Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Họa Quốc

Quyển 2 - Chương 60


Giọng ca tuy không hay bằng Hy Hòa nhưng âm điệu rất chuẩn. Nếu nói tiếng hát của Hy Hòa có vẻ đẹp diễm tuyệt như mẫu đơn khuynh đảo thiên hạ thì tiếng hát của Khương Trầm Ngư lại có mùi hương thanh nhã của gỗ đàn hương dùng để chế tác bàn cờ đặt bên cạnh ly rượu mới nấu, dư âm văng vẳng kéo dài.

Hy Hòa trợn trừng đôi mắt mờ đục như sương mù, đứng im không nhúc nhích lắng nghe, vẻ cảnh giác phòng bị trên gương mặt dần dần nhạt đi.

Khương Trầm Ngư hát xong liền dừng lại tươi cười nhìn nàng ta: “Bài hát này đẹp quá. Đúng không?”.

Hy Hòa ngây ngây dại dại nhìn nàng, không nói gì.

Khương Trầm Ngư tiến thêm một bước về phía nàng ta, giọng nói càng lúc càng mềm mỏng: “Tiểu Hồng buồn ngủ rồi, để chàng ngủ một giấc thật ngon, được không?”.

Hy Hòa lại ngây ngây dại dại cúi đầu nhìn chiếc hòm trong tay, ánh mắt dán chặt lên mặt hòm, ngàn vạn nỗi đau đớn trong lòng thoáng cái đã biến thành hơi nước mịt mờ.

Cứ vậy Khương Trầm Ngư lại tiến thêm một bước nữa: “Tiểu Hồng có quần áo rồi, chàng không lạnh đâu, nhưng lúc này chàng đang rất buồn ngủ, rất buồn ngủ, chàng muốn đi ngủ. Đưa chàng cho ta, được không?”.

Hy Hòa ngay tức khắc ngẩng đầu nhìn nàng cảnh giác. Khương Trầm Ngư xòe đôi bàn tay, thoải mái cười nói: “Yên tâm, ta không cướp của phu nhân đâu, chỉ để chàng ngủ một giấc yên lành thôi. Khi Tiểu Hồng ngủ, phu nhân có thể ngồi bên cạnh nhìn chàng, tiếp tục hát cho chàng nghe, được không?”.

Hy Hòa nửa tin nửa ngờ đưa chiếc hòm cho nàng, đưa đến giữa chừng lại hối hận rụt tay lại, ôm chặt chiếc hòm vào lòng, lắc đầu nguầy nguậy.

Khương Trầm Ngư không nản lòng, tiếp tục mỉm cười, tiến sát lại gần hơn: “Thế này đi… ta dùng thứ khác để đổi cho phu nhân nhé?”.

Hy Hòa vừa ôm chặt chiếc hòm, vừa hoang mang chớp chớp mắt nhìn nàng mấy cái. Cho dù vẫn bị người ngoài đàm tiếu là yêu cơ, nhưng kỳ thực đường nét của nàng ta không đẹp kiểu yêu mị, khoảnh khắc này không còn vẻ sắc sảo huênh hoang, ngông cuồng khinh bạc thường ngày nữa, mà chỉ còn lại vẻ ngây thơ, yếu đuối và rụt rè vốn có ở người thiếu nữ.

Khương Trầm Ngư nhìn Hy Hòa, trong lòng thấp thoáng mấy chữ:

Ai nhìn cũng thấy thương…

Nàng buồn bã cụp mi, cố gắng nén nỗi đau đớn chua xót không tên trong lòng lại, nhìn về phía Hy Hòa, nở một nụ cười:

“Ta dùng thứ này đổi với phu nhân, phu nhân đưa Tiểu Hồng cho ta, để họ đưa chàng đi ngủ, được không?”. Vừa nói vừa ra hiệu cho Hoài Cẩn ở phía sau đem đồ tới.

Hoài Cẩn đặt tay nải trên vai xuống, nhẹ nhàng mở ra, bên trong là một chiếc áo bào trắng được gấp vô cùng ngay ngắn.

Trong tích tắc đôi mắt Hy Hòa sáng rực.

Khương Trầm Ngư đón lấy chiếc áo bào trắng từ tay Hoài Cẩn, chậm rãi bước đến trước mặt Hy Hòa, không nói thêm gì nữa chỉ bình tĩnh đưa chiếc áo bào trắng ra, sau đó nhìn thiên hạ đệ nhất mỹ nhân trong chớp mắt nét mặt trở nên rúm ró, bởi bao tình cảm chất chứa trong tâm khảm tích tụ lâu ngày đã lên tới đỉnh điểm, giờ đây ầm ầm sụp đổ.

“Cạch” một tiếng, chiếc hòm gỗ rơi xuống đất, Hy Hòa run rẩy túm chặt lấy chiếc áo bào trắng. Đám thị vệ nhanh như chớp lao qua nhặt lấy chiếc hòm, mang tới trước mặt Chiêu Doãn.

Chiêu Doãn liếc nhìn chiếc thủ cấp trong hòm một cái, ánh mắt đau đớn, vội quay mặt qua chỗ khác, trầm giọng nói: “Đem đi xử lý cẩn thận, chuẩn bị hậu táng”.

“Vâng!”. Hai tên thị vệ vội vàng hộ tống chiếc hòm rời đi.

Còn bên kia, Hy Hòa đang vùi mặt trong chiếc áo bào trắng, tham lam hít hà mùi hương trên chiếc áo, toàn thân co rúm lại, khóc thút thít.

Thấy nàng ta luống cuống như thế, Chiêu Doãn vừa uất hận lại vừa thương xót, bất giác đi đến nói: “Đừng làm ồn nữa, mau đứng dậy cho trẫm…”. Y vừa chạm vào vai Hy Hòa liền bị nàng ta cắn mạnh vào tay, rồi nàng ta vừa lăn vừa bò trên mặt đất để trốn tránh.

“Nàng!”.

Thấy Chiêu Doãn sắp nổi giận, Khương Trầm Ngư vội dịu dàng gọi một tiếng: “Hoàng thượng…”.

Chiêu Doãn hết nhìn nàng lại nhìn Hy Hòa trên mặt đất, ánh mắt lóe sáng, sau đó lại tối sầm, thở dài nói: “Thôi… mấy người đến đây, đỡ phu nhân về cung, không được để nàng ấy ngồi dưới đất”.

Đám cung nhân ai nấy mặt mày khó coi. Bộ dạng Hy Hòa như thế, rành rành là từ chối bất cứ người nào lại gần, đến hoàng đế nàng ta còn cắn, huống hồ chỉ là bọn nô tài tép riu. Hơn nữa, hoàng thượng vẫn không nỡ làm tổn thương vị sủng phi này, bọn họ nhẹ chân nhẹ tay không được, nặng tay cũng không xong, biết phải làm sao đây?

Trong lúc đám đông âu sầu khổ não, không biết làm thế nào thì Khương Trầm Ngư bước lên nói: “Để ta thử xem”.

Mọi người thầm thở phào nhẹ nhõm, thiện cảm đối với vị Thục phi này cũng vì thế mà tăng thêm mấy phần.

Khương Trầm Ngư bước đến trước mặt Hy Hòa, lặng lẽ chăm chú nhìn nàng ta một lúc, thấy cả người Hy Hòa đều đang run rẩy, rõ ràng là thực sự đau thương đến tột độ, trong lòng không khỏi thương xót, bi thương xen chút ngưỡng mộ, cuối cùng ngưng kết thành sự dịu dàng: “Phu nhân… không vá áo giúp Tiểu Hồng ư?”.

Hy Hòa chấn động một lúc, ngây ngô ngẩng đầu lên.

Khương Trầm Ngư chỉ chỉ vào chiếc áo bào trắng: “Áo bị rách rồi kìa”.

Lúc này dường như Hy Hòa mới phát hiện trên áo còn một lỗ thủng, ngây dại mở chiếc áo ra, nhìn lỗ hổng lớn bị gió lùa vào kêu phù phù, trong phút chốc nước mắt sa xuống, không nói câu gì, loạng choạng đứng dậy, cầm chiếc áo rồi quay về điện.

Nàng ta vừa vào điện, mọi người cũng lần lượt thở phào bước vào theo.

Khi Khương Trầm Ngư bước vào trong điện, thì đã thấy Hy Hòa cầm kim chỉ bắt đầu vá chiếc áo bào trắng, thần tình chăm chú mà bình tĩnh, ánh tà dương len qua cửa sổ đang mở ở bốn bức tường chiếu vào trong, chiếu lên người nàng ta, mái tóc đen nhánh cùng chiếc áo bào trắng tựa tuyết tôn lẫn nhau, hai sắc màu đối lập rõ ràng như thế, tạo thành một bức tranh cực kỳ trang nhã, in đậm trong tâm trí mỗi người.

Chiêu Doãn bỗng quay người, bước đi không nói một lời.

Khương Trầm Ngư im lặng bước theo.

Những thị vệ, thái giám khác cũng lần lượt theo sau, nhưng vẫn rất dè chừng giữ một khoảng cách nhỏ với hai người bọn họ.

Đi được một lúc, Khương Trầm Ngư phát hiện Chiêu Doãn không có ý định về ngự thư phòng mà đang đi loanh quanh không mục đích trong hoàng cung, hơn nữa càng đi lại càng đến nơi hẻo lánh, nhà cửa thưa thớt, cỏ cây um tùm, một nơi nàng chưa từng đến bao giờ.

Tiếp theo Khương Trầm Ngư phát hiện, đây vốn là điểm tận cùng của hồ Phượng Thê.

Hồ Phượng Thê là danh thắng nổi tiếng nhất của hoàng cung Bích quốc, mà cầu Động Đạt chính là tâm điểm của bức tranh ấy. Tiết Thái đã từng vung rọi ngựa làm kinh động xe ngựa của Hy Hòa phu nhân, hại nàng ta rơi xuống nước ở chỗ đó. Vì thế, từ trước tới nay, Khương Trầm Ngư cứ tưởng cầu Động Đạt là toàn bộ của hồ Phượng Thê, bây giờ nhìn thấy nơi đây mới hay, hóa ra điểm cuối của hồ lại tiêu điều như thế này.

Tuy là mùa hè nhưng cỏ cây vẫn thưa thớt, mọc lên lởm chởm nửa xanh nửa vàng, mấy gian nhà ngói xiêu vẹo ngả nghiêng đã mục nát đến quá nửa, cho thấy đã rất lâu rồi chưa có ai đến đây. Thỉnh thoảng vẳng tới tiếng “quạ quạ” của con quạ bay vụt qua trên những cành khô khiến cảnh sắc càng thê lương hoang tàn.

Khương Trầm Ngư hơi đăm chiêu nhìn Chiêu Doãn - Y cố tình hay vô ý đến chỗ này? Nếu nàng đoán không nhầm, nơi này… chính là chỗ ở của Chiêu Doãn lúc còn nhỏ.

Năm Gia Bình thứ mười một, Hành Xu đi qua đây, nghe thấy tiếng hát đẹp như tiếng nhạc trời của một người phụ nữ, nhất thời hứng khởi sủng hạnh người cung nữ làm trong phòng giặt là đó, sau đó thì quên ban danh phận cho nàng ta, chẳng ngờ người cung nữ ấy lại âm thầm mang thai rồng, mười tháng sau sinh hạ ra một hoàng tử.

Nhưng nàng ta địa vị thấp kém, lại bị Hành Xu quên lãng, vì thế trong suốt một thời gian dài không ai hỏi đến.

Mười năm sau, người cung nữ mắc bệnh qua đời, có người thông báo việc này lên cấp trên, bị La Hoành vô tình nhìn thấy bẩm lại với Hành Xu, lúc ấy họ mới biết đến sự tồn tại của vị hoàng tử này. Bấy giờ mới sai người đón Chiêu Doãn về cung. Nhưng vì từ nhỏ thiếu ăn thiếu mặc nên Chiêu Doãn chậm lớn, lại không biết chữ, so với các hoàng tử khác đúng là một trời một vực.

Chẳng ai ngờ đứa trẻ gầy gò thô lậu đó sau này lại trở này đế vương của một nước.

Cũng chẳng ai ngờ vị đế vương oai hùng này lại có xuất thân như thế… Còn thời khắc này Chiêu Doãn đang chăm chú nhìn hồ nửa đỏ nửa xanh dưới ánh tà dương, không vui không buồn, ánh mắt nặng nề, thần sắc bình tĩnh.

Gió mát nhè nhẹ thổi trên mặt hồ, mặt hồ gợn lên tầng tầng những con sóng lăn tăn, y đứng chắp tay sau lưng, ánh mặt trời phủ lên gò má y một lớp sáng màu vàng, nhìn lại càng không rõ nét.

Giấc mộng đế vương ngàn thu.

Từ cổ chí kim, biết bao người muốn làm hoàng đế. Nhưng có phải khi làm hoàng đế là thấy thỏa mãn, là thấy không còn hối tiếc không?

Chiêu Doãn, vị đế vương mới chỉ hai mươi tuổi này, năm mười ba tuổi đã cưới Tiết Minh, con gái của trưởng công chúa tiền triều, nhân đấy nhận được sự ủng hộ của Tiết gia, từ hoàng tử không được chú ý nhất lắc mình một cái đã trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh nhất cho ngôi vị hoàng đế. Nhưng khi đó, thế lực của Tiết gia vẫn chưa đủ đối đầu với Vương thị, vì thế, năm mười bốn tuổi, y lại quỳ trước phủ Cơ gia, xin cưới Cơ Hốt làm phi, Cơ lão hầu gia mới ưng thuận hôn sự này. Từ đây, Cơ gia cũng trở thành thế lực hậu thuẫn mạnh mẽ cho y. Năm Gia Bình thứ hai mươi bảy, Bích vương Hành Xu lâm bệnh nguy kịch, vốn muốn truyền ngôi cho thái tử Thuyên, nhưng sau khi bàn mưu Chiêu Doãn, cùng Tiết Hoài, Cơ Anh đã phát động binh biến vào đêm mùng mười tháng mười, giết chết Chiêu Thuyên, ép Hành Xu lập Chiêu Doãn làm hoàng đế - đó chính là biến sự Song Thập. Năm sau Chiêu Doãn đăng cơ, đổi quốc hiệu Đồ Bích, tuyển trưởng nữ của Khương thị làm phi. Từ đây, dưới sự phò tá của ba đại thế gia Khương, Cơ, Tiết, y đã ngồi vững trên ngai vàng.

Đồ Bích năm thứ tư, y lại ép Tiết Hoài mưu phản, nhổ gốc trốc rễ cả gia tộc họ Tiết.

Có thể nói, cả đời của vị đế vương này, mỗi bước đi đều dứt khoát quả quyết. Y biết rất rõ mình muốn gì và không hề do dự khi thực thi.

Tiết gia như thế, Cơ gia… cũng như thế.

Tuy cái chết của Cơ Anh là phụ thân bày mưu tính kế, nhưng nếu như không có Chiêu Doãn cho phép, phụ thân đâu dám đi nước cờ mạo hiểm này. Giờ đây Chiêu Doãn lại có vẻ mặt tuy bình tĩnh nhưng bi thương không nói nên lời này, là vì cái gì?

Là thương tiếc cho cái chết đau đớn của Cơ Anh? Hay là xót thương cho sự điên dại của Hy Hòa?

Nếu nói y muốn trừ bỏ Tiết gia là vì Tiết Hoài công cao át chủ, đã uy hiếp đến hoàng quyền của y. Thì Cơ gia lại không như vậy, chí ít, tính đến bây giờ vẫn không. Tại sao y lại cho phép phụ thân thực hiện hành động điên cuồng lần này? Tại sao y muốn Cơ Anh chết?

Lẽ nào vì… thật sự là vì… Hy Hòa?

Màu mắt Khương Trầm Ngư sầm xuống, hai tay từ từ nắm chặt lại, một giọng nói từ đáy lòng đang xé toang làn sương mù dày đặc lạnh lẽo và kiên quyết vang lên: Không tin!

Nàng, Khương Trầm Ngư không tin, một nam nhân thủ đoạn độc ác trở mặt vô tình như thế lại có thể vì nữ sắc mà đánh mất lý trí như vậy, vì một người con gái mà hy sinh danh thần giỏi nhất của mình.

Hôn quân vì nữ sắc như thế có lẽ sẽ là Ngô vương Phù Sai, là Trụ vương Tử Tân, là U vương Cung Niết, nhưng tuyệt đối không thể là y - Bích vương Chiêu Doãn!

Nghĩ miên man đến đây, ánh mắt Khương Trầm Ngư từ nóng chuyển sang lạnh, nàng hơi cúi đầu nhìn xuống đất, ánh dương kéo dài chiếc bóng rồi từ từ tối đi.

Màn đêm đã buông xuống rồi.

Nhưng Chiêu Doãn vẫn bất động, không có ý định rời khỏi đây.

Một đám người đợi chờ, tất cả đều đứng cách cả trượng nín thở chờ đợi, không dám giục giã.

Khương Trầm Ngư nghĩ một lát mới lên tiếng nói: “Hoàng thượng, đêm lạnh rồi, về đi thôi”.

Thân hình Chiêu Doãn hơi rung rung giống như bị giọng nói này thức tỉnh, y quay đầu lại, vẻ mặt kinh ngạc, nhưng chẳng qua cũng chỉ là biểu cảm trong nháy mắt mà thôi, rồi y lấy lại bình tĩnh ngay lập tức.

“Ừ”. Y gật đầu, quay người đi trước.

Đèn hoa mới khêu bóng sáng mông lung. Rõ ràng cùng trong cung cấm, nhưng đoạn đường mà họ đã đi này cực kỳ thê lương lạnh lẽo, so với sự ấm áp, sự huyên náo ở các điện khác lại giống như hai thế giới đối lập nhau, tất cả những thứ đẹp đẽ đều không thể lọt tới đây.

Từ vị trí của Khương Trầm Ngư có thể nhìn thấy bóng lưng của Chiêu Doãn, chiếc áo mỏng khó che nổi sự gầy gò của y, ngẫm kỹ bỗng phát hiện ra một sự thực. Hình như Chiêu Doãn là người gầy nhất trong những nam tử mà nàng từng gặp… Trong lúc nàng thất thần, Chiêu Doãn bỗng cất tiếng hỏi: “Nàng về từ khi nào?”.

Khương Trầm Ngư sững ra, vội đáp: “Vừa mới vào cổng cung đã được dẫn đến Bảo Hoa cung bái kiến bệ hạ rồi”.

Chiêu Doãn “ồ” một tiếng, ngừng một lát rồi mới từ tốn nói: “Lần nầy xuất cung… cảm thấy thế nào?”.

Trong đáy mắt Khương Trầm Ngư dấy lên vô và cảm xúc, rất lâu sau mới trả lời: “Thế giới rộng lớn, mà cung điện, đô thành, giang sơn của một nước… không thể sánh nổi”.

Chiêu Doãn sững người, kinh ngạc quay đầu lại nhìn nàng, trong ánh mắt đầy sự dò xét: “Nghĩa là thế nò?”.

Khương Trầm Ngư thận trọng lựa chọn từ ngữ: “Từ khi thần thiếp hiểu chuyện, được phu tử dạy dỗ, được cha mẹ chỉ bảo, chịu ảnh hưởng của những người xung quanh đến nay, thần thiếp luôn tưởng một khuê nữ biết nữ công gia chánh, giỏi nấu nướng, biết thơ văn, hiểu lễ nghĩa mới là một khuê nữ tốt. Vào hoàng cung thần thiếp lại thấy những thứ như nữ công gia chánh, nấu nướng, thơ văn, thậm chí những lễ tiết được học trước đây, đều là đồ bỏ đi cả. Bởi, chúng không thể khiến thần thiếp có được sự sủng ái của hoàng thượng, cũng không thể giúp thần thiếp trở thành một vương phi xuất sắc. Bởi vậy trong một thời gian dài, thần thiếp luôn tự vấn: Mình nên học những gì? Mình nên làm những gì? Mình tồn tại có ý nghĩa gì?”.

Chiêu Doãn cười cười: “Nàng nghĩ thật là nhiều”. Đây là biểu cảm vui vẻ đầu tiên mà y bộc lộ trong ngày hôm nay, vì thế, tuy lời nói mang ý khiển trách nhưng giọng điệu lại có chút chế nhạo mà thân mật.

Khương Trầm Ngư cũng cười theo, nói tiếp: “Nhưng lần xuất cung này, được đến những nơi chưa từng đến, được gặp đủ mọi loại người, có người sống rất vui vẻ thoải mái, có người không được như vậy, có người rất tích cực, có người tiêu cực… Tất cả giống như những mũi kim thêu, từng mũi từng mũi thêu dần dần tạo thành hình ảnh, tạo thành đáp án mà thần thiếp luôn kiếm tìm”.

“Ồ, đáp án là gì?”. Chiêu Doãn tỏ rõ hứng thú, ánh mắt sáng rỡ nhìn nàng.

Khương Trầm Ngư không vòng vo, đáp rất thẳng thắn: “Làm lợi cho người”.

Lông mày của Chiêu Doãn nhướng lên.
 
Quyển 2 - Chương 61


“Cái gọi là làm lợi cho người, tức là có lợi đối với người khác. Nói dễ hiểu hơn chính là sự tồn tại của bản thân có ích với người khác”.

“Nói tiếp đi”.

“Hoàng thượng, theo người tại sao con hổ luôn sống đơn độc?”.

Chiêu Doãn ngẫm nghĩ: “Hừm… vì nó mạnh mẽ?”.

“Vậy tại sao loài người mạnh hơn loài hổ lại quần cư?”.

Chiêu Doãn chưa trả lời, Khương Trầm Ngư đã lập tức đưa ra lời giải thích: “Bởi, loài người vì muốn bảo vệ cho nhau, yêu thương lẫn nhau nên đã ở cùng một chỗ, mới có thể sáng tạo ra chủng tộc đời đời tiếp nối, vạn cổ văn minh”.

Chiêu Doãn ngẩn người nhìn nàng, không biết là vì chấn động hay là vì tán thành.

“Những năm cuối triều Tần tổng cộng có hơn 2000 vạn người, nhưng đến đầu thời Hán chỉ còn lại hai, ba nghìn hộ, thậm chí xuất hiện cảnh ‘thiên tử không có xe bốn ngựa để đi, thừa tướng ngồi xe trâu, dân chúng không có cái ăn cái mặc’. Thời Tam Quốc, chiến sự liên miên, sau trận Xích Bích chỉ còn 90 vạn người. Thời Đường Vũ Tông, đất nước có 496 vạn hộ, nhưng đến thời Chu Thế Tông chỉ còn 120 vạn hộ… Có thể nói như thế này, mỗi lần chiến tranh sẽ khiến dân số giảm đột ngột lại dẫn đến nền kinh tế, văn minh của thời kỳ đó trở nên trống rỗng. Khi nhân loại không còn tương trợ lẫn nhau, khi nhân loại bắt đầu tàn sát lẫn nhau, xã hội không những ngừng tiến lên phía trước, mà thậm chí còn thụt lùi. Vì thế, là một phần tử trong dòng chảy lịch sử mênh mang, cho dù có nhỏ nhoi biết mấy, thần thiếp cũng nên có ích cho người khác, có ích với đời - Đây chính là đáp án mà thần thiếp kiếm tìm”.

Chiêu Doãn trầm ngâm rất lâu, sau đó hít một hơi thật sâu, nói nhỏ: “Nàng… trưởng thành rồi. Trầm Ngư”.

Nữ tử trước mắt đã không còn là cô thiếu nữ tóc búi lệch, tự mình dâng thư tiến cử trước mặt y thưở nào nữa, mà nói năng đĩnh đạc, toàn thân tỏa ra hào quang trí tuệ khiến người ta không dám coi thường. Khương Trầm Ngư khi đó có lẽ chỉ là to gan mà thôi, còn Khương Trầm Ngư của bây giờ lại có trí tuệ ở tầng cao hơn, nghiễm nhiên sánh ngang với Cơ Anh.

Nhớ đến Cơ Anh, lòng Chiêu Doãn lại nhói đau, y bỗng buột miệng: “Cơ Anh… hắn đi có nhanh không?”.

Khương Trầm Ngư nhìn y chằm chằm, bất động một lúc.

Chiêu Doãn bị ánh mắt của nàng chiếu thẳng, bỗng cảm thấy gai người, vô thức nói: “Sao thế?”.

Rèm mi của Khương Trầm Ngư run run một lát, rồi bằng một giọng điệu trấn tĩnh lạ thường mà lại có chút lạnh lùng, nàng nói: “Mặt của Kỳ Úc hầu, chẳng phải hoàng thượng đã nhìn thấy rồi sao?”.

Chiêu Doãn kinh ngạc, câu thứ hai của Khương Trầm Ngư nối tiếp ngay sau đó: “Còn như vì sao ngài ấy phải ra đi, hoàng thượng và thần thiếp đều biết rõ nhất… phải không?”.

Câu nói này hiển nhiên đã đâm trúng nỗi đau của Chiêu Doãn, cơn giận bùng lên trong đôi mắt của vị đế vương trẻ tuổi, khi y đang định khiển trách phi tử vô lễ thì lại kinh ngạc nhìn thấy hai hàng nước mắt trong suốt không một tiếng động, không chút sức sống trào ra khỏi đôi mắt, lăn dài trên gương mặt nàng. Rõ ràng Khương Trầm Ngư đang khóc, nhưng không phải đau thương, mà giống như thương xót.

Mà sự thương xót này lại bất ngờ làm tan biến cơn giận của Chiêu Doãn, khiến y cũng thấy thương xót.

Bởi y không thể khóc vì Cơ Anh, cho nên nhìn thấy Khương Trầm Ngư khóc, giống như nỗi bi thương của mình cũng được giải tỏa theo nước mắt của nàng; mà cũng vì y và nàng thực ra xuất phát từ hoàn cảnh giống nhau, nên càng có thể cảm nhận được giây phút này nàng có thể khóc trước mặt người khác là điều khó khăn xiết bao.

Ánh mắt Chiêu Doãn lóe sáng, từ từ đưa tay ra… Khương Trầm Ngư run run nắm lấy.

Tay hai người nhẹ nhàng nắm lấy nhau như thế.

Tay của Chiêu Doãn lạnh lẽo, không giống như tay của Cơ Anh - lúc nào cũng ấm áp, khiến người ta cảm nhận được một sức mạnh vững chãi và hiền hòa. Thế nhưng, đây lại là cánh tay cao quý nhất, quyền lực nhất thiên hạ Bích quốc ngày nay.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn ngón tay của mình và y đan vào nhau, ánh mắt sâu thăm thẳm, trào dâng những cảm xúc khó hiểu, khoảnh khắc sau, nàng ngẩng đầu, mỉm cười rạng rỡ với Chiêu Doãn.

Thế là Chiêu Doãn cũng cười, nắm tay nàng tiếp tục đi về phía trước.

Khương Trầm Ngư khẽ nói: “Hoàng thượng…”.

“Hả?”.

“Sư Tẩu chết rồi”.

“Ừ”. Đến lông mi cũng chẳng buồn động đậy, về tình hình của hai ám vệ, Chiêu Doãn đương nhiên đã biết từ lâu: Nghe nói tên xui xẻo vì bảo vệ Khương Trầm Ngư mà mất một cánh tay hai cái chân, sau khi hấp hối trên giường một tháng trời, cuối cùng đã chết trên đường về đế đô.

“Nàng còn cần ám vệ à? Vậy cấp cho nàng hai tên nữa”.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu nói: “Hoàng thượng còn có thể cho thần thiếp xuất cung nữa không?”.

Chiêu Doãn hỏi vặn lại: “Nàng muốn xuất cung sao?”.

Khương Trầm Ngư không hề do dự trả lời: “Muốn”.

Chiêu Doãn nhìn nàng, lại cười, giọng điệu có chút yêu chiều nói: “Cũng không chịu an phận nhỉ”. Dừng một lát, lại tiếp: “Có điều đúng là không nên nhốt nàng. Hoàng cung này… thực sự quá nhỏ”.

Khương Trầm Ngư lờ mờ nhận ra gì đó trong lời nói của y, không kìm được hỏi: “Hoàng thượng cũng muốn ra ngoài?”.

Trong tích tắc ánh mắt Chiêu Doãn hơi sầm lại: “Không. Trẫm không đi”.

Tuy sắc mặt y không vui, nhưng có thể cảm thấy y tức giận như vậy không phải là vì nàng đã hỏi điều không nên hỏi, mà dường như là vì câu hỏi không thể trả lời đó khiến y bực bội với chính mình.

Chiêu Doãn… hình như… chưa bao giờ ra khỏi hoàng cung thì phải?

Khi y dung túng cho nàng ra ngoài va chạm với mọi thứ, có phải là y đang gửi gắm vào nàng một phần khát vọng mà mình không thể thực hiện được hay không?

Nghĩ đến điểm này, trong lòng Khương Trầm Ngư giây phút ấy không biết có cảm giác gì.

“Ngày mai, hãy cùng trẫm thiết triều sáng đi”. Chiêu Doãn bỗng nói.

Khương Trầm Ngư sững người, lập tức đáp: “Thưa vâng”.

Cái gọi là “cùng” của Chiêu Doãn không phải cùng y xuất hiện, là quân sư cho hoàng đế, khi đế vương lên triều, nàng phải đứng trong phòng tối ở bên cạnh lắng nghe. Mà Hàn lâm bát trí đã chết cả trước đó, bây giờ chính là lúc chọn người mới. Chiêu Doãn nói như thế, rõ ràng ám chỉ nàng sẽ là một trong số đó.

Đây… có được coi là được công nhận không?

Khóe môi Khương Trầm Ngư nhếch lên một nụ cười chua chát, vốn là một chuyện đáng vui mừng, nhưng vì nguyên nhân dẫn đến việc nàng bước lên con đường làm mưu sĩ này đã tiêu vong, nên niềm vui ấy đã biến thành nỗi đau thương vô cùng.

Nhớ ban đầu, nghìn lần cứng cỏi, vạn phần chấp niệm, đều là vì người ấy.

Mà nay “muốn phép Ma Cô thay thương hải, một chén sương xuân lạnh giá này”[1]… nàng chợt nhớ đến một chuyện, liền vội buông tay Chiêu Doãn. Chiêu Doãn sửng sốt quay đầu lại thấy nàng rút một cuốn sổ nhỏ từ trong người ra, cung kính dâng lên: “Không thể hoàn thành nhiệm vụ hoàng thượng giao phó, xin hoàng thượng trách tội”. Nói đoạn quỳ sụp xuống đất.

[1] Bài “Yết sơn” của Lý Thương Ẩn, Hoàng Giáp Tôn dịch. Ma cô là tiên nữ, tự xưng có thể làm cho biển xanh biến thành nương dâu trong thời gian ngắn, vì thế nhà thơ nhận định rằng biển xanh thuộc về Ma Cô, muốn hỏi xin mua cả biển xanh, tức là có thể chiếm trọn thời gian, không còn hận vì thời gian khiến mọi thứ đổi thay nữa, nhưng tiếc thay không thể, biển lớn đã biến thành chén nước sương lạnh giá của mùa xuân.

Chiêu Doãn cầm lấy cuốn sổ, mở ra nhìn lướt, nhíu mày nói: “Thuật luyện thép của Trình quốc… Nàng đang xin trẫm ban thưởng cho nàng sao?”.

“Không thể hỏi cưới được công chúa, là thần thiếp thất trách…”.

“Được rồi”. Chiêu Doãn kéo nàng đứng dậy, đuôi mày khóe mắt đều tươi cười: “Ả Di Thù đó ai cũng có thể lấy làm chồng, chỉ giỏi cắm sừng người khác, sao trẫm nỡ chà đạp Giang ái khanh và Phan ái khanh”.

Khương Trầm Ngư nghe y nhận xét Di Thù như vậy, biết rõ là chê bai, nhưng vẫn không nhịn được cười “phì” thành tiếng.

Cứ vừa đi vừa nói chuyện vừa cười như thế cho đến Dao Quang cung, Chiêu Doãn mới buông tay, nói: “Nàng đi đường xa chắc là mệt rồi, quay về nghỉ ngơi đi”.

Khương Trầm Ngư khấu bái rồi quay người đi vào cổng cung. Vừa bước vào cổng liền chạm phải một đôi mắt âm u lạnh lẽo, giống như mắt loài sói vậy.

Khương Trầm Ngư sững ra một lát mới phản ứng lại: “Tỉ tỉ?”.

Người đó chậm rãi bước ra, ánh đèn phía trước hành lang chiếu xuyên qua bóng cây loang lổ, rớt xuống khuôn mặt trắng bệch không chút huyết sắc, chiếu rõ ánh mắt của nàng ta đang tỏa ra oán hận - quả nhiên là Họa Nguyệt.

“Tỉ tỉ?”. Khương Trầm Ngư nắm lấy tay nàng ta theo bản năng, nhưng bị nàng ta gạt phắt ra. Khương Họa Nguyệt chẳng thèm nói gì, chỉ lạnh lùng trừng mắt nhìn nàng… rồi rảo bước rời đi.

Bấy giờ, Ác Du mới từ trong nhà chạy ra, sắc mặt lo lắng, thấp giọng nói khẽ: “Đại tiểu thư đến đã chừng nửa tuần nhang rồi, đang định đi thì nhìn thấy…”.

Khương Trầm Ngư tuyệt vọng nhắm mắt lại.

Tỉ tỉ nhất định là nghe nói mình hồi cung lại nghĩ tới tin đồn “Thục phi nhiễm bệnh, đưa đến Bích Thủy sơn trang tĩnh dưỡng” trước đây, lo lắng nàng chưa hồi phục, nên vội vàng muốn đến hỏi thăm. Chẳng ngờ lại bắt gặp cảnh hoàng thượng đích thân đưa nàng về cung, còn nắm tay trò chuyện cười nói suốt dọc đường… Cho nên, vốn từ lo lắng đã trở thành căm hận đố kỵ, mới lườm nàng bằng ánh mắt tràn ngập hận thù như thế.

Nhất thời, trái tim nàng nặng trĩu, ngàn cảm xúc khó nói thành lời, Ác Du lại nói thêm một câu càng khiến nàng khó mà bình tĩnh nổi: “Còn nữa tiểu thư… lão gia cũng đến rồi, đang đợi tiểu thư ở trong phòng”.

Khương Trầm Ngư quay đầu nhìn bóng người cao gầy đang đứng phía trong cột cửa chạm khắc rồng phượng, thoáng thấy văn nhược giản dị, giống như một thư sinh trung niên bình thường, nhưng trên thế gian này, không có ai hiểu rõ người đó hơn nàng…

Người này mới là Dạ đế thực sự của Bích quốc.

Hữu tướng đương triều – Khương Trọng.

Phụ thân… của nàng.

Ve mùa thu kêu ra rả.

Ô cửa sổ bằng lụa màu xanh biếc đóng im ỉm, bên trong nhà buông rèm thật thấp, ánh nến trong chiếc đèn hình rồng cuộn bằng sứ trắng cháy sáng chiếu rõ đồng tử của Khương Trầm Ngư giống như một ngọn lửa sáng rực.

Nàng nhẹ nhàng nhấc chiếc chụp đèn, khêu nhẹ bấc đèn bằng cái khêu vàng cán dài, rồi lại đậy chụp đèn bằng thủy tinh lại, mặt nàng hơi cúi xuống, mang theo một chút lười biếng hờ hững, không để tâm.

Trong phòng im ắng đến khó tả.

Cho đến khi Hoài Cẩn bưng trà vào, mùi thanh mát của loại danh trà cực phẩm theo làn gió nhẹ bay tới cùng giọng nói ngọt ngào của Hoài Cẩn phá vỡ bầu không khí gượng gạo: “Lão gia, đây là trà cúc Đại Khê mang từ Trình quốc về, mời lão gia thưởng thức”.

Khương Trọng cười nói: “Được”. Nói đoạn nhấp một ngụm, thong thả bảo: “Mùi vị này thật khiến người ta nhớ mãi… Nhớ lần trước ta đến Trình quốc uống loại trà này, đã là chuyện của hơn mười năm trước rồi…”.

Khương Trầm Ngư nhếch môi nói: “Phụ thân đại nhân muốn uống trà của Trình quốc, cũng chỉ cần nói một câu thôi. Lẽ nào vị cựu thành chủ Hồi thành thông quyền đạt biến, khi về kinh bái kiến ân sư, đến món lễ vật cũng không có hay sao?”.

Khương Trọng bị nàng mỉa mai nhưng cũng không tức giận, chỉ cười nhạt: “Hắn có đem lễ vật đến hay không, chẳng phải con rõ nhất hay sao? Thiên hạ ngày nay, chẳng có thứ gì khiến ta thích thú hơn món lễ vật đó”.

Bàn tay đang giữ chiếc khêu của Khương Trầm Ngư bỗng dừng giữa không trung, lòng bàn tay như đang bị đốt giữa đống lửa, cảm giác bỏng rát đến mức chiếc khêu cũng bị nung chảy.

Lễ vật mà phụ thân nói chính là Cơ Anh.

Rõ ràng đến thời khắc đàm phán quan trọng, bất cứ sự khiếp nhược nào cũng biến thành lý do thất bại, thế nhưng, Cơ Anh vẫn là điểm yếu của nàng. Mà Khương Trọng hiển nhiên biết rõ điểm này, cho nên, mới không hề sợ hãi, tự tin có thừa.

Con người này… lại là phụ thân của nàng.

Con người này… tại sao lại là phụ thân của nàng?

Vết thương trong sâu thẳm cõi lòng, một lần nữa lại vỡ òa, máu chảy ào ạt, còn Khương Trầm Ngư phải đè nén nỗi đau xé gan xé phổi xuống chằm chằm nhìn Khương Trọng, nhẹ nhàng nói: “Vậy phụ thân có biết, món lễ vật mà phụ thân thích nhất đã có thể giết chết con gái của người - là con hay không?”. Khương Trọng nheo mắt lại, trầm giọng nói: “Con trưởng thành rồi, Trầm Ngư. Cho nên, con biết, con có thể chết, nhưng, con sẽ không chết”.

Khương Trầm Ngư không khêu được bật cười, cười được nửa chừng lại biến thành phẫn nộ, cuối cùng đặt chiếc khêu xuống mặt bàn “cạch” một tiếng, quay người đứng phắt dậy hét lên: “Bởi vì con không thể chết, cho nên phụ thân đại nhân có thể thoải mái làm tổn thương con, hủy hoại con, giày vò con phải không?”.

Khương Trọng không do dự vung tay tát thẳng vào mặt nàng.

Hoài Cẩn đứng bên cạnh chứng kiến cảnh tượng này, sợ đến mức chiếc khay trong tay rớt xuống đất.

Khương Trọng cũng không buồn quay lại mà dặn dò: “Hoài Cẩn, ra ngoài canh cửa, không cho phép bất cứ người nào vào”.

Hoài Cẩn nhìn ông ta, rồi lại nhìn Khương Trầm Ngư ngã nhoài trên mặt đất vì ăn một cái tát đó, do dự mấy hồi rồi vẫn lui ra.

Cửa phòng đóng chặt, hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài. Ban đêm nóng bức, ánh nến nhảy nhót. Ánh mắt Khương Trầm Ngư vô hồn nhìn mặt đất lạnh như băng giá, má phải đau rát nhắc nhở nàng đây là cái tát đầu tiên trong cuộc đời nàng, hơn nữa, người đánh nàng không phải ai khác mà chính là phụ thân của nàng.

Khương Trọng bước đến trước mặt nàng, từ trên cao nhìn xuống, ra lệnh: “Ngẩng đầu lên”.

Khương Trầm Ngư chầm chậm ngẩng đầu lên, bởi nhìn ngửa, cho nên gương mặt phụ thân lại càng uy nghiêm khôn xiết. Mà sự uy nghiêm này, suốt mười lăm năm qua, nàng chưa từng thấy. Hay nói cách khác, ông chưa bao giờ bộc lộ với nàng.

Có phải khi đối mặt với thuộc hạ ông cũng như thế này không?

Những cỗ máy giết người tình cảm thì tê liệt mà thân thủ siêu phàm đó, đều được con người này huấn luyện ra chăng?
 
Quyển 2 - Chương 62


Nực cười biết bao, mỉa mai biết bao, suốt mười lăm năm, đến tận ngày hôm nay, nàng mới nhìn ra bộ dạng thực sự của ông…

“Trầm Ngư, đây là lần thứ mấy cha đánh con?”.

Khương Trầm Ngư thành thực trả lời: “Lần đầu tiên”.

“Thế con có biết tại sao cha phải đánh con không?”.

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi: “Bởi vì… con không nghe lời”.

Khương Trọng lắc đầu: “Sai rồi, cha đánh con là vì con không nhìn rõ bản thân mình!”.

Khương Trầm Ngư rúng động trong lòng.

“Con nhìn nơi này xem, Trầm Ngư, nhìn xung quanh xem”. Khương Trọng dang rộng hai cánh tay, xoay nửa vòng: “Nhìn bàn trang điểm trạm ngọc lưu ly này, nhìn chiếc gối ngọc thêu phượng này, cây đàn Hiệu Chung này… Đây là hoàng cung! Trầm Ngư, đây là hoàng cung, không phải là khuê phòng thiên kim tiểu thư Khương gia nhà con! Còn con, sở dĩ có thể ở nơi này, vì con là phi tử của hoàng đế, đây là sự thực không thể thay đổi được! Con tưởng mình còn có thể tiếp tục nối mối tiền duyên với Cơ Anh sao? Nói cho con hay, đừng mơ, kể từ phút bước chân của con giẫm lên đất của hoàng cung là con đã không thể dây dưa với Cơ Anh và bất cứ nam nhân nào nữa! Nhưng rõ ràng con đã quên mất điều này, chuyến đi Trình quốc con đã gây cho ta biết bao nhiêu thị phi? Cơ Anh thôi cũng được, Hách Dịch là thế nào? Di Phi là thế nào? Con tưởng những chuyện này ta có thể biết còn hoàng thượng thì không thể biết sao? Con tưởng là bây giờ hoàng thượng và con vui vẻ hài hòa là trong lòng hoàng thượng không để ý chút nào sao? Rốt cuộc là cái gì làm mờ mắt con? Con gái của ta! Trầm Ngư mà cha luôn tự hào nhất!”.

Mắt Khương Trầm Ngư lập tức đỏ lên, nàng nói rành rọt: “Con gái tự vấn, tấm lòng ngay thẳng, không hổ với trời đất!”.

“Thế còn Cơ Anh thì sao?”. Đồng tử của Khương Trọng co lại: “Con dám nói đối với hắn, con cũng không thẹn với lòng không?”.

Khương Trầm Ngư sững ra, sau đó, đột nhiên bắt đầu cười lạnh, vừa cười vừa lảo đảo đứng dậy: “Con đối với Cơ Anh… tại sao phải hổ thẹn? Tại sao? Con vốn rất thích chàng. Từ hai năm trước con đã thích chàng rồi. Không, từ khi con hiểu được chữ ‘Tình’ là thế nào, thì trong mắt con đã chỉ có chàng…”.

“Con… không biết xấu hổ!”.

“Cho dù thân phận của con không xứng với chàng như thế nào, cho dù con và chàng vì gia tộc và hoàng thượng mà không thể kết hôn, cho dù thân con là nữ nhân của hoàng thượng không thể hai lòng… Nhưng, con vẫn khẳng định, con không hổ thẹn! Bởi vì, Cơ Anh không giống các người!”.

“Con”. Khương Trọng tức đến nỗi mặt đỏ phừng phừng.

Trái lại Khương Trầm Ngư càng lúc càng trấn tĩnh: “Nhìn lại mình đi, phụ thân, cha nhìn lại cha xem. Cha ở trong triều ba mươi năm, thân là phụ mẫu của muôn dân, là rường cột của quốc gia, cha đã làm được những gì? Hãy nhìn lại chính tích của cha xem: Lũ lụt Khuê Hà, Tiết Hoài đích thân dẫn tướng sĩ đến phát chẩn cho dân gặp nạn, ba tháng ròng rã cùng ăn ở với dân chúng trong lều cỏ; Cơ Anh phụ trách hậu cần. Còn cha? Cha đang làm gì? Cha đang bận huấn luyện đám tử sĩ của mình. Ôn dịch ở Hoài Bắc lan rộng, là Cơ Anh đi trị; thư sinh kết bè kết đảng làm loạn, là Cơ Anh đi khuyên ngăn; núi tuyết ở Đồng Hương sạt lở, là Cơ Anh đi cứu… Khi quốc gia lâm nguy, khi dân chúng không biết nương tựa vào đâu, cha đang làm gì? Cha vẫn đang huấn luyện đám tử sĩ của cha. Không sai. Cha đã bồi dưỡng ra tử sĩ xuất sắc nhất thiên hạ, nhưng những tử sĩ đó từ đâu ra? Họ vốn dĩ là những đứa trẻ được cha mẹ yêu thương, được người thân che chở; nhưng từ nhỏ đã bị đòn ron đánh đập, huấn luyện bằng những phương thức tàn khốc nhất, chết biết bao người mới có thể đào tạo ra một người cuối cùng. Những ám vệ đó chẳng qua chỉ là những cỗ máy giết người biết đi đứng mà thôi. Con biết cha đã làm rất nhiều điều vì Khương gia, cha đã trả giá rất nhiều, nhưng thiên hạ đâu chỉ có một gia tộc…”.

Khương Trọng bị nhưng lời nàng nói làm cho nghẹn uất không nói nên lời.

“Phụ thân, con sinh trưởng trong nhà quan, lớn lên trong tướng phủ, từ nhỏ đến lớn luôn nhìn thấy quan lại tham ô, ích kỷ bẻ cong vương pháp, đến kẻ bị thịt như ca ca, vì là con trai của hữu tướng còn có thể nắm đại quyền trong triều… Vậy khi gặp được một người như chàng, sao con lại không thể thích được chứ? Làm thế nào để có thể không thích chàng cho được? Thích những thứ tốt đẹp có gì là sai? Yêu một nam tử phẩm đức xuất chúng có gì là sai?”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, bờ môi run rẩy, trong nháy mắt chuyển thành đau đớn thê lương: “Nhưng… phụ thân, cha giết chàng. Cha dùng thủ đoạn hạ lưu, bỉ ổi, giết chết Cơ Anh”.

Khương Trọng im lặng một lúc lâu, rồi mới lên tiếng: “Ta không thể không giết hắn”.

“Không thể không… hay cho một câu không thể không”. Khương Trầm Ngư cười lạnh: “Năm đó, cha không thể không vứt bỏ Đỗ Quyên, vì tỉ ấy bị mù, sau đó, cha không thể không giết cha mẹ nuôi của Đỗ Quyên, vì sợ lộ bí mật; lại tiếp cha không thể không cho Họa Nguyệt uống thuốc, để tỉ ấy cả đời không thể mang thai, bởi tỉ ấy không phải là con gái ruột của cha; lại sau đó của sau đó, cha không thể không đẩy con vào trong cung, bởi vì cha cần một hoàng hậu…. mỗi một bước đi của phụ thân đều là ‘không thể không’…”

“Trầm Ngư”. Khương Trọng bỗng nghiêm giọng gọi tên nàng: “Con hận ta, ta có thể hiểu được; con không chịu tha thứ cho ta, cũng không sao cả. Cả cuộc đời của ta có lẽ không lập công lao hiển hách gì cho quốc gia, nhưng đối với cả gia tộc, ta không hổ thẹn với các vị liệt tổ liệt tông”.

Khương Trầm Ngư ngoảnh đầu sang chỗ khác, chăm chú nhìn vào ánh nến trên bàn, lạnh nhạt nói: “Đúng, đây chính là sự khác biệt giữa cha và con. Cha là vì thanh danh của Khương thị, là vì sự vinh quang của dòng dõi. Còn con…”. Nàng quay đầu lại, nhìn thẳng vào phụ thân của mình, nói rành rọt từng chữ: “So với chữ ‘Nhà”, con coi trọng chữ ‘Người” hơn. Đỗ Quyên, Họa Nguyệt, biết bao nhiêu người vốn dĩ có thể có cuộc đời hạnh phúc; nhưng một tay phụ thân đã hủy hoại bọn họ. Con là con của cha, con họ Khương, cái họ này con không thể tự thay đổi, nhưng con cũng là Trầm Ngư, là Trầm Ngư mà nói, con là một con người, cho nên, thứ con yêu cầu là công bằng. Làm người, sống giữa trời đất pháp lý, cái nên có chính là công bằng”.

Khương Trọng bị rúng động trước sự kiên nghị và quyết tâm toát ra từ ánh mắt của nàng, trong phút chốc, đứa con gái ông tận mắt nhìn thấy nó lớn lên bỗng trở nên thật xa lạ.

Nó rõ ràng đứng ở đó cách ông chưa đầy ba bước, mà lại giống như đứng ở một độ cao mà cả đời ông cũng không thể chạm tới, cúi nhìn ông bằng một ánh mắt cực kỳ lạnh lẽo.

Kỳ thực, nói cho cùng, Khương Trầm Ngư không hiểu ông, còn ông đã bao giờ hiểu Khương Trầm Ngư chưa?

Tay Khương Trọng không kìm được run lên bần bật.

Còn Khương Trầm Ngư đã quay người lại, chậm rãi nói: “Đêm khuya rồi, phụ thân ở đây lâu không hay, mời quay về đi”.

Khương Trọng không nén được gọi: “Trầm Ngư…”.

“Còn nữa”. Khương Trầm Ngư nói bằng một giọng điệu càng bình tĩnh hơn, càng lạnh nhạt hơn: “Về sau, xin phụ thân gọi ta một tiếng ‘nương nương’”.

Khương Trọng sững người, ngẩn ra nhìn nàng hồi lâu, cuối cùng quay lưng, im lặng mở cửa bước ra.

Cửa còn chưa đóng, Hoài Cẩn sợ sệt thò đầu vào, thấy Khương Trầm Ngư ngồi quay lưng lại không nhúc nhích, lo lắng đến bên cạnh gọi: “Tiểu thư…”.

Không thấy nàng trả lời, Hoài Cẩn bèn vòng lên phía trước lay vai nàng: “Tiểu…”, mới gọi được một tiếng, tiếng “thư” phía sau mắc nghẹn trong cổ họng, không thể phát ra được. Bởi vì, cái nàng ta nhìn thấy là Khương Trầm Ngư mở trừng trừng hai mắt, hai hàng chất lỏng đang lăn dài trên gò má trắng mịn như tuyết khiến người ta kinh tâm động phách.

Đó không phải là lệ.

Mà là…

Máu.

Đêm đó, ngoài Thục phi khóc ra máu, trong cung còn phát sinh một chuyện lớn khác. Đó chính là Hy Hòa phu nhân nhìn tưởng như đã bình tĩnh trở lại, nhưng hôm sau khi cung nữ đẩy cửa cung ra chuẩn bị chải tóc thay áo cho nàng ta bỗng phát hiện: Nàng ta thức trắng cả đêm!

Những tia nắng ban mai đầu tiên nhẹ nhàng phủ lên thân hình của Hy Hòa, nàng ta ngồi trên đất, trong tay ôm chiếc áo bào trắng của Cơ Anh, suối tóc buông xõa.

Tóc và áo bào cùng màu.

“… Đúng là tự tạo nghiệt, sao chỉ trong một đêm mà tóc bạc trắng hết…”. Vừa sáng sớm đã nghe thấy Ác Du vừa chải tóc cho Khương Trầm Ngư vừa cằn nhằn nói: “Hơn nữa còn nghe nói ả chẳng nhận ra ai hết, các cung nữ nhìn thấy bộ dạng đó của ả liền vội vàng gọi thái y đến khám cho ả, nhưng chỉ cần có người lại gần, ả liền giận dữ la hét, thấy ai là cắn người đó. Nghe nói trong một buổi sáng đã cắn bị thương ba người rồi”.

Khương Trầm Ngư hơi cau mày, nói: “Thế thái y đến khám chưa?”.

“Đến rồi ạ, nhưng cũng không có cách nào lại gần được, trong ba người bị cắn có cả Giang thái y Giang Hoài”.

Khương Trầm Ngư nghĩ một lát, nói: “Sai người đi mời Đông Bích hầu”.

“Ơ… vâng”.

“Khi nào hầu gia đến, thì đưa ngài đến Bảo Hoa cung tìm ta”. Khương Trầm Ngư nói xong liền khoác áo đứng dậy.

Ác Du trợn trừng mắt, hỏi: “Bây giờ tiểu thư cũng đến chỗ Hy Hòa phu nhân sao?”.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn bầu trời âm u sầm sì bên ngoài cửa sổ, thong thả nói một câu: “Nếu ta đoán không nhầm, hoàng thượng hôm nay sẽ không thiết triều sáng”.

Quả nhiên nàng đoán không sai.

Buổi chầu sớm đã bị hủy sau khi Chiêu Doãn hay chuyện của Hy Hòa. Còn khi Khương Trầm Ngư đến Bảo Hoa cung, Chiêu Doãn đang giận dữ mắng cung nữ: “Các ngươi coi sóc phu nhân kiểu gì hả? Nàng bạc hết tóc mà các ngươi đến sáng mới biết?”.

Hơn mười cung nữ líu ríu quỳ rạp xuống đất, kẻ đứng đầu nghẹn ngào nói: “Xưa nay phu nhân không cho chúng nô tì ở lại qua đêm. Đêm qua chúng nô tì sau khi thấy phu nhân không có chuyện gì nữa, bèn lui cả đi… Nào ngờ, phu nhân, phu nhân lại…”.

“Các ngươi là một lũ vô dụng!”. Chiêu Doãn đưa chân đá người cung nữ đó ngã lăn, hằm hằm đi đến trước Hy Hòa đang co rúm bên cạnh bàn trang điểm, tóm chặt cánh tay nàng ta, muốn kéo nàng ta ra, kết quả cũng vấp phải sự phản kháng của nàng ta như người khác.

Hy Hòa há to miệng cắn thật mạnh vào tay y.

Chiêu Doãn cũng không rụt lại, nhất quyết lôi nàng ta ra, hét lên: “Cắn đi! Cứ việc cắn đi! Trẫm muốn xem xem nàng có thể cắn đến mức nào, điên đến mức nào!”. Vừa nói vừa cưỡng ép lôi nàng ta đến trước gương, một tay tóm chặt tóc nàng ta, ép nàng ta nhìn vào gương: “Nàng nhìn xem, nàng nhìn kỹ cho trẫm xem! Nàng tưởng điên là được à? Nàng tưởng bạc trắng tóc là được à? Nói cho nàng biết, Diệp Hy Hòa, không dễ đâu! Nàng điên cũng vẫn là người của trẫm, nàng xấu cũng vẫn là phu nhân của trẫm. Cuộc đời này của nàng, còn khuya mới kết thúc!”.

Y đẩy thật mạnh Hy Hòa ngã dúi dụi xuống đất, nàng ta nước mắt nước mũi nhòe nhoẹt, kêu gào khóc lóc ầm ĩ.

Giang Hoài bên cạnh nhìn thấy mà tim đập chân run, vội vàng tiến lên kiểm tra tay của Chiêu Doãn, chỉ thấy hai dấu răng in sâu ở cổ tay, đã bắt đầu rỉ máu. Vết cắn này quả thật không nhẹ chút nào.

“Xin hoàng thượng cho phép thần băng bó”. Giang Hoài vừa quỳ xuống vừa vội vàng lấy băng gạc và thuốc mỡ từ trong hòm thuốc ra để băng bó cho Chiêu Doãn.

Chiêu Doãn lại đẩy ông ta ra, đến trước mặt Hy Hòa lần nữa. Lần này Hy Hòa đã khôn ngoan hơn, không đợi y đến gần đã trốn phía sau, vừa trốn vừa đá, không cho y lại gần.

Khương Trầm Ngư thu hết thảy vào trong tầm mắt, trong lòng không kìm được tiếng thở dài: Thật khó coi quá… Chiêu Doãn và Hy Hòa như thế này, đều khó coi…

Bấy giờ thái giám bên ngoài cao giọng hô to: “Đông Bích hầu đến…”.

Phút sau, Giang Vãn Y vội vàng xuất hiện trước cửa, nhìn thấy cảnh tượng này, hắn cũng ngẩn ra một lát, nhưng lập tức tiến lên nói: “Hoàng thượng, đừng như thế, hoàng thượng…”.

“Buông ta ra”. Chiêu Doãn hất tay hắn ra, tiếp tục tóm chân Hy Hòa, còn Hy Hòa vừa đạp vừa khóc, tiếng kêu gào thảm thiết khiến người ta chói tai nhức óc.

Giang Vãn Y khuỵu chân, quỳ xuống đất, gấp gáp nói: “Hoàng thượng, xin cho vi thần thời gian ba ngày, để phu nhân bình thường trở lại!”.

Chiêu Doãn lập tức ngừng lại, liếc mắt nhìn Giang Vãn Y, Giang Vãn Y ra sức dập đầu, mồ hôi trên trán túa ra như tắm.

Chiêu Doãn lạnh lùng “hừ” một tiếng, thu tay lại đứng lên nói: “Được, trẫm cho ngươi ba ngày. Ba ngày sau, nếu Hy Hòa phu nhân không thể hồi phục, ngươi biết sẽ có hậu quả gì rồi đấy”.

Giang Vãn Y vái lạy một cái.

Chiêu Doãn lại nhìn Hy Hòa, đối diện với sự giải vây của Giang Vãn Y và sự đe dọa của y, Hy Hòa vẫn không hề có chút cảm giác nào, chỉ co rúm không ngừng khóc trong xó tường, nước mắt nước mũi tèm lem hết gương mặt, bộ dạng không biết khó coi đến chừng nào.

Sắc mặt y càng lúc càng thâm trầm, không nói một lời đã quay người bước đi, khi ngang qua Khương Trầm Ngư, mặt không biểu cảm nói:

“Đi theo trẫm”.

Tuy Khương Trầm Ngư rất muốn ở lại để xem Giang Vãn Y chữa trị cho Hy Hòa như thế nào, nhưng nghe Chiêu Doãn nói như vậy cũng đành đi theo y.

Sắc trời bên ngoài càng lúc càng âm u, mây giăng tầng tầng lớp lớp, xem ra khó tránh khỏi sẽ có một trận mưa rào. Gió cũng rất to, thổi tung tay áo và tóc bay hất ra phía sau. Khương Trầm Ngư không kìm được đưa tay lên giữ chặt lấy tóc, đồng thời lúc đó Chiêu Doãn đưa chân lên đá bay một bồn hoa mẫu đơn vốn được đặt ngay ngắn bên đường, không hề cản lối đi.

“Choang” một tiếng, bồn hoa vỡ tan.

Đám thị vệ và thái giám nhìn thấy hoàng thượng tâm trạng không vui, vội vàng tránh ra thật xa.

Khương Trầm Ngư nhìn bồn hoa xui xẻo đó, khe khẽ thở dài, không ngờ chạm phải ánh mắt hằm hằm của Chiêu Doãn, bèn tiến lên phía trước tìm một chiếc bồn rỗng, đặt cây mẫu đơn ngả nghiêng vào trong chiếc bồn mới, cẩn thận vùi đất.

Việc này mất một thời gian chừng nửa tuần trà, trong thời gian đó, Chiêu Doãn lạnh lùng đứng bên nhìn, không nói một lời.

Cho đến khi Khương Trầm Ngư làm xong, đang định đứng dậy thì y tiến lên mấy bước, lại giơ chân, đá vỡ bồn hoa đó.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, Chiêu Doãn nheo mắt nhìn nàng, ánh mắt thách thức, dường như đang nói: “Xem nàng làm thế nào?”.

Trái lại Khương Trầm Ngư không nói gì, lại lần nữa lặng lẽ lấy một chiếc bồn không chuyển cây mẫu đơn vào, làm xong, ngẩng đầu nói khẽ: “Hoàng thượng, còn đá không?”.

Ánh mắt Chiêu Doãn lóe sáng, y đột nhiên quay người bỏ đi.

Khương Trầm Ngư lập tức phủi sạch bùn đất trên tay, đứng dậy theo sau.

Chiêu Doãn đi rất nhanh, không lâu sau đã đến thư phòng, La Hoành rảo bước lên trước mở cửa, y tiến vào trong dặn dò: “Cho Khương Trầm Ngư vào trong, người khác đều đợi ở ngoài cửa”.

“Dạ”. La Hoành dè dặt đóng cửa lại.

Trong thư phòng chỉ còn lại hai người bọn họ. Bên ngoài gió thổi vù vù khiến giấy dán cửa sổ kêu phật phật, trong phòng càng lúc càng trở nên lạnh lẽo. Vì không thắp đèn, ánh sáng lờ mờ, nên Khương Trầm Ngư chỉ thấy gương mặt nghiêng của Chiêu Doãn, trong ánh sáng yếu ớt nhìn lại càng u uất hơn.

“Vì sao nàng không sợ trẫm…?”. Trong tĩnh lặng, cuối cùng Chiêu Doãn đã lên tiếng.

Khương Trầm Ngư nghĩ một lát, hỏi ngược lại: “Ý hoàng thượng chỉ bồn hoa mẫu đơn ban nãy à?”.
 
Quyển 2 - Chương 63


Chiêu Doãn “hừ” một tiếng, coi đó là câu trả lời khẳng định.

“Có lẽ là vì… so với cơn thịnh nộ lúc hoàng thượng đá vỡ nó, thiếp còn nhìn thấy sự thương xót thoáng qua trong đáy mắt hoàng thượng khi nó rơi xuống”.

Chiêu Doãn hơi kinh ngạc quay người lại, nhìn thẳng vào nàng.

“Loài hoa hoàng thượng thích nhất là mẫu đơn, mấy bồn hoa đó đều là thợ làm vườn dốc sức chăm bón, ngày đêm chăm sóc mới có được, trong lòng hoàng thượng đương nhiên cũng biết rằng chúng rất quý giá. Cho nên hoàng thượng đá chúng nhưng lòng lại đau… Mà hoàng thượng đã đau lòng, thần thiếp đi cứu thì cũng là chuyện nên làm, cho nên, có gì đáng sợ đâu?”. Nói đến đây, Khương Trầm Ngư mỉm cười, đổi sang giọng điệu khác, thong thả nói tiếp: “Có điều, bồn hoa đá vỡ rồi, có thể trồng lại, nhưng nếu người bị hủy hoại, e rằng khó cứu… Xin hoàng thượng cân nhắc”.

Gương mặt Chiêu Doãn khi nghe nửa đoạn đầu vốn dĩ đã giãn ra một chút, nhưng khi nghe đến câu cuối cùng, lập tức nặng nề trở lại: “Nàng đang giáo huấn trẫm?”.

“Thần thiếp không dám”. Khương Trầm Ngư nhẹ nhàng nhấc gấu váy, yểu điệu quỳ xuống, khi ngẩng đầu mắt đã loang loáng nước như sắp khóc: “Hoàng thượng có biết trong chuyến đi Trình quốc, ngoài thế giới rộng lớn, thần thiếp còn cảm nhận được gì không?”.

“Cảm nhận gì?”.

Khóe môi Khương Trầm Ngư hiện lên một nụ cười khổ, thêm ba phần buồn bã, bốn phần thê lương, năm phần thương cảm, kết đọng thành mười hai phần dịu dàng: “Đó chính là sinh mệnh nhỏ nhoi”.

Trong mắt Chiêu Doãn có một thứ tình cảm nào đó lướt qua, rồi lại chìm lắng.

“Ngươi tưởng rằng người đó không gì là không thể làm được, lớn mạnh vô cùng, nhưng chỉ nháy mắt thôi đã chết đi trong lạnh lẽo; ngươi tưởng rằng thái bình thịnh thế, thiên luân yên lành, phút sau đã là đao quang kiếm ảnh, chiến sự liên miên… phút này còn cầm trong tay, phút sau đã vỡ nát; ngày hôm qua còn mỉm cười với ngươi, ngày hôm nay đã thành một cái xác khô… Có câu cổ ngữ mà chúng ta ai cũng biết, nhưng trước khi chính bản thân mình trải qua, lại chẳng bao giờ biết coi trọng, đó chính là trân quý lấy người trước mắt mình”.

Trong bóng sáng mờ tối, giọng nói trong trẻo mềm dịu không nhiễm bụi trần của nàng cùng tình cảm hàm súc, sâu đậm mà ý tứ xa xôi trong đó khiến người ta không khỏi động lòng, không khỏi cảm thấy đồng cảm một cách sâu sắc. Vì thế, sau một lúc lâu trầm ngâm im lặng, Chiêu Doãn cũng không nói gì, chỉ giơ tay ra trước mặt Khương Trầm Ngư.

Khương Trầm Ngư cung kính cầm lấy.

Y kéo nàng đứng dậy. Đợi Khương Trầm Ngư đứng vững xong, Chiêu Doãn buông tay xoay người đi đến bên cửa sổ, đẩy cửa sổ ra, không khí ẩm ướt ùa vào, sấm bên ngoài giật đùng đùng, những hạt mưa to như hạt đậu rơi xuống mặt đất, bong bóng mưa thi nhau nổi lên.

“Trầm Ngư…”. Chiêu Doãn chăm chú nhìn tầng mây đen kịt ở phía xa, thấp giọng nói nhỏ: “Nghe nói nàng và phụ thân nàng… đoạn tuyệt rồi”.

Mặt Khương Trầm Ngư nhanh chóng biến sắc.

Quả nhiên… trong hoàng cung, không chuyện gì là có thể giấu được tai mắt của hoàng đế sao?

Chiêu Doãn quay đầu nhìn nàng, ánh mắt sáng long lanh có thần, sáng đến kỳ lạ: “Khương Trọng một lòng muốn đưa nàng lên ngôi hoàng hậu, nhưng không ngờ chuyện không như ý, ngược lại còn kích thích lòng phản nghịch của nàng”.

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, gương mặt trắng bệch, một lúc sau mới mở miệng: “Cuộc đời của thiếp… là của chính thiếp”.

“Hay!”. Chiêu Doãn vỗ tay cười to: “Hay cho câu ‘cuộc đời của thiếp là của chính thiếp’. Khương Trầm Ngư, trẫm quyết định rồi. Trẫm sẽ vì nàng làm một việc, đó là ban thưởng cho nàng. Mà thứ trẫm ban thưởng cho nàng chính là…”.

Ầm ầm…

Một tia sét rạch vỡ bầu trời.

Khương Trầm Ngư sững sờ nhìn Chiêu Doãn trước cửa sổ, phía sau lưng y là mưa to dữ dội, ống tay áo có thêu hình rồng vàng năm móng bay phần phật, mặt của y hơi rõ nét lại hơi mơ hồ… y… nói gì nhỉ?

Chiêu Doãn, y… vừa nói gì…?

Ngày mùng chín tháng chín, Đồ Bích năm thứ tư, trên điện đường, hoàng đế quyết ý chọn Thục phi Khương thị làm hậu, quần thần khen phải.

“Đồ Bích, Hoàng hậu truyện”

Kể từ khi hoàng hậu cũ là Tiết Mính bị phế, trong suốt một thời gian dài, các triều thần rất lo lắng, sợ Chiêu Doãn sẽ phong Hy Hòa làm hậu. Mà trên thực tế, một loạt hành động của Chiêu Doãn sau đó cũng rất giống với nỗi sợ của đám quần thần. Trước tiên là để Giang Hoài và Hy Hòa nhận họ hàng, sau phong Giang Vãn Y tước hầu; lại phái Giang Vãn Y đi sứ Trình quốc lập công… Thấy lần này Giang Vãn Y thuận lợi quay về, gia quan tân tước chỉ là chuyện nay mai, thế mà trong giờ phút quan trọng này, Hy Hòa lại phát điên!

Đương nhiên tin đồn về việc tại sao Hy Hòa phu nhân phát điên thì mỗi người một phách, càng nói càng không ra sao, nhưng tâm ý của hoàng thượng với nàng ta như thế nào thì ai cũng biết. Chính vào lúc này, hoàng thượng thiết triều sớm, đột nhiên nói muốn phong hậu, hơn nữa còn không phải Hy Hòa, mà là người trước đó không ai nghĩ tới - Khương Trầm Ngư.

Toàn bộ sự kiện này liền trở nên kỳ quặc.

Đám triều thần một nửa mang thái độ quan sát để bo bo giữ mình, một nửa đều là tư đảng của Khương Trọng đương nhiên là cực lực tán thành.

Cũng vì thế, chuyện phong hậu đã thuận buồm xuôi gió không bị cản trở.

Đối lập rõ rệt với tình hình khí thế đang lên của Khương gia là Giang thị khó khăn lắm mới ngóc đầu lên được, tuy rất nhiều người có lòng tin đối với y thuật của Giang Vãn Y, nhưng lần này, hắn lại khiến tất cả mọi người thất vọng, Hy Hòa phu nhân không những không khỏi mà còn điên loạn hơn nữa. Mới đầu chỉ là cắn người, bây giờ, đến ánh sáng cũng không dám nhìn. Chỉ có một chút ánh sáng chiếu lên người nàng ta là nàng ta điên rồ kêu thét lên, toàn thân run rẩy, các cung nữ đành phải đóng hết cửa sổ dùng vải đen che kín mít. Như thế vẫn chưa hết, cuối cùng tình trạng còn tiến triển đến mức chỉ nghe thấy tiếng bước chân người là nàng ta bị kích thích, cho nên, đành phải cắt bớt những cung nhân hầu hạ ở đó, chỉ còn lại vài người canh cửa.

“… Vẫn chưa hết đâu!”. Khi chải đầu cho Khương Trầm Ngư, Ác Du bẩm lại những tin tức mà mình lượm lặt được ở bên ngoài. “Bây giờ cả ngày ả chỉ ôm áo bào của Kỳ Úc hầu chui trong xó tường hát, mặt cũng không buồn rửa, cơm cũng không buồn ăn, đói thì vớ được thứ gì ăn thứ nấy, trên người dính đầy phân với nước tiểu”. Nói đến đây, trên mặt Ác Du lộ vẻ hả hê: “Trời ạ, mọi người có thể tưởng tượng không? Đó là Hy Hòa phu nhân - tứ quốc đệ nhất mỹ nhân đó. Sáng nay ta đến Bảo Hoa cung ngó trộm một cái, còn chưa đi đến cửa điện, đã ngửi thấy mùi thối bốc ra từ bên trong…”.

“Thế muội có nhìn thấy người không?”. Hoài Cần hỏi.

“Muội bị mùi đó làm cho choáng váng, liền chạy về để nôn rồi, đâu có chạy vào trong để nhìn…”.

Hoài Cần khẽ thở dài nói: “Thật đáng thương…”.

Ác Du “hừ” một tiếng, phản đối: “Muội cảm thấy đây là báo ứng của ả, nghe nói ban đầu là ả xúi giục hoàng thượng bắt tiểu thư tiến cung, hại tiểu thư khổ như thế này. Hơn nữa thường ngày ả đắc tội với rất nhiều người, giờ ả phát điên tất cả đều vỗ tay hả hê đó”.

Khương Trầm Ngư cau mày: “ Ác Du, không có căn cứ thì về sau không được nói những lời như ‘ta tiến cung là vì Hy Hòa xúi giục hoàng thượng’. Hoàng thượng là ai mà có thể dùng hai chữ ‘xúi giục’ để nhắc tới?”.

Ác Du bị khiển trách, nhếch miệng nói: “Vâng, biết rồi ạ…nhưng hoàng thượng vẫn rất sủng ái Hy Hòa phu nhân… Tiểu thư nói xem, bộ dạng ả giờ vừa bẩn vừa hôi, đến cung nữ thái giám hầu hạ trong Bảo Hoa cung cũng không dám ở lại, nhưng ngày nào hoàng thượng cũng đến thăm ả, mà ả hễ nhìn thấy hoàng thượng thì lại càng điên hơn, vừa khóc vừa làm ầm lên không cho lại gần, nên lần nào hoàng thượng cũng đành phải đứng ở xa nhìn một lát rồi lại đi. Haizz… đều nói đế vương vô tình, nhưng hoàng thượng của chúng ta vẫn là một hoàng thượng si tình. Nhưng đáng tiếc, đối tượng lại là Hy Hòa, thật là khiến những phi tử nương nương khác vừa hâm mộ vừa đố kỵ chết đi được”.

Khương Trầm Ngư nghe những lời bàn luận thị phi đó, không tỏ thái độ gì, nhưng trong lòng lại cười lạnh - Những phi tử ngưỡng mộ Hy Hòa đó lại không biết người đáng thương nhất có lẽ chính là Hy Hòa.

Nỗi khổ của Khương Trầm Ngư là vì yêu mà không có được; còn nỗi khổ tâm của Hy Hòa là vì yêu mà sinh hận.

Lấy tâm so tâm, Khương Trầm Ngư nàng chưa bao giờ có được công tử, khi mất công tử cũng đã đau buồn đến thế, huống hồ là Hy Hòa đã từng có, đã từng độc quyền sở hữu, thậm chí luôn luôn gắn kết với công tử?

Hy Hòa yêu Cơ Anh bao nhiêu thì cũng hận chàng bấy nhiêu, hận càng sâu tức là yêu càng nhiều. Yêu hận đan xen dồn cả vào người quan trọng nhất trong trời đất vô tận đó, bỗng một ngày người đó chết đi, bảo nàng ta phải chịu đựng cú sốc này như thế nào?

Cho nên, Hy Hòa phu nhân phát điên là điều tất nhiên.

Kỳ thực, điên cũng không có gì là không tốt.

Ít nhất, điên rồi sẽ không cần nghĩ gì nữa, không cần quan tâm đến thứ gì nữa, chỉ chìm đắm trong thế giới của riêng mình là đủ.

Nói ra, nàng cũng có chút ngưỡng mộ…

Ác Du làm bộ làm tịch thở dài thườn thượt mấy cái, nói tiếp: “Hy Hòa phu nhân cũng coi như bỏ đi, đáng thương thay cho Đông Bích hầu, xui xẻo vì ả ta”.

Bấy giờ Khương Trầm Ngư mới nhớ đến cái hẹn ba ngày, kinh hãi hỏi: “Đúng rồi, sư huynh sao rồi?”.

“Còn có thể sao nữa? Không trị khỏi cho Hy Hòa phu nhân, chỉ có thể chịu phạt thôi. Hầu gia cũng rất tự giác, sáng sớm hôm nay đã đến quỳ xin chịu tội ở bên ngoài ngự thư phòng của hoàng đế rồi”.

Khương Trầm Ngư vội vàng đứng dậy, Ác Du gọi: “Tiểu thư! Đợi đã! Cây trâm này còn chưa cài xong mà!”.

“Không cài nữa! Mau, dặn bọn họ chuẩn bị kiệu”. Để tiện cho việc nàng đến Bách Ngôn đường nghe chính sự mỗi ngày, Chiêu Doãn đặc biệt ban một cỗ kiệu cho nàng, nhưng bây giờ cảm giác chiếc kiệu này đi không đủ nhanh. Đặc biệt là, khi nàng hớt hơ hớt hải chạy đến ngự thư phòng, lại phát hiện bên ngoài điện trống không, không thấy bóng dáng Giang Vãn Y, trong lòng càng lúc càng lo lắng, vội đi tìm La Hoành lén lút hỏi thăm.

“Công công, Đông Bích hầu đâu?”.

“Ôi, Thục phi nương nương đến rồi, nô tài bái kiến nương nương…”. La Hoành làm tư thế chuẩn bị khấu bái, Khương Trầm Ngư phản ứng kịp, thuận tay tháo chiếc vòng trên tay nhét vào tay ông ta.

“Ôi chao, sao có thể để nương nương tốn kém thế…”. La Hoành giả bộ nói, nhận lễ xong mới cười híp mắt nói: “Đông Bích hầu không sao, nương nương yên tâm đi”.

Bấy giờ Khương Trầm Ngư mới trút được hòn đá tảng trong lòng xuống.

La Hoành thuật lại một lượt cả quá trình cho nàng nghe, đại thể là Đông Bích hầu tự biết không thể hoàn thành cái hẹn ba ngày, cho nên từ giờ Dần đã quỳ ở đây, còn Chiêu Doãn sau khi biết tin hắn quỳ hai canh giờ. Cho đến giờ Thìn mới hạ chỉ, nói hắn không hoàn thành nhiệm vụ, tước bỏ hầu vị, giáng chức làm thứ dân, chọn ngày xuất cung, suốt đời không được bước vào kinh thành.

Khương Trầm Ngư cả kinh, đang định nói gì đó, liền nghe thấy một tiểu thái giám từ bên trong bước ra nói: “Hoàng thượng mời Thục phi nương nương”.

Hóa ra Chiêu Doãn biết nàng đã tới.

Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, bước vào thư phòng, còn chưa bước đến giữa phòng, Chiêu Doãn ăn vận đơn giản gọn ghẽ đã được thái giám hầu hạ khoác áo choàng lên người, nói: “Nàng theo trẫm đến Bảo Hoa cung”.

“… Vâng”. Xem ra, hôm nay cũng không lên chầu sớm rồi.

Chiêu Doãn không ngồi kiệu, chỉ bước đi thật nhanh, vì thế Khương Trầm Ngư cũng chỉ có thể cắm cúi đi theo sau, giữa đường nhìn thấy Khương Họa Nguyệt từ xa, đang định chào hỏi, Khương Họa Nguyệt đã quay người rẽ sang lối khác.

Khương Trầm Ngư há hốc miệng, rất bối rối.

Chiêu Doãn bên cạnh nhìn thấy nhưng không tỏ thái độ gì, chỉ rảo bước nhanh hơn. Trong ba cung, Bảo Hoa cung gần với tẩm cung của hoàng đế nhất, vì thế, đoàn người mau chóng đến phía trước điện.

Cửa điện đóng im ỉm, hai cung nữa đang đứng bên ngoài nói chuyện, nhìn thấy bọn Chiêu Doãn, cả hai kinh ngạc, hoảng hốt quỳ xuống.

Trong đáy mắt Chiêu Doãn nổi một tia giận dữ, lạnh lùng quát: “Mở cửa”.

Một cung nữ sợ sệt thưa: “Hoàng thượng, phu nhân không cho phép thấy ánh sáng…”, lời còn chưa dứt, đã bị một cung nữ khác ngăn lại, ra hiệu nàng ta không cần phí lời, bèn ngoan ngoãn mở cửa.

Cửa mở ra rồi, một mùi khó ngửi xộc vào mũi.

Đó là một mùi hỗn hợp của mùi ẩm ướt, nát rữa, mùi thối đương nhiên là của Hy Hòa phu nhân.

Trong một góc âm u, ánh sáng mặt trời không chiếu tới, Hy Hòa phu nhân co rúm như một con tôm, tóc tai như rơm rạ, chiếc áo trên người cũng bẩn thỉu đến mức không thể nhìn ra màu sắc ban đầu, cả người nàng ta tỏa ra một mùi chua thối khiến người khác buồn nôn.

Nàng ta nhắm mắt, dường như đang ngủ, vì thế khi cửa cung đột ngột mở ra cũng chỉ hơi hơi co người lại một chút, khiến thân mình càng cuộn chặt hơn.

Mọi người tưởng nhìn thấy bộ dạng này của nàng ta, chắc hẳn hoàng đế sẽ nổi giận giống như mấy lần trước, nhưng lần này bất ngờ thay sắc mặt Chiêu Doãn lại bình tĩnh, y đứng trước cửa ra vào, im lặng nhìn Hy Hòa cách xa ba trượng, trong đáy mắt trào dâng một thứ tình cảm sâu sắc mà phức tạp. Mà những cảm xúc đó cuối cùng lắng đọng thành sự bi thương, rồi bắt đầu tràn ngập lan rộng.

Khương Trầm Ngư nhìn thấu hết thảy chuỗi biểu cảm tinh tế này của y, trong lòng thầm thở dài một tiếng, sau đó, không đợi Chiêu Doãn căn dặn đã nhẹ nhàng bước từng bước vào trong.

Cung nữ há hốc miệng, dường như muốn ngăn cản, nhưng thấy phản ứng của Chiêu Doãn nên đành từ bỏ.

Còn Chiêu Doãn cũng nhìn Khương Trầm Ngư, trong ánh mắt ấy có sự thăm dò, cũng có cả sự mong chờ.

Khương Trầm Ngư tiến lại gần, khiến cho Hy Hòa đang ngủ say choàng tỉnh giấc mở mắt nhìn nàng cảnh giác, sắc mặt sợ sệt, theo bản năng chuẩn bị kêu thất thanh, Khương Trầm Ngư vội vàng cướp lời, hát trước:

“Trăng mọc chừ, nước mênh mang, tựa ngọc chừ, tựa dáng chàng…”.

Nàng hát bài hát mà Hy Hòa hát vào cái ngày phát điên đó, còn hiệu quả vẫn rõ ràng như cũ: Hy Hòa lập tức ngừng kêu, vẻ mặt vốn hoảng sợ cũng dần dần dịu đi.

Khi Khương Trầm Ngư hát đến câu “Biển xanh rơi lệ mấy ai hay, rả rích tiêu điều mưa chẳng ngớt”, trong đôi mắt sưng đỏ đầy những tơ máu của Hy Hòa bỗng dâng lên làn hơi nước.

Khi nàng hát đến câu “Cầu đến tiên nhân hái thược dược, tam sinh xin nối duyên kiếp này”, Hy Hòa bỗng nhệch miệng, dang rộng hai tay lao đến, ôm chặt lấy nàng, cùng lúc, một tiếng gọi dường như xuyên qua nỗi chông chênh của ngàn năm, cuối cùng liêu xiêu đi đến trước mặt…

“Mẹ ơi…”.

Các cung nữ kinh ngạc sững sờ.

Chiêu Doãn kinh ngạc sững sờ.

Đến bản thân Khương Trầm Ngư cũng kinh ngạc sững sờ.
 
Quyển 2 - Chương 64: Hồi thứ mười sáu: Trời tính


“Khúc hát đó tên là ‘Năm tháng’ hồi còn nhỏ mỗi khi phu nhân không ngủ được, Phương thị đều hát bài này cho phu nhân nghe”. Trong ngự thư phòng, một ám vệ đứng thẳng tắp nói như vậy.

Sau ngự án, Chiêu Doãn ngồi tựa trên long tọa, một tay chống trán, một tay đặt lên tay vịn, thần sắc thản nhiên, nheo mày: “Cũng có nghĩa là bài hát đó là do Diệp Nhiễm viết?’.

“Đúng thế”. Điền Cửu do dự một lát nói: “Thực ra Diệp Nhiễm rất tài hoa, có thể viết từ sáng tác nhạc, nếu không Ngôn Duệ có tham ăn đến đâu cũng không thể thu nhận ông ta làm đồ đệ”.

Chiêu Doãn “ừ” một tiếng, không bày tỏ ý kiến gì.

Điền Cửu lại tiếp: “Phu nhân nghe Thục phi nương nương hát bài đó, lại hát không sai một chữ, hệt như bản gốc, nên coi nương nương thành người thân thiết nhất. Bây giờ, chỉ có Thục phi nương nương là có thể lại gần phu nhân, những điều nương nương nói, có lúc phu nhân hiểu, có lúc không hiểu, cả người ngây ngốc mê dại…”.

Chiêu Doãn bỗng ngắt lời hắn: “Bây giờ Trầm Ngư đang làm gì?”.

“Sáng sớm nay Thục phi nương nương dỗ phu nhân lên giường đi ngủ xong thì về Dao Quang điện dùng bữa trưa, sau đó xuất cung rồi”.

“Xuất cung?”. Chiêu Doãn chau mày.

“Vâng. Nương nương đi tiễn Giang Vãn Y”.

“Ồ?”.

Lá thu lả tả nhuộm chút sương thu, ngôi đình cô lẻ ở ngoại thành im lặng thê lương.

Khương Trầm Ngư ăn vận như một văn sĩ, Hoài Cẩn theo sau cũng ăn vận như thư đồng, đến để tiễn biệt Giang Vãn Y.

Nửa năm trước, Giang Vãn Y rời nơi đây, bách quan tề tựu vui vẻ đưa tiễn, vinh quang có một không hai.

Nửa năm sau, hắn bị biếm khỏi kinh sư, hai bàn tay trắng, đến một người nô bộc cũng không có, chỉ có một hòm thuốc, vẫn nặng trịch đeo trên vai gầy như cũ.

Cảnh ngộ này, lọt vào mắt Trầm Ngư, cũng chỉ có một câu kết luận “lòng người đổi thay”.

Nàng lấy một ấm trà từ trong hộp đựng thức ăn ra, rót trà vào chiếc lá trúc miệng nông, hai tay bưng lên trước mặt Giang Vãn Y:

“Trầm Ngư lấy trà thay rượu, cung tiễn sư huynh, từ đây mỗi người một nơi, non nước xa vời, mong huynh bảo trọng”.

Giang Vãn Y cũng dùng hai tay đón lấy, khóe mắt luôn ôn hòa văn nhã bỗng hơi ươn ướt hoe đỏ: “Đa tạ”. Dứt lời một hơi uống cạn, đang định đưa chén trà trả lại, Khương Trầm Ngư lại xua tay nói: “Chén này là lễ vật tặng cho sư huynh trước khi đi. Ngày sau nếu có cần tiền tài, đưa chén này đến tiệm cầm đồ lớn nhất cũng có thể giải cơn nguy cấp nhất thời”.

Giang Vãn Y nghe nàng nói vậy, biết đây nhất định là chiếc chén rất giá trị, nhất thời trăm ngàn cảm xúc dâng trào, cuối cùng khẽ thở dài nói: “Mưa núi sắp rơi gió khắp lầu, Trầm Ngư, muội phải cẩn thận”.

Khương Trầm Ngư cười nhàn nhạt: “Thế thì phải xem đó là gió gì, mưa gì…”.

“Muội…”. Giang Vãn Y chần chừ một lúc, cuối cùng vẫn không kìm được nói ra: “Dừng tay lại đi, vẫn còn kịp đấy”.

Trong mắt Khương Trầm Ngư loang loáng ánh lệ, nàng ngẩng đầu lên, nước mắt nhạt nhòa nhìn hắn, giọng nói khẽ như mơ: “Nếu như muội dừng tay, cái chết oan uổng của công tử sẽ tính sao đây? Nỗi oan khuất của Di Phi tính sao đây? Bệnh điên của Hy Hòa tính sao đây? Sư Tẩu tàn tật tính sao đây? Còn sư huynh bị biếm chức… cũng tính sao đây?”.

Giang Vãn Y đau lòng gọi: “Trầm Ngư!”.

Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, lấy lại vẻ bình tĩnh, dường như cảm xúc vừa nãy chẳng qua chỉ là kẻ khác hoa mắt nhìn nhầm mà thôi, sau đó, khóe miệng cong cong nở nụ cười tươi rói: “Cho dù thế nào, chúc mừng sư huynh đã rời khỏi chốn thị phi này, trở về với cuộc sống vốn dĩ muốn có… Huynh an tâm, muội sẽ chăm sóc tử tế cho Hy Hòa”.

Giang Vãn Y nhìn nàng mãi, trong mắt khi mờ khi tỏ, cuối cùng kết thành ly biệt: “Đã như thế… bảo trọng”.

Mấy chú quạ bay qua trường đình, tiếng gió thổn thức, cỏ cây vàng vọt, năm nay mùa thu đến sớm hơn năm ngoái.

Bóng dáng Giang Vãn Y rời đi, bị ánh tịch dương kéo dài trên mặt đất, hiện rõ sự thê lương.

“Tiểu thư, trời không còn sớm nữa, chúng ta về cung thôi”. Hoài Cẩn khoác một chiếc áo choàng lên mình Trầm Ngư.

Còn Khương Trầm Ngư nhìn mãi theo chiếc bóng đã không nhìn ra nổi của Giang Vãn Y ở phía cuối con đường dài hun hút, rầu rĩ nói: “Hoài Cẩn, ta ước gì có thể đi cùng với sư huynh, rời khỏi cái chốn thị phi này biết bao…”.

“Tiểu thư…”. Hoài Cẩn không biết phải trả lời ra sao.

Khương Trầm Ngư lắc lắc đầu, cười ha ha, nói: “Nhưng sư huynh không cần ta. Thôi, ta vẫn nên ngoan ngoãn hồi cung, đừng quên, ta sắp thành hoàng hậu của Bích quốc rồi. Hoàng hậu đó…”.

Hoàng hậu…

Nhớ năm đó, nguyện có được một người, bạc đầu chẳng rời xa.

Chưa từng nghĩ, phượng à, phượng à, theo ta về. Mãi ấp ủ nhau thành phu thê[1].

[1] Hai câu trong bài “Phượng cầu hoàng” của Tư Mã Tương Như.

Thế sự mỉa mai, chẳng qua cũng chỉ thế mà thôi.

Đêm đó, khi Chiêu Doãn đến Bảo Hoa cung, liền nhìn thấy một cảnh tượng như thế này: Đèn cung đủ sắc đủ màu tỏa ánh sáng êm dịu chiếu rọi Lưu Ly cung ngũ sắc rực rỡ, trên sàn nhà lát bằng thủy tinh trải một tấm thảm dài dệt bằng len. Hy Hòa mặc một chiếc áo mới ngồi trên thảm, vì vừa mới được tắm rửa, mái tóc nàng ta vẫn còn ướt, nên trông giống như một tấm lụa trắng ngấm nước. Còn Khương Trầm Ngư ngồi phía sau, dùng một chiếc khăn bông lau tóc cho nàng ta.

Sáng tối giao hòa, tay của Khương Trầm Ngư mềm mại nhỏ nhắn.

Hai mỹ nhân tuyệt thế đã tạo thành một bức tranh cực kỳ đẹp mắt, khắc ghi trong trái tim mỗi người có mặt.

La Hoành đang định thông báo, Chiêu Doãn giơ tay ra hiệu ngừng lại, cơ hồ cũng không nỡ phá vỡ bầu không khí ấm áp an lành trước mắt.

Khương Trầm Ngư lau khô tóc cho Hy Hòa xong, dùng một dải lụa buộc tóc lại cho nàng ta. Bấy giờ mới đứng dậy định đi, Hy Hòa lại quay người ôm chặt lấy nàng, cuống quýt gọi: “Mẹ… đừng đi… đừng đi!”.

“Được rồi được rồi, mẹ không đi, không đi!”. Khương Trầm Ngư cười dịu dàng với Hy Hòa: “Nhưng mà, mẹ cũng phải làm chút chuyện, Hy Hòa chơi một mình một lúc được không?”.

Hy Hòa chớp chớp đôi mắt to trong vắt như thủy tinh: “Mẹ phải đi bán mì à?”.

Khương Trầm Ngư nghĩ một lát rồi gật đầu: “Ừ… đi bán mì”.

Hy Hòa nheo mắt, cười đắc ý: “Được. Mẹ mang một ít về nhé, buổi tối ăn mì!”.

“Được rồi. Buổi tối ăn mì”. Coi như đã dỗ dành xong. Khương Trầm Ngư lại đưa chiếc áo bào đã được giặt sạch sẽ của Cơ Anh cho Hy Hòa chơi. Khi Hy Hòa đưa tay nhận lấy chiếc áo bào, trong đáy mắt nàng lóe lên một tia chần chừ, dường như có gì đó không nỡ, nhưng cuối cùng vẫn buông tay, rồi nhìn thấy Hy Hòa ngẩng đầu cười ngọt ngào với nàng, nụ cười ấy vừa ngây thơ vừa khờ dại.

Khương Trầm Ngư nghĩ, rốt cuộc nàng không thể nào sắt đá với con người này.

Trên người Hy Hòa dường như gửi gắm một phần tình cảm của nàng, tình cảm đó bị đè nén, bị mài mòn hủy hoại, không còn tồn tại ở bản thân nàng, nhưng lại được nối tiếp, phát triển trên con người Hy Hòa.

Nàng rất muốn không vương không vấn, mặc sức làm càn điên loạn một cơn như Hy Hòa, như thế không cần tỉnh táo đối diện với sự thực Cơ Anh đã chết; không cần đối diện với mặt xấu xa của phụ thân - người nàng luôn tôn sùng yêu kính; không cần đối diện với tranh đấu cung đình không chút nào bình ổn, gió mấy biến ảo khôn lường; không cần đối diện với người đến người đi, duyên tán duyên tận… Khương Trầm Ngư thầm thở dài trong lòng rồi đứng dậy, đưa khăn bông cho các cung nhân đứng bên cạnh rồi đi đến cửa tham kiến Chiêu Doãn: “Thỉnh an hoàng thượng”.

Chiêu Doãn bật cười khiến Khương Trầm Ngư không hiểu gì, hoang mang ngẩng đầu nhìn y.

Chiêu Doãn đưa một tay lên che miệng ho nhẹ một cái, tuy đã ngừng cười, nhưng sóng mắt vẫn còn nửa cười nửa không, thế nên càng khiến Khương Trầm Ngư hoang mang hơn, không kìm được hỏi: “Hoàng thượng?”.

“Đưa tay nàng ra đây”.

Khương Trầm Ngư nghe thấy thì ngẩn người, rụt tay về phía sau theo phản xạ, sau đó nhớ ra cử chỉ này không đúng, đành cứng đơ thu lại, run rẩy chìa ra trước mặt Chiêu Doãn.

Trên mười ngón tay thon dài trắng trẻo được chăm sóc rất kỹ lưỡng, có thêm vài vết thương do tắm cho Hy Hòa ban nãy, vì Hy Hòa không chịu để người khác chạm vào, mình nàng phải đảm đương. Không ngờ Chiêu Doãn tinh mắt đến thế, vừa nhìn đã nhận ra.

Còn Chiêu Doãn cười đương nhiên là cười thiên kim nhất đẳng mà chân tay vụng về. Vì thế, hai gò má Khương Trầm Ngư hơi đỏ lên, xấu hổ phân bua: “Từ nhỏ cha mẹ yêu chiều, ngay những chuyện vặt vãnh cũng làm không nên hồn… để hoàng thượng chê cười rồi”.

Chiêu Doãn không thừa nhận mà cũng không phủ nhận, chỉ từ tốn dặn dò thêm một câu: “Đừng quên bôi thuốc”. Nói đoạn, quay người ngẩng đầu nhìn lên bầu trời đêm. Nét mặt Chiêu Doãn thường ngày nếu không cười nham hiểm thì cũng là nổi giận lôi đình, tóm lại biểu cảm luôn rất sinh động, hiếm khi bình tĩnh. Vì thế, một khi không cười như bây giờ, rõ ràng là tâm sự trùng trùng, có nỗi u uất khó nói thành lời.

Thấy tâm trạng y có vẻ không vui, Khương Trầm Ngư buột miệng hỏi: “Xảy ra chuyện gì sao? Hoàng thượng”.

Chiêu Doãn khẽ thở dài một tiếng: “Nàng nhìn nơi đây mưa gió thuận hòa, sao có thể tưởng tượng ra Giang Đô ngàn dặm xa xôi đang gặp cơn đại hạn trăm năm, không thu hoạch nổi lấy một hạt thóc”.

Chuyện này Khương Trầm Ngư cũng có nghe qua.

Giang Đô là vựa lúa vựa cá nổi tiếng của Bích quốc, một vụ thu hoạch là chiếm năm phần kho lương của cả nước. Vì thế có thể nói, Giang Đô giàu, thiên hạ no đủ. Năm này mùa màng vốn cũng khá tốt, nhưng không hiểu vì sao, từ lúc trời chuyển hạ lại không hề đổ mưa, nắng gắt sà sã, kênh ngòi khô kiệt, khiến cho hoa màu đều chết khô chết héo cả. Lại thêm đúng vào lúc thành chủ cũ hết nhiệm kỳ, thành chủ mới tiếp nhận, khi tin đại hạn được tấu lên triều định thì đã muộn rồi.

“Hoàng thượng đã nghĩ ra cử ai đến Giang Đô xử lý việc này chưa?”.

Chiêu Doãn liếc nhìn nàng một cái, nhíu mày cười: “Sao? Nàng lại đòi tự tiến cử nữa à?”.

Khương Trầm Ngư quay đầu nhìn Hy Hòa, lắc đầu nói: “Thần thiếp muốn đi, nhưng e là không thể”.

“Ồ? Thật nhìn không ra, nàng lại coi Hy Hòa quan trọng hơn cả chuyện quốc gia đại sự”. Khi Chiêu Doãn nói câu này giọng điệu khó có thể phân biệt được là châm chích hay là cảm thán.

Khương Trầm Ngư nhìn thẳng vào mắt y, trầm giọng nói: “Thần thiếp cảm thấy không nhất thiết phải là thần thiếp, sẽ có người giải quyết tốt hơn cả thần thiếp việc ở Giang Đô, nhưng Hy Hòa phu nhân… lại chỉ có thần thiếp…”.

Cả người Chiêu Doãn rúng động, mãi lâu sau bỗng giơ tay từ từ áp lên mí mắt nàng. Hành động dịu dàng, không hề có ý trừng phạt, tựa như chỉ là không muốn bị một đôi mắt như thế nhìn chằm chằm.

Khương Trầm Ngư vội vàng lùi ra sau một bước, cúi đầu xuống, không nhìn thẳng vào mặt đế vương nữa.

Chiêu Doãn cơ hồ cũng cảm thấy hành động của mình có chút luống cuống, liền cười cười, thu tay lại nói: “Trẫm cho nàng cơ hội lập công, thế nào?”.

“Hả?”. Tâm tư của vị đế vương này càng ngày nàng càng không thể nắm bắt.

“Người chống hạn cứu thiên tai lần này, nàng chọn thay cho trẫm đi”. Chiêu Doãn vừa nói vừa chớp chớp mắt.

Khương Trầm Ngư không nhịn được hỏi: “Ai cũng được ư?”.

“Ừ”. Chiêu Doãn tỏ vẻ “trẫm không tin nàng dám nói ra người không xuất sắc”.

Khương Trầm Ngư lập tức nói ra một cái tên: “Tiết Thái”.

Chiêu Doãn lộ vẻ “quả nhiên là hắn”, khẽ thở dài một tiếng, không nói gì quay người bỏ đi.

Khương Trầm Ngư vội vàng chạy theo truy hỏi: “Không được sao?”.

Chiêu Doãn vẫn không nói gì, nên Trầm Ngư lại hỏi: “Thật sự… không được sao?”.

Chiêu Doãn tiếp tục đi lên phía trước, Khương Trầm Ngư cắn môi nói: “Hoàng thượng?”.

Đáp lại nàng là một câu nói nhỏ như cát lăn vào tai, không nặng không nhẹ, không nhanh không chậm, vừa có ý trách móc mà lại vừa không mang giọng điệu trách móc: “Nàng thật phiền phức”.

Khương Trầm Ngư dừng bước, chăm chú nhìn bóng lưng đi xa dần nhưng vẫn không quay đầu lại đó, lần này nàng hoàn toàn ngây ngẩn ra đó.

Người đến Giang Đô xử lý hạn hán đã được công bố trước buổi chầu sáng hôm sau, quả nhiên là Tiết Thái.

Đối mặt với quyết định này của Bích vương, triều thần đương nhiên cực kỳ bất ngờ, sau cơn kinh ngạc, họ bắt đầu tìm mọi cách ngăn cản, lớn tiếng nói không thể.

Lý do đưa ra không ngoài những điều như: Cứu nạn thiên tai không phải là trò chơi, không phải là chuyện vặt như mua vui cho nhà vua trước điện, sao có thể phái một thằng oắt con không chút kinh nghiệm đi? Đừng nói Tiết Thái giờ đã không còn là công tử quý tộc, mà còn là một tên nô lệ hèn kém, sao có thể gánh vác được trọng trách này?

Khi triều thần tranh cãi đến mức rối tinh rối mù, đế vương trẻ tuổi trên long tọa chỉ thong thả nói một câu, lập tức khiến cho tất cả mọi người đều trấn tĩnh trở lại.

Chiêu Doãn phán: “Đã như vậy, thì phái Vũ lâm quân kỵ đô úy Khương Hiếu Thành cùng đi, chủ trì đại cục”.

Vũ lâm quân kỵ đô úy Khương Hiếu Thành là ai?

Con trai của hữu tướng Khương Trọng, ca ca của Khương quý nhân và Khương thục phi. Không chỉ như thế, ai chẳng biết y chẳng qua là một tên bị thịt. Vì thế, hoàng thượng nói phái y đi cùng Tiết Thái, chẳng phải đã loạn lại càng thêm loạn sao?

Quần thần không ai là không choáng váng, đến ngay cả bản thân Khương Trọng cũng bất ngờ, hoàng thượng lại vứt “củ khoai lang nóng” này cho mình. Đang định phản đối thì Chiêu Doãn đã đứng dậy nói: “Quyết định như thế đi, bãi triều”.

Một đám cung nhân vội vàng bày bố nghi trượng hầu hạ chủ tử bãi triều, thế là Chiêu Doãn đã lui gót một cách tao nhã trong những ánh mắt ngây dại hoặc không dám tin, hoặc đau lòng, hoặc không hiểu gì của thần tử khắp triều.

Khi Chiêu Doãn về tới ngự thư phòng, Khương Trầm Ngư đã đợi trong Bích Ngôn đường, thấy y tuy vẫn trang nghiêm nhưng không thể giấu được nụ cười trong đáy mắt, từ khóe mắt bờ môi lan ra khắp gương mặt.
 
Quyển 2 - Chương 65


Chiêu Doãn nửa cười nửa không nhìn nàng: “Nàng hài lòng chứ?”.

Khương Trầm Ngư tao nhã khấu bái: “Hoàng thượng anh minh”.

“À, nàng nói thử xem, anh minh ở điểm nào?”. Chiêu Doãn chầm chậm tựa vào chiếc giường gấm, hơi nheo mắt lại giống như một chú mèo.

Khương Trầm Ngư cung kính nói: “Thần thiếp nông cạn, đoán mò thánh ý, nếu có lỡ lời, xin thánh thượng thứ tội”.

“Trẫm ban cho nàng vô tội”.

“Thần thiếp cho rằng, hoàng thượng phái Hiếu Thành đi cùng Tiết Thái là có ba lý do. Thứ nhất, Tiết Thái hiện tại thực sự không thể khiến người khác phục tùng, sai hắn đến Giang Đô, danh bất chính ngôn bất thuận, nhưng nếu ca ca của thiếp cùng đi, thì lại khác. Tuy…”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, có chút buồn cười, nhưng nén lại nói tiếp: “… không phải người có thể làm được việc, nhưng chí ít về tư cách, thân thế đều có cả. Hơn nữa, đây là lần đầu tiên huynh ấy đảm nhận một nhiệm vụ quan trọng, cũng là cơ hội tốt có thể dương danh lập công, cha thần thiếp kiểu gì cũng ngầm giúp huynh ấy, lót đường sao cho thuận lợi, làm việc gì tất nhiên cũng hanh thông”.

“Ừ”. Chiêu Doãn gật đầu, ra ý bảo nàng nói tiếp.

“Thứ hai, nạn hạn hán khác với nạn bão tuyết, không phải là thiên tai xảy ra chỉ trong một đêm. Quan viên địa phương đáng lẽ nên có sự cảnh giác từ lâu, nhưng lại chậm trễ không bẩm báo lên thượng cấp, giả vờ thái bình, đến bây giờ không thể xử lý được mới tùy tiện tìm một cái cớ điều thành chủ cũ đi, tìm một người mới thay vào để dọn dẹp rắc rối. Nếu dọn dẹp được, đương nhiên là chuyện đáng mừng, bằng không cũng không sao, hoàng thượng nếu có truy cứu thì cũng có người chịu tội thay…”. Khương Trầm Ngư cười lạnh: “Trên thế gian nào có chuyện dễ dàng như thế? Bọn họ ỷ trời cao hoàng đế ở xa, dối trên lừa dưới, sai Tiết Thái và ca ca của thiếp đi chính là hoàng thượng đã tương kế tựu kế, bởi hai người này - một kẻ nhỏ tuổi, một kẻ bị thịt - có lẽ bọn họ cũng không quá mức coi trọng. Ai ngờ dụng ý thực sự của hoàng thượng chính là cứu nạn cố nhiên quan trọng, nhưng trừ quan tham cũng là điều bắt buộc. Đợi đến khi chúng lần lượt bị định tội tịch thu gia sản, thì sẽ biết rốt cuộc mình đã sai lầm đến mức nào”.

Đối mặt với sự cung kính của nàng, Chiêu Doãn chỉ cười nhạt một cái, vẫn không tỏ thái độ như cũ: “Thứ ba?”.

“Thứ ba…”. Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, nét mặt bỗng trở nên nghiêm trang: “Sau khi Tiết thị sụp đổ, Cơ Anh qua đời, bây giờ văn võ đầy triều có thể nói là phần lớn tầm thường, không chọn được ai”.

Biểu cảm vốn lười biếng như một chú mèo của Chiêu Doãn bỗng trở nên nghiêm túc. Câu nói vừa nãy của Khương Trầm Ngư cực kỳ quan trọng, nếu là lúc khác, hoặc để người thứ ba nghe được tiết lộ ra ngoài, đều gây nên đại họa. Nhưng nàng đứng trước mặt y lại dịu dàng yếu đuối, bình thản nói ra câu đó… Trái tim của y trong phút chốc chợt vừa chua xót vừa đau nhói như bị vật gì đó đâm trúng.

“Cũng là lúc tổ chức một đợt tuyển chọn nhân tài mới, hoàng thượng chọn Tiết Thái, chính là muốn tuyên bố với thiên hạ - Người có tài sẽ được quan cao chức trọng. Cho dù có thân phận gì, cho dù hắn đã từng có hoàn cảnh tồi tệ đến đâu, đều không sao cả?”.

Khương Trầm Ngư nói những lời này với tư thế hết sức khẳng khái dõng dạc, không ngờ Chiêu Doãn nghe xong lại cười: “Thế à?”.

Ở cạnh vị đế vương này lâu ngày cũng dần dần nắm được một vài đặc trưng tính cách của y. Ví như bây giờ mí mắt y không nhếch lên, chỉ hơn nhướn nhẹ khóe môi bên trái - Kiểu cười này, chứng tỏ y không đồng tình.

Thế nên Khương Trầm Ngư ngừng lại một lát, hỏi: “Hoàng thượng, thần thiếp nói sai sao?”.

Ánh mắt Chiêu Doãn lướt qua phía sau vai nàng, nói với một vẻ mặt cực kỳ khó miêu tả: “Tiết Thái… không thể hồi phục quan tịch”.

Ngừng một lát, bổ sung: “Có thể trọng dụng, nhưng không thể ban thưởng”.

Tuy y không nói tiếp, nhưng Khương Trầm Ngư đã thực sự hiểu rõ ý tứ của y, một cơn ớn lạnh từ dưới chân bỗng bốc lên, trong nháy mắt, chân tay nàng lạnh ngắt.

Là nỗi thương xót cho mỹ ngọc bị bụi trần che phủ.

Là sự bi thương vì đế vương vô tình.

Cũng là sự lĩnh ngộ vì thế sự tàn nhẫn.

Tiết thị diệt vong trong tay Chiêu Doãn, cũng không thể lần nữa đứng dậy trong tay Chiêu Doãn. Đó là sự tôn nghiêm của một đế vương, cũng là quy tắc của một triều đại.

Nhìn xuyên suốt lịch sử, tại sao rất nhiều vụ án oan đều không thể thẩm tra lúc đương thời, phải đợi sau khi thay triều đổi đại mới có thể lật án rửa tội? Đó chính là vì tồn tại quy tắc như thế này.

Cho nên, Tiết Thái dù có xuất sắc đến đâu, có lập bao nhiêu công lao cho nước nhà, đều không thể gia quan tấn tước. Chí ít, trong thời Chiêu Doãn còn tại vị, sẽ không thể.

“Cái gọi là quan trường, không gì ngoài hai thứ: Quyền, tiền. Bắt đầu niên hiệu Đồ Bích, quyền nằm trong tay Tiết Hoài, tiền nằm trong tay Cơ thị. Trẫm thân tuy là đế vương, nhưng việc gì cũng bị hai thứ này khống chế. Bây giờ, quyền trở lại rồi, nhưng còn tiền thì sao?”. Chiêu Doãn thu ánh nhìn, cười với nàng, trong nụ cười thấm đẫm ý vị khổ sở xót xa: “Tiền biến mất rồi”.

Trái tim Khương Trầm Ngư phút chốc quặn lại.

“Cơ gia giống như một cái động không đáy, cuồn cuộn không ngừng nuốt chửng tiền bạc của Bích quốc. Khi Cơ Anh còn sống còn chưa rõ ràng, nhưng một khi hắn chết đi, tất cả tấu sớ thỉnh cầu cấp tiền đều bay tới như tuyết, mỗi một tấu sớ đều là chuyện khẩn cấp, việc đại sự, nhưng quốc khố... lại trống rỗng”. Chiêu Doãn đứng chắp tay, cụp mắt nhìn nàng, hàng mi dài che lấp biểu cảm: “Trên thực tế, trẫm cũng không biết phải ứng phó với thiên tai ở Giang Đô như thế nào”.

Cho nên… mới sai hai kẻ thế mạng đi?

Khương Trầm Ngư bỗng nhận ra: Tất cả hóa ra… còn phức tạp hơn tưởng tượng của nàng.

Cửa sổ đang mở, một cơn gió lùa vào mang theo hơi lạnh ập vào cơ thể, Khương Trầm Ngư xoa xoa cánh tay trong làn áo lụa, mới thực sự cảm thấy mùa thu đã đến thật rồi.

Thánh chỉ vẫn còn chưa được ban bố một cách chính thức, Khương Hiếu Thành đã biết tin mình được chọn làm khâm sai, liền lập tức gọi một lũ bạn bè lêu lổng tới thả sức ăn mừng. Sau một chầu ăn chơi trác táng bốc giời, lại đi tìm mận hỏi đào một chuyến, cuối cùng uống say khướt, nằm ngủ lăn lóc trên giường của đế đô đệ nhất danh kỹ Mật Tiểu Tiên.

Trong lúc nửa tỉnh nửa say, loáng thoáng cảm thấy có một người ngồi ở đầu giường, gã tưởng là Mật Tiểu Tiên, liền giơ hai tay ra, kề sát mặt lại gần, miệng thì thào: “Đến đây đến đây nào, Tiểu Tiên của ta, để đại gia hôn một cái nào…”.

Một mùi thơm nhàn hạt thanh nhã tràn vào cánh mũi y, khác hẳn với mùi mật hoa mà Mật Tiểu Tiên thường dùng hàng ngày, ngửi kỹ ra thì còn có chút gì quen thuộc, vì thế mắt y không kìm được he hé mở ra. Không mở thì không sao, mà nhìn thấy rồi thì sợ đến mức nhảy dựng lên. Người ngồi đầu giường, đang giãy giụa vì bị ôm nào phải Mật Tiểu Tiên mà rành rành là muội muội nhà hắn.

Khương Hiếu Thành sợ đến mức tỉnh cả rượu, nhảy cẫng lên: “Trầm Ngư? Sao lại là muội?”.

Khương Trầm Ngư chỉnh trang lại áo xống, nửa cười nửa không nhìn y.

Khương Hiếu Thành vội vàng xuống giường, đến giày cũng chẳng thèm xỏ vào, đi chân trần quanh nhà một vòng, kiểm tra đích xác là không có người thứ ba ở đó xong mới bước đến trước mặt Khương Trầm Ngư, cuống giọng hỏi: “Bà cô của ta ơi, đây là chốn nào, sao muội lại đến đây hả? Có người khác nhìn thấy không? Cha mẹ và tẩu tẩu của muội có biết không?”.

Khương Trầm Ngư thổi thổi ngón tay của mình, chậm rãi nói: “Hóa ra ca ca lén lút đến đây? Công khai dùng mười chuỗi minh châu mua đêm đầu tiên của Mật Tiểu Tiên ở Hồng Tụ lâu, sau đó lại mở tiệc lớn để cho người khác thỏa thích ăn nhậu, cử chỉ hào phóng như thế, muội e là toàn đế đô đều đã biết cả rồi”.

Khương Hiếu Thành đột nhiên mặt tái xám, lắp ba lắp bắp nói: “Không, không phải chứ? Ta thật, thật sự làm thế à?”.

Khương Trầm Ngư nhìn y bằng ánh mắt “Ca ca nói xem”.

Khương Hiếu Thành nhìn chiếc giường hoa được mệnh danh là khó lên nhất đế đô, lại nhớ lại tình hình tối qua, có chút ấn tượng. Nhưng đi theo nó là một nỗi sợ hãi còn lớn hơn: “Hỏng rồi hỏng rồi hỏng rồi! Nếu cha và tẩu tẩu muội biết, ta chết chắc rồi! Không thể chậm trễ, mau chuồn thôi!”. Nói đoạn bắt đầu vội vội vàng vàng mặc y phục.

Y tuy là một tên háo sắc mê rượu, nhưng từ nhỏ bị quản giáo rất nghiêm, vì thế rất hiếm khi có chuyện say xỉn ở bên ngoài. Ngày hôm qua thực sự y uống quá nhiều, cuối cùng còn không nhớ mình đang ở đâu nữa. Giờ nhìn thấy Khương Trầm Ngư xuất hiện ở đây, phản ứng đầu tiên chính là: Xong rồi, cha và vợ chắc chắn đều biết cả rồi! Cha biết cũng đành thôi, nhiều nhất là ăn mắng một trận, bịt tai không nghe là xong. Nhưng Lý thị mà biết, ít nhất là nửa năm, đừng hòng được sống yên ổn; hơn nữa cả cuộc đời này đều bị thị suốt ngày lôi ra để châm chọc… Vừa nghĩ đến tình cảnh bi thảm đó, y hối hận vô cùng, chân tay bủn rủn mặc xong áo ngoài, xỏ xong giầy, đang định đi bỗng thấy muội muội vẫn ngồi trên giường như không có việc gì, liền đưa tay kéo nàng: “Chờ cái gì nữa? Còn không mau đi?”.

Khương Trầm Ngư nhíu mày: “Đi? Đi đâu?”.

“Đương nhiên là về nhà…”. Lời vừa buột ra khỏi miệng, mới nhận ra có gì đó không đúng, Khương Hiểu Thành lại nhìn dò xét muội muội từ đầu xuống chân một lượt, rồi vỗ vỗ vào đầu nói: “Đúng rồi, muội không phải đang ở trong cung sao? Sao lại đến đây? Muội lén xuất cung à?”.

“Ca ca, ca ca ngồi xuống đi”.

“Ngồi cái gì mà ngồi, bây giờ là lúc nào rồi? Ta thấy vẫn nên quay về trước khi phụ thân phát hiện”.

Khương Trầm Ngư đằng hắng một tiếng, trầm giọng nói: “Ca ca, ngồi đi, muội có vài lời muốn nói với ca ca”.

Nàng xưa nay luôn là người được yêu chiều nhất nhà, tuổi tuy nhỏ nhưng lại uy nghiêm nhất, có thể nói, Khương Hiếu Thành có chút sợ muội muội kém mình năm tuổi này, vì thế, khi nàng trở mặt làm bộ nghiêm túc bảo y ngồi xuống, tuy trong lòng lo lắng muốn chết, nhưng cơ thể vẫn ngoan ngoãn ngồi xuống.

“Ca ca, hoàng thượng quyết định sai huynh và Tiết Thái đến Giang Đô chống hạn cứu tế…”.

Khương Hiếu Thành nghe đến đây liền cười hì hì, đắc ý nói: “Hoàng thượng quả nhiên là người có tuệ nhãn, nhìn ra huynh tài hoa và năng lực hơn người. Ta ấy à, cũng coi như là lên tiên rồi, không còn bị kẻ khác nói xấu là cậy thế của cha nữa. Giang Đô cũng là nơi tốt, mỗi năm tuyển tú nữ, mỹ nhân của vùng ấy là nhiều nhất!”. Nói đến đây, nước bọt ứa hết cả ra.

Trong lòng Khương Trầm Ngư thầm thở dài, nghiêm mặt nói: “Ca ca có biết Giang Đô đại hạn, đã ba tháng rồi chưa có mưa không?”.

“Ồ, cái này ta có nghe nói rồi”. Khương Hiếu Thành không thèm để ý, khua tay một cái: “Yên tâm đi, ta đã nghĩ ra kế sách ứng phó rồi”.

Câu trả lời này thật sự khiến Khương Trầm Ngư bất ngờ, không kìm được phải hỏi: “Kế sách ứng phó gì?”.

“Muội nghĩ xem, Giang Đô năm nào cũng mưa thuận gió hòa, rất hiếm khi bị hạn hán, tại sao? Bởi vì đó là vùng bảo địa phong thủy của Bích quốc chúng ta. Tại sao lại bị hạn hán? Chắc chắn là vì phong thủy đã bị phá hoại”. Khương Hiếu Thành nói đến đây thì nén thấp giọng, ra vẻ thần bí, nói: “Còn có người nói Cơ Anh chết rất kỳ lạ, không chừng cũng có liên quan đến phong thủy nơi đấy”.

Khương Trầm Ngư cố gắng nén nỗi buồn bực trong lồng ngực, hỏi thật nhanh: “Sau đó?”.

Khương Hiếu Thành vỗ ngực nói: “Ta chỉ cần tìm một sư phụ phong thủy giỏi nhất, đến lúc đó đưa ông ta lập đàn làm phép ở đấy, cầu mưa gì đó đều được hết”.

Trước mắt Khương Trầm Ngư tối sầm, suýt chút nữa thì ngất đi. Nàng biết ca ca chắc chắn sẽ chẳng có cách gì ra hồn, nhưng nghe thấy câu này, vẫn vượt qua phạm vi mà nàng có thể chịu đựng, nên trong khoảnh khắc, nỗi bi ai trở nên càng sâu đậm, cảm giác vô cùng tuyệt vọng.

Thế mà Khương Hiếu Thành vẫn còn dương dương tự đắc: “Sư phụ phong thủy này lấy thù lao rất đắt đó nhé, hơn nữa nếu không có quan hệ thì không mời được đâu. Ca ca của muội bình thường rất biết làm người, kết giao với một số bạn tốt, thời khắc then chốt đều nhờ cậy họ giúp đỡ ta”.

Khương Trầm Ngư hít thật sâu, mở miệng từ từ nói: “Ca ca có biết vì sao hoàng thượng không chọn người khác, mà lại chọn huynh đi xử lý đại sự quan trọng như thế này không?”.

“Đương nhiên là vì ta năng lực hơn…”. Ánh mắt lạnh băng của Khương Trầm Ngư lướt qua, Khương Hiếu Thành nuốt nước bọt xuống, nửa câu sau đành nuốt trọn vào trong.

Khương Trầm Ngư lạnh lùng nhìn y, sẵng giọng nói: “Bởi vì hoàng thượng muốn huynh làm kẻ thế mạng. Huynh và Tiết Thái là hai quân cờ dùng để hy sinh!”.

Khương Hiếu Thành giật mình: “Cái, cái, cái gì cơ?”.

“Giang Đô đại hạn, mùa màng thất thu, năm nay thu hoạch ắt kém, một khi thu hoạch kém giá lương thực sẽ tăng cao, bách tính sẽ bị đói! Nạn đói một khi kéo dài, triều đình sẽ phải mở kho lương cứu tế… mà thực sự là, quốc khố bây giờ đang trống rỗng, căn bản không có tiền mua lương thực!”.

“Hả?”. Mắt Khương Hiếu Thành bỗng chốc trợn trừng.

“Ca ca tưởng đây là vấn đề chỉ cần làm phép cầu mưa là có thể giải quyết được à? Bây giờ bài toán then chốt nhất định là căn bản không phải là mưa hay không mưa, mà là tiền đó! Ca ca! Bây giờ quốc khố không có tiền! Cho nên, chống hạn cũng được, cứu tế cũng xong, hoàng thượng không cấp cho ca ca một xu, tất cả tiền tài đều là tự ca ca móc hầu bao ra!”.

Hai chân Khương Hiếu Thành mềm nhũn, ngồi phịch xuống mặt đất, lẩm bẩm: “Sao, sao có thể như thế…”.

“Ca ca còn tưởng có thể được lợi, sung sướng cảm thấy bản thân mình được coi trọng đề bạt… nhưng không biết họa từ trên trời giáng xuống, chỉ gây ra một chút sai lầm là chết chắc!”. Khương Trầm Ngư vừa tức vừa thương, hơi thở mắc ở lồng ngực không thoát ra được.

Khương Hiếu Thành thấy vậy, vội vàng bò dậy rót nước cho nàng uống: “Muội muội, muội đừng vội, từ từ nói, uống một chút đi, từ từ nói…”.

Hành động này của Khương Hiếu Thành đã đánh thức ký ức thời thơ ấu của Khương Trầm Ngư: Khi còn nhỏ, y từng đem đồ cho nàng ăn như thế này, thấy nàng bị ốm, cũng cùng người khác đứng bên cạnh lo lắng…

Rốt cuộc y vẫn là huynh trưởng của nàng, dù y có vô dụng thế nào, hư hỏng thế nào, cũng không thể để y chết. Huống hồ, sự việc này còn lôi kéo thêm cả Tiết Thái và ngàn vạn dân chúng vô tội của Giang Đô.

“Ca ca, ca ca có tin muội không?”. Khương Trầm Ngư túm chặt tay của Khương Hiểu Thành, hỏi như vậy.

“Tin tin tin, trăm lần tin, vạn lần tin! Trên thế gian này người ta tin nhất chính là Trầm Ngư muội!”.

“Thế thì chuyện Giang Đô, huynh nghe muội, có được không?”.

“Được được được, cái gì cũng nghe muội, muội nói gì ta cũng nghe…”.

Khương Trầm Ngư nắm tay y chặt hơn, giọng điệu nghiêm trang hơn: “Ca ca! Muội không nói giỡn đâu! Huynh đồng ý với muội, phải làm được, không được có một chút sơ suất nào, nếu không, không chỉ huynh, cả Khương gia đều bị liên lụy, sẽ thành Tiết thị thứ hai!”.

Nét mặt vốn dĩ không chú tâm của Khương Hiếu Thành đã biến thành chấn động, há hốc mồm, chân tay thừa thãi đứng như trời trồng hồi lâu, cuối cùng mới khẽ nói: “Nghiêm trọng thế à?”.

Khương Trầm Ngư gật đầu: “Rất nghiêm trọng”.

“Thế… bây giờ xin hoàng thượng hủy thánh chỉ, vẫn còn kịp chứ?”.

Khương Trầm Ngư lắc đầu.

Khương Hiếu Thành cực kỳ thất vọng, lại ngồi xuống đất, im lặng một lúc rồi buồn bã nói: “Hóa ra hoàng đế không có tiền… Tên tiểu tử, bảo sao đột nhiên lại nhớ ra đề bạt nhân tài như ta, hóa ra là không có ý tử tế. Tên tiểu tử hoàng đế đó đúng là nham hiểm, năm đó đối với Tiết Hoài như thế, bây giờ lại đối phó…”.

“Ca ca!”.

“Được rồi, không nói nữa… cứ tưởng là được đi tiêu tiền, còn vui mừng vì cuối cùng cũng có thể ra khỏi kinh thành một chuyến…”. Khương Hiếu Thành bực bội lẩm bẩm mấy câu xong đột nhiên quay đầu nghiêm túc hỏi: “Muội nói xem tại sao hoàng đế lại không có tiền? Thế tiền đi đâu rồi? Tháng tư tịch biên Tiết gia, lúc đó chẳng phải là sung công được ba triệu lạng sao? Sao mới nửa năm mà đã hết sạch rồi? Triều định chúng ta đâu có tham quan… A! Lẽ nào là cha dùng hết vào việc huấn luyện bọn tử sĩ gì đó?”.
 
Quyển 2 - Chương 66


Khương Trầm Ngư nhìn y bằng một ánh mắt thương hại, nói nhỏ: “Không phải cha?”.

“Thế là ai?”. Khương Hiếu Thành bắt đầu động não cái đầu không thông minh hơn heo là bao của y: “A! Đó chính là Hy Hòa phu nhân! Chắc chắn là ả! Ngày ngày xa hoa vô độ…”.

Khương Trầm Ngư kêu khổ trong lòng, nhưng ngoài miệng chỉ nói: “Ca ca, huynh ăn nói bớt cay nghiệt đi, Hy Hòa phu nhân bị điên rồi”.

“Đúng đúng đúng, không nói ả không nói ả, mạo phạm người đẹp, không dám không dám… ôi, nghĩ không ra”.

Khương Trầm Ngư cụp mắt xuống, thấp giọng thì thào: “Là Cơ gia!”.

“Cơ gia?”. Khương Hiếu Thành nhướng mày: “Muội đang nói đùa à? Cơ Anh nổi tiếng thanh liêm, môn khách của ngài còn phải tự cày cấy làm ruộng mới đủ ăn…”.

“Không phải Cơ Anh, mà là Cơ gia”. Khương Trầm Ngư nhấn mạnh: “Toàn bộ Cơ gia”.

Khương Hiếu Thành gãi đầu: “Ý của muội là hầu gia không tham ô, nhưng người thân thích của ngài tham ô? Nếu so sánh với nhà chúng ta, cha không tham, muội không tham, nhưng ta tham, cho nên toàn bộ đều do ta nuốt hết?”.

Khương Trầm Ngư gật đầu.

Khương Hiếu Thành lại há miệng ngây người một lát: “Thế thì che giấu giỏi thật… Không đúng, không đúng… muội muội! Chuyện này không đúng! Cơ gia chẳng phải có Liên thành bích trong truyền thuyết sao, không sợ thiếu tiền!”.

“Liên thành bích gì cơ?”.

Thấy muội muội không biết chuyện, Khương Hiếu Thành lại nổi máu nam tử hán lên, y ưỡn ngực, hóp bụng, đang định kể lể một lượt, bỗng nghe bên ngoài vang lên một tiếng gọi chói tai: “Khương đại ngốc, chàng lăn ra đây cho thiếp!”.

Khương Hiếu Thành nhất thời sợ hãi đến mức run lẩy bẩy, tiếng đập cửa dồn dập, tiếng thét như quỷ khóc, và hai chữ “đại ngốc” không hề để cho gã chút sĩ diện đó, đã nói rõ người đến không phải ai khác, mà chính là người vợ kết tóc se tơ kiêm hổ cái nhà y - Lý thị.

Y mở cửa sổ định nhảy ra ngoài.

Khương Trầm Ngư từ tốn nói: “Ca ca, đây là lầu ba”.

Khương Hiếu Thành vội vàng rụt một chân đang giẫm lên bậu cửa sổ xuống, lo lắng đến mức mồ hôi vã ra như tắm: “Làm sao đây làm sao đây? Sao nàng ta lại tới? Làm sao đây, làm sao đây?”.

“Để muội thay ca ca xoa dịu đại tẩu”.

Khương Hiếu Thành mừng rỡ ra mặt: “Thật à?”.

“Nhưng như đã nói trước đó, chuyện Giang Đô lần này…”.

Khương Trầm Ngư còn chưa nói hết lời, Khương Hiếu Thành đã gật đầu lia lịa nói: “Đều nghe muội, đều nghe muội cái gì cũng nghe muội hết! Muội bảo ta làm sao thì ta làm vậy, ta còn đợi muội cứu mạng đây, muội muội tốt của ta!”.

“Giao kèo xong”. Khương Trầm Ngư đứng dậy, đi tới mở cửa phòng ra, dịu dàng nói: “Bọn muội ở đây”.

Lý thị dẫn đầu một toán gia đinh khí thế hung hăng chuẩn bị xông vào bắt gian nhìn thấy người sau cánh cửa còn chưa kịp kinh ngạc đã bị Khương Trầm Ngư tóm cổ tay lôi vào trong.

Sau đó, cửa phòng đóng lại, nhốt toàn bộ gia đinh ở bên ngoài.

Bởi vì chỉ có một mình Lý thị nhìn thấy Khương Trầm Ngư nên đám gia đinh bên ngoài cửa đều không rõ bên trong xảy ra chuyện gì, đang định tiến vào thì nghe Lý thị ở trong quát một câu: “Các ngươi không được vào trong”. Mọi người liền vội vã dừng bước. Cứ như thế đứng khoảng nửa tuần trà ở ngoài cửa, cánh cửa phòng lại mở ra, Lý thị chậm rãi bước ra ngoài.

Nếu như nói khi vào phòng Lý thị như cuồng phong bạo vũ; thì khi ra Lý thị lại thành gió mát ngày lành.

Chỉ thấy nàng ta vén tóc mai, cười híp cả mắt nói: “Không có chuyện gì, về thôi”.

Một tiểu a hoàn không hiểu chuyện, vẫn ngây ngây ngô ngô hỏi: “Thiếu phu nhân? Đại thiếu gia đâu?”.

“Thiếu gia cái gì mà thiếu gia”. Lý thị mắng té tát: “Không nhìn xem đây là đâu hả? Thiếu gia nhà các ngươi đến đây sao? Ngu như heo, còn không mau theo ta về, để tránh bị mất mặt!”. Nói rồi, uốn éo bước lên kiệu.

Tiểu a hoàn bị mắng không dám mở miệng cãi, vội vàng đi theo kiệu, một đám người rầm rầm rộ rộ rời khỏi Hồng Tụ lâu.

Sau khi chuyện này đồn ra ngoài bị đầu đường cuối ngõ cười nói bàn luận một dạo, đương nhiên mỗi người nói một phách, càng ngày càng xa sự thực.

Còn khi Điền Cửu đem câu chuyện thực sự bên trong bẩm báo lên Chiêu Doãn, Chiêu Doãn chỉ cười nhạt, vừa dùng bút son phê một chữ “chuẩn y” lên tấu chương, vừa nói: “Trẫm vốn muốn có hiệu quả này. Khương gia nếu không nỡ bỏ thằng con trai bảo bối này, thì cần phải cân nhắc thật kỹ chuyện ở Giang Đô lần này, nên tự cứu mình như thế nào”.

Điền Cửu muốn nói gì đó nhưng lại ngừng lại.

Chiêu Doãn nhíu mày nói: “Có gì cứ nói đi”.

“Vâng. Hoàng thượng cảm thấy Thục phi nương nương sẽ có cách giải quyết việc này chứ?”.

“Nàng ấy có”.

“Ngộ nhỡ nương nương thất bại thì sao? Chuyện Giang Đô suy cho cùng cũng không phải trò đùa, một khi thất bại, hậu quả thật không thể tưởng tượng nổi…”.

Chiêu Doãn khe khẽ thở dài một tiếng, đặt cây bút và tấu chương trong tay xuống nói: “Theo Điền Cửu người Bích quốc hiện nay, hai gia tộc có sức ảnh hưởng nhất là gia tộc nào”.

Điền Cửu có vẻ hơi trầm ngâm: “Hai nhà Khương, Cơ”.

“Thế thì, người có sức ảnh hưởng nhất trong hai tộc này là ai?”.

“Khương gia đương nhiên là hữu tướng Khương Trọng, còn Cơ gia…”. Điền Cửu lắc đầu nói: “Cơ gia lại khác, con cháu Cơ thị mỗi người đảm nhiệm một phương diện, nhiều kẻ xuất sắc, nhưng chính vì cả nhà đều giỏi giang, cho nên ngược lại không nghĩ được ngoài Cơ Anh ra, còn có ai có thể áp chế quần hùng thống lĩnh đại cục…”.

Chiêu Doãn lắc đầu, cười cười nhìn Điền Cửu nói: “Sai rồi”.

“Sai ạ?”. Điền Cửu ngạc nhiên: “Xin hoàng thượng chỉ bảo”.

“Đến nay hai tộc Khương, Cơ chỉ còn lại hai người này”. Chiêu Doãn nâng bút, khoanh hai vòng tròn trên một danh sách dày chi chít chữ, mà hai cái tên bị khuyên trúng chính là Khương Trầm Ngư, Tiết Thái.

“Muội muốn huynh vứt bỏ thành kiến đối với Tiết Thái, chuyến đi Giang Đô lần này, cho dù hắn nói gì, làm gì, đều phải dốc toàn lực phối hợp với hắn. Bởi vì, hiện nay chỉ có hắn mới có thể lấy được tiền từ Cơ gia. Huynh muốn lấy được đủ tiền để giải quyết vấn đề thì phải đối tốt với hắn một chút”.

Đây là lời khuyên chân thành cuối cùng Khương Trầm Ngư nói với Khương Hiếu Thành trong cái đêm ở Hồng Tụ lâu đó. Nhưng nàng không ngờ rằng, trong chuyến đi Giang Đô này, ca ca của mình đã hoàn toàn biến thành tay sai của Tiết Thái, tận tâm hầu hạ, mức độ ân cần còn vượt xa so với kế hoạch của nàng… Đó là chuyện về sau, tạm thời không bàn đến.

Ngày mười hai tháng chín, Tiết Thái và Khương Hiếu Thành phụng ý chỉ của hoàng đế đến Giang Đô trước muôn và cặp mắt của mọi người.

Sau khi họ đi, hàng ngày Khương Trầm Ngư ngoài việc cùng Chiêu Doãn lên triều, thì chiều nào nàng cũng đến Bảo Hoa cung thăm Hy Hòa.

So với trước đây Hy Hòa khá lên rất nhiều, nhiều lúc Khương Trầm Ngư đọc sách ở đó, còn nàng ta yên lặng chơi một mình. Có lúc thấy Khương Trầm Ngư viết chữ, thì quấn lấy nàng đòi vẽ tranh. Khương Trầm Ngư sai người chuẩn bị màu vẽ cho nàng ta, nhưng nàng ta lại không muốn, mà đòi hồ dán với keo giấy, nhìn thấy thứ gì liền cắt thứ đó, thành ra màu, giấy các loại chất thành một mớ hỗn loạn, sau cùng lại lấy hồ dán giấy, chơi rất vui vẻ.

Lần đầu tiên Khương Trầm Ngư nhìn thấy cách vẽ tranh mới mẻ như thế, có lúc không kìm được đến chơi cùng nàng ta.

Thỉnh thoảng nàng phải đến ngự thư phòng vào buổi tối nghe Chiêu Doãn và các đại thần tâm phúc nghị sự. Bách Ngôn đường lần lượt có thêm người mới, tính cả Khương Trầm Ngư tổng cộng là tám người. Bảy người kia đều là những kẻ khôn ngoan khéo léo, không hề tỏ ra kinh ngạc trước sự tồn tại đặc biệt của nàng, cứ thản nhiên tự tại khi ở cùng nàng. Cùng lúc, phụ thân nàng cũng bị Chiêu Doãn triệu đến thư phòng để hỏi chuyện, nàng đứng cách một bức tường nhìn ông nghị chính, giống như một người xa lạ.

Không lâu sau, ngày sắc phong đã được định là ngày mùng một tháng mười một.

Vì đất nước có nạn hạn hán nên hết thảy nghi thức đều đơn giản, nhưng phong hậu vẫn là một việc lớn, nên trong một thời gian ngắn, vô số việc chồng chất, bận rộn đến mức nàng bù đầu nhức óc.

Đêm nay, nàng xử lý công chuyện trong Bảo Hoa cung, Hy Hòa ngồi bên cạnh yên lặng vẽ tranh, vào khoảng giờ Tuất, Phật âm từ bên ngoài vọng vào, du dương êm ái, cực kỳ rung động lòng người.

Hy Hòa ngẩng đầu lắng tai nghe một lúc, bỗng quẳng chiếc bút đi, bắt đầu khóc.

Khương Trầm Ngư không hiểu chuyện gì xảy ra, sai cung nữ đi hỏi, không lâu sau, cung nữ quay về bẩm báo: “Nương nương, là từ trong Đoan Tắc cung vọng ra, nghe nói là Cơ quý tần đang làm lễ cầu siêu cho Kỳ Úc hầu”.

Cuốn sổ trong tay Khương Trầm Ngư bỗng chốc rơi xuống đất, nàng ngây ra nhìn bàn tay mình, hai tay trống không, không thể chắp lại được.

Thứ âm nhạc mà Cơ Hốt chọn dùng hoàn toàn khác với những gì nàng đã từng được nghe, không hề mang âm hưởng bi ai, ngược lại còn có ý vị phóng khoáng đến siêu phàm thoát tục. Nhưng lọt vào tai, trong lòng càng đau đớn hơn. Khương Trầm Ngư nghe mãi nghe mãi, không nhịn nổi đi khỏi cung, men theo tiếng nhạc lần về phía trước, cuối cùng đã đến trước hồ Phượng Thê.

Nhìn từ xa, Đoan Tắc cung thần bí đẹp đẽ ở chính giữa hồ, một dấu chấm màu trắng muốt tựa như một vầng trăng sáng treo lơ lửng giữa bầu trời đêm. Mà tiếng nhạc linh hoạt kỳ ảo lại bay vút lên từ nơi đó, được hơi nước trên mặt hồ bao phủ, được gió thu trong không trung thổi qua, càng có vẻ liên miên xa xôi.

Phật nói, con người ta sau khi chết đi, ngoài những linh hồn lập tức thăng thiên, những vong hồn khác đều phải đợi bảy bảy bốn mươi chín ngày mới có thể quyết định đầu thai luân hồi. Vì thế, trong bảy bảy bốn mươi chín ngày đó, phải siêu độ cho vong hồn, để khi tái sinh làm người sẽ được đầu thai vào nhà nào tốt một chút.

Cơ Hốt cầu siêu cho Cơ Anh cũng xuất phát từ lòng yêu thương đệ đệ, hy vọng kiếp sau chàng có thể bình an, khỏe mạnh trường thọ. Nhưng tại sao lại mang đến cho nàng nỗi đau xé gan xé phổi như thế, giống như sắp cắt đi một phần linh hồn như thế?

Công tử… sắp đi… rồi.

Lăng địa[2] của chàng cũng đã chọn xong, dưới núi Ngũ Tùng ở ngoại ô phía Đông, sau bốn mươi chín ngày sẽ nhập thổ an táng. Còn linh hồn của chàng sau khi được cầu siêu, có thể sẽ luân hồi chuyển thế, thực sự cắt đứt với kiếp này… Từ khi về cung đến nay, liên tiếp xảy ra hai, ba chuyện lớn, khiến nàng bận bù đầu không có thời gian rảnh rỗi để thương xuân sầu thu, tự oán tự trách.

[2] Lăng địa: Nơi xây lăng mộ.

Nàng vốn tưởng mình đã quên rồi, nàng vốn nghĩ mình đã chuẩn bị tốt rồi, trong cái đêm khắc cốt ghi tâm mùng một tháng tám đó, nàng những tưởng hết thảy trước mắt của mình đã cạn rồi, nhưng mà… giờ này phút này, nghe thấy Phật âm như tiên nhạc đó, nhìn thấy Đoan Tắc cung giữa hồ đó, mắt nàng lại cay xè, cảm xúc đau thương giống như sương đêm từ từ dâng lên, tầng tầng lớp lớp nhấn chìm cả thể xác và tâm hồn nàng trong đó.

Công tử… chàng có hận ta không?

Là cha và anh rể ta liên thủ, dùng thủ đoạn bì ổi nhất hại chết chàng. Còn ta, ta biết tất cả, nhưng lại bó tay trước tất cả, thậm chí không có cách gì báo thù cho chàng… chàng có hận ta không?

Công tử nhất định không hận ta đâu.

Nhưng bản thân ta... không có cách nào… không có cách nào tha thứ cho chính mình!

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, trước mắt bỗng nhòa đi. Từ cái đêm đoạn tuyệt với phụ thân, hai mắt nhỏ lệ máu đó, thi thoảng lại xuất hiện tình trạng mắt bị nhòe trong thời gian ngắn như thế này, nàng tự mình tra cứu y thư, cũng mời Giang Hoài khám, đều nói là do tâm tư ưu phiền tạo thành, chỉ cần nghỉ ngơi hợp lý, giữ cảm xúc cân bằng, là có thể không chữa mà khỏi.

Nhưng cảnh này tình này, làm sao nàng có thể giữ cho cảm xúc cân bằng đây?

Trong lòng đang rầu rĩ đau xót, lại thấy một chiếc thuyền nhỏ xuất hiện trong tầm mắt. Đầu tiên nàng còn tưởng mình nhìn nhầm, vội đưa tay lên dụi dụi mắt, nhìn lại lần nữa, quả thật là một chiếc thuyền.

Đây là lần đầu tiên nàng nhìn thấy thuyền ở đây!

Tuy từ lâu đã biết muốn đến Đoan Tắc cung phải đi thuyền, nhưng xưa nay chưa từng thấy chiếc thuyền nào neo lại bên hồ. Mà Cơ Hốt vốn dĩ cô độc cao ngạo phóng túng, lại ỷ vào sự sủng ái của Chiêu Doãn và sự chống lưng của gia tộc, tuy thân ở hoàng cung, nhưng lại sống như một vị ẩn sĩ mặc tình ngạo nghễ. Nàng ta không qua lại với bất kỳ vị phi tử nào, cùng lắm chỉ xuất hiện trong đại lễ mà thôi, chính là bậc đại ẩn, ẩn mình giữa hoàng cung.

Vì thế, khi nhìn thấy một chiếc thuyền chèo từ phía Đoan Tắc cung ra, Khương Trầm Ngư có chút kinh ngạc và kích động, nàng cố sức mở to mắt nhìn chiếc thuyền đó dần tiến lại gần, trên thuyền có cả thảy hai người, một người chèo thuyền, một người đứng ở mũi thuyền.

Người chèo thuyền thân hình gầy nhỏ, khom lưng, thoáng nhìn cũng biết là một cung nữ bình thường, không hề bắt mắt, nhưng người ở mũi thuyền, cao cao gầy gầy, tuy mặc một chiếc áo trường bào màu đen không thể giản dị hơn, nhưng có thể thấy toát lên hai chữ “phong thái”.

Khương Trầm Ngư thầm ngạc nhiên trong lòng, cảm thấy dường như có gì đó là lạ, nhưng rốt cuộc nghĩ mãi mà không ra lạ ở chỗ nào. Chiếc thuyền nhỏ cập bờ, người đó cởi chiếc mũ trùm trên đầu ra, hướng về phía nàng, chắp tay cười nói: “Đã lâu không gặp, hoàng thượng có khỏe không?”.

Khương Trầm Ngư quay ngoắt đầu lại, ngạc nhiên thấy Chiêu Doãn đang đứng cách nàng không đến ba bước.

Thế nhưng, điều khiến Khương Trầm Ngư ngạc nhiên hơn so với việc Chiêu Doãn đến tự lúc nào mà nàng không hay là cuối cùng nàng cũng biết mình cảm thấy kỳ lạ ở điểm nào - Người áo đen trên chiếc thuyền nhỏ chèo ra từ Đoan Tắc cung không phải là Cơ Hốt.

Mà là một người đàn ông.

Người đàn ông đó khoảng hơn năm mươi tuổi, dáng dấp gầy guộc, tướng mạo thanh tú.

Sở dĩ không thể dùng hai tiếng “ông lão” để miêu tả, là vì ông ta tuy đã lớn tuổi, nhưng lại không có vẻ gì là già nua, mái tóc bạc như cước lại càng tăng thêm phần tao nhã, hai mắt sáng loáng, phong thái hào sảng. Khi còn trẻ hẳn là một tuyệt thế mỹ nam tử.

Ông ta là ai?

Khương Trầm Ngư còn đang nghi hoặc trong lòng, Chiêu Doãn đã nở nụ cười, tiến lên phía trước mấy bước, chắp tay làm đại lễ đáp lại: “Đồ đệ bái kiến sư phụ, người quay về rồi?”.

Sư phụ?

Khương Trầm Ngư cố gắng khống chế bản thân mới không nhảy dựng lên, từng điểm trong cơ thể nàng đang sôi sùng sục, đều đang nhảy nhót, đều đang vì hai chữ đó mà kích động, khó mà ngừng được.

Trên đời này chỉ có một người mới đủ tư cách để Chiêu Doãn gọi là sư phụ, đó chính là…

Người suýt chút nữa đã thành sư phụ của y, nhưng khi Hy Hòa phu nhân mang thánh chỉ xuất cung bất ngờ bị ngắt quãng, sau đó vì hành tung phiêu dạt nên không tìm thấy - Suy Ông Ngôn Duệ.
 
Quyển 2 - Chương 67


Ngôn Duệ.

Đệ nhất trí giả đương thời.

Người này thông minh từ nhỏ, bác học hiếu lễ, mười sáu tuổi đã làm thừa tướng Nghi quốc, thấy nền canh nông Nghi quốc yếu kém, không phù hợp để phát triển nông nghiệp, ông ta đề xuất quyết sách chọn đất để sinh tiền, sửa đường để mở cõi. Vì thế có thể nói, nền thương nghiệp của Nghi quốc sở dĩ có thể phát triển phồn thịnh, không thể thiếu công lao của người này.

Năm ba mươi chín tuổi đột nhiên ông ta nhiễm bệnh ác tính, thọ không được bao lâu nên cởi mũ từ quan, đi tìm danh y, danh y chẳng tìm thấy, lại tự điều chế ra một phương thuốc hay, sắc uống dần dần tự trị khỏi bệnh cho mình. Từ đó ông ta giác ngộ triệt để, không theo chính sự, mà mở lớp dạy học ở bốn phương, cùng đệ tử chu du các nước. Rất nhiều học trò của ông đều là cao quan đại thần ở các nước, nhưng người được biết đến nhiều nhất, cũng là kẻ bất tài nhất chính là Diệp Nhiễm.

Cha đẻ của Hy Hòa phu nhân.

Diệp Nhiễm cả đời tầm thường khiến người vợ phải thắt cổ tự vẫn, còn đem con gái của mình ra gán nợ, cuối cùng say rượu sảy chân ngã chết.

Vì thế, khi Khương Trầm Ngư biết người trước mặt này là Ngôn Duệ, phản ứng đầu tiên trong đầu chính là: Ông ta đã đến hoàng cung của Bích quốc, tại sao không gặp Hy Hòa mà lại đến Đoan Tắc cung trước? Lẽ nào, ông ta và Cơ Hốt cũng có giao tình riêng, còn thân thiết hơn cả Hy Hòa? Còn nữa, tại sao ông ta lại đến đúng lúc cầu siêu cho công tử? Ở Hồi thành công tử từng nói người này đã mất tích hai năm, không ai tìm ra được, bây giờ lại đột ngột xuất hiện như thế này… Một chuỗi nghi vấn liên tiếp nổi lên, thấy thầy trò hai người họ sắp hàn huyên chuyện cũ, nơi đây không có phần cho nàng, càng không thể giải đáp băn khoăn của nàng, nên nàng liền thỉnh an rồi cúi người lui xuống.

Nàng đến Bảo Hoa cung thăm Hy Hòa, ban nãy lúc nàng rời đi, nàng ta khóc rất dữ. Mà kể ra cũng lạ, loại Phật âm này đến một người tinh thông âm luật như nàng cũng mới được nghe lần đầu tiên, vì thế cũng đâu nhận ra nó có liên quan đến Cơ Anh, còn Hy Hòa điên điên dại dại lại biết, cho nên mới khóc lóc thảm thương như thế.

Giữa Hy Hòa… và Cơ Anh… nhất định có một phần tâm linh tương thông mà người ngoài không thể biết chăng?

Khương Trầm Ngư vừa đi vừa thẫn thờ suy ngẫm, bỗng nàng nhìn thấy một người đang đứng ở cửa Bảo Hoa cung, lặng lẽ nhìn Hy Hòa ở bên trong, gió đêm thổi tung mái tóc và tà váy người đó, dù nghi dung vẫn xinh đẹp như xưa, nhưng khó che nổi vẻ tiều tụy, mới chỉ mười chín tuổi xuân, mà nhìn như hơn ba mươi tuổi vậy.

“Tỉ tỉ?”. Khương Trầm Ngư ngạc nhiên.

Khương Họa Nguyệt đứng trước cửa nghe tiếng quay đầu lại, nhìn thấy nàng, không nói gì liền quay người bỏ đi.

Khương Trầm Ngư vội vàng gọi mấy tiếng: “Tỉ tỉ… tỉ tỉ…”. Thấy nàng ta không đáp, hơn nữa đi càng lúc càng xa, nhất thời rối trí, bèn thét lớn: “Đứng lại!”.

Khương Họa Nguyệt đờ người ra, quả nhiên dừng lại, một lúc sau, nàng ta quay đầu, ánh mắt lạnh băng: “Hoàng hậu nương nương có gì dặn dò? Tiểu phi xin rửa tai lắng nghe!”.

Khương Trầm Ngư bước đến trước mặt nàng ta, nghiêm trang hiền hòa nhìn gương mặt rõ ràng thân thuộc mà lại hóa xa lạ, nhớ lại trước đây không lâu người này còn mong chờ ngày sinh nhật lần thứ mười chín, cho rằng tất cả vẫn chưa phải là quá tuyệt vọng, khi hay tin muội muội hồi cung vẫn còn muốn đến thăm… Mà nay, tỉ muội chỉ cách nhau có một bước, mà lại kiếm vung cung giương, chĩa mũi nhọn vào nhau… Hết thảy rốt cuộc là vì sao?

Con người rõ ràng là một loài sinh vật khoan dung, khi mình hạnh phúc, tuyệt đối không muốn oán hận người khác.

Vậy, khi con người bắt đầu oán hận, phải chăng cho thấy họ thật sự quá đau khổ? Đau khổ tới mức phải đi hại người khác mới có thể lấy lại cân bằng?

Vừa nghĩ đến đây, Khương Trầm Ngư bình tĩnh trở lại, chậm rãi nói: “Lẽ nào trong hoàng cung thường xuyên chạm mặt này, tỉ tỉ muốn đến khi chết già cũng không qua lại với muội sao? Cho dù là tử tù thì trước khi bị hành hình cũng phải cho hắn được nói, để hắn tâm phục khẩu phục, không còn vương vấn mà ra đi. Nhưng Khương Trầm Ngư tự hỏi lòng chẳng làm sai điều gì, mà lại bị tỉ tỉ đối xử như vậy, Khương Trầm Ngư không cam lòng”.

Khương Họa Nguyệt phá lên cười nửa mỉa mai nửa lạnh lùng: “Không cam lòng? Hay cho một câu không cam lòng. Muội đã mở lời trước, thế thì ta cũng không giấu nữa. Trầm Ngư, trong cung này không chỉ có mình muội không cam lòng; cũng không chỉ mình muội không làm sai điều gì… Mọi người đều biết, muội lẽ nào không biết?”.

Khương Trầm Ngư không ngờ nàng ta sẽ nói như thế, không kìm được sững sờ.

Mà câu sau của Khương Họa Nguyệt lại càng không thèm kiêng dè gì hơn: “Thành thực mà nói, ta không biết muội đã làm thế nào, đi đến Bích Thủy sơn trang một chuyến rồi quay về, không lập công lao, không con nối dõi mà khiến hoàng thượng đặt chiếc mũ phượng của hoàng hậu lên đầu muội, chỉ riêng điểm này, tất thảy các phi tử khác trong cung đều không ngờ tới. Thế nhưng, so với Hy Hòa yêu mị mê hoặc hoàng thượng, mọi người bằng lòng để muội làm hậu hơn, ta cũng thế. Cho dù nói thế nào, xuất thân, phẩm hạnh của muội đều tốt hơn Hy Hòa mà… Có nhân có trí. Mọi người đều cảm thấy hậu cung rộng lớn này dưới sự lãnh đạo của muội chí ít cũng tốt hơn Hy Hòa. Nhưng mặt khác, thời gian muội vào cung ngắn nhất, những phi tử khác đều đến sớm hơn muội, vì thế tận đáy lòng không cảm thấy thoải mái, cũng là điều khó tránh. Muội đã gánh được cái danh hiệu quốc mẫu của Bích quốc, thì cũng phải nuốt trôi đố kỵ oán hận của những kẻ thất bại, đây là điều mà kẻ thắng như muội, nên tự giác biết lấy”.

Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ câu cuối cùng, không khỏi có chút ngây ngốc.

Ánh mắt Khương Họa Nguyệt nhìn nàng tràn ngập một nỗi bi ai, không biết là vì nàng, hay là vì bản thân mình: “Trầm Ngư, làm người không thể tham lam như thế, muốn có danh lợi, lại muốn có cả tình cảm. Muội muốn làm hoàng hậu, thì ắt là… tỉ muội chúng ta không còn tình cảm gì nữa”.

Khương Trầm Ngư cắn môi, bàn tay run run nắm lại, giọng nói như lọt qua từ kẽ răng: “Nếu muội không cần ngôi hoàng hậu này, tỉ tỉ tha thứ cho muội chứ?”.

Khương Họa Nguyệt sững sờ.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên, không chớp mắt chăm chú nhìn nàng ta, nhắc lại một lần nữa: “Trả lời muội đi, có phải muội không làm hoàng hậu, chúng ta sẽ có thể hòa hợp như xưa không?”

“Muội…”. Khương Họa Nguyệt cảm thấy sợ hãi trước sự chân thành và nghiêm túc của nàng, nhất thời không biết phải trả lời ra sao, trong lòng đang đấu tranh giằng co, thì thấy Khương Trầm Ngư nhếch khóe môi, cười với mình một cái.

Rất khó miêu tả đó là nụ cười như thế nào.

Tựa như khe hở đầu tiên nứt ra từ giữa khối băng trong suốt;

Tựa như sợi chỉ đầu tiên bị rút ra khỏi một tấm lụa bị dệt hỏng;

Tựa như chiếc lá đầu tiên rụng xuống của mùa thu.

Vừa đột ngột, vừa thẳng thắn, vừa rõ ràng lại vừa cương quyết.

Trái tim của Khương Họa Nguyệt run bắn lên.

Mà lúc này, Khương Trầm Ngư lên tiếng, giọng nói dịu dàng, nhưng lời lời kiên nghị: “Muội hiểu rồi… có điều, muội cảm thấy quy tắc trò chơi mà tỉ tỉ nói không công bằng. Nếu người thắng nên tự biết rằng mình sẽ bị người thua hận; thế thì người thua cũng nên có dũng khí cúi đầu xưng thần mới phải, đúng không? Khương quý nhân, ngươi thấy ai gia, tại sao không quỳ xuống? Không bái kiến? Đây là cái ‘tự giác’ của ngươi sao?”.

“Muội!”.

“Nếu tỉ không làm được việc khấu đầu bái kiến muội, thế thì dựa vào cái gì mà muội không thể canh cánh trong lòng về sự thất lễ của tỉ?”. Mắt Khương Trầm Ngư hoe đỏ, nàng ấm ức nói: “Những lời dưới đây của muội, tỉ tỉ tin cũng được, không tin cũng được, nhưng chung quy muội vẫn phải nói ra: Cho dù cả Khương gia đều nợ tỉ, thì muội Khương Trầm Ngư vẫn không hề có lỗi với tỉ. Cho nên, gặp tỉ, muội muốn nói chuyện với tỉ; tỉ không đếm xỉa đến muội, muội sẽ bám lấy tỉ; tỉ mắng muội, muội coi như không nghe thấy; tỉ đóng cửa, muội sai người đẩy cửa; tỉ giả vờ ngủ, muội gọi tỉ dậy…”. Khương Họa Nguyệt nghe thấy vừa tức giận lại vừa thấy buồn cười: “Muội có biết xấu hổ không đấy?”.

“Nói tóm lại, tỉ đừng có mơ đẩy muội ra nữa!”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, bỗng chạy lại ôm chặt Khương Họa Nguyệt, nghẹn ngào thổn thức: “Tỉ tỉ! Tỉ tỉ, tỉ tỉ, tỉ tỉ… tỉ tỉ…”.

“Muội, muội…”. Khương Họa Nguyệt không đẩy được, bất lực mà mắng rằng: “Lại còn học được kiểu vô lại này…”.

Mắng nửa chừng không nhịn được bật cười, nhưng nụ cười vừa nhen thì vùng bụng đau nhói, rên rỉ thành tiếng.

Khương Trầm Ngư vội vàng ngước đầu lên: “Sao thế?”.

“Đau… đau…”. Khương Họa Nguyệt ôm chặt bụng, cảm thấy càng lúc càng đau dữ dội, lục phủ ngũ tạng như bị thứ gì đó nghiền qua, chốc lát mồ hôi vã ra như tắm.

Khương Trầm Ngư lập tức bắt mạch cho nàng ta, Khương Họa Nguyệt đổ ập lên người nàng, đau đến mức toàn thân kiệt sức, không ngừng rên rỉ: “Đau… muội muội, ta đau… Ta sao thế này? Có phải ta sắp… chết không?”.

Ánh mắt Khương Trầm Ngư càng lúc càng sáng rõ, kết hợp với biểu cảm méo mó vì không tin nổi, trên gương mặt chấn động tột độ, cao giọng hét lớn: “Người đâu! Tuyên thái y! Tuyên thái y…”.

Khương Họa Nguyệt không thể kiên trì đợi thái y đến, trước mắt tối sầm, hoàn toàn không biết gì nữa…

Trong mơ hồ, dường như quay trở lại thời thiếu nữ.

Tuy không ai biết, nhưng trong sâu thẳm nội tâm Họa Nguyệt không thể lừa dối chính mình - Thời thiếu nữ, nàng sống không vui vẻ.

Là thiên kim của tướng phủ, sinh ra không cần lo cái ăn cái mặc, vốn dĩ chẳng có gì giày vò đến mức không được vui vẻ. Nhưng một gia tộc lớn thì tất có nhiều thị phi. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng nàng bẩm sinh nhạy cảm, vẫn ý thức được rất nhiều bóng đen âm thầm ẩn nấp dưới vẻ ngoài hòa hợp.

Khi đó, việc nàng thích nhất là tranh sủng với Hiếu Thành. Luôn cảm thấy vì ca ca là con trai, mình là con gái, cho nên mẫu thân thiên vị đại ca. Nhưng từ lúc có muội muội, nàng lại cảm thấy dường như mẫu thân không phải người trọng nam khinh nữ, chí ít so với đại ca ngốc nghếch, mẫu thân còn thích Trầm Ngư thông minh từ nhỏ hơn.

Có điều, Họa Nguyệt cũng thích Trầm Ngư.

Trầm Ngư thưở nhỏ thực sự là một đứa trẻ ngoan ngoãn khiến người ta không thể không yêu quý.

Họa Nguyệt nhớ năm chín tuổi, mẫu thân chuẩn bị dẫn ba bọn họ đi Bồ Đề đài bái Phật, không ngờ đêm trước khi đi, nàng đột nhiên bị trúng gió, sốt cao không giảm.

Mẫu thân đã hẹn với Bồ Tát rồi nên không thể nuốt lời, cuối cùng vẫn phải xuất phát. Một mình nàng nằm trên giường bệnh, ngủ li bì không biết trời đất là gì. Trong lúc mơ mơ hồ hồ, loáng thoáng có người đi đến bên giường, giở mặt tấm khăn ướt chườm đầu cho nàng. Nàng cứ tưởng là a hoàn, nhưng người đó cởi giày trèo lên giường, chui vào trong chăn.

Nàng mở mắt ra, người đó chính là Trầm Ngư.

Trầm Ngư thấy nàng đã tỉnh, bèn tươi cười với nàng: “Tỉ tỉ, đại phu nói tỉ đỡ sốt rồi, ngày mai có thể khỏi đấy”.

“Sao muội không cùng mẹ đến Bồ Đề đài?”. Nàng rất kinh ngạc, bởi vì đó là chuyến xuất hành mà mẫu thân coi trọng nhất, đã có một đứa con vì bị bệnh mà không thể đi, sao có thể cho phép một đứa con khác không đi?

Trầm Ngư dụi cái đầu bé nhỏ của mình vào vai nàng, cười hì hì nói: “Muội hẹn với Bồ Tát rồi, đợi tỉ tỉ khỏi sẽ đi thăm ngài. Ngài nói được. Cho nên muội ở lại với tỉ tỉ đấy”. Nói rồi ôm chặt nàng, hai đứa gối đầu lên chiếc gối cùng ngủ thiếp đi.

Khi ấy nàng quá mệt mỏi, nên cũng không nghi ngờ gì, vì thế Trầm Ngư nói sao nàng chỉ biết vậy. Sau này, từ chỗ vú nuôi nàng được biết, Trầm Ngư sợ nàng ở nhà một mình cô đơn, cho nên nói sao cũng không chịu đi, còn đem đồng xu ra bói, nói với mẫu thân: Nếu cả ba hào đều là đơn, thì Bồ Tát cho Trầm Ngư ở nhà.

Cuối cùng ba đồng xu xoay tít, quả nhiên cả ba hào đều là đơn.

Thế nên Trầm Ngư danh chính ngôn thuận ở lại nhà.

Sau này, nàng truy hỏi Trầm Ngư, Trầm Ngư chớp mắt cười cười, móc ra ba đồng tiền đồng đưa cho nàng xem, hóa ra có một đồng hai mặt đều là chữ, mà hai đồng còn lại không có chữ. Cũng có nghĩa là, dù Trầm Ngư tung như thế nào, cũng đều là đơn.

“Muội lấy ở đâu ra thứ đồ này?”.

“Lấy từ chỗ ca ca. Ca ca đã dùng nó để đi đánh bạc với người ta”.

“Thế huynh ấy thấy sao không vạch trần muội?”.

“Huynh ấy sợ mẹ biết huynh ấy đánh bạc, cho nên không thể vạch trần muội”.

“Muội… muội đến chuyện Bồ Tát mà cũng dám làm giả…”.

Cuối cùng nàng chỉ có thể viện vào lý do này để lên lớp Trầm Ngư, không ngờ Trầm Ngư nghe xong, lại giang rộng cánh tay ôm lấy nàng, nũng nịu nói: “Nhưng tỉ tỉ đúng là khỏi bệnh mà. Hơn nữa sau này muội cùng tỉ tỉ đến trước mặt Bồ Tát lễ tạ. Bồ Tát tấm lòng khoan dung, sẽ không tính toán với một tiểu a đầu như muội đâu”.

Năm đó, Trầm Ngư sáu tuổi.

Sáu tuổi mà đã biết làm nũng, biết giả trá, biết ăn nói khéo léo, khiến người ta chẳng có cách nào trách mắng được.

Nàng cũng chẳng có cách gì. Cho nên đành cùng những người lớn trong nhà để mặc nó thôi. Quên mất Hiếu Thành chỉ lừa nàng mà không lừa Trầm Ngư; quên mất mẫu thân càng yêu thương Trầm Ngư hơn… Khi ấy nàng nghĩ, cho dù thế nào cha cũng không thiên vị.

Không những không thiên vị, mà cha dường như không thích Trầm Ngư nhất, còn yêu cầu cực kỳ nghiêm khắc đối với Trầm Ngư.

Bài tập phu tử giao cho, rõ ràng Trầm Ngư viết đẹp nhất, nhưng phụ thân vẫn yêu cầu Trầm Ngư viết lại. Kỳ thực trong cầm kỳ thư họa Trầm Ngư không thích đánh đàn, nhưng phụ thân lệnh cho nó mỗi ngày phải luyện một canh giờ, có khi luyện đàn rách cả da tay, Trầm Ngư không chịu được bật khóc, nàng nhìn thấy đau lòng, chạy đi cầu xin phụ thân, phụ thân lại lạnh lùng nói một câu “Lâu dần sẽ không bị rách da nữa”.

Khi đó nàng nghĩ, phụ thân thật hà khắc với Trầm Ngư, Trầm Ngư thật đen đủi.

Nhưng bây giờ nhớ lại, từ đó có thể nhận ra: Đó rõ ràng là cách đào tạo hoàng hậu, để đào tạo Trầm Ngư… cũng tức là, trong ba đứa con, người phụ thân yêu nhất… chính là Trầm Ngư.

Năm mười bốn tuổi, nàng ý thức được mình đã thích Tất sư gia đang đi theo phụ thân, chàng luôn mặc một chiếc trường bào màu lam nhạt, có thêu hoa văn lá trúc, giữa hai hàng lông mày có một vết bớt, dáng vẻ tiên phong đạo cốt, thực không giống với những người khác. Nhưng chàng lại luôn giả vờ không hay biết tấm chân tình của nàng, thậm chí còn trốn tránh nàng, từ quan viễn hành, trước lúc đi, còn tặng cây đàn của mình cho Trầm Ngư… Lúc đó, nàng buồn biết bao nhiêu, buồn đến mức chẳng ăn nổi cơm. Nửa năm sau, hoàng cung bắt đầu tuyển tú nữ, nàng bị chọn làm một trong số tú nữ đó. Mẫu thân khuyên nhủ nàng cả đêm, nói nàng có số trời định làm nương nương.

Được, dẫu sao nàng cũng chẳng còn hy vọng gì với Tất sư gia, đời này nàng cũng không thể được bạc đầu bên người trong lòng mình thích, thế thì chọn một chàng rể phú quý nhất để được hãnh diện, để khiến tất cả mọi người đều phải ngưỡng mộ nàng, cung kính nàng.

Thế là nén chặt cõi lòng, nàng bước vào hoàng cung.

Cũng chính là đêm đó, lần đầu tiên nàng nhìn thấy tân đế của Bích quốc - Chiêu Doãn.

Tuy vẫn biết hoàng thượng chỉ lớn hơn nàng nửa tuổi, nhưng khi tấm khăn đỏ được lật ra, gương mặt lọt vào tầm nhìn lại là thiếu niên anh tuấn như thế, vẫn khiến nội tâm nàng chấn động tột độ.

Nụ cười của y với nàng, đến cái chớp mắt cũng đầy tình cảm.

Y kéo nàng lại, đầu ngón tay đầy dịu dàng.

Một trái tim thiếu nữ đã bị đắm chìm trong đó, khó mà thức tỉnh.
 
Quyển 2 - Chương 68


Một phần nào đó đã mất đi trên người Tất sư gia, dường như lại được bù đắp trên người Chiêu Doãn, hơn nữa, lại càng khắc cốt hơn, càng ghi tâm hơn so với Tất sư gia.

Người nhà thấy nàng ghen với Hy Hòa, chỉ coi là vì tranh vị, mà không biết, nàng thực sự hận Hy Hòa đã cướp đi Chiêu Doãn. Từ khi Hy Hòa vào cung đến nay, trong mắt Chiêu Doãn chỉ có ả, chỉ nhớ nhung ả. Khiến cho nàng, một người cũ, sao có thể cam tâm?

Dẫu luôn biết rằng hậu cung tàn khốc không có tình yêu lâu bền, biết rằng hoàng đế không thể chỉ thuộc về một người, nhưng Chiêu Doãn đối với nàng mà nói, y chưa bao giờ là hoàng thượng, y thực sự là nam nhân đầu tiên cũng là nam nhân duy nhất của nàng.

Nếu nói sự xuất hiện của Hy Hòa là bắt nguồn từ số mệnh của hậu cung, dẫu nàng không cam tâm nhưng cũng phải cắn răng nhận lấy, ai có thể cười đến cuối cùng tùy bản lĩnh mỗi người. Nhưng Trầm Ngư thì sao? Tại sao Trầm Ngư cũng bị cuốn vào? Thành đối thủ đáng sợ hơn cả Hy Hòa? Cuộc đấu của nàng và Hy Hòa, chí ít gia tộc cũng đứng về phía nàng, nhưng tranh chấp giữa nàng và Trầm Ngư? Phụ thân, ca ca sẽ giúp ai, câu trả lời vô cùng rõ ràng… Ông trời thật tàn nhẫn, biết nàng sợ cái gì nhất, liền tặng cho nàng cái đó; biết nàng muốn cái gì nhất, liền không cho nàng cái đó… hết lần này đến lần khác khiến nàng đau lòng…

Tại sao?

Tại sao?

Thứ mà Khương Họa Nguyệt nàng mong ước xưa nay, chẳng qua cũng chỉ là một phu quân chung tình son sắt, một gia đình ấm cúng đoàn viên…

“Tỉ tỉ? Tỉ tỉ…”. Giọng nói êm tai trong trẻo xuyên qua làn sương mù dày đặc, dịu dàng truyền tới.

Khương Họa Nguyệt từ từ mở mắt ra, lúc đầu tầm nhìn mờ mờ, chỉ có thể thấy một ngọn đèn đang đung đưa, theo đó, trong ánh đèn gương mặt của một người dần dần rõ nét, chăm chú nhìn Họa Nguyệt, mỉm cười rạng rỡ, trong nụ cười còn mang theo vài phần mừng rỡ. Dịu dàng mà xinh đẹp.

Là Trầm Ngư… Là người mà nàng quan tâm nhất cũng sợ hãi nhất, muốn thương yêu nhất cũng muốn đố kỵ nhất trên đời này…

Cảm giác chua xót trong mộng đó vẫn còn luẩn quẩn trong trái tim, Khương Họa Nguyệt lặng nhìn Khương Trầm Ngư ngồi ở đầu giường, cổ họng giống như bị một thứ gì đó bít chặt, nói không nên lời.

Khương Trầm Ngư lao tới ôm chặt bờ vai nàng ta, cực kỳ sung sướng vừa khóc vừa nó: “Tỉ tỉ! Tỉ có thai rồi! Chúc mừng tỉ, tỉ tỉ! Tỉ có thai rồi!”.

Khương Họa Nguyệt cả kinh, trí não hoàn toàn trống rỗng, lúc lâu sau mới phản ứng lại, giọng run run nói: “Muội… nói gì?”.

“Muội nói tỉ, tỉ tỉ, tỉ có thai rồi, muội đã tìm Giang thái y đến kiểm tra cho tỉ, chứng thực không phải là nhầm lẫn…”.

Phía sau Khương Trầm Ngư, Giang Hoài đứng ra, cúi người quỳ xuống nói: “Chúc mừng quý nhân, chúc mừng quý nhân, quý nhân thực sự có thai được ba tháng rồi?”.

Cả người Khương Họa Nguyệt run bắn lên, tóm chặt tay muội muội, mấy lần há miệng định nói, nhưng không nói nổi nên lời. Tin này thực sự gây cho nàng ta một nỗi chấn động quá lớn, lớn đến mức dù cho có sự đảm bảo của thái y nàng ta vẫn không thể tin nổi.

Nàng ta… rõ ràng, rõ ràng là… không thể mang thai… các thái y trước đây đều nói như thế, Giang Vãn Y cũng nói như thế… Sao, sao đột nhiên… đột nhiên lại có?

Đây, đây, đây…

“Tỉ tỉ…”. Khương Trầm Ngư ôm lấy nàng ta, nhìn sâu vào mắt nàng ta, nhẹ nhàng nói: “Tỉ tỉ, đây là tin tốt lành đúng không? Ông trời cuối cùng cũng nổi lòng thiện, đền bù cho tỉ tất cả những gì tỉ thua thiệt rồi”.

Sau cùng Khương Họa Nguyệt đã không thể kìm nén nổi, òa lên khóc hu hu, ôm chặt Khương Trầm Ngư, nghẹn ngào nói: “Muội muội! Muội muội! Ta có con rồi! Ta có con rồi!”.

“Chúc mừng tỉ, tỉ tỉ. Thực sự chúc mừng tỉ”. Khương Trầm Ngư nói tới đây, trăm ngàn cảm xúc đan xen trong lòng. Một mặt cố nhiên là mừng cho Họa Nguyệt, ai có thể ngờ Họa Nguyệt lại có thể có con, nàng ta đã tìm biết bao kỳ phương diệu dược nhưng đều vô ích, đã không còn hy vọng, bỗng dưng lại hoài thai rồng? Mặt khác, đây lại là sự mai mỉa đối với thế sự vô thường.

Quả thật là… người tính không bằng trời tính.

Phụ thân tính toán bao nhiêu như thế, muốn để nàng trở thành hoàng hậu, nhưng cuối cùng sở dĩ hoàng thượng phong hậu cho nàng, lại là vì nàng đã cắt đứt với phụ thân.

Phụ thân vứt bỏ Họa Nguyệt, thậm chí Họa Nguyệt cũng bỏ mặc chính mình, nhưng ông trời không bỏ mặc nàng ta, trong lúc nàng ta tuyệt vọng nhất, lại đem đến cho nàng ta sự bù đắp lớn nhất…

Người tính có mấy khi có thể đấu lại với trời?

Nhưng cho dù thế nào, đây thực sự là chuyện vui tốt nhất trong thời gian gần đây.

Quá tốt rồi, tỉ tỉ.

Thật sự… quá tốt rồi…

Niềm vui này của Khương Trầm Ngư vẫn không hề giảm bởi khi nàng đến ngự thư phòng tối nay, thấy Chiêu Doãn vùi đầu trong đống tấu sớ, cũng càng nhìn càng thuận mắt hơn; nam nhân này nếu bỏ thân phận tôn quý của đế vương qua một bên, thì nghi dung cũng vào hàng xuất sắc đệ nhất. Lông mày sắc nét, mũi thẳng, phối hợp với chiếc cằm nhọn, tướng mạo khá là đẹp. Mà thứ đẹp nhất của y chính là cặp mắt, đồng tử màu trà ấm áp, luôn chất chứa nét cười long lanh, hàng mi vừa dài vừa dày, lúc cụp lúc nhướng, cực kỳ rung động lòng người.

Đứa trẻ do y và tỉ tỉ sinh ra, cho dù giống ai, đều vô cùng xinh đẹp… Nghĩ đến đây, Khương Trầm Ngư không nén được mỉm cười.

Mà nụ cười ấy bị ánh mắt Chiêu Doãn bắt được, y liếc nàng một cái: “Có chuyện gì mà cười tươi thế?”.

“Lẽ nào hoàng thượng không vui? Họa Nguyệt… mang thai rồng rồi”.

Chiêu Doãn nhếch môi cười nhạt: “Vui”.

“Hoàng thượng không thực sự vui”.

Chiêu Doãn thấy Khương Họa Nguyệt lộ vẻ không vui như một cô gái nhỏ, điều này thật hiếm có, y bất giác cười “phì” một tiếng, lúc này, lông mày mới giãn ra, mắt nheo lại, mới là cười thực sự: “Thật là hoàng đế không vội, thái giám vội. Người sắp làm phụ thân là trẫm, nhưng nàng còn kích động hơn cả trẫm”.

“Đương nhiên là kích động rồi, thiếp sắp được làm dì đó”.

Trong đáy mắt Chiêu Doãn lóe lên một tia dị sắc, lại cười, nhưng có thêm phần lạnh nhạt: “Làm dì không hay, nàng vẫn nên nghĩ làm mẫu hậu như thế nào cho tốt đi”.

Khương Trầm Ngư ngây người. Câu này của hoàng thượng là ý gì?

Cây bút lông trong tay Chiêu Doãn chưa dừng lại, y vừa phê tấu chương, vừa bình tĩnh nói: “Nếu nàng thật sự thích đứa trẻ đó, thế thì đợi Họa Nguyệt sinh xong sẽ cho nàng nuôi dưỡng, đó mới là cách tốt nhất đối với nói”.

Khương Trầm Ngư cảm thấy trái tim mình, giống như một tảng đá lớn, không kịp phòng ngự đã chìm nghỉm.

Hoàng thượng rõ ràng biết Họa Nguyệt vô cùng muốn có một đứa con, nếu ai đó cướp đi đứa con của nàng ta, nàng ta chắc chắn sẽ phát điên, tại sao lại nói như vậy? Lẽ nào cảm thấy mình là hoàng hậu không có con nối dõi thì danh bất chính ngôn bất thuận hay sao? Hay đúng như lời y nói, điều đó thực sự tốt cho đứa trẻ? Lẽ nào có người muốn hại đứa trẻ?

Nhất thời, trái tim nàng hỗn loạn, nàng không kìm được cất tiếng hỏi: “Hoàng thượng, thần thiếp không hiểu”.

Chiêu Doãn lại nhìn nàng một cái, trên mặt lộ vẻ thương xót, vẫy vẫy tay với nàng.

Khương Trầm Ngư vội vàng bước lại gần.

Hôm nay nàng mặc chiếc áo lụa màu hồng nhạt, chân váy và tay áo dài bị gió thổi tung, phong thái trông thật yểu điệu, rung động lòng người. Ngũ quan cũng xinh đẹp vào hàng bậc nhất, so với lúc mới tiến cung đã trưởng thành hơn rất nhiều, tựa như một đóa hoa, qua giai đoạn chúm chím, đang nở bừng rực rỡ.

Nhưng nàng ngẩng đầu, ngước mắt, đáy mắt trong veo, vẫn ngây thơ như một đứa trẻ.

Quả nhiên… vẫn là một đứa trẻ.

Chiêu Doãn thầm thở dài trong lòng, đưa tay vuốt mái tóc nàng, chậm rãi nói: “Đứa con đầu tiên của trẫm là tâm điểm chú ý của muôn vàn cặp mắt, nếu như sinh ra là con trai, thì theo luật lệ của triều ta, nó sẽ là thái tử. Có thể nói, đây là nhân tố quan trọng kéo một sợi tóc mà lay động toàn thân. Cho nên, có rất nhiều người mong đợi sự ra đời của nó, ngược lại cũng có vô số người hy vọng nó không ra đời. Trước những lợi ích đó, đứa trẻ này sẽ rơi vào vòng nguy hiểm”. Nói đến đây, trong đáy mắt nổi lên mấy phần âm u, lạnh lùng nói tiếp: “Nàng cho rằng đứa con đầu tiên của trẫm, vì sao mà mất đi?”,

Đứa con đầu tiên của y? Lẽ nào không phải là… A! Khương Trầm Ngư đột nhiên nhớ ra, Chiêu Doãn đã từng có một đứa con, mà đứa trẻ này cũng mất đi ngay trước mặt nàng.

Ngày hôm đó, nàng vào cung gảy đàn, Hy Hòa phu nhân đột nhiên thổ huyết, sau đó Cơ Anh dẫn Giang Vãn Y vào cung, sau đó, Giang Vãn Y tuyên bố Hy Hòa sảy thai, hoàng thượng nổi cơn thịnh nộ… Đó là lý do Tiết thị diệt vong, vì chuyện này mà về sau rất nhiều người nói sảy thai chỉ là cái cớ mà hoàng thượng và Giang Vãn Y thông đồng với nhau tuyên bố ra ngoài, mục đích là để hãm hại Tiết Mính.

Nhưng nghe ý tứ của Chiêu Doãn lúc này, dường như Hy Hòa thực sự từng mang thai? Hơn nữa còn thực sự bị mất?

Khương Trầm Ngư sững sờ nhìn Chiêu Doãn, nhất thời không biết nên nói gì?

Còn Chiêu Doãn lại tỏ vẻ không muốn nói thêm về chuyện này, y gập tấu chương lại nói: “Đến lúc rồi, chúng ta vào Bách Ngôn đường, nghe xem tin tức báo về từ phía Giang Đô thôi!”.

Khương Trầm Ngư liền dạ một tiếng, cùng y bước vào Bách Ngôn đường, bảy người khác đã đến đủ, thấy họ vào trong, lần lượt đứng dậy khấu bái.

Chiêu Doãn đưa Khương Trầm Ngư vào ghế, mới vừa ngồi yên, người áo tím ngồi ở cuối cùng đã lên tiếng báo cáo: “Sau bảy ngày bảy đêm ngựa không dừng bước, Tiết Thái và Khương Hiếu Thành cuối cùng đã đến Giang Đô vào hồi giờ Dậu một khắc ngày mười chín tháng chín”.

Người áo xám ngạc nhiên kêu lên: “Bảy ngày đã tới? Làm sao đi được?”.

Đây cũng chính là điểm nghi vấn của Khương Trầm Ngư và Chiêu Doãn. Chuyến này đi Giang Đô tuy không phải là ngàn dặm xa xôi, nhưng cũng tương đối xa, bình thường cũng phải một tháng mới tới nơi. Mà hai người này sao lại mất có bảy ngày đã tới?

Người áo tím cung kính đáp: “Là như thế này, trước khi xuất phát, Tiết Thái lệnh cho chọn bốn con ngựa thiên lý tốt nhất, lại chọn một cỗ xe ngựa nhẹ và khéo nhất, tất cả vật dụng trên xe vứt đi gần hết, chỉ trải một tấm da mềm nhất, chuẩn bị một bao lương khô nước sạch, lên xe là ngủ. Lại chọn hai phu xe, lần lượt thay nhau, mỗi người đánh xe sáu canh giờ. Sau một ngày một đêm đến thành trì tiếp theo, lập tức đổi bốn con ngựa tốt, hai phu xe khác, tiếp tục lên đường. Cứ như thế ngựa phi không dừng vó đã đến được Giang Đô”.

Khương Trầm Ngư không khỏi tặc lưỡi khen giỏi trong lòng. Cách này nghe có vẻ dễ làm, nhưng thực hiện vô cùng khó khăn, bảy ngày bảy đêm đều phải ở trên cỗ xe ngựa lao đi với vận tốc cực nhanh đó, cũng chỉ có thể ăn lương khô, còn phải khống chế ăn uống một cách nghiêm khắc, tránh lãng phí quá nhiều thời gian đi vệ sinh, Tiết Thái cũng thật là, hắn vốn là một đứa trẻ có khả năng nhẫn nhịn, nhưng không biết nên làm thế nào mà ca ca cũng có thể chịu được, ngoan ngoãn ngủ đến tận Giang Đô.

Người áo tím dường như đọc được tâm tư của nàng, nói tiếp: “Nghe nói Khương đại nhân mới ngủ có nửa ngày đã không chịu nổi, một mực kêu đau lưng”.

Khương Trầm Ngư che miệng, đó mới là ca ca của nàng.

“Cho nên, đến lần thứ hai Khương đại nhân kêu đau, Tiết Thái liền đánh ngất đại nhân”. Người áo tím nói đến đây, dường như cũng hơi buồn cười, nhưng vẫn phải cố nén, vì thế lộ ra vẻ hóm hỉnh: “Chính vì thế, Khương đại nhân ngất suốt dọc đường đến Giang Đô…”.

Chiêu Doãn liếc Khương Trầm Ngư một cái, cười nói: “Cho dù đi thế nào, đến được là tốt. Tiếp tục nói đi”.

“Vâng”. Người áo tím lấy một quyển sổ tay từ trong người mở ra đọc: “Giờ Dậu hai khắc, hai người Tiết Khương tắm rửa, thay áo sống đẹp; giờ Dậu ba khắc, hai người đến dự tiệc ở phủ đệ của thành chủ Giang Đô - Quan Đông Sơn, và nói rõ vẻ đi Ngọc Giang lâu chơi…”.

Khương Trầm Ngư hỏi xen vào: “Ngọc Giang lâu là?”.

Người áo xám trả lời thay: “Là chốn phong nguyệt nổi tiếng ở nơi đó, vì mỹ nhân nhiều mà được đặt tên như vậy, cùng với Hồng Tụ lâu của kinh đô, Khổng Tước lâu của La Sơn, là một trong Bích quốc tam tú”.

Chiêu Doãn phì một tiếng: “Tam tú cái gì, Bích quốc đã đến mức phải dựa vào phong nguyệt yên hoa để giữ thể diện rồi à?”.

Người áo xám vội đáp: “Thần lập tức thảo chỉ ban lệnh xóa bỏ cách nói đó”.

“Được rồi. Những thứ này, càng cấm càng lan rộng, cứ kệ chúng đi”. Chiêu Doãn cau mày: “Tiếp tục”.

Người áo tím đọc: “Giờ Tuất, một hàng người đến Ngọc Giang lâu, những nhân vật nổi tiếng của bản địa cũng lần lượt xuất hiện, tất cả mọi người đều không biết hai vị khâm sai đại thần chuẩn bị làm gì, lúc mới bắt đầu đều thấp thỏm không yên, nhưng rượu được nửa tuần, Quan Đông Sơn sán lại thăm dò ý tứ, Khương Hiếu Thành cười ha ha nói: “Trời muốn đại hạn là việc không thể thay đổi được. Hoàng thượng phái hai người chúng ta tới, chẳng qua cũng chỉ là hình thức mà thôi. Yên tâm đi, hoàng thượng đã sớm chuẩn bị năm trăm vạn lượng bạc để mua lương thực, chúng ta đi trước, ngân lượng theo sau. Chúng ta đợi nhận tiền ở đây, đến lúc đó sẽ mở kho cứu dân, thành chủ ngươi giải quyết vấn đề thật tốt, hai anh em ta cũng trở về báo cáo vẻ vang”. Nói đoạn, lại tiện tay ban thưởng một trăm lượng bạc bằng ngân phiếu cho một tiểu a hoàn bưng đồ ăn.

Chiêu Doãn lườm Khương Trầm Ngư một cái: “Ca ca của nàng có nhiều tiền thật đấy”.

Khương Trầm Ngư mím môi cười nói: “Sao có thể hào phóng bằng hoàng thượng, một lần ra tay là năm trăm vạn lượng”.

Hai người nhìn nhau, cùng bật cười.

Quốc khố không có bạc, họ rõ như lòng bàn tay, nhưng văn võ bá quan lại không hề hay biết. Khương Hiếu Thành và Tiết Thái đi cứu nạn chuyến này, kỳ thực tay trống không, một chinh tiền cũng không có, nhưng lại thể hiện dáng vẻ tự tin có thừa, lưng dắt vạn lượng, rõ ràng là đang dàn cảnh. Kế sách kiểu này, Khương Hiếu Thành quyết không thể nghĩ ra. Chiêu Doãn gật đầu than nhẹ: “Tiết Thái quả nhiên là một tên tinh quái…”.

“Mọi người vừa nghe xong câu này, trái tim vốn dĩ treo lơ lửng đều được hạ xuống, thoải mái chè chén, chúc tụng lẫn nhau. Trong bữa tiệc, Tiết Thái bỗng nói: ‘Từ lâu nghe tiếng Giang Đô giàu có, ngày hôm nay được thấy mới biết là giày đến mức này’, mọi người không hiểu vì sao, cho nên lần lượt hỏi thăm, hắn bèn chỉ tay vào một con chó coi cửa ở cách đó không xa, nói: ‘Đến cái đĩa đựng thức ăn cho súc sinh cũng quý giá như thế’. Mọi người cảm thấy kỳ lạ, vội chạy qua xem, cái đĩa vỡ bẩn đến nỗi không nhìn ra hoa văn, đâu có gì quý giá? Có người lòng đầy nghi hoặc, bèn đem cái đĩa đó đi rửa sạch, vẫn là một cái đĩa sứ men xanh rất tầm thường, nhìn không ra dấu vết gì. Cuối cùng vẫn là Tiết Thái bước lên phía trước, múc nước đổ lên đĩa, rồi đặt dưới đèn…”.

Người áo tím mồm miệng lanh lợi, giọng nói lên bổng xuống trầm, miêu tả sinh động, giống như kể chuyện, khiến người ta mải mê nghe. Vì thế, hắn vừa dừng lại, ngay lập tức có người hỏi: “Xảy ra chuyện gì?”.

“Kể cũng kỳ lạ, chiếc đĩa đó vốn có màu xanh, nhưng đựng nước rồi bị ánh đèn chiếu vào lại nở ra một đóa mẫu đơn, gợn nước lay động, đóa mẫu đơn đó lại đổi sắc, giống như đang nở bung vậy. Mọi người thấy cảnh tượng lạ lùng, không khỏi tặc lưỡi, lại đi tìm tiểu nhị của Ngọc Giang lâu đến hỏi, y cũng không biết chiếc đĩa mình cho chó ăn lại thần kỳ đến như thế. Mà điều càng khiến người ta kinh ngạc hơn là Tiết Thái, hắn chỉ đứng từ xa nhìn một cái mà có thể phân biệt được ra sự quý giá của chiếc đĩa đó, nhãn lực chừng ấy, không ai có mặt là không tâm phục khẩu phục”.

Chiêu Doãn cười hì hì: “Nhãn lực ấy… có chút ít thôi, nhưng bản lĩnh diễn trò mới là tinh túy thượng đẳng”.

Người áo tím quỳ xuống bái phục nói: “Hoàng thượng thánh minh”.

“Được rồi được rồi, mấy lời xưng tụng này bớt đi vẫn hơn. Mau nói xem, Tiết Thái bày trò lừa gạt bọn người giàu có đó như thế nào”.

Người áo tím cười ngượng ngập mấy tiếng, giọng sang sảng nghiêm trang nói: “Màn kịch lớn đó, Tiết Thái không chỉ diễn một tối, mà diễn suốt ba ngày liền…”.
 
Quyển 2 - Chương 69: Hồi thứ mười bảy: Tân hậu


“Tiết công tử quả nhiên không hổ là Băng Ly công tử được Yên vương ngự ban, kiến thức khác hẳn người bình thường”.

“Đúng thế đúng thế, sinh nhật công tử lên sáu, tiểu nhân có may mắn nhận được một tấm thiệp, còn đến quý phủ thăm hỏi, không biết công tử có còn ấn tượng không…”.

Tiết Thái nghe những lời tâng bốc thật thật giả giả này, chỉ mỉm cười nhàn nhạt, bỗng quay sang mỹ nhân đang tiếp Khương Hiếu Thành uống rượu ở bàn bên cạnh nói: “Chiếc vòng của vị cô nương đây đẹp quá…”.

Câu nói này khiến cho tất cả mọi người có mặt đều đổ dồn ánh mắt lên người mỹ nhân. Mỹ nhân nhận được sự chú ý, càng cảm thấy vui vẻ, mỉm cười xinh đẹp, nói: “Tiểu công tử nhãn lực thực tốt. Chiếc vòng này…”. Nói đoạn đánh mắt sang nhìn Quan Đông Sơn, che miệng cười: “Đây là bảo bối gia truyền, nghe nói là ngọc Băng Hoa Phù Dung chính tông, giá trị khuynh thành đó”.

Tiết Thái: “Có thể cho tại hạ mượn xem một chút không?”.

Mỹ nhân rất sảng khoái, vui vẻ tháo vòng đưa cho Tiết Thái.

Tiết Thái cầm lên xem kỹ một lượt, đưa trả lại cho nàng ta, trên mặt có chút cổ quái. Mỹ nhân không kìm được hỏi: “Tiểu công tử như vậy là có ý gì? Chiếc vòng này có gì lạ à?”.

Tiết Thái than nhẹ rằng: “Cái gọi là báu vật gia truyền, quý ở tâm ý. Có tâm là tốt rồi, hà tất phải để ý ở giá trị thực sự của nó”.

Kỳ thực hắn không nói không sai, nói như vậy, mỹ nhân đương nhiên không chịu bỏ qua, liền truy hỏi: “Công tử có gì xin cứ nói thẳng, chiếc vòng này lẽ nào không phải là ngọc Băng Hoa Phù Dung?”.

Tiết Thái trầm giọng đáp: “Mọi người đều biết, loại ngọc này do Dương quý phi đặt tên, tín vật định tình Đường Minh Hoàng tặng cho Dương thị năm xưa chính là loại ngọc này, tên thưở nhỏ của quý phi là Phù Dung, lại thêm hoa văn của nó giống như băng rạn, cho nên người đời sau đặt tên là Băng Hoa Phù Dung. Loại ngọc này có màu sắc vô cùng hiếm gặp, loại màu tím hồng này là phần được hình thành ở giữa suối, đeo lâu ngày có thể dưỡng nhan trắng da, cho nên lại càng trân quý lạ thường”.

Mọi người gật đầu lia lịa.

“Cũng vì thế, kẻ làm giả chúng vô cùng nhiều, tay nghề tinh xảo, thậm chí có thể lấy giả đổi thật”.

“Ý của công tử là chiếc vòng của ta là đồ giả?”.

“Là giả hay thật, nhìn cái là biết…”. Tiết Thái nói đoạn, đảo mắt nhìn quanh, nói với một mỹ nhân khác: “Có thể cho tại hạ mượn chiếc vòng của cô nương một lát không?”.

Mỹ nhân đó liền vội vàng tháo chiếc vòng của mình đưa cho hắn, đó là một chiếc vòng bằng bạch ngọc. Hai chiếc vòng chồng lên nhau, màu trắng hồng lại càng đẹp mắt. Tiết Thái chồng hai chiếc vòng lên nhau xong bắt đầu cọ xát chúng, một lúc sau lại đem hai chiếc vòng đưa cho mỹ nhân thứ nhất: “Ngửi xem”.

Mỹ nhân thứ nhất hít nhẹ một cái, kinh ngạc kêu lên: “Đây là mùi gì?”.

“Mùi của đá nhân tạo”. Tiết Thái giải thích: “Mùi này toát ra từ chiếc vòng của cô nương, điều này cho thấy, chiếc vòng của cô ta là thật, còn của cô nương là giả”.

Mỹ nhân đột nhiên phù dung thất sắc, quay đầu nhìn sang Quan Đông Sơn, Quan Đông Sơn vội vã ngoảnh sang chỗ khác làm bộ nói chuyện với người khác, khiến mỹ nhân vừa tức vừa thẹn, lập tức ném chiếc vòng đó đi, khóc òa lên rồi chạy mất.

Cả sảnh đường cười ầm lên.

Mà thái độ của mọi người ở đó lập tức khác hẳn đi. Tuy Tiết Thái và Khương Hiếu Thành cùng là khâm sai đến Giang Đô lần này, những kẻ quyền quý kia lại chủ yếu nịnh bợ Khương Hiếu Thành, khi giáp mặt với Tiết Thái, luôn có ít nhiều gượng gạo bối rối.

Tiết tộc diệt vong, đến nay người nhà họ Tiết có thể nói chỉ còn lại hai người, phế hậu trong lãnh cung Tiết Mính và quan khâm sai nhưng thực chất vẫn là nô lệ Tiết Thái. Mọi người không dám quá thân thiết với hắn, cũng là lẽ thường tình của con người.

Nhưng hắn giở chiêu này, mọi người thán phục trong lòng, cũng không còn kiêng dè nhiều, lần lượt tiến lên bày tỏ sự ngưỡng mộ và mời hắn về nhà làm khách.

Tiết Thái không từ chối một ai, gật đầu đồng ý hết.

Đêm đó, hắn và Khương Hiếu Thành ở lại phủ đệ của thành chủ, nhân tiện tham quan thư phòng của Quan Đông Sơn một chút, khi Quan Đông Sơn bày những bức thư họa sưu tầm nhiều năm ra, hắn chỉ mỉm cười không nói, cũng không phát biểu bất cứ suy nghĩ gì.

Ngày thứ hai, đi đến làm khách ở các nhà quyền quý nổi tiếng cũng vậy.

Ngày thứ ba, vẫn như thế.

Thực ra mọi người mời hắn, ngoài việc bợ đỡ lấy lòng ra, còn có mục đích muốn hắn dùng tuệ nhãn để giám định đồ quý nhà mình. Nhưng hắn nhìn tới nhìn lui, vẫn không phát biểu ý kiến, thật khiến người ta buồn bực. Cuối cùng vẫn là Quan Đông Sơn không nhịn nổi đầu tiên, hỏi: “Tranh chữ của nhà ta không lọt vào mắt xanh của công tử à? Tại sao công tử không chịu bình luận gì hết?”.

Tiết Thái thong thả cười nói: “Vì sao Quan đại nhân thích tranh chữ?”.

“Tại sao thích à? Cái này… chính vì thích thôi…”.

Tiết Thái lại nói; “Quan đại nhân đã tiêu không ít tiền vì những bức tranh chữ này phải không?”.

“Đương nhiên, công tử không biết chứ, số tranh chữ này còn quý hơn cả kim ngân châu báu gì đó…”. Nói đến đây, Quan Đông Sơn chợt nhớ ra thân phận của đối phương, liền phân bua: “Nhưng những thứ này của hạ quan, đều nhờ người ta mua, cho nên vẫn rất rẻ, vẫn rất rẻ, hi hi…”.

“Có đến mười vạn lượng không?”.

“Không có! Tuyệt đối không có!”. Quan Đông Sơn lắc đầu nguầy nguậy như lắc trống bỏi.

“Quan thành chủ có biết chỉ một bức ‘Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ’ này, nếu đúng là bút tích của Cố Khải Chi, chí ít giá trị cũng phải năm vạn lượng trở lên không? Đấy là chưa kể đến giá cả sau khi bị bọn gian thương nâng giá”.

Quan Đông Sơn nghe thấy thế hai mắt sáng lên: “Thật à, thật à? Thế thì xem ra quả nhiên bỉ chức kiếm được món hời rồi, tốn có ba vạn lượng bạc đã mua được”.

Tiết Thái cúi đầu, nhướn mày, cười một cái: “Cho nên, đây chắc chắn là giả”.

Vẻ mặt Quan Đông Sơn vốn dĩ đang phấn chấn bỗng biến thành sửng sốt: “Cái gì? Khoan đã, Tiết công tử, tại sao lại khẳng định đây là giả?”.

“Bởi vì rất không may, theo ta được biết có một người vô cùng yêu tranh chữ, hơn nữa tài lực thế lực của người đó còn vượt xa đại nhân. Bức ‘Liệt nữ truyện Nhân trí đồ này, người đó đã nói sẽ mua với giá mười vạn lượng từ ba năm trước. Nếu đại nhân là chủ nhân của bức tranh này, có ý bán nó, liệu ngài có thể không cần mười vạn lượng mà chỉ ba vạn lượng đã bán cho người khác không?”.

Quan Đông Sơn giọng run run nói: “Nhưng, nhưng ta và người đó có giao tình!”.

Tiết Thái cười nhạt.

“Tiết, Tiết, Tiết công tử?”.

Tiết Thái quay người nhìn lên đám mây trên bầu trời bên ngoài cửa sổ, buồn bã nói: “Nhớ năm xưa, gia phụ cũng cho rằng mình có giao tình với rất nhiều người, muốn thứ gì chỉ cần dặn dò là trăm người hưởng ứng, người người tranh nhau làm. Nhưng khi ông xảy ra chuyện, không có một ai dám đứng ra giúp đỡ, giao tình… Quan thành chủ, ngài lăn lộn chốn quan trường đã bao năm, vẫn còn tin vào hai chữ ‘giao tình’ sao?”.

Mặt Quan Đông Sơn lúc trắng lúc đỏ, cực kỳ bối rối, nhưng vẫn cố gắng vớt vát nói: “Chỉ dựa vào giá thành, không thể suy đoán nó chắc chắn là giả được?”.

Tiết Thái quay người lại, cầm lấy bức “Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ”, giở ra nói: “Thành chủ xem, chúng ta đều biết bức tranh này vẽ dựa vào quyển thứ ba ‘Nhân Trí truyện’ trong bộ ‘Liệt nữ truyện’, sau mỗi phần tranh vẽ đều có ghi lời ngợi khen, chú rõ nhân vật nào, tổng cộng có mười lăm bức”.

“Không sai, là mười lăm bức”.

“Sai chính ở chỗ này”. Tiết Thái than khẽ, nói: “Trên thực tế, trải qua chiến tranh hỏa hoạn, những bức họa này ngoài bảy bức ‘Sở Vũ Đặng Mạn’, ‘Hứa Mục phu nhân’, ‘Tào Hy thị thê’, ‘Tôn Thúc Ngạo mẫu’, ‘Tấn Bá Tông thê’, ‘Linh Công phu nhân’, ‘Tấn Dương Thúc Cơ’ còn được bảo tồn hoàn chỉnh, còn lại đã bị mất. Mà những bức thành chủ sưu tập được, lại hoàn toàn không có chút khiếm khuyết. Đây chính là sơ hở lớn nhất”.

Quan Đông Sơn mặt xám ngoét, bị đả kích mạnh, cuối cùng lý nhí nói: “Nói như thế, lẽ nào những bức tranh chữ khác của hạ quan cũng đều là giả?”.

“Tuy không phải toàn bộ, nhưng cũng gần hết”. Tiết Thái ngẩng đầu, thần sắc lạnh nhạt, tựa như châm biếm, tựa như cảm khái lại tựa như cô độc: “Trên thế gian này, làm gì có nhiều trân bảo để cho người ta chia nhau cất giữ thế? Tuyệt đại bộ phận chẳng qua đều là học đòi phong nhã mà thôi”.

Câu “học đòi phong nhã” cuối cùng đã châm chích Quan Đông Sơn thật sâu cay, hắn định xé bức tranh chữ, nhưng Tiết Thái ngăn hắn lại, nói: “Những bức tranh này tuy là giả, nhưng mô phỏng cũng rất khéo. Nếu thành chủ không cam tâm, ta có cách để biến đồ bỏ thành bảo vật”.

“Hả? Làm sao có thể biến đồ bỏ thành bảo vật?”.

Tiết Thái cười vẻ thần bí: “Ngày mai ta và Khương đại nhân mời tiệc các vị ở Ngọc Giang lâu, mong thành chủ vui lòng đến dự. Chớ quên khi đến mang theo những bức tranh chữ này của ngài”.

Cứ như thế, hai vị khâm sai đến Giang Đô, ba ngày đầu tiên, ngoài ăn uống ca hát vui chơi thì không làm gì hết. Sang ngày thứ tư, vẫn là ăn ăn uống uống, có điều có thêm một trò chơi so với ngày thường, đó chính là - quyên góp cứu chẩn.

Rượu được nửa tuần, Tiết Thái ra hiệu cho Quan Đông Sơn lấy tranh ra, lớn tiếng nói: “Các vị, quốc nạn ập đến; thần tử chúng ta cũng nên hiến chút sức lực vì hoàng thượng mới phải. Từ khi Giang Đô đại hạn, Quan thành chủ vẫn luôn đêm không ngon giấc, lo lắng trằn trọc, suy nghĩ cách giải quyết. Nhưng đúng như lời Khương đại nhân nói, trời muốn đại hạn là chuyện không thể tránh được, ông trời không chịu ban mưa, người phàm chúng ta đâu có cách gì được?”.

Khương Hiếu Thành nghe thấy Tiết Thái trích dẫn lời của mình, không kìm được đắc ý ra mặt, liên tục gật đầu. Những người còn lại trong bữa tiệc không hiểu rốt cuộc Tiết Thái định giở trò gì, đều im lặng quan sát.

Tiết Thái nói xong một tràng, rồi mau chóng dẫn dắt vào chủ đề chính: “Vì thế, đêm qua Quan thành chủ đến tìm ta, bày tỏ nguyện vọng muốn quyên góp toàn bộ số tranh đã sưu tập trong nhiều năm của ngài, quy đổi thành tiền mặt ngân lượng, lần quyên góp cứu nạn hạn hán này là chia sẻ lo lắng với nước nhà, giải cơn hoạn nạn cho dân chúng…”.

Quan Đông Sơn nghe thấy, hai mắt trợn trừng lên, vội giật giật tay áo Tiết Thái, nhưng Tiết Thái nói một câu “Đừng sốt ruột” rồi không đếm xỉa đến hắn nữa, mà lấy bức “Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ” ra trước tiên, cao giọng nói: “Bức ‘Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ’ này đã được ta giám định, là bút tích thực sự của Cố Khải Chi, giá trị mười vạn lượng. Nhưng thành chủ đôn hậu, đồng ý bán rẻ, chỉ lấy tám vạn lượng. Có ai muốn mua không?”.

Quan Đông Sơn nghe đến đây, cũng coi như hiểu ra. Hóa ra cái Tiết Thái gọi là biến đồ bỏ thành bảo vật, tức là lấy đồ rởm bán ra như đồ xịn. Cũng hay, quy đổi thành tiền xong lại đi mua tranh tiếp, hắn không tin đen đủi đến mức cả đời đều gặp hàng giả. Chỉ có điều… các vị ngồi đây đều không phải tay vừa, ai có thể dễ dàng mua? Quả nhiên, lúc sau xung quanh vẫn im lặng như tờ, không có ai trả giá, càng không có ai lên tiếng.

Tiết Thái ngẫm nghĩ, quay sang Khương Hiếu Thành nói: “Khương đại nhân, mọi người xấu hổ nên không dám mở miệng lên trước, ngài giúp một chút nhé”.

Khương Hiếu Thành cười ha ha, khoát tay một cái: “Được. Ta nhận. Bức tranh này ta mua”.

Lời vừa thốt ra, xung quanh xì xào.

Tuy nói Khương Hiếu Thành là công tử của hữu tướng, lại đảm nhiệm chức Vũ lâm quân Kỵ đô úy, nhưng vừa ra tay là tám vạn lượng, vẫn thật sự khiến người ta giật mình. Khương Hiếu Thành cười, nói: “Dâng hiến sức lực cho Tổ quốc, đến thất phu cũng phải có trách nhiệm. Hơn nữa, chỉ cần giải quyết được việc của Giang Đô, hoàng thượng vui vẻ sẽ ban thưởng, chẳng phải là đều thu lại hay sao? Người đâu, đi lấy ngân phiếu tám vạn lượng bạc đưa cho đại nhân”.

Tên tùy tùng phía sau lưng y dạ một tiếng, đang định bước đi, bỗng từ phía ngoài sảnh một tiếng nói vang lên: “Ta trả mười vạn lượng”.

Giọng nói trong trẻo rõ ràng, tựa như gió mát tháng tư, ánh sáng ban sớm, lửa đèn vạn nhà, ấm áp êm tai.

Mọi người nhìn ra thấy một công tử trẻ tuổi dẫn theo hai tùy tùng chầm chậm từ ngoài sảnh bước vào. Đèn trong lầu sáng trưng nhưng vẫn không tươi sáng bằng nụ cười của chàng; mỹ nhân trong sảnh đường vô số, nhưng vẫn không xinh đẹp bằng ánh mắt của chàng… Có người nhận ra chàng, đột nhiên kinh ngạc đứng bật dậy: “Nghi, Nghi, Nghi vương bệ hạ!”.

Hóa ra vị công tử đó không phải ai khác, chính là Nghi vương Hách Dịch.

Nhân lúc sự chú ý của mọi người đổ dồn lên người Hách Dịch, Tiết Thái quay đầu nhỏ giọng nói với Quan Đông Sơn: “Người mà tối qua ta kể với ngài chính là y”.

Quan Đông Sơn cảm kích nói: “Công tử thật là có diệu chiêu, đến ngài ấy mà cũng mời tới được”.

Còn Hách Dịch vẫy tay chào mọi người, khi ánh mắt dừng trên gương mặt Tiết Thái, lại nở nụ cười đầy hàm ý:

“Từ buổi chia tay ở Trình quốc, không ngờ chúng ta lại mau được gặp mặt đến thế”.

Tiết Thái hành lễ, nói: “Cung thỉnh bệ hạ kim an”.

“Được rồi, những lễ tiết phức tạp ấy miễn đi. Hôm nay ta đến đây là để mua bán, các ngươi lấy lễ của thương nhân tiếp đãi ta là được rồi”. Hách Dịch nói xong, giơ tay cầm lấy cuộn tranh “Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ” đó, xem xét kỹ lưỡng.

Trái tim của Quan Đông Sơn vọt lên tận cổ họng, nhảy tưng tưng sợ bị chàng nhìn ra đó là hàng nhái.

Nhưng cuối cùng Hách Dịch lại sờ sờ lên chỗ bị sờn ở mép tranh, thở dài nói rằng: “Đồ vật từ nghìn năm trước, còn có thể giữ tốt như thế này, không tồi, thật không tồi…”.

Quan Đông Sơn bấy giờ mới yên tâm, cười khan mấy tiếng nói: “Những bản lĩnh khác hạ quan không có, chỉ có cái lạc thú này, bức họa này hạ quan còn mời riêng hai thợ khéo đến sửa lại, thỉnh thoảng cũng đem ra treo lên”.

“Quan thành chủ quả nhiên là người am tường”. Hách Dịch vừa nói mắt vừa đảo một vòng: “Khương đại nhân, ngài còn muốn trả giá không?”.

Khương Hiếu Thành sờ cằm cười hi hi, nói: “Hạ quan tiền nhiều gan lớn hơn đi chăng nữa, cũng không dám sánh với Nghi vương bệ hạ. Vốn trả giá là để nêu gương mà thôi, chứ thực lòng mà nói hạ quan là một kẻ thô lỗ, mấy bức tranh chữ này ấy mà, nhìn thấy là đau đầu rồi”.

Lời vừa thốt ra, mọi người đều cười ầm cả lên, không khí trong lầu bỗng trở nên vui vẻ hài hòa.

“Nếu thế, ta nhận”. Hách Dịch sai thị tùng bưng một chiếc rương tới, mở ra, bên trong đầy những ngân phiếu, khiến cho tất cả mọi người có mặt đều trợn mắt sửng sốt.

Tiết Thái nói: “Xem ra lần quyên góp cứu nạn này, bệ hạ đã chuẩn bị rất kỹ rồi mới tới”.

Hách Dịch chăm chăm nhìn, mỉm cười: “Những thứ khác không cần cũng được, nhưng có một thứ, ta buộc phải có được”.

Mọi người nghe vậy, không ai là không cảm thấy hứng thú, rốt cuộc là thứ bảo bối gì, lại khiến cho kẻ tinh quái nổi tiếng chốn thương trường này không quản nghìn dặm xa xôi chạy đến đây mua?
 
Quyển 2 - Chương 70


Quan Đông Sơn không nhịn được hỏi: “Thứ gì thế?”. Hắn rất muốn biết rốt cuộc là bức tranh nào mà mình sưu tầm đã khiến Nghi vương thèm nhỏ dãi như vậy?

Hách Dịch cụp mắt xuống, trầm tư trong tích tắc, rồi lại nhướng mắt lên, vẫn nở nụ cười tươi rói như cũ: “Ta muốn bản chép tay bài ‘Quốc sắc thiên hương’ của Cơ Hốt”.

Trong đại sảnh bỗng huyên náo hẳn lên, mãi lâu sau mới có thể yên ắng trở lại.

Mọi người đều biết, Cơ Hốt chính là đệ nhất tài nữ của Bích quốc, sở dĩ nàng được mệnh danh như thế là vì bài “Quốc sắc thiên hương phú”. Nghe nói năm đó, Cơ Hốt viết xong bài phú này, Chiêu Doãn khi ấy vẫn còn là hoàng tử nhìn thấy, kinh ngạc tưởng là tiên nữ, lập tức đánh ngựa đến trước Cơ phủ cầu hôn. Sau mấy hồi trắc trở, cuối cùng mới ôm được mỹ nhân quay về.

Nhờ một bài phú lên ngôi vị hoàng phi, và sau cùng tạo thành bá nghiệp của một vị đế vương. Mấy trăm năm nay, làm gì có thiên văn chương thứ hai nào có thể vẻ vang hơn nó?

Bài phú này tuy nổi danh, nhưng Cơ Hốt lại là một người sống bằng xương bằng thịt. Đồ của người còn sống, thường không mấy đáng tiền. Vì thế mọi người nghe Hách Dịch nói thế, trong lòng ít nhiều cũng có chút thất vọng.

Ánh mắt Hách Dịch quét qua một lượt, thu trọn biểu cảm tinh tế của mọi người vào trong đáy mắt, cười hi hi, nói: “Đương nhiên, nếu có đồ vật tốt khác, ta cũng thu mua cả”.

Chàng cũng không nuốt lời, bốn bức thư pháp, ba cuộn cổ họa mà Tiết Thái bày ra sau đó, đều được Hách Dịch mua hết một lượt, tổng số tiền đến hơn ba mươi bảy vạn lượng. Lúc này không khí trong đại sảnh đã lên đến cao trào cực điểm.

Tiết Thái nói: “Hôm nay đến đây thôi, ngày mai tiếp tục. Nghi vương bệ hạ vẫn chưa thể mua được ‘Quốc sắc thiên hương phú’, thành thật xin lỗi”.

Hách Dịch khoát tay nói: “Đồ tốt thường phải giữ đến cuối cùng, đương nhiên ta biết đạo lý này. Không sao, ngày mai lại tới”.

Tiệc tan, mọi người ai nấy đều rời đi. Tiết Thái vừa về đến phủ, Quan Đông Sơn đã mời hắn vào trong thư phòng, vừa đóng cửa lại lập tức quỳ xuống đất mà vái: “Thần tài sống ơi, công tử đúng là thần tài gia của ta mà!”.

Tiết Thái cười mắng: “Dù sao ngài vẫn là đại quan tam phẩm, lại đi quỳ vái một tên nô lệ, bị người khác nhìn thấy thì còn ra cái thể thống gì?”.

Quan Đông Sơn thẹn thùng tiến lên ôm chặt chân Tiết Thái nói: “Không không, ta phải vái, ta phải vái. Tiết công tử ơi, từ lâu đã nghe danh thần đồng của công tử, đến nhân vật như Yên vương còn bị công tử làm cho tâm phục khẩu phục, đến nay lại giúp ta kiếm được một món hời, ta phải cảm tạ công tử như thế nào đây?”.

Tiết Thái đá hắn ra, nghiêm mặt nói: “Bớt nói linh tinh đi, ngài có muốn kiếm nhiều tiền không?”.

“Thế vẫn còn chưa đủ nhiều sao?”. Quan Đông Sơn trợn mắt kinh ngạc.

“Coi cái bộ dạng kém cỏi của ngươi kia, quả nhiên là kẻ ở chốn thành nhỏ biên cương đã lâu…”.

Quan Đông Sơn vội cười giả lả đáp: “Đúng đúng đúng, cả đời tiểu nhân ngoài cái năm lên kinh ứng thí ra thì đều ở chỗ sơn cùng thủy tận… Tiết công tử, ngài nói xem, kiếm món lớn như thế nào?”.

“Ngươi đã nhìn thấy điệu bộ của Nghi vương hôm nay rồi đấy, hắn nhất định phải có ‘Quốc sắc thiên hương phú’ cho bằng được.”

“Nhưng chúng ta không có ‘Quốc sắc thiên hương phú’”.

Tiết Thái cười kỳ dị: “Nếu hắn muốn ‘Lạc Thần phú’ thì không có, nhưng chủ nhân của ‘Quốc sắc thiên hương phú’ vẫn còn sống, sao chép lại cũng chỉ mất có nửa canh giờ thôi…”.

Mắt Quan Đông Sơn sáng lên, vỗ đùi đét một cái nói: “Đúng thế! Chúng ta lấy được bản chép tay ‘Quốc sắc thiên hương phú’ rồi bán lại cho Nghi vương…”.

“Giá tiền chẳng phải là do ngươi tùy tiện đưa ra hay sao?”.

Quan Đông Sơn híp mắt cười ngất, rồi đột nhiên mặt hắn nhăn lại, rúm ró như hoa cúc: “Nhưng mà làm thế nào mới có thể có bản chép tay ‘Quốc sắc thiên hương phú’?”.

Tiết Thái hỏi vặn lại: “Ngươi thấy sao?”.

Quan Đông Sơn ngẫm nghĩ một lát, trầm ngâm trả lời: “Người có chút quan hệ với vị Cơ quý tần đó, trong ba chúng ta e là chỉ có Khương đại nhân. Muội tử của Khương đại nhân sắp được phong hậu, nếu mở miệng bảo Cơ quý tần. Cơ quý tần chắc chắn không dám không nghe…”.

Tiết Thái không phủ nhận.

“Được, vậy đi tìm Khương đại nhân trước xem sao”. Dứt lời Quan Đông Sơn liền vội vã đi ngay.

Khương Hiếu Thành đương nhiên vỗ ngực nói không thành vấn đề, nhưng có điều, y lại chuyển chủ đề, y bắt đầu than thở làm quan ở kinh đô thật vất vả, dưới con mắt của thiên tử kiếm chác khó khăn như thế nào, đâu có bằng chốn trời cao hoàng đế xa muốn thế nào được thế ấy, đến vài bức tranh chữ bé tẹo cũng có thể bán ra với cái giá trên trời ba mươi bảy vạn lượng chỉ trong một ngày, thật là giàu có, thật là giàu có… Y tự oán trách như thế một hồi, Quan Đông Sơn hiểu ý nhét hồng bao cho y, cười nói: “Tất cả đều cậy nhờ Khương đại nhân”.

Khương Hiếu Thành nâng nâng để xem trọng lượng của chiếc hồng bao, rồi y lại bắt đầu càm ràm Cơ quý tần không coi ai ra gì như thế nào, xưa nay không tiếp xúc với thế giới bên ngoài ra sao, nếu không phải muội muội của mình có thân phận đặc biệt, e là có sai khiến cũng không nổi, rồi muốn muội muội y bỏ qua thân phận mở miệng nói với Cơ quý tần thật là làm khó nàng ra sao.

Quan Đông Sơn lại vội nhét thêm một hồng bao nữa: “Nếu Khương đại nhân có thể giúp tiểu nhân chuyện này, việc thành tiểu nhân sẽ có hậu tạ”.

Khương Hiếu Thành bấy giờ mới đứng dậy, chắp tay sau lưng đi quanh nhà mấy vòng, rất nghiêm túc giơ ra ba ngón tay nói: “Chỉ có một giá, ba trăm vạn lượng”. Quan Đông Sơn sợ đến mức ngồi phệt xuống đất: “Hả? Ba, ba, ba trăm vạn lượng?”. Nửa câu sau không buột khỏi miệng, nhưng đã chửi thầm trong lòng: Mi ăn cướp à?

Khương Hiếu Thành thong thả ngồi xuống, vắt chéo hai chân, vừa uống trà vừa nói: “Quan đại nhân chê đắt, ta cũng có thể thông cảm. Ba trăm vạn lượng đủ để mua mấy nghìn mẫu ruộng tốt, xây một khu nhà, mua một đống người hầu, sống một cuộc đời tài chủ không phải lo cái ăn cái mặc. Có điều, đại nhân cũng nói rồi, đợi được giá mới bán, thứ gì cũng phải bán cho người biết hàng mới thực sự quý giá. Hiện tại Nghi vương muốn mua ‘Quốc sắc thiên hương phú’, ta có thể tự mình vào cung xin bản chép tay cho Nghi vương, việc gì phải để ngươi ở giữa kiếm được một khoản hời?”.

Hai mắt Quan Đông Sơn trợn lên tròn xoe, đang định nói gì đó, Khương Hiếu Thành lại than thở: “Nhưng mà, có tiền thì mọi người cùng kiếm, không thể bịt hết con đường phát tài lại, đúng không? Thế này đi, ta giảm xuống hai phần, giá chốt hai trăm bốn mươi vạn lượng. Đại nhân chớ cảm thấy mình chịu thiệt, trước tiên hãy đi nghe ngóng xem giá thấp nhất Nghi vương đưa ra là bao nhiêu, rồi hãy xem xem cái giá hai trăm bốn mươi vạn lượng này có đáng hay không. Thêm nữa, khoản tiền triều đình cấp cho cũng sắp về tới nơi, đến khi bạc đưa đến rồi, mua gạo như thế nào, mua bao nhiêu gạo, vẫn là việc Quan đại nhân ngươi quyết định đúng không? Ha ha ha ha…”.

Quan Đông Sơn vừa cung kính rời khỏi phòng khách, vừa thầm hỏi thăm một lượt mười tám đời tổ tông của Khương Hiếu Thành. Nghĩ đến món tiền to như thế phải dâng cho người khác, trong lòng ngàn vận lần không nỡ, nhưng bắt hắn bỏ miếng thịt béo bở như thế, hắn cũng lại không cam tâm. Không có cách nào khác, hắn đành phải phái người đến chỗ Hách Dịch thăm dò giá cả, khi tìm Tiết Thái, hắn kích động đến mức suýt nữa không thốt ra lời: “Tiết công tử! Thần tài gia của ta ơi…”.

Thấy hắn lại chuẩn bị ôm chân mình, Tiết Thái vội vàng tránh sang một bên, cau mày nói: “Có gì cứ từ từ nói, đừng có làm cho người khác buồn nôn thế!”.

Quan Đông Sơn cười nịnh bợ mấy tiếng, thu tay lại nói: “Tiết công tử, tin tốt tin tốt, đúng là tin cực tốt!”.

Tiết Thái chẳng buồn nhếch mí mắt, lười biếng hỏi: “Khương đại nhân đồng ý giúp ngươi vụ ‘Quốc sắc thiên hương phú’ rồi hả?”.

“Không phải, nhưng cũng chỉ là chuyện sớm muộn thôi. Là thế này, tiểu nhân vừa mới sai người đến thăm dò chỗ Hách Dịch, không ngờ Hách Dịch, ngài ấy lại chịu bỏ ra cái giá năm trăm vạn lượng để mua bản chép tay ‘Quốc sắc thiên hương phú’! Năm trăm vạn lượng! Tiết công tử! Ngài nói xem ngài ấy có bị điên không?”.

Tiết Thái cười vẻ sâu xa: “Trong lòng có chấp niệm thì sẽ rơi vào ma chướng. Một món đồ muốn có từ lâu, tự nhiên cũng trở thành quý hiếm thôi”.

“Ồ? Nghi vương muốn có ‘Quốc sắc thiên hương phú’ đến thế sao?”.

Tiết Thái đặt cuốn sách trong tay xuống, ngoắc ngoắc ngón tay. Quan Đông Sơn ngoan ngoãn tiến lên phía trước.

“Ta hỏi ngươi, năm nay Hách Dịch bao nhiêu tuổi?”.

“Nghi vương giống Yên vương, năm nay đều hai mươi ba tuổi”.

“Thế hắn thành thân chưa?”.

“Cái này… chưa thấy nghe nói ạ”.

“Hắn đã lập phi tử chưa?”.

“Cái này… cũng chưa từng nghe nói…”.

“Hắn thân là hoàng đế Nghi quốc, lớn tuổi như thế mà vẫn chưa thành thân, ngươi có biết vì sao không?”.

“Cái đó… có bệnh kín à?”.

Tiết Thái gõ lên trán hắn một cái, mắng: “Lời này mà ngươi cũng dám nói linh tinh à? Ta nhắc cho ngươi biết người quỳ dưới gấu váy của ‘Quốc sắc thiên hương phú’, không chỉ có một mình hoàng đế của chúng ta đâu…”.

Quan Đông Sơn bỗng nhiên ngộ ra: “Ô! Ồ ồ ồ! Hóa ra như thế”.

“Hiểu chưa?”.

“Hiểu rồi hiểu rồi. Thật không ngờ, Nghi vương bệ hạ lại là người si tình…”. Quan Đông Sơn nói đến đây, lại thấy đáng thương thay cho Hách Dịch: “Làm hoàng đế cũng chẳng sướng như tưởng tượng, cũng không có được thứ mình thích, thật làm khó cho Nghi vương khổ sở tương tư nhiều năm như vậy, nói ra thì hoàng thượng của chúng ta số tốt, một Cơ Hốt, một Hy Hòa, ngài đều cưới về cung cả. Nghe nói vị Khương hoàng hậu sắp sắc phong cũng là đại mỹ nhân bậc nhất…”.

Tiết Thái cụp hàng mi xuống, thẫn thờ nhìn mặt đất một lúc, rồi ngẩng đầu lên lạnh lùng nói: “Ta mệt rồi”.

“Ồ, vâng vâng, đúng là không còn sớm nữa, quấy rầy Tiết công tử rồi, hạ quan xin cáo từ, ngủ ngon. Ngủ ngon…”. Quan Đông Sơn vừa nói vừa lùi lại rồi ra khỏi phòng.

Cửa phòng đóng lại, trong mắt Tiết Thái mới hiện lên vẻ chán ghét, nhìn tay áo của mình vừa bị Quan Đông Sơn lôi lôi kéo kéo, hắn lập tức cởi ra vứt xuống đất.

Trong phòng vốn có mình Tiết Thái, bỗng vang lên tiếng cười của người thứ hai: “Thuộc hạ điều tra rồi, tên Quan Đông Sơn này không bị chứng luyến đồng đâu, chủ nhân hà tất phải ghê sợ vì đã tiếp xúc với hắn như thế?”.

“Quan phụ mẫu một phương lại vô sỉ bỉ ổi ngu muội bất tài, chỉ một điều cũng đủ cho hắn chết một trăm lần rồi!”.

Rèm sa khẽ động, Chu Long xuất hiện dưới ánh đèn, ánh mắt nhìn Tiết Thái thoáng một niềm ngậm ngùi: “Chốn quan trường xưa nay vẫn thế, lẽ nào từ nhỏ chủ nhân còn thấy ít hay sao?”.

Tiết Thái nhìn bộ y phục trên mặt đất, trút giận xong, bình tĩnh trở lại: “Thuở nhỏ không hiểu, chỉ cảm thấy những tên quan lại đó chẳng qua chỉ là vật trang trí, cả cung đình rộng lớn chỉ để mình ta vinh quang. Bây giờ mới vỡ lẽ bọn họ đối xử với hoàng đế và người có chức vụ cao hơn họ một kiểu, đối với dân chúng người hầu một kiểu. Với hoàng đế chúng nịnh bợ tầm thường và không có chút ưu điểm, với bách tính chúng thực sự xấu xa bẩn thỉu”.

Chu Long im lặng nhìn hắn, hồi lâu mới nói: “Người ở trên ngôi cao thường không nhìn thấy mặt này. Chủ nhân chỉ có đi xuống mới có thể nhìn thấy. Cho nên, chủ nhân, thực ra chủ nhân vẫn may mắn”.

Đầu mày Tiết Thái nhíu lại, rồi lại giãn ra, chuyển sang chủ đề khác: “Chuyện ta giao phó, ông đã làm xong cả rồi chứ”.

“May không nhục mệnh”.

“Ừm… đây là trận đánh đầu tiên kể từ khi ta tiếp nhận Bạch Trạch đến nay, ta nhất định phải… thắng cho người xem”.

Ánh mắt Chu Long lóe sáng, thấp giọng nói: “Công tử trên trời có nhìn thấy, nhất định sẽ rất vui mừng”.

Tiết Thái nhớ ra một chuyện, hỏi: “Người đã được chôn cất chưa?”.

“Giờ Mùi ngày kia, núi Ngũ Tùng”.

Ánh mắt Tiết Thái trong khoảnh khắc bỗng trở nên hoang vắng.

Khi Tiết Thái và Chu Long bàn luận chuyện này trong phòng ngủ, chuyện xảy ra trong ngày thứ tư ở Giang Đô vẫn chưa báo về đế đô, vì thế, sau khi nghe người áo tím báo cáo tình hình ba ngày đầu, Chiêu Doãn liền tuyên bố tan họp.

Khi Khương Trầm Ngư lui khỏi Bách Ngôn đường, Chiêu Doãn bỗng gọi nàng lại: “Trầm Ngư, nàng… thay trẫm đi một chuyến”.

“Vâng. Đi đâu ạ?”.

Chiêu Doãn im lặng trong giây lát mới nói: “Phủ Kỳ Úc hầu”.

Khương Trầm Ngư kinh ngạc.

Chiêu Doãn giải thích: “Kỳ Úc hầu sẽ được chôn cất vào giờ Mùi ngày kia, ta đã mời Ngôn Duệ đứng ra chủ trì toàn bộ việc này. Nhưng nàng cũng biết, Cơ Anh hắn… chỉ còn lại mỗi cái đầu… cho nên, ta muốn ngày mai nàng đến phủ Kỳ Úc hầu một chuyến xem có thứ gì có thể bồi táng cùng hắn, chôn nhiều một chút, để hắn lên trời cũng không quá cô quạnh”.

Khương Trầm Ngư vẫn không nói gì, Chiêu Doãn lại nói tiếp: “Chuyện này đáng nhẽ Cơ Hốt nên đi, nhưng nàng ấy từ khi hay tin dữ của đệ đệ đã đổ bệnh. Mà cả nhà họ Cơ, cũng không còn ai thân thích hơn. Người khác đi ta không yên tâm, cho nên, Trầm Ngư…”.

Y còn chưa nói xong, Khương Trầm Ngư đã quỳ gối trước mặt, nói giọng chắc nịch: “Thần thiếp nguyện đi”.

Chiêu Doãn ngừng lại, chăm chăm nhìn nàng, lúc sau cánh tay từ từ đặt lên vai nàng.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, mắt ướt đỏ, giọng nói gần như nức nở: “Tạ, tạ ơn… hoàng thượng”.

Khoảnh khắc này, cho dù dụng ý ban đầu của Chiêu Doãn là gì, là muốn thăm dò nàng hay là vì áy náy trong lòng với Cơ Anh nên thực sự muốn làm gì đó cho chàng, nhưng vì y đã chọn mình làm việc này cho Cơ Anh, Khương Trầm Ngư quyết định phải cảm ơn.

Nàng thực sự… rất muốn có cơ hội này.

Muốn có đến mức, không kìm nén được khóc trước mặt đế vương.

Chiêu Doãn không trách nàng, trong đôi đồng tử màu trà, bóng tối bao trùm, khiến người ta không thể nào nhìn rõ được thái độ của y, nhưng bàn tay đặt lên vai Khương Trầm Ngư của y vỗ nhè nhẹ biểu lộ sự dịu dàng.

Cho dù giữa y và Khương Trầm Ngư tồn tại sự khác biệt như thế nào, tính cách khác xa nhau ra sao, thì khoảnh khắc này đều có chung một cảm xúc.
 
Quyển 2 - Chương 71


Đó chính là - đau thương.

Ngày hôm sau, Khương Trầm Ngư sau khi nghe xong buổi chầu sớm, về tới Dao Quang điện liền vội vàng thay một chiếc áo trắng, khoác áo khoác màu đen rồi ra khỏi cung. Xe ngựa đi hơn một canh giờ mới tới phủ Kỳ Úc hầu.

Sắc trời âm u, mây đen phủ lên cả thế giới một tầng màu xám xanh.

Từ cửa sổ xe ngựa, nàng nhìn những tòa nhà quen thuộc, từ xa tới gần, trái tim giống như viên trân châu lăn tròn trên chiếc khay, mãi mà không thể bình tĩnh được.

Phủ Kỳ Úc hầu đương nhiên không phải nàng mới tới lần đầu.

Trước khi nhập cung, nàng từng tới đó một lần. Lần đó, nàng xin Cơ Anh một món quà, mà đến nay món quà ấy vẫn còn trên tai nàng.

Khương Trầm Ngư bất giác đưa tay lên sờ tai trái của mình, vết thương rõ ràng đã lành từ lâu, nhưng dường như lại lần nữa sưng tấy lên, sau khi sưng tấy lại trở thành trống rỗng.

Người ấy, sao có thể đột nhiên… không còn nữa?

Người ấy, rõ ràng đã xỏ cho nàng chiếc lỗ tai, khi nàng bị sát thủ truy sát đã cứu nàng, chàng kéo tay nàng đi đến chỗ bọn Hách Dịch thương lượng, hơi ấm cơ thể chàng dường như chưa từng biến mất, vẫn còn lưu lại trên người nàng… Nhưng người ấy, sao lại đột ngột không còn nữa?

Thái giám đặt viên đá kê chân xuống, Khương Trầm Ngư đẩy cửa xe bước ra, ngẩng đầu nhìn hầu phủ, trên cánh cửa treo hai chiếc đèn lồng trắng, bị gió thổi lắc lư, lộ rõ sự thê lương khôn tả.

Một cụ bà tuổi chừng sáu mươi bước chân lập cập đi ra mở cửa, tự xưng là quản gia của hầu phủ, sau đó cụ bà họ Thôi này dẫn nàng vào trong.

Trước tiên đến từ đường.

Từ đường được xây ở phía chính Bắc của phủ đệ, hoàn toàn không âm u hẻo lánh giống như từ đường của những nhà bình thường khác, hơn một trăm ngọn nến cắm ngay ngắn soi sáng cả rừng bài vị cực kỳ trang nghiêm cung kính.

Nơi đây chính là từ đường Cơ gia… mỗi cái tên trên bài vị đều từng có một thời hiển hách. Điều khiến cho Khương Trầm Ngư bất ngờ là có cả bài vị của nữ chủ nhân, đặt cạnh chủ nhân gia tộc mỗi đời.

Cũng có nghĩa là, nếu nhân duyên của nàng và Cơ Anh năm đó không đứt, nơi đây vốn cũng có một chỗ cho nàng… Mà giờ phút này, bài vị cuối cùng vẫn còn để trống, vẫn chưa điền chữ lên đó, Khương Trầm Ngư không kìm được đưa tay lên vuốt, cảm nhận ngón tay mình lướt qua từng hoa văn tinh tế, nàng bỗng òa khóc.

Tiếng khóc nghẹn ngào đứt quãng, không chịu nghe theo sự kìm chế của nàng bật ra khỏi cuống họng. Nàng vừa nghĩ sao mình lại mất hình tượng như vậy, vừa để mặc cho những dòng lệ tiếp tục lăn xuống.

Thôi quản gia bên cạnh hiểu ý không hề khuyên can, chỉ nói: “Già dẫn nương nương đến thư phòng của công tử nhé”. Nói rồi dẫn nàng đi ra khỏi chốn đau thương đó.

Khương Trầm Ngư lấy khăn tay lau khô nước mắt, bấy giờ mới quan sát tỉ mỉ chỗ ở của Cơ Anh.

Đây là… nhà của Cơ Anh.

Là nhà của nam tử mà nàng yêu nhất…

Đây dù sao vẫn là lần đầu tiên nàng có cơ hội quan sát kỹ nó như vậy, đi qua con đường đá sỏi mà chàng đã đi qua vô số lần, được sờ vào hàng lan can mà chàng đã từng sờ, thỉnh thoảng cũng có làn gió thổi qua vạt áo đã từng thổi tung trường bào của chàng… Vừa nghĩ đến những điều này, trái tim Khương Trầm Ngư bỗng tan chảy, lòng đầy dịu dàng.

Thuở nhỏ chắc chắn công tử cũng đã từng ngồi đọc sách dưới gốc cây này, cũng từng ăn điểm tâm bên cạnh chiếc bàn đá này, những cành trúc mảnh xanh rậm rì, căn nhà sạch sẽ cực kỳ trang nhã, từng phiến đá từng gốc cây ở nơi đây, trong mắt nàng đều hài hòa, hợp ý.

Giống như người mà nàng thích, toàn thân từ đầu đến chân không gì là không đẹp.

Không lâu sau, đoàn người đến trước cái sân nhỏ, bên trong có ba gian nhà ngói cạnh rừng trúc, thậm chí đến cửa sổ cũng đều được điêu khắc thành hình tre trúc, dường như hòa thành một thể với rừng trúc. Một tấm biển lưu ly trên cửa khắc chìm ba chữ lớn “Hữu sở tư” bằng sơn màu xanh lục, nét chữ cứng cỏi đẹp đẽ. Khương Trầm Ngư biết, đây chính là thư phòng của Cơ Anh.

Thôi quản gia đẩy cửa phòng, bước vào đốt nhang, rồi quay người lại nói: “Mời nương nương”.

Khương Trầm Ngư từ từ bước qua bậu cửa, mùi Phật thủ cam quen thuộc ùa tới, thứ đầu tiên lọt vào tầm mắt nàng là sách.

Trên giá sách bằng trúc cao bằng bức tường, có đến hơn nghìn cuốn sách được xếp ngay ngắn, cức cách một tầng lại treo một miếng trúc nhỏ, viết phân loại bên trên. Bên cạnh giá sách là một chiếc đỉnh cổ chạm hình con ly[1] cao mấy thước, bấy giờ trong đỉnh đang đốt nhang, làn khói trắng lượn lờ bay lên từ những hoa văn chạm rỗng, khiến cho tất cả những thứ nhìn thấy trước mắt trở nên không thực, mơ hồ như trong mộng.

[1] Con ly: Một loài gần giống với rồng, màu vàng, không có sừng.

Nàng… thật sự đến thư phòng của Cơ Anh ư?

Hay là vì quá nhớ nhung, cho nên ông trời thương xót ban cho nàng giấc mộng này?

Khương Trầm Ngư bất giác bước tới, sờ lên chiếc sập mềm đặt phía dưới chiếc đỉnh cổ, chăn gối lạnh ngắt, đúng rồi, người ấy đã không quay về từ lâu lắm rồi… Không, người ấy vĩnh viễn không thể quay về nữa rồi… Lời của Chiêu Doãn văng vẳng bên tai, từng tiếng từng tiếng một lạnh lẽo: “Nàng cũng biết, Cơ Anh hắn… chỉ còn lại mỗi cái đầu… cho nên, ta muốn nàng đến phủ Kỳ Úc hầu một chuyến, xem có thứ gì có thể bồi táng cùng hắn, chôn nhiều một chút, để hắn lên trời cũng không quá cô quạnh…”.

Có thứ gì có thể để công tử mang theo đây? Mùi hương này chắc chắn phải mang đi…

Thôi quản gia ở bên cạnh lặng lẽ nói: “Lúc nhỏ, ngoài bệnh tim bẩm sinh ra, công tử còn bị hen. Thế nên đại phu mới kê cho công tử loại thuốc Phật thủ cam để mang theo bên mình, sau dần dần mới khỏi. Nhưng tam sao thất bản truyền ra ngoài, rất nhiều vương tôn công tử tranh nhau bắt chước, khiến một thời gian hương ở kinh đô trở nên đắt đỏ. Haizz”.

Khương Trầm Ngư đến trước thư án, bên cạnh có bày một bình hoa cao bằng nửa người, trong bình không cắm hoa, mà đặt rất nhiều quyển trục. Nàng tiện tay mở một quyển ra, bên trong là một bức tranh.

Khương Trầm Ngư “a” lên một tiếng, cánh tay đang giữ bức tranh đột nhiên run bắn.

Đó là một bức tranh hoa sen xanh.

Nhưng thực sự mà nói, đó không phải là một bức “tranh”.

Bởi vì, nó được dán lên.

Cũng tức là chủ nhân của tranh đã cắt hoa sen và lá sen thật, dán lên giấy vẽ, rồi dùng một cách đặc biệt nào đó để giữ màu sắc tươi thắm như còn trên cây cho nó.

Sở dĩ Khương Trầm Ngư giật mình, là vì đây không phải lần đầu tiên nàng nhìn thấy bức tranh được vẽ theo cách này. Mấy ngày trước, chẳng phải nàng đã cùng Hy Hòa chơi trò vẽ tranh kiểu này sao? Giọng nói bình tĩnh không gợn sóng của Thôi quản gia nhẹ nhàng vang lên, như đang hoài niệm, lại chỉ như kể lại mà nói: “Từ nhỏ công tử rất không thích vẽ tranh, vì thế mà không ít lần bị lão hầu gia giáo huấn. Sau này, có người dạy công tử cách vẽ tranh này, ngài liền học theo, dùng cách này để đối phó với phu tử. Phu tử xem xong liền cười, từ đó về sau không còn bắt công tử vẽ tranh nữa. Ngược lại chính công tử thỉnh thoảng cũng vẫn cắt cắt dán dán. Bức tranh này công tử làm trước lúc đi Trình quốc. Khi đó, hoa sen mới vừa nhú, công tử nói cứ làm một nửa trước đã, phần còn lại sau khi trở về sẽ làm tiếp. Nhưng ai ngờ… chuyến này công tử có đi mà không có về…”.

Khương Trầm Ngư chầm chậm cuộn bức tranh lại, đưa cho cung nhân phía sau. Bức tranh hoa sen mùa mới chưa hoàn thành này, cũng theo công tử lên đường đi…

Trên tường của thư phòng còn treo một cây cung, cây cung nhỏ tinh xảo lạ thường, thường dành cho trẻ em hoặc phụ nữ sử dụng.

Thôi quản gia nói: “Đây là cung của Tiết Thái”.

Khương Trầm Ngư thoáng chút ngạc nhiên.

Thôi quản gia giải thích tiếp: “Đây là bảo cung khiến Tiết Thái nổi danh ngự tiền năm xưa, Tiết Thái dùng cây cung này bắn chết một con hổ. Sau khi Tiết gia bị tịch biên, cây cung này cũng mấy lần qua tay các hiệu cầm đồ, công tử đi ngang qua, liền mua nó về. Sau Tiết Thái bị đưa tới Cơ gia làm nô lệ, công tử nói với hắn, lúc nào hắn chuẩn bị tâm lý thật tốt, có thể từ bỏ tất cả mọi thứ của quá khứ, thì sẽ trả cây cung này lại cho hắn”.

Khương Trầm Ngư không kìm được đưa tay sờ lên cây cung, cung nhân phía sau hỏi: “Có lấy không ạ?”.

Lấy, tức là sẽ đem nó chôn theo công tử.

Khương Trầm Ngư lắc đầu, cây cung này vẫn nên giữ lại đợi Tiết Thái đích thân lấy về.

Đây là hy vọng của công tử.

Cũng là hy vọng của nàng.

Trong vòng nửa canh giờ tiếp theo Khương Trầm Ngư xem khắp lượt thư phòng một lần nữa, nhưng cũng không tìm thấy nhiều đồ. Tuy bài trí trong phòng rất tinh tế, nhưng cũng không có thứ gì để chọn, không có một món cổ vật châu báu nào. Thôi quản gia thấy nàng tìm không ra món đồ gì có ý nghĩa, bèn đề nghị: “Chúng ta đến phòng ngủ xem xem”.

Lời này rất hợp ý của Khương Trầm Ngư, nàng lập tức cùng lão quản gia đi vào phòng ngủ của Cơ Anh. Phòng ngủ rất gần thư phòng, chính là căn nhà chính cách thư phòng một hành lang quanh co ở phía sau. Thiết kế như thế này đương nhiên là để tiện cho Cơ Anh nghỉ ngơi và làm việc. So với thư phòng, phòng ngủ có ít sách hơn, có thêm một chiếc giường, đầu giường đặt một tủ quần áo, Thôi quản gia bước lên mở cánh cửa tủ ra, bên trong toàn là đồ trắng gấp ngay ngắn.

Khương Trầm Ngư lấy một chiếc ra, hoa văn Bạch Trạch lọt vào mắt nàng, nhớ lại phong thái lúc còn sống của người ấy, nàng không khỏi có chút ngây dại.

Bên cạnh, Thôi quản gia nói: “Người đời đều biết công tử thích màu trắng, thực ra công tử không hề thích màu trắng, mà luôn chê nó dễ bẩn khó giặt. Nhưng kế thừa từ lão hầu gia lúc sinh thời, tiên đế đã lấy đồ đằng Bạch Trạch ban cho Cơ gia, đây là vinh hạnh của Cơ gia, bởi vậy lúc nào cũng phải nhớ đến không được quên. Công tử không biết làm sao đành đặt may một loạt quần áo giống hệt nhau, trong thời gian thêu áo cho công tử, các tú nương đều bị đổ bệnh, nên kéo dài ba tháng liền mới xong, nhưng không hiểu sao khi đồn ra ngoài lại biến thành ‘chỉ một chiếc áo của Kỳ Úc hầu cũng phải mất ba tháng liền để thêu’…”. Nói đến đây, Thôi quản gia bỗng lảo đảo quỳ xuống.

Khương Trầm Ngư giật mình, vội đưa tay ra đỡ: “Lão quản gia làm gì thế này? Mau đứng dậy đi!”.

“Nương nương, lão nô có một chuyện khẩn cầu, xin nương nương nhận lời”.

“Bà cứ đứng dậy đã, có gì từ từ nói”.

Thôi quản gia lắc đầu, hai chân đã bắt đầu run run, nhưng vẫn không chịu đứng dậy, vừa nước mắt lưng tròng vừa trầm giọng nói: “Lão nô biết gần đây bên ngoài truyền miệng những bài vè không hay ho, thóa mạ công tử nhà ta. Công tử nhà ta lúc còn sống đã đắc tội không ít người, bây giờ ngài chết rồi, những người đó bắt đầu giậu đổ bìm leo… Những điều này đều không hề gì. Thế nhưng, lão nô không cam lòng, không cam lòng khi thấy công tử thanh bạch nhật nguyệt chứng giám của nhà ta bị người ta vu oan. May mà hôm nay nương nương thay hoàng thượng đến thu thập di vật cho công tử, lão nô sẽ để nương nương xem, công tử nhà ta sinh thời rốt cuộc đã sống một cuộc sống như thế nào, rốt cuộc có tham ô ăn hối lộ như bên ngoài đồn đại hay không! Ta nghĩ, đây cũng là lý do mà hoàng thượng không phải người khác, chỉ phái nương nương đến đây!”.

Khương Trầm Ngư được mở mang đầu óc, một lời mà lay tỉnh người trong mộng.

Trước đó, nàng một mực chìm đắm trong nỗi đau thương, chỉ để ý đến việc cảm nhận dấu ấn của chàng còn lưu lại nơi đây, giờ được Thôi quản gia nhắc nhở, nàng mới ý thức được sứ mệnh quan trọng của bản thân. Quả thực, đúng như lời Thôi quản gia nói, từ sau khi Cơ Anh chết, những lời đồn không hay về Cơ gia nổi lên tứ phía, lại thêm quốc khố thực sự trống rỗng, nhất thời, quan lại tham ô đã trở thành một tội danh rất nghiêm trọng. Sở dĩ Chiêu Doãn phái nàng đến, dụng ý thật sự chắc chắn là mượn lời của nàng để bác bỏ tin đồn.

Bởi vì nàng họ Khương. Còn có gì hiệu quả hơn một người nhà họ Khương rửa sạch thanh danh cho Cơ thị?

Chiêu Doãn… quả nhiên làm gì cũng có tâm cơ… nghĩ đến đây, Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, đỡ Thôi quản gia đứng lên, nói: “Ta hiểu rồi. Yên tâm, ta biết nên làm thế nào”.

Thôi quan gia nước mắt lưng tròng nhìn nàng, nghẹn ngào nói: “Lão nô, thay công tử, tạ ơn nương nương!”.

Cuối cùng Khương Trầm Ngư chọn ba cây bút đã rụng hết phần lông, một hòm áo trắng thêu hoa văn Bạch Trạch, một bức tranh hoa sen và một hộp nhang Phật thủ cam rồi rời khỏi hầu phủ.

Khi nàng về cung, đem những đồ đạc đó giao cho quan phụ trách tang lễ cũng đã đến giờ Hợi, cả người ê ẩm như vừa đi đánh trận về, toàn thân mệt mỏi không còn chút sức lực. Lê đôi chân nặng trĩu về tới Dao Quang cung, còn chưa đến cửa đã nhìn thấy bên trong đèn nến sáng trưng. Có chuyện gì vậy?

Hoài Cẩn lập cập chạy ra nói: “Tiểu thư tiểu thư, cuối cùng tiểu thư cũng về rồi, Hy Hòa phu nhân, nàng ta…”.

Hoài Cẩn còn chưa nói hết, một bóng người liền phi như bay từ trong điện ra, ôm chặt lấy nàng, miệng không ngừng gọi: “Mẹ! Mẹ…”.

“Vẽ đẹp. Vẽ đẹp lắm”. Khương Trầm Ngư an ủi nàng ta, Hy Hòa nghe thấy thế lập tức cười vui vẻ. Đôi mắt trong veo như thủy tinh và nụ cười sáng bừng như hoa xuân, lọt vào mắt Khương Trầm Ngư lại càng khiến nàng cảm thấy chua xót.

Nàng đưa tay ra, chầm chậm sờ lên mái tóc Hy Hòa, cuối cùng ôm nàng ta vào lòng, thút thít nói: “Hy Hòa… ta, ta… rất ngưỡng mộ nàng… Ta thật sự thật sự… ngưỡng mộ nàng…”.

Hy Hòa được nàng ôm chặt lúc đầu vẫn mở to mắt không hiểu, nhưng sau đó, dường như cảm nhận được nỗi đau khổ của Trầm Ngư, ngẩng mặt lên, im lặng nhìn nàng chăm chăm, hôn lên trán nàng.

“Mẹ… đừng khóc… không đau, không đau…”. Trong ánh sáng đêm, giọng nói của Hy Hòa khàn khàn, dịu dàng, thấm đẫm đau buồn.

Khi Khương Trầm Ngư tỉnh dậy trời đã sáng bạch, ánh sáng chói lạ thường khiến nàng vô thức đưa tay lên che mắt, sau đó lờ mờ nhìn thấy một người đang đứng bên cửa sổ. Nàng chớp chớp mắt, cho rằng đó là Hy Hòa, bèn cất tiếng gọi:

“Hy Hòa?”.

“Dậy rồi à?”. Người đó quay lại, một thân hoàng bào, vô cùng tôn quý.

“Hoàng thượng?”. Khương Trầm Ngư thất kinh, vội vàng đứng dậy, liếc nhìn đồng hồ trên bàn, giật mình toát mồ hôi: “Thần thiếp ngủ say quá, lỡ mất buổi chầu sáng của hoàng thượng, tội đáng muôn chết, mong hoàng thượng thứ tội!”.

Nàng ngủ một giấc đến giờ Hợi mà không hay biết gì, tại sao bọn Hoài Cẩn không gọi nàng?

Chiêu Doãn như đọc được suy nghĩ của nàng, lạnh nhạt nói: “Là trẫm dặn bọn họ không cần gọi nàng, hôm qua nàng bận rộn cả ngày cũng mệt rồi, nên nghỉ ngơi nhiều một chút mới phải. Thế nào? Bây giờ nàng cảm thấy đỡ hơn chưa?”.

Khương Trầm Ngư sờ lên đầu, chau mày nhăn mặt nói: “Không biết tại sao, đầu đau ghê lắm”.

Chiêu Doãn phì cười, nắm tay kéo nàng ra khỏi giường: “Mau chải đầu thay áo, cùng trẫm đi nghe tin tức tốt lành, đầu nàng sẽ khỏi đau thôi”.

Khương Trầm Ngư dạ một tiếng. Thực ra trong lòng nàng ít nhiều cũng đoán được tin tức tốt lành hoàng thượng nói đến là gì, tính thời gian thì thông tin từ phía Giang Đô cũng về rồi, Chiêu Doãn đã nói là tin tốt, chắc là chỉ việc này sắp được giải quyết ổn thỏa rồi.
 
Quyển 2 - Chương 72


Khi nàng cùng Chiêu Doãn vào trong Bách Ngôn đường, bảy người đã chờ sẵn ở đó. Hành lễ theo lệ xong xuôi, vẫn là người áo tím ngồi ở cuối cùng đứng lên nói: “Khởi bẩm hoàng thượng, sáng sớm hôm nay bồ câu bay về, đã chứng thực được chuyện Quan Đông Sơn đưa cho Khương Hiếu Thành một trăm vạn lượng để đặt cọc mua bản chép tay ‘Quốc sắc thiên hương phú’, đợi bản chép tay đến tay, sẽ trả nốt một trăm bốn mươi vạn lượng còn lại”.

Chiêu Doãn thong thả nói: “Hóa ra chữ của Cơ ái phi lại đáng tiền như vậy, bảo nàng viết thêm vài bài, Bích quốc cũng bớt được khối việc”.

Người áo xám cười giả lả, nói: “Là Quan Đông Sơn thấy lợi tối mắt, muốn kiếm năm trăm vạn lượng từ chỗ Nghi vương bệ hạ”.

Trong mắt Chiêu Doãn lóe lên một tia không vui, hừ một tiếng nói: “Chỉ là một tên thành chủ Giang Đô cỏn con, lại có thể tùy tiện lấy một trăm vạn lượng làm tiền đặt cọc, Giám sát ti làm ăn kiểu gì hả?”.

Bảy người thấy y giận dữ, nhất thời không dám hó hé.

Khương Trầm Ngư thấy cứ làm căng như vậy cũng không phải là cách hay, bèn nói: “Mưu kế Tiết Thái sử dụng lần này có thể gọi là liên hoàn kế. Đổi lại hầu hết mọi người, biết rõ có cái lợi hai trăm sáu mươi vạn lượng bày ra ở đó, dù có phải dốc hết vốn liếng ra cũng phải cược một ván. Quan Đông Sơn ở trong cuộc, càng lún càng sâu, cũng là điều bình thường. Bây giờ so với việc truy cứu Giám sát ti có làm hết chức trách giám sát quan lại có liêm khiết chí công vô tư hay không, chi bằng nghĩ xem có thể giúp Tiết Thái việc gì không. Chuyện Giang Đô sớm được giải quyết ngày nào, hoàng thượng cũng có thể trừ được mối tâm bệnh ngày đó”.

Những lời này nói ra trong nhu có cương, khiến người ta không thể phản bác, chỉ có thể gật đầu khen phải, sắc mặt Chiêu Doãn cũng dịu đi rất nhiều.

Người áo tím nói: “Không sai, lần này Tiết Thái đúng là dùng liên hoàn kế. Sau khi hắn và Khương Hiếu Thành đến Giang Đô, đã không thăm dò tình hình hạn hán, cũng không truy cứu trách nhiệm, mà ăn chơi trác táng, cơm rượu no say, khiến cho quan viên ở đó cảm thấy bọn họ chẳng qua chỉ là hạng tầm thường. Kế đó, hắn lại lập tức tuyên bố triều đình sẽ cấp một khoản cứu trợ thiên tai, loại bỏ tâm lý đề phòng của bọn họ. Đến khi thân quen rồi, hắn bắt đầu thể hiện kiến giải trác việt và nhãn quang tinh chuẩn của hắn về phương diện đồ cổ thư pháp. Chiếc đĩa đựng thức ăn cho chó đó có lẽ là được sắp đặt từ trước, nhưng chiếc vòng của ca cơ kia lại thực sự là hàng nhái, bị hắn nhìn ra, vạch mặt trước mọi người. Sau đó, chúng ta tra ra, chiếc vòng giả đó là do Quan Đông Sơn tặng. Cũng có nghĩa là, từ chiếc vòng Băng Hoa Phù Dung giả, Tiết Thái đã nhận ra bộ mặt ham hư vinh, nông cạn, tham lam vô sỉ của Quan Đông Sơn, liền chọn hắn làm vai chính cho vụ lừa đảo này”.

Người áo xanh lục vuốt bộ râu đẹp, ra chiều khinh bỉ nói: “Cái tên Quan Đông Sơn này, đến quà tặng cho tình nhân mà cũng dám làm giả, thực sự quá bỉ ổi”.

Khương Trầm Ngư đứng bên nghe thấy, trong lòng không khỏi thấy nực cười: Tâm lý bọn đàn ông có lúc thật sự rất kỳ lạ, lừa trên gạt dưới thì xem như chẳng có gì, chẳng qua chỉ là một phương thức sinh tồn trong quan trường mà thôi, nhưng tặng tình nhân đồ giả thì lại cảm thấy đó là chuyện đáng thóa mạ phỉ nhổ. Thật ra, làm giả thứ gì cũng đều là hành vi xấu xa như nhau, còn phải phân biệt cao thấp sao? Nực cười.

Người áo tím tiếp tục phân tích: “Vì thế, tối đó khi Quan Đông Sơn không kiềm chế nổi, mời Tiết Thái đến tham quan bộ sưu tập của hắn, Tiết Thái cố ý không phát biểu cảm tưởng, là có hai mục đích. Thứ nhất là kéo dài thời gian, phải biết là khi sự nghi ngờ của một người chưa được giải đáp, thời gian kéo dài càng lâu, hắn sẽ càng tin tưởng độ chân thực của đáp án; mục đích thứ hai là phải xem xem bộ sưu tập của người khác như thế nào, rồi lựa chọn đối tượng dễ lừa nhất cũng đáng để lừa nhất trong đó rồi mới ra tay. Như thế, cuối cùng đã chọn Quan Đông Sơn”.

Người áo xám bổ sung: “Tiết Thái biết chỉ dựa vào một mình hắn nói thì sẽ không lừa nổi con cáo già Quan Đông Sơn, cho dù nhất thời cắn câu, nhưng cũng sẽ mau chóng cảnh giác. Cho nên, hắn nhân lúc sắt còn nóng, lập tức buông mồi thứ hai”.

“Chính xác”. Người áo tím gật đầu: “Đó chính là Nghi vương Hách Dịch”.

Nghe nhắc đến cái tên Hách Dịch, tuy là xa cách vạn nước nghìn non, nhưng Khương Trầm Ngư vẫn cảm thấy có chút thú vị đó, bây giờ có ổn không? Cũng không biết Tiết Thái hứa gì với chàng, mà đến chàng cũng nhận lời giúp đỡ.

Người áo xám cười nói: “Hách Dịch là ai? Người trong thiên hạ đều biết, đó là thần tài sống, đại phú ông đệ nhất, sự góp mặt của ngài giống như cho tất cả mọi người uống một viên Định Tâm hoàn, cũng giúp cho đại cục trở nên chân thực, đáng tin cậy hơn”.

“Nhưng Tiết Thái đương nhiên không dễ dàng để lộ mục đích thực sự của hắn, cho nên hắn đã mua liền tám bức tranh chữ của Quan Đông Sơn, để Quan Đông Sơn nếm được vị ngọt, rồi lại lấy lợi ích lớn hơn để dẫn dụ hắn, Quan Đông Sơn đương nhiên mắc lừa, khao khát kiếm năm trăm vạn lạng của Hách Dịch, cứ như thế sa vào bẫy của Tiết Thái”. Người áo tím báo cáo đến đây, gấp lại cuốn sổ, mỉm cười nói: “Chuyện sau đó thần nghĩ chúng ta có thể không cần phân tích nữa”.

“Không tồi”. Chiêu Doãn gật đầu, chậm rãi nói: “Chuyện phía sau, chỉ cần thong thả xem màn kịch hay là được”.

Tất cả sau đó đúng như suy đoán của bảy người trong Bách Ngôn đường. Ba ngày sau, cái gọi là “Quốc sắc thiên hương phú” được chuyển đến tay Khương Hiếu Thành. Quan Đông Sơn không nói hai lời liền chi trả ngân phiếu một trăm bốn mươi vạn lượng còn lại, sau đó mau mau chóng chóng cầm bút tích do Cơ quý tần tự tay viết đó đi tìm Hách Dịch, đến lúc đó mới phát hiện lầu không người mất bóng, không thấy Hách Dịch đâu cả.

Điều cực kỳ chấn động là hắn phái bốn người đi tìm kiếm khắp nơi, khó khăn lắm mới tìm thấy Nghi vương bệ hạ trên một chiếc thuyền chuẩn bị xuất hành, nhưng Nghi vương chỉ thở dài một tiếng, đổ ly rượu trong tay xuống dòng sông đã cạn một nửa, ngậm ngùi nói:

“Đời người hận mãi như nước chảy về Đông, mối chấp niệm này của ta cũng nên từ bỏ rồi”. Nói rồi liền phất tay áo tiêu sái rời đi, không chút vấn vương.

Quan Đông Sơn trơ mắt ra nhìn con vịt béo dâng lên tận miệng rồi còn bay đi, nhưng rốt cuộc hắn chỉ là một tên quan tam phẩm quèn, sao dám bất kính với hoàng đế nước khác, không biết làm thế nào đành quay về tìm Khương Hiếu Thành. Kết quả Khương Hiếu Thành lập tức trở mặt, cười nhạt nói: “Bản chép tay này chẳng phải Quan đại nhân ngươi cầu xin ta lấy giúp sao? Bây giờ lại nói không cần nữa? Coi hạ quan là cái gì? Coi Cơ quý tần là cái gì? Lại coi đương kim hoàng hậu nương nương là cái gì? Cứt ị ra rồi lẽ nào còn có thể ăn lại được?”.

Quan Đông Sơn ngậm bồ hòn làm ngọt, mặt mày ủ rũ về tới nhà, càng nghĩ càng cảm thấy lạ, liền đi tìm Tiết Thái, kết quả còn chưa đến được chỗ Tiết Thái, thì đã có một đám quan binh tới, không nói không rằng trói gô hắn lại, giải lên công đường.

Ngồi trên công đường, Khương Hiếu Thành thân mặc quan phục chỉnh tể, vừa cười lạnh lùng vừa khép hắn vào mười hai tội trạng, liệt kê từng khoản từng khoản hắn đã tham ô nhận hối lộ trong những năm qua, cũng không cần hắn điểm chỉ mà đã tống vào đại lao.

Trong hai ngày sau đó, với khí thế dứt khoát quả quyết, bắt hết đám quan lại quyền quý của bản địa, lý do là trong cung mất cắp, mà bảo vật bị mất tìm thấy trong nhà bọn họ, nhân tiện kèm thêm một bản danh sách, liệt kê từng món từng món một, những món bảo vật được liệt kê chính là những thứ mà Tiết Thái đã từng xem qua khi được họ mời về làm khách trước đây.

Con đường có được những đồ vật này cũng có chút không sạch sẽ, Khương Hiếu Thành chộp được điểm này rồi một mực cho đó đều là đồ của hoàng thượng, cứ như thế định tội từng người một.

Trong một thời gian ngắn thành Giang Đô hỗn loạn vô cùng.

Sang ngày thứ tư, Khương Hiếu Thành ban bố một mệnh lệnh, gọi là trao đổi bằng giá, trồng cây gây rừng. Nghĩa là, tù nhân phạm tội tham ô bao nhiêu tiền thì lấy bấy nhiêu tiền mặt đến chuộc, hoặc là đến vùng đất được chỉ định trồng bao nhiêu cây thì có thể được miễn tội chết. Thế là kẻ có tiền lũ lượt nộp tiền, kẻ không có tiền thì ngày đêm trồng cây, ngoài Quan Đông Sơn ra, những người khác đều lần lượt được chuộc hết. Cuối cùng khi kiểm kê số tiền chuộc bọn họ thu được, cộng với hai trăm bốn mươi vạn lượng lừa được của Quan Đông Sơn, không thừa không thiếu vừa chẵn năm trăm vạn lượng, đúng bằng khoản tiền quốc khố sẽ cấp mà Tiết Thái loan truyền ra ngoài trước đó.

Chuyện này khi được báo tin về Bách Ngôn đường, mọi người nghe xong đều bật cười.

Người áo xanh lục nói: “Lấy tiền là được còn trồng cây để làm gì?”.

Người áo tím đáp: “Lục Tử không biết đó thôi, sở dĩ năm nay Giang Đô đại hạn, chính là vì một lượng lớn rừng cây bị chặt phá bừa bãi. Ngoài thành Giang Đô vốn dĩ có một cánh rừng tươi tốt, nhưng vì số gỗ đó đáng tiền nên bị thành chủ cũ sai người chặt trộm vận chuyển bán sang Nghi quốc. Đến khi Quan Đông Sơn nhậm chức, cây đã bị chặt gần hết”.

“Nói vậy chẳng phải tên Quan Đông Sơn đó cũng thật là xúi quẩy sao?”.

Người áo tím xua tay phản bác: “Lục Tử có biết thành chủ cũ là ai không?”.

“Là ai?”.

“Là chú ruột của Quan Đông Sơn. Sau khi thành chủ cũ cáo lão, định cư trong thành Giang Đô, trong những kẻ quan lại quyền quý bị bắt lần này, lão ta cũng bị tóm”.

“Quả là lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó lọt. Nuốt vào bao nhiêu, cũng phải nôn ra bấy nhiêu”. Bảy người bàn tán rất hứng thú, vỗ tay cười lớn.

Sau cùng, Chiêu Doãn nheo mắt cười nói: “Hiếu Thành và Tiết Thái làm rất tốt, đắc tội cũng khá nhiều người rồi, chuyện mua lương thực cứu tế trẫm sai người khác làm thay, để hai người bọn họ sớm được quay về”.

“Vâng. Hoàng thượng thánh minh”.

Trên buổi chầu ngày hôm sau, Chiêu Doãn chọn hai viên quan có tiếng tốt thay Khương Hiếu Thành và Tiết Thái tiếp quản việc cứu tế cho dân. Như thế, cái nạn Giang Đô đã được giải quyết thần tốc chỉ trong vòng năm ngày ngắn ngủi. Hai vị công thần đã về tới đế đô giữa tiếng vỗ tay hoan hô và hoa tươi chào đón.

Tiết Thái rốt cuộc đã hứa với Hách Dịch điều gì?

Nghe nói khi Hách Dịch lên thuyền rời Giang Đô, có viết một lá thư trên thuyền, nội dung đại để là: “Trẫm đã phí sức lực chín trâu hai hổ, đi khắp tứ quốc, cuối cùng ông trời cũng không phụ lòng người, cho trẫm tìm thấy bản gốc ‘Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ’, điều hiếm có nhất chính là chúng được bảo tồn toàn vẹn, không hư hại chút nào. Vì thế phát giá một trăm vạn lạng, ngài có mua hay không?”.

À phải rồi, người nhận bức thư đó là Chương Hoa.

Một tháng sau, Yên vương nhận được lá thư này, vui mừng như điên, trả lời rằng: “Mua!”.

Ngày mười lăm tháng mười, Chiêu Doãn thiết yến trong cung chúc mừng công lao của Khương Hiếu Thành.

Khương Trầm Ngư đứng đầu tứ phi, sắp trở thành hoàng hậu, cùng đến dự tiệc.

Khương Hiếu Thành đã lớn đầu thế này, nhưng đây lại là lần đầu tiên được vẻ vang như thế, đương nhiên là mặt đỏ tưng bừng, ai mời rượu là uống cạn. Mà công thần thực sự là Tiết Thái đến một chỗ ngồi cũng không có, chỉ có thể đứng đằng sau Khương Hiếu Thành. Tiệc mới bắt đầu còn có mấy quan viên tiến lên phía trước mời rượu, nói chuyện với hắn, sau thấy hắn thần sắc lạnh nhạt, tâm trí để tận đâu, bèn không buồn để ý đến hắn nữa, chuyển sang tiếp tục nịnh bợ Khương Hiếu Thành.

Khi yến tiệc diễn ra được nửa chừng, Tiết Thái bèn tìm cớ cáo lui. Khương Trầm Ngư nhìn thấy, vội vàng đứng dậy, đuổi theo hắn.

Trăng sáng treo cao, gió đêm lạnh căm, đã cuối thu rồi.

Sự huyên náo trong điện lại càng làm nổi bật sự lạnh lẽo bên ngoài, Khương Trầm Ngư gọi Tiết Thái, hắn quay người lại đứng cách nàng một trượng, trong nháy mắt nàng cảm thấy có chút xa lạ.

Hắn… lớn rồi.

Vầng trán rộng thêm, mày mắt sâu thêm, nét ngây thơ dường như chỉ lưu lại một giây trên gương mặt này rồi biến mất không tăm tích, thay vào đó là vẻ sắc bén và cao thượng thuần khiết vượt xa tuổi tác của hắn.

Hắn giống như một người lớn, một tay buông thõng, một tay chắp sau lưng, đứng thẳng nghiêm trang nhìn nàng.

Thật khó có thể miêu tả được cảm giác của Khương Trầm Ngư lúc này, có chút vui mừng, có chút chua xót, còn có chút buồn bã như đánh mất thứ gì, nhưng cuối cùng đều hóa thành nụ cười. Nàng vừa bước đến vừa cười với hắn, lấy một chiếc túi gấm vô cùng tinh xảo đẹp mắt từ trong người ra.

“Cái gì thế?”. Tiết Thái cau mày.

“Ngươi mở ra là biết”. Khương Trầm Ngư chớp mắt.

Tiết Thái nghi hoặc trợn mắt nhìn nàng rồi cầm lấy túi gấm, mở ra, vẻ mặt sững sờ.

Trong túi gấm là một miếng ngọc.

Một miếng ngọc tuyệt thế.

Một miếng ngọc có thể nói là nổi tiếng nhất trên đời này - Băng Ly.

Tiết Thái di chuyển ánh mắt từ miếng ngọc lên khuôn mặt Khương Trầm Ngư. Khương Trầm Ngư bật cười: “Món quà sinh nhật ta tặng ngươi này, ngươi có thích không? Tại sao lại trợn mắt nhìn ta hung hăng như thế?”.

“Làm sao ngươi có được? Còn nữa… làm sao ngươi biết được…”. Giọng hắn càng lúc càng lý nhí, gần như không nghe thấy mấy tiếng cuối “sinh nhật của ta”.

“Ta lấy ngọc từ chỗ Hy Hòa, còn sinh nhật của ngươi… là Thôi quản gia nói cho ta hay…”.

Tiết Thái cụp mắt nhìn xuống, im lặng một lúc lâu sau mới thấp giọng nói: “Bệnh của nàng ta… khỏi chưa?”. Nàng ta, rõ ràng không phải chỉ Thôi quản gia.

Khương Trầm Ngư thở dài ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng lơ lửng trên bầu trời đêm, buồn bã nói: “Chúng ta coi nàng ta là người điên, có lẽ nàng ta coi chúng ta mới là kẻ điên… Dù thế nào, ta nghĩ chắc chắn bây giờ nàng ta sống vui vẻ hơn trước kia rất nhiều, cũng đơn thuần hơn rất nhiều. Như thế cũng không có gì là không tốt cả, đúng không?”.

Ánh mắt Tiết Thái lay động, bỗng chuyển chủ đề: “Công tử… được chôn cất chưa?”.

“Ừm. Chôn vào giờ Mùi ngày hai mươi lăm tháng chín”.

“Ngươi có đi không?”.

Khương Trầm Ngư cười nhạt lắc đầu. Cho nàng chọn đồ bồi táng cho Cơ Anh đã là ân huệ đặc biệt của Chiêu Doãn. Buổi nhập liệm hạ táng thật sự, nàng là một hoàng phi đương nhiên không thể có mặt, cũng không có lý do gì để có mặt.

Hơn nữa, không biết vì sao kể từ hôm nàng từ Cơ phủ trở về, luống cuống khóc trước mặt Hy Hòa, còn Hy Hòa hôn nàng, thì khi đối diện với cái chết của Cơ Anh, dường như nàng không còn cảm thấy đau khổ không thể chịu đựng nữa.

Nhà Phật nói phải giác ngộ phải giác ngộ, Khương Trầm Ngư nghĩ, có lẽ chính ở khoảnh khắc đó, mình đã ngộ rồi.

Lĩnh ngộ ra rằng người đó đã đi khỏi cuộc đời mình, không bao giờ quay trở lại nữa;

Lĩnh ngộ ra rằng đời người vốn là một chu trình không ngừng vứt bỏ cái cũ và dung nạp cái mới. Duyên phận của nàng và Cơ Anh đã kết thúc rồi; nhưng sẽ nảy sinh duyên phận giữa nàng với những người khác, kể cả với những người vốn dĩ tưởng rằng sẽ không bao giờ qua lại… ví như Hy Hòa.

Năm đó, khi nàng phụng chỉ tiến cung đánh đàn cho Hy Hòa, nàng đâu nghĩ đến một ngày nào đó mình sẽ trở thành chỗ dựa, thậm chí là chỗ dựa duy nhất cho nữ tử này?

Mà Tiểu Tiết Thái trước mắt cũng vậy.

Nếu Tiết gia không xảy ra chuyện, tiểu thần đồng cao ngạo không coi ai ra gì này sao có thể trở thành bạn tốt đến mức gần như có thể tâm sự về bất cứ chuyện gì của mình?

Nghĩ đến đây nụ cười trên khóe môi Khương Trầm Ngư càng tươi hơn, khiến đường nét ngũ quan nhìn lại càng dịu dàng ấm áp lạ thường.

Tiết Thái thấy nàng như vậy, bỗng thấy mơ màng, để thoát khỏi cảm xúc lạ thường này, hắn nhíu mày, nghiêm mặt nói: “Ta có chuyện muốn nói với ngươi”.
 
Quyển 2 - Chương 73


“Ta đang nghe đây”.

“Nghiêm túc chút đi”.

Khương Trầm Ngư nhìn bộ dạng bé người lanh trí của Tiết Thái, không nhịn được cười phì một cái.

Quả nhiên, đầu mày của Tiết Thái càng nhíu chặt hơn, sau đó, thấp giọng nói nhỏ một câu.

Sau câu nói này, nụ cười của Khương Trầm Ngư lập tức biến mất, trái tim giống như mực đen chìm trong nước, nhấp nhô, loang ra, lặng lẽ chìm xuống.

Tiết Thái nói…

“Ta không tìm thấy tiền ở Cơ gia”.

Câu nói này rất nghiêm trọng.

Khiến cho tất cả những thông tin Khương Trầm Ngư nắm được hiện tại đều trở thành hư vô. Vì thế, nàng sững ra một lúc mới có thể sắp xếp lại tư duy, run run hỏi lại: “Cái gì?”.

Tiết Thái ngó nghiêng xung quanh: Họ đang đứng ở hướng chính Đông của hồ Phượng Thê, để tiện cho việc thưởng ngoạn phong cảnh, dọc bên bờ không trồng cây mà xây một hàng lan can cao bằng nửa người. Đầu bên kia chính là đại điện thiết yến tiệc. Cũng có nghĩa là, nơi đây vô cùng thoáng đãng, không chỗ nào có thể ẩn nấp, cho dù người đến từ phía nào, đều có thể nhanh chóng nhìn thấy.

Vì thế, sau khi thấy không có khả năng có người thứ ba nghe lén được cuộc trò chuyện của họ, Tiết Thái mới mở miệng nói tiếp: “Sở dĩ ta trở về muộn như thế là vì sau khi hoàn thành chuyện ở Giang Đô, ta tiện đường đến thăm hỏi từng phân nhánh của Cơ gia và ngầm sai Chu Long điều tra triệt để từng người trong đó. Cuối cùng chứng thực, con cháu Cơ gia tuy giỏi dốt không đều, nhưng xét về tổng thể, đều có hai đặc điểm. Một là tay không có thực quyền, hai là thân không có dư tiền”.

“Sao có thể!”. Khương Trầm Ngư kinh ngạc kêu lên: “Theo thống kê mà Hàn Lâm bát trí có được, năm Đồ Bích thứ nhất, Cửu khanh bãi miễn thất khanh, các đại thần xuất thân đều từ hai tộc Cơ, Tiết mà ra…”.

“Tiết thị đã diệt vong”. Khi nói câu này, trên gương mặt trắng trẻo của Tiết Thái không có bất cứ biểu cảm nào: “Tam khanh của Cơ gia cũng hết nhiệm kỳ cáo lão vào năm Đồ Bích thứ ba”.

“Năm Đồ Bích thứ hai, thay Đô úy tướng quân, thăng cấp ba mươi bảy người, hết thảy đều là môn sinh của Kỳ Úc hầu!”.

“Chú ý họ là môn sinh, đều không phải họ Cơ”.

“Năm Đồ Bích thứ ba, Cơ thị phụng chỉ xây dựng đê điều phòng lũ tốn một khoản lớn…”.

“Nhưng chẳng phải hiệu quả rất rõ ràng sao? Năm nay mùa hạ nước dâng cao, nhưng hai bờ sông Hoa Hà vẫn bình an vô sự”.

Khương Trầm Ngư ôm đầu, lẩm nhẩm nói: “Đợi đã… ngươi đợi chút đã, để ta nghĩ kỹ xem… cũng có nghĩa là…”.

“Cũng có nghĩa là Hàn lâm bát trí đều bị phụ thân ngươi mua chuộc, cố ý dùng những số liệu cũ này để giá họa cho Cơ thị! Mà thực sự là từ khi Cơ Anh đứng đầu Cơ thị đến nay, ngài đã từ từ, không động thanh sắc, từng bước từng bước tước bỏ, làm yếu quyền thế của con cháu Cơ thị, khiến họ không có quyền để lạm dụng, không có tiền để tham ô”.

Khương Trầm Ngư nắm chặt hai tay, cảm thấy trái tim mình đập thình thịch thình thịch như sắp nhảy ra ngoài.

Đây, đây… đây rốt cuộc là chuyện gì?

“Nhưng… quốc khố thật sự trống rỗng!”. Hàng ngày nàng lên triều bãi triều cùng Chiêu Doãn, quốc khố thật sự rỗng tuếch hay không đọc số liệu là biết liền, không thể làm giả, Chiêu Doãn cũng không có lý do gì để nói dối.

Tiết Thái im lặng nhìn nàng một lúc, bỗng hỏi: “Ngươi cảm thấy, so với những ám vệ mà phụ thân ngươi huấn luyện thì Sư Tẩu thế nào?”.

Khương Trầm Ngư vốn là một người thông minh, vừa gợi ý là đã hiểu, nghe câu này xong, lập tức trầm ngâm, lúc sau mới trả lời: “Nếu luận về thuật gián điệp, Sư Tẩu không bằng, nhưng nếu luận về võ công, ám vệ của cha ta không phải là đối thủ của hắn”.

“Thế thì, bọn Sư Tẩu từ đâu mà ra?”. Tiết Thái vừa nói vừa nở một nụ cười mai mỉa: “Đừng có nó với ta họ đều đường đường chính chính được huấn luyện từ trong ngự lâm quân ra nhé”.

Khương Trầm Ngư nhìn xuống đất. Đúng thế, võ công của Sư Tẩu cao cường như thế, không phải dăm tháng nửa năm mà có thể luyện thành, chắc chắn cũng giống như ám vệ của phụ thân, được huấn luyện từ nhỏ. Từ việc Chiêu Doãn đồng ý cấp cho nàng hai tên ám vệ nữa có thể thấy, những người này hoàng đế có rất nhiều, thế thì là ai đã thay y bí mật huấn luyện ra những tử sĩ đó? Là ai không ngừng nghỉ cung cấp những người này cho Chiêu Doãn? Cho dù là ai, có một điểm rất rõ ràng, đó chính là: tiền.

Làm việc này, cần phải có một số tiền khổng lồ.

Còn số tiền này, đương nhiên lại không thể ghi chép một cách minh bạch trên sổ sách được.

Tiết Thái tiếp tục nhắc nhở: “Huấn luyện ra một Sư Tẩu đã rất khó khăn, vậy để huấn luyện ra một Điền Cửu, thì sẽ cần bao nhiêu tiền?”.

Điền Cửu chính là thị vệ theo sát Chiêu Doãn. Hắn không có bất cứ địa vị danh phận nào, thậm chí rất nhiều người không biết đến sự tồn tại của hắn. Nhưng, so với thái giám La Hoành cực kỳ vinh quang, hay vị hữu tướng đứng đầu quần thần Khương Trọng, hắn mới là tâm phúc thực sự cũng là duy nhất của Chiêu Doãn.

“Ý của ngươi là, tiền của quốc khố thực ra không phải bị ai tham ô hết, mà nó được dùng để huấn luyện ám vệ và những khoản chi phí không thể cho người khác biết, cũng chính là hoàng đế đã tiêu hết tiền?”. Cuối cùng Khương Trầm Ngư cũng nắm bắt được mấu chốt của vấn đề.

Tiết Thái không do dự gật đầu: “Phải”.

“Vậy hẳn là hoàng thượng biết rõ nhất số tiền đó đi đâu?”.

“Phải”.

“Nhưng khi Hàn lâm bát trí chỉ trích Cơ Anh, hoàng thượng rõ ràng biết chân tướng sự việc mà lại không hề biện giải cho Cơ Anh, không những thế lại còn té nước theo mưa ngầm cho phép ám sát Cơ Anh?”.

Tiết Thái nhìn nàng chằm chằm, trong ánh mắt hiện lên vài phần thương xót. Tuy hắn không thốt ra tiếng “phải” một lần nữa, nhưng trái tim Khương Trầm Ngư trong phút chốc đã vỡ nát.

Nàng lảo đảo đứng không vững.

Tiết Thái theo bản năng đỡ lấy nàng: “Ngươi không sao chứ?”.

Khương Trầm Ngư vịn vào lan can bên bờ hồ, cố gắng chống đỡ cơ thể mình, gió từ hồ thổi tới rất lạnh, nàng cảm thấy vô cùng buốt giá.

Tiết Thái dò xét nàng, lại hỏi một lần nữa: “Ngươi vẫn ổn chứ?”.

Thoạt đầu, Khương Trầm Ngư lắc đầu, rồi lại gật đầu, hai tay nắm chặt phần điêu khắc bằng đá trên lan can, dường như sắp bấu chặt đến bật cả máu, nàng mở miệng, gằn giọng nhả từng chữ như đầm đìa máu rơi: “Tại sao? Hoàng thượng… tại sao nhất định phải muốn Cơ Anh chết? Tại sao?”.

Tiết Thái đăm đăm nhìn nàng, chậm rãi nói rành rọt từng tiếng: “Câu trả lời này phải do ngươi nói lại cho ta hay”.

Trước mắt Khương Trầm Ngư mờ mịt, nàng vội vàng nhắm chặt hai mắt. Không được, không được, đại phu đã nói, nhất định phải giữ cho tâm trạng bình ổn, nếu không, hai mắt sẽ hỏng mất.

Hai mắt hỏng rồi cũng chẳng sao, chỉ có điều nó không thể hỏng vào lúc này.

Bây giờ, còn có một đống việc đợi nàng xử lý, một đống bí mật đợi nàng điều tra, nàng tuyệt đối không thể gục ngã trong thời khắc quan trọng này.

Tuyệt đối không thể!

Khương Trầm Ngư từ từ mở hai mắt ra, thứ lọt vào mắt nàng là biểu cảm lo âu hiếm có khó gặp của Tiết Thái, nhưng sự lo âu đó lập tức biến mất thay vào đó là sự lạnh nhạt: “Tóm lại, đây chính là chuyện phải điều tra bây giờ, nếu còn có tin tức khác, ta sẽ báo cho ngươi”.

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, còn chưa kịp nói gì thì một tiếng gọi từ xa vẳng lại, phá vỡ sự tĩnh mịch nơi này: “Tiểu Tiết Thái!”.

Quay đầu nhìn thì thấy Chiêu Loan từ xa chạy tới. Kỳ thực từ khi nàng ở Trình quốc về đến nay vẫn chưa từng gặp Chiêu Loan, nghe nói nàng ta cùng thái hậu đến tự viện hoàng gia bái Phật hơn nửa năm nay, không ngờ lại đột ngột xuất hiện trong đêm nay.

Đã xảy ra chuyện gì?

“Khương tỉ tỉ… hóa ra tỉ cũng ở đây!”. Chiêu Loan tóm lấy tay Khương Trầm Ngư, thở hổn hà hổn hển không ra lời.

Khương Trầm Ngư vội hỏi: “Công chúa sao thế? Có gì từ từ nói, đừng vội”.

“Thái hậu bệnh nặng sắp chết rồi, muội có thể không gấp sao?”.

Một lời kinh động cả thiên hạ.

Khương Trầm Ngư thất kinh. Chiêu Loan vừa lau nước mắt vừa giậm chân nói: “Lão hòa thượng trong miếu nói để thái hậu quay về gặp người thân lần cuối, bệnh của thái hậu không cứu được nữa, cho nên muội phải phóng xe ngựa suốt đêm đưa thái hậu quay về. Hỏi bọn thái giám mới biết hoàng huynh đang thiết yến ở đại điện, cho nên muội vội vội vàng vàng tới đây”.

“Bây giờ thái hậu đang ở đâu?”.

“Thái hậu vẫn ở trong xe ngựa trước cửa, muội vội đi tìm hoàng huynh, nên chưa kịp sắp xếp cho người…”. Chiêu Loan tuổi vẫn còn nhỏ, lần đầu gặp phải chuyện lớn như thế này, nên hoảng loạn không biết phải làm sao.

Khương Trầm Ngư lập tức quyết định thay nàng ta: “Thế này đi, Tiết Thái ngươi đưa công chúa đi tìm hoàng thượng, tuyên ngự y mau tới, ta đi sắp xếp cho thái hậu, chút nữa chúng ta sẽ gặp lại nhau trong tẩm cung của thái hậu”.

Tiết Thái “ừ” một tiếng coi như đồng ý. Chiêu Loan đi theo hắn, vừa đi vừa khóc lóc: “Khương tỉ tỉ, tất cả đều nhờ tỉ…”.

Việc không thể chậm trễ, Khương Trầm Ngư vội vàng gọi cung nhân, trước tiên đánh xe ngựa của thái hậu đến Ý Thanh cung, lại lệnh cho hai thái giám lực lưỡng khiêng thái hậu từ xe ngựa đặt lại lên giường.

Thái hậu rõ ràng đã yếu như cây đèn cạn dầu, hôn mê không tỉnh. Khương Trầm Ngư bắt mạch cho bà, phát hiện mạch tượng vô cùng hư nhược, có thể ngừng đập bất cứ lúc nào.

“Các ngươi mau đi đun một ít nước nóng. Các ngươi mau đến ngự trù phòng chọn ra loại nhân sâm tốt nhất nấu một bát canh bưng tới đây. Các ngươi đứng ngoài cửa đợi hoàng thượng, hễ thấy ngự y là lập tức dẫn vào trong… Nhanh lên! Đừng có đứng như phỗng thế!”. Một tiếng lệnh xuống, các cung nữ ở Ý Thanh cung ai nấy đều vâng lệnh tản đi hết.

Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ một lát, mình ở đây hình như cũng không có tác dụng gì, đang định quay người đi làm việc khác thì nghe thấy thái hậu thều thào một tiếng, từ từ tỉnh lại, đôi mắt he hé mở.

Khương Trầm Ngư vui mừng kêu lên: “Thái hậu? Người tỉnh rồi? Con đi gọi người…”.

Đang định đi, cổ tay lại bị thái hậu tóm lại: “Lang Gia, Lang Gia, ta… ta xin lỗi…”.

Lang Gia? Khương Trầm Ngư sững người, gọi nhỏ: “Thái hậu?”.

“Lang Gia, bà tha thứ cho ta đi, tha thứ cho ta… đừng tới tìm ta nữa, ta không cố ý, ta cũng bất lực, Lang Gia…”. Thái hậu rõ ràng đã lẫn, nhầm nàng thành một người khác, khóc không thành tiếng.

Còn Khương Trầm Ngư không biết bà nói gì, cũng không biết người bà nói đến là ai, muốn đi cũng không được, muốn ở cũng chẳng xong, cuối cùng đành nhẹ nhàng an ủi; “Ta, ta không giận bà đâu, cho nên bà đừng khóc. Đừng khóc, đừng khóc”.

Thái hậu khóc càng dữ hơn, nói nhỏ một câu.

Sắc máu trên mặt Khương Trầm Ngư mau chóng biến mất, nàng lảo đảo đứng dậy lùi về phía sau mấy bước, quay đầu nhìn tứ phía, may mà đám cung nữ đều bị nàng sai đi làm việc này việc nọ hết, trong tẩm cung rộng lớn này, chỉ có nàng và thái hậu.

Một trận gió thổi từ ngoài cửa sổ vào phòng, khiến tầng tầng rèm sa lay động, khiến mái tóc dài của nàng tung bay, chiếc bóng rớt trên mặt đất cũng như nhe nanh múa vuốt, giống như ma quỷ bám chặt, bám chặt, bám rất chặt… Khương Trầm Ngư kêu lên một tiếng thất thanh, ôm chặt đầu, ngồi thụp xuống đất.

Khi Chiêu Doãn dẫn thái y hớt hải đi tới, thì thấy cửa Ý Thanh cung mở rộng, gió thổi vù vù vào trong, Khương Trầm Ngư đang run rẩy lấy một chiếc khăn trắng phủ lên mặt thái hậu, sau đó quay người nhìn họ, vừa đau đớn nặng nề lại vừa bình tĩnh chậm rãi nói: “Thái hậu… đi rồi”.

Chiêu Doãn lập tức ra lệnh cho thái y tiến lên kiểm tra, thái y buồn bã nói: “Hoàng thượng, thái hậu đã qua đời rồi”.

Chiêu Doãn im lặng một lúc, đi đến trước giường thái hậu, trầm giọng nói: “Thái hậu về cõi tiên, cả nước cùng thương xót. Truyền lệnh xuống, để tang ba mươi sáu ngày, thời gian này mọi hoạt động thi cử vui chơi đều tạm hoãn”.

“Tuân chỉ”.

Vì mệnh lệnh này, Bích quốc bước vào thời kỳ quốc tang.

Mà chuyện phong hậu vốn được định vào ngày mùng một tháng mười một cũng vì thế tạm gác lại, đẩy lùi đến ngày mùng một tháng mười hai.

Khương Trầm Ngư về cung, tối hôm đó liền đổ bệnh, sốt cao liên miên, hôn mê liền ba ngày ba đêm.

Trong giấc mơ, nàng nắm lấy tay một người, không ngừng gọi, không ngừng khóc, người đó rất dịu dàng trả lời nàng, lau nước mắt cho nàng. Đến khi nàng tỉnh lại, hỏi Hoài Cẩn và Ác Du, bọn họ đều kinh ngạc bảo rằng hoàn toàn không có người nào như thế.

Ngày mười tám tháng mười, bệnh tình Khương Trầm Ngư khó khăn lắm mới có chuyển biến tốt, Hy Hòa lại lâm bệnh, liên tục nôn ra máu. Các thái y đều không tìm ra nguyên nhân căn bệnh, hết thảy đều bó tay hết cách. Khi ấy Hy Hòa dường như tỉnh táo hơn một chút, không những không kháng cự Chiêu Doãn lại gần, mà còn đặc biệt bám lấy y, tất cả thuốc thang đều đòi y đích thân đút cho mới chịu uống.

Chiêu Doãn đương nhiên vừa mừng vừa ngạc nhiên, hàng ngày ngoài thời gian lên buổi chầu sáng ra, y đều đến Bảo Hoa cung quan tâm chăm sóc Hy Hòa. Hàng ngày Khương Trầm Ngư phụ trách họp cùng với bảy người, rồi báo kết quả của cuộc họp lên Chiêu Doãn, rồi lại thông báo quyết định của Chiêu Doãn cho bảy người.

Cùng lúc, bụng của Khương Họa Nguyệt bắt đầu lùm lùm, nàng ta nghén rất nghiêm trọng, Khương Trầm Ngư không coi trọng việc gì hơn việc này, đích thân quan tâm đến mọi việc ăn ở của tỉ tỉ, cứ như thế, bận rộn đến bù đầu bù óc, hôm nào cũng phải qua giờ Tí mới xong để về Dao Quang cung nghỉ ngơi.

Thời gian bận rộn cứ ngày tiếp ngày trôi đi như thế, cuối cùng đã tới ngày mùng một tháng mười hai.

Bích quốc đã có tân hậu.
 
Quyển 2 - Chương 74: Hồi thứ mười tám: Người tính


Trường phục màu đỏ thắm, chín con phượng hoàng thêu bằng kim tuyến, khi ánh đèn chiếu vào lại càng diễm lệ lạ thường, phần đầu phượng thêu trên vai càng khiến tư thế người mặc nó thêm cao ngạo, cùng với chiếc mũ mười hai con rồng chín con phượng trên đầu tô điểm nổi bật lẫn nhau. Tua ngọc dài gồm hơn ba nghìn viên trân châu buông rủ, từng cử chỉ đều tỏa ra ánh sáng lung linh. Khắp nhà một màu đỏ thẫm, nhưng không át nổi nàng toàn thân hoa lệ quý phái.

Khương Trầm Ngư ngồi ngay ngắn giữa Ân Phái cung, từ ngày hôm nay trở đi, nàng đã trở thành chủ nhân của cung này, người đứng đầu của hậu cung. Nhưng nàng lại không vui mừng thích thú một chút nào, mà chỉ chăm chú nhìn ngọn nến lớn hình rồng uốn lượn trên bàn đợi thời gian chậm chạp trôi qua.

Tuy là ngày lành, nhưng đáng tiếc ông trời cũng chẳng tác thành cho chuyện tốt, từ sáng tới giờ chưa thấy mặt trời ló rạng. Trước đó mọi người còn lo lắng sẽ đổ mưa, đại lễ sẽ không thể tiến hành, nhưng ông trời còn tử tế, mây chồng tầng tầng lớp lớp, càng lúc càng dầy, nhưng mưa vẫn không rơi.

Chắc là đến nửa đêm sẽ mưa thôi… Khương Trầm Ngư hờ hững nghĩ đến vấn đề không liên quan này.

Tiếng cười của Hoài Cẩn và Ác Du từ ngoài cửa vọng vào, tiếp đó cánh cửa phòng bật mở, Ác Du cười giòn tan như chuông kêu, nói: “Hoàng hậu nương nương, hoàng thượng đến rồi!”.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên, liền nhìn thấy Chiêu Doãn.

Khác với vẻ chỉnh trang của nàng, Chiêu Doãn vẫn mặc bộ đồ thường ngày như cũ, rõ ràng rất tùy ý.

Ác Du len lén đánh mắt với nàng, rồi vừa cười vừa lui ra ngoài.

Chiêu Doãn đi đến trước giường, ngắm nàng một lượt từ đầu xuống chân, cười nhạt nói: “Đẹp”.

Khương Trầm Ngư ngước mắt lên, im lặng nhìn y.

Chiêu Doãn tiện tay nhấc bình rượu trên bàn lên, tự rót cho mình một chén, ngồi xuống, nói: “Ôi chao, hoàng hậu của trẫm, hôm nay nàng quả thật rất xinh đẹp… Có điều sao mặt mày lại ủ dột thế kia. Là giận trẫm tới muộn sao? Trẫm đền cho nàng là được chứ gì, đến đây, ly rượu này coi như là lễ tạ của trẫm với nàng. Những ngày này vất vả cho nàng quá”. Nói rồi đưa rượu cho nàng.

Khương Trầm Ngư nhận lấy, lặng lẽ uống cạn.

Chiêu Doãn mắt cong cong, cười càng lúc càng thân mật: “Thế mới đúng chứ, uống chút rượu mặt nàng sẽ hồng hào. Trong hậu cung của trẫm toàn là mỹ nhân, nhưng chỉ có mình hoàng hậu nàng là người thông minh nhất, ở bên nàng như được tắm gió xuân, thật là dễ chịu”. Vừa nói y vừa tiến về phía nàng, đưa tay ra nhẹ nhàng ve vuốt gò má nàng, ý đượm tình nồng vô hạn. Còn giọng nói của y cũng càng lúc càng dịu dàng hơn: “Từ khi nàng vào cung đến nay, trẫm vẫn chưa từng ân sủng nàng, đêm nay giờ lành cảnh đẹp, chúng ta… không nên bỏ phí…”.

Hàng mi của Khương Trầm Ngư run rẩy như cánh bướm.

Chiêu Doãn nhìn thấy phản ứng của nàng, cười càng vui hơn: “Hoàng hậu đang căng thẳng à? Đừng căng thẳng, trẫm sẽ nhẹ nhàng với nàng…”.

Khương Trầm Ngư đặt ly rượu xuống, chậm rãi lên tiếng: “Hoàng thượng… thần thiếp có thể hỏi người một câu được không?”.

“Đợi lúc nữa rồi hỏi không được sao? Bây giờ… nên làm những chuyện khác…:. Chiêu Doãn vừa nói vừa giơ tay cởi đai áo của nàng ra. Khương Trầm Ngư không ngăn động tác của y, mà chỉ trừng đôi mắt sáng như sao sớm lên nhìn y chằm chằm không chớp.

Chiêu Doãn bị đôi mắt đó nhìn nên mất tự nhiên, đành khe khẽ thở dài, nói: “Được rồi, được rồi, nói ta nghe nào”.

“Tại sao… hoàng thượng phong thiếp làm hoàng hậu?”.

Chiêu Doãn nhướn mày, lại cười, y lùi lại mấy bước, thuận tay rót cho mình một ly rượu, vừa chầm chậm nhấp rượu vừa không chú tâm nói: “Không phải trẫm đã nói rồi sao, là trẫm ban thưởng cho nàng”.

“Tại sao hoàng thượng phải ban thưởng cho thần thiếp?”.

Một tràng truy vấn liên tiếp cuối cùng đã khiến Chiêu Doãn cảm thấy lạ, y dừng lại, nhìn thái độ nghiêm túc lạ thường của nàng, hắng giọng ho mấy tiếng: “Được, vậy trẫm sẽ nói cho nàng nghe. Thẳng thắn mà nói, thật sự lần đầu tiên trẫm gặp một nữ tử như nàng - chủ động xin làm mưu sĩ cho trẫm, thể hiện trong chuyến đi Trình quốc của nàng cũng rất xuất sắc, cơ trí hơn người, nhưng, những điều này đều không đủ khiến trẫm cảm động. Nàng có biết vì sao không?”.

Khương Trầm Ngư lắc đầu.

“Bởi vì nàng có vốn liếng vượt xa người bên cạnh. Cho nên, trẫm không cảm động”. Nhìn gương mặt Khương Trầm Ngư lộ vẻ mơ hồ khó hiểu, Chiêu Doãn cười cười: “Hay nói cách khác, vì nàng là con gái của Khương Trọng. Nàng vừa chào đời đã có điều kiện ưu việt hơn người thường, quyền thế và quan hệ của phụ thân nàng có thể giúp nàng dễ dàng làm được rất nhiều việc, cho nên trẫm không cảm động. Thế nhưng, một người sinh ra trong danh môn, lớn lên trong phú quý, tất cả mọi thứ đều có được nhờ vào gia tộc như nàng lại dám cắt đứt với phụ thân, đây mới thực sự là chỗ khiến trẫm động lòng”.

Ánh mắt Khương Trầm Ngư lóe sáng.

Chiêu Doãn thở dài nhè nhẹ, giọng nói trở nên dịu dàng: “Nàng ấy… rõ ràng nàng biết, rời khỏi phụ thân nàng, rời khỏi gia tộc của nàng, trong hậu cung này, nàng thực sự sẽ đơn thương độc mã chiến đấu, không có chỗ nào để dựa dẫm, không có ai để bấu víu, thậm chí không có tình thân nào để nhớ nhung… Với sự thông tuệ của nàng, nàng biết rõ hậu quả nghiêm trọng thế nào. Cho dù là thế, nàng vẫn từ bỏ. Cho nên, từ khoảnh khắc biết nàng từ bỏ gia tộc, trẫm đã tự nói với mình, trẫm phải ban thưởng cho nàng, ban thưởng cho nữ tử làm được chuyện phi thường nhất thế gian”.

Khương Trầm Ngư mím môi, mắt chợt hơi hoe đỏ: “Thế hoàng thượng… tại sao lại coi trọng hành động từ bỏ gia tộc này?”.

Đầu mày Chiêu Doãn chau lại: “Trầm Ngư, rốt cuộc nàng muốn hỏi gì?”.

“Có phải là vì bản thân hoàng thượng cũng là người chịu khổ, cho nên cảm thấy đồng bệnh tương lân?”.

“Choang” một tiếng, bình rượu bị hất đổ. Chiêu Doãn đứng phắt dậy, trừng mắt nhìn Khương Trầm Ngư, nét mặt nghiêm nghị.

Còn Khương Trầm Ngư vẫn ngồi trên giường, đến lông mi cũng chẳng rung, tiếp tục nói: “Hoàng thượng đang thấy lạ? Hay đang sợ hãi? Đang nghĩ tại sao thần thiếp có thể biết chuyện này? Đúng không?”.

Chiêu Doãn sầm mặt nói: “Khương Trầm Ngư, chuyện gì cũng phải có chừng mực!”.

Khương Trầm Ngư mở to đôi mắt trong veo như thủy tinh, sáng lấp lánh nhìn y, sau đó bỗng nhiên nhoẻn cười. Nàng ngũ quan dịu dàng, vì thế hiếm có biểu cảm quá sắc sảo, nhưng bây giờ khóe miệng khẽ nhếch lên, mí mắt hơi nhướn lên, đó là một nụ cười lạnh lùng đến kỳ lạ. Mà trong nụ cười lạnh lùng đó, đôi môi đỏ diễm lệ như hoa xuân tạo nên một đường cong hoàn mỹ, từng tiếng từng tiếng đều lạnh như băng: “Hoàng thượng, Lang Gia là ai?”.

Cả gương mặt Chiêu Doãn biến sắc: “Nàng… nàng nói gì?”.

“Cái tên này rất hiếm gặp, triều ta từ thưở khai quốc đến nay, tổng cộng có mười ba người mang cái tên này, mà trong mười ba người đó, duy nhất chỉ có một người có liên hệ với cung đình, hơn nữa còn là một người rất giỏi giang. Hoàng thượng… biết đó là ai chứ?”.

Trong mắt Chiêu Doãn lóe lên một tia hung quang, lạnh lùng đáp: “Khương Trầm Ngư, rốt cuộc nàng muốn làm gì?”.

“Làm gì à?”. Hai chân Khương Trầm Ngư chạm đất, khoan thai đứng dậy, chiếc váy dài trong phút chốc phủ kín mặt đất, nàng khẽ đan hai tay vào nhau, đi từng bước một, bằng tư thế của một hoàng hậu, nhìn thẳng vào quân vương tôn quý nhất của Bích quốc hiện nay, không cao ngạo cũng không có hèn mọn: “Hoàng thượng, hôm nay là ngày hoàng đạo, cho nên hoàng thượng chọn làm ngày tấn phong cho thần thiếp, còn thần thiếp cũng chọn ngày hôm nay để xin hoàng thượng một thứ”.

“Thứ gì?”. Đối diện với Khương Trầm Ngư lời lời bức người như thế, Chiêu Doãn bất giác run lên.

“Công bằng”.

“Cái gì?”. Chiêu Doãn cơ hồ tưởng mình nghe nhầm.

Thế nên Khương Trầm Ngư lại nhắc lại một lần nữa: “Công - bằng, thần thiếp nói là công bằng. Hoàng thượng không biết nó là cái gì sao? Cũng đúng, hoàng thượng xưa nay tùy ý làm càn, duy ngã độc tôn, vĩnh viễn chỉ nhìn thấy vết thương của mình, làm sao cảm nhận được nỗi oan khuất của người khác?”.

Một tia giận dữ lóe lên trên khuôn mặt Chiêu Doãn, nhưng rất nhanh sau đó đã bị nén xuống, không giận dữ nữa mà trái lại cười nói: “Được. Nói tiếp đi. Trẫm lắng nghe đây, rốt cuộc trẫm đã phụ hai chữ ‘công bằng’ như thế nào!”.

Khương Trầm Ngư không sợ sệt trước khí thế của y, mỉm cười nói: “Được, thế thì chúng ta nói từ Hy Hòa phu nhân đi. Hy Hòa phu nhân quả thật rất đẹp, nhờ vào phúc của hoàng thượng, thần thiếp đã được xuất ngoại du lãm, gặp đủ mọi loại mỹ nhân. Nhưng cộng tất cả bọn họ lại cũng không sánh được với một mình Hy Hòa phu nhân”.

Chiêu Doãn “hừ” một tiếng.

“Một nữ tử xinh đẹp như thế, đương nhiên sẽ phải thuộc về hoàng đế. Cho nên, hoàng đế sai người giở trò, khiến phụ thân của nàng là Diệp Nhiễm thua bạc một khoản lớn, cuối cùng phải gán con gái cho bọn buôn người, rồi bị bán vào trong cung, cứ như thế trở thành phi tử của hoàng thượng. Việc xong rồi, hoàng thượng sợ việc lộ ra ngoài, liền giết chết Diệp Nhiễm, từ đó, Hy Hòa phu nhân trở thành cô nhi không chỗ dựa, chỉ có thể dựa vào một mình hoàng thượng”.

Chiêu Doãn nhẫn nhịn, rồi lại nhẫn nhịn, cuối cùng vẫn không nén được: “Trẫm và Hy Hòa… hoàn toàn không giống như nàng nói”.

“Không phải như thần thiếp nói, thì là thế nào? Lẽ nào hoàng thượng muốn nói hai người thật sự yêu nhau?”. Khương Trầm Ngư nhìn Chiêu Doãn đứng bên cạnh đèn, trong lòng thất vọng về y đến cực điểm: “Hoàng thượng nhìn Hy Hòa mà xem, nhìn xem hiện nay nàng ta thành bộ dạng thế nào? Thực lòng thích một người, sao có thể nhẫn tâm thấy nàng ta biến thành như thế? Khoảnh khắc nàng ta nhìn thấy đầu của công tử, hoàng thượng có nhìn thấy biểu cảm trên mặt nàng ta không? Hoàng thượng cảm thấy tại sao nàng ta phát điên? Là hoàng thượng hủy hoại nàng ta! Là hoàng thượng hủy hoại nàng ta và công tử!”.

“Thế thì sao!”. Chiêu Doãn nhảy dựng lên, không thèm để ý đến hình tượng, thét lớn: “Trẫm là đế vương! Đế vương là gì? Chính là dưới gầm trời không đâu không là đất của nhà vua, nội trong bốn bể, không ai không phải là thần tử của nhà vua, toàn thiên hạ đều là của trẫm! Huống hồ chỉ là một nữ nhân! Nàng ta là nữ nhân của Cơ Anh thì sao nào? Ai bảo Cơ Anh không phải là hoàng đế?”.

“Tại sao Cơ Anh không phải là hoàng đế mà là hoàng thượng, hoàng thượng không phải là người rõ nhất sao?”. Một câu nói nhẹ nhàng của Khương Trầm Ngư khiến cho Chiêu Doãn toàn thân run bắn, sau đó, im lặng trở lại.

Chiêu Doãn thở dốc, ngồi xuống chiếc ghế cạnh bên, trừng mắt nhìn nàng, bình tĩnh lại rất lâu rồi mới nói: “Nàng quả nhiên là đã chuẩn bị rất kỹ… Được, trẫm sẽ xem xem rốt cuộc nàng đã chuẩn bị đến trình độ nào, có thể cho mấy điểm. Nói đi, nói đi!”.

“Cơ Anh không phải là hoàng đế, lý do rất đơn giản. Chàng bị bệnh tim bẩm sinh, lại thêm chứng hen suyễn, chàng không đủ khỏe mạnh, cho nên, Cơ gia rất thất vọng với đứa trẻ này, liền lùi toàn bộ kế hoạch thêm một năm, đợi hoàng thượng ra đời!”.

Ánh nến nhảy nhót chiếu lên gương mặt Chiêu Doãn, lúc mờ lúc tỏ.

Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, nói: “Quá trình này không cần nói kỹ…”.

Chính vào lúc này, một giọng nói bỗng lặng lẽ vang lên, tựa như một oan hồn đến từ địa ngục, mang theo chấp niệm thấu tận xương cốt: “Tại sao không nói kỹ? Ta cũng muốn nghe”.

“Cạch” một tiếng, cửa phòng bật mở, một bóng người che khuất ánh đèn, xuất hiện trong tầm mắt.

Mái tóc trắng như tuyết, thân hình cao gầy yểu điệu, nàng ta ngước mắt, ánh sao cũng phải kém sắc, nàng ta nhếch môi vạn vật cũng phải nhạt màu.

Nàng ta chính là đệ nhất mỹ nhân của bốn nước - Hy Hòa.

Trước sự xuất hiện của Hy Hòa, Chiêu Doãn đương nhiên vô cùng chấn động, nhảy khỏi ghế lần nữa: “Hy Hòa, nàng sao có thể…”.

“Sao ta có thể đến đây?”. Hy Hòa cười rạng rỡ, bước vào cửa, sau đó đóng cửa lại: “Đương nhiên trong vở kịch lớn đêm nay, là một trong những vai chính ta không thể không đến”.

“Nàng không phải… bị điên sao?”. Chiêu Doãn nhìn nàng ta với vẻ khó mà tin nổi, chỉ trong một canh giờ trước, Hy Hòa còn giương đôi mắt mờ mịt với biểu cảm của đứa trẻ con dụi vào lòng y uống thuốc, nhưng phút này, nàng ta lại thong thả, cực kỳ phong nhã bước vào, thần sắc bình thản, nụ cười lay động lòng người, đúng là tuyệt thế.

Biểu cảm của Chiêu Doãn trong nháy mắt biến thành phẫn nộ: “Nàng khi quân! Nàng dám giả điên lừa trẫm! Nàng, nàng, nàng và nàng ta liên thủ…”.

Khương Trầm Ngư thở dài một tiếng khe khẽ: “Hoàng thượng, hoàng thượng sai rồi”.

“Trẫm sai cái gì? Lẽ nào bây giờ Hy Hòa vẫn đang bị điên?”.

“Đúng là phu nhân bây giờ không điên. Nhưng trước đó, nàng ta điên thật…”.

Khương Trầm Ngư vẫn chưa nói tiếp, Hy Hòa đã đi qua, nhẹ nhàng đặt tay lên vai nàng, mỉm cười nói: “Không cần giải thích, thật thật giả giả, là điên là ngốc, đối với ta bây giờ mà nói căn bản không còn quan trọng nữa. Ta chỉ muốn nghe… chân tướng của Cơ gia”.

Một câu nhẹ nhàng lại mang trở lại sự thâm trầm nghiêm trang vốn có của căn phòng.

Trong đáy mắt Chiêu Doãn lóe lên một tia dị sắc, sau đó y chầm chậm, thâm hiểm nở một nụ cười: “Không thể có chân tướng. Nàng không nói ra được đâu”. Y chỉ Khương Trầm Ngư trước tiên, rồi sau đó chỉ Hy Hòa: “Còn nàng cũng không nghe thấy gì hết”.

Khương Trầm Ngư và Hy Hòa đều im lặng nhìn y.

“Còn đợi cái gì nữa? Điền Cửu!”. Chiêu Doãn sầm mặt xuống.

Thế nhưng, căn phòng vẫn lặng phắc như tờ, ngoài ánh nến thi thoảng cháy bùng lên, phát ra tiếng xèo xèo ra, không còn gì khác.

Chiêu Doãn hoảng hốt: “Điền Cửu? Điền Cửu? Điền…”.

“Đừng gọi nữa, không có ai đến đâu. Điền Cửu không đến, La Hoành không đến, thị vệ bên ngoài cũng không vào đâu”. Khương Trầm Ngư lạnh nhạt nói.
 
Quyển 2 - Chương 75


Chiêu Doãn run giọng: “Nàng, nàng đưa Điền Cửu đi đâu rồi”.

“Điền Cửu đi thăm người thân”.

“Cái gì? Thăm người thân nào?”.

“Lẽ nào hoàng thượng không biết, Điền Cửu còn có một người anh em. Anh em ruột. Hơn nữa người anh em ruột này của hắn vừa khéo cũng thành ám vệ, cuối cùng còn được hoàng thượng cấp cho thần thiếp:

Chiêu Doãn sắc mặt âm u nói: “Ý nàng nói Sư Tẩu?”.

Khương Trầm Ngư vỗ tay: “Hoàng thượng có trí nhớ thật tốt, vẫn nhớ ra tên của hắn”.

“Không phải hắn chết rồi sao?”.

Khương Trầm Ngư cười tươi rói: “Hoàng thượng thật là tin thần thiếp, thần thiếp nói thế nào thì tin thế ấy sao?”.

“Nhưng rõ ràng ta đã nhận được mật báo Sư Tẩu đã chết…”.

Khương Trầm Ngư thu lại nụ cười, nghiêm mặt nói: “Đó là thiếp cố ý sắp đặt”.

“Cái gì?”.

“Sư Tẩu vì cứu thiếp đã thành tàn tật, người như hắn nếu có về cung thì kết cục chỉ có cái chết, bởi quá vô dụng lại biết quá nhiều bí mật. Vì thế, thiếp cầu xin sư huynh cố ý tạo cho hắn dáng vẻ bị trọng thương không thể cứu chữa, lừa hết thảy mọi người, đưa hắn đến một nơi an toàn để tĩnh dưỡng”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, lại cười: “Mà một canh giờ trước, thiếp sai người vờ như vô tình để lộ địa điểm đó cho Điền Cửu biết, cho nên bây giờ hắn có lẽ đã đến thăm người thân duy nhất trên cõi đời này của mình rồi”.

“Nói nhăng nói cuội! Người thân cái gì chứ! Ám vệ không có người thân! Họ chỉ có người thân duy nhất chính là trẫm!”. Chiêu Doãn nhảy dựng lên.

“Đó là hoàng thượng tưởng vậy thôi”. Khương Trầm Ngư phản bác kịch liệt, sự thất vọng trong mắt lại càng sâu đậm hơn: “Chính vì hoàng thượng chưa bao giờ nghĩ cho người khác, nên nghĩ người khác cũng máu lạnh vô tình như hoàng thượng, đến tình cảm anh em máu chảy ruột mềm cũng chẳng màng, thậm chí trái lại còn sát hại chính ca ca có chung huyết mạch với mình!”.

Chiêu Doãn bị đả kích nặng nề, hai chân mềm nhũn, toàn thân tê liệt ngã xuống ghế.

Ánh mắt y đờ đẫn nhìn về phía xa, miệng lẩm nhẩm một câu: “Ca ca?”.

“Đúng thế. Ca ca. Cơ Anh, chính là ca ca của hoàng thượng”. Tiếng sấm đùng đoàng như thể đặc biệt vang lên để hưởng ứng câu nói này, tiếp theo đó là cơn mưa như trút nước giữa đêm cuối thu lạnh lẽo.

Nước mắt Hy Hòa cũng cùng lúc lăn xuống, thân hình yếu mềm lảo đảo rồi loạng choạng ngồi phịch xuống chiếc giường gấm.

Có lẽ, người duy nhất có thể trấn tĩnh chỉ có Khương Trầm Ngư, nhưng ngón tay đang cuộn trong tay áo của nàng cũng không chịu nghe lời mà run lên bần bật.

Sau cùng, điều nàng đang nói chính là bí mật lớn nhất của Bích quốc, liên quan rộng lớn, can hệ nặng nề, có thể nói là chưa từng có từ xưa tới nay. Một khi bị tiết lộ hậu quả khó mà tưởng tượng nổi.

Trong tiếng mưa rào rào, giọng nói của nàng giống như một đóa hoa quẩn quanh dưới đáy nước đã nhiều năm, giãy giụa, xoáy tròn, cuối cùng ngoi lên khỏi mặt nước: “Rất lâu rất lâu về trước, đã lưu truyền một bí mật như thế này về gia tộc Cơ thị - Cơ gia có ‘Liên thành bích’ và ‘Tứ quốc phổ’, hai vật này có thể giúp gia tộc vĩnh viễn chiếm vị trí đứng đầu trên triều đường, đứng ở vị thế bất bại. Nhưng rất lâu rất lâu rồi, không ai có thể nhìn thấy hai vật này. Cha ta từ khi trở thành hữu tướng đã luôn tìm kiếm hai vật này hòng lật đổ Cơ thị, nhưng lãng phí biết bao tài lực nhân lực mà vẫn không thu hoạch được gì. Đến năm Đồ Bích thứ tư, ông cảm thấy vạn sự đã chuẩn bị đầy đủ, không thể nhẫn nại thêm, bắt đầu… xuống tay đối với Cơ Anh”.

Trong phòng im lặng như tờ, hai người đang lắng nghe cố nhiên đều im lặng, còn người nói thì tâm thân đều tan nát. Có lúc, Khương Trầm Ngư cảm thấy mình đã không còn ở trên nhân thế từ lâu, hiện giờ người đang điều khiển cái xác của nàng là một người nào khác. Nếu không, làm sao giải thích được nàng có thể kể về câu chuyện đáng sợ như thế một cách bình tĩnh đến vậy? Bình tĩnh đến mức như đã chết rồi.

“Một mặt cha thiếp âm thầm mua chuộc trọng thần trong triều, đặc biệt là Hàn lâm bát trí, thực sự tốn tâm cơ để bọn họ ra mặt chỉ trích Cơ Anh, một mặt khác lại cùng Vệ Ngọc Hành giăng bẫy chờ Cơ Anh chui đầu vào rọ. Cuối cùng, ông đã thành công, dùng cái cách rất hạ lưu nhưng rất trực tiếp, rất hiệu quả, giết chết danh thần một đời. Mà điều khiến thiếp kinh ngạc là tại sao hoàng thượng lại dung túng cho ông ta làm chuyện này! Dung túng cho ông ta chặt đứt cánh tay mạnh nhất của mình! Cơ Anh chẳng phải là thần tử được sủng ái nhất, được tín nhiệm nhất của hoàng thượng sao?”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, ánh mắt từ trên người Chiêu Doãn chuyển đến người Hy Hòa đang nằm sóng soài trên giường mà không nói nổi lời nào: “Bây giờ thiếp lại biết được một chuyện, đó chính là Hy Hòa phu nhân từng là tình nhân của Cơ Anh. Hy Hòa bị hoàng thượng cố ý cướp đi trên tay Cơ Anh giống như năm đó đã từng cưỡng ép thiếp vào cung vậy”.

Hy Hòa gượng cười, nhưng khóe môi chưa nhếch lên đã biến thành một tiếng thở dài không thành tiếng.

“Tại sao? Tại sao hoàng thượng một mặt trọng dụng Cơ Anh, một mặt lại đi cướp nữ nhân của chàng? Tại sao Cơ Anh rõ ràng có thể nói là không thể thiếu đối với Bích quốc, nhưng hoàng thượng lại đồng ý cho giết chàng? Trong suốt một thời gian dài, chuỗi câu hỏi này đã khiến thiếp mất ăn mất ngủ, suy nghĩ muôn vàn. May mà… thiếp không phải chờ đợi lâu, rất mau chong, ông trời đã cho thiếp câu trả lời. Chính là tối thái hậu qua đời…”.

“Thái hậu? Là thái hậu nói cho nàng biết?”. Trong phút chốc, Chiêu Doãn kích động hẳn lên.

“Trước khi thái hậu từ trần, chỉ có một mình thiếp ở cạnh giường, bà đã nhận nhầm thiếp thành một người khác, người có tên là Lang Gia. Mà vị Lang Gia này chính là mẫu thân của Cơ Anh”. Ầm ầm, lại một tia sét nữa đánh xuống, khiến khung cửa sổ sáng bừng lên.

Khương Trầm Ngư nhìn Hy Hòa, nhẹ nhàng nói: “Ngày hai mươi chín tháng ba năm Đồ Bích thứ ba, phu nhân còn ấn tượng với ngày này chứ?”.

Hy Hòa dường như bị gợi nhớ đến ký ức gì rất đáng sợ, toàn thân run lẩy bẩy, trong phút chốc hơi thở trở nên dồn dập.

Trên gương mặt Khương Trầm Ngư nổi lên một sự thương xót khó diễn tả thành lời: “Chắc chắn phu nhân có ấn tượng. Bởi vì ngày hôm đó, phu nhân ở trong rừng hạnh, đợi Cơ Anh suốt một đêm. Mà chàng không đến”.

“Tại… tại sao ngươi lại biết?”. Giọng nói của Hy Hòa nghèn nghẹt, mỗi tiếng đều phải lách qua kẽ răng để phát ra.

“Sở dĩ chàng không đến, là vì… chàng bị người ta bán đứng, không thể đến được”. Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, chậm rãi nói: “Mà tất cả việc này đều bắt đầu từ ngày mùng mười tháng hai, ngày mẫu thân của công tử qua đời…”.

Ầm ầm đùng đùng, sấm vang chớp giật, ánh sáng lóe lên chiếu xuyên qua giấy dán cửa sổ, tựa như đến tường vách cũng bị xé nát.

Cũng đưa câu chuyện quay về mùng mười tháng hai của năm Đồ Bích thứ ba.

Đêm đó, Lang Gia bệnh nặng, tất cả người của Cơ thị đều tụ tập trong nhà để đợi tin tức, nhưng bà không gặp một ai, chỉ gọi mình Cơ Anh vào trong…

Cơ Anh vào trong gian tẩm thất, bên trong chỉ thắp một cây đèn duy nhất, khắp phòng nồng mùi thuốc, dù tính tình chàng luôn trầm ổn hướng nội, cũng không nén nổi khóe mắt cay cay.

Đang định thắp đèn, Lang Gia trên giường bệnh lên tiếng: “Đừng, đừng thắp đèn… ta sợ sáng”.

Cơ Anh liền dừng tay, đi đến bên giường, nắm lấy đôi tay khô gầy của mẫu thân, khẽ gọi một tiếng: “Mẹ”.

“Anh Nhi… con đến rồi”.

“Vâng, mẹ, con đã từ Hoa Hà trở về”. Mười ngày trước, chàng bị Chiêu Doãn phái đi sửa đê phòng lũ, vừa đến Hoa Hà liền nhận được tin xấu, lại vội vã trở về, vì thế người đầy bụi bặm, mặt cũng chưa rửa, áo quần cũng chưa kịp thay, cực kỳ tiều tụy.

Nhưng Lang Gia nhìn chàng giống như nhìn thứ mình yêu quý nhất trên đời, giơ hai tay ra ôm lấy mặt chàng, gọi một cách tràn đầy tình cảm: “Anh Nhi… của mẹ, Anh Nhi ngoan…”.

“Mẹ, con ở đây, con vẫn luôn ở đây”.

“Con đồng ý với mẹ một chuyện”.

“Mười việc, trăm việc, con đều đồng ý”.

Nhận được sự đảm bảo của con trai, Lang Gia mỉm cười, trong nụ cười ấy chất chứa rất nhiều nỗi tiếc nuối và xót xa khó diễn tả thành lời: “Con có biết tại sao ta muốn con dốc hết sức lực phò tá Chiêu Doãn không?”.

Cơ Anh ngây người, đáp: “Là vì… y lấy tỉ tỉ”.

Lang Gia lắc đầu.

Cơ Anh lại nói: “Là vì y là hoàng đế tốt”.

Lang Gia khẽ thở dài: “Là vì… nó là đệ đệ của con”.

Ầm ầm, mưa rơi như trút nước, mặc ý rửa sạch vạn vật trên thế gian.

Rèm mi Cơ Anh nhướng lên rồi lại cụp xuống, rồi lại nhướng lên, trong con ngươi bấy giờ mới biểu lộ một chút bóng dáng của sự chấn động ngạc nhiên. Lang Gia nhìn những biến hóa biểu cảm rất nhỏ đó, hài lòng gật đầu: “Rất tốt, quả nhiên con đã học được cách xử sự dù núi Thái Sơn có sụp trước mặt cũng không biến sắc… Mẹ rất hài lòng”.

Cơ Anh im lặng một lúc lâu rồi mới nói: “Con… có thể hỏi… tại sao không?”.

“Đương nhiên có thể, vì ta nhất định sẽ nói cho con. Bởi vì… Đồ Bích… vốn là thiên hạ của Cơ gia chúng ta!”.

Ầm ầm.

Ánh nến yếu ớt chiếu sáng Lang Gia đang trong cơn nguy kịch, năm tháng đã ăn mòn hết sạch, ăn mòn triệt để nhan sắc và sức khỏe của bà, nhưng lại bù đắp cho bà một đôi mắt trí tuệ.

Lang Gia, con gái của Chung thượng thư, thời thiếu nữ đẹp nhất kinh đô được gả làm vợ của Lộc Đỉnh hầu Cơ tịch, phu thê tình thâm, bên nhau trọn đời. Nếu dùng tộc phả để ghi chép về người này, có thể chỉ có một câu như vậy, nhưng đối với toàn thể Cơ gia mà nói, bà mới là công thần thực sự.

Khi bà được gả cho Cơ Tịch, Cơ Tịch chẳng qua chỉ là một hầu gia hữu danh vô thực, không có gì xuất chúng, nội bộ gia tộc Cơ thị hỗn loạn, đấu đá lẫn nhau. Địa vị đệ nhất sĩ tộc vốn có cũng dần dần bị tranh giành, bị ba tộc Khương, Tiết, Vương thay thế.

Sau khi bước chân vào Cơ gia, bà đã dùng mười năm với chính sách cứng rắn để trị gia mới khiến Cơ gia phân tán tập trung trở lại, cuối cùng đã đạt được thế cân bằng tứ đại sĩ gia. Vì thế, mọi người trong tộc đều phục tùng mình bà, một lòng bội phục vị chủ mẫu của gia tộc này. Đến nay, tính mạng bà nguy kịch, tất cả mọi người đều đến thăm hỏi, đợi lời trăn trối lúc lâm chung của bà, mà không màng tới chủ nhân thực sự là Cơ Tịch.

Từ nhỏ, Cơ Anh đã được mẹ dạy dỗ, tuy được bà dạy là phải độc lập tự chủ, phàm chuyện gì cũng phải tự mình quyết định, nhưng đối với mẫu thân, vẫn là bảo gì nghe nấy. Cũng vì thế, cho dù mẫu thân nói gì đi nữa, chàng cũng không ngạc nhiên.

Cho nên, khi Lang Gia nói ra một câu nói đủ để khiến triều dã xáo động, cực kỳ đại nghịch bất đạo đó, Cơ Anh cũng chỉ ánh mắt hơi lóe lên, đầu mày khẽ chau, nhìn bà chăm chú.

“Lúc còn nhỏ chắc chắn con đã từng nghe đến chuyện Liên thành bích và Tứ quốc phổ”.

“Vâng’.

“Thế thì, con cảm thấy Cơ gia chúng ta thật sự có hai vật này không?”.

Cơ Anh lắc đầu.

“Trên thực tế, chúng ta có”.

Mắt Cơ Anh trong tích tắc mở rất to.

“Thái Tổ hoàng đế Quý Vũ khi dựng nước đã cùng ông tổ của chúng ta kết nghĩa huynh đệ, vì thế cho phép Cơ gia đời đời hưởng tước hầu, nhưng sự thực còn hơn cả như thế - Thái Tổ vô sinh, không có con nối dõi, một người xuất thân từ lều cỏ cuối cùng làm nên nghiệp bá như ông cũng không còn người thân thích nào khác. Cho nên, sau khi bàn bạc với ông tổ của con đã bồng một đứa trẻ vừa mới chào đời ở Cơ gia đi, đứa trẻ đó trở thành Tuệ đế sau này. Tuy chuyện này giữ bí mật với bên ngoài, nhưng khi Thái Tổ lâm chung đã kể lại chân tướng cho Tuệ đế, từ đó về sau, Tuệ đế trọng dụng thần tử họ Cơ khiến cho Cơ gia một thời vẻ vang không ai sánh kịp”.

Trong tiếng sấm, bà Lang Gia chậm rãi kể, giọng nói tuy yếu ớt, nhưng ngữ điệu vẫn trầm ổn, cực kỳ có sức thuyết phục.

“Trước lúc băng hà, Tuệ đế cũng truyền lại bí mật này cho Hiếu đế. Hiếu đế lại truyền lại cho Đàn đế. Đàn đế truyền lại cho tiên đế. Vì thế, hoàng tộc vẫn luôn biết rõ bí mật này. Cái gọi là Liên thành bích kỳ thực để chỉ huyết mạch hoàng gia, chỉ cần Bích quốc vẫn còn thì không có chuyện Cơ thị chúng ta diệt vong. Nhưng, tiên đế… lại phản bội lại lời hứa”.

Nói tới đây, bà Lang Gia cười lạnh lùng, nụ cười cực kỳ tàn khốc.

“Bởi vì, ngài quá thích cô con gái của Vương gia đó, thích đến độ quên mất mình vốn họ Cơ!”.

Sau khi Hành Xu đăng cơ, định niên hiệu là Gia Bình. Năm Gia Bình thứ sáu, con gái út của Vương thị là Trăn Cơ vào cung, vốn chỉ là một tiểu mỹ nhân. Nhưng Hành Xu lại một lòng say đắm nàng ta, ân sủng hết mực, từng bước từng bước từ một mỹ nhân được phong lên làm quý nhân, rồi lại phong làm hoàng hậu vào năm Gia Bình thứ chín, Vương thị sinh hạ được một hoàng tử, chính là thái tử Chiêu Thuyên sau này.
 
Quyển 2 - Chương 76


“Khi Vương thị đắc sủng, cả Vương gia đều phất lên đặc biệt là Vương phụ, nắm trong tay đến bảy phần quyền lực của Bích quốc, bắt đầu tiến hành chèn ép Cơ gia. Cha con nhu nhược, không có chủ ý, khi suy sụp nhất ngoài cái phong hiệu hầu gia ra, không có bất cứ thực quyền nào. Mắt ta nhìn thấy Cơ thị sa sút, cảm thấy không thể tiếp tục như thế nữa. Vì thế, chọn một người từ Cơ gia để đưa lên ngôi vị người thừa kế, trở thành một việc vô cùng cấp thiết. Khi đó ta vừa hay mang thai con, cho nên dự định ban đầu của ta là đưa con vào cung, nhưng chẳng ngờ con vừa chào đời đã mang bệnh tim, suýt nữa thì chết yểu. Đại phu nói nếu không thể điều dưỡng cẩn thận, thì không sống được đến ba tuổi. Ta nhất thời mềm lòng, không nỡ đưa con đi, huống hồ dưới sự chuyên quyền của Vương thị, nếu trong cung có hoàng tử khác ra đời, chắc chắn hoàng tử đó sẽ phải chịu khổ. Như thế, ta lại đợi thêm một năm nữa. Năm Gia Bình thứ mười một, ta có Chiêu Doãn”.

Cơ Anh không kìm được hỏi: “Cho nên mẹ tiến hành ép buộc tiên đế, để ngài không thể không nhận đứa con này?”.

“Không phải. Sao mẹ dám uy hiếp tiên đế? Mẹ chỉ mua chuộc một thái giám ở bên cạnh ngài, sắp xếp để tiên đế có một cuộc gặp gỡ mỹ nhân nghe hát bên hồ mà thôi. Nhưng khi đó tất cả tâm tư của Hành Xu đều dồn vào Trăn phi, tuy đã lâm hạnh cung nữ đó, nhưng quay đầu là quên. Có điều cũng không sao, mười năm sau, mẹ nhắc ngài nhớ ra. Vì thế, ta đã hứa với Vân phi không được sủng ái khi đó, cũng tức là thái hậu hiện nay, chỉ cần bà nhận nuôi Doãn Nhi, bà sẽ là hoàng hậu kế nhiệm. Ta sắp xếp tất cả ổn thỏa, rồi đợi Doãn Nhi ra đời, nhưng thương thay nó vừa mới ra đời, mẹ còn chưa kịp ôm nó được lâu, đã phải vội vã đưa nó vào hoàng cung, chịu hơn mười năm khổ ải…”. Lang Gia nói đến đây, nước mắt lã chã: “Ta có lỗi với nó… nhưng ta cũng không còn cách nào khác. Nhà ta khi ấy, chẳng có lấy một người có thể rạng rỡ tổ tông, văn không thành võ không tựu, khoa cử thi trượt cũng đành, ra ngoài đánh trận, bình định phản loạn cũng đều là Vương gia đi… Cho nên, con bài duy nhất trong tay ta chỉ có chút huyết mạch đó của Tuệ đế, ta chỉ có thể dùng cách này”.

Lòng Cơ Anh buồn bã, nhưng trên mặt vẫn bình tĩnh như cũ, giơ tay vuốt mái tóc của mẫu thân, động tác cực kỳ dịu dàng.

Bà Lang Gia nắm chặt tay chàng, mỉm cười vui vẻ: “May mà, sau này con dần lớn lên. Mẹ đã dùng hết tâm huyết để bồi dưỡng dạy dỗ con, còn con cũng hoàn toàn không phụ sự kỳ vọng của mẹ, còn xuất sắc hơn cả sự tưởng tượng của mẹ, người làm mẹ như mẹ, thật sự, thật sự… cảm thấy tự hào vì con. Nhưng, con càng xuất sắc càng nhận được nhiều lời khen thì mẹ lại càng thấy áy náy với Doãn Nhi. Vì sợ Vương gia phát giác, cho nên trong suốt mười năm đó, mẹ không giúp đỡ nó dù chỉ một lần, mà mười năm sau khi thời cơ chín muồi, mẹ chỉ thị cho thái giám đưa nó đến trước mặt Hành Xu, nghe nói đến chữ nó cũng không biết, trái tim của mẹ giống như bị vô số lưỡi dao cứa nát, đau đến mức không thể đau hơn… Cho nên, Anh Nhi, mẹ muốn con đồng ý với mẹ một việc duy nhất chính là: Đời này của con, cho dù xảy ra chuyện gì, cho dù thế sự có biến đổi ra sao, con đều phải bảo vệ đệ đệ của con. Phải toàn tâm toàn ý giúp đỡ nó, phò tá nó, bù đắp hết thảy những gì mẹ và Cơ gia nợ nó!”.

Bà Lang Gia chăm chăm nhìn đứa con trai được bên ngoài gọi là Bạch Trạch chuyển thế, văn tài võ công kiến thức mưu trí cái gì cũng siêu phàm thoát tục, hiếu thuận khiêm cung chưa bao giờ trái lời bà, dù cho đáp án đã nằm trong dự liệu, nhưng vẫn vô cùng nghiêm túc hỏi: “Con… có thể đồng ý không?”.

Đúng thế. Là cái đêm mưa bão của bao nhiêu năm về trước. Chàng ân cần chăm sóc bên giường của mẫu thân, nhìn bà hơi thở yếu ớt, sinh mệnh dần tàn, đau lòng khôn tả, mà trước lúc lâm chung, những lời bà nói với chàng giống như một mũi dao nhọn cắt lìa gân cốt, giống như máu thịt lần nữa nhào nặn, trong nháy mắt, trời đất sụp đổ, vạn kiếp bất phục.

Chiêu Doãn… lại là… đệ đệ của chàng… đệ đệ ruột…

Mà cái gọi là Liên thành bích lại không phải tiền tài vàng bạc châu báu, mà là huyết mạch hoàng gia…

Nếu không phải chàng là người trong cuộc buộc phải biết chân tướng, nếu không dù cho có suy nghĩ hoang đường ly kì đến thế nào, e rằng cũng không ngờ tới, trên đời lại có chuyện như thế này…

Đối mặt với mẫu thân đang hấp hối, đối mặt với bí mật liên quan đến toàn gia tộc thậm chí toàn quốc gia, Cơ Anh…

Chàng chỉ có thể lựa chọn khuất phục.

“Hài nhi… nhớ kỹ lời mẫu thân dạy, trọn cuộc đời con, phải toàn tâm toàn ý phù tá hoàng thượng, cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi”.

“Tốt”. Bà Lang Gia sau khi nhận được lời câu trả lời khẳng định, hơi tàn đó cũng từ từ tan đi.

Cơ Anh bỗng nhớ ra một chuyện, nắm chặt tay bà gấp gáp hỏi: “Đợi đã, mẹ ơi! Hoàng thượng là đệ đệ của con, làm sao đệ đệ của con có thể lấy tỉ tỉ làm vợ”.

“Tỉ tỉ của con… đã…”. Con ngươi của bà Lang Gia bắt đầu mờ đục, câu tiếp theo, đã không thể nghe ra nổi “… rồi”.

“Cái gì? Mẹ? Mẹ nói cái gì? Tỉ tỉ làm sao? Rốt cuộc tỉ tỉ làm sao? Mẹ! Mẹ tỉnh lại đi! Mẹ tỉnh lại đi! Mẹ! Mẹ!...”. Cơ Anh trước sau luôn ghi nhớ lời dạy không thể hiện tình cảm ra mặt cuối cùng cũng đã sụp đổ, khẩn thiết ôm chặt mẫu thân, muốn biết thêm vài điều từ bà, nhưng tất cả đã quá muộn rồi, bàn tay bà Lang Gia đã buông thõng, hơi thở đã ngừng lại.

Ngày mùng mười tháng hai, mưa to, chủ mẫu Cơ thị Lang Gia qua đời.

“Cơ Hốt làm sao?”. Hy Hòa nghe đến đây cũng không kìm nổi thất kinh, từ trên giường nhảy dựng lên.

“Cơ Hốt làm sao à…”. Khương Trầm Ngư kể lại đến đây, quay đầu lại nhìn Chiêu Doãn một cái: “Thiếp nghĩ, hoàng thượng mới là người biết rõ nhất. Đúng không? Hoàng thượng”.

Chiêu Doãn khi nghe Khương Trầm Ngư thuật lại lời trăn trối của bà Lang Gia trước lúc lâm chung thì không nói một lời, dường như toàn thân đang tê liệt, bấy giờ nghe thấy Khương Trầm Ngư hỏi cũng chỉ lạnh lùng cười: “Không phải cái gì nàng cũng biết sao? Hà tất phải để ta nói”.

“Được. Thế thì để thiếp nói. Nếu như thiếp nói sai, xin hoàng thượng cải chính”.

Chiêu Doãn hừ lạnh một tiếng.

Khương Trầm Ngư quay sang Hy Hòa: “Phu nhân, phu nhân đã từng gặp Cơ Hốt chưa?”.

Hy Hòa lắc đầu: “Khi ta quen biết Tiểu Hồng… Cơ Anh, Cơ Hốt đã xuất giá rồi”.

“Thế còn sau khi phu nhân vào cung thì sao?”.

Hy Hòa mỉm cười châm biếm trả lời: “Sau khi vào cung, đến bản thân ta còn chẳng buồn nhìn, huống hồ là gặp gỡ người khác”. Câu nói này tuy rất mỉa mai, nhưng đúng là sự thực. Từ sau khi vào cung, Hy Hòa cả ngày ca hát tìm vui, sống mơ mơ màng màng, e là đến bản thân mình cũng đã lãng quên.

“Giống như phu nhân, ta cũng chưa từng gặp Cơ Hốt”. Khương Trầm Ngư lại chuyển ánh mắt sang phía Chiêu Doãn: “Vị phi tần nổi danh thiên hạ này trước sau luôn sống trong lời đồn thổi của người khác, ta đã điều tra, kết quả là không có một ai trong cung này thực sự đã gặp nàng ta. Hoàng thượng, hoàng thượng nói xem có lạ hay không? Một hoàng phi, nhưng chưa có ai từng gặp. Một hoàng phi lại có thể không cần thỉnh an thái hậu, không tham kiến hoàng hậu. Cho dù Cơ gia bọn họ quyền thế lớn đến đâu đi chăng nữa, hành vi như thế chẳng phải cũng quá là kỳ lạ sao?”.

Chiêu Doãn mặt không biểu cảm nhìn xuống đất, căn bản không có bất kỳ phản ứng nào.

Khương Trầm Ngư lại cười nhạt: “Thế nên thiếp đã phái người bắt đầu điều tra kể từ khi nàng ta vào cung. Cơ Hốt là trưởng nữ của Cơ gia, tướng mạo bình thường, nhưng trời sinh thông tuệ là một tài nữ giỏi văn chương. Bài ‘Quốc sắc thiên hương phú’ đó, thiếp cũng đọc rồi, đúng là một tuyệt tác khiến người ta kinh ngạc mà hồn xiêu phách tán, cũng khó trách hoàng thượng vừa đọc là đã si mê, lập tức đến Cơ phủ cầu thân. Nhưng bây giờ nhìn lại, trái lại nó giống như một màn kịch hơn, để một hoàng tử thân không chỗ dựa, xuất thân hèn kém, có thể có được quyền thế một cách nhanh nhất, còn gì nhanh hơn là lấy con gái của một đại thần? Từ sau khi gả cho hoàng thượng, Cơ Hốt chưa từng lộ diện trước mặt người ngoài. Thậm chí… ngày hai mươi lăm tháng chín, đến lễ tang của Kỳ Úc hầu, nàng ta là tỉ tỉ ruột, là người thân thiết nhất trên đời của Kỳ Úc hầu, nhưng cũng không có mặt”.

“Đúng thế, tại sao vậy?”. Hy Hòa không nén được truy vấn.

“Tại sao ư… thiếp cũng không biết tại sao. Không có cách nào khác, người đã không đến thì thiếp chỉ có thể đi tìm người. Nhưng thiếp không dám đến Đoan Tắc cung, thứ nhất không có thuyền, thứ hai quá lộ liễu, trong cung tai mắt như rừng, ngộ nhỡ bị hoàng thượng biết được thì chẳng phải công sức trước đây của thiếp đều đổ xuống sông xuống biển sao? Cho nên, thiếp đành phải nhờ Tiết Thái thay thiếp đến Cơ gia một chuyến, tới khuê phòng của Cơ Hốt đã từng ở, mang về một số thi cảo của nàng ta cho thiếp. Đọc xong số đó, thiếp kinh ngạc phát hiện, bài ‘Trường Ương ca’ được nói là Cơ Hốt cuồng thảo viết ra sau khi uống say vào ngày mùng hai tháng tám, lạc khoản lại là vào năm Gia Bình thứ hai mươi sáu”.

“Ý của ngươi là bài văn đó nàng ta viết từ năm năm trước?”.

“Đúng thế”.

“Sao, sao có thể… như thế?”. Hy Hòa sửng sốt.

“Tài danh của Cơ Hốt trở nên khó ai bì kịp là do nó đi kèm với truyền kỳ hoàn mỹ không gì sánh kịp. Nhưng trên thực tế, nếu nói đến thiên hạ đệ nhất thì thực sự còn có nhiều người tài hơn nàng ta. Nàng ta giỏi ở chỗ có thể khiến một đế vương khuynh đảo vì mình. Sở trường mạnh nhất của người đời là a dua, hoàng thượng đã nói hay, thì bọn họ có thể không nói hay sao? Cho nên, phàm những bản thảo thơ văn của nàng ta lưu truyền ra ngoài, đều được tranh nhau sao chép. Nhưng nghiên cứu kỹ thì số bản thảo thơ văn lưu truyền ra ngoài của nàng ta không quá nhiều, tổng cộng cũng không đến mười bài. Trước khi xuất giá, ngoại trừ ‘Quốc sắc thiên hương phú’ thì không có bài nào khác. Nhưng những thi cảo mà Tiết Thái mang về đã chứng minh một sự thực. Những bài văn lưu truyền ra ngoài sau khi nàng ta kết hôn đó, đều được viết trước lúc xuất giá. Cũng tức là sau khi xuất giá, nàng ta không còn viết gì nữa. Kết hợp với những hiện tượng kỳ lạ kể trên, thiếp rút ra một kết luận”. Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, chậm rãi nói ra đáp án: “Cơ Hốt đã chết rồi”.

Hy Hòa kinh ngạc kêu lên: “Cái gì?”.

“Cơ Hốt là tỉ tỉ ruột của hoàng thượng, nàng ta không thể thực sự được gả cho hoàng thượng, hơn nữa, nếu Vệ Ngọc Hành không nói dối hắn và Cơ Hốt vốn là một đôi. Cơ gia vì muốn giành lại sự huy hoàng trong quá khứ, để tác thành cho vị đế vương mới lên ngôi, cho nên đã hy sinh con gái của mình”.

Ầm ầm.

Mưa gió bên ngoài cửa sổ cứ thỏa sức trút xuống, như thể không có ngày mai, những hạt mưa to như hạt đậu gõ lên giấy dán cửa mỏng manh, khiến người ta cảm thấy khoảnh khắc tiếp theo nó sẽ xé rách giấy mà chui vào.

Đêm lạnh thấu xương như thế, còn ba người trong phòng im lặng hồi lâu.

Đột nhiên, một tràng cười khẽ vang lên, sau đó biến thành cười lạnh, cười giễu cợt, cuối cùng thành cười lớn.

Khương Trầm Ngư và Hy Hòa cùng ngước mắt nhìn sang, thì thấy Chiêu Doãn ngồi bên cạnh bàn cười đến mức ngũ quan méo mó, cực kỳ đáng sợ.

Hy Hòa không kìm được hỏi: “Hoàng thượng cười cái gì?”.

“Ta cười các nàng một kẻ thì ngu xuẩn vô tri, một kẻ thì tự coi mình là đúng, cho nên diễn ra màn kịch ép vua thoái vị vụng về hoang đường, thật là nực cười, nực cười”.

Hy Hòa mặt hơi biến sắc, có chút hoản loạn: “Hoàng thượng nói gì?”.

Chiêu Doãn căn bản không buồn nhìn nàng ta, mà trừng mắt nhìn chòng chọc vào Khương Trầm Ngư, cười nham hiểm, nói: “Cơ Hốt đã chết à? Không ngờ nàng có thể nghĩ ra tình tiết hoang đường quái gở như thế, thật là nực cười. Thực sự coi tất cả người trong cung đều là người chết? Thực sự coi người trong thiên hạ đều chết cả phải không?”.

Khương Trầm Ngư không hề rối trí, thần sắc vẫn trấn tĩnh như cũ, ánh mắt sáng ngời, lạnh nhạt mở miệng: “Thế thì hoàng thượng cho thiếp biết, Cơ Hốt đang ở đâu?”.

“Tại sao ta phải cho nàng biết? Nếu nàng có bản lĩnh thì tự đi điều tra đi! Nàng không phải rất lợi hại sao? Đến bí mật Liên thành bích cũng moi ra được, thế thì Tứ quốc…”. Chiêu Doãn đột ngột ngậm miệng lại.

Nhưng Khương Trầm Ngư không bỏ qua câu lỡ miệng trong thoáng chốc này của y, lập tức hỏi: “Tứ quốc phổ? Lẽ nào Cơ Hốt có liên quan đến Tứ quốc phổ?”.

Chiêu Doãn im lặng.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn ánh nến đang nhảy nhót, im lặng thất thần một lúc, sau đó mới than nhẹ một tiếng, nói: “Thiếp rõ rồi”.

Hy Hòa nhìn Chiêu Doãn rồi lại nhìn nàng: “Rõ cái gì?”.

“Ta có một điều nghi ngờ vẫn chưa được giải đáp, bây giờ, cuối cùng đã rõ rồi”. Khương Trầm Ngư vừa nói vừa liếc nhìn Chiêu Doãn, nhếch môi mỉm cười: “Đa tạ hoàng thượng đã nhắc nhở”.

Mặt Chiêu Doãn trở nên cực kỳ khó coi.

Hy Hòa hỏi tiếp: “Rốt cuộc ngươi hiểu ra cái gì?”.

Khương Trầm Ngư đứng thẳng dậy, lấy ánh nến tươi sáng làm phông nền, lấy mưa gió bên ngoài cửa sổ làm nhạc đệm, giương cao tay áo và làn váy như vàng ngọc sóng sánh, cười rạng rỡ: “Ta hiểu ra được một sự thực: Nếu Liên thành bích có thể là một người, vậy thì Tứ quốc phổ tại sao nhất định phải là sách?”.

Câu nói cuối cùng, vang vọng trong tẩm cung trống trải của hoàng hậu, rồi một ánh chớp xẹt qua, chiếu sáng khuôn mặt Chiêu Doãn đã hoàn toàn trắng bệch.

“Khi cha ta mua chuộc Hàn lâm bát trí lại không biết bí mật Cơ Anh và hoàng thượng là anh em ruột. Vì ông chỉ có thể vu cho Cơ thị tham ô gây họa cho nước và thu thập một đống chứng cứ quốc khố tiền tài không biết đi đâu mất, ông tưởng dựa vào những chứng cứ hùng hồn đó để lung lạc hoàng thượng. Nhưng sự thực có phải như thế không?”.

Đáy mắt Khương Trầm Ngư sáng lấp lánh, giọng nói bỗng chốc cũng trở nên đau buồn.

“Khi Tiết Thái được phái đi cứu nạn Giang Đô, vì tiền hắn có thể nói là nghĩ đến nát óc, mục tiêu ban đầu của hắn không chỉ là lừa Quan Đông Sơn mà là lấy tiền từ Cơ gia về. Thế nhưng, sự thực là Cơ gia không có tiền. Không chỉ như thế, họ cũng không có quyền. Chẳng phải là rất bất ngờ sao? Rõ ràng hai tộc Vương, Tiết đã tiêu vong, Khương gia thu mình chờ thời cơ, một mình Cơ thị phô bày sự xuất chúng, bọn họ sao lại không tiền không quyền? Sao có thể như vậy? Sau một phen điều tra triệt để mới biết, hóa ra tất cả đều là công tử cố ý làm. Chàng không giống với bà Lang Gia, Lang Gia vì muốn phục hưng Cơ gia nên đã không từ một thủ đoạn nào, thậm chí dung túng cho người trong gia tộc lạm quyền bẻ cong vương pháp, cuối cùng tuy khiến cho Cơ gia lần nữa huy hoàng, nhưng nội bộ thì muôn vàn thối nát, dơ bẩn hết đỗi. Còn công tử kể từ sau khi tiếp quản Cơ gia, bắt đầu từng bước chỉnh đốn môn hộ, bởi vì chàng làm rất tốt, rất hiệu quả, nên bề ngoài nhìn như sóng êm biển lặng, không có ai cảm nhận được, nhưng đến khi mọi người phát hiện ra thì đã lần lượt bị tước bỏ quan chức, đánh mất quyền lực. Đây chính là Cơ Anh”.

Chiêu Doãn phát ra một tiếng cười “hừ”.

Khương Trầm Ngư vẫn luôn nhìn chăm chú vào mắt y, nhẹ nhàng nói: “Hoàng thượng, hoàng thượng nói mình cực kỳ cảm động trước việc thiếp cắt đứt với gia tộc, đó là vì hoàng thượng đã tìm thấy bóng dáng của mình trên người thiếp. Vào cái ngày mà hoàng thượng dung túng cho cha thiếp loại trừ Cơ Anh, đồng nghĩa với việc hoàng thượng cũng triệt để cắt đứt với Cơ gia”.

“Tại sao ta không thể cắt đứt với bọn họ?”. Trong ánh mắt Chiêu Doãn hiện lên sự căm hận tột độ, khóe mắt giật giật, nói: “Chỉ dựa vào dòng máu Cơ gia chảy trong cơ thể ta sao? Thật nực cười! Lang Gia thật là một chủ mẫu vĩ đại, vì gia tộc lại hy sinh con trai mình! Mười năm! Ta sống suốt mười năm khổ cực trong căn nhà nhỏ hoang tàn bên cạnh hồ Phượng Thê! Cơm không đủ no áo không đủ mặc, chịu đủ mọi tủi nhục! Là ai đã biến ta thành như thế, là ai đã an bài vận mệnh của ta trước cả khi ta ra đời? Được, họ đã đẩy ta lên ngôi báu cửu ngũ chí tôn, thì cũng chính họ phải chịu hậu quả này. Họ cho rằng ta sẽ biết ơn, sẽ báo đáp họ? Nằm mơ! Trước kia ta chưa đủ lông cánh, cho nên phải dựa vào Cơ Anh, nhưng bây giờ khác rồi, thiên hạ đều là của ta! Quyền thế cũng đều là của ta! Những khổ sở mà ta phải chịu, ta đều trả lại từng chút từng chút một! Chỉ một gia tộc cỏn con có là gì? Ca ca vốn dĩ phải đi con đường của ta nhưng vì may mắn mà tránh được có là gì? Tất cả có là gì? Có là gì?”.
 
Quyển 2 - Chương 77


Là nhiều năm về trước, một ngọn đèn cô lẻ chiếu sáng trong mật thất, chiếu sáng người đó gương mặt cuồng dại xông đến trước mặt chàng gào lên, nợ ta, nợ ta, đời này kiếp này ngươi đều nợ ta!

Khương Trầm Ngư nhìn Chiêu Doãn gào thét, cũng không khuyên can, mà chỉ lạnh nhạt đứng nhìn.

Chiêu Doãn… năm đó không phải cũng nói với Cơ Anh những lời giống thế này sao? Khi y quyết ý cướp Hy Hòa, khi Cơ Anh biết tin đã xông vào hoàng cung tìm y đối chất, cũng chính những lời này của y cuối cùng đã khiến Cơ Anh lòng như tro tàn?

Người và người, quả nhiên là… không giống nhau.

Có công tử như thế này.

Cũng có đế vương như thế này.

Khương Trầm Ngư không nhịn được mỉm cười chua chát, thấp giọng nói: “Đúng thế. Là vì quá đau khổ, là vì quá trầm trọng, cũng là vì quan điểm khác nhau, đạo chẳng cùng đường… Chúng ta đều vì những nguyên nhân như thế này như thế kia mà vứt bỏ gia tộc, chỉ có công tử, rõ ràng rất coi thường hành vi tư lợi làm rối loạn kỷ cương, rất ghét thói xấu tham tiền háo sắc, nhưng vì những người đó đều là người thân, cho nên, chàng lặng lẽ gánh chịu, kiên trì, không từ bỏ, mà dùng phương thức nhu hòa nhất của bản thân đề thay đổi gia tộc… Đây chính là điểm khác biệt giữa hoàng thượng, thiếp và công tử”.

Khóe mắt Chiêu Doãn co giật, giống như bị câu nói cuối cùng đâm trúng.

“Cơ gia không tham ô, thế thì tiền trong quốc khố đi đâu?”. Khương Trầm Ngư chuyển chủ đề: “Ngày hai mươi mốt tháng chín, ở hồ Phượng Thê thiếp bỗng nhìn thấy một chiếc thuyền chèo từ trong Đoan Tắc cung ra, trên thuyền có hai người, một là Suy Ông Ngôn Duệ danh tiếng lẫy lừng”.

“Cái gì? Ông Lão cũng tới hoàng cung”. Hy Hòa ngạc nhiên.

“Khi ấy ta cảm thấy rất kỳ quái, tại sao Ngôn Duệ lại không kèn không trống vào cung? Tại sao sau khi vào cung Ngôn Duệ không tìm người quen cũ là phu nhân mà lại đến Đoan Tắc cung? Tại sao Ngôn Duệ sớm không về muộn không về lại trở về đúng ngày làm lễ cho công tử… Ta nghĩ kiểu gì cũng không ra. Bây giờ ngẫm lại, khi đó ta quá chú ý đến Ngôn Duệ, nhưng lại bỏ qua một việc khác gần ngay trong gang tấc, đó là người thứ hai”.

“Người thứ hai?”.

“Đúng thế. Khi đó trên chiếc thuyền nhỏ còn có người thứ hai. Nhưng vì khi ấy người đó đang chèo thuyền, thân hình lại nhỏ thó dung mạo bình thường, cho nên ta cứ tưởng là cung nữ của Đoan Tắc cung, nên không để tâm, bây giờ mới biết, ta đã cực kỳ sai lầm, người đó chính là Cơ Hốt”. Khương Trầm Ngư quay sang Chiêu Doãn nói: “Thiếp nói có đúng không? Hoàng thượng”.

Chiêu Doãn cười lạnh lùng, không thừa nhận cũng chẳng phủ nhận.

Khương Trầm Ngư lại nói tiếp: “Đúng như những gì ta nói, nếu Liên thành bích có thể là một người, tại sao Tứ quốc phổ nhất định phải là sách? Số tiền trong quốc khố đó đi đâu? Số ám vệ giống như Điền Cửu bên cạnh hoàng thượng không ít, là ai đã thay hoàng thượng huấn luyện tử sĩ? Là ai giăng mạng lưới tình báo khắp nơi, để chuyện phát sinh vào ngày mười chín tháng chín ở Giang Đô, hai ngày sau đã được truyền đến đế đô? Xâu chuỗi tất cả những điều này với nhau, một câu trả lời đã trở nên vô cùng rõ ràng…”.

Hy Hòa giọng run run nói tiếp: “Là Cơ Hốt… Cơ Hốt là Tứ quốc phổ?”.

“Nói chính xác là Ngôn Duệ. Cơ Hốt có lẽ là đệ tử của ông ta, cũng có thể là tình nhân của ông ta… Điều này bây giờ vẫn chưa thể khẳng định”.

Chiêu Doãn cười lạnh nói: “Sao? Trên đời này còn có chuyện mà hoàng hậu chưa thể khẳng định ư? Hoàng hậu không phải điều gì cũng biết sao?”.

Khương Trầm Ngư không bị y khích bác, vẫn rất bình tĩnh trả lời: “Chỉ cần cho thiếp thêm một chút thời gian, thiếp nhất định có thể tra ra”.

Lại một lần nữa Chiêu Doãn ngậm miệng.

Khương Trầm Ngư không thèm đếm xỉa đến y nữa mà quay sang nhìn Hy Hòa: “Để ta nói tiếp, nói cho phu nhân biết vì sao cái ngày hai mươi chín tháng ba đó, công tử không đến theo hẹn được”.

Cuối cùng nàng đã nói đến vấn đề Hy Hòa quan tâm nhất, mắt của Hy Hòa bỗng chốc đỏ hoe, túm chặt vạt áo trước ngực, cả người hơi run run.

Thấy dáng vẻ Hy Hòa như thế, trong lòng Khương Trầm Ngư thầm thở dài một tiếng, chẳng phân rõ được là bản thân thương tiếc hơn hay là đau đớn hơn. Chỉ có thể khẳng định một điều, tạo hóa trêu ngươi, vận mệnh thường luôn tàn khốc, cho dù là với nàng, với Hy Hòa… hay là với Cơ Anh.

“Một ngày tháng ba, Chiêu Doãn ra khỏi cung nhìn thấy phu nhân, sau đó, quyết định muốn có được phu nhân”.

Hy Hòa cắn chặt môi, lúc này lời Chiêu Doãn nói hôm ấy tái hiện trong đầu, trùng khớp với lời của Khương Trầm Ngư, không chút sai lệch.

“Đó là tháng ba tiết trời se lạnh, nàng giặt quần áo bên hồ, ăn vận rất mỏng manh, mũi và tay đều bị lạnh cóng đỏ ửng cả lên, sau đó móc ra một bình rượu từ phía sau, uống mấy ngụm, rồi lại giặt tiếp… Khi ấy, nàng mải giặt quần áo, hoàn toàn không nhìn thấy ta trong chiếc xe ngựa bên đường, nhưng cách khung cửa xe ta vẫn luôn nhìn nàng, nhìn mãi, từ lúc đó trở đi, ta tự nói với mình, nhất định phải có được nàng”.

“Nhưng đồng thời Chiêu Doãn cũng biết mối quan hệ giữa phu nhân và Cơ Anh, cho nên, cố ý báo chuyện này cho Cơ Tịch”.

“… Cho nên, vài ngày sau, trẫm triệu Cơ Tịch vào cung, nói với lão thất phu rằng trẫm muốn có tình nhân của con trai lão”.

“Cơ Tịch quay về nói với công tử, đương nhiên công tử cả kinh thất sắc, kiên quyết không chịu. Vì thế, ngay trong đêm đó chàng viết một lá thứ sai Thôi quản gia mang đến cho phu nhân, hẹn phu nhân vào ngày hai mươi chín tháng ba, đợi chàng trong rừng hạnh”.

Trong phút chốc, tầm nhìn của Hy Hòa bỗng nhòe nhoẹt, nước mắt trào ra, che lấp tất cả mọi thứ.

Trong lòng Khương Trầm Ngư cũng cực kỳ buồn bã, vẻ mặt của Thôi quản gia khi quỳ trước mặt nàng thú nhận chuyện năm xưa, nàng vẫn không hề quên dù chỉ là một chút, bà lão như ngọn nến tàn trước gió ấy đã quỳ gối trên nền đất lạnh giá, hết lần này đến lần khác tự vả vào mặt mình, khóc đến mức đau đớn không thiết sống…

“Lão nô có lỗi với công tử! Nương nương, lão nô có lỗi với công tử!”. Thôi quản gia vừa đấm ngực mình vừa khóc thảm thiết: “Công tử tin tưởng lão nô, sai lão nô đưa thư cho Hy Hòa cô nương. Lão nô cũng đưa đi, nhưng trên đường trở về, càng nghĩ lại càng sợ hãi, sợ công tử sẽ đưa Hy Hòa cô nương cao chạy xa bay, bỏ mặc tất cả người nhà chúng ta. Thế nên, sau khi về phủ lão nô liền ngấm ngầm giám sát công tử, lén thấy quả nhiên công tử đang thu dọn hành lý, lòng lão nô bỗng chốc trở nên lạnh lùng… Lão nô không phải là người nữa! Lúc ấy lão nô đã bị ma sai quỷ khiến rồi! Lão nô liền, liền, liền đi, đi mách lão hầu gia! Hu hu hu…”.

Khương Trầm Ngư nghe thấy tin này lòng tuy chấn động khôn xiết, nhưng vẫn giơ tay về phía Thôi quản gia: “Bà đứng dậy trước đã, có gì từ từ nói đi…”.

“Lão nô không đứng! Lão nô không đứng! Lão nô đã làm những chuyện như thế, phản bội sự tín nhiệm của công tử với mình, chia cắt công tử với Hy Hòa cô nương, lão nô không phải là người…”.

“Thế sau đó… chuyện gì xảy ra?”.

Thôi quản gia ngước khuôn mặt già nua chan chứa nước mắt lên, nghẹn ngào nói: “Già mách hầu gia xong, hầu gia bảo già tìm tất cả các chi các nhà trong kinh thành, họ mở một cuộc họp thâu đêm. Trong khi họ họp bàn thì công tử lại quỳ trong từ đường, nhìn bài vị của lão phu nhân, không hề nhúc nhích, cứ thế quỳ suốt một đêm. Đến giờ Mão, cuối cùng công tử cũng đứng dậy, lão nô biết công tử sắp đi, liền vội vàng thông báo cho bọn hầu gia. Cho nên, khi công tử từ trong từ đường bước ra…”.

Khi Cơ Anh từ trong từ đường bước ra, trước tiên là nhìn thấy một điểm sáng, đó là một bó đuốc được cầm chắc trong tay một người. Gió rất to, ánh lửa bập bùng, trong thoáng chốc chàng không nhìn rõ gương mặt người ấy.

Sau đó, đốm lửa thứ hai, đốm lửa thứ ba… vô số đốm lửa lần lượt xuất hiện.

Nguồn sáng tụ lại chiếu sáng cả màn đêm, cuối cùng chiếu sáng khuôn mặt của người cầm ngọn đuốc.

Cơ Anh kinh hoảng đờ người ra, chàng không kìm được lùi về phía sau một bước nhỏ, nhìn từng người từng người lần lượt đi tới, ai cũng cầm một bó đuốc trong tay, im lặng nhìn chàng, mỗi đôi mắt dường như đều đang trách móc chàng.

Người xuất hiện đầu tiên trong đám người đó từ từ bước về phía chàng, từng bước từng bước một, loạng chà loạng choạng. Người đó đi tới trước mặt chàng, không nói lời nào, chỉ một tay vén áo, khuỵu gối quỳ xuống.

Cơ Anh liên tiếp lùi lại, hai mắt đỏ xọc nhìn người đó, toàn thân không ngăn nổi run lên bần bật.

Người quỳ xuống là Cơ Tịch.

Chính là phụ thân của chàng!

Là người cha già tuổi cao sức yếu, bệnh tật đầy thân của chàng!

Phụ thân của chàng vừa cầm bó đuốc vừa ngẩng mặt lên, cất tiếng, mỗi tiếng tựa một lưỡi dao, yếu mềm đến chí mạng: “Anh Nhi, con không thể đi”.

“Bịch”.

“Bịch”.

“Bịch”.

Tiếng hai đầu gối chạm đất vang lên liên tiếp.

Cơ Anh kinh hoảng quay người lại thì thấy những người cầm đuốc đều nhất loạt quỳ xuống thành một vòng tròn. Những mái đầu đen và ánh lửa chập chờn làm nổi bật lẫn nhau, cảnh tượng đó cực kỳ cảm động, cũng cực kỳ… đau lòng.

“Công tử, công tử… không thể đi!”.

Hơn một trăm người cùng kêu gọi là cảnh tượng thế nào?

Hơn một trăm người cùng quỳ trên mặt đất kêu gọi là cảnh tượng thế nào?’

Hơn một trăm người thân thiết máu mủ ruột rà cùng quỳ trên mặt đất kêu gọi, là cảnh tượng thế nào?

Người chưa từng tự trải nghiệm sẽ không thể nào tưởng tượng nổi.

Đó là một cuộc hủy diệt không gươm không đao.

Hủy diệt một thiếu niên lòng không còn chút vấn vương với chốn quan trường, muốn đưa tình nhân cao chạy xa bay tránh xa vòng xoáy tranh giành.

Gió đêm lạnh lẽo.

Tiết xuân buốt giá.

Cơ Anh đứng đó, sau lưng là từ đường bày la liệt bài vị của liệt tổ liệt tông; trước mặt là những người thân thích nhất; còn trong rừng hạnh cách đó hơn mười dặm, một thiếu nữ không hay biết gì đang lòng đầy chờ đợi… Chàng ngẩng đầu lên ngước nhìn bầu trời đen như mực, sau đó bật cười.

“Ha… ha ha… ha ha ha… ha ha ha ha ha ha…”.

“Anh Nhi?”.

“Công tử?”.

“Ha ha ha ha…”. Tiếng kêu gọi của tất cả mọi người chàng đều không nghe thấy, chàng chỉ cười, cười đến mức nước mắt cũng tuôn ra, sau đó bằng một giọng nói có chút mơ hồ có chút mệt mỏi có chút thê lương lại có chút đau khổ, nhẹ nhàng hỏi ông trời một câu:

“Chỉ vì đứa trẻ bị đưa đi năm đó không phải là ta sao?”.

Câu hỏi không hoàn chỉnh này còn thiếu nửa câu, nhưng cho dù nửa câu kia là gì đều không quan trọng nữa…

Là bao nhiêu năm về trước, quỳ trước linh vị, đồng hồ cát đang chảy, trăng đêm náu mình, cuối cùng quyết định vứt bỏ tất cả để đi tìm người đó, chân trời góc bể bên nhau, không bao giờ quay trở lại;

Là bao nhiêu năm về trước, khoảnh khắc đẩy cửa từ đường bị ánh lửa rừng rực chiếu nhức đôi mắt, trong ánh lửa phụ thân già nua bước ra khỏi đám đông, quỳ xuống trước mặt chàng.

“Công tử hỏi câu đó xong liền ngã ngửa ra phía sau, nằm trên mặt đất. Mọi người sợ hãi vội vàng bế công tử vào phòng, bệnh tim phát tác khiến công tử hôn mê bất tỉnh suốt ba ngày ba đêm. Đến ngày thứ tư, công tử tỉnh lại, chúng ta rất mừng, nhưng dẫu có nói gì công tử cũng không trả lời. Công tử cứ nằm như thế trên giường, nhìn bầu trời bên ngoài cửa sổ, không nói một câu”. Thôi quản gia nói đến đây, nước mắt lại lã chã: “Trong những ngày công tử bị hôn mê đó, lão nô nghe nói cha của Hy Hòa cô nương nợ rất nhiều tiền, không có cách nào đành bán con gái vào cung. Ôi thật là tạo nghiệt… mụ già ta đã tạo nghiệt rồi… Nếu như ngày hôm đó, lão nô không mách lại với hầu gia, công tử đã có thể dẫn Hy Hòa đi, công tử sẽ không đau khổ như thế, công tử và Hy Hòa có thể hạnh phúc rồi… Tại sao lão nô phải đi tố giác? Tại sao? Tuy sau này công tử không trách lão nô nửa câu, nhưng lão nô biết trong thâm tâm công tử hẳn rất hận lão nô, lão nô có lỗi với công tử, lão nô có lỗi với công tử…”.

Tiếng khóc nức nở nghẹn ngào của Thôi quản gia dần dần tan biến, tiếng khóc của Hy Hòa dần trở nên rõ ràng. Khương Trầm Ngư chớp chớp mắt, hóa ra nàng vẫn còn đứng trong Ân Phái cung, thuật lại đoạn quá khứ rối như tơ vò này, nhận ra còn có một người khóc lóc trước mặt nàng, nhưng không phải là Thôi quản gia suốt đời sống trong sự ăn năn day dứt, mà là Hy Hòa đã bị cuộc tranh giành làm lỡ làng cả đời này.

Nàng không kìm nổi đưa tay vuốt ve mái tóc của Hy Hòa, giống như trong thời gian Hy Hòa bị điên, đã vô số lần nàng vỗ về an ủi nàng ta như thế. Quả nhiên, khoảnh khắc sau đó Hy Hòa giang tay ôm chặt lấy nàng, vùi đầu vào lòng nàng, khóc không thành tiếng.

Khương Trầm Ngư nhẹ nhàng nói: “Cho nên ngày hôm đó công tử không tới, không phải vì chàng không muốn tới mà là chàng không thể tới. Phu nhân, nàng… tha thứ cho công tử nhé”.
 
Quyển 2 - Chương 78


Hy Hòa cũng không nói gì chỉ càng vùi sâu hơn vào lòng nàng. Nước mắt ẩm ướt men theo vạt áo loang ra, nhỏ giọt xuống đất, Khương Trầm Ngư sững người nghĩ rốt cuộc Hy Hòa đã khóc bao nhiêu mới khiến chúng ướt sũng như thế?

Mà kẻ gây ra tấn bi kịch này vẫn đang ngồi bên cạnh lạnh lùng nhìn hai phi tử của mình khóc lóc đau đớn, rồi y nhíu mày cười đầy ác ý: “Rất đau khổ phải không? Rất phẫn nộ phải không? Cứ khóc cho thỏa thích đi. Dù sao các nàng cũng chỉ có thể khóc mà thôi. Trẫm cướp nữ nhân của Cơ Anh đấy, thì sao? Trẫm muốn hắn chết đấy, thì sao? Trẫm vong ân phụ nghĩa, thề vạch rõ ranh giới với Cơ gia đấy, thì sao? Các nàng đều biết tất cả, nhưng có thể làm gì trẫm nào?”.

Khương Trầm Ngư thở dài.

Chiêu Doãn nghe thấy lại càng đắc y: “Bây giờ, tất cả những hòn đá ngáng chân đều bị dẹp sạch rồi, hết thảy quyền lực đều nằm trong tay trẫm, nghe theo trẫm thì sống, chống lại trẫm thì chết! Nói cho các nàng hay, trẫm không những phải trở thành hoàng đế của Bích quốc, mà đợi đến lúc thời cơ chín muồi trẫm sẽ thôn tính ba nước còn lại cho các nàng xem! Trẫm là thiên cổ đệ nhất đế vương, trẫm sẽ là Thủy Tổ thứ hai! Trẫm…”. Đang gào thét đến đó, đột nhiên sắc mặt hắn biến đổi, y ôm chặt lồng ngực, vẻ mặt không dám tin.

“Trẫm… trẫm… trẫm…”. Y giơ tay ra muốn vịn bàn, nhưng cả người lại ngã nhào xuống đất, chân tay mềm oặt như bún, không có lấy một chút sức lực nào.

Chiêu Doãn kinh hãi trừng mắt nhìn Khương Trầm Ngư thét lên: “Nàng làm gì trẫm? Làm gì? Làm gì?”.

“Sao ngươi không hỏi xem ta đã làm gì ngươi?”. Hy Hòa ngừng khóc, từ từ đẩy Khương Trầm Ngư ra, quay mặt lại. Làn da khinh sương ngạo tuyết đó khiến cho mày mắt nàng ta càng đen thẫm hơn, hai màu đen trắng hợp thành một vẻ đẹp hoàn mỹ trên gương mặt nàng ta, vẻ đẹp đó câu hồn đoạt phách, cũng lạnh giá thấu xương.

Chiêu Doãn ngây ra một lúc: “Nàng… nàng… nàng đã làm gì?”.

“Số thuốc đó của thần thiếp uống ngon lắm đúng không? Hoàng thượng thật tốt với thần thiếp, tất cả thuốc của thần thiếp, hoàng thượng đều nếm trước một ngụm, rồi mới bón cho thần thiếp…”. Hy Hòa vừa nói vừa đứng dậy, bước từng bước tới chỗ Chiêu Doãn.

Chiêu Doãn vội dùng hai cánh tay chống cơ thể lùi ra phía sau, miệng kinh hoảng hỏi: “Thuốc? Thuốc gì?”.

“Hoàng thượng quên rồi sao? Chính là thuốc mà dạo gần đây thiếp uống đó”.

“Thuốc, thuốc làm sao cơ? Làm sao?”.

Hy Hòa ngữ điệu thong thả, như đang kể chuyện của người khác: “Trong thuốc có độc”.

“Nói, nói láo! Rõ ràng nàng cũng uống!”.

“Đúng thế, thần thiếp cũng uống, nếu thần thiếp không uống, sao hoàng thượng có thể uống đây?”.

“Nàng… nàng, rốt cuộc nàng muốn làm gì?”.

“Làm gì à?”. Hy Hòa ngẩng đầu, chợt hoang mang rồi lại tươi cười, cúi đầu dịu dàng, chăm chú nhìn Chiêu Doãn, nói: “Hoàng thượng không phải rất thích thần thiếp sao? Hoàng thượng nhọc tâm suy nghĩ làm ra bao nhiêu việc vì thần thiếp, thần thiếp cảm động lắm, thật sự rất cảm động. Thần thiếp không muốn sống nữa nhưng không nỡ xa hoàng thượng, nghĩ mãi đành quyết định đưa hoàng thượng cùng đi. Hoàng thượng có bằng lòng chết cùng ngày cùng tháng cùng năm với thần thiếp không?”. Nói đoạn, nàng ta tiến tới gần y.

Chiêu Doãn sợ hãi, hai chân giãy giụa muốn đá nàng ta ra: “Cút! Cút! Không được lại gần trẫm! Không được phép qua đây! Không, không…”.

Hy Hòa lấy một viên thuốc từ trong người ra, giọng điệu cực kỳ dịu dàng, cực kỳ dụ dỗ nói: “Hoàng thượng đừng sợ, đây là viên thuốc cuối cùng, chỉ cần uống vào thì không còn đau khổ gì nữa. Nào, giống trước kia, hoàng thượng uống trước một viên, thần thiếp sẽ uống nốt…”.

“Tránh ra! Tránh ra! Nàng là đồ điên! Đồ điên! Trẫm không uống! Nàng muốn chết thì tự mình chết đi, trẫm không… buông ta ra…”. Chiêu Doãn ra sức giãy giụa.

Hy Hòa bị y tát, bị y đá, nhưng nàng ta dường như không có cảm giác đau đớn, đứng thẳng dậy ngước nhìn trời cười lớn: “Nhìn xem, đây gọi là yêu thích. Hoàng thượng, sự yêu thích của hoàng thượng đối với thần thiếp hóa ra cũng chỉ như thế mà thôi!”.

“Cút ra! Ngươi mau cút ra! Người đâu… người đâu…”. Chiêu Doãn lớn tiếng gọi, nhưng âm thanh phát ra từ cuống họng lại không to như y tưởng, trái lại khản đặc, gần như không nghe thấy.

Khương Trầm Ngư chứng kiến cảnh tượng này, chỉ cảm thấy thế sự mỉa mai, thế sự bi thương, tất cả cũng chỉ như thế.

Chiêu Doãn… rốt cuộc có yêu Hy Hòa không? Y chỉ vì muốn báo thù Cơ Anh, nên mới cướp ý trung nhân của chàng ư? Nhưng rõ ràng một dạo y muốn để Hy Hòa làm hoàng hậu. Hơn nữa, những ngày Hy Hòa điên dại đó, sự quan tâm và đau lòng mà y thể hiện chân tình biết bao, nếu nói là giả vờ, nàng tuyệt đối không tin. Nhưng trước thời khắc sinh tử này, bản tính y bộc lộ hoàn toàn, y vẫn là một đế vương ích kỷ, trong lòng y, mỹ nhân, ân sủng, hoàn toàn không bằng quyền lực và giang sơn.

Người Chiêu Doãn yêu chỉ có bản thân y.

Cho nên, những ngày qua y đối tốt với nàng cũng chẳng qua chỉ là hứng thú nhất thời của đế vương mà thôi. Không cần cảm kích, cũng không cần áy náy.

Nghĩ thông mọi chuyện, Khương Trầm Ngư hít vào một hơi thật sâu, từ tốn nói: “Đừng làm ầm nữa. Chúng ta không còn nhiều thời gian đâu. Điền Cửu bỏ đi nhiều nhất là ba canh giờ. Chúng ta phải mau chóng xử lý toàn bộ mọi việc ở đây trước khi hắn quay về”.

Hy Hòa ngừng cười, bước tới một tay tóm chặt cằm Chiêu Doãn, một tay nhét viên thuốc vào miệng y. Chiêu Doãn sống chết giãy giụa, nhưng đành bất lực vì chân tay mềm nhũn: “Ngươi, ngươi… ngươi cho trẫm uống gì? Rốt cuộc là thứ gì?”.

“Giấc mộng nghìn năm”. Người trả lời lại là Khương Trầm Ngư: “Hoàng thượng chưa từng nghe tới loại thuốc độc này sao? Cũng phải. Đây là loại thuốc độc mới nhất do Giang Vãn Y bào chế ra, vẫn còn chưa kịp báo lên hoàng thượng. Theo như tên của nó, sau khi uống thuốc, cơ thể người ta sẽ từ từ tê liệt, trí não cũng dần dần không còn tỉnh táo, rồi chìm sâu vào giấc ngủ. Hoàng thượng sẽ không chết, mà vẫn sống, nhưng không biết gì, cũng không thể làm gì được…”.

Hy Hòa cười tươi nói: “Không sai, thứ ta uống dạo gần đây chính là loại thuốc này. Vì phân lượng mỗi lần uống vào rất nhỏ, cho nên không phát hiện ra được. Người uống loại thuốc này sẽ có một thời gian ủ bệnh rất dài, chỉ cần không uống rượu thì sẽ không khác gì người bình thường. Nhưng hễ đã uống rượu vào…”. Hy Hòa nói đến đây, che miệng cười: “Thì giống hệt như hoàng thượng bây giờ… toàn thân đau đớn, không có một chút sức lực nào. Có điều không sao, hoàng thượng sẽ mau chóng không còn đau nữa đâu. Không những không đau, hơn nữa còn không có cảm giác gì…”.

“Ngươi… hai ngươi… lũ tiện nhân các ngươi! Dám cấu kết đối phó trẫm! Các ngươi…”. Chiêu Doãn tức tối trợn trừng hai mắt.

Hy Hòa đột nhiên sầm mặt, nghiến răng hung hãn nói: “Đó cũng là do ngươi ép!”.

Chiêu Doãn sững người.

“Nếu không phải do ngươi, ta và Tiểu Hồng sẽ không bị chia cắt; nếu không phải do ngươi, ta đâu ở cái chốn quỷ quái này; nếu không phải do ngươi, đứa con còn chưa chào đời của ta cũng không chết oan thế; nếu không phải do ngươi, ta sẽ không đau khổ như thế này… Một đời ta đã hỏng, đã uổng phí cùng với ngươi, ta đã cam chịu rồi… Nhưng tại sao, tại sao đến Tiểu Hồng ngươi cũng không buông tha?”. Hy Hòa vừa nói vừa tóm áo của Chiêu Doãn, ra sức giằng kéo, nói trong nước mắt: “Ngươi trả Tiểu Hồng lại cho ta! Trả cho ta! Trả cho ta! Chàng là ca ca ruột của ngươi! Chàng đã nhường ta và Trầm Ngư cho ngươi! Chàng vì ngươi mà dốc lòng dốc sức, cúc cung tận tụy, chàng không hề làm gì có lỗi với ngươi! Ngươi dựa vào cái gì mà hận chàng? Là vì từ nhỏ chàng bị bệnh tim nên không được đưa vào cung làm hoàng đế sao? Cho nên, ngày hai mươi mốt, Phật âm vọng ra từ trong Đoan Tắc cung đã gọi hồi ức của ta quay về, để sau khi tỉnh táo lại ta đã quyết tâm phải báo thù! Ta không thể không biết gì mà điên điên dại dại mãi như thế! Ta không thể để hung thủ nhởn nhơ! Ta phải báo thù! Báo thù!”.

“Kẻ giết Cơ Anh không phải là ta! Mà là ả đàn bà kia! Là phụ thân và tỉ phu của ả đàn bà kia!”. Chiêu Doãn nói bừa, đẩy tội danh sang cho Khương Trầm Ngư.

Thế nhưng, ánh mắt căm hận của Hy Hòa vẫn dán chặt lên mặt Chiêu Doãn, giống như chiếc đinh găm chặt vào miếng gỗ, sắc nhọn, ngập sâu, kiên cố, thậm chí là gỉ sét loang lổ: “Không được ngươi ngầm cho phép, Khương Trọng dám giết Tiểu Hồng sao? Không sai. Người giết Tiểu Hồng thật sự là Vệ Ngọc Hành, nhưng kẻ khiến chàng không còn ý chí ham sống lại là ngươi, là đệ đệ ruột có cùng dòng máu với chàng! So với âm mưu bỉ ổi của tên tiểu nhân Vệ Ngọc Hành mà nói, thì kẻ thật sự đâm nhát dao chí mạng vào người chàng chính là ngươi, là kẻ mà chàng toàn tâm toàn ý bảo vệ ủng hộ nhường nhịn, nhưng cuối cùng lại phản bội lại chàng!”.

Cuối cùng nước mắt Khương Trầm Ngư đã lăn xuống!

Cái buổi tờ mờ sáng ngày mùng hai tháng tám đó, khi nàng ngồi trong phòng Đỗ Quyên, nghe Vệ Ngọc Hành dương dương tự đắc nói hắn đã giết chết Cơ Anh như thế nào, nàng đã hận không thể nhào đến đâm một dao giết hắn để báo thù cho công tử. Thế nhưng, hơn cả nỗi phẫn nộ và oán hận đang nhấn chìm toàn thân, chút lý trí cuối cùng đã mách bảo nàng: Sự việc không đơn giản như thế.

Công tử đâu phải là người có thể dễ dàng chết bởi một âm mưu vặt vãnh như thế? Chàng đã từng gặp những thời khắc khó khăn phức tạp hơn, nguy hiểm hơn, sao có thể không đối phó nổi một Vệ Ngọc Hành?

Cho nên, bên trong chắc chắn còn có ẩn tình. Nàng phải tìm hiểu.

Trên đường về cung nàng liền bắt đầu điều tra, bắt đầu chuẩn bị, bắt đầu nhẫn nhịn.

Nàng phải biết, rốt cuộc là ai đứng đằng sau thao túng tất cả, thúc đẩy tất cả, tạo nên kết cụ này.

Và câu trả lời cuối cùng là - Chiêu Doãn.

Nếu không phải Chiêu Doãn muốn giết Cơ Anh, phụ thân đâu dám nhân lúc sơ hở giậu đổ bìm leo, mà từ khi Vệ Ngọc Hành bắt đầu động thủ, người thông minh như Cơ Anh, bản lĩnh như Cơ Anh, đương nhiên biết được sự phản bội của Chiêu Doãn ngay từ đầu.

Là Chiêu Doãn vứt bỏ Cơ Anh.

Cho nên, Cơ Anh vốn có thể trốn, nhưng chàng không trốn. Chàng vốn có thể phản kháng nhưng chàng không phản kháng.

Chàng nói tha hương không phải là cố quốc.

Một chút vương vấn cuối cùng đối với cố quốc, đối với gia tộc của chàng, lại giết chết chàng.

Hy Hòa, chắc chắn thấu tỏ điểm này.

Cho nên, ngày hôm đó khi Khương Trầm Ngư từ Cơ phủ trở về, nhìn thấy bức tranh Hy Hòa vẽ bằng cách giống của Cơ Anh mà đau lòng vô hạn, không kìm nén được đã ôm chặt Hy Hòa khóc thất thanh. Hy Hòa ôm lại nàng, giống như một đứa trẻ thơ ngẩng đầu hôn lên trán nàng, sau đó vùi đầu vào lòng nàng, khẽ nói bốn tiếng.

Khoảnh khắc đó, Khương Trầm Ngư tưởng mình bị ảo giác.

Nhưng, lực độ từ ngón tay truyền tới và sống lưng đang không ngừng run rẩy của Hy Hòa, chứng tỏ nàng không hề nghe lầm. Vừa nãy Hy Hòa thực sự đã nói:

Báo thù cho chàng!

Nàng ta… tỉnh táo.

Cũng từ ngày đó, Khương Trầm Ngư và Hy Hòa ngầm thỏa thuận bắt đầu liên thủ, một người phụ trách bí mật điều tra nguyên nhân cái chết thực sự của Cơ Anh, một người quấn lấy Chiêu Doãn để y không thể chú tâm vào việc khác. Cứ như thế, ngày nối tiếp ngày tạo ra kết cục hôm nay.

Nhìn Chiêu Doãn đang run rẩy co quắp trên mặt đất, lại nhìn Hy Hòa hiện giờ vẫn đang khỏe mạnh nhưng chẳng còn lại bao nhiêu thời gian, trái tim Khương Trầm Ngư thít chặt lại giống như đang có muôn vàn lưỡi dao ngoáy trong đó, đau đến mức không nói nổi, cũng không thể hít thở bình thường.

Chiêu Doãn rất chật vật mới nói thành tiếng: “Các ngươi đối với trẫm như vậy, đại nghịch bất đạo, sẽ không có kết cục tử tế…”.

Hy Hòa cười lạnh: “Hoàng thượng nói không có là không có sao? Hoàng thượng nghĩ xem ngươi tê liệt rồi, quốc gia đại sự sẽ rơi vào tay ai? Không sai, người duy nhất có thể tiếp quản chính là hoàng hậu. Khi hoàng đế của một quốc gia chỉ còn là đồ trưng bày, người lớn nhất không phải là hoàng hậu sao? Làm hoàng hậu tức là muốn làm gì thì làm nấy. Những thứ ngươi khao khát có được đều rơi vào tay hoàng hậu, ngươi nói xem kết cục như thế vẫn chưa đủ tử tế sao?”.

“Hóa ra các ngươi muốn có… giang sơn của trẫm?”. Bấy giờ Chiêu Doãn mới hoàn toàn sợ hãi.

Chiêu Doãn gấp giọng nói: “Được, cứ cho là Khương Trầm Ngư làm hoàng hậu có được giang sơn, nhưng ngươi thì sao? Hy Hòa, không phải ngươi cũng trúng độc sao? Ngươi không phải là hoàng hậu, ngươi được lợi lộc gì hả?”.

Trong phút chốc ánh mắt Hy Hòa trở nên bi ai tột độ, từng tiếng phát ra đều run rẩy: “Lợi lộc? Ngươi cho là… ta còn muốn sống sao?”.

Chiêu Doãn chấn động.

Hy Hòa cười, nụ cười cực kỳ thê thảm: “Chẳng phải ta đã nói rồi sao? Ta không muốn sống nữa. Ta vốn đã phát điên, quên hết thảy mọi thứ, như thế tốt biết bao. Nhưng cái ngày hai mươi mốt tháng chín đó ta lại tỉnh lại… Ta hận cảm giác tỉnh táo này, ta căn bản không muốn tỉnh…”. Những giọt nước mắt long lanh, lăn xuống từ trong hốc mắt làm ướt đẫm rèm mi dày của nàng ta, nhìn đáng thương khôn xiết: “Khi ta bị điên là Trầm Ngư ở bên ta. Không hề cảm thấy phiền hà một chút nào đối với chứng điên dại của ta, vẫn tỉ mỉ dịu dàng chăm sóc ta, chải đầu cho ta, mặc áo cho ta, thậm chí còn xỏ giày cho ta… Chính trong khoảnh khắc đó, từ tận đáy lòng ta nói với bản thân mình, ta phải báo đáp nàng ấy. Con người như ta, sống trên thế gian này căn bản chỉ là lãng phí lương thực, chỉ mang đến nỗi bất hạnh cho người khác, còn khiến người ta yêu đau khổ biết bao…, nhưng chí ít trước khi chết, ta phải làm được một việc tốt”.

Nàng ta nói đến đây, quay người từ từ đứng thẳng dậy nhìn Khương Trầm Ngư, nói từng tiếng rành rọt: “Phải có một người chịu trách nhiệm về việc này, cho nên, tội danh giết vua này, ta gánh”.

Khương Trầm Ngư nước mắt chứa chan nhìn nàng ta.

Kỳ thực, ngay từ khi họ liên thủ đối phó với Chiêu Doãn, kết cục đã được định sẵn: Phải hy sinh một người, trở thành đồ bồi táng cùng Chiêu Doãn. Như thế mới có thể lật đổ Chiêu Doãn một cách triệt để, báo thù cho công tử một cách triệt để.

Thế nhưng, người vốn dĩ phải hy sinh có thể là nàng.

Hy Hòa đã trao lại cơ hội sống cho nàng.

Về việc này, Hy Hòa từng nói: “Ngươi đừng nghĩ chết là việc không tốt. Muốn một người cô độc sống tiếp, phải đối mặt với gánh nặng và trách nhiệm quốc gia, thực ra còn khó hơn là chết. Ta là một người vô dụng, ta không thể xử lý được những việc quốc gia đại sự. Cho nên, Trầm Ngư, hãy để ta chết đi”.
 
Quyển 2 - Chương 79


Như thế, Hy Hòa uống thuốc độc và thành công trong việc dụ Chiêu Doãn trúng độc. Còn Khương Trầm Ngư chờ đợi, chờ đợi việc phong hậu hoàn thành, đợi đến khi nàng trở thành hoàng hậu Bích quốc đã là một sự thực không thể thay đổi, mới dụ Điền Cửu đi, ngả bài với Chiêu Doãn.

“Ta để lại hắn cho ngươi, với sự thông minh tài trí của ngươi, hẳn sẽ biết tiếp theo phải làm gì. Đúng không? Hoàng hậu nương nương của Bích quốc”. Hy Hòa nói xong, quay người đi về phía cửa.

Khương Trầm Ngư không kìm được gọi: “Phu nhân đi đâu?”.

Hy Hòa nặn ra một nụ cười giễu cợt, nói bốn tiếng: “Đi về chờ chết”.

Trong lòng Khương Trầm Ngư run lên, theo bản năng muốn ngăn nàng ta lại: “Đợi đã! Thực ra… người thực sự giết công tử chính là cha ta, tỉ phu của ta, bọn, bọn họ vẫn chưa…”.

Hy Hòa bỗng dừng bước, quay người lại, im lặng nhìn nàng.

Khương Trầm Ngư vì quá xấu hổ mà ngón tay run run, thổn thức nói: “Ta… ta, ta đối với họ… họ…”.

Hy Hòa mỉm cười, gương mặt tuyệt mỹ, khí độ khoáng đạt ung dung, sự cảm thông lẫn thương xót nơi sâu thẳm đáy mắt… Những tình cảm ấy, khiến toàn thân nàng ta nhìn như đang phát sáng lấp lánh.

Nàng ta chưa bao giờ cười như vậy. Hay nói cách khác, từ khi vào cung đến nay, nàng ta chưa bao giờ cười như vậy.

Nhưng bây giờ, nàng ta đã cười.

Sau đó, nói một câu bằng chất giọng êm tai nhất thế gian: “Cơ Anh đã buông bỏ, ta đã buông bỏ, Khương Trầm Ngư, lẽ nào ngươi vẫn chưa thể buông bỏ sao?”.

Đến đây, Khương Trầm Ngư hoàn toàn tỉnh ngộ.

Người thân mà mình yêu thích thì thân thiết một chút, người thân mà mình không yêu thích thì từ từ xa cách. Dòng máu là thứ sinh ra đã có, không thể lựa chọn. Nhưng cuộc đời tương lai phải đi như thế nào, lại có thể tự mình chọn lấy.

Đối mặt với gia tộc, Cơ Anh lựa chọn tiếp nhận toàn bộ, gánh chịu đủ mọi đau khổ do nó đem lại và dùng cách thức mềm mại nhất của mình để mài mòn góc cạnh của họ, thay đổi họ thành dáng vẻ mà mình thích nhất.

Đối mặt với gia tộc, Chiêu Doãn lựa chọn phủ định toàn bộ cắt đứt hoàn toàn. Y chán ghét thân phận thực sự của bản thân, lại căm hận bi kịch tuổi ấu thơ do nó gây nên, hậu quả của sự cực đoan và ích kỷ chính là chém đứt đôi cánh kiên cố nhất đáng tin cậy nhất của mình. Khi Cơ Anh chết đi, mạng lưới nhân lực lúc sinh thời chàng cực khổ thành lập cho hoàng đế đã bị hủy hoại toàn bộ, còn địa vị Chiêu Doãn tự xây dựng lại không vững chãi như y tưởng. Vì thế, ngày mùng hai tháng mười hai, trước mặt thần tử trong buổi chiều sớm, La Hoành tuyên bố hoàng đế đột ngột mắc bệnh, không thể thiết triều, không có ai nghi ngờ thắc mắc. Ngày ngày qua đi, hoàng đế vẫn không khỏi bệnh, hoàng hậu đành thay mặt chấp chính, một bộ phận thần tử làm ầm lên một thời gian, nhưng cũng không ra kết quả gì, cuối cùng đành lựa chọn im lặng.

Thế nên triều chính dần ổn định, ngày tháng cũng cứ thế tự nhiên trôi qua…

Đêm trừ tịch ba mươi Tết, Khương Trầm Ngư ngồi bên giường Chiêu Doãn, đút cho y ăn. Y vẫn nằm trên giường, không có tri giác, nhưng vẫn còn sống, cái gọi là ăn uống, cũng chẳng qua là hầm các loại thuốc bổ thành cháo loãng, cạy miệng y đổ vào mà thôi. Nhưng bón cho ăn một bát cũng rất tốn sức, ăn xong thì y phục cũng nhoe nhoét đầy nước cháo.

Thất tử xếp thành một hàng, đứng bên ngoài sảnh, cách một tấm rèm dày lần lượt báo cáo, tấu lên đều là một vài chuyện vặt như chúc mừng năm mới như thế nào. Nghe xong, Khương Trầm Ngư gật gật đầu: “Cứ làm theo như các ngươi nói đi”.

“Vâng”. Thất tử nhìn nhau rồi quay người rời đi.

Hoài Cẩn vội vã vào trong nói: “Nương nương, phu nhân đến rồi”.

Phu nhân mà Hoài Cẩn nói chỉ có một người - Khương phu nhân. Khương Trầm Ngư nghe nói mẫu thân đến, liền bỏ thìa canh trong tay xuống, dùng chiếc khăn ướt lau nước cháo bị rớt ra, đứng dậy nói: “Một mình phu nhân đến à?”.

“Cái đó…”. Hoài Cẩn ấp a ấp úng: “Lão gia cũng đến”.

Khương Trầm Ngư cười nhạt.

Nàng biết.

Kể từ khi nàng đoạn tuyệt với phu thân đến nay, phụ thân vẫn hy vọng làm lành với nàng, đã không ít lần ngấm ngầm bày tỏ như thế. Hôm nay là giao thừa, ông không thể không lợi dụng cơ hội này. Thôi bỏ đi. Đã đến cùng mẫu thân, cũng không thể không gặp.

Vừa nghĩ đến đây, Khương Trầm Ngư nói: “Mời họ vào”.

Cung nữ hai bên tiến lên phía trước, kéo một tầng rèm dày xuống, ngăn cách hoàn toàn gian trong có Chiêu Doãn nằm với gian ngoài.

Khương Trầm Ngư khoác áo đi ra gian ngoài, vừa ngồi xuống, Hoài Cẩn đã dẫn Khương Trọng và Khương phu nhân đi vào. Hai người sóng đôi khấu bái: “Tham kiến hoàng hậu nương nương, thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế”.

“Mau đứng dậy, mời ngồi”.

Vợ chồng Khương thị an vị, Khương Trọng nhìn con gái, muốn nói lại thôi, cuối cùng đùn đẩy, Khương phu nhân hiểu ý, đưa chiếc hộp bên cạnh ra phía trước nói: “Thần thiếp tự tay nặn bánh chẻo nhân tôm ướt, xin nương nương vui lòng nhận cho”.

Khóe mắt Khương Trầm Ngư nong nóng: Trước đây khi còn ở nhà, mỗi dịp năm mới, mẫu thân thường đích thân nặn bánh chẻo và đặt một đồng xu vào một trong những chiếc bánh chẻo đó, ai ăn được chiếc bánh chẻo có đồng xu thì năm tới vạn sự hanh thông… Chuyện xưa rõ mồn một, còn ấm áp vô cùng.

Hoài Cẩn vội vã nhận hộp bánh, mở ra, đặt lên bàn: “Nương nương, nương nương nhìn xem, bánh chẻo vẫn còn nóng hôi hổi này! Tốt quá! Nương nương ăn ngay bây giờ không?”. Nói rồi định sắp bát đũa ra.

“Tạm thời không vội ăn”. Câu nói lạnh lùng này của Khương Trầm Ngư khiến Hoài Cẩn khựng lại. Khương phu nhân cũng không kìm được lộ vài phần thất vọng. Nhưng Khương Trầm Ngư mỉm cười với bà, nói: “Nếu mẫu thân không chê, ngày mai đích thân con đến nhà, ăn một nồi bánh chẻo vừa ra lò có được không?”.

Khương phu nhân vừa kinh ngạc lại vừa vui mừng, kích động đến mức đứng bật dậy, giọng run run nói: “Được! Được… được… ta về chuẩn bị liền”.

Khương Trầm Ngư cười, đứng dậy đỡ bà ngồi trở lại ghế, nói: “Mẫu thân thật là, không cần phải vội. Sớm mai chuẩn bị cũng vẫn kịp mà”.

“Ta… ta, xem ta hồ đồ chưa này… Ha ha…”. Khương phu nhân cười, mắt đỏ hoe.

Khương Trầm Ngư nói: “Mẫu thân vào cung đã đi thăm tỉ tỉ chưa?”.

Khương phu nhân vội trả lời: “Phải đi chứ phải đi chứ! Ta cũng mang cho nó một phần, ôi không, là hai phần chứ! Nó đang mang thai, phải ăn nhiều một chút”.

“Con nghĩ tỉ tỉ chắc chắn đang đỏ mắt chờ trong Gia Ninh cung, mẫu thân mau mau mang bánh chẻo sang cho tỉ ấy đi”.

“Được. Ta đi ngay!”. Khương phu nhân nói xong quay người nhìn Khương Trọng.

Khương Trầm Ngư nói: “Con và phụ thân còn có chuyện muốn nói, mẫu thân đi trước đi, phụ thân sẽ tới sau. Hoài Cẩn, em đi cùng mẫu thân nhé”.

“Được. Thế ta đi trước…”. Khương phu nhân vui vẻ cùng Hoài Cẩn rời đi.

Khương Trầm Ngư nhìn theo bóng dáng của bà dần mất hút, mới thu lại tầm nhìn, quay nhìn sang mặt phụ thân, ánh mắt hai người chạm vào nhau giữa không trung, Khương Trọng suýt chút nữa ngồi không vững, cụp mắt xuống, giả bộ như đang ngắm nghía chén trà, khẽ thở dài nói: “Lại là trà cúc Đại Khê, xem ra, con vẫn rất thích loại trà này…”.

Ánh mắt Khương Trầm Ngư xoay một vòng trên chén trà, hững hờ nói: “Con là một người rất ngoan cố. Thích một thứ nào đó thì sẽ thích cho đến cùng”.

Khương Trọng ngẩng đầu nhìn thẳng nàng, bộc lộ vài phần bi ai: “Không sai. Mà thứ con đã ghét thì cũng sẽ ghét đến cùng”.

“Con rất ít khi ghét thứ gì”.

“Cho nên một khi đã ghét, thì sẽ không thể cứu vãn, đúng không?”.

Khương Trầm Ngư im lặng một hồi, nhìn trả phụ thân của mình, nói một cách từ tốn: “Phụ thân, con không ghét người”.

Toàn thân Khương Trọng run bắn, đang lúc xúc động, câu sau của Khương Trầm Ngư liền ập tới: “Chỉ là con không thể tha thứ cho người”.

“Về cái chết của Cơ Anh, thực ra… thực ra cha không muốn hắn chết, cha chỉ là muốn Liên thành bích và Tứ quốc phổ, chuyện cung tên có độc mãi sau cha mới được biết…”.

Khương Trầm Ngư giơ một ngón tay lên, ngăn ông nói tiếp: “Bây giờ nói những điều đó đã muộn rồi, chẳng phải sao? Hơn nữa…”.

“Hơn nữ cái gì?”.

Khương Trầm Ngư nở nụ cười thê lương: “Người phụ thân có lỗi lẽ nào chỉ có một mình Cơ Anh?”.

Khóe mắt Khương Trọng giật giật, im lặng rất lâu, mới mở miệng nói: “Trầm Ngư, con là con gái của cha, là cốt nhục chí thân của cha! Lẽ nào con phải vì những người ngoài đó, thật sự muốn cắt đứt với cha con sao? Trầm Ngư, cứ cho là cha có lỗi với cả thiên hạ, có lỗi với muôn dân. Nhưng cha đối với con… luôn là yêu thương hết đỗi. Ngoài Cơ Anh, phàm những thứ mà con muốn, có thứ gì cha không cho con?”.

Khương Trầm Ngư dịu dàng ngước mắt lên nói: “Nhưng nếu con nói con chỉ cần Cơ Anh, thì làm sao?”.

Khương Trọng lặng người đi, tiếp theo lại lên cơn nóng nảy, tức tối nói: “Cơ Anh Cơ Anh Cơ Anh! Cái gì cũng đều vì Cơ Anh, vì một nam nhân vốn không hề yêu con, mà con vứt bỏ thể diện của một danh gia khuê nữ, của một hoàng phi, thậm chí là thể diện của một hoàng hậu!”.

Khương Trầm Ngư không nổi giận, vẫn dịu dàng lạnh nhạt như cũ, thậm chí còn cười: “Con không trộm không cướp không phạm pháp, chỉ là ngưỡng mộ một người mà thôi, có gì mà mất thể diện chứ? Nếu như thế mà mất thể diện, vậy thì ca ca chọc ghẹo cô nương nhà người ta, tẩu tẩu chửi đổng trên phố khiến việc xấu trong nhà người người đều biết, cha đánh tráo chính con gái dứt ruột đẻ ra, lại giết cặp vợ chồng già nuôi dưỡng Đỗ Quyên… Những hành vi này, được coi là gì?”.

Khương Trọng nín thinh, không nói được gì.

Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu rồi đứng dậy: “Có điều, mọi chuyện trước đây con cũng không định truy cứu. Cha là phụ thân của con, điểm này con không có quyền lựa chọn, cũng chẳng thể thay đổi. Điều duy nhất con có thể làm là đối đãi với cha một cách công bằng. Từ ngày hôm nay trở đi, nếu như cha làm những chuyện vị kỷ trái pháp luật, không kể là chuyện lớn nhỏ, đều bị xử trí theo quốc pháp, tuyệt đối không nể tình riêng. Còn nếu như cha lập công cho đất nước, con cũng sẽ ban thưởng. Từ nay về sau, con đường làm quan của cha như thế nào, cha nên tự mình cân nhắc”.

“Con…”.

“Bánh chẻo của mẫu thân hẳn đã đến Gia Ninh cung rồi, phụ thân, mời đi cho. Con gái không tiễn”. Khương Trầm Ngư ngoảnh mặt đi chỗ khác.

Trong căn phòng im lặng một hồi lâu, Khương Trọng thẳng lưng ngồi nhìn con gái chỉ đứng cách mình ba bước mà giống như đang nhìn một người xa lạ.

Rất lâu sau, cuối cùng ông mới lảo đảo đứng dậy, khom lưng, hành lễ: “Lão thần cáo lui”.

Khương Trầm Ngư không quay đầu lại.

Khương Trọng đi ra đến cửa, bỗng dừng bước, do dự một lúc vẫn không nén được quay đầu lại nói: “Công bằng của người khác, tại sao phải do con, một người ngoài, đứng lên đòi thay họ?”.

Khương Trầm Ngư nghĩ rất lâu, mới trả lời: “Bởi vì con là Khương Trầm Ngư. Con làm được”.

Sự an bài của thế sự chắc chắn là có huyền cơ của số mệnh. Cho nên, vận mệnh đã khiến nàng đi đến bước này, biến nàng thánh chủ tể của Bích quốc, vậy thì, nàng phải trả lại công bằng cho những người yếu thế đó.

Nàng làm được.

Tháng Giêng năm Đồ Bích thứ năm, hoàng đế bệnh nặng, Khương hậu lâm triều chấp chính.

Sau sáng lập các quy chế như tự tiến cử, thi tuyển quan lại, giảm thuế má, dứt can qua, bớt lao dịch, chấp chính ba năm, chính tích nổi trội, quốc uy chấn hưng.

“Đồ Bích, Hoàng hậu truyện”

Bộ thứ sáu: Nữ đế

Lòng người, khi yếu mềm thì yếu mềm đến thế,

Khi cứng rắn lại cứng rắn đến vậy.

Ta đã không còn là ta ban đầu,

Ta là ai?

Ai là ta?

Ai đến nói cho một vị đế vương - Ta là cái gì?
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom