viên đưa thư. Dù đó là việc cậu ưa thích nhưng với ông Roy, bằng đầu óc và gia thế của nó thì con trai ông phải làm được điều gì to tát hơn thế kia. Chính kiến của bố khiến cậu con trai khó chịu; nhưng dù gì, Linette vẫn ủng hộ em trai. Mack hoàn toàn có quyền quyết định cuộc đời của nó theo hướng nó lựa chọn.
Linnette lém lỉnh. “Sẽ có ngày chúng ta nhốt hai người vào cùng một nơi và bắt họ cùng nhau xử lý tình huống, trong hoạn nạn mới dễ nảy sinh tình cảm”.
Mẹ cô lắc đầu ngán ngẩm. “Mẹ không liên quan đâu. Mẹ ghét bị mắc kẹt giữa chuyện của hai bố con lắm”.
Linnette cũng cảm thấy như vậy. Cô đi đến khu vực phòng khách, ngắm nghía những vị trí thích hợp để treo các bức tranh và khung ảnh. Chỗ trang trọng nhất sẽ dành cho bức ảnh tuyệt đẹp của Jon Bowman mà bố mẹ đã tặng cô dịp Giáng sinh năm ngoái – bức ảnh chụp những cây linh sam trên sườn núi. Ý nghĩa của bức ảnh không đơn thuần chỉ là một tác phẩm đẹp. Cô băn khoăn không biết nên treo nó giữa hai cửa số hay…
“Con đã liên hệ với Cal Washburn chưa?”. Tiếng mẹ làm đứt mạch suy nghĩ của cô.
“Ai cơ ạ?”.
“Cậu thanh niên trẻ tuổi mẹ giới thiệu với con trong phiên đấu giá Chó và những người đàn ông hồi tháng Bảy năm ngoái ấy. Con nhớ không, người đứng ra gây quỹ tạo nơi ở cho động vật ấy”.
Linnette như muốn phản đối mẹ ngay lập tức rằng cô không mặn mà gì mấy cuộc hẹn hò được sắp đặt trước với người lạ. Cho dù em trai cô rất yêu chú chó của mình và chú chó cưng này sẽ tham gia phiên đấu giá với cái tên Lucky mà Cal và Mack đã đặt điều đó không có nghĩa là sẽ có một sợi dây tình cảm giữa Linnette và chàng trai này.
“Mẹ nghĩ cậu ta thật sự là người tốt đó con”.
“Vậy mẹ hẹn hò với cậu ta đi”, Linnette đùa, hy vọng sẽ tìm được cách nhẹ nhàng nhất để rút khỏi câu chuyện của mẹ.
“Ít nhất con cũng nên gọi cho cậu ta chứ. Để mẹ nói con nghe một chút về Cal nhé. Cậu ta làm ở chỗ Cliff Harding. Mẹ không rõ cụ thể Cal làm gì nhưng hình như liên quan đến huấn luyện ngựa. Mẹ lại không biết gì về ngựa cả”.
“Con cũng vậy”. Càng nghe, Linnette càng tỏ ra chán nản. Vậy là tối đó cô sẽ phải ở bên người đàn ông đã ở cùng với ngựa suốt cả ngày. Tuyệt thật.
Corrie nhíu mày vẻ cáu kỉnh. “Đừng nhìn mẹ như vậy. Chắc chắn con sẽ có những điều ngạc nhiên thú vị đấy”.
Linnette vẫn cố tình lảng tránh câu chuyện. “Con chưa kể với mẹ là trung tâm vừa mời bác sĩ Chad Timmons về đúng không? Chúng con vẫn làm việc cùng nhau hồi ở trường đại học, và mẹ biết không, anh ta thật tuyệt mẹ ạ”.
Bà mẹ phẩy tay vẻ ngán ngẩm. “Điều đó thì liên quan gì cơ chứ”.
“Bác sĩ Timmons hội đủ tất cả những tiêu chuẩn con mong ước ở một người chồng mẹ ạ. Anh ấy thông minh, hóm hỉnh và khỏe mạnh. Hơn nữa anh ấy còn tốt bụng và biết quan tâm nữa. Anh ấy chính là người đàn ông lý tuởng của con”.
Linnette đã trông thấy cơ hội của mình khi anh đến làm việc tại phòng khám. Từ ngày Chad xuất hiện tại vịnh Cedar, Linnette cảm thấy môi ngày trôi qua thật thú vị và công việc ở phòng khám cũng trở nên hào hứng gấp nghìn lần.
“Nói cách khác, con đã để mắt đến anh chàng bác sĩ đó”.
Linnette cười khúc khích. “Không gì qua mắt được mẹ của con”. “Hay thật đấy. Thế còn Cal Washburn thì sao?”.
Linnette trở lại trạng thái thực. Cô chưa chuyển đến thị trấn này thì bố mẹ cô cũng không thể sắp đặt cuộc đời cô - nói đúng hơn là tình yêu cả đời của cô. Hồi còn sống cùng bố mẹ, cô đã bị bố mẹ can thiệp quá đủ rồi. Trong tâm trí bố cô, tất cả những cuộc hẹn hò đều phải cảnh giác.
“À… Con nghĩ rằng con có thể gặp gỡ anh chàng dạy ngựa kia một lần mẹ ạ”.
“Điều đó làm mẹ vui đây, phải tính đến số tiền mẹ bỏ ra để có cuộc hẹn hò này chứ”.
“Thôi mà, con đã nói con sẽ làm mà”, cô đã tìm mọi cách để trì hoãn cuộc hẹn những cuối cùng cũng thử liên hệ với anh ta.
“Con sẽ gọi cậu ấy chứ?”. Corrie hỏi lại.
“Trước hết cho con chuyển nhà xong xuôi đã mẹ nhé?”
“Hẹn bây giờ thì cũng có ảnh hưởng gì đâu”, Corrie vừa nói vừa lục túi để tìm bì thư để thông tin về Cal cùng với một tờ biên lai cũ rích. “Mẹ đã đưa cho con số điện thoại của cậu ta rối đấy”.
“Con làm mất rồi”, Linnette ậm ừ. Cô đã cô tình chẳng may đánh mất nó.

“Ừ nhỉ”, Corrie vẫn đang bận đọc số điện thoại mặt sau của tờ hoá đơn.
Linnette muốn rít lên qua kẽ răng vì bất mãn. Mẹ cô vẫn cố bắt cô theo ý bà. Cô xầm xì. “Thử nghe xem, nếu có một bác sĩ trở thành thành viên của gia đình thì sẽ tốt hơn bao nhiêu cơ chứ”.
Corrie liếc nhìn con gái và đưa cho cô số điện thoại mình vừa viết ra. “Cứ thế đi nhé? Đây chỉ là cuộc hẹn ngắn thôi nhưng có rất có ý nghĩa với mẹ đấy làm ơn để tâm đến nó một chút con gái nhé”.
“Vâng, vâng”, Linnette lại ậm ừ, cảm thấy bức bối về chuyện này. Nhưng dù sao cũng hy vọng mọi thứ sẽ như lời cô nói - một bất ngờ thú vị.
“Hứa với mẹ con sẽ gọi cậu ta ngay nhé”.
“Vâng...”.
“Linnette, đâu phải lúc nào mẹ cũng ép con?”.
Vẫn là một chiêu thuyết phục cũ nhưng luôn hiệu quả của mẹ.
“Vâng, con hứa con sẽ sắp xếp gặp anh chàng này càng sớm càng tốt”.
“Con sẽ mến cậu ấy, Linnette, chỉ có điều...”, bà mẹ ngập ngừng bỏ lửng câu nói như thể biết bà không nên nói tiếp.
“Chỉ gì cơ ạ?”.
Corrie thở dài. “Cal Washburn có chút vấn đề nhỏ về nói năng thôi”.
Linnette há hốc mồm. Một buổi tối hẹn hò cùng người đàn ông thoang thoảng mùi ngựa còn chưa đủ tồi tệ hay sao mà lại thêm việc không thể hiểu những gì anh ta nói nữa? Điều này khiến cô càng khẩn khoản:
“Kìa mẹ,...”
Corrie quay lưng đi thẳng ra cửa. “Con nhớ là đã hứa với mẹ rồi đấy”. Linnette chỉ còn biết lắc đầu khi bóng mẹ khuất sau lối rẽ ra ngoài khu nhà.
Tuần tới cô sẽ chuyển tới vịnh Cedar, cô mong sao cuộc hẹn hò này sẽ qua nhanh như một cơn ác mộng, và hy vọng Chad không biết gì về vụ này.
*
* *
Cô lấy điện thoại trong túi ra gọi theo số điện thoại trong mẩu giấy mà mẹ vừa đua. Càng lần khân việc này thì chỉ càng làm mâu thuẫn mẹ con thêm sâu sắc thôi, cô biết vậy.
Một giọng đàn ông cất lên, một giọng hoàn toàn bình thường, không như cô vẫn tưởng tượng. “Tôi là Linnette McAfee, tôi gọi cho anh Cal Washburn”, cô nói cứng nhắc.
“A, chào Linnette. Cal cũng đang mong chờ cô gọi đến đấy. Tôi là Cliff Harding, Cal làm việc cho tôi mà”.
“Chào chú Cliff. Anh Cal có đấy không ạ?”.
“Thực tế là cậu ta đang ngồi cạnh tôi”.
Một lúc sau, Cal cầm máy. “Ch... chào em”.
“Chào anh, em là Linnette McAfee”, cô liến thoắng. Có lẽ điều này khiến anh hơi chững lại nhưng giọng nói vẫn rõ ràng. “Có lẽ anh cũng biết là mẹ em đã đăng ký Dịch vụ Kết bạn cho em và giới thiệu anh với em hồi tháng Bảy tại buổi đấu giá”. Không anh kịp trả lời, cô tiếp tục. “Em không biết là khi nào chúng ta có thể gặp nhau nhỉ?”.
“Bất... bất cứ khi nào”.
“Em sẽ chuyển đến thị trân trong tuần tới, nhưng ta có thể gặp nhau trước đó được không?”.
“Thế… thế tối thú Sáu tuần... tuần tới được không?”.
“Thôi được. Ta sẽ gặp nhau tại nhà hàng Hải Đăng nhé, hẹn anh lúc 7 giờ”. Cô phải nói hết các chi tiết vì e rằng anh xấu hổ vì tật nói lắp của mình. Cô ngán ngẩm nghĩ chắc mình cũng phải nhận phần chi cho bữa tối nốt.
“V… vậy thứ s. . . Sáu nhé”.
Linnette dập máy. Đây sẽ là lần cuối cùng cô cho phép mẹ cô sắp đặt điều tương tự như vậy. Chắc chắn là không một lần nào nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5: Chương 06 - 07




6
Grace Sherman từng ngày từng giờ mong chờ đến buổi tối thứ sáu. Cliff Harding đã mời chị đến dùng bữa tối ở nhà anh – dấu hiệu đầu tiên từ bao lâu nay cho thấy anh vẫn còn tình cảm với chị. Chỉ cần có thế cũng là cả một niềm vui lớn lao với Grace rồi. Chị yêu Cliff, nhưng chị đã bồng bột khi đánh đổi cả tương lai với anh chỉ với một mối quen biết qua Internet.
Mọi biến cố bắt dầu khi chồng chị bỗng chốc thay đổi hoàn toàn. Cuộc chiến tại Việt Nam đã biến Dan thành một người hoàn toàn khác với người Grace đã cưới làm chồng sau khi anh trở về sau cuộc chiến. Anh sống một cuộc sống u uất, sầu muộn và thường xuyên phải vật lộn với sự chán nản đến cùng cực. Sau khi Dan biến mất, chị đã tìm anh trong suốt gần một năm, tiêu tán hết nhưng vốn liêng tích trữ và chỉ để tìm ra một sự thật đau lòng, đó là anh đã bí mật mua một chiếc xe đi vào rừng sâu và tự tử.
Trong những tháng ngày tìm kiếm Dan, chị đã gặp Cliff Harding. Sau khi chị biết được nỗi bất hạnh tột cùng kia, lòng kiên nhẫn và độ lượng của anh đã chiếm được cảm tình của chị và họ bắt đầu gặp nhau thường xuyên hơn. Cliff đã ly dị vợ sau gần 20 năm chung sống và vì thế chuyện hẹn hò bỗng nhiên nên tươi mới với cả hai.
Trong quá trình tìm hiểu Cliff, Grace biết rằng vợ cũ của anh đã có nhiều cuộc tình trăng gió trong suốt thời gian sống bên anh. Grace và Cliff trở nên ngày càng gần gũi hơn, tới mức hai năm trước anh đã cùng Grace bay đến Connecticut để gặp mặt con gái anh, Lisa và còn cùng nhau đón Lễ Phục sinh với gia đình Lisa.
Cũng cùng thời gian đó, Will Jefferson, anh trai của bạn thân chị đã gửi thư điện tử cho Grace. Từ hồi còn mười mấy, Grace đã cảm mến anh và yêu anh ngay khi anh tỏ ý quan tâm. Đến tận bây giờ chị cũng chẳng nhớ mọi chuyện diễn ra thế nào, nhưng chị nhận thấy mình lúc nào cũng muốn lên mạng chat với Will dù bất kể ngày hay đêm. Anh ta như có ma lực cuốn hút chị. Nhưng Grace vẫn luôn cảm thấy day dứt khi biết anh ta đã có gia đình. Dù biết anh ta đang nói dối mình hết lần này lần khác nhưng Grace vẫn cố đón nhận mọi lời anh ta nói vì chị khát khao muốn tin rằng đó là sự thật. Ngay khi duy trì mối quan hệ trên mạng với Will, Grace vẫn hẹn hò với Cliff.
Cái kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra. Cliff biết được mối quan hệ trên mạng của Grace và chị lại vỡ lẽ rằng Will vẫn sống với Georgia, vợ anh ta, và hơn thế nữa, anh ta không hề có ý nghĩ sẽ chia tay vợ.
Cliff cắt đứt mọi mối quan hệ với Grace. Anh đã sống với một người phụ nữ giả dối và không muốn đi lại vết xe đổ đó nũa. Anh tuyên bố rõ ràng rằng họ đã chấm dứt mọi chuyện. Hoàn toàn sụp đổ nhưng Grace không thể làm gì để xoay chuyển được Cliff.
*
* *
Cuối cùng, tháng tám trước, Lisa đã bay sang thăm bố một thời gian. Grace đã vô cùng mừng rỡ khi được đón con gái Cliff đến thăm mình tại thư viện - chị làm việc. Lisa trấn an Grace rằng Cliff vẫn yêu chị và động viên chị đừng nên bỏ cuộc.
Ngay sau đó Grace đã bắt đầu cả một chiến dịch để giành lại trái tim của Cliff Harding. Chị gửi cho anh những bưu thiếp, thư điện tử và chấm dứt chuỗi ngày đứt liên lạc, không tin tức của nhau. Những nỗ lực không mệt mỏi đã được đền đáp bằng cuộc hẹn gặp chủ động từ phía anh sau suốt gần một năm.
Khi trở về nhà sau giờ làm, Grace thử đi thử lại ba bốn bộ quần áo trước khi tìm được một bộ thực sự ưng ý cho sự kiện trọng đại này. Chị thử tất cả bộ quần áo trước lũ vật cưng của mình - con chó Buttercup và chú mèo Sherlock. Chị bật cười vì tiếng thở dài của Buttercup còn Sherlock thì chẳng buồn mở mắt ra. Cuối cùng chị đã chọn được bộ váy xanh với họa tiết hoa cúc vàng điểm xuyết. Bộ đồ này gần giống với trang phục chị diện trong lần đầu gặp Cliff. Với họ, cuộc hẹn hò như một sự khởi đầu mới nên chị hy vọng bộ trang phục sẽ nói lên điều đó.
Khi Grace vừa đến trang trại của Cliff ở Olal1a, chị thật sự hồi hộp. Chị mong ước đến tột cùng được trở thành một phần trong cuộc đời của Cliff. Nhưng nói gì thì nói Grace vẫn phải làm cho Cliff hiểu rằng chị không giống người vợ cũ của anh. Suốt 35 năm chung sống chị vẫn giữ nguyên sự thủy chung với Dan thì giờ đây khi cơ hội đã đến, Grace sẽ chứng tỏ rằng mình cũng sẽ gắn bó trọn đời với anh. Chị muốn Cliff hiểu rằng mình đã thấm thía lắm rồi và thật sự hối hận, chị sẽ không bao giờ đánh đổi thứ gì để làm mất hạnh phúc của mình, miễn là anh sẵn sàng cho chị cơ hội…
Trang trại vắng vẻ như không người dẫu có một chiếc xe tải đỗ ngay sát căn nhà kho mới xây trong trang trại của Cliff. Xe đã dừng trước cửa nhà nhưng Grace ngập ngừng không biết sẽ đi đâu. Khi không thấy tiếng Cliff trả lời, chị tiếp tục đi về hướng nhà kho. Nhà Cal ở ngay phía trên và chắc anh sẽ nói chị biết mọi người đi đâu hết cả.
Khi Grace đang trên đường ra nhà kho thì bắt gặp Cliff chạy vụt ra. Anh dừng khựng lại, nhìn chị chằm chằm, vẻ mặt bối rối. Người đàn ông cao to lực lưỡng đội mũ và mang ủng cao bồi. “Cliff?”. Grace hỏi ngập ngừng
“Hôm này là thứ mấy?”. Anh hỏi.
“Thứ Sáu”.
“Có phải ngày anh hẹn em ăn tối ở nhà không?”.

Grace gật đầu mà nghe tim nhói lên. Anh ấy đã quên sao. Nhưng Grace vẫn cố mỉm cười trả lời:
“Hình như thế”.
Ngay lập tức anh nói đầy hối lỗi. “Anh xin lỗi, Grace. Anh không nghĩ lại là thứ Sáu này. Em thấy đấy, bọn anh đang gặp rắc rối”.
“Có chuyện gì thế?”.
Cliff lắc đầu. “Vấn đề về con ngựa Midnight, nó đang bị đau bụng”.
“Đau bụng sao?”. Theo kinh nghiệm của Grace, trẻ con thường có những cơn đau bụng trong suốt mấy tháng đầu. Chị còn nhớ những ngày đầu đầy vất vả khi vừa sinh Kelly vì nó thường gào khóc bởi những cơn đau không dứt.
Cliff giải thích. “Cơn đau đe dọa tính mạng con ngựa đấy. Bác sĩ thú y đang ở đây và bọn anh đang làm mọi cách để cứu nó. Nếu mọi chuyện không khá hơn, chắc phải mổ”. Anh bỏ mũ, lau cánh tay và vuốt đôi lông mày đẫm mồ hôi. “Anh xin lỗi, Grace, chúng ta sẽ ăn tối với nhau khi khác vậy nhé”.
“Em có thể giúp gì không?”. Chị hỏi vừa xắn tay sẵn sàng làm hết sức mình.
“Anh đang định đi pha một ấm cà phê”.
“Em sẽ lo việc đó”.
Cliff gật đầu. “Vậy thì tốt quá”. “Anh cứ lo cho con ngựa đi!”.
Ở trong căn bếp, Grace lục tìm các ngăn tủ để tìm cà phê. Khi pha xong, chị mang ra nhà kho, không lên chuẩn bị thêm ít bánh mỳ với thịt hun khói và vài lát phô-mai. Chị không biết ca chữa trị có lâu không nhưng chắc Cliff, Cal và bác sĩ thú y cần ăn chút gì đó.
Khi đã chuẩn bị xong xuôi, Grace bê khay đồ ăn thức uống xuống nhà kho. Bác sĩ Newton nhìn thấy đi vào đầu tiên. Cô bác sĩ đứng dậy và mỉm cười đầy thiện cảm.
Vickie nói. “Tôi thích một ly cà phê với chút kem nhé”.
Đặt chiếc khay xuống, Grace rót một ly cho cô.
Cliff đang quỳ bên cạnh con ngựa và dường như không ngẩng đầu nhìn lên. Một ông to rút ra từ trong miệng con vật, tuy không hiểu biết gì về ngựa nhưng chị thấy con vật đang rất đau đớn. Cal ngồi ở phía đối diện nhẹ nhàng điều khiển xi-lanh và nói với giọng trầm nhẹ. Grace nhận ra rằng lần đầu tiên Cal không nói lắp. Rõ ràng cậu ta nói chuyện với ngựa còn trôi chảy hơn với người.
Grace rót cho Cliff một cốc cà phê nóng. Anh khẽ gật đầu nhận lấy. Chị mời Cal nhưng cậu ta từ chối.
“Đây quả là trò chơi chờ đợi”, bác sĩ nói với Cal. “Con Midnight còn cơ hội nào không?”.
Vị bác sĩ nhún vai. “Cơ may là năm mươi năm mươi”.

Grace biết rằng Cliff đã đầu tư nhiều tiền của vào con ngựa này và hơn thế nữa, nó là con ngựa cưng của anh. Anh thường nói tới giấc mơ về một trang trại nuôi gia súc và thành công hay thất bại phụ thuộc cả vào con Midnight. Chị nghĩ rằng nếu mất con ngựa thì coi như anh phải bắt đầu lại, đây không chỉ là một tổn thất về vật chất mà còn về cả tinh thần.
Không biết phải làm gì nữa, Grace bước ra sân và chờ đợi. Chị cảm thấy mình không nỡ bỏ đi. Có thể chị không giúp được gì cụ thể cho Cliff được nhưng chị muốn anh thấu hiểu được sự quan tâm của mình.
Hơn một giờ trôi qua mà Grace chẳng làm được gì hơn. Không ai muốn ăn hay uống gì thêm nên chị quay lại ngôi nhà. Grace chỉ mất năm phút dọn dẹp lại khu bếp. Buồn chán, chị bật tivi, chuyển hết kênh này đến kênh khác, chẳng chương trình nào dừng lại quá vài phút. Cứ nửa tiếng chị lại đi ra nhà kho nghe ngóng nhưng dường như chẳng có gì tiến triển, đúng như bác sĩ nói, họ đang chơi trò chờ đợi.
10 giờ, Grace ngủ gật trước tivi. Đen gần 11 giờ, chị thức giấc, đi đạo quanh và thấy xe của bác sĩ không còn ở đó nữa. Vội vã chạy tới nhà kho, chị nhận thấy rằng chẳng có gì thay đổi, Cliff và Cal vẫn ngồi cạnh con ngựa; và chẳng ai để ý đến sự có mặt của chị. Grace cố gắng nhẹ nhàng rút lui và trở lại ngôi nhà thu dọn đồ đạc của mình.
Không muốn làm phiền Cliff, chị lên xe lái thẳng về nhà, cảm giác vô cùng thất vọng. Đương nhiên Grace lo lắng cho tình trạng của con ngựa, nhưng trên hết chị vô cùng thất vọng vì thái độ của Cliff đối với mình. Grace tự hỏi không biết anh có hối tiếc vì đã mời mình bữa tối hay không. Ngay cả nếu con ngựa không việc gì thì cũng chẳng khá hơn vì Cliff thậm chí còn không nhớ lời hẹn với chị. Anh không chuẩn bị gì, cũng chẳng thể hiện chút hứng thú gì khi gặp chị, nếu có thì chắc là vẻ hào hứng vì thoát được chị.
Buttercup và Sherlock đã đợi sẵn ở cửa, vui mừng chào đón Grace khi chị thẫn thờ đi vào nhà. Chợt thấy tín hiệu báo tin nhắn điện thoại nhấp nháy, Grace buông ví trên mặt máy giặt, ngồi xuống cạnh bàn, tay đã cấm sẵn bút để ghi lại lời nhắn.
Một nụ cười thoảng qua khi giọng người bạn thân của Grace cất lên. Olivia muốn nghe về cuộc hẹn “nóng bỏng” của Grace. “Gọi ngay cho tớ khi về nhé. Muộn thế nào tớ cũng chờ”.
Grace miễn cưỡng với điện thoại. Olivia lập tức nhấc máy sau tiếng chuông đầu tiên.
“Tối thứ Sáu cậu không còn gì để làm hay sao mà phải ngồi canh điện thoại thế?”. Grace như trách móc. Olivia tỏ ra không vui và Grace cũng chẳng trách cô. “Gần mười một rưỡi rồi mà”.
“Kể cho tớ nghe đi”, Olivia nôn nóng. “Cậu còn chưa nghe tớ than thở về Jack đó. Nhưng cậu với Cliff thế nào?”.
“Chán chết”. Grace kể đầu đuôi câu chuyện, kết thúc bằng sự nghi ngờ rằng Cliff hình như hối tiếc vì đã mời mình.
Olivia im lặng khi nghe đến cuối câu chuyện. “Vậy cậu định làm gì đây?”. “Còn làm gì được nữa?”. Grace hỏi lại đầy chán chường vì cách xử sự của Cliff.
“Cậu sẽ không bỏ cuộc đâu đúng không?”. Olivia gặng hỏi.
“Không!”. Câu trả lời cất lên không mấy nhiệt huyết. “Tớ thì chắc là không nhưng nếu anh ấy không...”.
“Sáng mai anh ấy sẽ gọi cậu”. Olivia xen ngang Grace dường như nghi ngờ điều này. Vì chị cho rằng hình như Cliff đã loại mình ra khỏi tâm trí rồi.
7
Jack Griffin vừa đói vừa mệt. Hôm nay là thứ Ba và bây giờ đã hơn 9 giờ tối mà anh vẫn chưa rời văn phòng. Olivia chắc hẳn sẽ không mấy hài lòng. Anh yêu người phụ nữ đó nhưng anh cũng hết sức say mê công việc biên tập viên cho tờ Bản tin vùng vịnh Cedar. Olivia nói rằng nghiệp viết lách đã ăn vào máu của anh và cách ví von ấy quả là đúng, vì không, anh đã không dồn hết công sức để tờ Bản tin thể phát hành năm số mỗi tuần.
Cách đây bốn năm, khi mới được mời vào công việc này, tờ Bản tin chỉ ra một số một tuần, và chỉ dự định nâng lên thành hai số mỗi tuần. Bởi đã ngoài năm mươi, và cũng không muốn mất thêm nhiều thời gian vào tờ nhật báo Spokane, nên anh sẵn sàng chấp nhận làm ít đi và theo đó là thu nhập thấp hơn. Làm việc cho tờ Bản tin không phải là động lực duy nhất lôi cuốn anh đến sống ở nơi đây. Lý do chính là được ở gần người bạn thân Bob Beldon và Eric - cậu con trai anh, cũng sống ở Seattle. Trớ trêu thay, Eric đã cùng gia đình chuyển đến Reno ba năm trước.
Bob Beldon là nhà tài trợ và là bạn thân thiết của Jack. Vài năm trước đây, Bob và Peggy đã quay về vùng này và mua một ngôi nhà cũ ở mũi Cranberry. Là một người khéo tay và tháo vát, Bob đã nhanh chóng biến căn nhà rộng rãi đó thành một mô hình nhà trọ khá thành công có tên Thyme và Tide. Cái tên “Thyme” bắt nguồn từ Peggy vì chị đã trồng được một khu vườn với đủ loại trái cây, rau màu và hoa lá. Món bánh làm từ quả việt quất của chị thật không gì sánh được.

Chỉ tới vịnh Cedar có một lần mà Jack đã thấy yêu mến nơi đây và được nhận vào làm cho tờ Bản tin. Anh đã tìm thuê được một căn nhà vừa ý và hài lòng với nơi ở mà anh nghĩ rằng sẽ cho anh những phút giây êm ả trong cuộc đời. Anh đang mong mỏi điều đó, mong mỏi một sự thay đổi.
Và sự thay đổi cũng đến, đúng, nhưng không theo những gì anh dự tính. Ngay sau khi đến vịnh Cedar, anh đã gặp Olivia Lockhart, và người phụ nữ ấy đã làm đảo lộn cả cuộc sống của anh.
Khi đang bắt đầu làm quen với cuộc sống mới, Jack đã đến thăm phòng xử án và được tận mắt xem chị xử vài vụ việc, trong đó có một vụ nổi bật. Một cặp vợ chồng trẻ đã bị mất đứa con đấu lòng đứng ra xin được ly dị. Trong khi hầu hết mọi người trong phòng xử án chỉ xem các luật sư trao đổi tại phiên toà thì Jack lại hướng sự chú ý tới Olivia. Anh thấy chị như bị thôi miên. Chị chăm chú nhìn cặp vợ chồng với cặp mắt chất đầy tâm sự. Sau đó Jack mới hiểu được rằng Olivia cũng mất một đứa con. Cậu con trai mười ba tuổi của chị đã bị chết đuối năm 1986. Không chịu được áp lực do nỗi mất mát và đau thương quá lớn, cuộc hôn nhân của chị cũng tan vỡ. Bằng nghiệp vụ của mình, chị đã khéo léo cố gắng hàn gắn hai vợ chồng kia và anh nhận thấy rằng nhất định phải viết một cái gì đó về con người này.
Đáng tiếc thay những gì Jack viết vẫn chưa thể lột tả hết được con người của Olivia. Họ đã gặp nhau một buổi sáng thứ Bảy tại một cửa hàng rau quả - và dù lúc đó Olivia không nhận ra - nhưng họ đã bắt đầu hẹn hò từ buổi ấy. Tâm trí anh đã bị chị trói chặt và anh cũng chẳng có ý định muốn thoát ra. Họ đã cưới nhau được hơn một năm và cuộc đời anh chưa bao giờ trở nên ngọt ngào đến vậy.
Đến tận bây giời mỗi khi nghĩ tới, Jack cũng không khỏi ngỡ ngàng khi thấy một nguời phụ nữ tinh tế như Olivia lại cười một tay nhà báo vụng về, chẳng biết dùng chiếc dĩa nào nếu bộ đồ ăn có hơn hai chiếc dĩa. Nhưng sự thật, chị đã kết hôn cùng anh và anh coi đó là một đặc ân lớn nhất cho cuộc đời mình.
Tất nhiên Olivia vẫn là Olivia, chị đã nhận thấy nhiệm vụ phải cải thiện tính cách của anh. Chị nhận thấy anh như một viên đá xù xì cần được mài giũa cẩn thận. Vài tháng đầu giữa hai người cũng có vài trục trặc khi cố gắng thích nghi với cuộc sống chung. Jack tự nhận mình là một gã vụng về, còn Olivia thì lại là người sống rất quy củ nề nếp, vì thế nhiều thói quen của anh đôi khi khiến cô vợ tội nghiệp phải dở khóc dở cười.
Anh thấy thật khó hiểu khi cứ phải treo quần lên móc mỗi tối để rồi sáng hôm sau lại mặc lại. Nhưng anh cũng cố thực hiện để làm hài lòng vợ. Với lọ bơ lạc cũng vậy. Theo Olivia thì anh đã reo rắc vi khuẩn khắp nhà vì để mở nắp lọ và cắm con dao ở trong. Vì thế giờ đây anh đã bỏ con dao ra, đậy nắp lại và cho nó vào tủ lạnh. Và gần đây anh đã có ý thức treo khăn tắm lên mỗi khi dùng xong. Anh không bao giờ treo đúng cách Olivia yêu cầu nhưng dù sao chị cũng không phàn nàn gì. Anh cũng rửa sạch bát đĩa mỗi tối và cất cẩn thận. Tình yêu thực sự đã có sức mạnh biến đổi cả một con người.
Chỉ có một điều vẫn vấp phải sự phản kháng đó là chế độ ăn mà Olivia đang buộc anh phải theo. Đúng, anh thừa nhận điều đó; anh nên giảm vài cân Jack hơi mập nhưng đâu đến mức phải như vậy. Một lúc nào đó, con người ta cũng phải thưởng thức một chiếc bánh với thịt hun khói, phô mai và vài đồ gia vị nữa chứ. Anh cũng không từ chối nếu đi kèm đó là một suất khoai chiên lớn. Mọi thứ thật tuyệt vời khi gọi thêm một ly sữa lắc vani nữa.
Chỉ nghĩ đến những món ăn ưa thích đang mời chào ở nhà thôi cũng khiến Jack ứa nước miếng khi anh trên đường lái xe về nhà. Anh đang đói ngấu nghiến vì bữa sáng chỉ có một chút sữa chua hoa quả trộn một thứ gì đó như là mầm lúa mạch. Anh không thích mầm lúa mạch nên cô vợ thân yêu của anh cố tình trộn cùng sữa chua để chống dễ ăn, và để chiều vợ, anh giả bộ như chiêu lừa của vợ thành công.
Khi nhìn thấy nhà hàng ăn nhanh, anh đã quyết định đánh xe đến ô cửa của nhà hàng và đỗ xịch xe. Anh gọi ngay một chiếc bánh phô-mai và đánh chén ngấu nghiến vì không thể cưỡng lại vị thơm ngon quyến rũ của nó. Anh cũng không quên gọi thêm sữa lắc vani và khoai chiên. Nếu Olivia biết được, chắc chắn anh sẽ bị cằn nhằn.
Chết thật, rõ ràng anh sẽ gặp rắc rối rồi, anh hứa với vợ sẽ về nhà lúc 7 giờ thế mà giờ đã gần 10 giờ. Biết thế nào vợ cũng gọi nên anh cố tình tắt máy di động, giờ thì anh thấy ân hận vì hành động của mình rồi. Hệ thống máy tính bị hỏng đột xuất nên anh phải ở lại giải quyết tình huống cho đến khi mọi thứ hoạt động bình thuờng trở lại. Anh chẳng còn cách nào khác là đọc báo chờ cho hệ thống hoạt động trở lại thì mới đứng dậy đi về.
Đèn phòng khách bật sáng khi Jack đỗ xe trước cửa. Anh vốn vẫn đánh giá cao gu thẩm mỹ của Olivia thể hiện qua ngôi nhà trên đường Lighthouse với góc nhìn tuyệt đẹp trông ra khu vịnh. Jack thích được ngồi cạnh Olivia ngắm nhìn ánh hoàng hôn dần buông như từ từ kéo một bức rèm để chuyển thành bầu trời đêm hè trong trẻo.
Hồi mới cưới anh không thể tưởng tượng được làm sao mình sẽ sống được trong căn nhà mà Olivia đã sống cùng chồng cũ. Nhưng anh nhận ra rằng, những nỗi lo sợ chỉ là phù phiếm vì tính ra thời gian họ sống với nhau đã lâu hơn cả số năm Olivia chia tay với Stan, vì thế hầu như mọi dấu vết của cuộc hôn nhân cũ đã phai mờ. Một vài nơi trong ngôi nhà vẫn đang treo những bức ảnh gia đình lạ lẫm nhưng anh chưa bao giờ chất vấn Olivia về điều đó.
Nghĩ rằng vợ đã đi ngủ nên anh rón rén lẻn vào nhà bếp, nhanh như một chú sóc. Nhưng ngay từ những tiếng động đầu tiên khi anh bước vào phòng, Olivia đã gọi tên anh.
“Chào em yêu”, anh thỏ thẻ.
Olivia đã ở đến cửa bếp từ bao giờ. Trong chiếc áo choàng bông ở nhà, đi đôi dép xù bông, chị đứng khoanh tay trước ngực liếc nhìn anh dò hỏi. “Anh tắt máy suốt”.
“Anh biết... anh xin lỗi”.
“Xin lỗi chưa đủ”.
“Anh đã để lại tin nhắn cho em mà”, anh phân bua mong được giảm nhẹ tội. “Anh cũng chẳng biết làm thế nào hơn nữa”. Anh giải thích về trục trặc công việc, không quên nhắc lại tin nhắn anh đã để lại với hy vọng Olivia sẽ hiểu rằng anh không thể trả lời chị ngay lúc đó.
Olivia ngần ngừ và anh đã thấy được vẻ mềm lòng của vợ. “Đôi khi em cứ thắc mắc sao chúng ta lại quyết định cưới nhau, ngày xưa anh khác với bây giờ”.
Đôi khi Jack cũng cảm thấy như vậy. “Thật sao?”. Anh ôm vợ gọn trong vòng tay. Anh yêu mùi hương thoang thoảng trên tóc vợ và cố hít thật sâu, thật đã mùi hương đặc trưng của vợ. “Dù sao lấy vợ cũng có những lợi ích khác”, anh vừa thì thầm vừa luồn tay vào trong áo vợ. Một cảm xúc vừa ngạc nhiên, vừa sung sướng chạy dọc cơ thể khi anh khi biết vợ không mặc áo trong, nhưng lớp áo tơ bên ngoài đã cho anh cảm giác nhẹ nhàng tươi mát khi chạm tay vào đôi gò bồng đảo quyến rũ của vợ.

“Kìa anh, thôi”, Olivia như muốn từ chối nhưng chỉ có tiếng nói yếu ớt cất lên.
“Thôi nào em yêu, anh cũng muốn nghỉ ngơi một chút, vào phòng thôi”.
“Anh có đói không?”.
“Anh đang chết thèm đây”. Đôi nhũ hoa của Olivia cứng lên để anh cảm nhận được tín hiệu của sự khao khát. Chỉ mười phút trước anh tưởng mình chỉ còn đủ sức cởi quần áo rồi đổ vật xuống giường đánh một giấc, vậy mà giờ... Olivia đã khiến anh hừng hực như muốn ngấu nghiến cơ thể chị.
“Em hâm nóng thức ăn cho anh nhé, cưng”.
Anh nựng vào cổ vợ nói trong họng. “Anh ăn rồi”, vừa thầm thì anh vừa khóa môi vợ bằng một nụ hôn sâu nồng nàn bất tận.
Olivia vẫn tỉnh táo dút ra. “Jack Griffin, anh ăn gì vậy?”.
“Thôi nào em yêu”.
“Đừng nịnh em. Anh có biết mình đã làm gì không đấy?”.
“Anh đói lắm nên ăn tạm bánh phô-mai thôi mà.
Olivia quay đi không nói.
Jack ngả vợ trở lại vòng tay âu yếm của mình. “Anh có một cách có thể bù lại bữa tối tội lỗi đó”.
“Là gì cơ?”.
Bàn tay anh lại mò mẫm dưới lớp áo của vợ, ôm gọn bầu ngực căng tròn mềm mại. Anh nhanh chóng nhen lại ngọn lửa khao khát.
“Em biết không? Chắc vận động một chút thì sẽ tốt cho anh lắm đấy”.
Olivia khép cặp mi, hơi thở nhẹ nhưng gấp gáp như đang cảm nhận những giây phút sung sướng đang tới.
“Em vẫn luôn nói rằng vận động rất tốt là gì?”.
“Đúng vậy”, Olivia hưởng ứng, “nhưng em tưởng anh mệt”.
“Đúng là thế”, anh thì thầm vì họ đang nhanh chóng tiến về phía phòng ngủ.
“Ôi Jack”, Olivia thì thầm rồi ngả lưng lên giường và vẫn không quên nhắc nhở chồng. “Em rất giận anh đấy nhé, nhìn em đây. Em như... như muốn chìm trong vòng tay anh”.
Vẻ nũng nịu của vợ khiến Jack như muốn cuồng lên vì cảm xúc yêu đương đang dâng lên mãnh liệt. Cả hai như muốn tan chảy vào nhau. Quỳ xuống cạnh vợ Jack cởi bỏ dần lớp áo ngủ của chị và những cảm xúc cứ rần rần chảy khắp người anh khi làn da trần của chị dần dần lộ ra dưới ánh đèn ngủ mờ ảo.
Anh như muốn ùa vào, cùng vợ ngấu nghiến những giọt mật tình ái, vội vàng cởi bỏ quần áo, anh để mặc chúng rơi xuống sàn. Chắc giờ này Olivia cũng chẳng trách anh vì hành động bừa bãi này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6: Chương 08





8
“Để mẹ ngắm con gái nào”, Corrie MacAfee nói với Linnette khi cô gái bước về phía cửa ra vào của ngôi nhà trên phố Harbor để ăn tối với Cal Washburn. Cô chỉ còn ở chung với bố mẹ ít ngày nữa thôi.
“Mẹ”, Linnette nói vẻ miễn cưỡng. Dường như cô chẳng quan tâm xem mình có gây được ấn tượng gì trong buổi hẹn hò được sắp đặt này không. Thực sự là việc hẹn hò với Cal không thôi cũng đủ làm cô chán ngấy, lại cộng thêm sự giám sát của mẹ nữa thì có lẽ là quá sức chịu đựng của cô gái.
Corrie lùi lại một chút để ngắm nghía diện mạo của con gái và mỉm cười vẻ tâm đắc. Chị phủi nhẹ vai áo con gái và gật gù. “Con rất xinh đấy”.
“Cám ơn mẹ”, Linnette dường như chẳng có chút động lực nào cho buổi hẹn hò. Bằng chứng là chiếc váy đen và chiếc áo len màu trắng đơn điệu cũng không phải là đồ mới. Đôi giày cao gót cũng đã đi được một năm và đồ trang sức cũng đơn thuần chỉ là chiếc vòng và đôi hoa tai vàng. Những thứ đồ đó chỉ đảm bảo diện mạo của cô đủ lịch sự để bước ra ngoài. Mong muốn cuối cùng của cô là làm sao để lại chút dấu ấn với anh chàng chăn ngựa kia.
Ý định của cô chỉ là để hoàn thành nhiệm vụ và nếu có thể thì là thưởng thức bữa ăn. Nếu Cal hẹn hò cô lần nữa thì cô sẽ từ chối bằng lý do đơn giản là cần thời gian để sắp xếp lại chỗ ở mới. Nói cách khác là cô sẽ chỉ liên lạc với anh ta khi cô thích. Cô không muốn tiến xa hơn và trong tâm niệm của cô thì đây là buổi hẹn duy nhất và cuối cùng.
“Con gái vui vẻ nhé”, mẹ cô hồ hởi.
“Mẹ, mẹ đừng nhìn con như thế, con không thích đâu”.
“Như thế nào?”. Mẹ cô nhíu mày.
“Mẹ cứ kỳ vọng quá vào mối quan hệ của con và Cal, tại sao không phải là con với người khác”.
“Gì thế này?”. Roy vừa hỏi vừa đi vào căn phòng nơi hai mẹ con đang đứng. “Cả bố nữa đấy”, Linnette kêu lên.
“Này, bố làm gì nào?”. Roy hỏi mắt liếc nhìn Corrie.
Linnette tỏ rõ thái độ với bố mẹ. “Cứ như là bố mẹ ép con lấy một nguời mà con còn chưa hề biết mặt. Bố mẹ không băn khoăn vì sao con không muốn tới buổi hẹn hò ngốc nghếch này sao?”.

Bố cô với tay lấy tờ Bản tin vùng vịnh Cedar nói hững hờ. “Vậy đừng đi nữa”.
Corrie cướp lời. “Mẹ đã mất tiền cho buổi hẹn hò này và mẹ muốn con gặp anh ta ít nhất một lần xem sao. Thật là lố bịch nếu đến phút chót lại gọi điện huỷ cuộc gặp”.
Linnette cũng đã nghĩ được điều này. Vì đã mất công hẹn hò nên cô cũng không cho phép mình cư xử thô lỗ. Nhưng khi được bố mẹ để ý đến, lại có một vấn đề khác cô muốn bộc bạch.
“Con muốn biết rõ hơn về những tấm bưu thiếp mà bố mẹ nhận được”. Ánh mắt ông bố chùng xuống đưa cái nhìn soi xét về phía bà mẹ.
Không đợi ông đổ tội cho mẹ vì đã không giữ bí mật, Linnette đã giải thích tại sao cô biết chuyện. “Con đã nhặt được một tấm, bố ạ. Nên bố đừng cố giấu giếm con nữa. Mẹ đã cố giữ điều bí mật khó hiểu ấy nhưng con đã đọc được một trong những tấm thiệp đó”.
“Nhưng chúng ta không nhận được tấm nào trong suốt tuần qua”, Corrie nhanh chóng chen vào. Cô ngập ngừng rồi quay lại phía Roy. “Phải không anh?”.
Cái nhíu mày của Roy làm cả khuôn mặt anh xám lại. “Không. Đề tài này chấm dứt ở đây nhé”. Nói xong anh ngồi xuống chúi mặt vào tờ báo.
“Nhưng…”
“Hỏi bố cũng không ích gì lúc này đâu”, mẹ cô thì thầm.
Cô im lặng tự nén lòng mình không nhắc đên đề tài đó nữa. Giờ thì Linnette đã biết bố mình cứng nhắc thế nào. Cô thấy bực bội vì bố đã loại cô ra khỏi vấn đề gia đình, với Mack ông cũng cư xử như vậy. Linnette thấy nhói đau khi thấy rằng chính cha cô cũng giả bộ như cô không ở đó để rồi lại tự mình cố trả lời cho những câu hỏi bí ẩn, tìm nơi để nương tựa tinh thần. Dường như ông không hiểu rằng Linnette không có ý xen vào chuyện của bố mẹ, cô chỉ thắc mắc vì những điều khó hiểu đang diễn ra mà thôi.
“Có lẽ con phải đi đây”, cô vừa nói vừa vơ lấy chiếc túi đã chọn sẵn cho bộ trang phục.
Cal đã hẹn gặp cô ở nhà hàng Hải Đăng, nhà hàng sang nhất trong thị trấn. Linnette đã sẵn sàng tinh thần trả tiền bữa ăn nếu tình thế bắt buộc, nhưng cô vẫn hy vọng Cal sẽ mời vì dù sao cô cũng chưa nằm trong biên chế của trung tâm y tế. Mẹ cô đã mất không ít tiền cho gã trai này. Cô không biết chính xác là bao nhiêu nhưng chắc cũng tầm hơn 400 đô la cho Cal và con chó của anh ta. Linnette nghĩ là Cal phải là người trả tiền bữa tối nhưng dù sao cô cũng chuẩn bị sẵn hầu bao phòng trừ khi anh ta gọi đồ uống quá sang.
“Vui vẻ nhé con gái”, Corrie nhắc lại khi tiễn con ra cửa.

Linnette thì nghĩ đó là điều không thể, cô hỏi bằng giọng đầy chán nản. “Còn câu chúc nào khác nữa không mẹ?”.
Câu hỏi vô tình lại làm hài lòng bà mẹ. “Mẹ không biết về Cal nhiều lắm. Nhưng Grace Sherman ở thư viện nói rằng anh ta là một người tốt tính nhưng nhút nhát, nên có lẽ con phải là người chủ động trong câu chuyện đấy”.
Linnette đã biết trước điều đó. Nhưng với tật nói lắp của anh ta thì chắc câu chuyện cũng chẳng đầu chẳng cuối. Linnette sợ rằng bữa tối này sẽ như cực hình. Cô biết rằng cô sẽ phải đấu tranh để nghe được hết câu nói của anh ta. Làm như vậy thì thật mất lịch sự nhưng tất nhiên, Cal sẽ tự biết đường rút lui.
Linnette cũng không mong muốn trở về nhà tối nay vì mẹ cô chắc chắn sẽ ngóng đợi từng giây phút để phóng vấn con gái về bữa tối với Cal. Nhưng Linnette cũng có một số vấn đề của riêng mình. Cô hy vọng biết thêm chi tiết về những tấm thiệp để có thể nói với em trai mình. Linnette cảm thấy họ cần được biết về những nguy hiểm đang rình rập cha mẹ.
Nhưng nếu bố cô luôn phản ứng lại những câu hỏi dù đơn giản nhất thì cô cũng không có hy vọng chia sẻ thông tin gì với ông. Dù bố không nói gì những cô có thể thuyết phục mẹ tiết lộ chút ít.
Khi đến nhà hàng, Linnette đỗ xe vào chỗ trống duy nhất và bước vào nhà hàng Hải Đăng. Kỳ cục một nỗi là cô chưa bao giờ nghĩ đến việc hỏi xem hình dáng Cal trông thế nào. Để giờ đây đứng trong nhà hàng đông người này cô chỉ biết nhìn quanh hy vọng rằng biết đâu cô có thể nhận ra anh ta. Không may là có khá nhiều người đàn ông độc thân đang bước qua bước lại khắp phòng.
Không muốn bẽ mặt vì phải đi hỏi tên từng người, cô quyết tìm ra một cách hợp lý hơn. Chắc chắn Cal sẽ đi một đôi giầy cao cổ của người chăn ngựa. Nhưng làm thế cũng đồng nghĩa là cô phải chúi mũi vào chân của từng người một.
Cô đã tìm được một đôi giầy cao cổ được đánh bóng lộn và ngẩng đầu lên. Cô có thể loại ngay trường hợp này vì ông ta quá già. Cuộc tìm kiếm lại tiếp tục. Giầy đã bị trầy da - quá trẻ. Giầy da rắn ư - không. Trông ra dáng thành thị quá.
“Linnette?”.
Cô lập tức ngẩng lên và suýt đổ ngửa vì một người đàn ông thanh mảnh trạc 35 tuổi. Anh ta đội một chiếc mũ cao bồi, mặc áo kiểu Miền Tây có một miếng da đáp ở cánh tay áo và - đương nhiên, một đôi giầy cao cổ. Linnette chẳng kỳ vọng cao xa nhưng nếu đây là Cal Washburn thì quả thật anh ta vượt xa tưởng tượng của cô. Anh ta có vẻ ưa nhìn, không quá vạm vỡ nhưng dáng cũng khá chuẩn. Tóc và mắt màu nâu, cổ vạm vỡ, hàm bạnh và ngạc nhiên hơn nữa một nụ cười ấm áp.
“Anh Cal à?”.
Anh gật đầu.
“T - tôi đã đặt trước bàn rồi”. Anh đặt tay qua eo cô và dìu cô về phía bàn.

Cô gái đứng ở quầy nhìn họ chờ đợi. Cal nói. “W - Washburn”.
Cô lễ tân nhìn nhanh qua danh sách khách vì thấy ngay tên anh trong danh sách khách đã đặt bàn trước.
Với tay lấy hai cái thực đơn, cô nói. “Bàn của anh chị đã sẵn sàng rồi đấy ạ”. Linnette chưa từng nghĩ là nhà hàng Hải Đăng này lại có cung cách phục vụ nhiệt tình đến vậy. Cô cũng chẳng nghĩ tới việc phải đặt bàn trước, nên cô thầm cảm ơn Cal. Vừa ngồi xuống, Linnette liền mở thực đơn, liếc nhanh qua các món và chọn các món hải sản như trai, sò điệp và tôm hùm. Những món này nghe đã thấy ngon rồi - và quan trọng hơn là giá cả của chúng phù hợp với túi tiền của cô. Cô chọn nem cuốn làm món khai vị. Người phục vụ đến bàn của họ và hỏi xem họ muốn dùng đồ uống gì. Linnette quyết định sẽ chỉ uống trà đá thôi, còn Cal lại chọn rượu whiskey chua. Chợt nhớ ra là tiền mang theo cũng chẳng nhiều nhặn gì, Linnette mở thực đơn để xem giá của các loại rượu pha là bao nhiêu. Trời ạ! Loại rượu này được pha từ thứ whiskey hảo hạng và giá của nó là gần 10 đô la một ly.
Sau khi đồ uống được dọn ra, hai người đã trò chuyện cùng nhau, trong suốt câu chuyện, hầu như Linnette là người nói, đúng như những gì cô đã tiên đoán. Cal có vẻ rất thích thú khi biết cô là y tá và có thể kê toa thuốc và chữa được những bệnh nhẹ. Cô cũng miêu tả cho anh lần đầu tiên cô băng bó vết thương và cái cảm giác hồi hộp lo lắng ra sao.
Người phục vụ lại quay trở lại bàn để hỏi họ chọn món gì. Cal như thế vừa phát hiện ra thức ăn lần đầu tiên vậy. Anh ta gọi súp cua bể để khai vị rồi thêm một đĩa sa-lát với tôm hùm. Các món hải sản này sẽ rất đắt. Chưa hết, anh lại chọn bò bít tết làm món chính. Linnette lại liếc nhìn cái thực đơn lần thứ hai để xem giá của món bít-tết. Theo tính toán của cô, riêng các món của anh ta thôi cũng đã vượt quá số tiền cô mang theo rồi.
“Co-có chuyện gì k-không em?”. Cal hỏi.
Cô ngồi sát hơn và cố tìm ra một cách để giải thích rằng cô chỉ mang theo một ít tiền thôi, nhưng mãi cô vẫn không thể mở miệng được. Nói như vậy sẽ thật là bẽ mặt.
“Khô-không có gì đâu ạ!”.
“Em cũng nói lắp à?”. Đôi mắt anh mở lớn như thể anh gặp được người bạn tri kỉ của đời mình vậy.
“Không ạ”. Cô lắc đầu. “Cal này, tôi...”. Cô bắt đầu giải thích rằng có thể họ sẽ phải cùng nhau trả hoá đơn cho bữa tối này nhưng đúng lúc đó người phục vụ đã mang các món khai vị tới nên cô thôi không nói nữa. Nằm ngoài dự đoán của mình, Linnette thực sự đã có một bữa tối vô cùng ngon miệng. Khi bắt đầu nếm thử các món ăn, cô thấy rất đổi thoải mái. Cal cứ nài cô dùng một ly rượu - có thể cô sẽ không có đủ tiền trả cho loại rượu này nhưng cô vẫn nhận lời mời của anh. Và khi cô nếm thử loại rượu vang Chardonay, cô hài lòng rằng mình đã không từ chối lời đề nghị đó. Ly rượu không những rất ngon mà nó còn đánh thức các dây thần kinh trong cô nữa.
Cô cũng không ngạc nhiên khi thấy Cal gọi món tráng miệng là món bánh pho mát kiểu New York chứ không phải bất kỳ một món nào khác. Anh gọi hai bộ đĩa.
“Tôi không thể ăn thêm được nữa đâu”, cô để hai tay lên bụng khăng khăng từ chối.
“Thử một miếng thôi mà”, Cal cố nài.
“Chúng tôi nướng loại bánh này ngay trong hàng này đấy ạ”, nguời phục vụ nói, “nó là món tráng miệng ngon nhất đấy”.
“Thôi được rồi”, cô cũng đành ưng thuận, “một miếng thôi đấy nhé”.
Linnette ăn gần hết cái bánh. Cô vốn không thích các món tráng miệng như thế này, nhưng món bánh này là một ngoại lệ - nó là món ngon nhất cô từng được nếm.

Họ nhấm nháp một tách cà phê và sau đó người phục vụ đã mang hóa đơn thanh toán tới. Cái kẹp da chứa hóa đơn nằm ngay giữa bàn, chẳng làm sao mà tảng lờ, vờ không thấy nó. Theo nhẩm tính của cô trước khi gọi thêm ly rượu, thì chi phí của bữa ăn đã vượt qua khả năng chi trả của cô. Tất nhiên cô có mang theo thể VISA nhưng thẻ đã hết hạn rồi. Linnette vẫn nhìn chằm chằm vào cái kẹp da chứa tờ hoá đơn và cầu trời cho cái anh chàng mà mẹ cô coi là một người mẫu mực này sẽ thanh toán.
Nhưng anh ấy đã không làm vậy. Linnette bắt đầu thấy lo lắng.
“Chúng ta cùng trả tiền được không ạ?”. Cô đề xuất.
Cal cầm hóa đơn lên và nhìn qua. Anh cũng không nói phần cô phải trả là bao nhiêu.
“Tôi sẽ thanh toán khi chúng ta đi ra”. Linnette gật đầu:
“Tôi đã có một khoảng thời gian thật thú vị”.
Anh có vẻ cũng ngạc nhiên như cô. “Tôi cũng vậy”. “Em không gi-gi-giống như những gì tôi t-t- tưởng”.
“Anh cũng như vậy”.
Anh liếc nhìn đồng hồ. “Để tôi đưa em ra xe ô-ô- tô nhé”.
Cô lắc đầu. “Anh cứ đi đi ạ, tôi sẽ thanh toán phần của mình. Cảm ơn anh Cal, vì một buổi tối thật tuyệt”.
“Khô-không có gì”. Anh đặt khăn ăn xuống bàn rồi đứng dậy.
Nhà hàng chẳng còn cái vẻ bận rộn như lúc sớm nữa. Vài cặp tình nhân ngồi chụm đầu vào nhau thì thầm trò chuyện. Linnette hy vọng rằng vào một buổi tối nào đó cô và Chad Timmons cũng sẽ được ngồi bên nhau như vậy.
Khi bóng Cal vừa đi khuất, Linnette chợt thở dài và quyết định xem mình còn “nợ” bao nhiêu cho bữa tối này đây. Cô với lấy hóa đơn và choáng váng khi thấy nó đã được thanh toán. Hơi cau mày, cô hỏi lại người bồi bàn. “Hóa đơn này đã được thanh toán rồi ư? Cả tiền boa cũng được trả rồi à?”
“Vâng, quý ông đã thanh toán với cửa hàng trước khi cô đến cơ ạ. Ông ấy đã để thẻ tín dụng cho quần thu ngân rồi ạ”.
“Ôi”. Lẽ ra anh ấy phải nói trước với mình chứ. Dù sao Linnette vẫn cảm thấy mình nên có một lời cảm ơn với anh. Nhưng khi cô chạy đến chỗ đậu xe thì Cal đã đi rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7: Chương 09 - 10





9
Đó là ngày thứ ba tuần đầu tiên của tháng 11, ngày Charlotte và Ben sẽ đi ăn tối với con trai của Ben. Chiều hôm đó bà đã lục tung tủ quần áo tìm một bộ váy để mặc. Cuối cùng bà cũng quyết định mặc một bộ đầm màu trắng hồng đã mua để mặc hôm tiệc cưới của mình. Với hàng ruy băng nhỏ xinh hình hoa hồng kết trên cổ áo, bộ đầm làm bà thấy thật nữ tính và hấp dẫn. Mặc dù bộ đầm này hợp để mặc vào mùa xuân hơn là mùa thu, bà vẫn hy vọng sẽ gây được ấn tượng tốt đối với David.
“Trông em thế nào anh?”. Bà hỏi ông lão Ben khi bước ra khỏi phòng ngủ và vuốt phẳng những nếp nhăn trên váy. Bà chờ đợi một lời khen ngợi của chồng.
Ben rời mắt khỏi tivi và cau mày.
“Sao thế anh? Có gì không ổn à?”. Charlotte hỏi giọng ỉu xìu. Bà muốn làm cho chồng mình phải tự hào về mình.
“Em rắc rối quá đấy. Em không cần phải cố gây ấn tượng với David đâu”. “Nhưng... em muốn con trai anh sẽ yêu quý em mà”.
“Anh biết, em yêu, và anh cũng đánh giá cao điều đó nhưng không cần thiết phải vậy đâu. Anh ngờ là lý do duy nhất mà David mời chúng ta đi ăn tối là để xem anh có cho nó vay thêm tiền không ấy mà”. Mặt Ben nghiêm lại.
“Anh đã từ chối không cho nó rồi. Anh cũng đã nói đó là lần cuối và anh sẽ không đổi ý đâu”.
Ben lắc đầu. “Thậm chí chúng ta còn khốn khổ với cái hóa đơn cho bữa tối nữa cho mà xem”.
“Thôi nào Ben, em chắc là không phải thế đâu. Và dù sao đi nữa nó mời chúng ta đi ăn cơ mà”.
“Ờ, nhưng anh cá là anh sẽ là người thanh toán đấy”. “Ôi Ben, đừng quá tiêu cực như vậy mà”.
Ben cũng chẳng muốn tranh luận thêm nữa. Rồi bà ấy sẽ lại nói là ông quá căng thẳng và rồi sau này ông sẽ thấy hối hận cho mà xem. Ông chẳng bộc lộ niềm vui gì khi phải gặp David hay nghĩ đến cái viễn cảnh về một buổi tối hiếm hoi ở Seattle.
Khi trời vẫn còn chưa tối hẳn, Ben và Charlotte đã lái xe đến Bremerton và bước lên phà Seattle. Trong suốt cả chuyến đi dài, Ben vẫn im lặng một cách bất thường. Họ nắm tay nhau và cùng nhâm nhi một tách cà phê. Charlotte ngắm nhìn đảo Bainbridge mờ dần khi đường chân trời Seattle đang dần hiện lên trong tầm mắt. Đây quả là một khoảng thời gian đẹp của Puget Sound. Chỉ cuối tháng này thôi sẽ là lễ Giáng sinh và không khí lễ hội sẽ tràn ngập trên vịnh Cedar này. Khi phà cập bến Seatlle, Ben dẫn Charlotte men theo bờ dốc ra khỏi ga cuối. Họ bắt một chiếc tắc-xi đang đợi ngoài phố và đi thẳng đến nhà hàng bít- tết Martini - nhà hàng mà David đã chọn.
Ben dẫn Charlotte vào thang máy đi xuống tầng dưới. Khi vừa bước ra khỏi thang máy, ngay lập tức, bà đã bị thu hút bởi những tấm ảnh có chữ kí của những người nổi tiếng đã dùng bữa ở đây. Một chàng thanh niên - có thể là con trai của Ben đang ngồi ở tiền sảnh của nhà hàng. Trông cậu ta thật đẹp trai, một bản sao của cha cậu hồi trẻ với mái tóc ngắn và vẻ bề ngoài rắn rỏi. Cậu ta liếc nhìn và mỉm cười khi nhìn thấy Ben và Charlotte.
“Chào David”, Ben nói chẳng có chút tình cảm nào.
“Bố”, David chào nồng nhiệt, cậu đúng dậy và ôm bố, vỗ vào vai ông tràn đầy tình cảm. Sau đó, cậu ta mỉm cười với Charlotte với một nụ cười ấm áp.
“Đây là dì Charlotte, “Ben nói, choàng tay qua vai vợ như muốn bảo vệ bà. David mở rộng vòng tay và ôm bà thật chặt. “Con rất vui vì cuối cùng cũng gặp được dì”, cậu ta nói. “Dì đã làm cho bố con trở thành người đàn ông thật hạnh phúc”.
Charlotte thấy rất hài lòng. Ben chẳng việc gì phải lo lắng cả; đây chắc chắn sẽ là một buổi tối tuyệt vời. Khi David buông bà ra, bà nhìn Ben và thấy ông đang quắc mắt.
Bà không thể hiểu tại sao ông ấy lại tỏ ra khó chịu như vậy. Nụ cười của David tắt dần khi cậu nhận ra phản ứng của bố.
“Thôi nào bố”, cậu nói, “bố cứ thư giãn và thưởng thức bữa tối đi”.
“Đúng đấy”, Charlotte nói xen vào, “đây là lần đầu em gặp con nên chúng ta sẽ có một bữa tối thật tuyệt. Chúng ta cùng thưởng thức nhé”.
David hướng sự chú ý của mình về phía bà khi đợi người phục vụ lấy lại bàn của đôi đến trước họ: “Con không thể diễn tả được sự tiếc nuối của con đễ lỡ mất đám cưới của bố và dì”, cậu nói, tránh ánh mắt của bố. “Con rất mong có cơ hội được giới thiệu dì với lũ trẻ nhà con”.
Charlotte nói với vẻ đầy hạnh phúc. “Dì chắc chắn sẽ sớm có cơ hội được gặp bọn trẻ”.
“Con cũng chắc chắn như vậy ạ. Một lần nữa con xin lỗi vì đã không đến tham dự một ngày có ý nghĩa to lớn như vậy, nhưng mùa hè là thời gian con rất bận rộn”.
“Con đang làm gì?”. Charlotte hỏi, cố nín không nhắc cậu ta rằng họ cưới vào tuần đầu tiên của tháng 5 - và lúc đó là mùa xuân.

“Con làm bảo hiểm. Thật khó để giải thích nhưng con phải làm thông kế và các con số”.
“Ồ, thế à?”. Charlotte gật đầu. “Tất cả những điều đó đều vượt quá khả năng của dì. Công việc của chú Clyde cũng giống như vậy. Dì luôn mang ơn chú ấy. Clyde là người chồng trước của dì”. Bà ngậm ngùi kể. Cho dù ông ấy đã mất gần 25 năm nhưng trước lúc qua đời ông vẫn luôn quan tâm đến nhu cầu tài chính của Charlotte. Bà sẽ biết ơn ông suốt đời.
Người phục vụ dường như đang đợi cuộc trò chuyện của họ kết thúc.
“Bàn ăn của chúng ta sẵn sàng rồi đấy”, Ben nói để hướng họ về phía người phục vụ trẻ.
Họ nhanh chóng được sắp xếp chỗ ngồi, bà Charlotte đưa mắt ngắm nhìn xung quanh. Chỉ nhìn thoáng qua thôi bà cũng nhận thấy rằng đây là một trong những nhà hàng tốt nhất bà đã từng đến. Cho đến nay, nhà hàng đẹp nhất đối với bà là nhà hàng của cô cháu gái bà, Justine.
Justine và Seth mở một nhà hàng tên là Hải Đăng ở vịnh Cedar và đã rất ăn nên làm ra. Lúc nào bà cũng rất tự hào về người cháu gái đó. Nó còn thật khéo chọn khi kết hôn với một người đàn ông mạnh mẽ như Seth Gundson. Khi David có dịp đến vịnh Cedar, nhất định cậu ta sẽ có dịp đến dùng bữa tại nhà hàng Hải Đăng.
Người phục vụ đẩy chiếc xe nhỏ đến bàn của họ, với một phong cách trịnh trọng, anh ta lần lượt liệt kê tất cả các món trong thực đơn. Đầu bà quay cuồng khi nghe anh ta trình bày rồi sau đó lại miêu tả từng món một. Khi người phục vụ trình bày xong, anh ta đưa cho họ một bảng giá các món. Charlotte nhìn qua và há hốc mồm vì kinh ngạc. Nhưng, lạy Chúa tôi, tất cả các món trông thật là ngon. Bà cố lưu giữ trong trí nhớ càng nhiều món càng tốt. Cháu gái bà sẽ rất muốn biết. Sau khi đã xem xét một cách tỉ mỉ, bà quyết định chọn món cá kiếm nướng và cả hai người đàn ông đều gọi món thịt bò bít-tết.
Bữa ăn ngon tuyệt và cách phục vụ cũng rất tuyệt vời. Cả cuộc trò chuyện cũng rất thú vị. David rất sôi nổi và hầu như trong buổi nói chuyện này cậu là người nói hết. David nói chuyện về thời tiết, về những bộ phim cậu vừa xem và về kế hoạch đi Vegas trong lễ Giáng sinh này.
Ben vẫn im lặng như lúc đầu; dường như chỉ có Charlotte phải trả lời những câu hỏi và những câu chuyện của David. Điều gây khó chịu nhât đấy chiếc điện thoại di động của David, nó kêu đến bốn lần trong suốt bữa ăn. Sau lần kêu thứ tư, ông Ben phải gắt lên. “Tắt ngay cái điện thoại chết tiệt ấy đi”.
“Con xin lỗi”. David trông đầy vẻ hối lỗi, với tay lấy cái điện thoại và nhân nút tắt. Chiếc điện thoại kêu một bài hát ngắn rồi tắt lịm.
Charlotte thở dài nhẹ nhõm và mỉm cười với người phục vụ khi anh ta mang cà phê đến bàn của họ với một vài loại đường khác nhau cho họ lựa chọn. Bà Charlotte đã chọn ngay một thanh kẹo cứng trông như vừa được lấy ra từ một của hàng bánh kẹo nào đó vậy.
Vừa nhâm nhi ly cà phê, David vừa nhẹ nhàng nói. “Chắc bố cũng đoán được tại sao con lại muốn gặp bố”, cậu nói và khuấy kem trong ly cà phê.
“David này, nếu đó là vấn đề liên quan đến tiền thì...”.
“Bố à, con đang kẹt tiền lắm”.
“Bố không thể giúp con được đâu”.
“Không thể hay không muốn?”. David hỏi cố kìm sự tức giận.
Vai ông Ben nhô hẳn lên như thể ông phải hít thật sâu để kiềm chế cơn túc giận của mình. “Nếu mày đã nói như thế thì câu trả lời của bố là không muốn. Bố sẽ không cho mày dù chỉ là một hào. Mày còn chưa trả lại bố hai khoản nợ trước đó nữa. Bố sẽ thành một thằng ngốc nếu lại cho mày vay thêm lần này”.
“Con sẽ trả mà bố. Con hứa đấy”.
“Lần trước rồi lần trước nữa mày cũng nói như vậy. Tại sao lần này bố phải tin mày cơ chứ?”
“Bởi vì đó là sự thật bố ạ. Bố nghĩ ngửa tay xin tiền của bố như thế này là dễ dàng đối với con lắm ư? Bố có nghĩ con sẽ chạy đến chỗ bố nếu con có sự lựa chọn khác không?”. Cậu ta còn định nói nữa nhưng bà Charlotte có thể nhận thấy cậu ta càng nói, ông Ben càng tức giận.
“Con cần bao nhiêu?”. Bà hỏi. Bà không có ý nói chen vào, nhưng nếu đó chỉ là một số tiền vừa phải thì có lẽ Ben sẽ không quá khó khăn đến vậy.
“5000 đô la ạ”, cậu ta nói. “Số tiền đó ít hơn nhiều với số tiền trước đây con cần”. Cậu ta nói thêm với một nét mặt đầy hy vọng.
“Con cần số tiền ấy để làm gì?”. Charlotte hỏi, bà rất muốn giúp nhưng không biết phải bằng cách nào. Câu hỏi của bà không làm David hài lòng, bà có thể thấy điều ấy, nhưng bà thấy thật tội nghiệp chàng trai trẻ này.
David nhún vai. “Phức tạp lắm ạ”.
“Như thường lệ, không nợ nần gì cả”, Ben nói xen vào. “Thẻ tín dụng thì đã gia tăng quá hạn, chưa trả tiền thuế và lại còn phải trả tiền cấp dưỡng cho hai con vợ cũ nữa”.
“Con sẽ được tiền thưởng Giáng sinh này mà”.

David nói. “Con chỉ cần tiền trong hai tháng, đủ để con sống qua ngày thôi. Bố biết con sẽ không xin tiền nếu con không tuyệt vọng mà. Con đã bảo bố rồi, gánh nặng của tiền bạc là thứ tồi tệ nhất. Tối đến con không thể ngủ được. Con ăn uống rất khổ sở”.
Ben nói. “Con sẽ không có vấn đề gì tối nay đâu”. David hiển nhiên rất thích bữa ăn, và bà Charlotte rất vui vì điều đó sau khi xem giá tiền của bữa ăn. Nếu là cách đây năm năm, bà đã có thể nuôi cả gia đình trong một tuần với số tiền bằng giá của một miếng bít tết.
David tỏ vẻ rất đau đớn, nói. “Đây là bữa ăn ngon nhất mà lâu lắm rồi con mới được ăn. Bố và dì phải hiểu con đã phải chịu bao nhiêu sự khó khăn, khổ sở. Con không thể xin tiền bất cứ ai khác”.
Charlotte nói với giọng tỏ vẻ thông cảm. “Dì biết là vay tiền rất vất vả”. David cảm ơn mẹ kế vì đã hiểu được tâm trạng của mình bằng một nụ cười.
David tiếp tục nói. “Con thề với bố là con sẽ trả lại đầy đủ. Con không biết sẽ như thế nào nếu bố không cho con vay”.
Ben hỏi con ông. “Năm nay con bao nhiêu tuổi rồi?”.
David trả lời thẳng thắn nhưng hơi yếu ớt. “Bốn mươi ba”.
Charlotte ngạc nhiên. “Thật sao? Vậy mà dì đoán rằng con trẻ hơn cơ”. David không để ý đến lời nói của dì, vẫn nhìn thẳng vào mắt bố mình.
Ben nói. “Bốn mươi ba tuổi đã đủ lớn để tự lo cho thân mình và đừng mong chờ có người cung cấp tiền trợ cấp, kể cả trong hoàn cảnh túng thiếu”.
David chùng vai xuống.
Charlotte rất cảm thông với cậu ta, nhưng bà cũng không thể khuyên nhủ Ben khi ông bắt đầu trách phạt đứa con của ông. Bà nắm lấy tay Ben dưới bàn và ông nắm chặt lấy bàn tay bà.
“Bố muốn nói với con một lần cuối rằng bố sẽ không cho con mượn một đồng nào nữa, và bố sẽ giữ lời hứa đó. Bố phải làm vậy, David. Bố rất thông cảm chuyện con đang phải đối mặt với những khó khăn tài chính, nhưng hình như con vẫn không học được một bài học nào cả”.
“Bố đang bảo con là không?”.
“Đúng rồi đấy. Hãy im đi, không một lời nói nào có thể làm thay đổi ý bố được đâu”.
David không cãi lại, cũng không khó chịu, nhưng lại gật đầu như thế là anh ta đã hiểu.
“Cho đến bây giờ, tất cả những gì bố dạy con là hãy đến gặp bố khi con có vấn đề về tài chính và thực sự là cả hai chúng ta không thấy dễ chịu chút nào”.
“Vâng, đúng”. David trả lời một cách miễn cưỡng.
“Trước hết con cũng phải trả lại bố tiền hai lần vay đầu tiên mà con đang nợ, và sau đó chúng ta có thể cùng thảo luận về những khả năng có thể xảy ra trong tương lai”.
David mím môi lại và tiếp tục gật đầu. Đẩy chiếc ghế ra xa, anh đứng lên. “Con xin phép, giờ có lẽ tốt nhất con nên quay lại khách sạn. Con cảm ơn về bữa tối. Dì Charlotte, con nghe điều khôn ngoan nhất mà bố con đã làm mười lăm năm qua là cưới dì”.
Charlotte đỏ bừng mặt lên vì vui sướng với lời khen. “Cảm ơn, David”. Cậu ta gật nhẹ và bước ra khỏi phòng.
Vừa khi cậu ta đi ra, người phục vụ bước đến trước bàn và chìa hóa đơn ra.
10
Đi làm về sớm có hẹn với bác sĩ, Cecilia Randall vào ngay phòng ngủ, ngồi vào bàn, bật máy tính. Cô lưu giữ tất cả những bức thư Ian gửi, và cô chợt thấy buồn khi không có bức thư mới nào. Đúng lúc ấy, có hai tin nhắn. Cô nhấn chuột vào tin đầu tiên, nhưng trước khi máy tính hiện tin nhắn lên trên màn hình, chiếc điện thoại kêu ầm ĩ.
Cecilia liếc qua vai, mong rằng chiếc điện thoại ngừng kêu.

Đó có thể là Cathy đang đợi để nghe về cuộc hẹn của cô. Mọi thứ đều tuyệt vời, và cô có tin thú vị muốn chia sẻ với Ian. Cô không thể nói cho Cathy trước khi nói với chồng. Bởi chồng cô có quyền nghe trước. Nếu cô nghe điện và Cathy vẫn cầm máy, Cecilia biết cô sẽ không thể giữ thông tin cho mình.
Sau ba hồi chuông, cô không thể chịu thêm được nữa và chạy vào bếp chộp lấy cái điện thoại trước khi máy tự động trả lời.
“Xin chào”, cô thở hổn hển.
“Cecilia à?”.
“Ian?”.
“Alô, em yêu, anh rất vui khi em ở nhà. Em sẽ không tin nổi anh phải trải qua những gì mới gọi điện cho em được đâu”.
“Ian, ôi, Ian, nghe giọng nói của anh em mừng quá. Mắt cô ngân ngấn nước. Cô yêu và nhớ chồng kinh khủng.
Mỗi khi anh đi xa cô đều cảm thấy như vậy.
“Bác sĩ khám cho em thế nào rồi?”. Ian lo lắng hỏi cô. “Lúc chiều nay, đúng không?”.
“Vâng, và mọi chuyện đều ổn cả”. Cô hào hứng kể cho chồng nghe. “Họ siêu âm?”.
“Vâng...”.
“Đứa bé ổn chứ?”. Giọng anh đầy lo sợ. Nếu bác sĩ siêu âm nhiều hơn cho Allison, họ đã phát hiện ra bệnh tim của con bé trước khi sinh. “Có biết kết quả siêu âm không hả em?”.
Cô dựa vào tường bếp, vui sướng. “Có”.
Ian há hốc miệng kinh ngạc như thế đó là nỗi lo sợ lớn nhất của anh.
“Ian, Ian, anh không việc gì phải lo đâu. Ian, chúng ta sắp có con trai rồi?”.
“Cái gì cơ?”.
“Bác sĩ siêu âm bảo lần này nhìn rất rõ và bà ấy còn cho em xem chim của thằng bé nữa. Chúng ta sắp có con trai rồi anh ạ”.
Chồng cô lặng đi một giây rồi hét lên một tiếng chắc phải vang xa đến cả trăm dặm. Cecilia chắc chắn rằng tất cả các đồng đội trên hàng không mẫu hạm đều nghe thấy tiếng anh. Cô hiểu rằng đó chính là bằng chứng để anh thấy lần mang thai này khác với lần trước.
Cecilia mỉm cười trong niềm hạnh phúc vô bờ. Người ta bảo vợ chồng cô là rất có thể đứa bé lần này là con gái và chồng cô càng lo sợ. Ian lúc nào cũng khăng khăng cho rằng thế nào cũng giống với Allison mà thôi. Cecilia lại sinh ra một đứa con gái nữa khi anh ấy đi vắng. Ian rất sợ cho cô và sợ cho cả anh. Nếu họ lại để mất đứa con nữa... chắc Cecilia sẽ không thể nào chịu đựng nổi.
“Họ nói chắc chắn là con trai chứ”.
“Chính em còn nhìn thấy mà”. “Bây giờ em cảm thấy thế nào?”.
“Tuyệt lắm anh ạ. Ngây ngất. Và thấy yêu chồng vô cùng”.
“Anh yêu em, Cecilia”, giọng anh trầm xuống cùng những cảm xúc yêu thương dạt dào. “Dù ngày hay đêm anh cũng đều nghĩ đến em”.
“Em cũng vậy”.
“Em không làm việc vất vả quá đấy chứ?”.
“Hoàn toàn không anh ạ”.
Ian hay lo lắng nhưng công việc rất quan trọng đối với cô. Không có nó, suốt ngày cô chỉ quanh quẩn ở nhà, chẳng có việc gì mà làm cả. Cô luôn muốn đi làm, không chỉ để sử dụng chuyên môn kế toán hay góp một phần vào thu nhập của gia đình.
“Ông Cox thật biết nghĩ và Allison đến cơ quan sau mỗi buổi học”.
Ian đã biết chuyện này rồi nhưng cô vẫn kể lại. Cô muốn những bức thư điện tử của cô ngập những thông tin về cuộc sống hàng ngày. Bởi chúng sẽ góp phần làm vơi bớt nỗi lo của Ian.
“À đúng rồi, Allison Cox”, Ian vừa nói vừa thở dài sườn sượt. “Em rất quan tâm đến con bé đúng không?”.

“Nó có bạn trai mới rồi đấy anh ạ”.
“Và em không thích cậu ta?”.
“À, em không thực sự biết rõ về cậu tai bởi vậy em không thể ghét cậu ta được, nhưng cậu ta làm em rất lo lắng. Em đã kể cho anh nghe cậu ta tên là Anson chưa nhỉ? Tên kiểu gì thế không biết? Cậu ta không phải là chàng trai dành cho Allison. Cậu ta là một trong những đứa trẻ ăn mặc theo kiểu lập dị, vận toàn quần áo màu đen và...”.
Ian ngắt lời cô. “Bố em cũng đã từng nói anh không phải là chàng trai dành cho em mà, em còn nhớ không?”.
Vừa nhắc đến bố, Cecilia đã thấy cay mắt. Cô đến vịnh Cedar bốn năm trước với mong muốn được gặp bố. Bố mẹ cô đã ly hôn khi cô mới lên mười và kí ức của cô về bố rất mờ nhạt, luôn lẫn trong nỗi cay đắng của mẹ. Cecilia muốn tự tạo ra những ấn tượng về bố. Dường như ông cũng rất háo hức muốn gặp con gái mình.
Mẹ cô đã cảnh báo trước là cô đừng nên trông chờ gì ở ông ta - Bobby Merrick, nhưng ông ấy như thế nào thì cô sẽ phải tự khám phá. Phải mất rất lâu cô mới nhận ra rằng bô mình là một người không đáng tin và rất vô trách nhiệm.
Khi Cecilia để mất đứa con của mình, ông ấy chỉ an ủi cô bằng một tấm thiệp gửi qua mạng viết rằng ông chia buồn với cô. Nhưng ông ấy chưa một lần đến thăm con gái mình trong bệnh viện, cũng chưa từng một lần nào đề nghị chia sẻ những gánh nặng tài chính đè nặng lên vai cô. Thậm chí ông ấy cũng chưa từng một lần thăm mộ Allison. Điều duy nhất ông làm được cho cô đó là xin cho cô làm ở nơi cô đã gặp được Ian. Cô luôn biết ơn bước ngoặt định mệnh ấy.
“Anh là người đàn ông đích thực của em”. Cô nói nhẹ, quyết định không đề cập gì đến bố trong câu chuyện của hai vợ chồng. “Ôi, Ian của em, em nhớ anh quá”.
“Anh sẽ sớm về nhà với em”.
Chắc là anh sẽ không thể về trước khi cô sinh nhưng Cecilia chẳng hề bận tâm đến điều đó. Lúc này cô không hề cô đơn. Cathy Jackey sẽ đến ở cùng với cô và hứa sẽ sẽ giúp cô vượt cạn. Cecilia cũng đã đăng kí và sắp đi học khoá học làm mẹ. Cathy sẽ đi cùng với cô.
Khi Cecilia sinh Allison, cô đã phải vượt cạn một mình. Đứa trẻ bị sinh non vài tuần. Mẹ cô dự định sẽ bay đến với cô nhưng không kịp. Chẳng có bạn bè và vô cùng lo sợ, Cecilia đã phải tự đến bệnh viện một mình.
“Chúng ta phải nghĩ tên cho con trai anh ạ”, cô muốn xóa hết những kí ức đau buồn ấy.
“Ừ… nhưng anh chẳng thể nghĩ được gì lúc này cả. Anh sẽ gủi thư cho em nhé, được không em?”.
“Được thôi anh ạ, nhưng em nghĩ hay là đặt tên con theo tên anh”.
“Dễ thôi mà em”, Ian nói, “hay là lấy tên anh làm tên đệm cho con”.
“Hay đấy anh ạ”.
“Nghe này em yêu, bây giờ anh phải đi, nhưng trước khi đi anh phải hỏi giúp một người bạn của anh. Anh ấy muốn nhờ em hỏi giúp thông tin về một cô gái”.
“Tất nhiên là được ạ”.
“Tên cô ấy là Rachel Pendergast và cô ấy đang làm ở một tiệm làm đẹp ở vịnh Cedar. Tên tiệm ấy là Tiệm sửa móng và làm tóc”.
“Em biết tiệm ấy mà. Hầu hết mọi người đều làm móng ở đó đấy”.
“Nate đã hẹn hò với Rachel vài lần và có vẻ rất có cảm tình với cô ấy, nhưng cô ấy lại không có máy tính. Thỉnh thoảng cô ấy viết cho anh ấy những bức thư rất dài, nhưng vẫn không bằng trò chuyện qua mạng”.
“Cô ấy không được sử dụng máy tính ở thư viện à?”. Cecilia hỏi. Cô cũng phải làm thế mỗi khi hai người xa nhau và cô cần phải giữ liên lạc thường xuyên với anh bởi đã dành hết tiền để chôn cất Allison và trả tiền cho luật sư sau vụ ly hôn bất thành và cô chẳng còn tiền để chi trả những khoản phụ phí khác.
“Rachel chưa bao giờ và cũng không biết cách lên mạng. Mọi thứ đều mới mẻ với cô ấy”.
“Em sẽ giúp cô ấy”, Cecilia hứa. “Cảm ơn em yêu”.
“Không có gì đâu ông chồng đẹp trai tuyệt vời của em ạ”. “Bao lâu rồi anh chưa nói anh yêu em nhỉ?”.
Cecilia mỉm cười. “Quá lâu rồi đấy”.
“Anh yêu em”.
Cô cười khúc khích trong hạnh phúc.
“Một đứa con trai”, Ian thì thầm. “Một đứa con trai”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8: Chương 11 - 12





11
Hôm nay là ngày chuyển nhà. Em trai của Linnette nhiệt tình đến giúp chị một tay. Sáng sớm thứ bảy, Mack cùng với Lucky, chú chó chăn cừu Úc, và một vài người bạn là lính cứu hoả tình nguyện đang làm cùng cậu, đã có mặt ở nhà Linnette tại Seattle. Đồ đạc còn lại cần vận chuyển là đồ nội thất và một vài chiếc thùng khá nặng. Linnette đã tự chuyển đi từng món một những gì cô có thể mang vác được còn những đồ đạc lớn hơn thì cần chuyển bằng xe tải.
“Chị không biết lấy gì để cảm ơn mọi người đây”, Linnette nói với em trai sau khi cậu cùng bạn bè chất đồ lên xe. Bryan và Drew đang bê những chiếc ghế trong phòng ăn xuống. Bạn cùng phòng với cô đã chuyển đi từ tháng trước và hiện giờ nơi đây chẳng còn ai.
“Có gì đâu”, Mack nói. Cậu nán lại một chút, vừa nói vừa lau mồ hôi trên trán. “Em mừng vì giúp được chị. Em hy vọng mình sẽ có dịp trò chuyện sau”.
Trước khi Linnette có thể đáp lời, Bryan đã bước trở vào phòng vui vẻ giục: “Xong chưa chị?”.
Drew bước theo sau, nói như hát: “Đi nào, đi nào, chúng ta đi!”.
“Chờ một phút nhé, tớ xuống ngay đây”, Mack nói.
“Chị em mình nói chuyện sau vậy”, Linnette hứa.
“Vâng. Sau khi dỡ hết đống đồ này xuống, mình chuyện trò chút rồi em sẽ lái xe về chỗ thuê”. Chi phí thuê xe sẽ rẻ hơn nếu xe được đưa trả về địa điểm thuê ban đầu và Mack vui vẻ đưa xe về Seattle cho chị gái.
Cũng nhanh như lúc chất đồ lên, họ dỡ đồ, chở mọi thứ bằng xe kéo qua cầu thang ngoài trời rồi kê sôpha, ghế tựa, đèn, bàn nước và tivi vào phòng khách. Giường đệm, bàn trang điểm và đèn ngủ được kê vào phòng ngủ lớn còn bàn ghế và bộ máy vi tính, những món đồ cô đã đóng thùng cẩn thận được chuyển vào căn phòng nhỏ hơn. Linnette đã lên kế hoạch sắm thêm chiếc sô-pha kiêm giường ngủ và một chiếc bàn làm việc nhỏ. Cô cũng muốn lại bắt đầu làm đồ thủ công, công việc mà cô không có thời gian làm khi còn đi học. Chiếc bàn ăn cô mua lại từ cửa hàng từ thiện khá xinh xắn nhưng đã cũ lắm rồi và Linnette hy vọng sẽ sớm thay cái mới. Với thu nhập ổn định, cô sẽ sắm sửa thêm được nhiều đồ khác nữa.
Khi công việc đã xong xuôi, Linnette đãi mọi người bánh hamburger, khoai tây chiên và đồ uống lạnh. Ngay sau khi họ ngốn hết chỗ đồ ăn, Drew và Bryan quay về Seattle cùng với những lời cảm ơn nhiệt thành từ Linnette.
Mack ngồi trên sô-pha, cúi người về phía trước, để túi giấy đựng bánh burger lên trên bàn. Chú chó Lucky ngoan ngoãn nằm duới chân chủ. Suy nghĩ một lát, Mack nhìn Linnette, hỏi khẽ. “Chị biết có chuyện gì giữa bố mẹ không?”.
Em trai cô thật sắc sảo. “Điều gì khiến em nghĩ là có chuyện?”. Cô tò mò không biết sao cậu em lại nhận thấy điều bất ổn bởi cô biết cậu không thường xuyên nói chuyện với bố mẹ.
“Gần đây chiều Chủ nhật nào mẹ cũng gọi điện cho em. Có vẻ rất đều đặn. Mẹ không nói rõ, nhưng gần đây, em muốn nói là vài tuần gần đây, mẹ có vẻ bất an”.
“Là sao?”.
Mack ngập ngừng. “Ví dụ, mẹ nhẹ nhàng nói rằng nếu có chuyện gì xảy ra với bố, em không bao giờ được nghi ngờ tình cảm của bố dành cho em. Em hỏi mẹ xem có phải là bố bị ốm hay có chuyện gì em cần biết không, nhưng mẹ quả quyết là không. Em cho là, mẹ không nói dối nhưng cũng không nói toàn bộ sự thật cho em biết”.
“Em nói tiếp đi”. Em trai cô rất nhạy cảm và cô băn khoăn không biết cậu đã có được những thông tin gì.
“Mỗi lần gọi điện, mẹ đều quả quyết với em là mọi thứ vẫn ổn. Thế nên, sau một thời gian thì em bắt đầu nghĩ có thể do mình đang tưởng tượng”.
“Không phải đâu”, Linnette đáp ngay rồi bắt đầu kể về những tấm thiệp bố mẹ nhận được.
“Chúng có nội dung đe dọa không?”, Mack lo lắng hỏi.
“Chị không biết chắc”, Linnette đáp. “Chiếc duy nhất mà chị nhìn thấy có viết: “Ông đã suy nghĩ chưa?”.
“Về việc gì?”.
“Theo lời mẹ nói thì bố khẳng định việc này có liên quan đến công việc của bố trong lực lượng cảnh sát”.
“Tên tội phạm nào đó bị bố bắt chăng?”. Mack phỏng đoán.

“Có thể là ai đó có thù hận với bố. Dù là ai, kẻ đang làm việc này rõ rang đang âm mưu khiến bố suy sụp tinh thần”.
“Cách đó không ăn thua đâu”, Mack nhe răng cười nói. “Nếu muốn tra tấn bố chúng ta thì tất cả những gì hắn cần làm là để tóc dài, từ chối chơi bóng đá, bỏ học đại học và làm việc tại bưu điện. Thế là đủ để khiến Roy McAfee mạnh mẽ nổi điên”.
Linnette phá lên cười, nhận ra một điều mới mẻ là em trai mình quả là một người đàn ông hấp dẫn. Vóc người của cậu giống bố, nhưng nhìn kỹ lại giống ông ngoại Wilson.
“Chị có nghĩ là bố mẹ thực sự bị nguy hiểm không?”. Mack hỏi nghiêm túc.
“Chị không biết. Chị đã tìm cách để mẹ nói cho chị biết việc này diễn ra bao lâu rồi nhưng mẹ không muốn chị lo lắng. Việc mẹ không nói ra khiến chị lo lắng hơn. Chị đã nói với mẹ như vậy và mẹ khóc nức nở, nói rằng bố mình quá đáng”.
“Việc đó có gì bất thường đâu?”. Mack trêu đùa.
Linnette lắc đầu cười. “Rõ ràng là ngoài những tấm thiệp còn có gì hơn thế”. Cô ngồi xuống sô-pha cạnh em trai và đưa tay cốc đầu Lucky. “Mẹ còn nói về một giỏ hoa quả được chuyển đến”.
“Bố mẹ có ăn không đấy?”.
“Chị không biết bố mẹ đã làm gì, chắc là đã vứt nó đi rồi. Lần ấy thực sự khiến mẹ sợ hãi”.
“Em có thể hình dung được. Em nghĩ đó là một thủ đoạn của kẻ giấu mặt này. Chị biết đấy, giết hại người bằng sự tử tế, khiến kẻ thù lúng túng - sau đó mới thực hiện một kế hoạch thật”.
Linnette chưa từng nghe theo cách này. “Có thể em và bố không hòa hợp nhưng em giống bố hơn em tưởng đấy”.
Mack co rúm lại. “Đừng nói thế chứ. Người cuối cùng trên thế giới mà em muốn giống là bố đấy”.
“Bố không tệ đến thế đâu”, Linnette thấy buộc phải nói với cậu, “và em cũng không tệ tí nào. Sẽ có ngày hai người hiểu nhau”.
“Có thể”, Mack hồ nghi đáp. “Em hy vọng thế nhưng em không nín thở chờ đợi đâu”.
Một tiếng gõ lịch sự vang lên từ cửa nhà Linnette. Lucky đột nhiên cảnh giác; nó sủa một tiếng ngắn và chăm chú quan sát.
Hai chị em nhìn nhau, rồi Linnette ra mở cửa. Một phụ nữ mặc đồng phục cảnh sát màu nâu đang đứng trước cửa, tay bê một chậu hoa cúc màu đồng xinh xắn.
“Xin chào, tôi là Gloria Ashton, hàng xóm của cô”, chị ta tự giới thiệu rồi trao chậu hoa cho Linnette.
“Tôi là Linnette McAfee”, cô vùa đáp vừa ngắm sắc màu ấm áp của mấy bông cúc. “Mẹ tôi nói rằng mọi người ở vịnh Cedar đều thân thiện. Chị tốt quá. Mời chị vào”. Cô đứng tránh sang một bên để Gloria có thể bước vào trong nhà. Linnette ra dấu về phía em trai. “Gloria, đây là em trai tôi, Mack. Mack, đây là hàng xóm kế bên nhà chị, Gloria Ashton”.
Mack thả cổ chú chó ra, đứng dậy và chìa tay ra cho Gloria. Cô bước lên một bước và chìa tay ra. “Còn đây là con Lucky”, cậu giới thiệu. Chú chó vẫy chiếc đuôi xù rồi quay về chỗ của mình bên chiếc ghế.
“Tôi ở số 216, cách đây hai nhà. Tôi thấy em trai cô và mấy người khác chuyển đồ tới và nghĩ mình nên sang thăm và làm quen. Tôi không muốn làm phiền các bạn đâu, nhưng tôi không biết có dịp nào khác nữa hay không nên cứ sang chơi”.
“Chị làm việc tại đồn cảnh sát ở đây ạ?”. Linnette hỏi.
Gloria đứng vững chãi, hơi dạng chân, hai tay đặt trên thắt lưng. Cô thấp người, nhỏ nhắn và có mái tóc đen; bộ đồng phục vừa vặn như thể nó được thiết kế đặc biệt dành cho cô. Chiếc thắt lưng đeo vũ khí và những nét khác trên trang phục chỉ tôn thêm vẻ nữ tính cho cô. Gloria lắc đầu đáp lại câu hỏi của Linnette. “Tôi làm việc tại đồn Bremerton. Tôi ở đây được gần một năm rồi”.
Mack chăm chú nhìn cô và nheo mắt lại, như thể đang cố nhớ lại. “Trông chị quen lắm. Trước đây em đã gặp chị chưa nhỉ?”.
Gloria cũng nhìn kỹ khuôn mặt Mack, cau mày rồi lại lắc đầu. “Tôi nghĩ chúng ta chưa gặp nhau bao giờ đâu”.
Mack nhún vai. “Chắc thế. Em không hay đến đây nhưng khi đến, em luôn lái xe đúng tốc độ cho phép!” .

“Đúng đấy”. Linnette cười khúc khích và bị em trai cô thúc cùi chỏ vào sườn.
“Em không sống ở vịnh Cedar à?”. Gloria hỏi.
“Quá gần gia đình”, cậu lẩm bẩm. “Em như bị nhốt chặt vào lồng”. Cậu cười với câu đùa của mình và ngồi xuống.
“Chị ngồi chơi với chúng tôi một lát nhé?”. Linnette mời. “Xin lỗi, tôi không có đồ uống gì mời chị. Tôi vẫn chưa ghé qua cửa hàng được”.
“Tôi phải đi rồi, nhưng dù sao cũng cảm ơn chị”. Gloria xem đồng hồ. “Tôi nghĩ lúc này là phù hợp để đón mừng chị đến đây. Nếu có bất cứ câu hỏi gì về thị trấn, tôi sẽ sẵn lòng giải đáp cho chị”.
“Thế thì còn gì bằng”, Linnette nói. “Chắc chắn tôi sẽ nhờ đến chị”.
“Chị nhớ gọi tôi đấy nhé!”. Gloria rời đi sau vài lời từ biệt.
Linnette chờ đến khi cánh cửa đóng lại rồi mới quay sang em trai. “Trước đây em đã gặp chị ở đâu chưa nhỉ?”. Linnette nhại lại. “Nói thật nhé Mack, câu làm quen đó xưa lắm rồi”.
“Em không cố làm quen với chị ấy”.
“Mack, không thể lộ liễu hơn được đâu”.
“À chị ấy dễ thương thật đấy”.
“Ôi, chị xin em. Em đúng là đáng thương!”
“Em hả? Đây là lời cảm ơn em nhận được sau khi bỏ cả ngày Chủ nhật để giúp chị gái mình à?”
“Thôi được, em nói đúng. Chị xin lỗi. Nếu em quan tâm đến Gloria thì cứ nói cho chị biết để xem chị có giúp được gì không - vì hiện giờ em đang tự do quá”.
Mack nhún vai một cái. “Vâng. Nhưng chị ấy trông quen thật mà!”.
12
Tối thứ Bảy, đang ngủ say thì Allison Cox bị đánh thức bởi tiếng “cộc, cộc” trên cửa sổ phòng ngủ. Đồng hồ mới chỉ gần ba giờ sáng. Cô bé bật chiếc đèn nhỏ bên đầu giường, tung chăn bông, bước nhanh ra phía cửa sổ. Kéo rèm nhìn ra ngoài, cô bé há hốc miệng ngạc nhiên khi thấy Anson cười với mình.
“Cho anh vào”, cậu ta nói to.
Bố mẹ mà biết thì chỉ có chết, nên mặc dù sự cám dỗ chút nữa đã lấn át tất cả, cô bé vẫn lắc đầu. “Không được đâu anh”.
Cậu ta hùng hồn gật đầu, rồi xoa hai tay vào nhau, so hai vai lại như thế tránh một cơn gió lạnh. Ánh mắt cậu ta đầy nài nỉ.
“Anson, không được đâu”. Cô bé lại lắc đầu, cố thuyết phục bản thân. Cậu ta dừng lại, chờ một lát rồi quay đi, không che giấu nổi sự thất vọng.
Cậu ta quyết tâm bước đi khiến cô bé nhẹ cả người. Anson đã rất tốt với cô, dịu dàng và ngọt ngào. Lần đầu tiên hôn nhau, chòm râu của cậu làm cô khó chịu nhưng sau đó, khi gặp lại, cậu ta đã cạo râu rồi. Allison xúc động trước sự chín chắn, ân cần của Anson. Cậu ta quan tâm đến cô hơn bất cứ chàng trai nào trước đó. Thật ra, cô cũng rất thích cậu ta. Bố mẹ không hay biết gì về việc họ yêu nhau vì cô luôn giấu quan hệ của hai đứa. Ngay cả Cecilia cũng đã lên tiếng lo lắng về Anson mặc dù chưa hề gặp mặt cậu ta. Nhưng Allison biết bạn trai mình thực chất không giống như những gì anh tỏ ra cho mọi người thấy. Tất cả quần áo, thái độ chẳng nói lên gì cả.
Đến thời điểm này, cậu ta đã đến nhà chơi hai buổi tối rồi, lần nào cũng hết sức lễ phép và đã giành được cảm tình của bố cô.

“Ôi thôi thì...”, cô bé đồng ý và với lấy áo dài, khoác ra ngoài bộ pijama rồi đẩy cửa sổ ra. Cô không sao có thể bỏ mặc cậu ta đứng giữa trời đêm giá rét.
Anson trèo vào phòng ngủ của cô, nhảy bịch xuống. Ơn trời, tấm thảm lông đã giảm gần hết tiếng động. Khuôn mặt cậu ta ửng đỏ vì lạnh, đôi môi nứt nẻ. Anson mặc chiếc áo khoác đen đặc trưng, đội một chiếc mũ len đan kéo sát tai, hai tay không đi găng. Cười với cô bé trong căn phòng lờ mờ ánh sáng, ánh mắt Anson dịu lại. Cậu nghiêng người về phía Allison, miệng gắn chặt lên miệng cô bé trong một nụ hôn dài, ngấu nghiến. Mặt cậu ta lạnh cóng và đôi môi cũng vậy.
Allison dừng nụ hôn lại, cuốn chặt chiếc áo dài quanh mình. “Anh đang làm gì ở đây thế”. Cô bé thì thào gấp gáp hỏi. “Anh biết mấy giờ rồi không hả?”.
Anson ngồi trên thảm, tựa lưng vào thành giường. Allison quỳ xuống bên cạnh. “Lẽ ra anh không nên đến”, cậu ta thì thầm. “Đó là một sai lầm, anh biết, nhưng...”. Cậu ta nhìn xuống, không thể nhìn vào ánh mắt cô.
“Không, ổn thôi mà”, cô bé nói và với tìm đôi bàn tay lạnh cóng của cậu ta để ủ ấm. Áo khoác của anh ta có mùi là lạ, như thể cậu ta đã đứng cạnh một đống lửa và bị khói ám hết vào vậy.
“Anh làm gì ở bên ngoài vào giờ này?”
Cậu ta cúi đầu thấp hơn. “Anh không thể kéo em vào chuyện này được”.
“Vào chuyện gì, Anson? Anh không thể kéo em dính vào chuyện gì?”. Cô bé vuốt ve khuôn mặt, áp lòng bàn tay ấm áp vào má cậu và lại cảm thấy ngạc nhiên vì da cậu quá lạnh.
Anson ôm lấy tay cô bé rồi từ từ nhìn vào mắt cô. Đưa tay ra ôm lấy gáy cô, cậu kéo sát khuôn mặt thân yêu ấy lại gần và kề môi. Nụ hôn của cậu ta thật đòi hỏi và mãnh liệt.
“Chúng mình không thể thế này ở đây... vào lúc này”, cô bé nói nhỏ hết mức có thể. Có thể để cậu luồn tay vào trong người cô, hôn cô nhưng bố cô rất tỉnh khi ngủ và như thế nguy hiểm quá. Hơn nữa, có điều gì bất ổn ở đây. Cô bé cảm nhận thấy, nhìn thấy trong mắt Anson, một sự hoang dại khiến cô hoảng sợ - nhưng cô vẫn thấy không thể nào bỏ mặc cậu ta.
Anson một lần nữa nhìn xuống, tránh ánh mắt cô.
“Hãy nói cho em biết chuyện gì đã xảy ra”, cô nài nỉ. “Anh đã ở đâu?”.
Giọng cậu ta rất nhỏ. “Công viên”.
“Em nghĩ chỗ đó đóng cửa rồi mà. Anh vào trong bằng cách nào?”.
Cậu ta cười méo mó. “Họ chỉ có một cái cổng thôi. Nhảy qua đó dễ lắm”. “Anh ở đó với ai?”. Lẽ ra cô bé nên biết rằng một cái cổng không thể ngăn được bất cứ ai chứ đừng nói tới Anson và đám bạn của cậu ta.
“Chuyện đó không quan trọng”, cậu ta đáp.
“Ai?”. Cô bé hỏi lại.
“Anh ở đó một mình, được chưa nào?”.
Một tiếng còi xé màn đêm, Anson quỳ gối bò đến sát cửa sổ và nhìn ra ngoài.
“Anson?”. Nỗi sợ dâng lên trong lòng cô bé. “Chuyện gì thế?”. Một lần nữa cậu ta không trả lời và bò tới chỗ cô. “Có một đám cháy hả?”.
Cậu ta ngập ngừng rồi gật đầu.
“Có liên quan gì đến anh không?”.
Cậu ta không trả lời ngay. Rồi cậu ta run rẩy. “Có!”.
“Ôi! Trời ơi!”. Cô bé bưng miệng, sững lại như không tin nổi điều cậu ta nói là sự thật.
“Anh không cố ý làm vậy. Đó là một tai nạn. Mẹ anh có bạn đến nhà chơi”, anh ta nói với vẻ khinh miệt, “và anh không thể chịu đựng khi bà ta có người đến ngủ cùng”. Cậu ta tránh ánh mắt cô bé. “Tường ngăn giữa các phòng quá mỏng. Anh có thể nghe thấy mọi thứ”. Cậu ta chẳng cần phải nói thêm để cô bé hiểu vì sao cậu ta lại phải đi. Khi thấy Allison không tỏ vẻ giận dữ, cậu ta tiếp tục. “Chỉ là anh phải đi”.
“Do vậy anh ra công viên à?”.
Cậu ta gật đầu. “Trời lạnh và anh không còn nơi nào khác để đi”.
Mọi chuyện bắt đầu sáng tỏ. “ Và anh... bắt đầu đốt lửa?”.

“Anh tìm cách sưởi ấm”. Cậu ta xoa tay lên mặt. “Anh định đốt một đống lửa trại, em biết đấy, nhưng anh không phải là hướng đạo sinh. Chắc là anh đã làm sai gì đó, gió thổi cuộn lên và lửa đã bùng lên mà anh không hề biết gì, ngay ở gần cái lều”.
“Nó bốc cháy à?”.
Anson cắn môi dưới. “Chắc có một ít xăng hay gì đó trên sàn vì nó phát nổ. Anh cố gắng dập tắt nhưng không thể. Sau đó anh hoảng sợ. Ngọn lửa quá nóng nên anh bỏ chạy. Lẽ ra anh nên ở lại, nên tìm một trạm điện thoại và gọi cho đội cứu hoả nhưng không có trạm điện thoại nào trong công viên cả”.
Tim Allison đập hoảng loạn khi cô bé vòng tay ôm lấy vai cậu ta. Anson đã đến với cô, cậu ta cần cô. Họ chuyện trò hàng ngày và cùng lang thang ở trường. Cô bé phát điên lên vì cậu ta, nhưng các giáo viên, bạn bè, thậm chí cả Cecilia, đều nghĩ cậu ta không hợp với cô. Bố mẹ cô cũng khó chịu, nhưng họ đã cho Anson đến ăn tối tại nhà hai lần. Cô bé và Anson thậm chí còn đến thư viện học cùng nhau. Allison không tin rằng quan tâm nhiều tới ai đó là trái.
“Anh định làm gì?”, cô bé hỏi. Cậu ta cúi đầu. “Anh không biết”.
Trong trường hợp này, Allison biết. “Em sẽ đánh thức bố dậy”.
“Không!”, cậu ta phản đối.
“Bố em sẽ biết phải làm gì”, cô cãi. “Bố sẽ không mắng anh nếu anh trung thực với ông. Ông rất công bằng, Anson”.
Trông cậu ta vẫn có vẻ ngập ngùng. “Có thể... có thể đám cháy đó không phải là tai nạn như anh nói”.
Allison ngồi phịch xuống. “Cái gì?”.
Cậu ta quay nhìn đi chỗ khác và cô bé thấy hai tay cậu ta bắt đầu run rẩy. “Anh không cố ý để nó vượt khỏi tầm kiểm soát như thế, cậu ta thì thào.
“Anh cố tình đốt căn lều à? Ý anh đó không phải là tai nạn à?”
Cậu ta gật đầu nhẹ. “Bố em sẽ muốn đưa anh đến đồn cảnh sát. Allison, anh không thể. Anh sắp mười tám tuổi rồi. Công tố viên có thể coi anh là một người lớn”.
Trong lòng Allison dấy lên cảm giác lo lắng hồi hộp, nhưng cô bé biết rằng cách tốt nhất để giải quyết để vấn đế là đương đầu với nó. Cô bé không thể nói qua quýt điều gì đó để giúp cậu ta yên tâm. “Có thể họ sẽ làm thế, nhưng em sẽ ở bên anh”.
“Bố em sẽ không để em dính tới anh nếu anh nói với ông việc anh đã làm đâu”.
Allison cũng biết việc đó là mạo hiểm. “Em biết, nhưng đó là một cơ hội chúng ta phải nắm lấy. Bố em rất công bằng và bố em sẽ tôn trọng anh vì anh trung thực. Bố sẽ làm những gì có thể để giúp anh”.
“Sao ông ấy lại làm thế”.
Allison ngồi thẳng lên và áp tay lên má cậu ta. “Vì con gái bố quan tâm đến việc xảy ra với anh”.
Anson chăm chú nhìn vào mắt cô bé. “Em quan tâm?”
“Rất quan tâm”. Tim Allison như vỡ òa vì cảm xúc mãnh liệt.
Những lời cô bé nói, những cử chỉ của cô khiến mắt Anson nhòa lệ. “Trước đây chưa từng có ai thực sự quan tâm đến anh”, cậu ta thốt lên.
“Em quan tâm”. Và để chứng minh, cô bé vươn người lên hôn cậu ta. Cậu ta cười ngập ngừng khi môi cô bé rời khỏi môi mình. Cô bé nắm tay cậu ta kéo ra khỏi phòng ngủ vào trong bếp. Dưới ánh trăng chiếu lạnh lẽo qua cửa sổ, cô bé ấn cậu ta ngồi xuống một chiếc ghế, bảo cậu ta đợi trong khi đi đánh thức bố dậy.
“Có nên không em?”.
Allison không chắc chắn về bất cứ điều gì, nhưng cô tin ở bố mình. Ông sẽ biết phải làm gì và cách nào tốt nhất để giúp Anson. Cô không có lựa chọn nào khác.
Bố cô ngồi dậy từ trước khi Allison đến cửa phòng bố mẹ. “Có chuyện gì thế con?”. Mẹ cô vẫn đang ngủ say ngủ bên cạnh, không hề bị đánh thức.
“Anson cần bố giúp”, cô bé thì thầm.
“Bây giờ hả? Lúc nửa đêm thế này à?”.
Cô bé thấy bố nhìn mình chằm chằm lúc ông bước ra khỏi chăn. “Con tin bố sẽ làm điều đúng đắn, bố ạ”, cô bé nói, giọng run run. Đó là tất cả những gì cô sẽ nói. Tất cả những gì cô có thể làm là cầu nguyện rằng bố sẽ không làm mình thất vọng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9: Chương 13 - 14





13
“Tuyệt quá”, Maryellen vừa nói vừa bước ngang qua mẹ, đi vào ngăn buồng bên trong nhà hàng Wok and Roll, quán ăn Tàu ưa thích của cô.
“Cứ coi đây là món quà sinh nhật sớm cho con”, Grace đáp trong khi lướt qua thực đơn.
“Chuyện của mẹ và chú Cliff thế nào rồi?”. Maryellen hỏi. Cô không quan tâm đến thực đơn vì lần nào cô cũng gọi món giống nhau. Thật sự là cũng nên thứ món gì đó khác ngoài mì gà sốt cay, nhưng chẳng bao giờ cô đổi. Nhà hàng gia đình nhỏ này vẫn đặt món mì gạo từ Seattle. Maryellen thích món này tới múc ngày nào cũng có thể ăn được.
Mẹ cô đặt thực đơn sang một bên và trông chị phiền muộn đến mức Maryellen cảm thấy choáng. “Mẹ?”.
Rõ ràng là mẹ cô đang cố cười. “Mẹ chia tay chú Cliff rồi”, Grace nói với vẻ như đó là chuyện đương nhiên.
“Thật sao?”. Maryellen vươn tay qua bàn, siết chặt bàn tay mẹ. “Ừ. Thực ra thì, mẹ không được lựa chọn”.
“Không”. Maryellen không tin điều đó. “Con nghĩ mẹ sẽ đấu tranh giành chú ấy. Có chuyện gì vậy mẹ?”.
Grace kể cho con gái nghe về cái đêm hẹn hò ăn tối hoành tráng đó. Sau đó, chị tình cờ gặp cô bác sĩ thú y ở thư viện và được biết con ngựa Midnight còn sống. Biết được tin này từ một người khác chứ không phải Cliff càng tăng thêm nỗi chán nản của chị trước mối quan hệ cứ hết hợp lại tan này.
Maryellen hiểu được nỗi buồn phiền của mẹ. Mẹ cô từng tràn trề hy vọng về bữa tối ấy; đó sẽ là một khởi đầu mới cho mẹ và Cliff. Song buổi tối đó hoá ra lại là một sự thất vọng tràn trề.
“Vấn đề không phải là việc Cliff phải chăm sóc con Midnight. Mẹ hiểu là tính mạng con ngựa đó đang bị đe dọa và chấp nhận được điều đó. Nhưng vấn đề là Cliff rõ ràng đã quên rằng chú ấy mời mẹ đến trang trại. Chú ấy có vẻ quá... thờ ơ. Sự hiện diện của mẹ ở đó chẳng có ý nghĩa gì. Thực ra, chú ấy còn có vẻ sung sướng khi thoát được việc ăn tối với mẹ”.
“Chú Cliff không phải như thế đâu”.
“Thường thì mẹ vẫn đồng ý với con”, mẹ cô nói, “nhưng mẹ đã ở đó, Maryellen. Mẹ đã học được một điều là phải tin tưởng vào bản năng của mình và mẹ đã cảm nhận như thế. Mẹ rất không muốn tin nhưng mẹ biết mình đúng”.
Maryellen không muốn phải thấy mối quan hệ này chấm dứt, đặc biệt từ khi Grace đã rất nỗ lực để giành lại tình cảm của Cliff. Cho đến lúc này, Maryellen thấy Cliff chín chắn và tinh tế đối với mẹ cô còn nhiều hơn so với bố đẻ của cô trước đây. “Ý mẹ là sau hai tuần, thậm chí, chú ấy còn không buồn gọi điện nữa ạ?”. Cô ngờ vực hỏi.
Mẹ cô nhún vai. “Cũng có để lại vài lời nhắn”.
“Sao ạ?” Maryellen nghiêm nghị nhìn mẹ. “Mẹ có gọi lại không?”.
Mẹ cô cười buồn. “Olivia cũng nghĩ rằng mẹ nên gọi, nhưng mẹ không thể. Chị thở dài chán chường đến mức Maryellen muốn ôm lấy mẹ để an ủi.
“Sao lại không?”. Maryellen thực sự không hiểu. Qua cách lắc đầu ngang bướng của mẹ, cô biết rằng mẹ cô sẽ không gọi.
“Ovilia nói mẹ thật ngốc nếu không gọi, nhưng Maryellen ạ, con phải thấy làm thế thật mất giá, mẹ cảm thấy kinh khủng lắm - rất khó giải thích. Thật buồn khi phải thừa nhận, mẹ không nghĩ Cliff đủ khả năng vượt qua sau chuyện với Will”. Chị ngừng lại; chị chưa từng kể hết câu chuyện cho các con gái, nhưng Maryellen đã chắp những mảnh ghép lại. “Trong suy nghĩ của Cliff, mẹ đã phạm phải một lỗi không thể tha thứ. Cliff cũng muốn mọi thứ khác đi, thậm chí còn muốn hai người sống cùng nhau, nhưng có điều gì đó bên trong chú ấy không thể tha thứ cho những gì mẹ đã làm”.
Maryellen phản đối. “Mẹ sai rồi. Nếu vậy thì chú ấy đã không gọi điện”. Grace lại lắc đầu. “Mẹ chắc chắn là Cliff cũng tiếc nuối, nhưng không cần phải kéo dài chuyện này thêm nữa. Mẹ nghĩ chú ấy sẽ chẳng gọi lại đâu và sau khi tự vẫn lòng mình, mẹ đã quyết định thôi cũng chẳng sao”.
Có lẽ mẹ cô đã tự thuyết phục mình với quy định đó, nhưng Maryellen không tin rằng mẹ cô sẽ ổn. Ngay lần đầu gặp và chứng kiến mẹ cô và Cliff bên nhau, Maryellen đã cảm thấy họ sinh ra là để dành cho nhau.
“Mẹ có nhớ khi con có bầu bé Katie không?”. Maryellen hỏi. “Dĩ nhiên rồi”.
“Con cho rằng mình không cần Jon và con có thể tự nuôi đứa trẻ. Mẹ nhớ không?”.
Một nụ cười ánh lên trong ánh mắt mẹ cô. “Con có vẻ quyết tâm chứng minh điều đó”.

“À vâng... Trước khi sinh Katie, con đã nghĩ mình có thể tự làm mọi thứ, nhưng sau đó... đó lại là một chuyện khác”. Cô chưa từng tưởng tượng rằng một đứa bé nhỏ xíu lại đòi hỏi nhiều như vậy. Hầu hết các đêm Maryellen chỉ có thể ngủ yên được trong khoảng hai mươi hay ba mươi phút – nếu có. Một nốt phát ban nhiễm trùng ở tai khiến bé Katie đau đớn gào khóc suốt đêm. May là Jon đã nài nỉ xin được trở thành một phần trong cuộc sống của con gái cô và muốn chia sẻ trách nhiệm nuôi dạy bé. Maryellen nhanh chóng thấy rằng bé Katie cần anh và cô cũng vậy. “Cũng vậy thôi, mẹ à, con đã từng chắc chắn về mọi chuyện - và con đã sai. Có thể mẹ cũng vậy”.
Grace vừa bắt đầu đáp lời thì Elaine, vợ của chủ nhà hàng, bước đến chờ họ gọi món, và như mọi khi, Maryellen chọn món mì gà sốt cay, Grace gọi vằn thắn.
Khi Elaine đi khỏi và quay lại bếp, cánh cửa nhà hàng mở ra và Cliff Harding bước vào.
Maryellen vươn người về phía mẹ. “Mẹ đừng nhìn, chú Cliff vừa vào”. Grace căng thẳng. “Chú ấy có thấy chúng ta không?”.
Không có thời gian trả lời. Cliff bước thẳng tới bàn của họ và cười với cả hai người phụ nữ.
“Chào chú”, Maryellen giơ tay ra nói. “Thật là một sự ngạc nhiên thú vị”. Anh mỉm cười chào Maryellen và bỏ chiếc mũ hiệu Stetson ra khi quay về phía Grace. “Grace à”, anh nói với một cái gật đầu.
“Chào anh”. Giọng mẹ cô khá bình tĩnh và mắt hướng thẳng về phía trước. Maryellen ngưỡng mộ nhìn dáng vẻ mẹ mình trong tình huống khó xử này.
Cô nhìn Grace từ tốn ngước nhìn và nở nụ cười hiếm hoi với Cliff.
“Hình như hệ thống trả lời tự động trên điện thoại nhà em có trục trặc gì rồi, anh đã cố liên lạc với em mà không được”.
“Chú ngồi cùng luôn nhé?”. Maryellen mời, tảng lờ ánh mắt sắc như dao của mẹ đang nhìn sang
“Grace?”.
Mẹ cô lưỡng lự giây lát. “Vâng”. Chị nhìn đồng hồ như thể xác định xem thời gian dành cho bữa trưa còn được bao nhiêu. “Dù sao thì em sắp phải đi rồi”.
“Đâu có”, Maryellen phản đối. “Mẹ con mình mới gọi đồ ăn chưa đầy ba phút trước”.
Cliff ngồi xuống, đặt chiếc mũ cao bồi lên chỗ trống cạnh Grace. “Anh đi ăn trưa hơi sớm thì phải?”. Grace hỏi thẳng.
Cliff cười gượng, thú nhận. “Thật ra anh lái xe ngang qua, thấy em và Maryellen bên trong. Anh nghĩ nếu em không trả lời điện thoại của anh thì tốt nhất là anh nên nói chuyện trực tiếp với em”.
“Em không biết là anh ân hận đến thế nào về buổi tối đó đâu”, anh nói với vẻ thành thật.
Vậy là Maryellen đã đúng. Cliff biết mình đã vô tâm và đang muốn hàn gắn. “Anh hy vọng em sẵn lòng cho anh một cơ hội khác”. Ánh mắt anh như cầu xin Grace. “Anh vẫn muốn mời em đến trang trại ăn tối”, anh nói một cách gấp gáp.
Grace có vẻ dao động. “Em... em không biết”.
Maryellen nhanh nhảu. “Chắc mẹ cháu sẽ nhận lời thôi”, cô nói với vẻ chắc chắn và phớt lờ cú đá chân của mẹ dưới gầm bàn. Maryellen còn suýt bật cười to vì cái đá chân của mẹ.
Đúng lúc đó, Elaine mang ra cho Cliff một tách trà và thực đơn. Anh nhận tách trà nhưng không ăn trưa. Sự im lặng sau đó thật không dễ chịu chút nào.
“Thế khi nào chú mời mẹ cháu đến?”.
“Maryellen!”. Mẹ cô phản đối kèm theo cái trừng mắt giận dữ. “Chắc chắn là chú ấy có nhiều việc quan trọng để làm hơn là nấu bữa tối cho mẹ”.
“Anh rất muốn mời em mà”, Cliff phản đối với một nụ cười hồ hởi.
“Chú đã nghĩ ra ngày nào chưa ạ?”. Maryellen cố gắng để câu chuyện trở nên thoải mái. Trước đây mẹ cô đã cố gắng hòa giải hai vợ chồng cô và giờ tới lượt cô trở thành bà mối cho mẹ ruột của mình.
“Lễ Tạ ơn”, Cliff nói.

Điều này làm cả hai người đều ngạc nhiên và họ nhìn chằm chằm vào anh. “Lễ Tạ ơn?”, Grace nhẹ nhàng nhắc lại. “Em xin lỗi, em có hẹn rồi”. Chị ném cái nhìn đắc thắng về phía Maryellen.
“Tới nhà cháu”, Maryellen nói. Cô cảm thấy mình phải cứu nguy cho Cliff, cô nói thêm. “Kelly sẽ về nhà bố mẹ chồng, vì thế mẹ dự định sẽ đến ở với gia đình cháu”.
“Không phải là anh định bay cùng Lisa à?”, Grace hỏi.
“Năm nay Lisa đã đến đây sớm hơn rồi”, Cliff đáp, và dĩ nhiên là Grace biết điều đó. “Anh nghĩ mình sẽ ở nhà. Anh không phải là một đầu bếp giỏi nhưng anh có thể làm món gà tây và trang trí món ăn”.
Maryellen nhận thấy mẹ cô đang bớt “đề phòng”. Cho dù Grace có cố gắng hế mức để tự thuyết phục bản thân rằng mối quan hệ này đã kết thúc, chị cũng không thể làm điều đó. Trong vài phút, rõ ràng quyết tâm của Grace như tan thành mây khói.
“Em chân thành cảm ơn lời mời của anh”, chị đáp mắt tràn ngập sự khát khao, “nhưng em đã hứa với con gái rồi”.
“Mẹ, không sao đâu, thật đấy. Jon và con rất vui mà”.
Cliff nói nhanh. “Đến cả nhà chứ, tôi hy vọng Maryellen, Jon và cháu bé cũng sẽ đến”.
Grace nhìn sang Maryellen.
Maryellen vui vẻ. “Dạ để cháu hỏi lại anh Jon đã, nhưng cháu nghĩ anh ấy sẽ vui vì có cơ hội không phải nấu nướng gì vào dịp Lễ Tạ ơn này”.
“Vậy các bạn đến với Cal và tôi nhé”, Cliff nói và đứng dậy, với tay lấy mũ. Khi cười, khuôn mặt anh nhẹ nhõm hẳn. Bình thường, trông vẻ mặt anh rất căng thẳng và hiếm khi Maryellen thấy Cliff có vẻ hân hoan thế này.
Cô nhận thấy mẹ mình cũng đang mỉm cười.
14
Tiếng chuông điện thoại phá tan bầu không khí trầm lắng của buổi chiều yên tĩnh. Corrie nhấc máy. “Văn phòng thám tử Roy McAfee xin nghe”. Không có tiếng trả lời ở đầu dây bên kia, chị bắt đầu chăm chú hơn. “Đây là văn phòng thám tử Roy McAfee”, chị nhắc lại. Vẫn là sự im lặng. Thở dài, chị gác máy. Khi ngẩng lên, chị thấy Roy đã đứng ở cửa văn phòng từ lúc nào, hai tay khoanh trước ngực. Mắt anh nhìn chằm chằm vào chiếc điện thoại.
“Trong vài tuần qua, chúng ta đã bị bao nhiêu cuộc điện thoại như thế làm phiền rồi?”.
“Hai hay ba gì đó”, chị trả lời dù thừa biết rằng phải nhiều hơn thế. Chị nhún vai, như thể đó không phải vấn đề gì nghiêm trọng. “Chắc công ty điện thoại đã đăng ký nhầm số điện thoại của văn phòng với một nhà hàng pizza hay gì đó”.
“Trong tháng 10 có bao nhiêu cuộc gọi tương tự rồi?”.
“Ồ, Roy, chắc anh cũng không muốn em phải nhớ đến mấy cuộc gọi phiền phức ấy đúng không?”.
Anh nhíu mày. “Nhưng anh quan tâm, anh muốn biết kẻ rỗi hơi đó là ai. Chắc chắn một người chi tiết như em luôn nhớ rõ bao nhiêu lần rồi phải không Corrie?”.
Chị trả lời khó nhọc. “Em không biết”.
“Anh biết ngay mà”.
“Nói cách khác, anh cho rằng kẻ vẫn gửi thư nặc danh giờ chuyển sang khủng bố bằng điện thoại phải không?”.
“Anh không biết”.

“Gần đây có bưu thiếp nào nữa không?”. Corrie ghét phải hỏi câu này nhưng chị cần phải biết. Chị không nhận được bức thư nào gần đây và Roy cũng không nhắc đến chuyện những tấm thiệp nặc danh nữa. Nhưng chị vẫn sợ chồng giấu giếm chuyện gì đó.
Anh lắc đầu. “Bức cuối cùng là từ ngày 6 tháng 10 rồi”.
Corrie mỉm cười, thấy lòng thật sự nhẹ đi đôi chút... Điều khiến chị thấy buồn cười là mặc dù Roy cứ luôn miệng cho rằng vợ mình là nguời của những tiểu tiết nhưng anh cũng là người không bỏ qua từng việc nhỏ một. Nếu không có tài nghệ của Roy thì vụ giết nguời ở Thyme và Tide vẫn chưa tìm ra thủ phạm. Ngay cả những chi tiết nhỏ như ngày đến của bức thư gần nhất cả anh và chị đều nhớ như in. Tuy nhiên, chưa có vụ nào họ lại cảm thấy bế tắc như vụ này.
Chuông điện thoại lại vang lên. Corrie nhìn Roy ái ngại trước khi nhấc máy. “Văn phòng Roy McAfee xin nghe”.
“Mẹ”. Linnette reo lên. “Mẹ đang ở đâu vậy?”. “À…”.
“Buổi lễ khai trương Trung tâm y tế 15 phút nữa là bắt đầu rồi, con nghĩ mẹ đang trên đường đến rồi chứ”.
Corrie gần như bật cười phá lên. Mới vài giây trước chị còn tự khâm phục trí nhớ của Roy và bản thân vậy mà một sự kiện quan trọng như vậy mà chị lại suýt quên mất.
“Bố và mẹ sẽ đến đó trong vài phút nữa”.
“Nhanh lên bố mẹ! Không thế tưởng tượng được rằng mọi người đều có mặt đông đủ. À, nhân tiện con sẽ giới thiệu anh bác sĩ Timmons với bố mẹ. Ôi, anh ấy tuyệt lắm mẹ ạ”.
“Bố mẹ đến ngay đây!”.
“Khéo mà hết chỗ để xe rồi ấy chứ, có lẽ bố mẹ phải gửi xe xa đấy”.
Corrie mỉm cười trìu mến trước vẻ vui tươi của con gái, chị âu yếm. “Sẽ đến ngay đây, công chúa ạ”.
Roy dường như đã nghe được câu chuyện của hai mẹ con vì anh đã bắt đầu sửa soạn, không quên cầm theo chiếc áo choàng dài bằng len cho Corrie. Chị vừa bước ra ngoài vừa đeo găng tay và quàng khăn trong khi Roy quay lại kiểm tra khoá cửa.
Những cơn gió rét ào ào thổi từ vịnh làm đôi mắt Corrie cay xè. Chị run rẩy nép vào chồng, Roy nắm chặt tay vợ và họ cùng đi tới phòng khám mới.
“Anh rất vui vì Linnette đã chuyển đến vịnh Cedar”, Roy thì thầm và điều này làm chị ngạc nhiên. Roy hiếm khi để lộ cảm xúc của mình. Anh là kiểu người thể hiện tình cảm qua hành động chứ không phải lời nói. Chị cảm thấy mừng vì tình cảm của hai bố con, nhưng đồng thời cũng khiến không khỏi chạnh lòng khi nghĩ đến những vấn đề của ông bố và cậu con trai.
“Em cũng rất mừng vì con đã ở đây”. Hơn cả vui mừng, Corrie đang thấy hạnh phúc ngây ngất. Chỉ ước sao Mack và bố nó có thể rút ngắn khoảng cách một chút. Chị tự nhủ mình phải kể Roy nghe chuyện Mack đến giúp chị gái chuyển nhà từ Seattle đến Cedar, mong rằng hai bố con có câu chuyện để nói với nhau.
Khi hai vợ chồng đến nơi, không khí rất đông vui như lời Linnette kể, mọi người đang tập trung trước băng khánh thành, háo hức chờ đợi sự kiện lớn. Corrie có thể nhận ra sự có mặt của Thị trưởng Benson với vài thành viên khác trong hội đồng.
Charlotte và Ben Rhodes cũng đang ở đó. Cũng nhờ có những đóng góp to lớn của họ mà vịnh Cedar mới có được cơ ngơi y tế thế này. Jack Griffin và một nhà nhiếp ảnh của tờ Bản tin đang phỏng vấn một nhóm người cao tuổi trong khi vị Cảnh sát trưởng cùng đồng nghiệp đang đi tuần quanh đám đông.
Linnette mỉm cười vẫy tay khi trông thấy bố mẹ. Cô ra hiệu cho một anh chàng điển trai đứng bên cạnh. Chắc hẳn đó là Chad Timmons, cậu bác sĩ mà cô đã nhắc đến không biết bao nhiêu lần.
Trên bục diễn thuyết, Thị trưởng Benson bước tới gần micro. “Xin chào quý vị”, mọi người bắt đầu im lặng chăm chú. “Tôi rất vui mừng vì tất cả quý vị đã có mặt đông đủ trong buổi đại lễ khai trương Trung tâm Y tế - niềm tự hào của vịnh Cedar”. Corrie gần như chìm trong tiếng reo hò vui mừng của đám đông sau lời chào mừng long trọng. “Đây là thành quả của tình đoàn kết giữa từng cá nhân và cả cộng đồng chúng ta. Tôi rất vinh dự được góp phần nhỏ bé vào việc hiện thực hóa ước mơ về một cơ ngơi y tế như thế này”.
Corrie ngước nhìn chồng và thấy anh cũng vô cùng hạnh phúc với nụ cười trên môi. “Công đầu phải kể đến ông bà Charlotte và Ben”, anh vừa nói vừa cúi xuống thì thầm vào tai vợ.
“Đúng”, Corrie thì thầm trả lời. “Ông ấy không phải là nguời duy nhất dám đứng lên vì công trình này”.
Thị trưởng Benson dang tay. “Bây giờ tôi xin giới thiệu các thành viên của chúng ta”. Sau lời giới thiệu, vài người nữa bước lên đứng gần Linnette và Timmons, ông Thị trưởng giới thiệu từng người một. Tới lượt Linnette, cô vẫy tay nhè nhẹ còn Corrie thì vỗ tay to hết mức có thể.
Tiếp đó, ông Thị truởng đề cập tới vai trò của văn phòng thị trưởng trong việc thành lập trung tâm y tế.
“Cắt băng khánh thành nhanh lên thôi”, ai đó nói vọng lên từ đằng sau khi bắt đầu có những hạt mưa rơi.
Thị trưởng Benson đưa tay với chiếc kéo lớn: “Thông thường tôi có vinh dự đại diện cho vịnh Cedar cắt băng khánh thành nhưng hôm nay tôi muốn có chút thay đổi”. Ông quay sang hai ông bà Charlotte và Ben. “Ông bà Rhodes, xin mời ông bà thay tôi thực hiện vinh dự này!”. Đám đông ồ lên tán thưởng.
Mặt đỏ bừng, bà Charlotte bước tới cùng Ben cắt băng khánh thành.
“Bây giờ xin mời mọi người bước vào trong tham quan một vòng. Và mọi người hãy cảm nhận một điều mới mẻ tại vịnh Cedar”.
Chiếc bục diễn thuyết được dọn đi và khi hai cánh cửa kính rộng mở, đoàn người từ từ tiến vào trong.

Corrie và Roy vừa đi vừa dừng lại trò chuyện với bạn bè. Phóng viên ảnh của Jack nháy máy liên tục và Corrie đoán chắc ảnh hai vợ chồng ông bà Rhodes cắt băng khánh thành sẽ được đăng trên trang bìa. Chị thấy cảm phục ngài Thị trưởng, chắc hẳn ông ấy là một người rất biết cư xử khi trao vinh dự cho Charlotte và Ben Rhodes. Hành động đó thậm chí có thể còn nặng ký hơn bất kỳ một cuộc vận động hành lang cho các cuộc bầu cử nào.
Corrie nói chuyện với Peggy Beldon trong khi chờ đợi cho đám đông dãn dần để có thể gặp gỡ con gái. Bỗng dưng chị liếc thấy Gloria Ashton, hàng xóm của Linnette đang say mê trò chuyện với bác sĩ Timmons. Chị đã gặp Gloria khi đến đưa cho Linnette nồi thịt hầm vào một ngày nọ. Corrie có thể nhận ra được ánh nhìn đăm đăm của Linnette dõi theo cô bạn mới quen, như muốn dậy lên một cuộc cạnh tranh. Ôi, có thể sắp có chuyện xảy ra. Dù mới chỉ gặp Gloria một lần nhưng Corrie rất có cảm tình với cô gái và hy vọng mong con mình và Gloria sẽ trở thành bạn tốt.
“Ai vậy?”. Roy hỏi, hướng về phía Gloria.
Linnette đã đi tới bên Gloria và Timmons để tham gia vào câu chuyện. Corrie có thể thấy Timmons thoáng nhíu mày như thể cậu ta không thích vị khách mới. Đây chắc chắn không phải là một dấu hiệu tốt.
“Em có biết cô gái không?”. Roy lại hỏi.
“Đó là hàng xóm của Linnette. Cô bé làm việc tại văn phòng cảnh sát trưởng ở Bremerton”.
Roy không nói gì nữa.
“Nhưng sao anh lại hỏi thế?”, cô thắc mắc. “Chẳng vì sao cả”.
Có lẽ Roy cũng đang cùng suy nghĩ với Corrie. Con gái họ đã phải lòng anh chàng bác sĩ. Corrie chưa bao giờ thấy Linnette hào hứng và sung sướng như hôm cô khoe với mẹ rằng Chad Timmons sẽ đến làm việc tại Trung tâm.
“Đi nào”, Corrie nói, nắm lấy tay chồng. “Ta hãy đến nói chuyện với con bé đi”.
“Chờ chút đã”, Roy nhíu mày dõi theo cách ứng xử của con gái. “Em có biết gì về anh chàng đang làm con gái chúng ta mê muội không?”.
“Chỉ qua những gì nó kể với em thôi. Roy, thôi nào, hãy cho con một cơ hội. Nó tự biết mình phải làm gì và sẽ không hài lòng nếu anh can thiệp đâu”.
“Thật thế sao?”. Roy đùa. “Chắc chắn rồi”.
Roy lại mỉm cười. “Thế còn buổi hẹn hò với anh chàng nào đó mà em đã phải trả kha khá tiền để sắp xếp cho con bé đến đâu rồi?”.
Đó là một câu hỏi đầy động chạm với Corrie. Chị ậm ừ. “Đang xúc tiến”.
Bữa tối thật tồi tệ trong mắt Corrie. Rõ ràng bữa tối của Linnette cũng không đến nỗi nào, vì thực tế trong mắt con gái chị, nó còn diễn ra tốt đẹp hơn những điều cô đã tưởng tượng. Nhưng Corrie cũng biết rằng, cho đến giờ thì Cal Washburn chưa gọi đi cho buổi hẹn thứ hai. Mà chị cũng không tin tưởng lắm vào khả năng Linnette sẽ đồng ý nếu anh chàng có mời lần nữa.
“Chúng ta nên đến làm quen với anh chàng đó”, Roy đặt tay qua eo Corrie khi họ đi tới nhóm bạn trẻ.
Ba người dừng câu chuyện khi Corrie và Roy bước tới. Linnette cười rạng rỡ. “Bố, mẹ, đây là Timmons”.
Chàng trai trẻ bắt tay Roy và Corrie. “Cháu rất vui được gặp cô chú”.
“Hình như cô đã được nghe Linnette kể về cháu”, Corrie nói với Timmons như để dập tắt sự hào hứng hơi quá của Linnette. “Các cháu có học cùng nhau không?”.
“Không hẳn thế cô ạ - chúng cháu gặp nhau tại bệnh viện nơi Linnette thực tập”.
“Còn đây là Gloria Ashton ạ”, Linnette vui vẻ nói với bố, “chúng con ở cùng khu nhà với nhau. Còn đây là bố em, Roy McAfee”.
Roy đáp lại. “Hân hạnh gặp cháu”. Gloria gật đầu. “Cháu cũng vậy ạ”.
Sau vài giây im lặng Timmons nói. “Xin phép mọi người cháu đi làm chút đồ uống”. Anh cười hóm hỉnh với Gloria. “Anh rất vui nếu tiếp tục được trò chuyện với em”, rồi lại quay sang nhìn Linnette nghiêm túc. “Lúc nào rảnh anh gọi em nhé”.
Anh ta bước đi không đợi câu trả lời, để lại một bầu không khí không mấy thoải mái.
“À vâng được ạ”, Gloria cất tiếng với theo.
Mặt Linnette xị xuống, nhưng cô nhanh chóng che giấu được cảm xúc bằng một nụ cười gượng, cô tiếp tục dẫn bố mẹ thăm quan phòng khám. “Con sẽ làm hướng dẫn riêng cho bố mẹ nhé”.
Nhưng không gì qua được mắt Corrie. Chị có thể cảm nhận được khúc mắc sẽ nảy sinh giữa con gái mình và cô bạn hàng xóm xung quanh anh chàng điển trai kia.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10: Chương 15 - 16





15
Cecilia thấy mến Rachel Pendergast ngay lập tức. Họ nói chuyện trong khi Rachel sắp xếp chỗ ngồi và quàng khăn quanh cổ Cecilia. Rachel có phong thái vui vẻ, gần gũi nên Cecilia rất quý. Ian đã gợi ý cô làm quen với bạn gái của Chuẩn úy Nate Olsen nên cô đã sắp xếp một cuộc hẹn. Dù sao Cecilia cũng đang có ý định cắt tóc, và việc tay nghề của một tiệm cắt tóc mới không phải là vấn đề nhất là một hiệu cắt có tiếng tốt như Tiệm sửa móng và làm tóc này.
Rachel quay ghế để Cecilia có thể ngắm mình trong chiếc gương. Cô chải mái tóc dày của Cecilia và luồn tay vào từng lọn tóc của người khách mới.
“Cậu muốn cắt như thế nào?”, cô hỏi, nhìn Cecilia trong gương.
“Khoảng ba mươi phân, và tớ muôn tỉa phần mái nữa”. Cecilia đoán Rachel trạc tuổi cô hoặc hơn cô vài tuổi.
“Khi nào cậu sinh em bé?”. Rachel vừa hỏi vừa dắt Cecilia về phía bàn gội đầu.
“Chắc ngày 15 tháng 3”, ngày đó đã im đậm trong tâm trí cô, vì cô vẫn đêm từng ngày để được ôm đứa con trai bé bỏng trong tay.
“Con đầu của cậu phải không?”. Rachel hỏi xã giao.
Cecilia hơi ngần ngừ. Câu hỏi kiểu ấy luôn khiến cô khựng lại vì cô lại như bị chạm phải nỗi đau mất Allison. “Không”, cô cố gắng nói với ngữ điệu bình thường. “Tớ mất đứa con gái đầu ngay sau khi sinh”.
“Ôi, tớ xin lỗi”. Rachel đặt tay lên vai Cecilia bóp nhẹ như an ủi.
Không muốn làm Rachel khó xử, cô mỉm cười trấn an. “Cậu không biết chuyện của tớ mà. Mọi nguời rất hay hỏi tớ câu này nên có lẽ tớ phải có cách trả lời khác. Chắc sẽ tốt hơn nếu tớ trả lời rằng tớ đang mang thai bé trai đầu lòng nhưng tớ tự thấy không thể nói thể. Allison là một phần của tớ và Ian, và tớ không thể tự đánh lừa rằng con bé chưa hề tồn tại”.
“Ừ đúng”. Rachel nói. Cô vừa vặn nước vừa đỡ cho Cecilia nằm thoải mái trên bàn gội đầu.
Rachel xoa đầu gội lên tóc Cecilia, từng ngón tay mát xa da đầu Cecilia khiến cô cảm thấy được thư giãn phấn nào.
Ngay khi Rachel vừa xả sạch đầu gội và lấy khăn lau trùm lên đầu cô, Cecilia bắt đầu nghĩ đến việc cắt tóc ngắn hẳn so với dự định. Trong nhiều năm qua, cô đã để nhiều kiểu tóc nhưng Ian thích cô để tóc ngang vai nên cô vẫn giữ nguyên kiểu tóc đó. Có lẽ cô sẽ cắt ngắn hơn để tạo ra một thay đổi nào đó.
“Cậu có mải tóc rất đẹp”, Rachel nhận xét trong lúc dẫn Cecilia ra ghế ngồi.
“Có lẽ là nhờ các dưỡng chất vitamin. Trong thời kỳ mang thai, nhờ tẩm bổ mà tóc và móng tay tớ mới trở nên đẹp thế này”.
Rachel dẫn Cecilia ra ghế. Cô chải mái tóc và cặp xoắn từng lọn lên. “Cậu đã biết sẽ sinh bé trai hay gái chưa?”.
“Con trai”, Cecilia mỉm cười và chợt nhớ đến vẻ rạng rỡ của chồng khi cô thông báo tin vui đó. “Lần siêu âm đầu tiên, bác sĩ phỏng đoán là con gái nhưng lần gần đây nhất thì trông bé đã ra dáng một cậu nhóc lắm rồi. Nhưng tớ biết dù trai hay gái Ian đều vui sướng. Tớ cũng vậy”. Cô đặt tay lên bụng, lòng trào dâng tình yêu vô hạn với đứa bé. Cô mong ước sao cuộc sinh nở được mẹ tròn con vuông, và cô đang làm tất cả những gì có thể để đảm bảo cho niềm vui lớn đó.
Họ tán chuyện trong khi Rachel đưa từng đường kéo điêu luyện trên mái tóc của Cecilia, mái tóc chỉ chấm vai - ngắn hơn so với dự định ban đầu của cô. “Đây là lần đầu tiên cậu cắt tóc ở đây, ai giới thiệu cậu tới vậy? Tớ muốn cảm ơn người đó”.
“Thế thì khó đấy vì chồng tớ là người giới thiệu địa chỉ này cho tớ”.
“Vậy sao?”. Rachel vừa nói vừa cố nhớ lại xem khách hàng nam nào là chồng của Cecilia.
“Thật ra chồng tớ chỉ là bạn của bạn của cậu thôi, Cecilia nói rõ hơn. “Hình như là anh Nate... cùng làm trên tàu George Washington”.
Mắt Rachel sáng ngời. “Chồng cậu làm trong lực lượng Hải quân sao?”. Cecilia gật đầu.
“Anh ấy có thông tin gì về Nate không?”. Giờ thì Rachel không che giấu sự hồ hởi của mình nữa. “Bọn tớ viết cho nhau thường xuyên nhưng thư từ đi lại mất nhiều thời gian và tớ đã không có thông tin gì về anh ấy hơn tuần nay rồi. Mọi chuyện vân ổn đấy chứ?”.
“À…. ừ, lần gần nhất tớ liên lạc thì mọi chuyện vẫn ổn”.

“Thế thì tốt”, Rachel mỉm cười như trút được gánh nặng. “Tớ mới biết Nate được vài tháng”.
“Cô cũng kiếm được cho anh ta kha khá tiền”. Một phụ nữ tóc đen hơi mập mạp đang ngồi cạnh Rachel xen vào bình luận.
“Teri”, Rachel thốt lên, với giọng khá giận dỗi. “Cậu… chi trả cho anh ta?”. Cecilia buột miệng “Có thể nói như vậy”.
Cô đang định nói gì thì Teri lại cắt ngang. “Cô ấy cùng với cậu ta đến buổi đấu giá Chó và những người đàn ông độc thân hồi tháng 7”. Nghe vậy, một nhân viên khác quay lại. “Rachel là người duy nhất trong số chúng tôi chịu bỏ những đồng tiền khó nhọc của mình cho một người đàn ông... Những vị ấy không thuộc danh sách chi trong hầu bao của tôi”.
“Tôi cũng vậy thôi”, Teri nói.
“Tôi cũng có dư dả đâu?”. Rachel phản đối.
“Thế tại sao cậu đã bỏ tiền vì anh ta?”. Cecilia tò mò.
Cô vẫn nhớ bài báo về cuộc đấu giá đọc được trên tờ Bản tin vùng vịnh Cedar. Bài báo đã ca ngợi rằng từ trước đến nay cuộc đấu giá Chó và những người đàn ông độc thân là hoạt động gây quỹ thành công nhất của Hội Bảo vệ động vật. Cecilia nghĩ đó là một hoạt động có ích.
“Tớ cũng không biết điều gì khiến tớ quan tâm đến Nate nữa”, Rachel thú nhận. “Anh ấy là người đấu giá cuối cùng và trong số bọn tớ, chưa ai mua gì. Trừ một cô bạn đấu giá được một chú chó”.
“Ai cũng rất kỳ vọng vào sự kiện đó”, Teri nói. “Chúng tôi nghĩ đó là cơ hội để gặp được một anh chàng”.
“Và chúng tôi cũng muốn ủng hộ cho những con vật nuôi”, một cô gái khác nói chen vào. “Chúng ta đều là những người yêu động vật mà”.
“Nhưng dường như mọi việc chỉ để phục vụ cho Rachel”, một phụ nữ trẻ với mái tóc búi cao lên tiếng.
“Tớ chả nề hà gì khi thừa nhận rằng đó là một khoản kếch xù tờ đã bỏ ra từ trước đến nay”, Rachel thừa nhận.
“Thật sao?”. Teri đặt tay lên hông. “Vậy sao cậu vẫn hẹn hò với Bruce Payton?”.
“Bọn tớ không hề hò hẹn”, Rachel khăng khăng, chùng giọng xuống. “Thật sự là không mà”, cô nói với Cecilia. “Bruce đã goá vợ và tớ với anh ấy chỉ thi thoảng gặp gỡ nhau chút thôi”.
“Jolene muốn cậu trở thành mẹ của cô bé”, Teri nói kiểu đá đưa như thể cô đã dự đoán được những rắc rối.
Rachel hít thở chậm rãi. “Tớ biết, và đó là cả một vấn đề”.
Bối rối, Cecilia liếc nhìn từng người phụ nữ một. Jolene là con gái của Bruce sao?”.
“Đúng vậy”, Rachel gật đầu. “Cô bé nhớ mẹ. Tớ cố gắng dỗ dành, cưng nựng cô bé. Bruce đánh giá cao những nỗ lực đó và trong vài năm qua Jolene và tớ đã trở nên thân thiết hơn”.
“Cậu có cảm tình với Nate sao?”. Cecilia muốn hỏi cho rõ ràng.
“Rất mến”, Rachel không ngần ngại bộc bạch tình cảm của mình dành cho anh.
“Tớ nghĩ rằng anh ấy cũng có tình cảm với cậu đấy”, Cecilia vui vẻ nói. “Như tớ đã nói, chồng tớ gợi ý cho tớ làm quen với cậu”.
“Thế thì tuyệt”. Niềm vui sướng ánh lên trong mắt Rachel. “Chà... vậy Nate có biết cậu đang để ý Bruce không?”.
“Có - à không, nhưng Bruce và tớ không thực sự để ý nhau theo nghĩa hẹn hò. Bọn tớ chỉ có quan hệ công việc và vì Jolene. Không có gì lãng mạn giữa hai bọn tớ đâu”. Cô ngập ngừng trong giây lát. “Ít nhất là từ phía tớ”.
“Thế còn Bruce?”.

“Tớ không thể nói với anh ấy, nhưng... đôi khi tớ thấy anh ấy muốn đẩy mối quan hệ đi xa hơn mức hiện tại. Xin hãy hiểu cho, tớ không hề muốn anh ấy làm như vậy”, Rachel nói, vẻ mặt lộ rõ vẻ khó khăn khi phải thanh minh như vậy. “Tớ chưa hề nói bất cứ điều gì về Bruce với Nate, vì... chà, vì thật ra chẳng có gì đến mức phải đặt vấn đề như vậy”.
Cecilia hiểu hết mọi chuyện. Cô luôn tin vào lòng chung thuỷ vợ chồng, nhưng dường như vẫn còn điều gì đó thật khó có thể cắt nghĩa rõ ràng được. Nhất là khi mối liên hệ giữa hai người còn bị ngăn trở bởi khoảng cách công việc và địa lý.
“Tớ cảm thấy thật kinh khủng khi tớ bị lỡ một cuộc gọi của Nate. Lúc đó tớ đi với Jolene và tắt máy điện thoại. Chắc lúc ấy bọn tớ đang xem phim và sau đó tớ nhận được tin nhắn rằng anh ấy đã gọi. Tớ cảm thấy buồn vô cùng về điều đó. Rõ ràng anh ấy chỉ có một cơ hội liên hệ với tớ, thế mà tớ đã để lỡ mất”. Nỗi thất vọng bật ra theo từng lời Rachel nói.
“Ian nói cậu không có máy vi tính”.
“Tớ không có”, Rachel nói. “Thật ra là tớ mù tịt với các thiết bị công nghệ thông tin”.
“Tớ sẵn sàng chỉ dẫn cho cậu”, Cecilia đưa ra lời đề nghị. “Ian gợi ý cho tớ chỉ dẫn cậu cách dùng những thiết bị đó. Thật ra lời đề nghị là từ Nate vì anh ấy muốn nói chuyện với cậu qua mạng. Một khi đã quen, cậu có thể sử dụng máy vi tính trong thư viện. Tớ và Ian cũng từng làm như thế cho đến khi bọn tớ mua được một bộ máy riêng. Cậu sẽ ngạc nhiên vì rất dễ mà.”
Rachel mím môi. “Cảm ơn cậu - cậu làm tớ rất cảm kích. À… chồng cậu có kể chuyện rằng tớ nhiều hơn Nate vài tuổi không?”.
“Không, nhưng dường như Nate cũng không mấy quan tâm đến điều đó”. “Không, tớ cũng đoán anh ấy không màng gì. Đôi khi tớ nghĩ đến điều đó rồi tớ nhớ...”.
“Cái cô ấy nhớ...”. Teri chen vào, “là cách hôn cháy bỏng của Nate”.
Cecilia nhận thấy mặt của Rachel ửng đỏ. “Đây là vấn đề khi phải làm việc với một đám phụ nữ buôn chuyện”, cô thì thầm, liếc ngang qua phòng nhìn về Teri. “Họ không hiểu được nghĩa của cụm từ giữ mồm giữ miệng”.
Teri cười phá lên. “Tớ chưa từng thấy Rachel đỏ mặt bao giờ trừ cái lần cô ấy kể chuyện về đêm cô ấy và Nate ngồi cạnh nhau bên bờ biển đến tận sáng hôm sau”.
“Hôm đó là hôm Nate lên đường”. Rachel thêm chi tiết để Cecilia hiểu. Cecilia thấu hiểu cảm giác níu kéo muốn được ở bên ai đó càng lâu càng tốt.
Lần nào cũng vậy, mỗi khi Ian chuẩn bị lên tàu làm nhiệm vụ, cô lại có cảm giác đó.
“Ở đây có vài người là vợ của lính hải quân, gặp nhau thành một hội. Bọn tớ chào đón cậu trong cuộc họp của hội tối hôm tới”.
“Tớ rất sẵn lòng nhưng tớ không phải là vợ của Hải quân”. “Nhứng cậu có thể tham gia mà!”. Teri lại chêm vào.
“Bọn tớ rất mong cậu có mặt”, Cecilia nói để Rachel yên tâm. “Tớ sẽ cho cậu biết khi nào bọn tớ có kế hoạch gặp mặt. Tại sao cậu không đến nhà tớ trước rồi tớ sẽ chỉ cho cậu cách gửi thư điện tử cho Nate?”.
“Thế thì vui quá! Cảm ơn cậu”, Rachel thì thầm.
Cecilia cũng cảm thấy vui. Không chỉ vậy, cô còn thấy mái tóc mình đẹp hơn - mượt và bóng đến óng ả.
16
Grace không hề mong chờ gì vào bữa tối Lễ Tạ ơn ở nhà Cliff. Khi gặp nhau ở nhà hàng Trung Hoa, anh dường như rất chân thật khi tỏ ý mong mỏi có một cơ hội gặp gỡ nhưng chị không thể cho phép mình tin rằng sẽ có hy vọng nào đó cho họ. Chị không dám nghĩ đến một lần thất vọng nữa. Với suy nghĩ này trong đầu, chị lái xe đến nhà con gái buổi sáng của ngày Lễ Tạ ơn. Họ sẽ cùng nhau đến nhà Cliff.
Dường như Maryellen rất hào hứng, Grace nhận thấy điều đó khi con gái mở cửa cho chị vào nhà. Chị thích ngôi nhà của Maryellen và Jon - nó được xây theo phong cách vùng tây bắc và chỉ cách nhà của Cliff vài dặm. Mỗi lần đến thăm, chị đều vô cùng ngưỡng mộ sự khéo léo và khiếu thẩm mỹ của Jon. Tài năng nghệ thuật và nhiếp ảnh của anh thể hiện ở từng góc nhỏ trong ngôi nhà và sân vườn. Mỗi ngày trôi qua, Grace luôn thấy mừng vì con gái mình đã gặp được Jon Bowman - và trở thành bạn đời của anh.
Katie nhìn thấy bà ngoại và lẫm chẫm đi về phía bà, đôi tay nhỏ xinh dang rộng.
Không chần chừ, Grace cúi xuống bế bổng cô cháu gái lên và sung sướng vuốt ve khuôn mặt bé bỏng. “Cháu Katie của bà”.
Katie ôm lấy bà, hai tay quàng quanh cố Grace.

“Mọi thứ đã sẵn sàng mẹ ạ”, Maryellen nói. Cô mở tủ lạnh và lấy ra một đĩa sa-lát được làm từ kem phô-mai, thạch chanh và kẹo dẻo theo đúng công thức truyền thống của gia đình. Grace luôn làm món này trong bữa tối Lễ Tạ ơn và đương nhiên thói quen đó vẫn được con gái duy trì.
“Con đã làm món đó rồi đấy”, Maryellen nói dù biết đó là thừa thãi. “Còn Jon đã làm một chiếc bánh táo”.
“Mẹ thì đã chuẩn bị món bánh bí đỏ”. Grace nói.
Maryellen cười. “Chú Cliff nói chúng ta không cần mang thứ gì, nhưng chắc chú ấy vẫn cần chúng ta giúp một tay đấy mẹ”.
“Mẹ không thể tin được việc chú ấy sẵn sàng tự tay chuẩn bị món gà tây từ đầu đến cuối để đãi chúng ta”, Grace nói, không quên nhấn mạnh quyết tâm của Cliff. Theo chị biết, anh chỉ thường làm những món đơn giản như bánh xăng- guých, thịt nướng hoặc súp đóng hộp.
“Mẹ, không phải mẹ tin rằng chú Cliff sẽ đích thân nấu đấy chứ?”. Maryellen nhìn mẹ hoài nghi.
“Chú ấy đã nói vậy mà?”.
“Trong khi bây giờ có đầy rẫy những nhà hàng, siêu thị bán những món ăn sẵn mà giá lại không đắt. Con không tin lắm”. Dường như nhớ ra điều gì, cô quay lại hỏi mẹ. “Nhà cô Olivia và chú Jack có kế hoạch gì cho Lễ Tạ ơn không mẹ?”.
Grace cười. “Làm thế nào mà chúng ta lại chuyển chủ đề từ món gà tây mua sẵn sang Olivia thế nhỉ?”.
“Tại con chợt nhớ đến Justine”.
À, mọi chuyện có vẻ rõ ràng rồi. Các nhà hàng bây giờ cũng phục vụ món gà tây làm sẵn và Justine và Seth lại là chủ nhà hàng Hải Đăng.
“Olivia và Jack đã tới Reno để gặp Eric, Shelley và cặp sinh đôi”. Grace giải thích, ý nói tới đứa con trai của Jack và cô vợ trước. Theo Olivia, mọi người đều rất hào hứng với chuyến đi. Họ đáp chuyến bay vào tối thứ Tư - đúng ngày có lịch tập thể dục thẩm mỹ mà Olivia và Grace thường tham dự. Sau mấy tháng theo học, đây mới là lần đầu tiên Olivia vắng mặt. Grace cũng cảm thấy áy náy vì đã nghỉ học, nhưng nếu không có động lực gặp lại người bạn thân nhất của mình thì tốt nhất chị nên ở nhà. Nếu không có Olivia thì Grace đã bỏ dở dang lớp học từ lâu rồi. Những buổi tập này thường làm đầu gối chị bị đau ở động tác cử động lên xuống, nhưng tất cả đều tan biến khi họ được cùng nhau nhâm nhí cà phê và ăn bánh sau mỗi buổi học.
“À, vâng đúng rối, con nhớ là mẹ đã bảo con là cô Olivia đã có kế hoạch”, Maryellen nói khi Jon chất đồ lên xe. Khi mọi thứ đã xong xuôi, anh bế Katie vào chiếc ghế dành cho em bé.
Grace ngồi cùng con gái ở ghế sau. Katie là một em bé đáng yêu, với cặp mắt to tròn khiến ai cũng phải để ý. Cô bé đang liến thoắng những câu nói ngô nghê, bập bẹ, nhưng dường như rất say mê với câu chuyện dài bất tận của riêng mình.
Grace không thể không cảm thấy tiếc khi mẹ kế của Jon không được dõi theo những giai đoạn phát triển của bé Katie. Chị biết rằng điều đó cũng làm Maryellen buồn lòng, nhưng Jon vẫn khăng khăng không thể dung hòa quan điểm của anh với bố mẹ - ngay cả khi hay tin về cơn đột quỵ của cha.
Katie là đứa cháu duy nhất của nhà Bowman, vậy mà họ chưa từng được gặp bé, chỉ mới xem những bức ảnh mà Maryellen bí mật gửi cho - nghĩ đến chuyện này, tim Grace nhói đau.
Cliff đã chờ sẵn trên bậu cửa khi Jon đánh xe vào trong sân. Trời bắt đầu lất phất mưa và anh vội chạy ra xe để đưa Grace vào nhà rồi quay lại bê nốt đồ ra khỏi xe.
Mặc những dự đoán của Maryellen, Grace vẫn mong chờ được chào đón bằng mùi thơm của món gà tây và rau thơm. Nhưng chị không quá đỗi thất vọng khi bước vào nhà mà không ngửi thấy những mùi vị mong đợi, ngược lại chị cảm thấy vui vui khi lò sưởi đã được nhóm lên và căn nhà chìm dần trong một không khí thật ấm cúng. Rõ ràng Cliff đã mua những món ăn nấu sẵn cho buổi tối Lễ Tạ ơn.
Trong khi Maryellen và Jon cởi áo khoác cho Katie và dỗ bé chơi với những đồ chơi và gấu bông thì Grace thấy Cal ở trong bếp đang pha cà phê. Anh mỉm cười khi nhìn thấy Grace.
“Lễ... Lễ Tạ ơn hạnh phúc...”. Anh cố gắng nói.
“Lễ Tạ ơn hạnh phúc, Cal”. Grace cảm mến người thanh niên này và rất quý anh. “Nhắc tới gà tây và Lễ Tạ ơn”, chị nhìn quanh. “Vậy mà dường như chẳng trông thấy hay ngửi thấy mùi gà tây quanh đây”.
Cliff bước vào phòng phía sau chị. “Thật không phải. Cal và anh đã phải đặt người ta nấu”.
“Nhà hàng Hải Đăng sao?”. Jon hỏi.
Cliff gật đầu. “Họ phục vụ cả một bữa tiệc hoàn chỉnh - và sẽ mang tới đây ngay, chuẩn bị thưởng thức nhé”. Anh nhìn đồng hồ.
Anh vừa dứt lời thì có tiếng chuông cửa. Cal ra mở và cả Seth lẫn Justine cùng bước vào, mang theo bữa tối thịnh soạn. Seth bê chiếc đĩa đựng món gà tây đã được phủ giấy bạc còn Justine xách theo hai túi lớn. Họ đặt tất cả lên mặt tủ bếp.
“Có cần tôi giúp không?”. Cal hỏi.
“Còn nữa ở trong xe kia”. Justine nói, vừa treo chiếc áo mưa lên mắc áo.
“Để… để tôi, Cal nhanh chóng chạy ra lấy số thức ăn còn lại. Justine vòng tay qua người chồng. Seth là một ngư dân vạm vỡ với mái tóc vàng óng gần như chuyển sang màu bạch kim. Vài năm về trước, khi ngành ngư nghiệp trong nước lâm vào thời kỳ khó khăn, anh đã dùng hết vốn liếng tiết kiệm của mình cùng tài làm ăn buôn bán của Justine để dựng nên nhà hàng Hải Đăng.
“Đây là điểm đến cuối cùng của chúng cháu”, Justine nói. “Seth và cháu đã quyết định tự tay mang đồ ăn đến để có thể trực tiếp nói lời chúc mừng Lễ Tạ ơn tới cả nhà”

“Các cậu còn đi đâu nữa nào?”. Maryellen hỏi. “Có đủ đồ ăn cho cả một tiểu đội ấy chứ. Các cậu ở lại cùng gia đình đi”. Cô mời mọc, chờ Cliff lên tiếng.
“Ở lại ăn tối với cả nhà nhé!”. Cliff nói.
“Cả nhà anh Seth đang đợi chúng cháu”, Justine mạn phép ra về, cô mỉm cuời khi Cal xách thêm hai túi đồ nữa vào và cảm ơn anh vì đã mang giúp mọi thứ rồi cả hai cũng lái xe về.
Cliff và Cal sửa soạn bàn ăn trong khi Grace và Maryellen bầy đồ ăn ra đĩa. Tiếng nhạc mừng Giáng sinh nhè nhẹ phát ra trên sóng đài phát thanh Seattle.
Không khí lễ hội âm cúng và hạnh phúc bao trùm và họ cùng ngồi xuống bàn ăn.
Grace ngồi cạnh Cliff và đối diện là Cal. Khi họ cùng cúi đầu cầu nguyện, Cliff nắm lấy tay chị và thì thầm những lời cầu nguyện lừ đáy lòng. Những lời nói chân thành của anh làm lay động trái tim chị. Chị cảm thấy dâng tràn niềm biết ơn. Ba năm về trước, trong Lễ Tạ ơn đầu tiên không có Dan, chị đã phải vật lộn với nỗi tuyệt vọng, cô đơn và cùng Maryellen cố hết sức vượt qua không khí đau thương. Giờ đây, con gái chị đã kết hôn và có gia đình nhỏ của mình. Còn mọi chuyện của chị cũng diễn biến theo hướng chị chưa hề dám mong đợi. Sau khoảng thời gian khó khăn, chị đã đần quen với nỗi đau mất Dan và tìm cách chung sống hòa bình với sự thật phũ phàng. Chị bắt đầu lại cuộc sống - và Cliff chính là người khiến cuộc đời chị thay đổi.
Họ vừa ăn uống vừa chuyện trò vui vẻ và đầm ấm. Grace cảm thấy như thể họ là người một nhà.
“Con nghĩ mỗi người chúng ta nên nói lời cảm ơn về một điều gì đó”, Maryellen gợi ý. “Hãy dành ít phút để làm điều này”. Cô cúi mặt nhìn chiếc khăn trái bàn mới tinh khôi. “Con biết con phải biết ơn nhiều thứ lắm”.
“Tôi cũng vậy”, Cliff nói. Anh nắm tay Grace một lần nữa và mỉm cười với chị. “Điều tôi biết ơn nhất đó là Grace đã ở bên tôi ngày hôm nay. Và mong rằng chúng tôi sẽ được ở bên nhau trong suốt những năm tháng tiếp theo”.
Grace cắn môi cố nén cảm xúc đang trào dâng. “Cảm ơn anh”, chị thì thầm, “Đến lượt mẹ đó”.
Vẫn nắm lấy tay của Cliff, Grace nhìn quanh bàn ăn. “Mẹ rất biết ơn cả nhà ta cùng những người bạn và…”, chị nghẹn ngào, nén những cảm xúc đang trực tuôn ra, “và Cliff”. Chị nghĩ mối quan hệ đã chấm dứt vậy mà giờ đây lại đầy hy vọng. Hy vọng họ sẽ có thể bỏ qua mọi lỗi lầm và cùng nhau nhìn về phía trước. Dường như hiểu được điều đó, Cliff nắm chặt tay chị. Họ nhìn nhau một lúc lâu.
“Đến lượt em đó”, Jon nói, và nhìn về phía Maryellen.
Maryellen đợi cho đến khi mọi người tập trung trở lại. “Ngày hôm nay con muốn nói lời biết ơn đến sinh linh bé bỏng đang lớn dần trong con”.
Quá ngạc nhiên, Grace đánh rơi dĩa ăn. “Con có thai sao?”.
Mắt Maryellen lấp lánh. “Con mới biết tuần trước. Mọi người không thể biết được con phải khó khăn lắm mới giữ được bí mật đến lúc này”.
“Maryellen?”. Jon thì thào không nên lời. “Em có thai sao? Nhưng anh thấy... liệu sớm thế có an toàn không?”.
Grace hiểu rằng anh muốn nhắc vợ rằng cô vừa sảy thai không lâu. Việc có thai sớm như vậy hẳn làm anh không khỏi lo lắng. Chị cũng nghĩ tới điều đó nhưng không nói gì vì sợ làm dập tắt niềm vui của con gái.
Maryellen chỉ gật đầu. “Em thấy khoẻ, thật sự vậy mà”.
“Jon?”. Cliff nhìn Jon với ý nói đã đến lượt anh.
Trong một khoảnh khắc anh dường như không biết phản xạ thế nào. Đôi mắt anh hướng về Maryellen. “Người con muốn nói lời cảm ơn nhiều nhất là vợ con”, anh thì thầm.
Như thể không muốn bị bỏ quên, Katie lấy chiếc cốc gõ vào ghế để đánh tiếng.
“Và cả Katie nữa”, anh nói trong tiếng cười vui vẻ.
Sau bữa tối, Jon đứng lại nói chuyện với mẹ vợ khi Grace đang một mình thu dọn đồ ăn thừa trong bếp, Cliff và Cal đã ra nhà kho xem xét mọi việc.
“Mẹ không biết sao?”.
“Ý con nói là việc Maryellen mang bầu à? Không, và hẳn là con cũng không đúng không?
Anh nhăn mặt, trông thật khổ sở. “Mẹ, con phải nói thật rằng, con sợ. Còn quá sớm”.
“Jon”, chị nhẹ nhàng nhắc, “mẹ nghĩ là con cũng biết trẻ con được tạo ra như thế nào mà, phải không?”
Maryellen dường như rất chắc chắn rằng sẽ không có chuyện gì xảy ra...”. Jon bối rối.
“Chúng ta chẳng còn sự lựa chọn nào khác, chỉ còn cách trông chờ vào bàn tay của Chúa thôi con ạ”, Grace nói. Đó là cách tốt nhất chị có thể trấn an được con. Chị cầu cho Maryellen sẽ không để mất đứa bé này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11: Chương 17 - 18





17
Tấm biển Hạ giá khiến Corrie McAfee đặc biệt lưu tâm, và nó mặc nhiên được chị cho là đồng nghĩa với Mua. Đó cũng là một lý do chính đáng biện minh rằng buổi chiều thứ sáu sau ngày Lễ Tạ ơn là ngày mua sắm cuồng nhiệt nhất trong năm, không thể bỏ lỡ. Corrie chỉ mong lao tới các cửa hàng thật sớm, càng sớm càng tốt.
Chuông đồng hồ reo lúc năm giờ và chỉ nửa tiếng sau, chị đã chỉnh tề bước ra cửa, qua đón Linnette. Linnette đã phải trực trong ngày Lễ Tạ ơn và hôm nay cô được nghỉ bù. Corrie đã phải chờ đến hết ca trực của con gái để được thưởng thức món gà tây truyền thống, mặc dù điều đó không mấy dễ chịu. Nhưng ăn tối muộn kiểu này lại hoá hay vì đổi lại, bây giờ chị có thể đi mua sắm cùng con gái.
Ngày Lễ Tạ ơn có vẻ ảm đạm, ít nhất là cho đến khi con gái chị tới, và cũng không hẳn do trời mưa. Như dự đoán, Mack đã từ chối lời mời của mẹ. Cậu nói rằng đã có kế hoạch khác mặc dù chẳng nói rõ là bận gì. Corrie không gặng hỏi. Cái gọi là kế hoạch của nó, theo chị chắc là để tránh những cuộc tranh luận với bố rồi lại làm hỏng hết ngày nghỉ của mọi người. Corrie ước sao mình có thể lay chuyển được hai người. Roy thì có vẻ không hài lòng vì Mack không tới, nhưng nếu nó có tới chắc anh cũng không khá hơn. Nhưng Ít nhất thì sự xuất hiện đầy vui vẻ của Linnette cũng đã cưu vãn được tâm trạng anh... và cả buối tối nữa.
Khi chị đánh xe vào bãi để xe, Corrie đã thấy đèn nhà Linnette bật sáng. Ngay lập tức, con gái chị bước xuống bậc thềm, chạy nhanh đến xe và ngồi vào ghế đầu.
“Đi đâu trước đây mẹ?”. Cô hỏi mà mắt sáng lên vẻ hào hứng.
“Wal Mart đã mở của rồi”, Corrie nói. “Có khi cả cửa hàng đã bị mua hết sạch rồi ấy chứ”.
“Mẹ cứ đùa”.
Corrie cười. “Con còn phải học mẹ nhiều đấy, con gái ạ”.
Đã lâu lắm rồi họ mới lại được đi mua săm vào ngày thứ Sáu sau Lễ Tạ ơn. Lần cuối cùng là từ khi Linnette còn học trung học.
“Sau đó mẹ con mình đến Silverdale nhé”, Linnette gợi ý sau khi hai người đã dạo một vòng qua Wal Mart. “Đến sớm để còn lấy chỗ đỗ xe tốt mẹ ạ”.
“Ý kiến hay đấy”, Corrie lái xe ra khỏi trung tâm thành phố. Hôm nay là ngày nghỉ nên mới 6 giờ sáng mà mật độ giao thông đã dày đặc, nhưng chị cũng thừa kinh nghiệm để đoán được rằng ai cũng có chung ý nghĩ phải đến cửa hàng sớm vào ngày hôm nay. Vẫn giữ ý muốn lồng ghép Cal vào câu chuyện với.
Con gái nên chị quyết định tìm một cách khéo léo để vào để. Chị vừa muốn con gái tin tưởng mình vừa không muốn nó cảm thấy bị ép buộc. Đó quả là một ý nghĩ quá cầu toàn. Cuối cùng chị quyết định không nhắc đến Cal. Chị lặng im để xem Linnette có tự mình nêu vấn đề đó ra không.
“Bữa tối Lễ Tạ ơn thật tuyệt phải không mẹ”, Linnette nói.
“Ừ, à nhân chuyện này, mẹ muốn hỏi tình hình anh bạn bác sĩ của con thế nào?”.
Linnette ngồi sát vào sau ghế như thể dây an toàn đột nhiên bị xiết chặt hơn vậy. “Chắc là sum họp cùng gia đình, con đoán vậy. Anh ấy không nói gì với con cả”. Cô nói với vẻ thất vọng.
Corrie nghi ngờ rằng Chad không mấy mặn mà với con gái mình. Lần đầu tiên chị gặp cậu ta trong lễ khai trương trung tâm y tế, anh ta có vẻ thích Gloria cô hàng xóm của Linnette hơn.
“Con thấy hơi lo lắng khi nghĩ rằng có lẽ anh ấy dự Lễ Tạ ơn cùng Gloria”. Linette nói.
“Gia đình cô gái đó có ở trong khu vực này không?”.
“Có lẽ là không. Con mời cô ấy đến nhà và dự bữa tối cùng chúng ta nhưng cô ấy đã không đến. Cô ấy cũng phải làm việc nữa”. Linnette dùng lại. “Con quý Gloria, nhưng con cũng phải thừa nhận rằng lý do sâu xa con muốn mời cô ấy đến là để chắc rằng cô ấy không dự Lễ Tạ ơn với Chad”. Linnette hít một hơi sâu. “Con cảm thấy thật không phải với ý nghĩ đó. Con ước Gloria có thể đến được. Bữa tối đó thật tuyệt vời, đừng nghĩ sai về con, nhưng con nghĩ nếu cô ấy tham dự với cả nhà ta thì cô ấy cũng sẽ rất vui vẻ Gloria và bố chắc chắn sẽ rất hợp nhau vì là đồng nghiệp mà”.
“Bố con đâu còn là cảnh sát nữa”.
“Con biết, nhưng có sao đâu nào. Bố vẫn có vai trò ấy”.
Chắc hẳn người bố có rất nhiều ảnh hưởng tới Linnette. “Thật là một bữa tiệc gia đình ấm cúng”. Corrie ậm ừ vì còn mải tập trung lái xe. “Và cũng thật hoàn hảo”.
Chị tập trung vào lái xe và họ giữ im lặng trong vài phút.

Và Linnette phá vỡ bầu không khí. “Có thêm chuyện gì mới không mẹ?”.
Cô con gái không cần phải nói rõ; Corrie hiểu ý nên miễn cưỡng thừa nhận. “Một số”. Có lẽ nếu chị chia sẻ với con chuyện gì đang xảy ra thì Linnette ắt sẽ thoải mái hơn khi nói vế cuộc sống của mình.
Linnette chờ không thấy mẹ giải thích, cô bèn huých khuỷu tay ra hiệu. “Mẹ không thể để mặc mọi chuyện như vậy được”.
“Có thể cũng chẳng có gì con ạ”.
“Nói cho con biết đi mà”.
Corrie không thích đề cập đến vấn đề theo thái cực này nhưng nói với Roy thì cũng là điều không thể. Anh ấy che giấu quá nhiều suy nghĩ và cảm xúc. Chị biết nó đã trở thành một thói quen khó bỏ, như thể là bản năng của người cảnh sát vậy. Và nó cũng bắt nguồn từ mong muốn sâu xa là muốn bảo vệ chị. Do vậy, sau suốt bao nhiêu năm chung sống, đôi khi Corrie vẫn thấy chồng mình như một người xa lạ.
“Mẹ”, Linnette nài nỉ. “Nói đi mẹ”.
“Xin lỗi con, mẹ mải suy nghĩ quá”. Chị thở dài. “Trong suốt vài tuần trước mẹ thường xuyên nhận được những cuộc gọi nặc danh”.
“Ý mẹ là sao?”. Linnette hỏi. “Mẹ bắt máy và người ở đầu đây bên kia dập mạnh ống nghe sao?”.
“Không. Nhưng họ chẳng nói gì rồi cúp máy ngay khi mẹ vừa hỏi ai ở đầu dây”.
“Thế số điện thoại hiển thị thì sao?”.
“Thật kỳ lạ. Các cuộc gọi đến đều từ điện thoại công cộng ở khắp nơi trong vùng. Thậm chí có số từ Seattle”.
“Điện thoại công cộng sao?”. Linnette nhắc lại chậm rãi.
“Bố con không thích chuyện này”.
“Hẳn nhiên rồi”. Cô gái thì thầm. “Dù đó có là ai thì chắc cũng chỉ là người ở quanh đây”.
“Có vẻ vậy. Rồi thì...”. Corrie khựng câu nói lại như thế biết mình đang lỡ lời. Linnette thừa tinh ý để nhận ra điều đó. “Còn gì nữa mẹ?”.
Tay đánh vô-lăng, Corrie gật đầu. “Chiều thứ tư, bố và mẹ rời văn phòng sớm. Sau khi quay về thì đã thấy hãng Willows, Weeds và Flowers gửi đồ tới nhà”.
“Cửa hàng hoa của khu vịnh này à?”.
Corrie gật đầu. “Ai đó đã gửi cho bố mẹ bó hoa lớn cho ngày Lễ Tạ ơn”. “Là của ai vậy mẹ?”.
“Mẹ cũng tự hỏi thế”.
“Con không thấy nó trên bàn”.
“Mẹ biết… Bố con không muốn đụng tới nó. Ông đã gọi điện thoại xem thử người gửi là ai, có vẻ là yêu cầu đặt hoa đến từ một cửa hàng hoa khác. Bố con đã lao ra cửa ngay khiến mẹ không kịp ngăn lại”. Và anh đã truy tìm tung tích người lạ mặt suốt hai tiếng, để chị ở nhà đứng ngồi không yên.
“Bố có tìm được gì không mẹ?”.
Corrie cũng tò mò và đó là thời điểm chị có thể hỏi chồng vài thứ. Cuối cùng, anh nói. “Kẻ gửi hoa đến chắc đã trả bằng tiền mặt và hẳn là thuê dịch vụ từ một cửa hàng hoa ở nơi khác. Khi anh hỏi cửa hàng thì nhân viên nhận phiếu đặt hàng đã về. Cũng chẳng ai ở cửa hàng đó nhớ được liệu có khách hàng nào không thanh toán bằng thẻ tín dụng không”. Chị lắc đầu. Có lẽ mai bố lại tiếp tục điều tra nếu bố gặp được nhân viên kia”.

Linnette dừng lại một chút để phân tích thông tin vừa có. “Thề những bông hoa thì sao?”.
“Bố con bảo mẹ vứt chúng đi”.
“Mẹ có làm không?”.
Linnette cười. “Gần như vậy. Mẹ mang chúng tới trung tâm an dưỡng vịnh Cedar tối đó. Mọi nguời đều vô cùng sung sướng khi nhận được bó hoa”.
“Làm như thế là hơn”.
“Hoặc là làm thế, hoặc là nhìn bố con đùng đùng nổi giận”.
Một ý nghĩa chợt loé lên trong đầu, Linnette hỏi. “Có tấm thiệp nào gửi kèm không mẹ?”.
“Có…”, tấm thiếp thậm chí còn làm Roy điên lên hơn cả bó hoa. Người gửi bó hoa muốn chọc tức họ. Chỉ liếc qua tấm thiệp rồi Roy xé đôi và vứt vào sọt rác. Khi anh đi khỏi, Corrie ghép lại và đọc được câu. “Đoán xem ai đây?”.
Linnette buông tiếng thở dài. “Chắc nó khiến bố tức giận lắm”.
“Chắc chắn rồi”, Corrie nói dứt khoát. “Mẹ không biết còn việc gì sẽ xảy ra nữa - từ kẻ giấu mặt và từ bố con”.
18
Cecilia chưa bao giờ thấy Allison lo lắng đến vậy. Từ lúc tan học về văn phòng, chỉ trong vòng nửa tiếng, cô bé đứng lên ngồi xuống hàng chục lần.
“Bố cháu có nói với cô khi nào bố cháu quay về không?”, cô bé hỏi Cecilia lần thứ ba rồi lại chồm dậy khỏi ghế.
“Không, rất tiếc là không”.
Thật chẳng bình thường chút nào. Mọi khi, nếu đi đâu khỏi văn phòng lâu, ông Cox đều cho Cecilia biết. Qua thái độ của Allison, Cecilia đoán chắc việc ông chủ mình đang ở đâu đang khiến Allison lo lắng, và chắc hẳn có chuyện liên quan tới Anson.
“Cô ơi, mấy giờ rồi?”. Allison nhìn đồng hố. “Bố cháu lẽ ra phải về rồi”, cô bé lại ngồi xuống.
“Từ đâu về hả cháu? Có liên quan đến Anson không?”. Cecilia khẽ hỏi.
Vẻ mặt Allison bỗng biến sắc. “Sao cô lại nghĩ vậy?
“Cô biết cháu đã bao lâu rồi, Allison? Hai năm? Bay ba năm? Xưa nay, cháu đã bao giờ lo lắng đến thế đâu. Cháu có muốn chia sẻ với cô không?”. Và Cecilia bất ngờ khi thấy cô bé ôm mặt và oà khóc.
Cecilia choàng vai cô bé. “Thôi nào”, cô thầm thì “Ta cùng vào văn phòng của bố cháu nhé”, cô dìu Allison vào trong và đóng cửa lại.
Allison ngồi phịch xuống chiếc ghế trước bàn làm việc của bố, và Cecilia kéo chiếc còn lại lại gần. Cô lấy khăn giấy trong túi ra đưa cho Allison, cô bé cầm và vo viên lại.
“Cô nói đúng”. Allison thừa nhận. “Đúng là có chuyện với Anson, anh ấy đã lẻn vào - anh ấy lẽ ra không nên làm thế. Sau đó, anh ấy sợ hãi và không biết làm gì, rồi anh ấy đến gặp cháu”.
Cecilia đã nghi ngờ là sẽ có chuyện ngay khi cô gặp Anson, và một vài điều cô nghe được sau đó càng khẳng định thêm nhận định của cô. Mọi thứ ở Anson đều toát lên vẻ đó, từ chiếc áo khoác dài kiểu đường phố đến chiếc vòng ngỗ nghịch. Cô không thích cái ý nghĩ rằng Allison đang giao du với cậu ta, nhưng cô chỉ giữ suy nghĩ đó cho riêng mình.

“Anson đến nhờ cháu giúp sao?”. Cecilia nhắc lại để đảm bảo mình hiểu rõ mọi việc. Cô không muốn làm Allison căng thẳng với câu hỏi Anson đã làm gì, vì sợ cô bé sẽ không tiếp tục thổ lộ nữa.
Cô bé gật đầu.
“Cháu thì có thể làm được gì?”. Cecilia khó chịu khi thấy cậu ta lại nhờ Allison giải quyết những rắc rối của mình.
“Cháu dẫn anh ấy đến gặp bố cháu”, Allison giải thích “Cháu biết bố sẽ giúp và bố sẽ làm như vậy. Bố cháu rất tuyệt mà”.
“Bố cháu đã làm gì?”
Allison cúi xuống nghẹn ngào. “Bố nói Anson nên tự tới gặp cảnh sát”, cô bé đưa ánh mắt lên nhìn Cecilia. “Cháu biết chắc cô đang băn khoăn Anson đã làm gì, nhưng... cháu không muốn nói tới. Được không ạ?”.
“Được thôi”.
Tự ra đầu thú là một hành động đúng đắn, Cecilia nghĩ vậy. Mẹ cô đã giáo dục cô về trách nhiệm với hành động của mình, và điều đó đã ăn sâu vào ý thức của cô từ khi còn bé. Bố cô thì ngược lại, luôn chỉ tìm cách trốn tránh.
“Thế Anson có nghe lời bố cháu ra đầu thú không?”.
Allison khẽ ngẩng mặt lên, như thể tự hào về cậu bạn trai tội phạm chưa vị thành niên. “Thật khó khăn, nhưng anh ấy đã dám nhận những gì mình đã làm. Bố cháu đã gọi người bạn luật sư đi đến sở cảnh sát cùng”.
“Barry Creech à?”. Cecilia hỏi. Cô biết vị luật sư này vốn là khách hàng của ông Cox và có lẽ suy đoán này có lôgic.
“Phải ạ”, Allison xoắn tờ giấy ăn trong tay. “Bố cháu nói ông Creech chuyên về tội phạm vị thành niên và ông biết cách xử lý vụ việc”.
Cecilia đoán rằng Anson đã đủ 18 tuổi, nhưng khi cô hỏi thì Allison lắc đầu. “Tháng sau Anson mới tròn 18 tuổi, và chúng cháu sợ toà sẽ xử anh ấy như người lớn vì anh ấy gần đủ tuổi rồi”. Thở hắt ra, cô bé cố cười gượng với Cecilia. “Cháu biết cô không ưng Anson”.
“Không phải cô không quý cậu ta...”.
“Mẹ cháu cũng vậy... Nhưng cô Cecilia, mọi người đều nghĩ sai về anh ấy! Anson là người tốt. Cô biết đấy, cuộc sống của anh ấy không hề suôn sẻ. Mẹ của anh ấy thật tồi tệ... Cháu thậm chí còn không muốn nhắc tới. Bà ta thật kinh khủng”.
Cecilia cũng không muốn nhắc tới. Abe Lincoln cũng có một cuộc sống thật nhọc nhằn, nhưng ông đâu có lâm vào con đường tội lỗi.
“Anson đã có tiền án nào chưa?”.
“Chưa ạ”, Allison trả lời tức khắc như thể cô bé đã trả lời câu hỏi này hơn một lần. “Anh ấy chưa bao giờ phạm tội gì”.
Nói cách khác, cậu ta chưa bao giờ bị bắt. “Thế ông Creech đã khuyên cậu bé làm gì?”.
“Chú ấy cũng nói như bố cháu rằng Anson nên ra đầu thú. Chú đã đến gặp mẹ Anson và bà ta nói rằng mặc kệ anh ấy”. Khuôn mặt xinh xắn của Allison co lại vẻ bực bội. “Bố cháu cũng đã gặp mẹ của Anson và sau đó ông quyết định tham dự phiên toà cùng Anson. Toà đã phải chấp nhận lời bào chữa của chú Creech”. Đôi mắt cô bé ngân ngân nước. Mẹ đẻ của anh ấy thậm chí còn không tham dự phiên toà với anh ấy”.
“Thôi nào,”, Cecilia nhẹ nhàng, “vậy là toà đã chấp nhận cho ông Creech làm việc với công tố viên”.
Allison chấm những giọt nước mắt. “Vâng, và bố cháu nói, như vậy rất tốt. Chú Creek sẽ làm việc để bên nguyên khởi tố Anson như mội trẻ chưa vị thành niên, có nghĩa là sẽ không bị ghi thành tiền án miễn là anh ấy chấp hành những điều hai bên thoả thuận”.
Cecilia cho rằng việc giữ sạch sẽ lý lịch của cậu ta chưa chắc đã là việc tốt. Cô chỉ hy vọng Anson trân trọng những gì ông Cox và Allison làm cho cậu ta. Tuy nhiên cô vẫn nghi ngờ khả năng đó.
“Công tố viên đồng ý để Anson tham gia lao động cải tạo anh ấy cũng phải bồi thường, ở lại trường và tốt nghiệp đúng hạn”.
“Cậu ta sẽ phải kiếm việc làm nếu muốn bồi thường”, cô muốn tìm hiểu chính xác Anson đã phạm tội gì.
“Bố cháu cũng giúp anh ấy mà”, Allison nói với đôi mắt ánh lên vẻ tự hào. “Vợ chồng chú Gunderson làm chủ nhà hàng Hải Đăng và bố cháu biết họ từ khi cô Gunderson còn làm ở ngân hàng. Bố đã gọi cô ấy và cô ấy nói đang cần người rửa bát và sẽ thuê Anson. Chỉ là mức lương thấp nhất, nhưng chú Gunderson nói nếu Anson làm chăm chỉ và chứng tỏ được bản thân thì chú ấy sẽ xem xét việc đào tạo và chuyển vị trí cho anh ấy khi có thể”.
*
* *

“Tốt quá”.
“Anson rất vui sướng. Anh ấy không có phương tiện gì nhưng anh ấy sẵn sàng đi xe bus”.
Có vẻ như Anson gặp may rất nhiều, Cecilia nghĩ. Đó cũng là một hình phạt quá nhẹ; phải kiếm việc làm hay lao động cải tạo cũng chẳng thấm vào đâu. “Cậu ta còn phải làm gì nữa không?”.
Allison nhét viên giấy ăn vào túi. “Anh ấy cũng không được gây thêm rắc rối nào trong vòng một năm, anh ấy cũng phải tuân theo mọi yêu cầu của toà và vụ cháy sẽ không bị ghi vào lý lịch”.
Vụ cháy. Cụm từ khiến Cecilia lưu tâm. Như vậy là Anson là nguyên nhân của một vụ cháy. Đã có một mẫu báo trên tờ Tin tức mới đây nói về vụ cháy trong công viên. Cecilia băn khoăn không biết có bàn tay của Anson không và đoán rằng có.
“Vậy sao cháu lo lẳng đến vậy?”. Cecilia hỏi. Như cô được biết thì ông Cox đã giúp đỡ cậu ta hết lòng và lo cho nó xong xuôi.
“Toà phải đồng ý với mọi thứ mà bên nguyên đưa ra và...”. Allison nhìn lên và những giọt nước lại lấp lánh trên má cô bé. “Nếu toà không đồng ý thì Anson sẽ phải vào tù. Và... và.”. Cô bé bắt đầu nức nở. “Bố cháu bảo, sau ngày hôm nay cháu sẽ không được gặp anh ấy nữa”.
Đó quả là biện pháp hay nhất ông Cox nên làm. Tất cả mọi chuyện đều không liên quan đến Cecilia nhưng cô không muốn Allison bị đánh đồng với kiểu thanh niên quen phá hoại như cậu này. Cô đã gặp nhiều cậu choai choai như vậy hồi mới lớn và ơn trời, nhờ vào bản năng tự giữ mình mà cô đã tránh xa được.
“Bố cháu bảo Anson có thể có vài phút chuyện trò với cháu sau phiên toà buổi chiều và chỉ có vậy. Chúng cháu sẽ không gặp nhau cho đến lúc Anson hoàn thành mọi nghĩa vụ của mình”.
“Cậu ta có đồng ý như vậy không?”.
Allison nuốt cảm xúc khó khăn. “Không”.
“Không?!”. Cecilia bật ra.
“Anh ấy không thể”.
Sao cô bé có thể bao biện cho anh chàng này thế nhỉ. “Anh ấy không thể đồng ý. Chúng cháu học cùng trường và cùng lớp mỗi ngày. Chúng cháu không thể không nhìn thấy nhau được”.
“Cô không cho rằng ý của bố cháu là thế”.
“Không, nhưng Anson đã nói không ở bên cháu sẽ là điều khó khăn nhất với anh ấy. Thật mà cô. Anson yêu cháu và cháu yêu anh ấy. Anh ấy nói anh ấy muốn chứng tỏ cho bố mẹ cháu thấy anh ấy xứng đáng với niềm tin của họ dành cho anh ấy. Sau khi được bố cháu giúp, cháu nghĩ Anson sẽ làm theo những gì bố cháu yêu cầu”.
Cecilia không thể bình luận gì thêm. Giờ thì thật quá dễ để Anson khua môi múa mép. Muốn biết cậu ta có giữ lời không thì phải chờ xem. Cô không có ý coi thường Anson nhưng cô cũng không tin tưởng anh chàng này nhiều.
Liếc nhìn qua cửa sổ văn phòng phía sau, Allison nhảy dựng lên khỏi ghế. “Họ đã về?”. Cô bé vội vã lao ra khỏi văn phòng của bố.
Cecilia ngồi xuống ghế và chờ. Ông Cox chào cô lấy lệ rồi đi qua. Ông không nói mình đã đi đâu mà đi thẳng vào trong và đóng cửa.
Vài phút sau, Allison quay lại, đôi mắt sưng mọng và đỏ hoe.
“Mọi chuyện ổn chứ cháu”. Cecilia hỏi, vô cùng lo lắng vì vẻ suy sụp của cô bé.
Allison sụt sùi và cười gượng. “Toà chấp thuận thoả thuận của hai bên. Anson sẽ bắt đầu làm việc vào chiều nay, nên chúng cháu sẽ không có thời gian nói chuyện với nhau. Mùa xuân tới anh ấy sẽ phải lao động cải tạo bằng việc quét dọn công viên. Anh ấy nói sẽ góp hết số tiền kiếm được để bồi thường thiệt hại. Và ngay khi trả xong chúng cháu mới có thể gặp nhau. Ôi, cô Cecilia, cháu không biết cháu có chịu được không”.
“Chịu gì cơ?”.
“Không gặp Anson”, cô bé nôn nóng. “Cháu rất yêu anh ấy. Bố mẹ vẫn luôn nói cháu còn quá nhỏ để hiểu về tình yêu nhưng cháu biết cảm xúc của cháu. Nó như... như là tim cháu đang run lên”. Cô bé lắc đầu và tự trấn tĩnh mình. “Cô không hiểu được đâu”.
“Thật sao?”. Cecilia gặng lại. “Thế cháu không nghĩ rằng cô cũng rất khổ sở khi chồng cô đi biển suốt sáu tháng sao?”.
Allison chợt giật mình bừng tỉnh. “Ôi cô, cháu xin lỗi đúng rồi. Cô lại đang mang bầu nữa. Cháu xin lỗi. Cháu không có ý vô tâm như vậy”.
Cecilia ôm chầm cô gái trẻ, như để Allison nhận ra rằng cô rất thấu hiểu. Cô hồi tưởng lại cảm xúc được yêu lần đầu của mình. Mối tình đó đã có kết thúc buồn khi cô học trung học. Cô hy vọng qua ký ức buồn đó, cô có thể hiểu được tâm trạng của Allison lúc này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12: Chương 19





19
Linnette đã chấp nhận lần hẹn hò thứ hai với Cal Washburn và cô thấy ân hận về việc này.
Thực ra cô đã ân hận ngay lúc nói đồng ý. Anh ta gọi cho cô ngay sau Lễ Tạ ơn và Linnette, chẳng kịp suy nghĩ gì đã nói lời đồng ý. Cal cũng rất dễ thương. Điểm yếu duy nhất chỉ là anh ấy không phải Chad Timmons. Hơn nữa, cô thấy tội lỗi; cô sẵn sàng gặp anh lần hai chỉ vì một lý do - làm cho Chad ghen. Nhưng cô cũng không biết kịch bản của mình có thành công không.
“Em phải gọi điện để huỷ cuộc hẹn ngay thôi”, Linnette nói với Gloria đang ngồi trên giường cùng cô. “Em thấy thật tồi tệ”.
Gloria tạt qua nhà Linnette sau giờ làm để mời cô đi ăn tối. Nếu là bình thường thì Linnette đã từ chối lời mời nhưng vì mới đến thành phố nên cô cũng muốn có thêm bạn.
“Chị cá là cái dạ dày hay quấy rối của em không phải do bệnh cúm gây ra đâu”.
“Chị nói phải”. Linnette nói. Cô xỏ đôi bốt đen và mặc thêm chiếc áo khoác đen bên ngoài chiếc áo cánh - màu đỏ đang mặc. Chiếc áo khoác ưa thích của cô được trang trí bằng hình những cây thông Noel. Cô đã nuôi hy vọng được diện nó khi Chad rủ cô hẹn hò, nhưng tới giờ điều đó vẫn chưa xảy ra. Nếu anh ấy không mấy quan tâm đến lời mời thì kỳ nghỉ sẽ qua mất và sẽ quá muộn để diện bộ áo mà phải chờ tận mười một tháng sau.
Linnette nhìn cô bạn hàng xóm một cách dò xét và băn khoăn không biết liệu Chad có gọi cho cô ấy không. Anh có vẻ vui sướng ra mặt khi gặp Gloria nhưng bằng cách chắp vá thông tin qua những cuộc nói chuyện - cô không muốn tỏ ra quá lộ liễu, cô biết Gloria không liên lạc với anh. Mà có thể họ có liên lạc, nhưng nếu vậy thì sao không thấy chị ấy nhắc đến.
“Vậy ra chị thường ăn tối một mình ư? Có thường xuyên không vậy?”, cô hỏi, mong tìm thêm được chút thông tin về cuộc sống thường ngày của Gloria.
Gloria nhún vai. “Vì em bận nên có lẽ chị sẽ gọi đồ mang tới nhà. Có lẽ là gọi Wok và Roll. Chị rất khoái món gì cay và nóng một chút”
Linnette thở dài. “Ôi”, cô ậm ừ, lộ rõ vẻ thất vọng. “Em cũng thích đồ ăn ở đấy. Chắc em sẽ hợp với chị ở khoản này đấy”.
“Khi khác nhé”, Gloria nói. Đứng thẳng người lên, cô nhìn đồng hồ. “Chị nên đi khỏi đây trước khi anh chàng của em đến”.
Ngay lúc đó chuông cửa vang lên.
“Quá muộn rồi”, Linnette thì thầm, nguyền rủa buổi tối đến từng phút giây.

“Hãy nhớ những gì em vừa nói lúc nãy nhé”. Gloria nhắc cô. “Em đã nói muốn rút lui khỏi anh ấy một cách êm thấm đấy”.
“Chị nói đúng, em sẽ làm vậy. Anh ấy thực sự là người rất tốt. Thực ra em rất vui vì chị ở đây và chị có thể gặp anh ấy. Rồi chị sẽ hiểu được thế tiên thoái lưỡng nan của em. Anh ấy hấp dẫn và tinh quái nhưng rất khó để duy trì câu chuyện và...”.
“Em không nghĩ là phải ra mở cửa à?”.
“Ôi, đúng rồi”. Linnette vội vã ra mở cửa.
Cal đứng đó, tay ôm một chậu hoa trạng nguyên nhỏ. “Chúc mừng Giáng sinh”, anh nói mà không hề vấp váp.
“Anh tặng em sao?”. Câu trả lời đã quá rõ và Linnette càng cảm thấy ngại. Cô tự thề với lòng sẽ cho anh hiểu được đây là lần gặp cuối cùng. Đó là việc nên làm.
“Tặng em”, ánh mắt của anh bắt gặp Gloria khi cô vừa bước ra.
“Cal, đây là bạn em và cũng là hàng xóm, Gloria”, cô vừa nói vừa đặt chậu hoa lên bàn, nơi thể hiện đúng không khí ngày lễ.
Gloria bước tới chìa tay ra. “Chào Cal, em đã được nghe nhiều về anh”.
Cal thoáng nhìn Linnette, anh có vẻ vừa vui mừng, vừa ngỡ ngàng. “R... rất hân hạnh”, anh vừa nói vừa bắt tay.
“Gặp lại anh sau nhé”, Gloria nói khi cô đi qua Cal ra phía cửa. “Chúc hai người vui vẻ”.
“Em sẽ chuẩn bị áo và găng ngay”, Linnette nói và nhanh chóng đi lấy đồ. Cô mở tủ lấy các thứ cần thiết và không quên một chiếc khăn len. Khi cô đồng ý đi chơi với Cal, họ chưa quyết định sẽ đi đâu. Cô gợi ý đi xem phim. Ý kiến này nghe có vẻ dễ đáp ứng hơn là cố gắng nói chuyện trong một bữa tối. Vì chẳng mấy mặn mà gì nên cô cứ nhìn quanh danh sách các bộ phim.
Khi cô quay lại, nụ cười đầy vẻ trân trọng của Cal khiến cô thấy ấm lòng. Anh giữ áo khoác cho cô, cô giấu tay vào hai tay áo và ước sao anh ấy đừng có cách cư xử quá hoàn hảo như vậy. Không dám nhìn vào anh, cô cài khuy áo, quàng khăn quanh cổ và đeo găng tay. Họ rời đi sau khi cô đã khoá cửa và kiểm tra khoá cẩn thận như bố cô vẫn làm.
“Anh đã tìm được bộ phim nào chưa?”, cô hỏi khi cả hai bước xuống bậc cầu thang. Từng ngọn gió lạnh tấp vào mặt cô và có vẻ như sắp có tuyết rơi,
“Anh lắc đầu. “Em tìm được chưa?”.

“Ôi, thật sự em còn chưa nhìn. Em quay lại lấy tờ giấy nhé”. Anh lắc đầu. “Em đ... đói không?”. Anh hỏi.
“Không đói lắm. Em ăn trưa muộn mà”.
Họ tiếp tục đi, và Linnette phải thừa nhận rằng Cal là một người hấp dẫn. Cô thích khuôn mặt đội mũ cao bồi của anh, nó khiến anh có vẻ gì khá bí ẩn. Anh mặc chiếc áo da cừu và găng tay da, anh khiến cô nhớ tới những anh chàng cao bồi miền tây trong truyện ngày xưa
“Vậy ta c... cứ đi dạo nhé”, anh gợi ý.
“Vâng, nếu anh thích”.
Cal đặt tay cô vào khuỷu tay mình và họ cùng đi đến phố Harbor. Linnette nghĩ cả đi bộ và đi xe đều rất khó khăn trong buổi tối thứ Bảy này, nhưng cũng chẳng bình luận gì. Có vài chuyện nhưng cô cố gắng không đề cập, sợ Cal lại phải tiếp chuyện. Hội thoại đôi khi làm khó cho anh. Sau vài phút, cô bắt đầu thấy thích ý nghĩ cùng giữ im lặng.
Nhưng rồi đột nhiên không thể giữ im lặng “Tuyết rơi rồi!”. Cô thốt lên khi một bông tuyết rơi trúng mũi làm cô ngạc nhiên. “Cal, nhìn này! Tuyết rơi thật rồi”.
Anh phì cười trước vẻ hồn nhiên của cô. “Anh thấy rồi”.
“Bọn em chưa bao giờ thấy tuyết...”. Trong ánh đèn đường, Linnette thấy khuôn mặt anh nở một nụ cười rạng rỡ. “Ý em là cũng có tuyết nhưng rất hiếm, nhất là lại gần môi trường nước như ở vịnh”.
“Giáng sinh mà em”, anh nói thêm.
“Ôi, đúng rồi. Thật tuyệt vì đã tháng mười hai và chỉ hai tuần nữa là Giáng sinh”.
Họ đi theo con đường ngang qua công viên và bến thuyền, vòng qua lối rẽ dẫn tới Trung tâm y tê và Nhà hát. Lúc đó tuyết đã rơi rất nhanh và dầy.
Quá mải mê ngắm tuyết, Linnette không nhận ra rằng mọi hoạt động giao thông đang chuyển động theo cùng hướng với họ. Mọi người, dường như đều hướng về phía Nhà hát, nơi những tốp ca của nhà thờ đang đứng xếp hàng trong trang phục Victoria, trên tay cầm những quyển sách thánh ca. Họ bắt đầu cất lên những lời ca thật hay.
Bị cuốn hút vào không khí nhộn nhịp và thiêng liêng của mùa lễ hội, Linnette chỉ biết lắng nghe những âm thanh du dương mà quên hết mọi việc. Buổi biểu diễn thật tuyệt vời. Đội hát thánh ca, những bộ trang phục của họ, cây thông Giáng sinh lớn với những vật trang trí lấp lánh, những bông tuyết lung linh - tất cả làm trỗi dậy không khí Giáng sinh ngập tràn tâm trí Linnette.

Cô ngây ngất thưởng thức buổi biểu diễn bên cạnh Cal, cô chợt nhận thấy tay anh đã quàng qua vai cô che những đợt gió lạnh ùa tới. Một lần nữa cô lại mong rằng giá như anh đừng quá chu đáo như vậy.
Sau khi tốp ca kết thúc phần biểu diễn, và cây thông Giáng sinh bừng sáng thì cũng là lúc mọi người đồng loạt nổ những tràng pháo tay giòn giã, Cal gợi ý họ cùng đi nhâm nhi tách ca-cao nóng tại Potbelly Deli. Vì đang lạnh thấu xương, Linllette đồng ý ngay. Họ may mắn tìm được một chỗ ngồi ấm cúng ngay giữa nhà hàng gần lò sưởi lớn. Hơi ấm bắt đầu làm cô dễ chịu hơn. Cô nhận ra vài người quen và họ mỉm cười chào nhau.
Sô-cô-la nóng thưởng thức cùng một thanh kẹo cứng thật tuyệt, đặc biệt là trong không khí lễ hội như lúc này. Cô và Cal cùng nhau ăn chung một suất bánh mỳ cắt thành hình những cây thông Noel, những chiếc chuông và những chú người tuyết dễ thương. Rồi Linnette đứng dậy và họ đi về nhà cô. Cal lại ủ cánh tay trong khuỷu tay anh. Đã đến lúc phải nói cho anh ấy biết mọi chuyện nhưng cô không thể cho phép mình làm vậy vì cô biết rằng như thế cô sẽ làm hỏng hết không khí vui vẻ của ngày lễ.
“Hôm nay rất vui”, cô vừa nói vừa rảo bước cùng anh
“Đúng vậy”, anh thì thầm.
“Rất Giáng sinh”. Tuy nhiên cô vẫn không thật sự cảm nhận được không khí của ngày Giáng sinh. Cô đổ tại Chad đã khiến cho niềm vui ngày lễ của cô không được trọn vẹn; cô tự cho rằng vì họ cùng làm với nhau lẽ ra đương nhiên họ phải có nhiều thời gian bên nhau. Nhưng điều này hoá ra chẳng đúng chút nào; họ chỉ gặp nhau qua loa và hầu như không có cơ hội nào trò chuyện. Cô bi quan nghĩ rằng lẽ nào anh cố ý làm vậy.
Khi họ đến gần khu nhà ở của cô, Linnette đấu tranh tư tưởng không biết có nên mời Cal vào nhà không. Không mời thì vô duyên quá. Nhưng mặt khác nếu anh ấy đồng ý, có lẽ anh sẽ muốn hôn cô mà cô thì không thể để điều đó xảy ra.
Như cô đoán, Cal bước lên bậc thềm cùng cô. Khi cô lấy chìa khoá ra khỏi túi, anh đón lấy và mở cửa giúp cô lại một hành động ga-lăng xưa như trái đất.
Cô bột phát cất lên một lời mời gượng gạo. “Anh có muốn vào nhà không? Nhà em... ý em là... vào chơi vài phút?”. Cô biết rằng có lẽ cô sẽ không ngủ được nếu không mời anh. Thật không phải khi cứ dẫn dắt anh ta nuôi hy vọng như vậy.
Linnette bước vào trong nhà và ngay lập tức hơi nóng toả từ chiếc lò sưởi lan toả ôm lấy cô. “Ôi!”. Cô thốt lên và chỉ tay về phía cửa sổ trông ra bến thuyền. Trên khung cửa sổ, những bông tuyết trắng đọng lại đẹp y như hình ảnh trên một tấm bưu thiếp Giáng sinh. Những con thuyền cũng được trang hoàng lấp lánh với những ngọn đèn đủ màu sắc vui mắt chăng trên cột buồm. Những thứ ánh sáng ấy lung linh phản chiếu trên mặt nước, sóng sánh theo những đợt sóng nhỏ, chúng như cùng đung đưa, dập dìu theo một điệu nhạc.
Cal ngăn lại khi cô vừa có ý định bật đèn phòng. “Cứ để thế đi em”. Anh nói - một lần nữa không hề lắp bắp.
Ôi trời. Vậy là xong. Đúng như điều cô đang e ngại, sẽ là một nụ hôn. Anh xoay cô lại trong vòng tay của mình, luồn một tay xuống eo cô còn tay kia quàng qua bờ vai. Khi anh từ từ cúi người xuống, rõ ràng là vẫn còn cơ hội ngăn cản anh, nhưng cô đã không làm. Tại sao, Linnette chỉ có thể phỏng đoán. Do tò mò, cô cho là vậy.
Cô không hề ngăn cản anh một chút nào, nghiêng mặt về phía anh, cô khép đôi mi và chờ đợi. Cô không hề thấy khó chịu nữa. Làn môi của anh khép chặt, ướt át và êm ái đến kỳ lạ. Cô ngạc nhiên bởi vì Cal rất đàn ông. Một anh chàng huấn luyện ngựa. Trước khi cô kịp ý thức được điều đó thì cặp môi họ rời nhau trong đôi chút ngỡ ngàng. Rồi từ giây phút ấy, nụ hôn được nối lại, nồng nàn hơn, nóng bỏng hơn. Mọi thứ như chìm đi.
Vài phút trước họ còn đứng dưới trời tuyết lạnh. Vậy mà giờ đây hơi nóng đã lan toả khắp người cô. Cuống quít, cô túm lấy áo khoác của anh, mời gọi anh khám phá, họ quấn lấy nhau, lúc đầu còn ngượng nghịu, rồi nhanh chóng chuyển sang nồng nhiệt, đắm đuối.
Ngay khi môi họ rời nhau, Linnette suýt ngã khuỵ. Họ buông nhau ra như thể cả hai đều không thể nào tin nổi.
Linnette loạng choạng đi vào trong bếp, tì tay lên thành tủ bếp như để lấy lại cân bằng sau những phút giây cuồng si. Nhưng khi cô chưa kịp lấy lại suy nghĩ, Cal đã đứng đằng sau, chạm vào vai cô.
“Đừng”, cô cố kháng cự đến nỗi âm thanh phát ra như gồng lên trong cổ họng.

“Đừng ư?”, anh hỏi.
Cô quay lại, bối rối không biết làm thế nào. Vòng tay qua người anh, cô hít một hơi dài và sâu. Nhưng những nỗ lực kháng cự dường như quá yếu ớt, cô lại hôn cằm anh.
Anh rên lên yếu ớt. “Tuyệt quá!”.
“Tuyệt, nhưng thế này thật không phải”.
Mắt anh khép hờ. “Nhanh hơn em mong muốn?”.
“Không phải vậy”, cô thì thầm, và vì cô quá bối rối, cô giấu mặt vào ngực anh. “Em rất tôn trọng anh”.
“Chà...” anh chạm vào cổ cô. “Anh cũng vậy”.
Nhưng ham muốn không ngừng thôi thúc khiến cô run rẩy khi làn môi ướt át của anh miên man suốt cổ cô. Cô phải nói gì đó, và ngay lập tức. “Thật không đúng khi cứ để mọi việc như thế này”.
“Không đúng?”. Anh ngẩng mặt lên và nhìn thẳng vào mắt cô. “Không”, như để chứng tỏ cô nói sai, anh từ từ cúi thấp người tiếp tục những nụ hôn, vẫn cuồng nhiệt và nóng bỏng. Cô thấy mình như tan chảy.
“Cal, xin anh”, cô đã định thần được khi nghe được câu nói của mình. “Em thích người khác kia”.
Anh đứng khựng lại và ngay lập tức buông cô ra.
Linnette lùi về sau. “Em xin lỗi. Em đã quen Chad Timmons và, vâng, em chấp nhận lời mời hẹn hò này để khiến anh ấy ghen. Em đã sai. Em xin lỗi”.
Anh sững sờ rời xa cô. Vì bóng của chiếc mũ cao bồi nên cô không thể nhìn rõ đôi mắt anh. Cô cũng không cần. Cô cảm nhận được nỗi thất vọng, nỗi tức tối nỗi đau của anh.
“Em cảm thấy rất tồi tệ”. Lẽ ra cô không nên nói với anh ấy về Chad. Như thế quá tổn thương, quá tàn nhẫn. “Anh sẽ tha thứ cho em chứ?”.
Không nói một lời, anh quay đi và bước nhanh ra khỏi bếp.
“Em rất xin lỗi”, cô lặp lại. Nhưng câu trả lời duy nhất anh đáp lại cô là tiếng đóng rầm cánh cửa.
Cal đã bỏ đi. Quá đủ cho việc rút lui êm thấm, cho việc không muốn để anh nuôi hy vọng mãi. Nếu vừa rồi Linnette cảm thấy nôn nao, thì giờ đây cảm xúc của cô là nhói đau tê tái.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13: Chương 20





20
Charlotte không chắc việc mình đang làm là đúng đắn, nhưng bà muốn các con của Ben chấp nhận và thích bà. Bà cũng muốn chúng hiểu rằng bà không có ý định thay thế mẹ chúng, bà muốn nói cho David và anh trai cậu là Steven, người mà bà vẫn chưa gặp mặt, rằng bà rất yêu bố của chúng.
Hai ngày trước, vào buổi chiều thứ Hai, David đã gọi điện cho bà. Đó là lúc Ben có buổi họp hàng tháng với các cựu lính Hải quân khác nên ông không có nhà. Đó là một trong những thời điểm hiếm hoi họ xa nhau. Khi David gọi thì Charlotte đang nướng bánh đường cho Trung tâm An dưỡng. Anh ta đang có chuyên công tác tại Seattle và mời bà đi ăn trưa vào thứ Tư. Nhưng chỉ mình bà thôi - anh ta nói rõ. Anh ta yêu cầu bà không cho Ben biết. Dù bản chất rất trung thực nhưng rút cuộc bà cũng đống ý.
Charlotte quyết định sẽ gặp David tại nhà hàng Hải Dăng. Bà rất tự hào về Justine và Seth, bà nghĩ rằng gặp mặt họ sẽ chứng tỏ cho David thấy bà cũng có một gia đình hạnh phúc. Bà hy vọng điều này sẽ giảm bớt bất cứ e ngại nào cậu có thể nghĩ về bà.
Khi đặt bàn, bà biết rằng Justine làm việc vào chiều thứ Tư và thấy vui vì điều đó.
“Bà”, Justine vừa nói vừa lao tới bà khi thấy Charlotte đứng chờ trong hành lang nhà hàng. “Cháu rất vui vì được gặp bà!”, cô cười và rõ ràng ngạc nhiên thấy Charlotte chỉ có một mình. “Ben đâu rồi? Bà đã đặt bàn hai người cơ mà?”
Charlotte ghét phải nói dối Ben và làm thế này quả là không dễ chịu cho lắm. Bà đã nói bà sẽ đi mua sắm cho lễ Giáng sinh và tốt nhất là ông đừng đi cùng. Sau khi ăn trưa với David, bà sẽ đi mua sắm thật. Công việc mua sắm cho Giáng sinh bà đã làm xong từ lâu rồi nhưng bà không muốn nói dối hoàn toàn. Đây chỉ là lỗi nói không hết mà thôi. Tuy chỉ là một lời nói dối nho nhỏ nhưng Charlotte vẫn cảm thấy tội lỗi.
“Bà sẽ gặp một anh chàng ở đây”, Charlotte đáp và ra hiệu về phía phòng ăn.
“Bà đang cắm sừng ông Ben hả?”, Justine trêu chọc.
Charlotte cười khúc khích. “Ồ, gần như thế. Đó là con trai Ben và anh ta muốn gặp bà”.
“Không có ông Ben đi cùng hả?”.
“À, đúng vậy. Bà có cảm giác anh ta muốn hiểu thêm về bà, nhưng...”. Bà ngập ngừng không chắc mình nên tiết lộ cho cháu gái mình bao nhiêu thông tin về bữa trưa bí mật này. “Chắc hẳn David sợ làm bố mình tức giận vì anh ta không muốn Ben biết về việc này”.
“Và bà đã đồng ý hả?”, giọng của Justine khiến Charlotte cảm thấy mình giống như một nữ sinh không nghe lời.
“Đúng thế”, bà thừa nhận, có gì đó bướng bỉnh. “David là một anh chàng tốt, nhưng bất hòa với bố”. Charlotte thấy mình không phải là người chịu trách nhiệm về việc đó. Bất hoà giữa họ liên quan đến số tiền David muốn mượn. Vừa nói chuyện, bà vừa nhìn quanh khu ăn uống. Đúng như dự doán, David ngồi ở một bàn cạnh cửa sổ nhìn ra vịnh. Anh ta nhìn vào khoảng không với một ly rượn trên tay. “Anh ta đang ngồi kia”.
Justine cau mày nhưng không nói gì. Cô đưa Charlotte tới bàn và David đứng dậy khi cô đến.
“David, rất vui được gặp cháu”. Charlotte hôn má anh ta và khi nghiêng người lại gần, bà nhận thấy trong hơi thở của anh ta có mùi rượu. Bà bước lùi lại và giới thiệu cô cháu gái. “Justine và chồng là chủ nhà hàng Hải Đăng”, bà kiêu hãnh. “Họ đã khá thành công”.
David nhiệt tình bắt tay Justine, sau đó cô để họ ăn trưa với nhau. Charlotte đã biết rõ thực đơn như lòng bàn tay nên không buồn mở nó ra.
Vài phút sau, cô phục vụ mang đồ uống ra cho họ. David đã gọi thêm một ly whisky làm từ mạch nha còn Charlotte dùng trà nóng. Vẫn chưa tới giờ ăn trưa, theo bà thì lúc này còn quá sớm để uống rượu, nhưng bà đâu ở vị trí có thể phê bình anh ta.
Sau khi đồ uống được đưa tới, họ gọi đồ ăn trưa. Charlotte gọi món sa-lát tây bắc, một món mới được bổ sung trong thực đơn. Đây là món sa-lát Caesar, gồm trai xào tôm và sò. David quyết định chọn bánh xăng-guých bò nướng tái.

Cô phục vụ rời đi và Charlotte rót trà ra. Bà nhận thấy David nhanh chóng tu gọn ly rượu thứ hai và có vẻ sẵn sàng cho ly thứ ba.
“Cháu nghĩ dì đang băn khoăn tại sao cháu hẹn gặp dì”, anh ta mở đầu một cách bình thường khi thấy ánh mắt của cô phục vụ. Nhìn thấy Justine, anh ta giơ cái ly cạn lên để ám chỉ mình muốn một ly nữa.
“Ly của tôi có vẻ vừa bị thủng một lỗ rồi”, anh ta trêu cô phục vụ khi cô nhanh chóng quay lại.
Người phụ nữ mỉm cười, rõ ràng là đã bị sự dí dỏm và vẻ ngoài điển trai của anh ta hấp dẫn.
“Dì nghĩ mình đoán được lý do cháu muốn gặp dì mà không có bố Ben đi cùng”, Charlotte vừa nói vừa khuấy ly trà.
Hai người nhìn nhau chằm chằm.
“Cháu muốn có cơ hội hiểu dì”. “Chắc chắn rồi”, anh ta đáp và khiến bà ngạc nhiên với một nụ cười.
“Dì là phụ nữ đầu tiên chiếm được tình cảm của bố cháu kể từ khi mẹ cháu mất”. Charlotte thẹn thùng vui mừng. “Dì cũng goá bụa hơn 25 năm rồi”.
David lơ đãng gật đầu. “Điều đó chỉ chứng tỏ là dì không bao giờ quá già để yêu cả”.
Đó không phải chính xác điều Charlotte muốn nói, nhưng bà hoàn toàn đồng ý. “Dì thực sự yêu bố cháu”, bà nhấn mạnh.
“Cháu biết như vậy và mọi việc chứng tỏ điều đó. Cháu chưa thấy bố cháu hạnh phúc như thế bao giờ”. Anh ta nở một nụ cười ấm áp với bà. Ồ, chàng trai này quả thật là một người hấp dẫn, Charlotte nghĩ. Sau đó ánh mắt anh ta trở nên nghiêm túc và anh ta nói thêm. “Còn một lý do nữa khiến cháu muốn nói chuyện với dì”.
Charlotte nhấp một ngụm trà và định đáp lời thì Justine tự mình mang ly rượu ra cho David.
“Mọi việc ở đây vẫn ổn chứ?”, cô hỏi. Mặc dù câu hỏi là dành cho cả hai người nhưng cô lại nhìn Charlotte.
“Ổ ổn mà”, Charlotte nói với cháu gái. “Mọi thứ đều hoàn hảo”. Justine nhìn ly whisky rồi miễn cưỡng rời đi.
Khi Justine rời đi, Charlotte nhận thấy David đang cau mày.
“Cô ấy luôn quan tâm tới việc của thực khách hả?”, anh ta hỏi. Charlotte nhận thấy anh ta không hề thích lời chỉ trích gần như không che đậy của Justine.
“Không, không, Justine không phải như thế đâu”, Charlotte nhấn mạnh và cảm thấy hơi lúng túng. “Nó chỉ muốn hỏi chất lượng dịch vụ có tốt không mà thôi. Justine và Seth tự hào về dịch vụ tuyệt vời của mình”.
“Cháu cảm thấy điều cô ấy không nói thẳng ra”, anh ta càu nhàu. “Cô ấy sợ người bà quý báu của mình không được an toàn với một gã vừa nốc vài ly rượu”.
“Dì hoàn toàn chắc chắn là cháu đã hiểu sai ý câu hỏi đó rồi”. David cau có, sầm mặt và sau đó, như thể có phép lạ, lại trở nên thư giãn.
“Dĩ nhiên là dì nói đúng. Cháu đang hy vọng có thời gian hiểu dì, Charlotte. Thật không may là cháu đã không thể làm vậy vào lần gặp trước”.

“Dì đã có một bữa tối tuyệt vời”. Đó là một trong những bữa tối ngon lành của bà - cho đến ngay phút cuối khi David đột nhiên bỏ đi.
“Cháu cũng vậy”, David đồng ý, “nhưng sau đó cháu thấy tệ lắm”. Charlotte gật đầu. Việc David đột ngột bỏ đi khiến Ben lo lắng và bà cũng vậy.
“Cháu muốn xin lỗi về hành động của mình tại bữa tối hôm đó. Cháu... hơi buồn”.
Charlotte vỗ nhẹ tay anh ta. “Dì hiểu mà”.
David cúi xuống và cất tiếng thở dài não nề. “Cháu không có số tiền mình cần. Cháu nghĩ bố cháu không hiểu được cháu phải đến nhờ ông giúp đỡ khó khăn đến thế nào. Cháu cũng có lòng tự trọng chứ”.
“Dì rất tiếc về rắc rối của cháu, David ạ”.
“Không có gì tồi tệ hơn là không thể thực hiện được các cam kết của mình. Cháu được dạy là phải có trách nhiệm và bây giờ cháu rơi vào hoàn cảnh không còn đường lui nữa”.
“Phiền phức thật nhỉ?”. Charlotte đã sống cuộc sống thanh đạm cả đời. Bà chưa từng có nhiều đồ xa xỉ nhưng luôn cố gắng đáp ứng được nhu cầu của mình.
“Cám ơn dì”. Gương mặt cậu giãn ra với sự thông cảm của bà. “Ai tin được chỉ năm ngàn đô la bèo bọt lại có thể cứu cháu chứ?”.
Năm ngàn đô la không hoàn toàn là nhảm nhí đối với Charlotte. “Dì chắc là cháu sẽ tìm ra cách giải quyết”.
David lắc đầu và nhíu mày .”Lần này thì không”. Giọng anh ta có vẻ căng thẳng.
“Ý cháu là gì?”, bà lo lắng hỏi.
David nhún vai. “Thôi đừng nói chuyện đó lúc này nữa. Dì không cần bận tâm tới rắc rối của cháu đâu. Dì là một phụ nữ dịu dàng, chu đáo và cháu không muốn làm hỏng bữa trưa của chúng ta bằng việc nói về những rắc rối của mình”.
“Nhưng dì nghĩ chúng ta nên nói. Biết đâu dì lại giúp được”. Bà không chắc mình có thể làm gì, nhưng có lẽ…
“Dì sẵn sàng làm vậy chứ?”. David hỏi, gương mặt anh ta sáng lên nhẹ nhõm. “Ý cháu là dì sẽ giúp cháu chứ?”.
“Nếu dì có thể”. Một cảm giác bất an dâng lên trong lòng bà - bà luôn có cảm giác ấy khi không làm chủ được những suy nghĩ của mình. “Dì có thể nói chuyện với bố cháu”.
“Đừng!”. David nài nỉ. “Khó khăn lắm cháu mới tìm đến ông nhưng ông ấy đã từ chối. Cháu không còn gì nhiều, dì Charlotte ạ, ngoại trừ lòng tự trọng của mình. Bố biết cháu đang tuyệt vọng nhưng điều đó không có ý nghĩa gì với ông hết. Ông ấy chưa từng giúp gì cháu nhiều”. Anh ngập ngừng. Lẽ ra cháu không nên nói như thế. Hãy tha lỗi cho cháu”.
“Dĩ nhiên rồi”. Mà điều đó cũng không đúng, Charlotte biết như vậy. Theo Ben, ông đã cho con trai mượn khá nhiều tiền trong mấy năm rồi. David chưa từng trả lại lần nào.
“Dì Charlotte, cháu cần năm ngàn đô la”.

Cảm giác bất an quay trở lại. “Đó là số tiền lớn”.
Anh ta không cãi, mặc dù chỉ một vài phút trước anh ta coi đó là “bèo bọt”. “Vâng”, anh ta nói, “nhưng cháu nhất định sẽ trả lại dì cả gốc lẫn lãi. Cháu đã giải thích như thế với bố cháu nhưng ông ấy không nghe. Cháu sẽ được công ty thưởng một khoản lớn nhân dịp Giáng sinh này. Cháu biết chắc sẽ nhận được một tấm séc trị giá năm ngàn, có thể là nhiều hơn và chỉ còn hai tuần nữa thôi. Cháu chỉ cần tiền đến lúc đó. Nếu bây giờ cháu không có tiền...”. Anh ta ngả lưng trên ghế và thở dài. “Cháu không thể tưởng tượng được chuyện gì sẽ xảy ra”.
“Chỉ trong hai tuần thôi hả?”.
David vươn người về trước, mắt anh ta tràn đầy hy vọng. “Hai tuần”. “Ngân hàng không cho cháu vay hả?”.
“Không. Cháu đã thử nhiều lần rồi, nhưng với mức tín nhiệm của cháu mà họ đánh giá thì họ thậm chí còn từ chối nói chuyện với cháu”.
“Ồ!”.
“Dì Charlotte, nếu dì giúp cháu, cháu sẽ biết ơn dì suốt đời. Anh ta cầm ly rượu lên và uống nốt chỗ còn lại. “Nó có thể cứu mạng cháu”.
Vừa lúc đó, bữa trưa của họ được đưa tới nhưng cảm giác ngon miệng của Charlotte đã biến mất. Bà mỉm cười biết ơn với cô phục vụ rồi với tay lấy cốc trà, bà thấy cần phải suy nghĩ kỹ về việc này. “Cứu mạng cháu à?”, bà trở lại với cuộc nói chuyện của họ.
David xoay người và nhìn ra phía vịnh. “Cháu không muốn nói tới lĩnh vực y học”, anh ta nói nhỏ.
“Chuyện khá phức tạp...”.
“Không, cứ nói cho dì biết đi”.
“Cháu rất cần số tiền này, cháu đã - cháu đã tính chuyện...”, anh ta dừng lại, đầu gục xuống, “... tự tử”.
Charlotte đưa tay ôm lấy ngực thở dốc. “Nếu cháu không được phẫu thuật...”.
Charlotte vẫn chưa hết sốc và lúc này lại tiếp một cú sốc nữa. “Tiền để phẫu thuật hả?”.
David gật đầu. “Thật khôi hài phải không dì? Chẳng có ai hỏi cháu tại sao cháu lại cần năm ngàn đô la. Bố cháu nghĩ rằng cháu trả nợ cờ bạc. Ông là như vậy. Thật buồn phải nói điều đó, bố cháu muốn nghĩ điều tồi tệ nhất về cháu”.
“Cháu cần phải phẫu thuật hả?”. Đầu bà quay cuồng với tin này. Ben chắc chắn sẽ đưa cho cậu ta tiền nếu biết chuyện này.
Mắt David mệt mỏi. “Cháu không nhún mình hơn nữa đâu. Dì cũng biết bệnh viện là thế nào rối đấy. Họ muốn có tiền trước khi đồng ý làm bất cứ thủ tục gì”.
“Nhưng chắc là cháu có bảo hiểm tế chứ”.
“Một chút thôi”, anh ta đồng ý. “Nhưng không đủ. Cháu cần tiền để trả số còn thiếu”.
“Nhưng David này, bố cháu sẽ muốn giúp cháu nếu ông ấy biết lý do cháu cần số tiền này đến vậy”.
Anh ta cười như thể bà vừa nói đùa. “Dì không hiểu bố cháu như dì nghĩ đâu. Cháu chưa từng được ông ấy yêu quý. Bố luôn thấy điều tồi tệ ở con người cháu chứ không phải những điều tốt đẹp. Cháu nghĩ mình đã nói với ông nhiều lý do nhưng... quan hệ giữa cháu và bố không tốt lắm”.
Charlotte có thể thấy vấn đề giữa ông và con trai phức tạp hơn những gì bà cảm nhận được. Bà đoán thế vì đây không phải là bất hòa mới xảy ra. Bà thấy buồn cho cả hai người. Khi nghĩ tới sự thất vọng về Will trong những năm qua thì bà hiểu nhiều hơn những gì bà muốn thừa nhận.
“Bố sẽ tức giận nếu ông biết dì đưa cho cháu tiền”, giọng điệu anh ta đầy chán ngán. “Cháu không thể để dì làm như thế, dì Charlotte”.

“Cháu không thế à?”.
“Cháu không muốn làm hỏng đám cưới của dì với bố cháu”.
“Vớ vẩn. Khi dì nói với bố cháu thì ông ấy sẽ hiểu. Hơn nữa, đó là tiền của dì và dì có thể làm gì mình muốn”. David không đáp.
Charlotte cúi xuống lấy ví và rút tập séc ra. Bà viết xong tờ séc và xé lấy đúng lúc Justine dừng bước trước bàn.
Cô giận dữ nhìn David. “Bà! Bà đang làm gì thế?”. David đưa tay với lấy tờ séc. “Tôi nghĩ việc này không liên quan đến cô”.
Charlotte vừa đưa cho cậu ta tờ séc thì Justine giật phăng nó khỏi tay anh ta. Khi nhìn thấy số tiền và tên người nhận, cô sầm mặt tức giận.
David đứng dậy. “Đưa cho tôi”, anh ta yêu cầu.
Chợt Ben xuất hiện, lao qua phòng ăn. Sự việc xảy ra sau đó khiến cả Charlotte và cô cháu gái đều bối rối. Mọi người lao vào nói cùng lúc, tạo ra một cảnh ngoạn mục cho khách của nhà hàng. Chưa kịp phản đối, Ben đã đưa Charlotte ra ngoài, David đi theo sau.
“Sao anh biết em ở đây?”, bà xấu hổ hỏi ông. Bà kéo chiếc áo khoác mà Justine đã bảo một người phục vụ chạy đuổi theo đưa cho. Bà quấn nó chặt hơn quanh mình.
“Justine đã gọi điện cho anh”.
“Ôi trời”.
“Con bé lo lắng. Nó nói David đã uống kha khá rượu. Anh biết ngay tại sao nó đòi gặp em và dặn con bé không được để em đưa cho thằng đó tấm séc nào”.
“Nhưng mà David bị ốm? Nó cần tiền điều trị”. Mắt Ben nheo lại gườm gườm nhìn con trai mình.
“Nói dối”.
“Nhưng...”.
“David, hãy nói thật mày đã làm gì một lần trong đời xem nào. Hãy nói với dì ấy sự thật”.
Charlotte mở to mắt nhìn chằm chằm vào con trai Ben. Sau một giây lúng túng, David nhún vai. “Ông không thể cấm tôi thử cách này được”.
Mặt bà nóng ran lên.
“Ôi, Ben”, bà thì thầm. “Em xin lỗi, rất xin lỗi”.
“Em yêu”, ông chậm rãi lắc đầu đáp lại. “Đó không phải là lỗi của em. Con trai anh là một gã lừa đảo có hạng. Nó nói dối em, đúng cái cách nó vẫn làm với anh trong suốt từng ấy năm. David sẵn sàng nói hay làm bất cứ điều gì để có tiền. Anh xấu hổ phải gọi nó là con và còn xấu hổ hơn vì nó lừa cả em”.
“Em cảm thấy... thật ngu ngốc”.
“Không phải thế đâu em”. Ben lờ con trai mình đi khi David nhanh chóng bước ra xa họ. “Em là người phúc hậu và dễ thương cảm, nó đã lợi dụng điều đó. Nào. Em đã nói về việc đi mua sắm cho lễ Giáng sinh phải không nhỉ?”.
Charlotte khổ sở sụt sịt khóc, ông quàng lại chiếc khăn lên cổ cho bà rồi nắm lấy tay bà.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: Chương 21 - 22





21
Khi Warren Saget bước vào nhà hàng thì Justine Gunderson vẫn chưa bình tĩnh trở lại sau sự kiện không mấy dễ chịu xảy đến với bà mình. Buổi chiều hôm đó trở nên tồi tệ hơn. Cô cố gắng nở nụ cười chào anh ta, nụ cười chứng tỏ kỹ năng chuyên nghiệp của một bà chủ nhà hàng.
“Chào anh, Warren”, cô vừa nói vừa với tay lấy một bản thực đơn và đưa anh ta tới một chiếc bàn. Vài năm trước khi lấy Seth, cô đã từng hò hẹn với Warren, một nhà thầu xây dựng. Warren hơn cô gần 20 tuổi và đã từng ép cô cưới anh ta. Lúc đó, Justine tin rằng cô không bao giờ muốn có chồng hay con cái. Seth và tình yêu của họ đã khiến cô thay đổi. Cậu con trai ba tuổi là niềm vui của cuộc đời cô. Cùng làm việc với Seth để xây dựng nhà hàng này đã - và sẽ tiếp tục – khiến cô hết sức hài lòng.
“Em vẫn đẹp như thế”, Warren thì thầm khi anh ta ngồi xuống chiếc ghế cạnh cửa số. Cô đưa anh tới một trong những chiếc bàn đẹp nhất trong nhà.
“Cám ơn anh”. Cô đặt thực đơn lên bàn.
Warren nắm lấy tay cô. “Em ngồi lại một lát nhé”, anh ta nài nỉ.
“Em không thể”.
“Chắc chắn là em có thể”, anh ta nói. “Bây giờ em có bận đâu. Gần hai rưỡi rồi - bữa trưa qua rồi mà. Nhiều tháng rồi chúng ta không nói chuyện”. Anh ta hạ thấp giọng. “Em đã từng yêu anh mà, Justine”. Cô nghĩ mình đã từng, nhưng Seth mới là người cho cô thấy ý nghĩa thực sự của từ đó. Khi hồi tưởng lại, cô nhận ra thứ mà cô cảm thấy ở Warren là một sự pha trộn kỳ lạ giữa thích và thương hại. Cái tôi của anh ta đòi hỏi anh ta phải có một phụ nữ đẹp trong tay tại các buổi lễ, nhưng chỉ là để trưng diện. Do không có khả năng quan hệ tình ái nên anh ta rất dịu dàng và chiều chuộng cô. Cô cần sự ân cần của anh ta và đôi lúc mối quan hệ đó hoàn toàn hợp với cô. Không chỉ có thế, việc cô sẵn sàng giữ những bí mật nho nhỏ của anh ta khiến anh ta yêu cô hơn. Chỉ khi Seth xuất hiện và Warren cảm thấy bị đe dọa thì anh ta mới muốn cưới cô. Có lúc khi việc phải thừa nhận tình cảm sâu sắc của mình dành cho Seth trở nên khó khăn và đau khổ Justine thực sự từng xem xét tới việc lấy Warren.
Cô tin nếu làm vậy Seth sẽ để cô yên - và anh đã làm thế, nhưng cô không thoát khỏi anh được. Seth Gunderson ẩn hiện trong suy nghĩ của cô từng giây từng phút. Không có cách nào thoát khỏi Seth hay tình yêu cô dành cho anh. Cuối cùng khi đồng ý lấy anh, cô không hề hoài nghi rằng cô đã quyết định đúng đắn.
“Hãy ngồi với anh”, Warren hỏi, ánh mắt anh ta cầu xin. “Chỉ vài phút thôi”.
Justine miễn cưỡng ngồi xuống. Sau một buổi chiều tồi tệ cô vừa trải qua, một vài phút giải lao sẽ giúp cô thoải mái. Không phải lúc nào cô cũng gặp một người như David Rhodes. Cô cảm thấy có chút tội lỗi khi gọi cho Ben, nhưng cô không thể chịu được cảnh David thao túng bà mình như thế. “Thôi được”. “Cám ơn em”. Warren đứng dậy và kéo chiếc ghế đối diện với anh ta. Các thoả thuận làm ăn của anh ta có thể mờ ám nhưng cách cư xử của anh ta thì không bao giờ phải bàn.
Khi cô phục vụ bước đến ghi đồ uống, Warren gọi hai ly rượu.
“Em không thể”, cô phản đối nhưng anh ta không nghe. “Trông em có vẻ cần nghỉ ngơi thư giãn”.
Đây là một ưu điểm khác của Warren. Đôi khi anh ta có vẻ - như lúc này - cảm nhận được cảm giác của cô chính xác đến kinh ngạc. Cứ cho là như vậy nhưng đôi lúc anh ta có thể vô ý đến mức không tin được. Cô quyết định tận hưởng giây phút này.
Rượu chardonnay được đưa tới và bỏ qua những ngần ngại, Justine ngả lưng thư giãn và nhấp một ngụm. Hôm nay là ngày mà một ly rượu vào giữa buổi chiều chính xác là thứ cô cần.
“Em sống thế nào?”. Warren hỏi, ngả lưng tựa vào ghế.
“Tốt”.
Anh ta thở dài và quay đi. “Anh nhớ em, Justine”.
Cô không đáp. Khoảng thời gian đó trong đời cô đã qua rồi. “Em có hạnh phúc không?”, anh ta hỏi.
“Rất hạnh phúc”.
Anh ta gật đầu và nhìn quanh. “Em và Seth làm nhà hàng này tuyệt đấy”.

“Cám ơn anh”. Không ai thực sự biết họ đã phải nỗ lực biết bao nhiêu trong công việc của mình. Seth thường làm việc mười lăm giờ mỗi ngày còn cô làm tiếp tân và quản lý sổ sách. Nhà hàng Hải Đăng cần được chú ý tới từng chi tiết - chi tiết về mọi mặt. Buổi sáng Seth nhặt rác và tàn thuốc ở bãi đỗ xe, sau đó anh phải tẩy rửa những vết dầu mỡ trong bếp. Những công việc đó không dễ chịu chút nào. Người ta thường chỉ thấy hào quang chứ không thấy hết công việc vất vả để dẫn đến thành công trong kinh doanh. Phần lớn các đêm khi Justine đón bé Leif từ nhà trẻ về thì cô đã kiệt sức. Cô lo lắng về việc con trai mình được những người lạ nuôi dạy. Cô muốn có đứa thứ hai. Seth cũng muốn thế nhưng anh cảm thấy chưa phải lúc. Justine lo rằng có lẽ không có thời điểm nào là đúng lúc cả. Dù cô yêu nhà hàng nhưng nó đã chiếm hết cuộc sống của họ rồi.
“Em đang lo lắng”, Warren nói xen vào suy nghĩ của cô.
“Em hả?”, cô bật cười, không xem câu hỏi đó là nghiêm túc.
Anh ta vươn người về phía cô và đưa tay nắm lấy tay cô. “Không cần phải giả vờ đâu. Anh muốn em quay về”.
Anh ta có vẻ chân thành và điều đó làm cô xúc động. “Warren, em đã lấy chồng rồi”, cô nhẹ nhàng nói.
“Em không hạnh phúc”.
“Có chứ”, cô nhấn mạnh. “Chỉ là Seth đang phải làm việc vất vả thôi”. Cô cũng vậy, nhưng cô không nhắc đến việc đó. “Em có một cuộc hôn nhân hạnh phúc, và em yêu chồng con em”.
Warren nhìn xuống thực đơn, nhưng cô không nghĩ anh ta đang đọc các món đặc biệt trong ngày. “Em không thể tưởng tượng được việc anh sống trong cùng một thị trấn với em và trông thấy em hàng ngày khó khăn đến thế nào đâu. Điều đó xé nát tim anh. Chúng ta có tình cảm đặc biệt và anh chưa thấy điều đó với bất kỳ ai khác”.
Cô không theo sát các mối quan hệ của anh ta nhưng cô thấy có vẻ Warren đã đi lại với nhiều phụ nữ trong vài năm qua. Cô nhận thấy là quan hệ của anh ta với các cô gái trẻ không kéo dài.
“Đã quá muộn rồi”.
“Thật hả?”, anh ta nhấn giọng. “Anh không tin điều đó Justine”.
“Warren...”
Anh ta ngước lên và nhìn qua vai cô. Mắt anh ta nheo lại khi Seth bước đến bàn.
“Anh Seth”, Justine nói, bối rối vì anh thấy cô ngồi với bạn trai cũ. “Warren mời em ngồi nói chuyện một lát”.
Chồng cô liếc nhìn hai ly rượu. Anh cười nhẹ nhàng với Warren. “Anh khỏe không, Warren?”.
“Cô đơn”, anh ta đáp, ánh mắt anh ta dán vào Justine. Cô nuốt nước bọt một cách khó khăn.
Seth đặt một bàn tay dáng vẻ sở hữu lên vai Justine. “Susan đã ghi món ăn anh gọi chưa?”.
“Chưa”.
“Tôi gợi ý món sò hấp. Đó là món đặc biệt ngày hôm nay”.
“Warren không thích sò”, Justine nói và ngay lập tức nhận ra rằng mình nên ngậm miệng lại. Với vẻ mặt của Seth thì rõ ràng anh không muốn được nhắc nhở về mối quan hệ gần gũi của cô với Warren trứớc đây.
“Em đến gặp anh khi nói chuyện xong với Warren nhé?” Khi cô gật đầu, Seth đi vào văn phòng nhỏ phía sau bàn tiếp tân.
Justine đứng dậy. “Em phải đi làm việc đây”.

“Seth không xứng với em”, Warren lẩm bẩm. “Anh sẽ đối xử với em như một bà hoàng nếu em quay lại với anh”.
Cô thậm chí còn không buồn đáp lời. Justine đang hạnh phúc cho dù mệt mỏi và làm việc quá sức. Seth cũng vậy. Họ đều gắn bó với nhà hàng này; Seth quyết tâm phát triển nguồn đầu tư của họ và trả lại số tiền đã vay của bố mình.
“Tình hình đã thay đổi, Justine ạ. Anh sẽ chờ đến khi em sẵn sàng. Em sẽ không phải hối tiếc đâu”, anh ta hứa hẹn với cô.
Justine thật sự nghi ngờ điều đó.
“Anh muốn gặp em hả?”, cô hỏi khi bước vào văn phòng của chồng. Seth ngồi sau bàn.
“Warren muốn gì thế”, anh hỏi với vẻ mặt khó chịu.
“Không có gì nhiều”. Cô nhún vai với anh. “Chỉ tới chào hỏi thôi”. Đó là câu đầu môi để chồng cô không giận. Uống một ly rượu với một người bạn cũ không có gì lớn lắm. Warren không còn ý nghĩa gì với cô nữa và chắc chắn không phải là mối đe dọa với Seth.
Chồng cô chăm chú nhìn cô một lát rồi thở dài. “Có lẽ anh đã hơi thô lỗ với anh ta - và với em nữa”.
Cô không tranh cãi với anh. Thay vào đó, cô bước vòng ra sau bàn và ngồi vào lòng anh. Vòng tay quanh cổ anh, cô ngả đầu tựa lên vai. “Anh là người em yêu”.
“Anh biết điều đó”. Anh hôn lên trán cô.
“Anh đúng là gã khờ ghen tuông”.
“Cả hai chúng ta cần một chuyến đi nghỉ”.
Seth khịt mũi cười. “Chắc sẽ không sớm được đâu”. Justine biết điều đó nhưng cô không thể không nhắc.
“Này”, anh nói, như thể đột nhiên nhớ ra điều gì. “Trước đó có chuyện gì thế em? Anh thấy bà em và Ben rời đi, rồi ngay sau đó một chàng trai trẻ có vẻ khá giận dữ lao ra khỏi nhà hàng”.
“Đó là con trai của Ben, anh sẽ không tin em đã có một buổi chiều tồi tệ thế nào đâu”. Cô tả lại cảnh mình giật tờ séc khỏi tay gã trai kia thế nào. Khi cô kể hết, Justine ngạc nhiên thấy chồng mình đang cười. “Anh nghĩ việc bà em bị lừa lấy năm nghìn đô la đáng cười lắm hả?”.
“Không hề”, Seth cam đoan với cô. “Điều anh thấy thú vị là David Rhodes lái xe ra khỏi bãi đậu, lốp xe nghiến lên mặt đường. Hắn chưa đi qua hết một dãy nhà thì anh thấy một trong những nhân viên cảnh sát giỏi nhất của vịnh Cedar đuổi theo, hú còi inh ỏi”.
Đó có vẻ là một kết cục hợp lý cho chuyến viếng thăm của David.
22
Kể từ khi có người chuyển hoa tới, Corrie cảm thấy không thoải mái lắm. Lần đầu tiên từ khi những tấm thiệp bắt đầu xuất hiện, chị có cảm giác mình biết ai là người đứng đằng sau. Những tấm thiệp đó đều ghi địa chỉ gửi cho Roy. Tuy nhiên, chị ngờ rằng chúng cũng gửi tới cho mình nữa.
Người đáng bị đặt dấu hỏi không liên quan gì đến hồ sơ cảnh sát của Roy mà liên quan đến cả hai người bọn họ và biết được thế, chị cảm thấy mất hết hứng thú với Lễ Tạ ơn, nhưng vì Roy và Linnette chị đã cố gắng. Họ đã dựng cây thông và trang trí nhà cửa. Chị thậm chí còn nướng món bánh ưa thích cho Roy rồi cả đống kẹo mềm cho Linnette và Mack.
Chiều thứ Bảy, Roy vừa ngồi đọc báo vừa xem tivi, một khả năng mà Corrie chịu không làm được.

“Anh có muốn đi xem phim không?”, chị hỏi. Hôm nay là ngày không bình thường vì họ chẳng có kế hoạch nào cho cuối tuần. Bất bình thường hơn nữa, Roy không làm việc.
“Không thích lắm”.
“Anh có muốn mời nhà Beldon tới ăn tối không?”. Corrie cảm thấy không thích nấu nướng lắm nhưng chị cần làm gì đó cho đầu óc bận rộn, nếu không chị sẽ lại suy nghĩ lung tung.
Roy hạ tờ báo xuống. “Bây giờ mời thì có vẻ hơi gấp nhỉ?”.
“Em đoán vậy”.
Chồng chị đặt tờ báo xuống sàn nhà. “Em đang phiền muộn về việc gì đúng không?”.
Chị gật đầu, lưỡng lự không biết có nên đề cập tới những nghi ngờ của mình không. Roy đứng dậy, giơ hai tay ra. Corrie không cần đến lời mời thứ hai. Anh ôm chặt lấy chị và chị thở dài thoả mãn khi họ cùng ngồi trên ghế sô-pha. Chị không thể nhớ lần cuối họ âu yếm nhau như thế này là lúc nào nữa. Cuộc sống của họ quá bận rộn và với việc Linnette cùng sống ở vịnh Cedar, lẽ ra Corrie nên cảm thấy hạnh phúc, nhưng phần lớn thời gian chị không thấy vậy.
“Em lại đang nghĩ về những tấm thiệp phải không?” Roy hỏi.
“Một chút thôi... Em đang băn khoăn về một việc. Em biết chúng ta đã hứa không nói về việc đó nữa nhưng anh có nghĩ là... có thể...”
“Không”. Câu trả lời cụt lủn, đột ngột đã ngắt lời cô. “Nhưng...”.
“Như em vừa nói đấy, Corrie ạ, chúng ta đã hứa không bao giờ nói về việc đó nữa và chúng ta đã không nói. Không phải người đó đâu, vì thế em nên bỏ suy nghĩ ấy đi”.
“Anh biết chắc chắn điều đó hả?”.
“Không. Thôi nào Corrie, đã nhiều năm rồi”.
“Em biết”. Giống như lúc chiều về chạng vạng, một nỗi buồn xâm chiếm chị và chị dựa người sát hơn vào chồng. Có thể Roy không muốn nói về nó nhưng như thế không ngăn được chị nhớ lại. Nhiều năm qua chị đã khổ sở để quên đi và có lúc đã thành công. Lúc này… giờ đây có vẻ những ký ức không để chị yên.
“Mình đi xem phim nhé”, anh gợi ý và kéo Corrie đứng dậy.
“Được thôi”. Chị đi lấy áo khoác và khi trở lại thấy Roy cũng đã sẵn sàng. Họ lái xe tới rạp chiếu phim sáu phòng trên đồi; không buồn xem lịch chiếu, họ chọn phim tiếp theo ngay sau đó, phim sẽ bắt đầu chiếu sau nửa giờ nữa.
Rạp chật cứng người; phòng giải lao và các quầy bán vé có nhiều hàng người đang đứng. Có vẻ tất cả mọi người ở vịnh Cedar đã đổ hết ra ngoài.
“Nhìn kìa!”, chị thì thầm khi họ xếp hàng mua bỏng ngô, “Grace Sherman và Cliff Harding cũng ở đây. Phía sau chúng ta đó”.
Roy nhún vai như thể không quan tâm đến điều đó.
“Hay đấy”, chị vừa giải thích vừa nắm lấy tay anh và vươn người về phía anh để không bị người khác nghe thấy. “Lần trước em nghe người ta nói họ chia tay rồi”.
“Họ cưới nhau chưa?”. Giọng anh có vẻ không hiểu.
“Chưa”, chị đáp và thúc cho anh một cùi chỏ vì tội chậm hiểu. “Nhưng em nghĩ gần gũi rồi. Mọi người đều nghĩ Cliff sẽ trao nhẫn đính hôn cho chị ấy. Rồi họ chia tay, chẳng ai hiểu tại sao”.
Roy có vẻ không quan tâm lắm, nhưng Corrie có thể chắc là anh đang lắng nghe. “Em đã thấy họ đi với nhau một lần sau đó, và thế đấy”.
“Như vậy là tình cảm của họ có thay đổi. Việc đó vẫn xảy ra”. “Việc đó đã xảy ra với chúng ta”, chị nói với anh.
Theo như ánh mắt anh nhìn chị thì Corrie biết anh không thích được nhắc nhở về việc đó.

“À, em hy vọng họ sẽ về lại bên nhau”, chị thì thào. Sau khi xếp hàng chờ đợi, Roy và Corrie cũng tới được quầy để mua đồ uống và bỏng ngô. Họ chào nhau và phát hiện là cùng xem một bộ phim.
“Olivia và Jack hẹn gặp chúng tôi ở đây nhưng họ đã huỷ kế hoạch vào phút chót”, Grace giải thích. “Jack phải đến văn phòng có việc gì đó”.
“Vâng. Tôi biết cô định nói gì mà”, Roy đáp khi anh trả tiền cho chỗ bỏng ngô. Corrie cầm túi bỏng và một cốc nước. “Hẹn gặp hai người trong rạp nhé”, anh nói. Anh nhét ví lại vào túi sau và cầm cốc nước lên.
Nếu có thể giữ cho chúng tôi hai chỗ nhé”, Cliff vừa nói vừa đưa mắt nhìn đám đông.
“Chắc chắn rồi”.
Rõ ràng là bộ phim khá hay vì rạp nhanh chóng chật chỗ. Corrie và Roy tìm thấy một chỗ gần phía sau nhưng không tìm được bốn chỗ liền nhau. Chỉ còn một tuần nữa là đến Giáng sinh và giữa thời gian hối hả chuẩn bị mọi người rõ ràng là muốn nghỉ ngơi thư giãn một chút vào buổi chiều.
Grace và Cliff bứớc vào trong rạp, Corrie chỉ hai chỗ ngồi ngay trước mặt họ.
Cliff và Grace len lỏi qua vài người khác và ngồi xuống chỗ phía trước Corrie và Roy.
“Chúng tôi chỉ tìm được chỗ này thôi”, Roy vươn người nói.
“À, tôi cảm thấy may mắn là còn chỗ đấy”, Cliff đáp lời anh”. Cám ơn”.
Roy đặt túi bỏng ngô giữa anh và Corrie, họ cùng ăn trong khi nghe nhạc và xem quảng cáo. Corrie nhận thấy Grace tựa đầu lên vai Cliff đầy âu yếm khiến chị cũng cảm động. Lần đầu tiên khi họ trở lại bên nhau, chị và Roy cũng như vậy.
Họ gặp nhau khi chị là sinh viên năm nhất và nhanh chóng phải lòng nhau. Sau một thời gian, họ luôn ở bên nhau. Roy là một cầu thủ ngôi sao, chơi ở vị trí tiền vệ trong đội bóng đá. Anh là một người hùng trong trường, hấp dẫn với mọi cô gái và tất cả nam sinh đều ngưỡng mộ anh. Thậm chí những câu nói của anh cũng được chuẩn bị một cách chuyên nghiệp. Anh rất có triển vọng và tham vọng.
Họ chia tay khi chị phát hiện anh còn hẹn hò với người khác. Chị đã suy sụp. Cho đến tận bây giờ, anh vẫn thề là anh không hề ngủ với cô gái đó, anh khăng khăng nói rằng một người bạn của họ đã nói dối chị. Chị tin anh, nhưng chị cũng biết rằng anh đã phải chịu áp lực ghê gớm. Ở giữa mùa bóng, khi chị cần gặp anh, anh nói rõ là anh không có thời gian dành cho chị. Rõ ràng là Corrie không còn gắn bó với anh nữa.
Điều chị muốn nói với anh, điều anh không muốn nghe, là chị đang có bầu.
Bị bỏ rơi và cô đơn, Corrie không biết phải làm gì. Chị trở về với bố mẹ, những người đã giúp đỡ chị vô điều kiện. Cuối kỳ học đầu tiên, họ lái xe tới Washington và gói ghém đồ dạc cho chị.
Corrie không liên lạc lại với Roy. Anh đã ở ra khỏi cuộc sống của chị. Không nói với bất kỳ người bạn nào của mình về việc bỏ học, chị trở về nhà ở Oregon. Bố mẹ ở bên cạnh chị, cùng chị tham dự một loạt các buổi tư vấn và họ cùng nhau quyết định rằng chị nên cho đứa con làm con nuôi. Đó là quyết định khó khăn nhất trong đời chị.
Mẹ chị đã ở bên chị trong phòng sinh. Corrie đã yêu cầu không được thông báo với chị giới tính của đứa trẻ. Ký vào tờ giấy cho con nuôi đã đủ đau đớn rồi, chị sợ rằng nếu biết giới tính của đứa trẻ thì chị sẽ hình dung ra cảnh cậu bé hay cô bé lớn lên. Thà không biết thì còn dễ chịu đựng hơn.
Tháng Chín năm sau, khi trở lại trường đại học thì Corrie đã trở thành một con người khác. Mọi việc không còn như trước nữa. Chị học hành chăm chỉ và sống khép kín. Chị biết rồi sẽ gặp lại Roy trong trường và đã chuẩn bị tâm lý cho việc đó.
Điều chị không mong đợi là anh tìm kiếm chị. Một ngày nọ Roy đến ngồi cạnh chị trong thư viện và hỏi xem họ có thể trò chuyện không. Sau thời gian đã qua và mọi chuyện đã xảy ra thì tình cảm của chị dành cho anh chưa chết hẳn. Chị vẫn yêu anh. Họ đã thật ngốc nghếch và thiếu chín chắn, nhưng cả hai đều đã thay đổi. Buổi chiều hôm đó họ đã nói chuyện trong nhiều giờ. Roy nhận thấy sự khác biệt ở chị và nói rằng anh cũng không còn như trước.
Một cầu thủ ngôi sao khác đã thay thế vị trí tiền vệ của anh và chỉ trong một đêm, từ một nhân vật nổi tiếng anh đã trở thành quá khứ. Lòng tự trọng của anh bị tổn thương trong nhiều tháng, nhưng anh đã đứng đậy được. Còn chị, chị tin rằng Roy đã ra khỏi cuộc đời mình mãi mãi - và rồi gần như chỉ qua một đêm, anh trở lại.
Chỉ khi Roy mua cho chị chiếc nhẫn đính hôn thì chị mới nói cho anh biết về đứa trẻ. Lúc đầu Roy không tin, sau đó anh giận dữ và tiếp theo là đau buồn ghê gớm. Anh đã khóc cùng chị, ôm lấy chị và cầu xin chị tha thứ. Anh đến gặp bố mẹ chị. Corrie không bao giờ biết họ đã nói gì nhưng khi chị nhận chiếc nhẫn đính hôn của anh thì Roy đã được gia đình chị chào đón. Đêm tổ chức hôn lễ, lần thứ hai họ thề nguyền với nhau không bao giờ nói về đứa trẻ một lần nào nữa. Bây giờ Corrie không thể không băn khoăn liệu có phải đứa trẻ đã tới tìm họ hay không.
“Corrie”, Roy thì thầm, “em ngủ gật hả?”.
“Em chỉ đang suy nghĩ thôi”, chị thì thầm đáp lại.
Có thể chị chìm đắm trong suy tư nhưng Cliff Harding thì đang ngáy vang như sấm. Grace đánh thức anh dậy, anh giật mình rồi lại tiếp tục xem phim. Mười phút sau, Cliff lại bắt đầu ngáy. Sau hai phần ba thời gian của bộ phim, Grace đứng dậy và kéo Cliff ra khỏi rạp. Trên đường đi giữa các hàng ghế, chị quay lại cười xin lỗi Corrie và Roy.
Corrie phải thừa nhận mình cũng chẳng theo dõi nội dung phim. Ý nghĩ của chị không tập trung vào cốt truyện kỳ quặc khá phức tạp mà là vào đứa con chị chưa hề biết mặt. Đứa con chị đã cho đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15: Chương 23 - 24





23
“Tớ sẽ ăn bánh kem”, Grace nói khi bước vào một ngăn trong nhà hàng Pancake Palace. Chị và Olivia vừa ra khỏi lớp thể dục thẩm mỹ tối thứ Tư và quyết định vừa nói chuyện, vừa ăn bánh và uống cà phê. Tuy nhiên, kem dừa không giúp Grace dễ chịu hơn. Chị cáu kỉnh và buồn rầu, vẻ mặt Olivia nói cho chị biết bạn mình cũng cảm thấy thế.
“Cả hai chúng ta đều gọi bánh kem”, Olivia nói khi ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Grace.
“Cậu nói trước đi”, Grace nói. Họ là bạn thân từ hồi học phổ thông và đến bây giờ vẫn thân thiết như chị em. Chị hầu như không giấu Olivia chuyện gì và biết rằng bạn mình cũng đối xử với mình như vậy. Họ có một tình bạn đặc biệt.
“Đó là Jack”, Olivia rên rỉ. “Cậu có ngạc nhiên không?”.
“Không”.
Goldie, người phục vụ yêu thích của họ, bước tới với một bình cà phê. “Vẫn như mọi hôm chứ?”, bà hỏi khi rót đầy cà phê cho họ. Olivia và Grace là những người sống theo thói quen. Tối thứ Tư nào cũng vậy, họ tham gia lớp thể dục và sau đó đi thẳng tới Pancake Palace để ăn bánh và uống cà phê.
Grace lưỡng lự trước câu hỏi của bà phục vụ rồi nhún vai. Olivia cũng vậy. “Tuần này chúng tôi có bánh nhân quả băm”, Goldie nói với họ bằng một giọng mời chào.
“Không, cám ơn bà”, Olivia nói như cái máy.
Grace cân nhắc một lát. “Kem dừa”, chị lẩm bẩm, hơi không hài lòng với bản thân vì đã không dám thử món mới. Nếu mình không thử thay đổi một chút thôi thì làm sao có thể thực hiện một thay đổi lớn?
Một lát sau Goldie trở lại với một lát bánh kem dừa và một lát bánh trứng đường vị chanh kèm theo tờ hoá đơn.
“Cậu buồn bực vì Jack hả?”. Grace nói, kéo Olivia trở lại với câu chuyện của họ.
“Đúng thế. Trời, tớ gần như không nhìn thấy mặt anh ấy nữa? Tớ quá bực mình khi anh ấy hủy buổi hẹn đi xem phim của bọn mình. Cậu không biết tớ đã mong ngóng dịp cả bốn chúng mình cùng đi chơi thế nào đâu. Chúng mình thật khó được đi cùng nhau như thế.
“Tớ cũng thất vọng lắm”, Grace nói. Ai mà tin được rằng bữa tối đó và một buổi đi xem phim lại là điểm nhấn cho mùa Giáng sinh cho cả hai người bọn họ chứ?
Olivia có vẻ đã bình tĩnh lại. “Cậu và Cliff đi chơi vui chứ?”, chị hỏi.
“Bọn mình sẽ nói chuyện đó sau. Kể nốt cho tớ chuyện giữa cậu và Jack đi”. Grace kinh ngạc khi thấy mắt Olivia mọng nước. “Tối hôm đó bọn mình đã cãi nhau. Jack mãi nửa đêm mới mò về - thôi được, mười giờ tối, nhưng cứ như là nửa đêm rồi ấy. Anh ấy đã ở văn phòng cả ngày rồi. Cậu cứ nghĩ tới cảnh mặt trời mọc rồi lặn trong phim Sử ký ấy. Đó là tất cả cuộc sống của anh ấy, còn tớ thì thật lòng ghét nó”. Chị giận dữ lau nước mắt trên má. “Tớ không định xúc động thế này đâu. Chỉ là bọn tớ có vẻ rơi vào bế tắc rồi”.
“Cậu không nghĩ đến...”. Grace không thể nói ra từ ly dị.
“Không, nhưng mọi thứ phải thay đổi. Jack làm việc quá sức, anh ấy hầu như chỉ dùng đồ ăn nhanh và không tập tành gì hết. Anh ấy sẽ tự giết mình mất nếu cứ tiếp tục cái đà này”. Chị cau mày. “Anh ấy nghĩ toàn bộ chuyện này là một trò đùa. Anh ấy nói rằng nếu một ngày anh ngã xuống thì điều tớ nhớ nhất chính là quan hệ tình dục thường xuyên”.
Grace đảo mắt. “Cứ để cho đàn ông làm mọi chuyện nhẹ nhàng như vậy đi”. “Anh ấy hứa là chương trình của mình sẽ thay đổi sau năm đầu tiên, nhưng tớ đã từng nghe những lời hứa tương tự trước đây rồi. Tớ không muốn anh ấy tự giết mình vì một tờ báo ngu ngốc”.
“Anh ấy yêu cậu, Olivia ạ”.
“Tớ biết và tớ cũng yêu anh ấy. Tớ đã mua cho anh ấy một cái máy tập chạy làm quà Giáng sinh”.
“Tốt đấy. Có thể Jack sẽ hiểu ý nghĩa của nó”.
“Nhưng anh ấy cứng đầu lắm”.
Grace không thể không bật cười. “Đàn ông nào mà không thế?”.

Lúc này Olivia cũng mỉm cười. Chị với lấy dĩa và cắt bánh trứng nhân đường vị chanh của mình. “Thôi nào, nói về mình và Jack thế đủ rồi đấy. Có chuyện gì giữa cậu và Cliff nào?”.
Grace thở dài nặng nề. “Cliff ngủ gật khi xem phim. Tớ đánh thức anh ấy dậy khi anh ấy bắt đầu ngáy... ngáy to”.
Olivia cười phá lên.
“Olivia Lockhart Griffin, việc đó không buồn cười đâu”.
Olivia cố gắng kiềm chế sự thích thú của bản thân. “Mười phút sau, anh ấy lại ngáy. Tớ thấy thế là quá lắm rồi, và chúng tớ ra khỏi rạp”. Sự thật là Olivia nên thấy mừng vì đã bỏ lỡ buổi hẹn tối hôm đó. Cliff đã kiệt sức. Anh làm việc với lũ ngựa suốt cả ngày rồi kết thúc với cảm giác mệt lả và cáu kỉnh. Bữa tối sau buổi chiếu phim thật buồn thảm.
“Tớ thất vọng đến mức suýt phát khóc”.
“Những người đàn ông của bọn mình bị sao ấy nhỉ?”. Olivia hỏi.
“Tớ chẳng biết. Nhưng tớ chán kiểu này lắm rồi”, Grace nói. “Cứ như tớ cưới chồng mà chẳng để làm gì”.
“Ý cậu là cưới chồng mà không quan hệ thường xuyên hả?”, Olivia trêu.
“Cậu là bạn thân nhất của tớ, nhưng có những việc tớ sẽ không hé răng, kể cả với cậu, trong đó có chuyện về đời sống tình dục của tớ”.
“Nói cách khác thì cậu không có”.
“Nói cách khác thì cậu đúng đấy”.
Cả hai bật cười và cảm thấy khá hơn. Chỉ còn bốn ngày nữa là đến Giáng sinh rồi và chị định ăn tối với các con gái rồi sáng muộn hôm Giáng sinh mới đến nhà Cliff. Nhưng Grace thấy mình thực sự có cảm giác khác về Cliff.
“Bọn mình sẽ làm gì đây?”. Olivia hỏi. Jack sẽ nghĩ mình thật thông minh khi mua tặng anh ấy cái máy tập chạy, nhưng tớ không thể khiến anh ấy tập thể dục được. Tớ cũng không kéo được anh ấy ra khỏi mấy cái bánh kem kẹp thịt hun khói hai lớp”.
“Còn tớ thì không thể khiến Cliff yêu mình”.
Câu nói đó rõ ràng khiến Olivia bị sốc. “Cliff thực sự yêu cậu”, chị nhấn mạnh.
Grace cũng đã từng tin điều đó nhưng gần đây chọ không chắc lắm. “Bọn tớ đã có một Lễ Tạ ơn tuyệt vời nhưng giờ đang sống mòn rồi. Ở bên tớ có vẻ là một gánh nặng đối với anh ấy hơn là niềm vui. Buổi hẹn thứ Bảy trước là một nghĩa vụ mà anh ấy thấy phải hoàn thành. Tớ chắc mình không thích thú gì và tớ đoán anh ấy cũng vậy”.
“Rồi sao nữa?”.
Đó là một câu hỏi cần suy ngẫm. “Ước gì tớ biết được”.
“Hãy hứa với mình là cậu không làm gì cho đến hết lễ Giáng sinh nhé”.
Grace nhăn mặt. “Kế hoạch cho lễ Giáng sinh thế này này. Tớ sẽ đến nhà Cliff vào lúc gần trưa, nấu bữa tối rồi ngồi đan len trong khi anh ấy ngủ khì trước cái tivi. Chị sẽ rửa bát, hôn tạm biệt anh rồi tự đi về. Chị cũng có thể ở nhà với chú chó và mèo của mình; Buttercup và Sherlock luôn là những người bạn tốt. “Lúc nào đó vào buổi sáng hôm sau”, Grace tự kết thúc kịch bản của mình, “Cliff sẽ gọi điện và xin lỗi rồi bọn tớ bắt đầu lại từ đầu”.
“Phải có người lay lay cái chuồng của Cliff thôi”, Olivia gợi ý, gõ gõ ngón tay lên môi.
“Nghe có vẻ khó đấy”.
“Cậu cảm thấy như mình đã cưới nhưng không có một vị trí gì, đúng không? Vậy hãy nói với anh ấy là cậu muốn cưới anh ấy đi”.

“Cậu nghĩ là mình nên cầu hôn hả?”.
“Đúng vậy”, Olivia đáp. “Điều đó sẽ khiến anh ấy tỉnh lại”.
“Tớ muốn Cliff chú ý chứ không phải làm anh ấy bị đau tim”.
“Cứ bắt anh ấy phải quyết định - một lời cam kết”.
Grace có thể tưởng tượng ra vẻ mặt của anh, nhưng có lẽ Olivia nói đúng. Đã đến lúc hoặc là cam kết hoặc là chia tay. Tuy nhiên, Grace không biết liệu mình có đủ can đảm để theo đuổi bất cứ kết cục nào hay không.
“Thế nào?”, Olivia hối thúc.
“Tớ không biết nữa”.
“Cậu phải làm gì đó”, Olivia nói chắc nịch và ngốn nốt phần bánh còn lại.
Sự thật là thế, nhưng gợi ý về một cuộc hôn nhân có vẻ hơi quyết liệt. “Tớ sợ”, chị thú nhận sau khi suy nghĩ một lát.
“Cậu sợ cái gì?”.
Grace đặt cái đĩa sang một bên và cầm ly cà phê lên lồi lại đặt xuống. “Tớ không biết”. Đó không hoàn toàn đúng sự thật. Chị biết như vậy. Nỗi sợ lớn nhất của chị là Cliff nói với chị rằng anh không có kế hoạch làm đám cưới. Hoặc là dù thế nào đi nữa thì cũng không phải là cưới chị.
“Grace à?”, Olivia vươn tay qua bàn và nắm lấy tay bạn. “Mặt cậu tái đi kìa”.
Chị cố gắng nở nụ cười run rẩy. “Tớ vẫn đang chờ cái bánh đó có tác dụng”. “Cậu sẽ làm chứ?”.
Grace hít một hơi thở sâu. “Tớ tin là mình sẽ làm. Đã đến lúc tớ phải biết mình đang đứng ở đâu bên cạnh Cliff”.
24
Sáng giáng sinh, Maryellen thức giấc trong vòng tay ấm áp và dễ chịu của chồng. Cô thở khẽ, hạnh phúc và quay mặt nhìn anh.
“Giáng sinh vui vẻ!”, cô thì thầm và nhận thấy rằng Jon đã nhỏm dậy, chống tay trên giường và đang ngắm nhìn cô. Ánh mắt anh tràn đầy yêu thương khi anh cúi xuống hôn lên trán cô.
“Giáng sinh vui vẻ!”, anh lặp lại. “Em thấy thế nào?”.
“Em vẫn chưa biết”. Cô ngập ngừng nhấc đầu lên và chờ giây lát. Mọi thứ có vẻ ổn. Bụng cô chưa bắt đầu nhô lên ngay lập tức và đó là một dấu hiệu tốt. Lần mang thai thứ hai này không khó khăn như lần trước, lần cô bị sẩy một bé trai. Lần này cô thỉnh thoảng thấy buồn nôn vào buổi sáng nhưng không suy nhược.
Jon vẫn sợ rằng có bầu sớm như vậy là một sai lầm. Nhưng cô không gài bẫy anh; anh biết cô không sử dụng biện pháp tránh thai và chuyện đó sớm hay muộn cũng sẽ xảy ra mà thôi. Cũng như cô, anh chỉ nghĩ sẽ xảy đến muộn hơn. Khi chuyện đó xảy ra sớm vậy, Maryellen tự thấy ngạc nhiên - và vui mừng khôn xiết. Cô muôn bé Katie có em trai hoặc em gái và cô không muốn chờ quá lâu. Và quan trọng là cô đã gần bốn mươi tuổi rồi.
“Katie vẫn còn đang ngủ”.
“Kỳ quan nhỏ bé”.
Họ đã tập trung tại nhà Kelly và Paul cùng mẹ của Maryellen để đón đêm Giáng sinh. Katie và Tyler chơi đùa với nhau, đuổi bắt vòng quanh cây thông Giáng sinh, tiếng cười rộn ràng của lũ trẻ vang khắp ngôi nhà. Đêm đã khuya nhưng Katie vì phấn khích quá nên mãi đến gần sáng mới ngủ được. “Anh đang tính”, Jon thì thầm khi anh đặt bàn tay ấm áp lên ngực cô. “Chúng ta nên có thời gian đẹp cho mình”. Anh áp chặt vào cô rồi kề môi vợ, anh hôn cô vội vãi ngấu nghiến và ham muốn. “Em vẫn nói đây chính là lúc để bắt đầu một truyền thống kỳ nghỉ mới phải không nhỉ?”.

“Nghe hay đấy”, Maryellen hạnh phúc thì thào. Cô yêu người đàn ông này và biết rằng nếu để anh bước ra khỏi cuộc đời mình thì cô cũng tự đánh mất bản thân - mất đi người phụ nữ của chính mình.
Một tiếng sau, họ ngồi trong phòng khách, mỗi người cầm một cốc cà phê và nhìn ra ngoài khung cảnh Seattle. Trời vẫn còn tối nên ánh đèn thành phố vẫn chiếu mờ mờ phía xa. Jon đặt cánh tay lên vai cô.
“Anh có nghĩ là chúng ta nên đánh thức bé Katie dậy không?”. Maryellen hỏi. “Nếu làm vậy anh có cảm giác chúng ta rồi sẽ hối tiếc đấy”.
Jon nói đúng. Katie chắc sẽ khóc nhè, đặc biệt là sau một đêm thức khuya. Hơn nữa, Maryellen thích khoảnh khắc riêng tư này với chồng và không muốn lãng phí.
“Mở quà đi anh”, cô gợi ý. Maryellen đã dùng tiền thưởng Giáng sinh của mình từ Phòng tranh phố Harbor mua một chiếc máy ảnh kỹ thuật số hiện đại tặng Jon. Anh đã mong đợi nó từ nhiều tháng nay rồi nhưng không thể điều chỉnh tài chính. Cô biết anh rất muốn có nó và niềm vui có thể mua tặng cho anh khiến cô cảm thấy choáng váng.
“Em mở trước đi”, anh nói. Anh đứng dậy bước về phía cây thông và ngắt lấy một hộp nhỏ treo dưới một cành cây. Maryellen thấy nó ở đó nhưng đã không chạm vào. Mối quan tâm chính của cô là giữ cho Katie tránh xa những món quà.
“Em nghe nói những món quà tuyệt vời thường nằm trong hộp nhỏ”, cô trêu anh. Họ sống với nguồn thu nhập hạn chế nên cô chờ đợi một món quà không đắt lắm. Một vật lưu niệm chẳng hạn. Cô xé lớp giấy gói và thấy một chiếc hộp trang sức chạm nổi. Cô lườm Jon và nụ cười biến mất.
“Em mở ra đi”, anh giục.
Chồng cô là người ít cười. Niềm vui của anh ngắm nhìn cô mở quà thể hiện qua cách ánh mắt anh sáng lên và khoé miệng hơi nhếch.
Maryellen mở nắp hộp và há hốc miệng. Đó là một chiếc nhẫn cưới nạm kim cương với một viên kim cương phải tới một ca-ra. Nước mắt làm nhòa khung cảnh xung quanh và cô không nói nên lời. Khi họ cưới nhau, tất cả nhũng gì họ có thể mua sắm chỉ là một chiếc dây chuyền vàng đơn giản.
Malyellen chưa từng hé lộ rằng cô thích một viên kim cương hơn. Cô nói với Jon rằng anh chính là viên đá quý của cô và tình yêu của họ còn giá trị hơn bất cứ chiếc nhẫn nào.
“Em nói gì đi chứ”, anh giục giã. “Em có thích không? Nếu em không thích thì anh có thể mang đi đổi”.
“Em yêu nó...”. Cô quàng hai tay lên cổ anh và bật khóc nức nở vì vui sướng. “Anh làm thế nào?” Cô chắc anh chưa trả tiền mua nó. Jon là một người quản lý tiền nong tuyệt vời và luôn trả báng tiền mặt. Căn nhà của họ không có thế chấp vì ông chồng căn cơ của cô trả từng phần khi xây nhà. Anh vẫn chưa hoàn thành nhưng sẽ kịp thời gian.
“Anh đã để dành tiền cả năm nay”, Jon nói với cô và lau nước mắt trên má cô. “Anh luôn muốn em có một viên kim cương nhưng đã không có đủ tiền khi chúng ta làm đám cưới”.
Maryellen nhấc chiếc nhẫn ra khỏi lớp nệm nhung và đeo vào ngón tay. Chiếc nhẫn vừa khít ngón tay cô. Cô mỉm cười với anh rồi ngọt ngào hôn anh và thì thầm rằng cô yêu anh biết nhường nào. “Em thực sự thích nó. Nhưng không nhiều bằng em yêu anh”.
“Anh vui lắm”.
“Đến lượt anh mở quà”, cô bảo anh và lôi chiếc hộp phía sau cây thông ra. Một gói giấy lớn đổ ập xuống với nó.
“Của ai vậy?”, Jon khẽ nói.
Chắc anh đã đoán ra nhưng vẫn hỏi. Maryellen thở dài. Cô không muốn bất cứ thứ gì làm hỏng lễ Giáng sinh này. “Từ Oregon gửi tới từ cuối tuần trước”, cuối cùng cô đáp.
Gói quà được chuyển đến phòng tranh, đề tên cả ba người, dòng chữ KHÔNG MỞ TRƯỚC GIÁNG SINH viết bằng chữ in hoa trên nắp hộp.
Maryellen không nói gì với con và mang về nhà giấu sau cây thông.
“Anh mở quà đi”, cô nói, hy vọng làm anh phân tâm.
“Món quà này được gửi tới lúc nào thế”, anh hỏi bằng giọng phẫn nộ.
“Tuần trước”.
“Sao em không nói gì?”.
Maryellen ngồi thụp xuống ghế. “Anh Jon, đừng mà. Bé Katie là người cháu duy nhất của họ. Họ yêu bé và muốn gắn bó với cuộc đời con bé. Anh đã nói rõ tình cảm của mình, nhưng con gái anh xứng đáng được biết ông bà nó chứ”.
Anh có vẻ định tranh cãi nhưng sau một lát anh nhún vai và gật đầu.
“Bây giờ anh mở quà đi”, cô nói và đẩy gói quà về phía anh. Nó không nặng nhưng cô cố tình khiến anh có cảm giác như thế.

Jon háo hức xé giấy gói và khi nhìn thấy hộp đựng máy ảnh, anh sững người. Anh chậm lãi ngước lên, ánh mắt anh như bị sốc. “Em không...?”.
“Em có chứ”, cô vui mừng tuyên bố.
“Chúng ta không có đủ tiền mua cái này”.
“Em dùng tiền thưởng của em”.
“Maryellen, số tiền đó là để cho em mua gì em muốn”.
“Đúng thế. Em chẳng muốn gì trên đời hơn là tặng cho chồng mình chiếc máy ảnh kỹ thuật số mà anh ấy mong muốn suốt sáu tháng qua”.
Jon bước tới chỗ cô ngồi và quỳ xuống trước mặt cô. Anh nắm tay cô trong lòng bàn tay anh và hôn cô. “Cám ơn em”.
Maryellen vòng tay lên cổ anh. “Đây là Giáng sinh tuyệt vời nhất trong đời em”, cô nói và thực sự nghĩ vậy. Cô có Jon và bé Katie, một mầm sống khác đang lớn dần trong cô, minh chứng cho tình yêu của hai vợ chồng.
Rồi bé Katie thức giấc, Jon hôn lên má Maryellen lần nữa rồi chạy lên gác đón con gái. Khi anh đang bận rộn với con, Maryellen rót cho cô bé một cốc nước cam buổi sáng.
Mở quà tặng cùng con gái là một niềm vui không giống những niềm vui khác. Katie muốn chơi với từng món đồ chơi và khám phá từng món quà - giống như mọi đứa trẻ khác - và cũng hứng thú với giấy gói quà không kém. Không có gì ngạc nhiên khi việc này kéo dài vài giờ đồng hồ. Phải đến tận hai giờ chiều khi chú gà tây đã nằm yên vị trong lò nướng thì họ mới mở đến món quà cuối cùng - chiếc hộp được gửi đến từ Oregon.
Katie không mở được gói quà này nên Maryellen giúp cô bé. Jon đứng trong bếp và quan sát như thể muốn càng tránh xa món quà gia đình anh gửi càng tốt.
Khi cô thận trọng mở lớp gói bên ngoài Maryellen thấy ba món quà được gói bên trong: một cho Katie, một gói khác cho cô và gói cuối cùng dành cho Jon. Cô ngồi lên gót chân và liếc mắt nhìn chồng.
“Gì thế?”, anh hỏi.
Cô không trả lời ngay. “Đây này Katie”, cô nói và đưa món quà cho con gái. Đó là một chiếc váy màu trắng móc bằng tay có nơ bằng vải sa-tanh đẹp tuyệt. Maryellen có thể tưởng tượng ra thời gian và công sức để hoàn thành chiếc váy.
Katie vì thích những món đồ chơi của mình hơn nên nhanh chóng quay lại bảng đồ chữ bằng gỗ mà Jon và Maryellen đã mua tặng cô bé. Cô bé có vẻ định xếp tất cả các miếng ghép vào đúng ô của chúng.
“Em sẽ mở quà của em”, Maryellen nói. Quà của cô cũng được làm bằng tay - một chiếc áo poncho(1) đan bằng len mềm màu be. “Ôi, anh Jon nhìn xem cái áo Ellen đã đan cho em này”.
Anh không bình luận gì. Khi Maryellen thử áo và tạo dáng cho anh xem, anh gật đầu một cái rồi bước đi. Rõ ràng là có gì đó trong bếp đang cần anh chú tâm ngay lập tức.
Maryellen đặt món quà của anh lên chiếc bàn cà phê. Cô sẽ không giục anh mở nó ra. Đó là lựa chọn của anh. Món quà nằm đó trong suốt bữa tối và chỉ đến khi cô đã sẵn sàng lên giường đi ngủ mới nhận thấy rằng Jon vẫn chưa lên gác. Bé Katie đã ngủ rồi và sáng mai Maryellen phải đi làm.
Khi nhìn xuống cầu thang, cô thấy chồng đang ngồi trên ghế sofa nhìn chằm chằm vào món quà. Một lát sau anh với lấy chiếc gói lớn có giấy bọc màu đỏ và vàng roi xé mở. Đó là một bước cải thiện tình hình. Cho đến lúc này, mọi động thái của gia đình anh đều vấp phải sự từ chối thẳng thừng. Maryellen thấy đây là thời khắc quan trọng nên cô đã kịp bịt miệng mình lại. Cô không chờ xem món quà bố mẹ Jon tặng cho anh là gì. Vì sợ để lộ mình nên cô nhẹ nhàng trở lại giường và chờ anh đến nằm cùng.
Mãi một lúc lâu sau anh mới bước vào. Cô đã tắt đèn và đang nằm nghiêng ngủ mơ màng thì Jon leo lên giuờng. Anh dịch người sát vào cô và choàng tay lên eo cô, áp bàn tay vào bụng cô.
Maryellen đặt tay mình lên tay anh. “Em bị thức giấc hả?”, anh thì thầm.
Cô đáp lời bằng tiếng thở dài ngái ngủ. Vì anh lặng thinh quá nên cô hỏi. “Anh ổn chứ?”.
“Anh không biết”, anh đáp giọng khàn khàn. “Bố anh là một người tàn nhẫn. Biết anh vô tội nhưng vẫn tống anh vào tù để anh chết dần chết mòn. Và bây giờ... bây giờ lại tặng anh một cái cần câu làm quà Giáng sinh”.
Maryellen trở mình nằm ngửa để có thể nhìn vào gương mặt chồng và thấy mắt Jon lấp lánh với những giọt nước mắt đang chực trào ra. Cô lấy một tay nâng má anh, hôn anh và không biết phải nói gì để an ủi anh.
“Khi anh còn bé, ông thường đưa anh đi câu cá, trước khi mẹ qua đời. Đó là những ký ức đẹp nhất của thời trẻ thơ - đi câu cá cùng bố”.
Maryellen nhắm mắt lại và choàng cả hai tay ôm người anh. Cô nghĩ là Joseph Bowman đã tìm ra cách tiếp cận với con trai mình.
_________
1. Loại áo choàng bằng một tấm vải to có khe hở ở giữa để chui đầu qua, gốc ở Nam Mỹ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16: Chương 25 - 26





25
Cecilia biết rằng ngày Giáng sinh mà thiếu Ian sẽ rất khó khăn. Cô thức giấc với cảm giác sầu muộn nhưng vẫn quyết tâm tận hưởng một Giáng sinh vui vẻ hết mức có thể. “Năm tới bố con sẽ ở cùng chúng ta”, cô cam đoan với cậu con trai chưa sinh của mình và xoa xoa cái bụng to tướng.
Ngay sau khi mặc quần áo, cô bật máy tính gửi cho chồng một bức thư dài và chi tiết. Cô gửi cho anh tất cả tình yêu của mình trong ngày quan trọng nhất này, cố gắng hết sức tỏ ra hạnh phúc và tự tin. Để có được giọng điệu đúng đắn đòi hỏi suy nghĩ thận trọng. Nếu cô tỏ vẻ quá phấn khởi thì Ian có thể nghĩ là cô chẳng nhớ anh chút nào. Nếu cô có vẻ buồn phiền và khổ sở thì anh sẽ lại lo lắng. Do đó, cô mất gần một tiếng đồng hồ để viết thư. Cô kết thúc bằng việc kể về buổi tụ tập nho nhỏ với Cathy và Carol rồi nói thêm rằng họ đã mời Rachel Pendergast cùng tham gia.
Một cây thông Giáng sinh đặt trên bậu cửa sổ căn nhà đôi của cô với một ít quà tặng nằm dưới gốc. Ian đã bảo mẹ anh gửi cho cô một mặt dây chuyền vàng đáng yêu; cô mở ra ngay khi nó được chuyển đến. Bố mẹ chồng cô cũng gửi món quà riêng của họ - một chiếc khăn choàng Pashmina có màu xanh nhạt yêu kiều. Mẹ cô cũng gửi cho cô một hộp quà nhỏ, phần lớn là đồ trẻ con, mà cô đã mở ra vào buổi sáng hôm đó. Sandra Merrick vừa làm đám cưới lần thứ ba. Cecilia đã gọi điện chúc mừng Giáng sinh và được thông báo một tin buồn là mẹ cô sẽ không thể thăm cô vào lúc cô sinh đứa trẻ. Bà sẽ đi hưởng tuần trăng mật suốt cả kỳ nghỉ. Họ nói chuyện suốt ba mươi phút và Cecilia gác máy với tâm trạng buồn vui lẫn lộn. Mẹ cô hạnh phúc. Cecilia không thể nhớ lần cuối mình cảm thấy vậy là khi nào sau cuộc trò chuyện cuối cùng với bà. Cô thành thật mừng cho Sandra và hy vọng sẽ sớm gặp chồng mới của bà. Hơn nữa, cô sẽ tự mình làm tốt khi sinh nở; và cô còn có bạn bè.
Đến trưa, cô lái xe tới nhà Cathy Lackley ăn tối Giáng sinh. Cô thấy xe của Carol Greendale đậu ngoài căn hộ của Cathy. Vậy là Carol và con gái, Amanda, đã đến rồi. Amanda sinh cùng tháng với Allison. Trong một thời gian dài, Cecilia không thể ngắm nhìn cô bé mà không thấy lòng đau thắt. Nhưng bây giờ, khi gặp cô bé, cô chỉ thấy hơi chạnh lòng một chút.
“Giáng sinh vui vẻ?”, cô nói như hát và bước vào nhà. Cô mang theo món salad mì ống gà đặc biệt mà mẹ cô làm vào mỗi dịp Giáng sinh. Đó luôn là món yêu thích của Cecilia. Cô cũng mang theo một túi đầy những món quà nho nhỏ; họ đã quyết định sẽ tặng quà cho nhau với hạn mức là mười đô la mỗi món.
“Giáng sinh vui vẻ?”, Cathy nói vọng ra từ bếp. Cô đội một chiếc mũ hình gạc tuần lộc bằng nỉ có những chiếc chuông kêu leng keng vang theo từng bước chân đi. Con trai của Cathy, Andy, đang chơi với Amanda trong phòng khách.
“Tớ làm món chim trong lò nuớng và chúng ta sẽ dùng bữa sau ba giờ nữa - nếu cái lò này còn chịu được”.
“Có rắc rối à?”. Carol hỏi. Cô mặc một chiếc áo len màu đỏ tươi có ba bong đèn Giáng sinh màu đen, vàng và xanh phía trước.
“Có vấn đề với đầu bếp”, Cathy trả lời và ló đầu ra khỏi bếp. “Lẽ ra tớ nên lau chùi cái lò sau Lễ Tạ ơn nhưng không làm, rồi khi tớ bật lò lên hâm nóng nó chuẩn bị cho món gà tây thì khói bắt đầu tuôn ra”.
“Mẹ làm chuông báo cháy kêu ầm ĩ?”. Andy gào lên. Carol trợn tròn mắt. “Cậu đã làm gì?”.
“Tớ thì có thể làm gì?”. Cathy đùa. “Tớ nhét con chim vào trong, đóng cửa lò lại và hy vọng chuông không kêu nữa – cuối cùng thì nó cũng tắt”.
Cecilia bật cười. “Chính xác tớ cũng sẽ làm thế”.
“Không”, Cathy phản đối. “Cậu phải lau sạch lò nướng để kiểu tai hoạ này không bao giờ xảy ra nữa. Nhưng tớ thì chỉ nấu nướng khi cần thiết và vào dịp lễ thôi”.
Điều Cathy nói về bản thân là đúng sự thật nhưng Cecllia không muốn thừa nhận điều đó. Cô rất thích dọn dẹp nhà cửa và tự hào về khả năng nội trợ của mình.
“Chắc chắn Rachel Pendergast sẽ đến cùng bọn mình”, Cecilia nói, vui thích vì cô bạn mới của mình đồng ý đến. Cả Carol và Cathy đều đã gặp Rachel vào những thời điểm khác nhau, Cecilia khá hiểu cô. Cathy và Carol hoàn toàn sẵn lòng mời cô tới dự tiệc Giáng sinh, thậm chí ngay cả khi cô chưa chính thức là vợ của một sỹ quan Hải quân. Nate Olsen là một người bạn của các ông chồng họ.
“Tuyệt”, Cathy nói. “Càng đông càng vui”.
Cathy vừa nói xong thì chuông cửa vang lên. Carol ra mở và Rachel bước vào, mũi cô ửng đỏ vì lạnh, cô mang tới một nồi thịt hầm khoai và một túi vải có vài món quà trong bọc thò ra ngoài. “Giáng sinh vui vẻ!”, cô nói. “Tớ không đến muộn đấy chứ?”.
“Không, không đâu”, Cathy khẳng định. Cô lấy đĩa đựng món thịt hầm khoai đặt lên quầy bếp.
“Xin chào!”, Cecilia nói và họ ôm lấy nhau. Rachel cởi áo khoác treo lên mắc bên cạnh cửa trước rồi xếp quà quanh gốc cây.
“Tớ phải ghé qua nhà Bruce”, cô giải thích và liếc nhìn đồng hồ.
Lúc đầu Cecilia nghĩ rằng Bruce là anh của Rachel hay có quan hệ họ hàng gì đó cho đến khi cô nhớ rằng anh ta là ông bạn goá vợ của cô ấy.
“Jolene không muôn tớ đi”, Rachel vẫn đang nói. Cathy mang món rượu nóng đánh trứng ra và họ cùng ngồi trong phòng khách mở quà. Cecilia mang đến cho mỗi người bạn một tuýp kem dưỡng da tay sang trọng và trò chơi giải đố cho lũ trẻ; đổi lại cô nhận được bộ đánh bóng móng tay từ Rachel có màu được gọi là “Bộ đồ mới của Ông già Noel”, một cuốn sách bìa mềm từ Carol và từ Cathy là một bức tranh bằng thiếc có chạm khắc những chiếc giày và những đứa trẻ. Cô nghĩ Cathy đã mua nó với quá số tiền họ quy định và cảm thấy mắt rưng rưng khi nhìn vào mắt bạn mình rồi nói. “Cám ơn cậu”.
Sau đó, hai đứa trẻ ùa vào phòng ngủ, Amanda đã thuyết phục Andy chơi trò xây nhà với mình.

“Tớ sẽ nấu bữa tối cho cậu”, đứa bé bốn tuổi láu lỉnh nói. Andy trông có vẻ nghi ngờ. “Chuông báo cháy sẽ không kêu nữa đấy chứ?”.
“Bruce và Jolene là ai thế?”. Carol hỏi Rachel. “Tớ nghĩ mình đã không được biết một điều gì đó”.
“À, Bruce là một... người bạn. Một anh chàng goá bụa. Con gái anh ấy, Jolene, bây giờ đã chín tuổi rồi. Mẹ cô bé mất khi cô bé mới năm tuổi. Vừa nãy cô bé nói muốn tớ cưới bố cô bé”.
“Bruce phản ứng thế nào?”, Carol hỏi.
“Quên bố con bé đi, cậu định giải quyết sao đây?”. Cathy muốn biết.
Rachel hơi nhăn nhó. “Cả hai bọn tớ đều hơi khó xử Bruce và tớ thỉnh thoảng mới gặp nhau. Chủ yếu là bạn bè. Ví dụ, Bruce rủ tớ đi mua sắm Giáng sinh cùng anh ấy và tớ đồng ý”.
Cathy và Cecilia liếc nhìn nhau. “Nate có biết anh chàng này không?”.
Rachel gật đầu. “Bruce chỉ là một người bạn. Nata biết điều đó. Chính xác là tớ - tớ mới chỉ đi chơi cùng Nate có hai lần, và chúng tớ vẫn giữ liên lạc”.
Cecilia biết họ liên lạc hàng ngày kể từ khi cô hướng dẫn Rachel sử dụng internet và gửi nhận thư điện tử. Gần đây Ian nhắc rằng bây giờ Nate đã vui hơn biết bao vì anh ta có thể liên lạc trực tuyến với Rachel.
“Nate đã tặng tớ một chiếc máy vi tính làm quà Giáng sinh”, Rachel nói với vẻ thẹn thùng. “Tớ đã bảo anh ấy là món quà quá lớn nhưng anh ấy bảo rằng không phải vậy”.
“Ái chà”, Cathy lẩm bẩm.
“Anh ấy có tiền mà”, Carol nói với vẻ đó là sự thật. “Hay nói đúng hơn là gia đình anh ấy”.
Cả Cecilia, Cathy và Rachel lườm cô.
“Ý cậu là gì?”, Cecilia hỏi khi không ai khác lên tiếng.
“Nate Olsen, có phải không nhỉ?”. Carol quay sang Rachel hỏi, cô gật đầu. “Tớ nghĩ các cậu đang nói đến anh chàng này. Bố anh ta là Nathaniel Olsen”.
Cái tên đó không để lại ấn tượng gì với Cecilia và cô nhận thấy những người khác cũng vậy.
“Là ai cơ?”, Cathy hỏi.
“Nathaniel Olsen, là nghị sĩ Nathaniel Olsen đến từ Pennsylvania ấy”. Cô liếc nhìn hết người này đến người khác. “Các cậu muốn nói là không biết hả?” .
Trông Rachel có vẻ sốc rồi bối rối nói. “Kh- không, Nate chẳng bao giờ nói gì về việc gia đình anh ấy làm chính trị hết”.
“Chúng ta đang nói về vấn đề tiền nong. Nhiều tiền”, Carol tiếp tục, rõ ràng là đang thích thú với vai trò chuyên gia. “Tớ không biết chắc lúc đầu tiền từ đâu ra - có thể là từ than - nhưng bây giờ có rất nhiều và ông bố không ngại cho mọi người biết”.
“Nate đi lính nghĩa vụ”, Cecilia nói. Có lý khi cho rằng nhờ tên tuổi của bố anh nên anh có thể trở thành sỹ quan Hải quân.
“Đúng vậy”, Carol đồng ý và nhấp cốc rượu trứng của mình. “Nhưng mấy năm gần đây Nate và bố anh ta có bất hòa. Rồi sau đó tớ nghe nói Nate bỏ học Đại học và gia nhập Hải quân”.
“Sao cậu biết tất cả những điều đó?”.
“Tớ quê ở Pennsylvania mà”, cô nói với họ. “Ở quê tớ đó là một tin hay, và dĩ nhiên bố anh ta đã tận dụng khá tốt việc đó. Ông ta lợi dụng truyền thống yêu nước của gia đình vì nó tốt vào thời điểm bầu cử”.
“Tớ cá là Nate ghét việc đó”, Rachel lặng lẽ nói.

“Tớ cá là như thế”, Carol đồng tình. “Tớ nghĩ gần đây anh ta không liên quan nhiều gì với bố.
“Ôi”, mặt Rachel tái đi. “Tớ chỉ có thể tưởng tượng điều bố Nate sẽ nói nếu ông ấy biết con trai mình hẹn hò với một thợ làm tóc”.
Tiếp sau đó là một khoảnh khắc yên lặng. “Tớ thấy có vẻ Nate là một người tự lập”, Cecilia thấy buộc phải nhận xét. “Anh ấy là người chọn cậu phải không?”.
“Thật ra thì tớ đã gặp anh ấy tại cuộc đấu giá Chó và những người đàn ông độc thân, cậu nhớ không?”.
“Đúng thế, nhưng hai người rất hợp ý nhau”, Carol nói.
“Nate không lăn tăn gì về việc cậu làm việc cho một thẩm mỹ viện mà”, Cathy nói thêm. “Có vấn đề gì đâu hả? Ngay khi Carol và tớ biết cậu là thợ làm tóc thì bọn mình đã rất vui ấy chứ. Từ khi chuyển về sống ở vịnh Cedar bọn tớ lúc nào cũng đi tìm một thợ làm tóc giỏi. Việc cậu làm cả móng chân móng tay còn tuyệt hơn nữa”.
Rachel thấy thoải mái hơn một chút. “Tớ chỉ ước là Nate đã nói với tớ một chút gì đó - ý tớ muốn nói là về xuất thân của anh ấy”.
“Có lẽ anh ấy muốn chờ đến đúng thời điểm”, Cecilia ướm lời và ước là Carol đã không nói gì. Rachel có vẻ không thấy dễ chịu lắm.
Carol chắc hẳn cũng tự thấy hối hận, điều đó thể hiện qua câu nói tiếp theo. “Khi nghĩ về việc đó, tớ chắc Nate sẽ không dùng tiền của gia đình để mua quà tặng cho cậu đâu”, cô nói. “Rõ ràng là cậu có ý nghĩa rất lớn với anh ấy”.
Rachel mỉm cười và má cô ửng hồng. “Anh ấy cũng có ý nghĩa rất lớn với tớ”. Nụ cười của cô trở nên rạng rỡ hơn. “Tớ không biết gì về gia đình anh ấy nhưng tớ nói cho các cậu biết là Nate có nụ hôn rất tuyệt”.
Cathy lắc lắc đầu. “Chà, tớ không biết về Nate nhưng tớ cá gì cũng được rằng Andrew có thể hơn anh ta về khoản hôn, ngày nào trong tuần cũng vậy thôi”.
“Nếu bọn mình cứ đem ra so sánh”, Cecilia bắt đầu.
“Này các cô gái”, Carol cắt ngang và xua xua tay. “Bọn mình sẽ không muốn nói về chuyện này đâu” .
“Sao lại không chứ?”. Cecilia thắc mắc.
Carol nhìn từng người rồi hạ thấp giọng. “Chính xác lần gần đây nhất bọn mình quan hệ là lúc nào?”
Cả Cecilia và Cathy cùng cười khúc khích.
“Lâu rồi”, Cecilia đáp. “Quá lâu rồi”.
26
Corrie rất thích đi mua sắm mỗi khi có chương trình giảm giá sau Giáng sinh. Sau đợt giảm giá nhân dịp Lễ Tạ ơn, đây là thời điểm mua sắm yêu thích của chị. Chị mừng là Peggy Beldon đồng ý đi cùng. Họ quen nhau năm ngoái khi Roy đang giải quyết vụ án mạng xảy ra tại nhà nghi Thyme và Tide do Bob và Peggy làm chủ.
“Tôi thích vì mua được giấy gói quà Giáng sinh mà giá giảm tới bảy lăm phần trăm”, Peggy nói khi chị chất đầy những cuộn giấy màu lên xe đẩy của mình. “Dĩ nhiên là Bob cứ kêu ca suốt. Anh ấy nói tớ không thể dành dụm tiền bằng cách chi tiêu như vậy”.
Corrie gật đầu. “Roy cũng nói hệt như thế”. Đó là lời than vãn thường thấy - câu chuyện diễn ra đúng như vậy khi họ đi mua sắm lần trước.
“Đàn ông đúng là vô lý”, Peggy lấy thêm dây đèn trang trí Giáng sinh ngoài trời. “Nhìn này”, chị nói và giơ một chiếc hộp ra cho Corrie xem. “Năm tới khi Bob lắp đèn trang trí ngoài trời thì anh ấy sẽ thấy cả đống đèn đã cháy hết rồi cho xem. Đèn ngoài trời được chế tạo để không bền hơn một năm đâu. Tớ đang giúp anh ấy không phải lao tới cửa hàng mua đèn thay thế vào phút chót. Nhưng liệu anh ấy có cảm ơn tớ không nhỉ?”.
“Cậu đùa à?”, Corrie lẩm bẩm.

“Dĩ nhiên là không rồi”.
“Bọn mình bị coi thường quá”.
Họ bật cười. Corrie thấy dễ chịu vì có một người bạn đi cùng vui vẻ thế này, cùng chia sẻ những điều thú vị nho nhỏ trong cuộc sống thường nhật. Chị nhớ khi mới chuyển đến vịnh Cedar, chị không dễ dàng kết bạn với mọi người. Linnette cũng vậy và Corrie mừng vì con gái mình đã gặp Gloria. Việc chuyển từ Seattle về sống tại một thị trấn nhỏ diễn ra thuận lợi hơn cho Linnette nhờ có hàng xóm láng giềng của cô.
Khi xe đã đầy, Corrie đẩy về phía quầy thanh toán phía trước cửa hàng, Peggy theo ngay phía sau.
Sau khi chất đống đồ lên xe, Peggy rủ Corrie đi ăn trưa. “Bọn mình nên tiêu bớt số tiền vừa tiết kiệm đi”, cô nói.
“Chắc chắn rồi”, Corrie sung sướng đồng ý.
“Nhiều tháng rồi tớ chưa đến quán D. D. Cậu thấy thế nào?”. “Tớ thì thế nào cũng được”.
Mười lăm phút sau, họ ngồi trong một ngăn nhìn ra bến du thuyền. Những đồ trang trí Giáng sinh vẫn còn nhưng sẽ được dỡ xuống sau mồng một tháng Một. Khi ấy, cả thị trấn trông sẽ thật ảm đạm và buồn tẻ. Mùa đông, mùa mưa của khu vực tây bắc Thái Bình Dương là thời gian chị chán ghét nhất trong năm.
Cả hai người đều gọi trà nóng và bánh xăng-guých thịt cua. Khi họ được phục vụ trà và đang chờ đợi bữa trưa, Peggy làm chị ngạc nhiên bằng câu hỏi, “Cậu có nhận được tấm thiệp Giáng sinh nào không?”
Nhà Beldon đã ở cùng Roy và Corrie vào cái đêm giỏ hoa quả được chuyển tới. Peggy cũng biết về những tấm bưu thiêp bí ẩn. Linnette cũng biết, nhưng chỉ là do cô tình cờ phát hiện một tấm. Theo Corrie hiểu thì không còn ai khác trong thị trấn biết việc này.
“Có một tấm thiệp Giáng sinh nặc danh chuyển tới vào ngày hai mươi bốn”, Corrie miễn cưỡng đáp. Đó là vấn đề chị không muốn nói tới nhất nhưng nhu cầu cần giãi bày với ai đó vẫn cháy bỏng trong lồng ngực chị.
“Cậu có nghĩ ra ai gửi chúng chưa?”. Peggy hỏi. Corrie không trả lời ngay. Chị nuốt nước bọt. “Tớ đã nghĩ tới một khả năng”, chị cố gắng thì thầm. Đó là tất cả những gì chị nghĩ tới kể từ lúc chị nói chuyện về đứa con không biết mặt của họ với Roy. Nhưng anh sắt đá; họ đã từng thề không nói về nó nữa và anh buộc chị phải làm vậy.
Peggy, vốn là một phụ nữ nhạy cảm, nhìn chị với ánh mắt quan tâm. “Nếu cậu không muốn nói gì.
“Tớ...không thể. Tớ đã nói với Roy về việc đó, nhưng anh ấy không chịu nghe. Điều tớ đang nghĩ đã xảy ra lâu lắm rồi và anh ấy thấy tốt nhất là để nó chìm vào quá khứ”. Corrie chợt nhận ra mình đã nói hơi nhiều. “Có lẽ anh ấy nói đúng”.
“Thôi đừng nói chuyện đó nữa nhé”.
Corrie với lấy tách trà để chuyển đề tài. “Có lẽ như thế là tốt nhất”.
“Cậu có thể trả lời tớ câu này không?”, giọng Peggy nghe có chút lúng túng. “Tớ không nên hỏi nhưng tò mò không chịu được. Có lời nào ghi trên tấm thiệp Giáng sinh không?”.
Một nụ cười vô tình xuất hiện trên gương mặt Corrie. “Không có gì bí ẩn cả, nếu ý cậu muốn hỏi vậy. Chỉ có câu Giáng sinh vui vẻ thôi”.
“Không có lời nhắn nào đe doạ đấy chứ?”.
Vừa hỏi xong Peggy vội tay lên. “Đừng trả lời câu đó. Chúng ta chuyển đề tài thôi”.
Cô phục vụ mang bữa trưa đến cho họ, nước sốt cua và bơ nóng tràn ra cả hai nửa chiếc bánh xốp nướng kiểu Anh. Đó là món ăn ưa thích của Corrie, một đặc sản của nhà hàng D.D. Chị băn khoăn tự hỏi tại sao mình lâu rồi không đến đây.
Chị xác định chủ yếu là do lịch làm việc của con gái mình. Họ thích gặp nhau cùng đi ăn trưa nhưng ca làm việc của Linnette thay đổi hàng tuần và... Ý nghĩ của Corrie ngưng hẳn lại khi trông thấy hàng xóm của Linnette đang ngồi trong một ngăn phía bên kia nhà hàng. Gloria đang ngồi với Chad Timmons.
“Ôi, không”, chị thì thầm và đặt cái dĩa xuống.
“Gì thế?”. Peggy hỏi và nhìn quanh xem điều gì khiến Corrie cảnh giác.
“Đằng kia kìa”, chị cúi người về phía bạn mình và thì thầm. “Cậu có thấy cái đôi ngồi bên kia phòng không?”.
Mắt Peggy nheo lại. “Đó không phải là bác sĩ Timmons hay sao? Bob và tớ gặp anh ta khi khai trương phòng khám tư”.
“Phòng khám duy nhất”, Corrie lẩm bẩm. “Người phụ nữ ngồi cùng anh ta là hàng xóm của con gái tớ. Gloria gì đó. Tớ không nhớ họ cô ta”. Tim Corrie đập mạnh lo lắng. “Linnette thích cô ta và tớ mừng vì điều đó. Một người bạn chính là điều nó cần để cảm thấy thoải mái dễ chịu tại vịnh Cedar”.
“Tớ đồng ý”.
“Vấn đề là Linnette phải lòng tay bác sĩ này và chẳng còn trông thấy bất cứ ai khác nữa”.

“Ý cậu muốn ám chỉ Cal Washburn chứ gì”.
“Đúng rồi”, Corrie nói to hơn ý muốn. Nhiều cái đầu quay lại nhìn. Thật không may là một trong những sự chú ý lại đến từ phía bên kia căn phòng. Chị bối rối quay trở lại với bữa trưa của mình, đầu cúi thấp và không ngước nhìn lên.
“Cô ta thấy cậu rồi”, Peggy nói. “Ôi…”.
“Cậu muốn làm gì bây giờ?”.
“Chẳng làm gì cả”, Corrie lẩm bẩm. “Trông không có vẻ là cô bé đang cố giấu việc mình đi ăn trưa cùng bác sĩ Timmons. Hơn nữa, Linnette có liên quan đến anh chàng này đâu. Theo tớ thì nó hết sức ngốc nghếch”. Điều Corrie ngại nhất là tình bạn giữa Linnette và Gloria có thể bị chuyện này đe doạ. Corrie chắc chắn sẽ không đề cập đến việc này với con gái.
“Thế có chuyện gì giữa Linnette và anh chàng huấn luyện ngựa?”, Peggy hỏi.
Corrie bặm môi bực tức lắc đầu. “Nó bảo anh ta rằng nó thích người khác”.
“Tệ quá”, ngay cả Peggy cũng thất vọng.
“Dĩ nhiên đó là quyết định của nó. Tớ chỉ ước mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Tớ thích anh chàng Cal”.
“Tớ cũng thế”.
Họ mải nói chuyện đến mức Corrie không nhận thấy Gloria đang bước ngang qua phòng. Phải đến khi hàng xóm của con gái chị bước tới bàn và cất lời thì Corrie mới ngước lên nhìn.
“Chào cô McAfee”.
“Xin chào, ồ, Gloria”, chị giật mình đáp. Chị cười tươi bù lại dáng vẻ kỳ cục của mình. “Cháu đã gặp cô Peggy Beldon chưa nhỉ?”.
“Dạ chưa ạ”.
Ba người nói chuyện phiếm một lát. Corrie nhận thấy bác sĩ Timmons đã đi khỏi.
“Cháu không muốn các cô hiểu nhầm”, Gloria nói sau một khoảng yên lặng ngắn ngủi. “Bác sĩ và cháu không có hẹn hò gì đâu”.
“Chuyện đó thì có sao đâu nào?”. Corrie nói vô tình. Đây thực sự không phải là việc của chị.
“Anh ấy muốn hỏi cháu một chuyện, về vấn đề cảnh sát ấy, và muốn mời cháu đi ăn trưa. Lẽ ra cháu không đi nhưng anh ấy cứ nài nỉ. Cháu biết Linnette có tình cảm với anh ấy”.
Nửa thị trấn biết Linnette có tình cảm với anh chàng bác sĩ vì cô không hề che giấu việc mình bị thu hút. Nhưng Corrie nghĩ rằng nếu Chad Timmons thích con gái cô thì anh sẽ không mời cô này đi ăn trưa. Rõ ràng là anh ta đã để mắt tới Gloria chứ không phải Linnette.
“Linnette là một người bạn tốt”, Gloria tiếp tục giải thích, “và cháu không muốn làm bất cứ chuyện gì ảnh hưởng tới tình bạn của bọn cháu đâu”.
“Cháu suy nghĩ thấu đáo quá nhưng cô nghĩ cháu không cần lo lắng về việc đó đâu”.
“Có lẽ là không, nhưng bạn bè với cháu rất quan trọng, và cháu rất quý Linnette”.
Corrie chỉ hy vọng con gái cô sẽ hiểu được mình đã có một người hàng xóm tốt như thế nào.
Gloria rời đi sau một vài câu chào tạm biệt.
“Cô bé rất dễ thương đấy chứ?”. Peggy nói khi Gloria đã đi xa.
“Đúng thế”. Corrie gật đầu.
“Cậu có thấy cái cách họ nhìn nhau không?”, Peggy hỏi. “Tớ có thể cảm thấy điện bắn tứ tung từ cách xa cỡ đó”.
Corrie cau mày trước lời nhận xét của bạn. Việc này còn tệ hơn chị nghĩ nhiều. Tất cả mọi việc chị có thể làm là hy vọng Linnette tỉnh táo và nhận thức được rằng mình đang ở trong tình thế nào.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17: Chương 27





27
Grace Sherman đã nghiêm túc cân nhắc lời khuyên của Olivia và quyết định nói quan điểm của mình cho Cliff. Đã đến lúc chấm dứt kiểu quan hệ thất thường này rồi. Chị có vẻ không bao giờ biết khi nào họ hợp hay tan, chỉ là bạn bè thân hay thực sự có đính ước gì đó. Tình cảm của họ thay đổi theo từng lần gặp gỡ.
Sâu thẳm trong tim, chị tin Cliff yêu mình. Nhưng anh không chắc có thể tin tưởng chị mặc cho mọi điều chị nói và làm kể từ khi chị chấm dứt mối quan hệ loằng ngoằng giữa mình và Will Jefferson. Grace vẫn dành trọn tình cảm cho Cliff. Và chị muốn được ở bên anh với tư cách là vợ. Chị đã thấy sự thay đổi ở Olivia từ khi bạn mình cưới Jack; chị cũng thấy Jack thay đổi. Grace quyết định rằng nếu Cliff yêu chị thì anh sẽ đồng ý kết hôn. Còn nếu anh cảm thấy quan hệ của họ không thể tiến xa hơn thì chị cần biết điều đó ngay bây giờ. Đúng vậy, việc cầu hôn có thể hơi thái quá, có thể rủi ro, nhưng Grace muốn biết tình cảm của anh – và dự định của anh nữa - dứt điểm một lần cho xong.
Trước đây chị chưa từng chủ động cầu hôn ai nên chị không biết phải nói như thế nào. Việc đầu tiên chị định là sẽ mời anh đến một nhà hàng tuyệt vời, theo cách mà chị đã thấy trên phim ảnh. Như thế sẽ tạo ra khung cảnh lãng mạn cần thiết, với rượu sâm-banh và âm nhạc, nhưng như vậy họ sẽ không có nhiều khoảng riêng tư. Còn nếu họ đến nhà hàng Hải Đăng thì mặc dù nơi đó rất lịch sự nhưng sẽ có quá nhiều bạn bè và hàng xóm chia sẻ những khoảnh khắc thân mật nhất trong đời chị.
Vì vậy không nhà hàng nào hết, điều đó nghĩa là còn một lựa chọn nữa. May mắn là Grace thích nấu ăn. Chị thích tận hưởng mọi thứ liên quan đến nó - chọn thực đơn, đi cửa hàng mua sắm, công đoạn chuẩn bị. Chị thậm chí không ngại việc rửa chén bát. Chị cảm thấy thoải mái khi ở trong bếp. Do vậy, trong một nỗ lực để bắt đầu một năm mới đúng cách - chị đã mời Cliff đến ăn tối vào chủ nhật.
“Có dịp gì đặc biệt hả em?”, Cliff hỏi khi chị gọi điện tới trang trại cho anh. Anh có vẻ đã đoán ra đây không phải là một lời mời bình thường.
“Năm mới mà anh”. Grace không thể thừa nhận là mình định cầu hôn anh. Việc đó sẽ đến qua những lát bánh táo dày tự làm cùng kem vani kiểu Pháp, món yêu thích của anh. Hoặc có lẽ chị sẽ làm việc đó trong lúc nói lời chúc mừng năm mới đầy lãng mạn…
“Lời mời của em được chấp nhận rồi đấy”.
Grace hy vọng anh cũng dễ dàng bị thuyết phục khi chị đặt cho anh câu hỏi quan trọng hơn hết thảy đó.
Không muốn nói ra khi chưa suy nghĩ thật kỹ lưỡng, chị thận trọng viết ra điều mình định nói. Chị muốn xem xét lại quan hệ của họ, bắt đầu từ những ngày đầu khi họ vừa hẹn hò với nhau. Họ gặp nhau do bị lẫn thẻ tín dụng hồi ba năm về trước. Có thực là đã lâu thế rồi không? Sau khi làm vợ Dan ba mươi năm, chị trở nên lo lắng và nghi ngờ về việc bước vào một mối quan hệ mới, và ở một mức độ nào đó thì bây giờ chị vẫn vậy.
Chị nhớ lại Cliff đã nhẹ nhàng với mình như thế nào. Sau lễ tang của Dan, chị suy sụp vì đau buồn và kiệt sức, Cliff là người đã ở bên chị, an ủi chị, khuyến khích chị thương nhớ về chồng mình. Hôm đó chị đã chôn cất Đan, và nhiều hơn thế, đã chôn cất tất cả những ký ức, tốt cũng như xấu về một thời với anh. Trong tất cả thời gian đó, Cliff ở bên chị như một bờ vai nương tựa vững chắc.
Họ đã xa cách trong một thời gian và trong những tháng ngày dài cô đơn, Grace hiểu mình đã ngốc nghếch thế nào và chị yêu Cliff biết bao. Chị đã nhận định sai lầm và thực sự hối tiếc về điều đó. Dù Cliff có chấp nhận nó hay không thì cũng đã đến lúc nên được biết.
Grace tập trung hết mức cho bữa tối. Bữa ăn công phu nhất chị có thể nghĩ ra là món thịt bò kiểu Wellingtons, cùng món thịt hầm khoai tây nướng và măng tươi. Món sa-lát có công thức đặc biệt từ hướng dẫn của kênh Ẩm thực, với rau, bơ mốc xanh và quả hồ đào pecan ướp gia vị nướng. Chị đã tiêu một phần ba số tiền ăn hàng tháng cho riêng bữa ăn này nhưng nó xứng đáng như vậy.
Cliff dự kiến sẽ đến vào lúc sáu giờ. Bàn ăn được dọn với đồ sứ của mẹ chị, những món đồ chị được dùng vào những dịp quan trọng. Rượu - một chai vang Pháp hiệu Merlot - đã được mở nút và đang sủi bọt. Mấy cây nến đã sẵn sàng được thắp lên.
“Mày nghĩ sao hả Butttercup?”, chị hỏi chú chó vàng đang nằm trong ổ ở bếp. Buttercup phấn khởi vẫy đuôi - Grace chắc là nó đang tán thành kế hoạch của chị. Khi cho tay vào túi tạp dề, ngón tay chị chạm vào cả nửa tá những tờ giấy nhỏ. Chúng là vật bảo đảm và bùa chú của chị. Chị đã viết lên đó tình cảm của mình - tình yêu chị dành cho Cliff, những niềm hy vọng chị dành cho cả hai người.

Sáu giờ mười, Grace đứng trong phòng khách nhìn ra ngoài cửa sổ chờ đợi chiếc xe tải của Cliff. Sherlock, con mèo của chị nằm ườn trên đi-văng, không hề bị ảnh hưởng bởi sự bồn chồn của Grace.
Cứ ba mươi giây một lần, chị lại liếc nhìn đồng hồ đeo tay và băn khoăn không biết có việc gì làm anh đến muộn như vậy. Khi Cliff đã trễ hẹn hai mươi lăm phút, chị bỗng nghe là anh đã gặp tai nạn trên đường vào thị trấn. Vào những tháng mùa đông, mặt đường thường bị băng phủ; có thể anh đã đâm phải một miếng băng và lạc tay lái xuống mương.
Lúc sáu giờ ba mươi, chị không thể chịu đựng hơn nữa và gọi điện tới trang trại. Cal nhấc máy sau hồi chuông thứ hai.
“Cô Grace à?”, giọng anh ta có vẻ ngạc nhiên.
“Cal, tôi xin lỗi đã làm phiền anh nhưng tôi lo lắng về Cliff. Anh ấy vẫn chưa tới nơi. Anh cho tôi biết anh ấy rời nhà lúc mấy giờ được không?”.
“Cliff đang-g ở đây”.
“Ciiff vẫn chưa đi à?”, trái tim chị như rơi xuống vực thẳm và nằm tại đó.
“Đây này”, Cal nói, “cô nói-i-i chuyện nhé”.
Ồ, nói chuyện với anh, tốt thôi.
“Grace à?”. Cliff đang cầm máy nói chuyện. “Bữa tối em hẹn là tối nay à?”
Chị nhắm mắt và cố gắng kìm chế cơn giận dữ. “Anh quên à?”, chị vẫn ngọt ngào hỏi. “Lại quên à?”
“Anh e là vậy rồi. Anh hy vọng em sẽ không phiền lòng”.
Chị không nói dối nữa. “Thật ra là có đấy”. Chị kìm chế không nói là chị đã nấu nướng trong cả hai ngày nay, mặc dù có lẽ chị nên cho anh biết.
“Anh nghĩ hẹn ăn tối là lúc nào?”, thay vào đó chị hỏi.
“Anh nghĩ mình đã ghi lại thời gian nhưng rõ ràng là anh đã không làm vậy. Anh xin lỗi, Grace. “Bữa tối có bị hỏng không thế”.

Điều này thì rõ rồi. “Có, em nghĩ là có”.
“Anh xin lỗi”.
“Xin lỗi ư?”, chị lặp lại. “Xin lỗi! Như thế còn lâu mới bù lại được”.
“Em đang giận và...”.
“Giận ư? Điều gì khiến anh nghĩ thế?”.
“Anh sẽ lái xe vào thị trấn để chúng ta có thể nói chuyện”.
“Không cần đâu”, chị nói một cách mạnh mẽ. “Không sao hết... Đơn giản là chẳng sao hết”. Không thể nói gì hơn vì sợ mình sẽ bật khóc, chị đặt ống nghe xuống.
Chị giận quá nên không thể ngồi im. Đi đi lại lại giúp chị dịu bớt. Anh ta đã quên mất bữa tối trong năm mới! Đó là nỗ lực cửa anh ta. Anh ta đã cố gắng như thế đấy. Chị muốn tìm ra vị trị của mình và đã nhận được câu trả lời.
Gục người xuống ghế, chị úp mặt trong lòng bàn tay. Buttercup bước tới nằm lên tấm thảm bên cạnh bà chủ, nhìn chằm chằm thương hại, như thế nó hiểu được nỗi lòng của Grace.
Ngay lập tức, Grace lại bùng lên cơn giận - đây là lần duy nhất chị giận Dan, người chồng đã mất của mình. Chị ghét như thế này, ghét cuộc sống cô độc ghét tất cả mọi thay đổi mà cái chết của anh buộc chị phải chấp nhận. Hôn nhân của chị chưa từng hạnh phúc trọn vẹn, nhưng ít nhất thì chị cũng có cảm giác thoả mãn. Trong suốt ngần ấy năm chị đã học cách đối phó với tính khí thất thường của Dan, hơn tất cả, chị nhận ra rằng anh yêu chị và các con gái của họ. Lúc này đây, chị sẵn sàng đánh đổi bất cứ thứ gì để chồng chị trở về, bất cứ gì để đời mình trở lại được như trước khi anh biến mất từng ấy năm... trước khi chị biết anh đã chết.
Chuông cửa vang lên và chị liếc cái nhìn bực bội về phía cửa trước. Cliff. Anh ta đã lập kỷ lục lái xe vào thị trấn. Có lẽ họ nên giải quyết mọi chuyện, mặt-đối-mặt. Mọi chuyện rồi sẽ qua, rồi cả hai người bọn họ sẽ có thể trở lại với cuộc sống riêng mình.
Mừng vì mình đã không khóc nhiều, chị bước tới cửa mở. Đúng như chị nghĩ, Cliff Harding đang đứng đó.
“Mình nói chuyện nhé”, anh ta nói. Với dáng vẻ ân hận, anh bỏ chiếc mũ Stetson ra khỏi đầu và giữ nó bằng cả hai tay.
“Vâng, em nghĩ chúng ta nên nói chuyện”, Grace đồng ý và bước tránh sang một bên để anh đi vào.

Cliff nhìn chiếc bàn ăn trong bếp đã được bày biện với đồ ăn bằng sứ, thủy tinh và nến, rồi chậm rãi thở ra. “Anh thấy mình đã phá hỏng một dịp lớn rồi”.
“Đúng là anh đã làm vậy”, chị đáp. “Nhưng sự thật là em cũng vui”. Chị đi thẳng vào trong bếp.
Cliff ở ngay phía sau chị. “Vui?”.
Chị mở cửa lò nướng lấy ra món thịt bò Wellington vẫn còn ấm trên một lớp bánh ném thắng vào thùng rác. Buttercup mở to mắt dõi theo cử động của Grace, yên lặng như nài xin chị nên nghĩ tới chiếc đĩa đựng thức ăn cho chó thay cho thùng rác.
Cliff ngồi xổm bên cạnh chú chó vàng. “Tao nghĩ mình đang thất thế rồi, cún ạ”, anh thì thầm đủ để Grace nghe thấy.
Chị không cười.
“Em có định ném gì nữa không? Vì anh vừa nghĩ bữa tôi trông quá tuyệt không nên lãng phí”.
Grace chống một tay lên hông. “Em không bị phỉnh phờ để quên đi chuyện này đâu”.
“Thôi nào Grace”, anh phân trần. “Chỉ là một bữa tối thôi mà. Anh đã làm hỏng nó nhưng anh thành thật xin lỗi”.
“Anh sai rồi!”, chị gào lên. “Đây không chỉ là một bữa tối. Còn hơn thế nhiều”. Chị nghẹn ngào. Ngừng một chút để cố gắng lấy lại bình tĩnh, chị nói. “Có lẽ anh nên ngồi xuống một lát để em giải thích”.
Anh làm như chị gợi ý và chọn chiếc ghế sô-pha. Grace ngồi trên chiếc ghế ưa thích của mình. Buttercup bám theo họ vào phòng nhưng có vẻ cảm nhận được tâm trạng của họ, nó dừng lại rồi trở lại cái giường của nó trong bếp.
Grace biết phải nói gì; hít một hơi, chị cố gắng tìm cách bắt đầu. Những chữ viết trong những mảnh giấy lúc này không còn tác dụng nữa rồi.
“Anh hối hận lắm”, Cliff nhắc lại.
Chị phẩy tay gạt lời xin lỗi của anh sang một bên. “Em biết. Em không có ý khiêm nhã, nhưng Cliff ạ, em đã bỏ qua việc đó rồi. Việc này - tức là quên hẹn ăn tối với em, và đây cũng không phải là lần đầu - chính là cách thể hiện tình cảm thật của anh”.
Anh lắc đầu. “Lẽ ra anh nên ghi vào lịch. Anh không biết tại sao mình lại không làm vậy. Anh...”.
“Thôi đi”. Chị không muốn nghe điều đó. “Em đã mong đợi rất nhiều ở bữa tối này. Nhưng em nghĩ đó là việc của em chứ không phải của anh”.
Anh cau mày. “Em mong đợi gì?”.

“Có thể anh sẽ thấy việc này đáng cười... Có lẽ em không nên nói với anh, nhưng em đã định sắp xếp mọi thứ bằng cách nấu cho anh một bữa ngon nhất. Em hy vọng làm tim anh ấm lên với em để em có thể... cầu hôn”.
Mắt anh mở to. “Cầu hôn?... Đám cưới hả?”.
“Thật khôi hài phải không? Em đã nấu nướng suốt hai ngày, lòng đầy lo lắng, chăm chút từng tí một, tập nói với người đàn ông mình yêu rằng em muốn sống quãng đời còn lại với anh ta. Em đã hy vọng anh cũng cảm thấy như thế, và chúng ta có thể định ngày cưới”. Giọng chị vỡ oà và chị cố gắng bình tĩnh.
“Grace”, Cliff thì thầm, ánh mắt anh ấm áp, “Anh cũng yêu em”. Sợ là lại làm mình bối rối hơn nữa, chị lau nước mắt đang chảy trên má. “Đừng lo. Em... em không định cầu hôn đâu”. Chị lôi nhưng tấm phiếu trong túi tạp dề ra. “Nhìn này, thậm chí em còn viết ra giấy đề phòng mình quá lo lắng không nói được. Buồn cười nhỉ?”. Chị không để cho anh có thời gian phản ứng. “Không cần thứ này nữa. Dù sao thì cũng không cần nữa”.
Vai Cliff chùng xuống. “Anh không biết phải nói gì”.
“Anh không cần phải nói gì hết”. Chị hít một hơi thật sâu. “Gần đây có một số chuyện xảy ra với em. Anh và Dan thực sự giống nhau hơn em nghĩ. Anh biết đấy, anh ấy cũng làm vậy”.
“Quên mất ngày hẹn à?”.
“Không”. Chi cố gắng nở nụ cười. “Anh ấy biết cách làm cho em biết anh ấy cảm thấy thế nào mà không cần nói. Một nhà tư vấn đã từng giải thích đó là hành vi phản ứng thụ động”.
“Anh không giống như thế, Cliff nhấn mạnh, cứng người trước ngụ ý đó.
“Anh đã quên mất những lần hẹn ăn tối. Khi chúng ta cố gắng ra ngoài chơi, anh ngủ gật khi xen phim, và mỗi lần em đến trang trại - thường là được anh mời - thì anh còn có những việc quan trọng để làm hơn là nói chuyện với em. Thôi được, có một đêm đã có việc khẩn, nhưng còn những lần khác thì sao chứ? Ngoại trừ Lễ Tạ ơn, anh có vẻ hoàn toàn hờ hững với sự có mặt của em tại đó. Chà, em đã hiểu được ý của anh, Cliff ạ, rất rõ ràng. Anh vẫn chưa tha thứ cho em. Và có lẽ anh sẽ không bao giờ tha thứ”. Sau đó chị đứng dậy, thấy lòng nặng trĩu. “Anh không có đủ can đảm để làm việc này nên em sẽ làm. Em không nói dối khi nói em yêu anh, nhưng vì cả anh và em, mọi chuyện chấm hết ở đây”.
Anh trông có vẻ sửng sốt và không thốt lên được lời nào.
“Đây không phải một màn giải trí. Không phải là một trò chơi. Em thật lòng nói rằng sẽ là tốt nhất nếu chúng ta không gặp nhau nữa”.
Anh ngồi tại chỗ thêm một lát. “Liệu anh có thể nói gì khiến em thay đổi quyết định không?”, anh lặng lẽ hỏi.
Chị lắc đầu.
“Anh hiểu”. Anh với lấy chiếc mũ.
“Em chúc anh những gì tốt đẹp nhất, Cliff”. Anh gật đầu.
“Vĩnh biệt”. Chị mở của cho anh. Anh đi qua rồi dừng lại, chạm nhẹ tay lên má chị. Chị không đóng cửa cho đến khi anh bước ra khỏi hiên nhà xuống bậc thang. Chị rùng mình khi sụp người tựa vào tường, và chờ cho nỗi đau qua đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18: Chương 28 - 29





28
Roy McAfee ít nói với Corrie nhưng anh biết chị nói đúng và cảm thấy được điều đó trong lòng. Những tấm thiệp bí ẩn này đến từ tay đứa con anh chưa từng biết. Không phải là anh quên mình có một đứa con. Sự thật rằng anh có đứa con thứ ba luôn tồn tại trong anh, được chôn giấu sâu thẳm trong tâm hồn.
Khi Corrie nói với anh từ nhiều năm trước rằng chị đã sinh một đứa trẻ, anh bị sốc rồi giận dữ. Sau đó anh đã đau buồn cùng cực và có cảm giác mất mát. Lúc này anh cảm thấy trống trải y như vậy. Anh không bao giờ đổ lỗi cho Corrie, và đến bây giờ cũng không. Sự thiếu nhạy cảm và tính kiêu căng của anh đã dẫn tới chuyện đó, đã buộc Corrie phải quyết định làm điều chị đã làm.
Chị chẳng thể nói với anh điều gì về đứa bé. Cả chuyện nó là con trai hay con gái.
Anh nhớ lại khoảng thời gian sau khi chị bỏ đi vì một lời đồn về một cô gái khác, một lời đồn chỉ đúng một nửa. Anh mất chị. Và rồi anh mất vị trí được hâm mộ, khi các cầu thủ nhà nghề không còn quan tâm và những người hâm mộ không nói chuyện với anh nữa. Anh tụt dốc nhanh chóng và tinh thần sa sút.
Trước khi họ giải hòa, một hôm anh thấy chị trong thư viện và nhớ tất cả những gì anh yêu ở chị. Sự trung thực, ấm áp, mái tóc nâu sẫm tuyệt đẹp, dày và thẳng, phủ lên vai, những nụ hôn chị đã trao cho anh...
Ngày hôm sau anh trở lại, hy vọng sẽ lại thấy chị. Nếu chị tình cờ có mặt ở đó hai ngày liên tục thì anh quyết định coi đó là định mệnh.
Đúng như thế, cũng đúng thời gian như hôm trước, anh thấy chị bên ngoài thư viện, đang đi cùng một cô gái khác. Anh lấy can đảm theo chị vào trong, gọi tên chị. Roy băn khoăn không hiểu chị có nhận ra anh đã phải cố gắng như thế nào không. Ngày hôm đó anh đã vượt qua chút kiêu hãnh còn sót lại. Nhưng cho dù bằng giá nào thì cũng chẳng thể so sánh với những gì chị đã trao cho cuộc đời anh.
Roy nhận ra mình không phải là người dễ yêu. Anh rất cứng đầu; việc thừa nhận mình sai không dễ dàng chút nào với anh. Ngày đó là thế và bây giờ cũng vậy.
Anh không bao giờ quên cái ngày Corrie nói với anh về đứa trẻ. Anh muốn nguyền rủa chị vì đã giấu thông tin; anh có quyền được biết chị đang mang thai đứa con của anh. Nhưng anh nhanh chóng thừa nhận mình đã không cho chị được lựa chọn - và anh chưa đủ trưởng thành để đương đầu với tình cảnh lúc đó.
Tuy vậy, anh ghét sự thật rằng chị buộc phải chọn những quyết định làm thay đổi cuộc đời một mình. Khi nghĩ về những gì Corrie và gia đình phải trải qua, anh thật sự xấu hổ. Người con gái anh yêu đã từng vượt cạn một mình bởi vì chị biết rằng anh không thể đối mặt với việc chị có thai.
Việc sinh một đứa trẻ đã làm Corrie thay đổi. Chị vẫn xinh đẹp như ngày nào, có lẽ còn hơn thế. Tuy nhiên, những thay đổi không phải ở dung mạo mà là những mặt tinh tế khác. Chị đã trưởng thành. Mặc dù chị đã vượt xa anh về mặt này nhưng chị có phẩm giá và sự hiểu biết tinh tế khiến anh càng muốn ở bên chị hơn.
Chị không nói với anh về đứa trẻ cho đến khi họ đính hôn. Anh từng băn khoăn không hiểu tại sao chị lại chờ đợi đến ngày đó. Nhưng giờ đây anh hiểu rằng nếu chị nói với anh trước thì chị sẽ không bao giờ biết, liệu lời cầu hôn của anh có phải là vì tình yêu hay không - hay là do cảm giác tội lỗi và hối hận. Việc chờ đợi đến khi cuối cùng chị bị thuyết phục bởi tình yêu của anh có lẽ đã cứu giúp cho cuộc hôn nhân của họ.
Roy ngả người trên ghế và gác hai chân lên bàn. Công việc thám tử thành công nhất đã được thực hiện ngay trên chiếc ghế cũ kỹ này, một kỷ vật từ thời anh còn làm cảnh sát. Sở cảnh sát muốn ném nó đi nhưng Roy đã cứu nó ra khỏi bãi rác, lăn nó lên xe mang về nhà. Kể từ đó anh đã ngồi trên chiếc ghế này. Corrie ghét nó, nài nỉ Roy bỏ nó đi. Anh sẽ không làm vậy.
Cánh cửa văn phòng bật mở rồi đóng lại. “Bố ơi?” Roy thả chân xuống sàn.
“Vào đây”, anh gọi con gái.
Linnette bước vào văn phòng và quăng mình xuống chiếc ghế đối diện với cái bàn. “Mẹ con đâu rồi?”.
Roy cũng muốn hỏi câu đó. “Rõ ràng là mẹ con đã ăn trưa quá lâu. Thuê người nhà làm là thế đấy?” Anh nói đùa.
“Ôi”, Linnette trông có vẻ như sắp khóc. “Con cần nói chuyện với mẹ à?”.
Con gái anh gật đầu. “Bố”, cô nói thẳng. “Bố luôn yêu mẹ chứ? Ý con là liệu có lúc nào bố nghi ngờ tình cảm của mình không?”.
“Chắc chắn rồi?” anh thừa nhận, hơi ngạc nhiên trước câu hỏi đó, gần với những suy nghĩ gần đây của anh. “Có thể một ngày nào đó”, anh đùa để con gái dịu bớt. Anh không giỏi khuyên nhủ người khác nhưng đó là biệt tài của Corrie.
“Bố, con nói nghiêm túc đấy”.
“Bố biết mà”, anh nói giọng ủ rũ. “Con có vấn đề về chuyện tình cảm à?”. Linnette nhún vai. “Con gặp rắc rối”.
Roy không thích phải lảng tránh con gái nhưng anh không thấy thoải mái với chuyện tâm tình thế này. “Con nên nói chuyện với mẹ”.
“Mẹ không có ở đây. Bố thì có”.
“Nói cách khác thì đó là chỗ tránh bão hả?”. Cô cười nửa miệng. “Bố có thể nói thế”.
“Thôi được rồi”. Anh cố gắng không thở dài. “Kể cho bố nghe con đang nghĩ gì nào”.
Linnette cởi găng tay, đứng dậy một lát rồi cởi áo khoác ra. “Con đã làm một việc con phải hối tiếc”, cô vào thẳng vấn đề.

“Cái gì?”.
“Mẹ mua vé hẹn cho con và anh chàng này trong buổi đấu giá Chó và những người đàn ông độc thân hè năm ngoái. Anh ấy tên là Cal, và anh ấy là người huấn luyện ngựa. Chúng con hẹn hò, chủ yếu là vì mẹ ép con. Con thì không muốn nhưng cuối cùng cũng đồng ý”.
“Tệ lắm hả?”.
“Không đâu. Con thích bữa tối đó và rồi, con và anh ấy lại đi chơi lần nữa. Con còn vui hơn, rồi anh ấy hôn con và...”
“Từ từ đã”. Roy giơ một tay lên. “Bố không muốn nghe chuyện đó chút nào đâu. Nếu không bố muốn đánh gãy răng anh ta”.
Linnette ngước nhìn bố và mỉm cười. “Đúng là các ông bố”.
“Xin lỗi con, bố không thể chịu được. Con là con gái bé bỏng của bố”.
“Con không bé bỏng”.
“Bố chỉ có thể nói là hãy chờ đến lúc con có con rồi hãy quyết định”. Anh ra hiệu cho con bé tiếp tục.
“Con thích cách Cal hôn... Bố đừng lo, con không định nói chi tiết về nó đâu, ngoại trừ việc khi anh ấy hôn con thấy sợ”.
Chi tiết này khiến Roy chú ý. “Nó làm gì kỳ quặc hả?”
“Không, không phải thế đâu. Anh ấy không làm con sợ - con nói không rõ ý rồi. Ý con là con biết rằng nếu anh ấy cứ hôn con như vậy thì con lại muốn gặp anh ấy, và con không thể, vì con thích người khác mất rồi”.
“Hả?”. Đó là lời bình luận sâu sắc nhất mà anh có thể đưa ra. Anh thấy hơi khó theo dõi tất cả những chi tiết này.
“Nào, con thích anh chàng huấn luyện ngựa này nhưng lại không à? Còn “người khác” là ai?”.
“Con muốn dành thời gian cho Chad”, cô nói cụ thể hơn, “và con không muốn bị lạc hướng”.
Được rồi, giờ thì anh đã hiểu. Đại loại như thế. “Anh chàng bác sĩ đó hả?”. Linnette gật đầu. “Nhưng vấn đề là mọi việc lại không theo ý con”.
“Ý con muốn nói là tay bác sĩ không quan tâm tới con? Hay con vẫn còn nghĩ tới Cal?”.
“Cả hai ạ. Nhưng con đã quá thô lỗ với Cal, và con vẫn băn khoăn, bố biết đấy, liệu chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng con tiếp tục hẹn hò. Con băn khoăn không biết liệu mình có để vuột mất một anh chàng tuyệt vời hay không - và cuối cùng chẳng được gì hết”.
“Thế có chuyện gì với Chad?”, Roy muốn mọi chi tiết phải được trình bày theo lôgic.
Con bé lắc đầu. “Không có động tĩnh gì. Anh ấy đẹp trai và tinh tế, đã có lúc con sẵn sàng đi chơi với anh ấy nhưng anh ấy chẳng bao giờ mời con đi. Con nghĩ anh ấy sẽ không làm vậy và bố biết gì không? Tốt thôi. Với con anh ấy coi như thế là hết. Bây giờ con đang để ý tới nhưng con không biết mình nên làm gì”.
Được rồi. Xoá số anh chàng bác sĩ. Nhưng Roy cũng chẳng biết mình nên nói gì tiếp theo. Anh hoàn toàn không thể đưa ra một lời khuyên lãng mạn nào.
“Con băn khoăn không hiểu mình nên gọi điện cho Cal xin lỗi hay cứ để vậy”. Cô đưa ánh mắt mong chờ lên nhìn bố. “Bố nghĩ sao?”.
Đó là câu hỏi trị giá cả triệu đô la. Thôi được.
“Bố nghĩ sao à?”, anh chậm rãi nhắc lại. “Có lẽ con không biết điều này”, anh bắt đầu, “Nhưng bố và mẹ con đã hò hẹn rồi từng chia tay”. Anh ngừng lại. Sau gần hai năm, bố mẹ đã gặp lại. Bố luôn có cảm giác ngày đó số phận đã đặt mẹ con trên con đường bố đi”.
“Nói cách khác là nếu có duyên thì con sẽ gặp lại Cal phải không?”. Roy gật đầu. “Đại khái là như thế”.
Linnette có vẻ ngẫm nghĩ về những lời của bố. Cô đứng dậy, vẻ mặt trầm tư, với lấy áo khoác. “Cám ơn bố”.
“Có gì đâu con”. Anh ngả người trên ghế, và lại gác hai chân lên bàn. “Còn việc gì con muốn bố giải quyết hộ nữa nào?”.
“Không phải là chiều nay. Bố nói với mẹ là con có ghé qua nhé, được không?”.
“Bố sẽ nói”.

Linnette rời đi và Roy sắp thiu thiu ngủ thì cửa mở và Corrie lao vào văn phòng. Roy nhìn vợ và đặt chân xuống thảm lần thứ hai. “Corrie? Có chuyện gì thế em?”.
Nước mắt ướt đẫm trên khuôn mặt khi chị ngồi vào chiếc ghế con gái họ vừa đứng dậy. “Em...”. Chị nuốt nước bọt một cách khó khăn.
“Chuyện gì thế em?”.
“Anh có chịu nghe đâu. Anh không chịu nghĩ về điều em nói, do vậy em đành tự giải quyết”. Người chị tái xanh, đột nhiên anh thấy sợ.
“Em đã làm gì?”, anh cau mày hỏi.
“Em - anh không phải là người duy nhất trong nhà này có thể làm thám tử. Em cũng có những nguồn tin riêng”.
“Corrie? Em đã làm gì?”. Anh hỏi lại.
Cuối cùng chị cũng ngước mắt lên nhìn thẳng vào anh. “Chúng ta có một đứa con gái, anh Roy. Em đã sinh một đứa con gái”.
Roy đi vòng ra cạnh bàn và đặt bàn tay lên vai chị. Anh cúi người xuống nhìn vào mắt vợ, cảm giác yêu vợ mãnh liệt khiến anh cảm thấy có một lực hút tự nhiên về phía chị. “Anh biết”, anh thì thầm.
“Anh biết hả?”.
“Anh cũng đã tìm ra”.
29
Rachel đã cố nhưng không thể ngừng suy nghĩ về điều cô biết được từ Carol Greendale hôm Giáng sinh. Nate là con trai của một trị gia đầy quyền lực ở khu Bờ Đông. Cô đang sống trong một thế giới đầy mơ mộng nếu cô nuôi hy vọng dù chỉ một chút thôi trong mối quan hệ này. Cô càng cắt đứt quan hệ nhanh càng tốt. Và cô quyết định như vậy, cô gửi cho Nate một bức thư điện tử ngắn gọn nhưng hoàn toàn lịch sự. Kể từ hôm đó cô vẫn chưa bật máy tính lên.
Tối thứ sáu, Bruce đã gọi điện đến cửa hàng cô và gợi ý họ nên gặp nhau. Lúc đầu Rachel từ chối. Cô không có tâm trạng giao du, nhưng khi nghĩ lại, thấy mình cũng chẳng đi đâu ra ngoài nhiều. Bruce vẫn là người bạn tốt.
“Em nghĩ gì thế?”.
“Em không biết”. Anh có vẻ cũng không có nhiều cảm hứng lắm. Trong một nửa các cuộc hẹn hò, Rachel đoán lý do duy nhất anh gọi cho cô là vì anh chẳng biết người phụ nữ nào khác. Nhưng điều đó không đúng sự thật, anh biết rất nhiều phụ nữ. Cô ngờ rằng anh có một nỗi sợ vô lý về việc đàn bà đang cố gắng giăng bẫy để cưới anh. Đó không phải là vấn đề với cô và anh biết mình được an toàn.
“Anh muốn đi xem phim không?”, cô hỏi. “Chúng ta có thể đi mà”.
“Vậy Jolene sẽ đi đâu nhỉ?”. Cô cố gắng nghĩ về thứ gì có thể hấp dẫn cả hai người.
“Đến nhà bạn”.
“Ăn tối nhé?” Rachel gợi ý.
Họ thậm chí còn không nói trọn cả câu nữa. Họ giống như các đôi đã cưới và hòa hợp với nhau đến mức sự giao tiếp của họ chỉ còn ở dạng vắn tắt.
“Được thôi”.
Điều đó với Rachel cũng tốt. “Ở đâu?”.
“Em chọn đi”.
“Taco Shack”.
“Gặp em ở đó hả?”
“Vâng, sáu giờ?”.
“Tuyệt”.

Lúc cô rời cửa hàng và lái xe tới nhà hàng Taco Shack thì Bruce đã đến nơi và chọn lấy một bàn. Nhà hàng Taco Shack là một địa điểm ưa thích cho buổi tối thứ Sáu. Thức ăn khá ngon, đa dạng, và tuyệt nhất là khá rẻ.
“Anh đã gọi món cho em rồi”, anh nói khi cô ngồi xuống bàn.
“Sao anh biết em muốn ăn gì?”.
“Món enchilada pho-mát. Đó là món lần nào em cũng gọi mà”.
“Thật hả?”. Rachel đã không nhận ra điều đó. Thật ra, mỗi lần đến đây cô đọc toàn thực đơn treo trên tường. Rõ ràng là cô dễ đoán hơn cô nghĩ.
Cô gọi một lon Diet Coke(1), Bruce gọi một chai nước - và bữa tối của họ được mang đến sau hai phút. Nếu lần nào cô cũng gọi một món thì Bruce cũng vậy. Người phục vụ không cần chỉ dẫn cũng đặt đĩa pho-mát trước mặt cô và món enchilada gà trước mặt Bruce.
Gần như đồng thời, họ cùng với tay lấy dĩa. “Sau đây anh có muốn xem đĩa DVD không?”, Rachel hỏi trong khi ăn.
“Em có phim gì?”.
Cô kể tên một vài bộ phim được phát đi phát lại tại cửa hàng làm tóc. Các cô gái tại hiệu Sửa móng và làm tóc có một hệ thống đầu đĩa tốt hơn phần lớn các cửa hàng cho thuê băng đĩa, và nếu không trả đĩa đúng hạn thì sẽ có rắc rối lớn. Rachel đã thuê vài chiếc đĩa cho dịp cuối tuần, một vài phim hài và một bộ phim tình cảm, nổi tiếng làm người xem bật khóc.
“Anh chưa xem mấy phim đó”.
Họ quyết định sẽ xem một phim hài rồi yên lặng ăn một lát.
“Em nghe tin gì về người yêu em chưa?”, Bruce hỏi và cầm chai nước lên. “Nếu ý anh muốn nói là Nate thì chưa, em chưa nghe tin gì”.
“Chưa hả?”. Điều này khiến Bruce ngạc nhiên. “Em chia tay rồi”.
Bruce đặt chai nước xuống nhìn cô. “Tin mới à? Có chuyện gì thế?”
“Chẳng có gì”.
“Đừng nói vậy với anh. Em không viết cho anh chàng này một bức thư kiểu John yêu quý mà không có lý do gì. Như thế không giống em chút nào”.
“Em đã gửi thư điện tử cho anh ấy”.
“Thôi được một bức thư điện tử kiểu John yêu quý. Hãy kể cho anh biết là có chuyện gì”. Bruce nói đúng, cô làm việc này không dễ dàng gì. Cô đã nghĩ về chuyện này suốt gần hai tuần và kết luận là sẽ không đi đến đâu. “Nếu anh không phiền thì em không muốn nói về việc đó”.
“Được thôi”.
Rachel hết thấy muốn ăn và cô gẩy gẩy đồ ăn trên đĩa trong khi Bruce chén hết đĩa của mình. Anh đẩy chiếc đĩa không sang bên cạnh.
“Việc này làm em phiền lòng đúng không?”.
Bruce đi thẳng vào vấn đề, theo kinh nghiệm của cô thì đây đúng là một nét điển hình của đàn ông. Vì thấy không thể che giấu cảm xúc của mình nên cô đơn giản là gật đầu.
Họ đi về, anh theo cô về căn nhà cô thuê, đậu xe bên lề đường. Cô mở khoá cửa trước để anh bước vào. Điều đầu tiên cô nhận thấy trong phòng khách tối om là ánh đèn đỏ đang nhấp nháy trên máy trả lời tự động. Thay vì nghe các tin nhắn, cô bật đèn trong nhà lên và kéo trải tấm thảm phòng khách ra và mang tới chiếc DVD họ đã chọn.
Khi anh cho đĩa vào ổ, cô rót cho mỗi người một ly rượu Anh thích rượu vang đỏ, đặc biệt dòng merlot và cô cũng vậy. Rachel ngồi khoanh chân trên ghế sô-pha. Bruce ngồi bên cạnh cô.
Những đoạn phim giới thiệu vừa bắt đầu chạy thì điện thoại reo. Thả chân ra và đặt ly rượu lên bàn cà phê với một tiếng thở dài, cô vội đi ra hành lang nghe máy. Cô không chờ cú điện thoại nào nhưng có khả năng Jolene cố liên lạc với bố nó.
Bruce dùng điều khiển từ xa tua nhanh đoạn phim và nhấn nút tạm dừng. “Xin chào”, cô nói, cảm thấy có chút hụt hơi.
“Rachel, anh Nate đây”. “Nate hả?”.
Mắt Bruce hướng về phía cô và cô quay đi không thể nhìn anh trong khi đang nói chuyện với một người đàn ông khác. Ngay lập tức cô cảm thấy tội lỗi mặc dù tự nhủ rằng chẳng có lý do gì mà cô phải thấy vậy.
“Ơn Chúa em có ở nhà. Anh đã cố gắng gọi cả nửa tiếng rồi. Em đã ở đâu thế? Tệ quá, anh ước gì em mở máy di động”.
“Anh gọi để trách móc em sao?”.
“Không, không. Anh chỉ muốn biết có chuyện gì thôi”. Lời anh có chút tiếng vọng nhẹ.
“Sao em không trả lời thư của anh?”.
“Em đã nói mọi điều cần nói rồi. Em nghĩ chúng ta nên chấm dứt ngay bây giờ”.

“Tốt thôi, thế nào cũng được, nhưng ít nhất em cũng có thể nói cho anh biết tại sao chứ”. Rachel không muốn nói chuyện này bây giờ, nhất là khi Bruce đang lắng nghe từng lời.
“Có ai ở đó hả? Có phải là gã Bruce không?”.
“Không”.
“Anh đã làm gì chăng?”.
“Không”. Cô xoắn sợi dây điện thoại quanh khuỷu tay.
“Anh có phải chơi trò đoán chữ với em không?”.
“Không... em đã biết anh là con trai của nghị sĩ Olsen”. Câu nói của cô có chút ngập ngừng.
“Như thế thì sao chứ?”
“Có!”, Cô hét lên. “Đó là vấn đề lớn”. Anh cần hiểu thông tin đó ảnh hưởng tới cô thế nào. Và nếu không phải là vấn đề thì tại sao anh không tự nói với cô thay vì để cô tự khám phá?
“Điều đó có khiến anh trở thành người khác không?”
“Không”, cô miễn cưỡng thừa nhận.
“Vậy thì anh thấy chẳng có vấn đề gì cả”.
“Em có thấy”, cô đáp. “Anh là con trai của một nghị sĩ còn em làm việc cho một cửa hiệu làm tóc và móng”.
“Điều đó thì liên quan gì chứ?”.
“Nếu anh không biết thì em cũng chẳng thể giải thích được”.
“Anh là Nate Olsen, một sỹ quan Hải quân Hoa Kỳ. Tại sao em không thể chấp nhận riêng điều đó nhỉ?”.
“Bởi vì...”.
“Điều đó chẳng nói gì về anh hết”.
“Tại sao anh nhập ngũ?”, cô hỏi.
Câu hỏi của cô có vẻ khiến anh lơi là.
“Anh phải làm gì đó để chứng minh”.
“Cũng giống như với em đúng không? Anh đang lợi dụng em để làm thế”.
“Không”.
“Em cũng chỉ là thêm một viên đá ném vào bố anh thôi. Em có thể tưởng tượng ông nghĩ gì nếu biết về em”.
“Anh chẳng quan tâm việc ông ấy nghĩ gì”.
“Nhưng em thì có”, cô nói mạnh mẽ.
“Vậy thì em không phải là người phụ nữ như anh nghĩ”.
Cô tựa vào tường. “Không, em nghĩ mình không phải vậy”. Có vẻ anh không còn gì để nói thêm. Cô nghe thấy tiếng chào tạm biệt nhẹ nhàng, sau đó tiếng lách cách. Anh đã gác máy. Điện thoại kêu tít tít bên tai cô, một lúc lâu sau cô mới đặt ống nghe xuống.
Khi cô quay lại, Bruce đang đứng trong hành lang. “Em ổn chứ?”, anh hỏi.
Cô định nói dối, giũ sạch nhưng không thể. “Không, không ổn lắm”, cuối cùng cô lên tiếng.
Anh luồn tay nhẹ nhàng ôm lấy cô và cô tựa đầu vào vai anh.
__________
1. Đồ uống dành cho người ăn kiêng
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19: Chương 30 - 31





30
“Jack!” Olivia ngồi cuối giường phàn nàn. “Khi nào thì anh định dùng cái máy tập chạy đó hả?”. Chị không thích phải chì chiết, nhưng vì anh cứ chần chừ kể từ buổi sáng Giáng sinh, khi chị mở quà của mình ra. Mặc dù anh cố gắng thể hiện vẻ hài lòng nhưng chị thấy sự thất vọng trong mắt anh. “Anh sẽ”, anh đáp, anh bước ra khỏi phòng tắm trong bộ đồ lót. “Sớm thôi”.
“Tuần trước anh đã hứa rồi mà”.
“Anh biết, anh biết”. Anh mang vẻ mặt cam chịu của một người đàn ông bị kết án trên đường từ phòng xét xử vào nhà giam. Mặt anh sáng lên. “Anh không có gì để mặc”.
“Jack, anh thừa biết em đã mua cho anh một đôi áo len rồi mà. Đừng có nói với em là anh quên đấy nhé”.
“Anh không quên”, anh thừa nhận, “nhưng anh thấy không thoải mái khi mặc quần áo mới”.
“Jack Griffin, đó là lý do kỳ quặc nhất em từng nghe đấy. Đủ rồi. Tập luyện đi”.
“Bây giờ hả?”, anh há hốc miệng.
“Bây giờ!”.
“Nhưng anh còn phải đi làm”.
“Anh cứ đi bộ ít nhất một dặm trước đã”.
“Một dặm hả?”.
“Đi làm về thì anh đã quá mệt rồi”.
“Có thể là anh không quá mệt”, anh nói tràn đầy hy vọng, và nhìn khá kỳ cục khi anh bĩu môi đứng trong phòng ngủ mà chỉ mặc đồ lót và đi tất sẫm màu.
“Anh sẽ đi bộ, Jack ạ”.
Olvia bỏ ngoài tai các lý do của anh. Tuần tiếp sau lễ Giáng sinh thì quá gấp. Jack nói như vậy nhưng ngay sau Năm mới thì mỗi buổi sáng anh sẽ luyện tập với cái máy. Olivia đã ngu ngốc tin lời anh. Bây giờ đã gần đến tuần thứ hai của tháng Một mà anh thậm chí vẫn chưa thèm cắm điện cho nó. Olivia không rời khỏi phòng trước khi anh bắt đầu đi bộ.
“Em thực sự không thấy khoẻ lắm”. Chị đảo mắt.
Càu nhàu trong hơi thở, Jack mở ngăn kéo dưới đáy tủ lôi bộ quần áo thun màu xám ra. “Anh hy vọng em thấy vui”, anh lẩm bẩm khi trở lại phòng tắm.
“Anh sẽ thấy khoẻ hơn khi tập xong”.
“Nếu anh còn sống”.
“Vui đấy”, chị đốp lại. “Anh hãy bắt đầu đi chậm và tăng dần tốc độ. Đừng làm quá đấy”, chị khuyên anh. Anh không thèm nhìn chị nhưng Olivia cảm thấy hơi có lỗi khi bước theo anh vào phòng tắm.
“Grace và em tuần nào cũng phàn nàn về lớp aerobics nhưng sau đó cả hai chúng em đều thấy khoẻ. Anh cũng sẽ như thế. “Nếu em đã nói vậy”. Jack ngồi trên thành bồn tắm buộc dây giày thể thao.
“Nói cho anh biết”, Olivia nói. “Em sẽ làm bữa sáng cho anh trong khi anh đi bộ”.
Jack nở nụ cười đầu tiên trong buổi sáng ngày hôm đó.
“Thịt lợn hun khói, trứng, hai lát bánh mì. Làm bằng lúa mạch ấy nhé.”, anh bổ sung vì biết chị phản đổi món bánh mì trắng.
“Cháo yến mạch”.
“Cháo yến mạch”, anh nói vọng lại phía sau.
“Với nho khô, nhưng chỉ khi anh thôi phàn nàn đi”. Tiếng càu nhàu vọng lại, và dù muốn tỏ ra nghiêm khắc, Olivia vẫn phải bật cười. Anh quá trẻ con với những chuyện thế này.
“Em gọi điện đến văn phòng giúp anh nhé?”, anh nói khi trở lại phòng ngủ và nói cho chị cả một danh mục các chỉ dẫn. Cứ như thể anh sẽ đi xa cả tuần chứ không phải chỉ có một giờ. Đứng trước chiếc máy chạy bộ, anh nhìn chằm chằm vào nó, như thể đang tìm kiếm cơ hội cuối cùng trốn tránh việc này.
Một lát sau, có vẻ anh đã quyết định. Anh cắm dây điện rồi bước lên băng chuyền, cau mày nhìn bảng hiển thị rồi bắt đầu nhấn các nút.
“Anh không muốn đọc sách hướng dẫn trước à?”, chị gợi ý.

“Anh phớt lờ chị. Cỗ máy phát ra tiếng kêu vang rền rồi bắt đầu chuyển động, chút nữa thì ném Jack ngã. Olivia nuốt tiếng cười chực bật ra, biết rằng anh sẽ không đánh giá cao phản ứng của chị.
Do không có lựa chọn nào khác với chiếc máy nên anh bắt đầu bước đi. Nhưng sau một vài phút, anh thở hổn hển, một lần nữa khẳng định sức khoẻ tệ hại của mình. Olivia muốn bảo anh chậm lại nhưng chị nhận thấy Jack không thể nghe thấy gì.
Olivia tránh vào trong bếp nhưng vẫn nghe thấy tiếng rền vang của cỗ máy tập chạy khi chị cho nước vào lò nấu món cháo yến mạch cho anh. Anh có thể phàn nàn nhưng anh đã ăn hết sạch bát lần trước chị nấu cho anh.
Tiếp theo, chị với tay lấy điện thoại và gọi cho toà soạn báo. Khi trợ lý biên tập Steve Fullerton nghe máy, chị đọc thẳng một mạch những chỉ dẫn Jack đưa cho mình. Lúc này, nước cũng vừa sôi, chị cho yến mạch vào rồi tắt bếp để ninh chín từ từ.
Chị băn khoăn không biết Jack thế nào nên qua lại phòng ngủ. Khi vòng qua góc nhà, chị thấy anh ngừng tập từ lúc nào rồi. Anh chỉ mới tập được mười lăm phút. Chị hy vọng rồi anh sẽ tăng dần sức chịu đựng của mình. Chị cũng hy vọng mỗi buổi sáng sẽ không còn là một trận đánh vật như buổi tập hôm nay.
Bước vào phòng, Olivia thấy Jack đang ngồi trên chiếc máy tập hít thở khó nhọc. Mặt anh tái xám mồ hôi đầm đìa.
“Jack?”.
Chị gọi khẽ và lao về phía anh. “Jack? Jack, anh có sao không?”. Anh áp tay lên tim và lắc đầu...
“Em sẽ gọi 911”.
“Không”, anh thở dốc. “Anh sẽ ổn thôi. Một lúc nữa”.
Olivia không thể liều lĩnh thế. Chị chạy vào bếp vồ lấy điện thoại. Chị bấm vội ba con số.
“911 nghe đây”, một giọng phụ nữ trả lời máy.
“Tôi là thẩm phán Olivia Lockhart”, chị nói với giọng quyền uy nhất có thể. “Tôi cần một xe cấp cứu tới số 16 đường Lighthouse. Chồng tôi đang bị đau tim”. Chị nghe thấy giọng mình hết hoảng nhưng không thể kìm chế được. Có cảm giác như thể chính trái tim chị có nguy cơ ngừng đập.
“Thẩm phán Lockhart, làm ơn hãy giữ máy”.
“Không, chồng tôi cần tôi. Hãy nhanh lên! Vì Chúa, làm ơn nhanh lên”. Chị dập máy, nhớ lại điều mình đã đọc được nhiều tháng trước đây - rằng một viên aspirin có thể cứu một nạn nhân lên cơn đau tim.
Tay chị run rẩy khi lấy lọ thuốc aspirin từ tủ bếp và lắc đổ ra lòng bàn tay. Vài viên thuốc rớt ra và chị ném chỗ thừa xuống sàn trong trạng thái hoảng loạn.
Trông Jack có vẻ tệ khi chị trở lại, nằm sóng soài há miệng đớp đớp không khí.
“Jack, ôi, Jack”, chị khóc nức nở. Chị cố gắng cho anh nuốt viên aspirin. Tiếng còi cấp cứu vọng đến từ phía xa và chị lao ra mở cửa trước.
Một chiếc xe cấp cứu đậu bên cạnh nhà và hai nhân viên cứu thương mang theo thiết bị của họ lao về phía bậc thềm. Olivia thở phào nhẹ nhõm tới mức gần như quỵ gối xuống.
Từ lúc đó, các sự kiện cứ nhòa dần trong đầu chị. Cả hai người đàn ông sơ cứu Jack trong mấy phút đầu. Lúc đó anh đã bất tỉnh nhân sự và ý nghĩ kinh hoàng thoáng qua đầu chị rằng anh đã chết như bóp nghẹt chị. Chị không thể thở nổi. Trước khi chị có thể nhận ra chuyện gì đang diễn ra thì Jack đã được đưa lên băng ca chuyển tới xe cấp cứu.
“Chúng ta đang mất anh ấy!”, một trong các nhân viên hét lên.
“Không!”. Olivia thét lên khi đứng giữa sân. “Không!”. Chị không thể nhìn nên lấy tay bưng mặt lại. Xe cấp cứu lao đi.
Chị trở vào trong nhà, tìm thấy chìa khoá xe và thấy mình đang run rẩy. Trong tình trạng này chị không thể lái xe được. Chị phải ấn máy ba lần mới gọi được đúng số điện thoại nhà Grace.
“Olivia”, cô bạn thân nhất nói khi nhấc máy trả lời “Chút nữa thì tớ đã ra khỏi cửa rồi. May là cậu gọi được tớ đấy”.
“Jack... đau tim”. Ba từ đó khó nhọc bật ra từ cổ họng khô khốc của chị.
“Cậu đang ở đâu?”.
“Nhà”.
“Năm phút nữa tớ sẽ có mặt”.
Đó là năm phút dài nhất trong đời Olivia. Tất cả những gì chị có thể nghĩ đến là ngày đứa con trai Jordan của chị bị chết đuối. Chị nhớ đó là một buổi chiều tháng Tám tươi đẹp khi phó Cảnh sát trưởng đến nhà. Lúc đầu chị không tin anh ta - không muốn tin anh ta. Rồi chị muốn chồng về ở bên mình thật nhanh. Viên cảnh sát đã gọi cho Stan nhưng chồng chị làm việc ở tận Seattle. Anh phải mất hai giờ mới về được đến nhà. Hai giờ khủng khiếp như sự thật về cái chết của con trai họ bắt đầu ập đến. Olivia nhớ lại Justine và James đã đến và ở bên chị thế nào. Ba người bọn họ đã khóc và ôm chặt lấy nhau. Grace cũng là người Olivia gọi điện đầu tiên ngày hôm đó. Grace đã đến ngồi với chị và lũ trẻ cho đến khi Stan về.
Olivia sẽ không bao giờ quên cơn đau thắt trong bụng vào cái ngày tháng Tám khủng khiếp đó và bây giờ chị lại phải trải qua tất cả những cảm giác đó. Chị không biết Jack còn sống hay đã chết.
Jack đã không muốn leo lên cái máy tập đó. Anh đã cố nêu mọi lý do nhưng chị không thèm nghe. Ôi, không, chị biết rõ nhất và chị không chịu để anh thôi tập. Sau đó chị nhớ ra rằng anh đã nói là anh không thấy khoẻ lắm. Chị đã khăng khăng mặc kệ điều đó. Đúng ra, chị đã càu nhàu buộc anh phải leo lên nó.
Grace đến nơi và ngay khi Olivia nhìn thấy bạn, chị lao qua bãi cỏ, khóc nức lên và gần như cuồng loạn.

“Lên xe đi”, Grace nói. “Chúng ta sẽ nói chuyện trên đường tới bệnh viện”.
“Tớ… tớ không nghĩ anh ấy sẽ vượt qua được”, chị oà khóc.
“Chúng ta không biết được khi chưa đến đó”.
Người bạn thân nhất của chị nói có lý, nhưng Olivia sợ phải hy vọng, sợ phải tin rằng Jack sẽ không sao. Mất đi anh ấy, ngay vừa lúc mới tìm lại được tình yêu là một việc không thể tưởng tượng nổi. Chắc chắn Chúa trời sẽ không quá tàn nhẫn với chị.
“Họ đưa anh ấy tới bệnh viện Harrison hả?”. Grace hỏi khi chị vòng cua trên khúc đường quanh co quá tốc độ cho phép.
“Tớ... không... rõ, phòng khám tư mới, tớ nghĩ vậy”. Đột nhiên chị không biết. Các nhân viên cấp cứu chắc hẳn đã nói với chị nhưng lúc đó chị không thể tập trung được.
Đúng như vậy, chiếc xe cấp cứu đang đậu bên ngoài phòng khám mới của vịnh Cedar. Olivia lao vào bên trong tới bàn đón tiếp.
“Chồng tôi ở đây - Jack Griffin”.
“Vâng thưa bà Griffin, bây giờ các bác sĩ đang cấp cứu cho ông ấy. Mời bà ngồi xuống ghế, họ sẽ ra ngay khi có thể”.
“Không”, Olivia cãi lại. Người phụ nữ này có vẻ không hiểu rằng người đàn ông phía sau những cánh cửa đóng chặt kia là chồng chị. Những quy định và luật lệ chết tiệt Jack có thể đang chết và chị là vợ nên có quyền ở bên anh. Trong tất cả những năm tháng làm thẩm phán toà án dân sự, Olivia chưa từng dùng vị thế của mình để đạt mục đích cá nhân. Tuy nhiên, trong trường hợp này chị không thể yên lặng.
“Tôi là thẩm phán. Và tôi cần ở bên chồng tôi”.
“Tôi xin lỗi, nhưng chúng tôi không được phép”.
“Cô không hiểu”, chị nói cao giọng và gần như phát điên. “Tôi cần ở bên chồng tôi”.
Grace tiến lên phía bàn đón tiếp và vòng tay ôm lấy Olivia. “Các bác sĩ sẽ ra ngay thôi mà”, chị nói.
Olivia đứng yên tại chỗ. “Tớ muốn ở bên anh ấy”.
“Cậu sẽ được làm thế”, Grace hứa với giọng dịu dàng.
“Anh ấy cần tớ”.
“Ngay lúc này anh ấy cần các bác sĩ hơn. Sẽ không lâu đâu Olivia”. Grace đưa chị trở lại khu vực chờ, và chỉ với sự phản đối chiếu lệ, Olivia ngồi xuống.
Một thế kỷ trôi qua. Hai thế kỷ. Charlotte và Ben xuất hiện.
“Ben có một máy quét sóng giống như của cảnh sát Charlotte giải thích. “Khi chúng tôi nghe thấy tiếng người điều vận nói ở số 16 đường Lighthouse, chúng tôi đoán chắc hẳn là Jack”.
Charlotte ngồi xuống bên chị, Grace ngồi phía bên kia. Mỗi người nắm một tay chị.
Người bác sĩ rốt cuộc cũng đã xuất hiện, Olivia thấy biển ghi tên là bác sĩ Timmons. Anh bước về phía chị.
Chị đứng dậy, chuẩn bị tâm lý cho điều tồi tệ nhất.
Bác sĩ Timmons nở nụ cười trấn an chị. “Chúng tôi đã cứu được ông ấy rồi”.
“Ơn Chúa”. Chị thở phào nhẹ nhõm đến mức suýt nữa khuỵu gối xuống. May là Grace đã đỡ lấy chị.
“Ông ấy là người may mắn. Chỉ cần năm hay mười phút nữa thôi là không còn cứu kịp nữa”.
Olivia trố mắt nhìn chằm chằm vào vị bác sĩ. “Ý anh là gì?”
“Nếu không có phòng khám ở vịnh Cedar này thì chồng bà đã có thể chết trên đường tới bệnh viện”.
“Ôi”. Olivia bắt đầu hiểu được ngụ ý điều anh ta đang nói với chị.
Bác sĩ Timmons nói tiếp. “Chúng ta cần chuyển ông ấy tới bệnh viện Harrison để bác sĩ chuyên khoa tim khám”.
“Dĩ nhiên rồi”.

“Còn một số giấy tờ cần bà ký trước khi chúng tôi làm việc đó”.
Chị gật đầu và nhớ ra rằng chị đã xấu hổ thế nào khi mẹ mình và Ben cùng bạn bè họ ở Trung tâm Người cao tuổi bị bắt vì tổ chức một cuộc biểu tình trái phép đòi xây dựng một cơ sở y tế.
Lúc đó Olivia không biết được rằng một cơ sở y tế trong thị trấn của mẹ mình một ngày kia sẽ cứu sống Jack.
31
Corrie buồn ngủ cả ngày nhưng không muốn để Roy biết. Có nói với anh lý do vì sao chị buồn cũng chẳng ích gì. Vào ngày này năm 1975, chị ngồi trong văn phòng luật sư của cha mình và ký giấy tờ cho đi đứa con của mình. Những ngày đó chẳng cần được sự cho phép của người cha; nhưng nếu có, Corrie cũng buộc phải nói dối và giấu tên cha đứa bé. Như thế, chị sẽ bị mất mặt trước gia đình và người bạn của cha mình, nhưng thà làm thế còn hơn dính dáng tới Roy.
Corrie vừa cầm cốc cà phê mới rót vừa quan sát chồng đang phân loại thư từ và hóa đơn. Roy đã quá quen thuộc với việc vợ hiện diện trong công việc tới mức chẳng để ý mấy khi chị đến phòng anh. Lần này anh nhìn lên và nhíu mày.
“Em bị cúm à?”, anh hỏi khiến chị ngạc nhiên.
“Không. Sao thế?”.
Anh nhún vai trước câu hỏi của chị. “Trông em nhợt nhạt lắm”.
“Không hề”.
“Em cũng đột nhiên trở nên im lặng. Như thế chẳng giống em chút nào”. Anh lại tiếp tục.
“Anh hãy cầu nguyện đi”.
Anh nháy mắt cười. “Có lẽ anh nên như vậy. Nhưng nếu em không khỏe, em về nhà đi. Hôm nay quả là một ngày trôi qua chậm chạp”.
“Có lẽ em sẽ về”, chị nói, và nghĩ đến việc đó lúc quay lại phòng làm việc phía ngoài. Roy được thuê để kiểm tra thông tin cần thiết cho một người bạn ở Seattle, Joe Landry. Gần đây, Joe có thuê một trợ lý mới và nghi ngờ rằng cô ta khai khống quá trình làm việc trước đây của mình. Anh ta nhờ Roy kiểm tra và anh đã làm việc này trong vài ngày qua. Những việc nhỏ nhặt này giúp họ kiếm cơm hàng ngày.
Sau nửa tiếng, Roy ra khỏi văn phòng và ngồi ở góc bàn của chị. “Em vẫn ở đây à? Corrie, nếu em thấy không khỏe thì về nhà đi”. Thấy chị chỉ nhún vai, anh hỏi, “gần đây em có nói chuyện với Linnette không?”.
“Không hẳn”. Corrie tưởng rằng nếu con gái sống ở vịnh Cedar, hai mẹ con họ sẽ có nhiều thời gian bên nhau hơn. Nhưng đâu phải. Cả hai đều có cuộc sống bận rộn và có khi cả tuần họ chẳng gặp nhau hay nói chuyện với nhau. Có vẻ câu trả lời khiến chồng chị ngạc nhiên. “Con bé mới ghé qua và có vài câu hỏi liên quan tới chuyện hẹn hò. Về cái anh chàng nuôi ngựa mà em rất thích đó”.
“Anh khuyên con chuyện tình cảm à?”. Đáng sợ thật.
Roy xù lông lên. “Thực sự anh không muốn nhưng con nó cần giúp đỡ”. “Anh chẳng kể gì về chuyện này”.
Roy xoa mặt. “Đến giờ anh mới nhớ ra. Có thể em cần nói chuyện với con”.
Corrie công nhận đúng là như vậy và chị với chiếc điện thoại. Chị xem đồng hồ và hy vọng rằng mình không đánh thức Linnette dậy. Vì con bé đổi ca ở phòng khám nên khó mà nhớ được giờ làm.
“Sao hôm nay em không rủ con đi ăn trưa? Hãy làm cái việc rất đáng yêu giữa mẹ và con gái đi”.
Corrie bỏ tay khỏi điện thoại. Có vẻ như chồng chị muốn chị rời khỏi văn phòng. Đầu tiên, anh giục chị về nhà. Còn bây giờ lại muốn chị đi ăn trưa. Chắc hẳn có chuyện gì đó và chị rất muốn biết.
Chị khoanh tay nhìn anh chăm chú. “Được rồi, có chuyện gì vậy?”.
Vẻ ngây thơ đến kinh ngạc của anh có thể đánh lừa bất kỳ ai, nhưng chị đã quá hiểu vì từng làm vợ người đàn ông này gần 27 năm.
“Không có gì!”, anh tuyên bố, rõ ràng là anh sốc khi chị có ý như vậy.
“Anh nên kể cho em nghe thì hơn, Roy McAfee”.
“Sao em lại nghĩ là anh có chuyện gì?”.
“Anh sẽ không nói ra. Bởi vì em biết anh là người thế nào”.
Anh nhíu mày rồi lắc đầu. “Em là người phụ nữ đa nghi”.
Chị chẳng tranh cãi với anh. “Lấy anh nên em mới sinh ra thế chứ”.
Roy rời khỏi mép bàn của chị rồi thong thả đi về phòng làm việc như thể trên đời này chẳng có mối bận tâm nào hết.
Corrie theo sau anh và ngồi vào chiếc ghế thường dùng cho khách. “Anh có nhớ tấm thiệp đầu tiên viết gì không?”
Roy chẳng buồn lôi nó ra. Rõ ràng anh đã đọc rất nhiều lần nên mới thuộc làu như thế. “AI CŨNG CÓ ĐIỀU GÌ ĐÓ PHẢI ÂN HẬN. CÓ ĐIỀU GÌ ĐÃ LÀM VÀ ƯỚC MÌNH CÓ THỂ LÀM LẠI KHÔNG. HÃY NGHĨ VỀ ĐIỀU ĐÓ”.
“Mấy tuần vừa qua cả hai chúng ta đều suy nghĩ rất nhiều”, chị nhẹ nhàng bảo anh. Trái tim chị ngập tràn tình yêu và, đúng, cả sự hối tiếc nữa. Dù chưa từng một lần bế, nhưng chị yêu con bé. Khi ký những giấy tờ cho con đi, chị cảm thấy như mình đang cho đi một phần tâm hồn. Giá chị quyết định tự mình nuôi con bé, cha mẹ chị sẽ giúp đỡ chị. Nhưng dù lúc đó còn quá trẻ, Corrie vẫn hiểu rằng như thế là không công bằng với họ, không công bằng với chị và đứa bé. Một gia đình yêu thương đang mong chờ đón đứa trẻ và dù lòng đau như cắt, chị vẫn phải ký giấy tờ cho con đi.
“Anh muốn nói với em rằng giá như anh biết em có thai, anh sẽ không tiếp tục và làm cái việc kinh khủng đó. Nhưng chỉ là anh không biết...”.
Corrie cũng vậy, đó là nguyên nhân chính khiến chị không thông báo cho anh.
“Em nghĩ đã đến lúc chúng ta nên trung thực với nhau”, chị bảo anh.

Anh nhìn chị chằm chằm. “Anh đã bao giờ không trung thực với em đâu”. “Có lẽ chỉ là không cởi mở, nhưng rõ ràng là chiều nay anh muốn xua em ra khỏi văn phòng và em muốn biết tại sao”.
Roy thở dài. “Được rồi”. Anh nói không ngần ngại. Anh muốn gọi vài cuộc điện thoại và tìm ra anh có thể làm gì cho... con gái chúng ta”.
“Mà không cho em biết?”.
Anh lắc đầu. “Anh sẽ cho em biết những gì anh tìm ra”.
“Vào phút cuối”, chị đáp lại.
Anh ngập ngừng rồi thú nhận. “Vào phút cuối”, anh nhắc lại.
“Đó là những gì em nghĩ. Nhưng tại sao? Anh có nghĩ rằng tinh thần em không ổn định không? Anh có cho rằng em không thể xử lý bất kỳ thông tin nào anh đưa ra không?”.
“Không”, anh từ chối thẳng thừng. “Thật kỳ cục”.
“Vậy thì lý do gì có thể khiến anh giấu em?”.
“Chúng ta có một cô con gái ba mươi tuổi”, anh trầm ngâm. “Một đứa con gái mà chúng ta chẳng hề biết gì về nó”.
Chị phải kiềm chế để không nhắc anh rằng, đến tận gần đây, họ cũng chẳng hề biết đứa con đầu lòng là con gái.
“Trong suốt những năm qua, anh đã chống chọi để gạt những suy nghĩ về đứa trẻ ra khỏi đầu mình. Anh cảm thấy thoải mái với việc đó. Anh không muốn biết - và đã làm đúng như vậy. Chúng ta đã thề là không bao giờ nhắc lại chuyện này, nhưng giờ đây... giờ đây con bé lại xuất hiện và nó không muốn bị chúng ta lờ đi”.
Rõ ràng Corrie rũng đau đớn. “Anh muốn tự mình tìm ra con bé, tự liên lạc rồi thông báo lại cho em”.
“Anh cần tìm ra con bé”, anh đính chính lại. “Anh đã tìm trong danh sách đăng ký nhận con nuôi và điền tên chúng ta vào”.
“Sao lại loại em ra?” Corrie bật ra.
“Anh sẽ giải thích cho em ngay. Như anh đã nói, anh vào mạng Internet”.
Lúc này chị cũng thú nhận. “Em cũng làm thế”.
Ánh mắt hai vợ chồng gặp nhau. “Con bé chưa đăng ký”.
Corrie biết điều đó. Chị không hiểu tại sao. Bằng cách nào đó, con gái chị có thể tìm ra họ mà không thông qua một tổ chức cho nhận con nuôi nào. Và rồi…
“Vì thế anh mới để em đứng ngoài cuộc”, Corrie lẩm bẩm. “Vì anh không biết chắc động cơ nào khiến con bé làm thế”.
Roy gật đầu. “Nếu con bé muốn chúng ta tìm ra, nó đã đăng ký. Đằng này nó lại không đăng ký. Điều này khiến anh nghĩ là không phải ngẫu nhiên. Con bé đã tìm ra anh, nhưng lại không muốn chúng ta tìm ra nó. Con bé cố tình gửi những tấm bưu thiếp nặc danh, gửi hoa đến. Con bé muốn làm anh ám ảnh. Đây là một trò đùa của nó và vì lý do nào đó, con bé thấy anh có lỗi nhiều hơn em”.
“Em không biết tại sao”, Corrie nói ra suy nghĩ của mình. “Nhưng em nghĩ có thể anh đúng”. Chồng chị luôn thận trọng và có lẽ quan trọng hơn cả là nghi. Anh xem xét mọi góc độ, mô tả từng chi tiết một cách có phương pháp. Cách anh làm khiến chị nghĩ tới những người giải câu đố, can thận nghiên cứu từng đầu mối một.
“Luật nhận con nuôi ở California khác ở Washington”, Roy nói thêm. “Anh đang nghĩ...”.
“California?” Corrie ngắt lời.
Ngay lập tức Roy thể hiện vẻ bực bội trên mặt - anh đã nói nhiều hơn anh muốn. “Ừ, California. Đó là nơi các thủ tục cho và nhận con nuôi cuối cùng diễn ra”.
Lúc ký tên, Corrie không để ý nhà con bé sẽ ở đâu. Có lẽ luật sư có nói với chị nhưng chị không nhớ.
“Em cũng không để ý đến ngày tháng, đúng không?”.
“Đúng. Tại sao phải thế?”. Chị nuốt nước bọt và lắc đầu. “Chẳng có lý do gì hết”.
“Corrie?”.
Chị nhìn xuống, cố kiềm chế cảm xúc và chẳng muốn nói gì. “Anh đã sai vì không nói với em những gì anh tìm ra”.
“Ý anh là còn nhiều hơn nữa à?”, chị ngắt lời chồng. Chị cảm thấy giận dữ khi Roy tiến hành điều tra một mình và gạt chị ra ngoài. Thì đúng là chị cũng có lỗi. Nhưng chị có lý do chính đáng. Roy đã bảo anh không muốn biết, anh từ chối bàn về chủ đề này, vì thế nên chị phải tự mình tìm hiểu.
“Không, anh chẳng tìm thấy gì khác. Anh đã gặp trở ngại lớn trong việc tìm hiểu hồ sơ bang California. Chỉ Alabama, Alaska, Kansas và Oregon là “Những bang có hồ sơ mở”. Lý do anh có thể tìm ra nhiều là vì anh thông qua một người bạn cũ làm cho chính quyền bang California”.
Anh nheo mắt nhìn Corrie. “Sao em lại phát hiện ra là chúng ta có một đứa con gái?”.
Chị nhìn xuống hai bàn tay đang gập lại. “Nhật ký của mẹ em. Em đã có cuốn nhật ký đó và em tra ngày tháng. Mẹ em biết. Mẹ em chưa bao giờ nói một lời nào với em, nhưng bà biết là chúng ta đã có một đứa con gái”.
“Em yêu, chúng ta sẽ tìm ra con bé và khi tìm ra, chúng ta sẽ giải thích mọi chuyện”.
Corrie chỉ có thể hy vọng con bé biết rằng chị đã và vẫn luôn yêu con bé mặc dù chị đã đẩy nó ra khỏi cuộc đời họ.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom