Cập nhật mới

Dịch Full Giải Mật

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3-7


Thật ra, nội dung thư không lành mạnh, Kim Trân không được nhận. Điều không nên hỏi không hỏi, không nên nói không nói, không nên biết không biết, đấy là kỉ luật căn bản nhất của đơn vị 701. Cho nên, không được nhận những thư loại đó ở đơn vị 701 không phải là vi phạm pháp luật, mà là kỉ luật. Đứng về tổ chức mà nói, họ mong những thư như vậy càng ít càng tốt, tránh phải dùng đến kỉ luật, giữa tổ chức và cá nhân có thêm những bí mật.

Nhưng với Kim Trân, bí mật là không thể loại bỏ. Một tháng sau, tổ giám sát thẩm tra thư tín lại nhận được của anh một bức thư từ nước X gửi đến. Quá là nhạy cảm! Mở ra xem, thư viết bằng tiếng Anh, nhìn chữ kí ở dưới, vẫn là L. Hinsh. Thư này tương đối dài, nói một cách khác, trong thư ông Hinsh tỏ ra bức xúc khuyên Kim Trân về với công việc cũ. Ông nói, ông vừa đọc trên một tạp chí khoa học nói về việc nghiên cứu não bộ con người đã có những tiến bộ mới, sau đấy thư trở về với chủ đề chính. Thư viết thế này.

Một giấc mơ đã thôi thúc tôi viết thư cho em. Nói thẳng ra, mấy hôm nay tôi vẫn nghĩ, hiện tại em đang làm việc gì, điều gì đã cuốn hút hoặc gây áp lực với em để em chọn một công việc khủng khiếp đến thế? Đêm hôm qua, trong giấc mơ, tôi nghe thấy em nói, hiện tại em đang làm công tác giải mã cho tình báo của nước em. Tôi không biết tại sao lại nằm mơ như thế, mà cũng không có cách nào để giải mộng như em vẫn từng làm, có thể chỉ là giấc mơ, không ám chỉ điều gì. Mong chỉ là một giấc mơ. Nhưng tôi nghĩ, bản thân giấc mơ chứng tỏ tôi lo lắng và hi vọng ở em, tức là, tài năng của em có thể có người lôi đi làm cái công việc ấy, còn em thì quyết không thể làm. Tại sao tôi nói vậy? Tôi thấy có hai lí do:

Thứ nhất, do bản chất của mật mã quyết định.

Cho dù ngày nay trong giới mật mã có nhiều nhà khoa học, vì vậy có người coi nó là một môn khoa học, đã thu hút không ít nhà khoa học tài giỏi hiến kế, hiến sách, thậm chí hiến cả bản thân. Nhưng điều ấy không thể thay đổi bản chất của mật mã. Theo kinh nghiệm và nhận thức của tôi, bất luận lập mật mã hay phá khoá mật mã, bản chất mật mã là phản khoa học, phản văn minh, là âm mưu và cạm bẫy giết hại khoa học và nhà khoa học. Ở đấy cần trí tuệ, nhưng là trí tuệ ma quỷ, làm cho nhân loại càng thêm gian trá, ác độc, trong đó đầy những thách thức, nhưng là thách thức vô vị, không có ích cho tiến bộ của loài người.

Thứ hai, do tính cách của em quyết định.

Tôi muốn nói, tính cách của em rất nhạy cảm và yếu đuối, nhạy cảm và cố chấp, điển hình tính cách của nhà khoa học, không thích hợp làm công việc bí mật. Vì bí mật phải chịu áp lực lớn, phải vứt bỏ bản thân, liệu em có thích hợp không? Tôi dám nói không thích hợp, vì em yếu đuối và cố chấp, kém năng động, không cẩn thận sẽ bỏ dở một cách khó hiểu. Em nên hiểu, con người trong tình huống nào thích nghi với tư duy? Chắc chắn là trong tình huống thanh thản tự tại, như có như không, cố ý lại như không cố tình. Nhưng nếu em làm công việc giải mã, coi như bị trói buộc, bị lợi ích và bí mật của quốc gia trói buộc, áp bức. Vấn đề then chốt của đất nước của em ở đâu? Tôi vẫn thường tự hỏi, đâu là đất nước tôi? Ba Lan hay Israel? Hay Anh quốc, Thụy Điển? Hay Trung Quốc, nước X?

Bây giờ thì tôi đã hiểu, cái gọi là đất nước là người thân, bạn bè bên cạnh, là lời nói, cây cầu, dòng nước, cánh rừng, là con đường, ngọn gió, là tiếng ve, đom đóm, vân vân, không phải là đất đai cương thổ, càng không phải là ý chí hoặc tín ngưỡng của một đảng phái chính trị, một tôn giáo. Nói thẳng ra, tôi vô cùng kính trọng đất nước mà em đang ở, tôi đã từng ở đấy hơn mười năm đẹp nhất của cuộc đời, tôi biết nói tiếng Trung Quốc, ở đấy trên mặt đất và cả dưới đất sâu đều có người thân của tôi - những người thân đã sống và đã chết, ở đấy còn có những nỗi nhớ và kí ức khôn cùng của tôi. Với ý nghĩa ấy, đất nước của em - Trung Quốc - cũng là đất nước của tôi, nhưng điều ấy không có nghĩa tôi phải tự lừa dối, theo đó lừa dối cả em. Nếu tôi không nói những điều này với em, không chỉ ra những khó khăn hiện tại của em và những nguy hiểm phải đối mặt, như thế tôi đã lừa dối em...

Thư của ông Hinsh có những điều nói ra nhưng không thể lấy lại nổi, không đầy một tháng sau, lại nhận được lá thư thứ ba. Lá thư này mở đầu ông tỏ ra bực tức với Kim Trân, chủ yếu trách cậu không trả lời. Nhưng tại sao Kim Trân không trả lời, chừng như ông ta cũng đã hiểu theo ý mình.

Em không trả lời thư, chứng tỏ em đang làm công việc ấy - công việc giải mã.

Đó là những người hiểu im lặng = không phản đối = xác nhận.

Tiếp theo, ông ta cố kiềm chế tình cảm, có những lời lẽ nặng tình cảm.

Không hiểu tại sao, hễ nghĩ đến em, tôi cảm thấy lòng mình bị một bàn tay đẫm máu vò nát, bóp nghẹt, toàn thân suy nhược bất lực. Cuộc đời mỗi con người đều có số, có thể em là số trong cuộc đời tôi. Kim Trân, Kim Trân thân mến, giữa tôi với em đã có chuyện gì, tại sao tôi không yên tâm nổi? Kim Trân, Kim Trân thân mến, hãy nói với tôi, em không làm công việc giải mã, giống như nỗi lo trong giấc mơ của tôi. Nhưng tài trí của em, chương trình nghiên cứu khoa học của em, và cả sự im lặng lâu ngày của em, khiến tôi càng tin rằng có thể em là giấc mơ bất hạnh của tôi. Ôi, mật mã, cái đồ mật mã chết tiệt! Khứu giác của em rất thính nhạy, ôm con người em vào lòng, thật ra là giam vào ngục, ném xuống giếng! Ôi, Kim Trân, Kim Trân thân yêu nếu đúng như vậy, em hãy nghe lời tôi, nhất định phải chọn con đường trở về, nếu còn một chút đất trống để trở về, em không nên do dự, lập tức quay về. Nếu không có cách quay về, vậy Kim Trân ơi, Kim Trân thân yêu của tôi, dù sao cũng phải nghe lời tôi, trong những bộ mã em thử phá, em có thể chọn lấy một bộ, nhưng đừng chọn tử mật của nước X.

Tử mật là mật mã cao cấp nhất mà đơn vị 701 đang phải đối mặt, có người nói tử mật là thủ đoạn dùng tiền cộng với xã hội đen của một đoàn thể tôn giáo, thu hút cộng với uy hiếp một nhà khoa học làm ra, nhưng sau khi nghiên cứu thành công, bởi nó có liên quan đến nhiều cơ quan, rất khó, trong bí mật có bí mật, chồng chéo phức tạp, sâu không thấy đáy, thậm chí chủ nhân của nó cũng không thể sử dụng nổi, cuối cùng bán cho nước X, trở thành mật mã quân sự của nước X, và cũng là bộ mật mã mà đơn vị 701 đang khát khao giải mã. Mấy năm nay, những người tài giỏi của phòng giải mã đơn vị 701 cứ phải khổ sở mò mẫm, phấn đấu, đánh vật, mơ ước giải được nó, kết quả làm mọi người phải sợ hãi, không dám đụng vào nó. Sự thật thì, người điên cờ điên vì tham gia giải bộ mật mã ấy. Nói một cách khác, ông ta đã bị nhà khoa học nghiên cứu làm nên bộ mật mã ấy đẩy đến chỗ điên. Những người không bị đẩy đến chỗ điên nhưng tinh thần cũng không vì thế mà khoẻ mạnh, vì nhát gan, thông minh, nên không dám đụng đến bộ tử mật. Người thông minh biết kết quả sau khi đụng đến nó, cho nên không đụng đến, một lần nữa chứng tỏ họ thông minh. Đó là cạm bẫy, là hố đen, người thông minh sẽ tránh xa nó, người dũng cảm sẽ bị điên, người điên khiến mọi người kính nể nó, lẩn tránh nó, đó là hiện trạng phá khoá mật mã tử mật ở đơn vị 701, ai cũng sốt ruột, nhưng ai cũng trốn tránh.

Bây giờ ông Hinsh khuyên Kim Trân tránh xa nó, điều ấy chứng tỏ tử mật rất khó giải, đụng vào nó sẽ không có kết quả tốt đẹp, mặt khác như ám chỉ ông đã hiểu bộ mật mã ấy rồi. Qua mấy bức thư, có thể thấy tình cảm của ông đối với Kim Trân là không bình thường, nếu lợi dụng được tình cảm ấy, rất có thể moi ở ông ta những linh cảm để giải mã tử mật. Vậy là, một bức thư kí tên Kim Trân được gửi đi.

Thư đánh máy, chỉ có lạc khoản và thời gian được viết tay, là bút tích Kim Trân, nhưng không phải Kim Trân tự viết. Nói một câu khó nghe, Kim Trân bị tổ chức lợi dụng. Bởi vì, mục đích gửi thư cho ông Hinsh là phá khoá tử mật. Việc này đối với người suốt ngày đọc sách và đánh cờ với người điên cờ, rõ ràng không dính dáng gì, cho nên khỏi cần cho biết. Với lại, để Kim Trân viết, chưa chắc đã đem lại hiệu quả. Lá thư có những năm chuyên gia khởi thảo, ba vị lãnh đạo định đoạt, giả thiết hàng loạt câu chữ của Kim Trân, hết sức tha thiết và khéo léo rất mong ông Hinsh vô cùng kính trọng bảo cho cậu ta: tại sao tôi không thể phá được mật mã tử mật?

Có thể do tác dụng của một loạt câu phức hợp khẩn thiết và khéo léo, ông Hinsh rất nhanh chóng trả lời, lời lẽ vừa không thể khác vừa chân thành. Đầu tiên ông than thở vì hiện trạng bất hạnh của Kim Trân. Trong đó trách Kim Trân không biết gì, vừa khiển trách số phận vô tình, không công bằng. Tiếp theo, ông viết:

Tôi cảm thấy bị xúc động mạnh, muốn nói những bí mật với em, nhưng không biết đấy là sức mạnh nào. Có thể, để tôi viết xong lá thư này, gửi đi, tôi sẽ vô cùng hối hận. Tôi đã từng thề, suốt đời không để ai biết bí mật của mình, nhưng vì tốt với em, chừng như tôi không thể không nói...

Bí mật gì?

Trong thư, ông Hinsh nói với chúng tôi, thì ra mùa đông năm ấy ông đưa hai hòm sách về Đại học N, chuẩn bị để nghiên cứu não bộ con người, nhưng mùa xuân năm tiếp theo có một người đến từ nước Israel đến tìm ông, người ấy nói, có một đất nước là mơ ước của người Do Thái, nhưng lúc này một đất nước như thế còn rất khó khăn, liệu ông có thể ngồi nhìn đồng bào của mình chìm trong buồn đau? Ông Hinsh nói, tất nhiên không thể. Người đến tìm nói: vậy tôi mong ông làm chút gì đó cho đồng bào của mình.

Làm gì?

Trong thư ông Hinsh nói, ông đã giúp đồng bào mình giải mấy bộ mật mã của nước bên cạnh, hơn nữa, ông làm trong mấy năm liền. Có thể, đấy là lời nhắn lại cho ông Lily khi ông Hinsh đưa cả gia đình sang nước X: Xuất phát từ nguyện vọng thiết tha của dân tộc, về sau tôi đã làm cho đồng bào của tôi một việc khẩn cấp và vô cùng bí mật, nỗi khổ và nguyện vọng của họ làm tôi xúc động, cho tôi được từ bỏ lí tưởng. Ông Hinsh viết tiếp: Tôi gặp may, được tin dùng, tôi liên tiếp giải được mấy bộ mật mã của nước bên cạnh, lập tức tôi được giới giải mã tôn vinh như hồi đầu được giới toán học tôn vinh.

Tiếp theo, có những sự việc có thể tưởng tượng, ví dụ về sau nước X tại sao huy động người giúp đỡ ông ta, đưa cả gia đình ông như đón nhận một báu vật, ấy là họ muốn dùng kĩ thuật phá mã của ông. Nhưng từ sau ngày đến nước X, có một sự việc mà ông Hinsh không nghĩ đến. Ông ta viết như thế này.

Tôi không hề nghĩ đến, họ gọi tôi đến không phải để phá mã của nước láng giềng, là gọi tôi đến để giải mật mã của chính nước họ, tức là bộ tử mật. Khỏi phải nói, nếu một ngày nào đấy tôi giải được hoặc sẽ giải được, bộ mật mã ấy sẽ bị phế bỏ. Tức là, công việc của tôi là báo hỉ hoặc báo tin buồn cho mật mã tử mật. Tôi trở thành cột đo hướng gió để nước X cảm nhận nước thù địch giải được mật mã tử mật. Có thể, tôi nên cảm thấy vinh dự, vì mọi người tin tôi không thể giải nổi mật mã tử mật sẽ không ai giải nổi. Không biết tại sao, có thể tôi không thích vai trò hiện nay của tôi, có thể mật mã tử mật không thể phá nổi khiến tôi phản cảm, tóm lại tôi rất muốn giải được mật mã tử mật. Nhưng cho đến nay, tôi vẫn chưa đụng đến công việc ấy, đấy là lí do để tôi nói với em đừng mong giải được.

Mọi người chú ý, bưu cục thư đi và bút tích của mấy thư trước không giống nhau, chứng tỏ ông Hinsh biết sự nguy hiểm khi nói ra những điều ấy. Gửi những thư ấy ông như kẻ bán nước, một lần nữa chứng tỏ ông có cảm tình sâu sắc với Kim Trân. Xem ra, có thể lợi dụng tình cảm ấy. Vậy là, lại một thư nữa viết với danh nghĩa Kim Trân gửi cho ông Hinsh. Trong thư này, “Kim Trân” muốn lợi dụng tình thầy trò để nói rõ tất cả:

Bây giờ em không còn tự chủ, nếu em muốn được mình tự chủ, cách duy nhất là phá được bộ mật mã tử mật... Em tin thầy đã làm quen với tử mật nhiều năm nay, nhất định chỉ ra được cho em lối thoát sai lầm... Không có kinh nghiệm, có sự chỉ bảo, sự chỉ bảo cũng là tài sản... Thầy Hinsh kính mến, thầy đánh em đi, mắng em đi, phỉ nhổ em đi, em đã thành Giu-đa mất rồi...

Một bức thư như vậy không thể gửi thẳng cho ông Hinsh, cuối cùng quyết định sẽ do một người của phía chúng ta đang ở nước X chuyển thư. Tuy có thể tin rằng, thư sẽ an toàn đến tay ông Hinsh, nhưng ông ta có trả lời hay không, người của đơn vị 701 chưa đủ tin. Cuối cùng, Kim Trân hiện tại - Kim Trân ngụy - không khác gì Giu-đa, với một học trò như vậy trong tình huống bình thường thầy giáo sẽ không thèm để tâm. Nói một cách khác, Kim Trân ngụy hiện tại kẹt giữa đáng thương và đáng ghét, để ông Hinsh xoá bỏ cái đáng ghét, giữ lại cái đáng thương, điều này có thể khó hơn cả phá được bí mật của tử mật. Cũng là nói, thư này chỉ là sự cầu may và tâm lí cầu may. Ở một góc độ nhất định, đơn vị 701 lúc ấy đã bó tay trong việc giải mã, đến mức bị trọng thương phải đi bệnh viện.

Như một kỳ tích, ông Hinsh trả lời thư.

Nửa năm tiếp theo, ông Hinsh không sợ hiểm nguy, tiếp xúc với người của phía chúng tôi, cung cấp cho Kim Trân thân yêu nhiều tài liệu tuyệt mật và tư tưởng để rà phá mật mã tử mật. Bởi vậy, Tổng bộ tổ chức một nhóm tạm thời nghiên cứu cách giải mã tử mật, thành viên đều do Tổng bộ chỉ định, cả nhóm phải nắm lấy cơ hội, phá vỡ bí mật của tử mật. Có điều không ai ngờ, lẽ ra họ phải cho Kim Trân cơ hội này. Sự thật thì, trong khoảng thời gian gần một năm, ông Hinsh không quản ngại vất vả đã gửi cho Kim Trân một loạt thư, Kim Trân không những không được nhận mà cũng không hề hay biết. Kim Trân không hề biết nội dung những thư đó, nếu có ý nghĩ gì đó cũng chỉ là thêm những giá trị để Kim Trân gọi rắn ra khỏi hang. Cho nên về sau lãnh đạo thấy Kim Trân càng ngày càng không muốn tiến thủ, thậm chí có thể dùng từ lêu têu để đánh giá Kim Trân, tổ chức rất yên tâm bỏ qua cho cậu ta, nhìn cậu ta bằng ánh mắt khác. Bởi vì, cậu là người móc nối để phá bí mật của tử mật.

Cho nên, việc ngày càng không muốn tiến thủ của Kim Trân ấy chỉ là chuyện cậu đọc sách, đánh cờ, về sau thêm vào việc giải mộng cho người khác. Cùng với thuật giải mộng ngẫu nhiên đúng, tất nhiên có thêm nhiều người tỏ ra hiếu kì, họ kín đáo tìm cậu ta, nói với cậu ta về những ý nghĩ ban đêm, đề nghị cậu giải thích. Giống như đánh cờ, Kim Trân không thích gì công việc này, nhưng do tình cảm, cũng có thể không thể từ chối nổi, cậu cứ phải đáp ứng yêu cầu của mọi người, giải thích có đầu có cuối những suy nghĩ không rõ ràng.

Mỗi tuần lễ có bốn buổi chiều toàn thể nhân viên nghiệp vụ phải tham gia sinh hoạt chính trị, nội dung không giống nhau, có lúc truyền đạt chỉ thị cấp trên, có lúc nghe báo cáo, có lúc tự do thảo luận. Gặp những hôm tự do thảo luận, Kim Trân thường bị người khác đưa ra ngoài, lặng lẽ hoạt động giải mộng. Một hôm Kim Trân đang giải mộng cho ai đó, bị ông Phó Cục trưởng phụ trách công tác xây dựng Đảng tóm tại trận. Ông này là con người thiên tả, thích làm to chuyện, làm rắc rối, ông ta cho rằng Kim Trân làm cái trò mê tín dị đoan, phê bình khá gay gắt, đồng thời bắt Kim Trân viết bản tự kiểm điểm.

Ông Phó Cục trưởng này uy tín đối với cấp dưới rất thấp, nhất là những người làm nghiệp vụ càng xem thường ông, họ xúi Kim Trân mặc kệ ông ta, hoặc chỉ viết qua loa vài câu. Kim Trân cũng định viết qua loa cho xong chuyện, nhưng cái qua loa để cậu ta giải thích khác với cái qua loa bình thường. Bản kiểm điểm nộp lên trên, chỉ gọn một câu: mọi bí mật ở đời đều nằm trong giấc mơ, gồm cả mật mã.

Như thế đâu phải là qua loa? Rõ ràng là biện giải, hình như cậu giải mộng cho người khác và công việc giải mật mã có liên quan với nhau, thậm chí còn có ý kiêu căng tự phụ. Ông Phó Cục trưởng tuy không biết gì về nghiệp vụ mật mã, nhưng với mộng, cái trò duy tâm, ông ta tỏ ra ghét cay ghét đắng. Ông nhìn bản kiểm điểm, cảm tưởng những dòng chữ trên đó đang nhăn nhở chế giễu ông, đang cười cợt với ông, đang nói xấu ông, ông nhảy dựng lên, nắm lấy bản kiểm điểm, thở hồng hộc xông ra khỏi văn phòng, ngồi lên chiếc mô-tô, phóng thẳng vào hang, đá tung cánh cửa sắt dày cộp của phòng giải mã, trước mặt mọi người, lên giọng lãnh đạo chửi bới, văng ra những câu vô cùng mạnh mẽ và khó nghe. Ông ta chỉ vào Kim Trân, nói:

“Anh đưa một câu cho tôi, tôi cũng trả lại anh một câu: mọi con ếch ghẻ ngồi đáy giếng đều muốn ăn thịt thiên nga trên trời.”

Ông Phó Cục trưởng không ngờ, câu nói của ông ta phải trả giá thê thảm, thậm chí xấu hổ không còn cách nào để ở lại đơn vị 701. Thật ra, ông Phó Cục trưởng nói hơi quá đáng, nhưng bản chất của việc giải mã câu nói ấy không phải không thể, câu nói rất có thể nói, không sai. Bởi vì, như trên đã nói, sự nghiệp cô đơn, ầm thầm này ngoại trừ tri thức, kinh nghiệm và thiên tài ra, tưởng chừng cần thêm vận may từ ngoài hành tinh. Hơn nữa, Kim Trân ngày thường vẫn cho mọi người cảm giác, vừa không có những lời nói thông minh, mà cũng không thấy tài năng và lòng quyết tâm, có thể có may mắn hơn người khác.

Nhưng, Trung Quốc có câu nói của người xưa có thể phản kích lại thành kiến của người khác: nước biển không thể đong bằng đấu, con người không thể nhìn tướng mạo.

Tất nhiên, phản kích mạnh mẽ nhất là việc một năm sau Kim Trân đã phá được mật mã tử mật.

Chỉ cần một năm.

Phá được khoá mã tử mật.

Không ngờ, trong khi nhiều người lẩn tránh bộ khoá tử mật như tránh tà ma, ếch ghẻ ngồi đáy giếng lại dũng cảm trấn yểm được nó. Nếu mọi người biết trước cậu ta có thể phá được khoá mã ấy, sẽ không cười cậu ta mới là kì lạ. Có thể mọi người nói, anh điếc không sợ súng. Nhưng sự thật đã chứng minh, cái con ếch to đầu không những có tài mà còn có vận may. Vận may ngoài hành tinh. Mộ tổ phát vận may.

Vận may của Kim Trân quả là không thể tưởng tượng nổi, càng không thể cầu xin, có người nói cậu ta nằm mơ - hoặc là người khác nằm mơ - đã phá được mã khoá tử mật, cũng có người nói cậu ta đánh cờ với anh điên cờ nên nhận được linh cảm, lại có người nói cậu ta đọc sách và gặp thiên cơ. Tóm lại, cậu ta lặng lẽ, không ồn ào phá khoá mật mã tử mật, điều ấy khiến nhiều người ghen tị và vui mừng. Vui mừng là của mọi người, ghen tị có thể chỉ là mấy vị chuyên gia do Tổng cục cử về, họ điên cuồng mong đợi sự chỉ dẫn của ông Hinsh, cho rằng có thể phá được khoá mật mã tử mật.

Đấy là mùa đông năm 1957, Kim Trân đến đơn vị 701 hơn một năm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3-8


Hai mươi lăm năm sau, trong phòng khách giản dị, ông Cục trưởng họ Trịnh chống gậy nói với tôi, ngay lúc bấy giờ, có rất nhiều người, kể cả ông Phó Cục trưởng dùng đấu để đong đếm nước biển Kim Trân, ông là một trong số rất ít người hi vọng ở Kim Trân, sáng suốt nhận định về Kim Trân. Không biết cái sáng suốt này có sau sự việc hay quả đúng như vậy, nhưng dù sao thì ông ta nói như thế.

(Ghi theo lời kể của Cục trưởng Trịnh)

Nói thật, tôi suốt đời ngâm mình trong giới phá khoá mật mã, chưa thấy ai như Kim Trân có sự nhạy cảm phi thường đối với mật mã. Hình như cậu ta có mối liên hệ linh thiêng đối với mật mã, giống như con với mẹ, khí huyết tương liên, rất nhiều điều hiểu nhau một cách tự nhiên. Cậu ta tiếp cận mật mã rất giỏi, cậu ta còn cái giỏi khác nữa, ấy là tính kiên cường không sợ vinh nhục hiếm thấy ở người khác, trí tuệ cực kì lạnh lùng, trước những sự việc càng tuyệt vọng cậu ta càng tỏ ra hứng thú, càng tỏ ra tỉnh bơ, phớt lờ. Tính ương bướng và trí tuệ của cậu là ngang nhau, hài hoà, gấp đôi người khác. Xem xét thật kĩ tâm linh rộng lớn và tĩnh lặng của cậu ta, anh sẽ được cổ vũ, nhưng lại cảm thấy nhu nhược, bất lực.

Tôi nhớ rất rõ, cậu ta đến làm công việc phá khoá mã được ít lâu, tôi phải sang nước Y hoạt động nghiệp vụ, một nghiệp vụ có liên quan đến phá khoá tử mật. Lúc ấy, nước Y cũng đang cố gắng phá khoá tử mật của nước X, họ có những bước tiến lớn hơn chúng ta, cho nên Tổng cục cử tôi sang đấy để tham khảo. Chúng tôi có ba người, một người ở phòng giải mã, một Phó Tổng cục trưởng, người của Tổng cục phân công phụ trách nghiệp vụ chỗ chúng tôi.

Trở về, tôi nghe lãnh đạo và những người chung quanh bàn tán về cậu ta, bảo cậu ta không chuyên cần, thiếu tinh thần nghiên cứu đi sâu, không nghiêm túc, vân vân. Tôi nghe, tất nhiên rất buồn, vì tôi tuyển chọn cậu ta, chừng như tôi hứng lên đi nhận một thứ phế bỏ về đơn vị. Tối hôm sau, tôi đến chỗ ở để tìm cậu ta. Cửa khép hờ, tôi gõ cửa, không có tiếng trả lời, tôi khẽ đẩy cửa bước vào.

Phòng ngoài không có ai, tôi nhìn vào buồng ngủ, đèn vẫn sáng, dưới ánh đèn tôi kinh ngạc phát hiện, bốn chung quanh tường treo đầy biểu đồ, có tấm giống như hàm số, đầy những đường cong gấp khúc, có tấm như một bản thống kê, những con số đủ màu sắc giống như bong bóng phập phồng dưới nắng, có cảm giác cả căn phòng giống như một căn gác giữa không trung.

Theo những chú thích trên biểu đồ, tôi hiểu đây là bản sao chép “Lịch sử mật mã thế giới”, nếu không có những chú thích ấy tôi làm sao biết được đây là những biểu đồ gì. Lịch sử mật mã thế giới là bộ sách dày ba triệu chữ, cậu ta có thể trình bày một cách đơn giản, hơn nữa lại dùng phương thức dãy số đặc biệt, lần đầu tiên làm tôi ngạc nhiên. Giống như một bộ hình thể người, có thể bóc hết thịt da, chỉ còn bộ xương để vẽ truyền thần con người đã là một thiên tài, nhưng cậu ta ngay cả bộ xương cũng không cần, chỉ cần một đoạn xương bàn tay là đủ. Thử nghĩ, chỉ một đốt xương ngón tay mà vẽ ra hình một người sống động, đấy là năng lực gì?

Kim Trân đúng là một thiên tài, trên người cậu ta có nhiều cái mà chúng ta khó hình dung nổi, cậu ta có thể trong mấy tháng thậm chí một năm không nói với ai câu nào, im lặng như chuyện ăn cơm vậy, tất nhiên khi cậu ta nói, chỉ một câu có thể nói hết mọi lời của ai đó. Cậu ta làm gì cũng tưởng như không có quá trình, chỉ có kết quả, mà kết quả lại vô cùng chính xác, không chút sai sót, thật đáng kinh ngạc. Cậu ta có bản năng và khả năng nắm vững bản chất sự vật, phương thức nắm cũng thật quái dị, đặc biệt, khác hẳn mọi người. Liệu có ai nghĩ được rằng, cậu ta có thể đưa cả một bộ “Lịch sử mật mã thế giới” vào phòng ngủ của mình như thế không? Không ai ngờ. Hãy ví dụ, nếu nói mật mã là một quả núi, phá khoá mã là việc tìm kiếm bí mật quả núi ấy, người bình thường sẽ tìm con đường lên núi, có đường mới lên núi, lên núi rồi mới tìm kiếm bí mật. Nhưng cậu ta lại không thế, có thể cậu ta lên một quả núi bên cạnh, lên rồi sẽ dùng đèn chiếu sang ngọn núi kia, sau đấy sẽ dùng ống nhòm để tìm kiếm bí mật. Cậu ta kì quái như vậy, mà cũng thần kì như vậy đấy.

Không nghi ngờ gì nữa, khi cậu ta đưa “Lịch sử mật mã thế giới” vào phòng ngủ, vậy là mỗi cử động tay chân, mở mắt hoặc nhắm mắt, cũng đều là một cách hoàn thành việc liên thông với mật mã, lâu ngày, có thể tưởng tượng toàn bộ lịch sử mật mã, từng li từng tí hít thở vào lồng ngực, hoá thành máu chảy trong tim.

Tôi vừa nói đến điều kinh ngạc thứ nhất, đấy là điều tôi trông thấy, tôi lập tức lại bị kinh ngạc bởi điều nghe nói.

Tôi hỏi cậu ta tại sao lại dành sức lực vào lịch sử mật mã, là bởi tôi thấy, phá khoá mã không phải là công việc của sử gia, người phá khoá mật mã tiếp cận lịch sử là điều hoang đường và nguy hiểm. Anh có biết cậu ta nói gì không?

Cậu ta nói, tôi tin mật mã của thế giới giống như cơ thể con người sống, đời mật mã này có liên quan đến đời mật mã sau, các bộ mật mã cùng thời đại kín đáo hô ứng, chúng ta đang phá mã của mật mã này, cái bí mật của nó rất có thể nằm trong bộ mật mã nào đấy của người đi trước.

Tôi nói, nguyên tắc làm ra mật mã là phải từ bỏ lịch sử, để tránh người giải mã có thể phá ngay được.

Cậu ta nói, mọi người mong muốn từ bỏ quá khứ chính là sự liên hệ.

Một câu nói của cậu ta khiến tâm linh tôi bị đảo lộn.

Cậu ta nói tiếp, diễn biến của mật mã giống như diễn biến khuôn mặt con người, xu thế chung là phát triển, điều khác là, sự thay đổi khuôn mặt vẫn cơ bản là khuôn mặt người, thay đi đổi lại thì vẫn là khuôn mặt người, hoặc giống với khuôn mặt người, càng tăng thêm mĩ cảm. Sự biến đổi của mật mã hoàn toàn ngược lại, hôm nay nó là một khuôn mặt người, ngày mai nó cố gắng từ hình thức khuôn mặt người biến thành mặt ngựa, mặt chó, hoặc khuôn mặt khác, cho nên đấy là sự biến hoá không có hình hài cơ bản. Nhưng dù biến đổi thế nào đi nữa, năm giác quan sẽ càng rõ ràng hơn, lung linh, phát triển, hoàn mĩ, đó là xu thế tiến hoá bất biến. Cố gắng biến thành một khuôn mặt khác là tất yếu, ngày càng hoàn mĩ cũng là tất yếu, hai cái tất yếu như hai sợi dây, giao điểm của nó sẽ là trái tim để sinh ra một đời mật mã mới. Nếu từ trong khu rừng lịch sử mật mã tìm ra hai đường dây ấy, nó sẽ giúp chúng ta phá được khoá mã hôm nay.

Cậu ta vừa thuật lại như thế, vừa lấy ngón tay chỉ vào đám chữ số như đàn kiến trên tường, ngón tay nhảy múa có tiết tấu, tưởng chừng như đang đi giữa rất nhiều trái tim.

Nói thật, tôi rất kinh ngạc về hai đường dây của cậu ta. Tôi biết, về lí thuyết mà nói, hai đường dây ấy tồn tại, trên thực tế nó không tồn tại. Bởi vì không ai trông thấy hai đường dây được kéo ra ấy, người mong kéo được hai sợi dây ấy ra, cuối cùng sẽ bị nó trói buộc đến chết.

Đúng vậy, tôi sẽ giải thích. Tôi hỏi anh, gần một lò lửa anh cảm thấy thế nào?

Đúng, anh cảm thấy nóng bỏng, sau đấy không dám đến gần, phải giữ một khoảng cách để khỏi bị bỏng, phải không? Gần một con người cũng như vậy, anh sẽ bị ảnh hưởng hoặc ít hoặc nhiều, mức độ bao nhiêu sẽ quyết định bởi sức hấp dẫn, chất lượng và năng lượng của người đó. Với lại, tôi có thể nói một cách tuyệt đối rằng, những con người lăn lộn trong giới mật mã, bất luận là người tạo lập mật mã hay người phá khoá mã đều là những con người tinh anh tài giỏi, có sức hấp dẫn vô cùng tận, có tâm linh sâu như hố đen. Bất cứ ai trong số họ đều có ảnh hưởng rất lớn đối với người khác. Khi anh bước vào khu rừng lịch sử mật mã giống như bước vào một khu rừng bí hiểm đầy những cạm bẫy, mỗi bước đi đều có thể sập bẫy không thể rút chân ra nổi. Cho nên, người làm mật mã hoặc người giải mã nói chung không dám tiếp cận lịch sử mật mã, bởi trong khu rừng ấy bất cứ một tâm linh nào, một tư tưởng nào cũng sẽ hút chặt anh như một thứ nam châm, đồng thời sẽ bị hoà tan. Khi tâm linh của anh đã bị tâm linh nào đó trong khu rừng lịch sử mật mã hút chặt, đồng hoá, vậy là anh sẽ không đáng một xu trong giới mật mã, bởi trong khu rừng lịch sử mật mã không cho phép xuất hiện hai tâm linh giống nhau, để tránh phá một phản lại ba. Tâm linh giống nhau trong giới mật mã sẽ là một đống rác, mật mã là vô tình, là thần bí thế đấy.

Thôi, bây giờ anh nên hiểu về sự kinh ngạc của tôi lúc bấy giờ. Kim Trân tìm ra hai đường dây ấy, thật ra là đã phạm vào điều cấm kị khi giải mật. Tôi không biết có phải cậu ta không biết hay là biết mà cố tình vi phạm. Từ sự kinh ngạc đầu tiên cậu ta tạo nên, tôi tin rằng cậu ta biết mà cố tình, là sự cố ý vi phạm. Cậu ta biến một bộ lịch sử mật mã thành biểu đồ để treo lên tường, điều ấy đã ám chỉ coi thường mọi người. Một con người vi phạm như thế rất có thể không phải là ngu muội, lỗ máng, mà là dũng cảm, có thực lực.

Cho nên, nghe cậu ta nói về hai đường dây, tôi không có điều gì bác bỏ, mà lặng lẽ tỏ ra nể phục, thầm ghen tị, vì rõ ràng cậu ta đã đứng trên tôi.

Lúc ấy cậu ta đến làm ở phòng giải mã mới được nửa năm.

Đồng thời, tôi lo cho cậu ta, tưởng như tai hoạ đang lơ lửng trên đầu. Sự thật thì ai cũng biết, bây giờ anh cũng nên biết, Kim Trân tìm ra hai đường dây là có ý cậu ta muốn chiếm cứ từng tâm linh trong lịch sử mật mã, tức tách riêng vô số điểm nhỏ đã tạo thành đường dây, nghiên cứu thật tỉ mỉ, tường tận. Mà những tâm linh đó, những điểm đó đều có sức hút kì lạ, đều có thể biến thành những bàn tay đầy sức mạnh, tóm chặt cậu ta, bóp chặt trong lòng bàn tay, biến cậu ta thành rác rưởi. Cho nên, bao nhiêu năm nay, cách thức giải mã trở thành quy định không thành văn: phải xa rời lịch sử. Cho dù mọi người đều biết, trong đó - trong lịch sử mật mã - rất có thể tiềm ẩn nhiều cơ may và ám chỉ, rất có thể cho anh một gợi ý. Nhưng sợ vào mà không ra nổi, nếu bịt chặt nguyện vọng vào, theo đó đậy kín tất cả những gì có trong đó.

Hoàn toàn có thể nói rằng, trong rất nhiều lịch sử, lịch sử mật mã là thứ lặng lẽ nhất, lạnh lùng nhất, trong đó không có người thăm hỏi, trong đó không ai dám hỏi thăm. Sự buồn đau của người làm công việc giải mã phát sinh từ đấy, họ mất hẳn tấm gương lịch sử, mất đi cái quy luật được hút chất dinh dưỡng từ trong thành quả. Sự nghiệp của họ thật gian nan, tâm linh của họ cô đơn không bạn bè, tấm thân người trước khó thành bậc cao cho họ đứng lên, ngược lại biến thành những ô cửa đóng chặt, thành cạm bẫy chết người, buộc họ phải đi đường vòng, tìm ra một lối đi khác. Theo tôi, trên thế gian không có một sự nghiệp nào đòi hỏi phải cắt đứt, đi ngược với lịch sử như nghề mật mã. Lịch sử trở thành gánh nặng và khó khăn cho người đi sau, thật tàn khốc, vô tình. Cho nên, trong giới khoa học, chôn vùi thiên tài nhiều nhất là giới mật mã, hiệu suất chôn vùi tài năng cao đến kinh hãi!



Tôi giới thiệu tóm tắt một chút. Nói chung, phương thức giải mã vẫn dùng là phải làm việc cụ thể, trước hết nhân viên tình báo sẽ thu thập những dữ liệu cần thiết, sau đấy sẽ căn cứ vào những dữ liệu để đưa ra các suy luận phán đoán, cảm giác như dùng vô số cái chìa khoá để mở vô số cánh cửa, cửa, chìa khoá là do bản thân anh thiết kế và tạo ra, cái hạn độ của vô số quyết định bởi số lượng dữ liệu, lại quyết định bởi sự nhạy bén của anh đối với mật mã.

Nên nói, đấy là phương pháp nguyên thủy và vụng về nhất nhưng an toàn nhất, có hiệu quả nhất, nhất là đối với việc mở khoá mật mã cao cấp, công suất cao hơn hẳn các phương pháp khác, cho nên mới tồn tại đến ngày nay.

Nhưng với Kim Trân, anh biết không, cậu ta trượt khỏi phương thức này, rất mạnh dạn xông vào khu vực cấm, thò bàn tay phá khoá vào lịch sử, đặt gánh nặng lên vai, kết quả như tôi nói vừa rồi, rất nguy hiểm, đáng sợ. Tất nhiên, nếu thành công, tức là tiến vào mà tâm linh của cậu ta không bị tiền bối nuốt chửng, đấy là việc ghê gớm, ít nhất có thể rút ngắn phạm vi tìm kiếm đến mức tối đa. Ví dụ, nếu trước mặt chúng ta có một vạn công thức nhỏ, rất có thể với cậu ta chỉ còn lại một nửa thậm chí ít hơn, còn lại bao nhiêu quyết định bởi sự thành công nhiều hay ít, quyết định bởi mức độ nắm vững hai đường dây kia.

Nhưng, nói thật, theo cách đó hiệu suất thành công rất thấp, thậm chí người thử nghiệm cũng ít, người thành công lại hiếm như sao ngày. Trong giới giải mã chỉ có hai người dám mạo hiểm, một là thiên tài chính cống, đại thiên tài, một nữa là người điên. Người điên chẳng sợ gì hết, vì họ có hàm răng chắc khỏe và một trái tim kiên cường, mọi chuyện đáng sợ đều bị họ cắn nát hoặc bị trái tím kiên cường bắn tung.

Lúc bấy giờ tôi không dám khẳng định Kim Trân là thiên tài hay kẻ điên, nhưng có một điểm tôi có thể khẳng định đấy là, từ nay về sau tôi sẽ không kinh ngạc nếu cậu ta có một việc gì đó dù là vinh quang hay ô nhục, dù là kinh thiên động địa đến đâu, tôi sẽ không chút kinh ngạc, chỉ là thở phào nhẹ nhõm cho cậu ta, đồng thời đôi chân của linh hồn tôi sẽ ngoan ngoãn quỳ xuống chân cậu ta.

Hơn nữa, sau khi Kim Trân đã phá được khoá tử mật, tôi phát hiện những gì ông Hinsh cung cấp để phá khoá đều sai. Điều ấy muốn nói, rất may hồi bấy giờ nhóm phá khoá tử mật loại Kim Trân ra ngoài, nếu không, biết đâu cậu ta lao vào ngõ cụt. Nhưng chuyện như vậy ở đời này nhiều lắm, việc loại cậu ta ra khỏi nhóm nghiên cứu là không công bằng, nhưng kết quả lại giúp cậu ta thành công, có gì đó giống như tái ông mất ngựa. Còn việc tại sao những gợi ý của ông Hinsh lại là sai lầm, ở đây có thể có hai khả năng, thứ nhất là cố tình, ông ta định hại chúng ta; thứ hai là vô tình, trong việc giải mã của ông ta có sai lầm. Tình hình lúc bấy giờ thì khả năng thứ hai lớn hơn, bởi ngay từ đầu ông ta đã bày tỏ tử mật là bộ khoá không thể giải nổi.

Phá khoá mã tử mật là thành công của Kim Trân!

Khỏi phải nói, những năm tháng sau đấy, cậu thanh niên thần bí đương nhiên bắt đầu thu hoạch những mùa lớn, cho dù cậu ta vẫn là con người cô đơn, sống cô quạnh, cô quạnh làm việc; tay vẫn cầm cuốn sách, vẫn đánh cờ, vẫn giải mộng cho mọi người, ít nói, không nóng không lạnh, vinh hay nhục cũng không làm cậu ta quan tâm, vẫn rất bình thường, không có gì thay đổi, vẫn giữ nguyên, nhưng nhận thức của mọi người cũng thay đổi, mọi người tin rằng, đấy là cái thần bí, sức hấp dẫn, vận may của cậu ta.

Ở đơn vị 701, không một người con trai hay con gái nào không biết cậu ta, không tôn kính cậu ta, vì một mình lặng lẽ đi lại, cho nên từng con chó đều quen cậu. Mọi người đều biết, sao trên trời có lúc lặn, nhưng ngôi sao cậu ta thì không, vì vinh quang cậu ta có được, người khác hưởng suốt đời không hết. Thu nọ qua thu kia lại đến, mọi người thấy cậu ta cứ lần lượt thăng cấp: tổ trưởng, phó trưởng phòng, trưởng phòng, phó cục trưởng... Cậu ta vẫn yên lặng tiếp nhận, không vì thế mà cuồng vọng, cũng không vì thế mà khiêm tốn nhã nhặn, cảm giác mọi chuyện vẫn phẳng lặng như nước hoà tan trong nước.

Cảm giác của mọi người cũng vậy, hâm mộ nhưng không ghen tị, cảm thán nhưng không chán nản, bởi vì, mọi người tự giác coi cậu đứng riêng một cõi, thừa nhận cậu rất đặc biệt, không thể so sánh. Mười năm sau, năm 1966, chỉ cần nửa thời gian của người khác, thậm chí ít hơn, cậu ta đã ngồi vào vị trí Cục trưởng Cục giải mã, chừng như mọi người đã dự đoán được sẽ là như thế, cậu không hề có cảm giác bị khoa trương, thổi phồng. Mọi người còn rất thoả mãn cho rằng, sẽ có ngày đơn vị 701 sẽ thành trời đất của Kim Trân, hàm Cục trưởng sẽ đến với con người trẻ tuổi trầm mặc trong một thời gian ngẫu nhiên của tất nhiên.

Có thể suy nghĩ hoặc nguyện vọng của mọi người đối với Kim Trân rất dễ trở thành sự thật, bởi vì ở đơn vị 701, một cơ cấu đặc biệt tưởng chừng mọi vị lãnh đạo đều không dễ đảm nhiệm mũi nhọn công việc, hơn nữa Kim Trân tính cách trầm lắng, lạnh lùng, tưởng chừng rất thích hợp giữ vai trò đầu não của một tổ chức bí mật.

Nhưng, chỉ trong ít ngày cuối năm 1969 đã xảy ra một sự việc mà đến nay nhiều người vẫn còn nhớ rõ và kể lại có đầu có đuôi, trở thành câu chuyện thứ tư.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4-1


Bắt đầu nghiên cứu hắc mật.

Hắc mật, nghe cái tên không thôi cũng đã hiểu ý nghĩa, là mật mã chị em với tử mật, nhưng tiên tiến hơn, cao cấp hơn tử mật, nặng nề, sâu sắc như hai màu đen (hắc) và tím (tử) so với nhau. Ba năm trước, Kim Trân nhớ mãi cái ngày đáng sợ, ấy là ngày mồng một tháng chín năm 1966 (ít lâu sau ngày về trường N cứu thầy Dung), bóng ma hắc mật lần đầu tiên xuất hiện trên tử mật. Giống như cánh chim trong gió bỗng nhận ra tuyết trắng đã phong kín núi đồi, Kim Trân nhận ra dấu vết mỏng manh như tơ nhện của hắc mật, dự cảm ngọn núi cao mình chinh phục đang có nguy cơ bị che phủ.

Quả nhiên sự thật sau đấy đúng như thế, dấu tích hắc mật không ngừng bao phủ đỉnh núi tử mật, giống như bóng tối tràn lan xoá sạch ánh sáng lúc mặt trời lặn. Từ đây, đối với đơn vị 701, những ngày tháng đen tối của mười năm trước lại tái hiện, bất giác mọi người lại gửi gắm hi vọng vào ngôi sao Kim Trân sẽ tìm ra ánh sáng. Suốt ba năm nay, ngày cũng như đêm anh chuyên chú đi tìm ánh sáng, nhưng ánh sáng lai luôn ẩn mình trong bóng tối tận bên kia núi. Trong tình hình đó, đơn vị 701 và Tổng cục cùng tổ chức hội nghị nghiên cứu hắc mật - một hội nghị long trọng trong sự im lặng.

Hội nghị được tổ chức ngay tại Tổng cục.

Giống như các Tổng cục, cơ quan Tổng cục của đơn vị 701 đặt tại Bắc Kinh, xuất phát từ thành phố A ngồi tàu hoả phải mất ba ngày hai đêm. Cũng có máy bay, nhưng không được đi máy bay, vì sợ bị cướp máy bay. Thực tế, khả năng cướp máy bay là rất ít, nhưng nếu trên máy bay có một nhân viên phá mã của đơn vị 701 thì khả năng cướp máy bay sẽ tăng lên chục lần, thậm chí trăm lần. Nếu như đấy là Kim Trân, người đã phá khóa mã tử mật nay đang phá khóa hắc mật, thì khả năng bị cướp máy bay sẽ là vô cùng. Nếu tình báo nước X biết chuyến bay nào có Kim Trân, tốt nhất chuyến bay ấy đừng cất cánh. Vì trên máy bay rất có thể có đặc công của nước X, chúng nóng lòng chờ cho máy bay cất cánh, chúng sẽ thực thi hành động xấu xa điên cuồng. Đấy không chỉ là chuyện đùa mà đã từng có bài học thất bại. Người của đơn vị 701 đều biết, mùa xuân năm 1958, sau khi Kim Trân phá khóa tử mật không lâu, một nhân vật trẻ tuổi của bộ phận phá khóa mật mã nước Y bị đặc công nước X bắt cóc, thời gian ấy ông Trịnh Thọt đang học kinh nghiệm ở đấy, đã từng hai lần ăn cơm với nhân vật ấy, tất nhiên có biết. Không ai biết bây giờ nhân vật ấy ở đâu, còn sống hay chết? Đấy cũng là sự tàn khốc của nghề phá mã.

Để so sánh, tàu hỏa hoặc ô tô chạy trên mặt đất chắc chắn và an toàn hơn rất nhiều, dù có những tai nạn bất ngờ vẫn còn có cách hỗ trợ, có lối thoát, không thể mở mắt để nhìn người bị cướp. Ngồi ô tô suốt chặng đường dài là không thể, cho nên Kim Trân chỉ còn cách ngồi tàu hỏa. Bởi thân phận đặc biệt, lại đem theo tài liệu, quy định được nằm giường mềm, ở ngay ga xuất phát, cái toa giường mềm ấy tạm thời được các quan chức cảnh giới vậy chặt. Sự việc này cũng hiếm thấy, Kim Trân cũng đã gặp, tưởng như không phải là dấu hiệu tốt lành.

Một người đi cùng có bộ mặt nghiêm khắc, cao, đen, miệng rộng, mắt hình tam giác, cằm để râu dài ba phân, râu mọc thẳng rất kiên cường, trông như bờm lợn, có cảm giác cứng như bàn chải thép. Bàn chải thép dày đặc chụm lại một chỗ tạo cảm giác sát khí đằng đằng. Cho nên, nói bộ mặt người này đầy vẻ sát khí, hung dữ không có gì là quá đáng. Ở đơn vị 701, con người này tồn tại là một thứ sức mạnh, khác với sự tồn tại vì trí tuệ như Kim Trân. Anh ta còn có một vinh dự đặc biệt mà không ai có, ấy là mấy vị lãnh đạo của đơn vị mỗi khi đi công tác rất thích đưa anh ta đi cùng, chính vì vậy mà mọi người trong đơn vị đều gọi anh ta là Vasili. Vasili là bảo vệ của Lênin trong phim “Lênin năm 1918”, anh ta là Vasili của đơn vị 701.

Trong ấn tượng của mọi người, Vasili lúc nào cũng mặc cái áo gió rất mốt, hai tay thọc vào hai túi áo, bước đi dài và nhanh, vội vã, uy phong ngời ngời, dĩ nhiên có cái vẻ cận vệ, đám thanh niên trai trẻ của đơn vị 701 đều hâm mộ và kính nể anh ta, họ thường tụ tập bàn tán rất hào hứng, bàn tán về cái vẻ oai phong, bàn tán anh ta có thể đã có những chiến công hiển hách. Thậm chí họ bàn tán cả những bí mật trong hai cái túi áo anh ta, bảo túi bên phải là khẩu súng lục nhỏ B7 của Đức chế tạo, rút ra bắn gì cũng trúng, bách phát bách trúng; túi bên trái là tấm giấy chứng nhận đặc biệt đích thân một vị tướng thủ trưởng Tổng cục kí, hễ lấy ra là có thể đi bất cứ nơi nào, ngay cả Thiên hoàng cũng không dám cản trở.

Có người nói, bên nách trái anh ta còn có một khẩu súng lục nữa. Nhưng thật ra không ai trông thấy. Không ai trông thấy cho nên củng không dám nói là không có, vì có ai nhìn được vào nách anh ta? Dù thấy rõ không có, cánh trẻ vẫn không chịu thua, họ vẫn quả quyết chỉ những lúc anh ta đi làm nhiệm vụ mới đem theo.

Tất nhiên điều ấy là có thể.

Đối với một nhân viên bảo vệ trên người có thêm một khẩu súng, thêm một vũ khí bí mật cũng giống như trên người Kim Trân có thêm một cây bút, một cuốn sổ tay, chẳng có gì kì lạ. Rất bình thường, giống như người làm việc cần ăn cơm vậy.

Tuy có một nhân vật đặc biệt đi theo, nhưng Kim Trân không vì thế mà cảm thấy yên tâm và an toàn, tàu vừa chuyển bánh, anh chìm ngay vào cảm giác bất an một cách vô cớ, cảm thấy lo lắng, áy náy bị nhìn trộm, giống như ánh mắt mọi người đổ dồn vào anh, giống như anh không mặc áo quần (cho nên mọi người nhìn), cảm thấy khó xử, căng thẳng, không an toàn, không tự nhiên. Anh không biết tại sao, càng không biết phải làm thế nào để được yên tâm. Thật ra, có cảm giác không an toàn là bởi anh quá chú trọng đến bản thân, quá biết đấy là chuyến đi đặc biệt.

(Ghi theo lời kể của Cục trưởng Trịnh)

Như tôi đã nói, người của nước Y bị đặc công nước X bắt cóc trên máy bay chỉ là một nhân vật nhỏ, so với Kim Trân cách biệt như trời với đất. Không phải thần kinh tôi quá nhạy cảm, không phải vì Kim Trân sợ cho bản thân, lúc cậu ta đi quả là rất nguy hiểm. Có một điểm ngay từ đầu tôi đã cảm thấy kì lạ, ấy là sau khi Kim Trân phá được khóa mã tử mật, tuy rất lặng lẽ, sau sự việc ấy dù có giữ bí mật hơn, nhưng nước X vẫn biết. Tất nhiên, việc phá khóa tử mật, họ sớm biết vì có nhiều phản ứng từ rất nhiều việc, trừ phi chúng ta không dùng tư liệu tình báo của họ. Cụ thể do ai phá khóa là điều không nên để họ biết. Nhưng đối phương không những biết Kim Trân đã phá khóa, hơn nữa nhiều người cũng biết rất rõ do Kim Trân, về chuyện này, bộ phận điều tra nghiên cứu cũng đã làm việc, tìm ra mối nghi ngờ, trong đó có Hinsh. Đấy là sự nghi ngờ đầu tiên của chúng tôi đối với Hinsh, nhưng lúc ấy chỉ nghi ngờ vậy thôi, không có chứng cứ cụ thể. Cho đến một năm sau, chúng tôi ngẫu nhiên nhận được một tin tình báo, nói rằng Hinsh và nhà khoa học chống cộng Wenak chỉ là một, cho đến lúc ấy chúng tôi mới nhận ra bộ mặt thật độc ác của Hinsh.

Tại sao Hinsh từ một nhà khoa học đi đến con đường chống Cộng cực đoan, hơn nữa lại chống cộng một cách lắt léo bằng cách thay tên đổi họ, đấy là bí mật của ông ta, nhưng tấm mạng che mặt của Hinsh rơi xuống, âm mưu của ông ta đối với chúng tôi cũng lập tức hiện rõ. Có thể, không ai bằng Hinsh hiểu thiên tài của Kim Trân, với lại ông ta cũng đã từng làm công việc phá khóa mã, lúc ấy định phá khóa mật mã tử mật, ông ta đã hình dung ra, chỉ cần Kim Trân làm, chắc chắn sẽ trở thành cao thủ, tử mật khó mà giữ nổi bí mật. Cho nên, ông ta ra sức ngăn cản Kim Trân đi vào công việc phá khóa mật mã, khi ông ta phát hiện Kim Trân làm công việc này lại cố nghĩ cách ngăn cản, sau khi biết, ông ta cố ý đánh lạc hướng, đưa vào mê hồn trận. Tôi nghĩ, ông ta làm như thế là có lí do chính trị, cũng là do nhu cầu cá nhân. Vì ông ta nghĩ, nếu như Kim Trân phá được khóa tử mật, đối với ông ta sẽ rất xấu hổ, giống như bị mất cắp mà chuông cảnh báo vẫn chưa vang lên. Vai trò của ông ta lúc bấy giờ là chuông cảnh báo tử mật. Có người lại nghĩ, tại sao đối phương có thể biết Kim Trân là người phá khóa tử mật, chắc chắn là do ông ta đã đoán chính xác chín phần mười. Đúng vậy, ông ta đoán đúng! Nhưng, có một điều ông ta không nghĩ đến ấy là, việc ông ta dày công đưa Kim Trân vào mê hồn trận hoàn toàn vô hiệu! Có thể nói, trong sự việc này Thượng đế đã đứng về phía Kim Trân.

Lúc bấy giờ đài phát thanh JOG chống đối ngày nào cũng để lộ ý đồ dùng tiền tài mua chuộc người làm công tác phá khóa mật mã, người nào giá bao nhiêu tiền đều nói rất rõ, họ đặt giá cho Kim Trân là một triệu, gấp mười lần một phi công.

Một triệu!

Với Kim Trân, con số này đã nâng anh lên tận mây xanh nhưng cũng đồng thời cách xa địa ngục chỉ một bước chân. Bởi vì, anh cảm thấy mình đáng tiền, người muốn làm tổn thương anh sẽ có lí do, lí do đủ để thu hút nhiều người khác, khiến anh không chống đỡ nổi. Đấy là điều anh tỏ ra không thông minh, thật ra công việc chúng tôi bảo vệ anh còn hơn cả mức nguy hiểm mà anh có thể gặp, ví dụ lần này đi công tác, ngoài Vasili bảo vệ tiếp cận, trên tàu còn nhiều nhân viên bảo vệ thường phục, gồm cả các đơn vị quân đội dọc đường có thể vào lệnh báo động cấp hai đề phòng mọi bất trắc. Những điều ấy Kim Trân hoàn toàn không hay biết, hơn nữa lúc ấy trên toa phổ thông người lên kẻ xuống cũng làm anh căng thẳng.

Nói tóm lại, tính cách Kim Trân kiên định, học vấn uyên thâm, vận may của thiên tài có thể có được là bởi tinh thần kiên định, không nao núng, hiện tại có thêm lòng thù địch sâu sắc. Thiên tài Kim Trân dù có đọc nhiều sách, học vấn sâu rộng, có những suy nghĩ độc đáo, nhưng trong cuộc sống thường ngày lại là kẻ vô tri, không tỉnh táo, tuy rất cẩn thận nhưng lại ngớ ngẩn, thậm chí hoang đường. Trong những năm tháng ấy, anh chỉ ra ngoài một lần, ấy là lần anh về cứu chị gái là thầy Dung, đi hôm trước hôm sau về ngay. Sự thật thì, suốt mấy năm sau ngày anh phá được khóa tử mật, sức ép công việc đối với anh không lớn lắm, rất sẵn thời gian về thăm nhà, chỉ cần anh muốn tổ chức sẽ sẵn sàng phối hợp, cho xe, cử bảo vệ không vấn đề gì. Nhưng anh liên tiếp từ chối, bề ngoài anh nói về bị bảo vệ quản chặt như quản tù, không được nói chuyện và đi lại thoải mái, về cũng không có ý nghĩa. Thực tế thì anh sợ xảy ra chuyện này chuyện khác, giống như những người bị nhốt trong nhà, sợ không dám đi một mình, anh sợ ra khỏi đơn vị, sợ gặp người lạ. Vinh dự và công việc khiến anh trong suốt như pha lê, dễ vỡ, không còn cách nào, bản thân anh lại làm thổi phồng cảm giác ấy, lại càng không còn cách nào.

Như vậy, công việc và sự cẩn thận cùng tâm lí sợ hãi đối với những sự việc có thể xảy ra đã giữ Kim Trân trong hang núi, không biết đã có bao nhiêu ngày bao nhiêu tháng trôi qua bên anh, anh vẫn như một con thú bị giam giữ, dựa vào địa thế hiểm yếu, sống ngột ngạt, xơ cứng với tư thế cố hữu mà mọi người đều biết, thoả mãn với việc chiếm hữu thế giới, chiếm hữu thời gian bằng sự tưởng tượng trống rỗng. Anh về họp ở Tổng cục là lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng ra khỏi đơn vị 701.

Vẫn như mọi lần, Vasili vẫn mặc áo gió màu kem rộng thùng thình, rất ra vẻ, cổ áo dựng cao thêm phần bí ẩn. Tay trái của anh ta không thọc vào túi như mọi khi, vì phải xách cái cặp, cái cặp cứng còng bằng da bò, màu nâu, không lớn không bé, cái cặp có khoá bảo hiểm vẫn thường thấy, bên trong đựng tài liệu bí mật và một quả bom cháy có thể phát nổ bất cứ lúc nào.

Kim Trân để ý thấy tay phải của anh ta luôn thọc vào túi áo giống như bị tật, không thể để lộ ra ngoài. Nhưng Kim Trân hiểu rằng, tay anh ta không có tật nhưng luôn luôn có một khẩu súng lục. Kim Trân vô tình trông thấy khẩu súng ấy, thêm vào đấy là những điều anh được nghe, nên anh nghĩ, anh ta luôn nắm khẩu súng là do thói quen và do yêu cầu, từ suy nghĩ ấy anh cảm thấy không thiện cảm và sợ hãi, vì anh nhớ đến một câu nói “súng bên người giống như tiền trong túi, lúc nào cũng dễ bị chủ nhân đen ra sử dụng.”

Nghĩ đến bên mình luôn luôn có khẩu súng, cũng có thể là hai khẩu anh cảm thấy sợ. Anh nghĩ, một khi khẩu súng được sử dụng, điều ấy chứng tỏ đã gặp chuyện rắc rối, súng có thể dập tắt chuyện rắc rối, giống như nước dập tắt lửa, nhưng cũng có thể không, giống như có khi nước không dập được lửa. Như vậy… anh không nghĩ tiếp, bên tai chừng như có tiếng súng nổ. Sự thật thì Kim Trân hiểu rõ, chỉ cần xuất hiện tình huống ấy tức là nguy hiểm, một người không chống nổi số đông, cùng lúc Vasili cho nổ trái bom, anh ta cũng không do dự chĩa súng về phía mình mà bắn.

Giết người diệt khẩu!

Kim Trân lẩm bẩm câu nói ấy. Tiếng súng tiêu diệt bỗng như gió thoảng qua tai.

Như vậy, cảm giác thất bại, sự ức chế về một tai hoạ bất ngờ ập xuống đầu tưởng chừng theo suốt dọc đường của Kim Trân, khiến anh phải cố gắng chịu đựng, chống đỡ, cảm thấy đừng đi quá xa, xe lửa lại chạy quá chậm. Sau khi an toàn đến được Tổng cục, tâm trạng căng thẳng và sợ hãi trong anh mới chùng xuống và cảm thấy ấm lòng. Lúc này anh mới dũng cảm nghĩ rằng, sau này (hiện thực nhất là đường về) bất luận thế nào mình cũng không được hù doạ chính mình.

Sẽ xảy ra chuyện gì? Sẽ không xảy ra chuyện gì, vì không ai biết ai, không ai biết anh đem theo bí mật trên người.

Kim Trân lẩm bẩm, coi như lời phê bình và chế nhạo sự căng thẳng dọc đường.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4-2


Hội nghị khai mạc vào sáng hôm sau.

Lễ khai mạc rất long trọng, cả bốn vị trưởng và phó Tổng cục đều có mặt. Một ông già tóc bạc trắng chủ trì hội nghị. Theo lời giới thiệu, đây là ông Trưởng phòng nghiên cứu số một của Tổng cục, nhưng bên lề có người nói đây là Bí thư thứ nhất của... kiêm cố vấn quân sự. về chuyện này Kim Trân không quan tâm, anh chỉ quan tâm đến câu nói mà vị này nhắc đi nhắc lại trong hội nghị: chúng ta phải phá cho bằng được khoá hắc mật, đấy là yêu cầu an ninh của nhà nước ta.

Ông ta nói: “Cũng là phá khoá mật mã, nhưng yêu cầu và ý nghĩa của việc khoá từng bộ mật mã là khác nhau, có mật mã chúng ta phá là cho yêu cầu đánh thắng cụ thể một cuộc chiến tranh, có những mật mã phá do yêu cầu của cuộc chạy đua vũ trang, có những mật mã phá là do yêu cầu bảo vệ an toàn cho các vị lãnh đạo, có mật mã phá nhằm phục vụ công cuộc ngoại giao, thậm chí có mật mã phá chỉ do yêu cầu công việc, cho nghề nghiệp nào đó. Còn nhiều nhu cầu khác, nhưng tất cả đều là nhu cầu, tóm lại tất cả đều quan trọng đối với an ninh quốc gia. Tôi có thể thẳng thắn nói với mọi người, không nhìn thấy bí mật tầng cao của nước X sẽ là mối đe doạ lớn đối với an ninh đất nước chúng ta. Có người nói, nếu cho một điểm tựa anh ta sẽ xoay chuyển được cả trái đất, phá được khoá mật mã Hắc mật chính là điểm tựa để chúng ta xoay chuyển trái đất. Nếu nói an ninh đất nước chúng ta đang có vấn đề nghiêm trọng, có một sức ép bị động, thì phá khoá mật mã Hắc mật là phá vây, là điểm tựa để giành thế chủ động.”

Lời kêu gọi mạnh mẽ và trang nghiêm của ông già đáng kính khiến cho buổi lễ khai mạc đạt đến đỉnh cao tĩnh lặng. Lúc ông tỏ ra mạnh mẽ, những sợi tóc bạc trên đầu ông rung rinh óng ánh, tưởng như tóc cũng đang nói.

Buổi chiều là các chuyên gia phát biểu ý kiến, Kim Trân được lệnh phát biểu hơn một tiếng đồng hồ đầu tiên, chủ yếu giới thiệu tiến trình phá khoá Hắc mật, đấy là: chưa có tiến triển thực chất và những suy tư lạ kì nào đó đang trói buộc anh, gồm cả những thứ vô cùng quý giá, để rồi sau đấy anh cảm thấy hối hận vì đã công bố trong hội nghị. Mấy ngày sau đấy, anh dành hơn chục tiếng đồng hồ để nghe ý kiến của chín đồng nghiệp và lời phát biểu của hai vị lãnh đạo trong lễ bế mạc. Tóm lại, Kim Trân cảm thấy đây là hội nghị thảo luận (không phải để nghiên cứu), kết quả rất ít ỏi và nông cạn, mọi người phát biểu với những lời lẽ hoa mĩ, có tính khẩu hiệu, chỉ là lời phát biểu, không tranh luận gay gắt, không có những phút lặng lẽ suy tư. Hội nghị nổi trên mặt nước tĩnh lặng, thỉnh thoảng mới có một vài bọt nước, tất cả đều từ hơi thở ngột ngạt của Kim Trân, anh ngột ngạt bởi sự tĩnh lặng và đơn điệu.

Có thể, vì Kim Trân chán ghét cái hội nghị này, chán ghét cả những người dự hội nghị, ít nhất cho đến khi bế mạc. Nhưng sau đấy anh nhận ra không cần thiết, thậm chí vô lí, vì anh nghĩ, hắc mật như một khối u vướng bận trong người anh, bản thân anh dành tâm sức đào sâu nghiên cứu bao năm nay mà vẫn chỉ là số không, không chút dấu tích nhỏ nào, cảm thấy cái chết đang đe doạ, những người ngoài cuộc vừa không phải là thiên tài, vừa không phải là thánh nhân, chỉ là chút chuyện thoáng qua, lại mong họ phát biểu những cao kiến làm chúa cứu thế, quả là hoang đường, là lời nói trong mơ.

(Ghi theo lời kể của Cục trưởng Trịnh)

Là một người cô đơn và mệt mỏi, ban ngày Kim Trân luôn chìm sâu vào suy tư hoặc có thể nói là ảo tưởng, đêm nào cũng nằm mơ. Theo tôi biết, có một thời gian, cậu ta mong mình đêm nào cũng nằm mơ, là bởi, cậu ta được nếm vị ngọt của giấc mơ (có người nói cậu phá được mật mã Tử mật từ trong mơ); mặt khác, cậu ta nghi ngờ kẻ tạo ra Hắc mật là ma quỷ, không có lí tính, tư duy như con người, mà mình là con người xem ra chỉ có thể tiếp cận chúng trong giấc mơ.

Suy nghĩ ấy loé sáng đã cổ vũ cậu ta rất nhiều, tưởng như tìm được lối thoát khi đã cùng đường. Có lúc tôi nghe cậu ta nói, đêm nào cũng lệnh cho mình phải nằm mơ, nằm mơ trở thành nhiệm vụ quan trọng trong một thời gian. Sự cố tình ấy khiến một thời gian sau đấy tinh thần của cậu ta gần như bị đổ vỡ, chỉ cần nhắm mắt là giấc mơ đủ màu sắc kéo đến không tài nào xua đi nổi. Đấy là những giấc mơ rối loạn, không có chút tư tưởng, kết quả duy nhất là đã làm rối giấc ngủ bình thường của cậu ta. Để giữ giấc ngủ, cậu ta không thể không xua đi những giấc mơ hàng ngày bám riết lấy cậu, vậy là cậu ta tạo cho mình thói quen đọc truyện trước khi ngủ. Hai việc ấy, việc thứ nhất có thể làm giảm căng thẳng ban ngày, chuyện sau khiến cậu mệt mỏi, cộng lại có tác dụng kích thích giấc ngủ. Theo cách nói của cậu, đọc truyện và đi bộ là hai viên thuốc trợ giúp cậu ngủ ngon giấc.

Cũng phải nói thêm, cậu ta nằm mơ nhiều tưởng chừng làm cho những gì cậu trải qua, thể nghiệm, thưởng thức trong hiện thực đều vào cả giấc mơ. Vậy là cậu có hai thế giới: một hiện thực và một trong mơ. Ai cũng bảo, những gì có trên lục địa đều có trong biển cả, nhưng những gì có ở biển cả không nhất định có trên lục địa. Tình huống của Kim Trân là như vậy, những gì có trong giấc mơ không nhất định có trong hiện thực, nhưng phàm là những gì có trong hiện thực lại có trong giấc mơ của cậu. Tức là nói, những gì có trong thế giới thực vào trong đầu óc Kim Trân đều được chia đôi, một nửa là hiện thực, là thật, sống động, một nửa khác là hư, rối loạn. Ví dụ, thành ngữ chuyện hoang đường, chúng ta chỉ có một, nhưng Kim Trân lại có hai, ngoài những cái thông thường còn có cái trong giác mơ, đấy là điều chỉ có ở cậu. Khỏi phải nói, cái trong mơ hoang đường hơn cái ngoài hiện thực, càng là điều mê sảng. 

Lúc này Kim Trân bình tĩnh lại, anh tin tưởng, trông chờ cao kiến của những người phát biểu về hắc mật, nhả lời vàng ngọc, chỉ ra sai lầm cho mình, tức là những điều hoang đường, vô căn cứ trong mơ, hoang đường trong hoang đường, vô căn cứ hơn cả vô căn cứ. Cho nên, anh tự an ủi: không trông chờ gì ở họ, đừng trông chờ nữa, họ không thể chỉ ra được cái sai, không thể, không thể.

Anh nói đi nói lại điều ấy, có thể cho rằng gia tăng nhịp điệu ấy sẽ quên đau khổ.

Nhưng chuyến đi lần ấy không phải Kim Trân không thu hoạch được gì. Ít nhất anh có bốn thu hoạch:

Thứ nhất, thông qua hội nghị lần này, Kim Trân thấy các vị thủ trưởng Tổng cục rất quan tâm đến hiện trạng và số phận việc phá khoá mã hắc mật. Đấy là sức ép đối với Kim Trân, mà cũng là sự cổ vũ đối với anh, cảm thấy như được tiếp thêm sức.

Thứ hai, anh được bạn bè trong hội nghị hoan nghênh qua lời nói hoặc tiếp xúc (ví dụ cái bắt tay nồng nhiệt, gật đầu, mỉm cười ân cần, đấy là sự tiếp xúc hoan nghênh) Kim Trân phát hiện mình sáng chói trong giới phá khoá mật mã, ai cũng yêu mến. Điều này trước đây anh biết ít, bây giờ biết khiến anh thêm phấn khởi.

Thứ ba, vào lúc uống rượu ngoài hội nghị, ông già tóc bạc đầy quyền uy rất phấn khởi điều cho Kim Trân một bộ máy tính bốn trăm ngàn phép tính. Điều ấy chẳng khác nào cho anh một trợ thủ hạng nhất tầm cỡ quốc tế.

Thứ tư, trước khi về, anh mua được ở hiệu sách cũ hai cuốn sách mà anh mơ ước từ lâu, trong đó có cuốn ‘Thiên thư” (Có người dịch là “Chữ của thần linh”), là tác phẩm của Engiert, chuyên gia về mật mã học.

Thế nào gọi là chuyến đi không uổng phí?

Có được những thứ đó có thể gọi là không uổng phí.

Kim Trân vui vẻ ra về vì đã có được những thứ đó. Trên chuyến tàu về, không có cảnh giới hoặc những đoàn thể to tát, cho nên Vasili có được hai chiếc giường mềm. Kim Trân lên toa giường mềm, suốt sáu ngày của chuyến đi lúc này lòng anh mới được thanh thản.

Đúng là anh vui vẻ rời thủ đô, vui vẻ vì còn một nguyên nhân khác: đêm hôm đó bầu trời thủ đô bắt đầu có những bông tuyết đầu mùa, tưởng như sự xếp đặt đặc biệt để vui mừng tiễn đưa con người phương Nam. Tuyết càng rơi càng dày chẳng mấy chốc đã phủ trắng nơi nơi, tuyết óng ánh ẩn hiện trong bóng tối. Kim Trân chờ tàu trong cảnh tuyết rơi. Tuyết lặng lẽ rơi và hơi nước khiến lòng anh yên tĩnh, tràn ngập những ý tưởng đẹp.

Trên đường về hết sức thoả mãn, không một thách thức, cổ vũ Kim Trân tin vào kết quả của chuyến đi.

Nhưng khác với lúc đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4-3


Khác với lúc đi, về mất hai ngày ba đêm, không phải là ba ngày hai đêm. Vào lúc này, đã qua một ngày và hai đêm, ngày thứ hai cũng đang dần qua đi. Dọc đường, trừ những lúc ngủ, hầu hết thời gian còn lại Kim Trân đọc cuốn sách anh mua được. Rõ ràng, cảm giác của anh không còn nhút nhát sợ hãi như lúc đi, anh ngủ được và đọc được là minh chứng. Trên đường về có cái tốt, họ mua được vé tàu giường mềm, có một không gian an toàn, vuông vức như hộp diêm, hoàn toàn độc lập, cách biệt với bên ngoài. Kim Trân đặt mình nằm, lòng những thoả mãn và vui mừng.

Không thể phủ nhận, một con người nhát gan, một con người nhạy cảm, một con người lạnh lùng, riêng biệt là nguyện vọng bức thiết nhất, quan trọng nhất. Ở đơn vị 701, Kim Trân sống lặng lẽ và cô đơn khó ai chịu đựng nổi, tước bỏ những sinh hoạt thế tục, cách li với chung quanh, riêng biệt giữa đám đông. Với một ý nghĩa nào đấy, anh rất khảng khái tiếp nhận anh chàng điên cờ, không loại trừ động cơ cách xa đám đông. Nói một cách khác, cùng với người điên cờ là biện pháp tốt nhất để từ chối đến với người khác. Kim Trân không có bạn, mà cũng không ai làm bạn với anh, mọi người tôn trọng anh, ngưỡng mộ anh, nhưng không thân thiết nhiệt tình với anh. Anh sống cô đơn, (Về sau, mật độ đến với người điên cờ cũng giảm theo thời gian, vậy là anh ta rời khỏi đơn vị 701), mọi người bảo anh vẫn y nguyên, không gần ai, cô đơn, trầm buồn, nhưng cô đơn và trầm buồn không làm anh phiền não, vì nếu phải chịu đựng những thói quen đủ kiểu của mọi người sẽ làm anh thêm đau khổ. Với ý nghĩa đó, anh không thích thú gì với chức vụ đứng đầu phòng giải mã, mà anh cũng không thích thú gì với danh hiệu đứng đầu gia đình.

(Ghi theo lời kể của Cục trưởng Trịnh)

Kim Trân làm đám cưới ngày mồng một tháng tám năm 1966, vợ tên là Cù Lợi, một con người cô đơn, làm công tác cơ mật từ rất lâu, hồi đầu làm ở tổng đài điện thoại trên Tổng cục, năm 1964 chuyển về làm nhân viên bảo mật ở chỗ chúng tôi. Cô là người miền Bắc, rất cao, cao hơn Kim Trân nửa cái đầu, mắt to, nói tiếng phổ thông, nhưng ít nói, nói rất nhỏ, có thể vì làm công tác cơ mật lâu nên quen nói nhỏ.

Nói đến hôn nhân của Kim Trân tôi thấy rất lạ, có gì đó do số phận thúc đẩy. Tại sao tôi nói thế? Tôi biết, trước đấy có rất nhiều người quan tâm đến hôn nhân của cậu ta, cũng có nhiều cô gái muốn lấy Trân là để hưởng cái vinh quang của cậu ta. Có thể cậu ta không nghĩ đến, có thể vì do dự không quyết hoặc nguyên nhân khác, cảm giác cậu ta không thích thú gì chuyện hôn nhân và phụ nữ. Về sau không hiểu tại sao, bỗng cậu ta lấy cô Lợi. Lúc bấy giờ cậu ta đã ba mươi tư. Tất nhiên đấy không phải là vấn đề, ba mươi tư cũng hơi lớn nhưng chỉ cần có người bằng lòng lấy thì có vấn đề gì đâu. Vấn đề ở chỗ cưới nhau được ít lâu, hắc mật bỗng lén lút xuất hiện. Khỏi phải nói, nếu cậu ta chưa lấy vợ thì có lẽ cả đời cậu ta sẽ không lấy vợ, bởi hắc mật trở thành vật cản đối với hôn nhân của cậu ta. Cuộc hôn nhân khiến mọi người cảm thấy giống như một con chim bỗng bay vào cửa sổ để ngỏ, có chút lạ lẫm, có chút liều lĩnh, không biết nên thế nào, là tốt hay không tốt? Là đúng hay sai?

Nói thật, Kim Trân không giống với người chồng, mươi ngày nửa tháng cậu ta không về nhà, nhưng về cũng không nói với vợ lấy nửa câu, cơm nấu xong thì ăn, ăn xong lại đi, nếu không thì ngủ, ngủ dậy lại đi. Cứ như vậy cô Lợi sống với cậu ta, cũng khó có cơ hội bắt gặp ánh mắt chồng, càng không nói đến chuyện khác. Làm một trưởng phòng, một lãnh đạo hành chính, cậu ta cũng không xứng với chức vụ, hàng ngày, chừng một tiếng đồng hồ trước khi kết thúc ngày làm việc, cậu ta mới xuất hiện ở văn phòng của trưởng phòng, còn toàn bộ thời gian chui vào phòng giải mã, rút đầu dây điện thoại ra, như vậy cậu ta trốn khỏi mọi phiền toái và đau khổ của một vị trưởng phòng và một người làm chồng, giữ cuộc sống như xưa, tức một mình một nơi, đơn độc làm việc, không muốn ai quấy rầy hoặc giúp đỡ. Từ ngày hắc mật xuất hiện, cảm giác ấy mỗi ngày một rõ, tưởng như cậu ta phải trốn tránh mới có thể tìm ra bí mật sâu xa của hắc mật.

Lúc này Kim Trân đang nằm thoải mái trên cái giường mềm tưởng như có cùng một cảm giác tìm được chỗ ẩn náu khá tốt. Đúng vậy, Vasili rất dễ dàng lấy được hai cái giường nằm trên tàu thật lí tưởng, bạn đồng hành của họ là một vị giáo sư đã nghỉ hưu và cô cháu gái chín tuổi. Vị giáo sư có thể đã sáu mươi tuổi, từng là Hiệu trưởng Đại học G, vì mắt kém nên phải rời chức vụ cách đây không lâu. Trên người ông có chút hơi hướng quyền uy, thích uống rượu, hút thuốc lá Phi mã, dọc đường, rượu và thuốc làm ông tiêu khiển thời gian. Cô cháu gái của vị giáo sư muốn sau này lập chí trở thành một ca sĩ, suốt dọc đường không lúc nào ngơi tiếng hát, trong toa tàu tràn ngập tiếng hát như trên sân khấu. Hai người một già một trẻ khiến trái tim Kim Trân lúc nào cũng xao động bỗng lắng xuống như được uống thuốc an thần. Nói một cách khác, trong không gian nhỏ bé không có lòng thù địch hoặc lòng thù địch trong tưởng tượng, Kim Trân mới không cảm thấy mình nhát gan, anh dùng thời gian vào hai việc hiện thực nhất và có ý nghĩa nhất vào lúc này, tức là ngủ và đọc sách. Giấc ngủ đã dồn ép cho đêm dài trên chặng đường xa ngắn lại như một giấc mơ, đọc sách có thể xua đi khoảng thời gian vô vị ban ngày. Có lúc anh nằm trong bóng tối, không ngủ được mà cũng không đọc nổi, anh lại tiêu hóa thời gian trong suy tư vẩn vơ. Cứ như vậy, ngủ, đọc sách, suy tư, anh đã tiêu hết thời gian trên đường về, một giờ lại một giờ, từng bước từng bước một đưa anh đến gần ước mong bức thiết nhất: kết thúc chặng đường về lại đơn vị 701. Lúc này, ngày thứ hai sắp qua đi, tàu đang chạy nhanh qua cánh đồng mênh mông tít tắp, vầng mặt trời chiều tà bắt đầu đỏ rực toả ánh dịu dàng, rất đẹp, rất hiền từ. Cánh đồng dưới ánh chiều rơi rớt trông thật ấm áp, yên bình, tưởng như trong mơ, lại như bức tranh phong cảnh có sắc màu nồng ấm. Lúc ăn cơm tối, vị giáo sư và Vasili nói chuyện với nhau, Kim Trân ngồi bên chỉ nghe không nói gì, bỗng nghe thấy vị giáo sư nói với giọng hâm mộ:

“Tàu đã vào địa phận tỉnh G rồi, sáng sớm hôm sau hai người đã về đến nhà.”

Câu nói khiến Kim Trân cảm thấy thân thiết vô cùng, vậy là anh vui vẻ nói hỏi:

“Lúc nào thì bác về đến nơi?”

“Hai giờ chiều mai.”

Đấy cũng là điểm chót của chuyến tàu, vậy là Kim Trân nói vui:

“Bác với cháu bé đây là những hành khách trung thành nhất, đi với đoàn tàu từ đầu đến cuối.

“Vậy ra anh là lính đào ngũ rồi.” Vị giáo sư cười to.

Có thể nhận ra, vị giáo sư phấn khởi hơn vì trong toa tàu bỗng có thêm người nói chuyện. Nhưng ông cũng chỉ phấn khởi hụt, vì Kim Trân cười khan vài tiếng rồi không để ý gì đến ông, anh lại cầm cuốn “Thiên thư” lên mải miết đọc, không chú ý gì đến chung quanh. Vị giáo sư nhìn anh cảm thấy kì lạ, nghĩ hay là anh ốm?

Kim Trân không ốm đau gì, anh là con người như thế, nói chuyện xong là xong, không dài dòng, không dạo đầu, không khách khí, không rào trước đón sau, nói là nói, không nói là không nói, giống như nói mê, khiến người nghe cũng cảm thấy mình như đang trong mơ.

Nói đến sách “Thiên thư” của Englert, Trung Hoa thư cục xuất bản trước ngày giải phóng, do bà Hàn Tố Âm, một người Anh gốc Hoa dịch, cuốn sách rất mỏng, mỏng không giống một cuốn sách, giống như cuốn sổ tay, trên trang bìa có ghi:

Thiên tài, vẫn là linh hồn của nhân gian, ít và tinh, tinh nhưng quý, quý như báu vật, giống như tất cả những báu vật trên đời, phàm là thiên tài đều yếu ớt, mỏng manh như mầm cây, đụng vào là gãy, hễ gãy là bỏ đi.

Câu nói như viên đạn bắn trúng anh.

(Ghi theo lời kể của Cục trưởng Trịnh)

Thiên tài rất dễ gãy, đối với thiên tài Kim Trân không phải là xa lạ, khó tiếp cận, nhiều lần cậu ta nói với tôi về chuyện này, cậu ta nói: thiên tài sở dĩ trở thành thiên tài là bởi một mặt họ kéo dài mình thành vô hạn, kéo thật nhỏ thật dài, nhỏ như sợi tơ, trông như trong suốt, không thể chịu đựng nổi va chạm. Ở một ý nghĩa nhất định, phạm vi trí lực của con người càng có hạn, vậy trí lực một mặt nào đấy càng dễ tiếp cận đến vô hạn, hoặc, độ sâu của nó đạt được là do hi sinh độ rộng. Cho nên, phàm là thiên tài, một mặt họ có tài năng nhạy bén kì lạ, tài trí hơn người, mặt khác lại tỏ ra ngu đần kì lạ, không bằng người bình thường, điển hình nhất là tiến sĩ Englert, ông là nhân vật thần kì trong lĩnh vực phá khoá mật mã, cũng là vị anh hùng trong lòng Kim Trân, “Thiên thư” là sách của ông viết.

Trong giới mật mã không ai không thừa nhận, Englert là vị thánh không thể với tới, ông ta giống như thần linh, không có mật mã nào ở đời làm ông không yên. Ông là vị thánh hiểu sâu bí mật của mật mã. Nhưng trong cuộc sống, Englert là con người ngu đần hạng nhất, ngu đến độ không biết đường về nhà. Ông như người được cưng chiều, ra đường phải có người đưa đi, nếu không, ông không biết đường về. Nghe nói, cả đời ông không lấy vợ, mẹ ông không muốn đánh mất ông, suốt đời bám theo con từng bước, đưa ông ra đường, đưa ông về nhà.

Khỏi phải nói, đối với một người mẹ, đấy là một đứa trẻ tồi tệ.

Suốt nửa thế kỉ trước, nước Đức dưới chế độ phát xít, chính con người này, đứa trẻ này làm phiền lòng người mẹ, một thời trở thành tử thần của chế độ phát xít, khiến Hitler sợ đái cả ra quần. Thật ra, Englert còn là người đồng hương với Hitler, ông sinh ra trên hòn đảo Tars (Đảo giấu vàng), nếu cần nói đến tổ quốc của con người này, thì nước Đức chính là tổ quốc của ông, Hitler là thống soái của tổ quốc ông thời bấy giờ, theo đó, tất nhiên nước Đức là tổ quốc của ông, ông phải phục vụ cho Hitler. Nhưng ông không, hoặc nói không phục vụ từ đầu đến cuối (đã từng phục vụ). Vì ông không phải là kẻ thù của quốc gia nào hoặc người nào, chỉ là kẻ thù của mật mã. Có thể trong một thời gian ông ta là kẻ thù của một quốc gia hoặc một người nào đó, nhưng đến một lúc nào đó ông lại là kẻ thù của một quốc gia khác, một con người khác, điều ấy quyết định bởi nước nào, người nào làm ra và sử dụng mật mã cao cấp nhất thế giới, người có bộ mật mã ấy chính là kẻ thù của ông ta.

Đầu những năm bốn mươi của thế kỉ hai mươi, khi trên bàn làm việc của Hitler xuất hiện những văn thư được mã hoá bằng mật mã chim ưng, Englert liền phản bội tổ quốc, ra khỏi trận tuyến của quân Đức, đến với quân Đồng minh, trở thành bạn của quân Đồng minh. Ông phản bội không phải vì tín ngưỡng, không phải vì tiền, mà chỉ là bởi mật mã chim ưng làm cho những người chuyên phá khoá mật mã thời bấy giờ cảm thấy tuyệt vọng.

Có người nói, mật mã chim ưng là do một thiên tài toán học của Ireland lập ra trong một nhà thờ của người Do Thái ở Berlin, được thần linh phù trợ, hệ số an toàn có thể lên đến ba mươi năm, cao gấp nhiều lần hệ số an toàn của những mật mã cao cấp thời bấy giờ cả chục lần! Ấy là nói, trong ba mươi năm loài người không thể phá được khoá của mật mã này. Phá khoá mật mã không phải là chuyện bình thường, mà là chuyện phi thường.

Đấy cũng là số phận của các nhà phá khoá mật mã phải đối mặt. Đấy là việc họ phải làm. Nói một cách khác, họ phải tìm ra cái không bình thường, giống như hạt cát dưới đáy biển đụng độ với hạt cát trên đất liền, khả năng đụng độ chỉ một phần của mấy chục triệu, không đụng độ mới là chuyện bình thường. Nhưng họ muốn tìm kiếm cái một phần của mấy chục triệu kia, đấy là điều không bình thường lớn như vũ trụ. Người lập mật mã hoặc trong quá trình sử dụng mật mã không tránh khỏi tổn thất ngoài ý muốn - giống như con người hắt hơi một cách ngẫu nhiên, có thể đấy là sự bắt đầu của cái một phần mấy chục triệu, vấn đề là, hi vọng được gửi gắm ở sự tổn thất và sai lầm bất ngờ của người khác, anh không thể không cảm thấy đấy là chuyện hoang đường, là chuyện buồn, hoang đường và buồn chồng lên nhau tạo thành số phận của những người chuyên phá khoá mật mã. Rất nhiều người - đều là tinh anh của loài người - đã phải lặng lẽ sống cuộc đời buồn thảm như vậy.

Nhưng có thể là thiên tài, có thể là may mắn tiến sĩ Englert chỉ cần bảy tháng trời đã mở toang cánh cửa mật mã chim ưng. Có thể đấy là thành công vô tiền khoáng hậu của giới phá khoá mật mã, mức độ hoang đường của nó tương đương với chuyện mặt trời mọc đằng tây, giống như hạt mưa từ trời rơi xuống bỗng có một hạt mưa rơi ngược lên trời.

Mỗi lần nghĩ lại, Kim Trân cảm thấy xấu hổ, một cảm giác không thật. Anh thường khẽ nói với tấm ảnh và tác phẩm của Englert:

“Mọi người đều có anh hùng của mình, ông là anh hùng của tôi, mọi trí tuệ và sức mạnh của tôi đều đến từ sự chỉ đạo và cổ vũ của ông, ông là mặt trời của tôi, nguồn sáng của tôi không tách rời ánh sáng của ông chiếu rọi...”

Anh tự hạ thấp bản thân không phải vì bất mãn với bản thân mà là biểu hiện vô cùng sùng kính Englert. Sự thật thì, ngoài Englert ra, trong lòng Kim Trân chỉ còn lại chính anh, anh không tin ở đơn vị 701 còn ai có thể phá được mã khoá hắc mật ngoài anh. Anh không tin đồng liêu, hoặc lí do chỉ tin mình thật đơn giản, chỉ một, đó là, họ thiếu hẳn lòng thành kính và tình cảm thiêng liêng, sự tôn sùng đầy cảm kích đối với Englert. Trong tiếng xình xịch của đoàn tàu, Kim Trân nghe rõ tiếng mình nói với vị anh hùng của lòng mình:

“Họ không thấy ánh sáng nơi ông, mà có trông thấy cũng sợ hãi, không lấy đấy làm vinh dự, ngược lại cho rằng đấy là sự nhục nhã, đấy là lí do tôi không tin ở họ. Tận hưởng cái đẹp cũng cần có tài năng và lòng dũng cảm, không có tài năng và lòng dũng cảm, cái đẹp sẽ khiến con người phải sợ hãi.”

Cho nên, Kim Trân tin tưởng thiên tài chỉ hiện rõ giá trị cao quý trong con mắt thiên tài, thiên tài trong con mắt số đông hoặc người bình thường rất có thể trở thành quái vật, một kẻ ngu đần. Vì họ đi quá xa đám đông, đám đông nhìn xa không thấy rõ, cho rằng họ đã bị rơi lại phía sau. Đấy là tư duy thường thấy ở số đông, chỉ cần anh im lặng, họ cho rằng anh hỏng rồi, sợ rồi, im lặng là vì sợ hãi mà không phải xem khinh.

Kim Trân nghĩ, mình và đồng nghiệp khác nhau cũng ở chỗ này, tức là, anh khâm phục tiến sĩ Englert, tôn trọng ông ta. Cho nên, anh có thể toả ánh long lanh như khối pha lê trong con mắt sáng ngời của vĩ nhân. Còn bọn họ không thể, bọn họ giống như hòn đá cuội, ánh sáng không thể xuyên qua nổi.

Anh lại nghĩ, không nghi ngờ gì nữa, so sánh thiên tài với người thường như pha lê so với đá cuội là đúng, thiên tài có những phẩm chất: trong suốt, yếu ớt mỏng manh, dễ vỡ, không thể va chạm, hễ va chạm là vỡ, không như đá. Đá có thể vỡ nhưng không vụn như pha lê, có thể vỡ một góc hoặc một mặt, nhưng đá vẫn là đá, vẫn có thể sử dụng. Nhưng pha lê lại không thế, bản tính pha lê không những dễ vỡ, hơn nữa rất bạo liệt, đụng vào là vỡ, hễ vỡ là không còn giá trị. Thiên tài là như vậy, chỉ cần cắt đứt cái ngọn mới nhú chẳng khác nào chặt đứt cả cành, chỉ còn lại một mẩu liệu có ích lợi gì? Chẳng khác nào tiến sĩ Englert, anh lại nghĩ đến anh hùng của lòng mình, nếu thế giới không có mật mã, liệu người anh hùng này còn công dụng gì? Sẽ là vật phế thải.

Bên ngoài, đêm càng khuya hơn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4-4


Những chuyện xảy ra sau đây không thật, vì nó quá thật.

Sự việc quá thật trở nên không thật, khiến mọi người không thể tin, giống như không tin ở vùng núi nào đó trong tỉnh Quảng Tây, một cây kim có thể đổi được một con bò thậm chí đổi được một con dao găm bằng bạc. Không ai phủ nhận, mười hai năm trước Kim Trân từ trong giấc mơ thấy Mendeleyev (trong giấc mơ Mendeleyev phát hiện ra vòng tuần hoàn nguyên tố hoá học) đã tìm ra được bí mật vùi sâu của mật mã tử mật, là chuyện thần kì, nhưng không thần kì bằng sự việc dưới đây.

Nửa đêm, Kim Trân bị tiếng tàu vào ga đánh thức. Theo thói quen, hễ thức dậy anh sờ ngay cái cặp bảo hiểm để dưới giường, cái cặp được xích vào chân bàn trà. Vẫn còn!

Anh lại yên tâm nằm xuống, nghe những tiếng chân bước và tiếng loa ồn ào trên sân ga.

Tiếng loa thông báo tàu đã đến thành phố B.

Nghĩa là, ga tới sẽ là thành phố A.

Còn ba tiếng đồng hồ nữa... 

Về đến nhà...

Về nhà...

Chỉ còn một trăm tám mươi phút...

Ngủ thêm một giấc nữa là về đến nhà...

Kim Trân suy nghĩ rồi mơ màng chìm vào giấc ngủ.

Chỉ một lát sau, tiếng thét của đoàn tàu rời ga lại làm Kim Trân thức giấc, tiếp theo, tiếng tàu chạy mỗi lúc một hối hả, giống như điệu nhạc đưa con người vào niềm hưng phấn, liên tục gọi về giấc ngủ cho anh. Giấc ngủ của anh không sâu lắm, làm thế nào để chịu đựng nổi sự giày vò đó? Giấc ngủ bị tiếng động mạnh làm tan vỡ, anh tỉnh hẳn. Ánh trăng từ ngoài lọt qua cửa sổ toa tàu, chiếu sáng giường anh nằm, bóng tối chao đảo lúc lên lúc xuống, đủ làm ánh mắt anh nhấp nhem. Anh cảm thấy trước mắt mình thiếu cái gì đó, nhưng là thiếu gì? Anh uể oải nhìn quanh, suy nghĩ, cuối cùng phát hiện mất cái cặp treo trên vách, cái cặp da đen mất đâu. Anh ngồi phắt dậy, đầu tiên tìm quanh giường, không có. Sau đấy lục soát dưới gầm giường, trên mặt bàn nước, dưới gối cũng không thấy đâu.

Anh gọi Vasili, gọi vị giáo sư dậy, vị giáo sư nói với họ, chừng một tiếng đồng hồ trước (xin nhớ, một tiếng đồng hồ trước đấy), ông ra nhà vệ sinh đầu toa, thấy một cậu thanh niên mặc quân phục đứng dựa cửa toa hút thuốc, sau đấy ông ở nhà vệ sinh ra, trông thấy bóng cậu kia đi đằng xa, trên tay cậu ta xách cái cặp Kim Trân vừa nói.

“Lúc bấy giờ tôi không kịp suy nghĩ nhiều, cho rằng cái cặp của cậu ta, vì cậu ta đứng hút thuốc, trên tay có cầm gì không tôi không chú ý, với lại tôi nghĩ cậu ta đứng đấy hút xong điếu thuốc rồi mới đi. Bây giờ, ôi... lúc bấy giờ tôi kịp nghĩ thì tốt biết chừng nào!”

Vị giáo sư giải thích với giọng đồng tình, thông cảm.

Kim Trân nghĩ, chắc chắn cậu thanh niên mặc quân phục kia lấy cái cặp, cậu ta đứng ở đầu toa để rình. Giáo sư đã cho Kim Trân một manh mối, giống như theo dấu chân hình hoa mai trên tuyết đến tận cùng thể nào cũng sẽ là hang hổ. Có thể hình dung, thời gian vị giáo sư vào nhà vệ sinh đủ để cậu thanh niên kia lẻn vào đánh cắp.

“Như vậy gọi là nhờ gió bẻ măng.”

Kim Trân chỉ nói một câu ấy, rồi nở nụ cười đau khổ.

(Ghi theo lời kể của Cục trưởng Trịnh)

Thật ra, phá khoá mật mã là chuyện nhờ gió bẻ măng.

Mật mã giống như tấm lưới trời cực lớn, rất khéo léo, không trông thấy rõ. Nhưng, nếu một bản mật mã được đưa vào sử dụng lại giống như một người há to miệng nói chuyện, rất có thể lỡ lời. Lời lỡ nói ra tức là đã để chảy máu, tức là cái miệng há ra, tức là một tia hi vọng. Giống như tia chớp rạch một lỗ thủng trên bầu trời, phải gọt nhọn đầu để chui vào lỗ thủng ấy, thông qua lối đi trong trùng trùng mê cung bí mật có thể bước vào Đại lễ đường. Những năm gần đây, Kim Trân kiên trì chờ đợi bầu trời vỡ ra một kẽ hở, anh đã chờ đợi cả ngàn ngày đêm, nhưng chưa có được một chút tơ mành nào.

Đấy là điều không bình thường, rất không bình thường.

Nó có nguyên nhân, chúng tôi nghĩ ra hai điểm:

Thứ nhất, công việc phá khoá mật mã khiến đối phương phải nghĩ rằng, mỗi lần mở miệng ra nói phải thật thận trọng, phải trầm tư suy nghĩ, không để sơ hở khiến chúng ta không thể tấn công nổi.

Thứ hai, Kim Trân chưa phát hiện ra manh mối phá khoá mã, giọt nước đã lọt qua kẽ ngón tay cậu, chảy mất. Khả năng này rất lớn. Cứ nghĩ mà xem, ông Hinsh rất hiểu Kim Trân, ông ta có thể mách cho những người tạo lập Hắc mật phải nhắm vào những đặc điểm của Kim Trân, đưa ra cái khó dành riêng cho cơ quan của Kim Trân. Nói thật, tình cảm hai người có thời sâu nặng như tình cha con, nhưng lúc này do thân phận và tín ngưỡng, khoảng cách tâm linh hai người xa hơn bất cứ khoảng cách nào có trên trái đất. Đến nay tôi vẫn nhớ, khi chúng tôi biết Hinsh chính là Wenak, cấp trên đã nói cho Kim Trân rõ tình hình đó và cả chuyện Hinsh gây nên mê hồn trận đối với nước ta, để anh cảnh giác. Kim Trân đã nói gì? Cậu ta nói, để ông ta đi gặp ma, ma quỷ của ngôi đền khoa học!

Đối phương càng ngày càng cẩn thận, sơ hở càng ít, càng dễ bị chúng tôi xem thường, ngược lại, cho dù chúng tôi có để lộ, sơ hở của đối phương càng ít hơn. Cả hai phía giống như hai chiều âm dương của cái mộng gỗ, cùng hô ứng, cùng nghiến răng, nghiến thật chặt, xoá sạch dấu vết, không để lộ một chút tơ nhện nào. Hoàn mĩ đến độ lạ lùng đáng sợ, Kim Trân ngày đêm phải đối mặt, thường cảm thấy ớn lạnh, đáng sợ. Không ai biết, nhưng vợ anh biết, trong mơ chồng nhiều lần nói với chị, trên con đường chinh phục mật mã hắc mật cậu đã nắm tay thế thủ, tin chắc sự yên tĩnh của mình đã tuyệt vọng và gặp phải sự đe doạ và chán nản xâm chiếm.

Kẻ cắp rình rập, cái cặp đã mất, Kim Trân lập tức nghĩ đến cảnh giác và tuyệt vọng, anh giễu cợt tự nghĩ, mình muốn kiếm chút gì từ người khác - người tạo lập và sử dụng Hắc mật - thật khó khăn, nhưng người khác đánh cắp đồ của mình thật dễ đàng, chỉ cần hút xong nửa điếu thuốc. Nụ cười đau khổ lại hiện lên khuôn mặt lạnh lùng của anh.

Nói thật, vào lúc này Kim Trân vẫn chưa ý thức được nỗi sợ hãi của việc mất cái cặp da. Anh nhớ ra, trong cái cặp có vé tàu đi và về, phiếu ăn nghỉ và tem gạo có giá đến hai trăm đồng, thậm chí cả các thứ giấy tờ khác. Cuốn sách “Thiên thư” của Englert tối hôm qua trước lúc ngủ anh cũng bỏ vào đấy. Đấy là điều làm anh đau lòng. Tóm lại, những thứ đó so với cái cặp bảo hiểm ở dưới giường, anh thấy mình còn rất may mắn, thậm chí cảm thấy mình còn được sống sót sau tai nạn lớn.

Khỏi phải nói, nếu mất cái cặp bảo hiểm sẽ thật sự to chuyện, thật đáng sợ. Lúc này xem ra không có gì phải sợ, chỉ đáng tiếc chút thôi, chỉ đáng tiếc không có gì đáng sợ.

Mươi phút sau, trong toa tàu lại yên tĩnh, Kim Trân được Vasili và vị giáo sư kia an ủi, sau một lúc hoảng hốt, lúc này cũng bình tĩnh trở lại. Nhưng khi anh chìm vào bóng tối, sự bình tĩnh được bóng tối che khuất lại bị bánh xe của đoàn tàu nghiền nát, khiến anh rơi vào ý nghĩ trách cứ và nuối tiếc.

Trách cứ trong lòng, nuối tiếc trong đầu thật mạnh mẽ.

Trong cặp còn gì khác?

Kim Trân suy nghĩ.

Một cái cặp da trong tưởng tượng, sức tưởng tượng cần thiết để mở cái cặp. Bắt đầu là sự nuối tiếc xâm chiếm, mạch suy tư tỏ ra uể oải, không thể nào mở nổi khoá kéo của cái cặp, trước mắt chỉ là một mảng màu đen hình chữ nhật làm mờ mắt, đấy là vỏ ngoài của cái cặp, không phải bên trong. tâm trạng nuối tiếc mờ dần, mạch suy nghĩ mạnh lên, tập trung, sức mạnh như dòng nước của tuyết tan đọng lại, rồi chảy tiếp, đọng lại. Cuối cùng cái khoá kéo mở toang như tuyết lở, một màu xanh ước mơ bỗng hiện lên lấp lánh trước mắt Kim Trân. Tưởng chừng có một bàn tay giết người ẩn hiện, Kim Trân giật mình, ngồi bật dậy, kêu to:

“Vasili, nguy rồi!”

“Chuyện gì?”

Vasili nhảy xuống giường, trong bóng tối anh trông thấy Kim Trân đang run lẩy bẩy.

“Sổ tay, sổ tay!”.

Kim Trân kêu thất thanh.

Thì ra trong cái cặp ấy có cuốn sổ tay công tác của anh.

(Ghi theo lời kể của Cục trưởng Trịnh)

Có thể hình dung, là một con người cô độc, một con người chìm vào trầm tư như chết, Kim Trân thường nghe thấy những âm thanh kì diệu. Những âm thanh ấy hình như đến từ bầu trời xa lắc, lại như từ đáy sâu linh hồn, những âm thanh ấy lúc chờ thì không đến, trông mong không thấy đâu, nhưng lại bất ngờ bắt gặp, không mời mà đến, có lúc xuất hiện trong giấc mơ, giấc mơ trong giấc mơ, rất thần bí khó lường. Nếu tôi nói, những âm thanh ấy phát ra từ trời đất, nhưng thật ra từ trong con người cậu ta, bắn ra từ linh hồn cậu ta, toả ra từ ánh sáng tâm linh lấp lánh, rồi lấp lánh toả ra tiếp, cậu ta cần phải ghi lại. Nếu không, nó đến nhanh mà đi cũng nhanh, nó đi không để lại hình bóng. Bởi vậy, Kim Trân tạo cho mình thói quen đem theo sổ tay và bút, bất cứ lúc nào, bất cứ đi đến đâu, sổ tay và bút như cái bóng lặng lẽ theo cậu ta.

Tôi biết, đấy là cuốn sổ tay cỡ nhỏ, trang bìa in chữ “Tuyệt mật” và mật hiệu, trong đó ghi chép những suy nghĩ kì dị về hắc mật mấy năm qua. Thông thường, Kim Trân để cuốn sổ ở túi dưới phía bên trái của áo mặc. Lần này đi công tác, vì phải đem theo các loại giấy tờ, cậu dùng một cái cặp da, cuốn sổ để vào đấy. Cái cặp da là quà của ông Cục trưởng đi nước ngoài về tặng cậu, cặp da bò loại tốt, kiểu cách nhỏ xinh, rất tiện lợi, quai xách bằng da có thể co lại và nới rộng, lồng vào cổ tay, cái cặp da trở thành túi áo nối dài. sổ tay để trong đó, tôi nghĩ, Kim Trân không còn cảm thấy bất tiện, cũng không lo mất, cảm giác như vẫn để trong túi áo. 

Mấy hôm nay, có hai lần Kim Trân phải dùng đến sổ tay.

Lần thứ nhất là buổi chiều trước đấy bốn hôm, lúc ấy anh vừa từ hội nghị ra, vì có một người lên phát biểu tỏ ra không biết gì và rất thô bạo, anh vừa bực vừa giận, về phòng nằm thở hổn hển, mắt nhìn ra cửa sổ. Thoạt đầu anh chú ý đến bầu trời ngoài kia đang tối dần, do thị giác không chỉnh, anh thấy bầu trời nghiêng, có lúc anh chớp mắt, lại xoay chuyển. Sau đấy, ánh mắt anh mỗi lúc một mờ đi, cửa sổ, bầu trời, thành phố, bóng chiều... tất cả đều mờ ảo, tiếp đấy là bầu không khí chuyển động của trời chiều cháy đỏ - anh thấy rõ không khí vô hình lay động, chúng lay động như ngọn lửa, lại như trào ra ngoài bầu trời. Không khí lay động, âm thanh của trời chiều rực cháy, tất cả như bóng tối dần dần lan toả vây bọc quanh anh. Cứ như vậy, chỉ trong chốc lát, anh cảm thấy trong cơ thể có một dòng điện quen thuộc chạy qua, cơ thể phát sáng, nhẹ bỗng, cảm giác toàn thân biến thành không khí, giống như ánh lửa bùng cháy lay động, bốc hơi, bay lên tận tầng mây ngoài bầu trời. Cùng lúc ấy, một giọng nói chập chờn như cánh bướm bay đến... Đấy là âm thanh số phận đến từ ngoài bầu trời, là âm thanh tự nhiên, là ánh sáng, là ngọn lửa, là anh linh, anh cần phải ghi lại.

Đấy là lần đầu anh phải dùng bút kể từ hôm đi công tác, sau đấy anh nghĩ lại, đấy là sự phẫn nộ thiêu cháy anh, phẫn nộ đưa linh cảm đến với anh. Lần thứ hai là sáng sớm hôm qua, trên con tàu lắc lư anh vui mừng mơ thấy tiến sĩ Englert, đồng thời được nói chuyện với ông ta rất lâu, tỉnh dậy, anh ghi lại nội dung buổi nói chuyện với tiến sĩ Englert.

Có thể nói, trên con đường chinh phục mật mã, trên lối nhỏ của thiên tài, Kim Trân không hò hét, cũng không ra sức cầu cứu, mà luôn luôn chống hai cây gậy, tức là, cần cù và cô độc. Cô độc khiến anh sâu sắc và cứng rắn, cần cù có thể làm anh có được vận may từ vũ trụ. Vận may là ma quỷ, không trông thấy, không sờ thấy, không diễn tả rõ ràng, chờ đợi không đến, cầu mong không thấy, chập chờn ẩn hiện như quỷ thần, có thể đấy là thứ thần bí nhất trần gian. Đồ ma quỷ! Nhưng vận may của Kim Trân không có gì là thần bí, thậm chí rất hiện thực, chúng ẩn náu trong những con chữ ghi trong sổ tay.

Nhưng rồi cuốn sổ tay không cánh mà bay!

Sau khi an ủi Kim Trân, Vasili như lửa đốt, anh ta trở nên bận rộn và căng thẳng. Đầu tiên anh tìm cảnh sát trên đoàn tàu, yêu cầu hành khách ngồi tại chỗ, nghiêm cấm nhảy tàu, thông qua hệ thống vô tuyến điện của đoàn tàu (Trung chuyển qua ga của thành phố A) báo cáo tình hình cho đơn vị 701. Đơn vị 701 lại báo cáo với Tổng cục, Tổng cục báo cáo với cấp trên, cứ như vậy báo cáo lên cấp cao, cuối cùng lên đến thủ trưởng tối cao. Thủ trưởng tối cao chỉ thị gấp:

“Việc mất cắp có liên quan đến an ninh quốc gia, mọi bộ phận có liên quan phải ra sức phối hợp, bằng mọi cách để lấy lại.”

Sổ tay của Kim Trân mất như thế nào? Nó có liên quan đến bí mật của đơn vị 701, mặt khác nó liên quan đến việc có thể phá được khoá mật mã Hắc mật hay không. Sổ tay của Kim Trân là kho tư duy của anh, mọi suy nghĩ và là chìa khoá đều tập trung cả ở đấy, liệu có thể mất được không?

Không thể!  

Không thể không tìm ra!

Tàu đã tăng tốc, nó phải về đến ga đúng giờ.

Tiếp theo là ga thành phố A, tức là Kim Trân đã về đến cửa, sự việc xảy ra là có âm mưu từ trước, chẳng khác nào số trời đã định, không ai ngờ tới, rất nhiều ngày qua đi, không xảy ra việc gì, vậy mà đến lúc này về đến cửa, lại xảy ra chuyện mất cái cặp da mà không mất cặp bảo hiểm. Hơn nữa, thủ phạm xem ra không phải là kẻ địch đáng sợ, mà là một tên ăn cắp. Tất cả như trong mơ, Kim Trân cảm thấy bấn loạn mệt mỏi, một mê cung trống rỗng vây bủa anh, giày vò anh. Con tàu vẫn lao về phía trước, cảm giác càng bức xức, tưởng như đoàn tàu không phải chạy về thành phố A, mà là lao xuống địa ngục.

Đoàn tàu đến thành phố A liền bị phong toả, một tiếng đồng hồ trước đấy là ga thành phố B, toàn thành phố cũng bị bí mật quản chế.

Những điều thường thức bảo với mọi người: tên kẻ cắp đã xuống tàu, đấy là thành phố B.

Không ai không biết, chỗ trốn kín nhất của một ngọn lá là trong rừng sâu, chỗ trốn kín nhất của một người là trong đám đông, là thành phố, bởi muốn trinh sát phá những vụ án như vậy là rất khó, nói rõ hơn, cái bé nhỏ trong đó là khó của cái khó, có thể đưa ra rất nhiều cứ liệu để trông thấy một chút manh mối trong cả quá trình phá án.

Theo ghi chép của tổ chuyên án đặc biệt lúc bấy giờ, trực tiếp và gián tiếp tham gia phá án có các bộ phận sau: Đơn vị 701 (đơn vị đứng mũi chịu sào), Công an thành phố A, Quân đội thành phố A, Cục Đường sắt thành phố A, Đại đội X. của thành phố A, Công an thành phố B, Quân đội thành phố B, Cục đường sắt thành phố B, Cục vệ sinh môi trường thành phố B, Cục quản lí đô thị thành phố B, Cục Xây dựng thành phố B, Cục Giao thông thành phố B, Nhật báo thành phố B, Cục bưu chính thành phố B, Đoàn thanh niên của cơ quan X. thuộc thành phố B. Ngoài ra còn vô số đơn vị nhỏ lẻ khác.

Những nơi phải kiểm tra: ga xe lửa thành phố A, ga xe lửa thành phố B, 220 cây số đường sắt từ thành phố A đến thành phố B, 72 khách sạn, nhà trọ, 637 thùng rác, 56 nhà vệ sinh công cộng, 43 cây số cống rãnh, 9 trạm thu mua phế liệu, vô số nhà dân ở thành phố B.

Hơn 3.700 người trực tiếp tham gia phá án, gồm cả Kim Trân và Vasili.

2.141 hành khách và 43 nhân viên đoàn tàu, hơn 600 lính mặc thường phục bị trực tiếp thẩm vấn.

Vì vậy đoàn tàu về trễ năm tiếng rưỡi đồng hồ.

Thành phố B bị bí mật quản chế 484 tiếng đồng hồ, tức 20 ngày và 4 tiếng đồng hồ.

Mọi người nói đây là vụ án bí mật lớn nhất từ xưa đến nay diễn ra ở tỉnh G, động đến hàng vạn người, mấy thành phố run sợ, quy mô sâu rộng chưa từng có.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4-5


Cũng phải nói đấy là yêu cầu của Kim Trân, chuyện này vẫn chưa hết, chừng như mới bắt đầu.

Lúc anh xuống tàu, xuất hiện ở ke nhà ga, lập tức một toán người ập đến, dẫn đầu là nhân vật số một của đơn vị 701, đại nhân Cục trưởng (Cục trưởng tiền nhiệm của Cục trưởng Trịnh Thọt) - người có bộ mặt ngựa dễ sợ, ít nhất vào lúc ấy Kim Trân thấy như thế. Ông ta đi đến trước mặt Kim Trân, vẻ tức giận làm mất đi cái tôn trọng thường ngày ông ta vẫn dành cho anh, ánh mắt lạnh lùng khiếp hãi.

Kim Trân sợ hãi né tránh ánh mắt, nhưng không tránh khỏi những âm thanh:

“Tại sao không để văn bản mật vào cặp bảo hiểm?”

Lúc ấy mọi người thấy mắt Kim Trân long lanh sáng, rồi lập tức tắt lịm, như sợi tóc bóng điện bị cháy, đồng thời toàn thân cứng như gỗ, ngã vật ra đất.

Khi ánh sáng ban mai chiếu vào ô cửa sổ, Kim Trân mới tỉnh lại, ánh mắt chạm vào khuôn mặt mơ hồ của vợ. Cũng có lúc anh may mắn quên hết mọi chuyện, nghĩ rằng mình đang nằm trên giường nhà mình, vợ anh bị tiếng kêu trong khi anh ngủ mê đánh thức đang lo lắng nhìn anh (Có thể vợ anh vẫn thường ngồi nhìn chồng trong giấc mơ như thế). Nhưng căn phòng trắng và mùi thuốc khiến Kim Trân nhanh chóng tỉnh lại, biết rằng đây là bệnh viện. Vậy là, chỉ trong khoảnh khắc, trí nhớ của anh hồi tỉnh. Anh lại nghe thấy tiếng nói uy nghiêm của ông Cục trưởng:

“Tại sao không để văn bản mật vào cặp bảo hiểm?”

“Tại sao?”

“Tại sao?”

“Tại sao...”

(Ghi theo lời kể của Cục trưởng Trịnh)

Nên tin rằng, chuyến công tác này của Kim Trân không ít kẻ ghen tị, thù địch, vì có sự ghen tị nên phải cảnh giác. Cho nên, nếu nói sự việc xảy ra là bởi cậu ta mất cảnh giác, sơ ý, thật không công bằng nếu coi đấy là kết quả sự xem thường và xem thường nghề nghiệp của cậu. Nhưng không để sổ tay vào cặp bảo hiểm lại như nói Kim Trân không cẩn thận, cảnh giác không cao.

Tôi nhớ rất rõ, lúc họ xuất phát từ đơn vị 701, tôi và Vasili phải ba lần yêu cầu, nhắc nhở cậu ta, bỏ tất cả các văn bản mật, kể cả giấy tờ tuỳ thân vào cặp bảo hiểm, cậu ta cũng đã làm như thế rồi. Trên đường về, Vasili nói, cậu ta rất cẩn thận bỏ các văn bản mật vào cặp bảo hiểm, kể cả cuốn cách ngôn vị Thủ trưởng Tổng cục tặng trong thời gian hội nghị, cuốn cách ngôn này do chính tay Thủ trưởng Tổng cục sáng tác, hoàn toàn là cuốn sách bán ở các hiệu sách, không có gì gọi là bí mật. Nhưng cậu ta nghĩ, trên trang bìa có chữ kí của Thủ trưởng Tổng cục, sợ như thế sẽ lộ thân phận, nên coi nó như một tài liệu mật, tự tay bỏ vào cặp bảo hiểm. Cậu ta bỏ tất cả vào, chỉ để một cuốn sổ tay ở ngoài. Sau khi xảy ra sự việc nghĩ lại, cậu ta đã để quên như thế nào, quả thật như một bí mật cổ xưa sâu kín. Tôi tin rằng, tuyệt đối tin rằng, không phải vì thường dùng đến nó mà để ở ngoài, không thể. Cậu ta không mạo hiểm thế đâu, cậu ta cũng không đủ dũng cảm và cả gan mạo hiểm như thế. Chừng như không có lí do gì, sau khi sự việc xảy ra, cậu ta muốn tìm một lí do cũng khó. Kì lạ là, trước khi sự việc xảy ra, cậu ta hoàn toàn không ý thức được có sự tồn tại của cuốn sổ tay (Sự việc xảy ra rồi, cậu ta vẫn chưa nghĩ ngay đến nó), tưởng chừng như nó chỉ là cái kim gài trên tay áo phụ nữ, không cần hoặc không chú ý nên bị nó đâm vào tay, bình thường không nghĩ đến nó.

Đối với Kim Trân, cuốn sổ tay không thể như cái kim trên tay áo phụ nữ, vì cái kim không đáng tiền nên không để ý. Không thể nghi ngờ cậu ta không nhớ đến nó, mà rất nhớ, ghi vào lòng. Vì đấy là thứ mà cậu vô cùng quý, dùng nó để nói chuyện, là bình chứa linh hồn của cậu ta.

Một thứ vô cùng quan trọng, quý báu đối với cậu ta, là bảo bối của cậu, làm sao có thể xem thường nó?

Đấy là câu hỏi khó trả lời.

Kim Trân rất hối hận, đồng thời anh muốn đi vào mê cung thần bí, tìm ra câu hỏi tại sao anh lại sơ ý bỏ cuốn sổ tay ở ngoài. Thoạt đầu, anh choáng váng trong bóng tối vô cùng vô tận, nhưng dần dần anh thích nghi với bóng tối, bóng tối trở thành điểm tựa để phát hiện ra ánh sáng. Cứ như vậy, anh tiếp cận với ý nghĩ...

Chính vì mình sơ ý, cất giấu nó quá kĩ, giấu vào trong tim mình, thậm chí không để bản thân trông thấy... Có thể trong sâu xa tiềm thức, cuốn sổ tay không tồn tại riêng biệt như một vật thể cụ thể, giống như mình đeo kính... những thứ đó vì quá cần thiết, sẽ không bao giờ rời chúng. Từ lâu chúng găm vào sinh mệnh, trở thành giọt máu của sinh mệnh, một bộ phận của cơ thể... Mình không cảm thấy chúng, giống như mọi người bình thường không cảm thấy tim và máu mình. Con người chỉ đến khi ốm đau mới cảm nhận được cơ thể mình, không đeo kính mới nhớ đến nó, sổ tay chỉ có thể mất...

Nghĩ đến chuyện mất sổ tay, Kim Trân ngồi bật dậy như bị điện giật, anh vừa mặc áo quần, vừa vội vã chạy ra khỏi phòng bệnh, giống như bị lửa đốt bỏ chạy. Vợ anh, một cô gái cao lớn có lẽ chưa bao giờ thấy chồng như thế, cũng phải giật mình. Nhưng chị bình tĩnh chạy theo chồng.

Mắt Kim Trân kém, không quen với bóng tối trong hành lang, anh lại vội vã chạy, lúc xuống, anh ngã ở cầu thang, cặp kính văng ra may mà không vỡ, đúng lúc ấy vợ đuổi kịp anh. Vợ từ đơn vị 701 đến, trước khi đến có người đã báo cho chị biết, có thể Kim Trân đi đường bị mệt, đột ngột lâm bệnh phải vào nằm ở bệnh viện X, chị phải đến chăm sóc. Chị đến, nhưng không biết đã xảy ra chuyện gì. Chị bảo chồng về nghỉ, bị Kim Trân từ chối một cách thô bạo.

Xuống đến dưới nhà, anh vui mừng thấy chiếc xe jeep của mình đang chờ ở sân, anh đến bên chiếc xe, thấy người lái xe đang ngủ gục trên tay lái. Xe đưa vợ anh đến, lúc này Kim Trân đang cần dùng. Lên xe, anh nói dối vợ, anh bỏ quên cặp trên tàu, “đi lấy rồi về ngay.”

Kim Trân biết, tên ăn cắp chỉ có hai cách: thứ nhất, vẫn ở trên tàu, thứ hai là đã xuống tàu ở thành phố B. Nếu còn ở trên tàu chắc chắn nó không thể thoát, vì tàu đã bị phong toả. Cho nên, Kim Trân vội vã đến thành phố B, vì thành phố A không cần anh, mà thành phố B có thể cần người của toàn thành phố.

Ba tiếng đồng hồ sau, chiếc xe con vào sân của Cục cảnh vệ. Anh hỏi thăm đến Tổ chuyên án đặc biệt. Tổ chuyên án đặc biệt đóng ngay trong nhà khách của Cục cảnh vệ, tổ trưởng là một vị Phó Tổng cục trưởng (lúc này chưa đến nhận nhiệm vụ), dưới có năm vị tổ phó là lãnh đạo những bộ phận có liên quan của hai thành phố A và B, trong đó có một vị tổ phó về sau là Cục trưởng Trịnh chống gậy - lúc bấy giờ là Phó cục trưởng thứ bảy - lúc này ông đang có mặt tại Tổ chuyên án. Kim Trân đến, ông Trịnh nói với anh một tin xấu: đoàn tàu phong toả ở thành phố A để kiểm tra nhưng không tìm thấy tên ăn cắp.

Có nghĩa là tên ăn cắp đã xuống ga B.

Vậy là người của tổ chuyên án kéo nhau về thành phố B, ngay chiều hôm đó Vasili cũng đến B, anh ta đến B theo lệnh của Cục trưởng đưa Kim Trân vào bệnh viện điều trị. Có thể Cục trưởng đoán biết Kim Trân sẽ từ chối, cho nên lúc ông ra lệnh liền bổ sung một câu: nếu Kim Trân không chấp hành, anh phải bám theo từng bước bảo vệ an toàn cho Kim Trân.

Kết quả, Vasili chấp hành không phải là mệnh lệnh mà là lời bổ sung.

Không ngờ, một sự thoả hiệp nho nhỏ của Vasili lại mang tai hoạ về cho đơn vị 701.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4-6


Mấy hôm sau, ban ngày Kim Trân như kẻ mộng du lang thang khắp ngõ phố của thành phố B, lại tiêu hao đêm dài đến điên người trong những suy nghĩ xa xôi. Vì hi vọng quá mức nên anh cảm thấy thất vọng cực độ, đêm là thời gian anh thụ hình. Cứ tối đến, anh lại trăn trở giày vò bởi số phận không may của mình, những đêm mất ngủ đè nặng lên anh, thiêu cháy anh. Anh cố moi óc nhớ lại mỗi ngày mỗi đêm vừa qua, mong phán xét bản thân, làm rõ cái sai của mình. Nhưng hình như tất cả đều sai lầm, lại như không có gì sai, tất cả như mơ như ảo. Trong tấm lưới vô tận, nước mắt bi phẫn đốt cháy đôi mắt anh. Trong sự giày vò ghê gớm, anh như bông hoa tàn, những cánh hoa rơi rụng dần, lại như con cừu lạc đàn, tiếng kêu yếu đuối, cô đơn, đau khổ.

Lúc này là buổi tối thứ sáu sau ngày xảy ra sự việc. Cái đêm quý báu và buồn đau này bắt đầu bằng một trận mưa như trút, mưa làm cho Kim Trân và Vasili ướt lướt thướt, khiến Kim Trân ho không ngớt, vì vậy họ về đến nhà muộn hơn mọi ngày. Hai người nằm lên giường, dù mệt mỏi họ vẫn phải chịu đựng, phải chịu đựng tiếng mưa ngoài kia quả là chuyện khó khăn.

Tiếng rào rào khiến Kim Trân nhớ đến một việc đáng sợ.

(Ghi theo lời kể của Cục trưởng Trịnh)

Là đương sự, đối với công tác điều tra, Kim Trân có nhiều ý kiến đặc biệt, ví dụ có lần cậu ta nêu lên, ăn cắp nhằm mục đích lấy tiền, cho nên hắn lấy tiền rồi vứt các thứ đi, coi cuốn sổ tay bảo bối của cậu là thứ giấy lộn. Ý kiến này rất đúng, những người trong tổ chuyên án đánh giá cao, vì thế các thùng rác và đống rác của thành phố B ngày nào cũng có người lục soát. Tất nhiên Kim Trân là một thành viên trong số đó, hơn nữa cậu còn là chủ tướng, làm rất tích cực và cẩn thận, thông thường có người tìm kiếm rồi anh vẫn không yên tâm, tự mình tìm lại một lần nữa.

Nhưng buổi tối thứ sáu sau ngày xảy ra sự việc, một trận mưa như trút, hơn nữa mưa như không tạnh, nước từ trên trời ào ào trút xuống, lại ào ào chảy trên mặt đất, mưa xối xả, khắp các ngõ ngách của thành phố B nước chảy thành sông, nước tràn ngập. Điều ấy khiến mọi người trong đơn vị 701 mà Kim Trân là đại diện đều đau khổ nghĩ rằng, dù có ngày tìm thấy cuốn sổ tay thì tất cả những suy nghĩ quý báu được ghi trong đó cũng bị nhoè. Với lại, nước mưa chảy xối xả rất có thể cuốn trôi cuốn sổ tay, càng khó tìm thấy. Cho nên, trận mưa làm chúng tôi thêm đau khổ, tuyệt vọng, chắc chắn Kim Trân càng đau khổ hơn, càng tuyệt vọng hơn. Đúng ra, trận mưa chỉ là trận mưa thông thường, không ác ý, không liên quan đến hành vi của tên ăn cắp, mặt khác như có gì đó phối hợp xa xôi, lặng lẽ câu kết, là sự tiếp tục, phát triển ác ý, khiến tai hoạ chúng tôi đang gặp phải càng thêm nặng nề.

Trận mưa cũng làm ướt tia hi vọng nhỏ nhoi của Kim Trân.

Trận mưa làm ướt tia hi vọng nhỏ nhoi của Kim Trân.

Từ trận mưa này Kim Trân một lần nữa dễ dàng và trực tiếp nhận ra thật rõ ràng và đậm nét quá trình tai hoạ giáng xuống đầu anh: hình như có một ngoại lực thần bí nào đó thao túng, khiến những gì anh sợ lần lượt xảy ra một cách bất ngờ, hơn nữa rất ngẫu nhiên, đau xót vô cùng.

Từ trận mưa này Kim Trân cũng nhìn lại chuyện thần bí và sâu sắc của mười hai năm trước. Mười hai năm trước, trong giấc mơ về Mendeleyev anh đã đột nhập được vào thiên đường của tử mật, từ đấy đêm trở thành huy hoàng xán lạn đối với anh. Anh đã từng nghĩ rằng, sự thần kì ấy, ý trời ấy không còn nữa, bởi vì nó quá thần kì, thần kì đến độ không ai dám cầu mong. Nhưng bây giờ, sự thần kì và ý trời lại tái hiện trong anh, chẳng qua hình thức không như vậy, giống như ánh sáng và bóng tối, lại giống như cầu vồng và mây đen, hai mặt chính phản của một đồ vật, tưởng như nhiều năm nay anh đi quanh nó, cho dù đối mặt với mặt phải, tất nhiên cũng đối mặt với mặt trái của nó.

Vậy cái đó là gì?

Kim Trân nghĩ, hồi xưa ông Tây dạy anh, trong lòng có đức Giê su cơ đốc, có thể cái đó là Thượng đế toàn năng, thần linh toàn năng, vì chỉ có thần linh mới có tính phức tạp, cũng là sự hoàn chỉnh, tức là có mặt thiện lại có mặt ác, tuy có lương thiện lại có sợ hãi. Hình như chỉ có thần linh mới có được năng lượng và sức mạnh to lớn, khiến anh phải xoay chuyển quanh nó, xoay chuyển và xoay chuyển, đồng thời hiện rõ tất cả: tất cả vui mừng, tất cả khổ đau, tất cả tuyệt vọng, tất cả thiên đường, tất cả địa ngục, tất cả huy hoàng, tất cả huỷ diệt, tất cả vinh quang, tất cả ô nhục, tất cả đại hỉ, tất cả đại bi, tất cả thiện, tất cả ác, tất cả ngày, tất cả đêm, tất cả ánh sáng, tất cả bóng tối, tất cả chính diện, tất cả phản diện, tất cả âm, tất cả dương, tất cả trên, tất cả dưới, tất cả mặt trong, tất cả mặt ngoài, tất cả đây, tất cả kia, tất cả của tất cả...

Khái niệm thần linh long trọng thấp thoáng xuất hiện, khiến trái tim Kim Trân rất bất ngờ trở nên thấu đáo và thanh thản. Anh nghĩ, dẫu vậy, dẫu tất cả đều là chỉ ý của thần linh, liệu mình còn gì để chống lại? Chống lại cũng vô ích. Luật pháp của thần linh là công bằng. Thần linh không thay đổi luật pháp vì một ý nguyện của ai đó. Thần linh quyết định bày tỏ rõ ràng với mọi người về tất cả những gì của mình. Thần linh thông qua tử mật và hắc mật để hiển thị tất cả: vui mừng, khổ đau, hi vọng, tuyệt vọng, thiên đường, địa ngục, huy hoàng, huỷ diệt, vinh quang, ô nhục, đại hỉ, đại bi, thiện và ác, ngày và đêm, sáng và tối, chính diện, phản diện, âm và dương, trên và dưới, trong và ngoài, đây và kia, tất cả và tất cả...

Kim Trân nghe thấy một loạt tiếng hô khẩu hiệu, anh rất thản nhiên và bình tĩnh thu ánh mắt từ ngoài cửa sổ về, tưởng chừng mưa hay không mưa không liên quan gì đến anh, tiếng mưa cũng không làm anh khó chịu. Lúc anh nằm lên giường, tiếng mưa thậm chí khiến anh cảm thấy thân thiết, bởi nó rất thuần khiết, rất ôn hoà, có tiết tấu, Kim Trân nghe và bị nó thu hút và tan chảy. Anh ngủ, đồng thời còn nằm mơ. Trong mơ anh nghe thấy một giọng nói từ xa vọng lại:

“Xin đừng mê tín thần linh.”

“Mê tín thần linh là biểu hiện nhu nhược”.

“Thần linh không cho Englert một cuộc sống hoàn mĩ.”

“Lẽ nào luật pháp của thần linh là công bằng?”

“Luật pháp của thần linh không công bằng...”

Câu cuối cùng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, tiếng nhắc lại mỗi lúc một to hơn, cuối cùng to như tiếng sấm khiến Kim Trân tỉnh giấc, tỉnh rồi tiếng nói ấy vẫn văng vẳng bên tai:

“Không công bằng... không công bằng... không công bằng...” Kim Trân không nghĩ ra đấy là tiếng ai, càng không biết tại sao lại nói với anh “thần linh không công bằng!”. Thôi được, cứ coi như không công bằng, vậy không công bằng ở đâu? Anh bắt đầu suy nghĩ tìm kiếm trong vô biên. Không biết tại đau đầu hay tại hoài nghi, sợ hãi, anh không tìm ra đầu mối của mạch suy nghĩ, mọi ý nghĩ cứ phù du, không đầu, ồn ào huyên náo, trong đầu như nồi nước sôi lục bục, mở ra xem, nhưng không có chút thực chất nào, mọi ý nghĩ lướt qua rất hình thức. Lát sau, cảm giác nước sôi không còn, giống như cho thực phẩm vào nồi, theo đó trong đầu vẫn là tiếng bánh xe lửa nghiến trên đường ray, một loạt hình ảnh kẻ cắp, cặp da, nước mưa... khiến Kim Trân trông thấy tai hoạ ngay trước mắt mình. Nhưng anh không hiểu những thứ đó có ý nghĩa gì, hình như thức ăn chưa chín, về sau những thứ đó chen chúc xô đẩy nhau, nước lại bốc hơi rồi dần dần sôi. Nhưng không phải số không như ban đầu, mà là sự sục sôi của thuỷ thủ sau một chuyến đi xa nay trông thấy bờ, muốn tăng tốc để sớm đến với mục tiêu, cuối cùng Kim Trân nghe thấy tiếng nói thần bí:

“Để tai hoạ bất ngờ hạ gục mi, lẽ nào mi cảm thấy công bằng?”

“Không!”

Kim Trân kêu lên, tung cửa chạy đi, chạy vào cơn mưa như trút, gào lên với bầu trời đêm tối:

“Trời ơi, ông trời không công bằng với tôi!”

“Trời ơi, tôi muốn cho Hắc mật hạ gục tôi!”

“Chỉ có Hắc mật hạ gục tôi mới công bằng!”

“Trời ơi, chỉ có con người tàn ác mới gặp sự không công bằng như thế này!”

“Trời ơi, chỉ có thần linh tàn ác mới để tôi gặp phải điều chê trách thế này!”

“Thần linh tàn ác, nhà ngươi không thể như thế!”

“Thần linh tàn ác, tôi sẽ liều với ngươi...”

Sau một hồi gào thét bỗng anh cảm thấy nước mưa lạnh giá tựa như lửa thiêu đốt, khiến máu trong người cuộn chảy, máu chảy lại làm anh nghĩ đến nước mưa cũng đang chảy. Ý nghĩ ấy vừa loé lên anh cảm thấy toàn thân chuyển động, kết nối với trời với đất, như không khí như sương mù, như mộng như ảo. Cứ như vậy anh nghe thấy những âm thanh lúc mờ lúc tỏ trên bầu trời, những âm thanh ấy hình như xuất phát từ cuốn sổ tay khốn khổ, nó lưu lạc cùng khốn với nét mực nhoè nhoẹt, lúc ẩn lúc hiện cho nên âm thanh cũng lúc rõ lúc không.

Kim Trân, anh nghe đây, nước mưa chảy khiến mặt đất cũng chảy theo. Cho dù nước mưa cuốn trôi sổ tay của anh, cũng có thể nó trôi về với anh, hãy trôi đi, cho dù mọi việc có thể xảy ra, tại sao lại không thể... Cho dù nước mưa có thể cuốn trôi sổ tay, cũng có thể nó trôi về... trôi về... trôi về...

Đấy là ý nghĩ kì lạ cuối cùng của Kim Trân.

Đó là một đêm diệu kì và ác độc.

Ngoài trời vẫn mưa không ngớt, mưa vô cùng vô tận.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4-7


Câu chuyện này nửa vui, nửa buồn. Vui ấy là tìm lại được cuốn sổ tay, buồn ấy là Kim Trân mất tích. Tất cả và tất cả giống như Kim Trân nói, thần linh đưa lại niềm vui cho chúng ta nhưng cũng đưa lại khổ đau, thần linh đang hiển thị tất cả.

Trong cái đêm mưa dai dẳng, Kim Trân đi mất tích. Không ai biết anh đi vào lúc nào, đi trước lúc nửa đêm hay sau nửa đêm? Đi lúc mưa hay khi mưa đã tạnh? Nhưng ai cũng biết từ đấy không thấy Kim Trân về, giống như một con chim bay khỏi tổ, lại như ngôi sao sa vĩnh viễn rời khỏi quĩ đạo.

Kim Trân mất tích khiến vụ án thêm phức tạp, giống như đêm tối trước bình minh. Có người chỉ ra rằng, phải chăng Kim Trân mất tích là sự việc tiếp theo của cuốn sổ tay, là hai bước của một hành động? Nếu vậy, thân phận tên kẻ cắp càng thêm bí hiểm và là thù địch. Nhưng phần đông đều tin rằng, Kim Trân mất tích là bởi anh quá tuyệt vọng, không thể chịu đựng nổi đau khổ. Ai cũng biết, mật mã là sinh mệnh của Kim Trân, cuốn sổ tay là sinh mệnh của sinh mệnh Kim Trân, lúc này hi vọng tìm lại được cuốn sổ tay càng ngày càng ít dần, dù tìm lại được thì nước mưa cũng làm nhoè không còn đọc được nữa, anh không nghĩ ra, có thể lao đi tìm, đấy là điều không phải không có khả năng.

Chuyện sau đấy đã chứng thực sự nghi ngờ của mọi người. Một buổi chiều, có người nhặt được một chiếc giày da ở bờ sông (gần nhà máy lọc dầu) cách thành phố B hơn chục cây số về phía đông. Vasili nhận ra ngay đấy là chiếc giày của Kim Trân, đấy là chiếc giày há mõm, Kim Trân đi mỏi chân, trong lúc bôn ba anh đá tung nó đi.

Vasili càng tin rằng, anh đang đối mặt với khả năng chẳng được việc gì, với tâm trạng lo buồn, anh cảm nhận có thể không tìm thấy cuốn sổ tay, nhưng rất có thể tìm thấy thi thể Kim Trân, thi thể có thể nổi trên dòng sông nước đục ngầu. Nếu thật như thế, Vasili nghĩ, thà rằng lúc ấy đưa Kim Trân về, sự việc trong đầu óc Kim Trân chỉ có thể là không bình thường.

“Chúng ta theo đuổi mục đích chó má!”

Anh ném chiếc giày thật xa, giống như ném đi những năm tháng không ra gì.

Đây là sự việc xảy ra trong ngày thứ chín của vụ án, cuốn sổ tay vẫn bặt vô âm tín khiến mọi người mất hết lòng tin, bóng tối tuyệt vọng bắt đầu bám lấy trái tim mọi người và nó đang sâu sắc thêm. Vì thế Tổng cục quyết định mở rộng điều tra ra công khai - trước đấy điều tra bí mật.

Hôm sau, “Nhật báo thành phố B” đăng ngay trên trang nhất tin “Tìm đồ vật bị thất lạc”. Tin nói dối, một người nghiên cứu khoa học, mất cuốn sổ tay có liên quan đến một phát minh kĩ thuật có tầm cỡ quốc gia.

Phải nói rằng, đây là hành động mạo hiểm, vì tên kẻ cắp có thể giấu hoặc huỷ cuốn sổ tay, theo đó công tác trinh sát rơi vào tuyệt vọng. Điều khiến mọi người khó tin là, mười giờ ba phút tối hôm đó, chuông điện thoại đường dây nóng của Tổ chuyên án bỗng reo lên, Vasili với sự nhạy cảm của mình, một tay chộp ngay điện thoại, nói:

“A lô, Tổ chuyên án đây, có gì nói đi.”

“A lô, a lô, ở đâu đấy, có gì nói đi.”

Tút tút tút...

Điện thoại bị ngắt.

Vasili đặt máy xuống, cảm thấy như đụng phải một cái bóng.

Một phút sau chuông điện thoại lại réo.

Vasili lại cầm máy, vừa lên tiếng thì trong máy có tiếng nói run run vội vã:

“Cuốn, cuốn sổ tay... ở trong thùng thư...”

“Thùng thư nào, a lô, thùng thư nào?”

Tút tút tút...

Điện thoại lại bị ngắt.

Tên kẻ cắp, tên kẻ cắp đáng giận lại đáng yêu, có thể vì quá hoảng sợ nên không kịp nói hòm thư nào rồi vội bỏ máy xuống. Nhưng như vậy cũng đủ, rất đủ. Thành phố B có mấy chục thậm chí cả trăm thùng thư, như vậy có là gì? Hơn nữa, vận may tìm đến liên tục, Vasili bất ngờ mở thùng thư thứ nhất thì phát hiện ngay cuốn sổ tay.

Dưới ánh sao đêm, cuốn sổ tay toả ánh xanh, nó lặng lẽ đến ghê rợn, nhưng là sự lặng lẽ hoàn mĩ, vui mừng, tưởng như đấy là một đại dương thu nhỏ, lại giống như một mảnh đá quý màu xanh.

Cuốn sổ tay vẫn nguyên, chỉ bị xé mất hai trang cuối. Một vị lãnh đạo Tổng cục nói vui trong máy điện thoại: “Có thể tên ăn cắp dùng để chùi cái đít bẩn của nó!”

Một vị lãnh đạo khác của Tổng cục nghe tin, ông vui mừng nói: “Nếu tìm được cái thằng ăn cắp kia, các cậu cho nó một ít giấy bản, đơn vị 701 các cậu có nhiều giấy lắm.”

Nhưng không ai đi tìm tên kẻ cắp.

Vì hắn không phải tên bán nước.

Vì vẫn chưa tìm được Kim Trân.

Hôm sau, “Nhật báo thành phố B” lại đăng tin tìm người, tìm Kim Trân, tin đăng báo thế này:

Dung Kim Trân, nam, 37 tuổi, cao 1,65 mét, người gầy nhỏ, da trắng, đeo kính cận thị nặng màu trà, mặc đồ Tôn Trung Sơn màu xanh, quần màu ghi nhạt, trên túi áo ngực cài cây bút máy nhập khẩu, tay đeo đồng hồ nhãn hiệu Chung Sơn, biết nói tiếng phổ thông và tiếng Anh, cử chỉ chậm chạp, có thể đi chân trần.

Hôm sau vẫn không có hồi âm.

Ngày thứ hai vẫn không có hồi âm.

Ngày thứ ba, “Nhật báo tỉnh G” cũng đăng tin tìm Kim Trân, ngay trong ngày hôm ấy không có hồi âm gì.

Có thể, theo Vasili, không có hồi âm là chuyện bình thường, vì đòi một thi thể có hồi âm là chuyện khó khăn. Anh ta có dự cảm sâu sắc rằng, việc đưa Kim Trân còn sống về đơn vị 701 - đấy là nhiệm vụ của anh ta - là vô cùng khó khăn.

Nhưng trưa ngày hôm sau, Tổ chuyên án thông báo cho Vasili biết, ở huyện M vừa điện cho biết, ở đây có một người giống với Dung Kim Trân, mời người của Tổ chuyên án về nhận mặt.

Giống Dung Kim Trân? Vasili lập tức nghĩ dự cảm của mình là đúng, vì chỉ có thi thể thì mới có hồi âm như thế. Chưa lên đường, Vasili vốn được coi là con người kiên cường, mạnh mẽ chưa chi đã nhoè nước mắt yếu đuối.

Huyện M cách thành phố B chừng một trăm cây số, làm sao mà Kim Trân đến đấy để tìm sổ tay, chuyện thật bí ẩn và kì lạ. Dọc đường, Vasili với con mắt của người trong mộng nhìn lại những tai hoạ đã qua và khổ đau sắp tới, lòng những kinh hoàng, buồn thương. Đến huyện M, Vasili chưa đi tìm người gọi điện thoại, anh đi qua cổng nhà máy sản xuất giấy, chợt để ý đến một người ngồi trước đống giấy phế liệu. Con người này thật đáng chú ý, trông không bình thường, người đầy bùn đất, đi chân trần, rét thâm tím bàn chân, hai bàn tay đỏ ửng, giống như móng vuốt đang cào bới, lật giở đống giấy, tìm từng cuốn vở phế bỏ, xem kĩ từng cuốn, ánh mắt mê mẩn, miệng lẩm bẩm, dáng vẻ thành kính của kẻ gặp nạn, như vị trụ trì gặp nạn đang thành khẩn, buồn đau tìm kiếm kinh bổn nơi cửa chùa.

Đó là một buổi chiều mùa đông có nắng, nắng chiếu trên con người đáng thương, chiếu trên bàn tay đỏ máu.

Chiếu trên đầu gối đang quỳ.

Chiếu trên tấm lưng lom khom.

Chiếu trên khuôn mặt biến dạng.

Chiếu trên miệng, trên mũi, trên cặp kính, trên ánh mắt...

Vasili nhìn đôi tay như móng vuốt dang rộng, vươn dài, đi tới gần con người kia, cuối cùng nhận ra đấy là Kim Trân.

Kim Trân đây rồi!

Đấy là ngày thứ mười sáu của vụ án, bốn giờ chiều ngày mười ba tháng giêng năm 1970.

Buổi chiều muộn của ngày mười bốn tháng giêng năm 1970, Vasili đưa Kim Trân với vết thương thể xác và linh hồn cùng những bí mật vĩnh viễn, về đến sân đơn vị 701 cao cổng kín tường, từ đấy câu chuyện cũng kết thúc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5-1


Kết thúc cũng là bắt đầu.

Tôi muốn giải thích thêm những sự việc ngoài cuộc đời Kim Trân và tin tức tìm kiếm, đấy là chương năm, chương cuối cùng.

Tôi cảm thấy chương này như hai cánh tay mọc trên thân thể của bốn chương trước, một cánh tay tìm kiếm thời gian trước câu chuyện, một cánh tay nữa thăm dò thời gian sau khi câu chuyện xảy ra. Hai cánh tay rất cố gắng vươn thật xa, dang thật rộng, hơn thế cũng rất may mắn đụng vào những sự thật, có cái như đáp án xa vời và rất hưng phấn. Sự thật, mọi chuyện thần bí và bí mật trong bốn chương trước, thậm chí những gì đặc sắc còn thiếu sẽ lần lượt xuất hiện trong chương này.

Ngoài ra, so với bốn chương trước, dù là nội dung hay ngôn ngữ tự thuật, tôi cố tình không tìm kiếm sự thống nhất về tình cảm, thậm chí cố ý làm nghiêng lệch và biến hoá. Hình như tôi thách thức tiểu thuyết truyền thống thông thường, nhưng kì thật tôi đầu hàng Kim Trân và câu chuyện về anh. Điều kì lạ là, sau khi quyết định đầu hàng, trong lòng tôi bỗng cảm thấy nhẹ nhàng, rất thỏa mãn, cảm giác như đã chiến thắng.

Đầu hàng không có nghĩa là từ bỏ. Khi đọc xong toàn văn các bạn sẽ biết, đấy là do người tạo lập hắc mật đã gợi ý cho tôi. Ôi, tôi đi quá xa mất rồi! Nhưng nói thật, chương này là thế, nói đi nói lại hình như thấy Kim Trân điên tôi cũng phát điên.

Hãy trở lại với câu chuyện.

Có người nghi ngờ hỏi tôi về tính chân thật của câu chuyện, đấy là ngọn roi thứ nhất kích thích tôi viết chương này.

Tôi đã từng nghĩ, để mọi người tin vào câu chuyện, tin là thật, là mục đích không thể bỏ qua. Nhưng câu chuyện này có một yêu cầu đặc biệt, vì nó là thật, không dễ nghi ngờ. Để giữ khuôn mặt vốn có của nó, tưởng như tôi phải mạo hiểm, ví dụ có hai chi tiết tôi có thể hoàn toàn dựa vào tưởng tượng nhưng phải xây dựng thật khéo, thật hợp tình hợp lí, hơn nữa còn có được sự hậu thuẫn của lối tự thuật. Nhưng, mong muốn và nhiệt tình muốn giữ nguyên bản không cho tôi làm như thế. Sở dĩ nói, nếu câu chuyện có khiếm khuyết nào đó thì nguyên nhân không ở người viết, mà tại nhân vật hoặc bản thân cơ chế cuộc sống. Không thể không như thế, ở mỗi con người đều có những điều không hợp logic hoặc có thể nói chưa đủ kinh nghiệm. Đấy là điều không còn cách nào khác.

Tôi cần nhấn mạnh, đây là câu chuyện lịch sử, không phải tưởng tượng, tôi ghi lại những hồi âm từ quá khứ. Có thể hiểu (vì thế có thể tha thứ) một số câu chữ được sửa chữa và có những hư cấu cần thiết, ví dụ tên người, địa điểm, thậm chí tưởng tượng màu sắc của bầu trời lúc bấy giờ. Một số thời gian cụ thể cũng có thể có sự sai lệch, những gì đến nay còn cần giữ bí mật tất nhiên tôi phải tước bỏ, có những miêu tả tâm lí có thể còn vẽ rắn thêm chân. Nhưng không còn cách nào khác, vì Dung Kim Trân là con người chìm đắm vào ảo tưởng, cả đời không có nổi một động tác, động tác duy nhất là phá khoá mật mã, nhưng vì bí mật, nên không có cách nào biểu hiện. Chỉ vậy thôi.

Ngoài ra, tìm thấy Kim Trân ở xưởng sản xuất giấy hay xưởng in huyện M, chuyện này không ai nói chính xác, hơn nữa hôm ấy đưa Kim Trân về không phải là Vasili, mà là nhân vật đứng đầu đơn vị 701, đích thân ông Cục trưởng đi đón. Mấy hôm ấy Vasili vì quá sợ hãi, quá mệt mỏi, nên bị ốm, không thể đi nổi. Vị Cục trưởng này mười năm trước đã xa chúng ta, hơn nữa lúc ông còn sống, ông không nhắc gì đến chuyện hôm ấy, hình như nhắc đến lại cảm thấy không phải với Kim Trân. Có người nói, ông Cục trưởng rất đau lòng về chuyện Kim Trân phát điên, trước lúc chết ông còn tự trách mình. Tôi không biết có nên tự trách mình hay không, chỉ cảm thấy ông tự trách mình khiến tôi càng tiếc cho kết cục của Kim Trân.

Trở lại câu chuyện.

Hôm ấy cùng với ông Cục trưởng đi đón Kim Trân ở huyện M về còn có người lái xe cho Cục trưởng, nghe nói người này lái xe rất giỏi nhưng lại mù chữ, vì thế mới có sự mơ hồ không biết đây là xưởng in hay xưởng làm giấy. Xưởng in và xưởng làm giấy bề ngoài cũng hơi giống nhau, đối với người không biết chữ, với lại lúc nhìn cũng không chú ý, lẫn lộn cũng là chuyện bình thường.

Tôi đã hỏi chuyện người lái xe này, muốn để ông ta phân biệt xưởng in và xưởng làm giấy, ví dụ xưởng làm giấy có ống khói cao, xưởng in thì không có, xưởng in có mùi mực in, xưởng làm giấy có nhiều nước bẩn chảy ra ngoài, nhưng không có mùi. Tuy vậy người lái xe vẫn không thể xác định nổi, lời lẽ hàm hồ, không chắc chắn.

Có lúc tôi nghĩ, có thể đấy là sự phân biệt giữa người có văn hoá và người không có văn hoá. Người không có văn hoá thường khó khăn trong việc phán đoán sự việc đúng sai phải trái, với lại cũng đã mấy chục năm rồi, người lái xe bây giờ là một ông già lẫm cẫm, rượu thuốc quá độ khiến trí nhớ của ông cũng bị thoái hoá nghiêm trọng. Ông nói một cách chắc chắn với tôi, sự việc xảy ra hồi năm 1967, không phải năm 1969. Sai lầm ấy khiến tôi mất tin tưởng vào những tư liệu ông cung cấp. Cho nên cuối câu chuyện thiếu hẳn một người xuất hiện, tôi cứ để nó sai, cho Vasili thay ông Cục trưởng đến huyện M.

Điều ấy phải nói rõ.

Đấy cũng là chỗ sai sự thật lớn nhất trong câu chuyện.

Về việc này tôi luôn cảm thấy đáng tiếc.

Có người tỏ ra quan tâm đến cuộc sống sau đấy của Kim Trân, đấy là ngọn roi thứ hai cổ vũ tôi viết chương này.

Có nghĩa là bảo tôi hãy nói với mọi người rằng, tôi đã hiểu câu chuyện này thế nào.

Tôi rất đồng ý nói.

Thật ra, tôi có thể tiếp xúc với câu chuyện này là do một lần cha tôi gặp hoạ. Mùa xuân năm 1990, cha tôi bảy mươi lăm tuổi vì trúng phong bị liệt, phải nằm viện, sau khi chữa trị không khỏi, phải chuyển sang viện điều dưỡng Linh Sơn. Có thể đây là bệnh viện người chết, nhiệm vụ duy nhất của bệnh nhân ở đấy là nằm yên chờ chết.

Sang đông, tôi đến viện điều dưỡng thăm cha, tôi phát hiện cha tôi sau một năm ốm nặng, trở nên hiền từ, thân ái đối với tôi, đồng thời trở nên thích nói chuyện. Có thể thấy, ông muốn lải nhải biểu thị nhiệt tình và tình yêu thương đối với tôi. Thật ra đấy là điều không cần thiết, vì tôi và ông đều biết, lúc tôi cần ông yêu thương nhất, hoặc do nguyên nhân nào đó, ông đã không yêu thương tôi đúng mức, có thể ông không ngờ gặp khó khăn như ngày hôm nay. Nhưng không có nghĩa là hôm nay ông phải yêu thương bổ sung. Không có chuyện ấy. Dù sao đi nữa, tôi tin mình không có ý nghĩ hoặc tình cảm nào khác đối với những gì không đúng của ông trong quá khứ, để ảnh hưởng đến tình thương yêu và lòng hiếu thảo của tôi đối với ông.

Nói thật, hồi đầu tôi cực lực phản đối cái viện điều dưỡng này, chỉ vì cha tôi yêu cầu, tôi đành chấp nhận. Tôi biết tại sao cha tôi đòi vào đây, không phải ông lo vợ chồng tôi không tận tình chăm sóc, khiến ông phải khó xử. Cũng có thể lo con cái bất hiếu với người ốm lâu. Nhưng tôi nghĩ còn có một khả năng khác, trông thấy ông đau ốm có thể chúng tôi đồng tình, thông cảm và càng có hiếu hơn.

Nói thật, thấy cha tôi cứ lải nhải những chuyện xấu hổ và đáng tiếc trong quá khứ, tôi cảm thấy khó chịu. Nhưng khi ông nói chuyện trong viện điều dưỡng, đủ chuyện li kì của bệnh nhân tại đây, tôi nghe rất vào, nhất là nói đến chuyện Dung Kim Trần. Lúc ấy cha tôi biết nhiều chuyện về Kim Trân, vì họ đều là bệnh nhân với nhau, gần nhau, như láng giềng.

Cha tôi nói, Kim Trân ở đây đã hơn chục năm, không ai không biết anh ta, hiểu anh ta. Mỗi bệnh nhân mới vào đều được nhận một món quà đặc biệt, đấy là chuyện của Kim Trân, mọi người truyền nhau câu chuyện về vinh quang và vất vả của Kim Trân trở thành trào lưu. Mọi người thích bàn luận là bởi Kim Trân rất đặc biệt, rất đáng kính. Tôi nhận ra rằng, ở đây ai cũng kính trọng Kim Trân, dù anh xuất hiện ở đâu, hễ trông thấy anh mọi người liền chủ động đứng lại, đưa mắt chào anh, nhường lối cho anh đi, mỉm cười với anh, tuy có thể anh không cảm nhận nổi. Lúc bác sĩ, y tá đến với anh, anh luôn luôn mỉm cười, khẽ nói chuyện, lúc lên xuống bậc thềm, họ rất cẩn thận đỡ anh, không để mọi người nghĩ anh là ông già hay trẻ con hoặc vị thủ trưởng nào đó.

Trong đời tôi chưa bao giờ thấy một người ốm đau được tôn kính như vậy, trên truyền hình đã trông thấy một lần, đấy là nhà khoa học ngồi trên xe lăn người Anh Stephen Hawking.

Tôi ở lại viện điều dưỡng một ngày, phát hiện bệnh nhân ban ngày đều có cách giết thời gian, họ tụ tập dăm ba người, hoặc đánh cờ, hoặc đánh bài, hoặc đi dạo, hoặc nói chuyện, bác sĩ y tá đến phòng bệnh kiểm tra hoặc phát thuốc đều phải thổi sáo gọi họ mới về. Chỉ có Kim Trân một mình lặng lẽ ngồi trong phòng, ăn cơm hoặc đi dạo bộ cũng phải có người gọi, nếu không anh không chịu rời buồng bệnh, giống như hồi xưa ở trong phòng giải mã. Vì vậy, viện phải cử một hộ lí chuyên trách, mỗi ngày ba lần đưa Kim Trân đến nhà ăn ăn cơm, cơm xong cùng anh đi dạo bộ nửa tiếng đồng hồ. Cha tôi nói, lúc đầu không ai biết quá khứ của Kim Trân, có những hộ lí cảm thấy phiền hà, không làm tròn trách nhiệm, thậm chí bỏ đói anh. Về sau, có một vị thủ trưởng cỡ lớn đến đây, ngẫu nhiên phát hiện, vậy là ông triệu tập bác sĩ y tá toàn viện để nói chuyện. Ông nói:

“Nếu gia đình các anh chị có người già cả, các anh chị đối xử thế nào với người già cũng phải đối xử với anh ấy như thế; nếu gia đình các anh các chị chỉ có trẻ con không có người già, các anh các chị đối với trẻ con như thế nào thì phải đối xử với anh ấy như thế, nếu gia đình các anh các chị không có người già và trẻ con, các anh các chị đối với bản thân thế nào thì phải đối xử với anh ấy như thế.”

Từ đấy về sau, những chuyện vinh quang và bất hạnh của Kim Trân lan truyền rộng rãi trong viện, đồng thời anh trở thành bảo bối của viện, không ai dám không chu đáo với anh, tỏ ra tận tình hơn với anh. Cha nói, nếu không phải do tính chất công tác quyết định, hoặc anh đã trở thành nhân vật anh hùng, mọi người mọi nhà sẽ biết, sự tích thần kì và vinh quang của anh sẽ được đời đời truyền tụng.

Tôi nói: “Tại sao không cử một người chuyên chăm sóc? Anh ấy rất xứng đáng được đãi ngộ như thế.”

“Đã có.” Cha nói, “nhưng vì thành tích của anh ấy được mọi người biết, mọi người đều tỏ ra tôn kính, muốn dành cho anh chút yêu thương, cho nên người chăm sóc chuyên trách trở nên thừa, phải bỏ đi.”

Cho dù mọi người tận tình quan tâm, chăm sóc đến anh, nhưng tôi thấy anh sống rất khó khăn, vài ba lần qua cửa sổ thấy anh ngồi ngơ ngác ở sofa, có mắt nhưng không thấy, ngồi bất động, giống như một pho tượng, nhưng hai tay như bị kích thích, cứ run lẩy bẩy. Buổi tối, qua bức tường trắng của bệnh viện, tôi vẫn nghe thấy tiếng ho già nua, có cảm giác như có vật gì đánh vào anh. Vào lúc đêm khuya thanh vắng, phòng bên vang lên tiếng kêu nghe như tiếng kèn đồng. Cha nói, đấy là tiếng khóc của anh trong lúc mơ.

Một buổi tối, trong nhà ăn của viện, tôi bất ngờ gặp Kim Trân, anh ngồi đối diện với tôi, ngồi co ro, cúi đầu, bất động, trông như một vật gì đó hoặc như một đống áo quần. Trông anh rất đáng thương, những biểu hiện trên nét mặt đều là dấu tích đáng ghét của thời gian đã mất. Tôi vừa lặng lẽ lén nhìn anh vừa nhớ đến lời cha nói. Tôi nghĩ, con người này đã có một thời trai trẻ, hăng say tài giỏi, là công thần của đơn vị 701 đặc biệt, có cống hiến to lớn cho sự nghiệp của đơn vị 701. Nhưng bây giờ đã già, lại mang bệnh thần kinh khá nặng, thời gian vô tình đã dồn ép anh, chỉ còn lại bộ xương (anh gầy giơ xương), giống như nước chảy chỉ còn trơ đá, ngàn đời nhân loại để lại câu thành ngữ càng ngày càng hay. Trong bóng tối, tôi thấy Kim Trân rất già, già đến kinh người, người già rất có thể xa người đời bất cứ lúc nào.

Anh cúi đầu, không phát hiện tôi nhìn lén, anh ăn xong, đứng dậy đang chuẩn bị đi, vô tình chạm vào ánh mắt tôi. Tôi phát hiện ánh mắt anh rất sáng, tưởng như sống lại, chậm bước về phía tôi, giống như người máy, nỗi đau và bóng tối hiện lên khuôn mặt, giống như một người ăn xin. Đến trước mặt tôi, anh nhìn tôi bằng cặp mắt cá vàng, đồng thời đưa hai tay ra cho tôi, giống như muốn xin gì, đôi môi mấp máy, khó lòng lắm mới nói nổi một câu:

“Sổ tay, sổ tay, sổ tay...”

Tôi giật mình hốt hoảng vì cử chỉ bất ngờ của anh, rất may cô y tá trực ban đến giải thích cho tôi. Cô khuyên giải và dìu anh, anh ngước lên nhìn cô y tá, lại quay đầu nhìn tôi, rồi đi một bước lại dừng, cứ thế ra cửa, biến mất trong bóng tối.

Sau đấy cha tôi nói, bất kể là ai, nếu anh ta trông thấy đều đi tới, hỏi cuốn sổ tay, hình như trong ánh mắt khách có giấu cuốn sổ. Tôi hỏi: “Anh ấy vẫn tìm sổ tay cơ à?”

Cha nói: “Đúng, anh ấy vẫn tìm sổ tay.”

Tôi hỏi: “Cha bảo tìm thấy rồi cơ mà?”

“Đúng là đã tìm thấy. Nhưng anh ấy làm sao biết được?”

Hôm ấy tôi thật sự ngạc nhiên.

Tôi nghĩ, một người bình thường sẽ không nghi ngờ người bị bệnh tâm thần đã mất hẳn trí nhớ, nhưng kì lạ là, mất cuốn sổ tay mà anh vẫn nhớ, vẫn ghi nhớ trong lòng. Anh không biết đã tìm thấy cuốn sổ, không biết thời gian vô tình trôi bên anh. Bây giờ Kim Trân không còn gì, chỉ còn bộ xương, với lòng kiên nhẫn vốn có, vẫn kiên nhẫn đi tìm cuốn sổ tay suốt hai mươi năm.

Đấy là hiện tại và tương lai của Kim Trân.

Sau này sẽ thế nào?

Liệu có xuất hiện kì tích không?

Tôi buồn rầu nghĩ, có thể, có thể.

Tôi biết, nếu bạn là người theo chủ nghĩa thần bí theo đuổi mục tiêu cao xa, nhất định còn hi vọng, thậm chí yêu cầu tôi treo bút. Vấn đề ở chỗ còn nhiều người, họ đều là những người thích hỏi đến tận cùng, thích rõ ràng, không quên số phận hắc mật sau đó, vẫn chưa thoả mãn, khiến tôi phải viết chương này.

Vậy là mùa hè năm thứ hai, tôi tìm đến đơn vị 701 tại thành phố A.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5-2


Giống như thời gian để lại vết sơn đỏ loang lổ trên cổng lớn của đơn vị 701, thời gian cũng xâm thực cái thần bí, uy nghiêm và yên tĩnh của đơn vị 701. Tôi vẫn nghĩ vào đơn vị 701 là chuyện phức tạp lắm, nhưng người lính gác xem xong thẻ nhà báo và chứng minh thư của tôi, rồi bảo tôi đăng kí vào một cuốn sổ đã quăn mép, thế rồi cho tôi vào. Thật đơn giản, tôi vô cùng ngạc nhiên, tưởng rằng người lính gác xem thường nhiệm vụ. Nhưng đi sâu vào trong, tôi hết nghi ngờ khi trông thấy có những người bán rau và những người dân đi chơi, trông họ rất thoải mái như vào chỗ không người, lại giống như về một làng quê nào đó.

Tôi không thích đơn vị 701 như trong tin đồn, cũng không thích đơn vị 701 như hiện tại, điều này khiến tôi có cảm giác hẫng hụt ghê gớm. Về sau tôi hỏi thăm, nơi tôi đến là khu tập thể mới xây dựng, đấy là khu vực trong khu vực, giống như hang động trong hang động, không những không dễ phát hiện, mà có phát hiện được thì cũng đừng hòng vào nổi. Lính gác ở đấy giống như hồn ma, bất ngờ xuất hiện trước mặt khách, toàn thân lính gác như toả khí lạnh giống như người được làm bằng băng. Họ không cho anh đến gần, sợ đến gần nhiệt độ cơ thể anh làm tan chảy họ.

Tôi ở đơn vị 701 mười hôm, có thể hình dung, tôi gặp Vasili, tên thật của anh là Triệu Kì Vinh. Tôi cũng được gặp chị Cù Lợi, vợ Kim Trân, chị không còn trẻ nữa, vẫn làm công việc cũ. Người chị cao lớn, thời gian cũng làm chị nhỏ bớt, nhưng so với người bình thường vẫn cao lớn. Chị không có con, cũng không có bố mẹ, chị bảo Kim Trân là con, mà cũng là bố mẹ của chị. Chị nói với tôi, điều buồn nhất đối với chị hiện nay là không được về hưu sớm, là bởi tính chất công việc của chị. Chị nói, sau này về hưu chị sẽ đến viện điều dưỡng Linh Sơn sống với chồng, nhưng bây giờ chị chỉ có thể đến với chồng vào kì nghỉ hàng năm, mỗi năm chỉ có hai tháng. Không hiểu có phải do làm công tác bí mật lâu ngày, ấn tượng về chị còn lạnh lùng, trầm mặc ít nói hơn cả Kim Trân như người ta vẫn thường nói. Nói thẳng ra, dù là Vasili hay vợ Kim Trân không giúp gì cho tôi, họ giống như những người khác trong đơn vị 701, không muốn nhắc lại những chuyện buồn của Kim Trân. Trước đây, dù có nhắc lại cũng rất mâu thuẫn, tưởng chừng những chuyện buồn khiến họ mất hẳn kí ức, họ không muốn nói, cũng không có cách nào nói ra. Dùng cách nói không có cách nói ra để đạt mục đích không muốn nói, có thể đấy là phương thức hữu hiệu nhất, được lòng nhất.

Tôi đến thăm vợ Kim Trân vào buổi tối, vì không nói được gì nhiều nên tôi về nhà khách sớm. về đến nhà khách được một lúc, tôi đang ghi chép những điều nghe và thấy ở vợ Kim Trân, bỗng có một anh chừng ba mươi tuổi đến tìm, anh ta tự giới thiệu là cán bộ của phòng bảo vệ đơn vị 701, gọi là Lâm, kiểm tra tôi một lần nữa. Nói thật, cậu ta không hữu hảo với tôi, thậm chí còn kiểm tra hành lí và căn phòng tôi ở. Tôi biết, sau khi kiểm tra, cậu ta càng tin lời tôi nói, tôi muốn viết về tấm gương người anh hùng Dung Kim Trân của họ, cho nên tôi không quan tâm đến việc kiểm tra vô lí của anh ta. Vấn đề là như thế, nhưng anh không tin tôi, cứ vặn hỏi, làm khó đối với tôi, cuối cùng anh bảo thu mọi giấy tờ của tôi gồm thẻ nhà báo, chứng minh thư, giấy giới thiệu công tác và thẻ hội viên Hội nhà văn cùng cuốn sổ tay tôi đang ghi chép, bảo là để kiểm tra kĩ tôi một lần nữa. Tôi hỏi, bao giờ trả lại, anh ta bảo còn phải xem kết quả kiểm tra.

Cả đêm hôm ấy tôi không sao ngủ được.

Sáng hôm sau, vẫn là anh ta đến tìm tôi, nhưng thái độ khác hẳn, vừa thấy tôi anh tỏ ra khiêm tốn, không mạo muội như hôm qua, rồi rất khách khí trả lại giấy tờ và sổ tay cho tôi. Rõ ràng, anh rất thoả mãn với kết quả kiểm tra, tôi đồ là vậy. Nhưng thật bất ngờ, anh đưa đến cho tôi một tin tốt lành: ông Cục trưởng muốn gặp tôi.

Được sự hộ tống của anh, tôi đàng hoàng đi qua ba vọng gác, bước vào chốn thâm nghiêm.

Đi qua ba vọng gác, vọng gác thứ nhất là cảnh sát vũ trang có hai người, người gác bên hông đeo súng lục và dùi cui; vọng gác thứ hai của bộ đội, cũng hai người, trên người khoác tiểu liên bóng loáng, chung quanh tường chăng dây thép gai, ngay trước cổng vào là một lô cốt tròn xoay xây bằng đá, bên trong có máy điện thoại, hình như còn có một khẩu súng máy; vọng gác thứ ba người gác mặc thường phục, chỉ có một người, anh ta đi đi lại lại, tay không vũ khí, chỉ cầm bộ đàm.

Thật ra, cho đến nay tôi vẫn chưa biết đơn vị 701 là thế nào, thuộc quân đội hay công an, hoặc của địa phương? Theo tôi quan sát, những người làm việc ở đây phần lớn mặc thường phục, một số ít mặc quân phục, xe cộ đậu trong sân có biển số địa phương, có biển số quân đội, biển số quân đội ít hơn xe biển số địa phương. Tôi hỏi thăm, mọi người cùng trả lời giống nhau, đầu tiên họ nhắc nhở tôi không nên hỏi, sau đây nói không biết, chỉ biết đây là một đơn vị cơ mật của nhà nước, dù là quân đội hay địa phương cũng đều là của nhà nước.

Tất nhiên đều là nhà nước, nói như thế còn có gì để hỏi nữa? Không nói hay nói đều như không, dù sao thì cũng là một cơ quan trọng yếu của nhà nước. Mỗi quốc gia đều có một cơ quan trọng yếu như thế, giống như mỗi gia đình đều có những biện pháp an toàn nhất định. Đấy là sự cần thiết. Không có gì kì lạ. Không có những cơ cấu như thế mói là lạ.

Sau khi qua vọng gác thứ ba, trước mặt chúng tôi là hai con đường nhỏ âm u thẳng tắp, cây trồng hai bên đường cao to, cành lá um tùm, chim chóc nhảy nhót trên cành, ríu ra ríu rít, có rất nhiều tổ chim, cảm giác như đi vào nơi hoang vắng, tưởng chừng đi nữa cũng khó trông thấy bóng người.

Nhưng rất nhanh chóng, tôi thấy trước mặt là một toà nhà sáu tầng, rất đẹp, tường ngoài ốp gạch men màu nâu, trông rất trang nghiêm, vững chắc, phía trước là khoảng đất trống rộng chừng nửa sân bóng đá, hai bên là hai thảm cỏ chạy dài, ở giữa là một bồn hoa hình vuông, trồng rất nhiều hoa, giữa những khóm hoa là bức tượng đá, tạo hình giống như tượng “Nhà tư tưởng” của Rodin[4]. Lúc đầu tôi nghĩ đây là tượng “Nhà tư tưởng” được phục chế, nhưng đến gần thì thấy tượng có đeo kính, dưới chân tượng khắc chữ, nét khắc mạnh mẽ, mới nghĩ là không phải.

Nhìn kỹ lại, tôi giật mình, thấy khuôn mặt bức tượng quen quen, nhưng không nghĩ ra đấy là ai, hỏi Lâm đi bên cạnh, mới biết đấy là tượng.

Dung Kim Trân.

Tôi đứng ngắm bức tượng hồi lâu. Dưới nắng, bức tượng Kim Trân một tay nâng cằm, nhìn thẳng vào tôi, cặp mắt rất có thần, giống mà cũng không giống với Kim Trân trong viện điều dưỡng, giống người thời tráng niên và đã về già.

Tạm biệt Kim Trân, không như tôi tưởng, Lâm không đưa tôi vào bên trong toà nhà, mà đi vòng ra phía sau, vào toà nhà hai tầng nhỏ hơn, tường ốp gạch men xanh có mạch vữa trắng, cụ thể là vào phòng tiếp khách rộng rãi ngay dưới tầng một. Lâm mời tôi ngồi rồi đi ra, lát sau, tôi nghe thấy ngoài hành lang có những âm thanh thật vang, sau đấy một ông già chống gậy tập tễnh bước vào, thấy tôi liền hồ hởi chào:

“Chào, chào đồng chí nhà báo, nào, chúng ta bắt tay...”

Tôi vội đi tới bắt tay ông, mời ông ngồi xuống sofa.

Ông vừa ngồi xuống, vừa nói: “Lẽ ra tôi phải đến gặp anh, vì tôi chủ động muốn gặp, nhưng anh thấy đấy, tôi đi lại không tiện một chút nào, đành phải mời anh vào đây.”

Tôi nói: “Nếu tôi không nhầm, hồi xưa ông đến Đại học N đón Kim Trân, ông họ Trịnh.”

Ông cười hà hà, cầm cái gậy chỉ vào chân mình: “Nó bảo với anh phải không? Các anh là nhà báo thì không thế. Ôi, đúng, đúng, chính tôi, xin hỏi anh là ai nhi?”

Tôi nghĩ, bốn thứ giấy tờ của tôi ông đã rõ, hà tất phải hỏi.

Nhưng để tôn trọng ông, tôi giới thiệu ngắn gọn về mình.

Nghe xong tôi giới thiệu, ông phẩy phẩy tập giấy photocopy cầm trên tay, hỏi: “Những tư liêu này anh lấy ở đâu?”

Tập tài liêu trong tay ông rõ ràng là bản photocopy sổ tay của tôi.

Tôi nói: “Chưa được tôi đồng ý, tại sao ông lại photocopy sổ tay của tôi?”

Ông nói: “Anh đừng lấy đấy làm lạ, chúng tôi buộc phải làm thế này là bởi chúng tôi có năm người cùng chịu trách nhiệm về những gì anh ghi chép, nếu mỗi người chuyền tay nhau xem, sợ mất dăm ba ngày không thể trả lại sổ tay của anh. Bây giờ thì được rồi, năm người chúng tôi đã xem, cho nên sổ tay vẫn là của anh, nếu không nó sẽ là của tôi.”

Ông cười, lại nói: “Điều tôi cần hỏi là, từ tối hôm qua giờ tôi vẫn nghĩ, tại sao anh lại biết những chuyện này, xin hỏi đồng chí nhà báo, đồng chí có thể nói với tôi được không?”

Tôi nói tóm tắt với ông những gì tôi được nghe và thấy ở viện điều dưỡng Linh Sơn.

Ông như hiểu ra, cười nói: “Thế này nhé, anh cũng là con em của hệ thống chúng tôi.”

Tôi nói: “Không, cha tôi làm thiết kế công trình.”

Ông nói: “Tại sao không, cha anh là ai nhỉ? Chưa biết chừng tôi cũng quen.”

Tôi nói với ông, rồi hỏi: “Ông có quen không?”

Ông nói: “Không quen.”

Tôi nói: “Vậy đấy, không thể, cha tôi không thuộc hệ thống của ông.”

Ông nói: “Những người được vào viện điều dưỡng Linh Sơn đều là thuộc hệ thống công tác của chúng tôi.”

Đấy là một tin quan trọng đối với tôi, cha tôi sắp chết, rõ ràng tôi chưa biết cha tôi là ai. Khỏi phải nói, nếu không phải là ngẫu nhiên, tôi sẽ không bao giờ biết được sự thật về cha tôi, giống như thầy Dung đến nay vẫn không biết Kim Trân là ai. Bây giờ tôi đủ lí do để tin rằng, cha tôi tại sao hồi ấy không dành đủ yêu thương cho tôi và mẹ, nhưng vấn đề không ở đấy, vấn đề là cha tôi dù phải chịu đựng oan ức nhưng vẫn không giải thích. Như thế gọi là gì? Là tín ngưỡng hay là cổ hủ? Là đáng kính hay là đáng buồn? Bỗng tôi cảm thấy khó hiểu, mãi đến sáu tháng sau, thầy Dung nói với tôi về nhận thức của mình đối với chuyện này, tôi mới hiểu, đồng thời tin rằng đây là chuyện rất đáng kính trọng hơn là buồn.

Thầy Dung nói, vì một chuyện bí mật mà phải giấu người thân mấy chục năm hoặc cả đời là không công bằng, nhưng nếu không như thế đất nước chúng ta có thể không tồn tại, ít nhất có nguy cơ không tồn tại, không công bằng đành phải không công bằng.

Thầy Dung đã làm tôi yêu quý cha tôi.

Trở lại câu chuyện. Đánh giá đầu tiên của ông Cục trưởng đối với sổ tay của tôi là, không lộ bí mật, tất nhiên tôi vui mừng như trút được gánh nặng, nếu không sổ tay của tôi không còn là của tôi nữa. Lời đánh giá tiếp theo của ông đã đưa tôi vào lãnh cung, ông nói:

“Tôi nghĩ rằng, những tư liệu anh lấy được đều nghe hơi nồi chõ, cho nên có nhiều chuyện đáng tiếc.”

“Thưa Cục trưởng, lẽ nào những gì tôi ghi đều không thật?” Tôi vội hỏi.

“Không!” Ông lắc đầu: “Đều thật cả... nhưng, biết nói thế nào nhỉ, tôi cho rằng, anh hiểu Kim Trân quá ít, đúng, quá ít.”

Nói đến đây ông châm thuốc, rít một hơi, suy nghĩ, rồi ngước lên, rất nghiêm túc nói với tôi: “Đọc những ghi chép trong sổ tay của anh, tuy vụn vặt, thậm chí phần nhiều là những chuyện nghe kể lại, nhưng làm tôi nhớ những chuyện cũ. Tôi rất hiểu Kim Trân, ít nhất là người hiểu cậu ta nhất. Anh có muốn nghe tôi nói những chuyện của cậu ta không?”

Trời đất ơi, thật may mắn, không cầu mà được!

Vậy là, mấy nghìn chữ ngẫu nhiên trong chốc lát nẩy mầm lớn mạnh. Trong thời gian tôi ở đơn vị 701 được gặp ông Cục trưởng vài lần, được hiểu sâu về lịch sử của Kim Trân, “Ghi theo lời kể của Cục trưởng Trịnh” bắt đầu từ đây. Tất nhiên ý nghĩa của chúng không phải chỉ có thế, ở một ý nghĩa nhất định, trước khi quen biết ông Cục trưởng, đối với tôi những chuyện về Kim Trân chỉ là truyền thuyết không đầu không cuối, bây giờ những chuyện ấy đã trở thành một đoạn lịch sử không còn gì nghi ngờ, mà ông Cục trưởng là người thúc đẩy chúng đổi thay và liên kết chúng lại với nhau. Ông không ngần ngại nhớ lại và kể với tôi những gì về Kim Trân, hơn nữa còn cho tôi một danh sách dài những người chí tình đối với Kim Trân trong một thời điểm nào đó, chỉ một số ít đã qua đời.

Điều đáng tiếc nhất đối với tôi là, trước khi rời khỏi đơn vị 701, tôi cứ luôn mồm Cục trưởng, Cục trưởng nhưng lại quên hỏi tên ông, thậm chí cho đến lúc này tôi vẫn chưa biết tên ông. Là quan chức của một cơ quan bí mật, tên là cái vô dụng nhất, thông thường tên bị che lấp bởi mã hiệu và chức vụ, thêm vào đấy là quá trình vinh quang của ông khiến ông bị thọt chân nên cái tên đã bị che khuất. Che khuất nhưng không phải không có, chẳng qua chỉ vùi xuống dưới. Tôi tin, nếu hỏi, ông sẽ nói với tôi, chẳng qua vì tôi rối trí, quên hỏi. Đến lúc này cái tên gọi của ông bỗng loạn cả lên, Tập Tễnh, Trịnh Thọt, Trưởng phòng Trịnh, Cục trưởng chống gậy, Cục trưởng Trịnh, Thủ trưởng... Ở Trường Đại học N vẫn gọi ông là ông Thọt, ông trưởng phòng Trịnh, ông tự gọi mình là Cục trưởng Chống gậy, tôi thường gọi ông là Thủ trưởng hoặc Cục trưởng Trịnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5-3


Cục trưởng Trịnh nói với tôi, quan hệ giữa ông và gia đình họ Dung kế thừa từ đời ông ngoại. Năm thứ hai sau Cách mạng Tân Hợi, ông ngoại của ông kết thân với ông Lily cha, hai người trở thành bạn thân. Ông lớn lên trong gia đình ông ngoại, từ nhỏ đã biết ông Lily cha. Lúc ông Lily cha qua đời, ông ngoại đưa ông đến trường đại học N dự lễ tang của ông Lily cha, lại biết ông Lily con. Lúc ấy ông mười bốn tuổi, đang học năm thứ hai trung học. Khuôn viên Trường Đại học N rất đẹp đã để lại ấn tượng sâu sắc trong ông. Sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở, ông cầm bảng thành tích học tập đến tìm ông Lily con, xin được vào học trung học phổ thông ở Trường Đại học N. Vậy là ông được vào học, thầy dạy ngữ văn là Đảng viên Cộng sản, đưa ông vào đảng. Chiến tranh chống Nhật bùng nổ, ông và thầy giáo cùng bỏ học để lên Diên An, bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng.

Sau khi vào Trường Đại học N, ông và Kim Trân hứa sẽ có ngày gặp nhau trong một cơ quan.

Nhưng, như ông Cục trưởng nói, cơ quan này chưa thành lập ngay từ đầu mà mãi mười lăm năm sau, ông thay mặt đơn vị 701 về Trường Đại học N tìm người làm công tác phá khoá mật mã, tiện thể đến thăm ông Hiệu trưởng và cũng tiện thể nói ông muốn tìm người thế nào, ông Hiệu trưởng cười vui giới thiệu Kim Trân.

Ông Cục trưởng nói: “Tôi không dám nói rõ với ông Hiệu trưởng cần người làm việc gì, nhưng tôi cần người có khả năng về mặt nào, điểm ấy thì tôi nói rõ. Ông Hiệu trưởng nói vậy, tôi liền để ý, vì tôi tin cặp mắt của ông Hiệu trưởng, và tôi cũng biết con người đó. Ông Hiệu trưởng không phải là người thích nói đùa, ông nói đùa với tôi ấy là muốn nói, Kim Trân là người có thể thoả mãn yêu cầu của tôi.

Sự thật là như thế, sau khi gặp Kim Trân chừng như ông quyết định ngay.

Ông Cục trưởng nói: “Anh nghĩ thử xem, một thiên tài toán học, từ nhỏ đã kết bạn với giấc mơ, quen với phương Tây, học xong sẽ đi sâu nghiên cứu bí mật của đại não con người, đúng là nhân tài trời sinh ra để làm công việc phá khoá mật mã, liệu tôi thờ ơ được hay sao?”

Còn việc ông Hiệu trưởng đồng ý cho người như thế nào, ông Cục trưởng bày tỏ, đấy là bí mật giữa ông với ông Hiệu trưởng cũ, ông không nói với ai. Tôi nghĩ, điều này có thể khẳng định, nhất định lúc ấy ông rất bức thiết, đành vi phạm kỉ luật của tổ chức, nói thật với ông Hiệu trưởng, nếu không tại sao đến nay ông vẫn kín như miệng vò?

Trong lúc nói chuyện với tôi, nhiều lần ông bày tỏ, việc phát hiện Kim Trân là cống hiến lớn nhất của ông đối với đơn vị 701, không ai ngờ cuối cùng Kim Trân có cái kết cục đầy bất hạnh. Cứ mỗi lần nhắc đến, ông đều đau khổ lắc đầu, thở dài thườn thượt, luôn miệng nói:

“Kim Trân!”

“Kim Trân.”

"Kim Trân ơi!”

(Ghi theo lời kể của ông Cục trưởng Trịnh)

Nếu nói, trước khi phá được khoá mã tử mật, hình ảnh Kim Trân trong tim tôi còn mờ nhạt, chuyển động bất định giữa người điên và thiên tài, nhưng sau khi phá được khoá tử mật, hình ảnh cậu ta trở nên rõ ràng, đẹp và đáng nể, giống như con hổ già tĩnh lặng. Nói thật, tôi rất phục, rất tôn sùng cậu ta, nhưng lại không dám đến gần. Tôi sợ cậu ta làm tôi bỏng, giật mình, đó là cảm giác đối với một con hổ. Tôi dám nói, trong linh hồn cậu ta là một con hổ. Cậu ta cắn xé khó khăn như hổ cố chấp nhưng rất ngon lành ngấu nghiến miếng thịt, cậu ta nghiến răng ngẫm nghĩ giống như con hổ lặng lẽ để rồi xông lên vồ mồi.

Một con hổ!

Chúa tể của muôn loài!

Thiên vương của giới mật mã!

Nói về tuổi tác, tôi là đàn anh của cậu ta, nói về tư cách tôi là nguyên lão của giới phá khoá mật mã, lúc cậu ta mới đến, tôi là trưởng phòng, trưởng phòng một, trong thâm tâm tôi coi cậu ta là anh cả, việc gì cũng muốn nghe ý kiến cậu ta. Tôi càng hiểu cậu ta, gần cậu ta, kết quả tôi trở thành nô lệ tinh thần của cậu ta, quỳ dưới chân cậu ta, quỳ mà không hề oán thán, ân hận.

Trên đây tôi đã nói, giới mật mã không cho phép xuất hiện hai tâm linh tương tự, tâm linh tương tự chỉ là đống rác. Vì thế, giới mật mã có một quy định bất thành văn, đấy là kỉ luật thép: một người chỉ có thể phá được khoá của một bộ mật mã. Bởi vì, tâm linh của người tạo dựng hoặc phá khoá mã đã bị quá khứ của anh ta hút chặt, tâm linh ấy coi như vứt đi. Nói về nguyên tắc, lẽ ra Kim Trân sau đấy không nên nhận nhiệm vụ phá khoá hắc mật, vì linh hồn cậu ta đã thuộc về tử mật, nếu phá khoá hắc mật, trừ phi cậu ta vò nát tâm linh để rồi tái tạo tâm linh.

Nhưng đối với Kim Trân, chúng tôi không tin quy luật khách quan tồn tại, càng tin cậu ta là một thiên tài. Nói một cách khác, tôi tin rằng, vò nát tâm linh để tái tạo, điều ấy ở Kim Trân không phải không thể. Chúng tôi có thể không tin bản thân, không tin quy luật khách quan, nhưng không có cách nào để không tin Kim Trân. Điều chúng tôi không tin có thể làm được, nhưng đến với cậu ta đều biến thành hiện thực, hiện thức sống động. Như vậy, nhiệm vụ phá khoá hắc mật vô cùng nặng nề cuối cùng đè nặng lên đôi vai cậu ta.

Điều ấy có nghĩa là cậu ta phải xông vào khu vực cấm. Khác với lần trước, lần này cậu bị người khác - cũng là bị tên tuổi chói sáng của bản thân - ném vào khu vực cấm. Không như lần trước, việc thâm nhập vào khu cấm của cánh rừng mật mã là do cậu chủ động...

Tôi không thăm dò nghiên cứu tâm trạng Kim Trân khi tiếp nhận hắc mật, nhưng tôi biết rõ việc cậu gặp nạn và sự bất công. Nếu nói lúc phá khoá tử mật Kim Trân không có một sức ép nào, thảnh thơi lâm trận, đến giờ đi làm, hết giờ ra về, bạn bè và đồng nghiệp bảo cậu ta như đi chơi, nhưng khi phá khoá hắc mật cảm giác ấy ở cậu ta hoàn toàn biến mất. Trên lưng cậu phải cõng cả nghìn cân ánh mắt, ánh mắt đè gãy lưng cậu ta. Trong những năm tháng ấy, mắt tôi trông thấy mái tóc xanh của Kim Trân bạc dần, người gầy quắt, tưởng chừng như vậy để cậu ta dễ bề lẻn vào mê cung hắc mật. Có thể tưởng tượng hắc mật hút hết máu và nước trên người Kim Trân, tuy cậu gậm nhấm hắc mật lại như bóp nát tâm linh mình, gian nan và khổ đau như hai cánh tay ma quỷ đè nặng lên đôi vai. Một con người vốn không liên quan gì đến hắc mật (vì đã phá được khoá tử mật) lúc này lại cõng toàn bộ áp lực của hắc mật, đấy là cái khó của Kim Trân, nỗi buồn của anh cũng là nỗi buồn chung của đơn vị 701.

Nói thẳng ra, tôi không nghi ngờ gì về tài năng và sự cần cù của Kim Trân, nhưng cậu ta không thể một lần nữa sáng tạo kì tích, phá khoá hắc mật. Trong giới phá khoá mật mã mỗi người chỉ phá khoá một bộ mật mã là quy luật thép, tôi không nghi ngờ gì điều ấy. Phải tin rằng, thiên tài cũng là con người, cũng có lúc hồ đồ, cũng phạm sai lầm, hơn nữa, một khi thiên tài phạm sai lầm tất nhiên là rất lớn. Sự thật, hiện tại giới mật mã nhất trí cho rằng, hắc mật không phải là một bộ mật mã cao cấp với ý nghĩa nghiêm túc nhất, trong quá trình lắp đặt khoá có hành động bỡn cợt làm kinh hãi người đời. Chính vì vậy, về sau có người của chúng ta phá được hắc mật, người ấy về tài năng không thể bằng Kim Trân, sau khi người này tiếp tay phá khoá hắc mật, giống như Kim Trân hồi xưa phá khoá tử mật, chỉ cần ba tháng, phá khoá hắc mật rất nhẹ nhàng.

Khoá hắc mật đã bị phá.

Người đó là ai?

Anh (chị) ấy còn sống không?

Cục trưởng Trịnh nói với tôi, người ấy tên là Nghiêm Thực, vẫn còn sống, ông đề nghị tôi đến thăm, sau đấy sẽ quay lại gặp ông, ông bảo vẫn còn tư liệu cho tôi. Hai hôm sau tôi quay lại gặp Cục trưởng Trịnh, câu đầu tiên ông hỏi:

“Anh có thích con người đó không?”

Ông nói con người đó tức là Nghiêm Thực, người phá khoá mật mã hắc mật, ông hỏi khiến tôi không hiểu.

Ông lại nói: “Đừng lấy làm lạ, anh em ở đây không ai thích con người ấy.”

“Tại sao vậy?” Tôi lấy làm lạ.

“Vì ông ta được quá nhiều.”

“Ông ấy phá khoá hắc mật, tất nhiên phải được nhiều chứ!” Tôi nói.

“Nhưng mọi người cho rằng ông ta dựa vào sổ tay của Kim Trân để có được linh cảm phá khoá hắc mật.”

“Đúng vậy, ông ấy cũng nói với tôi như thế.”

“Có chuyện ấy à? Không, ông ta không nói thế đâu.”

“Tại sao không? Chính tai tôi nghe ông ấy nói.”

“Ông ta nói gì?”

“Ông ấy nói, thật ra là Kim Trân phá khoá hắc mật, ông ấy chỉ được tiếng lây.”

“Đúng là một tin mới.” Ông Trịnh ngạc nhiên nhìn tôi. “Trước đây ông ấy tránh nhắc đến Kim Trân, nhưng tại sao với anh, ông ấy lại nói ra? Có thể vì anh là người ngoài chăng?”

Ngừng lại giây lát, ông nói tiếp: “Ông ấy không nhắc đến Kim Trân là để nâng cao mình, cho mọi người cảm giác một mình ông ta phá khoá hắc mật. Có thể thế được không? Sống với nhau mấy chục năm trời, liệu ai không hiểu, tưởng đâu chỉ qua một đêm ông ta trở thành đại thiên tài, liệu có ai tin? Cho nên, cuối cùng xem ra một mình ông ta độc chiếm vinh quang phá khoá hắc mật, ở đây không ai tin nổi, nhiều chuyện dị nghị lắm, tất cả đều bất bình thay cho Kim Trân.”

Tôi nghĩ, nên chăng nói với ông những chuyện ông Thực đã nói? Thật ra, ông Thực không dặn mà cũng không có ý bảo tôi đừng nói lại với ai những gì ông đã nói.

Lặng đi một lúc, ông Cục trưởng nhìn tôi, lại tiếp tục: “Từ trong sổ tay của Kim Trân, ông ta có được linh cảm phá khoá hắc mật, điều ấy không thể nghi ngờ, ai cũng biết, vừa rồi anh nói, bản thân ông ta cũng thừa nhận. Tại sao ông ấy không thừa nhận với chúng tôi? Như tôi vừa nói, trừ phi ông ấy muốn đề cao mình, điều này thì ai cũng hiểu, vì mọi người đều nghĩ như thế. Ông ấy một mực phủ nhận khiến mọi người phản cảm, không tin. Cho nên sự tính toán nhỏ nhen ấy tôi nghĩ không cao tay. Nhưng đấy là chuyện khác, tạm thời không nói đến. Bây giờ tôi có thể hỏi, anh có thể suy nghĩ, tại sao ông Thực lại có được linh cảm qua sổ tay của Kim Trân, mà Kim Trân lại không thể? Đúng lí ra, những gì mà ông Thực có được, Kim Trân phải có từ lâu, vì đấy là của cậu ta, là sổ tay của cậu ta. Ví dụ, cuốn sổ tay như một căn phòng, trong đó có chìa khoá mở hắc mật, chủ nhân không tìm thấy, nhưng một người khác đến không cố ý tìm lại tìm thấy, anh bảo có lạ không?”

Ông đưa ra một ví dụ rất đạt, hình tượng hoá sự thật mà ông hiểu, nói ra một cách rõ ràng nhất, thấu triệt nhất, nhưng tôi nói đấy không phải là sự thật. Nói một cách khác, ví dụ của ông không có vấn đề gì, vấn đề ở sự thật mà ông nhận định. Có lúc tôi thậm chí quyết định nói lại những gì ông Thực đã nói với tôi, đấy mới là sự thật. Nhưng ông không cho tôi nói chen vào mà cứ tiếp tục.

“Cũng chính từ đấy tôi càng tin rằng, trong quá trình phá khoá hắc mật cậu Trân đã phạm sai lầm cực lớn của một thiên tài, sai lầm này một khi rơi xuống đầu thiên tài sẽ biến thành kẻ ngốc. Mà sai lầm xuất hiện, nói cho cùng chỉ là tác dụng của quy luật thép mỗi người chỉ có thể phá được khoá của một bộ mật mã, là di chứng phá khoá tử mật tác yêu tác quái.”

Nói đến đây ông Cục trưởng trầm mặc hồi lâu, tôi có cảm giác như ông đang rơi vào nỗi buồn. Chờ cho ông nói tiếp, nhưng ông nói lời cáo từ. Vậy là tôi muốn nói nhưng không có cơ hội để nói. Không nói cũng chả sao, tôi nghĩ, vì lúc đầu tôi không định nói lại những gì ông Thực nói với tôi, cho dù có cơ hội mà không nói ra cũng tốt, nói ra sợ rằng tôi chỉ thêm gánh nặng tâm lí.

Lúc chia tay, tôi không quên nhắc nhở ông: “Ông bảo còn tư liệu cho tôi cơ mà?”

Ông “ồ” lên một tiếng rồi đến trước cái tủ sắt, mở ngăn kéo, lấy ra một tập hồ sơ, hỏi tôi: “Ở đại học, một thời gian cậu Trân có tên là Lâm, ông giáo sư người Tây tên là Hinsh, anh đã nghe thấy bao giờ chưa?”

Tôi nói: “Chưa.”

Ông nói: “Con người này đã từng cản trở cậu Trân phá khoá tử mật, những lá thư này là bằng chứng. Anh cầm lấy mà xem, nếu cần, anh photocopy.” Đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với Hinsh.

Cục trưởng thừa nhận, ông không hiểu Hinsh lắm, biết được tí gì cũng chỉ là nghe nói. Ông nói:

“Hồi ấy Hinsh liên lạc với chúng ta, tôi đang ở nước Y để học hỏi kinh nghiệm, lúc về tôi cũng không được biết, chỉ có tổ phá khoá tử mật được tiếp xúc, lúc ấy do Tổng cục trực tiếp chỉ đạo, có thể họ sợ tôi cướp công, cho nên giữ bí mật cả với tôi. Những thư này tôi xin được của một vị lãnh đạo Tổng cục, nguyên văn bằng tiếng Anh, nhưng đều được dịch sang tiếng Trung Quốc.”

Nói đến đây, ông Trịnh như sực nhớ ra: “Tôi phải giữ lại nguyên bản tiếng Anh.” Tôi lập tức mở ra, chuẩn bị chọn lấy bản tiếng Trung Quốc. Ngay lúc ấy tôi đọc được một bản ghi chép cuộc nói chuyện điện thoại: “Bản ghi điện thoại của Tiền Tống Nam” giống như lời dẫn truyện, để ngay trên đầu tập thư, tất cả chỉ mấy câu như sau.

Hinsh là nhà quan sát tình báo quân sự cao cấp làm thuê cho quân đội nước X, tôi gặp ông ta bốn lần, lần cuối cùng  vào mùa hè năm 1970, về sau nghe nói ông ta và Phạm Lệ Lệ bị giam lỏng tại căn cứ PP. Không rõ nguyên nhân. Năm 1978 Hinsh chết ở căn cứ PP. Năm 1981 quân đội nước X kết thúc giam lỏng bà Lệ. Năm 1983 bà Lệ đến Hồng Công tìm tôi, mong tôi giúp làm thủ tục để bà ta về nước, tôi không đồng ý. Năm 1986, qua báo chí tôi biết bà Lệ đã về quê, quyên góp xây dựng một công trình nhân đạo tại huyện Lâm Thuỷ. Nghe nói, hiện tại bà định cư ở Lâm Thuỷ.

Ông Cục trưởng nói với tôi, Tiền Tống Nam là đồng chí của chúng ta làm nhiệm vụ trung chuyển thư từ cho Hinsh ở nước X, là người được tuyển chọn rất tốt để tôi hiểu Hinsh, nhưng đáng tiếc, anh này vừa qua đời năm trước. Phạm Lệ Lệ nói trong lá thư là bà vợ người Trung Quốc của Hinsh, muốn tìm hiểu Hinsh bà ta sẽ là người tốt nhất.

Sự xuất hiện của của nhân vật Lệ Lệ khiến tôi vui mừng khôn xiết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5-4


Vì không có địa chỉ cụ thể, tôi nghĩ muốn tìm bà Lệ Lệ có thể rất khó, nhưng khi về huyện Lâm Thuỷ, hỏi thăm những người ở phòng giáo dục thì hầu như ai cũng biết bà. Trong mấy năm vừa qua, bà ta đã quyên góp xây được ba ngôi trường tiểu học, ngoài ra còn tặng hàng trăm nghìn đồng tiền sách cho thư viện mấy trường trung học trong huyện. Có thể nói, những người làm công tác giáo dục ở huyện Lâm Thuỷ không ai không biết bà, kính trọng bà. Nhưng khi tôi đến bệnh viện Kim Hào của thành phố C thì lòng tôi bỗng lặng đi. Vì người tôi cần gặp cổ họng đã bị cắt, cổ của bà vẫn bị băng bó, cảm giác như bà có hai cái đầu. Bà bị ung thư họng, bác sĩ cho biết, tuy vết mổ đã thành công, nhưng bà không còn nói được nữa, trừ phi luyện nói bằng phổi. Nhưng vì mới mổ, người bà rất yếu, không thể trả lời phỏng vấn của tôi. Cho nên tôi không nói gì, chỉ như mọi bậc phụ huynh học sinh trong huyện Lâm Thuỷ để lại bó hoa tươi và lời thăm hỏi rồi ra về. Suốt hơn mười ngày sau đấy tôi đến bệnh viện ba lần, ba lần cộng lại bà dùng bút chì viết cho tôi mấy nghìn chữ, tưởng chừng mỗi chữ của bà đều làm tôi kinh ngạc.

Nói thật, không có mấy nghìn chữ của bà, tôi sẽ không bao giờ biết được thực chất con người Hinsh, biết được thân phận, hoàn cảnh, nguyện vọng, nỗi khó xử, nỗi khốn khó, đau thương của ông ta. Với một ý nghĩa nào đó, sau khi ông Hinsh sang nước X ông không còn xứng đáng được gì khác. Mọi thứ của ông đều sai lầm.

Thật ra, mấy nghìn chữ ấy đáng được kiên nhẫn nghiên cứu và coi trọng. Bây giờ xin được chép ra đây.

Lần thứ nhất.

1. Ông ấy (Hinsh) không phải là người phá khoá mật mã.

2. Tuy ông biết mục đích ông ấy (Hinsh) viết nhiều thư như thế là muốn đưa người khác vào mê hồn trận, tại sao vẫn tin lời ông ấy? Đấy là sự lừa dối, ông ấy đâu phải là người chuyên phá khoá mật mã? Ông ấy chỉ tạo dựng mật mã, oan gia của người phá khoá mã.

3. Tử mật là do ông ấy tạo lập.

4. Chuyện này nói ra dài lắm. Ấy là năm 1946 có người tìm ông, người đến tìm là bạn học hồi học Cambridge. Hình như ông bạn này đang giữ một chức vụ quan trọng trong ủy ban trù bị thành lập nhà nước Israel, đưa ông (Hinsh) đến nhà thờ phố cổ Lầu, trước mặt Thượng đế, với danh nghĩa mấy trăm nghìn đồng bào Do Thái cầu mong ông Hinsh tạo lập cho nhà nước Israel một bộ mật mã. Ông mất nửa năm để tạo dựng bộ mật mã ấy, phía đối phương rất thoả mãn. Sự việc là vậy, nhưng ông ấy sợ mật mã bị người khác phá khoá. Từ thuở nhỏ ông lớn lên trong vinh quang, có lòng tự trọng, không cho phép mình thất bại. Do thời gian quá gấp, sau khi tạo lập mật mã, ông thấy còn nhiều khiếm khuyết, vậy là ông tạo dựng một bộ khác để thay thế. Ông say mê lao vào công việc, cuối cùng mất ba năm mới hoàn thành và ông lấy làm vừa ý. Đấy là mật mã tử mật. Ông yêu cầu phía Israel dùng bộ tử mật để thay thế mật mã trước đó. Kết quả sau khi dùng thử đã chứng minh tử mật quá khó, mọi người không sử dụng nổi. Hồi ấy chuyên gia phá mã Englert còn sống nghe nói có mật điện dùng tử mật, đã nói một câu: tôi phải xem ba nghìn bức điện mật này mới tiếp nhận phá khoá, nhưng tình thế này tôi chỉ còn đủ một nghìn bức[5], ý nói đời ông không còn đủ thời gian để phá khoá tử mật. Nhưng lúc bấy giờ chúng tôi không định rời khỏi đại học N để sang nước X tạo nên căng thẳng với Trung Quốc. Tình hình sau đấy như anh nói, để cứu cha tôi, chúng tôi lấy tử mật để giao dịch với nước X.

5. Đúng vậy, ông ấy nhận định Kim Trân sớm muộn gì rồi cũng phá được khoá mật mã tử mật, cho nên mới cố gắng cản trở Kim Trân.

6. Ở đời ông ấy chỉ khâm phục một người đó là Kim Trân. Ông ấy cho rằng Kim Trân là kết tinh trí tuệ của người Tây, trăm năm mới gặp một người như thế.

7.Tôi mệt rồi, hôm sau nói chuyện tiếp.

Lần thứ hai.

1. Thật ra ông ấy (Hinsh) vẫn đang nghiên cứu tạo dựng mật mã.

2. Mật mã cao cấp giống như nhân vật chính trong một vở kịch, cần có bổ sung thay đổi. Nghiên cứu tạo dựng mật mã cao cấp nói chung đều phải đồng thời nghiên cứu tạo ra hai bộ, một bộ dùng, một bộ dự phòng. Nhưng tử mật là việc của ông Hinsh, một mình ông không thể cùng lúc làm ra hai bộ mật mã. Hơn nữa, lúc ông nghiên cứu không nghĩ nó sẽ trở thành mật mã cao cấp, ông làm giống như nghiên cứu ngôn ngữ, chỉ cần tinh xác tỉ mi. Khi nước X coi đây là mật mã cao cấp, đồng thời quyết định nghiên cứu ngay một bộ tử mật dự phòng, đấy là mật mã hắc mật sau đấy.

3. Đúng vậy, khi ông sang nước X liền bắt tay vào nghiên cứu hắc mật, chính xác là giúp nghiên cứu.

4. Nói một cách nghiêm túc, mỗi người chỉ có thể làm được một bộ mật mã. Ông tham gia nghiên cứu hắc mật, không phải trực tiếp nghiên cứu cụ thể, mà là chỉ ra đặc điểm, đường hướng, giúp họ tránh được sự tương đồng, giao thoa, ông tựa như người hoa tiêu. Ví dụ tử mật bay lên trời, ông yêu cầu hắc mật phải chui xuống đất, còn làm thế nào để chui xuống là việc nghiên cứu cụ thể.

5. Được biết, trước khi Kim Trân phá khoá tử mật, công việc nghiên cứu tạo dựng hắc mật đã cơ bản kết thúc, độ khó không giống với mật mã tử mật. Lấy khó để chiến thắng là nguyên tắc trong tạo lập mật mã cao cấp, tại sao phải tập trung nhiều người có trí tuệ cao để nghiên cứu hắc mật là bởi mọi người nghĩ rằng cái khó sẽ làm nản lòng đối phương. Nhưng được biết Kim Trân sau khi đã phá được khoá mã tử mật, một mặt ông kiên quyết yêu cầu sửa lại hắc mật, mặt khác ông dự cảm Kim Trân đã phá được khoá tử mật cũng có thể phá được khoá hắc mật. Bởi ông biết Kim Trân là một thiên tài đặc biệt, việc đi sâu giải quyết khó khăn sẽ kích thích tài năng thần bí của cậu ta mà không thể làm cậu ta nản lòng. Không thể làm nản lòng đành phải tìm cách đưa vào mê hồn trận, dùng những quái chiêu để đưa tâm trí cậu ta vào mê loạn mới có thể hạ gục cậu ta. Nghe nói, về sau hắc mật được cải tiến rất nhiều, một mặt rất khó, một mặt rất dễ, không ra ngô cũng chẳng ra khoai, nói như ông Hinsh, giống như một người bề ngoài mặc như một nhà nghiên cứu nhưng trong lại không mặc quần lót, không đi tất.

6. Anh nói đúng, giới mật mã có quy định không thành văn, mỗi người chỉ có thể tạo lập hoặc phá khoá một bộ mật mã, bởi tâm linh của người tạo lập hoặc phá khoá mã đã bị quá khứ ám ảnh, tâm linh ấy coi như bỏ đi. Bởi vì không cho phép hai bộ mật mã gần giống nhau. Nhưng Kim Trân quá hiểu ông Hinsh, cậu ấy phá khoá tử mật giống như đánh cờ với ông Hinsh, tâm linh của cậu không thể vì thế mà bị ông Hinsh hút mất. Không bị hút, anh ấy có thể phá được khoá mật mã của người khác. Hắc mật không bị phá theo cách như vẫn thấy.

7. Tôi nghi ngờ điều anh nói hắc mật không phải do Kim Trân phá. Thứ hai, có thể có một người như thế, tôi tin rằng người ấy không dựa vào bản thân, mà là do Kim Trân để lại ghi chép cách phá khoá hắc mật.

8. Nếu có thể, anh nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra với Kim Trân?

9. Như vậy ông Hinsh không sai.

10. Ông Hinsh nói, đời chúng ta bị Kim Trân bóp nát, cuối cùng cậu ấy cũng tự bóp nát mình.

11. Loại người như Kim Trân chỉ có thể tự mình diệt mình, còn không ai có thể diệt nổi. Thật ra, hai người (Hinsh và Kim Trân) đều bị số phận tiêu diệt, có điều khác là, Kim Trân là một phần của số phận Hinsh, nhưng đối với Kim Trân, ông Hinsh chỉ là một ông thầy biết tài năng của học trò.

12. Hẹn anh hôm khác. Lần sau đến anh cho tôi xem những lá thư của ông Hinsh gửi cho Kim Trân.

Lần thứ ba.

1. Đúng vậy, Weinak chính là Hinsh.

2. Điều ấy đã rõ. Hồi ấy, ông Hinsh là nhân vật bí mật của một cơ quan bí mật, liệu có thể dùng tên thật để làm một nhà khoa học được không? Nhà khoa học là người của công chúng, tính chất nghề nghiệp không cho phép. Đạo đức nghề nghiệp cũng không cho phép. Ông ấy là một nhân vật cao cấp lại làm một việc bí mật, liệu cơ quan nào, tổ chức nào cho phép?

3. Bởi vì lúc bấy giờ ông Hinsh chỉ là người trợ giúp nghiên cứu hắc mật, cho nên có thời gian và công sức nghiên cứu chuyên đề. Thật ra, ông ấy muốn tiếp tục nghiên cứu trí năng nhân tạo. Phải nói rằng, lí thuyết toán học song hướng ông ấy đề xuất về sau có tác dụng quan trọng trong việc nghiên cứu phát triển máy tính. Tại sao ông ấy rất muốn Kim Trân ra nước ngoài? Không giấu gì anh, ông ấy có mục đích riêng, muốn đề Kim Trân ở nước ngoài hợp tác với ông ấy nghiên cứu trí năng nhân tạo.

4. Tại sao ông Hinsh lại lao vào con đường chính trị cực đoan, anh hãy tự suy nghĩ, tôi không trả lời được. Nói tóm lại, ông Hinsh là một nhà khoa học, rất ấu trĩ về chính trị, cho nên rất dễ bị tổn thương, mà cũng dễ bị lợi dụng. Những điều anh vừa nói về hành vi chống Cộng của ông Hinsh là sự bôi nhọ, tôi bảo đảm việc ấy không có.

5. Việc này (nước X giam lỏng vợ chồng ông Hinsh) cũng rõ ràng, hai bộ mật mã cao cấp tử mật và hắc mật đều lần lượt bị phá khoá, một bộ do chính tay ông Hinsh tạo dựng, một bộ nữa ông ấy tham gia tạo dựng. Mà phá khoá là do học trò của ông ấy, tôi lại là người của phía bên này, ông ấy viết nhiều thư - tuy bề ngoài là để tạo nên mê hồn trận, nhưng thực tế ai biết có thật mê hồn trận hay không? Hiệu suất phá khoá mật mã cao cấp là rất thấp, nhưng một người liên tiếp phá hai bộ mật mã, mà phá rất nhanh, bình thường mà nói là không thể, khả năng duy nhất là tiết lộ. Ai tiết lộ? Nghi ngờ lớn nhất là ông Hinsh.

6. Chính thức bị giam lỏng từ sau ngày mật mã hắc mật bị phá, cụ thể từ nửa cuối năm 1970. Nhưng trước đó (sau khi tử mật bị phá) hành động của chúng tôi luôn luôn có người theo dõi, thư từ điện báo đều bị giám sát, còn rất nhiều hạn chế khác, sự thật cũng đã bị nửa giam lỏng.

7. Ông Hinsh qua đời năm 1979 là bởi ông ốm.

8. Đúng vậy, lúc bị giam lỏng ngày nào chúng tôi cũng ở bên nhau, ngày nào cũng có chuyện để nói, tại sao tôi biết nhiều như thế, là do ông Hinsh nói chuyện trong thời gian bị giam lỏng, trước đấy tôi không biết một chút gì.

9. Tôi nghĩ, tại sao Thượng đế bắt tôi bị cái bệnh này, hình như vì tôi biết quá nhiều. Kì thật, không có miệng vẫn có thể nói, lúc có miệng tôi chưa bao giờ nói ra.

10. Tôi không muốn đem theo bí mật để ra đi, tôi muốn ra đi thật nhẹ nhàng. Đến với cuộc đời tôi không cần vinh quang, không cần bí mật, không cần bạn bè và kẻ thù.

11. Đừng nói dối tôi, tôi biết bệnh của mình, tế bào ung thư đã di căn, có thể tôi chỉ còn sống thêm vài tháng nữa thôi.

12. Xin đừng nói tạm biệt với người sắp chết, tôi rất bất hạnh. Anh về nhé, chúc anh bình an!

Mấy tháng sau, tôi nghe nói bà ấy mổ sọ não, mấy tháng sau nữa lại được tin bà ấy đã qua đời. Nghe nói, trong lời dặn lại bà ấy còn nhắc đến tôi, mong trong sách không viết tên thật của bà, vì “tôi và chồng tôi muốn được yên tĩnh.” Bây giờ, trong sách hai cái tên Phạm Lệ Lệ và Hinsh đều được đổi tên, cho dù điều ấy đã vị phạm chuẩn mực khi tồi viết cuốn sách này, nhưng biết làm sao được? Một người già số phận long đong lận đận nhưng có trái tim yêu thương, lời di chúc vẫn muốn được yên tĩnh, vì sinh thời không được yên tĩnh!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5-5


Cũng cần phải nói đến Nghiêm Thực.

Có thể vì Nghiêm Thực vứt bỏ Kim Trân để nâng mình lên, nên đã tạo ra sự ngăn cách, ông ta trở nên nhàn rỗi, không còn ở đơn vị nữa mà cùng với cô con gái lên tỉnh G ở. Đường cao tốc khiến cho tỉnh G và thành phố A gần nhau hơn, tôi xuất phát từ đơn vị 701 chỉ mất ba tiếng đồng hồ là lên đến tỉnh G và cũng không mất nhiều thì giờ để tìm được chỗ ở của con gái của ông, gặp được ông Thực đã già.

Trong tưởng tượng của tôi, ông Thực đeo kính cận thị nặng, hơn bảy mươi, gần tám mươi tuổi, mái tóc bạc trắng, ánh mắt giảo hoạt và bí ẩn, cho nên nhìn ông không hiền từ và nho nhã như một ông già. Lần đầu tiên gặp ông, ông đang ngồi trước bàn cờ vây, tay phải đang nắm hai quả bi rèn luyện sức khoẻ màu vàng, tay trái cầm quân cờ trắng, đang suy nghĩ. Nhưng trước mặt ông không có đối thủ, ông đánh cờ một mình. Đúng vậy, ông đang chơi cờ với mình, giống như mình nói chuyện với mình, có cảm giác buồn và cô đơn của người già nhưng chí chưa già.

Cháu gái của ông mười lăm tuổi, học sinh trung học, nói với tôi, ông nội của cháu sau khi về hưu kết duyên với cờ vây, ngày nào cũng đánh cờ, ngồi ngắm bàn cờ tiêu khiển thời gian, ông rất cao cờ, rất khó tìm được đối thủ, cho nên đánh cờ với sách cho đã thèm.

Ông ta đánh cờ một mình, nghĩa là đánh cờ với người giỏi cờ.

Câu chuyện của chúng tôi bắt đầu từ bàn cờ. Ông tự hào nói với tôi, cờ vây rất hay, có thể xua đi nỗi cô đơn, rèn luyện trí óc, di dưỡng tinh thần, kéo dài tuổi thọ, vân vân. Sau khi nói cái lợi của cờ vây, ông tỏ ra tâm đắc, nói chơi cờ vây là bệnh nghề nghiệp của ông.

“Cho nên, người làm công tác phá khoá mật mã, số phận và chơi cờ có mối liên hệ tự nhiên, nhất là những người có cuộc đời bình dị, cuối cùng không gì khác hơn là mê cờ, giống như cướp biển, thuốc phiện, những năm cuối đời muốn làm từ thiện.

Ông giải thích.

Ví dụ của ông khiến tôi tiếp cận với một sự thật nào đó, nhưng...

Tôi hỏi ông: “Tại sao ông cứ nhấn mạnh đến cuộc đời bình dị?”

Ông suy nghĩ rồi nói: “Đối với những thiên tài phá khoá mật mã, nhiệt tình và trí tuệ của họ có thể phát huy trong công việc. Nói một cách khác, tài năng của họ được sử dụng thường xuyên, được sử dụng cho công việc, tinh thần phấn chấn và được phát huy nên cũng được yên tĩnh, sâu xa và không bị áp lực, cũng không bị khô cằn. Không bị áp lực nên cũng không cần xả áp lực, không bị khô cằn nên cũng không cần khát khao yêu cầu tái sinh. Cho nên, đã là thiên tài những năm cuối đời của họ, trong quá trình tổng kết và nhớ lại, họ sẽ lắng nghe được những hồi âm đẹp của bản thân.

“Còn như tôi một cuộc đời bình dị - những người trong cuộc gọi những người như chúng tôi là nửa bầu trời, ý nói có một phần của thiên tài nhưng chưa có sự nghiệp của thiên tài, mấy chục năm sống trong tìm kiếm và áp lực, tài năng chưa được toả sáng, những người như thế về cuối đời không có gì để nhớ lại, cũng chẳng có gì để tổng kết, vậy thì, cuối đời họ làm gì? Hay là vẫn bận bịu, vô thức bận bịu kiếm tìm đất dụng võ, cố gắng giãy giụa trước khi chết? Say mê cờ chính là như thế, là một phần trong đó.

“Thứ hai, xét từ một góc độ khác, các thiên tài một đời khắc khổ đào sâu nghiên cứu, ý đồ sâu xa, đôi chân tư tưởng đi thật xa trên con đường nhỏ hẹp, cho dù lòng có ý nghĩ khác, muốn làm việc khác, nhưng đầu óc đã cố định một hướng, không thể rút ra nổi (ông dùng chữ rút ra khiến tôi thấy gai cả người, cho dù tôi cố nâng tinh thần lên rồi). Não lực của họ, lưỡi gươm tư tưởng của họ không có cách nào vung vẩy múa võ, chỉ có thể đâm chọc như một mũi kim, chọc thẳng. Anh có biết nguồn gốc căn bệnh của người điên không? Thiên tài thất thường và điên cờ cùng một con đường, đều do quá say mê. Anh mời họ đánh cờ vào những năm cuối đời? Không thể được, không còn đánh được nữa.”

Ông nói thêm như để chuẩn bị kết thúc: “Tôi vẫn cho rằng, thiên tài và điên là một cặp đối lập cao độ, thiên tài và điên như hai cánh tay bên phải và bên trái, là hai đầu vươn ra ngoài của cơ thể con người, chẳng qua hai chi khác nhau ở hai hướng. Trong toán học có khái niệm cực đại và cực tiểu, với một ý nghĩa nào đó, thiên tài là cực đại, điên là cực tiểu. Mà trong toán học cực đại và cực tiểu được coi là đồng nhất, đồng nhất vô cực. Cho nên, tôi vẫn thường nghĩ, một ngày nào đó nhân loại phát triển đến một trình độ nhất định, biết đâu điên cũng giống như thiên tài kiệt xuất, tạo sự nghiệp to lớn cho chúng ta. Không nói những chuyện khác, chỉ nói mật mã thôi nhé. Anh nghĩ, nếu chúng ta có thể tư duy như một người điên (tức là không tư duy gì) để suy nghĩ về một bộ mật mã, vậy bộ mật mã ấy không có người phá. Thật ra, sự nghiệp nghiên cứu mật mã là sự nghiệp gần với người điên, càng tiếp cận người điên tức là càng tiếp cận với thiên tài, ngược lại, càng là thiên tài lại càng gần với người điên, về mặt cấu tạo, thiên tài và người điên tương hô tương ứng, thật sự đáng ngạc nhiên. Cho nên tôi không kì thị người điên, là bởi tôi cảm thấy trong con người họ biết đâu ẩn chứa bảo bối, chẳng qua chúng ta chưa phát hiện mà thôi. Họ giống như một khu mỏ mật mã, chờ chúng ta khai thác.”

Nghe ông nói, tinh thần tôi như được tắm gội, có cảm giác tâm linh như được đánh bóng, tưởng như nơi sâu thẳm tâm hồn chất chứa bụi đất, từng lời nói của ông cứ thao thao tẩy rửa bụi trần, khiến tâm linh âm u của tôi như được bừng sáng. Khoan khoái quá, sung sướng quá! Tôi lắng nghe, tận hưởng, đắm say, tưởng như mất hẳn mạch suy tư, cho đến khi ánh mắt chạm vào những quân cờ đen trắng trên mặt bàn mới sực nhớ câu hỏi:

“Vậy ông đã mê cờ như thế nào?”

Ông đặt mình lên cái ghế mây, giọng nói vừa vui vừa tự trào: “Đấy là cuộc đời bình dị của tôi.”

“Không!” Tôi hỏi lại: “Ông phá được mật mã hắc mật, làm sao có thể nói là bình thường?”

Ánh mắt của ông trở nên đờ đẫn, toàn thân co rúm lại, cái ghế kêu cót két, tưởng như suy nghĩ làm cơ thể ông nặng thêm. Lặng đi một lúc lâu, ông ngước mắt nhìn tôi, hỏi rất nghiêm túc: “Anh có biết tôi đã phá khoá hắc mật như thế nào không?”

Tôi thành khẩn lắc đầu.

Anh có muốn biết không?”

“Tất nhiên.”

“Vậy tôi nói với anh, ấy là Kim Trân giúp tôi phá hắc mật.” Ông như cầu cứu: “Ôi, không, không, phải nói là Kim Trân phá khoá hắc mật, không phải tôi.”

“Kim Trân?” Tôi giật mình. “Chẳng phải anh ấy đã... gặp tai hoạ?”

Tôi không nói điên.

“Đúng vậy, anh ấy có chuyện, anh ấy điên. Nhưng anh không nghĩ được rằng, từ tai hoạ của anh ấy, tôi trông thấy bí mật của hắc mật.”

“Là như thế nào?” Tâm linh tôi căng thẳng như muốn vỡ đôi.

“Nói ra dài lắm.”

Ông thở dài, ánh mắt nhìn đi chỗ khác, ông như chìm vào quá khứ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5-6


(Ghi theo lời kể của ông Nghiêm Thực)

Tôi không nhớ rõ thời gian cụ thể, có thể là năm 1969, cũng có thể là năm 1970, dù sao đang là mùa đông, Kim Trân gặp chuyện không may. Trước đấy Kim Trân là Trưởng phòng giải mã của chúng tôi, tôi là phó trưởng phòng. Phòng của chúng tôi là một phòng lớn, lúc đông nhất có bảy người, bây giờ ít rồi, ít nhiều rồi. Trước đấy có một ông trưởng phòng khác, ông ấy họ Trịnh, bây giờ vẫn tại chức, nghe nói là Cục trưởng. Ông ấy cũng là một người tài giỏi, bắp chân bị đạn, đi bước thấp bước cao, nhưng không ảnh hưởng đến việc ông đứng trong hàng ngũ những người tài giỏi. Kim Trân là do ông phát hiện, ông ấy đến khoa toán của đại học N, quan hệ giữa hai người rất tốt, nghe nói có quan hệ bè bạn thân thích gì đó. Trước đấy cũng có một vị trưởng phòng, là sinh viên giỏi của một trường đại học ờ trung ương, trong thế chiến thứ hai đã từng tham gia phá khoá mật mã của quân Nhật, sau giải phóng về đơn vị 701 chúng tôi và cũng đã lập công, rất đáng tiếc, sau đấy bị mật mã tử mật làm cho phát điên. Phòng giải mã chúng tôi may mà có ba người ấy mới giành được thành tích rực rỡ, tôi nói thành tích rực rỡ hoàn toàn không khoa trương thổi phồng, tất nhiên Kim Trân không xảy ra chuyện gì tôi dám khẳng định chúng tôi còn giành được những thành tích to lớn hơn nữa, càng vinh quang hơn, không ngờ... Ôi, không ngờ, việc đời không biết đâu mà ngờ!

Sau khi Kim Trân có chuyện, cấp trên quyết định tôi làm trưởng phòng, đồng thời tôi gánh trách nhiệm phá khoá mã hắc mật. Cuốn sổ tay kia, sổ tay của Kim Trân là tư liệu bảo bối để phá khoá mã hắc mật, tất nhiên cũng đến tay tôi. Anh biết không, cuốn sổ tay ấy là bình chứa tư tưởng của Kim Trân, cũng có thể nói, là bộ óc suy nghĩ về hắc mật, trong đó là những suy nghĩ của anh ấy về mật mã hắc mật, toàn những suy nghĩ kì lạ. Khi tôi đọc từng chữ từng câu, từng trang sổ tay cảm thấy từng chữ một đều rất quý, thật sự ngạc nhiên, mỗi chữ đều có hơi thở đặc biệt, kích thích tôi rất mạnh. Tôi không phát hiện được tài năng nhưng có năng lực nhận biết tài năng, ghi chép trong sổ tay bảo với tôi đường hướng phá khoá hắc mật. Kim Trân đã đi được chín mươi chín bước, chỉ còn bước cuối cùng.

Bước cuối cùng quan trọng nhất, ấy là tìm khoá mã.

Khái niệm khoá mã là thế này, nói ví dụ, hắc mật là cái nhà phải đốt, muốn đốt được nhà trước hết phải có diêm để có lửa, mà số diêm Kim Trân tích góp to như núi, có thể phủ kín ngôi nhà, chỉ còn mồi lửa cuối cùng. Khoá mã là mồi lửa cuối cùng, là điểm nổ.

Những gì có trong sổ tay đã phản ánh đấy là bước cuối cùng để tìm khoá mã, một năm trước Kim Trân đã bắt đầu đi. Ấy là nói, chín mươi chín bước trước đấy Kim Trân đã đi trong hai năm, nhưng bước cuối cùng anh còn chần chừ chưa bước. Điều này thật kì lạ. Theo một ý nghĩa nào đó, một người đi chín mươi chín bước trong hai năm, bước cuối cùng dù khó đến đâu cũng không cần đến một năm vậy mà vẫn chưa bước đi. Đấy là điều kì lạ.

Còn một điều kì lạ nữa là, không hiểu anh có lí giải nổi không, tức là, hắc mật là một bộ mật mã cao cấp đã sử dụng trước đó ba năm, nhưng chúng tôi vẫn không thấy bất cứ một sai sót nào của nó, ba năm không đánh rơi một giọt nước nào, không lộ dấu tích thật của nó, hiện tượng này rất hiếm thấy trong lịch sử mật mã. Điều này Kim Trân đã từng thảo luận với chúng tôi, cho rằng rất không bình thường, anh nhiều lần nghi ngờ, thậm chí nghi ngờ hắc mật là sự sao chép bộ mật mã cũ nào đó. Bởi vì chỉ có đã qua sử dụng tức là mật mã đã qua sửa chữa mới có thể hoàn mĩ đến vậy, nếu không, người tạo ra mật mã trừ phi là một ông thánh, là một đại thiên tài không thể tưởng tượng nổi.

Hai điều kì lạ là hai vấn đề buộc chúng ta phải suy nghĩ. Cứ theo cuốn sổ tay thì biết, Kim Trân đã suy nghĩ nhiều lắm, rất sâu và rất sắc sảo, sổ tay khiến tôi một lần nữa chạm vào linh hồn Kim Trân, đó là cái vô cùng cao đẹp và thật dễ sợ. Khi tôi vừa cầm cuốn sổ tay, tôi đã từng nghĩ để mình đứng lên vai Kim Trân, vậy là tôi suy nghĩ theo những suy nghĩ đã ghi trong sổ tay của anh ấy, nhưng tôi phát hiện mình đang bước vào một tâm linh vô cùng mạnh mẽ, mỗi hơi thở của tâm linh ấy đều gây chấn động và xung động đối với tôi.

Tâm linh ấy đang nuốt chửng tôi.

Tâm linh ấy bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng nuốt chửng tôi.

Có thể nói thế này, sổ tay tức là Kim Trân, tôi càng đối diện với nó, càng gần nó, càng cảm thấy nó lớn mạnh, sâu sắc, kì diệu, càng cảm thấy mình yếu đuối, nhỏ bé, tưởng như càng nhỏ hơn. Trong những ngày đó, qua từng câu từng chữ trong sổ tay, tôi càng cảm thấy thật rõ ràng Kim Trân là một thiên tài, tư tưởng của anh ấy thật kì lạ, càng đi sâu càng thấy sắc sảo, khí thế, sát khí đằng đằng... Tôi càng đọc càng cảm thấy tất cả nhân loại, sự sáng tạo và chết chóc cùng hiện lên, tất cả tạo nên cái mĩ cảm kì dị cực điểm, hiện rõ trí tuệ và tài năng kiệt xuất của loài người.

Cuốn sổ tay tạo cho tôi một nhân vật giống như một vị thánh, sáng tạo nên tất cả, lại giống như ma quỷ bóp nát tất cả, gồm cả trật tự tâm linh. Trước con người ấy tôi cảm thấy nồng nhiệt, sùng kính, sợ hãi, cảm thấy phải quỳ lạy. Sau ba tháng, tôi không đứng lên vai Kim Trân, tôi không đứng lên nổi! Chỉ là rất hạnh phúc và yếu ớt leo lên người anh ấy, giống như đứa trẻ bị lạc nhiều năm nay trườn vào lòng mẹ nó, lại giống như giọt mưa rơi lên mặt đất, ngấm vào lòng đất.

Anh có thể tưởng tượng cứ như vậy nhiều lắm tôi chỉ là người bước ra khỏi bước thứ chín mươi chín của Kim Trân, bước cuối cùng chôn vùi trong đen tối vĩnh viễn. Thời gian cũng có thể để Kim Trân bước nốt bước chân cuối cùng, nhưng tôi không thể, là bởi như tôi vừa nói, tôi chỉ là một hài đồng trên người anh ấy. Bây giờ anh ấy đã ngã xuống tôi mới phát hiện, Kim Trân để lại cho tôi cuốn sổ tay thật ra đã để lại cho tôi nỗi buồn đau, để tôi đứng trước thắng lợi, một thắng lợi hiếm hoi nhưng không có cách nào sờ thấy, nắm bắt được. Thật đáng thương, đáng buồn! Tâm trạng tôi lúc bấy giờ vô cùng khủng hoảng và khó xử.

Nhưng Kim Trân ra viện.

Đúng vậy, anh ra viện, không phải ra viện vì đã bình phục, mà là... nói thế nào nhỉ? Không thể chữa khỏi bệnh, ở mãi trong bệnh viện cũng thật vô nghĩa, phải về.

Cũng là ý trời, từ lúc Kim Trân ốm, tôi không gặp anh ấy. Lúc xảy ra chuyện, tôi ốm phải nằm viện, lúc tôi ra viện Kim Trân đã chuyển về tỉnh, tức là nơi này, để điều trị. Đến thăm anh ấy cũng bất tiện. Với lại tôi ra viện phải bắt tay ngay vào công việc phá khoá hắc mật, cũng không có thời gian đi thăm anh ấy. Tôi cũng phải đọc sổ tay của anh ấy. Cho nên Kim Trân bị điên, mãi đến khi anh ấy ra viện tôi mới được gặp.

Đấy là ý trời.

Tôi dám nói, nếu tôi gặp anh ấy trước đấy một tháng, rất có thể không có chuyện gì. Tại sao tôi nói vậy? Có hai nguyên nhân: thứ nhất, trong thời gian Kim Trân nằm viện tôi đọc sổ tay của anh ấy, khiến hình ảnh anh ấy trong tim tôi càng vĩ đại, càng mạnh mẽ; thứ hai, qua đọc sổ tay của anh ấy và sau một thời gian suy nghĩ, những khó khăn của hắc mật chỉ còn nhỏ như một mũi kim. Đấy là bước đệm, là cơ sở phát sinh những gì sau đó.

Buổi chiều hôm ấy, tôi nghe nói Kim Trân về, liền đi thăm, đến nơi mới biết anh ấy chưa về, vậy là tôi chờ ở dưới sân. Chỉ một lúc sau tôi trông thấy một chiếc xe jeep cũ dừng lại, từ phía sau xe hai người chui ra, đấy là ông Hoàng cán bộ của phòng chúng tôi và vợ Kim Trân. Tôi đi tới, hai người gật đầu hờ hững với tôi, rồi chui vào xe, bắt đầu đỡ Kim Trân từng bước chui ra. Hình như anh ấy không muốn ra, lại giống như một vật phẩm bị vỡ, không thể lôi ra ngay, chỉ có thể chầm chậm, cẩn thận đưa ra.

Một lúc sau đã đưa được Kim Trân từ trong xe ra, nhưng tôi trông thấy một người...

Anh ấy khom lưng, toàn thân run rẩy, cái đầu cứng đơ giống như vừa được đặt lên và chưa được chỉnh ngay ngắn, bị nghiêng, đôi mắt mở to tròn xoe, sợ hãi, nhưng lại như không trông thấy gì, miệng há, tưởng chừng không mím lại nổi, thinh thoảng nước miếng chảy ra...

Đấy là Kim Trân ư?

Tim tôi như bị bóp nát, thần trí hỗn loạn. Anh ấy làm tôi sợ hãi... Tôi đứng ngây ra, không dám đi tới chào hỏi, tưởng chừng như anh ấy làm tôi bị bỏng. Được vợ dìu, Kim Trân như nỗi sợ hãi biến mất trước mắt tôi nhưng không thể biến mất trong lòng tôi.

Về đến văn phòng, tôi ngồi vật xuống sofa, phải đến một tiếng đồng hồ không dám thở mạnh, vô tri vô giác giống như một xác chết. Khỏi phải nói, tôi bị kích thích quá lớn, mức độ chả khác gì cuốn sổ tay đã kích thích tôi. Về sau bớt dần, nhưng trước mắt vẫn hiện rõ cái cảnh Kim Trân xuống xe, nó nằm ngang lòng tôi như một ý nghĩ độc ác hiếm thấy, không tài nào xua đi nổi, cứ ỳ ra. Hình ảnh Kim Trân sau khi điên cứ bám chặt lấy tôi, giày vò tôi, càng nhìn anh ấy càng thấy thương, thê thảm quá, sợ hãi. Tôi tự hỏi, ai đã làm anh ấy đến nông nỗi này? Tôi nghĩ đến tai hoạ của anh ấy, nghĩ đến kẻ gây ra tại hoạ cho anh...

Chính là tên ăn cắp!

Không ai ngờ một thiên tài, một con người mạnh mẽ và đáng nể như vậy (cuốn sổ tay khiến tôi cảm thấy Kim Trân thật lớn mạnh và đáng sợ), một con người vừa có tầm cao vừa có độ sâu, là tinh hoa của loài người, là anh hùng của giới phá khoá mật mã, cuối cùng bị một cái gõ nhẹ của tên ăn cắp đập vỡ tan tành. Điều ấy khiến tôi cảm thấy bí ẩn và hoang đường, cái hoang đường gây chấn động mạnh cho tôi.

Mọi cảm giác gây chấn động đối với con người dễ làm anh phải suy nghĩ, nhưng suy nghĩ có lúc vô thức, cho nên rất có thể có kết quả, cho dù có cũng không nhất thiết có ý thức ngay được. Trong cuộc sống có lúc bỗng nhiên cảm nhận một cách vô cớ một tư tưởng nào đó, cảm thấy quái dị vô cớ, thậm chí ngờ rằng thần linh ban thưởng, thật ra từ lâu đã có trong người, chẳng qua nó lắng đọng quá sâu trông vô thức, lúc này chỉ nổi lên chút ít, giống như cá dưới đáy nước ngẫu nhiên ngoi lên.

Lúc bấy giờ suy nghĩ của tôi hoàn toàn có ý thức, hình ảnh nhỏ nhen của tên ăn cắp và hình ảnh cao đẹp của Kim Trân - hai người chênh nhau một trời một vực, khiến suy nghĩ của tôi có ngay định hướng, không nghi ngờ gì nữa, khi bạn trừu tượng hoá hai hình ảnh đó, so sánh đối chiếu về tinh thần hay thực chất đấy là sự chênh lệch giữa cái đẹp và xấu, nặng và nhẹ, to lớn và nhỏ bé. Tôi nghĩ, Kim Trân không bị mật mã cao cấp hoặc người tạo lập mật mã cao cấp quật ngã, nhưng bị một tên kẻ cắp gõ nhẹ đã quật ngã anh. Kim Trân suốt một thời gian dài chịu đựng giày vò, khắc khổ trước tử mật và hắc mật, nhưng trước bóng tối và khó khăn của tên kẻ cắp đưa lại, chỉ cần vài ba ngày là anh không chịu nổi.

Tại sao anh ấy không chịu đựng nổi chỉ một cái gõ nhẹ?

Lẽ nào tên kẻ cắp lại lớn mạnh thế hay sao?

Tất nhiên là không.

Tại Kim Trân yếu đuối?

Đúng vậy!

Vì kẻ cắp đã lấy đi cuốn sổ tay thiêng liêng nhất và bí hiểm nhất của Kim Trân, cuốn sổ tay là thứ quan trọng nhất và cũng là điểm yếu nhất của anh, giống như trái tim con người chỉ chạm nhẹ, chạm thật nhẹ cũng đủ làm chết người.

Anh biết đấy, trong những trường hợp bình thường anh phải cất giữ cái thiêng liêng nhất, quý báu nhất vào nơi an toàn nhất. Ví dụ cuốn sổ tay ấy Kim Trân phải cất vào cặp an toàn, để vào cái cặp da nhỏ là một sai lầm, là chỉ một sơ ý nhỏ. Nhưng ngược lại, nếu nghĩ tên ăn cắp là kẻ địch thực sự, là đặc công của nước X, mục đích gây án của nó là đánh cắp cuốn sổ tay, nếu là một đặc công, nó rất khó tưởng tượng Kim Trân lại có thể sơ ý đối với cuốn sổ tay, để nó vào cái cặp không an toàn, cho nên đối tượng ăn cắp của nó sẽ không phải là cái cặp da mà là cặp an toàn kia.

Điều ấy muốn nói, nếu tên ăn cắp là một đặc vụ chỉ nhằm đánh cắp sổ tay, vậy cuốn sổ để trong cặp da, ngược lại sẽ là khéo léo tránh được nạn cướp đoạt.

Chúng ta đưa thêm giả thuyết, nếu Kim Trân để sổ tay vào cặp da không phải là vô ý, mà là cố tình, nhưng anh ấy gặp một đặc vụ chính cống chứ không phải là tên ăn cắp, thử nghĩ xem, âm mưu của Kim Trân để sổ tay vào cặp da quả là cao siêu, nó đưa tên đặc vụ vào mê hồn trận, có phải không?

Điều ấy khiến tôi nghĩ đến hắc mật. Tôi ngờ rằng, phải chăng người tạo lập hắc mật không cố tình cất giấu khoá mã vào két bảo hiểm? Cái lí thông thường là phải cất thật kĩ, giấu thật kín, nhưng lại cố tình không bỏ vào két sắt, mà để ở cặp da? Nhưng liệu Kim Trân, một người vất vả mò mẫm với cái khoá mật mã có sắm vai một đặc vụ tìm sổ tay trong két bảo hiểm hay không?

Suy nghĩ ấy loé lên làm tôi vô cùng kích động.

Lúc ấy suy nghĩ của tôi hoàn toàn vớ vẩn, nhưng nó vớ vẩn lại trùng khớp với hai điều kì lạ tôi nói ở trên. Điều kì lạ thứ nhất nói về sự sâu sắc của hắc mật, thậm chí Kim Trân đã đi được chín mươi chín bước và khó bước nổi bước cuối cùng; điều kì lạ thứ hai vô cùng đơn giản, thậm chí liên tục sử dụng trong ba năm cũng không có sai sót. Như anh biết đấy, chỉ có cái đơn giản mới có thể tự nó vận hành hoàn mĩ như mong muốn.

Tất nhiên, nghiêm khắc mà nói, có hai khả năng đơn giản, thứ nhất giả đơn giản, tức người tạo lập hắc mật là một thiên tài hiếm có, anh ta tạo lập một bộ mật mã đối với anh ta là rất đơn giản và dễ dàng, nhưng với chúng ta là vô cùng sâu sắc. Khả năng thứ hai là đơn giản thật, tức là dùng cái khéo léo để thay cho cái sâu sắc, lấy cái siêu đơn giản để làm mê hoặc chúng ta, cài bẫy chúng ta, hãm hại chúng ta. Ví dụ, để khoá mã trong cặp da.

Sau đấy có thể tưởng tượng, nếu nói đấy là giả đơn giản, vậy hắc mật đối với chúng ta không thể phá nổi, vì chúng ta đối diện với một đại thiên tài hiếm có. Về sau tôi nghĩ, thoạt đầu Kim Trân cố chấp sa vào cái giả đơn giản. Nói một cách khác, anh ấy bị cái đơn giản giả đánh lừa, làm mê hoặc, hãm hại. Nhưng mà, anh ấy rơi vào cái giả đơn giản cũng là bình thường, chừng như tất nhiên, một mặt... nói thế nào nhỉ? Thế này nhé, anh và tôi là hai phía trên võ đài, anh đánh tôi gục xuống võ đài, sau đấy có một người của phe tôi nhảy lên đánh với anh, về tình cảm hay cảm giác đều dễ bị anh cho rằng con người này là cao thủ, ít nhất phải cao hơn tôi, đúng không? Kim Trân là như thế, anh ấy đã phá được khoá mã tử mật, là người chiến thắng trên võ đài, rất phấn khởi, nói về tâm trạng, từ lâu anh ấy đã chuẩn bị chiến thắng một cao thủ hơn thế. Thứ hai, nói về đạo lí, chỉ có giả đơn giản mới thống nhất được hai điều kì lạ, nếu không nó sẽ mâu thuẫn, đối lập nhau. Ở đây Kim Trân đã phạm phải sai lầm của một thiên tài. Bởi vì, theo anh ấy, một bộ mật mã cao cấp không thể có mâu thuẫn rõ ràng như thế. Kim Trân đã từng phá khoá mật mã tử mật, đã từng quen với cái kết cấu bí mật và tương thích với nhau, cho nên, đối diện với hai điều kì lạ, ý niệm của anh ấy không phải là kéo nó ra theo thói quen, mà là cố nén nó lại. Muốn nén nó lại thì đơn giản giả là sức mạnh duy nhất.

Tóm lại, thiên tài Kim Trân đã bị cái thiên tài của mình làm hại, khiến anh miên man trong cái giả đơn giản mà không thoát ra nổi. Điều này nói lên anh ấy có đủ dũng khí và thực lực để thách thức đại thiên tài. Tâm linh khát vọng và đại thiên tài chém giết lẫn nhau.

Tôi không như Kim Trân. Với tôi, giả đơn giản chỉ có thể làm tôi sợ hãi, tuyệt vọng, bịt lối thoát, bịt kín con đường này một con đường khác cũng sẽ tự nhiên mở ra dưới chân tôi. Cho nên, đơn giản thật, ý nghĩ khoá mã có khả năng để trong cặp da loé lên, tôi cảm thấy vui mừng chưa từng có, có cảm giác một cánh tay đưa tôi đến bên một cánh cửa, cánh cửa ấy chỉ cần đạp nhẹ là mở toang.

Đúng vậy, tôi rất kích động, nghĩ đến đấy tôi rất kích động, đấy là điều vĩ đại nhất đời tôi, vào khoảnh khắc thần kì nhất, chính vì có khoảnh khắc ấy trong đời mới có được sự thản nhiên, yên tĩnh ngày nay, thậm chí trường thọ. Phong thuỷ xoay vần, vào thời khắc ấy ông trời đem vận may đến ân thưởng cho tôi, tôi mơ hồ và hạnh phúc như được thu nhỏ lại, đưa trả về bụng mẹ, tất cả như được người khác chủ động đưa đến, khỏi phải đi lấy, khỏi phải trả ơn, giống như một cái cây.

Ôi, tâm trạng tôi trong khoảnh khắc ấy thật khó nắm bắt, cho nên nhớ lại cũng chỉ là khoảng trống. Tôi còn nhớ, tôi không lên máy ngay để tìm cách chứng thực suy nghĩ của tôi, có thể tôi sợ suy nghĩ của mình bị lộ, mặt khác vì tôi mê tín thời điểm ba giờ đêm. Tôi nghe nói, sau ba giờ đêm lúc ấy vừa có người, vừa có ma, thần khí và linh khí rất sung mãn, thích hợp cho mọi suy nghĩ. Vậy là tôi cứ đi đi lại lại trong phòng đầy tử khí giống như một phạm nhân, vừa lặng nghe nhịp tim mình đập dồn dập, vừa cố gắng kiềm chế xúc động mãnh liệt, chờ cho đến ba giờ đêm, sau đây đến ngay bên máy tính (bộ máy tính bốn trăm ngàn phép tính của ông Tổng cục trưởng tặng Kim Trân) bắt đầu tìm cách chứng thực giấc mơ hoang đường của hoang đường, và ý nghĩ kì lạ về những bí mật của bí mật. Tôi không biết mình tính toán trong bao lâu, chỉ nhớ tôi đã phá được khoá mã hắc mật, điên cuồng chạy ra khỏi hang (hồi ấy chúng tôi vẫn làm việc trong hang đá), quỳ trên mặt đất, vái trời vái đất. Trời chưa sáng, vẫn còn bóng tối.

Ôi, nhanh quá ư? Tất nhiên là quá nhanh, anh không biết đấy, chìa khoá của hắc mật ở ngay trong cái cặp da!

Ôi, không ngờ, hắc mật không có khoá!

Chìa khoá là không!

Không có khoá!

Không có gì sất!

Ôi, tôi không biết phải giải thích với anh thế nào, ví dụ thế này nhé. Ví dụ, hắc mật cất trong một ngôi nhà rất xa, một ngôi nhà ở nơi vô hạn trên bầu trời, ngôi nhà có vô số cửa, các cửa đều giống nhau, đều có khoá, nhưng chỉ có một cánh cửa mở được, nó lẫn lộn trong vô số cửa, các cửa giả đều không mở nổi.

Muốn vào trong đó trước hết phải giữa vô biên vũ trụ tìm được ngôi nhà kín đáo, sau đấy giữa vô số ô cửa giống nhau tìm thấy một cánh cửa có thể mở. Tìm thấy rồi, anh mới có thể tìm ra chìa khoá để mở cửa. Kim Trân chưa tìm thấy chìa khoá, nhưng anh đã giải quyết tất cả từ một năm trước đấy, tìm thấy ngôi nhà, tìm thấy cánh cửa thật, nhưng chưa thấy chìa khoá.

Cái chìa khoá, như tôi vừa nói, thật ra lấy một xâu chìa khoá cho vào lỗ khoá và thử. Xâu chìa khoá này đều do người phá mã căn cứ vào trí tuệ và sự tưởng tượng của mình để làm ra, cái này không mở được đổi cái khác, lại không được, lại đổi cái khác... Cứ như vậy Kim Trân bận suốt một năm, có thể biết anh ấy đã đổi bao nhiêu cái rồi. Nói đến đây, anh nên nghĩ rằng một người phá mã thành công cần có trí năng thiên tài cũng cần có vận may thiên tài. Vì theo lí thuyết, một nhân tài phá khoá mật mã trong bụng anh ta có vô số chìa khoá, nhất định sẽ có một chiếc mở được. Vấn đề ở chỗ chiếc chìa khoá ấy xuất hiện lúc nào, là bắt đầu, là khoảng giữa hay cuối cùng, trong đó có yếu tố ngẫu nhiên.

Yếu tố ngẫu nhiên này nguy hiểm đến mức có thể huỷ diệt.

Yếu tố ngẫu nhiên này thần kì đến độ có thể sáng tạo tất cả.

Nhưng đối với tôi, tính ngẫu nhiên gồm cả nguy hiểm và vận may đều không tồn tại, bởi trong tôi không có chìa khoá, tôi không đủ khả năng rèn chìa khoá, cũng không thể tìm đau khổ hoặc vận may trong số hàng triệu. Nếu cánh cửa có khoá, vậy có thể tưởng tượng tôi không thể lọt qua cánh cửa ấy. Nhưng lúc này, điều hoang đường là, cánh cửa như có khoá, thực tế lại không khoá, chỉ khép hờ, anh chỉ cần khẽ đẩy cửa sẽ mở ra. Khoá cửa hắc mật vớ vẩn đến khó tin, không dám tin, tất cả đều bày ra trước mắt, tôi vẫn không tin ở mắt mình, cho rằng mọi chuyện đều giả, đều là chuyện trong mơ.

Ôi, ma quỷ, đúng là ma quỷ tạo lập mật mã!

Chỉ có ma quỷ mới đủ dũng khí dã man và gian tà đến vậy!

Chỉ có ma quỷ mới có trí tuệ hoang đường và độc ác đến vậy!

Ma quỷ né tránh thiên tài Kim Trân, nhưng lại gặp con người tôi ngang ngược đón đầu. Nhưng có trời mới biết, tôi mới biết, tất cả đều là sáng tạo của Kim Trân, anh ấy dùng sổ tay của mình để nâng tôi lên tận trời cao, lại thông qua tai hoạ của mình chỉ rõ những điều bí mật của hắc mật được giấu kín. Có thể anh sẽ bảo điều ấy là vô tình, nhưng ở đời này có mật mã nào không phá bằng sự cố ý hay vô tình? Tất cả đều được phá bởi cố ý hoặc vô tình, nếu không tại sao chúng ta cần vận may từ bầu trời sao, cần mộ tổ bốc khói xanh?

Đúng vậy, mật mã trên đời này đều được phá trong cố ý hay vô tình!

Ha ha, thằng nhỏ, hôm nay mày không chú ý đã phá được mật mã của ta? Không giấu gì anh, những điều tôi nói với anh đều là bí mật, là mật mã của tôi, tôi chưa nói với ai bao giờ. Chắc chắn anh sẽ nghĩ, tại sao tôi chỉ nói với anh về những bí mật của tôi, những bí mật không đẹp đẽ của tôi? Nói với anh nhé, là bởi tôi sắp thành ông lão tám mươi, một ngày nào đấy có thể chết, tôi không muốn sống trong vinh quang hão... 

Cuối cùng ông nói với tôi, sở dĩ đối phương làm ra một bộ mật mã không có khoá mã là bởi từ trong số phận bi thảm của mật mã tử mật nhận ra bước đường cùng của mình. Họ biết, chỉ một lần giao đấu họ hiểu được thiên tài của Kim Trân, nếu giao đấu chính diện chắc chắn họ sẽ chết, vậy là mạo hiểm làm chuyện sai trái, điên cuồng sử dụng quái chiêu xa lạ.

Nhưng họ không hiểu được rằng, Kim Trân còn có tuyệt chiêu, nói như lời ông già, Kim Trân thông qua tai hoạ của mình, phương thức thần kì của thần kì, nói với đồng nghiệp cái bí mật quái đản của hắc mật, đấy là ngón đòn có một không hai trong lịch sử phá khoá mật mã. Bây giờ tôi nhớ lại mọi điều, nhớ lại Kim Trân trong quá khứ và hiện tại, nhớ lại những điều thần bí và thiên tài của anh, lòng cảm thấy vô cùng kính trọng, vô cùng buồn thương, vô cùng thần bí!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5-7: Chương ngoài: Sổ tay của kim trân


Chương này, với tên gọi “Sổ tay của Kim Trân” đã có thể biết nội dung, chỉ là trích lại những ghi chép trong sổ tay để làm chút tư liệu tham khảo có tính độc lập, không liên quan đến chuyện công khai hoặc bí mật của năm chương trước, bạn đọc có thể đọc có thể không, đọc có thể có thêm chút bổ sung, không đọc cũng chẳng sao, không ảnh hưởng gì đến việc nhận thức đối với Kim Trân. Nói một cách khác, chương này giống như mẩu ruột thừa trong cơ thể, có nó hay không có nó không ảnh hưởng gì lắm, chính vì vậy tôi gọi nó là chương ngoài, thực chất là lời bạt hoặc là phần ghi chép thêm.

Theo tôi được biết, trong thời gian (1956 -1970) Kim Trân công tác tại đơn vị 701 đã để lại hai mươi lăm cuốn sổ tay, hiện chúng nằm trong tay chị Cù Lợi, vợ anh ấy quản lí, nhưng trong đó có một cuốn chị được giữ lại với danh nghĩa là vợ, còn hai mươi bốn cuốn khác do nhân viên bảo mật của đơn vị nắm giữ, cất trong két bảo hiểm, khoá bằng ổ khoá hai chìa, tức là phải có hai chìa khoá đồng thời mở. Chị Lợi nắm giữ một chìa, một chìa nữa do trưởng phòng của chị giữ. Những sổ tay ấy chị Lợi giữ, nhưng một mình chị không được phép xem, càng không thể là của riêng mình.

Lúc nào có thể xem?

Theo chị Lợi nói lại, có cuốn mấy năm sau có thể xem, có cuốn phải mấy chục năm sau mới được xem, vì độ bí mật của mỗi cuốn khác nhau, thời gian giải mật cũng khác. Hai mươi bốn cuốn sổ tay ấy đối với chúng ta có như không, giống như Kim Trân trong viện điều dưỡng Linh Sơn, tồn tại đấy, nhưng thực tế cách tồn tại coi như không tồn tại, không còn ý nghĩa, có như không, coi như không tồn tại. Như vậy, tôi rất muốn được đọc cuốn sổ tay thứ hai mươi lăm do chị Lợi nắm giữ. Nghe nói, chị cũng chưa cho ai xem, nhưng ai cũng biết cuốn sổ ấy trong tay chị. Bởi khi chị nhận cuốn sổ đó từ đơn vị về có ghi vào sổ, có chữ kí của chị đã nhận. Chính vì vậy chị không thể giấu tôi, chị thừa nhận cuốn sổ tay chị giữ. Nhưng mỗi khi tôi ngỏ ý muốn mượn đọc, chị luôn luôn nói: anh đi đi! Lần nào tôi cũng bị chị đuổi như vậy, không do dự, không giải thích, không quanh co lần lữa. Cho đến mấy tháng sau, năm chương trước đã hoàn thành, tôi đưa đến nhờ phòng chính trị và những người có liên quan trong đơn vị 701 thẩm tra lại sự thật. Chị Lợi là một trong những người được thẩm tra, đọc xong tôi hỏi ý kiến chị, bỗng chị chủ động hỏi, có muốn xem cuốn sổ tay ấy nữa không? Tôi nói tất nhiên. Chị hẹn tôi ngày mai đến. Nhưng ngay tối hôm ấy chị đến nhà khách của đơn vị, đưa đến cho tôi cuốn sổ tay ấy, nói chính xác là bản photocopy của cuốn sổ tay.

Cần phải nói thêm ba điểm.

Thứ nhất, bản photocopy của chị đưa cho tôi không hoàn chỉnh. Theo tôi được biết, sổ tay của Kim Trân và những người khác trong đơn vị 701 đều được thống nhất cấp phát, khuôn khổ giống nhau, có loại bìa cứng, loại bìa bọc ni lông, có hai màu đỏ và xanh lam. Nghe nói, Kim Trân mê tín màu sắc, anh chỉ dùng một loại sổ bìa ni lông màu xanh lam. Tôi đã được thấy loại sổ tay ấy rồi, phía trên và phía dưới của trang đầu tiên in rõ “Tuyệt mật” và “Chú ý nộp lại, không được đánh mất”, chữ in màu đỏ, khoảng giữa trang có các dòng:

Số:……       

Kí hiệu:……          

Thời gian sử dụng:……

“Số” là số thứ tự của sổ tay, “Thời gian sử dụng” là ngày lĩnh sổ và ngày giao nộp lại sổ; “Kí hiệu” là tên họ người sử dụng được thay thế bằng mã số, kí hiệu của Kim Trân là 5603K, người ngoài sẽ không biết đấy là ai, nhưng người trong đơn vị nhìn vào là biết ngay: anh vào đơn vị 701 công tác năm 1956, “03” là người thứ ba vào làm việc tại phòng giải mã trong năm đó. Góc trên bên phải của mỗi trang sổ tay đều đóng dấu “Tuyệt mật” và ghi rõ số trang, chữ “Tuyệt mật” ở trên, số trang ở dưới, mực dấu đỏ tươi.

Tôi để ý, chị Lợi đưa tôi bản photocopy, chữ tuyệt mật và số trang đã bị xoá. Tôi nghĩ, xoá chữ tuyệt mật thì có thể hiểu, vì nó sẽ là của tôi, không còn tuyệt mật nữa, nhưng tại sao lại xoá số trang? Lúc đầu tôi không hiểu, về sau tôi đếm tổng số trang, phát hiện chỉ có 72 trang, vậy là đã rõ. Theo tôi được biết, cuốn sổ có 99 trang, tức là chị Lợi photocopy cho tôi không đủ. Chị giải thích: thứ nhất, cuốn sổ vẫn chưa dùng hết, còn hơn chục trang trắng; thứ hai, trong đó có những bí mật thuộc về hai vợ chồng, không tiện cho tôi xem, cho nên chị tước bỏ. Nhưng tôi lại rất muốn đọc những điều đó.

Thứ hai, nhìn vào thời gian và nội dung ghi trên sổ tay, đây chỉ là “trích ghi lúc ốm” của Kim Trân. Đó là một ngày trung tuần tháng sáu năm 1966, Kim Trân ăn sáng xong, từ nhà ăn ra về, bỗng ngất ngay trong sảnh lớn, trán đụng vào một góc cái ghế dài, máu chảy như xối. Đưa vào bệnh viện kiểm tra mới biết, anh bị chảy máu dạ dày, đấy cũng là nguyên nhân làm anh bị ngất. Kết quả chẩn đoán bác sĩ cho biết, anh đau dạ dày rất nặng, phải vào điều trị.

Bệnh viện là nơi người “điên cờ” hồi xưa điều trị, bệnh viện riêng của đơn vị 701, kế bên căn cứ huấn luyện khu nam, thiết bị và trình độ bác sĩ không thua kém một bệnh viện cấp thành phố, chữa trị bệnh chảy máu dạ dày rất bình thường, không có gì khó khăn, sẽ không xảy ra sự cố như điều trị cho người “điên cờ”. Tuy là bệnh viện nội bộ, nhưng vì địa điểm ở khu nam, có thể hình dung mức độ bí mật không như khu bắc. Một ví dụ có thể không thích hợp lắm, quan hệ giữa khu bắc và khu nam giống như quan hệ chủ tớ, tớ bận toàn những việc của chủ, nhưng chủ bận gì thì tớ không có quyền biết, dù có ngẫu nhiên biết tí chút cũng chỉ là chuyện bên ngoài. Nói một cách nghiêm túc, thân phận của Kim Trân cũng không thể công khai, nhưng việc ấy bây giờ cũng khó giữ, vì anh là người nổi tiếng, mọi người đã chính thức hoặc không chính thức biết địa vị và thân phận trọng yếu của anh. Tất nhiên thân phận công khai đấy, nói đi cũng phải nói lại, tất cả đều là người nhà, công khai cũng không có vấn đề gì lớn. Nhưng chuyện công tác, nghiệp vụ là tuyệt đối không được tiết lộ.

Chúng ta đều biết, Kim Trân lúc nào cũng đem theo sổ tay, lúc ấy do sự việc quá gấp, anh bị chảy nhiều máu, lại bất tỉnh nhân sự, sổ tay cũng được đưa vào viện theo người. Điều này là không cho phép, nhân viên bảo mật biết anh vào viện (ra khỏi khu bắc), nhưng không đến ngay bệnh viện để thu hồi sổ tay, cho đến tối hôm ấy Kim Trân chủ động đưa nộp lại. Về sau người của bộ phận bảo mật biết chuyện, không chút do dự ghi tên nhân viên bảo mật kia và bị thuyên chuyển, bố trí một nhân viên bảo mật khác, đấy là chị Lợi. Cứ đọc sổ tay thì biết, đấy là ba bốn hôm sau, tức là bốn năm ngày sau khi Kim Trân vào viện.

Cuốn sổ tay này tất nhiên không phải cuốn sổ tay kia.

Sự thật thì, khi Kim Trân giao nộp cuốn sổ tay của mình, anh không quên nhận một cuốn khác, vì anh quá biết thói quen của mình, thói quen đem theo sổ tay bên mình. Đấy là cách sống của anh, có thể nói từ nhỏ ông Lily đã cho anh cây bút máy Water, từ đấy anh tạo cho mình một thói quen, cho dù nằm trên giường bệnh vẫn giữ thói quen ấy, không sao thay đổi nổi. Tất nhiên, hoàn cảnh anh lúc bấy giờ không thể ghi chép vào sổ tay những gì thuộc về công tác, đấy là nguyên nhân để sổ tay này của anh lọt ra ngoài. Theo tôi, trong sổ tay này anh chỉ ghi chép những ý nghĩ trong thời gian nằm viện.

Thứ ba, lối xưng hô trong sổ tay vô cùng lộn xộn.

Lối xưng hô thường gặp nhất trong sổ tay là “mi”, sau đấy là “anh ta”, sau nữa là “cô ấy”. Có thể nhận thấy, những lối xưng hô ấy không chỉ rõ ai, không biết có chỉ riêng một người nào đó không. Nói theo nhà ngôn ngữ học, công năng ngôn ngữ rất lộn xộn. Ví dụ “mi” có lúc chỉ bản thân có lúc tưởng như chỉ ông Hinsh hoặc ông Lily con hoặc bà vợ ông ta, hoặc thầy Dung, có lúc hình như muốn chỉ chị Lợi, hoặc anh chàng điên cờ, hoặc Thượng đế, thậm chí là cái cây, hoặc con chó, tóm lại rất phức tạp, sợ rằng chính Kim Trân cũng không phân biệt nổi. Tôi nghĩ, rất lung tung, cho nên lúc muốn hiểu cũng chỉ có thể tự hiểu mà thôi, Tại sao tôi cho rằng bạn đọc có thể không đọc, hoặc vì chuyện này mà không thể nhận định, không thể lí giải lời lẽ ấy, chỉ có thể dựa vào cảm giác. Dẫu là thế, không xem cũng chả sao, nếu xem, nó ở ngay dưới đây. Số thứ tự là tôi thêm vào, những đoạn ghi bằng tiếng Anh do tôi dịch ra và gạch chân.

1

Anh ta yêu cầu tôi sống như một cây nấm, do trời đất mây mưa nuôi dưỡng, do trời đất mây mưa tiêu diệt, nhưng không thể làm nổi, ví dụ lúc này, anh ta biến thành một thứ được cưng chiều,

Một thứ long vật đáng ghét!

2

Anh ta có cảm giác thế này, sợ hãi nhất là bệnh viện.

Con người sau khi vào viện, người lớn nhất cũng sẽ trở nên đáng thương, yếu đuối, giống như đứa trẻ con hoặc ông già, phải có người chăn sóc yêu thương... giống như được cưng chiều.

3

Mọi tồn tại đều hợp lí, nhưng không nhất thiết hợp tình. Tôi nghe anh ta nói vậy. Đúng lắm!

4

Qua kính cửa sổ mi thấy đầu bị quấn băng, giống như vừa từ mặt trận trở về.

5

Giả thiết dạ dày chảy máu là A, trán chảy máu là B, con ma bệnh là X, vậy thì rất rõ ràng, giữa A và B sẽ tạo thành quan hệ hai chiều dưới X, A là trong, B là ngoài, hoặc A là tối, B là sáng; cũng có thể hiểu A là trên, hoặc chính, hoặc đây, B là dưới, hoặc âm, hoặc quan hệ đối xứng hai chiều, quan hệ hai chiều này không xây dựng trên cơ sở tất nhiên, mà là ngẫu nhiên, nhưng một khi ngẫu nhiên xuất hiện, ngẫu nhiên sẽ biến thành tất nhiên, tức không có A mà phải có B, giữa Avà B có cái tất nhiên, quan hệ hai chiều này có đặc trưng giống với thuyết song hướng của Wemak... Chả nhẽ Wemak cũng như mi, trong đó có khởi đầu và phát minh lí thuyết toán học song hướng?

6

Trán bị sứt có những cách nói khác nhau.

Phao-lồ nói: “Tại sao ông không tranh thủ đi cày mà ngồi trên chiếu này khóc làm gì?

Nông phu nói: “Vừa có con lừa bậy ra đây, nó đá tôi gãy hai cái răng cửa.”

Phao-lồ nói: “Vậy bác phải cười chứ, tại sao lại khóc?”

Nông phu nói: “Tôi khóc vì đau và buồn, có gi đáng cười đâu?”

Phao-lồ nói: “Thánh nói, răng cửa của đàn ông rụng và vỡ trán là mở cửa sổ trời, tốt lắm, chứng tỏ chuyện vui sắp rơi xuống đầu anh đấy.”

Nông phu nói: “Vậy tôi lạy thần lạy thánh cho tôi sinh một đứa con.”

Quả nhiên năm ấy bác nông phu sinh một đứa con.

Bây giờ trán mi cũng vỡ, liệu có chuyện vui gì không? Sự việc chắc phải có, nhưng tốt xấu khó nói lắm, là bởi mi không biết tốt là gì.

7

Tôi thấy vạn vật dưới ánh sáng đều là hư vô, đều là bắt bóng. Cái cong không thể uốn thẳng, thiếu hụt không thể bù đắp. Tôi thầm nhủ, tôi có đại trí tuệ vượt cả đám người ở Jerusalem, hơn nữa trí tuệ và trí thức trong tim tôi đã qua từng trải, tôi chuyên tâm lau sạch trí tuệ, cuồng vọng và ngu muội, vẫn biết đấy là chuyện bắt bóng, bởi có bao nhiêu trí tuệ có bấy nhiêu buồn phiền, gia tăng tri thức cũng tức là gia tăng ưu phiền. (Kinh thánh)

8

Anh ta rất giàu, càng ngày càng giàu.

Anh ta rất cùng khổ, càng ngày càng cùng khổ.

Anh ta là anh ta.

Anh ta là anh ta.

9

Bác sĩ nói, một cái dạ dày lành mạnh bên ngoài phải sáng, bên trong phải thô, nếu lật bên trong, phơi mặt thô ra ngoài, vậy cái dạ dày lành mạnh sẽ như một con nhím, toàn thân gai góc, gai góc rất đều. Dạ dày của tôi lật ra giống như cái đầu chốc, cái thứ gai góc bị lửa thiêu, chỗ nào cũng thấy lở loét, chảy mủ chảy máu, bác sĩ còn nói, mọi người cho rằng bệnh dạ dày là do ăn uống không tốt, bệnh dạ dày thật sự là do thần kinh yếu. Tức là nói, bệnh da dày không phải do ăn uống bừa bãi, mà do suy nghĩ nhiều...

Có thể, tôi đâu có phàm ăn tục uống?

Cái dạ dày của tôi giống như một thứ dị vật, một kẻ địch (gián điệp), chẳng bao giờ nó cười với tôi.

10

Mi nên ghét cái dạ dày của mi.

Nhưng lại không thể.

Vì trên đấy có dấu ấn của mi.

Mi đã làm cho cái dạ dày trở nên như thế, trời sinh ra đã yếu, yếu không chịu nổi gió, giống như một đoá hoa lê.

Dạ dày của mi ăn không biết bao nhiêu hoa lê.

Mi đau dạ dày sẽ nghĩ đến hoa lê, nghĩ đến ông già.

Ông ơi, ông chưa chết, không những ông sống trong dạ dày cháu.

11

Mi đi thẳng một mạch, không thích nhìn lại phía sau.

Vì không thích nhìn lại phía sau, nên mi yêu cầu mình đi thẳng về phía trước.

12

Dưới trời này mọi việc đều do Thượng đế an bài.

Nếu để mi an bài, có thể mi sẽ an bài mình thành một ẩn sĩ xa lánh người đời hoặc thành một tù nhân. Tốt nhất là một tên tù vô tội, hoặc tên tù không người cứu, dù sao không có cảm giác tội ác.

13

Một cái bóng tóm lấy mi.

Vì mi đứng lại.

14

Lại một cái bóng nữa tóm lấy mi.

15

Englert nói, ngủ mệt nhất, vì phải ngủ mê.

Tôi nói không làm việc mệt nhất, vì tâm lí trống trải, rất nhiều thứ giống như giấc mơ trôi qua chỉ còn lại sự trống rỗng.

Làm việc sẽ quên hết quá khứ, cũng là lí do để tự giải thoát.

16

Giống như một con chim bay ra khỏi tổ.

Giống như trốn chạy...

17

Mi là người vong ơn bội nghĩa, mi chạy đi đâu?

Tôi ở bên dòng suối cách... cây số, phía tây của các người. Tại sao mi không trở lại thăm chúng tôi?

Không thể về nổi...

Chỉ có người tù mới không thể về.

Tôi giống như một tên tù.

Anh ta là tù nhân của anh ta.

18

Các người cho anh ta quá nhiều, nhiều đến mức anh ta không dám nhớ lại, nhớ lại lòng những không đành, cảm thấy có lỗi và tự ti, may mắn nhưng buồn, giống như anh ta dùng cái thân thế đáng thương chèn ép tấm lòng từ thiện của mọi người.

Cổ nhân nói, nhiều sẽ ít, đầy ắt vơi.

Thánh nói, dưới trời này không có gì đầy đủ.

19

Có người được người khác yêu bỗng trở nên hạnh phúc, có người được người khác yêu mà trở nên đau khổ.

Vì hạnh phúc, anh ta phải về.

Vì đau khổ anh ta bỏ đi.

Không phải anh ta biết những điều đó mới bỏ đi, mà bỏ đi rồi mới biết.

20

Kẻ vô tri không biết sợ hãi.

Sợ hãi giống như sợi dây quấn lấy anh ta, kéo chân anh ta lại, hình như ở đấy có cái bí mật riêng tư không thể cho ai biết.

21

Mẹ, mẹ có khoẻ không?

Mẹ, mẹ, mẹ thân yêu!

22

Tối hôm qua trước khi đi ngủ, mi cổ vũ mình cố gắng nằm mơ, nhưng đã mơ thấy gì bây giờ không còn ấn tượng. Nên là sự việc chuyên nghiệp, bởi đấy là mục đích mi cổ vũ mình nằm mơ, phải thoát khỏi nỗi buồn phiền không làm việc.

23

Englert giơ ngón tay trỏ nói với tôi, ông là đại ca trong cái nghề chúng ta đang làm và tôi là anh hai. Đồng thời ông chỉ trích tôi hiện tại phạm phải hai sai lầm lớn, thứ nhất là làm quan, thứ hai, phá cả những khoá mật mã cấp thấp mà mọi người có thể phá. Sai lầm thứ hai sinh ra từ sai lầm thứ nhất. Điều này khẳng định, làm trưởng phòng cho nên phải tham gia phá tất cả các khoá mã khác. Ông Englert nói: kết quả làm tôi càng ngày càng xa rời anh chứ không phải càng gần hơn. Tôi nói, hiện tại đối phương chưa sử dụng bộ mật mã cao cấp mới, tôi không làm những việc ấy thì làm việc gì? Englert nói, ông ấy vừa viết xong một cuốn sách, bản thân cuốn sách là bộ mật mã cao cấp nhất thế giới, làm ông ngộ ra rằng mật mã cao cấp nhất hoặc thấp nhất thế giới đều rất khó phá khoá, nhưng ai muốn phá nó hãy đọc và hiểu nội dung cuốn sách, suốt ba mươi năm ông đã phá được tất cả mật mã cao cấp, ông đề nghị tôi giải mã cuốn sách này, đồng thời giơ ngón tay cái lên nói với tôi, nếu tôi giải mã được cuốn sách này, thì ngón tay cái sẽ là đại diện cho tôi.

Đúng là một sự uỷ nhiệm.

Nhưng cuốn sách ấy ở đâu?

Trong giấc mơ của tôi.

Không, trong giấc mơ của Englert bên trong mơ của tôi.

24

Nếu ở đời có cuốn sách ấy, nhất định nó ra đời từ tay ông Englert.

Chỉ có thể là của ông ta.

Sự thật thì, bộ óc ông là cuốn sách ấy.

25

Đúng là ông Englert sinh thời có đề lại một cuốn sách, tên sách là “Chữ của thánh nhân”, có người nói đã trông thấy ở hiệu sách, nhưng không chắc lắm, bởi vì tôi đã huy động mọi lực lượng của tổ chức đi tìm nhưng không thấy cuốn sách ấy.

Trên đời này không có gì mà tổ chức của tôi không tìm ra, mà chỉ có thể không có sự việc ấy.

26

Mi là một con chuột.

Hiện thời mi đang ở trong kho thóc.

Nhưng mi không ăn nổi thóc.

Bởi mỗi hạt thóc đều bọc một lớp bảo vệ mà răng mi không cắn nổi.

Đấy là mật mã.

27

Phát minh ra mật mã, một mặt để những tin tình báo trước mặt anh, chỉ cần giơ tay ra với tới, mặt khác lại làm cho mắt mi mù tịt, không trông thấy gì.

28

MacArthur đứng trên bán đảo Triều Tiên, tay giơ lên trời nắm bắt, sau đấy nắm chặt bàn tay nói với viên sĩ quan phá khoá mật mã: đây là tin tình báo tôi cần, có khắp trời, chỉ cần giơ tay ra là nắm được nó, nhưng tôi không làm sao đọc được nó, bởi vì lúc này tôi bị mù, xem anh có thể khôi phục thị lực của tôi được không.

Mấy năm sau, trong hồi kí ông ta viết, viên sĩ quan phá khoá mật mã không cho tôi mở mắt, cho dù chỉ một mắt, và tôi sống để trở về là tốt rồi.

29

Làm lại động tác của MacArihur giơ tay lên trời nắm bắt, nhưng lúc này mi chỉ bắt được không phải là không khí, mà là một con chim. Bầu trời đầy chim, nhưng khả năng tay không muốn bắt được một con chim là tuyệt đối rất nhỏ, tuyệt đối rất nhỏ không có nghĩa là tuyệt đối không, có người tỏ ra rất thần kì cũng bắt được một con.

Như thế gọi là phá khoá mật mã.

Nhưng đa số cả đời không bắt được con chim nào, mà chỉ bắt được cái lông chim.

30

Người như thế nào thì bắt được chim?

Có thể chỉ có ông John Fobes Nahs[6].

Nhưng ông Hinsh không thể, tuy tài năng không kém J. Nahs bao nhiêu.

31

Tuy ông Nahs có thể tay không bắt chim, nhưng trong lòng lại không biết bao giờ mới bắt được. Còn ông Hinsh chỉ cần chú ý quan sát ánh mắt, động tác ra tay, tư thế, độ nhạy cảm, tính chính xác, sức bật... của ông ta, ngửa đầu lên xem có bao nhiêu chim, tốc độ bay, đường bay, đặc điểm, sự thay đổi của chúng... có thể dự đoán được bao giờ ông Nahs bắt được chim.

Cũng là thiên tài như nhau, thiên tài của ông Hinsh nghiêm cẩn hơn, đẹp hơn, đẹp như thiên sứ, như một vị thần linh. Thiên tài của ông Nahs càng xa lạ, xa lạ gần đến mức quái dị và dã man, có cảm giác người và ma hợp nhất. Mật mã là nghề ma quỷ hoá con người, con người gian tà, thâm hiểm, độc ác, ma giáo... đến mức không thể hơn, cho nên, ông Nahs người ma không phân biệt càng dễ tiếp cận nó.

32

Ngủ và chết cùng tên, nhưng khác họ.

Ngủ là bước tập sự của chết, giấc mơ là cảnh ma của con người.

Ai cũng bảo tính hồn mi quá lớn nhưng thân xác quá nhỏ, đầu quá to đấy là đặc trưng cơ bản của lũ yêu quái.

Họ còn nói, từ nhỏ mi đã làm bạn với giấc mơ, vì thế tiêm nhiễm yêu khí và tà khí, cho nên càng dễ bắt được chim bằng tay không.

33

Mọi bí mật ở đời đều có trong mộng.

34

Mi chỉ chứng minh bản thân mi.

Khi mi chứng minh mi, đối phương cũng sẽ giúp mi chứng minh.

Khi mi không có cách nào chứng minh nổi mi, nhưng lại chứng minh được cho đối phương.

35

Mi khát khao một người tài giỏi hơn để mi khỏi phải khen, nhưng vì vậy cần mi nói không ngừng.

36

Lại thay nhân viên bảo mật của tôi, lí do cô ta không kịp thời thu sổ tay của tôi.

Cô ta không phải là người đầu tiên mà cũng chưa phải là người cuối cùng.

37

Nhân viên bảo mật mới chắc chắn cũng là nữ...[7]

38

Cô ấy là ai?

Mi biết cô ấy không?

Mi mong biết hay là không?

Cô ta tự nguyện hay cấp trên phải làm công tác tư tưởng?

Ngày mai đã đến chưa?

Đồ quỷ! Chuyện đau đầu quá chừng!

39

Ma quỷ không ngừng sinh con đẻ cái là để ăn chúng.

40

Bác sĩ bảo dạ dày tôi vẫn còn chảy máu, ông ấy lấy làm lạ là, đã dùng nhiều thuốc tốt rồi mà vẫn không thấy hiệu quả. Tôi nói với bác sĩ, nguyên nhân tôi bị bệnh là do hơn chục năm trước tôi uống thuốc đau dạ dày như ăn cơm vậy, uống quá nhiều, nay bệnh bị nhờn thuốc. Ông đổi thuốc, tôi bảo đổi thuốc gì cũng không mới, quan trọng là gia tăng liều lượng. Ông bảo, như thế rất nguy hiểm, ông không dám. Xem ra, tôi phải chuẩn bị ở đây lâu.

41

Cái thứ cưng chiều đáng ghét.

42

Cô ta đã đến.

Cô ấy rất dũng cảm đến đây chịu khổ.

43

Cô ấy vào phòng bệnh, căn phòng trở nên chật chội.

Lúc cô ấy đi, nhìn theo từ phía sau, mi chừng như quên mất cô ấy là nữ.

Cô ấy cần chừng bảy cái bánh mới đủ no.

44

Cô ấy không thích trang điểm - một bộ mật mã thô! Thậm chí mi cảm thấy trước mặt người khác cô ấy cũng không tỏ ra thoải mái hơn mi. Đã như thế còn đến đây làm gì? Nên biết, đấy mới chỉ là bắt đầu, mi biết từ nay về sau hàng ngày mi đều cảm thấy lúng túng và bắt buộc, dù sao tôi biết anh ta không đồng tình với một người đi nhầm đường.

45

Ý nghĩ muốn giúp đỡ tôi là một thứ bệnh tật, chỉ có nằm xuống mới khỏi bệnh.

46

Nhiều ý nghĩ cũng là một chứng bệnh.

47

Trời xanh, mây trắng, cành liễu, gió thổi, đung đưa, cửa sổ, một con chim vút qua, giống như giấc mơ... một ngày mới, thời gian như gió, ngày tháng như nước chảy... những kí ức, những thở than, những ngờ vực, những điều khó quên, những ngẫu nhiên, những chuyện buồn cười... mi trông thấy hai điểm, thứ nhất là không gian, thứ hai là thời gian, hoặc có thể nói, thứ nhất là ngày, thứ hai là đêm...

48

Bác sĩ coi nằm mơ cũng là một thứ tiêu hao sức khoẻ, một thứ bệnh.

49

Cô ấy đưa đến cho tôi thuốc lá Đại Tiền Môn, mực viết Quốc Quang, trà Ngân Quân, đồng hồ, dầu cao, đài bán dẫn, quạt lông, truyện Tam quốc diễn nghĩa... Hình như cô ta nghiên cứu... sai về tôi, tôi không nghe đài, linh hồn tôi là cái đài bán dẫn rồi, ngày nào nó cũng kêu không ngừng, giống như cái đồng hồ quả lắc chấn động dưới chân sẽ làm nó lắc dài dài.

50

Một lần anh ta nằm mơ thấy mình hút thuốc, sau đấy anh mới bắt đầu hút thuốc.

51

Hút thuốc Đại Tiền Môn là do cô Tưởng, nhân viên bảo mật đầu tiên tập cho mi, cô ta là người Thượng Hải, có lần cô về nhà đem đến cho anh ta một cây thuốc, anh khen thuốc ngon, vậy là cô bảo gia đình tháng nào cũng gửi lên một cây. Anh còn thích cô nói tiếng Thượng Hải nghe ríu rít như tiếng chim, có thể hình dung đầu lưỡi vừa nhọn vừa mềm. Chừng như anh đã thích cô, nhưng không qua nổi thời gian thử thách. Vấn đề của cô ta là đi rất nặng chân, có tiết tấu, về sau giày còn đóng cá sắt, khiến anh không thể nào chịu nổi. Nói thật, không phải là vấn đề tiếng động, mà là linh hồn anh thỉnh thoảng lại bay đi, trong quá trình bay, thường thường bị níu lại, từ trên không rơi xuống.

52

Nếu để lựa chọn ngày và đêm, anh ta sẽ chọn đêm.

Nếu để lựa chọn núi sông, anh ta chọn núi.

Nếu để chọn hoa cỏ, anh sẽ chọn cỏ.

Nếu chọn người và ma, anh ta chọn ma.

Nếu chọn người sống và người chết, anh ấy chọn người chết.

Nếu chọn mù và câm, anh ấy chọn câm.

Tóm lại, anh ta ghét tiếng động và những thứ phát ra âm thanh.

Đấy là một thứ bệnh, giống như mù màu, trời sinh ra thừa một cơ quan công năng.

53

Thầy cúng không đạt mục đích...

54

Trông thật hung dữ.

Cô ta gọi đây là con ba ba đá, dân gian bảo là cóc hủi và rắn tạp giao với nhau đẻ ra nó, rất hiệu nghiệm đối với bệnh đau dạ dày. Điều này thì tôi tin, thứ nhất vì phương thuốc dân gian chữa bệnh rất tốt, thứ hai, bệnh dạ dày của tôi hung dữ như ác quỷ, có thể dựa vào cái hung dữ này để chế phục cái hung dữ kia. Nghe nói, cô ấy phải lặn lội một ngày trong núi mới tìm được nó, thật vất vả cho cô. Tôi phải đi tới núi Mai Dược và đồi Nhũ Hương, cho đến khi trời nổi gió lạnh, tắt nắng mới quay về... (Kinh Thánh)

55

Rừng cây thở dưới ánh trăng, một lúc sau nó thu lại thành đống rất nhỏ, tán cây cao to lát sau lại xoè rộng, trải xuống triền núi, trở thành những bụi cây lúp xúp, thậm chí biến thành bóng mờ, bóng mờ xa xôi...

56

Bỗng tôi cảm thấy dạ dày trống rỗng, nhẹ tênh, giống như biến mất, bao năm nay không có cảm giác ấy. Từ lâu rồi tôi cảm thấy dạ dày mình biến thành bể phân, đầy mùi hôi thối, lúc này đang bốc mùi, xẹp lép, mềm nhũn, lỏng lẻo. Ai cũng bảo uống thuốc ta phải hai mươi bốn tiếng đồng hồ mới có tác dụng, nhưng lúc này mới hơn mười tiếng, thánh thật!

Chả nhẽ đây là linh đơn thần dược?

57

Lần đầu tiên thấy cô ta cười.

Cái cười gò bó, không tự nhiên, không thành tiếng, rất ngắn, chỉ trong chớp mắt, giống như cái cười của người trong tranh.

Cái cười chứng minh cô ta không thích cười.

Có đúng cô ta không thích cười? Hay là...

58

Anh luôn hành động như ngạn ngữ của ông già đánh cá, ngạn ngữ đại ý: thịt của con cá thông minh chắc hơn thịt của con cá ngu xuẩn, hơn nữa có hại, là bởi cá ngu xuẩn ăn không lựa chọn, cá thông minh thì luôn luôn chọn cá ngu xuẩn để ăn...

59

Bác sĩ điều trị cho tôi thực đơn như cho thuốc: một tô canh, một cái bánh bao chay, một bìa đậu phụ và dặn chỉ ăn thế thôi, không ai được thay đổi thực đơn và số lượng. Sau đấy, theo kinh nghiệm của tôi, lúc ấy tôi nên ăn một tô mì, mì làm hơi sống một chút.

60

Quan niệm về sai lầm cứ chặn ngang cuộc sống chúng ta, so với quan niệm chính xác luôn luôn tỏ ra chính xác. Bởi vì quan niệm sai lầm luôn luôn là bộ mặt trong nghề, tỏ ra quyền uy xuất hiện ngay trước mắt chúng ta.

Trong chuyện phá khoá mật mã, mi là bác sĩ, còn họ là bệnh nhân.

61

Mi đưa họ lên cùng một con đường, con đường ấy có thể dẫn đến thiên đường, có thể xuống địa ngục. Phần sáng tạo của mi không nhiều bằng phá...

62

Phúc đi, hoạ ở lại.

63

Giống như cái đồng hồ, đến và đi đều chính xác.

Đến không tiếng, đi không động.

Đấy là sự trùng hợp cô ta hiểu mi hay là bản tính như thế? Tôi cho rằng... tôi không biết...

64

Bỗng mong cô ta hôm nay không đến, thật ra là lo cô ta không đến.

65

Cô ta làm nhiều hơn nói, làm gì cũng lặng lẽ. Giống như cái đồng hồ, nhưng như vậy cô ta tạo nên chút quyền uy trên con người mi.

Sự trầm mặc của cô ta có thể luyện thành vàng.

66

Thần thánh ở trên trời, mi ở dưới đất, cho nên lời lẽ của mi phải ít. Nhiều việc, khiến có nhiều giấc mơ. Lắm lời, tỏ ra ngu xuẩn... Nhiều giấc mơ, nhiều lời, trong đó có nhiều hư ảo. (Kinh Thánh)

67

Cô ấy đã đọc kinh thánh chưa nhỉ?

68

Cô ấy cô đơn!

Cô ấy bất hạnh hơn mi.

Cô ấy lớn lên bằng cơm của trăm nhà!

Cô ấy đúng là cô đơn!

Cô đơn là cái từ nhạy cảm trong tim mi!

69

Bỗng tìm được lời giải đáp.

Cô ấy cô đơn, đấy là câu trả lời.

Thế nào gọi là cô đơn? Cô đơn có hai bộ răng, nhưng không có cái lưỡi hoàn chỉnh. Cô đơn dùng ánh mắt để nói chuyện. Cô đơn làm bằng đất (người làm bằng nước). Cô đơn trong lòng có vết sẹo.

70

Nói với cô ấy mi cũng cô đơn... Không, tại sao phải nói với cô ấy? Mi muốn nói ư? Tại sao mi phải dựa vào cô ấy? Vì cô ấy cô đơn ư? Hay là vì... vì... Tại sao lòng mi bỗng chốc có nhiều vấn đề đến vậy? Vấn đề là hình bóng của nguyện vọng... Thiên tài và cô đơn không có vấn đề, họ chỉ có yêu cầu.

71

Do dự cũng là sức mạnh, nhưng là sức mạnh của người bình thường.

Người bình thường rất thích phức tạp hoá quá trình của mọi chuyện. Đấy là bản lĩnh của những người tạo lập mật mã, không phải của người chuyên phá khoá mật mã.

72

Hôm nay cô ấy ra về muộn hơn mọi khi nửa tiếng đồng hồ, vì đọc “Pa-ven Coóc-sa-ghin” cho tôi nghe, cô ấy nói đây là cuốn truyện mà cô ấy thích nhất, lần nào đến cũng đem theo, lúc rảnh rỗi lại đọc. Hôm nay tôi cầm cuốn sách lên lật giở vài trang, cô ấy hỏi tôi đã đọc chưa, tôi bảo chưa, cô ấy đòi đọc cho tôi nghe. Tiếng phổ thông của cô ấy rất chuẩn. Cô ấy bảo, hồi làm nhân viên tổng đài điện thoại trên tổng cục, mấy năm trước qua điện thoại đã nghe thấy tiếng tôi...

73

Phân biệt ở chỗ, có người việc gì cũng chuẩn bị đầy đủ, có người không, cũng không vì thế mà tự trách mình.

74

Anh ta nằm mơ thấy để nước sông ngập ngang thắt lưng, cứ thế vừa đi vừa đọc sách, sách không có chữ... lúc có sóng to, anh ta giơ cuốn sách lên đầu để không bị ướt. Sóng qua đi, anh ấy phát hiện áo quần của mình bị sóng cuốn trôi, toàn thân trần truồng...

75

Trên đời này, mọi giấc mơ đều đã có người mơ!

76/77

Anh ta đồng thời mơ hai giấc mơ, một giấc mơ hướng lên, một giấc mơ nữa hướng xuống dưới... Lúc tỉnh lại, giấc mơ làm anh ta mệt mỏi, tưởng như giấc mơ biến anh ta thành cát sạn.

78

Một lần không may qua đi có thể xoá đi một lần lên đến đỉnh cao.

Nhưng cũng không nhất định.

79

Hãy nghĩ đến những sự việc mà mi cho rằng cả đời mi sẽ không nghĩ đến.

80

Chỉ có một cách xoá bỏ là, tận mắt trông thấy mi.

81

Hãy nghe... cái... mi... trong mắt... nhất... trên... mi...[8]

82

Có hai loại bệnh. Một loại đau đớn là chính, một loại nữa nằm mơ là chính. Loại thứ nhất có thể chữa trị bằng thuốc, loại sau cũng có thể có thuốc chữa, nhưng thuốc ở trong mơ. Loại thứ nhất đang thuyên giảm, loại thứ hai đang sốt cao.

83

Giấc mơ, mi tỉnh lại đi!

Giấc mơ, mi đừng tỉnh lại!

84/85

Nghe đây, lần này anh ta sẽ không viết rồi xoá đi, anh ta...

... Trái tim rung động, giống như cành táo trong rừng, giống như hoa bách hợp giữa bụi gai! (Kinh Thánh)

88

Dấu hiệu trong cuộc sống của mi đang tiêu tan, giống như con sâu bị một con sâu khác nuốt chửng.

87

Một cái lồng đang chờ một con chim...

88

Đây là con đường mọi người vẫn đi, cho nên rất dễ nhận ra.

89

Chim ơi!

90

Lẽ nào anh ấy đấu tranh vẫn chưa đủ? Một cái lồng đang chờ đợi một con chim, cho dù...

Nội dung trong sổ tay tuy rất lộn xộn khó hiểu, nhưng vẫn có thể nhận ra trong tim Kim Trân, ấn tượng về Cù Lợi cứ đậm dần, cho đến cảm giác yêu, về sau cảm giác ấy hiện rõ hơn. Tôi đoán chừng, những trang sổ tay chị Lợi lấy đi rất tình cảm, hơn nữa có thể khẳng định quá nửa là mơ màng. Bởi vì, tôi đã từng hỏi chị, trong sổ tay Kim Trân có thẳng thắn bày tỏ những câu đại loại như “anh yêu em” hay không, chị Lợi bảo không. Nhưng chị lại nói, cũng có những câu gần như thế, có một câu với ý ấy.

Tôi cứ hỏi mãi, chị Lợi do dự rồi nói, câu nói không phải là nguyên văn của anh ấy, mà anh dẫn từ trong Kinh thánh, chi tiết cuối cùng của chương bốn trong “Nhã ca”. Tôi tìm đọc Kinh thánh, có thể khẳng định câu chị Lợi nói ra là thế này:

Gió bắc ơi, thổi lên! Gió nam ơi, thổi lên! Thổi vào vườn của tôi, để hương thơm toả ngát, mong người hiền của tôi bước vào khu vườn của tôi, ăn trái ngon của vườn nhà tôi!

Là một phần tình cảm riêng, rút bỏ là không thể chỉ trích. Có điều đối với chúng ta, như thế sẽ khó hiểu hơn quá trình diễn biến tình cảm của hai người. Bởi vì có bảo lưu, có bản gốc, có bí mật. Cho nên tôi nghĩ, có thể xem cuốn sổ tay này là mật mã tình yêu của hai người.

Nên nói rằng, Kim Trân là thiên tài phá khoá mật mã, nhưng về mặt tình cảm nam nữ, tôi không hiểu, cho dù đã có tài liệu trong tay, cũng bị rút bỏ một cách gượng ép, cố tình. Tôi có cảm giác, mọi người không muốn cho phép người ngoài có ấn tượng về tình yêu của Kim Trân, cảm thấy có như thế mới không làm tổn hại đến hình ảnh đẹp đẽ của anh. Lẽ nào với một người như Kim Trân, những tình cảm riêng tư, tình thân, tình bạn... đều không nên tồn tại? Bởi không nên tồn tại, cho nên trước hết bản thân anh phải ra sức rút bỏ, tiếp theo, nếu bản thân khó rút bỏ người khác cũng tìm cách rút bỏ cho anh. Chuyện là thế.

Chị Lợi nói với tôi, buổi chiều sau ngày thứ ba Kim Trân ra viện, vào lúc sắp hết giờ làm việc, anh đến phòng làm việc của chị, trao sổ tay cho chị như thực thi công vụ. Là một nhân viên bảo mật, phải mở những cuốn sổ tay vừa được giao nộp ra kiểm tra có thiếu trang nào hay không, nếu thiếu phải truy hỏi trách nhiệm. Cho nên, Kim Trân giao nộp sổ tay, chị Lợi cũng phải thực thi công vụ, mở ra kiểm tra. Lúc ấy, Kim Trân nói với chị câu này:

“Trên đấy không có bí mật thuộc công tác, chỉ có bí mật của cá nhân tôi, nếu cô cảm thấy hiếu kì, nếu không có gì trở ngại thì cứ đọc, tôi mong cô đọc và mong được hồi âm.”

Chị Lợi nói, lúc chị đọc thì trời đã tối, chị về phòng mình, kết quả như ma quỷ sai khiến, chị đi vào phòng Kim Trân. Thật ra, lúc bấy giờ chị ở nhà ba tầng, Kim Trân ở nhà của chuyên viên, hai hướng khác nhau. Hai toà nhà đến nay vẫn còn, toà nhà của nữ xây gạch đỏ, toà nhà này xây gạch xanh, chỉ có hai tầng. Tôi còn đứng chụp ảnh kỉ niệm trước toà nhà xây gạch xanh, tôi nhìn bức ảnh, lập tức trong lòng nghe rõ tiếng chị Lợi.

Chị Lợi nói: “Tôi bước vào, anh nhìn tôi không nói gì, thậm chí cũng không mời ngồi. Tôi đứng nói với anh, em đã đọc sổ tay rồi. Anh ấy nói, nói đi, tôi nghe đây. Tôi nói, cho em làm vợ anh. Anh nói, được thôi. Ba hôm sau chúng tôi làm lễ cưới.”

Chuyện đơn giản đến khó tin.

Nói thật, khi chị Lợi kể lại, chị không tỏ ra bất cứ biểu hiện nào, không buồn, không vui, không kinh ngạc, không kì lạ, ngay cả cảm giác hồi tưởng cũng không, giống như đã nhiều lần kể lại giấc mơ của mình, khiến tôi hoàn toàn hiểu tình cảm của chị lúc ấy và bây giờ. Vậy là, tôi mạo muội hỏi, vậy chị có yêu Kim Trân không? Câu trả lời là:

“Tôi yêu anh ấy như yêu đất nước tôi.”

Tôi lại hỏi:

“Nghe nói sau ngày cưới không lâu, anh ấy bắt đầu nghiên cứu mật mã hắc mật?”

“Đúng vậy.”

“Rồi anh ấy ít khi về nhà?”

“Đúng vậy.”

“Thậm chí anh ấy hồi hận vì đã lấy vợ?”

“Đúng vậy.”

“Chị có hối hận không?”

Tôi chú ý nhìn, chị như bừng tỉnh, mở to mắt nhìn thẳng vào tôi, rất kích động, nói:

“Hối hận? Tôi yêu nước, anh có thể nói hối hận được không? Không, không bao giờ!”

Tôi nhìn chị, bỗng nước mắt trào ra, sống mũi cay cay, muốn khóc.

Bắt đầu viết tại làng Ngụy Công, Bắc Kinh, tháng 7/1991

Viết xong tại La Gia Niễn, Thành Đô, tháng 8/2002

Dịch Giả: Sơn Lê

Chú thích

[1] Đại bách khoa toàn thư. ND

[2] Biểu thức đúng là: S = [(A1 +A2) x n ]: 2

[3] Giải thưởng toán học quốc tế mang tên J.C>Fields (1863 – 1932), nhà toán học người Canada. ND 

[4] Auguste Rodin (1840 – 1917) điêu khắc gia người Pháp. ND

[5] Lúc này thế chiến thứ hai đã kết thúc, số lượng mật điện không nhiều.

[6] Nhà toán học, nhà kinh tế học người Mĩ, giải thưởng Nobel năm 1994.

[7] Trong những năm 70 của thế kỉ hai mươi, hôn nhân ở đơn vị 701 có yêu cầu vô cùng nghiêm ngặt, nữ cấm không được lấy chồng ngoài đơn vị, nam chọn nữ ngoài đơn vị phải báo cáo với tổ chức, để tổ chức cử người đi thẩm tra, nếu được đồng ý mới được lấy nhau. Nếu người ấy không muốn hoặc vấn đề khó giải quyết, đề nghị tổ chức đứng ra giải quyết. Chuyện hôn nhân của Kim Trân một độ tổ chức cảm thấy khó khăn, bởi anh lớn tuổi, mà anh thì không động tĩnh nói năng gì, bản thân không chủ động mà cũng không đề nghị tổ chức giúp đỡ. Anh ngoài ba mươi tuổi, tổ chức khéo léo bí mật xếp đặt chuyện hôn nhân cho anh, trước hết chọn lựa người, sau đấy bố trí làm nhân viên bảo mật cho anh. Người ấy quyết tâm gánh trọng trách của tổ chức và cá nhân đến làm việc với anh, mong sẽ là vợ anh, nếu không thành sẽ thay đổi, trao cơ hội cho người đến sau, người đến sau đấy có thể xoay chuyển được tình hình. Chính vì vậy mà nhân viên bảo mật của anh phải thay đổi nhiều lần. Đây là lần thứ tư.

[8] Đoạn này bị nước làm nhòe, chỉ đọc được vài chữ.

HẾT.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom